Vòng trường sinh - Ngũ hành luận trong tử vi
Phái Đông A cũng lắm chi, lắm phái ... Riêng vụ Vòng Trường Sinh bay và vòng Trường sinh cố định phải hiểu khác nhau.
Ví dụ trường phái Phúc Tông:
Vòng Tràng Sinh là một vòng khép kín và tuần hoàn, đến Tuyệt tưởng là đã kết thúc nhưng vẫn còn đến Thai và Dưỡng, có nghĩa là tiếp tục thế luân hồi. Chính vì vậy có nhiều ý kiến cho rằng vòng này nên bắt đầu từ Thai.
Vòng Tràng sinh cố định được an theo Cục, và chỉ an Tràng sinh ở Dần Thân Tỵ Hợi theo Hỏa cục, Thủy và Thổ cục, Kim cục, Mộc cục.
Nhưng Vòng Tràng sinh phi tinh - Tràng sinh bay hay còn gọi là Tràng sinh lưu được an theo các cung lục hình.
Tràng sinh bay được xác định theo các cung lục hình với cung đại hạn hay tiểu vận : Dần hình Tỵ , Mão hình Thìn , Tí hình Mùi , Hợi hình Thân , Dậu hình Tuất , Sửu hình Ngọ và ngược lại. Ví dụ : đại hạn ở cung Mùi thì Tràng sinh lưu an ở Tí. sau đó an lần lượt tiếp theo mỗi cung một sao của vòng này theo luật Dương Nam , Âm Nữ thì đi thuận còn Âm Nam , Dương Nữ thì đi nghịch.
Cung có Lâm quan lưu là cung Lộc vị. Cung có Tuyệt lưu (đối diện) là cung Bại địa.
Vòng Tràng sinh phi tinh dùng cho cả đại vận và tiểu hạn.
Do cục là hành của môi trường đối với các sao nên việc kết hợp hành của Cục với hành của các sao sẽ cho ta biết khi một sao nào đó gặp sao của vòng Tràng sinh bay sẽ làm tăng hay giảm độ số của han. Còn hành của các sao cố định, sao của vòng Tràng sinh bay so với hành của cung các sao ấy đóng đấy lại định thêm một bậc tăng hay giảm nữa khi đoán định về độ số của hạn ấy.
Cổ nhân đã từng nói xem tử vi là xem phi tinh mà , chứ chỉ dựa trên các sao cố định để độ số thì có nghĩa là chúng ta mới chỉ dừng lại ở cấp độ Tử Vi Vui mà thôi.
Vòng Trường Sinh này theo chính thống Tử Vi thì không phải là SAO như Tả Phù, Hữu Bật,... mà nó là 12 quá trình miêu tả sự sinh ra thịnh suy bĩ thái của NGŨ HÀNH. Nó là MÃ HOÁ cho HÀNH Bản Mệnh và CỤC của Đương số.
Ví dụ: Mùa xuân, cây cối tốt tươi, xanh um cho nên Mộc Vương, Mùa hạ Hoả Vượng... nếu Mệnh Hoả , cục Mệnh bình hoà tương sinh , cung Mệnh an tại phương Đông hay Nam thì được vị trí Sinh Vượng... cái này nó hoàn toàn tương tự như trong BÁT TỰ HÀ LẠC về sinh đúng thời, đúng tiết thì có Hoá Công và Thiên Địa Nguyên Khí...
Cho nên việc khởi vòng Tràng Sinh bay theo thế lục hại với Địa Chi so với việc khởi vòng Tràng Sinh truyền thống có thể thấy hai vòng này khác hẳn nhau về bản chất
P/s: LH Tôi không phải là học trò của Phái Đông A nói chung và phái Phúc Tông nói riêng. Cũng như hiểu biết bản thân về vụ Vòng Trường sinh bay còn rất hạn chế....Những điều vừa viết ở trên, chỉ là góp nhặt cát đá trong lúc trà dư tửu hậu với những môn đồ của các phái trên và chưa từng kiểm chứng.
(Tác giả: Liên Hương)
---------------------------------------------------------
Giữa trời và đất có người dẫn. Con người thai nghén từ trời sinh ra ở đất và sau này sẽ trở về trời. Giữa Tuế và Lộc có tứ hoá kết nối. Tứ hoá sinh ra từ can mà reo giắc xuống chi, cuối cùng lại hội về can. Cho nên tứ hoá là Nhân. Đi hết một vòng gọi là tiểu chu thiên. Đi hết mười vòng gọi là đại chu thiên.
Trường Sinh cũng là Nhân. Trường Sinh dẫn khí từ tinh hoá chuyển thành thần. Dẫn từ Lộc Tồn bên trong ra đến biểu hiện là Thái Tuế. Không có Sinh thì Tuế Lộc không thể gặp. Không thể gặp thì thiên địa không thể hội nên việc không thành. Thiếu con người, đất này đầy hoang cỏ, đất này sẽ đối xử với trời vô tình. Thiếu Nhân, có kẻ tung người hứng nhưng không có đồ để tung hứng.
Cho nên Phúc Tông men theo cái gọi là Trường Sinh Bay để bắt mạch. Đài Cảng men theo tứ hoá để dẫn động. Vì thiên địa họ đều biết rồi. Thiên là thế, đứng gọi địa. Địa là thế, đứng ngóng thiên. Nhờ con đò Nhân nối bến mà thành Duyên thiên địa. Mệnh là thiên, Thân là địa, Vận là nhân. Bạn hỏi vì sao tý thiên sửu địa dần nhân tức thiên địa nhân mà tôi nói là thiên nhân địa ? Bởi vì bạn hiểu một chưa hiểu hai, hiểu thuận chưa hiểu nghịch. Chiều nghịch địa bàn chính là chiều thiên nhân địa. Đạo tự nhiên đi thuận. Đạo người phải đi nghịch vòng Lạc Thư để gặp đạo tự nhiên. Cho nên dụng pháp phải là thiên nhân địa. Khi trời mất, con người mất quê hương mất lý tưởng mất niềm tin. Khi đất mất, con người mất chỗ đến mất ý chí mất mục đích. Khi người mất, con người mất con đường mất lòng nhân mà vô tình và bạc bẽo. Vì Tuế Phá đã không có Danh nên cần Lộc Tồn để có thực, mới chống nổi phe Thái Tuế. Sách gọi là Lộc Mã giao trì.
---------------------------------------------------------
Ghi chép thêm từ diễn đàn Vietlyso:
VÒNG TRÀNG SINH BAY
Ý nghĩa của các sao trong cung Lộc vị và Bại địa ảnh hưởng như thế nào(mức độ ra sao nếu xét về hành của cục, hành của sao và hành của cung) với tiểu hạn năm ạ. Tràng sinh bay của đại vận 34-43 của em về cung Tý, có Đồng, Âm, Khoa, Kỵ thì có thể phán quyết thế nào về tính chất của cung Nô trong đại vận này ạ. Em còn mù mờ nhiều về Vòng tràng sinh bay, nếu bác nào có kinh nghiệm, xin chỉ giáo giúp em với.
Vâng ạ, em có được học một chút về môn tử vi, trong đó có một phần mà em thấy là rất quan trọng là phi tinh. Ngoài các sao lưu được xác định theo tiểu hạn năm thì quan trọng hơn hết là vòng Tràng sinh bay. Vòng tràng sinh bay được coi như là hình ảnh thu gọn của vòng Thái tuế và vòng Lộc tồn để xét toàn bộ vận hạn. Chính vì thế xem tử vi quan trọng nhất là phải xem được sinh khắc chế hóa của vòng Tràng sinh bay tại đại vận và tiểu vận, qua đó mới có thể xác tín về tính chất, mức độ, nguyên nhân của hạn tại tiểu hạn năm hay đại vận đươc. Tràng sinh bay được xác định theo cung đại hạn, tiếp đó an toàn bộ của các sao của vòng Tràng sinh bay Tại cung có Lâm quan bay là cung Lục vị, cung có Tuyệt bay là cung Bại địa. Ví dụ lá số tử vi của em Mệnh có Cơ Lương ở Thìn, Kim tứ cục nên đại vận 34-43 về cung Mùi vô chính diệu. Tràng sinh bay sẽ ở Tý có Đồng Âm, cung Lộc vị là Mão có Thiên tướng hãm, cung Bại địa là cung Dậu có Liêm Phá hạm
Trong tất cả các sách về tử vi mà em đã xem rất ít nói về vòng Tràng sinh bay mà theo em, đây chính là tuyệt kỹ của Tử vi. Bác nào có thông tin gì về nội dung này xin cùng chia sẻ với nhẹ Em cảm ơn nhiều
Em đã theo học dòng Phúc Tông của môn Tử Vi tại Việt Nam khoảng 3 năm nay, và em chắc là mình phải học tiếp 30 năm nữa để nắm bắt được hết kiến thức của dòng này. Dòng Phúc Tông là dòng chính thống của nhà Trần - Đông A. 3 điểm quan trọng nhất của tử vi dòng Phúc Tông là: trục, vòng Tràng sinh bay và đỉnh cao nhất, thủ pháp tột đỉnh của Tử Vi Phúc Tông là Treo sao. Treo sao là trong toàn bộ lá số phải tìm ra được nhiều nhất là 3 sao chủ đạo đại diện cho mệnh số của đương sự. Bên cạnh sao "chủ thể" - sao chốt - được treo còn có thêm 2 sao nữa: là một sao huyệt của sao chủ thể, còn gọi là sao rung. Khi hạn chạm tới nó là xảy ra ngay một việc gì đó, còn sao thứ ba gọi là sao đắc thất của chủ thể, quyết định được hay mất của hạn đó.
Mặc dù là học còn rất ít nhưng em thực sự tin rằng, nếu không có kiến thức về vòng Tràng Sinh bay thì tất cả luận đoán về tiểu đại hạn đều mông lung, không chính xác, không cụ thể, không biết nguyên nhân và càng không tìm được giải pháp. Với những công cụ này, tử vi không chịu thua kém bói Dịch về đoạn chi tiết đâu. Rất mong anh em tìm được càng nhiều càng tốt những thông tin nhỏ nhất về những nội dung này. Em sẵn sàng bỏ cả đời ra để tìm hiểu về nó. Mong có duyên hội ngộ những anh chị đam mê tử vi trong diễn đàn này. Mong đợi tin của tất cả.
@KARAJAN: Mình nghĩ là có nhiều nhánh khác nhau của dòng Tử Vi Phúc Tông Đông A thật. Tuy nhiên dòng mình được học vẫn có đầy đủ Địa Không, Thiên Không mà Thiên Không mới là một sao đáng nói nhiều đó. Nếu bạn có biết nhiều về dòng Đông A này thì cho mình biết thêm thông tin nhé. (Hy vọng còn được chia sẻ với bạn Karajan thêm một đam mê về classical music nữa nhé)
@all: Mình sẵn sàng chia sẻ với tất cả các bạn kiến thức của dòng Tử Vi Phúc Tông do thầy Hà Ân đã dạy cho bọn mình.
Vòng Tràng Sinh là một vòng khép kín và tuần hoàn, đến Tuyệt tưởng là đã kết thúc nhưng vẫn còn đến Thai và Dưỡng, có nghĩa là tiếp tục thế luân hồi. Chính vì vậy có nhiều ý kiến cho rằng vòng này nên bắt đầu từ Thai.
Vòng Tràng sinh cố định được an theo Cục, và chỉ an Tràng sinh ở Dần Thân Tỵ Hợi theo Hỏa cục, Thủy và Thổ cục, Kim cục, Mộc cục.
Nhưng Vòng Tràng sinh phi tinh - Tràng sinh bay hay còn gọi là Tràng sinh lưu được an theo các cung lục hình.
Tràng sinh bay được xác định theo các cung lục hình với cung đại hạn hay tiểu vận: Dần hình Tỵ, Mão hình Thìn, Tí hình Mùi, Hợi hình Thân, Dậu hình Tuất, Sửu hình Ngọ và ngược lại. Ví dụ: đại hạn ở cung Mùi thì Tràng sinh lưu an ở Tí. sau đó an lần lượt tiếp theo mỗi cung một sao của vòng này theo luật Dương Nam, Âm Nữ thì đi thuận còn Âm Nam, Dương Nữ thì đi nghịch.
Cung có Lâm quan lưu là cung Lộc vị. Cung có Tuyệt lưu (đối diện) là cung Bại địa.
Vòng Tràng sinh phi tinh dùng cho cả đại vận và tiểu hạn.
Do cục là hành của môi trường đối với các sao nên việc kết hợp hành của Cục với hành của các sao sẽ cho ta biết khi một sao nào đó gặp sao của vòng Tràng sinh bay sẽ làm tăng hay giảm độ số của han. Còn hành của các sao cố định, sao của vòng Tràng sinh bay so với hành của cung các sao ấy đóng đấy lại định thêm một bậc tăng hay giảm nữa khi đoán định về độ số của hạn ấy.
Các bạn hãy thử áp dụng an sao dòng Tràng sinh phi tinh trong lá số của chính mình và thử kiểm tra xem trong các vận hạn đã qua của mình để nghiệm xem mức độ chính xác của vòng Tràng Sinh bay này xem sao. Mình nghĩ là chúng ta nên tập trung vào nghiên cứu vòng Tràng sinh bay nên kỹ càng vì cổ nhân đã từng nói xem tử vi là xem phi tinh mà, chứ chỉ dựa trên các sao cố định để độ số thì có nghĩa là chúng ta mới chỉ dừng lại ở cấp độ Tử Vi Vui mà thôi.
Một lá số khi lập đã có những thông tin gần như cố định. Nếu như số mệnh cũng cố định như sự luận giải về thông tin cố định ấy thì ắt hẳn phai xác định được ngày chết của đương sự rồi, logic phải là như vậy đúng không? Kể cả những người xem tử vi táo bạo nhất, không ai dám xác quyết hạn chết này cả. Người ta thường miêu tả được tính chất của cái chết (định tính) ví dụ như: sau một đợt đỏ bênh dài dài, bệnh chuyển nặng / hay bắt đắc kỳ tử ...anh chị sẽ chết trong một ngày mưa/ nắng, vào mùa đông/ thu...cô đơn, xa quê hay đầy đủ họ hàng xung quanh. Nhưng đến khi định lượng về thời điểm thì chỉ nói theo kiểu: nếu qua được hạn năm 60, thì sẽ đến 67, nếu qua được 67, sẽ đến 70..vv..hoặc là anh chị sẽ thọ 71+_1 năm...cái +-1 năm ấy đâu phải là một mốc cố định ! Và cái gì đã làm cho một người vượt qua hạn 60, để đến hạn 65....???? Cái gì đã làm cho biến số về đại hạn chết không xác định được như vậy? Vậy số mệnh có cách nào để " thay đổi hoàn toàn" được không? Ta giải thích thế nào cho "nhân định thắng thiên" "đức năng thắng số " đây. Câu trả lời của Tử vi dòng Phúc Tông là phúc phận của mỗi người. Phúc phận ấy là một tập hợp của phúc đức của tổ tiên dòng họ (âm phần) và phúc do hoạt động mang tính nhân quả của chính con người ấy ngay trong hiện kiếp của mình.
Quay lại lá số giống nhau (do sinh cùng một giờ hoặc hơn kém nhau đúng một chu kỳ 60 năm), hai lá số giống hệt nhau về cả sao cố định và phi tinh, bạn giải thích thế nào đây? Không lẽ hai người này Phúc phận giống hệt nhau? Hạn đến giống hệt nhau cả về tính chất và mức độ? Thậm chí chết cùng ngày giờ? nếu không phải như vậy thì cái gì đã mang lại sự khác nhau đó? Tất nhiên đầu tiên ta phải xét cả tới hình tướng, phong thủy, biến dịch...sẽ cho các câu trả lời khác nhau về mặt chi tiết. Nhưng nếu tử vi không trả lời được vấn đề này thì nên bỏ môn này đi cho rồi, đúng không? Tử vi mà bó tay giữa hai lá số giống nhau thì còn nghiên cứu để làm gì chứ ! Có cả chục nghìn người có lá số giống hệt nhau ngay trong vùng ảnh hưởng của lý thuyêt tử vi Đông phương đó. Quan điểm của bạn hay quan điểm của dòng tử vi mà bạn đang nghiên cứu trả lời ra sao về vấn đề này?
