tu tuong HCM
Câu 2: Chứng minh rằng sự ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu lịch sử
- Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động.
Trong nước, chính quyền triều Nguyễn từng bước khuất phục tư bản Pháp. Sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp đã biến nước ta từ 1 nước phong kiến độc lập thành 1 nước thuộc địa, nửa phong kiến. Với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc. Xã hội Việt Nam xuất hiện 2 mâu thuẫn cơ bản: mau thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tôc. Để thực hiện công cuộc khai thác thuộc địa thành công thực dân Pháp vẫn duy trì hệ thống tay sai phong kiến bên cạnh phương thức tư bản. Với chính sách khai thác thuộc địa tàn khốc thực dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn cùng, một cổ hai tròng. Nhưng với truyền thống đấu tranh bất khuất, tinh thần yêu nước và đoàn kết dân tộc khắp cả 3 miền Bắc – Trung – Nam, đã có rất nhiều cuộc đấu tranh chống Pháp nổ ra theo những khuynh hướng khác nhau, nhưng cuối cùng đều thất bại và bị dìm trong biển máu, từ cuộc đấu tranh theo hệ tư tưởng Nho giáo của các Nhà Nho yêu nước như: Nguyễn Trung Trực, Trương Định, Đặng Như Mai, Phan Đình Phùng…cho đến phong trào cần vương và các phong trào theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Với sự thất bại của phong trào cần vương đã chấm dứt một thời kỳ đấu tranh yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến. Sau khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất.
Trong chính sách khai thác thuộc địa này, thực dân Pháp thực hiện chính sách mở cửa, khác với chính sách của triều đình phong kiến Nhà Nguyễn là bế quan, tỏa cảng. Cùng với chính sách mở cửa, những làn sóng văn hóa từ bên ngoài có điều kiện xâm nhập vào Việt Nam, trong đó có làn sóng văn hóa của các cuộc cách mạng tư sản như Minh Trị của Nhật Bản, Tân Hợi Trung Quốc, cách mạng tư sản Anh(1640), cách mạng Mỹ(1776), cách mạng Pháp(1789)…Chịu ảnh hưởng bởi các cuộc cách mạng tư sản, phong trào đấu tranh yêu nước Việt Nam lúc này lại mang một màu sắc mới, đó là cuộc đấu tranh theo hệ tư tưởng tư sản, tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học… nhưng tất cả đều thất bại. Phong trào yêu nước Việt Nam đang lâm vào một cảnh khó khăn, khủng hoảng về con đường đấu tranh để giải phóng dân tộc khỏi chủ nghĩa thực dân để giành độc lập dân cho dân tộc
- Quê hương và gia đình:
HCm sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước có truyền thống
Thân phụ: cụ Nguyễn Sinh sắc là một nhà nho yêu nước có cái nhìn cấp tiến, cụ có tư tưởng lấy dân làm gốc, lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cuộc cải cách chính trị xã hội của mình. Chính tấm gương hiếu học, vợt mọi khó khăn, nếp sống giản dị, thanh bạch của môth nhà nho là những nhân tố tác động đến việc hình thành tư tưởng của HCM sau này.
Bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu của Bác là một người phụ nữ tiêu biểu cho những người pn Việt Nam, Với đức tính chịu thương chịu khó, tần tảo, chung thủy và hi sinh cả cuộc đời cho chồng cho con. Thấy được vai trò và công lao của người mẹ sau này Bác đã sớm đề ra tư tưởng GPPN.
Anh và chị của Bác đều là những người tham gia hoạt động cách mạng sôi nổi, bị tù đày nhưng lúc nào cũng thể hiẹn tinh thần kiên trung.
