Tùm lum tùm la-Lenghiabk05

Lũ trẻ bọn mình ngày xưa lúc nào cũng có cảm giác đói vì ăn uống thiếu cả chất và lượng, mình nhớ bố mình là giáo viên nên có chế dộ tem phiếu, hàng tháng nhà mình được mua cỡ khoảng 1 cân thịt tiêu chuẩn, thường thì hồi đó mọi người đều tranh nhau chọn những miếng thịt nào thật nhiều mỡ vì hai lý do: thứ nhất là một phần để rán lấy ít mỡ dùng dần, thứ hai là thịt mỡ thì kho lên bao giờ cũng nở to hơn so với thịt nạc nên phần còn lại kho lên mới đủ làm một bữa mặn cho cả nhà. Những lúc nhận được thịt mình chỉ quanh quẩn bên bếp của mẹ mắt thì chăm chú vào cái nồi đất đang kho thịt, nhìn những miếng thịt mỡ vàng ươm màu nghệ nở phồng lên thơm phức mà nước miếng  (nước bọt) cứ chực trào ra. Những lúc đó mẹ mình bảo, con trai sao mà xấu tính vậy cứ chăm chú vào miếng ăn thế thì làm nên sự nghiệp gì, mình thì chẳng hiểu cao xa sự nghiệp là gì mà chỉ ao ước được 1 miếng cho vào mồm cho thoả nỗi thòm thèm. Mẹ mình tuy nói thế nhưng rồi cũng gắp ra cho mình một miếng thịt mỡ thật to, khỏi phải nói tâm trạng ngất ngây của mình lúc đó, ngay lập tức miếng thịt nóng hổi đã nằm gọn lọn trong miệng, mồm thì xuýt xoa vì nóng, mũi thì hít hà mùi thơm béo nồng của miếng thịt, mình không vội vã nhai nuốt ngay mà ngậm từ từ trong miệng để cảm nhận dần tất cả hương vị thơm ngon béo ngậy của nó, phần nữa là để cho bõ tức thằng bạn hôm qua khi nhà nó có giỗ nó cũng xin được miếng thịt và cứ nhai, ngậm, nhè ra nhử mình suốt cả buổi trưa.

Thời đó hầu hết các gia đình nông thôn đều chăn nuôi thêm, nhà mình hồi đó năm nào cũng nuôi một con lợn. Nuôi hàng năm trời mới được con lợn mà có giỏi lắm cũng chỉ được cỡ 40-45kg, vì thực tế thức ăn của lợn chủ yếu chỉ là đám rau vặt và ít cám gạo thôi chứ làm gì có các loại thức ăn tăng trọng như bây giờ, kỳ thực lúc đó người còn chẳng có gì mà ăn huống gì nói đến lợn. Mình nhớ cứ vào dịp cuối năm gần đến Tết âm lịch thì mẹ gọi đám buôn lợn đến để bán cho họ. Khỏi phải nói lúc đó, mấy anh chị em nhà mình háo hức lắm vì chắc mẩm hôm nay thể nào cũng chẳng được bữa tươi. Thời đó, thường thì sáng sớm khoảng 3-4h sáng là đám buôn lợn mổ thịt ngay tại nhà người bán sau đó đưa ra chợ bán luôn. Hôm đó, sau khi họ luộc lòng thì mẹ xin lại nồi nước luộc lòng và cho vào vài bát gạo để nấu cháo. Ối giời ơi, thế là sáng hôm sau mấy chị em bọ mình được chia mỗi người một bát cháo to, cứ xì xà xì xụp ngon lành lắm, còn hơn cả ăn súp vây cá mập bây giờ. Của đáng tội, mang tiếng là cháo lòng kỳ thực chẳng có miếng lòng nào sất, chỉ lõng bõng toàn cháo loãng, thi thoảng mới có vài tý tiết vụn còn sót lại từ mớ lòng luộc. Nói thế chứ mẹ mình cũng mua lại 1 cân lòng luộc và 1 cân thịt để trưa cả nhà được một bữa tươi, bõ công nuôi con lợn cả một năm trời.

Mình nhớ khoảng những năm 78 gì đó có phong trào cán bộ, nhân viên nhà nước có các chương trình đi thực tế. Làng mình nằm gần vùng sông, đất sét nên có thêm nghề đốt gạch, ngay tại địa phương cũng có một HTX chuyên sản xuất gạch ngói. Năm ấy làng mình tiếp nhận đoàn cán bộ Trường trung cấp kinh tế-kỹ thuật gì đó ở trên thành phố về tham gia sản xuất tại địa phương. Đoàn này gồm các thầy cô giáo còn rất trẻ, nên làng mình nhộn nhịp lắm, mình để ý thấy các bậc cha mẹ có con gái thì có phần lo lắng hơn, cũng phải thôi họ sợ con mình lại dại dột mà mê các thầy trên thành phố xuống thì chẳng biết thế nào mà lần vì họ biết rằng hầu hết các thầy đều đã có vợ con, hơn nữa nếu mà chưa có vợ con thì chắc gì họ lại đi lấy con gái ở quê, có chăng cũng chỉ là vui vẻ tý chút thôi. Còn các cô gái làng thì lại chẳng nghĩ sâu xa đến thế, họ đi đứng có phần nhún nhảy hơn, ăn mặc cũng có phần điệu đà chải chuốt hơn. Sau này khi các thầy rút đi, làng mình may mắn chẳng có trường hợp nào xảy ra sự cố. Quê mình tuy nghèo, ăn uống thì kham khổ nhưng về khoản mặc thì các cô lại có vẻ tươm tất lắm vì họ nghĩ thôi thì ăn uống là cái sự ở nhà chẳng ai biết được mình ăn uống thế nào mà cười, có ăn rau, khoai cũng chẳng sao, chứ cái sự mặc thì lại khác, mình mà ăn mặc nhếch nhác, lôi thôi thì đã bày rõ ngay cái sự nghèo hèn, khốn khổ ra trước thiên hạ rồi. Ấy là suy nghĩ của các chị gái làng, chứ bọn mình hồi ấy thì bất chấp, cứ thấy miếng ăn là háo hức lắm, hàng ngày cứ buổi chiều mình lại đứng trước cái bếp ăn tập thể của các thầy hít hà mùi bếp than và mùi đậu phụ, mình đảm bảo rằng hầu hết trẻ con ngày xưa đều thích hít hà mùi thức ăn và mùi khói xăng xe ô tô. Thật sự hồi đó mình chẳng biết cái món đậu phụ (mà cũng chẳng biết rán hay là sốt) là làm bằng thứ gì vì chưa được ăn bao giờ nhưng nhìn thấy các thầy nhận suất cơm có chia 4 – 5 miếng đậu phụ thì thấy nó vĩ đại lắm, cái mùi đậu phụ nó cứ ám ảnh mãi mình. Nhà mình cũng có một thầy ở trọ, mình lân la hỏi thầy cái món đậu phụ vĩ đại kia xem nó có phải là một loài thịt như là thịt lợn hay trâu gì không, thầy đã giảng giải cho mình là nó được làm bằng một thứ đậu gọi là đậu tương được xay ra, mình thì chẳng hiểu đậu tương là gì nhưng nghĩ ừ thì cũng là một giống đậu như đậu trắng hay đậu đen nhà mình đang trồng vậy, tuy thế nhưng vẫn thấy nó vĩ đại chứ chẳng tầm thường như mấy loại đậu mà nhà mình đang trồng. Thầy ở nhà mình xem chừng đoán được ý của mình nên chiều hôm sau, khi đi kiếm rau cho lợn về mình thấy thầy ở nhà chứ không đi ăn cơm tập thể, rồi bữa cơm hôm đó nhà mình có cả thầy cùng ăn, nhìn vào mâm cơm mình chỉ chăm chăm vào 4 bìa đậu vàng ươm, rồi thì nỗi niềm mong mỏi của mình cũng thoả mãn khi được thầy gắp cho 1 miếng và khỏi phải nó dư vị của miếng đậu ngày đó còn mãi trong mình cho đến tận hôm nay.

Do làng mình có nghề trồng cói, dệt chiếu nên hàng ngày vào buổi chiều và buổi tối khi không phải tới trường (ngày xưa chỉ học 1 buổi sáng) thì lũ trẻ bọn mình được giao nhiệm vụ dệt chiếu. Mình hồi đấy dệt chiếu nhanh lắm, mỗi ngày cũng dệt được 1 đôi, cứ như vậy hàng tuần nhà mình cũng dệt được cỡ 7-8 đôi chiếu cói.

Công đoạn sau dệt chiếu là chở đi các chợ quanh vùng để  bán, có những lần mình đạp chiếc xe đạp thống nhất cũ kỹ của bố mình đèo chiếu đi hàng mấy chục cây số để bán. Những hôm như vậy thì phải dậy từ 3h sáng, ăn vội vài củ khoai nguội với cà muối rồi hối hả đạp xe đi. Bán được hết xe chiếu, có khi đến tận chiều tối mới trở về nhà, ấy là những hôm xe không bị trục rặc, chứ gặp những hôm xe xịt lốp, hay tuột xích, trượt cá thì khốn khổ vô cùng. Thời đó phụ tùng xe đạp hiếm nên mang tiếng là xe đạp nhưng nếu bây giờ còn lại thì chắc thế hệ bây giờ không biết đó là loại vật dụng gì. Của đáng tội hai chiếc lốp thì khâu bằng dây mây khắp nơi, rồi quấn thêm cả một lớp dây chun nữa vì quấn bên này nó lại phình sang phía bên kia, phanh thì không có, chắn bùn cũng không. Cái xích xe thì đảo đi đảo lại hàng 4-5 lần, rệu rạo lắm, đã thế cái líp bị mòn cá được tống vào miếng đệm cắt từ dép cao su nên cứng ngắc như kiểu xe xích lô bây giờ vậy. Mình nhớ mình có ông anh con bác mình đi Tiệp về cho cái đồng hồ quả quít để biết thời gian học tập, khi nhận cái đồng hồ mình buột miệng: cho em xin cái líp xe đạp thì tốt hơn!!!, nói thế để biết phụ tùng xe đạp hồi đó là thứ hàng hoá vô cùng xa xỉ và quý hiếm. Thật không may cho ai đi xe đạp hồi đấy mà bị ngã thì nguy hiểm vô cùng vì cái bàn đạp (pê dan) bị hỏng chỉ còn trơ lại cái xương mòn vẹt nhọn hoắt như là một mũi dùi vậy, cái này mà bị ngã cắm vào thì chẳng khác gì bị lưỡi lê cắm vào chân vậy.

Hồi đó làng mình rộ lên phong trào đi buôn chuyến. Nói là đi buôn chuyến chứ kỳ thực là đưa chiếu và cá nướng lên mạn trên các huyện miền núi (chủ yếu là Quỳ Hợp, Quế Phong..) thuộc tỉnh Nghệ an để đổi lấy lúa và ngô sắn mang về. Cũng nhờ sự nhanh nhạy này nên làng mình mới có phần đỡ đi cảnh thiếu thốn và đói kém, tuy vậy làng mình lại bị một đại họa do cánh đi buôn mang về  đó là nạn ghẻ. Thôi thì già trẻ trai gái cứ thi nhau gãi sồn sột nhu đánh đàn tam thập lục suốt ngày. Thế rồi chiến dịch diệt ghẻ sôi nổi bắt đầu, đủ các loại dược phẩm tự chế, nào là dầu nhớt (loại đã chạy qua xe máy thay ra) pha diêm sinh (lưu huỳnh), rồi thì nào là các loại vỏ cây, lá cây (thường là loại rất độc) đều được đưa ra áp dụng. Thật may mắn là chiến dịch diệt ghẻ này thực hiện được đâu 3-4 tháng gì đó thì làng mình đẩy lùi được nạn ghẻ.

Thời đó mọi thứ lương thực, thực phẩm đều được phân phối. Gạo thì có sổ gạo, còn thực phẩm thì có các loại tem phiếu, cứ thế hàng tháng các gia đình giáo viên, công chức đem các loại tem phiếu và sổ gạo đi nhận. Mình nhớ có đợt tại cửa hàng lương thực huyện có treo tấm biển thông báo “Tháng này mỗi cán bộ được mua bù 5 lạng thịt” thế là tin này được cánh giáo viên dạy học thông báo cho nhau ngay. Bố mình hý hửng đạp xe ra cửa hàng và chìa cái sổ thực phẩm ra để mua thịt thì được cô bán hàng thông báo một câu xanh rờn “ thịt chỉ bán bù cho cán bộ chứ không phải là giáo viên” khỏi phải nói hết nỗi thất vọng của cánh giáo viên lúc đó. Thế nên về sau mỗi lần có thông báo bán thêm thực phẩm cho cán bộ thì cửa hàng mới viết đầy đủ như sau “Tháng này, mỗi cán bộ (trừ giáo viên) được mua bù 5 lạng thịt”, bây giờ nghĩ lại thấy thật đúng là hết chỗ nói.

Hồi đó nếu muốn được nhận được 13kg gạo tiêu chuẩn (thường thì chỉ được mua cỡ 7kg, còn lại là khoảng 6kg độn thêm như sắn, ngô, khoai, mì bo bo...) thì phải dậy từ rất sớm rồi xếp hàng dài trước cửa hàng lương thực mới mong nhận được chút gạo nằm phía trên đỡ hẩm mốc và mối mọt. Mình nhớ có lần xung phong đi nhận gạo thay cho bố, mình chen lấn được đứng đầu hàng rồi ung dung chèo lên đỉnh đống gạo xúc lấy một thúng, không ngờ bà phụ trách kho trông thấy lôi tuồn tuộn xuống và mắng mình te tát. He he, bị mắng rát mặt nhưng bù lại hôm đó được mấy cân gạo ngon, bố mình cứ khen giỏi mãi.

Thời đó ai mà bị mất cái sổ gạo thì khốn khổ, thế nên nếu ai có chuyện gì buồn khổ thì mọi người có câu “mặt như bị mất sổ gạo ấy” như thế mới biết tầm quan trọng của cuốn sổ gạo đến mức độ nào.

Làng mình còn có thêm một nghề phụ nữa là bóc lạc cho các đơn vị thương nghiệp xuất khẩu. Nhà mình thường nhận mấy chục cân lạc vỏ về bóc để lựa lấy phần lạc số 1 nhập lại cho công ty, phần lạc xấu (lạc deo) thì để lại chế biến thực ăn hoặc thi thoảng rang lên như là một món quà cho bọn trẻ. Những năm học cấp 3, buổi sáng mình hay được cho một túi lạc rang, thế nên đến lớp cứ hay nhấm nhảy, các bạn nữ thấy thơm quá cũng xin để ăn, lâu dần thành thân quen nên mỗi lần xin lạc rang thì mình chỉ cần chìa cái miệng túi quần ra là những bàn tay mềm mại của các nàng lại vô tư thọc vào túi để lấy lạc. Mình nghĩ bụng, có dúm lạc mà hôm nào các bạn cũng xin như vậy thì thiệt quá, nên nghĩ ra một kế. Hôm đó mình cũng cầm một dúm lạc rang nhâm nha, thế là các nàng cũng xúm lại xin lạc, mình cũng chìa túi quần ra để các nàng thọc tay vào, nhưng lần này thì sau khi thọc tay vào túi quần thì các nàng ré lên đỏ hết cả mặt và chạy đi mất. Ấy là vì hôm đó mình cắt đi cái túi quần, phía trong lại chẳng mặc gì nên khi các nàng thọc tay vào túi thì không lấy được lạc mà tóm lại phải cái khác nên từ đó các nàng chằng bao giờ dám xin lạc rang nữa, khe khe.

Gần đây vào blog thấy những danh nhân, những nhà chính trị tầm cỡ hay những nhà văn hoá lớn viết về hồi ký, hồi ức, thấy nhiều bài rất hay, hóa ra tuổi thơ các danh nhân hay các nhân vật nổi tiếng cũng như tuổi thơ của bao nhiêu người khác, có chăng thì do trình độ siêu việt nên những ký ức đời thường của họ khi được viết ra thì sống động và đẹp hơn mà thôi. Nghĩ bụng mình cũng có những kỷ niệm đẹp tuổi thơ, cũng đẹp chẳng khác gì tuổi thơ những người nổi tiếng, tại sao lại không viết ra để sau này biết đâu con cháu đọc lại biết được cuộc sống của các thế hệ trước đây thế nào. Nghĩ vậy, nhưng rồi lại phân vân, đành rằng các nhân vật như trên thì mới viết hồi ký, hồi ức chứ cái loại như mình nửa ông, nửa thằng nếu xếp vào hàng động vật thì cũng thuộc vào dòng ếch pha cóc, vậy thì đua đòi tập tọe viết hồi ức, hồi ký để làm gì? Cứ phân vân mãi nhưng rồi lại chặc lưỡi, thôi âu đây cũng là một thứ để bầy tỏ sự thật của đời mình, chí ít cũng một cái thú riêng của mình vậy, mà phàm ở trên đời này khi các cái thú, khoái của mình được giải tỏa thì sướng chẳng còn gì bằng.

Ừ thế thì bắt đầu bằng cái thời thơ ấu nhọc nhằn của mình vậy.

Mình sinh ra trên một làng quê nghèo khó. Làng Thái Hưng quê mình nằm cạnh một nhánh của dòng Sông Lam mà ở quê gọi là Rào Đừng. Làng thì nằm trên bãi cát ven bờ sông nhưng bước qua con đường làng là xuống đến vùng đất bùn lầy, nhiễm phèn chua, nước mặn. Đất đai, ruộng đồng thì ít, dân làng sống chủ yếu bằng nghề nông, trồng cói, dệt chiếu, đóng gạch, đánh bắt cá ..., tuy chủ yếu sống bằng nghề nông, cuộc sống khó khăn vất vả là thế nhưng làng mình lại có tinh thần rất hiếu học mà nói đúng ra là lũ trẻ bọn mình hồi đó được giáo dục là phải cố mà học, có đi học thì mới thoát được cuộc sống khó khăn bao đời nay của cha ông. Ngày ấy các bậc cha mẹ những mong cho con cái học lấy cái chữ không phải là để làm quan, làm viên chức, mà cũng chỉ mong mai sau có được cái nghề lo cho cuộc sống.

Ngoài nghề nông ra, làng chỉ có một nghề truyền thống là dệt chiếu và đan võng (võng làm bằng cói). Lũ trẻ con chúng tôi ngày ấy, mùa nắng thì đan (bện) võng, cùng với đám con gái trong làng suốt ngày ngồi nhặt cói đan võng thoăn thoắt, hàng ngày nếu chăm chỉ bọn trẻ như mình có thể đan được một cái võng cói, rồi cứ thứ 5 hàng tuần có phiên chợ, hôm thì mẹ mình, hôm thì bố mình hỳ hụi đèo lên chợ bán, có hôm đến tận chiều mới bán hết số võng đã làm trong tuần để lấy tiền đong thêm gạo và mua các vật dụng thiết yếu hàng ngày. Bắt đầu từ mùa đông sang mùa xuân thì làng tôi lại chuyển sang nghề dệt chiếu, bọn trẻ chúng mình cũng vậy sáng chỉ lên lớp một buổi còn buổi chiều và buổi tối thì còng lưng ra dệt chiếu.  Bữa cơm thời đó chỉ có được mỗi 1 bát, còn lại thì độn toàn ngô, khoai, miễn sao no cái bụng là được. Nhà mình có 5 người con và cả bố mẹ nữa là 7 miệng ăn mà đám con thì đang thời kỳ ăn như tằm ăn rỗi nên bố mẹ mình lo không xuể, lắm hôm trên mâm cơm phải thêm 2 rổ rau lang to tướng, bây giờ rau lang là đặc sản trong các nhà hàng chứ hồi đó mỗi lần đến bữa cơm nhìn thấy 2 rổ rau lang là mình đã kinh hoàng, cái vị ngòn ngọt, chát chát của nó vẫn còn đọng mãi trong mình. Đúng là đói quá cái gì cũng ăn, nhà mình thì đủ các loại rau, nào ngọn lá sắn (mì), lá đậu xanh cũng luộc lên giã vắt nước rồi trộn lên ăn, bất chấp các loại rau lá củ, cây miễn là ăn được. Nhà mình còn có một vại to muối gốc đu đủ, ăn vào nó cứ mặn mặn, chua chua, hăng hắc thế nào ấy, đó là khi mùa bão những cây đu đủ bị gãy, lũ trẻ bọn mình được sai đào gốc đu đủ lên rồi đẽo hết vỏ ngoài ra, sau đó mẹ mình rửa sạch cho vào vại muối, kiểu như muối dưa thời nay vậy.

Đói quá, ăn uống thiếu chất thì đâm ra xấu tính làm càn, mình nhớ có lần, mình lấy trộm lạc giống của mẹ cho vào túi ăn dần, thế mà hết mất mấy cân lạc giống, mặc dù bà đã cho xuống dưới chum và đổ lúa lên trên. Đến vụ gieo lạc thì thấy vơi đi phân nửa bà ứa nước mắt, bà biết ai là thủ phạm nhưng chỉ nhìn mình thương xót chứ tuyệt không trách mắng câu nào. Chẳng bao giờ mình quên được ánh mắt của mẹ lúc đó, nó pha lẫn niềm trách móc, lẫn nỗi xót xa, cũng có lẽ bà thương mình là con trai độc nhất trong nhà, mà hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn đói nên sinh tật xấu, thói hư. Có lẽ ánh mắt của mẹ ngày đó đã cho mình một bài học cho đến tận bây giờ, ở đời đừng nên vụng trộm cái gì, dù đó là của những người thân sống quanh ta hay những người xa lạ.

Làng mình ít ruộng, đất cát lại cằn cỗi. Mùa gió Lào thì bỏng rát còn mùa mưa thì rền rĩ, lũ lụt ngập trắng đồng, nên cuộc sống hết sức khó khăn. Cũng chính vì vậy nên dân làng mình đi làm ăn ra bên ngoài rất nhiều Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Sài Gòn...vv.. nơi nào cũng có.

Hồi mình mới sinh thì bố mình đang dạy học ở trường cấp 2 huyện, cứ chiều Chủ nhật thì ông lại lóc cóc đạp cái xe Thống nhất đi và chiều thứ sáu lóc có đạp xe về. Mang tiếng là giáo viên dạy toán nhưng hồi đó nếu hôm nào có thầy giáo khác nghỉ có việc ông dạy hộ luôn cả Lý và Hóa. Hồi mình đi học cấp 2 thì Bố mình chuyển về trường gần nhà nên đỡ cái khoản lóc cóc đi lại hàng tuần. Bố mình mang tiếng là đi dạy nhưng chẳng khác gì một lão nông chính hiệu, mình nhớ đến mùa vụ ông cũng đi cày, đi gặt, trồng khoai, chặt cói để đan võng, dệt chiếu... đủ mọi thứ việc nhà nông thời đó. Mặc dù sức khỏe của ông không được tốt nhưng bất kỳ công việc nặng nhọc gì đến mấy ông cũng chẳng nề hà. Ngày đấy nhìn thấy ông gánh những gánh cói tươi vừa chặt từ dưới bãi lên, bước những bước chân xiêu vẹo trên sình bùn, mình cho đấy là việc bình thường, giờ nghĩ lại thấy thật thương ông cụ đã oằn mình trước cuộc sống để lo cho con cái. Có lẽ mình cũng bị ảnh hưởng tính cách này của ông nên cho đến bây giờ bất cứ việc gì mình cũng cố sức để hoàn thành.

Bố mình tuy là giáo viên dạy toán nhưng lại rất lãng mạn, mình còn nhớ ông cụ có cái đàn mandoline, tuy cuộc sống bộn bề, gian khó nhưng những đêm trăng sáng vẫn thấy ông ôm đàn đánh véo von nghe chừng thú lắm. Thời bố mình được học cả chữ Hán, chữ nôm. Ông cũng có nhiều sách chuyện như Tam Quốc Chí, Thủy Hử và các chuyện dã sử Trung quốc. Ông cũng thích làm thơ. Chính vì di truyền tính lãng mạn của ông cụ nên sau này mình cũng mê sách vở và đàn sáo lắm, năm lớp 5 mình cũng tập tọe học đàn guitare và từ đó trở đi thì mê lắm.

Mẹ mình là nông dân thuần túy, mọi việc trong nhà đều do bàn tay mẹ xoay xở. Nhà mình có 5 chị em, đều trong tuổi còn nhỏ và đi học nên chỉ trong chờ vào mười ba cân gạo tiêu chuẩn của bố và mấy sào ruộng cấy của mẹ.

Mình học tiểu học ở trường làng, học thì lười, chỉ ham chơi, hầu như ngoài việc nhà giúp bố mẹ thì thoắt một cái là đám trẻ con bọn mình đã trốn nhà cùng nhau tụ tập chơi đủ thứ trò. Tuy vậy, mình lại rất mê đọc truyện, bất kể thứ gì đọc được hồi đó mình đều đọc hết, không bỏ sót cái gì, từ truyện cổ Tầu của ông cụ cho đến truyện kiếm hiệp, tiểu thuyết lãng mạn, văn học thiếu nhi mình đều đọc tuốt. Hồi đó sách vở, truyện hiếm lắm. Có hôm thằng bạn cùng làng, bố nó làm bí thư xã mượn đâu được bộ tiểu thuyết kiếm hiệp Thần điêu đại hiệp, mình phải gạ chăn trâu giúp nó suốt gần cả một mùa hè cộng với mỗi ngày kiếm cho nó thêm một bó củi khô thì mỗi khi đọc xong một tập thì nó mới cho  mình mượn để đọc. Kể ra hồi đó nếu nó có bắt mình làm bất cứ việc gì để được đọc chuyện kiếm hiệp thì mình cũng làm. Mình có ưu điểm là khi đọc chuyện thì như là nhập hồn vậy, toàn tượng tượng những cảnh mô tả trong sách ra khung cảnh xung quanh mà lại hết sức lãng mạn khi biến mình vào nhân vật chính trong chuyện, thế nên nhiều khi ra ngoài trông cứ ngơ ngẩn thế nào ấy.

Những năm học cấp 2 mình đã bắt đầu nghịch ngợm, lắm hôm theo các anh lớp trên nghịch đủ trò. Thôi để giành phần sau mình sẽ kể về những trò nhịch ngợm dại dột này vậy

Cu Ló kén vợ

Nhà ông cu Lạc nghèo lắm, nghèo đến độ anh con cả tên là cu Ló thích một cô gái xinh đẹp trong làng muốn đi hỏi làm vợ lại gặp phải nhà gái đòi thách rất nhiều thứ. Cu Lạc buồn lắm, vì cho rằng cả đời mình chẳng bao giờ có và nếu đi vay thì bao giờ mới trả hết nợ cưới vợ cho con. Cu Ló thấy cha mẹ suốt ngày rầu rĩ về chuyện đó liền bảo cha mẹ rằng:

Cha mẹ cứ đi vay cho con. Cưới xong một tuần con lại trả lại.

Cưới vợ xong, đêm đầu tiên cu Ló âu yếm vợ cuồng nhiệt, nhưng chỉ âu yếm đến hồi thật sự gay cấn đến mức vợ cu Ló phát cuồng lên thì Cu Ló lại lăn ra ngủ.

Đêm hôm sau và mấy đêm tiếp theo cũng vẫn thế. Vừa tức mình vừa tò mò nên nhân lúc Ló ngủ say, chị chàng sờ vào chỗ kín của cu Ló thì thấy phẳng lỳ chẳng có gì cả. Buồn quá cô vợ khóc hu hu suốt cả đêm.

Sáng dậy chị chàng liền về nhà bố mẹ đẻ khóc lóc mà kể lể:

” Ôi cha mẹ ơi, số con thật khổ. Đàn bà lấy chồng đâu cần của này, của nọ, chỉ cần có cái kia to khỏe mà thôi. Nay ở nó chẳng có cái của đàn ông, đêm nào nó cũng sờ soạng âu yếm loạn cả lên, đến hồi con không chịu được nữa thì nó lăn ra ngủ, cứ như thề này thì con đến phát điên lên mất. Thôi xin cha mẹ trả lại đồ cưới để xin nhà nó cho con về nhà với cha mẹ còn hơn, chứ để nó cứ mở ra đậy vào thế này thì chịu sao thấu.”

Bố mẹ tin lời con gái, mang đồ thách cưới sang nhà cu Ló trả để xin cho con gái về. Sau khi nhận lại đồ dẫn cưới, cu Ló liền bảo vợ:

”Vợ chồng sống được với nhau hay không âu cũng là cái số trời, xin em hãy thương tình ở lại cùng Ló một đêm nữa để ngày mai về cũng chưa muộn”.

Chị vợ nghe thấy cũng tội tội, vả lại nếu ở lại thì nó cũng chẳng làm gì, mình vẫn giữ được trinh tiết để còn lấy chồng nên đồng ý ở lại với Ló.

Đêm ấy, anh cu Ló nhanh nhẹn tháo chiếc mo cau mà mình đã bịt vào chỗ kín đi rồi bắt đầu hành sự. Khỏi phải nói, chị vợ được một bữa phê lòi tị và hoàn toàn mãn nguyện. Sáng hôm sau, chị ta một mực không trở về nhà nữa. Bố mẹ đẻ sang đón mấy lượt cũng không về, gặng hỏi mãi lý do, cuối cùng bí quá, chị ta đỏ mặt thẽn thò nói:

Vì, vì... nó ... lại mọc ra rồi ạ.

Khe khe, rứa là cu Ló cưới được cô vợ xinh mà chẳng mất đồng nào, thế mới tài

THỊT NƯỚNG KIỂU CỦA MẸ TUI

Những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80, cũng như đa số những gia đình khác, gia đình tui cũng không tránh khỏi cái thiếu thốn chung của một đất nước sau giải phóng. Gạo, thịt, cá, đường, sữa,... tất tần tật nhu yếu phẩm cho cuộc sống hàng ngày đều lĩnh theo tem phiếu. Ngày ấy, được một bữa cơm hoàn toàn là cơm, không độn thêm loại khác, cũng là một mơước của không biết bao nhiêu là gia đình. Nhà tui neo người, bố đi chiến trường lâu mới về một lần, chỉ hai mẹ con ra vào với nhau. Tui là con một, nên được cưng và chiều hơn những gia đình đông con khác, được ăn cơm trong khi mẹ ăn cơm độn bo bo, được mẹ giành cho những miếng thịt mỗi khi tới kỳ được lĩnh thịt. Thịt thì đâu được là thịt nạc, mà rất nhiều mỡ. Một phần mẹ kho mặn, một phần nạc hơn mẹ làm chà bông (ruốc), còn những miếng đầu thừa đuôi thẹo, mẹ tui ướp để làm thịt nướng cho tui ăn. Mỗi lần nướng chỉ được 1-2 xâu bé bé thôi, nhưng mùi vị của những miếng thịt đó theo tui đến tận bây giờ.

Ngày nay no đủ, tui đi ăn khắp nơi, nhưng với tui, những miếng thịt nướng ngày xưa của mẹ là ngon nhất, là vừa miệng nhất. Lâu lắm rồi không ăn, toàn mua ngoài về, thứ bảy vừa rồi tui sực nhớ "mình không học mẹ lúc này thì còn để đến lúc nào", bèn gọi mẹ "cho con ăn thịt nướng kiểu mẹ làm ngày xưa". Chủ Nhật, món thịt nướng kiểu của mẹ đã được đáp ứng. Rất là đơn giản (ngày xưa làm gì có nhiều gia vị như bây giờ).

Chiều thơm

Toản xách valy xuống xe, chiếc xe vội vàng chuyển bánh. Toản đứng trên đồi cao, gió chiều đông thật lạnh. Mắt dõi về cuối chân trời kia xa tít. Xóm làng chìm trong làn sương mờ ảo mênh mang. Nơi đó là quê hương Toản sau bao ngày xa cách. Nơi đó ghi dấu ấn một thời tuổi thơ của Toản với bao kỷ niệm đẹp không thể nào quên…

Ngày xưa ấy!

Vào khoảng tháng giêng hai, trải dài theo sườn đồi là những rẫy cà phê hoa nở rộ ngát hương thơm. Hoa cà phê dạng loa kèn, kết thành chùm có màu trắng thanh khiết, thơm lựng mùi mật hoa. Nên lúc ấy cũng là mùa ong rừng về đây làm tổ. Tiếng ong bay lấy phấn và mật vo ve, rộn ràng khắp nơi. Dưới trời nắng chói chang mùa hạ những người nông phu cần mẫn, còng lưng kéo ống tưới cho vườn cây đủ độ mát ươm bông.Tiếng nói cười của họ vô tư và hồn hậu giữa đất trời. Đám trẻ con được theo cha mẹ ra rẫy thì rủ nhau bắt chim, bắt cá, bẫy sóc và lấy mật ong rừng đùa vui thỏa thích.

Ngày xưa ấy!

Bữa cơm trưa cả gia đình Toản thường được dọn ra dưới bóng râm cây muồng già, Trên tấm bạt, được may bởi những cái bao lẫn lộn đủ màu. Cách đó vài mét là cái bếp dã chiến được kê bằng ba cục gạch màu nâu cháy. Than củi còn hừng hực lửa đang đun sôi ấm nước bằng nhôm đã đen điu ám khói. Cơm và thức ăn được dọn ra, nói là bữa ăn nhưng thật là đơn giản. Một nồi cơm to sụ nấu cỡ sáu lon gạo. Một nồi canh rau tập tàng có vài ba miếng thịt mỡ nổi lềnh bềnh hắc lên mùi ớt cay xè. Vài con cá khô nướng quăn queo đặt trên miếng lá chuối xanh. Một ít rau sống lấy từ nhà ra đã bắt đầu héo rủ, được đặt trong cái dĩa bên cạnh một chén nước chấm đỏ màu ớt mọi, thứ ớt trái nhỏ nhưng rất cay.

Buổi trưa đó, Toản và con chó vàng đi săn từ sáng sớm cũng vừa về tới. Cái lưỡi nó thè dài thở hổn hển vì quá mệt, từ khóe nước miếng tràn ra nhỏ từng giọt xuống đất. Tiếng em Toản gọi nhau về từ cuối rẫy ơi ới. Mẹ xách cái ấm nước đang sôi trên bếp chế lên chiếc phin cà phê đặt sẵn trên chiếc ly lớn. Từng giọt cà phê nâu đen rớt xuống thấm dần phần đường ở đáy ly. Mùi cà phê bốc lên thơm lựng, quyến rũ sự thèm muốn của khứu giác và vị giác.

Cả nhà ngồi vào mâm cơm. Hôm nay ngày chủ nhật anh em Toản không đi học nên đông đủ mọi người. Bốn đứa con hai vợ chồng vừa ăn cơm vừa nói chuyện. Mấy đứa em Toản tranh nhau kể chuyện chúng phát hiện một nơi có tổ ong rừng thật to như cái cái bánh xe hơi. Là loài ong Thế này thuộc loại dữ dằn có tiếng và rất nhiều mật. Nghe vậy cha quay qua nhờ mẹ chiều nay tưới cà phê hộ một lúc, để đi bắt cho bằng được tổ ong đó lấy mật. Bữa cơm chóng vánh qua đi. Thức ăn không cao sang nhưng hợp với khẩu vị. Mấy đứa em ở trần chỉ mặc chiếc quần xà lỏn đưa cái bụng căng tròn vì ăn quá no.

Cha sau khi uống chén nước đứng lên nhấc cái phin cà phê xuống. Cầm cả ly cà phê qua gốc cây đối diện. Ngồi dựa lưng vào thân cây hớp vài hớp, rồi lim dim đôi mắt ngai ngái ngủ. Mẹ vừa dọn dẹp vừa la đừng ồn ào để yên ắng cha nghỉ. Nghe thế tất cả lánh ra xa cợt cười đùa giỡn với nhau. Tất cả như hòa vào thiên nhiên, thiên nhiên cũng tràn về đầy ắp trong tâm hồn tâm hồn mọi người…

Khi thức dậy cha chuẩn bị dụng cụ bỏ vào túi xách khoác lên vai. Như dự định mấy cha con Toản băng qua con suối con. Leo lên ngọn đồi đá lởm chởm trên sườn đồi là một vạt rừng đầy dây leo và cây cao rậm rạp. Tất cả đứng lại ngoài bìa rừng thằng Tư đưa cha vào nơi có tổ ong. Một lúc sau hai người trở lại trên mặt cho lộ nét hoan hỉ. Và chia nhau ra người đi bứt cỏ hôi, người đi lấy dây rừng. Cha thì lấy thêm mồi tre khô lót vào bên trong bốn bó cỏ hôi làm nùi khói. Rồi nói Toản và thằng ba theo cha vào bên trong rừng.

Tổ ong nằm trên cây không cao lắm, ở một nhánh tương đối thuận lợi. Sau khi dặn dò các con và chỉ nơi cho hai con ẩn nấp, cách vị trí tổ ong chừng ba mươi mét trong lùm cây rậm. Cha mặc bộ quần áo mưa, đầu đội mũ lưới đi đến gốc cây. Nhìn cha mang dụng cụ sau lưng, thoăn thoắt leo lên cây Toản rất thích. Khi cha bắt đầu đốt hai nùi khói lên. Một cái cha đeo sau lưng, một cái cha đưa qua đưa lại dưới tổ ong. Bầy ong hoảng hốt bay tản ra vì không chịu nổi khói. Ở dưới này có vài con ong bắt đầu vo ve lại gần. Nảy giờ hồi hộp quan sát cử chỉ của cha quên mất Toản vội vàng đốt khói lên. Trên cao cha hành động rất nhanh nhẹn, chính xác. Khi dưới này đốt được khói nhìn lên đã thấy cả tổ ong nằm gọn trong cái bao ni lon. Cha đang buộc vào dây thừng thả xuống. Khi bao tổ ong chạm đất là cha cũng vội vàng xuống ngay. Đem tất cả di chuyển ra phía bìa rừng, vài con ong như cố đuổi theo cướp lại mật vo ve dữ tợn xông vào, Nhưng khói cay quá không thể nào vào được. Tất cả di chuyển tới con suối cha gỡ mũ cỡi quần áo ngoài ra. Mồ hôi ướt đẫm cả quần áo bên trong. Nhìn cha Toản thật khâm phục tài nghệ bắt ong rừng của cha. Toản rất tự hào và sung sướng trong lòng.

Chiều đó, sau khi chén một bữa mật ong rừng no say. Cha ở lại rẫy, mẹ và anh em Toản về. Ngồi trên chiếc xe, con bò kéo đi trên con đường gồ ghề ngoằn ngoèo theo dốc núi. Nắng chiều đổ bóng nghiêng nghiêng. Mùi mật và hương hoa quyện vào nhau thơm lừng. Tất cả im lặng trầm tư trong cảnh hoàng hôn hoang dã…

Miên man chuyện Tết ở làng

Tuổi thơ của tôi gắn liền với con đường làng lát gạch đỏ au. Con đường như mạnh máu đỏ xuyên qua làng và nuôi sống cơ thể làng Cổ Am (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) quê tôi. Theo các cụ già trong làng kể lại thì vùng đất quê tôi trước kia thuộc dạng “chiêm khê, mùa thối”, đường làng quanh năm lầy lội. Thế nhưng, không hiểu tại sao con trai làng tôi lại đỗ đạt rất cao, có người còn được ghi danh trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội). Con gái của làng cũng rất đẹp. Chính vì các lý do ấy mà ngay từ thuở xa xưa, làng tôi đã coi trọng việc học và đặt ra cái lệ rất khác thiên hạ là nếu chàng trai nào muốn lấy vợ Cổ Am, phải nộp cho làng gạch lát đường. Chàng trai càng ở xa, càng có ít chữ thì càng phải nộp nhiều. Số gạch nhận được, làng để lát đường, lát ngõ… Con trai làng khi đỗ đạt cũng phải góp gạch làm đường. Con đường làng lát gạch đỏ au như con tôm luộc khổng lồ ấy là niềm tự hào, là nỗi nhớ của rất nhiều người xa quê. Hai bên đường là những hàng cây râm bụt xòe bông đỏ chói. Sau những hàng rào ấy là những nếp nhà lợp bằng cây cói xinh xinh…

Giờ đây, con đường lát gạch giữa làng đã được thay bằng con đường láng nhựa phẳng lỳ, nhưng tôi vẫn tiếc con đường cũ. Hai bên đường là các ngôi nhà mái bằng, mái ngói với những bức tường xây cắm mảnh thủy tinh nhọn hoắt.

Thời chúng tôi còn bé, đi trên đường làng, gặp bất cứ người lớn tuổi nào cũng đều phải khoanh tay chào. Nay về quê, đầu hai thứ tóc rồi mà gặp nhiều cháu thiếu nhi, chẳng nghe được tiếng chào, cũng thấy tủi tủi.

Trong các âm thanh ở làng ngày trước, tôi thích nhất là âm thanh sáng 30 Tết. Từ lúc tờ mờ sáng, cả làng đã vang tiếng lợn kêu eng éc, tiếng cười nói râm ran. Sáng 30 Tết mới giết lợn, nhưng việc đụng lợn đã được bàn tính từ nhiều tháng trước. Loại lợn mà mọi người thích ăn đụng nhất là “lợn cọc”, tức là những con chậm lớn. Nhiều con tốn cám tốn bèo nuôi cả năm trời mà cũng chỉ được vài chục cân. Những con loại này có nhiều nạc, ít mỡ, chắc thịt. Thông thường khoảng từ 2 đến 8 gia đình đụng một con lợn tùy theo trọng lượng của lợn và số người trong gia đình. Con lợn đụng trước khi cắt tiết được tắm sạch sẽ. Việc chọc tiết lợn cũng khá cầu kỳ vì để hãm được tiết, đánh tiết canh không đơn giản. Con lợn làm lông xong được ngả ra nong để những người khéo tay pha thịt, lọc xương. Mọi thứ sẽ được phân ra rất đều nhau căn cứ theo số lượng người ăn đụng từ phần nạc, phần mỡ, phần xương, miếng thủ, miếng tai, miếng lưỡi đến tiết canh, lòng, dồi... Lúc đó lũ trẻ con chúng tôi thường đứng vòng quanh, vòng ngoài để xem và thích thú khi được người lớn sai vặt. Đứa nào ngoan còn được thưởng cái đuôi, hoặc cái “bong bóng lợn” dùng đá bóng trong ngày Tết…

Sau khi được chia thịt lợn, cả làng lại vang lên tiếng dao, thớt, tiếng chày cối giã giò… Khắp các ngõ ngách trong làng vất vương mùi thịt luộc, mùi chả nướng, mùi bánh chưng… Đến khi trời sáng rõ là lúc các gia đình đã sắp xong mâm cỗ Tất niên để cúng ông bà, tổ tiên. Hồi ấy, gia đình tôi cũng như nhiều gia đình khác quanh năm chỉ ăn rau, mắm cáy, cua đồng, cá tép. Đến Tết mới được ăn thịt lợn, nên mâm cỗ Tất niên là bữa ăn ngon nhất trong năm, mà món tôi thích nhất lại là thịt mỡ luộc. Có năm, vì ăn nhiều thịt mỡ quá mà đau bụng, cả Tết chẳng ăn được gì, nhưng đến Tết sang năm lại thèm thịt mỡ.

Năm nay, âm thanh trong ngày 30 Tết xưa ấy đã không còn nữa. Trong làng cũng có nhà giết lợn, nhưng họ làm hẳn một con. Phần lớn các gia đình đều đặt mua ở các lò mổ cạnh làng hoặc ở chợ. Ngày 30 Tết hầu như nhà nào cũng có lòng lợn, tiết canh, nhưng bọn trẻ con thì không được nhìn cảnh làm thịt lợn ngày Tết. Ngay cả việc gói bánh chưng cũng rất ít gia đình làm. Làng tôi giàu lên, món thịt lợn trở nên dửng dưng với mọi người. Miếng thịt mỡ lợn luộc, niềm ao ước của tôi thuở trước, nay đã vắng bóng trong mâm cỗ Tết.

Quê tôi có đặc sản nổi tiếng là cây thuốc lào, câu ca “Chiếu cói làng Bào, thuốc lào Cổ, Cát” đã khẳng định đều đó. Tương truyền rằng, ngày xưa thuốc lào của làng tôi đã được chọn là một trong những vật phẩm của xứ Đông (Hải Dương ngày nay) để tiến vua, vì thế việc chuẩn bị cho việc hút thuốc lào trong ngày Tết cũng khá cầu kỳ. Trước hết là chọn thuốc lào. Thông thường, các gia đình trong làng đều trồng thuốc lào, họ chọn những lá thuốc ở trên ngọn cây (lá mà hấp thụ được ánh nắng nhiều nhất), để già đến lúc vàng lá mới hái, đem về để riêng, thái riêng và phơi “một sương, hai nắng”, phơi trong bóng râm để khô, cho vào chum lót lá chuối khô cất để dành đến Tết. Cũng có người cầu kỳ phun thêm vào thuốc lào nước cháo gạo nếp cái hoa vàng gọi là “hồ thuốc” để thuốc lào thêm đậm đà cho người thưởng thức. Điếu cày, điếu bát hút thuốc lào ngày Tết được cọ rửa sạch sẽ từ trước ngày “ông Công, ông Táo” về trời (ngày 23 tháng Chạp). Riêng đóm để châm thuốc phải chuẩn bị trước khi Tết vài tháng. Thông thường các nhà dùng ngay thân cây thuốc lào ngâm xuống ao trong khoảng một tháng, vớt lên, chẻ nhỏ. Cũng có gia đình cầu kỳ hơn chọn những cây tre già, ngâm ở ao sâu hằng năm trời rồi đem chẻ nhỏ, phơi khô, cắt từng đoạn khoảng hơn một gang tay làm đóm châm thuốc lào dùng trong ngày Tết. Đóm tre ngâm cháy rất lâu quyện cùng với hương vị nồng cay của thuốc lào tạo cảm giác đê mê cho người thưởng thức “Thuốc lào chồng hút, vợ say. Thằng bé châm đóm lăn quay ra nhà” là vậy.

Hộp đựng thuốc lào thường làm bằng hai nửa trái bưởi non, đã bỏ ruột. Thuốc lào để trong hộp này không bị giòn, không bị mốc và luôn giữ được hương vị đặc trưng. Ngày trước, con trai, con gái làng tôi đều hút thuốc lào. Khách đến, câu nói cửa miệng của mọi người trong làng là “Mời cụ, ông (bà) xơi thuốc” hoặc “Mời cụ, ông (bà) ăn thuốc”. Ngày Tết, các nhà trong làng lúc nào cũng rền vang tiếng rít sòng sọc của thuốc lào.

Đến nay số người hút thuốc lào ở làng tôi đã giảm hẳn, thay vào đó là thuốc lá. Câu mời chào hút thuốc và âm thanh quen thuộc của chiếc điếu cày, điều bát thưa dần. Cây thuốc lào cũng không còn vị trí quan trọng nhất trong cơ cấu cây trồng ở địa phương.

Trong các phong tục tập quán của làng xưa đến nay, có lẽ chỉ còn duy trì được ngày hội mừng thọ, hay còn gọi là ngày hội “lên lão” được tổ chức vào ngày mồng 4 Tết Nguyên đán. Đây được xem là ngày hội lớn nhất của làng trong năm thể hiện truyền thống “kính lão đắc thọ”. Ngày trước, vào ngày mồng Ba Tết, tất cả những người tuổi chẵn 55 (chuẩn bị lên lão) , 60 (lên lão) , 70 (thượng thọ) , 80 (thượng thượng thọ), từ 90 tuổi trở lên (đại thọ) được mời ra miếu Cây Xanh (ở xóm 2) để làm lễ cầu cho quốc thái dân an, cầu cho dân làng khỏe mạnh, mùa màng bội thu. Trong buổi lễ này, những người cao tuổi trong làng trong làng sẽ chọn ra người đàn ông và đàn bà cao tuổi nhất gọi là tiên chỉ nam và tiên chỉ nữ để đến ngày mồng 4 Tết, các nam, nữ thanh niên trong làng rước kiệu hai người cao tuổi nhất làng đi vòng quanh làng cùng với những người cao tuổi và các con cháu của họ. Sau đó cả đoàn lại trở về miếu Cây Xanh nhận lời chúc và quà của làng. Sân miếu được trải chiếu mời các cụ ngồi. Các cụ không phân biệt địa vị, chức tước, ai tuổi cao được mời lên chiếu trên, ai tuổi thấp hơn ngồi ở chiếu dưới, được ăn bữa tiệc của làng rồi trở về từng gia đình làm cỗ. Ngày mồng 4 Tết hằng năm trở thành ngày “cả làng ăn cỗ” vì tất cả các gia đình có người lên lão, thượng thọ, thượng thượng thọ và đại thọ đều làm cỗ mời mọi người.

Nay, nghi lễ mừng thọ có sự thay đổi, cụ tiên chỉ nam và tiên chỉ nữ không ngồi kiệu mà ngồi trên xe đẩy để con cháu đưa rước. Việc tổ chức lễ cầu ngày mồng Ba Tết ở miếu Cây Xanh vẫn được tổ chức vào chiều ngày mồng Ba Tết. Đến sáng sớm ngày mồng 4 Tết, những người chuẩn bị lên lão, thượng thọ, thượng thượng thọ và đại thọ được tập trung tại 5 thôn để các thôn mừng thọ. Sau đó, các thôn rước các cụ về hội trường của xã để lãnh đạo xã chúc thọ, liên hoan văn nghệ và tặng quà. Đi đầu các đoàn rước này là các cháu thiếu nhi với tiếng trống ếch rộn ràng, sau đó là các cụ cao tuổi và người nhà của các cụ. Đường làng trong sáng ngày mồng 4 Tết tràn ngập cờ, hoa, khẩu hiệu. Tại hội trường của xã, các cụ cũng được ngồi theo thứ tự tuổi tác, hai vị tiên chỉ được ngồi ở vị trí danh dự, những người tuổi cao được ngồi ở ghế trên, người ít tuổi hơn ngồi ghế dưới, tiếp nữa là các con cháu của họ. Mít tinh, nhận quà xong, từng đoàn lại đi về tổ chức liên hoan tại các gia đình có người lên lão, thượng thọ, thượng thượng thọ và đại thọ. Có điều khá đặc biệt ở làng tôi so với các địa phương khác là hình thức tặng quà. Dân làng tôi quan niệm rằng, tuổi cao cần sự ngọt ngào, do đó quà tặng phổ biến nhất từ ngàn xưa là tặng đường, bánh kẹo. Vì vậy, ngày Tết ở các gia đình có người lên lão, thượng thọ, thượng thượng thọ và đại thọ đều có rất nhiều đường ăn. Có gia đình nhận tới hàng tạ đường là quà tặng. Sau lễ mừng thọ, số đường và bánh kẹo này lại được chia cho các con cháu trong làng.

Chiều mồng 4 Tết, đại đa số các gia đình trong làng tổ chức lễ “hóa vàng”, kết thúc Tết. Đến ngày mồng 5, mọi người trở lại công việc đồng áng và lao động thủ công…

Ăn Tết, vui Tết ở làng quê cổ kính có khá nhiều nét thú vị. Miên man trên đường làng, trong làn sương mỏng tang như hòa quyện với làn khói hương trầm thơm ngát, ký ức Tết xưa lại ập về… Thời gian trôi đi, nhiều phong tục, tập quán sẽ thay đổi, nhưng tôi thầm mong sao những nét đẹp văn hóa truyền thống của Tết làng còn lưu lại mãi về sau…

Sống Thật Chậm : Gặp lại ngày xưa

Bài viết này ly t blog ca mt bn trong nhóm chúng tôi va v t chuyến đi theo l trình : Sui Giàng- Lao Chi- Pa Cheo-Dn Thàng-Y Tý-Ngi Thu-A L-Trnh Tường. Cám ơn tác gi và xin phép được đăng li đây.

Ngày xưa ca tôi có nhng bui trưa xách cp lng cơm đến lp

Hồi ấy trẻ con chỉ học 1 buổi, chúng tôi học lớp chuyên nên có những đợt học 2 buổi để luyện thêm. Một trong những lý do tôi thích những ngày học 2 buổi là tôi được mang cặp lồng cơm đi học, vừa trông như người lớn, vừa được dịp trao đổi, ăn thử cơm nhà người khác Lần này khi bám chân đoàn khảo sát “Cơm có thịt”, tôi lại thấy cảnh các em bé lũn cũn xách cơm đến trường.

Có điều cách đây hơn 30 năm, giữa thời bao cấp thiếu thốn đủ thứ, cơm của tôi vẫn có chút rau và tí đồ mặn như lạc rang nước mắm, còn đây là cơm của các bé mầm non huyện Bát Xát ngày hôm nay

Ngày xưa ca tôi có ni thèm ăn thường trc

Các con tôi không bao giờ hình dung nổi chuyện nửa lạng thịt dành cho một bữa ăn tươi là như thế nào. Thời của tôi, “tiêu chuẩn nhân dân” được vài lạng thịt một tháng luôn phải cố ý mua mỡ để còn xào rau, lấy tóp mỡ rang cơm. Quả thực nếu lạng ra được một rẻo thịt nạc thì trẻ con sung sướng lắm vì thếnào cũng được ưu tiên. Nhờ thế chúng tôi có khái niệm “ăn dè”: miếng thịt cứ nằm trên mặt bát cơm, nhìn cho sướng mắt, rồi nó cứ tụt dần xuống đáy bát mà chẳng suy xuyển mấy về hình dáng, “ăn dè” mà   Cái đói lúc nào cũng lảng vảng xung quanh, rõ ràng vừa ăn no bụng bữa cơm độn mì sợi với rau luộc chấm nước mắm xong, thoáng cái đã thấy đói meo lúc nào. Ở Mẫu giáo (MG) Dền Thàng, chúng tôi may mắn đến đúng bữa các con ăn trưa. Những cái miệng xinh xinh loáng mỡ vì hôm nay các con được ăn thịt. Nhờ có chương trình “Cơm có thịt” của các bác trên mạng, các bé được ăn hàng tuần 2 ngày thịt, 1 ngày đậu, 1 ngày trứng và 1 ngày cá mắm. Các cô bảo bát đầu tiên thường chia hết đồ ăn vào bát các con cho công bằng, thế là các bé cũng có chiến thuật ăn dè ngay lập tức, nhín đồ ăn lại để khi xin cơm bát sau hoặc bát sau nữa vẫn còn cái vị ngon ngọt lẫn vào với cơm.   Tô canh của các con cũng có màu sắc hơn trước đây.

Ngày xưa ca tôi có cái lnh tím tái chân tay…

Mãi đến giờ nhiều khi mấy chị em tôi vẫn còn thắc mắc khi mình còn bé thời tiết lạnh hơn bây giờ hay sao mà cái lạnh cứ thấm vào xương, luồn lách trong người bất chấp mấy lớp áo mỏng mặc chồng lên nhau bên ngoài. Con tôi không tưởng tượng nổi khi tôi kể lại chuyện tôi và bạn bè thường chơi trò thách nhau đoán được hôm ấy mặc mấy áo trên người, kỷ lục là 1 lần cô bạn tôi (một cô bé lớp 3 gầy gò) mặc đến 13 áo Giữa nơi rừng núi mây phủ gần như suốt ngày này, các bé MG mà chúng tôi ghé thăm chỉ phong phanh 1 đến 2 lớp áo. Sang lắm thì có thêm cái khăn hoặc cái mũ. Chân trần không phải là hiếm. Có đôi bàn tay bé nhỏ tôi ủ mãi trong tay mình mà không thấy ấm lên được mấy chút.

Những ngày xưa thân thương ấy tôi chỉ mong mãi nằm trong ký ức, mong con mình không bao giờ phải trải lại. Vậy mà sau gần 4 thập kỷ, tôi gặp lại nó nguyên vẹn nơi đây, tệ hơn tôi hình dung rất nhiều. Thấy đắng trong lòng… Đành tự an ủi mình rằng tuổi thơ khốn khó năm xưa đã trao cho tôi nghị lực sống mạnh mẽ, trau giồi cho tôi sự tháo vát và khả năng chịu đựng mà thế hệ các con tôi không có, hy vọng các em bé nơi đây sẽ dựa vào ưu thếấy mà tôi luyện lòng quả cảm cho mình. Dẫu có thế nào, vẫn cần lắm những bàn tay nâng bước các em.

Bạn có biết: - Tr em 3-5 tui min núi vn t mình đến lp. Đã đành không có nỗi ám ảnh xe cộ nhưở phố phường, nhưng còn lối đi ghập ghềnh dốc đá, còn khe sâu bên đường…? Lòng hiếu học nơi đây thật mãnh liệt.

=Mt em bé 3-5 tui có th ăn đến 4 bát cơm. Cơm nấu nở bung, hạt gạo to như ngô, nhạt thếch. Vậy mà đứa ăn khỏe có thể ăn đến 4 bát. Lý do rất đơn giản: ở nhà con không có thức ăn, chỉ có rau luộc và khi nào sang lắm thì vài vụn cá mắm (tôi đã nếm thử: đó là cá khô loại nhỏ đã mủn vì để lâu, mặn đắng lưỡi). Các cô giáo nói mùa giáp hạt, có bạn cha mẹ chỉ đóng bột ngô chứ không có gạo, có bạn cha mẹ chẳng có gì mà đóng, các cô đành thêm chút gạo của mình vào, trộn tất cả lại với nhau, nấu chung lên và chia đều cho các con theo lượng cơm độn có được ấy. Những thời điểm ấy, 1-2 bát cơm độn ở trường vào bữa trưa là chủ lực thay thế bữa chiều không cơm chỉ có rau luộc lấy lệở nhà.   Rá cơm gạo góp ở MG Dền Thàng - Các bé mm non huyn Bát Xát chưa có khái nim sa và bánh mì. Trong 38 cháu ở MG Pa Cheo chỉ có 1 cháu biết sữa tươi là gì và biết cách uống một hộp sữa như thế nào. Hầu như tất cả các bé ở Dền Thàng, Ngải Thầu, A Lù… từ mầm non đến tiểu học đều không biết bánh mì là gì. Có em đoán ra rằng đó là một loại bánh nhưng mà chưa được ăn bao giờ. Cảm ơn lắm lắm một bạn ở diễn đàn “Cơm có thịt” đã ủng hộ bánh mì và sữa đặc cho các bé

Sợ Tết xưa cũ

Tết đến, một số người tỏ vẻ tiếc nuối không khí Tết xưa. Theo họ, “hương vị Tết cổ truyền” ngày xưa đậm đặc, nay bị phai lạt rất nhiều. Riêng tôi lại thấy Tết nay mới thực Tết hơn Tết xưa, mỗi lần nghĩ đến Tết xưa là tôi sợ.

“Không khí Tết xưa” hoặc “hương vị Tết cổ truyền” mà những người hoài cổ vẫn không nguôi ca ngợi, chủ yếu chỉ thấy chuyện ăn và mặc. Rất ít điều thoát ra khỏi niềm khát khao ăn no mặc ấm. Mà ăn với mặc ngày xưa có gì đáng nhớ? Ca dao có câu “Số cô chẳng giàu thì nghèo/Ngày Ba Mươi Tết thịt treo trong nhà” thì trong niềm khắc khoải của những người hoài cổ cũng chỉ bóng nhẫy miếng thịt mỡ; ca dao tả cảnh Tết “Thịt lợn, dưa hành, câu đối đỏ/Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh” thì người khắc khoải hoài cổ cũng chỉ loanh quanh chừng ấy hình ảnh

Mà miếng ăn thời đói rách thường kèm theo bao nhiêu tủi nhục, cơ cực. “Đụng” lợn, nhiều gia đình hùn mổ một con lợn để chia nhau, được nhiều người miêu tả “rộn ràng làng quê” như là một không khí thi vị của Tết xưa. Nhưng cái sự chia phần xưa nay có bao giờ công bằng tuyệt đối! Chuyện “đụng” lợn vì thế ít khi không có tiếng eo sèo trách móc, ngấm nguýt, thậm chí đánh lộn nhau, bưng rổ thịt chia phần về nhà còn hậm hực suốt mùa Xuân.

Bây giờ thì sao? Các bà các chị ra chợ, nhìn hàng thịt lợn ê hề, ưng miếng nào thì vểnh cái ngón có móng son màu tươi thắm lên chỉ trỏ và được bặt thiệp đáp ứng. Các thứ bánh trái hoa quả khác đều có được như thế, ngon và rẻ, nhanh và khỏe, nhẹ nhàng và vui vẻ. Đâu cần thức khuya dậy sớm, í ới kêu la, làm được một miếng ngon có khi hư hỏng hai ba miếng khác nhưng vẫn cố nuốt vì không dám bỏ, còn khen miếng hư hỏng là miếng ngon với cái cách gọi củ khoai thối là “thơm thối” vậy.

Chuyện nấu bánh chưng, những người hoài cổ thường kể mãi như là một hình ảnh đậm đặc “hương vị Tết cổ truyền”. Họ lựa lấy vài công đoạn thú vị nhất để kể, mà giấu tiệt những công đoạn vất vả. Chẳng hạn, đêm Ba Mươi cả nhà quây quần bên bếp, khi bánh chín, vớt ra được ăn (lại chuyện ăn) cái bánh lép. Bánh lép là bánh không nhân mà bánh chưng không có nhân thì chỉ là cục cơm nếp nhạt phèo, ngon với người đói thôi. Nhưng để có nồi bánh chưng chín, phải trải qua nhiều công đoạn vất vả. Ngay việc nấu, lửa khói nóng nực gần ngày trời.

Tuổi thơ tôi sợ nhất khi cha mẹ giao việc canh nồi bánh chưng, không được đi chơi với bạn bè, phải loanh quanh bên bếp để đẩy củi vào lò và tiếp nước vào nồi. Sau này, có nồi áp suất từ Liên Xô đun tiếng đồng hồ đã chín bánh, thực sự giải thoát tuổi thơ của tôi ngang bằng nhân loại thoát kiếp nô lệ. Nên từ khi có gia đình, tôi không bao giờ gói và nấu bánh chưng để con cái đỡ cái khổ bị sai vặt chạy lăng xăng. Cần bánh chưng, ra chợ lựa chọn. Nếu hương vị bánh chưng là hương vị Tết cổ truyền thì cái hương vị ấy ở bánh chưng của người chuyên nghiệp làm ra hơn hẳn bánh do bàn tay nghiệp dư vụng về làm ra.

Nhưng đương nhiên, hương vị Tết cổ truyền không phải gói tất cả trong vài miếng ăn ngày Tết. Hương vị Tết cổ truyền, chính yếu nhất nằm trong đời sống tâm linh, tập trung ở việc tưởng nhớ công ơn tiên tổ và mong ước tương lai tốt đẹp cho con cháu. Thành kính chắp tay trước bàn thờ gia tiên, trong hương trầm man mác, cuộc sống thực tạm lãng quên để nhập vào cuộc sống hài hòa liền mạch giống nòi thấm đẫm tình nhân ái cao sâu, mong ước giống nòi bền vững.

Có một cái Tết, ngồi giữa bà con chòm xóm vui chuyện thơ văn, tôi làm hai câu thơ và đề nghị mọi người họa theo cho thành một bài thơ hoàn chỉnh. Suốt ngày, không có thêm câu nào. Tôi hơi buồn, nghĩ rằng một nét văn hóa tao nhã Tết cổ truyền dân tộc đã phai nhạt. Nhưng về sau, tôi nghĩ lại và tự hỏi, có thực đó là “nét văn hóa cổ truyền dân tộc” hay do tôi muốn bắt chước đâu đó?

Nếu năm đó, nhiều người hưởng ứng và bài thơ hoàn thành thì có lợi gì cho cuộc sống của những người nông dân quê hương tôi? Việc gì không mang lại lợi ích thiết thực thì khó khẳng định đó là văn hóa, còn “văn hóa cổ truyền dân tộc” không phải cứ muốn và gán ghép mà có được.

Văn hóa phải vì cuộc sống, trong cuộc sống mục đích tối thượng là vun đắp tương lai. Một gia đình có văn hóa khi tập trung nuôi dạy con cháu nên người, tài giỏi càng quý nhưng điều đó còn phụ thuộc ông trời. Những gia đình chỉ tập trung cúng vái tổ tiên, quanh năm chìm trong khói hương nghi ngút, thường sinh ra lớp con cháu yếm thế, lờ đờ, kém sinh khí, thiếu sức sống; đó không thể gọi là gia đình có văn hóa.

Nên Tết nhất, dù là dịp đời sống tâm linh chiếm lĩnh đất trời thì thời gian trang nghiêm, tĩnh lặng trước bàn thờ tiên tổ cũng vẫn ít hơn thời gian dành cho con cháu. Bây giờ, càng có điều kiện để dành cho con cháu nhiều hơn ở các phương tiện truyền thông, mạng internet, và những chuyến du lịch để con cháu mở rộng tầm mắt không giới hạn.

Tết bây giờ cũng không phải chỉ có vậy, mà còn tạo nhiều điều kiện cho những người hoài cổ được nhìn sâu hơn, rộng hơn về ngày xưa. Các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ và cả trong hiện thực cuộc sống, biết bao không gian cổ được tái hiện, phục dựng. Nếu người trẻ tuổi luôn nhìn về phía trước vì tương lai ở phía trước thì người già luôn ngoái về phía sau vì tuổi đẹp nhất của người già ở đó. Cái quy luật tự nhiên ấy khi được tôn trọng, nhường nhịn nhau, sẽ làm cho cuộc sống hài hòa, phong phú, đáng yêu, còn muốn áp đặt lên nhau sẽ gây ra phản ứng nhiễu loạn.

Tết nay đang có nhiều điều kiện mở rộng sự rạng rỡ, tươi vui, phong phú cho mọi cung bậc của cuộc sống, vậy làm sao không hơn Tết xưa chật hẹp? Tết xưa chỉ quẩn quanh lo ăn lo mặc, chao ôi nghĩ lại, tôi còn sợ!

Con Tôm

1. Ý nghĩ của bố

Có một cái gì là lạ trong bữa cơm hôm nay? – Bố đoán thế vì các con, khi đến ăn cơm, đã nhìn đăm đăm vào giữa mâm. À, phải rồi! Con tôm! Một con tôm khá to nằm kiêu kỳ trong đĩa, giữa mấy lát thịt mỡ nổi trên nước kho màu nâu vàng. Bố lấy làm lạ. Chẳng là me thằng Ti vừa mới than với bố hết tiền rồi mà! Bố nghe, bố ầm ừ lấy lệ chứ bố suy nghĩ lung lắm. Thật ra bố chẳng biết làm cách nào để kiếm được tiền nhiều hơn, mặc dầu bố cũng muốn có dư dả để me và các con được đầy đủ. Xóm này thiếu chi người làm ăn “lớn”: anh Tư ba bánh, chú Mười hớt tóc, bác Năm thợ mộc… đã bỏ nghề để chạy “áp phe, áp…” gì đó, cả đến cậu Lộc làm thư k‎ý đàng hoàng thế kia mà bỗng dưng cũng đi làm việc khác rồi. Chẳng mấy tháng mà họ kiếm được nhiều tiền, sống thảnh thơi ghê lắm. Còn bố, bố bị họ cho là “gàn”, bởi bố vẫn cứ làm cái nghề xưa nay của bố. Chiếc xích lô đạp già nua, đã hơn bốn năm rồi còn gì - là người bạn thân của bố, của mẹ và của các con. Mỗi ngày bố làm việc từ sáng sớm đến tối mịt, bố chỉ về buổi trưa một tí để ăn cơm và ngủ năm phút. Buổi tối bố về, bố nghe thằng Ti và con Cốn học bài, đố nhau toán, đố nhau tựa bài tập đọc, bố vui lắm. Bố nghe me thằng Ti hát ngâm nga mấy điệu ca miền bắc mà thuở bố còn nhỏ, bố đã mê đi xem đến nỗi quên cả về nấu cơm cho bà nội. Ngần ấy thôi, cũng đủ làm bố quên bẵng đi cơn mệt nhọc từng buổi trưa nắng gắt gò lưng đạp nặng nề. Nhiều lúc bố tự hỏi: tại sao bố nghèo? Ông bà nội hồi ở ngoài bắc đã nghèo, bố ngày nay còn nghèo hơn. Rồi bố tự trả lời – câu trả lời giống như mọi người gán cho bố - rằng: tại bố “gàn”!!! Nhưng bố vẫn nuôi hy vọng – và bố nghĩ rằng sẽ hài lòng – vì bố đã cho thằng Ti và con Cốn đi học đàng hoàng. Thằng Ti tháng nào cũng đứng đầu lớp, còn con Cốn thì không bao giờ dưới trung bình, và lại được khen hạnh kiểm tốt nữa. Bố nghĩ các con của bố sau này sẽ nên người và giàu có hơn bố bây giờ. Con của bố thông minh, ham học, bố me còn mong gì hơn? Bố bằng lòng với hoàn cảnh của bố, không đòi hỏi gì nữa.

Tháng này thình lình con Cốn bệnh, đi bác sĩ cả tuần mới khỏi. Bố cố gắng kiếm thêm tiền để lo cho con mà cũng không xuể. Vì thế bố không lấy làm lạ khi me bảo hết tiền. Nhưng bố lại ngạc nhiên khi thấy trong mâm hôm nay có con tôm. Ngày nào cha mẹ con cái cũng ăn cơm với rau cùng nước mắm, sang lắm thì cũng chỉ cá cơm kho hay thịt mỡ kho là cùng. Bây giờ me lại cho ăn tôm kho giữa lúc đang túng quẫn. Con tôm thật to đối với các con, và làm bố thắc mắc. Nhưng sao lại chỉ có độc một con thôi? Me thì bận giặt giũ sau nhà – ngày nào cũng vậy, me cũng ăn sau mấy bố con – nên bố không tiện hỏi. Bố nghĩ chắc có bà hàng xóm nào cho, và me dọn cho mấy bố con ăn, chứ không lẽ me mua, mà lại mua có một con!

Bố đưa mắt nhìn các con. Bố muốn xem cử chỉ của các con thế nào. Thằng Ti, mắt thì ngó đăm đăm vào con tôm, nhưng không có vẻ gì thèm muốn cả. Hình như nó đang suy nghĩ chuyện gì ở lớp. Đôi mày nó hơi cau lại. Vầng trán cao, sáng sủa, trông con của bố thông minh chi lạ. Thằng Ti hầu như quên ăn, cứ chống đôi đũa xuống bàn, lặng yên. Bố cất tiếng hỏi:

- Ti! Con không ăn cơm hả?

Nó giật mình suý‎t rơi đũa. Bố giục thêm, nó mới nâng chén lên ăn. Nó nhìn con tôm, vẫn còn nguyên vẹn, rồi nhìn bố. Rồi nó lừa lừa mấy miếng thịt mỡ gắp bỏ vào chén. Bố để ý thấy nó cho miếng thịt mỡ lướt nhanh trên mình con tôm. Bố bỗng thấy thương thằng con của bố lạ lùng.

Bố nhìn sang con Cốn. Gương mặt của Cốn vẫn còn xanh xao sau cơn bệnh. Nhưng bố thấy nó có vẻ ăn được lắm. Hình như nó ăn gần xong hai chén rồi, mà chỉ độc với nước mắm. Lâu lâu nó lại e dè nhìn bố. Bố hiểu ý các con lắm. Con nít đứa nào lại chẳng thích ăn ngon. Nhưng con của bố ít khi nào được ăn ngon. Con tôm đó, như một cái gì khiêu khích các con, làm các con lấm lét, ngại ngùng trước mặt bố.

Bố không muốn các con phải nhường cho bố. Bố và nhanh miếng cơm cuối cùng, và bố buông đũa. Các con hẳn sẽ tự nhiên mà chia nhau con tôm.

2. Ý nghĩ của Ti

Con tôm! Con tôm ngon quá! Đã lâu rồi nhà mình không có ăn tôm, nhất là thứ tôm khá to thế này thì lại càng hiếm. Ngày nào cũng phải ăn rau muống, hoặc rau lang luộc, lấy nước làm canh. Mấy bữa em Cốn đau, lạt miệng, me mua phở cho em ăn. Em ăn vẫn chê dở, nhưng tôi đứng nhìn mà thèm ghê lắm. Tuy thế tôi không ao ước được ăn tô phở của em, mà tôi chỉ cầu khẩn cho em đừng bệnh nữa để ăn ngon miệng. Em tôi bệnh cả tuần, chẳng có ai để tôi đố toán, đố tựa bài tập đọc và nhờ dò bài dùm nữa. Nên tôi muốn nhường tất cả cho em. Bây giờ em đã khỏi, em ăn “trả bữa” ngon trông thấy. Giá bữa cơm có cá hay thịt nhỉ! Hôm nay me lại kho thịt mỡ với tôm. Đáng lẽ có nhiều tôm, tôi sẽ gắp bỏ cho em hai, ba con một lúc, em sẽ ăn được nhiều. Nhưng chỉ có một con, tôi làm sao đây? Bố cũng phải ăn chứ! Tôi chẳng thấy bố ăn ngon bao giờ. Thứ gì bố - và me –cũng đều dành cho anh em tôi. Ngay đến những lúc có khá tiền, me nấu bánh canh, hay làm chả giò… bố và me cũng chỉ ăn lấy lệ, để cho anh em tôi ăn nhiều. Bố với me làm quần quật cả ngày, tôi thương bố, thương me tôi quá! Nhất là những ngày em Cốn bệnh, bố và me lo lắng đến như già thêm đi.

À, sáng nay cô giáo Việt văn giảng về ông Tản Đà, ông sành ăn lắm, bạn cho đĩa tiết canh mà thiếu rau húng, ông không ăn, sau lại đến cạy nền nhà bạn lên để trồng cây rau húng xuống. Mấy đứa bạn xu‎ýt xoa: “Món đó ngon lắm!”, chúng nó hỏi tôi có thích ăn không, tôi đáp là không. Không ngờ trong số đó có một đứa ở cùng xóm tôi, việc gì của nhà tôi nó cũng biết, nên nó tiết lộ: “Nhà thằng Dũng nghèo lắm, làm gì có thức ăn ngon mà ăn, nó nói hách đấy!” Tôi không giận thằng bạn tí nào cả. Nhưng tôi thấy thoáng buồn. Từ lúc ấy đến bây giờ, ngồi ăn cơm, đầu óc tôi không rời bỏ cái ám ảnh nhà mình nghèo. Vì thế tôi ngưng ăn lúc nào không hay. Tôi suy nghĩ nhiều lắm, về ngày mai của anh em tôi. Chúng tôi phải làm sao bù đắp cho bố mẹ chúng tôi và giúp đỡ cho những kẻ khốn khó như chúng tôi hiện giờ. Mãi đến khi bố gọi, tôi mới vội vàng ăn cơm tiếp. Tôi gắp một lát thịt mỡ, nhưng cố tình chạm vào con tôm. Chà! cưng cứng! Con tôm này chắc là phải thơm lắm đấy! Tôi nhai miếng thịt mỡ nhưng tôi tưởng tượng đến mùi vị của con tôm. Tôi chợt thấy vẻ âu yếm trên đôi mắt bố. Bố đang nhìn anh em tôi. Hình như bữa nay bố ăn ít hơn mọi ngày. Khi bố buông đũa đứng dậy, tôi nhìn thấy những sợi gân to nổi lên, căng phồng trên hai bắp chân bố thật rõ. Tôi thương bố quá. Ngoài những vị anh hùng dân tộc mà tôi được học, còn có bố và me là “thần tượng” của tôi. Bố tôi kiêu hùng quá, khi ngồi trên yên xe xích lô, đạp chạy nhanh trên đường thênh thang. Còn me nữa! Me thật nhẫn nhục và trìu mến. Mỗi buổi trưa đi học về tôi muốn dừng lại ở dưới bếp thật lâu để đếm những giọt mồ hôi trên trán me. Hơi lửa thật nóng, khói củi thật nồng và đôi mắt me đỏ. Bữa cơm nào me cũng ăn sau ba bố con. Me lo giặt giũ lau chùi ở sau bếp. Có hôm me ăn không đủ cơm vì các con ăn lanh quá. Có hôm không còn thức ăn, me lại vui vẻ ăn cơm với nước mắm. Lúc em Cốn bệnh, me không ăn uống chi được, thật tội cho me!

Ấy thế mà hôm nay me dọn tôm cho ăn. Tôi đoán có lẽ me vay tiền hàng xóm để mua tôm cho em Cốn ăn “trả bữa” mấy ngày bệnh . Nhưng tôi thấy vô lý quá vì không lẽ me chỉ mua một con?

Còn có hai anh em ngồi ăn cơm. Bố đã uống nước xong, ra nằm nghỉ trên ghế bố. Me vẫn chưa lên. Tôi nhìn sang, thấy em Cốn đang quậy tròn đôi đũa trong chén, mắt em vẫn không rời con tôm. Nhưng sao em không gắp nó bỏ vào chén? Hay em không dám? A, tại còn me, còn tôi. Tôi đã ăn hết chén cơm. Em Cốn đưa mắt nhìn tôi. Tôi giả vờ vươn vai kêu “no quá!” rồi tôi đứng lên. Chỉ còn em ngồi ăn một mình.

3. Ý nghĩ của Cốn

Sáng nay me đi chợ về - gọi là đi chợ chứ em chẳng thấy gì ngoài bó rau muống to tướng. A không, còn nữa chứ, còn gói thịt mỡ bé bằng cái bàn tay của em. Em xuống bếp phụ me lặt rau. Nằm trên giường cả tuần không đi học cũng không làm gì cả em chán lắm. Trong lúc lặt rau, em thấy me lấy gói thịt mỡ ra để thái, trong đó lại có một con tôm nữa. Em mừng ghê, hôm nay được me cho ăn tôm. Nhưng em cụt hứng ngay, vì chỉ có một con hà. Em đoán bà bán thịt đã thêm cho me con tôm đó. Vô lý, ai lại thêm gì kỳ vậy? Cũng chẳng lẽ me mua? Em chịu, đoán không nổi. Hỏi me, me không đáp, em nghĩ chắc me mệt, nên thôi. Me chỉ bảo là em nhớ ăn con tôm này cho khỏi lạt miệng. Em nôn nao lắm, cứ ngửi thấy mùi tôm kho là thèm ngay. Mà đến khi dọn cơm lên, lại càng thấy ngon nữa. Trông cái màu vàng đậm của gạch tôm đến thích. Em tưởng tượng trong cái thân tròn trịa của con tôm đó hẳn là phải có nhiều “chất bổ” lắm nhỉ! Mà em ốm cả tuần, chắc em mất “chất bổ” nhiều chăng? Lúc em ốm, em ăn phở, ăn “xí muội” mà chẳng thấy ngon tí nào. Vậy nhưng bây giờ em lại thèm ăn kinh khủng, đến nước mắm em cũng thích nữa huống chi là cái… con tôm này!

Em với đũa định gắp con tôm, nhưng… trong đầu em bỗng nhiên nhớ đến bài tập đọc hôm trước anh Ti giảng cho em. Ờ… bài tập đọc như thế này: một cậu học trò được đứng hạng cao trong lớp, mẹ cậu mới thưởng cho một trái cam. Cậu biết em cậu thích ăn cam, nên cho em trái cam đó. Cha chúng nó đi làm về mệt mỏi, đứa em bèn dâng trái cam cho cha. Người cha thấy người mẹ đứng nấu ăn trong bếp nóng nực nên đem trái cam cho người mẹ. Người mẹ ngợi khen các con và cám ơn chồng, sau đó cắt cam ra cho cả nhà cùng ăn. Nghĩ đến đấy em không gắp con tôm nữa. Em đợi bố hay anh Ti ăn con tôm ấy đi. Nhưng chẳng có ai ăn cả. Chén nước mắm và đĩa rau càng lúc càng vơi, nhưng con tôm thì vẫn nằm giữa bầy thịt mỡ, trông kiêu ngạo ghê là! Em cố tưởng tượng nó “hách” như cái mặt của con bé Thu hàng xóm để khỏi thèm, để khỏi thấy thịt mỡ và rau muống lạt lẽo vô duyên.

Bố đã ăn xong. Anh Ti cũng đã ăn vừa xong. Chẳng có ai ăn con tôm hết. Ai cũng có vẻ lơ con tôm đi để nhường cho em. Tự nhiên em thấy giống như bài tập đọc “trái cam chạy quanh” đó ghê! Và em phải giống những người ấy, nên em nhất định không ăn con tôm đâu. Để tí me làm việc xong, me lên ăn cơm có con tôm cho ngon miệng. Me làm việc không ngơi tay, vậy me cần phải ăn ngon. Me cũng như bố đã khổ vì em nhiều lắm.

Em sẽ không ăn con tôm này đâu. Chừng nào bố có tiền bố lại cho ăn thứ khác đâu có kém gì! Với lại… em cũng đã nghe mình no bụng rồi!

4. Ý nghĩ của me

Khi me ngồi lại mâm cơm thì bố và các con đã ăn xong cả rồi. Bố ngủ, thằng Ti học bài và con Cốn đọc sách. Me chợt lạ lùng, con tôm sao vẫn còn nguyên đây? Bố không ăn, thằng Ti, con Cốn không ăn? Chẳng lẽ bố và các con không thích? Mới hôm kia bố nhắc tới tôm nướng, tôm kho bằng vẻ thú vị. Còn anh em thằng Ti lý nào thấy tôm mà không thèm? Me thắc mắc và ngạc nhiên hơn bao giờ hết.

