Tư tưởng Hồ Chí Minh-Câu hỏi ôn tập
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
* Cơ sở khách quan.
Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
- Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
+ Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động,.. không cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Không phát huy được những thế mạnh của dân tộc và đất nước, chống lại âm mưu xâm lược của CNTD Phương Tây.
+ Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858), xã hội Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến, xuất hiện 2 mâu thuẫn cơ bản:
Toàn thể dân tộc VN >< TD Pháp và tay sai phong kiến (mâu thuẫn dân tộc)
Toàn dân VN (nông dân) >< địa chủ PK (mâu thuẫn giai cấp )
+ Nhiều phong trào yêu nước của nhân dân VN đã nổi dậy nhưng đều bị thất bại..như sự thất bại của ptrào Cần Vương theo hệ tư tưởng PK, p.trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục theo hệ tư tưởng TS đã giúp NAQ nhận rõ chỗ hạn chế của p.trào đó chưa biết tổ chức, chưa có tổ chức.
-->Thúc đẩy NAQ ra đi tìm đường cứu nước mới của nhân dân VN.
- Bối cảnh thời đại (quốc tế)
+ CNTB trở thành CNĐQ, CNTB xác lập sự thống trị trên phạm vi thế giới. Lúc này không chỉ dừng lại ở sự áp bức g/c trong chính quốc mà đã mở rộng ra sự ap bức đối với các d.tộc khác. Vì thế cuộc đấu tranh g.phóng d.tộc không chỉ còn là hành động riêng lẻ nữa mà trở thành cuộc đấu tranh chung của d.tộc thuộc địa chống ĐQ.
+ Cuộc đấu tranh g.phóng d.tộc gắn liền với cuộc đấu tranh g.phóng g/c .Cuộc đấu tranh g.phóng d.tộc trở thành cuộc đấu tranh g.phóng g/v VS trên TG.
+ Sự thắng lợi của CMT 10 Nga, CNXH trở thành hiện thực trên TG, đánh dấu bước chuyển biến lớn chuyển biến lớn của thời đại. Thời đại quá độ lên CNXH và giúp HCM nhận ra một chân lý của thời đại " Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các DT bị áp bức và những người LĐ trên TG khỏi ách nô lệ."
Câu 2 : Nguồn gốc hình thành TTHCM ( Những tiền đề tư tưởng, lý luận )
a. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
- CN yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất để gìn nước và giữ nước, đây là nét chú yếu nhất , đặc sắc nhất, rõ nét nhất trong LS tư tưởng của VN
- CN yêu nước là điểm xuất phát và là nguồn sâu xa của Tư tưởng Hồ Chí Minh, CN yêu nước là hành trang lớn nhất trong con đường đi tìm đường cứu nước của HCM.
- HCM còn tiếp thu gía tri truyền thống DTVN, truyền thống VH VN như truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tinh thần khoan dung thủy chung, lạc quan yêu đời, trọng trí thức, quý hiền tài nhân dân.
- Lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước được hình thành từ rất sớm và trở thành một tính chất của mọi người dân Việt và đây là một yếu tố quan trọng nhất để Nguyễn Tất Thành đi vào con đường cách mạng (Lòng yêu nước là cái vốn có của người dân Việt. Vấn đề đặt ra là Đảng phải khơi gợi).
- Cho đến nay, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam kể cả thắng lợi công cuộc đổi mới đều có cội nguồn từ lòng yêu nước, với học thuyết được du nhập vào Việt Nam đều phải thông qua lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước của người dân Việt.
- Truyền thống đoàn kết, đoàn kết là sự gắn bó hợp tác với nhau để tạo nên sức mạnh. Truyền thống đoàn kết được hình thành cùng với sự hình thành của dân tộc Việt và cũng là cội nguồn của sức mạnh dân tộc Việt. Có 4 hình thức đoàn kết cơ bản:
+ Đoàn kết gia đình
+ Đoàn kết trong cộng đồng và dòng họ
+ Đoàn kết trong cộng đồng làng xã.
