Thương vợ ( Trần Tế Xương )

" Nào có nghĩa gì cái chữ nho,

Ông nghè ông cống cũng nằm co.

Chi bằng đi học làm thầy phán, 

Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò. "

(Thầy Phán) - Trần tế Xương -

Có lẽ đoạn thơ trên cũng đã phần nào phác họa được phần nào xã hội phong kiến của ta lúc bấy giờ. Và qua các bài thơ của Trần Tế Xương - một con người sống trong nỗi thế thái nhân tình ấy chỉ có thể gác tiếng lòng qua những vần thơ in màu hiện thực. Và hiện thực mà ông gửi gắm trong bài thơ Thương Vợ qua từng câu thơ, từng dòng chữ là việc người phụ nữ trong xã hội xưa không được tôn trọng và bình đẳng. Do đó mà ta rất hiếm khi thấy hay đọc được các bài thơ xưa viết về người vợ, mà người vợ khi còn sống lại càng hiếm hoi hơn nữa. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khóc vợ khi người bạn đời trăm năm đã qua đời. Kể ra cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đã đi vào cõi ngàn thu mới được bước vào địa hạt của thi ca. Bà Tú đã phải trải qua và chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có được niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được đó chính là ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ Ông Tú với tất cả niềm yêu thương và trân trọng của người chồng của mình. 

Cũng chính vì thế mới có câu nói : "Thương vợ là sự ngợi ca đức hi sinh của người phụ nữ và sự thấu hiểu của người chồng" điều này được thể hiện quá rõ ràng trong bài thơ "Thương Vợ", vì thế mà bài thơ  được xem là một trong những bài xuất sắc nhất song cũng là bài thơ cảm động nhất khi mang lời tâm sự tràn đầy tình yêu của ông dành cho bà Tú. Hình ảnh bà Tú còn được nghệ nhân đưa vào làm nhân vật trữ tình như :

" Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười 

Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ "

( Tế sống vợ )

Tình thương sâu nặng của Tú Xương được thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ. Và tình thương ấy ta có thể cảm nhận được qua hai câu thơ đầu :

" Quanh năm buôn bán ở mom sông 

Nuôi đủ năm con với một chồng "

Ngay đầu hai câu thơ, tác giả Tú Xương mang cái danh nghĩa là một người chồng và là người cầm cây bút, ông đã phác họa hình ảnh người vợ của mình được hiện lên trong một hoàn cảnh đầy vất vả, lam lũ. Lúc nào cũng đầu tắt mặt tối với công việc buôn bán, có thể thấy rằng bà là một người phụ nữ chịu thương chịu khó. Hoàn cảnh ấy được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm.  Thời gian " Quanh năm " là chuỗi thời gian liên tiếp ngày này qua ngày khác, năm này qua năm nọ đến chóng mặt mà bà Tú phải gánh trên vai không lúc nào ngưng nghỉ, bất kể là ngày mưa hay ngày nắng. Địa điểm ở "mom sông ", cái doi đất nhô ra ngoài sông ấy chính là nơi đầu sóng ngọn , là một thế đất chênh vênh gợi một cuộc sống đầy cơ cực của người phụ nữ " nuôi đủ năm con với một chồng ". Chỉ qua một từ "đủ" cũng gần như chấm thêm nét bút đẹp đẽ vào chân dung bà Tú - một bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi.

Ngoài ra, còn có một nét độc đáo trong bài thơ này đó là thường thì chẳng ai đếm chồng đếm con bao giờ, song việc bản thân bà Tú nuôi con là việc bình thường thế nhưng ông vì muốn cất lên nỗi chua chát về một gia đình đông con lại có chồng "ăn lương vợ"  mà khiến cho câu thơ đã tự trào lên tạo một nét độc đáo đặc biệt. Nhưng nhìn tinh rồi mới thấy, đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng ấy là cả một tấm lòng không chỉ thương mà còn tri ân vợ. Đồng thời cách nói tách mình riêng, nói riêng ra rất rạch ròi là để ông tự đứng riêng lẻ ra để tri ân chính người vợ của mình. Cách dùng số đếm độc đáo "một chồng" bằng cả "năm con". Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của người. Từ đó cho thấy bà Tú là một người vợ chuẩn mực, đảm đang, luôn ân cần lo lắng, chu đáo cho chồng con.

Qua đó mà góp phần tô đậm thêm về một hoàn cảnh éo le đến trái ngang của bà Tú.