Con tôm! Cái con tôm khá to đập vào mắt me sáng nay. Me xách giỏ chợ - vỏn vẹn một bó rau muống và gói thịt mỡ - chen lấn đám đông để về cho mau. Người đàn bà sang trọng đi trước mặt me xách hai tay hai giỏ đầy thức ăn. Me liếc thấy có gói tôm to tướng. Lớp giấy gói không kỹ bị banh ra, mấy con tôm nằm men ra ngoài. Me không muốn nhìn lâu, vì me nghĩ đến bữa ăn của gia đình mình. Mẹ tội nghiệp cho bố đạp xích lô cả ngày, thương thằng Ti đi học xa xôi, thương con Cốn bệnh cả tuần mới dậy mà chẳng ăn được bữa cơm ngon như người ta. Me toan rẽ ra ngõ khác, nhưng chưa kịp, me thấy một con tôm rơi xuống đất vì lỗ giỏ lớn quá. Người đàn bà vẫn đi thật nhanh và mất dạng trong đám đông. Me đứng yên nhìn con tôm. Nó nằm trên đất, dưới bước chân của người đi. Me ngần ngừ. Giá bữa cơm nhà mình có con tôm nhỉ! Giá con tôm này nằm trong đĩa thịt mỡ nhỉ! Bố hẳn sẽ vui lắm. Thằng Ti hẳn sẽ thích lắm. Và con Cốn hẳn sẽ mừng nhiều nhất. Me phân vân. Me nhìn chung quanh. Mọi người như không biết tới me, vẫn mua bán, qua lại thản nhiên. Cũng không ai biết đến con tôm bị rơi.

Me không suy nghĩ gì thêm nữa. Me cúi xuống, nhặt con tôm lên rất nhanh trước khi bàn chân của người đàng sau giẫm lên đó.

Khi con tôm đã được kho chung với thịt mỡ rồi, tự nhiên me thấy vui vô cùng. Me tưởng tượng gương mặt của bố, gương mặt thằng Ti, gương mặt con Cốn. Me nghĩ me không ăn con tôm này, me nhường cả cho ba bố con đấy. Lúc me giặt giũ ở nhà sau, me nghĩ chắc bố đang xắn con tôm làm ba, hoặc là bố sẽ không ăn, bố cho thằng Ti với con Cốn ăn. Me nghĩ đến mỗi phần con tôm sẽ nằm trong bụng mỗi bố con, và me tủm tỉm cười một mình.

Nhưng bây giờ, bố và các con đã ăn xong, sao con tôm vẫn còn đây? Mẹ chợt nghĩ đến những bài tập đọc các con hay đọc cho nhau nghe, và me cho đó là câu trả lời. Bất chợt me thấy nghèn nghẹn nơi cổ. Me thương cho cảnh nghèo nhà mình quá! Me thương cho bố con thằng Ti quá! Con tôm hình như nhòe đi trước mắt me, màu gạch đậm biến đâu mất.

Me sẽ không ăn con tôm này đâu. Chiều nay, trong bữa cơm, me sẽ tự tay chia con tôm làm ba phần cho ba bố con. Nhất là con Cốn, nó cần phải ăn nhiều nhất.

Đám cưới thời hợp tác xã.

Sáng sớm ra cafe, gặp mấy em nói chuyện chém gió về cảnh báo mình báo người, biết là dân báo. Em bảo : mẹ, lấy của nó 10 triệu, PR cho nó là đúng mà lão còn cò kè, cứ bảo chưa đăng được. Em khác bảo : mình đi thực tế hai ngày, viết về sự ham học hỏi của nông dân trong hội thảo hướng dẫn về kỹ thuật cây trồng thì lão tổng cứ lên giọng : ' ' tôi đi trước cô hàng mấy chục năm, làm gì có nông dân nào hiếu học ? cô viết lại đi", cay quá mà chẳng làm gì được.
   Tối, cùng  mấy ông lão đi chơi đám cưới một lão 43 tuổi, họa sĩ mới lấy vợ lần đầu. Nhìn chú rể cứ xoa hai tay vào nhau kính thưa kính gửi các ông bạn đồng niên sắp lên ông ngoại mà tội nghiệp. Tám mãi đủ chuyện lại quay về chuyện đám cưới nhà quê ngày xưa, mỗi ông một vùng, đủ các phong tục tập quán mà không có bất kỳ cuốn sách nào chép đủ cả.
    Nào là 15 cây thuốc lá đem sang nhà gái, nhà giai đốt hết 35 cây trong vòng hai ngày cả dạm và cưới. Con lợn thì đã ra xã xin giấy sát sinh, sẽ mổ trước vào  chiều hôm dạm, sau khi bắc rạp xong, tối sẽ có vài ba mâm cho đám dựng rạp, cháo lòng húp soàn soạt sau khi chuốc rượu nút lá chuối đến say túy lúy.
    Mâm bát thì huy động đi mượn cả làng vì thời đấy làm gì có dịch vụ cho thuê như ngày nay, nhà thì mâm gỗ, nhà khá thì có mâm nhôm, nhà nào cũng ghi tên bằng sơn ở đáy mâm cho dễ nhận. Xoong nồi bát đĩa cũng thế, huy động cả làng, thậm chí con dao bầu mổ lợn cũng phải đi nhờ mấy ông ba toa chuyên mổ thuê cho thương nghiệp huyện mới có. Bát đĩa, đũa, muôi thìa đủ loại, cả làng ai có gì cho mượn thứ đấy, hôm xong việc mang trả thì cứ nhầm nhà này sang nhà kia rồi lại đổi cứ loạn cả làng.
   Năm 79 thì đám nhà tay Bưởng giàu nhất làng cưới con trai, sang trọng nhất bởi có cả cái đài cát sét cục gạch kéo băng hát đi hát lại mấy bài của Chế Linh, Thanh Tuyền. Đám trẻ con cứ thức cả đêm xúm vào xem cái cục gạch của tay cho thuê đài nó hát, hai cái ăc qui thay nhau phục vụ đài, chiếu sáng chưa có điện thì đi mượn ủy ban cái đèn măng sông, nhà chủ lo mua bấc. Có đám đúng lúc ông đại diện nhà trai phát biểu thì đèn măng sông hết dầu, khốn khổ khốn nạn !
    Cỗ cưới thì chỉ mấy bát đĩa lộn xộn : món chân giò hầm miến - một cục thịt chân giò gói vào rồi ninh nhừ sau đó cho tí miến và mộc nhĩ vào - một đĩa thịt mỡ ba chỉ, vài miếng lòng lợn, su  hào sắt con chì nấu canh xương, ngoài ra chả có gì. Ấy thế mà vui, các bà đi ăn cỗ còn chia mấy miếng thịt mỡ, mấy miếng lòng ra theo phần rồi gói đem về cho cháu, chỉ ăn qua loa và nói chuyện. Thế mà cũng có ối đám đánh nhau vỡ đầu chỉ vì rượu, đàn ông nhà quê thời đó cứ đi đám cưới là kiểu gì cũng có vài ông say, rượu làm gì có mà uống như bây giờ ? ngày ấy  nấu rượu lậu có mà bị cho đi tù.

Hết chuyện đám cưới nhà quê ngày hợp tác xã thì khuya, kéo nhau về còn hẹn nhau mai đi ăn cỗ nhà giai ở khách sạn 5 sao, chắc phong bì 5 k mới dám bước vào sảnh mất. Khốn khổ khốn nạn cho cái thời buổi ăn cỗ giá cao ! giá cứ như ngày xưa thì thích nhỉ ?

Cái cầu tiêu

Chẳng còn nhớ từ thuở nào cái cầu tiêu độc nhất vô nhị nhà nó được xây. Thời buổi đất chật người đông như nêm cối này, chuyện ba bốn đời hậu duệ nhà nó sinh ra, lớn lên cứ lúc nhúc chui vào chui ra căn từ đường có mỗi cái cầu tiêu. Luôn trở thành tiêu điểm bàn cãi mãi không thôi, bởi vì sao ngần ấy người, mà chuyện cái cầu tiêu độc nhất, độc quyền phục vụ cho cái nhu cầu tứ sướng thổ tả thế kia cho hàng đống người trong gia đình nó cứ mãi duy trì?

Nhà nó trước đây nằm thoi loi một mình trên cánh đồng vắng. Chu vi căn nhà được bao bọc bởi hàng dừa già soi trĩu quả bên bờ con rạch tằng tịu với vài nhánh nhỏ phụ lưu các dòng kênh. Cái thời mà mọi người có nhu cầu giải quyết chuyện đại sự vừa giản đơn vừa thi vị làm sao! Ai đó có chuyện tứ sướng cứ tự nhiên ra bờ sông, mảnh ruộng mùa nắng cháy, đất vỡ khô cằn chờ cơn mưa hạ đầu mùa gieo hạt. Đất cày khô khốc vừa "đi đồng" vừa đàm đạo với lũ giun dế trong lúc cô đơn tự sướng, vừa dỡ đất cày làm tờ giấy , vừa gãi cho đã ngứa cái lũ lải kim khốn kiếp mỗi lần đi đẻ cứ ngo ngoe ngứa ngáy bỏ sừ.

Cái thời tự do ấy rồi cũng chóng qua. Đất nông thôn dần dà cuốn theo làn sóng đô thị hóa, chẳng mấy chốc mảnh vườn, nương ruộng biến thành nhà máy, thành phố thị,... Nhà nó cũng chịu chung số phận. Đất đai dần chuyển nhượng sang bán mấy kỳ. Nay thì chỉ còn lại căn nhà bốn mét bề ngang, dài đâu cỡ 20 mét. Phần vì cả đời là nông dân nên việc học hành cũng chả tới đâu, nghèo đói thành cái nghiệp, đeo bám như đĩa trâu đói máu.

Việc từ nhà quê lên phố thị đối với đại gia đình nó là cả vấn đề lớn. Cái lớn nhất ở đây là việc giải quyết nguồn cơn của cái tứ sướng rồi sẽ ra sao!? May thay cụ cố nội nhà nó vốn có đầu óc học hỏi, Cụ bỏ công vài ngày lang thang phố xá, tìm hiểu xem xem người thành phố văn minh họ giải quyết chuyện ấy thể nào. Trở về cụ quyết định, từ nay sẽ xây cái cầu tiêu ngay trong nhà. Mới đầu cái ý kiến này bị phản đối ghê lắm. Cả nhà mình trước đây làm gì có chuyện đem cứt về gối đầu nằm như ý cụ cố, tức là ị rồi giữ rịt ngay trong nhà! Cả nhà cứ nhặng xị cả lên. Bố vốn tính nhu mì ai sao thì ông vậy. Chẳng phản đối hay đồng tình. Cụ cố bà có vẻ tởm lắm. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại mãi cũng chả tìm đâu ra chổ. Ị ngoài đường thì không ổn, sợ phú lít tó vì cái tội ô uế phố phường. Ị nhà hàng xóm, nghe chửi sao thấu? Thôi thì có cái chổ cho cả nhà tự do diễn đạt, dù có lạ lẫm còn hơn không! Cuối cùng thì mọi người cũng thông vì tính kiên định của cụ cố, tính ba phải của bố nó và cái dốt đám cháu chắt cả đời chẳng ai biết nó mô tê răng rứa cái cầu tiêu máy ra sao!?

Ngày trước nhà ít người, việc cả nhà chỉ có mỗi cái cầu tiêu cũng không thành vấn đề lớn. Thế rồi nhà sinh đẻ thêm, chú tư, cô năm,... lập gia đình, vì nghèo cứ chui rúc chung căn nhà. Nên nhiều khi phát sinh bao vấn đề rắc rối! Tệ hại nhứt là những khi vài ba người chung nhà có đồng hồ sinh học giống nhau. Rắc rối phát sinh từ đấy. Cả nhà kiến nghị cụ cố nội cho xây thêm một hai cái nữa dự phòng, làm cho cái nhu cầu bất khả di ấy có nơi có chốn nhưng cụ nhất quyết không nghe. Bởi cái nghĩ cố hữu, cụ kị cứ ám mãi trong đầu. Cái cụ thấy, cụ làm luôn là cái đúng nhất. 

Để giải tỏa căng thẳng, cụ ra nhà Dậu hàng xóm ôm về nguyên rổ chó. Công việc cũng đở bức xúc phần nào. Nhưng vấn đề khó là ở chổ lũ chó hay có tật liếm mặt. Ngặt nỗi nhiều khi vừa xơi xong đống phân của thằng Tửng. Gặp con Tủn đi học về, lũ chó cứ nhào lên con Tủn liếm lấy liếm để cái mặt nó. Mặt con tủn dính tí phân từ cái mồm của con Ki, con Tủn là oai oái, khóc bù lu bù loa như thể mất sổ gạo thuở nào. 

Chuyện cái cầu tiêu ngày càng tệ. Sáng nay nó lại dở chứng kẹt không cách chi làm cho trôi cái đống phân của thằng Dũng tồ vừa ị. Cả nhà nháo nhào lên. Càng đi càng làm đầy lên. Ba nó mới vào thưa với cụ cố xem coi có cách nào xây thêm hoặc thuê người tới hút. Cụ cố phần vì già, ăn uống ít, tứ sướng của cụ nhiều khi năm bảy ngày mới có một lượt lại chả đáng là bao! Có khi cụ "nhịn" cả tuần nửa tháng chả ăn thua gì! Thành ra đối vối cụ, cái cầu tiêu độc phục vụ chẳng là vấn đề gì với cụ. Hơn nữa trong nhà này rồi cũng có lúc chẳng ai mà thức cả, thời điểm này là giờ vàng của cụ!

Nghe bố trình bày sự cố, cụ mới xì hơi một tiếng rồi nói.

- Hút hầm cầu là chuyện đại sự. Thuê người tới không khác chi tố cáo nhà mình ăn lắm ỉa nhiều. Thôi thì việc ấy cứ từ từ mà giải. Còn nếu vì cái sự nghẹt ấy mà khiến cho chúng bây bí, sao không ra phố mua cho mỗi người một cái bô? Dốt thì cũng phải xem người khác tư duy ra sao mà học hỏi. Cứ ỡm ờ mãi biết bao giờ khá! 

- Chuyện chi nhà này tao nói một phát là đâu ra đó. Có mỗi cái chuyện ấy mà cũng phải vời đến ý kiến tao, rõ tệ!

Nghe cụ nói thế bố cáo lui ra khỏi phòng. Bố về hậm hực, chỉ thị mua bô chia đều cho cả nhà, mỗi người một cái, tha hồ mà tự do về giờ giấc, nơi chốn.

Từ dạo ấy nhà nó chổ nào cũng là chổ ỉa. Ba nó lớn nên ưu tiên gần bàn thờ tổ, nhà bếp là của má, phòng ngủ là con tủn. Nói chung chỗ nào có thể đặt bô ngồi chỗ ấy khắc trở thành cầu tiêu. Còn mỗi cái cầu tiêu máy của cụ cố thuở nào vì nghẹt nên trở thành nơi kiêng kị của cả nhà, riết rồi thành thiêng chẳng ai dám mở miệng nhắc? Trừ mỗi lần sinh nhật cụ cố, bao giờ bố cũng nhắc đến công lao trời biển xây cầu tiêu máy của cụ. 

Từ đấy về sao cả nhà nó xem chuyện ỉa bô và chỗ ỉa thế cũng hay. Thôi không còn ai nhắc chuyện cái cầu tiêu độc quyền của cụ nữa. Duy chỉ có điều, việc tự do giải quyết nhu cầu tứ sướng này mà nhà nó thối không còn ai muốn vào. Nhìn chỗ nào cũng thấy cả nhà nó ỉa bừa ra khắp! Chán

Năm Mậu Tý nhớ… miếng thịt chuột trong trại tù “cải tạo”!

Tác giả/Nhân vật: Nguyễn Thanh Ty |07-02-2011| 310 lần xem | |

Những ai chưa từng ăn thịt chuột, ắt hẳn phải rùng mình ghê tởm và lợm giọng, khi nghĩ đến hình ảnh những con chuột cống to bằng cổ chân, mình mẩy lở loét, ban đêm từng đàn chui từ những ống cống thành phố, lên mặt đường để kiếm ăn, nếu có ai đó nói đến chuyện ăn thịt chuột.

Ngày xưa, đọc “Món lạ miền Nam” của ông nhà văn Vũ Bằng, nói về cái món thịt chuột, dù ông tả có hay cách mấy, hấp dẫn cách mấy tôi vẫn thấy ghê ghê.

Bởi tôi sinh ra và lớn lên ở một thành phố biển, người dân ở đây ăn cá tươi quanh năm, nên không có ai biết hoặc dám ăn cái món thịt chuột và không bao giờ thấy chuột được bày bán từng chùm, từng xâu, từng lồng chuột còn sống, hay từng rổ chuột đã làm sẵn, như ở những tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

Hình ảnh những con chuột cống lông đen trùi trũi, hay lở loét loang lổ trên lưng chạy từng đàn trong đêm tối, vẫn cứ làm tôi buồn nôn, ngay cả những ngày đói nhất, đói lã người ở trong tù.

Nhiều anh em trong tù đã “cải thiện” bữa ăn cứu đói hàng ngày cũng nhờ bắt đươc chuột trong núi.

Mỗi buổi chiều, anh em ở đội “Sơn tràng” về trại, mang theo mấy con chuột bắt được, đã làm sạch sẽ, gói trong mảnh lá chuối, tôi cứ rùng mình, lợm giọng, chảy nước giãi, lạt cả miệng, với cái màu trắng hếu của chúng.

Tuy sau đó, cái mùi thịt nướng, mùi kho mặn, mùi chiên… của thịt chuột bốc lên thơm ngạt ngào trong gió, làm cho cái dạ dày lép kẹp của tôi nôn nao, cồn cào thôi thúc đòi ăn. Tôi vẫn cứ phải nhịn thèm, quay đi chỗ khác.

Năm Kỷ Mùi, 1979, là năm đói nhất dưới ánh sáng vinh quang chiến thắng của đảng Cộng sản, sau khi cưỡng chiếm được miền Nam.

Đói cả nước.

Năm đó được mệnh danh là năm Củ Mì, nói lái chữ Kỷ Mùi. Một năm chỉ ăn toàn khoai mì và bột làm bằng củ mì. Bột được nắn thành cái bánh xe, mỏng te, to bằng bàn tay, luộc lên, phát cho tù mỗi buổi sáng, mỗi tù nhân hai cái để ăn cầm hơi và… để lao động vinh quang.

Tù gọi đó là “bánh xe lịch sử” thành quả của cách mạng XHCN.

Năm đó, bao nhiêu lúa gạo, khoai, sắn, ngũ cốc… trong cả nước, nhà cầm quyền Cộng sản đều thu vén, vơ vét sạch, chuyển tất cả sang Trung Quốc và Liên Xô để trả nợ chi phí chiến tranh khi vay nóng để “đánh Mỹ”.

Người dân bên ngoài phải ăn cả rễ cây, sâu bọ để sống qua ngày.

Người tù trong trại đành chịu cái đói thảm khốc hành hạ thân xác. Năm đó, tù đói giơ xương, đi đứng vật vờ, người không ra người, ma không ra ma. Cả cái lũ công an, bộ đội đi theo canh giữ tù cũng chỉ được cấp phát một lon gạo ăn cứu đói suốt một ngày.

Những năm đầu ở trại Đá Bàn, tuy vất vả lao khổ với công việc đẵn cây, khiêng gỗ trên rừng, chúng tôi vẫn có thể kiếm thêm cái ăn cho những khẩu phần ít ỏi hàng ngày.

Thường thường là nắm rau ven đường khi đi khiêng cây. Đôi khi mớ nấm mèo (mộc nhĩ) trên thân gỗ mục sau những ngày mưa dông. Hoặc đào khoai mài (hoài sơn) trên đồi núi đá sỏi. Thỉnh thoảng cũng đánh bẫy được chồn, sóc, rắn… Có khi câu được cá lóc, cá trê dọc bờ mương…

Năm 1978, xây dựng xong trại Đá Bàn ở Khánh Hòa (trại Huấn Luyện Công An sau này) chúng tôi bị bọn Giám thị trại lừa bịp, bảo là thả cho về, chúng lại chở ra trại A.30 ở Tuy Hòa, Phú Yên để “cải tạo” tiếp.

Trại A.30 chuyên về làm ruộng lúa và trồng hoa màu phụ.

Trừ đội “Sơn tràng” là đội chuyện đi rừng để đốn củi cho nhà bếp và chặt tre cho tổ “Đan lát” đan thúng, nia, rỗ rá cho công việc sàng sảy lúa gạo ra, số còn lại, mấy ngàn tù đều phải xuống ruộng để cày cấy trồng lúa.

Ruộng đa phần là ruộng khô phải dùng cuốc để cuốc ruộng thay cho trâu, bò cày. Lúa trồng ba vụ một năm, nên tù cuốc đất te tua, ba trăm sáu mươi lăm ngày đều đặn, không ngơi tay. Họa hoằn, ngày 2/9 và ngày Tết mới buông cuốc được một ngày.

Từ ngày chúng tôi bị đưa ra đây, sáng vác cuốc đi, chiều vác về, lao động giữa chốn đồng không mông quạnh, đành chịu đói, không còn cách gì để “cải thiện” thêm bữa ăn như lúc ở Đá Bàn.

Anh em nào cũng đói xanh xương. Mới đầu còn có chuối trồng ven đường mới trổ buồng non, tù lén bẻ trộm, người vài quả. Nhưng chuối thì chỉ có vài ba mươi cây, mà tù thì quá đông, chỉ mới vài ngày, đã bị vặt trụi, cây nào cũng chỉ còn cái cùi buồng trơ ra như cánh tay cùi. Trông buồn cười.

Lão trưởng trại tập họp tù lại, chữi té tát, vô ý thức, không biết tôn trọng, giữ gìn tài sản Xã hội Chủ nghĩa. Tù ngồi bên dưới xì xào chửi lại: Tài sản Xã Hội Chủ Nghĩa cái con bòi!

Hết chuối trái non, tù ăn qua cây chuối con. Chuối con, cây nào vừa lú lên khỏi mặt đất chừng gang tay, lập tức bị câu liêm tù cắt phăng sát gốc. Cây chuối con được xắc nhỏ trộn với khoai mì, nhét vào lon gô, nấu sền sệt giống như cháo heo, ăn chát ngắt trong miệng không ngon lành gì, nhưng cũng đỡ đói. Rồi chuối con cũng hết.

Lần mò vô trại nuôi heo, lùng sục trong đống vỏ khoai mì xem có còn sót củ nào không, hay cái cùi nào còn có tí bột gom về cạo ra nấu ăn đỡ. Riết rồi mì cũng không đủ nuôi heo lấy gì còn cho tù.

Buổi trưa hè trời nắng chang chang, tù ra giữa bãi mì vừa thu hoạch mấy hôm trước, đào dế nhũi, nướng ăn. Đất khô cứng, dế nhũi đào hang sâu để ở, đào được chừng vài con, tù thở muốn hụt hơi. Ăn được con dế nhũi, tù phải đổ nhiều mồ hôi để trả giá.

Nhìn anh em đội “Sơn tràng” nấu nướng thịt chuột ở dãy bếp lộ thiên, bấy giờ ai nấy đều thèm thuồng, ao ước. Cái cảm giác gớm ghiếc trước kia đã biến đi đâu mất tiêu.

Quả thực cái đói đã khiến cho người ta mờ cả mắt, mờ cả lý trí, mất hết cảm giác và cảm nghĩ.

Ăn! Phải có cái gì ăn mới được. Phải có cái gì bỏ vào miệng, nhai, nuốt mới được. Trong đầu, ngoài cái ý nghĩ về ăn ra, người ta không thể nghĩ được gì khác, khi đói.

Khốn nạn, khốn khổ thay! Đã có không ít người cam lòng không nổi với cái đói mà làm những chuyện mất cả danh dự và tự cách để thỏa mãn cho cái bao tử, cho cái đói.

Cộng sản đã tận dụng cái ác này như một “độc chiêu” để sai khiến một số tù làm tay sai chỉ điểm cho chúng.

Tôi buộc phải làm quen với thịt chuột để sống còn.

Tôi có người anh rể, bà con cô cậu, ở đội Sơn tràng, chuyên đánh bẫy chuột núi. Vài hôm, tôi lại thấy anh xách về một hay hai con chuột núi mập núc ních, to bằng bắp cẳng, lông mướt màu vàng thổ. Đặc biệt, chuột núi có đuôi rất dài. Dài gấp ba lần chuột đồng.

Tôi men lại gần, xin anh chia cho một ít. Anh từ chối thẳng thừng, không một chút ngần ngại. Xin đổi thuốc lào, anh vẫn lắc đầu.

- Thịt chuột rất hiếm. Tôi phải ăn để sống. Không thể chia cho cậu được.

Quả thật thịt chuột thời gian này rất quí hiếm. Lúa vừa mới mang bụng chửa, chuột đồng chưa kéo về làm hang ổ ở bờ ruộng. Cóc nhái mùa hè không có nhiều. Ló ra con nào là có vô số bàn tay giành nhau chộp lấy.

Trong phạm vi vòng rào mấy chục mẫu đất tù ở, không môt sinh vật nào có thể sống sót được. Rắn, rít, thằn lằn, rắn mối, cóc nhái, dế nhũi, cào cào, châu chấu… đều bị bao tử của tù nuốt hết.

Trong lúc tôi không biết làm cách nào có thể kiếm cái ăn để sống còn thì thình lình bị kỷ luật. Tôi bị qui cho cái tội “phỉ báng chế độ” vì hai câu thơ:

Tội gì không biết tội gì,
Sáng mai lãnh củ khoai mì ăn chơi!

Sau mấy ngày được Trại trưởng “giáo dục” ở Phòng Giáo dục, tôi bị điều ra Bàu Sen dưới quyền quản giáo của công an tên Dạn, ác nhất trại.

Ở A.30, bất cứ tù nhân nào nghe đến tên Lẫn, quản giáo Nhà 6 và tên Dạn, quản giáo Bàu Sen, đều phải xanh máu mặt. Hai tên này là những hung thần của A.30, đánh tù bằng những đòn ác hiểm, thâm độc nhất.

Trong cái rủi lại có cái may. Nhờ ở Bàu Sen, ngoài những đòn thù của tên Dạn đổ xuống đầu tôi thường xuyên về cân não và thân xác, tôi lại có thể “cải thiện” cái ăn ở Bàu Sen bằng những con ốc bưu bắt được ở đó.

Hồi mới khai phá bàu thì ốc có nhiều, đến lúc tôi ra ở đó thì cũng đã ít dần rồi hết hẵn, sau mấy tháng tù dọn bàu thành ruộng nổi để trồng lúa.

Đội Bàu Sen chuyên về “bình ruộng” và cấy lúa trên mặt bàu, nên được ở ngoài vòng trại, cách trại chính chừng nửa cây số, để tù dễ dàng sớm khuya lo việc cầy cấy, dẫn nước từ đập Đồng Cam chảy về mương và từ mương chảy về hàng trăm mẫu ruộng khô trên cao của trại.

Cũng nhờ ở ngoài vòng trại nên có một số anh em tù của đội được tên Dạn tin cẩn cho làm “tự giác” có thể “cải thiện”. Làm “tự giác” là được quyền vác cuốc đi thăm ruộng bất cứ giờ giấc nào mà không có bộ đội hay công an theo bên cạnh canh chừng. Nhờ vậy, anh em có thể hái rau, cắm câu, đặt bẫy chuột… và chặt trộm chuối, mía để cứu đói.

Tôi được xếp vào tổ 1, tổ trưởng là Nguyễn văn Cư, một trung sĩ cảnh sát đặc biệt ở đặc khu Cam Ranh, sáu lần vượt biên đều bị thất bại. Lần cuối cùng anh bị bắt ở trong hang núi lúc đang lẩn trốn. Lục soát trong người anh, công an thu được một khẩu ru lô với đầy đủ 6 viên đạn trong ổ.

Anh bị Cộng sản kết tội phản động và lãnh án 20 năm tù khổ sai.

Biết tôi là thầy giáo, Cư nhờ tôi dạy anh một số câu Anh văn. Cư thầm thì tâm sự: – Nhờ anh giúp em! Em sẽ có cơ hội dùng nó sau này.

Tôi biết ý định của Cư nhưng không hỏi, cứ lén dạy mỗi đêm.

Bù lại, tôi được Cư giúp đỡ, gánh vác trong công việc “bình ruộng” nặng nhọc hàng ngày và chia sớt “chiến lợi phẩm” thu được của “địch” mỗi khi kiếm được.

Tôi biết ăn thịt chuột lần đầu tại Bàu Sen.

Lúc đầu thì Cư làm sẵn khi bắt được, rồi mang về cho tôi những con chuột đồng trắng hếu để tôi chế biến thành món ăn. Cầm con chuột để chặt làm tư, ướp muối ớt, chỉ có muối và ớt là gia vị độc nhất chúng tôi có, tay tôi vẫn nổi gai.

Sau mấy lần, tôi bạo dạn dần, tự tay mình có thể lột da, chặt đầu chuột. Chừng hai tuần lễ tôi đã trở thành chuyên viên làm thịt chuột.

Khi bắt được chuột, Cư dùng móng tay cái bẻ răng chuột trước khi bóp cho chết rồi mới giao cho tôi vì biết tôi vẫn còn sợ khi nó vùng vẫy.

Làm chuột không cho vấy nước. Nói chung thịt rừng vấy nước sẽ bị tanh. Tôi lột da chuột trên những tàu lá chuối tươi và lau máu chuột bằng lá chuối khô. Tôi không thích thui chuột trong lửa rơm. Mùi khét lẹt của lông chuột cháy làm tôi muôn nôn mửa. Vả lại ăn da chuột tôi vẫn còn cảm giác ghê ghê ở miệng và nhờn nhợn ở trong cổ họng.

Cư đi kiếm thêm mấy cái lon thiếc đựng dầu ăn thăm nuôi, tù vất ra, về làm bẫy chuột. Chưa tới kỳ gặt lúa, chuột cũng chưa nhiều. Đánh bẫy bữa có, bữa không.

Mùa gặt xong, đào hang chuột tha hồ, ngày nào cũng có thịt chuột.

Nướng, chiên, xào với bắp chuối, kho mặn để dành… toàn là những món “sơn hào” của tù, ngon hơn cả “yến” nhà vua.

Thịt chuột béo ngậy, mềm, ngọt. Xương cũng mềm.

Tôi đã cảm thấy ngon miệng khi nhai thịt chuột trong miệng. Nhưng tôi không tài nào ăn được những con chuột con còn đỏ hỏn. Những anh em khác, khi đào được ổ chuột con, mừng hí hửng, bảo đó là nhân sâm.

Họ nạo khoai mì sống thành bột, nấu cháo. Khi cháo đang sôi, họ thả những con chuột đỏ hỏn đó vào nồi, rồi múc chia nhau ăn, mỗi người một chén. Giữa chén cháo trắng bột mì có con chuột nhân sâm đỏ hỏn năm khoanh tròn. Vừa xì xụp húp cháo chuột vừa hể hả khen nhau.

Thật là giây phút hạnh phúc đầm ấm trong tù.

Chuột là cứu tinh của chúng tôi, những người tù không thăm nuôi.

Những năm kéo dài sau này, cái đói trong tù cũng bớt dần nhờ có sản phẩm tù làm ra. Lúa gạo, nông phẩm làm ra mười, tù chỉ được hưởng có một. Còn lại bao nhiêu được chở đi mất. Không biết chở đi đâu.

Tù không được biết, và không được hỏi.

Ban Giám thị luôn dạy rằng: Làm tùy sức, ăn tiêu tùy cầu. Đó là mục tiêu cao cả của Chủ nghĩa Xã hội.

Đã hơn ba mươi hai năm xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Nam và 60 năm ở miền Bắc, chắc hẵn Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã thực thi được lý tưởng cao cả của Mác Lê. (Liên Xô 70 năm vẫn không làm được)

Tám mươi ba triệu con dân Việt Nam, nay, ai cũng có cơm ăn, được học hành và còn có cả… xe hơi trị giá cả trăm triệu đô để đi dạo.

Đất nước Việt Nam quả thật là một Thiên đường Cộng Sản lý tưởng để cho cả thế giới dòm vào mà thèm muốn… tới chết!

Tôi làm thân lưu lạc xứ người hơn 17 năm, mỗi lần đọc báo mạng Việt Nam, thấy toàn là những tin tức “hồ hởi phấn khởi” như độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc, kinh tế phát triễn vượt bực, chắp cánh bay lên trời cao, sãi tay bơi ra biển lớn… lòng cứ rộn lên như được “mặt trời chân lý chói qua tim”!

Nhưng đó chỉ là ảo ảnh của người đi trong sa mạc, người Cộng Sản vẫn cứ cố tin rằng đó là ốc đảo thật.

Tất cả chỉ là bánh vẽ. Chỉ là lường gạt và dối trá.

Và sẽ tiếp tục dối trá cho đến khi chế độ sụp đỗ như Liên Xô.

Năm nay là năm Mậu Tý.

Giở tờ lịch mới cho con chuột đón xuân, tôi bất giác nhớ lại những miếng thịt chuột, những con chuột đồng, chuột núi đã là ân nhân của chúng tôi một thời, những người tù thời cuộc bất khả kháng dưới bàn tay bạo tàn, sắt máu của Cộng Sản, Cộng Sản Việt Nam, chúng ác độc hơn bất cứ một thứ Cộng Sản nào trong chế độ quái vật Cộng Sản sắp tiệt chủng, còn sót lại.

Tôi ra tù năm 1981, đến nay đã hơn hai mươi sáu năm, mỗi khi chợt nhớ về những ngày tháng ở trong “trại cải tạo”, tôi vẫn còn rùng mình ghê sợ cho cái tàn bạo của con thú đội lốt người có tên là Cộng Sản.

Và cũng không quên hương vị béo ngậy, ngọt mềm của những miếng thịt chuột, ngon hơn cả trái nhân sâm ở trên thượng giới mà Trư Bát Giới cứ thòm thèm ao ước.

Cám ơn những chú chuột núi.

Cám ơn những chú chuột đồng ân nhân.

MIẾNG THỊT GÀ

Năm1966, khi còn nằm phơi rốn trong nhà tù cộng sản vì tội “phản động”, thi sĩ Nguyễn chí Thiện đã viết về cái đói của những tù nhân trong lao tù cộng sản như sau:

“Xuất cơm tôi một hôm đánh đổ,

Tôi còn đương đau khổ nhìn theo,

Thì nhanh như một đàn heo,

Bốn năm đầu bạc giẫm trèo lên nhau,

Bốc ăn một lúc sạch làu,

Miếng cơm, miếng đất, lầu bầu chửi nhau”.

Năm 1974, khi ra tù, nhà thơ Nguyễn chí Thiện lại diễn tả cảnh đói của người dân miền Bắc ở nhà tù lớn “thiên đường xã hội chủ nghĩa”:

“Miếng thịt lợn chao ôi là vĩ đại,

Miếng thịt bò lại vĩ đại bằng hai,

Chanh, chuối, cam, đường, lạc, đỗ, gạo, khoai,

Tất cả những gì người có thể nhai,

Đảng mó tới tự nhiên thành vĩ đại,

Chuyện có thực mà tưởng như thần thoại,

Mà tưởng như giấc mộng bi ai”.

Nhiềumùa lá rụng đã trôi qua từ những năm tháng nghèo đói đó. Bao nhiêu triệu người Việt Nam đã bị đẩy ra chiến trường cho tham vọng của các lãnh tụ cộng sản và đã chết banh thây dọc đường mòn Hồ chí Minh, ở Hạ Lào, ở Khe Sanh ….cho lời hứa hẹn “thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng mười lần đẹp hơn”. Ngày nay, chiến tranh đã qua đi lâu lắm rồi, “Mỹ cũng đã cút, ngụy cũng đã nhào”. Đất nước đã bước vào “thời kỳ đổi mới” thì chắc sẽ chẳng còn cảnh người dân miền bắc quấn rau muống quanh lưng năm này qua năm khác. Nhìn một cái lăng hoành tráng của lãnh tụ “vĩ đại”, nhìn cảnh thụ hưởng còn hơn cả vua chúa thời xưa của bọn Ủy Viên Bộ Chính Trị. Nhìn ngôi nhà thờ họ nguy nga của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hay nhìn ngôi biệt thự của Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu, những kẻ ngây thơ (như tôi) đã từng mừng vì “đầy tớ dân” mà được như thế, thì đời sống người dân Việt chắc phải “mười lần tốt hơn”.

Than ôi, thấy “dzậy” mà không phải “dzậy” mà hình như nó vẫn tệ như “dzậy”. Hôm nay đọc bài báo “Đổ xô cướp gà tiêu hủy” trên “An Ninh Thủ Đô” mà tôi cứ ngỡ đây là chuyện xảy ra ở…..xứ Sudan mãi tận bên Phi Châu nghèo khổ.

THỊT RỘNG MẮM CỦA MẸ

Thịt rộng mắm là món đặc trưng ngày tết của Phú Yên quê tôi. Trải một miếng bánh tráng lên lòng bàn tay, gắp rau dưa, xếp mấy miếng thịt rộng mắm lên trên, cuốn lại, không cần chấm mắm. Cắn một miếng, dường như tất cả tinh hoa đất trời tụ họp lại ở đây, còn ta là tiên nơi hạ giới.  Ai ăn một lần là nhớ mãi.

Ngày còn bé, đương nhiên đứa trẻ nào cũng mong đến Tết, để được ăn ngon, được mặc đẹp, được lì xì, được đi chơi,… Tôi cũng háo hức lắm,  nhưng điều duy nhất làm tôi mong tới Tết chính là hũ thịt rộng mắm của mẹ. Đó là món đặc trưng ngày tết của Phú Yên quê tôi.

Ngày xưa, nhà còn nghèo, lâu lâu mới được ăn thịt. Mỗi lần như vậy, tôi không ăn cơm với thịt mà ăn cơm qua quýt với các thứ rau, mắm còn thịt thì để dành ăn sau cùng. Ăn thịt không như vậy,  theo con bé con ngày đó thì mới cảm nhận được hết  hương vị của thịt. Vì vậy nên Tết là dịp mà tôi có thể ăn thịt thỏa thích, mà còn là món yêu thích của mình nữa.

Thịt rộng mắm mẹ tôi làm khoảng hai tuần trước Tết. Thịt heo được mẹ chọn lựa rất kĩ. Thịt ba chỉ (ba rọi), thịt đầu được rửa và cạo lông sạch sẽ. Sau đó đem luộc cho thịt chín, vớt ra ngâm nước lạnh cho thịt trắng và để ráo. Rồi đến công đoạn làm nước mắm. Đây là công đoạn quyết định món thịt có ngon hay không.  Mắm loại ngon được nấu với đường cát trắng với tỉ lệ 1: 1. Nấu nhỏ lửa cho đường tan hết, sau đó bắc nồi ra để nguội. Xếp thịt vào thẩu thủy tinh trắng, đổ nước mắm đường vào sao cho ngập thịt, dùng tre ép thịt xuống để thịt không bị nổi lên trên.  Để khoảng 5-7 ngày là ăn được, nhưng theo kinh nghiệm mẹ tôi thì để khoảng hai tuần là thịt đến độ ngấm vừa phải, đó là lúc thịt ngon nhất.

Thịt rộng mắm vớt ra có thể ăn ngay, nhưng muốn ngon thì phải chiên thịt với tí mỡ cho phần da heo hơi cháy xém một chút. Khi đó, thịt được xắt lát mỏng, miếng thịt nhìn ngon vô cùng,  phần nạc thì hồng hào, săn chắc, phần mỡ thì trong vắt như thủy tinh, mềm mà không ngán, ăn tốn cơm vô cùng.. Ôi thôi, đến thần thánh cũng phải nhảy vào mâm cơm. Mà ngon nhất là cuốn thịt với bánh tráng bột gạo, bánh tráng đặc trưng của Phú Yên, khi ăn phải nhúng qua nước, chứ không phải là bánh tráng  Tây Ninh đâu.  Trải một miếng bánh tráng lên lòng bàn tay, gắp rau dưa, xếp mấy miếng thịt rộng mắm lên trên, cuốn lại, không cần chấm mắm. Cắn một miếng, dường như tất cả tinh hoa đất trời tụ họp lại ở đây, còn ta là tiên nơi hạ giới.  Ai ăn một lần là nhớ mãi.

Sau này, nhà trở nên khá giả, thịt cá được ăn thường xuyên, mẹ tôi cũng hay làm thịt rộng mắm, nhưng cái háo hức mỗi lần được gắp miếng thịt rộng mắm cuốn bánh tráng  trong tôi vẫn không thay đổi. Giờ đã xa nhà, vô Sài Gòn trọ học,  thỉnh thoảng nỗi nhớ cồn lên da diết, muốn về nhà ngay, để được ăn miếng thịt của mẹ, để được sống trong vòng tay của ba mẹ, và để được vùi đầu vào lòng mẹ mà khóc cho những khó khăn, vấp ngã của thành phố xô bồ và khắc nghiệt. Và để tìm về bình yên trong lòng mẹ.

Con Cá “lật Xuồng”

Cốc, cốc cốc... Cửa mở. Cháu tôi đứng ngay cửa, cầm bằng hai tay hai cái hộp mốp chồng lên nhau đưa trước mặt như dưng mâm đám cưới, miệng cười toe nhe hàm răng sún:

- Tối qua "mình" đi ăn tối ở nhà hàng nè, bà nội.

Tôi cũng mở miệng cười y như mỗi lần trước mặt mấy đứa cháu cưng, tỏ lòng vui mừng vì được cháu bước qua đàng sau nhà thăm.

Đưa hai cái hộp, hộp nhỏ để trên hộp lớn xong, "hàm răng sún" chạy vù về nhà.

Cầm hai cái hộp trở vô, dư biết đó là gì ở trỏng rồi.

Cười. Cái cười của bà nội có nhiều nghĩa.

Thứ nhứt, cười vì cảm động vui thương "hàm răng sún" có hiếu.

Thứ nhì, cười cái phong tục tập quán của người dân địa phương mà mình sống ở đây trên ba chục năm rồi nhưng vẫn hổng làm sao mà quen được.

Và rồi cười buồn.

Nhớ chuyện xưa.

Rồi tới chuyện nay.

Mở hộp ra coi. Hộp này là một món đồ xào rau cải.

Hộp kia, ưmmm...  thơm mùi gừng mùi hành mùi tương... aaa...  ngon quá! một "con cá lật xuồng" (nghĩa là, thấy nguyên con cá, nhưng nếu lật qua bên kia thì đã ăn rồi, tụi nó lật qua bên nầy, chưng lên, dòm thấy nguyên hiện chớ là chỉ có nửa con thôi).

Ngày xửa ngày xưa hồi còn nhỏ ngồi trên mâm cơm má tôi hay dặn ăn cá ăn hết thịt bên nây thì gở nguyên cái xương sống cá lên rồi gắp bên kia chớ đừng có lật con cá, người xưa nói nhứt là lúc đi trên xuồng trên ghe, người ta kỵ sợ xui lật xuồng. Tôi hổng tin mấy nhưng cũng còn nhớ. Bây giờ, mình quên dạy lại cho con.

Và con đâu biết mà dạy lại cho cháu.

Trách sao được?

Thành ra khi con cháu đem cho mình như vầy mình phải vui cười và nói cám ơn.

Nói thiệt, lần đầu tiên, được con cháu đưa cho hộp như vậy, tôi đã vui trong bụng, chà mấy đứa con đứa cháu có hiếu quá, đi ăn nhà hàng mà cũng nhớ tới cha tới mẹ, mua đồ ăn đem về. Khi mở hộp ra coi thì hởi ơi, đó là những miếng đồ ăn dư của tụi nó. Những tưởng vụ nầy chỉ xảy ra giữa những người đồng nghiệp ăn trưa chung mới làm như vậy mà thôi, ăn xong còn dư mới hỏi có ai muốn ăn miếng dư nầy không trước khi đổ bỏ?... đâu dè, xảy ra trong gia đình vì mình dạy con chưa kỹ.

*

Nhớ chuyện xưa.

Nhớ hồi năm 1971, mới qua Mỹ chưa đầy năm, một hôm vợ chồng tôi được mời đi ăn tiệc ở nhà hàng.

Đó là bữa tiệc thưởng phạt. Khi ấy chúng tôi sống ở tiểu bang Arizona, thị trấn Tucson. Chổ đó nóng vừa gì, nước thì không được trong lành cho lắm. Chồng tôi làm nghề chào hàng từ nhà từ nhà cho hãng bán máy lọc nước tư nhân, nghĩa là thay vì những cái máy lọc nước uống nhỏ nhỏ đặt ngay kế bên vòi nước trong bếp của thời đại bây giờ thì đây là những cái máy lớn, lọc nước xài cho cả nhà, bự như cái máy nấu nước nóng vậy đó. Loại máy nầy đặt trong nhà hay ở ngoài, chỗ nào cũng được. Chỗ nào có ống nước, chuyền thẳng vô vòi nước trong nhà, mình có thể vừa xài vừa nấu nướng vừa uống luôn. Giá của một cái máy khoảng trên một ngàn đô la, bao luôn loại muối khoáng và vật liệu gì đó để lọc nước. Họ kêu là Water Softener. Lúc đó đồng tiền còn cao, lương tối thiểu chỉ trên một đô la một giờ thôi. Chồng tôi làm nghề chào hàng (saleman) không có lương nhứt định, bán cái nào được ăn hoa hồng cái đó. Mỗi cái máy bán được, hoa hồng một trăm đô la. Thời đó, mình mướn cái nhà xe một phòng chỉ trả hơn chín chục đô một tháng nên một trăm đồng lớn lắm. Một tháng mà bán được cở ba bốn cái máy thì kể như là ngon lắm rồi. Khi đi làm y phải diện đồ lớn, tay cầm cái "cặp táp" Samsonite coi chiến kể gì!

Trong hãng ông chủ chia saleman ra làm hai nhóm, A và B. Hãng tổ chức mỗi tháng sẽ được ăn tiệc một lần. Nhóm nào thắng thì được ăn thịt bò, nhóm thua chỉ được ăn đậu mà thôi.

Nhà hàng này nằm ngoài ven đô thành phố Tucson, rộng như một trang trại, là một nhà hàng nổi tiếng về món thịt bò.

Chiều hôm đó, khi gặp nhau trong gian phòng tiếp tân, người người đồ lớn áo đầm chưng diện như đi dạ hội. Trái lại, người chủ hãng thì cổi áo lớn ra, chỉ còn cái sơ mi trắng nhưng nhìn rất giàu, rất trẻ, chừng trên ba mươi là nhiều, có cô vợ đẹp như minh tinh, người Mễ Tây Cơ. Cô bận cái áo đầm trắng hở vai hở cổ làm nổi bật mái tóc quăn lọn dài đen tuyền, mắt to sáng long lanh miệng cười hớn hở bắt tay từ người từ người. Tới trước mặt tôi, nhìn cái áo dài tôi đang bận, cô trầm trồ khen ngợi. Cô đâu biết rằng vì không có cái áo nào khác hết, tôi phải bận cái áo này, là cái áo dài phụ trong ngày cưới của tôi. Cái áo dài bằng xoa Pháp màu vàng hoàng hậu, nguyên phía trước đính hột hình con chim Công đang khoe lông khoe cánh sặc sỡ mà tôi còn giữ tới bây giờ. 

Người đàn bà Mễ khi còn trẻ chưa con cái chưa phì chưa xệ thì đẹp sắc sảo kể gì. Hai vợ chồng xứng lứa vừa đôi hết sức. Tôi cứ nhìn mê mẩn. Năm đó vợ chồng tôi mới hăm bốn. Người ta sao giỏi quá! Mới chừng đó tuổi đã là chủ một công ty bạc triệu.

Lúc đó chưa ai biết nhóm nào thắng bại. Chưa biết mình sẽ bị ăn dĩa đậu ngó miệng đội kia xơi miếng thịt bò ngon nhứt thành phố. Mọi người chào hỏi nhau, tay cầm ly nước giải khát hay ruợu gì gì đó, chào hỏi làm quen với nhau. Cầm ly nước cam, tôi ngỡ ngàng nhận rõ sự cô đơn, đứng một mình nhìn ra ngoài.

Vùng chân trời ửng đỏ ma quái, đậm lợt chiếu lên viền núi bao xung quanh, xương rồng nhiều loại thôi hằng hà sa số, lổn chổn nhô lên bên sườn đồi trọc sỏi đá, trổ bông đầy cây, đủ màu, trắng đỏ vàng tím xanh nhìn mút mắt...

Ở thị trấn nầy, cái vui của tôi là nhìn bông của những loại xương rồng, loại cây chưa từng thấy ở bên nhà.

Nhớ nhà hết sức. Nhớ muốn khóc. Nếu Má với mấy đứa em có mặt ở đây thì vui kể gì. Nhớ nhứt là nhỏ em "thi sĩ lơ tơ mơ" của tôi, nhìn cảnh nầy chắc chắn nó sẽ tuôn ra bài thơ tả cảnh "hoàng hôn trong mắt em" liền à.

Khi ông chủ tuyên bố mở tờ kết quả ra đọc lên thì chồng tôi lọt vô đội thắng, nghĩa là có số bán máy cao hơn. Ai nấy vổ tay lốp bốp. Mọi người cười đùa vui vẻ. Thế là chúng tôi sẽ được ăn thịt bò, đội kia chỉ được ăn đậu mà thôi.

Tiệc đãi ngoài trời. Vùng đất sa mạc, nóng hừng hực buổi trưa chớ khi vừa sụp mặt trời thì dịu lại, có gió phe phẩy mát. Không khí thiệt là khoảng khoát.

Khi bắt đầu vào tiệc, khách ngồi trên những hàng ghế dài đóng bằng cây mặt trên bào láng mặt dưới còn ghồ ghề. Trên những chiếc bàn dài cũng bằng cây, tôi ngắm nghía những ly tách dĩa làm toàn bằng thứ đất nung đỏ nâu, như đồ gốm, chắc từ những bàn tay thủ công của dân da đỏ vì ở đây người da đỏ làm nghề này nhiều lắm. Chạy ngang dọc đường thường thấy họ bày bán những loại đồ thủ công nầy cho khách du lịch.

Ông chủ cắt cớ chia nam nữ ngồi riêng. Ông ta nói để cho mấy bà làm quen với nhau. Thôi chết rồi, tôi lạc chồng tôi, người "thông dịch viên" của tôi rồi.

Lúc đó tôi chưa hiểu tiếng Anh gì nhiều, nghe chồng tôi dịch lại (dịch lại bằng tiếng Anh! cũng bằng tiếng Anh nhưng tại sao khi chồng nói thì mình hiểu, người lạ nói thì như vịt nghe sấm rầm rầm!)

Tôi lọt giữa hai người đàn bà, đành phải làm quen như lời ông chủ dặn. Ngồi bên tay mặt tôi là một bà Mỹ trắng, già nhăn nheo rồi, quên tên bà rồi, bên trái là một cô còn rất trẻ, giống giống như người Mễ? hay người da đỏ? Tò mò quá!.

À, khi giới thiệu với nhau cô nói tên cô là Vicky Yellow Hairs. Tưởng mình nghe lầm, hỏi lại, thì cũng yellow hairs là "mái tóc vàng"

Trời đất! gì ngộ vậy?. Tôi hỏi lại, cô lặp lại, tên là Vicky họ là Yellow Hairs, gốc người da đỏ.

À, khuôn mặt cô rõ ràng là dân da đỏ rồi. Khuôn mặt cũng hơi thanh thanh, da đâu có đỏ gì, lỗ mũi hơi bự bự xẹp xẹp nhưng cao hơn lỗ mũi mình, cặp mắt đen, mái tóc dài thẳng. Aạ...  hèn chi tên cô là Vicky Yellow Hairs, vì màu tóc của cô hoe hoe vàng. Vậy chắc cô nầy lai, da đỏ lai Mỹ trắng.

Tôi nhớ hồi còn đi học tôi có đọc trọn bộ chuyện dịch Rừng Thiêng, có nói về dân tộc da đỏ thường hay lấy tên sự việc hay một tượng trưng gì đó mà đặt tên lẫn họ cho con luôn. Cô nầy hồi mới sanh chắc tóc cô vàng nên có cái họ ngộ ngộ đây. Vậy Tây phương có khác gì người mình?. Má tôi thường nhắc hồi xưa ở thôn quê có khi người mẹ sanh con xong người chồng bước ra sân nhìn thấy cây trái nào ngay trước mắt thì đặt tên con cây đó, gặp ổi đặt Ổi, gặp bưởi đặt Bưởi, hay Chanh...  theo lòng mê tín đặt tên "xấu háy" cho thần thánh cô bà đừng để ý tới con mình mà bắt cho bịnh hoạn hay đem đi luôn!

Mấy năm sau tôi gặp lại Vicky ở thành phố Reno thuộc tiểu bang Nevada. Có vài chuyện vui vui với cô, để lần sau sẽ kể thêm vậy.

Trở lại bàn tiệc, mới đầu tôi chưa tin mấy, tưởng người ta chỉ nói chơi cái vụ ăn đậu ăn thịt gì đó cho vui thôi, ai dè khi bồi bàn đem thức ăn ra đặt trước mặt, tôi mới tin. Một cái dĩa bàn bự tổ chảng, như cái mâm, trên đó là một miếng thịt bò nặng cầu 3 cân, nướng trên lửa than, màu vàng nâu mướt, mỡ còn sôi xèo xèo, cộng thêm một đống khoai tây chiên dòn cao có ngọn. Họ còn đem thêm một tô rau cải xà lách gì nữa lung tung lắm, và một dĩa gì xắt lục cục lòn hòn vuông vuông màu xanh bóng mướt. Bà Mỹ trắng thấy tôi cứ ngó cái dĩa, kề tai nói nhỏ "xương rồng xào". Rồi bà nói thêm "người Mễ họ thích ăn món nầy, cô cũng nên thử cho biết". Trong câu chuyện trò xả giao với nhau, bà hỏi tôi từ đâu tới dân nước nào qua Mỹ hồi nào. Tôi nghe câu được câu mất câu hiểu câu không trả lời nhắm chừng bụng bảo dạ từ đây về sau chắc hông thích đi dự tiệc bị chia cách vợ chồng tôi lọt vô cái thế "tiến thoái lưỡng nan" như vầy nữa đâu nha.

Hai người hai bên, bà Mỹ trắng và cô da đỏ, là hai dĩa đậu, chỉ đậu mà thôi, khói lên nghi ngút.

Lại nhớ mấy đứa em. Ở nhà làm gì có nguyên một "tảng" thịt như vầy mà ăn? Một tảng thịt bự như vầy đủ cho cả đám em. Ước gì có tụi nó ở đây, nhường cho tụi nó ăn thịt bò khoai tây, tui ăn xương rồng.

Mọi người bắt đầu vào tiệc. Họ ăn uống ào ào cười nói oang oang không khí chộn rộn. Cầm nỉa cầm dao tôi cũng cắm nỉa vô rau, xúc xương rồng xào ăn thử. Ờ, được quá chớ. Hơi ngọt ngọt hơi nhớt nhớt hơi dòn dòn. Khứa khứa miếng thịt bò vô miệng nhai nhai. Thiệt không hổ danh là nhà hàng nổi tiếng nhứt thị trấn. Miếng thịt quả là mềm, vị thịt ngọt tự nhiên. Rắc thêm chút tiêu là ngon hết biết.

Miếng thịt bự quá bự, hồi người bồi hỏi tôi muốn ăn miếng thịt nướng sống chín ra sao, tôi thích ăn thịt bò tái mà không biết nói sao thành ra trả lời đại như bà ngồi ngang mặt là "medium", thành ra miếng thịt nầy nướng chín quá. Tôi nghĩ, miếng thịt nầy làm sao ăn hết, thôi thì chỉ lựa chỗ nào mình thích, moi moi cắt lụn vụn chọn khúc giữa còn hồng hồng mà ăn.

-Cô ăn xong rồi hả?

Giựt mình, nghe bà Mỹ hỏi, hơi ngạc nhiên, tôi e dè trả lời:

-Dạ rồi.

Bà liền sáng mắt lên:

-Vậy cô cho tôi phần dư đó nhé

Bất ngờ quá, tôi bở ngở gật đầu. Thế là bà tự nhiên kéo cái dĩa cũa tôi qua phía bà rồi bà lấy cây dao và nỉa găm vô miếng thịt bò phá manh múng của tôi sang qua dĩa của bà. Tay cầm dao tay cầm nỉa bà cắt từng miếng bỏ vô miệng nhai ngon lành, nhai ngon giống như lâu lắm rồi bà mới được ăn miếng thịt bò.

Vừa nhai bà vừa nói, tôi hiểu đại khái:

-Nhà hàng nầy nổi tiếng nhứt, thịt ngon nhứt được chọn lựa từ những con bò nuôi riêng... .

Bà còn nói gì gì nữa mà tôi không hiểu rõ, chắc cũng là về những con bò được nuôi riêng được chọn lựa để được đem lên dĩa cho người ăn này.

Trời đất ơi. Tôi ái ngại quá. Hối hận gì đâu. Vừa hối hận vừa mắc cở vừa xao xuyến trong lòng.

Trong lúc bà ăn tôi kín đáo dò xét. Bộ quần áo bà bận, đâu phải đồ mới. Nhìn kỹ mới thấy đường chỉ đã xừi, màu sắc đã phai...

Để ý nhớ lại, tôi nhìn qua bàn bên cạnh. Chồng bà, một ông Mỹ già, khắc khổ. Tôi chợt nhớ lại chồng tôi thường nói về một người đồng nghiệp già, khó bán được máy vì ông bị tật bịnh gì đó không đi nhiều nên việc làm rất giới hạn, chỉ tạm sống qua ngày. Hồi xưa ông có gia tài cha mẹ để lại, nhưng vì không giỏi tính toán, vợ lại yếu đuối, quá hiền, chỉ biết ở nhà lo cho chồng con nên chuyện làm ăn càng ngày càng lụn bại, rồi tài sản mất hết. Chỉ có hai người con, một bị mất tích trong chiến trường Việt Nam, người con gái thì có gia đình ở tiểu bang rất xa, còn lại hai vợ chồng già quạnh quẽ.

Hai vợ chồng già, nếu một tháng mà ông chỉ bán được một cái máy, hay không được cái nào, hoa hồng có bao nhiêu?, bà thèm thịt bò cũng phải.

Phải chi mình đổi cho bà dĩa thịt lấy dĩa đậu.

Phải chi đừng để bà phải cất tiếng hỏi mình cô ăn xong rồi cho tôi phần dư đó.

Những gì Ba Má dạy hồi nhỏ, sao quên mất đi?

Xác ở đây mà hồn tận bên nhà. Vì tôi lo đắm chìm trong thế giới cá nhân hạn hẹp buồn phiền ám cho tối tăm trí óc, chỉ nghĩ tới mấy đứa em không có thịt bò ngon mà ăn, tôi quên nhìn xung quanh, tôi đã không biết chia sẻ cho người ngồi hai bên tôi.

*

Hồi xưa Má tôi thường nói: "bà con xa không bằng láng giềng gần".

Hàng xóm mình đây, nơi mình đang ở đậu đây, mà mình quên.

Buồn quá. Hối hận. Bức xúc.

Nhà tôi chị em đông, có miếng ăn ngon là mỗi khi nhà có cúng giỗ. Những ngày đó má mua gà, vịt hay thịt bò thịt heo làm nhiều món. Dầu biết con cái đang đói bụng, khi vừa múc thức ăn ra để lên bàn thờ cúng xong thì thế nào Má cũng múc hai ba tô gì đó sai con đem qua nhà hàng xóm cho bác Ba bác Tư gì đó ăn lấy thảo...

Không bao giờ cho người ta miếng ăn dư.

Má tôi thường nhắc:

-Hồi đó bà ngoại ưa nói "Người ăn thì còn con ăn thì hết" Bàn tay ngửa là bàn tay nhận và cho. Có cho thì mới có nhận, con ơi phải tập đừng nắm bàn tay lại.

Bây giờ tôi mới thấm.

Tại sao tôi không nhớ tới cái tục lệ đối với hàng xóm quá hay đó của người mình? Tại sao tưởng là mình phải theo cách sống ở Mỹ, tôn trọng cá nhân quá đáng, cái nầy của tôi cái kia của bà của ai nấy xài chẵng phải san sẻ?

Đâu phải dân tư bản không biết chia sẻ? Sống ở Mỹ càng lâu càng thấy sự rộng lượng của người Mỹ. Quốc nội, tiểu bang nào bị nạn liền được các tiểu bang khác giúp. Quốc ngoại, bất cứ nước nào có thiên tai tàn phá, ngay lập tức chính phủ ra lịnh gởi viện trợ, tài chính cùng nhân sự tới cứu giúp bảo trợ liền.

Với chuyện lớn thì như vậy, tại sao chuyện nhỏ mà ảnh hưởng tâm tình có thể làm cho mình xao động như chuyện chia sẻ một miếng ăn với người gần mình, lại không được tế nhị?

Lần ấy, qua Mỹ chưa đầy một năm, sao tôi đã mau quên?

Tôi đã làm nhiều việc sai lầm, nhứt là chuyện nầy, để sự hối hận cứ theo dai dẳng và tôi nhớ bà Mỹ già đó hoài.

Nhập giang tùy khúc... Chỗ rộng chỗ hẹp chỗ nông chỗ sâu.

Khúc sông nầy hơi hẹp, cháu tôi làm chuyện sai, đối với tập quán của mình, nhưng khi nhìn cái vẻ mặt tươi vui của "hàm răng sún", bước chân nhảy sáo tung tăng chạy chơi trong bụng hớn hở vì (theo nó nghĩ) đã làm một việc rất là tử tế với bà nội nó thì miếng dư nầy trân trọng và quí có thua gì cao lương mỹ vị?

Vậy sao tôi buồn?

Nó sanh trưởng lớn lên ở Mỹ, tập tục của Mỹ như thế đó, thì sao tôi không dạy nó cung cách của mình? Để khi muốn mời ai hay cho ai món ăn nào, phải mời phải cho trước khi nó ăn, đừng cho người miếng ăn dư của mình?

Mình phải tạo dịp nào đó...  làm cho khúc hẹp của dòng sông được mở rộng ra, kể cho cháu nội biết những phong tục tập quán của mình, chuyện ngày xửa ngày xưa...  khi bà nội còn nhỏ...

Ký ức Tết

TP - Bây giờ Tết thành phố, nhà khá giả khoe rượu khoe hoa, những cành đào tiền triệu, những chậu lan nhiều triệu. Đồ bánh kẹo thường đồ Tây chứ đồ Tàu thì không thiêng. Tuy vậy cũng ít ai ăn, khách thường cũng chỉ nhâm nhi tí chút

Một giám đốc tôi quen khoe Tết này có thịt lợn gửi nuôi ở quê với cách thức cám gạo rau chuối. Muốn có thịt sạch chỉ còn cách ấy. Thì ra bao nhiêu sự phát triển về khoa học tăng trọng đủ mánh mung rồi, bây giờ với người khá giả, miếng thịt ngày Tết lại trên đường quay về lối nuôi cám bèo ngày xưa.

Ngày xưa, với tôi ngày Tết khoái nhất được xem bố ướp thịt muối. Cả năm nuôi được con lợn gần tạ, ngày Tết đem mổ. Bữa đầu tiên có lòng, tiết canh. Đầu đuôi để cúng rồi pha ra làm giò tai giò thủ. Năm nuôi được con lợn to thì bóc thăn giã lấy cặp giò lụa, cân thịt vai ướp nhân bánh chưng. Còn lại ba chỉ mông vai pha theo từng thớ dài rửa qua rượu rồi ướp muối cùng chút hương liệu như hạt dổi.

Một phần trong số đó xâu lạt treo gác bếp hong khói. Vài tuần sau thịt bắt khói ám bồ hóng rồi se dần. Bữa ăn bố thường lấy xuống một hai thỏi rửa qua thái nhỏ rồi đem xào hành. Phần mông vai còn lại nhiều hơn thì thái miếng ướp vào cái chum to. Cứ lượt muối lượt thịt rồi đem bịt kín để gần bếp gio làm thức ăn dự trữ cả năm. Thịt muối lúc đem ra rang chỉ phần mỡ là ngon. Mỡ ngậm muối trong vắt, ăn giòn sần sật mà không quá mặn. Còn thịt thì muối làm cho sắt lại, cứng như gỗ, lại mặn chát. Nhưng dù sao có thịt ăn vẫn hơn ăn mãi rau dưa.

Cho nên ngày Tết của lứa tuổi ngoài sáu mươi như chúng tôi khi còn ở nông thôn thực sự ấn tượng về cái ăn. Hỏi đám cháu bây giờ thì ấn tượng Tết thành phố của chúng là xem đứa nào thu nhập tiền mừng tuổi nhiều nhất trong ba ngày Tết. Còn chè lam bánh khảo bỏng mứt, kẹo bột kẹo lạc tự chế hấp dẫn nhất với tuổi thơ một thời đã lùi vào tiềm thức của lớp người già.

Không ai mong trở lại những cái Tết như thế, nhưng không thể quên, vì nhớ lại thấy thương thế hệ đi trước mà để sống cho tử tế hôm nay

Mùa lụt ăn cá thờn bơn

Cứ đến mùa lụt bão, mưa dầm dề thì ở quê tôi người dân làng chài lưới sẽ bội thu cá thờn bơn. Loài cá di chuyển vào cửa sông khi nước lũ từ thường nguồn ồ ạt đổ về.

Những cánh bèo trôi từ ngọn nguồn của con sông Hiếu về, chảy ngang qua cù lao Bắc Phước, Quảng Trị báo hiệu một mùa cá thờn bơn. Những người đánh cá suốt đêm thức cùng sóng nước trên những chiếc thuyền chài ghé vào bờ từ rất sớm để đợi phiên chợ mai. Trên khoang thuyền mùa này đầy ắp cá tôm, trong đó cá thờn bơn như một món hàng nổi trội mà ai cũng muốn mua để ăn trong những ngày mưa dầm.

Mẹ tôi thường dậy sớm xách cái rổ rồi quàng thêm chiếc áo tơi dưới cơn mưa phùn đi về phía chợ phiên, ngôi chợ chỉ họp vào buổi sớm và tan trời vừa tản sáng. Từ phiên chợ này, các thương lái sẽ đưa cá lên thành phố và toả đi các vùng.

Trên cái rổ mẹ mang về sẽ rất nhiều cá thờn bơn, thứ cá mà anh em tôi bảo ăn hoài không chán trong những ngày mưa giông.

Cá thờn bơn tuy thịt ít vì thân cá dẹp, nhỏ bằng ba ngón tay nhưng ăn rất béo và ngon. Mẹ tôi nói rằng phải rửa cá bằng lá tre và muối. Lá tre nhám và muối sẽ rửa sạch cái chất nhầy nhầy đặc trưng ở loài cá này. Có khi mẹ kỳ công, cố ngồi bóc hết lớp da trơn trơn của cá.

Kho cá bơn phải cho lửa thật nhỏ, cho cá chín lần thứ nhất để cho gia vị thấm vào cá rồi đỗ thêm một lượng nước nhỏ vào rồi kho tiếp, đến khi nào con cá khô, cong lại như sắp cháy thì thôi. Nếu có ít tóp mở heo cho vào kho kèm cá thì càng ngon. Cái mùi thơm của nồi cá sẽ toả đi cả gian bếp, phảng phất lên tận nhà.

Người ta nói một món dù ngon đến mức nào nhưng khi ăn từ ngày này sang ngày nọ sẽ gây chán. Nhưng với tuổi thơ vùng sông nước của tôi, hình ảnh con cá thờn bơn nằm cong queo, trộn lẫn cùng những hạt ném, trái ớt đỏ đã làm tôi giải cả nước miếng mỗi khi nhìn. Thế nên, mẹ thường kho một nồi cá thật nhiều, ăn từ ngày này qua ngày khác. “Vì đây là con cá rất đặc trưng, càng kho lâu cá càng đanh lại, cứng, dai và ngon hơn”. Mẹ thường bảo như thế...

Những ngày mưa bão, cầm bát cơm nóng hổi mà ăn cùng cá thờn bơn kho khô thì thật tuyệt. Hương thơm của cá làm nức cả mũi, riêng vị béo của cá và cay xè của những trái ớt sẽ khiến người ăn nhớ mãi.

Nhớ cơm nồi đồng

Có lẽ từ khi con người trồng được lúa, giã gạo thủ công rồi bắt đầu nung đất thành nồi đất, nồi om, trã đất... Tới lúc có văn minh công nghệ sơ khai mới sản xuất được nồi đồng.

Ngày xưa nhà nghèo nào cũng có ít nhất là một cái nồi đồng. Nồi đồng ngày xưa không được người ta đóng số niêm rô từ một, hai, ba... trở lên như xoong, chảo bây giờ, nhưng người ta đặt tên nồi đồng theo ước lượng. Nồi nhỏ nhất thường nấu cơm cho một người ăn gọi là nồi om. Nồi nấu cho bốn đến năm người ăn gọi là nồi lỡ, nồi nấu cho sáu đến bảy người ăn gọi là nồi rưởi, còn nồi nấu cho khoảng mười miệng ăn trở lên gọi là nồi hai, nồi ba...

Thật thú vị! Cái thời công nghệ kém phát triển, con người ta dùng than củi để đun bếp, dùng nồi lỡ, nồi rưởi nấu cơm lại thơm ngon lạ thường! Nhà tôi có bốn cái nồi đồng. Nồi om nấu cơm cho ông nội. Ông tôi ăn uống thất thường, hễ lúc nào đói thì ăn nên ưu tiên một. Nồi lỡ thì dùng nấu cơm thường ngày, lúc có khách nấu cơm nồi rưởi, còn nồi hai thì sử dụng vào dịp giỗ chạp.

Tôi khỏe ra, lớn lên nhờ ăn cơm nồi lỡ. Cái nồi đồng nấu khoảng hơn ba lon gạo bắc bếp lửa than, củi tre, củi gộc thơm ngon. Những bữa cơm gia đình đầm ấm từ cái nồi đồng huyền diệu càng ngày nấu cơm càng ngon, nhất là lúc nồi cơm lưng dần tới hông cơm cháy sém vàng ngon tận cổ. Ai đã từng ăn cơm cháy nồi đồng sẽ không bao giờ quên mùi thơm, giòn hấp dẫn. Cơm cháy nồi đồng mà chấm với mắm ngò, muối é thì khoái khẩu phải biết.

Những người bạn vong niên của tôi mỗi lần ngồi lại với nhau thường kể chuyện ăn cơm cháy nồi đồng ngon gấp nhiều lần nấu cơm bằng nồi điện. Song, cuộc sống vốn dĩ xô bồ, con người ta luôn hòa theo dòng chảy thời đại. Bây giờ ở quê đã có khối người dùng bếp gas. Xoong chảo mà nấu bếp gas cứ láng bóng chứ không dính lọ nghẹ phải chà rửa nhọc nhằn. Thế là những người thèm ăn cơm nồi đồng đành chịu.

Tuổi thơ tôi có nhiều năm tháng ăn cơm nồi đồng. Có những lần đi học về nhìn hông cơm nồi đồng chỉ còn phân nửa, bỗng dưng nước mắt tôi chảy dài. Cả nhà nhìn tôi khóc ai cũng bật cười ngặt nghẽo. Tôi đói quá xá, cứ ngỡ nửa hông cơm ấy không đủ bù lại cái đói đang cồn cào. Vậy mà chưa lần nào tôi ăn hết nửa hông cơm mẹ để dành. Đó là phần cơm ngon nhất.

Những năm tháng chiến tranh liên miên, cha tôi thường đào hầm chôn những cái nồi đồng để khi im tiếng súng về đào lên sử dụng, nhưng chưa lần nào bị mất nồi đồng. Sự đổi thay của cuộc sống hôm nay làm mất đi những cái nồi đồng một thuở gắn bó với sự đói no của con người ở làng quê yên ả.

Giờ mỗi lần cầm chiếc bánh mì còn nóng, tôi lại liên tưởng đến miếng cơm cháy thơm tho từ chiếc nồi đồng, tuy nó đã vời vợi xa trước cuộc sống xô bồ.

Mùa cải trời quê mẹ

"Phía tây nắng vãn chiều rồi. Bậu không lo liệu vác nồi nấu cơm. Xuống ao mà xúc tép tôm. Ra vườn bứt đọt ngò om, cải trời"

Những câu ca dao trên đã gắn liền với cuộc sống người xứ Quảng quê tôi. Để rồi khi xa quê, ở nơi đất khách, những người con xứ Quảng lại nhớ đến cháy lòng mùa cải trời quê mẹ.
Cải trời là một loại rau dại mọc rất nhiều vào mùa xuân. Rau mọc quanh nhà, nơi hàng rào, bờ ao, ruộng, trên các ngọn đồi, nương dâu, hay giữa những cánh rừng vừa mới khai thác. Vào mùa xuân, cải mọc xanh thắm. Thoảng trong nắng gió miền Trung là hương thơm dịu nhẹ của hoa và mùi lá cải trời ngai ngái. Những hạt cải già có lông tơ, khi khô bay la đà, phát tán khắp nơi. Vì thế cải trời không ai trồng, không chăm sóc nhưng hái cả mùa xuân mà vẫn không hết. Đến đầu hè, cây cải trời tàn dần trong nắng chói chang, rồi mùa xuân năm sau lại nảy mầm vụt lớn, ban tặng cho đời một loại rau siêu sạch.

Cải trời gắn bó với chúng tôi suốt thời thơ ấu ngọt ngào. Nhớ những ngày còn nhỏ, lũ trẻ chúng tôi khi đi giữ bò thường hái hoa cải trời cột thành bó trên tay tung tăng chạy nhảy hay làm vòng hoa cài đầu, đeo cổ, làm tiền chơi trò mua bán.

Lũ trẻ quê tôi ngày ấy, mỗi khi bị mụn nhọt chẳng bao giờ cần đến thuốc thang. Những bà mẹ chỉ cần ra vườn hái một nắm lá cải trời rửa sạch, giã nhỏ với muối rồi đắp lên chỗ mụn nhọt, rịt lại. Thay miếng "thuốc" ngày hai lần, sau hai ngày là cái u nhọt rút mủ, mẹ cẩn thận nặn cồi, thế là khỏi bệnh.

Bữa cơm gia đình vào mùa xuân không thể thiếu những món ăn dân dã, thanh tao từ cây cải trời. Những buổi làm đồng về không kịp chợ búa, mẹ tất tả xách rổ ra vườn, hái những ngọn cải trời mập mạp, xanh non, mang vào nhà chế biến thành những món ăn ngon.

Cải trời có thể ăn sống hoặc luộc chấm nước cá hay mắm cái. Khi luộc rau, phải cho vào nồi nước luộc một ít muối giúp rau giữ màu xanh. Phần nước luộc được nêm gia vị vừa ăn và một ít nước cốt chanh. Tô nước canh cải trời trong vắt, thoảng hương thơm dịu nhẹ.

Cải trời nấu canh kèm các loại rau nhà quê như rau ngót, rau mùng tơi, rau lang với một chút muối, bột ngọt, sang hơn thì thêm mấy con tôm, con tép mẹ bắt được ngoài đồng, thế là thành món canh tập tàng ngọt ngào, mát lành. Món canh ấy đã nuôi bao thế hệ trẻ thơ quê tôi khôn lớn, trưởng thành. Dưa chua cải trời kho cá, xào mỡ cũng là những món ăn rất quen thuộc và ngon miệng của người quê tôi.

Nhưng có lẽ ngon nhất và nhiều hương vị nhất là món cải trời xào tỏi. Những cọng cải trời tươi non, mậm mạp được rửa sạch. Phi thơm dầu phụng với tỏi rồi cho cải vào đảo đều tay. Thêm chút nước mắm ngon, bột nêm vào trộn đều. Khi rau chín, bắc ra khỏi bếp và thêm ít tiêu bột vào đảo đều cho món xào thêm ấm nóng. Đĩa rau xào xanh thắm, mỡ màng, điểm vài lát tỏi trắng thật bắt mắt. Vị béo, thơm của dầu phụng quyện với vị cay nhẹ của tiêu, thơm của tỏi, vị dai và thơm ngai ngái của rau thật đặc biệt, hoàn toàn không giống những món rau xào khác.

TUYỆT TÌNH CỐC

Từ ngày tôi giúp bác Sa dựng lên cái Tuyệt tình cốc ngoài sân sau nhà bác, tôi cũng muốn có một cái như vậy để tại ngoại những lúc cần yên tĩnh. Nhưng mỗi người mỗi cảnh. Nghĩ đến gia cảnh của tôi,  chưa phải lúc cho mình tĩnh tọa. Không khéo lại nhàn cư vi bất thiện. 

Hôm nay đến chơi tuyệt tình cốc của bác Sa mới thích thú làm sao? Những dây mướp,  dây khổ qúa,  leo xanh cả bốn bề vừa làm diệu nắng hè,  vừa cho cảm giác nơi ở của một người quên - rồi - thế - sự. Trong cốc chỉ có một giường ngủ nhỏ,  cái bàn viết con,  vài quyển sách trộm không buồn lấy. Ngọn đèn bàn như đèn hột vịt ở quê nhà,  có lẽ để đêm đêm chong đèn ngồi nhớ lại từng câu chuyện ngày xưa  -  tcs

 Hôm nay tôi đi thọ giáo bác Sa món mới. Tôi đem đến miếng thịt bò loại ăn phở nặng đến cả kí lô. Bác Sa nhìn tôi ngao ngán mà phán rằng. 

- Bao gìơ con mắt anh cũng to hơn cái bao tử. Tôi đã bảo chỉ độ nửa kí. 

- Bác đừng lo. Nếu nhiều thì cháu to go. Phải đem về khoe vợ nữa chứ. 

    Bác Sa bắt tay vào việc bằng phong cách chậm rãi của người gìa. Bỏ miếng thịt lên tấm thớt,  lạng đến không còn dính một chút mỡ. Đôi tay khằn năm tháng cũng thái ra được những lát thịt bò đỏ au. Bác đứng lâu qúa nên khi buông dao,  thớt là ngồi phịch xuống chiếc ghế bố xoa bóp đầu gối,  bắp chân. Vết sẹo đen sì dài theo bắp chuối là những gì còn lại của qúa khứ. Tôi chạnh lòng với ngày tháng cũ của bác khi nghe bác kể chuyện đời xưa.

    "… Ngày xưa tôi đi gài mìn. Khi tôi đặt những trái mìn ở đâu,  chỉ có tôi với Trời biết. Nhưng khi phải đi tháo gỡ mìn của địch thì Trời lại chẳng nói tôi nghe. Tôi giải ngũ cũng bởi mìn của địch là chuyện gieo gío thì gặt bão. Một chút đau nhức về gìa nếu xóa được những đau nhức trong lòng thì có đau gấp mười lần tôi cũng chịu. Anh nghĩ có đúng không?… "

Tôi làm sao biết thế nào là đúng mà trả lời. Tôi đâu phải là người tham chiến. Tôi chỉ là nạn nhân chiến cuộc của cuộc chiến tương tàn mà mỹ từ hóa gọi tôi là chứng nhân lịch sử. Tôi gọi tôi là con ma đói của hòa bình. Kẻ tha phương cầu thực  - tốt số  đã sa vào hũ bơ sữa nước Mỹ. Trong đủ đầy sinh thói trưởng gỉa học làm sang. Bao gìơ tôi mới biết tới những khổ lụy mà thế hệ cha anh đang mang trong tâm tư!          

      Những người thích đùa như tôi thì nhiều lắm,  suốt ngày chỉ kiếm cớ ăn nhậu là giỏi. Mở tiệc ăn mừng ngày vô quốc tịch Mỹ có khác nào đứa con nhà nghèo bỏ cha,  bỏ mẹ. Đi xin làm con nuôi một gia đình giàu có để có ăn,  có mặc. Vẻ vang gì mà khui rượu,  khui bia… ăn mừng! Lúc no say lại khui ra chuyện trăm voi không được bát nước sáo. Những suy nghĩ miên man trong cái  đầu ưa mặc cảm của tôi,  chỉ có bác Sa là người thấu hiểu. Nên bác ưa cho tôi những lời khuyên …

      Tiếng nước sôi reo vui trên bếp,  tôi đi pha ấm trà theo lệnh bác Sa. Bác bỏ thịt đã thái vào cái thau nhựa,  đổ vào đó hai lon nước dừa soda. Dùng đũa trộn đều. Bác bảo tôi đi uống trà,  chờ cho chất soda trong nước dừa làm chín thịt. Khoảng hai mươi phút. 

Tôi rót hai tách trà,  ngồi uống với ông bạn gìa mà lúc có ba hột tôi thường gọi bằng Bố. Tội nghiệp bác ấy chỉ có một mụn con gái như làn khói mỏng đã quyện vào thân xác ma trơi của người chồng ốm không thua gì cô ấy. Nói theo Hoài Linh.  Vợ chồng họ đi xe lửa không cần mua vé. Cứ đứng sát đường rầy - xe lửa chạy qua sẽ cuốn họ theo. 

 Thấy bác lặt rau răm,  thái củ hành trắng. Tôi giúp thì không cho,  bác ấy bảo tôi. 

"Anh vắt cho tôi bốn qủa chanh vào cái bát,  lược bỏ xác nhé. Tôi không thích làm cái việc vắt chanh bỏ vỏ. "

Tôi tự  suy ra mình phải làm cái việc đê tiện ấy. Bởi miếng ăn,  khoảng cách tuổi tác,  tôi cũng đành nhịn nhục. Vắt bốn qủa chanh,  đổ vào thau thịt một nửa theo lệnh bác Sa. Bác giải thích.  chanh giúp cho nước dừa làm chín thịt. Dùng chanh chung với nước dừa để tránh tình trạng qúa chua như ngoài nhà hàng họ làm. Nước dừa ngoài tác dụng của chất soda làm chín thịt,  mềm thịt,  nó làm ngọt thịt một cách tự nhiên. Không phải xài bột ngọt cho món này. 

