Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Bộ giáo dục và đào tạo

_______________________

Giáo tŕnh

Tư tưởng Hồ Chí Minh

(Dùng trong các trường đại học, cao đẳng)

(Tái bản lần thứ nhất)

Chủ biên

PGS, TS. Mạch Quang Thắng

Tập thể tác giả

- PGS. Lê Mậu Hăn

- TS. Vũ Quang Hiển

- TS. Phạm Ngọc Anh

- PGS, TS. Ngô Đăng Tri

Chương I

Chương II

Chương III

Chương IV

- PGS, TS. Mạch Quang Thắng Chương V, VII

- PGS, TS. Bùi Đ́nh Phong

- TS. Ngô Văn Thạo

Chương VI

Chương tham khảo

Cộng tác viên

Vũ Thanh B́nh

2

Chương I

Nguồn gốc, quá tŕnh h́nh thành và phát

triển, đối tượng, nhiệm vụ và ư nghĩa học tập

tư tưởng Hồ Chí Minh

Việt Nam là một quốc gia dân tộc tự chủ từ sớm. Nền độc lập, tự chủ của Việt

Nam gắn liền với quá tŕnh dựng nước và giữ nước trải qua hàng ngàn năm lịch sử.

Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, đánh sập thành

tŕ chế độ phong kiến mục ruỗng của triều đ́nh nhà Nguyễn, biến nước ta thành thuộc

địa của Pháp, nhân dân Việt Nam bị sống trong kiếp đọa đày nô lệ.

Bắt đầu từ mùa xuân năm 1930, dưới ngọn cờ độc lập, tự do của Hồ Chí Minh, dân

tộc Việt Nam đă đoàn kết thành một khối, kiên cường chiến đấu và dựng xây đất nước,

giành được những thắng lợi có ư nghĩa lịch sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc. Có được

những thắng lợi vĩ đại đó là nhờ Đảng và nhân dân ta được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khoá

III lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời có viết: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất

nước ta đă sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đă làm

rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta"1.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu rơ: Hồ Chí Minh đă đề xướng đường lối độc

lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội. Sau này được đúc kết lại trong khẩu hiệu nổi

tiếng: Không có ǵ quư hơn độc lập, tự do2.

Đại tướng Vơ Nguyên Giáp khái quát: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lư luận

về đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam... Đó là tư tưởng cách

mạng không ngừng, từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xă hội, nội dung

cốt lơi là giải phóng dân tộc, giải phóng xă hội (giai cấp), giải phóng con người. Nói

ngắn gọn là độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xă hội; hay nói gọn hơn: độc lập dân

tộc và chủ nghĩa xă hội"3.

Chủ tịch Phiđen Caxtrô Rudơ (Cuba) cho rằng: Hồ Chí Minh đă kết hợp một cách

thiên tài cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và cuộc đấu tranh v́ quyền lợi quần

chúng bị bọn phong kiến và giai cấp bóc lột áp bức... Sự nghiệp giải phóng dân tộc và

sự nghiệp giải phóng xă hội là hai điểm then chốt trong học thuyết của Người1.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr. 516.

2. Xem: Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh, quá khứ, hiện tại và tương lai, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 18.

3. Vơ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2003, tr. 98.

1. Xem: Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr .76.

3

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đă nêu cao tư tưởng Hồ Chí

Minh và đă quyết định ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của ḿnh: "Đảng lấy chủ nghĩa

Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành

động"2.

V́ vậy, nghiên cứu, học tập một cách có hệ thống môn học Tư tưởng Hồ Chí

Minh trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong cán bộ, đảng viên, nhất là học sinh,

sinh viên thuộc hệ thống nhà trường của cả nước là nhiệm vụ hết sức quan trọng.

I. Nguồn gốc, quá tŕnh h́nh thành và phát triển tư

tưởng hồ chí minh

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đ́nh sĩ phu yêu nước, ở quê hương

giàu truyền thống cách mạng, trong một đất nước sớm định h́nh một quốc gia dân tộc

có chủ quyền lâu đời, trong đó tinh thần yêu nước là ḍng chảy chủ yếu xuyên suốt

chiều dài lịch sử.

Cuối thế kỷ XIX, đất nước ta bị rơi vào cảnh nô lệ lầm than dưới ách thuộc địa

của thực dân Pháp. Nhân dân Việt Nam đă liên tiếp nổi dậy chống lại ách thống trị của

thực dân Pháp dưới ngọn cờ của một số nhà yêu nước tiêu biểu nối tiếp nhau, song đều

lần lượt thất bại. Đám mây đen của chủ nghĩa thực dân vẫn bao phủ bầu trời Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng.

Giữa lúc đó, Hồ Chí Minh ra nước ngoài để học hỏi, t́m một giải pháp mới để

cứu nước, giải phóng dân tộc. Lúc này, chủ nghĩa đế quốc đă xác lập được sự thống trị

của chúng trên một phạm vi rộng lớn của thế giới. ách áp bức và thôn tính dân tộc

càng nặng, sự phản kháng dân tộc của nhân dân bị nô dịch càng tăng. Phương Đông đă

thức tỉnh. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Cách mạng Tháng Mười Nga đă

thành công, nước Nga Xôviết đă ra đời. Quốc tế Cộng sản được thành lập. Các đảng

cộng sản đă lần lượt ra đời tại một số nước ở châu Âu, châu á...

Hồ Chí Minh đă hoạt động trong phong trào công nhân và lao động một số nước

trên thế giới; đến với nhân dân cần lao ở các nước thuộc địa đang bị chủ nghĩa thực dân

nô dịch; học tập, nghiên cứu các trào lưu tư tưởng, các thể chế chính trị; tiếp thu tư

tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin; chọn lựa con đường cứu nước, giải phóng

dân tộc là con đường cách mạng vô sản; đứng về phía Quốc tế Cộng sản; tham gia Đảng

Cộng sản Pháp. Từ đó, Hồ Chí Minh càng đi sâu t́m hiểu các học thuyết cách mạng trên

thế giới, xây dựng lư luận về cách mạng thuộc địa, trước hết là lư luận cách mạng để

giải phóng dân tộc Việt Nam, xây dựng các nhân tố cách mạng của dân tộc, tổ chức và

lănh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên giành những thắng lợi vĩ đại v́ độc lập của dân

tộc, tự do của toàn dân, v.v..

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127.

4

1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh

a) Giá trị truyền thống dân tộc

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đă h́nh thành cho Việt Nam các

giá trị truyền thống dân tộc phong phú, vững bền. Đó là ư thức chủ quyền quốc gia dân

tộc, ư chí tự lập, tự cường, yêu nước, kiên cường, bất khuất... tạo thành động lực mạnh

mẽ của đất nước; là tinh thần tương thân, tương ái, nhân nghĩa, cố kết cộng đồng dân

tộc; thủy chung, khoan dung, độ lượng; là thông minh, sáng tạo, quư trọng hiền tài, tiếp

thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú văn hóa dân tộc... Trong nguồn giá trị

tinh thần truyền thống đó, chủ nghĩa yêu nước là cốt lơi, là ḍng chảy chính của tư

tưởng văn hóa truyền thống Việt Nam, xuyên suốt trường kỳ lịch sử, là động lực mạnh

mẽ cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Chính sức mạnh truyền thống tư tưởng

và văn hóa đó của dân tộc đă thúc giục Hồ Chí Minh ra đi t́m ṭi, học hỏi, tiếp thu tinh

hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu cho tư tưởng cách mạng và văn hóa của Người.

b) Tinh hoa văn hóa nhân loại

Hồ Chí Minh đă biết làm giàu vốn văn hóa của ḿnh bằng cách học hỏi, tiếp thu

tư tưởng văn hóa phương Đông và phương Tây.

Về tư tưởng và văn hóa phương Đông, Hồ Chí Minh đă tiếp thu những mặt tích

cực của Nho giáo về triết lư hành động, nhân nghĩa, ước vọng về một xă hội b́nh trị,

ḥa mục, thế giới đại đồng; về một triết lư nhân sinh, tu thân, tề gia; đề cao văn hóa

trung hiếu "dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh".

Người nói: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử

có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó th́ chúng ta nên học"1. Người

dẫn lời của V.I. Lênin: "Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được

những điều hiểu biết quư báu của các đời trước để lại"2.

Về Phật giáo, Hồ Chí Minh đă tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu

nạn; coi trọng tinh thần b́nh đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều thiện, v.v..

Về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh t́m thấy những điều

thích hợp với điều kiện nước ta, đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh

phúc.

Về tư tưởng và văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đă nghiên cứu tiếp thu tư tưởng

văn hóa dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ.

Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh đă tiếp thu tư tưởng của

các nhà khai sáng: Vônte (Voltaire), Rútxô (Rousso), Môngtexkiơ (Moutesquieu). Đặc

biệt, Người chịu ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng tự do, b́nh đẳng của Tuyên ngôn

nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Đại cách mạng Pháp. Về tư tưởng dân chủ của

cách mạng Mỹ, Người đă tiếp thu giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu

hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập năm 1776, quyền của nhân dân kiểm soát chính phủ.

c) Chủ nghĩa Mác - Lênin

Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc lư luận trực tiếp, quyết định bản chất tư

tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khẳng định:

"Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt

Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà c̣n

là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xă

hội và chủ nghĩa cộng sản"1.

Đối với chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đă nắm vững cái cốt lơi, linh hồn

sống của nó, là phương pháp biện chứng duy vật; học tập lập trường, quan điểm,

phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin để giải quyết các vấn đề thực tiễn

của cách mạng Việt Nam.

Các tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh phản ánh bản chất cách mạng tư tưởng

của Người theo thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.

d) Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh

Ngoài nguồn gốc tư tưởng, quá tŕnh h́nh thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí

Minh c̣n chịu sự tác động sâu sắc của thực tiễn dân tộc và thời đại mà Người đă sống

và hoạt động. Chính quá tŕnh hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh ở trong nước và khi

c̣n bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên cứu và hoạt động đă làm cho Người có một

hiểu biết sâu sắc về dân tộc và thời đại, nhất là thực tiễn phương Đông để xem xét, đánh

giá và bổ sung cơ sở triết lư phương Đông cho học thuyết Mác - Lênin.

Từ hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đă khám phá quy luật vận động xă hội, đời

sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia

và thời đại mới để khái quát thành lư luận, đem lư luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn, qua

kiểm nghiệm của thực tiễn để hoàn thiện, làm cho lư luận có giá trị khách quan, tính

cách mạng và khoa học.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm hoạt động tinh thần của cá nhân, do Người

sáng tạo trên cơ sở những nhân tố khách quan. Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc

rất lớn vào các yếu tố nhân cách, phẩm chất và năng lực tư duy của chính người sáng

tạo ra nó.

Không chỉ ở nước ta mà có nhiều chính khách, nhiều nhà hoạt động văn hóa-xă

hội ở nước ngoài đă nêu nhiều ư kiến sâu sắc về nhân cách, phẩm chất, về tài năng trí

tuệ của Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1923, lúc Hồ Chí Minh vào trạc tuổi 33, nhà báo

Liên Xô Ô. Manđenxtam khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh đă sớm nhận biết: "Từ Nguyễn

1.Sđd, t.10, tr. 128.

6

ái Quốc đă tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền

văn hóa tương lai"1. Văn hóa Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày càng tỏa sáng theo

ḍng thời gian của dân tộc và thời đại.

Nhân cách, phẩm chất, tài năng của Hồ Chí Minh đă tác động rất lớn đến sự h́nh

thành và phát triển tư tưởng của Người. Đó là một con người sống có hoài băo, có lư

tưởng, yêu nước, thương dân, có bản lĩnh kiên định, có ḷng tin vào nhân dân, khiêm tốn,

b́nh dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới, thông minh, có hiểu biết sâu rộng, có phương

pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn, v.v.. Chính nhờ vậy, Người đă khám phá sáng tạo về

lư luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới, xây dựng được một hệ thống quan điểm

toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng Việt Nam, đă vượt qua mọi thử thách, sóng

gió trong hoạt động thực tiễn, kiên tŕ chân lư, định ra các quyết sách đúng đắn và sáng

tạo, biến tư tưởng thành hiện thực cách mạng.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng ḥa và phát triển biện

chứng tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hóa của

phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng, cùng với thực

tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh- một con

người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách, phẩm chất cách

mạng cao đẹp tạo nên. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng Việt Nam hiện đại.

2. Quá tŕnh h́nh thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh

Nêu rơ sự phân chia các thời kỳ lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta

nắm được những nội dung tư tưởng cơ bản của Người trong từng thời kỳ, phản ánh

khách quan hiện thực lịch sử và tài năng trí tuệ của Hồ Chí Minh. V́ vậy, tiêu chí cơ

bản để phân kỳ là phải dựa vào nội dung chuyển biến về mặt tư tưởng của Hồ Chí Minh

trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể chứ không phải dựa vào mốc thời gian hoạt động của

Người. Chúng ta có thể phân chia thành 5 thời kỳ như sau:

a) Thời kỳ h́nh thành tư tưởng yêu nước, thương ṇi (trước năm 1911)

Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh lớn lên và sống trong nỗi đau của người dân mất

nước, được sự giáo dục của gia đ́nh, quê hương, dân tộc về ḷng yêu nước thương dân;

sớm tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp; băn khoăn trước những thất bại của các

sĩ phu yêu nước chống Pháp; ham học hỏi, muốn t́m hiểu những tinh hoa văn hóa tiên

tiến của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở châu Âu, muốn đi ra nước ngoài xem họ

làm ǵ để trở về giúp đồng bào thoát khỏi ṿng nô lệ. Trong thời kỳ này, ở Hồ Chí Minh

đă h́nh thành tư tưởng yêu nước, thương dân, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh thần

truyền thống của dân tộc, ham muốn học hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại.

1. Sđd, t. 1, tr. 478.

7

b) Thời kỳ t́m ṭi con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911-1920)

Hồ Chí Minh ra đi t́m đường cứu nước, trước tiên Người đến nước Pháp, nơi đă

sản sinh ra tư tưởng tự do, b́nh đẳng, bác ái; tiếp tục đến nhiều nước ở châu Âu, châu

Phi, châu Mỹ, sống và hoạt động với những người dân bị áp bức ở phương Đông và

những người làm thuê ở

phương Tây. Người đă khảo sát, t́m hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ,

tham gia Đảng Xă hội Pháp, t́m hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga, học tập và đă t́m

đến với chủ nghĩa Lênin, tham dự Đại hội Tua, đứng về phía Quốc tế cộng sản, tham gia

sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh đă có sự chuyển biến vượt

bậc về tư tưởng; từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa Mác-

Lênin, từ một chiến sĩ chống thực dân phát triển thành một chiến sĩ cộng sản Việt

Nam. Đây là một bước chuyển biến cơ bản về tư tưởng cứu nước của Hồ Chí Minh:

"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách

mạng vô sản"1.

c) Thời kỳ h́nh thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1921 -

1930)

Hồ Chí Minh đă có thời kỳ hoạt động thực tiễn và lư luận sôi nổi, phong phú ở

Pháp (1921-1923), ở Liên Xô (1923-1924), ở Trung Quốc (1924-1927), ở Thái Lan

(1928-1929)... Trong thời gian này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đă

h́nh thành cơ bản. Hồ Chí Minh đă kết hợp nghiên cứu xây dựng lư luận, kết hợp với

tuyên truyền tư tưởng giải phóng dân tộc và vận động tổ chức quần chúng đấu tranh,

xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Kách mệnh

(1927) và những bài viết của Hồ Chí Minh trong thời kỳ này đă thể hiện những quan

điểm lớn và độc đáo, sáng tạo về con đường cách mạng Việt Nam. Có thể tóm tắt nội

dung chính của những quan điểm đó như sau:

- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách

mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải

phóng giai cấp công nhân, phải kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xă hội.

- Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật thiết với

nhau. Cách mạng thuộc địa không lệ thuộc vào cách mạng ở chính quốc mà có tính chủ

động, độc lập. Cách mạng thuộc địa có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng ở

chính quốc và giúp cho cách mạng ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.

- Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc "dân tộc cách mệnh", đánh đuổi đế

quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do.

- Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tập hợp lực lượng dân

1. Sđd, t.9, tr. 314.

8

tộc thành một sức mạnh lớn để chống đế quốc và tay sai.

- Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế, song phải nêu

cao tinh thần tự lực tự cường, không được ỷ lại chờ đợi sự giúp đỡ của quốc tế.

- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của cả dân tộc đại đoàn kết. Phải tổ

chức quần chúng, lănh đạo và tổ chức đấu tranh bằng các h́nh thức và khẩu hiệu thích

hợp. Phương pháp đấu tranh để giành chính quyền, giành lại độc lập tự do là bằng bạo

lực của quần chúng và có thể bằng phương thức khởi nghĩa dân tộc.

- Cách mạng muốn thành công trước hết phải có đảng cách mạng lănh đạo, vận

động và tổ chức quần chúng đấu tranh. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng

như người cầm lái có vững thuyền mới chạy đúng hướng, tới đích. Đảng phải có lư luận

làm cốt...

Cùng với chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh trong

những năm 20 của thế kỷ XX được truyền bá vào Việt Nam, làm cho phong trào dân tộc

và giai cấp ở nước ta trở thành một phong trào tự giác, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng

sản Việt Nam ngày 3-2-1930, thông qua Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.

d) Thời kỳ thử thách, kiên tŕ giữ vững quan điểm, nêu cao tư tưởng

độc lập, tự do và quyền dân tộc cơ bản (1930-1945)

Trên cơ sở tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam đă h́nh thành về cơ bản,

trong mấy năm đầu của những năm 1930, Hồ Chí Minh đă kiên tŕ giữ vững quan điểm

cách mạng của ḿnh, vượt qua khuynh hướng "tả" đang chi phối Quốc tế Cộng sản, chi

phối Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phát triển thành chiến lược cách mạng giải

phóng dân tộc, xác lập tư tưởng độc lập, tự do, dẫn đến thắng lợi của cuộc Cách mạng

Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă ra đời. Tuyên ngôn độc

lập do Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới về sự

ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa - Nhà nước của dân, do dân, v́ dân đă

khẳng định về mặt pháp lư quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Đây là mốc lịch

sử không chỉ đánh dấu kỷ nguyên tự do, độc lập mà c̣n là bước phát triển mở rộng tư

tưởng dân quyền và nhân quyền của cách mạng tư sản thành quyền tự do, độc lập của

các dân tộc trên thế giới. Nhân dân Việt Nam nêu cao ư chí để bảo vệ quyền tự do, độc

lập của ḿnh. Đó là: ""Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng. Tạo hóa cho

họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được

sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"... Suy rộng ra, câu ấy có ư nghĩa là: tất

cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra b́nh đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,

quyền sung sướng và quyền tự do"1.

1. Sđd, t. 4, tr. 1.

9

đ) Thời kỳ tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và kiến

quốc (1945-1969)

Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lănh đạo nhân dân ta vừa tiến

hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân

(1945 - 1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xă hội ở miền Bắc. Thời kỳ này, tư tưởng

Hồ Chí Minh có bước phát triển mới, trong đó nổi bật là các nội dung lớn như sau:

- Tư tưởng kết hợp kháng chiến với kiến quốc, tiến hành kháng chiến kết hợp với

xây dựng chế độ dân chủ nhân dân; tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác

nhau, đó là cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xă hội chủ nghĩa ở

miền Bắc nhằm một mục tiêu chung trước mắt là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ

quốc.

- Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức ḿnh là

chính.

- Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, v́

dân.

- Xây dựng Đảng Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền v.v..

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh trải qua hơn nửa thế kỷ h́nh thành và phát triển,

là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, là ngọn cờ thắng lợi

của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh v́ độc lập, tự do, v́ giải phóng dân tộc và

chủ nghĩa xă hội.

II. định nghĩa, đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp

nghiên cứu và ư nghĩa học tập tư tưởng hồ chí minh

1. Định nghĩa và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh

Khi nói khái niệm tư tưởng là nói đến một hệ thống quan điểm, lư luận mang giá

trị như một học thuyết được xây dựng trên một thế giới quan và phương pháp luận nhất

quán, đại biểu cho ư chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, phù hợp với nhu

cầu tiến hóa của thực tiễn nhất định, trở lại chỉ đạo và cải tạo thực tiễn đó.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đọc trước Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX viết: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan

điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả

của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của

nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hoá

nhân loại..."1.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

10

Định nghĩa trên là một bước tiến mới trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ

Chí Minh, làm định hướng cho các nhà nghiên cứu tiếp tục đi sâu t́m hiểu về tư tưởng

của Người, đặc biệt là xác định nội dung giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là

nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động cho toàn Đảng, toàn dân ta.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận trung tâm của chuyên ngành "Hồ Chí Minh

học" thuộc ngành Khoa học chính trị Việt Nam. Hồ Chí Minh đă xây dựng được hệ

thống lư luận toàn diện về cách mạng Việt Nam phù hợp với thực tiễn của đất nước và

ḍng chảy thời đại. Hệ thống đó bao gồm một số nội dung cơ bản sau:

- Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;

- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại;

- Sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc;

- Quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, v́

dân;

- Quốc pḥng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;

- Phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

của nhân dân;

- Đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;

- Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau;

- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lănh

đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân...

2. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp và ư nghĩa học tập tư tưởng

Hồ Chí Minh

a) Đối tượng, nhiệm vụ

Đối tượng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống quan điểm, lư

luận về cách mạng Việt Nam trong ḍng chảy của thời đại mới mà cốt lơi là tư tưởng

độc lập, tự do; về mối quan hệ giữa lư luận và thực tiễn của hệ thống quan điểm lư luận

cách mạng Hồ Chí Minh; về mối liên hệ biện chứng trong sự tác động qua lại của tư

tưởng độc lập, tự do với tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng

con người; về độc lập dân tộc với chủ nghĩa xă hội, về các quan điểm cơ bản trong hệ

thống tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trên cơ sở đối tượng, bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh, có nhiệm vụ đi sâu nghiên

cứu làm rơ:

2001, tr. 83.

11

- Nguồn gốc, quá tŕnh h́nh thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh;

- Nội dung, bản chất cách mạng và khoa học, đặc điểm của các quan điểm trong

hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh;

- Vai tṛ nền tảng, kim chỉ nam hành động của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách

mạng Việt Nam và giá trị tư tưởng của Người trong kho tàng tư tưởng, lư luận cách

mạng thế giới của thời đại.

b) Phương pháp

Muốn nghiên cứu, học tập có kết quả, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ

Chí Minh, cần nắm vững một số vấn đề cơ bản về phương pháp nghiên cứu sau:

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là cơ sở phương pháp luận khoa

học để nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh đă nhấn mạnh ưu điểm lớn của học thuyết Mác là phép duy vật

biện chứng. Phép biện chứng duy vật một phương pháp duy nhất khoa học là linh

hồn của toàn bộ học thuyết Mác. Hồ Chí Minh thường nhắc nhở chúng ta phải

đứng trên lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tổng

kết kinh nghiệm, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của đất nước mới

có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng đến thắng lợi. Chính

nhờ nắm vững phép biện chứng duy vật, Hồ Chí Minh từ rất sớm đă nêu vấn đề cần

bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư

liệu mà ở thời kỳ đó, Mác không thể có được; phải xem lại chủ nghĩa Mác về cơ sở

lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Với phương pháp biện

chứng, khi nghiên cứu thực tiễn đất nước, lịch sử dân tộc Việt Nam, Người kết luận:

"Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước"1; Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ

nhân danh Quốc tế cộng sản là một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời. "Giờ đây,

người ta sẽ không thể làm ǵ được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực

vĩ đại, và duy nhất của đời sống xă hội của họ"2. Điều này thể hiện sự sáng tạo của Hồ

Chí Minh trong việc nắm vững và sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của Mác.

Phương pháp tư tưởng Hồ Chí Minh là phương pháp biện chứng duy vật, không

giáo điều, rập khuôn, luôn luôn xem xét sự vật trong sự vận động và phát triển.

- Cùng với chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta cần vận dụng chủ nghĩa duy

vật lịch sử vào việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong nghiên cứu khoa

học, theo V.I. Lênin, chúng ta không được quên mối liên hệ lịch sử căn bản, nghĩa là

phải xem xét một hiện tượng nhất định đă xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện

tượng đó đă trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của

sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đă trở thành như thế nào? Nắm vững quan điểm

này giúp chúng ta hiểu được tư tưởng Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn của quá tŕnh phát

1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr. 466, 467.

12

triển lịch sử, quá tŕnh phát triển sáng tạo, đổi mới.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách

mạng Việt Nam, có quan hệ thống nhất biện chứng nội tại của nó. Một yêu cầu về

phương pháp luận khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trên b́nh diện tổng thể hay

từng bộ phận là phải luôn luôn quán triệt mối liên hệ qua lại của các yếu tố, các bộ phận

khác nhau trong sự gắn kết tất yếu của hệ thống tư tưởng đó quanh hạt nhân cốt lơi là tư

tưởng độc lập, tự do. V.I. Lênin cũng đă viết: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải

nh́n bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của

sự vật đó"1.

- Hồ Chí Minh là một nhà lư luận - thực tiễn. Người xây dựng lư luận, vạch cương

lĩnh, đường lối, chủ trương cách mạng và trực tiếp tổ chức, lănh đạo thực hiện. Và từ

thực tiễn Người tổng kết, bổ sung để hoàn chỉnh và phát triển, cho nên tư tưởng cách

mạng Hồ Chí Minh luôn luôn sáng tạo, không lạc hậu, giáo điều. Nghiên cứu tư tưởng

Hồ Chí Minh không chỉ căn cứ vào các tác phẩm, bài viết mà cần coi trọng hoạt động

thực tiễn của Người, thực tiễn cách mạng dưới sự tổ chức và lănh đạo của Đảng do

Người đứng đầu. Hơn nữa, Hồ Chí Minh có một phong cách nói và viết rất ngắn gọn

không theo lối viết kiểu hàn lâm. V́ vậy, chỉ căn cứ vào bài viết, bài nói, tác phẩm của

Người là chưa đầy đủ. Hành động thực tiễn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến

đấu và dựng xây của nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là lời

giải thích rơ ràng giá trị khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh. Chân lư là cụ thể, cách

mạng là sáng tạo. Sự sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh trước hết là sự sáng tạo về

tư duy lư luận, về chiến lược, về đường lối cách mạng. Điều đó giữ vai tṛ quyết định

hàng đầu dẫn đến thắng lợi cách mạng. Tư tưởng lư luận cách mạng Hồ Chí Minh đă

góp phần phát triển phong phú thêm lư luận cách mạng của thời đại, trước hết là về cách

mạng thuộc địa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đă tỏa sáng vượt ra ngoài biên giới Việt Nam,

đến với những người nô lệ ở các nước phương Đông và người lao động làm thuê ở

phương Tây.

c) Ư nghĩa học tập

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con

đường xây dựng đất nước v́ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ,

văn minh. V́ vậy, phải nghiêm túc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao tư duy lư

luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng, năng lực công tác, thực

hiện tốt các nhiệm vụ cách mạng trọng đại của Đảng, của Nhà nước ta trên con đường

quá độ lên chủ nghĩa xă hội.

Đối với thế hệ trẻ nói chung, với học sinh, sinh viên trong các trường cao đẳng và

đại học nói riêng, cần đặc biệt coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cách

mạng, đặc biệt là giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao lư luận, phương pháp

1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.42, tr. 364.

13

tư duy biện chứng, góp phần đào tạo sinh viên thành những chiến sĩ đi tiên phong trong

công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn và to đẹp hơn như

Di chúc của Người để lại: "Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều

hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo

dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ

nghĩa xă hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần

thiết"1.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t 12, tr. 510.

14

Chương II

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và

cách mạng giải phóng dân tộc

I. Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc

Dân tộc là một vấn đề rộng lớn. C.Mác, Ph.Ăngghen không đi sâu giải quyết vấn

đề dân tộc, v́ thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đă được giải quyết trong cách mạng tư

sản; hơn nữa, các ông chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về vấn đề dân tộc thuộc địa.

Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một

bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, V.I. Lênin có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn

đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lư luận. Tuy cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I.

Lênin đă nêu lên những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân

tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lư luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến

lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa, nhưng từ thực

tiễn cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp.

Điều kiện những năm đầu thế kỷ XX trở đi đặt ra yêu cầu cần vận dụng và phát triển

sáng tạo lư luận Mác - Lênin cho phù hợp với thực tiễn ở các nước thuộc địa; chính Hồ

Chí Minh là người đă đáp ứng yêu cầu đó.

1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả

các dân tộc

Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói:

"Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn;

đấy là tất cả những điều tôi hiểu"1. Trong quá tŕnh t́m đường cứu nước, Hồ Chí Minh

đă t́m hiểu và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập

năm 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của cách mạng

Pháp. Từ đó, Người đă khái quát và nâng lên thành quyền của các dân tộc: "Tất cả các

dân tộc trên thế giới đều sinh ra b́nh đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung

sướng và quyền tự do"2.

Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đă được các nước

1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.

44.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 1.

15

Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt những

người Việt Nam yêu nước, Người gửi tới Hội nghị Vécxây (Pháp) bản Yêu sách gồm

tám điểm, đ̣i các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách chưa đề

cập vấn đề độc lập hay tự trị, mà tập trung vào hai nội dung cơ bản:

Một là, đ̣i quyền b́nh đẳng về chế độ pháp lư cho người bản xứ Đông Dương

như đối với người châu Âu. Cụ thể là, phải xóa bỏ các ṭa án đặc biệt dùng làm công cụ

khủng bố, đàn áp bộ phận trung thực nhất trong nhân dân (tức những người yêu nước);

phải xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế bằng chế độ ra các đạo luật.

Hai là, đ̣i các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, đó là các quyền tự do

ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do hội họp, tự do cư trú...

Bản Yêu sách đó không được bọn đế quốc chấp nhận. Nguyễn ái Quốc kết luận:

Muốn giải phóng dân tộc, không thể bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài, mà

trước hết phải dựa vào sức mạnh của chính dân tộc ḿnh.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu:

"Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến", "Làm cho nước Nam được hoàn

toàn độc lập"1.

Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ tŕ Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung

ương Đảng nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc. Tháng 6-1941, Người viết thư Kính cáo

đồng bào, chỉ rơ: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy"2.

Người chỉ đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), ra báo Việt Nam độc

lập, ban bố Mười chính sách của Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là: "Cờ treo độc

lập, nền xây b́nh quyền".

Cách mạng Tháng Tám thành công, Người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc

Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế giới: "Nước Việt Nam có

quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đă thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân

tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững

quyền tự do, độc lập ấy"3.

Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời gian

sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: "... Nhân dân chúng tôi thành

thật mong muốn ḥa b́nh. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng

để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lănh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất

nước"1. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền

dân tộc, Người ra lời kêu gọi vang dội núi sông: "Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ

1. Sđd, t.3, tr. 1.

2. Sđd, t.3, tr. 198.

3. Sđd, t.4, tr. 4.

1.Sđd, t.4, tr. 469.

16

nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"2. Khi đế quốc Mỹ mở rộng

chiến tranh leo thang ra miền Bắc, Hồ Chí Minh nêu một chân lư có giá trị cho mọi thời đại:

"Không có ǵ quư hơn độc lập, tự do"3. Không có ǵ quư hơn độc lập, tự do là mục tiêu

chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam, đồng thời

cũng là nguồn động viên lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. V́ vậy,

Người không chỉ được tôn vinh là "Anh hùng giải phóng dân tộc" của Việt Nam mà c̣n

được thừa nhận là "Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa

trong thế kỷ XX".

2. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh

giành độc lập

Theo Hồ Chí Minh, do kinh tế c̣n lạc hậu, chưa phát triển, nên sự phân hóa giai

cấp ở Đông Dương chưa triệt để, v́ thế cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như

ở phương Tây. Các giai cấp vẫn có sự tương đồng lớn: dù là địa chủ hay nông dân, họ

đều chịu chung số phận là người nô lệ mất nước. Từ sự phân tích đó, Người kiến nghị

về Cương lĩnh hành động của Quốc tế cộng sản là: "Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ

nhân danh Quốc tế cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi... nhất định chủ

nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế"4.

Như vậy, xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xă hội thuộc địa, từ

truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đă đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa

dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy. Người cho đó là một chính

sách mang tính hiện thực tuyệt vời. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng

sản mà Hồ Chí Minh đề cập ở đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính, chứ không phải là

chủ nghĩa dân tộc hẹp ḥi.

3. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xă hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế

Ngay từ khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đă có sự gắn

bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xă hội. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định

phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: làm tư sản dân quyền cách mạng

và thổ địa cách mạng để đi tới xă hội cộng sản.

Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải

phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít

giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con

người.

2 . Sđd, t.4, tr. 480.

3.Sđd, t.12, tr. 108.

4.Sđd, t.1, tr. 467.

17

Xóa bỏ ách áp bức dân tộc mà không xóa bỏ t́nh trạng bóc lột và áp bức giai cấp

th́ nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ có xóa bỏ tận gốc t́nh trạng áp

bức, bóc lột, chỉ có thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, v́ dân mới bảo đảm

cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài ḥa giữa cá

nhân và xă hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Do đó, sau

khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xă hội, làm cho dân giàu, nước

mạnh, mọi người đều được sung sướng, tự do. Sự phát triển đất nước theo con đường

chủ nghĩa xă hội là một bảo đảm vững chắc cho nền độc lập của dân tộc. Hồ Chí Minh

nói: "yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xă hội, v́ có tiến lên

chủ nghĩa xă hội th́ nhân dân ḿnh mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một

giàu mạnh thêm"1.

Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: Độc lập cho dân tộc ḿnh, đồng thời độc lập cho

tất cả các dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của

các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho

độc lập của dân tộc ḿnh mà c̣n đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức

trên toàn thế giới.

Năm 1914, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất vừa nổ ra, Hồ Chí Minh đă đem toàn

bộ số tiền dành dụm được từ đồng lương ít ỏi của ḿnh ủng hộ quỹ kháng chiến của

người Anh. Theo Người, chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc

khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy.

Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ

quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người

nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng

chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu "giúp bạn là tự giúp

ḿnh", và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào

thắng lợi chung của cách mạng thế giới.

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng

dân tộc

1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con

đường cách mạng vô sản

Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế

kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn

cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách

quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh rất khâm phục

1. Sđd, t.9, tr. 173.

18

tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán thành các con đường cứu nước

ấy, mà quyết tâm ra đi t́m một con đường cứu nước mới.

Tháng 7-1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân

tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Người thấy "tin tưởng, sáng tỏ và cảm động".

Người khẳng định: "Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng

chúng ta"1. Người đă t́m thấy trong lư luận của V.I. Lênin một con đường cứu nước

mới: con đường cách mạng vô sản.

Đầu năm 1923, trong Truyền đơn cổ động mua báo Người cùng khổ (Le Paria),

Người viết: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người

không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, b́nh đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no

trên quả đất, việc làm cho mọi người và v́ mọi người, niềm vui, ḥa b́nh, hạnh

phúc..."2.

Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách

mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đă đến với học thuyết cách mạng của

chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người quyết tâm

đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.

Con đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm những

nội dung chủ yếu sau:

- Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước "đi tới xă hội

cộng sản".

- Lực lượng lănh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó

là Đảng Cộng sản.

- Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, ṇng cốt là liên minh giữa giai

cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.

- Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng

thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.

2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng

Cộng sản lănh đạo

Các nhà yêu nước Việt Nam đă ư thức được tầm quan trọng và vai tṛ của tổ chức

cách mạng. Phan Châu Trinh cho rằng: ngày nay, muốn độc lập, tự do, phải có đoàn thể.

Rất tiếc là ông chưa kịp thực hiện ư tưởng của ḿnh. Phan Bội Châu đă tổ chức ra Duy

tân hội (1904) và Việt Nam Quang phục hội (1912), dự định sau sẽ cải tổ thành Việt

Nam quốc dân đảng theo kiểu Tôn Trung Sơn, chưa kịp thực hiện th́ ông đă bị bắt và

giam lỏng tại Huế.

Dù đă thành lập hay chưa th́ các tổ chức cách mạng kiểu cũ không thể đưa cách

1. Sđd, t.10, tr. 127.

2. Sđd, t.1, tr. 461.

19

mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, v́ nó thiếu một đường lối chính trị đúng

đắn và một phương pháp cách mạng khoa học, không có cơ sở rộng răi trong quần chúng.

Những nỗ lực đấu tranh cứu nước nhưng không thành công của Việt Nam quốc dân đảng,

tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của giai cấp tư sản Việt Nam, đă chứng minh điều đó.

Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công trước hết phải có

đảng cách mệnh. Người phân tích: "cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ, phải

giảng giải lư luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong triều thế giới, phải bày

sách lược cho dân... Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng

cách mệnh"1.

Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng của

giai cấp công nhân Việt Nam, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và liên hệ mật

thiết với quần chúng.

3. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân

tộc

Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân chúng

chứ không phải việc một hai người". Người phân tích: "dân tộc cách mệnh chưa phân

giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền". Trong lực

lượng đó, công nông "là gốc cách mệnh", "là người chủ cách mệnh"; "c̣n học tṛ, nhà

buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3

hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi"2.

Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai tṛ của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang.

Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo

đảm thắng lợi. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người phê phán việc lấy ám sát cá

nhân và bạo động non làm phương thức hành động. Người khẳng định: "Dân khí mạnh th́

quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại"3.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách

mạng bao gồm toàn dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp

đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lănh đạo nông dân làm cách

mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối

với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rơ mặt phản cách mạng

th́ phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đă ra mặt phản cách

mạng (như Đảng Lập hiến) th́ phải đánh đổ.

Chủ trương tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh phản ánh tư tưởng đại đoàn kết

dân tộc của Người. Trong Bài ca du kích (1942), Người chủ trương mọi người già, trẻ,

gái, trai, dân, lính đều tham gia đánh giặc. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên

truyền giải phóng quân (ngày 22-12-1944), Người viết: "Cuộc kháng chiến của ta là

1. Xem: Sđd, t.2, tr. 267.

2.Sđd, t.2, tr. 262, 266

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr. 274.