3 điểm quan trọng nhất của tử vi dòng Phúc Tông là: trục, vòng Tràng sinh bay và đỉnh cao nhất, thủ pháp tột đỉnh của Tử Vi Phúc Tông là Treo sao. Treo sao là trong toàn bộ lá số phải tìm ra được nhiều nhất là 3 sao chủ đạo đại diện cho mệnh số của đương sự. Bên cạnh sao "chủ thể" - sao chốt - được treo còn có thêm 2 sao nữa: là một sao huyệt của sao chủ thể, còn gọi là sao rung. Khi hạn chạm tới nó là xảy ra ngay một việc gì đó, còn sao thứ ba gọi là sao đắc thất của chủ thể, quyết định được hay mất của hạn đó.
Trước hết xin cảm ơn bạn hp_phoenix đã chia sẻ với anh em phương pháp an vòng Trang Sinh bay.
@ Ở đây tôi xin được hỏi lại cho rõ:
1) Thí dụ: Đại hạn 43 - 52 nhập cung Mùi thì Trang Sinh bay sẽ bắt đầu từ Tý phải ko ạ?
2) Khi Lưu năm Đại hạn thí dụ như lưu Đại hạn năm 44 tuổi sẽ là cung Sửu thì năm này có phải an thêm một vòng Tràng Sinh bay nữa vào cung Ngọ ko?
Rất cảm ơn bạn chia sẻ.
@thiensu: Cách an vòng Tràng sinh phi tinh đúng như bạn đã làm. Ta an vòng Tràng sinh bay của đại hạn 10 năm, tiểu hạn 1 năm, nguyệt hạn 1 tháng hay hạn của từng ngày đều theo cách lấy theo cung lục hình của cung hạn (đối xứng với cung hạn qua trục ngang của lá số). Khi bạn đã an được vòng Tràng sinh phi tinh, bạn có thể thấy việc luận đoán vận hạn đã trở nên phức tạp vô cùng với sự tham gia thêm của rất nhiều biến số không cố định. Hạn càng chi tiết (năm, tháng, ngày) thì số lượng biến số cần phải xét tới trong cung hạn càng nhiều thêm. Và một điều dễ nhận thấy là sự biến thiên của vận hạn sẽ theo quy luật hình sin từ khởi sinh đến tuyệt diệt rồi lại tái sinh qua thời gian từng ngày, tháng, năm ... và các khoảng vận hạn không phải là kéo dài một cách máy móc theo từng 10 năm một như cách an đại hạn nữa mà có thể ngắn lại hoặc dài ra tùy vào sự cộng hưởng hay triệt tiêu bớt đi của các sao phi tinh của các vòng tràng sinh bay của năm, tháng hay ngày hạn. Và mọi việc đã bắt đầu trở nên rắm rối rồi đó.
@all: Có lẽ mình sẽ làm các bạn cảm thấy thất vọng mất khi phải thú nhận rằng: thủ pháp treo sao không đơn giản chút nào cả. Mình đã đau hết cả đầu mấy năm qua khi đi treo sao cho bản thân mình mà bây giờ vẫn còn chưa dám khẳng định chính xác. Mình cũng đã thử treo nhiều lần và tham khảo ý kiến của thầy nhưng chỉ nhận được những nụ cười thách thức của thầy mà thôi. Mình cũng hiểu được rằng, không thể lĩnh hội thủ pháp tột đỉnh của tử vi một cách vội vàng như thế. Tại sao lại như thế? Thứ nhất, treo sao là một bài toán ngược. Bạn hãy thử tìm sao chủ trong số các sao trong cung Mệnh hoặc các cung chiếu Mệnh xem tính chất sao nào nói lên được cái "chất" tổng quát những sự việc xảy ra trong cuôc đời bạn nhất (chưa chắc là sao chính tinh thủ mệnh đâu đấy). Để biết là sao nào, thì chính chủ nhân của lá số mới có thể tự tìm lấy bộ sao treo cho chính mình mà thôi vì chỉ có mình mới trung thực hoàn toàn với bản thân mình. Ví dụ: có thể là hung tinh, sát tinh hay bại tinh, thậm chí là Không Kiếp... Không một ai ngoài bạn có thể đọc được những điều thầm kín mà chỉ có bạn mới ý thức được. Bước thứ hai, tìm sao rung và sao đắc thất của sao rung còn khó hơn nữa, vì bạn phải tự đối chiếu những vận hạn đã qua của bạn để tìm sao rung này. Nó có thể nằm ở bất kỳ đâu trong 12 cung, nhưng khi gặp nó (đồng cung hay xung chiếu) thì có một hạn đặc biệt xảy ra. Nói tóm lại, bạn phải làm bài toán xét ngược theo vận hạn mới có dò tìm thấy bộ sao treo. Và như vậy bạn phải rất thành thạo trong việc xem vận hạn rồi mới có thể bắt tay vào nghiên cứu treo sao được. Theo mình nghĩ chúng ta không nên vội vàng mà hãy bắt đầu từ việc xét đoán hạn đã. Và việc luận đoán vận hạn với vòng Tràng sinh phi tinh sẽ lấy đi của ta không ít thời gian đâu. Mình hy vọng vài năm nữa mới nắm được vòng Tràng sinh phi tinh này đó.
Thầy mình đã nói thế này khi miêu tả về quá trình học tử vi:
Bước đầu xem tử vi, nhìn vào hơn trăm sao cố định, thuôc và hiểu được nó đã là khó, nhưng vượt qua được bước ấy sẽ thấy phấn khích, luận đoán hết sức hùng hồn và tự tin, "bạ lá số nào cũng thích phán", tử vi thật đơn giản vô cùng!!!
Bước hai, biết được về sao bay, sẽ rơi vào trạng thái mất tự tin, lúng túng và im lặng kéo dài vì trước mắt có hàng chục bộ sao bay quay cuồng, không sao xác định được nữa. Tử vi thật phức tạp không cùng.
Bước cao hơn, nhìn vào lá số sẽ thấy tất cả các sao như nhòa hết đi, chỉ còn vài ba điểm sáng lung linh hiện rõ nét thôi, và mọi thứ lại hiện ra đơn giản vô cùng. Có lẽ lúc này mới là đắc đạo, mới là treo được sao đấy bạn ạ.
Dục tốc bất đạt, khoa học huyền diệu không dễ nắm bắt, mong các bạn suy nghĩ
@thiensu: Nếu bạn có thời gian rảnh, bạn có thể viết một bài tóm tắt đưa lên diễn đàn về Địa chi tương hình và Địa chi tượng hại để cho nhiều anh em khác chưa rõ về tính xung hợp của hệ Can chi được không? Mình bận quá, chỉ ban đêm mới vào net được một chút. Về thuật treo sao, có thể chúng ta hãy thử nghiệm xác đinh bộ sao treo cho chính mình rồi trao đổi với nhau từng bước để có thể vỡ ra được thì rất hay. Cảm ơn bạn nhiều.
@Thiên mã: Như bạn đã biết, vòng Tràng sinh cố định an theo hành của cục. Cục là hành của môi trường đối với các sao nên hành của cuc so với hành của sao xung khắc như thế nào sẽ cho biết các sao của vòng Tràng sinh tăng hay giảm giá trị đối với lá số. Cục mang hành gì thì những vị trí tốt hay xấu cho vòng Tràng sinh sẽ thể hiện ở các vị trí đó. Còn vòng Tràng sinh bay của hạn dùng để xem vận hạn (tốt thì có quyền lộc hỷ, xấu là có tang hình nạn...) tại các cung nên cách an vòng Tràng sinh bay dựa trên quy luật Địa chi tương hại (chính xác phải gọi là lục hại mới đúng, chứ không phải là lục hình) (Chi tiết về Địa chi tương hại bạn có thể xem lại về tính xung khắc của can chi) Việc luận đoán mức độ của hạn phải kết hợp với các sao gốc ở các cung tương ứng để xét và luận đoán về các hạn.
@thiensu #2: Bạn hiểu đúng ý mình muốn nói. Tóm lại quan điểm của mình là đời người là một tập hợp những chuỗi hạn tốt xấu dài ngắn khác nhau (Tài Quan Di cũng chỉ các hạn trong từng lĩnh vực cụ thể). Khi gặp các hạn này, cách ứng xử của người với hạn được thể hiện toát ra từ cái "chất" của con người – thể hiện qua cung Mệnh. Còn kết quả của các hạn còn phụ thuộc rất lớn vào Phúc đức. Tuy chỉ gọi là " một yếu tố tương tác" nhưng mức độ của nó đến đâu thì ta phải nghiên cứu xem xét rất nhiều.
@myopia05: Vòng Tràng sinh cố định với chu kỳ tuần hoàn khép kín từ Sinh đến Tuyệt rồi lại Thai Dưỡng cho thấy được chu kỳ vận phát và tàn lụi của một đời người. Vì vậy luật an nó phải theo hành của cục (mình đã viết ở trên cho @thiênmã) Và an theo hành của cục (Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ) thì nó được khởi tại Dần Thân Tỵ Hợi theo quy luật Địa chi tương hình (cản trở lẫn nhau, không hòa hợp). Còn vòng Tràng Sinh bay để xem vận hạn của năm, tháng, ngày thì an theo quy luật Địa chi tương hại (làm hại lẫn nhau)
Tý – Mùi (Thủy – Thổ), Sửu – Ngọ (Thổ - Hỏa), Dần –Tỵ (Mộc –Hỏa), Mão –Thìn(Mộc –Thổ),Thân – Hợi(Kim –Thủy) và Dậu –Tuất(Kim-Thổ). Còn vòng Thái tuế cố định an theo tuổi nên vòng Thái tuế phi tinh an theo tên của năm hạn, vòng Lộc Tồn cố định an theo Thiên Can nên vòng Lộc tồn phi tinh cung an theo Thiên can của năm hạn, bạn phân biệt sự khác nhau này nhé.
Nếu hiểu một cách nôm na thì đúng như là bạn nghĩ, chu kỳ của vòng Tràng sinh bay sẽ cho ta nhận ra cấp độ của các hạn. Tuy nhiên cần lưu ý ba vòng Tràng sinh phi tinh của hạn năm, tháng, ngày cộng với 17 phi tinh khác (Khốc Hư, Lộc tồn, Kình Đà, Thái tuế, Tang Hổ, Quan phù, Quan phủ, Song hao, Thiên mã, Kiếp sát, Hoa cái, Khôi việt) cùng bay sẽ cho một bản đồ phi tinh rắc rối và không theo quy luật nào cả. Cho nên biên độ cộng hưởng của các sao phi tinh tương hợp với các sao cố định tại các cung sẽ làm cho vận hạn của đời người giống như như một chu kỳ, nhưng mức độ hoàn toàn khác nhau, không thời điểm nào giống thời điểm nào cả.
Không phải hạn tốt gặp Sinh Vượng thì nhân hệ số cao, còn gặp Tử Tuyệt thì nhân hệ số thấp đâu. Mà là hạn hạn ấy sinh ra từ đâu, liên quan đến ai, về việc gì, kết quả thế nào. Trong năm, tháng, ngày hạn ấy việc gì phát sinh, việc gì tàn lụi...Cần phải nghiên cứu kỹ nội dung của từng sao trong vòng Tràng sinh thì mới bàn được về việc này bạn ạ.
PS: thêm một câu hỏi cho các bạn đây:
Nếu như vòng Phi tinh Tràng sinh cho đại hạn 10 năm, hạn 1 năm, hạn tháng, hạn ngày tổng cộng 48 sao bay, cộng thêm 17 phi tinh khác mang tính chất đặc trưng trong số 24 phi tinh của vong Lộc tồn và vòng Thái tuế...tất cả hợp thành 65 phi tinh quanh thiên bàn đủ làm ta nhức đầu..Thì theo các bạn, theo từng hạn, liệu các cung số (từ Mệnh đến Huynh đệ) liệu có chịu đứng yên??
Việc viết ra chi tiết, hay chỉ cho một vài gợi ý là tùy vào sự lựa chọn của người thày, VN không có ý kiến. Tuy nhiên, VN xin hỏi thày hieuthuyloi cũng như các thày khác mấy điểm sau:
Đã nói tới số mệnh, tức nói tới sự tồn tại của một cái "tôi", "ngã". Lấy cái "ngã" này làm trung tâm mà phân ra sẽ có lục hào: tôi, phụ mẫu, quan quỷ, thê tài...Trong bản đồ tử vi, theo các thày thì, cái nào thể hiện cho cái bản ngã nói trên:
a. Mệnh nạp âm (theo năm sinh)
b. Sao cung mệnh/thân
c. Chính cung mệnh? Bao gồm cục, can, chi
d. Tổng hòa của mệnh, cục, sao? Nếu đã nói là tổng hòa, thì phương pháp cân lượng thế nào?
Vòng trường sinh (cục cung mệnh) chiếm bao nhiêu % quan trọng trong giải đoán. Giả sử bỏ hẳn vòng trường sinh, thì sự luận đoán bị hạn chế ở chỗ nào.
Thao khảo bài viết:
--------------------------------------------------
VÒNG TRÀNG SINH
Toàn bộ các Hành đều sinh trưởng theo chu kỳ như sau:
Thai (Hành khí mới bắt đầu kết tinh, thời kỳ gây mầm mống);Dưỡng (Hành khí đang tăng lên, như con được nuôi trong bụng mẹ);Tràng Sinh (Hành khí được sinh ra, như trẻ con mới sinh, thời kỳ manh nha phát động của Hành);Mộc Dục (Hành khí còn non yếu, như con còn ấu thơ, được tắm gội cho sạch sẽ, chân tay còn vô lực, không chống đỡ cầm giữ được gì cả, còn non yếu dễ chết, còn gọi là bại địa);Quan đới (Hành khí đã lớn, như con đã lớn cho đội mũ);Lâm Quan (Hành khí ở trong thời kỳ mạnh mẽ, tràng vượng, con phát triển được, như con trai đã trở thành thanh niên lớn khỏe đi làm quan, nên đương cần vị trí của Lâm Quan còn gọi là Lộc vị);Đế Vượng (Hành khí vượng đến cực điểm, sắp sửa đi vào giai đoạn suy, gọi là vượng địa);Suy (Hành khí bước vào giai đoạn bắt đầu suy yếu, là dư khí vì lúc đó khí thịnh của đế vượng vẫn còn sót lại);Bệnh (Hành khí suy yếu lắm rồi, như già bị ốm đau);Tử (chết, Hành khí tan);Mộ (chôn vùi, tạo hoá thấu tàng, có dư khí, hồi quang phản chiếu);Tuyệt (khí tuyệt, hoàn toàn hết không còn gì cả, còn gọi là tuyệt địa);
Trong chu kỳ trên, Hành khí có sức ảnh huởng đến ngoài đáng kể là Tràng Sinh, Mộc Dục, Lâm Quan, Đế Vượng và Mộ). Phân định ảnh huởng: trong chu kỳ 12 trên thì chỉ có vị trí của Tràng Sinh, Mộc Dục, Lâm Quan, Đế Vượng và Mộ là có khí sức để có thể ảnh hưởng ra bên ngoài.
Phân định Âm Dương:
Thai, Dưỡng, Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan thuộc về Dương, huớng thịnh, theo chiều thuận.
Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt thuộc Âm, huớng suy, theo chiều nghịch
Đặc điểm về cách an sao
Tràng Sinh luôn luôn được an tại Tứ Sinh là Dần Thân Tỵ Hợi căn cứ vào ngũ hành nạp âm của cục. Đào Hoa chỉ an tại Tí Ngọ Mão Dậu, Hoa Cái chỉ an tại Thìn Tuất Sửu Mùi, Thiên Mã tại Dần Thân Tỵ Hợi và Hoa Cái luôn luôn đứng trước Thiên Mã hai cung theo chiều thuận, ví dụ như Thiên Mã tai Tỵ thì cách một cung đến cung Mùi là Hoa Cái và Mệnh an giữa Thiên Mã và Hoa Cái gọi là cách tiền Cái hậu Mã. Nếu ta căn cứ vào ngũ hành của Tam Hợp cục tuổi để thuận an vòng Tràng Sinh của tam hợp tuổi (Thủy khởi Tràng Sinh tại Thân, Mộc khởi tại Hợi, Hỏa khởi tại Dần, Kim khởi tại Tỵ) thì Đào Hoa luôn luôn nằm tại vị trí Mộc Dục, Thiên Mã luôn luôn nằm tại vị trí Bệnh, Hoa Cái tại vị trí Mộ và Kiếp Sát tại vị trí Tuyệt của vòng Tràng Sinh này. Cần chú ý sự tương đồng dị biệt giữa Đào Hoa và Mộc Dục, Thiên Mã và Bệnh, Hoa Cái và Mộ, Kiếp Sát và Tuyệt
Đặc điểm về sự phối hợp
Tràng Sinh, Lâm Quan, Tuyệt, Bệnh dễ phối hợp với Thiên Mã, Cô Thần, Kiếp Sát vì các sao này luôn luôn an ở Tứ Sinh. Các sao còn lại thì ở vị trí còn lại
Hoa Cái luôn luôn an tại Tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi). Người Âm Nam Dương Nữ thì Mộc Dục cư tại Tứ Mộ nên có khả năng gặp bộ Mộc Dục Hoa Cái đồng cung
Đào Hoa luôn luôn an tại Tứ Chính (Tí Ngọ Mão Dậu). Người Dương Nam, Âm Nữ thì Mộc Dục, Thai cư tại Tứ Chính nên có khả năng gặp bộ Mộc Dục Đào Hoa đồng cung hoặc Thai Đào đồng cung.