Uống hai tuần trà. Tôi nhìn thau thịt đã tái như thịt tái trong tô phở. Bác Sa đổ hết ra rổ,  chờ ráo nước dừa pha chanh vắt. Bác còn vắt bằng tay thêm cho thật ráo. Lại cho ngược vào thau,  lần này bác nêm ít muối,  chút đường,  tiêu trắng,  hai muỗng cà phê rượu Hennessy để khử mùi đông lạnh,  cho vào phần nước chanh vắt còn lại,  bỏ hết củ hành trắng thái sẵn vào trộn chung. Lại để mười phút nữa,  củ hành ra nước và xìu xuống. Bác đi chiên bánh phồng tôm hiệu Quê Hương ( chắc từ Việt Nam đưa qua). Tôi đi dọn bàn thành thạo như một tên tiểu nhị thứ thiệt. Lại bị mắng yêu.

      " Đừng háu ăn thế! nhẩn nha nào!"

Bây gìơ bác Sa vắt thau thịt thật ráo nước lần cuối. Nêm nếm lần cuối,  trộn vào ít rau răm,  củ hành phi (loại bán sẵn ngoài chợ). Cho hết ra cái đĩa hột xoài,  phủ lên một lớp rau răm thái nhống,  đậu phông rang gĩa dập,  ớt hiểm thái lát như hoa lạc giữa rừng răm. Nhìn cứ như một nấm mồ xanh cỏ. Hành phi như hoa vàng mấy độ ngả sang màu cánh dán,  ớt đỏ như những cái huy chương không còn cần thiết cho một người đã nằm xuống - vương vãi. Chén nước mắm chấm chỉ có nước mắm với ớt hiểm thái lát. Tôi hỏi bác Sa.

"Hình như cháu nhớ.  Thịt bò kỵ nước mắm mà bác Sa?"

"Tôi biết! Nhưng khi đã ngồi ăn uống với bạn bè thì nhất định phải có chén nước mắm. Nó là Quốc hồn,  Quốc túy của dân ta. Chén nước mắm tuy nhỏ nhất trong bàn ăn,  nhưng thường chiếm vị trí trung tâm,  quy tụ được mọi người chấm chung vào đấy. Tình tự dân tộc cũng từ đấy mà ra. Anh em một nhà thương nhau hơn thương người hàng xóm vì họ đã chấm chung chén nước mắm từ khi biết nói. Nước miếng từ tất cả những cái đầu đũa hòa chung trong chén nước mắm tạo thành sự gắn bó gia đình. Vợ chồng chấm chung chén nước mắm ngày này qua ngày khác…tạo thành keo sơn. Trên bàn ăn bây gìơ,  mỗi người mỗi chén nước chấm nên không thiếu những chuyện huynh đệ tương tàn,  ông ăn chả bà ăn nem. "

     " Tóm lại. Theo ý bác là sự dây dưa nước miếng trong nước mắm tạo thành tình thương mến thương. Theo ý cháu,  người ta hôn nhau lần đầu là biểu cảm,  lần sau là khó cản bởi cơn ghiền  chất nước mắm trong nước miếng của nhau?! "

     " Anh thì chỉ giỏi những trò qủy quyệt! Thôi ăn đi. "

     " Vâng! mời bác! "  ( Không nói sớm giùm một chút! chờ hoài - nói thầm )

Bác Sa lại đều đều giọng gìa.

     " Cái món này mà có xị rượu đế quê mình thì ngon tuyệt. Ở đây toàn rượu mùi,  tôi không thích. Thằng rể mua cho tôi chai XO,  uống cứ như uống nước hoa của phụ nữ. Tôi thích Glenfiddich,  tương đối được nhất,  gần nhất với rượu quê ta. Tôi thích đơn giản hơn cầu kỳ,  của không mùi thường có vị,  lại vừa túi tiền "

Bác Sa lấy cái đĩa nhỏ,  đơm một đĩa bò tái chanh. Rót ly trà bưng vô bàn thờ bác gái. Bác ấy đốt cây nhang. Thành tâm và lụ khụ khấn vái,  như mời bà về ăn cơm. Bài học này khác hẳn món bò tái chanh. Tôi tự hỏi.  còn được bao nhiêu người đàn ông như vầy trong trời đất đen thui màu bội bạc? Một thế hệ nhân lễ nghĩa trí tín  đang lụi tàn. Tre gìa măng mọc…còi cọc. 

Người xưa nói về ăn nhậu đơn giản là.  "no say", cái đạo lý no rồi mới say của người xưa nghe không bạt mạng như người nay.  "không say không về ". Đã say thì còn biết đường đâu mà về? Đó là tiền đề của ăn gian. Uống rượu chỉ có ăn gian là không say. Từ đó sinh ra ăn thua. Lúc tỉnh dậy trong phòng cấp cứu của bệnh viện thì ăn năn.

Tôi thưởng thức sự trình bày âm dương hòa hợp của rau răm,  hành phi,  đậu phộng rang. Thịt bò thuộc lành phối hợp với Scotch Whisky chắc chắn là dữ rồi. Nói tới đây,  tôi sợ thầy Khê nghe. Hồi đó thầy Khê dạy tôi về âm nhạc dân tộc thì tôi không nhớ gì hết,  chỉ nhớ thuyết âm dương trong ẩm thực Việt Nam. Vịt luộc phải chấm nước mắm gừng vì vịt thuộc hàn - âm,  phải phối hợp với gừng thuộc hỏa - dương. Thời ngày xưa hoàng thị của tôi,  cơm không có mà ăn. Thầy ở Pháp về nói toàn vịt luộc với nước mắm gừng. Thèm bỏ…

 Tôi thưởng thức bằng vị giác sau khi thị giác đã no,  khứu giác đã đủ,  cảm giác đã mòn mỏi. Cảnh giác thì không cần vì bác Sa không thuộc Hồi giáo cực đoan nên tôi không sợ khủng bố sinh học. Miếng thịt đã tái đến không còn cảm giác sợ thịt sống,  bỏ vào miệng nghe ngọt ngọt,  chua chua…không qúa chua như nhà hàng làm,  thật. Cái ngọt tự nhiên của nước dừa và củ hành trắng không làm lợm giọng như bột ngọt. Rau răm the the,  cay cay ớt,  thơm thơm hành phi - đậu phộng rang giòn giòn. Cắn thêm miếng bánh phồng tôm rôm rốp…Thiên đàng và địa ngục gặp nhau trong màu hổ phách của Whisky. Lúc này chỉ sợ vợ kêu.  Gìơ này anh ở đâu? Tôi tắt luôn cái điện thoại cầm tay,  cho chắc. 

Bác Sa ngồi nhâm nhi dưới bóng mát của giàn mướp. Những con ong cần mẫn say mật hoa mướp tận tình,  tôi say bò tái chanh như chúng. Ong đi hút mật về nuôi gia đình ong - tôi đi nhậu nuôi ai? Không lẽ đi nhậu nuôi gia đình tôi. Xây hạnh phúc gia đình kiểu này là tiếp tay cho luật sư thêm giàu vì tối ngày làm hồ sơ ly dị không kịp. Khi no nê tôi ưa nghĩ lung lắm! Những con ong cần mẫn sẽ bay về nơi đâu? Bác Sa về đâu khi hoàng hôn cuộc đời đã tắt? Tôi mong cho bác được đoàn tụ với bác gái theo diện ông bà ở chốn thiên thai có động hoa vàng hay một hang động nào đó trong dải ngân hà xa tít. Nơi vĩnh hằng của những nguời yêu nhau trọn vẹn như bác và bác gái. Tôi nhìn cảnh ông gìa một mình,  lòng lang dạ sói cũng ui ui buồn. Nói chi lòng tôi,  mới tới tầng ô trọc! Nhiều khi tôi cũng sợ cái lang bang trong tư duy tôi,  nhất là lúc ba hột đắng,  uống hoài hóa ngọt. Uống như uống nước Ngọc tuyền / Từ đầu tiên mộng tới phiền muộn sau - BG. Để phá tan sự im lặng,  tôi hỏi bác Sa.

"Bác ạ! Con bò ăn cỏ nên thịt nó lành,  hiền. Người ta ăn thịt bò sao chỉ thấy lành chanh,  lành choi…!? "

"Con bò ăn xong,  nó biết nhai lại - con người thì không!"

" Vậy có thể nói.  con heo ăn tất cả của thừa từ con người (cơm thừa canh cặn) nên nó động dục nhiều hơn động não. Con chó ăn đến phế phẩm của con người nên tính nết nó cũng tình cảm,  nhớ dai,  thông minh… Nhưng dồn chó đến chân tường thì quay cắn lại chủ. Phải vậy không bác?"

"Lý luận kiểu anh thì tôi chịu! Tư duy của anh cần phải có một chút giáo dục nữa…tiếc là thời anh đi học thì thầy giáo đi vượt biên hết rồi. Cái súc vật biện chứng như thế mà cũng nói ra được."

" Bác có thấy.  Con chó đầu đông thấy trộm nên sủa,  con chó đầu tây có thấy ai đâu…cũng sủa. Từ đó cụm từ  "chó hùa " ra đời để chỉ đặc tính loài chó. Trộm thì cứ trộm vì trộm biết chó sủa chó không cắn! Loài chó cắn chó không sủa tuyệt chủng theo đà tiến hóa của vạn súc vật. Nói theo di truyền học,  loài chó cắn không sủa còn chăng chỉ là một gien lặn. Bao gìơ có đột biến gien thì cháu không biết. "

Bác Sa cười rồi ngồi thừ ra đấy. Bác ấy thường như vậy. Rượu vào mà lời không ra,  không biến những giòng suy tưởng thành lời. Có lẽ trong con người sau nhiều thăng trầm,  bi hài  của cuộc đời chỉ có thầm lặng là tử tế! Tôi không muốn bác ấy buồn vì những chuyện đã xưa như trái đất nên bắt chuyện trên trời dưới đất - vô thưởng vô phạt. Tôi hỏi thăm những người muôn năm  cũ,  bác ấy cũng không muốn nói. Chỉ ấm ớ như tôi không phải đối tượng có thể hiểu được những người tạm gọi là Anh em nhà Karamazov với bác. Bác Sa lại kể chuyện cho tôi nghe với ý gì không rõ!

"Ngày xưa ,  ông thầy tôi kể. Người tiểu đội trưởng dẫn mười hai người lính của mình đi tuần. Không may lọt ổ phục kích của địch,  không may hơn là chỉ còn mình anh ta sống sót trở về. Người tiểu đội trưởng đến trình diện ông Đại đội trưởng - báo cáo tổn thất,  trình bày chiến sự… Người tiểu đội trưởng nói với cấp trên.  Lỗi tại tôi bất cẩn tạo nên tổn thất cho đơn vị. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm,  tôi xin sẵn sàng thi hành mọi hình thức kỷ luật. Người Đại đội trưởng nhìn anh ta giây lát…ông ấy nói.  Anh lên bệnh xá của đơn vị khám sức khỏe lại. Không bị gì thì cũng nghỉ ngơi ba ngày. Tôi sẽ giao cho anh mười hai người lính khác. Nhưng anh phải nhớ là đừng vấp một mô đá hai lần. "

*

Anh thấy đấy,  sự vấp ngã ở đời là điều không tránh khỏi. Người không khuyết điểm chỉ là một kẻ lười biếng không hơn không kém,  thì lại thường công thành danh toại. Kẻ xông pha chỉ rước họa vào thân. Người tài đức lãnh đạo những người chính trực còn không thắng,  thì những kẻ võ mồm mưu cầu gì đại sự? Không vấp một mô đá hai lần thì mấy ai?! Và thường là cái vấp lần sau trầm trọng hơn lần trước. Tôi đi vào quân ngũ như đi chơi thì xá gì chuyện đi qua biển. Nên gìơ mới ngồi đây thèm nắng quê nhà. Chẳng ai cấm tôi về,  nhưng đường về quê xa lắc lê thê…không khéo lại là chuyện vấp mô đá lần thứ ba thì chết không nhắm mắt. Anh còn trẻ thì đi đứng cẩn trọng. Đừng đi ngang về tắt rồi ân hận sau này. "

Mặt trời lặn nẻo ngàn. Chai rượu cạn như mọi cuộc vui đều phải tàn. Tôi nói với bác Sa.  Uống xong ly rượu cùng nhau / hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời.  Ong Bùi Giáng viết câu thơ tri kỷ ấy cho muôn đời sau. Bao gìơ bác Sa gặp ông ấy,  cho cháu gởi lời kính bái tiên sinh. Bác Sa cười tiễn tôi ra về,  mặt trời đã khuất. Vì sao hôm cô đơn trên bầu trời chứng dám cho cuộc chia tay lần cuối. Vì tôi không bao gìơ còn được ngồi với bác ấy lần nào nữa. Những lần gặp sau này trong nhà thương,  bác ấy chơi với một rừng ống nhựa… Viết lại đây - buồn lắm! Cũng đâu cả năm trời,  bác Sa nằm trong bệnh viện  - ngày một héo tàn cho đến khi về với cát bụi. Ngày giỗ bác Sa,  tôi ngồi uống ly rượu với anh con rể của bác ấy. Nhìn cái Tuyệt tình cốc đã biến thành cái storage mà lòng buồn theo tình nghĩa xa xưa. Không còn những dây mướp,  dây khổ qúa…Những con ong cần mẫn  đã bay về nơi đâu?  Nắng chan chứa vườn sau… Mong cho những linh hồn đọa đầy của một thời kỳ lịch sử được ngàn thu yên giấc trong cõi vĩnh hằng. Đừng vấp một mô đá hai lần. Bây gìơ thì bác ấy đã thực sự đi qua điều đó!

PHAN

Nguồn : Việt Báo Online

Bài số 1183-1795-503-v2220107

*

Tác giả là một nhà báo, phụ trách mục "Chuyện Vỉa Hè" trong Ca Dao Magazine ở Dallas, đã

Cụ bà 106 tuổi chưa từng ăn thịt, cá

Tôi đã từng nghe người dân kể và trực tiếp nhờ chính quyền địa phương xác định thông tin từ trước, rằng ở xã Diễn Thành (huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) có một cụ bà năm nay đã 106 tuổi, chưa một lần ăn miếng thịt, miếng cá mà chỉ ăn rau cỏ, muối vừng nhưng cụ vẫn sống rất khỏe mạnh.

Hằng ngày, cụ cần mẫn đi cắt cỏ và chỉ huy đàn bò lên tới hàng chục con. Những tôi vẫn không thể ngờ cuộc đời của cụ lại quá đỗi hẩm hiu, thậm chí bi đát nhất xã hội nếu như không có dịp trực tiếp gặp cụ vào một buổi trưa khi trời còn đứng bóng. Cụ là Hoàng Thị Mưu (SN 1905) hiện đang ở với con rể tại xóm 6, xã Diễn Thành (huyện Diễn Châu, Nghệ An)

Người đàn bà bị kiếp nghèo ép làm ôsin gần 1 thế kỷ

Cụ Mưu kể, những năm đầu tiên của thế kỷ XX, đất nước nghèo khó, chiến tranh loạn lạc, cơm không đủ ăn, túp lều tranh không có để ở. Những bà mẹ vô tội bị lính Pháp “xâm hại” sinh ra con cái đành nuốt nỗi đau vứt bỏ giọt máu của mình ở chợ cho những gia đình không có con, nhà giàu có mang về làm ôsin, hay nhà địa chủ giàu có mang về làm đầy tớ. Cũng nằm trong số hàng ngàn đứa bé bất hạnh, bị bố mẹ nhắm mắt vứt bỏ ở chợ, cô bé Mưu may mắn thoát chết nhờ được một đôi vợ chồng không có con mang về làm con nuôi. Sống trong xã hội túng thiếu trăm bề, cô bé Mưu cũng sớm ý thức được số phận của một đứa bé bị bỏ rơi.

Lên 7 tuổi, cô bé Mưu phải cáng đáng mọi việc trong gia đình bởi dịch bệnh hoành hành, đã khiến bố mẹ nuôi qua đời. Gần 1 tháng sau, cô bé Mưu may mắn lại được một người đàn bà góa chồng, mang về nuôi. Hàng ngày, hai mẹ con đi mò cua, bắt tép và sống với nhau rất hạnh phúc suốt 3 năm trời. Cứ tưởng, người đàn bà bạc phận và cô bé bất hạnh sẽ an phận giữa cuộc đời với muôn vàn sóng gió của kiếp nghèo. Nhưng vào một đêm khi giấc mơ của 2 mẹ con chưa trọn vẹn thì một người đàn ông say rượu đã ghé thăm và làm chuyện “giao cấu” với người đàn bà góa chồng đến chết. Không dừng lại ở đó, khi mà nỗi đau người mẹ nuôi bị hiếp chết chưa lâu, cô bé Mưu bị một người đàn ông bắt về làm con nuôi. Nói là con nuôi nhưng hàng ngày cô bị đánh đập và ép buộc làm mọi chuyện nặng nhọc, thậm chí còn bị người cha nuôi ép buộc “phục vụ nhu cầu sinh lý” suốt một thời gian dài. Không thể chịu nổi, cô bé trốn đi, làm thuê, làm mướn kiếm củ khoai, củ sắn sống qua ngày với khát vọng tìm lại cha mẹ đẻ của mình, mặc nhiều lần cô tuyệt vọng nghĩ đến cái chết vĩnh biệt cõi đời.

Sóng gió cuốn theo sóng gió. Năm 1918, cô bé Mưu bị một nhà địa chủ ở Diễn Châu bắt về làm đầy tớ. Ở được 2 năm do bị đối xử bạc bẽo, cô bé tìm đường bỏ đi nhưng vẫn không thoát khỏi sự truy sát của đội quân tay sai máu lạnh. Sau khi bị người địa chủ bắt về, đánh đập, cô bé Mưu lại bị bán cho một đia chủ khác trong huyện. Tại nhà địa chủ ông Cao Xuân Dục, cô bé Mưu vẫn không thoát khỏi bi kịch, hàng ngày cô bé làm việc quay quắt hơn con trâu, con ngựa. Mãi đến sau Cách mạng tháng 8 (năm tròn 40 tuổi), thấy cô bé Mưu làm việc chăm chỉ, tốt tính nên con gái nhà địa chủ đã xin cha mai mối kết duyên cho cô bé Mưu với một anh thờ cày tên Hoàng Công Đệ (chồng cụ bây giờ).

Những tưởng sau ngày lập gia đình, “hai trái tim vàng” vợ chồng ông Mưu sẽ sống an phận, sống hạnh phúc dưới túp lều tranh, cùng nhau làm ăn và nghĩ đến những đứa con ngoan. Ai ngờ, cuộc sống khốn khó vẫn không cho ông bà ngẩng đầu, đau lòng hơn khi 2 đứa con đầu tiên lại bị đói nghèo cướp đi. Cụ Mưu đẫm lệ: “Lấy nhau về hơn 5 năm, hai vợ chồng mới sinh được con, sinh đôi 2 thằng rất kháu khỉnh, nên hai vợ chồng tôi thầm nhủ lòng, dù đói nghèo đến đâu vợ chồng cũng quyết chăm con nên người. Nhưng không được bao lâu, dịch bệnh kéo đến đã cướp đi 2 đứa con. Từ đấy, cuộc sống của hai vợ chồng tui lại càng quay quắt, khốn khó hơn”.

Dẫu biết số mình bất hạnh, cuộc đời bị vùi dập đủ bề nhưng vợ chồng bà Mưu vẫn rất khát khao sống. Với bà, sống không phải là để tiếp tục chấp nhận đau khổ, tang thương mà sống là để theo đuổi hi vọng tìm kiếm “giọt máu” đã thất lạc. Sống để chứng tỏ với bố mẹ, với xã hội rằng sức sống của một đứa trẻ bị bỏ rơi, một người đàn bà mang thân phận ôsin, bị hành xử tàn nhẫn, bị vùi dập trong túng quẫn vẫn khát khao sống và cố xoay chuyển số phận bằng sự kiên trì và đức hạnh của mình, Với tâm niệm trên, bà Mưu cùng ông Đệ, bất chấp nghèo đói, vượt qua mọi đau thương, quyết tâm sinh hạ đứa con mai này nương tựa. Và rồi lần lượt 3 người (2 gái, một trai) ra đời. Để trang trải cuộc sống, hàng ngày, chồng cày thuê quốc mướn, vợ ngậm đắng nuốt cay đi làm ôsin, làm đầy tớ cho các nhà giàu, nhà địa chủ để kiếm miếng cơm manh áo nuôi con nên người.

Nỗi đau kế tiếp nỗi đau. 20 năm sau, khi trên đầu tóc đã điểm bạc, vợ chồng bà Mưu lại nghẹn ngào tiễn con lên đường nhập ngũ, tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau ngày con ra trận, hàng đêm ông bà thức trắng, chắp tay khấn lạy tổ tiên và thần phật cho con trai tai qua nạn khỏi, hòa bình lập lại con sống sót trở về. Thế nhưng, số phận đã an bài, vào một buổi chiều năm 1972, trời mưa tầm tã, tiếng sấm chớp hòa lẫn tiếng bom đạn ầm ĩ, một anh lính đã mang đến cho người ông bà hung tin: “Liệt sĩ Hoàng Công Tuân, đã hi sinh tại chiến trường miền nam”. Sau khi nghe hung tin, bà Mưu đã xỉu xuống, tỉnh dậy bà xem như không, bà nuôi niềm tin rằng con mình vẫn còn sống và sẽ trở về. Còn ông Đệ, vì quá đau đớn khi nghe hung tin con trai chết nên đã phát bệnh kéo dài. Vất vả giờ lại đè nặng gấp bội trên đôi vai người đàn bà bất hạnh. Hàng ngày bà Mưu lầm lũi làm việc đồng áng, chăm nom chồng. Ít năm sau, bệnh tình quá nặng ông Đệ lại bỏ bà Mưu về nơi suối vàng. Hai cô con gái duy nhất cũng lần lượt đi lấy chồng. Một mình neo đơn, bà Mưu lại theo con gái đến ở nhờ nhà con rể suốt gần 30 năm qua.

Đề cập đến chuyện sống ở nhờ nhà con rể, cụ Mưu rầu rĩ: “Là người sống lâu năm nhất nhì trên khắp đất nước, nhưng cuộc đời tôi chưa một lần được thảnh thời. Tuổi thơ nghiệt ngã, bị bố mẹ vứt ở chợ, không có ai thân thích. Lớn lên đi làm đầy tờ, làm ôsin, bị đày đọa hơn con trâu con ngựa phục vụ nhà giàu. Đến khi được làm mẹ, lần lượt phải tiễn chồng, con cái “đi”. Lúc về già, con gái lấy chồng, sống neo đơn, buồn bã nên tui đành ngậm ngùi đi ở nhờ nhà con rể!”

Hai thế kỷ không ăn thịt, cá

Năm nay đã bước sang cái tuổi xưa nay hiếm (106 tuổi), nhưng cụ Mưu vẫn còn rất khỏe mạnh, mắt tinh, tai thính, da dẻ hồng hào. Tuy nhiên có một điều đặc biệt là từ lúc sinh ra đến nay, cụ Mưu chưa một lần ăn cơm thịt, cá… mà chỉ ăn cơm với rau cỏ, muối vừng.

Lý giải về điều thú vị trên, cụ Mưu chia sẻ: “Ngày xưa nghèo khó, tui bị bắt đi làm đầy tớ, phải làm lụng tối ngày còn khốn khổ hơn con vật thì lấy đâu cơm mà ăn, huống chi là cá, thịt. Ở với bố mẹ nuôi tốt tính thì không có mà ăn; ở với nhà giàu, nhà địa chủ thì bị đánh đập, ép buộc làm việc quay quắt suốt ngày nên không được ăn uống cũng thành quen. Cứ lúc nào đói, tôi lại vặt tạm mấy cọng rau, bới củ khoai ăn lót dạ. Cho đến khi đến ở nhờ nhà con rể, lúc đói cũng như lúc sang, không để con cái bận lòng, tui vẫn chỉ ăn cơm với rau cỏ và muối lạc, muối vừng ăn cho đến bây giờ”.

Cụ Mưu cũng cho biết rằng, cụ là một con người nhưng tuổi thơ bị hành xử không khác gì là con vật. Có lần, sơ ý làm vỡ cái bát cơm, nhà địa chủ đã cho người lôi cụ ra đánh đập rồi nhốt cụ vào một chuồng lợn ở 2 ngày mới tha. Nhiều lần cụ ngồi thu mình lại, khóc và tự hỏi rằng: “Mình là con người hay là con vật? Mình cũng như nó?”. Vì vậy, với cụ sát sinh con vật là sát sinh mình. Hơn thế, cụ là một người tín ngưỡng Phật, hay đi lễ chùa và sống có đức hạnh. Hàng đêm, cụ thường chắp tay lậy Phật cho linh hồn chồng, con được siêu thoát. Cụ luôn tâm niệm không bao giờ được sát sinh, phải ăn chay, tìm đến cửa Phật và làm thật nhiều điều phúc hậu cho cuộc đời.

Nói về người mẹ đáng kính của mình, chị Tư, con gái cụ Mưu bộc bạch: “Chắc ông trời cảm hóa được những nỗi đau của cụ, nên mới cho cụ sống thượng thọ được tới bây giờ. Điều đặc biệt, hơn 100 năm nay cụ khồng hề động một miếng thịt, miếng cá mà chỉ ăn cơm rau với muối lạc vừng do chính tay cụ làm là một điều rất đặc biệt”. Như để chứng minh cho tôi thấy, chị Tư cúi khom người xuống dưới gầm giường nơi cự Mưu ngủ, lấy ra một hộp muối vừng xay nhỏ, được bọc kỹ càng 2 túi nilon và bảo: “Ngoài rau cỏ, thức ăn chính của cụ chỉ có duy nhất cái lọ muối vừng này”.

Chia tay cụ Mưu ra về, tôi vẫn nhớ như in trong đầu câu nói quả quyết của cụ: “Tui đã trải qua một cuộc đời quá khổ nên tui mong muốn mọi người dân chưa thoát cảnh cơ cực sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn. Riêng tui còn sống ngày nào, tui vẫn sẽ còn làm việc thiện giúp đỡ bà con làng xóm đến khi mô chết mới thôi”.

QUỞN QUÁ

Chưa có khi nào tui được quởn như thế này!   thất nghiệp mà! Mà chắc là sẽ thất nghiệp dài hạn. Cũng không sao có những lúc như thế này để nghiền ngẫm lại mọi  thứ xung quanh. Và cũng tự cho mình những giây phút riêng tư hưởng thụ cuộc sống bình lặng trong thế giới chỉ có duy nhất " Một mình".
  Cũng đã lâu lắm rồi mới có cảm giác nằm tòn ten trên võng để đọc sách đắm chìm mình trong thế giới ẩm thực của Vũ Bằng  với " Miếng lạ Miền Nam".  Câu chuyện đầu tiên của Vũ Bằng  là Người vợ phương Bắc khuyên can không được ăn thịt rùa.  Bởi con rùa là vật linh thiêng... nghe lời khuyên của vợ là vậy, nhưng cũng không tránh khỏi sự tò mò rất đàn ông là muốn thử xem thịt rùa ăn có vị như thế nào? Có phải đó là đăc tính riêng của đàn ông có cơm ngon là vậy nhưng vẫn muốn thử chút vị thơm ngon của phở như thế nào?  Có thử mới tự xưng được ta đã trải qua.  Ăn thử một miếng thấy ngon, thử thêm chút nữa mới thấy thấm, ăn thêm một lần nữa chắc sẽ ghiền và cuối cùng lời dặn dò của vợ đã không còn ngự trị trong tâm hồn mà chỉ còn lại dư âm ngọt ngào của thịt rùa và cho rằng có thêm vài con nữa thì vẫn cứ ăn ...bay. 
  Tui cũng chưa bao giờ đủ can đảm để ăn miếng thịt rùa. Tui chỉ nhớ nhà nội tui sát bên chùa lâu lâu lại thấy một con rùa đi lạc địa chỉ sang sân nhà nội,  nội bắt tui ôm sang thả xuống ao sen nhà chùa. Không được làm con rùa bị thương. Và khi thả phải để con rùa trên hai tay và nhẹ nhàng. Lúc đó tui cũng không hiểu tại sao? Nhưng cũng không thèm thắc mắc làm gì?
  Với ba tui còn lạ lùng hơn có hôm vừa dắc xe ra cửa để đi đám giỗ bỗng dưng ba không thèm đi nữa ba chỉ nói" Vừa ra cửa gặp con rùa" Vậy là nội tui phải đốt nhang lầm rầm khấn vái gì đó. " Gặp rắn thì đi gặp Qui thì về" Thì ra là vậy? 
  Thằng em trai tui bị bệnh hở van tim nhiều người khuyên nên hầm rùa vàng với dây tơ hồng cho nó ăn thì sẽ hết bệnh, má  lui cui đi mua rùa về làm cho nó ăn, ngoại la ăn thịt rùa trời bắt tội, nhưng giữa tình thương con và cái tội mà trời sẽ bắt phạt má chấp nhận hình phạt đó để cho thằng em tui hết bệnh. 
  Món ăn thứ hai là thịt chuột. Nghe Vũ Bằng nói về thịt chuột tui cũng ngạc nhiên không ngờ thịt chuột lại có thể làm được nhiều món đến vậy? Chuột xào lăng, chuột rôti, chuột là lốt, chuột bầm rau ôm... trong đời tui chỉ biết ăn một món duy nhất làm từ thịt chuột là chuột rôti. Ăn cũng ngon, ngày trước vào những năm 80 gia đình tui đi kinh tế mới cái thời khó khăn cực khổ đói kém triền miên món ăn cải thiện trong cuộc sống gia đình tui là thịt chuột. Cứ mỗi chiều ngoại và cậu tui lại ra cuốc bờ ruộng hun khói rạ dể chuột chạy ra và tui tụi tranh nhau chụp lấy những con chuột đang lảo đão say bỏ vào trong thùng đó là thành quả lao động của những đứa trẻ con nhà nghèo đang vật vờ trong cái đói. Quả thật lúc đó tui cũng không nhớ được mùi vị của thịt chuột như thế nào? Sau này khi ông ngoại của Đ từ Tây Ninh lặng lội xuống thăm con cháu món quà ông đem theo là một bao thịt chuột. " Ông phải dặn người ta trước mới có  chuột đồng chứ không phải lúc nào cũng có, bây giờ người ta ăn thịt chuột nhiều quá!"  Chuột làm sạch sẽ ướp hành tỏi, tiêu,muối, đường, bột ngọt... đặt biệt là phải có xả sau đó chiên vàng và chế thêm chút nước dừa tươi dể cho thịt chuột không khô. làm giống như kiểu gà rôti, ăn với cơm cũng bắt lắm...Quả thật cũng ngon nhưng hình như tui ăn không mạnh miệng lắm ...Tui cũng không hiểu tại sao?
  Món này là món khoái khẩu của tui món " Khô". Cũng lạ món này là món mà ngày xưa là của con nhà nghèo không có tiền mua thịt cá thì mua khô, nhưng bây giờ thì không phải vậy nữa nha! nhà giàu mới có tiền mua khô? wow " Khô bây giờ mắc lắm mấy trăm ngàn một kí lận, con đi lâu rồi không biết chứ bây giờ ở VN nhà giàu mới mua khô ăn" Lạ nha ngày xưa khô rẻ như bèo , mỗi lần về thăm nội nhỏ em bao giờ cũng tỉ tê "Nội mua khô Tra cho hai ăn đi". Nội nhìn tui cười "con nhỏ này chỉ có ăn hai món thôi là khô với mắm". Nội chiên khô tra ngon lắm! khô cá tra phải ngâm với nước muối trước, sau đó xả lại bằng nước lạnh đem chiên vàng, quây một chén giấm đường khi khô vừa vàng chế chén giấm đường vào chút mặn, chút ngọt, chút nước sền sệt của giấm đường ... Và tui cũng biết rằng món khô chiên mà nội đã làm cho tui  sẽ là quá khứ ngọt ngào đi theo tui suốt cả cuộc đời ...và chẳng bao giờ tui còn có được cơ hội  ngồi bên cạnh nội để cùng thưởng thức món khô chiên " tuyệt chiêu" mà nội đã dành riêng cho tui....

 Canh dưa chua, món ăn con nhà nghèo

Bây giờ, dưa cải bẹ chua ít nhà muối. Cần ăn thì ra ngoài hàng mua mấy nghìn dưa. Dưa cải bẹ chua thường dùng để nấu canh, nhất là canh cá, canh thịt.

Trước đây, nhà nào hình như cũng có vại dưa cải bẹ nấu chua khi đông về, kể cả từ nông thôn đến thành thị. Dưa cải bẹ Đông Dư bẹ dầy, giòn, lá xanh được phơi dưới nắng hanh cho héo rồi được rửa sạch, thái cắt khúc cùng mấy cọng hành tươi, để ráo nước.

Pha muối, đường với nước hơi âm ấm (đều là nước đã đun sôi) rồi nén dưa thật chặt vào vại, đậy một cái vỉ ruồi rồi cho cái nén bằng đất nung hoặc hòn đá nặng lên trên. Để vài ngày là dưa có màu hơi vàng vàng, ăn rất ngon.

Kỷ niệm của tôi về vại dưa là niềm mong ước vại dưa nhà để quá chua và hơi có vẻ… khú. Đó là lúc mẹ tiếc và mang nấu canh dưa. Thời chúng tôi, nghĩa là thời vẫn còn bao cấp và qua thời bao cấp vài năm, nồi canh dưa rất đơn giản: dưa để quá chua được rửa qua nước rồi cho vào xào với mỡ lợn cho săn rồi cho nước lã vào đun sôi làm canh. Có thêm quả cà chua cho bát canh thêm màu sắc càng hay

Cái thời đó, nhà nào rán mỡ khổ (mỡ lọc từ những miếng thịt không phải bóc từ lá mỡ của con lợn) sẽ có những bát hoặc hũ tóp mỡ để dành. Trẻ con rất thích thú với những miếng tóp mỡ dính tí ti thịt nạc được nấu cùng dưa chua, một ít lạc sống giã dập. Đó là một món ăn có chút xa xỉ với bọn trẻ chúng tôi.

Tôi nhớ nồi dưa chua của thuở đó rất ngon. Nồi canh có đủ mầu sắc hương vị: mầu vàng thẫm của lá dưa, cùng cái mầu đùng đục, sánh sánh của lạc đã chín dừ như mầu hoa xoan điểm tô trên bát canh; mầu đỏ của cà chua, mầu vàng nhạt của tóp mỡ, nếu lấy thìa nếm nước canh sẽ thấy vị chua thanh và béo ngậy thơm nức.

Bây giờ mọi người nấu canh dưa với rất nhiều loại thịt, cá. Nồi canh dưa nấu với cá sẽ đi kèm với ít ớt cho bớt mùi tanh. Canh dưa cũng có thể nấu với thịt bò, thịt lợn, xương sườn… Canh dưa nấu với bạc nhạc của thịt bò có vị chua chua cộng với mùi thịt hầm nhừ ngầy ngậy, mùi thơm thơm của miếng gừng cũng ngon tuyệt. Nhưng tôi vẫn thích nồi canh dưa thuở đói nghèo. Dù sao, thời nấu ăn bằng dầu ăn cũng khó kiếm lại nồi tóp mỡ như năm xưa.

Rất nhiều nhà hàng nấu canh dưa chua với cá hay làm cá chép om dưa. Một món ăn bình dân, thậm chí là món ăn con nhà nghèo.  Nhưng nếu ta làm cầu kỳ một chút sẽ rất ngon, ta sẽ cảm nhận được vị chua, rồi mùi vị béo ngậy của thịt, của lạc sống, với chút man mác đỏ của quả cả chua sẽ làm chúng ta thích húp hết cả những giọt nước canh cuối cùng

Miếng thịt nướng

Nó cố gắng lết từng bước một đến phía sau nhà bếp của nhà hàng. Đây là nhà hàng lớn nhất phố huyện, vốn luôn đông khách, nên mỗi khi đói quá, nó lại mò đến để tìm chút thức ăn thừa. Lần này, nó phải lết là vì nó đã đói lã đến nỗi chẳng còn đủ sức để bước đi nữa. Đã ba ngày nay nó chẳng có gì để bỏ vào bụng, ngoại trừ mấy củ khoai sượng mà nó tình cờ nhặt được. Chưa bao giờ nó bị đói như thế này. Dẫu nghề ăn xin của nó chẳng dư giả gì, nhưng thường thì nó cũng xin được đủ tiền để có thể mua được hai bữa ăn mỗi ngày. Thỉnh thoảng khi may mắn, nó lại có dư tiền ra, đủ để mua được một bịch chè đậu trắng (có nước cốt dừa) - loại chè mà nó thèm đến nhỏ dãi mỗi lần nhìn thấy. Nhưng những ngày may mắn như vậy không nhiều, cứ vài ba tháng mới có một hay hai lần. Bên cạnh những ngày may mắn đó thì cũng có những ngày xui xẻo nó chẳng kiếm được xu nào cả, như ba ngày vừa qua. Những ngày như thế đó thì nó lại về, ăn ké vào phần của bà nó. Vì bà nó đã quá già yếu, hom hem, nên thường thì người ta thương tình, bố thí tiền nhiều hơn. 

Bà nó chẳng phải là bà con ruột thịt gì với nó, nhưng lại là tất cả những gì nó có được trên cõi đời này. Bà đã nhặt nó cạnh thùng rác, bên cạnh nhà hàng này, đem về nuôi dưỡng. Ngày đó, nó chỉ là một đứa bé gái sơ sinh còn đỏ hỏn, được quấn sơ sài trong một cái khăn tắm, đang khóc thất thanh vì bị kiến cắn. Bà lúc ấy, đang ăn xin cạnh nhà hàng, đã nghe thấy và đem nó về nuôi dưỡng. Tội nghiệp bà!  Đã bước qua tuổi 60 mà còn phải sớm khuya chăm sóc nó. Chỉ cho đến khi nó lớn lên một chút, có thể theo bà đi xin ăn, thì bà mới đỡ vất vả phần nào. Cũng giống như nó, bà không có tên, cũng không có họ. Mỗi khi muốn nhắc đến bà, người ta gọi là "bà già ăn xin", cũng như người ta gọi nó là "con nhỏ ăn xin", trước mặt hay sau lưng nó. Nó càng lớn lên thì bà càng trở nên già yếu đi thấy rõ.

Cách đây ba ngày, bà bỗng không đi xin ăn nữa mà đột nhiên bảo nó đến gần bên, rồi cố hết sức để thều thào vào tai nó: 

-   Con à... nếu lỡ bà có... mất đi, thì con nhớ... lo cho mình...  nghe con.

-   Sao bà lại nói như vậy?  

Nó nói với một giọng hoảng hốt, rồi bật lên khóc nức nở.  Nó chưa bao giờ dám nghĩ đến cái ngày không còn bà nó nữa, rồi nó sẽ sống sao đây, sống với ai đây. Tiếng khóc của nó càng lúc, càng lớn, không kìm lại được. Đợi một lúc lâu, cho đến khi nó không còn khóc nữa, bà mới thều thào tiếp: 

-  Con nhớ giữ lại... cái mền và cái chiếu... để ngủ nghe con. Cứ chôn bà... mình không cũn... được...

Đó là tất cả những lời sau cuối mà bà có thể nhắn nhủ lại với nó. 

Đêm đó, trong túp lều tồi tàn, bà âm thầm ra đi mà nó chẳng hề hay biết. Sáng sớm thức dậy, nó cố lay bà tỉnh, nhưng bà vẫn nằm bất động, xác bà lạnh tanh. Hoảng sợ quá, nó bật lên khóc, kêu gào thảm thiết. Mấy người đàn ông trong xóm nghe tiếng nó khóc, vội chạy đến. Sau khi hay chuyện, họ lặng lẽ giúp nó đem chôn bà ở một nghĩa địa bỏ hoang trong làng. Thương bà, nó không nỡ giữ lại cái mền và cái chiếu như lời bà dặn. Nó bảo họ hãy dùng chúng cuốn xác bà để bà đỡ lạnh. Thế là, nó phải bắt đầu cuộc sống mới chỉ còn lại trơ trọi mình nó, không còn có cả mền, chiếu để ngủ về đêm.   

Cơn đói càng lúc càng trở nên cồn cào và hành hạ nó nhiều hơn. Cái bụng lép kẹp của nó đã sôi lên sùng sục vì không còn gì trong đó nữa. Nó cảm thấy chóng mặt quá, trước mặt nó mọi vật trở nên nghiêng ngả, lắc lư. Nó té xuống, nằm dài trên mặt sân ẩm ướt, sát với nhà bếp. Chỉ cách đó vài bước, ngăn cách bởi một lớp hàng rào dây kẽm, là một con đường khá đông đúc người qua lại. Bỗng nó thấy dường như có một ai đó đến vuốt ve nó và nâng nó dậy. Nó cố mở mắt ra và reo lên vui sướng, trong khi nước mắt không ngừng chảy xuống mặt nó, làm hình ảnh trước mặt nó trở nên lung linh và mờ ảo:

-  Mẹ..., mẹ đó... hả mẹ?  Con... đói bụng... quá... mẹ ơi! 

Vừa thốt lên những tiếng kêu ngắt quãng, rời rạc, nó vừa cố vươn tay ra để chạm vào hình bóng lờ mờ trước mặt.  Nhưng bàn tay nhỏ bé, gầy trơ xương và sạm đen của nó cứ sờ soạng mãi trong không khí mà chẳng chạm vào ai cả. 

Hóa ra cái hình bóng trước mặt nó chỉ là do nó tưởng tượng ra. Cứ khi nào buồn quá, đói quá hay khổ quá thì nó lại mơ về mẹ nó - người đàn bà đã nhẫn tâm bỏ rơi nó ngay khi nó mới chào đời. Dẫu rằng bị bỏ rơi, nó chưa bao giờ có ý nghĩ buồn giận gì mẹ nó cả. Nó luôn nghĩ rằng mẹ nó chắc hẳn có nỗi khổ riêng nào đó, chứ nếu không thì có khi nào mẹ nó đành bỏ nó như thế được. Nghĩ như vậy nên nó cứ ôm ấp mãi cái hình bóng của người mẹ mà nó tự mình vẽ ra trong đầu óc non nớt của nó.  =Để rồi cứ mỗi khi bị ai ức hiếp hay khi gặp nạn nó lại bất giác kêu lên "Mẹ ơi!" như muốn tìm một sự an ủi, chở che.  =Giờ đây, trong cơn đói đang làm hoa cả mắt nó, môi nó không ngừng mấp máy và bật ra những thanh âm rời rạc:  "Mẹ... ơi, mẹ ... ơi!" 

Chợt trong cơn mê sảng vì đói, những thanh âm của tiếng người thật lớn từ nhà bếp vang dội vào tai nó. Nó nghe loáng thoáng giọng hống hách của một người đàn ông lớn tuổi, đang nói chuyện với một người đàn ông khác trẻ hơn mà giọng điệu nghe có phần quị lụy, chiều lòn:   

-  Ê mậy, mấy bữa nay nó hoành hành dữ quá, tao kêu mày trị nó hoài, mà mày có làm chưa? 

-  Dạ, em vừa mới làm đó, anh hai. Kỳ này, nó khó lòng mà thoát.

-  Chắc hông mậy?

-  Dạ chắc mà anh hai.  Anh hai tin em đi.  Kỳ này, nó không qua nổi đâu.

-  Để rồi coi. Nếu không đúng như lời mày nói thì mày chết với tao. 

Những thanh âm sang sảng ấy đã vô tình đánh thức nó giữa cơn mê sảng. Nó dáo dác nhìn quanh và mắt nó bỗng chợt sáng lên khi nhìn thấy một miếng thịt nướng nằm gọn lỏn trong lòng một cái bẫy chuột được đặt trong một góc kẹt của nhà bếp.

Miếng thịt thật to và trông béo ngậy. Cố gắng hết sức, nó mới với tới được một thanh gỗ nằm cạnh đấy. Dùng thanh gỗ, với chút sức lực còn sót lại, nó cố để khều chiếc bẫy chuột về phía nó. Từng chút, từng chút một... Nó tưởng chừng như vừa trải qua một thế kỷ. Rốt cuộc, chiếc bẫy chuột với miếng thịt nướng thơm phức treo tòn teng ở giữa cũng nằm trước mặt nó. Tay run lẩy bẩy, nó cố hết sức để kéo miếng thịt nướng ra. Cầm trong tay miếng thịt mà nó có cảm giác như nó đang cầm nắm một cục vàng ròng. Không kịp xé miếng thịt ra từng mảnh nhỏ để dễ ăn, nó vội vàng nhét cả miếng thịt vào miệng và nhai ngấu nghiến. Chưa bao giờ nó có cảm giác ăn một cái gì mà ngon đến như vậy. Vị ngọt và hương thơm của thịt như ngấm vào tận từng chân răng của nó. Nó cứ tiếp tục nhai ngấu nghiến như vậy và cảm nhận sức lực của nó đang trở lại sau khi chất nước dinh dưỡng ấy chảy xuống vào dạ dày của nó.

Bỗng nó đột ngột dừng nhai, khi lưỡi nó chợt nhận ra có một vị gì đó hơi khác lạ - cái vị này đắng quá làm nó cảm thấy buồn nôn. Bình thường thì có lẽ nó đã nhả ra, nhưng vì đang quá đói nên nó bấm bụng nuốt vội tất cả những gì trong miệng nó vào bụng. Có chút thực phẩm vào bụng, nó thấy đầu óc nó tỉnh táo đôi chút. Nó nghĩ có lẽ nó nên lết tới cái vòi nước gần đấy để uống chút nước, vì mãi đối phó với cái đói mà cũng đã khá lâu nó chẳng uống ngụm nước nào cả. Vừa dự định nhõm dậy để lết đi, nó bỗng chợt nghe có những thanh âm kỳ lạ đang sôi sục trong bụng nó. Rồi nó có cảm giác như có ai đó đang châm lửa thiêu đốt ngay trong bụng nó. Trên đầu nó dường như có ai đó vừa đập một cú thật mạnh. Bọt trong miệng nó không ngừng tuôn ra xối xả tựa như dung nham đang phun ra từ miệng núi lửa. Nó ngã vật xuống ngay trên nền đất ẩm ướt, đầu dội vào tường. Cơ thể nó giật lẩy bẩy như có gắn một cái lò xo. Sau một lúc, nó nằm im bặt không nhúc nhích nữa, trong tư thế của một con cuốn chiếu. 

Mùi thơm từ nhà hàng tiếp tục tỏa ra thơm nức cả một góc phố. Sau lớp hàng rào kẽm gai, người người vẫn qua lại tấp nập, nhưng không ai chú ý đến một cái xác trơ gầy, nằm bất động trên mặt đất với một tư thế thật kỳ dị.  Thảng hoặc có một vài đôi mắt vô tình nhìn thấy cảnh tượng ấy thì chúng vội quay đi rất nhanh như để chối bỏ những gì chúng vừa bắt gặp. Bước chân của chủ nhân của những đôi mắt ấy dường như càng trở nên hấp tấp và vội vã hơn ngay sau đó ...

SÁT THỦ 

Hắn kiểm tra lại hung khí trước khi hành sự. Đầu tiên là chiếc mủ len màu xanh đậm thật đậm trùm kín mặt, chỉ chừa hai mắt. Bỗng dưng hắn nhớ ngày xưa, thời kì bao cấp ai cũng nghèo hết, dĩ nhiên trong đó có gia đình hắn. Hầu như tất cả mọi nhu cầu trong cuộc sống đều được mua phân phối theo tem phiếu do nhà nước bù ... (nếu lỗ !). Một đêm bố mẹ hắn đi mua mùn cưa ở Xí nghiệp gỗ cách nhà chừng hơn cây số. Sau khi hì hục hót mùn vào bao tải loại 100kg, họ lại lọ mọ tìm bìa gỗ loại vứt đi để đắp lên miệng bao cho khỏi rơi mùn cưa ra nhưng trong thâm tâm là tranh thủ kiếm thêm tí củi vụn về đun. Chao ôi, cái khó ló cái khôn là vậy!

Sau đó lại hai ông bà thay phiên nhau còng lưng kẻ đẩy người kéo xe bò mùn cưa mấy trăm kí về nhà trong cái lạnh tháng 10 cắt da cắt thịt. Và hễ ai cầm càng thì mới được trùm mủ len cho đở lạnh. Trong một lần đổi càng, đổi mủ không biết loay hoay thế nào, họ để tuột tay càng xe bật lên đổ cả chục bao mùn cưa xuống đất và sém mất mạng. Hắn nghĩ đến cái cảnh bố mẹ ể oải vác từng bao mùn cưa chất lên xe bò rồi lại bấm bụng đẩy về nhà trong đêm mờ sương tối tắm, trong cái lạnh tím tái của ngày đông, trong cái đói dồn dập từ đầu hôm sót lại. Hắn nghiến răng mà nước mắt tứa ra như máu!

Tiếp theo là con dao Thái bén ngọt. Để chắc ăn, hắn chạy ra chợ mua kg thịt mông, cẩn thận lựa chỗ da hơi dày một tí để thử nghiệm. Y như rằng, hắn đâm một phát là thủng tuốt tuồn tuôn miếng thịt đỏối. Hắn, nghiêng đầu nhếch mép theo kiểu xã hội đen vừa nhìn miếng thịt heo, vừa vút vút lưỡi dao vừa nghĩ cũng ngày xưa mẹ hắn đi sắp hàng mua thịt heo trong một sáng tháng năm oi ả. Đang đứng sắp hàng thì cô Linh hàng xóm hớt hải chạy đến bảo bố bị trúng gió, bà tái mặt bỏ tất cả túa chạy về nhà. Rồi cả đoàn người sắp hàng không ai bảo ai cùng chạy theo bà, bỏ lại mảnh sân cửa hàng thực phẩm trống hoang đến rơn người!

Hắn, thôi không nghĩ quẩn nghỉ quanh nữa mà lặng lẽ cầm hung khí bước ra đường, đi về phía mục tiêu. Kẻ thù của hắn. Không, nói chính xác hơn là nạn nhân của hắn là một người đẹp mang tội cướp chồng của một quý bà, nên cô ấy phải chết âu cũng là lẽ thường thay vì trả nợ trực tiếp, còn hơn là trả nợ gián tiếp, dai dẳng cho cả kiếp người; quy luật tạo hóa tránh đâu cho khỏi. Nhưng vừa bước lên cầu thang hắn lúng túng thế nào để rơi con dao ra ngoài và lại luýnh quýnh chụp lấy chụp để vì sợ người ta phát hiện nên bị cứa vào tay chảy máu. Ác thay, máu càng lúc chảy càng nhiều, không còn cách nào khác hơn là phải chạy về nhà cứu mình trước khi giết người.

Và, ngay trong lúc nầy, lúc tình hình bỗng dưng rối rắm hắn lại nghĩ về ngày xưa, ngày mà cả xóm, cả làng cùng nghèo cùng khổ như nhau nhưng không ai muốn giết ai. Ai cũng cần tiền nhưng không ai đi giết người thuê để lấy tiền xài như hắn bây giờ. Hắn chạy mỗi lúc một nhanh và máu cũng cầm hẳn thôi không chảy nữa. Vết thương xem ra không đến nổi nào nhưng hắn vẫn chạy.  Hắn chạy về phía mặt trời ...

Hai mươi năm rồi, tôi ăn Tết xa quê hương!

Tết – một chữ rất ngắn nhưng hàm chứa biết bao kỉ niệm vui buồn đối với tôi và gia đình. Mỗi lần Tết đến tôi lại háo hức, đợi chờ được sống trong cảm giác lễ hội. Tuy vậy cũng cũng vì Tết mà năm nào tôi cũng rơi nước mắt, đã hai mươi năm trời tôi ăn Tết ở đất khách quê người, hai mươi năm trời dài đằng đẵng chưa một lần được đặt bước về nơi chôn rau cắt rốn, về ăn cái Tết của ân tình sâu nặng.

Tôi sinh ra và lớn lên ở một miền quê nghèo của đất Thanh Hóa, quê nghèo với ba sào ruộng nên ba mẹ không thể nào nuôi nổi bốn anh em chúng tôi. Cái nghèo đói, sự thiếu ăn thiếu mặc buộc ba mẹ tôi phải dứt ruột vào miền Nam lập nghiệp với hy vọng thoát nghèo, hy vọng đổi đời cho các con của mình.

Năm tôi lên sáu tuổi cả gia đình chuyển vào sống ở Đồng Nai, giờ đây khi viết lên những dòng này tôi đã 26 tuổi, thời gian thấm thoát mà đã 20 năm. Nghĩ lại, tuổi thơ của tôi ở quê nghèo thật ngắn ngủi, đã lùi rất xa về quá khứ, bức tranh kỉ niệm thời thơ ấu giờ đã có những vệt tối sáng của bụi thời gian rồi. Nhớ ngày đó, mỗi lần Tết đến đám trẻ chúng tôi đều cảm thấy mình như đang sống trên thiên đường. Chúng tôi đợi Tết như đợi một phép lạ của đấng siêu nhiên, có lẽ vì chúng tôi thèm lắm những miếng thịt mỡ xắt lát ăn với xôi đồ gấc đỏ, thèm những miếng giò thủ béo ngậy làm từ thịt heo ba rọi và nấm mèo, thèm những chiếc bánh chưng thơm nức mùi gạo nếp, thèm được manh áo mới, thèm được những đồng tiền lì xì để dành mua đồ chơi… Khi người ta nghèo người ta sẽ thiếu thốn, thiệt thòi nhiều thứ nhưng vì thế người ta biết trân trọng, cảm nhận được giá trị thật sự cái cảm giác của giá trị vật chất, của giá trị tinh thần.

Tết quê tôi bắt đầu từ khi cúng tiễn ông Táo về trời, nghĩa là từ 23 âm lịch không khí chộn rộn đã lan khắp xóm, khắp làng. Nhà nhà, người người hớn hở với không khí chuẩn bị: mua đồ cúng Tết, nấu bánh chưng bánh giầy, đồ xôi với gấc đỏ, làm giò thủ, làm thịt nấu đông… Tôi đặc biệt nhớ những lần Tết đến các bác, các chú cùng nhau hùn tiền lại để mua chung một con heo về giết thịt ăn ba ngày Tết. Mỗi lần nghe tiếng heo kêu éc éc là đám trẻ chúng tôi biết ngay ở đó có tiệc, đám trẻ con như tôi thường chạy đến để được “chia phần”. Nói là chia phần chứ thật ra là được nắm xôi nhỏ và dăm miếng thịt xắt lát, ấy thế mà vui lắm, chẳng có thể nói lên bằng lời hết được những cảm xúc thơ dại đó.

Tết đến nội tôi thường gói rất nhiều bánh chưng, còn ngoại thì lại gói nhiều bánh giầy. Hình như nội và ngoại ngầm quy định với nhau thế thì phải, mỗi khi Tết đến tôi lại thấy nội và ngoại mang bánh chưng, bánh giày qua biếu nhau mang về thờ và ăn dần mấy ngày Tết

Tết ở quê tôi lạnh lắm, cái lạnh se da se thịt, mỗi lần Tết đến là áo bông, áo gió lại được dịp sử dụng nhiều. Nhiều khi người ta thể hiện cái sự giàu nghèo bằng việc mặc trên người một cái áo bông đắt tiền, hàng hiệu là khác.

20 năm nay tôi không về lại quê, 20 năm tôi ăn Tết ở đất khách quê người. Cái Tết đúng chất quê gần như đã không còn, người ta thay vào tất cả bằng “cửa hàng và dịch vụ trọn gói”. Tôi ít được thấy ở đây không khí chuẩn bị Tết như ở quê mình, tất cả đều được lo sẵn: bánh chưng bánh giầy gói sẵn, các món ăn dân gian cũng đã được làm sẵn, việc mua quần áo cũng là đồ may sẵn… Cái gì cũng được “công nghiệp hóa” một cách toàn diện, thành ra tôi cũng không còn mong ngóng Tết như ngày còn thơ bé nữa.

Gia đình tôi giờ đây dù đã đủ ăn đủ mặc nhưng mà ba mẹ, anh em chúng tôi không dám nghĩ đến chuyện về thăm quê. Không phải chúng tôi không nhớ, không yêu mảnh đất sinh ra mình, mà vì cuộc sống còn bao nhiêu thứ phải lo toan, cơm áo gạo tiền làm trĩu nặng bờ vai mất rồi. Hôm nay no bụng thì phải nghĩ đến ngày mai, cái khó nó bó cái khôn, tất cả đều buồn đấy mà vẫn đành bấm bụng ăn Tết xa quê, nỗi nhớ cứ chồng lên nỗi nhớ, rồi tự mỗi người im lặng dằn lòng mình lại, chứ biết làm sao!

Thời gian đến rồi đi, 20 năm nếu đem ra so sánh với đời một con người sẽ là bình thường, song 20 năm sống xa quê là cả một khoảng thời gian dài đằng đẵng. Tết lại về, tôi lại đau đáu nỗi nhớ quê, nỗi mong chờ được một lần về với mảnh đất tôi đã sinh ra để sống tiếp tuổi thơ êm đềm. Viết tới đây sao mắt tôi lại cay xè thế này, có lẽ nó cũng như tôi, nó muốn trở về, muốn được nhìn thấy đất mẹ mến yêu, được đặt chân lên con đường làng với những bụi tre già, được nhìn những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay, được thấy đình làng nơi mà tôi vẫn thường chơi lò cò, nhảy dây, chơi ô ăn quan với bạn bè ngày cũ.

Tôi nhắm mắt lại, lặng lẽ để hai giọt nước mắt lăn dài lên má, thế là Tết lại sắp đến nữa rồi! Tết đến tôi lại thêm một tuổi, tôi lặng lẽ bật bài nhạc “Ôi quê tôi” của ca sĩ Tùng Dương thưởng thức một mình. Bất giác tôi như thấy khói lam chiều đang chiếu rực đàng đông, nhìn nó tôi như thấy khói bếp của nhà nội những ngày giáp Tết! Ôi quê tôi, biết đến bao giờ

Nuôi lợn thời bao cấp

Hôm trước có entry “Tập thể…liệt truyện”, em Vân Linh của WB bên Washington DC đọc xong, liền vào phòng chào anh Cua. Em cười và nói thích những chuyện thời bao cấp. Vân Linh bảo, anh viết truyện nuôi lợn ở nhà cao tầng đi, em giúp cho vài tích. Rồi em vừa kể vừa lau nước mắt.

Người nuôi lợn và lợn…nuôi người?

Những năm cuối 1970, chẳng hiểu ai nghĩ ra nuôi lợn giữa thủ đô đầu tiên. Do đói kém, không có gì ăn đành phải tăng gia, nuôi gà vịt kể cả lợn, dù ai cũng biết là bẩn thỉu cảnh người lợn, lợn người cạnh nhau.

Sau đó, phong trào lên cả những nhà cao tầng. Vào khu tập thể, thay vì hỏi gia chủ có mạnh khỏe không, câu chuyện bắt đầu bằng những chú lợn.

Bác Tâm, hàng xóm ở Thành Công, có ông chồng gầy ho sù sụ cả ngày, nhưng nuôi lợn cực giỏi, béo tốt hơn cả chồng con.

Nhà bác thường nuôi hai con, theo bác nói, để chúng tranh nhau, háu ăn, chóng lớn. Tính bác hơi chan chát, nhưng tốt tính, có lẽ vì thế mà có tay nuôi lợn.

Mang mấy cái xô nhựa đi gửi tầng trên, tầng dưới, lấy nước gạo, thức ăn thừa, rau muống già để không mất tiền thức ăn. Lợi đủ đằng. Mấy ngày Tết thì lợn hưởng như người, có có cả bánh chưng thiu hay giò mốc vì để dành.

Người ta thường chọn lợn cái, ít người mua lợn đực. Bọn thiếu nữ lợn đến tuổi động đực, kêu réo cả ngày không chịu ăn gì, má cứ đỏ hây hây. Các cụ nhìn qua phía đuôi cũng biết là cần kế hoạch hóa gia đình cho nàng.

Thế là có dân hoạn lợn từ Gia Lâm qua Long Biên vào thành phố. Đang làm thơ lãng mạn, anh thương yêu em đến cuối đời, anh thề nguyền sẽ chung thủy, thì bỗng có tiếng rao “Hoạn lợn đây, hoạn cả lợn nam, lợn nữ, một phát ăn ngay, không sót trứng, không bỏ tinh hoàn, hoạn xong, lợn lớn như Thánh Gióng”.

Có lần mình sang chơi nhà bác Tâm, giả vờ khen lợn mới hoạn có vẻ chóng lớn. Bác sa sầm nét mặt vì người ta kiêng khen, nhưng cũng chẳng thích chê. Tốt nhất là ngắm lợn từ xa và tự chiêm nghiệm cuộc đời xem có giống lợn hay không.

Quả thật, hôm sau bác than, chẳng hiểu sao lợn ỉa lỏng, không chịu ăn gì cả. Hai vợ chồng đang lo mất ăn mất ngủ. Nhưng mấy ngày cuối tuần, bác vồn vã gọi, chú Cua vào chơi xơi nước, cứ tưởng do vía chú độc nên lợn ốm, rủa chú oan.

Hóa ra từ hôm chú sang chơi, lợn vật vờ do đau vết hoạn, nay khỏe hơn. Cứt lợn bây giờ khô lắm, tôi có thể bốc tay cho vào chuồng xí được. Chú ăn lạc, uống nước đi.  Lợn ỉa vón cục mừng hơn cả chồng vừa dứt cơn hen.

Vân Linh kể rất tội nghiệp. Bố mẹ cũng nuôi chú lợn trên tầng 3. Thiếu nước ăn, tắm giặt cho người nhưng vẫn phải đủ nước để dội phân, tắm mát cho lợn.

Em là con gái mới 8 tuổi vào đi ị, sợ hết hồn, vừa ngồi vừa run. Con lợn gần tạ cứ ủi em ngã đổ vào tường để tranh thức ăn…thải.

Bây giờ lấy chồng, có hai con, định cư bên Mỹ rồi. Em vẫn có giấc mơ Mỹ không thành là nuôi heo bên xứ cao bồi để dạy con cái. Có trải qua gian khổ mới nên người.

Em kể, hồi đó vào mùa Tết, nhà được phân phối 1 kg thịt bò, sang lắm. Các cụ kho mặn rồi để trên bếp dầu, dành cho các con ăn dần ba ngày Tết. Cạnh đó là chuồng lợn, chính là cái buồng tắm, đã ngăn bằng một cái vỉ tre rất to và chắc. Cả nhà yên tâm đi chơi đón Giao thừa.

Khuya về thấy cái vách ngăn tung lên, nồi thịt bò bị lợn xơi sạch hết sạch. Các con nước mắt ngắn dài, tiếc nồi thịt đứt ruột. Thế là hết Tết.

Nhưng hai cụ còn lo lắng hơn khi thấy con lợn 50kg đang kêu réo, chõ mõm vào cái xô nước đã cạn tới đáy.

Hóa ra cu cậu chén cả nồi thịt bò mặn quá nên khát nước. Uống bao nhiêu nước cũng chẳng ăn thua. Mấy ngày liền toàn nằm thở, bụng chướng, tưởng không qua khỏi. Mà lối đời, thịt lợn ốm không bán được cho ai, có bán cũng như cho.

Run lập cập, các cụ thắp mấy nén hương, khấn trời đất giúp cho lợn tai qua nạn khỏi. Giời có mắt, thương người nghèo, chú lợn khỏi bệnh nan y thời đại “đời lợn ăn mặn, đời chủ tràn nước…mắt”.

Được 80kg, bố mẹ bán cho hàng thịt và lấy cả cái thủ chiêu đãi các con đã phải nhịn thèm mấy ngày Tết vì mất nồi thịt bò.

Nhớ thời lụt lội ở bến Chương Dương, người ta thấy một người đàn ông cởi trần, lội nước đẩy một cái bè, sơ tán cả nhà lên đê sông Hồng. Trên cái bè là bà vợ vung vẩy tay chỉ đạo. Bên cạnh là cậu con trai cởi truồng, rét run nhưng vẫn vỗ tay hoan hô.

Trên cái bè là một cái giường, đủ chăn chiếu, chú lợn to tướng nằm ủn ỉn. Lợn phải tránh nước lũ rất độc, nếu không sẽ ốm, mất cơ nghiệp.

Sự phân chia giai tầng rất rõ thời đó: CỤ LỢN trên giường, ÔNG CON trên bè, BÀ VỢ đứng chỉ huy và THẰNG CHỒNG lóp ngóp đẩy bè.

Chuyện của Giáo sư Văn Như Cương còn thú vị hơn. Hai vợ chồng thấy khổ quá, cũng bắt chước nuôi lợn. Chả biết có lãi gì không nhưng hàng xóm ghen ăn tức ở, báo công an.

Nhà công lực lập biên bản “Giáo sư Văn Như Cương nuôi lợn, vi phạm qui tắc vệ sinh thành phố. Phạt vi cảnh 5 đồng (lương hồi đó 60 đồng là to lắm), và phải bán lợn ngay lập tức”.

Giáo sư xem xong và đề nghị “Các anh giúp sửa một vài từ trong biên bản, tôi sẽ ký và nộp phạt ngay”.

Hỏi ra mới biết ông đề nghị sửa “Lợn nuôi giáo sư Văn Như Cương” cho đúng hoàn cảnh gia đình nhà giáo nghèo và lương thiện.

Nghe nói mấy anh công an gạt lệ ra về và suy tư về thời đại “Lợn nuôi người”.

Thịt lợn…trộm

Những năm 1960, nhà ai nuôi lợn phải đăng ký với UB. Thịt, mua bán đều làm đơn trình báo, rồi nộp thuế khá cao. Lợn nhà mình bỏ tiền ra mua, nuôi bằng nước gạo và cám nhà mình, nhưng thuộc sở hữu nhà nước.

Dân thì vốn gian. Chả ai dại gì đi nộp thuế vài đồng một đầu lợn, trong khi cả con lợn chỉ được vài chục đồng. Thế là có chuyện thịt lợn trộm, đủ kiểu, đủ bài. Công an hay dân quân, kể cả lính nhà đoan cũng phải lắc đầu.

Ông Thiêm hàng xóm nhà Cua nổi tiếng là đồ tể lợn. Cụ chọc tiết một phát là đầy chậu, lợn chết ngay tắp lự. Quan trọng nhất là lợn không kêu thành tiếng. Eng éc là hàng xóm đi báo công an xã, họ đến tịch thu cả lợn, lại còn phạt tiền, sạt nghiệp, rồi phê cả vào lý lịch, gia đình không gương mẫu, con cái khó vào đoàn Thanh niên.

Bài giết lợn của cụ Thiêm thật đơn giản. Cho cái vồ vào đầu, lợn ngất, cho ngay bàn lên chọc tiết. Chậm chút là lợn chết, tiết không ra thì thịt đỏ và hôi. Lũ trẻ được giao trách nhiệm trông dân quân đi tuần. Nếu ai lạ thì cảnh báo, chả khác gì ngoài chiến trường.

Một nồi nước sôi cạnh bụi tre, cạo soàn soạt 10 phút xong chú lợn. Chia phần chính xác đến từng khúc ruột kể chim lợn. Các cụ còn gọi là đánh đụng, nhà ông một đùi, nhà tôi nửa đùi, cắt cắt, xẻ xẻ, trong nửa tiếng, con lợn biến mất như chưa từng có trên thế gian này.

Sáng sớm hôm sau, bà già gầm lên, cha tiên nhân năm đời, mười đời nhà đứa nào ăn trộm lợn của bà. Mày ăn rồi mày nôn thốc thốc nôn tháo, chẳng được nên người.

Đó là thông điệp ngầm cho chính quyền địa phương về con lợn “biến mất” đêm qua. Làng Tụ An ấy cứ vài ngày lại có cảnh mất lợn và tiếng chửi vang như hát hay.

Dân quân xã tới lập biên bản và tìm quanh thấy cả một đống lông lợn cùng phân tro ngoài bụi tre. Hỏi, sao bọn trộm giỏi thế, ăn cắp con lợn to tướng, không ai biết, chó không cắn, mang ra bụi tre, đun nước xẻ thịt, không ai hay thì thật lạ. Đây là con dao bầu của nhà bà Ba phải không.

Sau này còn nghĩ ra kiểu cho mấy hạt đậu vào tai lợn, lợn lọng óc không kêu, cứ thế mà chọc tiết.

Thời mở cửa, dân đồ tể châm điện, lợn giật một cái là…đi, không kêu thành tiếng vì sợ ô nhiễm tiếng ồn trong khu phố.

Có lần bà già đánh đụng thịt lợn của hàng xóm, mang về xào nấu thơm lừng. Bỗng dân quân ập vào kiểm tra. Bà vội mang cái chã đầy thịt ra bụi tre giấu. Họ đi khắp trong nhà, dưới bếp cũng không tìm ra.

Dân quân đi rồi, bà ra lấy lại, thì than ôi, kiến vàng bu đầy. Vừa thổi vừa đuổi kiến, lũ con háu ăn chén tất. Kiến vàng hơi đăng đắng, cũng chẳng sao, so với mùi thịt lợn thơm và nước mắm tép vàng ươm chén với cơm trắng đầu mùa, Tổng Cua chưa thấy cao lương mỹ vị nào bằng.

Bây giờ nuôi lũ con sao mà khó thế. Thịt kho tầu cực ngon, chúng bỏ hết mỡ, chỉ ăn nạc, lại còn chê ỏng chê eo, sao nhà mình toàn ăn pork.

Giá như chúng đọc những dòng này sẽ hiểu tại sao, mỗi lần nhìn lũ con chê cơm, vứt thức ăn vào thùng rác, rồi sợ mỡ trong máu, Tổng Cua rơi nước mắt.

Chả hiểu từ bé sống no đủ,  Bin và Luck có nên cơm cháo gì không. Thằng bố của chúng ngày xưa, cả năm được vài miếng thịt lợn trộm mẹ mua ăn với kiến vàng, rồi cũng nên người.

Cách Mạng vào miền Nam mang theo những bài hát đến lạ lùng , lúc ấy chúng tôi còn học trung học, bà chị lớn đi làm Ngân Hàng Sài Gòn được lưu dụng chỉ vì may cho bà ấy, chị họ của tôi ngoài Bắc vào là vụ trưởng vụ Ngân Hàng nếu không đã bị tống cho về vườn chỉ vì bà ấy lười lao động quá vì ở cái tuổi chỉ nhấp nhỉn hơn 20 một tẹo , không chịu mặc quần đen áo bà ba mà cứ mặc áo dài tha thướt đi làm. Cơ khổ với bà ấy. Chẳng biết lâu rồi cũng ngấm vào người hay sao đó , thế là chị cũng tham gia lao động sản xuất, sắm 1 con heo mọi và 2 con ngang mang về nhà “vỗ béo” , chặn cái sân trước nhà, rào lại va' chúng tôi từ đấy sống chung với súc vật. Đi làm về, chị cũng lăng xăng xắt thân bắp chuối và nghêu ngao hát của Nguyễn văn Tý ” Em đi làm ngân hàng, nuôi đàn lợn béo…”.
Tưởng đi làm ngân hàng, chỉ biết có tiền, nay thì biết cả đến lợn, mà “vỗ béo” thì thế nào lợn cũng lớn lên, cũng bán được tiền, rồi sẽ mua sắm cái này cái kia, ký thác vào ngân hàng… làm tôi liên tưởng đến chuyện ngụ ngôn của La Fontaine. Đâu rồi Nguyễn văn Tý với bài hát “Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn gợi bao tiếng tơ…”
Không phải chỉ có bà chị từ một thiếu nữ kiêu sa , dịu dàng với áo dàng tha thước thành chị nuôi lợn vỗ béo, cô hiệu trưởng của trường trung học Trưng Vương của tôi ngoài Bắc vào tiếp thu ngôi trường là người đầu tiên tôi thấy tham gia sản xuất. Mỗi sáng đến trường sớm, chỉ lác đác vài ba nữ sinh, tôi thấy cô Hoa đang cặm cụi xắt những thân chuối cho lợn , tranh thủ trước khi tiếng chuông của bác Ba gác cổng reng lên báo hiệu đến giờ học , mang kiến thức công dân giảng dạy cho lũ học trò trong Nam “Năm Điều Bác Hồ Dạy ” cho thiếu nhi trong đó có điều “Lao động thật tốt ” mà cô Hoa hiệu trưởng đang làm tấm gương cho chúng tôi.
Chẳng thế, lên đại học, một cô giáo theo chồng tập kết từ Hà Nội vào , ngoài việc lên lớp cũng tham gia sản xuất , vỗ lợn béo….
Tự dưng hôm nay đọc bài viết này, cả một ký ức về vỗ lợn béo, nhà nhà sản xuất, người người sản xuất , ngay cả người nhạc sĩ tài hoa Nguyễn văn Tý cũng sản xuất ra một bài hát ca ngợi những ai vỗ lợn , lại hiện về.
Một thời đã qua….Hồi đó cả nhà tôi mười mấy người ngày nào cũng ăn cháo, phải lường ra mỗi người một tô, nếu không sẽ có người ăn tranh lố phần. Ba tôi sửa xe đạp, chị tôi ngồi chờ ông sửa xong để lấy tiền đi chợ. Có hôm cay đắng, gặp đúng mấy tên bộ đội lưu manh, ba tôi sửa xong xe cho hắn, hắn leo lên xe rồi nói “bác ở nghỉ nhé” rồi dông tuốt không trả xu nào. Thế là cả nhà ngậm ngùi ăn cháo tiếp. Chị tôi bán xăng dầu cũng bị cho là bán chui, rồi bị công an xách nhiểu bắt bớ hoài. Cơ cực đến dép không có mà mang! Lúc tôi đi dạy chị tôi lợm ở đâu đôi dép sapô cho tôi mang, dép thì nhỏ, chân thì to tôi cũng ráng nông vào, đến nổi sau này bị nấm azima chửa hoài không khỏi

THÁNG BA NĂM ĐÓI

Con gà trống sang hàng xóm theo mái hay kiếm ăn sao đó bị con chó hàng xóm táp chết ngoẻo đầu ở bụi tre, bố con anh Thường cả buổi tối đốt đuốc đi tìm mãi mới thấy sau khi kiểm điểm gà lên chuồng thì thấy thiếu cu cậu.

Con chó cắn rách da cổ nhưng nó không ăn, con gà khốn khổ lết vê đến bờ giậu nhà thì nằm chết ở đó. Ðám gà mái nhanh chân chạy được về chuồng. Thế là bố con anh Thường phải giết gà làm thịt ngay buổi tối.

Con gà thật lớn, thật nhiều thịt chỉ tội cái thịt nó hơi thâm vì máu chạy vào. Khi cắt tiết, lợn cũng thế, máu chảy ra ngoài nên thịt trắng, trông ngon hơn. Thịt gà thâm làm người nhìn cứ ngỡ thịt gà toi, ăn kém ngon.

Chị Thường vừa xào nấu vừa thương con gà. Những đứa trẻ cũng thế; nếu như không bị chó hàng xóm cắn, con gà sẽ được nuôi cho đến khi nó chết. Dù sao nó cũng đã hơi già, con rồi cháu nó mà còn nuôi thì bây giờ chúng cũng đã to như nó. Bộ mã trên lưng không còn bóng nhẫy, mượt mà như trước mà đã có vẻ hơi xơ xác. Cái mồng khi còn “thanh niên” thì đỏ tươi, giờ này đã hơi ngả mầu thâm, chảy rũ xuống mắt. Chỉ có đôi chân thì to ra, vững chãi hơn và cựa dài hơn nhưng mầu da chân cũng bạc hơn chứ không váng tươi đẹp đẽ như trước. Ðược một cái nó vẫn quản trị sáu con gà mái tơ một cách chu đáo. Trứng mấy con gà mái của chị Thường không bị thiếu đực bao giờ, cho ấp bao nhiêu, có bấy nhiêu gà con. Người ta thường hay nói” đực già, mái tơ” để chỉ những ổ gà cần có thêm gà con.

       Chiếu hôm sau, anh Thường trao tiền và cái cút (khoảng ¼ lít) cho thằng Thương bảo nó đi mua cút rượu trắng về ông uống.

       Ông Thung và anh Thường mỗi người một chén rượu nhỏ, mỗi người một cái cẳng gà, chấm muối chanh, ăn với củ hành sống.

       “Chân gà mọi khi nhắm rượu ngon lắm mà sao hôm nay nó dai, nó cứng quá vậy, bố Thương?” Ông Thung hỏi con.

       Anh Thường ngừng nhai:

       “Con gà trống này hơi già, bố à!”

       “Thôi, cho tao bát cơm. Bố mày cứ uống rượu đi.”

       Ông Thung gắp thử vài miếng thịt nhưng thịt nó cũng dai. Gà trống mới biết gáy ăn mới ngon chứ đã để nó đạp mái mùa này qua mùa kia, thịt đâu còn gì là thơm, ngon. Cũng như lợn, chỉ lợn thịt là ngon chứ lợn nái sề hay heo nọc, thịt đã dai nhách mà còn hôi khó nuốt như lợn toi.

       Với mấy đứa trẻ thiếu thịt lâu ngày, tuy thâm và dai vậy nhưng được ăn cơm không với thịt gà cũng là sang roi. Chúng không quên cho con Mực mấy cái và con Mướp vài miếng thịt.

 3                        

 Yêu đang đút cơm cho em. Có mấy con tép riu đỏ cạch rang mặn và mấy miếng rau xào chút mỡ nước, thơm mùi hành, nó cũng không dám ăn, dành cho em. Nó vừa nhai vừa nhìn con Tí sáng mắt lên sau mỗi thìa cơm có vài con tép mà thấy lòng vui vô tả.

Lại nói đến con Mực và con Mướp của anh Thường.

       Con Mực, con chó anh Thường nuôi đã được 5 tháng. Lông nó đen tuyền nhưng ở dưới cổ và ức cũng như bốn chân có mấy vệt lông trắng. Người ta gọi nó là  “tứ túc mai hoa, thạch sùng bám cổ”, quí tướng lắm đấy, chủ nó sẽ giầu có cho mà coi. Anh Thường mua được nó từ một nhà có con chó cái đẻ 4 con, nhà bác Chưng ở làng bên cạnh, làng Vạn.

       Trong lúc Yêu và Tí ăn cơm thì con Mực đứng bên dưới hóng mắt lên cô chủ nhỏ xem cô có cho nó miếng nào không.

Yêu đâu có quên nó. Mỗi khi mở vung nồi cơm nóng ra, phần trên mặt nồi thường thỉnh thoảng có tro than lách vào vì phải vùi trong tro nóng, cơm mới chín thì phần mặt nồi cơm bao giờ cũng là phần của con Mực.

Tuy nhiên, bữa trưa không có nấu cơm nên Yêu phải để dành cho con Mực nửa bát vừa cơm vừa ngô khoai. Cũng chẳng có đồ đựng, cứ đổ ngay trên nền đất, loáng cái là Mực ăn nhẵn.

       Người ta thường bảo, chủ nghèo nên đầy tớ rất dễ tính. Con Mực từ khi về nhà anh Thường ăn mọi thứ chủ cho. Thường nhất là bát cơm mặt nồi, cơm ghế khoai ghế sắn đã đành mà chủ vứt cho một củ khoai hay vài khúc sắn, Mực cũng làm tuốt luốt. Chỉ thịt sống, cá sống Mực không ăn thôi. Mực rất hay chuột; chuột ban đêm bò loạng quạng ở sân là bị Mực đớp liền. Chuột lăn quay ra đó hết cựa quậy, Mực bỏ đi cho đến sáng chủ dậy thấy chuột mới đào lỗ chôn. Trái với mèo, mèo chộp được chuột là mèo nhai cả xương.

       Bởi vậy không những bốn người lớn mà cả đám trẻ đều yêu Mực. Hôm nào có sẵn tiền, mua được mớ cá vụn rẻ, chị Thường kho nhạt lên cho Mực, trộn với bát cơm , đó chính là một bữa đại yến. Lâu lắm mới có một bữa tiệc như vậy.

       Ngoài con Mực, anh chị Thường còn nuôi con Mướp. Mướp thuộc giống mèo ta, nhỏ nhỏ con nhưng rất hay chuột. Khi chưa có Mướp, chuột phá chịu không nổi mà con Mực rất tức giận nhưng không leo trèo được, chỉ chống hai chân trước gầm gừ ngồi nhìn lũ chuột tặc làm dơi làm  quái.

       Nhân  một hôm đi chợ phiên làng Cát, anh Thường nhìn thấy con Mướp này, chủ bán bỏ trong một cái lờ bắt cá.

Con Mướp là một trong bốn con một ổ, người bán nói thế với anh Thường khi anh cầm cái lờ lên ngắm nghía con Mướp xem “tướng tá” nó có khá, có hay chuột không. Ổ bốn con mà ba con kia bán rồi, có nghĩa những người mua trước đã chọn hết những con to, con đẹp, con hay chuột. Còn cái con “đèo, con đuột”này chắc gì đã khá.

       Anh Thường đặt cái lờ xuống toan bỏ đi thì chị Sên, người bán, niềm nở:

       “Giống mèo nhà tôi hay chuột lắm đó anh! Không mua uổng. Con bố con mẹ nó là cứ bắt chuột cả ngày, không con chuột nào mà còn với nó.”

       “Chị mới nói người ta mua ba con rồi, phải không?” Anh Thường nhìn người bán.

       “Phải, người ta mua ba con rồi.”

       “Thế thì có con đẹp, con tốt người ta chọn hết rồi. Còn lại con này là bét nhất ổ đây.”

       “Phải, con này bé hơn ba con kia nhưng coi bộ nó nhanh hơn. Bắt chuột nhắt cần gì mèo to hả anh? To lắm tốn cơm. Cứ xoăn xoẳn mà hay chuột là được rồi. Còn con chót, tôi bán rẻ cho anh tôi về, tôi không muốn ngồi thêm  nữa.”

       “Thế chị lấy tôi bao nhiêu? Con này cái, tôi không thích mấy.”

