Tử vi nghiệm lý - Tác giả Thiên Lương

Thái độ của xung phá tùy theo không gian và thời gian

Ý nghĩa của xung là đối diện để đụng chạm. Trong Tử Vi ngoài cái thế tam hợp cục diện liên minh trợ đỡ nhau để trường tồn, còn thế xung khắc, đối diện để ganh đua kìm hãm ngăn trở đối phương thi thố khả năng.

Với 12 cung thành 6 căn: Tý xung Ngọ, Sửu xung Mùi, Dần Mão xung Thân Dậu, Thìn Tỵ xung Tuất Hợi. Nhưng chỉ là có 4 tư thế khắc chế rõ ràng là Tý Hợi (thủy) xung hãm Ngọ Tỵ (hỏa) Thân Dậu (kim) đàn áp Dần Mão (mộc). Còn 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi đồng hành Thổ được coi như là xung không có gì, chỉ có hai thế âm dương đối diện nhau (từ Dần đến Thân thuộc Thái Dương, từ Thân đến Dần thuộc Thái Âm).

Biết rằng 12 cung đó có chia thành 3 thế đứng cũng là tư cách nòng cốt của mỗi vị trí: Dần Thân Tỵ Hợi, tứ sinh, phục vụ bồi đắp tiếp tế cho Tý Ngọ Mão Dậu tứ chính, để rồi một ngày nào đó sẽ tàn rụi nơi tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi. Đây là phần thuộc về không gian.

Còn thời gian, kể từ Giáp Tý đến Quý Hợi, mỗi chữ hàng Chi đều có 5 lần như Tý có Giáp Tý, Bính Tý, Mậu Tý, Canh Tý và Nhâm Tý tức là cuộc đời người sống đến 60 tuổi phải có 5 lần thế xung.

Vậy có phải tuổi nào cũng thế, khi đến thời gian gặp xung cũng phải hứng chịu những sự sui như nhau không?

- Xin thưa, phải phân tích từng cội rễ mới thấy sự diễn biến dị biệt can hệ.

Tư cách của 4 tuổi tứ sinh Dần Thân Tỵ Hợi thực hiện trong tam hợp cục luôn luôn đóng vai hậu cần tiếp tế cho tứ chính Tý Ngọ Mão Dậu. Công lao bồi đắp không phải là nhỏ nên lòng tự hào nhiều ít tự cao, tính tình hay phô trương những gì mình đã đắc cách. Gặp xung thấy mọi sự bị phản bội tình đời bạc nghĩa. Người chính đóng vai trò chính trong ngũ hành tính tình khẳng khái bất khuất, mọi sự việc tự vạch lấy hiên ngang thẳng tiến, gặp xung thấy luân phiên bị chống đối, ngăn chận bước đi phải mất công trình bày giàn xếp. Còn người tứ mộ ví như cảnh đời xế bóng về chiều sức khỏe có phần yếu kém, gặp xung phần cầm chắc nằm gường bệnh ốm đau

Ba thế đứng như thế trong 60 năm cuộc đời gặp 5 lần xung tất nhiên mức độ hung hãn có khi nhiều khi ít. Đó là phần thời gian giải quyết. Mỗi tuổi có Can và Chi phối hiệp. Xung do Chi làm việc. Còn can nguồn gốc chính rồi nạp âm phân tách thêm sẽ thấy mức độ nào của thế xung.

Can của tuổi và Can của xung đều y nhau tuổi Giáp Tý gặp xung Giáp Ngọ cho thấy Can và nạp âm của đôi bên đều y nhau. Nhưng chi Tý của tuổi khắc xuất chi Ngọ không đáng kể. Trái lại, nếu là tuổi Giáp Ngọ thì Chi Ngọ bị Tý xung khắc nhập phải có việc buồn phiền thua thiệt phần nào. Trường hợp Nhâm Tý gặp xung Mậu Ngọ. Trước hết thấy Mậu khắc Nhâm là quan hệ, dầu rằng chi Tý khắc chi Ngọ, bồi thêm Nhâm Tý là Mộc, Mậu Ngọ là Hỏa. Mộc sinh Hỏa phải coi là nặng. Đây là thiên khắc địa xung, trường hợp được coi là gần đất xa trời. Nếu xung là Bính Ngọ, tất cả 3 thế của xung đều kém cả:

a - Tý khắc Ngọ

b - Nhâm khắc Bính

c - Bính Ngọ (thủy) sinh Nhâm Tý (mộc) mộc.

Trường hợp xung này kể như không còn gì. Có chăng chỉ những việc gì xa xăm đưa lại không trở ngại đến bổn mạng.

Cuộc thể nhân sinh cứ 12 năm 1 năm xung, phải xét chi tiết Can và nạp âm cho kỹ rồi phối hiệp với đại vận trong 10 năm đang ở trong hoàn cảnh nào. Thái Tuế hay Thiên Không. Trong vận hành tam hợp Thái Tuế dầu gì đi nữa vẫn có đường may phò trợ. Vào hạn Thiên Không nên chấp nhận sự thua thiệt trước là hơn.

Tuy 5 lần xung nhưng chỉ có 2 lần xung phải thận trọng cho tất cả mọi tuổi là năm 43 – 67. Năm 43 bị hàng Can sinh xuất, 67 bị Can khắc nhập vừa là giai đoạn tiếp vận với Thiên Thương hay Thiên Sứ.

Mừng cho ai đang rong ruổi trên bước đường đại vận ở Di mà là Thái Tuế gặp xung Thiên khắc là xung nguy hiểm nhất của cuộc đời (67 tuổi). Người này dễ dàng như chỉ còn vài bước thành cổ lai hi. Hạn này Giáp Thương Sứ liên quan đến Tài Thọ từng bước, từng ngày. Kết cuộc cho thấy nhiều khi người lương thiện sao vội non bồng nước nhược. Có chăng là trúng lúc mà kẻ gian manh còn phải tiếp tục để lộ nguyên hình mới được nhập thổ.

(a) Trên địa bàn Tử Vi năm xung luôn đứng trong tam hợp Thái Tuế tức tay trên đóng vai trò tạo hóa gò ép số. Năm tuổi tức đương số thường xuyên đóng vị trí tam hợp Tuế Phá kém thế. Cả hai trường hợp xung và tuổi, nếu thành quả thấy bệnh hoạn ốm đau, đó là trường hợp giảm khinh cho biết Tài Thọ đã can thiệp quan trọng tránh cho dương nhân vấp những gì là bội nghĩa hay chống chọi, khiến cho cuộc sống bị khủng hoảng tinh thần phải băn khoăn lo nghĩ.

(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)

Cục vì đâu trở thành phần quan trọng của lá số?

Ngoài công việc ấn định để hướng dẫn chính tinh cốt cách, cục là bộ diện dàn bày chương trình diễn biến toán số cho một mệnh viên đứng ở một vị trí nào trong địa bàn.

Thường thường cứ nghe nói cục và mệnh tương sinh là là tốt số không thấy minh chứng đâu là nguyên lý. Nói đến tương sinh phải phân tách rõ ràng hợp lẽ đâu là tốt và vì sao mà xấu. Đã có sinh đương nhiên phải có khắc theo luật âm dương lưỡng nghi. Trong cái sinh có hai đường lối, sinh nhập và sinh xuất, mà khắc cũng vậy có khắc nhập và khắc xuất như:

Người tuổi Giáp Tý, năm lên 3 tuổi là năm Bính Dần, đây là năm sinh xuất vì Giáp (mộc) sinh xuất cho Bính (hỏa) phải gọi là xấu vì năm Tật Ách. Năm lên 5 là Mậu Thìn được khắc xuất tương đối đẹp là năm Phúc Đức. Năm lên 7 Canh Ngọ gặp chữ Canh (kim) khắc nhập chữ Giáp (mộc) là năm Thiên Thương thường trực ở cung Nô Bộc. Năm lên 9 Nhâm Thân được Nhâm (thủy) sinh nhập cho Giáp (mộc) là năm Tử Tức nuôi hy vọng lâu dài, cứ thế diễn chuyển của 10 chữ Can báo hiệu với 4 chữ 3, 5, 7, 9 đâu là tốt xấu đến ngày cuối cùng tuổi thọ.

Vậy nói Mệnh và Cục tương sinh cho là tốt nhất mà không thấy giảng giải đâu là nguyên lý. Ví như tuổi Giáp Ngọ Kim Mệnh đóng ở Dần là Hỏa cục. Trường hợp này có xấu không ? (Hỏa cục khắc nhập Mệnh Kim). Thiết tưởng đây là cả một bài toán đáp số hoàn toàn sai trật. Tuổi Giáp Ngọ (Can sinh Chi) là một tuổi có một năng lực hơn người, đóng ở Dần được hưởng trọn vẹn Lộc Tồn tuổi Giáp. Vị trí Bạch Hổ (kim) trong tam hợp Thái Tuế khác gì ngôi nhà lầu đúc cốt sắt xi măng đúng mức. Hỏa Cục thì Sinh Vượng Mộ ở ngay tam hợp Dần Ngọ Tuất là Mệnh. Vậy xấu ở chỗ nào? Trái lại là một Mệnh viên trúng ngôi vị tuyệt đích. Biết rằng vòng Tràng Sinh tùy theo cục bộ ấn định thời gian thay đổi (thủy nhị cục, mộc tam cục kim tứ cục...) để cho thế nhân biết sự chuyển vận tốt sang xấu hay xấu chuyển đến tốt luân lưu để mà xử thế với một đạo lý sao cho xứng đáng danh hiệu "nhân" trong một tư thế tam tài.

Vòng Tràng Sinh có 2 mặt âm dương:

a- Sinh Vượng Mộ Đới Bệnh Thai (đường hoàng xử thế đáng quý lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển).

b- Dục Suy Tuyệt Quan Tử Dưỡng (ham mê rồi cũng không còn gì nên tu tâm dưỡng tánh).

Bên phía dương đại diện là Sinh Vượng Mộ treo cao vẻ đẹp phân phối tùy theo chia phần. Tam hợp này đem lại sự thịnh đạt không khác gì tam hợp Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ, tới mức độ nào còn tùy nhiều pháp qui hợp lệ.

Cũng như lộc Tồn, sự đẹp mỹ mãn của Sinh Vượng Mộ cũng chia đều cho từng tam hợp tuổi:

- Người Dương Nam tuổi Thân Tý Thìn được hưởng Sinh Vượng Mộ của Thủy Nhị Cục. Người dương Nam Dần Ngọ Tuất thì Hỏa và Thổ Cục.

- Người âm nữ tuổi Tỵ Dậu Sửu hưởng Kim Tứ Cục, người âm nữ Hợi Mão Mùi hưởng Mộc Tam Cục.

- Trái lại các hạng tuổi Âm Nam hay Dương Nữ chỉ hưởng có một Mộ đầy một ý nghĩa "không toại chí" cho đến ngày xuống mộ họa chăng an ủi*.

Mỗi khi đại vận ở trong có Sinh Vượng Mộ cuộc sống thường gặp thang mây thuận bước, nhưng một khi nghịch lý âm dương chỉ còn là phấn son tô điểm, trên thực tế không đáng kể.

Hai tuổi sau đây cho thấy đâu là nguyên lý pháp quy:

1- Giáp Tý 11 – 15 Tý

2- Canh Tuất 18 – 3 Tý

a- Tuổi Giáp Tý Kim Mệnh Thủy Cục, trường hợp Mệnh sinh xuất cho Cục mà cuộc đời lại vượt mức, vì Mệnh Thân đồng cung Thái Tuế phụ lực có Sinh Vượng Mộ hợp tác thành thực (vì cùng Kim) tăng cường.

b- Tuổi Canh Tuất Kim Mệnh cũng Thân Mệnh đồng cung, được tam hóa liên châu tô màu ở chỗ thanh thiên bạch nhật (cung thìn) đắc Vũ Khúc Thiên Mã cũng Kim, so với Mệnh Giáp Tý thì nặng cân hơn quá nhiều, lại được Kim Cục, ấy thế mà thua xa Giáp Tý đến muôn vạn dặm.

Mệnh tuy đẹp không được Sinh Vượng Mộ giúp đỡ vì Kim Cục chỉ dành cho người Âm nữ Tỵ Dậu Sửu. Tuy vậy đến đại vận gặp Sinh Vượng Mộ tuổi Canh Tuất cũng được tô son dồi phấn, nhưng thực chất chỉ là hư không chánh.

Còn một khía cạnh khác cũng thường lập ngôn khi toán số phải chia làm hai giai đoạn: từ lúc sơ sinh cho đến 13 tuổi không đáng kể, đã có bảng hạn đồng niên (1 Mệnh 2 Tài 3 Ách 4 Thê 5 Phúc 6 Quan 7 Nô 8 Di 9 Tử 10 Bào 11 Phụ 12 Điền). Từ tuổi Quan Đới (20) cho đến gần 40 lấy Mệnh làm đích. Từ 40 đến ngày về già lấy Cục mà nhận xét. Thiển nghĩ cũng không thấy gì làm chính xác với luận lý. Vậy tại sao vẫn lấy Mệnh bắt đầu mà đi về để điểm số cho đến ngày cùng.

Vòng Tràng Sinh đã có 2 mặt âm dương Sinh Vượng Mộ và Duc Suy Tuyệt còn tùy Mệnh có thuận âm dương, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn xếp đặt có ăn ý, hay phải bì trừ cho trúng mức độ chung toàn thể.

Đây hẳn là nghiệp báo

Tuổi mỗi nhân sinh là một thế tiểu thái cực do lưỡng nghi thiên can và địa chi phối hiệp đúc kết, được đề danh là nạp âm. Thiên can là phần quan trọng đứng trên như cây có gốc, địa chi chỉ là nhánh là phần phụ. Mọi sự việc diễn trải qua ngày tháng do Can ấn phác, Chi trình bày sự hợp xung cách đứng. Nạp âm phần chính xác của Mệnh phụ họa với Can quyết định mức độ màn cảnh như:

Tuổi Giáp Tý can Giáp (mộc), chi Tý (thủy) thành nạp âm Giáp Tý (kim) gặp năm Canh Ngọ phải phân tích Can Canh khắc Can Giáp chi Ngọ xung chi Tí ( Thủy) khắc Ngọ ( Hỏa) có ý nghĩa tu Thiên khắc Địa xung, nhưng xung khắc xuất kể là nhẹ. Thành phần thứ 3 nạp âm năm Canh Ngọ (thổ) sinh nhập cho tuổi Giáp Tý (kim) đem lại kết quả toàn bộ cho tuổi Giáp Tý gặp năm Canh Ngọ (thiên khắc địa xung báo hiệu thời gian nguy hiểm) chỉ gặp những sự thị phi đau bịnh qua loa mà thôi.

Biết rằng hàng Can là quan hệ, nhưng nghiệp báo của người đời phải để ý 5 cặp hàng Can (Giáp Ất, Bính Đinh Mậu Kỷ, Canh Tân Nhâm Quý) đứng cùng nạp âm của mệnh mà đồng hành như Canh Thìn, Tân Tỵ có Canh Tân đều là Can Kim mà nạp âm cũng là Kim, khi gặp một sát tinh đứng trúng cách sát là khắc toàn vẹn như Hỏa Linh. Dương nhân phải cẩn thận nếu ở Mệnh phải e ngại trọn đời, còn ở một vận hội nào phải thận trọng ảnh hưởng thời gian đó. Trường hợp thiên thời Thái Tuế, sự tốt đẹp cũng chỉ còn 50%. Nhưng mỗi khi gặp lúc khó khăn vẫn có cái may bất ngờ dẫn cứu. Vậy có thể trình bày sắp xếp:

a - Những tuổi Giáp Ất và mộc mạng phải đề phòng Thiên Hình (Kim).

b - Những tuổi Bính Đinh và hỏa mạng phải né tránh Hóa Kỵ (thủy)

c - Những tuổi Mậu Kỷ và Thổ mạng phải xa lãng Đường Phù (mộc).

d - Những tuổi Canh Tân và kim mạng phải lo ngại Hỏa Linh

e - Những tuổi Nhâm Quý và thủy mạng phải quan tâm đến Cô Quả (thổ)

Năm trường hợp thường đem đến:

1 - Người Giáp Ất và mộc mạng dễ bị Thiên Hình mổ xẻ cắt thiến thành vết sẹo mang trong thân thể hay yếu gan.

2 - Người Bính Đinh hay Hỏa mạng nên đề phòng sông nước và bệnh tim thừa thiếu máu, thân danh hay bị kiềm chế.

3 - Người Mậu Kỷ và Thổ mạng sự nghiệp trồi sụt bao tử khó tiêu hóa.

4 - Người Canh Tân và Kim mạng đề phòng họa tai mặt nhất là bệnh phổi.

5 - Người Nhâm Quý và Thủy mạng thừơng làm ơn nên oán, khó gây tình cảm, nội thương hay hành ở thận.

Để bảo thu bổn mạng, tránh phần nào sự khắc hãm mỗi hạng người nên dùng màu sắc như sau:

1 - Mộc mạng nên thường dùng màu xanh lá cây (quần áo hay sơn nhà cửa)

2 - Hỏa mạng thường hợp với màu đỏ.

3 - Thổ mạng tương đắc với màu vàng lụa.

4 - Màu trắng cho người Kim

5 - Màu xám đen lợi cho người Thủy.

Trong 5 hành chỉ có 4 hành Bính Đinh Mậu Kỷ, Canh Tân Nhâm Quý là có hàng Can đồng hành với nạp âm. Còn Giáp Ất không bao giờ có một tuổi Giáp Ất nào là hành mộc Giáp Tý, Ngọ (Kim) Giáp Dần, Thân (Thủy) Giáp Thìn, Tuất (Hỏa) nên tuổi này phải lấy nạp âm của mình mà dùng màu sắc.

Những Thiên Hình, Hóa Kỵ, Hỏa Linh, Cô Quả Dương Phù thủ những vai trò đao phủ tác hại hơn Không Kiếp. Thấy người Thái Tuế bị Không Kiếp đứng kèm là một đời dầu ở trường hợp nào cũng là lữ hành trên sa mạc. Bộ 3 Trường Sinh, Đế Vượng, Hoa Cái đối với dương nhân nên hiểu nghĩa sân khấu trường đời, vai trò chính mình vẫn phải thủ diễn đúng mức, nhưng nơi hậu trường sự thù lao chỉ là đạm bạc.

Bằng lá số tuổi Canh Tý sanh ngày 16 tháng 11 giờ Tỵ mở đường cho khả năng của số Di đến tuyệt đối với hai chưa tài nhập Mệnh và Thọ nhập Thân, chứa đựng một bầy hung sát tinh đắc chế hóa khiến ít ai thấu đáo rõ tư cách đương nhân (Mệnh có Hình, Đà, Hỏa được Triệt, Vũ Phá Linh gặp Tuần ở Thân, cả bộ Không Kiếp giáp Thân đều được cả Tuần lẫn Triệt lột xác). Bộ tam hợp bắt đầu từ Vũ Phá (tham vọng quá bạo) đi đến Tử Tham (uy hiếp hiền nhân) kết quả dẫn đến Liêm Sát (lộ thượng mai thi = chết đường) cần phân tích đâu là uy hiếp người đâu là người bị uy hiếp.

Tuổi Canh Tý thổ mạng chính là Tử Vi khắc chế được Tham Lang (Thủy) Tham Lang tuy là thủy mà đới mộc đầy ý nghĩa có vay là phải trả.

Người Canh Tý này đắc Đế Vượng ở tứ chính trong tam hợp mệnh đương nhiên giai đoạn Thái Tuế 53 – 62 ở Tý phải được ưu đãi địa vị và Thọ hưởng Lộc Tồn tuổi Canh ở Thân (tam hợp).

Thời oanh liệt Tài và Thọ đã làm được gì để xứng đáng với Quan Phúc trực sẵn ở Ách có Thiên Sứ sẵn sàng chỉ huy Tang Mã. Biết rằng sau Thái Tuế tiếp đến Thiên Không ở Mộ Địa ngay cung Di có Dương Phù Kình Dương toa rập cùng Liêm Sát, mặc dầu 2 chữ Canh Tý có một căn vững chắc hơn người (Can Canh sinh cho Chi Tý).

Thật rõ ràng luật bù trừ của thiên nhiên không thể sai lệch đòn căn nhân quả nghiệp báo.

Khả năng của Tam Tài hun đúc thế nhân

Vũ trụ là một khối Thái cực hoàn hảo hoàn thiện chứa đựng 2 thế lưỡng nghi cương kiện (dương) và nhu thuận (âm). Mỗi tình trạng phải do tam tài ấn định, tới mức độ nào đấy là phần tứ tượng trình bày. Ngũ hành sẽ chứng minh đâu là chính đáng hợp cách.

Địa bàn Tử vi với 12 cung là một thế Thái Cực vẹn toàn âm dương giới hạn: Từ Mão đến Thân thuộc Dương, từ Dậu đến Dần thuộc âm. Trong phần dương vẫn có cái âm xen kẽ, trái lại bên âm cũng vậy (Tý là dương, Sửu là âm...Tuất là dương, Hợi là âm).

Thế tam tài bao gồm 3 vòng: Lộc Tồn do Can ấn đinh (thiên), vòng Thái Tuế do chi ghi chú (địa) vòng Tràng Sinh do cục diện của Mệnh an vị (nhân). Bất cứ một mệnh viên nào dầu đứng ở cung nào cũng phải chịu ảnh hưởng của tam tài hoạch định, dầu rằng cuộc thế nhân sinh 1 phần quan trọng biến dịch bởi thiên thời, nhân hòa và địa lợi mang đến sự thay đổi. Nhưng tư thế của dương nhân vẫn bị tam tài chi phối phác họa dự thảo ghi chú là định mệnh.

Biết rằng khả năng của Lộc Tồn và Thái Tuế kể như 2 điều kiện tiên quyết hoạch định một khi soạn thảo hạnh phúc và tư cách cho dương nhân. Vòng Tràng Sinh dầu trong tam hợp nào, nới rộng ra trong thế lưỡng nghi hay toàn vẹ cả vòng lẫn bao hàm trong một thiên nhật tụng đạo lý xử thế vuông tròn.

Bốn tam hợp của Tràng Sinh xưa nay vẫn nhìn nhận vị trí có tư cách khả quan nhất là Sinh Vượng Mộ. Có phải vì thế trên địa bàn Tử Vi mới phân định ra 3 thế: tứ sinh, tứ chính và tứ mộ. Mỗi tam hợp có một cái chính bản ngã của mình là Kim (Dậu), mộc (Mão), thủy (Tý) và hỏa (Ngọ). Còn tứ mộ là nơi tập trung mỗi khi tàn lụi.

Công bồi đắp tứ sinh mà thành công đắc thế là ở tứ chính nên Đế Vượng đắc cách ở Tý Ngọ Mão Dậu. Đây là trường hợp thuận lý âm dương (dương nam và âm nữ theo chiều hướng thuận). Trái lại trường hợp nghịch lý âm dương đi theo chiều ngược thì Tràng Sinh ở tứ chính mà Đế Vượng thì ở tứ sinh, chứng minh đây là nghịch cảnh, tất nhiên mọi sự kiện phải thua kém những gì là thuận lý...

Còn Mộ có hai bình diện. Khi đã về nơi tập trung của ngũ hành Mộ chỉ là nắm đất để đưa dẫn ngũ hành đâu về đó. Lúc đắc thời khi còn gởi thân trên trần thế. Hoa Cái là khuê bài danh dự cho người tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi).

Bộ 3 này mỗi khi đắc cách người được hưởng Tràng Sinh phải là 4 tuổi Dần Thân Tỵ Hợi, sự nghiệp sẽ được lâu dài bên vững Đế Vượng chỉ phân phát cho 4 tuổi Tý Ngọ Mão Dậu bước thang mây sẽ nghênh ngang vượt chúng. Người Thìn Tuất Sửu Mùi được ghi danh vinh dự (Hoa Cái).

Tất cả 12 tuổi này phần cao đẹp tuyệt đối chỉ dành riêng cho những cá nhân thuộc Kim và Thủy Mệnh, còn các tuổi khác phải tùy sự sinh khắc mà thêm bớt đi đối với phần việc của Tài Thọ bù trừ trọn vẹn.

Mệnh viên đứng trong 12 cung địa bàn, công việc của mỗi bài chỉ tô đắp trên một công việc theo khả năng của mình mà thôi. Nhưng một khi cả 3 gặp nhau trên một khía cạnh như đắc cách liên lạc với nhau. Tất nhiên trạng thái đó phải là vượt mức khác thường tốt đẹp hơn ai như hai tuổi dước đây:

1 - Người dương nam Giáp Tý mệnh đóng ở Tý

2 - Người âm nữ Tân Mão mệnh đóng ở Mão

Thấy cả hai người Mệnh cùng Thái tuế đắc Đế Vượng ở tứ chính (vòng Tràng Sinh) Thanh Long (vòng Lộc Tồn) ở Quan và Bạch Hổ (vòng Thái Tuế) ở Tài. Ngôi vị Đế Vượng phò tá, tưởng không còn gì vượt mức hơn nữa.

Hai tuổi Giáp Tý và Tân Mão cho thấy sự phấn đấu đưa được dương nhân đến địa vị Đế Vương trúng chỗ phải có nghị lực hơn người, nhất là người Tân Mão (Can khắc Chi). Còn người Giáp Tý còn phần nào nhờ sự may mắn (Chi sinh Can). Người Giáp Tý ở ngay Tý cung đắc Đế Vượng, sự nghiệp nắm chắc đến tuyệt đích trái lại người Tân Mão dầu ở Mão cung cũng là tứ chính, hiềm nỗi mộc mệnh, Đế Vượng kia không phải dễ dàng mà an vị.

Tam tài thủ diễn trong Tử Vi mỗi Tài một khía cạnh vòng Lộc Tồn do Thiên Can ấn định về phần hạnh phúc tiền tài đến mức độ nào đó cho từng cá nhân. Vòng Thái Tuế được địa chi xây dựng sắp xếp tư cách mỗi hạng người. Vòng Tràng Sinh được coi như phần chính yếu, việc xử thế của cá nhân ở hoàn cảnh nào hành động sao cho Thọ toàn vẹn (nhân hậu) thì vận mệnh mới có Tài (hoán cải) Quan Phúc Thương Sứ sẽ tùy nghi nhúng tay quyết định.

Những trạng thái diễn biến của 6 chữ giáp

Khổng Phu Tử xưa kia đã nói: "Ngũ thập nhi chi tri thiên Mệnh". Ý nghĩa là đến tuổi 50 mới rõ được chân lý của Trời. Với bộ óc sáng suốt của một vị Thánh có thể thừa thời gian để tìm biết. Còn người trần thế với cái thông minh bình thường, thiết tưởng phải đến tuổi tròm trèm 70 mới rõ được lẽ huyền diệu việc đời. Tiếc thay mấy ai đã sống đến thời gian đó (nhân sinh thất thập cổ lai hi).

Người ta nhập thế cuộc 10 năm đầu còn là tiểu nhi. Bắt đầu từ 11 đến 70 mới đủ 60 tuổi (10 năm chót bì qua 10 đầu, Can và Chi y hệt) ngắm lại đời người những đổi thay biến dịch dễ mấy ai có thể tự hào là tri thiên mệnh.

Chuỗi thời gian 60 năm cổ nhân đặt ra 2 bộ phận (10 thiên Can và 12 địa Chi) sắp xếp theo thứ lớp phân tách ra âm dương đầy đủ ý nghĩa và riêng biệt.

Âm dương là không gian, ngũ hành là thời gian. Từ cái bất dịch đến cái giao dịch thành biến dịch. Sinh khắc chế hoá là guồng máy tinh vi của lý học.

Thiên Can là gốc, Địa Chi là ngọn. Can là Phúc Đức, Chi là thân thế. Từ Giáp Tí đến Quý Hợp biết bao bình diện nhân sinh nối tiếp tuần tự lớp lang (xem bảng 70 năm tuổi thọ) khiến cuộc sống nhân thế khác gì thuỷ triều sáng tối.

Mười thiên can chia làm hai phái Âm Dương thành 5 cặp. Mỗi cặp có 1 thế chất riêng là ngũ hành:

Dương Âm Hành

Giáp Ất Mộc

Bính Đinh Hoả

Mậu Kỷ Thổ

Canh Tân Kim

Nhâm Quý Thuỷ

Mộc là sơ bản tính vốn thiện chủ nhân từ. Mộc sinh hoả là Nhân sẵn có thì dễ học để biết lễ (Hoả). Hoả sinh Thổ là Lễ đã biết thì Tín thực (Thổ) phát sinh. Thổ sinh Kim, Tín đã giữ được thì đương nhiên có nghĩa khí (Kim), hành động theo lẽ phải. Kim sinh Thuỷ là Trí suy nghĩ hiểu biết sự lý tức là trọn vẹn ngũ thường.

Từ Mộc (Giáp Ất) tuần tự xuống Hoả (Bính Đinh) Thổ (Mậu Kỷ) Kim (Canh Tân) Thuỷ (Nhâm Quý) là cả một hệ thống tương sinh, người trên chịu đựng hi sinh cho người dưới. Cuộc đời nếu biết kính người trên hy sinh cho mình và tự chịu đựng hy sinh cho người dưới, như Mộc được sinh nhập của Thuỷ và sinh xuất cho Hoả là cả một cuộc diện tương sinh thái bình Long Hoa. Nếu vội nhẩy cách bước muốn khắc phục người là khắc xuất (Mộc vượt qua Hoả khắc Thổ) bằng như quá trớn đuối sức thì đương nhiên bị khắc nhập, như Giáp Ất nhảy cách Bính Đinh uy hiếp Mậu Kỷ rồi qua Canh Tân bị khắc nhập lại. Phải chăng là thế chiến quốc, còn gì là hạnh phúc nhân sinh.

Những dương hành Giáp Bính Mậu Canh Nhâm đáo hạn gặp nhau sự sinh khắc phải là tuyệt đối, còn so với âm hành chỉ còn là tương đối. Những âm hành Ất Tân Đinh Kỷ Quý cũng vậy khi đụng chạm nhau sự khắc chế cũng mạnh mẽ hơn khi gặp dương hành:

Giáp hợp KỷẤt hợp CanhBính hợp TânĐinh hợp NhâmMậu hợp Quý

Trong địa bàn Tử Vi sự sắp xếp thấy tinh vi từng vị trí chính yếu. Từ Mão đến Thân thuộc về Dương, từ Dậu đến Dần là tư thế của âm. Tí Ngọ là 2 thế chính (lưỡng nghi) của Thái Dương và Thái Âm. Thêm Mão Dậu (tứ tượng) là Thiếu Âm và Thiếu Dương lập thành 2 thế khai sinh. Thìn Tuất là 2 thế nguồn chuyển biến.

Bánh xe 60 hoa giáp là một vòng kín gắn liền 6 con giáp Can Chi tuần tự phối hiệp âm dương riêng biệt ràng rẽ luân chuyển, khiến đời sống vạn vật phải chịu ảnh hưởng từ cái sáng đến cái tối, từ mối thịnh vượng đến lẽ suy vong.

Thường tình mà nói khi bắt đầu từ Tí phải tuần tự đến Dần, Thìn, Ngọ, Thân rồi đến Tuất. Nhưng khi tính ra thấy cái tinh hoa của 10 Can là tuyệt lý. Từ Giáp Tí đến Quý Dậu rồi nhảy qua Giáp Tuất chứ không thể là Quý Sửu nối Giáp Dần:

a- Giáp Tí 1 trong hai thế chính của lưỡng nghi là sơ khai trong cảnh tối âm u minh (Thái Âm). Chi sanh Can, gốc chưa bén rễ nhờ ngọn nuôi. Cuộc sống phải đơn sơ giản dị, gặp nhiều may do ngọn thu hút ở cõi hư vô đầy hơi nước (Tí Thuỷ). Đa số nằm trong thời gian này được Chi sanh Can.

b- Bước qua Giáp Tuất (Can khắc chi) 1 trong 2 thế nguồn gốc chuyến biến. Gốc dành lấy sống, ngọn phải héo tàn, thời gian tranh sống gò ép, nguồn gốc phát sinh ra Giáp Thân.

c- Giáp Thân (Chi khắc Can) là thời gian quật khởi nhờ ánh sáng Thái Dương, tuy là chiều tà (20 năm từ Giáp Tuất đến Quý Tỵ là một chuỗi Can Chi tương khắc, triền miên tang thương diễn chuyển)

d- Giáp Ngọ là thế chính của Thái Dương, gốc tự hiểu lẽ sống phải nuôi ngọn để trường tồn (đa số năm Can Chi tương hợp).

e- Nhảy đến Giáp Thìn (Can lại khắc Chi). Ở đây không giống như Giáp Tuất là vì thuộc phạm vi của Thái Dương (Giáp Tuất thuộc Thái Âm). Đa số năm Can Chi tương sinh nhưng có nhiều dồn ép (Can Giáp khắc chi Thìn). Đây chỉ là nguyên lý để chuyển dần đến Giáp Dần.

g- Can Chi đồng hành là biểu tượng của Giáp Dần, một cảnh bình đẳng bằng liên hiệp, một thế huy hoàng hạnh phúc.

Bánh xe luân lưu lại đến Giáp Tí, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ thời gian, bình dị may mắn vẫn là biểu tượng của Giáp Tí, tuyệt không một khắc chế, rồi Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần tuần tự nối nhau bất tuyệt.

Ngắm nhìn sự chuyển dịch giữa 6 con Giáp, nhjaan thấy có 2 đường lối riêng biệt:

1- Từ Giáp Tí bước qua Giáp Tuất, từ Giáp Tuất sang Giáp Thân, từ Giáp Ngọ nhảy tới Giáp Thìn, từ Giáp Thìn biến thành Giáp Dần tất cả là những khắc chế ghê gớm.

2- Còn từ Giáp Thân sang Giáp Ngọ, Giáp Dần sang Giáp Tí là tình tương sinh đằm thắm.

Nguyên tắc:

Giáp Tuất (Hỏa) khắc Giáp Tí (Kim)Giáp Thân (Thủy) khắc Giáp Tuất (Hỏa)Giáp Ngọ (Kim) sinh Giáp Thân (Thủy)Giáp Thìn (Hỏa) khắc Giáp Ngọ (Kim)Giáp Dần (Thủy) khắc Giáp Thìn (Hỏa)Giáp Tí (Kim) sinh Giáp Dần (Thủy)

Ngày nay đời sống vật chất nhờ được khoa học tiến bộ, tuy có bỏ cách xa ngàn xưa muôn vạn dặm, thiết tưởng phần tinh thần không thể không giống nhau ở mỗi hoàn cảnh phải ưu tư hay đắc ý.

(1) Trên địa bàn Tử Vi chia làm 12 cung âm dương xen kẽ nhau. Sáu cung dương là 6 chữ Giáp. Mỗi chữ Giáp là hiện tượng của mỗi thời đại. Giáp Tí là Thái Cổ. Giáp Tuất là thượng cổ. Hai thời đại này thuộc về ảnh hưởng của Thái Âm nên mọi sự đều ở trong vòng sơ khai bí hiểm. Phục Hy là vị Thánh thời Thái cổ phát minh ra dịch lý cũng phải chờ đến Khổng Tử ở thời Trung cổ mới san định được ra manh mối một phần lớn. Giáp Thân là Trung cổ, đây là thời gian đã thuộc Thái dương nên đã sản xuất là những Thích Ca, Khổng Tử ra đời trước 500 năm dương lịch. Giáp Ngọ là Cận Cổ là thời đại khoa học dồn dập phát minh (Chữ Giáp sinh chữ Ngọ). Giáp Thìn là hiện thế rồi đến Giáp Dần là Hậu thế.

Mỗi thời đại là 1080 năm tức là gồm 6 đại nguyên. Mỗi đại nguyên có 1080 năm chia làm thượng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên (nghĩa là mỗi đại nguyên phải đi hết 1 vòng 6 Giáp mới là một thời đại)

Mỗi đời người, mỗi nhân quả

Vòng Tràng Sinh đã kín đáo giảng giải đời người không phải là một đường thẳng đi từ sinh đến tuyệt là hết. Còn hai giai đoạn Thai và Dưỡng nối liền Tuyệt với Sinh thành một vòng kín quay vòng luân lưu vô hạn. Thời gian biến dịch hết thịnh phải suy, suy tàn lại kéo màn hưng thịnh. Kiếp nhân sinh do 2 vòng Thiên Can (Lộc Tồn) và Địa Chi (Thái Tuế) đúc nắn nhưng không thể không có bản ngã là mình gây nghiệp quả. Một chén cơm ngon không thể không có công bằng người nấu chín. Người vô học không thể cứ ngồi chơi rồi đương nhiên thành Bác Học.

Vòng Tràng Sinh do cục diện đời đương số phát xuất, từ kẻ thất phu đến bậc tuyệt luân cùng chung hưởng sự khác biệt tuỳ theo hành động của cá nhân.

Hai chữ Tài Thọ do Mệnh và Thân điều động là tất cả sự hoán cải bù trừ nhân quả. Lý đương nhiên Thân có làm ra Thọ (nhân hậu) thì định mệnh mới có đủ khả năng quyền biến (Thiên tài có nghĩa là năng lực tuyệt vời) tạo những gì tốt đẹp đền đáp. Đó là trường hợp Thái Tuế. Trái lại khi Không Kiếp hãm địa xuất phát chữ Thọ thì Tài kia cũng sẵn sàng đem lại kết quả hình thức tranh vẽ mà thôi, tuỳ theo cá tính thành tâm tín thực hay thủ đoạn gian manh.

Thế cuộc luân lưu bằng 12 địa chi từ Tí đến Hợi, người đời nhập thể ở khoảng thời gian nào thì thấy cái căn bản của mình phải mang nặng ngay ở phần việc nào như:

1- Sinh năm Tí thì chính bản thân mình là điều can hệ nhất (Tài ở Mệnh)

2- Sinh năm Sửu thì phải làm sao với đấng sinh thành (Tài ở Phụ)

3- Sinh năm Dần thì căn quả chịu ảnh hưởng nơi dòng họ (Tài ở Phúc)

4- Sinh năm Mão thì căn quả chịu ảnh hưởng nơi sự nghiệp (tài ở Điền)

5- Sinh năm Thìn thì căn quả chịu ảnh hưởng với công việc làm (Tài ở Quan)

6- Sinh năm Tỵ thì căn quả chịu ảnh hưởng với người lui tới cửa sau (Tài ở Nô)

7- Sinh năm Ngọ thì căn quả chịu ảnh hưởng ngoại nhân (Tài ở Di)

8- Sinh năm Mùi thì căn quả chịu ảnh hưởng những hoạn nạn (Tài ở Ách)

9- Sinh năm Thân thì căn quả chịu ảnh hưởng tiền của thâu hoạch (Tài ở Tài)

10- Sinh năm Dậu thì căn quả chịu ảnh hưởng con cháu (Tài ở Tử)

11- Sinh năm Tuất thì căn quả chịu ảnh hưởng vợ chồng (Tài ở Phối)

12- Sinh năm Hợi thì căn quả chịu ảnh hưởng anh em (Tài ở Bào)

Chữ Thọ tuỳ theo Thân sống ở 6 nơi: Mệnh, Phúc, Quan, Di, Tài và Phối hướng mà đi. Người nào tuổi dương thì luôn luôn Thọ phải ở những cung được coi là cương cung, vì cùng thế dương hay âm với cung Mệnh, tức là 6 cung Mệnh, Phúc, Quan, Di Tài và Phối. Còn người âm Thọ thường xuyên ở cung nhược (1) cung tức là cung khác biệt âm dương với cung mệnh, nghĩa là 6 cung: Phụ, Điền, Nô, Ách, Tử, Bào. Tất cả trên đây cho thấy luật âm dương rất thận trọng rành mạch phân minh.

Hai người cùng tuổi Mão:

a- Ất Mão sanh ngày 23 tháng 10 giờ Thân

b- Tân Mão sanh ngày 14 tháng 10 giờ Hợi

Biết rằng cả hai người đều nặng căn quả ở cung Điền (sự nghiệp gồm vật chất và tinh thần). Hai người cùng bị Không Kiếp nhập Mệnh và Thân. Sự khác biệt nhau là một người Mệnh Thân Thái Tuế, người kia Mệnh Thiếu Dương, Thân Thiếu Âm. Sự khác biệt này cho biết đâu là thành thực tín nghĩa của Thái Tuế. Không Kiếp chỉ hành hạ người không được đắc ý mà thôi. Còn người Thiếu Dương Không Kiếp được bồi đắp thêm tả Hữu ở Phụ Mẫu nhị hợp dồn sang, diễn tả một kiếp nhân sinh sáng láng hơn người mà thủ đoạn cũng không chịu nhường ai cả (Tả Hữu Không Kiếp).

Người Thái Tuế mang chữ Thọ từ Quan đến Ách, đương nhiên là Ách sẽ chẳng đến nỗi nào đáng ngại. Người Thiếu Dương mang chữ Thọ từ Phối đến Phụ. Hỏi rằng có thực bụng tâm thành hay không? Hay chỉ là một thủ đoạn trá hình. Tất nhiên cung Điền của hai người do chữ Tài hoán cải khác biệt muôn vạn dặm đường.

Bánh xe Tràng sinh xoay chuyển đồng nhịp điệu với Tài Thọ luân lưu làm cho lý số học ngoài cái ưu điểm sở trường là thấu rõ tư thế cá nhân trong xã hội, còn bao gồm một triết lý cao sâu cho hết thảy mọi người phân biệt được đâu là đường đi quang minh êm đẹp, đâu là bước ngõ tối chông gai, tự mình nên sáng suốt mà rong ruổi.

(1) 12 cung số không thể coi cung nào là cường hay nhược. Mỗi cung đều có những quan hệ thiết thực với Mệnh trên khía cạnh riêng biệt, như Phụ Tử Điền Ách đâu có thể coi nhẹ đồng cân. Từ lúc mới ra đời phải có cha, khi về già có con, sự nghiệp tài sản với tai nạn đâu có phải là vấn đề bỏ qua ít ảnh hưởng đến cuộc sống bản thân.

Một ngôi: Trời Đất Người

Vũ trụ là thái cực. Thiên địa là lưỡng nghi, là âm dương của dịch lý điều khiển vạn vật từ cái hữu hình đến vô hình. Thánh Phục Hy lập thành bát quái làm đồ biểu cho vũ trụ vẽ bằng 2 đường kẻ ngang (vạch dài là dương vạch ngắn là âm). Một điều khiến người học dịch phải tự hỏi mỗi quẻ trong bát quái không phải là vạch lại là:

Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài

Thiên Địa Nhân

Có lẽ nào lại thừa

Thưa rằng nét đó làm vinh dự cho loài người. Vạch trên là Thiên vạch, vạch dưới là Địa, vạch giữa là Nhân tức là con người. Đầu đội Trời, chân đạp Đất: đứng đầu vạn vật đem khối óc tinh vi của mình như thể chống chọi lại với cả thiên địa danh lấy sự sống còn.

Thảo mộc cũng là một sinh vật sinh lão bệnh tử nhưng không có óc. Súc vật có óc nhưng óc chỉ để báo hiệu cho con vật biết những gì là thói quen như đói ăn, khát thì uống, thấy đồng loại khác giống thì thèm sinh lý, đẻ con sơ sinh thì chăn dắt thế thôi.

Vậy Nhân phải là đề tài khá quan trọng của dịch lý nói chung, lý số nói riêng. Thánh nhân lập ra số đã dành ra một phần rất thiết yếu để cho người đời tự suy nghĩ.

Trong lá số ta thấy 2 chữ Mệnh Thân là cả một vẫn đề khiến ta phải hiều ý nghĩa.

Mệnh là sinh mạng của cá nhân do Thiên Địa hoá sinh thành kiếp người trong một khuôn khổ nào, tức là định mệnh của một kiếp nhân sinh, ví như tuổi Giáp Thìn thấy ngay Thiên Can Giáp (Mộc) khắc địa chi Thìn (Thổ). Ta có thể biết tạm thời vận mạng Giáp Thìn đời sống thường chật vật vì Can khắc Chi, thêm Giáp Thìn không phải là tam hợp của Lộc Tồn, và vị trí Lộc Tồn của Giáp Thìn lại còn bị Tuần thủ tiêu mất. Kể như là Thiên Can không đem lại hạnh phúc gì cả *.

Còn địa chi Thìn thì phải tuỳ theo Mệnh đặt nằm ở vị trí nào của địa bàn trong vòng Thái Tuế. Nếu được trúng tam hợp Thân Tí Thìn biết ngay người này được tạo hoá nhồi nắn có tư cách, nhưng khiếm khuyết về hạnh phúc tiền tài*.

