Tử vi nghiệm lý - Tác giả Thiên Lương - 2
Thật khéo hai chữ Tài Thọ
Sau khi đọc truyện Kiều, ai học lý số cũng phải công nhận tiên hiền Nguyễn Du là một nhà đại danh lý số. Cụ đã khéo diễn tả những nhân vật trong sách như một bản lập thành tử vi kiệt tác:
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
là hình bóng của Đồng Âm cư Tí đắc Hồng Đào, oan nghiệt bị bồi thêm Hoá Kỵ. Sắc đẹp cô Kiều đến hoa phải thua thắm, liễu cũng phải nhường xanh tươi khác gì Thái âm ở Tí được Hồng Loan Đào hoa tô màu thắm, rồi bị nghiệp báo Hoá kỵ hờn oán tức là dây tơ hồng bị vấy bùn đen. Cô Vân lại khác:
"Vân xem sang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang"
đúng là tượng ảnh Thiên Phủ của tuổi Ất Hợi đóng ngay Thái Tuế. Ý nói Thúy Vân đứng đắn phương phi phúc hậu được hưởng phúc ( Lộc Tồn tuổi Ất)
Với Từ Hải:
Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao
.....................
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.
Chính xác là Phá Quân Tí Ngọ Tuổi Giáp đắc Hoá Quyền
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo
Phá Quân không những là một kiếm khách giang hồ nhà võ, còn là một nghệ sỹ, một tài tử thấu đáo đàn ngọt hát hay .
Tả Hồ Tôn Hiến:
Nghĩ mình phương diện Quốc gia
Quan trên ngắm xuống người ta trông vào
...
Phải tuồng trăng gió hay sao
Sự này biết tính thế nào được đây?
rõ ràng là một Nhạc Bất Quần nguỵ quân tử ( Tử Phủ Dần Thân Không Kiếp)
Để kết luận truyện Kiều cụ Tố Như tóm tắt bằng 4 câu:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
là tất cả nguyên ý 2 chữ Tài Thọ ở đây.
Tài ngoài ý nghĩa tài năng, còn một ý nghĩa là đo lường cắt giảm, chữ Thọ là nhân hậu.
Nguyên lý Tài do mệnh, Thọ do Thân là luật thừa trừ do định mệnh cắt giảm, còn nhân hậu do bản thân tự đào tạo . Tài Thọ là một đạo lý trá hình bằng 2 sao bắt đầu di chuyển từ Mệnh và Thân đến ở cung nào, mách bảo cho biết phần liên hệ giữa giữa Thân Thế với cung đó đã có sự hoán cải do luật thừa trừ mình đã gây nên như tuổi Đinh Hợi âm nữ sinh ngày 22 tháng 5 Giờ Mùi.
Mệnh (Thái Tuế) Thiên Tướng Thiên Phúc hành nghề cứu nhân độ thế. Thiên tài ở Bào có Cự Môn Hoá Kỵ. Thiên Thọ ở Phụ Mẫu hoà hợp với Thiên Lương. Có phải người này chịu hy sinh thân thế (Thân cư Phúc đức ở vị trí Tang Môn có Liêm Sát Thiên Hình) vì Phúc có phần khiếm khuyết để cho cha mẹ được tiếng hiền lương nhân hậu và anh em cũng được đầy đủ êm đẹp. Nơi đây thấy sự thừa trừ rất nhiều do định mệnh, thân thế băn khoăn nặng lo cho giòng họ gia đình. Cả Mệnh lẫn Thân từ Thiên Tướng đến Liêm trinh Thất sát không phải là nòng cốt. Thiên Phủ ở cung Tài mới là chính diệu hiện nguyên hình người này, thấy ngay đâu là tư cách căn bản của người điều động được Thiên Thọ.
Nếu người tuổi Tí Thân Mệnh đồng cung có nghĩa là định mệnh với mình là một. Nơi đây định mệnh thừa lệnh của Thân. Nếu được Thân Mệnh ở Thái Tuế là người nhân hậu ngay trong huyết quản, chữ Tài cắt dọn tất cả những gì trở ngại cho Mệnh. Là Tử Vi, hay Thiên Lương, Thiên Tướng, Tài sẽ làm cho đời ngộ nhận nhân phẩm, nhưng rồi ra Thái Tuế sanh đối với Thiên Thọ sẽ đâu lại hoàn đó. Trường hợp có Tả Hữu là tư cách vạn năng, bằng như đụng nhầm Không Kiếp là sinh bất phùng thời không được hưởng tư tưởng cao đẹp.
Người tuổi Ngọ sinh giờ Mão hay Dậu nếu là Mệnh Thái Tuế, Thân phải là Tuế Phá là người hành đồng bầy tỏ lòng trinh bạch của mình (Thân đặt ngay Thọ ở Mệnh) thì định mệnh cũng cải chính ngay thân thế (Mệnh đặt Tài ở Thân). Tuy ở trong hoàn cảnh thất ý nhưng lòng son sắt không thiếu nhân hậu.
Biết rằng Thân chỉ có 12 cung số. Thân Mệnh đồng cung, Thân Phúc đức, Thân Quan Lộc, Thân Thiên di, Thân Tài bạch, Thân ở Phối, không bao giờ có ở Phụ, Bào hay Tử là những cung có giây liên lạc hệ trọng với Mệnh vì cá nhân mỗi người có một hành động riêng, ai làm nấy hưởng.
Thân ở 6 cung thường được coi là cường cung thấy rõ ràng luật giang hồ ân oán. Mình thừa hưởng phúc tích luỹ, mình chịu ảnh hưởng công việc hàng ngày , mình gánh chịu kết quả tiếp xúc với ngoài, mình hưởng sự nghiệp ở hoàn cảnh nào, trên đường đời mình đã làm gì trong việc kết tóc se tơ. Từ 6 cung này Tài Thọ kiểm điểm tư cách rồi quyết định đến ở một cung nào trong 12 cung của đương số thêm bớt sao cho hợp lý đi đôi với tính cách cá nhân định mệnh an bài và thân thế cư xử .
Luật âm dương của địa bàn thay đổi hẳn tình trạng các chính tinh
Mặt địa bàn chia làm thành 12 cung theo luật âm dương xen kẽ hoạch định thành 3 đường lối:
a) Tứ sinh gồm có 2 cung dương (Dần Thân) và 2 cung âm (Tỵ Hợi).
b) Tứ chính có 2 cung dương ( Tí Ngọ) và 2 cung âm (Mão Dậu).
c) Tứ Mộ có 2 cung dương (Thìn Tuất) và 2 cung âm (Sửu Mùi).
Mười bốn chính tinh cũng theo phép âm dương chia thành 2 nhóm:
1. Tử vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh thuộc dương xuất phát nghịch hướng.
2. Thiên Phủ, Thái âm, Tham Lang, Cự môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân đi theo chiều thuận thuộc âm.
Khi đã an vị rồi, 14 chính tinh này thấy tập hợp thành từng khối: Sát Phá Liêm Tham, Tử Phủ Vũ Tướng đứng chung một phái. Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật lập thành một phái. Hai phái này không bao giờ có thành phần đứng lẫn lộn với nhau. Tuy đứng thành 2 phái, ỏ trong còn phân chia ra thành từng bộ như bên a có bộ Sát Phá Liêm Tham và bộ Tử Phủ Vũ Tướng, bên b có bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật.
Bốn bộ sao này phải tập hợp dưới thế đứng chân vạc làm tam hợp mới đủ cách. Những sao của một bộ cứ việc tìm kiếm tam hợp của mình mà đóng, trường hợp không đủ sao thì bỏ trống (vô chính diệu). Không thể lấy sao bên nọ lấp chỗ cho bên kia, vì thế mới thấy có chỗ 1 sao đứng chơ vơ một mình, có nơi 2 sao thành cặp bộ đôi, có chỗ hưu quạnh như xa mạc.
Nhiều trường hợp chiếu trong tam hợp, nhiều bộ sao không đủ cách như Thiên Phủ ở Hợi với Thiên Tướng ở Mão, còn ở Mùi vô chính diệu như vậy chỉ còn Phủ Tướng mà thôi. Cũng như Thái Dương Thiên Lương ở Mão gặp 1 Thái âm ở Hợi, còn Mùi cũng vô chính diệu tức chỉ là Nhật Nguyệt không phải là Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Cự Nhật.
Riêng bộ Sát Phá Liêm Tham luôn luôn 3 sao Sát Phá Tham đầy đủ không bao giờ thiếu, vì thế ảnh hưởng rất mạnh với tư cách thực hành là bản ngã của hạng vai u thịt bắp dám làm không ngại. Vì thế mỗi khi đáo hạn Sát Phá Tham là có những cuộc thăng trầm khá quan trọng phối hiệp cùng thế thiên thời thuận hay nghịch cảnh.
Đã biết mỗi đường lối dầu là sinh, Chính hay Mộ đều có từng cặp cung dương và cung âm. Theo cách an sao thì khi thấy 2 sao tụ họp ở bên cung dương thì khi đóng ở âm cung phải chia lìa đối xứng như:
Tử Phủ ở Dần Thân (dương) khi đóng ở âm cung thì Tử vi nếu ở Tỵ Thiên Phủ đương nhiên phải ở Hợi, trái lại Tử vi ở Hợi, Thiên Phủ đóng ngay ở Tỵ.
Cơ Lương ở Thìn hay Tuất (Dương) khi đóng ở âm cung nếu Cơ ở Sửu thì Lương ở Mùi trái lại Cơ ở Mùi thì Lương ở Sửu.
Đây là đạo luật hợp xung:
Hợp là nhập bọn, xung là chống cự. Hai bên đều có vây cánh tìm cách lấn nhau, chỉ có thắng là lấn được người, còn như bại mọi sự đều thua thiệt. Đó là lý lẽ của xung. Vì thế ý nghĩa của Hợp và Xung phải khác nhau.
Liêm Tham ở Tỵ (ÂM) thấy tam hợp từ Vũ Sát đến Vũ Phá là bối cảnh đưa đến tối đen. Nhưng Liêm ở Thân (Dương) Tham ở Dần (D) lại khác hẳn cùng đường lối tứ sinh.
Liêm nhập đoàn với Tử Tướng ở Thìn và Vũ Phủ ở tí thành bộ Tử Phủ Vũ Tướng chinh phạt Phá Quân. Bên kia Tham Lang ở Dần đứng vào hàng ngũ Phá Quân ở Tuất và Thất Sát ở Ngọ thành môt quân đoàn dám đương đầu chống cự Tử Phủ.
Sự thất bại, chánh đáng hay không còn nhờ ở một vài yếu tố khác là bên nào có Thái Tuế, thế xung bên nào khắc xuất bên nào để đi đến chung cuộc.
Những trường hợp ngoại lệ của Lục Bại Tinh
Trong Tử vi có 6 sao bị liệt danh là bại tinh phá hỏng mọi sinh hoạt: Song Hao, Tang Bạch, Khốc Hư.
Hai chữ Song Hoa (Đại Tiểu Hao) cũng đủ nghĩa lắm rồi. Tử Phủ ngộ Hao thì danh dự tiền tài phải sút kém. Trường hợp với Sát Phá Tham thấy nhiều dị biệt:
a) Thất sát gặp Hao là tang thương chực sẵn ngay bên.
b) Phá Quân gặp Hao thì tài sản sẵn sàng khánh kiệt.
c) Tham Lang gặp Hao lại là cảnh sung túc của người kín đáo.
Riêng đối với bộ Cự Cơ ở tứ chính (Tí Ngọ Mão Dậu) Ssong Hao thành một bộ phận rất quan trọng:
a) Cơ gặp Hao, mưu tính mọi sự được thông đạt dễ dàng.
b/ Cự rất cần Hao để có gì mài dũa trở thành quí giá (ám tinh Thạch trung ẩn ngọc).
Tang Bạch hai chữ đứng với nhau, tưởng có phần nào lạm ý. Tang môn là tư thế lo âu bất đắc ý. Còn Bạch hổ là một thành phần trong tam hợp Thái Tuế có thành ý xây dựng bằng tất cả khả năng hầu mong thành công. Chỉ trừ trường hợp Bạch Hổ gặp Đường Phù, mãn nguyện cho ai trở nên thần linh ghi danh hậu thế, nhưng nội tâm vẫn chưa cho phép mãn nguyện.
Khốc Hư đọc lên như 2 tiếng thét kêu thảm thiết, nhưng mỗi sao có một
đường hướng riêng nên tuy bắt đầu cùng một gốc ở Ngọ mà đi, mỗi sao có một cá tính riêng.
Khốc thuộc âm đi nghịch. Hư thuộc âm đi xuôi.
Nhận thấy riêng Hư không bao giờ gặp Thái Tuế mà thường trực có Tuế Phá, thành chữ Phá Hư trùng điệu hoà nhịp. Tưởng không còn lý do gì đắc ý, luôn luôn trong cảnh bất mãn.
Khốc theo đường nghịch hướng, trên khắp cung dương đều có đôi bạn Thiên Mã Điếu khách được ghi là ngựa có nhạc khua tức là hãnh diện với đời. Sự thật có phải thế không ?
Thưa rằng còn nhiều chi tiết phải phân tích cho hợp lý tốt xấu. Nếu chỉ có Mã Khốc Khách tức là luôn luôn trong thế bất mãn (Tuế Phá, Tang môn, Điếu khách) lại cho là hãnh diện, thật không hợp lý. Chắc chắn phải thiếu một thành phàn quan trọng mà bỏ sót. Đây là Lộc Tồn, Lộc Mã Khốc Khách, ngựa được no béo mới chạy có nhịp khá vang dội.
Trường hợp ngoại lệ này chỉ có 2 tuổi Giáp và Canh mới có, mà phải là Giáp Thân Tí Thìn và Canh Dần Ngọ Tuất. Ngoài ra không một tuổi nào đắc Lộc Mã Khốc Khách. Trái hẳn với người Thái Tuế tuổi Giáp phải là Dần Ngọ Tuất mà Canh thì phải Thân Tí Thìn, vì Mã chỉ đứng trong hàng ngũ đối lập. Phần ngoại lệ này ban phát cho người đầy nghị lực, nhiều hay ít tuỳ theo mức độ như sau:
1) Canh Tuất
2) Giáp Thìn
3) Giáp Tí
4) Giáp Thân và Canh Ngọ
5) Canh Dần (nhiều nhất là Canh Tuất, tối thiểu là Canh Dần).
Trên các âm cung Thiên Khốc thường trực trong tam hợp Thái Tuế, vì thế 4 chính cung Tí Ngọ Mão Dậu được liệt vào chỗ đắc địa (2 dương cung Khốc Hư đứng chụm thành nhiều tiếng dội, 2 âm cung Khốc sát nách Thái Tuế).
Quân sư Khổng Minh sanh năm Tân Dậu ngày 10 tháng 4 giờ Tuất, Tả Hữu Điếu khách nhập Mệnh được Thái Âm Hợi chiếu lên. Đây là tư cách một thầy đời hữu công vô lao, phù hợp với Thiếu Dương ở Mão thủ THÂN bị lôi cuốn vào một thế hệ không sao giữ nổi chánh nghĩa mặc dầu cố hết công trình xây dựng (Mộc mệnh sinh xuất cho Thái Dương, nghịch lý âm dương) Mệnh Thân Quyền Phá Hư đối diện Thiên Di Thái Tuế Thiên Khốc, rõ ràng mình ở thế xuống dốc mà kẻ đối nghịch được chính nghĩa dội vang hoà hợp ở thế Kim khắc Mộc, rốt cuộc họ thắng.
Tương Phố phu nhân sinh năm Đinh Dậu ngày 22 thnag 11 giờ Mão. Mệnh vô chính diệu đắc Thái Tuế Thiên Khốc, Thân Tử Tham Phá Hư Xương Khúc Khôi Việt Song Hao . Những tiếng khóc chồng lâm ly của bà (giọt lệ thu) kém gì lời gào thét uất hận "Thiên Hồ! Đế Hồ" (Trời Đất Thánh Thần ơi) của Sào Nam Tiên sinh đứng trước quốc nạn.
Thiên Khốc Thái Tuế đưa thân thế bà lên hàng danh dự cao đẳng phụ nữ, Song Hao lưu truyền mãi mãi.
Lục bại tinh không khác gì những đường tơ nối chỉ trên mặt lụa, người thợ cố công vê xe cho tròn dệt nên những bông hoa tươi đẹp. Nhưng nhìn kỹ vẫn thấy những mối chắp nối không được trơn nhẵn.
Bởi đâu Bạch Hổ Đường Phù trở nên ác hại?
Biết rằng Bạch Hổ là 1 vị trí trong tam hợp Thái tuế có tính cách cương quyết với bất cứ giá nào làm việc để đạt tới mục đích, dầu rằng có ý nghĩa vị tha, nhưng cũng không ngoài thoả mãn dục vọng.
Đường Phù là ngôi nhà nổi lênh đênh trên mặt nước không nơi căn cứ, một ngày tan rã chìm đắm lúc nào không biết. Một đường lối chứng minh kín đáo sự thọ hưởng Lộc tồn: chính đáng có Quốc ấn mà phiếm hư là Đường Phù.
Quốc ấn luôn luôn trong tam hợp Lộc tồn thuận theo chiếu xuôi, trái lại Đường Phù đi theo chiều nghịch và ngồi ở vị trí nghịch lý âm dương nơi xuất phát.
Bạch hổ, Đường Phù liên lạc với nhau chỉ có ở 6 tuổi Bính Đinh Mậu Kỷ Nhâm Quí tức là cảnh trí Lộc tồn nghịch lý âm dương không thuận cách thọ hưởng mỹ mãn. Bốn tuổi Giáp Ất Canh Tân không bao giờ diễn tả Bạch Hổ Đường Phù dầu là người Tuế Phá Tang môn Điếu khách.
Vậy Bạch Hổ Đường Phù có ý nghĩa với người Thái Tuế chẳng may ở 6 tuổi có hành can Bính Đinh Mậu Kỷ Nhâm Quí, không nên quá tự hào coi thọ hưởng Lộc tồn như thù lao xứng đáng với công khó nhọc mình đã tần tuỵ xây đắp cho xã hội. Thời gian gặp Lộc hay mệnh có Lộc tồn phaỉ có thời gian gặp Bạch Hổ Đường Phù sẽ diễn biến cảnh nhà tan nghiệp đổ gần đất xa trời.
Đường xuôi thuận lý phải là Bạch Hổ, Quốc ấn với Tướng Quân là bộ ba đanh thép như giấy tờ chứng minh hợp pháp cho người đủ tư cách làm chủ đứng đắn lâu dài bền chặt. Trái lại Đường Phù luôn ở trong tam hợp với Song Hao và Kình Đà là thế mỏng manh bế tắc nuốt khó trôi mà nhả ra vướng nghẹn.
Người Thái Tuế, trường hợp Bạch Hổ Đường Phù trong tam hợp đáo hạn Thái Tuế dễ trút hơi thở cuối cùng với uy danh tiếng lớn được ghi mai hậu như 2 tuổi:
a) Đinh Mão ngày 11 tháng 5 giờ Sửu (thọ ngoài 70)
b) Nhâm Thân sanh ngày 3 tháng 8 giờ Dậu (thọ ngoài 50)
Hai tuổi này tuy Mệnh Thân khác nhau , nhưng cùng một hoàn cảnh : người hỏng Mệnh được Thân (Đinh Mão) người được Mệnh lại hỏng Thân (Nhâm Thân). Cả 2 đều ý thức được cuộc sống đời mình (vị trí Quan Phù) nên phải hành động thế nào cho khỏi thiếu bổn phận, đều trở về cõi đất trong cuối hạn đắc thiên thời có Bạch Hổ Đường Phù để ghi tên muôn thuở.