+ Đoàn kết quốc gia dân tộc thể hiện ở chỗ: Có tính nội dung, có văn hóa chung và có ngày giỗ tổ chung (10/3. âm lịch)
- Truyền thống nhân văn nhân ái quý trọng con người, hướng con người vào làm điều thiện, đồng thời xử lý tinh tế các mối quan hệ, gia đình, vợ chồng, anh em, họ hàng và đề cao tình nghĩa, quy tắc ứng xử trong xã hội. Do đó người Việt sống tình cảm hơn, nhân nghĩa hơn, thông minh hơn.
- Trong lối sống của người Việt: giản dị, khiêm nhường, cởi mở và đặc biệt không cực đoan, cố chấp. Vì vậy có thể tiếp thu những cái hay, cái tốt, cái đẹp của dân tộc khác.
- Truyền thống văn hiến: Văn hiến là sự kết hợp nhuần nhuyễn của 3 yếu tố sau đây. Tri thức, đạo đức, cái đẹp.
- Dân tộc Việt có khả năng học, hiếu học, coi trọng sự học, luôn luôn tôn vinh những người học cao, đỗ đạt.
b. Tinh hoa nhân loại:
- Tinh hoa văn hoá phương Đông: Người tiếp thu Đạo phật và Nho giáo
+ Người đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo một cách có chọn lọc, hay nói cách khác Người đã chắt lọc những mặt tích cực ,loại bỏ tiêu cực xây dựng XH mới tốt đẹp " Những chuẩn mực để tu dưỡng đạo đức trong XH Nho giáo, tư tưởng về một XH đại đồng của khổng Tử; tư tưởng lấy dân làm gốc, tư tưởng hành đạo giúp đời, đề cao việc học , coi trọng hiền tài ".
Tiêu cực: khinh PN, khinh lao động chân tay.
+ Phật giáo: HCM đã kế thừa những mặt tích cực, hợp lý của Phật giáo như: tư tưởng về cứu khổ cứu nạn, đề cao lao động, chống lười biếng, chủ trương thực hiện bình đẳng trong XH. Người cũng đã tìm thấy ở "chủ nghĩa tam dân" của Tôn Trung Sơn những điều phù hợp với điều kiện của cách mạng nước ta là Tư tưởng dân chủ tiến bộ " đó là dân tộc được độc lập, dân quyền được tự do, dân sinh được hạnh phúc."
+ HCM ra đời trong 1 gia đình Nho giáo nên Người có tiếp thu những quan điểm tốt đẹp của Nho giáo. Người đánh giá rất cao Khổng Tử. Ngày 19/5/1966, Người đến thăm Khổng Tử, khắc chữ lên bia đá: "Khổng Tử là người thầy vĩ đại nhất của nhân loại".
+ Người dùng rất nhiều những khái niệm, phạm trù nho giáo như: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" (Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân)
+ Người đánh giá rất cao tư tưởng bình đẳng của nhà Phật: "Ta là Phật đã thành còn chúng sinh là Phật sẽ thành"
- Trong tinh hoa văn hóa phương Tây.
+ HCM đã nghiên cứu những tư tưởng của: Croxo, Monte, Vonte... và tiếp thu tinh thần DC.
+ Sau này khi nghiên cứu TNĐL của CM Mỹ, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của CM Pháp, HCM đã nhận thức được tính tất yếu về quyền con người, quyền d.tộc mà 2 cuộc CM đó đã sáng lâp.
+ HCM đã nghiên cứu tiếp thu TT văn hoá dân chủ và CM của CM Pháp, CM Mỹ, trong đó có Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp và Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ.
+ Người đánh giá rất cao về chúa Jêsu. Người tiếp thu những tư tưởng của những nhà khai sáng Pháp.
b. Chủ nghĩa Mác-Lênin
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh, là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tư tưởng của Người góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác-Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do.
CN Mác - Lenin đã cho HCM:
+ T.giới quan khách quan, nhân sinh quan CM.
+ Phương pháp duy vật biện chứng.
--> Sự chuyển biến về chất:
+ Tư tưởng HCM thuộc hệ lý luận Mac - lenin
+ Có tính khoa học sâu sắc.
+ Có tính CM triệt để
--> CN Mác - Lenin là nguồn gốc lý luận, trực tiếp quyết định bản chất tư tưởng HCM
* Nhân tố chủ quan
+ Ỏ Hồ Chí Minh nổi bật lên khả năng xử lý, chuyển hóa các tri thức của nhân loại thành trí tuệ của bản thân Từ đó HCM trở thành người dẫn đường.