Phục Binh và Tướng Quân xung chiếu với nhau thành ra bộ Thai Phục Tướng thì Thai phải đồng cung với Phục Binh hoặc Tướng Quân
Ngũ hành
Tràng Sinh (Thủy), Mộc Dục (Thủy), Quan Đới (Kim), Lâm Quan (Kim), Đế Vượng (Kim), Suy (Thủy, Kim), Bệnh (Hỏa), Tử (Hỏa), Mộ (Thổ), Tuyệt (Thổ), Thai (Thổ), Dưỡng (Mộc)
Biểu tượng
Lâm Quan: cổ;Đế Vượng: lưng;Đế Vượng Kình Đà hội họp: lưng có tật;Thai: rốn hay âm hộ tử cung;
Ý nghĩa
Vòng Tràng Sinh diễn tả sự thịnh suy của ngũ hành cục. Sự thịnh suy này được diễn tả thông qua sự hưng thịnh hay suy trầm của cá nhân cũng như của cha mẹ, anh em, vợ con, gia tộc, bạn bè về mọi mặt (như phúc, lộc, thọ, hạnh phúc). Luận đoán các sao trong vòng Tràng Sinh thì cần chú ý đến vị trí của sao này tại cung nào và căn cứ vào sự thịnh suy của ngũ hành cục cùng ý nghĩa của nó với sự kết hợp các sao khác. Nhiều người sử dụng phân chia vòng Tràng Sinh thành các tam hợp như Sinh Vượng Mộ, Mộc Suy Tuyệt, Đới Bệnh Thai, Lâm Tử Dưỡng nhưng theo thiển ý chúng ta không nên xét các sao của vòng Tràng Sinh trong tam hợp thì hợp lý hơn, ví dụ khi gặp Tràng Sinh tọa thủ tại cung thì khi coi cung này ta chỉ căn cứ vào Tràng Sinh mà luận đoán chứ không xét đến sao của vòng nằm trong tam hợp của Tràng Sinh là Mộ, Vượng hay xung chiếu là Bệnh hay nhị hợp là Lâm Quan hoặc Tuyệt. Như vậy cách Mã gặp Tràng Sinh có nghĩa là Mã và Tràng Sinh đồng cung, chứ không thể coi là Mã và Tràng Sinh xung chiếu vì trường hợp này là cách Mã Bệnh.
Vị trí tốt xấu của các sao thuộc vòng Tràng Sinh: nhìn chung từ Thai Dưỡng, Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng thì tốt hơn Suy, Bệnh,Tử, Mộ, Tuyệt. Cụ thể:
Thai, Dưỡng: hành khí có tác dụng khá tốt;Tràng Sinh, Lâm Quan, Đế Vượng: hành khí hưng thịnh, có tác dụng rất tốt, nhất là Tràng Sinh và Đế Vượng;Mộc Dục, Quan Đới: hành khí cần kết hợp với sao tốt thì mới tốt, gặp sao xấu dễ đưa đến phúc lộc không bền, mau tàn, mang đến tai họa, nhất là Mộc Dục. Nơi Mộc Dục thủ thường gọi là bại địa. Phú có câu Sinh phùng bại địa phát dã hư hoa nghĩa là tuy phát nhưng không bền vữngSuy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt: hành khí không có tác dụng tốt, xấu nhất là Tử, Tuyệt. Đỡ xấu nhất là Mộ vì là dư khí.
Tại nơi có hành khí mạnh (như Sinh, Vượng) thì sẽ gia tăng sự tốt đẹp về mọi mặt, có khả năng giảm bớt sự xui xẻo, tai họa do các sao xấu gây ra, còn tại nơi có hành khí yếu (như Suy, Bệnh, Tử, Tuyệt) thì lại giảm bớt sự tốt đẹp do các sao tốt gây ra, tăng thêm sự xấu xa do các sao xấu gây ra, gặp sao xấu rất bất lợi.
Sự tốt đẹp được thể hiện thông qua:
– Thịnh vượng về tài lộc, công danh, tuổi thọ, sức khoẻ, cuộc đời được an lạc hạnh phúc, con nhà gia thế.
– Anh em đông, hòa thuận, xum họp.
– Cha mẹ thọ, được cha mẹ yêu quí.
– Vợ chồng hòa thuận, có đức độ.
- Con cái đông, quí hiển, có danh chức, có hiếu.
– Họ hàng đông, được hưởng phúc của tổ tiên, tổ tiên giàu có
Sự xấu xa được thể hiện qua:
– Cuộc đời thăng trầm, khổ cực, không hay gặp may mắn, làm ăn dễ thất bại, phá tán, sớm xa cách cha mẹ, sống xa quê hương, cô độc, tình duyên lận đận, gia đình bất hòa, sức khoẻ không tốt, hay bệnh hoạn
– Anh em ít, ly tán.
– Cha mẹ chết sớm hoặc không gần cha mẹ, hoặc cha mẹ ly hương.
– Vợ chồng xung khắc, không hòa thuận, vợ chồng chết sớm hoặc sinh ly, bị ruồng bỏ hoặc vợ chồng làm ăn không khá, phá tán tài sản của bản thân hoặc hay ốm đau.
– Con cái ít, khó nuôi con nhất là con đầu lòng, khổ vì con, con hay đau ốm, con khó dạy, bất hiếu, con không giúp ích được cha mẹ.
– Họ hàng ít, ly tán, bạc phúc.
– Tùy theo cư tại cung nào mà ta luận đoán kết hợp với các sao, gặp tài tinh thì liên quan đến tiền bạc, quí tinh thì liên quan đến chức vị công danh, tại Phụ Mẫu thì liên quan đến cha mẹ...
Vài hướng dẫn về ảnh hưởng:
– Sinh, Vượng thì chủ gia tăng số lượng nhân đinh, thủ tại Tử thì chủ đồng con, tại Huynh Đệ thì đông anh em, tại Phu Thê thì có khả năng nhiều vợ, tại Nô Bộc thì nhiều bạn bè, người giúp việc trong khi Tử, Tuyệt thì chủ chiết giảm số lượng nhân đinh
– Sinh, Vượng thì mạnh khoẻ, ít đau yếu, ít bệnh tật tai họa, sống lâu trong khi Tử Tuyệt thì hay đau yếu, gặp tai nạn khó thoát, không thọ.
– Sinh, Vượng thì chủ gia tăng phúc lộc, đi với tài tinh thì gia tăng tài lộc, đi với quí tinh thì gia tăng quí hiển trong khi Tử, Tuyệt thì chủ chiết giảm phúc lộc, đi với tài tinh hoặc quí tinh thì chiết giảm tài lộc, công danh.
– Sinh Vượng gặp hung sát tinh thì giảm bớt tác họa của hung sát tinh (ví dụ bị bệnh thay vì chết nhưng giảm xuống thành ra bệnh lâu khỏi, tai họa nặng thành nhẹ đi) trong khi Tử Tuyệt tăng phần tác họa do hung sát tinh gây ra.
– Lộc Tồn gặp Trường Sinh, Đế Vượng thì phúc lộc gia tăng, Lộc Tồn gặp Mộc Dục Suy, Bệnh, Tử, Tuyệt thì phúc lộc giảm.
– Khôi Việt gặp Tràng Sinh, Đế Vượng thì gia tăng phúc, rất ít bệnh tật, Gặp Lâm Quan thì giỏi văn chương, gặp Mộc Dục Suy, Bệnh, Tử, Tuyệt thì giảm tốt, giảm phúc.
1. TRÀNG SINH
Cung Mệnh
Mệnh viên thời đoán Dương cơ,
Mạch hình địa thế cũng y luận đành.
Luận thời có khắc có sinh,
Phải xem cho kỹ ngũ hành mà suy.
Làm nhà quí được Dương cơ,
Trước lấy sinh mạch lại thời cho nên.
Nhược phùng Sinh Vượng Lâm Quan,
Chiếu lâm thấu nhập đến miền chính bên.
Ấy là cát địa tự nhiên,
Cửa nhà giàu có bình yên vững vàng.
Hoặc là Thai Dưỡng một phương,
Hẳn nhiều thầy tớ tựa nương nhà này.
Ví dù Tử, Tuyệt vào đầy,
Trong nhà suy đốn, khí nay chẳng lành.
Lại xem Tí Ngọ sinh nhân,
Tí thời đắc Ngọ, Ngọ sinh Tí phòng.
Bản cung lại gặp đa hung,
Ngụ cư làng khác vô cùng chẳng yên.
Nhà có Tả Hữu hậu tiền,
Cứ phương mà đóan ắt liền chẳng sai.
Hễ mà Bạch Hổ chiếu lai,
Ấy là Kiếp sát hại tài phá gia.
Lại còn nhân tính người ta,
Cứ sao thủ Mệnh luận hòa mới nên.
Suy, Bệnh những khổ trầm kha.
Tràng Sinh, Quan (Lâm Quan), Vượng giầu sang,
Tử, Tuyệt, Suy, Bệnh một đường khó khăn.
1. Trường Sinh
Chủ bền vững, lâu dài, thịnh vượng, tăng tiến, phát đạt, trường cửu, phúc thọ, hạnh phúc, được trọng vọng. Gia tăng phúc thọ, lợi ích cho việc sinh nở.
Tràng Sinh thủ Mệnh thì:
– Nhân hậu, từ thiện, độ lượng.
– Lộc Tồn giàu có về sau, Trường Sinh, Đế Vượng là người thiện lương.
– Khoe khoang là thói Lâm Quan, Tràng Sinh, Đế Vượng tính toan làm lành.
– Hợp cách hội với cát tinh thì gia đình tăng tiến tài lộc, con trưởng phát văn học, phú quí, tính trung lương, phúc thọ lâu dài. Hội với Không vong, ác sát thì gia đình tổn hại, phải đề phòng tai biến, vợ cả là người vô hậu, phải có vợ lẽ mới có con được.
– Trường Sinh Tọa tại Mệnh thì chủ có tài, sớm hiển đạt, vợ chồng có đức, được cha mẹ yêu quí, anh em thân mật, con cái tốt, ăn ở được mọi người quí mến, về già làm ăn phát đạt, an lạc, suôt đời hạnh phúc. Nữ Mệnh thì suốt đời hạnh phúc, con cái tốt, về già an lạc.
– Tại Tử Tức thì con cái hiển đạt làm rạng rỡ cho tổ tông.
– Tại Phụ Mẫu thì cha mẹ anh em hòa thuận, xum họp.
– Tại Phúc thì tổ tiên giàu có, được hưởng phúc đức do cha ông để lại.
– Lộc Tồn gặp Trường Sinh, Đế Vượng thì phúc lộc gia tăng, Lộc Tồn gặp Mộc Dục Suy, Bệnh, Tử, Tuyệt thì phúc lộc giảm
– Khôi Việt gặp Tràng Sinh, Đế Vượng thì gia tăng phúc, rất ít bệnh tật, Gặp Lâm Quan thì giỏi văn chương, gặp Mộc Dục Suy, Bệnh, Tử, Tuyệt thì giảm tốt, giảm phúc.
– Hội với Tham Lang là hợp cách nhất, chủ ích thọ phúc lộc.
– Tại Tật Ách gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội họp thì (tuy giải trừ được phần nào sự xấu xa không đưa đến tai họa nặng như chết chóc thành ra mang ý nghĩa ) có bệnh tật, đau yếu lâu khỏi.
– Thiên Mã Tràng sinh đồng cung thì hưởng phúc lâu bền, nhưng nếu tại Hợi thì vất vả, bôn ba. Theo Thái Thứ Lang thì Mã Tràng Sinh tại Dần Thân Tỵ thì làm cho mọi sự dễ dàng, chóng thành tựu, đem lại may mắn đáng mừng, chủ công danh quyền thế, tại Hợi thì vất vả và không lợi cho việc cầu công danh, chủ trắc trở:
+ Mã ngộ Trường Sinh nhi hưởng phúc.
+ Thiên Mã thiên trình ngộ Tràng Sinh nhi hưởng phúc.
– Mã Tràng Sinh đồng cung tại Hợi là người phải hay bôn ba lận đận:
+ Tràng Sinh tại Hợi, Tuyệt xứ phùng sinh, nhi phùng Thiên Mã lộ đồ bôn tẩu.
– Tràng Sinh Mã Hỉ hội họp thì gặp may mắn về công danh. Chú ý câu này hơi khác câu trước ở chỗ có sao Hỉ, đây là vấn đề hiểu phú có khác nhau vì câu Mã Hỉ Tràng Sinh thì có người giải Hỉ là mừng gặp, có người lại giải Hỉ là sao Hỉ:
+ Một ang có Tràng Sinh Mã Hỉ, Đường mây xanh phỉ chí bồng tang.
+ Tràng Sinh, Mã, Hỉ đồng cung, Công danh đắc lộ, vẫy vùng một phương.
+ Trường Sinh, Lực sĩ nói ngoan,
Phủ phùng Thiên Mã luận bàn thấp cao
– Tử Tức có Tràng Sinh, Đế Vượng thì nhiều con cái. Giáp Nhật Nguyệt có Thai thì có lần sinh đôi. Theo Quản Xuân Thịnh thì giáp Nhật Nguyệt thì có lần sinh đôi:
+ Tràng Sinh Đế Vượng đa nhân (nhiều con cái), giáp Thai Nhật Nguyệt một lần sinh đôi.
+ Tràng Sinh, Đế Vượng đa nhân, Giáp Thai Nhật Nguyệt một lần sinh đôi.
+ Tràng Sinh, Đế Vượng đa nhân, Giáp chiếu Nhật Nguyệt có lần sinh đôi.
Cung Tử Tức có Tràng Sinh hay Đế Vượng gặp Lộc Quyền chiếu thì sinh nhiều con (do Tràng Sinh hay Đế Vượng), có tài, làm nên, quí hiển (do Tràng Sinh hay Đế Vượng gặp Lộc, Quyền):
– Tràng Sinh, Đế Vượng tại Tử cung, Lộc Quyền chiếu cung đa sinh quí tử
TRÀNG SINH VỚI CHÍNH TINH
– Mệnh Tử Phủ gặp Tràng Sinh hay Đế Vượng đồng cung thì là người quảng đại, không chấp nhất chuyện nhỏ nhen: Tràng Sinh Đế Vượng tại Mệnh viên, kiêm phùng Tử Phủ quảng đại chi nhân.
– Tử Vi Thất Sát tại cung Tỵ thì ví như vua mang kiếm báu tất nhiên có uy quyền và phú quí, gặp Hỏa Tinh, Tuyệt hội họp thì người khát máu, tàn nhẫn, hay giết người, nhưng nếu gặp Bật Khoa Ấn Mã Tràng Sinh, Hồng Loan thì lập được chiến công thần kỳ, là Ðại Tướng.
+ Sát Tử (Tử Vi Thất Sát) Tốn cung (cung Tỵ) Ðế huề bảo kiếm, Hỏa Tuyệt nhập xâm, đa sát chi nhân, hạnh ngộ Bật Khoa Mã Ấn Sinh Hồng di lập chiến công vi Ðại Tướng.
Thái Vân Trình thì viết khác một chút, thay vì Hữu Bật thì là Bát Tọa:
+ Tử Sát Tốn cung (cung Tỵ), đế huề bảo kiếm (vua đeo kiếm báu), Hỏa Tuyệt nhập xâm đa sát chi nhân, hạnh hội Hồng Khoa, Ấn (Quốc Ấn), Mã, Bát (Bát Tọa), Sinh (Tràng Sinh), dị lập chiến công vi Đại Tướng (66)
– Tham Lang Trường Sinh đồng cung gặp cát tinh sống rất lâu. Theo TVT thì tuổi Dần Ngọ Tuất mạng Hỏa, Mệnh an tại Dần thuộc Mộc hoặc an tại Thân thuộc Kim được cách trường thọ, nếu thêm Trường Sinh được phúc thọ:
+ Tham Lang gia cát (cát tinh) tọa Trường Sinh thọ khảo vĩnh như Bành Tổ.