Thân và thân thế hành động của dương nhân có chấp nhận định mệnh hay không. Biết rằng Mệnh và Thân luôn luôn ở cùng trong một thế lưỡng nghi, ở dương cung thì cùng dương hoặc âm cung thì cùng âm tuy 6 vị trí có khác: Mệnh Thân đồng, cung Thân ở Quan, thân ở Tài, ở Di, Phúc và Phối.

Nhận thấy ngoài Mệnh Thân đồng, ở cung Quan hay Tài, Thân như hoàn toàn chấp nhận định mệnh. Còn ở Di Phúc và Phối cho thấy thân như không chấp nhận định mệnh vì khác tam hợp của Mệnh. Trườn hợp này sẽ thấy muôn hình vạn trạng khác nhau tuỳ theo 12 vị trí Thái Tuế. Phải chăng thấy cảnh thảm kịch của Thế nhân, vị Thánh làm ra lý số phải thêm 1 vòng Tràng Sinh để cùng với vòng Lộc Tồn (Thiên) Thái Tuế (Địa) nêu lên triết lý xử thế nhắn nhủ người đời lẽ thiệt hơn và hướng dẫn cuộc sống.

Tràng Sinh là bước đường dài từ lúc thụ thai trong bụng mẹ cho đến ngày thành nấm mồ trong mộ địa tuyệt tích, lấy trung bình là 60 năm hoa giáp, dầu làm vương tướng gì cũng gặp cảnh thịnh suy luôn phiên diễn bày.

Tràng Sinh chia ra 2 lẽ sống mà cùng ý nghĩ:

a- Sinh Vượng Mộ Đới Bệnh Thai = Đường hoàng cư xử được người quý mến lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển.

b- Dục, Suy Tuyệt Quan Tử Dưỡng = Ăn xổi ở thời không ai tưởng nhớ giấy rách phải cố xếp lấy lề.

Chia xuống thành tứ tượng tức là 4 tam hợp:

1- Sinh Vượng Mô = đường hoàng mồ yên

2- Dục Suy Tuyệt = vội ham tàn tích

3- Đới Bệnh Thai = thịnh suy hoàn lương

4- Quan Tử Dưỡng = Giấy rách giữ lấy lề

Toàn thể cả vòng là một triết lý khuyên đời xử thế: Đường hoàng cư xử được người quý mến lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển, ăn xổi ở thì không ai tưởng nhớ, giấy rách phải cố xếp giữ lấy lề.

Khối óc suy tư của đệ tam tài (nhân) thật đáng sợ. Từ một thân mình trần đầy xác thịt, ra đời lăn lộn lang thang kiếm ăn cùng các sinh vật khác, nay nghiễm nhiên vượt khí quyển trái đất du lịch một hành tinh khác. Rồi đây không biết còn làm được bao nhiêu việc khiến cho Thiên Địa phải nể mặt. Ta lại càng phải sợ cái đầu óc hàng muôn vạn năm xưa đã vẽ ra dịch lý âm dương áp dụng hàng triệu năm nay vẫn không sai lệch ra ngoài lập luận.

Sau đây xin trình một lá số gọi là giá trị đệ tam tài "Nhân" giám kình chống lại cái mà liệt danh bất khả xâm phạm: Thiên Địa

Tuổi Tân Dậu ngày 10 tháng 4 giờ Tuất (Khổng Minh)

Mệnh và Thân đều bị xếp vào tam hợp Tuế Phá Tang Môn Điếu Khách tức là Thân cũng phải chịu luỵ với Mệnh ở hoàn cảnh trái ý muốn. Mệnh thấy cả một ông trời nhỏ đủ cả ba hột ngọc quý giá nhất của Tử Vi: Nhật Nguyệt, Tả Hữu, Thiên Mã.

Biết rằng Mộc Mệnh mà vô chính diệu thì không thể có một sát tinh nào hành Mộc để làm nòng cốt cho cứng rắn được, chỉ còn thế hư không được Nhật Nguyệt tam hợp chiếu lên là sáng giá bộ Tả Hữu, phụ thêm Thiên Mã ở Hợi vô cùng giá trị cho người mạng Mộc. Đây là một kiếp lai sinh kỳ nhân quái kiệt (Thai, Thanh Long) âm Nam được Thái âm ở Hợi là một cách phù hợp đáng quý. Thiên Mã càng đẹp với tuổi Tân Dậu bao nhiêu lại càng thấy rõ tư cách phò suy chứ không phò thịnh của Mã (vị trí Tuế Tang Điếu) đứng với Tả Hữu càng nổi bật (nghị lực vạn năng).

Thân mới quan trọng, Thái Dương Thiếu Dương Quyền Phá Hư một văn nhân quyết đem trí óc cải số trơi, kình chống hẳn với Cao xanh là Thái Tuế, nhưng lại không được vì vị trí Mão vẫn bị Dậu khắc chế mặc dầu Thái Tuế vị vướng Địa Kiếp (thâm tâm ông hẳn nghĩ Trời đương bị rối bời, biết đâu là ông khiêu khích).

Với tất cả Mệnh Thân này của người Điếu Khách (quyết tâm quyết phục) Phá Hư (quật ngược) dầu khả năng như trên chỉ kém Thượng đế có chiếc ngai vàng, cũng không sao hài lòng đắc ý.

Ngẫm hay muôn sự tại Trời

Trời kia đã bắt làm người có Thân

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao

......................

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ Tài (Vòng Tràng Sinh)

Xin bái phục Nguyễn Du hẳn đã nhiều phen cay cú với lý học định mệnh. Tiên Điền tiên sinh khéo nhắc nhở người đời cái thế sơ khai của "Một là lòng nhân, là chữ Tâm có giá trị bằng 3 chữ Tài.

Triết lý chính danh trong tử vi

Tử Vi không phải là một khoa toán tìm hiểu số mạng một cá nhân, mà còn tiềm tàng trong phần triết học một đạo lý nhân sinh cư xử tinh tế trung thực. Đó là 2 phần nói là riêng biệt, định mệnh đã sắp đặt và hành động bản thân vẫn có liên quan mật thiết đi đôi với nhau. Định mệnh do Thiên Can (vòng Lộc Tồn) và Địa Chi (vòng Thái tuế) phối hợp quyết định hành động hàng ngày do Thân có vòng Tràng Sinh khuyên nhủ (Thiên Địa Nhân).

Cái gì thuộc sở hữu của ta, ta mới mạnh bạo coi như có quyền định đoạt. Cái gì của người định mệnh đã quy định ta phải cư xử sao cho minh bạch thì mới mong khỏi lầm lỡ ân hận về sau.

Thế nhân sanh trưởng trên cõi đất luôn luôn có người thân (tam hợp) kẻ nghịch (xung chiếu). Sống trong tam hợp ta có bổn phận bồi đắp và hãnh diện hưởng thụ những gì là quyền lợi do công lao đào tạo. Sống trên đất người ta chỉ là kiều dân cư lợi phẩm phải là hạn chế sao cho phù hợp cảnh của người ăn nhờ ở. Vòng Thái Tuế cho biết đâu là chánh danh đâu là dân kiều ngụ. Tam hoá Khoa Quyền Lộc là tài nguyên, người sống trong hoàn cảnh phải tự hiểu để hành động theo lẽ phải thì muôn sự đều suôi chiều êm đẹp. Tam hoá do hàng Can ấn định ban cho từng bộ sao, không như Long Phượng, Tả Hữu, Xương Khúc do năm tháng giờ có nơi xuất phát nhất định theo đường hướng thuận nghịch mà đi, nên tam hoá liên châu ở Mệnh, dầu trường hợp nào cũng ảnh hưởng mạnh tuỳ theo tư cách ý nghĩa của Khoa Quyền hay Lộc.

Tuổi Hợi mà được ngồi ở Tỵ đắc tam hoá liên châu Quyền ở Mệnh, Khoa Lộc giáp hai bên là Thìn và Ngọ. Trông vào thấy cả một bức ảnh tô màu tươi đẹp. Sự thật cái đẹp này chỉ là cái đẹp của kẻ mượn áo đẹp khoác vào mồi câu thơm ngon như cá nuốt mồi, nếu hợp lẽ phải là tuổi Tỵ Dậu Sử mới đáng giá 100% với tư cách công dân chính cống Long Phượng in rõ ràng trên thẻ căn cước. Thái Tuế Tam hoá liên châu này với tuổi Hợi, nếu khôn ngoan nên đó chỉ là phẩm hàm chiếc văn bằng khen cho kiều dân đã làm được việc gì gọi là giúp ích mà mình đã có cơ hội gặp thời may làm được không nên tự kiêu hành động quá trớn để rồi ăn năn muôn thuở.

Tỵ Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi là hai thế xung khắc thường đem đến những tính cách quyết liệt khó dung hoà vì cùng một thế âm dương, còn hai thế Thân Tí Thìn và Dần Ngọ Tuất đối với Tỵ Dậu Sửu thì sao?

Thưa rằng Dần Ngọ Tuất đối với Tỵ Dậu Sửu là thế tay trên (khắc xuất mà bị sa lầy) mọi sự đều thua thiệt. Còn Thân Tí Thìn so với Tỵ Dậu Sửu được lợi điểm sinh nhập, nhưng luật thừa trừ vẫn không qua nổi nên thường xuyên bị Thiên Không ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng.

Tam hoá liên châu nhập Mệnh nghĩa là một hoá ở Mệnh, 2 hoá giáp hai bên, đắc cách nhất là Quyền ở Mệnh mà cũng chỉ có một tuổi Canh mới có.

Nói đến tam hoá liên châu phải để ý đến luật âm dương rất nhiều và thận trọng. Âm Dương không những ở cung mà còn đòi hỏi đâu là ảnh hưởng dương đâu là ảnh hưởng âm. Từ Dần đến Mùi thuộc Dương, từ Thân đến Sửu thuộc âm. Tam hoá liên châu là áo gấm có gắn huy chương danh dự làm đẹp cho dương nhân ở chỗ thanh thiên bạch nhật. Người khoác áo vào buổi hoàng hôn cho đến tờ mờ sáng, tưởng chỉ nên tự mãn trong lòng mà thôi với công việc mình trong bóng tối.

Vậy từ Dần đến Mùi xét ra chỉ cung Thìn là đắc cách nhất. Cung Ngọ vấp phải Triệt vì chỉ có tuổi Canh mới có tam hoá liên châu oai hùng, mà tuổi Canh có Triệt quá nặng ở ngay cạnh Ngọ. Có hai tuổi Canh là đại diện cho 6 tuổi dương Canh: Canh Thìn đại diện cho Thân Tí Thìn, Canh Tuất thay mặt cho Dần Ngọ Tuất. Ngôi vị Thìn luôn đàn áp Tuất. Người Canh Tuất ở Thìn là Tuế Phá, người Canh Thìn là Thái Tuế, thấy ngay đâu là chánh nghĩa và thắng cuộc.

Muốn có Quyền nhập Mệnh, người tuổi Canh chạy không khỏi Vũ Khúc Phá Quân ngộ Triệt đương nhiên Phúc Đức, nặng nhẹ tuỳ theo Thái Tuế, Tuế Phá khi đắc thời. Tật ách ở Hợi có Cự Môn là sao ngôn luận đắc địa, một đằng gặp Hồng Loan, một đằng gặp Thiên Không đường ai nấy đi. Hai vị trí Thái Tuế và Tuế Phá có tính cách tuyệt đối khác nhau. Còn lại Thiếu Dương và Thiếu Âm có thể nói là cùng hoàn cảnh thua thiệt. Người được định mệnh đặc phú cho thông minh hơn đời mà cứ thấy cuộc sống dường như bị kẹt cứng (Tử Phủ) dễ sinh ra mưu thần chước quỷ nên số phải vạch thêm ngõ rẽ tam đức (Thiên Đức Nguyệt Đức và Phúc Đức) vẫn ở trong thế tam tài Thiên Địa Nhân nương thân. Còn người ta ra công cố sức làm cho lắm vẫn thấy một lầm hai lỡ trở thành khờ dại nên an ủi mà sống coi công lao của mình với thế cuộc sánh bằng đức cao dày của bậc nguyên huấn (Long Đức)

Biết rằng chỉ một tuổi Canh có tam hoá liên châu đắc Quyền đứng giữa mà là tuổi dương phải đóng cung dương. Còn tuổi âm cũng chỉ có một trường hợp có 3 hoá liền nhau là tuổi Quý được liệt danh là tam hoá hận đời: Hoá Kỵ ở giữa Khoa Quyền giáp 2 bên (xin lập số tuổi Quý Hợi sanh ngày 24 tháng 11 giờ Mão). Thêm một trường hợp nghịch địa âm dương là tuổi Ất (âm) mệnh phải đóng ở cung Thìn (dương) có Tử Tướng, được Khoa đứng giữa giáp Quyền Lộc, nghịch cảnh âm dương là phải thiếu yếu tố hoàn mỹ nên khiến Quyền ra bên. Nơi đây Khoa đứng giữa lại là điều may được việc. Ất là âm đối với âm Nam nên cung Thìn có Đà La giăng lưới nghĩa là Mệnh nằm ở Thiên La. Nếu không có Khoa làm sao Tử Tướng làm được việc. Nhưng đương số nên luôn luôn đề phòng luật bù trừ mà nhớ rằng điều may chỉ có giới hạn. Tuổi Ất mệnh ở Thìn, Phúc Đức ở Ngọ phải là Thất Sát ngưỡng đầu ngộ Triệt được phần nào giảm thiểu chỉ còn 30% mà thôi mới có hy vọng đề phòng. Phúc Đức Thất Sát ở Ngọ hay Triệt đứng trong tam hợp với Thê Tham Lang ở Dần. Bộ Sát Phá Tham dầu hãm hay đắc địa không nên có trong các cung thuộc người thân của Mệnh như Phụ Mẫu, Thê Thiếp...thường đem mối ưu tư làm tê tái lòng người có số.

Tại sao tam hoá liên châu quý hơn tam hoá nhập tam hợp. Tam hoá liên châu nhập Mệnh có ảnh hưởng rộng rãi liên quan tới cả một dòng giống, nghĩa là cha mẹ anh em đều thọ hưởng. Mệnh là một nét gạch nối liền cả 3 cung. Tam hoá nhập tam hợp thì chỉ một mình xuất sắc nổi bật trong gia đình. Muốn đi đến lẽ chánh danh Mệnh phải có Khoa Quan Lộc có Quyền và Lộc ở Tài mới xứng danh người có đức nhân học rộng đáng lãnh quyền cao hưởng lộc hậu. thiết tưởng khó có được một lá số hợp cách.

Triết lý Tử Vi cao rộng như âm dương trong vũ trụ, đây mới chỉ thấy một phần nhỏ li ti mà thôi.

Thế nào là vận hội tốt?

Nhận định được một lá số cho tốt đẹp là cả một công trình nghiên cứu không phải là dễ. Như trước chỉ nghiêng hẳn về tinh đẩu từ bộ chính tinh đến trung tinh thấy nhiều bộ đôi như Khôi Việt, Hồng Đào, Tả Hữu... nhất là bộ tam Hóa Khoa Quyển Lộc là cho đắc cách. Nghĩ thật là một cái lầm quá lớn.

Nhớ lại một lá số xưa kia biết bao lời phê khen tụng cho là đẹp với tuổi Canh Tuất Mệnh Thân đồng cung ở Thìn có Vũ Khúc chủ tinh. Tuổi Canh được Vũ Khúc thủ Mạng ở Thìn là một điều hy hữu ( có nghĩa là được Tam Hóa liên châu ngay ở Mệnh Thìn cung là trúng cách đẹp nhất, áo gấm mặc ban ngày). Vũ Khúc là Kim làm nòng cốt cho người tuổi Kim, bồi đắp thêm cung Quan có Tử Phủ, Hữu bật, Lộc Mã Khốc Khách Đẩu quân. Thiết tưởng cái đẹp đến thế là cực điểm, Về phương diện tinh đẩu phải công nhận là đẹp, cái đẹp chắc nịch gồm cả quý lẫn phú.

Thật tình mà nói chỉ có vị trí đóng Mệnh đánh ngã cái tốt đẹp này. Đó là vị trí Tuế Phá, chứng minh lá số phá cách, là cá nhân hậm hực bất mãn không thể hồi tâm được vì Mệnh Thân đồng cung sa ngã về mồi phú quý ( Lộc Tồn dành cho tuổi Canh là Thân Tí Thìn mới chánh đáng). Người này cố tâm tranh mồi, có thể làm điều phi nghĩa nếu làm được. Hỡi ơi, cái đẹp này nó đẹp ở chỗ nào? Vậy những cái đẹp của tinh đẩu có khác gì cái áo đẹp có thể thằng ăn mày mặc vào làm người ta hiểu lầm là thiện nhân cần cù làm nên giàu có.Chiếc cẩm bào lộng lẫy của bậc minh quân bị phường nghịch tặc khoát lấy bằng đường lối phản động cầu vinh.

Bằng như tuổi Thân Tí Thìn mới đẹp nhất là Canh Thìn mới xứng đáng với Tam Hóa liên châu cùng cung Quan Tử Phủ, Hữu bật, Lộc Tồn ( không cần Mã và tuổi Thân Tí Thìn Mã ở Dần không ở Thân). Khác nhau chỉ bằng vị trí Mệnh ở tam hợp nào trong vòng Thái Tuế để phân biệt đâu là phường múa rối, đâu là chính nhân quân tử, đâu là anh hùng cái thế đâu là kẻ gian manh.

Cái đẹp của Mệnh đã khó phân biệt như thế, cái đẹp của vận hội lại cáng rắc rối khó hơn. Phải cân nhắc trên 3 phương diện Thiên thời, Nhân hòa, địa lợi. Người chính nhân nghĩa hiệp không phài sinh ra nhập thế cuộc là trở thành anh hùng ngay, phải trải qua những giai đoạn bần hàn hay trân chuyên lao khổ tức là được định mệnh tôi luyện nên thành vĩ nhân. Vậy cái vận hội đẹp của từng cá nhân không ngoài thế thiên thời. Người không thời há dễ làm nên việc. Thiên thời là thế tam hợp Thái Tuế. Thái Tuế là ngôi vị của những người thắng cuộc, thì khi vận chuyển đến tam hợp Thái Tuế tức là được Thiên thời là thế cờ may nhất. Nếu thiên thời không có phải nhờ đến thế nhân hoà là lòng người. Lòng người thuận hay nghịch là tính theo tinh đẩu.

Mệnh ở thế Tử Phủ Sát Phá Tham hay Cơ Lương Cự Nhật, nếu gặp đồng bộ nghĩa là cùng phe phái thì hoà thuận, bằng như đụng độ khác giới hẳn là có sự khó khăn, gia thêm lục sát tinh người có số càng thêm chuyện vất vả là may.

Hồi đầu học số trong 10 người có thể nói chắc cả 10 người theo tinh đẩu đắc địa được trung tinh phò tá thì cho là vận hội rồng mây. Nhiều người cả tin cứ tiếp tục khuếch trương sự nghiệp, mất cả nhà cửa tài sản, biết đâu là hạn khắc nhập, cũng có vài người may mà trúng như gặp được thiên thời mà không biết, hay nhân hoà là bộ sao cùng phe phái với tinh đẩu thủ mạng được trung tinh đắc lực ăn nên làm ra, không hiểu đó là nhờ nhân hoà là thứ cách. Địa lợi là hành của Mệnh vận chuyển đến cung được hành của thổ cung là cái thế sở đắc thứ 3 cho tính mạng được phần nào vững chắc yên lành. Cung không đủ sức mạnh lôi kéo phần thắng lợi cho số, như một nhà doanh thương dầu chiếm được một địa điểm ngay góc đường thuận tiện cho mình khai trương, nhưng cứ gặp cảnh mưa rơi tầm tã lụi lội ngăn trở, người mua bán không ưa mình, hỏi làm sao sự nghiệp thịnh phát.

Vậy điều kiện ưu tiên là phải có thiên thời, rồi đến nhân hoà, còn địa lợi là yếu tố chỉ cần an thân.

Nếu thế người đời xét ra chỉ được hưởng 10 năm nào đó, còn lại suốt đời khổ hay sao?

Xin thưa, cũng có người được gặp 2 đại vận Thái Tuế, Quan Phù hay Bạch Hổ, nghĩa là ngoài 20 một vận và ngoài 60 tuổi một lần nữa, tức là người này Mệnh không ở tam hợp Thái Tuế, thắng lợi chỉ là một giai đạon rồi sụp đổ hoặc bị thị phi điểm phá để ô danh sự nghiệp.

Cũng có người được 2, 3 đại vận liên tiếp, nhưng phải là người âm nam dương nữ muốn danh công thành danh toại phải gặp Thiên Không trước cho nếm mùi cay chua mặn chát cuộc thế, hiểu cái thất bại đem đến thành công. Hạng này không giống người dương nam âm nữ qua đại vận Thái Tuế rồi gặp Thiên Không. Người âm nam dương nữ phải qua Thiên Không mới đến Thái Tuế, kế đó may được gặp nhân hoà, biết ra phải hy sinh một chút thì đắc sách là vì hạn sinh xuất gỡ gạch bằng nhân hoà, rồi tiếp đến đại vận khắc xuất được trung tinh phò tá, nếu tam hoá liên châu càng tốt. Trái với khắc nhập gặp trung tinh đắc cách là một điều nguy khốn khó cứu.

Lá số điển hình của một thế nhân sống ù lì để mà hưởng thụ 3 đại vận liên tiếp, tuổi Ất Sửu ngày 30 tháng 10 giờ Mão. Người Tỵ Dậu Sửu mà Mệnh đóng ở Thân Tí Thìn là thế thua thiệt. Ngồi vào chỗ Long Đức phải đóng vai trò thầy tu trọng đạo đức để tự an ủi thân thế. Nhưng Thân lại ở Dần Ngọ Tuất là thế sáng nước khôn hơn ai, biết có ganh mạnh cũng không hơn ai (Hồng Loan, Thiên Không, Cô Thần) tốt hơn mũ ni che tai, để cuộc đời đưa đẩy, gió chiều nào che chiều ấy. Bắt đầu 22 tuổi gặp hạn Thiên Không, nhờ có Thân đóng ở thế sắc sắc không không sớm tỉnh ngộ tuy bị nhồi lên ngộp xuống cố chịu đựng đến đại vận 32 gặp tam hợp Thái Tuế một nhảy thành công. Kế đến 42 tuổi gặp nhân hoà, mặc dầu ở thế sinh xuất đắc

tam hoá liên châu ở Thìn là cả một sự may ít thấy, ù lì mà sống giả khôn giả dại mặc miệng tiếng khen không hợm, chê không buồn. Tuy ở tình thế sinh xuất của Thiên thời vẫn được sinh nhập của nhị hợp bù đắp cách Tử Tướng Phi Hổ thang mây rộng mở tiến bước rong ruổi. Bề ngoài được tiếng rộng rãi hào hiệp với mọi người thực tế bên trong vẫn thụ hưởng hơn ai (hưởng Thân ở vị trí sinh nhập). Rồi 52 tuổi Cự Cơ ở Mão có Lộc Tồn, Hoá Lộc ở thế khắc xuất của thiên thời. Nhân hoà với Cự Cơ song lộc không phải là không đắc cách (Tử Phủ Vũ Tướng với Cự Nhật không cách nhau biệt bao xa) so với bản mệnh Liêm Trinh, nhưng Tử Phủ Vũ Tướng tam hợp hẳn là cuộc sống tuy có kém sút vẫn được đầy đủ. Ở đây đương số phải sống theo hai điều kiện là đối phương uy hiếp (Dậu khắc Mão ở thế xung) giao tế khôn khéo tạo thêm phúc đức (Mão nhị hợp sinh xuất cho phúc cung) cuộc đời hẳn được mãn ý thung dung.

Người này không phải là người vụng tính, còn sớm tỉnh ngộ hơn ai là Thân Dần tuy Tham Lang ở đó có lòng ham muốn như ai, nhưng Thiếu Dương, Hồng Loan, Thiên Không, Cô Thân như có linh giác bén nhậy để tránh những gì bản thân ôm ấp tham vọng. Ta phải phục cái thân quý giá này là chính cái bản ngã của người bằng xương bằng thịt như ta, biết dẫn dắt cuộc đời đi trong đường lối định mệnh vạch ra trải 3 đại vận tốt đẹp, biết xử thế khôn khéo dầu bao thế cuộc xoay vần thay đổi.

Còn một trường hợp đại vận phấn khởi là Mệnh hay Thân bị một Tuần hay Triệt án ngữ làm cho đời như bộ máy khô dầu mỡ, mỗi lần mở máy phải 5 lần bảy lượt ra sức quay mới nổ làm cho người khó nhọc, thân mệt nhoài. Khi đại vận chuyển đến Tuần hay Triệt lại còn nghĩa là nếu Mệnh hay Thân bị Tuần thì khi gặp Triệt tháo gỡ, hay Mệnh, Thân bị Triệt gặp Tuần mới cởi mở, thì đại vận đó coi như con đường xưa kia đào kín nay đã thu dọn hết chướng ngại vật ngăn cản xe cứ việc xả hết tốc lực bon bon chạy.

Luật Tuần Triệt còn nhiều chi tiết, đây chỉ là một nguyên tắc chung nói về vận hội đẹp.

Vận hạn nên tính như thế nào?

Trông vào bản lập thành của lá số, thấy cung thiên bàn rộng rãi ghi năm tháng ngày giờ, mệnh, cục của nó. Ngoài giáp biên 12 cung địa bàn một vòng địa chi viết mỗi cung một chữ theo đường lối nam thuận nữ nghịch đủ một vòng. Đó là tên năm tiểu hạn. Mỗi khi xem hạn của năm nào thì lấy cung có ghi tên chữ đó làm đích, như người tuổi Bính Thân gặp năm Tỵ, thì lấy chữ Tỵ nằm sát cạnh cung Mùi. Cung Mùi đó là tiểu hạn năm Tỵ của tuổi Bính Thân.

Quyết định được một Đại Vận 10 năm tốt xấu là một việc rất khó, mà xuống đến tiểu hạn 1 năm tưởng sự lầm lẫn còn gấp bội. Một chữ Tỵ thì 12 năm lại bắt vòng tới, thành ra trong đời người cứ kể là 60 năm, có 5 năm Tỵ. Có lý nào Tỵ nào cũng giống nhau sao! Đành rằng 5 năm Tỵ đó còn tùy thuộc ở 5 Đại Vận tốt xấu mà thay đổi thêm bởi sự hên xui. Như trên đã nói, nhận xét được một Đại Vận tốt không phải là dễ, thì cái lầm lẩn này đưa vào tạm đem ra phân tách để tìm ra chân lý.

Mười hai cung trong lá số, mỗi cung mang một tên rành rẽ, có 1 giây liên hệ cho cung mệnh. Khi nhìn vào số thấy ngay cái quan trọng khắng khít giữa Mệnh, Quan và Tài, thường thường thấy vẽ hình tam giác bắt liên lạc với nhau, trong sách số kêu là "tam hợp", có nghĩa là Mệnh Quan Tài tuy 3 là 1. Tam hợp là thế đứng chân vạc của Mệnh, tốt hay xấu, thắng hay bại, một khi tranh đua với đời.

Thế tam hợp Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ, là thế chánh của tuổi, và người tuổi gì Thái Tuế ngồi ngay ở cung mang tên đó, mặc dầu Mệnh bị lạc ở cung khác. Một khi cơ hội vận chuyển đến Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ kể như đất sống của mình, quê quán điền sản của một bộ quý tinh chủ về may mắn hưng vượng và quyền uy. Hành của tam hợp tuổi là hành chính xác căn bản tranh đấu của Mệnh. Người tuổi Bính Thân thì tam hợp Tí Thìn là thủy hành. Mỗi thời gian đại vận chuyển đến cung nào thì lấy hành của tam hợp cung đó khắc chế với hành của tam hợp tuổi. Nếu đồng hành với mình là tốt nhất (ở trong đó có Long, Phượng, Hổ, Cái). Nếu sinh nhập là tai hại (có Thiên Không ), vì lẽ Thái Tuế là quá tốt, không thể có gì vượt qua Thái Tuế nên phải gắn ngay Thiên Không để ngăn chận.

Thế tam hợp thứ nhì là hành của tam hợp tuổi bị sinh xuất như Thân Tí Thìn đi gặp Hợi Mão Mùi, là Thủy sinh Mộc. Sự nghiệp của đương số chỉ là bữa ăn thịnh soạn mời khách đến hưởng. Khắc xuất là trường hợp Thân Tí Thìn ( Thủy) gặp Dần Ngọ Tuất (Hỏa), mình phải gắng công tranh đấu, nếu Mã ở đó thuận lợi, sẽ được hài lòng. Bị khắc nhập là vận mạng tàn tạ khó ganh đua.

Mỗi đại vận là một Thiên Thời. Đắc thiên thời thì đời lên hương. Mất thiên thời thì đời sẽ thấy khó khăn để rồi xuống dốc.

Còn 2 yếu tố phụ là Nhân Hòa và Địa Lợi. Nhân Hòa là tinh đẩu của hạn, có cùng trong hệ phái của Mệnh là cùng 1 bộ trong thế lưỡng nghi chính tinh, và hết sức loại tránh lục sát tinh, nhất là Không, Kiếp. Địa Lợi là hành của cung và hành của Mệnh có tương đắc hay không?

Được cả 3 điều kiện là quá tốt. Thường thường chỉ cần được 1 Thiên Thời cũng mãn nguyện.

Tiểu hạn là hạn hành một năm. Một chữ hàng Chi không đủ. Như tuổi Bính Thân. Bính thuộc hàng Can hành Hỏa là gốc. Thân thuộc hàng Chi hành Kim là ngọn. Đi đến năm Tỵ, phải biết rõ Can của Tỵ, như Ất Tỵ hay Đinh Tỵ, Tân Tỵ hay Quí Tỵ, thì mới căn cứ được rành rẽ. Một chữ Tỵ là bỏ gốc chỉ xét có ngọn làm sao thấu đáo?

Trước khi tính đến sao nằm ở cung tiểu hạn. Việc chính yếu là phải so sánh hàng Can của Mệnh với Can của năm hạn. Được sinh nhập là tốt nhất, thứ đến là khắc xuất, trái lại bị sinh xuất ôi thôi cảnh suy bại không chứng nọ cũng tật kia, như tiền nhân đã nói : "hữu phước tán tài, vô phước tán mạng". Hàng Can bị sinh xuất hay khắc nhập mà cung tiểu hạn có Quyền Lộc cũng không đáng mừng, có khi là nguyên cớ để gây suy sụp. Trường hợp hàng Can giống nhau, như hàng Giáp gặp Giáp, Ất; Đinh gặp Bính Đinh, tức là thế bình thì dễ xui hơn là hên, phần sao sẽ làm lệch đòn cân thăng bằng. Nhưng còn phải để ý đến những năm xung, năm tuổi, năm phá, năm hạn, nghe một cái tên cũng biết là ngang trái cho đời sống.

Năm tuổi là năm vận hành luôn luôn đứng ở vị trí Phá Hư ở địa bàn, tức là bất mãn. Năm xung là năm đối kháng. Năm phá là năm đồng loại tiêu hao nhau (tứ sinh 2 cặp, tứ chính 2 cặp, tứ mộ 2 cặp: Tí Dậu phá nhau, Sửu Thìn phá nhau, Dần Hợi phá nhau, Mão Ngọ phá nhau, Tỵ Thân phá nhau, Mùi Tuất phá nhau). Năm hạn là năm kỵ.

Điều cốt yếu phải để ý là đại vận là phần chính, bao trùm cả tiểu hạn. Dầu tiểu hạn tốt xấu chỉ phụ giúp hay giảm bớt 10% sự việc may rủi đại vận chủ trương quyết định.

Xuống đến nguyệt hạn, thấy nhiều lối tính làm ra vẻ mỗi năm đều khác, như tiểu hạn ở năm Mùi thì lấy ngay cung Mùi làm tháng giêng, hoặc lấy cung Mùi làm đích tính nguyệt nghịch thời thuận đến cung nào lấy cung đó làm tháng giêng.

Xem ra chỉ là một lối làm theo ý riêng của từng người. Tháng Giêng đã gọi là tháng Dần, không thể để Mùi hay Tỵ, Tuất gì được. Ngay khi bắt đầu lập thành số cũng phải lấy cung Dần, đến đi là Dần. Nói trùng ảnh hưởng của sao thì hàng Can mỗi tháng giêng mỗi năm mỗi khác nhau đủ sự chế hóa phải thay đổi luôn luôn như: năm Đinh Tỵ tháng giêng là Nhâm Dần; năm sau Mậu Ngọ tháng giêng lại là Giáp Dần, năm sau nửa Kỷ Mùi tháng giêng biến là Bính Dần, ảnh hưởng đương nhiên là biến dịch.

Sau 10 tuổi đời nào những ai có đến 2 vận Thái Tuế.

Càn Khôn nhất hí trường

Thân sinh thị bi kịch.

Đã biết sự khắc chế ở hàng Can là gốc hên xui, nhưng tới mức độ nào, phải so sánh nạp âm của tuổi và nạp âm của thời hạn như: tuổi Nhâm Tí gặp năm hạn Mậu Ngọ thì thấy: Can Mậu khắc Can Nhâm, 2 chi Tí và Ngọ xung (Thiên khắc Địa xung). Nạp âm Nhâm Tí (mộc), sinh xuất cho nạp âm Mậu Ngọ (Hỏa), cho kết quả thấy 95% nguy hại. Nếu người tuổi Nhâm Ngọ thì Can cũng bị khắc, Chi bình hòa, chỉ là tuổi nạp âm vẫn Mộc sinh Hỏa, nhưng còn bị bồi thêm hạn gặp Cô Quả (Thổ) kể như 2 lần khắc Can, tất nhiên kết quả phải là tỷ lệ 90% khốc liệt.

Giàu nhờ bạn, sang vì vợ

Đời người từ lúc biết ăn nói đi đứng là đã có bạn. Có bạn ăn chung miếng bánh, có kẻ chụp giựt đồ chơi để chơi một mình, có bạn thấy mình sức yếu không làm lại ai thì thương hại dìu dắt đi kiếm tìm lối chơi khác. Rồi khi khôn lớn lên, biết bao đường vẽ tình thế đối đáp với xã hội bên ngoài gia đình, lớn nhỏ ai cũng không khác lúc thiếu nhi, việc gì cũng do bạn, vì bạn và có bạn hết thảy.

Vậy bạn không phải là vấn đề giản dị, nó phức tạp, không phải chỉ những ai ngang hàng với mình, thường ngày cặp kè đụng chạm với mới là bạn. Còn nhiều hạng người như nâng đỡ mình trong sự nghiệp kinh doanh, có người chịu để cho mình điều khiển, cũng có người chỉ chờ cơ hội chèn ép mình để đưa thân thế lên bổng. Nói chung đều là bạn cả, tức là Quan Nô Di trong số.

Quan Nô Di đều là ngoại nhân mỗi người có một tư thế riêng đối với Mệnh viên.

Với Nô có nhiều chi tiết tế nhị, không thể đối đãi là kiếp hạng lệ thuộc xấu xa như thường nói: Nô bộc.

Cam phận vì một lẽ gì, sinh kế hay kém tài, đành đem thân cho người sai khiến. Ngoài ra có thể là người chịu sự điều khiển của mình như cấp bậc điều hành phải tuân theo quyết định cấp bậc chỉ huy, có khi là đồng hàng chỉ kém thâm niên hành sự. Có khi là người có tài chỉ vì mạt vận, bó thân khuất phục trong một giai đoạn dung thân, rồi ra gặp hội rồng mây rồi ra cũng tung hoành như ai trong nghiệp Đế, Bá không phải tầm thường mà bị đối xử không xứng đáng như một người vô tài kém đức dưới con mắt để người thường nói, vậy nô cũng là bạn, có biết bao chủ nhân ông lập nên nghiệp lớn, nhờ ở Nô có hạng.

Di là thế xung khắc. Cuộc đời không có Di thì tẻ lạnh, không có gì khích lệ, lòng hăn hái sẽ lần lần hạ thấp và chí phấn đấu sẽ chẳng còn. Di là bạn nghịch đem lại quả cảm cho Mệnh quyết tâm tranh giành lấy chánh nghĩa, nếu có thể được thì sự nghiệp mới mong thành công và bền vững. Di là thế ngang hàng đĩnh đạc đối diện với Mệnh.

Còn Quan là bạn sống còn mật thiết với Mệnh (tam hợp) hay nhờ dở chịu. Người bạn này là quân sư của Mệnh, luôn luôn đồng lao cộng tác, lúc nào cũng muốn đem kết quả tốt cho Mệnh, bênh vực chỉ huy Mệnh như hình với bóng. Nếu chẳng may yếu kém Mệnh phải chịu mọi sự thua thiệt.

Trong 3 thứ bạn này, Bạn Quan đã thành tục ngữ " Giàu nhờ bạn, sang vì vợ". Có lẽ vì thế Quan và Thê cùng một đòn cân thẳng tấp, cùng đứng trong một thế lưỡng nghi của chính tinh.

Năm cung Mệnh, Thê, Quan, Di và Nô chỉ có Nô là thế mặc cảm bị coi như tự ti ghẻ lạnh nên không cùng trong bè phái tức là ở thế khác như :

Mệnh ở Thân cung có Tử Phủ, Quan phải là Liêm Tướng ở Tí, Di có Thất Sát ở Dần, Thê có Phá Quân ở Ngọ nghĩa là cùng trong thế Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham. Còn Nô có Thiên Lương ở trong Sửu tức là lạc lõng ở phía Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật.

Như đã biết bộ Sát Phá Tham và Cự Môn là bộ rất khó có cảm tình và hung hãn, không bao giờ nên ở trong 3 cung Phụ, Bào và Thê là 3 cung có người thân của Mệnh, không chứng nọ cũng tật kia, đem lại những việc chẳng lành, dầu đắc địa hay hãm địa cũng vậy. Trái lại Nô cung lại cần có Sát Phá Tham đắc địa mới được việc, miễn là Mệnh được bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương, nhất là Cự Nhật đắc địa hướng dẫn mới cầm đầu nổi Nô không làm xằng phản bội. Bộ Sát Phá Tham có mặc cảm ở Nô khinh thế ngạo vật, thà làm tôi thần cho bậc minh quân, còn chúa hèn yếu thì không chịu khuất phục.

Người bạn Di của Mệnh thường xuyên trong cảnh tay mặt tay trái kiếm cách lấn (xung khắc, cả cung và sao). Chừng nào lấn không nổi mới đành chịu. Nếu họ giành được địa thế chánh nghĩa (Thái Tuế) Mệnh cầm chắc lâu mau thua thiệt, không vật chất cũng tinh thần tai tiếng ngàn năm hổ danh thẹn phận.

Còn Thê muốn được chung lưng một dạ đến khi bạc đầu nếu là bên dương của lưỡng nghi thì phải là Tử Vi Tí Ngọ, Thiên Phủ Tỵ Hợi hay Tử Phủ đồng cung. Bên phía âm thì phải là Thiên lương ở Ngọ, Thiên Đồng ở Mão hay Đồng Lương. Thiên Cơ ở Tỵ hay Cơ Lương đồng cung, Thái Âm đắc địa hay Đồng Âm ở Tí, Cơ Âm ở Thân là tất cả vị trí ngôi vị của người vợ hiền hậu. Nếu dính đến một sao của Sát Phá Tham và Cự Môn là có chuyện chẳng lành, nhẹ cũng giây tơ hồng phải nhuộm bùn (Hồng Loan + Hóa Kỵ) trước khi bước lên xe hoa để trở thành dâu thảo vợ hiền.

Dưới đây là 2 lá số cùng tuổi Canh Tuất:

Sanh ngày 18 tháng 3 giờ TíSanh ngày 5 tháng 9 giờ Thìn

Phân tách 3 cung Quan Nô Di và Mệnh với Phối

Người trên Kim Mệnh được Vũ Khúc, Kim tinh đắc địa đơn thủ ở Thìn, vị trí của người thường xuyên căm hờn vì một duyên cớ bên ngoài coi như đắc ý với tam hóa liên châu ở Mệnh, bản giấy ban khen đặc hạng thưởng công cho người trung thành đắc lực đối với chủ. Cung Quan có Tử Phủ, Hữu Bật, Lộc Mã Khốc Khách được quan thầy hết lòng nâng đỡ, cả một dàn cảnh hùng vĩ huy hoàng. Xuống đến Nô cung tuy là Thái Âm đắc cách, nhưng Hóa Kỵ, Kình Dương có phải là một lũ có mắt như mù quáng, trung thành tuyệt đối với Mệnh (sinh xuất cho Mệnh). Ngó đến Di, lòng người không thể không thấy đâu là chính nghĩa (Thái Tuế) mà phải nghiêng mình trước những ai vô danh tận tụyvì nghĩa vụ, tuy việc không thành mà danh lưu muôn thuở.

Số này có đủ cả 2 sức mạnh : Vũ Khúc (Kim) khắc Tham Lang (Mộc), đối diện và vị trí Thân Tí Thìn (Thủy) khắc Dần Ngọ Tuất (Hỏa). Tham Lang được chính nghĩa (Thái Tuế) nhưng ở thế yếu vừa bị khắc cả cung (Tuất) vừa phải đối phó với kẻ nghịch trên tay mình. Trái lại Vũ Khúc vừa được cung Thổ phò Kim lại được ở thế mạnh Vũ Khúc (Kim) khắc Tham Lang (Mộc) làm gì mà không thành công. Nhưng Thê có Thất Sát chạy không khỏi sức mẻ (Tuần Tài Thọ đều cùng nằm ở đó).

Ngày nay dư âm Thái Tuế càng dội ngược, hẳn người Tuế Phá lòng càng bất an trong giấc cô miên.

Người dưới đứng trên thế chánh nghĩa rành rành của ngôi vị (Quan có Thái Tuế, Vũ Khúc). Tam hóa liên châu ở đây khác hẳn tam hóa của trường hợp trên (một đàng ở Thìn là ngày, một đàng ở Tuất là đêm) chỉ là hư vị với tất cả quyền hành (Khoa Quyền Lộc) làm việc trong bóng tối. Ấy thế mà bị Thê cung đè nén (Thân Tí Thìn khắc Dần Ngọ Tuất) bằng Tướng Ấn nắm chặt ở tay cũng là hư mà không thật (Tuế Phá Thiên Hư). Tham Lang cư Thê ở Thìn không thể không có chuyện ngang trái. Đây là mầm rối loạn của gia đình, chờ đến lúc vận bỉ Thiên Không ở Hợi là đổ vỡ. Di có Phá Quân Tướng Ấn Tả Phù Lộc Mã làm gì không lợi dụng cái đà dậu đổ bìm leo quật luôn Mệnh dễ dàng như trở bàn tay (Tí khắc Ngọ). Nô tuy tuyệt đối trung thành với Thân nhưng không đủ tư cách (Thái Dương ở Hợi) chỉ là những phụ tá về kinh tài cho Thân ở Tài (Nô có Hóa Lộc) sinh xuất cho Tài ở Dần) mà thôi.

Hai bản số trên đều nhờ người bạn Quan làm nên sự nghiệp và cùng bị khốn đốn vì bạn trăm năm. Vậy đâu là sang vì vợ?

Xin thưa chỉ có trường hợp Thê được những sao Tử Phủ, Đồng Lương, nhất là Quan cung không bị Thê cung khắc chế. Như vậy mới được giàu nhờ bạn sang vì vợ.

Phụ mẫu liên quan gì tới Tật ách

Các đấng tiên hiền xưa đã có câu: "cha mẹ hiền lành để phúc cho con và cha ăn mặn thì con khát nước". Thiết tưởng đó là luật nhân quả sâu xa của một truyền thống riêng cho từng gia đình, có lẻ vì thế cung Phụ Mẫu trong Tử Vi mới đứng cân phân với Tật Ách của lá số.

Biết rằng luật âm dương mật thiết cho Tử Vi như hình với bóng và vì có lý âm dương mới cho phép ta phân biệt và tìm phăng ra đầu mối nhợ mọi sự thiết yếu của số, thì mọi lý lẽ của mỗi cung số đều nên nhận xét là ở một thế tứ tượng trong lưỡng nghi nào.