       “Ba con kia mỗi con 15 đồng đấy, thôi con này tôi bán rẻ cho anh 12 đồng.”

       Anh Thường thật thà, thấy đã rẻ được ba đồng, không kì kèo nữa, móc tiền ra trả rồi xách cái lờ nhốt con Mướp đưa về. Anh nghĩ thầm, cái thì cái mà hay chuột là được.(Ngày nay, đệ tam thiên niên kỉ, chính trị gia bảo:”Mèo trắng, mèo đen, mèo nào bắt chuột là được, ý nói chủ nghĩa nào phục vụ dân tốt là tốt).

       Về đến nhà, trước tiên là đám trẻ reo hò vì từ nay đã có con mèo bắt chuột. Chị Thường cũng vui, đặt Mướp lên bàn tay, vuốt ve. Con Mực thấy có con thú lạ trong nhà, nó cứ nhìn con Mướp sủa rộn lên, có vẻ không đồng ý sự có mặt của con Mướp. Nhưng anh Thường bảo Mực ngồi xuống đó, anh cầm con mèo vuốt ve trong bàn tay anh, đưa đến trước mặt con Mực, bảo nó:

       “Ðây là Mướp, nó là em mày. Mày có nhiệm vụ canh kẻ trộm và người lạ vào nhà. Còn Mướp phải săn lùng đám chuột mất dậy. Mày phải bảo vệ Mướp. Không được rượt, được cắn nó. Mày làm sai thì tao trị tội mày, nghe không?”

       Anh lấy tay vỗ vỗ vào đầu con Mực. Con Mực làm như hiểu. Nó sủa lên mấy tiếng đáp lời chủ và từ lúc đó, dù con Mướp có lăng xăng bên cạnh nó, nó cũng không tỏ vẻ gì khó chịu chứ nó chỉ đớp một miếng là con Mướp toi đời.

Con Mướp cũng không lạ Mực, thỉnh thoảng vẫn lởn vởn bên cạnh Mực kêu “meo, meo” nhặng xị lên nhưng Mực vẫn ra vẻ đàn anh, không đếm xỉa gì đến cái đứa con nít con nôi hay vòi hay nhè. Chỉ lúc cho hai con ăn là phải cẩn thận. Mực ăn ở đưới đất, cơm đổ ngay trên nền nhà; còn Mướp thì ở trên nóc chạn hay trên chõng tre, riêng biệt hẳn chứ không có đụng chạm. Mực tuy lúc thường thì hiền vậy nhung lúc ăn thì chỉ sợ có kẻ khác ăn mất của mình nên Mực thủ thế kĩ lắm. Chớ có con vật nào cà rà đến bên Mực mà Mực nhe nanh ra gầm gừ chỉ chực đớp. Cái bản tính ghen ăn Mực chưa thể bỏ được. Hơn nữa, một bát cơm mặt nồi với Mực không thấm tháp vào đâu. Cho đúng ra, Mực phải ăn bốn bát mới no nên Mực giữ miếng ăn như giữ “mả tổ” cũng là đúng vậy thôi.

       Còn Mướp vốn ăn ít nên bữa nào cũng dư, lát nữa đói, Mướp đến ăn tiếp.

       Mướp vẫn nhỏ con, lớn chậm vì Mướp ăn ít mặc dù mẹ con chị Thường vẫn lưu tâm cho bát cơm của Mướp luôn luôn có chút mỡ màng, tôm cá. Tuy mới bằng hai cái nắm tay nhưng Mướp tỏ ra hay chuột từ khi Mướp mới được bốn, năm  tháng.

Mướp đã “làm bàn” đầu tiên khi Mướp chộp được một con nhắt lởn vởn đến gần cái chạn đựng thức ăn. Mướp cắn cổ con nhắt cho chết rồi tha ra để trên bậc hè, chứ không ăn. Yêu dã nhìn thấy con chuột nhắt nằm quay lơ ở đó, gọi cả nhà coi, đám trẻ con hò reo ầm ĩ hoan nghênh Mướp hết mình. Từ hôm đó, chúng thay nhau săn sóc Mướp, cho ăn khá, tắm rửa mỗi tuần, mong cho Mướp mau lớn để trị tội lũ chuột hỗn hào, không coi ai ra gì. Sau đó anh Thường bảo thằng Hôm đem ra vườn chôn thật sâu.

       Con Tí coi như đã no với vài lưng cơm. Con Yêu thì thế nào cũng xong, có khi nó còn đói mà nó vẫn phải dành phần cho con Mực vì nó biết con Mực cũng cần ăn như nó. Yêu xuống bếp rót một bát nước chè khô - thứ chè đưa từ Phú thọ về, rất phổ thông lúc đó - uống một bát và đưa một bát lên cho con Tí. Nó nghiệm ra rằng dù còn đói, còn thèm cơm, cứ uống một bát nước chè vào là bụng lửng ngay.

       Buổi chiều, khi con Chiều khoảng hai giờ về thì nó coi con Tí để Yêu lo cơm nước buổi tối. Ðôi khi bà nội Yêu  cũng giúp nó một tay nhưng cái chủ trương của người lớn là nó phải làm được mọi việc trước khi đi lấy chồng kẻo mai sau lọng ngọng là bà mẹ chồng lại cứ réo người lớn mà mắng vốn. Thành ra nó phải làm quá sức của nó.

       Yêu ra vườn hái ít rau mồng tơi đem vào nấu canh với chút mắm tôm, mắm cáy. Lúc bu Yêu về, thường có mẻ tôm cá vụn bu mua ở chợ chiều, Yêu đem kho mặn lên là xong. Vại cà, vại giưa lúc nào cũng đã có, đã làm sẵn. Khi chưa hết vại này thì chị Thường đã mua cà và cải bẹ về làm thêm vại khác thành thử trên mâm cơm, không lúc nào thiếu hai thứ đó. Không có tôm tép thì cà, mắm tôm, giưa chính là những món mặn ăn chung với canh.

       Năm thì mười họa và có hừng chí lắm vì có mấy củ đâu phọng rang hay đồng bánh đa nướng, anh Thường mới bảo thằng Thương đi lại bà phó Xuyến mua cút rượu trắng về mời ông Thung. Hai bố con mỗi người nửa cút vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả trong khi bà Thung, chị Thường và các đứa trẻ xin phép ăn cơm trước.

       Chỉ có vậy chứ chẳng sơn hào hải vị gì nhưng tình gia đình vui vẻ, đầm ấm và gạo thóc đủ nuôi mọi người làm ai nấy sống trong hạnh phúc, một thứ hạnh phúc đơn điệu, chất phác không hoa hoè hoa sói nhưng thâm sâu, tình nghĩa vô cùng.

4

 Kể ra vài năm nay được mùa, thóc gạo cũng khá nên đỡ phải ăn độn nhưng ông Thung lúc nào cũng lo đói vì nhiều trận đói đã đi qua trong đời ông nên dù lúa gạo có dư dả đấy, ông bắt con dâu và cháu thỉnh thoảng cứ phải hấp thêm ngô, khoai vào và thổi bớt gạo đi. “Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn” ông Thung luôn luôn thực hành điều dạy bảo đó

Anh Thường đã cấy 5 sào lúa vụ Ðông - Xuân 1943. Phần còn lại là mẫu rưỡi, anh đã làm đất để trồng đay theo chỉ thị của nhà nước.

Những người bạn nông dân của anh như anh Khuông, anh Thiều, anh Bảng, chú Ruyên, chú Thập... đều đã bỏ lúa trồng đay.

Mà không trồng sao được. Như ông Quỵ ở làng Vạn không chịu tuân theo lệnh bị lí trưởng còng tay giải lên huyện, bị đánh, bị ngồi tù cả tháng, lúa đã cấy bị phá huỷ và bắt phải gieo hạt trồng đay không thì bị tịch thu gia sản.

Có hai nông dân nữa ở làng Hoài và làng Bút cũng thuộc tổng này đã trái lệnh và bị tù. Ðó là anh Ngưng và anh Hành. Anh Ngưng bị giải lên huyện còn cãi lí và nói lời hỗn láo với quan huyện bị cùm chân, trói tay, bị đánh, bị giam không cho ăn, rũ người ra tưởng chết. Quan huyện sợ anh chết trong nhà giam nên kêu vợ con lên cho khiêng về. Anh bị nặng quá, ốm rụng cả tóc đầu, người chỉ còn như cái xương đay.

Trước đây, gia đình anh Ngưng cũng có bát ăn, bát để, dù chẳng giầu có gì  nhưng dù sao với nông dân miền Bắc lúc đó, gia đình anh cũng được liệt vào loại trung bình. Khi vụ bắt bớ xẩy ra vì anh bất tuân lệnh nhà nước, chị Ngưng đã phải bán thóc lúa lấy tiền đút lót cho lí trưởng, chánh tổng để nói với quan huyện tha cho anh về làm ăn, xin sẽ theo đúng lệnh nhà nước, không dám ngang ngạnh nữa.

Nhưng án đã ra, anh đã là kẻ có tội, chống lại nhà nước nên anh phải ngồi tù. Trong tù anh chửi cả lính gác, chửi cả quan huyện nên càng bị tra tấn, hành hạ khổ sở chết lên chết xuống. Vợ anh xót chồng kiếm chỗ chạy chữa  đút lót cho nha lại để họ nói với quan huyện cho. Nhưng có những kẻ chỉ lừa chị lấy tiền mà không được việc gì, của cải nhà chị đi gần hết mà anh Ngưng tù vẫn hoàn tù.

Chúng ta cần phân biệt hai loại đay: đay để lấy ngọn và lá nấu canh, ta vẫn thường goi là canh rau đay, có chất nhớt như trái đậu bắp (okra). Thứ rau đay này thấp, chỉ cao khoảng 50cm, có nhiều cành chi chít. Có hai loại: một loại lá xanh, cành xanh; một loại lá và cành đỏ tía. Thứ nào nấu canh cua cũng đều ngon và làm nhuận trường. Ông già bà cả miền quê chỉ bát canh rau đay với vài quả cà ghém là xong bữa cơm, không cần thịt thà, cá mú.

       Ðay lấy vỏ cao đến 2m, không có cành, hoặc chỉ chút ít. Cây thẳng, đường kính dưới gốc lớn nhất khoảng 2in, vỏ da xanh nhợt, bên trong vỏ gọi là xương đay, sốp, mềm, không làm được việc gì ngoài chụm củi. Ngọn và lá đay này ăn cũng có chất nhớt nhưng đắng như khổ qua, ít ai dùng ngọn đay này nấu canh.

Ðến mùa thu hoạch, khi cây đay đã lớn hết mức và đủ tháng để vỏ của nó đủ dai, nông dân nhổ cả cây, dũa rễ dưới sông cho bùn đất đi hết, đem về sân lột lấy vỏ, phơi khô, đánh từng bành để đó lái về cân trả tiền.

       Vỏ gai trắng, dai và đẹp hơn vỏ đay, vì hiếm hơn nên chỉ để làm những vật dụng giá trị. Chiếc võng gai bán đắt gấp ba lần võng đay nhưng đẹp, mịn và rất bền. Tuy nhiên, đay phổ thông hơn gai nhiều.

       Hạt đay vỏ và hạt đay rau tương tự như nhau, nhỏ như hạt cải, đen, khi gieo xuống đất đã cày bừa đầy đủ, cây đay con mọc lên như mạ và lớn như thổi. Một năm chỉ được hai mùa lúa vào thời kì đó nhưng với đay, có thể được ba vụ. Tuy nhiên, cây đay yếu chịu lạnh, mùa Ðông chúng không lớn được như mùa Xuân và mùa Hạ.

       Sau này tìm hiểu được biết, sở dĩ quân đội Nhật cần nhiều vỏ đay đến thế là vì lúc đó phương tiện di chuyển bằng xe quân sự còn ít ỏi, không đủ nhu cầu. Quân đội Nhật thường chọn những nơi đồi núi cao đóng trại quân, xe vận tải không thể lên tới. Nhật bèn dùng dân công những nước chiếm đóng, bắt phải chuyển những khẩu đại bác, cao xạ và nhiều thiết bị quân sự nặng nề khác. Nhật cho đan võng đay, đặt những cơ phận vào đó, dùng một đòn tre cho hai người hai đầu khiêng võng đi. Lên đến nơi, chuyên viên ráp lại cho thành những ổ đại bác, cao xạ phòng không, đã không tốn phí xăng nhớt mà thời gian cũng không lâu hơn xe vận tải leo núi bao nhiêu. Chẳng những súng ống mà cả lương thực cũng dùng cách này để chuyển vận. Ta thấy thời Quang Trung đại đế, Ngài cũng dùng võng, hai người khiêng một người đi một đoạn đường. Sau đó theo thứ tự đổi vai, ai cũng được nằm nghỉ ngơi, ai cũng phải khiêng. Cứ thế mà Hoàng đế Quang Trung đã ra tới Thăng Long trong một thời gian kỉ lục, hứa với quân, dân mồng 7 tháng Giêng Ất Dậu (1789) sẽ vào thành Thăng Long ăn mừng chiến thắng thì trưa mồng 3 Tết, Ngài đã có mặt trong hoàng cung vua Lê.

       Dùng võng tải người và chiến cụ khi xưa rất độc đáo và lợi hại.

                                                 5

       .

      

       Gia đình tôi và gia đình anh chị Thường ở cùng xóm Ðông tuy khác giong, tiếng gọi những con đường nhỏ đi xuyên trong xóm. Anh Thường chơi với anh tôi và mỗi khi có giấy tờ gì bằng chữ Hán không hiểu, ông Thung hoặc anh Thường đem ra hỏi thầy tôi; khi thầy tôi đi vắng mà chỉ là chữ quốc ngữ thì hỏi anh tôi hoặc tôi.

       Làng tôi nói riêng, toàn Bắc Việt nói chung, thời Pháp thuộc trẻ em chỉ một thiểu số được đi học. Lí do dân ta nghèo quá, tay làm hàm nhai, khi không dư dả, cha mẹ đâu dám nghĩ đến việc cho con cắp sách đến trường.

       Thầy mẹ tôi chỉ làm đủ ăn, gọi là mát mặt với tay nghề Ðông y của ông và đôi bồ hàng xén của bà. Nhưng thầy tôi, vốn được theo Nho học nhiều năm nên quí sự học, lại chỉ có hai con trai, nên dù cách nào ông cũng cố cho con đi học để biết đạo lí Thánh hiền.

Ông đã từng làm thầy đồ dạy học trò :”chi, hồ, giả, dã”, những cuốn Minh tâm bảo giám chính văn, Ðại học, Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh tử... có cuốn ông thuộc lòng từ đầu tới cuối, dạy học trò không cần mở sách vì ông có trí nhớ rất tốt và đã nghiền ngẫm nhiều năm để đi thi Hương. Nhưng nghề thầy đồ ở thôn quê - nghề dạy miễn phí - không nuôi sống gia đình được nên thầy tôi phải đổi qua Ðông y.

       Không kể những gia đình ở thành phố vì ở thành phố người ta dễ nhận ra sự ích lợi của việc đi học, nhất là từ khi người Pháp vào nước ta. Thầy thông, thầy kí, thầy phán, thày giáo lúc đó, bỏ ngoài những chuyện khác, khi đậu đạt đi làm cho người Pháp vẫn có đồng lương dễ chịu và công việc nhàn hạ hơn dân lao động chân tay.

Những người này, hoặc dạy học ở các trường tiểu, trung học cho Nha Học chánh Ðông Pháp; hoặc làm công chức cho các toà Thống Sứ, Toàn Quyền, Công sứ, Ðốc lí, các cơ sở hành chánh địa phương của người Pháp, hay ngay như những mỏ than, những văn phòng hỏa xa, tầu thủy, những nhà máy nước, máy điện, chợ búa... mà người Pháp khai thác cũng cần người bản xứ biết tiếng Pháp để thông dịch, truyền lệnh xuống cho dân chúng, cho dân lao động người Việt làm cùng sở.

 Khi có chút chữ nghĩa, thông hiểu được người ngoại quốc nói gì, tất nhiên được trọng dụng và lương tiền  cao hơn dân lao động. Cũng như ngày nay, chúng ta đang ở Hoa kỳ, ở Pháp, ở Anh, ở Tây ban Nha v.v...chúng ta phải sinh sống mà nếu có chút vốn liếng ngoại ngữ, tất nhiên mọi sự dễ dàng hơn nhiều so với những người không có ngoại ngữ. Ngay như ở những nước trước đây có tinh thần bài ngoại, bỏ hết những chương trình học ngoại ngữ, coi như vong bản, mất gốc (Việt Minh chủ trương sau Tổng Khởi Nghĩa 19-8-1945) thì sau đó phải trở về với ngoại ngữ vì ngoại ngữ cần thiết để giao dịch trong mọi khía cạnh của đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao, y khoa, khoa học v.v...

       Cũng có một số nhà giầu hoặc mát mặt ở thôn quê thời đó nhưng phần nhiều không biết cái ích lợi của sự học. Dư tiền để mướn một thằng bé chăn trâu, chăn bò nhựng không mướn mà bắt thằng con trai 12, 15 tuổi đi chăn trâu, cắt cỏ và phụ việc đồng áng để đỡ phải chi ra mấy chục thùng thóc nuôi ăn và trả công đứa mục đồng.

Mặt khác, vì từ nhiều thế hệ không đến trường, có nhiều đứa trẻ cho đi chăn trâu, chăn bò thì làm hết mình mà bảo cắp sách đến trưòng thì chúng không thích, chúng trốn học vì thế chữ nghĩa ông thày có ra rả giảng bỏng họng, chúng không thâu thái được một phần mười.

 Rốt cuộc, cha mẹ cũng phải cho chúng trở lại nghề chăn trâu cắt cỏ, làm đồng làm áng, đánh giậm đánh cá, câu ếch tát ao mà thôi. Có thiếu gì những đứa trẻ ở trong làng cùng tuổi với tôi, gia đình khá giả, giầu có hơn gia đình tôi nhiều mà không đi học. Tự cha mẹ chúng cũng có, tự chúng thích thế cũng có và khi có cơ hội gặp nhau ở dưới sông như đi bơi, đá bóng v.v...chúng vẫn nhìn tôi với cái nhìn khác, như không phải đồng bọn, dù ở cùng xóm, cùng thôn, cùng làng với nhau.

       Anh Thường chính là một trong hàng trăm ngàn những đứa trẻ chuyên nghề nông tang ở Bắc Việt lúc đó. Anh ở vào lớp tuổi người anh lớn nhất của tôi, khi nạn đói xẩy ra, anh đã  đã có một đàn con sáu đứa. Nếu không có nạn đói, có thể chị Thường sẽ còn sinh nữa, sinh đến khi không sinh được nữa thì thôi vì lúc đó đâu đã có thuốc ngừa thai, đâu đã được học để bớt thụ thai. Vả lại, như nhiều dân tộc Á châu, người Việt quan niệm:”một con một của bằng nhau” có nghĩa dù nghèo tiền bạc, của cải mà đông con thì cũng kể như giầu có. Thời đó người ta chưa nhìn thấy khi nuôi một đứa con cho thành người thì tốn phí như thế nào, nhất là về chi phí học vấn. Người ta nghĩ có đủ gạo cho đứa trẻ ăn, vài bộ quần áo một năm, có mái nhà che nắng che mưa  là xong rồi.

       Nói gì thời đó, ngay mới 50 năm nay, quan niệm đó vẫn còn ở với xã hội Việt Nam. Chỉ hiện tại, khi nếp sống Âu - Mỹ ùa vào xã hội Việt Nam, nuôi một đứa trẻ rất tốn phí tiền bạc và thì giờ, công sức nên nhiều người đã sợ sinh đẻ.

       “Cái khó nó bó cái khôn” nhiều cha mẹ biết sự học là ích lợi cho con nhưng vì đông con, nhà nghèo, đành để con thất học hoặc chỉ được học qua mấy lớp tiểu học. Những đứa con ít học đó ra đời tất nhiên lại cũng chỉ làm nghề lao động chân tay, khó kiếm được những việc tốt, khá tiền, thế là lại tiếp tục nghèo, con chúng cũng không được đi học, cứ thế cái chu kì nghèo khó quanh đi quẩn lại mãi không có cách thoát ra.

       Nhiều nước giầu có như Hoa kỳ, Anh, Pháp ... có chương trình cưỡng bách giáo dục cho đến hết bậc Trung học. Ðiều này rất có lợi cho những gia đình nghèo. Học sinh tốt nghiệp Trung học đã có căn bản về nhiều vấn đề xã hội và kiến thức tổng quát, ngôn ngữ. Họ có thể đi làm kiếm sống không cần nhờ vào cha mẹ hoặc chính phủ trợ cấp. Họ cũng có thể vừa đi làm vừa dự các lớp tối tại Ðại học, thường có học bổng giúp đỡ những sinh viên học giỏi, chăm chỉ, không đủ tiền đóng học phí. Tự đó, nhiều người đã tốt nghiệp Ðại học một cách vinh dự nhờ vào ý chí và sức làm việc bền bỉ.

       Năm 1978, khi mới tới Cali, tôi đã đến ghi danh học tại trường Ðại học OCC. Ông thày Sử Hoa kỳ của tôi trước đó đã là một tài xế xe truck cho Ðại học này. Sau ít năm vừa làm vừa học, ông lấy xong Tiến Sĩ (Ph.D.) và trở thành giáo sư thực thụ tại trường xưa kia ông đã phục vụ với nghề lái xe và khuân vác.  Những cái gương như thế còn rất nhiều. Có những cụ già 70, 80 và cả 90 tuổi người Hoa Kỳ, xưa kia thất học, bây giờ về hưu lại trở về đời sống đèn sách, người đâu xong Trung học Phổ thông, kẻ lấy Cử nhân, năm nào cũng có. Thật đáng khâm phục.

       Một quốc gia, cũng như một con người, khi kiến thức đã cao, sự hiểu biết rộng rãi, tất nhiên những suy nghĩ và hành động của công dân hay tập thể công dân ngày càng khôn ngoan, trí thức, hợp lí, hợp pháp, tiến bộ, văn minh và nhất là đưa đến trình độ kĩ thuật cao vì đã học hỏi được nhiều điều hay trong sách vở của thiên hạ.. Trái lại, thiếu học vấn căn bản, con người và xã hội trì trệ trong lạc hậu, u tối, mê tín, dị đoan, tư duy sẽ càng ngày càng đi xuống, lệch đường tiến bộ của toàn thế giới đang tiến như vũ bão để thoát ra khỏi cái nghèo đói, dốt nát, khổ sở, bất công và muôn thứ khác. Người lớn có giỏi mới chỉ lại cho đám con em. Thế hệ này dốt, kém học thì không phải chỉ họ thiệt thòi mà những thế hệ sau đó cũng thiệt thòi vì không được chỉ dạy, chỉ dạy đúng đắn hay bị chỉ sai đường. Nền giáo dục thanh thiếu niên để mở mang trí đức thể dục trong một quốc gia hệ trọng vô cùng. Nó chính là tương lai của quốc gia đó.

Ông Bụt


Ls. Trương Phú Thứ

Văn học thế giới từ ngàn xưa đã có biết bao vần thơ và áng văn hoài niệm, tán tụng cũng như kể khổ về những mối tình đầu.  Những cuộc tình trai gái có đôi mắt khóc, có đôi mắt cười.  Những cuộc tình tắm gội trong hạnh phúc và những cuộc tình đầy nước mắt đau thương.  Tuổi thanh xuân của tôi không có những mộng mơ và cũng chẳng có những rụt rè hay sôi nổi của một mối tình.  Gia đình tôi nghèo quá, bụng dạ lúc nào cũng đói, một bát cơm vun đầy với miếng cá kho mặn chát cũng chỉ là giấc mơ.  Chiếc áo vá chằng vá chịt che tấm thân da bọc xương như một bóng ma lởn vởn chui ra chui vào túp lều rơm ngập ngụa ruồi nhặng.  Nhưng tôi cũng có một cuộc tình đầu đời, không phải với một người con gái đẹp như trong tranh vẽ nhưng ngày cũng như đêm lúc nào tôi cũng mộng cũng mơ được nhìn thấy, được ngửi mùi thơm và được ăn một bát phở.

Trong cái đầu óc quê mùa và lại quá nghèo khổ, tôi vẫn chưa hình dung ra được bát phở như thế nào, ngay cả chưa được nhìn hình ảnh một bát phở.  Tôi hoàn toàn không biết cái hình dạng cũng như mùi vị của bát phở mà chỉ được nghe phong phanh là thơm lắm, ngon lắm.  Ăn một bát phở là người ngợm phổng phao xinh đẹp hẳn ra, sức khoẻ chẳng thua gì ông Hạng Võ ở bên Tầu.  Chẳng biết từ đâu và vì một cơ duyên nào mà tôi lại biết trong các món ăn của con người ta lại có một thứ được gọi tên là phở.  Bởi vì ngay cả những ngày lễ tết thì tôi cũng chẳng được nhấm nháp cái gì khác hơn mấy quả cà pháo muối với bát rau muống luộc.  Nói đến chuyện được ăn một bát phở thì cũng chẳng khác nào chuyện lên cung trăng rửa chân cho chị Hằng Nga.

Tôi mơ được ăn một bát phở trong giấc ngủ.  Tôi ước ao được ăn một bát phở lúc trời vừa sáng.  Hình ảnh bát phở mà tôi hoàn toàn không có lấy một tưởng tượng dù nhỏ nhoi cứ lởn vở trong tôi cả ngày cả đêm.  Mối tình đầu đời của tôi không phải là những nụ cười rạng rỡ hay tiếng khóc hờn dỗi của một người đẹp mà là hình bóng và mùi vị của bát phở.  Tôi chưa nhìn thấy bát phở lần nào để mà thương mà nhớ. Tôi chưa được ngửi thấy mùi vị bát phở ra làm sao để mà đợi mà mong, nhưng tôi yêu và mê phở lắm.

Mãi đến năm mười bẩy tuổi tôi mới được nhìn, được ngửi mùi thơm và được ăn phở.  Cuộc cách mạng nhẩy vọt đi từ quả cà thâm và gắp rau muống đã ngả mầu vàng úa lên đỉnh cao của sự thèm khát là bát phở chẳng cần súng đạn mà cũng không có máu đổ thịt rơi.  Tôi đã được âu yếm mời mọc bằng những lời lẽ thân thương đi ra tiệm phở và…Giời ạ! ở nơi chốn đó tôi đã được ăn hai bát phở, uống một chai xá xị.  Cả hai thứ đồ ăn thức uống này là niềm mơ ước, là nỗi mộng mơ của tôi từ bao nhiêu năm rồi.  Bây giờ tôi đã hạnh phúc ôm vào lòng.  Phở và xá xị đã ở trong tôi và tôi đã thực sự trở thành một con người mới trong trời mới và đất mới.

Gia đình tôi quá túng bấn, cái ăn còn phải chạy vạy từng bữa rau cháo thì làm gì có tiền đi học.  Tôi mơ được đến trường học với tất cả những hồn nhiên vui thú của tuổi học trò.  Tôi ước ao được ẩn núp trong vòng tay yêu thương của thầy cô.  Nhưng tôi đã không được đến trường và ngay cả không có đến một cuốn sách để học.  Tôi làm công việc lau chùi chiếc xe gắn máy hiệu Puch cho một người cùng tuổi là học sinh một trường tư nổi tiếng ở Sài Gòn.  Nhiệm vụ của tôi là phải giữ cho chiếc xe lúc nào cũng như còn để trong tủ kính, không dính một hạt cát.  Đổi lại tôi được mượn đủ loại sách cần để học thi.  Tôi tự học, tự tìm hiểu và nếu có gì bế tắc thì hỏi chủ nhân của chiếc xe, một học sinh con nhà khá giả nhưng tính tình lại rất hiền hoà.   Tôi nâng niu, tôi o bế chiếc xe mầu đỏ chói chang như con ngươi trong mắt mình.  Những buổi trưa trời nóng như đổ lửa, những buổi chiều mưa như trút nước, ngày thứ hai cũng như ngày chuá nhật, tôi lau chùi những bụi bặm trên chiếc xe còn hơn những ghẻ lở trên thân xác còm cõi mình.  
Năm vừa mười bẩy tuổi, tôi nộp đơn thi tú tài phần thứ nhất thuộc thành phần thí sinh tự do là những học sinh không được nộp đơn thi bởi các trường công lập hay tư thục.  Thí sinh tự do ngoài những học sinh gia cảnh nghèo túng không được đến trường, phần còn lại tất cả là quân nhân và công chức.  Chúng tôi là một thứ con ghẻ, một loại “con bà phước” của trường thi.  Các thí sinh được sắp xếp ngồi từng phòng theo tên gọi, nhiều khi vài ba người ngồi bên cạnh có tên họ giống hệt như nhau.  Tôi ngồi cạnh một ông chắc đã trên ba chục tuổi.  Chẳng biết là quân nhân hay công chức nhưng nhìn vẻ  hiền lành điềm đạm của ông, tôi cũng thấy yên lòng.   Cái chòi lá của gia đình tôi chỉ cách khu thị tứ đô hội của Sài Gòn chừng nửa tiếng đồng hồ đạp xe nhưng mà sao phố phường vẫn xa lạ như ở một nơi nào trên trái đất.  Cảm giác rụt rè đến sợ hãi trong phòng thi mà đa số những thí sinh thuộc vào hàng tuổi cha chú lại càng làm cho tôi lo sợ hơn.

Bài thi buổi sáng của ngày thứ nhất là môn Việt văn trôi qua một cách bình thường.  Chúng tôi thi ban toán nên bài toán buổi chiều mới chính là một quyết định.  Sau khi nộp bài Việt văn, tôi đi ngang qua đường chỗ có những  tàng cây cao và một hồ nước nhỏ lềnh bềnh những mảng lá khô.  Vừa ngồi xuống một rễ cây to với một nắm xôi có chút muối vừng để dằn bụng chờ đến giờ vào lớp thì ông thí sinh ngồi cạnh tôi đã đi vội đến nói như ra lệnh:

“Đi ra tiệm ăn với tôi.  Thanh niên mà có một nắm xôi thì bõ bèn gi.”

Cả đời tôi chưa bao giờ đứng trước cửa tiệm ăn chứ nói gì đến vào tiệm ngồi ăn món này món nọ.  Nhưng tôi cũng biết rằng đi ăn ở tiệm thì phải có tiền nên vội vàng thưa:

“Cháu làm gì có tiền mà đi ăn tiệm.”

Ông thí sinh cùng tên cùng họ cúi xuống kéo tôi lên, lôi về phía chiếc xe Vespa nói:

“Cứ đi với tôi, tiền bạc thì đừng lo.”

Tôi ngồi lên sau chiếc xe.  Lần đầu tiên được ngồi trên xe Vespa, tôi sướng đê mê.  Qua vài dẫy phố, ông dừng lại trước cửa một tiệm phở, cầm tay dẫn tôi đi vào trong tiệm.  Mùi đồ ăn thức uống ùa vào mặt mũi, tôi thấy dễ chịu và tươi tỉnh hơn.  Đến một cái bàn trống, tôi lớ ngớ chẳng biết làm gì thì ông bảo:

“Ngồi xuống đi, ăn phở cho có sức mà thi toán.  Phở chín hay tái?”

Nếu ông đưa ra một phương trình lượng giác, không cần giấy bút tôi cũng có thể tính nhẩm và có một đáp số chính xác.  Câu hỏi “tái hay chín” thì tôi xin chịu.  Bởi vì lần đầu tiên tôi được nghe những từ ngữ lạ lẫm này.  Thấy tôi không trả lời, ông đứng lên đi đến quầy hàng nói chuyện với bà chủ tiệm.  Trong lúc ngồi chờ, ông nhỏ nhẹ bảo tôi sau khi nhận đề thi toán thì ráng làm thật nhanh trên giấy nháp và để ngay bên cạnh để có gì ông sẽ “giúp ý kiến”.  Tôi chẳng biết nói gì, chỉ vâng dạ theo ý ông.  Ông dặn đi dăn lại, cứ thế mà làm.

Nhà hàng bưng ra hai bát to, hơi nóng bốc lên mùi vị thơm ngào ngạt.  Đến bây giờ thì tôi đã được nhìn thấy hình thù bát phở và được ngửi mùi phở.  Tôi nhìn người gia ân cho mình.  Ông làm gì thì tôi cũng làm theo như vậy.  Ông với miếng chanh, rắc chút hạt tiêu, ngắt mấy lá rau thơm bỏ vaò bát phở.  Ông bắt đầu ăn và tôi cũng làm theo.  Húp một  thìa nước phở loáng thoáng những hạt mỡ vàng rộm điểm vài nhát hành xanh rờn.  Thơm ngon quá sức.  Những con tì con vị trong cơ thể tôi bao năm ngủ vùi với cà thâm và rau muống vàng úa như được đánh thức dậy trong một ngày nắng với hoa lá xinh tươi..  Cắn miếng thịt mỡ, chất béo ùa vào tận chân răng như sinh khí của Trời Đất ôm ấp cả thân mình.  Mùi thơm của lá ngò gai, vị cay nhạt chỉ đủ tê đầu lưỡi của lá húng quế quyện vào mùi béo ngậy của miếng thịt là cả một phối trí tinh xảo.  Một sắp đặt nghệ thuật trên cả tuyệt vời.

Tôi như hổ đói vồ được con mồi.  Chỉ một thoáng bát phở đã hết sạch.  Tôi bưng bát phở lên húp chút nước còn đọng lại dưới đáy bát.  Trong khi đó thì ân nhân của tôi vẫn phải đánh vật một cách khó nhọc gắp lên rồi lại thả những sợi bánh phở xuống bát một cách quá hờ hững như đang có một lo nghĩ to lớn.  Ông nhìn tôi, có vẻ khẩn khoản:

“Ăn bát nữa nhé?”

Bụng tôi như mở hội nhưng lại chẳng dám trả lời.  Tuổi mười bẩy ăn cả nồi cơm to còn thòm thèm thì vài ba bát phở có nhằm nhò gì.  Ông lại đứng lên ra quầy hàng nói với chủ tiệm.  Lúc quay về, một tay cầm một ly nước đá, tay kia có chai nước mầu nâu đậm mà sau này tôi đưọc biết tên là xá xị.  Ông ngồi xuống ghế, rót chai nước vào ly rồi đẩy sang phía tôi cũng vừa lúc người đàn bà chủ tiệm bưng ra một bát phở.  Bây giờ tôi đã quen nước quen cái, đã biết ăn phở mà không cần phải ngó ngàng trước sau để học kiểu học cách ăn sao cho đúng điệu.  Tôi lùa những miếng phở ngai ngái mùi thơm của mỡ bò và rau thơm thật mạnh bạo.  Miếng nào ra miếng nấy.  Hành ngò bám chặt vào miếng thịt vừa chín tới, cắn ngập răng mà thân xác như bay bổng chín tầng mây.  Chỉ vài ba phút, bát phở  đã  sạch ngoén.

Còn gần nửa tiếng nữa mới đến giờ vào phòng thi.  Chúng tôi trở về gốc cây ở một khoảng đất trống bên kia địa điểm thi.  Tôi ngồi cạnh người đàn ông hào phóng mới quen biết nghe nhắc nhở những gì phải làm cho bài thi toán.  Lúc vào phòng thi, ông cũng không quên nói lại một lần nữa.  Đề thi toán năm nay là một bài hình học có hai câu hỏi lượng giác.  Xem qua đề thi, tôi an tâm thở dài nhẹ nhõm vì đề thi không có gì khó mà phải nói là quá “ngon ăn”.  Tôi bắt đầu làm bài trên giấy nháp, viết rõ ràng mạch lạc rồi cẩn thận đóng khung các đáp số.  Tôi để tờ giấy nháp sang bên cạnh.  Mấy phút sau, vị giám khảo đi vội ra ngoài hành lang và người cho tôi ăn hai bát phở uống một chai xá xị đã không bỏ lỡ cơ hội vội vàng đổi tờ giấy nháp của tôi với tờ giấy nháp của ông.  Tôi sợ tái người, nhỡ mà giám khảo bắt được là bị đuổi thi.  Nhưng tôi hơi yên lòng vì giám khảo đi ra ngoài và phòng thi cũng bắt đầu nhốn nháo.  Người này hỏi người kia, tuy không ồn ào như vỡ chợ nhưng cũng đủ phá cách nghiêm nghị thinh lặng của phòng thi.  Làm bài xong, xem đi coi lại cũng chưa hết giờ.  Tôi ngồi nhìn quanh quẩn phòng thi thấy nhiều người nhăn nhó xem chừng như không làm bài được.  Khi ra khỏi phòng thi, vừa bước ra khỏi cổng trường đã thấy ông thí sinh hàng xóm mà từ bây giờ tôi gọi là ông Bụt cười toe toét.  Ông Bụt dẫn tôi sang bên kia đường chỉ vào tờ giấy giải đề thi toán của một trường tư thục nói như trúng số:

“Đúng hết.  Không sai câu nào.”

Nói xong, ông rút túi lấy ra một nắm tiền dúi vào tay tôi:

“Giữ lấy may bộ quần áo mà mặc.  Ngày mai thi lý hoá thì cứ vẫn thế nhé”.

Trời đất như quay cuồng.  Nắm tiền chẳng biết bao nhiêu nhưng chắc là cả nhà tôi cũng chưa bao giờ có một số tiền như vậy.  Tôi chẳng biết nói lời cám ơn mà chỉ vâng dạ.  Ông Bụt hỏi tôi về nhà bằng xe gì và còn dặn thêm là ngày mai lại đi ăn phở nữa.

Tôi rướn sức đạp để mau về nhà đưa nắm tiền cho u tôi.  Chiếc xe bị tuột xích mấy lần nhưng niềm vui vỡ bờ ào ạt trong tôi nên dầu mỡ bụi bặm chẳng phải là nỗi phiền hà.  Vừa về đến, tôi chạy vội ra sau nhà.  U tôi đang thổi cơm, ngọn lửa đốt bằng tầu lá chuối khô cháy èo uột như chính cuộc đời nghèo khó đầy rẫy những buồn tủi của u tôi.  Thấy tôi cầm nắm xôi trong tay, u tôi hỏi có vẻ lo âu:

“Sao lại không ăn lấy sức mà thi?”

Tôi thở dồn dập, cầm nắm tiền đưa cho u tôi và kể lại câu chuyện được ông Bụt dẫn vào tiệm ăn hai bát phở, uống một chai xá xị và lại còn cho tiền nữa.  U tôi vẫn không yên lòng, nói trong sợ hãi:

“Nhặt được của ai thì phải trả lại cho người ta.”

Tôi phải kể lại đến từng chi tiết.  U tôi có vẻ an tâm rồi đếm nắm tiền đủ cho gia đình tôi sống tiệm tạm trong vài tháng. U tôi kéo vạt áo tôi lên ngửi hít hà:

“Cái mùi phở nó như thế này đây à?”

Nói xong rồi u tôi còn lẩm bẩm:

“Sao lại có người tốt đến như vậy.  Đúng là ông Bụt.”

Đến ngày xem bảng thi, tôi đậu hạng bình thứ và tên ông Bụt ở ngay dưới tên tôi

Miếng Thịt

Mỗi lần vợ làm thịt heo, bà thường dùng con dao nhọn lẹ làng lóc hết toàn bộ mỡ cũng như da, tôi thấy miếng thịt chỉ còn lại một tí nạc nhưng không dám phản đối, chỉ nhẹ nhàng nhắc chừng rằng, lóc hết mỡ và da thì ăn chẳng còn mùi vị gì của miếng thịt. Bà nhìn tôi lắc đầu cằn nhằn, trong người đủ thứ bệnh mà lúc nào cũng đòi mỡ, thích mặn lại còn hảo ngọt nữa. Ăn ba cai thứ nầy vào cho nhiều rồi đổ bệnh nằm đó, ai lo?
    Cứ đem mấy chứng bất trị như mỡ trong máu, huyết áp cao và tiểu đường của tôi ra hăm là bà thắng ngay. Tôi im lặng không còn lý gì để bảo vệ ý kiến của mình. Nhưng khi bà đi vắng một vài bữa, tôi ghé qua khu 13 Paris xách về một ký ba rọi, để nguyên da và mỡ, rửa sơ sài và luộc chín bằng một tí muối, xắt ra từng miếng nhỏ bằng nửa ngón tay cái rồi bày ra bàn, trịnh trọng ngậm từng miếng một vào miệng, nhai từ từ, không bia không rượu, cốt để nhớ lại mùi vị miếng thịt heo trong tù cải tạo của Cọng sản cách đây đúng ba chục năm. Nhưng đã nhiều lần tôi không thể tìm được hương vị cũ của ngày trước.
    Thịt heo Tây bên nầy đã dở, khi làm bếp lại lóc hết các phần phụ thuộc, dù kho nấu cách nào cũng không tìm mùi vị như heo tại quê nhà. Thật vậy, ở bên nầy nuôi heo kỹ nghệ, tắm rửa hằng ngày, chích ngừa từ lúc mở mắt chào đời rồi phải khám nghiệm gắt gao trước khi đưa lên bàn mổ. Heo được nuôi ăn đúng tiêu chuẩn đầy đủ chất bổ nhưng miếng thịt vẫn không ngon bằng heo tại các vùng quê Việt Nam. Ở quê nhà, heo không cần chích ngừa khám nghiệm, đa số mổ lậu chẳng cần đóng dấu thú y. Thịt chỉ cần luộc với nước sông nước hồ gì cũng thơm một cách ngon lành. Mỗi lần về quê tôi cứ dặn người nhà mua cho được thịt heo nuôi theo lối cổ điển, nghĩa là nuôi chuồng, nước tiểu phân rác lúc nào cũng ngập lên tới bụng nhưng khi ăn miếng thịt luộc bao giờ cũng thơm ngon quyến rũ…
    Đôi lúc bà con tại Việt Nam ngạc nhiên nhìn tôi ngậm thật lâu miếng thịt trong miệng, vừa nạc vừa xương vừa bầy nhầy mỡ, rồi trịnh trọng nhai từ từ như để thưởng thức món cao lương mỹ vị tưỏng như suốt đời chưa bao giờ biết tới. Người anh họ hỏi nguyên nhân, tôi chỉ trả lời vắn tắt rằng, thịt heo ta ngon hơn thịt của Tây rất nhiều. Nhưng là tây ta gì đi nữa, heo nuôi theo lối cổ điển hay kỹ nghệ tân tiến thì vẫn thua miếng thịt mỡ trong trại tù cải tạo, đã trên ba mươi năm tôi vẫn nhớ rõ ràng, vừa béo vừa thơm và ngon một cách lạ lùng không sách vở nào diễn tả nổi.
    ***
    Trong khoảng gần ba tháng tập trung tại Trảng Lớn, mỗi ngày tù được phát hai nắm cơm gạo mốc trộn bobo ăn với muối bọt. Dù chưa lao động đúng mức nhưng người nào mắt cũng lờ đờ, tay chân bủn rủn, bụng thóp lại, người xuống cân trầm trọng. Lúc khăn gói lên đường trình diện đi học tôi cân bảy chục ký, bây giờ không biết còn lại chính xác bao nhiêu nhưng bộ mặt hốc hác, hai gó má nhô lên như chiếc sọ người, tay chân nhô gân xanh và bộ sườn hiện ra rõ từng chiếc xương, rất tốt cho việc dạy môn cơ thể học cho các em học sinh. Các chất dinh dưỡng cần thiết cần thiết đã rủ nhau ra đi không thương tiếc cho tấm thân tù tội của tôi. Nhớ lại những bữa ăn thịnh soạn thừa mứa ngày trước, bây giờ chỉ có nắm bobo với muối ngày nầy qua ngày khác, tôi cứ tiếc rẻ hoài. Đầu óc tôi lúc nào cũng nghĩ đến cục đường, miếng cá hay tí thịt… tự nhiên nước miếng cứ liên tục chảy ra đầy miệng. Nhiều lúc thấy xấu hổ, không ngờ mình đã thèm ăn đến độ phải nuốt nước bọt liên hồi.
    Lúc dời xuống Long Khánh, tiểu đoàn tù gồm có 4 khối, trên một ngàn người chen chúc nhau trong tám dãy nhà tôn của tiểu đoàn 18 quân y cũ. Toàn bộ khu trại chỉ có một cái giếng cạn, sâu chừng trên mười thước, mỗi lần kéo lên được vài chục lít nước phèn đỏ như máu trộn lẫn với rác rến, lá cây và xác chuột chết, nhưng tù không được dùng theo lệnh quản giáo, chỉ được phép để nấu cơm và nước uống.
    Cũng nhờ vùng Long Khánh đang ở vào mùa mưa, lâu lâu trời ban cho một trận để tù cải tạo có cơ hội tắm và hứng nước uống. Mỗi lần mưa rào trút xuống, tất cả đều nhào ra sân, thân mình trần truồng như nhộng, râu tóc bù xù, mặt ngửa lên trời há miệng hứng nước vừa uống vừa súc miệng. Đánh răng và tắm rất tân tiến theo kiểu bộ đội, một tay đút ngón trỏ vào chà hai hàm răng thế bàn chải, một tay tranh thủ kỳ cọ liên tục từ trước ngực ra sau lưng rồi từ trên xuống dưới vì cơn mưa thường ngừng bất chợt. Cả ngàn con người tồng ngồng chen lấn trên khoảng trống bằng sáu sân đánh bóng chuyền, như một bầy vượn, hò hét vui mừng nhảy múa khi gặp nước sau một thời gian dài chịu đựng hôi hám ngứa ngáy và nóng bức.
    Doanh trại nằm trong khu vực gần như không có cây cối, Khối tù tôi khoảng chừng hai trăm chen chúc nhau trong hai dãy nhà nằm sát một hàng rào bằng cây dâm bụt. Phía bên tay trái một khu đất trống, sau lưng, một kho đạn thật lớn của một đơn vị trực nào đó thuộc sư đoàn 18 bộ binh để lại. Đứng trong cửa sổ phòng giam có thể nhìn thấy nhiều loại đạn súng cối, M72, các thùng đạn đại liên và lựu đạn còn vất bừa bải chung quanh ụ đất gồm nhiều cành cây khô và cỏ chết. Hai ngày sau khi chúng tôi đến, một vệ binh có nhiệm vụ gác, túc trực ngày đêm phía sau căn nhà tù để canh chừng chúng tôi nhảy rào đồng thời bảo vệ an toàn cho kho đạn. Không biết mấy chú ngố nầy đêm làm gì mà ngày tôi thấy chúng thường dựa gốc cây mít ngủ, hết ngủ lại ôm điếu thuốc lào kéo liên tục. Tôi cứ phập phồng lo sợ tai nạn thế nào cũng xảy ra vì bọn ngu nầy, mỗi lần kéo xong hơi thuốc chúng vứt bừa bãi đóm xuống chân trong lúc chung quanh kho đạn một số cành cây gẫy nằm ngổn ngang với lá khô lẫn lộn với đám cỏ chết, chạy dài từ sau lưng phòng giam chúng tôi đến tận ụ đất.
    Với gần một ngàn tù cải tạo của bốn khối, mặc dù không được ăn uống gì nhiều nhưng vấn đề vệ sinh bắt buộc phải tuân theo thói quen tự nhiên, sắp hàng đi cầu mỗi sáng. Một dãy nhà cầu công cọng được lệnh dựng lên cho trại. Kiến trúc rập theo khuôn mẫu hiện đại tiên tiến của miền Bắc: Không mái, không vách che hai bên cũng như sau và trước! Gồm hai chục hố sâu chừng 100 cm, dài 60 cm và rộng 50 cm nằm kế cận, cách nhau chừng 40 cm. Ở trên bắc ngang hai thanh cây nhỏ, phía sau mỗi hố được khoét rộng thêm, vừa đủ cho một người có thể chui xuống hốt phân hằng ngày. Mỗi buổi sáng sắp hàng làm phận sự, dù đang trong cảnh tù tội nhưng tất cả không thể nhịn cười khi nhìn cảnh vượn thành phố đi đại tiện tập thể. Bốn chục người làm nhiệm vụ một lượt trên hai chục miệng hố, thân mình trần truồng như giộng, lông, râu tóc bồm xồm. Anh ngồi xuôi anh ngồi ngược như một bầy chim đói đã nhổ sạch hết lông, đậu thành hàng dài trên sợi giây điện. Một người vừa bước ra có anh khác vào thề chỗ liền. Mấy ngày đầu ai cũng ngắt một vài lá dâm bụt để kết thúc mỗi chuyến đi cho đúng phép vệ sinh, do đó hàng rào dâm bụt sau ba ngày trơ trụi chẳng còn một ngọn lá nào. Hết lá, không còn phương tiện nào khác, hầu hết đi cầu xong tất cả vui vẻ đứng dậy rất tự nhiên chẳng cần thắc mắc gì. Nhưng cũng có một vài anh cẩn thận, lúc nào cũng thủ sẵn trong sợi giây thung quần xà lỏn một cây que như chiếc đũa, mục đích để làm phận sự thay giấy đi cầu và sau mỗi lần đại tiện xong xuôi, lại cẩn thận nhét kỹ vào chỗ cũ để xử dụng tiếp cho những lần sau.

Anh em cải tạo thường ở trần ngày cũng như đêm, trên người chỉ chiếc quần xà lỏn. Bộ áo quần mặc theo lúc ra đi được xếp lại cẩn thận để dành lúc ra tù trở về thành phố hoặc những lúc cần thiết như đi làm lý lịch, lên hội trường nghe nhồi sọ, bị quản giáo kêu lên làm tự kiểm, thì bất đắc dĩ phải khoác thêm chiếc áo lên người. Quần xà lỏn mặc suốt ngày đêm, không có nước giặt và thường xuyên bị ẩm vì mồ hôi muối. Tội nghiệp những miếng vải giảm dần tuổi thọ, mục và rách như trái xơ mướp. Có nhiều anh quần xà lỏn rách hết phần dưới chỉ còn lại một ít vải chung quanh lưng quần, mặc vào trông như các cô mang trên người chiếc mini jupekỷ lục sexy! Cũng có anh đành xé chiếc quần dài ra thành miếng nhỏ, quấn ngang phần dưới bụng như chiếc khố của người dân tộc thiểu số. Quản giáo kêu lên buộc làm tự kiểm, kết tội đi học tập cải tạo mà ăn mặc kiểu đóng khố hoặc đưa nguyên của ‘quý ’ ra ngoài theo kiểu dâm ô của bọn Mỹ-Ngụy là ngoan cố, chống đối cách mạng! Có anh thành thật trình bày, chỉ đem theo đồ dùng đúng mười ngày theo cách mạng đã hứa, nay quần bị mục nát chẳng còn gì để quấn cho kín ‘phần dưới’, thì cũng bị quản giáo khép vào tội ăn nói ‘linh tinh’ và có ý bôi xấu chế độ.
    Xuống đến đây tù được thêm một món ăn mới. ‘Không có gì quý hơn trái su su’, anh em tù đã thay câu nói vàng ngọc của già Hồ để lại mỗi lần nghe kêu đi lãnh cơm! Khẩu phần mỗi bữa của từng người gồm một phần tám trái su su nấu nước muối và gần một chén bobo. Ăn uống như vậy phân đâu sản xuất được bao nhiêu để tưới rau. Báo cáo của đội rau, mỗi ngày chỉ thu hoạch chừng non một thùng, tù lại bị kiểm điểm sản xuất phân xanh không đủ tiêu chuẩn cho vườn rau cải thiện của bộ độivà quản giáo ! Anh bạn nằm bên tôi, ngày mai đến lượt chui xuống cầu tiêu hốt phân, không biết là mơ hay tỉnh mà cứ than vãn hoài. ‘Không cho ăn mà cứ đòi phân cho nhiều, lấy gì mà ẹ ra đây Hồ ơi. Ngày mai lấy đâu cho đủ tiêu chuẩn để nạp lên quan thầy đây, Hồ ơi là Hồ’ !
    Một thời gian sau, tù được phép viết thư về xin gia đình tiếp tế và trong đợt đầu tiên, mỗi người được phép nhận hai ký. Ngày phát quà tập thể, bọn quản giáo tập hợp tù ở giữa sân và kêu tên từng người lên nhận về để lại dưới chân mình. Khi đã phát đủ, quản giáo ra lệnh cho mở ra cùng một lượt để chính trị viên, quản giáo và vệ binh canh chừng kiểm soát. Bọn chúng lúc đầu trố mắt ngạc nhiên những món hàng gởi đến nhưng sau đó ra lệnh tù sắp tất cả quà ngay ngắn lại dưới chân mình và đứng nghiêm để nghe lệnh. Chúng quát tháo:
    - Đã vào đây rồi mà các anh vẫn còn giở trò qua mặt cách mạng, tìm cách thông tin liên lạc và móc nối với bọn CIA bên ngoài!
    Không ai hiểu chúng muốn nói gì. Tất cả đang ngơ ngác thì tên chính ủy tiến đến lấy một cuốn giấy đi cầu đưa lên cao:
    - Thế nầy là thế nào ? Các anh định dùng loại giấy nầy để thông tin ra ngoài với bọn giặc. Tôi cho các anh biết đừng hòng qua mặt cách mạng. Bọn Mỹ-Ngụy đã dùng các cuộn giấy như thế nầy gắn trên các máy để đánh điện cho nhau, bây giờ gia đình các anh gởi vào để các anh tiếp tục viết tin lén gởi ra ngoài. Cách mạng đã thông suốt ý đồ, nhìn thấy trong tim trong óc các anh. Đừng tưởng rằng khi cách mạng khám phá hành động gián điệp, các anh chỉ cần nuốt vào bụng hay bỏ giấy vào nước nó bấy ra là có thể qua mặt phi tang cách mạng một cách dễ dàng được đâu!
    Tất cả đứng yên không ai dám cười, chừng phút sau một anh tù trưởng khối gải đầu vòng tay thưa:
    - Dạ thưa anh cán bộ, giấy nầy dùng để …đi cầu ạ!
    Tên chính ủy nạt lớn:
    - Đừng lếu láo!
    Nói xong hắn hầm hầm quay trở về ban chỉ huy tiểu đoàn.
    Gói quà nhỏ đầu tiên, gia đình người nào gởi cũng giống nhau. Theo thứ tựưu tiên : cuộn giấy đi cầu, đôi dép râu, vài chiếc quần xà lỏn, bịch thuốc lào, ít cục đường, lon muối sả, lon muối đậu phộng, guigoz thịt kho mặn. Gia đình anh nào khá giả còn thêm gói café, hộp sữa đặc. Đêm đó, trong trại lần đầu tiên mới nghe được tiếng cười của mấy anh tù đang uống café, kéo thuốc lào hoặc vừa nuốt xong miếng đường trong miệng.
    Sáng hôm sau thức dậy, đang sắp hàng đi đại tiện anh em tù rất đổi ngạc nhiên và không biết chuyện gì sẽ xảy ra khi thấy vệ binh đi vòng vòng kiểm soát chung quanh cầu tiêu cộng cọng, có vệ binh còn nhặt một vài miếng giấy vệ sinh rải rác bên các miệng hố. Sau đó chừng nửa giờ, kẻng đánh tập họp tù ngoài sân, chính tên chính ủy hôm qua lại trở xuống, mặt hầm hầm,miệng la lớn :
    - Thật là phí phạm, chế độ tư bản các anh còn bày nhiều trò rởm đời trong việc đi cầu xí. Cách mạng chiến đấu quanh năm suốt tháng trong rừng đâu cần giấy xanh giấy đỏ để đi ỉa mà đánh đâu thắng đó. Các anh có biết ngoài Bắc, trẻ con không có giấy để đi học trong lúc các anh trong Nam lại dùng để chùi đít!
    Anh em cải tạo lần nầy không nhịn được, cười ồ lên. Phía sau cùng có anh tù nào đó lên tiếng, tất cả đều nghe rõ:
    - Thế mà hôm qua hôm kia lên lớp cán bộ cứ oang oang cái mồm lên rằng, miền Bắc không thiếu một thứ gì. Tủ lạnh thì đi đầy đường không còn lối cho xe hơi, cà rem thì dư thừa phải phơi khô để xuất khẩu!
    Cả bốn khối tù không nín được, tới đâu cũng phải cười để giải tỏa những ấm ức mấy lâu nay.
    Một quản giáo, tay chụp ngay bá súng lục bên hông, chen vào đám tù tiến xuống phía sau, quá giận, lắp bắp đứt quảng:
    - Thằng…thằng nào…phản động, thằng phản động nào vừa mới lên tiếng, ông bắn bỏ mẹ bây giờ!
    Tất cả tù đứng yên, tên quản giáo đi vòng vòng nhìn vào mặt và tra khảo từng người một nhưng không tìm được thằng nào vừa phát ngôn bừa bãi. Kết quả cả tiểu đoàn tù phải học tập tự kiểm liên tục một tuần vì một câu nói cực kỳ phản động!
    Trong thời gian bị nhốt ở Long Khánh, vì có sự hiện diện của dân chúng chung quanh khu vực sư đoàn 18 bộ binh cũ, tù may mắn không đi lao động bên ngoài mà chỉ xoay quanh những công tác đắp đường, làm vệ sinh, trồng rau cải trong khu vực. Ngày nào cũng tám tiếng làm việc, không có nước tắm giặt, đa số anh em bắt đầu nổi ghẻ trong người. Không thuốc, thiếu dinh dưỡng và nhất là vấn đề vệ sinh cá nhân, bệnh ghẻ lan tràn rất nhanh. Bộ chỉ huy trung đoàn tù giải quyết bằng cách cho luân phiên ra ngoài tắm, nhưng mỗi khi ra khỏi hàng rào phải ăn mặc chỉnh tề và tuyệt đối không được nhìn ngang liếc dọc, ra dấu làm hiệu hoặc liên hệ với dân địa phương. Nơi được phép tắm là một con mương nhỏ cũng nằm trong phạm vi thuộc khu vực sư đoàn 18 bộ binh cũ. Chiều ngang khoảng chừng gần ba mét, nước lên chỉ đến quá đầu gối một chút. Tù sắp thành hàng, áo quần đã toàn bộ tuột ra, đếm số từng đợt hai chục người và sẵn sàng đợi lệnh nhảy xuống đồng loạt. Trên hai bờ đất, vài ba quản giáo và hàng chục vệ binh súng cầm tay chỉa vào đám tù. Mỗi toán chỉ được phép tắm trong vòng một hai phút rồi phải bước lên nhường chỗ cho toán khác nhảy xuống. Mỗi lần ra tắm chúng tôi cũng gặp vài ba người đàn bà quanh quẩn chung quanh khu vực, đang cúi mình giả vờ làm cỏ, mặc dù chung quanh con mương không có khu ruộng lúa hay một vườn rau cải nào. Anh em tù nhận biết ngay là những người đàn bà kiếm cách xâm nhập vào khu vực để dò la tin tức người thân. Đám vệ binh lớn tiếng đuổi nhiều lần nhưng không kết quả, sau cùng chúng bắn chỉ thiên vài phát súng, mấy người đàn bà mới từ từ nhích ra xa. Chỉ trong một thời ngắn tin tức được đồn ra ngoài, hàng ngày các bà các cô xuất hiện nhiều chung quanh khu vực con mương. Chính điều nầy anh em tù không được ra ngoài tắm mương mỗi tuần mà chỉ còn cách lạy Trời mưa xuống

Một buổi trưa sau giờ ăn, kho đạn sau lưng nhà phát nổ, nguyên do vì đám cỏ khô nơi vệ binh ngồi gác bốc cháy rồi lan nhanh từ gốc cây mít vào đến ụ đất. Các loại đạn trong kho phát nổ làm rúng động cả vùng Long Khánh. Nguy hiểm nhất là các đạn súng cối 60, 80, súng chống xe tăng M72, lựu đạn và mìn claymor bị sức ép tung lên cao và bay qua các khu vực tù đang ở, rơi xuống rồi mới phát nổ. Tiểu đoàn tù chúng tôi ở gần kho và lãnh nhiều mảnh đạn bay thẳng từ kho, xuyên thủng một số mái tôn, rớt xuống ngay chỗ nằm. Nguy hiểm nhất là những trái lựu đạn và súng cối rơi xuống ngay sân là lúc chúng tôi đa số đang ở ngoài.
    Vừa nghe tiếng nổ tất cả vội vàng nhảy xuống hố cá nhân và hệ thống giao thông hào đã có sẵn. Hố chỉ chui xuống được một hai người, giao thông hào ai nhảy xuống trước thì nằm dưới, xuống sau nằm chồng trên như lớp cá mòi. Anh em nào nằm trên, không ít thì nhiều cũng bị mảnh đạn hay đá sỏi đâm trúng trên lưng. Kết quả có mấy anh em tù bị chết vì mảnh đạn và hơn mấy chục người bị thương.
    Vụ nổ kho đạn làm chấn động từ miệt Long Khánh đến các tỉnh Biên Hoà, Gia Định và thủ đô Sàigòn, thân nhân từ các vùng lân cận rầm rộ kéo về dò la tin tức. Cọng sản vội vàng di chuyển toàn bộ tù Long Khánh đi nơi khác. Bốn khối của tiểu đoàn chúng tôi đi KàTum bằng xe vận tải molotova của Liên sô. Trung đội (A) tôi bị chia làm đôi, tôi lên chiếc xe cuối cùng với khoảng hơn một chục người và các dụng cụ nhà bếp gồm khoảng trên một chục chảo gan lớn và nặng, đường kính hơn cả mét, loại chảo dùng để nấu canh nấu cơm thường xử dụng trong ban hỏa thực thời trước.
    Molotova là loại xe chở quân của Cọng sản, nhỏ hơn GMC của miền Nam, bốn bánh cao lềnh nghềnh dùng để băng rừng, lội nước, không thích hợp với việc chuyên chở trên các tuyến đường bằng phẳng. Xe chở quá nặng, tài xế ngủ gục, xe đảo qua đảo lại trên đường cái nhiều lần. Tôi cầu xin tai nạn đừng xảy ra. Trường hợp tai nạn nếu không bị xe đè thì hơn chục chiếc chảo cũng cắt đôi người ra. Và điều chúng tôi lo ngại đã đến, khi ngang qua ven đô Sàigòn, ngã tư xa lộ Đại Hàn, xe chở chúng tôi mất thăng bằng và đâm đầu xuống hố, quay một vòng rồi nằm ngửa đưa bốn bánh lên trời. Tôi và đồng bạn tù may mắn bị hất văng ra trước khi xe lật. Trước lúc mê man, tôi nhận ra mình còn sống và chừng vài phút sau đó không hay biết gì thêm. Đến lúc tỉnh, thấy tất cả anh em đang nằm ngồi la liệt dưới đất, máu chảy xuống nền ximăng từng vũng kéo dài từ cửa ra vào đến tận nơi chúng tôi. Đầu đau như búa bổ, máu chảy ra từ đầu, mũi và hai tai, tôi đưa tay rờ quanh người, biết mình may mắn vẫn còn nguyên vẹn. Bên cạnh mấy người bạn nằm yên như chết, có người bị chảo gang chặt đứt lỗ tai, có người bị đứt cánh tay nhưng không dám lên tiếng hỏi thăm ai sống ai chết hay bị thương thế nào. Ba vệ binh đang chỉa súng vào chúng tôi sẵn sàng bóp cò nếu có một phản ứng nhỏ nào. Định thần một lúc mới nhận ra đây có thể là nhà thương (sau nầy mới biết là bệnh viện Chợ Rẫy) và thấy một số người lấp ló nhìn chúng tôi từ phía xa. Tên quản giáo nói vọng vào với mấy y tá:
    - Nhìn cái gì? Đây là những tên cướp cực kỳ nguy hiểm, cách mạng vừa bắt được ngoài chợ, chúng tôi đưa vào tạm vào đây đợi xe đến chở đi.
    Người bạn nằm cạnh tôi còn tỉnh, giả vờ rên để gây chú ý các y tá đồng thời đưa ba ngón tay lên trên vai mình. Tức thời nghe tiếng người phía trong hối thúc thông báo cho nhau:
    - Không phải là bọn cướp mà sĩ quan cải tạo!
    Sau câu xác định của người nào đó, tôi nghe tiếng chân người hấp tấp đi chuyển chung quanh và một người đàn ông mặc áo blouse trắng tiến đến gần tên quản giáo thưa:
    - Thưa ông, dù họ là những tên cướp, xin ông cho phép chúng tôi băng sơ cầm máu, để vậy mấy người sẽ chết tại đây.
    Không hiểu tại sao, tên quản giáo suy nghĩ một lúc rồi gật đầu nhưng vẫn ra lệnh nhắc chừng:
    - Tôi yêu cầu không được trò chuyện hỏi han bất cứ chuyện gì. Bọn chúng là những tên trộm, giết người cướp của rất nguy hiểm.
    Vừa được lệnh, gần như y tá, bác sĩ khu cấp cứu kéo đến đứng bít kín cả cửa ra vào. Riêng mấy cô y tá và một nam bác sĩ, tôi đoán như vậy, đã vào tận nơi chúng tôi đang nằm. Tôi được hai y tá săn sóc, một người tận tình băng từ đỉnh đầu xuống quá hai lỗ tai, chỉ chừa một con mắt để nhìn, còn người kia cố tình lách qua lách lại che khuất quản giáo và tên vệ binh đang đứng gần tôi, cúi sát hỏi nhỏ :
    - Anh là sĩ quan cũ?
    Tôi gật đầu không nói thêm một câu nào.
    Cô ý tá nói tiếp:
    - Anh cho biết địa chỉ sáng mai tôi sẽ thông báo người nhà.
    Cô y tá kéo tôi vào sát người cô, vừa chùi vết máu hai bên cổ, tai và sau ót vừa lắng tai nghe tôi:
    - Vợ tôi tên …. ở số… đường Ngô Tùng Châu Gia Định, ngay ngã tư Xóm Gà.
    Tôi nghe cô lặp lại hai ba lần mục đích để mấy người y tá chung quanh cùng nhau ghi nhận. Tên quản giáo ra lệnh cho y tá phải khẩn trương và bước ra ngay sau khi xong việc. Một cô nhét vào túi tôi gói gì đó còn cô kia lấy đôi dép nhật đang mang trên chân mình mang vào chân tôi rồi hai người hấp tấp lui ra.
    Chừng một giờ sau, tên quản giáo ra lệnh cho tất cả mọi người lui xa chỗ chúng tôi đang nằm và bắt chúng tôi tự động dìu nhau ra sân để lên xe đi tiếp.
    Sau khi tấm bạt sau được buông xuống, trong xe tối đen như mực. Tôi lần tay vào túi lôi ra gói giấy mò mẫm và nhận ra trong đó một khúc bánh mì, mấy chiếc bánh ngọt và một ít tiền. Thật cảm động, lúc đó cũng khoảng bốn giờ sáng nhưng họ đã cố gắng kiếm được miếng bánh, ít kẹo và tiền để cho chúng tôi. Tôi nói nhỏ cho mấy người bạn bên cạnh hay, các anh cho biết họ cũng nhận được những thứ như vậy.
    Đến sáng xe dừng lại, tấm bạt được kéo lên, chúng tôi thấy mình đang đứng trước mấy dãy nhà tranh ở sâu trong rừng và vệ binh dẫn chúng tôi vào một căn nhà trống thuộc bộ chỉ huy trung đoàn tù. Mười phút sau những người bạn cùng cảnh ngộ phải chia tay mỗi người đi về một trại khác nhau. Nhóm chúng tôi bốn người được một vệ binh dẫn băng qua rừng, đi bộ một đoạn đường chừng hai cây số đến trước một dãy nhà khác. Sau nầy chúng tôi biết đó là ban chỉ huy tiểu đoàn tù, và bốn chúng tôi bị chia ra cho bốn khối khác nhau. Khi tôi được dẫn về khối thì anh em tù đang lao động trong rừng. Vệ binh đưa tôi về lán (căn nhà bằng tre lợp lá dài khoảng 20 mét dành cho một B chừng 50 tù) nằm gần nhà bếp và bảo ngồi đợi, khối trưởng và B trưởng sắp xếp chỗ ngủ cũng như công việc cho ngày hôm sau. Trong lúc chờ, một ông tù già bệnh hoạn được làm việc nhẹ như nấu ăn, nuôi heo cho khối… đem đến một miếng cơm cháy và ít muối bọt, bảo tôi ăn cho đỡ đói. Trả lời thắc mắc của tôi, ông cho biết tên Rạng, nguyên là thượng sĩ già đã đến tuổi hưu, nhưng cố nán thêm một thời gian ngắn đủ thâm niên để lên chuẩn úy. Quá xui cho ông già, cặp quai chảo vừa gắn lên cổ áo cũng là lúc khăn gói lên đường đi tù chung với mấy anh em sĩ quan trẻ. Cũng may ở đây thấy ông già lụm khụm, ốm như con mắm nên đã ân huệ cho ông công việc nhẹ nhàng: Anh nuôi tù kiêm luôn nuôi lợn của bộ đội. Tiếp đến các anh làm trong tổ mộc tổ rèn đến thăm hỏi đủ thứ chuyện bên ngoài, lúc đó họ mới hay vụ nổ kho đạn ở Long Khánh và tôi biết được tên trại tù của tôi là KàTum nằm sâu trong rừng rậm.
    Đến chiều đoàn tù lao động trở về, nghe có người bị thương vì lật xe và được chuyển đến đây nhưng không ai dám vồn vã thăm hỏi, khi ngang qua chỉ đưa tay vẫy chào một người bạn bất hạnh mới đến, vì họ thấy lúc đó trên đầu tôi vẫn còn quấn mấy lớp băng trắng dính máu. Một người trong đám tù tách đám đông chạy lại ôm tôi mừng rỡ :
    - Ông thầy. Trời xui đất khiến mình gặp nhau tại đây, thật vui vẻ. Như vậy từ nay ông thầy có bạn rồi.
    Tôi ngạc nhiên nhìn anh ta nhưng chưa nhận ra ai, nên hỏi lại:
    - Anh biết tôi?
    - Em học với thầy năm 1966, thầy nhớ không?
    - Ở đâu, lớp mấy?
    - Đệ nhất A, La-San Bá-Ninh, Thầy cùng dạy chung với hai sư huynh Casimir và Raymond.
    - Bây giờ thì nhớ ra rồi,Yên phải không ? Mấy ‘mai’mà vô đây ?
    - Dạ hai, em sẽ đổi với thằng bạn để thầy ăn cơm và làm việc chung một tổ với em.
    - Thầy bà cái quỷ gì nữa! Đã vào đây cá mè một lứa thì mầy tao cho tiện.
    - Thôi xin phép gọi bằng anh.
    Cũng may trong lán có sẵn chiếc giường tre của một anh tù vừa được chuyển đi trại khác. Yên thấy tôi vui vì khỏi bận tâm về chỗ ngủ, anh vừa cười vừa nói:
    - Nằm dưới thằng Khánh và kế thằng Huân đôi khi điên người lên được. Chưa có chỗ trống anh nằm tạm đây vài bữa, có thằng nào đi thì anh qua chỗ mới.
    - Gì vậy?
    - Để tối anh sẽ hay.
    Vừa đau đầu vừa rêm người vừa mệt nhưng không cách nào chợp mắt vì anh chàng Khánh nằm trên cứ lải nhải:
    - Chuyến nầy tao về, tao sẽ bỏ. Nhất định tao sẽ bỏ

Trong đêm cứ nghe anh lặp đi lặp lại cả chục lần. Sáng hôm sau gặp anh đang rửa mặt tại giếng, tôi hỏi anh lý do, anh không trả lời thẳng câu hỏi của tôi mà chỉ lặp bặp trong miệng câu nói cũ. Lần nầy về, tao sẽ bỏ!
    Một người bạn đứng bên cạnh nói với tôi:
    - Mới nghe thấy lạ tai chứ tụi tôi chán quá, chán quá… Hắn cứ tưởng bở đòi bỏ người ta, chứ thật ra người ta đã bỏ nó từ khuya hay bị nhà nước quản lý mẹ nó rồi còn gì mà cứ đòi bỏ với không.
    Tôi rất khó ngủ, nhiều lúc vừa chợp mắt đã bị dựng dậy bằng câu nói nầy. Một lần được chia vào làm việc trong tổ rau với Khánh, tôi tâm sự với anh ta:
    - Quên đi Khánh, chắc chắn người ta bỏ anh rồi, bận tâm làm gì nữa. Thân tù tội mình đâu ra gì mà đòi bỏ người ta!
    Khánh nhìn tôi lắc đầu:
    - Không anh, tôi chuyến nầy về nhất định phải bỏ.
    Hết can đảm nghe tiếp, tôi hơi xẳng giọng:
    - Bỏ cái gì?
    Anh nhìn tôi một hồi rồi thú thật:
    - Tôi sẽ bỏ, sẽ bỏ vô!
    - Tôi không hiểu.
    - Trước đây chỉ để ở ngoài mà thôi, lần nầy về nhất định sẽ bỏ vô không ‘gìn vàng giữ ngọc’ và nương tay với em nữa!
    À bây giờ tôi là người đầu tiên hiểu câu chuyện của anh, đành khuyên một câu:
    - Biết còn không để đến phiên anh. Tôi chắc chắn thằng khác đã bỏ vô từ khuya rồi!
    Kể từ lúc tâm sự với tôi, Khánh không còn lải nhải mỗi đêm chuyện cũ nhưng lại bắt đầu câu khác:
    - Ngu quá không bỏ vô. Tiếc quá, tiếc quá!
    Anh em trong lán khám phá ra bí mật của Khánh, họ đồng thanh chê:
    - Mày ngu như con bò cái!
    Tôi cãi lại:
    - Người ta nói ngu như bò đực chứ có ai nói ngu như bò cái đâu.
    Yên nằm bên cạnh cười lớn:
    - Té ra anh cũng thật thà, bò đực thì ngu thật nhưng ‘cu’ của nó đâu có ngu, gặp bò cái là nó đứng dậy cỡi liền!!!. Như vậy thằng Khánh còn ngu hơn bò đực có đúng không? Bò đực gặp bó cái là nó biết ‘bỏ vô’ tức khắc, không ‘ong’ ‘đơ’ gì hết !
    Kể từ hôm bị chê, Khánh thấy mình còn thua con bò đực và không còn lảm nhảm hằng đêm nữa.
    Một tối đến giờ ngủ, có người lên tiếng:
    - Ông thầy đã trị được thằng Khánh bây giờ tính luôn thằng Huân cho anh em nhờ.
    Vừa dứt câu nói, cả chục người lên tiếng phản đối ngay:
    - Chuyện thằng Khánh thì được nhưng chuyện ăn phở của thằng Huân thì không nên. Lâu lâu phải để nó kể nghe cho đỡ buồn.
    Một giọng khác ở cuối lán:
    - Nghe xong nước miếng tràn đầy họng, ức thấy mẹ!
    Bây giờ Huân mới lên tiếng:
    - Đã nghe chùa mà còn lộn xộn, hôm nay tao kể tặng ông thầy mới đến. Thằng nào không nghe thì bịt tai lại.
    Mấy anh nằm gần tôiđồng thanh:
    - Ừ kể nhanh lên còn ngủ sớm.
    Huấn vừa lên tiếng, ‘Phở đây’,và bắt chước gỏ vào thanh giường tre giống như phở xe ngày trước, nhiều người đồng thanh:
    - Dẹp phở xe đi, ăn phở gà ở Hiền Vương hay phở xe lửa, phở tàu bay ở Lý Thái Tổ xem bộ ngon hơn.
    - Nghèo mà ham, nhưng muốn thì tao cho ăn.
    Huân nuốt nước bọt rồi cất giọng:
    - Đang ở tù tại Kàtum, tao được cách mạng ưu ái cho đi phép một tuần. Thấy tao về, con vợ nó mừng hết lớn nhưng tao chưa làm ăn gì vội, thèm phở quá, bay ra ngay đường Lý Thái Tổ chơi luôn một lèo hai tô trước đã.
    Có tiếng anh nào đó phía cuối lán:
    - Dốc tổ mẹ. Ông mà về phép thì ông ‘làm’ vài quả với vợ trước, còn chuyện ra Lý Thái Tổ ăn tô phở thì hạ hồi phân giải.
    Ồn ào lại nổi lên giữa hai phe, ‘làm’ trước hay ăn trước! Lập luận nhóm nào cũng đúng. Không làm trước thì ức mà không ăn trước thì thèm. ‘Làm’ và ‘ăn’ là hai hành động mà bất cứ anh tù nào ngày đêm đều mơ ước. Không có đối tượng thì ‘làm’ tay, không có gì thì ăn ‘hàm thụ’. Cứ mỗi lần nghe đề cập đến hai vấn đề nầy trông anh nào cũng thẫn thờ mày mặt, nước miếng trào ra rồi những cuộc tranh luận lại nổi lên, ai cũng cho quan niệm của mình đúng. Ở trong tù chỉ có muối và bobo, đã ăn hàm thụ mà anh nào còn thích ‘làm’ tay nữa thì chắc chết sớm. Nếu sống sót trở về, thứ thiệt ở ngay bên cạnh cũng chẳng nên cơm nên cháo gì! Rồi anh nầy tố giác anh kia là vua độc ‘thủ’, đêm nào cũng đi mây về gió nên người chỉ còn bộ xương cách trí, mắt thì lờ đờ như mắt cá dở sống dở chết trên bờ.
    Yên nằm cách tôi vài giường, bực mình gắt lớn:
    - Tất cả im đi! muốn ăn phở hay quản giáo xuống nó dũa cho mà nghebây giờ ?
    Anh trung đội trưởng tù yêu cầu Huân:
    - Tiếp tục đi mầy, tao đang thèm đây.
    Huân dẫn anh em ăn phở trong bóng tối, anh lên giọng:
    - Bồi, cho mấy tô phở đặc biệt. Nhớ lấy thật nhiều thịt ít bánh! tô lớn, nước trong. Tái, gân, nạm, gầu, sụn, ngầu pín, bò vò viên gì bỏ vô hết. Một chén lớn nước béo và một dĩa hành trần. Các loại rau, giá, quế, gò gai cũng đem ra. Thứ nào ông cũng ăn ráo! Sao lâu quá vậy? Trong lúc chờ phở, đem tạm ra ngay tô xí quách gặm chơi cho đỡ buồn. À.. tô xí quách đây rồi. Trời ơi, xương còn dính quá nhiều thịt. Cầm lên ngay, đưa vào miệng cạp một miếng, nước thịt ngọt lịm thấm vào từ đầu lưỡi đến tận chân răng, rồi chạy ngay xuống cuốn họng! Um, ôi chao, tất cả vị, xúc, thính, khứu, thị giác trong người đều tê mê khoái cảm. Nầy, chẳng thèm để ý khách trong tiệm làm gì, cứ cầm cục xương gặm từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài như mấy chú cẩu, thế mà ngon đấy phải không các bạn!. À, còn hơn chú cẩu nữa, đưa đầu cục xương vào miệng, hút mạnh một cái, tủy chạy vào miệng nghe một cái ọc….Ùm, chao ôi, đã ơi là đã!
    Khánh nằm trên tôi ngắt ngang:
    - Thôi ngưng lại đi mày, tao hết chịu nổi.
    Mấy người khác phản đối:
    - Chưa ăn mà, mới gặm xương khai vị, tiếp tục đi Huấn.