Nghệ Tĩnh quê hương của Hồ Chí Minh là vùng đất địa linh nhân kiệt, đây là quê hương của những Danh nhân văn hóa thế giới, là quê hương của những anh hùng chống giặc như: Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Mai Thúc Loan. Một vùng quê giàu truyền thống cách mạng
Bối cảnh thời đại đầu thế kỷ XX
+ Khi Nguyễn Ái Quốc bước lên vũ đài chính trị Chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, xác lập phạm vi thống trị trên toàn thế giới. Lúc này, không chỉ dừng lại ở sự áp bức giai cấp trong một dân tộc mà mở rộng ra sự áp bức đối với các dân tộc khác. Hầu hết tất cả các nước ở chấu Á, châu Phi và Mỹ la tinh đều trở thành thuộc địa của các nước đế quốc lớn, như: Anh, Pháp, Nhật, Mỹ, Tây Ba Nha, Bồ Đào Nha…
+ Với sự thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga(1917), đã cỗ vũ các phong trào giải phóng các dân tộc trên thế giới, chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực trên thế giới, đánh dấu bước chuyển biến lớn của thời đại – thời đại quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã nêu lên một tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc bị áp bức “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
+ Với sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (3.1919), góp phần quan trọng trong việc giải phóng các dân tộc thuộc địa và sự lớn mạnh của phong trào công nhân ở các nước phương Tây.
Câu 3: Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thuộc địa.
- Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc.
HCM không bàn về vấn đề dân tộc nói chung. Xuất phát từ nhu cầu khách quan của dân tộc VN, đặc điểm của thời đại, Người dành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ ách thống trị, áp bức bốc lột của nước ngoài, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Trong những tác phẩm của Người, đặc biệt những bài có tiêu đề Đông Dương và nhiều bài khác, Người lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bốc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn không thể điều hòa được.
- Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc.
+ Để giải phóng dân tộc cần lựa chọn một con đường phát triển của dân tộc, vì phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi phương hướng phát triển gắn liền với một hệ tư tưởng và một giai cấp nhất định.
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, HCM khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trng bối cảnh thời đại mới là CNXH.
+ Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết sức mới mẽ. Từ một nước thuộc địa đi lên CNXH phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau. Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản VN, HCM viết: “làm tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới xã hộ Cộng Sản” con đường đó kết hợp trong đó cả nội dung dân tộc, dân chủ và CNXH; xét về thực chất chính là con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
+ “Đi tới xã hội Cộng Sản” là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành các cuộc CM chống đế quốc và chống phong kiến cho triệt để. Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Đó cũng là nét độ đáo, khác biệt với con đường phát triển của các dân tộc đã phát triển lên CNTB ở phương tây.
+ Độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa.
- Hồ Chí Minh tiếp cận quyền dân tộc từ quyền con người được xác lập từ giá trị cách mạng thế giới mang lại.
Nhận thức về quyền con người của Hồ Chí Minh là sự kế thừa những giá trị tư tưởng trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Cách mạng Mỹ 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp 1791, trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Như vậy, từ quyền con người mà thành tựu các cuộc cách mạng Mỹ và Pháp đưa lại, Hồ Chí Minh đã nâng lên thành quyền dân tộc, Người khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Từ lý luận về quyền con người mà hai cuộc cách mạng Mỹ và Pháp xác lập, trở thành giá trị phổ biến, khi lý luận xâm nhập vào thực tiễn, cụ thể là thực tiễn của cách mạng Việt Nam đã hình thành một khái niệm mới, đó là quyền dân tộc. Hồ Chí Minh đã nâng quyền con người lên thành quyền dân tộc là hợp với lẽ tự nhiên
- Nội dung của độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc đã trở thành một giá trị thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã kế thừa những truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là ý thức về sự thể hiện chủ quyền của dân tộc, tiêu biểu như Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Như nước Đại Việt ta từ trước; Vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác”. Hay như Lý Thường Kiệt cũng từng khẳng định tương tự: “Sông núi nước Nam vua Nam ở; Rành rành định phận ở sách trời”. Đây là những tư tưởng thể hiện ý thức độc lập tự chủ của dân tộc đã được ghi nhận. Đó là một lẽ tự nhiên.