+ Khả năng tư duy độc lập tự chủ và sáng tạo của HCM.
+ Hồ Chí Minh là người có đầu óc phê phán tinh tường, không bị đánh lừa bởi những hào quang chớp nhoáng bên ngoài.
+ Có tâm hồn của 1 nhà yêu nước vĩ đại, thương dân, thương nhân loại bị áp bức bóc lột.
+ Có tư tưởng lạc quan yêu đời, luôn tin tưởng vào sự thắng lợi của chính nghĩa.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khẳng định: "Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản"Đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi, linh hồn sống của nó, là phương pháp biện chứng duy vật, học tập, lập trường quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Các tác phẩm, bài viêt của Hồ Chí Minh phản ánh bản chất tư tưởng cách mạng của Người theo thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Là yếu tố quan trọng nhất, quyết định việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
d. Những phẩm chất cá nhân riêng của Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh có một tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng với một đầu óc phê phán tinh tường sáng suốt trong việc tìm hiểu tinh hoa tư tưởng văn hoá cách mạng trong nước và trên thế giới.
- Sự khổ công rèn luyện học tập để chiếm lĩnh những tri thức phong phú của thời đại và với kinh nghiệm đấu tranh trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác Lênin một cách khoa học.
- Có một tâm hồn của nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành và một trái tim yêu nước thương nòi, yêu thương những người cùng khổ, sãn sàng chịu đựng hi sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì hạnh phúc của đồng bào.
Kết luận: Tóm lại, TTHCM là sản phẩm của sự tổng hoà và phát triển biện chứng TT văn hoá truyền thống của dân tộc, tinh hoa TT văn hoá của phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa M-L làm nền tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của HCM - một con người có tư duy sáng tạo, có PP biện chứng, có nhân cách, phẩm chất CM cao đẹp tạo nên. TTHCM là TT VN hiện đại }
Câu 3 . Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm về cách mạng Việt Nam không thể hình thành ngay trong một lúc mà trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình phát triển lớn mạnh của Đảng ta và cách mạng Việt Nam. Quá trình đó diễn ra qua các thời kỳ chính như sau:
a) Từ 1890 đến 1911: Là thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng.
Thời kỳ này Nguyễn Sinh Cung-Nguyễn Tất Thành tiếp nhận truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc, hấp thụ vốn văn hoá Quốc học, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây; chứng kiến thân phận nô lệ đoạ đầy của nhân dân ta và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh, hình thành hoài bão cứu nước. Nhờ vậy chí hướng cách mạng của Nguyễn Tất Thành ngay từ đầu đã đi đúng hướng, đúng đích, đúng cách.
b) Từ 1911 đến 1920: Thời kỳ tìm tòi, khảo nghiệm.
Là thời kỳ Nguyễn Tất Thành thực hiện một cuộc khảo nghiệm toàn diện, sâu rộng trên bình diện toàn thế giới.
Đi đến cùng, Người đã gặp chủ nghĩa Mác-Lênin (qua việc tiếp xúc với Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa). Nguyễn ái Quốc đã đi đến quyết định tham gia Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản và tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc.
c) Từ 1921 đến 1930: Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về Con đường cách mạng Việt Nam.
Là thời kỳ hoạt động lý luận và thực tiễn cực kỳ sôi nổi của Nguyễn ái Quốc. Người hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Le Paria nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào các nước thuộc địa. Tham gia trong các tổ chức của Quốc tế Cộng sản tại Matxcơva. Cuối 1924, Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Đầu xuân 1930, Người tổ chức ra Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Văn kiện này cùng các tác phẩm Người xuất bản trước đó là Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927) đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam.
d) Từ 1930 đến 1941: Là thời kỳ vượt qua thử thách kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam.
