tự tình 2

                 "Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn, tiếng nói của những người phụ nữ ấy: những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay". Những tiếng lòng ấy trong thơ Hồ Xuân Hương là những tiếng nói tâm tình của người phụ nữ. Không phải là người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là người phụ nữ bình thường, người phụ nữ có nhiều bất hạnh trong cuộc sống. Nhưng nhìn chung tiếng nói ấy chung quy cũng chỉ là những tiếng kêu thương thất vọng của người phụ nữ trong xã hội xưa về một một số phận hồng nhan bạc mệnh, về những hiện thức bất công đến bẽ bàng. Họ không lặng câm mà chịu đau khổ, mà vẫn nói lên, vẫn kêu lên và điều đó được nữ sĩ Hồ Xuân Hương thay mặt để bộc lộ trong thi phẩm "Tự Tình II "      

                Mở đầu bài thơ, bằng hai câu đề ta đã có thể thấy được nỗi niềm cô đơn, buồn tủi giữa đêm khuya thanh vắng của một tâm hồn thi nhân đa sầu đa cảm:

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

                Khi màn đêm buông xuống, cũng chính là lúc con người thường rơi vào trạng thái có nhiều tâm tư, nỗi lòng, vào ngay lúc này, họ thèm, họ khao khát lấy một người bạn, một người chồng bên cạnh để giải vây,bầu bạn với họ. Thế nhưng bà - một người phụ nữ, đang bơ vơ một mình, lạnh lẽo giữa không gian và trước sự vô thủy vô chung của thời gian. Từng bước đi nó để lại trong lòng người vết hằn của sự cô đơn, và ngay cả không gian dường như cũng lạnh lùng, không dung tha mà để lại những lần tàn phá sau từng bước chân của nó, cái không gian đó không ồn ào náo nhiệt mà chỉ còn tiếng trống canh dồn hối hả, thúc giục như muốn nuốt chửng lấy thời gian. Cái mô típ "văng vẳng" trong thơ của bà Xuân Hương dù có đùa vui thì cũng là mô típ não lòng :" văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng" ( Dỗ người đàn bà chồng chết), nhưng trong Tự Tình II thì nó lại não lòng gấp bội. Ngoài ra, cái mô típ ấy nó còn là sự lo lắng và dường như nhà thơ không chỉ đơn thuần là cảm nhận âm thanh mà còn qua cả thính giác bằng cách lắng nghe thời gian trôi, lắng nghe tiếng lòng đang rạo rực muốn cất lên tiếng nói bất bình trước thời đại.

Qua đó, ta càng cảm nhận được sự gấp gáp, dồn dập của bước đi của thời gian và sự rối bời của tâm trạng nhân vật trữ tình trong tuyệt vọng. Ngỡ rằng, thủ pháp lấy động tả tĩnh sẽ giúp tô màu lên cho bức tranh đầy đượm buồn và bi quan ấy có thể thay đổi và xuất hiện trong một diện mạo mới, với một gam màu tươi sáng và vui tươi hơn. Nhưng thực chất nó chỉ đang làm mọi thứ đang dần đắm chìm trong nỗi ngao ngán. Để rồi khi thời gian vẫn không ngừng trôi qua, nhưng những mối tơ lòng vẫn chưa thể gỡ bỏ để rồi đọng lại trong người phụ nữ là sự bất lực đến bẽ bàng:

" Trơ cái hồng nhan với nước non"

                       Nhờ nghệ thuật đảo ngữ từ "trơ" được đặt lên đầu câu kết hợp nhịp thơ 1/3/3 bất thường như khắc sâu thêm sự bẽ bàng song từ "trơ" thể hiện sự tủi hổ, trơ trụi thì dẫu cho bản lĩnh của HXH đi chăng nữa, nó vẫn mang nỗi đau của HXH, ở đây nó còn đồng thời mang một hàm nghĩa với từ "trơ" thể hiện tâm trạng Kiều bị bỏ rơi không một chút đoái thương:" đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ". Sự kết hợp giữ từ "cái" và hai chữ "hồng nhan" vốn dùng để chỉ nhan sắc của người phụ nữ nay lại đi cùng với từ "cái" thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. Từ đó cho thấy, nghệ thuật đối giữa cái hồng nhan "trơ" với nước non không chỉ là sự phơi phang, dầu dãi mà còn là cay đắng cho số phận. Câu thơ như chì chiết, mỗi lúc khứa sâu hơn vào nỗi đau khôn tả của sự "bạc mệnh" dù câu thơ chỉ nói về một vế "hồng nhan". Vì thế mà ta càng cảm thấu được nỗi xót xa, càng thấm thía, càng ngẫm lại càng nhói đau. Thế nhưng đó không phải là tất cả ở Xuân Hương, trong bà nỗi buồn tủi bao giờ cũng gợi lên một phản ứng tích cực hơn, đó là niềm phẫn uất, một sự can đảm mạnh mẽ dám đứng lên phản kháng. Bản lĩnh trong con người của "Bà Chúa Thơ Nôm" được thể hiện qua từ "trơ" ở ngay câu thừa đề: "Trơ cái hồng nhan với nước non" từ "trơ" ấy còn thể hiện sự bền gan thách đố khi kết hợp với từ "non nước" . Qua câu thơ trên, nó còn khiến t nhớ đến một câu thơ cũng có cùng một hàm nghĩa với chữ "trơ" đó là câu thơ của bà Huyện Thanh Quan:" Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt" ( Thăng Long thành hoài cổ)