Kế thừa những tư tưởng đó, khi Việt Nam mất độc lập, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Trong quá trình hoạt động cứu nước tư tưởng về độc lập chủ quyền dân tộc của Hồ Chí Minh là thống nhất trước sau như một. Bao giờ cũng nung nấu một ý chí, quyết tâm để đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đó là một khát vọng cháy bổng của Hồ Chí Minh và độc lập đã trở thành một nguyên tắc bất biến. Nội dung độc lập dân tộc trong tư tưởng HCM bao gồm những nội dung sau:
+Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ
+ Độc lập là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với bình đẳng dân tộc, quyền tự quyết tự lựa chọn con đường phát triển mà không lệ thuộc bên ngoài
+ Nền độc lập dân tộc phải găn với các quyền tự do cơ bản gắn lền với dân chủ + Độc lập phải gắn liền với CNXH
Chính vì khát vọng mang đến độc lập cho dân tộc nên cả cuộc đời của Người đã phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp đó. Khi sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam 1930, Người xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”
Khi trở về trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8(5.1941) và trong thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”[1]. Khi thời cơ thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa đã đến, Người đưa ra quyết tâm “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường sơn này cũng phải giành cho được độc lập dân tộc”. Cách mạng Tháng 8 thành công, Người khẳng định cho thế giới biết khát vọng của dân tộc Việt Nam “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Đối với Hồ Chí Minh, hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”[2]. Những tư tưởng đó đã tạo nên chân lý có giá trị lớn nhất cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.
- Ở các nước đấu tranh giành độc lập dân tộc thì chủ nghĩa dân tộc chân chính vẫn là một động lực lớn của đất nước.
Chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh phát động ở đây, là chủ nghĩa dân tộc chân chính, nó hoàn toàn xa lạ đối lập với chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vị kỷ, hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc sô vanh. Chủ nghĩa dân tộc chân chính là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Khi nhấn mạnh yếu tố cần phát động chủ nghĩa dân tộc, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ điều kiện lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là mâu thuẫn dân tộc là chủ yếu, sự đối kháng giai cấp ở Việt Nam lúc này không diễn ra kịch liệt giống như ở phương Tây. Cho nên, cần phải phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết các giai cấp để làm cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách khéo léo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, phát động chủ nghĩa dân tộc chân chính. Nhưng danh nhân quốc tế cộng sản mà phát động thì chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ trở thành chủ nghĩa quốc tế. Và Người xem đó là một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời.
Nếu các nhà kinh điển cho rằng, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp, thì Hồ Chí Minh vận dụng vào điều kiện mới của Việt Nam và khẳng định chủ nghĩa dân tộc là động lực quyết định thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Câu 4: Phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất và đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội
a) Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức và nhân văn.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa và con người Việt Nam.
b) Bản chất và đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội
Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất của chủ nghĩa xã hội là thống nhất với các nhà kinh điển. Bằng thực tiễn chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vào thời điểm khác nhau Người đã nêu bản chất của chủ nghĩa xã hội thông qua các cách định nghĩa khác nhau là:
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như là một chế độ hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống: Làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, mọi người đều có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Mục tiêu là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội là một mặt nào đó (kinh tế, chính trị…). Nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta. Người viết:… “lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên trừ những người già cả, đau yếu và trẻ em…”.
- Hồ Chí Minh tiếp cận bằng cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: không có người bóc lột người, ai cũng phải lao động, có quyền lao động; thực hiện công bằng, bình đẳng… “là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng tự do”, “là đoàn kết, vui khoẻ”…
Từ những khái quát đó, chúng ta có thể thấy, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh chủ nghĩa xã hội trên các phương diện như:
+ Chủ nghĩa xã hội là một chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ.
+ Chủ nghĩa xã hội là một chế độ có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật. Nền tảng kinh tế là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, không còn người bóc lột người
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng hợp lý. Có hệ thống các quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn bóc lột, áp bức, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong sự phát triển giữa xã hội và tự nhiên
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa và đạo đức.
+ Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Câu 5: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam
a) Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có những nét rất đặc sắc vì đây không chỉ là tư tưởng thuần tuý mà tư tưởng đó đã được hoá thân vào cương lĩnh, đường lối, chiến lược nên có thể gọi là chiến lược đại doần kết. Vì đây là vấn đề có tinh xuyên suốt qua các giai đoạn cách mạng, lâu dài, sống còn, vì nó có tinh nguyên tắc, có hệ quan điểm, hệ giải pháp được đưa vào cuộc sống và thể hiện hết sức sinh động.
- Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh để chiến thắng kẻ thù. Với ý ngfhĩa đó, Hồ Chí Minh đã rút ra một kết luận có tính chân lý, đó là: “Đoàn kết làm ra sức mạnh, Đoàn kết làm ra sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết là then chốt của thành công. Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết; thành công thành công đại thành công. Đoàn kết là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”. Đoàn kết của chúng ta được thể hiện rất rõ là: Toàn dân chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ; một chí: quyết không chịu mất nước và cũng chỉ có một mục đích: quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào khi đụng đầu vào bức tường đó, chúng đều bị thất bại. Nhờ có sự đồng tâm hiệp lực mà với gậy tầm vong và súng hỏa mai lúc đầu, chúng ta đã liên tiếp thắng địch. Nhờ sự đoàn kết mà lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc bị áp bức đã đánh bại cuộc xâm lược của một đế quốc hùng mạnh, đã giành độc lập cho dân tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày, đưa lại quyền dân chủ thực sự cho nhân dân.
b) Đoàn kết dân tộc là mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc
- Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu của Đảng
Tư tưởng này, được Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp năm 1923. Mở đầu Người viết: Chúng ta phải làm gì? Đối với tôi, câu trả lời rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập. Tư tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử cụ thể, đã trở thành chiến lược Đoàn kết của Đảng ta. Sớm nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề năm 1925, Người đã thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đòng chí hội. Đây là tổ chức hạt nhân để sau khi về nước họ quy tụ toàn dân Việt Nam cùng tiến tới đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh nhằm cứu nước nhà.
Người căn dặn cán bộ rằng, chuẩn bị đấu tranh trước hết phải tuyên truyền mạnh mẽ để lôi cuốn đa số quần chúng tham gia. Chính vì vậy mà Người nói, nhiệm vụ huấn luyện của ta là, thứ nhất, là đoàn kết; thứ hai là làm cách mạng kháng chiến để giành độc lập… và điều đó được thể hiện rất rõ trong mục đích của Đảng ta là: Đoàn kết toàn dân phụng sự Tổ quốc, khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh chủ trương không ngừng tăng cường củng cố vững chắc hệ thống chính trị và các tổ chức xã hội làm cho mục đích cuộc cách mạng của dân, do dân và vì dân ngày càng mang lại hiệu quả thiết thực cho toàn dân, đồng thời ngày càng huy động được đông đảo nhất dân chúng, không bỏ sót một ai vào khối Đại đoàn kết toàn dân.
- Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân vì vậy Đảng phải có sứ mệnh tập hợp, giác ngộ, chuyển những đòi hỏi khách quan tự phát của quần chúng thành tự giác
Câu 6: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng và nêu ý nghĩa của quan điểm đó đối với công tác xây dựng Đảng .
Thứ nhất, là nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong học thuyết về Đảng kiểu mới. Nguyên tắc này, vừa bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo của mọi thành viên trong tổ chức, vừa bảo đảm thống nhất ý chí và hành động vì sự nghiệp chung. Nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, cá nhân phải phục tùng đoàn thể để đảm bảo sức chiến đấu của toàn Đảng(tất nhiên, ý kiến cá nhân được tôn trọng và bảo lưu ý kiến). Dân chủ là cơ sở bảo đảm cho tập trung thống nhất. Tập trung dựa trên cơ sở dân chủ làm cho Đảng ta thống nhất ý chí cùng hành động trở thành một tổ chức chính trị tiên phong.
Thứ hai, là nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách
Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Tập thể lãnh đạo, nghĩa là mọi vấn đề đều đưa ra trước chi bộ bàn bạc thảo luận để cùng nhau giải quyết, một vấn đề có nhiều ý kiến, nhiều người sẽ cho nhiều ý kiến hay. Khi đã bàn bạc đi đến thống nhất, thì giao cho một người phụ trách để tránh tình trạng trong chờ, ỷ lại làm cho công việc không trôi chảy. Lãnh đạo mà không tập thể thì dễ dẫn đến tệ bao biện, chuyên quyền độc đoán.