Đến đây, chắc hẳn sẽ có người thắc mắc vì sao Tú Xương thấu hiểu nỗi khổ của vợ mà không giúp được gì :

" Tiền bạc phó cho con mụ kiếm

Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi 

( Tự cười mình )

Vì ngày lúc này đất nước chúng ta đang chìm trong cảnh biển lửa, khói đạn bay tỏa ngợp trời, tỉnh nam kỳ mất trọn trong tay pháp, và ngay sau đó bắc kỳ cũng bị tấn công lần thứ nhất. Đứng trước bối cảnh sục sôi như vậy, Tú Xương cũng như đang ngồi trên đống lửa, trong lòng ông như xuất hiện một ngọn lửa thôi thúc ông nói lên tiếng nói của mình để chống lại chế độ xã hội phong kiến  mục nát và thối rữa này. Vì thế ông đã quyết định đi thi và quyết tâm thi đỗ tú tài - cuộc thi ba năm mới tổ chức một lần (lúc bấy giờ không còn được trọng dụng ). Éo le rằng ông đã thi tổng cộng hết tám lần nhưng lại không thi đỗ.  Chính vì mãi lo học để thi cử nên để hết gánh nặng trong gia đình giao cho một mình bà tú gánh vác. Nhưng không phải vì vậy mà ông vô tâm, mà bằng cách khác ông đã đưa bà Tú bước vào thơ như một cách thể hiện tình cảm của mình dành cho người vợ của mình. 

Thấm thía nỗi vất vả và gian lao của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú :

" Lặn lội thân cò khi quãng vắng 

 Eo sèo mặt nước buổi đò đông"

Hình ảnh con cò trong câu ca dao cổ đã được nhà thơ Tú Xương vận dụng vào:

" Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non "

Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đã tội nghiệp nhưng đến với con cò trong thơ của Tú Xương thì còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ của Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao cổ ) mà còn trong cả cái rợn ngợp của thời gian. 

Kết hợp với đảo ngữ và đưa " lặn lội " lên đầu câu thơ đồng thời thay thế  "con cò" bằng "thân cò " để nhấn mạnh nỗi gian truân, lam lũ của người vợ. Không chỉ vậy, không gian "khi quãng vắng" được tác giả dùng để nói lên cả thời gian và không gian heo hút, rợn ngợp  chứa đầy lo âu và nguy hiểm. Từ láy tượng thanh "eo xèo" chính là âm thanh mua bán, cãi vã. Cho thấy bà Tú đã sống một đời lam lũ, cơ cực nơi mà "mặt nước buổi đò đông ".  Hình ảnh " buổi đò đông " cũng không kém phần lo âu và nguy hiểm hơn với " khi quãng vắng ". Và trong ca dao, người mẹ từng căn dặn con :

" Con đi mẹ dặn câu này

Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua "

Qua câu thơ trên, ta còn hiểu được " buổi đò dông " không chỉ đơn thuần là có những lời phàn nàn, mè nheo, cáu gắt hay là những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy những bất trắc và hiểm nguy. Nhờ biện pháp nghệ thuật đối lập tương phản trong hai câu thơ thực về mặt từ ngữ : "khi quãng vắng" đối với "buổi đò đông", song nó còn thừa tiếp nhau về ý qua nghệ thuật sáng tạo hình ảnh dân gian để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú vốn đã vất vả lại còn đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong cảnh chen chúc làm ăn.

Qua đó ta thấy được từ một người phụ nữ vốn là "em gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ ", giờ đây bà không chỉ phải kiếm cái ăn đủ cho sáu người, mà bà còn phải bươn chải, phải "lặn lội" giữa sự đời và cả chợ đời. Hơn thế nữa, ta còn cảm nhận được sự thấu hiểu và tấm lòng thương xót da diết của Tế Xương với vợ ông.

Dẫu gánh nặng trên vai đè nặng đến thế, cuộc sống vất vả, gian truân đến bao nhiêu thì bà vẫn luôn yêu thương, chăm lo, luôn hết lòng vì chồng vì con  và làm tròn bổn phận là một người mẹ đảm đang và là người vợ hiền trong gia đình: " Cơm hai bữa : cá kho, rau muống - Quà một chiều : khoai lang, lúa ngô " ( Thầy đồ dạy học ). 