Do những hạn chế về hiểu biết thực tiễn Việt Nam, lại bị quan điểm “tả khuynh” chi phối nên Quốc tế Cộng sản đã phê phán, chủ trích đường lối của Nguyễn ái Quốc ở Hội nghị thành lập Đảng đầu xuân 1930. Dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị tháng 10-1930 của Đảng đi tới nghị quyết thủ tiêu Chánh cương, Sách lược vắn tắt và điều lệ của Đảng được thông qua ở Hội nghị thành lập Đảng.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã hoàn thiện đường lối của Đảng và sự hoàn thiện đó đã trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX.
e) Từ 1941 đến 1969: Thời kỳ phát triển và thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày 28-1-1941, sau 30 năm hoạt động của cách mạng trên thế giới, Nguyễn ái Quốc về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5-1941, Người triệu tập, chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Đảng, hoàn thành việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Cách mạng Việt Nam vận động mạnh mẽ theo đường lối của Đảng thông qua ở Hội nghị Trung ương 8, đã dẫn đến thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945-thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thời kỳ này tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: Về chiến tranh nhân dân: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửaphong kiến, quá độ lên xã hội chủ nghĩa không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh; về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền: về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về củng cố và tăng cường sự nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế...
Vĩnh biệt Đảng, dân tộc, Hồ Chí Minh để lại Di chúc thiêng liêng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân tộc sau khi kháng chiến thắng lợi.
Thấm thía giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, đi vào sự nghiệp đổi mới, tại Đại hội VII (1991) Đảng ta khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động.
Đại diện đặc biệt của Tổng giám đốc UNESCO- tiến sĩ M.Ahmed đã cho rằng: Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này.
Câu 4 : Đặc trưng, bản chất của CNXH theo TTHCM
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội (CNXH) bao gồm:
Một là, CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.
Hai là, CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Ba là, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Bốn là, CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi.
Năm là, CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ tình hình thực tiễn của Việt Nam:Trước hết, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để nhận rõ đặc trưng tính chất của thời kỳ quá độ của Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, trong đó đặc điểm bao trùm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên CNXH ở nước ta, từ đó phải tìm ra con đường với những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm Việt Nam.Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người nói "Chúng ta phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài".Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị- xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Câu 5: Quan điểm của HCM về mục tiêu và động lực của XHCN
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội:
- Mục tiêu chung:
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của người là một, đó là độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Là giải phóng con người, giải phóng tiềm năng của con người, tạo điều kiện về mọi mặt cho sự phát triển tự do và toàn diện của con người.
Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó là mục tiệu tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh hiểu mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, nghĩa là nắm bắt nội dung cốt lỗi con đường lực chọn và bản chất thực tế xã hội mà chúng ta xây dựng.
Người diễn giải mục tiêu tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ”….
Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội. Nhưng quan niệm cao nhất của người về chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân, đó là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định rõ các mục tiệu củ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Mục tiêu chính trị: Chủ nghĩa xã hội là chế độ do lao động nhân dân làm chủ, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mọi công dân đều có quyền bầu cử, ứng cử vào cơ quan Nhà nước, thực hiện quyền kiểm soát đối với đại biểu mình. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ chủ yếu bằng Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở đó có sự thống nhất giữa quyền làm chủ và nghĩa vụ, tính năng động của người làm chủ.
Mục tiêu kinh tế: Đó là nền kinh tế phát triển cao, không còn quan hệ người bóc lột người, đời sống vật chất của người dân ngày càng được cải thiện. Xây dựng nền kinh tế là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại. Nền kinh tế phải được xây dựng trên cở sở chế độ công hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu. Nền kinh tế phát triển cao gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ.Nền kinh tế phải phát triển toàn diện các nghành chủ yếu là công nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó công nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nhà nước.Chế độ khoán là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế.
Mục tiêu văn hóa - xã hội: Về văn hóa là mục tiêu cơ bản của cách mạng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội gắn liền với văn hóa và là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt giải phóng con người. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa vì con người, phục vụ cho con người. Đó là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc sâu sắc; biết tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với kế thừa và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Về xã hội là cần xây dựng một xã hội công bằng dân chủ. Mọi chế độ, chính sách xã hội phải là chế độ, chính sách về con người, vì con người, cho con người. Xã hội có đạo đức, lối sống lành mạnh.