20

cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân"1.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí

Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân làm gốc" xuyên suốt quá

tŕnh chỉ đạo chiến tranh của Người. Người đặt niềm tin ở truyền thống yêu nước nồng

nàn của nhân dân Việt Nam. Người khẳng định: "Địch chiếm trời, địch chiếm đất,

nhưng chúng không làm sao chiếm được ḷng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta".

Khi phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (tháng 12-1946), Người

kêu gọi toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay: "Bất kỳ đàn ông,

đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người

Việt Nam th́ phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng.

Ai có gươm dùng gươm, không có gươm th́ dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải

ra sức chống thực dân Pháp cứu nước"2.

Kêu gọi toàn dân kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định:

Chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước.

"Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân"3. "31 triệu

đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt

Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng"4. Ngày 9-4-1965, trả lời phóng viên

báo Acahata (Nhật Bản) Hồ Chí Minh khẳng định, trong thời đại chúng ta, một dân tộc

đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh kiên quyết, hoàn toàn có thể đánh bại bọn đế quốc xâm

lược hung hăn, gian ác và có nhiều vũ khí.

Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí

Minh không chủ trương tiến hành kiểu chiến tranh thông thường, chỉ dựa vào lực lượng

quân đội và tiến hành một số trận quyết tử với kẻ thù, mà chủ trương phát động chiến

tranh nhân dân.

Kháng chiến toàn dân gắn với kháng chiến toàn diện. Lực lượng toàn dân là điều

kiện để đấu tranh toàn diện với kẻ thù đế quốc, giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh nói:

"Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi

được"1.

Trong chiến tranh, "quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ

với đấu tranh chính trị. Theo Người, thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi

chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn.

Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ư nghĩa chiến lược, có tác dụng

thêm bạn bớt thù, phân hóa và cô lập kẻ thù, phát huy yếu tố chính nghĩa của cuộc đấu

tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, tranh thủ sự đồng t́nh ủng hộ quốc tế. Hồ

1.Sđd, t.3, tr. 507.

2.Sđd, t.4, tr. 480.

3. Sđd, t.12, tr. 24.

4. Sđd, t.12, tr. 323.

1.Sđd, t.4, tr. 298.

21

Chí Minh chủ trương: "vừa đánh vừa đàm", "đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ"2.

Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh

tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Người kêu gọi "hậu phương thi đua với tiền

phương", coi "ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ",

"tay cày tay súng, tay búa tay súng, ra sức phát triển sản xuất để phục vụ kháng

chiến".

"Chiến tranh về mặt văn hóa hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không

kém quan trọng"3.

Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa - v́ độc lập tự do, làm cho khả

năng tiến hành chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác tham

gia kháng chiến. Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh là ngọn cờ cổ vũ, dẫn

dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và kháng chiến thắng lợi, đánh thắng hai đế quốc

to là Pháp và Mỹ trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam, làm nên thắng lợi vĩ

đại có tính thời đại sâu sắc.

4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng

tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính

quốc

Trong phong trào cộng sản quốc tế đă từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của

cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Đề

cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua

tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: Chỉ có thể thực hiện hoàn

toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các

nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này, vô h́nh chung đă làm giảm tính chủ động, sáng

tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.

Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng

vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong

cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ b́nh đẳng

chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ. Năm 1925, Hồ Chí Minh

viết: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái ṿi bám vào giai cấp vô sản ở chính

quốc và một cái ṿi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn

giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai ṿi. Nếu người ta chỉ cắt một ṿi thôi,

th́ cái ṿi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái

ṿi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra"1.

Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Theo Hồ Chí Minh, khối liên

minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản. Phát biểu tại Đại

2. Vơ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội, 2003, tr. 245.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 319.

1.Sđd, t.1, tr. 298.

22

hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Người khẳng định vai tṛ, vị trí chiến lược của cách mạng

thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở

các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa...

nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở

chính quốc"2, nếu xem thường cách mạng ở thuộc địa tức là "muốn đánh chết rắn đằng đuôi"3.

Vận dụng công thức của C.Mác: sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản

thân giai cấp công nhân, Người đưa ra luận điểm: "Công cuộc giải phóng anh em, (tức nhân dân

thuộc địa - TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em"4.

Do nhận thức được vai tṛ, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá

đúng sức mạnh dân tộc, năm 1921, Nguyễn ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân

tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Người viết:

"Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự

bóc lột đê tiện của một bọn thực dân ḷng tham không đáy, họ sẽ h́nh thành một lực

lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư

bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em ḿnh ở phương Tây

trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn"1.

Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm vụ của

cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ cách mạng đó

tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu ví dụ: "An Nam dân

tộc cách mệnh thành công th́ tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu th́ công nông Pháp làm

giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp làm cách mệnh thành công, th́ dân tộc

An Nam sẽ được tự do"2.

Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lư luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến

rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lư luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đă

được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần

một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con

đường cách mạng bạo lực

a) Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam

Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dă

man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân nó đă là một hành động bạo

lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ư chí xâm lược của chúng th́ chưa thể có

thắng lợi hoàn toàn. V́ thế con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con

đường cách mạng bạo lực. Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc

và tay sai, Hồ Chí Minh cho rằng: "Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai

2,3. Sđd, t.1, tr. 273, 274.

4.Sđd, t.2, tr. 128.

1.Sđd, t.1, tr. 36.

2.Sđd, t.2, tr. 266.

23

cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng,

giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền"3.

Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí

Minh cho rằng bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng. H́nh thức của bạo

lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhưng phải "tùy

t́nh h́nh cụ thể mà quyết định những h́nh thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng

đúng và khéo kết hợp các h́nh thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng

lợi cho cách mạng"4.

Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí

quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu quân

sự và chính trị của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính

trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh

chính trị càng mạnh th́ càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến

hành đấu tranh vũ trang.

Xuất phát từ t́nh yêu thương con người, quư trọng sinh mạng con người, Hồ Chí

Minh luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người t́m mọi cách

ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện

pháp ḥa b́nh, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có

nguyên tắc.

Việc tiến hành các hội nghị Việt - Pháp và kư các hiệp định trong năm 1946 là thể

hiện tư tưởng nhân đạo và ḥa b́nh của Hồ Chí Minh. Theo Người, tinh thần thiện chí

của Việt Nam khi kư hiệp ước c̣n giá trị hơn mọi văn bản và lời nói, v́ chúng ta bảo

đảm những lợi ích tinh thần, văn hóa và vật chất của Pháp, và ngược lại, Pháp phải bảo

đảm nền độc lập của chúng ta. Một chữ "Độc lập " là đủ để đưa lại một sự tín nhiệm

đang cần được khẳng định. "Tôi không muốn trở về Hà Nội tay không. Tôi muốn khi

trở về nước sẽ đem về cho nhân dân Việt Nam những kết quả cụ thể với sự cộng tác

chắc chắn mà chúng tôi mong đợi ở nước Pháp"1.

Sau khi miền Bắc nước ta được giải phóng, Người kiên tŕ yêu cầu đối phương thi

hành Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử

thống nhất nước nhà.

Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không c̣n

khả năng thương lượng, ḥa hoăn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ

muốn giành thắng lợi bằng quân sự, th́ Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến

tranh.

Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn t́m mọi cách văn hồi ḥa b́nh. Trong

kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nhiều lần gửi thư cho Chính phủ và nhân dân

3.Sđd, t.12, tr.304.

4.Sđd, t.12, tr. 304.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 279.

24

Pháp, cho tướng lĩnh, binh sĩ trong quân đội Pháp và những kiều dân Pháp ở Việt Nam,

cho các chính phủ, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa và nhân dân các nước, vừa tố

cáo cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, vừa kêu gọi đàm phán ḥa b́nh.

Người viết: "Chúng tôi muốn ḥa b́nh ngay để máu người Pháp và Việt ngừng

chảy. Những ḍng máu đó chúng tôi đều quư như nhau.

Chúng tôi mong đợi ở Chính phủ và nhân dân Pháp một cử chỉ mang lại ḥa b́nh.

Nếu không, chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu đến cùng để giải phóng hoàn toàn đất

nước"2.

Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Người gửi nhiều thông điệp cho các nhà

cầm quyền Mỹ, đề nghị đàm phán ḥa b́nh để kết thúc chiến tranh. Khi quân Mỹ tăng

cường chiến tranh, một mặt Người kêu gọi quân dân ta "quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ

xâm lược", đồng thời chủ trương vừa đánh vừa đàm để kết thúc chiến tranh.

Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo ḥa b́nh thống nhất biện

chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chủ trương, yêu nước, thương dân,

yêu thương con người, yêu chuộng ḥa b́nh, tự do, công lư, tranh thủ mọi khả năng

ḥa b́nh để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến tranh

th́ phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng

khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ ḥa b́nh, v́ độc lập tự do.

b) Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng

dân tộc

Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến

lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói: "Địch muốn tốc

chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, th́ địch nhất định thua, ta nhất

định thắng"1, "Trường kỳ kháng chiến... nhất định thắng lợi"2. Kháng chiến phải trường

kỳ v́ đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị

toàn diện của toàn dân. Theo Người, họa thực dân cũng như một chứng bệnh trầm

trọng. Muốn chữa bệnh ấy, ta phải thật gan dạ để chịu đau đớn khi mổ xẻ, phải có đủ

thời giờ để bồi dưỡng lại sức, kết quả nhất định tẩy trừ được bệnh ấy. Công cuộc kháng

chiến cũng như vậy. Người phân tích: "Với binh nhiều, tướng đủ, khí giới tối tân, chúng định

đánh mau thắng mau.

Với quân đội mới tổ chức, với vũ khí thô sơ, ta quyết kế trường kỳ kháng chiến...

thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau"3.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người khẳng định: Chiến tranh có thể

kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Pḥng và một số thành

phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có ǵ

quư hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng

2.Sđd, t. 5, tr. 19.

1. Sđd, t.4, tr. 485.

2, 3. Sđd, t.6, tr. 82, 81-82.

25

hoàng hơn, to đẹp hơn!.

Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm phát

huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ

bên ngoài. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người chỉ rơ: muốn người ta giúp cho th́

trước hết ḿnh phải tự giúp lấy ḿnh đă. Tháng Tám (1945) khi thời cơ tổng khởi nghĩa

xuất hiện, Hồ Chí Minh kêu gọi Toàn quốc đồng bào hăy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải

phóng cho ta.

Tại Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất (tháng 6-1952), Người nói, muốn

thắng lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh sinh.

Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức

mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần

độc lập tự chủ. Người nói: "Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực

cánh sinh. Trông vào sức ḿnh... Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng,

nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác"1.

Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một

quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống

Pháp và chống Mỹ, Người đă động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức

vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả về vật chất và tinh thần,

kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.

III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

và cách mạng giải phóng dân tộc trong công cuộc đổi

mới hiện nay

1. Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc,

nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước

Trong sự nghiệp đổi mới, càng phải xác định rơ các nguồn lực và phải phát huy

tối đa các nguồn nội lực (bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền thống

cách mạng, đất đai, tài nguyên, vốn liếng...), trong đó yếu tố quan trọng nhất, quyết định

nhất vẫn là nguồn lực con người với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần của nó.

Con người Việt Nam vốn có nhiều truyền thống tốt đẹp. Trong công cuộc đổi mới,

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quư báu ấy cần được tiếp tục khơi

dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước vượt qua mọi

nguy cơ, thử thách, vững bước tiến lên.

2. Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp

Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong mối quan hệ

thống nhất biện chứng. Trong khi rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ

1. Sđd, t.6, tr. 522.

26

nghĩa yêu nước, th́ Người cũng luôn luôn đứng vững trên quan điểm giai cấp để nhận

thức và giải quyết vấn đề dân tộc.

Mục tiêu của cách mạng do Hồ Chí Minh và Đảng ta nêu lên thể hiện kết hợp vấn

đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản và giai

cấp công nhân mới là lực lượng đại biểu trung thành cho lợi ích của dân tộc, mới xây

dựng được mặt trận đại đoàn kết dân tộc để thực hiện được mục tiêu trên.

V́ vậy, đi đôi với tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, cần làm cho tư

tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa

quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xă hội được quán triệt sâu sắc trong toàn Đảng,

toàn dân, lấy đó làm định hướng cho việc nhận thức và giải quyết các vấn đề của dân

tộc và của thời đại hiện nay.

27

Chương III

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xă hội

và con đường quá độ lên chủ nghĩa xă hội ở

Việt Nam

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất và mục tiêu của

chủ nghĩa xă hội

1. Con đường h́nh thành tư duy Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xă hội ở

Việt Nam

Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lư cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ

nghĩa xă hội, đă vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, đưa ra nhiều kiến giải mới

nhằm bổ sung vào lư luận Mác - Lênin, phù hợp với thực tế Việt Nam.

Trước hết, Hồ Chí Minh luận giải sự ra đời và bản chất của chủ nghĩa xă hội từ

phương diện kinh tế, tŕnh độ phát triển của lực lượng sản xuất. Người cho rằng, sự h́nh

thành, phát triển và chín muồi của chủ nghĩa xă hội là một tất yếu mà nguyên nhân sâu

xa chính là do sự phát triển của lực lượng sản xuất xă hội. Trên cơ sở một nền tảng kinh

tế mới, chủ nghĩa xă hội sẽ xác lập một hệ thống, các giá trị đặc thù mang tính nhân bản

thấm sâu vào mỗi quan hệ và lĩnh vực xă hội. Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính

giá trị thể hiện rất rơ trong nhận thức của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xă hội.

Nét sáng tạo của Hồ Chí Minh trước hết là ở chỗ, Người đến với chủ nghĩa xă hội,

luận giải nó từ khát vọng giải phóng dân tộc và nhu cầu giải phóng con người một cách

triệt để.

Hồ Chí Minh c̣n tiếp cận chủ nghĩa xă hội từ văn hóa, đă đưa văn hóa thâm nhập

vào bên trong của chính trị và kinh tế, tạo nên một sự thống nhất biện chứng giữa văn

hóa và chính trị, kinh tế, giữa các mục tiêu phát triển xă hội. Điều này cho thấy, ở Hồ

Chí Minh, chủ nghĩa xă hội chính là một h́nh thái phát triển của văn hóa, một đỉnh cao

của nền văn minh nhân loại. Do đó, quá tŕnh h́nh thành và phát triển của chủ nghĩa xă

hội lại càng phải gắn với văn hóa, và chỉ có đứng trên đỉnh cao của văn hóa, chủ nghĩa

xă hội mới có thể phát triển theo đúng quy luật xă hội khách quan, phù hợp với tiến

tŕnh phát triển chung của nhân loại.

Tiếp cận chủ nghĩa xă hội từ phương diện đạo đức, Hồ Chí Minh cho rằng: chủ

nghĩa xă hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề phủ nhận cá nhân,

trái lại, đề cao, tôn trọng con người cá nhân, các giá trị cá nhân, phát triển mọi năng lực

28

cá nhân v́ phát triển xă hội và hạnh phúc con người. Chủ nghĩa xă hội tạo mọi điều kiện

cho sự phát triển hài ḥa giữa cá nhân và xă hội. Xă hội tôn trọng mọi cá nhân, đồng

thời cá nhân biết đề cao lợi ích xă hội, có thể hy sinh lợi ích cá nhân v́ lợi ích xă hội.

Hồ Chí Minh luận giải tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xă hội trên cơ sở kế

thừa và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, của phương

Đông. Từ việc phân tích một cách khoa học truyền thống tư tưởng - văn hóa, điều kiện

kinh tế - xă hội của Việt Nam, các nước phương Đông, sự tàn bạo của chế độ thuộc địa

tại các nước đó, Hồ Chí Minh đi đến một nhận thức mới lạ: Chủ nghĩa xă hội, chủ nghĩa

cộng sản không những thích ứng được ở châu á, phương Đông mà c̣n thích ứng dễ hơn

ở châu Âu.

Hồ Chí Minh đă nhận thức tính tất yếu và bản chất của chủ nghĩa xă hội như là kết

quả tác động tổng hợp của các nhân tố: truyền thống và hiện tại; dân tộc và quốc tế;

kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hóa. Người không tuyệt đối hóa một mặt nào và đánh giá

đúng vị trí của chúng. Như vậy, Hồ Chí Minh đă làm phong phú cách tiếp cận về chủ

nghĩa xă hội, có những cống hiến xuất sắc vào việc phát triển lư luận Mác - Lênin.

2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa

xă hội

C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, ngay trong điều kiện của xă hội xă hội chủ

nghĩa, nhờ công cuộc cải tạo mang tính cách mạng mà xă hội đă đạt được một trạng thái

phát triển mới về chất: làm cho tất cả mọi tư liệu sản xuất trở thành tài sản chung của

toàn xă hội, qua đó tạo điều kiện để phát triển kinh tế theo một kế hoạch thống nhất, bảo

đảm tính chất xă hội của lao động; theo nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo lao

động"...

V.I. Lênin đă phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen, Người cho rằng,

trong xă hội xă hội chủ nghĩa, một mặt, có chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất

quan trọng, mặt khác, có các xí nghiệp hợp tác (nghĩa là xí nghiệp không phải của toàn

dân), xă viên hợp tác xă. Như vậy họ cũng như công nhân đều là những người đại biểu

cho phương thức sản xuất xă hội chủ nghĩa. Theo V.I. Lênin, việc tiến lên chủ nghĩa

xă hội không loại trừ nền sản xuất hàng hóa do giai cấp công nhân tổ chức. V.I.

Lênin đề ra việc sử dụng các quan hệ hàng hóa - tiền tệ và những phạm trù liên quan tới

chúng như hàng hóa, giá cả, lợi nhuận, hạch toán kinh tế. Đồng thời, việc phân phối

phải được xây dựng nhờ các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, thương nghiệp, chứ không phải

xây dựng trên việc cung cấp trực tiếp từ nguồn dự trữ của xă hội, trên việc trao đổi sản

phẩm trực tiếp.

Từ những điểm đă tŕnh bày ở trên, có thể rút ra một số kết luận: Một là, thực tiễn

sinh động là cơ sở xây dựng quan điểm về các đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xă hội.

Hai là, các đặc trưng của chủ nghĩa xă hội được các nhà kinh điển đưa ra có ư nghĩa

trong cuộc đấu tranh chống lại tư tưởng, học thuyết phi mácxít nhằm giành thắng lợi

29

quyết định cho học thuyết cách mạng. V́ thế, những đặc trưng ấy sẽ dần dần được nhận

thức thêm, phù hợp với biện chứng khách quan của hiện thực.

Phần lớn thời gian của cuộc đời ḿnh, Hồ Chí Minh cùng với Đảng dồn tâm trí

lănh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta. Tuy vậy, những quan

điểm của Người về chủ nghĩa xă hội vẫn có ư nghĩa lư luận và thực tiễn sâu sắc.

Hầu hết các cách tiếp cận, định nghĩa của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xă hội được

diễn đạt, tŕnh bày một cách dung dị, mộc mạc, dễ hiểu và mang tính phổ thông, đại

chúng. Xét dưới góc độ khái quát nguyên lư th́ Hồ Chí Minh về cơ bản không khác với

các nhà kinh điển Mác - Lênin. Điểm đặc sắc ở Hồ Chí Minh là phát triển các nguyên lư

lư luận phức tạp, khoa học bằng ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày. Một số định nghĩa

cơ bản mà Hồ Chí Minh đă đề cập về chủ nghĩa xă hội:

- Định nghĩa tổng quát, xem xét chủ nghĩa xă hội, chủ nghĩa cộng sản như là một

chế độ xă hội hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống, là con đường giải

phóng nhân loại cần lao, áp bức. Hồ Chí Minh viết: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu

nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do,

b́nh đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và v́ mọi

người, niềm vui, ḥa b́nh, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng ḥa thế giới chân chính,

xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn

cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau"1. Hoặc ở dưới

dạng tổng hợp hơn, Người cho rằng: "Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần

phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của

ḿnh"2. Cách định nghĩa chủ nghĩa xă hội, chủ nghĩa cộng sản như trên thường được

Người sử dụng thời kỳ trước năm 1954, khi chủ nghĩa xă hội là xu thế tất yếu mà quá

tŕnh cách mạng Việt Nam cần đạt tới.

- Định nghĩa chủ nghĩa xă hội bằng cách chỉ ra một mặt nào đó của nó (kinh tế,

chính trị, văn hóa...). Hồ Chí Minh viết: "... chủ nghĩa xă hội là lấy nhà máy, xe lửa,

ngân hàng, v.v. làm của chung. Ai làm nhiều th́ ăn nhiều, ai làm ít th́ ăn ít, ai không

làm th́ không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con..."1. Khi đề cập

về kinh tế, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh hai yếu tố: chế độ sở hữu (công cộng hoặc

xă hội) và quan hệ phân phối: làm theo năng lực, hưởng theo lao động. C̣n trong lĩnh

vực chính trị, Người nhấn mạnh mặt bản chất nhất của chủ nghĩa xă hội, đó là nhà nước

dân chủ kiểu mới, nhà nước của dân, do dân và v́ dân. Người viết: "Nhà nước xă hội

chủ nghĩa và dân chủ nhân dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao

động, ngày càng được tiến bộ về vật chất và tinh thần, làm cho trong xă hội không có

1. Sđd, t.1, tr. 461.

2. Sđd, t. 4, tr. 272.

1. Sđd, t. 8, tr. 226.

30

người bóc lột người"2. Khi t́m hiểu cách định nghĩa này của Người, chúng ta phải đặt

trong tổng thể quan niệm chung về chủ nghĩa xă hội, nếu tuyệt đối hóa một mặt nào đó

mà Người đưa ra, dễ dẫn đến sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn.

- Định nghĩa bằng cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xă hội, chỉ rơ phương

hướng, phương tiện để đạt được mục tiêu đó. Đây là cách định nghĩa phổ biến mà

Hồ Chí Minh hay dùng nhất. Trong hơn 20 định nghĩa về chủ nghĩa xă hội thống kê

được th́ hơn 2/3 định nghĩa thuộc loại này. Chẳng hạn, Hồ Chí Minh hỏi: "chủ nghĩa xă

hội là ǵ" và Người tự trả lời: "là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng tự do", "là

đoàn kết, vui khỏe"...

- Định nghĩa chủ nghĩa xă hội bằng cách xác định động lực xây dựng nó: "Chủ

nghĩa xă hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân

dân tự xây dựng lấy"3. Nhấn mạnh động lực tinh thần và ư thức xă hội chủ nghĩa, Hồ

Chí Minh coi: chủ nghĩa xă hội không phải là cái ǵ cao xa, mà đó là những ǵ rất cụ thể

như ư thức lao động tập thể, ư thức kỷ luật, tinh thần thi đua yêu nước, tăng sản xuất

cho hợp tác xă, tăng thu nhập cho xă hội, tinh thần đoàn kết tương trợ, tinh thần dám

nghĩ , dám nói, dám làm, không sợ khó, ư thức cần kiệm. Tinh thần cơ bản của một luận

đề mácxít về chủ nghĩa xă hội được Hồ Chí Minh nhắc lại với một quy mô lớn hơn: chủ

nghĩa xă hội là của nhân dân, v́ nhân dân và do nhân dân lao động.

Những định nghĩa dung dị, dễ hiểu của Hồ Chí Minh đă phản ánh đầy đủ những

đặc trưng cốt lơi của chủ nghĩa xă hội. Khái quát những đặc trưng này, chúng ta thấy

nội dung của nó bao hàm hết thảy mọi mặt đời sống xă hội, làm hiện diện ra một chế độ

xă hội ưu việt. Đó là:

- Chủ nghĩa xă hội là một chế độ xă hội có lực lượng sản xuất phát triển cao, gắn

liền với sự phát triển tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và văn hóa, dân giàu, nước mạnh.

- Thực hiện chế độ sở hữu xă hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân

phối theo lao động.

- Chủ nghĩa xă hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ và nhân

dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân và v́ dân, dựa trên khối đại đoàn kết

toàn dân mà ṇng cốt là liên minh công - nông - lao động trí óc, do Đảng Cộng sản lănh

đạo.

- Chủ nghĩa xă hội có hệ thống quan hệ xă hội lành mạnh, công bằng, b́nh đẳng,

không c̣n áp bức, bóc lột, bất công, không c̣n sự đối lập giữa lao động chân tay và lao

động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát

triển toàn diện, có sự hài ḥa trong phát triển của xă hội và tự nhiên.

- Chủ nghĩa xă hội là của quần chúng nhân dân và do quần chúng nhân dân tự xây

2. Sđd, t. 8, tr. 276.

3.Sđd, t. 10, tr. 556.

31

dựng lấy.

Các đặc trưng bản chất nêu trên là h́nh thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế

thừa các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá tŕnh xây dựng chủ nghĩa

xă hội. Chủ nghĩa xă hội là hiện thân đỉnh cao của tiến tŕnh tiến hóa lịch sử nhân loại.

Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xă hội là sự tổng hợp, quyện chặt ngay trong cấu

trúc nội tại của nó, một hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xă hội, đó

là độc lập, tự do, b́nh đẳng, công bằng, dân chủ, bảo đảm quyền con người, bác ái, đoàn

kết, hữu nghị... Trong đó có những giá trị tạo tiền đề, có giá trị hạt nhân. Tất cả những

giá trị cơ bản này là mục tiêu chủ yếu của chủ nghĩa xă hội. Một khi tất cả các giá trị đó

đă đạt được th́ loài người sẽ vươn tới lư tưởng cao nhất chủ nghĩa xă hội, đó là "liên

hợp tự do của những người lao động" mà C.Mác, Ph.Ăngghen đă dự báo. ở đó, cá tính

của con người được phát triển đầy đủ, năng lực con người được phát huy cao nhất, giá

trị con người được thực hiện toàn diện. Nhưng theo Hồ Chí Minh, đó là một quá tŕnh

phấn đấu khó khăn, gian khổ, lâu dài, dần dần và không thể nôn nóng.

3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ

nghĩa xă hội

a) Những mục tiêu cơ bản

Hồ Chí Minh ư thức được rơ ràng giá trị của chủ nghĩa xă hội về mặt lư luận là

quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là t́m ra con đường để thực hiện những giá trị

này. Điểm then chốt, có ư nghĩa phương pháp luận quan trọng trong quan niệm của Hồ

Chí Minh là Người đă đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa

xă hội ở nước ta trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau. Chính thông qua quá tŕnh

đề ra các mục tiêu đó, chủ nghĩa xă hội được biểu hiện với việc thỏa măn các nhu cầu,

lợi ích thiết yếu của người lao động, theo các nấc thang từ thấp đến cao, tạo ra tính hấp

dẫn, năng động của chế độ xă hội mới.

ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xă hội và mục tiêu phấn đấu của

Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Người nói:

"Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn

toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng

được học hành"1. Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí

Minh về chủ nghĩa xă hội.

Từ cách đặt vấn đề này, theo Hồ Chí Minh, hiểu mục đích của chủ nghĩa xă hội,

nghĩa là nắm bắt nội dung cốt lơi con đường lựa chọn và bản chất thực tế chế độ xă hội

mà chúng ta phấn đấu xây dựng. Tiếp cận chủ nghĩa xă hội về phương diện mục đích là

một nét đặc sắc, thể hiện phong cách và năng lực tư duy lư luận khái quát của Hồ Chí

Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục đích của chủ nghĩa xă hội. Có khi Người

1. Sđd, t.4, tr. 161.

32

trả lời một cách trực tiếp: "Mục đích của chủ nghĩa xă hội là ǵ? Nói một cách đơn giản

và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước

hết là nhân dân lao động"2. Hoặc "Mục đích của chủ nghĩa xă hội là không ngừng nâng

cao mức sống của nhân dân"3. Có khi Người diễn giải mục đích tổng quát này thành các

tiêu chí cụ thể: "chủ nghĩa xă hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng

sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được th́ nghỉ,

những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ... Tóm lại, xă hội ngày càng

tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xă hội"4. Có khi

Người nói một cách gián tiếp, không nhắc đến chủ nghĩa xă hội, nhưng xét về bản chất,

đó cũng chính là mục tiêu của chủ nghĩa xă hội theo quan niệm của Người. Kết thúc Di

chúc, Hồ Chí Minh viết: "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta

đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam ḥa b́nh, thống nhất, độc lập, dân chủ

và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"5.

Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xă hội là nâng cao đời

sống nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lư tưởng v́ dân, vừa là một sự mạnh dạn

trong lư luận. Theo Người, muốn nâng cao đời sống nhân dân th́ phải tiến lên chủ nghĩa

xă hội, chủ nghĩa xă hội là nâng cao đời sống nhân dân có ư nghĩa sâu sắc đối với chúng

ta. Cách tư duy lấy chủ nghĩa xă hội làm điểm xuất phát tuyệt đối, làm cơ sở cho mọi

hoạt động thực tiễn cần phải được bổ sung bằng sự tác động trở lại và chủ nghĩa xă hội

cũng phải được làm rơ bởi hàng loạt quan hệ khác. Mục đích nâng cao đời sống toàn

dân đó là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xă hội chủ nghĩa

của các lư luận chủ nghĩa xă hội và chính sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó th́

hoặc là chủ nghĩa xă hội giả hiệu hoặc không có ǵ tương hợp với chủ nghĩa xă hội.

Chỉ rơ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xă hội, Hồ Chí Minh đă khẳng định tính

ưu việt của chủ nghĩa xă hội so với các chế độ xă hội đă tồn tại trong lịch sử, chỉ ra

nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ giải phóng dân

tộc, giải phóng giai cấp, xă hội đến giải phóng từng cá nhân con người, h́nh thành các

nhân cách phát triển tự do.

Quá tŕnh đi tới mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xă hội là một quá tŕnh lâu dài,

trải qua một thời kỳ quá độ, nhiều bước trung gian, quá độ nhỏ. Đối với cuộc cách mạng

xă hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cho rằng: "Chúng ta phải xây dựng một xă hội hoàn toàn

mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những

nếp sống, thói quen, ư nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta

phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất

mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế, chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một

nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Chúng ta phải dần dần tập thể

2, 3, 4. Sđd, t. 10, tr. 271, 159, 591.

5.Sđd, t.12, tr. 512.

33

hóa nông nghiệp. Chúng ta phải tiến hành cải tạo xă hội chủ nghĩa đối với công thương

nghiệp tư nhân, đối với thủ công nghiệp. Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ

thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc"1. Như vậy, Hồ Chí Minh

đă xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội trên tất cả các

lĩnh vực của đời sống xă hội.

- Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xă hội, chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước là của

dân, do dân và v́ dân. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân, chuyên chính

với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau, mà luôn luôn đi đôi với

nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt

chính trị của nhân dân; mặt khác, lại yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản động

chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ xă hội chủ nghĩa.

Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rơ con đường và biện

pháp thực hiện các h́nh thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ

chức chính trị - xă hội của quần chúng; củng cố các h́nh thức dân chủ gián tiếp, tăng

cường hiệu lực và hiệu quả quản lư của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xử

lư và phân định rơ chức năng của chúng.

- Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xă hội chỉ

được bảo đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế mà

chúng ta xây dựng là nền kinh tế xă hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại, khoa

học và kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được xóa bỏ dần, đời sống

vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.

Nền kinh tế xă hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành mà

những ngành chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó "công

nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà".

Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề rất được Hồ Chí Minh quan tâm. Người

đặc biệt nhấn mạnh chế độ khoán là một trong những h́nh thức của sự kết hợp lợi ích

kinh tế.

- Mục tiêu văn hóa - xă hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản

của cách mạng xă hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xă

hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng

phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh pḥng bệnh,

giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập quán lạc hậu...

Về bản chất của nền văn hóa xă hội chủ nghĩa Việt Nam, Người khẳng định: "phải

xă hội chủ nghĩa về nội dung"; để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn văn

hóa truyền thống quư báu của dân tộc, đồng thời học tập và tiếp thu có chọn lọc văn hóa

1. Sđd, t. 8, tr. 493-494.

34

tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại

chúng. Hồ Chí Minh nhắc nhở phải làm cho phong trào văn hóa có bề rộng, đồng thời

phải có bề sâu. Trong khi đáp ứng mặt giải trí th́ không được xem nhẹ việc nâng cao tri

thức của quần chúng, đồng thời Người luôn luôn nhắc nhở phải làm cho văn hóa gắn

liền với lao động sản xuất...

Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xă hội chủ nghĩa là đào

tạo con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công cuộc xây dựng

chủ nghĩa xă hội chính là con người. Trong lư luận xây dựng con người xă hội chủ

nghĩa, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết đến mặt tư tưởng. Người cho rằng: Muốn có

con người xă hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xă hội chủ nghĩa. Tư tưởng xă hội chủ

nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác -

Lênin, nâng cao ḷng yêu nước, yêu chủ nghĩa xă hội.

Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng;

đồng thời Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi người

rèn luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xă hội. Tuy vậy, Hồ Chí Minh luôn gắn

tài năng với đạo đức. Theo Người, "có tài mà không có đức là hỏng"; dĩ nhiên đức phải

đi đôi với tài, nếu không có tài th́ không thể làm việc được. Cũng như vậy, Người luôn

gắn phẩm chất chính trị với tŕnh độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ trong đó "chính trị

là tinh thần, chuyên môn là thể xác". Hai mặt đó gắn bó thống nhất trong một con

người. Do vậy, tất cả mọi người đều phải luôn luôn trau dồi đạo đức và tài năng.

b) Các động lực của chủ nghĩa xă hội

Để thực hiện những mục tiêu đó, cần phát hiện những động lực và những điều

kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng

chủ nghĩa xă hội, nhất là những động lực bên trong, nguồn nội lực của chủ nghĩa xă hội.

Theo Hồ Chí Minh, những động lực đó biểu hiện ở hai phương diện: vật chất và

tư tưởng. Người khẳng định, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là

nhân dân lao động, ṇng cốt là công - nông - trí thức. Con người là động lực quan trọng

nhất, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng, thiết thân của họ;

đồng thời chăm lo bồi dưỡng sức dân. Đó là lợi ích của nhân dân và từng cá nhân.

Nói con người là động lực của chủ nghĩa xă hội, hơn nữa là động lực quan trọng

nhất, Hồ Chí Minh đă nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân (sức mạnh

cá thể) với xă hội (sức mạnh cộng đồng). Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn

kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân, đó là sức mạnh tổng hợp tạo nên

động lực quan trọng của chủ nghĩa xă hội.

Nhà nước đại diện cho ư chí và quyền lực của nhân dân dưới sự lănh đạo của

Đảng, thực hiện chức năng quản lư xă hội, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xă hội đến

thắng lợi. Người đặc biệt quan tâm đến hiệu lực của tổ chức, bộ máy, tính nghiêm minh

của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch, liêm khiết của đội ngũ công chức các cấp từ Trung

35

ương tới địa phương.

Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh,

giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc

lợi dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xă hội.

Cùng với động lực kinh tế, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa học,

giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xă hội.

Tất cả những nhân tố động lực nêu trên là những nguồn lực tiềm tàng của sự phát

triển. Làm thế nào để những khả năng, năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và

không ngừng phát triển. Hồ Chí Minh nhận thấy sự lănh đạo đúng đắn của Đảng có ư

nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chủ nghĩa xă hội. Đây là hạt nhân trong hệ

động lực của chủ nghĩa xă hội.

Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp được với sức mạnh

thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa

quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả khoa học - kỹ thuật

của thế giới...

Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là ở chỗ bên cạnh

việc chỉ ra các nguồn động lực phát triển của chủ nghĩa xă hội, Người c̣n lưu ư, cảnh

báo và ngăn ngừa các yếu tố ḱm hăm, triệt tiêu nguồn năng lượng vốn có của chủ nghĩa

xă hội, làm cho chủ nghĩa xă hội trở nên tŕ trệ, xơ cứng, không có sức hấp dẫn.

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên

chủ nghĩa xă hội ở Việt Nam

1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă

hội ở Việt Nam

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội và chỉ rơ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó trong

quá tŕnh vận động, phát triển của h́nh thái kinh tế - xă hội cộng sản chủ nghĩa.

Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, th́ có hai con

đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xă hội. Con đường thứ nhất là con đường quá độ trực

tiếp lên chủ nghĩa xă hội từ những nước tư bản phát triển ở tŕnh độ cao. Con đường thứ

hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xă hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển

c̣n thấp hoặc các nước tiền tư bản.

Trên cơ sở vận dụng lư luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xă hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm t́nh h́nh thực tế

của Việt Nam, Hồ Chí Minh đă khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến

36

hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên

chủ nghĩa xă hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă

hội ở Việt Nam là quan niệm về một h́nh thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xă

hội thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xă hội. Chính ở nội

dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đă cụ thể hóa và làm phong phú thêm lư luận Mác -

Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội.

Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội, nước ta có

đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xă hội không

phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm

khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xă hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều

mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ư đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá

độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và

thực trạng kinh tế - xă hội quá thấp kém của nước ta.

a) Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội ở Việt

Nam.

Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội ở nước ta là

quá tŕnh cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất hiện đại. Thực chất phát triển

và cải tạo nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong

điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so

sánh lực lượng trong nước và quốc tế đă có những biến đổi. Điều này đ̣i hỏi phải áp

dụng toàn diện các h́nh thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xă hội nhằm

chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xă hội chủ nghĩa.

Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ

nghĩa xă hội ở Việt Nam là một quá tŕnh dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm

vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung

lớn:

Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xă hội, xây dựng các

tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xă hội.

Hai là, cải tạo xă hội cũ, xây dựng xă hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong

đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xă hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của nó được Hồ Chí Minh lư giải trên các

điểm sau:

Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xă

hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng

tầng. Nó đặt ra và đ̣i hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.

Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xă hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân

37

ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ

đối với Đảng ta, nên phải vừa làm, vừa học và có thể có vấp váp và thiếu sót. Xây dựng

xă hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xă hội cũ đă lỗi thời.

Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xă hội ở nước ta luôn luôn bị các thế lực

phản động trong và ngoài nước t́m cách chống phá.