Tuổi thứ 3 sinh năm Nhâm Tí ngày 2 tháng 9 giờ Thìn với Liêm Tướng thủ mệnh ở Ngọ và Tử Phủ (Thân) ở Dần bị cả Tuần lẫn Triệt. Hai chữ Tài Thọ tự tạo nên một Ngô Thời Nhiệm, nơi qui tụ tất cả cái gì liêm chí khẳng khái mà không mấy ai hiểu rõ lòng, vị trí Tuế Phá (Mệnh) và Tang môn (Thân) vì Cô Quả Quan Phúc dẫn dắt cuộc đời trải qua bao sang gió (3 đại vận 32-41, 42-51, 52-61) vượt qua 2 chữ THỌ (50 và 60) đành khoanh tay trước một thiên thời đắc cách (Thái Tuế) với Phá Quân Kình Dương ở Tí liên hiệp Bạch Hổ Đường Phù tam hợp, được Cô Thần mời rước năm Thìn làm linh thần thọ đắc xa xăm tiếng dội.
Những màn cảnh phát sinh Liêm Tham Tỵ Hợi và Liêm Sát Sửu Mùi
Liêm Tham Tỵ Hợi là hình ngục, Liêm Sát Sửu Mùi là chết đường. Vậy nguyên nhân nào mà có những trường hợp đó?
Nhìn vào địa bàn từ vi phân chia 12 cung âm dương với 14 chính tinh chiếm đóng vị trí. Riêng bộ Nhật Nguyệt trình bày dể thấy đầy đủ ý nghĩa tư cách chu đáo hơn hết. Thái Dương phải ở dương cung và Thái âm phải ở âm cung, đù rằng lạc hãm vẫn xứng đáng phẩm hạnh một ngày sẽ sáng tỏ. Nếu chỉ chú ý vào vị trí sáng ngời mà không kết hợp lý âm dương chỉ là a tòng nhất thời không chánh đáng.
Đứng bên Nhật Nguyệt có Đồng Lương Cơ Cự toàn bộ trình bày lý thuyết đạo học. Đối diện bên phía thực hành phải kể Sát Phá Liêm Tham có Tử Phử Vũ Tướng cùng phái lưỡng nghi. Vậy không bao giờ có sự pha trộn lẫn lộn như Vũ Khúc đứng với Thiên đồng hay Phá Quân ngồi cạnh Cự môn.
Nói đến Liêm Tham hay Liêm Sát là nói chung đến 8 sao bên phía thực hành có kết quả rất mau cụ thể dẫn đễn cũng có thể nói là luật nhân quả bù trừ.
Sát Phá Liêm Tham với Tử Phủ Vũ Tướng cùng với một phái thì Liêm Tham và Liêm Sát đều có nguyên cơ do Tử Phủ Vũ Tướng khiến nên. Bộ Tử Phủ được đặt lên cao như những gì thái thượng chính đáng. Bộ Sát Phá Liêm Tham chỉ phù thuộc với công việc thực thi xây dắp.
Sự xắp xếp trên 12 cung địa bàn thấy những bộ sao đóng ở dương cung có đủ bề thế tốt đẹp có ảnh hưởng tươi thắm, trái lại ở âm cung thấy nhiều sự hung hãn mất thể thống trật tự. Vì thế Liêm Tham hay Liêm Sát cho đến Liêm Phá, Vũ Phá hay Vũ Sát tức là toàn bộ Sát Phá Liêm Tham ở âm cung hầu đóng vai trò khuấy nước chọc trời coi như công việc hàng ngày phải làm.
Liêm Tham Tỵ Hợi vì đâu mà phát sinh ra?
Có phải vì Tử Phá (bất trung bất hiếu) nguồn gốc do Vũ Sát là ương nghạnh hung bạo tham lam vị kỷ, có nghĩa là tư cách vị kỷ hung bạo dẫn đến hành động phản bội sẽ hái kết quả nhà tù (tam hợp Vũ Sát Tử Phá và Liêm Tham).
Liêm Tham Sửu Mùi (chết đường) là kết quả của Tử Tham ( hiếp đáp ép bức người lành) bởi tư cách Vũ Phá (gian ác liều lĩnh ức hiếp người lành sẽ phải chạy trốn chết đường).
Hai thế đứng này đầu giây giật mối do Vũ Khúc hãm Tham lang vị kỷ đứng với Thất sát nông nổi, Phá quân liều lĩnh làm gì mà không tù đầy chết đường.
Trên đây tất cả diễn cảnh của âm cung. Đối với người dương mệnh hẳn ở vị trí Thiếu Dương hay Thiếu âm, người quá tự hào, kẻ bị nhiều thua thiệt, tức nước thành bể bờ khiến xui tình trạng. Con người âm mệnh vì một mối ưu tư gì riêng biệt Tuế Phá lộng hành trái với lẽ phải đành chịu chung số phận. Riêng người Thái tuế ý thức được cuộc sống tuỳ theo hoàn cảnh hành động tuy có nặng tay, nhưng không ngoài ý nghĩa lợi ích chung mà phải gánh vác, dầu rằng cũng có phần vị kỷ.
Tào Mạnh Đức (Tào Tháo) sanh năm ất Mùi ngay 6 tháng 12 giờ Tuất ở cuối đời Hán.
Người Bạch Hổ Vũ Sát là tất cả cái gì cứng rắn (Kim mệnh, Vũ Khúc Thất sát, Bạch Hổ đều là Kim) . Hỏi rằng có thể nào ngăn cản được người này trước cuộc rối rắm mất trật tự của xã hội. Ông không hạ bệ Hiến Đế, cứ địa vị Thừa Tướng thừa hành làm việc. Đâu có phải là bất trung hiếu (cung quan Tử Phá bị triệt) . Thật rõ ràng hai chữ Trung Kiên. Vì thế Liêm Tham ở Hợi đâu có tơ hào đến ông. Liêm Trinh ở đây bị giảm sút bởi Kim Mệnh phụ giúp cho Tham Lang (Thuỷ ) ở Hợi (Thuỷ). Nếu Liêm Tham ở Tỵ cần phải thêm Hoá kỵ (Thuỷ) giữ thế thăng bằng cán cân không nghiêng lệch sẽ thành vô sự.
Tại sao không nói đến Liêm Tham ở Dần Thân?
Liêm Tham nơi đây dương cung đắc địa. Liêm Tham không còn đắc địa với nhau. Liêm Trinh đứng trong hàng ngũ của Tử Phủ Vũ Tướng mà Tham Lang nhập phe phái với Thất Sát Phá quân. Hai bên đứng đối diện nhau.
Đây là trường hợp được đề cao là Đế xuất binh chinh phạt Phá Quân, vì thế Phá Quân bị đeo tiếng bất nhân phản trắc.
Sự thật còn nhiều uẩn khúc. Nếu là tuổi Dần Ngọ Tuất mà Mệnh Phá Quân ở Thìn. Nơi đây Phá quân dành được chính nghĩa (Thái Tuế) thì Tử Tướng kia chắc chắn đã phạm lỗi gì (Tuế Phá) nên Phá Quân mới ra mặt chống đối. Tiếng bất nhân chỉ bị gán đặt, sự thật khác hẳn xa vời.
Còn trường hợp Liêm Tham Tỵ Hợi, Liêm Sát Sửu Mùi đóng ở nhược cung (Phụ, Tử, Nô, Điền) ... dương nhân hẳn là Cơ Nguyệt Đồng Lương đóng ở dương cung, đâu có gì là ác hại. Nhưng nếu có Hình Riêu Không Kiếp nằm trong đại hạn Liêm Tham, cũng dễ bị tù tội cuốn theo. Đó là nghiệp quả chung đương số phải gánh chịu.
Tất cả những màn cảnh hỉ nộ ái ố tốt đẹp hay xấu xa đều do định mệnh dự phác xếp đặt. Thực hiện được hay không còn nhờ một yếu tố quan trọng là THÂN hành động. Tài Thọ có thể quyết định định xoay hẳn ngược chiều sóng gió.
Tào thừa Tướng đem được chữ Thọ (nhân hậu) đến cung Điền (sự nghiệp) mặc dầu đã nạp sẵn Triệt (30 %). Vì thế chữ Tài mới đủ khẳ năng giảm thiểu ách với Thái âm ngộ Kỵ và Liêm Tham (Thân) ở Hợi .
Có phải đức năng thắng số là ở đây?
Phẩm chất riêng biệt giữa Văn Xương và Văn Khúc
Hai cung Thìn Tuất là 2 vị trí xuất phát cho 3 bộ trung tinh chính yếu là Long Phượng (biểu tượng cho năm) Tả Hữu (tháng) Xương Khúc (giờ) theo luật dương thuận âm nghịch mà đi. Trên danh nghĩa dương là quân, âm là thần nhưng sự khắc chế của ngũ hành thì Tây (Kim) khắc Đông (Mộc) nên Phượng Các, Hữu bật và Văn Xương cùng phát xuất từ Tây qua Đông đều có tính cách trội hơn Long Trì, Tả Phù và Văn Khúc.
Bộ Long Phượng là bộ mặt của Tam Hợp Thái Tuế, nhưng với người tuổi âm mới đủ 4 sao Long Phượng Hổ Cái là quí cách của người được định mệnh giao phó trách nhiệm để làm việc cao cả. Người tuổi dương chỉ có 3, nhường Phượng các cho đối phương (Tuế Phá) theo tinh thần mã thượng gọi là khen ngợi tư cách và bảo đảm cho bản thân những khi dám ra mặt chống chọi (Giải thần luôn luôn sát nách với Phượng Các) .
Hữu bật đi từ chỗ tối ra chỗ sáng có ý chí quật cường võ dũng tranh đấu thực lực khác hẳn bạch diện thư sinh Tả Phù chỉ là hiền thần trợ tá trung thành. Hai sao thoát thai của Tả Hữu cũng cùng tính cách. Tam thai chỉ là danh vị cao đẹp trên chánh nghĩa ban thưởng cho người có công lớn như Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo. Bát toạ sao của quỹ đạo Hữu bật là 8 ngôi chánh yếu như thượng thọ Tổng Trưởng có thực lực điều khiển một nội các.
Còn Xương Khúc thường được bao gồm là bộ văn học, người nào mà Mệnh hay Thân có 1 sao đó đều được dự phần hãnh diện giòng dõi nho gia. Nhưng giữa 2 chữ vẫn có một ý nghĩa cách biệt cần phải phân tách đâu là giá trị trung thực. Văn Xương là tên một vị học giả được đề tặng là Đế quân về văn học, đủ mọi vẻ thông thái thịnh đẹp như ý nghĩa của chữ " Xương" hán tự. Còn Khúc là 1 đọan , Văn Khúc là một bản đàn, bài thơ, một vở kịch chứa đựng nhiều tình tiết nghệ thuật: tức là cả Văn Xương bao gồm cả Văn Khúc như thầy với trò.
Trong mỗi lá số nếu là giờ âm thì Văn khúc đứng chùm theo Văn Xương trong thế tam hợp, thầy trò biểu dương lực luợng. Trái lại giờ dương thì Văn khúc đứng ở thế nghịch địa không bao giờ quên để hai sao phụ thuộc là Thai toạ Phong cáo thay mặt đề cao Văn Xương lỗi lạc là bậc tam công xứng đáng được phong tặng ấn tín một vị nguyên huân (Thai Phụ Phong cáo xuất phát từ Văn Khúc đến nhập vào tam hợp của Văn Xương).
Đến ngay hai sao thuộc quỹ đạo của Xương Khúc cũng thấy sự khác biệt tính cách: Ân Quang là một phần thưởng vinh dự sáng ngời, Thiên Quí là một bảo vật giá trị mà thôi. Tóm lại Văn Xương là bao gồm cả một nền văn học, Văn khúc là một khoa mỹ thuật.
Cụ Sào Nam là một văn khoa chính phái sanh năm Đinh Mão ngày 11 tháng 5 giờ Sửu. Thân cụ nêu cao danh nghĩa với Thiên Lương Long Phượng Hổ Cái.Bộ âm dương tuy ở trong tình trạng đen tối thiết tưởng bộ Tuần Triệt quí giá này vô cùng hữu ích cho Thái âm xứng danh phẩm cách. Văn Xương Hoá Quyền ở Quan, Hoá Khoa ở Tài làm gì mà không mão cao áo gấm ở chốn triều đình (Thai Phụ Phong Cáo ở Thân). Chỉ có một vị trí Tang môn (Mệnh) và Thiên Đồng ở Quan cụ xoay hẳn chí hướng để lại ngày nay một số tác phẩm quí giá sánh với Thai Phụ Phong Cáo của một Thiên Lương Xương Khúc đã được nhà đại văn hào Lương Khải Siêu hết lời khen ngợi.
Hung Sát Tinh ngộ chế là đáng quý
Hung tinh là bộ Sát Phá Tham, ác sát tinh trong đó có lục sát Không Kiếp Kình Đà Linh Hoả được liệt kê đứng đầu. Ngoài 6 tên hiệu này thật ra còn 1 số như Thiên Hình, Hoá Kỵ, Kiếp Sát, Lưu Hà có những quyền cước có thể lợi hại lấn lướt lục sát, chứ Phá Toái Khốc Hư chưa xứng đáng mang danh là ác sát tinh.
Phương diện phá hoại 3 cặp Không Kiếp, Kình Đà, Linh Hoả, mỗi cặp một cách hành hạ: Không Kiếp hay kìm hãm, Kình Đà gieo tai hoạ, Linh Hoả giảm thiểu sức khoẻ. Hình với Kình một cặp phi đao một mười một chín. Hình trội hơn về phần nghiêm khắc. Hoá Kỵ là sao giảm thiểu gây thị phi oán hận, còn tai nạn phần nhiều là nội thương nhất là bên phái yếu, máu huyết sinh sản khó khăn. Kiếp Sát Lưu Hà bộ này có một sứ mạng phải khắc nghiệt với những ai quyết tâm sấn sổ lướt qua định mệnh. Số đã định sao thế nhân phải chịu hoàn cảnh, trường hợp làm liều Kiếp Sát Lưu Hà sẽ thi hành xoè 2 lưỡi kéo cắt đứt cuộc đời (Phạm Trương Chi). Tóm tắt tất cả công việc hàng ngày của đám ác sát làm phận sự của tên ngục tốt.
Nhưng mỗi khi họ được chế biến lại là 1 cuộc cải trang thành những trang anh tuấn xuất chúng, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ tư cách nổi bật lên xuất sắc. Họ cũng như những vị thuốc có danh là độc dược ai chẳng may dính phải, đời chịu điên cuồng không chết là may. Một khi họ được đưa vào cuộc phân chất rồi bào chế sẽ trở nên những môn thuốc đặc sắc ích lợi. Những sự lột xác đó là cảnh trí của ác sát tinh ngộ chế.
Lá số tuổi Quí Sửu sinh ngày 23 tháng 9 giờ Tuất chứa đựng nhiều tình tiết éo le có khá nhiều hung sát tinh ngộ chế. Hai chữ Quí Sửu thấy ngay tuổi gặp nhiều nghịch cẳnh (chi khắc can) tuổi Sửu Mệnh nằm ở Tí, định mệnh ám chỉ bắt đời chịu nhiều thua thiệt trực tiếp ngay cái thế lý tưởng của tuổi. Thân cũng vậy ở Thân cung có nghiã là tháng 7 cũng ừ tháng 4 cũng gật, cố chịu đựng với chữ ĐỨC (Long đức) đến Thất Sát (cung Quan) quá đen tối là cả 1 bộ hung tinh (Sát Phá Tham) hãm địa trình bày cho biết đương số cũng đã một lầm hai lỡ ráng cam chịu thiệt thòi.
Tham ngộ Kỵ những cảnh giam cầm khó tránh, ấy thế mà vẫn thoát như thường. Thân là Phá Quân gặp Mộc dục là hình dạng một kẻ bất lương hoang dâm trác táng vô độ. Chỉ lệch một chút tuổi âm đóng cung dương Tham Kỵ phải nói là được Triệt tẩy uế chỉ có 30 % cùng với Phá Quân đắc Lộc Hỉ khiến. người này trở thành một kịch sỹ rất tài tình. Nếu Mệnh ở âm cung hoá ra sai lệch hết vì Triệt đập tan nát đến 70 % còn gì là Tham Kỵ. Tham lang vẫn đượm vẻ đào hoa phong nhã. Phá Quân trở nên nhã nhặn vô tâm, Hoá Kỵ biến chế thành khôn khéo mềm dẻo. Những tính cách này chỉ là tính cách vai tuồng phải đóng mà đóng rất khéo lột hết được tinh thần.
Sự thật Tham Lang đã được sao tầm chế thành thẳng thắn lương thiện, truỵ lạc hư thân biến mất hết chỉ là bóng dáng cũ xưa mà thôi. Thất Sát ở Quan, người bạn nâng đỡ mình, trước hung hăng bao nhiêu nay gặp cảnh khốn cùng (Sát phùng Suy) cũng không nên cơm cháo gì, ở vị trí Thiếu âm ý nghĩa không ngoài sự vụng tính. Mệnh ở Trực Phù tuy thua thiệt so với bên ngoài vẫn không đáng ngại (Tí khắc Ngọ Thiên di) dầu là võng giá nghênh ngang (Tử vi ở Ngọ), sự thật rõ ràng con số (0) không bạch định, lẽ phải trái vẫn ở ngõ ngoài.
Hung sát tinh ngộ chế là cả một công trình ma luyện như các bâc thượng tiên luyện tinh đơn cải lão hoàn đồng trường sinh bất tử.
Đành thế, nhưng trường hợp nào biết được là hung sát tinh thu chế?
Trong bộ máy tinh vi của lý học luôn luôn có những động cơ lồng vào để phá thải và kìm hãm những tình trạng cần phải sửa đổi cho thật lỗi lạc hay đập nát sa thải. Đó là Triệt Tuần Thiên Tài Hoá Khoa.
Tuần Triệt ở giữa 2 cung không phải 2 cung đều chịu ảnh hưởng như nhau. Theo luật âm dương phải cân nhắc theo tuổi số như người dương (dương nam hay dương nữ) ảnh hưởng bên cung dương nặng hơn có nghĩa là đến 70 %, bên cung âm chỉ còn 30 %. Trái lại người âm (âm nam, âm nữ) cung âm nặng đòn cân hơn cung dương cùng mức độ sai biệt 70 so với 30. Triệt có ý nghĩa nặng nề phá nát , Tuần chỉ là ngăn cản, Hoá Khoa có ý thấm nhuần gột rửa tự tu cải sửa, còn Thiên Tài cẩn thận hơn, trước khi giảm bớt phải đo lường tức là châm chấp lá số biến đổi .
Tất cả hung sát tinh không khác gì cây phụ tử có những rễ cái gọi là củ phụ tử chứa chất độc ghê gớm, nhờ các nhà danh y khéo sao tẩm trở thành những vị thuốc bổ giá trị sánh đồng hành cùng sâm nhung và quế.
Sau đây là một lá số có đến 3 ác sát tinh thụ chế ở rngay Mệnh nổi tiếng là học giỏi như thần đồng, thi đậu tú tài hải ngoại đầu tiên ở Việt Nam. Tuổi Canh Tí sanh ngày 9 tháng 8 giờ Tỵ, chỉ vì là người dương không hợp với Thái âm thủ Mệnh và Thân ở vị trí Tang môn nên sự nghiệp không có gì đáng kể, so sánh tài năng với những người quyền cao chức trọng đương số vẫn lấn lướt rõ ràng. ấy thế mà vẫn ở địa vị khiêm nhường, xem ra vẫn còn may.
Hai chữ Canh Tí cũng biết là người có năng lực dư dả thế nào, tài cao học rộng hay dẫu oan trái vẫn đeo theo không rời nửa bước (Mệnh ở Thìn, tuổi Tí, Thái âm hãm, Thiên Hình, Hoá Kỵ Địa Kiếp đắc Tuần).