Ø Động lực của chủ nghĩa xã hội:
- Để đạt được các mục tiêu cần phải nhận thức và phát huy tất cả các động lực của chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, động lực là tất cả những yếu tố, điều kiện góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội thông qua hoạt động con người. Mặt khác cần triệt tiêu các trợ lực kìm hãm sự hoạt động của con người, kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Động lực xã hội chủ nghĩa là một hệ thống rất phong phú trong đó quan trong nhất là động lực con người. Động lực con người được xét trên hai phương diện: Cộng đồng và cá nhân. Từ đó các động lực có biểu hiện cụ thể như sau:
Động lực 1: Động lực con người: phát huy sức mạnh con người với tư cách cá nhân người lao động trong bồi cảnh cộng đồng sức mạnh của dân tộc
Động lực 2: Động lực vật chất: đó là nhu cầu và lợi ích của con người, của xã hội, coi trọng động lực từ các đoàn bẩy kinh tế.
Động lực 3: Chính trị tinh thần: Đó là việc phát huy quyền làm chủ và ý thức quyền làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã hội; thực sự điều chỉnh các yếu tố tinh thần khác: chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật.
Động lực 4: Khoa học kỹ thuật và yếu tố quốc tế
Động lực 5: Động lực kinh tế, phát triển kinh tế,sản xuất, kinh doanh làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, gắng liến kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với XH
- Điểm mấu chốt để phát huy động lực của CNXH là phải khơi dậy, phát huy động lực con người trên cả hai phương diện cá nhân và cộng đồng:
+ Phương diện cộng đồng:
ë Củng cố và tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nghề nghiệp.
ë Tạo lập môi trường thuận lợi để các tổ chức tham gia vào công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội.
ë Tạo điều kiện giúp đỡ các dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa cùng phát trển.
+ Trên phương diện cá nhân:
ë Phải giải quyết hài hòa, đúng đắn vấn đề lợi ích trước hết là mối quan hệ giữa 3 lợi ích: lợi ích cá nhân người lao động, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội.
Ø Đẩy lùi, xóa bỏ trở lực.
Bên việc phát huy các động lực, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra sự cần thiết phải đấu tranh khắc phục những trợ lực của chủ nghĩa xã hội. Người đã chỉ ra các trợ lực sau:
Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc: đây là kẻ địch to lớn.
Các phong tục tập quán không tốt.
Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
Phải chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật.
Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới,v.v..
Chủ nghĩa cá nhân: đây là đồng minh của hai kẻ thù kia, là bệnh mẹ đẻ ra vô số bệnh con, đe dọa sự mất còn của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy Hồ Chí Minh kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thần chí công vô tư cho cán bộ đảng viên và nhân dân nhằm khơi dậy và phát huy động lực con người vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Trong hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, cũng như vai trò của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Câu 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Vị trí, vai trò, sức mạnh của đạo đức:
Đạo đức là 1 trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của HCM trong sự nghiệp CMVN.
- Đánh giá của đảng ta về tư tưởng đạo đức của HCM:
Năm 1951, Đại hội 2, tư tưởng của HCM là đường lối chính trị của đảng ta; đạo đức của HCM là đạo đức của đảng; tác phong của HCM là nền nếp làm việc của đảng ta.
Năm 1960, đại hội 3, toàn đảng ra sức học tập tư tưởng, đạo đức, tác phong của HCM.
Năm 1982, Đại hội 5 toàn đảng học tập 1 cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của HCM.
Năm 2001, đại hội 9 phát động phong trào học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, tác phong của HCM. Tư tưởng của Chủ tịch HCM nói chung là nền tảng tư tưởng và kim chỉ Nam cho hành động của đảng ta. Tư tưởng đạo đức là bộ phận kết tinh của tư tưởng HCM nói chung.
- Các thế hệ người vn phấn đấu cho độc lập dt đến với HCM trước hết là đến với tư tưởng đạo đức của người. "Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gường Bác hồ vĩ đại" là khẩu hiệu chung của người VN.
- Tư tưởng đạo đức và bản thân đạo đức của HCM là kết tinh đạo đức của dt, của nhân loại. HCM là điểm sáng về đạo đức đối với TG và đối với VN. Bác nói: "Đối với phương đông, một tấm gương sống còn giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền."
- Bác hồ luôn kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục lý tưởng cách mạng.
- Vấn đề đạo đức của HCM được quan tâm toàn diện: đối tượng, phạm vi, tất cả các lĩnh vực hoạt động
người.
HCM coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Như đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Bởi lẽ con đường đi đến độc lập dt và CNXH là con đường dài, đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ và nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy là công việc thường xuyên của toàn đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xh ta.