                 khi nỗi buồn đã thấm đến tận tâm can thì con người cũng chỉ biết mượn rượu để giải sầu và HXH cũng vậy, nhưng liệu rượu có thực sự là một liều thuốc chữa lành giúp người phụ nữa quên đi tất cả ?:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

                   Dường như chủ nhân của trang viết HXH đã "ngồi nhẫn tàn canh ", ngồi một mình trơ trọi đối diện với đêm khuya, với vầng trăng lạnh " khuyết chưa tròn", một " vầng trăng bóng xế" . Và có lẽ hình ảnh ấy là một hình ảnh ẩn dụ hơn là một hình ảnh tả thực. Vì vô tình nó đã tạo nên sự đồng nhất đến hòa quyện giữa trăng với người,  có lẽ do đó mà câu thơ lúc bấy giờ không còn là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh. Từ "lại" hiện lên như một vòng xoáy không lối thoát khiến cho nhân vật trữ tình không tài nào thoát ra được, tất cả đều nhanh như nó vừa chỉ xảy ra trong chớp nhoáng, say rồi lại tỉnh, mau như một cuộc tình đến rồi cũng tan mau vậy. Hương rượu thoáng đi để lại vị đắng chát nơi đầu lưỡi, hương tình thoáng qua như một trò đùa của con tạo để lại một phận hẩm duyên ôi. Đưa cuộc đời của người phụ nữa chỉ chìm đắm trong chuỗi ngày tẻ nhạt cùng với tâm trạng đầy u uất. Bà chúa thơ nôm tài năng là thật nhưng cũng không kém cạnh về mặt nhan sắc nhưng :

" có tài mà cậy chi tài

chữ tài liền với chữ tai một vần"

                    Hạnh phúc trong cuộc đời của bà chỉ đơn giản là có được một mái ấm gia đình theo đúng nghĩa của nó thế nhưng ước muốn nhỏ bé của người phụ nữ lấy chồng muộn ấy lại không được trọn vẹn, giữa đường đứt gánh, lại còn phải trải qua hai lần làm lẽ, rồi cũng hai lần góa bụa, cứ thế mà người thợ kì tài ấy đã sống một thân một mình trong cảnh đơn côi, người phụ nữ ấy đã bao giờ có được cho mình một vầng trăng viên mãn đâu? Chính vì thế mà vầng trăng hạnh phúc đó chưa bao giờ đến và thuộc về nàng Hương, vầng trăng ấy chỉ có thể là vầng trăng khuyết, trăng xế mà thôi. Dẫu cho vầng trăng ấy có đẹp đến bao nhiêu nhưng rồi " người buồn cảnh có vui bao giờ". Hai câu thơ thực đã khép lại và hé mở thân phận, một cuộc đời của người nữ sĩ qua nghệ thuật tiểu đối đã giúp HXH bày tỏ nỗi lòng đầy xót xa và cay đắng cho chính số phận dở dang, tình duyên lỡ làng, ngang trái của nàng.