Thứ ba, là nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Nguyên tắc này là vũ khí sắc bén để làm cho Đảng ta trong sạch vững mạnh, thông qua nguyên tắc này để giúp nhau cùng tiến bộ, tăng cường sự đoàn kết, Người nhắc nhở mỗi cán bộ đảng viên, hàng ngày phải kiểm điểm, tự phê bình sửa chữa như soi gương, rữa mặt hàng ngày. Được như vậy thì trong cơ thể Đảng sẽ không có bệnh mà mạnh khỏe vô cùng. Mục đích của nguyên tắc tự phê bình và phê bình là chỉ ra khuyết điểm, sữa chữa khuyết điểm để cùng nhau tiến bộ. Cho nên, khi phê bình đồng chí mình, thì trước hết phải tự nhận lấy khuyết điểm của mình trước. Hồ Chí Minh cũng đặc biệt lưu ý, khi phê bình không được thêm, không được bớt, không phải bới lông để tìm vết, để nhằm mục đích nói xấu, hay hạ bệ đồng chí mình. Để cho tự phê bình và phê bình có hiệu quả, Hồ Chí Minh yêu cầu, khi phê bình phải hợp với hoàn cảnh, phải có nghệ thuật và đặc biệt là phải có văn hóa. Phê bình phải trên tinh thần tình đồng chí, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Thứ tư, là nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác
Đây là sức mạnh to lớn của Đảng. Kỷ luật phải do lòng tự giác của mỗi đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng. Việc đề cao kỷ luật Đảng đối với mỗi cán bộ đảng viên từ trên xuống dưới là điều kiện tăng thêm uy tín và sức mạnh của Đảng. Hồ Chí Minh mỗi đảng viên phải phục tùng kỷ luật Đảng vô điều kiện, tất cả các đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng. Chấp hành kỷ luật Đảng, là tất cả mọi đảng viên đều nói và làm đúng theo Nghị quyết của Đảng.
Thứ năm, là nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng
Đoàn kết theo Hồ Chí Minh là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Người căn dặn các đồng chí đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Để thực hiện đoàn kết, Người yêu cầu phải thực hiện dân chủ nội bộ, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình thằng thắn nghiêm túc. Đối với Hồ Chí Minh, là cán bộ đảng viên, chúng ta không chỉ có nhiệm vụ đoàn kết trong Đảng mà còn phải đoàn kết rộng rãi trong xã hội và đặc biệt là phải có nhiệm vụ thực hiện đoàn kết giữa các đảng anh em trên thế giới, nối lại sự đoàn kết giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên xô, trên tinh thần phê bình có tình có lý được xác lập trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin.
2. Ý nghĩa của các nguyên tắc đối với công tác xây dựng Đảng hiện nay
- Định hướng cho công tác tổ chức, sinh hoạt Đảng, đảm bảo cho Đảng ta thật sự là một đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn mới.
- Xác định rõ các vấn đề trong tổ chức, sinh hoạt Đảng: Mở rộng dân chủ gắn liền với tăng cường kỷ cương; thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình; tăng cường trách nhiệm của cá nhân đảng viên trong giai đoạn mới
Câu 7: Phân tích định nghĩa của Hồ Chí Minh về dân chủ. Làm rõ mối quan hệ về dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Dân chủ là khát vọng muôn đời của nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ được Người kiến giải một cách giản dị, dễ hiểu, Người không định nghĩa dân chủ theo kiểu hàn lâm, bác học nhưng lại phản ánh được chiều sâu giá trị
Cách định nghĩa này của Hồ Chí Minh đã vượt qua những quan niệm thông thường trong nhận thức về dân chủ của các học giả tư sản. Nó khái quát được những giá trị lý luận của hai nền văn hóa Đông, Tây. Định nghĩa này đã nhấn mạnh chủ thể chân chính của chế độ mới là nhân dân. Họ đã trở thành người chủ nước nhà. Đây thực sự là một cuộc cách mạng về nhận thức đối với dân chủ ở Việt Nam. Bằng tư duy sắc sảo với ngôn từ giản dị, Hồ Chí Minh đã đảo lộn lại những tư tưởng dân chủ phong kiến thay bằng một tư tưởng cách mạng hiện đại.
“Dân là chủ” đã khẳng định rõ ràng địa vị người chủ trong chế độ chính trị, trong xã hội và nhà nước thuộc về người dân. Dân là chủ, nó đối lập với nô lệ, những thần dân hay thảo dân trong chế độ phong kiến cũng như thân phận nô lệ trong tình cảnh bị thực dân thống trị.
Nhưng nếu dân chủ chỉ dừng lại ở chỗ là chủ thì chưa hoàn thiện mà còn là “làm chủ”. Làm chủ phản ánh năng lực thực thi dân chủ của người dân. Năng lực đó được biểu hiện ở trình độ văn hóa, bản lĩnh, ý thức, trách nhiệm..., đó là nội hàm của năng lực dân chủ, thể hiện hành vi làm chủ. Chính địa vị người chủ và năng lực làm chủ đã khái quát đầy đủ nhất trong nhận thức về dân chủ của Hồ Chí Minh. Làm chủ, đó là hành động của dân, biểu hiện năng lực thực hành dân chủ, thước đo về trình độ phát triển ý thức dân chủ của dân với tư cách là chủ thể quyền lực, thực hiện sự ủy quyền chân chính của mình vào thể chế chính trị và thể chế nhà nước.
Trên đây là những quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ, trong những quan niệm đó chúng ta có thể nhận thấy chủ thể dân chủ là dân, người dân, nhân dân, đồng bào, quần chúng lao động. Người đặc biệt quan tâm đến cốt lõi của dân chủ là lợi ích và quyền lực; Người còn đặc biệt chú ý đến thực hành dân chủ, trước hết là dân chủ trong Đảng, rồi đến dân chủ trong Nhà nước đặc biệt là trong hoạt động của bộ máy hành pháp, đó là Chính phủ.
2. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
Dân chủ được Hồ Chí Minh đề cập đến một cách toàn diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó chủ yếu Người đặc biệt chú trọng đến ba lĩnh vực quan trọng nhất, đó là: Dân chủ trong chính trị, dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong văn hóa, tư tưởng.
Thực hiện dân chủ trong chính trị Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến việc thực hiện dân chủ trong Nhà nước, trong Đảng và trong các tổ chức chính trị - xã hội khác.
Dân chủ trong kinh tế theo Hồ Chí Minh là để đảm bảo quyền làm chủ về kinh tế của người lao động, của nhân dân. Điểm cốt lõi của dân chủ trong kinh tế là lợi ích. Thực hiện dân chủ trong kinh tế thì Chính phủ nhằm phục vụ lợi ích cho nhân dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, Nhà nước phải lo làm lợi cho dân. Để người dân thực sư làm chủ về kinh tế, theo Hồ Chí Minh phải thực hiện phân phối công bằng và hợp lý.
Dân chủ trong văn hóa, tư tưởng, đó là phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Phải xây dựng nền văn hóa mới đảm bảo tính dân tộc, khoa học và đại chúng. Trong chế độ dân chủ, Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện tự do tư tưởng, tôn trọng ý kiến của mọi cá nhân.
Mối quan hệ dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội(giữa dân chủ trong chính trị với dân chủ trong kinh tế và văn hóa, tư tưởng). Dân chủ trong chính trị đóng vai trò đặc biệt quan trọng, dân chủ trong kinh tế là quyết định, dân chủ trong văn hóa tư tưởng là cần thiết và cấp bách. Ba lĩnh vực này tạo ra một mối quan hệ mật thiết hữu cơ không thể tách rời và không được xem nhẹ lĩnh vực nào.
Câu 8: Phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ đó rút ra ý nghĩa đối với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Việt Nam hiện nay
Nhà nước của dân
Đó là một Nhà nước thể hiện đầy đủ tư tưởng bao nhiêu quyền hạn đều của dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, nguồn gốc của quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Điều 1 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Năm 1946) nói: Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.
Điều 32, viết: Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết... thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, trong nhà nước của dân, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, mà trước hết là quyền bầu ra nhà nước, bầu ra chính quyền các cấp. Nhà nước chỉ là tổ chức do dân lập ra để thực hiện quyền lực nhân dân. Chủ trương tổng tuyển cử của Hồ Chí Minh thể hiện rõ tinh thần đó: “Tổng tuyển cử là một dịp để cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà; do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là một chính phủ của toàn dân”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân không chỉ bao hàm ý nghĩa nhà nước do dân tín nhiệm bầu ra, mà còn là dân phải kiểm soát nhà nước. Người đã từng nhắc nhở: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ thật trung thành, tận tụy của nhân dân ta”. Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Nhà nước của dân thì mọi người dân là chủ, người dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là công bộc của dân.
b) Nhà nước do dân Nhà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của mình, nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó lại do dân phê bình xây dựng, giúp đỡ. Do đó Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ nghĩa là khi cơ quan nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn nó. Hồ Chí Minh khẳng định: mỗi người có trách nhiệm ghé vai gánh vác một phần vì quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Nhà nước do dân phản ánh mối quan hệ giữa nhân dân với nhà nước, Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng, còn nhân dân mà không có chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường”; lực lượng bao nhiêu đều ở dân hết, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Nhà nước do dân tức là công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân. Do đó phải phát huy được vai trò của mặt trận, các đoàn thể trong công tác quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước muốn điều hành quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào lực lượng của dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là “dân tự làm, tự lo thông qua các mối quan hệ xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải do nhà nước bao cấp, lo thay cho dân. Chức năng của nhà nước là điều hành vĩ mô, Chính phủ chỉ giúp kế hoạch, cổ động”. CHính vì vậy mà nhà nước do dân là nhà nước tin dân và dân tin nhà nước.
c) Nhà nước vì dân
Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân.
“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,
Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”
Nhà nước vì dân là nhà nước làm lợi cho dân, theo Hồ Chí Minh không chỉ làm lợi cho dân, mà còn phải yêu dân, kính dân “chúng ta phải yêu dân thì dân mới yêu chúng ta”. Nhà nước vì dân là nhà nước mọi chủ trương chính sách, mọi quy định của pháp luật từ trung ương xuống địa phương đều phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân , cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, cả lợi ích cá nhân và tập thể và xã hội trong sự kết hợp hài hòa. Nhà nước vì dân phải “làm cho dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân co chỗ ở; làm cho dân có học hành”. Nhà nước vì dân là nhà nước có trách nhiệm và chịu trách nhiệm trước dân, Người nói: “Nếu để dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu để dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu để dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi”. Nhà nước vì dân là nhà nước sống trong lòng dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
+ Ý nghĩa
- Quan điểm của Hồ Chí Minh trở thành cơ sở lý luận để xây dựng một nhà nước thật sự dân chủ, của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam
- Nhà nước là công cụ làm chủ của nhân dân; mở rộng dân chủ nhất là dân chủ ở cơ sở; đảm bảo thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân; mọi chính sách phải hướng vào cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân
Câu 9: Phân tích nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục.
Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến (kinh viện, xa thực tế, coi sách của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức...) và nền giáo dục thực dân (ngu dân, đồi bại, xảo trá, nguy hiểm hơn cả sự dốt nát).
Người quan tâm xây dựng nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập. Nền giáo dục này được hình thành từ những năm hai mươi, thực sự ra đời từ Cách mạng Tháng Tám thành công và phát triển cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hồ Chí Minh xác định, xây dựng nền giáo dục mới là một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, vì nó góp phần làm cho dân tộc ta xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục:
- Mục tiêu của văn hóa giáo dục để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng
giáo dục: Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; mở mang dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con người. Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Giáo dục nhằm đào tạo lớp người có đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng, làm cho nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
- Cải cách giáo dục bao gồm xây dựng chương trình, nội dung dạy và học hợp lý,
phù hợp với các giai đoạn cách mạng. Nội dung giáo dục phải toàn diện: văn hóa, chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động... Các nội dung đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Học chính trị là học chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cách học phải sáng tạo, không giáo điều. Học để nắm các quan điểm có tính nguyên tắc, phương pháp luận
- Phương châm, phương pháp giáo dục:
- Phương châm bao gồm: học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế; học tập kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội; thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người. Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục. Giáo dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; giáo dục phải dùng phương pháp nêu gương; giáo dục phải gắn liền với thi đua.
- Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên vì không có giáo viên thì không có giáo dục. Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất yêu nghề; phải có đạo đức cách mạng; phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương pháp. Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục, phải học thêm mãi, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học.
Câu 10: Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng.
Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, xong có nội dung hạn hẹp. Trung với vua, hiếu với cha mẹ, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận dụng và đưa vào nội dung mới. Hồ Chí Minh đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và vượt trội. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị- đạo đức cho mỗi người Việt Nam.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
- Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
- Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
- Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung của hiếu với dân là:
- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
- Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
* Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; Không xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi, theo Hồ Chí Minh Cần phải đi liền với Kiệm, cần mà không kiệm cũng giống như gió vào nhà trống, thùng không đáy, và một dân tộc biết cần, biết kiệm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, một dân tộc văn minh tiến bộ.
Liêm là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là:... cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Cụ Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.
Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc.
Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người.
Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử thách : Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục.
* Yêu thương con người
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.
* Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của thời đại hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top