Từ việc chỉ rơ tính chất của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán

bộ, đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xă hội phải thận trọng, tránh nôn nóng, chủ

quan, đốt cháy giai đoạn. Vấn đề cơ bản là phải xác định đúng từng bước đi và h́nh

thức phù hợp với tŕnh độ của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian, quá

độ, tuần tự từng bước, từ thấp đến cao. V́ vậy, xây dựng chủ nghĩa xă hội đ̣i hỏi một

năng lực lănh đạo mang tính khoa học, vừa hiểu biết các quy luật vận động xă hội, lại

phải có nghệ thuật khôn khéo cho thật sát với t́nh h́nh thực tế.

b) Quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xă hội ở

nước ta trong thời kỳ quá độ

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội ở nước ta là một sự nghiệp cách mạng

mang tính toàn diện. Hồ Chí Minh đă xác định rơ nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực:

- Trong lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy

vai tṛ lănh đạo của Đảng. Đảng phải được chỉnh đốn, nâng cao sức chiến đấu, có h́nh

thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước vào thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xă hội, Đảng ta đă trở thành Đảng cầm quyền. Mối quan tâm lớn nhất của

Người về Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng không trở thành Đảng quan liêu, xa

dân, thoái hóa, biến chất, làm mất ḷng tin của dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về

đường lối, cắt đứt mối quan hệ máu thịt với nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy

nở dưới nhiều h́nh thức.

Một nội dung chính trị quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội là

củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, ṇng cốt là liên minh công nhân, nông

dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lănh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ

thống chính trị cũng như từng thành tố của nó.

- Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất,

quan hệ sản xuất, cơ chế quản lư kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao

động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xă hội chủ nghĩa. Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ

Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng,

lănh thổ.

Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, lấy nông

nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất

giữa các ngành sản xuất xă hội, thỏa măn nhu cầu thiết yếu của nhân dân.

Đối với kinh tế vùng, lănh thổ, Hồ Chí Minh lưu ư phải phát triển đồng đều giữa

38

kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế

vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của

đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc pḥng cho đất nước.

ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế

nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội. Người xác định rơ vị

trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế. Nước ta cần ưu tiên phát triển

kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xă hội, thúc đẩy việc cải tạo

xă hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xă là h́nh thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động,

Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức

hợp tác xă, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện,

cùng có lợi, chống chủ quan, g̣ ép, h́nh thức. Đối với người làm nghề thủ công và lao

động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn

và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác. Đối với

những nhà tư sản công thương, v́ họ đă tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ, có

đóng góp nhất định trong khôi phục kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần

xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xă hội, nên Nhà nước không xóa bỏ quyền sở

hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho

quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo

theo chủ nghĩa xă hội bằng h́nh thức tư bản nhà nước.

Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối

và quản lư kinh tế. Quản lư kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao,

sử dụng tốt các đ̣n bẩy trong phát triển sản xuất. Người chủ trương và chỉ rơ các điều

kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít

hưởng ít, không làm không hưởng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động, Hồ

Chí Minh đề cập đến vấn đề khoán trong sản xuất, "Chế độ làm khoán là một điều kiện

của chủ nghĩa xă hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy

tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng... làm khoán tốt thích hợp và công bằng

dưới chế độ ta hiện nay"1.

Trong lĩnh vực văn hóa - xă hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng

con người mới. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đề cao vai tṛ của văn hóa, giáo dục và khoa học

kỹ thuật trong xă hội xă hội chủ nghĩa. Người cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xă

hội nhất định phải có học thức, cần phải học cả văn hóa, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa

xă hội cộng với khoa học chắc chắn đưa loài người đến hạnh phúc vô tận. Hồ Chí Minh

rất coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài. Hồ Chí Minh khẳng

định vai tṛ to lớn của văn hóa trong đời sống xă hội.

1. Sđd, t. 8, tr. 341.

39

2. Bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xă hội ở nước ta

Hồ Chí Minh xác định rơ nhiệm vụ lịch sử, nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xă hội ở Việt Nam. Điều trăn trở khôn nguôi của Người là t́m ra h́nh thức, bước

đi, biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xă hội, biến nhận thức lư luận thành chương

tŕnh hành động, thành hoạt động thực tiễn hàng ngày. Để xác định bước đi và t́m cách

làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí Minh đề ra hai nguyên tắc có tính chất phương pháp

luận:

Một là, xây dựng chủ nghĩa xă hội là một hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế,

cần quán triệt các nguyên lư cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chế độ mới,

có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước anh em.

Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xă hội chủ yếu xuất

phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.

Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận này, Hồ Chí Minh xác định phương

châm thực hiện bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xă hội: dần dần, thận trọng từng bước

một, từ thấp đến cao, không chủ quan nôn nóng và sự tuần tự của các bước đi do điều

kiện khách quan quy định. Mặt khác, phải tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ

nghĩa xă hội, nhưng tiến nhanh, tiến mạnh cũng không phải làm bừa, làm ẩu mà phải

phù hợp với điều kiện thực tế. Trong các bước đi lên chủ nghĩa xă hội, Hồ Chí Minh đặc

biệt lưu ư đến vai tṛ của công nghiệp hóa xă hội chủ nghĩa, coi đó là "con đường phải

đi của chúng ta", là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội.

Công nghiệp hóa xă hội chủ nghĩa chỉ có thể thực hiện thắng lợi trên cơ sở xây dựng và

phát triển nền nông nghiệp toàn diện, vững chắc, một hệ thống tiểu thủ công nghiệp,

công nghiệp nhẹ đa dạng nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho nhân dân,

các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho xă hội.

Cùng với các bước đi, Hồ Chí Minh đă gợi ư nhiều phương thức, biện pháp tiến

hành xây dựng chủ nghĩa xă hội. Trên thực tế, Người đă sử dụng một số cách làm cụ thể

sau đây:

- Thực hiện cải tạo xă hội cũ, xây dựng xă hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng,

lấy xây dựng làm chính.

- Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở hai

miền khác nhau trong phạm vi một quốc gia.

- Xây dựng chủ nghĩa xă hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm để thực hiện

thắng lợi kế hoạch đă đề ra.

- Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng

chủ nghĩa xă hội là đem của dân, tài dân, sức dân, làm lợi cho dân dưới sự lănh đạo của

Đảng Cộng sản.

Hồ Chí Minh cho rằng, phải huy động hết mọi tiềm năng, nguồn lực có trong dân

40

để đem lại lợi ích cho dân. Nói cách khác, phải biến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xă

hội thành sự nghiệp của toàn dân do Đảng lănh đạo. Vai tṛ lănh đạo của đảng cầm

quyền là tập hợp lực lượng, đề ra đường lối, chính sách để huy động và khai thác triệt

để các nguồn lực của dân, v́ lợi ích của quần chúng lao động.

III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xă

hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xă hội vào công

cuộc đổi mới

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xă hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xă

hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lơi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng và phát

triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Đó là các luận điểm về bản chất, mục tiêu và

động lực của chủ nghĩa xă hội; về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ; về đặc

điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các h́nh thức, bước đi và biện pháp tiến hành công

cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội ở nước ta. Tư tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lư

luận và kim chỉ nam cho việc kiên tŕ, giữ vững định hướng xă hội chủ nghĩa của Đảng

ta, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định h́nh thức, biện pháp và bước đi lên chủ

nghĩa xă hội phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày

nay.

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lănh đạo đạt được những thành tựu

quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát triển xă hội chủ nghĩa ở nước ta.

Cùng với tổng kết thực tiễn, quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xă hội, con đường đi

lên chủ nghĩa xă hội ngày càng sát thực, cụ thể hóa. Nhưng, trong quá tŕnh xây dựng

chủ nghĩa xă hội, bên cạnh những thời cơ, vận hội, nước ta đang phải đối đầu với hàng

loạt thách thức, khó khăn cả trên b́nh diện quốc tế, cũng như từ các điều kiện thực tế

trong nước tạo nên. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xă

hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xă hội, chúng ta cần tập trung giải quyết những

vấn đề quan trọng nhất.

1. Giữ vững mục tiêu của chủ nghĩa xă hội

Hồ Chí Minh là người t́m ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Con đường

độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xă hội cũng

chính là mục tiêu cao cả, bất biến của toàn Đảng, toàn dân ta. Dưới sự lănh đạo của

Đảng, nhân dân ta đă đấu tranh giành được độc lập dân tộc, từng bước quá độ dần lên

chủ nghĩa xă hội. Trong điều kiện nước ta, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa

xă hội, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xă hội, v́ đó là quy luật

tiến hóa trong quá tŕnh phát triển của xă hội loài người. Chỉ có chủ nghĩa xă hội mới

đáp ứng được khát vọng của toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân,

cơm no áo ấm cho mọi người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, độc

41

lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa xă hội là

cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.

Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước v́ mục tiêu "dân

giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh" là tiếp tục con đường cách

mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội mà Hồ Chí Minh đă lựa chọn. Đổi

mới, v́ thế, là quá tŕnh vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục

tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xă hội, chứ không phải là thay đổi mục tiêu.

Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,

chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết cách ngăn chặn,

pḥng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền vững trên tất cả

mọi mặt đời sống xă hội: kinh tế, chính trị, xă hội, văn hóa; không v́ phát triển, tăng

trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các mặt khác của cuộc sống con người.

Vấn đề đặt ra là trong quá tŕnh phát triển vẫn giữ vững định hướng xă hội chủ

nghĩa, biết cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đă đạt được để phục vụ cho công

cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội, nhất là thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, làm

cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xă hội, sự trong sạch, lành

mạnh về đạo đức, tinh thần.

2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả

các nguồn lực, trước hết là nội lực để thực hiện công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta phải trải qua.

Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, của điều kiện

giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp theo

hướng hiện đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong muốn của Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh đă chỉ dẫn: xây dựng chủ nghĩa xă hội là sự nghiệp của toàn dân, do

Đảng lănh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải biết

phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho

nhân dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải dựa

vào nguồn lực trong nước là chính, có phát huy mạnh mẽ nội lực mới có thể tranh thủ

sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Trong nội lực, nguồn lực con người là vốn

quư nhất.

Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức

lao động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc để xây dựng và

phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:

- Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho

chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nhất là ở

địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực của sự phát triển xă hội.

42

- Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

- Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ

sở lấy liên minh công - nông - trí thức làm ṇng cốt, tạo nên sự đồng thuận xă hội vững

chắc v́ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh.

3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Xây dựng chủ nghĩa xă hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tận

dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở cuộc

cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa. Chúng ta phải tranh thủ tối đa

các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phải có cơ chế,

chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lư và công nghệ hiện đại, thực

hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ hợp tác

phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính

của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm lực quốc gia.

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh và

bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên - lực lượng rường cột của nước

nhà, để không tự đánh mất ḿnh bởi xa rời cội rễ dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và bản sắc

dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu tinh hoa văn

hóa loài người, làm phong phú, làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc.

4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà

nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lăng phí,

thực hiện cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xă hội

Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xă hội, phát huy quyền làm chủ

của nhân dân cần đến vai tṛ lănh đạo của một Đảng cách mạng chân chính, một Nhà

nước thật sự của dân, do dân và v́ dân. Muốn vậy, phải:

- Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng "đạo đức, văn minh".

Cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng dẫn, lănh đạo nhân

dân, vừa hết ḷng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu trong mọi việc.

- Xây dựng nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa mạnh mẽ, của nhân dân, do nhân

dân, v́ nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách đồng bộ để phục

vụ đời sống nhân dân.

- Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, h́nh thành một đội ngũ cán bộ liêm khiết,

tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính quyền những

"ông quan cách mạng", lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi ích riêng; phát huy

vai tṛ của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lăng phí, giữ

vững sự ổn định chính trị - xă hội của đất nước.

43

- Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ư thức biết cách làm giàu cho đất nước, hăng

hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng nước nhà.

Trong điều kiện đất nước c̣n nghèo, tiết kiệm phải trở thành quốc sách, thành một

chính sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức, một hành vi văn hóa như Hồ

Chí Minh đă căn dặn: "Một dân tộc biết cần, biết kiệm" là một dân tộc văn minh, tiến

bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu có về vật

chất, cao đẹp về tinh thần.

44

Chương IV

Tư Tưởng Hồ Chí MINH về đại đoàn kết

dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

1. Cơ sở h́nh thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được h́nh thành từ những cơ sở

quan trọng sau đây:

a) Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân

tộc Việt Nam

Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn

liền với ư thức cộng đồng, ư thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt Nam

đă được h́nh thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Đối với mỗi

người Việt Nam, yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết đă trở thành một t́nh cảm tự nhiên, in

đậm dấu ấn trong cấu trúc xă hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ: gia

đ́nh - làng xă - quốc gia. Từ đời này sang đời khác, tổ tiên ta đă có rất nhiều chuyện cổ

tích, ca dao, ngạn ngữ ca ngợi truyền thống đoàn kết dân tộc.

Hồ Chí Minh đă sớm hấp thụ và nhận thức được vai tṛ của truyền thống yêu n-

ước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: "Dân ta có một ḷng nồng

nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quư báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc

bị xâm lăng, th́ tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to

lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn ch́m tất cả lũ bán nước và lũ cư-

ớp nước"1.

Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là

cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự h́nh thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

b) Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin coi cách mạng là sự nghiệp

của quần chúng

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân

1. Sđd, t. 6, tr. 171.

45

dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện được vai tṛ lănh đạo

cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng

to lớn của cách mạng.

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là v́ chủ nghĩa Mác- Lênin đă chỉ ra

cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. V.I. Lênin cho rằng, sự liên minh

giai cấp, trước hết là liên minh công nông là hết sức cần thiết bảo đảm cho thắng lợi của

cách mạng vô sản, rằng nếu không có sự đồng t́nh và ủng hộ của đa số nhân dân lao

động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, th́ cách mạng vô sản không thể

thực hiện được.

Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin không những đă chỉ ra vai tṛ của quần chúng

nhân dân trong lịch sử mà c̣n chỉ ra vị trí của khối liên minh công nông trong cách

mạng vô sản. Đó là những quan điểm lư luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở

khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các

di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam

tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó h́nh thành tư tưởng của Người về

đại đoàn kết dân tộc.

c) Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong

trào cách mạng Việt Nam và thế giới

Trong quá tŕnh ra đi t́m đường cứu nước cũng như sau này, Hồ Chí Minh đă luôn

chú ư nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm của phong trào yêu nước Việt Nam và

phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc

ở các nước thuộc địa. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đă nghiên cứu những bài học của cuộc

Cách mạng Tháng Mười. Những là bài học về huy động, tập hợp lực lượng quần chúng

công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng, để xây dựng chế độ xă hội

chủ nghĩa đă giúp Hồ Chí Minh thấy rơ tầm quan trọng của việc đoàn kết, tập hợp lực

lượng cách mạng, trước hết là công nông.

Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh

đặc biệt chú ư đến Trung Quốc và ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều

bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng.

Những kinh nghiệm rút ra từ thành công hay thất bại của các phong trào dân tộc dân

chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là cơ sở thực tiễn

cần thiết cho việc h́nh thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân

tộc

a) Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của

cách mạng

Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX,

46

đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đă không đoàn kết

được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công

phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xă

hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi

lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến

lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.

Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và

nhân dân lao động phải tự ḿnh cứu lấy ḿnh bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách

mạng vô sản. Người đă vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách

mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lư luận cách mạng thuộc địa, trong đó

Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng.

Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh

chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác

nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người nhận thức là vấn đề sống c̣n

của cách mạng.

Hồ Chí Minh đă đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc

tế: Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công; Đoàn kết là điểm mẹ; điểm này

mà thực hiện tốt th́ đẻ ra con cháu đều tốt; Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành

công, thành công, đại thành công.

Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm

coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: "Dễ trăm lần không dân cũng

chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Đồng thời, Người lưu ư rằng, nhân dân bao gồm

nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải

đoàn kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc đó, Người

yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với các giai

cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản của

nhân dân lao động, làm "mẫu số chung" cho sự đoàn kết.

b) Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách

mạng

Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, không thương

dân th́ không thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm cho số đông đó

ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ thấy rơ

việc Người nhấn mạnh vai tṛ to lớn của dân mà c̣n coi đại đoàn kết dân tộc là mục

tiêu của cách mạng. Do đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng

Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đă thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn

thể dân tộc: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn

47

kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc.

Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đoàn kết

dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí

Minh c̣n cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của

Đảng mà c̣n là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi v́, đại đoàn kết dân

tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, v́ quần chúng. Đảng có sứ mệnh

thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu

tranh v́ độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.

c) Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân, có nội hàm rất rộng. Người dùng

các khái niệm này để chỉ "mọi con dân nước Việt", "con Rồng cháu Tiên", không phân

biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng,

không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có

nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Ng-

ười đă nhiều lần nêu rơ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ

quốc; ta c̣n phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có ḷng

phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân th́ ta đoàn kết với họ"1. Với tinh thần đoàn kết

rộng răi, Người đă dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây

dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến tŕnh cách mạng, bao gồm mọi giai cấp, dân

tộc, tôn giáo.

Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân th́ phải kế thừa truyền thống yêu n-

ước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm ḷng khoan dung, độ lượng với con

người. Người đă nhiều lần nhắc nhở: "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành ḥa b́nh, thống

nhất, độc lập, dân chủ th́ dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng

ta cũng thật thà đoàn kết với họ"2. Để thực hiện được đoàn kết, Người c̣n căn dặn: Cần

xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến

bộ để phục vụ nhân dân.

Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rơ ràng, đó là đại

đoàn kết toàn dân với ṇng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức do Đảng của giai

cấp công nhân lănh đạo. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, th́

phải xác định rơ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào

tạo nên cái nền tảng đó. Người đă chỉ rơ: Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại

đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân

dân lao động khác. Người coi công nông cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng

đă có nền vững, gốc tốt, c̣n phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. "Lực lượng chủ

yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng

1, 2. Sđd, t.7, tr. 438.

48

của Mặt trận dân tộc thống nhất"1. Về sau, Người nêu thêm: lấy liên minh công - nông - lao

động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững

chắc th́ khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào

có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.

d) Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức

là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lănh đạo của Đảng

Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách

mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ

dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược

cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến

thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt

trận dân tộc thống nhất.

Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô

địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối

vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn; nếu không, quần chúng

nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là một số đông không có sức

mạnh.

Hồ Chí Minh đi t́m đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó, chính là đi

t́m sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động. Và sức mạnh mà

Người đă t́m được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời

đại.

Từ khi t́m thấy con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đă rất chú ư

đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai

cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo. Đó là các già

làng, trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ, công hội, nông hội, đoàn thanh niên, hội phụ

nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lăo, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước,

các nghiệp đoàn, v.v., bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận chính là

nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt, không

chỉ ở trong nước mà c̣n cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ

phương trời nào, nếu tấm ḷng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ quốc Việt

Nam...

Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đă xây

dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu,

nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức Mặt trận ở nước ta

đều là tổ chức chính trị - xă hội rộng răi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân

tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn

1. Sđd, t.10, tr. 18.

49

đấu v́ mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân

dân.

Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn, theo Hồ

Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất: Đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu v́ nước, v́ dân, trên cơ sở yêu

nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu.

Hồ Chí Minh cho rằng, Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự

do, th́ độc lập cũng chẳng có nghĩa lư ǵ. Sự đoàn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân

tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn đấu.

Thứ hai: Đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công -

nông - lao động trí óc.

Phải trên cơ sở của khối liên minh cơ bản đó mà mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận

thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một khối vững chắc.

Thứ ba: Hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.

Khi có những lợi ích riêng biệt không phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết bằng việc

nêu cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự vận động hiệp thương dân chủ, tạo ra nhận

thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích

chung và lợi ích riêng, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc

dân chủ h́nh thức. Trong bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác Mặt trận

(tháng 8-1962), Người yêu cầu: Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân

dân... Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết

các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng

bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống ḥa thuận ấm no, xây

dựng Tổ quốc.

Thứ tư: Khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân

thành; thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương

đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí; bên cạnh những

nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn

đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm "cầu đồng tồn dị", lấy cái

chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rơ: "Đoàn kết phải gắn

với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết". Người thường xuyên căn dặn phải

khắc phục t́nh trạng đoàn kết xuôi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê b́nh và phê b́nh

để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ. Đoàn kết thật

sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự

nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê b́nh những cái sai

50

của nhau và phê b́nh trên lập trường thân ái, v́ nước, v́ dân. Trong quá tŕnh xây dựng,

củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh

hướng cô độc, hẹp ḥi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ đ-

ược; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu

tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.

Trong Mặt trận, Đảng Cộng sản vừa là thành viên vừa là lực lượng lănh đạo.

Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích riêng mà là gắn liền với lợi ích toàn xă hội,

toàn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền không phải chỉ v́ lợi ích của giai cấp

ḿnh mà v́ "phải trở thành dân tộc" mới có thể giải phóng được dân tộc và giai cấp.

Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành

viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lănh đạo Mặt trận. Nhưng

Người cho rằng, quyền lănh đạo Mặt trận không phải do Đảng tự phong cho ḿnh, mà

phải được nhân dân thừa nhận. Người nói: "Đảng không thể đ̣i hỏi Mặt trận thừa nhận

quyền lănh đạo của ḿnh, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất

và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng răi

thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lănh đạo của Đảng, th́ Đảng mới giành đ-

ược địa vị lănh đạo"1.

Đảng lănh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng

đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Đảng phải dùng phương pháp

vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy ḷng chân thành để đối xử, cảm hóa,

khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh g̣ ép, quan liêu mệnh lệnh.

Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt

trận. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân sẽ

tạo nên sức mạnh bên trong, để dân tộc vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù,

đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân

tộc với sức mạnh thời đại

1. Quá tŕnh nhận thức của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc vào sức mạnh dân tộc. Đó là chủ nghĩa yêu

nước nồng nàn, là tinh thần đoàn kết, ư chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập,

tự do, ư thức tự lập, tự cường,...

Để phát triển, xă hội cần tới nhiều hoạt động, nhiều nguồn động lực khác nhau,

như chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, tinh thần, t́nh cảm,... và mỗi loại

1. Sđd, t.3, tr. 139.

51

hoạt động có vai tṛ, vị trí riêng đối với sự phát triển xă hội. Hoạt động chính trị có mục

tiêu cơ bản là nhằm đoạt lấy quyền lực chính trị, sử dụng quyền lực chính trị phục vụ

cho sự tồn tại và phát triển của con người, giai cấp, cộng đồng, quốc gia. Nhu cầu, lợi

ích chính trị của con người, cộng đồng, quốc gia, nhân loại và sự khát khao nhu cầu, lợi

ích đó chính là động cơ thúc đẩy các hoạt động chính trị của con người, giai cấp, dân

tộc, quốc gia và nhân loại.

Khát vọng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xă hội đă thôi thúc Hồ Chí Minh hy sinh

cả cuộc đời ḿnh để thực hiện, cũng là lư do hy sinh của bao thế hệ người Việt Nam

hôm qua và hôm nay. Khát vọng đó chính là sức mạnh mà Hồ Chí Minh ư thức được và

ra sức giáo dục cán bộ, đảng viên và toàn dân ta quán triệt, giữ ǵn và phát huy, biến

thành hiện thực.

Nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh thời đại được h́nh thành từng bước, từ

cảm tính đến lư tính, thông qua hoạt động thực tiễn mà tổng kết thành lư luận.

Ra đi t́m đường cứu nước trong tư cách người lao động, ḥa ḿnh trong môi tr-

ường hoạt động của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh đă chứng kiến cuộc sống khổ cực

của nhân dân các nước thuộc địa, đă phát hiện ra mối tương đồng giữa các dân tộc bị áp

bức: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột

và giống người bị bóc lột"1. Người cho rằng trong hai hạng người đó, chỉ có hạng người

nghèo, bị bóc lột là có t́nh hữu ái giai cấp thực sự. Đó là cơ sở đầu tiên để h́nh thành

nhận thức: muốn giải phóng dân tộc ḿnh cần thiết phải đoàn kết với các dân tộc khác

cùng chung cảnh ngộ. Những năm 1917-1919, khi sống với những người lao động ở

Pari, Hồ Chí Minh phân biệt được hai loại: người Pháp vô sản và người Pháp thực dân,

trong đó chỉ có bọn thực dân là kẻ thù, c̣n những người vô sản là bạn của nhân dân

Việt Nam, họ đều là anh em cùng một giai cấp và khi tới lúc phải chiến đấu, th́ cả hai

bên đều phải cùng đánh bọn chủ chung của ḿnh, chứ anh em không nên đánh lẫn nhau.

Đó là cơ sở h́nh thành nhận thức về sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ

nghĩa quốc tế vô sản của Hồ Chí Minh.

Sau khi tiếp thu tư tưởng của V.I. Lênin trong Sơ thảo lần thứ nhất những luận

cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, Hồ Chí Minh càng ư thức được mối quan

hệ mật thiết giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản trong thời đại đế

quốc chủ nghĩa, nên đă coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản

thế giới. Để chiến thắng kẻ thù, cách mạng Việt Nam phải dựa vào sức mạnh bên trong,

đồng thời phải tranh thủ sự đồng t́nh, giúp đỡ của quốc tế. Hồ Chí Minh kêu gọi hăy v́

nền ḥa b́nh thế giới, v́ tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc

cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức.

Như vậy, qua khảo sát thực tế, từ kinh nghiệm bản thân, Hồ Chí Minh đă nhận

thức được rằng: chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung

của nhân dân lao động ở cả chính quốc và thuộc địa. Muốn đánh thắng chúng, phải

1. Sđd, t.1, tr. 266.

52

thực hiện khối liên minh chiến đấu giữa lao động ở các thuộc địa với nhau và giữa lao

động ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc; nếu tách riêng mỗi lực lượng th́ không thể

nào thắng lợi được. Điểm vượt lên của Hồ Chí Minh so với các lănh tụ yêu nước và chí

sĩ cách mạng đầu thế kỷ XX chính là ở đó, nó nâng cao nhận thức của Người về sức

mạnh thời đại.

Hồ Chí Minh cho rằng, sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chính

là kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, là phải xây

dựng được khối liên minh chiến đấu giữa vô sản ở chính quốc với lao động ở thuộc địa,

nhằm cùng một lúc tiến công chủ nghĩa đế quốc ở cả hai đầu. V́ vậy, Hồ Chí Minh đă

viết nhiều bài trên báo Người cùng khổ (Le Paria) và báo Nhân đạo (L' Humanité) để

truyền bá tư tưởng của ḿnh trong giai cấp vô sản và nhân dân lao động khác cả ở chính

quốc và cả thuộc địa. Người đă tranh thủ diễn đàn các đại hội của Đảng Xă hội, Đảng

Cộng sản Pháp, diễn đàn các câu lạc bộ để "thức tỉnh" những người anh em ở phương

Tây về nhiệm vụ phải giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải phóng dân tộc ở

các nước thuộc địa; phải coi cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là "một trong

những cái cánh của cách mạng vô sản".

Từ tuyên truyền đến tổ chức, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa ở

Pháp, tham gia xuất bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria) - cơ quan ngôn luận của Hội

liên hiệp thuộc địa. Sau khi đến Quảng Châu (Trung Quốc), Người tích cực tham gia

vào việc thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức á Đông, sát cánh chiến đấu bên

cạnh những người cộng sản và nhân dân Trung Quốc, coi "giúp bạn là tự giúp ḿnh".

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, sự h́nh thành, tồn tại và phát triển của hệ thống

xă hội chủ nghĩa thế giới đă trở thành một nhân tố làm nên sức mạnh thời đại. Các n-

ước xă hội chủ nghĩa đă có vai tṛ to lớn trong việc ủng hộ và giúp đỡ phong trào giải

phóng dân tộc và phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân

thế giới v́ hoà b́nh, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xă hội. Ngược lại, phong trào

giải phóng dân tộc cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân

lao động trong các nước tư bản đă góp phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, cũng tức là

góp phần tích cực vào việc bảo vệ các nước xă hội chủ nghĩa. Đối với cách mạng Việt

Nam, Hồ Chí Minh chủ trương phát huy sức mạnh thời đại là huy động sức mạnh của

các trào lưu cách mạng trên thế giới phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Cũng từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật

ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành một nhân tố làm nên sức mạnh thời đại. Hồ

Chí Minh chỉ rơ: "Thế giới ngày nay đang tiến những bước khổng lồ về mặt kiến thức

của con người. Khoa học tự nhiên cũng như khoa học xă hội không ngừng mở rộng ra

những chân trời mới, con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên, cũng như làm chủ

được vận mệnh của xă hội và của bản thân ḿnh"1. Người nhắc nhở các thế hệ thanh

niên phải ra sức học tập để chiếm lĩnh được những đỉnh cao của khoa học, tận dụng sức

mạnh mới của thời đại để nhân lên sức mạnh của dân tộc. Người cho rằng việc học

1. Sđd, t.9, tr. 355.

53

tập tốt của thế hệ trẻ sẽ là điều kiện để non sông Việt Nam có thể sánh vai được với

các cường quốc năm châu.

Từ thực tế trên, có thể nói, khi đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, t́m thấy con đ-

ường giải phóng dân tộc của Việt Nam con đường cách mạng vô sản, cũng có nghĩa là

Hồ Chí Minh đă t́m được sức mạnh cho cách mạng Việt Nam, đó là kết hợp sức mạnh

dân tộc với sức mạnh thời đại. Càng về sau Người càng nhận thức được hoàn chỉnh tầm

quan trọng và nội dung của việc kết hợp sức mạnh đó, coi đó là nhân tố cực kỳ quan

trọng bảo đảm thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.

2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với

sức mạnh thời đại

a) Đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó với

cách mạng vô sản thế giới

Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động là thời đại đă chấm dứt sự tồn tại

biệt lập giữa các quốc gia, mở ra mối quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn giữa các dân

tộc.

Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ

XX không phải v́ nhân dân ta thiếu anh dũng, các lănh tụ phong trào kém nhiệt huyết

mà do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thiếu đường lối cách mạng đúng

đắn, phương pháp cách mạng không phù hợp với xu thế mới của thời đại.

Do nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, Hồ Chí Minh đă sớm đến được

với cánh tả của cách mạng Pháp, gặp được Luận cương của V.I. Lênin, tán thành Quốc tế

III, t́m thấy con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản.

Người viết: "Thời đại của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại một nhóm nước

lớn do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ thuộc, bởi

vậy công cuộc giải phóng các nước và các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít

của cách mạng vô sản. Do đó mà trước hết nảy ra khả năng và sự cần thiết phải có liên

minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của các nước đế

quốc để thắng kẻ thù chung"1.

Sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đă hoạt động không

mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người đă chỉ ra một trong

những nguyên nhân gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là sự biệt lập.

Theo Người, "Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai

làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả"2. Do đó, cần phải

"Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn

và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh

này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản"3.

1. Sđd, t.8, tr. 567.

2. Sđd, t.1, tr. 301.

3. Sđd, t.2, tr. 124.

54

Do nhiều nguyên nhân, giai cấp công nhân ở phương Tây lúc đó chưa có hiểu biết

đầy đủ và chính xác về vấn đề thuộc địa. Một số lănh tụ cơ hội của Quốc tế II đă bênh

vực chính sách thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. V.I. Lênin đă kiên quyết đấu tranh

chống lại quan điểm sai lầm này. Hồ Chí Minh đă bảo vệ và phát triển quan điểm của

V.I. Lênin về khả năng to lớn và vai tṛ chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở

thuộc địa đối với thắng lợi của cách mạng vô sản: cách mạng ở phương Tây muốn thắng

lợi th́ nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các

nước thuộc địa và các nước bị nô dịch.

Chính nhờ nắm bắt được đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại mà Hồ Chí

Minh đă xác định chính xác đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng

đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường của

cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh khẳng định: "Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này

đến thắng lợi khác, điều đó chứng minh rằng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một

nước thuộc địa nhỏ, với sự lănh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần

chúng nhân dân rộng răi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân

yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự đồng t́nh và ủng hộ của phong trào cách

mạng thế giới, trước hết là của phe xă hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó

nhất định thắng lợi"1.

b) Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc

tế trong sáng

Là nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh đă triệt để phát huy sức mạnh của chủ

nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc; đồng thời là nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng. Hồ

Chí Minh đă suốt đời đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường t́nh đoàn kết

và hữu nghị giữa Việt Nam và các dân tộc khác đang đấu tranh cho mục tiêu chung là

ḥa b́nh, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xă hội. Người cho rằng: Đảng lấy toàn

bộ thực tiễn của ḿnh để chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào

tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh

thần "vị quốc" của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế.

Kẻ thù của các dân tộc và cách mạng thế giới hiểu rơ sức mạnh của khối đoàn kết

dân tộc và đoàn kết quốc tế, v́ vậy, để áp đặt và duy tŕ được ách thống trị của chúng

đối với các thuộc địa, chúng đă ra sức chia rẽ các dân tộc, truyền bá tư tưởng của chủ

nghĩa chủng tộc, khuyến khích thói kỳ thị màu da, kích động chủ nghĩa dân tộc cực

đoan... Hồ Chí Minh đă chứng kiến sự thối nát đó của chủ nghĩa thực dân khi c̣n ở

trong nước cũng như khi đi t́m đường cứu nước, song Người cũng đă chứng kiến về sự

chan ḥa giữa các dân tộc, các chủng tộc khi đến Liên Xô năm 1923. Người rất phấn

khởi nh́n thấy ở Trường Đại học phương Đông h́nh ảnh đại đoàn kết giữa các dân tộc

đủ màu da:

"Rằng đây bốn biển một nhà.

Vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em".

1. Sđd, t.9, tr. 315-316.

55

Hồ Chí Minh là người có đóng góp lớn vào lư luận Mác- Lênin về kết hợp chặt

chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại. Luận điểm coi chủ nghĩa đế quốc là "con đỉa hai ṿi", coi liên minh các

dân tộc ở phương Đông là một trong những cái cánh cách mạng vô sản", khẳng định chủ

nghĩa cộng sản có thể áp dụng được ở phương Đông, cách mạng giải phóng dân tộc ở

thuộc địa có thể thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc,... là sự phát triển sáng

tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh.

Đề cao sự giúp đỡ quốc tế với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đồng thời

nhấn mạnh trách nhiệm của cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Khi phong

trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự chia rẽ, Đảng ta và Hồ Chí Minh đă hoạt động

không mệt mỏi để mong góp phần khôi phục sự đoàn kết quốc tế trên cơ sở những

nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lư, có t́nh.

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, từ đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc

tế; đại đoàn kết dân tộc đúng đắn là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế trong

sáng. Đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng

Việt Nam. Đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng

Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất n-

ước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xă hội.

Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản đ̣i hỏi phải đấu tranh

chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa sô vanh và mọi thứ chủ

nghĩa cơ hội khác. Chúng ta không chỉ chiến đấu v́ độc lập, tự do của đất nước ḿnh

mà c̣n v́ độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ lợi ích sống c̣n của dân

tộc ḿnh mà c̣n v́ những mục tiêu cao cả của thời đại: ḥa b́nh, độc lập dân tộc, dân

chủ và chủ nghĩa xă hội.

c) Dựa vào sức ḿnh là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xă hội

chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa

vụ quốc tế cao cả của ḿnh

Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, bao giờ Hồ Chí

Minh cũng tích cực và quan tâm đến phát huy sức mạnh của dân tộc, coi nguồn lực nội

sinh giữ vai tṛ quyết định, c̣n nguồn lực ngoại sinh chỉ phát huy được tác dụng thông

qua nguồn lực nội sinh. V́ vậy, trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn nêu

cao khẩu hiệu "tự lực cánh sinh, dựa vào sức ḿnh là chính", "muốn người ta giúp cho,

th́ trước ḿnh phải tự giúp lấy ḿnh đă". Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ

ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ th́ không xứng đáng được độc lập.

"Tự giải phóng" là tư tưởng, quan điểm lớn, xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí

Minh. Trong lời kêu gọi gửi tới những người anh em ở các thuộc địa, Người viết: Anh

em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng công thức của C. Mác, chúng tôi

xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng

56

sự nỗ lực của bản thân anh em.

Chính v́ đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc mà

Hồ Chí Minh đă đi tới luận điểm: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc

vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc mà trong điều kiện lịch sử nhất định,

có thể và cần thiết phải chủ động tiến hành trước và bằng thắng lợi của cách mạng thuộc

địa mà góp phần "giúp đỡ những người anh em ḿnh ở phương Tây trong nhiệm vụ giải

phóng hoàn toàn"1.

Hồ Chí Minh cho rằng, muốn tranh thủ được sức mạnh thời đại, ngoài sức mạnh

cần thiết bên trong, c̣n phải có đường lối độc lập tự chủ đúng đắn mới tranh thủ được

sức mạnh thời đại. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh

lịch sử phức tạp, đó là sự chia rẽ của hệ thống xă hội chủ nghĩa, của phong trào cách

mạng thế giới. Để tranh thủ được sự đồng t́nh và ủng hộ của nhân dân thế giới, Đảng ta

và Hồ Chí Minh đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống

nhất của dân tộc ḿnh với mục tiêu của thời đại là ḥa b́nh, độc lập dân tộc, dân chủ và

chủ nghĩa xă hội.

Nêu cao chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, tranh thủ cao nhất sự

ủng hộ và giúp đỡ của loài người tiến bộ, nhân dân ta đồng thời tích cực thực hiện nghĩa

vụ quốc tế cao cả của ḿnh. Hồ Chí Minh đă nhiều lần nhắc nhở: phải coi cuộc đấu

tranh của bạn cũng như cuộc đấu tranh của ta... Người cùng một hội, một thuyền phải

giúp đỡ lẫn nhau". Người đặc biệt coi trọng xây dựng khối đoàn kết Việt Nam, Lào,

Campuchia - ba nước cùng cảnh ngộ thuộc địa trên bán đảo Đông Dương trong cuộc

đấu tranh giải phóng đất nước. Trong kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, tư

tưởng Hồ Chí Minh đă định hướng cho việc h́nh thành ba tầng Mặt trận: Mặt trận đại

đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt Nam, Lào, Campuchia; Mặt trận nhân dân thế

giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ

nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.