Hào khí của Lục Sát Tinh
Thường thường thấy khen số ông này đẹp nào là Tử Phủ Vũ Tướng Hữu Thai Tọa, số vị kia đắc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương Khôi Việt Khoa Quyền Lộc, ngài nọ hiển hách Sát Phá Tham Tướng ấn. Có lẽ trên con đường tìm học nói chung, và Tử vi là một môn học nói riêng ở ta theo truyền thống phái Nho đã ăn sâu có gốc rễ, cái gì không nghiêm chỉnh không phải là điều được khen ngợi hoan nghênh, cái gì thành lập không do con đường chính đáng đại cuộc không được chấp nhận, tức là chỉ công nhận vương đạo và đảo phá bá đạo, không cần biết đến sự phải trái công bằng hợp lý chính nghĩa.
Bộ lục sát tinh ở Tử vi vì thế được coi như phường vô học cục cằn thô bạo, đi dến đâu đeo tai hoạ đến đó như Hoàng Sào, Từ Hải không được người thức giả ghé mắt. Nếu có chiếu cố cũng hạ bút miệt thị cho là hung đồ không tư cách của hạng thượng lưu xã hội.
Vậy Lục sát tinh có phải chỉ là bè lũ chuyên tác hại làm những việc tồi tệ như vậy không?
Thưa không phải là không trúng. Đã lâu chỉ nghe đến tên Không Kiếp Kình Đà Linh Hoả, người biết số đến người có số như muốn xa lánh coi như hung thần giáng hoạ. Vì đã yên chí đoàn sao đó, chỉ chuyên phá hoại như đám tiến quân tiên phong đi dến đâu là phải thi oai khủng bố để đám hậu tập dễ bình định đem lại trật tự. Có biết đâu cái khó khăn họ phải chịu đựng, mà còn kiến tạo mọi sự dễ dàng cho người đi sau như mở đường, đắp lối, bắc cầu, lấp hố họ phải ra công một cách vô cùng mau lẹ và đắc lực, những cánh quân khác chỉ cứ từ từ tiến bước. Vậy thiết tưởng mọi sự ở đời, cái gì cho là đẹp phải có mặt trái, và cái gì cho là xấu phải có mặt phải.
Lục sát tinh là 6 cái tên của 6 vì sao theo sách số cho là tai hại liên hệ đến người có số hoặc ở Mệnh, hoặc mỗi khi vận hành chuyển đến gặp chúng là Không Kiếp, Kình Đà, Linh Hoả. Địa không Địa Kiếp - (Hoả) đắc đại ở Tỵ Hợi, Dần Thân. Hoả tinh Linh tinh –(Hoả) đắc địa ở Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ. Kình Dương Đà La (Kim) đắc địa của Kình ở Thìn Tuất Sửu Mùi, còn Đà đắc địa ở Dần Thân Tỵ Hợi.
Sáu sao này tính cách, đắc địa hay hãm địa gần như tương tự nhau:
Đắc địa – Mưu trí, can đảm, dũng mãnh
Hãm địa – Hung bạo, liều lĩnh, gian ác
Đặc biệt mỗi bộ:
Không Kiếp - dám nói, dám làm
Kình Đà - Kiêu căng, bất khuất
Linh Hoả- Chí khí hiên ngang
Biết rằng Lục sát tinh chỉ là những bộ sao phụ như Khôi Việt, Long Phượng, Xương Khuc... nhưng chúng có tính cách khảng khái không phải là bậc đàn anh hào khí, không phục tùng. Chúng là đám tứ chiếng có đủ mọi mặt đối xử với đời, nếu không phải là khách hào phóng chí khí không chi phối nổi. Chúng chỉ chịu sự điều khiển của Sát Phá Tham là chòm chính tinh uy vũ. Nhưng phải phân chia quân nào phải có cấp chỉ huy trực tiếp của họ mới nên việc. Như Không Kiếp chịu sự điều động của Phá Quân, Kình Đà chấp nhận sự hướng dẫn của Thất Sát, Linh Hoả tuân theo nghiêm lệnh của Tham Lang.
Một khi họ đã chịu khép mình theo cấp chỉ huy chính cống của họ thì mấy sông cũng lấp, mấy đèo cũng qua, không quản ngại khó khăn như Phá Quân được Không Kiếp ở Dần Thân Tỵ Hợi, Tham Lang được Linh Hoả đắc địa, Thất sát được Đà La ở Dần Thân Tỵ Hợi hay Kình Dương ở tứ mộ, và nhất là người tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi, sự thành đạt khó có gì so sánh. Đây là công nghiệp của hung sát tinh đắc cách đã thành câu nói: 'Phát dã như lôi".
Trái lại khi họ ở thế hãm cũng như mặt trái đời, với thầy nào trò nấy sự thành tựu thường làm lệch đòn cân về phần tàn hại, nên người đời sợ mà đặt tên là hạn "TRÚC LA" . tuy vậy trước hay sau đó chúng đã đền bù cho đương số 1 phần nào gọi là an ủi.
Nhận thấy Lục sát tinh chỉ có 2 hành, đa số là Hoả (4) và Kim (2) vậy cho nên chỉ có mệnh vô chính diệu Hoả và Kim. một khi có sát tinh đắc địa hợp hành với Mệnh, họ dám tranh ngang ngửa với Sát Phá Tham, đừng nói gì đến Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Cự Nhật. Họ sẽ thành công phải là rực rỡ.
Mệnh vô chính diệu hành Hoả gặp Không Kiếp (Dần Thân Tỵ Hợi) là vô chính diệu đắc Không. Nếu gặp Hoả Linh ( Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ) hay Mệnh Kim có Đà la (Dần Thân Tỵ Hợi), Kình Dương (Thìn Tuất Sửu Mùi) là độc thủ.
Những sao này không cho phép Tuần Triệt hay Thiên Tài đụng đến nghĩa là chúng còn nguyên vẹn tính chất hào hùng bất khuất của họ mới đắc cách.
Vận hành như vậy, nếu Mệnh Hoả vô chính diệu có Không Kiếp, nếu chuyển đến cơ hội gặp Phá Quân đắc địa, mệnh Linh Hoả gặp Tham Lang, và Kình Đà gặp Thất Sát sự nghiệp không bút nào tả nổi sự hoạch phát, trường hợp đắc thiên thời, nhân hoà và địa lợi. Còn Sát Phá Tham nếu hãm, mưu sự lúc đầu hơi ngang trái, rốt cuộc họ vẫn thông đạt như thường. Vì họ là đoàn nhân sự chuyên nghiệp gặp trường hợp cấp chỉ huy chưa dám quả quyết, họ là cấp thừa hành có dư năng lực, chỉ gặp khó khăn một giai đoạn nhỏ, rồi họ cũng tạo nổi thành quả khả quan về mình.
Xin thưa Tử Phủ Vũ Tướng đừng hòng lấn át Lục Sát tinh, dẫu là Tử Phủ đắc địa gặp họ cũng đắc địa càng có sự tranh chấp quyết liệt. Nếu hoàn cảnh Tử Phủ hãm, họ qua mặt như vào chỗ không người ngăn cản . Còn nói chi Cơ Nguyệt Đồng Lương gặp họ hầu như hoàn toàn bị chi phối tuỳ theo bộ sao Lục Sát và vị trí đắc hay hãm địa của họ như:
Không Kiếp – Bị lừa gạt
Linh Hoả - đoản thọ
Kình Đà - Hình thương
Những trạng thái vừa trình ở trên chỉ là phân tách tính cách của Lục Sát tinh dầu ở Mệnh hay ở hạn hành, nhưng còn tuỳ thuộc vào một điều quan trọng rất cần thiết là THIÊN THỜI và đạt tới mức độ nào lạ là vị trí của Mệnh đã được xắp xếp ở vòng Thái Tuế là 2 yếu tô chính bất cứ tình trạng nào cũng phải đặt làm điều kiện tiên quyết.
Oan trái nghiệp quả Hình Riêu Không Kiếp
Mọi sự việc ở đời đều có 2 bộ mặt trái ngược nhau như âm dương trong vũ trụ, trắng đen của màu sắc, tốt xấu ở tính cách. Hình Riêu là bộ sao có 2 diện thái đặc biệt, cùng một vị trí đắc địa là Dần Thân Mão Dậu và đứng ở thế tam hợp với nhau phát khởi. Thiên Hình bắt đầu cung dậu kể là tháng giêng, Thiên Riêu kể tử cung Sửu. Như vậu rất khó lòng có 1 bộ Hình Riêu hoàn toàn đắc địa.
Hình là phạt vạ Kim hành nên gọi là thanh kiếm sắc bén để sát phạt. Riêu là siều viết Thủy hành lai láng huyền diệu hơn đời, đặc biệt đứng cặp với Xương Khúc là người có tài văn học như thần đồng. Quan trọng là Hình Riêu đứng cặp với bộ nào hợp tình hợp cảnh làm cho bộ đó có một ý nghĩa tăng lên, lợi hay hại tuỳ trường hợp.
Người Kim Mệnh đóng ở Thân cung có Thất sát gặp ngay Thiên hình ở đó là một uy dũng khó ai bì, trái lại Mộc mệnh gặp Thất sát ở Thìn Tuất có Hình kể như bản án giảm thọ bất đắc kỳ tử dán ngay trước ngực. Hình ở Thìn Tuất thì Riêu phải ở Dần Thân mới đắc địa, nếu vô phước bị non yểu sẽ thành bà cô ông mãnh. Hình ở Sửu Riêu dương nhiên ở Tỵ đó là oan trái, trường hợp gặp bộ Long Phượng Tả Hữu Xương Khúc là nghiệp quả chưa hết căn duyên.
Hàng Chi 12 tuổi, 6 tuổi dương ( dương nam, dương nữ ) Thìn Tuất Tí Ngọ Dần Thân, Đào hoa gặp Riêu ví như sen ở trong ao hồ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Còn 6 tuổi âm (âm nam, âm nữ) sự sa ngã đồi truỵ như se tụt dốc (1). Đặc biệt cung Phúc đức vô chính diệu được Nhật Nguyệt sáng sủa đóng chiếu mà có Riêu ở trong là phúc đức vô biên, linh thiêng phù trợ.
Không Kiếp là ác sát không bao giờ tử tế với ai , chỉ trừ có 1 Phá Quân là vị chỉ huy tối cao trực tiếp bản tính hung bạo chỉ chuyên phá hoại. Không Kiếp vốn là hạng dao búa hợp tình hợp cảnh nên chịu phục tùng hùa nhau gây sự chẳng lành. Trường hợp Phá Quân đắc địa hay Không Kiếp ở Dần Thân Tỵ Hợi chỉ nhất thời đưa nhau lên, sau vẫn tàn tạ như mọi vị trí khác.
Bốn chục năm trước đây bài hát "Tiễn chân anh Khóa" như được hầu hết thôn quê kẻ chợ biết đến. Một tác phẩm bình dân giản dị do nhà văn Á Nam Trần Tuấn Khải hạ bút.
Ông tuổi Ất Mùi ngày 18 tháng 9 giờ Sửu, sống dưới thời bị ngoại trị. Lượng sức mình không thể làm gì khác hơn là lay động lòng dân trước sức mạnh của kẻ xâm lăng ( Thân ở Thê Quan Phù) bằng lời văn cho thật réo rắt cảm động mà phải ẩn dưới một hình thức thông thường. Ông đã thành công, cái tên Á -Nam đã được ghi vào lịc sử văn học đồng hành với Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà.
Người tuổi Ất Mùi mệnh nằm ở Dậu, Thân ở Hợi biết ngay người này lo việc đời là thế nào (Mệnh Tang môn, Thân Quan Phù). Người Hợi Mão Mùi là chủ nhân của Thiên lộc thuộc hàng Ất. Nhưng trong 3 tuổi Ất Hợi , Ất Mão, Ất Mùi, người Ất Mùi phải đứng sau chót, thường gặp nhiều trở lực trên đường đời vì Ất khắc Mùi. Rành rành Mệnh Lộc Thân Quyền mà chẳng quyền hành gì. Lộc chỉ là túc dụng. Tam hoá liên châu ở Tuất là có tiếng mà không có miếng. Ất Mùi Kim mệnh cho thấy từ Cự Cơ (Mệnh) đến Thiên Lương (Thân) Thiên Đồng ( tam hợp Mệnh) coi như vô chính diệu nên Văn Xương (Kim) được kể như đắc cách phối hiệp cùng Riêu cùng cung Dậu lập thành bộ Riêu Xương là gì mà không thu hút được lòng thế nhân cảm mến. Thiên Lương (thổ) ở Hợi (tam hợp) là tao nhân mặc khách đắn đo chín chắn hành động của mình, tâm thần giao cảm cùng non sanh gió mát.
Á Nam cũng như Sào Nam tiên sinh, 2 vị cùng trường hợp Mệnh Tang Môn thân Quan Phù đắc Riêu Xương Khoa Quyền Lộc mà không tơ hào mùi tục luỵ. Nhờ Riêu Xương làm phương tiện lay động lòng người đang mơ mộng, hai ông đều tránh được Không Kiếp, nếu không thành linh thánh của giang sơn, ít ra cũng lhần thiêng một cõi (Riêu đắc địa).
Người Thái Tuế một khi oan nghiêp còn theo đuổi, khi sống đã là chánh nhân, lẽ nào lúc qui hồi lại là ma quỉ.
(1) Phải phân tích sự khác biệt tính cách giữa Hồng Loan và Đào Hoa, Không nên vơ đũa cả nắm nói chung là Hồng Đào. Hồng Loan là rực rỡ thắm tươi tốt đẹp đượm ý chính đính, còn Đào Hoa là sắc sỡ loè loẹt có vẻ lẳng lơ.
Hồng Loan gặp Riêu. rất ít có, là sắc đẹp đoan trang đổ quán xiêu thành (nữ) phương phi tuấn tú ( nam). Đắc địa hay không Hồng Loan ở tứ sinh Riêu ở Dần Thân Mão Dậu tuỳ theo vị trí quyết dịnh chánh tà. Riêng Hồng Loan vẫn trên bậc Đào Hoa về phần thuỳ mị, dẫu có sa ngã một giai đoạn nào đó rồi cũng hối cải.
Thiên Trù cũng quan hệ lắm sao
Thưa rằng trù lập con tính xem gia nghiệp đời đời truyền lại, Thiên trù là khuôn thiên hoạch định những gì của một gia tộc chưa tận dụng còn lại đời đời truyền cho một cá nhân con cháu nào như thuận lý hưởng thụ dầu là 1 chén cơm hay manh áo hơn những người khác không có quyền dành giật.
Do hàng Can ghi rõ trên lá số của mỗi người dòng họ:
Tuổi:
- Giáp thì Thiên trù ở Tỵ
- Ất Ngọ
- Bính Tí
- Đinh Tỵ
- Mậu Ngọ
- Kỷ Thân
- Canh Dần
- Tân Ngọ
- Nhâm Dậu
- Quý Tuất
Như bảng trên đã phân phối, sự việc làm cho người ta chú ý là có 6 tuổi Giáp ất Kỷ Tân Nâm và Quí, thiên trù đều ở địa cảnh nghịch lý âm dương tức là không thuận lợi gì cho ý chí cương cường. Có thể nói là người có ý chí cương cường không bao giờ trông mong sự hưởng thụ mà không có kỳ công phấn đấu (Thái Tuế và Tuế Phá) của uy tín (Long Phượng) hay quả cảm nghị lực (Thiên Mã) xây đắp để thành công.
Thiên Trù của 6 tuổi này đặt nằm ở những chỗ thường nói là nhược cung (Bào, Tử, Nô). Không giám nói đến Phụ Mẫu vì đấng sinh thành có liên can đến Lộc Tồn tức là có ảnh hưởng nhiều ít đào tạo mới có Thiên Lộc truyền xuống đời đời cho con cháu (thường thường ở Phụ mẫu có Lộc tồn, không thì cũng ở cung tam hợp sinh nhập ra Lộc tồn).
Còn 4 tuổi Bính Đinh Mậu Canh Thiên trù ở ngay dương hay âm cung thuận lý tức là cá nhân đó là Thái Tuế hay Tuế Phá. Trường hợp Mệnh đặt nằm ở nghịch địa tức là Mệnh dương đóng cung âm, hay mệnh âm đóng cung dương thì chỉ 3 tuổi Bính Đinh Mậu lại được hưởng phần nào Lộc tồn trừ tuổi Canh ở thế Đường phù.
Đối với 4 tuổi này, người khai lập ra số quả là có đầu óc tinh vi không bỏ rơi một kẽ hở, xứng đáng là danh hiệu Thánh nhân đã xắp xếp Bính Dinh Mậu Canh vào một hoạt động tình cảnh. Biết rằng Bính Đinh Mậu thì Lộc tồn luôn luôn ở hoàn cảnh nghịch địa âm dương. Còn tuổi Canh đối với Dần Ngọ Tuất chỉ là Phá Hư: mà với Thân Tí Thìn tuy gọi là chính thức hợp cảnh (Thái Tuế), nhưng Lộc tồn đối với Canh Thìn lại bị Tuần thụt két (Lộc phùng Không). Canh Thân và Canh Tí thì Quan cung là nguồn mãnh lực của cá nhân cũng bị Tuần làm đứt đoạn. Xét cho kỹ dầu là Canh Dần Ngọ Tuất hay Thân Tí Thìn tình cảnh thụ hưởng Lộc tồn không cách biệt nhau bao độ. Vì lẽ đó nên Thiên Trù của tuổi Canh đóng ngay ở Dần ban phát chung cho cả 6 tuổi Dần Ngọ Tuất và Thân Tí Thìn đều ở dương cung là Mệnh Quan Tài một tam hợp hay Phúc Di Phối cũng là một tam hợp cho có ý nghiã của chồng công vợ (trường hợp này trong gia đình vợ thường được quần áo đẹp tốt hơn chồng).
Xin nhắc lại Thiên trù là định mệnh báo hiệu công đức gia nghiệp đời đời truyền ban cho cháu con nào như thuận tiện hoàn cảnh hưởng thụ dầu ít nhiều phải hơn người khác.
Căn bản huyền diệu của Tử vi có phải là những hành tinh
Đông cũng như Tây khoa chiêm nghiêm nói lên cuộc đời nhân thế đều cho là do sự chuyển dich của các hành tinh trong vũ trụ được ghi bằng những tên màu nhiệm. Riêng tử vi của Đông Á thấy có hai phần chính yếu. Trước hết là bản địa bàn chia làm 12 khoảng đều nhau định hướng Đông Tây Nam Bắc với tên đặt theo ngũ Hành Dần Mão (Mộc ) Tỵ Ngọ ( Hoả) Thân Dậu ( Kim) Hợi Tí (Thuỷ) và Thìn Tuất Sửu Mùi (Thổ) ở trong ghi những hành tinh trên dưới 100 tên.
Những tinh đẩu này phân chia thành những chòm nhớm tuỳ theo 4 yếu tố của dương nhân là năm tháng ngày giờ sanh mà ngự chiếm vị trí để thi thố tính cách của mình, ưu tiên là chính tinh, rồi đến trung tinh, phúc tinh và sát tinh. Theo hệ thống quan trọng, những chính tinh được đặc biệt chú ý coi như chủ nhân chỉ huy nên thường thấy quyết định cung nào không chính tinh, nhất là mệnh xem như vườn hoang vô chủ (mệnh vô chính diệu phi bần tắc yểu). Một khi thấy những quí tinh có đủ bầy tôi (trung tinh) xếp hàng qui tụ thì cho là cảnh đời tươi thắm.
Sự thật đâu có phải dễ dàng giản dị đến như thế. Đây chỉ là mớ trang sức bề ngoài, biết đâu chỉ là đồ đi vay mượn.