Mười hai cung trong lá số dĩ nhiên căn bản là Mệnh. Cái sườn nhà có vững chắc thì nhà mới đở rung rinh lúc gặp mưa dông bão táp. Cái nhà có đứng vững ở không gian là do tay thợ lành nghề biết kiến tạo, nhưng một phần quan trọng cũng phải do nơi vị trí căn nhà đó dựng lên trước kia là gì? Đầm ao sinh lầy hay là đất thịt cứng chắc tức là cha mẹ sinh dưỡng truyền thống cho bản mệnh luôn luôn kình chống tật ách.

Như Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật thì Phụ Mẫu phải là Sát Phá Tham, Tử Phủ Vũ Tướng, cung Tật Ách đương nhiên là đồng phái với Phụ Mẫu là Sát Phá Liêm Tham hay Tử Phủ Vũ Tướng, một thế đứng của tứ tượng.

Mệnh ở Ngọ, Phụ Mẫu ở Mùi có Tử Phá, Tật Ách là Thiên Tướng (Sửu) sinh xuất cho Di để uy hiếp Mệnh.Mệnh ở Tỵ, Phụ Mẫu ở Ngọ có Tử Vi, Tật Ách là Tham Lang (Tí) được cung Tài sinh nhập tức là Mệnh Phải tốn hao tiền tài.Mệnh ở Thìn, Phụ Mẫu ở Tỵ có Tử Sát, Tật Ách là Thiên Phủ (Hợi) sinh xuất cho Thê ở Dần phải hứng chịu nhiều rắc rối.Mệnh ở Mão, Phụ Mẫu ở Thìn có Tử Tướng, Tật Ách là Phá Quân (Tuất), được Mệnh sinh xuất là chính mình trồng cấy hậu quả.Mệnh ở Dần, Phụ Mẫu ở Mão có Tử Tham, Tật Ách vô chính diệu (Dậu) phúc đức lãnh nhân quả của tiền nhân.Mệnh ở Sửu, Phụ Mẩu ở Dần có Tử Phủ, Tật Ách là Thất Sát (Thân), Quan Lộc (công việc) tạo lấy nhân quả.Mệnh ở Tí, Phụ Mẫu ở Sửu có Tử Phá, Tật Ách là Thiên Tướng (Mùi), sinh xuất cho Di để chống lại Mệnh.Mệnh ở Hợi, Phụ Mẫu ở Tí có Tử Vi, Tật Ách là Tham Lang (Ngọ) gây hao tài cho Mệnh.Mệnh ở Tuất, Phụ Mẫu ở Hợi có Tử Sát, Tật Ách là Thiên Phủ (Tỵ) đem phiền phức cho Thê.Mệnh ở Dậu, Phụ Mẫu ở Tuất có Tử Tướng, Tật Ách là Phá Quân (Thìn), là Mệnh chịu lấy kết quả đã làm.Mệnh ở Thân, Phụ Mẫu ở Dậu có Tử Tham, Tật Ách vô chính diệu (Mão) phúc đức lãnh hậu quả của tiền nhânMệnh ở Mùi, Phụ Mẫu ở Thân có Tử Phủ, Tật Ách có Thất Sát (Dần) công việc hành động tạo lấy nhân quả.

Mười hai trường hợp trên, lấy Tử Vi đặt vào cung Phụ Mẫu có ý muốn chứng tỏ vị chúa tinh tuy được gọi là vị tối cao phúc hậu, nhưng hễ đã dính đứng chung với bộ Sát Phá Tham thì cũng không chứng nọ tật kia, như Tử Sát là có sự bất hòa giữa cha mẹ. Tử Phá có sự lìa khắc. Tử Tham phải phân ly thì cung Tật Ách tất được Phủ, Tướng, mọi sự nhẹ nhàn cho đương số có bịnh tật chỉ là nội thương và dễ gặp thầy thuốc. Trái lại Phụ mẫu là Phủ Tướng, con phải hứng chịu mọi tai ách hay bạo bịnh, tùy trường hợp nào trong 12 cách ở trên để biết nhân quả. Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật cũng vậy. Hễ cung Phụ Mẫu đã liên hệ ít nhiều đến Cự Môn (chính cung hay tam hợp) cũng lắm chuyện chẳng lành không kém Sát Phá Tham là bao. Còn như được Đồng Lương (Âm tinh và Diệu tinh) là 2 vị Phúc tinh thủ đắc cho Phụ Mẩu thì Tật Ách chạy không khỏi Cự Môn sinh nhiều điều phải đề phòng bất trắc.

Tại sao những đấng Phụ Mẫu được coi là có bộ mặt phúc hậu nhất như Tử Vi độc thủ, Tử Tướng, Tử phủ, Đồng Lương lại gây ra những hậu quả không tốt đẹp cho con cái, tức là cung Tật Ách phải chịu Sát Phá Tham, Cự Nhật hành hạ?

Thưa rằng: Tử Phủ Vũ Tướng và Cơ Nguyệt Đồng Lương là 2 bộ hiền lành đâu có lực lượng chống lại Sát Phá Tham và Cự Nhật, là 2 sức mạnh có uy vũ sắc bén, sát khí hung cường, chỉ còn con đường phước thiện, cố làm điều lành để mua chuộc cho con cháu tránh nẻo chông gai tùy theo mức độ đã tạo nổi.

Việc này không phải là không có ý nghĩa như Mệnh đóng ở Tuế Phá, Tang Môn, Điếu Khách là người thường xuyên không được hài lòng với công việc mình làm mà vẫn thi gan cùng tuế nguyệt bằng nghị lực Thiên Mã (trong Tử Vi chỉ có 3 hạng người này mới có Thiên Mã). Phần số của họ là coi những tai ương tật ách như cơm bữa, không có gì phải lo ngại, vì Ách cung không bao giờ vắng bóng Thiên Không (chính cung hay tam hợp). Còn những trường hợp Ách có Tuần hay Triệt hay vô chính diệu hoặc cung Phụ Mẫu khắc xuất Tật Ách đều có ý nghĩa Tử Phủ, Đồng Lương lấy đức chinh phục tai ách để giảm bớt cường độ của tật ách 5 trường hợp ở trên, người có số nếu được những vị phúc tinh như Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý phò trợ, không phải tình cờ may mà gặp, mọi sự như đã an bài. Còn ngoài ra những vị Phụ Mẫu quá hiền hậu như trên (Tử Phủ Đồng Lương) phải coi như bậc hiền nhân đã ý thức được điều phải làm mà chưa đủ âm đức cản trở được nghiệp nhân quả phải bù trừ.

Còn Phụ Mẫu phải lãnh vai trò Sát Phá Tham hay Cự Nhật, người làm con luôn luôn ở trong tình trạng đau lòng vì cảnh mất bình thường như vất vả, chia ly hay náo loạn của đấng sinh thành để cố tạo cung Tật Ách cho mình ít khi gặp bạo bịnh hay tai nạn nguy hiểm. Ở đây ta phải nhìn nhận là một đường lối hy sinh của cha mẹ cam chịu cảnh bất an để cho con đỡ gặp bước đường đời dày vò phần xác thịt mà người đã nâng niu nuôi nấng yêu dấu cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay.

Giây liên lạc Bào với Nô

Thánh nhân đặt Mệnh và Thân nằm theo năm tháng ngày giờ sanh tính cặn kẻ từ liên hệ trong gia đình cho đến tình nghĩa đối đáp bên ngoài với xã hội. Người học số lại thường phân chia lấy cung này quan hệ cho là cung cường, cung kia không cần thiết gì cho lắm cho là nhược, nghĩa là không gây ảnh hưởng mạnh cho đời sống của người có số.

Vậy đâu là cường và đâu là nhược? Có người đã khẳn định ngoài Mệnh ra chỉ có Phúc, Quan, Tài là cường, còn lại là nhược hết. Thiết tưởng cường nhược gì, nếu được một cung nào đẹp, người có số hẳn cũng thấy hạnh phúc về phương diện đó, như cung Tật Ách tốt, hẳn người đó được một đời sống đầy đủ sức khỏe, ít ốm đau, tai nạn để tránh, tưởng cũng là rất quí.

Đứng cao trên hết là Phúc Đức, không hình bóng dáng, chỉ huy thêm bớt tất cả liên lạc dự thảo các cung còn lại khiến mỗi người có 1 cuộc sống khác nhau, mặt dầu số giống nhau như in, từ hoàn cảnh gia đình có cha mẹ, vợ con, sản nghiệp nhưng về phương diện xã hội hẳn là người cùng mình ganh đua (Di) và bạn hữu (Nô).

Đời sống mỗi cá nhân có con đường liên lạc tiếp xúc với thế giới bên ngoài thì vấn đề anh em đứng đòn cân với bạn hữu là thế rất hay và thiết yếu. Vậy Bào Nô không thể coi thường nhất là trên trường chính trị, người tin cậy không ai khác là anh em và bạn hữu trung tín mới mong đắc lực. Phải chăng vì thế Bào và Nô mới đứng song hàng để kiềm giữ liên lạc với nhau.

Biết rằng đã đứng riêng một đòn cân thì hẳn là cùng chung một phái trong thế lưỡng nghi. Như Mệnh có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì Phụ, Bào và Nô đều là Tử Phủ, Sát Phá Tham. Bào và Nô vốn là vấn đề nhân sự khác hẳn Tử và Điền, Phụ và Ách, rất tế nhị giữa người với người, dễ có những sự biến đổi sớm đầu tối đánh vui cười đó mà thâm tâm lại khác, nếu sự đối sử không khéo léo cũng như không trúng lúc thì sự phân tách cũng không thể sơ sài và cần cân nhắc mọi khía cạnh như số đã sắp xếp. Bào đứng sát sau lưng Mệnh để liên lạc ganh đua với Nô, cũng như Phụ đứng sát trên Mệnh, để đối phó với Ách.

Tử và Điền chỉ cần cân nhắc bên nào nặng nhẹ, cung nào khắc cung nào, và bộ sao nào đắc cách cho phía nào.

Phụ và Ách là vấn đề phiền phức dễ gây ra do bộ Sát Phá Tham và Cự Môn, Vũ Khúc, người hiếu tử không thể không ái náy, chính mình phải hy sinh thay cho cha mẹ hơn là thấy cảnh gay cấn bất an của bậc đã cho ta đời sống.

Còn Bào và Nô là cả một sự khó khăn, con đường giao tế tiếp xúc từ gia đình đến xã hội cũng như Mệnh phải đối phó với Di. Biết rằng Mệnh và Di là cả một cuộc vật lộn tranh đấu, người có số phải chính mình thu tập đủ các điều kiện để thắng đối phương. Điều kiện tiên quyết là mình phải tạo giành cho được chính nghĩa (vị trí tam hợp Thái Tuế) rồi mới tính đến sao là những yếu tố hậu thuẫn (âm dương, ngũ hành, vượng hay hãm địa) có khác gì một vị Thái Tổ dựng nên nghiệp vương cho một thế hệ. Từ lúc xuất thân ra khỏi lều cỏ đến lúc bước chân hảnh diện vào điện Thái Hòa phải đủ bao nhiêu điều kiện khó khăn.

Vậy Bào và Nô tuy là đứng sau Mệnh và Di, nhưng không thể không có điều kiện thiết yếu hơn là các đòn cân khác, có chăng chỉ là thứ yếu, dưới Mệnh. Đã nói là vấn đề nhân sự, không thể khi thường, phải tự xét mình và biết người. Ở đây Mệnh phải hoàn toàn là cột trụ để điều khiển cả Bào lẫn Nô như :

Mệnh ở Ngọ có Tử Vi, Bào ở Tỵ có Thiên Cơ (đắc địa) sinh nhập cho Phúc. Nô ở Hợi có Thái Âm (đắc địa) sinh xuất cho Tài, có nghĩa là Nô trung thành đắc lực hơn Bào mà vẫn bị Bào lấn át.Mệnh ở Tỵ có Tử Sát, Bào ở Thìn có Cơ Lương, được Quan sinh nhập. Nô ở Tuất vô chính diệu đắc Cự Nhật ở Dần (tam hợp), được thế sinh xuất, tức là Bào và Nô đều đắc lực. Nô vẩn bị kém thế hơn, được nội tướng đối xử ngầm phủ dụ an ủi.Mệnh ở Thìn có Tử Tướng, Bào ở Mão có Cự Cơ, sinh xuất cho Di, dễ bất bình với Mệnh đi lầm đường lạc lối. Nô ở Dậu vô chính diệu được Nhật Nguyệt ở Sửu (tam hợp) và Cự Cơ ở Bào (xung chiếu), sinh nhập cho Mệnh, lấn Bào, triệt để trung thành với Mệnh.Mệnh ở Mão có Tử Tham, Bào ở Dần có Cơ Âm (hãm) được cung Tài sinh nhập (một gánh nặng cho Mệnh). Nô ở Thân vô chính diệu có Cự Nhật hãm (tam hợp), Cơ Âm ở Dần xung không ích gì hơn Bào.Mệnh ở Dần có Tử Phủ, Bào ở Sửu có Thiên Cơ, sinh xuất cho Thê. Nô ở Mùi có Thiên Lương sinh xuất cho Quan. Bào và Nô đều thành thực giúp ích cho Mệnh, nhưng Bào điều khiển Nô.Mệnh ở Sửu có Tử Phá, Bào có Thiên Cơ ở Tí (bình) được Mệnh sinh xuất. Nô ở Ngọ có Cự Môn được Di sinh xuất, bị Bào khắc chế, coi chừng Nô này dám làm nội tướng cho kẻ địch.Mệnh ở Tí có Tử Vi. Bào ở Hợi có Thiên Cơ (hãm) sinh xuất cho Phúc Đức. Nô ở Tỵ có Thái Âm (hãm) sinh nhập cho Tài. Cả Bào và Nô đều là kẻ vô tài, hay nản lòng trách móc và ly tán.Mệnh ở Hợi có Tử Sát. Bào ở Tuất có Cơ Lương được Quan sinh nhập. Nô ở Thìn vô chính diệu có Cự Nhật ở Thân hãm (tam hợp) khắc xuất Bào ở Tuất, lại được Thê ở Dậu sinh nhập, tức là Nô vô tài, dối trên lừa dưới.Mệnh ở Tuất có Tử Tướng. Bào ở Dậu có Cự Cơ sinh xuất cho Di, ôm hận ngấm ngầm để phản bội. Nô ở Mão được Nhật Nguyệt ở Mùi chiếu (tam hợp) bị Bào khống chế để triệt để trung thành với Mệnh.Mệnh ở Dậu có Tử Tham. Bào và Nô đều là chân tay đắc dụng.Mệnh ở Thân có Tử Phủ. Bào ở Mùi Thiên Cơ (đắc địa) sinh xuất cho Thê. Nô có Thiên Lương ở Sửu sinh xuất cho Quan. Cả Bào và Nô đếu là tôi lương đống. Nhưng nô bất phục bào.Mệnh ở Mùi có Tử Phá. Bào có Cơ ở Ngọ (bình) được Mệnh sinh xuất.Nô ở Tí có Cự Môn (đắc địa) được Di sinh xuất coi thường Bào, mặc dầu được kẻ nghịch mua chuộc nhưng không thay lòng đổi dạ (được Thái Dương đắc địa ở Thìn chiếu).

Mười hai trường hợp ở trên không trường hợp nào giống trường hợp nào, mặc dầu bộ sao có giống nhau, nhưng vị trí khác (cung sinh khắc phải khác) ngôi vị đắc địa hay hãm địa cũng khác mà điều cần nhất là Mệnh luôn luôn làm chủ tình thế. Nếu sao thủ Mệnh đắc địa dễ điều khiển được Bào và Nô ví như một vị minh quân đức hạnh, trái lại hãm địa là người vô tài nhu nhược, chóng chày gì cũng có những biến chuyển đưa đến bất lợi.

Tóm lại có thể đặt một ít chi tiết mong rằng được coi như nguyên tắc cần thiết để nhận định:

Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật đắc địa dể điều khiển được Bào và Nô (dĩ nhiên là Tử Phủ hay Sát Phá Tham) cũng đắc địa, mọi sự thành công nhưng hay bất hòa với Bào, còn Nô trung thành.Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật đắc địa mà Bào và Nô hãm địa, đám quân thần kể như xác xơ lại hay oán trách.Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lưong, Cự Nhật hãm địa khó mà điều động được Bào và Nô ( Tử Phủ và Sát Phá Tham) đắc địa, dầu có được việc nhưng hay lấn quyền.Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật hãm. Bào và Nô (Tử Phủ, Sát Phá Tham) cũng hãm, việc thành công kể như vô vọng, người chân tay phân tán phản bội.Mệnh Tử Phủ, Sát Phá Tham đắc địa được Bào và Nô (dĩ nhiên là Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật) đắc địa. Tôi trung thành vẫn có những thành quả chủ nhân không mấy hài lòng, vì Cơ Nguyệt Đồng Lương không mấy khi đắc lực bằng Sát Phá Tham.Mệnh Tử Phủ, Sát Phá Tham đắc địa gặp Bào và Nô hãm, tức là bầy tôi bất lực ăn bám.Mệnh Tử Phủ, Sát Phá Tham hãm được Bào và Nô đắc địa, công việc tiến hành vẫn được việc.Mệnh Tử Phủ, Sát Phá Tham hãm gặp Bào và Nô cũng hãm, ôi thôi bạn bè phần đông vô tài và phân tán.Sự ngang ngửa giữa bốn tam hợp cục

Tam hợp cục là bề thế lực lượng của một khối 3 chi chung lưng góp sứcgồm lại bồi đắp cho nhau để sanh tồn. Với 12 chi thì có 4 tam hợp là Thuỷ nhị cục (Thân Tí Thìn) Mộc tam cục (Hợi Mão Mùi) Kim Tứ cục (Tỵ Dậu Sửu) và Hoả lục cục (Dần Ngọ Tuất). Thấy trong mỗi cục đều có Thổ (Thìn Tuất Sửu Mùi) nằm ở trong là nguồn tập hợp diễn chuyển của 4 thế chính là Tí (Thuỷ) Ngọ (Hoả) Mão (Mộc) Dậu (Kim) với 4 nguồn sinh lực là Dần sinh Ngọ, Thân sinh Tí, Tỵ sinh Dậu, Hợi sinh Mão.

Đứng trong địa bàn 12 cung chia nhau theo phương hướng thành thế chân vạc rõ ràng chống nhau (Dậu đối diện với Mão, Tí ngó thằng Ngọ). Theo sự khắc chế thì chỉ có Kim khắc Mộc và Thuỷ khắc Hoả là hai thế trên tay luôn luôn dễ dàng đàn áp đối phương. Nếu thế thì Dần Ngọ Tuất (Hoả) và Hợi Mão Mùi (Mộc) sinh ra để rồi lần hồi còi cọc tự tiêu diệt không còn nở mặt nở mày mà sinh sống ra sao?

Đây là cả một đề tài cần phân tách căn nguyên, 12 chi đã phân chia âm dương đều nhau với ngũ hành:

Tí (dương) Hợi (âm) = thuỷDần Mão = mộcNgọ Tỵ = hoảThân Dậu = KimThìn Tuất Sửu Mùi = thổ

4 chi Tí (Thuỷ) Ngọ (Hoả) Mão (Mộc) Dậu (Kim) đứng theo phương hướng ngay chính Bắc Nam Đông Tây với đủ màu sắc riêng biệt xám đỏ Thanh (xanh) trắng biểu hiện cho 4 mùa thời tiết xuân (xanh) hạ (đỏ) thu (trắng) đông (xám) cho nên Tí Ngọ Mão Dậu được liệt danh là tứ chính. Dần Thân Tỵ Hợi mới là sơ khai của tứ chính nguồn sinh lực bắt đầu nầy nở nên khi gặp tứ chính thì tải bồi một cách đắc lực như Hợi gặp Mão, Dần gặp Ngọ, Tỵ (Mậu Thổ) gặp Dậu, Thân gặp Tí nên được coi là tứ sinh. Thìn Tuất Sửu Mùi là nơi xuất phát và cũng là nơi tập trung tức là sân khấu diễn biến của kim mộc thuỷ hoả là Mộ cung, có nghĩa là mọi vật đều do đất mà ra đến khi tàn tạ lại trở về với đất.

Một khi đã đứng thành cục, lẽ sanh tồn luôn luôn phải có sanh và khắc, như Kim Tỵ Dậu Sửu khắc Mộc Hợi Mão Mùi và Thuỷ Thân Tí Thìn khắc Hoả Dần Ngọ Tuất là hai thế đụng chạm dữ dội dứt khoát người thắng kẻ bại, trái với Hoả Dần Ngọ Tuất khắc Kim Tỵ Dậu Sửu thì Hoả sẽ vì Kim mà sa lầy ngấm tắt. Nếu Mộc gặp Kim, Kim gặp Hoả, Hoả gặp Thuỷ là những trường hợp phải cam chịu sự thua thiệt (khắc nhập). Còn Kim gặp Thuỷ hay Mộc gặp Hoả là cảnh sút kém (sinh xuất) không như Mộc gặp Thuỷ, Hoả gặp Mộc là được thuận lợi (sinh nhập).

Đứng trên địa bàn 12 cung 4 tam hợp chia nhau đứng xen kẽ thành thế ba chân vạc đối diện nhau, nếu là xung khắc như Thuỷ đối diện Hoả, Kim đối diện Mộc. Còn nối đuôi nhau là sinh hoá như Thuỷ đứng sau Kim, Kim sau Hoả (trong Hoả có Kỷ Thổ), Hoả sau Mộc, Mộc sau Thuỷ.

Tuy là đối chiếu vẫn là Kim khắc Mộc và Thuỷ khắc Hoả nhưng vị trí thuộc ảnh hưởng luật âm dương, thì Mộc và Hoả ở thế lợi điểm quang sinh của Thái Dương, không như Kim và Thuỷ chìm đắm ở cảnh mập mờ đen tối của Thái âm. Một đằng lấy uy lực để khống chế, một đằng nhờ cậy sáng tỏ làm lợi điểm cao danh.

Ngọ cung là ngôi vị tuyệt đích cao đẳng nhưng vẫn e dè Tí cung xung phá. Mão địa là cả một cảnh bình minh xuân sắc vẫn ngại ngùng trước tiết thu phân lấn át. Hai khối này trội hơn đối phương về thanh thế.

Tỵ Dậu Sửu đàn áp dễ dàng Hợi Mão Mùi vì sắc bén lại kém hẳn về nhất trí thường xuyên có mâu thuẫn (Phá Toái) cho nên Phá Toái chỉ có ở 3 cung Tỵ Dậu Sửu làm ngòi chia rẽ phá hoại.

Kiểm điểm những sở trường, những yếu điểm của 4 tam hợp cho thấy Dần Ngọ Tuất chiếm vị trí đàn anh ưu thế hơn cả với nhiều thành tích ghi danh kim cổ. Chiếc chiếu khiêm nhượng cuối hàng là liên danh Hợi Mão Mùi với vẻ nho sinh trung hậu của mùa xuân êm dịu, tuyệt không khắc chế một ai, cam phận ôn hoà lương thiện. Giữa Tỵ Dậu Sửu và Thân Tí Thìn, Thân Tí Thìn được Tỵ Dậu Sửu bồi đắp mới ngang nhiên dằn mặt Dần Ngọ Tuất chiếm bảng á nguyên ngay sau Dần Ngọ Tuất.

Tính cách Phá Toái (đập nát) như trong 4 số sau đây không thể không quan tâm lưu ý:

1- Tuổi Canh Tuất sanh ngày 29-3 giờ Mão

2- Tuổi Kỷ Mùi sanh ngày 4-1 giờ Sửu

3- Tuổi Kỷ Mùi sanh ngày 8-4 giờ Thìn

4- Tuổi Quí Hợi sanh ngày 24-11 giờ Mão

a/ Tuổi Canh Tuất mệnh nằm phải ở Sửu thấy ngay Phá Toái ngang dọc nội tâm. Tiếc thay Tham Vũ, ngôi nhà xây cất đúng phẩm lượng cốt sắt (Kim mệnh có Vũ Khúc làm nòng cốt). Tam hóa liên châu giáp nhật nguyệt là cả một phẩm cách xuất chúng. Phá Toái tung hoành liên kết với vị trí Thiếu âm khiến đời cứ một lầm hai lỡ, thiệt hại đáng phàn nàn. Thân ở Mùi trong tam hợp Thiếu Dương thiên phú cho sự thông minh hơn người. Phải chăng áo nâu tràng hạt do Thiên Đức Nguyệt Đức, Phúc đức điểu khiển nên khuôn xử trùng với tam hóa liên châu về đêm tự mãn làm thầy tinh thần còn hơn lăn lộn trong thế cuộc không thành cơm cháo gì. Tuần Triệt nơi đây với Tam đức, ngay cả Thiên Quan Thiên Phúc là các đấng cao dầy đức độ cứu nhân độ thế là việc đáng trọng, kể như là không có,, nghĩa là Tuần Triệt không có sai phạm gì đến uy thế năng cản nổi Quan Phúc và Tứ Đức.

b/ Hai tuổi Kỷ Mùi Mệnh cùng ngồi ở Sửu. Biết rằng 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi hễ Mệnh an ở Sửu thì thấy tức khắc Phá Toái đã ở trong gan ruột, mối bất ồn chờ cơ hội quấy phá. Với hai tuổi Mùi, Phá Toái thêm vây cánh Tuế Phá trợ lực, còn gì là Phủ Tướng, Tham Vũ Quyền Lộc. Một Tuần bằng kim cương đóng ngay ở Mệnh mài dũa Phá Toái thành chiếc trâm vàng tô điểm cho Tham Vũ, Thiên Phủ có giá trị (một trường hợp hung tinh ngộ chế) biết tiết chế tham vọng (ngụ cư trên đất người). Người Tham Vũ được hưởng phần danh dự dư âm rất tương xứng không thể hơn ai vì Thân cũng vướng cảnh địa Tang Môn Liêm Phá. Nếu không có Triệt ở Thân Tuần ở Mệnh, màn cảnh Tham Vũ Liêm Phá Quyền Lộc đắc cách Thiên Mã ở Tỵ (ngựa xích thố) cho người Hoả mệnh, làm gì không một cõi biên thuỳ ngang dọc tấm thân Từ Hải vẫy vùng. Người Thiên Phủ gỡ gạc được Thân ở vị trí Bạch Hổ (tam hợp Thái Tuế) tình cảnh Tử Tham không hợp (Tham Lang sinh nhập, Tử Vi sinh xuất) phải là Liêm Trinh nơi Mùi ở ngôi vị Thái Tuế (tam hợp của Thân) đắc Quyền Lộc ở Mão Hợi. Bộ Sát Phá Tham này tuy ở trường hợp hãm, nhưng đắc hoá biến thể Tham Vũ, còn một Phá Quân cũng phần nào khó chịu với Đà La kỵ cho tuổi Kỷ. Mệnh Phủ Tướng gặp hạn Sát Phá Tham kể như đắc lực hanh thông: Đà la đã có Thất Sát quản trị, nhưng đây là Thiên di phải xa nơi sinh quán.

c/ Tuổi Quí Hợi ngồi ở Dậu, Phá Toái nhập Mệnh, từ thuở ra đời với Tử Tham Hoá Kỵ giáp Khoa Quyền (tam hoá hận đời) Tử Tham chỉ là phần hình thức, Vũ Phá ở Tỵ mới là tinh thần thoát xác. Hành động bản thân vẫn là thuận đường chính nghĩa biết bao nguy hiểm (Kình Hình hãm) vẫn trơn tru lành mạnh (Khôi Việt Thiên Ất quí nhân). Số nầy có hình thức đặc biệt từ vị trí Mệnh với Thân đến tư cách sao hợp tuổi hành động cũng dứt khoát. Toái Quân lưỡng Phá người này quyết tâm dập nát tất cả những gì ngang trái. Thiên Tướng (tam hợp Thân) không giây phút nào xao nhãng thẳng tay ngăn chặn những gì không chính đáng.

Mệnh đứng trên địa bàn mở đường ngắm nhìn tam hợp cục thấy đâu là bản lãnh thân thế nhân sinh, rồi quyền lộc cùng thời gian khác gì thuỷ triều phù vân sáng tối.

Bàn thể thực chất của Thái Tuế

Trên 30 năm học hỏi với nhiều đợt từ biệt Tử vi, đến nay mỗi lần cầm trên tay một lá số, việc đầu tiên là tính coi xem Mệnh Thân ở trong một vị trí nào của Thái Tuế. Thành thực mà nói lòng riêng những kính mến nhưng ai đâu là người được đặt trong vị trí tam hợp tuổi.

Một Mệnh hay một Thân, chứ đứng nói cả Mệnh lẫn Thân hay Mệnh Thân đồng cung Thái Tuế, đó là chuyện quá sức mong chờ hãn hữu. Nhớ lại ngày mới học Tử vi, theo chỉ dẫn của vị ân sư tài tử thì sợ Thái Tuế hơn cọp dữ. Nào là tù tội, nào là miệng tiếng thị phi, tranh chấp tang thương. Nay thì cảm phục không chút trù trừ do dự và thật lòng tin tưởng những công cuộc của người Thái Tuế đã làm như theo có sứ mạng.

Hai mươi năm gần đây, lần chắp nối lại tơ duyên với Tử Vi lần cuối, tự đặt câu hỏi tại sao lại 3 vòng: Thái Tuế, LộcTồn, Tràng Sinh. Sao không 2 vòng, 4 hay 5 vòng. Rồi tìm ngay nguyên nhân nào sinh ra vòng Lộc Tồn, Thái Tuế, và Tràng sinh. Thấy ngay đáp ứng do Thiên can, Địa chi và Nạp âm của tuổi. Tưởng Thanh nhân phân tách đời thế nhân không phải là sơ sài, thật là đầy đủ.

Thái Tuế được đặt theo địa chi của tuổi của số, có nghĩa là người đó có được đặt ngay vào vị trí sở hữu chủ là chính mình hay không? Nếu mình nằm ngay Thái Tuế, tất nhiên mình có bổn phận có trách nhiệm nơi miếng đất mình sanh tồn. Mình dẫu có lòng dạ hững hờ như kiều dân đến ăn bám ở nhờ chỉ nghĩ đến tư lợi, hay thì ở dở thì bước. Nằm trong tam hợp Thái Tuế là ở trong thế liên minh hữu nghị thuộc địa quyền công dân không phải là mất, vẫn được đối đãi ngang hàng cùng người sinh quán, vẫn tự do làm bổn phận mỗi khi đất mẹ cần đến. Một là phải suy tính kỹ càng (Quan Phù), hai là khi đã vén tay áo là hăm hở cho đến cùng (Bạch hổ).

Người trong tam hợp Thái Tuế là người có miếng đất cắm dùi có bổn phận trách nhiệm cho miếng đất mình sinh sống, không lẽ mình phá hoại căn nhà mình đã được cha truyền con nối có dầy dẫy kỷ niệm hào hùng hay bi đát, tổ tiên đã gây dựng lên tốn hao biết bao mồ hôi cơm gạo, để mình thụ hưởng mà mình quên bổn phận bảo tồn và tô điểm thêm lên cho khởi sắc. Phải chăng Thái Tuế là chỗ ngồi tinh thần cao đẹp nhất của tuổi số.

Người trong tam hợp Thái Tuế, tối thiểu là có tư cách, từ người làm mướn đến tột đỉnh cao sang tuỳ theo thứ lớp, địa vị người đó đứng trong xã hội. Ví dụ tam hợp Thái Tuế là khu đất chắc nịch, nhà nào được xây dựng lên được yên lòng, không sợ lún sâu như chỗ sình lầy đổ rác phủ qua một lớp đất mỏng, người xấu số không biết cứ lập lên 3, 4 tầng lầu. Rồi ngày qua tháng lại chỉ một cơn mưa dầm, nhà sẽ đổi ngay bộ mặt thành nứt nẻ nghiêng vẹo. Thử hỏi ai là người gan dạ tin ở sự vững chắc của căn nhà mà dám dọn đồ đến trú ngụ.

Người được một Mệnh hay Thân ở tam hợp Thái Tuế, kể như đã có một thành quả nào rồi, nhưng chưa hẳn mãn ý. Như Mệnh ở tam hợp Tuế Phá mà Thân ở tam hợp Thái Tuế là người tuy thiếu thời gặp bước lưu ly nhưng tấc dạ sắt son không thể ùa theo vô nghĩa. Tự mình vẫn vạch lấy con đường lý tưởng mình đi. Thương cho ai mệnh Thái Tuế mà Thân bị lọt vào tam hợp Tuế Phá, cuộc đời của mình không thiếu sót bổn phận. Vậy mà vãn niên thấy như bị ép buộc, không cho phép mình được thi thố theo sở ước, mà còn bị bạc đãi nữa là khác (có 2 trường hợp : người dương nam mệnh ở Thái Tuế thì ngoài 50 tuổi hết hạn Thái Tuế, tiếp ngay đến hạn Thiên Không. Trái với người âm nam trên 30 tuổi phải gặp Thiên Không như người được huấn nhẫn trước rồi ngoài 40 mới được Thái Tuế bù lại.Tưởng đó là một cuộc thử thách cho người, có chi nhẫn nại và nghịch lý âm dương). Nào phải là người miệng nói đạo nghĩa là thực hiện lại theo ma giáo, vì định mệnh đã tạo cho người đó là Thái Tuế (Mệnh) thì không thể có đầu óc làm quấy. Sở dĩ không đạt được trọn vẹn ý muốn vì một lẽ gì khiến mình buộc lòng phải theo, mình không thể thổ lộ, cam chịu sự bạc bẽo đành nhận lãnh không đổ trách nhiệm cho người khác (Thân Tuế Phá).

Từ 14 chính tinh đến trung tinh và sát tinh chỉ là đồ trang hoàng, bài trí làm cho căn nhà có vẻ phong phú đài các hay nghèo khó xác xơ, nói toạc ra là chỉ lớp áo phủ ngoài một pho tượng vàng hay đất làm cho người ngoài dễ lầm lạc ngộ nhận.

Như 2 sao Tử Phủ ở Dần Thân hay Phá Quân ở Thìn Tuất chẳng hạn. Người nào được khoác áo Tử Phủ hẳn cho là người đó ở hạng quân tử, đứng đắn, kẻ cả đàn anh, còn Phá Quân ở Thìn Tuất hẳn là quân bất nhân, lừa thầy phản bạn.

Thưa rằng nghĩa nó là thế không phải là không đúng. Nhưng nếu không xét từ cội rễ là một chuyện bé cái lầm. Nếu là Tử Phủ ở Dần với người tuổi Dần Ngọ Tuất, Mệnh ở ngay Dần Ngọ Tuất thì xin khoanh tay kính chào. Đó là người xứng đáng được trọng vọng dầu có bị Không Kiếp trà trộn, chỉ thêm lòng bác ái ngại cho ai không được đời biết đến hay bị đố kỵ mà yếm thế, hạng người này không phải ăn ở hai lòng, xin dâng danh hiệu là Nhạc Bất Quần, ngụy quân tử nếu được thêm 2 ông phụ tá Không Kiếp trợ lực, thật không biết kính dâng ông cái thẻ bài gì để ông đeo cho xứng đáng tư cách chúa trùm của ông.

Còn Phá Quân ở Tuất, nếu là người tuổi Dần Ngọ Tuất chỉ là người mang tiếng phản bội không trung thành, đáng được minh oan. Thật ra chỉ vì một cái thế kẹt gì đó mà oan tình, ngoài ra lòng thành thực chỉ có cao xanh hoạ chăng thấu rõ. Trái lại Phá Quân ở Tuất mà lại tuổi Thân Tí Thìn thì xin miễn nói vì tiếng đặt cho sao và vị trí đóng nó đã đầy ý nghĩa rõ ràng không cần bàn thêm.

Một người Tả Hữu Không Kiếp cũng vậy. Trường hợp ở vị trí tam hợp tuổi có Tả Hữu Không Kiếp là người đa tài mà không đắc dụng. Ngược lại người có Tả Hữu Không Kiếp ở vị trí tam hợp Tuế Phá là người không thể đặt niềm tin, một khi họ chủ trương một công việc gì có thể coi là công ích vị tha, luôn luôn người đó nghĩ đến bản thân trước có thừa thãi mới là lợi chung.

Vậy cung và sao là 2 bộ phận của Mệnh viên, cũng là hình thể chắc hay ốp, khoẻ mạnh hay ốm yếu. Sao là phấn son tô điểm, là quần áo sang trọng hay xềnh xoàng vá rách. Một thân hình khoẻ mạnh lồng trong bộ quần ào rách vá, vẫn thấy người đó đi đứng chững chạc của nội trạng lực sỹ hào hùng, khác xa hẳn mã người chệch choạng lẩy bẩy với bộ gấm vóc mà mặt mũi hốc hác, chân tay khẳng khiu.

Tìm tòi thực chất của Thái Tuế là vạch vòi, với mốc căn nguyên bản số của người, như các cụ xưa kia, mỗi người khi dựng vợ gã chồng cho con cháu, là xem xét dòng giống của đầu rễ cội gốc nào, gia phong ra sao, nay thấy là chuyện không phải không có ý nghĩa sâu xa.

Vòng Thái Tuế có thể nói là phần căn bản của số chỉ 12 chỗ đứng mà thấu đáo hết cốt cách của người, thêm phần sao để biến dạng phần nào. Rồi cùng thời gian đưa dẫn thế nhân từ nơi sáng vào chỗ tối, hay từ chỗ tối dìu dẵt đến nơi sáng, tức là vận hành cũng không ngoài vòng Thái Tuế điều khiển.

Nhớ lại cũng một ngày đầu xuân năm ngoái, đựơc tiếp một cụ tuổi Giáp Dần (62 tuổi). Cụ sợ mất thì giờ của tôi, cụ chỉ xin 15 phút để nói chuyện Tử vi.

Xin thưa ràng tôi có tật ít khi xem số của ai để số trước mặt, chỉ xin cho biết năm tháng ngày giờ sinh và vẽ ngay số bằng hình hỷ hà học theo tam hợp, để người có số dễ hiểu đời mình thế nào. Thấy Mệnh cụ đóng ở Tuất có Phá Quân. Tôi hỏi ngay có phải cụ chỉ thắc mắc ở chỗ Phá Quân Tuất này không? Hỏi rồi, tôi tự trả lời ngay: cụ chỉ bị đời hiểu lầm là Phá Quân, thật ra Cụ một lòng sắt son với bạn hữu. Cụ Tuổi Dần, Mệnh ở Tuất là trong tam hợp Thái Tuế. Người của tam hợp Thái Tuế không có tư cách của Phá Quân thường tình, dầu rằng tuổi Giáp Dần là Thuỷ Mệnh mà Phá Quân lại là thuỷ tinh.

Ông cụ đứng ngay lên, nắm tay tôi, xin phép một ngày trở lại coi. Cụ quá ư cảm động.

Viết lên bài này để kỷ niệm ngày tái tiếp cụ cũng ngày đầu Xuân năm nay (Ất Mão) với đầy ý nghĩa. Cụ đã cho biết tất cả những gì đã đem đến cho cụ trên 30 năm nay vì Phá Quân ở Tuất cung của người tuổi Dần Ngọ Tuất.

Đâu là một cái số đẹp

Một hồi thấy đua nhau nói đến lá số có 4 Tí hay 4 Sửu, 4 Dần, 4 Ngọ... như có ý cho là một lá số phi thường tốt đẹp.Thật ra chả hiểu cái tốt đẹp nó ở chỗ nào, thiển nghĩ có lẽ cho là một cây làm thành rừng, 4 cái hợp lại thành một đoàn như góp gió thành bão có một sức làm nên những việc đáng nể.

Theo lý học đông phương phải hợp căn bản là âm dương, ngũ hành. Nếu giảng như trên thật là không nguyên tắc. Thỉnh thoảng có một vài trường hợp may mà đẹp như 3 tuổi Thân Tí Thìn có 4 Thân, 4Tí, 4 Thìn thì Mệnh Thân được an vị tại tam hợp Thái Tuế:

Tuổi Tí là tháng 11 giờ Tí thì Mệnh lập ngay ở Tí (Thái Tuế)Tuổi Thân tháng Thân là tháng 7 giờ Thân thì Mệnh ở Tí (Quan Phù)Tuổi Thìn tháng Thìn là tháng 3 giờ Thìn thì Mệnh cũng ở Tí (Bạch hổ)3 Tuổi Tỵ Dậu Sửu có 4 Tỵ, 4 Dậu, 4 Sửu thì luôn luôn có Mệnh ở thế thua thiệt bạc đãi (Trực phù, Thiếu âm và Long Đức)3 tuổi Dần Ngọ Tuất có 4 Dần, 4 Ngọ, 4 Tuất thì Mệnh bị đặt ở thế bất mãn (Tuế Phá, Tang Môn, Điếu Khách).3 tuổi Hợi Mão Mùi có 4 Hợi, 4 Mão, 4 Mùi thì Mệnh được đặt ở thế trội, khôn khéo xử thế đời chỉ là giấc mộng sắc sắc không không (Thiếu Dương, Tử phủ, Phúc đức, Thiên Không).

Biết rằng người đời ở tam hợp Thái Tuế là ngôi vị đã dành sẵn có bộ Long Phượng Hổ Cái thì cái trách nhiệm của người đó phái thế nào cho xứng đáng. Những người ở trong vị trí Tuế Phá Tang Môn Điếu khách, số đặt cho một hy vọng là thường xuyên có Thiên Mã (nghị lực) và Thiên Mã này có giúp ích cho đương số được tới mức độ nào hay không lại là phần tuổi của mình đem so với hành nào nơi Thiên Mã đóng. Những người ở vị trí Thiếu Dương, Tử Phủ, Phúc Đức là ở chỗ ngã ba đường, biết đi thì gặp Tứ Đức, lầm lỗi thì thấy Thiên Không. Những người ở vị trí Thiếu âm, Long Đức, Trực phù tuy là bị đời bạc đãi, tỉnh ngộ ra vẫn thấy tươi thắm vì Hồng Loan tô điểm hay đền bù bằng Lộc tồn nhỏ giọt.

Về phương diện ngũ hành thì năm tháng ngày giờ mới chỉ là 4 còn thiếu một. Nếu muốn cho đủ cả 5 thì phải tính thêm một yếu tố hoặc bằng " khắc sanh" hay tháng của mẹ thụ thai, nghĩa là người bắt đầu thành thai trong bụng mẹ theo giờ thời đạo mà tính theo khắc.

Thấy rất khó mà canh trúng nổi khắc, ngày giờ còn lấy sai bê bối, vậy chỉ còn cách cách lấy tháng thụ thai của bà mẹ chứ ngày cũng khó biết. Cứ trung bình tháng thụ thai là tháng trước 9 tháng ra đời với năm tháng ngày giờ đã sắp xếp theo định mệnh thêm vào cho đủ 5 yếu tố. Kinh nghiệm riêng đã thấy có phần trúng vì nó là đại lược của đời mình.

a/- Hành của tháng thụ thai sanh cho hành năm, hành năm sanh cho hành tháng, hành tháng sanh cho hành ngày, hành ngày sanh cho hành giờ, thí dụ:

Tháng thụ thai là tháng Kỷ Dậu = Thổ

Năm sanh là năm Canh Tuất = Kim

Tháng sanh là tháng Bình Ngọ = Thuỷ

Ngày sanh là ngày Tân Mão = Mộc

Giờ sanh là giờ Mậu Tí = Hoả

Thổ sanh Kim

Kim sanh Thuỷ

Thuỷ sanh Mộc

Mộc sanh Hoả

Tất cả theo hệ thống tương sinh từ trên xuống dưới là truờng hợp gặp nhiều may mắn xuôi chiều.

b/- Hành khắc từ trên xuống dưới như hành của tháng thụ thai khắc hành năm sanh, năm khắc tháng, tháng khắc ngày, ngày khắc giờ là trường hợp cuộc đời gặp nhiều gián đoạn.

c/ -Hành bị khắc người như tháng thụ thai bị năm khắc, năm bị tháng khắc, tháng bị ngày khắc, ngày bị giờ khắc, là cuộc đời gặp nhiều trái ý.

d/- Đủ ngũ hành nhưng không sanh hay khắc nối nhau theo một chiều hệ thống từ trên xuống dưới, chỗ thì sinh chỗ thì khắc như tháng thụ thai sanh cho năm, năm lại khắc tháng, tháng sinh cho ngày, ngày khắc giờ, cuộc đời thăng trầm đáng buồn phiền.

Bốn trường hợp nêu trên có đủ ngũ hành. Những cá nhân này không phải là hạng thiếu tư cách và đáng trọng dầu ở hoàn cảnh nào.