Cung Phúc có Thiên Lương Trường Sinh đồng cung thì trong họ hàng có nhiều người có biệt tài. Vì Tràng Sinh chỉ ở Tứ Sinh nên đây là trường hợp Đồng Lương Dần Thân hoặc Thiên Lương tại Tỵ Hợi:
+ Thiên Lương hội Trường Sinh ư Phúc địa (cung Phúc), thân thương hữu kỳ tài.
– Cung Phúc tại Dậu gặp Thiên Tướng, Tướng Quân, Thiên Hình, Quyền, Hổ Khốc, Tràng Sinh, Mã thì theo võ nghiệp làm đến quyền chức cao trọng, làm đến Hầu, Bá nhưng sợ gặp Hóa Kỵ, Linh Tính, Khúc, Việt thì chết trận.
+ Phúc cư Ðoài (cung Dậu), Lưỡng Tướng (Thiên Tướng, Tướng Quân) Hình (Thiên Hình) Quyền, Hổ Khốc, Sinh (Tràng Sinh) Mã giao lai võ cách phát liên Hầu Bá ưu kiến (sợ gặp) Kỵ (Hóa Kỵ) Linh (Linh Tính) Khúc, Việt tất hữu tử thương trận địa (thì chết trận).
Thiên Tướng tại Mão gặp Sinh Vượng Ðào Hồng Tả Hữu Quyền Xương hội họp thì mặt xinh đẹp mà võ nghệ rất giỏi, hạn gặp Phá Ðà Kình thì như Lã Bố vi dâm ô mà chết:
+ Tướng lâm Chấn địa (cung Mão) Sinh Vượng Ðào Hồng Tả Hữu Quyền Xương diện hoa vũ bá (mặt xinh đẹp mà võ nghệ rất giỏi) vận phùng (hạn gặp) Phá Ðà Kình Kiếp Lã Bố do dâm mãn kiếp (Lã Bố vi dâm ô mà chết).
2. Mộc Dục
– Hành Thủy.
– Chủ sự tắm gội, ưa làm dáng, đi xa, hay thay đổi, canh cải, chán nản, bỏ dở công việc, dâm dật, u mê, nhầm lẫn, lao khổ, mê hoặc, vì sắc đẹp mà gặp tai nạn, tình duyên trắc trở, đứt gánh nửa đường, không cả quyết, không quyết định việc gì, thay đổi chỗ ở.
– Cần chú ý rằng Đào Hoa là vị trí của Mộc Dục an theo vòng Trường Sinh của tam hợp cục tuổi. Mộc Dục và Đào Hoa đều có ý nghĩa xinh đẹp, đa dâm nhưng có điểm khác biệt là Mộc Dục còn cư tại Tứ Mộ Thìn Tuất Sửu Mùi. Mộc Dục mang tính chất dâm thành ra hội cùng các dâm tinh khác (như Đào, Hồng, Xương, Khúc, Riêu, Tham Lang, Liêm hãm) hay Hoa Cái thì ý nghĩa càng mạnh. Vì hành khí chưa mạnh thành ra cả Mộc Dục và Đào Hoa khi gặp hung sát tinh, nhất là Không Kiếp thì không có lợi, chủ sự không bền vững, mau tàn. Theo VVT thì Mộc Dục gặp Đào Hoa thì con gái trong nhà dâm loạn, trong gia đình phòng thủy tai, tự tử, bệnh đau mắt, đới tật. Theo Thái Thứ Lang thì gặp Đào, Hồng, Riêu, Cái thì chủ bệnh tật tai họa do sắc dục gây ra
– Miếu địa tại Tí Ngọ.
– Hợp cách khi ở Mệnh, Thân, Điền, Tài.
– Đồng cung với Văn Khúc là hợp cách, chủ chức quyền, tài lộc hanh thông.
– Mệnh Vô Chính Diệu gặp Mộc Dục tọa thủ hoặc xung chiếu thì hay bỏ dở công việc, học hành gián đoạn, dù có học nhiều cũng không thành tài.
– Mộc Dục thủ Mệnh thì hay trưng diện, làm dáng:
– Mộc tinh (Mộc Dục) làm dáng ai bì, Hay khoe mình cũng bởi vì Lâm Quan
– Mộ ám tế, Thai đa (nhiều) mê hoặc, Mộc Dục hay trang sức văn hoa (hay chưng diện).
– Tại Mệnh thì không gần cha mẹ lúc nhỏ, lao khổ, không được hưởng của cha mẹ tổ tiên để lại, mẹ chết sớm, khó lập gia đình, phải tha hương lập nghiệp. Làm ăn dễ thất bại, hay gặp sự không may, suốt đời dễ bất mãn, dễ sống cô độc, khắc vợ con, đàn bà thì phá hại tiền của, hại chồng con, con đầu lòng khó nuôi. Tại Thân thì làm ăn lao đao, về già suy bại, nghèo khổ hoặc vợ chồng sinh ly tử biệt.
– Gặp sát tinh thì xa xỉ, hiếu sắc, không sáng suốt, hay thiên vị, dễ xa cách cha mẹ anh em.
– Tại Tử thì con cái ít, khổ vì con, nếu không con đầu lòng khó nuôi hoặc mất sớm.
– Tại Phụ Mẫu thì cha mẹ bỏ cố hương, sống tha phương cầu thực.
– Kình gặp Mộc Dục thì mắc bệnh hiểm nghèo khó chữa.
– Đào Hoa gặp Mộc Dục thì nhan sắc mỹ lệ nhưng hiếu sắc.
– Tại Phu Thê rất kỵ Không Vong.
– Tại Phúc Đức hay Tử Tức gặp Hỉ Thần thì ví như cái chậu tắm cho quí tử, sinh con thông minh, thần đồng.
– NMB giải thích Mệnh có Mộc Dục thủ thì có khiếu về nghề thợ rèn, TVT giải Mệnh có Mộc Dục thủ thì thích làm dáng chưng diện. Theo TTL thì Mệnh có Mộc Dục tọa thủ, nếu không gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội họp thì tất chuyên về công nghệ, hoặc làm thợ rèn:
+ Mộc Dục liệt thủ chỉ hiếu dã dong.
+ Mộc Dục độc thủ chi hảo dã dong.
– Mệnh Mộc Dục thì tính tình lẳng lơ, không đoan chính, gặp thêm Hoa Cái đồng cung hoặc Thiên Riêu, Hoa Cái thì rất dâm dật, hoang dâm:
+ Đồng (Thiên Đồng) nhập Mệnh tính hay thay đổi,
+ Mộc (Mộc Dục) cư viên quen thói trai lơ (lẳng lơ).
+ Mộc Dục Hoa Cái thủ Mệnh hoang dâm.
+ Cái ngộ Mộc (Mộc Dục) gái nào đoan chính, Mã ngộ Không là tính phiêu bồng
+ Tấu Thư Hoa Cái thanh kỳ, Mộc (Mộc Dục) Riêu Hoa Cái ắt thì dâm bôn.
– Thiên Tướng gặp Văn Khúc, Mộc Dục hội cùng Hoa Cái hoặc Ðào Hoa thì xinh đẹp nhưng đa tình, dâm. Chú ý Hoa Cái và Đào Hoa thì không bao giờ hội họp:
+ Tướng ngộ Cái (Hoa Cái) Ðào (Ðào Hoa) Khúc (Văn Khúc) Mộc (Mộc Dục) thuần tước dâm phong.
+ Tướng và Khúc hội Đào, Mộc, Cái , Sắc khuynh thành nhưng rất dâm bôn.
+ Thiên Tướng gặp Khúc Cái Mộc Đào, Vốn là phúc trọng, tính âu đa tình.
– Mệnh Thanh Long tọa thủ gặp Mộc Dục thì được tiếng tốt.
+ Thanh Long vạn phái thừa Mộc Dục dĩ thanh quang.
– Bộ Mã Lộc rất tốt đẹp nhưng nếu bị Tuần Triệt hay gặp Tuyệt đồng cung hoặc Mộc Dục tam chiếu thì lại không còn tốt đẹp, nếu giàu có thì chết sớm nhưng nếu nghèo hèn thì lại sống lâu. Sự không tốt đẹp chủ yếu do Mã gặp Tuyệt hoặc Mộc Dục gây ra :
Mã, Lộc hãm Không Vong Tuyệt Bại,
Sợ Kiếp Không hợp Thái Tuế xung
Giầu tổn thọ, khó duyên sinh,
Phù Thân giúp Mệnh hạn hành khác nhau.
Lộc Mã ngộ Bại, Tuyệt hương
Tuế ngộ Không Kiếp là phương không lành.
– Cung Tật Ách có Mộc Dục tọa thủ thì không nên gần giếng ao sông bị chết đuối. Có người cho rằng đây là trường hợp Mộc Dục gặp Long Trì:
Làng có giếng không chẳng uống, sao Mộc tinh chiếu xuống tật cung.
Làng có giếng bỏ không chẳng uống, Sao Mộc tinh chiếu xuống (đóng ở) Tật cung.
Gần miền có giếng bỏ không, Mộc Trì (Long Trì) hẳn chiếu Tật cung phương Đoài.
– Hạn gặp Hỏa Linh, Long Trì, Mộc Dục hội họp thì đề phòng đề phòng tai nạn về lửa và nước sôi. Thiết tưởng Mộc Dục thủ gặp Long Trì, Hỏa hay Linh, thì mới có ý nghĩa này:
Hỏa Linh Long Mộc (Mộc Dục) một nhà, Lánh mình lửa cháy cùng là nước sôi
Hỏa Linh Long Mộc (Mộc Dục) sáng soi, Lánh mình lửa cháy nước sôi chớ gần
Hỏa, Trì (Long Trì) Mộc Dục thấy liền, Nước sôi lửa cháy phải khuyên giữ mình
Hỏa Linh Trì Mộc sáng soi, lánh mình lửa cháy, nước sôi chớ gần.
– Tuổi già hạn có Riêu Tướng Mộc Dục Kình Khoa Sát thì gái trai dâm đãng như Võ Hậu. TVT cho rằng Sát là sát tinh và Tướng là Tướng Quân hay Thiên Tướng:
+ Riêu Tướng Mộc (Mộc Dục) Kình Khoa Sát lão hạn dị tắc dâm loạn Võ Hậu
3. Quan Đới
– Hành Kim.
– Quan Đới Hồng Loan biểu tượng là giây thừng thắt cổ.
– Chủ chức vị, quyền thế, ham thích công danh, quyền binh, mũ mão, cân đai, ý bố, thịnh vượng, phát triển, thành công, có danh vọng, có uy nghiêm, được tôn kính, có đức độ từ bi.
– Gặp Văn Xương là đắc cách nhất
– Gặp Tử Phủ, Phá Quân, Thất Sát, Thanh Long thì hợp cách, là người văn chương thi phú từ lúc còn nhỏ tuổi.
– Thủ Mệnh thì văn chương, công danh hiển đạt, lúc nào cũng cẩn thận về y phục.
– Gặp nhiều sao mờ ám xấu xa thì gây rắc rối, phiền nhiẽu, ngăn trở mọi công việc. Gặp nhiều sát tinh, bại tinh thì ví như sợi giây thắt cổ, chủ sự trói buộc, tự tử.
– Kỵ gặp Hỏa, Linh chủ dâm đãng, tửu sắc tới lúc về già cũng còn vương vấn, nhiều duyên nợ đoạn trường, ưa thích bài bạc và hay mắc chứng đàm nhiệt.
– Lúc nhỏ không được như ý, vất vả nhưng từ trung vận trên 40 tuổi thì gặp vận may, càng về già càng huởng phúc
– Gặp Nguyệt Đức hay Thiên Đức thì có từ tâm, có tài năng, đối xử anh em rất tốt, trong xã hội được nhiều người tôn kính
– Gặp sát tinh không sao tốt cứu giải thì hay làm việc bất chính, đầu cơ tích trữ, khinh đời rồi bị phá gia bại sản, mang tiếng xấu cho cả gia đình.
– Nữ Mệnh thì dung mạo đoan chính, lấy được chồng tốt nhưng nếu gặp sao xấu thì vợ chồng sớm xa cách.
– Tại Tử thì con cái làm ăn càng ngày càng phát đạt thịnh vượn.
– NMB giải rằng Mệnh có Thanh Long gặp Quan Đới thì là người hiên ngang ở ngoài đời cũng như trong triều đình
+ Long (Thanh Long) cốt liên Quan (Quan Đới), hiên ngang lăng miếu.
4. Lâm Quan
– Hành Kim.
– Tượng thân thể là cái cổ, thủ Mệnh thì là ngưới có cổ cao và to.
– Chủ sớm làm quan, được ra vào nơi quyền quí, là tham mưu phụ tá co các người có quyền chức cao, thịnh phát, danh vọng, tài lộc phong lưu, vinh hoa, sống lâu, lương thiện, cung kính, khiêm nhường, cao thượng. Gặp nhiêu sao sáng sủa tốt đẹp thì chủ phát đạt, vui vẻ. Gặp nhiều sao mờ ám xấu xa thì chủ sự phiền nhiễu, ngăn trở mọi công việc.
– Hội với Lộc là hợp cách.
– Hội với Vũ Khúc là tốt nhất, đệ nhất cách của Lâm quan vì cùng hành Kim, sẽ gặp được nhiều cơ hội may mắn tốt đẹp. Tối kỵ đồng cung với Hỏa Linh là hãm phá, thường bị chảy máu cam, xuất huyết, đứt mạnh máu hoặc đàm nhiệt. Phu Thê: Hỏa Linh thì vợ chồng xung khắc, vợ không được chồng yêu mến, sống hẩm hiu, đây là cách của vợ thứ.
– Đồng cung với Địa Kiếp là bị bệnh tại cổ họng hoặc có thịt dư tại cổ họng.
– Hạn mà có Lâm Quan gặp Không Kiêp Hỏa Linh thì phải đề phòng các chứng bệnh kể trên, gia đình tổn hại tài lộc và vợ thứ sẽ mắc nhiều tai họa.
– Thủ Mệnh thì
+ Khoe khoang, thích làm dáng, điệu bộ, nói năng kiểu cách.
+ Có đức độ, thân ái với tất cả mọi người
+ Có tài văn học nhưng khi phát đạt vợ thường chết sớm
+ Sự nghiệp hưng vượng, gần về già thì hiển đạt
+ Thay con trưởng thừa hưởng tổ nghiêp, hoặc làm con nuôi người khác để hưởng di sản của họ
+ Gia tăng tính tửu sắc
+ Nữ Mệnh nếu là vợ chính thì thường phá vận tốt của chồng, nếu làm lẽ thì sau sẽ đoạt làm chính
– Tại Tử thì con cái hiển đạt
– Lâm Quan thủ Mệnh thì tính hay khoe khoang:
+ Mộc tinh (Mộc Dục) làm dáng ai bì, Hay khoe mình cũng bởi vì Lâm Quan
Khoe khoang là thói Lâm Quan, Tràng Sinh, Đế Vượng tính toan làm lành
5. Đế Vượng
– Hành Kim
– Tượng thân thể là cái lưng.
– Thủ Mệnh là người có lưng dài và cường tráng, gặp Hình thì lưng gù, gặp Kiếp thì lưng bị mắc mụn nhọt.
– Chủ sự sinh sản nhiều và mau chóng, thịnh đạt, thịnh vượng, danh vọng, uy quyền, mưu trí, tài học, độc lập. Gia tăng phúc thọ, giải trừ bệnh tật, tai họa, lợi ích cho cầu công danh, quyền thế, tài lộc
– Hợp với sao Vũ Khúc. Đồng cung với Vũ Khúc thì nhà cửa, ruộng vườn cao sang, danh vọng hiển quí.
– Hội với Tử Phủ, Vũ Khúc, Tả Hữu thì là người có mưu trí, có tài lãnh đao. tổ chức
– Gặp Không Kiếp thì ruộng vườn tiêu tan, tổ nghiệp không giữ được, vợ thứ hoặc con út sẽ bị hạn họa (VVT)
– Hạn gặp Vượng hội cát tinh thì mua nhà của đất đai, có thêm vợ, bé, sinh con đẻ cái, gặp nhiều may mắn nhưng nếu gặp Không Kiếp Hỏa Linh thì là triệu chứng vợ bé và con út gặp hạn họa, tài lộc bị hao tán.