Theo Lênin, "đạo đức là những gì góp phần phá hủy xh cũ của bọc bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xh mới của những người cộng sản."
HCM cho rằng, đảng "là đạo đức, là văn minh", thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của minh. Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dt mình và của thời đại. Trí tuệ là sự hiểu biết đúng đắn về CNMLN, tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn VN và TG, những quy luật phát triển của CMVN, những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Đạo đức là những phẩm chất mà con người cần có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dt và CNXH. Muốn làm cách mạng thì con người cần có tâm trong sáng, đạo đức cao đẹp đối với GCCN, nhân dân lao động, với cả dt. Cái tâm ấy phải thể hiện trong các mối q/hệ xh hằng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người xung quanh mình. Phải có tâm có đức mới giữ được CNMLN và đưa chủ nghĩa MLN vào trong cuộc sống.
HCM cũng quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân lao động. Tùy theo từng thời kỳ cách mạng mà người đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi người cùng phấn đấu. Trong cuốn Đường kách mệnh, bài đầu tiên nói về tư cách người cách mệnh. HCM đã nêu 1 quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí, và khi có trí thì cái đức đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, chấp nhận, đi theo. Có đức nhưng phải có tài, hồng và chuyên phải kết hợp. Đạo đức là gốc, là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dt và CNXH.
2- Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người VN trong thời đại mới.
+ Trung với nước, hiếu với dân.
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dt là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng, đạo đức truyền thống VN và phương đông. HCM vận dụng và đưa vào nội dung mới. Trước kia trung là trung với vua, vì vua và nước là một, nước là của vua. Con hiếu chỉ trong phạm vi gia đình là con cái có hiếu với cha mẹ. HCM đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và vượt trội. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. "Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân".
Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn hy sinh độc lập tự do của tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người VN.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thành với đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết long. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đát nước.
+ Yêu thương con người.
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, HCM đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. HCM chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến CNXH và CNCS.
Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo. Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai lâm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Bác căn dặn đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
+ Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suát cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; "không xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi".
Liêm là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân". Phải trong sạch, không tham lam. Không tham địa vị, không tham tiền, không tham sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với liêm là: ...cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham úy lạo. Cụ không nói: người mà không liêm, không bằng súc vất. Cụ mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.
Chính là thẳng thắng, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc.
Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đ/kết, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc, để công việc lên trên việc tư, làm việc gì cho đến noiư, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Chí công vô tư, làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì nên đi sau. "Phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử thách: "Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể lay chuyển, uy vũ không thể khuất phục".
+ Tinh thần quốc tế trong sáng.
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với các dt bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân VN với tất cả những người tiến bộ trên TG vì hòa bình, công lý và tiến bộ xh. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của thời đại hòa bình, độc lập dt, dân chủ và tiến bộ xh.
3- Những nguyên tắc xây dựng đạo đực mới:
+ Nói đi đôi với làm. Nói và làm luôn đi đôi với nhau đem lại hiệu quả thiết thực cho chính mình và cho người khác. Nói mà không làm gọi là đạo đức giả. Từ đó Bác trong giáo dục đạo đức vấn đề nêu gương được đặt ra. "Trước mắt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà tà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức".
+ Xây đi đôi với chống. Xây dựng đạo đức mới trước hết phải giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức từ gia đình, nhà trường, xh. Phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người. Bên cạnh đó, phải không ngừng chống lại những cái xấu, cái sai, vô đạo đức. Để xây và chống có kết quả phải tạo thành phong trào rộng rãi, phải chống lại chủ nghĩa cá nhân.
+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức đó là công việc kiên trì bền bỉ, không thể chủ quan tự mãn. "Một dt, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đãi, có sức hấp dẫn lớn, không nhất thiết hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân". Mỗi người ai cũng có điều tốt và dở, thiện và ác. Phải đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Việc tu dưỡng đạo đức phải thực hiện trong thực tiễn hoạt động hằng ngày, trong lao động sx, chiến đấu, sinh hoạt...và thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày.
Câu 7 : Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá
1. Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hoá
a. Khái niệm văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hoá được đề cập đến ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa rộng, văn hoá được Hồ Chí Minh định nghĩa: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn".
Như vậy, văn hoá đã được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là toàn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích cuộc sống của con người. Và muốn xây dựng nền văn hoá của dân tộc thì phải xây dựng trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý của con người,v.v..