Còn những tình trạng thừa hành này thiếu hành kia như 3 Kim 2 Thuỷ hay 2 Mộc Hoả 1 Thổ hay 4 Thổ 1 Kim thì nhận xét theo tánh nghĩa ngũ thường như:

Mộc = Thiện tâm (nhân)

Thổ = Thành thực (tín)

Kim = Minh bạch (nghĩa)

Thuỷ = nghiêm chỉnh (trí)

Người 3 Kim 2 Thuỷ là người thừa minh bạch và nghiêm chỉnh (nghĩa và trí)Người 2 Mộc, 2 Hoả, 1 Thổ là người dư thiện tâm và tỏ tường (nhân lễ)Người 4 Thổ 1 Kim là người quá ử thành thực (tín)

Phần sao hẳn ai cũng công nhận Tử Vi là đáng quí tượng trưng cho ngôi vị thụ hưởng xứng đáng với nhũng tính cách nhân hậu phúc đức như 12 ngôi vị nhận thấy:

Tử vi ở Ngọ = Đế ngự ngai vàng thịnh trị có Liêm Phủ ở Tuất và Vũ Tướng ở Dần là văn võ tríêu khánh hội (có tánh cách điều hoà vì Ngọ bị Tí khắc nhập)

Tử vi ở Tỵ = Đế Tuần du có Thất Sát hộ giá phải dùng Liêm Phá ở Dậu càn quét và Tham Vũ ở Sửu kiến thiết.

Tử vi ở Thìn = Đế xuất chinh có Thiên Tướng phò chiến đắc Liêm Trinh ở Thân và Vũ Phủ ở Tí quản trị đất nước hữu hiệu.

Tử vi ở Mão = Đế yếm thế vì Tham Lang uy hiếp (tất cả bộ Sát Phá Tham) hãm phản vật.

Tử vi ở Dần = Đế được Thừa tướng bình thư (Thiên Phủ) được Liêm Tướng ở Ngọ và Vũ Khúc ở Tuất điều khiển việc nước hùng mạnh.

Tử vi ở Sửu = Đế bị vây hãm (Phá Quân phản) tất cả bộ Sát Phá Tham hãm trấn giữ.

Tử vi ở Tí = Bá ngự đại triều, rất hùng mạnh nhờ Liêm Phủ ở Thìn Tuất và Vũ Tướng ở Thân, uy hiếp mọi đối phương (Thân Tí Thìn khắc xuất Dần Ngọ Tuất).

Tử vi ở Hợi = Bá xuất chinh phải khó khăn vì Liêm Phá ở Mão không mấy mạnh.

Tử vi ở Tuất = Bá chiến đấu nhờ Liêm Trinh ở Dần và Vũ Phủ ở Ngọ xuất sắc đất nước phồn thịnh

Tử vi ở Dậu = Bá yếu thế (Tham Lang ở đây không đủ tư thế chuyên quyền) chỉ là dối trên gạt dưới.

Tử vi ở Mùi = Bá bị vây hãm bởi Phá Quân phản, chỉ trông cậy vào Thiên Tướng ở Sửu khắc phục

Tử vi ở Thân = Bá được quân sư trình thư, thế nước được sáng rạng nhờ Liêm Tướng ở Tí, Vũ khúc ở Thìn và Thái dương ở Tỵ sinh nhập.

Trong 12 vị trí điều làm cho ta thấy là tư cách của ThiênTướng rất cao đẹp, dầu ở tình thế nào cũng vẫn là người khẳng khái, bất chấp cả sát tinh thâm nhập, vì ở vào vị trí nào Thiên Tướng luôn luôn chống lại Phá Quân (tư cách nghĩa hiệp). Còn Thất Sát thường xuyên dằn mặt Thiên Phủ (cũng như Thiên Tướng xung chiếu Phá Quân) đòi hỏi, trái nghịch với Thiên phủ là người khoan thai, ôn hoà, xét hành động bằng mọi lý do rồi mới kết luận. Tuy vậy cũng có trường hợp Thất Sát phục tài Thiên Phủ là vị trí Thất Sát ngưỡng đẩu (ý nghĩa mà thôi, vị trí vẫn xung chiếu).

Còn ngôi vị thứ 3 không giống Thiên Tướng thường xuyên xung chiếu Phá Quân hay Thất Sát luôn luôn nghịch chống Thiên Phủ (bất kể ở đâu Thiên Tướng cũng xung Phá Quân và Thất Sát xung Thiên Phủ) có một tư cách sống bằng lý tưởng riêng biệt nhân nghĩa phúc hậu cũng không kém Tử vi. Nếu đắc chí làm thầy muôn thuở, bằng không cũng thành tao nhân mặc khách với non cao rừng rậm, biển cả sông dài. Phú với người này là cơm áo sao cho có miễn để sống. Quí là não óc cao cả bầu trời cùng Nhật Nguyệt soi tỏ (tuỳ theo đắc địa hay hãm địa với cả bộ Nhật Nguyệt). Đó là sao Thiên Lương ở trong 12 chỗ đứng địa bàn, chỗ nào cũng có nhật hay nguyệt bồi đắp như:

a/- Khổng Khâu có Thiên Lương ở Tí, Thái Dương ở Ngọ bị Triệt (tuổi Canh) Thái âm ở Thân ngộ Kỵ

b/- Khổng Minh đắc Thái Dương, Thiên Lương ở Mão

Một người vì ân tình luỵ của Lưu Bị mà buộc lòng làm quân sư, một nguời không đắc thời cũng thành vạn thế sư.

Có phải Thiên Lương là lương tâm của trời đất.

Cái đẹp dứt khoát của số vẫn là vị trí não ở trong tam hợp Thái Tuế mà Mệnh Thân đã được an bài.

Chính không bằng chiếu, chiếu không bằng giáp

Lý số tử vi có 3 phương thức chính. Tam nhị hợp và xung chiếu. Tam hợp gồm có chính và chiếu như Mệnh an ở Ngọ thì Ngọ là chính Dần và Tuất là chiếu. Cái gì ở trong 3 cung Dần Ngọ Tuất là sử hữu do liên minh tam hợp gom góp. Giáp chỉ là xóm giềng cư xử tốt thì giúp đỡ nhau, bằng như mich lòng thì tự lực cánh sinh. Giáp mà có ảnh hưởng mạnh là khi Mệnh đứng được thuận lý.

Giáp là một bộ đôi sao đứng ở bên sát vách một cung nào. Như câu đã nói: chính không bằng chiếu, chiếu không bằng giáp, hẳn giáp đã có một ích lợi nên mới được để cao tột phẩm như thế. Vậy thử phân tích các trường hợp của Giáp để xem cái giá trị đến mức độ nào.

Trên hết là các bộ chính tinh. Tử vi Thiên Phủ là một bộ đôi đứng đầu 2 chòm sao âm dương. Cách giáp Tử Phủ hẳn là lý tưởng! Thật thế, chỉ là lý tưởng, và là lý tưởng của cuộc bất ổn tang thương. Không bao giờ có cách giáp Tử Phủ ở các cung khác ngoài 2 cung Dần Thân, mà Mệnh ở Dần hay Thân giáp Tử Phử thì luôn luôn Mệnh viên ở giữa hoặc là Cơ Âm hay vô chính diệu tưởng không tốt đẹp gì. Còn các chính tính khác đều đứng thành một bộ ở thế chân vạc tam hợp để củng cố uy thế của phe phái như Sát Phá Tham, Phủ Tướng. Riêng Cơ Nguyệt Đồng Lương cũng chỉ có một trường hợp Thất Sát ở Dần Thân giáp Đồng Lương ở Sửu Mão hoặc Mùi Dậu là tượng ảnh thế Xuân Thu êm đẹp (Tử Phủ Vũ Tướng và Sát Phá Tham đề huề).

Phần đặc biệt lý lẽ chính không bằng chiếu, chiếu không bằng giáp, chỉ tính cách quang minh của bộ Nhật Nguyệt là cặp đèn rọi sáng suốt, là bộ óc tinh anh chính xác của dịch lý nói chung không riêng gì số học Tử vi.

Thái dương ở Ngọ là cảnh tượng tuyệt đich quan minh được Mệnh đóng ở đó phải nói là kiêu hùng. Một khi có Thái dương ở Ngọ Mệnh đóng ở Dần đương nhiên là vô chính diệu, hay Mệnh ở Tí phải là Thiên Lương. Bộ Nhật Nguyệt này (Nhật ở Ngọ Nguyệt ở Thân) chiếu soi tỏ Mệnh vô chính diệu ở Dần hay Thiên Lương ở Tí một cách thấu đáo rõ ràng lòng minh bạch không bờ bến của vô chính diệu và tâm hồn nhân hậu thiên phú của dương nhân hành diện trong hoàn cảnh. Phải chăng chính không bằng chiếu là ở đây.

Chiếu không bằng giáp cũng chỉ có 2 trường hợp là Thiên Phủ ở Mùi đắc Thái Dương ở Ngọ Thái âm ở Thân và Tham Vũ ở Sửu được Cự Nhật ở Dần, Đồng Âm ở Tí mau tỉnh ngộ không theo hùa Liêm Phá ở Dậu, làm điều bất chính, mới có câu: " Tham vũ đồng hành Sửu cung vãn cảnh, biến di thần phục" được lòng người quí trọng do bộ Nhật Nguyệt giáp biên hiểu rõ đâu là đường quang lẽ phải mà đi.

Nói đến song giáp thường thường lưu ý đến các bộ trung tinh mà phải là những bộ trung tinh có tính cách quan trọng do năm tháng và giờ sinh quyết định, ý nghĩa gần như chính tinh được ngày sinh tạo thành. Ba bộ Long Phượng (năm) Tả Hữu (tháng) và Xương Khúc (giờ) có liên hệ mật thiết đến 4 mộ cung ( 2 dương xuất phát là Thìn Tuất, 2 âm tập trung là Sửu Mùi) bắt đầu đi từ Thìn Tuất để rồi gặp nhau ở Sửu Mùi, thì chỉ có Mệnh ở Sửu Mùi mới có giáp. Trường hợp ảnh hưởng là khi 2 sao đó cùng vừa tới sát nách Mệnh, còn như qua mặt Mệnh rồi mới đứng kể như là quá trớn bỏ qua Mệnh có ý nghĩa gần như không thực có. Nhưng dầu sao có vẫn hơn không.

Trong 3 cách giáp Long Phượng Tả Hữu Xương Khúc, duy cách giáp Long Phượng chỉ gỡ gạc phần nào cho Mệnh mà thôi vì Thái Tuế (Mệnh ở Mùi ) là tam hợp Thiếu Dương, Mệnh ở Sửu là tam hợp Thiếu âm).

Bộ Khôi Việt có tính cách đàn anh lãnh đạo nhưng phần chánh nghiêng về Phước Thiện nên được danh hiệu là Thiên Ất quí nhân (đã có bài nói riêng) như bộ Thiên Quan Thiên Phúc đều do hàng Can quyết định ngôi vị để ban phước lành. Giáp Khôi Việt chỉ có ở 2 cung Thìn Tuất mà phải là tuổi Bính Đinh Nhâm Quý.

Khốc Hư tính theo năm xuất phát từ Ngọ cung kẻ đi xuôi (Hư) người đi ngược (Khốc) được liệt danh là bại tinh nên thường ở đất nghịch. Khốc đắc ý ở các cung âm, còn Hư hoàn toàn thất ý trên cả vòng luân chuyển thường trực cặp kè Tuế Phá. Giáp Khốc Hư thì có 4 tuổi Sửu Mùi và Tỵ Hợi ở 2 cung Tí và Ngọ.

Thai Toạ và Quang Quí 2 bộ phụ tinh trong quĩ đạo Tả Hữu Xương Khúc chỉ đắc lực ở hoàn cảnh chính, chiếu đã thấy giảm thiểu thực dụng, giáp thiết tưởng không còn mấy đáng kể.

Giáp sát tinh có nhiều tính cách phức tạp, Không Kiếp Kình Đà Hoả Linh có khuôn mặt trình diễn mà vị trí đóng cũng không giống nhau. Không Kiếp chỉ có 2 cung Tỵ Hợ là có giáp. Hoả Linh là sao giảm thiểu sức khoẻ nhất là đối với người tuổi Kim Canh Tân Thân Dậu, dầu đắc địa cũng phải đề phòng tật ách bệnh phổi dễ bị hư hao. Giáp Kình Đà cần phải phân tích kỹ càng vì một khi giáp Kình Đà là Mệnh đã thọ hưởng Lộc tồn. Kình đắc địa ở 4 mộ cung Thìn Tuất Sửu Mùi, Đà miếu địa ở tứ sinh Dần Thân Tỵ Hợi. Điều cần nhỡ kỹ vị trí Lộc Tồn luôn luôn có tiền Kình hậu Đà, nghĩa là Kình Đà phải thay đổi vị trí tuỳ theo hướng của Lộc Tồn đi thuận hay đi nghịch, Kình dẫn đầu Đà hậu cứ. Mệnh có Lộc Tồn đi thuận hay nghịch. Kình Đà đắc địa thì hưởng Lộc Tồn phải coi chừng đến giáp, trái lại hãm địa là phải khó khăn chưa kể đến tuổi Mệnh có phải là tam hợp Lộc Tồn thuận lý âm dương.

Đối với lục sát tình giáp không những làm khó khăn tai hại cho bản thân, còn khuấy đảo cả phụ mẫu huynh đệ của đương số. Sát tinh cùng tính cách hung hãn nên tránh có mặt ở các cung liên hệ đến người thân của mệnh như phụ mẫu huynh đệ phu thê tử tức phải chịu ảnh hưởng như:

1/ Không Kiếp thì vất vả bất hoà

2/ Kình Đà thì hình thương xa cách

3/ Linh Hoả thì giảm thọ sức khỏe suy yếu

Cụ Sào Nam tuổi Đinh Mão sanh ngày 11 tháng 5 giờ Sửu thành danh một đại văn hào cách mạng nhờ bộ Riêu Xương Khúc ở Mệnh, nhất là Mã hợp cảnh bền gan cùng tuế nguyệt. Thân cụ đắc Thiên Lương Long Phượng giáp Thai Toạ Quang Quí trúng cách nên cụ ở hoàn cảnh nào cũng bình tĩnh uy nghiêm điềm đạm lo toan việc nghĩa. Tả Hữu của cụ ở truờng hợp lỡ bước (Tả ở Thân Hữu ở Ngọ ) nên cụ không mấy đa đạng tham bàn thêm mọi sự thế.

Điêu Thuyền xưa kia là 1 vũ nữ sống trong thời tam quốc tuổi Nhâm Tuất sanh ngày 23 tháng 8 giờ Dần. Mệnh ở Mùi Tả Hữu chiếu giáp Xương Khúc thuận lý thành một tài nữ có nghệ thuật đổ quãn xiêu thành đình nghiêng nước đổ, cứu được Hiến Đế khỏi bị truất ngôi, khiến nổi Lã Bố hạ Đổng Trác. Thân ở Hợi giáp Kình Đà đắc địa nên hưởng Lộc Tồn một cách dễ dàng, mặc dầu Lộc Tồn tuổi Nhâm không phải là vĩnh viễn, Lưu Hà khiến Kiếp Sát canh chừng được Hóa Khoa giải cứu. Nữ nhân đắc Khoa phải nhìn nhận là tối quý.

Riêng bộ Nhật Nguyệt thấy trúng cách chính không bằng chiếu, chiếu không bằng giáp.

Trong tử vi vòng trường sinh có ý nghĩa gì?

Ngôi nhà cổ Tử vi rất là huyền bí, có thể nói lâu nay đóng kín, những người ý muốn đột nhập vào để quan thưởng những gì hay đẹp, tất phải lần mò tìm những nút bấm như nhị tam hợp xung chiếu để hòng mở toang cửa nhìn thẳng vào. Xưa nay mới chỉ dòm qua những kẽ hở tạm thấy sau luồng cửa có 3 lần màn phong ngăn chặn (2 tấm dài một tấm ngắn).

Tấm ngắn treo sát xà nhà thòng xuống để dấu ánh sáng mặt trời trên cao rọi sáng (thập niên can), một tấm dài từ mặt đắt đứng lên để che kẽ hở ở dưới đất (thập nhị địa chi). Còn một tấm căng ở giữa nối liền 2 tấm treo và đứng giáp nhau có ý làm tấm màn kép cho cả 2 tấm kia . Xem ra thật kỹ càng chu đáo.

Ba bức màn này có nghĩa là 3 vòng Lộc tồn (theo Thiên can) Thái Tuế (theo địa chi) và Tràng sinh (theo nạp âm cung an mệnh) mà dịch thành cục diện của số.

Lộc tồn nghĩ lại khác gì hưu bổng hay quĩ tiếp kiệm của một cá nhân dành dụm qua từng kiếp người để cuộc sống hiện tại có vốn mà kinh doanh thụ hưởng cho 4 trường hợp đủ 12 tuổi : Giáp Dần Ngọ Tuất, Ất Hợi Mão Mùi, Canh Thân Tí Thìn, Tân Tỵ Dậu Sửu.

Thái Tuế ấn định đời sống tư cách hạnh kiểm từng cá nhân, vị trí tam hợp Thái tuế là chỗ ngồi cao trọng trao cho ai nhận xét ra có thành tiếng tăm thiện ý lãnh trách nhiệm những công việc có tính cách lợi ích không vị kỷ để rồi thành công đồng hưởng.

Phân tách một tuổi theo Can và Chi như thế tưởng cũng đã là kỹ lưỡng, thêm vòng Tràng sinh để biết cục diện biến đổi thật quá hoàn hảo. Có đi vào đường huyền bí mới biết công cho ai mải miết khám phá. Sống đời nay nại ra kiếp trước chuyển vận, rồi từ nhập thế cuộc cho đến nhắm mắt tay xuôi, biết đâu bánh xe còn chuyển bao nhiêu vòng nữa.

Nhìn kỹ vòng Tràng sinh quả là một vòng xích nối liền không phân chỗ nào đầu nơi đâu cuối, lôi kéo vòng xe chạy. Phân tích thường tình một thế nhân ra đời phải bắt đầu bằng thai nghén trong bụng mẹ . Vòng Tràng Sinh lại do Tràng Sinh mà đi để rồi tới thuyết gắn nối thêm 2 giai đoạn Thai Dưỡng là 2 mắt xích dính Tuyệt với Sinh thành một vòng kín chuyển dịch đến không biết bao giờ hết. Cái hết này có lẽ là ngày tận thế tắt hết cả ngưng đọng trong hư vô.

- Đoạn đời từ Sinh đến Dưỡng là con đường từ: trẻ thơ (Sinh) dậy thì (Dục) ganh đua (Đới) hãnh diện (Quan) oanh liệt (Vượng) tàn nhược (Suy), ốm đau (Bệnh) mãn kiếp (Tử) chôn lấp (Mộ) quên đứt (Tuyệt) tái sinh (Thai) nuôi đắp (Dưỡng), là biến diện tuần tự từng quãng đời nối đuôi ăn khớp với nhau thì hẳn không còn tam hợp cách?.

Thưa rằng tam hợp Tràng sinh là phần tinh thần như sau:

Sinh Vượng Mộ: Đường hoàng mồ yênDục Suy Tuyệt: Vội ham tàn tíchĐới Bệnh Thai: Thịnh suy hoàng dươngQuan Tủ Dưỡng : Giấy rách giữ lề

Bốn tam hợp này xưa nay chỉ nhìn Sinh Vượng Mộ là cách tốt đẹp nhất của người giữ gìn được nhân nghĩa, đến lúc qua đời vẫn được mồ yên mả đẹp mến trọng. Dục Suy Tuyệt là cách ăn xổi ở thì vội ham lục tuỵ, lúc tàn tạ không ai nhắc đến. Đới Mệnh Thai là giấc mộng vàng từ áo mão cân đai đến ốm đau bệnh hoạn chỉ là thịnh suy luân kiếp. Quan Tử Dưỡng là đời đã được hãnh diện dầu đến chết cũng phải tu duỡng tâm linh như tờ giấy trắng có rách nát cũng gấp giữ cho còn nếp.

Vòng Tràng sinh có tính cách là một vòng kín lớn nối liền chuyển biến từng giai đoạn rõ ràng, khi xếp thành tam hợp cũng vẫn giữ được ý nghĩa cả 12 đoạn khúc của vòng, thay đổi là tuỳ Mệnh Thân đóng ở vị trí nào vẫn cho đời là một bài học triết lý răn dạy để xử thế. Người có số đang diễn hành trong cảnh nào tự mà dấn thân tìm đường để sống. Đó là cái đặc điểm của số mới gọi là Vòng Tràng sinh từ thực tại nối tiền kiếp đến hậu thân mãi mãi.

Biết rằng tam hợp là căn bản chính của lý số học, thực chất là dương và âm. Thân Tí Thìn là thế chính của dương và Tỵ Dậu Sửu là căn bản của âm. Còn Dần Ngọ Tuất và Hợi Mão Mùi là 2 thế phụ tức là Thiếu dương và Thiếu âm. So với 2 thế chính luôn luôn ở thế bị khắc nhập.

Vậy Sinh Vượng Mộ và Dục Suy Tuyệt là 2 thế chính. Còn Đới Bệnh Thai, Quan Tử Dưỡng là 2 thế phụ, tức là Sinh Vượng Mộ Đới Bệnh Thai là cùng phái . Bên kia Dục Suy Tuyệt Quan Tử Dưỡng đứng chung.

Nhìn vào lá số thấy Mệnh và Thân đều cùng chung đặt nằm vào một phía như Mệnh ở dương cung thì Thân luôn luôn ở dương. Không bao giờ có thể đóng ở âm được mặc dầu Phúc hay Quan hay Di hay Tài hay Thê Phu. Vòng Tràng sinh cũng theo thế âm dương mà định nghĩa:

Đường hoàng cư xử được người mến quí, lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển (Sinh Vượng Mộ Đới Bệnh Thai)Ăn sổi ở thì không ai tưởng nhớ, giấy rách phải cố giữ lấy lề (Dục Suy Tuyệt Quan Tử Dưỡng )

Thân cũng như Mệnh nếu an ở bên nào cũng chỉ ở trong chung hoàn cảnh đó không thể nhảy qua bên kia được. Mỗi chữ trong vòng Tràng Sinh là một đoạn đường đời, Mệnh ở Sinh hay Vượng đi đến Bệnh hay Tử đương số phải hiểu lẽ thịnh đã qua nay gắng chịu cảnh bĩ cực. Bản chất là đường hoàng thấu đáo mồ yên mả đẹp là quí, lý gì lợi gì cũng không tránh được thời tàn tạ.

Người tuổi Giáp Dần sanh tháng 3 giờ Dần, Mệnh an ở Dần, Thân cư Quan ở Ngọ (Tam hợp Thái Tuế) mệnh có Lộc Tồn ngay ở Dần (Lộc Tồn tuổi Giáp chỉ để riêng cho hàng chi Dần Ngọ Tuất) với Bác sĩ ở Mệnh và Tướng Quân ở Thân (Ngọ cung). Tuổi Giáp Mệnh an ở Dần là hoả cục, Tràng Sinh ngay ở Dần cho người dương nam và Đế vượng cho Thân ở Ngọ. Ba vòng Thái Tuế Lộc Tồn Tràng Sinh đã về hẳn minh bạch phẩm hạnh cá nhân cách là hạng nào, dầu cho Phá Quân thủ mạng (tối hãm ) cũng được giá trị của một Thái Tuế huống chi còn là Lộc Tồn Bác sỹ và Tràng sinh (nhân hậu). Tóm lại lá số này là của người xứng đáng danh hiệu làm người .

Sau đại vận 6 -15 ở Mệnh đến 16-25 ở Phụ Mẫu cung Mão gặp hạn Thiên Không do Đào Hoa chi phối thúc đẩy (vòng Thái Tuế) Kình Lực (vòng Lộc Tồn) Mộc dục (vòng Tràng Sinh) phụ giúp.

Hỏi rằng người này có nên tàn phá tuổi thiếu niên, vội tìm thụ hưởng và có thể nào tránh được hạn Thiên Không (Thái Tuế) Kình Lực (Lộc Tồn) Mộc Dục (Tràng Sinh)?

Hẳn là không vạn lần không, Không nên phá tuổi mới chớm nở và cũng không thể tránh nổi đại vận hắc ám Thiên Không này chỉ còn cách từ thiên mệnh mà đi (còn nhỏ dại chưa hiểu cuộc đời trách nhiệm phải là những bậc phụ huynh và ân sư giáo huấn) . Gác bỏ mọi phù vân lần bước theo tứ đức (Thiên đức Nguyệt đức Phúc đức Long đức) vì Thiên Không bao giờ cũng đứng kèm tứ đức trong tam hợp và xung chiếu.

Do là giai đoạn Dục Suy Tuyệt của Tràng sinh người hiểu biết phải nối tiếp theo Quan Tử Dưỡng (vội ham thì tàn tích giấy rách phải xếp có lề ) để chữa chạy cho con em trong vực thẳm.

Còn nhiều giai đoạn như 46-55 quá ư rực rỡ công nghiệp có thể nói là phi thường xuất chúng do Quan Phù (Thái Tuế) Tướng Quân (Lộc Tồn) vòng Đế vượng (Tràng Sinh) đồng tình tô điểm không bút nào tả hết bản hùng ca.

Người ở vị trí Thái Tuế dẫu có ở trong tam hợp Dục Suy Tuyệt (vòng Tràng Sinh) không thể không tỉnh ngộ giấy rách phải giữ lấy lề, xử thế phóng tay để rồi không còn ai tưởng nhớ, có chăng chỉ là thân bại danh liệt.

Tóm lại căn bản ưu tiên của Tử Vi là vòng Thái Tuế. Còn vòng Tràng sinh là giáo lý nhắc nhở thế nhân chuỗi dài thời gian cuả một kiếp theo khuôn vuông tròn mà xử thế dầu ở hoàn cảnh nào thịnh hay suy.

Ba vòng của Tử vi có thể định nghĩa mỗi vòng như sau:

Thái tuế: hạnh kiểm tư cáchLộc Tồn: Hoàng lương một kiếpTràng sinh: Đường dài xử thếCăn cứ vài yếu điểm nào để quyết định giờ sinh

Bằng 4 yếu tố năm tháng ngày giờ lập nên lá số không đủ cặn kẽ cho một sự thể riêng biệt của cá nhân. Thấy số lượng quá ít chỉ trên nửa triệu lá số khác nhau nên sự trùng điệp thường đánh một dấu hỏi lớn cho người muốn biết lá số. Cứ trung bình trên khoảng đất ½ triệu cây số vuông, có 50 triệu dân tức là với 700 cây số bề dài thời tiết phong thổ không thể khác biệt nhau cho lắm có thể kết quả trung bình 100 người có lá số giống nhau, tối thiểu cũng phải từ 10 đến 20 số. Không lẽ một quốc gia như thế có đến 15 ông thủ tướng (vì số giống nhau).

Cái kẽ hở đó là hành động riêng biệt của mỗi người khác nhau nên hoạ phước phải tăng giảm theo số lượng nhiều hay ít. Nhưng khi lên bổng đắc chí hay xuống thấp buồn thảm thời gian phải giống nhau vì cùng thời gian hưng bại (đại tiểu vận).

Số đã trùng điệp như thế, có e ngại 4 yếu tố năm tháng ngày giờ lại trật sai nữa thật rất khó cho người có số muốn hiểu biết cuộc đời. Năm tháng là 2 khoảng có thể chính xác. Riêng ngày chỉ sợ thời gian giữa Hợi và Tí vì Hợi thuộc ngày hôm trước, Tí là khởi điểm ngày hôm sau. Còn giờ là một đề tài phức tạp. Xưa kia tổ tiên ta trước vấn đề nan giải trong lúc các bà mẹ sinh con không phân biệt được giờ trên hay dưới. Các cụ thường bốc đũa lên đếm nếu số chẵn là âm, số lẻ là dương (luật cơ ngẫu) để quyết định giờ nào vào lúc đó. Thật là nan giải.

Bây giờ có đồng hồ, người lấy số cứ mặc nhiên tính 2 tiếng đồng hồ là một giờ của số, cứ thế mà đi không chút ngập ngừng. Xin thưa không phải dễ dàng như thế. Giờ đồng hồ do một bộ máy cân đều nhau 24 giờ thời gian. Còn giờ của số là thời đạo theo thời tiết như Xuân và Thu thời gian ngày và đêm gần như bằng nhau, còn Hạ và Đông có lúc ngày dài hơn đêm, lại có khi đêm dài hơn ngày. Cái gì đêm phải trả về cho âm, cái gì ngày phải tính theo dương. Luật âm dương luôn luôn đặt trước mọi vấn đề nan giải của lý học, như mùa hạ từ giờ Dần đến giờ Mùi có thể dài đến hơn 13 giờ. Từ Thân đến Sửu chỉ còn trên 10 tiếng mà thôi. Trái lại mùa Đông khoảng thời gian về đêm từ Thân đến Sửu phải dài hơn thời gian của dương từ Dần đến Mùi, tức là giờ phải theo 24 tiết khí xê dịch trong vòng 15 ngày, mà cũng không phải có ngày giờ nhất định theo tiết đó bắt đầu, còn theo khí trời thay đổi đột ngột sớm hay chậm một hai ngày. Vấn đề rắc rối như vậy phải làm sao giải quyết ? Cho nên giờ sinh là một điều kiện rất khó và cũng là phần quan trọng trong lá số. Số sai giờ là số của người đâu phải của mình mình cứ khư khư chấp nhận mà thấy đời sống không như số đã xắp xếp, chẳng thà không có số còn hơn, đỡ bận tâm vì số.

Vậy phải làm sao với đề tài lẫn lộn khó giải quyết giờ sinh như thế. Thưa rằng nếu có lầm lẫn chỉ có thể giờ trên với giờ dưới, không thể xa cách đến 3 -4 giờ vì thời tiết thay đổi chỉ trong một giờ sai biệt có nghĩa là chỉ giữa 2 giờ dính liền nhau như Dần với Mão hay Mão với Thìn, không thể lầm lẫn Mão với Ngọ hoặc Tí.

Đây là một nguyên lý có tính cách định luật chứng minh dựa vào sự việc: tính nết và liên hệ với đại gia đình (cha mẹ anh em) và tiểu gia đình (chồng vợ) (1). Điều kiện tiên quyết căn bản là Mệnh đặt ở cung dương hay âm, cung âm và dương có tính cách khác hẳn nhau, sao thêm vào chỉ là phụ thuộc trừ phần nào. Biết rằng những cung dương có tính cách được sinh nhập (nhị hợp) thì người ngồi đó phải là người chặt chẽ cẩn thận, trái lại cung âm là người phóng khoáng rộng rãi (sinh xuất).

Hai điều sau chỉ là phụ khoản bổ túc cho điều một tỏ bầy tình trạng giữa người có số với gia đình. Theo luật âm dương thì giờ dương là trưởng, giờ âm là thứ. Nhưng còn nhiều chi tiết ngoắt nghéo như dương nam, dương nữ, âm nam âm nữ, cung dương cung âm và Không Kiếp chi phối nhưng vẫn vẽ lên hình bóng dầu không chính xác là tượng trưng, như người âm nam sanh giờ dương ở cung dương là trưởng nam chính xác, nhưng người âm nam sanh giờ dương ở cung âm là người thứ thay trưởng lo toan mọi việc gia đình cũng là trưởng hình thức. Vậy có thể tóm tắt sắp xếp các chi tiết như sau:

a/- Dương nam sanh giờ dương là con trưởng

b/- Âm nam sanh giờ dương là con trưởng hình thức (cung dương)

c/- Âm nam sanh giờ dương ở cung âm + Không Kiếp (con thứ thay trưởng lo toan mọi việc gia đình)

d/ - Âm nam sanh giờ âm ở cung dương + Không Kiếp (trưởng bất lực nhờ con thứ thay chân lo liệu)

e/ - Âm nam sanh giờ âm ở cung âm (thứ nam bao bọc cả gia đình)

g/ - Dương nữ sanh giờ dương là trưởng nữ trong một ngành

h/ - Âm nữ sanh giờ âm ở âm cung là trưởng nữ bao sân

i/ - Dương nữ sanh giờ âm ở cung âm là thứ nữ

Những trường hợp trên đây là điển hình, còn tuỳ theo thay đổi cung (âm dương) và bộ sao Không Kiếp (thay đổi miễn cưỡng).

Điều ba chỉ sự liên hệ giữa chồng vợ (Mệnh và Phối). Trong 12 cung có 6 cung dương và 6 cung âm. Khi Mệnh ở dương cung thì cung phối cũng ở dương cung, trái lại Mệnh ở âm thì Phối cũng phải ở âm. Giữa 2 cung Mệnh và Phối luôn luôn có sự chế hoá như Thân Tí Thìn phải trên tay Dần Ngọ Tuất hay Hợi Mão Mùi thì Phối dễ dàng lấn Mệnh. Còn Mệnh ở Tỵ Dậu Sửu hay Thân Tí Thìn thì Mệnh không bao giờ để Phối áp đảo. Trường hợp Phối có Khoa Quyền Lộc ở Dần Ngọ Tuất hay Hợi Mão Mùi là vợi chồng nhân nhượng nể thương nhau. Người âm nam ở dương cung người dưong nữ ở âm cung, là nghịch địa âm dương sự bất ổn phát sanh ngay từ Mệnh, lại thêm Không Kiếp dấu ở Thân Tí Thìn hay Tỵ Dậu Sửu, màn cảnh hý trường diễn tả nhất Phối nhì trời, rất khéo léo lột hết tính thần. Còn một trường hợp khẳng định cho cả 2 phái nam và nữ khi Phối có Thiên tướng thì trai nể vợ, gái tìm cách lấn chồng.

Quang Trung đại đế tuổi Nhâm Thân sanh ngày 5 tháng 5 giờ Tuất. Người dương nam sanh giờ dương đáng lý là trưởng nam vì Địa kiếp ở cung Dậu sinh nhập cho Thân ở Thìn đành làm em út (sau Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ). Tư cách người dương đóng cung dương, mọi việc thu xếp cẩn thận chu đáo, sanh giờ dương thay mặt trưởng làm hết mọi việc lập sự nghiệp cho nhà Tây Sơn, ấy thế mà Phối có Thiên Tướng tấm thân vạn thắng phải hạ cố trước Ngọc Hân công chúa

(1) thêm yếu tố Mệnh đóng ở sinh, chính hay Mộ (bài 28)

Tác dụng của nhị hợp, tam hợp và xung chiếu

Trung thực mà nói từ trước đến giờ không thấy sách vở và ai đả động đến công dụng của nhị tam hợp lợi hại ra sao? Chỉ thấy nói mỗi khi xem một cung số như Mệnh chẳng hạn thì phối hợp cả 5 cung: Mệnh, 2 cung tam hợp là Quan và Tài, xung chiếu là Di, cung nhị hợp và trình bày 2 bảng kể như:

Tam hợp

Dần Ngọ TuấtHợi Mão MùiThân Tí ThìnTỵ Dậu Sửu

Nhị hợp

Tí với SửuDần với HợiMão với TuấtThìn với DậuTỵ với ThânNgọ với Mùi

Thiết tưởng Tử vi đâu có sơ sài giản dị đến thế. Mỗi khi đã đứng và lâp thành hình cái bộ phận già phải hiểu nắm được cái tác dụng và đường lốí áp dụng nó thế nào mới được. Vậy nay ta phải tìm kiếm thử phân tích nếu có thể được, đặt thành nguyên tắc hệ thống hoá để sử dụng. Trước khi nói đến nhị hợp cần phải hiểu cái tam hợp trước, vì tam hợp là căn bản của thế đứng chân vạc của mỗi cung địa chỉ liên đới thành một sức mạnh có một tôn chỉ một phù hiệu chung đứng trong ngũ hành:

Thân Tí Thìn, tuy mỗi địa chi có một hành riêng (Thân – kim, Tí = thuỷ, Thìn = thổ) hợp nhất lại có một hành chung là Thuỷ.

Dần Ngọ Tuất là HoảTỵ Dậu Sửu là KimHợi Mão Mùi là Mộc

Bốn trường hợp này đều có cái Thổ là Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ Mộ ) làm nòng cốt nền tảng để cho Dần Thân Tỵ Hợi (Tứ sinh ) phát nguồn bồi đắp cho Tí Ngọ Mão Dậu (tứ chính) được đầy đủ sung túc trở thành một hành chính vững mạnh của tam hợp, vì lẽ đó nên không có hành Thổ.

Biết rằng Thổ có 4 chia ra 2 dương Thổ là Thìn Tuất và 2 âm Thổ là Sửu Mùi.Còn mỗi hành kia chỉ có 2 một âm và một duơng như:

Thân là dương Kim và Dậu là âm KimHợi là âm thuỷ và Tí là dương thuỷDần là dương mộc và Mão là âm mộcTỵ là âm hoả và Ngọ là dương hoả

Ý nghĩa Thổ là nguyên thuỷ nơi sản xuất và tập trung cho 4 hành kia một khi đã mạnh chế hoá nhau, thắng hay bại rồi cũng rụi tàn về nguyên cõi (Thổ).

Nhị hợp cũng phải biết cung ở đó trong thế tam hợp nào đối với chính cung. Tình trạng nhị hợp là luôn luôn đối với chính cung chỉ có sinh không có khắc, tức là chỉ có sinh nhập hay sinh xuất như:

Xem cung Thìn thì Thân Tí Thìn là tam hợp Thuỷ, nhị hợp là Dậu (Tỵ Dậu Sửu là Kim) được Dậu sinh nhập cho Thìn, mọi sự may rủi bột phát. Trái lại xem qua cung Dậu (Tỵ Dậu Sửu là Kim) nhị hợp là Thìn (Thân Tí Thìn là Thuỷ) Dậu phải sinh xuất cho Thìn, mọi sự may rủi phải sút kém, không trông cậy được gì ở nhị hợp.

Còn xung là thế khắc như Dần Ngọ Tuất xung Thân Tí Thìn và Tỵ Dậu Sửu xung Hợi Mão Mùi, có nghĩa là luôn luôn khắc nhau không bao giờ có sinh, một là khắc xuất hai là khắc nhập.

Chính cung khắc xuất đối xung thì mọi tài nguyên của xung mới tóm thâu được ví như người thắng cuộc. Trường hợp đối xung khắc nhập chính cung thì làm sao chính cung thu được lợi lộc của xung chiếu, bị coi là kẻ chiến bại làm gì còn hống hách với người thắng trận (nên nhớ cái hay cái đẹp ở xung là nguồn lợi của đối phương chứ không phải của chính cung, vì xung ở trong tam hợp khác và khắc) không bao giờ ở thế đồng hành hay sinh cho chính cung.

Tử vi là một khoa lý học Á Đông lấy gốc rễ là âm dương ngũ hành là phương tiện tìm ra mọi thành quả, thì sinh khắc chế hoá là phần phụ thêm bớt ảnh hưởng ở thế tương sinh, khác hẳn xung chiếu là thế tương khắc là tình cảnh khó khăn mệt sức dầu là thắng lợi (khắc xuất).

Trường hợp Lộc tồn là ví dụ điển hình minh bạch nhất. Không phải là thấy có Lộc Tồn là người có được hoàn toàn hưởng thụ phú quí do định mệnh đã an bài ở vị trí nhất định tuỳ theo hàng thiên can của tuổi cũng như bộ ba tam hóa Khoa Quyền Lộc tô điểm thêm cho số bông đẹp trái ngon.

Lộc tồn đã phân phối đầy đủ cho 12 tuổi đều nhau có vị trí hẳn hoi ấn định như:

Tuổi Dần Ngọ Tuất được dành Lộc Tồn theo hàng thiên can Giáp (1)Tuổi Thân Tí Thìn được hưởng Lộc Tồn thuộc hàng thiên can Canh (2)Tuổi Hợi Mão Mùi được hưởng Lộc Tồn thuộc hàng thiên can Ất (3)Tuổi Tỵ Dậu Sửu đưởng hưởng Lộc Tồn thuộc hàng thiên can "Tân"

Trừ 2 tuổi Canh Thìn và Tân Tỵ chỉ hưởng tương đối vì Lộc Tồn ngộ "Tuần"

Mười hai tuổi đã được chia đều rành rẽ lẽ đương nhiên Lộc Tồn đó đặt ở trong phạm vi của tam hợp tuổi mới hoàn toàn thụ hưởng cho đương số, như hoa thơm quả chín trong vườn đất mình đã có công trồng tưới bón. Còn như may mà mệnh đóng trúng cung có Lộc Tồn như tuổi Canh Dần Ngọ Tuất đóng ở cung Thân Tí Thìn, tuổi Giáp Thân Tí Thìn đóng ở cung Dần Ngọ Tuất, tuổi Bính Mậu đóng ở Tỵ, Tuổi Đinh Kỷ đóng ở Ngọ,Nhâm đóng ở Hợi, Quí đóng ở Tí. Lộc Tồn đó là của đối phương mình cướp giật lấy hay là thọ hưởng trong nghịch cảnh có nghĩa là không bền, chuốc lấy tiếng phê bình thị phi hờn oán mà rồi ra còn mang hoạ vào thân là trường hợp Lộc Tồn có Lưu Hà, Kiếp Sát canh chừng.

Vậy cái quan trọng chính yếu của Tử vi là tam hợp. Nắm được tam hợp rồi phăng ra nhị hợp và xung chiếu và hiểu rõ được vị trí Mệnh nằm trong vòng Thái Tuế, thiết tưởng số như đã mở toang ra cho thấy đến 7,8/10 đời cá nhân.

Tóm lại, có thể biết một khi Mệnh viên ở thế nhị hợp sinh xuất là chắc chắn cá nhân đó tính tình hào phóng bao dung. Còn người ở địa vị sinh nhập là ngưòi cần kiệm, sự việc bất đắc dĩ phải giao tế rộng rãi chỉ là đúng mức ân tình nghĩa luỵ mà thôi.

Thu gọn chỉ cần biết mệnh đóng ở tam hợp nào của vòng Thái tuế, dầu là dương nam hay âm nữ hay dương nữ âm nam, cái nguyên tắc chính này vẫn không xê dịch thay đổi.

Tam hợp của mỗi lá số là thế cờ của mỗi cá nhân, may mắn là trường hợp Thân Tí Thìn, đóng ngay Thân Tí Thìn và Tỵ Dậu Sửu ở trúng Tỵ Dậu Sửu, là kiếp nhân sinh đã đặt sẵn vai trò gì can hệ không nhiều thì ít trong một giai đoạn nào với đầy ý nghĩa. Khác với người Dần Ngọ Tuất trong Dần Ngọ Tuất, Hợi Mão Mùi tỏng Hợi Mão Mùi cũng như 2 vai trò Thân Tí Thìn và Tỵ Dậu Sửu được lợi điểm là khắc xuất xung chiếu.

Xung chiếu là vai trò vô danh chẳng may ở vị trí bị khắc nhập nhưng nếu là tam hợp Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ dẫu có bị thua thiệt đau thương, trên danh nghĩa không bao giờ phai mờ công quả.

Điển hình là số Thái Tuế nhà Lê tuổi Ất Sửu ngày 6 tháng 8 giờ Tí

Mệnh Thân đồng cung ở Dậu, phải đây là người có sứ mạng từ tư tưởng quyết định bản thân đến định mệnh đưa đẩy đồng quan điểm (Tuổi Sửu Mệnh Thân đồng cung ở Dậu) và khi đã vén tay áo làm việc thì hăm hở mắm môi (Bạch Hổ). Đối với xung chiếu là Di có Cơ Cự đắc địa ở Mão thêm Lộc Tồn Hoá Lộc là tư cách của kẻ tham lam cay nghiệt (tư cách bóc lột của thực dân nhà Minh), vững mạnh vô cùng. Thái Tổ nhà Lê vẫn thắng ở thế Dậu (Tỵ Dậu Sửu khắc Hợi Mão Mùi), khắc xuất Mão. Mệnh ở Dậu sinh xuất cho Ách ở Thìn, tư cách là người hào hiệp thu phục nhân tâm, nhưng sinh suất cho Ách là ách gây oan nghiệt của giết hại công thần oan ức thì Tử Tướng ngộ Hình thoát sao khỏi yểu vong. Đây là con đường rẽ của số, biết thì tránh được chông gai, dầu đắc Khoa giáp Quyền Lộc là bộ tam hoá liên minh đẹp nhất để giải tai nạn ở cung Thìn.