Nghỉ một lát, Huấn tiếp tục:
    - Phở đây! Phở đây! Nhưng khoan ăn, hãy nhìn khói đang bốc lên rồi từ từ cúi xuống, mặt sát miệng tô, hít một hơi thật dài để thấy hương vị của tô phở. Mùi thơm, ngọt, béo, bùi của tủy xương, của thịt, của mỡ ninh chung với hồi, quế, hành trộn lẫn với hương vị đặc biệt của bánh phở tươi trụng nước sôi, mùi thơm đặc biệt của nước mắn, tiêu hành bột ngọt. Ngon khôngbạn ? Nước miếng chảy ra đầy miệng rồi phải không? Nhưng khoan ăn, nếm thữ xem mặn lạt trước đã, rồi vắt miếng chanh, thêm tí nước mắm nhỉ, rắc một ít tiêu, xong chưa? Nếm thử lại một lần nữa nếu chưa vừa ý? Phải ngắt cọng ngò gai, vài lá quế cho đủ gia vị. Đủ chưa? Cũng chưa hả, thì phải thêm vài khoanh ớt mới đúng điệu! Bây giờ mời tất cả ăn….ngoàm ngoàm... Sao, có thấy thịt tái mềm không? Mấy miếng nạm bùi không? Gân có nhai sần sật không? Bò vò viên có ngọt và dai thịt không? Nếu ngon thì há miệng thật lớn, đừng sợ xấu, ai nhìn cũng mặc. Muốn ăn ngon thì phải tự nhiên với tất cả tâm tình, gắp mỗi thứ một ít cho vào miệng, nhai từ từ để cho bánh, thịt, rau nhuyễn ra rồi gắp thêm khoanh ớt bỏ vào nhai tiếp…như vậy mới thưởng thức trọn vẹn cái bùi béo của miếng thịt, cay thơm của gia vị rồi từ từ mà nuốt, đừng có vội mà mất ngon!
    Nước miếng trong miệng tôi trào hẳn ra ngoài, đưa tay vừa chùi vừa nuốt trong lúc tai nghe liên tục những tiếng nuốt ừng ực của các bạn tù đang nằm chung quanh. Kể đến đây, Huấn ngưng lại và đề nghị:
    - Tối mai, ai muốn ăn hủ tiếu Mỹ Tho, Nam Vang hay mì Quảng thì ‘đăng ký’ trước.
    Huấn chưa dứt câu thì nghe tiếng ồn phía cuối láng rồi tiếng chân chạy gấp rút. Yên kêu tôi:
    - Theo em gấp, mau lên.
    - Gì vậy?
    - Chia phần.
    Chẳng hiểu gì nhưng tôi vẫn đứng dậy chạy theo Yên, thì ra chạy theo đập rắn chia phần. Rừng KàTum có rất nhiều rắn. Ngày đêm chúng thường bò vô nhà bắt chuột, có con treo tòng teng trên cây hoặc phóng nhanh bang qua đường. Mỗi lần xuất đầu lộ diện, những con rắn nầy hiền hay dữ không cần biết nhưng số trời đã định sẵn là chết một cách tức tưởi không kịp ngáp khi vô phước gặp tù cải tạo. Thịt bị chặt ngay tại chỗ thành từng khúc nhỏ chia đều cho những ai tay cầm gậy đang có mặt tại đây. Tôi cũng được điểm danh ghi tên nhưng cuối cùng bị loại vì không có ‘vũ khí’ trên tay!. Yên nói ngay với tôi:
    - Ngày mai, việc trước tiên anh phải kiếm cây gậy để ngay đầu giường, bất cứ lúc nào nghe rắn là phải vác gậy theo. Đến nơi dù rắn đã chết rồi cũng phải chen vô đập thêm một cái mới ăn tiền.
    Mặc dù trên đầu vẫn còn quấn mấy vòng băng trắng nhưng chỉ thị của quản giáo tôi vẫn phải đi lao động bình thường như những người khác, nhưng anh đội trưởng âm thầm giao việc nhẹcho tôi : Phụ bếp và nuôi heo của cán bộ. Phụ bếp thì sướng, đã ở trong mát mà ngày ngày còn kiếm được miếng cơm cháy, nhưng nuôi heo thì không kham nổi. Ông già Rạng thấy tôi còn yếu cho đi hái rau muống, về lặt phần tốt đưa lên cho ban quản giáo, phần cứng ở dưới xắt ra nấu cho heo ăn. Công việc nầy xem ra cũng có lợi, vì xắt rau cho heo cũng dúi vào túi được vài gốc rau già, tối về anh em trong tổ ‘cải thiện’ với nhau. Nhưng rồi có anh nào thối mồm thối miệng bá cáo lên, tôi bị kêu lên làm tự kiểm là ăn bớt rau của nhân dân trong khi làm phận sự và bị tống ra làm việc trong đội rau. Công việc của tôi đơn giản, hốt phân các nhà cầu của tù cũng như cán bộ, hòa thêm nước, quậy cho đều, chiết ra nhiều thùng rồi đem đi tưới. Sau nhiều lần lấy nước dưới suối nhỏ để pha với phân người, tôi nảy ra việc câu cá bằng cách dùng thép uốn cọng kẽm thành lưỡi câu, rút chỉ trong ống quần xe giây và móc trùn thả ngầm dưới nước. Cá ở chung với tù cải tạo, nghe nhồi sọ riết cũng trở thành khôn, chúng nó ăn hết của tôi mấy chục con giun đất rồi vui vẻ cám ơn quay đi. Nhưng một hôm, một con cá trê (mèo) lớn, da vàng hực to bằng bắp tay, có lẽ chưa thông suốt đường lối cách mạng nên lưỡi câu đã sâu vào sâu trong bụng, tôi kéo lên một cách dễ dàng. Đang hí hửng xách con cá trở lên suối thì một quản giáo trông thấy, hắn nhìn tôi gằn giọng:
    - Ai cho anh bắt con cá nầy?
    - Dạ thưa anh, cải thiện để ăn thêm.
    Tên quản giáo trân tráo:
    - Như vậy cho rằng cách mạng bỏ đói các anh phải không? Đã có ai chết đói trong lúc học tập cải tạo chưa?
    - Nhưng thưa anh, chính các anh cho phép cải thiện mà.
    - Cải thiện là phải trồng thêm rau cải ăn thêm chứ không được phép lội xuống suối bắt cá.
    Tôi chưa kịp nói gì thêm, hắn tiếp:
    - Chim trên trời, cá dưới nước là tài sản của nhân dân. Muốn bắt muốn câu phải có phép của cách mạng. Nhất là các anh trong dạng cải tạo, các anh không có quyền.
    Nếu tôi kính cẩn dâng cho nó thì yên chuyện, nhưng tiếc quá, công trình bắt giun, đặt câu, rình rập cả tháng mới chớp được một con, bây giờ đưa cho nó thì không thể chấp nhận. May mắn lúc đó một toán tù đi ngang có quản giáo và vệ binh áp tải nghe được đầu đuôi, biết đã bể chuyện, nó cho phép đem về ăn nhưng phải làm tờ tự kiểm. Cá đưa về bốn người trong tổ ăn cùng mâm hợp tác với ông già Rạng mục đích xin mấy miếng cơm cháy để nấu cháo cá! Đến tối tất cả mọi người đã ngủ, cháo chia ra làm năm phần và rồi mạnh ai nấy lén ăn trong bóng tối. Đang ăn, ông già Rạng nói nhỏ vào tai tôi, cách nay không lâu, toán làm gỗ trong rừng bắt được con trăn dài trên sáu mét, hí hửng vác về cũng bị quản giáo dũa cho một trận tả tơi. Sau đó cả toán được ân huệ của cách mạng, gần hai chục người chia nhau cái đầu, phần còn lại là tài sản của nhân dân phải khiêng lên dâng cho ban chỉ huy trại giam!

Khi tôi lên đây, công việc tổ chức nơi ăn chốn ở cho quản giáo, vệ binh cũng như tù đều do anh em hoàn tất. Bây giờ chú trọng vào việc khai phá rừng để trồng khoai mì, ngô, đậu và đi rừng đốn cây tốt lấy gỗ, cây xấu làm củi, rút mây đan giỏ, làm bàn ghế. Những hoạt động nhỏ lao động tại khối cũng quan trọng không kém, tổ rèn, tồ mộc, tổ trồng trọt cải thiện. Sướng và được ưu tiên nhất là toán thợ mộc được làm việc ít giờ. Cán bộ tha hồ lợi dụng đưa gỗ về đóng tủ giường bàn ghế cho từ trung, tiểu đoàn xuống quản giáo và ngay cả vệ binh. Tổ rèn thì sản xuất đủ các dụng cụ, không biết đưa đi đâu nhưng xuất lò bao nhiêu cũng không vừa nhu cầu của từng tên một. Chỉ có tổ làm vườn cải thiện thì chẳng nghe khen thưởng gì mặc dù hằng ngày phải móc phân người tưới rau, cắt tỉa rửa sạch xong đem dâng cho nhà bếp của chúng. Sau một thời gian không thể gánh nước tưới cây vì kết quả của vụ lật xe, tôi được chuyển qua tổ đan mây.
    Một hội trường thật lớn, cột bằng gỗ lợp tranh do tù xây cất để chứa trên một ngàn người mỗi khi lên lớp nhồi sọ chính trị. Nếu tình hình quốc tế không có gì quan trọng hay không rơi vào các dịp dịp lễ thì chương trình lên lớp chia thành nhiều đợt. Ngược lại, chính trị bên ngoài có gì thay đổi, tù là nạn nhân bị nhét vào tai vào đầu trước sau như một, những bài học ấu trĩ ngu xuẩn và láo khoét mà trước đây cọng sản dùng làm giáo điều tuyên truyền cho dân chúng miền Bắc. Tôi nhớ một lần, tù được miễn lao động để lên hội trường học tập khẩn cấp. Bài học ngày hôm đó không gì khác hơn việc tâng bốc anh em Miên Cọng hết mình. Nhưng ngay hôm sau, cũng chính tên chính trị hôm qua lại hùng hổ mạt sát anh em hữu nghị nầy không thiếu một danh từ bỉ ổi nào trong tự điển. Mới khen nức nở hôm qua là anh em hữu nghị, nay lại cho là đồ theo chân đế quốc, bóc lột dân chúng đáng để cho nhân loại phỉ nhổ. Anh em tù chẳng hiểu đâu ra đâu. Sau nầy mới biết chỉ một chuyện nhỏ, cơm chẳng lành canh chẳng ngọt giữa hai anh em cọng sản mà chỉ nội trong một đêm cọng sản Hà Nội đã trở mặt, từ anh em hữu nghị ruột thịt ra kẻ thù không đội trời chung.
    Thực phẩm nuôi tù không gì hơn ngoài bobo với muối nhưng nhờ có cải thiện lâu lâu cũng được một ít rau cải do chính mình sản xuất. Đôi lúc ra ngoài lao động thỉnh thoảng cũng kiếm được tí thịt. Nói thịt cho ngon lành chứ thật ra là những con sâu, giun, dế, cào cào, bò cạp hoặc may mắn bắt được rắn mối, các kè… thứ nào cũng ngon cả. Đã đi tù cải tạo thì con gì nhúc nhích được là ăn, chỉ trừ con dao, con đực rựa không gặm được đành chịu. Đi ngang gặp cây lá gì cũng bỏ vào miệng thử, không mùi không vị có thể dùng nấu canh, nếu tìm được thứ gì chua hay ngọt thì khỏi cần nấu nướng, nhai ngay tại chỗ cho đỡ đói. Trong thời gian nầy, một anh tù bắt mối làm quen với vệ binh nhờ mua ký đường, chuyện nầy gây nghi ngờ cho quản giáo biết rằng trong chúng tôi có người vẫn còn giấu vàng trong người. Do đo, một hôm cả khối được lệnh tập họp với tất cả vật dụng cá nhân. Lệnh phải đem hết ra bày ở giữa sân từng món một không sót một vật gì. Lúc đầu chúng tôi đoán khám xét để chuyển trại, nhưng sau một hồi sỉ vả chính trị viên và quản giáo buộc tội chúng tôi còn giấu vàng, giấu dollar trong người để mưu đồ trốn trại. Lúc bấy giờ không còn cách gì qua mặt được bọn chúng, anh em nào có trong người đành phải đưa nạp những khâu vàng 24 và dollar bấy lâu giấu trong gấu quần. Chính trị viên và quản giáo không cho thấy cũng như không công bố số vàng và dollar đã tịch thu bao nhiêu mà chỉ cho biết sẽ dùng số tiền nầy để mua lợn nuôi, mục đích cho anh em cải tạo tha hồ thịt sau nầy. Chưa biết được ăn thịt heo sau nầy hay không nhưng đau khổ trước nhất là phải bớt phần ăn của tù, thêm người để nuôi và tắm rửa heo hằng ngày. Mỗi lần đi ngang chuồng, anh nào đi trước cũng đưa tay nhẹ nhàng vớt những hột cơm cháy còn sót lại trong máng để cải thiện thành nồi cháo lỏng. Hành động nầy đến tai quản giáo, nạn nhân được kêu lên nhận lỗi làm tự kiểm. Bực mình, anh em trong nhóm tôi bàn với nhau tìm bắt bò cạp, không phải nướng ăn tại chỗ mà đem về thả vào chuồng. Cả đàn heo đua nhau chết ngay trong ngày hôm đó. Sáng hôm sau, đội tù được gọi lên lãnh thịt, ai cũng mừng thầm chuyến nầy sẽ no nê một bữa. Nhưng khi anh nuôi Rạng xách thịt về, gồm một ít bầy nhầy da và mỡ không đủ cắt chia mỗi người một miếng nhỏ bằng ngón tay út trẻ con. Mười con heo to lớn mập mạp là do tiền của công sức mồ hôi của tù cải tạo, chỉ bị bò cạp cắn một miếng mà thịt biến mất đâu hết, còn lại chừng vài ký bầy nhầy được quản giáo ân huệ cho trên hai trăm khổ chủ của khối. Đâu đủ để chia cho mỗi người một miếng nhỏ, anh em tù quyết định nấu canh để còn thưởng thức được chút mùi mỡ thịt heo. Đã vậy ăn chẳng ngon lành gì vì sau đó bọn chúng ra lệnh tập họp lên lớp để nghe bài học, các anh giết chết lợn là ăn cắp của nhân dân thì phải đền lại cho cách mạng! Tức hộc máu nhưng đã lỡ nuốt vô bụng rồi, chỉ còn cách đi cầu ẹ ra để trả lại cho chúng.
    Dịp sinh nhật già Hồ, anh em được nghỉ một ngày. Trước hôm đó, tù được lên lớp để nghe đi nghe lại cái lý lịch thần thánh của ‘vị cha già dân tộc’ và được nghe một tin ‘hồ hởi’ là tù chúng tôi sẽ được ăn một bữa thịt lợn thỏa thích. Không khí trong trại trở nên náo nhiệt lạ thường, không phải ‘hồ hởi phấn khởi’ vì ngày sinh của già Hồ mà chính là chiều nay sẽ được ăn một bữa thịnh soạn.
    Đi đâu, ngồi đâu cũng nghe anh em tù đề cập đến bữa cơm chiều nay. Thịt heo chỉ là món ăn tầm thường ngày trước nhưng sao bây giờ thấy quý giá và cao sang quá. Đã một năm trời ngày đêm mơ tưởng một miếng thịt. Đây chỉ là một ước ao tầm thường của một người tù nhưng dưới chế độ cọng sản, thịt cá là hàng xa xỉ phẩm, dân chúng chưa có ăn huống hồ gì mấy người tù bị lột quyền công dân. Ngày lên đường đi cải tạo, vì tin lời đường mật của cọng sản, trên người chỉ đem theo có bộ áo quần, đôi dép, cái bàn chải đánh răng. May mắn vợ bỏ thêm vào xách tay lon thịt kho sả thì cũng vừa đủ dùng trong thời gian hứa hẹn. Mười ngày trôi qua, mãn khóa trở về đâu chẳng thấy, cuộc đời từ đó phải tuân theo họng súng và lao động tận lực trong vòng kẽm gai. Đầu thì bị dồi sọ và miệng chỉ biết bobo, gạo mốc, củ mì, trái su, muối bọt… Cá, gà, bò, heo xem như thực phẩm của vua chúa, thứ tù tội có bao giờ dám nghĩ đến. Thế mà chiều nay, theo lời quản giáo, sẽ được một bữa no nê thỏa thích, tất cả đều nôn nóng chờ đợi một vài miếng thịt lợn!
    Chưa đến giờ nhưng tất cả đều tập trung trong nhà ăn cũng là nơi sinh hoạt hằng đêm của đội tù. Cứ bốn người thân thiết ngồi thành một mâm. Chiếc muỗng và cái lon guigoz là hai vật quý nhất, theo sát trong người suốt cuộc đời đi tù, nhiều anh xoi lỗ chiếc muỗm mang trước ngực và lon guigoz thì đeo ở vai. Vào bàn xong, muỗng cầm tay đợi, lon guigoz mở sẵn nắp nhưng tất cả đều thất vọng khi được chia mỗi mâm bốn miếng thịt nhỏ, cắt đều đặn chưa bằng ngón tay cái.
    Tất cả tám con mắt trong mân đều đổ dồn vào bốn cục thịt nhỏ nấu nước muối, đang nổi lều bều trong cái thau. Bàn bên cạnh lớn tiếng không đồng ý lối cắt thịt của anh nuôi vì có miếng lớn miếng nhỏ, miếng xương, miếng thịt. Cuối cùng bốn người đồng ý bốc thăm bằng cách quay đũa. Một anh đưa ra một hộp thiếc tròn nhặt được ngoài rẫy, dùng làm chén ăn cơm rồi để chiếc đũa lên quay một vòng, đầu đũa quay về ai thì người đó có quyền chọn trước.
    Riêng mâm của tôi, Yên lên tiếng:
    - Em kính thầy! mời thầy chọn trước!
    Hai anh Bé và Tâm cùng mâm tiếp lời:
    - Kính lão đắc thọ!
    Không biết ba anh em kính hay chơi xỏ thầy, thôi tôi đành chọn cục xương cho ra vẻ đàn anh!
    Cục xương chắc chắn là vấn đề tranh chấp trầm trọng nhưng tôi đã ‘tình nguyện’ giải quyết, còn lại ba người thỏa thuận chơi trò đen đỏ bằng cách quay đũa cho công bằng. Phần nước luộc thịt thì dùng muỗng chia đều ra bốn phần.
    Tôi không ăn phần của tôi vội, lấy trong túi ra miếng giấy nhựa gói miếng xương dính một tí thịt và mỡ cho ngay vào túi quần. Yên thắc mắc hỏi:
    - Sao anh không ăn?
    - Hôm nay có cơm, ăn với nước luộc thịt cũng quá ngon, miếng thịt để dành tối ngậm mà thưởng thức.
    Nhìn quanh, đám tù giải quyết miếng thịt thật gọn. Có người nhai từ từ trong miệng, cố kéo dài giây phút sung sướng mà loài người đã xếp vào hạng nhất của một trong bốn cái khoái, một lúc sau mới nuốt. Ngược lại, mấy anh ngồi cạnh tôi, vừa bỏ miếng thịt vào miệng chưa kịp nhai đã vội vàng nuốt trửng, miếng thịt xuống đến dạ dày nhưng yết hầu ở trước cổ mỗi người vẫn còn hoạt động lên xuống theo nhịp nước bọt đang trào ra.
    Tôi lên mặt thầy đời:
    - Các anh không biết thưởng thức là gì, nuốt một cái ực làm sao biết được cái ngon!
    Anh bạn cùng bàn vừa nuốt nước miếng vừa trả lời:
    - Thèm quá ông ơi, muốn ngậm lâu lâu một chút nhưng không thể kềm chế cái miệng.
    Bữa cơm hôm nay được tiếng là sẽ ăn uống phủ phê nhưng chẳng có gì hơn, ngoài chén cơm không độn bobo, miếng thịt bằng đầu ngón tay và một chén canh nước luộc thịt có mùi mỡ và bột ngọt. Nhưng dù sao không khí cũng khác hẳn, nhiều tiếng cười, tiếng nói ồn ào sau khi rời nhà ăn của khối. Anh em vui vẻ thật sự, nhưng chắc chắn không phải lý do được nghỉ lao động một ngày hay hân hoan đón mừng tuổi thọ ông già, mà chính là chén cơm trắng và miếng thị mỡ đang nằm trong dạ dày của từng người một.

Tối đó, tất cả khối phải lên hội trường để tiếp tục nghe về ‘cuộc đời và sự nghiệp’ ông già thêm một lần nữa sau khi được nhà nước ân huệ một miếng thịt mỡ. Anh bạn ngồi bên cạnh cứ than vào tai tôi: ‘Biết rồi nói mãi khổ quá, tha cho con về ngủ đi ‘già’ ơi’! Tôi mong chấm dứt sớm để còn về lán thưởng thức miếng thịt đang nằm trong túi. Mắt thì nhắm, tai chẳng thèm nghe, đầu chỉ nghĩ đến miếng thịt, lâu lâu tôi đưa tay rờ vào túi quần kiểm soát để chắc rằng miếng thịt vẫn còn đó. Nhưng vừa đụng vào miếng giấy nylon thì miệng tôi lại đầy nước bọt.
    Khi được quản giáo tha tội cho về ngủ thì trời đã khuya, chắc vì ảnh hưởng tí mỡ trong cơ thể, anh em tù yên lặng lên giường, không ồn ào đòi ăn hàm thụ món nầy món kia như thường lệ. Tôi cẩn thận lấy miếng thịt trong giấy nylon ra từ từ để vào miệng. Cảm giác đầu tiên, đầu lưỡi như bị tê hẳn vì qua một năm không được miếng cá miếng thị tươi nào trong miệng. Mùi thơm, ngọt, béo của thịt chạy dài từ lưỡi lên tận trên óc nảo rồi xuống tới tim, gan, phèo, phổi, dạ dày… Tôi như ngất ngây trong sung sướng và cảm khoái trong người, tưởng như hạnh phúc độc nhất cuộc đời không gì hơn ngoài miếng thịt.
    Thật ra không phải miếng thịt mà là cục xương dính một ít thịt và mỡ, anh em ‘nể tình’ nhường cho tôi chọn trước. Nhìn bốn miếng thịt lều bều trong thau, tôi biết ngay miếng nào nhỏ, miếng nào lớn như đâu cam đảm gắp miếng thị lớn vào chén mình khi anh em nhường trước với câu ‘kính thầy’. Nhưng thật ra cục xương mới đáng đồng tiền bát gạo trong lúc nầy, tôi không dám nhai mà ngậm yên trong miệng, đợi nước miếng trào ra hòa lẫn mùi mỡ, mùi thịt, mùi xương rồi mới nuốt phần nước, dùng lưỡi chặn miếng xương lại. Như vậy tôi có thể kéo dài thời gian thưởng thức miếng thịt ân huệ của ngày lễ trong vài tiếng đồng hồ. Răng của tôi rất chắc, nhiều lần không cầm được lòng, định nhai nát ra rồi ực một cái cho sướng miệng. Nhưng không dám, sợ sẽ chấm dứt quá nhanh cơn đê mê thích thú của một người đói cả năm nay, ngày đêm mơ ước thèm thuồng. Nằm ngậm miếng thịt mà lòng tái tê ngao ngán. Chỉ là miếng mỡ không ra gì nhưng kể từ ngày cọng sản vào cưởng bức miền Nam nó trở nên quá vĩ đại và quý giá vô cùng.
    Thời gian sau đó, người ta cho phép gia đình thăm nuôi. Thật là trớ trêu, dưới chế độ cọng sản, nhà nước bắt đi khổ sai nhưng lại để thân nhân gia đình phải gồng gánh cơm gạo, cá thịt, thuốc men đi nuôi tù. Nhưng suy nghĩ cho kỹ cũng nên ‘cám ơn’ nhà nước vì không có gia đình thăm nuôi chắc chắn anh em tù cải tạo, nếu không chết vì đói thì cũng không còn sức để bò về đến nhà sau ngày phóng thích. Tù trong các tỉnh chung quanh Sàogòn được vợ con thân nhân hàng tháng tay xách vai gánh thăm nuôi, nhờ vậy những bầy vượn đói của Xã hội chủ nghĩa đã lấy lại sắc thái và phong độ con người. Những bộ xương cách trí nhờ miếng ăn của người thân đã bắt đầu trở lại có da có thịt. Thực phẩm thăm nuôi không gì ngoài ký đường, lít gạo, con khô, lon thịt, thùng mì nhưng dưới chế độ cọng sản là những món ăn cao sang của những gia đình thuộc chế độ cũ cũng như anh em tù cải tạo. Có đói rồi mới thấy chén cơm trắng, gói mì khô, cục đường đen, miếng cá mặn hay tí thịt mỡ nó quý giá làm sao, nhưng trong hoàn cảnh cùng cực anh em tù đã biết chia sớt cho nhau đó là điều cảm động của tình nghĩa ‘huynh đệ chi binh’ vẫn còn lại trong lòng những sĩ quan cũ. Một trường hợp ngần như ngoại lệ, anh Thọ được thăm nuôi thường xuyên, mỗi lần người nhà lên, anh cần thêm một người thật khỏe ra gánh hộ vào. Gia đình anh chắc chắn đã bị cướp lột sạch từ đầu đến chân qua những lần đánh tư bản mại sản, nhưng có lẽ người nhà đã khôn khéo cất giấu được phần nào, nay vẫn còn sức nuôi anh theo lối công tử ngày xưa. Ngoài những thức ăn căn bản, quà của anh lúc nào cũng có vài ký café hạng sang với đường phèn, hộp sữa đặc, chục nem chua, đòn chả lụa, gói khô bò, vài ký lạp xưởng. Bù lại những ngày đói khổ, miệng Thọ lúc nào cũng ngậm cục đường hay đang nhóp nhép nhai sống miếng khô bò khúc lạp xưởng. Nhưng Thọ là người tốt bụng với anh em. Trong lán, một B chừng hơn năm chục tù, người nào cũng được ít ra một lần thưởng thức một vài thứ thuộc loại đại xa xỉ phẩm của chế độ cọng sản.
    Một hôm lao động ngoài rừng, anh em trong tổ đập được con rắn, đang nổi lửa để nướng thì Thọ đi đến, tay cầm mấy khúc lạp xưởng, vui vẻ hỏi chúng tôi:
    - Cho ké được không?
    Nghe vậy ai dại gì từ chối, đổi miếng thịt rắn nướng để thưởng thức hương vị của khúc lạp xưởng. Thọ đưa tay vẫy kêu thêm mấy anh em đang nghỉ bên gốc cây trước mặt. Tất cả đứng dậy tiến về phía chúng tôi trong đó có thêm Sửu, người có nhiệm vụ canh gác và kiểm soát công việc của chúng tôi hôm nay, nhưng tất cả anh em không ai phản đối sự có mặt của anh vệ binh nầy. Thật ra tất cả đều thương, anh ta hiền và dễ chịu hơn tất những người khác. Ít la lối hoặc lên tiếng chưởi bới chúng tôi mỗi khi có vấn đề. Mỗi lần dẫn chúng tôi đi làm việc, anh thường vác súng, mũi chúi xuống đất chứ không chỉa thẳng về chúng tôi. Ra đến nơi làm việc thường kiếm bóng cây, yên lặng ngồi nghỉ để mặc anh em tù làm việc tự do, không hối thúc kiểm soát không nạt nộ như những vệ binh khác. Vừa ngồi xuống, Sửu lên tiếng trước:
    - Hôm nay em có dịp đến từ giã các anh.
    Một người trong chúng tôi vội hỏi:
    - Tạo sao?
    - Em bị ‘điều’ về Bắc.
    - Tại sao vậy?
    Nhìn quanh một hồi, Sửu nói đủ vừa nghe:
    - Bị kiểm điểm quá lơ là, không đạt tiêu chuẩn của một người vệ binh gác tù.
    Tôi trả lời thay cho các anh em :
    - Chúng tôi hiểu.
    Rồi tôi tiếp tục :
    - Nhưng tại sao anh dễ dãi với chúng tôi ?
    Sửu đáp không suy nghĩ :
    - Các anh cũng hiền và dễ thương, chứ có gì khác lạ đâu.
    - Tại sao anh nói vậy ?
    - Trước đây còn ngoài miền Bắc, chúng em được học tập kỹ càng rằng các anh là những tên trộm cướp của giết người không gớm tay, đi đến đâu hiếp dâm đàn bà con gái đến đấy. Bắt được chúng em là mổ thịt móc gan ăn sống, còn cắt tai bộ đội xỏ giây đeo đầy cổ đầy ngực ?
    Một anh bạn ngắt lời :
    - Anh tin không ?
    - Học tập mỗi ngày, nghe hoài làm sao chúng em không tin được, nhưng bây giờ những gì chúng em thấy thì ngược lại…
    Dù là tù đang đối diện với kẻ địch trước kia nhưng chúng tôi ai cũng mủi lòng qua câu nói của Sửu. Tôi thấy tội nghiệp, lấy cây bút bà vợ mới đem lên gắn vào túi áo của Sửu :
    - Thân đi tù, gia tài chúng tôi chẳng có gì để tặng anh. Về Bắc cố gắng đi học, hy vọng mai kia anh sẽ dùng cây viết nầy để ghi lại những gì anh đã thấy tận mắt tại miền Nam nầy.Sửu nhìn cây viết, ‘dạ’ một tiếng nhỏ. Thọ đưa mời Sửu một khúc lạp xưởng. Ngập ngừng một lúc, anh ta ăn thật ngon lành. Yên lên tiếng hỏi :
    - Ngon không anh Sửu ?
    Sửu thật thà trả lời :
    - Suốt cả cuộc đời, từ khi lớn lên cho đến lúc vào Nam đánh giặc, chưa bao giờ chúng em biết được mùi vị miếng thịt chứ đừng nói gì đến cục dồi nầy!

THẰNG LỚN (TRUYỆN NGẮN) - VƯỜN Ô-LIU 6

Thằng Lớn vừa từ chợ Xép về. Nó đã bán xong 200 tấm vé số hôm nay, bán sớm sủa nên nó quá mừng. Mọi hôm chỉ 100 tấm cũng trầy trật mà hôm nay 200, nó nhẩm tính thấy có được một số tiền lời nho nhỏ cho gia đình.


Nó lội vào con hẻm vì nhà nó ở mãi cuối hẻm. Con hẻm nước mới rút một chút nhưng cứ khoảng 3 giờ sáng nước ở con kinh lại dâng lên, hôm thấp ngập bàn chân, hôm cao thì lên đến gần đầu gối.


Nước lên mang theo rác rến, giấy báo, cả xác súc vật thối rữa trông đến sợ. Nhưng ba anh em thằng Lớn không làm gì hơn được. Ba má Lớn cũng như những người khác trong hẻm còn chả làm được gì huống hồ nó, thằng bé mới 13 tuổi đầu.


Tám tuổi Lớn mới được cắp sách đến trường vì ba má Lớn nghèo quá. Học được ba năm, Lớn phải bỏ học vì tiền học phí tăng quá ba Lớn không có tiền đóng cho nó. Từ dạo đó, Lớn phải đi bán vé số để có thêm chút tiền mua rau. Mỗi ngày Lớn phải cầm đi bốn xấp, mỗi xấp 50 vé, phải ráng bán cho hết dù đi  đâu cũng được. Buổi trưa Lớn có quyền mua ổ bánh mì không 500 đồng ở dọc đường nhai, kiếm cái vòi nước máy nào đó uống một hơi căng bụng rồi đi bán tiếp.


Ngày nào nó gặp được một người Mỹ hay người ngoại quốc ở đâu đó đến du lịch thì coi như nó trúng số. Cũng có những người Việt làm ăn ở ngoại quốc về thăm quê hương, Lớn gặp họ, nài nỉ họ mua vé số, có nhiều người mua và cho Lớn tiền nữa.


Bữa nay cũng là trường hợp đó. Lớn đang đi lảng vảng ở khu bến xe Bình Tây này thì chợt trông thấy một người đàn ông khoảng gần 60 tuổi, có dáng vẻ là một người từ ngoại quốc về đi cùng hai người con, một gái, một trai.


Lớn sợ bị mất mối với một thằng bán vé số khác, nó băng ngang đường để tới chỗ ông ta đang đứng với hai đứa trẻ. Ba cha con đều ăn mặc đẹp.


Lớn vội quá nên không nhìn thấy một cái xe Dream có hai người ở trên đang chạy nhanh từ phía Sàigòn phóng tới. Thế là cái xe Dream đâm vào Lớn. Lớn nằm lăn kềnh ra đường, xấp vé cầm ở tay tung toé ra mặt đường.


Chiếc xe cán người bị nằm nghiêng qua một bên, hai người trên xe cũng té nằm xoài. Trong khi Lớn còn nằm vì bị cái húc khá đau thì hai người trên xe Dream bò dậy, người lái xe mắng Lớn và chửi thề ỏm tỏi nhưng ngay đó, hai người này lại cho máy nổ và rồ máy lao đi, chẳng cần biết Lớn bị thương vì cú húc ra sao. Cảnh sát giao thông lúc này không có một người.


Người đàn ông vừa nói, chính là một ông Việt kiều chạy tới đỡ Lớn dậy và dìu Lớn vào hè đường. Ông ta và hai người con nhặt hết những tấm vé số trên mặt đường trao lại cho Lớn. Lớn nói cám ơn. Ông ta hỏi Lớn:


“Cháu có đau không? Đứng lên bác coi xem có bị gẫy xương không?”


Lớn đứng lên. Ông này bắt Lớn giơ tay, đi đi lại lại, cúi người để xem có bị gẫy xương không. May quá, Lớn chỉ trầy da ở hai đầu gối và bàn tay vì chà xát xuống mặt đường chứ xương không sao. Ông ta hỏi:


“Cháu tên gì?”


“Thưa bác, cháu tên Lớn.”


“Nhà cháu ở đâu?”


“Nhà cháu trong hẻm 16, quận Tám, thưa bác.”


“Cách đây bao xa?”


Lớn ngẫm nghĩ:


“Cháu đi bộ nhanh cũng phải hơn nửa tiếng, thưa bác.”


Thấy thằng bé bán vé số lễ phép, ông Việt kiều có cảm tình:


“Vì sao cháu băng ngang đường?”


“Thưa bác, cháu thấy bác là người Việt kiều ở ngoại quốc về, cháu nghĩ là cháu có thể bán cho bác ít vé số. Vì vậy cháu băng qua đường mà không ngó gì cả.”


Ông Việt kiều ân cần:


“Cháu phải nhớ nhiều người chạy xe phóng nhanh lắm, nếu cháu không để ý là mất mạng như chơi.Từ giờ phải rất cẩn thận, ngó trước ngó sau,ngó ngang ngó dọc hết rồi mới băng qua chậm chậm nghe không?”


“Dạ.”


“Muốn bác kiếm xe đưa cháu về nhà không?”


“Thưa bác, muốn, nhưng cháu phải đi bán cho hết mấy xấp vé số này mới được về.”


“Ba má cháu đâu?”


“Ba cháu lái xe ôm, tối mịt mới về; má cháu đi làm thuê, giờ này không có nhà, chỉ có hai em cháu ở nhà.”


“Đưa vé số cho bác coi.”


Lớn dùng hai tay trịnh trọng đưa cả 4 xấp vé ra.


“Chỗ này còn bao nhiêu vé?”


“Thưa bác, cháu mới bán được 20 vé, đây còn 180 vé.”


Người đàn ông và hai đứa con ông ta đứng nhìn mấy xấp vé số, có in giá tiền mỗi vé trên đó. Cô bé con ông ta khoảng 16, 17 tuổi nói tiếng Anh với cha, rồi cả thằng em cũng nói líu lo. Lớn nghĩ đó là tiếng Mỹ vì cha con ông này có vẻ Việt kiều từ Mỹ về. Người đàn ông cũng trả lời con bằng thứ tiếng đó. Họ nói nhanh và trơn tru.


Người đàn ông bảo Lớn:


“Bác mua hết mấy xấp vé số này cho cháu để cháu về nhà sớm một buổi.”


Ông Việt kiều tính ra tiền đô đưa cho Lớn, ông bảo:


“Số tiền 50 đô này đổi ra được 950, 000 theo thời giá hiện tại. Tiền vé số của cháu là 540,000. Số còn dư bác tặng cháu.”


Lớn cầm 50 đôla bỏ vào túi trong mà tay run run vì cảm động. Nó lấy cái kim băng gài miệng túi lại cho chắc ăn. Chỗ trầy da đã bớt đau. Nó chỉ còn hơi nhức đầu vì đầu đụng vào đâu đó lúc bị xe húc.


Ông Việt kiều lại nói một tràng tiếng Anh với hai đứa con, sau đó ông bảo Lớn:


“Đi, lại phía tiệm ăn kia bác đãi tô phở rồi hãy về.”


Lớn dạ nhỏ trong miệng, đi theo ba cha con ông Việt kiều. Đó là một tiệm phở Bắc, buổi trưa người ăn khá đông.


Người bồi bàn hỏi ông Việt kiều mấy người, ông đáp 4. Anh bồi bảo phải chờ chừng 10 phút, rồi một đám khách đứng lên, anh bồi mời ông Việt kiều và đám trẻ vào bàn.


Đã lâu lắm Lớn mới được thưởng thức một tô phở bò ngon lành như thế này. Ngày hai bữa cơm rau dưa còn chật vật dù ba má Lớn và Lớn đã làm hết sức mình, đâu dám nghĩ đến những món quà ngon như phở, mì, bún bò giò heo!


Ăn xong tô phở lại còn một ly lớn sữa đậu nành, Lớn nghĩ ngày nào cũng được ăn như thế này thì chả mấy chốc mà mập như thằng Cồ con một nhà giầu trong xóm.


Ông Việt kiều ra trả tiền ở quầy, xong ba cha con ông và Lớn ra khỏi tiệm phở. Ông bảo Lớn:


“Bây giờ cháu về nhà, đưa ngay tiền cho bố hay mẹ cháu nhé. Thôi bây giờ cha con bác phải đi. Hãy nhớ lời bác là sang qua đường phải rất cẩn thận kẻo tai nạn xẩy ra bất ngờ, nguy hiểm lắm, nghe không?”


“Dạ, thưa bác” rồi nó rụt rè, “ bác có thể cho con biết tên bác không?”


“Tên bác là Tú, bác Tú, con gái bác đây là Jennifer, con trai là John. Ba cha con bác ở Mỹ về vì bà ngoại của Jennifer và John bị bệnh. Thôi bác đi nhé.”


Ông Tú vời một cái taxi, xe ép sát vào lề. Ông Tú xoa đầu thằng Lớn rồi lên xe. Hai người con của ông Tú giơ tay vẫy vẫy Lớn và nói:


“Goodbye.”


Dù mới chỉ quen trong vài tiếng đồng hồ, Lớn cảm thấy thật buồn khi ông Tú và hai người con lên xe đi, không bao giờ có thể gặp lại, nhất là ông Tú đối xử với Lớn tử tế chưa bao giờ Lớn gặp ở một người khác từ khi có trí khôn.


Lớn lẩn thẩn bước đi, lòng trĩu buồn khi chiếc xe taxi đã khuất ở cuối đường. Lớn về nhà sớm một bữa xem má về chưa. Từ đầu  con hẻm xấp xấp nước, Lớn lội vào, càng vào nước càng sâu. Tới giữa con hẻm, Lớn thấy người lớn, trẻ con đứng bu đông nghịt trước nhà bà Chín Chuối. Người ta đang thầm thì bàn tán một điều gì có vẻ bí mật. Lớn lại gần đứng sau đám người nghe ngóng xem chuyện gì?


Thì ra người con trai lớn của bà Chín là Ba Chừng vừa ở nhà thương về, hai tay hai nạng, một bên tai bị băng bó. Ba Chừng là tay anh chị đám du đãng khét tiếng quận Bình Thạnh. Cách đây hai tuần Ba Chừng bị một đám du đãng ở cầu Tân Thuận trả mối thù khi xưa Ba Chừng và đồng bọn đã chém gẫy chân một đồng bọn của chúng. Theo luật giang hồ, chúng không hạ sát Ba Chừng nhưng chỉ chém gẫy chân và đứt một tai của Chừng để cảnh cáo. Ngày hôm nay, Ba Chừng được bệnh viện cho về vì thương tích đã bớt. Đám đàn em của Ba Chừng đưa Ba Chừng về nhà, ngồi bàn tán tính chuyện trả thù nhân có mấy lon la de và vài xị đế, chúng nói to quá khiến người trong xóm bu đông nghe.


Sau khi rõ sự tình, Lớn dời đám đông lội tiếp vào trong ngõ. Má Lớn đã về và hai đứa em cũng đang ở nhà. Thoáng thấy bóng Lớn từ ngoài sân, bà Cải, má Lớn hỏi vọng ra:


“Mầy đã về hả Lớn?”


“Dạ, con đây má”


“Vé số bán hết không?”


Lớn bước vào cái cửa chính đã ngập nước khoảng hai bàn chân dựng lên nhau, mở cái kim băng cài miệng túi, lấy 50 đô đưa cho bà Cải:


“Ông Tú là Việt Kiều từ Mỹ về, ông mua cho con 180 tấm vé số, đưa cho con 50 đô, bảo số tiền còn dư ổng cho con.”


Xong, Lớn thuật lại từ đầu câu chuyện với lời phê bình:


“Con chưa thấy ai tốt như ông Tú đó má. Ông còn cho con vào tiệm ăn phở với ông và con ông, xong lại uống sữa đậu nành ngon lắm má!”


Bà Cải bỏ 50 đô la thằng con vừa trao vào túi trong, cài kim băng cẩn thận.


“Mày lấy dao gọt củ năng với em đi Lớn!”


Hai đứa em Lớn, con Ti và con Tí nhận củ năng từ các nhà hàng về gọt, mỗi kí gọt xong sạch sẽ được trả 1 ngàn. Nếu ngày gọt được 10 kí thì cũng được 10 ngàn, khoảng hơn 50 cent đô Mỹ. Thời buổi khó khăn, có cho mà gọt sau khi đi học về là cũng phúc lắm rồi, chẳng hơn không có. Tuy nhiên, đi lấy củ năng và đi giao củ năng thì người nhận gọt cũng phải làm luôn. Công tác này giao cho ba của mấy đứa nhỏ. Ông ta sẽ nhắm chừng tiện một chuyến xe ôm đưa khách nào đó, giao củ năng và lấy tiền luôn.


Lớn lội nước trên nền nhà lẹp xẹp, nó vào bếp kiếm được con dao nhỏ toan trở lại cái bàn hai em nó đang gọt năng thì cảm thấy đầu nặng chịch. Nó cố gượng bước tới cái ghế và ngồi phịch xuống trong khi mắt nó hoa ra những vầng hào quang. Nó vứt con dao lên bàn gục đầu xuống bàn rồi nó mê đi không biết gì nữa.


Má Lớn nhờ người lối xóm khiêng Lớn ra xe taxi chở ngay vào bệnh viện. Sau khi nghe kể tự sự, một bác sĩ khám bệnh cho Lớn và hai cô y tá  làm động tác cấp cứu vì tim Lớn ngừng đập. Khoảng hơn nửa giờ sau, vị bác sĩ ra cho vợ chồng bà Cải hay, Lớn bị nứt sọ vì chấn thương quá mạnh. Số tiền 50 đô đóng lúc vào không đủ trang trải từ lúc vào đây, tiền còn nợ bệnh viện là 200 đô. Muốn lấy xác thằng Lớn về chôn thì phải đóng 200 đô đó!


Đến lượt bà Cải ngất xỉu ngay tại văn phòng bệnh viện sau khi nghe cô văn phòng cho biết số tiền phải đóng.
 

CHUYỆN DI CƯ NĂM XƯA - THÍ ĐIỂM BA BÈO (KỲ 1)

... Bài Khác Đã Đăng ...

Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Năm học lớp đệ Nhất (tức lớp 12 sau này), tôi đã 22 tuổi vì vào Nam, tôi chưa chịu đi học ngay mà ham đi làm kiếm chút tiền phụ cho mẹ.

Bố tôi qua đời từ 5 năm trước ở ngoài Bắc nên vào Nam, chỉ có mẹ, tôi là con trai lớn nhất, sau đó là hai cô em gái, Mai Uyển và Mai Trân. Để cho có đầu đuôi, tôi cần phải trở lại từ khi rời Hà Nội. 

Một tuần trước khi rời Hà Nội, tôi đạp xe đi coi lại khắp nơi. Tôi đến sân banh Cột cờ Thủ ngữ, nơi tôi cùng những thằng bạn đồng tuổi vào đá bóng mỗi buổi chiều. Tôi đạp qua ga Hàng Cỏ, tôi đến Văn Miếu, ghé coi chùa Một Cột. Đứng lặng trước hồ Gươm, tôi bần thần nghĩ có còn bao giờ sẽ trở về đây nhìn lại Tháp Rùa không? Tôi đạp xe trên đường Cổ Ngư để nhìn chùa Quan Thánh, hồ Trúc Bạch và Hồ Tây, leo lên tới dốc đê Yên phụ. Tôi xuống chợ Hôm, vào chợ Đồng Xuân, gửi xe đi lang thang ở hàng Ngang, hàng Đào, hàng Buồm…Tôi cố thu lại hình ảnh Hà Nội mến yêu mà tôi sắp xa, không hẹn ngày về. 

Vào một buổi sáng sớm, đèn đường vẫn còn tô vàng các đường phố, gia đình tôi được xe nhà binh chở ra phi trường Gia Lâm, lên máy bay Mỹ, vào Sàigòn. Thôi thế là xa Hà Nội thật rồi, tôi thảng thốt nghĩ! Tôi mất Hà Nội như người đánh mất một vật rất quí báu không bao giờ tìm lại được.

Tôi bị thất học vì chiến tranh VM-Pháp từ sau 1945. Trước đó tôi chỉ học xong chương trình Tiểu học Pháp với 6 năm học và thi hai bằng. Tôi vốn có khiếu về Toán, Lý, Hóa từ hồi học Tiểu học. Tôi mê Toán hơn mê bất cứ cái gì đến nỗi nhiều đêm mê mẩn với Toán không chịu ngủ, mẹ phải sang phòng tôi tắt đèn bắt ngủ. 

Lễ Giáng Sinh năm 1954, mẹ con tôi đã ở miền Nam, hưởng một đại lễ an bình và đầm ấm, thực phẩm dồi dào, tình người quảng đại. Những ngày ấy còn nghèo (vì đã bỏ hết ra đi) nhưng là những ngày vui sướng đáng ghi nhớ. 

Được cái sau Hiệp định Geneva chia đôi đất nước, gia đình tôi đã ở Hà Nội, nơi có quốc tế giám sát cuộc di cư nên cũng đỡ vất vả. Chú dì Quản (dì là em mẹ tôi) và 6 người con từ Hà Nam-Phủ Lý, quê nội của tôi, cũng lên được Hà Nội và xuống Hải Phòng nhưng quá cực vì những níu kéo không cho đi, lại mất hết hành lý ở dọc đường. Nhưng nhờ Ơn Trên, chú dì và 6 người con rồi cũng vào được miền Nam. 

Nơi đầu tiên chúng tôi định cư là Ba Bèo, Mỹ Tho. Đầu tiên là những căn lều tạm bợ nhưng rồi Chính phủ Ngô đình Diệm đã làm những căn nhà nhỏ, hai gian với hai chái, hai bên là bếp và nhà vệ sinh kiêm nhà tắm để cấp phát cho dân di cư, có thể nói 100% là bỏ lại hết nhà cửa, tài sản, ruộng nương, mồ mả ông bà ở ngoài Bắc để vào Nam tìm tự do. Nếu gia đình chỉ có 2 hay 3 người thì 2 gia đình chia nhau một căn nhà. Lúc đó như thế cũng đủ vì “ăn hết lắm, ở chẳng bao nhiêu” càng đông càng vui, nhà chính phủ chứ nhà mình đâu mà tranh giành. 

Chính phủ Ngô đình Diệm phát cho mỗi đầu người 700 đồng lúc đó (còn tiền Đông Dương). Như gia đình tôi, 4 mẹ con được lĩnh 4x700=2.800 đồng, tính ra vàng lá thì được hơn một lạng vàng. Ngoài ra mỗi tháng vẫn được lĩnh bột mì, dầu ăn, bơ, cheese, sữa bột cho trẻ em, có khi cả đường, thịt hộp, cá hộp, ba-tê, jambon, xúc xích, bánh mặn những thứ này là ration của Quân đội Hoa Kỳ. 

Một con kinh bề ngang khá rộng, nước ngọt, khu Di Cư dung máy bơm bơm nước lên những bồn lớn (citerne) của quân đội, chứa vào đó, dân chúng dung xô, thùng ra lấy về ăn uống, tắm giặt thoải mái. Con kinh nước chảy mạnh, có thể tắm và giặt ngay trên đó. Nước múc về đánh phèn là trong và ăn được. Bên kia con kinh, lác đác những nhà của người Nam cư ngụ đã lâu tại đây.

Nhà nọ cách nhà kia một khoảng đất trống dùng làm vườn trồng rau, trồng cà, dưa leo, bầu bí để bớt tiền chợ. Mẹ con tôi được phát một ngôi nhà mới, không phải trả tiền nhưng phải mưu sinh tại chỗ, nếu di dời đi một lần nữa thì phải trả lại nhà cho chính phủ tức Tổng Ủy Di cư để phát cho gia đình khác. Chỉ sau ba tháng, mảnh vườn nhỏ của mẹ tôi xanh um các thứ rau thơm: cải ngọt, cải cúc, bầu, bí, mướp, cà chua đang sắp trổ hoa, ngó mát mắt bởi mẹ ở đâu cũng thích làm vườn. 

Tạm thời mẹ con tôi chẳng biết ở đâu thì hãy cứ ở đây.

Tuy là vùng quê nhưng đã có điện. Chúng tôi không phải trả tiền điện mỗi tháng nhưng mỗi nhà chỉ có một bóng đèn 60watt ở phòng khách, cứ vàng vàng mặt trời ngọn đèn tự động sáng, qua đêm, sáng hôm sau khoảng sáng rõ thì tự động tắt từ Văn phòng Di cư Ba Bèo. Khi không cần, chúng tôi có thể tắt, thí dụ lúc đi ngủ, khi nào cần, bật công-tắc lại có điện. 

Bữa đó có xe bus của Tổng Ủy Di Cư chở bà con lên Sàigòn chơi cho biết thủ đô miền Nam và là Trung Tâm Văn hóa còn được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Bốn mẹ con tôi theo người ta lên xe. Sàigòn dạo ấy tuy còn thưa người nhưng so với Hà Nội vẫn đông và vui hơn nhiều. Anh Giáo, người chỉ huy xe bus bảo chúng tôi, muốn đi chơi đâu trong thành phố tùy ý nhưng lúc 5 giờ phải có mặt tại nơi xe bus đậu để lên xe về lại Ba Bèo. Anh dọa rằng, người nào không đúng giờ, bị bỏ lại, đi bộ về ráng chịu. 

Bốn mẹ con tôi tung tăng như những con chim tự do tản bộ vào chợ Bến Thành, đi coi khắp chợ, thấy người ta buôn bán sầm uất lắm. Mẹ nhìn quang cảnh lại nhớ đến bố, mẹ bảo chúng tôi:

“Giá bố còn sống cùng vào đây với mẹ con mình thì vui quá nhỉ!”

Tôi trả lời:

“Vâng, mẹ.”

Nhưng tôi không dám nói nhiều sợ mẹ khóc. Cực khổ thì không sao nhưng hễ có cái gì hay, đẹp, ngon mẹ được thưởng thức thì mẹ cũng nhớ đến bố. Đã 5 năm nhưng lòng nhớ thương bố của mẹ không suy suyển.

Hàng quán la liệt, mẹ phấn khởi lắm vì mẹ có tay buôn bán, mẹ bảo với ba anh em tôi:

“Mẹ chưa có vốn, nếu có chút vốn, mẹ về đây buôn bán kiếm ăn được.”

Tôi hỏi mẹ:

“Mẹ định buôn bán hàng gì?”

“Chưa có vốn, chưa định được con à! Có nhiều buôn nhiều, có ít buôn ít, phải tùy cơ ứng biến, không thể nói trước được nhất là trong tay chưa sẵn đồng tiền.”

Tôi nghĩ mẹ nói vậy nhưng mẹ đã nhìn hàng quà ở đây và chắc là mẹ có định kiến. Mẹ lại hỏi:

“Các con đói chưa? Muốn ăn gì?”

Uyển nói:

“Từ ngày xa Hà Nội, đã mấy tháng không ăn phở, nhớ phở quá. Kiếm bát phở ăn đi mẹ!” 

Tôi đồng ý với Uyển:”Phải đấy, mẹ.” Rồi mẹ con tôi đi vòng vòng ngó xem có tiệm phở nào thì vào ăn. Đi cả ra đường Lê Lai và Phạm hồng Thái, Ngô tùng Châu chẳng thấy tiệm phở nào. Lại trở lại cửa Tây, nơi hàng quà, hàng bánh nhộn nhịp đông người ăn uống. Uyển vào hỏi một chị bán xôi Dị (vì nó dị lại với nhau, khác xôi vò, rời ra) ở đây có hàng phở không chị? Chị hỏi lại: “Phở là cái gì?”Uyển biết là không có, nhiều người chưa nghe cái tên, làm sao có được? 

Mẹ con tôi ngồi xuống đầu ghế, mẹ gọi cho mỗi đứa một đĩa bánh cuốn chả lụa. Bánh cuốn Sàigòn không giống bánh cuốn Thanh Trì Hà Nội. Bánh cuốn Thanh Trì khi xưa chúng tôi ăn có nhân tôm, thịt bên trong bánh cuốn tráng rất mỏng, nước chấm có pha cà cuống làm tăng mùi vị rất nhiều đến nỗi bố tôi, khi không có cà cuống, ông không ăn bánh cuốn. Tuy đã có nhân thịt nhưng bánh cuốn Thanh Trì vẫn ăn kèm với chả quế hoặc đậu phụ rán còn nóng. Ngon hết ý! 

Bánh cuốn chợ Bến Thành là một đĩa bánh cuốn tráng vừa chứ không mỏng như Thanh Trì, có bánh Cống dòn dòn ăn phụ, có chả lụa xắt lát và giá trụng, hung quế, ngò gai rắc lên trên, nước mắm tỏi ớt chua ngọt chan bỏng. Đang đói, cũng kể là ngon! 

Người Sàigòn lúc đó chưa có tiền cắc, khi mẹ trao cho chị bán những quả roi (mận Mỹ Tho) một đồng để trả chục mận 14 trái 50 xu thì chị xé đôi tờ giấy bạc giữ một nửa, trao lại cho mẹ một nửa. Người miền Nam đa số (không phải tất cả) xuề xòa như chục mận 12, 14 có khi 16. Người Bắc thì một chục là chín trái cộng thêm một trái nữa chứ không phải 12 đâu.

Đường Lê Lợi, đường Tự Do, chúng tôi cứ lội bộ đi khắp, ra cả bến Bạch đằng bằng con đường còn cái bảng tên Tây: Charner. Tự do cũng có chỗ còn sót cái bảng Catinat, đi thẳng đến Nhà thờ Đức Bà, cao lớn, đồ sộ và rất đẹp. Khuôn viên phía trước nhà thờ để là Công trường Nhà thờ Đức Bà, sau này đổi là John F. Kennedy, ông Tổng Thống Hoa Kỳ đã có một quyết định quá sai về Việt Nam, ảnh hưởng đến toàn dân Việt.

Mẹ con tôi đi qua rạp xi-nê Lê Lợi nhưng làm gì có tiền mà vào coi; hơn nữa, giờ đâu mà coi, chưa đến 4giờ30 mẹ đã hối phải trở lại chỗ xe bus đậu gấp. Trân thích nước đá nhận si-rô nên xin mẹ vài cắc mua một ly lên xe bus ngồi nhấm nháp. 

Bà con đã trở lại đầy đủ. Anh Giáo và bác tài trở lại lúc 5 giờ thiếu 15. Anh Giáo cầm danh sách đọc tên từng người. Sáu mươi hai người đầy đủ. Bác tài đề máy, chiếc xe lại nhẹ nhàng trở về Ba Bèo. Cuộc đi thăm Sàigòn thật hữu ích!

Ở Ba Bèo được 4 tháng, mẹ cho chúng tôi hay mẹ muốn về Sàigòn kiếm đường làm ăn vì cách nào cũng phải bung ra sống, quỹ viện trợ của Hoa Kỳ cho người di cư rồi cũng đến lúc hết. Ở Ba Bèo chỉ có nghề làm nông, mẹ không hề cấy gặt; còn tôi lúc đó mới 16 tuổi, Uyển 13, Trân 11, sức lực đâu mà làm nghề nông? 

Chỉ có một mình tôi là đàn ông trong nhà, muốn làm việc gì, mẹ bàn với tôi rất kỹ. Rồi buổi sáng đó, tôi và mẹ ra Văn phòng Khu Di cư Ba Bèo xin trả lại nhà để về Sàigòn. Bà Sơ phụ trách hỏi mẹ có điều gì phiền muộn không mà bỏ đi? Mẹ nói, nhà cửa, điện, nước tốt, nhu yếu phẩm như gạo, dầu ăn, đường, sữa bột, tiền mua rau, cá vẫn có, Tổng Ủy Di cư đã giúp đỡ tận tình, vô cùng cám ơn nhưng phải về Sàigòn kiếm đường buôn bán kẻo sau một năm hết viện trợ sẽ bối rối. 

Sơ hỏi thế về Sàigòn ở địa chỉ nào? Câu hỏi này làm mẹ tôi lúng túng. Nhớ ra được hôm rồi tại chợ Bến Thành, mẹ gặp một người quen khi xưa, ông bà Khiết, cùng ở Hà Nội vẫn thường đi lễ nhà thờ chánh tòa với nhau, nay ông bà ở trại Bùi Phát, đường Trương minh Giảng Sàigòn, mẹ nói đại sẽ về trại Bùi Phát. Sơ giở sổ ra coi rồi nói:

“Trại Bùi Phát Sàigòn cũng sẽ là một thí điểm định cư cho dân Bắc di cư. Những gia đình nào còn cần đến nhu yếu phẩm viện trợ của Hoa Kỳ sẽ vẫn được lãnh ở đó nhưng phải đi khai với Văn phòng Trại tại đó.”

Mẹ tôi cám ơn. Hai mẹ con ra về sắp dọn đồ đạc. Chỉ có mỗi người một túi xách trong đựng vài bộ quần áo, tôi có thêm vài quyển sách Toán và tiếng Pháp dùng đi kèm trẻ kiếm ăn qua ngày. Nồi xoong, bát đĩa, giường chõng trại phát thì để lại cho những người đến sau. Tiếc nhất là mảnh vườn nhỏ. Mẹ cứ đứng nhìn hoài, rồi mẹ bảo, ai đến ở sẽ được hưởng vườn rau quí này, rau quá ngon!

Sáng hôm sau, Văn phòng cho một chiếc xe nhỏ chở mẹ con tôi lên đến cổng trại Bùi Phát. Chúng tôi đang đi lớ ngớ để tìm nhà ông bà Khiết xin trú ngụ mấy bữa thì gặp một ông cụ. Trông cụ đã lớn tuổi nhưng còn khoẻ mạnh. Cụ nhìn thấy chúng tôi trước:

“Mấy mẹ con bà này đi đâu đây?”

Mẹ trả lời:

“Thưa bác, mẹ con tôi vừa từ Ba Bèo lên đây, tính đi kiếm nhà ông bà Khiết xưa quen biết ở Hà Nội để trú chân mấy bữa vì chúng tôi chưa biết phải làm sao giữa thành phố xa lạ này.”

Cụ nói:

“Nhìn thím và mấy cháu là tôi biết người Bắc di cư. Không cần phải kiếm nhà ai làm chi. Nhà tôi rộng, vào tôi cho ở nhờ ít bữa rồi kiếm nhà sau.”

Mẹ con tôi quá mừng liền theo ông cụ. Chỉ đi một chút đã tới nhà. Ông cụ nói cho bà vợ hay, bà cũng vui vẻ đón tiếp chúng tôi, chỉ cho mẹ một căn phòng dùng làm chỗ ngủ cho bốn mẹ con tôi, có giường, màn đàng hoàng. Sau đó, bà nấu cơm, nấu canh, kho cá mời mẹ con tôi ăn. Bước lưu lạc gặp người hảo tâm thật ấm lòng. Vì vậy cả đời bố mẹ tôi, lúc nào ông bà cũng ca tụng người có nhân đức và khuyên con cháu nên ăn ở tốt với mọi người, giúp đỡ kẻ cơ nhỡ, nghèo khó rồi có ngày mình cũng được sự giúp đỡ. 

Mẹ con tôi ở nhà bác Bền, ông cụ bắt gọi vậy giống như ông bà là anh chị của bố mẹ tôi, được hơn một tháng thì mẹ tôi sang lại được một căn đất trên đống rác Trương minh Giảng trước giờ bỏ không chỉ để đổ rác.

Hồi đó ai đến sớm khu này, chịu khó cắm lều chăng giây ở trên mảnh đất đó thì sau này sẽ được chính quyền đô thành Sàigòn cấp cho vì xưa kia đất rộng người thưa, suốt từ chợ Trương minh Giảng xuống đến Lăng Cha Cả, hai bên toàn là đống rác, rác từ trung tâm Sàigòn đổ xuống, chẳng ai muốn ở gần.

Khu đất mẹ tôi sang được phải trả một cây vàng. Mẹ có hai cây mẹ giấu rất kỹ đến tôi không biết, nay mẹ nói dùng nó mua mảnh đất này mới biết. Còn một cây, mẹ nói sẽ dùng nó làm vốn buôn bán. Người bán cũng là dân di cư, gia đình này đến đây trước chúng tôi khoảng sáu tháng, họ đã có công cắm được mảnh đất nhưng nay vì việc làm nông, họ phải xuống Cái Sắn để được cấp phát ruộng nương sinh sống và vì thế mẹ tôi mới có dịp may mua được mảnh đất. 

Trên mảnh đất đã có một căn nhà lá rất sơ sài, hai gian, hai chái, nhỏ hơn căn nhà chúng tôi được cấp phát ở Ba Bèo nhưng cũng có điện đã kéo giây, còn nước thì thuê gánh tháng do chị Mười cung cấp ngày hai đôi từ vòi nước phông tên ngoài phố, đổ đầy một cái phuy. 

Qua năm 1955, tôi đã 17 tuổi nhưng vẫn chưa đủ tuổi đi làm, chính phủ ấn định là 18 tức phải thêm một năm nữa. Tôi bèn viết mấy tờ Quảng cáo dán ở bức tường cuối nhà thờ Bùi Phát: ”Thanh niên có trình độ Toán dạy Tiểu học. Bảo đảm đi thi là đậu. Địa chỉ liên lạc:….”

Chỉ hôm sau đã có hai ông bà đến gặp tôi xin kèm cho con họ. Ngặt cái bốn đứa, hai lớp; tôi phải qui vào hai đứa một lớp, một giờ 15 phút mỗi ngày cho mỗi lớp. Tiền lương họ trả rất hậu hĩ. Thế là mỗi tháng tôi đưa mẹ được vài trăm. Mẹ phát lại cho tôi vài chục để ăn quà hoặc mua sách vở. 

Nghĩ rằng phải có bằng cấp mới đi dạy học được, cái nghề tôi muốn làm, cuối năm 1956, tôi đi ghi tên học tối chương trình Thất, Lục, Ngũ, Tứ. Ngôi trường tôi đã quên tên ở đường Ngô tùng Châu không nhận đơn. Họ nói em phải đợi lúc khai giảng lớp mới vì lớp em xin vào đã học được gần 4 tháng rồi, bây giờ em vào nghe như vịt nghe sấm, uổng tiền học phí mà đi thi không đậu vì mất nhiều bài căn bản. Tôi nói xin cứ cho tôi vào, đi thi không đậu cũng được, nhưng họ bảo nhiều học trò rớt làm giảm giá danh tiếng của trường đi. Tôi phải nói rằng vậy thì tôi học trước mấy tháng, khi có lớp mới tôi sẽ xin qua lớp ấy đi từ đầu. Mãi rồi họ mới bằng lòng.

Tính ra tôi chỉ được học 5 tháng trong khi cả lớp được học hơn 9 tháng trước khi đi thi. Chương trình Toán, Lý,Hóa đi đã hơi xa. Sau bài đầu, hôm sau tôi ra Khai Trí mua sách đem về gạo miết những bài cả lớp đã học. Đoạn này tôi phải tự học nên hơi cực nhưng đọc sách, tôi vẫn hiểu được tất cả lý thuyết về Toán Hình học. Còn Đại số, Lý và Hóa 4 lớp này dễ hiểu, chỉ cần đọc kĩ và nhớ công thức là làm được bài tập. Có những điều khó hiểu từ những bài tôi chưa được nghe giảng, tôi giơ tay xin thầy nói lại. Vì cả lớp nhiều học sinh cũng còn lờ mờ, lời yêu cầu của tôi được hoan nghênh. Thế là chỉ sau hai tuần tôi bắt kịp cả lớp những anh chị giỏi nhất, sau hai tháng tôi vượt họ đến nỗi ông thầy Toán bảo thế nào đi thi tôi cũng đậu. 

Tôi có vốn Pháp văn Tiểu học Pháp khi xưa học ở Hà nội, rồi chiến tranh làm gián đoạn nhưng những gì học được tôi vẫn còn dư sức để đi thi Trung học đệ nhất cấp, lúc đó phải thi cả hai sinh ngữ Anh và Pháp (có thể đổi một ra Hán văn hoặc một cổ ngữ khác). Từ hồi đến Ba Bèo, tôi mua sách Anh ngữ về tự học lấy. Hai cuốn L’Anglais Vivant sixième bleu và cinquièm beige tôi quần nát. Phát âm không có thầy chỉ thì tôi dùng tự điển của Oxford hay Webster Dictionary, cố đọc theo đúng cách phiên âm quốc tế của họ. Tôi tự học lấy ngữ vựng và Văn phạm trong hai cuốn sách căn bản trên. Tôi đã có thể viết thư, viết những đoạn văn ngắn, kể một câu chuyện bằng Anh ngữ mà không thấy quá khó. Tôi nghĩ nếu có người Mỹ hay người Anh để thực hành với họ thì việc học sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Tháng 5-1957, tôi lều chõng đi thi Trung học đệ nhất cấp (cũng gọi là Trung học phổ thông). Mỗi năm có hai khóa, khóa 1 và khóa 2 cách nhau khoảng hai tháng rưỡi. Nếu tôi nhớ không lầm, khóa 2 chỉ dành cho những người trượt vấn đáp khóa 1 (chỉ phải vào vấn đáp)và những thí sinh rớt thi viết nhưng có số điểm 75% trở lên chứ kém quá không được thi lại. 

Tôi đậu ngay khóa đầu với hạng Bình (Mention Bien) mặc dù mấy ngày thi, tôi bị cúm hành, ho sốt kinh khủng. Mấy thầy Giám thị coi thi mấy buổi này thấy tôi ho, mặt đỏ rần, bảo:

“Trò về nhà nghỉ, sang năm thi, ốm đau quá làm bài sao được?”

“Thưa thầy, tôi đủ sức làm bài; nếu ngồi phía trên này làm phiền các bạn khác thì thầy cho tôi ngồi xuống cuối lớp.”

Viên Giám thị đành phải cho tôi ngồi bàn cuối cùng để những tiếng ho khỏi làm chia trí các thí sinh khác.Bữa thi môn Toán, thầy Giám thị lại có sáng kiến dẫn tôi sang phòng bên cạnh, chỉ có mình tôi. Tôi khoan khoái vô cùng. 

Cái mốt học tối dạo đó là sau khi đậu Trung học, học ngay Tam-Nhị (lớp 10 và 11). Trường Phan sào Nam ở đường Trần quý Cáp với một dàn Giáo sư nổi tiếng lúc đó. Tôi đến ghi tên học ban B tức ban Toán. Trường khai giảng sớm vì phải thanh toán hai chương trình Tam và Nhị một năm, mà lại là lớp tối, ít giờ hơn lớp ban ngày của học sinh, mỗi tối chỉ dạy tối đa 3 giờ, từ 7-10giờ. Giáo sư đi nhiều Chương chỉ giảng phớt hoặc đi rất lẹ cho kịp chương trình vào cuối năm. Bài tập cho rất nhiều, không biết ban ngày lấy giờ đâu mà giải. Mấy năm đó tôi chẳng biết rạp xi-nê ở đâu, tờ báo có khi không đọc hoặc chỉ coi chút tin tức quan trọng, lo học bài mờ người. Thứ bảy và chủ nhật, ngoại trừ phải đi đâu cần thiết với mẹ và đi lễ trong Bùi Phát, tôi chỉ ngồi nhà gạo bài không biết trời trăng gì nữa.

Tôi nhớ suốt năm không hề bỏ một buổi học, các giờ rảnh ở nhà, tôi chỉ giải Toán, Lý, Hóa và học sinh ngữ. Những giờ kia, tôi vẫn phải kèm trẻ kiếm tiền. Một gia đình cho tôi mượn một phòng bỏ trống làm chỗ dạy, họ lấy gỗ thông ván thùng từ PX Mỹ, đóng tạm bàn ghế. Đám trẻ bây giờ tăng lên hơn chục em vì phụ huynh bảo nhau, tôi kèm cho con họ thi Tiểu học là phải đậu. 

Tôi chọn sinh ngữ chính là Anh, sinh ngữ phụ là Pháp. Tôi muốn giỏi Anh ngữ nên chọn cách này vì nếu tôi không lao vào Anh ngữ thì suốt đời tôi dở Anh ngữ. Tôi có duyên với Việt ngữ chẳng bỏ giờ nào. Năm 1958, tôi đi thi Tú Tài I, đậu Bình Thứ ngay khóa đầu. Trường Phan sào Nam dạo đó thí sinh đậu Tú Tài I chỉ có dưới 10%, con số khá ít ỏi. 

Đậu xong, tôi không nghỉ ngơi, ra Khai Trí kiếm mua sách Toán Đệ Nhất (lớp 12) về nghiền ngẫm. Sách gồm cả sách Pháp và sách Việt. Thực ra chương trình Toán và Khoa học các lớp Trung học và Tú Tài Việt Nam bắt nguồn từ các sách giáo khoa chương trình Pháp, các giáo sư giảng dạy lúc đó đã chuyển ngữ từ Pháp sang Việt. Chương trình Toán lớp đệ Nhất lúc đó rất nặng với hệ số 6, (nguyên Toán đã 5 môn), Lý-Hóa hệ số 4 nên thí sinh phải “gạo” dữ lắm. Có nhiều thí sinh thi 4 hay 5 lần hoặc hơn nữa mà không đậu. Người bạn học chung với tôi, anh Nguyễn bảo N. (bào đệ ĐGM Nguyễn bảo L.) thi 2 năm 4 lần vẫn trượt trong khi anh dạy Toán đệ Nhị ở trường trung học Lê bảo Tịnh, có nghĩa anh đã giỏi Toán lắm. 

Tôi phải học lớp tối bên Đakao vì kiếm một lớp Đệ Nhất Toán buổi tối mà học không dễ gì. Học sinh ít nên lớp mở ít, đệ Nhị tối thì rất đông (không cần có bằng Trung học cũng được thi Tú Tài I) mà đệ Nhất (phải có Tú Tài I) hầu như cả Sài gòn chỉ có một hoặc hai lớp tối. Dĩ nhiên lớp ban ngày có nhiều hơn vì học sinh (chuyên nghiệp) là đa số chứ không như lớp tối, thường là công chức hoặc người lớn tuổi, đi học để bổ túc văn hóa hoặc thăng tiến nghề nghiệp.

Tôi và anh Nguyễn bảo N. khóa đầu thi ở trường Nữ trung học Gia Long. Tôi làm bài được nhưng bữa xướng danh không nghe tên, thế là hỏng, đến anh N. cũng không nghe tên. Anh đang ngồi với tôi đột nhiên khóc rưng rức. Tôi biết anh buồn vì hỏng thi, tôi an ủi:

“Chúng ta còn khóa 2 anh N. ạ. Đừng quá buồn mà mang bệnh!”

Anh rút mùi soa lau nước mắt bảo tôi:

“Anh mới bị một khóa chứ tôi khóa này là 5. Tôi đã hết sức mà vẫn không đậu thế thì bao giờ đậu được?”

“Đừng nản chí. Thất bại là mẹ thành công. Mai đi lên Nha Khảo thí xem điểm thi ra sao.”

Hôm sau tôi với anh lên hỏi điểm. Cô thư ký coi thẻ học sinh, số báo danh, trường thi xong lấy hồ sơ thi ra. Tôi chỉ thiếu 1 điểm, nếu Hội đồng thi vớt là đậu. Còn anh N. thiếu hơi nhiều. 

Sau khi nghỉ vài ngày cho lại sức, tôi và anh N. gặp nhau các buổi tối, khi ở nhà tôi, khi ở nhà anh (khá gần với nhà tôi) chúng tôi giở Toán-Lý-Hóa ra ôn lại, làm hết những bài tập trong các sách giáo khoa, cả sách Pháp cả sách Việt. Chúng tôi bảo nhau giữ kỷ luật thật nghiêm để học, quyết giành thắng lợi kỳ 2 vì nếu dẵm vỏ chuối lần nữa thì phải đến sang năm mới lại được thi. Lâu quá! Mà chúng tôi sốt ruột, không thể chờ. Khóa 2 này là sinh tử đây. Học Đại học tương đối dễ chứ Tú Tài II nhất là Tú Tài Toán lúc đó rất khó. 

Khi muốn giải trí thì quay qua Anh, Pháp ngữ hoặc chương trình Triết học. Ban Toán chỉ học Luận lý học và Đạo đức học. Tâm lý học dành cho ban C (Sinh ngữ). 

Với khoảng hai tháng, chúng tôi chuẩn bị chu đáo cho khóa 2. Trường thi là Nữ Trung học Trưng vương, cạnh Thảo cầm viên. Tôi khá tự tin từ ngày đầu đến trường thi, nghĩ mình học kỹ thế này phải đậu, nếu mình không đậu, ai đậu? Nhưng anh N. vẫn cứ bi quan dù tôi khuyên anh phải tự tin và vui lên. Bài Triết về Luận Lý (ít khi cho Đạo đức) là bài đầu, tôi làm suông sẻ, có vẻ dồi dào ý tưởng và trau chuốt văn từ. 

Buổi chiều là Toán, quan trọng nhất vì hệ số 6, bài ra về Lượng giác và Hình học. Tôi giải được 80%. Ngày đầu coi như xuôi lọt. Tôi hơi mừng trong bụng. Qua ngày thứ hai, tôi thấy bàn bỏ trống khá nhiều có lẽ vì bài Toán hôm qua họ không làm được. Bàn tôi có hai thí sinh, tôi một đầu và cô Nguyễn như Ngọc ngồi đầu kia. Tôi không có thì giờ nhìn Như Ngọc nhưng trông thoáng cô xinh gái, mảnh mai, chỉ khoảng 19 đôi mươi là cùng. Cô mặc áo dài trắng, trên bâu áo có tên trường nhưng tôi không để ý. Mà để ý làm chi khi tôi sắp phải làm một bài Lý-Hóa biết chắc là gay go, không giải được là out. 

Như Ngọc ở đầu bàn (lối đi giữa) dù không nhìn nàng nhưng tôi cũng thấy một đôi lần nàng kín đáo liếc nhìn sang tôi, người con trai cùng một bàn với nàng.

Chúng tôi đang chờ cái chuông điện reng lên và ông Giám thị đi từng bàn phát mỗi thí sinh một đầu đề in bằng ronéo, tất cả do ông Chánh chủ khảo mở khằn bóc bao thư ra trước sự chứng kiến của Tổng Giám thị và các Giám thị coi thi, sau đó mới phát đúng số lượng Giám thị mỗi phòng báo cáo để đưa về phát cho thí sinh làm bài. 

Chúng tôi đón nhận đầu đề một cách lo lắng, không biết dễ khó ra sao đây? À, một bài Lý dài thòong, nguyên đọc cũng mất cả phút. Sau đó đọc lại, rồi đọc lại kĩ càng đến ba lần. Tôi đã có ý niệm để giải bài Toán, dù đã giải rất nhiều loại này nhưng chưa gặp chính nó bao giờ. Đề ra rất ác, bắt thí sinh phải hiểu và biết cặn kẽ từ những nguyên lý cơ bản của Cơ học. Tôi viết những công thức dùng để giải bài Toán về con lắc đồng dạng này xuống mảnh giấy nháp e luống cuống sẽ quên chăng. Rồi tôi bắt đầu giải câu 1, sang câu 2, câu 3. Bài mở ra được đúng như ước đoán của tôi làm tôi hứng thú. Tôi liếc mắt sang Như Ngọc; tôi thấy cô với vẻ mặt nhăn nhó rất bối rối. Khi ông Giám thị từ dưới lớp đi lên trên, qua khỏi bàn chúng tôi, Như Ngọc quay qua nhìn tôi với cái nhìn cầu khẩn. Cô bí không giải được bài Toán khá hóc búa. Cũng có thể cô quên công thức nào đó mà không có nó không giải được. Tôi rất muốn giúp cô nhưng tôi sợ ông Giám thị chỉ cách bàn tôi có hai mét đứng kia. Chưa chắc tôi cho cô mấy công thức, định lý mà cô đã giải ra. Còn trao cả bài cho cô thì giờ đâu mà làm? Đưa tờ giấy nháp cho cô thì tôi còn đang cần nó. Vả lại, một điều quan trọng nhất, lỡ có thêm một ông Giám thị đứng núp ngoài cửa sổ chủ yếu bắt thí sinh gian lận, gà bài cho nhau, ông bên trong giả vờ quay lưng đi cho thí sinh tưởng bở và ông bên ngoài rình chộp thì hết cựa (đã xẩy ra). Tôi tội nghiệp cô, muốn giúp cô thiệt nhưng lỡ bị bắt, bị cấm thi vài năm thì đời tôi tàn trong ngõ hẹp. 

Cô vẫn nhìn tôi cầu khẩn, tôi nhớ đôi mắt đẹp của cô như muốn tuôn đôi dòng lệ, tôi quá ái ngại nhưng biết không thể làm gì. 

Tôi tĩnh trí trở lại, tự nhủ, không giúp nổi cô đâu và chú tâm làm gần hết bài Lý quá khó. Như Ngọc không chịu nộp bài (giấy trắng) ra ngay nhưng cô chờ cho đến khi chuông reo hết giờ lên nộp. Tôi cũng nộp, ký vào danh sách nộp bài, thủng thẳng ra về. Cô theo tôi sát nút, quay lại thấy cô, tôi hỏi:

“Cô làm bài ra sao?”

Như Ngọc bùi ngùi, giọng thật buồn:

“Như anh thấy đó, tôi có làm được đâu. Nhưng tôi chờ anh để hỏi xem bài Toán giải ra sao? Khó quá hả anh? Tôi biết là tôi rớt rồi.”   

Chúng tôi vừa ra tới sân. Có một đám thí sinh bu quanh một ông thầy Lý-Hóa, tôi không biết ông dạy trường nào, chưa gặp bao giờ. Một nam thí sinh, ý chừng học ông, đưa ông mảnh đầu đề. Ông đọc xong ngẫm nghĩ rồi giải thích sơ qua chứ không đi vào chi tiết, phải dùng những công thức nào để giải bài Toán. Tôi và Như Ngọc cũng đứng nghe. Sau đó ông hỏi, có bạn nào giải như kiểu tôi vừa nói không? Tôi thấy đúng là cách tôi đã giải, tôi giơ tay. Ông giáo sư hỏi: thế đáp số ra sao? Tôi đưa ông coi bản giấy nháp, ông ngó sơ rồi nói: anh giải đúng, nếu Toán hôm qua anh khá thì anh đậu.

Như Ngọc mừng cho tôi: chắc thế nào anh cũng đậu rồi. Tôi nói, còn phải vào vấn đáp nữa. Vấn đáp cũng hắc búa lắm. Nhiều người rớt vấn đáp đấy. Anh, Pháp, Sử, Địa, Triết, Công dân vấn đáp hết. Như Ngọc vẫn nói, Ngọc nghĩ thế nào anh cũng đậu vì cái gì anh cũng giỏi. Tôi cười:

“Sao cô biết cái gì tôi cũng giỏi?”

Ngọc cũng cười:

“Nhìn anh biết cái gì anh cũng giỏi!”

“Không được như cô nói đâu.”

“Xe anh đâu?”

Tôi trỏ tay:

“Khu đàng kia.”

“Đi, ta lại cùng lấy xe. Ngọc cũng để xe ở đấy.”

Khi hai chiếc xe đứng song song ở dưới đường, Ngọc nói:

“Nhà Ngọc ở gần đây. Mời anh lại chơi rồi giải cho Ngọc bài Toán để sang năm Ngọc đậu.”

Nhìn cô bé thật xinh, tôi muốn đi nhưng nghĩ mai là ngày chót, phải về ôn lại mấy bài ngày mai; vả lại đi về trễ mẹ không biết đi đâu. Tôi thoái thác:

“Thôi để lúc khác. Mai còn thi, tôi phải về ôn bài. Tuy hệ số nhỏ nhưng cũng phải làm cho đàng hoàng!”

Ngọc bảo:

“Anh siêng thiệt. Thảo nào anh giỏi. Lẽ ra mai Ngọc không thi nữa nhưng thi để biết trình độ cho sang năm. Năm nay Ngọc rớt cả hai khóa. Vậy anh về. Mai gặp lại anh.”

Hai bài hôm sau, Ngọc làm trung bình nhưng vì bài Lý bỏ trống nên vẫn rớt. Chiều hôm sau lúc ra lấy xe, Ngọc lại mời tôi đến nhà chơi, lần này coi như đã khá thân tình:

“Anh lại cho biết nhà. Anh chỉ tốn 15 phút là về thôi.”

Cô bé này coi bộ lẻo miệng. Nhanh và thông minh nhưng có lẽ học chưa đủ kỹ, vả lại Tú Tài II Toán lúc đó khá khó và thường là con trai, con gái học Ban A (Vạn vật) nhiều, rất ít B và C. Tôi cũng muốn làm quen với cô bé nên bằng lòng. Hai chiếc xe đạp đi song song trên đại lộ Thống Nhất, vòng ra Tự Do, vào khu chúng cư của gia đình Sĩ quan. Ngọc trỏ cho tôi chỗ dựng xe rồi cùng vào nhà. Ngọc bảo:

“Cư xá này của Quân đội. Bố em làm việc ở ngoài Trung, thỉnh thoảng mới về phép.”

Ngọc mời tôi ngồi ở sa lông rồi đi kiếm mẹ. Bà đang ở phía sau, nghe con gọi đi lên. Tôi đứng chào bà:

“Thưa bác.”

Ngọc nói ngay:

“Anh trùng tên với con nên ngồi cùng bàn thi qua nay. Hôm nay ngày chót, con mời anh đến chơi cho biết nhà rồi hôm nào anh giải cho con bài Lý hôm qua con bí ấy mẹ. Con rớt vì bài Lý hóc búa ác ôn đó. Ông thầy nào mà thất nhân ác đức ra quá khó vậy?”

Mẹ Ngọc nói:

“Tại con học chưa đủ chứ đâu phải tại ông thầy ra khó? Cháu ngồi chơi!”

Ngọc bưng ba ly nước cam đặt lên bàn:

“Mời anh dùng nước.”

Rồi Ngọc ngồi đối diện với tôi:

“Nhà Ngọc chỉ có hai mẹ con vì Ngọc là con độc nhất. Nếu là con trai thì Ngọc được miễn dịch đấy anh!”

Tôi thích cái kiểu tếu tếu vui vui của Ngọc. Ngọc cởi áo dài mặc bộ bà ba mầu hồng trông lại bắt mắt hơn. Mẹ Ngọc hỏi tôi:

“Nhà cháu ở đâu?”

“Thưa bác, nhà cháu ở gần trại Bùi Phát, đường Trương minh Giảng.”