Nhờ có sự giúp đỡ của quốc tế, Việt Nam đă giành toàn thắng trong hai cuộc

kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, song cũng bằng việc đánh bại thực

dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Việt Nam ta đă góp phần quan trọng làm suy yếu

chủ nghĩa đế quốc, từng bước hạn chế và làm thất bại âm mưu gây chiến tranh thế giới

của chúng, góp phần củng cố ḥa b́nh và dân chủ trên thế giới, mở rộng và tăng cường

lực lượng cho chủ nghĩa xă hội.

d) Có quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng "làm bạn với tất cả mọi n-

ước dân chủ"

Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, phong kiến lạc hậu, bôn ba khắp thế giới

đi t́m đường cứu nước, cứu dân, hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người thấu hiểu sâu sắc nỗi

1. Sđd, t.1, tr. 36.

57

nhục mất nước của các dân tộc và sự thống khổ của nhân dân lao động tất cả các nước

trên thế giới. V́ vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động của ḿnh, Hồ Chí Minh luôn luôn

chăm lo xây dựng, vun đắp cho t́nh hữu nghị, hợp tác và đoàn kết giữa nhân dân các

nước theo tinh thần "bốn phương vô sản đều là anh em" nhằm tạo nên sức mạnh to lớn

cho sự nghiệp cách mạng của các dân tộc.

Những năm bôn ba t́m đường cứu nước, Hồ Chí Minh đă từng sống, làm việc,

hoạt động ở nhiều nước do đó có vinh dự là người đặt cơ sở đầu tiên cho t́nh hữu nghị

giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân nhiều nước trên thế giới. Sau khi nước ta giành đ-

ược độc lập, Người đă nhiều lần tuyên bố: "Chính sách ngoại giao của Chính phủ th́ chỉ

có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ ǵn ḥa

b́nh"1; "Thái độ nước Việt Nam đối với những nước á châu là một thái độ anh em, đối

với ngũ cường là một thái độ bạn bè"2...

Thực hiện quan điểm đối ngoại ḥa b́nh, hữu nghị, Hồ Chí Minh đă thể hiện là

một nhà ngoại giao mẫu mực, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược,

"Dĩ bất biến ứng vạn biến". Phong cách đối ngoại của Hồ Chí Minh là phong cách ứng

xử văn hóa, mà hạt nhân là ứng xử có lư, có t́nh. Hồ Chí Minh chủ trương giương cao

ngọn cờ ḥa b́nh, đoàn kết quốc tế, đồng thời luôn phân biệt rơ bạn, thù của cách mạng,

tỉnh táo với mọi âm mưu xấu xa của các thế lực phản động quốc tế, trân trọng mọi sự

giúp đỡ, hợp tác chân thành, nhưng cũng kiên quyết đấu tranh chống sự chia rẽ, xâm

lược.

Trong Lời kêu gọi gửi tới Liên hợp quốc năm 1946, Hồ Chí Minh nêu rơ:

"Trong chính sách đối ngoại của ḿnh, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc

dưới đây:

1. Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và

bày tỏ ḷng mong muốn hợp tác trên cơ sở b́nh đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ

quyền.

2. Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa

và hợp tác trong mọi lĩnh vực:

a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà

kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của ḿnh.

b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông

cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.

c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới

sự lănh đạo của Liên hợp quốc.

1. Sđd, t.5, tr. 30.

2. Sđd, t.5, tr. 136.

58

d) Nước Việt Nam sẵn sàng kư kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong

khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên

quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân"1.

Trong quan hệ rộng mở với nhân dân các nước, Hồ Chí Minh đă dành ưu tiên cho

mối quan hệ với các nước xă hội chủ nghĩa anh em. Đối với Lào và Campuchia, những

nước trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh luôn có mối quan tâm đặc biệt, ra sức

xây dựng quan hệ đoàn kết về mọi mặt nhằm h́nh thành liên minh chiến đấu chống kẻ

thù chung. Người cũng hết sức coi trọng, thiết lập mối quan hệ hữu nghị, láng giềng với

các nước trong khu vực dù có chế độ chính trị khác nhau. Những hoạt động ngoại giao

không mệt mỏi của Người đă nâng cao địa vị của Việt Nam trên trường quốc tế, trong

phe xă hội chủ nghĩa cũng như trong các nước thuộc thế giới thứ ba. Đồng thời qua đó,

Hồ Chí Minh và Đảng, Nhà nước ta đă có những đóng góp tích cực, chủ động vào cuộc

đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tăng cường hữu nghị giữa các

nước, các dân tộc.

Tóm lại, với trí tuệ của ḿnh, với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, với đức độ khiêm

nhường, thái độ thiện chí, Hồ Chí Minh đă vượt qua mọi trở ngại, khó khăn, từ trong

những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của thời đại, đề ra được chủ trương, phương

châm, phương pháp, đối sách, ứng xử quốc tế đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với mỗi t́nh

h́nh, mỗi giai đoạn cách mạng. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đă phát huy được tối đa

sức mạnh dân tộc trong sự kết hợp với sức mạnh thời đại để đưa cách mạng Việt Nam

từng bước đi tới những thắng lợi như ngày nay và góp phần tích cực, xứng đáng vào sự

nghiệp chung của nhân dân thế giới v́ ḥa b́nh, độc lập dân tộc và tiến bộ xă hội.

III. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết

hợp với sức mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay

1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới ánh sáng tư

tưởng Hồ Chí Minh

Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, đ̣i hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết

toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Trong thời gian qua, nh́n chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên

minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là

nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xă hội, giữ vững ổn định chính trị- xă

hội của đất nước. Tuy nhiên, trong khi sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập

hợp sức mạnh của nhân dân th́ việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các

tổ chức xă hội c̣n nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh

1. Sđd, t.4, tr. 469-470.

59

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào

dân tộc thiểu số...

Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải củng cố và tăng cường

khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến

hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước v́ mục tiêu của chủ

nghĩa xă hội.

Trong t́nh h́nh hiện nay, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng,

củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần chú ư những vấn đề sau đây:

Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh,

động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc.

Hai là, lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tương đồng, xóa bỏ

mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh

thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.

Ba là, bảo đảm công bằng và b́nh đẳng xă hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính

đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài ḥa các lợi ích cá nhân

- tập thể - toàn xă hội; thực hiện dân chủ gắn với giữ ǵn kỷ cương, chống quan liêu,

tham nhũng, lăng phí; không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ư thức độc

lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất nước; xem đó là

những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt

nhân lănh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, h́nh thức,

trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có ư nghĩa quan

trọng hàng đầu.

2. Khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác

quốc tế, nâng cao ư chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc

trong quá tŕnh hội nhập quốc tế

Từ khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội, tiến

hành đổi mới, toàn diện đất nước, Đảng ta đă vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại

đoàn kết dân tộc phù hợp với t́nh h́nh mới. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc chuyển sức

mạnh đoàn kết dân tộc trong thời kỳ giữ nước sang thời kỳ dựng nước không phải là

việc dễ dàng, lịch sử đang đ̣i hỏi những nỗ lực lớn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh

vực này. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xu thế hiện nay là hội nhập kinh tế

quốc tế, một loạt vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ư:

- Khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh nội lực, phải xuất phát từ lợi ích dân tộc,

từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng

có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển đất nước.

60

- Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa, để

khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ư chí tự cường dân tộc, trong chính sách

đại đoàn kết, phải chú ư phát huy tính năng động của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi

việc từ lănh đạo, quản lư, đến sản xuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng

suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu

cực của kinh tế thị trường, đặc biệt là tâm lư chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành

mạnh làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, t́nh nghĩa tương thân, tương ái của dân tộc

và của Đảng.

- Điều quan trọng để phát huy nội lực dân tộc, phát huy sức mạnh của khối đại

đoàn kết dân tộc hiện nay là phải xây dựng được hệ thống chính trị trong sạch, vững

mạnh. Phải chống các tệ nạn xă hội, nhất là tệ nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm

quyền làm chủ của nhân dân, phải biết lắng nghe những ư nguyện chính đáng của nhân

dân, phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân dân, làm cho ḷng dân được yên.

Phải tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xă hội, đặc biệt coi trọng việc xây

dựng Mặt trận, đổi mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách

đối với công nhân, với nông dân, với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người Việt

Nam ở nước ngoài, chính sách đối với các thành phần kinh tế, tập hợp đến mức rộng răi

nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n-

ước.

- Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương hóa,

đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng

phát triển, đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát

huy tối đa nội lực dân tộc c̣n đ̣i hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách

mạng các nước, đồng thời phải nắm vững phương châm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên

tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng và Nhà nước ta là:

Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, v́

ḥa b́nh, hợp tác và phát triển.

Trong t́nh h́nh thế giới hiện nay, đ̣i hỏi chúng ta phải có những chủ trương đúng

đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy cơ, để vừa

nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ vững bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng

xă hội chủ nghĩa.

Phát huy bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu

nước với chủ nghĩa quốc tế, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí

Minh, phải nhất quán coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của

cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu hướng

và trào lưu tiến bộ của thời đại v́ các mục tiêu ḥa b́nh, độc lập dân tộc, dân chủ và

tiến bộ xă hội.

Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và

61

thế giới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự

cường, chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc- sức mạnh của chủ nghĩa yêu n-

ước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh

bên trong mà tranh thủ và tận dụng sự đồng t́nh, ủng hộ rộng răi của lực lượng bên

ngoài.

Chương V

Tư tưởng hồ chí minh về đảng cộng sản Việt

Nam; về xây dựng nhà nước của dân, do

dân, v́ dân.

I. những luận điểm chủ yếu của hồ chí minh về đảng

cộng sản Việt nam

1. Đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng

Việt Nam đến thắng lợi

Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được

lănh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng

định: "Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng

vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lănh đạo mới chắc chắn thắng lợi"1, giai cấp

mà không có Đảng lănh đạo th́ không làm cách mạng được. Trong cuốn sách Đường

Kách mệnh xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh viết: "Cách mệnh trước hết phải có cái

ǵ? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong th́ vận động và tổ chức dân chúng,

ngoài th́ liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách

mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy"2. Hồ Chí

Minh cho rằng: "Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lănh đạo để

nhận rơ t́nh h́nh, đường lối và định phương châm cho đúng.

Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn

1. Sđd, t. 9, tr. 290.

2.Sđd, t. 2, tr. 267-268.

62

thắng lợi th́ quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết. V́ vậy, phải

có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ

địch, tranh lấy chính quyền.

Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lănh đạo"3.

Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật

phát triển của xă hội v́ Đảng không có mục đích tự thân, ngoài lợi ích của giai cấp công

nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân

tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích nào khác.

Vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính quyết định hàng đầu từ sự

lănh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đă được thực tế lịch sử chứng minh,

không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được. Mọi mưu toan nhằm hạ thấp

hoặc nhằm xóa bỏ vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đều xuyên tạc lịch sử

thực tế cách mạng dân tộc ta, trái với mặt lư luận lẫn thực tiễn, đều đi ngược lại xu thế

phát triển của xă hội Việt Nam.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa

Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước

Đề cập các yếu tố cho sự ra đời của đảng cộng sản, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể

của nước Nga và của phong trào công nhân châu Âu, V.I. Lênin nêu lên hai yếu tố, đó là

sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.

Khi đề cập quy luật h́nh thành Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố chủ

nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh c̣n kể đến yếu tố thứ ba

nữa, đó là phong trào yêu nước. Trong bài Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí

Minh cho rằng, Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác-

Lênin. Nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh viết bài Ba mươi năm

hoạt động của Đảng, trong đó chỉ rơ: Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào

công nhân và phong trào yêu nước đă dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông

Dương vào đầu năm 1930. Đây chính là một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về

quy luật h́nh thành Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -

Lênin trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam.

Hồ Chí Minh thấy rơ vai tṛ to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng

Việt Nam và đối với quá tŕnh h́nh thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, Người

cũng đánh giá rất cao vị trí, vai tṛ lănh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong sắp

xếp lực lượng cách mạng. Số lượng giai cấp công nhân Việt Nam tuy ít, nhưng theo Hồ

Chí Minh, vai tṛ lănh đạo của lực lượng cách mạng không phải do số lượng của lực

lượng đó quyết định. Hồ Chí Minh chỉ rơ đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam là:

Kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Là giai cấp tiên tiến nhất trong sức

3.Sđd, t. 7, tr. 228-229.

63

sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chủ nghĩa tư bản và đế quốc, để xây dựng một xă

hội mới, giai cấp công nhân có khả năng thấm nhuần tư tưởng cách mạng nhất - chủ

nghĩa Mác - Lênin; đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các

tầng lớp khác. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, sở dĩ giai cấp công nhân Việt Nam giữ vai tṛ

lănh đạo cách mạng Việt Nam c̣n là v́: Giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác - Lênin.

Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin... Đảng đề

ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản

vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến.

Nhưng, tại sao Hồ Chí Minh lại nêu thêm yếu tố phong trào yêu nước, coi nó là

một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc h́nh thành Đảng Cộng sản Việt Nam? Điều

này là v́ những lư do sau đây:

Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai tṛ cực kỳ to lớn trong quá tŕnh phát triển

của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử

dân tộc Việt Nam, có vai tṛ cực kỳ to lớn và là nhân tố chủ đạo quyết định thắng lợi sự

nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta. Phong trào yêu nước có trước phong trào công

nhân. Chỉ tính riêng trong hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, phong trào yêu nước của

nhân dân ta dâng lên mạnh mẽ như những lớp sóng cồn nối tiếp nhau. Phong trào yêu

nước liên tục và bền bỉ trong hàng ngh́n năm dựng nước và giữ nước đă kết thành chủ

nghĩa yêu nước và nó đă trở thành giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam.

Hai là, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi v́ hai

phong trào đó đều có mục tiêu chung. Khi giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và có

phong trào đấu tranh, kể cả đấu tranh lúc đầu là đấu tranh kinh tế, và sau này là đấu

tranh chính trị, th́ phong trào công nhân kết hợp được ngay từ đầu và kết hợp liên tục

với phong trào yêu nước. Cơ sở của vấn đề kết hợp ngay từ đầu, liên tục, chặt chẽ giữa

hai phong trào này là do xă hội nước ta tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể dân tộc

Việt Nam với bọn đế quốc và tay sai. V́ vậy, giữa hai phong trào này đều có một mục

tiêu chung, yêu cầu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc

lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, chính bản thân phong trào công nhân, xét

về nghĩa nào đó, lại c̣n mang tính chất của phong trào yêu nước, v́ phong trào đấu

tranh của công nhân không những chống lại ách áp bức giai cấp mà c̣n chống lại ách

áp bức dân tộc.

Ba là, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong

trào yêu nước Việt Nam, phải kể đến phong trào nông dân. Đầu thế kỷ XX, nông dân

Việt Nam chiếm tới khoảng hơn 90% dân số. Giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự

nhiên của giai cấp công nhân. Đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam, do điều kiện lịch sử chi

phối, không có công nhân nhiều đời mà họ xuất thân trực tiếp từ người nông dân nghèo.

Do đó, giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp thành quân chủ lực của cách mạng.

64

Bốn là, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy

sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phong trào yêu nước

Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX ghi dấu ấn đậm nét bởi vai tṛ của trí thức,

tuy số lượng không nhiều nhưng lại là những "ng̣i nổ" cho các phong trào yêu nước

bùng lên chống thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai cũng như thúc đẩy sự canh tân

và chấn hưng đất nước. Trong lịch sử Việt Nam, đầu thế kỷ XX, một trong những nét

nổi bật nhất là sự bùng phát của các tổ chức yêu nước mà thành viên và những người

lănh đạo tuyệt đại đa số là trí thức. Với một bầu nhiệt huyết, yêu nước, thương ṇi, căm

giận bọn cướp nước và bọn bán nước, họ rất nhạy cảm với thời cuộc, do vậy, họ chủ

động và có cơ hội đón nhận những "luồng gió mới" về tư tưởng của tất cả các trào lưu

trên thế giới dội vào Việt Nam.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân, của nhân

dân lao động và của dân tộc Việt Nam

Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp

công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân.

Trong Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh viết: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai

cấp"1 trong Chương tŕnh vắn tắt của Đảng Người viết: "Đảng là đội tiên phong của đạo

quân vô sản"2, Đảng tập hợp vào hàng ngũ của ḿnh những người tin theo chủ nghĩa

cộng sản, chương tŕnh của Đảng và Quốc tế cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy

sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận

Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định rơ mục đích của Đảng là "làm tư sản dân quyền cách

mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xă hội cộng sản"3. Đảng liên kết với những dân tộc

bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới.

Những quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh hoàn

toàn tuân thủ những quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp

vô sản. Nhưng, Hồ Chí Minh c̣n có một cách thể hiện khác về vấn đề "đảng của ai".

Trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), Hồ Chí Minh

nêu rơ: Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và

của dân tộc là một. Chính v́ Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân

và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam. Năm 1953, Hồ

Chí Minh viết: "Đảng Lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho

lợi ích của cả dân tộc"4 và "Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là đảng của

toàn dân". Năm 1957, Hồ Chí Minh khẳng định lại: Đảng là đội tiên phong của giai cấp

công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc. Trong thời kỳ miền Bắc xây

dựng chủ nghĩa xă hội năm 1961, Hồ Chí Minh khẳng định lại: Đảng ta là Đảng của giai

cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị. Năm 1965, Hồ Chí Minh

1, 2, 3. Sđd, t. 3, tr. 3, 4.

4. Sđd, t. 7, tr. 230.

65

cho rằng: Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của

nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau như vậy nhưng quan điểm nhất quán của

Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp của Đảng là Đảng ta mang bản chất giai cấp công

nhân. Điều này cũng giống như Đảng ta nhiều lần mang những tên gọi khác nhau, có

thời kỳ không mang tên Đảng Cộng sản mà mang tên là Đảng Lao động nhưng bản chất

giai cấp của Đảng chỉ là bản chất giai cấp công nhân. Trong Báo cáo chính trị tại Đại

hội II, khi nêu lên Đảng ta c̣n là Đảng của nhân dân lao động và của toàn dân tộc, Hồ

Chí Minh cũng nêu lên toàn bộ cơ sở lư luận và các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng

mà những nguyên tắc này tuân thủ một cách chặt chẽ học thuyết về đảng kiểu mới của

giai cấp vô sản của V.I.Lênin.

Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta dựa trên cơ sở

thấy rơ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, tuy có số lượng ít so với dân số

nhưng có đầy đủ phẩm chất và năng lực lănh đạo đất nước thực hiện những mục tiêu của

cách mạng. C̣n các giai cấp, tầng lớp khác chịu sự lănh đạo của giai cấp công nhân, trở

thành đồng minh của giai cấp công nhân. Nhưng nội dung quy định bản chất giai cấp

công nhân không phải chỉ là ở số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân mà là ở nền

tảng lư luận và tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin; mục tiêu của Đảng cần đạt

tới là chủ nghĩa cộng sản; Đảng tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ những nguyên tắc

xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Hồ Chí Minh phê phán những quan điểm

không đúng như không đánh giá đúng vai tṛ to lớn của giai cấp công nhân cũng như

quan điểm sai trái chỉ chú trọng công nông mà không thấy rơ vai tṛ to lớn của các giai

cấp, tầng lớp khác.

Bản chất giai cấp của Đảng là bản chất giai cấp công nhân nhưng quan niệm Đảng

không những là Đảng của giai cấp công nhân mà c̣n là Đảng của nhân dân lao động và

của toàn dân tộc có ư nghĩa lớn đối với cách mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích

của toàn dân tộc cho nên nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của

chính ḿnh. Trong thành phần của ḿnh, ngoài công nhân, c̣n có những người ưu tú

trong giai cấp nông dân, trí thức và các thành phần khác. Đảng ta cũng đă khẳng định

rằng, để bảo đảm và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, Đảng luôn luôn gắn bó

mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong tất cả các

thời kỳ của cách mạng. Hồ Chí Minh rèn luyện Đảng luôn luôn chú trọng tính thống

nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ

giai cấp công nhân mà c̣n bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin "làm cốt"

Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rơ: phải dựa vào lư luận cách

66

mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi huấn luyện cho cán bộ cách mạng

năm 1925-1927, Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng muốn vững th́ phải có chủ nghĩa làm

cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có

chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam"1 và Người

khẳng định "chủ nghĩa" ấy là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong suốt cả cuộc đời hoạt động

cách mạng của ḿnh, Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng chủ nghĩa Mác - Lênin; chính

chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc cơ bản nhất h́nh thành tư tưởng của Người. Theo

Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin thực sự là "mặt trời soi sáng" cho con đường cách

mạng Việt Nam, là "cái cẩm nang thần kỳ" để giải quyết các công việc cho đúng đắn, v.v..

Hồ Chí Minh đă ví chủ nghĩa Mác - Lênin như trí khôn của con người, như bàn chỉ nam

định hướng cho con tàu đi là nói lên vai tṛ cực kỳ quan trọng của lư luận ấy trong tất cả

các thời kỳ cách mạng. Với ư nghĩa đó, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin trở

thành "cốt", trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng

Cộng sản Việt Nam.

Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh lưu ư

những điểm sau đây:

Một là: việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn

luôn phù hợp với hoàn cảnh và phù hợp với từng đối tượng.

Hai là: việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn luôn phù hợp với từng

hoàn cảnh. Theo Hồ Chí Minh, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải tránh giáo điều,

đồng thời chống lại việc xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều

này hoàn toàn đúng với căn dặn của chính bản thân C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đối

với những người cộng sản trên thế giới khi các ông cho rằng, những quan điểm của các

ông chỉ là những phương pháp chỉ dẫn hành động trong thực tế. Năm 1924, Hồ Chí

Minh cũng đă nhận xét: "Mác đă xây dựng học thuyết của ḿnh trên một triết lư nhất

định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là ǵ? Đó chưa phải

là toàn thể nhân loại...Dù sao th́ cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ

nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời ḿnh không thể có

được"1.

Ba là: Trong quá tŕnh hoạt động, Đảng ta phải chú ư học tập, kế thừa những kinh

nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh nghiệm

của ḿnh để bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết nêu

lên những vấn đề cơ bản nhất, trên cơ sở đó mỗi Đảng vận dụng vào hoàn cảnh, điều

kiện riêng của ḿnh. Trong quá tŕnh vận dụng đó, mỗi đảng lại giải quyết thành công

1. Sđd, t. 2, tr. 268.

1. Sđd, t.1, tr. 465.

67

những vấn đề mới, tổng kết thành những vấn đề lư luận bổ sung và làm giàu thêm nội

dung lư luận Mác - Lênin. Chính v́ thế mà chúng ta thấy chủ nghĩa Mác - Lênin là một

học thuyết mở, nó luôn luôn được tiếp nhận, được bổ sung, được nạp thêm năng lượng

mới từ cuộc sống. Thực tiễn hoạt động của Đảng ta cũng cần có sự tổng kết thường

xuyên để bổ sung vào kho tàng lư luận Mác - Lênin. Đây là thái độ và trách nhiệm

thường xuyên của Đảng ta.

Bốn là: Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ

nghĩa Mác - Lênin. Chú ư chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác- Lênin; chống

lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên

tắc đảng kiểu mới của giai cấp vô sản

a) Tập trung dân chủ

Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa "tập trung" và "dân chủ" có

mối quan hệ khăng khít với nhau, đó là hai vế của một nguyên tắc. Hồ Chí Minh viết về

mối quan hệ đó như sau: Tập trung trên nền tảng dân chủ; Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập

trung. Hoặc, Người viết: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do

là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ư kiến của ḿnh, góp phần t́m

ra chân lư. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người.

Khi mọi người đă phát biểu ư kiến, đă t́m thấy chân lư, lúc đó quyền tự do tư

tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lư"2.

b) Tập thể lănh đạo, cá nhân phụ trách

Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lănh đạo như sau: "V́ sao cần phải có tập thể

lănh đạo?

V́ một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng

chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông

thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.

V́ vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người th́ nhiều kinh nghiệm. Người th́

thấy rơ mặt này, người th́ trông thấy rơ mặt khác của vấn đề đó.

Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, th́ vấn đề đó được thấy rơ khắp

mọi mặt. Mà có thấy rơ khắp mọi mặt, th́ vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi

sai lầm"1. Về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng: "Việc ǵ đă được đông người

bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rơ ràng rồi, th́ cần phải giao cho 1 người hoặc một

nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách,

công việc mới chạy.

2.Sđd, t. 8, tr. 216.

1, 2. Sđd, t. 5, tr. 504, 504-505.

68

Nếu không có cá nhân phụ trách, th́ sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia,

người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế th́ việc ǵ cũng không

xong"2.

Đối với việc thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng, phải chú ư

khắc phục tệ độc đoán chuyên quyền, đồng thời phải chống lại cả t́nh trạng dựa dẫm

tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm. Đây là hiện tượng thường

thấy trong công tác hàng ngày, có khi thành tích th́ nhận về cá nhân ḿnh, c̣n khuyết

điểm, sai lầm th́ đổ lỗi cho tập thể. Không chú ư đến lănh đạo tập thể th́ sẽ bị bao biện,

độc đoán, chủ quan, đồng thời không chú ư đến cá nhân phụ trách th́ sẽ dẫn đến bừa

băi, lộn xộn, vô chính phủ.

c) Tự phê b́nh và phê b́nh

Mục đích của tự phê b́nh và phê b́nh là để làm cho phần tốt trong mỗi con người

nẩy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi một tổ chức tốt lên, phần xấu bị mất dần đi, tức

là nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ. Mục đích này được quy định bởi tính tất yếu

trong quá tŕnh hoạt động của Đảng ta. Bởi v́, Đảng là một thực thể của xă hội, Đảng

bao gồm các tầng lớp xă hội, đội ngũ của Đảng bao gồm những người ưu tú, nhưng

trong Đảng cũng không tránh khỏi những khuyết điểm, không phải mọi người đều tốt,

mọi việc đều hay, mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong ḷng. Chính v́ vậy

mà Hồ Chí Minh cho rằng, thang thuốc tốt nhất là tự phê b́nh và phê b́nh.

Thái độ, phương pháp tự phê b́nh và phê b́nh được Hồ Chí Minh nêu rơ ở những

điểm như: phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hằng ngày; phải thẳng

thắn, chân thành, trung thực, không nể nang, không giấu giếm và cũng không thêm bớt

khuyết điểm; "phải có t́nh đồng chí thương yêu lẫn nhau".

d) Kỷ luật nghiêm minh, tự giác

Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên c̣n bắt nguồn từ ư thức

tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đ̣i hỏi tất cả

mọi tổ chức đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải b́nh đẳng trước Điều lệ Đảng, trước

pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời, đảng ta là một tổ

chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lư tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nên tự

giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Tính nghiêm

minh, tự giác đ̣i hỏi ở đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của

Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật

của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể nhân dân.

đ) Đoàn kết thống nhất trong Đảng

Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lư luận của Đảng là chủ

nghĩa Mác - Lênin; cương lĩnh, điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; nghị

quyết của tổ chức đảng các cấp. Đồng thời, muốn đoàn kết thống nhất trong Đảng, phải

thực hành dân chủ rộng răi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê b́nh và

69

phê b́nh, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các

biểu hiện tiêu cực khác, phải "sống với nhau có t́nh, có nghĩa". Có đoàn kết tốt th́ mới

tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ư chí và hành động, làm cho "Đảng ta tuy đông

người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người".

6. Tăng cường và củng cố mối quan hệ bền chặt giữa Đảng với dân

Vai tṛ lănh đạo của Đảng là do dân ủy thác cho. Đảng lănh đạo, dân làm chủ.

Chính v́ thế, Hồ Chí Minh nêu lên luận điểm nổi tiếng trong bản Di chúc: Đảng ta phải

xứng đáng là người lănh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Hoặc,

trước đó, năm 1951, phát biểu tại buổi lễ ra mắt Đảng Lao động Việt Nam sau khi kết

thúc Đại hội II, Hồ Chí Minh nói: Đảng Lao động Việt Nam không sợ kẻ địch nào dù

cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề nguy hiểm đến mấy,

nhưng Đảng Lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành

của nhân dân. Đảng sẽ mất vai tṛ lănh đạo nếu Đảng xa rời dân, quan liêu, hách dịch

với dân.

Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu về tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa

Đảng với nhân dân:

Một là, Đảng thường xuyên lắng nghe ư kiến của nhân dân, hiểu rơ tâm tư,

nguyện vọng của nhân dân. Kiên quyết khắc phục bệnh quan liêu trong tổ chức Đảng và

đảng viên.

Hai là, thường xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng bằng mọi h́nh

thức: bằng việc tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng; bằng việc đóng góp

nhiều ư kiến cho các tổ chức đảng với tinh thần xây dựng; bằng việc giới thiệu những

người ưu tú để Đảng xem xét kết nạp vào Đảng; bằng việc kiểm tra, kiểm soát tổ chức

Đảng và cán bộ, đảng viên, v.v..

Ba là, Đảng có trách nhiệm nâng cao dân trí. Không thể có một Đảng trí tuệ nếu

nền dân trí thấp. Vấn đề này liên quan đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng nói

chung và đối với công tác giáo dục - đào tạo nói riêng.

Bốn là, trong quan hệ với dân, Đảng "không được theo đuôi quần chúng". Trong

tác phẩm Sửa đổi lối làm việc viết năm 1947, Hồ Chí Minh chia dân ra làm ba hạng:

hạng hăng hái, hạng vừa vừa, và hạng kém hoặc ba lớp: có lớp tiên tiến, có lớp chừng

chừng, có lớp lạc hậu. Do vậy, Đảng phải có bản lĩnh vững vàng trong việc xử lư các

công việc, đưa ra những quyết định đúng đắn vừa nâng cao tŕnh độ giác ngộ cách mạng

cho nhân dân, để làm cho nhiều người chuyển hóa thành "hạng hăng hái", "lớp tiên

tiến", vừa thực hiện tốt vai tṛ của ḿnh đối với đất nước.

7. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn

Đảng ta đóng vai tṛ lănh đạo toàn xă hội và trong thực tế mấy chục năm qua đă

70

được nhân dân tin yêu v́ "Đảng là đạo đức, là văn minh", tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự

và lương tâm của dân tộc. Nhưng Đảng sẽ mất vai tṛ lănh đạo toàn xă hội và sẽ không

được nhân dân tín nhiệm nữa nếu Đảng yếu kém, không trong sạch, không vững mạnh.

Hồ Chí Minh nêu rơ: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại,

có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến

và ca ngợi, nếu ḷng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"1. Do đó,

thường xuyên tự đổi mới và tự chỉnh đốn bản thân Đảng là một yêu cầu của chính sự

nghiệp cách mạng trong tất cả các thời kỳ. Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí

Minh, là sự quan tâm hàng ngày của Người nhằm giáo dục cho toàn Đảng tinh thần luôn

luôn rèn luyện, phấn đấu v́ sự tin yêu của nhân dân. Trong những lời cuối cùng để lại

cho toàn Đảng, toàn dân, Người đă nêu lên những việc phải làm sau khi cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi là: "Theo ư tôi, việc cần phải làm trước tiên là

chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức

làm tṛn nhiệm vụ Đảng giao phó cho ḿnh, toàn tâm toàn ư phục vụ nhân dân. Làm

được như vậy, th́ dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định

thắng lợi"1.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn

Đảng càng phải được đặc biệt chú ư, nó trở thành một quy luật tồn tại và phát triển của

Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng trên những vấn đề sau

đây:

- Đảng phải luôn luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải luôn luôn

xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc

Việt Nam.

- Đội ngũ đảng viên, cán bộ của Đảng phải là những người toàn tâm, toàn ư phục

vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phải là những người vừa có đức vừa có tài, những người

Giàu sang không thể quyến rũ. Nghèo khó không thể chuyển lay. Uy lực không thể khuất

phục. Đảng viên phải là người luôn luôn giác ngộ cách mạng, đi đầu trong mọi công tác,

"đảng viên đi trước, làng nước theo sau", "không được vác mặt quan cách mạng",

"không phải cứ dán lên trán hai chữ cộng sản là dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục"

mà phải bằng hành động thực tế gương mẫu th́ dân mới tin, mới yêu, mới kính, mới

phục. Đảng viên phải có "Đảng tính", tức là đảng viên hoạt động trong các tổ chức

chính quyền, đoàn thể phải thật sự gương mẫu để thực hiện đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước. Đảng viên phải là những người suốt đời phấn đấu hy sinh

cho sự nghiệp của Đảng, của Tổ quốc, đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết

và trước hết. Đảng viên phải có "đời tư trong sáng", tức là phải có đạo đức cách mạng,

có lối sống lành mạnh.

1. Sđd, t.12, tr. 557-558.

1. Sđd, t.12, tr. 503.

71

- Đảng ta phải luôn luôn chú ư đề pḥng và khắc phục những tiêu cực, thoái hóa,

biến chất, luôn luôn giữ ǵn Đảng trong sạch, vững mạnh.

- Đảng phải tự vươn lên đáp ứng kịp thời yêu cầu của t́nh h́nh và nhiệm vụ mới.

Muốn vậy, Đảng phải chú ư nâng cao tầm trí tuệ, tầm tư tưởng, nâng cao tŕnh độ về

mọi mặt.

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của

dân, do dân, v́ dân

1. Xây dựng Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao

động

Trong quá tŕnh đi t́m đường cứu nước, Hồ Chí Minh chú ư khảo cứu lựa chọn ra

một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải phóng dân

tộc theo con đường cách mạng vô sản thành công. Nhà nước đó phải đại biểu quyền lợi

"cho số đông người" và Hồ Chí Minh đă chủ trương xây dựng một Nhà nước công nông

binh thể hiện trong Chánh cương vắn tắt của Đảng khi thành lập Đảng đầu năm 1930.

Trải qua thực tế các cao trào cách mạng ở Việt Nam, về sau, Hồ Chí Minh chủ trương

xây dựng ở Việt Nam một nhà nước Dân chủ Cộng ḥa, một nhà nước do nhân dân lao

động làm chủ, nhà nước của dân, do dân, v́ dân. Trong bài báo Dân vận

(năm 1949), Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều

v́ dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm

của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xă đến

Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xă do dân tổ chức

nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.

Quan điểm về nhà nước của dân, do dân, v́ dân, chúng ta thấy trong di sản tư

tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:

a) Nhà nước của dân

Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà

nước và trong xă hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí

Minh đă lănh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp

năm 1959. Quan điểm trên của Người được thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Chẳng

hạn, Hiến pháp năm 1946 nêu rơ: tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân

dân Việt Nam, không phân biệt ṇi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những

việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết.

Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước th́ dẫn đến một hệ quả là nhân dân có

quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn

và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên

cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của

72

nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền băi miễn những đại biểu Quốc hội và đại

biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín

nhiệm của nhân dân.

Hồ Chí Minh đă nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có

nghĩa là xác định vị thế của dân, c̣n dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ

của dân. Trong nhà nước của dân, với ư nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân

chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của

dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của ḿnh trong hệ thống quyền lực của xă

hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ư nghĩa thực tế

nhắc nhở những người lănh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị

thế của ḿnh, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, "cậy thế" với dân,

"quên rằng dân bầu ḿnh ra là để làm việc cho dân". Một nhà nước như thế là một nhà

nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ

Cộng ḥa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng

có trong lịch sử hàng ngh́n năm của dân tộc Việt Nam bởi v́ Nhà nước đó là nhà nước

của dân, nhân dân có vai tṛ quyết định mọi công việc của đất nước.

b) Nhà nước do dân

Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính v́ vậy, Hồ Chí

Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân

hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ư

thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của ḿnh. Hồ Chí Minh khẳng định: việc

nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần".

Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.

c) Nhà nước v́ dân

Nhà nước v́ dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục

tiêu, tất cả đều v́ lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác.

Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh

thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại

quyền lợi cho dân; việc ǵ có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc ǵ có hại cho

dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm:

phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm

cho dân được học hành. Cả cuộc đời Người "chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền

lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân". Hồ Chí Minh viết: "khi tôi phải ẩn nấp nơi

núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là v́ mục đích đó. Đến

lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính

phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng v́ mục đích đó"1. Một Nhà nước v́

dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến công chức b́nh thường

1. Sđd, t.4, tr. 240.

73

đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải "làm quan cách mạng"

để "đè đầu cưỡi cổ nhân dân" như dưới thời đế quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ

tịch nước của ḿnh, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy

phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói: "Tôi tuyệt

nhiên không ham muốn công danh phú quư chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch

là v́ đồng bào ủy thác th́ tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh

lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, th́ tôi rất vui ḷng

lui... Riêng phần tôi th́ làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá,

trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu ǵ

với ṿng danh lợi"1.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp

công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước

a) Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng

ḥa

Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu

tranh giai cấp xuất hiện, do đó, nhà nước là sản phẩm của một xă hội có giai cấp, nó bao

giờ cũng mang bản chất một giai cấp nhất định, không có một nhà nước nào là phi giai

cấp, không có nhà nước đứng trên giai cấp. Như vậy không phải lịch sử nhân loại xuất

hiện là có nhà nước ngay và nhà nước không phải tồn tại măi măi. Trong tư tưởng Hồ

Chí Minh, Nhà nước ta được coi là Nhà nước của dân, do dân, v́ dân nhưng bản chất

giai cấp của Nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân. V́:

Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lănh đạo. Điều này được thể hiện:

- Đảng Cộng sản Việt Nam lănh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất

giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là một vấn

đề rất cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: Nhà

nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai

cấp công nhân lănh đạo. Trong quan điểm cơ bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân

lao động làm chủ, một nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng răi, Hồ Chí Minh vẫn

nhấn mạnh ṇng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp

nông dân và trí thức do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản

Việt Nam lănh đạo.

- Đảng lănh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương thức

lănh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lănh đạo cho phù hợp với từng thời

kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước, đất nước ta phải vừa tiến hành

kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, vừa lănh đạo nhân

dân xây dựng chế độ mới. Do đó, phương thức lănh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta

1. Sđd, t. 4, tr. 161.

74

thời kỳ đó không giống với những thời kỳ sau này. Song, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn

có những vấn đề cơ bản về phương thức lănh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ. Đó

là:

* Đảng lănh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa

thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.

* Đảng lănh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của

ḿnh trong bộ máy, cơ quan nhà nước.

* Đảng lănh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.

Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xă hội chủ

nghĩa của sự phát triển của đất nước. Điều này đă được thể hiện ngay từ khi nước Việt

Nam Dân chủ Cộng ḥa mới ra đời ngày 2-9-1945 trong bản Tuyên ngôn độc lập của

Hồ Chí Minh.

Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức

và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ư

đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn

mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung. Nhà nước

phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân.

b) Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân

tộc

Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn đề giai

cấp - dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới. Hồ Chí Minh đă giải quyết hài

ḥa, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc và được biểu hiện

rơ trong những quan điểm sau:

- Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều

thế hệ người Việt Nam từ quá tŕnh dựng nước và giữ nước hàng ngh́n năm của dân

tộc. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối

cách mạng. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu

biểu là các cuộc khởi nghĩa dưới sự lănh đạo của các nhà cách mạng tiền bối rất oanh

liệt tô thắm cho truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc nhưng độc lập, tự

do cho dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực. Từ ngày 3-2-1930 Đảng ta ra đời th́ sự lớn

mạnh của giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam đă

vượt qua được tất cả các hạn chế và đă lănh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám

1945 đấu tranh giành chính quyền, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông

Nam châu á.

- Tính thống nhất của nó c̣n biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân

dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh

khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn

75

dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ư chí của giai cấp công nhân mà c̣n

thể hiện ư chí của nhân dân và của toàn dân tộc.

- Trong thực tế, Nhà nước ta đă đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó,

đă lănh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của

Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam ḥa b́nh, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu

mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên

chủ nghĩa xă hội rồi đi tới chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta

đă xác định cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước ta.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước có hiệu lực pháp lư

mạnh mẽ

Hồ Chí Minh đă sớm thấy được tầm quan trọng của pháp luật trong quản lư xă

hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Người kư tên là

Nguyễn ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây (Pháp) năm 1919. Sau này, khi trở thành

người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc hơn việc

xây dựng và điều hành nhà nước một cách có hiệu quả bằng pháp quyền. Một nhà nước

có hiệu lực pháp lư mạnh mẽ được Hồ Chí Minh chú ư xây dựng thể hiện trên những

điểm sau đây:

a) Xây dựng một Nhà nước hợp hiến

Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của

Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đă đề nghị tổ chức tổng tuyển cử càng sớm càng tốt

để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính thức khác của

Nhà nước mới.

Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6-1-1946 với chế độ phổ thông đầu

phiếu và lần đầu tiên trong lịch sử hàng ngh́n năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần

đầu tiên ở Đông Nam châu á, tất cả mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt

nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo... đều đi bỏ phiếu bầu những đại biểu

của ḿnh vào trong Quốc hội. Ngày 2 - 3 - 1946, Quốc hội Khóa I đă họp Phiên đầu tiên

lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được

bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ có đầy đủ giá trị

pháp lư để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta.

b) Quản lư nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào

trong cuộc sống

Quản lư nhà nước là quản lư bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhau

nhưng quan trọng nhất là quản lư bằng hệ thống luật, trong đó quan trọng bậc nhất là

Hiến pháp - đạo luật cơ bản của nước nhà. Các bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp

năm 1959 đă để lại dấu ấn đậm nét những quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất,

thiết chế và hoạt động của Nhà nước mới. Từ năm 1919, Hồ Chí Minh đă đề cập vấn đề

76

"thần linh pháp quyền" trong đời sống xă hội hiện đại. Có Hiến pháp và pháp luật

nhưng không đưa được vào trong cuộc sống th́ xă hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích

thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi Hiến pháp

và pháp luật. Suốt cả thời kỳ giữ trọng trách Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn luôn

chăm lo xây dựng một nền pháp chế xă hội chủ nghĩa để bảo đảm quyền làm chủ thật sự

của nhân dân. Chính bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về sống và làm việc

theo Hiến pháp và pháp luật. Người tự giác khép ḿnh vào kỷ luật, vào việc gương mẫu

chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo pháp luật đă trở thành nền nếp,

thành thói quen, thành lối ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh.

"Thần linh pháp quyền" là sức mạnh do con người và v́ con người. Do vậy, Hồ

Chí Minh bao giờ cũng đ̣i hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật,

bất kể người đó giữ cương vị nào. Người cho rằng công tác giáo dục pháp luật cho mọi

người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một nhà

nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc

sống. Trong việc thực thi pháp luật, có quan hệ rất lớn tới tŕnh độ dân trí của nhân dân,

v́ vậy, Hồ Chí Minh chú trọng tới vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính

trị của nhân dân, làm cho nhân dân có ư thức chính trị trong việc tham gia công việc của

chính quyền các cấp. Làm tốt nghĩa vụ công dân cũng tức là thực hiện nghĩa vụ của

ḿnh đối với Nhà nước, biết thực hành dân chủ.

c) Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước đủ đức

và tài

Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nói một cách tổng quát nhất về

yêu cầu đối với đội ngũ này là vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này

phải được tổ chức hợp lư, có hiệu quả.

Đi vào những mặt cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu sau

đây về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức:

Một là: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối

với đội ngũ này. Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xă

hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh ḷng trung thành đó phải

được thể hiện hàng ngày, hàng giờ, trong mọi lĩnh vực công tác.

Hai là: Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Chỉ với ḷng

nhiệt t́nh không thôi th́ chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà không xây

được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là đội ngũ này phải hiểu biết công việc của

ḿnh, biết quản lư Nhà nước, do vậy, phải được đào tạo và tự ḿnh phải luôn luôn học

hỏi. Hồ Chí Minh là người mạnh dạn sử dụng những công chức của chế độ cũ phục vụ

cho chính quyền cách mạng và nhiều người trong số họ đă trở thành những người có

công lớn đối với chế độ mới, đồng thời Người chú trọng đào tạo, bồi dưỡng những cán

77

bộ, công chức mới. Hồ Chí Minh đă kư nhiều sắc lệnh về công chức, trong đó có những

quy định cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ tư pháp. Ngay trong thời kỳ chống thực dân Pháp

xâm lược, Hồ Chí Minh đă kư Sắc lệnh số 76 ban hành Quy chế công chức nêu rơ công

chức là người giữ một nhiệm vụ cụ thể trong bộ máy nhà nước dưới sự lănh đạo tối cao

của Chính phủ. Sắc lệnh cũng nêu lên cách thức và nội dung thi tuyển để bổ nhiệm vào

các ngạch, bậc hành chính trong bộ máy chính quyền.

Ba là: Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ

trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội ngũ cán bộ, công chức với nhân dân.

Đội ngũ cán bộ, công chức là những người ăn lương từ nguồn ngân sách của Nhà nước

mà nguồn ngân sách này do dân đóng góp. Chính v́ vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi

cán bộ, công chức không được lăng phí của công; phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn

luôn nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân ḿnh cho Tổ quốc,

lấy phục vụ cho quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của

ḿnh. Đặc biệt, phải chống bệnh tham ô, lăng phí, quan liêu, phải luôn luôn gần dân,

hiểu dân và v́ dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền...đối với

nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất Nhà nước

ta.

Bốn là: Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán,

dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những t́nh huống khó khăn, "thắng không kiêu, bại

không nản". Đó là những người có ư thức sẵn sàng làm "công bộc", làm "đày tớ" cho

dân, những người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm việc với tinh thần đầy

sáng tạo. Hồ Chí Minh đ̣i hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện

đạo đức cách mạng, luôn luôn "có chí tiến thủ", luôn luôn học tập để nâng cao tŕnh độ

về mọi mặt, học ở trường, học ở trong cuộc sống, trong công tác, học ở thầy, học ở bạn;

phải thường xuyên tự phê b́nh và phê b́nh.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch vững

mạnh, hoạt động có hiệu quả

a) Đề pḥng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà

nước

Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, v́ dân không bao giờ tách rời với việc

làm cho Nhà nước luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này luôn luôn thường trực

trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà vừa giành được độc lập,

chính quyền cách mạng c̣n non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, Hồ Chí

Minh càng chú ư hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm cho sự trong sạch, vững mạnh của

các cấp chính quyền, bởi v́ thường những lúc đó cách mạng đứng trước những thử

thách rất gay gắt. Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa,

Hồ Chí Minh gửi thư cho ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rơ sáu căn

bệnh cần đề pḥng: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc

78

nhở: "Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đă nhận biết sai lầm th́ phải ra sức sửa chữa.

Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, th́ nên chú ư tránh đi, và gắng sức cho

thêm tiến bộ. Ai đă phạm những lầm lỗi trên này, th́ phải hết sức sửa chữa; nếu không

tự sửa chữa th́ Chính phủ sẽ không khoan dung. V́ hạnh phúc của dân tộc, v́ lợi ích

của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ "công b́nh, chính trực"

vào ḷng"1. Trong quá tŕnh lănh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa,

Hồ Chí Minh thường đề cập đến những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề

pḥng và khắc phục:

- Đặc quyền, đặc lợi. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đ̣i hỏi phải tẩy

trừ những thói cậy ḿnh là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch

với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá

nhân ḿnh, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.

- Tham ô, lăng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ô, lăng phí, quan liêu là

"giặc nội xâm", "giặc ở trong ḷng", thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê

b́nh những người "lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức". Quan

điểm của Hồ Chí Minh là: "Tham ô, lăng phí và bệnh quan liêu, dù cố ư hay không,

cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến...Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi

Việt gian, mật thám"2. Ngày 27-11-1946, Hồ Chí Minh đă kư Sắc lệnh ấn định h́nh phạt

tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi

số tiền nhận hối lộ. Ngày 26-1-1946, Hồ Chí Minh kư lệnh nói rơ tội tham ô, trộm cắp

của công là tội tử h́nh. Lăng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt và

chính bản thân Người là tấm gương sáng trong việc tích cực thực hành chống lăng phí

trong cuộc sống hàng ngày và trong công việc, v́ Người biết quư từng đồng xu, bát gạo

do dân đóng góp cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Lăng phí ở đây được Hồ Chí

Minh xác định là lăng phí sức lao động, lăng phí thời giờ, lăng phí tiền của. Liên quan

đến bệnh tham ô, bệnh lăng phí là bệnh quan liêu, một căn bệnh không những có ở cấp

Trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện mà c̣n có ở cả cấp cơ sở. Hồ Chí Minh phê b́nh

những người và các cơ quan lănh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực

tế, không theo dơi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc th́

trọng h́nh thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai

hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn... thành

thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ

đúng, có kỷ luật mà không nắm vững...Thế là bệnh quan liêu đă ấp ủ, dung túng, che

chở cho nạn tham ô, lăng phí. V́ vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lăng phí th́ trước mắt

phải tẩy sạch bệnh quan liêu.

- "Tư túng", "chia rẽ", "kiêu ngạo". Những hành động này gây mất đoàn kết, gây

1. Sđd, t.4, tr. 58.

2.Sđd, t.6, tr. 490.

79

rối cho công tác. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu

ḿnh, không tài năng ǵ cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng

không vừa ḷng ḿnh th́ đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc

riêng ǵ ḍng họ của ai. Trong chính quyền, c̣n chia rẽ, không biết cách làm cho mọi

người ḥa thuận với nhau, c̣n có người "bênh vực lớp này, chống lại lớp khác". Ngoài

cậy thế, có người c̣n kiêu ngạo, "tưởng ḿnh ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh

rồi...Cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng", làm mất uy tín của Chính phủ.

b) Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách

mạng

Hồ Chí Minh đă kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lư xă hội bằng pháp

luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam

được h́nh thành qua hàng ngh́n năm lịch sử. Trong việc thực thi quyền hạn và trách

nhiệm của ḿnh với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là

một người sáng suốt, thống nhất hài ḥa giữa lư trí và t́nh cảm, nghiêm khắc, bao dung,

nhân ái nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Kỷ cương,

phép nước thời nào cũng cần và đều phải được áp dụng cho bất cứ ai. Do đó, Hồ Chí

Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị

nào, làm nghề nghiệp ǵ. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín của ḿnh để

cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những người mắc

khuyết điểm để họ tránh phạm pháp. Dưới ngọn cờ đại nghĩa, bao dung của Hồ Chí

Minh, nhiều người vốn rất mặc cảm với cách mạng đă không "sẩy chân" phạm pháp

hoặc không đi theo kẻ địch.

III. Xây dựng đảng vững mạnh, xây dựng nhà nước

ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới theo

tư tưởng Hồ Chí Minh

1. Chú trọng hơn nữa xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ

chức

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng Đảng về chính trị trước hết

đ̣i hỏi Đảng ta phải đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, đồng thời tổ chức thực

hiện thắng lợi đường lối đó ở tất cả các cấp, các ngành. Một trong những nguy cơ lớn

nhất đối với Đảng Cộng sản là sai lầm về đường lối. ở đây, sai một ly, đi một dặm. Cần

chống nguy cơ chệch hướng xă hội chủ nghĩa không chỉ ở đường lối mà ngay cả trong

quá tŕnh thực hiện đường lối đó.

Đường lối của Đảng phải được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở từng thời kỳ. Đường lối

ấy phải dựa vào thực tế, có khả năng thực thi, đáp ứng được đ̣i hỏi của sự phát triển

của đất nước. Trong quá tŕnh thực hiện đường lối, Đảng phải tổng kết thực tiễn, nắm

80

bắt xu thế của thời đại, nắm được sự biến động của t́nh h́nh trong nước và quốc tế để

kịp thời bổ sung, phát triển đường lối. Sự kiên định mục tiêu xă hội chủ nghĩa là một

thước đo quan trọng nhất tính đúng đắn của đường lối, đồng thời, trong bối cảnh toàn

cầu hóa phải tính đến những đặc điểm mới để đưa ra những quyết sách mới nhằm thúc

đẩy sự phát triển nhanh và bền vững, biến đất nước ta về cơ bản trở thành một nước

công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về tư tưởng đ̣i hỏi

phải giáo dục, rèn luyện đảng viên kiên định lập trường tư tưởng, kiên định con đường

độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội, không hoang mang, dao động trước mọi

diễn biến phức tạp, luôn luôn đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đă lựa chọn. Hồ Chí

Minh luôn luôn mong muốn Đảng ta trở thành một khối thống nhất về tư tưởng và hành

động. Hiện nay, đất nước đang đứng trước thử thách nghiệt ngă. Chúng ta đă rửa được

nỗi nhục mất nước. Hiện nay, nỗi nhục nghèo nàn và lạc hậu cũng đang là vấn đề bức

xúc cần được giải quyết. Trong cuộc chiến đấu gian khổ chống lại những ǵ cũ kỹ, hư

hỏng, chống lại nghèo nàn và lạc hậu, th́ sự nhất trí về tư tưởng để đi đến nhất trí trong

hành động càng có ư nghĩa quyết định. Ḷng tin vào Đảng, vào chế độ xă hội chủ nghĩa

là thước đo lớn nhất đối với việc xây dựng Đảng về tư tưởng.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng Đảng về tổ chức đ̣i hỏi Đảng

ta phải luôn luôn chú trọng kiện toàn các tổ chức của ḿnh, làm cho Đảng có sức mạnh

vô địch. Đảng mạnh là do tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, đến chi bộ mạnh.

Các tổ chức đảng luôn luôn phải trong sạch, vững mạnh. Cán bộ, đảng viên luôn luôn

trau dồi đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh, chống chủ nghĩa cá nhân, chống

tham nhũng và các tiêu cực khác. Những điều căn dặn của Hồ Chí Minh trong Di chúc

khi nói về Đảng vẫn c̣n có giá trị lớn trong công tác xây dựng Đảng thời kỳ đổi mới

hiện nay.

2. Xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách

mạng mới

a) Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân

Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu

xây dựng Nhà nước của dân, do dân, v́ dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư

tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước đ̣i hỏi phải chú trọng bảo đảm và phát huy

quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xă hội. Trong

vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xă hội chủ nghĩa có ư

nghĩa quan trọng. Chính v́ vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa

bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào trong cuộc sống. Cần chú

ư đến việc bảo đảm cho mọi người được b́nh đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm

minh mọi hành động vi phạm pháp luật, bất kể sự vi phạm đó do tập thể hoặc cá nhân

nào gây ra. Có như vậy dân mới tin và mới bảo đảm được tính chất nhân dân của Nhà

81

nước ta.

Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngoài vấn đề thực thi nghiêm

chỉnh pháp luật, c̣n cần chú ư tới thực hiện những quy tắc dân chủ trong các cộng đồng

dân cư, tùy theo điều kiện của từng vùng, miễn là các quy tắc đó không trái với những

quy định của pháp luật. Theo đó, cần thực hiện tốt các Quy chế dân chủ ở cơ sở đă được

Chính phủ ban hành.

b) Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực này đ̣i hỏi phải chú trọng cải cách

và xây dựng, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành chính dân

chủ, trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, phải đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng

dân chủ, trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực và có hiệu quả đối với nhân dân. Kiên

quyết khắc phục quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu, tham nhũng,

bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức sa sút

phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực thực hành nhiệm vụ công chức kém cỏi.

Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay c̣n cần chú ư cải cách

các thủ tục hành chính; đề cao trách nhiệm trong việc giải quyết các khiếu kiện của

công dân theo đúng những quy định của pháp luật; tiêu chuẩn hóa cũng như sắp xếp lại

đội ngũ công chức, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, tinh

thông chuyên môn, nghiệp vụ. Nguồn lực đội ngũ công chức yếu th́ không thể nói đến

một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, v́ dân mạnh được. Do vậy, công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức phải được đặt lên hàng đầu và phải được tiến hành thường

xuyên, bảo đảm chất lượng. Theo đó, hệ thống các trường trong cả nước, nhất là các

trường đại học, cao đẳng, các trường dạy nghề, đặc biệt là các trường đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ chuyên ngành tư pháp phải được đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo.

c) Tăng cường hơn nữa sự lănh đạo của Đảng đối với Nhà nước

Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng tất yếu gắn liền với tăng cường sự lănh đạo

của Đảng đối với Nhà nước. Đây là trách nhiệm cực kỳ quan trọng của Đảng với tư

cách là Đảng cầm quyền. Trong giai đoạn hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh

vào việc tăng cường sự lănh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở những nội dung

như: lănh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm sự lănh

đạo của Đảng và phát huy vai tṛ quản lư của Nhà nước; đổi mới phương thức lănh đạo

của Đảng đối với Nhà nước: lănh đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng

trong các cơ quan Nhà nước, bằng vai tṛ tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên

hoạt động trong bộ máy nhà nước, bằng công tác kiểm tra, Đảng không làm thay công

việc quản lư của Nhà nước. Đảng thống nhất lănh đạo công tác cán bộ trong hệ thống

chính trị trên cơ sở bảo đảm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước theo luật

định. Bản chất, tính chất của Nhà nước ta gắn liền với vai tṛ, trách nhiệm của Đảng

cầm quyền, do đó, đến lượt Đảng, một tiền đề tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững

82

mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là yếu tố quyết định cho thành công của việc

xây dựng Nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa của dân, do dân, v́ dân theo tư tưởng

Hồ Chí Minh.

83

Chương VI

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, nhân

văn, văn hóa

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

1. Quan điểm về vai tṛ của đạo đức cách mạng

Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng xă hội chủ

nghĩa - cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, toàn diện nhất, chúng ta phải đem hết

tinh thần và lực lượng ra phấn đấu; phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách

mạng cho cán bộ, đảng viên. Một trong những bài giảng đầu tiên cho lớp thanh niên trí

thức yêu nước đầu tiên của Việt Nam từ những năm 1920 là bài giảng về "tư cách của

một người cách mạng". Đến khi viết Di chúc, Người vẫn dành một phần trang trọng để

bàn về vấn đề đạo đức, yêu cầu mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo

đức cách mạng, Đảng phải quan tâm chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn

viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xă hội

vừa "hồng" vừa "chuyên".

Hồ Chí Minh xem xét đạo đức trên cả hai phương diện lư luận và thực tiễn. Về

mặt lư luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về

đạo đức. Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là một mặt không thể thiếu

của cán bộ, đảng viên. Cũng như V.I. Lênin, Hồ Chí Minh đào tạo các chiến sĩ cách mạng

không chỉ bằng chiến lược, sách lược mà c̣n bằng chính tấm gương đạo đức trong sáng

của ḿnh.

Khi đánh giá vai tṛ của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng

của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người

viết: "Cũng như sông th́ có nguồn mới có nước, không có nguồn th́ sông cạn. Cây phải

có gốc, không có gốc th́ cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức

th́ dù tài giỏi mấy cũng không lănh đạo được nhân dân. V́ muốn giải phóng cho dân

tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự ḿnh không có đạo đức,

không có căn bản, tự ḿnh đă hủ hóa, xấu xa th́ c̣n làm nổi việc ǵ"1. Người so sánh:

1. Sđd, t. 5, tr. 252 - 253.

84

"Làm cách mạng để cải tạo xă hội cũ thành xă hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang,

nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài,

gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có

đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang"2.

Đạo đức là gốc, là nền tảng v́ liên quan tới Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh trăn

trở với nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là sự sai lầm về đường lối và suy thoái về đạo

đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền, lănh đạo toàn xă hội, lănh đạo

Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng không tu dưỡng về đạo đức cách mạng th́

mặt trái của quyền lực có thể làm tha hóa con người. V́ vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu

Đảng phải "là đạo đức, là văn minh". Người thường nhắc lại ư của Lênin: Đảng Cộng

sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Người nói,

cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân yêu, dân phục th́ không phải "viết lên trán chữ

cộng sản là được quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quư mến những người có tư

cách đạo đức".

Vai tṛ của đạo đức cách mạng c̣n thể hiện ở chỗ đó là thước đo ḷng cao thượng

của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi người có công việc, tài năng, vị

trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách

mạng đều là người cao thượng.

Là một h́nh thái ư thức xă hội, đạo đức không phải một chiều phụ thuộc vào tồn

tại xă hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả năng tác động tích cực trở

lại, cải biến tồn tại xă hội. Giá trị đạo đức tinh thần một khi được con người tiếp nhận sẽ

biến thành một sức mạnh vật chất.

Có đạo đức cách mạng th́ khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không lùi

bước, chán nản...; khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần khiêm tốn, "lo

trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần,

không quan liêu, không kiêu ngạo, v.v..

Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, nhưng phải nhận thức đức và tài có mối

quan hệ mật thiết với nhau. Có đức phải có tài, nếu không sẽ không mang lại lợi ích ǵ

mà c̣n có hại cho dân. Mặt khác, phải thấy trong đức có tài. Tài càng lớn th́ đức phải

càng cao, v́ đức - tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa cách mạng đến thắng lợi.

2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong

thời đại mới

a) Trung với nước, hiếu với dân

"Trung" và "hiếu" vốn là những khái niệm đạo đức cũ chứa đựng nội dung hạn

hẹp: "Trung với vua, hiếu với cha mẹ", phản ánh bổn phận, trách nhiệm của dân đối với

2. Sđd, t. 9, tr. 283.

85

vua, con đối với cha mẹ.

Hồ Chí Minh đưa vào khái niệm cũ một nội dung mới, mang tính cách mạng, đó

là trung với nước, hiếu với dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ư nghĩa quan trọng hàng

đầu.

Từ chỗ trung với vua, hiếu với cha mẹ đến trung với nước, hiếu với dân là một

cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức. Hồ Chí Minh đă lật ngược quan niệm đạo

đức cũ, đạo đức Nho giáo, xây dựng đạo đức mới "như người hai chân đứng vững được

dưới đất, đầu ngửng lên trời".

Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nước là nước của dân và dân là người chủ của

nước. V́ vậy, "trung với nước, hiếu với dân" là thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng

nước và giữ nước, với con đường đi lên và phát triển của đất nước.

Nội dung chủ yếu của trung với nước là:

- Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xă hội, phải biết đặt lợi ích

của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết.

- Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.

- Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Nội dung chủ yếu của hiếu với dân là:

- Khẳng định vai tṛ sức mạnh thực sự của nhân dân.

- Tin dân, học dân, lắng nghe ư kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức,

vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước.

- Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

b) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức cũ, được Hồ

Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Người chỉ ra

rằng: phong kiến nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không thực hiện; ngày nay, ta đề

ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho

nước, cho dân. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một biểu hiện sinh động của

phẩm chất "trung với nước hiếu với dân".

Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm vật tư, tiền

bạc, của cải, thời gian, không xa xỉ, không hoang phí. Liêm là trong sạch, không tham

lam tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Các đức

tính đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần mà không kiệm giống như một chiếc

thùng không đáy. Kiệm mà không cần th́ lấy ǵ mà kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của

chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh.

86

Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:

"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính

Thiếu một mùa, th́ không thành trời

Thiếu một phương, th́ không thành đất.

Thiếu một đức, th́ không thành người"1

Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên. Bởi v́, nếu cán

bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm th́ sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung của cách

mạng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Mặt khác, những người trong các công sở đều có

nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính th́ dễ trở nên hủ

bại, biến thành sâu mọt của dân.

Cần, kiệm, liêm, chính c̣n là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh

thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời

sống mới, nền tảng của thi đua yêu nước; là cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ,

để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại.

Chí công vô tư là không nghĩ đến ḿnh trước, chỉ biết v́ Đảng, v́ Tổ quốc, v́ đồng

bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành chí

công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo

đức cách mạng.

Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn "mọi người v́ ḿnh" mà

không biết "ḿnh v́ mọi người". Nó là một thứ giặc nội xâm, c̣n nguy hiểm hơn cả

giặc ngoại xâm. Nó là bạn đồng minh của chủ nghĩa đế quốc và thói quen truyền thống

lạc hậu. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy

hiểm, như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lăng phí, xa hoa, tham danh

trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần

chúng, độc đoán chuyên quyền... Tóm lại, "chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản c̣n

ẩn nấp trong ḿnh mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng

lợi - để ngóc đầu dậy". Chủ nghĩa cá nhân là mối nguy hại cho cá nhân con người, cho

một đảng và cả dân tộc. Hồ Chí Minh viết: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người,

ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn

được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu ḷng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ

nghĩa cá nhân"1. Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xă

hội. V́ vậy thắng lợi của chủ nghĩa xă hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu

tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.

1. Sđd, t.5, tr. 631.

1. Sđd, t.12, tr. 557-558.

87

Tuy nhiên, cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân, đâu là lợi ích cá

nhân. Hồ Chí Minh cho rằng: đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo

lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của

bản thân và của gia đ́nh ḿnh. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của

tập thể th́ không phải là xấu. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chỉ ở trong chế độ xă

hội chủ nghĩa th́ mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống của riêng ḿnh, phát

huy tính cách riêng và sở trường riêng của ḿnh.

c) Thương yêu con người

Xuất phát từ nguyên lư của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là từ thực tiễn đấu

tranh cách mạng của các dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng, trên đời này có nhiều người,

nhiều công việc, nhưng có thể chia thành hai hạng người: người thiện và người ác, và

hai thứ việc: việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người

ác. Từ đó, Người kết luận: những người bị áp bức, bị bóc lột, những người làm điều

thiện th́ dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo có khác nhau, vẫn có thể thực hành

chữ "bác ái", vẫn có thể đại đoàn kết, đại ḥa hợp, coi nhau như anh em một nhà.

T́nh thương yêu con người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng kiểu

tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản,

dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ.

Hồ Chí Minh thương yêu con người với một t́nh cảm sâu sắc, vừa bao la rộng

lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh luôn sống

giữa cuộc đời và không có cái ǵ thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ.

Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, ở,

học hành, giải trí của mỗi người dân, không quên, không sót một ai, từ những người bạn

thuở hàn vi, đến những người quen mới. T́nh thương yêu con người ở Hồ Chí Minh

luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu v́ độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc

cho con người.

d) Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, ḥa quyện giữa chủ nghĩa yêu nước chân

chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức cộng

sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và của xă hội

xă hội chủ nghĩa.

Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rộng lớn và sâu sắc. Đó

là sự tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù,

bất b́nh đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Người khẳng định: bốn phương vô sản

đều là anh em; giúp bạn là giúp ḿnh; thắng lợi của ḿnh cũng là thắng lợi của nhân dân

thế giới. Người đă góp phần to lớn, có hiệu quả xây đắp t́nh đoàn kết quốc tế, tạo ra

88

một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, kiến tạo một nền văn hóa ḥa

b́nh trên thế giới.

3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới

Nói tới tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức phải chú ư tới con đường và phương

pháp h́nh thành đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đặc điểm và quy luật h́nh thành tư

tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho thấy một số nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức mới

sau đây:

a) Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức

Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng tuyệt vời về nói đi đôi với làm. Người quan

tâm đặc biệt, hàng đầu tới vấn đề đạo đức. Người để lại nhiều bài viết, bài nói về đạo

đức và quan trọng hơn là Người thực hiện trước hết, nhiều nhất những tư tưởng ấy.

Ngay trong quá tŕnh chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản, bàn về tư cách một người

cách mệnh, Hồ Chí Minh đă chỉ rơ "nói th́ phải làm". Người c̣n làm nhiều hơn

những điều Người nói, kể cả việc làm mà không nói. Mỗi việc làm, mỗi hành vi của

Người đều tiềm ẩn những tư tưởng đạo đức sáng ngời. Đây là một bài học quư giá cho

mỗi chúng ta muốn t́m hiểu những tầng sâu bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh về

đạo đức th́ không chỉ dừng lại ở những bài viết, bài nói, mà phải khám phá những

hành vi đạo đức của Người, nghiên cứu những bài nói, bài viết của bạn bè quốc tế,

những học tṛ của Người.

Tại sao nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức?

Đạo đức cách mạng là đạo đức luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường

của giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích của cách mạng. Điều này phân biệt một cách

rạch ṛi với thói đạo đức giả, đạo đức của giai cấp bóc lột với những đặc trưng bản chất

là nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, nói một đằng, làm một nẻo, đem lại lợi ích

không phải cho quần chúng nhân dân lao động, mà cho thiểu số những kẻ bóc lột.

Nói đi đôi với làm c̣n nhằm chống thói đạo đức giả. Sáu mươi năm qua, từ khi

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, nơi này, nơi khác, trên những

mức độ khác nhau ở cán bộ, đảng viên ta vẫn c̣n tồn tại hiện tượng nói không đi đôi

với làm. Điều này sẽ dẫn tới nguy cơ làm mất ḷng tin của dân đối với Đảng và chế độ

mới. Ngay từ tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh đă nói tới những kẻ "vác mặt làm quan

cách mạng". Sau này, trong nhiều lần bàn tới việc cần tẩy sạch bệnh quan liêu, mệnh

lệnh, Người chỉ rơ: "Miệng th́ nói dân chủ, nhưng làm việc th́ họ theo lối "quan" chủ.

Miệng th́ nói "phụng sự quần chúng", nhưng họ làm trái ngược với lợi ích quần chúng,

trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ"1.

Nêu gương đạo đức, nói đi đôi với làm là một nét đẹp của văn hóa phương Đông.

1. Sđd, t.6, tr. 292-293.

89

Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "Nói chung th́ các dân tộc phương Đông đều giàu t́nh cảm,

và đối với họ một tấm gương sống c̣n có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền"2.

Noi theo tấm gương của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh cũng đào tạo các thế hệ cách mạng

người Việt Nam không chỉ bằng lư luận cách mạng, mà bằng chính tấm gương đạo đức

cao cả.

Theo Hồ Chí Minh hơn bất kỳ một lĩnh vực nào khác, trong lĩnh vực đạo đức đặc

biệt phải chú trọng "đạo làm gương". Làm gương có nhiều cấp độ, phạm vi và hệ quy

chiếu khác nhau. ở đâu cũng có người tốt, việc tốt. Giai đoạn cách mạng nào cũng cần

có nhiều tấm gương. Tùy theo nhiệm vụ và t́nh h́nh cụ thể mà tấm gương đó được biểu

hiện ở những mặt nào, trong chiến đấu, lao động, học tập, cuộc sống đời thường trong

gia đ́nh, ngoài xă hội... Việc bồi dưỡng, nêu gương "người tốt, việc tốt" là rất quan

trọng và cần thiết, không được xem thường. Nhiều giọt nước hợp lại mới thành suối,

thành sông, thành biển cả. Không nhận thức được điều đó là "chỉ thấy ngọn mà quên

mất gốc". Xây dựng đạo đức mới, nêu gương đạo đức phải rất chú trọng tính chất phổ

biến, rộng khắp, vững chắc của toàn xă hội và những hạt nhân "người tốt, việc tốt" tiêu

biểu.

b) Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng

răi

Làm cách mạng là quá tŕnh kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Xây dựng đạo

đức mới lại càng phải quan tâm điều này. Bởi v́ trong Đảng và mỗi con người, v́ những

lư do khác nhau, nên không phải "người người đều tốt, việc việc đều hay". "Mỗi con

người đều có cái thiện và ác ở trong ḷng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con

người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách

mạng"1. Mặt khác, con đường tiến lên chủ nghĩa xă hội là cuộc đấu tranh lâu dài, gian

khổ, cuộc chiến đấu khổng lồ. Trong cuộc chiến đấu đó, có nhiều kẻ địch nhưng thường

có ba loại: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm; thói quen và

truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ; loại

địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản c̣n ẩn nấp trong ḿnh mỗi người

chúng ta; nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy; nó là bạn

đồng minh của hai kẻ địch kia.

Nhận thức như vậy để thấy rằng "đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh

nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng

chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. Có như thế mới thắng

được địch và thực hiện được nhiệm vụ cách mạng"2. Đối với từng người, Hồ Chí Minh

yêu cầu trước hết phải đánh thắng ḷng tà là kẻ thù trong ḿnh, không hiếu danh, không

kiêu ngạo, ít ḷng tham muốn về vật chất, vị công vong tư...

2.Sđd, t.1, tr. 263.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr. 558.

2. Sđd, t.9, tr. 287.

90

Chống và xử lư nghiêm là nhằm xây, đi liền với xây và muốn xây th́ phải chống.

Mục đích cuối cùng là xây dựng con người có đạo đức và nền đạo đức mới Việt Nam.

V́ vậy, phải xác định đây là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài.

Xây là giáo dục những phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng cho con người

Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tất nhiên, giáo dục đạo đức

phải phù hợp với lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác

nhau. Đồng thời, phải chú ư tới hoàn cảnh, nhiệm vụ từng giai đoạn cách mạng. Xa rời

thực tiễn và khư khư giữ lấy những nội dung cũ khi thực tiễn đă vượt qua đều không

phù hợp với quan điểm xây dựng đạo đức của Hồ Chí Minh.

Xây dựng đạo đức có nhiều cách làm. Trước hết mỗi người và tổ chức phải có ư

thức tự giác trau dồi đạo đức cách mạng. Bản thân sự tự giác cũng là phẩm chất đạo đức

quư đối với từng người và tổ chức. Điều này càng cần thiết và có ư nghĩa to lớn đối với

Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Bởi v́: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của ḿnh

là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của ḿnh, vạch rơ những

cái đó, v́ đâu mà có khuyết điểm đó, xét rơ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi t́m

mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc

chắn, chân chính"1.

Xây đi đôi với chống trên cơ sở tự giáo dục, đồng thời phải tạo thành phong trào

quần chúng rộng răi. Điều này thuộc quy luật của cách mạng xă hội chủ nghĩa. Bởi v́

chủ nghĩa xă hội là công tŕnh tập thể của quần chúng nhân dân tự xây dựng dưới sự lănh

đạo của Đảng. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh cũng viết rơ điều này: Để chống lại những

ǵ đă cũ kỹ, hư hỏng và tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi, cần phải động viên toàn dân,

tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Trong quá tŕnh lănh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đă luôn phát động phong trào

quần chúng rộng răi và đem lại những hiệu quả thiết thực. Đó là phong trào thi đua tăng

gia sản xuất thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lăng phí, quan liêu; cuộc vận động "3

xây, 3 chống": nâng cao ư thức trách nhiệm, tăng cường quản lư kinh tế - tài chính, cải

tiến kỹ thuật, chống tham ô, lăng phí, quan liêu.

c) Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời

Tu dưỡng đạo đức là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc và văn hóa phương

Đông. Hồ Chí Minh đă nói về ưu điểm của Khổng Tử là "vấn đề tu dưỡng đạo đức cá

nhân". Quan điểm của Khổng Tử là "chính tâm, tu thân". Có "tu thân" mới làm được

những việc lớn khác như "trị quốc, b́nh thiên hạ". Hồ Chí Minh nói: "Chúng ta phải

nhớ câu "Chính tâm, tu thân" để "trị quốc b́nh thiên hạ". Chính tâm tu thân tức là cải

tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ, v́ đó là một cuộc cách mạng trong bản thân

của mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con

1. Sđd, t.5, tr. 261.

91

người cũ để trở thành con người mới không phải là một việc dễ dàng... Dù khó khăn

gian khổ, nhưng muốn cải tạo th́ nhất định thành công"2.

Đạo đức cách mạng, đạo đức mới khác đạo đức cũ ở chỗ nó gắn với thực tiễn cách

mạng và phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. V́ vậy, việc rèn luyện, tu dưỡng bền bỉ

suốt đời phải như công việc rửa mặt hàng ngày là một trong những yêu cầu có ư nghĩa

quan trọng hàng đầu. Hồ Chí Minh viết: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa

xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như

ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.

Có ǵ sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng

đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xă hội và giải phóng loài người"1. V́ vậy,

Người đ̣i hỏi "gian nan rèn luyện mới thành công". "Kiên tŕ và nhẫn nại... Không nao

núng tinh thần".

Cái ác luôn ẩn nấp trong mỗi người. V́ vậy, không được sao nhăng việc tu dưỡng,

mà phải rèn luyện suốt đời, bền bỉ. Đặc biệt trong thời kỳ ḥa b́nh, khi con người đă có

ít quyền hạn, nếu không ư thức sâu sắc điều này, dễ bị tha hóa, biến chất. Hồ Chí Minh

so sánh: "Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm

bón rất khó nhọc th́ mới tốt được. C̣n cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư

tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. C̣n tư tưởng cá nhân th́ cũng

như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ"2. Nếu không chú ư điều này, sa vào chủ nghĩa cá

nhân th́ có thể ngày hôm qua có công với cách mạng, nhưng ngày hôm nay lại có tội

với nhân dân.

Đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự do cho con

người, đó là đạo đức của những con người được giải phóng. V́ vậy, tu dưỡng đạo đức

phải gắn liền với hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương

tâm và trách nhiệm của mỗi người. Chỉ có như vậy th́ việc tu dưỡng mới có kết quả

trong mọi môi trường, mọi mối quan hệ, mọi địa bàn, mọi hoàn cảnh.

II. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh

1. Con người là vốn quư nhất - nhân tố quyết định thắng lợi của cách

mạng

a) Nhận thức về con người

Tư tưởng nhân văn là trào lưu tư tưởng bàn tới con người. Mỗi thời đại, mỗi giai

cấp có sự nh́n nhận khác nhau về con người.

Khác với một số quan niệm chưa đúng đắn về nhân dân lao động, về con người

2.Sđd, t.7, tr. 148.

1. Sđd, t.9, tr. 293.

2. Sđd, t.9, tr. 448.

92

tôn giáo, v.v.. Hồ Chí Minh đề cập con người cụ thể, lịch sử; không có con người chung

chung, trừu tượng phi nguồn gốc lịch sử hay con người kiểu tôn giáo.

Hồ Chí Minh thường nói tới con Lạc cháu Hồng, Người đă có sự cảm nhận thiêng

liêng về hai tiếng "đồng bào". Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và qua hoạt

động thực tiễn, Hồ Chí Minh sử dụng khái niệm "người bản xứ bị bóc lột", "người mất

nước", "người da đen", "người cùng khổ", "người vô sản"...

Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, từ khi về nước lănh đạo nhân dân

đấu tranh giành chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh lại dùng đến khái niệm "đồng

bào", "quốc dân"... Khi miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xă hội, Người dùng thêm nhiều

khái niệm như "công nhân", "nông dân", "trí thức", "lao động chân tay", "lao động trí

óc", "người chủ xă hội"...

Từ thập kỷ bốn mươi của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh bàn đến chữ "người" với nhiều

nghĩa và phạm vi khác nhau. Nghĩa hẹp: gia đ́nh, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa

rộng: đồng bào cả nước. Rộng nữa: cả loài người.

Tất nhiên, Hồ Chí Minh cũng có bàn tới khái niệm "con người" theo nghĩa chung

trong một số trường hợp như "phẩm giá con người", "giải phóng con người". Nhưng ở

những trường hợp đó đều được nhận thức trong một bối cảnh cụ thể và thông thường

đặt những khái niệm đó trong một mạch tư duy chung. Phần lớn, Người xem xét con

người trong các mối quan hệ xă hội, trong các quan hệ giai cấp; theo giới tính, lứa tuổi,

nghề nghiệp; trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc và quan hệ quốc tế. Cách tiếp

cận cơ bản nhất của Người thống nhất lập trường giai cấp và lập trường dân tộc.

b) Thương yêu, quư trọng con người

Con người ở đây là đồng bào đồng chí, là người Việt Nam yêu nước, là già, trẻ,

gái, trai, miền xuôi, miền ngược...

Hồ Chí Minh thương yêu những người nô lệ mất nước, những người cùng khổ,

giai cấp vô sản bị bóc lột, những thanh niên chết vô ích ở Việt Nam dù họ là da trắng,

da đen, người Pháp hay người Mỹ. Bởi v́ "máu nào cũng là máu; người nào cũng là

người". Những ḍng máu đó đều quư như nhau.

Tấm ḷng yêu thương con người của Hồ Chí Minh khác ḷng từ bi của Phật, ḷng

nhân ái của Chúa Giêsu cả về đối tượng và cơ sở khoa học. Về đối tượng, Hồ Chí Minh

thương yêu con người đang sống thực ở trên trần gian này. Về cơ sở khoa học, Người

đă chỉ ra được nguồn gốc mọi sự đau khổ của những con người nô lệ, mất nước, của

những người lao động làm thuê, đó là chủ nghĩa thực dân, đế quốc tàn bạo; là ách áp

bức bóc lột giai cấp mà công nhân, nông dân phải chịu đựng. Từ đó, Hồ Chí Minh chỉ ra

con đường cách mạng, con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng

con người.

Luôn thương yêu con người, nên Hồ Chí Minh luôn khát khao ḥa b́nh, một nền

93

ḥa b́nh thật sự, trong độc lập, tự do. Trước cách mạng, trong kháng chiến, Hồ Chí

Minh luôn có thái độ nghiêm túc, thận trọng đối với vấn đề khởi nghĩa, tranh thủ khả

năng phát triển ḥa b́nh để hạn chế sự đổ máu cho nhân dân ta và nhân dân các nước.

Lănh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người chủ trương chủ yếu sử dụng bạo lực

chính trị. Đó là cuộc cách mạng ít đổ máu nhất. Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí

Minh đă cố gắng làm tất cả những ǵ có thể làm được để tránh cuộc chiến tranh Việt -

Pháp. Nhưng khi bọn thực dân hiếu chiến quyết gây ra chiến tranh để buộc dân ta sống

kiếp đời nô lệ, mất nước th́ Hồ Chí Minh kêu gọi cả dân tộc đứng lên chiến đấu v́ độc

lập, tự do của Tổ quốc, v́ nền ḥa b́nh và phẩm giá của nhân loại tiến bộ.

Hồ Chí Minh coi sinh mạng con người là quư giá nhất. Theo Người, "không có

một trận đánh đẫm máu nào là "đẹp" cả, mặc dù thắng lớn. Người quư trọng sức dân,

của dân; trọng người tài, đức, trân trọng "người tốt, việc tốt" dù rất nhỏ". Người trân

trọng từng ư kiến của dân, lắng nghe dân, học hỏi dân, bàn bạc với dân, tự phê b́nh

trước dân, trả lời ư kiến của dân, tôn trọng và chấp hành nghiêm minh pháp luật.

Ḷng thương yêu con người ở Hồ Chí Minh theo tinh thần làm cho nước nhà hoàn

toàn độc lập, nhân dân hoàn toàn tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được học

hành, chữa bệnh... Đó là triết lư nhân văn hành động: ở đời và làm người th́ phải yêu

nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức và đấu tranh nhằm đem lại hạnh

phúc, tự do cho con người.

c) Tin vào sức mạnh, phẩm giá và tính sáng tạo của con người

ở Hồ Chí Minh, ḷng yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức

mang một nội dung mới, chứa đựng một ư nghĩa cách mạng thực sự sâu sắc. Đó hoàn

toàn không phải là ḷng thương kiểu tôn giáo, hay ḷng thương của "bề trên" nh́n

xuống, "chăn dắt", "cứu tinh" dân. Ngược lại, v́ sống giữa ḷng dân, hiểu rơ dân t́nh,

dân tâm, dân ư, nên Người có ḷng tin mănh liệt vào sức mạnh và tính chủ động sáng

tạo của quần chúng nhân dân. Năm 1921, Hồ Chí Minh đă có những quan điểm khác hẳn

với nhiều suy nghĩ lúc bấy giờ. Người viết: "Bị đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác, bị

bịt mồm và bị giam hăm, người ta có thể tưởng rằng cái bẫy người ấy cứ măi măi bị

dùng làm đồ để tế cái ông thần tư bản, rằng bầy người đó không sống nữa, không suy

nghĩ nữa và là vô dụng trong việc cải tạo xă hội. Không: người Đông Dương không

chết, người Đông Dương vẫn sống, sống măi măi... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực,

người Đông Dương giấu một cái ǵ đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách

ghê gớm, khi thời cơ đến"1.

Theo Hồ Chí Minh, "trong bầu trời không ǵ quư bằng nhân dân, trong thế giới

không ǵ mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". V́ vậy, "vô luận việc ǵ, đều do

người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả"2. Người cho rằng: "việc dễ

1. Sđd, t.1, tr. 28.

2. Sđd, t.5, tr. 241.

94

mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong". Nhân dân là

người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần.

Dân ta có tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một cách

giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ măi

không ra"3. Đặc biệt là ḷng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách

mạng. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng

vô tận của dân tộc ta, với ḷng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta,

chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.

Niềm tin vào sức mạnh của dân c̣n được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân

với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rơ: nếu không có nhân dân th́ Chính phủ

không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ th́ nhân dân không có ai dẫn đường.

Đảng lănh đạo để dân làm chủ. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Nhận thức như

vậy để hiểu rằng tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần

chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi v́ sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc

và xây dựng chủ nghĩa xă hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao

động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.

Tin dân ở Hồ Chí Minh c̣n xuất phát từ niềm tin vào t́nh người. Theo Người,

con người có tốt, có xấu, nhưng "dù là xấu, tốt, văn minh hay dă man đều có t́nh"4. Con

người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân - Thiện - Mỹ. Hồ Chí Minh xem xét con

người trong tính đa dạng của nó, nên dù "có thế này, thế khác" nhưng vẫn tin ở họ. Đă

là người cộng sản th́ phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho

người cộng sản.

Trong khi giữ vững niềm tin vào dân th́ phải chống các bệnh "xa nhân dân, khinh

nhân dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu

thương nhân dân". Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn

bệnh nguy hiểm - bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là "hỏng

việc" như Hồ Chí Minh đă chỉ ra.

d) Ḷng khoan dung rộng lớn

Hồ Chí Minh có cách nh́n nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa

dạng trong quan hệ xă hội (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào...);

đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất

thân, điều kiện sống, làm việc... Trên cơ sở đó, ḷng khoan dung ở Hồ Chí Minh có nội

dung sâu sắc, rộng lớn:

- Đoàn kết rộng răi, lâu dài các lực lượng là thể hiện ḷng nhân ái bao dung cao

cả. Người trân trọng phần thiện dù nhỏ nhất; khai thác "t́nh người" trong mỗi con

3. Sđd, t.5, tr. 295.

4.Sđd, t.7, tr. 60.

95

người. Chỉ có ḷng độ lượng và chí công vô tư của Hồ Chí Minh mới quy tụ được nhiều

nhân sĩ có danh vọng của chế độ cũ.

- V́ sự nghiệp giải phóng dân tộc, v́ tiến bộ xă hội, Hồ Chí Minh đưa ra chủ

trương có lư, có t́nh đối với kiều dân nước ngoài ở Việt Nam, nhằm bảo vệ tính mạng,

tài sản của họ. Người đánh giá cao vấn đề này và ghép tội "vô cớ sát hại kiều dân ngoại

quốc" vào tử h́nh.

- Với ḷng nhân ái bao la, phát huy truyền thống "thương người như thể thương

thân", "đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại", Hồ Chí Minh có chính sách khoan

hồng đại lượng, đối xử nhân đạo với tù binh.

- Khi cán bộ, đảng viên có lỗi, Người chú ư giáo dục, nhẹ về xử phạt. Người cố

gắng cổ vũ con người, hướng con người tới chân - thiện - mỹ.

- Trân trọng mọi ư kiến khác nhau, kể cả những ư kiến không đồng t́nh, trái với

suy nghĩ của Người.

2. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng

a) Con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng

Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xă hội,

giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xă hội.

Khi đất nước c̣n nô lệ, lầm than th́ mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân

tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đă về tay nhân dân, th́ mục tiêu ăn,

mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn. Bởi v́, Người cho rằng, nếu

nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do th́ độc lập cũng không có nghĩa lư

ǵ; v́ vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm

cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Trong Di chúc, Người viết: "Đầu tiên là

công việc đối với con người".

Khẳng định con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng th́ một điều quan

trọng là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều v́ lợi ích chính

đáng của con người. Có thể đó là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và

lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân.

b) Con người là động lực của cách mạng

Con người là động lực của cách mạng được nh́n nhận trên phạm vi cả nước, toàn

thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ư nghĩa

to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xă hội.

Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người

được thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản

lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng

ngàn năm của dân tộc Việt Nam...

96

Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lănh

đạo. V́ vậy, vai tṛ của Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư

tưởng là vô cùng quan trọng. Qua các phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng sẽ

nhân sức mạnh của con người lên gấp bội.

Trong khi nhận thức sâu sắc, đầy đủ vai tṛ động lực của con người th́ phải thấy

mối quan hệ biện chứng giữa con người - mục tiêu và con người - động lực. Càng chăm

lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu th́ sẽ phát huy con người - động lực tốt bấy

nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người - động lực th́ sẽ nhanh

chóng đạt được mục tiêu cách mạng.

3. Xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của cách mạng

Hồ Chí Minh nêu bật ư nghĩa của chiến lược xây dựng con người mới. Trên cơ sở

khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh rất

quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người. Người nói tới "lợi ích

trăm năm"và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xă hội là những quan điểm mang tầm vóc

chiến lược, cơ bản lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách.

Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa

nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xă hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm

trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp.

Người khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xă hội, trước hết cần có những con

người xă hội chủ nghĩa.

Con người xă hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xă hội tạo ra. Nhưng

ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xă hội th́ "trước hết cần có những con người

xă hội chủ nghĩa". Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây

dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xă hội chủ nghĩa,

làm gương, lôi cuốn xă hội. Công việc này là một quá tŕnh lâu dài không ngừng hoàn

thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đ́nh, cá nhân mỗi

người.

Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ

nghĩa xă hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa "xây dựng chủ nghĩa xă hội" và "con

người xă hội chủ nghĩa".

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người xă hội chủ nghĩa có hai mặt gắn

bó chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền

thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là h́nh thành những phẩm chất mới như:

có tư tưởng xă hội chủ nghĩa; có đạo đức cách mạng; có trí tuệ và bản lĩnh để làm

chủ; có tác phong xă hội chủ nghĩa; có ḷng nhân ái, vị tha, độ lượng.

Hồ Chí Minh quan niệm"V́ lợi ích mười năm th́ phải trồng cây, v́ lợi ích trăm

năm th́ phải trồng người".

97

Để "trồng người", có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là biện pháp quan

trọng bậc nhất. Bởi v́ giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho

thế hệ trẻ. Ngược lại giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu tới thế hệ trẻ. Hồ Chí Minh nói về

vai tṛ của giáo dục: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; dốt th́ dại, dại th́ hèn... Cho

nên phải chống giặc dốt cũng như chống giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm.

Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt

đạo đức, lư tưởng và t́nh cảm cách mạng, lối sống xă hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai

mặt đức, tài thống nhất với nhau, không tách rời nhau, trong đó "đức" là gốc, là nền

tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc

làm... Có như vậy mới có thể "học để làm người".

"Trồng người" là công việc "trăm năm", không thể nóng vội "một sớm một

chiều", không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đó.

Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ư nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc

đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội. V́ vậy không

được coi nhẹ, sao nhăng sự nghiệp giáo dục. Theo tinh thần của V.I. Lênin: "Học,

học nữa, học măi" và của Khổng Tử: "Học không biết chán, dạy không biết mỏi", Hồ

Chí Minh cho rằng: "Việc học không bao giờ cùng, c̣n sống c̣n phải học".

III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa

1. Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hóa

a) Quan điểm về vị trí, vai tṛ của văn hóa

Hồ Chí Minh được tổ chức UNESCO ghi nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc

của Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất. Ngay từ lúc ra đi t́m đường cứu nước, Hồ Chí

Minh đă nghĩ tới một xă hội mới tự do, hạnh phúc, không có áp bức, bóc lột, bất công.

Trên cơ sở truyền thống tốt đẹp của nền văn hóa hàng ngh́n năm của dân tộc Việt Nam,

Hồ Chí Minh đă tiếp thu, chắt lọc tinh hoa văn hóa phương Đông, phương Tây, văn hóa

mácxít, từng bước xây dựng lư luận văn hóa. Tháng 8-1943, khi c̣n trong nhà tù của

Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh nêu ra một định nghĩa về văn hóa:

"V́ lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát

minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,

những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.

Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của

mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đă sản sinh ra nhằm

thích ứng những nhu cầu đời sống và đ̣i hỏi của sự sinh tồn"1.

Người c̣n dự định xây dựng nền văn hóa dân tộc với năm điểm lớn:

1. Sđd, t.3, tr. 431.

98

"1. Xây dựng tâm lư: tinh thần độc lập tự cường

2. Xây dựng luân lư: biết hy sinh ḿnh, làm lợi cho quần chúng.

3. Xây dựng xă hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong

xă hội.

4. Xây dựng chính trị: dân quyền

5. Xây dựng kinh tế".

Khái niệm trên cho thấy: Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất, bao gồm toàn

bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra; văn hóa là động lực giúp

con người sinh tồn; văn hóa là mục đích cuộc sống loài người; xây dựng văn hóa dân

tộc phải toàn diện, đặt xây dựng "tinh thần độc lập tự cường" lên hàng đầu.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là

đời sống tinh thần của xă hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hóa có mối quan

hệ mật thiết với kinh tế, chính trị, xă hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xă

hội và được nhận thức như sau:

- Văn hóa quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xă hội.

- Chính trị, xă hội có được giải phóng th́ văn hóa mới được giải phóng. Chính trị

giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển.

Dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, bị đàn áp, th́ văn nghệ

cũng bị nô lệ, không thể phát triển. Theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính

trị trước mà cụ thể ở Việt Nam là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành

chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xă hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở

đường cho văn hóa phát triển. Quan điểm của Hồ Chí Minh đă được thực tiễn Cách

mạng Tháng Tám năm 1945 chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

- Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa.

Từ những nguyên lư cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đă chỉ rơ

kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến

trúc thượng tầng. Người cho rằng, "cơ sở hạ tầng xă hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới

kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được". Như vậy, vấn đề đặt ra là kinh tế

phải đi trước một bước. Tục ngữ có câu "có thực mới vực được đạo" cũng theo nghĩa

như vậy. Trong xây dựng chủ nghĩa xă hội, Hồ Chí Minh đă tổng kết: Muốn tiến lên

chủ nghĩa xă hội th́ phải phát triển kinh tế và văn hóa... để nâng cao đời sống vật

chất và văn hóa của nhân dân ta" (Hồ Chí Minh không bao giờ nói phát triển văn

hóa trước kinh tế).

- Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng nhưng không thể đứng ngoài, mà phải ở

trong kinh tế và chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng

và phát triển kinh tế.

Tuy "kinh tế có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được", nhưng điều đó không

có nghĩa là văn hóa "thụ động" chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới đến lượt ḿnh

99

phát triển. Văn hóa có tính tích cực chủ động, đóng vai tṛ to lớn thúc đẩy kinh tế và

chính trị phát triển như một động lực.

"Văn hóa ở trong chính trị" tức văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị,

tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xă hội. Hồ Chí Minh nêu rơ:

"Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa", hoặc đường lối kháng chiến toàn

diện, thi đua trên mọi lĩnh vực,... là với ư nghĩa như vậy. Theo đó, một phong trào văn

hóa cách mạng, văn hóa kháng chiến đă diễn ra rất sôi động, góp phần đắc lực vào thắng

lợi của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.

"Văn hóa ở trong kinh tế" tức là văn hóa phải phục vụ, thúc đẩy việc xây dựng và

phát triển kinh tế.

"Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị" cũng có nghĩa là chính trị và kinh tế phải có

tính văn hóa. Đây là một đ̣i hỏi chính đáng của văn hóa hiện đại. Làm chính trị, làm

kinh tế... phải có văn hóa.

b) Quan điểm về tính chất của nền văn hóa mới

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ra đời, Hồ Chí Minh đă quan tâm

tới việc xây dựng nền văn hóa mới, coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của

cách mạng. Như vậy, nền văn hóa mới ra đời gắn liền với nước Việt Nam mới. Trước

đó ở nước ta là nền văn hóa nô dịch của thực dân phong kiến, làm đồi trụy con người.

Đặc điểm chung nhất của nền văn hóa mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là xua tan bóng

tối của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, của dốt nát, đói nghèo, bệnh tật đè nặng lên cuộc

sống của nhân dân ta. Văn hóa mới là phải giáo dục nhân dân ta tinh thần cần, kiệm,

liêm, chính, tự do tín ngưỡng, không hút thuốc phiện; chống giặc dốt...

Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hóa mới là nền văn hóa dân

chủ mới, đồng thời là nền văn hóa kháng chiến. Nền văn hóa đó có ba tính chất: dân tộc

- khoa học - đại chúng.

Tính chất dân tộc (hay c̣n gọi là đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc) là cái "cốt",

cái tinh túy bên trong rất đặc trưng của nền văn hóa dân tộc. Nó phân biệt, không nhầm

lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Nó là "căn cước" của một dân tộc. Cốt cách dân

tộc không phải "nhất thành bất biến", mà nó có sự phát triển, bổ sung những tinh túy

mới.

Tính chất khoa học của nền văn hóa phải thuận với trào lưu tiến hóa của tư tưởng

hiện đại: ḥa b́nh, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xă hội. Nền văn hóa mới phải

phục vụ trào lưu đó. Muốn vậy, tính khoa học phải thể hiện trên nhiều mặt: cơ sở hạ

tầng, nền tảng kinh tế phải khoa học, hiện đại. Đội ngũ những người làm công tác văn

hóa phải có trí tuệ, hiểu biết khoa học tiên tiến; phải có chiến lược văn hóa, xây dựng lư

luận văn hóa mang tầm thời đại.

Tính chất đại chúng của nền văn hóa là phục vụ nhân dân, phù hợp với nguyện

100

vọng nhân dân, đậm đà tính nhân văn. Đó là nền văn hóa do đại chúng nhân dân xây

dựng.

Trong thời kỳ cách mạng xă hội chủ nghĩa, thời kỳ đầu Hồ Chí Minh nói tính chất

nền văn hóa mới phải "xă hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về h́nh thức". Từ Đại

hội III (tháng 9-1960), Người có bước phát triển trong tư duy lư luận khi khẳng định

nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung xă hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.

Nội dung xă hội chủ nghĩa là thể hiện tính tiên tiến, tiến bộ, khoa học, hiện đại,

biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với trào lưu tiến hóa trong thời đại

mới.

Tính chất dân tộc của nền văn hóa là biết giữ ǵn, kế thừa, phát huy những truyền

thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp

với những điều kiện lịch sử mới của đất nước.

c) Quan điểm về chức năng của văn hóa

Chức năng của văn hóa mới rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn

hóa có ba chức năng chủ yếu sau đây:

Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và t́nh cảm cao đẹp.

Văn hóa thuộc đời sống tinh thần của xă hội. Tư tưởng và t́nh cảm là vấn đề chủ

yếu nhất của đời sống tinh thần của xă hội và con người. V́ vậy, theo Hồ Chí Minh, văn

hóa phải thấm sâu vào tâm lư quốc dân để thực hiện chức năng hàng đầu là bồi dưỡng

nâng cao tư tưởng đúng đắn và t́nh cảm cao đẹp cho con người, đồng thời loại bỏ

những tư tưởng sai lầm, t́nh cảm thấp hèn. Tư tưởng và t́nh cảm rất phong phú, nhưng

phải đặc biệt quan tâm tới những tư tưởng và t́nh cảm chi phối đời sống tinh thần của

mỗi con người và cả dân tộc.

Lư tưởng là điểm hội tụ của tư tưởng lớn. Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa phải

làm cho ai cũng có lư tưởng tự chủ, tự cường, độc lập, tự do; phải làm cho quốc dân "có

tinh thần v́ nước quên ḿnh, v́ lợi ích chung mà quên lợi ích riêng". Đó là lư tưởng độc

lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xă hội, thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng

giai cấp, giải phóng con người. Một khi con người đă phai nhạt lư tưởng độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xă hội th́ không c̣n ư nghĩa ǵ đối với cuộc sống cách mạng.

T́nh cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là ḷng yêu nước, thương dân, thương nhân loại

bị đau khổ, áp bức. Đó là tính trung thực, thẳng thắn, thủy chung; đề cao cái chân, cái

thiện, cái mỹ... T́nh cảm đó thể hiện trong nhiều mối quan hệ: với gia đ́nh, quê hương,

dân tộc, nhân loại, với bạn bè, đồng chí, quan hệ thầy tṛ...

Tư tưởng và t́nh cảm có mối quan hệ gắn bó với nhau. T́nh cảm cao đẹp là con

đường dẫn tới tư tưởng đúng đắn; tư tưởng đúng làm cho t́nh cảm cao đẹp hơn, làm cho

con người ngày càng hoàn thiện. Văn hóa c̣n góp phần xây đắp niềm tin cho con

người, tin ở bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tin vào nhân

101

dân, tin vào tiền đồ của cách mạng.

Hai là, nâng cao dân trí.

Văn hóa luôn gắn với dân trí. Không có văn hóa không có dân trí. Văn hóa nâng

cao dân trí theo từng nấc thang, phục vụ mục tiêu cách mạng trước mắt và lâu dài.

Nâng cao dân trí bắt đầu từ việc làm cho người dân biết đọc, biết viết. Tiếp đến là

sự hiểu biết các lĩnh vực khác nhau về chính trị, kinh tế, văn hóa... Từng bước nâng cao

tŕnh độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học - kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế

giới... Đó là quá tŕnh bổ sung kiến thức mới, làm cho mọi người không chỉ là chuyển

biến dân trí mà c̣n nâng cao dân trí, điều mà khi chính trị chưa được giải phóng th́

không thể làm được.

Tùy từng giai đoạn cách mạng mà mục đích của nâng cao dân trí có điểm chung

và riêng, nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xă hội;

biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước có văn hóa cao và đời sống tươi vui

hạnh phúc1. Mục tiêu đó hiện nay Đảng ta chỉ rơ v́ "dân giàu, nước mạnh, xă hội công

bằng, dân chủ, văn minh".

Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành

mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, không ngừng hoàn

thiện bản thân ḿnh.

Những phẩm chất tốt đẹp làm nên giá trị của con người. Mỗi người phải biến tư

tưởng và t́nh cảm lớn thành phẩm chất cao đẹp. Đó có thể là phẩm chất chính trị, phẩm

chất đạo đức, phẩm chất chuyên môn, nghiệp vụ.

Có những phẩm chất đạo đức chung cho mọi người Việt Nam trong thời đại mới:

cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Lại có những phẩm chất đạo đức dành cho các

lĩnh vực hoạt động khác nhau của con người: phẩm chất nhà giáo, phẩm chất thầy

thuốc...

Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh phẩm chất đạo đức, chính trị của cán bộ, đảng

viên. Bởi v́, nếu không có những phẩm chất đó th́ không thể biến lư tưởng thành hiện

thực. Phẩm chất thường được biểu hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc,

hoạt động, xử sự của con người. Phẩm chất và phong cách thường gắn bó với nhau, và

chỉ khi nào con người có phẩm chất tốt đẹp, phong cách lành mạnh th́ mới thúc đẩy sự

nghiệp cách mạng đi lên.

Muốn có được những phẩm chất và phong cách đó, tự bản thân con người rèn

luyện chưa đủ, mà hoạt động văn hóa đóng chức năng rất quan trọng. Văn hóa phải

tham gia chống được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, chống sự lạm dụng quyền

lực, tham quyền cố vị dẫn tới sự tha hóa con người. Văn hóa giúp cho con người phân

1. Xem Sđd, t.8, tr. 494.

102

biệt cái tốt với cái xấu, cái lạc hậu và cái tiến bộ... Từ đó văn hóa hướng con người

vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực của văn hóa

a) Văn hóa giáo dục

Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến (kinh viện, xa thực tế, coi sách

của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức...) và nền giáo dục thực dân (ngu dân, đồi bại,

xảo trá, nguy hiểm hơn cả sự dốt nát).

Người quan tâm xây dựng nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập. Nền giáo

dục này được h́nh thành từ những năm hai mươi, thực sự ra đời từ Cách mạng Tháng

Tám thành công và phát triển cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hồ Chí Minh xác

định, xây dựng nền giáo dục mới là một nhiệm vụ cấp bách, có ư nghĩa chiến lược, v́ nó

góp phần làm cho dân tộc ta xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Văn hóa giáo dục là

một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội và đấu tranh thống

nhất nước nhà.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục:

- Mục tiêu của văn hóa giáo dục để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng

giáo dục: Dạy và học để bồi dưỡng lư tưởng đúng đắn và t́nh cảm cao đẹp; mở mang

dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con người. Giáo dục để

đào tạo con người có ích cho xă hội. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Giáo dục

nhằm đào tạo lớp người có đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng, làm cho nước ta

sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

- Cải cách giáo dục bao gồm xây dựng chương tŕnh, nội dung dạy và học hợp lư,

phù hợp với các giai đoạn cách mạng. Nội dung giáo dục phải toàn diện: văn hóa, chính

trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động... Các nội dung đó có mối

quan hệ mật thiết với nhau. Học chính trị là học chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước. Cách học phải sáng tạo, không giáo điều. Học để

nắm các quan điểm có tính nguyên tắc, phương pháp luận. Học khoa học kỹ thuật để

đáp ứng đ̣i hỏi của thời đại mới, thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ đang

phát triển như vũ băo.

- Phương châm, phương pháp giáo dục:

Phương châm bao gồm: học đi đôi với hành, lư luận liên hệ với thực tế; học tập

kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đ́nh - xă hội; thực hiện dân chủ, b́nh

đẳng trong giáo dục; học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học

ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người.

Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục. Giáo

dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết hợp

103

học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; giáo dục phải dùng phương pháp nêu gương;

giáo dục phải gắn liền với thi đua.

- Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên v́ không có giáo viên th́ không có giáo

dục. Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất yêu nghề; phải có đạo đức cách

mạng; phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương

pháp. Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục, phải học thêm măi, học không bao

giờ đủ, c̣n sống c̣n phải học.

b) Văn hóa văn nghệ

Văn nghệ được hiểu là văn học và nghệ thuật, biểu hiện tập trung nhất của nền

văn hóa, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là h́nh ảnh của tâm hồn dân tộc. Hồ Chí

Minh là người khai sinh nền văn nghệ cách mạng và có nhiều cống hiến to lớn, sáng tạo

cho nền văn nghệ nước nhà. Sau đây là một số quan điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về

văn hóa văn nghệ:

- Văn nghệ là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí

sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xă hội mới, con người mới.

Văn nghệ là mặt trận được hiểu nó là một bộ phận của cách mạng, là văn nghệ

cách mạng. "Mặt trận" là thể hiện tính chất cam go, quyết liệt. Cho nên tác phẩm văn

nghệ và ng̣i bút của các văn nghệ sĩ phải là vũ khí sắc bén, là "pḥ chính trừ tà", là

vạch trần, tố cáo tội ác, âm mưu của lực lượng thù địch đầu độc văn hóa; về chiêu bài

"công lư", "dân chủ"... Đồng thời văn nghệ có vai tṛ thức tỉnh, định hướng, cổ vũ tinh

thần đấu tranh, tổ chức lực lượng, động viên dân chúng phấn khởi, tin tưởng thực hiện

thắng lợi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Có chính quyền, tính chất mặt trận của văn nghệ vẫn không giảm, mà lại tăng lên,

nặng nề hơn. Bởi v́, xây dựng nền văn nghệ cách mạng là nhiệm vụ chủ yếu, lâu dài.

Văn nghệ vừa tiếp tục tham gia kháng chiến, đấu tranh thống nhất nước nhà, vừa xây

dựng xă hội mới, con người mới. Văn nghệ góp phần định hướng tư tưởng đúng đắn

theo quan điểm của Đảng, bóc trần những thói hư tật xấu như tham ô, nhũng lạm, lăng

phí, quan liêu... là những lực cản trên con đường xây dựng chủ nghĩa xă hội. Mặt trận

những người làm công tác văn nghệ dưới sự lănh đạo của Đảng thực hiện nhiệm vụ

"xây" và "chống", sẽ góp phần to lớn đưa cách mạng đến thắng lợi.

Văn nghệ sĩ là chiến sĩ, v́ vậy, cần có lập trường vững, tư tưởng đúng đắn, đặt lợi

ích và nhiệm vụ phụng sự nhân dân và Tổ quốc lên trên hết. Họ phải nâng cao tŕnh độ

chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, đặc biệt phải có phẩm chất, bản lĩnh, tài năng để sáng tạo

ra những sản phẩm tinh thần phục vụ cuộc sống, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.

- Phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân.

Thực tiễn đời sống nhân dân là những nguồn nhựa sống của văn hóa văn nghệ.

Đời sống lao động, chiến đấu, sinh hoạt, xây dựng... của nhân dân là chất liệu không

104

bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho văn nghệ sáng tác. Văn nghệ sĩ có quyền hư cấu,

song phải xuất phát và trở về với cuộc sống thực tại của con người, cái chân thật của

sinh hoạt. Muốn làm được điều đó, phải "từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng"; phải

"liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân" để hiểu thấu tâm tư, nguyện vọng, t́nh

cảm của quần chúng. Quần chúng là những người làm ra lịch sử, sáng tạo ra của cải vật

chất và tinh thần. Họ là những người đánh giá tác phẩm văn nghệ trung thực, khách

quan, chính xác. Nhân dân là người hưởng thụ các giá trị tinh thần.

- Phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại.

Đây là một khía cạnh phản ánh văn nghệ phục vụ quần chúng. Muốn phục vụ tốt

quần chúng th́ phải nâng cao chất lượng nội dung và h́nh thức của tác phẩm. Bởi v́

quần chúng cần những tác phẩm hay, chân thật, hùng hồn, tạo cho họ sự đam mê,

chuyển biến trong tư tưởng, t́nh cảm, tâm hồn. Nội dung cần chân thực và phong phú;

h́nh thức phải trong sáng, vui tươi, tức là phải tạo nên một tác phẩm hay. Tác phẩm hay

là tác phẩm cần diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, ai đọc cũng hiểu được, và đọc

xong phải suy ngẫm và thấy có bổ ích.

Tác phẩm văn hóa, văn nghệ hay là tác phẩm phản ánh được những giá trị truyền

thống của dân tộc, mang được hơi thở của thời đại; vừa phải ca ngợi cái chân thật người

tốt, việc tốt, vừa phải phê phán cái giả, cái ác, cái sai. Những tác phẩm như vậy vừa làm

gương mẫu cho các thế hệ hôm nay, vừa giáo dục nhắc nhở con cháu đời sau. Tác phẩm

văn nghệ phải phong phú, đa dạng về thể loại, không thể đơn điệu, nghèo nàn. Chính

món ăn tinh thần phong phú đó cũng sẽ mở ra con đường sáng tạo mới cho văn nghệ sĩ.

c) Văn hóa đời sống

Xây dựng đời sống văn hóa mới được Hồ Chí Minh chỉ ra ngay sau khi mới giành

được chính quyền, rồi nhanh chóng trở thành một phong trào quần chúng sôi nổi, tạo

động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.

Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới với ba nội dung: đạo đức mới, lối

sống mới, nếp sống mới, trong đó đạo đức mới đóng vai tṛ chủ yếu nhất. Bởi v́, có dựa

trên nền đạo đức mới th́ mới xây dựng được lối sống mới, nếp sống mới, và đạo đức

mới lại được thể hiện trong lối sống và nếp sống.

- Đạo đức mới: Thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức cách

mạng.

- Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống có lư tưởng, có đạo đức; kết hợp hài ḥa

truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên lối sống văn

minh, tiên tiến. Hoạt động của con người gồm: ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc. Tính văn hóa

ở đây là biết cách ăn, cách mặc, cách ở... Con người văn hóa trong lối sống là phải có

một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu

lao động, quư thời gian, ít ḷng ham muốn về vật chất, về chức quyền, danh lợi. Trong

105

quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí th́ cởi mở, chân t́nh, ân cần, tế nhị; giàu ḷng

thương yêu, quư trọng con người; đối với ḿnh th́ nghiêm, đối với người th́ khoan

dung, độ lượng.

Sửa đổi cách làm việc là phải có tác phong quần chúng, tác phong tập thể - dân

chủ, tác phong khoa học. Điều này đặc biệt cần thiết đối với cán bộ quản lư, lănh đạo.

Hồ Chí Minh yêu cầu ở đội ngũ cán bộ phải có phong cách sống, phong cách làm việc

hợp ḷng dân.

- Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới (nếp sống văn minh) là xây dựng những

thói quen và phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển được những thuần phong

mỹ tục lâu đời của dân tộc. Tất nhiên không phải cái ǵ cũ là bỏ hết, cái ǵ cũng làm

mới. Cũ mà xấu th́ bỏ. Cũ mà không xấu nhưng phiền phức th́ sửa đổi. Cũ mà tốt th́

phát triển thêm. Mới mà hay th́ phải làm. Phải bổ sung, xây dựng thuần phong mỹ tục

trong các vấn đề vệ sinh, giỗ tết, ma chay, cưới hỏi...; đồng thời phải chống các hủ tục

như cờ bạc, hút xách...

Xây dựng nếp sống mới rất khó khăn, phức tạp, v́ thói quen rất khó sửa đổi, nó có

sức ỳ cản trở ta. Thực tế cho thấy, cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu; cái xấu mà

quen, người ta có thể cho là thường. V́ vậy, quá tŕnh đổi mới nếp sống phải rất cẩn

thận, chịu khó, lâu dài, không thể dùng cách trấn áp thô bạo đối với cái cũ, lạc hậu. Phải

tuyên truyền, giải thích một cách hăng hái, bền gan, chịu khó, cẩn thận, khôn khéo,

mềm mỏng,... Phải dùng biện pháp nêu gương: người nêu gương, nhà làm gương, làng

làm gương. Nói đi đôi với làm, nếu không, tuyên truyền giáo dục, xây dựng nếp sống

mới khó đạt kết quả.

Tóm lại, xây dựng văn hóa đời sống chung cho cả xă hội, phải bắt đầu từ từng người,

từng gia đ́nh.

IV. Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đạo đức, nhân

văn, văn hóa vào việc xây dựng con người Việt Nam

mới hiện nay

1. Học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống

- Bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh.

Thế giới quan và phương pháp luận luôn thống nhất với nhau. Các quy luật,

nguyên lư, quan điểm trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa có ư

nghĩa thế giới quan vừa có ư nghĩa phương pháp luận. Trong Cương lĩnh xây dựng đất

106

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội, Đảng ta xác định: "Tiến hành cách

mạng xă hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác -

Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xă

hội"1.

V́ vậy, quá tŕnh xây dựng con người mới xă hội chủ nghĩa phải coi trọng nhiệm

vụ trang bị, giáo dục thế giới quan cách mạng và phương pháp luận khoa học của chủ

nghĩa Mác - Lênin. Có như vậy, con người mới có được công cụ để nhận thức và hoạt

động thực tiễn, giải thích, cải tạo và làm chủ thế giới. Thực chất đó chính là những

nguyên lư, quy luật của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật giúp cho con người khi xem xét

sự vật, hiện tượng khách quan một cách đúng đắn, tránh cho ta mắc phải bệnh chủ quan

duy ư chí tùy tiện trong hoạt động thực tiễn. Yêu cầu khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí

Minh, cần nhận thức đó là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn

đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách

mạng xă hội chủ nghĩa. Cần vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác

hàng ngày của mỗi tổ chức và cá nhân.

- Nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xă hội, có ư chí vươn lên trong lao

động, học tập, bảo vệ Tổ quốc xă hội chủ nghĩa.

Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: dân ta có một ḷng nồng nàn yêu nước. Đó là

sức mạnh vô địch để chiến thắng lũ cướp nước và lũ bán nước. Con người Việt Nam

mới phải nuôi dưỡng được tinh thần yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị truyền

thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Trước hết phải nhận thức sâu sắc chủ nghĩa yêu

nước truyền thống Việt Nam với những nội dung cơ bản: Yêu quê hương, xứ sở, xóm

làng; gắn bó và cố kết cộng đồng, hướng về dân, lấy dân làm gốc; tự hào lịch sử và văn

hóa ông cha; ư thức bảo vệ toàn vẹn lănh thổ quốc gia; ư thức sâu sắc về độc lập dân

tộc.

Đảng ta nhấn mạnh: "Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời

những giá trị truyền thống sẽ làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân ḿnh, trở

thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác"1.

Hiện nay, yêu nước với yêu chủ nghĩa xă hội là một; kết hợp độc lập dân tộc với

chủ nghĩa xă hội; đồng thời biết tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng tiên tiến của thời

đại. Trong xây dựng đất nước hiện nay, yêu nước đồng nghĩa với sự vươn lên khắc phục

nghèo nàn lạc hậu, có ư chí, vươn lên thúc đẩy sự tiến bộ xă hội.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội, Nxb. Sự

thật, Hà Nội, 1991, tr. 10.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, lưu hành nội bộ,

tháng 2-1993, tr. 6.

107

- Biết giữ ǵn đạo đức, nhân phẩm, lương tâm, danh dự.

Phải luôn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đạo đức cách mạng là gốc; đức

gắn với tài; trong đức có tài, trong tài có đức; tài càng cao, đức càng phải lớn. Chỉ có

như vậy mới phục vụ được nhiệm vụ chính trị, mới đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa

xă hội đến thắng lợi.

Nâng cao trí tuệ trước hết phải nắm vững và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những thành tựu của thời đại và thế giới vào thực tiễn

cách mạng Việt Nam, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đạt hiệu quả cao.

Giữ ǵn đạo đức trong t́nh h́nh mới trước hết phải quán triệt tư tưởng và tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh. Phải thấy được mối quan hệ giữa đạo đức với kinh tế,

trong đó có quan điểm phát triển kinh tế là điều kiện thiết yếu, là cơ sở để xây dựng một

xă hội văn minh, phát triển văn hóa, đạo đức. Con người có đạo đức, có văn hóa lại là

động lực để phát triển kinh tế. Phải thấy được đặc điểm của nền kinh tế thị trường định

hướng xă hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay vừa có hội nhập, hợp tác vừa có đấu tranh.

Biết phát huy, vận dụng mặt tích cực và đề pḥng, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị

trường. Xây dựng đạo đức mới trong t́nh h́nh hiện nay là biết khai thác mặt tích cực,

đấu tranh kiên quyết loại bỏ mặt tiêu cực; phải chống khát vọng làm giàu bằng mọi

cách, tâm lư chạy theo đồng tiền, lấy đồng tiền làm giá trị cao nhất; chạy theo quyền lực

với thói ích kỷ, dối trá, lừa lọc, xu nịnh...

2. Học tập và vận dụng tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh

Xây dựng một xă hội nhân văn theo quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh là phải bảo

đảm công bằng xă hội, trong đó có sự quan tâm tới lợi ích của cá nhân, tập thể và cộng

đồng; bảo đảm b́nh đẳng của các thành phần kinh tế trên cơ sở khẳng định vị trí chủ

đạo của nền kinh tế nhà nước. Muốn vậy, tất cả đều phải được thể chế hóa bằng pháp

luật và công bằng xă hội cũng phải được bảo đảm bằng pháp luật.

Tư tưởng nhân văn cách mạng, xét đến cùng, là phấn đấu cho độc lập, tự do, hạnh

phúc, công bằng, dân chủ của con người, dân tộc và nhân loại. Nói cách khác, tất cả v́

con người, do con người. Hồ Chí Minh thường nói tới "văn minh thắng bạo tàn". Văn

minh ở đây được hiểu cả tŕnh độ phát triển của đời sống tinh thần và tŕnh độ phát triển

của khoa học - kỹ thuật. Xă hội văn minh là xă hội có những con người nhân văn, tức là

những con người phát triển toàn diện cả đức, cả tài; cả lư trí và t́nh cảm cách mạng; có

ḷng nhân ái và khoan dung. Muốn thế, phải coi trọng và phát huy vai tṛ của giáo dục -

đào tạo. Bởi v́ giáo dục - đào tạo (gia đ́nh, nhà trường, xă hội) góp phần tích cực nhất

trong việc h́nh thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người mới.

3. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa

Nhiệm vụ hàng đầu trong quá tŕnh xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách

108

mạng mới với những nội dung sau:

- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu v́ độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xă hội, có ư chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với

nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh v́ ḥa b́nh, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến

bộ xă hội.

- Có ư thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu v́ lợi ích chung.

- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần, kiệm, trung thực, nhân nghĩa,

tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ư thức bảo vệ và cải thiện

môi trường sinh thái.

- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất

cao v́ lợi ích của bản thân, gia đ́nh, tập thể và xă hội.

- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, tŕnh độ chuyên môn, tŕnh độ thẩm

mỹ và thể lực1.

Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa và góp phần làm

phong phú thêm nền văn hóa của nhân loại trong quá tŕnh giao lưu, hội nhập quốc tế.

Phải nhận thức giao lưu, hội nhập là một xu thế tất yếu khách quan hiện nay, nhưng

chứa đựng trong đó cả mặt tích cực và tiêu cực. Mở rộng giao lưu, hội nhập trên cơ sở

lấy bản sắc dân tộc làm nền tảng. Cần nh́n nhận văn hóa trong mối quan hệ với phát

triển.

Phải đấu tranh chống sự xâm nhập của những yếu tố phản văn hóa. Chống

khuynh hướng ḥa tan giá trị, áp đặt giá trị văn hóa ngoại lai, từng bước hủy hoại nhân

cách con người, đầu độc nhân dân, trước hết là lớp trẻ.

1. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 58-59.

109

Chương VII

Một số vấn đề về vận dụng và phát triển

tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi

mới

I. Bối cảnh thế giới và trong nước

Đảng ta xác định: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng

tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Việc vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí

Minh phải được đặt vào trong một bối cảnh nhất định, nhất là thời kỳ hiện nay, thời kỳ

đang có sự biến đổi nhanh chóng và phức tạp, bao gồm cả những thách thức và cơ hội

cho cách mạng nước ta.

1. Đặc điểm của t́nh h́nh thế giới

a) Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ

Thế giới đă trải qua nhiều giai đoạn phát triển của cuộc cách mạng khoa học và

công nghệ. Giai đoạn phát triển hiện nay của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ

biểu hiện trên những nét chủ yếu sau đây:

- Thực tế cuộc cách mạng này càng khẳng định tính đúng đắn của C.Mác trong

việc dự báo rằng, đến lúc nào đó khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong giai đoạn hiện nay có những bước

tiến nhảy vọt trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Điều

đó đang hướng nhân loại bước vào nền văn minh trí tuệ với hai đặc trưng cơ bản là "xă

hội thông tin" và "kinh tế tri thức". Với xă hội thông tin và kinh tế tri thức, thế mạnh

tương đối về nguồn lao động giản đơn hoặc tay nghề thấp đă mất ư nghĩa, lợi thế thuộc

về những quốc gia có lực lượng lao động được đào tạo đáp ứng được sự đ̣i hỏi của

khoa học và công nghệ; sản phẩm được tạo ra ngày càng phản ánh sự kết tinh từ "chất

xám", từ trí tuệ chứ không phải chủ yếu từ cơ bắp.

- Giai đoạn phát triển hiện nay của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra

cơ sở cũng như thúc đẩy nhanh hơn, tạo lực mạnh hơn cho quá tŕnh toàn cầu hóa kinh

tế - vốn là một xu thế khách quan trên thế giới. Toàn cầu hóa hiện nay có hai mặt, vừa

110

tích cực, vừa tiêu cực. Mặt tích cực thể hiện chủ yếu là tạo ra cơ hội (tất nhiên là không

như nhau) cho tất cả các nước tiến nhanh hơn trên con đường phát triển của ḿnh nếu

biết tận dụng thời cơ trong giao lưu, hợp tác quốc tế, đi tắt, đón đầu, phát huy được sức

mạnh tổng hợp của dân tộc và của thời đại. Mặt tiêu cực thể hiện chủ yếu ở chỗ, hiện

nay toàn cầu hóa đang bị các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, các tập đoàn tư bản tài

chính cũng như các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia thao túng. Chính v́ vậy, nhiều

người cho rằng, hiện nay toàn cầu hóa mang tính chất tư bản chủ nghĩa.

- Trên con đường phát triển của các quốc gia - dân tộc, cuộc cách mạng khoa học

và công nghệ đă và đang tạo ra sự liên kết, hợp tác giữa các nước trên nhiều lĩnh vực, ở

nhiều cấp độ (khu vực, toàn cầu, song phương, đa phương, đa dạng). Quá tŕnh liên kết,

hợp tác này thực chất là một cuộc cạnh tranh để tồn tại và phát triển, cho nên đó cũng là

quá tŕnh vừa hợp tác, vừa đấu tranh.

b) T́nh h́nh chính trị trên thế giới có sự thay đổi lớn

Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai hệ

thống xă hội chủ nghĩa h́nh thành trở thành một nhân tố ảnh hưởng lớn nhất cho sự

phát triển của thế giới. Hiện nay, t́nh h́nh chính trị thế giới có nhiều thay đổi:

- Hệ thống xă hội chủ nghĩa không c̣n, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế

gặp khó khăn lớn. Đây không phải bắt nguồn từ học thuyết Mác - Lênin mà là từ nhiều

nguyên nhân, trong đó có sai lầm trong việc vận dụng học thuyết đó. Cục diện chính trị

thế giới có nhiều biến động lớn, nhất là từ cuối những năm 80 đầu những năm 90 của

thế kỷ XX.

- Cuộc "chiến tranh lạnh" đă kết thúc nhưng nền ḥa b́nh thế giới lại đứng trước

thách thức lớn. Đó là những cuộc chiến tranh cục bộ, những cuộc xung đột sắc tộc, tôn

giáo, các thế lực khủng bố quốc tế gây ra những cuộc khủng bố đẫm máu. Đó là những

âm mưu và hành động của các thế lực phản động can thiệp thô bạo đối với độc lập, chủ

quyền, toàn vẹn lănh thổ của nhiều nước trên thế giới bất chấp các chế định hành xử của

luật pháp quốc tế cũng như các nguyên tắc của Liên hợp quốc.

- Chủ nghĩa tư bản tiếp tục có sự điều chỉnh để phát triển. Trong t́nh h́nh hiện

nay, các nước tư bản sử dụng được ngày càng tốt hơn, nhanh hơn các thành tựu của

cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Đồng thời với quá tŕnh đó, chủ nghĩa tư bản vẫn

tiếp tục có những khó khăn do không thể khắc phục được những mâu thuẫn vốn có trước

đây.

- Các nước trong khu vực Đông Nam á cũng như khu vực châu á - Thái B́nh Dương

là những khu vực phát triển năng động của thế giới song đang tiềm ẩn những biến cố

khó lường, những yếu tố gây mất ổn định. Việt Nam nằm trong những khu vực này cho

nên không thể không chịu sự tác động đó.

- Thế giới hiện nay đang diễn ra cả hai t́nh h́nh tưởng như mâu thuẫn nhau

111

nhưng nó lại thống nhất trong một chỉnh thể. Đó là đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai

cấp diễn ra gay gắt và phức tạp với nhiều h́nh thức, đồng thời thế giới cũng đang diễn

ra một quá tŕnh hợp tác trong xu thế toàn cầu hóa. Vừa hợp tác vừa đấu tranh, luôn

luôn phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa là

nét chủ đạo của t́nh h́nh thế giới hiện nay.

2. Bối cảnh trong nước

Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đă đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.

Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới. Việt Nam kiên tŕ chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đă lựa chọn.

Thực hiện đường lối đổi mới đất nước ở Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau đây:

Một là: đất nước đă thu được những thành tựu cơ bản.

Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh khốc liệt để lại hậu quả nặng nề; các

thế lực phản động chống phá quyết liệt nhằm phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam

khiến đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xă hội. Dưới sự lănh đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đă vượt qua được những thử thách đó, đă thoát ra khỏi

cuộc khủng hoảng kinh tế-xă hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa.

Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ

nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa của dân, do dân, v́ dân dưới sự

lănh đạo của Đảng. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa, sẵn sàng

là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu v́ ḥa b́nh,

độc lập và phát triển.

Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ

cao so với các nước khác trong khu vực. T́nh h́nh chính trị của đất nước luôn luôn giữ

được ổn định. T́nh h́nh xă hội có tiến bộ. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên

trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước

đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để

phát triển nhanh và bền vững, trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt

Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng

lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc pḥng, an ninh được

tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa được h́nh thành về

cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao.

Hai là: Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau.

Sự nghiệp đổi mới của nước ta trong những năm tới, có cơ hội lớn để phát triển

của đất nước. Đó là lợi thế so sánh để phát triển do nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nội lực

là hết sức quan trọng. Những cơ hội tạo cho đất nước ta có thể đi tắt, đón đầu, tiếp thu

112

nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Thực hiện

đường lối ngoại giao Hồ Chí Minh, quan hệ đối ngoại rộng mở và tăng cường hợp tác

quốc tế theo phương châm độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hợp tác các bên

đều có lợi trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia-dân tộc là

độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ. Mặt khác, chúng ta rút ra được

nhiều bài học từ cả những thành công và yếu kém của gần hai chục năm tiến hành sự

nghiệp đổi mới để đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thành tựu và thời cơ đă cho phép nước ta tiếp tục đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa Việt

Nam trở thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất,

đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xă hội chủ nghĩa, phát

huy hơn nữa nội lực. Đồng thời Đảng và Nhà nước ta tranh thủ nguồn lực bên ngoài và

chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng

trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xă hội, bảo vệ và cải thiện môi

trường; kết hợp phát triển kinh tế-xă hội với tăng cường an ninh quốc pḥng.

Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những

khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu

toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng đă chỉ ra vẫn c̣n tồn tại. Các nguy cơ

đó diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau, chúng ta không thể xem nhẹ nguy

cơ nào. Trong t́nh h́nh thế giới hiện nay, phát triển nhanh và bền vững là một thách

thức lớn. Nếu nước ta không tận dụng cơ hội hiện nay để phát triển nhanh, thoát khỏi

nghèo nàn và lạc hậu th́ cơ hội sẽ bị bỏ lỡ. Nguy cơ chệch hướng xă hội chủ nghĩa phải

được đề pḥng không những ở việc xây dựng và thông qua cương lĩnh, đường lối, chủ

trương, nghị quyết, pháp luật của Đảng và Nhà nước mà c̣n ở trong quá tŕnh thực hiện

các nhiệm vụ kinh tế-xă hội. Nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đă và

đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước, gây bất b́nh và làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động

không ngừng t́m mọi cách thực hiện âm mưu "diễn biến ḥa b́nh", chống phá sự

nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lănh đạo.

II. Quan điểm cơ bản có ư nghĩa phương pháp luận

đối với việc vận dụng và phát triển tư tưởng

Hồ Chí Minh

Để vận dụng có kết quả và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần nắm

vững một số quan điểm cơ bản sau đây:

113

1. Lư luận gắn liền với thực tiễn

Hồ Chí Minh là người rất chú trọng gắn lư luận với thực tiễn. Người cho rằng:

"Lư luận không phải là một cái ǵ cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lư luận luôn

luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động"1.

Hồ Chí Minh nhắc nhở: "Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin

để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những

kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có

như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt

Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xă

hội chủ nghĩa thích hợp với t́nh h́nh nước ta"2. Những điều mà Hồ Chí Minh vận dụng

lư luận Mác - Lênin kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam trở thành mẫu mực để

chúng ta vận dụng tư tưởng của Người vào t́nh h́nh thực tế của nước ta cho phù hợp

với từng giai đoạn, từng thời kỳ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của quá tŕnh kết hợp chặt chẽ, nhuần

nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng của từng thời kỳ. Hồ Chí

Minh nêu lên quan điểm rằng, lư luận không được áp dụng vào thực tiễn là lư luận

suông, đồng thời thực tiễn không có lư luận soi sáng là thực tiễn mù quáng. Do đó,

trong hoạt động, chúng ta phải luôn luôn gắn chặt lư luận với thực tiễn.

Thấu suốt quan điểm này trong việc vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí

Minh, chúng ta cần chú ư những nội dung cơ bản sau đây:

Một là: Luôn luôn đem những vấn đề lư luận đối chiếu với thực tiễn. Làm như vậy

là để tránh căn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, tránh cho lư luận xa rời thực tế.

Hai là: Trong quá tŕnh hoạt động thực tiễn, phải chú ư tổng kết nâng lên thành

những vấn đề lư luận. Bản thân lư luận được đúc kết từ thực tiễn, nhưng nó phải luôn

luôn được bổ sung bằng những vấn đề mới bởi cuộc sống phong phú luôn luôn sống

động, vận động không ngừng. Đây là một quá tŕnh phát triển biện chứng, làm cho lư

luận ngày càng được sinh động và đúng đắn hơn, đồng thời làm cho thực tiễn phát triển

đúng hướng hơn, phù hợp với quy luật phát triển của xă hội.

Ba là: Thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm lư luận. Bản thân tư tưởng Hồ Chí

Minh là những quan điểm toàn diện, sống động và nó luôn luôn là những vấn đề "mở",

nghĩa là nó cần phải được kiểm nghiệm trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, bởi v́, thực

tiễn là tiêu chuẩn của chân lư. Trong bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh, không thể

phân biệt rạch ṛi đâu là vấn đề lư luận và đâu là vấn đề thực tiễn mà chúng quyện chặt

với nhau. Thực tiễn kiểm nghiệm lư luận cũng là một quá tŕnh tự điều chỉnh cả về lư

luận và cả về thực tiễn để nắm bắt quy luật vận động của thế giới khách quan được tốt

1. Sđd, t.8, tr. 496.

2. Sđd, t.8, tr. 494.

114

hơn.

2. Quan điểm lịch sử - cụ thể

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm rất biện chứng. Quá tŕnh vận

dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đ̣i hỏi chúng ta phải:

- Đặt những quan điểm, luận điểm của Hồ Chí Minh vào một hoàn cảnh lịch sử cụ

thể nhất định. Chẳng hạn, luận điểm của Hồ Chí Minh được Người viết, nói trong hoàn

cảnh nào? lúc nào? với mục đích ǵ? v.v.. Điều này giúp cho chúng ta tránh được một số

sai lầm hay mắc phải trong quá tŕnh nhận thức và vận dụng những quan điểm của Hồ

Chí Minh.

- Xem xét những quan điểm của Hồ Chí Minh trong mối quan hệ biện chứng với

thực tiễn cuộc sống, nghĩa là những quan điểm đó được đặt trong một quá tŕnh vận

động và phát triển không ngừng, trong một quá tŕnh tương tác với hoàn cảnh, điều kiện

nhất định. Mỗi luận điểm được Hồ Chí Minh nêu ra đều mang ư nghĩa lư luận và thực

tiễn rất sâu sắc nhưng ngôn ngữ rất dễ hiểu, dễ nhớ dù vấn đề đó hết sức mang tính tư

biện. Đó là phong cách riêng của Hồ Chí Minh.

- ở Hồ Chí Minh sự thống nhất giữa nói và làm luôn được coi trọng, có khi làm

nhiều hơn nói. Tư tưởng của Người được biểu đạt không chỉ qua những bài nói, bài viết

hiện nay đă tập hợp trong bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập mà c̣n qua hành động hằng

ngày của Người. Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh là một pho sách lớn cần được chúng ta

nghiên cứu, học tập. Do đó, những quan điểm của Hồ Chí Minh c̣n phải được t́m trong

cuộc sống, trong những việc làm cụ thể của Người mà những việc làm đó diễn ra trong

một không gian và thời gian nhất định. Dù những quan điểm, luận điểm của Hồ Chí

Minh có ư nghĩa rất lớn, vượt phạm vi không gian và thời gian nhưng nếu chúng ta thoát

ly khỏi hoàn cảnh lịch sử cụ thể th́ chúng ta không thể vận dụng và phát triển tư tưởng

Hồ Chí Minh một cách đúng đắn và có hiệu quả.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử cụ thể, nó phản ánh

hiện thực lịch sử và do đó chịu sự chi phối, tác động của chính bản thân điều kiện lịch

sử. Cũng như bất kỳ một tư tưởng, quan điểm nào khác, kể cả những tư tưởng, quan

điểm của bậc vĩ nhân, tư tưởng Hồ Chí Minh có lúc cũng bị hạn chế do không thể vượt

qua được những chế định của điều kiện lịch sử. Chính v́ thế, cũng giống như chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần được phát triển trong những điều kiện mới, cần

được đặt vào trong một điều kiện mới để vận dụng và phát triển như Hồ Chí Minh đă

vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin.

3. Quan điểm toàn diện và hệ thống

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về

những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Xem xét vấn đề một cách toàn diện và

có hệ thống là một phương pháp rất quan trọng và là một phong cách của Hồ Chí Minh.

115

Thấu suốt quan điểm này trong quá tŕnh vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh

trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, chúng ta lưu ư một số điểm sau đây:

- Phải nh́n nhận sự vật và hiện tượng một cách toàn diện, bao quát. Hồ Chí Minh

đă tự sự trong bài thơ Học đánh cờ (Trong tập thơ Nhật kư trong tù năm 1942 - 1943)

rằng: "Phải nh́n cho rộng, suy cho kỹ". Chính nhờ nh́n xa trông rộng mà Hồ Chí Minh

đă giải quyết thành công nhiều nhiệm vụ rất khó khăn mà b́nh thường khó có thể vượt

qua. Càng trong khó khăn, kể cả trong những t́nh huống "ngh́n cân treo sợi tóc", nhưng

nếu xem xét vấn đề một cách toàn diện, thấu đáo, cộng với tổ chức giỏi, quyết tâm cao

th́ nhất định vấn đề được giải quyết thành công. Chính điểm này hoàn toàn đối lập với

cách nh́n thiển cận của một số cán bộ, mà trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc viết năm

1947 Hồ Chí Minh gọi là "bệnh cận thị".

- Với quan điểm toàn diện và hệ thống, cần tránh t́nh trạng bỏ sót việc lớn, bỏ qua

những việc cơ bản, có ảnh hưởng đến đại cục; tránh t́nh trạng chỉ biết những việc vụn

vặt, phải nắm lấy những việc chủ yếu, trọng tâm, những việc có tác động chung đến

toàn hệ thống. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở, phê b́nh những người "không trông xa

thấy rộng, những vấn đề to tát th́ không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ".

- Mỗi một vấn đề đều có quá tŕnh phát sinh, h́nh thành, tồn tại, vận động, do đó,

khi nghiên cứu, xem xét, giải quyết, phải đặt vấn đề đó vào trong một tổng thể, t́m ra

bản chất vấn đề trong toàn bộ trạng thái vận động của nó. Hồ Chí Minh thường đặt các

vấn đề trong các cặp, hoặc đặt trong các mối quan hệ biện chứng của cả một hệ thống

(chẳng hạn như: đức - tài; tự phê b́nh - phê b́nh; lư luận - thực tiễn, v.v.), qua đó chỉ

ra những vấn đề chủ yếu, những vấn đề "gốc" để nh́n nhận cho đúng và giải quyết cho

đúng. Chính v́ vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn có phong thái ung dung, tự tại, tự tin, chủ

động trong mọi công việc, kể cả những việc, những lúc có tính chất dồn dập, khẩn

trương. Người đă biết t́m trong vô vàn công việc phức tạp chọn ra những công việc

phải làm ngay, việc nào là việc chính nhất rồi đề ra kế hoạch tỉ mỉ, chắc chắn, chính

xác sau đó quyết tâm thực hiện cho bằng được kế hoạch đó.

- Những quan điểm của Hồ Chí Minh đều có tính nhất quán trong một hệ thống

chặt chẽ. Do vậy, học tập, nghiên cứu để vận dụng vào sự nghiệp cách mạng hiện nay

không nên biệt lập từng quan điểm của Người, cắt khúc các quan điểm đó một cách siêu

h́nh mà cần đặt tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong hệ thống lư luận Mác - Lênin.

4. Quan điểm kế thừa và phát triển

Quan điểm này cho chúng ta thấy rằng:

- Cuộc sống vận động không ngừng, có lúc tiệm tiến, có lúc nhảy vọt và có khi

"một ngày bằng hai mươi năm", đặc biệt là t́nh h́nh thế giới hiện nay đang ẩn chứa

nhiều yếu tố khó lường. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong điều kiện mới đặt ra

yêu cầu chủ thể phải hiểu đúng những quan điểm cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm

116

bắt đúng t́nh h́nh thực tế trong nước và ở trên thế giới. Điều kiện hiện nay có nhiều

điều thay đổi, khác với trước kia, v́ thế, những quan điểm của Hồ Chí Minh phải được

vận dụng sáng tạo cho sát hợp với hoàn cảnh của từng giai đoạn, từng thời kỳ. V.I.

Lênin đă vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác với tinh thần đó. Hồ Chí Minh cũng đă

vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh thần đó.

- Theo tinh thần của Hồ Chí Minh "dĩ bất biến ứng vạn biến", trong kế thừa và

phát triển, phải giữ đúng nguyên tắc, giữ đúng mục đích, giữ vững mục tiêu chiến lược

thể hiện qua toàn bộ tư tưởng của Người. Những vấn đề sách lược có thể và cần thiết

phải thay đổi cho phù hợp với từng lúc và từng nơi trên cơ sở hướng tới mục tiêu chiến

lược đă lựa chọn. Sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh ở đây không có nghĩa là tầm

chương trích cú, bám giữ từng câu từng chữ trước tác của Người vào trong t́nh h́nh

thực tế. Hồ Chí Minh là con người của đổi mới, hết sức tránh giáo điều, tránh rập

khuôn, máy móc.

- Trong quá tŕnh vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh theo quan điểm kế

thừa và phát triển, chúng ta lưu ư đến việc vận dụng tinh thần và phương pháp của

Người để tiếp tục nhận thức và hành động đúng quy luật, giải quyết những vấn đề mới

do cuộc sống đặt ra. Cũng như tinh thần coi chủ nghĩa Mác - Lênin là một "học thuyết

mở", chúng ta coi tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề mở, nghĩa là cần được vận

dụng một cách sống động và bổ sung, phát triển trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.

III. Phương hướng và một số nội dung vận dụng,

phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp

đổi mới

1. Phương hướng

Phương hướng vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi

mới là nắm vững quan điểm thực tiễn, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của

Người để giải quyết đúng những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Thực tế luôn luôn vận động và phát triển. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng phải được

đặt trong quá tŕnh vận động và phát triển của cuộc sống. Phải nắm chắc bản chất của

từng vấn đề đặt ra trong tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng một cách đúng đắn vào sự

nghiệp cách mạng nước ta.

2. Một số nội dung chủ yếu vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí

Minh hiện nay

a) Kiên định con đường mà Hồ Chí Minh đă lựa chọn

Con đường mà Hồ Chí Minh đă lựa chọn cho sự phát triển của dân tộc ta là con

117

đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội. Con đường này Hồ Chí Minh đă

t́m thấy năm 1920 và được xác định một cách đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu

tiên của Đảng khi Đảng mới thành lập vào đầu năm 1930. Hồ Chí Minh từ người t́m

đường trở thành người mở đường và người dẫn đường cho dân tộc Việt Nam. Thực tế

của đất nước ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước

quá độ lên chủ nghĩa xă hội đă hoàn toàn chứng minh cho sự đúng đắn của con đường

mà Hồ Chí Minh đă lựa chọn.

Hiện nay, hệ thống xă hội chủ nghĩa không c̣n, nhưng không có nghĩa là con

đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội ở nước ta không c̣n phù hợp nữa,

trái lại, qua công cuộc đổi mới, sự nghiệp cách mạng nước ta càng phát triển, con đường

xă hội chủ nghĩa ngày càng được sáng tỏ hơn. Chủ nghĩa cộng sản vẫn là sự phát triển

tất yếu của xă hội loài người cho dù con đường này không phải là con đường bằng

phẳng.

Chúng ta kiên định con đường mà Hồ Chí Minh đă lựa chọn, bởi v́, con đường

này là duy nhất đúng ở Việt Nam. Chúng ta không đồng t́nh với ư kiến cho rằng, Hồ

Chí Minh chỉ có công lao lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, sẽ là sai

lầm khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh khi xây dựng chủ nghĩa xă hội. Như vậy có

nghĩa là họ phủ nhận mục tiêu đi theo con đường xă hội chủ nghĩa. Chúng ta khẳng định

rằng, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam là sự tiếp tục con đường của Hồ Chí Minh đă lựa

chọn, nó như là một quá tŕnh tất yếu vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính trong quá tŕnh đổi mới v́ những mục tiêu của chủ

nghĩa xă hội, Việt Nam đă đạt được những thành tựu quan trọng, không những đứng

vững trước muôn vàn thử thách nghiệt ngă mà c̣n phát triển vượt bậc.

Trong điều kiện mới, chúng ta càng khẳng định và kiên tŕ đi theo con đường mà

Hồ Chí Minh đă lựa chọn. Khát khao cháy bỏng của Hồ Chí Minh là độc lập cho dân

tộc, nhưng Người cũng cho rằng, độc lập phải gắn với tự do, phải làm cho nhân dân

sống một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Điều mong muốn cuối cùng của Hồ Chí Minh

trước khi qua đời thể hiện trong bản Di chúc là: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn

đấu, xây dựng một nước Việt Nam ḥa b́nh, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,

và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Kiên định con đường mà Hồ

Chí Minh đă lựa chọn, hiện nay chúng ta tiếp tục thực hiện sáu đặc trưng cơ bản của chủ

nghĩa xă hội ở Việt Nam được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xă hội:

- Chủ nghĩa xă hội ở nước ta là xă hội do nhân dân lao động làm chủ;

- Xă hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế

độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;

- Xă hội có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,

118

hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn

diện cá nhân;

- Các dân tộc trong nước b́nh đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Sáu đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xă hội ở Việt Nam trên đây được Đại hội VII

của Đảng ta nêu lên năm 1991. Sang những năm đầu của thế kỷ XXI, t́nh h́nh đất nước

ta cũng như trên thế giới tiếp tục có những biến chuyển lớn. Đất nước đang xây dựng

nền kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế.

Những đặc trưng nêu lên trên đây vẫn đúng, tuy nhiên cần được bổ sung, phát triển, cụ

thể hóa. Đó cũng là kết quả của việc tổng kết bước đầu qua những năm đổi mới ở nước

ta, và đó cũng là quá tŕnh tiếp tục vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong

điều kiện mới.

Kiên định đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đă lựa chọn là tiêu chí đánh giá sự

vững vàng về chính trị, tư tưởng, lập trường, lư tưởng xă hội chủ nghĩa của mỗi một

công dân Việt Nam yêu nước, trong đó có thế hệ trẻ hiện nay. Trong điều kiện hội nhập,

mở cửa, quan hệ đối ngoại rộng mở, thanh niên Việt Nam, nhất là học sinh, sinh viên có

nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp nhận nhiều tri thức đa dạng, phong phú thuộc nhiều

luồng quan điểm, chính kiến khác nhau, có điều kiện thuận lợi để giao lưu, trực tiếp

chứng kiến cuộc sống của nhiều nước trên thế giới. Mọi người, trong đó có thanh niên,

học sinh, sinh viên có quyền so sánh, đối chiếu giữa con đường này hay con đường khác

của sự phát triển của mỗi dân tộc-quốc gia, có quyền so sánh giữa chế độ chính trị này

với chế độ chính trị khác. Nhưng, hễ là người Việt Nam yêu nước, hễ là người nghiên

cứu, học tập một cách nghiêm túc, đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh th́ chắc chắn sẽ tin

rằng con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xă hội mà Hồ Chí Minh đă chỉ ra

và đă hướng dân tộc Việt Nam đi lên bao nhiêu năm nay là con đường phù hợp với quy

luật, là con đường phát triển tất yếu.

b) Dựa vào sức mạnh của toàn dân

Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh đă phát triển quan điểm đó từ trong kho tàng

tư tưởng và kinh nghiệm truyền thống của dân tộc ta cũng như của các bậc hiền triết,

anh minh trong lịch sử dân tộc Việt Nam và thế giới hàng ngh́n năm. Vận dụng và phát

triển tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta coi đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh

giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lănh đạo là động lực chủ yếu để phát

triển đất nước.

Muốn củng cố và phát huy sức mạnh của toàn dân làm nên thắng lợi của sự

nghiệp đổi mới, cần phải chú ư những vấn đề sau đây:

Một là: Thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con người.

Trong thời đại ngày nay, khi nhân loại đang dần bước vào kinh tế tri thức, lợi thế nhân

119

lực của một quốc gia không phải chỉ là số lượng đông mà quan trọng hơn cả là ở chất

lượng dân số. ở Việt Nam, trong thời đại ngày nay, cần xây dựng và phát triển nguồn

nhân lực trên cơ sở:

- Bồi dưỡng tư tưởng yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế chân chính. Đó là

những người sống có lư tưởng, có hoài băo được cống hiến cho đất nước v́ mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Có đạo đức, lối sống cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô

tư, không tham nhũng và mắc các tiêu cực khác.

- Đội ngũ nhân lực có tŕnh độ cao. Trong đội ngũ này, có một đội ngũ cán bộ

chiến lược giỏi, vững vàng; một đội ngũ cán bộ quản lư với đầy đủ đức và tài; một đội

ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đáp ứng tốt mọi yêu cầu của công cuộc xây dựng đất

nước trong thời kỳ hội nhập, cạnh tranh gay gắt; một đội ngũ những người lao động nói

chung có chất lượng cao.

Hai là: tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hồ Chí

Minh là người sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất, là hiện thân của t́nh đoàn kết

keo sơn gắn bó giữa các cộng đồng người trên lănh thổ Việt Nam. Đoàn kết tạo thành

sức mạnh vô biên. Trong cuộc chiến lâu dài không kém phần oanh liệt chống lại

những cái hư hỏng, lạc hậu để xây dựng xă hội mới tốt đẹp càng cần tới sự đồng tâm

hiệp lực của khối đại đoàn kết toàn dân. Lịch sử nước nhà và lịch sử thế giới cho thấy

rằng, thời kỳ nào dân tộc không đoàn kết th́ thời kỳ đó dân tộc không phát triển lên

được, thậm chí sẽ bị mất nước, bởi các thế lực ngoại bang xâm chiếm.

Ba là: Tôn trọng quyền làm chủ của dân. Xă hội càng phát triển th́ tŕnh độ dân

chủ của một xă hội càng cao. Dân phải được tôn trọng, phải phát huy được tính tích cực

của ḿnh trong các lĩnh vực của đời sống xă hội. Kinh tế thị trường đă và đang tạo ra

những mặt tích cực đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xă hội nhưng đồng thời cũng có

những mặt trái, làm trầm trọng thêm một số tiêu cực đă có trước đây và nảy sinh một số

tiêu cực mới. Chẳng hạn: chạy theo đồng tiền; cá nhân chủ nghĩa nặng nề; thoái hóa về

đạo đức, lối sống; tham nhũng; lăng phí; quan liêu; cửa quyền; nhất là vi phạm trắng

trợn quyền làm chủ của nhân dân, có nơi, có lúc rất nghiêm trọng dẫn đến ḷng dân

không yên. Hàng bao đời nay, dù trải qua nhiều biến đổi, cộng đồng dân cư trên đất

nước Việt Nam đă chung lưng đấu cật dựng nước và giữ nước. Mọi âm mưu và hành

động, dù là nhỏ, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc đều là có tội đối với đất

nước, cần được lên án.

Bốn là: Dựa vào sức mạnh của dân, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn

dân tộc, dựa trên cơ sở giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lấy chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng; thực hiện tốt Cương lĩnh, đường lối,

quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Sức quy

tụ của nhân dân chỉ có hiệu quả khi được dựa trên tất cả cơ sở đó. Vấn đề này phải được

120

nhận thức sâu sắc đối với từng cá nhân và đối với cả các tổ chức trong hệ thống chính trị.

Quyền tự do cá nhân cần được đặt trong khuôn khổ của ư thức, lợi ích cộng đồng, trong

khuôn khổ chế định của luật pháp. Đó cũng là sự bảo đảm cho quyền con người trong

xă hội ngày nay.

Năm là: Tạo điều kiện cho nhân dân làm tṛn nghĩa vụ công dân. Quyền của dân

chỉ thật sự được bảo đảm khi người dân làm tốt nghĩa vụ công dân của ḿnh đối với đất

nước. Đây thuộc về trách nhiệm trước hết của mỗi công dân, đồng thời là trách nhiệm

của các tổ chức chính trị - xă hội.

c) Xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

Một là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh.

Đảng là một thành viên của hệ thống chính trị đồng thời có trách nhiệm lănh đạo

hệ thống chính trị và toàn xă hội, Đảng là hạt nhân của hệ thống chính trị nên muốn đưa

cách mạng tiến lên phải chăm lo xây dựng Đảng mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức.

Sự lănh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố có tính chất quyết định tới thắng lợi

của sự nghiệp cách mạng. Sự nghiệp đổi mới đất nước v́ những mục tiêu của chủ nghĩa

xă hội, do đó, phụ thuộc trước hết vào chất lượng của Đảng cầm quyền. Với ư nghĩa đó,

chúng ta có thể nói rằng, sự nghiệp đổi mới hăy bắt đầu từ bản thân Đảng. Với ư thức

trách nhiệm đó, trong những năm 80 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đă

nghiên cứu, tổng kết từ những sáng kiến của cơ sở để khởi xướng công cuộc đổi mới.

Sự nghiệp đổi mới đất nước chính thức bắt đầu từ cuối năm 1986 xuất phát từ chính yêu

cầu của cuộc sống mà Đảng Cộng sản Việt Nam đă nắm bắt được chứ không phải từ

ảnh hưởng của bên ngoài.