Phải chăng Mệnh sinh xuất cho Ách là mình phải lãnh nhận hậu quả (xin xem bảng kê năm xung trang dưới)

Những thành quả phát sinh do năm xung đối với tuổi:

a/- Tuổi Tứ sinh thường thấy ngang trái bội nghĩa

b/- Tuổi tứ chínhthường thấy lo ngại uy tín

c/- Tuổi tứ mộ thường thấy bệnh hoạn bê trễ

Tuần Triệt có lợi ích gì cho mệnh có chính diệu

"Tuần, Triệt niên đầu thiếu niên tân khổ" là một trong những câu người mới học số hay học thuộc lòng như "Mệnh vô chính diệu phi bần tắc yểu". Nó giản dị dễ nhớ mỗi khi đọc lên là thấy ngay nghĩa giảng rất ít thấy sai trật. Bây giờ đặt câu hỏi: Tuần Triệt ở Mệnh có chính tinh có ích lợi gì? Có vẻ trái lý , nhưng cứ đặt căn bệnh lên bàn mổ phân tích xem có gì đáng ý.

Như thường thấy mệnh vô chính diệu ai cũng nói cần có nhiều Không (Tuần Triệt cũng là một thứ Không) mới tốt, nhưng vì lẽ ngũ hành rất phức tạp nên người học số thường bị lầm không phân biệt đâu là đắc Không với ngộ Không và kiến Không.

Nhân tiện xin nhắc quan Mệnh vô chính diệu là Mệnh không chính tinh ví như nhà cây không cột cái, nhà đúc không sườn sắt làm nòng cốt. Vậy Mệnh vô chính diệu muốn được đắc cách phải có gì làm xương sống, nghĩa là phải có sát tinh đắc địa, hợp hành với Mệnh để mệnh dựa vào mà đứng lên. Sát tinh chỉ có hai hành Hoả và Kim, 2 hành Thổ và Mộc coi như không có một sát tinh nào, còn hành Thuỷ có Hoá Kỵ và Lưu Hà. Hoá Kỵ phải cặp bồ với Thanh Long là trường hợp rất hãn hữu .

Còn trong nghịch cảnh phải có Tuần Triệt đế chế hoá những gì không hay cho Mệnh như Mộc Mệnh có Thiên Hình: nếu không Tuần còn gì là Mệnh, cũng như Kim Mệnh gặp Không Kiếp, dầu đắc địa đi nữa cũng khốn khổ đảo điên, phải có Triệt bẻ gãy Không Kiếp mới mong tránh được tai hoạ.

Cũng xin bàn qua về 3 trường hợp đắc, ngộ và kiến Không.

1 /- Chỉ có người Hoả Mệnh được nêu cao qua thành tích đắc Không như mệnh có một Không đắc địa thủ và 2 Không ở cung tam hợp không trung tinh đắc cách

2/- Mệnh có sát tinh khắc hành Mệnh như Mộc mệnh có Thiên Hình thủ, 2 cung tam hợp có Không Kiếp chiếu, tức là ngộ Không.

3/- Mệnh có một Không thủ, 2 cung tam hợp có 2 Không mà có trung tinh đắc cách gọi là Kiến không.

Có người cho rằng Tuần Triệt không có hành gì cả, chỉ là 2 lá bùa mầu nhiệm để biến hoá bộ mặt các sao ra nhiều cảnh trí khác nhau, muôn hình vạn trạng để cho Tử vi thêm phong phú, khúc triết và mạch lạc hơn.Có ý cho Tuần Triệt đóng ở giữa 2 cung có ý nghĩa không phải là sao, là 2 phần bộ Tử vi công việc chỉ điều chỉnh những gì ở 2 cung mà mức độ cường nhược, đậm lợt phải khác nhau.

Nói đến huyền bí Á Đông, không có gì thoát ra khỏi lý lẽ âm dương và ngũ hành như Triệt an theo hàng Can (Giáp, Ất, Bính Đinh...) thuộc dương, còn Tuần an theo hàng chi (Quí Dậu, Quí Hợi, Quí Sửu) là âm, cả 2 đều tuỳ theo Mệnh viên (dương hay âm) mới phân định được ảnh hưởng nhiều hay ít cho 1 cung nào ở 2 bên Tuần Triệt đóng, như Triệt ở Thân Dậu cho cả 2 tuổi Giáp và Kỷ. Giáp là dương ảnh hưởng ở Thân, Kỷ là âm ảnh hưởng đậm ở Dậu. Tuần cứ hết một con giáp đến địa chi cuối như Dậu Hợi Sửu Mão Tỵ Mùi thì an Tuần ở cung sau, có nghĩa là cái gạch để nối con giáp trên với con giáp dưới.

Cho Triệt là Kim, Tuần là Hoả thấy có phần trúng, nghiệm rằng người Kim mệnh bất cứ cung gì đóng ở Kim cung mà gặp Triệt, thiệt thòi của cung ấy có bị gẫy đổ, nhưng có tiếng dội, và người hoả mệnh gặp Tuần ở Hoả cung cũng vậy, phải có ngày ló rạng.

Mệnh có chính tinh nhất là chính tinh hợp hành Mệnh không bao giờ nên có Thiên Không hay Không Kiếp chen vô trong tam hợp. Là người trong xã hội hữu công vô lao, có công bị cướp công, có của bị cướp của, rất ít ai tử tế với mình, đói thì lần đến cầu van, no là kiếm đường rút lui, lại còn hằn học. Trường hợp chính tinh khắc hành Mệnh, lại được cung nghinh sinh sao như người Mộc ở Thìn Tuất có Vũ Khúc (cung sinh sao, sao khắc mệnh). Tưởng đâu người nặng nề vác bao bố bạc, ai dè chỉ là bao vỏ ốc, người ta ăn hết ruột thuê mướn mình khệ nệ vác đi đổ. Hai trường hợp này Tuần Triệt nhập cuộc được coi như vị bác sĩ giải phẫu tô điểm lại sắc đẹp cho bộ mặt xấu xí của khách hàng. Cũng nên phân biệt Tuần Triệt khác nhau để biết mức độ hoa mỹ của bộ mặt mới của người được giải phẫu .

Đã nói Tuần chỉ là gạch nối liền 2 con Giáp cũng như 2 bên bở sông có cây cầu bắc qua để nối con đường bên này sông với bên kia sông, thì khi xe sửa soạn lên cầu để đi qua xe phải giảm tốc độ. Tuần là cái thắng kềm bớt bộ máy huyền vi của số nhất là chuyển từ vận hội này sang vận hội khác, có Mệnh viên vẫn giữ gìn chỉ tô vẽ lại phần nào khuôn mặt, từ dữ dằn Sát Phá Tham làm dịu hiền đôi chút biến thành bạch diện thư sinh. Với người Cơ Nguyệt Đồng Lương gặp Tuần không phải là đổi thành khí phách hào hùng Sát Phá Tham, chỉ làm cho người này chậm rãi, phấn đấu khó khăn thêm. Triệt lại khác là bao vây triệt hạ, ngăn cách từ cái xấu đến cái tốt, có nghĩa là đã không cho xâm nhập ngoài vào còn phá đổ cái gì ở trong cung phong toả. Tai hại nhất là khuôn khổ cứng rắn như Sát Phá Tham và bất khuất như Tử Tướng, không còn gì là phong độ oanh liệt của người dọc ngang trời đất bất kể trên đầu có ai. Mỗi cử động chủ trương đều hầu chực sẵn khó khăn, nhưng cũng để bù lại, để tránh những gì nguy hiểm sắp đến (tiểu hạn mà thôi) .

Đây chỉ là phần của sao, còn phần cung mới là quan trọng (tư cách). Cung là vị trí là miếng đất Mệnh, Thân ngự trị. Tuần Triệt không thể thay đổi tính cách như Thái Tuế bị Triệt không thể thành Tuế Phá, Thiếu âm bị Tuần không hẳn trở nên Thiếu Dương được. Những tính cách của sao bị Tuần Triệt cũng phải tuỳ thuộc vị trí mà thay đổi tư cách.

Mệnh Thái Tuế Liêm Phá bị Triệt là người kẻ cả, không thể nhắm mắt dùng mánh khoé sắc mắc hành động, khác với Mệnh Tuế Phá Liêm Phá bị Triệt là người tự mình hạn chế thủ đoạn để làm việc và trường hợp đáng để cổ võ hoan nghênh vì người tam hợp Tuế Phá thường thấy thất vọng triền miên, dễ làm việc thất nhân tâm. Ở đây tự xét mình mà trở thành người đáng phục. Cũng như người Thái Tuế Tham Vũ là người có mộng ước quá lớn, mỗi khi bắt tay vào việc thấy nhiều cản trở khiến phải lòng dòng. Với người Tuế Phá Tham Vũ bị Tuần lại khác, cũng thấy nhiều cản trở, lòng dục của mình bị hạn chế lại miễn là mình làm được việc. Người Thiếu Dương Tham vũ bị Tuần là người ham ôm một hoài bão, thấy không thể thức hiện nổi trọn vẹn đành phải thuận theo đường lợi ích chung. Người Thiếu âm Tham Vũ bị Tuần lại khác, biết mình chỉ là quân bài hy sinh tốt hơn là sống theo kiểu tuỳ gia phong kiệm, tiếng cả nhà không an phận.

Tóm tắt: Tuần Triệt đương đầu thiếu niên tân khổ không phải là gì ra đời, nếu có Tuần Triệt ngay Mệnh là đều khổ ải cả tuổi thiếu thời . Việc này còn tuỳ ở vận hạn. Nhưng điều chắc là mọi việc khởi đầu nan, không khác gì chìa khoá mở máy bị lờn (demaruer).

Người ta chỉ mở một lần là xe máy nổ, xe của mình phải kéo giật đến 3, 4 lần mới được. Nhưng tính lợi hại không phải toàn thể là hại, có những trường hợp giúp ích cho người có số trong tam hợp Tuế Phá, Thiếu Dương Thiếu Âm, phải nói là Tuần Triệt như trên đã nói. Những người này là những thiêu thân, chẳng may bị đặt để vào vị trí không cho phép hài lòng, tự hổi chánh, trở nên những thành phần lương đống hữu ích cho quốc gia xã hội.

Tưởng Tuần Triệt trong các cách này rất ích lợi cho Mệnh viên có chính tinh, nâng tư cách, phơi bầy hạnh kiểm cá nhân lên hàng danh dự không riêng gì người tam hợp Thái Tuế .

Mười bốn chính tinh đâu là ngọc châu quý giá

Theo luật âm dương 14 chính tinh đứng chia làm 2 nhóm. Một nhóm do Tử vi đứng đầu là dương. Nhóm âm Thiên Phủ dẫn dắt, cho thấy cả hai nhóm chính tinh đặt bộ Tử Phủ Vũ Tướng lên ngôi vị đàn anh cao cả, tôn Tử vi lên bậc chúa tinh có vị Thừa Tướng trung hậu Thiên Phủ kề cận. Hai nhóm sắp xếp thành 2 phái: Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham và Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật. Hai phái cải thiện tuỳ theo tính cách từ Sát Phá Liêm Tham sang Tử Phủ Vũ Tướng đến Cự Nhật tới Cơ Nguyệt Đồng Lương, tức là phái dương nắm phần lãnh đạo đại diện cho thực thể, phái âm là phản ánh về tư tưởng tinh thần.

Đã vị lãnh đạo tối cao đương nhiên là phải có đức độ uy nghi. Tử vi được hãnh diện ở 4 vị trí Tí Ngọ Dần Thân là 4 chỗ có đủ quần thần văn võ (Thiên Hỷ Vũ Khúc Thiên Tướng ở chỗ đắc địa) trung thành đắc lực. Xét việc đời không phải dễ dàng chỉ nhìn bề ngoài vội vàng phê phán, phải hợp cảnh (vị trí của tuổi) mới rõ đâu là chân chánh khác với lộng hành, như người tuổi nào bộ Tử Phủ Vũ Tướng này phải đóng ở trong tam hợp Thái Tuế mới trúng cách, ngoài ra chưa chắc đã dự phần đáng trọng. Vị trí Thìn đắc cách có Thiên Tướng phò giá Tử Vi chinh phạt kẻ chống đối Phá Quân ở Tuất. Trường hợp tuổi Dần Ngọ Tuất Mệnh có Phá Quân ở Tuất, chắc chắn phần chánh nghĩa không phải ở Tử Tướng ở Thìn. Sự tồn vong phải chờ thời gian mới rõ trắng đen.

Tử vi ở Tỵ Hợi xuất du hộ giá có Thất Sát là tôi thần tính tình cương trực nóng nảy nên không bao giờ đồng mặt với Thiên Phủ, nên dễ hành đông lầm lẫn với các bạn Liêm Phá, rồi sau mới chỉnh đốn lại được bằng sức của Tham Vũ. Đây là trường hợp bộ Tử Phủ bị xé lẻ, bộ Sát Phá Tham lộng hành. Còn nói chi khi Tử vi bị Phá Quân bạt mỗi nơi không còn thể thống là cảnh tàn tạ của Tử Phủ. Vậy Tử vi Thiên Phủ chỉ là hình tượng hiền hậu ôn nhu có phần nào yếu nhược. Còn lại Vũ Tướng thì Vũ Khúc lại có tính cô độc tham lam dễ bị lợi dụng, trường hợp Vũ Phá ở Tỵ Hợi, Vũ Sát ở Mão Dậu bộ Sát Phá Tham thị kiềm chế không còn tình nghĩa gì với Đế tinh.

Đặc biệt là Thiên Tướng rất xứng danh một vị tướng nhà trời, không một trường hợp nào Thiên Tướng đứng chung với Sát Phá Tham và thường xuyên chống Phá Quân bất kể vị trí nào (Thiên tướng xung Phá Quân) chỉ biết có Tử vi, nếu trường hợp bị xa cách thì luôn luôn giao tiếp với Thiên Phủ, vị thừa tướng ôn nhu trung tín. Chỉ có ở vị trí Tí Ngọ chịu đựng với Liêm Trinh để tôn uy danh một Liêm Tướng trong lúc Tử vi luận bàn với Thiên Phủ (Tử Phủ Dần Thân).

Bộ Sát Phá Liêm Tham là bộ thực hành như một cái máy, quay là chạy nên sự tốt xấu với một mức độ rất cao. Trong 4 sao có 3 sao thuộc nhóm âm (Thiên Phủ) là Sát Phá Tham, còn lại 1 Liêm Trinh thuộc vòng dương (Tử vi), cho nên mỗi khi bộ Tử Phủ đứng có Liêm Trinh phò tá thì Liêm phải là đắc địa để thêm uy danh thẳng thắn liêm khiết như: Tử vi ở Tí Ngọ thì Liêm Phủ phải ở Thìn Tuất, Tử Tướng ở Thìn Tuất thì Liêm trinh ở Dần Thân, Tử Phủ ở Dần Thân thì Liêm Tướng ở Tí Ngọ. Trái lại bộ Sát Phá Tham một khi có thêm Liêm nhập cuộc, thì sao nào đứng chung với Liêm đều hung hãn quá mức như: Liêm Tham, Liêm Phá, Liêm Sát. Hai chữ Liêm Trinh đủ nghĩa tư cách chính trực nghiêm nghị theo con đường thẳng thắn, vì yếu thế nên không cảm hoá nổi bộ 3 này. Thất sát lại khác dũng mãnh cương quyết can đảm hành việc thì dứt khoát không dây dưa bên vị trí của Sát lúc nào cũng chống chọi Thiên Phủ ôn nhu.

Trong 4 sao thì 2 Liêm Sát đã ngả theo hành vi với Tử Phủ, còn lại Phá quân vốn tính tình hiếu thắng bất khuất (vì chữQuân) và Tham Lang quá tham vọng, nên có những cuộc trở cờ uy hiếp Đế tinh (Tử Phá Sửu Mùi và Tử Tham Mão Dậu). Phá Quân phải nhìn nhận là xuất sắc có tài thao lược dũng mãnh hơn người, nên trong địa bàn vai trò quan trọng của Thiên Tướng phải thường trực ngăn chặn Phá Quân để giữ gìn uy thế cho Tử Vi. Phá Quân có một vị trí cao đẹp quá hãnh diện ở Tí Ngọ tư cách sáng ngời sánh vai Tử Phủ, nếu lại là tuổi Giáp Dần Ngọ Tuất hay Canh Thân Tí Thìn thì không thể không tên tuổi mai hậu. Tham Lang có tham vọng quá lớn, thêm phần tự đắc dễ lầm lẫn nhờ đứng cạp với Vũ Khúc mau hối cải.

Phái Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật có bộ Nhật Nguyệt là tinh anh sáng ngời trình bày phô trương cả khí phách đời người.

Không phải thấy Thái Dương đóng từ Dần đến Mùi là hợp lý và Thái âm từ Thân đến Sửu là đẹp, phải phân tích dương cho trúng dương cách mà âm là rõ ràng âm điệu (đã có bài nói riêng về bộ đôi này). Cự Môn chủ tinh là lý luận thuyết phục muốn nổi danh phải có Thái Dương hoà hợp. Xuất xắc ở vị trí Tí cung được Thái Dương ở Thìn tam hợp chiếu sáng nổi bật những gì là Cự môn tiềm tàng quí giá ở trong, thực có khác với Cơ Cự mưu trí thủ đoạn. Thiên cơ là then máy của tạo hoá rất khôn ngoan mưu lược quyền biến tuỳ thời, có thể liên lạc với Cự môn, có khi lại đi đôi với Thiên Lương vẫn thành công giữ được tình cảm. Thiên lương như chữ đã đặt bản tính tốt nhân hậu của thế nhân. Trong 12 vị trí địa bàn ngay cả nơi u tối (Dậu không tương hợp) vẫn có tư cách khác người không xa khoan hoà bác ái. Nhờ có Nhật Nguyệt thường xuyên luân phiên chiếu tỏ, đắc cách làm thầy muôn thuở bằng như ham cảnh thì gieo tình với cỏ cây sông núi. Thiên Đồng đứng ở trong quĩ đạo của Tử vi nên khoan hoà nhân hậu sẵn có, ưa canh cải nhiều khi thua thiệt như hợp tác với Cự Môn ở Sửu Mùi dụng ý dung hoà cải hoá. Nói chung toàn thể 6 sao phái âm đều nhận chân một nếp sống tinh thần làm chủ yếu nên phần nhân hậu khoan hoa tuỳ theo tính cách mỗi sao và hoàn cành mỗi vị trí không nhiều thì ít từ thiện.

Trong 14 chính tinh, Tử vi quả là thần tượng có đủ uy nghi phước đức, nhưng không qua khỏi được cảnh Tử Phá Tham không tự lực hàn gắn nổi bước đưòng phiêu bạt. Thiên Phủ có tài an bang tế thế vẫn phải khoanh tay trong cảnh phong ba sóng dậy, chỉ còn trông cậy vào một Thiên Tướng ra tay vãn hồi bảo trợ. Phải chăng Tử Phủ chỉ là ngôi vị sinh ra để thụ hưởng. Vai trò của Thiên Tường rất đáng trọng, không một giây phút nào Thiên Tướng không ra ngăn chống Phá Quân, từ những cách Vũ Tướng ở Dần Thân đến Liêm Tướng Tí Ngọ, rồi cùng Đế chiến đấu nơi Thìn Tuất, cho đến lúc đơn thương độc mã ở Tỵ Hợi Mão Dậu Sửu Mùi một thân gánh vác không bao giờ chểnh mảng dằn mặt Phá Quân. Bộ Sát Phá Tham nên nhìn nhận Phá Quân có đảm lực tinh thần bất khuất. Hiên ngang một đấng trượng phu ở Tí Ngọ, một cõi sơn hà sánh vai hoà giải với Tử Phủ ở Dần Thân, không hổ với chiến bào khoác vào thân chữ " Quân" thiếu tư cách. Cuộc sống tinh thần tư tưởng siêu việt Thiên Lương là thượng phẩm, trí óc là cả khối Nhật Nguyệt. Vậy trong 14 chính tinh đâu là ngọc châu quí giá? Sự lựa chọn bảo không ngoài Thiên Tướng và Thiên Lương.

Hai lá số cùng tuổi Canh Tuất, sinh ngày 18 tháng 3 giờ Tí, mệnh thân ở Thìn khoác áo Tử Phủ Vũ khúc thủ mệnh, hãnh diện với khuê bài tam hoá liên châu. Cuộc đời đưa đến tột bậc cao sang nhưng vạn niên sau khi nhắm mắt không hàn gắn nổi vết thương lòng. Quyền Lộc ở đây có phải là bùa mê thuốc lú? Còn tuổi Canh Tuất sanh ngày 1 tháng 11 giờ Tí mệnh ở Tí, chấp nhận kiếp nhân sinh ở thế Tang môn với Thiên Lương chủ não. Thân sống trôi nổi khắp dó đây cho đến ngày về cõi là lúc lưu danh vạn thế sự, tam hoá liên châu tô điểm Nô cung, môn đệ thành danh siêu phẩm, triết nhân á thánh.

Với 2 bản số này, Tử Phủ với Thiên Lương cùng ở tư thế trái ý bất mãn, khác nhau chỉ một ly đi muôn vạn dặm. Tuế Phá lầm lỗi vụng suy bị bả vinh hoa quyến rũ. Tang Môn nặng lo nhớ tinh thần sáng suốt không nản trước khó khăn.

Vậy đâu là ngọc châu quí giá?

Bộ Nhật Nguyệt đòi hỏi sự thận trọng

Bộ Tử Phủ trong 14 chính tinh được xem trọng như là tốt đẹp quí giá nhất. Công bằng mà nói đó là bộ mặt tượng hình cho cao sang hiền hậu, nhưng bất lực phải nhờ đến phụ tá tài danh mới nên việc. Phân tách 6 cung cho cả 12 cung (2 cung 2 cách giống nhau) : Tử Vi Tí Ngọ và Dần Thân tối cần Tả Hữu. Ở Tỵ Hợi, luôn luôn có Thất Sát đứng kèm, ở Thìn Tuất không thể xa rời Thiên Tướng. Còn Mão Dậu Sửu Mùi là cảnh triều đình Lê Chiêu Thống hay Trần Nghệ Tôn không thể thống gì là chính dinh oai nghiêm. Ngoài ra Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham và Đồng Lương Cơ Cự chỉ là văn ban võ bá 2 hàng, một khi đắc cách phải không nên sự nghiệp.

Riêng Nhật Nguyệt là bộ âm dương của số, biểu tượng cho Thiên Địa cần sự phân tích thận trọng từng vị trí phải làm sao cho hợp lý, không thể bao gồm căn cứ từ Dần đến Thâm là thuộc địa của Thái Dương, từ Thân đến Dần là nơi sang tỏ của Thái âm.

Thái Dương ở Ngọ, Thái âm Thân. Thái dương ở đây kể như là tuyệt đối với người dương Hoả mệnh nếu được thêm là tuổi Dần Ngọ Tuất. Thái âm kể như là thất bại cho cả 2 hạng âm và dương, bị Thiên Cơ lợi dụng.Thái Dương ở Tỵ thất cách đối với người Dương, chỉ là nhất thời tam bợ. Thái âm ở Dậu đắc cách hoàn hảo cho tuổi âm mệnh thuỷ.Thái Dương ở Thìn phò trợ đắc lực cho người dương Thổ. Thái âm ở Tuất không tương xứng gì cho cả 2 tuổi âm và dương.Thái Dương ở Mão nhờ Thiên Lương một phần lớn tương sinh vẫn không lợi bao nhiêu cho người dương so với người âm trường hợp Mệnh ở Mùi vô chính diệu được Thái âm ở Hợi quá sáng tỏ đồng chiếu.Thái Dương ở Dần người dương được hưởng tương lai hậu vận bởi Cự Môn bao phủ lúc ló rạng. Thái âm ở Tí, kể là hay thêm Thiên Đồng phụ lực, nhưng vẫn là nghịch cảnh của người tuổi âm mà người tuổi dương cũng không mấy thuận lý.Sửu là mộ địa tận trung, cũng như cung Mùi, cả hai là căn cứ thuộc âm. Thái Dương đứng ở đây bị xút kém ở 2 nơi là vì luật âm dương, mà Thái âm cũng không tốt đẹp vì luật ngũ hành. Hai cung Sửu Mùi là chỗ tập trung để chuyên chế từ Thái âm sang Thiếu Dương (Sửu) và từ Thái Dương sang Thiếu âm (Mùi) thành tranh tối tranh sang. Vậy cần phải có phép thần thông tách rời Thái Dương lui sang Ngọ, Thái âm chuyển sang Thân cũng như Thái âm về Tí và Thái Dương bước sang Dần.Thái Dương ở Tí là nghịch cảnh sa lầy ghê sợ cho người tuổi dương. Thái âm không mấy tốt đẹp hơn Thái Dương chỉ là hợp tình. Thái âm ở Mão với người tuổi Âm, nghịch cảnh của Thái Dương ở Ngọ nhưng tương lai không phải là không thuận bước cho người dương, Thái âm ở Dần cùng trường hợp ở Thân, người dương mộc rất thuận lợi.Thái Dương ở Hợi là sa lầy ghê sợ cho người tuổi dương, Thái âm không mấy tốt đẹp hơn Thái Dương chỉ là hợp tình Thái âm ở Mão với người tuổi âm.Thái dương lâm Tuất là cảnh u tối, người tuổi dương hợp cách và hy vọng có tương lai. Thái âm ở Thìn là đáng ngại.Thái Dương ở Dậu là sôi hỏng bỏng cũng không, nhờ Thiên Lương phò trợ lại bị cung khắc mất. Thái âm ở Tỵ có bề hợp cảnh.Cự Nhật ở Thân là bước đuờng đời của tuổi dương gặp nhiều trở lực, Đồng âm ở Ngọ là vị trí cân phân, vẫn là hình bóng của trường hợp Đồng âm ở Tí cho cả 2 tuổi.Nhật Nguyệt ở 12 vị trí sự thiết yếu bao giờ Nhật cũng phải ở dương cung mà Nguyệt phải ở âm địa. Nhật đắc cách là tuổi Hoả, Nguyệt phải là tuổi Thuỷ. Sáng sủa hay lạc hãm chỉ là phụ, trường hợp mập mờ "lại cái " không bao giờ hợp cách, cho nên Nhật Nguyệt tối cần bộ tam minh là Đào Hồng Hỉ. Nhật Nguyệt rất được kể là quang minh lộng lẫy. Ngoài Đào Hồng Hỷ, Nhật Nguỵệt rất nên gặp 1 trong 3 bộ Xương Khúc Long Phượng Quang Quí và Hoá Khoa có công dụng như tam minh, nhất là Long Phượng nâng cao phẩm giá Nhật Nguyệt lên hang danh dự anh minh chính đính.

Nhật Nguyệt được những bộ trên tô điểm sáng rực rỡ bao nhiêu, trái lại rất cần xa lánh tứ hung Kình Đà Hình Kỵ. Chúng bao vây che lấp Nhật Nguyệt mất cả ánh sáng, mổ xẻ cắt cứa hành hạ theo nghề nghiệp vốn sẵn là thiện nghệ .

Bộ Nhật Nguyệt có 2 trường hợp cần phân tách chu đáo ở 2 vị trí Sửu Mùi nơi tập trung để chuyển hướng rất cần Tuần Triệt, Khoa Tài đóng vai trò trọng tài phân phối âm dương đường ai nấy đi. Đó là 4 cái chìa khoá để điều chỉnh bộ âm dương rất kiến hiệu.

Vậy đặc biệt của Nhật Nguyệt khác với chính tinh do lý chính bất như chiếu (chiếu đẹp hơn chính). Ngọn đèn bật sáng lên xung quanh thấy rõ hơn là chân đèn, như vô chính diệu ở Mùi được Nhật Mão Nguyệt ở Hợi chiếu lên (Nhật Nguyệt chiếu hư không). Nếu thêm Hoá Kỵ thì Hoá kỵ phải ở Mùi. Đây là cảnh trí khánh vân (mây ngũ sắc biểu hiện thái bình thịnh trị) tuyệt hoa.

Ba nhà đại văn hào:

a/ - Nguyễn Khuyến tuổi Ất Mùi sanh ngày 6 tháng 4 giờ Mão

b/ - Huỳnh Thúc Kháng tuổi Bính Tí sanh ngày 3 tháng 10 giờ Thìn

c/ - Nguyễn Đình Chiểu tuổi Nhâm Ngọ sanh ngày 13 tháng 5 giờ Dậu

Cả 3 cụ có số chịu ảnh hưởng bộ Nhật Nguyệt rất nhiều, cùng vị trí nghịch lý âm dương nên cuộc đời chan chứa một mối ưu tư bất mãn hầu tương tợ. Ba cụ nổi danh trên văn đàn do văn tinh Đồng Lương Khôi Việt Xương Khúc. Riêng 2 cụ Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu vướng Hình Riêu Hà Sát nên mục tật tối tăm vĩnh viễn. Cụ Huỳnh Thúc Kháng được Hồng Loan khai thông chỉnh đốn: Nhật Nguyệt trở nên xuất sắc hơn người.

Đã mang danh tu mi đứng trong trời đất thà chấp nhận Thái Dương lâm Tuất Tí còn hơn ở cảnh nhất thời Mão Tỵ chỉ là phù vân không xứng phận nam tử, những ai phấn son tô điểm sơn hà dẫu có yên vui với Thái âm ở Tuất Tí nên đành ưng chịu ở Mão Tỵ là nơi hợp cách đào tơ liễu yếu dầu gặp nhiều nỗi trái ngang.

Nơi đây cho thấy định mệnh là bất khả kháng, khiến cái Thân phải có một phần trách nhiệm xử thế cuộc đời.

Khu đất phì nhiêu trong 12 cung Địa Bàn

Địa bàn vô chính diệu là bức phóng ảnh thu hẹp bầu trời bao la rộng lớn phân tách minh bạch địa lý đông tây nam bắc và tính toán rõ ràng thiên văn thời tiết xuân hạ thu đông luân chuyển, phù hợp với cuộc diện nhân sinh trên dưới 100 dân số đủ màu da đen đỏ trắng vàng. Mỗi khu đất có biên giới hoạch định phân minh như một lục địa bằng 12 tên địa chi : Tí, Sửu, Dần....Tuất, Hợi.

Có những sắc dân thuỷ thổ ở quãng này ăn nên làm ra, rồi thất cơ lơ vận một khi dời đi nơi khác.

14 chính tinh là 14 lãnh tụ du mục sống trên 12 lục địa tranh giành ảnh hưởng kết hợp thành 2 đoàn (lưỡng nghi: Sát Phá Liêm Tham Tử Phủ Vũ Tướng và Cự Nhật Cơ Nguyệt Đồng Lương). Hai đoàn này cũng có những bất đồng ý kiến lại rời tách làm 4 phái (tứ tượng) kiếm nơi dựng nghiệp, mọi sự khắc chế diễn biến đều từ tây sang đông (kim khắc mộc) từ bắc đến nam (thuỷ khắc hoả).

Tử Phủ Vũ Tướng có Tử vi lãnh đạo hợp thuỷ thổ ở chính nam (Ngọ Hoả) với đám quần thần là sứ trung tín thì phân nhau trấn nhậm các biên khu như liêm Phủ ở Tuất, Vũ Tướng Quân ở Dần thành một thế chân vạc uy nghi trang trọng, tuy rằng vẫn bị quấy rối ở phía bắc (Tí Thuỷ khắc Hoả). Nhưng kẻ đối nghịch Tham Lang quá tầm thường không đáng ngại. Nếu đóng đô ở Tí cũng đủ sức khắc phục thành công (Thổ khắc Thuỷ) nhưng phong thổ cảnh trí nơi đây âm u thuộc Thái âm (từ Thân đến Sửu) không được sáng ngời bằng ở Ngọ là nơi ảnh hưởng thuộc phạm vi Thái Dương (từ Dần đến Mùi), Rời khỏi Ngọ môn Tử vi luôn luôn có người kề cận, một là được hộ giá như Tử Phủ ở Dần Thân, Tử Tướng ở Thìn Tuất, hai là bị uy hiếp như Tử Sát ở Tỵ Hợi, Tử Tham ở Mão Dậu, Tử Phá ở Sửu Mùi. 4 trường hợp hộ giá chỉ có được hãnh diện là Tử Phủ ở Thân, Phá Quân đích thân đến Ngọ Môn điều đình và trường hợp ở Thìn, Tử Tướng chính đoạt kẻ nghịch thần (Phá Quân ở Tuất). Xếp theo thứ tự đất phì nhiêu do bộ Tử phủ Vũ Tướng chiếm ngụ thì 3 vị trí Ngọ Thân Thìn là quí giá nhất.

Sát Phá Liêm Tham là bộ chủ về uy vũ, trong nội bộ không nhất trí vì Liêm Trinh và Thất sát luôn hàng hai với Tử Phủ. Vậy vai chủ động là Phá Quân nên Phá quân nhiều khi đơn thương độc mã xông pha không hề để ý những gì trở lực trước vó ngựa. Phá quân hiên ngang ở Tí là cảnh Tử Vi Thiên Phủ đích thân đến cửa đông (Dần) điều đình trong khi đó Liêm Tướng nơi nội địa (ngọ) sẵn sàng phòng sự bất trắc. Phá Quân ở Thìn là Phá Quân nghênh chiến Tử Tướng, nếu lại là người Thân Tí Thìn thì Tử Tướng hiển nhiên hành động bá đạo. Khu đất thuận lợi cho Sát Phá Tham là 2 trường hợp ở Thìn Thất sát ở Tí, Tham Lang ở Thân.

Bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương chủ về tư tưởng tinh thần. Riêng Thái Âm và Thái Dương là biểu tượng cặp mắt, khối óc là đôi đèn rọi chiếu sáng của Tử Vi (đã có bài nói riêng). Thiên cơ trội phần khéo léo ngoại giao. Thiên đồng kém phần quyết định nên hay canh cải nông nổi. Chỉ còn một Thiên Lương đầy đủ khoan hoà trước sự diễn biến hay dở. Thiên Lương Tí Ngọ là vị trí nêu cao danh vọng, sự khác biệt ở Ngọ khiến Thiên Lương mất công mệt sức rất nhiều (mộc sinh hoả) ngọn đèn chiếu sáng Thái Dương ở Tí không thiếu tư cách phải chờ thời gian mới đầy đủ chói sáng. Một vị trí ở Sửu Thiên Lương thành cao nhân đắc ý với trời cao biển rộng. Đứng cặp với Thiên cơ ở Thìn Tuất Thái Dương ở Mão Dậu, Thiên Đồng ở Dần Thân là độ lượng rộng rãi của một thân hữu giúp bạn đắc ý trong khuôn khổ nào mà thôi. Vậy Tí phải là khu đất phì nhiêu rất hạp cho Thiên Lương.

Cự môn thường mang tiếng là sao ám thể khó tính. Những uẩn khúc của Cự môn đã phơi bày ở 2 căn cứ Tí Ngọ được danh hiệu là Thạch Trung ẩn ngọc. Cự Môn ở Ngọ thường tương tự trường hợp Thiên lương ở Ngọ vì ngọn đèn Thái dương phải cần thời gian mới rạng tỏ (Thiên lương ở Ngọ thì Thái Dương ở Tí, Cự Môn ở Ngọ thì Thái Dương ở Tuất) nhưng không kém phần tư cách (Thái Dương ở cung Dương). Cự Môn ở Tí, Thái Dương phải ở cung Thìn mới tỏ rõ nỗi lòng của Cự Môn chứa chấp với những cứu cánh thích hợp vững chắc nhật là Khoa Lộc, thứ đến Thiên Tài Tuần Triệt nếu có sát tinh cứng cổ.

Mười hai địa bàn khu đất phì nhiêu cho các sắc dân phải chăng là khoảng Tí Ngọ Dần Thân (Ngọ = Thái Dương, Tí = Thái âm. Dần = Thiếu dương, Thân = Thiếu âm). Tí Ngọ chứa đựng những cao cách. Tử vi Tí Ngọ, Thiên Lương Tí Ngọ, Phá quân Tí Ngọ, Cự Môn Tí Ngọ.

Dần Thân tô điểm những Tử Phủ Dần Thân, Vũ Tướng Dần Thân, Đồng Lương Dần Thân, Cự Nhật Dần Thân. Hai cung Thìn Tuất là 2 độ đường chuyển dần từ Tí Ngọ Dần Thân đến Sửu Mùi Mão Dậu Tỵ Hợi với những cách trình bày Tử Tướng Liêm Phủ Cơ Lương ở mức tương đối đẹp mắt.

Ngoài 6 cung Tí Ngọ Dần ThânThìn Tuất, 6 cung còn lại chỉ là những diễn trường phức tạp sân khấu Sửu Mùi hết hồi Tham Vũ đến cảnh Tử Phá Đồng Cự, Tỵ Hợi diễn xong Tử Sát nối tiếp Liêm Tham Vũ Phá. Thái Dương Thiên Lương hạ màn ở Mão Dậu thì Tử Tham Liêm Phá nối đuôi.

Tóm lại 6 lục địa dương cung là 6 khu đất phì nhiêu còn 6 âm cung là nơi thường diễn tả những cảnh tang thương bất ổn. Đây chỉ là một khía cạnh đường lối dịch lý là luôn luôn có 2 mặt cho mọi sự việc: có dương phải có âm, có tốt phải có xấu tương phản.

Phúc minh sát thận trọng phúc đức Mệnh Thân

Người học số thường bị vấp ngã trước những câu:

a/ - Phước đức tốt thắng số mệnh.

b/ - Mệnh tốt không bằng thân tốt, thân tốt không bằng hạn tốt.

c/ - vân vân...

Vậy phước đức là gì? Có phải cái cung số đứng trên cung Phụ mẫu chứa đựng tất cả sự hên xui của đương số?

Số của một người thì mệnh là căn bản với 2 cung Quan là công việc hành nghề và Tài là tiền của thu hoạch đứng chung một thế tam hợp, tuy 3 mà là 1. Phước đức là cả một việc trời mênh mông. Phước đức lớn đẹp hẳn phải khiến Mệnh Thân chiếm được khu đất thuận lợi (Thái Tuế, Quan Phù , Bạch Hổ) mà chính Thân điều khiển được Thiên Thọ đúng mức như khuôn Thiên đã giao phó lúc ra đời, thì định mệnh mới có đủ Thiên Tài để hoạch định chính xác hồ sơ dự thảo của kiếp nhân sinh.

Biết rằng một người khi nhập thế cuộc đã nhập ngay vào Thiên can (vòng Lộc tồn ấn định sự thọ hưởng) Địa chi (vòng Thái Tuế sắp xếp tư cách). Còn một phần lớn do mình tùy theo cục diện sinh sống mà hành động (vòng Tràng sinh theo cục bộ dịch thế khuôn xử).

Phúc đức in trên lá số chỉ là hình ảnh chung của một dòng họ sinh hoạt, thuận lợi hay ngang trái cho mệnh số chỉ có một phần nào trong đó, còn do nơi Thân tự mua chuộc lấy, cho nên phúc đức cần vô chính diệu được Nhật Nguyệt đồng chiếu thì không gì sánh bằng, ví như tờ giấy trắng tinh phơi bầy giữa ánh sáng trời đất, bồi đắp thêm hay tự bôi lem luốc là nơi Thân không biết điều hành chữ Thọ (nhân hậu). Cao tổ nhà Hán tuổi Giáp Ngọ sanh ngày 13 tháng 11 giờ Ngọ , mệnh an tại Ngọ có Tử Vi Tả Hữu Song Lộc Hoá Khoa xúng đáng ngôi vị hoàng đế lâu dài.Vậy mà Phúc đức có Phá Quân Hoá Quyền bị Triệt. Thử hòi nếu Phúc đức bao gồm chi phối Mệnh Thân thì làm sao tồn tại nghiệp đế hàng mấy trăm năm. Phải chăng Tài Thọ ở Di ông đã rất rộng lượng nhân ái đối với mọi tầng lớp thế nhân dẫu là kẻ địch đã uy hiếp mình (Tí khắc Ngọ) Tài Thọ hợp chung là những bộ đôi này đem đến.

Thưa rằng không phải dễ dàng giản dị đến như thế. Mệnh đứng vào một thế liên minh tam hợp nào, khi vận hành đến thế liên minh đó mới chính là hợp cách Thiên thời (Thái Tuế). Số đã dành riêng cho cơ hội Thái Tuế là đẹp nhất (Thái = tối cao đẹp) thì không còn gì vượt hơn lên trên được nữa, nên phải ngăn chặn bằng thế Thiên không (tay không), nếu trong đó chứa đựng những bộ đôi như trên đã nói, thì đó chỉ là bùa mê thuốc lú mang luỵ vào Thân. Người học số nhiều khi ngã lòng vì những thuyết di hạn vận, di Lộc tồn, di Thiên mã, đủ các thứ di...để che lấp, bênh vực các khuyết điểm mà người đời chưa được thông suốt thấu đáo mạch lý.

Phúc đức nay đã hiện nguyên hình là Thiên Thọ do Thân sản xuất chi phối cả Tứ đức, điều mà cố nhân liệt cho là bất hạnh lớn nhất cho người vô tự, ví người đó như là người bỏ cuộc trong một giải tranh đua, là người mất hết hy vọng của cuộc sống lâu dài cho đến ngày tàn tạ trở về với đất, nên thường phải kiếm dưỡng tử để mua lấy tin tưởng dẫu có thua cuộc trường chinh , nhưng cũng không hổ thẹn nửa đường bó gối, cũng đi đến nơi về tới đích cũng như ai Lực sỹ trên võ đài thế cuộc.

Tử tức đứng ở thế yếu điểm không bao giờ đồng hành âm dương với Mệnh Thân, luôn luôn tam hợp với Nô. Vì vậy phải tính Nô với Tử như răng với môi. Hế môi hở là răng lạnh. Nô quan hệ với Tử vì Thiên thương nằm trực, phải có điều bất hạnh cho Tử về phương diện nào nhiều hay ít (Nô là ngoại nhân). Như một khi Mệnh là Cơ Nguyệt Đồng Lương ở dương cung , thì Nô phải là Sát Phá Tham ở âm cung. Sự đề phòng oan trái vô cùng thận trọng, nếu lại là thế tam hợp Tỵ Dậu Sửu vì Phá Quân tối hãm đi đôi với Phá Toái (Toái quân lưỡng Phá). Trường hợp này phải kiếm cầu cứu ngay Hoá Khoa và Quang Quí. Nếu được hai sao này chiếu cố có thể yên tâm tính cuộc lâu dài.

Nỗi ưu tư của thế nhân không phải đến đây là hết, còn ách với Thiên sứ có đầy đủ quyền uy thi hành nghiêm khắc tuỳ theo tập nhật ký nhân nghĩa của từng người. Mừng cho ai khi thấy Thiên Quan ngồi chung với Thiên sứ, hai vị thông cảm nhau điều hoà mọi chi tiết thì thế nhân âu cũng dễ dàng mọi sự khó khăn trên bước đường rong ruổi.

Thuyết Mệnh đẹp không bằng Thân đẹp, ngụ ý Mệnh điều khiển nửa đời trước còn Thân điều khiển nửa đời sau, cho rằng nửa đời trước dẫu có huy hoàng cách mấy, nhưng khi về già được mát mặt vẫn là hơn, cũng không còn vững lý, vì khi tính đại vận luôn luôn bắt đầu từ Mệnh tính đi liên liếp đến ngày mãn cuộc. Không phải chỉ có 3 đại vận đầu, còn ngoài 30 tuổi lấy Thân xuất phát.

Thuyết không hợp lý thì kết cục chắc không tài nào thắng vững chắc.

Người đời khi nhập thế cuộc phải lên tiếng khóc ban đầu mà thánh Phục Hy đã tính thấy đầy đủ ý nghĩa bằng bảng đồng hạng:

1 tuổi ở Mệnh 7 tuổi ở Nô x

2 tuổi ở Tật 8 tuổi ở Di

3 tuổi ở Ách x 9 tuổi ở Tử x

4 tuổi ở Phối 10 tuổi ở Bào

5 tuổi ở Phúc 11 tuổi ở Phu

6 tuổi ở Quan 12 tuổi ở Điền

Mười hai cung này thấy ngay 4 số: 3,5,7,9 trình bày ngay trước mắt: Ách = 3, Nô = 7, Phúc = 5, Tử = 9 là những con số có năng lực hy vọng hay xui xẻo do hang Can làm gốc của số mạng định đoạt, gán cho Phúc Đức điều động. Sự thật chính là Thân tạo nên rồi Mệnh sẽ kiểm điểm thi hành đúng mức.