Thân thể của nhà lực sỹ vai u thịt bắp dẫu có mình trần hay khoác áo rách rưới cũng vẫn là người khoẻ mạnh. Trái lại kẻ ốm yếu dẫu có mặc gấm vóc vẫn thấy lúng túng kém vẻ hiên ngang. Vậy đâu là căn bản chính xác?
Thường thường cứ nghe người này tuổi Tí, ông kia tuổi Ngọ , bà đó tuổi Dậu nên bị thế này thế nọ. Thật là câu nói không có gì căn cứ. Trong 60 tuổi đời từ Giáp Tí đến Quí Hợi, mỗi chữ hàng chi luôn có 5 chữ như Tí thì có Giáp Tí ( kim) Đinh Tí (Thuỷ) , Mậu Tí (Hoả) , Canh Tí (thổ) Nhâm Tí (Mộc). Cần có hàng can ở trên mới thấy rõ ràng bao nhiêu tuổi và tư thế cá nhân sống trong hoàn cảnh. Như năm Giáp Dần, người tuổi Giáp Dần biết là 1 tuổi thì Bính Dần là 49 tuổi, Mậu Dần 37 tuổi, Canh Dần 25, Nhâm Dần 13 nghĩa là chữ Giáp có nghĩa là 1 ở hàng đơn vị, Bính là 9, Mậu 7, Canh 5, Nhâm 3 tuỳ theo con Giáp thêm bớt ở hàng chục. Mỗi năm kế tiếp thêm lên 1 tuổi ở hàng can.
Tuổi Giáp Dần thấy Can và chi đều là Mộc, biết ngay giá trị cá nhân dẫu ở hoàn cảnh nào sang hay hèn, cũng là người có căn bản vững chắc, dẫu không hơn ai cũng không phải kém ai. Tuổi Bính Dần có chi Mộc sinh can Hoả, người thường gặp may. Tuổi Mậu Dần, chi Dần (Mộc) khắc can Mậu (thổ) đường đời đầy nghịch cảnh. Tuổi Canh Dần thì Canh (Kim) khắc Dần (Chi) hoằn cảnh thường hay bị mắc nghẽn bế tắc. còn Nhâm Dần là tuổi được can Nhâm (thuỷ) sinh cho chi Dần (Mộc) là người có căn bản rất phong phú.
Đã thấy hàng Can của tuổi là căn bản gốc thì hàng năm xuống đến hàng tháng hàng ngày và giờ sự chế hoá của Can tuổi với Can năm tháng ngày giờ diễn chuyển quan hệ.
Tháng và giờ sinh dự phần sắp xếp Mệnh Thân ở địa bàn vẽ đường cho biết dương nhân là hạng người nào trong xã hội. Thái tuế hay Tuế phá, Thiếu Dương hay Thiếu âm.
Danh hiệu Thái Tuế là vị trí quá tốt cho tuổi, là chủ nhân trên miếng đất, căn nhà mình là chủ thì chính bạn Thái Tuế hay tam hợp cũng dự phần hãnh diện. Trái lại Tuế phá cũng như ai dự phần nghị lực (Thiên mã) quả cảm không kém sút (đồng thế âm dương với Thái tuế) chỉ vì phá cách nghịch lý tam hợp nên lâm vào cảnh đơn chiếc (Cô Quả) bất đắc ý. Thiếu Dương như Thiên không đã ghi báo, còn Thiếu âm thiệt thòi mọi nỗi, chỉ là con đường thắng đưa đến trôi nổi như cánh bèo mặt nước (trực phù). Cả 3 hạng này khác gì cảnh Kiều cư đất khách, không cho phép hưởng danh dự cho thân thế dầu có tận dụng khả năng. Chỉ còn một lộ trình trong tuổi là Tứ Đức để an vui tuổi thọ.
Một ngày năm xưa, một câu hỏi độc nhất với hai lá số:
a) Mậu Tuất ngày 8 tháng 4 giờ ngọ
b) Kỷ Mùi ngày 13 tháng 9 giờ thìn
Có thể là thầy trò được không?
Tuổi Mậu Tuất đứng ở vị trí Thiên không, còn Kỷ Mùi đóng ở Trực phù, cho biết ngay Mậu Tuất giác ngộ hơn với Hồng Loan, Thiên không và Quan Phúc ở Quan, Tả Hữu ở tài, Kỷ Mùi bị thua thiệt cay đắng mùi đời bằng Song Lộc Hoá Quyền nhập mệnh nên cam phận là đồ đệ nơi cuối giai đoạn ở phối gặp Thất Sát Cô Quả đắc tam hợp Hồng Loan Thiên không ở Phúc đức, Điền có Thiên Quan (vô chính diệu) gặp Tuyệt , Thân đóng ở tài có Thiên Phúc Vũ Tướng hình ảnh một kiếp thầy tu.
Với điều kiện ở 2 lá số trên hành tinh chỉ còn đóng vai trò phụ làm sáng tỏ thêm mà phần chính yếu ở 2 chữ tuổi và vị trí Mệnh Thân đứng trong địa bàn. Tư thế riêng biệt 60 tuổi và 12 vị trí lập thành 720 tư cách khác nhau. Nhận thấy Mậu Tuất và Kỷ Mùi cùng hàng can (Mậu Kỷ - Thổ) và chi (Tuất, Mùi – Thổ) sự khác nhau nơi hành Mộc và hành Hoả. Mậu Tuất Mộc khắc hẳn Thiên Phủ sao thủ mệnh nên người này không nghĩ đến sự phú quí, trái với Kỷ Mùi Hoả mệnh đắc Tử vi ở Ngọ nên còn theo đuổi sự hào nhoáng một giai đoạn (Hoả sinh Thổ) rồi mới tỉnh ngộ ở vị trí Trực phù.
Nếu là trường hợp Kỷ Mùi và Kỷ Sửu cùng 2 chữ Kỷ ở hàng Can và 2 chữ Sửu Mùi cùng là Thổ. Cả 2 chứ Kỷ Sửu và Kỷ Mùi đồng hành Hoả vẫn khác nhau vì Kỷ Mùi thuộc Thái dương trong lưỡng nghi, Kỷ Sửu thuộc Thái âm. Thuộc Thái dương sự sáng tỏ có bề toả rộng mà thuộc Thái âm sự hiều biết sâu sắc hơn. Như trong y giới, người Kỷ Mùi nên hành nghề lương y tổng quát chữa được nhiều bệnh nhân. Còn người Kỷ Sửu nên hoc chuyên khoa có phần thích đáng trong trường hợp khó khăn.
Dịch số là một khoa triết học xây dựng nên căn bản phân tích rành rẽ âm dương, luật ngũ hành cần được áp dụng sao cho hợp lý dưới mọi hình thức tinh thần hay vật chất, mọi sự sẽ phơi bày xác đáng.
Cô thần Quả tú không bao giờ được góp mặt chung với Thái tuế
Xưa kia, những bậc được gọi là Minh quân, Thánh chúa thường tự khiêm nhượng bằng tiếng xưng hô Cô hay Quả nhân dụng ý cho những gì cần đem lại hạnh phúc hoàn hảo cho mọi người. Hai chữ Cô Quả có nghĩa là đơn chiếc (cô) mỏng manh (quả) đứng trong địa bàn Tử vi chỉ ở 8 vị trí Tứ sinh (cô) và tứ mộ (quả) có tính cách nêu rõ ràng tình cảnh của ba hạng Tuế Phá, Thiếu Âm và Thiếu Dương. Còn đối với Thái Tuế không bao giờ Cô Quả có chỗ đứng trong tam hợp, Tại sao vậy?
Biết rằng người Thái Tuế là người sinh ra như có trách vụ làm việc cho xã hội tuỳ hoàn cảnh nhiều hay ít, luôn luôn được lòng chúng nhân ái mộ với chiếu lọng (hoa cái) che danh hiệu Long Phượng nhất là những tuổi tứ Mộ đắc kim mệnh. Trái với ba hạng còn lại ngoại trừ Thiếu Dương tuổi tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) không muốn phiền luỵ ai, thiên phú thông minh hơn người nếu sớm tỉnh giác (Hồng Loan, Thiên Không – sắc sắc không không) thì Cô Quả cũng thành không, còn được kính mến nữa là khác.
Người Thiếu âm với tuổi tứ Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) vì lòng tự hào quá cao thường lâm vào thế thất nhân tâm, chỉ còn đường rẽ Long đức làm niềm an ủi duy nhất.
Người Tuế Phá với tuổi tứ Chính (Tí Ngọ Mão Dậu) tính tình quá cương trực thường xuyên bị cô thế, nghĩ rằng nghị lực (Thiên mã) có thừa cũng như ai trong thế hăng hái (cùng thế âm dương với Thái Tuế) mỗi hành động thường không mang lại kết quả đắc ý nên tuyệt đối bị khép vào cảnh mất tin tưởng thế nhân.
Thông thường cứ nói Cô Quả và Đẩu quân có những thành tích khắc nghiệt và vị kỷ giống nhau, thật ra nên thận trọng phân cách sự dị biệt của Cô (nam) Quả (nữ) không có gì sánh được Đẩu quân.
Cô Quả luôn ở trong hoàn cảnh bất đắc ý đến có nhiều hành động phải khắc nghiệt bị ghép vào lý vị kỷ. Đẩu quân khác hẳn, lý chành nghĩa sảng tỏ là hành tính của Thái Tuế (nguyệt nghịch, thời thuận) với danh hiệu chữ "Quân" phải là khẳng khái bất khuất nên có tính cách nghiêm nghị.
Chữ "Đẩu" còn có nghĩa đo lường bao gồm ý cẩn thận đúng mức nên được ghi danh " Nguyệt tướng " vị chỉ huy công việc hàng năm khí phách hào hùng chính diện.
Hai bản số sau đây cho thấy đâu là khác biệt
a) Đinh Mão ngày 11 tháng 5 giờ Sửu
b) Mậu Ngọ sanh ngày 9 tháng 4 giờ Mùi
a) Tuổi Đinh Mão có Cô Quả nhập mệnh ở Tỵ vẫn được mọi sự trọng vọng kính phục vì được Phá Toái như đã bào chế sao tẩm trở thành một thứ hung tinh ngộ chế, bồi đắp thêm "THÂN" lại ở tam hợp Thái Tuế mặc dầu đời vẫn trôi nổi như chiếc lá giữa dòng (mệnh ở vị trí Tang môn) nhưng vẫn một lòng son dạ sắt trung kiên với lẽ phải (Thân ở vị trí Quan Phù).
b) Tuổi Mậu Ngọ hoả mệnh vô chính diệu ở vị trí Quan Phù được Đẩu quân độc thủ, một thế nhân đủ tư cách tối thượng bất khuất..Mối hận ngàn năm khó quên vì "THÂN" ở Tuế Phá bị Cô Quả ngăn chặn khiến cuộc đời vẫn như lẻ loi không ai biết đến với bao công phu khó nhọc hàng ngày lo xây đắp trên con đường tinh thần những gì Kỳ khu trở nên quí giá.
Căn cứ những cơ bản nơi 2 lá số cho thấy giữa Mệnh và Thân chia nhau những phần quan trọng.
Phải chăng Thân là chính sự của việc mà Mệnh đã phác họa dự thảo trình ra.
Trên phương diện tình cảm những trường hợp tuổi thường bị bỏ rơi hay không biết đến như sau:
- Tuổi Tứ Sinh bị Mệnh hay Thân đóng ở vị trí tam hợp Thiếu âm
- Tuổi Tứ Chính bị Mệnh hay Thân đóng vở vị trí tam hợp Tuế Phá
- Tuổi Tứ Mộ bị Mệnh hay Thân đóng ở vị trí tam hợp Thiếu Dương
Người tam hợp Thái Tuế cả 12 tuổi hàng chi không bao giờ bị ảnh hưởng. Riêng hai tuổi Can là Nhâm Quí mỗi khi hạn hành gặp Cô Quả thường bị khắc chế khó khăn, trường hợp tuổi nạp âm là thuỷ mệnh cũng vậy.
Bùa mê thuốc lú Khoa Quyền Lộc
Người đời có nhiều mơ ước. Lúc còn nhỏ ước mong học giỏi đậu cao, lớn lên mộng tưởng quyền cao chức lớn, lắm bạc nhiều tiền là ba chữ Khoa Quyền Lộc với cuộc thế nhân sinh.
Lúc đầu học số có thể nói đa số sợ Thái tuế và ham mê Khoa, Quyền, Lộc. Cho tam hoá là bùa hộ mạng đem lại tất cả những gì hãnh diện cho đời. Thật thế ngay 3 cái tên đọc lên cũng đã đủ nghĩa lắm rồi.
Hoá là thay đổi sinh sản như đã có câu "Hoá công sao khéo phũ phàng" có ý trách khéo thợ Trời diễn biến ác nghiệt làm chi. Hoá khoa, Quyền, Lộc là lớp lang đưa đến cho người đời cảnh mão áo quyền uy giàu có. Nhưng tam Hoá đâu có phải là khả năng tư cách nghị lực của cá nhân nâng cao phẩm giá, chỉ là cái áo rực rỡ lần lượt khoác vào để đóng vai trò nào thôi. Hẳn đó không phải là thầy tu chính xác.
Bộ 3 này riêng Hoá khoa có một giá trị lướt hơn cả là màn đầu đưa dến Quyền, Lộc. Khoa chủ nhân hậu uyên bác đặc biệt là từ thiện giải trừ tai hoạ. Nữ mệnh đắc Khoa là tối quý, dầu gặp ác sát cũng vẫn dự phần phẩm cách.
Xã hội nhân sinh có bốn hạng người: Người Thái tuế, Quan phù Bạch hổ là người nghĩ đến phận sự của mình như có trách nhiệm phải làm. Một khi đã nhúng tay là phải làm sao cho xứng đáng tư cách nhân phẩm, đâu có cần phải Khoa, Quyền, Lộc, nếu có chỉ là gấm thêu hoa. Một chiếc cẩm bào tứ linh, Long, Phượng, Hổ, Cái cũng quá đẹp rực rỡ hơn đời. Riêng người Bạch hổ mang danh nghĩa khí, không còn để ý đến quyền lộc riêng tư, một khi gánh vác những điều làm chánh nghĩa thì ham mê với bất cứ giá nào (Lê Thái Tổ và Sở Vương Hàn Tín).
Người Thiếu âm, Long đức,Trực phù là người có thiện chí làm việc tiếc rằng phận hẩm duyên hiu, luôn luôn bị đời bạc đãi, dẫu có Khoa, Quyền, Lộc chỉ càng thêm đau đớn. Hai hạng này là người trước đáng trọng, người sau đáng mến.
Hạng Tuế phá là người bị hoàn cảnh làm cho vụng suy thất ý. Nếu không giữ được chính tâm và thêm Khoa, Quyền, Lộc quyến rũ rất dễ làm những việc bạo nghịch để vinh thân rồi ra ngàn năm lưu xú ố danh. Khá thương cho người Điếu khách ra công thuyết phục phân trần lẽ phải cách mấy cũng không đem lại gì khác hơn tình cảnh hiện tại.
Người Tang môn thường thường có khóc mướn thương vay bao nhiêu cũng vẫn là nước chảy ra sông. Trường hợp được Khoa thêm Tả Hữu thành danh đáng kính vì tính tình nhân hậu; đặc biệt khả năng uyên bác, dầu dược Mã đồng tình phò trợ cũng vẫn hữu công vô lao, họa chăng được chút danh thơm hậu thế (Khổng tử).
Người Thiếu Dương, Tử phù, Phúc đức được tư chất thiên phú thông minh nhạy cảm hơn đời, đừng tự hào mê ham tục luỵ, Hoàn cành này chữ "Đức" đáng trọng bằng ba chữ Tài. Ngẫm ra cuộc đời chỉ là con số "KHÔNG" trống rỗng quá lớn!
Khoa Quyền, Lộc ở với 2 hạng này có khác gì bùa mê thuốc lú làm cho người say đắm bả vinh hoa, lầm lạc mùi phú quí. Vung tay quá trớn, một khi hối cải thì việc đã rồi.
Nói đến Khoa, Quyền, Lộc không lẽ không phác qua đến một đặc phái em út trong giòng họ Hoá là Hoá kỵ. Người đời mến chuộng Khoa Quyền Lôc bao nhiêu, trái lại Hoá kỵ làm cho ai ai thảy đều muốn xa lánh, nhất là những người tuổi có hàng can Bính, Đinh hay Hoả mệnh. Hoá kỵ núp sau hình tượng của Liêm trinh và Cự môn mà gây hoạ.
Được liệt kê vào hàng ngũ sát tinh cùng bè lũ Không,Kiếp, Kình Đà Linh Hoả cũng như Thiên Hình ám hại cho mộc mệnh và giòng họ Giáp Ất, ngoài ra Hoá kỵ chỉ có tính cách suy giảm những gì tốt đẹp, vì chữ Kỵ chỉ có nghĩa ghen tuông, hờn giận phá hại. Đặc biệt nữ mệnh đắc Khoa tốt đẹp bao nhiêu, một khi vướng phải Kỵ khác gì gấm vóc bị vấy bùn đen nên cổ nhân đã gọi hoá Kỵ là sao Kế Đô của phái yếu.
Dầu sao cũng là giòng họ Hoá, ba nghành trên đã bồi dưỡng sự nghiệp công ích khá lớn với đời, không lẽ nghành út lại quá tồi tệ không được điểm nào mua chuộc lỗi lầm bấy lây hư thân mất nết. Trường hợp không thể tưởng tượng nổi Hoá Kỵ đứng chụm cùng nghành trưởng Hoá khoa nơi đắc địa Tí cung đắc Thiên lương hội chiếu được chúng nhân trọng vọng quân dân ái mộ. Hội với Liêm Tham ở Tỵ hợp cách phải là người Hoả mệnh, hoặc Liêm Tham ở Hợi phải là người Kim mệnh, Hoá kỵ căn phân được hung hãn phi thường. Trái lại người Kim mệnh ở Tỵ hoặc người Hoả mệnh ở Hợi, Liêm Tham hội Hoá Kỵ, lao ngục đã mở rộng sẵn sàng rước thân chủ.
Đây chỉ là một cách chế hoá của ngũ hành, căn phân được thì tốt, lệch lạc sẽ thành hung.
Cụ Phan Bội Châu tuổi Đinh Mão sinh ngày 11 tháng 5 giờ Sửu, Cự môn Hoá Kỵ thủ mệnh ở Tỵ là cả một kiếp nhân sinh được tạo hoá căn phân cho mạng sống để mà nặng lo (Tang môn) việc đời..Cái THÂN đáng trọng ở vị trí Quan Phù ngôi vị của người trước sau tính toán kỹ càng mới ra tay lãnh nhiệm vụ. Một Thiên Lương gồm đủ Khôi, Việt, Xương Khúc Khoa Quyền Lộc mà nhất quyết rũ áo từ bỏ cái mộng khanh tướng lao đầu vào công việc quá khó khăn kêu dân cứu nước. Cự môn, Thiên hình, Hoá kỵ là tất cả những gì gần đất xa trời tù đày hình phạt. Khôi Việt phục lực Thiên Lương sao bằng mọi sự xung sát với thế căn phân của mệnh Hoả ở Tỵ cung đụng nhầm Cự môn Hoá Kỵ.
Đành rằng Quyền ngộ Phá, Lộc bị Triệt, nhưng phải là THÂN Quan Phù mới dứt khoát từ bỏ bả vinh hoa Quyền Lộc để hãnh diện với Long Phượng Hổ Cái danh thơm muôn thuở. Khoa chỉ là phương tiện để Cụ dễ làm việc
Phân tách kỹ lưỡng 3 chữ Khoa Quyền Lộc, trưởng đoàn hiển nhiên là Khoa rất xứng đáng và địa vị khiêm nhường nhất phải là Quyền.