+ Uy nghi, đường bệ, vui vẻ, nhân hậu, từ thiện
+ Nghiêm trang, không chịu khuất phục, cương cường, bất khuất
+ Có tính độc lập
+ Nhiều tự ái
+ Có mưu trí, nhất là khi gặp Kình Dương
+ Là con nhà gia thế lương thiện, có danh vọng
– Đào Hoa gặp Đế Vượng thì dung nhan đẹp đẽ, ham tửu sắc, chơi bời, không lo làm ăn
– Mệnh Thân có Vượng thủ gặp Tử Vi đồng cung thì có tài lãnh đạo
– Tại Tử Tức con cái có danh vọng
– Tại Phu Thê thì vợ chồng hòa thuận, gia đạo êm ấm, con cái đầy đàn, vui vẻ, hiếu thuận, bà vợ nào cũng đảm đang.
– Khôi Vượng đồng cung thì có nhiều nốt ruồi:
Khôi ngộ Kỵ trên đầu có tật,
Vượng (Đế Vượng) ngộ Khôi thật lắm nốt ruồi.
– Cung Huynh Đệ có Đế Vượng gặp Thai và Tướng Quân hội họp thì có anh em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Chú ý Đế Vượng và Thai luôn xung chiếu với nhau:
Đế Vượng ngộ Thai soi cùng Tướng, có dị bào trong áng đệ huynh
Đế Vượng ngộ Thai soi cùng Tướng (Tướng Quân), Có dị bào trong áng Đệ Huynh (hai đám anh em)
– Mệnh có Tử Tướng tại Thìn Tuất, Thân có Phá Quân gặp Đế Vượng Kình Dương thì có nhiều mưu mẹo (do Đế Vượng Kình Dương), gian hùng và xảo quyệt (do Phá Quân)
+ Tử Vi Thiên Tướng, Thân phùng Phá (cung Thân, đối lại là cung Mệnh, có Phá Quân), kiêm ngộ Vượng (Đế Vượng) Kình đa mưu yếm trá.
– Tham Lang tại Hợi và Tí gặp Quyền Vượng thì chuyển xấu thành tốt, trở nên thật thà trung hậu giữ lời hứa thay vì là người dối trá, tuổi Giáp Kỷ giàu có và có danh vọng trọn vẹn. Chú ý tuổi Giáp Liêm Tham tại Tỵ có Khoa Quyền Lộc Song Hao Khôi Thiên Phúc Lưu Hà Đà hãm, tại Hợi thì có Khoa Quyền Lộc Song Hao Thiên Quan Thiên Việt Đường Phù, Kình cư Mão. Tuổi Kỷ Liêm Tham tại Tỵ có Quyền Hóa Lộc Đà đắc, Thiên Quan Hao LNVT và tại Hợi có Quyền Hóa Lộc Đường Phù Hao, Kình Đà đắc:
Tham Lang Hợi Tí, hạnh phùng Quyền Vượng, biến hư thành thực, ư Giáp Kỷ tuế phú danh viên mãn.
– Thiên Tướng tại Mão gặp Sinh Vượng Ðào Hồng Tả Hữu Quyền Xương hội họp thì mặt xinh đẹp mà võ nghệ rất giỏi, hạn gặp Phá Ðà Kình thì như Lã Bố vi dâm ô mà chết:
+ Tướng lâm Chấn địa (cung Mão) Sinh Vượng Ðào Hồng Tả Hữu Quyền Xương diện hoa vũ bá (mặt xinh đẹp mà võ nghệ rất giỏi) vận phùng (hạn gặp) Phá Ðà Kình Kiếp Lã Bố do dâm mãn kiếp (Lã Bố vi dâm ô mà chết).
6. Suy
– Hành Thủy (TTL), Kim (VVT)
– Chủ sa sút, suy bại, không thịnh đạt, yếu đuối, hèn kém, ôn thuận, đạm bạc, yếu đuối, tinh thần suy nhược, bất định, phá tán tài sản, tai ách, lỡ duyên.
– Suy là sắc tía, tượng huy hiệu và bố tử của các bộ triều phục (quần áo mặc khi vào triều).
– Chủ về mỹ thuật, nhất là ngành ca vũ, hội với Lộc Tồn là những vũ công danh tài, hội thêm Song Lộc là cách phú túc, tài lộc cự vạn.
– Suy tại Thìn Tuất hội với Cự Môn là đắc cách nhất.
– Đồng cung với Tử Phủ ví như quần áo có thêu hoa cho đẹp đẽ hơn, thiếu niên có tài về văn chương và phú túc.
– Suy hội với Cơ, Lương hãm địa gặp Hỏa Linh, Không Kiếp thì làm nghề trộm cắp, móc túi rất lợi hại, nếu hạn mà gặp thì phải đề phòng bị trộm cắp.
– Sinh tại gia đình suy bại, xa cách họ hàng, về già làm ăn càng suy kém. Sớm xa cha mẹ, vợ chồng xung khắc, ly hương, lao khổ
– Nữ Mênh thì bề ngoài hiền lành nhưng trong bụng khinh người, không tử tế với cha mẹ chồng
– Tại Tử thì khổ vì con, con cái bất hiếu
– Tại Phu Thê gặp sao xấu thì vợ chồng dễ ly biệt
– Cung Phúc tại Tí, Hợi có Tử Vi tọa thủ gặp Kiếp Kình Suy Triệt thì là người gian ác, con du đãng, cả đời khó tránh tai họa:
Phúc tại Thủy cung Đế (Tử Vi) cư, Kiếp Kình Suy Triệt giá lâm, ác nhân, đãng tử, mãn kiếp nan toàn.
7. Bệnh
– Hành Hỏa
– Chủ bệnh tật, đau yếu, suy nhược, buồn rầu, khờ khạo, hay nhầm lẫn, hư nhược, tật bệnh, lao khổ, xa lánh họ hàng
– Bệnh, Tử cư Mệnh hãm thì người hình dáng hơi ốm, da xám, mắt có quầng đen.
– Bệnh và Tử rất hợp với sao Liêm Trinh, gặp Liêm Trinh miếu thì thường thiên về võ nghiệp và có quyền binh.
– Bệnh và Tử gặp Vũ Khúc, Thiên Tướng hãm địa thì phái nam hay mắc tai nạn binh đao, bị hình thương tàn tật, phái nữ bị xảy thai, sinh thiếu tháng.
– Bệnh và Tử gặp Hình thì thường bị lao, kinh phong, phong cùi.
– Hạn có Bệnh Tử gặp Song Hao, Bệnh Phù, Tang Hổ thì khó thoát bệnh tật hình thương.
– Tật Ách có Bệnh hay Tử gặp Song Hao, Tang Hổ, Khốc Hư, Bệnh Phù không có Tuần Triệt án ngữ thì sẽ mắc bệnh nan y.
– Lúc nhỏ hay mắc bệnh hiểm nghèo, sớm xa cách cha mẹ, tình đắu trắc trở, về già thì làm ăn thất bại, lo buồn, gia đình bất hòa, hay đau ốm.
– Nữ Mệnh tính tình ôn thuận, nhưng nửa đời người vợ chồng ly biệt, bị chồng ruồng bỏ hoặc chồng làm ăn thất bại
– Tại Tử thì con ít, con hay đau ốm.
– Kình gặp Tử đồng cung hay Tuyệt tam chiếu thì tính tình nóng nảy, hung bạo
– Đào Hoa gặp Tử đồng cung hoặc Tuyệt tam chiếu thì quỉ quyệt, xảo ngôn, hoang dâm, du đãng, vong ơn bội nghĩa
8. Tử
– Hành Thủy (TTL), Hỏa (VVT)
– Chủ sự chết chóc, tang thương, sầu thảm, chiết giảm phúc thọ, lao khổ, không cả quyết, bệnh hoạn, không có khí phách, vợ chồng phân ly.
– Thâm trầm kín đáo. Hay suy nghĩ sâu xa, đa sầu đa cảm.
– Lúc nhỏ mắc bệnh hiểm nghèo, xa cách cha mẹ. Khó có con, vợ chồng ốm đau hoặc chia ly.
– Làm việc không bao giờ vừa ý, bỏ dở nửa chừng. Suốt đời lao khổ
– Nữ Mệnh vợ chồng sớm ly biệt, hai ba đời chồng, gặp sát tinh hay gặp tai họa, con cái hư hỏng
– Tại Tử Tức con cái ít, không giúp ích được cha mẹ, nên có con nuôi
– Tại Huynh đệ thì xa cách anh em hoặc ít anh em
– Điền hay Tài gặp Tử thủ thì là người biết giữ của, có tiền bạc kim ngân chôn dấu.
– Kình gặp Tử đồng cung hay Tuyệt tam chiếu thì tính tình nóng nảy, hung bạo.
– Đào Hoa gặp Tử đồng cung hoặc Tuyệt tam chiếu thì quỉ quyệt, xảo ngôn, hoang dâm, du đãng, vong ơn bội nghĩa
– Cung Phúc Đức có Tướng hay Binh (Tướng Quân và Phục Binh xung chiếu với nhau) gặp Tử hay Tuyệt đồng cung thì trong họ có người chết trận, chết về binh đao, theo Nguyễn Mạnh Bào thì người trong họ hàng phải lo chinh chiến:
+ Họ hàng có kẻ binh đao, Tướng Binh Tử Tuyệt đóng vào Phúc cung
+ Họ hàng có kẻ binh đao, Tướng (Tướng Quân) Binh Tử Tuyệt đóng vào phúc cung
+ Họ hàng có kẻ binh đao, Tướng Tuyệt Tử Phục lâm vào phúc cung
+ Người tộc thuộc phải lo chinh chiến, Tướng, Phục Binh, Tử, Tuyệt Phúc cung
– Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng, hạn gặp Thiên La Cự Môn Thiên Đồng có Tử thủ hay Tuyệt chiếu lại có sát tinh thì như Quan Hầu, tức Quan Vân Trường, chết thảm nơi trận mạc. Chú ý Tử Vi Tí Ngọ mới có Cự Đồng hãm đồng cung tại Sửu Mùi, và Tử Phủ Dần mới có Cự Đồng hãm tam chiếu với nhau tại Tỵ Dậu, Tuyệt chỉ an tại Dần Thân Tỵ Hợi và không bao giờ Tử và Tuyệt tam hợp xung chiếu:
+ Mệnh đắc Tử Phủ Vũ Tướng hạn đáo Thiên La Tử Tuyệt Cự (Cự Môn) Đồng (Thiên Đồng) Sát diệu (Sát tinh) lai xâm, ngộ địa sa trường, Quan Hầu táng Mệnh
– Cung Phúc có Đồng Âm tại Tí Ngọ gặp Kiếp, Tử, Triệt, Tuần thì là người có học nhưng không có lương tâm, bất chính, không nghèo hèn thì chết non:
+ Phúc tại Tí Ngọ Đồng Âm Kiếp Tử (sao Tử) đãn hiềm Triệt Tuần, hữu học vô lương, tiện cách (21)
9. MỘ
– Hành Thổ
– Chủ sự lầm lẫn, chôn cất, ngu si, đần độn, u mê (VVT), suy bại, bần hàn, lo buồn, lao khổ, xa gia đình, duyên phận bạc bẽo
– Gặp Phá Quân tại Thìn Tuất Sửu Mùi là hợp cách. Phá Quân đồng cung với Mộ thì được Mộ khắc chế được tính hung ác, ưa giết chóc, sát phạt mà hoàn lương lại cho Phá Quân
– Đồng cung với Xương Khúc tại Thìn Tuất Sửu Mùi thì là người có cơ mưu, học nhiều, đa tài, phú quí
– Gặp Hỏa Linh, Không Kiếp tam hợp, xung phá thì nghèo túng, nợ nần, con trai thứ ba, con gái thứ hai sẽ cô đơn, khổ cực, vợ thứ ba khó tránh được hạn họa
– Sớm xa gia đình, thay đổi chỗ ở. Lúc nhỏ hay ốm đau gầy yếu, bất hòa với cha mẹ, anh em, nghèo hèn. Gần về già thì làm ăn khá hơn nhưng hay lo buồn. Lập gia đình hai lần. Nữ Mệnh thì vợ chồng bất hòa, dễ ly dị.
– Tại Tử thì con cái ít, khổ vì con
– Tại Phúc ở Tứ Mộ thì rất rực rỡ, tốt đẹp, trong họ có âm phần đã kết phát, ba bốn đời giàu sang vinh hiển
– Gặp Tài tinh thì là người keo bẩn, coi trọng tiền của, không dám chi tiêu ăn xài, bo bo giữ của vì Mộ là chôn cất, giấu đi
Vì Mộ là chôn vùi nên có đặc điểm là khi tọa thủ tại cung Phúc Đức thì lại hợp cách, chủ về mồ mả kết phát
– Mệnh có Thai hay Mộ thì tuy có học nhưng không đỗ đạt:
+ Thai tinh, Mộ diệu đa học thiểu thành
– Mệnh có Mộ thì đầu óc không sáng suốt, trì trệ nhưng nếu gặp Tuần Triệt thì lại thông minh
+ Mộ ám tế, Thai đa (nhiều) mê hoặc,
+ Mộc Dục hay trang sức văn hoa (hay chưng diện)
– Chú ý các câu phú liên quan đến Mộ thường có hai khuynh hướng giải thích: Mộ là sao Mộ hoặc Mộ là Tứ Mộ, tức là bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi. Bốn cung này là nơi các bộ sao Tả Hữu, Xương Khúc, Long Phượng, Thai Tọa, Quang Quí thủ đồng cung
Sao Mộ tại Tứ Mộ lại gặp Tam Thai Bát Tọa thì là người có tài và có danh, nổi tiếng nhưng theo Nguyễn Mạnh Bảo thì Thai Tọa tại Tứ Mộ cung thì văn võ toàn tài:
+ Thai Mệnh đa học thiểu thành (học nhiều nhưng không thành công),
+ Mộ gặp Thai Tọa hiển danh anh tài
+ Mộ Thai Tọa võ văn xuất chúng,
+ Ngọ (cung Ngọ) Khoa Quyền nhậm trọng phiên hàn
– Hạn gặp sao Mộ tọa thủ đồng cung với Thái Dương thì cha đau nặng hoặc chết:
Mộ Tinh ngộ Nhật, thân phụ nan toàn
– Theo Nguyễn Mạnh Bảo thì cung Quan Lộc hay Mệnh ở cung Mộ có Tả Hữu củng chiếu hay thủ thì làm quan cao chức trọng thăng quan tiến chức luôn):
+ Mộ phương (phùng) Tả Hữu đồng lai,
Thăng quan tiến chức miếu đài nổi danh
– Hạn có Cự hoặc Vũ sáng sủa gặp Hóa Quyền hay Mộ gặp Thai Tọa thì công danh thuận lợi, thăng tiến:
+ Tiểu hạn Cự Vũ Hóa Quyền,
Hoặc Mộ (sao Mộ) Tả Hữu ấy miền thăng vinh
– Hóa Lộc là sao tốt đẹp nhưng cư ở Tứ Mộ Thìn Tuất Sửu Mùi thì bị chôn vùi, làm giảm tính chất tốt đẹp nên không thể giàu có lớn được, nhưng nếu Mệnh cư Tứ Mộ có Vũ, Tham gặp Lộc thì lại tốt, trở nên giàu có, nhưng phải ngoài 30 mới tốt, nếu phát sớm thì không bền. NMB thì giải thích rằng Hóa Lộc ở Mộ địa thì lại là buồn rầu:
+ Hóa Lộc hoàn vi hảo, hưu hướng Mộ trung tàng.
– Hóa Lộc thì tốt nhưng nếu cư tại Thìn Tuất Sửu Mùi thì lại đáng buồn bì tại vị trí này bị giảm rất nhiều tốt đẹp. TVT giải rằng Hóa Lộc thì tốt nhưng nếu cư ơ Tứ Mộ thì là người có nét măt buồn rầu
+ Hóa Lộc hoàn vi hảo, nhược cư Mộ địa dĩ tắng bi.
– Phúc tại cung Mão có Tử Vi Tham Lang hoặc Tướng Thiên Phủ nếu gặp cát tinh, Tam Hóa thì hưởng phúc bền bỉ, nhưng nếu gặp Triệt Tuần Không Kiếp Kình Đà Mộ thì gặp tai nạn về gươm giáo, mộ của đàn ông bị thất lạc:
+ Phúc thọ Chấn cung, Đế (Tử Vi) Tham Tướng Phủ hạnh phùng cát tú, Tam Hóa giá lâm (mừng gặp Cát tinh, Tam Hóa) phúc tăng bất tuyệt (hưởng phúc bền bỉ), hựu kiến Triệt Tuần, Tứ Sát (sợ gặp Triệt Tuần Không Kiếp Kình Đà) Mộ tinh (sao Mộ), tất hữu đao thương chi ách (thì gặp tai nạn về gươm giáo), dương mộ lạc di (mộ của đàn ông bị thất lạc).