Tinh thần và thể xác khác biệt tùy theo mệnh thân đóng ở Tứ Sinh, Tứ Chính hay Tứ Mộ

Tử vi là một khoa nằm trong dịch lý. Căn bản của dịch lý là âm dương. Trong âm dương phân tách thấy ngũ hành phối hợp. Từ cái bất dịch là hình xác một vật gì, trải qua thời gian là giao dịch sinh khắc chế hoá tạo mối hưng thịnh đến lẽ suy vong thay đổi là biến dịch.

Trong địa bàn tử vi có đầy đủ ngũ hành, thấy phần trội là Thổ có nghĩa là mọi sự diễn biến đều ở trong đất mà ra, mà sự khắc chế chỉ ở 4 thế Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả mới đáng kể Mỗi hành đều có thể liên minh để củng cố thế tranh đua như Thân Tí Thìn (Thuỷ) Dần Ngọ Tuất (Hoả) , Tỵ Dậu Sửu (Kim) và Hợi Mão Mùi (Mộc) được ghi danh là tam hợp cục.

Tứ chính là cái nguyên bản ngã của nó nên Tí Ngọ Mão Dậu được liệt danh là chính xác của hành đắc dụng làm 4 phương chính:

Tí = Bắc phương thuộc thuỷ

Ngọ = Nam phương thuộc Hoả

Mão = Đông Phương thuộc Mộc

Dậu = Tây phương thuộc Kim

Trong thế liên minh cái thế phát nguồn được đặt ở trên để nuôi dưỡng thế chính đứng ở giữa được gọi là tứ sinh: Dần Thân Tỵ Hợi. Dần là Mộc nuôi Hoả là Ngọ. Thân là Kim bù trừ cho Thuỷ là Tí. Tỵ là Hoả ở trong có cái Mậu Thổ sản sản ra Kim là Dậu, Hợi là Thuỷ dưỡng Mộc là Mão. Mọi sự đều dùng sân khấu thế gian là Thổ, đến khi tàn tạ cũng về với đất là Thìn Tuất Sửu Mùi là giai đoạn chót ghi danh là Mộ địa.

Mỗi thế liên minh (tam hợp cục) đều có cung sinh cung chính và cung mộ. Mỗi cung đều có ảnh hưởng trực tiếp cho cái bản xác Mệnh thân ở đó tuỳ tinh thần cho đến thể xác tuỳ theo trách nhiệm của cung làm phận sự.

Dần Thân Tỵ Hợi là sứ sinh, công việc của chúng vốn là bồi bổ cho Tí Ngọ Mão Dậu nên có lòng tự hào quá cao (ưa đề cao khoe khoang) nuôi dưỡng người được sức khoẻ dồi dào (tràng sinh) nhưng không phải là người nặng cân.

Tí Ngọ Mão Dậu là phần danh dự lãnh vai trò chính xác của ngũ hành phải là người cương nghị, sức khoẻ đầy đủ (Đế vượng).

Vị trí tứ Mộ là nơi gần đất xa trời, người này thường là thiếu thốn sức khoẻ (năm ngày ba tật). Biết phận mình nên không ưa muốn phiền nhiễu ai, là tư cách chính đáng của người tứ mộ (mềm dẻo).

Dầu là tứ sinh, tứ chính hay tứ mộ vẫn một phần quan trọng phối hợp lẽ âm dương mỗi hành đều có một cung dương và một cung âm), tức là dương cung thì cứng rắn nhiều hơn, trái lại âm cung thì phần hoà hợp có lấn trội, vì dương là tư cách của người sinh nhập nên chu đáo cẩn thận đúng mức, còn âm tư là tư cách của người sinh xuất nên rộng rãi bao dung.

Có thể xếp thành nguyêt tắc căn bản đại cương như:

a/- Mệnh Thân ở tứ Sinh : Mạnh khoẻ, ít khi nặng cân, tính tình hay đề cao ưa phô trương.

b/- Mệnh Thân ở tứ Chính: Đầy đủ sức khoẻ, tinh thần kiên quyết.

c/- Mệnh Thân ở Tứ Mộ: hay đau yếu nhưng không muốn phiền luỵ ai, tính tình mềm dẻo.

Như thế chẳng hoá ra thiệt thòi cho 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi một khi được vinh dự đóng ở Thái Tuế (tứ mộ).

Thưa rằng: Thái Tuế không phải là khi nào ngồi vào vị trí chính xác Thái tuế. Bốn tuổi này đều ở vị trí Quan Phù hay Bạch hổ phải kể là dị nhân kỳ tài, đem hết khả năng tận tình suy tính để tạo nên sự nghiệp huy hoàng phải kể là đáng trọng (Số Trương Lương Hàn Tín). Bốn tuổi này đã được quy định là nơi Mộ địa là nơi trình diễn những vở tuống đời sáng giá với chiếc lọng che uy nghi cao cả (Hoa cái do hàng chi xắp dặt ngôi vị thực thể) để đền bù sự suy kém sức khoẻ.

Đứng trước cái tài tình thông đạt của dịch lý, là hậu sinh không thể không nghiêng đầu kính cẩn vị thánh nhân Phục Hy thời Thái cổ đã khám phá rành rẽ được sự bí hiểm huyền bí tạo vật, một ý nguyện mong người đời thấu đáo đạo lý xử thế.

Những thành quả đặc biệt của Tràng sinh, Đế vượng và Hoa Cái (một hình tượng của Mộ theo luật âm dương).

Tràng sinh chỉ đứng ở 4 cung Dần Thân Tỵ Hợi tức là thế sinh của tam hợp. Vậy chỉ những tuổi tứ sinh mới đắc cách hợp thức luật âm dương và Thái tuế. Về phương diện ngũ hành người Thuỷ mệnh được chủ cách bền vững lâu dài.

Đế vượng chỉ ở 4 chính cung Tí Ngọ Mão Dậu thì cũng chỉ 4 tuổi này mới thụ hưởng những gì là tư thế thịnh đạt vượt mức với Kim mệnh.

Hoa cái, một lợi điểm danh dự cho những người tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi tuỳ theo ngũ hành chế hoá của Mệnh với Hoa cái (Kim) tới mức nào.

Trường hợp nào là người tứ đức

Đức là phần tôn vinh thuộc về tinh thần, có tính cách nhân ái rộng lòng vị tha. Người được khen là có đức là người dẫn dắt cuộc sống theo đạo lý lập công hơn là kể ơn. Cổ nhân đã sắp xếp bên dương (nam) cũng như bên âm (nữ) có 4 đức. Nam thì hiếu để trung tín tức là đạo hiếu với cha mẹ trước nhất, rồi đến mến yêu anh em mới thành người trung của nước, tín thực với mọi người. Nữ thì công dung ngôn hạnh nghĩa là thông hiểu mọi việc, đi đứng khoan thai, nói năng khuôn phép, hạnh kiểm nết na, lại còn buộc theo môt khuôn sống là tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Xét ra có phần nghiêm khắc cho phái nữ.

Tứ đức trong tử vi là đức chung bao gồm từ cả vũ trụ xuống đến một giòng họ thế nhân. Hai thế lưỡng nghi là Thiên đức (dương) Nguyệt đức (âm) xuống đến tứ tượng Long đức (Thiếu âm) Phúc Đức (Thiếu Dương) là tất cả đạo lý cao dầy cần phải nhận định sao cho hợp hoàn cảnh.

Tứ đức đứng chụm vào vòng Thái Tuế là vòng do địa chi chi phối tạo nên tư thế cá nhân trong xã hội nhân quần. Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ là trách vụ nặng nề phải gánh vác được đền công xứng đáng tuyệt đối. Cái gì đã được nêu tên là "Thái"' (tối đa thì còn có gì vượt lên trên được). Theo luật ngũ hành giao dịch có sinh phải có khắc, có xuất tất phải có nhập. Thái đã là tối đa rồi mà lại được nhập thêm, đương nhiên là điều bất hạnh. Lý công bằng là khi thiếu cần phải bổ khuyết, khi đã đầy đủ rồi mà bồi đắp thêm sẽ đi đến thế lệch, lệch đến thế tận cùng là tàn tạ. Do đó mới có Thiên Không đứng bên Thái Tuế.

Phải chăng Thiên không là giấc mộng hoàng lương đối với 3 hạng người trong tử vi có những điều kiện khác biệt.

Hạng người tứ chính (Tí Ngọ Mão Dậu ) là người khẳng khái nhiều khi quá cứng rắn, nên kết quả thường đem lại có phần ác liệt (Thiên Không tứ mộ). Người tứ sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) vì lòng tự hào có phần cao nên Thiên không hăm hạng này vào vòng di luỵ mỗi khi tham vọng quá mức (Đào Hoa Thiên không). Còn người Tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) biết thân hiểu phận chân yếu tay mềm, dễ khiến nhạy cảm yếm thế (Hồng Loan, Thiên Không).

Ba hạng này một khi đã bị Thiên không thâm nhập huyết quản thì đồng đều ở trong tam hợp có Thiên đức, Nguyệt đức và Phúc đức, còn Long đức đứng ở thế xung, có nghĩa là phân chia cho Thiếu dương tam đức, còn để dành cho Thiếu âm.

Sao vậy?

Theo luật âm dương, hai phái khác biệt hẳn nhau như nước với lửa, kim với mộc. Thiếu dương đã vượt lên trên Thái Tuế tức là tinh khôn hơn Thiếu âm đứng ở tam hợp sau Thái Tuế có phần thật thà thua thiệt, vì Thiếu dương luôn luôn có Hồng Đào xốc nách (Thiếu âm nhiều trường hợp không có). Giữa Thiếu Dương và Thiếu âm đã thấy rõ ràng cán cân bù trừ chính xác. Thiếu dương được Hồng Đào vì vướng Thiên không nên được tam tứ đức đứng ra khuyên nhủ. Thiếu âm bị bạc đãi nên chỉ một Long đức đứng lên khuyên nhủ.

Trước cảnh hùng bí bao la của bầu trời (Thiên đức ), cái dịu mát trong sáng của trăng soi (nguyệt Đức), cái độ lượng nhân hậu của bậc nguyên huấn (Long đức) và sự ham muốn tu tạo bác ái của một giòng giống (Phúc đức) hẳn những ai trong kiếp nhân sinh chẳng may ở vào vị trí Thiên không không thể không suy nghĩ kỹ càng với bộ óc thông minh (Thiếu dương Hồng Loan) được định mệnh đã ban phát, dầu là hợp tình hợp cảnh giữa ngã rẽ độ đường Tứ Đức với Thiên không.

Điển hình trên những lá số nên cần được vô chính diệu ở trong có những An Quang (Mộc), Hỷ thần (Hoả), Thiên thọ (Thổ), Tấu Thư ((Kim), Thanh Long (Thuỷ) tuỳ theo hợp hành với Mệnh là đắc cách. Nếu có chính tinh thì mệnh phải khắc sao cho phù hợp như vô chính diệu và Hoá Khoa điều chỉnh để dọn đường cho Tứ Dức dễ dàng sinh hoạt. Chẳng may vô chính diệu lại chứa chấp sát tinh như Thiên Hình (Kim) Lưu Hà (Thuỷ) Kiếp sát (Hoả)... mà mệnh lại đồng hành là tất cả những gì độc hại không bờ bến.

Khôi Việt Thiên Ất Quý Nhân

Trong các bộ trung tinh của Tử Vi, chỉ có 3 đôi có tính cách đặc biệt là Xương Khúc, Long Phượng, Tả Hữu, được người đời tiếp đón chủ về văn học sáng giá, riêng bộ Xương Khúc phối hiệp với Khôi Việt là khoa bảng quyền uy. Xương Khúc đứng cặp với Âm Dương, dầu là vị trí lạc hãm cũng được cải tạo quang minh là những bậc uyên bác học gia. Khôi Việt có tính cách nổi bật cao siêu. Đứng cặp với Xương Khúc thì nêu cao văn tài để rồi chiếm địa vị đàn anh trên khoa trường.

Khôi Việt đứng với Tả Hữu là khả năng lãnh tụ.

Khôi Việt đứng với Long Phượng là ngôi vị cao cả của danh nhân chính phái.

Xương Khúc Tả Hữu Long Phượng là 3 bộ trung tinh quí cách cho phẩm giá cá nhân không như tam hoá Khoa Quyền Lộc chỉ là những tấm huy chương phản ánh về quyền lộc.

Tiếc rằng Khôi Việt ít khi đứng cặp với 3 bộ Xương Khúc Long Phượng Tả Hữu nhất là Khôi. Vị trí đặc biệt của bộ này đứng trong địa bàn không cho phép tiếp tay, nên hãn hữu mà có thì cũng nghịch hẳn lý âm dương: Tuổi Giáp Mậu là dương đặt Khôi Việt ở Sửu Mùi mà có thì cũng bị Tuần Triệt bẻ gẫy.

Khôi Việt đứng theo thiên can sắp xếp, hoàn toàn gần như nghịch hẳn lý âm dương:

Tuổi Giáp Mậu là dương đặt Khôi Việt ở Sửu Mùi (âm cung)

Tuổi ất Kỷ là âm đặt Khôi Việt ở Tí Thân (dương cung)

Tuổi Bính (D) Đinh (Â) đặt Khôi Việt ở Hợi Dậu (âm cung)

Tuổi Nhâm (D) Quí (Â) đặt Khôi Việt ở Mão Tỵ (âm cung)

Tuổi Canh (D) Tân (Â) đặt Khôi Việt ở Ngọ Dần (dương cung)

Theo chỗ đứng như bảng ở trên Thiên Khôi luôn luôn ở chỗ bị chôn bời cung và Triệt làm cho thất thế. Là tư cách đoàn trưởng mà chính lại là người ở bậc thứ trung, làm nổi bật hẳn ý nghĩa của 4 chữ Thiên ất Quí Nhân.

Thiên Ất là gì?

Xưa nay thương nghe 2 chữ Độn Giáp hay Thái Ất thần số là một môn toán dịch lý thuyết đoán cát hung của mỗi sự việc. Vậy tại sao lại gọi là Độn Giáp hay Thái ất ?

Độn Giáp là đôn chữ Ất lên thay thế cho chữ Giáp là địa vị đoàn trưởng của 10 Thiên Can, để chữ Giáp luân lưu ẩn chỗ của 6 chữ Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quí ở 6 con Giáp Ti', Tuất, Thân, Ngọ, Thìn, Dần.

Thái ất cũng cùng một ý nghĩa là chữ Ất ngôi vị thứ nhì lên lãnh vai thủ trưởng của Giáp.

Thiên ất là ngôi vị thứ nhì kế cận ngôi cao quí thiêng liêng, là vị tối cao phụ tá ban phước lành (quí nhân) che chở cho những ai xét ra hợp lý mà tính đáng thương.

Những ai được Thiên Ất thủ mạng là những người đương nhiên không bao giờ là người Thái Tuế cũng như Tuế Phá. Người Thái Tuế là người sinh ra như để gánh vác một công việc gì cao cả tốt đẹp, phải gặp nhiều điều may mắn để tiếp đón nhận lãnh trách nhiệm, đứng trong nghịch lý âm dương của Thiên mã làm hậu thuẫn. Hai phái này luôn luôn đứng trong nghịch lý âm dương của Thiên Ất, tức là Khôi Việt đóng ở dương cung thì Thái Tuế, Tuế' Phá phải ở âm cung, trái lại Thiên Ất ở âm cung thì Thái Tuế, Tuế Phá đứng ở dương cung. Chỉ còn 2 phái Thiếu Dương là người có linh tính nhạy cảm hơn người và Thiếu Âm là người thành thật mà bị thua thiệt, là ở cùng Khôi còn Việt chỉ có 2 tuổi Đinh Tỵ, Quí Sửu đứng chung Thái Tuế. Đau đớn cho tuổi Canh Dần Ngọ Tuất và Quí Dậu hoàn toàn thất bại vì Triệt thủ tiêu mất Khôi hoặc Long Phượng.

Vậy tình cảm người được Thiên ất quí nhân thủ mạng là tình cảm hoàn toàn không đắc ý. Ở địa vị thứ nhân mà đương nhiên thủ vai trò đoàn trưởng lo toan mọi việc có tính cách phước thiện. Cái gì trái với đạo lý nghịch luân thường là khẳng định bất khuất.

Người Thái Tuế là người định mệnh nặn ra để lãnh những nhiệm vụ sáng giá.

Người Thiên Ất là người sinh ra phụ giúp cho đời bằng hành động tích cực nhân nghĩa.

Trong Tử vi có rất nhiều hào thủ đức độ và từ thiện đứng đầu là Thiên Quan, Thiên Phúc quí nhân, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long đức, Phúc đức, Giải Thần, là một đoàn linh mục thượng toạ đầy đủ nhân hậu. Nhưng không sức mạnh quyền uy như Thiên Ất là ngôi vị ở ngay chính toà trực tiếp với vị tối cao ra lệnh cứu nhân độ thế. Việc cứu giải tai hoạ mọi sự đắc lực thành công dễ dàng hơn.

Tóm lại: Khôi Việt là Thiên Ất quí nhân có tính cách lãnh tụ của vai trò mà thứ nhân quản nhiệm rất thành công trong việc cứu giải tai nạn cho dương nhân, được chuẩn nhận xứng đáng mà đương thời không mấy đắc ý.

Nữ văn thi hào Tương Phổ là điển hình của Thiên Ất quí nhân, tuổi Đinh Dậu ngày 22 tháng 11 giờ Mão. Nhờ tuổi Đinh mà mệnh đứng ngay vị trí Thái Tuế (Dậu cung) chung cùng Thiên Việt một cặp minh tinh hành Hoả đắc cách cho Hoả mệnh vô chính diệu. Thân phá cách (Tuế Phá) bổ khuyết cho mệnh đắc Khôi Xương Khúc là đặc tài văn chương xuất chúng, vẫn phải chịu hẩm hiu lẻ bóng goá chồng ngay từ tuổi 23.

Lời văn bà là cả giọt mưa ngâu buồn bã thánh thót gợi mối thương tâm do Bà (Thân) đủ tư cách khêu gợi.

Phải chăng người lỗi lạc của Thiên Ất quí nhân nếu được trường hợp nào đắc cách hơn ai thì không thể không có giông tố phũ phàng vùi dập, bởi do vị trí nghịch lý âm dương mà Khôi Việt bị xếp đặt trong khuôn khổ. Nói chung, người được Thiên Ất quí nhân chiếu cố là người đã có sự đồng ý của định mệnh làm cho nghiêng ngửa để rồi Khôi Việt ra tay tế độ mới rõ rệt chân lý.

Những đấng đức hạnh cao dầy không có gì ngăn cản nhiệm vụ

Thường thường ở những ngã tư ngõ rẽ các đô thị thấy có người đồng phục đứng giữ trật tự lưu thông quần chúng. Mỗi khi có sự gì khả nghi cần kiểm soát, họ ngăn chặn bộ hành dầu là ngựa xe lộng lẫy cũng phải một thời gian chờ đợi. Nhưng nếu gặp những vị áo dài đen lụng thụng hay nâu sòng đầu cạo trọc là họ nhường bước để đi thong thả. Những người đồng phục này có phận sự điều chỉnh lộ trình đang bế tắc được lưu thông hay đang lưu thông thành bế tắc, tóm lại công việc của họ làm để giải quyết những gì cần hoán cải. Họ đã đóng vai trò TUẦN TRIỆT của lý số. Tuần Triệt là một bộ phận trong máy huyền vi cần sửa chữa bộ phận nào khác đi một ít (Tuần) hay thay đổi hẳn một cách đặc biệt (Triệt) không như cũ những gì có liên hệ giữa hai cung mà Tuần Triệt đứng giữa ranh giới và ảnh hưởng phải theo luật âm dương trở nên nặng nhẹ.

Ảnh hưởng chiếu của Tuần Triệt thấy cả một luận lý khó khăn. Đã dặt đứng giữa 2 cung có nghĩa là chỉ có liên quan 2 cung. Không như Thiên Không, Thiên Tài nằm ở trong một cung ngoài công việc chi phối cung đó còn có liên lạc dính líu đến tam hợp, nhị hợp, xung phá là thế chung kết tập hợp nên mới có giá trị tới các cung xung chiếu.

Kiểm điểm đức hạnh của 14 chính tinh, bên dương có Tử Phủ cũng như bên Âm có Đồng Lương, là những bậc danh nhân khoan hòa đức độ sáng giá như Tử Vi là trên ngôi cao cả. Thiên Phủ là trung hậu bao dung giải quyết những khó khăn bằng phương tiện tiên quyết là ôn hòa. Thiên Đồng thì từ thiện nhưng không quả quyết tính tình hay thay đổi. Khác hẳn là Thiên Lương nhân đức phóng khoáng không chịu gò bó trong một khuôn khổ, tùy hoàn cảnh giao cảm. Bốn vị này chỉ là những phóng ảnh mẫu mực những nếp sống nhân sinh trong thế cuộc. Còn trung tinh là tư cách để tô điểm cho tượng hình thêm khởi sắc (Long Phượng Thai Tọa Quang Quí).

Nói đến những đấng cao dầy đức hạnh phải là những thành phần kiếp sống nặng đòn cân hy sinh về phần tinh thần bác ái, xót xa trước cảnh trầm luân cõi tục.

Trên thế giới có những bậc thay mặt cho đạo lý xông pha trần lụy kiếm cách nâng đỡ an ủi tinh thần người đời tỉnh mộng không ngần ngại sự khó khăn nguy hiểm. Có phải là những bậc chân chánh tu hành của một đạo giáo (Giám Mục Hòa Thượng).

Thành phần vô hình là những văn tử Thiên Quan Quí Nhân, Thiên Phúc Quí Nhân, Thiên Ất Quí Nhân, (tam tài) xuống đến Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức, Long Đức là những linh mục đại đức đứng một địa phương. Thiết tưởng những quí nhân này nơi đâu mà không có vết chân từ thiện từ bi của oai nghiêm nhà trời xuống đến ngục tối a – tỳ, làm gì có sự ngăn cản. Những việc rửa tội, những vụ cầu siêu là những hành động giây phút cảm động làm gì mà chẳng cho thi hành. Kết quả tốt xấu còn tùy ở dương nhân có tiến tới tuân theo cải thiện hay bỏ qua nước chảy đầu vịt.

Thiên Quan, Thiên Phúc đứng trong địa bàn như đã có sự đồng ý với Thiên Ất (Khôi Việt) chia nhau làm việc nghĩa, cũng có chỗ hoàn toàn nghịch lý âm dương để cứu vớt sự lỡ bước của người đời. Còn phần nửa đều phân công đứng cả 2 mặt.

Tuổi Giáp (D) Thiên Quan ở Mùi (A) Thiên Phúc ở Dậu (A) x

- Ất (A) -- Thìn (D) - - Thân (D) x

- Bính (D) -- Tỵ (A) - -Tí (D)

- Đinh (A) -- Dần (D) - -Hợi (A)

- Mậu (D) -- Mão (A) - -Mão (A) x

- Kỷ (A) -- Dậu (A) - -Dần (D)

- Canh (D) -- Hợi (A) - -Ngọ (D)

- Tân (A) -- Dậu (A) - -Tỵ (A) x

- Nhâm (D) -- Tuất (D) - - Ngọ (D) x

- Quý (A) -- Tuất (D) - -Tỵ (A)

Ngắm nhìn những vị trí của Quan Phúc thấy 5 tuổi được Quan Phúc lưu tâm e ngại đồng ý chung lưng ra cong cứu vớt Là Giáp Ất Mậu Tân Nhâm và có lẽ có cả Thien Ất thuận theo.

Tuổi Giáp (D) muốn thành cong mỹ mãn phải là bộ Sát Phá Tham khi đáo hạn Thiên Không khác gì người trèo cao phài ngã đau. Nếu là mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương gặp hạn Thiên Không là Sát Phá Tham lại còn nguy nam gấp bội cho nên cho nên Quan Phúc và cả Thiên Ất đổ dồn đóng ở cung âm đỡ đòn Kình Dương ở Mão.Tuổi Ất (A) Cơ Lương mới có Quyền Lộc mà cung Thìn đối với tuổi âm nam có Đà La tức là Thiên La, nên Quan Phúc và Thiên Ất chia nhau đứng tam hợp Thân Tý Thìn.Tuổi Mậu (D) e ngại nhất Kình Dương, 3 tuổi Dần, Ngọ, Tuất là hạng người Thái Tuế có Kình nhập mệnh ở Ngọ kể như uổng cong sinh thành nên Quan Phúc phải hợp sức đóng ở Mão để chặn Thiên Không và phá bớt Kình (nhập cuộc gặp gỡ nhau). Mặt khác, Thiên Ất cũng đóng ở Mùi và sử giúp Quan Phúc một tay, còn một phần rửa tội cho 3 tuổi Thân Tí Thìn gặp hạn Thiên Không mặc dù Phá Toái tung hoành ngang dọc.Tuổi Tân (A) đem phước lành (Lộc Tồn) ban phát cho 3 chi Tỵ Dậu Sửu, 3 cung này thường xuyên có Phá Toái lũng đoạn và Tân lại bị Triệt chặt đứt ở Tỵ, như tuổi Tân Tỵ ngoài Triệt ở Tỵ Lộc Tồn còn bị Tuần ngăn đón ở Dậu nên Quan Phúc phải ngồi ngay ở Dậu và Tỵ an ủi cho được phần nào.Tuổi Nhâm (D) mở rộng địa võng cho 3 tuổi Dần Ngọ Tuât (Đà la đặt lưới ở Tuất) Quan Phúc phải đóng ở Tuất và Ngọ. Còn Thiên Ất đứng ở 2 cung âm (Mão và Tỵ) giúp ích cho Thân Tí Thìn.

Những vị trí sắp xếp trên địa bàn dành cho Thien Quan Thiên Phúc Thiên Ất Lộc Tồn xuống đến Tam Hóa và Lưu Hà do hàng Can ấn định như có sự trù liệu tinh vi vô hình mọi lẽ thừa trừ. Kiếp sống nhân sinh chỉ là kết quả của Thân (vòng Tràng Sinh) nhúng tay gặt hái.

Số Mậu Ngọ sanh ngày 24 tháng 10 giờ Tỵ khiến người học số phải suy tư rất nhiều đâu là bộ mặt chính xác. Mệnh Thái Tuế Vô chính diệu, Thân Điếu khách Cơ Lương. Nơi đây có một dư âm lạm dụng cần phải nhận xét sao cho trúng mức.

Người Mậu Ngọ, Hỏa mệnh không chính tinh, có Địa Không ở Mệnh, Thiên Không ở Phụ Mẫu nhị hợp sinh nhập cho Mệnh và Tuần ở Thiên Di hay nói Mệnh Vô chính Diệu đắt Tam không phú quí khả kỳ (tốt). Sự thật không phải cứ Mệnh nào không chính tinh mà có 3 không cũng phú quí khả kỳ cả: vì không thuộc hành Hỏa, phải Mệnh Hỏa mới được dự trúng cách. Đây là đợt đầu tuyển lựa các thí sinh dự chung kết mà thôi. Trường hợp trên đây chưa phải là người trúng giải khôi nguyên đắc tam không và Địa Không ở nơi Ngọ hãm. Thiên Không ở Mùi tối độc ác, chỉ là Ngộ Tam Không, một đời mang hận phù hợp với Thân mắc La Võng (Đà la ở Thìn) với Địa Kiếp Hóa kỵ ở vị trí Điếu khách (bất mãn). Hóa Kỵ Thìn Tuất Sử Mùi là nước lọc, cái Thân trong sạch Cơ Lương vẫn bị hiểu lầm, dầu có biện bạch cách nào cũng uổng công cho người Mệnh Không Thân Kiếp.

Quan vô chính diệu không có một giá trị gì trong công quyền. Một Hoa Cái nghênh ngang (Kim) không đủ tư cách độc thủ cho người mệnh Hỏa, còn bị thêm Linh Tinh (hãm) tiêu hao, tưởng không nên lăn lộn. Giai đoạn 44-45 là thời gian nhập Quan Phù (Thiên Thời) là để mà xuống (Không Kiếp) thêm Kình Hình xâu xé tấm thân nơi La Võng. Dầu sao cũng vẫn là người đáng kính trọng (Thái Tuế) chí khí hiên ngang bất khuất. Hỏa tinh ở Ngọ cốt thủ cho người Hỏa Mệnh. Vai trò Quan Phúc ở Mão chung lưng cố công góp sức vớt người này 3 giai đoạn (16 -25 ở Mùi, 46-55 nhị hợp sinh nhập cho Tuất, 56-65 ở Hợi).

Số Kỷ Mão sanh ngày 29 tháng 9 giờ Tí, Mệnh Thân vô chính diệu ở Tuất được được Văn Xương (Kim đới Thổ làm điểm tựa, nhưng vì Linh Tinh nung nấu nên thân hình èo ọt ốm đau. Hợp với cách Cự Nhật Hữu Bật Thiên Phúc ở Dần (Quan) là người có khả năng luận lý xét đoán soi sáng giúp đời. Đứng vị trí Long Đức (thiệt thòi) là chỗ ngồi từ thiện vô vị lợi tử an ủi không phải là công lao nhỏ bé (Long Đức 4 đức tựa Long Ngai). Kỷ Mão với ý nghĩa đời gặp nhiều trở lực (Chi khắc Can) nên khiến vận hành nhiều lúc ngang trái lật ngược. Đại vận 26-35 hạn Thiên Không nên Cơ Lương Xương Khúc Hỏa Kỵ phải lận đận trên chốn đấu trường, rồi sau Hóa Khoa phụ giúp điều chỉnh có nghĩa là hạn Thiên Không không thể tránh khỏi buồn lòng thất bại, nhưng Thiên Không gặp Hóa Khoa lần hồi điều chỉnh tới chỗ thành công. 36-45 vận hành Thái Tuế phải đắc ý, nhưng Thái Tuế gặp Không Kiếp đắc ý để đi đến thất bại. Đây là một nguyên tắc cần xác định.

1/ - Hạn Thái Tuế là phải đắc ý

2/ - Thái Tuế gặp Không Kiếp lên dễ mà xuống

3/ - Thiên Không là phá sản

4/ - Thiên Không Hóa Khoa xuống mà dễ lên

Quan Phúc ở tuổi này đứng chia nhau ở cả 2 mặt âm dưong với chủ ý dắt dẫn dương nhân trên đường phước thiện (Thiên Phúc ở Quan), Thiên Quan ở Dậu nhằm dằn mặt Thiên Không (nhị hợp sinh nhập cung Thìn) với Hóa Khoa Thiên Ất (Khôi Việt) vậy.

Hàng Can trong lý học là phần gốc quan trọng nên những gì do Can xếp đặt là một sự huyền diệu với mục đích bí thừa trừ ngay thẳng.

Lộc Tồn là thiên lộc tức là Hạnh phúc phú quí cho người đời do hàng Can quyết định đặt chỗ ngồi ở vị trí: Dần Mão Tỵ Ngọ Thân Dậu Hợi Tí.

Tại sao Lộc tồn có 8 vị tríMỗi tam hợp có 3 chi, 12 chi có 4 tam hợp (Kim Mộc Thủy Hỏa). Mỗi hành đều có âm dương nên chỉ có 8 chỗ (phai3 lấy Tỵ Ngọ là nơi sinh ra Mậu Kỷ làm nơi trú ngụ cho Mậu Kỷ).

Trong 8 chỗ ngồi thì chỉ có 4 chỗ ngồi là hợp lý cho 12 tuổi:

Giáp (D) cho 3 tuổi Dần Ngọ Tuất

Ất (A) cho 3 tuổi Hợi Mão Mùi

Canh (D) cho 3 tuổi Thân Tí Thìn

Tân (A) cho 3 tuổi Tỵ Dậu Sửu

Như vậy còn lại 4 chỗ khác dư thừa sao? Tỵ Ngọ Hợi Tí cho thấy một dàn cành mất hợp lý thong thương tức là trái nghịch lý âm, dương. Bính Mậu Nhâm là dương lại đóng ở Tỵ Hợi là âm, Đinh Kỷ là âm lại ở Ngọ Tí là dương.

Nghịch lý âm dương là có sự trục trặc không phải là tốt đẹp gì. Đây là cả một bài học cho nhan thế "tham thì thâm, biết thì sống". 6 Lộc tồn còn lại là mồi phú quí nhử làng xa mã.

Trong mỗi lá số của cá nhân có 3 điểm quan hệ nhất:

a – Mệnh là định mệnh của mình

b – Thái Tuế là Thiên thời đắc thắng

c – Lộc Tồn là hạnh phúc phú quí

Người nào được cả 3 điểm trơn tru trúng cách đời phải lên hương. Còn một trong 3 điểm này bị trục trặc nên tự an ủi đi rẽ sang đường Quan Phúc tứ đức là hơn cả (từ thiện).

Những người trong 6 tuổi Bính Đinh Mậu Kỷ Nhâm Quí hãy tìm kiếm nhận cho kỹ 3 yếu điểm ở nơi số mình, không bao giờ thoát khỏi Thiên Không hay Không Kiếp. Không ở Mệnh thì ở Thái Tuế, không ở Thái Tuế thì bắt buộc phải ở Lộc Tồn.

Thiết tưởng phù vân bồi đắp cho từ thiện là việc trúng cách của Thiên Ất Quan Phúc

Thiên Quan = ( dương Hỏa) giải trừ uẩn khúc

Thiên Phúc = ( âm Thổ) thực hiện từ thiện

Thương Sứ là hai đồn canh cho ba đoạn đường lượn dốc

Câu nói thường ngày đã thành tục ngữ "49 chưa qua, 53 đã đến". Có ý lo sợ cho ai trong thời gian ngắn ngủi 4 năm mà đến 2 lần xui xẻo có thể về với tổ tiên.

Chữ Thọ là rất quí vì có thọ mới từng trải cuộc đời hướng dẫn cháu con, đâu là đường quang lẽ phải. Thọ có 3 đợt: Sơ Thọ, trung thọ và thượng thọ. Sơ thọ là tuổi 50. người nào mà về cõi năm 49 kể như yểu tử đã phạm một lỗi lầm gì nên không được phép bước tới thêm một bước được liệt vào hàng phước thọ. Cho nên năm 49 được coi như là tối quan trọng. Thường thường trong mỗi thời gian 10 năm có 4 năm cuộc đời thấy mọi lẽ hên xui khác biệt hẳn là 4 con số : 3 và 7, 5 và 9 là hên, Tại sao vây?

Tuổi người ta có 2 phần: hàng Can là gốc, hàng Chi là ngọn, như tuổi Giáp Tí thì Giáp là Can thuộc dương mộc, Tí là chi thuộc dương thuỷ thì cứ mỗi năm nào gặp 1 con số 3 hay 7 là những năm bị sinh xuất hay khắc nhập tức là cây bị lay gốc hay bị cắt rễ như 1 tuổi là Giáp Tí. Năm lên 3 tuổi là Bính Dần tức là Giáp sinh Bính là hao mòn cho nên đặt ở ngay cung tật ách (Thiên Sứ). Năm tuổi là năm Mậu Thìn ở Phúc đức chữ Giáp khắc xuất chữ Mậu là Mệnh chiến thắng được năm. Năm 7 tuổi ở Nô (Thiên Thương) là năm Canh Ngọ, chữ Canh khắc chữ Giáp. Đến năm 9 tuổi là Nhâm Thân, Chữ Nhâm sinh cho chữ Giáp ở tử tức có nghĩa là nẩy nở. Vậy có thể xắp xếp:

3,13,23,33,43,53,63 là những năm sinh xuất (chịu đựng)5,15,25,35,45,55,65 là những năm khắc xuất (phấn đấu)7,17,27,37,47,57,67 là những năm bị khắc nhập (thua thiệt)

9,19,29,39,49,59,69 là những năm được sinh nhập (hưng vượng) trừ năm 49 hàng Can tuy được sinh nhập như các năm có số 9 khác, nhưng lại là năm Chi đến năm tuổi, nghĩa là năm 49 là năm tuổi của mình. Tại sao năm tuổi lại xấu?

Trong bản lập thành tử vi, vị trí năm tuổi luôn luôn đóng ở thế tam hợp không đắc ý ( Tuế Phá Tang Môn Điếu khách). Thiết tưởng từ chỗ thành công (Can sinh nhập) đưa đến chỗ bất mãn, còn gì là tốt đẹp khác gì cây bị úng nước, rễ phải sinh, ngọn sẽ tàn héo nên tiền nhân sợ năm tuổi không dám khuyếch trương hành động ở những năm đó.

Thường ngày chỉ nói đến 49 và 53 là 2 đoạn đường dổ dỗc trước khi lên khi lên ngôi sơ thọ (50) và trung thọ (60). Còn một đoạn đường nặng nề gay cấn để đưa đến thượng thọ (70) là năm 67. Bất cứ một lão nhân nào đều lâu mau nằm dưỡng bệnh. Năm thiên khắc địa xung rất khó mấy ai vượt nổi mới có câu 70 cổ lai hy hữu. Tại sao lại gọi là thiên khắc địa xung?

Năm 67 tuổi bất cứ người tuổi gì, hàng Can đều bị khắc nhập nên gọi là thiên khắc. Còn hàng Chi đều bị đối nghịch tức là thế xung như tuổi Tí gặp năm Ngọ, tuổi Mùi gặp năm Sửu... Gốc bị cắt xén, ngọn bị dập bể làm sao mà sanh tồn. Mỗi giai đoạn bước tới từ sơ thọ đến thượng thọ đều có 1 đoạn đường đổ dốc để lượn lên, người lái xe phải lành nghề (Thái Tuế) vững tay lái, xe không ham chở nặng (nới tay Quyền Lộc ) mới mong an toàn.

Thương Sứ là 2 đồn canh ở giữa 3 đoạn đường này. Thương là tổn hại, Sứ là thừa lệnh. Sứ ở Tật Ách là chấp chưởng thi hành tai ách là một việc làm trúng chỗ. Còn Thương sao lại ở cung Nô, không lẽ người dưới tay người nào cũng mất nhân nghĩa chỉ báo hại mệnh hình thương!

Nô và Ách là 2 mốc độ đoạn đường thời gian bằng nhau dầu đương số là dương nam âm nữ đi xuôi thì thời giam ngoài 50 phải gặp Thương. Nếu là âm nam dương nữ đi nghịch thì cũng thời gian ngoài 50 phải đụng đối đầu Sứ.

Kiếp nhân sinh khi đã vượt được mức yểu tử 49 thì hạn 53, 67 không chừa ai là không bị Thương Sứ kiểm soát, dầu mình ở vào hạng nào (Thái Tuế hay Tuế Phá, Thiếu Dương hay Thiếu Âm) nam hay nữ đi xuôi hay di nghịch.

Người Thái Tuế thi hành sứ mạng đến thế nào hay có làm gì lầm lỡ. Người Tuế Phá liều lĩnh quá đà hay nương tay hiểu phận. Người Thiếu Dương thi tài lạm dụng nếu biết tu tỉnh. Người Thiếu Âm không biết an ủi mà cố lội ngược dòng.

Thương Sứ kiểm tra đâu là uẩn khúc oan ứng lập thành quả. Thường tình người đi xuôi là thuận đường nên gặp Thiên Thương trước có phần nhẹ hơn người đi ngược phải đụng độ Thiên Sứ ngay bước đầu. Thiên sứ kể như vị chánh sứ thi hành mệnh lệnh, còn Thiên thương chỉ là phân phụ tá nên có phần nhẹ tay quyết định. Nhưng cũng tuỳ trường hợp. Nếu Thiên Thương có Kình Dương đứng hộ vệ ở Tí Ngọ Mão Dậu thì cảnh quan tha ma bắt thường diễn tả.

Cung Nô của những tuổi Giáp Mậu Canh Nhâm ở tứ chính thường diễn những cảnh tang thương đau xót mỗi lần đụng độ (tiểu hạn không có gì đại vận gặp Thương Kình là tuổi ngoài 50).

Phải kể tuổi thọ là đáng quí trọng, nhưng mỗi khi ăn mừng tuổi lão thượng thọ (70) sau đó một vài năm nếu là thuỷ nhị cục, các cụ có được giấy mời của vị Đại sứ, kể cũng là phải lúc tham quan non bồng nước nhược (đó là giai đoạn nhập cuộc Thương Sứ, trong vị trí thường có Thiên Không, Không Kiếp, Tang Môn, mấy ai được Long đức hay nói gì Phúc đức trọn vẹn.

Bảng đồng hạn của Tiểu nhi

Tuổi ở Mệnh 7 tuổi ở Nô (Thiên thương) khắc nhậpTài 8 tuổi ở DiÁch (Thiên sứ sinh xuất) 9 tuổi ở Tử (sinh nhập)Phối 10 tuổi ở bàoPhúc (khắc xuất) 11 tuổi ở PhụQuan 12 tuổi ở Điền

-------------------------------------------

Đức hạnh Càn Khôn đi đến Đồng Nhân Đại Hữu

Càn Khôn biểu tượng cho vạn năng nhất là đức hạnh cương nhu kiên thuận, lần xuống Tứ tượng có Khảm Lý:

Ly thiếu dương của Càn

Khảm thiếu âm của Khôn

Đạo Càn Khôn bao gồm ban phát ra 4 chữ Nguyên Hanh Lợi Trinh (Càn) và 3 chữ An Trình Cát (Khôn) cho đời được hưởng những gì là hoàn hảo tốt đẹp công bằng mọi người như nhau.

Với hai quẻ Thiên Hoả Đồng Nhân và Hỏa Thiên Đại Hữu thấm sâu lòng người, cho biết đâu đường lối mà thế nhân muốn thực thi tất cả tiến tu đến thánh đức, ngày ngày kiến tạo biểu hiện đức mình trong công việc.

a - Thiên Hỏa Đồng Nhân có nội quái Ly, ngoại quái Càn. Ly ở dưới Càn tượng là lửa bốc lên tới Trời chiếu sáng mọi nơi hết thảy sinh vật đều hưởng quang minh. Chữ "đồng" nơi đây có nghĩa tất cả mọi người không kể thân sơ gần xa quen lạ tức là đại đồng. Như thế mới đại đạo chí công. Thể theo quái Ly biểu hiệu đức tiến bộ. Càn có đức cương kiện. Hai hào nhị và ngũ có đức trung chính ứng hợp với nhau. Trong vốn sẵn sáng suốt, ngoài cương quyết thực thi. Tưởng đó phải chính đại quân tử mới chu đáo được, vì tâm tư người đời thiên trạng vạn thái rất khó bỏ sạch được tì tâm để làm sáng tỏ chí công vô tư. Với 6 hào chỉ có hai hào tứ và thượng là trở ngại vì quá cương kiện nên pha vào nhu thuận nguyện ý cầu mong biết hồi đầu nghĩ lại đã có gì bất trực hoặc vô tư. Biết điều lỗi rồi tự tu sửa, tưởng chẳng điều gì tốt hơn.

b - Hỏa thiên đại hữu trình bày Càn nội Ly ngoại có nghĩa là cộng đồng với người, tất thảy mọi người đều là bạn. Nhận xét 6 hào chỉ một hào sơ đắc vị, hào tam tuy là dương nhưng sợ quá kiện dương hóa kiêu vì 3 hào nội quái đều dương. Nhưng đã sanh ở dòng giống thiện đức (Càn) há không biết tùy thời ứng đối. Hạ Càn nguyên gốc quân tử thượng Ly đã thông sáng suốt giao hợp. Quan trọng ở hào ngũ là âm vạch lỗi cho người biết khi đã công thành danh toại nên khiêm nhượng để tránh hiềm khích, làm gì mà không thâu thái được lòng người trở nên đại hữu.

c - Thủy Địa Tỷ thành lập do hai quái Khôn hạ, Khảm thượng tức là Thái âm và Thiếu âm chung hợp cũng như Hỏa Thiên Đại Hữu có Càn nội Ly ngoại (Thái dương, Thiếu dương cộng tác). Một bên, Trời được lửa cháy sáng quang minh. Một bên, đất được nước thấm nhập mềm dẻo.

Nguyên lý trong Càn Khôn không giống một loại vật nào sống cô lập mà thành công trường tồn mỹ mãn, luôn luôn có giao dịch phụ giúp lần nhau. Trông vào 6 hào thấy ngũ hào oai nghiêm dương cường hòa hợp với hào nhị ở hạ quái. Đây là hào độc nhất lãnh tụ có tất cả sáng suốt dìu dắt 5 âm hào quy tụ trên dưới. Tiếc rằng nội quái toàn hào âm, quan hệ ở sơ hào nơi nguồn gốc đều quá nhu giúp sức cho hào thượng cùng tính chất. Sự bền vững khó lâu dài. Vậy người kết bạn, tìm thầy nên thận trọng ngay từ lúc đầu mới mong tránh suy tàn.