ĂN TẾT QUÊ NGOẠI

 

 Xuân Vũ  TRẦN ÐÌNH NGỌC

 

Mỗi năm vào cuối tháng Chạp, khi tôi thấy chiếc thuyền đinh lớn, phía mũi có vẽ hai con mắt khổng lồ giống như mắt người, ở giữa là cây cột buồm cao bằng tre luồng lớn và ở phía lái có chú Vững, đầu đội cái khăn rằn đen để hai đầu khăn rủ xuống một bên tai, bộ quần áo nâu nhuộm kỹ dày mo, đang đứng chỉ huy cho các tay chân sào neo thuyền, sửa soạn buồm dây v.v... ngay tại Bến đá trước nhà bố mẹ tôi, là tôi biết đã gần Tết Nguyên Đán rồi.

Năm nào cũng vậy, cứ khoảng sau ngày ông Táo chầu Trời, người trong thôn tôi - trong đó có bố mẹ và anh chị em chúng tôi - bao một chiếc thuyền đinh làm đò dọc để sang xã Đông Thành, tỉnh Thái Bình ăn Tết với ông bà ngoại. Đối với gia đình tôi, Đông Thành là quê ngoại vì mẹ tôi sinh trưởng nơi đó cho đến khi lấy bố tôi và theo về Nam Định, ở vùng Trà Lũ này. Với nhiều gia đình khác, Đông Thành lại là quê nội hoặc có thể là nơi sinh sống của bà con thân thuộc, Tết nhất cần phải đến họp mặt, mừng tuổi.

Năm nay chú Vững khởi hành vào ngày 24, và chú nói vì nước lũ năm nay còn mạnh và lớn nên ít nhất cũng phải 27 tháng chạp mới tới Đông Thành.

Các chị và các anh lớn tôi khuân hòm, rương đựng quần áo ra thuyền (lúc đó thời Pháp thuộc nên vali còn rất hiếm). Quần áo này là những bộ đồ đẹp, chỉ được mặc trong mấy ngày Tết dành cho bố mẹ tôi, chị Thảo và tôi vì các anh chị lớn phải ở nhà trông nhà.

Trong rương cũng còn chất quà cáp để biếu ông bà ngoại và mọi người trong gia đình như: trà, mứt, thuốc bổ, sâm, nhung, quế, đồ trang sức, quần áo v...v... bố mẹ tôi đã mua sẵn và gói riêng từng gói, đề tên mỗi người.

Ông ngoại chỉ thích trà tàu Chính Thái thứ thượng hạng, bà ngoại cái cối nhỏ xíu bằng đồng để giã trầu hay cái hộp nhỏ bằng bạc hình trái cau để đựng vôi, cô Đoàn, chị mẹ tôi cái quần lãnh đen v...v... tất cả đều được cân nhắc, suy tính trước khi mua, tùy theo sở thích và nhu cầu của người được tặng và xếp gọn gàng trong hòm, trong rương.

Về phần tôi, lúc đó mới chín, mười tuổi, cái tuổi thích mặc quần áo mới. Tôi nhớ dù còn bé tí nhưng bố mẹ tôi cũng bắt tôi mặc áo dài. Tết nhất là cái áo gấm vàng hoặc xanh có chữ thọ to như cái bát úp rải rác khắp áo, một chiếc quần trắng dài bằng vải trúc bâu, chân đi vớ trắng và dận đôi xăng đan màu da bò. Khi trời nắng, tôi thường đội một cái mũ khung bằng liège để làm nút chai, tuy nhẹ nhưng cứng, không vo lại bỏ túi được, vành rộng hơn tấc tây, ngoài lợp vải trắng, khi mũ dơ, có thể dùng phấn trắng quết, sơn lên cho mới lại. Ngoài ra còn có thêm những bộ quần áo mặc thường để thay đổi nữa.

Lúc chín, mười tuổi, được mặc quần áo mới ai không thích, nhưng với tôi, điều thích thú hơn là được tung tăng ở quê ngoại, nơi đó có vườn tược, ao cá, đồng ruộng... một năm mới nhìn một lần nên lạ mắt, thấy cái gì cũng hấp dẫn, kỳ bí, làm tôi say mê chơi hoài không chán.

Một điều thích thú nữa, mà có lẽ là điều thích thú nhất, là được nghỉ học để đi ăn Tết hai tuần. Buổi học cuối cùng khi nghe thầy Nhường nói bằng Pháp ngữ: "Các anh được nghỉ ăn Tết hai tuần. Ngày... phải trở lại lớp." Sau khi thầy đã dặn đi đặn lại một tràng dài, nào Tết ở nhà đọc từ bài nào đến bài nào, làm bao nhiêu con toán, học thuộc bao nhiêu bài học thuộc lòng để thầy khảo v...v..., tôi - mà chẳng phải mình tôi, còn nhiều đứa khác nữa - đã nhảy cẫng lên, ôm cặp chạy bay ra khỏi lớp, phóng một mạch về nhà đứng thở, để rồi đi tha thẩn ngoài vườn, ngoài ngõ chẳng làm gì.

Hai tuần không phải cặm cụi viết chính tả, không phải học văn phạm, không phải chia động từ, không đặt câu, không làm tính, không bất cứ cái gì. Ôi sao lúc đó tôi yêu Tết làm vậy!

Khi mọi người đã xuống thuyền đầy đủ, các lồng gà vịt đưa đi biếu treo lủng lẳng ngoài hai bên mạn và sau bánh lái. Mới nhìn, người ta cứ nghĩ chiếc thuyền này buôn gà vịt vì lồng lớn lồng nhỏ treo đầy hai bên, trong lồng có để sẵn cám và nước.

Khoảng năm chục người xếp cá hộp trong ba khoang thuyền cộng thêm với rương, hòm, đồ biếu xén của mỗi gia đình, chiếc thuyền vừa khẳm vừa chật không hở một phân vuông.

Chú Vững ra lệnh nhổ neo khởi hành. Chú cầm bánh lái để đưa thuyền đi đúng hướng, còn thuyền đi được hay không là trông vào sáu anh chân sào, cạn thì đẩy bằng sào, nước ngược thì lên bãi dùng dây song, dây thừng để kéo mà sâu quá thì chèo. Sáu anh này cũng như chú Vững đều khỏe mạnh, cường tráng và đã quen sông nước.

Con sông Bến đá ngay trước mặt nhà bố mẹ tôi đi lòng vòng cả mấy chục cây số mới ra đến sông cái, tức là một nhánh của sông Hồng hà, đi tuốt về phía Ngô Đồng rồi mới sang tới Đông Thành.

Chú Vững đứng thẳng cầm bánh lái, công việc chú làm coi nhàn tản nhưng thực ra phải chú ý trong mọi lúc. Nếu chú lo ra để thuyền đâm vào bờ hoặc húc vào các cây cầu khỉ, cầu gạch bắc qua sông thì chẳng những hư thuyền mà còn phải dừng lại bồi thường cho dân làng có cây cầu nữa. Khúc sông trong này cạn nên mỗi bên mạn ba anh chân sào dùng cây sào bằng tre đặc, thẳng, thật dài để đẩy thuyền đi. Tôi vì được chú Vững cưng, nên trời còn sáng, tôi đứng cạnh chú để xem chú bẻ bánh lái đồng thời ngắm phong cảnh hoàng hôn hai bên bờ sông.

Làng mạc san sát, làng nọ tiếp giáp làng kia. Đại để trông từa tựa như nhau: những mái tranh, mái rạ màu nâu, xám, thỉnh thoảng xen vào một vài mái ngói đỏ, hoàng hôn cố sức lấy hết tàn lực rọi lên những tia nắng cuối cùng đẹp rực rỡ như bức tranh của Vincent Van Gogh.

Đâu cũng là những lũy tre xanh, tượng trưng một cuộc sống êm đềm, thôn dã. Những hàng cau cao chọc trời, cây thẳng, cây nghiêng, lấp ló một đôi chim cu bay ra bay vào cái tổ ngay trên ngọn. Thỉnh thoảng thuyền chui qua một cây cầu lợp ngói, chắc chắn, kiên cố, dân quê thường gọi là cầu thượng gia hoặc qua một bến đá tương tự như bến đá trước cửa nhà tôi. Vài người lớn, vài đứa trẻ con còn rửa ráy, giặt giũ, nước bắn lên tung tóe nghe lạch bạch cùng với những tiếng cười ròn tan. Thật xa, tiếng tù và bắt đầu vọng lại, tháng này, dân quê phải cắt phiên canh gác coi chừng trộm cướp vì cướp túng quá hay đi ăn hàng vào những đêm giáp Tết.

Tiếng chuông thu không với nhịp thật chậm của một ngôi chùa kế sông vẳng lên làm tâm hồn ta muốn tìm cõi siêu thoát. Tiếng guốc gõ trên đường xi măng và tiếng lào xào nói chuyện của một đoàn người lớn và con nít, áo quần thùng thình, đang rảo bước đến nhà thờ đọc kinh tối, dáng điệu vui vẻ và thanh bình như tiếng chuông rộn rã của giáo đường.

Quê tôi chỉ có vậy. Mộc mạc. Êm đềm. Trầm lặng. Và nghèo. Cuộc sống không thích hợp cho người thích bon chen, tranh đua nhưng rất thoải mái cho những tâm hồn yêu thiên nhiên, sống giản dị và bình lặng.

Người trong khoang thuyền giở cơm nắm, muối mè, xôi, cơm nếp mật, bánh trái... ra ăn cho bữa tối. Còn một chút ánh sáng mặt trời, họ phải lợi dụng kẻo nửa giờ nữa là tối sập. Tiếng mời chào, trao đổi món ăn nghe cũng ấm lòng. Người dân quê hiền lành chất phác, nghĩ sao nói vậy. Họ không khách sáo hoặc hoa hòe hoa sói, kiểu cách như người thành thị. Họ chia sẻ những vắt cơm, những nắm xôi, những củ khoai, chén đậu, cái bắp với nhau, những thức ăn thật tầm thường đạm bạc nhưng lòng họ đầy thành thật và thương quí lối xóm, bà con.

Mẹ tôi gọi tôi vào ăn cho xong bữa, nhưng tôi mải mê với hoàng hôn đang từ từ xuống, với cảnh vật thiên nhiên lồng vào sông nước, con thuyền tôi đang đi. Tôi muốn thu vào trí nhớ tất cả những hình ảnh thân thương đó để mãi mãi, dù sau này không còn được nhìn lại, trí óc tôi vẫn còn ghi đậm những gì tôi đã được hưởng lúc thiếu thời.

Chú Vững giục tôi vào khoang vì trời đã tối và lạnh. Bên trong chỉ có một ngọn đèn chai đốt bằng dầu lạc. Dầu hỏa hay dầu hôi lúc đó đã có nhưng dân chúng chỉ dùng để đốt những ngọn đèn Hoa Kỳ nhỏ, hoặc nhà khá giả, đèn măng-sông, mỗi khi có đình đám tiệc tùng.

Đèn chai là thứ đèn hết sức thô sơ. Người ta cắt hai đầu một chai thủy tinh để làm cái chụp đèn. Bên trong chụp là một cái lọ giống lọ mực, học sinh khi xưa vẫn phải cầm đi mỗi khi đến trường để chấm ngòi bút lấy mực đặng viết. Trong lọ là dầu lạc (đậu phụng) với một ngọn bấc nhỏ xíu khi cháy cho ta ánh sáng của một ngọn nến (đèn cầy). Nến không thắp lâu được vì tốn tiền, phải canh chừng khi nến sắp hết và sáp nóng chảy lung tung. Đèn dầu lạc ít tốn, có thể đốt suốt đêm, lại nữa, nếu đèn bị ngã đổ, ngọn lửa tắt liền không gây hỏa hoạn như đèn dầu hôi hoặc nến.

Trong khoang khá ấm dù chăn, mền hơi ít và chỉ có chiếu nhưng đông người vẫn ấm. Chỉ còn vừa một chỗ nằm nhỏ xíu cho tôi lách mình vào, nằm nghiêng mới đủ chứ không thể nằm ngửa. Cá mòi xếp trong hộp Sumaco - Made in Morocco có lẽ cũng chỉ khít khao đến thế.

Tuy ăn uống, chia sẻ cho nhau thân thiết đậm đà như đã nói nhưng lúc nằm ngủ, giới phụ nữ không nhân nhượng phe đàn ông một chút nào khi bị lấn lướt. Thỉnh thoảng lại nghe một tiếng la, giọng chua như dấm của một bà sồn sồn hoặc cô con gái:

"Cái nhà ông này hay chửa, sao ông cứ gác chân lên đùi tôi vậy? Tê hết cả cái đùi người ta rồi này."

Mặc dù "xướng" to thế, cả làng cả nước những người còn thức đều nghe, nhưng không có "họa". Người đàn ông nào đó làm như ngủ say - say thật hay say vờ - nhưng không bao giờ có tiếng trả lời.

Được một lúc im lặng, chỉ nghe tiếng ngáy phì phò, tiếng thở nhịp nhàng của những người dễ ngủ. Làm việc đồng áng ban ngày, đêm đến là họ ngủ như chết. Rồi lại tiếng la:

"Cái anh chết tiệt này, mê sảng gì cứ sờ đầu, sờ cổ người ta lung tung. Thức dậy đi. Đồ phải gió!"

Lời trách móc, chửi bới rốt cuộc cũng loãng vào khoang thuyền. Chẳng ai để ý, mà để ý cái vụ đụng chạm làm chi khi khoang thuyền chật như nêm cối. Thánh sống nằm đó cũng còn bị trách cứ, mè nheo, huống hồ con người. Không lẽ nằm như bó giò từ chập tối đến sáng không cựa quậy, không nhúc nhích, không gãi ngứa, co tay đạp chân? Vậy đụng chạm là phải rồi. Chỉ có cái lạ, dù mãi sau này mười tám, hai mươi tôi mới hiểu ra, lâu lâu lại một cô con gái nhà lành đi buôn đò dọc hàng chuyến như thế, bỗng nhiên cái bụng cứ to mãi lên, khiến cô phải bỏ quê đi mất xứ. Vác cái bầu, kết quả của những đêm đi đò dọc nghe mấy anh chân sào gẩy đàn bầu hoặc hát trống quân, quan họ trong lúc thuyền đi thong dong nhờ gió và buồm, nhục nhã với bố mẹ, gia đình, làng xóm không chịu nổi. Các cô ra tỉnh ở đợ, ở vú kiếm ăn nuôi con, sống nhục nhã ê chề thế nào cũng giữ con, ôm con chứ không phá thai dễ dàng như thời nay.

Sau ba đêm và hai ngày đằng đẵng dưới đò như thế, mọi người đã cảm thấy cuồng cẳng. Sáng ngày kế tiếp, thuyền chúng tôi vào địa phận Đông Thành. Thuyền lại đi trong con sông nhỏ vài cây số nữa mới tới chợ, nơi thị tứ đông người ở và là nơi trú ngụ của ông bà ngoại tôi. Hai anh chân sào ngồi trên thuyền nghỉ, một anh đứng chống mũi thuyền để thuyền khỏi gạc vào bờ, ba anh kia đeo thừng vào vai, lội ruộng để kéo thuyền. Khi nào kéo mệt, toán kia xuống đổi.

Tin thuyền ăn Tết của chú Vững tới được loan thật nhanh. Lúc thuyền vừa cặp bến, tôi đã thấy ông ngoại tôi - dù trên bảy mươi tuổi nhưng vẫn còn khang kiện - cùng với cậu Bảo, cậu Tường và dì Cúc, dì Hiên, dì Mười có mặt để đón chúng tôi. Đúng như chú Vững nói, sáng hôm 27 Tết chúng tôi có mặt ở chợ Đông Thành.

Con cái đã tụ họp đông đủ. Gia đình tôi từ Trà Lũ sang, cậu mợ Lã từ tỉnh Thái Bình về, ông bà Phán Quế, bạn của ông ngoại tôi lúc cùng đi học, từ Hà Nội xuống. Bạn bè, con cháu, xóm giềng đầy một nhà tính ra có tới ba, bốn chục người.

Đầu tiên ông tôi phân công mỗi người hoặc mỗi nhóm một việc. Bố tôi viết đại tự đẹp thì lo liễn, hoành phi, câu đối, thiếu mua vải về viết thêm, đủ thì chỉ bảo cho mấy đứa cháu lau chùi bụi bặm, treo lại cho ngay ngắn. Bố tôi cũng có nhiệm vụ lo bàn thờ gia tiên, đỉnh hương, đèn nến và chỉ bảo người nhà lau chùi bày biện hương hoa, quả trái cho ra vẻ ngày Tết. Tôi nhớ ông bà ngoại tôi lúc đó chưa theo đạo Thiên Chúa nhưng cũng không theo đạo Phật. Ông bà chỉ cúng giỗ gia tiên và làm bổn phận của người con, người cháu những ngày kỵ, ngày Tết. Tuy vậy ông không cấm con cháu theo tín ngưỡng riêng. Khi mẹ tôi lấy bố tôi, mẹ tôi theo đạo Thiên Chúa vì gia đình ông nội tôi có đạo Thiên Chúa từ nhiều đời.

Cậu Bảo và thằng con lớn của cậu có nhiệm vụ trồng nêu và trang hoàng, làm sạch lối đi vào nhà. Thường gần Tết, dân quê có thói quen sửa sang đường xá, làm cỏ, cắt cỏ những nơi công cộng cho sạch sẽ, vét bùn ao, sông hoặc tát ao, tát sông bắt tôm cá chia cho mỗi gia đình ăn Tết.

Một đám thanh niên năm, sáu người theo lệnh ông tôi xuống ao bắt cá. Tôi còn nhớ cái ao lớn và thật sâu, ông tôi làm ống cho thủy triều ở con sông lớn vào ra hàng ngày nên ao sạch và cá rất mau lớn. Với đám khách khứa đó, khoảng mười con cá vừa mè, vừa chép trung bình mỗi con sáu, bảy ký là đủ. Bà ngoại chỉ huy cho nhóm đàn bà đem nướng, hấp hoặc nấu với chuối xanh tùy theo loại cá để đãi khách.

Dù mới hăm bảy tháng Chạp, nhà ông bà ngoại tôi đã vui như Tết. Cá đánh dưới ao lên tươi rói, đàn ông uống rượu đậu, ăn gỏi cá mè. Rượu đậu là một thứ rượu trắng như rượu đế trong Nam, do nhà cất lấy. Nó thơm, ngọt, uống êm ả và say êm không sóc, không nhức đầu như rượu Văn Điển. Rượu Văn Điển hay rượu Ty là rượu độc quyền của Pháp chế tạo và bán cho dân chúng. Rượu này không nguyên chất như rượu đậu mà có pha cồn (alcohol) nên uống sóc và nhức đầu. Cất lén rượu đậu bị bắt sẽ bị phạt tiền, phạt tù hoặc cả hai. Nhưng dân quê ta ghiền rượu, không sợ, vẫn cất lén uống.

Còn gỏi cá mè là những miếng phi - lê cá, thấm giấy bản cho thật khô nước, thái mỏng, trộn với riềng đâm nhỏ và thính. Một thứ sốt sền sệt làm bằng nước nấu từ đầu cá có thêm thịt heo ba chỉ, dấm, đường, nước mắm, bột gạo, tiêu ớt và có khi cả bã rượu, chua chua, ngọt ngọt, đậm đậm, cay cay để ăn với cá và các thứ rau thơm với bánh đa nướng. Dân quê miền Bắc lúc đó khoái gỏi cá cũng như dân Nhật mê Sushi bây giờ. Cũng là cá sống thôi. Cá sống bổ, không có cholesterol như thịt, các cụ ta ít bệnh ung thư, cao máu, tiểu đường, bao tử là vì vậy.

Còn các bà thì ăn cá nướng, ăn bún bung. Cá tươi như thế đem kẹp vào một cây tre chẻ đôi đem hơ trên than cho đến khi chín vàng. Mùi cá nướng thơm ngát mũi. Gỡ cá ra, bóc da vứt đi, đem cá nạc chấm với nước mắm chắt (một thứ nước mắm nhĩ nguyên chất), chao ôi là ngon! Nếu không thích cá nướng thì ăn bún bung. Cá chép nấu với chuối xanh, thịt ba chỉ, đậu hũ chiên, bột nghệ. Khi ăn chỉ việc bỏ bún (lúc đó chỉ có bún tươi) vào tô, chan cái chan nước đều lên để mỗi tô có cá, có thịt, có đậu hũ, chuối xanh, hành hoa... Thế nào cũng phải có tía tô và rau diếp. Thiếu tía tô không ra bún bung. Tôi vì còn nhỏ quá chưa biết uống rượu nên không ăn được gỏi cá (các cụ quan niệm gỏi cá hàn (lạnh), vậy phải uống rượu cho ấm lên, nên cứ thưởng thức bún bung. Cũng ngon chán. Giờ nhớ lại tôi vẫn còn thèm.

Người nông dân nước ta, dù ở Trung, Nam hay Bắc Việt thường tự cung cấp cho gia đình mình những nông phẩm cần thiết như lúa gạo, thịt cá, rau trái... Ông ngoại tôi, cũng giống như phần đông các gia đình nông dân khác, nuôi không thiếu thứ súc vật gì và trồng cấy không thiếu cây cỏ gì. Trước kia, ông làm việc ở Hà Nội, công chức nhà Giây Thép (Sở Bưu Điện bây giờ), sau đó ông về hưu và về hẳn Đông Thành, nơi quê hương bản quán để sống một cuộc đời nông dân mà ông ao ước.

Ông có một chuồng gà lớn cả hai, ba mươi con. Gà có đực, đẻ trứng là ông cho ấp liên miên hết lứa này đến lứa khác. Ông cũng dùng gà để ấp trứng vịt nữa, vì vậy đàn vịt của ông tăng gia phi mã, thỉnh thoảng phải bán bớt lấy tiền mua thóc, bắp, cám... cho những con còn lại. Ông còn một chuồng bồ câu cả chục đôi. Chúng bận rộn kiếm ăn, nuôi con và đứng gật gù với nhau ở ngoài sân, trên mái nhà cả ngày. Chưa hết, chuồng lợn kế bếp của ông cũng có mấy con. Lợn ông chỉ cho ăn cám nấu với bèo hoặc rau muống, thịt chắc mà thơm, khác hẳn với loại thịt lợn ăn những thứ tạp nhạp khác.

 Năm nào có đông khách và con cháu, ông bảo cậu Tường và cậu Bảo mổ con lợn hoặc chung một đùi bò với người lối xóm để đãi khách. Thực ra, gà vịt và bồ câu trong chuồng cũng đủ cho một cái Tết thịnh soạn rồi.

Dân quê ngoài Bắc có thói quen hạ cờ tây, tuy nhiên ông tôi không bao giờ giết những con chó nhà. Ông nói nuôi nó, nó như tay chân thân tín, mình không nỡ lòng nào hạ nó ăn thịt. Đôi khi ông và gia đình có thưởng thức món cờ tây này, nhưng là "đánh đụng" với nhưng nhà khác mà thôi. Đàn chó của ông vì vậy "khuyển số" tăng lên khá mạnh mẽ.

Tôi còn nhớ một năm, khi gia đình tôi tới, tôi thấy con Vện, con chó đực lông vàng điểm hung đen, khá to và mạnh, không hiểu sao bị què một chân đi khập khiễng. Dì Hiên nói nó bị sa xuống cái hố sâu ngoài ruộng cách nhà khoảng nửa cây số, khi nó đi theo anh Viễn ra ruộng, anh canh điền vẫn đến cày bừa cho nhà ông tôi, nhưng anh Viễn không biết. Nó nằm cả đêm dưới hố không rút chân lên được cho đến sáng hôm sau khi ông và cậu Bảo đi kiếm, mới kéo được nó lên và khiêng về nhà săn sóc. Vì không có thuốc men, chỉ dùng gừng hoặc nghệ giã ra, đổ rượu vào chưng lên cho nóng rồi bóp vào cẳng nên nó vẫn không khỏi được. Con Vện mang cái chân què trông thật tội nghiệp và vì kém ăn, nó sút đi trông thấy.

Mấy người hàng xóm xúi ông ngoại tôi giết thịt, ông không chịu, nói nó què quặt lại càng phải thương nó hơn. Họ dụ ông giết nó không được, bèn trả giá mấy hào, nói mua về nuôi săn sóc cho nó nhưng ông ngoại tôi biết, họ chỉ định mua về giết thịt vì con Vện lông ngắn, thuộc giống chó ta, thịt rất ngon. Ông lại càng cố giữ con Vện lại.

Tết năm nay có khách trên Hà Nội xuống - ông bà phán Quế. Ông phán Quế là bạn đồng sự với ông tôi mấy chục năm ở nhà Giây Thép, nên ông tôi ra lệnh giết một con lợn, chia cho lối xóm một ít, còn giữ lại để giã giò, làm nem và gói bánh chưng.

Ở thôn quê lúc đó, giết lợn là chuyện đại sự. Bởi lẽ phải khá giả mới dám ngả lợn, giầu có dư ăn, dư để và nhân dịp hội hè đình đám lớn mới dám vật bò, mổ trâu. Nhiều địa phương, phải là việc làng, việc tổng mới dám nghĩ đến chuyện giết bò, giết lợn hoặc giết trâu làm cỗ đãi hàng xã, hàng tổng. Một chi tộc, một khu xóm, thường người ta chỉ giết gà vịt, bắt cá dưới ao lên hoặc cùng lắm là hạ một con cầy tơ.

Trời lạnh căm căm, cái lạnh thật dễ chịu cho những chú bé như tôi. Tôi chưa phải làm việc gì, vì con nhỏ cũng có, vì đóng vai khách cũng có. Áo len dài tay màu đỏ tươi, cổ chữ V, bên trong là hai ba cái áo cánh cho ấm, quần cũng mặc hai cái, cái vải trúc bâu, cái vải kaki dầy. Tôi cùng với mấy đứa trẻ hàng xóm nhà ông ngoại và mấy anh, chị, em, con của bác Đoàn, cậu Bảo, cậu Tường, dì Cúc, dì Hiên v...v... đứng vừa bàn tán vừa coi giết lợn.

 Con lợn vừa, không lớn lắm, chỉ khoảng năm sáu chục kí lô, bị trói cẳng và treo ngược lên tại gốc cây ổi ở góc sân. Nó kêu eng éc dữ dội làm lũ trẻ hàng xóm kéo đến mỗi lúc một đông. Cứ thử tưởng tượng ở Mỹ này có một chút gì xảy ra là người ta bu lại đông đảo để coi vì hiếu kỳ trách chi ở Việt Nam lúc đó, con nít người lớn không có gì để giải trí, tiêu khiển ngoài những sinh hoạt thường nhật như ăn, ngủ, làm việc. Một năm mới được một, hai lần hội hè đình đám. Và Tết thì chỉ có một lần.

Các cụ ta quan niệm máu huyết trong con người và súc vật là tốt và quan trọng nhất cho mỗi sinh vật. Vì vậy, hạ súc vật, các cụ không bao giờ chịu bỏ phí huyết. Lợn, chó, gà, vịt, trâu, bò, chim chóc... thảy đều phải qua giai đoạn cắt tiết và hãm huyết. Con lợn càng kêu lớn, huyết ở cổ nó càng ồng ộc đổ xuống thau đã có sẵn ít muối. Người cắt tiết con lợn hôm ấy chẳng ai xa lạ, lại chính là chú Vững, lái đò dọc từ Trà Lũ qua đây.

Dưới mắt tôi lúc đó, chú Vững là người có quá nhiều tài. Chú lái thuyền giỏi, đưa bà con đi đến nơi về đến chốn. Chú hò hát và đàn bầu cũng giỏi. Chẳng vậy mà thím Vững bây giờ chính là cô Mùi buôn bán hàng chuyến hồi xưa. Cô Mùi xuống đò chú Vững, những tưởng buôn bán làm nên sự nghiệp, nào ngờ chỉ sau năm, mười chuyến cô khám phá ra cái ruột tượng (dây lưng của đàn bà) mẹ cô cho cô, hình như ai lén cắt bớt một khúc. Nó không còn dài thả xuống mắt cá mà ngắn ngủn lơ lửng trên đầu gối. Thế là cô Mùi bắt đền chú Vững và lập tức mẹ chú Vững phải đưa trầu cau sang nhà ông bà Thủ Mầu để hỏi cô Mùi cho chú Vững. Đứa con gái đầu lòng của chú Vững ra đời chỉ sau đám cưới của bố mẹ nó chừng bốn tháng làm cả làng nước xôn xao dữ dội hơn bây giờ người ta được tin thủ tướng Do Thái ký thỏa hiệp hòa bình với lãnh tụ PLO hay Mỹ phóng phi thuyền lên mặt trăng.


Và lúc này đây, với tôi, chú Vững lại có thêm tài nữa: cắt tiết heo. Tay phải chú thọc sâu con dao bầu sắc như nước vào họng heo làm đứt thêm những động mạch mới dạm đứt để lấy hết máu xuống thau, tay kia chú cầm đôi đũa dài và lớn khuấy trong trong thau tiết để huyết khỏi đông.

Bọn con nít la hò ầm ĩ. Đứa năn nỉ chú dành cho cái đuôi, đứa cái bong bóng... Vòng tròn chung quanh con heo nhỏ lại dần khiến chú Vững không làm việc được. Chú dọa chơi đám trẻ bằng một tiếng hét to như sấm khiến bọn trẻ sợ quá dạt cả về phía sau.

Nồi ba mươi nước sôi đã sẵn sàng. Chú Vững và cậu Tường đặt con heo lên một tấm phản, dội nước sôi từng phần và cạo lông. Con heo trắng nhởn, sạch sẽ. Chú xả ra làm bốn phần đều nhau để lối xóm "đánh đụng" lấy phần thịt của mình đem về. Phần của nhà chú pha ra, nào thịt để giã giò, làm nem, nấu đông, làm mọc, nào thịt làm bánh chưng v...v... Chỉ loáng cái, tôi đã thấy chú băm nhân tiết canh và đánh ra hàng chục đĩa tiết canh rồi.

Sang ăn Tết bên nhà ông bà ngoại mà tôi đã có nhiều kinh nghiệm, là phải chuẩn bị cái bụng cho tốt để thưởng thức món ăn. Cả hai ông bà ngoại tôi đều hiếu khách và đều muốn con cháu tụ họp đông đủ. Năm nay chỉ có tôi và chị Thảo làm ông bà cứ thắc mắc tại sao bố mẹ tôi không nhờ người coi nhà và cho hết các anh chị tôi đi.

Đánh cá dưới ao, bắt gà vịt, mổ heo, "đánh đụng" đùi bò và sửa soạn cỗ bàn đều vui. Nhưng cái tôi thích nhất vẫn là nấu bánh chưng.

Gạo nếp và đậu xanh đã được ngâm sẵn cho mềm. Thịt heo làm nhân chú Vững đã xắt, ướp muối tiêu hành, thảo quả sẵn sàng, lá giong cắt từ ngoài vườn rửa ráy sạch sẽ, lau cho khô, lạt buộc bằng tre cũng đã chẻ xong. Từ trưa ba mươi, bà ngoại, các dì tôi và những người khéo tay bắt đầu ngồi gói bánh chưng. Mỗi cái bánh vuông vức mỗi bề hơn một gang tay người lớn, dầy khoảng hai phần ba ngón tay trong để hai lớp gạo nếp và hai lớp đậu xanh bao lấy một lớp thịt heo đã ướp. Chú Vững chẻ những cái lạt bằng tre, dài vừa đúng một tầm, mỏng và dẻo, buộc xoắn lại và giấu mối bên trong. Khoảng chập choạng tối thì bánh gói xong.

Trước kia ông tôi thường gầy nồi bánh chưng ở ngoài sân vì cần chỗ rộng cho cái thùng lớn gần bằng thùng phuy. Năm nay ông sắp xếp trong bếp để nấu ngay tại bếp vì ông bảo ngoài sân quá lạnh cho đám con nít như tụi tôi.

Mọi người thay phiên nhau tắm và thay quần áo. Nước lạnh quá thì đặt những nồi nước lớn đun sôi để pha cho ấm. Khoảng chín giờ tối mọi việc dọn dẹp, tắm rửa đã xong. Ông ngồi kể chuyện cổ tích cho con cháu nghe với sự phụ họa và thay phiên của ông phán Quế, một người có tiếng kể chuyện có duyên.

Những thanh củi tạ trong bếp cháy tí tách cho lửa sáng và hơi ấm. Nồi bánh chưng liên tục sôi sùng sục. Những câu chuyện "Chống trả cướp đêm 30", "Giết trăn cứu người", "Con cọp thọt" v...v... chuyện nghe rồi, chuyện chưa nghe nhưng được kể vào đêm 30, ngoài trời tối như hũ nút (ta thường nói: tối như đêm 30), gió bấc lạnh căm căm, trong không khí gia đình xum họp mà cái đinh là nồi bánh chưng thì dù chuyện nhạt như nước ốc, như nước lã ao bèo chăng nữa, cũng vẫn được tán thưởng nhiệt liệt như một câu chuyện hay nhất, ý vị nhất, người kể có duyên nhất.

Nhưng dù có say mê kể chuyện đến đâu, ông ngoại, ông phán Quế và bố tôi cũng không quên lễ Giao thừa.

Đèn nến trên bàn thờ tổ tiên đã thắp sáng trưng. Một ngọn đèn măng - sông tỏa sáng cả căn nhà. Bài vị tổ tiên trông đơn giản nhưng uy nghi, trang trọng. Hoa trái trưng bày thật đẹp mắt và nhả mùi hương thơm ngát. Ông tôi, bố tôi và cậu Bảo ăn mặc chỉnh tề, áo dài khăn đống để chờ giờ hành lễ.

Đột nhiên chuông chùa, chuông nhà thờ, cồng, mõ đầu xóm nhất loạt khua vang. Giao thừa. Giờ linh thiêng. Giờ quan trọng. Ai nấy cảm thấy một cái gì thật trang trọng, tôn nghiêm. Ông bà ngoại tôi đã cắt cử vài người ở bếp canh nồi bánh chưng, còn bao nhiêu quây quần ở phòng khách, gian chính giữa căn nhà gỗ năm gian cũng là chỗ đặt bàn thờ Gia Tiên. Ông tôi đứng trước bàn thờ, bà tôi đứng kế. Ông bà phán Quế đứng cùng hàng nhưng phía bên cạnh chứ không ở giữa chiếu. Sau ông bà là bố mẹ tôi và các cậu các dì. Rồi đến các cháu các chắt. Tôi đứng với bé Vân, con cô Mười, mới sáu tuổi. Từ hôm tôi tới nhà ngoại, Vân cứ đeo dính lấy tôi.

Ông bà tôi trang trọng dâng hương lên trước trán bằng cả hai tay, đầu cúi xuống rất là thành kính. Mọi người giữ im lặng hoàn toàn. Không một tiếng hắng giọng, một tiếng ho. Tôi nghe ông dõng dạc từng tiếng một nói lớn:

"Giờ phút này là giờ phút thiêng liêng của Năm Mới. Tụ họp đông đủ tại đây là các con, các cháu, các chắt, chút, chít v...v... của các cụ, các cố, tam, tứ, ngũ đại và lên trên nữa để nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục và gây dựng cho chúng con có ngày nay. Xin hương hồn các cụ, các cố về chứng giám lòng thành kính của con cháu và hưởng lộc con cháu dâng lên."

Nói xong, ông vái ba vái và cắm ba nén hương vào bát nhang rồi tiến lại đứng ở bàn phía phải kế bàn thờ nhìn xuống đám con cháu. Bà tôi cũng lên cắm hương và đến đứng cạnh ông. Vì là chỗ thân tình và còn họ xa, ông bà phán Quế cũng dâng hương. Sau đó cậu mợ Bảo, con trai trưởng ông tôi, rồi đến bố mẹ tôi và các cậu, các dì đều làm lễ như vậy. Các cháu, các chắt nhỏ quá không phải dâng hương mà chỉ đôi một tiến lên đứng vái và quay ra. Bé Vân súng sính trong chiếc áo gấm mầu vàng, còn tôi gấm xanh, bé bắt chước tôi chắp hai tay lại cúi đầu xuống vái. Tôi nghĩ nếu các cụ, các cố... có sống lại được, dù già lão đầu bạc răng long nhưng nhìn được đàn con, đàn cháu của mình như thế cũng mát dạ.

Ở thôn quê người ta ít đốt pháo. Bánh pháo trị giá mấy thúng lúa chỉ nghe đẹt đùng vài chục giây. Vì vậy tư gia ít đốt mà chỉ có làng, tổng với quỹ chung mới có pháo đốt lúc Giao Thừa. Ông ngoại tôi không mua pháo, cũng không thích đốt nhưng ông bà phán Quế thường mua từ Hà Nội xuống vài bánh pháo "Đại Quang" làm quà cho ông bà tôi, nói đốt cho vui nhà vui cửa và được may cả năm. Vì vậy lúc bọn trẻ con chúng tôi vái lạy tổ tiên, chúng tôi chỉ làm qua loa chiếu lệ. Đầu óc chúng tôi còn để ở cái bánh pháo cột ngang đầu người ở thân cây cau ngay trước gian giữa. Khi người cuối cùng lễ xong là đúng lúc cậu Bảo khai hỏa bánh pháo. Cậu lấy thanh nứa mỏng lấy lửa từ cây nến trên bàn thờ châm vào ngòi pháo. Pháo nổ điếc tai làm có đứa sợ phải bịt tai lại. Sợ đó nhưng bánh pháo nổ chưa hết đã có vài đứa xông vào nhặt những cái pháo tịt ngòi để đốt lại mong nó nổ cho vui. Mùi thuốc pháo tản mạn trong không khí mà đám trẻ chúng tôi cho là cái mùi dễ thương, nó có khả năng đánh thức những đứa đang buồn ngủ díu cả mắt phải tỉnh như sáo sậu. Ánh đèn măng - sông mà lúc đó tôi cho là sáng nhất, sang trọng nhất vì thôn quê chưa có điện, rọi những tia sáng khoảng 500watts lên hai cành đào cắm vào đôi song bình lớn, đặt hai bên bàn thờ, làm tôi ngó những cánh hoa và nụ đào mơn mởn không chán mắt. Hai cành đào này được chặt từ cây đào ngoài vườn, hoa to và nở đúng dịp Tết nên ông tôi cưng lắm. Cây khá già, cũng phải vài chục tuổi nhưng vì ông tưới nước và bón phân đều nên cành lá và hoa nụ của nó trông như đào đương tơ.

Hồi xưa ở Bắc Việt không có mai vàng, chỉ có đào và mai trắng. Mai trắng không đẹp vì hoa quá nhỏ và xúm xít từng chùm nhưng mai trắng cho những trái mơ về mùa hè chua chua, giốt giốt, ngọt, ngọt, nhìn chảy nước miếng. Một nhạc sĩ tiền chiến đã đặt nhạc vào thơ trong bài "Cô hái mơ" trong có câu "Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ" chính là loại mơ này.

Ông tôi không cho để cúc nhiều trên bàn thờ vì chậu trồng cúc thường hơi lớn, để ở dưới sàn nhà coi đẹp nhưng thượng lên bàn thờ coi hơi thô. Ông lựa hai chậu nhỏ, trồng loại cúc hoa nhỏ màu vàng tươi, đặt hai bên bàn thờ, phía trong bình cắm đào. Miền quê lúc đó không có glaieul (lay - ơn) nhưng khi từ Hà Nội xuống, ông bà phán Quế đã chu đáo mua biếu ông bà tôi hai chục bông lay - ơn màu nhung thẫm, vừa dịp nở loáng thoáng trong lúc Giao Thừa làm bàn thờ càng thêm trang trọng. Mấy năm trước ông phán Quế có mang cả Thủy Tiên xuống nhưng vì gọt trễ, không bao giờ nở đúng Giao Thừa nên ông tôi dặn ông phán Quế không mua nữa.

Mùi trầm từ cái đỉnh hương bằng đồng đã được đánh sáng trưng đến soi gương được, tỏa mùi hương dễ chịu và ấm cúng. Những trái phật thủ, cam sành, quýt đường, bưởi... được đặt trong các đĩa lớn cùng với những thức ngọt như bánh trôi, chè lam, thức mặn như con gà trống lớn mới biết gáy luộc nguyên con, xôi gấc v...v... và cả chén đũa như thật sự đãi khách. Với trí óc non nớt của tôi lúc đó, tổ tiên không thể ăn uống hưởng lộc được nữa, nhưng tấm lòng thành đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ... của ông bà ngoại tôi thật đáng quý, đáng làm gương cho các con cháu để giữ lấy tập tục cao đẹp là phải đặt chữ Hiếu Kính lên trên tất cả trong đạo làm người. Con người chỉ hơn con vật ở chỗ biết người trên kẻ dưới, biết giữ tam cương ngũ thường, biết nguồn biết cội.

Để không quá trễ sau lễ Giao Thừa, ông tôi, ông phán Quế và bố tôi ra sân nhìn trời và ngắm cảnh vật, nghe ngóng những âm thanh lúc đó để đoán ra điềm tốt xấu trong năm mới. Bố tôi giải thích nhiều nhưng lúc đó tôi chỉ hiểu đại khái nếu trời quang, mây tạnh, đêm tuy tối mịt tối mùng, nhưng là cái tối êm đềm thì có thể đoán được năm đó được mùa, thời tiết tốt, đất nước yên vui. Trái lại trời đất u ám, quạ kêu cú hú, lại pha lẫn tiếng khóc nỉ non từ đâu đưa tới, như những oan hồn uổng tử quanh quất hiện về thì tiên đoán có thể hạn hán hoặc lụt lội hoặc bệnh dịch tràn lan trong dân gian, mất mùa đói kém làm dân chúng khổ sở, lo âu phiền não. Năm nào lúc Giao Thừa có tiếng bò kêu, ngựa hí hoặc heo ủn ỉn trửng giỡn trong chuồng là y như ông tôi nói năm mới sẽ khỏe mạnh, bình an, công việc làm ăn phát đạt.

Khi ông tôi trở lại phòng khách, đó là lúc hai ông bà ngồi ở trường kỷ để con cháu lần lượt chúc tuổi. Bố tôi thay mặt toàn thể gia đình mừng tuổi ông bà ngoại và ông bà phán Quế. Ly rượu đầu năm do bố tôi rót được tôi, bé Vân và hai đứa bé khác dâng lên ông bà ngoại và ông bà phán Quế. Sau đó người lớn mừng tuổi lẫn nhau, và lì xì cho đám con nít. Tôi được cả chục cái phong bao đỏ, trong đựng những đồng xu, đồng trinh, lúc đó có thể đi mua pháo đốt chơi rôm rả ba ngày Tết. Lúc mọi người lên giường  thì cũng đã hơn hai giờ sáng. Ba ngày Tết được nghỉ ngơi, nên dậy trễ được, mặc dù dân quê có thói quen thức dậy từ bốn giờ sáng.

Tôi ngủ thẳng cẳng tới mười giờ ngày mồng một Tết mới mở mắt ra được trong khi vẫn còn thèm ngủ. Bánh pháo tép của một người khách đến mừng ông làm tôi thức dậy. Tôi chạy xuống nhà bếp. Bánh chưng được xếp thành hàng ngay ngắn trên mấy cái cánh cửa lớn để nén cho chắc bằng cối đá. Bữa trưa của cả nhà ngày hôm đó không gì khác hơn là bánh chưng xanh mướt, hành nén trắng phau và giò thủ, giò bì vui mắt. Tết nhất chỉ thấy ăn là ăn. Nguyên cái vụ nấu nướng để phục vụ thần khẩu đã tốn gần hết ngày giờ. Vì vậy dân quê hay nói:

 "Làm như ngày dưng ăn sao cho hết,


Ăn như ngày Tết lấy gì mà ăn."

Trưa mồng một, thỉnh thoảng vẫn một bánh pháo đẹt đùng làm tôi có cảm tưởng, rõ ràng ngày Tết có cái gì vui quá, háo hức quá. Cảnh vật từ trong nhà đến ngoài vườn, ngoài ruộng, con người, từ người trong gia đình đến những người chỉ gặp ngoài đường trông cũng trịnh trọng khăn đống áo dài cho đàn ông con trai, áo mớ ba mớ bảy quần lụa váy là cho đàn bà, ai trông cũng mới mẻ, tươi vui hẳn lên.

Trời thường không mưa nhưng cũng không có ánh nắng, mây xám thấp thấp của mùa Xuân mới đang gọi những ngọn gió đông phe phẩy luồn cái lạnh vào tận da thịt. Ngoài đình làng, nhiều chiếu bạc được trải ra: tổ tôm, xóc đĩa, bất cho đàn ông và tam cúc, đố mười cho đàn bà. Làng không cho đánh lớn vì sợ sát phạt mất nhà mất cửa, mất cả lúa giống làm mùa nhưng nếu đánh nhỏ, gọi là mua vui thì chẳng sao. Có một số người chuyên chứa bài, họ tổ chức cờ bạc ngay tại nhà và lấy xâu lấy hồ, có khi kéo dài hết tháng hai:

 "Tháng Giêng là tháng ăn chơi.

Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè..."

Mười ngày tết nơi quê ngoại qua mau vùn vụt. Tôi buồn buồn khi thấy chú Vững đã bỏ chiếc áo the thâm và cái khăn lượt chú mặc ba ngày Tết ra để đóng trở lại bộ quần áo nâu nhuộm kỹ dầy mo và quấn cái khăn rằn đen để hai đầu khăn rủ xuống một bên tai, lại đứng chỉ huy cho sáu anh chân sào sửa soạn chèo, buồm, dây... kéo thuyền trở về Trà Lũ.

Lúc bố mẹ tôi, chị Thảo và tôi xuống thuyền, ông bà ngoại và các cậu, các dì, các cháu lại ra bến sông đưa tiễn. Sáng 27 Tết, lúc chúng tôi đến vui bao nhiêu thì giờ này tạm biệt, buồn bấy nhiêu, dù chỉ là sẽ xa nhau ít lâu rồi lại gặp lại. Bé Vân khóc, nó cứ đòi bố mẹ nó cho đi theo "anh Vũ" sang nhà bác Trà Lũ, tức bố mẹ tôi. Tôi thấy nó khóc cũng xao xuyến cả lòng. Thuyền căng buồm chạy chầm chậm trong sông. Từ những ruộng lúa hai bên bờ, tôi thấy lác đác đã có người đang đổ ải, vài cô gái quê tươi vui vừa tát nước ruộng vừa hát hò đối đáp với mấy anh chân sào buông lời chọc ghẹo. Thuyền lúc về khá rộng, chứ không xếp cá hộp như lúc đi, vì có một số người ở lại chơi với gia đình thêm ít ngày nữa. Chuyến sau khoảng đầu tháng Hai, chú Vững lại sang đưa họ về.

Việc đầu tiên khi về tới nhà là tôi phải đi tìm ngay cái cặp, sách vở và lọ mực. Ngay ngày mai thứ hai, cả hai buổi sáng chiều, tôi phải đi học rồi. Nhìn mấy cuốn sách cuốn vở, tôi ngán ngẩm nghĩ đến thầy Nhường, ông thầy đang dạy lớp tôi, một ông thầy có tiếng giỏi nhưng nghiêm nghị và khó tính. Tôi lại nghĩ đến cái tết vừa được hưởng ở quê ngoại. Ôi sao nó vui và ấm cúng đến thế, tôi được cưng chiều thỏa mãn đến thế! Tôi ngẩn người nhớ lại những giờ tôi đứng trên thuyền ngắm cảnh hai bên dòng sông, những đêm rúc rích trong cái khoang chật chội tối om toàn người là người nhưng ấm áp, những phong bao vàng đỏ mừng tuổi, những cái pháo đại đẹt đùng, những buổi tung tăng chạy nhảy leo cây thả giàn ở vườn, ở ruộng nhà ngoại, những buổi đàn đúm chuyện trò đánh khăng, đá bóng, thảy đáo lỗ v...v... với đám em họ và bạn bè chúng ở Đông Thành.

Cuộc vui nào cũng có lúc tàn, tôi đã nghiệm ra cái chân lý ngàn đời này ở vào tuổi đó, nhưng tôi chưa đủ sức tự trấn an tìm quên trong nhiệm vụ thường nhật sau những cuộc vui. Tôi cứ ngồi mà nhớ tiếc, ngẩn ngơ. Thảo nào bé Vân con dì Mười khóc thét lên hơn cha chết, khi tôi nhìn nó lần cuối rồi lẳng lặng xuống thuyền.

Chị Thảo thấy tôi ngồi tần ngần trước một đống sách vở, chị biết tôi đang ngại ngùng nghĩ đến ngày mai phải đi học:

"Vũ à, ăn tết xong hoặc bất cứ lễ lạc, cuộc vui nào xong, ai ai cũng ngại bắt tay trở lại học hành, làm việc. Nhưng nếu em cố gắng cho qua được ngày mai hay chỉ buổi sáng mai thôi, em sẽ hăng hái trở lại như lúc trước Tết. Bỏ sách vở ra dò lại đi, có gì không hiểu hỏi chị."

Tôi nghĩ chị Thảo nói đúng. Tôi chỉ cần làm quen lại được cái không khí học tập ở trường được vài giờ đầu. Trưa mười hai giờ về nhà ăn cơm và nghỉ một lát, buổi học ban chiều từ hai tới năm giờ chắc là tôi lấy lại đà. Giỏi lên? Tôi không dám chắc một tí nào, nhưng đỡ ngán ngẩm bài vở thầy cho thì may ra. Tôi giở thời khóa biểu để coi phải chuẩn bị gì trước. Hai tuần lễ ăn Tết, chữ nghĩa tôi rụng đi quá nửa, đừng nói là học thêm được điều gì. Tôi trực diện những bài toán hóc búa, chính tả, văn phạm, bài học thuộc lòng mà thầy Nhường dặn dò kỹ càng bữa 23 tết, tự nhiên thấy người như lên cơn nóng lạnh.

Nhưng giữa lúc đó, một động lực mạnh mẽ vô song thôi thúc tôi đến trường. Cả hai tuần ăn Tết, tôi có gặp Thoa đâu? Phải rồi, mải vui ở quê ngoại tôi quên bẵng Thoa đi, quên bẵng cô bé dễ thương cùng lớp với tôi và là con gái cưng đầu lòng của thầy Nhường. Vì vậy tôi hăng hái bỏ toán ra làm, đọc vang nhà những bài học thuộc lòng, vì cứ nghĩ được gặp lại Thoa, tôi cảm thấy chan chứa trong lòng một niềm vui vô tả.

Tôi thề độc với quý bạn rằng, lúc đó tôi chỉ coi Thoa như cô em gái xinh xinh dễ mến, nhẹ nhàng, nhỏ nhẻ như con chim vành khuyên tôi vẫn tưng tiu trong lồng để ngắm, để cho chuối, cho hoa, cho nước chứ tuyệt nhiên không có một tình ý gì vẩn đục trong đầu. Tôi không đủ trí khôn để phân tích, nhưng rõ ràng là muốn có bạn đá banh, đánh khăng, bơi lội, đánh vật... nói tóm lại những môn thể thao nặng, tôi cần mấy thằng con trai như thằng Phùng, thằng Cửu, thằng Lạ, thằng Truyện... nhưng để ngắm và để nhỏ nhẻ nói truyện - thật sự chỉ có thế thôi - thì tôi cần đến một đứa con gái cùng trang lứa, mười hoặc mười một, mười hai gì đó, học cùng lớp là tốt nhất và hơi đẹp một tí. Cô bé Thoa con thầy Nhường, ngồi ngay trước mặt tôi, hội đủ tất cả những điều kiện trên. Tôi không bao giờ có ý nghĩ cầm tay Thoa để làm gì và cũng chưa bị mấy đứa tinh ma trong lớp gán cho tôi làm chồng và Thoa làm vợ như nhiều đứa đã bị, nhưng không hiểu sao, tôi thích ngắm Thoa và nói chuyện với Thoa, dù vài câu ngắn ngủi, dù chỉ ngồi nhìn Thoa không thôi, tôi cũng thấy đầy đủ lắm rồi. Tôi chưa hề biết danh từ yêu mà cũng chẳng bao giờ tìm hiểu tại sao hai vợ chồng người ta ăn ở với nhau lại có con. Tôi nhớ một lần hỏi mẹ, tôi chui ra lối nào từ trong bụng mẹ. Mẹ bảo khi tôi lớn lên khắc biết, nhưng tôi cứ nằng nặc đòi biết ngay làm bà phải vạch bụng ra chỉ ngay vào phần rốn: "Ở chỗ này này."

Mới tuần lễ trước khi nghỉ Tết, tôi bị thầy Nhường khẻ tay một cách rất oan ức. Chung qui cũng tại thằng Vụ, nó làm tôi bị đòn. Ngày mai đến lớp, tôi lại gặp nó. Có thể tôi không thù nó vì trận khẻ tay oan, nhưng vì lý do khác sâu xa hơn có liên quan đến Thoa.

Đi học từ lớp Đồng Ấu (lớp 1 bây giờ) tôi chưa từng bị thầy giáo đánh vào mông hoặc khẻ tay như những đứa học sinh khác vì tuy học không siêng năng lắm nhưng tôi đủ sức đoán được thầy hay hỏi những gì mà đối phó. Tôi học theo lối "ăn xổi" rất nhanh. Mảng chơi ngày thứ bảy, chủ nhật và có khi cả ngày thứ năm (dạo đó học trò học hai buổi mỗi ngày sáng và chiều, mỗi buổi ba tiếng hay ba tiếng rưỡi nhưng được nghỉ thứ năm, thứ bảy và chủ nhật), tôi với mấy đứa bạn đi câu, đi bơi, thả diều, bắt chim, hái cam, hái ổi... có hôm chập choạng tối mới về đến nhà. Tắm rửa ăn cơm xong mắt díu lại, làm sao ngồi bàn học bài được nữa. Ngày hôm sau giờ ra chơi, bạn bè ra sân thì tôi kiếm một góc kín ngồi gạo thật nhanh bài vở để kịp lát nữa trả bài hoặc nộp bài. Có cái lạ, mấy thầy giáo chẳng bao giờ cho tôi tệ, cứ trung bình trở lên và vì vậy cuối năm, tôi vẫn đủ điểm, dư điểm lên lớp.

Thoa ngồi ngay trước mặt tôi, ở bàn đầu, cùng với Nhàn, Dung và Trúc. Thoa đẹp nhất trong bốn đứa con gái. Thoa có khuôn mặt thật xinh. Đôi mắt to đen rất dễ thương lại có một nốt ruồi duyên bên khóe miệng, ngay bên trên môi một chút, nốt ruồi mà nhiều nữ tài tử và ca sĩ phải lấy bút chì đen tự chấm thêm, nốt ruồi tương tự nốt ruồi của Liz Taylor bây giờ. Tôi mê cái nốt ruồi của Thoa, tôi thích đôi mắt trong sáng thơ ngây mà đến bây giờ mấy chục năm, hai bảo vật ấy của Thoa vẫn còn hiện rõ ràng trong cái trí nhớ kém cỏi của tôi mỗi khi tôi nhớ về Thoa.

Nhưng Thoa không phải của riêng tôi. Có một thằng tàn độc khác xen vào giữa chúng tôi. Nó cao to hơn tôi nhiều và có lẽ hơn tôi đến bốn, năm tuổi. Nó chính là thằng Vụ đã nói ở trên. Vụ học trễ đến bốn, năm năm vì khi xưa, lúc nhà nó chưa khá giả, bố nó chưa ra Lý trưởng như bây giờ, nó phải đi chăn trâu, chăn bò. Học hành kém, nhưng nó rất quỷ quái tinh ma và hay bắt nạt những đứa nhỏ con, yếu sức hơn nó. Tôi là một trong những nạn nhân của nó nhưng dù ghét nó hết sức, tôi vẫn phải ngọt nhạt "nhịn mày, tốt tao." Không có đứa nào dại dột đến độ chọc nó để nó giáng những cú đấm thôi sơn vào mạng mỡ đau đến cả tuần không đi học được. Đừng có nói đến chuyện thưa gửi với nó, "con kiến mà kiện củ khoai," bố nó đương kim Lý trưởng, thưa đến bố nó cũng là hết. Có lẽ thầy Nhường cũng ở trong trường hợp tương tự. Dù nó học dốt nhưng thầy vẫn cho nó làm trưởng lớp. Mỗi khi đến lớp và nhất là giờ ra chơi, tôi thấy nó chỉ tìm cách gặp Thoa. Mặc nhiên, tôi có một địch thủ lợi hại.

Thằng Vụ ngồi ngay đằng sau tôi, còn tôi đằng sau Thoa, đều là đầu bàn kế lối đi giữa lớp.

Hôm đó đang giờ Récitation - Bài học thuộc lòng. Tôi giở cuốn sách ra nhẩm lại mấy bài để lỡ thầy Nhường gọi lên đọc bài thì đọc cho trơn tru.

Thầy Nhường có thói quen bắt học trò khi đọc bài học thuộc lòng phải lên đứng cạnh cái bảng đen, nhìn xuống bên dưới mà đọc. Thầy xướng tên bài nào phải đọc bài đó. Đọc suông sẻ và trả lời được vài câu thầy hỏi về ý nghĩa trong câu thì thầy ghi điểm rồi cho về. Thoát nạn. Nếu ú ớ hoặc tắc tị, phải đọc bài khác, đọc mệt nghỉ, thành ra đứa nào cũng sợ cái kiểu trả bài của thầy Nhường. Đã vậy, học thầy phải nói tiếng Pháp, không phải giờ Lecture récréative - bài đọc chơi bằng tiếng Việt - mà nói tiếng Việt là tới số. Thế nào cũng ăn thước kẻ hoặc roi mây. Không vào mông cũng vào tay, đến nỗi tôi còn nhớ hai, ba thằng trong lớp, thằng Vẹn, thằng Củng bị đánh quá phải mặc hai, ba cái quần thật dầy bên trong. Chúng còn lấy thêm vải, đụp lên cái mông quần cho dầy hơn nữa. Thầy Nhường không biết, cứ lấy roi mây đánh thẳng cánh nhưng chúng tôi biết chúng không đau một ly ông cụ nào vì tiếng roi nghe bộp bộp chứ không chắc tiếng như đánh vào thịt. Mấy thằng này làm bộ nhăn mặt, nẩy người lên khi roi chạm mông làm như đau đớn lắm cho thầy khoái. Nhưng lúc thầy cho về chỗ, đứa nào cũng tỉnh bơ nham nhở một nụ cười thật đểu với cả lớp. Lẽ dĩ nhiên thầy Nhường không nhìn thấy những nụ cười "tiểu nhân đắc chí" đó nhưng không đứa nào dại dột đi tố giác âm mưu đen tối ấy với thầy. Lỡ mai mốt chính mình phải xài đến quần mông đụp cho bớt đau thì sao?

Đọc bài học thuộc lòng quay xuống, nếu khốn khổ cho mấy đứa chết nhát và mấy đứa con gái cả thẹn thì lại rất được việc cho đám nghịch ngợm tụi tôi. Bí chữ đầu ư? Cứ nhìn cái miệng mấy thằng bạn thân là ra ngay. Đôi khi thầy Nhường vừa phải cộng sổ hoặc làm việc gì riêng tư của thầy tôi không rõ, thầy đâu để ý thằng đang đọc thuộc hay không. Có thằng bị bí bèn nhìn cái miệng nhấp nháy của bạn không đoán ra được chữ mù gì vì học ở nhà ít quá, có thuộc đâu, bèn liếc lên thầy, thấy thầy đang mải mê viết lách gì đó, nó bèn bảo thằng bạn bên dưới: "Nói to tí nữa mày. Tao nghe không được."

Trở lại cái vụ trả bài bữa đó. Tôi đang lui cui dò bài thì thằng Vụ lấy thước kẻ chọc vào lưng tôi một cái. Thằng con nhà mất dạy này rắc rối cái gì đây, tôi nghĩ thầm và quay lại: "Gì mày?" Thằng Vụ trao mảnh giấy học trò gấp tư cho tôi: "Ê, đưa cho Thoa giùm tao". Tôi tính giơ tay cầm tờ giấy giùm cho nó nhưng nghĩ bụng làm cái gì cho mày thì được chứ lại làm con chim xanh giùm mày để mày có Thoa thì không. Nghĩ vậy, nhưng tôi ngại xẵng với nó vì không muốn rắc rối với cái thứ đầu bò đầu bướu. "Thôi đi mày, tao sợ thầy trong thấy". Thằng Vụ lì lợm, nó cứ chìa tay ra với tờ giấy. Tôi đành phải cầm lấy, trong bụng nghĩ giận cái thằng ôn dịch quái gở này. Tôi có thói quen hễ nhận lời làm cho ai cái gì thì sống chết cũng phải làm, dù rằng trong bụng không muốn một tí nào.

Thằng Vụ thấy tôi chưa gọi Thoa và trao lá thư, nó lại nheo nhéo ở đàng sau, dù nó hạ giọng xuống rất thầm thì. Nó còn lấy chân thúc lên mông tôi để giục giã nữa.

Tôi trầm giọng xuống, gọi đàng sau lưng Thoa để chỉ Thoa nghe được tôi thôi: "Thoa, Thoa, quay lại tôi trao cái này." Không đụng đậy gì ráo, làm như Thoa không nghe thấy. Tôi gọi lần thứ hai: "Thoa, Thoa quay xuống đây tôi hỏi một tí." Thoa cũng không quay lại, nhưng cái mặt cô bé hơi hơi nhìn ngang sang con Nhàn để tôi thấy đôi mày của Thoa cau lại có vẻ phản đối vì bị quấy rầy đang lúc tập trung trả bài. Đàng sau tôi, thằng Vụ lại thúc bàn chân lên mông tôi một cái ịch thứ hai, tôi tức quá buột miệng như một phản xạ tự nhiên, giọng nói to hơn hai lần đầu: "Thoa, đã bảo quay lại đây mà!"

 Lần này, Thoa quay lại thiệt nhưng vừa lúc đó, thầy Nhường cũng nghe tiếng của tôi và thầy quay xuống. Thầy nghĩ chắc tôi trêu ghẹo cô gái cưng của thầy hoặc nếu không phải vậy thì tôi không thuộc bài, gọi Thoa đễ hỏi nghĩa vài chữ khó chăng. Đôi lông mày rậm của thầy giao nhau, mắt thầy quắc lên, hình như thầy đang có sự buồn phiền gì đó ở nhà với vợ thầy thì phải như thái độ cáu kỉnh, khó chịu của thầy mấy hôm nay mà bọn học trò chúng tôi đoán già, đoán non. Thầy hét như sấm bằng tiếng Pháp, vừa cầm thước kẻ trong tay, chỉ vào mặt tôi, y như tôi là một kẻ tội đồ ăn cướp, giết người:

"Lên đây! Mau!"

Tôi vứt vội lá thư của thằng Vụ vào hộc bàn, run rẩy lên bục đứng cạnh thầy, tim tôi đập thùi thụi như muốn rớt ra ngoài. Tôi có bị cái nhục nhã như thế này bao giờ đâu. Chỉ tại thằng Vụ. Chỉ tại cái thằng mặt dày khốn kiếp ăn mày ăn xin đó. Nhưng tôi nghĩ bụng, nếu nói ra lý do thì cả lớp còn cười tôi hơn, nhất là Thoa. Cái mặt tôi thế này mà đi hầu hạ đưa thư cho gái giùm cho thằng Vụ, một thằng ít được bạn bè nể nang vì chuyên môn lấy thịt đè người và học dở. Thôi đành câm miệng hến chịu đòn cho xong, may ra Thoa lại nghĩ tôi có nhiều cảm tình với Thoa mà để ý đến tôi chăng. Nhất là để trắc nghiệm xem Thoa có đau xót khi tôi bị thầy Nhường đánh không. Nếu có, tôi chẳng cần phải hỏi cũng biết Thoa để ý đến tôi và tôi sẽ sung sướng như một kẻ sung sướng nhất trên đời. Nếu không, tôi phải tìm cách khác hoặc quên Thoa đi. Vì vậy, đã không muốn tránh đòn, tôi lại muốn thầy Nhường đánh tôi thật đau, thật bò lê bò càng như mấy thằng Vẹn, thằng Củng để Thoa thương hại. Cứ nghĩ Thoa về thương tôi đến ăn không ngon, ngủ không yên mà tôi càng muốn chịu đòn y như các vi tử dạo khi xưa.

"Giơ tay trái ra đây."

Cũng cần phải nói tay phải, tay trái bị khẻ là tùy thầy, khẻ nặng khẻ nhẹ cũng tùy thầy. Có đứa bị tay phải và thầy xuống tay nặng quá, tay nó sưng lên cả mấy ngày không cầm viết được. Mẹ nó phải lấy rượu chưng với nghệ bóp cho cả tuần mới khỏi. Tay trái là có vẻ nhân nhượng hơn, bớt ghét hơn, vì còn nương cho tay phải để viết. Vì đã có định kiến "tử vì đạo" để cho Thoa thương xót, tôi giơ thẳng bàn tay trái ra một cách hiên ngang, một cách anh hùng như chưa từng thấy tên học trò nào của lớp thầy Nhường làm vậy. Đa số chỉ chìa một cách rụt rè, miễn cưỡng và để sát trước bụng để thầy không có thế mà đánh đau vì vướng ngực, vướng bụng. Đằng này tôi giơ thẳng tay, vừa tầm thước kẻ cho thầy đánh. Tôi khẽ liếc nhìn Thoa một cái xem mặt Thoa có phản ứng gì không. Nếu lúc đó giả sử Thoa bưng lấy mặt và khóc thì tôi chắc chắn một trăm phần trăm rằng, tôi có chết đứng như Từ Hải ngay sau khi bị thầy đánh cũng vẫn mãn nguyện. Linh hồn tôi sẽ biến thành con chim vành khuyên bay theo Thoa mãi mãi. Nhưng Thoa chỉ mở lớn đôi mắt đẹp nhìn tôi, tôi không đoán được trong cái đầu có mái tóc dài xõa xuống vai mà tôi rất thương đó, đang nghĩ gì về trận đánh đòn này.

Ở đời thật có nhiều điều ngoài sự ước đoán của ta. Thầy Nhường với thái độ giận dữ, cáu kỉnh trời long đất lở vậy nhưng lại chỉ khẻ rất nhẹ trên tay tôi. Tôi chỉ cảm thấy hơi tê tê ở bàn tay. Sau ba thước kẻ thường lệ, có nhiều đứa không xòe tay ra nữa mà lùi lũi về chỗ khi thầy chưa nói hết câu cho lệnh về. Còn tôi, sau ba thước kẻ, tôi vẫn xòe tiếp tục, đến nỗi thầy lấy làm lạ, giọng hơi gắt: "Về chỗ."

Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng bị khẻ tay trong đời học sinh tiểu học trường làng của tôi.

"Ăn Tết quê ngoại" xin hẹn quí bạn đọc lại nối tiếp vào dịp đón Xuân nam sau.

Trước thềm Năm Mới, tôi chân thành cầu chúc quí bạn đọc một năm mạnh khoẻ vui tươi, đạt nhiều thắng lợi.

THÁNG BA NĂM ĐÓI

(Tiếp theo)

 

Ðúng 60 năm trước đây, 3-1945 – 3-2005, nạn đói kinh hoàng năm Ất Dậu làm gần 2 triệu đồng bào miền Bắc và Bắc Trung việt tức tưởi ngã xuống như ngả rạ. Nhiều sử sách qui trách nhiệm làm chết gần 2 triệu người dân Bắc Việt cho Pháp thực dân và Nhật quân phiệt đã thu mua, tích trữ, thậm chí dùng thóc lúa đốt thành than chạy đầu máy xehỏa, cũng như bắt dân ta bỏ lúa trồng đay.

 Những điều đó đều đúng nhưng tác giả chuyện kí này thêm rằng, trách nhiệm còn thuộc về vua Bảo Ðại, lúc đó đang là hoàng đế Việt Nam, cai trị và đại diện người Việt Nam trước Pháp thực dân và quân phiệt Nhật.

 Hoàng đế Bảo Ðại không hề lên tiếng để ngăn chận âm mưu độc ác này của Pháp và Nhật cũng như tìm cách cứu đói khi hàng trăm cái kho chứa đầy gạo ở Hải phòng, Hà nội bị khóa kín, gạo thối rữa thành những đống phân...mà chính tác giả nhìn tận mắt. Cả sau trận đói, hoàng đế Bảo đại cũng không hề có một lời thương cảm thần dân bị chết oan của ông!

Tưởng cũng nên thêm chút tư liệu về đói để bạn đọc tường lãm. NguyệtSan Readers’ Digest trong năm 2003 có đăng:”Trên thế giới đã có 57 triệu người chết đói, trong có 10.5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi. Chỉ trong năm 2003, Nigeria (Châu Phi) mất mùa, nạn đói giết 150,000 trẻ em (không thấy nói người lớn). Cứ 1 phút, trên thế giới có 23 đứa trẻ chết vì đói và mỗi ngày, hàng trăm triệu trẻ em đi ngủ với bụng đói.

Nạn đói ở Bắc Việt năm 1945 là do hậu quả chính sách dã man của thực dân Pháp, lệnh bỏ lúa trồng đay của quân phiệt Nhật và chính phủ bù nhìn, vô trách nhiệm của vua Bảo Đại.  Xuân Vũ TRẦN ÐÌNH NGỌC

 

 Kì 2                                     

                                               

1

 

 

Tiếng mõ khua lên giữa đêm khuya thanh vắng vào lúc mọi người chưa ngủ làm ai cũng phải lắng nghe. Ðó là tiếng mõ của chú Rong, một người mõ làng vào tuổi gần lục tuần.

“Cốc cốc cốc. Cả làng cả nước dỏng tai mà nghe đây. Theo lệnh từ tỉnh sức về, thì làng ta phải trồng cho được ít nhất là 100 mẫu đay lấy vỏ, các gò đống phải trồng gai lấy vỏ. Mỗi nhà chỉ để lại năm sào trồng lúa, còn phải trồng đay hết, bắt đầu ngay mùa này. Ðến lúc thu mua, Chính phủ sẽ cho người về cân trả tiền. Cốc cốc cốc. Ai không tuân lệnh này sẽ bị phạt tiền và tù. Cốc cốc cốc.”

            Chú mõ Rong đi hết giong này đến giong khác, xóm này đến xóm kia để rao lệnh của phủ Xuân trường, tỉnh Nam Ðịnh, sức xuống chánh tổng, chánh tổng đưa xuống lý trưởng các xã.

            Sau khi nghe được lời rao, dân làng đều nhốn nháo cả lên.

            Hai vợ chồng anh Thường đang ngồi tại phản, giữa để một ngọn đèn Hoa kì bằng thủy tinh cho một ngọn lửa yếu ớt. Trên cái đĩa sành cạnh đó còn vài miếng trầu đã têm, vỏ và cau. Cái điếu bát với mấy thanh đóm nứa cháy dở và tàn thuốc, chiếc xe điếu gác lên bát gỗ.

Ngồi phía trong là ông bà Thung, bố mẹ anh Thường đều đã ở tuổi sáu mươi nhưng còn khoẻ mạnh. Những đứa trẻ con anh chị Thường đã đi ngủ sớm, nhưng người lớn còn ngồi chuyện trò một lúc để trao đổi những công việc đồng áng sẽ làm cho ngày mai.

            Vừa nghe xong tiếng mõ rao, ông Thung bảo Thường:

            “Thường, vợ chồng mày có nghe gì không? Hay là tai tao điếc? Chú mõ Rong vừa rao là phải bỏ lúa trồng đay, trồng gai. Mày chạy theo mõ Rong nghe thêm một lần nữa xem có phải như vậy không?”

            Hai vợ chồng Thường và cả bà Thung đều nói:

            “Bố nghe đúng đấy. Mõ rao phải bỏ lúa trồng đay. Ðể con chạy theo nghe thêm cho chắc ăn.”

            Nói xong, anh Thường đứng lên mở cửa ra ngõ. Nhân dịp, chị Thường đứng lên đi coi hai cái giường các đứa trẻ đã ngủ yên chưa và màn (mùng) đã buông tử tế chưa kẻo muỗi nhiều lắm. Bây giờ đang bắt đầu mùa hè - năm 1942 - mùa cho muỗi sinh sôi nảy nở đến nỗi nhiều nơi phải buông màn hay mành mành dầy cho trâu, cho lợn nếu không muốn bị muỗi làm thịt súc vật.

Lí do là ao hồ nhiều; những vũng nước trâu đầm, những vũng nước trong vườn, ngay cả những bể nước mưa, lu, khạp đựng nước, bốn bát nước kê bốn chân trạn thức ăn để ngừa kiến, tất cả những chỗ đó muỗi đã vào đẻ trứng, trứng nở ra lăng quăng rồi thành muỗi. Thuốc xịt trừ muỗi chưa có, nông dân thiếu học không được chính quyền phái nhân viên về hướng dẫn nên càng ngày muỗi càng sinh sôi nảy nở ra rất nhiều. Những loại muỗi độc chích cho người các thứ bệnh sốt rét ngã nước hay sốt xuất huyết, người và cả thú vật chết quay ra mà nông dân ta chẳng biết vì đâu. Thật là khổ sở khi còn tăm tối, dốt nát!

Chỉ khoảng ba tuần nữa là lúa được gặt. Chị Thường nghĩ đến mà lòng thấy vui vui.

Dập lại xong hai cái màn, chị trở lại cái phản gia đình thường ngồi để ăn cơm, cầm cái quạt đuổi muỗi vo ve xung quanh. Anh Thường cũng vừa về tới.

            “Thưa bố mẹ, bố nghe đúng đấy. Mõ rao rằng, mỗi gia đình chỉ để lại 5 sào cấy lúa đủ ăn, còn bao nhiêu phải trồng đay, trồng gai lấy vỏ. Người của Chính phủ Nhật sẽ về thu mua, trả tiền theo thời giá một cân đay, một cân gai lúc đó. Bắt đầu ngay vụ tháng mười này. Ai không tuân lệnh, lý trưởng bắt giải lên huyện, bị tù và phạt tiền rất nặng.”

            Cả ba người nghe xong đều sửng sốt. Ông Thung bảo:

            “Thế mày có nghe ai nói Chính phủ Nhật mua đay như vậy để làm gì không?”

            “Hồi chiều ở ngoài ruộng, con gặp anh Tuyến con bác Khắc, mới đi tỉnh về. Anh Tuyến cho con biết tin trồng đay nhưng con chưa dám chắc nên chưa nói cho bố mẹ nghe.

Anh Tuyến nói, quân đội Nhật đã xâm chiếm toàn vùng Ðông Dương, lật người Pháp xuống. Pháp hiện nay sợ Nhật lắm. Còn Nhật thì tuyên chiến với Ðồng minh Hoa kỳ, Anh, Nga, Pháp và nhiều nước khác ở Âu châu. Nhật cùng một phe với Ðức và Ý, gọi là phe Trục. Phe Trục muốn bá chủ thế giới. Lãnh tụ Hitler của Ðức rất độc ác, đi tới đâu giết chóc tới đó. Lãnh tụ Ý là Mussolini, còn Nhật thì Minh Trị thiên hoàng, theo Hitler. Ba nước đó là mối lo chung cho toàn thế giới.

Riêng Nhật xâm chiếm Ðông dương do sự phân chia vùng trách nhiệm và chiếm lĩnh của phe Trục. Nhật dùng vỏ đay, vỏ gai đan lưới, đan  bao để di chuyển quân dụng của họ nên cần nhiều đay lắm mà trong xứ họ không có, cũng không trồng được vì đất hẹp.”

Ông Thung cau mày nghĩ ngợi, những nếp nhăn càng nhiều hơn trên mắt, trên trán, trên má:

            “Thế bố hỏi mày, gia đình mình cả thảy mười người mà chỉ cấy năm sào thì sao đủ ăn?”

            Bà Thung vẫn ngồi  nghe, giờ chêm vào:

            “Một mẫu cũng chỉ mới đủ ăn, chưa có lúa giống. Năm sào thì cứ gọi là đói xanh mắt.”

            “Con cũng đã nghĩ đến điều đó, bố mẹ. Con bối rối quá chửa biết phải làm sao đây. Cưỡng lệnh Chính phủ, dù là chính phủ từ đâu tới đây đô hộ mình, là ở tù, lại còn bị phạt tiền nữa. Người Pháp kia, dữ dằn như thế, súng ống máy bay tầu bò như thế mà còn phải chịu nước lép với Nhật, anh Tuyến nói Pháp gặp Nhật là cứ một phép như rắn mồng năm. Thế thì mình là người dân chỉ có tay không, làm sao chống chõi được với họ, hả bố?”

            Ông Thung thở dài sườn sượt:

            “Tao chắc là đói đến nơi rồi mày ạ.”

            Anh Thường lại nói:

            “Hay con bàn với bố thế này. Vườn nhà ta phía trước phía sau, ta không trồng rau nhiều nữa mà trồng khoai, trồng ngô. Thu hoạch được, ta trữ trong cót để ăn dần lúc đói kém. Bố nghĩ sao?”

            “Liệu mình trồng cái đó chúng có cho mình trồng không?”

            “Con nghĩ là được vì hai mẫu ruộng cấy lúa, mình đã  trồng đay một mẫu rưỡi, chỉ có năm sào lúa. Trồng khoai ngay trong thổ nhà mình phải là được chứ?”

            “Thôi khuya rồi. Hai vợ chồng mày đi ngủ đi sáng mai còn dậy sớm ra đồng.”

            Từ hôm lệnh trồng đay ra, cả huyện, cả tỉnh nhốn nháo cả lên. Nhưng không phải chỉ riêng tỉnh Nam Ðịnh, các tỉnh ở vùng trung châu này như Thái Bình, Hải phòng, Quảng Yên, Bắc Ninh, Lạng sơn, Hà Ðông, Hà nội, Hải phòng, Kiến An, Hải dương, Vĩnh Phúc Yên, Sơn tây, Hưng Yên v.v... đều được lệnh bỏ lúa trồng đay và gai. Phải là một kế hoạch chiến lược rộng lớn lắm thì người ta mới huy động đến toàn cõi Bắc Việt bỏ lúa, một thứ ngũ cốc tối quan trọng để nuôi sống toàn vùng mà trồng một thứ khác.

            Kể từ đời thượng cổ khi mới có dân Lạc Việt, từ du mục biến cải sang nông nghiệp, tộc Lạc Việt đã bám lấy mảnh đất cha ông để lại, cầy cấy, vun bón trên đó để đổi lấy một đời sống khiêm nhường: tay làm hàm nhai, không dư dả là bao. Chung qui bởi kĩ thuật trồng cấy và nông cụ còn quá thô sơ.

Nhà nông chỉ có cái cày, cái bừa, cái cuốc, cái xẻng và con trâu. Tất cả chỉ có chừng đó, con người phải vật lộn với đất đai, mưa nắng dãi dầu, sao cho đất sản sinh ra cái nuôi người để con người sống còn. Nông dân Việt lúc đó không có tham vọng gì hơn là được đủ ăn, đủ mặc, có cái nhà che nắng che mưa, có mảnh vườn trồng rau, trồng khoai tiếp tế cho cái bếp mỗi ngày nổi lửa hai lần, đem thức ăn cho mọi người trong gia đình no đủ. Thế là họ vui rồi, không còn ước nguyện gì hơn.

Nông cụ như nói trên, làm bằng kim khí thì chỉ có cái lưỡi cày, những cái răng bừa, lưỡi cuốc, lưỡi xẻng, con dao, còn thảy đều bằng gỗ, dùng tay đẽo từ một khúc cây lớn mà thành, thí dụ như cái cày. Một chút xíu đồ kim khí đó cũng không được sản xuất qui mô. Những thợ rèn trong làng, từ đời cha đời ông, lượm sắt vụn cho vào lò than, dùng bễ thổi cho than cháy mạnh nướng sắt chảy ra, để lên đe, uốn nắn thành cái lưỡi cày, răng bừa, con dao, cái kìm, cái búa. Tất cả chỉ có thế nên con người phải đánh vật với đất đai và thiên nhiên khắc nghiệt mới kiếm được miếng ăn. Trải cả nghìn năm, cũng như người Tàu, kĩ thuật nhà nông không tiến lên đưọc một phân nên sản xuất vẫn kém mà nông phu vẫn cứ vất vả đầu tắt mặt tối.

Cho đến cuối thế kỉ 20, nhiều nhà nghiên cứu Âu - Mỹ khi khảo sát về Việt Nam họ còn viết rằng, trong căn nhà của nông dân Việt, khí cụ toàn bằng gỗ, tre, nứa, kim khí rất ít. Nó chứng tỏ trình độ phát triển kĩ thuật quá thô sơ. Ngay như giờ đây (2004), Việt Nam vẫn chưa làm được cái kim máy may hay kim khâu. Làm sao dân có thể sung sướng được?

            Ngoài nông cụ thô sơ, nông dân Việt còn phải lo đối phó với thời tiết khắc nghiệt của thiên nhiên.

Cấy lúa từ thượng cổ, người Việt đã từng có kinh nghiệm với những trận bão mùa hè, phá hoại mùa màng, dù bông lúa mới đông sữa hay đã chín vàng thảy đều thiệt hại không gì có thể bù lấp. Và viễn ảnh là những ngày tăm tối, đói khát, đau khổ cho đến vụ mùa năm tới, nếu trời thương lúa mạ được gặt.

            Bởi đã kinh nghiệm nhiều vụ đói, dăm bảy năm một lần do bão táp, lụt lội, hạn hán, gió trái mùa hoặc sâu rầy, chuột bọ tàn phá mùa màng, người dân Bắc Việt rất sợ thiếu cái ăn mà chẳng trông vào một nguồn tiếp tế nào khác ngoài của chính mình.

            Nay lệnh trên sức xuống bắt bỏ lúa trồng đay, gai, ấy là những đêm mất ngủ của các chủ gia đình.