– Phúc tại cung Mùi có Tứ sát (Không Kiếp Kình Đà) Mộ, lại là tuổi Kỷ mạng Thổ, lại gặp sát tinh cư chiếu, Hóa Kỵ, Lưu Hà thì chết vì sông nước nhưng nếu gặp Sinh Vượng, Long Khoa thì là người đánh cá có tài, gặp Quyền Hình thì là quan tòa coi về phát luật:
+ Phúc tọa Đỉnh Sơn (cung Mùi) Tứ sát (Không Kiếp Kình Đà) đồng cư Mộ diệu (sao Mộ), lai Kỷ nhân sinh Mộ (lại là tuổi Kỷ mạng Thổ), đa cư triều sát diệu (gặp sát tinh cư chiếu), Kỵ (Hóa Kỵ), Lưu (Lưu Hà) giang đồ ngộ sát (chết vì sông nước), hạnh kiêm Sinh Vượng, Long Khoa hiển tài ngư phủ (là người đánh cá có tài) Quyền Hình tọa củng thừa hành án pháp (quan tòa coi về phát luật)
– Cung Phúc Đức tại Sửu có Vũ Tham tọa thủ có Tả Hữu, Long Phượng, Mộ, Bát Tọa thì trong họ con trai làm nên danh giá, gặp Khoa Quyền Lộc, Bạch Hổ , Riêu thì con gái lưu lạc giang hồ mà làm nên danh giá:
+ Phúc (cung Phúc Đức) tại Sửu cung, cư tọa Tham Vũ, diệc cần Tả Hữu Phượng Long (Long Trì) Mộ Tọa (Bát Tọa) nam hiển danh tài , lai (gặp) Tam Hóa (Khoa Quyền Lộc) Hổ (Bạch Hổ) Riêu Nữ tất giang hồ hiển hách danh giá.
– Cung Phúc Đức có Tham Vũ đồng cung gặp Mộ thì bốn đời được hiển vinh, bản thân cũng làm nên danh giá. Đây là trường hợp Mệnh Tử Vi Thất Sát tại Tỵ Hợi
+ Tham Vũ đồng hành cư Phúc hạnh phùng Mộ tinh (mừng gặp sao Mộ), tứ đại hiển vinh.
10. Tuyệt
– Hành Thổ (TTL), Hỏa (VVT)
– Chủ sự bại hoại, khô cằn, tiêu tan, làm bế tắc mọi công việc, chiết giảm phúc thọ, thăng trầm, đoạn tuyệt, hiếu sắc, xa cách người thân, sống cô độc, không giữ lời hứa, phá sản
– Mệnh có Tuyệt tọa thủ thì khôn ngoan, đa mưu túc trí
– Tuyệt tương hợp với Hóa Lộc thì đắc cách. Tuyệt cư Tí Ngọ hội Song Lộc thì thông minh, phát phúc, có văn học mà quí hiển. Chú ý VVT an vòng Tràng Sinh theo kiểu khác mới có trường hợp Tuyệt tại Tí Ngọ
– Gặp Vũ Khúc, Phá Quân thì cha con bất hòa, vợ chồng ly biệt, trai thì lãng đãng rong chơi, gái thì đa dâm, vợ cả và vợ hai tư tình thông gian
– Tại Tử thì rất kỵ gặp. Hội với Cô Quả ở Tử Từc thi là cách về già không có con hay là cách hữu sinh vô dưỡng
– Xa quê hương lập nghiệp, họ hàng ly tán.Sống cô độc. Làm việc hay thất bại. Hay thất tín, không giữ lời hứa. Vì gái đẹp mà chết
– Nữ Mệnh hay trách mắng người khác, kèn cựa, không thực lòng yêu chồng, vợ chồng xung khắc bất hòa
– Tại Tử thì ít con
– Kình gặp Tử đồng cung hay Tuyệt tam chiếu thì tính tình nóng nảy, hung bạo
– Đào Hoa gặp Tử đồng cung hoặc Tuyệt tam chiếu thì quỉ quyệt, xảo ngôn, hoang dâm, du đãng, vong ơn bội nghĩa
– Mã Tuyệt đồng cung thì như ngựa hết đường chạy, chủ sự bế tắc, thất bại:
Mã cùng sao Tuyệt một nhà, Cùng Đồ Mã ấy thật là vô phương
Mã kia Tuyệt địa một nhà, Cùng Đồ Mã ấy thiệt là vô phương
– Bộ Mã Lộc rất tốt đẹp nhưng nếu bị Tuần Triệt hay gặp Tuyệt đồng cung hoặc Mộc Dục tam chiếu thì lại không còn tốt đẹp, nếu giàu có thì chết sớm nhưng nếu nghèo hèn thì lại sống lâu:
Mã, Lộc hãm Không Vong Tuyệt Bại,
Sợ Kiếp Không hợp Thái Tuế xung
Giầu tổn thọ, khó duyên sinh,
Phù Thân giúp Mệnh hạn hành khác nhau
Lộc Mã ngộ Bại, Tuyệt hương (ở Bại Địa, Tuyệt Địa)
Tuế ngộ Không Kiếp là phương không lành
Kình Dương ngộ Tuyệt ở chốn hãm thì chết non:
Dương Nhận ngộ Tuyệt tinh chốn hãm,
Công cù lao bú mớn như không
Thất Sát Hình Kỵ gặp Tuyệt thì chết non:
Tuyệt ngộ Thất Sát, Kỵ, Hình,
Thiếu niên yểu triết như hình Nhan Uyên
– Cung Phúc Đức có Tướng Binh gặp Tử hay Tuyệt thì trong họ có người chết trận, chết về binh đao
+ Họ hàng có kẻ binh đao, Tướng Binh Tử Tuyệt đóng vào Phúc cung
+ Họ hàng có kẻ binh đao, Tướng (Tướng Quân) Binh Tử Tuyệt đóng vào phúc cung
+ Người tộc thuộc phải lo chinh chiến, Tướng, Phục Binh, Tử, Tuyệt Phúc cung (cung Phúc có thì người trong họ hàng phải lo chinh chiến)
+ Họ hàng có kẻ binh đao, Tướng Tuyệt Tử Phục lâm vào phúc cung
– Tử Vi Thất Sát tại cung Tỵ thì ví như vua mang kiếm báu tất nhiên có uy quyền và phú quí, gặp Hỏa Tinh, Tuyệt hội họp thì người khát máu, tàn nhẫn, hay giết người, nhưng lại gặp thêm Bật Khoa Mã Ấn Tràng Sinh, Hồng Loan thì lập được chiến công thần kỳ, là Ðại Tướng
+ Sát Tử (Tử Vi Thất Sát) Tốn cung (cung Tỵ) Ðế huề bảo kiếm, Hỏa (Hỏa Tinh) Tuyệt nhập xâm, đa sát chi nhân, hạnh ngộ Bật Khoa Mã Ấn Sinh Hồng di lập chiến công vi Ðại Tướng (TTL)
– TTL cho rằng Mệnh an tại Tuyệt địa có Thất Sát tọa thủ gặp Kình Đà hội hợp thì như Nhan Hồi bị chết sớm
+ Sát (Thất Sát) lâm (ở tại) Tuyệt Ðịa hội Dương Ðà, Nhan Hồi yểu triết (TTL)
– Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng, hạn gặp Thiên La Cự Môn Thiên Đồng có Tử thủ hay Tuyệt chiếu lại có sát tinh thì như Quan Hầu, tức Quan Vân Trường, chết thảm nơi trận mạc. Chú ý Tử Vi Tí Ngọ mới có Cự Đồng hãm đồng cung tại Sửu Mùi, và Tử Phủ Dần mới có Cự Đồng hãm tam chiếu với nhau tại Tỵ Dậu, Tuyệt chỉ an tại Dần Thân Tỵ Hợi và không bao giờ Tử và Tuyệt tam hợp xung chiếu:
+ Mệnh đắc Tử Phủ Vũ Tướng hạn đáo Thiên La Tử Tuyệt Cự (Cự Môn) Đồng (Thiên Đồng) Sát diệu (Sát tinh) lai xâm, ngộ địa sa trường, Quan Hầu táng Mệnh
– Phúc cư Tuất gặp Tả Hữu, Hồng Quyền, Tử Vi Thiên Phủ thì mồ mả rất đẹp, kết phát, tạo nên những sự nghiệp kỳ dị, sợ gặp Cự Đồng, Kiếp Tuyệt Xương Linh thì mộ phần đưa đến nhiều người tàn tật, nghèo hèn, không có cửa nào mà tránh được
+ Phúc cư Địa Võng (cư Tuất), hạnh phùng Phù Bật, Hồng Quyền Tử Phủ (Tử Vi Thiên Phủ) mồ tinh vi tối hảo (mồ mả rất đẹp), âm công hoạnh phát (mồ mả kết phát) kiến công lập nghiệp dị thành (tạo nên những sự nghiệp kỳ dị), khủng kiến (sợ gặp) Cự Đồng, Kiếp Tuyệt Xương Linh mộ phần đa phát tật nguyền (mộ phần đưa đến nhiều người tàn tật), bần cách (nghèo hèn) vô môn khả đáo (không có cửa nào mà tránh được)
11. Thai
– Hành Thổ
– Chủ sự giao hợp, thụ thai, sinh nở, ng* d*t, mê muội, hay nhầm lẫn, chơi bời, đần độn, dễ bị mê hoặc, không cả quyết, hay bị thai đổi công việc, khắc hãm vợ
– Thai tọa thủ bất cứ cung nào gặp tuần Triệt án ngữ hay gặp nhiều sát tinh, bại tinh hội họp thì mới sinh ra đã hay đau yếu, thường sinh thiếu tháng
– Thuở nhỏ hay ốm yếu, khổ cực, trung niên thì vất vả nhưng sức khoẻ thăng tiến. công việc làm thay đổi luôn, về già mới được an nhàn nhưng hay buồn phiền về thân tộc, họ hàng tranh chấp. Khắc với cha mẹ, anh em. Không cả quyết, tinh thần dễ bị mê loạn
– Nữ Mệnh thì dễ đối nghịch với cha mẹ chồng, nội trợ kém
– Tại Tử thì con ăn chơi phóng đãng, không thích hành nghề của cha
– Mệnh có Thai thủ thì học nhiều nhưng không thành đạt:
+ Thai lâm Mệnh vị, đa học thiểu thành
+ Thai tinh, Mộ diệu đa học thiểu thành
Kìa ai nhiều học ít nên, Sao Thai ở Mệnh hay quên hay nhầm
Thai Mệnh đa học thiểu thành,
Mộ gặp Thai Tọa hiển danh anh tài (Sao Mộ tại Tứ Mộ lại gặp Tam Thai Bát Tọa)
– Hạn gặp Kình Riêu Hoa Cái Thai Đà hội họp thì đề phòng bị bệnh đậu mùa hoặc bị rổ mặt:
+ Kình Riêu Hoa Cái Thai Đà, vận phùng năm ấy đậu hoa phải phòng
– TVT giải rằng nữ Mệnh có Thai thủ gặp Đào Hoa Kiếp Sát thì hiếm con
+ Nữ Mệnh Thai Đào phùng Kiếp (Kiếp Sát) gián đoạn tử cung (tại cung Tử Tức thì hiếm con)
– Có Thai thủ gặp Kiếp Sát tam chiếu (Kiếp Sát lúc nào cũng tại Dần Thân Tỵ Hợi) thì sanh đẻ khó khăn:
+ Thai phùng Kiếp Sát tu phòng sinh sản
– TVT cho rằng tại Mệnh, Tật hay Tử Tức có Thai gặp Kiếp Sát, Mộc Dục thì sanh đẻ khó khăn cần đề phòng. Chú ý Thai không tam hợp xung chiếu với Mộc Dục, chỉ nhị hợp với Mộc Dục khi Thai tại Hợi
+ Thai phùng Sát, Dục (Mộc Dục) tu phòng sản phụ
– Phu Thê có Thai thủ gặp Đào thì vợ chồng đi lại ăn ở với nhau rồi mới lấy nhau. (VVT cho rằng Thai thủ hay chiếu tại cung Phu Thê thì cũng có ý nghĩa như trên và cho rằng Thai không nên cư cung Nô, hội với Đào Hoa thì trong nhà không tránh được vợ hay con gái có tư tình):
+ Thai Tinh (sao Thai) mà gặp Đào Hoa, tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng
+ Sao Thai lại gặp Đào Hoa, Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng
+ Sao Thai lại gặp Đào Hoa, Trước êm loan gối, sau hòa phụng chiêm
– Phục Tướng hội với Đào, Hồng, Thai hoặc Thiên Hỉ thì là cách dâm đãng, ăn chơi, trai gái nguyệt hoa bừa bãi, có người cho rằng bị chửa hoang hoặc bị hiếp:
+ Đào Hồng Thai Hỉ trong soi, Ngoại gia Binh Tướng gái trai ngang tàng
+ Đào Hoa, Thai, Hỉ trong soi, Ngoài ra Binh, Tướng ả vui hoang tàng (QXT, chị em gái bất chính)
+ Thai Binh Tướng Đào Hồng tương hợp, Chẳng chửa hoang bị hiếp bất ngờ
Đào Hồng Riêu Hỉ trong ngoài, Lại gia Binh Tướng gái trai hoang tàng
Đào Hồng Thai Hỉ (Thiên Hỉ) trong soi, ngoài gia Binh Tướng (Tướng Quân) gái trai ngang tàng
+ Cung Tử có Thai Tướng Phục Binh thì vợ chồng đã ăn ở với nhau rồi mới lấy nhau. TVT giải rằng vợ chồng đã có con riêng rồi mới lấy nhau. QXT ghi rằng cùng có con riêng hoặc có chửa rồi mới cưới xin
Tử cung Thai Tướng Phục Binh, vợ chồng ắt đã tư sinh thuở nào
Tử cung Thai, Tướng, Phục Binh,
Hủy xà mông trước, tước bình mấy thu (không rõ ý nghĩa)
Tử cung Thai, Tướng, Phục Binh, Vợ chồng ắt đã tư sinh thuở nào
– Thai đồng cung với Phục Binh hay Tướng Quân (Phục Binh và Tướng Quân luôn luôn xung chiếu với nhau) gặp Đào Hồng thì hoặc bị chửa hoang, hoặc bị hiếp:
Thai Binh Tướng Đào Hồng tương hợp,
Chẳng chửa hoang bị hiếp bất ngờ
– Huynh Đệ có Đế Vượng hoặc Thai thủ gặp Tướng quân thì có anh em khác cha khác mẹ. Chú ý Đế Vượng và Thai xung chiếu nhau:
Đế Vượng ngộ Thai soi cùng Tướng (Tướng Quân),
Có dị bào trong áng Đệ Huynh (hai đám anh em)
Đế Vượng ngộ Thai soi cùng Tướng, có dị bào trong áng đệ huynh
– Tử Tức có Thai tọa thủ gặp Tả Hữu thì có con giòng vợ nhỏ
Thai phùng Tả Hữu hội cung, Nam nhân ắt có con dòng thiếp thê
Thai ngộ Tả Hữu hội đồng, Ắt sinh có kẻ con giòng tiểu tinh
– Tử Tức có Thai gặp Hỏa hay Linh thì buồn phiền vì sinh con quái thai
Tử cung Thai ngộ Hỏa Linh, bào thai những giống yêu tinh muộn phiền
Tử cung Thai ngộ Hỏa Linh, Bào thai những giống yêu tinh quỉ sầu
– Thai Hổ đồng cung thì đề phòng xảy thai, bị băng huyết:
Tật cung Thai Hổ huyết băng,
Tấu Thư Hoa Cái mệnh phùng thanh cao
– Hạn có Thai phùng Đào Hỉ thì có con. Theo TVT thì Hỉ là Thiên Hỉ
Thai phùng Đào Hỉ vận này, vợ chồng mừng đã đến ngày nở hoa (hạn sanh con)
Thai phùng Đào Hỉ vận này, Vợ chồng mừng đã đến ngày nở hoa
Thai tinh, Long (Thanh Long), Hỉ vận này, Vợ thời thai dựng đến ngày khai hoa
Thai phùng Long Hỉ vận này, Vợ mình ắt đã đến ngày nở hoa
Thanh Long, Thai, Hỉ hợp miền, Vợ đi thai nghén khá xem phúc nhà
Thêm đinh ấy Thai cùng Phi (Phi Liêm) Hỉ,
Lên đậu năm Cái tỵ Dương Đà (hạn Hoa Cái gặp Dương Đà thì mắc bệnh đậu)
– Cung Tử Tức có Thai thủ gặp Thái Âm thì cần phải cầu tự mới có con
Thai tinh ngộ Thái Âm cung Tử, hẳn rằng con cầu tự mới sinh
Sao Thai ngộ Thái Âm cung Tử, Con ắt là cầu tự mới sinh
– Mệnh có Phá Quân, Tướng Quân, Thai tọa thủ, cung Thiên Di có Phục Binh và Đào Hồng thì đàn ông là người dâm loạn, đàn bà ăn chơi trắc nết, tư thông bị người chê cười. Tướng ở đây nên hiểu là Tướng Quân vì Tướng Quân và Phục Binh xung chiếu thành ra mếnh có Tướng Quân thì Di có Phục Binh:
+ Tướng Phá (Phá Quân) Phục nội tàng Thai diệu, Ngoài Đào, Hồng tú (sao Hồng Loan) chiếu Thiên Di. Có người dâm dục thị phi, Tư thông chi để kẻ chê người cười
Tướng Phá Phục nội tàng Thai diệu, ngoại Hồng Đào tu chiếu Thiên Di. Nam nhân dâm dục thị phi, nữ nhân tắc kỷ kẻ chê người cười
Tướng, Phá, Phục trong làng Thai diệu, Ngoài Đào, Hồng, Hoa Cái, Thiên Di. Có người dâm dục thị phi, Tư thông chi để kẻ chê người cười
12. Dưỡng
– Hành Mộc
– Ví như án thư (cái bàn học) của người làm việc
– Chủ sự phù trì, nuôi nấng, chăm chỉ, cẩn thận, khắc vợ con, ham sắc dục, làm con nuôi, xa gia đình. Gặp cát tinh thì phù trì thêm tốt đẹp
– Gặp Hỏa Linh, Không Kiếp thì làm con nuôi họ khác hoặc là những người hay thay đôi tên họ, có nhiều bí danh.