Hình ảnh của Đồng Nhân Đại Hữu chiếu ánh sang Tử Vi màu sắc hai sao Tài Thọ nhập Mệnh Thân Tài Quan và Di đồng điệu. Số được Tài Thọ nhập Mệnh có khác gì người trước khi giao dịch với đời, nhất là công việc có lợi ích chung, trước hết phải chỉnh tu đức hạnh ngay bản thân. Trường hợp Tài Thọ nhập Quan, đương nhân phải chí công vô tư, hành vi cương nhu cho trúng lúc. Tài Thọ ở Di bó buộc vị tha ngay với cả đối phương không vì tỵ hiềm mà hành động trái chính tâm.

(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)

-------------------------------------------

Thiên Hình, Hóa Kỵ

Ngoài bộ Lục Sát - Tinh và Lưu Hà, Kiếp Sát, hung tinh đáng kể là Thiên Hình (Kim) và Hóa Kỵ (Thủy):

Người tuổi Giáp Ất hay mạng Mộc khi gặp Thiên Hình phải coi chừng né tránh, ngay cả Thiên Tướng cũng bị Thiên Hình khuất phục.

Người Tuổi Bính Đinh hay mạng Hỏa gặp Hóa Kỵ cũng vậy.

Sức đàn áp của hai sao này đốt với 2 hạng người kể trên bị khắc chế quá mạnh như mèo gặp chuột, dầu có no mồi cũng dỡn vài quyền cước chơi. Trường hợp giảm khinh là số đến vận tốt và Hình đắc địa (Dần Mão Dậu Tuất), Hóa Kỵ (Thìn Tuất Sửu Mùi) như có ý rộng lượng với kẻ dưới tay.

Người Hình Riêu Không Kiếp (hãm) là hạng người dễ bị lây vạ, là oan nghiệp níu kéo, trong những vụ tai nạn chung, những người này phải là tiên phong chịu trận. Còn Liêm Tham Tỵ Hợi gặp Hóa Kỵ được giảm sự lo ngại những tai nạn xảy đến là cái thế thăng bằng chỉ có 2 tuổi Kim và Hỏa mới được giảm khinh ở đây không phải cho hết các tuổi đủ mọi hành .

(Tử vi nghiệm lý - tác giả Thiên Lương)

----------------------------------------

Tư thế của từng nhóm tinh đẩu

Ở phần phân tách luận đoán, việc đầu tiên đem Tử vi chia thành Lưỡng nghi, Lưỡng nghi phân ra tứ tượng, rồi tuần tự ra bát quái v.v.. thì thấy đâu nào là phe phái và sự phản ứng khi chúng gặp nhau. Cũng như một gia đình có nội ngoại, con cháu sau này ngày một sanh sản ra xa lần nhau, sự phân biệt vẫn là nội hay ngoại khiến sự sinh khắc chế hóa nặng hay nhẹ là cùng phe hay khác phái.

Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham là một trong lưỡng nghi khi chuyển vận gặp nhau vẫn ít thay đổi, dễ dàng hơn là gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật.

Trái lại Cơ Nguyệt Đồng Lương vận hành đụng nhằm Sát Phá Liêm Tham tất nhiên phải có sự đụng chạm nặng vì là 2 thế cờ đặc biệt khác nhau như nước với lửa, phần thiệt hại vẫn là phần của kẻ yếu.

Tư thế của Tứ tượng muốn được hoàn mỹ cũng như triều đại nào phải có tối thiểu bầy tôi chân tay đắc lực của họ mới thành công:

a) Bộ Tử - Phủ - Vũ - Tướng : Cần nhất Tả - Hữu, Thai – Tọa .

b) Bộ Sất – Phá – Liêm – Tham : Cần nhất là Lục Sát – Tinh, Thai – Cáo

c) Cơ – Nguyệt - Đồng – Lương : Cần nhất là Xương – Khúc, Khôi – Việt

d) Cự - Nhật : Cần nhất là Hồng – Đào , Quang – Quý

e) Riêng bộ Nhật – Nguyệt, nếu có lạc hãm, ngoài bộ Hồng – Đào – Hỉ, ít nhất phải đứng cặp với một trong ba bộ hợp cách với nó là : Xương – Khúc, Long – Phượng, Quang – Quý cũng kể như là người có tư cách, dầu có ở hoàn cảnh nghèo túng cũng không hèn .

Bộ Khoa Quyền Lộc cho những cách trên như gấm thêu hoa là tư thế của người gặp vận hội tốt .

Bộ Long - Phượng - Hổ - Cái là nhân phẩm của cá nhân chính phái.

Còn cái chân giá trị thực sự tương xứng với địa vị và lòng ngưỡng mộ trọng đãi được thế nhân cảm phục là ở 3 bộ:

Nhật - Nguyệt : Thông minh sáng suốt

Tả Hữu : Tài năng quán xuyến

Thiên Mã : Nghị lực cần mẫn

Số Khổng - Minh quân sư nhà hậu Hán đắc bộ 3 này. Theo thiển kiến bộ 3 này là 3 viên ngọc quí của Tử -Vi, chứng minh đương số là người có thực lực, chỉ cần có 1 trong 3 bộ này cũng đủ hơn cái bả vinh hoa (Khoa Quyền Lộc) về phần thực sự giá trị.

(Tử vi nghiệm lý - tác giả Thiên Lương)

------------------------------------

Tuần Triệt

Tuần Triệt trong tử vi, từ cổ xưa đến nay không thấy sách nào nói đến cái sứ mạng rành mạch của hai sao này làm việc, mà xem ra nó lại có một nhiệm vụ như khá quan trọng trong cách phán quyết của nó, nay tôi chỉ xin trình bày một ít ý kiến gọi là phân tách kinh nghiệm của tìm tòi.

Nhìn vào vị trí của hai sao này đóng ở Thiên Bàn, Triệt theo hàng Can của tuổi ấn định vị trí hai tuổi một chỗ đứng tức là có 5 vị trí cho 10 Can.


Tuổi Giáp Kỷ Triệt ở Thân Dậu

- Ất Canh Ngọ Mùi

- Bính Tân Thìn, Tỵ

- Đinh Nhâm Dần Mão

- Mậu Quý Tý Sửu

Chỉ còn sót lại 2 cung Tuất Hợi là không có Triệt.

Thấy rằng như Triệt ở Thân Dậu nghĩa là phân chia ranh giới giữa hai cung Dương và Âm của hai tuổi Giáp (Dương) và Kỷ (Âm) thì anh hưởng tất nghiêng về tuổi đương số Giáp (Dương) hay Kỷ (Âm) để khép khín lại có nghĩa là chặn đứng theo chiều thuận hay nghịch, cắt ngang mọi liên lạc nên mới có nghĩa là Triệt Lộ và cũng vì thế tam phương xung sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng (Tất cả hung dữ chiếu lại đều được bình an) vì Triệt đã khép kín cửa, quân trộm cắp chỉ còn nước đứng ở ngoài đường. Phần ở trong có những gì phải thu dọn xáo trộn, cảnh trí là cảnh nhà gặp lúc biến bị phong tỏa (Triệt) vì một lẽ gì tịch biên hay tẩy uế thiếu vệ sinh .

Còn Tuần chiếm nhiệm cả 5 vị trí như của Triệt và thêm một vị trí giữa Tuất Hợi nghĩa là 6 vị trí đều nhau. Mỗi vị trí đều đứng cuối một con giáp trên và là đầu một con giáp dưới. Như tuổi Giáp Ngọ thì Tuần đóng ở Thìn Tỵ tức là sau Giáp Ngọ và là đầu Giáp Thìn, có nghĩa là cây cầu bắc nối hai con giáp để luân chuyển thời gian bất tuyệt. Vậy Tuần chỉ là cái gạch nối 2 quãng thời gian hai con Giáp (Tuần Không) như một cái xe đang chạy ngon trớn lúc gặp cây cầu bắc nối hai bờ sông, tất nhiên xe phải siết thắng bớt tốc độ để lên cầu qua sông .

Xin định nghĩa Triệt là Triệt Lộ không vong là phong tỏa khép kín cắt đứt liên lạc, là cái thắng trước của xe.

Còn Tuần là Tuần trung không vong là cây cầu nối tiếp giữa hai đoạn là kìm hãm bớt từ từ, lâu dài, cầm chừng là cái thắng sau của xe.

Hai cái đó đều có nghĩa là không. Cái "không" của Triệt là tan nát biến thể thành không. Cái không của Tuần là trung gian kiềm chế không cho phép quá trớn cũng là không.

Một vài trường hợp của Tuần Triệt như đóng ở Mệnh làm thí điểm, điều chính yếu là phải phân biệt âm dương để biết mức độ ảnh hưởng nặng nhẹ. Dương nhân theo chiếu thuận là đến cung Dương đụng ngay Triệt. Người Âm theo chiều nghịch là đến cung Âm bị Triệt chặn ngang, thì ảnh hưởng đương đầu phải là nặng quá bán (70%). Trường hợp vận hành cũng vậy, cung trước là đường giao thông đi tới đèn đỏ trước mặt, cung sau là quãng đường đã vượt qua đèn.

Mệnh bị Triệt đời phải chịu nhiều khó khăn lúc niên thiếu, bị Tuần thì luôn luôn bị trục trặc kìm hãm lúc bắt tay thực hiện công việc. Nếu bị cả Tuần lẫn Triệt thì đời bị vùi xuống đất đen, không phải là Tuần Triệt phá nhau để cho đương số được thong thả.

Trường hợp Tuần – Triệt phá nhau như sau:

a) Mệnh có một Triệt hay một Tuần khi gắp đại vận gặp Tuần hay Triệt là đương nhiên người được thỏa mãn, chỗ này cái nọ tháo gỡ cái kia.

b) Thân bị một Triệt nếu gặp Tuần sớm quá không tháo nổi, phải đến vận ngoài 30 tuổi trở đi mới thành công.

c) Mệnh, Thân bị cả Tuần lẫn Triệt tức là không còn gì để tháo gỡ, ngay khi đến đại vận tam hợp tuổi, ảnh hưởng tốt đẹp cũng chỉ thỏa mãn 50% là tối đa.

d) Ba trường hợp trên người Dương đóng cung Dương, người Âm đóng cung Âm bị Triệt hay Tuần đương đầu.

e) Người Dương đóng cung Âm, người Âm đóng cung Dương có Triệt hay Tuần khi đại vận gặp Tuần hay Triệt (nghĩa là bị Triệt gặp Tuần, bị Tuần gặp lại Triệt) thời vận tốt mở làm hai lần chậm chậm ở hai cung đại vận gặp Tuần hay Triệt ở giữa.

Trường hợp Thiên Mã đóng ở 4 cung Dần Thân Tỵ Hợi như ở mục Thiên Mã đã nói:

Mã ở Dần phải là người tuổi Mộc mới làm chủ và sử dụng nó thành công. Mã ở Tỵ cho người Hỏa mệnh, Mã ở Thân của người Kim mạng, Mã ở Hợi cho người Thủy, Thổ mạng. Bốn con Mã này bị Triệt là con Mã què, ngựa ăn hại, nếu gặp Tuần lại có trường hợp đắc dụng .

Biết rằng Tuần là cây cầu bắc nối 2 giai đoạn đường đời, 2 vị trí :

a) Thì Thiên Mã ở Dần bị Tuần lại là Ngựa chiến của người Hỏa Mệnh.

b) Thì Thiên Mã ở Tỵ bị Tuần lại là Ngựa bạch của người Kim Mệnh.

c) Thì Thiên Mã ở Thân bị Tuần lại là Ngựa ô của người Thủy, Thổ Mệnh.

d) Thì Thiên Mã ở Hợi bị Tuần lại là Ngựa ăn no của người Mộc Mệnh.

Tuy nhiên trước khi Mã đắc dụng, phải chùng một bước mới nhảy thành công.

(Tử vi nghiệm lý - tác giả Thiên Lương)

----------------------------------

Lưu Hà Kiếp Sát, Thiên Mã, Không Kiếp, Kình Đà, Linh Hỏa, Phá Toái, Cô Quả, Khốc Hư

Trong Tử vi có bộ lục sát Không Kiếp, Kình Đà, Linh Hỏa là một đoàn quân xông pha nhiều lúc phải tùy thuộc cấp chỉ huy mới nên kết quả đáng kể.

Bộ Lưu Hà Kiếp Sát cũng là bộ sát tinh thường xuyên đứng với Thiên Không, đứng vai Thẩm Phán giữ cán cân thăng bằng cho bộ luật thừa trừ định mệnh cho từng hạng tuổi như sau:

CAN CHI

Giáp ------------- cho người ---------------Thân Tý Thìn

Ất Kỷ ------------------------------------------- Tỵ Dậu Sửu

Bính Canh ------------------------------------- Dần Ngọ Tuất

Tân --------------------------------------------- Hợi Mão Mùi

Đinh Quý -------------------------------------- Hợi Mão Mùi + Tỵ Dậu Sửu

Mậu Nhâm ------------------------------------ Thân Tý Thìn + Dần Ngọ Tuất

Lưu Hà là sao Thủy an theo hàng Can của tuổi luôn luôn ở nghịch địa âm dương như:

Tuổi Giáp (dương) thì Lưu Hà đóng ở Dậu (âm cung)

Ất (âm) thì Lưu Hà đóng ở Tuất (dương cung)

Bính (dương) thì Lưu Hà đóng ở Mùi (âm cung)

Đinh (âm) thì Lưu Hà đóng ở Thân (dương cung)

Mậu (dương) thì Lưu Hà đóng ở Tỵ (âm cung)

Kỷ (âm) thì Lưu Hà đóng ở Ngọ (dương cung)

Canh (dương) thì Lưu Hà đóng ở Mão (âm cung)

Tân (âm) thì Lưu Hà đóng ở Thìn (dương cung)

Nhâm (dương) thì Lưu Hà đóng ở Hợi (âm cung)

Quý (âm) thì Lưu Hà đóng ở Dần (dương cung)

Kiếp sát là sao Hỏa an theo hàng chi của tuổi luôn luôn ở nghịch địa âm dương như:

Tuổi Dần Ngọ Tuất (Dương) ------ thì Kiếp Sát an ở ------ Hợi (Âm)

Tuổi Thân Tý Thìn (Dương) ------- thì Kiếp Sát an ở ------ Tỵ (Âm)

Tuổi Tỵ Dậu Sửu (Âm)------- ------ thì Kiếp Sát an ở ------ Dần (Dương)

Tuổi Hợi Mão Mùi (Âm) ----------- thì Kiếp Sát an ở ------ Thân (Dương)

Biết rằng Lưu Hà là Thủy, Kiếp Sát là Hỏa đều đứng ở nghịch địa âm dương theo Can Chi ấn định có tính cách hung bạo hội lại như 2 lưỡi kéo tử thần thi hành án lịnh sau khi Thiên Không phán quyết cho Là can nhân có thực tội .

Như mục Lục Tồn ở trên đã nói chỉ có bốn tuổi Giáp Ất Canh Tân đứng tam hợp tuổi có Lục Tồn mới được hưởng Lộc Tồn trọn vẹn, còn ngoài ra chỉ là nhất thời và gánh chịu hậu quả bù trừ, còn Lộc Tồn của năm tuổi Mậu, Kỷ, Bính Đinh Nhâm Quý là ở trong trường hợp có Lưu

Hà, Kiếp sát canh gác 6 kho vàng đó. Kẻ nào đụng chạm đến mà Thiên Không không ngăn cản được thì Lưu Hà Kiếp, Sát nổ súng. Cũng có một vài trường hợp giảm khinh nhẹ tay cho những tuổi Đinh Hợi Mão Mùi và Quý Tỵ Dậu Sửu.

THIÊN MÃ

Thiên mã ở trong Tử vi là một viên ngọc quý. Viên ngọc quý này chỉ thấy ở trong hoàn cảnh trái nghịch tức là phần tinh anh có sắp đặt cho hạng người bất mãn ở phần đất Tuế-Phá Tang-Môn, Điếu-Khách của vòng Thái tuế. Nếu hạng người này không có Mã thì làm sao mà sống ở đời. Phải chăng thánh nhân xưa đã có chí hướng dân chủ (dân vi quí). Phe Thái Tuế, Quan Phủ, Bạch Hổ là phe lãnh đạo, cầm quyền được Long-Phượng, Hổ Cái là cái thế uy nghi tốt đẹp thì phe đối kháng là phe Tuế-Phá, Tang-Môn, Điếu-Khách phải để cho họ có Thiên Mã là bộ máy có động lực mạnh để quật lại bên kia. Việc thành bại lại là việc của thời gian. Cái đáng quý của Thiên Mã là ở chỗ đó.

Thiên Mã chỉ ở bốn cung Dần Thân Tỵ Hợi phân phối đều cho 12 địa chi thuận âm dương mà nghịch phái

Tuổi Dần Ngọ Tuất Thiên Mã ở cung Thân

Thân Tý Thìn ----------------- Dần

Tỵ Dậu Sửu ----------------- Hợi

Hợi Mão Mùi ----------------- Tỵ

Nhìn vào vị trí của Thiên Mã đóng ta thấy ngay sự trái cựa căn cứ theo địa chi tam hợp của tuổi số mà an Thiên Mã ở trong địa chi tam hợp đối kháng.

Tuy Thiên Mã là hành hỏa nhưng đóng ở bốn cung có bốn hành riêng biệt thì chủ nhân muốn làm chủ thực sự Mã ấy phải là đồng hành với chỗ nó ở, công việc mình làm mới có kết quả tốt đẹp .

Đã gọi là Dịch mã, Mã đóng ở bốn cung phải có đắc dụng đồng đều ở mỗi cung như đã phân chia số tuổi quy định, không lẽ gì Mã ở Hợi lại gọi là Mã cùng đường vô dụng. Nếu vậy thiệt hại cho ba tuổi Tỵ Dậu Sửu có Mã cũng hư không mà còn bị bế tắc là khác.

Vậy Mã ở bốn cung Dần Thân Tỵ Hợi có nghĩa như sau:

1. Thiên Mã ở Dần: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Mộc, bạc nhược với người tuổi Kim, vất vả với người mạng thủy, điêu linh cho người thổ, làm lợi cho người mạng hỏa.

2. Thiên Mã ở Tỵ: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Hỏa, làm lợi cho người mạng Thổ, vất vả cho người mạng Mộc, điêu linh cho người tuổi Kim, bạc nhược cho người tuổi Thủy.

3. Thiên Mã ở Thân: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Kim, làm lợi cho người tuổi Thủy, vất vả cho người mạng Thổ, điêu linh cho mạng Mộc, bạc nhược cho người mạng Hỏa.

4. Thiên Mã ở Hợi: Chính thức thuộc quyền sử dụng của người mạng Thổ, Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả cho người mạng Kim, điêu linh cho người mạng Hỏa.

(Còn vài chi tiết đặc biệt ở Dịch Mã tiếp theo ở mục Tuần Triệt)

LỤC SÁT TINH: KHÔNG KIẾP – KÌNH ĐÀ – LINH HỎA

Lục sát tinh là một lực lượng có đặc tính riêng biệt, nói là đưa đương số bộc phát vinh quang (trường hợp đắc địa) không phải là không có; nhưng nói chung cái lợi không có là bao, mà cái hại rất khó lường nên mới có tên là Sát tinh. Sự thật bộ này phải có bộ chỉ huy cứng rắn, quyết liệt mới đắc dụng. Một là thành công vũ bão, hai là phá tan tận diệt, là bộ 3 Sát Phá Tham.

Không Kiếp – Kình Đà – Linh Hỏa là 3 quân đoàn riêng biệt, cần phải có cấp bậc chỉ huy chính cống trực tiếp riêng của nó mới hiệu nghiệm. Ngoài ra, vá víu lấy chỉ huy quân đoàn này sang điều động quân đoàn kia cần chắc là kết quả không bao nhiêu (dầu lợi hay hại). Vậy phải như thế nào ?

Không Kiếp thành đoàn quân có thành tích dữ nhất, Phá Quân mới cai trị đắc lực. Ví như mệnh có Phá Quân mà đi đến hạn Không Kiếp phải là có chuyện sống chết, hay dỡ tùy theo từ Bộ tư lệnh đến quân đoàn đắc địa hay hãm địa (ở đây mới là trường hợp họ gặp nhau ở đại vận).

Kình Đà là quân đoàn có đôi phần nới tay do có bậc thượng tướng nghiêm chỉnh chỉ huy là Thất Sát. Nếu Thất Sát đứng cặp với Thiên Hình thì dũng mãnh hơn.

Linh Hỏa là tôi tới trung thành của cấp chỉ huy tài tử Tham Lang.

Giữa 3 quân đoàn này với cấp chỉ huy thì Phá Quân là ngang tàng liều lĩnh nhất, nên thường thay cho Thất Sát, trường hợp vắng mặt, chỉ huy Kình Đà vẫn đắc dụng hiệu lực như thường. Trái lại, Tham Lang gặp Không Kiếp, Kình Đà chẳng ra sao. Và Thất Sát gặp Không Kiếp - Linh Hỏa cũng không hiệu nghiệm cho lắm.

PHÁ TOÁI

Phá Toái là một bàng tinh có ý nghĩa như cái tên của sao đã mang là phá tán tan nát và vị trí đóng cũng rất hạn chế là ba chổ Tỵ Dậu Sửu, ít chổ nhất trong các sao của Tử Vi mà xem ra hành động không phải tầm thường.

Thấy Phá Toái là hành Hỏa đới Kim nên ba vị trí Tỵ Dậu Sửu đối với nó coi như là thuận lợi cho nhiệm vụ không có gì cản trở (Tỵ – Hỏa, Dậu – Kim, Sửu – Thổ).

Đó là hao tán tinh, tức là không bao giờ phò trợ, chỉ làm ngang trái tư cách chính diệu hiền hậu (Tử Phủ, Cơ Lương). Trái lại tăng thêm sức mạnh cho bộ tinh đẩu hùng dũng là Sát Phá Tham, nhất là Phá Quân là cha ruột. Xét rằng ba vị trí của Phá Quân tại Tỵ Dậu Sửu đều hãm hết (Vũ Phá ở Tỵ, Liêm Phá ở Dậu), Tử Phá ở Sửu là đắc địa nhưng có nghĩa tư cách vẫn không đẹp, là thần bất trung, tử bất hiếu, không hơn gì Vũ Phá và Liêm Phá. Như đã có ý là muốn để Phá Toái giúp Phá Quân đắc lực trong cái thế "Toái quân lưỡng Phá", phải để ý đến các trường hợp sau:

Mệnh có Vũ Phá thì phải là các tuổi Tí Ngọ Mão Dậu (Dậu đẹp nhất).Mệnh có Liêm Phá thì phải là các tuổi Dần Thân Tỵ Hợi (Tỵ đẹp nhất).Mệnh có Tử Phá thì phải là các tuổi Thì Tuất Sửu Mùi (Sửu đẹp nhất).

Một khi đã thấy có bộ Sát Phá Tham ở trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu thì phải để ý ngay Phá Toái, tùy tuổi tùy vị trí mà nhận định mức độ hay dỡ, ít nhất kết quả cũng ở trên các bộ Sát Phá Tham ở mọi chỗ hãm khác.

CÔ THẦN – QUẢ TÚ

Cô Quả là hai tiếng thường dùng để chỉ hạng người cô đơn, khắc nghiệt là do 2 sao Cô Thần - Quả Tú ghép lại.

Sự thật cốt cách của chúng có phải nhất định như thế không ? Nhận xét kỹ vị trí của 2 sao đó, thấy Cô Thần luôn đóng ở 4 cung Dần Thân Tỵ Hợi, và Quả Tú chỉ ở Thìn Tuất Sửu Mùi luôn luôn ở thế tam hợp với nhau. 8 vị trí này có cả dương lẫn âm, và cũng không tùy thuộc tuổi dương hay tuổi âm để ấn định chổ đứng cho cả 2 sao. Biết rằng cứ 3 tuổi (địa chi) của số nối liền nhau thì Cô Thần đứng ngay cung chặn đầu và Quả Tú ngồi ngay cung chặn đuôi như 3 tuổi Dần Mão Thìn, Cô Thần ở Tỵ (đầu) – Quả Tú ở Sửu (đuôi); 3 tuổi Tỵ Ngọ Mùi, Cô Thần ở Thân (đầu), Quả Tú ở Thìn (đuôi); 6 tuổi kia, cứ 3 tuổi một cũng có Cô Thần Quả Tú chặn đầu đuôi như thế.

Nhìn vào những vị trí của 2 sao này thấy rất thua thiệt nên nó mới thành nghiệp ngã và cô đơn. Không bao giờ Cô Quả đóng trong tam hợp Thái Tuế, mà chỉ ở 3 thế: Thiên Không – Tuế Phá – Trực Phù làm cho người có số sống như trong trơ trọi và khó khăn bất mãn. Nếu có hưởng Lộc Tồn chỉ là hưởng trong nghịch cảnh, tưởng không tốt đẹp gì.

Bốn vị trí Dần Thân Tỵ Hợi của riêng của 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi là được cởi mở. Ở đây Cô Thần gặp Thiếu Dương là sáng suốt nhân hậu và là vị trí của Hồng Loan đứng cặp với Thiên Không (sắc sắc không không) là thành địa của những bậc từ thiện bác ái, nhìn cuộc đời bằng mọi cách bao la, sự vật có cũng là không, không vẫn là có.

Trong 4 vị trí Dần Thân Tỵ Hợi của 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi thì 2 vị trí Dần Thân có đủ bộ Cô Thần, Thiếu Dương, Hồng Loan, Thiên Không. Vị trí Hợi có ba là Cô Thần, Thiếu Dương, Thiên Không nhờ thế xung Hồng Loan ở Tỵ (Tỵ Dậu Sửu: Kim) quá bén nhạy nên người có số ở Hợi (Hợi Mão Mùi: Mộc) dễ sáng suốt để trở thành đạo đức. Còn cung Tỵ cũng vậy chỉ có Cô Thần, Thiếu Dương, Thiên Không nhờ thế xung Hồng Loan ở Hợi đưa lên nhưng hơi yếu vì Mộc không ép buộc được Kim và có sao cố định là Phá Toái (ở trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu) khiến nhiều khó khăn ngang trái mới thành chánh quả trọng lẽ hiếu sinh.

Vậy chỉ có 4 vị trí này của Cô Thần, Quả Tú của 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi là không khắc nghiệt cô đơn, lại còn là chổ tiềm tàng sáng suốt, chí công chỉ đạo theo thứ tự như sau:

1- Vị trí ở Dần : lòng cởi mở tuyệt thế.

2- Vị trí ở Thân : lòng cởi mở đương nhiên

3- Vị trí ở Tỵ : lòng cởi mở bén nhạy

4- Vị trí ở Hợi : lòng cởi mở phải chịu sự thử thách.

THIÊN KHỐC - THIÊN HƯ

Thiên Khốc là âm kim, Thiên Hư là dương thủy

Khốc Hư là hai bại tinh chỉ có ở bốn chỗ Tý Ngọ Mão Dậu là có tư cách đưa thân thế người có số được hãnh diện với đời. Đem Khốc Hư ra phân tách tại sao chỉ có 4 chỗ Tý Ngọ Mão Dậu được gọi là đắc địa và tại sao gọi là bại tinh.

Vì Khốc Hư bắt đầu từ cung Ngọ mà đi theo chiều thuận, nghịch của âm dương, mỗi sao đi 1 chiều hướng riêng, chỉ có cung Ngọ và Tý là 2 sao đồng cung và khẳng định là ở vị trí Tuế Phá (bất mãn cực độ) vì tuổi Tý Khốc Hư ở Ngọ và tuổi Ngọ Khốc Hư phải ở Tý và các vị trí kia của các tuổi khác cũng vậy luôn luôn đóng ở phía đối kháng nên phải khoác cái áo lấy tên là bại tinh.

Người Khốc Hư Tý Ngọ được hãnh diện, dầu là bất mãn, vì là có Thiên Mã và Điếu Khách thường trực trong thế tam hợp để đưa danh tiếng người này lên với đời. Còn thành công đến mức độ nào hay thất bại hoàn toàn là do Thiên Mã có phải là ngựa, nghị lực thực sự của người có số hay không tức là Thiên Mã ở Dần phải của người tuổi Mộc và Thiên Mã ở Thân phải là người tuổi Kim mới đắc cách.

Biết rằng Thiên Khốc là Âm Kim phải đi theo chiều nghịch thì chỉ có người tuổi âm mới là thuận cách vì Thiên Khốc được đứng trong tam hợp tuổi này (vòng Thái Tuế) nhất là hai tuổi Mão Dậu, Thiên Khốc đứng cặp sát nách với Thái Tuế. Hai vị trí này đưa thanh thế của người danh chính ngồn thuận của người có tư cách không hèn, có tài biện thuyết khuất phục được chúng nhân. Còn các Dương cung tức là các tuổi Dương Thiên Khốc đứng ở thế thường xuyên trái nghịch với Thái Tuế, phải nhờ nghị lực của Thiên Mã trợ giúp như hai cung Tý Ngọ, sở dĩ kém Tý Ngọ vì không có Hư đồng cung với Tuế Phá (Lãnh tụ đối lập).

Còn Thiên Hư không bao giờ xa cách Tuế Phá là tư cách của người ôm hận, bất mãn nên trong số bao giờ cũng sắp sếp cho có Thiên Mã để làm việc.

Vậy Khốc – Hư là tư cách của bại tinh và chỉ hãnh diện được ở bốn cung Tý Ngọ (lãnh tụ đối lập) và Mão Dậu riêng cho Thiên Khốc được danh chánh mà thôi.

(Tử vi nghiệm lý - tác giả Thiên Lương)

----------------------------------------

Hồng Loan, Đào Hoa, Thiên Không

Sau ba vòng Thái Tuế, Lộc Tồn, Tràng Sinh đến bộ ba Hồng Loan, Đào Hoa và Thiên Không không kém phần quan trọng ở trong số. Nó có những vị trí dành riêng rõ rệt để nó hành động với khả năng tính cách riêng biệt tốt xấu, dầu rằng bộ ba này thường xuyên gặp nhau, đồng cung hay chiếu. Nhưng chủ quyền của sao nào ở vị trí đã quy định dành riêng thì sao đó làm chủ, hai sao kia chỉ là phụ thuộc có tánh cách tham mưu phò tá.

1. Vị trí của Hồng Loan : Trọng đức

2. Vị trí của Đào Hoa : Mưu sĩ

3. Vị trí của Thiên Không : Tàn phá


1. Bốn cung Dần Thân Tị Hợi là 4 góc Thiên bàn, một khi có Thiên Không là có ngay Hồng Loan ở ngay đồng cung hay xung chiếu là vị trí của Hồng Loan làm chủ, Thiên Không chỉ là khách. Ở đây Hồng Loan đóng vai chánh với 2 phụ tá diễn tả tính cách sắc sắc không không là người có giác quan bén nhạy, từ tâm, không "tham sân si", trọng đức lớn có nghĩa là tư cách của người tu hành, thấy ra hiểu rộng.

2. Bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là vị trí cố định của Đào Hoa (Đào Hoa chỉ ở 4 cung này) được hai phụ tá kia phò giúp (Hồng - Không: sắc không) nhưng quyền chỉ huy quyết định là của Đào Hoa thành ra đạo đức ranh mãnh, đạo đức giả hiệu, mưu sĩ quỷ quyệt.

3. Bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là vị trí của trường hợp nào cũng chỉ một mình Thiên Không tung hoành, hai phụ tá lạc lõng xa với (Hồng Loan ít khi gặp, chỉ có Đào Hoa thường xuyên tam hợp). Tính cách cố hữu của Thiên Không đã là hung (không) lại ở chổ một mình một chợ tha hồ ra oai tác hại vì nhiều khi vắng bóng Hồng Loan (trung) chỉ một mình Đào Hoa (nịnh) đưa đẩy thì vị trí này là vị trí nguy khốn cho người đời do Thiên Không gieo họa.

Bộ ba Hồng Loan, Đào Hoa, Thiên Không vẫn có tính cách dẫu gì cũng là hư không, nhưng người đạo đức coi phú quý như phù vân không màng tưởng, là cái không cao cả. Kẻ mưu sỹ quỷ quyệt trăm khoanh tứ đốm xoay sở cho lắm lãnh hậu quả là "Không" bù trừ. Hạng tàn ác đến đâu gieo tàn phá khủng khiếp cũng chỉ còn "không" trơ trọi. Thiết tưởng người sáng suốt vẫn được sống yên lành là trường hợp của Hồng Loan.

(Tử vi nghiệm lý - tác giả Thiên Lương)

--------------------------------------

Vòng trường sinh

Lộc Tồn được an định theo thiên can, Thái Tuế theo địa chi. Tràng - Sinh được sắp xếp theo cục của tuổi ở vị trí an Mệnh, tức là lấy Thiên can của tuổi biến định từ Dần đến vị trí địa chi của cung an Mệnh mà quyết định, có ý nghĩa người đó hình thành do cha (thiên can) mẹ (địa chi) phối hợp ở miếng đất mệnh cư ngụ để bắt đầu diễn biến cuộc đời tức là theo nạp âm (can chi phối hợp) của vị trí và nạp âm của tuổi số mà kết đoán luận sánh.

Ở đây vòng Tràng Sinh ta thấy là cái hình bóng tóm tắt của vòng Thái Tuế và Lộc Tồn hợp nhất, chứng tỏ thánh nhân sáng lập ra tử vi đã phân tách từng phần

(Can và Chi) kỹ càng, lại tóm hợp (nạp âm) cặn kẽ cuộc đời cá nhân sống ở kiếp người cố tránh sơ sót, dầu rằng Tử Vi chỉ đem lại kết quả tương đối (tổng kết lá số là 518 400 cái).

Vòng Tràng Sinh bắt đầu từ:

Tràng Sinh : Khôn lớn

Mộc Dục : Dậy thì

Quan Đới : Sự nghiệp

Lâm Quan : Hãnh diện

Đế Vượng : Oanh liệt

Suy : Biếng nhược

Bệnh : Tàn tạ

Tử : Mãn kiếp

Mộ : Chôn vùi

Tuyệt : Đứt đoạn

Thai : Tái sanh

Dưỡng : Bồi đắp


Nhìn vào hệ thống từ Tràng Sinh đến Dưỡng thấy có một chuỗi thời gian nối tiếp nhau có lớp lang diễn biến nên tôi có ý kiến không dùng đến tam hợp để luận xét, chỉ dùng hành của Mệnh sinh khắc với hành của cung hòa hợp với sao của vòng sao này đóng ngay tại đó để biết thân thế người đó sống ở đất ấy tình cảnh ra sao (không gian) biến dịch theo thời gian qua các cung khác cũng vậy. Nhưng cái quan trọng tóm tắt nhiều ý nghĩa vẫn là sao (sao vòng Tràng Sinh) ở Mệnh là căn bản. Như trên tôi đã trình bày vòng Tràng Sinh là hình bóng hợp nhất của hai thế Thái Tuế và Lộc Tồn.

Lộc Tồn là hạnh phúc của cá nhân do thiên can là cha sinh tạo truyền.

Thái Tuế là bẩm sinh hình hài tư cách do địa chi là mẹ dưỡng nuôi bồi đắp dạy dỗ mất nhiều thời gian từ khi thai nghén đến lúc ra đời nên cái quan hệ của Thái Tuế ở vị trí đóng Mệnh như đã trình bày ở mục Thái Tuế là rất quan hệ mật thiết của đương số.

Vòng Tràng Sinh là một các vòng kín nối liền bắt đầu từ Tràng Sinh đến Tuyệt tưởng là hết rồi. Cái tài tình của Thai Dưỡng là lại đứng liền ngay bắc qua nối tiếp với Tràng Sinh để tiếp tục thế đi luân chuyển bất tận, tỏ rõ luân hồi tiền kiếp của một nhân sinh, phải chi bắt đầu từ Thai Dưỡng rồi tuần tự đến Tuyệt thì có lẽ người đời chết là hết.

Với vòng Tràng Sinh thiết tưởng rồi sau này người ta có thể khám phá ra tiền kiếp và hậu lai bằng luật thừa trừ Luân hồi quả báo như hiện nay ở Hoa Kỳ đã thực nghiệm thấy. Bằng chứng có một hồ sơ khổng lồ còn lưu trữ tại thư việc Virginia Beach, tiểu bang Florida làm tài liệu soi kiếp.

(Tử vi nghiệm lý - tác giả Thiên Lương)

-------------------------------

Lộc tồn

Trong Tử Vi có 2 thứ Lộc: Lộc Tồn và Hóa Lộc. Hóa Lộc là lộc do công khó nhọc làm ra. Lộc Tồn là thiên lộc được ấn định theo hàng thiên can của tuổi, là lộc định mệnh đã đặt sẵn ở thiên bàn ban phát cho từng hạng người đã được sắp xếp theo tuổi nhất định ở vị trí nhất định, nếu kẻ bàng quan lạm dụng sẽ có hậu quả để bù trừ. Đây là một căn quả của luân hồi không thể tham sân si mà được. Lộc Tồn được đặt theo hàng can của tuổi, đứng trong thiên bàn theo vị trí ngũ hành, đắc cách hay không ở thế âm dương thuận nghịch.

Lộc Tồn tuổi Giáp ở Dần Lộc Tồn tuổi Kỷ ở Ngọ

Lộc Tồn tuổi Ất ở Mão Lộc Tồn tuổi Canh ở Thân

Lộc Tồn tuổi Bính ở Tỵ Lộc Tồn tuổi Tân ở Dậu

Lộc Tồn tuổi Đinh ở Ngọ Lộc Tồn tuổi Nhâm ở Hợi

Lộc Tồn tuổi Mậu ở Tỵ Lộc Tồn tuổi Quý ở Tí

(a) Tuổi Giáp có Lộc Tồn ở Dần chỉ dành riêng cho người Giáp Dần, Giáp Ngọ và Giáp Tuất được hưởng trọn vẹn thiên lộc mà mệnh phải ở trong vị trí tam hợp Thái Tuế, nếu ở vị trí khác chỉ khi nào gặp mới thọ hưởng. Còn tuổi Giáp Thìn, Giáp Thân, Giáp Tí kể như là nghịch cảnh vì ở vị trí Tuế Phá, Tang Môn, Điếu Khách.

(b) Tuổi Ất có Lộc Tồn ở Mão thì chỉ có tuổi Ất Mão, Ất Mùi, Ất Hợi được hưởng trọn vẹn thiên lộc và cũng phải ở vị trí tam hợp Thái Tuế. Nếu ở vị trí khác cũng chỉ khi nào gặp mới hưởng . Ngoài ra tuổi Ất Tỵ, Ất Dậu, Ất Sửu kể là nghịch cảnh vì ở vị trí như Giáp Thìn, Giáp

Thân, Giáp Tí: Tuế Phá, Tang Môn, Điếu khách không được đầy đủ hoặc ở trong có sự gì người đời phải đặt dấu hỏi (?) .

(c) Tuổi Canh, tuổi Tân có Lộc Tồn ở Thân, Dậu cũng cùng trường hợp như 2 tuổi Giáp, tuổi Ất phải là tuổi Canh Thân, Canh Tí, Canh Thìn, Tân Tỵ, Tân Dậu, Tân Sửu mới đặc cách thọ hưởng Lộc Tồn. Còn Canh Dần, Canh Ngọ, Canh Tuất và Tân Hợi, Tân Mão, Tân Mùi đều đứng ở nghịch vị trí là Tuế Phá, Tang Môn, Điếu Khách phải chịu cùng cảnh ngộ của Giáp Thân, Giáp Tí, Giáp Thìn và Ất Tỵ, Ất Dậu, Ất Sửu.

(d) Còn sáu tuổi Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Nhâm, Quý là 6 tuổi có Lộc Tồn ở Tỵ, Ngọ, Hợi, Tí là 4 vị trí (Bính Mậu một vị trí ở Tỵ, Đinh Kỷ một vị trí ở Ngọ, Nhâm một vị trí ở Hợi, Quý một vị trí ở Tí) đều ở trong cảnh âm dương phản nghịch vì tuổi Bính (Dương Hỏa), tuổi Mậu (Dương Thổ) lại ở Tỵ cung là âm hỏa. Tuổi Đinh (Âm Hỏa) Kỷ (Âm Thổ) lại ở cung Ngọ là Dương Hỏa. Tuổi Nhâm (Dương Thủy) ở Hợi là Âm Thủy, tuổi Quý (Âm Thủy) ở Tý là Dương Thủy.

Vòng Lộc Tồn dầu có sắp xếp theo chiều thuận hay nghịch cùng ở trong thế đứng:

a) Bác Sĩ, Tướng Quân, Bệnh Phù + Lộc Tồn

b) Lực Sĩ, Tấu Thư, Đại Hao + Kình Dương

c) Thanh Long, Phi Liêm + Phục Binh

d) Tiểu Hao, Hỉ Thần, Quan Phủ + Đà La

12 sao chia cho bốn tam hợp ta thấy:

Lộc Tồn, Bác Sĩ, Tướng Quan, Bệnh Phù ở thế chủ chốt quang minh nhân hậu (Bác Sĩ), hiên ngang (Tướng Quân) dầu có bị suy tàn (Bệnh Phù)Kình Dương, Lực Sĩ, Tấu Thư, Đại hao là tư thế của kẻ ăn no vác nặng (Kình, Lực) có cố gắng học hỏi (Tấu Thư) cũng không đến đâu (Đại Hao)Đà La, Quan Phủ, Hỉ Thần, tiểu Hao là tư thế của kẻ lầm lì làm ra vẻ hào phóng (Hỉ Thần) cũng chỉ trong đom đóm (Tiểu Hao) ngoài bó đuốc (Quan Phủ) cho thị phi đàm tiếu.Thanh Long, Phi Liêm, Phục Binh là tư thế của kẻ có gặp bước may làm việc như vũ bão cướp thời gian (Phi Liêm) cũng chỉ là nhất thời (Phục Binh)



(Tử vi nghiệm lý - tác giả Thiên Lương)

------------------------------------

Ghi đại hạn cho lá số tử vi

Sau khi an xong hết các sao là ghi đại hạn ở trong thiên bàn để biết thời gian 10 năm một được hanh thông hay bế tắc. Điều quan trong là Đại hạn hướng dẫn người ta theo mức độ 100% so với tiểu hạn phải nằm trong đó chỉ có 10%. Nếu như ghi sai thì sự thành bại trật hết. Tôi thấy hiện hành có 2 cách ghi:

(a) Bắt đầu từ cung Mệnh tùy theo Cục và Dương nam, Âm nữ theo chiều thuận tới Phụ Mẫu, Phúc Đức ... mỗi cung 1 giai đoạn, trái lại Âm nam, Dương nữ theo chiều nghịch đến Bào, Phu hay Thê ...

(b) Bắt đầu từ cung Phụ Mẫu hoặc cung Huynh Đệ mà đi theo chiều thuận hay nghịch như trên có nghĩa là sai biệt một cung, như đáng lẽ từ Mệnh xuất phát , trường hợp này lại bắt đầu từ Phụ Mẫu hay Huynh Đệ khởi hành tức là trật 10 năm.

Tôi xin thưa là cách thứ hai (b) là sai 100% , Qúy vị độc giả đọc tiếp tới chỗ trình bày về vòng Thái Tuế thì sẽ thấy ngay đâu là trúng trật. Chỉ xin tóm tắt vì người tuổi gì khi tới đại hạn của năm tam hợp tuổi phải đắc thời, hanh thông không nhiều thì ít còn tùy theo một vài yếu tố như Tuần Triệt hay Không Kiếp và vị trí Mệnh, Thân, chứ không thể không có hài lòng.