                  Và ta được đọc qua lời nhận xét của Tản Đà dành cho thi XH rằng" Trong thơ của HXH có quỷ" bởi lẽ dường như vạn vật trong thơ của bà lúc nào cũng cựa quậy, căng đầy sức sống :

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn

                      Có lẽ rằng giờ đây, qua từng giây phút này, nỗi niềm phẫn uất của XH đã đạt đến cảnh giới để mà lan tỏa ra, bao trùm lấy cảnh vật: " oán hận trông ra khắp mọi chòm " và vẫn tiếp tục tỏa lan ra khắp cả trời đất. Qua đôi mắt của một người nữ sĩ HXH mà dường như những vật vô tri vô giác, nhỏ bé hèn mọn hơn cả " cỏ nội hoa hèn" kia như : "rêu", "đá", mà nó vẫn không hề bị quật cường, không chịu mềm yếu mà lại "xiên ngang mặt đất", những hòn đá vốn đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt lên để "đâm toạc chân mây". Việc sử dụng biện pháp đảo ngữ các động từ mạnh "xiên" kết hợp với từ "ngang" và động từ "đâm" đi cùng với "toạc" đầy độc đáo, được đưa lên đầu hai câu luận, đã làm nổi bật lên không chỉ là sự phẫn uất đơn thuần của đất đá, cỏ cây mà còn là sự phẫn uất của chính tâm trạng nhân vật trữ tình. Hơn thế nữa, ở đây ta còn thấy được sự bướng bỉnh, ngang ngạch, phá phách và dữ dội qua từng câu thơ mang đậm nét rất "xuân hương". Điều đó ta thấy được cũng chính là nhờ việc sử dụng thành phần phụ như các từ làm định ngữ và bổ ngữ như: khóc ti tỉ, vỗ phập phòm, rơi lõm bõm,...như vậy khiến cho thơ của XH bao giờ cũng cựa động, căng đầy sức sống và sáng tạo.

                   Thông qua hai câu luận vừa  rồi, như nói lên chính tính cách của bà vậy, bà là một con người như thế, rất mạnh mẽ và bướng bỉnh, dù cho có rơi vào trạng thái bi thảm nhất nhưng ẩn sâu trong con người nữ sĩ ấy luôn chứa đựng một sức sống mạnh mẽ, một sự khát khao đến cháy bỏng.

                    Và dẫu cho bi kịch có thảm thiết ra sao, cơn say sưa khiến người ta chìm đắm vào cơn mê tỉnh, nhưng rồi cũng sẽ có ngày phải tỉnh lại từ cơn say mà thôi và dù cho ngày đến mấy thì cũng sang đêm, "xuân xanh" biết bao vẫn phải úa tàn và ngang ngạch cũng phải chịu nhường, chấp nhận thua cuộc trước cái xã hội phong kiến đương thời đầy sự mục nát của luật bất thành văn: "trai năm thê bảy thiếp, giá chính chuyên một chồng".

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con

                       Để kết thúc bài thơ bằng việc mở đầu hai câu kết qua từ "ngán" được dùng ngay đầu câu thơ, "ngán" ở đây là ngán ngẩm, chán ngán. Và dường như người cầm cây bút đã quá "ngán", quá chán ngán với nỗi đời của chính mình. Một cuộc đời đầy sự éo le và bạc bẽo gần như không có điểm kết thúc. Kết hợp với xuân đi xuân lại lại, tạo hóa như chơi một vòng quay luẩn quẩn trên chính cuộc đời của bà. Từ "xuân" ở đây mang cả hai nghĩa, vừa là mùa xuân của thiên nhiên vừa là tuổi xuân của con người. Nếu ở mùa xuân thiên nhiên ta biết đến một mùa xuân đi rồi lại trở về với thiên nhiên đất trời, với muôn nghìn hoa lá cỏ cây, thì tuổi xuân lại trái ngược hoàn toàn, tuổi xuân qua là không bao giờ quay trở lại. Trong cụm từ "xuân lại lại" đồng thời cũng ẩn chứa hai ý nghĩa khác nhau, từ "lại" thứ nhất là thêm một lần nữa, từ "lại" thứ hai có nghĩa là trở lại. Chính vì thế mà hai câu thơ như là một tiếng thở dài đầy chua xót, đắng cay và ngán ngẩm về một kiếp hồng nhan bị giam cầm.

                  Đồng thời thể hiện sự chán ngán đến khôn nguôi của nữ sĩ đa sầu đa cảm. Sự chán ngán ấy chính là sự đi không bao giờ trở lại của tuổi xuân, hoặc cũng có thể hiểu rằng thời gian chính là cái gốc sâu xa, là thế lực đối nghịch với cuộc sống của con người đặc biệt là trong tình yêu và tuổi trẻ. Nhưng đến với hình ảnh về một người phụ nữ mạnh mẽ, cá tính như nhà thơ HXH ta lại cảm giác như bà là đang thách thức, dám đối đầu với thời gian để tự tin nở một nụ cười chiến thắng : " Thân này đâu đã chịu già tom". Thế nhưng sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân, khiến cho bà không thể chối cãi và phải thừa nhận một điều thực tế đầy sự phũ phàng.

                  Qua câu thơ "ngán nỗi xuân đi xuân lại lại" khiến cho chúng ta nhớ lại về hai câu thơ của Xuân Diệu cũng mang lại cảm nhận rất quen thuộc, rất giống ở HXH về một một lời đồng vọng :

" Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại "

( Vội Vàng )

                  Song trong câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến được nhà thơ HXH sử dụng khéo léo làm cho nghịch cảnh của nhân vật trữ tình càng éo le hơn : Mảnh tình - san sẻ - tí - con con. Ở đây không phải là " khối tình cọ mãi với non sông " mà là mảnh tình, một mảnh tình vốn đã nhỏ bé, ít ỏi và không được trọn vẹn nay còn phải sẻ ra mà chia, mà đong, mà đếm gần như không còn lại gì. Qua đó mà ta thấy được rằng câu thơ có lẽ được viết ra từ chính tâm trạng của người đã mang thân đi làm lẽ, vì thế mà ta càng xót xa tội nghiệp cho phận liễu yếu đào tơ, mỏng manh của những người phụ nữ sống dưới xã hội phong kiến nói chung và nhà thơ Hồ Xuân Hương nói riêng. Với họ dường như hạnh phúc là một điều gì đó quá đắt đỏ và cao quý dẫu thế đi chăng nữa thì suy cho cùng hạnh phúc của người phụ nữ có được chỉ mỏng manh và nhỏ bé như chiếc chăn quá chật hẹp. Chính vì thế mà hà cớ gì ? trách móc gì người cho máu như HXH khi viết ra hai câu luận đầy ngang tàng, thách thức, và hai câu kết chán chường, buồn tủi. Làm sao mà ta có thể lạnh lùng, có thể nỡ trách gì nữ sĩ, trong khi thời đại bấy giờ vẫn chưa tìm được hướng đi cho lịch sử ?

" kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Năm mười thì họa hay chăng chớ,

Một tháng đôi lần có cũng không "

                             Cuối cùng, để đúc kết lại những nghệ thuật lấy động tả tĩnh, tương phản đối lập, những bút pháp lấy tài tình được HXH khéo léo sử dụng song kết hợp với một số biện pháp nghệ thuật khác như qua cách dùng ngôn ngữ thơ đời thường điêu luyện để gợi lên cho độc giả những hình ảnh ảnh giàu sức tạo hình lẫn giá trị biểu cảm mang đa nghĩa cho từng câu thơ, ngoài ra còn có nghệ thuật đảo ngữ đi cùng với sử dụng mô típ và động từ mạnh đã tạo nên cho bài thơ Tự Tình II của nghệ nhân mang một nét rất " Xuân Hương " và tạo nên một đỉnh cao về thi phẩm Tự Tình II. Từ đó ta có thể thấy rõ được một thế hệ, một con người, một thế hệ rất tài năng, vâng cụ thể chính là nữ sĩ HXH, vì thế mà không tự nhiên bà được mệnh danh là "Bà Chúa Thơ Nôm" hay được nghe đến danh tiếng của bà trong cái tên "võ lâm cao thủ ngữ ngôn".

                     Thật đáng để ca ngợi HXH rằng :" Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương học rộng mà thuần phục, dùng ít chữ mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép mà văn hoa. Thức là một bậc tài nữ " ( Tốn Phong ). Và qua đó khiến cho bài thơ Tự Tình II luôn trường tồn cùng năm tháng cũng như chẳng bao giờ mất đi cái giá trị nhân đạo cao đẹp của nó. Đồng thời thể hiện giá trị hiện thực và bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của một nhà thơ "phụ nữ viết về phụ nữ ".

_________________________________

* mình chỉ muốn nói rằng mọi người cố gắng lên đừng nản lòng nhé, mình hy vọng những bài văn của mình có thể giúp mọi người được nhiều hơn trong quá trình học tập để đạt điểm tối đa hơn nữa, hoặc lấy lại cảm hứng trong môn văn hơn và nếu có gì sai sót thì mong mọi người bỏ qua và nói lên để mình có thể sửa đổi nhé ❤. Cám ơn mọi người đã đọc và dành thời gian cho những bài văn này. Và hy vọng mọi người sẽ dành cho mình chút tình cảm qua việc bình chọn để giúp mình có động lực đăng bài tiếp nè ❤. Cám ơn mọi người đã lắng nghe ạ

Nhớ bình chọn cho mình nhaaaaaaaaa 🥲😘

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top