- Theo nghĩa hẹp, văn hoá được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh kể từ sau Cách mạng Tháng Tám.
b. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của văn hoá
- Hồ Chí Minh đã xác định văn hoá là một trong bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội. Theo Người, văn hoá cũng quan trọng ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội.
- Người còn chỉ rõ bốn vấn đề đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Xây dựng kinh tế để tạo diều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá. Ngược lại, văn hoá phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
c. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hoá
Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có ba chức năng cơ bản:
- Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ những sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng những tư tưởng và tình cảm lớn có ý nghĩa chi phối đời sống tinh thần của mỗi người và của cả dân tộc. Tư tưởng lớn nhất mà Người yêu cầu Đảng và nhân dân ta phải xây dựng là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những tình cảm lớn mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng cho mỗi người là lòng yêu nước, tình yêu thương con người; yêu cái chân, cái thiện và cái mỹ; yêu tính trung thực, thuỷ chung, chân thành, ghét những thói hư, tật xấu, sa đoạ, biến chất,v.v...
- Hai là, nâng cao dân trí. Đó là nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ kiến thức của người dân. Trình độ đó phải từ chỗ không biết chữ đến chỗ biết chữ, từ chỗ biết chữ đến chỗ hiểu biết các lĩnh vực khác cần thiết cho hoạt động cuả mỗi người như kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, thực tiễn Việt Nam và thế giới,v.v...
- Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh luôn hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ.
Muốn tham gia vào việc tạo ra những giá trị văn hoá, đồng thời biết hưởng thụ một cách đúng đắn những giá trị văn hoá của xã hội, mỗi người không chỉ cần có những tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp, những hiểu biết ngày càng được nâng cao, mà còn phải trau dồi cho mình những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh. Văn hóa phải giúp cho con người biến những tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp thành phẩm chất và phong cách của chính mình mới có thể sử dụng được kiến thức để tham gia vào việc tạo ra những giá trị văn hoá cho xã hội và biết hưởng thụ một cách đúng đắn những giá trị văn hoá của xã hội. Mỗi người phải biết phân biệt cái tốt đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, cái tiến bộ thúc đẩy sự phát triển xã hội với cái lạc hậu cản trở mỗi người và cả dân tộc tiến lên phía trước. Từ đó, mỗi người phải phấn đấu làm cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày càng tăng, cái tiến bộ ngày càng nhiều, cái lỗi thời, lạc hậu ngày càng giảm bớt, cái xấu xa, hư hỏng ngày càng bị loại bỏ khỏi đời sống con người và xã hội.
d. Quan niệm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn hoá mới
- Theo Hồ Chí Minh, nền văn hoá mới mà chúng ta chủ trương xây dựng là nền văn hoá có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
+ Tính dân tộc của nền văn hóa thể hiện ở đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc của nền văn hóa. Nó là kết quả của sự kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo của dân tộc.
+ Tính khoa học của nền văn hóa thể hiện ở sự phù hợp của nền văn hóa dân tộc với sự tiến hóa chung của nền văn hóa nhân loại, ở khả năng đóng góp của văn hóa vào sự nghiệp cải tạo xã hội.
+ Tính đại chúng của nền văn hóa thể hiện ở chỗ nền văn hóa đó do quần chúng nhân dân vun trồng nên, quần chúng nhân dân vừa là chủ thể sáng tạo vừa là chủ thể hưởng thụ những giá trị của nền văn hóa đó.
- Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng hiện nay là nền văn hóa có tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thực chất nền văn hóa này là sự tiếp nối và triển khai tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nền văn hóa có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
Tiên tiến là khoa học, hiện đại, là xã hội chủ nghĩa, là biết tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đậm đà bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với những điều kiện lịch sử mới của dân tộc.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa
+ Văn hóa giáo dục:
Trong nền giáo dục phong kiến, kinh viện xa rời thực tiễn, coi kinh sách của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức. Giáo dục phong kiến hướng tới kẻ sĩ, người quân tử, bậc trượng phu, phụ nữ bị tước quyền học. Trong nền giáo dục thực dân, không mở mang trí tuệ, thực hiện ngu dân. Đó là nền văn hóa đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát.