– Tọa thủ tại Mệnh thì được nhiều người yêu mến, nuôi súc vật rất dễ dàng
– Tọa thủ tại Thân thì có nhiều con
– Tọa thủ tại Mệnh, Phúc thì làm con nuôi họ khác
– Tọa thủ tại Tật gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội họp thì có nhiều bệnh tật, đau yếu lâu khỏi
– Tọa thủ tại Tử Tức thì có con nuôi
– Tọa thủ tại Huynh Đệ thì có anh chị em nuôi
– Cha hoặc bản thân là con trưởng hoặc sống xa cha mẹ. Khắc cha mẹ, không sống chung với cha mẹ. Hiếu sắc, ít khi một đời vợ hay chồng. Vì ham mê sắc dục mà phá sản
– Hiếm con, khắc chồng vợ. Nếu thuở bé được người ngoài nuôi dưỡng hoặc làm con nuôi thì tốt. Về già được con cái nuôi hoặc nhờ vả được con nuôi
– Tử Tức có Dưỡng thủ thì rất tốt, có con quí tử, theo Nguyễn Mạnh Bảo thì Hỉ Thần gặp Dưỡng thì con quí tử, hiền lương nhưng có người cho rằng hỉ có nghĩa là mừng gặp:
Dưỡng hỉ lâm ư Tử Tức tất sanh con quí tử
Hỉ Thần ngộ Dưỡng cát sương, Ắt sinh quí tử hiền lương tốt lành
– Tử Tức không có chính diệu đắc Tam không, có cát diệu lại có sao Dưỡng thì có con nuôi:
Tam không chiếu nội t*o cát diệu, Lại Dưỡng tinh có đạo con nuôi
Tam không, gia nội t*o cát diệu, Ngộ Dưỡng tinh cũng nẻo con nuôi
Các câu phú cần xét lại:
Nhật Mộc (Mộc Dục) Mã tại Tỵ cung,
Trường Sinh Phụ Bật hợp cùng: phú vinh
Bằng gặp Tướng Ấn: binh hùng,
Phải thời loạn thế mới thành công to
Mệnh Hóa Kỵ Tật Mộc thần (Mộc Dục),
Âm nang sa thấp một phân chẳng lầm
Mệnh viên Kỵ Tật Hỉ Thần,
Âm hư, trĩ lậu mười phân chẳng lầm
(bị bệnh sa tử cung)
Thiên Cơ ngộ hãm chẳng hay,
Ở phương địa này hiện quái Mộc tinh
Thiên Cơ ngộ Hỏa chẳng hay,
Phùng Không, Kiếp Mộc nở đầy quải lưu
(Thiên Cơ hãm địa ở phương nào thì ở phương ấy có yêu quái Mộc tinh. QXT ghi rằng Điền có Cơ ngộ Hỏa thì nhà bị cháy, có Không, Kiếp Mộc Dục ngộ Cơ thì có ma Mộc)
Bịnh (sao Bịnh) Hình, nói chẳng hở răng,
Hãm cung Phá, Tuế nói bằng sấm vang (giọng vang như sấm)
Binh, Hình nói chẳng hở răng,
Hãm cung Phá (Phá Toái), Tuế nói bằng sấm vang
Binh Hình tẩm ngẩm tầm ngầm,
Hãm cung Phá Tuế nói rầm sấm vang
(Có lẽ Binh Hình thì đúng hơn)
Bệnh đởm trí tức rất hung,
Bởi vì Tật Ách Bệnh phùng Kiếp Cơ
Bệnh lao, đàm thấp chẳng thông,
Bởi vì Tật Ách đã phùng Kiếp Cơ
Bệnh phổi, đàm, trĩ chẳng không,
Nhân vì Tật Ách lại cùng Kiếp, Cơ
(Cung Tật có sao Bệnh phùng Địa Kiếp Thiên Cơ thì mắc bệnh về gan hay thần kinh rất nguy hiểm)
Tử Tham Tả Hữu ngộ trung,
Có người con gái trốn chồng ra đi
Tử, Tang, Tả, Hữu hội trung,
Có người con gái lộn chồng tìm ra
(Tử Tham gặp Tả Hữu ở cung Mão Dậu thì là đàn bà trốn chồng bỏ con)
Tử, Tang, Tả, Hữu hội trung,
Có người con gái lộn chồng tìm ra
(không rõ Tử là Tử Vi hay sao Tử)
Trong câu phú này, Tử nên hiểu là Tử Vi:
Lộc Tồn, Tử cùng Thiên Mã hội,
Ngộ phi thường, mừng buổi phong lưu
Trong câu phú này, Tử nên hiểu là Tử Vi:
Sát phùng Tồn, Tử giải qua,
Một sao Kỵ đóng, ắt là tối tăm
Sát gặp Tồn, Tử đoán ra,
Lại sao Kỵ đóng ắt là tối tăm
Mão Thìn ngộ Triệt táo đường,
Tỵ Ngọ phùng Tuyệt cung thường ôn binh
Mão, Thìn ngộ dã dành ông Táo,
Ly (cung Ngọ), Tốn (Tỵ) phùng phải Cáo, ôn binh
(Triệt cư ở Mão Thìn thì thường có sự lôi thôi trong bếp. Cung Tỵ Ngọ gặp Tuyệt thì thường bị ôn binh đến quấy nhiễu)
Câu phú này cần xét lại vì Tang không thể gặp Đào Hồng tam hợp xung chiếu:
Phúc (cung phúc) Thai, Tang ngộ Đào Hồng,
Tôn thân có kẻ loạn phong nợ đời
Trường Sinh khi giải đoán đại hạn:
Cục là thế cuộc, hoàn cảnh mà cá nhân sinh sống, được biểu hiện bằng vòng Tràng sinh trên lá số. Vòng Tràng Sinh không những có tầm quan trọng khi giải đoán toàn bộ lá số mà cũng rất quan trọng khi luận đoán hạn, nhất là đại hạn. Tùy theo ý nghĩa và chiếu lên xuống của vòng và ý nghĩa của sao mà thấy được chiều hướng thuận lợi hay khó khăn, thành công hay thất bại, ví như được Sinh Vượng thì gặp hoàn cảnh xứng ý, cho dù gặp chính tinh mờ ám thì cũng gặp hên may cứu giải, gặp Suy Bệnh Tử Tuyệt thì gặp hoàn cảnh bất đắc ý, thời thế xuống dốc, cho dù có chính tinh sáng sủa cũng không phát mạnh được hoặc không bền, nếu có hung sát tinh xâm nhập thì dễ bị họa hại
Sinh khắc Mệnh Cục và vòng Tràng Sinh
Một số người căn cứ vào sinh khắc giữa Mệnh Cục để xác định các sao thuộc vòng Tràng Sinh cư tại đâu thì có lợi, ví dụ khi Cục khắc Mệnh thì Tràng Sinh hoặc Đế Vượng không nên cư Mệnh vì như vậy thì hành khí của Cục rât mạnh nên khắc Mệnh càng mạnh hơn, còn nếu Cục sinh Mệnh thì cần có Tràng Sinh Đế Vượng tại Mệnh thì như vậy mới phù tốt cho Mệnh được. Quan điểm này lấy tương quan sinh khắc giữa Mệnh Cục làm gốc. Nếu cho rằng cục thể hiện hoàn cảnh, thế cuộc thì ta thấy rằng Mệnh có Sinh Vượng thì cho dù Mệnh có khắc cục đi chăng nữa thì cũng tốt hơn có Suy Bệnh Tử Mộ Tuyệt .
(Sưu tầm)
Đây là bài viết về ngũ hành hỷ kỵ của bác Thiên Kỷ Quý, mình chép lên cho mọi người cùng tham khảo.
Bàn về Khí của cung theo vòng Trường Sinh.
Vấn đề thiết yếu là nắm rõ vòng Tràng sinh (Sinh, Vượng, Tử, Tuyệt) của Ngũ Hành thì có thể suy diễn bất cứ Hành nào trong 12 cung một cách rõ ràng tường tận vậy. Chúng ta chỉ nên học theo cách lập luận, chứ đừng nên xem đây là công thức tuyệt đối! Bài này chỉ có giá trí với những người có tâm huyết, căn cơ, hoặc đam mê về Tử Vi mà thôi, còn ngược lại thì chỉ là mớ chữ nghĩa vô bổ. Đối với người căn cơ thì có thể lấy nó xài cho cả Tử Vi và Bát Tự, lại còn phát huy được nghĩa lý vô cùng vô tận, còn ngược lại thì chẳng biết trân quý nó, và dù có trân quý nó, cũng chỉ là để lên bàn thờ cho vui. (Đây chỉ mới là một phần rất nhỏ mà thôi)
Tuy nhiên, từ khi học được nhiều sách của người Tàu mới hay người Việt mình sức học chẳng thấm vào đâu vì thiếu sách vỡ, thật là đau lòng cho người Việt Nam ta. Chúng ta chỉ học lại những cái Cổ Nhân để lại mà cũng không xong, đưng nói chi la phát minh ra cái gi mới lạ.
LUẬN VỀ HỈ, KỴ NGŨ HÀNH CỦA BỐN MÙA
A. Hành Mộc:
1. Hành Mộc của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, mùa Xuân mới bắt đầu nên khí hàn lạnh vẫn còn, phải dùng Hỏa (lửa) để sưởi ấm khí Thủy (nước), để dưỡng căn cơ của Mộc non; có thể dùng Thổ nhưng không được quá nhiều, Kỵ nhất bị Kim làm tổn thường mầm non của Mộc.
2. Mộc của tháng Hai: Khí của tháng Hai, khí lạnh bắt đầu diệu bớt nên có Hỏa là quý, thứ đến là Thủy, hoặc có thể dùng Thổ để điều tiết, Kỵ Kim khắc mầm non của Mộc.
3. Mộc của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Dương khí bắt đầu nóng nên cần phải có Thủy, nhưng Thủy, Hỏa cần phải dung hòa thích nghi. Nếu Mệnh trong lá số thiếu khí Hỏa, thì Hỉ Kim (mừng gặp được Kim); trên nguyên tắc Kỵ gặp Kim quá mạnh.
4. Mộc của tháng Tư: Khí của tháng Tư, khí Hỏa bắt đầu vượng mà khí Mộc bắt đầu suy, nên Hỉ Thủy nhuận căn (mừng gặp Thủy để tưới nhuần gốc mộc), kỵ gặp nhiều Hỏa, nhưng bất hỉ táo Thổ (gặp đất khô không hay), nếu Thổ ướt thì vô hại. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước (vì Kim sinh Thủy).
5. Mộc của tháng Năm: Khí của tháng Năm, khí Hỏa cực thịnh gốc khô lá già, rất cần nhiều Thủy để dưỡng gốc (Mộc). Kỵ Hỏa vượng ví như tự thiêu mình, Thổ ít thì được, Thổ nhiều biến thành tai họa. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước, nên Mộc của tháng Năm phải nghiêng về điều Hậu (điều tiết khí hậu).
6. Mộc của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí tuy suy nhưng khí nóng còn vượng, song Kim khí bắt đầu thịnh. Tiết (Tiểu Thử) của tháng Sáu Hoả (nhiệt), Thổ (khô) vẫn còn táo, nhiệt, Hỉ gặp Kim, Thủy (mừng gặp Kim, Thủy) để tưới nhuần đất (Thổ).
7. Mộc của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí còn rất ít, Kim thì đang vượng nhưng Mộc đã trưởng thành, phải dùng Dương Kim để gọt đẽo thành khí dụng. Tuy nhiên, Kỵ Kim quá mạnh, trường hợp nầy Hỉ gặp Hỏa (mừng gặp Hỏa để chế bớt Kim), nhưng tốt nhất gặp được Mộc để phụ Hỏa, Kỵ Thủy diệt Hỏa.
8. Mộc của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Âm Kim cực vượng, Hỏa khí đã chết, Kim vượng thì Mộc đã Suy, Hỉ Hỏa lại gặp Mộc, vì khí hậu bắt đầu hàn (lạnh) tối qúy có Hỏa điều thân (Mộc); nếu Mộc mà gặp Thủy sinh thì thành cường vượng (vì Kim sinh Thủy để Thủy sinh Mộc), Thủy, Mộc nhiều thì Hỉ Kim (mừng gặp Kim để chế bớt Mộc).
9. Mộc của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Hỏa khí đã nhập Mộ, Kim khí đến hồi suy, hàn (lạnh) nhiệt thì điều hòa thích nghi. Mộc của tháng chín đã tiêu tàn, khí Mộc lại yếu nên thích Hỉ Thủy sinh trợ, mà gặp thêm Mộc. Nếu Thủy sinh trợ đúng lúc, thì khả dĩ lấy Hỏa. Tối Kỵ Thổ Tinh khắc Thủy, lại Kỵ Kim quá mạnh.
10. Mộc của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Hỏa khí đã Tuyệt, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí Tràng Sinh, nên Mộc cần nhất gặp Hỏa, và lấy Thổ ngăn Thủy là thượng sách.
11. Mộc của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí nhập Thai, Thủy khí thì Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Mộc khí thì Mộc Dục, nên Hỉ gặp Hỏa, thứ đến là Kim, Thủy vượng thì Mộc bị úng, Hỉ gặp Thổ để ngăn Thủy.
12. Mộc của tháng Mười Hai (ở cung Sửu): Khí của tháng Mười Hai, khí hậu rất hàn (lạnh), Mộc khí nhập Quan Đới, Kim khí nhập Mộ, Thủy và Thổ cực vượng, nên nhất định phải có Hỏa để giải tỏa hàn băng, thứ đến là Hỉ Kim, hoặc gặp Mộc cũng nên.
B. Hành Hỏa:
1. Hỏa của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Thủy khí đã Bệnh, Hỏa rất mừng (HỈ) gặp Thủy, Mộc rất mừng (HỈ) gặp Kim để tiết khí. Hỉ (mừng) Mộc gặp Thủy trợ giúp nhưng không được qúa vượng.
2. Hỏa của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Thủy khí đã Tử, Hỉ Thủy (mừng gặp được Thủy), lại thích (Hỉ) Kim sinh Thủy để . Nhưng không thích Thủy quá mạnh, khắc Hỏa.
3. Hỏa của tháng Ba: Khí của tháng, Ba Mộc khí đã Suy, Hỏa khí Quan Đới, Thủy khí nhập Mộ, nên lấy Thủy để dùng (dụng Thần), nếu Thổ nhiều thì Hỉ Mộc để chế bớt hay tiết giảm, Hỏa mạnh thì Hỉ (mừng gặp) Kim, Thủy.