MỆNH - THÂN

Người ta thường nói Mệnh là mạng người quy định chỉ có ảnh hưởng cho nửa cuộc đời về trước nghĩa là từ lúc ra đời cho tới tuổi ngoài 30. Còn Thân là cuộc đời nối tiếp thời gian của Mệnh cho tới khi nhắm mắt nhập thổ. Theo thiển kiến tôi nghĩ:

Mệnh là định mệnh theo khuôn viên đã sắp xếp cho cá nhân đó nhập thế cuộc ở vào một tình cảnh nào, giàu hay nghèo, thảnh thơi hay vất vả. Còn Thân là "TA" là hành động của cá nhân định mệnh đó, có chấp nhận theo định mệnh hay chống chọi lại. Đành rằng có số mệnh, cá nhân cũng có quyền suy tính hành động nên mới có trường hợp khôn dại đều chết chỉ biết là sống. Phải chăng số là cây kim la bàn luôn luôn giao động người biết thì thấy hướng mà đi, còn không thì ráng mà chịu. Là do Thân tùy theo vị trí Mệnh Thân đồng cung hay Thân ở Di, ở Phúc Đức, ở Quan Lộc, Phu Thê để cho người đó trình bày quyết định tư tưởng mình. Theo thời gian khi một người đã có tư tưởng để quyết định cho đời mình không có gì ràng buộc phải là tuổi ngoài 30. Vậy nếu Mệnh là định mệnh, Thân là TA hành động.

VỊ TRÍ MỆNH - THÂN

Một lá số đặt trước mặt không khác gì người đứng ngắm một ngôi nhà. Cái nhà này cao hay thấp, làm bằng vật liệu nhẹ hay đúc xi măng cốt sắt, có thuận tiện cho công việc làm ăn lập nghiệp không. Đó là vị trí của cung Mệnh, Thân an ở trong thiên bàn.

Mười hai cung trong thiên bàn không phải là nhất định cung này tốt, cung kia xấu. Sự xấu tốt phải tùy thuộc tuổi của người có số mà mệnh đã ngự tọa ở chỗ đất lành hay dữ cho tuổi đó.

Tuổi là tên năm sinh do hàng Can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) và hàng Chi (Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) phối hợp lại gọi là nạp âm. Ví dụ như tuổi Giáp- Tí, thiên can là Giáp, Địa chi là Tí, Nạp âm Giáp – Tí.

Vì lẽ đó phải chăng mới có 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn, Tràng Sinh để phân tách Thiên can, Địa chi, nạp âm của tuổi đời với cung an Mệnh.

THÁI - TUẾ

Cung Thiên bàn đã ấn định tên vị trí theo địa chi nhất định. Lúc lấy số tuổi gì thì ghi Thái Tuế ở vào vị trí có tên của nó như người ta sinh ra đời ở trong đất nhà của mình hay đẻ đường lạc danh - bộ tùy theo Mệnh Thân có trúng tam hợp tuổi hay không?

Thái Tuế là ngôi vị có tính cách thịnh vượng cao cả của người thọ lãnh nhiệm vụ chủ quyền chỉ huy công việc có ảnh hưởng bao trùm sâu rộng trong quần chúng. Mệnh nào đóng trúng Thái Tuế hoặc trong tam hợp tuổi (Thái Tuế) của mình là người đó đã được sắp xếp mọi sự thỏa mãn như mình ở đất nhà mình, dầu tốt xấu gì cũng thuộc quyền của mình, mình toàn quyền sử dụng theo ý muốn không phải e dè ai như là người ở nhờ hay thuê mướn tức là thỏa mãn, hài lòng tùy theo vị trí mức độ để mình thụ hưởng, dĩ nhiên là nhà mình, mình ra công bù đắp, chứ không có ý phá hoại. Đó là tư –cách của cá –nhân ở vị trí Thái Tuế.

Người tuổi Dần Ngọ Tuất Mệnh ở trong tam hợp Dần Ngọ Tuất

Người tuổi Thân Tí Thìn Mệnh ở trong tam hợp Thân Tí Thìn

Người tuổi Tỵ Dậu Sửu Mệnh ở trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu

Người tuổi Hợi Mão Mùi Mệnh ở trong tam hợp Hợi Mão Mùi

12 vị trí của vòng Thái Tuế



Thí dụ tuổi tí Mệnh được ở Tí cung là trúng ngay Thái Tuế. Ba vị trí của tam hợp là: (Hình 1)

- Thái Tuế : đầy lòng tự hào, coi mình như có sứ mạng làm việc chánh đáng.

- Quan Phù : hành động chánh đáng với suy tính kỹ càng, thận trọng.

- Bạch Hổ : gắng công làm việc chính đáng với bất kể giá nào.

Ba vị trí Tỵ Dậu Sửu của tuổi Tí là ba vị trí được hưởng sinh nhập (Hình 2)

- Thiếu Dương : sáng suốt hơn người

- Tử Phù : hơn người nhưng thường bị kẹt

- Phúc đức : muốn hơn người ăn chắc là phải có đức độ, trọng thần quyền đạo đức

Ba vị trí Dần Ngọ Tuất của tuổi Tí là 3 vị trí bị xung khắc tức là bất mãn (Hình 3)

- Tuế Phá : bất mãn, hận lòng muốn đả phá quật ngược

- Điếu Khách : bất mãn, thường hay lấy lời lẽ thuyết phục phân trần

- Tang Môn : bất mãn mà vẫn nặng lo toan tính toán

Ba vị trí Hợi Mão Mùi của tuổi Tí là 3 vị trí bị thua thiệt bị sinh xuất (Hình 4)

- Trực Phù : phải chịu thiệt thòi mà không được thù lao xứng đáng

- Thiếu Âm : dễ lầm lẫn, tin người mà thành khờ dại

- Long Đức : an ủi vì thua thiệt mà tu, bon chen cũng không đến đâu.

Vòng Thái Tuế đưa con người vào 12 thế đứng như trên của bốn tam hợp có nghĩa như sau:



Nhìn vào 4 hình vẽ:

HÌNH 1: Ba vị trí Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ luôn luôn được hưởng bộ sao Long Phượng Hổ Cái (thỉnh thoảng mới có ba) là bộ sao đưa người ta đến vinh dự hưng vượng may mắn bằng thế này hay thế khác tức là làm cho người ta thỏa mãn hài lòng.

HÌNH 2: Ba vị trí Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức luôn luôn có tam, tứ đức có nghĩa là định mệnh đã cho số được ở thế sinh nhập, tinh khôn hơn người thì số phải trọng nhân hậu đạo đức, nếu không chỉ Thiên Không (đứng sát với Thiếu Dương) thi hành sứ mạng nghĩa là cũng không đến đâu.

HÌNH 3: ba vị trí Tuế Phá, Tang Môn, Điếu Khách luôn luôn có Thiên Mã là nghị lực, mẫn cán có nghĩa là đương số ở trong tình trạng bất mãn chống đối phải cho họ có nghị lực, mẫn cán mới được việc, còn tùy theo Thiên Mã đó có phải của họ hay không lại là việc thành bại quyết định.

HÌNH 4: Ba vị trí Trực Phù, Thiếu Âm, Long Đức là ba vị trí bị sinh xuất thua thiệt, lầm lẫn, hữu công vô lao thường được an ủi bằng Lộc Tồn của tuổi Bính Đinh Mậu Kỷ Nhâm Quý tưởng không ngon lành gì. Nó chỉ là miếng mồi thơm nhưng ở trong đã có chất độc (Hà - Sát). Không ham, nên chọn con đường chánh đã vạch sẵn Long Đức là hơn hết (tự an ủi mà tu).

Vì lẽ vị trí tam hợp Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ là vị trí may mắn thuận tiện đi đến vinh quang, cho nên mỗi khi đại vận chuyển đến đó, bất kể là mệnh đóng ở vị trí nào (Tuế Phá, Thiếu Dương hay Trực Phù) người có số vẫn được hài lòng thỏa mãn. Như trên đã nói về phần ghi đại hạn thì cách thứ nhất (a) bắt đầu ghi ngay ở cung mệnh tuần tự theo chiều thuận hay nghịch mỗi khi gặp tam hợp Thái Tuế là phát vinh quang, là trúng thời gian tuổi thật của đương số.

(Tử vi nghiệm lý - tác giả Thiên Lương)

--------------------------------------

Phân tách và luận giải tử vi

Số tử vi là một sản phẩm thoát thai do triết học đông phương lấy Âm dương làm căn bản phân tách ngũ hành biến dịch sinh khắc thì thiết tưởng bất kỳ mộ nhận định nào cũng phải theo sự trình bày hợp lý của lẽ Âm dương trước, rồi ngũ hành sau.

Bắt đầu đặt vấn đề: Tử vi là thái cực sinh lưỡng nghi, và chia ra tứ tượng của bộ chính tinh.


Hình vẽ 1: Minh định thế đứng của 14 chính tinh để thấy sự phân chia ra âm dương ước định sự phản ứng mỗi vận hành ở thế nọ chuyển gặp thế kia để không nên quan niệm lá số 4 cách số khác nhau là Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương. Như trên chỉ là mới chia thành Tứ Tượng, còn phân tách ra bát quái ...... cho đến cách còn một sao gặp nhau cũng có phản ứng nhỏ nhoi tỉ mĩ. Sự trình bày này không ngoài ý nhắc nhở nên đặt vấn đề âm dương quan hệ trước nhất mới rõ được mức độ đối kháng vận hành (phân tách thế đứng).

Hình vẽ 2: Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham và Cơ Nguyệt Đồng lương, chỉ là thế lưỡng nghi thái cực. Thế đứng ở thiên luôn luôn riêng biệt không bao giờ có sao ở phe này đứng chung với sao ở phe kia. Những phản ứng do vận hành phải căn cứ vào sự phân chia tứ tượng, bát quái, v.v.. nên kết quả nặng nhẹ (trình bày ở thiên bàn bảng 2) ví như sắp xếp lại sao ở hình 2, dương một bên, âm một bên, thấy rõ hai hình sẽ ăn khớp nhau.

Về tính cách và ý nghĩa của sao, sách nào ngày nay cũng dịch chép lại các bản cổ xưa, hẳn y như nhau cả, tôi chỉ xin phân tách ý nghĩa và cách áp dụng cách nào khi luận đoán một lá số: Sách số nào cũng nói như xem một cung mệnh phải bao quát: Chính cung, 2 cung tam hợp, cung xung chiếu và cung nhị hợp. Vậy tại sao lại là tam hợp, xung chiếu, và nhị hợp, ảnh hưởng mỗi cung thế nào?

Trong 12 cung của thiên bàn có 4 cung thổ (2 cung dương Thìn Tuất, 2 cung âm Sửu Mùi) là nguồn gốc phát xuất ra các hành khác và rồi cũng là chỗ tập trung về đó. Phối hợp với 8 cung Hợi Tý (Thủy), Dần Mão (Mộc), Tỵ Ngọ (hỏa), Thân Dậu (Kim) thành 4 cục (Cục-diện, quy-chế)

A. Thân-Tý-Thìn: Thủy (Nhờ Thân thổ để cho Thân tràng sinh của Thủy làm Thủy được đầy)

B. Dần-Ngọ Tuất: Hỏa (Nhờ Tuất thổ để cho Dần tràng sinh của Hỏa làm cho Hỏa được vượng)

C. Tỵ-Dậu-Sửu: Kim (Nhờ Sửu thổ để cho Tỵ tràng sinh của kim làm cho Kim được thịnh)

D. Hợi-Mão-Mùi: Mộc (Nhờ Mùi thổ để cho Hợi tràng sinh của mộc làm cho mộc được tốt)

Bốn cục là cái thế tam hợp căn bản của tử vi đẩu số. Ba cung tuy khác hành mà đứng chung trong thế liên minh có một hành chung cùng ba cục kia ganh đua luân chuyển sinh khắc lẫn nhau biến đổi.


Nhị Hợp là cái thế chỉ có sinh không có khắc, một là sinh nhập, hai là sinh xuất, vẫn là cái thế tương sinh có nghĩa là vẫn có tính bù qua đắp lại cho nhau. Như:

1. Mệnh ở Tỵ thì phải sinh xuất cho Điền

2. Mệnh ở Ngọ thì được sinh nhập ở Phụ

3. Mệnh ở Mùi thì phải sinh xuất cho Bào

4. Mệnh ở Thân thì được sinh nhập ở Tử

5. Mệnh ở Dậu thì phải sinh xuất cho Ách

6. Mệnh ở Tuất thì được được nhập ở Nô

7. Mệnh ở Hợi thì phải sinh xuất cho Điền

8. Mệnh ở Tý thì được sinh nhập ở Phụ

9. Mệnh ở Sửu thì phải sinh xuất cho Bào

10. Mệnh ở Dần thì được sinh nhập ở Tử

11. Mệnh ở Mão thì phải sinh xuất cho Ách

12. Mệnh ở Thìn thì được sinh nhập ở Nô

Các thế nhị hợp chỉ có sinh tương sinh nhập ở nhị hợp Phụ, Tử và Nô và sinh xuất cho Điền, Bào và Ách, vẫn là trong nội cảnh của Mệnh.

Còn cung xung chiếu tức là Thiên Di là đối tượng khắc, một là khắc xuất hai là khắc nhập, tức là phải tranh đấu. Nếu thắng ( khắc xuất ) mọi sự được dễ dàng vẻ vang, bằng như bị bại ( khắc nhập ) mọi sự thua thiệt và khó khăn, chứ đừng tưởng có Khoa Quyền Lộc mà mình được đương nhiên hưởng thụ.


Thủy khắc Hỏa là Mệnh bị khắc nhập luôn luôn bị người ta khống chế coi thường. Mệnh này muốn thắng phải có điều kiện khác. Vậy Thiên Di là kẻ đối phương chứ không phải là của mình.

Căn bản chánh yếu của Mệnh là tam hợp (Mệnh Quan Tài), nhị hợp (sinh) là thế phụ thêm bớt tình thế của Mệnh, còn tuyệt đối Thiên Di (khắc) là đối thủ rồi.

(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)

-------------------------------------

Sai lầm về an sao lập số

Như ở lời mở đầu, mục đích của cuốn sách này chỉ là phụ giải những gì còn trong vòng huyền bí những sách trước đây vì một lẽ gì đã không luận bàn đính chánh, nay tôi xin trình bày thêm phần nào hay phần nấy. Vậy từ cách an sao thiết lập số cũng chỉ xin trình bày những cách thức an sao lập thành theo thiển kiến kinh nghiệm riêng những chỗ nào khác với những trường hợp trước mà thôi .

Sau khi kẻ khung, chia khung lá số thành 12 ô, ghi tuổi, tháng, ngày giờ, an mệnh, thân, lập cục rồi thì an sao Tử vi như sau:

Thường thường cứ an theo chiều thuận nghĩa là sau Tử vi cách 03 cung đến Liêm Trinh, cách 02 cung đến Thiên Đồng, tuần tự tới Vũ Khúc, Thái Dương, cách 01 cung đến Thiên Cơ, như thế không phải là không được, vẫn trúng chỗ không sai. Nhưng tôi có ý trình bày Tử vi là một môn Lý học Đông phương thì cái gì cũng phải để ý phân tách Âm Dương trước để nhắc nhở trí nhớ người học số phải suy nghĩ đến lẽ Âm Dương để mà tiến tới .

Như hình vẽ ở trên ta thấy 14 chính tinh chia làm hai nhóm:

a) Nhóm TỬ VI an theo chiều nghịch.

b) Nhóm THIÊN PHỦ an theo chiều thuận.

Hai thế đứng trái nghịch nhau để cho ta nhận định không nên bỏ lơ cái ý niệm chính trái nghịch của Âm Dương mỗi lần suy tính phán xét .

VÒNG TRÀNG SINH

Vòng TRÀNG SINH an theo cục:

Người Dương Nam, Âm Nữ theo chiều thuận như dưới đây:

- KIM tứ cục an Tràng Sinh tại cung TỴ

- MỘC tam cục -- HỢI

- HỎA Lục cục -- DẦN

- THỦY nhị cục -- THÂN

- THỔ ngũ cục -- THÂN

Người Âm Nam, Dương Nữ theo chiều nghịch như dưới đây:

- KIM Tứ cục an Tràng Sinh tại cung DẬU

- MỘC tam cục -- MÃO

- HỎA Lục cục -- NGỌ

- THỦY nhị cục -- TÍ

- THỔ ngũ cục -- TÍ

An Vòng Tràng Sinh như trên thì Dương Nam, Âm Nữ hoặc Âm Nam, Dương Nữ sao Mộ luôn nằm tại Tứ Mộ ( Thìn Tuất Sửu Mùi ). Đó là trúng cách hợp lý sao Mộ phải ở Mộ địa là nơi xuất phát ra và rồi cũng là nơi tập trung tại đó của các hành khác ( Kim Mộc Thủy Hỏa ).

KÌNH DƯƠNG – ĐÀ LA

Kình dương – Đà la là hai sát tinh an ở trước và sau Lộc Tồn, cũng phải theo chiều thuận hay nghịch của Dương Nam Âm Nữ ( thuận) và Âm Nam dương nữ ( nghịch) mà thay đổi vị trí.

Như tuổi Giáp Ngọ có Lộc tồn ở Dần, Kình Dương ở Mão, Đà la ở Sửu của người Dương Nam. Nhưng Dương nữ thì Kình Dương phải ở Sửu và Đà la ở Mão ( theo chiều nghịch ) nghĩa là Kình Dương lúc nào cũng đồng cung với Lực sĩ, không bao giờ có Đà la ở chung với Lực Sĩ.

THIÊN KHÔI – THIÊN VIỆT

Bộ Khôi Việt an theo hàng Can của năm sinh

Tuổi Khôi Việt

Giáp, Mậu Sửu cung Mùi cung

Át, Kỷ Tý cung Thân cung

Bính, Đinh Hợi cung Dậu cung

Canh, Tân Ngọ cung Dần cung

Nhâm, Quý Mão cung Tỵ cung

Vì có một số sách đã in lầm tuổi Giáp Mậu Canh có Thiên Khôi ở Sửu, Thiên Việt ở Mùi, còn lại mốt tuổi Tân có Thiên Khôi ở Ngọ và Thiên Việt ở Dần. Vậy theo sự phân phối trên đây thì đồng đều cho cả bốn tuổi Giáp Mậu và Canh Tân .

TỨ HÓA

An Tứ - Hóa vào những cung có các sao như sau theo hàng CAN của tuổi:

TUỔI LỘC QUYỀN KHOA KỴ

GIÁP Liêm Trinh Phá Quân Vũ Khúc Thái Dương

ẤT Thiên Cơ Thiên Lương Tử Vi Thái Âm

BÍNH Thiên Đồng Thiên Cơ Văn Xương Liêm Trinh

ĐINH Thái Âm Thiên Đồng Thiên Cơ Cự Môn

MẬU Tham Lang Thái Âm Hữu Bật Thiên Cơ

KỶ Vũ Khúc Tham Lang Thiên Lương Văn Khúc

CANH Thái Dương Vũ Khúc Thiên Đồng Thái Âm

TÂN Cự môn Thái Dương Văn Khúc Văn Xương

NHÂM Thiên Lương Tử Vi Tả Phụ Vũ Khúc

QUÝ Phá Quân Cự Môn Thái Âm Tham Lang

Có trường hợp đã để Tuổi Nhâm có Hóa Khoa đứng theo Thiên Phủ không phải là Tả phụ. Theo như bản ở trên sự phân phối đứng cặp với 14 chính tinh còn có 2 bộ trung tinh có tính đặc biệt được nhập bọn là Tả - Hữu và Xương - Khúc. Vậy Tuổi MẬU đã để Hữu Bật có Hóa Khoa, tất nhiên tuổi NHÂM phải để T ả Phụ có mặt cho đủ bộ như Xương - Khúc có đầy đủ cả đôi.

LƯU HÀ

Lưu Hà là sát tinh luôn luôn phối hợp với Kiếp Sát đóng thế gọng kìm như hai lưỡi kéo của tử thần an theo hàng CAN của tuổi đúng trái nghịch Âm Dương cứ hai tuổi một theo chiều thuận .


Thấy bộ Hỏa - Linh có chỗ an theo vị trí cố định thì Linh Tinh rất ít khi có dịp hồi chánh để làm nghĩa hiệp và thiệt thòi cho 9 tuổi Thân Tý Thìn, Tỵ Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi . Tưởng an theo giờ sinh là trúng lý hơn, vẫn theo chiều thuận của Dương Nam, Âm Nữ và nghịch theo Âm Nam, dương Nữ .

Tuổi Dương Nam, Âm Nữ

Thân Tý Thìn bắt đầu từ cung cung Dần tính thuận đến giờ sinh an Hỏa

Thân Tý Thìn bắt đầu từ cung cung Tuất tính nghịch đến giờ sinh an Linh

Dần Ngọ Tuất bắt đầu từ cung cung Sửu tính thuận đến giờ sinh an Hỏa

Dần Ngọ Tuất bắt đầu từ cung cung Mão tính nghịch đến giờ sinh an Linh

Tỵ Dậu Sửu bắt đầu từ cung cung Mão tính thuận đến giờ sinh an Hỏa

Tỵ Dậu Sửu bắt đầu từ cung cung Tuất tính nghịch đến giờ sinh an Linh

Hợi Mão Mùi bắt đầu từ cung cung Dậu tính thuận đến giờ sinh an Hỏa

Hợi Mão Mùi bắt đầu từ cung cung Tuất tính nghịch đến giờ sinh an Linh

Tuổi Âm Nam, Dương Nữ cùng ở những cung như trên tính chiều thuận và nghịch trái lại cho cả 12 tuổi và 02 sao.

LA – VÕNG

Chỉ khi nào có Đà la ở cung Thìn hay cung Tuất mới được coi là có La - Võng.

(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)

------------------------------------------

Những câu phú nên thận trọng áp dụng

Những câu phú là những câu văn vần do cổ nhân ghi chép lại, sau môt thời gian khá kinh nghiệm về kết quả cũng như sự phối hiệp giữa các hành tinh mà nên ảnh hưởng. Sở dĩ phải làm thành văn vần như có ý định: trước mắt là dễ nhớ, sau để người đi sau lấy đó mà tìm kiếm thêm nếu còn những khía cạnh nào chưa được hoàn hảo hay sơ sót trên phương diện nào.

Đọc những câu phú, ngày nay thấy như những câu sấm ký truyền lại của những cá nhân, nó mênh mông trên cương vị tổng quát không quyết định hẳn cho một trường hợp nào. Như câu: "Trai bất nhân Phá quân Thìn Tuất, Gái bạc tình Tham Sát Dần Thân", có phải bất cứ mệnh nào nằm ở Thìn Tuất mà có Phá quân là trai bất nhân và Tham Lang Thất Sát ở Dần Thân là gái bạc tình?

Số có 60 tuổi, mỗi tuổi có một hành, tuy nói là ngũ hành, nhưng khác nhau rất nhiều như 2 người cùng tuổi Kim: Giáp Tí và Giáp Ngọ, một đằng Tí sinh Giáp khác với Giáp sinh Ngọ. Căn bản của Giáp Ngọ là nó dầy chắc, trái với Giáp Tí chỉ là nông cạn. Huống chi còn 12 vị trí, mỗi vị trí đối với tuổi dương nhân nó chỉ một vị trí khá đặc biệt.

Biết rằng mỗi tam hợp có 3 vị trí dùng thế chân vạc làm gốc riêng của 4 cách: Thái Tuế, Tuế Phá, Thiếu Dương và Thiếu âm. Thái Tuế chia ra Thái Tuế chính xác. Quan Phù và Bạch Hổ Tuế Phá bao gồm Tuế Phá Tang môn và Điếu khách. Thiêu' Dương có Tử Phù và Phúc đức. Thiếu âm có chi nhánh Long đức và Trực Phù. Thiết tưởng mỗi tư cách của mỗi sao ghép vào 60 tuổi đã cho ra một hình thái khá rành rẽ khác nhau, lại được lọc thêm qua 12 vị trí thì kết quả phải là tinh vi đến thế nào.

Dưới phép luận số 60x12 thấy có 720 mầu sắc dị biệt thì Phá Quân và Tham Lang, Thất sát kia hẳn phải có những cuộc lột xác nhiều thay đổi.

Riêng đối với phái nữ Sát Phá Tham nói chung không hợp điệu của phe liễu yếu đào tơ, là người tháo vát đảm đang gan góc cũng phải tuỳ các khía cạnh mới dám quyết dịnh đâu là đoan chính, đâu là lăng loàn. Muốn hợp cách chỉ có Đồng Lương, Tử Phủ bồi đắp thêm Hoá khoa càng thêm khả ái.

Cổ nhân đã chịu mất công ghi chép lại bằng những câu phú, phải là những bậc trí tuệ có thừa, biết rằng công cuộc về tinh thần không phải một thế hệ mà được hoàn hảo. Cần phải bao thế hệ xây đắp may ra mới xây đắp được một quãng đường dài thám hiểm. Lại còn e dè những ai chẳng may lầm đường lạc lối dồn vào ngõ bí vì tam sao thất bản.

Dịch học từ đời Phục Huy (2900 trước dương lịch) mãi mãi đến đời Khổng Khâu (600 trước dương lich) mới gọi là san định được một phần khởi sắc. Đem so 2 khoảng thời gian từ 2900 trước dương lich đến 600 trước dương lịch có 2300 năm và từ 600 trước dương lịch đến nay 1984 sau dương lịch có 2584 năm tạm cho là ngang bằng nhau. Thời gian hiện nay nhờ khoa học tiến bộ, mỗi nghành từ vật chất đến tinh thần không thể khai thác trong u minh, đều phải phân tách cho hợp luân lý, tránh sao không còn tồn tại lời mỉa mai: đị đoan huyền bí.

Thứ lấy 4 tuổi: Giáp Dần, Đinh Tỵ, Ất Mùi và Bính Tí, cung Mệnh cùng đóng ở cung Tuất có Phá Quân toạ thủ, xem đâu là chính công Phá Quân như phú đã nêu ra, đâu là nỗi tinh thần uẩn khúc của người bị ngờ vực oan.

a) Giáp Dần là tuổi có 1 căn bản vững vàng (Giáp và Dần đều là Mộc). Mệnh đóng ở Tuất trong tam hợp Thái Tuế, vị trí Bạch Hổ là kiếp nhân sinh đã có một trách vụ gì với xã hội, thực hiện với bất cứ giá nào, mặc dầu mệnh Thuỷ chính xác Phá quân. Người này làm việc có tính cách mạnh bạo bị lầm tưởng mà thôi. Bất nhân không thể là người Thái Tuế.

b/ Tuổi Đinh Tỵ cũng như Giáp Dần, Thiên Phủ có một căn bản vững chắc. Mệnh ở Tuất là tư thế Tử Phủ trong tam hợp Thiếu Dương. Người khôn ngoan Thổ Mệnh khác hẳn Phá Quân là Thuỷ, có những hành động khéo giỏi không thể nói là bất nghĩa.

c/ Ất Mùi Kim mệnh đóng ở Tuất là vị trí Thiếu âm. Người này vì quá tin tưởng lại vụng tính nên có những hành động Phá Quân (Kim Mệnh sinh thuỷ Phá quân). Sự lỗi lầm này kể cũng đáng thương hại.

d/ Bính Tí, đời đầy rẫy nghịch cảnh (Tí khắc Bính) ở vị trí Điếu khách trong tam hợp Tuế Phá, luân phiên bất đắc ý, gặp Phá Quân đồng hành Thuỷ với mệnh làm gì mà không tung hoành cho thoả chí thay đổi (Điếu khách). Nhãn hiệu Phá quân quả là chính hiệu.

Những trường hợp trên kể cũng nên khai thác thêm hiệu lực của Hoá Khoa, có thể coi như một căn phòng bao che để hoán cải từ các vị độc dược trở thành các vị thuốc rất hiệu lực bồi bổ sức khoẻ. Bộ Sát Phá Tham nói chung, hãm địa nói riêng, gặp Hoá Khoa như phe Triệt giáo (súc vật tu thành tiên) được đắc đạo. Hoá khoa có khả năng lột xác phàm phu hoán cải tư cách tức là trường hợp hung tinh ngộ chế. Từ Phá Quân đến Tham Lang, Thất sát trở thành những hiền nhân hiệp khách treo cao phẩm giá.

Đối với Nhật Nguyệt Đồng Lương đắc Hoá Khoa nêu danh thành tích đặc hạng của một chuyên khoa, chỉ rõ một thượng thặng siêu nghành riêng biệt.

Sát Phá Tham gặp Tuân Triệt cũng mất tính cách hung hãn nhưng không còn gì (Triệt) hay giảm hẳn tốc lực (Tuần) của bộ máy tinh vi thực hành đắc dụng.

(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)

----------------------------

Ý nghĩa mỗi năm trong 60 hoa giáp

60 hoa giáp là 60 năm của 6 con giáp (Giáp Tí, Tuất, Thân, Ngọ, Thìn, Dần) nối tiếp nhau diễn chuyển bắt đầu từ Giáp Tí đến Quí Hợi. Mỗi năm mang một tên có 2 chữ. Chữ trên thuộc hàng Can, chữ dưới thuộc hàng Chi. Hai chữ hợp lại gọi là nạp âm có một hành chung khác hẳn, mặc dầu Can và Chi mỗi chữ có một hành riêng biệt.

Can có 10 chữ phân chia rành rẽ âm dương và đầy đủ ngũ hành đều nhau:

Sơ khai Mộc : Giáp (dương) Ất (âm)

Hoả : Bính - Đinh - Mộc sinh Hoả

Thổ : Mậu - Kỷ - Hoả sinh thổ

Kim : Canh - Tân - Thổ sinh Kim

Thuỷ : Nhâm - Quí - Kim sinh Thuỷ

Trái lại hàng Chi có 12 chữ cũng đầy đủ âm dương ngũ hành:

Thuỷ : Tí (dương) Hợi (âm)

Mộc : Dần - Mão -

Hoả : Ngọ - Tỵ -

Kim : Thân - Dậu -

Thổ : Thìn Tuất - Sửu Mù i-

Cái lý dư 2 hành thổ có ý tứ trong vũ trụ bất cứ hành gì dầu là Kim hay Mộc, Thuỷ hay Hoả đều là ở trong đất mà ra. Bốn hành này luôn luôn sinh khắc để trường tồn, bởi thế mới có liên minh tam hợp cục là thế đứng của tứ chính (Tí Ngọ Mão Dậu) để bồi đắp cho nhau củng cố ưu thế.

Vậy 12 Chi có 4 Chính 4 Sinh 4 Mộ lập thành 4 tam hợp cục là 4 khối có tôn chỉ riêng:

SINH CHÍNH MỘ HÀNH

Thân Tí Thìn Thuỷ

Dần Ngọ Tuất Hoả

Tỵ Dậu Sửu Kim

Hợi Mão Mùi Mộc

Một vòng của 10 can tuần tự ghép vào 12 Chi, mỗi năm thay đổi đáng lý là 10 x12 = 120, nhưng vì luật âm dương nên chỉ có phân nửa nghĩa là dương Can chỉ đứng với dương Chi, âm Can phải ghép với âm Chi mới đúng cách.

Đã viết cái nguyên do của 10 Can và 12 Chi, mỗi năm mang một cái tên có 2 chữ kể từ Giáp Tí đến Ất Sửu lần hồi cuối cùng là Quí Hợi. Mỗi tên có một tôn chỉ riêng là hành chung, nhưng cái hành riêng của mỗi chữ Can hay Chi vẫn phải nhìn nhận là quan trọng.

Hai chữ Can và Chi đứng với nhau không khác gì tình cảnh của một gia đình có hoà hợp mới nên sự nghiệp, còn xung khắc nhau làm sao có hưng vượng.

Như 2 tuổi Canh Thân và Canh Dần cùng là Mộc mệnh, thật ra cảnh đề huề của mỗi tuổi một khác. Canh là Kim, Thân là Kim, cũng như cây có gốc (Can) ngọn (Chi) đều nhau hẳn là có 1 căn bản vững chắc, dẫu không hơn người cũng không hề kém ai. Còn Canh Dần thì Can Canh (Kim) khắc Chi Dần (Mộc). Cây mà gốc không tải bồi cho ngọn làm sao mà sinh nở tốt đẹp cho nổi, khác gì gia đình trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Hai tuổi Giáp Tí và Giáp Ngọ thấy cả 2 tuổi cùng tương sinh gốc ngọn, nhưng Giáp Ngọ khác biệt bỏ xa Giáp Tí rất nhiều. Giáp Ngọ có Can Giáp (Mộc) sinh cho Chi Ngọ (Hoả) nghĩa là gốc nuôi ngọn là thuận cảnh. Trái lại Giáp Tí thì Can Giáp (Mộc ) được Chi Tí (Thuỷ) sinh lại tức là ngọn nuôi gốc tuy cũng là cảnh tượng sinh nhưng ngược chiều cho biết ngay Giáp Tí không có khả năng vững chắc mà sự đề huề chỉ là may mà có. Huống chi Giáp Ngọ còn tiềm tàng căn bản phồn thịnh là tam hợp Lộc Tồn của tuổi Giáp (Lộc tồn ở Dần) Thiên Lộc dành riêng cho người Dần Ngọ Tuất. Còn Giáp Tí đứng ngõ ngoài, muốn hưởng Lộc Tồn phải là Canh Tí (Canh Kim sinh Tí Thuỷ và Thân Tí Thìn là tam hợp hưởng Lộc Tồn tuổi Canh ở Thân).

Hai tuổi Giáp Thìn và Giáp Tuất là 2 tuổi đều hàng Can Giáp (Mộc) khắc Chi Thìn Tuất (Thổ). Hai tuổi này cũng cách biệt nhau cả một dặm đường: Giáp Tuất tuy Can khắc Chi, cuộc đời thấy nhiều trở lực, nhưng còn được dự phần tham dự chia sẻ Thiên Lộc tuổi Giáp. Giáp Thìn kể như là khách đi đường không liên quan gì đến, lại còn bị cảnh nghèo túng là Lộc Tồn thường trực có Tuần đóng kín, chỉ còn trông cậy vào bộ sao Sát Phá Tham nếu được thủ mệnh sống theo Hoá Lộc, tay làm hàm nhai. Trường hợp tuổi Giáp Thìn, mệnh đóng ở vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi dầu được bộ Sát Phá Tham là nòng cốt cũng chỉ là kiếp nhân sinh được tạo hoá nặn ra để trả nợ đời, không mong gì sự nâng đỡ vì vị trí của Sát Phá Tham ở Hợi Mão Mùi, trường hợp nào cũng là đen tối, cố công xây đắp mấy cũng chỉ là hữu công vô lao (vị trí Thiếu âm Long đức Trực phù của tuổi Giáp Thìn).

Tóm lại tuổi của mỗi cá nhân có thể sắp xếp theo thứ tự tốt xấu có 5 bậc thang như sau:

1/ CAN sinh CHI: Phúc đức quá lớn tiềm tàng một căn bản hơn người

2/ CAN CHI đều nhau : có năng lực khá đầy đủ vững chắc

3/ CHI sinh CAN: đời gặp may nhiều hơn thực lực

4/ CAN khắc CHI: đời gặp nhiều trở lực

5/ CHI khắc CAN: nghịch cảnh đầy rẫy chua cay

Trương Lương Hàn Tín là 2 người bạn đồng Triều phò trợ Hán Cao Tổ Lưu Bang lên nghiệp đế. Cả 2 người cùng tuổi Giáp:

Trương Lương tuổi Giáp Ngọ sinh ngày 6 tháng 5 giờ Thìn

Hàn Tín tuổi Giáp Tuất sinh ngày 5 tháng 11 giờ Ngọ

Cả 2 người mệnh cùng đóng tại vị trí tam hợp Thái Tuế là người hành động nêu cao chính nghĩa, cùng được bộ Tử Phủ Sát Phá Tham làm nòng cốt (đắc Khoa Quyền Lộc) cùng được hưởng Thiên Lộc là 3 tuổi Dần Ngọ Tuất. Nếu đem so tài thao lược Hàn Tín còn ở trên Trương Lương môt hạng nên được Hán Cao Tổ phải lập đàn phong tướng tự tay nâng ấn kiếm nguyên nhung trao cho Hàn Tín trước muôn thủ hạ cho có danh chánh ngôn thuận. Vậy mà cuộc đời Hàn Tín phải hứng chịu biết bao nhiêu thua thiệt kém Trương Lương.

Từ một kẻ thứ dân nương nhờ cơm Siếu Mẫu, có lần nhẫn nhục luồn trôn thất phu ở kẻ chợ, đành rằng đời vĩ nhân phải trải qua nhiều cơn bĩ cực chờ Thiên Thời mới rõ vàng thau.

Trương Lương thuộc dòng Khanh Sĩ gặp buổi vong quốc cũng phải lang thang nay đây mai đó tìm mặt gửi vàng, đến đâu cũng được trọng đãi.

Phân tách những nét chính của hai lá số, trước nhất Trương Lương hơn Hàn Tín ở cái gốc tuổi Giáp Ngọ được Can sinh Chi, Hàn Tín bị Can khắc Chi (Giáp Tuất). Trương Lương mệnh ở vị trí Quan Phù có ý tứ tính toán kỹ càng dẫn dắt đời sống.

Hàn Tín ở vị trí Bạch Hổ mỗi khi làm việc thì bất cứ giá nào làm cho kỳ đắc ý (còn tham vọng). Phúc đức của Trương Lương có Tham lang ở Thìn ngộ Tuần hoà hợp đủ nghĩa với vị trí Mệnh, Quan Phù có thể từ bỏ mọi tham vọng để nhàn du sơn thuỷ. Hàn Tín Phúc Thất Sát triều đẩu bị cả Tuần lẫn Triệt. Phải chăng vì thế cuộc đời đi đến chỗ bị thương.

Ba tuổi Giáp được hưởng Lộc tồn thì Giáp Ngọ đứng đầu vì Giáp sinh Ngọ, thứ đến Giáp Dần (Giáp và Dần đồng hành) đứng sau chót mới đến Giáp Tuất vì Giáp khắc Tuất.Trương Lương tuổi Giáp Ngọ đương nhiên được hưởng nhiều hành phúc hơn Hàn Tín tuổi Giáp Tuất.

Vậy tuổi mỗi cá nhân không phải là đương nhiên Can Chi tuần tự sắp xếp không có nghĩa lý, thật ra tiềm tàng một ý tứ sâu sắc như diễn tả hình bóng cả một cuộc đời.

Can là gốc là Phúc đức, Chi là ngọn là Thân thế. Hạn hành hên xui hàng năm xuống đến hàng tháng hàng ngày do Can của năm tháng ngày chế hoá với Can của Mệnh chiếm phần ưu tiên quan trọng điều khiển.

(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)

Nguyên lý của 60 hoa giáp

Mọi sinh vật sống trong vũ trụ đã được nhận định theo luật âm dương. Cây cỏ cũng có hoa đực hoa cái, côn trùng con kiến cũng có con cái con đực, cho đến vật dụng hàng ngày hầu như cũng dị biệt giữa đực và cái . Luật âm dương chi phối vũ trụ mọi sự sinh hoạt . Không gian đã có thiên là phải có địa. Thời gian càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn.

Đã có mùa đông giá lạnh, phải có mùa hạ nóng hầm, mùa xuân ấm tươi, phải có mùa thu dịu tàn.

Âm dương là tinh thần, phần vật chất là ngũ hành, Thiên can là dương, Địa chi là âm. Thiên can có ngũ hành của Can, Địa chi có ngũ hành của Chi. Ngũ hành của Can có cái dương và cái âm. Địa chi cũng vậy . Âm dương ngũ hành của Can có 10 chữ rất rành mạch. Nhưng địa chi sao lại 12, thấy trội dư 2 cái Thổ (1 dương và 1 âm) .

Thấy rằng thời gian của 4 thời tiết từ cái xanh tươi (xuân) đến nắng gắt (hạ) lần theo mát dịu (thu) kế tiếp lạnh lẽo (đông) rồi lại nối đến xanh tươi (xuân)... thời gian cứ quanh quẩn như thế phải mất trên 365 khoảng mặt trời đồng thời gian đêm tối.

Căn cứ theo đó đăt tên là 1 năm có 365 ngày trung bình. Khoảng thời gian này cứ cách 2 lần lại phải điều chỉnh thêm chút ít cho đúng như thời tiết luân lưu . Đó là năm nhuận dầu rằng âm lịch hay dương lịch cũng vậy (1). Một đằng tính 29 hay 30 ngày làm một tháng (âm lịch) một đằng lấy 30 hay 31 ngày là một tháng (trừ tháng 2 có 28 ngày) thì đến năm nhuận , một đằng lấy thêm một tháng , một đằng lấy thêm một ngày cho vào tháng 2 là 29 ngày.

Khoảng 365 ngày căn cứ theo 4 mùa, nếu cũng lấy 10 địa chi như bên can thì chia nó lệch lạc, phải lấy thêm 2 cái thổ để ấn định thêm 2 tháng, mỗi tháng khoảng chừng 30 ngày , tức mỗi mùa 3 tháng tròn , cứ như thế luân lưu lấy 4 mùa làm một khoảng thời gian chủ đích làm 1 năm.

Đáng lý 10 hoa giáp vào với 12 chi sẽ thành 120, nhưng xếp dương vào với dương, âm đứng với âm (can và chi) nên chỉ còn con số 60 gọi là 60 hoa giáp.

Nhìn vào 60 hoa giáp từ Giáp Tí đến Quí Hợi, 2 chữ Can Chi đứng chung với nhau không khác gì một tiểu gia đình. Can đứng trên làm gốc (chồng) , chi tiếp theo là phụ (vợ) . Biết rằng mỗi Can hay Chi đều có một tính chất riêng biệt là ngũ hành. Gia đình nào phu thê đầm ấm , sự nghiệp dầu lớn hay nhỏ hẳn là bước đường đời phải cứ sự tươi đẹp tương đối hơn ai, trái ngược vợ chồng xung khắc. ngày tháng trôi nổi trống đánh xuôi , kèn thổi ngược, tưởng sự bất hạnh phải lâu nhiều hơn người.

Năm tuổi căn cứ vào Can và Chi, từ Giáp đến Quí ( Can) vào với Tí đến Hợi (Chi) hẳn có sự luân phiên thay đổi, nhưng thay đổi tốt hay xấu phải phân tích cho ra nguyên lý và cũng là nguyên "ý" của Phục Hy âm thầm chỉ dẫn kín đáo.

Theo luật ngũ hành cái gì tương sinh là tốt, tương khắc là xấu. Vậy có thể hoạch phát một nguyên tắc như:

a/ Tốt nhất: Can sinh Chi (ví dụ tuổi Giáp Ngọ. Can Giáp ( Mộc) sinh Chi Ngọ (Hoả).

b/ Tốt thứ nhì: Can và Chi đồng hành ( Ví dụ tuổi Giáp Dần. cả 2 đều là Mộc).

c/ Tốt thứ ba: Chi sinh Can (ví dụ tuổi Giáp Tí . Chi Tí (Thuỷ) sinh Can Giáp (Mộc).

d/ Xấu tương đối: Can khắc Chi ( ví dụ tuổi Giáp Thìn. Can Giáp Mộc khắc Chi Thìn (Thổ) .

đ/ Nghịch cảnh: Chi khắc Can (ví dụ tuổi Giáp Thân: Chi Thân (Kim) khắc Can Giáp (Mộc)

Năm trường hợp này chỉ là một tấm thu hình rất nhỏ của kiếp nhân sinh . Sự hên xui đã ấn định như thế đó, còn tuỳ định mệnh phác hoạ hạnh phúc (vòng lộc tốn) tuỳ vị trí an Mệnh Thân (vòng Thái Tuế bổ khuyết tư thế) , nhất là Thân ( chính đương số với vòng tràng sinh) đã khuôn xử làm được những gì để mua chuộc.

Như tuổi Ất Mùi , Mệnh ở Mùi (Thái Tuế) , Thân ở di (Tuế Phá) biết chữ ất (Mộc) khắc chữ Mùi (Thổ) là đời tất nhiên gặp nhiều bước khó khăn. Nhưng Hợi Mão Mùi là 3 tuổi được hưởng hạnh phúc (Lộc tồn của tuổi Ất) Thân ở Di (nghịch cảnh) là cung Sửu cô lập được chữ THỌ cho phụ mẫu , thì định mệnh mới ngăn cản được phần nào, nhiều hay ít là do chữ Tài được mệnh điều động đến ách cung .

Tóm lại vận hạn của từng cá nhân, nguyên lý là do thời tiết. Đã có cái nóng phải có cái lạnh, đã có xanh tươi phải có vàng héo từng năm xuống đến tháng ngày giờ sinh thì đắc cách , khắc thì tai ương, phần chánh yếu là ở cái gốc (hàng can).Gốc được tưới bón hợp thời, cây được xanh tốt, gốc mà bị chặt cắt, dầu cây đương có nhiều hoa nụ tươi thắm, cũng phải úa vàng héo gục.

(1) Âm lịch thì cách 2 năm có 1 năm nhuận. Dương lịch thì 3 năm

(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top