Nền giáo dục của nước VN sau khi được độc lập là nền giáo dục mới.
- Mục tiêu của giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng dạy và học. Đó là đào tạo những con người mới có đức có tài. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Cải tạo tri thức cũ, đào tạo tri thức mới. Đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng x/dựng đất nước giàu mạnh và văn minh. Mở mang dân trí từ việc xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt, kết hợp phổ cập và nâng cao.
- Phải cải cách giáo dục, xây dựng hệ thống trường, lớp với chương trình và nội dung dạy học thật khoa học, hợp lý, phù hợp với bước phát triển của ta. Phải luôn gắn giáo dục với thực tiễn VN, học đi đôi với hành, học kết hợp với lao động sản xuất. Giáo dục phải có tính định hướng đúng đắn, rõ ràng, thiết thực.
- Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. "Học không biết chán, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học"
- Phải không ngừng nâng cao dân trí. Học tập văn hóa gắn với học tập khoa học kỹ thuật.
+ Văn hóa văn nghệ:
- Văn nghệ là mặt trận, nghệ sỹ là chiến sỹ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xh mới, con người mới. "Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà". "Cũng như các chiến sỹ khác, chiến sỹ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự tổ quốc, phụng sự kháng chiến, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sỹ nghệ thuật cần có lập trường vững vàng, tư tưởng đúng...đặt lợi ích của kháng chiến, của tổ quốc, của nhân dân lên trên hết."
- Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân. "Thật là 1 thế giới thần tiên. Nhưng tôi nhớ mường tượng như Lỗ Tấn, nhà đại văn hào của cách mạng Trung Hoa đã nói 1 câu đại ý như thế này: Người trần lên tiên có lẽ cũng thích thật. Nhưng nhìn mãi cái đẹp không thay đổi rồi cũng thấy chán, thấy nhật nhẽo và mới biết rằng muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật thì phải trở về với cuộc sinh hoạt thực tại của con người." Thực tại đem lại nguồn sinh khí vô tận cho văn nghê. Chiến sỹ văn nghệ phải thật hòa mình với quần chúng và không được quên rằng "...chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó-thì nhân dân cũng sẽ quên anh ta." Thực tiễn không chỉ là nguồn nuôi dưỡng những sáng tác, mà còn là những tinh hoa trong sáng tác dân gian đã được chắt lọc từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nhân dân cũng sáng tác văn hóa văn nghệ và hưởng thụ văn nghệ, chúng ta thường gọi là sáng tác dân gian. Những sáng tác ấy là "những hòn ngọc quý".
- Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và của dân tộc. Phải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp của cách mạng của nhân dân. "Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì bổ ích". "Cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn 1 món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người thấy nhiều loại hoa đẹp." Như vậy văn nghệ phản ánh chân thực những gì đã có trong đời sống của nhân dân, mà còn hướng dẫn nhân dân loại bỏ cái giả, cái sai, cái không đúng, để vươn tới cái lý tưởng, đó chính là sự phản ánh có tính hướng đích của văn nghệ. Chính điều đó mở đường cho sáng tạo không giới hạn của văn nghệ sĩ.
+ Văn hóa đời sống
Quan điểm xây dựng đời sống mới thực sự là quan điểm độc đáo của HCM về văn hóa. Khái niệm đời sống mới bao gồm cả đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới, ba nội dung ấy có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu.
- Đạo đức mới. Theo HCM là thực hành đời sống mới cần, kiệm, liêm chính.
- Lối sống mới. Đó là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dt và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Cần phải "sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc". Năm cách phải sửa đổi...có nghĩa là nói về mặt văn hóa của ăn, mặc, ở...Mặt văn hóa của ăn, mặc, ở...phụ thuộc vào lối sống có văn hóa hay không có văn hóa của con người.
- Nếp sống mới. Quá trình xây dựng lối sống mới làm cho nó dần dần trở thành thói quen ở mỗi người, thành phong tục tập quán của cả cộng đồng trong phạm vi địa phương hay cả nước gọi là nếp sống mới. Nếp sống mới phải kế thừa những truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục lâu đời của nhân dân ta. Cái gì cũ mà xấu thì bỏ. Cái gì cũ mà không xấu thì phải sửa đổi cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm. Cái gì mới mà hay thì phải làm.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top