Lưu cung đại vận
Lưu cung đại vận có thể nói là một đặc thù của bắc phái (gọi chung cho tất cả các phái sử dụng tứ hóa). Nay tôi chứng minh những gì đã nói ở topic trước rằng phép lưu cung này có vấn đề, và vì sao cung cố định có ý nghĩa hơn trong tất cả các tầng tính vận.
Lá số Lý Tiểu Long và Trần Thủy Biển đều có bố cục chính tinh là Tử Phá ở sửu, đều có giờ sinh là thìn, đều sinh năm Canh, cho nên bố cục tứ hóa của hai lá số này là giống hệt nhau trên tất cả các vận trình.
Ở đại vận địa võng Lộc Kị tương xung, Lý Tiểu Long gãy cánh lưng trời còn Trần Thủy Biển khi đó cánh còn rất khỏe. Nếu gạt bỏ tất cả cung cố định đi, mà lưu cung như ông Liễu Vô Cư Sĩ nói thì khi đến đại vận Bính Tuất, cả hai người này phải có số phận giống hệt nhau. Bởi vì khi đó, tuất đều là cung mệnh, và có lưu cung cho lưu niên thái tuế hay cho tiểu vận gì gì thì cả hai đều giống nhau.
Đại vận Bính Liêm hóa Kị, Lý Tiểu Long chết ở lưu niên năm Quý có Tham hóa Kị, hình thành tổ hợp lưỡng Kị đồng cung. Đại vận Bính của Trần Thủy Biển thì cũng chắc chắc có một năm Quý, vì đại vận trải 10 năm kiểu gì cũng đủ 10 thiên can. Năm đó là năm 1993 quý dậu, Trần 44 tuổi.
Nhưng Trần không sao, Trần không sao mặc dù khi xét lưu cung đại vận có bố cục giống hệt Lý Tiểu Long.
Bởi vì.
Bởi vì.
Bởi vì.
Trục Liêm Tham với Trần mà nói, không phải cường cung. Lưu niên quý dậu đối với Trần mà nói, thì không phải cường cung, mà đó là cung điền cố định nếu tính theo thái tuế. Còn nếu tính theo tiểu vận, thì tiểu vận năm dậu là cung nô bộc cố định. Cả hai đều không phải mệnh thân cố định của Trần. Trong khi với Lý Tiểu Long, tiểu vận năm sửu đóng chính cung mệnh của anh ta.
Cho nên, khẳng định không thể bỏ qua hoàn toàn cung cố định mà lưu cung.
Sau này, vào bại vận của Trần. Ta biết là cách cục Kị xung Kị Đinh-Mậu đánh thẳng vào trung tâm lá số là cung mệnh. Lưu niên năm Tí rơi vào cung thân của Trần. Kị xung Kị là việc của thiên can, đánh vào đâu là việc của địa chi. Xét đầy đủ hai mặt can và chi thì mới biết việc đánh vào đâu, biết đánh vào đâu thì mới luận được sự kiện.
Tiểu hạn hành vận và Lưu niên hành vận
Tiểu hạn và Lưu niên đều chủ về cát hung họa phúc của một năm. Tiểu hạn dựa vào niên chi và giới tính năm sinh quyết định mỗi một tuổi trong cuộc đời là thuộc Cung nào. Mỗi năm chủ về một Cung, sau 12 năm lại quay về vị trí ban đầu. Lưu niên là lấy niên chi của năm hiện tại, quyết định năm đó là Cung nào trong mệnh bàn, một năm đổi một cung. Cung của Tiểu hạn và Lưu niên là cung Mệnh của năm đó, dựa vào đó xác định 11 cung: Huynh đệ, Phu thê, Tử nữ, ... , của Tiểu hạn và Lưu niên, sau đó dựa vào mệnh bàn của Tiểu hạn và Lưu niên, tổng hợp phán đoán vận khí của năm đó.
Năm của Tiểu hạn và Lưu niên chỉ bắt đầu từ mồng 1 tháng 1 âm lịch (đoán mệnh theo Bát tự là bắt đầu từ Lập xuân). Số tuổi của Tiểu hạn là tuổi giả, tức khi sinh là 1 tuổi, sau đó cứ đến mồng 1 tháng 1 năm âm lịch tiếp theo tính thêm 1 tuổi.
Tiểu hạn và Lưu niên đều có thể dùng để phán đoán vận khí của một năm, nhưng Tiểu hạn chủ Thể, Lưu niên chủ Dụng, cả hai phải hòa hợp, hài hòa. Mà ứng nghiệm với thiện - ác của sự việc thì luôn luôn phát sinh ở Lưu niên. Nhưng bất luận là Tiểu hạn hay Lưu niên đều quy về Đại hạn, tức lấy Tiểu hạn, Lưu niên làm chủ đạo còn Đại hạn là phụ, tham khảo Mệnh cung và Thân cung.
Nói cách khác, thì cát hung của Tiểu hạn hay Lưu niên chịu ảnh hưởng của Đại hạn, đồng thời bị hạn chế trong một phạm vi cát hung cố định, và không tách rời Thân cung và Mệnh cung. Đợi hành vận đến Tiểu hạn hoặc Lưu niên, một khi thời cơ chín muồi, cát hung tự nhiên sẽ ứng nghiệm.
Bốn Hóa tinh cũng có vai trò quan trọng để phán đoán cát hung của Tiểu hạn và Lưu niên, lần lượt dựa vào cung Can của cung Lưu niên và Tiểu hạn trong mệnh bàn, sắp xếp ra bốn hóa tinh của Tiểu hạn và Lưu niên để phán đoán cát hung.
Tiểu hạn của Tử vi Đẩu Số, mệnh nam hành vận thuận theo chiều kim đồng hồ, mệnh nữ hành vận ngược chiều kim đồng hồ. Lưu niên của nam hay nữ, đều hành vận thuận theo chiều kim đồng hồ. Do đó, tiểu hạn và lưu niên của mệnh nữ có cơ hội cùng cung, tiểu hạn và lưu niên của mệnh nam không có cơ hội cùng cung.
Khi Đại hạn và Tiểu hạn cùng cung, hoặc Đại hạn và Lưu niên cùng cung, thì cát hung họa phúc của cung này hiển lộ rõ. Khi Tiểu hạn và Lưu niên của mệnh nữ cùng cung thì cát hung họa phúc của cung này càng rõ hơn, nếu lại gặp Đại hạn cùng cung, thì năm đó hành vận cần đặc biệt chú ý.
Ngoài ra, khi phán đoán cát hung của Lưu niên, bên cạnh việc cần xem cung của Tiểu hạn và Lưu niên, còn dựa vào niên can của 10 lưu tinh: Lưu lộc, Lưu dương, Lưu đà, Lưu khôi, Lưu việt, Lưu xương, Lưu hóa lộc, Lưu hóa quyền, Lưu hóa khoa, Lưu hóa kị. Tính chất của những lưu tinh này, giống các sao Lộc tồn, Kình dương, Đà là, ... , sau đó lại căn cứ vào những lưu tinh này để phán đoán vận khí của năm đó.
(Nguồn: blog tử vi tinh quyết)
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top