Và khi đến với hai câu luận, Tú Xương lại một lần nữa cảm phục sự hi sinh rất mực của vợ, đồng thời còn cho ta thấy tài năng sáng tác của mình :

" Một duyên hai nợ âu đành phận 

Năm nắng mười mưa dám quản công "

Hai câu thành ngữ : " một duyên hai nợ " và " năm nắng mười mưa " mang đậm màu sắc dân gian đã được Tú Xương vận dụng một cách xuất sắc, đối xứng đến hài hòa. " Một duyên hai nợ " ở đây là nói về duyên số, duyên phận về cái gọi là  "nợ đời " mà bà Tú phải gánh vác lấy. " Duyên " thì chỉ có một, nhưng "nợ" thì có những hai, thế mà bà Tú tự ý thức được, không phàn nàn hay than trách ông lấy một câu: "âu đành phận" và "dám quản công", đó không phải là tiếng tặc lưỡi mặc kệ sự đời,  mà là ôm món "nợ" ấy mà âm thầm chịu đựng hy sinh vì chồng con mà lấy làm hạnh phúc.  Và ngay chính bản thân ông cũng biết và tự coi mình là cái "nợ đời" mà bà Tú phải gánh chịu. Từ đó, nhờ cách sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả, gian nan vừa giúp tô đẹp hơn về các đức tính của bà Tú.

Để rồi đến cuối câu thơ Tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét và tự lên án, và nếu ở hai câu thơ đầu Trần Tế Xương đưa ra hình ảnh của bà Tú thì đến hai câu kết, ta lại thấy hình ảnh ông Tú ẩn hiện đâu đó trong từng vần thơ :

" Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không "

Ở hai câu kết này, ta thấy được sự bất mãn trước cái hiện thực bẽ bàng này mà Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi : "cha mẹ cái thói đời ăn ở bạc " một tiếng chửi nhằm tố cáo hiện thực, lên án cái xã hội phong kiến quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ phải chịu quá nhiều những cay đắng vất vả.  Nhưng Tú Xương cũng không hề có ý định đổ vấy cho "thói đời". Sự "hờ hững" của ông đối với vợ con cũng là một biểu hiện của "thói đời" bạc bẽo. Chính cái xã hội " dở tây dở ta" khiến cho đường công danh thi cử của ông gặp nhiều khó khăn, trắc trở, cũng là nguyên nhân sâu xa làm nên sự "hờ hững" này. Thế nhưng, Tú Xương - ông là một nhà nho, đã rất bản lĩnh khi dám sống sòng phẳng với mình, sòng phẳng với đời để thừa nhận mình là "quan ăn lương vợ", là "ăn ở bạc" dẫu cho ở cái xã hội này đã có luật không thành văn bản đối với người phụ nữ : " xuất giá tòng phu " ( lấy chồng theo chồng ) và đối với mối quan hệ vợ chồng "phu xướng, phụ tùy " ( chồng nói vợ theo ) đi chăng nữa thì phải thừa nhận rằng ông thực là một con người rất can đảm, rất có dũng khí khi dám tự nhận khuyết điểm, nhận ra những thiếu sót của bản thân. Một nhân cách như thế chẳng phải là rất đẹp hay sao? . Ngoài ra, thay vì ông  bày tỏ sự tri ân, tình cảm của mình dành cho bà Tú bằng cách trực tiếp qua từng câu thơ, nói lời yêu thương, cám ơn và xin lỗi thì ông lại chọn cách mượn lời bà Tú để trách mình qua đó nói lên tình cảm của ông dành cho bà Tú. 

Một nét mới lạ, một sự thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ dân gian bình dị và gần gũi trong thơ đã được ông gieo thành công vào trong tâm thức của mỗi độc giả từ gốc rễ sâu xa, từ hoàn cảnh riêng mà lên án thói đời bạc bẽo chung trong xã hội lúc bấy giờ.

Như vậy, nhờ thể thơ thất ngôn bát cú đường luật kết hợp cùng ngôn ngữ bình dị đã khắc họa và tô đậm nét hơn về vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn của Bà Tú nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Bài thơ tuy ngắn nhưng lại thể hiện một cách rất chi tiết trong từng nghệ thuật, vớihình tượng thơ hàm xúc, gợi cảm mà nhà thơ dành cho vợ, sự thương mình vi sinh bất phùng thời. " Tú Xương xứng đáng đứng vào hàng những nhà thơ trào phúng lớn của thế giới" (Giáo sư Albert Smit - Anh). Bởi  lẽ khi đặt bút xuống là tự trào cả một thới thế, đó cũng là nỗi thế thái nhân tình bao trùm cả bài thơ bằng việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và trào phúng.


xin lũi vì lười biếng làm kết bài, nhưng hy zọng mọi ng thích và cho mình một bình chọn nha 

🥲❤️😍🤗

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top