Khoa, ngoài tính tình nhân hậu, có một khả năng đánh giá mới chiếm được bảng vàng giữa chốn trường quy. Tài năng này khổ công rèn luyện mới có là điều quý trọng, huống chi còn tiềm tàng sâu rộng " đức"cứu khốn trợ nguy.
Quyền chỉ là sự may đạt được. Nếu vụng tính sẽ sinh kiêu, rồi vì lòng tự ái có thể đem đến kết quả việc làm ác nghiệp thì đâu phải chiếm được địa vị chắc chắn lên trên "Lộc".
Số phải chăng là bản dự thảo một cuộc sống đã được sắp đặt gọi là định mệnh, mà THÂN kia đã dự một phần nào sửa chữa nên mới có "Đức năng thắng số".
Danh dự của Long Phượng Tả Hữu Xương Khúc
Mười bốn chính tinh dàn trên mặt địa bàn giao nhau bằng 4 khuôn mặt, phân tách kỹ lưỡng chỉ là thế cờ lưỡng nghi đối chọi ghìm nhau (nhân hoà) đường đi nước bước biến chuyển từ không gian (địa lợi) đến thời gian (thiên thời).
Tử Phủ Vũ Tướng nghiêm chỉnh phương phi có lúc phải đổi thành hắc diện Sát Phá Liêm Tham oai hùng lẫm liệt. Mặt trắng thơ sinh Cơ Nguyệt Đồng Lương ôn nhu mềm dẻo nhiều khi cũng hoá trang ra Cự Nhật nói năng cứng rắn. Chiến lược luân phiên tuỳ cơ ứng phó. Cuộc đời xen kẽ từng đoạn cát hung. Chính tinh chỉ là hội chủ liên minh chiến tuyến. Sự kết thúc oan hay ưng, chánh danh hay phản nghịch phải nhờ ở những tay chân kiệt sĩ nêu cao nghĩa cả là các bộ trung tinh.
Một Lưu Bang không thể trở thành Cao tổ nhà Hán nếu như không có Trương Lương, Hàn Tín , Tiêu Hà. Một Lê Lợi khó thành Thái tổ triều đại nhà Lê trường hợp vắng bóng Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo. Long Phượng một bộ trung tinh đem lại chánh danh thuận lý lá cờ của Thái Tuế ngôi vị may nhiều hơn rủi.
Tả Hữu chính danh là khả năng đặc sắc hơn người, tốt hay xấu tuỳ liên kết hợp tác như: Long Phượng Tả Hữu là chính nhân vạn năng, nhưng Long Phượng Tả Hữu Không Kiếp lại là chính nhân hữu tài mà không đắc dụng. Tuế Phá Tả Hữu là người thất chí, tài ba hơn người khác hẳn Tuế Phá Tả Hữu Không Kiếp kẻ bất lương nhiều thủ đoạn.
Xương Khúc chủ văn chương mỹ thuật là bộ văn chương cốt cách thư sinh hiếu học, đụng nhằm Sát Phá Tham là tối kỵ không chứng nọ cũng lại tật kia, bồi thêm sát tinh kể như tuổi thọ triết giảm một khi đắc ý hãnh diện với đời. Cao đẹp khi xây dựng với Tử Phủ Vũ Tướng rạng danh văn võ toàn tài, phối hiệp với Cơ Nguyệt Đồng Lương là minh chủ tương đắc đồng tâm nhất trí.
Bốn yếu tố của số là năm tháng ngày giờ, 3 bộ Long Phượng Tả Hữu Xương Khúc đặt ảnh hưởng ngay ở 3 yếu tố quan trọng là năm tháng và giờ chỉ chừa một yếu tố ngày khiêm nhượng dành cho chính tinh.
Năm ấn định đâu là vị trí lý tưởng của số. Long Phượng hiên ngang đại diện cho Thái tuế. Tháng và Giờ chỉ chỗ ngồi cho Mệnh và Thân. Chỉ còn ngày là đầu dây mối nhợ an vị cho chính tinh bắt đầu từ Tử Vi, vai trò lãnh tụ theo qui luật âm dương nhất định tuần tự đến Phá Quân đủ 14 chỗ ngồi. Muốn nâng cao yếu tố ngày lên thêm giá trị phải khai sinh ra 2 bộ phụ tinh Thai Toạ Quang Quí theo lý lịch 2 bộ này là thuộc hạ của Tả Hữu và Xương Khúc cũng như Đẩu quân là phụ tá của Thái Tuế.
Để lên cân đo lường sức nặng giữa 14 chính và 3 bộ trung tinh thấy đòn cân có phần lệch nghiêng về phía Long Phượng Tả Hữu như số của Đại đế Quang Trung tuổi Nhâm Thân sinh ngày 5 tháng 5 Giờ Tuất.
Tuổi Thân Mệnh hiên ngang ngồi ở Thân cung Thất sát triều đầu vắng bóng hẳn Lộc Tồn Khoa Quyền Lộc. Thái Tuế in ngay trên trán Tả Phù Long Trì Bạch Hổ Hoa Cái Văn Xương qui tụ cả một thế nghênh ngang một cõi sơn hà. Nhìn sang đối cung cũng một đoàn Tử Phủ Hoá Quyền Phượng Các Hữu Bật đủ mũ cao bào tía quyền uy nghiêm chỉnh chỉ một Triệt làm gẫy đổ nát tan tành trước một Thất Sát triều đẩu. Còn đâu là uy thế của một Thiên triều đối diện với một tiểu quốc. Dầu không có Triệt một Thân Tí Thìn cũng dễ dàng đàn áp Dần Ngọ Tuất, đủ tư thế một vị tướng bách chiến không biết cái thua là gì. Định mệnh đã xắp xếp sau những chiến công quá sức rực rỡ, Đại đế đành bỏ ngang những dự tính, chịu phần yểu vong không quá 40 tuổi (Sát Phá Tham hội Văn Xương, Kình , Hình, Địa không).
Thái tổ võ Hoàng Đế Quang Trung chỉ là một thứ nhân xuất thân , một khi được đặt ngồi vào vị trí cao quí Long Phượng có khả năng (Tả Hữu) hơn người cũng danh chính ngôn thuận hơn Tử Phủ đắc Tả Hữu ở những ngôi vị khác , mặc dầu chính thân chỉ là phận Thất Sát triều đẩu.
Thân thế vạn thắng uy danh lừng lẫy uy sơn vạn thuỷ cũng san cho bằng dưới vó ngựa , ấy thế mà Quang Trung đại đế đành chịu khuất phục trước giai nhân Ngọc Hân công chúa chân yếu tay mềm (Thê cung Thiên tướng Hữu bật).
Ngẫm xem muôn việc ở đời như đã được soạn thảo, trăm mưu ngàn kế cũng khó trệch đường lối hoạch định mà cứ phải thi hành làm theo. Thật là tránh không khỏi số.
Những sao lộc, nhất là Lộc tồn ban phát ra nên rất chặt chẽ
Người đời sống trên thế cuộc, không ai là không cần đến Lộc, từ bậc trượng phu đến người dân thứ đều nhờ Lộc mà sống, tuy rằng cách sống khác nhau. Với danh xưng hiệp khách trọng nghĩa khinh tài cũng vẫn là cách sống trong khuôn khổ sử dụng Lộc. Vậy có phải Lộc là vấn đề quan hệ tối cần nên đẩu số mới phân tách thành nhiều phẩm chất như: Lộc tồn, Hoá Lộc, Thiên trù và Lưu niên văn tinh. Bốn thứ Lộc này đều do hàng can xếp đặt.
Hoá lộc được hàng can ghi rõ tư cách riêng của hạng người mới có thể thực thi được khả năng thấu lộc như tuổi Giáp phải là người miệng nói tay làm (Sát Phá Tham), tuổi Ất cho người điềm đạm suy tính kỹ lưỡng (Cơ Lương).
Thiên trù cũng là một thứ Lộc do công tích luỹ tiền nhân đã tiêu hao lần hồi đến đời đương số chỉ còn hơn ai bằng miếng cơm manh áo chỉ định cho người thọ hưởng. Còn Lưu niên văn tinh là anh em kết nghĩa với Lộc tồn.
Ngắm nhìn vào bảng vị trí của đôi huynh đệ nhà Lộc này thấy 8 chỗ y nhau. Nhưng sự ứng dụng lại rất khác nhau, không ngoài trọng ý bù trừ sơ sót cho nhau.
Tuổi Giáp Lộc tồn ở Dần, Ất ở Mão, Bính Mậu ở Tị, Đinh Kỷ ở Ngọ, Canh ở Thân, Tân ở Dậu, Nhâm ở Hợi và Quí ở Tí là những vị trí rất chính xác hợp thành. Qua luật âm dương chỉ còn có 4 là Giáp ất Canh Tân được lọt vào hàng chung kết. Còn phải lược thêm một lần nữa nghĩa là những tuổi nào đứng ở tam hợp Lộc tồn mới hẳn lãnh phần trọn vẹn.
Lưu niên văn tinh cũng ngồi ở 8 vị trí đó, nhưng trình bày có hơi khác là Giáp ở Tỵ, Ất ở Ngọ, Bính Mậu ở Thân, Đinh Kỷ ở Dậu, Canh ở Hợi, Tân ở Tí, Nhâm ở Dần và Quí ở Mão, tức là 6 tuổi bị loại ở vòng Lộc tồn vì luật âm dương lại được phục hồi đền bù trúng cách ở bên Lưu niên văn tinh, còn 4 tuổi được dự trung kết ở bên kia đều bị loại ngay ở vòng đầu bên này.
Tư thế cách biệt giữa Lộc tồn và Lưu niên văn tinh là Lộc tồn đứng ở thế chính xác hợp thành của tuổi với vị trí. Trái lại Lưu niên văn tinh ở tư thế khó nhọc là tuổi sinh xuất cho cũng như có nghĩa là thân phận người nghĩa đệ phải chịu đựng nhọc công cho xứng với cơm ăn áo mặc thọ lãnh. Giáp ất sinh suất cho Tị Ngọ, Bính Mậu Đinh Kỷ sinh xuất cho Thân Dậu, Canh Tân sinh suất cho Hợi Tí và Nhâm Quí sinh xuất cho Dần Mão.
Lộc tồn một thứ Lộc cao quí nhất trong các Lộc được bọc gói kỹ trong cái bao Bác sỹ, Lực sỹ, Thanh Long ... Quan Phủ có giây cột Kình Đà, dương nhân tuỳ theo hoàn cảnh tự suy tính phận mình trước khi tháo giây mở gói, theo bản đồ 12 sao kẻ đường chỉ lối mà khai thác. Ngoài những khó khăn về luật âm dương và vị trí. Lộc tồn còn được bảo vệ đến mức tối đa bằng hai đao phủ Lưu Hà Kiếp Sát đối phó với những thành phần vô kỷ luật không phải là chính chủ nhân có đầy đủ văn kiện chứng minh hợp lệ. Hà Sát trình Thiên Sứ lấy pháp lệnh sau khi Thiên không phúc trình trường hợp vi phạm rõ rệt như : Tuổi Mậu Thìn mệnh ở Sửu, vị trí Phúc đức trong tam hợp Thiếu Dương Đào hoa là người thông minh có thừa, chứa chất đầy tham vọng. Tưởng rằng Phúc đức ở Mệnh có dư, Lộc tồn cung Quan hẳn là nắm chắc trong tay. Biết đâu Lộc phùng Không ở trong còn có Hà Sát sẵn sàng thi hành sứ mạng. Phải chăng là trường hợp cuối cùng bảo vệ Lộc tồn bằng đường lối ác liệt để ban phát đúng đắn chặt chẽ.
PHÂN TÁCH: Tuổi Giáp Dần, mệnh ở Dần tóm thâu cả 3 vòng Lộc Tôn, Thái Tuế, Tràng sinh, một đời nắm chắc hạnh phúc. Mỗi khi nhích lên một bước (Mệnh ở Mão) vẫn là người có văn kiện thọ lãnh Lộc Tồn, thành ra người lãnh ngân phiếu bảo vệ số tiền mang về phân phối cho người khác. Bước thêm bước nữa (ở Thìn) vị trí Thanh Long của bộ 3 Phi Liêm Phục Binh. Sự may mắn nằm chung với Tang môn (Thái Tuê) chỉ đeo thêm buồn lo thất vọng với danh hão hào phú. Ngồi vào ghế Tiểu hao cũng là Thiếu âm (Thái Tuế ) bề ngoài vẫn vui tươi, sự thật tiếng cả nhà không vì quá tin lầm lẫn.
Nếu là người Giáp Tí mệnh đóng ở Tí đắc cách 2 vòng Thái Tuế và Tràng sinh. Vị trí Phục binh Thanh Long Phi Liêm tam hợp người Thái Tuế xây dựng sự nghiệp trong một dịp may (Tí sinh Giáp gặp Thanh Long). Lộc tồn ban phát cho dòng họ (Phúc đức) chính bản thân không là bao. Trường hợp Sát Phá Tham thủ mệnh được Hoá Lộc bồi đắp rất nhiều cung nô được Thiên trù tha hồ chén chú chén anh, ngày đêm réo rắt những câu cẩm tú văn thơ Thái Bạch (Lưu niên văn tinh và Thiên Trù cùng ở Tị cung).
Điển hình tuổi Nhâm Ngọ sinh ngày 19 tháng 6 giờ Dần, Mệnh Trực Phù, Thân Thiếu âm được Thái âm đắc thủ cho mệnh Mộc, nhưng không đắc cách cho dương mệnh. Thái dương, Thiên Lương thủ Thân đắc cách lại không đắc vị, tuy rằng Hồng Loan vẫn tô điểm cho bộ Nhật Nguyệt rực rỡ. Tả Hữu, Hoá khoa cho thấy một thành công chuyên ngành cao đẹp, Không Kiếp khiến đời bạc bẽo với vị trí Thiếu âm đáng tiếc. Hoá Lộc ở Quan cũng là Thân thế, đồng tiền thâu xuất như thuỷ triều (Không Kiếp). Lộc tồn ở Di cũng bị mệnh này đạt được (Tỵ Dậu Sửu khắc Hợi Mão Mùi), tiếc rằng vị trí Phi Liêm với Phục Binh, mặc dầu Thanh Long vẫn là dịp hên đưa đến.
Hoá Lộc là diện có kinh tài thường đứng cặp với Hoá Quyền (chỉ trừ 2 tuổi Mậu và Nhâm không bao giờ có. Tuổi Canh Lộc Quyền Khoa liên châu cao quí trên môt khía cạnh, tuổi Quí cũng một liên châu mà căm hờn với Khoa Kỵ Quyền). Mỗi khi thiên thời đắc vận như gấm thêu hoa, nhưng khi vận rã, chính Hoá Quyền lại là ống máng cho Lộc chạy mau xuống dốc.
-------------------------------------------
Lương Nguyệt Đồng Cơ Cự Nhật một khối đồng tâm nhất trí
Hai thể âm dương đã định thành phép tắc tạo tính cách hoàn toàn dị biệt như trắng với đen, sáng và tối. Vì vậy, 14 chính tinh, bên dương 8 sao Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham thường xuyên tranh đấu lẫn nhau từng bước, trái lại bên âm Lương Nguyệt Đồng Cơ Cự Nhật cả 6 sao đứng thành 1 khối liên kết hành động chung mật thiết.
Bộ Nhật Nguyệt 2 vầng sáng suốt như chỉ điểm đâu là đường đi thăng tiến, đâu là ngõ bí bế tắc để Thiên Lương trình bày luận lý theo dõi Thiên Đồng canh cải kiến tạo và Thiên Cơ tổ chức xếp đặt tức là nội Trạng Tử Phủ hay Phá Tham một khi đắc thế tạo nên sau đó Cự Môn lên tiếng khuyên răn nhắn nhủ :
Toán số mạng không phải chỉ là 1 pháp toán tìm hiểu hồi hưng thịnh lúc suy vong, còn là một giáo lý trình bày nhân quả hướng dẫn nhân luân trên bước đường dài làm sao cho trọn vẹn, dư âm còn lưu truyền mãi mãi.
Tại sao lại cũng chia làm hai phái, xếp Cơ đứng đầu mà Lương đứng cuối, không để Lương Cự Đồng Cơ và Nhật Nguyệt?
Theo phép âm dương, lưỡng nghi chia xuống là phái tứ tượng. Bên dương đã chia làm 2 thì bên âm cũng phải chia 2. Để Cự Nhật có ý nghĩa lời phê bình cương trực sáng láng như vầng Thái dương. Bên kia Thiên Lương đáng lẽ dẫn đầu đoàn lại để Cơ chiếm đoạt ra ngồi khiêm nhượng ở ghế chót. Đây thiết tưởng cũng là trường hợp như Phá Quân bất nhân Thìn Tuất, chê bai triết nhân một phường hán nho ngông cuồng chỉ ngồi suy tưởng nông cạn không đáng kể, Cơ & Đồng mới là 2 giềng mối, cần thiết phải được tôn trọng.
Sự thật, những vị tri trên địa bàn, Lương và Cự theo qui phạm áp dụng luân phiên chia nhau sát nách Cơ Đồng như Lương Cơ (Thìn Tuất) Lương Đồng (Dần Thân) Cự Cơ (Mão Dậu) Cự Nhật (Dần Thân).
Ba trường hợp dưới đây cũng như các trường hợp khác thấy khối thống nhất Nhật Nguyệt Lương Cự Đồng Cơ luôn luôn liên lạc mật thiết chu đáo.
a - Tử Vi ở Ngọ thấy cả một triều đường uy nghi quân thần tả sứ. Liêm Phủ văn ban ở Tuất, Vũ Tướng võ bá ở Dần, Thái Dương (Mão) dẫn đường Thiên Lương phối hợp Thái Âm ở Hợi, tuy rằng âm dương tịnh minh, sự thật Thái Âm đắc cách hơn thì mọi sự phải nhu thuận mới đắc sách. Tổ chức (T.Cơ) có phần khéo léo, nhưng không che lấp được cải cách kiến tạo không hợp tình trạng (T.Đồng hãm ở Sửu). Cự Môn (Sửu hãm) không thể làm ngơ không mỉa mai nghiêm nghị. Đây chỉ là tất cả sự dàn bầy của chính tinh, còn 1 phần nó tùy thuộc ở tuổi (Thái Tuế) cục diện (tràng sinh) phụ thêm 1 đoàn trung phúc và sát tinh thêm bớt.
b - Phá Quân ở Tý cùng Tham Lang ở Thìn Tuất Sát ở Thân, mọi hình ảnh cuộc liên minh hảo hán bất khuất. Thiên Lương ở Mùi được Thái Âm (Mão) Thái Dương (Hợi) đồng chiếu, cho biết mọi sự còn trong vòng chưa được tỏ rõ phải từ từ khuôn xử thì hơn ( Thái Âm đắc cách hơn Thái Dương). Sự tổ chức (Cơ) tạm thời đúng lúc, nhưng cải cách còn bế tắc (Đồng hãm ở Dậu). Cự Môn ở Tỵ (hãm) không thể không mạnh tiếng bổ khuyết.
c - Tử Tướng ở Thìn, Phá Quân ở Tuất, một màn cảnh quyết liệt chống chọi. Thiên Lương ngao ngán thế cuộc tàn du sơn thủy. Cuộc xáo trộn chưa phân hắc bạch (âm dương tương tranh ở Sửu) Cự Môn nắm chắc Cơ và Đồng (cả 3 Cự Cơ Đồng đều đắc địa) lên tiếng dàn hòa sao cho mọi sự được êm đẹp. Kết quả phải trái cũng nhờ ở Thái Tuế mới qui định hẳn bên nào chịu trách nhiệm tình trạng xảy ra.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)
------------------------------
Tam Hóa Liên Châu đem hạnh phúc tới mức độ nào mà lại chỉ xuất hiện cho tuổi Canh và Ất
Những hành tinh dịch chuyển trên địa bàn toán số có 4 sao khoác huy hiệu là Hóa (tạo thành) như tên đã đặt: Khoa (đức năng) Quyền (uy vũ), Lộc (phú cường) và Kỵ (hờn ghen).