Đứng trước thời cơ và thách thức mới, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam

cầm quyền trong sự nghiệp đổi mới hiện nay càng nặng nề hơn. Đảng phải vươn lên về

mọi mặt trong điều kiện mới. Ngoài những thuận lợi rất

cơ bản, Đảng duy nhất cầm quyền đứng trước một số nguy cơ, khó khăn: những thử

thách, cám dỗ của lợi ích vật chất; hoàn cảnh mới dễ dàng mắc phải căn bệnh phát triển

như cửa quyền, quan liêu, mất dân chủ, lănh đạo nặng về áp đặt theo lối mệnh lệnh,

v.v.. Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu th́ càng đặt ra cho Đảng nhiều vấn đề

mới cả về mặt lư luận lẫn thực tiễn cần có lời giải đáp. Đặc biệt, điều đáng lo ngại là

một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên bị suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái

về đạo đức, lối sống. Đảng phải mạnh cả về chính trị; về tư tưởng; về tổ chức; về cán

bộ, đảng viên; về phẩm chất, đạo đức của toàn Đảng; về phương thức lănh đạo của

Đảng trong t́nh h́nh mới...

Đảng Cộng sản Việt Nam có trách nhiệm lănh đạo cả hệ thống chính trị. Do đó,

ngoài việc phải thường xuyên tự chỉnh đốn bản thân ḿnh, Đảng phải có trách nhiệm

tăng cường sự lănh đạo của ḿnh đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước

pháp quyền xă hội chủ nghĩa của dân, do dân, v́ dân. Đảng lănh đạo Nhà nước không

121

phải làm thay chức năng quản lư của Nhà nước mà lănh đạo bằng phương thức thích

hợp để phát huy vai tṛ của Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới. Đảng cũng chú ư lănh

đạo Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để các tổ chức đó bảo đảm và phát huy quyền

làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho các tổ chức đó thực hiện tốt vai tṛ là cơ sở vững

chắc của chính quyền.

Hồ Chí Minh là người sáng lập, rèn luyện và lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.

Người là một chiến sĩ cộng sản quốc tế kiên cường trong phong trào cộng sản và công

nhân quốc tế đồng thời là một chiến sĩ ḥa b́nh luôn luôn đấu tranh cho sự hiểu biết lẫn

nhau giữa các dân tộc, cho sự tiến bộ xă hội. Đấy là con người của thời đại. Mọi âm

mưu xuyên tạc, hạ thấp hoặc xóa bỏ vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của

chủ nghĩa xă hội, đều đi ngược lại với sự thật hiện hữu trong đời sống xă hội Việt Nam,

đều mang dụng ư không trong sáng. Mặc dù Đảng ta mắc phải một số khuyết điểm, hạn

chế, có một số bất cập, nhưng không v́ thế mà cho rằng, trong sự nghiệp đổi mới hiện

nay khi chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền th́ không cần sự lănh đạo của

Đảng. Thực tế cho thấy rằng, Đảng có vai tṛ, trách nhiệm mà không một tổ chức chính

trị nào khác có thể thay thế đối với toàn bộ hệ thống chính trị.

Hai là, xây dựng Nhà nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững

mạnh, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Hồ Chí Minh đă phát triển lư luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng

việc xây dựng Nhà nước mới ở Việt Nam - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa (nay

là Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam). Đây là một tổ chức quan trọng trong hệ thống

chính trị, ngày càng có vị trí, vai tṛ to lớn trong quá tŕnh đổi mới. Nhà nước trong

sạch, vững mạnh th́ góp phần to lớn làm cho cả hệ thống chính trị vững mạnh. Theo tư

tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước ta là nơi thể hiện rơ nhất quyền và nghĩa vụ của nhân

dân. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa của dân, do dân,

v́ dân dưới sự lănh đạo của Đảng, cần chú trọng xây dựng pháp luật, quản lư xă hội

bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa pháp luật vào trong cuộc sống một cách có hiệu quả.

Bảo đảm cho Nhà nước trong sạch là một nội dung rất quan trọng hiện nay trong

việc vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Những căn bệnh thường thấy đối với

sự hoạt động của Nhà nước mà Hồ Chí Minh đă chỉ ra trước đây khi Người c̣n sống

vẫn c̣n có ư nghĩa thời sự đ̣i hỏi mỗi người và tất cả các tổ chức trong hệ thống chính

trị đồng tâm hiệp lực chú ư khắc phục. Phải đẩy mạnh việc chống tham nhũng, quan liêu

và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước, làm cho Nhà nước thật sự là Nhà nước của

dân, do dân, v́ dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính để nâng cao hiệu quả quản lư nhà

nước, đó là ư thức, trách nhiệm của toàn dân và của các tổ chức trong hệ thống chính trị,

nhất là các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước.

Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước ta tức là

phải xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước sao cho hợp lư, hoạt động có hiệu quả. Bộ

122

máy đó được xác lập trên cơ sở có căn cứ khoa học, phù hợp với t́nh h́nh thực tế của

từng thời kỳ, nói chung là tinh gọn, chức năng, nhiệm vụ rơ ràng không chồng chéo. Bộ

máy đó phải được thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm cho quyền lực tập

trung, thống nhất theo nguyên tắc tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Chỉ có

trên cơ sở một bộ máy được tổ chức hợp lư, trong sạch th́ sức mạnh của Nhà nước và

của cả hệ thống chính trị mới được bảo đảm.

Xây dựng Nhà nước mạnh hiện nay, quan trọng là phải chú ư tới việc xây dựng

đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ đức và tài, tận tâm, tận lực phụng sự nhân

dân, phụng sự Tổ quốc.

Ba là, luôn luôn chăm lo xây dựng Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.

Là một bộ phận rất quan trọng của hệ thống chính trị, Mặt trận và các đoàn thể

nhân dân trong sự nghiệp đổi mới không những không giảm sút vai tṛ của ḿnh mà

ngày càng phải thể hiện rơ hơn trách nhiệm tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp

nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xă hội chủ nghĩa.

Không có phong trào cách mạng của quần chúng th́ sự nghiệp đổi mới không thể

thành công. Không có các tổ chức Mặt trận và các đoàn thể nhân dân th́ không thể có

cơ sở vững chắc cho tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, không thể có cơ sở,

nền tảng của chính quyền các cấp. Các tổ chức này trong hệ thống chính trị là nơi tập hợp,

đoàn kết rộng răi các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết

hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thực hiện nhiệm vụ chung của toàn hệ thống

chính trị, đưa đất nước tiến nhanh, mạnh, vững chắc đạt mục tiêu của chủ nghĩa xă hội,

trước mắt làm cho Việt Nam thoát ra khỏi t́nh trạng nghèo nàn, lạc hậu, phấn đấu về cơ

bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Ngay từ năm 1951, khi hợp nhất hai tổ chức Việt Minh - Liên Việt thành Mặt

trận Liên Việt, Hồ Chí Minh đă bày tỏ "một sự sung sướng không thể tả" v́ Người đă

trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đă nở hoa kết quả và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng

khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai "trường xuân bất lăo". Người tin tưởng rằng,

"mối đoàn kết thân ái sẽ phát triển và củng cố khắp toàn dân. Với lực lượng đoàn kết ấy,

chúng ta sẽ vượt qua hết thảy mọi khó khăn, gian khổ, chúng ta sẽ đánh tan tất cả mọi

kẻ thù đế quốc thực dân"1. Sau Đại hội đó, khối đoàn kết toàn dân luôn luôn được Hồ

Chí Minh chăm lo vun đắp và trở thành nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần làm nên

thắng lợi của hai cuộc kháng chiến cũng như xây dựng miền Bắc. Ngày nay, đưa tư

tưởng đại đoàn kết của Người vào cuộc sống, nâng khối đại đoàn kết toàn dân tộc lên

một tầm cao mới và đi vào chiều sâu, làm cho tất cả mọi người Việt Nam, dù ở cương vị

nào, dù ở trong nước hay ngoài nước, dẹp bỏ mọi thành kiến, gác lại quá khứ nh́n về

tương lai v́ một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn

minh.

1. Sđd, t. 6, tr. 182.

123

Các tổ chức đoàn thể khác, trong đó có tổ chức thanh niên mà tiêu biểu là Đoàn

thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, phải luôn luôn đi đầu trong các lĩnh vực, tích cực học

tập, rèn luyện để luôn luôn trở thành những người có ích cho Tổ quốc. Tương lai phát

triển của đất nước phụ thuộc một phần rất lớn vào sự đóng góp của lực lượng thế hệ trẻ.

Trong xă hội ngày nay, học tập và rèn luyện tốt càng trở thành một nhiệm vụ quan trọng

và vinh quang hơn bao giờ hết. V́ thế, học tập, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí

Minh trong đội ngũ học sinh, sinh viên trước hết và cơ bản nhất là hăy học tập tốt, rèn

luyện đạo đức cách mạng tốt.

Mục tiêu xây dựng hệ thống chính trị hiện nay là xây dựng một nền dân chủ xă

hội chủ nghĩa. Do đó, cần hoàn thiện cơ chế Đảng lănh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà

nước quản lư.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đă và đang soi đường cho sự nghiệp cách mạng ở nước ta

và cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là tài sản tinh thần rất quan trọng, to lớn của Đảng

và dân tộc ta. Nhân dân ta nguyện quyết tâm xây dựng đất nước ta theo con đường xă

hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

124

Chương tham khảo

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi

dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau

Lịch sử nhân loại cũng như của mỗi một dân tộc phát triển theo một ḍng chảy

liên tục, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Đó là một quy luật. Các dân tộc, các giai cấp,

các lực lượng chính trị trong xă hội muốn duy tŕ và phát triển lực lượng của ḿnh, phải

nhận thức đầy đủ quy luật đó, phải quan tâm đến việc bồi dưỡng các thế hệ kế tiếp.

Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm quan trọng và là trách

nhiệm của các thế hệ cách mạng.

Hồ Chí Minh là người sớm nhận rơ vị trí, vai tṛ của thế hệ trẻ. Trong cuộc đời

hoạt động cách mạng, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ.

Ngay từ khi dạy học ở trường Dục Thanh, Hồ Chí Minh đă quan tâm đến giáo dục tinh

thần dân tộc khi dạy môn quốc văn, giáo dục lao động, thể chất cho học sinh. Vào

những năm 20 của thế kỷ XX, sau khi đă tiếp thu được lư luận Mác-Lênin, truyền bá

chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước và trực tiếp xây dựng lực lượng của cách mạng,

Người quan tâm đầu tiên đến việc giác ngộ thanh niên. Người đă mở các lớp huấn luyện

tại Quảng Châu - Trung Quốc (1925-1927) dành cho các thanh niên Việt Nam yêu nước

từ trong nước sang. Từ đó và trong toàn bộ cuộc đời cách mạng của ḿnh, Người luôn

luôn quan tâm đến việc đào tạo thế hệ trẻ thành những người thừa kế sự nghiệp của cách

mạng. Trong bản Di chúc, Người viết: " Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là

việc làm rất quan trọng và rất cần thiết", "Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt,

mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải

chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây

dựng chủ nghĩa xă hội, vừa "hồng", vừa "chuyên""1.

I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai tṛ của thế hệ trẻ

1. Muốn thức tỉnh một dân tộc, trước hết phải thức tỉnh thanh niên

Khi bắt đầu thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng cách mạng cho sự nghiệp giải

phóng dân tộc, Hồ Chí Minh quan tâm đến giáo dục thanh niên, thức tỉnh thanh niên,

kêu gọi thanh niên ư thức được trách nhiệm trước dân tộc để đấu tranh giành lại độc lập

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr. 510.

125

cho đất nước, bởi v́ theo Người, thanh niên là những người trẻ tuổi, có sức khỏe, nhiệt

t́nh, hăng hái, ham t́m hiểu, nhanh tiếp thu cái mới..., có vai tṛ quan trọng trong các

phong trào xă hội. Thực dân Pháp đô hộ nước ta, thực hiện chính sách ngu dân, thanh

niên nước ta bị nền giáo dục thực dân "nhồi sọ", quên đi thân phận của người dân mất

nước, cam chịu cuộc sống nô lệ. Năm 1925, trong bài Gửi thanh niên An Nam, sau khi

phê phán toàn quyền Pháp P.Đume và kể về sự phấn đấu của thanh niên Nhật Bản,

Trung Quốc, Nga, Hồ Chí Minh viết: " Thế th́ thanh niên của ta đang làm ǵ? Nói ra th́

buồn, buồn lắm: họ không làm ǵ cả. Những thanh niên không có phương tiện th́ không

dám rời quê nhà; những người có phương tiện lại ch́m ngập trong sự biếng nhác; c̣n

những kẻ đă xuất dương th́ chỉ nghĩ đến việc thỏa măn tính ṭ ṃ của tuổi trẻ mà thôi!

Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh niên già

cỗi của Người không sớm hồi sinh"1. Với Hồ Chí Minh, thức tỉnh thanh niên là bước

đầu tiên để thức tỉnh một dân tộc đứng lên đấu tranh giành lại nền độc lập, để xây dựng

một xă hội mới.

2. Tuổi trẻ là mùa xuân của xă hội, của dân tộc

Xuất phát từ quy luật vận động của xă hội loài người, Hồ Chí Minh khẳng định

tuổi trẻ không những là người kế tục các thế hệ trước, mà c̣n là tương lai của đất nước,

của dân tộc. Người đă ví tuổi trẻ như mùa xuân, bắt đầu của một năm. Năm 1946, trong

thư gửi học sinh, Hồ Chí Minh viết: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu

từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xă hội"2.

Câu nói trên thể hiện vai tṛ quan trọng của tuổi trẻ đối với sự phát triển của xă

hội. Sự chăm lo tốt cho thế hệ trẻ là sự bảo đảm cho tương lai phát triển bền vững và

tươi sáng của xă hội.

3. Sự phát triển của xă hội phần lớn phụ thuộc vào thanh niên

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, thanh niên là những người khỏe mạnh, hăng

hái, có sức khỏe. Sự phát triển lâu dài của xă hội phụ thuộc nhiều vào thanh niên. Người

viết: "Người ta thường nói: Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy

nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên

muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng th́ ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần

và lực lượng của ḿnh, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó"1.

Trong luận điểm này, Hồ Chí Minh đă nhắc đến cả hai khía cạnh của một vấn đề,

có mối quan hệ khăng khít với nhau. Hồ Chí Minh rất tin ở thanh niên, tin rằng thanh niên

với ư chí, nghị lực và quyết tâm, có thể vượt qua được mọi khó khăn gian khổ. Trong

1. Sđd, t.2, tr. 132-133.

2. Sđd, t. 4, tr. 167.

1. Sđd, t. 5, tr. 185.

126

kháng chiến chống thực dân Pháp, Người có bài Khuyên thanh niên:

"Không có việc ǵ khó,

Chỉ sợ ḷng không bền,

Đào núi và lấp biển,

Quyết chí ắt làm nên"2.

4. Sự học tập, rèn luyện của thế hệ trẻ góp phần quan trọng đến

tương lai phát triển của đất nước

Từ sự xác định vai tṛ kế tục của thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh yêu cầu thế hệ trẻ phải

tự ḿnh phấn đấu, học tập và rèn luyện để nắm lấy tri thức, bồi dưỡng ư chí, nghị lực và

tinh thần cách mạng. Việc học tập, rèn luyện của thế hệ trẻ có ư nghĩa quyết định đến

tương lai của đất nước. Trong ngày khai trường đầu tiên sau khi thành lập nước Việt

Nam Dân chủ Cộng ḥa, Hồ Chí Minh đă viết thư gửi học sinh, kêu gọi học sinh học

tập: Sau 80 năm nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta phải xây dựng

lại cơ đồ mà tổ tiên đă để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp được các nước

khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các

em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có

bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không,

chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.

Trong thư gửi nhi đồng nhân ngày tết Trung thu đầu tiên sau khi nước nhà giành

được độc lập tháng 9-1945, Hồ Chí Minh viết: "Hôm nay các em vui chơi, vui chơi một

cách có đoàn kết, có tổ chức. Như thế là tốt lắm. Hôm nay tết Trung thu là của các em.

Mà cũng là một cuộc biểu t́nh của các em để tỏ ḷng yêu nước và để ủng hộ nền độc

lập... Các em phải thương yêu nước ta. Mong các em mai sau lớn lên thành người dân

xứng đáng với nước độc lập tự do"3.

5. Vai tṛ của giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ đối với sự nghiệp cách

mạng

Trong nhiệm vụ bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh nhắc đến

vai tṛ và nhiệm vụ của các thế hệ đi trước, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ đi sau

làm sao để họ tiến bộ hơn ḿnh. Theo Người, thế hệ đi sau tiến bộ hơn thế hệ đi trước

mới tốt. Nếu thế hệ đi sau không bằng thế hệ đi trước là không tốt.

Về nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ, Người đặc biệt quan tâm đến giáo dục.

Sau khi nước nhà giành được độc lập, Hồ Chí Minh quan tâm ngay đến giáo dục, đào

tạo, coi việc chống giặc dốt cấp bách hơn cả giặc ngoại xâm. Người viết: "Nay chúng ta

đă giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong

2. Sđd, t. 6, tr. 95.

3. Sđd, t. 4, tr. 25.

127

lúc này, là nâng cao dân trí"1, v́ "Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có

nhân tài"2. Bây giờ xây dựng kinh tế, không có cán bộ không làm được. Không có giáo

dục, không có cán bộ th́ cũng không nói ǵ đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán

bộ, giáo dục là bước đầu.

Việc quan tâm của Hồ Chí Minh đến đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ không chỉ trên

sách vở, lời nói mà trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, trong đời sống hàng này

của Người. Năm 1919, tại Pari, Hồ Chí Minh đă thành lập Hội những người Việt Nam

yêu nước, chủ yếu là thanh niên. Khi sang Liên Xô, Người tham gia vào các hoạt động

của Quốc tế Thanh niên, một tổ chức của Quốc tế Cộng sản. Năm 1925, tại Quảng

Châu, Trung Quốc, Hồ Chí Minh đă cải tổ Tâm tâm xă để thành lập Hội Việt Nam cách

mạng thanh niên, thu nạp những thanh niên Việt Nam yêu nước ở Quảng Châu lúc đó.

Tiếp theo đó, tại Quảng Châu, Người đă mở các lớp huấn luyện cho các thanh niên yêu

nước từ trong nước sang sau đó cử về nước để vận động quần chúng. Sau khi về nước,

Hồ Chí Minh đă dành nhiều thời gian để giáo dục, vận động thanh niên. Sinh thời

Người rất quan tâm, theo dơi, nâng đỡ từng bước tiến của thế hệ trẻ, rất nhiều lần Người

viết thư cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng và học sinh.

Với niềm tin vào thế hệ trẻ, v́ sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước,

Hồ Chí Minh đă bắt đầu các hoạt động cách mạng của ḿnh trong thanh niên và luôn

luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ.

II. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi

dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau

1. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là công việc rất quan

trọng và rất cần thiết

Từ khi bắt đầu xây dựng lực lượng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc năm 1925,

với lời kêu gọi trong Thư gửi thanh niên An Nam, thành lập Hội Việt Nam cách mạng

thanh niên đến cuối đời, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ.

Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân, Hồ Chí

Minh xác định nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước là phải chăm lo ngay từ đầu sự nghiệp

giáo dục và đào tạo, với mục đích đào tạo thế hệ trẻ, người thừa kế sự nghiệp của Đảng,

của dân tộc.

Hồ Chí Minh coi phát triển giáo dục là một trong những công việc đầu tiên của

cách mạng.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Bây giờ xây dựng kinh tế, không có cán bộ không làm

được. Không có giáo dục, không có cán bộ th́ cũng không nói ǵ đến kinh tế văn hóa.

1, 2. Sđd, t. 4, tr. 36, 451.

128

Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu"1.

Hồ Chí Minh coi sự nghiệp giáo dục và đào tạo phải được quan tâm, quán triệt

thường xuyên, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khi dân tộc bước vào cuộc trường kỳ kháng

chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh yêu cầu: ta cần phải có một nền giáo dục

kháng chiến và kiến quốc, v́ chúng ta phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ

theo tôn chỉ kháng chiến và kiến quốc. Khi cách mạng Việt Nam cùng một lúc phải thực

hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Hồ Chí Minh nêu rơ: "Văn hóa giáo dục phải phát triển

mạnh để phục vụ yêu cầu của cách mạng. Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng

trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống

nhất nước nhà"2. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả nước, Hồ Chí Minh xác

định: Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, sự nghiệp giáo dục của chúng ta vẫn

phát triển nhanh, mạnh hơn bao giờ hết. Trong hoàn cảnh nào cũng phải tiếp tục thi đua

dạy tốt, học tốt.

Như vậy, với Hồ Chí Minh, cách mạng càng phát triển th́ càng đ̣i hỏi đông đảo

đội ngũ cán bộ các thế hệ, đ̣i hỏi dân trí phải được nâng cao, giáo dục phải phát triển

để làm nhiệm vụ chăm lo bồi dưỡng các thế hệ cách mạng, trong đó đặc biệt quan trọng

là thế hệ trẻ.

2. Mục đích của việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời

sau

Mục đích hàng đầu là đào tạo cán bộ cho cách mạng. Trong thư gửi các thầy cô

giáo và học sinh dự bị đại học ở Thanh Hóa tháng 4-1952, Hồ Chí Minh viết: "Giáo dục

cần nhằm vào mục đích thật thà phụng sự nhân dân"1. Nền giáo dục cách mạng đào tạo

con em những người lao động thành "những người công dân có ích cho nước Việt

Nam".

Trường học là nơi đào tạo những người chủ tương lai của đất nước. Theo Người,

trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích

đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà. Về

mọi mặt, trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong kiến.

Đó là một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của học sinh; là

con đường làm cho con em chúng ta thành những tṛ giỏi, con ngoan, bạn tốt, và mai

sau là những công dân dũng cảm, cán bộ gương mẫu, người chủ xứng đáng của chế độ

xă hội chủ nghĩa. Với thanh niên, phải giáo dục họ "luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ

quốc, yêu chủ nghĩa xă hội, tăng cường t́nh cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt

đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lănh đạo của Đảng,

sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho. Thường xuyên giáo

1. Sđd, t. 8, tr. 184.

2. Sđd, t. 10, tr. 190.

1. Sđd, t. 6, tr. 467.

129

dục cán bộ trẻ, tiếp tục chăm sóc bồi dưỡng giáo dục họ để "làm việc, làm người, làm

cán bộ, để phụng sự Đảng, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục

đích ấy phải giáo dục đạo đức "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" cho họ".

Để đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh cho rằng, cần gột rửa nền giáo dục

thực dân phong kiến. Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục thực dân, đó là nền giáo dục

nhằm thực hiện chính sách ngu dân. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (năm

1925), Hồ Chí Minh tố cáo: Để có thể đánh lừa dư luận bên Pháp và bóc lột dân bản xứ

một cách êm thấm, bọn cá mập của nền văn minh không những đầu độc nhân dân An

Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà c̣n thi hành một chính sách ngu dân triệt để. Đó là

nền giáo dục "nhồi sọ" làm hư hỏng các thế hệ trẻ Việt Nam. Người viết: Trong mấy

mươi năm nô lệ, đế quốc và phong kiến đă dùng giáo dục nô lệ để "nhồi sọ" thanh niên

ta, làm cho thanh niên ta hư hỏng. Hồ Chí Minh chủ trương, khi cách mạng thành công

sẽ thực hiện nền giáo dục cách mạng. Nhưng "Trước hết phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng

giáo dục nô dịch của thực dân c̣n sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xă hội, xa rời đời

sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ"2.

3. Nội dung giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ

- Bồi dưỡng, giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau một cách toàn diện

Hồ Chí Minh yêu cầu trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt:

đạo đức cách mạng, giác ngộ xă hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất;

đào tạo thế hệ trẻ thành những người thừa kế xây dựng xă hội chủ nghĩa vừa "hồng" vừa

"chuyên".

Đạo đức và tài năng là cả hai nội dung không thể thiếu được đối với nhiệm vụ bồi

dưỡng, giáo dục, trong đó đạo đức là gốc. Năm 1964, Người nói: "Dạy cũng như học

phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan

trọng"1. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lănh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng

cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách

mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học

và kỹ thuật.

- Bồi dưỡng, giáo dục phải trên tất cả các mặt "đức, trí, thể, mỹ", thể hiện ở 5 nội

dung sau đây:

Thứ nhất, giáo dục, bồi dưỡng lư tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ.

Thanh niên bao giờ cũng có rất nhiều ước mơ, hoài băo, bao giờ cũng mang tâm

lư hướng tới cái cao đẹp trong cuộc sống và họ luôn luôn cần đến một điểm tựa tinh

thần vững chăi để có thể vượt qua được những khó khăn, thực hiện được ước mơ hoài

2. Sđd, t. 8, tr. 80.

1. Sđd, t. 11, tr. 329.

130

băo của ḿnh. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục lư tưởng cho thanh niên. ở mỗi

một giai đoạn khác nhau của cách mạng Việt Nam, Người luôn có những yêu cầu cụ thể

và cơ bản về việc giáo dục bồi dưỡng lư tưởng cách mạng cho tuổi trẻ. Hồ Chí Minh đă

ân cần khuyên nhủ thanh niên rằng: Chúng ta không một phút nào được quên lư tưởng

cao cả của ḿnh là suốt đời phấn đấu cho Tổ quốc ta được hoàn toàn độc lập, chủ nghĩa

xă hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta. Khi nói về nhiệm vụ học tập của thanh niên,

Người viết: mục tiêu lư tưởng phấn đấu của thanh niên đó là học tập và học để làm ǵ ?

Người trả lời: "Học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, học để làm cho dân giàu,

nước mạnh".

Thứ hai, quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao chí khí cách mạng cho tuổi trẻ.

Chỉ có lư tưởng cách mạng cũng chưa đủ, mà phải có chí khí th́ mới biến lư tưởng

đó thành hiện thực được. Chí khí mà Hồ Chí Minh yêu cầu giáo dục cho thế hệ trẻ

không chỉ là chí khí chung chung như "chí làm trai" trước đây cha ông ta vẫn nói, mà là

chí khí cách mạng. Đó là trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó

khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Thứ ba, giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ.

Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là yếu tố vô cùng cần thiết, là cái gốc, cái

nền tảng của cách mạng. Giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ là nhằm làm cho

thế hệ trẻ trở thành những người công dân có ích, những người chiến sĩ tốt, những

người cách mạng chân chính, với những phẩm chất: trung với nước, hiếu với dân, yêu

thương con người, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đối với thế hệ trẻ, Người căn

dặn: phải thật thà, phải ngay thẳng, chí công vô tư, phải coi tham ô, lăng phí tài sản của

Nhà nước, của tập thể, của nhân dân là hành động trộm cắp mà ai cũng thù ghét.

Thứ tư, giáo dục nâng cao tŕnh độ chính trị, học vấn, khoa học, kỹ thuật và quân

sự.

Hồ Chí Minh cho rằng, việc nâng cao tŕnh độ chính trị, học vấn, khoa học, kỹ

thuật và quân sự là điều kiện cơ bản để tuổi trẻ cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc,

cho nhân dân và đây cũng là điều kiện để bảo đảm khả năng hoạt động thực tiễn của họ.

Trong khi thực hiện nội dung giáo dục này, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến mối quan hệ

hữu cơ giữa các thành tố chính trị, học vấn, khoa học - kỹ thuật, lao động sản xuất và

quân sự. Chính Người đă giải thích, nếu không học tập, không có tŕnh độ học vấn

không thể nào tiếp thu được chuyên môn nghiệp vụ. Nhưng nếu chỉ học tập văn hóa,

khoa học - kỹ thuật mà không học tập chính trị th́ như người nhắm mắt mà đi.

Thứ năm, giáo dục, bồi dưỡng nếp sống văn hóa, thể chất cho tuổi trẻ.

Hồ Chí Minh luôn coi con người là nhân tố quyết định trong sự thành công của sự

nghiệp cách mạng, sự tiến bộ của xă hội. Người khẳng định, văn hóa là nền tảng tinh

thần của xă hội, phải giáo dục nếp sống, lối sống văn hóa cho thanh niên. Về giáo dục

131

thể chất, Người cho rằng, làm việc ǵ cũng phải có sức khỏe mới thành công. Người

viết: "Luyện tập thể dục bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người yêu nước...

Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân khỏe mạnh tức là

cả nước mạnh khỏe"1. Chính v́ thế, Người rất quan tâm đến việc giáo dục về thể chất và

nếp sống văn hóa cho thế hệ trẻ.

4. Phương pháp giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ

- Giáo dục phải phù hợp với mỗi đối tượng, giáo dục là một khoa học.

Trong thư gửi giáo viên, học sinh cán bộ thanh niên và nhi đồng (ngày 31-10-

1955), Người chỉ ra: "Mỗi một cấp giáo dục cần nhận rơ nhiệm vụ của ḿnh trong lúc

này:

Đại học th́ cần kết hợp lư luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lư luận và

khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực

giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà.

Trung học th́ cần đảm bảo cho học tṛ những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết

thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không

cần thiết cho đời sống thực tế.

Tiểu học th́ cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu

lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ g̣ ép

thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn, phải đặc biệt chú ư giữ ǵn sức khỏe của các

cháu"1.

Theo Người: Giáo dục nhi đồng là một khoa học, do vậy, cách dạy trẻ phải giữ

toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng, chớ nên làm

cho chúng hóa ra những người già sớm. Nhiều thư do các cháu gửi cho Bác Hồ viết như

người lớn viết; đó là một triệu chứng già sớm nên tránh. ở bậc tiểu học, cách dạy phải

nhẹ nhàng vui vẻ, chớ g̣ ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn.

V́ vậy, phải biết kết hợp học tập với việc chơi, dạy từ dễ đến khó. Với trẻ nhỏ,

Người cho rằng: "Trong lúc học, cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm

cho chúng học. ở trong nhà, ở trường học, ở xă hội, chúng đều vui đều học. Muốn vậy

th́ các ban phụ trách nhi đồng cần phải liên lạc mật thiết với cha mẹ và thầy giáo của

nhi đồng"2. Với thanh niên th́ phải chuyên tâm học hành và công tác, nhưng cũng cần

có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên...

Trong vui chơi cũng cần có giáo dục. Cần có những thứ vui chơi văn hóa, thể dục có

tính chất tập thể và quần chúng.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 212.

1. Sđd, t. 8, tr. 81,

2. Sđd, t. 5, tr. 712.

132

Theo Hồ Chí Minh, thực hiện giáo dục không thể tùy tiện... Giáo dục cũng phải

theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm nhưng không được vội vàng. Làm phải có kế

hoạch, có từng bước. Việc ǵ cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ

thấp dần dần đến cao. Một chương tŕnh nhỏ mà thực hành được hẳn hoi, hơn là một trăm

chương tŕnh to tát mà làm không được.

- Giáo dục phải gắn liền với xă hội, học đi đôi với hành.

Giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục. Người nói: "Chúng ta

phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc"1.

Tháng 9-1945, trong Thư gửi các học sinh, Hồ Chí Minh viết: "Đối riêng với các em

lớn... phải sẵn sàng mà chống quân giặc cướp nước, đấy là bổn phận của mỗi công dân.

Các em lớn chưa hẳn đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng

nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen

với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc pḥng thủ đất

nước"2. Với các em nhỏ, Người khuyên cứ từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội, giúp

nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần cả đội đem nhau đi giúp đồng bào. Trong kháng

chiến, Hồ Chí Minh chủ trương cần có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc.

Người yêu cầu:

1. Phải sửa đổi triệt để chương tŕnh giáo dục cho phù hợp với sự nghiệp kháng

chiến và kiến quốc.

2. Muốn như thế chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc cho các trường.

Ngày 31-8-1960, trong thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường

và các lớp bổ túc văn hóa, Người nhắc nhở: "Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị

của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân"3.

- Giáo dục phải phối hợp nhà trường - xă hội - gia đ́nh.

Hồ Chí Minh khẳng định: Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, c̣n cần có

sự giáo dục ngoài xă hội, trong gia đ́nh để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường

được tốt hơn. Ngày 31-10-1955, khi miền Bắc đă giải phóng, Hồ Chí Minh viết: "Tôi

cũng mong các gia đ́nh liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo dục và

khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân

dân"4. Các đoàn thể là một yếu tố quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ, nhất là Đoàn

thanh niên. V́ vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu: Trường học, gia đ́nh và đoàn thể thanh niên

1. Sđd, t. 5, tr. 462.

2. Sđd, t. 4, tr. 33.

3.Sđd, t. 10, tr. 190.

4.Sđd, t. 8, tr. 81.

133

cần phải chú ư đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của

thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn nắn, sửa chữa. Trường học, gia đ́nh và đoàn

thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh niên.

- Thực hiện dân chủ, b́nh đẳng trong giáo dục.

Hồ Chí Minh dạy: Trong trường, cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và tṛ

cùng nhau thảo luận, ai có ư kiến ǵ đều thật thà phát biểu. Điều ǵ chưa thông suốt, th́

hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng tṛ phải kính thầy, thầy phải quư tṛ, chứ không

phải là "cá đối bằng đầu". Đồng thời thầy và tṛ cần giúp đỡ những anh chị em phục vụ

cho nhà trường. Các anh chị em nhân viên th́ nên thi đua sao cho cơm lành canh ngọt

để cho học sinh ăn no, học tốt. "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát

huy đầy đủ dân chủ xă hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ

giữa thầy và thầy, giữa thầy và tṛ, giữa học tṛ với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà

trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó"1.

- Giáo dục phải gắn liền với thi đua.

Hồ Chí Minh khuyên: "Đồng bào ta đang có phong trào thi đua sôi nổi: "Đại

phong", "Duyên Hải", "Ba nhất", "Thành công". Vậy, các nhà trường cũng nên phát

động một phong trào thi đua "2 tốt" - tức là dạy thật tốt, học thật tốt". Với học sinh,

Người nói: "các cháu nên thi đua, thi đua học tập, thi đua trong mọi việc để trở nên

những nhi đồng có tổ chức, có kỷ luật, có sáng kiến, có lực lượng"2.

5. Vai tṛ của các thế hệ đi trước, của thầy giáo trong việc bồi dưỡng

thế hệ trẻ

- Hồ Chí Minh khẳng định, giáo dục thế hệ trẻ phải thực hiện phương pháp nêu

gương.

Hồ Chí Minh yêu cầu không chỉ học tập trong nhà trường mà c̣n học tập qua các

gương sản xuất, chiến đấu. Khi nói với học sinh trường Đại học nhân dân, Người nói:

"Trường này là Trường đại học nhân dân, các cháu học với các thầy giáo, đồng thời

phải học nhân dân. Trong bộ đội ta, trong dân công và những ngành hoạt động khác, có

nhiều thanh niên gương mẫu... Mong các cháu noi theo những thanh niên kiểu mẫu ấy...

để xứng đáng là lớp đầu tầu của Trường đại học nhân dân, để rèn luyện thành chủ nhân

xứng đáng tương lai của nước nhà"1. Trong nhà trường, thầy nêu gương cho tṛ. Hồ Chí

1. Sđd, t. 12, tr. 403.

2. Sđd, t. 7, tr. 561.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 456.

134

Minh nói: "Tri thức phải dễ hiểu, dễ nhớ, học mau. Ngoài tri thức phải có đạo đức cách

mạng. Thầy giáo phải làm kiểu mẫu cho các cháu. Làm được như thế là làm tṛn nhiệm

vụ"2. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai tṛ rất quan trọng của thầy cô giáo với sự nghiệp

trồng người, coi nghề thầy giáo là rất quan trọng, rất vẻ vang. Theo Hồ Chí Minh, "Nhiệm

vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, v́ nếu không có thầy giáo th́ không có giáo

dục"3. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ con em nhân dân, th́ làm sao xây dựng chủ nghĩa

xă hội được. V́ vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang.

- Phải xây dựng đội ngũ những "người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy

giáo".

Về phẩm chất của người thầy, Hồ Chí Minh yêu cầu:

+ "Phải thật thà yêu nghề ḿnh";

+ "Phải có đạo đức cách mạng. Phải có chí khí cao thượng, phải "tiên ưu hậu lạc"

nghĩa là khó khăn th́ phải chịu trước thiên hạ, sung sướng th́ hưởng sau thiên hạ. Đấy

là đạo đức cách mạng";

+ "Phải yên tâm công tác";

+ "Phải thật thà đoàn kết";

+ "Phải thương yêu các cháu như con em ruột thịt của ḿnh";

+ "Phải luôn luôn ra sức thi đua công tác và học tập, thật thà phê b́nh và tự phê

b́nh để cùng nhau tiến bộ măi".

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau

không chỉ thể hiện t́nh cảm yêu thương vô bờ bến và sự chăm lo của Người đối với thế

hệ trẻ, mà c̣n là một nội dung quan trọng trong hệ thống các quan điểm lư luận của

Người. Việc nghiên cứu quán triệt quan điểm của Người về chăm lo bồi dưỡng thế hệ

cách mạng cho đời sau là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành, mọi cán bộ, đảng viên

trong các lĩnh vực, nhưng trước hết là của thanh niên, học sinh trong các nhà trường.

Đối với thanh niên, học sinh, cùng với việc học tập tốt các môn học lư luận Mác -

Lênin, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng để trang bị cho ḿnh thế

giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng, giúp cho việc học tập trong nhà trường

được tốt, đồng thời chuẩn bị hành trang cần thiết cho cuộc đời lao động và học tập

không ngừng, cống hiến được nhiều hơn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân

tộc.

2, 3. Sđd, t. 8, tr. 184.

135

Chương I:

Chương II:

Chương III:

Chương IV:

Chương V:

Chương VI:

Chương VII:

Mục lục

Nguồn gốc, quá tŕnh h́nh thành và phát triển, đối tượng,

nhiệm vụ và ư nghĩa học tập tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng

giải phóng dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xă hội và con đường

quá độ lên chủ nghĩa xă hội ở Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp

sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam; về

xây dựng Nhà nước của dân, do dân, v́ dân

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, nhân văn, văn hóa

Một số vấn đề về vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí

Minh trong công cuộc đổi mới

Chương tham khảo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách

mạng cho đời sau

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top