            Hồi chuông chùa và chuông nhà thờ sớm mai vừa đánh lên rổn rảng, anh Thường đã vạch màn chui ra. Theo dự trù, ngày hôm nay, trước khi ra đồng, anh phải xúc thóc ngâm cho nẩy mầm rồi gieo mạ để làm mùa tới. Như mọi khi, anh phải dùng tới vài, ba gánh thóc lúa giống, nhưng tin bỏ lúa trồng đay hôm qua làm anh sững sờ. Anh chỉ phải ngâm chừng vài thúng là đủ.

            Anh Thường đi xuống bếp kiếm cái bùi nhùi rơm lấy lửa. Anh định hút một điếu thuốc lào trước khi bắt tay vào việc. Anh vừa khom người thổi cho lửa bắt vào cái đóm thì nghe vợ anh nói ở sau lưng, như một lời chào thông lệ mỗi buổi sáng dù lúc anh ra khỏi mùng chị đã biết:

            “Mình đã dậy? Hôm nay mình có định ngâm thóc làm mạ không?”

            Anh Thường ngưng thổi:

            “Mình đấy hả? Tôi còn đang phân vân đây. Chắc chỉ ngâm đủ mạ năm sào thôi. Có được cấy đâu mà ngâm lắm. Ngâm lắm rồi đổ đi à. Chắc chắn người ta không cho mình cấy quá 5 sào rồi.”

            “Tôi thấy mình thức gần suốt đêm mà tôi cũng không ngủ được. Cơ đềm này lấy gì mà nuôi con, hả mình?”

            Anh Thường nín lặng. Bi thuốc đã bỏ vào nõ, cái đóm cháy hết anh đã lấy cái khác mà anh còn suy tư quên cả điếu thuốc như mọi khi đã sang điếu thứ hai. Nhưng rồi theo thói quen, anh cũng hút và đứng lên, bảo vợ:

            “Mình đi xúc cho tôi hai thúng thóc để tôi đem ngâm không sáng bạch rồi, còn phải ra đồng phát bờ để còn kịp gặt.”

            “Có năm sào mà sao mình ngâm lắm thế?”

            Anh Thường ngần ngừ:

            “Tôi hi vọng nhà nước bỏ lệnh này vì họ nghĩ lại. May ra... Chứ mình nghĩ ai không biết cấy năm sào thì gia đình đông đâu đủ ăn?”

            “Tôi chỉ sợ ngâm nhiều rồi không được cấy phải vứt mạ, uổng thóc đi thôi!”

            “Ừ, thôi. Mình xúc cho tôi hơn thúng thôi.”

            Một thúng là đủ cho 5 sào. Mọi mùa, chị phải xúc năm, sáu  thúng đầy có khi vẫn thiếu phải đi vay mạ nhà anh Tảng, rồi ngâm thóc, gieo, trả sau vì anh Tảng thường cấy trễ.

Chị Thường vào cót xúc thóc cho chồng mà trong lòng buồn bã. Sáu đứa con của anh chi, từ lên hai cho đến 15 là thằng lớn nhất, thằng Thương đã có thể giúp bố mẹ chăn trâu, cắt cỏ hoặc những việc nhẹ. Kế là con Yêu, 13, con Chiều, 11, thằng Sáng, 9, thằng Hôm 6 và con nhỏ nhất, Tí, 3 tuổi.  Trời đất ôn hòa như vài năm nay, anh chị nhờ trời cũng lo đủ cơm ăn áo mặc cho lũ trẻ dù chẳng đứa nào được đến trường học. Nhưng nếu rút việc cấy hái lại thì khác nào mất mùa, lấy gạo đâu mà cho con ăn? Trước kia, hồi chị mới về làm dâu ông bà Thung, gia đình còn túng bấn hơn nữa. Cả nhà vẫn thường phải ăn cơm độn thêm ngô, khoai, có khi cả khoai ngứa, khoai môn, củ giong, củ ráy cho no bởi vì gạo không thì không có đủ. Khi nào khá giả thì ba phần gạo một phần ngô, khoai. Khi tệ nữa thì nửa nọ nửa kia. Ðã vậy lại còn phải luộc hay xào nhiều rau hoặc nấu nhiều canh ăn với cơm cho no. Rau luôc chấm nước mắm cáy, rau xào thì chạy qua hàng mỡ nghĩa là chỉ có chút mỡ lợn dính đáy cho khỏi cháy xanh (xoong), muối, nước mắm, mắm tôm thêm vào cho vừa miệng. Còn canh thì chỉ canh khoai ngứa là thường hay ăn vì nó rất được việc trong nhiệm vụ làm đầy cái dạ dày mặc dù nó có tiếng là ngứa rách mép. Hình thù, cây củ của nó trông tương tụ như khoai môn nhưng lớn con hơn, thích sống gần sông hồ và cái đức ngứa thì trời can. Nhưng được cái nó chỉ ngứa lúc gọt, lúc cắt, lúc rửa và ngứa ở mép lúc ăn chứ trong dạ dày không cảm thấy ngứa bao giờ. Ngược lại, nó làm đầy những cái bao tử lớn, mạnh mà không có đủ cơm hoặc các thức ăn khác.

            Một loại củ khác gọi là củ ráy, cũng thuộc họ khoai môn, trong Nam gọi là rọc mùng. Củ của nó ăn cũng rất ngứa, nhưng khi không có gì thì cũng phải ăn hơn là để bụng trống rỗng. Ngoài canh rau, món ăn mặn tập chú vào mấy cái giậm, cái vó, cần câu, rổ xúc kiếm được con tôm, con tép gì thì rang mặn lên, ăn cho trôi miếng cơm; hoặc giả không đi đánh, đi bắt được, phải ra chợ mua thì cũng phải dè sẻn như thế, hơn thế.

Cái ăn đã vậy, cái mặc cũng rất ấn tượng. Mấy đứa con chị đâu có lành lặn gì. Mỗi đứa vài cái quần, vài manh áo nâu nắng mưa đã bạc mà chị chưa có tiền để đi chợ mua xấp vải về nhuộm nâu, nhuộm đen may cho mỗi đứa một bộ mới để có cái thay đổi.

            Ðang mải suy nghĩ, chị chợt nghe tiếng chồng gọi:

            “Nhà ngủ ở trong ấy à?”

            Chị Thường giật mình vội đáp:

            “Tôi mang ra đây, mình.”

            Anh Thường đi kiếm vài cái nồi chân, anh đổ thóc vào ngâm trong đó, sáng mai anh sẽ đổ ra ủ, hột thóc sẽ nẩy mầm, rồi sau đó anh đi gieo mạ. Từ nay cho đến ngày mốt, anh phải làm cho xong hai công việc: phát bờ phát bụi vài thửa ruộng sắp gặt và bừa mảnh đất đã cày vỡ để gieo mạ. Anh phải huy động vợ con đi tát nước vào ruộng vì cày khô được nhưng bừa phải có nước, nước trong ruộng càng nhiều bừa càng dễ.

            Anh chị Thường vừa ra tới cổng ngõ, cái cổng tre sơ sài thì thấy bố mẹ ở ngoài bến sông đi vào. Anh chị chào bố mẹ, anh Thường hỏi:

            “Con nghĩ bố mẹ còn ngủ.”

            Ông Thung đáp nhanh:

            “Ai mà ngủ được, hả mày? Mẹ mày với tao đêm rồi không ai chợp mắt được một phút vì cái tin ghê gớm loan tối hôm qua bỏ lúa trồng đay. Khoảng ba giờ sáng, tao bèn ra thăm ruộng lúa xem sao, có bị kẻ gặt trộm hoặc chuột mát hay không. Mẹ mày không ngủ được nên cũng theo đi.”

            “Thôi bố mẹ về nghỉ đi kẻo cả đêm không ngủ, bây giờ mệt. Vợ chồng con đi phát bờ để chuẩn bị gặt tuần sau.”

2

 

            Khi mấy đứa trẻ thức dậy thì bố mẹ đã đi cả rồi. Thằng Thương ra chuồng dắt con nghé  ra đồng cho ăn cỏ.

Con nghé này không phải của anh chị Thường.

Con Yêu cõng con Tí xuống bếp, coi nồi cám lợn. Nếu hết, nó phải nấu một nồi  khác, rồi xắt hoặc đâm bèo cho nhỏ ra, trộn với cám, đổ vào máng cho lợn ăn. Bố mẹ nó nuôi một con lợn nái và hai con lợn thịt. Lợn nái đã cấn thai, còn lợn thịt mới được sáu tháng, phải vỗ bạo cho nó lên cân rồi mới bán được.

            Con Tí đói khóc nhè, ra rả trên lưng chị. Con Yêu dỗ em, vừa làm vừa nói huyên thiên chuyện trên trời dưới đất cho con Tí nghe mà quên đói.

            Thực ra nồi cơm nguội ghế khoai lang khô sáng nào cũng còn vài lưng nhưng Yêu có kinh nghiệm là cho nó ăn sớm quá, trưa nó lại đói, đòi nữa, lấy gì mà cho. Yêu muốn cho nó ăn vào khoảng gần trưa, như vậy nó mới nhịn được cho đến bữa cơm tối thường là vào khoảng 5 giờ.

            Nhưng không phải chỉ mình con Tí, nếu ba đứa kia ở nhà thì chúng cũng đòi cơm. Ðược cái con Chiều đi tập khâu nón ở nhà chú thím Thùng, bữa trưa chú thím có ăn gì chắc cũng cho nó ăn đỡ lòng. Thằng Hôm và thằng Sáng có lẽ đã ra ruộng với bố mẹ bắt cá, bắt lươn, bu Yêu chắc đã bới thêm cơm cho chúng.

            Vừa cõng em trên lưng vừa làm, Yêu đi xúc cám đổ vào cái thùng sắt tây rồi đổ nước gạo vào cho thành một thứ bột sền sệt. Cũng có những con lợn quen ăn cám sống trộn với bèo nhưng mấy con lợn nhà này, vì chị Thường chiều chúng quá, cứ nấu cám ngay từ khi chúng còn tí tẹo, chúng quen họng, cứ là phải cám nấu mới ăn.

Chị Thường dành dụm mãi mới mua được cái nồi hai mươi, nấu cám rất khéo nhưng chị không dám bỏ ra cho con Yêu nấu. Ngớp đi một cái, mất liền, của một đống tiền, đâu có dễ sắm nên chị bảo chồng ra chợ mua một cái thùng sắt tây, thứ dùng đựng dầu lửa, khi người ta đã bán hết, đem về cắt miệng thành ra cái nồi nấu cám. Hồi đó dầu hỏa của Hoa Kỳ bắt đầu vào VN với những thùng dầu bằng sắt tây trên mặt và ngang hông có hình con sò nhận nổi lên. Vài hãng thổi bóng đèn của Pháp bèn chế ra cái đèn Hoa kì bằng thủy tinh...rồi có cả xà-phòng Trương văn Bền 72 phần dầu,

Vời cái thùng sắt tây, anh Thường chế thêm ra bằng cách đóng bốn bên miệng bốn thanh gỗ ép lấy miệng thùng, đã dễ nhắc lên nhắc xuống mà còn làm cho cái miệng cứng thêm.

            Hơn nửa thùng cám và nước, với con bé Yêu mới 13 tuổi thì thật nặng. Nó không thể rinh nguyên thùng như người lớn mà phải đặt thùng lên bếp rồi lấy cái bát múc từng bát từ một cái chậu khác vào. Lát nữa khi cám đã chín, nó cũng làm như thế, múc từng muôi ra chậu đã có sẵn bèo rồi dùng hai cây như hai chiếc đũa cả thật lớn ngào cám với bèo cho khá nhuyễn.

            Ba con lợn hau háu mắt đứng trong chuồng nghển cổ nhìn Yêu, ủn a ủn ỉn. Chúng đòi ăn. Ðã đến bữa của chúng rồi. Yêu nói với chúng như chúng hiểu tiếng người:

            “Từ từ để tao làm chứ! Làm gì mà giục rối lên vậy? Sắp được ăn rồi!”

            Con bé Yêu làm nhiều quá đến quắt cả người đi. Nó đã hơn 13 mà nhiều người nhìn nó cứ ngỡ nó mới lên 10. Nhưng biết sao, con gái lớn trong nhà, năm đứa vừa anh vừa em, nó không hết sức vậy thì bố với bu nó tha hồ là mệt.

            Nằm mãi trên lưng, khóc mãi, con Tí lại ngủ thiếp đi lúc nào. Khi Yêu múc xong cám cho ba con lợn và mấy con gà, nó nghĩ ngay đến bữa ăn của con Tí. Nó lại phản, ngồi xuống tháo vuông vải dùng làm cái địu con Tí cho con Tí tuột ra. Con Tí bị động mặt nhăn lại, cái miệng ngoác ra tính khóc thì Yêu quay lại lay vào vai nó:

            “Tí dậy, dậy. Cơm cơm. Yêu xong rồi. Yêu cho Tí ăn cơm!”

            Làm như đã thành thói quen, con Tí mở choàng mắt, ngoác cái mồm ra:

            “Cơm, cơm. Yêu!”

            Nó chưa nói được nhiều mà chỉ dăm, bảy từ:”Bố, bu, cơm, cá, và Yêu” vì hầu như cả ngày nó có chị Yêu bên cạnh nó.

            Vì ruộng hơi xa nhà nên mỗi buổi sáng anh chị Thường đều có bới cơm theo, trưa ăn cho tiện. Nhiều nông dân khác bắt con đưa cơm nóng ra ăn lúc 12 giờ trưa nhưng anh chị Thường chỉ có mình con Yêu, bắt nó làm quá, nó bệnh ra đấy thì khốn. Hơn nữa còn một cái đìu là con Tí đó, nó làm gì hơn được. Vừa coi em vừa lo cho mấy con lợn, con gà, vừa coi nhà coi cửa, đứa con gái 13 tuổi như nó đã được việc lắm.

            Yêu vừa ăn vừa đút cho em. Nó lựa những hột cơm không cho em; còn nó, nó nhai những miếng khoai, hột bắp, thỉnh thoảng cõng dăm hột cơm như phần thưởng cho cái miệng của nó. Con Tí háu đói thường nhai trệu trạo mấy cái rồi nuốt trửng, phần vì răng nó chưa có bao nhiêu. Nhưng Yêu không chịu, Yêu nhẹ nhàng bảo em:

            “Coi chị đây này. Chị nhai thật kĩ cho cơm với cá nát nhuyễn ra rồi mới nuốt. Ăn thong thả vậy cơm ngon lắm!”

            Nhưng con Tí đâu có hiểu thế nào, bụng đang đói cồn cào thì nó cứ ngốn, cứ nuốt trửng cho lẹ. Chẳng phải nó mà mấy đứa kia cũng vậy. Chỉ có Yêu là ăn thong thả mà thôi.

            Ở tuổi đó mà Yêu đã nghiệm ra, thong thả nhai cơm ngon hơn lên, dù là miếng khoai, hột bắp. Có những bữa chỉ còn vài con tép nhỏ xíu kho mặn, nó phải nhường cho em; nó trộn chút nước mắm cáy vào bát cơm, cũng có khi chỉ mấy hột muối, ấy vậy mà bát cơm vẫn ngon vẫn bổ, vẫn hấp dẫn như cơm gà cá gỏi ở những nhà giầu.

            Lại nói đến thịt gà. Họa hiếm lắm bố Yêu mới giết một con gà vì nó què chẳng hạn, lê lết cẳng chân đi không được, hoặc đau, hoặc rù xù lông bỏ ăn, mình rạc đi thì bố Yêu bắt làm thịt.

Ấy là mỗi người được dăm miếng thịt luộc, bộ lòng xào đu đủ hoặc nấu chút miến (trong Nam gọi là bún tàu).

Miến là thứ xa xỉ nên bố Yêu bảo chỉ nấu một bát chiết yêu mời ông bà. Còn chúng mày chưa đến tuổi ăn miến. Cũng có khi không dám luộc vì sợ hoang quá nên  bu  Yêu kho mặn lên, đổ nước và muối khá khá vào. Cái nước thịt gà kho gừng này nó mới ngon thơm làm sao! Cơm trắng mà rưới nó vào, thêm một miếng thịt nữa thì nhất, ngày hôm đó chẳng khác đã lên thiên đường.

            Có một lần con gà trống to nhất chuồng, mã rất đẹp, sáng gáy đánh thức cả nhà, rồi đạp mái để lấy trứng cho ấp, không hiểu dẫn đám gà mái đi lăng quăng sang nhà hàng xóm kiếm ăn sao đó bị con chó hàng xóm táp một cái. Vì không đề phòng, con gà xiểng liểng vì cú đánh bất ngờ.

THÁNG BA NĂM ĐÓI

(Tiếp theo)

 

Ðúng 60 năm trước đây, 3-1945 – 3-2005, nạn đói kinh hoàng năm Ất Dậu làm gần 2 triệu đồng bào miền Bắc và Bắc Trung việt tức tưởi ngã xuống như ngả rạ. Nhiều sử sách qui trách nhiệm làm chết gần 2 triệu người dân Bắc Việt cho Pháp thực dân và Nhật quân phiệt đã thu mua, tích trữ, thậm chí dùng thóc lúa đốt thành than chạy đầu máy xehỏa, cũng như bắt dân ta bỏ lúa trồng đay.

 Những điều đó đều đúng nhưng tác giả chuyện kí này thêm rằng, trách nhiệm còn thuộc về vua Bảo Ðại, lúc đó đang là hoàng đế Việt Nam, cai trị và đại diện người Việt Nam trước Pháp thực dân và quân phiệt Nhật.

 Hoàng đế Bảo Ðại không hề lên tiếng để ngăn chận âm mưu độc ác này của Pháp và Nhật cũng như tìm cách cứu đói khi hàng trăm cái kho chứa đầy gạo ở Hải phòng, Hà nội bị khóa kín, gạo thối rữa thành những đống phân...mà chính tác giả nhìn tận mắt. Cả sau trận đói, hoàng đế Bảo đại cũng không hề có một lời thương cảm thần dân bị chết oan của ông!

Tưởng cũng nên thêm chút tư liệu về đói để bạn đọc tường lãm. NguyệtSan Readers’ Digest trong năm 2003 có đăng:”Trên thế giới đã có 57 triệu người chết đói, trong có 10.5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi. Chỉ trong năm 2003, Nigeria (Châu Phi) mất mùa, nạn đói giết 150,000 trẻ em (không thấy nói người lớn). Cứ 1 phút, trên thế giới có 23 đứa trẻ chết vì đói và mỗi ngày, hàng trăm triệu trẻ em đi ngủ với bụng đói.

Nạn đói ở Bắc Việt năm 1945 là do hậu quả chính sách dã man của thực dân Pháp, lệnh bỏ lúa trồng đay của quân phiệt Nhật và chính phủ bù nhìn, vô trách nhiệm của vua Bảo Đại.  Xuân Vũ TRẦN ÐÌNH NGỌC

 

 Kì 3                                 

Con gà trống sang hàng xóm theo mái hay kiếm ăn sao đó bị con chó hàng xóm táp chết ngoẻo đầu ở bụi tre, bố con anh Thường cả buổi tối đốt đuốc đi tìm mãi mới thấy sau khi kiểm điểm gà lên chuồng thì thấy thiếu cu cậu.

Con chó cắn rách da cổ nhưng nó không ăn, con gà khốn khổ lết vê đến bờ giậu nhà thì nằm chết ở đó. Ðám gà mái nhanh chân chạy được về chuồng. Thế là bố con anh Thường phải giết gà làm thịt ngay buổi tối.

            Con gà thật lớn, thật nhiều thịt chỉ tội cái thịt nó hơi thâm vì máu chạy vào. Khi cắt tiết, lợn cũng thế, máu chảy ra ngoài nên thịt trắng, trông ngon hơn. Thịt gà thâm làm người nhìn cứ ngỡ thịt gà toi, ăn kém ngon.

            Chị Thường vừa xào nấu vừa thương con gà. Những đứa trẻ cũng thế; nếu như không bị chó hàng xóm cắn, con gà sẽ được nuôi cho đến khi nó chết. Dù sao nó cũng đã hơi già, con rồi cháu nó mà còn nuôi thì bây giờ chúng cũng đã to như nó. Bộ mã trên lưng không còn bóng nhẫy, mượt mà như trước mà đã có vẻ hơi xơ xác. Cái mồng khi còn “thanh niên” thì đỏ tươi, giờ này đã hơi ngả mầu thâm, chảy rũ xuống mắt. Chỉ có đôi chân thì to ra, vững chãi hơn và cựa dài hơn nhưng mầu da chân cũng bạc hơn chứ không váng tươi đẹp đẽ như trước. Ðược một cái nó vẫn quản trị sáu con gà mái tơ một cách chu đáo. Trứng mấy con gà mái của chị Thường không bị thiếu đực bao giờ, cho ấp bao nhiêu, có bấy nhiêu gà con. Người ta thường hay nói” đực già, mái tơ” để chỉ những ổ gà cần có thêm gà con.

            Chiếu hôm sau, anh Thường trao tiền và cái cút (khoảng ¼ lít) cho thằng Thương bảo nó đi mua cút rượu trắng về ông uống.

            Ông Thung và anh Thường mỗi người một chén rượu nhỏ, mỗi người một cái cẳng gà, chấm muối chanh, ăn với củ hành sống.

            “Chân gà mọi khi nhắm rượu ngon lắm mà sao hôm nay nó dai, nó cứng quá vậy, bố Thương?” Ông Thung hỏi con.

            Anh Thường ngừng nhai:

            “Con gà trống này hơi già, bố à!”

            “Thôi, cho tao bát cơm. Bố mày cứ uống rượu đi.”

            Ông Thung gắp thử vài miếng thịt nhưng thịt nó cũng dai. Gà trống mới biết gáy ăn mới ngon chứ đã để nó đạp mái mùa này qua mùa kia, thịt đâu còn gì là thơm, ngon. Cũng như lợn, chỉ lợn thịt là ngon chứ lợn nái sề hay heo nọc, thịt đã dai nhách mà còn hôi khó nuốt như lợn toi.

            Với mấy đứa trẻ thiếu thịt lâu ngày, tuy thâm và dai vậy nhưng được ăn cơm không với thịt gà cũng là sang roi. Chúng không quên cho con Mực mấy cái và con Mướp vài miếng thịt.

3

Yêu đang đút cơm cho em. Có mấy con tép riu đỏ cạch rang mặn và mấy miếng rau xào chút mỡ nước, thơm mùi hành, nó cũng không dám ăn, dành cho em. Nó vừa nhai vừa nhìn con Tí sáng mắt lên sau mỗi thìa cơm có vài con tép mà thấy lòng vui vô tả.

Lại nói đến con Mực và con Mướp của anh Thường.

            Con Mực, con chó anh Thường nuôi đã được 5 tháng. Lông nó đen tuyền nhưng ở dưới cổ và ức cũng như bốn chân có mấy vệt lông trắng. Người ta gọi nó là  “tứ túc mai hoa, thạch sùng bám cổ”, quí tướng lắm đấy, chủ nó sẽ giầu có cho mà coi. Anh Thường mua được nó từ một nhà có con chó cái đẻ 4 con, nhà bác Chưng ở làng bên cạnh, làng Vạn.

            Trong lúc Yêu và Tí ăn cơm thì con Mực đứng bên dưới hóng mắt lên cô chủ nhỏ xem cô có cho nó miếng nào không.

Yêu đâu có quên nó. Mỗi khi mở vung nồi cơm nóng ra, phần trên mặt nồi thường thỉnh thoảng có tro than lách vào vì phải vùi trong tro nóng, cơm mới chín thì phần mặt nồi cơm bao giờ cũng là phần của con Mực.

Tuy nhiên, bữa trưa không có nấu cơm nên Yêu phải để dành cho con Mực nửa bát vừa cơm vừa ngô khoai. Cũng chẳng có đồ đựng, cứ đổ ngay trên nền đất, loáng cái là Mực ăn nhẵn.

            Người ta thường bảo, chủ nghèo nên đầy tớ rất dễ tính. Con Mực từ khi về nhà anh Thường ăn mọi thứ chủ cho. Thường nhất là bát cơm mặt nồi, cơm ghế khoai ghế sắn đã đành mà chủ vứt cho một củ khoai hay vài khúc sắn, Mực cũng làm tuốt luốt. Chỉ thịt sống, cá sống Mực không ăn thôi. Mực rất hay chuột; chuột ban đêm bò loạng quạng ở sân là bị Mực đớp liền. Chuột lăn quay ra đó hết cựa quậy, Mực bỏ đi cho đến sáng chủ dậy thấy chuột mới đào lỗ chôn. Trái với mèo, mèo chộp được chuột là mèo nhai cả xương.

            Bởi vậy không những bốn người lớn mà cả đám trẻ đều yêu Mực. Hôm nào có sẵn tiền, mua được mớ cá vụn rẻ, chị Thường kho nhạt lên cho Mực, trộn với bát cơm , đó chính là một bữa đại yến. Lâu lắm mới có một bữa tiệc như vậy.

            Ngoài con Mực, anh chị Thường còn nuôi con Mướp. Mướp thuộc giống mèo ta, nhỏ nhỏ con nhưng rất hay chuột. Khi chưa có Mướp, chuột phá chịu không nổi mà con Mực rất tức giận nhưng không leo trèo được, chỉ chống hai chân trước gầm gừ ngồi nhìn lũ chuột tặc làm dơi làm  quái.

            Nhân  một hôm đi chợ phiên làng Cát, anh Thường nhìn thấy con Mướp này, chủ bán bỏ trong một cái lờ bắt cá.

Con Mướp là một trong bốn con một ổ, người bán nói thế với anh Thường khi anh cầm cái lờ lên ngắm nghía con Mướp xem “tướng tá” nó có khá, có hay chuột không. Ổ bốn con mà ba con kia bán rồi, có nghĩa những người mua trước đã chọn hết những con to, con đẹp, con hay chuột. Còn cái con “đèo, con đuột”này chắc gì đã khá.

            Anh Thường đặt cái lờ xuống toan bỏ đi thì chị Sên, người bán, niềm nở:

            “Giống mèo nhà tôi hay chuột lắm đó anh! Không mua uổng. Con bố con mẹ nó là cứ bắt chuột cả ngày, không con chuột nào mà còn với nó.”

            “Chị mới nói người ta mua ba con rồi, phải không?” Anh Thường nhìn người bán.

            “Phải, người ta mua ba con rồi.”

            “Thế thì có con đẹp, con tốt người ta chọn hết rồi. Còn lại con này là bét nhất ổ đây.”

            “Phải, con này bé hơn ba con kia nhưng coi bộ nó nhanh hơn. Bắt chuột nhắt cần gì mèo to hả anh? To lắm tốn cơm. Cứ xoăn xoẳn mà hay chuột là được rồi. Còn con chót, tôi bán rẻ cho anh tôi về, tôi không muốn ngồi thêm  nữa.”

            “Thế chị lấy tôi bao nhiêu? Con này cái, tôi không thích mấy.”

            “Ba con kia mỗi con 15 đồng đấy, thôi con này tôi bán rẻ cho anh 12 đồng.”

            Anh Thường thật thà, thấy đã rẻ được ba đồng, không kì kèo nữa, móc tiền ra trả rồi xách cái lờ nhốt con Mướp đưa về. Anh nghĩ thầm, cái thì cái mà hay chuột là được.(Ngày nay, đệ tam thiên niên kỉ, chính trị gia bảo:”Mèo trắng, mèo đen, mèo nào bắt chuột là được, ý nói chủ nghĩa nào phục vụ dân tốt là tốt).

            Về đến nhà, trước tiên là đám trẻ reo hò vì từ nay đã có con mèo bắt chuột. Chị Thường cũng vui, đặt Mướp lên bàn tay, vuốt ve. Con Mực thấy có con thú lạ trong nhà, nó cứ nhìn con Mướp sủa rộn lên, có vẻ không đồng ý sự có mặt của con Mướp. Nhưng anh Thường bảo Mực ngồi xuống đó, anh cầm con mèo vuốt ve trong bàn tay anh, đưa đến trước mặt con Mực, bảo nó:

            “Ðây là Mướp, nó là em mày. Mày có nhiệm vụ canh kẻ trộm và người lạ vào nhà. Còn Mướp phải săn lùng đám chuột mất dậy. Mày phải bảo vệ Mướp. Không được rượt, được cắn nó. Mày làm sai thì tao trị tội mày, nghe không?”

            Anh lấy tay vỗ vỗ vào đầu con Mực. Con Mực làm như hiểu. Nó sủa lên mấy tiếng đáp lời chủ và từ lúc đó, dù con Mướp có lăng xăng bên cạnh nó, nó cũng không tỏ vẻ gì khó chịu chứ nó chỉ đớp một miếng là con Mướp toi đời.

Con Mướp cũng không lạ Mực, thỉnh thoảng vẫn lởn vởn bên cạnh Mực kêu “meo, meo” nhặng xị lên nhưng Mực vẫn ra vẻ đàn anh, không đếm xỉa gì đến cái đứa con nít con nôi hay vòi hay nhè. Chỉ lúc cho hai con ăn là phải cẩn thận. Mực ăn ở đưới đất, cơm đổ ngay trên nền nhà; còn Mướp thì ở trên nóc chạn hay trên chõng tre, riêng biệt hẳn chứ không có đụng chạm. Mực tuy lúc thường thì hiền vậy nhung lúc ăn thì chỉ sợ có kẻ khác ăn mất của mình nên Mực thủ thế kĩ lắm. Chớ có con vật nào cà rà đến bên Mực mà Mực nhe nanh ra gầm gừ chỉ chực đớp. Cái bản tính ghen ăn Mực chưa thể bỏ được. Hơn nữa, một bát cơm mặt nồi với Mực không thấm tháp vào đâu. Cho đúng ra, Mực phải ăn bốn bát mới no nên Mực giữ miếng ăn như giữ “mả tổ” cũng là đúng vậy thôi.

            Còn Mướp vốn ăn ít nên bữa nào cũng dư, lát nữa đói, Mướp đến ăn tiếp.

            Mướp vẫn nhỏ con, lớn chậm vì Mướp ăn ít mặc dù mẹ con chị Thường vẫn lưu tâm cho bát cơm của Mướp luôn luôn có chút mỡ màng, tôm cá. Tuy mới bằng hai cái nắm tay nhưng Mướp tỏ ra hay chuột từ khi Mướp mới được bốn, năm  tháng.

Mướp đã “làm bàn” đầu tiên khi Mướp chộp được một con nhắt lởn vởn đến gần cái chạn đựng thức ăn. Mướp cắn cổ con nhắt cho chết rồi tha ra để trên bậc hè, chứ không ăn. Yêu dã nhìn thấy con chuột nhắt nằm quay lơ ở đó, gọi cả nhà coi, đám trẻ con hò reo ầm ĩ hoan nghênh Mướp hết mình. Từ hôm đó, chúng thay nhau săn sóc Mướp, cho ăn khá, tắm rửa mỗi tuần, mong cho Mướp mau lớn để trị tội lũ chuột hỗn hào, không coi ai ra gì. Sau đó anh Thường bảo thằng Hôm đem ra vườn chôn thật sâu.

            Con Tí coi như đã no với vài lưng cơm. Con Yêu thì thế nào cũng xong, có khi nó còn đói mà nó vẫn phải dành phần cho con Mực vì nó biết con Mực cũng cần ăn như nó. Yêu xuống bếp rót một bát nước chè khô - thứ chè đưa từ Phú thọ về, rất phổ thông lúc đó - uống một bát và đưa một bát lên cho con Tí. Nó nghiệm ra rằng dù còn đói, còn thèm cơm, cứ uống một bát nước chè vào là bụng lửng ngay.

            Buổi chiều, khi con Chiều khoảng hai giờ về thì nó coi con Tí để Yêu lo cơm nước buổi tối. Ðôi khi bà nội Yêu  cũng giúp nó một tay nhưng cái chủ trương của người lớn là nó phải làm được mọi việc trước khi đi lấy chồng kẻo mai sau lọng ngọng là bà mẹ chồng lại cứ réo người lớn mà mắng vốn. Thành ra nó phải làm quá sức của nó.

            Yêu ra vườn hái ít rau mồng tơi đem vào nấu canh với chút mắm tôm, mắm cáy. Lúc bu Yêu về, thường có mẻ tôm cá vụn bu mua ở chợ chiều, Yêu đem kho mặn lên là xong. Vại cà, vại giưa lúc nào cũng đã có, đã làm sẵn. Khi chưa hết vại này thì chị Thường đã mua cà và cải bẹ về làm thêm vại khác thành thử trên mâm cơm, không lúc nào thiếu hai thứ đó. Không có tôm tép thì cà, mắm tôm, giưa chính là những món mặn ăn chung với canh.

            Năm thì mười họa và có hừng chí lắm vì có mấy củ đâu phọng rang hay đồng bánh đa nướng, anh Thường mới bảo thằng Thương đi lại bà phó Xuyến mua cút rượu trắng về mời ông Thung. Hai bố con mỗi người nửa cút vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả trong khi bà Thung, chị Thường và các đứa trẻ xin phép ăn cơm trước.

            Chỉ có vậy chứ chẳng sơn hào hải vị gì nhưng tình gia đình vui vẻ, đầm ấm và gạo thóc đủ nuôi mọi người làm ai nấy sống trong hạnh phúc, một thứ hạnh phúc đơn điệu, chất phác không hoa hoè hoa sói nhưng thâm sâu, tình nghĩa vô cùng.

                                        

                                              4

                                         

Kể ra vài năm nay được mùa, thóc gạo cũng khá nên đỡ phải ăn độn nhưng ông Thung lúc nào cũng lo đói vì nhiều trận đói đã đi qua trong đời ông nên dù lúa gạo có dư dả đấy, ông bắt con dâu và cháu thỉnh thoảng cứ phải hấp thêm ngô, khoai vào và thổi bớt gạo đi. “Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn” ông Thung luôn luôn thực hành điều dạy bảo đó

Anh Thường đã cấy 5 sào lúa vụ Ðông - Xuân 1943. Phần còn lại là mẫu rưỡi, anh đã làm đất để trồng đay theo chỉ thị của nhà nước.

Những người bạn nông dân của anh như anh Khuông, anh Thiều, anh Bảng, chú Ruyên, chú Thập... đều đã bỏ lúa trồng đay.

Mà không trồng sao được. Như ông Quỵ ở làng Vạn không chịu tuân theo lệnh bị lí trưởng còng tay giải lên huyện, bị đánh, bị ngồi tù cả tháng, lúa đã cấy bị phá huỷ và bắt phải gieo hạt trồng đay không thì bị tịch thu gia sản.

Có hai nông dân nữa ở làng Hoài và làng Bút cũng thuộc tổng này đã trái lệnh và bị tù. Ðó là anh Ngưng và anh Hành. Anh Ngưng bị giải lên huyện còn cãi lí và nói lời hỗn láo với quan huyện bị cùm chân, trói tay, bị đánh, bị giam không cho ăn, rũ người ra tưởng chết. Quan huyện sợ anh chết trong nhà giam nên kêu vợ con lên cho khiêng về. Anh bị nặng quá, ốm rụng cả tóc đầu, người chỉ còn như cái xương đay.

Trước đây, gia đình anh Ngưng cũng có bát ăn, bát để, dù chẳng giầu có gì  nhưng dù sao với nông dân miền Bắc lúc đó, gia đình anh cũng được liệt vào loại trung bình. Khi vụ bắt bớ xẩy ra vì anh bất tuân lệnh nhà nước, chị Ngưng đã phải bán thóc lúa lấy tiền đút lót cho lí trưởng, chánh tổng để nói với quan huyện tha cho anh về làm ăn, xin sẽ theo đúng lệnh nhà nước, không dám ngang ngạnh nữa.

Nhưng án đã ra, anh đã là kẻ có tội, chống lại nhà nước nên anh phải ngồi tù. Trong tù anh chửi cả lính gác, chửi cả quan huyện nên càng bị tra tấn, hành hạ khổ sở chết lên chết xuống. Vợ anh xót chồng kiếm chỗ chạy chữa  đút lót cho nha lại để họ nói với quan huyện cho. Nhưng có những kẻ chỉ lừa chị lấy tiền mà không được việc gì, của cải nhà chị đi gần hết mà anh Ngưng tù vẫn hoàn tù.

Chúng ta cần phân biệt hai loại đay: đay để lấy ngọn và lá nấu canh, ta vẫn thường goi là canh rau đay, có chất nhớt như trái đậu bắp (okra). Thứ rau đay này thấp, chỉ cao khoảng 50cm, có nhiều cành chi chít. Có hai loại: một loại lá xanh, cành xanh; một loại lá và cành đỏ tía. Thứ nào nấu canh cua cũng đều ngon và làm nhuận trường. Ông già bà cả miền quê chỉ bát canh rau đay với vài quả cà ghém là xong bữa cơm, không cần thịt thà, cá mú.

            Ðay lấy vỏ cao đến 2m, không có cành, hoặc chỉ chút ít. Cây thẳng, đường kính dưới gốc lớn nhất khoảng 2in, vỏ da xanh nhợt, bên trong vỏ gọi là xương đay, sốp, mềm, không làm được việc gì ngoài chụm củi. Ngọn và lá đay này ăn cũng có chất nhớt nhưng đắng như khổ qua, ít ai dùng ngọn đay này nấu canh.

Ðến mùa thu hoạch, khi cây đay đã lớn hết mức và đủ tháng để vỏ của nó đủ dai, nông dân nhổ cả cây, dũa rễ dưới sông cho bùn đất đi hết, đem về sân lột lấy vỏ, phơi khô, đánh từng bành để đó lái về cân trả tiền.

            Vỏ gai trắng, dai và đẹp hơn vỏ đay, vì hiếm hơn nên chỉ để làm những vật dụng giá trị. Chiếc võng gai bán đắt gấp ba lần võng đay nhưng đẹp, mịn và rất bền. Tuy nhiên, đay phổ thông hơn gai nhiều.

            Hạt đay vỏ và hạt đay rau tương tự như nhau, nhỏ như hạt cải, đen, khi gieo xuống đất đã cày bừa đầy đủ, cây đay con mọc lên như mạ và lớn như thổi. Một năm chỉ được hai mùa lúa vào thời kì đó nhưng với đay, có thể được ba vụ. Tuy nhiên, cây đay yếu chịu lạnh, mùa Ðông chúng không lớn được như mùa Xuân và mùa Hạ.

            Sau này tìm hiểu được biết, sở dĩ quân đội Nhật cần nhiều vỏ đay đến thế là vì lúc đó phương tiện di chuyển bằng xe quân sự còn ít ỏi, không đủ nhu cầu. Quân đội Nhật thường chọn những nơi đồi núi cao đóng trại quân, xe vận tải không thể lên tới. Nhật bèn dùng dân công những nước chiếm đóng, bắt phải chuyển những khẩu đại bác, cao xạ và nhiều thiết bị quân sự nặng nề khác. Nhật cho đan võng đay, đặt những cơ phận vào đó, dùng một đòn tre cho hai người hai đầu khiêng võng đi. Lên đến nơi, chuyên viên ráp lại cho thành những ổ đại bác, cao xạ phòng không, đã không tốn phí xăng nhớt mà thời gian cũng không lâu hơn xe vận tải leo núi bao nhiêu. Chẳng những súng ống mà cả lương thực cũng dùng cách này để chuyển vận. Ta thấy thời Quang Trung đại đế, Ngài cũng dùng võng, hai người khiêng một người đi một đoạn đường. Sau đó theo thứ tự đổi vai, ai cũng được nằm nghỉ ngơi, ai cũng phải khiêng. Cứ thế mà Hoàng đế Quang Trung đã ra tới Thăng Long trong một thời gian kỉ lục, hứa với quân, dân mồng 7 tháng Giêng Ất Dậu (1789) sẽ vào thành Thăng Long ăn mừng chiến thắng thì trưa mồng 3 Tết, Ngài đã có mặt trong hoàng cung vua Lê.

            Dùng võng tải người và chiến cụ khi xưa rất độc đáo và lợi hại.

                                                 5

            .

           

            Gia đình tôi và gia đình anh chị Thường ở cùng xóm Ðông tuy khác giong, tiếng gọi những con đường nhỏ đi xuyên trong xóm. Anh Thường chơi với anh tôi và mỗi khi có giấy tờ gì bằng chữ Hán không hiểu, ông Thung hoặc anh Thường đem ra hỏi thầy tôi; khi thầy tôi đi vắng mà chỉ là chữ quốc ngữ thì hỏi anh tôi hoặc tôi.

            Làng tôi nói riêng, toàn Bắc Việt nói chung, thời Pháp thuộc trẻ em chỉ một thiểu số được đi học. Lí do dân ta nghèo quá, tay làm hàm nhai, khi không dư dả, cha mẹ đâu dám nghĩ đến việc cho con cắp sách đến trường.

            Thầy mẹ tôi chỉ làm đủ ăn, gọi là mát mặt với tay nghề Ðông y của ông và đôi bồ hàng xén của bà. Nhưng thầy tôi, vốn được theo Nho học nhiều năm nên quí sự học, lại chỉ có hai con trai, nên dù cách nào ông cũng cố cho con đi học để biết đạo lí Thánh hiền.

Ông đã từng làm thầy đồ dạy học trò :”chi, hồ, giả, dã”, những cuốn Minh tâm bảo giám chính văn, Ðại học, Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh tử... có cuốn ông thuộc lòng từ đầu tới cuối, dạy học trò không cần mở sách vì ông có trí nhớ rất tốt và đã nghiền ngẫm nhiều năm để đi thi Hương. Nhưng nghề thầy đồ ở thôn quê - nghề dạy miễn phí - không nuôi sống gia đình được nên thầy tôi phải đổi qua Ðông y.

            Không kể những gia đình ở thành phố vì ở thành phố người ta dễ nhận ra sự ích lợi của việc đi học, nhất là từ khi người Pháp vào nước ta. Thầy thông, thầy kí, thầy phán, thày giáo lúc đó, bỏ ngoài những chuyện khác, khi đậu đạt đi làm cho người Pháp vẫn có đồng lương dễ chịu và công việc nhàn hạ hơn dân lao động chân tay.

Những người này, hoặc dạy học ở các trường tiểu, trung học cho Nha Học chánh Ðông Pháp; hoặc làm công chức cho các toà Thống Sứ, Toàn Quyền, Công sứ, Ðốc lí, các cơ sở hành chánh địa phương của người Pháp, hay ngay như những mỏ than, những văn phòng hỏa xa, tầu thủy, những nhà máy nước, máy điện, chợ búa... mà người Pháp khai thác cũng cần người bản xứ biết tiếng Pháp để thông dịch, truyền lệnh xuống cho dân chúng, cho dân lao động người Việt làm cùng sở.

 Khi có chút chữ nghĩa, thông hiểu được người ngoại quốc nói gì, tất nhiên được trọng dụng và lương tiền  cao hơn dân lao động. Cũng như ngày nay, chúng ta đang ở Hoa kỳ, ở Pháp, ở Anh, ở Tây ban Nha v.v...chúng ta phải sinh sống mà nếu có chút vốn liếng ngoại ngữ, tất nhiên mọi sự dễ dàng hơn nhiều so với những người không có ngoại ngữ. Ngay như ở những nước trước đây có tinh thần bài ngoại, bỏ hết những chương trình học ngoại ngữ, coi như vong bản, mất gốc (Việt Minh chủ trương sau Tổng Khởi Nghĩa 19-8-1945) thì sau đó phải trở về với ngoại ngữ vì ngoại ngữ cần thiết để giao dịch trong mọi khía cạnh của đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao, y khoa, khoa học v.v...

            Cũng có một số nhà giầu hoặc mát mặt ở thôn quê thời đó nhưng phần nhiều không biết cái ích lợi của sự học. Dư tiền để mướn một thằng bé chăn trâu, chăn bò nhựng không mướn mà bắt thằng con trai 12, 15 tuổi đi chăn trâu, cắt cỏ và phụ việc đồng áng để đỡ phải chi ra mấy chục thùng thóc nuôi ăn và trả công đứa mục đồng.

Mặt khác, vì từ nhiều thế hệ không đến trường, có nhiều đứa trẻ cho đi chăn trâu, chăn bò thì làm hết mình mà bảo cắp sách đến trưòng thì chúng không thích, chúng trốn học vì thế chữ nghĩa ông thày có ra rả giảng bỏng họng, chúng không thâu thái được một phần mười.

 Rốt cuộc, cha mẹ cũng phải cho chúng trở lại nghề chăn trâu cắt cỏ, làm đồng làm áng, đánh giậm đánh cá, câu ếch tát ao mà thôi. Có thiếu gì những đứa trẻ ở trong làng cùng tuổi với tôi, gia đình khá giả, giầu có hơn gia đình tôi nhiều mà không đi học. Tự cha mẹ chúng cũng có, tự chúng thích thế cũng có và khi có cơ hội gặp nhau ở dưới sông như đi bơi, đá bóng v.v...chúng vẫn nhìn tôi với cái nhìn khác, như không phải đồng bọn, dù ở cùng xóm, cùng thôn, cùng làng với nhau.

            Anh Thường chính là một trong hàng trăm ngàn những đứa trẻ chuyên nghề nông tang ở Bắc Việt lúc đó. Anh ở vào lớp tuổi người anh lớn nhất của tôi, khi nạn đói xẩy ra, anh đã  đã có một đàn con sáu đứa. Nếu không có nạn đói, có thể chị Thường sẽ còn sinh nữa, sinh đến khi không sinh được nữa thì thôi vì lúc đó đâu đã có thuốc ngừa thai, đâu đã được học để bớt thụ thai. Vả lại, như nhiều dân tộc Á châu, người Việt quan niệm:”một con một của bằng nhau” có nghĩa dù nghèo tiền bạc, của cải mà đông con thì cũng kể như giầu có. Thời đó người ta chưa nhìn thấy khi nuôi một đứa con cho thành người thì tốn phí như thế nào, nhất là về chi phí học vấn. Người ta nghĩ có đủ gạo cho đứa trẻ ăn, vài bộ quần áo một năm, có mái nhà che nắng che mưa  là xong rồi.

            Nói gì thời đó, ngay mới 50 năm nay, quan niệm đó vẫn còn ở với xã hội Việt Nam. Chỉ hiện tại, khi nếp sống Âu - Mỹ ùa vào xã hội Việt Nam, nuôi một đứa trẻ rất tốn phí tiền bạc và thì giờ, công sức nên nhiều người đã sợ sinh đẻ.

            “Cái khó nó bó cái khôn” nhiều cha mẹ biết sự học là ích lợi cho con nhưng vì đông con, nhà nghèo, đành để con thất học hoặc chỉ được học qua mấy lớp tiểu học. Những đứa con ít học đó ra đời tất nhiên lại cũng chỉ làm nghề lao động chân tay, khó kiếm được những việc tốt, khá tiền, thế là lại tiếp tục nghèo, con chúng cũng không được đi học, cứ thế cái chu kì nghèo khó quanh đi quẩn lại mãi không có cách thoát ra.

            Nhiều nước giầu có như Hoa kỳ, Anh, Pháp ... có chương trình cưỡng bách giáo dục cho đến hết bậc Trung học. Ðiều này rất có lợi cho những gia đình nghèo. Học sinh tốt nghiệp Trung học đã có căn bản về nhiều vấn đề xã hội và kiến thức tổng quát, ngôn ngữ. Họ có thể đi làm kiếm sống không cần nhờ vào cha mẹ hoặc chính phủ trợ cấp. Họ cũng có thể vừa đi làm vừa dự các lớp tối tại Ðại học, thường có học bổng giúp đỡ những sinh viên học giỏi, chăm chỉ, không đủ tiền đóng học phí. Tự đó, nhiều người đã tốt nghiệp Ðại học một cách vinh dự nhờ vào ý chí và sức làm việc bền bỉ.

            Năm 1978, khi mới tới Cali, tôi đã đến ghi danh học tại trường Ðại học OCC. Ông thày Sử Hoa kỳ của tôi trước đó đã là một tài xế xe truck cho Ðại học này. Sau ít năm vừa làm vừa học, ông lấy xong Tiến Sĩ (Ph.D.) và trở thành giáo sư thực thụ tại trường xưa kia ông đã phục vụ với nghề lái xe và khuân vác.  Những cái gương như thế còn rất nhiều. Có những cụ già 70, 80 và cả 90 tuổi người Hoa Kỳ, xưa kia thất học, bây giờ về hưu lại trở về đời sống đèn sách, người đâu xong Trung học Phổ thông, kẻ lấy Cử nhân, năm nào cũng có. Thật đáng khâm phục.

            Một quốc gia, cũng như một con người, khi kiến thức đã cao, sự hiểu biết rộng rãi, tất nhiên những suy nghĩ và hành động của công dân hay tập thể công dân ngày càng khôn ngoan, trí thức, hợp lí, hợp pháp, tiến bộ, văn minh và nhất là đưa đến trình độ kĩ thuật cao vì đã học hỏi được nhiều điều hay trong sách vở của thiên hạ.. Trái lại, thiếu học vấn căn bản, con người và xã hội trì trệ trong lạc hậu, u tối, mê tín, dị đoan, tư duy sẽ càng ngày càng đi xuống, lệch đường tiến bộ của toàn thế giới đang tiến như vũ bão để thoát ra khỏi cái nghèo đói, dốt nát, khổ sở, bất công và muôn thứ khác. Người lớn có giỏi mới chỉ lại cho đám con em. Thế hệ này dốt, kém học thì không phải chỉ họ thiệt thòi mà những thế hệ sau đó cũng thiệt thòi vì không được chỉ dạy, chỉ dạy đúng đắn hay bị chỉ sai đường. Nền giáo dục thanh thiếu niên để mở mang trí đức thể dục trong một quốc gia hệ trọng vô cùng. Nó chính là tương lai của quốc gia đó.

THÁNG BA NĂM ĐÓI

(Tiếp theo)

 

Ðúng 60 năm trước đây, 3-1945 – 3-2005, nạn đói kinh hoàng năm Ất Dậu làm gần 2 triệu đồng bào miền Bắc và Bắc Trung việt tức tưởi ngã xuống như ngả rạ. Nhiều sử sách qui trách nhiệm làm chết gần 2 triệu người dân Bắc Việt cho Pháp thực dân và Nhật quân phiệt đã thu mua, tích trữ, thậm chí dùng thóc lúa đốt thành than chạy đầu máy xehỏa, cũng như bắt dân ta bỏ lúa trồng đay.

 Những điều đó đều đúng nhưng tác giả chuyện kí này thêm rằng, trách nhiệm còn thuộc về vua Bảo Ðại, lúc đó đang là hoàng đế Việt Nam, cai trị và đại diện người Việt Nam trước Pháp thực dân và quân phiệt Nhật.

 Hoàng đế Bảo Ðại không hề lên tiếng để ngăn chận âm mưu độc ác này của Pháp và Nhật cũng như tìm cách cứu đói khi hàng trăm cái kho chứa đầy gạo ở Hải phòng, Hà nội bị khóa kín, gạo thối rữa thành những đống phân...mà chính tác giả nhìn tận mắt. Cả sau trận đói, hoàng đế Bảo đại cũng không hề có một lời thương cảm thần dân bị chết oan của ông!

Tưởng cũng nên thêm chút tư liệu về đói để bạn đọc tường lãm. NguyệtSan Readers’ Digest trong năm 2003 có đăng:”Trên thế giới đã có 57 triệu người chết đói, trong có 10.5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi. Chỉ trong năm 2003, Nigeria (Châu Phi) mất mùa, nạn đói giết 150,000 trẻ em (không thấy nói người lớn). Cứ 1 phút, trên thế giới có 23 đứa trẻ chết vì đói và mỗi ngày, hàng trăm triệu trẻ em đi ngủ với bụng đói.

Nạn đói ở Bắc Việt năm 1945 là do hậu quả chính sách dã man của thực dân Pháp, lệnh bỏ lúa trồng đay của quân phiệt Nhật và chính phủ bù nhìn, vô trách nhiệm của vua Bảo Đại.  Xuân Vũ TRẦN ÐÌNH NGỌC

 

 Kì 4                          

6

Người chết đói rải rác đã nhiều tháng. Một số nông dân sống sót sau này còn nói lại, khoảng giữa năm Quí Mùi (1943) đã có những làng bắt đầu chết đói tuy chỉ là thiểu số. Bà chị họ tôi, chị Uông, kể cho tôi nghe:

“Cậu ơi, thảm lắm cậu ạ. Không cứ là đến năm 45 mà ngay từ 43 đã có người chết đói. Gia đình bà cô tôi - vẫn lời chị - ở một vùng thật xa chợ búa, làng xóm trong tỉnh Thái bình.

Gia đình cả thảy gồm tám người, trước giờ vẫn có được dăm sào ruộng tư và cấy rẽ vài mẫu ruộng của chủ điền lấy thóc ăn. Vuờn tược, gò đống cũng sản xuất thêm ngô, khoai, rau cỏ. Những năm được mùa thì cũng đủ ăn một cách tần tiện vì gia đình rất nghèo, không còn mối lợi nào khác. Cả gia đình chỉ có một chiếc tam bản mỗi tháng bơi ra phiên chợ Ninh mua vài thứ cần dùng rồi lại bơi về.

Khoảng mùa thu năm 43, đến gần hai tháng không thấy người trong gia đình này ra chợ, một người thân bơi thuyền vào coi thì nhà cửa - chỉ là nhà tranh vách đất - vẫn y nguyên nhưng cả tám người đã chết thối trong nhà. Khi đi kiểm soát thì thấy gạo thóc, khoai ngô hết nhẵn, người ta nghĩ là cả gia đình đã chết đói.”

Chị Uông chấm dứt câu chuyện bằng những tiếng thở dài não nuột. Thực ra, không phải chỉ một gia đình người cô chị Uông mà hàng ngàn gia đình khác lâm vào cảnh huống thảm thương đó do những kẻ cầm quyền vô nhân đạo gây ra.

Qua năm 1944, rất nhiều gia đình cả nhà chết đói không còn làm ai ngạc nhiên. Những con người da bọc xương, những ngôi nhà bỏ hoang xuất hiện ngày càng nhiều. Phương tiện giao thông chỉ là đi bộ nên đi đâu cũng coi là xa, nông dân chết đói ở thôn quê không dám “mạo hiểm” lên thành phố sợ chết giữa đường thì còn cơ cực hơn nữa. 

Vì hạn hán, vì sâu rầy cắn phá, chuột bọ tung hoành, vụ chiêm và vụ mùa năm 1944 đều mất gần như trắng tay. Nông dân Bắc Việt lâm vào tình thế cực kì nguy cấp.

Giả sử hai vụ này được mùa cũng vẫn đói vì diện tích cấy lúa đã bị thu hẹp hết 75%, nhường chỗ cho đay, gai. Nông dân chỉ còn trông vào việc bán đay, bán gai để mua gạo sống qua ngày.

Nhưng đay bị dìm giá vì Pháp và Nhật biết, nếu họ không mua, nông dân Việt chỉ có cách vứt đi.

Từ thượng cổ, đay gai ở nước ta vẫn được dùng để đan võng, dệt chiếu, bện chão bện thừng cho thuyền bè, làm rọ đựng các đồ dể treo, đan thành dép đi trong nhà, lưới cá, vó bè vv... nhưng chỉ với số lượng nhỏ. Nay đay tràn ngập vì bị bắt buộc sản xuất, nhà nào cũng chỉ vỏ đay là vỏ đay, vỏ gai là vỏ gai, chất cả gian nhà, nếu Nhật, Pháp không mua thì chắc chắn chỉ có đổ đi. Chi bằng bán rẻ, bán tháo cho chúng lấy tiền đong gạo, đó chính là ước muốn của nông dân Bắc Việt lúc đó, ngàn người  như một. Nhưng vấn đề là, dù có tiền, có vàng, không có thóc gạo, ngay cả ngô khoai. Có sản xuất đâu mà bảo là có. Cả một vùng đồng bằng sông Nhị hà khi xưa cấy lúa đủ ăn, mùa màng tốt đẹp thì dư dả, đem đổi thóc lấy muối, lấy vải, lấy nông cụ, lấy thuốc thang và những thứ cần dùng cho đời sống. Nay nhìn khắp nơi không thấy một hạt thóc, một hạt gạo, một củ khoai, cái bắp. Làm thế nào để sống khi gạo, khoai, ngô là thực phẩm chính duy nhất của dân ta từ thời thượng cổ đã cạn kiệt đến bữa cuối cùng? Hiểu được điều đó sẽ thấy cái mối lo vắt ruột, vắt gan, phát sốt, phát rét, đâm khùng, đâm điên nhất là nhà đông người!

Cũng có một số người học thức hiểu biết tình hình, trong đó có vài tờ báo Việt ngữ ở Hà nội, Sàigòn nêu lên viễn ảnh đen tối, người dân Bắc Việt sẽ chết hết nếu Chính phủ Nam triều không can thiệp với người Nhật và người Pháp đem lúa gạo từ miền Nam, vốn khi nào cũng dư dả, ra tiếp tế cho dân miền Bắc. Nhưng có lẽ chính phủ Nam triều đã quá chậm chạp hoặc thờ ơ, hoặc Pháp và Nhật lấy cớ phi cơ Mỹ oanh kích hàng ngày, các chuyến xe lửa từ Nam ra Bắc sẽ là mục tiêu tốt cho phi cơ Mỹ (đánh phá đường tiếp tế của quân đội Nhật) nên họ từ chối. Ðây chỉ là những giả thiết vì người viết bài này không nắm được hay đọc được một văn bản nào hoặc một bài báo nào nói đến sự can thiệp của triều đình vua Bảo đại cho thần dân Bắc kỳ của ông.

Ngay cả sau khi gần 2 triệu dân Bắc Việt đã nằm xuống và những thời gian sau này, vua Bảo Ðại không hề có một lời ân hận, chia buồn (dù chỉ đãi bôi) với những gia đình có người chết đói mà chính ông và chính phủ Nam triều của ông lúc đó trách nhiệm.

Cùng là con dân nước Việt, tình nghĩa anh em, miền Bắc chết đói kinh hoàng như thế nhưng hầu như đồng bào miền Nam chẳng biết gì chỉ vì thông tin còn quá lạc hậu, giao thông khó khăn diệu vợi chứ cả như bây giờ, làm sao lại không có được những tấm lòng vàng nhường cơm sẻ áo nhất là lúc đó đồng bào miền Nam khá sung túc, thóc gạo dư thừa, Pháp và Nhật phải đốt thóc làm than chạy đầu máy xe hoả thay cho than đá không đưa từ Hòngay vào Nam được vì phi cơ Mỹ oanh tạc đường tiếp tế của Nhật để buộc Nhật đầu hàng. Một lí do nữa gây nạn chết đói mà Sử gia Trần gia Phụng và nhiều tác giả khác nại ra là Việt Minh đã chận đường tiếp tế lúa gạo cho nông dân Bắc Việt. Họ tịch thu rất nhiều lúa gạo, tồn trữ lại để nuôi bộ đội của họ, đang cần rất nhiều, một mặt gây lòng căm thù của nhân dân ta đối với Pháp Nhật tàn ác, mặt khác, theo đúng sách vở của Tôn Vũ, bên nào dự trữ được đầy đủ binh lương (làm cho binh hùng tướng mạnh), bên ấy nắm phần thắng. Điều đó cũng dễ hiểu.

           

7

 

Mùa Ðông năm Giáp Thân (1944), tai họa ghê gớm lên đến cao điểm.

Mặc nhiên nó kéo sang mùa Xuân Ất Dậu (1945), càng ngày càng tệ, cho đến quá giữa năm 1945 khi có được những hạt thóc đầu tiên. 

Một buổi sáng, từ trong nhà bước ra đường, tôi tính tới nhà chị gái và anh rể tôi ở làng bên để thăm chị vì nghe tin chị bị bệnh.

Ðường xá vắng hoe. Người ta đi đâu hết thế này? Tôi thấy một người đàn ông khật khưỡng đi xiêu vẹo trong một cái ngõ, cách tôi chừng vài chục bước. Tôi không nhận ra người quen hay lạ vì trước mắt tôi là một bộ xương cách trí biết đi. Vâng, đúng là một bộ xương cách trí!

Da sạm đen toàn thể, hai hố mắt sâu hoắm, đen sì như hai lỗ đáo, đầu trơ sọ, tóc tai làm như đã rụng hết, hai má tóp vào đến tận xương, nhăn nheo, dúm dó như cái mặt của con khỉ, manh áo rách để lộ rõ từng cái xương sườn, bụng bé tí chỉ một chẹn tay và đôi tay, đôi chân chỉ vừa bằng  bốn cái xương đay, nhỏ đến nỗi tôi không thể ngờ được đó là chân, tay của một con người. Tôi cố nghĩ nhưng không nhận ra ai dù tôi biết từng người trong xóm. Thực sự lúc đó tôi cũng sợ. Bộ xương như con ma kia túm lấy tôi thì sao? Tôi vội đi khuất vào một bụi tre rồi cắm đầu đi thẳng.

Từ nhà tôi đến nhà chị gái khoảng hai cây số, tôi gặp bốn đám đem người chết ra đồng chôn.

Một cái chiếu cuộn lại, giây cột hai đầu cho khỏi tuột, người chết được nằm trên một cái võng, cây tre xỏ vào, hai người khiêng đi. Người đi sau cầm theo cái mai hay cái cuốc để bới đất. Không kèn không trống. Không xóm giềng họ hàng. Không nén hương, bát cơm, quả trứng là những thứ xưa kia không thể thiếu. Chẳng những thế, người đi chôn chẳng còn hình tượng người; họ làm việc ấy vì thương người thân và vì sợ để thối rữa trong nhà, họ hết nơi trú ngụ. Còn chút sức lực, họ phải đem xác chết ra đồng kẻo nữa ngày mai, biết đâu họ không thể làm.

Người chết vì teo tóp hết thịt nên chỉ còn bộ xương khô bọc da, rất nhẹ, như người đàn ông tôi nói ở trên, gió thổi đổ và sẽ đột quị bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, chết ngay tại chỗ. Nếu không còn người thân ra kịp đem về nhà, chỉ một loáng là chó, mèo hoang hoặc chuột bọ, kiến bã đến banh xác kiếm những thứ chúng cần cho sự sống của chúng.

Ra đến chỗ không nhà, không cửa, thường chẳng xa là bao vì còn ai kiểm soát, hỏi han, người  cầm cuốc bới cái lỗ sâu khoảng cánh tay, bỏ bó chiếu xuống, vùi lại rồi về. Có những người đã kiệt lực vì đói, dù thương người thân nhưng không còn sức để đào lỗ cho sâu nên chỉ vùi khơi khơi, khi họ vừa ra về là chó mèo, chuột bọ đến bươi ra.

Ra đường rất ngại vì nguy hiểm nhưng giá có đi khắp làng, khắp tổng, đường xá cũng vắng hoe như tha ma mộ địa, chỉ loáng thoáng thấy đôi, ba người đói khát, rách rưới, khật khưỡng đi chẳng biết đi đâu và sẽ té xuống một lúc nào đó. Súc vật như trâu bò, lợn gà, chó mèo hoàn toàn vắng bóng.

 Tôi nhớ hồi thanh bình, no ấm cứ mỗi sáng sớm, gà trống gáy te te, gà mái đẻ trứng cục te cục tác trong chuồng, lợn ủn a ủn ỉn đòi ăn rồi là tiếng bịch bịch chân trâu chân bò dẵm trên con đường đổ xi-măng băng qua trước nhà, tiếng hót líu lo những con chim chích choè, những con sáo, tiếng kêu thanh tao của những con vành khuyên và tiếng chiếp chiếp những con gà con theo mẹ. Nghe mà vui. Nghe mà thấy lòng mình cũng rộn ràng cùng với thiên nhiên, đất trời, chim muông, thú vật. Người ơi ới gọi nhau đi chợ, ra đồng, tiếng chó sủa khi thấy người lạ đi trước ngõ; tiếng chuông rổn rảng giục giã của ngôi thánh đường xứ đạo và êm đềm, thanh tịnh của ngôi chùa Trung gần nhà tôi. Tất cả đã cho tôi những ấn tượng êm đềm, ấm cúng và thanh bình, no ấm của một miền quê tôi được sinh ra và lớn lên trong cái nôi hạnh phúc của tuổi niên thiếu không bao giờ có thể quên được.

  Nhưng nay miền quê ấy đã khác xa khi xưa, khác rất xa dù trong thời khoảng chỉ hai năm. Có thể ví hai cảnh đời ấy với hai cảnh thiên đàng và địa ngục hai bên. Thiên đàng cho thiên thần và địa ngục cho ác quỉ, nhưng địa ngục ở đây không phải cho ác quỉ mà cho những dân quê Bắc Việt hiền lành, chất phác suốt đời cặm cụi làm việc, đổ mồ hôi trên những thửa ruộng khô cằn mong đổi lấy một đời sống khiêm nhường, thanh đạm, nhưng vẫn không xong! Và cuối cùng là nằm chết đói, chết lả trên những mảnh đất thân thương ấy! Vợ chồng, con cái. Cha mẹ, anh em. Gia tộc, xóm làng. Tất cả. Tất tất cả. Có còn gì thảm thương hơn!

Sau này, người sống sót còn kể có những thôn xóm giết thịt trẻ con thui ăn. Tôi không biết là giết thịt trẻ lúc chúng còn sống hay đã chết nhưng những người ăn thịt trẻ tin rằng thịt trẻ mềm và ngon hơn thịt người lớn. Thịt những kẻ đói lâu ngày đã teo tóp lại chỉ còn da bọc xương, dù trẻ dù già, chắc chắn chẳng còn gì để ăn.

Chợ không còn họp nữa vì có người đâu mà họp vả lại họp thì ai bán, ai mua đây? Còn cái gì để bán? Có ai có tiền mà mua? Có một thứ cần mua nhất là gạo, thóc thì chẳng ai bán. Có đem bán nhà, bán đồ đạc không ai mua vì mua để làm gì trong khi cái mạng sống không biết có giữ cho được đến lúc có tiếp tế, có gạo thóc?

Người dân nói bâng quơ với nhau mong tiếp tế  từ Chính phủ tải lúa gạo trong Nam ra nhưng không một ai đặt niềm tin vào Chính phủ Nam triều dưới quyền lãnh đạo của vua Bảo Ðại mà người dân nghĩ ông đang còn mải săn bắn và liên hoan với những cô đầm Pháp xinh đẹp. Tôi quí nhà Nguyễn khai phá mở mang bờ cõi ở trong Nam nhưng mỗi lần nhớ đến chuyện này, tôi không khỏi căm giận vua Bảo Đại!

Cũng chính bởi thế mà người dân Bắc Việt thù ghét triều đình Bảo Ðại. Khi ông Hồ chí Minh, tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, ngày 19-8-1945 và những ngày kế tiếp, hô hào dân Việt đấu tranh giành quyền Ðộc lập cho nước nhà, đánh đuổi Pháp thực dân đô hộ và truất phế Bảo Đại quân chủ bù nhìn tay sai thực dân Pháp, người dân Bắc Việt đã không thắc mắc hưởng ứng đi theo ông Hồ và đảng Việt Minh của ông làm thành một cao trào vì Dân tộc, vì Ðất nước phá tan gông xiềng nô lệ mà vua Bảo Ðại là một hình tượng đại biểu xấu xa. Ông Hồ cũng long trọng đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập trong đó mỗi con người có Tự Do và được mưu cầu hạnh phúc; quyền này do Thượng Đế ban cho mỗi người từ khi sinh ra mà không một ai có quyền lấy đi. Khẩu hiệu mà cả nước phải viết trên đầu mỗi đơn, thư, văn bản là: Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc. Những danh từ tôn quí này ông Hồ và đảng Việt Minh của ông đưa ra có ma lực làm nức lòng toàn dân, làm ai nấy thảy đều vui mừng, tin tưởng, hăng say và nóng lòng hi sinh cho Đại Nghĩa Dân Tộc dù có da ngựa bọc thây, dù có nhảy vào biển lửa. Cái chết với thanh, thiếu niên Việt Nam lúc đó chính là chết cho Tổ quốc, cho Dân tộc được trường tồn, chết để rửa cái nhục vong quốc đã 80 năm nô lệ giặc Pháp, 1000 năm nô lệ giặc Tàu. Chết là một vinh dự cho mỗi người vì người người khát khao Độc Lập, Tự Do và Hạnh Phúc như nắng hạn mong mưa rào. Chẳng phải ông Hồ mà bất cứ lãnh tụ nào lúc đó có chút uy tín hứa mang lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm cho toàn dân Việt thì cũng được ủng hộ hết mình như thế. Nông, Công nhân là những thành phần nghèo, vô sản theo ông Hồ đã đành mà ngay trí thức, giầu có, quyền thế cũng theo ông, cũng hết lòng vì đại nghĩa dân tộc dù có phải hi sinh hết tất cả tài sản sẵn có của mình. Bà Nguyễn thị Năm, triệu triệu phú, là một bằng chứng. Và sau này, nhiều nhà giầu miền Nam trong khoảng 1954-1975, trong cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai miền Nam Bắc, cũng lại là một bằng chứng lòng yêu nước nồng nàn của những người này qua lời tuyên truyền khéo léo của Việt Minh CS và Mặt Trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.. Ở đây, ta khoan xét những hệ quả (mà sẽ được trình bày ở một bài khác).

 Lòng căm thù chế độ Pháp thực dân và quân phiệt Nhật dày xéo nước Việt, gây nạn đói kinh hoàng cho toàn miền Bắc đã là động cơ khiến Việt Minh không cần phải tuyên truyền nhiều (dù họ có tuyên truyền ra rả và coi tuyên truyền là cái xương sống của chế độ) và vì thế trong công cuộc chiến đấu chống Pháp 1946-1954 hàng vạn thanh niên đã lao vào cái chết, ôm bom nhảy vào xe tăng Pháp, dùng người chận đại pháo tuột dốc, xung phong biển người... ở Điện Biên Phủ và khắp nơi với mong ước dân tộc được sống, được phục sinh, được no ấm. được hãnh diện là người Việt Nam chứ không phải họ chiến đấu cho ông Hồ cũng như đảng Việt Minh. Họ cũng không liều chết để được danh, được lợi. Động cơ chính là lòng yêu nước, là sức mạnh vũ bão, mạnh hơn hết thảy, thiêu hủy hết thảy chướng ngại trên đường tiến của nó mà không một lời hứa hẹn hay tuyên truyền nào có thể sánh. Quả rằng có được cái “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” đó, bất biết có được bằng cách nào, ông Hồ chí Minh và đảng Việt Minh đã có cái cơ hội ngàn vàng để làm cho dân tộc được no ấm, vẻ vang, văn minh, tiến bộ không thể thua bất cứ nước Á-Phi nào trên bản đồ thế giới mới là đúng!

Sau ngày 19-8-1945, tôi đã đi coi nhiều phòng triển lãm tại Hà Nội và cảng Hải Phòng của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa do ông Hồ chí minh làm Chủ tịch, ông Nguyễn hải Thần Phó chủ tịch và các Bộ trưởng người của Việt Minh, Việt Nam Quốc Dân Đảng và các đảng phái khác. Các phòng triển lãm này chủ yếu trưng ra tội ác do thực dân Pháp và quân phiệt Nhật gây ra cho đồng bào ta. Nạn đói Ất Dậu là số 1 với 2 triệu người chết đói, những bộ xương người, đầu lâu trơ sọ, cảnh chụp các thây người chết đói phu hốt rác thảy lên các xe rác thành phố đem đi chôn tập thể. Kế đến là sưu cao thuế nặng, thuế thân, thuế ruộng, làm xâu, bắt lính. Rồi chính sách ngu dân làm dân tộc ta lạc hậu, thụt lùi, con cái nông dân không được đi học, đành chịu dốt nát kéo dài kiếp nô lệ hết thế hệ này sang thế hệ khác. Căm giận thay! Rồi nạn cường hào ác bá đục khoét dân lành, xách nhiễu người dân đến từng lon gạo, mớ khoai, điếu thuốc mỗi khi phải đi xin chúng chứng nhận giấy tờ, sổ gia đình v.v.... Ác nhất là bọn Mật thám, Sen đầm Pháp rình rập, theo dõi ngày đêm, bắt bớ những nhà hoạt động cách mạng như đảng trưởng Nguyễn Thái học và 12 liệt sĩ Yên Bái, như ông Phan bội Châu, Phan chu Trinh, ông Hồ chí Minh, ông Nguyễn hải Thần v.v...rồi chúng tra tấn dã man, treo ngược lên xà nhà, thủ tiêu, tù đầy Sơn La, Lai châu, Lao Bảo, Hỏa lò Hà Nội... Guồng máy cai trị của Pháp thì tham nhũng thối nát, xách nhiễu dân lành, bất công xã hội đầy dẫy khắp mọi nơi khiến dân chúng nghèo nàn cơ cực mà chỉ làm giấu cho một bọn tham quan ô lại làm cho Pháp và đi sát hoặc buôn bán với Pháp.

Những phòng triển lãm này có mặt ở khắp các thành phố lớn như Hà Nội, Hà Đông, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên v.v...  Đã sẵn căm thù Pháp thực dân bóc lột tận xương tuỷ, nay lại được nhìn chính những hình ảnh dã man của chúng Vì thế lòng dân oán giận, thề phải phanh thây uống máu giặc Pháp mới hả... và vì thế Tổng Khởi Nghĩa bùng lên, Cách Mạng ra đời dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ chí Minh và đảng Việt Minh để mang lại cho toàn dân Việt một cuộc sống no ấm, yên vui, công bằng xã hội, xoá đi cảnh giầu nghèo quá cách biệt người ăn không hết người lần không ra, xoá đi cảnh người trù dập, hà hiếp, bắt nạt người, xoá đi những tàn tích xấu xa của thực dân phong kiến để nâng cao dân trí, thực thi Dân chủ, sống đời Tự do vì Hồ Chủ Tịch tuyên bố: “Không gì quí bằng Độc lập và Tự Do” Nhiều biểu ngữ bằng vải, bằng cót viết bằng sơn, viết lời đó của Hồ chủ tịch và một vĩ nhân Hoa Kỳ”Give me Liberty or give me death!” nghĩa là “Hãy cho tôi tự do hay là giết tôi đi!” cùng rất nhiều khẩu hiệu ý nghĩa khác như “Independence or Death” Độc Lập hay là Chết, “Vietnam to the Vietnamese” Nước Việt Nam của người Việt Nam, “Independence, Freedom and Happiness” Độc Lập, Tư Do và Hạnh Phúc....

Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố nhỏ, tất cả đều sôi lên, đều điên cuồng mừng vui vì quá sung sướng, quá hạnh phúc như chưa từng bao giờ trong đời có những giây phút đáng sống đến thế!...

Đồng bào coi, nghe, tham dự cứ mê đi. Cờ đỏ sao vàng (cờ của đảng Việt Minh nay đảng này lấy làm quốc kì!) tràn ngập khắp mọi phố xá, hang cùng ngõ hẻm, y như Trần Dần sau này viết: Tôi không thấy phố không thấy nhà, Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ. Những đoàn người diễu hành dài dằng dặc, cờ xí, biểu ngữ nhìn rối mắt, bao giờ đi đầu cũng là dàn trống ếch của thiếu nhi đánh rất khoẻ, rất bài bản (mà hầu như ai cũng thuộc) để đoàn biểu tình rập bước quân hành. Đôi khi có mấy anh bộ đội mũ sắt nguỵ trang lá cây vác súng đi sau dàn trống làm ai cũng nức lòng (bộ đội VM lúc đó còn rất ít, vũ khí thô sơ). “Bao chiến sĩ anh hùng, Lạnh lùng vung gươm ra sa trường. Quân xung phong, nước Nam đang chờ mong tay ngươi hồn sông núi khí thiêng ghi muôn đời...” Bài hát này và nhiều bài hát khác như “Người người đều mong du kích quân, du kích quân...” “Một mùa Thu năm xưa cách mạng tiến ra nước Việt...” được mọi người nhất là thanh thiếu niên say mê hát không biết mỏi miệng, hát bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Hễ một người bắt đầu câu đầu lấy giọng là các người khác đồng ca ngay. Không khí sôi động như ngày hội dân tộc, như ngày phục sinh của đất nước toàn dân đã mong mỏi hàng ngàn năm.

Là một thiếu niên, tôi cũng mê đi, đêm ngủ vẫn nghe giọng đồng ca, trong mơ vẫn nhìn thấy cờ, biểu ngữ và cả tương lai sáng lạn của dân tộc. Lập tức tôi xin thầy mẹ tôi cho tôi thoát li gia đình để đi cứu nước, mặc dù thầy tôi trước sau không bằng lòng. Cụ có lí do vững chắc đầy thuyết phục của cụ mà mấy năm sau, tôi mới thấy. Một người đã sang Tàu, sang Nhật hồi phong trào Đông kinh Nghĩa thục, đã bị Mật Thám Pháp bắt mấy lần bỏ tù, sau 45 cũng bị Việt Minh bắt giam mấy tháng, chắc chắn phải kinh nghiệm hơn thằng bé mới lớn như tôi.

...Nhưng lúc đó, tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài sự say mê của tuổi trẻ và tương lai dân tộc mà tôi muốn góp phần. Vả lại, có biết bao nhà trí thức đi theo và ủng hộ ông Hồ và đảng Việt Minh. Họ là những người lớn, tôi chỉ là đứa con nít, họ bằng cấp đầy mình, tôi chỉ là một học sinh tiểu học, họ có địa vị và giấu có, tôi chẳng có cái gì. Thế thì tại sao tôi phải e dè. Tôi chỉ còn e dè có bố tôi vì bố tôi không cho phép nhưng sau đó tôi trốn nhà lần mò đến xin đầu quân vào bộ đội chủ lực thì viên Trung đội trưởng nhìn tôi, hỏi tuổi rồi nói, “em chỉ có thể xung phong vào đoàn Văn Công đi biểu diễn văn nghệ mà thôi.” Thế là tôi, với cây đàn banjo, cái harmonica và cái ba-lô đựng hai bộ quần áo, đã theo đoàn Văn Nghệ (tôi đã quên mất tên, hình như là Lãng Bạc, rồi Sông Lô?) đi giang hồ từ đó. Tôi cũng đã được huấn luyện quân sự cấp tốc 3 tháng tại địa phương mặc dù tuổi còn nhỏ. Huấn luyện viên là những anh bộ đội tập cho tôi ngắm bắn (chứ chưa bắn thiệt vì đạn còn rất hiếm), ném lựu đạn (tập mở chốt cho nhanh và ném lựu đạn không ngòi nổ), bò dưới hỏa lực, đánh xáp lá cà, lội ruộng băng đồng, tấn công đồn bót giả. Học lí thuyết và tư tưởng Mác-Lênin và các giáo điều khác. Nhưng quan trọng là học lí luận và căm thù giai cấp, căm thù đế quốc Mỹ và thực dân Pháp. Mỗi tối chúng tôi học tập thảo luận và tự phê tự kiểm đến nửa đêm mới đi ngủ. Năm giờ sáng, nghe tiếng kẻng, phải thức dậy sinh hoạt theo thời biểu đã được ấn định. Lương thực phải tự túc, cứ 10 người một tổ hùn nhau thổi cơm rồi ăn chung. Kỉ luật khóa vô cùng cứng rắn nên ai nấy phải hết sức giữ mình.

Cũng có thi mãn khóa. Tôi là một trong 5 học viên đậu đầu khoá trên 700 người của Phủ Xuân Trường, Nam Định. Tôi được tuyên dương thành tích và được thưởng hai cuốn sách viết về chủ nghĩa Mác-Lê, 1 cái mũ cói, 1 áo trấn thủ mới, 2 cuốn vở để ghi chép và vài thứ khác tôi không còn nhớ. Giữa năm 1950, mẹ tôi cho người đi tìm tôi, nói thác rằng bà ốm nặng, bảo tôi phải về. Lúc đó tôi đang theo đoàn trình diễn Văn Nghệ ở Đống Năm, Thái Bình.

Sau đó tôi lên Hà Nội học tiếp. Tháng 9 năm 1954, sau Hiệp Định Genève 20-7-1954, tôi theo đoàn người di cư vào Nam. Tại Sàigòn, tôi có công ăn việc làm, chỉ đi học ban tối từ cuối năm 1956 và trở thành Giáo sư dạy Toán Lý Hoá  Trung học đệ nhất cấp (với bằng Tú Tài II Toán) từ mùa hè 1959. Tôi cũng bắt đầu viết (amateur) cho các nhật báo, nguyệt san từ năm 1958 với bút hiệu Xuân Vũ (Nhà văn Xuân Vũ tên thiệt là Nguyễn minh Triết, sinh ở miền Nam, tác giả “Đường đi không đến” đã dùng bút hiệu này sau tôi 10 năm khi ông từ Bắc vào Nam năm 1968 (hay 69). Ông trình diện Bộ Chiêu Hồi và được trọng dụng. Trước khi mất, ông viết cho Nguyệt San Đoàn Kết ở Austin, TX mấy năm, tờ Nguyệt San tôi cũng cộng tác từ năm 1992). Từ 1959, tôi cũng là Chủ Bút Bán Nguyệt San Tinh Thần của Nha Tuyên Uý Công giáo (có lương), đồng thời là Giám Học Trung tiểu học Đồng Tiến. Năm 1965, lúc đang ở trong Quân đội Cộng hoà, tôi đậu Cử Nhân Văn Chương Đại học Văn Khoa Sàigòn và từ đó chỉ chuyên dạy Triết học (Tú Tài II), Việt ngữ (Tú tài I) và Anh ngữ khi tôi được giải ngũ hai năm sau đó cho nhiều tư thục ở Sàigòn.