4. Hỏa của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Bệnh, nên Hỉ Thủy để tránh tự thiêu đốt lấy mình, nếu gặp Mộc tương trợ thì sinh nguy (vì Hỏa sẽ trở nên quá vượng), nếu không có Thủy mà gặp Thổ thì Thổ sẽ trở thành quá khô nên vô ích, nếu lại gặp thêm Mộc tương trợ thì càng nguy.
5. Hỏa của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Mộc khí đã Tử, Kim khí thì Mộc Dục, Hỏa của tháng Năm cực vượng, tối Hỉ gặp Kim, Thủy, nếu gặp Thổ ngăn Thủy, thì Kỵ Mộc tương trợ Hỏa.
6. Hỏa tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy, Mộc khí vào Mộ, Kim khí thì Quan Đới, Thủy khí ở Dưỡng, tháng Sáu vẫn còn nóng nên cũng Hỉ (mừng gặp) Thủy để đắc dụng, thứ đến là Kim (vì Kim sinh Thủy), Kỵ gặp Thổ mà không có Thủy, tệ nhất là gặp Hỏa và Thổ vì Hỏa và Thổ quá nóng quá khô.
7. Hỏa tháng Bảy: khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí Bệnh, Thủy khí Tràng Sinh, Mộc khí đã Tuyệt, nên Hỏa khí của tháng Bảy đã thối dần, Hỉ (mừng gặp) Mộc trợ giúp, Kỵ gặp Thủy khắc sẽ thành tai họa, nếu Thổ quá nhiều sẽ thoát khí Hỏa, còn Kim quá nhiều sẽ mất thế của Hỏa (vì Kim sinh Thủy khắc Hỏa), nếu gặp được Hỏa thì có lợi.
8. Hỏa tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Hỏa khí đã Tử, Thủy khí thì Mộc Dục, Mộc khí vào Thai, nên Hỏa khí của tháng Tám đã gần tàn, được Mộc sinh Hỏa là cực sáng, Kỵ Thổ nhiều và Thủy khắc thì thế (khí thế) của Hỏa sẽ lâm nguy!
9. Hỏa của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ, Kim khí đã Suy, Mộc khí vào Dưỡng, Hỏa khí của tháng Chín đã tàn, tối Kỵ gặp Thổ, Hỉ Mộc khắc Thổ trợ Hỏa, Hỉ gặp lại Hỏa.
10. Hỏa của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Hỏa khí đã Tuyệt, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí đã Tràng Sinh, Hỏa khí của tháng Mười đã tuyệt tích, Hỉ Mộc Sinh vì được cứu, Kỵ gặp Thủy khắc là tai ương, gặp Hỏa thì lợi, hoặc gặp Thổ chế Thủy thì vinh.
11. Hỏa của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí vào Thai, Thủy khí Đế Vượng, Mộc khí Mộc Dục, nên Hỏa của tháng Mười Một cũng tuyệt tích, Hỉ gặp Mộc, Hỏa, Kỵ gặp Kim, Thủy.
12. Hỏa của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, Hỏa khí vào Dưỡng, Thủy khí đã Suy, Thổ là hàn Thổ hay Thổ ướt, Mộc khí thì Quan Đới, nên Hỏa của tháng Mười Hai Thiên hàn Địa lạnh, Hỏa thế cực yếu, Hỉ Mộc, Hỏa trợ, Thổ nhiều thì bất Hỉ, Kỵ Kim, Thủy.
C. HÀNH THỔ:
1. Thổ của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Hỏa khí Tràng Sinh, Mộc khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, nên Thổ của tháng Giêng Thổ hàn (khí lạnh) đang giảm, khí thế cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, Kỵ Mộc khắc chế thái quá, Kỵ Thủy tràn lan, Hỉ Thổ phù trợ. Được Kim chế Mộc là cát tường, nếu Kim đa (nhiều) thì khí Thổ bị Bệnh.
2. Thổ của tháng Hai: Khí Thổ của tháng Hai, Hỏa khí Mộc Dục, Mộc khí Đế Vượng, Kim khí vào Tử, nên Thổ của tháng Hai khí thế vẫn cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, gặp Thổ tỷ trợ là tốt, gặp Mộc nhiều thì Hỉ Kim chế Mộc.
3. Thổ của tháng Ba: Khí Thổ của tháng Ba, quý Thổ đương Lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí vào Suy, Thủy khí thì nhập, Hỉ Hỏa sinh phù, nếu quý Thổ quá vượng lại Kỵ gặp Mộc chế Thổ, vì Thổ Trọng thì Mộc bị gãy, nên Thổ vượng thì cần Kim để hoá, Hỏa thái Vượng thì Hỉ Thủy chế Hỏa.
4. Thổ của tháng Tư: Khí Thổ của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Kim khí Tràng Sinh, nên Thổ của Nhật, Nguyệt, tối Kỵ Thổ táo (khô), được Thủy nhuận tưới là tốt (Hỉ Thủy), Mộc trợ Hỏa thì viêm (quá nóng) dù Thủy khắc cũng vô hiệu, nên lấy Kim để sinh Thủy chế Mộc là tốt.
5. Thổ của tháng Năm: Khí Thổ của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Thủy khí vào Thai, nên Thổ của tháng Năm Hỏa, Thổ qúa nóng quá khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ, Kỵ Mộc trợ Hỏa thương thân (Mộc khắc Thổ, và Mộc sinh Hỏa thì Thổ trở thành táo khô), lại Kỵ Hỏa, Thổ khô táo.
6. Thổ của tháng Sáu: Khí Thổ của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy nhưng vẫn còn nóng, Thủy khí vào Dưỡng, Kim khí Quan Đới, nên Thổ của tháng Sáu khí thế vẫn còn táo khô, vẫn Kỵ Hỏa trợ thành táo khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ.
7. Thổ của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí vào Bệnh, Thủy khí thì Tràng Sinh, nên Thổ của tháng Bảy, Thổ suy Kim vượng, Kỵ nhiều Kim sẽ cướp mất khí của Thổ (vì Thổ bị tiết khí), Hỉ Hỏa phù Thổ và chế Kim, được Thổ tỷ trợ là cực tốt, nếu Mộc nhiều vẫn Hỉ Kim chế Mộc.
8. Thổ của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, vẫn là Thổ Suy, Kim vượng, nếu hàn (lạnh) khí trở thịnh lại càng Hỉ Hóa chế Kim và sinh Thổ, Hỉ Thổ tỷ trợ.
9. Thổ của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ nhưng Thổ vượng đắc Lệnh, Kỵ gặp Hỏa để sinh Thổ, phải lấy Giáp Mộc để tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tưới nhuận Thổ.
10. Thổ của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy Khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, Hỏa khí đã Tuyệt, nên Thổ của tháng Mười ngoài thì lạnh ở trong thì ấm, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, Mộc nhiều trợ Hỏa thì vô hại, gặp Thổ tỷ trợ là tốt.
11. Thổ của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một rất lạnh, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, nếu Thủy thái quá thì lấy Thổ khắc Thủy, Thổ quá vượng thì lấy Mộc tiết Thổ và trợ Hỏa, lại kỵ Kim sinh Thủy.
12. Thổ của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, trời lạnh đất cống, tối Hỉ Hỏa làm ấm thổ, Thổ nhiều thì Hỉ Mộc tiết khí Thổ và gặp Hỏa. Kỵ Thổ tỷ trợ, tuy nhiên, nếu chỉ gặp Thủy mà không có Hỏa và không có Mộc thì Hỉ Thổ chế Thủy.
D. HÀNH KIM:
1. Hành Kim của tháng Giêng: Khí Kim của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Kim khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Giêng tánh nhu mà thể nhược (yếu), khí hàn (lạnh) chưa hết, nên lấy Hỏa sưởi ấm Kim là thượng sách, nhưng sợ Thổ nhiều sẽ vùi lấp Kim, Thủy thịnh tất tăng hàn (lạnh) và lại đoạt mất khí Kim, còn Mộc vượng thì Kim bị tổn khí, Kim bị mẽ, gãy. Nếu được Kim tỷ trợ phụ giúp là tốt.
2. Hành Kim của tháng Hai: Khí Kim của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Kim khí vào Thai, Thủy khí đã Bệnh, nên Kim của tháng Hai vẫn suy nhược, Kỵ Thổ lấp Kim không thể sinh Kim, vẫn Hỉ Hỏa để cướp khí của Mộc và được Kim phù trợ.
3. Hành Kim của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Quý Thổ đang nắm lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí đã Bệnh, Kim khí vào Dưỡng, nên Kim khí của tháng Ba cũng Kỵ Thổ qúa trọng vì có thể lấp mất Kim, nên Hỉ dùng Mộc để chế Thổ, và Hỏa để sưởi ấm Kim.
4. Hành Kim của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Suy, Kim khí Tràng Sinh, nên Kim của tháng Tư hình, chất chưa hoàn bị, khí thể vẫn còn nhu nhược, vì Kim mới Tràng Sinh nên không sợ Hỏa, và Hỉ Thủy tưới nhuận, nhưng Kỵ Mộc trợ Hỏa tổn thương Kim, gặp Kim phù trợ thì lại mạnh thêm, gặp Thổ mỏng thì tốt, nếu Thổ hậu (dày, sâu) thì lấp mất ánh sáng của Kim.
5. Hành Kim của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Mộc khí đã Tử, nên Kim của tháng Năm tính chất vẫn còn mềm, Kỵ Hỏa qúa mạnh, Hỉ Thủy chế Hỏa để bảo tồn thân (Kim), tối Kỵ Thổ chế Thủy, Hỉ Kim tỷ trợ.
6. Hành Kim của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí vào Suy, Kim khí Quan Đới, Mộc khí nhập Mộ, Qúy Thổ đang nắm lệnh, nên Kim của tháng Sáu Kỵ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy nhuận Thổ để sinh Kim, bất Hỉ Thổ táo sinh Kim vì Thổ trọng sẽ lấp mất Kim, cũng Hỉ Kim tỷ trợ để sinh Thủy.
7. Hành Kim của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí đã Bệnh, Kim khí Lâm Quan, Mộc khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Bảy khí vượng mà lại cứng, bén, cần Hỏa trui rèn để thành khí cụ, nếu không Hỏa mà có Thủy thì Kim thanh Thủy tú (tối Hỉ), còn được nhiều Thổ tu bôi thì Kim bị vẩn đục, không tốt, nếu gặp Kim trợ thì trở thành quá cương sẽ gãy.
8. Hành Kim của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa Khí đã Tử, nên Kim của tháng Tám đương lệnh cực vượng, Kỵ Kim tỷ trợ, Hỉ Thủy tiết khí Kim, Hỏa lại luyện Kim, Mộc lại trợ Hỏa cũng nên.
9. Hành Kim của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí nhập Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Kim của tháng Chín Kỵ gặp Thổ vì có thể Thổ nhiều quá sẽ lấp mất Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tiết khí Kim, tối Kỵ gặp Thổ, và Kỵ Hỏa sinh Thổ.
10. Hành Kim của tháng Mười: Khí của tháng Mười, khí hậu biến hàn (lạnh), Kim khí vào Bệnh, Thủy khí Lâm Quan, nên Kim của tháng Mười nếu Thủy thịnh thì Kim sẽ bị chìm, Hỉ Thổ chế Thủy, Hỏa lại sưởi ấm Kim và trợ Thổ, cũng Hỉ Kim tỷ trợ.
11. Hành Kim của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, nên Kim của tháng Mười Một ở vào mùa Đông hàn, bất Hỉ Thủy hàn, Hỉ Hỏa sưởi ấm Kim, nên dùng Mộc tiết khí Thủy và trợ Hỏa để sưởi ấm Kim, nếu Thủy quá vượng thì cần Thổ để ngăn Thủy.
12. Hành Kim của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thổ lệnh lại đương quyền, Thổ ướt nhiều và dày, Thủy khí nhập Suy, Kim khí vào Mộ, nên Kim của tháng Mười Hai có thể bị Thổ ượt nhận chìm, Hỉ Hỏa giải lạnh và sưởi ấm Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ và trợ Hỏa, Kỵ Kim hàn thủy lạnh.
E. HÀNH THỦY
1. Hành Thủy của tháng giêng: Khí Thủy của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Thủy khí đã Bệnh, khí hàn lạnh vẫn còn, chưa hết, nên Thủy của tháng Giêng Hỉ Kim sinh phù, nhưng không thích Kim nhiều quá, nếu Thủy vượng thì cần Mộc mới huy nạp được thế, và cũng cần Hỏa để sưởi ấm Thủy, Hỉ Thổ chế Thủy vượng.
2. Hành Thủy của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Thủy khí đã Tử, nên Thủy của tháng Hai, rất Hỉ gặp Kim để sinh Thủy và khắc chế Mộc, nếu Thủy vượng nên có Thổ để ngăn Thủy.
3. Hành Thủy của tháng Ba: Khí Thủy của tháng Ba, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí đã Suy, Thủy khí nhập Mộ, nên Thủy của tháng Ba hình thể khô dần, Hỉ Mộc tiết Thổ, và Kim là nguồn sinh, khí hậu vẫn còn hơi lạnh, Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, lấy Mộc làm dụng thần, nếu Thủy ít thì cũng Hỉ Thủy đến tỷ trợ, Kim trợ sinh Thủy.
4. Hành Thủy của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Thủy khí đã Tuyệt, Kim khí Tràng Sinh, nên Thủy của tháng Tư đã gần Tuyệt, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim lại trợ Thủy.
5. Hành Thủy của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Thủy khí vào Thai, Kim khí Mộc Dục, nên Thủy của tháng Năm Kỵ nhập táo, nhiệt chi hương, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim là nguồn sinh.
6. Hành Thủy của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Thổ lệnh đương quyền, Hỏa khí đã Suy, Kim khí Quan Đới, Thủy khí nhập Thai, nên Thủy của tháng Sáu Kỵ Thổ trọng ngăn Thủy, và Hỏa trợ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy tỷ trợ và Kim là nguồn sinh, Mộc đến tiết Thổ.
7. Hành Thủy của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Thủy khí Tràng Sinh, Hỏa khí nhập Bệnh, nên Thủy của tháng Bảy Kim vượng Thủy tướng, trong ngoài thông suốt, được Kim trợ Thủy thì thanh khiết, nếu gặp Thổ vượng thì Thủy bị vẩn đục, nếu Thủy đa Hỉ Mộc để tiết khí, cũng Hỉ Thổ để ngăn nước, và gặp được Hỏa.
8. Hành Thủy của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, nên Thủy của tháng Tám thế của Thủy bắt đầu vượng, Hỉ Mộc tiết thế của Thủy, Hỉ Hỏa khắc Kim hộ Mộc, đồng thời sưởi ấm Kim và Thủy.
9. Hành Thủy của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Chín tuy Quan Dới nhưng, Qúy Thu Thổ vượng ngăn Thủy, nên Hỉ Mộc tiết Thổ, Kim lại sinh Thủy.
10. Hành Thủy của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, khí hậu biến hàn (lạnh), nên Thủy của tháng Mười thế Thủy cực thịnh, Hỉ Hỏa để sưởi ấm, Mộc tiết kỳ thế, nếu Thủy vượng thì nhờ Thổ để ngăn Thủy.
11. Hành Thủy của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, khí hậu cực hàn, nên Thủy của tháng Mười Một Thủy khí cường hàn (lạnh), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, Mộc tiết kỳ thế.
12. Hành Thủy của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thủy khí đã Tuyệt, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Mười Hai vì Thổ trọng và lạnh (cống), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thổ, Mộc lại tiết Thổ, nếu lấy Kim thì cũng cần Hỏa sưởi ấm Kim để sinh Thủy.
* Chú ý:
Bài này dùng tháng để diễn giải khí của cung, tháng Giêng ở cung Dần chạy thuận 12 tháng đến cung Sửu là tháng 12. Tỷ như: Mệnh Thủy cung Mệnh ở Dần đành rằng Thủy ở Bệnh địa nhưng chưa hẳn là xấu. Nếu ở đó gặp Thủy của Cự Môn, Văn Khúc, lại được Hỏa của Thái Dương sưởi ấm, lại may gặp được Mộc của Tang Môn nữa là kỳ cách. Trường hợp Mệnh Thủy, Hỏa Cục mà ở cung Dần lại gặp Tử, Phủ (Thổ vượng địa), thì coi như Mệnh Thủy bế tắc, chỉ là người bình thường, tính tình hiền hòa, cẩn trọng, nhưng chẳng làm nên chuyện chi đại sự. Với cách luận giải nầy, ngày nay ta luận giải Tử Vi thấy khoa học và chính xác hơn so với Phú nhiều. Vả lại, những sách vở của Việt Nam xưa nay, chưa thấy ai hiểu về vấn đề nầy một cách tường tận cả.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top