Ba Hóa ở trên cần được trợ lực cho nhau mới chuyển đến hoàn hảo. Có Khoa mới dẫn đến Quyền rồi tạo ra Lộc. Nối đuôi ba sao này dễ khiến sanh ra Kỵ.
Quy phạm cho biết bộ tứ Hóa do hàng Can điều động bằng đường lối phụ thuộc cho 1 hành tinh quan trọng chi phối mỗi Hóa. Riêng 3 bộ Khoa Quyền Lộc được nêu danh như 3 viên ngọc quí một khi song hành nối tiếp nhau.
Vậy tam hóa liên châu nhập Mệnh khác nhau với tam hóa cùng Mệnh thế nào ?Cùng Mệnh và Khoa Quyền Lộc đứng lối chân vạc trong tam hợp gồm Mệnh Quan và Tài tức là mệnh này tự tạo lấy Tam Hóa cho bản mạng. Còn liên châu nhập Mệnh gồm Phụ có 1 Hóa, Bào có 1 Hóa, ráp vào với Hóa của Mệnh tức là Mệnh đắc hạnh phúc nguyên nhân nhờ gia đình sẵn nếp vinh quang, tất nhiên hưởng rực rỡ hơn tam Hóa cùng Mệnh.
Vì sao chỉ có tuổi Canh mới có tam Hóa liên châu?
Nhìn vào 10 tuổi hàng Can đứng trên 12 cung toán số, cho thấy chỉ có 4 tuổi Giáp Ất Canh Tân được hợp trúng mức âm dương mà Canh Tân đương nhiên mạnh hơn Giáp Ất (Kim khắc Mộc). Sở dĩ Ất nối bước theo chân Canh nhờ ở lý dương động âm tính tác hợp sinh thành đã sắp xếp thứ tự theo chỉ số:
Giáp là 1 hợp với Kỷ 6;
Ất là 1 hợp với Canh 7; Cơ: lẻ là sinh
Bính là 1 hợp với Tân 8; Ngẫu: chẵn là thành.
Đinh là 1 hợp với Nhâm 9;
Mậu là 1 hợp với Quý 10;
Năm cặp tác hợp cho thấy luôn luôn Dương khắc chế Âm mà Ất cũng được số tam Hóa liên châu cho dầu cách hợp cùng Canh trúng mức âm dương sinh thành từ tư thế ở ngôi vị đến hoàn hảo cặp đôi
Giáp hợp Kỷ đứng nghịch âm dương
Ất hợp Canh: cặp đôi trúng vị
Bính hợp Tân: Bính đứng nghịch
Đinh hợp Nhâm: cả 2 đều trái nghịch
Mậu hợp Quý
Trường hợp nào tuổi Canh cũng có tam hóa liên châu ... (Quyền giáp Khoa Lộc) còn tuổi Ất chỉ khi nào đắc Tử Tướng ở Thìn Tuất mới xuất hiện Khoa giáp Quyền Lộc. Đặc sắc nhất là Tỵ Dậu Sửu ở Thìn là vị trí Thiếu Âm, Khoa Quyền Lộc này được Quan Phúc và Thiên Ất quí nhân ủng hộ ai kia với tư thế nhân dân đảm nhận trách nhiệm kẻ cả. Đối với tuổi Hợi Mão Mùi thân thế Mệnh nhân ở trường hợp Thiếu Dương, Thiên Không nên thức tỉnh ghi nhớ Tứ Đức thực thi xây dựng đến mức độ nào. Cây thước Tài Thọ là kim thăng bằng cán cân sẽ báo hiệu cho biết kho tiết kiệm (Lộc Tồn) từ ngàn xưa tích lũy lại còn đầy hay vơi hay đã cạn hết để 3 quí nhân tùy cơ ứng dụng.
Bộ tam Hóa liên châu, một kho ngọc quí, nhận xét cho kỹ nhập Mệnh có vẻ kém phần thích đáng như ở cung Tử cả 2 tuổi Canh cũng như Ất.
Tuổi Canh thuộc Dương, một khi Mệnh chiếm cung Dương cung Tử phải là âm, nếu đắc Tam Hóa liên châu thì Lộc & Khoa phải là cung Dương có Thái Dương an vị nên hưng vượng được chính thức lâu bền, hơn hẳn Mệnh đắc Quyền ở dương cung giáp Khoa Lộc nằm ở 2 cung âm. Thái Dương nơi đó chỉ sáng ngời trong giai đoạn mà thôi.
Tuổi Ất xuất hiện ở Mùi (âm), Tử Tướng hiên ngang ở cung Thìn là cung Tử đắc Hóa liên châu cho thấy nếp gia đình đã hun đúc nên con người đầy đủ đức năng.
Kiểm điểm lại khả năng của Tứ Hóa đứng trong thập Can tuổi Canh có Hóa Kỵ mầm gây hấn, nằm chung cùng Lộc Khoa. Thương nhân nên khiêm tốn xử thế sẽ được vinh vì Khoa sẽ giải được Kỵ. Tuổi Ất Hóa Kỵ đứng chung Quyền Lộc, Mệnh đứng nghịch lý âm dương. Tử Tướng đắc Khoa, tưởng cũng nên nhu thuận, hướng dẫn cuộc đời đến ...
Lại có thuyết trình bày tứ Hóa tuổi Canh tuần tự theo 4 sao Nhật (Lộc) Vũ(Quyền) Âm(Khoa) Đồng (Kỵ) tức là Quyền giáp Lộc và Kỵ.
Xin thưa, đã nêu danh là tam Hóa liên châu, không lẽ chỉ có 2 viên ngọc quí trộn lẫn 1 viên mắt cá dính bùn nhơ. Mười tuổi hàng Can, những sao được trao cho sử dụng 4 Hóa thì Thái Âm đứng đầu đựoc 5 lần:
Tuổi Ất Thái Âm có Kỵ
Tuổi Đinh Thái âm có Lộc
Tuổi Mậu Thái Âm có Quyền
Tuổi Canh Thái Âm có Kỵ
Tuổi Quí Thái Âm có Khoa
Thái Âm đã đóng đủ vai Khoa Quyền Lộc và Kỵ. Hóa Kỵ được trao cho cả cặp Ất Canh vì bộ đôi này đều đắc vị âm dương, bộ Tứ Hóa diễn chuyển cùng ý nghĩa (bộ Tử Phủ ở giữa làm nòng cốt) khỉ khác Canh là dương tất cương (Quyền), Ất là âm phải nhu (Khoa). Hóa Kỵ đứng ngoài để phản ứng khuyên răn hai tuổi này đã được hoàn hảo đắc vị âm dương, lại đứng bộ đôi cùng chung cộng tác (2) cố gắng nên tự hiểu mà hướng dẫn cuộc đời:
Ất: Cơ Lương Vi Nguyệt: sống đều hơn tội lỗi.
Canh: Nhật Vũ Đồng Âm: khiêm tốn đắc vinh
Toán số học không phải chỉ là môn học để tìm biết thời cơ thuận nghịch, còn là một khoa giáo huấn nhắc nhở nhân toàn kín đáo để người đời thấu nhận đâu là giá trị của đệ tam "Tài" vũ trụ.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)
-----------------------------------
Đâu là nguyên nhân đã chấp nhận để Tả Hữu Xương Khúc được nhập đoàn điều động Tử Hữu - Xương Khúc
Tứ Hóa là những hình thể đa dạng chuyển dịch của 10 hàng Can để quyết định cho những hành tinh trình diễn. Những hành tinh phải có những nghệ thuật riêng biệt thực thi cho trúng cách vai trò cắt cử.
Ngắm trong hàng 14 chính tinh thấy có 3 sao từ chối thi thố khả năng nên vắng mặt như:
Thiên Phủ thì Khoa Quyền Lộc nào sánh kịp, và Kỵ cũng thể giảm uy danh.Thiên tướng chỉ biết có bổn phận với tấm lòng trung hậu luôn luôn chịu dưới quyền Thiên Phủ để chung lo công việc (thường xuyên trong tam hợp cùng Thiên Phủ).Thất Sát bổn tánh nhẹ dạ cả tin nên e dè ảnh hưởng sáng suốt của Thiên Phủ (Thái Dương nhị hợp của Thiên Phủ cũng là lục hại của Thất Sát).
Vậy chỉ còn 11 sao đối với thập can, tính trung bình mỗi sao phải thủ diễn 3 hay 4 lần. Thực trạng những sao có uy tín như Tử Vi, Phá Quân, Liêm Trinh, mỗi sao chỉ có 2 lần xuất hiện tượng trưng cho đến Thiên Lương cũng chỉ 3 lần phơi bày tư cách.
Biết rằng bộ Âm Dương phải làm việc nhiều nhất để nêu tính cách lợi hại khẳng định quy luật âm dương làm con đường chính.
Thái Dương trình diễn trong 3 tuổi Giáp Canh Tân phơi bày cái thế dương cường nhất quyết.Giáp (Liêm Phá Vũ Dương): dồn tất cả Khoa Quyền Lộc vào thế dương lưỡng nghi (Tử Phủ Phá Tham – Dương; Cự Nhật Đồng Lương – Âm) đáo hạn nghịch địa cùng Thái Dương Hóa Kỵ là cảnh vực sâu đen tối.Canh (Nhật Vũ Đồng Âm) phô trương tam hóa liên châu hợp cách dương đắc Quyền bị kẹp Lộc thuộc Thái Dương ở nghịch địa âm, cho thấy nền hưng vượng không được lâu bền.Tân thuộc Âm mà Thái Dương cầm quyền tức là thế lấn nghịch cảnh dầu cho nghệ thuật thiện mỹ đến đâu cũng vẫn khó khăn cho uy tín của 1 vị Đế quân văn học (Xương ngộ Kỵ).
Thái Âm xuất hiện những 5 lần trong những tuổi Ất Đinh Mậu Canh và Quý đủ vai thủ diễn Khoa (Quý) Quyền (Mậu) Lộc (Đinh) và Kỵ (Ất và Canh) nhắn nhủ người đời đường lối nhu diệu tất được trời quang gió mát.
Những sao còn lại không thể ôm quá nhiều, e ngại không đủ tài năng thi thố nghệ thuật, vậy phải tuyển thêm đào kép trong hàng ngũ đàn em (trung tinh) có hy vọng phát triển bắt đầu xuất phát từ Thìn (Dương), Tuất (Âm) hợp lý âm dương (Tí ở Thìn Tuất, Sửu ở Tỵ Dậu) có thể đủ tài trình diễn không ngại ngùng sơ sót.
Tại sao chỉ tuyển dụng 2 bộ Tả Hữu - Xương Khúc mà loại bỏ bộ Long Phượng?
Xin thưa là bộ Long Phượng là trung tinh đứng ra để phơi bày tư thế quý cách của Thái Tuế, ngôi vị thượng đẳng cao đẹp, nên bộ Long Phượng thường trực đứng trong tam hợp để làm phận sự tô điểm chiếc ngai vàng uy nghi, có lọng che (Hoa Cái). Tả Hữu – Xương Khúc tuy chỉ là đại diện cho tháng và giờ, nhưng bộ sao này đều có tùy tùng phụ thuộc Thai Tọa (1) và Quang Quý (2) chạy trong quỹ đạo của mình đề cao minh chủ đủ tài năng xuất chúng điều khiển được chữ "Khoa" trong mọi lãnh vực và nhắn nhủ người đời dẫn dắt cuộc sống ở hoàn cảnh bị Kỵ, không bao giờ mơ tưởng tham gia Quyền Lộc, điển hình như:
Xương thủ vai Khoa trong tuổi Bính để bào chữa cho giá trị Liêm Trinh bị Kỵ.Khúc trong tuổi Tân ra tay cứu vãn ô danh cho thấy (Xương thường trực đề cao bằng Thai Phụ, Phong Cáo xuất phát từ Khúc) nhắn nhủ ai kia Quyền Lộc không hợp pháp chỉ là phù vân.Tả Hữu đã khoác áo Khoa thực thi rất tài danh trong 2 tuổi Mậu và Nhâm là 2 tuổi đầy dẫy khó khăn trong 5 tuổi dương (Giáp Bính Mậu Canh và Nhâm) tột độ như Mậu Dần Ngọ Tuất, Thân Tí Thìn có Kình Dương tứ chính sánh vai Thái Tuế.
1. Tuổi Mậu có Tham Lang ôm Lộc, Thái Âm nắm quyền, Thiên Cơ bị Kỵ. Hữu Bật nơi đấy làm sao quân bình được 2 phe Quyền Lộc trong thế lưỡng nghi, rồi lại cân phân giữa Quyền Lộc với Kỵ phụ lực cho thế hiên ngang Kình Dương ở Ngọ. Tất cả một giấc mơ mộng tưởng.
2. Nhâm đắc Thiên Lương giữ gìn Lộc, Tử Vi chấp chánh Quyền đều hòa trong thế lưỡng nghi, Tả Phù có phần dễ dàng đủ tài an ủi Vũ Khúc bị Kỵ. Nhưng Kình Dương ở Tí có phần sâu sắc bén nhọn hơn ở Ngọ. Tả Phù phải đủ khả năng như đệ nhị Thiên Phủ mới mong giải quyết êm đẹp.
Kình Dương Tí Ngọ với 6 tuổi Dần Ngọ Tuất, Thân Tí Thìn đều phát huy biệt tài hơn người, tất lòng tự hào không thể không cao, sẽ hứng chịu phần nào thừa trừ nguy hiểm.
Tiếc thay công nhiều quả thiếu.
Hai bộ Tả Hữu - Xương Khúc được đầy đủ tín nhiệm được nhập đoàn chỉ huy Tứ Hóa do thực lực uy danh có trong quỹ đạo của mình một chi nhóm phụ thuộc làm sáng tỏ khả năng cao quý với trách nhiệm một trong 4 thành phần chính của toán số mạng học:
Đại diện năm: Thái TuếĐại diện tháng: Tả HữuĐại diện ngày: Chính tinhĐại diện giờ: Xương KhúcGiá trị ngôi tam công, bát trụ của 1 triều đạiXứng đáng ghi trong đề danh bảo vật.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)
----------------------------------
Vài quan điểm về: Liêm Trinh - Tham Lang
1. Hai chính diệu Liêm Tham (chỉ ở 2 cung Tị và Hợi) gặp nhau là có ý nghĩa 2 bộ tam giác âm dương Sát Phá Tham gặp Liêm Tử Vũ hội nhập nhau (Tử Phá ở Sửu Mùi, điểm tụ của âm dương, nhưng lại là điểm tán của 2 sao Nhật Nguyệt) mà bộ Sát Phá Tham (dương) gặp Liêm Tử Vũ (âm) thì luôn luôn gây ra hãm địa ở 3 cung có 6 sao này đụng độ nhau. Tất yếu điềm lành thì ít, điềm xấu thì nhiều. Và chăng cơ cấu chung quanh Liêm Tham cũng xấu: cung Bào là Thái Âm đóng cung dương Thìn Tuất (tệ nhất là Thái Âm ở Thìn), rồi cung Phúc lục hình cung Ách (mà Thân cư Phúc lại càng bá thở !). Cung Tài ôm gọn 2 ông Tử Phá chán ơi là chán.
2. Tuy nhiên nếu Liêm Tham lại thuộc tuổi Tị-Dậu-Sửu hay tuổi Hợi-Mão-Mùi (để có vòng Thái Tuế ở cung Mệnh) thì chưa chắc đã xấu gì? Lại trở thành phán quan (nếu ôm vòng Thái Tuế!) hay trở thành lực sỹ (hâm mộ thể thao là yếu nhất) một khi Liêm Tham ở mệnh lại thuộc vòng Tuế Phá - Thiên Mã.
3. Hình ngục nan đào là khi đương số sinh giờ Tý (tức là Ách có Thiên Hình) hay giờ Tỵ (mệnh có Thiên Hình) hoặc giả đương số sinh vào các tháng âm thì Không Kiếp (nhất là Địa Không) luôn bám trụ ở các cung mạnh (ảnh hưởng trực tiếp tới đương số) như: Mệnh-Quan-Tài và Phúc-Di-Phối (nếu như Thân cư ở các cung này Thân cư Phúc, Thân cư Di, Thân cư Phối)
4. Còn chỉ luận chung mạng Hỏa (hay mạng Thủy nếu Liêm Tham ở Hợi) thì có Liêm Tham ở mệnh (Tị Hợi) không sợ gì mấy về tù tội, điều này mơ hồ lắm. Tất cả phải bám vào cơ cấu của tinh đẩu trong lá số (như 1 bàn cờ thế đã bày ra) và luôn luôn quan sát 3 vòng chính: Tràng Sinh – Thái Tuế – Lộc Tồn, được coi như xương sống của lá số Tử vi. Một khi Liêm Tham đã có đủ 3 vòng này hội nhập (vòng Tràng Sinh chỉ có Kim cục và Mộc cục) thì lo gì hình ngục nan đào?.
5. Việc luận thêm Tuần Triệt và Hóa Kỵ đóng thêm vào cung của Liêm Tham vẫn chỉ là cách coi Tử vi trên cơ chế "Vocabulary" chứ chưa có cú pháp văn phạm gì cả thì làm sao mà sáng tỏ được.
Vậy chừng nào mà người nghiên cứu Tử vi quên cái cơ cấu ổn định trong từng lá số thì vai trò của các nhà tử vi gia chuyên coi sao (tinh đẩu) còn đất dụng võ và tử vi còn...mơ hồ ! Có thêm Tuần Triệt và Hóa Kỵ ở Liêm Tham - hưởng trực tiếp tới đương số) như: ̀ Tý (́-Thiên mãặpnhau.chỉ là thêm gia vị cho món ăn,còn món ăn này ngon hay dở thì phải luận tới các sự liên hệ vào các cơ cấu tinh đẩu trong lá số tử vi nữa.
(Lê Hồng Đức - Học phái Thiên Lương)
----------------------------------------
Mệnh vô chính diệu
Mục này tôi kính dâng hương hồn cụ Ba La, bậc tiền bối đã khuyến khích tôi muốn học Tử Vi phải suy luận tìm tòi và hé mở cho tôi ít ánh sáng về cảnh phân biệt Mệnh Vô Chính Diệu như tôi đã có hỏi cụ trong bài tôi viết về cụ "Ông Vua Tử Vi Bất Đắc Chí" trong Khoa Học Huyền Bí số ra ngày 18-2 -73.
Cái gì của cụ phải song phẳng trả về cụ dầu ít dầu nhiều cũng là cái gia tài tinh thần riêng của cụ . Vậy xin có mấy hàng chữ kính hoàn.
Thật tình mà nói, trong Tử Vi khó nhất là Mệnh Vô Chính Diệu, rất khó phân tách với vài câu: Phi bần tắc yểu, mệnh đắc Tam không nhi phú quí khả kỳ, cứ tưởng thấy mình có Tuần, Triệt, Thiên , Địa Không là đắc cách rồi, ai ngờ là một cái hố rất lớn.
1. Mệnh Vô Chính Diệu là mệnh vắng bóng chính tinh như cái nhà mượn nóc dựa ghé vào nhà người lợp mái trên để ở, nếu không có cây xà, những đòn tay cứng đóng chắc làm sao chống chọi được với mưa tuôn gió bão. Điều kiện trước nhất là phải có sát tinh hợp hành của mệnh đắc địa làm nòng cốt thủ mệnh mà không bị Tuần Triệt xâm phạm tức là cách hung tinh độc thủ như trường hợp vua Lê Thái Tổ anh hùng cứu quốc, tuổi Ất Sửu KIM mệnh đóng ở Dậu (kim cung tam hợp Thái Tuế) được Bạch Hổ khiếu tây phương cách (kim đắc địa).
2. Thứ đến là cách Nhật Nguyệt tịnh minh (Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi) đồng chiếu lên mệnh ở Mùi có Hóa Kỵ đắc Tuần là tinh anh của Nhật - Nguyệt được Tuần câu hút với mây lất phất óng ánh ở nền trời hư không.
3. Phải là Hỏa - mệnh, có một Không đắc địa thủ, hai Không tam - hợp không có trung tinh đắc cách mới là trúng cách đắc Tam Không
4. Mệnh có một Không thủ, hai Không tam hợp mà có hung tinh hay trung tinh đắc cách là cách Kiến Tam Không (đời chỉ là hình thức, không có miếng gì).
5. Mệnh có sát tinh khắc mệnh, hai Không tam hợp chiếu là cách Ngộ Không (yểu tử).
6. Mệnh không có sát tinh đắc địa tọa thủ, lại bị sát tinh khắc mệnh thủ, hợp chiếu lại xung sát phải có Triệt ngay mệnh mới mong giải thoát.
7. Mệnh có sát tinh đắc cách thủ, lại bị sát tinh khắc mệnh thủ, hợp chiếu lại có trung tinh đắc cách, nếu mệnh có Tuần kể như hão huyền.
8. Mệnh không có sát tinh đắc cách, không có Không, trông cậy vào hợp chiếu có trung tinh đắc cách không bị phá hư (nghĩa là không có Tuần Triệt).
Tóm lại: chỉ có người Hỏa mệnh mới đắc Tam Không (trường hợp 3) và người Kim mệnh được sát tinh đắc cách đắc địa độc thủ được hưởng vô chính diệu trường hợp đặc biệt. Còn trường hợp được Nhật (Mão) Nguyệt (Hợi) đồng chiếu lên Mùi cho tất cả mọi người .
(Tử vi nghiệm lý - tác giả Thiên Lương)
--------------------------------
Định danh vị trí tinh đẩu
Tử Vi: uy nghi, đức độ chủ quyền lộc, Phúc Đức (Nam Bắc đẩu, Dương Thổ)
- Miếu địa : Tỵ Ngọ Dần Thân - Bình Hòa: Mão Dậu
- Vượng địa : Thìn Tuất - Hãm địa: không
- Đắc địa : Sửu Mùi Hợi Tí
Thiên Phủ: Chủ tài lộc, trung hậu hiền lành (Nam bắc đẩu, Âm Thổ)
- Miếu địa : Dần Thân Tý Ngọ
- Vượng địa: Thìn Tuất - Bình Hòa: Sửu Mão Dậu
- Đắc địa : Mùi Tí Hợi - Hãm địa: không
Vũ Khúc: chủ tài lộc (Bắc Đẩu – Âm Kim)
- Miếu địa : Thìn Tuất Sửu Mùi - Đắc địa : Mão Dậu
- Vượng địa: Dần Thân Tí Ngọ - Hãm địa : Tỵ Hợi
Thiên Tướng: Quyền tinh uy dũng (Nam Đẩu – Dương Thủy)
- Miếu địa : Dần Thân - Đắc địa: Sửu Mùi Tị Hợi
- Vượng địa: Tý Ngọ Thìn Tuất - Hãm địa: Mão Dậu
Thất Sát: Quyền tinh, uy dũng (Nam Đẩu – Dương Kim)
- Miếu địa : Dần Thân Tí Ngọ - Đắc địa: Sửu Mùi
- Vượng địa: Tỵ Hợi - Hãm địa: Mão Dậu Thìn Tuất
Phá Quân: Dũng mãnh, hao tán (Bắc Đẩu – Âm Thủy)
- Miếu địa: Tí Ngọ - Đắc địa: Thìn Tuất
- Vượng địa: Sửu Mùi - Hãm địa: Dần Thân Tỵ Hợi Mão Dậu
Liêm Trinh: Chủ quan lộc, Tù tinh (Bắc Đẩu – Âm Hỏa)
- Miếu địa : Dần Thân - Đắc địa: Sửu Mùi
- Vượng địa: Thìn Tuất Tí Ngọ - Hãm địa: Tỵ Hợi Mão Dậu
Tham Lang: Chủ họa phúc, Hung bạo (Bắc Đẩu – Âm Mộc đới Thủy)
- Miếu địa: Sửu Mùi - Đắc địa: Dần Thân
- Vượng địa: Thìn Tuất - Hãm địa: Tỵ Hợi Tí Ngọ Mão Dậu
Thiên Cơ: Chủ huynh đệ, Mưu cơ, Phúc thọ (Nam Đẩu – Âm Mộc)
- Miếu địa : Thìn Tuất Mão Dậu - Đắc địa: Ngọ Tí Sửu
- Vượng địa: Tỵ Thân Mùi - Hãm địa: Dần Hợi
Thái Âm: Chủ điền tài (Bắc Đẩu – Âm Thủy)
- Miếu địa : Hợi Tí - Đắc địa: Sửu Mùi
- Vượng địa: Dậu Tuất Thân - Hãm địa: Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ
Thiên Đồng: Chủ phúc thọ (Nam Đẩu – Dương Thủy)
- Miếu địa : Dần Thân - Đắc địa: Mão Tị Hợi
- Vượng địa: Tí - Hãm địa: Ngọ Dậu Thìn Tuất Sửu Mùi
Thiên Lương: Chủ phúc thọ, phụ mẫu (Nam Đẩu – Dương Mộc)
- Miếu địa : Ngọ Thìn Tuất - Đắc địa: Sửu Mùi
- Vượng địa: Tí Mão Dần Thân - Hãm địa: Tỵ Hợi Dậu
Cự Môn: Chủ điền, thị phi (Bắc Đẩu – Âm Thủy)
- Miếu địa : Mão Dậu - Đắc địa: Thân Hợi
- Vượng địa: Tý Ngọ Dần - Hãm địa: Tỵ Thìn Tuất Sửu Mùi
Thái Dương: Chủ quan lộc (Nam Đẩu – Dương Hỏa)
- Miếu địa : Thìn Ngọ - Đắc địa: Sửu Mùi
- Vượng địa: Dần Mão Tỵ - Hãm địa: Thân Dậu Tuất Hợi Tý
Địa Không, Địa Kiếp : Hỏa, đắc địa ở Dần Thân Tỵ Hợi
Kình Dương : Kim đới Hỏa, đắc địa ở Thìn Tuất Sửu Mùi
Đà La : Kim đới Hỏa, đắc địa ở Dần Thân Tỵ Hợi
Linh Tinh : Hỏa đới Kim đắc địa ở Dần Mão Tỵ Ngọ
Linh Tinh : Hỏa Thìn Tuất Sửu Mùi
Song Hao : đắc địa Dần Thân Mão Dậu
NGŨ HÀNH TRUNG TINH
Tả Phù : Dương Thổ đới Kim Hóa Khoa : Thủy
Hữu Bật : Dương Thổ đới Thủy Hóa Quyền : Mộc
Văn Xương: Dương Kim đới Thổ Hóa Lộc : Mộc đới Thổ
Văn Khúc : Âm Thủy đới Hỏa Đào Hoa : Mộc
Thiên Khôi : Dương Hỏa đới Kim Hồng Loan : Thủy
Thiên Việt : Dương Hỏa đới Mộc Tam Thai, Bát Tọa: Thổ
Long Trì : Thủy Thai Phụ : Thổ đới Kim
Phượng Các: Mộc Phong Cáo : Thổ đới Thủy
Ân Quang : Mộc
Thiên Quý : Thổ
(Tử vi nghiệm lý - tác giả Thiên Lương)
-----------------------------------
Hiệu năng của Quốc Ấn, Đường Phù
Là một bộ đôi bàng tinh chạy trong quĩ đạo của Lộc tồn như Thai Toạ của Tả Hữu và Quang Quí của Xương Khúc. Biết rằng Lộc tồn là 1 hành tinh có cả 1 vòng sao chi phối cả 12 cung địa bàn do hàng Can ấn định vị trí chuyển dịch. Can là căn bản chính yếu quyết định. Những sao nào do Can điều khiển phải có 1 cái gì quan trọng định đoạt như Thiên Quan, Thiên phúc, Thiên Ất quí nhân, Tứ Hóa...
Lộc tồn là Thiên Lộc, một cái kho tàng quí giá đước định mệnh phân phối cho mỗi cá nhân hưởng thụ ra sao đã có qui luật rành rẽ ấn định từng vị trí rõ ràng và hợp lý. Độ lượng ra sao ấy là Quốc Ấn Đường Phù.
Quốc Ấn ở đây là chứng chỉ được công nhận minh bạch quyền thế tương xứng được thụ hưởng. Đường Phù cũng là một tín chỉ do một uy thế ban phát để giữ gìn một bảo vật có hạn định như lá bùa chấn trạch.
Đứng trong quĩ đạo Lộc tồn, đây là 2 đường lối phân phối cho thân chủ. Lộc tồn và Quốc ấn luôn luôn trong tam hợp vì Quốc ấn đứng cung thứ 9 đi xuôi sau Lộc tồn. Trái lại Đường Phù thường trực ở cung nghịch lý âm dương vì Đường Phù đứng cung thứ 8 từ Lộc tồn đi ngược lại.
Vị trí của Lộc tồn ở trong địa bàn dược xắp đặt trong 8 cung mà chỉ có 4 vị trí của 4 hàng Can Giáp ất Canh Tân là thuận lý âm dương, còn 6 tuổi Bính Đinh Mậu Kỷ Nhâm Quí đều ở trong nghịch cảnh (Tuổi dương thì ở âm cung mà tuổi âm thì lại đứng ở dương cung) như có ý giảng nghĩa quyền sở hữu tựa bấp bênh không chắc chắn, nên trong những bản lập thành của số, 6 tuổi này luôn luôn một trong ba nguyện ước là Mệnh (định mệnh) Thái tuế (thiên thời đắc thắng) và Lộc tồn (hạnh phúc) đều bị Thiên không, Không, Kiếp hay Tuần Triệt lũng đoạn tàn phá.
Với 4 tuổi Giáp ất Canh Tân Lộc tồn được Quốc ấn bản chứng cho dương nhân quyền sở hữu vĩnh viễn của Giáp Dần Ngọ Tuất, Canh Thân Tí Thìn, Ất Hơi Mão Mùi, và Tân Tỵ Dậu Sửu. Trái lại Giáp Thân Tí Thìn, Canh Dần Ngọ Tuất, Ất Tỵ Dậu Sửu và Tân Hợi Mão Mùi vẫn thấy Lộc tồn và Quốc ấn đứng cặp trong thế tam hợp.
Nhưng đây là Quốc ấn bị Phá, Hư làm giảm giá trị, sánh sao được Quốc ấn Thái tuế (thời thịnh) khác gì giấy giao kèo của một người làm mướn ăn công, được ngày nào hay ngay ấy không bảo đảm lâu dài. Còn Đường phù cả 2 trường hợp ở vào vị trí Thiếu Dương hay Thiếu Âm là cảnh đời sút kém cả 2 phương diện sao và vị trí.
Đối với 6 tuổi Bính Đinh Mậu Kỷ Nhâm Quí, Lộc tồn đứng ở vị trí nghịch lý âm dương. Đường Phù đứng lên lãnh vai trò bảo đảm cho những khả năng Thái Tuế và Tuế Phá vì chí khí hiên ngang được phần nào danh dự thụ hưởng. Còn Quốc ấn hoàn toàn miên man ở Thiếu dương hay Thiếu âm là những vị trí chìm đắm thua thiệt. Nhưng dầu gì cũng là Quốc ấn, một chứng từ vẫn có một giá trị bảo đảm bằng một điều khoản nào.
Sáu cung ở thế Thiếu dương và Âm nếu là những nhược cung của Mệnh như Bào, Tử , Nô, Điền... Quốc ấn chỉ là 1 lá bùa bảo trợ báo hiệu 1 giá trị đã qua hay sắp tới hiệu lực không phải là lâu dài bền chặt vì chữ Thiếu có ý nghĩa là bàn không mỹ mãn đầy đủ.
Vị trí của Quốc ấn Đường Phù của 6 tuổi Bính Đinh Mậu Kỷ Nhâm Quí:
Bính Mậu Dần Ngọ Tuất Quốc ấn ở Thiếu Âm
Đường phù ở Thái Tuế
Thân Tí Thìn Quốc ấn ở Thiếu Dương
Đường phù ở Tuế Phá
Nhâm Dần Ngọ Tuất Quốc ấn ở Thiếu Dương
Đường phù ở Tuế Phá
Thân Tí Thìn Quốc ấn ở Thiếu Âm
Đường phù ở Thái Tuế
Kỷ Hợi Mão Mùi Quốc ấn ở Thiếu Âm
Đường phù ở Thái Tuế
Tỵ Dậu Sửu Quốc ấn ở Thiếu Dương
Đường phù ở Tuế Phá
Quí Hợi Mão Mùi Quốc ấn ở Thiếu Dương
Đường phù ở Tuế Phá
Tỵ Dậu Sửu Quốc ấn ở Thiếu Âm
Đường phù ở Thái Tuế
Hai nhân sinh cùng tuổi Canh Tuất , một người Thân Mệnh đồng cung ở Thìn được Vũ khúc đắc thủ khoác áo gấm tam hoá liên châu. Thật là một bức chân dung quá đẹp đầy hạnh phúc với Quốc ấn giáp Hồng Đào là chiếc ấn tín chói lọi vàng son, nhưng nơi đây là vị trí Phá Hư, bồi thêm Hoá Kỵ Kình Dương ở Dậu sinh xuất sang bôi lem hoen ố.
Đường Phù ở cung Tử (Sửu) đắc Tham Vũ nghĩa là cũng tam hoá liên châu như người trên, nhưng vì mệnh ở thế Đường Phù, sự thụ hưởng hạnh phúc phải ở trong giới hạn phù hợp với tam hoá liên châu ở Sửu chỉ là vinh dự tinh thần mà thôi. Quốc ấn nằm ở thìn là cung Điền. Ở đây có thể nói sự sản tinh thần vì Cơ Lương là lý tưởng, tuy Quốc ấn Bị Phá Hư, nhưng nét son giáp Hồng Đào vẫn được công nhận giá trị một vài giai đoạn mà còn nổi danh với Khoa Kỵ ở Tí (tam hợp) được lòng người mến phục.
Có phải Quốc ấn Đường Phù hướng dẫn hạnh phúc nhân sinh khá khác biệt như trên diễn tả.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)
------------------------
Chớ nên coi thường quyền uy của Đẩu Quân
Trên trăm tinh đẩu trong tử vi lý học có 4 sao cô đơn mà độc đáo. Không như chính tinh đứng trong tam hợp xếp thành bộ Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Cự Nhật và cũng không phối hợp với một bạn đời ở thế âm dương nên đôi lứa như Tả Hữu, Xương Khúc, Quang Quí ... được gọi là trung tinh, hay gây bất trắc bất ổn như Không Kiếp, Kình Đà, Linh Hoả với huy hiệu là lục sát tinh, hoặc ác nghiệp của lưu Hà, Kiếp Sát.
Họ chỉ đơn thương độc mã tung hoành trên địa bàn rất lợi hại có thể làm lệch đòn cân thăng bằng nếu sự nhận xét thiếu kỹ càng chu đáo:
Thiên không - Thiên mã - Phá toái - Đẩu quân
a) Đã có dư luận là Thiên không không phải là cô đơn lẻ bóng, vẫn có bạn đời là Địa kiếp tức cũng bộ đôi như ai kia trong luật âm dương. Sự việc đương trong vòng điều tra tư pháp lý lịch đã có hôn thú chưa để phân hắc bạch. Theo thuyết sống cô đơn thì Thiên không có một vị trí nhất định liền sau Thái Tuế, giữ trách nhiêm canh phòng không cho ai vượt hưởng đắc ý trên mức tối đa Thái tuế, nếu không lấy ĐỨC làm khuôn vàng thước ngọc thì sẽ chỉ là con số bạch đinh to lớn (Thiên không thường xuyên có tứ đức tam hợp và xung chiếu).
Theo thuyết này gán cho Thiên không là bộ ba vua bếp có lẽ trúng hơn vì luôn có Hồng Loan, Đào Hoa trong bước đường đời rất bình đẳng, phân chia quyền hành rõ rệt. Khi nào Thiên Không đến với Đào Hoa nơi biệt thự Tứ chính (Tí Ngọ Mão Dậu). Đào hoa lắm tham vọng sinh ra lắm mưu nhiều mẹo quỷ quyệt rồi ra cũng nước lã ra sông. Lúc ở với Hồng Loan dưới mái am cỏ Tứ sinh (Dần Thân Tỵ Hợi ) là nơi thánh thất đầy ý nghĩa vị tha. Còn ra về ở tư gia tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) lộ rõ chân tướng cay nghiệt, nếu ai yếu bóng vía chỉ còn nước đào hố xuống đất mà ở.
b) Thiên mã là sao hào hiệp, hình bóng một Tống Giang, một đơn Hùng Tín, dem lại nghị lực khả nằng giúp đời nơi đua trường tứ Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) chỉ phù suy không tơ hào đến người thịnh. Chỉ có Mệnh ở vị trí Tuế Phá, Tang môn, Điếu khách mới thấy xuất hiện Thiên mã để đương số chiếu đầu sống còn.
Nói tới kết quả thành công tới mức độ nào, còn tuỳ theo phong thổ nơi mã được chăn nuôi với chủ nhân hợp tình đồng cảnh mặc dầu hành chính cống của Mã là Hoả , nhưng một khi đã nhập tịch ở địa phương nào thì là công dân ở nơi đó phải hoà hợp dân chúng nơi cư ngụ mới đắc cách. Như Mã ở Dần là thanh mã, rộng bề sinh sống, phải gặp chủ nhân Mộc mệnh; ở Tỵ là Xích thố mã phải gặp chủ nhân Hoả mệnh, ở Thân là bạch mã phải gặp chủ nhân Kim mệnh, ở hợi là ô mã đắc cách là gặp chủ nhân thuỷ mệnh. Trên bước đường đời thầy trò sẽ thấy mọi sự dễ dàng tranh tài đoạt giải cùng vận hội thuận lợi hay không! Còn sự thua thiệt do mã mang đến phân độ nào cũng tuỳ trường hợp sinh khắc của chủ với mã, đừng tưởng cứ mã gặp tràng sinh là thanh vân đắc lộ và cũng đừng cho mã ở Hợi là mã cùng đường vô dụng.
c) Một cái tên Phá là đập tan, Toái là vụn nát đủ nghĩa tính cách của tác dụng huỷ hoại không xây dựng. Hành động này nếu gặp bậc hiền lương (Đồng Lương) hay phúc hậu (Tử phủ) hẳn là các chủ nhân này chỉ có lắc đầu chép miệng mà khoanh tay bó gối than dài chịu sự bất lực. Trường hợp gặp phải vai u thịt bắp (Sát Phá Tham) hẳn cũng có giảm mức độ mạnh bạo hung hãn như đụng độ Tham Vũ giảm lòng tham vọng, Tử Sát giảm bớt khí hiên ngang, bằng như Liêm Phá tức là thầy trò tương hợp (Phá quân gặp Phá toái) sự điêu linh tan vỡ không biết lấy gì mà đo lường).
Phá toái là Hoả đới Kim và rất hạn chế chỗ đứng (chỉ có Tỵ Dậu Sửu) nên đủ quyền hành múa gậy vườn hoang nơi vượng địa thi thố khả năng với hầu gần hết các bộ chính tinh trong hoàn cảnh bị hãm hoặc không đủ sắc thái thật sự chân tướng của mình. Riêng Phá Quân ở 3 nơi này (Vũ Phá ở Tỵ, Liêm Phá ở Dậu, Tử Phá ở Sửu) là tay giang hồ kiêu dũng. Trường hợp trùng phùng Phá Toái, hỏi rằng chúng còn biết trên đầu có ai. Phá Toái chỉ đóng ở Tỵ Dậu Sửu có đầy ý nghĩa thăng bằng của luật xung khắc đối với Hợi Mão Mùi là vị trí bị thua sút, cũng như Thân Tí Thìn dễ dàng đàn áp Dần Ngọ Tuất phải chịu kém thiệt về chánh nghĩa âm dương.
d) Đã khoác cái tiếng "Quân" vào cho một danh hiệu, hẳn là có ý muốn đề cao một tước vị khá quan trọng như Tướng Quân, Sứ Quân hay tôn trọng phẩm giá một cá nhân như Trần Quân, Nguyễn Quân ở trong còn ngầm ngụ ý quân tử bất khuất. Đẩu quân là một mãnh tướng được giao phó cầm cân nẩy mực đo lường (Đẩu ngoài ý nghĩa là sao còn có nghĩa là một cái đấu đong thóc gạo cũng như cái lít bây giờ), hạnh phúc một số phận, giống như vị tướng trông coi quân nhu lương thực cho bộ đội, nói rộng lên là một Thủ trưởng hay Tổng Giám đốc lo toan ngân sách một quốc gia. Quân bình được ngân sách thì nước thịnh dân giàu. Nặng về thâu thì dân nghèo khổ, nặng về chi thì Quốc gia phá sản; vậy quyền hạn của vị Thủ trưởng đó là đặc biệt và rộng rãi làm sao vén khéo được tài chính ổn định được đời sống nhân dân.
Biết rằng khi an vị cho Đẩu quân trong số phải lấy Thái Tuế làm đích tính nghịch theo tháng, thuận theo giờ, có nghĩa là Đẩu quân phụ thuộc vào Thái tuế, phải có trách vụ gì khá quan trọng như Thái Tuế đã vạch rõ từ tư cách cá nhân đến vận hành thiên thời, một yếu tố ưu tiên trong 3 điều kiện: thiên thời, nhân hoà và địa lợi.
Xưa nay chỉ nói đến Đẩu quân là sao bảo thủ, chắt chiu tằn tiện, đóng cung tử thì hiếm con, ở cung điền tài thì giữ gìn điền sản là tư cách của người nội trợ thu vén cho một gia đình, cũng như trong một Quốc gia vai trò tài chánh ngân sách lo thâu chi quân bình hàng năm. Đẩu quân là cận phụ tá Thái Tuế nên mới có danh hiệu là Nguyệt tướng thi hành tiểu vận. Thái Tuế đúng nghĩa là năm phồn thịnh mà chỉ huy đại vận 10 năm. Đẩu quân là nguyệt tướng tất nhiên cầm đầu 1 năm nào đó trong đại vận.
Tiểu vận nằm trong đại vận 10 năm.. Nếu đại vận bị khắc nhập hay sinh xuất chỉ là miếng xương hóc nuốt khó vào mà nhả ra cũng vướng, thêm Quyền Lộc càng thêm lúng túng khổ về quyền lộc. Đẩu quân bị Tuần Triệt khác gì tướng bại là cả một bất hạnh. Nhưng có sa cơ, tiết tháo vẫn không mất, tiếng dội khi da ngựa bọc thây.
Trong 12 cung số, cung nào đắc Đẩu quân phải có một khía cạnh nổi bật. Trường hợp bị lục sát tinh bổ vây, chỉ là mãnh hổ bất lực trước quần hồ, bị Tuần Triệt phải truân chuyên lao đao mà được tiếng.
Số nào Mệnh Thân đồng cung tam hợp Thái Tuế được thêm Đẩu quân dầu ở hoàn cảnh nào, nhất định không phải là thường nhân ti tiện. Ít ra cũng đủ bổn phận có danh gì với núi sông. Hận cho ai nơi vị trí Tuế phá mà đắc Đẩu quân, một phường Từ Hải, Hoàng Sào, nếu Mệnh Thân đồng cung thì nghênh ngang một cõi biên thuỳ, khó ai rung chuyển nổi. Với bất cứ giá nào đạt được ý chí bất khuất. Thật ra trong thâm tâm mang hận xuống tuyền đài khó nguôi.
Trong quẻ dịch bốc lên rất đẹp mà tính nguyệt tướng bị khắc kể như vô vọng, vậy cái áo đã thêu chữ "Quân" phải là hiên ngang, chỉ sợ đại vận mạt, tiểu vận được Đẩu quân đắc cách khác chi nắng hạn được mưa phùn.
Thái Tuế, Đẩu quân hai thầy trò chi phối thân thế sự nghiệp nhân sinh cho đến hạn hành từ Đại vận ( Thái tuế – thiên thời) đến Tiểu vận ( Đẩu quân – Nguyệt tướng).
(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)
-------------------------------
Thế nào là Thiên La Địa Võng
Thìn Tuất xưa nay được coi là căn cứ địa của Thiên La, Địa võng. Mệnh Thân nào bị đặt ở 2 cung này dẫu là mãnh hổ cũng chỉ là cọp giấy ngồi trong cũi, phượng hoàng tốt mấy cũng chỉ là phượng hoàng rơm nằm trong lưới.
Hai chữ La võng có nghiã là lưới, ở đây lại là lưới của Trời đất dầu là gì đi nữa, đã vướng trong lưới khó lòng vùng vẫy.
Ấy thế mà một số danh nhân kim cổ Mệnh Thân đã tung hoành ngay 2 nơi đất chết này, thì đâu là nguyên lý của La Võng.
Thiên mã tại cung Hợi, truyền thống vẫn cho là ngựa vô dụng, mã cùng đường hết lối chạy. La võng này có thể cũng bị lầm nhận định là nơi đồng khô cỏ cháy vô phương cho nhân thế sinh hoạt. Lại còn có thuyết một khi Mệnh hay Thân ở La Võng thì phải có Hình Kình cắt lưới toang ra mới có phương kế thành công được. Thật là muôn hình vạn trạng cho người tìm học.
Bốn mộ cung Thìn Tuất Sửu Mùi là nơi xuất phát và cũng là nơi tập trung của ngũ hành. Thìn Tuất là dương, Sưu Mùi là âm. Tại sao Thìn Tuất đều là dương lại gọi là Thiên La Địa võng. Thìn là Thiên la là trúng, còn Tuất là Địa võng có vẻ trái lý.
Trên mặt địa bàn từ Dần đến Thân thuộc về phạm vi của Thái dương, từ Thân đến Dần thuộc Thái âm thế lưỡng nghi của Thái cực. Hai cung Thìn Tuất là 2 cung xuất phát, 2 cung Sửu Mùi là 2 cung tập trung. Thuộc về dương là Thiên, thuộc về âm là Địa.
Đà la là cái lưới giăng ra để vây bọc lại. Đà la ở Thìn là Thiên La, ở Tuất là Địa võng, Vậy 2 cung Thìn Tuất được gọi là La võng chi địa chỉ khi nào có Đà la hoành hành. Còn ngoài ra cũng chỉ là những vị trí để cho ai hợp tình hợp cảnh tung mây lướt gió phỉ chí tang bồng.
Trong 14 chính tinh phái dương của thế lưỡng nghi là Tử Phủ, Sát Phá Tham là bộ sao uy nghi thực hành tranh đấu quyết liệt phải né tránh ngại ngùng nơi la võng. Cơ Nguyệt Đồng Lương mềm dẻo ôn nhu không đến nỗi nào bị thao túng.
Việc cần thiết khi lập lá số phải thận trọng 2 chữ Tiền và Hậu lúc an Lộc tồn, luôn luôn tiền Kình hậu Đà ví như tuổi Giáp dương nam Lộc tồn ở Dần, Kình ở Mão, Đà ở Sửu, với người dương nữ Kình phải ở Sửu, Đà đổi lại ở Mão để khỏi lầm trường hợp có bị La võng hay không, cứ căn cứ Mệnh hay Thân ở Thìn Tuất là ở thế bó tay bất động là một điều không biết sao mà nói.
Vương Mãng, một nhân vật chính trị Trung hoa về cuối đời tiền Hán, có đến 2 lá số làm xáo trộn dư âm đâu là chính nghĩa. Mệnh đều nằm ở Thìn, chỗ mà xưa nay vẫn yên chí là cung Thiên la
1) Giáp Thân ngày 9 tháng 3 giờ Tí
2) Giáp Dần ngày 27 tháng 1 giờ Tuất
Hai số này đã nêu cao phân biệt đâu là chánh nhân siêu việt, đâu là nghịch thần phản tặc. Thìn cung ở đây hoàn toàn không phải là căn cứ Thiên La vì tuổi Giáp Đà la ở xa tại cung Sửu nên Vương Mãng bằng cả 2 lá số hoặc Tử Tướng tuổi Giáp Thân hay Phá Quân tuổi Giáp Dần đều thành công theo ý muốn, mỗi số một cách đặc biệt khác nhau. Căn cứ theo nhân phẩm lịch sử đã ghi, Hán Quang Võ sau khi bình định đất nước, nhà vua đặc phái các nhà bồi bút rất giỏi về lý học nặn ra lá số Giáp Dần, phác hoạ hình bóng một bất lương đủ tư cách làm việc phản nghịch. Sau này người người đều cho chân tướng chính xác của Vương Mãng là số Giáp Thân một nhân vật quả quyết với bất cứ giá nào đem lại bộ mặt mới cho Tổ Quốc, xã hội đã bị lũng đoạn sâu mọt đục khoét lâu ngày. Ông đã thành công, nhưng vì Quan bị triệt nên không được trường tồn.
Sự việc khẳng đinh Thiên la Địa võng không phải nhất quyết là 2 cung Thìn Tuất mà phải là trường hợp có Đà la ở 2 cung đó.
Cách diễn tả Thiên la chỉ có 3 tuổi ất Bính Mậu. Riêng Bính không thành việc vì Triệt phá nát Đà la. Mậu Tuất có Tuần giảm sức Đà la không đủ sức khép chặt. Tất cả tuổi Ất âm nam kể như phải hứng chịu mọi sự gò bó của Thiên La, mặc dầu tuổi Ất Mùi có Tuần, nhưng vì Thìn là dương cung nên sức của Tuần không đủ ngăn cản uy lực của Đà la, có chăng chỉ là 30 % không đáng kể.
Địa võng uy hiếp 2 tuổi Tân và Nhâm. Tất cả âm nữ tuổi Tân cũng riêng Tân Mùi được Tuần nới lại 30 % sức hãm Đà la, còn ngoài ra đành cam phận định mệnh của kiếp số.Tất cả tuổi Nhâm đều bị Địa võng gói chặt trừ 1 Nhâm Thân được mở rộng tới 70%.
Tai hại nhất là tuổi Nhâm Tuất Mệnh Thân đồng cung kể như sinh bất phùng thời. Người này nên đóng vai trò Trương Lương là thượng cách. Nhưng Nhâm Tuất được thân cư phúc, ngược lại là người thành công phi thường vượt mức khi đến tuổi 45 là thời gian Triệt phá nát Đà la ở mệnh, tháo gỡ Tuần ở Thân, lại là cung đắc thiên thời (Quan phù).
Tóm lại Thiên la địa võng là Đà la, Đà la đắc địa ở tứ sinh mà hãm dịa ở tứ mộ. Hai cung Thìn Tuất là nơi phát xuất tất cả cái gì bạo ác của Đà la, không như 2 cung Sửu Mùi là nơi tập trung gò bó lại, tuy rằng vẫn là đất thao túng múa gậy trong vườn hoang, nhưng không bằng Thìn Tuất.
Mười tuổi hàng Can, 5 tuổi Giáp Đinh Kỷ Canh Quí không tơ hào liên luỵ La Võng, còn lại Ất Bính Mậu phải để ý Thiên La, Tân Nhâm nên thận trọng ở Địa võng.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)
---------------------------------
Càn Khôn nhất hí trường nhân sinh thị bi kịch
Trời đất bao la bị thu hẹp coi như một sản phẩm của diễn đài trò chơi hỉ nội ái ố. Kiếp nhân sinh hẳn là một bản tuồng vui ít buồn nhiều. Kịch sĩ, tùy theo nghệ thuật và vai trò thủ diễn chỉ còn hứng chịu tất cả những lời bình phẩm khen chê người đời yêu hay ghét. Mấy ai thấu đáo được tình hình tư cách diễn viên mà xét đến nghệ thuật phải đóng trò: trung, nịnh. Sự thật oan hay ưng, đáng hay không chính đáng, định mệnh đã dự thảo sắp xếp do quyết định của tay thầy tuồng đạo diễn: Tạo Hóa.
Biết bao nhân thế cổ kim, đã thấm thía tủi hờn, trước cảnh éo le cuộc sống, không phân trần minh chứng nổi sự việc. Thành tích khi đã bị hiểu lầm vì một uẩn khúc nào đó, một khi được trình bày chính xác, tất sẽ hài lòng. Lịch sử phải trung thực, ghi rõ trắng đen.
Công việc soi tỏ được nỗi niềm, phần lớn trông cậy vào những bậc có thực tài thấu hiểu lẽ huyền vi vũ trụ.
Những dị nhân như thế không phải là nhiều, dễ kiếm. Hàng trăm năm ngày tháng mới xuất hiện được một Gia Cát Lượng ở Hậu Hán Trung Hoa, một Nguyễn Bỉnh Khiêm của Hậu Lê Việt Nam chỉ đường ngay, vạch lối thẳng đường cho người, đồng thời và soi tỏ nối uất hận của những vai trò có liên hệ mật thiết đến cuộc sống chung.
Nhưng đã là người, sự khắt khe không chừa ai. Người trước cố sức mình quyết ý phá định mệnh mà rồi công 6 lần xuất phát Kỳ Sơn cũng chẳng nên cơm cháo gì. Hồn cũng đành lìa khỏi xác trên đàn phương tinh, không hy vọng cầu cho tuổi thọ thêm một giáp. Người sau chịu bó gối, tự biết đời sống đã lỗi thời, đành lang thang đây đó, tìm cái vui tai với tiếng chim hót ríu rít nơi cây cao bóng mát, hoặc mượn thú vui ngâm thơ bình phú làm khoái chí dưới mái Bạch Vân Am.
Sự thật những cao nhân siêu thặng đó đã giúp ích rất nhiều cho hậu lai biết đâu vàng thau, mắt cá hạt châu bằng những lời bóng bẩy sấm ký tiên liệu xa vời.
Tử vi từ ngàn xưa để lại, bị cỏ lau bao phủ mất vị trí, lại thêm cây dại mọc chia cành ngang làm mắc lối. Người học chỉ lượng quanh, ngại mất công một phần, không dám xông pha rừng rậm để kiếm đâu là kho tàng quý giá, phần bị nạn mang thư làm lạc hướng. Đã hoang mang trước tinh thần thực học, lại không thấy gì xác đáng bởi thêm dư luận chê bai, đành bỏ ngang quay bước. Tiến thoái lưỡng nan, không kết quả gì khả quan, dẫu mất nhiều ngày tháng rèn luyện chỉ được một vài kinh nghiệm chắp nối đơn sơ, phải chăng lữ khách ra khơi thiếu la bàn định hướng.
Tinh thần hiệp sĩ cửu lưu không thể lãng quên mà sa vào tục lụy.
Càn khôn nhất hí trường
Nhân sinh thị bi kịch
Trước tinh thần lý học cao siêu, dám mong những ai thử phân tích thêm đều chính xác vài bản toán dưới đây từ tư cách đến tình tiết cuộc sống mỗi nhân sinh:
a- Nhâm Dần 23 tháng 3 giờ Tý
b- Ất Mão 29 tháng 12 giờ Tý
c- Đinh Mùi 20 tháng mười giờ Mão
a- Tuổi Nhâm Dần, Mệnh Thân đồng cung tại Thìn cho thấy một thế nhân có căn bản mà lắm éo le; người nặng lo mà lo hoài cũng vẫn bất mãn, đi đôi với Tử Tướng Quyền ngộ Tuần (quyền rơm vạn đá). Người này đến lúc tay buông xuôi vẫn không đang nhắm mắt. Hai đại vận 26 – 35 và 66 – 75 ở Ngọ Tuất là hai đại vận đắc thiên thời, nhân hòa vẫn không cho phép người có số đắc ý, tuy là đời sống gặp bước cao sang phải chăng Tài Thọ không thi thố đúng mức vì người ở dương cung Tử Tướng ngộ Tuần quá khắt khe. Giai đoạn 66 – 75 ở Tuất tình trạng Phá Quân lại bị bao hãm trong cái lưới. Địa Võng (có Đà La), nếu được trách vụ giao phó thì cũng sôi hỏng bỏng không càng thêm gánh hận vào mình. Phải công nhận Tử Tướng dầu không trúng cách của Mệnh nhưng tư cách vẫn không hèn, bị bồi thêm Kình Lực không cho hãnh diện là may cũng như Lý Quảng không được phong Hầu.
b- Ất Mão được trúng cách Lộc Tồn, nhưng Mệnh Thân đồng cung ở Sửu không khác gì tuổi Nhâm Dần Mệnh Thân đồng cung ở Thìn mà còn kém cả căn bản (tam hợp Tuế Phá không cho phép đương số được hài lòng). Cái khác nhau là người nặng lo (Tang Môn) không nên cơm
cháo gì, còn người Ất Mão này ở Điếu Khách ức lòng muốn phân trần mà không nổi. Tử Tướng bị Tuần là tư cách nhân hiệp bị ngăn trở. Tham Vũ bị Tuần là tham vọng thất bại gạt ngang. Cả hai đều Mệnh Thân đồng cung thì cả hai cuộc đời gặp thiên thời chỉ là vơi chút u sầu. Tham Vũ ngộ Tuần không chút hết nỗi lòng tham, trừ phi tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi đắc Phá Toái sẽ giảm Tham Vũ đến mức tối cao. Người có số tự tu tỉnh với Tài Thọ ở cung điền mà an phận không ham trèo cao, ngã đau, chờ đại vận 66 – 75 Mùi đắc Triệt tháo gỡ Tuần họa chăng thanh minh được lòng mình.
c- Một là số dễ làm người học lầm lạc cho là:
1. Vô chính diệu đắc tam không
2. Có tâm hồn từ bi bác ái
Mệnh ở cung Thân vô chính diệu có Thiên Không, Địa Không, Thiên Di ở Dần có cả Tuần và Triệt, Thiếu Dương, Hồng Loan, Cô Thần đều ở Mệnh. Sự thật Hồng Không vẫn là sắc sắc không không. Thiếu Dương, Thiên Không, Cô Thần là bác ái, nhưng đây còn ẩn nấp Lưu Hà, Kiếp Sát, nhất là Thủy Mệnh thì Lưu Hà là chủ nhân cùng với Kiếp Sát là một thứ gọng kìm quá bên phụ tá thêm Không Kiếp dầu đắc địa. Bản mệnh vốn ráo riết (dương cung) thêm cả một hàng sát tinh đâu có phải từ bi.
Đây là vô chính diệu kiến tam không, cuộc đời phú quý (có Khoa Quyền Lộc) như giấc mộng hoàng lương. Mệnh Thủy không bao giờ được vô chính diệu đắc nhất nhị tam không. Chỉ một tuổi Hỏa mà thôi.
Càn khôn nhất hí trường
Nhân sinh thị bi kịch
(Tử vi nghiệm lý toàn thư - tác giả Thiên Lương)
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top