 Các sách Giáo Khoa Triết học và Luận đề Việt văn tôi soạn cho các lớp đi thi bằng Tú Tài 1 và II, một cuốn Tuyển tập truyện ngắn (Hoàng hôn miền núi) và một cuốn Thơ (Như áng Mây trôi I) ra đời trong thời kì này. Tất cả những sách này và những bài báo đã viết trong 17 năm và một “thư viện” nhỏ hàng trăm cuốn sách tôi đã mua và sưu tập tại gia trở thành đống giấy vụn cân kí cho ve chai sau ngày 30-4-75. Năm 1971, tôi đắc cử Dân Biểu Hạ Nghị Viện VNCH, làm việc cho đến 4-1975 rồi sang Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ tôi cũng tốt nghiệp Đại Học Cộng đồng Orange Coast College, rồi Sinh viên năm cuối Kỹ sư Điện tử Đại học Long Beach nhưng sau đó vì phải đi làm kiếm tiền yểm trợ gia đình đang từ đảo Galăng sang, tôi thôi học để đi làm việc cho Sở Xã Hội quận Orange, CA với chức vụ Chuyên viên Tìm Việc làm (Job Developer). Tôi đã làm được 20 năm và nghỉ hưu năm 2000. Ở Hoa Kỳ, tôi đã liên tục viết cho các báo, “net” và xuất bản Thơ và Truyện dài, Truyện ngắn.

Riêng nền học vấn của tôi, Sàigòn chính là nơi “cứu rỗi và phục sinh” cuộc đời tôi từ một đứa bé thất học và gia đình nghèo vì chiến tranh ở Bắc Việt thành một người có theo đòi nghiên bút. Tôi mãi mãi biết ơn Sàigòn.

8

Trở lại với nạn đói. Trẻ nít chết hầu hết vì nhịn đói không nổi. Có những gia đình sau vụ đói, chỉ còn lại hai bố mẹ. Có gia đình người anh họ tôi, đàn con cả chục đứa đã lặng lẽ ra đi sau khi không kiếm được cái gì bỏ bụng. Rau ngoài vườn, ngay đến gốc cải bắp, gốc mồng tơi, lá má, giây khoai lang, sắn dây, quả sung quả khế cũng không còn. Tôi thấy nhiều người đi hái lá lưỡi rắn, cỏ gấu - những thứ xưa nay trâu bò cũng không ăn - và cỏ gà, luộc lên ăn đỡ. Củ chuối được chiếu cố tận tình, sau đến thân chuối cũng hết sạch. Và người ta nhai cả lá chuối và tầu chuối. Miễn sao đầy bụng. Có những người nhai cả gốc sắn hoặc củ sắn (khoai mì) bị mủ độc của sắn giết chết sau khi ăn. Có những người xuống sông, xuống ao mò tôm cá chẳng những đã không được con nào mà còn chết lạnh nổi lên ở mặt ao, hồ.

Chuột quá nhanh khó bắt dù người muốn bắt mấy con ăn thịt. Chúng cũng quá đói vì không kiếm đâu ra đồ ăn nên kiếm hang kiếm ổ trú thân. Người chết không kịp chôn hay không có thân nhân, bỏ thí, bị chuột, chó mèo làm thịt, có khi người vẫn còn sống nhưng lực đã tàn. Súc vật và con người, bên nào khoẻ thì thắng. Bên thua bị làm đồ ăn cho bên thắng sống đỡ.

Chó mèo chủ không cho ăn nên bỏ nhà đi hoang kiếm ăn. Chủ tóm được cũng thịt luôn giải quyết cấp thời cái bao tử đã. Nhiều con chó, con mèo mọi khi ngoan ngoãn dễ thương, chủ bảo sao cũng nghe, nay chúng thấy chủ không mừng như mọi khi mà chủ gọi chúng không đến với chủ. Nhìn đôi mắt chủ, chúng có linh cảm chủ muốn bắt giết thịt. Chúng nhìn chủ một hồi rồi cúp đuôi bỏ đi.

Ngưòi đói quá đi lang thang một mình bị cả đàn chó đuổi cắn, chúng đã thành những con sói chỉ biết một qui luật của rừng xanh:”mạnh được yếu thua”. Chúng ăn lẫn nhau không được vì bị đánh trả thì chúng kiếm những con mồi yếu thế chúng có thể thắng được. Chim chóc thưa vắng, không biết chúng bay đi đâu cả. Có lẽ chúng cũng không kiếm được cái gì để ăn. Mọi khi buổi sáng, chích choè, chào mào, sáo hót líu lo; sẻ sà xuống sân từng đàn kiếm những hạt thóc rơi rụng, vành khuyên nhảy nhót trên cành kêu nho nhỏ. Cảnh đồng quê vui vẻ, sầm uất, thanh bình. Giờ này tất cả vắng hoe, vắng ngắt như trong một cái địa ngục trần gian bắt mọi sinh vật câm tiếng, chết dần. Những năm được mùa khi xưa đâu có cảnh này, cảnh lặng lẽ bi thương tang tóc này? 

Các chị lớn tôi đều đã đi lấy chồng. Lúc đó chỉ còn anh trai, một chị kế tôi và tôi ở nhà với mẹ tôi. Tuy nhiên, đến lúc “khẩn trương”, mẹ tôi phải gọi hai anh rể và hai chị gái tôi tới để nhà có đông người mà phòng thủ, sợ những kẻ quá đói làm bậy sẽ đến cướp gạo thóc, chỉ còn đủ cầm hơi cho đến mùa tới.

Chớm đói, học sinh các trường đã lác đác bỏ học. Chính tôi chứng kiến một học sinh trong trường đang giờ ra chơi ngã lăn ra gốc bàng, mê mệt đi vì đói quá. Rồi đến lúc các thầy giáo cũng bỏ trường. Lương không phát về mà gạo không có cho vợ con ăn, lòng dạ nào đến lớp?

Giả sử có lương cũng không đào đâu ra gạo mà mua dù đắt như vàng. Bạn ra đường giơ ra cho một người đang đói, một tay là mấy lạng vàng đỏ choé, tay kia  một nắm cơm chỉ bằng cái trứng gà, người này xin bạn nắm cơm. Vàng, tiền và cả đồ đạc đã trở nên vô dụng.

Khi người Nhật chiếm đóng Ðông Dương, người Pháp oải tay ra ngay, nhất là bên Pháp đang bị Ðức xâm chiếm, Pháp không còn lòng dạ nào săn sóc vấn đề Học chính ở nông thôn. Chẳng phải chỉ Học chính mà nhiều vấn đề khác, Pháp coi như bỏ thí, chỉ còn lo cho mấy thành phố, vừa dễ kiểm soát, vừa có đông kiều dân Pháp lưu ngụ,  họ có nhiệm vụ phải bảo vệ. Chính bởi vậy, nông thôn chết như rạ mà thành phố vẫn tạm thời có gạo “bông” cấp phát mỗi tháng, còn cầm cự được cho đến mùa tới.

Thầy tôi đã tiên liệu đưọc nạn đói sẽ xẩy ra khi người dân Bắc Việt được lệnh bỏ lúa trồng đay, lệnh đã ban ra từ năm 1942 nhưng đến 1943 nông dân ta mới thi hành.

Tuy còn nhỏ nhưng tôi đã nghe và hiểu được những nỗi lo âu của thầy mẹ tôi khi hai ông bà nói chuyện với nhau mỗi buổi tối về nạn đói sắp sửa xẩy ra nhưng không biết rõ là vào lúc nào. Tôi biết thầy mẹ tôi lo lắm, lo đến mất ăn mất ngủ.

Một mặt thầy tôi gửi tiền về cho mẹ tôi đong trữ một ít thóc lúa, mặt khác ông cho đong một ít gạo dự trữ ở trong nhà ở thành phố Hải phòng.

Thầy mẹ tôi trong mấy năm đó không dám chi tiêu chút gì ngoài những thứ thật cần thiết cho đời sống. Thầy tôi thích sửa nhà cửa, xây tường, xây cổng ngõ, đào ao thả cá, chơi hòn non bộ, cây cảnh, trồng hoa, nuôi khướu, nuôi nhồng, nuôi hoàng yến v.v... nhưng từ năm 1942, ý thức trận đói sắp đến sẽ vô cùng bi đát, thầy tôi rút hết lại không chiều theo sở thích nữa.

Tôi nhớ ông thả chim đi, cho cá vàng và hòn non bộ những người bạn muốn nuôi, ông bảo mẹ tôi không để đất không trong mấy sào vườn mà trồng khoai, trồng sắn, trồng rau trong khi mấy mẫu ruộng mẹ tôi cho cấy rẽ cũng đã phải tuân lệnh bảo tá điền trồng đay.

Dù có tạm đủ lúa gạo cho gia đình tôi cho đến vụ mùa sang năm, người trong nhà cũng phải ăn tiết kiệm bữa cháo, bữa cơm, độn khoai, độn ngô vì chẳng biết sẽ đói đến bao giờ. Từ thuở bé tôi chưa từng phải ăn độn ngô khoai, ăn cháo cám nhưng lúc đó phải ăn tất mà lạ lùng là năm đói, ăn thứ gì cũng ngon, cũng mau tiêu hóa dù chỉ cơm với muối hay nước mắm. Nay chúng ta mới nghiệm ra ăn không có thịt cá (protein) như thế, mau đói là phải.

Xóm giềng chết quang lơ ra. Mọi khi đàng trước nhà tôi là nhà của gia đình chú Am, gia đình cô Bồng, gia đình anh Chắt...; đàng sau, bên trái, bên phải cũng là những mái nhà, đông đảo, vui vẻ sầm uất là thế mà giờ đây, trước mặt, sau lưng, bên đông bên tây nhà tôi đều đã chết sạch cả, nhiều căn nhà bỏ hoang, nhìn vào thấy rờn rợn như những oan hồn uổng tử chết đói không thể siêu thoát vẫn còn lẩn quẩn với mái nhà thân yêu khi xưa gia đình xum họp.

Mỗi buổi tối khi mặt trời sắp tắt là cổng ngõ, cửa nẻo đã phải  đóng lại, gài then cho chắc. Người người đều ở trong nhà, tắt đèn nằm trong ổ rơm... chờ sáng; khi nào buồn ngủ thì ngủ. Anh trai tôi và hai người anh rể đã võ trang bằng gậy gộc, dao rừng; hễ  ăn cướp đến là phải liều chết đánh chứ biết sao. Nhưng rất may, cả vụ đói, nhà tôi không bị cướp tấn công mặc dù chúng biết nhà tôi còn một chút gạo cầm hơi. Mẹ tôi đã chia sẻ cho những người nghèo những gì bà có thể cho đến khi trong nhà đã kiệt quệ chỉ còn lại chút ít cho chính mình. Có lẽ vì vậy mà nhiều nhà trong tổng có máu mặt bị dân nghèo xông vào hôi của nhưng nhà thầy mẹ tôi thì không.

Tám mẹ con tôi nằm chung trong một cái ổ rơm, vừa bớt lạnh, vừa bớt sợ. Dù nhà đã có cổng ngõ xây và tường xây cắm mảnh sành chai bên trên - thầy tôi kĩ lắm - nhưng vì thổ đất quá rộng, có những chỗ hàng rào vẫn là bụi tre, kẻ gian có thể chặt tre chui vào.

Hệ thống hành chánh an ninh xã, thôn tê liệt vì đói. Mạnh ai nấy lo, dù cướp trộm có đến viếng cũng chẳng còn ai chạy đến giúp mình. Trước kia đêm nào cũng có tuần đinh đi tuần rỏn, canh gác, nhờ vậy kẻ gian không dám xuất đầu lộ diện. Giờ này, làng xóm như một bãi tha ma, đêm tối mịt mùng không thấy một đốm lửa, không một tiếng tù và, một tiếng chó sủa, mèo kêu mà thỉnh thoảng chỉ nghe mấy con cú mèo đến rúc  nghe rợn tóc gáy

Một đêm, mẹ con tôi vừa ngủ được một giấc ngắn thì bỗng nghe mẹ gọi:

“Các con ơi ! Nghe như có đứa nào đang chặt bắp cải ngoài vườn.”

Chúng tôi nghe mẹ gọi đều thức giấc. Tôi nghe tiếng chặt rõ ràng ở vườn trước. Anh tôi nói:

“Ðể con với anh Giáo cầm gậy ra coi. Phải đánh cho nó chạy chứ !”

Mẹ tôi bảo:

“Thôi, các con! Mẹ đoán kẻ ăn trộm là chú Giồng đó. Hồi chiều mẹ gọi chú cho chú vài bơ gạo, lại dẫn chú ra vườn chỉ hai cây cải bắp lớn bảo chú chặt đưa về cho con chú ăn

Chú ta nhìn xoi mói mấy cây cải bắp còn lại có ý thèm thuồng. Mẹ đoán chú chứ không ai đâu. Thôi kệ cho chú ta chặt, nhà ăn ít đi vậy. Vả lại, ra ngoài ban đêm rất nguy hiểm. Kẻ trộm có thể chém mình thoát thân, các con chưa đủ sức đương đầu.”

Sáng sớm hôm sau, ra coi thì hơn chục cây cải bắp hôm qua chỉ còn lại vài cây nhỏ. Như mọi khi còn con Vàng, con chó đực mẹ tôi nuôi đã vài năm, đâu ăn trộm có thể tự tung tự tác như thế. Ðói đã lâu nhưng mẹ tôi vẫn cố nuôi con Vàng vì thương nó. Chẳng riêng mẹ mà cả chúng tôi đều thương con Vàng.

Mùa hè, tôi thường dẫn nó ra bến sông, lấy xà phòng tắm cho nó, nó để yên cho tắm. Xong tôi bơi ra giữa dòng nước và gọi nó, nó bơi ra. Khi tôi ném khúc gỗ dài hai gang tay sơn đỏ sang tuốt bờ sông bên kia là nó bơi sang ngoạm lấy đem về. Có khi tôi sải phía trước, nó lõm bõm bơi phía sau, dù xuôi hay ngược dòng. Một bữa trưa, mấy mẹ con ăn cơm, như thông lệ, tôi xúc một bát cơm trên mặt nồi, gọi nó cho nó ăn, sau đó tôi mới ngồi vào mâm. Nhưng gọi hoài không thấy nó xuất hiện, tôi ngó các gầm giường nơi nó hay nằm, không thấy, tôi ra vườn sau, ra vườn trước, chẳng tăm hơi.

Tôi ra đường xem nó có tha thẩn ngoài đó không, tôi gọi:”Vàng, Vàng”. Vẫn biệt dạng. Tôi linh cảm có sự không hay xẩy ra cho nó, liền cấp báo cho mẹ tôi và cả nhà. Mẹ và chúng tôi mỗi người một hướng, bổ đi tìm con Vàng, bỏ cả bữa cơm chưa ăn nhưng biệt vô âm tín. Hỏi mấy người cùng xóm họ nói sáng nay có một bọn đàn ông lạ từ đâu đền không biết, tay cầm thòng lọng, thứ để bắt chó, tay cầm những cái cũi bằng tre đan thật dầy để nhốt chó. Không biết có phải đám người này bắt chó của nhà tôi hay không ?

“Thôi, tội nghiệp,” mẹ tôi nói, “có lẽ con Vàng đã bị bắt rồi.”

Mẹ con tôi trở về mà lòng buồn vô hạn, gần  như vừa mất một người thân yêu trong gia đình.

Cũng vì mất con Vàng mà đàn gà cũng mất theo. Cũng trong thời kỳ tháng ba năm đói, đàn gà gần hai chục con mẹ tôi gầy từ một  con  gà trống và một con gà mái  mà ra.

Khi đói kém, mẹ tôi bảo chúng tôi, các con muốn ăn thịt con nào cứ bắt mà ăn, thóc để người ăn không đủ sao có thể nuôi gà. Thế là trong tuần đó, ngày nào anh tôi cũng vặt lông một con gà. Hình như kẻ trộm sợ chúng tôi ăn hết, một đêm, khoảng quá nửa đêm, mẹ tôi giật mình thức giắc vì tiếng gà kêu “quác quác “ ngoài chuồng. Mẹ tôi đoán ra ngay có kẻ ăn trộm gà, nhưng cũng như vụ trộm rau, mẹ bảo chúng tôi kệ cho chúng lấy. Ra nguy hiểm.

Dù  sao kẻ gian cũng sợ người ngay, nhất là kẻ gian toàn những người xóm ngõ, quen biết, gia chủ nhìn mặt được thì quá xấu hổ nên chúng chỉ bắt bốn, năm con, còn để lại dăm, bảy con. Mẹ tôi cũng đoán ra được ai là kẻ ăn trộm gà, bà bảo chúng tôi nếu bây giờ vào nhà họ là thấy lông gà ở trong bếp ngay.

THÁNG BA NĂM ĐÓI

(Tiếp theo)

 

Ðúng 60 năm trước đây, 3-1945 – 3-2005, nạn đói kinh hoàng năm Ất Dậu làm gần 2 triệu đồng bào miền Bắc và Bắc Trung việt tức tưởi ngã xuống như ngả rạ. Nhiều sử sách qui trách nhiệm làm chết gần 2 triệu người dân Bắc Việt cho Pháp thực dân và Nhật quân phiệt đã thu mua, tích trữ, thậm chí dùng thóc lúa đốt thành than chạy đầu máy xehỏa, cũng như bắt dân ta bỏ lúa trồng đay.

 Những điều đó đều đúng nhưng tác giả chuyện kí này thêm rằng, trách nhiệm còn thuộc về vua Bảo Ðại, lúc đó đang là hoàng đế Việt Nam, cai trị và đại diện người Việt Nam trước Pháp thực dân và quân phiệt Nhật.

 Hoàng đế Bảo Ðại không hề lên tiếng để ngăn chận âm mưu độc ác này của Pháp và Nhật cũng như tìm cách cứu đói khi hàng trăm cái kho chứa đầy gạo ở Hải phòng, Hà nội bị khóa kín, gạo thối rữa thành những đống phân...mà chính tác giả nhìn tận mắt. Cả sau trận đói, hoàng đế Bảo đại cũng không hề có một lời thương cảm thần dân bị chết oan của ông!

Tưởng cũng nên thêm chút tư liệu về đói để bạn đọc tường lãm. NguyệtSan Readers’ Digest trong năm 2003 có đăng:”Trên thế giới đã có 57 triệu người chết đói, trong có 10.5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi. Chỉ trong năm 2003, Nigeria (Châu Phi) mất mùa, nạn đói giết 150,000 trẻ em (không thấy nói người lớn). Cứ 1 phút, trên thế giới có 23 đứa trẻ chết vì đói và mỗi ngày, hàng trăm triệu trẻ em đi ngủ với bụng đói.

Nạn đói ở Bắc Việt năm 1945 là do hậu quả chính sách dã man của thực dân Pháp, lệnh bỏ lúa trồng đay của quân phiệt Nhật và chính phủ bù nhìn, vô trách nhiệm của vua Bảo Đại.  Xuân Vũ TRẦN ÐÌNH NGỌC

 

Kì V                          

9

Có một gia đình  mẹ góa con côi, mẹ tôi hết sức giúp đỡ  nhưng cũng không qua khỏi lưỡi hái thần Ðói.  Bác Nâu, tên ông chồng, xưa kia là chân sào đi bè cho ông nội tôi.

 Chuyến bè đó từ Việt trì về, nước lũ chảy xiết, bè dài cả cây số và nặng vậy mà nước cuốn đi băng băng, không nhanh mắt lái tránh các cù lao, các chỗ đường vòng là bè đập vào bờ hoặc tầu bè khác cũng đang đi trên sông, bè sẽ tan ra ngay và tan cả tầu bè của người ta.

Bác Nâu đang đứng trên bè nhìn dòng sông chảy xiết, chợt cái khăn trên đầu bác bị gió thổi bay, bác với tay ra chụp lấy nó nhưng mất đà, bác lao xuống sông. Với một tay đi sông nước nhiều năm như bác Nâu, chỉ sải mấy cái là lại ôm được bè trèo lên, rất dễ dàng. Nhưng không hiểu sao, bác Nâu không nổi lên mà bị nước cuốn đi mất tăm mất dạng. (Sau này người ta đoán có lẽ bác bị nước lạnh, vọp bẻ) 

Cả bè được báo động. Ba người xung phong nhảy xuống sông đi tìm bác Nâu, biết đâu bác tấp vào một cù lao hay bến bờ nào đó. Bè vẫn xuôi, như thông lệ khi có chuyện không may xẩy ra, ba người này sau khi tìm ra tung tích bác Nâu, sẽ dùng đường bộ đuổi theo bè và lên bè.  Nhưng hoàn toàn vô vọng. Những người làm nghề nói khúc sông đó có “rớp”, năm nào Hà bá cũng bắt đi ít nhất một người mới xong.

Ông bà nội tôi giúp bác Nâu gái một số tiền, lại hứa sẽ cho anh con cả đi bè thế bố nếu anh ta muốn. Khi ông bà nội tôi mất, chính mẹ tôi thường giúp đỡ gia đình này. Trận đói chụp xuống, bác Nâu vay vỏ, nhờ vả mẹ tôi đã nhiều nên ngại ngùng.

Một bữa bác mang tới nhà cho mẹ tôi giấy tờ nhà đất để cầm cố lấy tiền về nuôi con. Mẹ tôi nói:

“Chị đừng nghĩ vậy. Em có dư thóc gạo thì em giúp chị nuôi các cháu chứ cầm nhà, cầm đất của chị làm gì ? Gia dình em rồi đây cũng không biết có thóc gạo đủ cầm hơi đến mùa sang năm không. Nhà đất, ngay đến tiền bạc giờ này đều vô nghĩa hết chị à. Em còn nửa thúng thóc đây, chị đội về xay cho các cháu nấu cháo. Em dư dả em không tiếc chị đâu.”

Bác Nâu gái khóc với mẹ tôi:

“Mợ đã quá tốt với chị và các cháu. Mợ cũng giúp mọi người như xưa hai cụ Trùm (ý nói ông bà nội tôi) còn sống. Nhưng mợ ạ, ăn hết chỗ này rồi lấy gì ăn tiếp mà sống đây ? Mợ có lại nhà chị mợ thấy các cháu mợ mới rõ sự tình. Ðứa nào đứa ấy gầy như cái xương đay, hai mắt lỗ đáo. Mợ nhìn tôi là thấy.”

Nói xong bác lại ngồi khóc. Mẹ tôi phải yên ủi:

“Thôi chị ạ. Tai trời ách nước, mọi người đều chịu chẳng phải riêng ai. Người ta chết nhiều lắm rồi. Em nghe người ta kéo nhau lên các thành phố ăn xin đông lắm vì ở thành phố Chính phủ còn bán gạo bông mỗi tháng mỗi người cũng mua được mấy kí-lô. Hay chị và các cháu thử nghĩ xem con đường đó may có sống không?”

“Tiền chỉ còn chút đỉnh, mợ nghĩ 5 mẹ con tôi có lên được tới tỉnh không?”

“Chị ơi, em cũng rối ruột quá, chính gia đình em cũng không biết có ngày mai không. Nếu nhà em không tiếp tế từ Hải phòng về thì có lẽ mẹ con em cũng chết rồi.”

Vài ngày sau đó, bác Nâu cùng 5 đứa con theo một gia đình khác lên tỉnh Nam Định làm hành khất và mẹ tôi không còn gặp bác nữa. Sau vụ đói, có người ở tỉnh về kể chuyện cho mẹ tôi nghe là họ có gặp bác Nâu và hai đứa con, ba đứa đã chết, vài tuần sau bà ta trở lại khu đó hỏi thì người ta nói chị Nâu và hai đứa con còn lại cũng đã chết mấy ngày rồi.

 Với những biến cố khác, người ta bán nhà cửa, đồ đạc lấy tiền sống tạm. Năm đói Ất Dậu, nhà cửa, ruộng đất bán không ai mua. Khi cái bao tử trống rỗng, người ta chỉ nghĩ đến cáí gì có thể bỏ vào đó cho tạm yên sự đòi hỏi. Người đói có thể làm bất cứ hành động nào để giải quyết cho cái bức bách của bao tử kể cả giết người!

Trời rét cằn rét lụn. Những người sống sót vụ đói năm Ất Dậu đều đồng ý sao năm đó rét quá. Có lẽ lạnh một phần vì thân thể đã hết chất thịt, chất mỡ, những chất sinh ra năng lượng để chống lạnh. Cả thân thể chỉ còn da bọc xương nên càng cảm thấy lạnh. Đói và lạnh, hai cái hỗ trợ cho nhau, giết dần con người. Những người canh điền làm việc ruộng nương ở quê tôi - cũng như hầu hết những vùng nông thôn khác - khi no cơm ấm áo, các anh ấy khoẻ mạnh lắm. Nước da nâu dạn dày sương gió, các bắp thịt cuồn cuộn nở nang, nguyên cái bắp vế đã bự sự, gân guốc, cặp đùi to như hai con lợn nhỏ, hai cánh tay cũng to, khoẻ; ngực nở, vạm vỡ có thể vật ngửa một con bê, một con dê lớn hay một con nghé trộng trộng như chơi. Vậy mà bây giờ ? Cái đói đã làm tiêu hao hết, rút cạn kiệt hết. Hai cẳng chân và hai cánh tay như hai ống sậy - người miền Bắc gọi là hai cái xương đay - cần cổ cũng rút lại như cái xương đay thì sao mà sống được. Canh điền làm ruộng cho mẹ tôi, anh Rói, có bữa anh ăn một hơi mười bát cơm dễ dàng. Chẳng phải cơm không mà còn thêm một tô canh lớn, thêm cà mắm, dưa chua, tôm cá vv... Ăn nhiều như thế đến khi không có mà ăn là quị trước. Ðây cũng là những kinh nghiệm đau thương của những người tù cải tạo, nguyên là quân, cán, chính VNCH ở miền Nam, với Cộng Sản sau 30-4-75. To con lớn mã thường bụng to và ăn nhiều. Nay rút lại chỉ còn bằng một phần hai mươi khi trước, lại phải “lao động vinh quang đẵn tre, đẵn gỗ trên ngàn; hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai”; ốm đau không có viên thuốc aspirine, mạng vong là lẽ dĩ nhiên!

10

Xóm tôi, xóm cây Bàng, lấy tên từ hai cây bàng trồng hai bên bến đá mà một trong hai cây ấy, chính tay tôi trồng khi tôi ở tuổi thiếu niên. Nó lớn như thổi vì tôi mướn chú Ðiều trong xóm móc bùn sông lên bỏ cho nó.  Xóm cây Bàng trước trận đói có khoảng trên ba mươi nóc nhà. Có nhà anh em ở chung nên số gia đình khoảng trên bốn mươi. Vậy mà sau trận đói, số gia đình còn lại chỉ khoảng bảy, tám. Trong bảy, tám gia đình đó, chỉ khoảng năm gia đình là toàn vẹn. Ba gia đình kia đều có người chết đói.

Vườn tược không còn thứ rau gì có thể ăn mà bỏ sót. Những cây mồng tơi già chỉ còn trơ mấy cái gốc sần sùi vẫn được cắt về bếp luộc lên nhai. Những cụm rau sam đã hết sạch. Những cụm khoai môn, khoai ngứa, khoai ráy, những củ giong, củ chóc, ngay cả những củ nghệ, củ gừng, củ địa liền, nói tóm lại tất cả mọi thứ có thể nhai nuốt vào bụng được mà không độc, không chết, chỉ trừ lá tre vì chỉ trâu bò mới ăn lá tre, là được chiếu cố tận tình. Ngay như lá lưỡi rắn, chưa biết hay dở thế nào vẫn có người cắt đem luộc ăn, cho con ăn.

Trời cao đất dày ơi! Tôi biết phải tả làm sao để bạn đọc hình dung được, cảm nhận được, thấu hiểu được cái đói vắt ruột vắt gan kết liễu đời con người chỉ trong dăm, ba ngày mà là dăm ba ngày vô cùng đau khổ, thê thiết, tuyệt vọng?

Những ai đã phải nhịn đói lúc đi tầu vượt biển hoặc ở trong tù cải tạo biết được cái đói nó hung ác dã man thế nào! Nó quật người ta như quật một con ngoé. Nó dữ tợn đến nỗi một anh khổng lồ bình thường có thể nhấc bổng cả tạ gạo, lúc bắt nhịn đói mềm người thì yếu ớt như thằng bé mười tuổi. Anh khổng lồ chỉ khoẻ khi trong bụng no, khi cái bao tử đã được thoả mãn.

Lúc còn lúa gạo nghĩa là chưa quá đói, tức khoảng đầu năm 1944, có những người nấu cơm, nắm từng nắm bằng nắm tay đem ra chợ bán kiếm lời cho con ăn. Thúng cơm vừa đặt xuống, lập tức có cả vài chục người nhào tới cướp, bỏ vào miệng, nuốt vội nuốt vàng. Người đàn bà bán thúng cơm đành đứng nhìn cho chúng cướp sạch sành sanh, ngơ ngẩn ra về tay không.  Ngày mai, bà ta lại ra chợ với thúng cơm nắm như hôm nay nhưng có thêm hai người đàn ông cầm hai cây gậy tre đực già, đứng gác hai bên cho bà ta bán. Nhưng chỉ được mấy phút, cả vài, ba  chục con ma đói nhào vào cướp cơm. Những cây gậy phang xuống thân người không nương tay. Những cú đá, cú đạp quyết liệt để đuổi lũ ma đói. Nhưng những người đang đói không còn nhìn thấy gì ngoài những nắm cơm. Họ chịu đòn để cố cướp những nắm cơm thồn vào miệng, nuốt (không kịp nhai), nghẹn trợn trắng con mắt. Hai cây gậy liên tục giáng xuống người họ như mưa bấc nhưng họ vẫn xông vào vồ những nắm cơm. Năm, bảy người chết lăn ra cạnh đó vì trúng những đòn quá đau hoặc phải chỗ nhược. Thúng cơm chưa thu về được đồng bạc nào nhưng trước mặt những người bán là những xác chết, đôi mắt trợn trừng, miệng còn miếng cơm nhai dở lẫn với máu làm đỏ nhoè miếng cơm, có xác vẫn chưa hoàn toàn chết hẳn.

Chính mắt tôi cũng thấy người đàn bà nằm chết bên vệ đường, đứa con dăm, bảy tháng vẫn còn rúc vào vú mẹ, nút lấy chút sự sống. Và cảnh khác, xác người nằm chết bị chó đói, mèo, chuột đói làm thịt. Chúng nhai những mảnh da và cả những khúc xương. Cảnh địa ngục trần gian diễn ra khắp mọi nơi trên toàn lãnh thổ Bắc Việt vào đến Thanh Nghệ Tĩnh, con người ở vào đường cùng tìm mọi cách xâu xé nhau, cướp giật, trộm cắp để kiếm lấy cho mình một chút sự sống cho chính mình mà không là ai khác như người ta thường nói:”Cha bỏ con, anh bỏ em, đầy tớ bỏ thầy.” Có còn cảnh nào thảm hơn không?

11

Biết miền quê khó lòng chịu đựng nổi, thầy tôi cho người về tiếp tế cho mẹ tôi và đón hai anh em tôi ra Hải phòng.

Nào Hải phòng có hơn gì thôn quê. Và cả Hà Nội nữa. Mỗi buổi sáng, xe vệ sinh (xe hốt rác) của thành phố đi gom nhặt các xác chết nằm rải rác trên đường, trong công viên, nhà ga xe lửa, chợ, sân trường, sân nhà thờ, ngay cả trước các cánh cổng tư nhân vv... chất đống trên xe như đống rác đem ra ngoại ô đào lỗ, thẩy tử thi xuống, rắc vôi bột lên xong lấp lại.

Vì xung phong gia nhập “Đoàn Thanh Niên Cứu Đói”, hằng ngày đã có gặp, chúng tôi dễ làm quen với ông tài xế và hai người phu trên một cái xe hốt xác. Ðược hỏi, ông tài xế trả lời:

“Ngoài xe chúng tôi còn hai xe nữa cũng đi hốt xác cả ngày. Mỗi chuyến xe chở được từ 30-40 người, có khi hơn vì người nào người nấy chỉ còn bộ xương khô. Ngày đi đổ xuống hố dăm, sáu chuyến là thường.

Những hố chôn tập thể, có hố dăm, bảy trăm, có hố cả ngàn hoặc vài ngàn. Không thể nào đếm được. Thảm thương lắm các cậu ạ. Có người còn ngắc ngoải, chưa chết hẳn nhưng chúng tôi làm gì được đây? Phải là cơ quan y tế săn sóc cho ăn uống, thuốc men, họ mới sống được vì đã yếu quá rồi!”

Một người khác:

“Phải có công việc gì thì chúng tôi cũng bỏ cái nghề đi lượm xác này vì vừa làm vừa thấy thương lắm dù họ không phải ruột thịt bà con dòng họ, làng nước gì với mình nhưng là cái nghĩa đồng bào trong cơn hoạn nạn với nhau. Hồi đầu tôi không làm được vì cứ nhìn họ là chảy nước mắt. Qua cả tuần, người chết qua tay nhiều quá nó mới quen đi.”

Người phu này nói đúng. Các Thanh niên chúng tôi cũng không hơn gì ông ta. Ðến những khu người chết, người sống lẫn lộn, người nào trông cũng như con ma đói, chẳng còn một tí gì gọi là con người, chúng tôi mủi lòng nước mắt lã chã tuôn rơi. Nhưng rồi anh đội trưởng ra lệnh bắt tay vào việc phát cơm, chúng tôi vui vẻ làm phận sự vì đang mang đến niềm vui và sự sống cho họ.

Mỗi ngày một người chỉ được phát hai nắm cơm nhỏ, người lớn, trẻ con như nhau. Những đứa trẻ chưa biết nhai thì mẹ nó nhai cơm mớm cho nó chứ làm gì có sữa. Trưa phát một lần, khoảng 5 giờ chiều phát lần nữa vì nếu phát cả hai nắm buổi sáng, hầu hết ăn luôn cả hai, tối lại đói meo. Bịch muối để ở giữa nhà, ai cần thì tự động đến lấy cái muỗng để sẵn múc vào bàn tay. Chúng tôi cũng dặn họ đừng ăn mặn kẻo khát nước, uống nưóc nhiều vào, bụng đang yếu, nước chỉ là nước máy chưa đun sôi e sinh tiêu chảy. Cơ thể của họ trục trặc nặng nên rất dễ sinh ra đủ chứng thổ tả, tiêu chảy, kiết lị, những bệnh về đường ruột.

Cũng có thể vì chúng tôi cho họ ăn từ từ, đói đói mà hầu hết những người đó sống qua trận đói chứ không như ở vùng quê, không được chỉ dẫn, nhiều người đã chết no (xin đọc ở dưới).

Pháp nhìn thấy nạn đói, biết rõ dân Bắc Việt sẽ chết cả triệu nhưng Pháp nhẫn tâm làm ngơ không mở kho gạo ra bán hoặc phát cho dân nghèo thành phố mà chỉ nhỏ giọt để giúp cư dân thành phố - Pháp cai trị trực tiếp - khỏi chết đói, nghĩa là căn cứ vào Sổ Gia đình do Khu phố thiết lập, mỗi người mỗi tháng được mua 10-15kg gạo chẳng hạn (tôi đã quên con số chính xác). Người không có địa chỉ tức không có Sổ Gia đình không được mua. Từ sự hà tiện gạo đó, Ðoàn Thanh Niên Cứu Ðói cũng phải “thắt lưng buộc bụng” chỉ giúp những người đói qua được cơn ngặt nghèo mà thôi 

Như đã trình bày, hầu hết những người chết đói ở thành phố là  dân miền quê lên tỉnh xin ăn, mặc dù ở Hà nội, Hải phòng có những đoàn Thanh niên, Sinh viên Cứu đói đem cơm nắm đi phát nhưng không xuể vì người đói quá đông. Vả lại, đã quá đói lại thêm cái lạnh thấu xương, ngủ bờ ngủ bụi, dơ bẩn, mất vệ sinh tháng này qua tháng kia, người đã quá yếu, vi trùng xâm nhập dễ dàng và đột quị cũng dễ dàng. Cũng có những người nếu gặp được Ðoàn Cứu Đói sớm một đêm thì sống, để qua trưa hôm sau đoàn Cứu đói đến thì đã ngoẻo đầu ngồi chết cạnh bờ tường một ngôi chợ.

Tôi để ý và lấy làm lạ, hầu như 80% những người chết người nào cũng chỉ phong phanh một cái áo cánh, một cái quần. Họ không có lấy một cái áo ấm để chống lạnh làm sao chịu nổi với cái rét “chết cá dưới ao” của Bắc Việt? Người miền quê không có tiền sắm áo len, áo dạ mà chỉ áo bông, áo mền, áo đụp. Có thể đi dọc đường, họ đã đánh mất hoặc đổi lấy cơm ăn cho những kẻ còn cơm gạo trên các nẻo đường. Thường bụng đói bao giờ cũng lạnh hơn bụng no và người béo bao giờ chịu lạnh cũng khá hơn người gầy còm  mà tháng Ba đói năm Ất Dậu, ai đã sống qua cũng đều nói sao cái năm ấy nó  rét “tản thần” vậy!

Không nghĩ gì đến chuyện học - đồng bào chết lăn cả ra nhan nhản khắp góc phố ai có thể bình tâm ngồi học? Mà học để làm vua làm quan gì?

Tới Hải phòng ngày hôm trước, hôm sau hai anh em tôi xung ngay vào “Đoàn Thanh Niên Cứu Ðói” do thầy tôi khuyến khích mà thầy tôi cũng đang là một thành viên trong Ủy Ban Cứu đói của thành phố. Ủy Ban này thường chia từng Nhóm dăm người đi gõ cửa các nhà giầu, nhà hảo tâm xin gạo để cứu đói. Thầy tôi nói những bệnh nhân có máu mặt của thầy tôi đều được Ủy Ban, do sự hướng dẫn của thầy tôi, đến tận nhà xin giúp đỡ. Người ít kẻ nhiều, ai cũng muốn góp phần vào công cuộc cứu đói đang hết sức khẩn thiết. 

Hôm đến xin gia nhập, anh Trưởng đoàn Cứu Đói tên Tựu phát tạm cho mỗi người một bộ quần áo đồng phục, áo sơ-mi dài tay bằng vải kaki Nam định mầu vàng, dầy, có thêm cầu vai như quân đội, quần kaki xanh lá cây già, một cái mũ như mũ Hướng Ðạo mầu xanh già có quai rịt xuống cằm, một huy hiệu tròn đeo trên ngực có chữ “Thanh Niên Cứu Ðói” và cái nơ vàng hai giải dài khoảng gang tay đeo ở vai trái. Tuy nhiên, vì thời tiết quá lạnh, chúng tôi thường phải mặc thêm áo ấm bên ngoài.

Chi đoàn chúng tôi lấy tên Quang Trung, đoàn viên khoảng 42 thanh niên nam nữ, mỗi sáng đúng 8 giờ tập họp tại nhà anh Ðoàn trưởng ở phố Cầu Đất, điểm danh, ghi công đàng hoàng. Cơm đã được các nhà nhận thổi và nắm lại từng nắm bằng nắm tay nhỏ nhỏ to khoảng ba cái trứng gà. Cơm vừa nắm xong còn nóng hổi, chúng tôi nhận mỗi người 40-50 nắm chất đầy vào ba-lô xong lên đường.

Bốn mươi hai người chia ra làm 8 đội từ 1-8, mỗi đội được phát một miếng giấy ghi rõ lộ trình và chỉ được hoạt động trong các khu phố thuộc lộ trình đó mà thôi để tránh sự trùng hợp vì người đói quá nhiều mà cơm gạo chỉ có hạn. Khẩu hiệu của chúng tôi là:

Miếng khi đói bằng gói khi no”

Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

 Người trong một nước phải thương nhau cùng”

 

 Hoặc:”Bầu ơi thương lấy bí cùng,

 Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.

Ngày nào không đi phát cơm, chúng tôi đến những thương gia, những nhà giầu có quyên gạo, quyên tiền, để anh Trưởng Ðoàn điều động người đi đong gạo rồi giao cho những nhà lãnh nấu.

Chúng tôi luân phiên công tác, mỗi người đều được tham dự cả hai phần vụ nếu muốn và trong đoàn thì nam nữ làm việc chung, tinh thần yêu nước, yêu đồng bào rất cao. Tuy chúng tôi không giúp hết được những người đói nhưng chúng tôi cũng đã cứu sống được cả chục, cả trăm ngàn người. Sau này trên báo chí còn  đọc những lời đăng cám ơn rất cảm động. Nhiều người nói nếu không có Ðoàn Thanh Niên Cứu Ðói, số người chết còn nhiều nữa. Ở Hải Phòng lúc đó có khoảng 12 Đoàn như Đoàn Quang Trung của chúng tôi phân phối đi phát khắp hang cùng ngõ hẻm và cả ngoại ô.

Tôi không làm việc ở thành phố Nam định (tỉnh nhà) nên không biết đoàn Thanh Niên Cứu Ðói tỉnh này hữu hiệu đến đâu và cũng không biết những người làng, người tổng tôi có lên tới Nam Ðịnh mà xin ăn không.

Năm 1947, khi tôi trở lại làng mới biết được rất nhiều gia đình đã chết đói.

Dù sao, gần hai triệu đồng bào ruột thịt miền Bắc đã làm mồi cho thần Ðói bởi chính sách tàn ác của quân phiệt Nhật và thực dân Pháp. Chính những yếu tố này làm sục sôi thêm lòng căm thù ngoại bang khi cuộc Tổng khởi nghĩa 19-8 nổ ra như một quả bom dội vào đầu quân thù.

Ông Hồ chí Minh thành lập Chính Phủ Liên hiệp mà ông là Chủ tịch, ông Nguyễn hải Thần là Phó chủ tịch, Nhà Văn Nhất Linh Nguyễn tường Tam Bộ trưởng Ngoại giao, có cả ông Vũ hồng Khanh. Quốc hội khóa I, nếu tôi không lầm có cả Nhà văn Nguyễn mạnh Côn (tác giả Ba người lính nhảy dù lâm nạn, Mối tình mầu hoa đào...). Những Bộ, Sở quan trọng như Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin Tuyên truyền - những bức tường thành để củng cố chế độ -  Việt Minh nắm giữ cả. Tôi còn nhớ ông Trần huy Liệu, một đảng viên Cộng sản, lúc đó nắm giữ Bộ trưởng Thông tin Tuyên truyền. Mọi chính sách của Chính phủ, mọi công việc chung nhân dân phải thực hiện đều do các loa phát thanh ra rả tuyên truyền đêm ngày ở khắp mọi nơi.

Việc đầu tiên của Chính Phủ ông Hồ - hay do chính ông Hồ -  là tịch thu tất cả sách báo Pháp ngữ cũng như Việt ngữ xuất bản từ 1945 trở về trước đem đốt hết, nói rằng đó là tàn dư chế độ thực dân phong kiến bóc lột. Bao nhiêu công trình Văn hóa, nghiên cứu tâm huyết nhiều đời nay chịu thiêu rụi như đời Tần thỉ Hoàng với những thậm từ phỉ nhổ từ những kẻ chưa từng biết Văn hóa là gì. Nhà Văn Khái Hưng (Nửa chừng xuân, Hồ bướm mơ tiên...) bị bỏ vào bao bố thả trôi sông Ninh Cơ,  (nghe nói ở khoảng Lạc quần). Học giả Phạm Quỳnh bị giết; cha con ông Ngô đình Khôi, anh ông Ngô đình Diệm sau là Tổng Thống VNCH cũng bị giết. Nhiều nhà cách mạng thuộc VNQDĐ, Đại Việt v.v...bị giết hoặc phải trốn chui trốn nhủi. Xã trưởng, Ấp trưởng làm việc cho Quốc gia cũng bị thủ tiêu nếu trốn không khéo. Xả trưởng xã Trà Bắc ngay kế làng tôi cũng bị nửa đêm dẫn đi, hai viên đạn vào ngực với tấm bìa “Việt gian phản động” ghim trên ngực áo. Nạn đói mới xong thì lại đến nạn “huynh đệ tương tàn”. Ai cũng thấy, cũng kinh hoàng.

Chương trình Pháp ở các thành phố dĩ nhiên bị bỏ. Sách Giáo khoa trước đây toàn là sách Pháp, dùng để giảng dạy học sinh, sinh viên. Nay bỏ hết nên nếu còn nhà giáo nào theo đuổi và được chấp thuận cho dạy thì cũng lúng túng vì thiếu sách giáo khoa Việt ngữ. Nếu muốn chuyển ngữ cũng mất một thời gian dịch thuật, in ấn, phát hành mà cơ quan đảm trách việc này là Bộ Giáo dục thì không hữu hiệu để lo. Tiền, gạo nếu có, Chính phủ Việt Minh còn lo mua vũ khí, nuôi bộ đội để thực hiện những mưu đồ lớn lao theo tiêu chí Cộng sản quốc tế, đâu có dùng để in sách, mướn thầy dạy học cho dân? Phong trào bài Pháp còn đi đến chỗ cực đoan, tiếng Pháp bị coi là ngôn ngữ của đế quôc thực dân, ai có chút vốn liếng tiếng Pháp đã học khi xưa cũng phải giấu đi, quên đi, lờ đi nếu không muốn bị kỳ thị, bị khinh khi như phản động Việt gian hoặc nhẹ hơn, có đầu óc nô lệ ngoại bang. Người đàn bà ở làng tôi cắp rổ đi chợ bị du kích xã bắt, cùm chân, trói tay vì trong rổ bà ta mua có một ít rau xanh, mấy củ cải trắng và một quả gấc chín đỏ thẫm để theo thứ tự đó. Du kích bảo đó là cờ tam tài xanh trắng đỏ của Pháp, tên nữ Việt gian này làm dấu hiệu cho phi cơ Pháp đến đánh phá!

12

Lúc còn Pháp thuộc, thầy tôi hoạt động Cách mạng với các đồng chí của ông tích cực hơn, dễ dãi hơn là sau ngày 19-8-45, khi Việt Minh công khai xuất đầu lộ diện mặc dù lúc đó ông phải trốn tránh Mật Thám Pháp. Vì còn quá nhỏ, tôi thực không rõ thầy tôi ở trong đảng phái nào. Chỉ biết ông đã sang Tàu và Nhật hồi phong trào Đông Du rầm rộ. Mẹ tôi có lẽ biết ít nhiều nhưng sợ con trẻ lắp bắp làm hại thầy tôi nên chỉ ừ ào cho qua khi chúng tôi hỏi. Khi tôi đã trưởng thành, trên 20 tuổi và mẹ có thể tin tôi được thì lúc đó tôi ở Hà Nội, rồi theo đoàn người di cư vào Nam; còn mẹ tôi vẫn cứ phải gắn bó với ngôi nhà (vì thầy tôi là con trai duy nhất của ông bà nội), thửa vườn và vài mẫu ruộng tư lo cho các anh chị tôi còn ở thôn quê cũng như thực hiện lời phó thác của thầy tôi khi ông xa nhà là cố giữ gìn sản nghiệp ông bà tôi để lại cho. Ít năm sau, thầy tôi mất nên những gì về cuộc đời hoạt động bí mật kháng Pháp của ông cũng theo ông ra đi vĩnh viễn.

 Có một điều tôi biết chắc chắn vì ông có nói với tôi về ông Hồ chí Minh, ngày đầu tiên ông Hồ từ Hà Nội xuống Cảng, xuất hiện trước đồng bào Cảng sau ngày Tổng Khởi Nghĩa của toàn dân 19-8-45. Khi hai bố con tôi cùng rất đông cư dân thành phố Hải Phòng đi nghênh đón và đến Nhà Hát Lớn nghe ông Hồ nói chuyện, thầy tôi bảo tôi một câu mà tôi còn nhớ đời:

“Rồi con coi đi! Bây giờ hoan hô ông Hồ cho lắm sẽ có ngày chính đồng bào mình chửi ông ấy nhiều. Vả lại thầy coi “tướng” thì thấy ông ta là người gian hùng, quỉ quyệt, quá nhiều tham vọng. Có thể sau này ông ta sẽ bán nước nữa.”

Tôi nghe bố nói mà hoang mang vì trong lòng, tôi cũng kính yêu bác Hồ lắm. Không lẽ một nhà cách mạng được báo chí và mọi người ca tụng  là suốt đời hi sinh cho đại nghĩa dân tộc, chịu cực chịu khổ trong chiến khu, ăn mặc rất bình dân tầm thường (quần áo kaki vàng, hình như đội nón cối?) không bao giờ có vợ con vì nguyện suốt đời hi sinh cho dân tộc, đứng lên kêu gọi toàn dân đuổi Pháp giành Độc Lập, hứa hẹn mang lại Tự Do, No ấm và Hạnh Phúc cho toàn dân, lại có thể là con người như thầy tôi nói với tôi? Tôi vốn kính trọng thầy tôi, rất để ý những lời thầy nói nên dù lén thầy mẹ xung phong vào đoàn thể này, đoàn thể kia cho thỏa chí trai, nhưng vẫn để tâm xem xét sự việc. Chẳng bao lâu tôi đã tìm ra cái cốt lõi của cụ Hồ là đệ tam Cộng sản quốc tế (từ 2 cuốn sách tôi được tặng) và từ đó, lòng quí trọng cụ nơi tôi giảm dần khi tôi thấy dân tộc Việt Nam không thích hợp với chủ nghĩa Cộng sản vì còn rất đông đồng bào không theo đạo này thì theo đạo khác, nghĩa là hữu thần chứ không vô thần như ông Hồ và đảng của ông. Dân tộc Việt Nam cũng gắn bó với gia đình, thờ cha kính mẹ, tôn trọng lễ giáo tiết nghĩa mà người Cộng sản, theo cuốn sách họ phát cho tôi, bỏ hẳn gia đình, bỏ cả tổ quốc để chỉ còn thế giới đại đồng. Chính vì hai cuốn sách Mác-Lê được tặng, tôi đã bỏ giờ đọc và nhận ra rằng những lời thầy tôi nói về ông Hồ quá đúng và tự nghĩ, nếu tôi không sáng suốt thì những gì tôi sẽ hi sinh, đất nước sẽ chẳng được hưởng mà chỉ ông Hồ và đảng của ông được lợi. Ngày nay, khi đã lớn tuổi, đã kinh qua nhiều chế độ và rút được khá nhiều kinh nghiệm, tôi nghiệm ra rằng, tôi vẫn còn may mắn hơn nhiều triệu đồng bào của tôi, khi “bừng con mắt dậy thấy mình tay không!” lại còn đắc tội vời Tổ quốc, trong đó đau đớn nhất là những thành viên trong Mặt Trần Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam như Lâm văn Tết, Dương Quỳnh Hoa, Lê đức Thọ, Nguyễn bửu Kiếm(?), Trịnh đình Thảo... và cả những đồng viện của tôi ở Hạ Nghị viện Việt Nam Cộng Hòa như Phan Xuân Huy, Kiều mộng Thu, Hồ ngọc Cứ, Lý quý Chung, Nguyễn ngọc Nhuận, Vũ văn Mẫu (Giáo sư Đại học) Hồ văn Minh, Trần văn Tuyên và Nhóm Đối lập của ông, Nguyễn văn Binh và Nhóm Quốc Gia Hạ Viện, ông sư giả dạng Trí Quang và cả nhạc sĩ tài danh Trịnh công Sơn v.v... Tôi nghĩ không danh sách nào có thể liệt kê hết những người bị lừa.

Thế hệ chúng tôi đả bị lừa” bị lừa một cách đau đớn như lời nhà văn Dương Thu Hương nói khi bà ngồi khóc bên vệ đường Sàigòn ngày 30-4-1975 lúc quân đội người anh em Bắc Việt vào cưỡng chiếm Sàigòn, biến cả nước thành một trại tập trung khổng lồ đói khổ chưa từng có trong lịch sử Dân tộc Việt. Khi hỏi vì sao bà khóc, bà nói:”Tôi khóc vì cái ác thắng cái thiện, cái mọi rợ thắng cái văn minh!”

13

Lại nói lúc đó mẹ tôi đang buôn bán ở thôn quê để tìm sinh kế cho gia đình. Mẹ tôi mở một tiệm thuốc cao đan hoàn tán, dùng những bài thuốc của thầy tôi để chữa bệnh cho người lớn, trẻ em những bệnh thông thường như cảm mạo, đau bụng, tiêu chảy, nhức đầu, phong thấp hoặc thuốc bổ cho những người gầy yếu, kém ăn kém ngủ, thuốc ngâm rượu, cao ích mẫu v.v... Gian hàng ngay kế đình làng nhìn ra chợ.

Cách tiệm mẹ tôi dăm chục thước cũng có một tiệm cao đan hoàn tán khác, người chủ Tầu lai, tên là ông Trừng. Trước kia, ông Trừng làm nghề bán sơn ta và mấy thứ lặt vặt khác, ông ta chưa hề theo học Đông Y nhưng sưu tập được ít nhiều đơn thuốc của nhiều người cho bèn mở tiệm Đông Y chắc mẩm sẽ có đông khách. Nhưng vì dân hàng tổng biết rõ ông không có nghề thầy thuốc nên họ không đến mua thuốc, mua cao của ông mà chỉ đến tiệm của mẹ tôi.

Ông Trừng bèn thuê người phao lên rằng chỉ có thầy tôi mới biết thuốc men mà thầy tôi vắng nhà nên mẹ tôi bán những thứ thuốc không phải gia truyền, không công hiệu gì.  Dù thế, bệnh nhân đến tiệm mẹ tôi ngày một đông, thuốc hoàn tán làm không kịp cho khách đặt mua (lúc đó tán thuốc bắc bằng chày cối đá, rất chậm; sau này có thuyền tán, nhanh hơn nhiều). Nói xấu không xong, ông Trửng dùng cách khác. Một đêm ông cho ba người đàn ông đem búa, rìu, dao rừng đến phá căn tiệm của mẹ tôi. Căn tiệm này chỉ ban ngày mẹ và chị tôi ỏ đó bán hàng, tối khoá cửa về nhà ngủ vì nó không có tiện nghi để ngủ lại.

 Ba thủ hạ của ông Trửng phá cửa, xông vào đập phá những chai lọ đựng thuốc nát nghếu ra hết, sau đó rút lui. Không may cho họ, vừa ra khỏi thì ông Trương tuần Điển và tuần tráng ập tới, bắt cả ba trói lại điệu về trụ sở giam lại, hôm sau lý trưởng đến làm biên bản giải huyện. Ba người này khai họ được ông Ðông y sĩ Trửng mướn làm. Ông Trửng bị bắt giải lên huyện. Ngay sau khi tuần tráng bắt được ba hung thủ, có người quen đã dến báo cho mẹ tôi hay. Mẹ và hai chị lớn tôi ra đình coi ngay nhưng không vào trong căn tiệm vì để cho nhà chức trách lấy dấu tay. Mẹ tôi cũng bị đòi lên huyện để phỏng vấn. Cuối cùng Ðông y sĩ Trửng bị hai năm tù và hai mươi đồng tiền phạt. Lại phải đền các thứ hư hỏng cho mẹ tôi. Từ vụ đó, mẹ tôi dặn chúng tôi ai đối xử với mình ra sao tùy họ nhưng mình cứ điều tốt mà làm, ắt ông trời không phụ.  

Thời gian đó, thầy tôi vẫn đi biền biệt, lâu lâu mới có người về đưa tin để mẹ và chúng tôi yên lòng.

14

Trở lại với trận đói , sau khi gần hai triệu đồng bào Bắc Việt bị thần Ðói mang đi, mùa lúa năm đó lại thu hoạch khá, người nào sống sót không bị đói nữa.  Nhưng hết chết đói, đến bây giờ lại chết no.

Thực vậy, có nhiều người, vì đói quá lâu ngày, nay được ăn cơm, dù thức ăn đạm bạc, họ ăn không biết no. Tôi đã chứng kiến tận mắt một thanh niên cũng khoảng 17 hay 18 tuổi, đến nhà một người quen làm việc vặt trong nhà và ngoài vườn cho chủ nhà. Người chủ nói, bữa ăn dọn lên, anh ta ngồi ăn hết nguyên một nồi cơm lớn cộng thêm mấy bát canh mồng tơi nấu cua và cà ghém, tép kho.

 Ăn xong, mặt mũi anh ta tự nhiên đỏ ké, hai mắt trợn trừng, cái bụng phình chướng như người đàn bà sắp sinh, nằm vật vã ít phút rồi chết.  Khi tôi đến gặp người chủ nhà thì anh ta mới chết, còn đặt nằm ngay trên phản. Người ta giải thích, sở dĩ chết vì cái bao tử trống rỗng đã lâu, nay phải cho vào từ từ. Ðúng ra phải nấu cháo cho ăn vài bữa cho quen, sau đó ăn cơm ít ít một, sau vài ba ngày mới được ăn no. No đây là vừa đủ, ba bát chẳng hạn. Ðàng này nồi cơm cả mười mấy bát ăn vào một hơi, bao tử còn đang yếu, nó bị nứt ra, đâu có chịu nổi?

Nhờ mẹ tôi biết tần tiện “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn” và sự tiếp tế khéo léo và đều đặn từ thầy tôi như tiền bạc và gạo, gia đình tôi năm đói không mất một ai. Cũng phải thêm một điều, thường ngày chúng tôi không ăn nhiều nên khi thiếu thực phẩm, chúng tôi nhịn được. Những gia đình nông dân xưa nay quen ăn no, vác nặng, họ ăn gấp hai, gấp ba chúng tôi, nay bị đói, không chịu được, rất dễ mệt lả. Cũng có người vì đói quá lấy rau, lá, cỏ nhai bị thứ cỏ độc là vong mạng. Vỏ củ khoai mì rất độc, có những anh em tù nhân chính trị đi tù cải tâo chết vì vỏ khoai mì.

Anh em H.O kể chuyện dùng chảo gang lớn luộc khoai mì. Khoai chín, vớt ra. Ðội khác lại bỏ khoai mì vào luộc, dùng ngay nước đã luộc cho nhanh vì anh em đi làm về, ai cũng đói, cũng muốn ăn ngay. Mẻ khoai mì trước, chất độc thải từ vỏ ra ngấm vào mẻ khoai sau, anh em sống sót kể lại, sau khi ăn, buổi tối đó, 16 anh đau bụng, dữ dội, ói mửa rồi lăn đùng ra chết vì chất độc quá đậm. Bụng trống, chất độc hoành hành mạnh hơn. Thuốc tây, thuốc ta đều khuyên người bệnh nên ăn uống chút gì rồi hãy uống thuốc, bớt “say” thuốc hơn  là khi để bụng đói mà uống.

Thầy tôi đã rất dụng công khi chuyển gạo từ Nam định về làng cho mẹ tôi để nuôi chúng tôi. Mẹ tôi kể thầy tôi có vài người đồng chí đi kháng Pháp cùng nhau đã lâu. Hai bác này có gia đình buôn bán ở chợ Rồng thành phố Nam định. Như tôi đã trình bày, dân thành phố được tiếp tế đều đặn khi có sổ gia đình, nghĩa là đã cư ngụ sáu tháng trở lên ở một địa chỉ được khu, phố chứng nhận. Mỗi tháng mỗi đầu người trong gia đình được mua mươi lăm kí gạo, mấy gram muối đủ ăn trong một tháng. Cầm sổ gia đình đến những tiệm buôn gạo, nơi đã lãnh gạo của nhà nước, trả tiền là người ta phát gạo. Tuy vậy, những tiệm buôn gạo vẫn có dư gạo bán chợ đen cho người có tiền. Thầy tôi nhờ hai bác “đồng chí” mua giùm gạo, do thầy tôi đã gửi tiền bằng “mandat” về, lại mướn người mỗi lần đưa mươi lăm, vài chục kí, khéo léo ngụy trang dưới những bộ quần áo rách... đem về cho mẹ tôi. Những người này được trả công tử tế nên họ sẵn lòng đi. Vả lại, từ chợ Rồng Nam định về làng tôi chỉ chừng 30 cây số, vừa đi vừa về một ngày, người đàn bà đội 15-20 kí gạo trên đầu đối với họ rất nhẹ nhõm. Tới nơi, mẹ tôi lại đãi ăn uống và cho thêm chút tiền hay quà bánh mang về.

Lúc đó Việt Minh chưa xuất hiện, Pháp bị Nhật đảo chính ngày 9-3-45, hệ thống hành chánh xã thôn do Pháp thiết lập như rắn mất đầu không còn canh gác hữu hiệu như trước. Dân buôn bán tha hồ đi lại, không ai khám xét. Và vì vậy, mẹ, các anh chị và tôi mới thoát nạn đói.

Qua nạn đói, (khoảng mùa Thu năm 1945), khi thầy tôi sai tôi hướng dẫn mấy nông dân đi mua phân về bón lúa, tôi mới thấy rõ tâm địa ác độc của thực dân Pháp và quân phiệt Nhật.

Như tôi đã mô tả trong truyện ngắn:”Năm Mùi nhớ chuyện tiết canh dê” (2003), mấy nông dân nguyên là bệnh nhân của thầy tôi ở ngoại ô Hải phòng như Cầu Rào, Trại Cau, bên kia bến đò Bính v.v... muốn mua phân về bón ruộng. Tôi nghĩ thầy tôi đọc báo nên biết mà sai tôi dẫn mấy người này ra bến Sáu Kho Hải phòng chỉ cho họ mua. Nhờ có bảng chỉ dẫn bằng tiếng Pháp, tôi đưa ba người này vào những cái kho lớn (có lính Tây đứng gác) như cái siêu thị Mỹ ngày nay, trong đó những đống đen đen, xám xám cao tới nóc nhà do gạo để quá lâu ẩm mốc, thối rữa mà thành. Cũng có chỗ gạo còn nguyên hột dù đã đổi mầu. Mùi ẩm mốc xông lên nồng nặc. Pháp nghĩ sao không hiểu bèn bố cáo lên bán cho nông dân đem về bón lúa mà chúng nói rất tốt. Cả mấy chục cái kho lớn như thế tại Sáu Kho, kho nào cũng đầy ắp “phân”, thảo nào dân ta không chết đói? Nhìn những kho phân đó mà căm giận bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật đến xương tủy. Nông dân bảo nhau nên ngày hôm sau, một đám khác gần chục người tới; tôi lại dẫn họ đi mua.

Giả sử vua Bảo Ðại, lấy tư cách là Hoàng đế Việt Nam, đích thân can thiệp với Pháp và Nhật phải để ông mở kho phát gạo cho dân chúng thì có lẽ Pháp và Nhật không từ chối được vì là lí do chính đáng. Nếu chúng không ưng, ông chỉ doạ cho dân nổi loạn đến cướp là chúng sẽ co vòi. Nhưng ông không làm gì, ngay cả đi quan sát dân tình lúc dầu sôi lửa bỏng. Tôi chưa từng thấy một ông vua nào bù nhìn đến thế, một cái nhục lớn cho triều Nguyễn.

Nếu những kho gạo này được mở ra, thiếu gì cách để phân phối gạo một cách công bình. Thí dụ những người có tiền có thể mua theo Sổ gia đình. Dân nghèo quá thì phát không. Các tỉnh thị, các vùng nông thôn như phủ huyện, gạo đều được vận chuyển tới.

Với hàng trăm cái kho lớn như thế do sự thu mua, tồn trữ lâu ngày từ người Pháp (có lẽ để tiếp tế cho quân đội Nhật, theo lệnh Bộ chỉ huy Nhật nhưng ngay sau đó Nhật phải đầu hàng Đồng Minh, bị tước khí giới và đi làm tù binh nên số gạo này chưa kịp dùng), nếu được mở kho bán, phát, dân ta sao có thể chết đói được? Giả sử có thì cũng chỉ ở những nơi xa xôi khó vận chuyển và số người chết cũng chỉ sơ sài mà thôi, đâu có lên cả hai triệu người?

Vì chiến tranh lan tràn khắp nơi, tôi phải theo gia đình di tản đến những miền thôn quê bớt bom đạn nên không biết sau đó số phận những kho “phân” này ra sao vì nông dân không có tiền và không cần mua nhiều thứ “phân” này để bón ruộng. Tôi cũng để ý theo dõi nhưng không thấy báo chí nhắc đến những cái kho này mà ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình đều có, theo lời thầy tôi.

Xóm cây Bàng - nơi tôi ra đời - sau năm đói trông vắng tanh vắng ngắt như chùa bà Ðanh. Bộ mặt xóm cũng thảm não như vừa qua một trận bão lớn hay một trận hỏa tai, khác hẳn với trước kia thật đông vui, người đi kẻ lại, trẻ con chơi đùa trên sân điếm canh, dưới bóng mát cây bàng, trên con đường tráng xi-măng xuyên từ đầu xóm đến cuối xóm. Tiếng ru con êm đềm, truyền cảm của các bà mẹ quê. Tiếng xay thóc ù ù, giã gạo bịch bịch. Tiếng sáo diều vi vu trên không những đêm hè, tiếng hò hát của trai gái đối đáp và tiếng lạch bạch bì bõm những mái chèo khua tan ánh trăng thu trên con sông phía trước. Còn ngày Tết? Tiếng thớt băm rổn rảng, người gọi nhau ơi ới đi đánh đụng lợn, đi gói bánh, luộc bánh chưng đi lễ Phật, đi nhà thờ v.v...

Những hình ảnh, âm thanh thân thương, tha thiết đó nay đã chìm vào dĩ vãng và chẳng biết bao lâu nữa mới trở lại được như xưa. Những thằng bạn cùng trang lứa với tôi cũng biến mất, Có lẽ chúng đã chết đói mà nếu còn sống thì đang tha phương cầu thực ở một phương trời lạ hoắc lạ huơ nào!

15

Tôi không được gặp anh chị Thường và các cháu trước khi đi Hải phòng vì đi quá vội và đi như đi trốn nên từ ngày đó tôi không hiểu tình trạng gia đình anh chị ấy ra sao.

Tôi nhớ lần cuối cùng tôi đến nhà anh chị Thường chơi là vào mùa hè năm 1944.

Bữa đó mẹ tôi thổi cơm nếp đậu xanh và làm bánh trôi nước. Ðám con anh chị Thường hiện ra trong trí mẹ tôi - bà vẫn có tật như vậy - nên mẹ tôi xúc nhiều gạo và đậu lên, còn một ít bột nếp cho cả vào cái thố trộn nước và ngào. Hôm ấy mẹ tôi không còn đường thẻ để làm bánh mà chỉ còn một ít mật mía để trong vại đã khá lâu. Mẹ và hai chị tôi, người lo nồi cơm nếp, người làm bánh.

Cũng chẳng phải sang gì trong khi ngàn vạn người đói nhưng cái năm đói đó lạ lắm. Ăn lúc nào cũng được, ăn xong một lát lại thấy đói bởi mỗi bữa đâu có được ăn no. Không thịt, không tôm cá, chỉ rau, dưa, cà mắm lại càng tiêu hóa dễ. Chẳng phải gia đình tôi mà nhà nào cũng vậy, bới móc trong kẹt trong tủ, trong góc buồng, góc chạn có cái gì ăn được là lôi ra. Thành thử có nhiều gia đình, khi mọi người đã chết hết nếu có ai vào mà bới, mà tìm khắp không còn một hột gạo, một mẩu khoai. Những thứ gì nuôi sống được con người đã vào bụng hết để cuối cùng chỉ còn cây cỏ, đất cát, tre gỗ, gạch ngói...xung quanh, những thứ không nhai được. Còn nồi niêu thì vứt lung tung vì không dùng đến đã lâu, coi như những đồ vô dụng. Ngay mâm đồng, nồi đồng, xanh đồng trước kia quí giá là thế bâygiờ vứt đó chẳng ai ngó ngàng bởi nó không đổi ra cơm gạo được. Những nhà giầu có dư thóc lúa không muốn mua vì họ cũng sợ còn đói lâu, thóc gạo của họ đem đổi lấy đồ đồng, đất cát, nhà cửa v.v... rốt cuộc ngồi mà nhìn đống vật không nhai được đó, chết đói. Ðó là trường hợp vài gia đình ở hai làng Xuân bảng và Kiên Lao. Tôi sẽ kể truyện này ở một chương dưới.

Ở trên đã nói nồi niêu trở thành vô dụng. Quả là chúng vô dụng thật vì gạo thóc, cá mú, rau dưa không có thì nồi xoong dùng vào việc gì? Cũng ví như có thuyền mà không có sông hồ, có kim mà không có chỉ, có cần câu mà không có cá bơi lội dưới sông, hồ.

Mẹ tôi lục trong góc buồng ra được mấy bơ đậu xanh (bơ bằng cái cóng sữa bò). Gạo nếp cũng còn mấy bơ. Ðường hết nhưng còn vài bát mật (mía). Tôi còn nhớ bữa đó mẹ tôi bảo tôi ra bể nước mưa múc nước vào cho bà ngào bột, nấu đậu xanh. Bà bảo hai chị tôi nấu cơm nếp thay vì thổi xôi vì muốn thổi xôi, phải ngâm gạo và đậu một đêm. Không ai dám bày vẽ ra lúc này. No ấm, vui vẻ, sung sướng gì mà bày vẽ. Cốt sao ăn cho chắc cái bụng, sống qua ngày là được.

Lúc làm xong, trước khi gia đình ăn, mẹ bảo tôi:

“Mấy đứa con anh chị Thường tuần trước mẹ gặp, chúng gầy quá. Bỏ lúa trồng đay cái kiểu này chết đói cả làng, cả huyện, cả tỉnh đến nơi. Gia đình mình không có thầy tiếp tế về thì cũng đói nhăn ra rồi. Con mang thố cơm nếp và ít bánh trôi lại cho các cháu nhé!”

Rồi bà chép miệng:” Tội nghiệp ông bà Thung và vợ chồng Thường rõ hiền lành tử tế, chịu lam chịu làm. Mấy đứa con ngoan ngoãn, dễ bảo, nhất là cái con Yêu, con gái lớn, một tay nó hết. Nó đã xinh gái mà lại tốt nết, chỉ tội làm cho bố mẹ cực quá, gầy người đi. Thằng con trai nào sau lấy được nó cũng được nhờ. Nọ nay mẹ thấy mặt nó xõm đi vì thiếu ăn. Ông Trời làm cơ cực đến thế này!”

Chị Hai tiếp lời mẹ:

“Mẹ nghĩ nhà ta còn gì giúp anh chị ấy không?”

Mẹ tôi bùi ngùi:

“Cách dây hai tháng, chị ấy đến vay thóc. Mẹ dẫn chị ấy vào trong buồng cho chị ấy coi. Nào có còn bao nhiêu. Sau đó mẹ cho chị ấy chứ không phải cho vay hẳn một gánh. Anh ấy đem quang thúng đến gánh về. Chị ấy khóc, nói mợ đâu có còn bao nhiêu mà mợ cho con? Mợ cho con rồi lấy gì cho các em ăn cho đến lúc có lúa mới? Mẹ không dám nói đã có cậu gửi từ từ về sợ chị ấy trống miệng nói lung tung ra. Mẹ chỉ bảo:” Dù sao mợ xoay xở cũng dễ hơn con, cứ đem về xay cho các cháu  ăn!” Chị ấy vẫn khóc,  nói:

“Mợ ơi, gánh thóc này gia đình con có ăn cháo qua ngày thì cũng chỉ được tháng rưỡi, hai tháng. Sau đó lấy gì cầm hơi hả mợ? Nhà con còn chút tiền bán đay nhưng không có ai bán gạo, thóc cho mà mua. Làm thế nào hả mợ?”

Mẹ phải an ủi chị ấy:

“Trời đày đọa cả bàn dân thiên hạ chứ có phải riêng một gia đình nào. Ðành cứ phải đến đâu hay đó, con ạ! Thôi về bảo anh ấy đến mợ xúc thóc cho.”

“Ðể lặn mặt trời anh Thường mới đến mợ kẻo gánh thóc ban ngày nhiều người nhòm ngó, họ lại nghĩ mình có nhiều, họ đến vay vỏ. Khó lắm mợ ạ.”

Mẹ tôi nghĩ ra:

“Phải đó. Thôi để mợ bảo Hai xúc sẵn vào thúng để đó. Anh ấy đến là cứ việc gánh về nhà

Thuyền Nhân VN, quảng đời trong các trại tị nạn

Hầu hết những ai đã từng là thuyền nhân, từng trải qua những ngày đối diện với bao hiểm nguy trên đại dương mênh mông và được sống sót đặt chân vào trại tị nạn, để chờ ngày định cư ở nước thứ ba, thì không thể nào quên được những ngày tháng cũ.

Tình cảnh người tị nạn đang xếp hàng chờ cơm ở Hồng Kông, chụp năm 1989, là một trong những trưng bày ở Vancouver, Canada.

Phải nói đó là một kỷ niệm gắn chặt vào tâm hồn của họ cho dù đối với mỗi người có thời gian ở khác nhau. Có người chỉ vài tháng, có người kéo dài cả chục năm trời… Nhưng, tựu trung khi nhắc lại, thì ai cũng đều mang tâm trạng bùi ngùi và xúc động.

Cuộc sống ở trong các trại tị nạn ra sao mà đã để lại trong lòng thuyền nhân dấu ấn sâu xa đến như thế?

Vào những năm 1979 – 1980, khi làn sóng người vượt biên dâng cao, ở miền Nam lúc bấy giờ có câu nói truyền miệng: “Vượt Biên: một làm mồi cho cá, hai là má nuôi, ba là nuôi má”.

Với những người đã may mắn sống sót, trải qua bao hiểm nguy và được các tàu vớt đưa về các trại tị nạn thì đây là thời gian an bình nhất vì chỉ còn chờ ngày được các phái đoàn của các nước đến phỏng vấn tiếp nhận cho tái định cư.

Anh Lưu Thành, một cựu thuyền nhân ở trại Pulo Bidong, Malaysia, hiện đang cư ngụ ở California cho hay:

“Tôi đến trại Bidong thì thấy thư thái lắm, vì thoát được Việt Nam rồi. Tuy là thiếu thốn, nhưng là vùng đất tự do, tâm hồn thoải mái vì có niềm hy vọng là mình sẽ định cư ở đệ tam quốc gia để lập lại cuộc đời mới.”

Nhưng, đến khi có chính sách thanh lọc do Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đề ra để nhằm ngăn chặn làn sóng người Việt bỏ nước ra đi, thì đời sống thuyền nhân vô cùng cực khổ.

Ngoài việc chấm dứt sự hỗ trợ về giáo dục, y tế, Cao Ủy LHQ cũng cắt giảm lương thực. Bên cạnh đó, tỉ lệ được công nhận là người tị nạn cũng chỉ có 1%. Vì thế, bắt đầu biểu tình rải rác ở các trại tị nạn.

Thượng tọa Thích Tâm Hòa, hiện trụ trì chùa Pháp Vân ở Toronto, Canada, từng là thuyền nhân ở trại Palavaan, Philippines kể lại:

“Vào thời điểm tôi đến thì có vẻ thoải mái một chút, nhưng sau thời gian thanh lọc thì khó khăn hơn. Trước đây, người dân tị nạn ở Palawan cũng được đi mua sắm này nọ, nhưng kể từ ngày thanh lọc thì kỷ luật gắt gao.

Ngay đêm tôi nghe được Cao Ủy công bố chương trình hồi hương thì lúc bấy giờ tôi đã kêu goị các hội đoàn cựu quân nhân, tổ chức biểu tình và có 18 tăng ni tại Chuà tuyệt thực một tuần lễ.

Tôi chứng kiến cảnh người tị nạn bị phái đoàn từ chối họ rất khổ. Cũng may, nơi đó còn có nhà thờ, chùa, thánh thất nên giúp cho họ phần nào vượt qua khó khăn, khủng hoảng về tinh thần.

Trại tị nạn Palawan tương đối đầy đủ hơn các trại khác, chỉ khó khăn về nước thôi. Người dân phải sắp hàng lãnh nước. Mỗi gia đình họ được 2 can nước là 40 lít, rất khó khăn về nước. Về thực phẩm thì tương đối đầy đủ.”

Bắt đầu từ giữa năm 1995 trở đi, càng ngày, chính sách cưỡng bức hồi hương ở các trại càng thêm gay gắt. Lúc này, người tị nạn phải đối diện với một tương lai vô định, sống trong sự mỏi mòn, trong sự hồi hộp, sợ hãi, không biết ngày mai sẽ ra sao…

Đến bao giờ thì tới lượt mình bị đẩy lên máy bay hay lôi xuống tàu chở về Việt Nam? Hàng lọat các cuộc biểu tình bất bạo động để chống cưỡng bức hồi hương xảy ra trong khắp các trại tị nạn Đông Nam Á.

Lúc này, phải chăng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đã quá mệt mỏi với thuyền nhân Việt Nam nên cho dù có người mổ bụng, tuyệt thực, tự thiêu, treo cổ, tìm cái chết vì quá tuyệt vọng sau khi bị từ chối không được công nhận quyền tị nạn, thì họ vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.

Thậm chí, còn cho phép chính quyền bản xứ dùng vũ lực để đàn áp, dẹp biểu tình, đánh đập những thuyền nhân Việt Nam vô tội chỉ có bộ đồ dính trên người.

Ngay cả đất nước Philippines, vẫn được xem là quốc gia tử tế nhất cũng áp dụng chính sách cưỡng bức hồi hương. Từ Richmond, bang Virginia, Ni Sư Thích Nữ Diệu Thảo kể lại:

“Đời sống thì rất cực khổ, vì lương thực không đầy đủ. Một ngày thì một người được một lon gaọ, hai người một cái trứng, ngày nào được thịt thì 3 người được một lạng thịt và một chút rau.

Thời gian đó thì thuyền nhân rất lo sợ, luôn luôn biểu tình để tranh đấu, vì sự thanh lọc rất bất công, ai có tiền thì được đi định cư. Lúc đó thuyền nhân chiếm văn phòng cao uỷ và biểu tình, lúc nào cũng bị lính Phi canh gác và họ luôn tìm cách để giải tán. Sau một thời gian dài thì Cao Ủy cho lính vào giải tán.

Mặc dù Phi là một nước Công Giáo nhưng cũng cưỡng bức, tôi là một tu sĩ mà cũng bị bắt tại Chùa, và đưa qua trại Westcome, bị nhốt chung với một số thuyền nhân. Sau đó, nhờ sự vận động của một số hội đoàn ở hải ngoại, can thiệp nên tôi được thả ra.”

Ở Indonesia, trại Galang, cuộc biểu tình kéo dài hàng mấy tháng trời. Trong những ngày ấy, cả ngàn người tuyệt thực, hàng trăm người mổ bụng tự sát. Đó là chưa kể phải tìm cách trốn chạy lính Indonesia vào cưỡng bức hồi hương. Từ San Jose, California, anh Phi Hổ kể lại:

“Mình chống cưỡng bức hồi hương, thì đào hầm trốn trong nhà, có một số người chui vào các thùng phuy, có số người leo lên “la phông” nhà, nhưng sau thì họ phát hiện được hết. Lính mang giầy “bốt đờ sô” lấy xà beng, dọng dưới đất, rồi họ dở miếng “simili” lên, nắm đầu mình kéo lên. Nó đánh dữ lắm….

Khủng hoảng lắm. Càng trở về sau càng khắc nghiệt, nó “gô” mình lại, kẽm gai quây lại, khẩu phần ăn cắt bớt hết. Thời điểm biểu tình người ta tự thiêu hai người, tự sát mấy trăm người, còn tuyệt thực thì cả mấy ngàn người lận.”

Còn ông Trương Văn Nhu, cũng ở San Jose, California cho hay:

“Mình đi sau ngày đóng cửa, họ muốn cưỡng bức mình về VN nên họ o ép giữ lắm. Cao Uỷ cũng cắt giảm gạo, mì gói. Mình phải tự lập trồng rau để ăn thêm. Họ làm căng lắm để ép buộc mình trở về.

Biểu tình 6 tháng trời, rất nhiều người mổ bụng tự sát, đặc biệt có hai người, anh Châu, và anh Thọ là tự thiêu, chết, và quan tài để tại hiện trường 6 tháng, canh gác chung quanh, ngồi suốt 6 tháng cạnh hai quan tài đó, ngồi biểu tình ngoài trời, họ làm kỹ thuật hay lắm, làm một ống đào sâu xuống dưới đất, chôn sâu, để rỏ nước xuống, không cho thoát hơi ra.

Rồi họ giải tán cuộc biểu tình đó, họ thả lựu đạn cay, cướp luôn hai xác đó. Họ đánh đập mình, bắt 219 người thành phần lãnh đạo, trong số đó có 76 cựu quân nhân và 43 người đàn bà trẻ em, nhốt 22 tháng tại nhà tù Tamahan, đảo Tandung, họ biệt giam, gắt lắm.”

Có thể nói, vào thời điểm quốc tế đã mỏi mệt, Cao Ủy Tị Nạn LHQ đã nhắm mắt làm ngơ là những ngày tháng đau thương nhất, khốn khổ nhất của thân phận thuyền nhân Việt Nam.

Sau khi đã liều chết trên biển cả, thì lại bị giam hãm trong một nhà tù khác và cho dù chính biết bao người đem cái chết để làm chứng cho hai chữ “tự do” vẫn không làm lay thay đổi chính sách cưỡng bức hồi hương.

May mắn thay, khi bị trả về Việt Nam, một số được định cư theo chương trình ROVR hay còn gọi là Chương Trình Tái Định Cư Cho Người Hồi Hương và mãi đến năm 1999, 2000 thì họ mới thực sự được đặt chân đến Hoa Kỳ, một đất nứơc tự do và dân chủ, như họ hằng mong ước. Anh Trương Văn Nhu nói:

“Làm sao quên nổi, một thời gian tôi qua đây bị khủng hoảng luôn, vì ở đảo 6 năm, ăn uống thiếu thốn, rồi bị đưa về Việt Nam, cưỡng bức về, một thuyền nhân thì có 5 người police, khiêng xuống tàu và chở 1 tuần lễ thì về đến Việt Nam. Về Việt Nam thì bị làm khó dễ vì họ nói là cứng đầu, không chịu hồi hương. Về địa phương thì cứ bị làm khó dễ, biết tiếng Anh, xin dậy học không cho…



Thank you




//


Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: