Từ Thuốc Tới Thiền

OSHO

Từ Thuốc Tới Thiền

Cách Thiền hỗ trợ cho mạnh khoẻ thể chất và tâm lí

From

Medication to Meditation

How meditation supports physical and psychological health

Người dịch: Ngô Trung Việt

TỪ CHỐI TRÁCH NHIỆM Y TẾ:

Bất kì lời khuyên hay giáo huấn nào

được nêu trong cuốn sách này đều

không có ý định thay thế cho chỉ dẫn

của các bác sĩ điều trị, các nhà trị liệu

tâm lí hay các nhà tâm thần. Nó cũng

không mang nghĩa cung cấp cách

khác cho điều trị y tế chuyên nghiệp.

Cuốn sách này không đưa ra những

chẩn đoán hay cách chữa trị cho bất

kì vấn đề y tế hay tâm lí nào bạn có

thể bị. Trước khi bắt đầu bất kì cách

luyện tập nâng cao có thể là một phần

của cách thiền nào đó, hãy tư vấn với

bác sĩ điều trị của mình.

***************************************

Lời giới thiệu

Chúng ta đã quen thuộc từ bé với quan niệm sống

phải là con người trước hết biết làm chủ thiên nhiên,

làm chủ xã hội và sau đó là làm chủ bản thân mình.

Những lời nói ngắn gọn nhưng lại hàm chứa nhiều điều

mà không phải ai cũng từng hiểu thấu.

Làm chủ thiên nhiên, vâng điều này có thể hình

dung được, cách hiểu thông thường nhất có nghĩa là

làm cho thiên nhiên phải phục tùng ý muốn của con

người, làm ra nhiều sản phẩm, vật dụng cho cuộc sống.

Chúng ta chứng kiến từng ngày những tiến bộ của khoa

học và công nghệ đem tới nhiều sản phẩm cho cuộc

sống, nâng cao cuộc sống. Dường như con người làm

chủ thiên nhiên là điều thật dễ hiểu. Làm chủ xã hội

cũng không phải là khó hình dung ra. Làm chủ xã hội

là con người được tham gia và có ý kiến của mình đối

với công xã bao quanh mình, được đóng góp phần có

giá trị của mình để làm cho xã hội văn minh… Nhưng

rồi mọi sự chấm dứt ở những cái hiểu sơ sơ này mà ít

ai để ý đi sâu thêm để hiểu cho rõ hơn, cuộc sống có

quá nhiều điều bận rộn phải lo toan.

Thế còn làm chủ bản thân mình thì sao? Điều này

nói ra thì dễ nhưng lại ít ai hiểu được tường tận nó như

thế nào. Làm chủ bản thân mình là không tỏ ra giận dữ,

là biết kìm nén những xúc động, phản ứng trào lên từ

bên trong... Đấy là cái hiểu đại khái, mơ hồ như vậy.

Trong thực tế, chúng ta có thể được học và được nghe

nói nhiều về làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội,

nhưng lại rất ít khi được nghe nói và được học về làm

chủ bản thân mình.

Rồi chúng ta đã có thời nghe nói tới việc chống

chủ nghĩa cá nhân, nâng cao tinh thần tập thể. Con

người cá nhân là xấu, quan tâm tới lợi ích của mình là

ích kỉ, và hình ảnh người hết lòng, quên mình vì công

việc chung mới là hình mẫu phấn đấu. Bây giờ thì điều

đó dường như có vẻ xa xôi, phi thực tế, và mọi người

đều đồng ý là quyền lợi chính đáng của mỗi người phải

được tôn trọng. Những điều này dường như có cái gì

đó không rõ ràng và minh bạch ngay trong mỗi chúng

ta mà ít khi được giãi bày, nhìn thấu. Dường như thế

giới bên trong chúng ta với nhiều thứ lộn xộn vẫn chưa

được hiểu một cách tường tận.

May mắn thay một người đương đại với chúng ta,

một người Ấn Độ đã chứng ngộ chân lí, Osho, đã tới

với cuộc sống để đem lại nhiều ý tưởng, nhiều cách

nhìn nhận mới vào bản thân con người, để làm chủ

cuộc sống, làm chủ bản thân, là chính sự tồn tại. Điều

đầu tiên Osho đề cập tới là đảo ngược cách nghĩ bình

thường: trước hết mọi người cần được sáng tỏ về bản

thân mình, cần học cách hiểu bản thân mình, làm chủ

cuộc sống của mình, rồi từ sự sáng tỏ đó mà hoà làm

một với cuộc sống, tham gia vào các hoạt động xã hội

và tự nhiên khác, không từ ham muốn riêng mà hài hoà

với qui luật tổng quát.

Chỉ trên cơ sở tự mình đã thấy rõ ràng những điều

xảy ra trong ý nghĩ, trong tình cảm, trong xúc động,

trong mọi trạng thái của bản thân mình, thì người ta

mới có thể có con mắt sáng tỏ để đi vào các hoạt động

trong xã hội và đi vào thiên nhiên. Việc hiểu rõ bên

trong để đi vào bên ngoài này là cần thiết, bởi vì thông

thường chúng ta có xu hướng đi ra xã hội và thiên

nhiên với hàng loạt điều ngộ nhận, hàng loạt thói quen

bắt nguồn từ truyền thống cũ, từ bản ngã, từ tính ích kỉ

cá thể. Chính sự lẫn lộn đó dẫn đến việc áp đặt những

điều chúng ta cứ nghĩ là đúng lên mọi người xung

quanh, hầu như không mấy khi chúng ta nghĩ lại xem

nó có đúng thật không. Và mọi sự phức tạp của xã hội,

của thiên nhiên và môi trường đều nảy sinh từ đó.

Osho đã nêu ra cho chúng ta rất nhiều phương

pháp để tự quan sát bản thân mình, để nhận ra dấu hiệu

của bản ngã, yếu tố chính làm cho cuộc sống trở thành

nặng nề, khổ sở. Osho cũng chỉ rõ việc thoát ra khỏi

bản ngã và cách suy nghĩ dựa trên nó, tâm trí, là bước

đầu tiên để đưa con người trở về với cái toàn thể, để

hoà nhập với tất cả mọi người. Nhưng việc này là khó

khăn, và người ta phải biết nhìn nhận dần trong mọi

hoàn cảnh. Những bước đầu tiên chính là việc mọi

người tự nhìn nhận về thân thể mình, về vấn đề sức

khoẻ của bản thân mình, để có một quan niệm đầy ý

thức trên bình diện vật chất, thể chất.

Cao hơn nữa, tự mỗi người phải biết nhìn nhận về

thái độ của mình trong mọi mối quan hệ xung quanh,

với mọi người. Người thực sự làm chủ bản thân mình

là người luôn bình thản không bị hoàn cảnh và môi

trường kích thích, không phải kìm nén điều gì. Nhưng

điều đó chỉ có thể đạt được nếu trong lòng người ta

không bị nung nấu bởi quá nhiều thôi thúc, ham muốn.

Do đó thái độ của con người với mọi hoàn cảnh chính

là sự thể hiện việc hiểu biết và làm chủ các ham muốn.

Khi có hiểu biết đó, người ta hành xử ung dung, thuận

theo lí của sự việc diễn ra mà không đi ngược với dòng

chảy cuộc đời.

Osho cũng đã nói rất rõ ràng về thái độ của con

người khi đi vào cuộc sống, để làm cho cuộc sống tốt

đẹp hơn, để cho tâm thức con người phát triển hơn,

nâng cao hơn, không bị những lực vô ý thức bên trong

chi phối. Chính trên cơ sở hiểu thấu mọi sự đang xảy ra

trong thiên nhiên, trong xã hội, mà người ta đi vào các

hoạt động thực tế, tuân theo các qui luật đang diễn ra,

và đóng góp thêm phần tác động của mình để thúc đẩy

xã hội phát triển, cuộc sống văn minh và có hiểu biết.

Con người của thời đại mới phải là con người luôn biết

tự hoài nghi chính bản thân mình để tìm tới cái đích

thực và để đóng góp phần tinh hoa nhất của mình cho

sự phát triển tâm thức, cho sự phát triển xã hội và thiên

nhiên. Thiên nhiên cũng cần được yêu mến và phát

triển qua hành động của chúng ta chứ không thể là đối

tượng bị khai thác chỉ vì quyền lợi của con người.

Thật là may mắn cho những ai được tiếp xúc với

một số quan điểm tư tưởng và tình yêu của Osho, thể

hiện qua những bài nói của ông. Osho bình luận về mọi

tư tưởng và tôn giáo phổ biến trên trái đất cùng ý tưởng

của những người mở đầu ra các tư tưởng và tôn giáo

đó, chỉ để cho bạn đọc thấy một điều rằng con người

đích thực không phụ thuộc gì vào kinh sách cổ cả mà

tự mình phải sáng tạo và xây dựng cho mình con

đường của mình. Nhiều vấn đề của cuộc sống hiện đại

đã được nêu ra để minh hoạ cho những tư tưởng cổ đại

đã có thời bị ngôn ngữ che lấp, bị cách diễn giải không

đúng gây hiểu nhầm. Chính điều này đưa những tư

tưởng và tình yêu của Osho tới gần với con người hiện

đại ngày nay.

Osho không phải là nhà văn, Osho không viết

sách, Osho chỉ nói những bài nói ngẫu hứng, những bài

nói xuất phát từ chiều sâu tâm thức của mình cho

những người bạn gần gũi. Những bài nói đó được ghi

lại và in thành sách, nay có nhiều hơn 650 đầu sách.

Lời của Osho đi sâu vào đông đảo quần chúng chính vì

nó đề cập tới những vấn đề mà con người hiện đại đang

trăn trở trên con đường phát triển tâm thức của mình

trong xã hội ngày nay. Lời của Osho hướng dẫn cho

mọi người đi thẳng vào chính bản thân mình, tìm hiểu

ý nghĩa đích thực của sự phát triển tâm linh là phát

triển và hoàn thiện chính bản thân mình, sống có ý

thức, thoát khỏi mọi chi phối của vô ý thức.

Nhưng có một điều cần lưu ý trước khi đọc điều

Osho nói, chúng ta nên giữ thái độ hồn nhiên như trẻ

thơ để cảm nhận những chân lí quí giá được truyền trao

qua lời. Lời bao giờ cũng hạn hẹp, chỉ nêu ra gợi ý về

cái gì đó, cho nên cần phải nắm được ý nằm sau lời, cái

nằm trong khoảng trống im lặng giữa các lời. Một tâm

trí xét nét theo lời sẽ không thể thu hoạch gì được

nhiều qua những bài nói này. Một tâm trí quá logic sẽ

không thể nào chấp nhận được những điều tưởng

chừng như phi logic đối lập nhau, bởi vì các bài nói

bao giờ cũng có đích cụ thể, dành cho đối tượng cụ thể,

và hoàn cảnh mỗi người lại khác nhau, có khi ngược

nhau. Lời chỉ là công cụ để giúp cho người ta thoát ra

khỏi lời, bay vào chân lí. Và chân lí bao giờ cũng là

cuộc sống đang diễn ra.

Hà Nội, 9/8/2004

******************************************************

Mục lục

Lời nói đầu : Thuốc và Thiền

1. Định nghĩa về mạnh khoẻ

2. Được chữa lành ngụ ý là cái toàn thể

3. Mê tín vào y học

4. Cách tiếp cận mạnh khoẻ khác

5. Chức năng của thầy chữa

6. Thời gian cho chăm sóc, thời gian cho tình yêu

7. Cái chạm chữa lành

8. Thiền và tâm thần học

9. Kính trọng thân thể

10. Gốc rễ của căng thẳng

11. Chìa khoá cho thảnh thơi

12. Dồn nén và quá căng

13. Phiền muộn, bệnh của người giầu

14. Thức ăn và mạnh khoẻ

15. Đau đớn

16. Giấc ngủ

17. Già đi

18. Chết với chân giá trị

19. Bệnh AID

20. Nhìn vào tương lai

21. Sức mạnh chữa lành của tiếng cười

Về Osho

******************************************************

#Lời nói đầu: Thuốc và Thiền

Bài nói của Osho cho Hội y tế Ấn Độ

Con người là bệnh tật. Bệnh tật xảy ra cho con

người, nhưng bản thân con người cũng là bệnh tật rồi.

Đây là vấn đề của con người, và thế nữa, đây là tính

duy nhất của con người. Đây là điều may mắn tốt lành

của con người, và đây cũng là điều bất hạnh cho con

người. Không con vật nào trên trái đất này lại là vấn đề

như vậy, lo âu, căng thẳng, bệnh tật và ốm yếu, theo

cách như con người là vậy. Và bản thân điều kiện này

đã cho con người mọi trưởng thành, mọi tiến hoá, bởi

vì ‘bệnh tật’ có nghĩa là người ta không thể nào hạnh

phúc được với nơi người ta đang hiện hữu; người ta

không thể nào chấp nhận được điều người ta đang là.

Bản thân bệnh tật này đã trở thành tính năng động của

con người, cái bất ổn của con người, nhưng đồng thời

nó cũng là điều bất hạnh của con người nữa, bởi vì con

người bị khuấy động, bất hạnh, và con người đau khổ.

Không con vật nào ngoại trừ con người có khả

năng trở nên điên. Chừng nào con người còn chưa làm

cho con vật nào đó bị mất trí, nó không tự làm cho nó

điên - nó không trở nên thần kinh. Con vật không điên

trong rừng rậm, chúng trở nên điên trong rạp xiếc.

Trong rừng rậm, cuộc sống của con vật không bị làm

méo mó; nó trở nên bị suy đồi trong vườn bách thú.

Không con vật nào tự tử; chỉ con người mới có thể tự

tử.

Hai phương pháp đã được thử để hiểu và chữa cái

bệnh có tên là con người. Một phương pháp là thuốc,

phương pháp kia là thiền. Cả hai phương pháp này đều

là cách trị cùng một bệnh. Cũng là hay để hiểu ở đây

rằng thuốc xét từng bệnh trong con người một cách

tách biệt - cách tiếp cận phân tích bộ phận. Thiền coi

bản thân con người là bệnh tật; thiền coi chính cá tính

của con người là bệnh tật. Thuốc coi rằng bệnh tật đến

với con người rồi chúng đi - rằng chúng là cái gì đó xa

lạ với con người. Nhưng dần dần khác biệt này đã giảm

đi và y học nữa cũng đã bắt đầu nói, “Không trị bệnh,

chữa người bệnh.”

Đây là phát biểu rất quan trọng, bởi vì điều này có

nghĩa là bệnh tật không là gì ngoài cách sống mà bệnh

nhân đang sống. Mọi người không bị ốm theo cùng

cách. Bệnh tật cũng có tính cá thể của riêng chúng, cá

tính của chúng. Không phải là nếu tôi bị bệnh lao và

nếu bạn cũng bị bệnh lao, thì cả hai chúng ta sẽ là bệnh

nhân thuộc cùng một loại. Ngay cả bệnh lao của chúng

ta sẽ tự hiện diện dưới hai dạng, bởi vì chúng ta là hai

cá thể khác nhau. Cũng có thể xảy ra việc cách trị liệu

chữa khỏi bệnh lao cho tôi không đem lại giảm bớt cho

bệnh lao của bạn. Cho nên sâu bên dưới bệnh nhân mới

là gốc rễ, không phải bệnh tật.

Thuốc chặn bệnh tật trong con người một cách rất

bề ngoài. Thiền hiểu thấu con người từ sâu bên trong.

Nói cách khác có thể nói rằng thuốc cố gắng đem lại

mạnh khoẻ cho con người từ bên ngoài; thiền cố gắng

giữ bản thể bên trong con người được mạnh khoẻ.

Khoa học về thiền không thể trở nên đầy đủ nếu thiếu

thuốc, mà khoa học về thuốc cũng không thể trở nên

đầy đủ nếu thiếu thiền, vì con người là cả thân thể và

linh hồn. Trong thực tế, gọi con người là cả hai thành

phần đó thực sự là sai lầm ngôn ngữ.

Trong hàng nghìn năm con người cứ cho rằng thân

thể và linh hồn của người ta là các thực thể tách biệt.

Cách tư duy này đã làm nảy sinh hai kết quả rất nguy

hiểm. Một kết quả là ở chỗ một số người đã coi rằng

con người chỉ là linh hồn và họ lãng quên mất thân thể.

Những người như vậy đem đến sự phát triển trong

thiền nhưng không trong thuốc - thuốc không thể trở

thành khoa học được; thân thể đã hoàn toàn không

được đếm xỉa tới. Ngược lại, một số người lại coi con

người chỉ là thân thể và phủ định linh hồn. Họ đã làm

rất nhiều nghiên cứu và phát triển trong y dược nhưng

không bước nào hướng tới thiền cả.

Nhưng con người lại đồng thời là cả hai. Tôi cũng

đang nói rằng đây là sai lầm ngôn ngữ: khi chúng ta

nói đồng thời cả hai, điều đó gây ấn tượng rằng có hai

thứ nhưng được gắn với nhau. Không, trong thực tế

thân thể và linh hồn của con người là hai đầu của cùng

một cực. Nếu được nhìn theo viễn cảnh đúng, chúng ta

sẽ không có khả năng nói rằng con người là thân thể

cộng với linh hồn - nó không phải là như vậy. Con

người là tâm-thân hay thân-tâm. Con người là tâm tríthân

thể hay thân thể-tâm trí.

Theo tôi, phần của linh hồn ở bên trong việc hiểu

thấu của giác quan chúng ta là thân thể, còn phần của

thân thể ở bên ngoài việc hiểu thấu của giác quan thì là

linh hồn. Thân thể vô hình là linh hồn, linh hồn hữu

hình là thân thể. Chúng không phải là hai thứ khác

nhau, chúng không phải là hai thực thể tách biệt, chúng

là hai trạng thái rung động khác nhau của cùng một

thực thể.

Thực tế, khái niệm hai mặt này đã làm hại loài

người tệ lắm. Chúng ta bao giờ cũng nghĩ dưới dạng

hai và rồi đi vào các vấn đề. Ban đầu chúng ta hay nghĩ

dưới dạng vật chất và năng lượng; bây giờ chúng ta

không nghĩ thế nữa. Bây giờ chúng ta không thể nói

rằng vật chất và năng lượng là tách biệt. Bây giờ chúng

ta nói rằng vật chất là năng lượng. Thực tế là ở chỗ

việc dùng ngôn ngữ cũ đang tạo ra khó khăn. Thậm chí

nói rằng vật chất là năng lượng cũng không đúng. Có

cái gì đó - ta hãy cứ gọi nó là X - cái được thấy ở đầu

này là vật chất trong khi thấy ở đầu kia là năng lượng;

chúng không phải là hai. Chúng là hai dạng khác nhau

của cùng một thực thể.

Tương tự thân thể và linh hồn là hai đầu của cùng

một thực thể. Ốm bệnh có thể bắt đầu từ một trong hai

đầu này. Nó có thể bắt đầu từ thân thể và đạt tới linh

hồn; trong thực tế, bất kì điều gì xảy ra trong thân thể,

rung động của nó cũng được cảm thấy trong linh hồn.

Đó là lí do tại sao đôi khi việc xảy ra là một người

được chữa khỏi bệnh về thể chất nhưng người đó vẫn

cứ cảm thấy ốm. Bệnh đã rời khỏi thân thể; bác sĩ nói

không còn bệnh nữa, nhưng bệnh nhân vẫn cảm thấy

ốm và từ chối tin rằng mình không bệnh. Tất cả các xét

nghiệm và kiểm nghiệm đều chỉ ra rằng về mặt lâm

sàng mọi sự đều ổn cả, nhưng bệnh nhân vẫn cứ nói

rằng người đó không cảm thấy khoẻ.

Kiểu bệnh nhân này thực sự làm phiền bác sĩ nhiều

lắm, bởi vì tất cả các xét nghiệm đều chỉ ra rằng không

có bệnh. Nhưng không có bệnh không có nghĩa là bạn

mạnh khoẻ. Mạnh khoẻ có tính tích cực riêng của nó.

Không có bệnh chỉ là trạng thái phủ định. Chúng ta có

thể nói rằng không có gai, nhưng điều đó không có

nghĩa là có hoa; rằng không có gai chỉ nêu ra việc thiếu

vắng gai. Nhưng hiện diện của hoa lại là vấn đề khác.

Y học cho tới giờ vẫn không có khả năng đạt tới

điều gì theo chiều hướng về mạnh khoẻ là gì. Toàn bộ

công việc của nó đã theo chiều hướng về bệnh tật là gì.

Nếu bạn hỏi y học về bệnh tật, nó cố gắng đưa ra các

định nghĩa, nhưng nếu bạn hỏi nó mạnh khoẻ là gì thế

thì nó cố gắng đánh lừa bạn. Nó nói rằng khi không có

bệnh, thế thì bất kì cái gì còn lại cũng đều là mạnh

khoẻ cả. Đây là lừa dối, không phải là định nghĩa. Làm

sao bạn có thể định nghĩa mạnh khoẻ trong quan hệ với

bệnh tật được? Điều đó cũng giống như là định nghĩa

hoa trong quan hệ với gai; điều đó cũng giống như là

định nghĩa cuộc sống trong quan hệ với cái chết, hay

ánh sáng trong quan hệ với bóng tối. Nó cũng giống

như là định nghĩa đàn ông trong quan hệ với đàn bà,

hay ngược lại.

Không, cho tới nay y học không có khả năng nói

mạnh khoẻ là gì. Nó chỉ có thể nói cho chúng ta bệnh

tật là gì, một cách tự nhiên. Có lí do cho điều đó. Lí do

là ở chỗ y học chỉ hiểu từ bên ngoài, chỉ hiểu những

biểu lộ thân thể - từ bên ngoài chỉ có thể hiểu được

bệnh tật. Mạnh khoẻ chỉ có thể được hiểu thấu từ cái ở

bên trong con người, bản thể bên trong nhất của người

đó và linh hồn người đó. Theo khía cạnh này từ Hindu

swasthya thực sự tuyệt vời. Từ tiếng Anh ‘mạnh khoẻ -

health’ không đồng nghĩa với swasthya. Mạnh khoẻ

health được bắt nguồn từ chữa lành - healing; ốm bệnh

được liên kết với nó. Mạnh khoẻ có nghĩa là được chữa

lành - người đã phục hồi từ ốm bệnh.

Swasthya không ngụ ý điều đó, swasthya ngụ ý

người đã lắng vào bên trong bản thân mình, người đã

đạt tới bản thân mình. Swasthya có nghĩa là người có

khả năng đứng bên trong mình, và đó là lí do tại sao

swasthya lại không chỉ là mạnh khoẻ. Thực tế không có

từ nào trong bất kì ngôn ngữ nào trên thế giới sánh

được với từ swasthya. Tất cả các ngôn ngữ khác của

thế giới đều có từ đồng nghĩa hoặc là với bệnh tật hoặc

là với vô bệnh tật. Chính khái niệm về swasthya mà

chúng ta đang có là khái niện về vô bệnh tật. Nhưng vô

bệnh tật là cần nhưng không đủ cho swasthya. Còn cần

tới một cái gì đó khác - một cái gì đó từ đầu bên kia

của cực này, từ bản thể bên trong của chúng ta. Thậm

chí nếu bệnh bắt đầu từ bên ngoài, rung động của nó

cũng vang vọng khắp nẻo đường tới linh hồn.

Giả sử tôi ném một hòn đá vào cái hồ tĩnh lặng;

nhiễu loạn xuất hiện chỉ tại nơi hòn đá chạm vào nước,

nhưng gợn sóng được tạo ra đạt tới bờ hồ nơi hòn đá

không chạm tới. Tương tự, bất kì cái gì xảy ra cho thân

thể chúng ta, những gợn sóng của nó đều đạt tới linh

hồn. Và nếu trị liệu y tế lâm sàng chỉ dành cho thân

thể, thế thì điều gì sẽ xảy ra cho những gợn sóng đó đã

đạt tới xa bên bờ kia? Nếu chúng ta ném một hòn đá

vào hồ và nếu chúng ta tập trung chỉ vào nơi đá chạm

nước và chìm xuống, thế thì điều gì sẽ xảy ra cho tất cả

những gợn sóng bây giờ đã có sự tồn tại của chúng độc

lập với hòn đá?

Một khi con người bị ốm, các rung động của bệnh

sẽ đi vào linh hồn, và đó là lí do tại sao thường bệnh cứ

còn dai dẳng thậm chí sau khi thân thể đã được điều trị

và được chữa khỏi. Sự dai dẳng này của bệnh vẫn có

đó bởi vì những rung động của nó, đã vang vọng đi

khắp nẻo đường tới bản thể bên trong nhất của người

đó, và với điều này y học cho tới giờ vẫn chưa có giải

pháp. Cho nên y học bao giờ cũng vẫn còn không đầy

đủ nếu thiếu thiền. Chúng ta sẽ có khả năng chữa khỏi

bệnh nhưng chúng ta sẽ không có khả năng chữa cho

bệnh nhân. Tất nhiên, mối quan tâm của bác sĩ là ở chỗ

bệnh nhân không được chữa khỏi; là ở chỗ chỉ bệnh tật

được chữa khỏi nhưng bệnh nhân bao giờ cũng phải

quay lại!

Bệnh tật cũng có thể có nguồn gốc từ đầu kia. Thực

tế, trong trạng thái con người đang hiện hữu, bệnh tật

đã hiện diện ở đó rồi. Trong trạng thái con người đang

hiện hữu, có rất nhiều căng thẳng hiện diện trong người

đó. Tôi đã nói trước đây rằng không con vật nào lại

không được thoải mái theo cách này, lại bất an theo

cách này, lại trong căng thẳng như vậy - và có lí do cho

điều này. Không con vật nào khác lại có ý tưởng này

về việc trở thành cái gì đó khác. Con chó là con chó;

nó không phải trở thành ai đó. Nhưng con người phải

trở thành sinh linh người, con người chưa phải là một

ai đó. Đó là lí do tại sao chúng ta không thể nói với con

chó rằng nó là con chó còn kém chút ít. Mọi con chó

đều là con chó một cách tương đương nhau. Nhưng

trong trường hợp con người, chúng ta nói một cách hợp

lí với một người rằng người đó vẫn còn thiếu chút ít

mới là con người. Con người chưa bao giờ đuợc sinh ra

trong sự đầy đủ của mình.

Con người được sinh ra trong trạng thái không đầy

đủ; tất cả các con vật khác đều được sinh ra trong sự

đầy đủ của chúng. Điều này không phải là như vậy với

con người. Có một số điều mà người đó sẽ phải làm để

thành đầy đủ. Trạng thái không đầy đủ này là bệnh tật

của người đó. Đó là lí do tại sao người đó lại lo lắng

băn khoăn suốt hai mươi bốn giờ. Không phải là chỉ

người nghèo mới lo lắng bởi vì cái nghèo khó của mình

- đây là cách chúng ta vẫn thường nghĩ. Nhưng chúng

ta không nhận ra rằng khi trở nên giầu có, chỉ mức độ

lo lắng là thay đổi, nhưng lo lắng vẫn còn đó.

Sự thực là ở chỗ người nghèo chưa bao giờ lo âu

như người giầu gặp phải, bởi vì người nghèo ít nhất

cũng có biện minh cho vấn đề của mình - rằng người

đó nghèo. Người giầu thậm chí chẳng có biện minh

này. Người đó thậm chí không thể chỉ ra được nguyên

nhân cho nỗi lo âu của mình. Và khi nỗi lo âu không có

nguyên nhân rõ ràng, nó trở thành khủng khiếp.

Nguyên nhân cho bạn sự giảm nhẹ nào đó, an ủi nào

đó, bởi vì thế thì người ta hi vọng rằng người ta có thể

có khả năng vứt bỏ đi các nguyên nhân. Nhưng khi lo

lắng nào đó phát sinh mà không nguyên nhân nào cả

thế thì khó khăn tăng lên.

Các quốc gia nghèo có nhiều đau khổ, nhưng ngày

họ trở thành giầu họ sẽ nhận ra rằng các quốc gia giầu

cũng có nỗi khổ của riêng họ.

Tôi muốn nhân loại chọn cái khổ của người giầu,

không phải cái khổ của người nghèo. Nếu đấy là vấn đề

về việc chọn khổ, thế thì tốt hơn cả là chọn khổ của

người giầu. Nhưng mãnh liệt của bất ổn sẽ được nâng

cao lên.

Ngày nay, khối lượng bất ổn và lo âu nước Mĩ phải

đương đầu còn lớn hơn bất kì nước nào khác trên thế

giới. Mặc dầu không cộng đồng nào khác đã bao giờ có

khối lượng tiện nghi có sẵn như ở Mĩ ngày nay, thực tế

chính là ở Mĩ lần đầu tiên việc vỡ mộng mới xảy ra.

Lần đầu tiên ảo tưởng đã bị phá vỡ. Con người quen

nghĩ mình lo âu là bởi lí do nào đó. Tại Mĩ, lần đầu

tiên, vấn đề trở thành rõ ràng rằng con người đang lo

âu không phải bởi vì bất kì lí do nào cả; bản thân con

người là nỗi lo âu. Con người phát minh ra lo âu mới

cho bản thân mình. Cá tính có bên trong người đó cứ

liên tục đòi hỏi cái gì đó mà lại không có đó. Cái có đó

cứ trở thành vô nghĩa hàng ngày; cái đã đạt được lại trở

thành vô nghĩa, vô tích sự. Có cố gắng liên tục về

những thứ người ta không có.

Nietzsche đã nói đâu đó rằng con người là cây cầu

bắc ngang giữa hai điều không thể được - bao giờ cũng

hăm hở đạt tới điều không thể được, bao giờ cũng hăm

hở trở thành đầy đủ. Chính từ hăm hở trở thành đầy đủ

này mà tất cả mọi tôn giáo đã được sinh ra.

Cũng sẽ có ích mà để ý rằng đã có thời trên trái đất

này các tu sĩ cũng đồng thời là thầy chữa, lãnh tụ tôn

giáo cũng là thầy thuốc. Ông ta là tu sĩ và ông ta là

thầy thuốc. Và cũng sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên

nếu chúng ta kết thúc với cùng tình huống đó lại vào

ngày mai. Sẽ chỉ có một điểm hơi khác biệt: người là

bác sĩ điều trị sẽ là tu sĩ! Điều này đã bắt đầu xảy ra ở

Mĩ, bởi vì lần đầu tiên sự việc trở nên rõ ràng rằng vấn

đề không phải là một mình thân thể; và sự việc đã sáng

dần ra rằng nếu thân thể hoàn toàn mạnh khoẻ, thế thì

vấn đề lại tăng tính nhiều vẻ, bởi vì lần đầu tiên con

người bắt đầu cảm thấy bệnh đang hiện diện bên trong,

tại cực kia của thân thể.

Các giác quan của chúng ta nữa cũng cần nguyên

nhân. Nếu gai đâm vào chân người ta, chỉ thế thì người

ta mới cảm thấy chân. Chừng nào gai còn chưa đâm

vào chân, người ta vẫn còn không nhận biết về chân.

Khi gai có trong chân, thế thì toàn bộ linh hồn người ta

trở thành giống như mũi tên hướng tới chân; nó chỉ để

ý đến chân chứ không cái gì khác - một cách tự nhiên.

Nhưng nếu gai được lấy ra khỏi chân, thế nữa bản thể

sẽ cần chú ý đến cái gì đó khác. Cứ cho là cơn đói của

bạn được thoả mãn, quần áo tốt có sẵn để mặc, nhà bạn

trật tự gọn gàng, bạn lấy được người vợ mình muốn -

mặc dầu không có thảm hoạ nào trên thế giới lớn hơn

điều này. Vẫn không có kết thúc cho những nỗi khổ

của người lấy được người vợ mình mong muốn. Nếu

bạn không lấy được người vợ bạn muốn, thế thì ít nhất

bạn cũng có thể tìm thấy hạnh phúc nào đó từ niềm hi

vọng. Điều đó nữa bị mất đi khi bạn lấy được người vợ

mình muốn.

Tôi đã nghe nói về một nhà thương điên. Một

người tới thăm nhà thương điên và viên giám thị nhà

thương điên đó đưa anh ta đi thăm một vòng. Trước

một xà lim đặc biệt người này hỏi viên giám thị có gì

sai sót với người đang bị giam. Viên giám thị đáp rằng

người này trở nên điên bởi vì anh ta không thể lấy

được người đàn bà anh ta yêu. Trong một xà lim khác,

người tù đang cố gắng đập vỡ thanh chắn, đấm ngực,

dứt tóc. Khi được hỏi có gì sai với người này, viên

giám thị đáp rằng người này đã lấy được người phụ nữ

người kia không lấy được, và anh ta trở nên điên.

Nhưng bởi vì không thể lấy được người mình yêu nên

người thứ nhất thường giữ ảnh cô ta gần tim mình và

bao giờ cũng hạnh phúc trong điên dại, trong khi người

thứ hai đập đầu vào thanh chắn! May mắn là những

người yêu không lấy được người mình yêu!

Trong thực tế, bất kì cái gì chúng ta không đạt tới,

chúng ta hi vọng về nó và có thể cứ sống trong hi vọng

đó. Một khi chúng ta đã đạt được nó hi vọng của chúng

ta tan tành và chúng ta trở thành trống rỗng. Cái ngày

bác sĩ trị liệu làm cho con người thoát khỏi vấn đề thân

thể mình, ngày đó con người sẽ phải nhận lấy phần

khác của công việc này. Cái ngày con người trở nên

thoát khỏi bệnh tật thân thể mình, cái ngày đó chúng ta

đang trao cho người đó một tình huống mà người đó có

thể trở nên nhận biết bệnh tật bên trong của mình. Lần

đầu tiên người đó sẽ lo lắng bên trong và sẽ tự hỏi rằng

mọi thứ bề ngoài đều ổn thoả, ấy vậy mà dường như

chẳng cái gì ổn thoả cả.

Cũng không ngạc nhiên gì rằng ở Ấn Độ, hai mươi

bốn tirthankaras đều là con vua; Phật đã là con vua,

Rama và Krishna tất cả đều từ hoàng gia. Với những

người này cái bất ổn đã biến mất khỏi mức độ thân thể;

cái bất ổn của họ bây giờ đã bắt đầu từ bên trong.

Y học cố gắng giải phóng con người khỏi bệnh tật

bên ngoài, tại mức độ của thân thể. Nhưng nhớ, thậm

chí có được tự do khỏi mọi bệnh tật, con người vẫn

không trở nên tự do khỏi cái bệnh căn bản của việc là

con người. Cái bệnh của việc là con người đó chính là

ham muốn về điều không thể được. Cái bệnh của việc

là con người đó là không được thoả mãn với bất kì cái

gì, cái bệnh của việc là con người đó là việc làm cho tất

cả những cái người ta đạt được đều thành vô tích sự và

việc gắn ý nghĩa cho bất kì cái gì mà người ta không

có.

Việc chữa cho cái bệnh là con người này là thiền.

Với mọi bệnh tật khác, các bác sĩ đều có cách chữa, y

học có cách chữa; nhưng với cái bệnh đặc biệt này của

việc là con người thì chỉ thiền mới có cách chữa. Y học

sẽ hoàn chỉnh vào ngày chúng ta hiểu phía bên trong

của con người và bắt đầu làm việc với điều đó nữa, bởi

vì theo hiểu biết của tôi, người không thoải mái, người

đang ngồi bên trong chúng ta, đang tạo ra cả nghìn lẻ

một ốm yếu ở mức độ thân thể bên ngoài.

Như tôi đã nói, bất kì khi nào thân thể trở nên ốm

yếu, các rung động, các gợn sóng đều được cảm thấy

trong linh hồn. Tương tự, nếu linh hồn bị bệnh thế thì

các gợn sóng đạt tới mức độ của thân thể.

Đây là lí do tại sao lại có biết bao nhiêu loại liệu

pháp trên thế giới này. Đáng ra thì không nên như vậy

nếu bệnh học là khoa học; thế thì không thể có hàng

nghìn liệu pháp được. Nhưng điều đó lại trở thành có

thể bởi vì bệnh tật của con người có đến hàng nghìn

kiểu. Một số kiểu bệnh không thể chữa được với sự

giúp đỡ của đối trị liệu pháp. Với những bệnh có nguồn

gốc ở phần bên trong con người và đi ra bên ngoài, đối

trị liệu pháp là vô dụng. Với những bệnh bắt đầu từ bên

ngoài và hướng vào phần bên trong, đối trị liệu pháp

rất thành công. Những bệnh đạt tới bên ngoài từ bên

trong không phải là bệnh thân thể chút nào. Chúng chỉ

biểu lộ tại mức độ thân thể. Mức độ nguồn gốc của

chúng bao giờ cũng là tâm lí, hay còn sâu hơn - tâm

linh.

Bây giờ, nếu một người đang chịu một bệnh trong

tâm lí mình, điều này có nghĩa là không thuốc lâm sàng

nào có thể làm giảm nhẹ chút ít cho người đó được.

Trong thực tế thuốc còn có thể có hại, bởi vì nó sẽ cố

làm điều gì đó và trong quá trình này, nếu nó không

làm giảm nhẹ, nhất định nó sẽ gây hại gì đó. Duy nhất

những thuốc không có khả năng gây ra hại là những

thuốc không có khả năng đem lại bất kì sự giảm nhẹ

nào. Chẳng hạn, vi lượng liệu pháp không gây hại cho

ai cả, bởi vì không có bất kì vấn đề giảm nhẹ nào từ nó

cả. Nhưng vi lượng liệu pháp quả có cho sự giảm nhẹ.

Nó không có khả năng tạo ra sự giảm nhẹ nhưng điều

đó không có nghĩa là người ta không được giảm nhẹ.

Nhưng việc có được sự giảm nhẹ lại là một chuyện

khác; tạo ra sự giảm nhẹ lại là một chuyện khác. Hai

chuyện này là những hiện tượng tách bạch. Người ta

quả có được sự giảm nhẹ bởi vì nếu người này tạo ra

bệnh tật ở mức độ tâm lí của mình thì người đó cần

thuốc trấn an nào đó cho nó. Người đó cần thuốc trấn

an nào đó cho bệnh tật của mình, người đó cần an ủi

nào đó, đảm bảo nào đó rằng người đó không ốm, mà

chỉ đang mang cái ý tưởng rằng mình ốm. Điều đó

cũng có thể đạt tới được qua tro của kẻ hành khất nào

đó; điều đó có thể đạt được qua nước thánh của sông

Hằng, vân vân.

Ngày nay rất nhiều thực nghiệm đang diễn ra trên

cái điều bạn có thể gọi là thuốc ảo tưởng, thuốc trấn an.

Nếu mười bệnh nhân đang cùng chịu một bệnh, và nếu

ba người trong số họ được điều trị bằng đối trị liệu

pháp, ba người bằng vi lượng liệu pháp và ba người

bằng thiên nhiên liệu pháp, thế thì ta thấy một kết quả

thú vị: mỗi một trong các liệu pháp này đều ảnh hưởng

tới cùng số phần trăm người cho cả kết quả tốt và xấu.

Không khác biệt nhiều lắm về tỉ lệ. Điều này quả có

tạo ra nguyên nhân nào đó để suy nghĩ. Cái gì đang

diễn ra?

Theo tôi, đối trị liệu pháp là y học duy nhất. Nhưng

vì cái gì đó trong con người là không khoa học, nên

một mình y học sẽ không có tác dụng. Đối trị liệu pháp

một mình nó đối phó với thân thể con người theo một

cách khoa học. Nhưng đối trị liệu pháp không thể chữa

được một trăm phần trăm, bởi vì con người ở bản thể

bên trong của mình là tưởng tượng, bịa đặt, và phóng

chiếu nữa. Thực tế một người mà đối trị liệu pháp

không có tác dụng thì ốm là do một nguyên nhân

không khoa học nào đó. Bị ốm do một nguyên nhân

không khoa học nào đó có nghĩa là gì vậy?

Những lời này có vẻ rất kì lạ. Bạn biết rằng có thể

có cách điều trị y học và cũng có thể có cách điều trị

không y học. Tôi đang nói với bạn rằng cũng có thể có

đau yếu khoa học và đau yếu không khoa học - cách

thức không khoa học để bị ốm. Mọi bệnh tật mà bắt

đầu tại mức độ tâm lí của một người và biểu lộ ở mức

độ thân thể, không thể chữa được theo cách khoa học.

Tôi biết một thanh nữ bị mù. Nhưng chứng mù lại

mang tính tâm lí - thực tế mắt cô ta không bị ảnh

hưởng. Các chuyên gia mắt nói rằng mắt ổn cả, cô gái

này đang lừa mọi người. Nhưng cô gái này không lừa

ai cả, bởi vì thậm chí nếu bạn dắt cô ấy đi vào lửa cô ấy

cũng đi vào lửa; cô ấy sẽ loạng quạng đâm vào tường

và làm vỡ đầu. Cô gái này không lừa; cô ấy thực sự

không thể thấy được bằng mắt mình.

Nhưng bệnh này lại ở ngoài tầm của các bác sĩ.

Cô gái này được đưa tới tôi và tôi cố gắng để hiểu

cô ấy. Tôi đi tới nhận ra rằng cô ấy đang yêu ai đó

nhưng các thành viên gia đình cô ấy cấm cô ấy gặp

người kia. Khi tôi cứ hỏi đi hỏi lại cô ấy, cô ấy đáp

rằng cô ấy không còn muốn thấy bất kì ai khác trên thế

giới này ngoại trừ người yêu của cô. Quyết tâm không

thấy bất kì ai khác ngoại trừ người yêu mình... và nếu

sự mãnh liệt này hiện diện trong quyết tâm, mắt trở

thành mù về mặt tâm lí. Mắt sẽ trở thành mù, mắt sẽ

dừng thấy bất kì cái gì. Điều này không thể hiểu được

bởi việc thấy qua mổ mắt, bởi vì mổ mắt là thông

thường, cơ chế thấy vẫn vận hành. Chỉ người thấy,

người vẫn ở đằng sau mắt mới lẩn đi, mới tự loại bỏ

mình tại đó. Chúng ta kinh nghiệm điều này trong cuộc

sống thường ngày, chúng ta chỉ không nhận biết về nó.

Cơ chế của thân thể vận hành chỉ khi sự hiện diện của

chúng ta có đó đằng sau nó.

Bây giờ ta hãy xét một thanh niên đang chơi khúc

côn cầu, vừa bị thương ở chân. Anh ta bị chảy máu

nhưng anh ta không nhận ra điều đó. Người khác có thể

thấy rằng anh ta bị chảy máu nhưng bản thân anh ta lại

không có ý niệm gì về nó cả. Thế rồi, khi cuộc chơi kết

thúc sau nửa giờ, anh ta túm lấy chân mình và bắt đầu

kêu lên và hỏi khi nào anh ta bị thương. Nó gây đau

lắm. Bây giờ nửa giờ đã trôi qua từ khi anh ta bị

thương. Vết thương ở chân anh ta là thực, cơ chế cảm

giác trong chân anh ta vẫn làm việc hoàn toàn ổn thoả -

vậy tại sao thông tin lại không được chuyển vận đi sớm

hơn? Chú ý của anh ta không có đó với cái chân, chú ý

của anh ta là vào cuộc chơi, và chú ý của anh ta lớn

đến mức chẳng có gì còn lại để chú ý đến chân nữa.

Cái chân phải thường xuyên thông báo cho anh ta - các

bắp cơ, thần kinh phải co giật - chân phải đã gõ vào

mọi cánh cửa có thể, nó phải đã rung chuông báo cho

tổng đài, nhưng người trực tổng đài đang ngủ. Người

đó ngủ say hay người đó đang hiện diện ở đâu đó khác.

Người đó vắng mặt, người đó không có mặt. Khi người

đó trở về sau nửa giờ, thế thì mới có chú ý rằng có vết

thương ở chân.

Tôi bảo gia đình cô ấy ấy làm một điều. Tôi bảo họ

rằng vì cô ấy không được phép thấy người cô ấy muốn

gặp, nên cô ấy đã tự tử một phần - tự tử đôi mắt.

Không có vấn đề gì khác với cô ấy ngoại trừ rằng cô ấy

đã đi vào giai đoạn tự tử một phần. Cứ để cho người

yêu của cô ấy gặp cô ấy. Họ nói, “Điều đó có liên quan

gì tới mắt?” Tôi bảo họ cứ thử một lần xem sao. Và

ngay khi cô ấy được báo rằng cô ấy được phép gặp

người yêu của mình và rằng anh ta sẽ tới lúc năm giờ,

cô ấy tới và đứng ngay cửa. Mắt cô ấy ổn thoả cả!

Không, điều này không phải là lừa dối. Bây giờ,

các thực nghiệm trong thôi miên đã chỉ ra cho chúng ta

rằng không có chỗ cho lừa dối. Điều này tôi nói cho

các bạn từ kinh nghiệm của riêng mình. Nếu một người

bị thôi miên sâu mà được trao cho một hòn đá cuội

thông thường trong tay và được bảo cho biết rằng đấy

là một mẩu than nóng, người đó sẽ hành xử theo đúng

cách người đó sẽ làm với một mẩu than hồng trong tay

mình. Người đó sẽ ném nó đi, người đó sẽ bắt đầu kêu

thét, rền rĩ rằng người đó đã bị bỏng. Cho tới điểm này

điều đó cũng còn dễ hiểu. Nhưng người đó cũng sẽ bị

phỏng rộp trên tay mình - và thế thì khó khăn nảy sinh.

Nếu đơn thuần bằng tưởng tượng rằng có than hồng

trong tay mình mà bạn có thể bị bỏng, thế thì cũng

nguy hiểm mà bắt đầu trị liệu cho những vết bỏng này

ở mức độ thân thể. Việc chữa trị cho những vết bỏng

này nên bắt đầu tại mức độ của tâm trí.

Vì chúng ta chỉ xem xét một đầu của con người,

cho nên chúng ta có khả năng khử bỏ dần những bệnh

tật ảnh hưởng tới thân thể, nhưng đồng thời bệnh bắt

nguồn từ tâm trí lại tăng lên. Ngày nay, thậm chí những

người chỉ nghĩ dưới dạng khoa học cũng đã bắt đầu

đồng ý rằng ít nhất năm mươi phần trăm bệnh tật là do

tâm trí. Điều này không phải như vậy ở Ấn Độ, bởi vì

với những bệnh của tâm trí, trước hết cần phải có một

tâm trí mạnh mẽ. Tại Ấn Độ chúng ta vẫn thấy rằng

quãng chín mươi nhăm phần trăm bệnh tật là của thân

thể, nhưng ở Mĩ sự kiện bệnh của tâm trí đang tăng lên.

Bệnh của tâm trí thông thường bắt đầu từ bên trong

và lan ra bên ngoài; chúng là bệnh tật đi ra, trong khi

những bệnh của thân thể là đi vào. Nếu bạn cố chữa trị

các biểu lộ thân thể của bệnh tinh thần, thế thì lập tức

bạn sẽ thấy các cách thức biểu lộ khác. Chúng ta có thể

có khả năng chấm dứt số lượng nhỏ các bệnh tinh thần

từ một chỗ hay chỗ thứ hai, thứ ba, nhưng nó chắc chắn

sẽ biểu lộ tại chỗ thứ tư hay thứ năm. Nó sẽ cố gắng

biểu lộ từ điểm yếu trong cá tính của cá nhân này. Đó

là lí do tại sao biết bao nhiêu lần mà bác sĩ không

những không thể chữa trị một bệnh mà còn chịu trách

nhiệm cho việc di căn, việc nhân lên các dạng khác

nhau của bệnh đó. Điều có thể đi ra từ mỗi một nguồn

nay bắt đầu đổ ra từ nhiều nguồn khác, bởi vì chúng ta

đã dựng lên con đập tại các vị trí khác nhau.

Theo tôi, thiền là việc chữa tại đầu kia của con

người. Một cách tự nhiên, thuốc phụ thuộc vào vật

chất, các yếu tố hoá chất của chúng; thiền phụ thuộc

vào ý thức. Không có viên thuốc chế sẵn nào cho thiền

cả, mặc dầu người ta vẫn đang cố làm ra. LSD,

mescalin, marijuana - cả nghìn thứ đang được thử.

Hàng nghìn nỗ lực đang được tiếp tục để tạo ra viên

thuốc cho thiền. Nhưng bạn chẳng bao giờ có thể có

viên thuốc cho thiền được. Thực tế, cố gắng làm ra

những viên như vậy cũng là cùng cái tính ương ngạnh

của việc chỉ chữa trị từ mức độ thân thể, của việc làm

cho tất cả mọi việc chữa trị chỉ là từ bên ngoài. Thậm

chí nếu tâm lí chúng ta có bị ảnh hưởng bên trong,

chúng ta vẫn sẽ xử trí từ bên ngoài, chưa bao giờ từ

bên trong. Các chất ma tuý như mescalin và LSD chỉ

có thể tạo ra ảo tưởng về mạnh khoẻ bên trong, chúng

không thể tạo ra nó được. Chúng ta không thể đạt tới

bản thể bên trong nhất của con người qua bất kì

phương tiện hoá chất nào. Chúng ta càng đi sâu hơn

vào bên trong tác động của hoá chất lại sẽ càng kém đi.

Chúng ta càng đi sâu vào bên trong con người, cách

tiếp cận vật chất và vật lí bắt đầu trở thành càng ít ý

nghĩa hơn. Cách tiếp cận phi vật chất, hay chúng ta có

thể nói cách tiếp cận tâm lí, có ý nghĩa ở đó.

Nhưng điều đó vẫn còn chưa đạt tới được cho đến

giờ bởi vì một số định kiến. Điều thú vị là bác sĩ lại là

một trong hai hay ba nghề chính thống nhất trên thế

giới. Các giáo sư và bác sĩ ngành y được xếp vào danh

sách cao nhất trong những người chính thống nhất. Họ

không buông bỏ các ý tưởng cũ một cách dễ dàng. Có

lí do cho điều đó - có lẽ điều ấy là lí do hoàn toàn tự

nhiên. Nếu các bác sĩ và giáo sư bỏ các ý tưởng cũ, trở

nên linh hoạt, thế thì họ sẽ gặp thời kì khó khăn trong

việc dạy trẻ con. Nếu mọi thứ đều cố định, thế thì họ có

khả năng dạy có hiệu quả. Các ý tưởng cần phải xác

định, chắc chắn, không dễ lung lay và hay thay đổi; thế

thì họ có thể có niềm tin trong khi dạy về những điều

đó.

Thậm chí những kẻ phạm tội cũng không cần tới

nhiều niềm tin như các giáo sư cần tới. Ông ta phải có

niềm tự tin rằng điều mình nói là tuyệt đối đúng, và bất

kì ai đòi hỏi có loại niềm tin này về việc là đúng đắn

trong nghề nghiệp của mình, đều trở thành chính thống.

Thầy giáo trở thành chính thống. Điều này gây tác hại

lớn, bởi vì theo mọi nghĩa giáo dục nên ít chính thống

nhất; nếu không sẽ có chướng ngại trên con đường tiến

bộ. Đây là lí do tại sao thông thường không thầy giáo

nào là nhà phát minh. Có biết bao nhiêu giáo sư trong

tất cả các trường đại học nhưng phát minh, khám phá

lại do những người ngoài thực hiện. Hơn bẩy mươi

phần trăm người đoạt giải thưởng Nobel đều là người

bên ngoài các đại học.

Nghề khác đầy những người chính thống là các bác

sĩ. Điều đó nữa cũng có các lí do nghề nghiệp của nó.

Các bác sĩ phải đưa ra quyết định rất nhanh chóng. Nếu

họ bắt đầu suy tư khi bệnh nhân đang trên giường chết,

chỉ thế thì các ý tưởng mới còn lại, bệnh nhân sẽ chết.

Nếu bác sĩ rất không chính thống, tự do và thực hành

các lí thuyết mới, tiến hành các thực nghiệm mới mọi

lúc, thế nữa cũng có nguy hiểm. Ông ta phải ra quyết

định tức thời, và tất cả những người phải ra quyết định

tức thời chủ yếu dựa vào tri thức quá khứ; họ không

muốn bị bắt vào các ý tưởng mới.

Nhưng người này, người ra quyết định ngay tại chỗ

hàng ngày phải dựa trên tri thức quá khứ, và đó là lí do

tại sao nghề y lại đi sau nghiên cứu y quãng ba chục

năm. Điều này gây ra kết quả nhiều bệnh nhân chết

một cách không cần thiết, bởi vì điều không nên thực

hành hôm nay thực tế lại được tuân theo. Nhưng đây

lại là nguy cơ chuyên nghiệp. Và do vậy một số quan

niệm về bác sĩ ở sâu phía dưới là rất nền tảng. Một

trong chúng là niềm tin của họ vào thuốc còn hơn vào

bản thân con người - tin vào hoá chất hơn vào tâm

thức, tầm quan trọng được đặt vào ngành hoá học hơn

là tâm thức. Hậu quả nguy hiểm nhất của thái độ này là

ở chỗ trong khi ngành hoá học được cho ngày một

quan trọng hơn, chẳng thực nghiệm nào được tiến hành

về tâm thức cả.

Tại đây tôi muốn nói về một vài thí dụ như vậy để

cho bạn có thể có được ý tưởng nào đó. Việc đẻ không

đau trong khi sinh con đã là một vấn đề rất cổ xưa; làm

sao sinh con không đau từ lâu đã từng là vấn đề. Tất

nhiên các tu sĩ chống lại điều này. Thực tế các tu sĩ

chống lại chính cái ý tưởng rằng thế giới nên thoát khỏi

đau đớn và khổ sở, bởi vì họ sẽ hết việc nếu không có

đau đớn trong thế giới này. Nghề của họ sẽ không còn

ý nghĩa nữa. Nếu có đau đớn, khổ sở và phiền não, thế

thì có lời cầu gọi, lời cầu nguyện. Có thể thậm chí

Thượng đế cũng hoàn toàn bị quên lãng đi nếu không

có đau khổ trên thế giới. Người ta khó có thể cầu

nguyện được, bởi vì chúng ta nhớ tới Thượng đế chỉ

trong đau khổ. Các tu sĩ bao giờ cũng chống lại sinh

con không đau. Họ nói rằng đau trong sinh đẻ là quá

trình tự nhiên.

Nhưng điều này không nên có đó. Gọi nó là việc

thu xếp của Thượng đế là một ý tưởng giả tạo. Không

Thượng đế nào lại muốn trao cái đau đớn trong khi

sinh con cả. Bác sĩ tin rằng để sinh con không đau thì

phải cho thuốc nào đó, cần phải thu xếp hoá chất nào

đó, cần phải gây mê. Tất cả các cách chữa chạy này

của bác sĩ đều bắt đầu từ mức độ thân thể, có nghĩa là

chúng ta để cho thân thể vào trạng thái mà người mẹ

không nhận ra rằng mình đang đau. Một cách tự nhiên

bản thân phụ nữ đã từng kinh nghiệm với điều này theo

cách riêng của mình trong nhiều thế kỉ...

Đó là lí do tại sao bẩy mươi nhăm phần trăm trẻ sơ

sinh được sinh ra ban đêm. Việc sinh ra khó khăn vào

ban ngày bởi vì người phụ nữ rất tích cực và nhận biết

vào lúc đó. Trong đêm họ ngủ, họ thảnh thơi hơn, và

do vậy bẩy mươi nhăm phần trăm trẻ sơ sinh không có

cơ hội được sinh ra khi mặt trời đang chói sáng; chúng

phải lấy việc sinh ra trong bóng tối. Khi người đàn bà

ngủ cô ấy thảnh thơi hơn và dễ dàng hơn cho đứa trẻ

được sinh ra. Người mẹ bắt đầu tạo ra chướng ngại cho

đứa con ngay từ khoảnh khắc nó sắp được sinh ra. Tất

nhiên về sau cô ấy chế ngự biết bao nhiêu chướng ngại

cho đứa trẻ, nhưng cô ấy bắt đầu gây ra cản trở cho đứa

trẻ thậm chí trước khi nó được sinh ra.

Một trong những cách bù đắp là làm điều gì đó qua

thuốc để cho thân thể trở nên thảnh thơi như nó trong

giấc ngủ. Những cách bù đắp này đang được tuân theo

nhưng chúng có nhược điểm riêng. Nhược điểm lớn

nhất là ở chỗ chúng ta không tin chút nào vào tâm thức

của con người. Và vì tin cậy này vào tâm thức con

người cứ giảm đi, cho nên tâm thức bắt đầu biến mất.

Một bác sĩ tên là Lozem đã tin cậy vào tâm thức

con người và ông ấy đã trông nom cho hàng nghìn việc

sinh con không đau cho phụ nữ. Phương pháp này là sự

hợp tác có ý thức - rằng người mẹ cố gắng hợp tác

mang tính thiền, có ý thức, trong khi sinh con, rằng cô

ấy đón chào nó, không tranh đấu với nó hay cố chống

lại nó. Cái đau được tạo ra không phải bởi vì việc sinh

con mà bởi vì tranh đấu người mẹ tiến hành để chống

lại nó. Cô ấy cố gắng siết lại toàn bộ cơ chế sinh con.

Cô ấy đang sợ rằng việc sinh con sẽ đau đớn, cô ấy sợ

việc sinh con. Việc cưỡng lại nhằm vào nỗi sợ này lại

ngăn cản đứa trẻ được sinh ra. Trong khi đứa trẻ đang

cố gắng được sinh ra, có tranh đấu giữa hai người; có

va chạm giữa người mẹ và đứa bé. Xung đột này phần

trách nhiệm thuộc về cái đau. Cái đau này là không tự

nhiên: nó chỉ là từ va chạm, từ kháng cự.

Có hai cách có thể để giải quyết vấn đề cưỡng lại

này. Chúng ta có thể dùng thuốc an thần cho người mẹ,

nếu chúng ta làm việc ở mức độ thân thể. Nhưng điều

phải nhớ ở đây là ở chỗ người mẹ, người cho việc sinh

thành đứa con mình đang trong trạng thái vô ý thức

không bao giờ có thể trở thành người mẹ theo nghĩa

đầy đủ nhất. Và có lí do cho điều đó. Khi đứa con ra

đời, không chỉ đứa con được sinh ra mà người mẹ nữa

cũng được sinh ra. Việc sinh của đứa con thực tế là hai

việc sinh: một mặt đứa con được sinh ra và mặt khác

người phụ nữ thông thường trở thành người mẹ. Và

nếu đứa con được sinh ra trong trạng thái vô ý thức,

chúng ta đã xoay xở làm méo mó mối quan hệ cơ bản

giữa mẹ và con. Người mẹ sẽ không được sinh ra, chỉ

người bảo mẫu sẽ còn lại sau trong quá trình này.

Tôi không thiên về sinh con bằng cách dùng thuốc

an thần cho người mẹ với trợ giúp của hoá chất hay

dùng các phương tiện bên ngoài. Người mẹ nên hoàn

toàn có ý thức trong khi sinh con, bởi vì trong chính ý

thức đó người mẹ cũng được sinh ra nữa. Nếu bạn hiểu

chân lí của vấn đề này, thế thì nó có nghĩa là tâm thức

của người mẹ nên được huấn luyện cho việc sinh.

Người mẹ nên có khả năng lấy việc sinh con mang tính

thiền.

Thiền có hai ý nghĩa đối với người mẹ. Một là ở

chỗ cô ấy không nên cưỡng lại, không nên tranh đấu.

Cô ấy nên hợp tác với bất kì cái gì đang diễn ra. Cũng

giống như dòng sông tuôn chảy ở bất kì đâu có chỗ

trũng trên mặt đất, giống như gió thổi, giống như lá

rụng - không ai có ý niệm mơ hồ về nó và lá khô cứ

rụng khỏi cây - tương tự cô ấy nên trong hợp tác toàn

bộ với tất cả những điều đang hiển lộ ra trước cô ấy.

Và nếu người mẹ đem ra toàn bộ sự hợp tác trong khi

sinh, không tranh đấu chống lại nó, không trở nên sợ

hãi, trở thành hoàn toàn đắm chìm một cách thiền trong

sự kiện này, thế thì sẽ có việc sinh không đau, cái đau

sẽ tan biến đi.

Tôi đang nói với các bạn về điều này trên cơ sở

khoa học. Nhiều thực nghiệm đã được tiến hành bằng

việc dùng phương pháp này. Cô ấy sẽ trở nên thoát

khỏi đau đớn. Và nhớ, điều này sẽ có những kết quả đi

rất xa.

Trước hết, chúng ta bắt đầu nuôi dưỡng cảm giác

ốm yếu hướng về vật hay người tạo ra đau đớn trong

chúng ta từ ngay khoảnh khắc tiếp xúc đầu tiên. Chúng

ta rơi vào trong một loại thù địch với người mà ta

đương đầu trong trận chiến trong chính kinh nghiệm

đầu tiên của mình. Điều này trở thành chướng ngại cho

việc hình thành mối quan hệ thân thiện. Khó mà tạo ra

được cây cầu hợp tác với người mà chúng ta rơi vào

xung đột với người đó ở ngay lúc bắt đầu. Nó sẽ là hời

hợt. Nhưng khoảnh khắc đó khi chúng ta sẽ có khả

năng sinh ra đứa con với sự hợp tác và trong nhận biết

tràn đầy...

Điều này rất thú vị: cho đến giờ chúng ta chỉ nghe

nói về cách diễn đạt ‘đau đẻ,’ nhưng chúng ta chưa bao

giờ nghe nói đến cách diễn đạt ‘phúc lạc đẻ’ - bởi vì

điều đó chưa xảy ra cho tới nay. Nhưng nếu có sự hợp

tác hoàn toàn, thế thì ‘phúc lạc đẻ’ cũng sẽ xuất hiện.

Cho nên tôi không thiên về việc sinh không đau, tôi

thiên về việc sinh phúc lạc. Với sự giúp đỡ từ y học,

nhiều nhất chúng ta có thể đạt tới việc sinh không đau

nhưng không bao giờ đạt tới việc sinh phúc lạc cả. Và

ngay từ khoảnh khắc đầu chúng ta sẽ có khả năng xây

dựng mối nối bên trong có ý thức giữa người mẹ và

đứa con.

Đây chỉ là một thí dụ để làm cho bạn hiểu rằng cái

gì đó có thể được làm từ bên trong nữa. Bất kì khi nào

chúng ta bị ốm chúng ta đều cố gắng tranh đấu lại bệnh

chỉ từ bên ngoài. Vấn đề là, liệu người bệnh có thực sự

sẵn sàng từ bên trong để tranh đấu với bệnh tật không?

Và chúng ta chưa bao giờ bận tâm tìm ra điều này.

Hoàn toàn có thể là đấy chỉ là bệnh do ta tự mời tới. Số

các bệnh tự ta mời tới thì lớn. Thực tế rất ít bệnh tới

theo cách riêng của chúng, phần lớn trong chúng là

được mời tới. Tất nhiên, chúng ta đã mời chúng từ lâu

trước khi chúng tới; do đó chúng ta không thể nào thấy

bất kì mối nối nào giữa hai sự kiện này.

Trong hàng nghìn năm biết bao nhiêu xã hội trên

thế giới này đã không thể nào hình thành được mối nối

giữa giao hợp vật lí và việc sinh con bởi vì thời gian

chênh lệch là lớn - những chín tháng. Thật khó cho họ

đặt mối quan hệ nguyên nhân và hậu quả xa xôi thế. Và

thế rồi không phải việc giao hợp nào cũng đều dẫn tới

sinh con, cho nên hiển nhiên không có lí do nào để

nghĩ dưới dạng mối nối giữa hai điều này. Mãi về sau

con người mới hiểu rằng điều đã xuất hiện trong chín

tháng trước đang tạo ra kết quả trong việc sinh con

hôm nay. Người ta có thể hình thành nên mối quan hệ

nguyên nhân và hậu quả. Cũng điều đó xảy ra cho

chúng ta đối với bệnh tật. Đôi khi chúng ta mời nó,

nhưng nó sẽ tới muộn hơn về sau. Nhiều thời gian trôi

qua giữa hai sự kiện này, và đó là lí do chúng ta không

có khả năng thấy bất kì mối nối nào giữa hai điều đó.

Tôi đã nghe nói về một người đang bên bờ vực phá

sản. Anh ta sợ đi ra chợ, đi tới cửa hàng của mình. Anh

ta sợ thậm chí cả việc bước đi trên phố. Một hôm khi

vừa bước ra khỏi buồng tắm anh ta bị ngã và bị liệt.

Bây giờ đủ mọi loại chữa trị đều được tiến hành cho

anh ta. Nhưng chúng ta không muốn chấp nhận rằng

người này muốn trở nên bị liệt. Anh ta không nghĩ về

điều này một cách có ý thức, nhưng đấy không phải là

vấn đề. Cũng không thành vấn đề liệu anh ta có quyết

tâm hay không để bị liệt - có thể nhất là anh ta chưa

bao giờ nghĩ tới nó. Nhưng đâu đó bên trong tâm trí,

trong vô thức, anh ta phải đã muốn rằng mình không

phải đi ra chợ hay tới cửa hàng hay đi trên phố. Đây là

điều thứ nhất.

Thứ hai là, anh ta cũng muốn mọi người ít thù địch

với anh ta và muốn họ bắt đầu biểu lộ thông cảm nào

đó - đây là ham muốn sâu sắc của anh ta. Hiển nhiên

thân thể anh ta sẽ hỗ trợ cho anh ta. Thân thể bao giờ

cũng tuân theo tâm trí như cái bóng; nó bao giờ cũng sẽ

hỗ trợ cho tâm trí. Tâm trí làm mọi việc thu xếp. Thực

tế, chúng ta chưa bao giờ nhận ra thu xếp nào mà tâm

trí đã có trong kho của nó. Nếu bạn nhịn ăn cả ngày,

thế thì bạn sẽ có bữa ăn vào ban đêm - tâm trí sẽ nhìn

vào điều đó. Nó sẽ bảo bạn trong giấc mơ rằng bạn đã

nhịn ăn cả ngày rồi, bạn phải không thoải mái rồi;

chúng ta hãy đến bữa yến tiệc tại cung vua. Và bạn sẽ

ăn ở đó trong đêm trong giấc mơ của mình.

Tâm trí thu xếp cho mọi thứ mà thân thể không thể

làm được. Cho nên phần lớn các giấc mơ chúng ta thấy

đều giống điều này - chỉ là vật thay thế. Điều chúng ta

không thể làm được trong ngày, chúng ta làm trong

đêm. Tâm trí thu xếp tất cả những điều này. Nếu bỗng

nhiên trong đêm bạn cảm thấy muốn đái, thế thì điều

đó có nghĩa là tâm trí đang rung chuông báo động. Nó

sẽ đưa bạn tới nhà vệ sinh trong giấc mơ và bạn sẽ cảm

thấy đỡ căng bóng đái. Bạn sẽ nghĩ rằng thế cũng được

và rằng bạn đã ở trong nhà vệ sinh. Tâm trí thu xếp để

cho giấc ngủ của bạn không bị quấy rối. Trong suốt

ngày và đêm, tâm trí thường xuyên thu xếp để cho tất

cả các ham muốn của bạn đều được đáp ứng.

Người này đã bị bệnh liệt nửa người tấn công và

anh ta ngã xuống. Bây giờ chúng ta đang cố gắng điều

trị việc đó. Nhưng thực tế là thuốc có thể làm hại anh

ta, bởi vì anh ta không bị liệt nửa người; anh ta đã

mang bệnh đó lên mình. Thậm chí nếu chúng ta chữa

trị được bệnh liệt của anh ta, thế thì anh ta sẽ biểu lộ

bệnh thứ hai, hay thứ ba, hay có thể bệnh thứ tư nữa.

Thực tế, chừng nào mà anh ta còn chưa thu được can

đảm để đi ra chợ anh ta sẽ còn phải chịu hết bệnh nọ

tới bệnh kia. Và ngay khi anh ta bị ốm anh ta nhận ra

rằng toàn bộ tình huống đã thay đổi. Bây giờ anh ta có

biện minh cho việc phá sản. Tôi có thể làm được gì

nào? - Tôi bị liệt rồi! Bây giờ anh ta có thể nói với các

chủ nợ, “Làm sao tôi có thể trả lại tiền cho các ông

được? Các ông có thể thấy tình cảnh tôi đây này.”

Thực tế, khi chủ nợ tới gặp anh ta, bản thân người đó

sẽ cảm thấy xấu hổ khi đòi tiền. Vợ anh ta sẽ chăm sóc

anh ta tốt hơn, con anh ta sẽ phục vụ anh ta tốt hơn,

bạn bè anh ta sẽ tới gặp anh ta, mọi người sẽ vây quanh

giường anh ta.

Trong thực tế chúng ta chẳng hề bày tỏ tình yêu

của mình cho bất kì ai trừ phi người đó bị ốm. Cho nên

bất kì ai muốn được yêu đều phải bị ốm. Phụ nữ bao

giờ cũng bị ốm, và lí do chính là ở chỗ với họ đây là

cách để có được tình yêu. Họ biết không có cách nào

khác để giữ chồng mình ở nhà. Vợ không thể giữ được

chồng ở nhà nhưng bệnh tật có thể giữ được. Một khi

chúng ta nhận ra điều này, và nếu điều này bắt chặt vào

trong tâm trí chúng ta, thế thì mọi lúc chúng ta muốn

có sự thông cảm nào đó chúng ta sẽ ốm. Thực tế cũng

thật là nguy hiểm mà đi bày tỏ thông cảm với người

ốm; bạn chỉ nên điều trị cho người đó. Điều này là

nguy hiểm bởi vì qua thông cảm bạn có thể cho thêm

hương vị vào bệnh của người đó và điều này sẽ có hại.

Không thuốc nào chữa được cho người này, người

đã bị bệnh liệt; nhiều nhất người đó sẽ giữ cho bệnh

thay đổi, bởi vì trong thực tế người đó không có bệnh

này, đấy chỉ là tự gợi ý sâu xa. Bệnh liệt nửa người là

bệnh tinh thần từ nguồn gốc.

Một câu chuyện tương tự là về một người khác,

người cũng bị chứng liệt nửa người. Trong hai năm anh

ta phải chịu bệnh này và không thể nào dậy được. Một

hôm nhà anh ta bị cháy và mọi người đều chạy ra khỏi

nhà. Bỗng nhiên họ hoảng hốt và tự hỏi điều gì sẽ xảy

ra cho người ốm này. Nhưng thế rồi họ thấy anh ta tới -

anh ta chạy - và người này trước đây thậm chí không

thể ngồi được. Và khi gia đình anh ta chỉ ra cho anh ta

rằng anh ta có thể bước được, anh ta nói rằng điều đó

là không thể được và anh ta sụp ngã xuống ngay đó.

Điều gì đã xảy ra cho con người này?... và anh ta

không lừa ai cả. Bệnh này là bệnh của tâm trí, không

phải bệnh của thân thể. Đó là khác biệt duy nhất. Và đó

là lí do tại sao khi bác sĩ điều trị bảo bệnh nhân rằng

bệnh người đó là trong tâm trí, bệnh nhân không thích

điều đó bởi vì điều đó dường như truyền đạt rằng người

đó đang cố gắng không cần thiết để chứng tỏ rằng mình

ốm. Điều này là không đúng. Không ai muốn chứng tỏ

rằng mình ốm mà chẳng có lí do nào cả. Có những lí

do tinh thần cho việc bị ốm, và những lí do này là quan

trọng hay có thể còn quan trọng hơn các lí do cho việc

bị ốm bởi vì một vấn đề thể chất thực nào đó. Và sẽ là

điều trị sai về phần bác sĩ nếu bảo ai đó, cho dù là lầm

lẫn, rằng người đó bị ốm yếu về tinh thần. Bệnh nhân

không cảm thấy khá hơn bởi phát biểu này; trong thực

tế người đó cảm thấy cay đắng hơn với bác sĩ.

Chúng ta vẫn chưa có khả năng phát triển thái độ

thân ái đối với các bệnh tâm trí. Nếu chân tôi bị thương

thế thì mọi người sẽ thông cảm, nhưng nếu tâm trí tôi

bị tổn thương thế thì mọi người sẽ nói rằng đây là bệnh

tinh thần - cứ dường như là tôi đã làm điều gì đó sai.

Nếu chân tôi bị thương thế thì tôi được thông cảm,

nhưng nếu tôi bị bệnh tâm trí thế thì tôi bị trách cứ như

đấy là lỗi của tôi! Không, đấy không phải là lỗi của tôi.

Bệnh kiểu tâm trí có vị trí riêng của chúng, nhưng

các bác sĩ điều trị không chấp nhận nó. Ngần ngại này

là bởi vì họ đã điều trị chỉ cho các bệnh thân thể; không

có lí do nào khác. Điều này ở ngoài ông ta, cho nên

ông ta nói rằng đây không phải là bệnh. Thực tế ông ta

nên nói rằng điều này vượt ra ngoài phạm vi nghề

nghiệp của mình. Ông ta nên khuyên bạn tìm đến một

kiểu bác sĩ khác. Người này thực tế cần việc điều trị

bắt đầu từ bên trong và thế rồi đi ra ngoài. Và có thể

một điều rất nhỏ cũng có thể làm thay đổi cuộc sống

bên trong của người đó.

Theo tôi, thiền là việc điều trị trải rộng từ bên trong

ra.

Một hôm ai đó tới Phật và hỏi, “Ông là ai? Ông có

phải là triết gia, hay nhà tư tưởng hay vị thánh hay nhà

yoga không?” Phật đáp, “Ta chỉ là thầy chữa, người

chữa trị.”

Câu trả lời này của ông ấy thực sự tuyệt diệu: Chỉ

là thầy chữa - ta biết điều gì đó về bệnh tật bên trong

và đó là điều ta thảo luận với ông.

Cái ngày chúng ta hiểu ra rằng chúng ta sẽ phải làm

điều gì đó về bệnh tật kiểu tâm trí - bởi vì đằng nào

chúng ta cũng không bao giờ có khả năng trừ tiệt tất cả

các bệnh thân thể hoàn toàn - ngày đó chúng ta sẽ thấy

rằng tôn giáo và khoa học đã tới gần lẫn nhau. Ngày đó

chúng ta sẽ thấy rằng thuốc và thiền đã tới gần lẫn

nhau. Hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ không nhánh

khoa học nào khác sẽ có ích nhiều như y học trong việc

bắc cầu qua lỗ hổng này.

Hoá học chưa có bất kì lí do nào để tới gần tôn giáo

cả. Tương tự vật lí và toán học cũng chưa có lí do nào

tới gần tôn giáo cả. Toán học có thể tồn tại không có

tôn giáo và tôi nghĩ điều này sẽ vẫn còn đúng mãi, bởi

vì tôi không thấy tình huống mà toán học sẽ cần sự

giúp đỡ của tôn giáo. Mà tôi cũng không thể nào quan

niệm nổi một khoảnh khắc khi toán học sẽ cảm thấy

rằng nó không thể phát triển được nếu thiếu tôn giáo.

Cái ngày đó chẳng bao giờ tới cả. Toán học có thể giữ

trò chơi của nó tiếp diễn mãi mãi, bởi vì toán học chỉ là

trò chơi, nó không phải là cuộc sống.

Nhưng bác sĩ điều trị không chơi trò chơi, ông ta

giải quyết với cuộc sống. Có thể nhất là các bác sĩ y

khoa sẽ trở thành cây cầu đầu tiên giữa tôn giáo và

khoa học. Thực tế điều đó đã bắt đầu xảy ra, đặc biệt

trong các quốc gia phát triển và hiểu biết hơn. Lí do là

ở chỗ các bác sĩ phải giải quyết với mạng sống con

người. Đấy là điều Carl Gustav Jung nói ngay trước lúc

chết. Ông ấy đã nói rằng trên cơ sở là một bác sĩ điều

trị tôi có thể nói rằng tất cả các bệnh nhân tới tôi sau

tuổi bốn mươi, về cơ bản bệnh của họ là do thiếu tôn

giáo. Đây là điểm rất đáng ngạc nhiên. Nếu bằng cách

nào đó chúng ta có thể trao cho họ một loại tôn giáo

nào đó thế thì họ sẽ trở nên mạnh khoẻ.

Điều này đáng để hiểu. Khi cuộc sống của người ta

suy giảm... cho tới độ tuổi ba mươi lăm nó vẫn còn

đang lên, thế rồi nó bắt đầu đi xuống. Ba mươi lăm là

đỉnh. Cho nên có thể là cho tới tuổi ba mươi lăm người

ta không thể tìm thấy bất kì giá trị nào trong thiền, bởi

vì cho tới lúc đó con người vẫn còn hướng thân thể;

thân thể vẫn còn đang lên. Có lẽ tất cả các bệnh tật

trong giai đoạn này đều là của thân thể. Nhưng sau độ

tuổi ba mươi lăm bệnh tật lấy chiều hướng mới, bởi vì

bây giờ cuộc sống đã bắt đầu hướng tới cái chết. Và

khi cuộc sống phát triển nó lan toả ra bên ngoài, nhưng

khi con người chết người đó co lại vào bên trong. Tuổi

già là đã co lại vào bên trong.

Chân lí là ở chỗ điều có thể nhất là tất cả các bệnh

tật của người già đều bắt rễ sâu trong cái chết.

Thông thường mọi người nói rằng người thế này

thế nọ chết bởi vì bệnh nọ bệnh kia. Nhưng tôi nghĩ

chắc sẽ thích hợp hơn để nói rằng người thế này thế nọ

ốm là bởi vì cái chết. Điều xảy ra là ở chỗ khả năng

chết làm cho người ta thành mong manh với mọi loại

bệnh tật. Ngay khi một người cảm thấy rằng mình đang

đi tới cái chết, tất cả các cánh cửa đều mở ra cho các

loại bệnh tật và người đó bắt đầu mắc chúng. Thậm chí

nếu một người mạnh khoẻ biết chắc rằng mình sẽ chết

ngày mai, người đó sẽ ốm. Mọi thứ đều ổn, tất cả các

báo cáo đều bình thường; tia X bình thường, huyết áp

trong giới hạn bình thường, mạch vừa phải; ống nghe

truyền đạt rằng mọi thứ đều hoàn hảo. Nhưng nếu một

người bị thuyết phục hoàn toàn rằng ngày mai người

đó sẽ chết, thế thì bạn sẽ thấy rằng người đó bắt đầu

mắc nhiều loại bệnh. Người đó sẽ mắc nhiều bệnh

trong hai mươi bốn giờ đến mức khó mà mắc được

chúng trong hai mươi bốn kiếp.

Điều gì đã xảy ra cho người này? Người đó đã để

mở bản thân mình cho mọi loại bệnh tật. Người đó đã

dừng việc kháng cự. Vì người đó chắc chắn về cái chết

của mình, cho nên người đó rời xa khỏi tâm thức của

mình, cái vốn vẫn ở bên trong người đó, hành động

như bức tường và tạo nên rào chắn chống lại mọi bệnh

tật. Bây giờ người đó đã trở thành sẵn sàng cho cái chết

của mình và bệnh tật bắt đầu tới. Và đó là lí do tại sao

người về hưu chết sớm.

Cho nên mọi người muốn về hưu nên hiểu điều này

trước khi họ về hưu. Họ chết sớm hơn quãng độ năm

sáu năm. Người đáng sẽ chết vào tuổi bẩy mươi, sẽ

chết khi người đó chỉ sáu mươi lăm; người đáng sẽ chết

vào tuổi tám mươi, sẽ chết khi người đó bẩy mươi lăm.

Mười, mười lăm năm về hưu đó sẽ được dành cho việc

chuẩn bị cái chết; người đó sẽ không hoàn thành bất kì

cái gì khác, bởi vì bây giờ người đó biết rằng mình

chẳng còn có ích gì cho cuộc sống. Không có công việc

cho người đó, không ai đón chào người đó trên đường.

Sự việc khác đi khi người đó đã ở trong văn phòng.

Bây giờ thậm chí chẳng ai thèm nhìn người đó, bởi vì

bây giờ họ phải đón chào ai đó khác. Mọi thứ đều làm

việc theo kinh tế. Người mới đang có đó trong văn

phòng, cho nên mọi người sẽ phải đón chào họ. Họ

không thể đảm đương được việc cứ đi đón chào con

người này nữa. Họ sẽ quên người đó. Bây giờ người đó

bỗng nhiên nhận ra rằng mình đã trở thành vô dụng.

Người đó cảm thấy bị mất gốc. Người đó không có ích

cho ai nữa. Thậm chí con cái cũng bận rộn với vợ của

chúng, đi xem phim. Những người mà người đó đã

quen biết đang dần bắt đầu kết thúc trên dàn thiêu.

Người đó đã trở thành vô dụng cho cùng những người

đã cần người đó trước đây. Bỗng nhiên người đó thành

mong manh, ngưòi đó mở toang cho cái chết.

Khi nào tâm thức của người đó trở thành mạnh

khoẻ ở bên trong? Trước hết, khi người đó bắt đầu cảm

thấy tâm thức bên trong của mình. Thông thường

chúng ta không cảm thấy cái bên trong; tất cả các cảm

giác của chúng ta là về thân thể - về tay, về chân, về

đầu, về tim. Không có cảm giác về “tôi đây.” Toàn bộ

nhận biết của chúng ta đều tập trung vào ngôi nhà và

không vào người cư ngụ trong ngôi nhà.

Đây là tình huống rất nguy hiểm, bởi vì nếu ngôi

nhà bắt đầu sụp đổ ngày mai thế thì tôi sẽ nghĩ rằng tôi

đang sụp đổ, và bản thân điều này sẽ trở thành ốm yếu

của tôi. Nhưng nếu tôi hiểu rằng tôi khác với ngôi nhà,

tôi chỉ thường trú trong nó - thậm chí nếu ngôi nhà có

sụp đổ tôi vẫn sẽ vẫn còn - thế thì điều này sẽ tạo ra

thay đổi lớn, khác biệt căn bản. Thế thì nỗi sợ chết sẽ

mờ đi.

Không có thiền, nỗi sợ chết không bao giờ tan biến

cả. Cho nên ý nghĩa thứ nhất của thiền là nhận biết về

bản thân người ta. Chừng nào chúng ta còn trong ý

thức, tâm thức chúng ta bao giờ cũng là nhận biết về

cái gì đó, nó chưa bao giờ là nhận biết về bản thân nó.

Đó là lí do tại sao khi chúng ta đang ngồi một mình

chúng ta bắt đầu cảm thấy buồn ngủ, bởi vì chẳng có gì

làm cả. Nếu chúng ta đọc báo hay nghe đài, thế thì

chúng ta cảm thấy rằng chúng ta thức. Nếu chúng ta để

một người một mình trong buồng tối thế thì người đó

sẽ cảm thấy buồn ngủ, bởi vì khi bạn không thể nào

thấy điều gì bạn không cần tới tâm thức của mình. Nếu

bạn không thể nào thấy cái gì, thế thì bạn có thể làm gì

ngoài việc ngủ? Dường như không có bất kì giải pháp

nào khác. Nếu bạn một mình thì có bóng tối, không ai

để nói chuyện với, chẳng có gì để nghĩ, thế thì giấc ngủ

sẽ bao quanh bạn. Không có cách nào khác.

Nhớ rằng ngủ và thiền giống nhau theo nghĩa này,

và khác nhau theo nghĩa kia. Ngủ có nghĩa là bạn một

mình nhưng bạn trong thiu thiu. Thiền nghĩa là bạn một

mình nhưng thức. Đây là khác biệt duy nhất. Nếu bạn

có thể vẫn còn thức tỉnh về bản thân mình khi bạn một

mình...

Một hôm một người ngồi với Phật mà cứ cựa quậy

ngón chân.

Phật hỏi người đó, “Sao ông cứ cựa quậy ngón

chân thế?”

Người này đáp, “Quên nó đi, nó chỉ cựa quậy thôi.

Tôi thậm chí chẳng để ý đến nó nữa.”

Phật nói, “Ngón chân ông cựa quậy mà ông thậm

chí lại chẳng biết sao? Nó là ngón chân ai vậy? Nó có

phải là của ông không?”

Người này nói, “Nó là của tôi - nhưng tại sao ông

lại cứ làm chệch điều ông đang nói thế? Xin ông cứ

tiếp tục nói đi.”

Phật nói, “Ta sẽ không tiếp tục nói nữa bởi vì

người mà ta đang nói lại vô ý thức. Và ông nhận biết

về ngón chân đang cựa quậy của mình trong tương lai

đi. Điều đó sẽ tạo ra nhận biết kép trong ông. Trong

nhận biết về ngón chân thì nhận biết về người quan sát

nữa cũng sẽ được sinh ra.”

Nhận biết bao giờ cũng theo hướng kép. Nếu chúng

ta thực nghiệm với nó, thế thì một mặt nó sẽ đi ra ngoài

và mặt kia sẽ soi rọi vào bên trong bạn. Cho nên thiền

cơ bản là ở chỗ chúng ta bắt đầu trở nên nhận biết về

thân thể và về bản thân ta. Và nếu nhận biết này có thể

tăng lên, thế thì nỗi sợ chết sẽ phai mờ đi.

Và y học, vốn không thể giải phóng được con

người khỏi nỗi sợ chết, chẳng bao giờ có thể chữa được

bệnh này, bệnh là con người. Tất nhiên y học vẫn cố

gắng vất vả; nó cố gắng để tăng thời gian sống. Nhưng

việc tăng thời gian sống của bạn chỉ tăng thời kì chờ

đợi cái chết chứ không gì khác. Và chờ đợi thời kì ngắn

còn tốt hơn là thời kì dài. Bạn thậm chí còn làm cho cái

chết thành đáng thương bởi việc tăng thời gian sống.

Bạn có biết, hiện đang có một phong trào diễn ở

những nước mà y học đã làm tăng thêm thời gian sống

cho mọi người. Phong trào này ủng hộ việc chết tự

nguyện. Những người già đang yêu cầu rằng họ phải

được quyền chết theo hiến pháp. Họ nói rằng cuộc

sống đã trở thành cực nhọc đối với họ và bạn chỉ đang

giữ họ treo lơ lửng trong bệnh viện. Điều đó đã trở

thành có thể: bạn có thể đặt một người vào bình ô xi và

giữ người đó treo đó vô tận. Bạn có thể giữ cho người

đó vẫn sống, nhưng cuộc sống đó sẽ còn tồi tệ hơn cả

cái chết. Chỉ Thượng đế mới biết được bao nhiêu người

ở châu Âu và châu Mĩ đang sống trong các bệnh viện

theo tư thế lộn ngược hay các tư thế kì lạ khác, được

móc vào bình ô xi. Họ không có quyền được chết, và

họ đang yêu cầu được trao cho quyền chết.

Hiểu biết của tôi là ở chỗ đến cuối thế kỉ này phần

lớn các nước đã phát triển trên thế giới sẽ có quyền

được chết xem như một trong những quyền con người

do hiến pháp đảm bảo, bởi vì bác sĩ không có quyền

giữ một người sống ngược với mong muốn của người

đó.

Bằng việc tăng tuổi của một người bạn không thể

dẹp bỏ đi nỗi sợ chết từ người đó. Bằng việc làm cho

một người mạnh khoẻ bạn có thể làm cho cuộc sống

của người đó hạnh phúc mạnh mẽ hơn nhưng không

làm cho người đó thành bạo dạn được. Bạo dạn tới chỉ

trong một tình huống, khi người ta đi tới hiểu ra từ bên

trong rằng có cái gì đó trong mình không bao giờ chết.

Hiểu biết này là điều tuyệt đối bản chất.

Thiền là việc nhận ra cái bất tử này, rằng cái ở bên

trong mình, không bao giờ chết cả. Chỉ những cái ở

bên ngoài mới chết. Và đó là lí do tại sao bạn lại nên

đối xử với thân thể theo y học để cho nó sống hạnh

phúc dài lâu như nó sống, và đồng thời cố gắng nhận

biết về điều ở bên trong bạn để cho thậm chí nếu cái

chết ở ngay ngưỡng cửa nhà bạn, bạn cũng không sợ.

Hiểu biết bên trong này là bạo dạn.

Thiền từ bên trong và thuốc ở bên ngoài; thế thì

bạn có thể làm cho y học thành khoa học hoàn chỉnh.

Theo tôi, thiền và thuốc là hai cực của cùng một

khoa học nơi móc nối liên kết vẫn còn thiếu. Nhưng

dần dần chúng đang lại gần nhau hơn. Ngày nay, trong

phần lớn các bệnh viện chính ở Mĩ, nhà thôi miên đã

trở thành thiết yếu. Nhưng thôi miên không phải là

thiền. Tuy vậy, đây là một bước tiến tốt. Ít nhất nó

cũng chứng tỏ rằng có hiểu biết là cái gì đó cần phải

được thực hiện về tâm thức con người và rằng mỗi điều

trị thân thể là không đủ.

Và tôi nghĩ rằng nếu nhà thôi miên đã vào bệnh

viện ngày nay, thế thì ngày mai đền chùa cũng sẽ bước

vào. Điều đó sẽ tới muộn hơn, sẽ cần thêm nhiều thời

gian. Sau nhà thôi miên mọi bệnh viện sẽ có khoa

yoga, khoa thiền. Điều này sẽ phải xảy ra. Thế thì

chúng ta sẽ có khả năng điều trị con người như một

tổng thể. Thân thể sẽ được các bác sĩ chăm nom, tâm

trí được các nhà tâm lí quan tâm, còn linh hồn được

yoga, thiền quan tâm.

Cái ngày bệnh viện chấp nhận con người như một

toàn thể, như một toàn bộ, và thế rồi đối xử với con

người như vậy, sẽ là ngày của niềm vui mừng cho nhân

loại. Tôi yêu cầu các bạn nghĩ theo chiều hướng đó, để

cho ngày này sẽ tới sớm.

******************************************************

#1 Định nghĩa về mạnh khoẻ

Mạnh khoẻ được ngụ ý là gì? Điều này chúng ta

phải cố gắng hiểu. Thông thường, nếu chúng ta hỏi bác

sĩ trị liệu định nghĩa của mạnh khoẻ là gì, người đó sẽ

chỉ nói rằng mạnh khoẻ là không có ốm bệnh. Nhưng

định nghĩa này là tiêu cực. Điều không may là chúng ta

phải định nghĩa mạnh khoẻ dưới dạng ốm yếu. Mạnh

khoẻ là điều tích cực, trạng thái tích cực. Ốm yếu là

tiêu cực. Mạnh khoẻ là bản tính của chúng ta; ốm yếu

là sự xâm nhập chống lại tự nhiên. Cho nên điều rất lạ

là chúng ta phải định nghĩa mạnh khoẻ dưới dạng ốm

yếu.

Điều chúng ta phải định nghĩa người chủ dưới dạng

khách - điều này rất lạ thường. Mạnh khoẻ cùng tồn tại

với chúng ta; ốm yếu thỉnh thoảng mới tới. Mạnh khoẻ

đi cùng chúng ta từ lúc sinh; ốm yếu là hiện tượng bề

mặt. Nhưng nếu chúng ta hỏi bác sĩ điều trị ý nghĩa của

mạnh khoẻ là gì, ông ấy chỉ có thể nói rằng mạnh khoẻ

hiện diện khi ốm yếu vắng mặt. Paracelsus thường nói

rằng cách diễn giải này là sai - rằng khái niệm về mạnh

khoẻ cần phải được định nghĩa một cách tích cực.

Nhưng làm sao chúng ta có thể đi tới một định nghĩa

tích cực, một cách diễn giải về khái niệm mạnh khoẻ

mang tính sáng tạo được?

Paracelsus hay nói, “Chừng nào chúng tôi chưa biết

trạng thái của hài hoà bên trong của bạn, chúng tôi

nhiều nhất cũng chỉ có thể giải thoát bạn khỏi ốm yếu -

bởi vì hài hoà bên trong của bạn là cội nguồn của mạnh

khoẻ của bạn. Nhưng khi chúng tôi giải thoát bạn khỏi

bệnh này, lập tức bạn sẽ mắc bệnh khác, bởi vì chẳng

cái gì đã được làm đối với hài hoà bên trong của bạn.

Sự kiện của vấn đề là ở chỗ chính hài hoà bên trong

của bạn cần phải được hỗ trợ.”1

Y học phương Tây đã coi con người như một đơn

vị tách biệt - tách khỏi tự nhiên. Đó là một trong những

lỗi lầm lớn nhất đã phạm phải. Con người là một phần

của tự nhiên; mạnh khoẻ của người đó không là gì khác

hơn việc thoải mái với tự nhiên.

Y học phương Tây lấy quan điểm máy móc về con

người, cho nên bất kì ở đâu mà máy móc có thể thành

công, nó thành công. Nhưng con người không phải là

máy; con người là một thể thống nhất hữu cơ, và con

người cần không chỉ việc chữa trị phần bị ốm. Phần ốm

chỉ là triệu chứng rằng toàn bộ tổ chức đang trải qua

khó khăn. Phần ốm chỉ biểu lộ ra nó bởi vì nó là chỗ

yếu nhất.

Bạn chữa trị phần ốm, bạn thành công... nhưng thế

rồi ở đâu đó khác bệnh lại xuất hiện. Bạn đã ngăn cản

bệnh không cho nó tự biểu lộ qua phần ốm; bạn đã làm

cho phần đó mạnh hơn. Nhưng bạn lại không hiểu rằng

con người là một toàn thể; hoặc con người ốm hoặc

con người mạnh khoẻ, không có trạng thái ở giữa hai

điều này. Người đó nên được coi như một tổ chức toàn

thể. Tôi sẽ nêu cho bạn vài thí dụ có thể làm rõ ràng

điều này cho bạn.

Châm cứu đã được phát triển ở Trung quốc gần bẩy

nghìn năm trước đây nhờ một tai nạn. Một thợ săn định

giết một con hươu, nhưng khi mũi tên của người đó

đang hướng tới con hươu thì người này không biết điều

gì xảy ra ở giữa và mũi tên lại cắm vào chân mình.

Người này đã từng bị chứng đau nửa đầu trong cả đời;

khoảnh khắc mũi tên cắm vào chân người đó thì chứng

đau nửa đầu biến mất. Điều này rất kì lạ. Không ai đã

nghĩ về điều này theo cách đó.

Từ tai nạn đó toàn bộ ngành châm cứu đã phát

triển, và phát triển thành một khoa học đầy đủ. Cho

nên nếu bạn đi tới nhà châm cứu và bạn nói, “Có

chuyện gì đó với mắt tôi, hay chuyện gì đó với đầu tôi,

hay chuyện gì đó với gan tôi,” ông ta có thể chẳng bận

tâm gì tới gan bạn, đầu bạn hay mắt bạn cả. Ông ta sẽ

nghĩ về toàn bộ cơ thể; ông ta sẽ cố gắng chữa lành bạn

- không chỉ phần bị ốm đó.

Châm cứu đã phát triển cách tiếp cận tới bẩy trăm

huyệt, những huyệt được phát hiện trong thân thể con

người. Thân thể con người là hiện tượng sinh-điện,

sống. Nó có điện nào đó - do đó chúng ta gọi nó là

sinh-điện. Sinh điện này có thể được đạt tới qua bẩy

trăm huyệt trong thân thể, và mỗi huyệt lại liên quan

tới phần nào đó của thân thể có thể ở xa hẳn nó. Đó là

điều đã xảy ra trong tai nạn kia: mũi tên đã cắm vào

một huyệt sinh-điện có liên hệ tới đầu, và bệnh đau nửa

đầu biến mất.

Châm cứu mang tính toàn thể hơn. Khác biệt này

phải được hiểu. Khi bạn coi con người như chiếc máy

bạn lấy cái nhìn bộ phận về người đó. Nếu tay người

đó yếu bệnh, bạn chỉ chữa tay thôi; bạn không bận tâm

về toàn bộ thân thể người đó mà tay chỉ là một phần.

Cái nhìn máy móc là mang tính bộ phận. Nó thành

công, nhưng thành công của nó không phải là thành

công thực bởi vì cùng bệnh ấy đã bị kìm nén trong tay

bởi thuốc, giải phẫu hay những thứ khác, lại bắt đầu

bầy tỏ bản thân nó ở đâu đó khác dưới dạng còn tồi tệ

hơn. Cho nên thuốc đã phát triển cực kì nhiều; giải

phẫu đã trở thành khoa học lớn - nhưng con người vẫn

đang chịu đựng nhiều bệnh tật hơn, nhiều ốm yếu hơn

bao giờ hết.

Thế tiến thoái lưỡng nan này có thể hiểu được. Con

người nên được xem như một toàn thể, nên được đối

xử như một thể thống nhất hữu cơ. Nhưng vấn đề với y

học hiện đại, y học phương Tây, là ở chỗ nó không

nghĩ bạn có linh hồn, ở chỗ bạn có cái gì đó còn nhiều

hơn là cấu trúc thân thể-tâm trí. Bạn cũng là cái máy:

mắt bạn có thể được thay thế, tay bạn có thể được thay

thế, chân bạn có thể được thay thế - và sớm hay muộn

não bạn sẽ được thay thế.

Nhưng bạn có nghĩ nếu chúng ta có thể lấy bộ não

của Albert Einstein trong khi ông ấy sắp chết, lấy nó ra

trước khi cái chết là chắc chắn và cấy nó, chẳng hạn

vào sọ Giáo hoàng Polack, bạn có nghĩ ông ta sẽ trở

thành một Albert Einstein không? Bộ não chỉ là một bộ

phận. Ông ta sẽ trở thành một hiện tượng kì lạ, một vật

lai giữa Polack và Albert Einstein. Ít nhất ngay bây giờ

ông ta là một Polack hoàn chỉnh; thế rồi ông ta sẽ vào

trong tình trạng lấp lửng, chẳng biết mình là ai - giáo

hoàng hay nhà vật lí.

Ở Ấn Độ, y học đã phát triển từ gần năm nghìn

năm trước. Và bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng bất kì giải

phẫu nào chúng ta có ngày nay đều được Sushrut mô tả

đích xác, một trong những nhà giải phẫu vĩ đại nhất ở

phương Đông, trong kinh sách cổ từ năm nghìn đến

bẩy nghìn năm trước. Nhưng nó đã bị bỏ đi - và đó là

điểm tôi muốn lưu ý cho bạn. Tại sao một khoa học đã

phát triển lại bị vứt bỏ đi? - bởi vì người ta đã thấy

rằng giải phẫu coi con người như máy móc, mà con

người lại không phải là máy móc; cho nên thay vì phá

huỷ con người họ đã vứt bỏ giải phẫu.

Tất cả các công cụ tinh vi nhất mà giải phẫu dùng

đều đã được Sushrut mô tả trong kinh sách của mình.

Tất cả mọi việc mổ, ngay cả mổ não, cũng đều được

mô tả thật chi tiết cứ như đấy là sách giáo khoa hiện

đại về giải phẫu. Nhưng nó ít nhất đã năm nghìn năm

tuổi. Họ đã phát triển nó tới điểm như chúng ta hiện

giờ, và họ phải đã đối diện với cùng vấn đề mà chúng

ta đang đối diện. Họ phải đã thấy rằng cái gì đó về cơ

bản là sai.

Chúng ta cứ làm việc nhiều thế... và ốm yếu cùng

bệnh tật cứ tăng lên. Thậm chí nếu chúng ta làm cho

một người không ốm yếu, điều đó cũng không có nghĩa

là người đó mạnh khoẻ. Việc thiếu vắng ốm yếu không

phải là mạnh khoẻ; đó là định nghĩa rất tiêu cực. Mạnh

khoẻ nên có cái gì đó tích cực hơn, bởi vì mạnh khoẻ là

điều tích cực còn ốm yếu là điều tiêu cực. Bây giờ cái

tiêu cực lại đang định nghĩa cái tích cực.

Mạnh khoẻ là cảm giác về tình trạng sảng khoái,

toàn thân thể bạn vận hành tại cực đỉnh của nó không

có rối loạn nào. Bạn cảm thấy sảng khoái thế nào đó,

hoà làm một với sự tồn tại. Điều đó không xảy ra qua

giải phẫu.

Ấn Độ đã bỏ toàn bộ khoa học này và đã phát triển

một cách tiếp cận hoàn toàn khác, ayurveda, có nghĩa

là khoa học về cuộc sống. Điều đó là có ý nghĩa. Tại

phương Tây chúng ta gọi nó là y học, và y học đơn

giản chỉ ra ốm yếu. Mạnh khoẻ chẳng liên quan gì tới y

học cả. Y học có nghĩa là toàn bộ khoa học được dành

cho việc chữa lành bạn khỏi ốm bệnh.

Ayurveda có cách tiếp cận khác. Nó là khoa học về

cuộc sống; nó giúp đỡ bạn, không chữa ốm bệnh mà

ngăn ngừa ốm bệnh không cho xảy ra - giữ bạn mạnh

khoẻ đến mức ốm bệnh trở thành không thể có được.

Cách thức của phương Đông và phương Tây là khác

nhau tại điểm này, việc coi con người là thực thể máy

móc hay thực thể tâm linh với tính toàn bộ...

Thứ hai, điều y học phương Tây đã làm là làm cho

mọi người kém miễn nhiễm.

Y học thực sự đáng phải trao cho bạn việc miễn

nhiễm chứ không phải lấy nó đi. Nó phải làm cho bạn

mạnh mẽ hơn, có khả năng tranh đấu với bất kì việc

nhiễm khuẩn nào thay vì làm cho bạn yếu đi đến mức

bạn thành mong manh với mọi loại nhiễm khuẩn.

Một nhà tâm lí học rất nổi tiếng, Delgado, đã làm

việc trên con vật. Ông ấy đã ngạc nhiên biết rằng nếu

chuột được cho ăn một bữa mỗi ngày chúng sống lâu

gấp đôi; thời gian sống của chuột được cho ăn hai bữa

một ngày bị cắt ngắn đi một nửa. Bản thân ông ấy ngạc

nhiên: ăn ít mà sống lâu hơn; ăn nhiều mà sống ít hơn.

Bây giờ ông ấy đã đi tới lí thuyết rằng một bữa là hoàn

toàn đủ; ngoài ra bạn đang chất nặng cho hệ tiêu hoá,

và điều đó gây ra việc cắt ngắn thời gian sống của bạn.

Nhưng với những người đang ăn năm bữa một ngày thì

sao...? Y học sẽ không cho phép họ chết nhưng sẽ

không cho phép họ sống nữa. Họ đơn giản sẽ sống dật

dờ.

Con người phải xem xét lại mọi truyền thống, mọi

nguồn gốc khác nhau; bất kì sự kiện nào đã trở thành

sẵn có đấy đều phải được xem xét lại. Một cách tiếp

cận y học hoàn toàn mới cần phải được tiến hoá ra sẽ

lưu ý tới châm cứu, lưu ý tới ayurveda, lưu ý tới y học

Hi lạp, lưu ý tới Delgado và những nghiên cứu của ông

ấy - lưu ý tới sự kiện rằng con người không phải là

máy. Con người là sinh linh tâm linh đa chiều, và bạn

nên đối xử tương ứng với con người.

Mạnh khoẻ không nên được định nghĩa một cách

tiêu cực: bạn không mang bất kì ốm bệnh nào bạn mới

là mạnh khoẻ. Mạnh khoẻ phải tìm ra một định nghĩa

tích cực nào đó. Tôi hiểu tại sao họ lại không có khả

năng tìm ra định nghĩa tích cực - bởi vì ốm bệnh là đối

thể, còn cảm giác sảng khoái là chủ thể.

Y học Tây phương không chấp nhận rằng có bất kì

chủ thể nào trong bạn. Nó chỉ chấp nhận thân thể bạn;

nó không chấp nhận bạn.

Con người phải được chấp nhận trong tính toàn bộ

của mình.

Tất cả các phương pháp khác đã từng được dùng

trên khắp thế giới nên được đem vào trong việc tổng

hợp; chúng không chống lại lẫn nhau. Ngay bây giờ

chúng đang vận hành dường như chúng chống đối lẫn

nhau. Chúng nên được đem vào sự tổng hợp và điều đó

sẽ cho bạn một cái nhìn tốt hơn về con người và tốt

hơn cho loài người.

Bây giờ người ta biết rõ, đặc biệt bởi giải phẫu não,

rằng mọi thứ đều có trung tâm của nó trong bộ não.

Nếu bàn tay bạn trở nên bị liệt, thì thực là đần mà đi

chữa bàn tay; bạn không thể chữa trị nó được. Thế thì

gợi ý duy nhất, gợi ý máy móc, sẽ là chặt nó đi và đặt

bàn tay máy vào, cái ít nhất cũng chuyển động được,

bạn có thể làm được cái gì đó với nó. Bàn tay này là

hoàn toàn vô dụng, nó đã chết. Nhưng nó đã không

chết. Một trung tâm nào đó trong đầu bạn điều khiển

bàn tay này, và trung tâm đó cần phải được chữa lành.

Không nên động chạm tới bàn tay chút nào; trung tâm

đó không làm việc, có vấn đề gì đó với trung tâm này.

Sớm hay muộn toàn bộ y học sẽ trở nên bị chi phối

bởi các trung tâm não. Những trung tâm đó giữ quyền

kiểm soát mọi thứ trong thân thể. Khi cái gì đó bị sai đi

ở trung tâm này thì nó được biểu thị một cách tượng

trưng bởi phần ngoài của thân thể. Bạn bắt đầu chữa trị

phần ngoài; bạn không đi đủ sâu.

Y học phương Tây hiện đại là hời hợt. Bạn nên đi

tới tận gốc: tại sao bàn tay này bỗng nhiên trở nên bị

liệt? Trung tâm trong não đang gặp rắc rối nào đó, và

trung tâm đó có thể được chữa rất dễ dàng. Đó là trung

tâm sinh-điện.

Có lẽ khi bạn không cảm thấy sảng khoái thì đấy

chỉ là pin của bạn sắp hết - bạn cần việc nạp lại nào đó.

Nếu tay bạn trở nên bị liệt, có lẽ trung tâm đã mất điện

của nó; nó có thể được nạp lại. Không cần thuốc nào

cả, không cần giải phẫu nào cả. Bây giờ chúng ta đang

ở vị trí nhìn vào con người từ các góc độ khác: cách

thức các xã hội khác, trong các nền văn hoá khác, ở các

thời đại khác, đã chữa trị cho con người. Và đôi khi

nếu điều kì lạ dường như là có tác động, chúng nên

được chấp nhận thay vì bác bỏ.

Chẳng hạn, bẩy mươi phần trăm bệnh tật chỉ là

trong tâm trí bạn: bạn không bị bệnh, bạn chỉ nghĩ là

mình bị bệnh thôi. Bây giờ, đưa cho bạn thuốc đối trị

liệu pháp để chữa các bệnh đó là nguy hiểm, bởi vì tất

cả các thuốc đối trị bằng cách này cách khác đều có

quan hệ với nhiều chất độc. Nếu bạn có bệnh, thuốc là

tốt; nhưng nếu bạn không có bệnh mà chỉ có ý tưởng,

thế thì vi lượng liệu pháp là tốt nhất bởi vì nó chẳng

gây hại cho ai cả. Nó chẳng có gì trong nó, nhưng nó

lại là sự giúp đỡ lớn lao cho nhân loại. Hàng nghìn

người đang được chữa bằng vi lượng liệu pháp.

Vấn đề không phải là vi lượng liệu pháp có là

thuốc thực hay không. Vấn đề là: nếu mọi người có

bệnh không thật, bạn cần một hệ thống thuốc không

thật cho họ. Vi lượng liệu pháp chẳng có gì trong nó,

có những người không bị bệnh gì nhưng vẫn cứ bị hành

hạ bởi ý tưởng rằng họ có bệnh. Vi lượng liệu pháp sẽ

giúp cho họ ngay lập tức. Nó chữa cho mọi người

nhưng chưa bao giờ làm hại ai cả. Nó là thuốc hư

huyễn - nhưng phải làm gì với nhân loại hư huyễn đây?

Các bác sĩ điều trị Ấn Độ và các y tá thực hành

không có các dụng cụ, máy móc phức tạp, tia X hay

các thứ khác; họ không có thậm chí cả ống nghe. Họ

chỉ kiểm tra nhịp tim bạn - và điều này đã vận hành

hoàn hảo trong nhiều nghìn năm. Họ kiểm tra nó bởi vì

nhịp tim là chính trung tâm cuộc sống của bạn; nếu cái

gì đó không hoàn hảo thì nó cho chỉ dẫn về điều cần

phải làm. Thay vì chữa bệnh họ sẽ cố gắng làm cho

nhịp tim bạn hài hoà hơn. Thuốc của họ sẽ giúp cho

nhịp tim bạn hài hoà hơn, và ngay lập tức bệnh tật biến

mất. Bạn nghĩ bệnh đã được chữa trị - nhưng bệnh này

chỉ là triệu chứng.

Đó là lí do tại sao trong ayurveda họ đã có thể vứt

bỏ giải phẫu đi hoàn toàn: điều đó đã thu gọn con

người về cái máy. Khi mọi sự có thể được thực hiện rất

dễ dàng với nước khoáng, thảo mộc, những thứ tự

nhiên, không đầu độc hệ thống của con người, thế thì

tại sao cứ trao chất độc một cách không cần thiết cho

con người, cái sẽ có hiệu quả phụ của chúng?

Có lẽ đó là một trong những lí do tại sao thuốc đã

phát triển và tiến hoá, và đi kèm nó bệnh tật cứ tăng lên

mãi. Bạn chữa trị bệnh, nhưng bạn chữa nó bằng chất

độc; bệnh sẽ khỏi nhưng chất độc sẽ còn lại trong hệ

thống. Và chất độc đó sẽ tạo ra hiệu quả riêng của nó.

Cho nên tất cả thuốc thảo mộc, tất cả nước khoáng và

những thứ như thuốc vi lượng nên được tổ hợp lại.

Đáng ra chỉ nên có một khoa học với các nhánh

khác nhau, và người làm nghề y phải quyết định nên

gửi người này tới nhánh nào. Chẳng ích gì bảo ai đó,

“Anh không có bệnh”; điều đó vô dụng hoàn toàn.

Người đó đơn giản sẽ đổi bác sĩ, đó là hiệu quả duy

nhất. Người đó sẽ thích vị bác sĩ nói, “Anh có bệnh

này...”

Vài người đã mất ý chí sống; thế thì chẳng thuốc

nào có thể giúp được bởi vì ý chí cơ bản để sống không

còn nữa. Họ đã chết; họ chỉ đợi thời điểm tang lễ.

Những người này không cần thuốc, họ cần một kiểu trị

liệu khác đem cho họ ý chí để sống lần nữa. Đó là điều

cơ bản của họ - chỉ thế thì mọi thuốc thang khác mới

có ích.

Tất cả những điều này cần phải được tổ hợp với

nhau thành một sự tổng hợp, một toàn thể, và con

người có thể hoàn toàn thoát khỏi bệnh tật. Con người

sẽ có thể sống ít nhất ba trăm năm; đó là ước lượng

khoa học. Thân thể người đó có khả năng cứ làm mới

lại bản thân mình trong ba trăm năm. Cho nên bất kì

cái gì chúng ta đang làm về cơ bản đều sai bởi vì con

người chết vào tuổi bẩy mươi.

Và có những bằng chứng... Trong một phần của

Kashmir bây giờ là một phần của Pakistan - Pakistan

đã chiếm nó - mọi người sống rất dễ dàng tới một trăm

năm mươi tuổi. Tại Nga có nhiều người một trăm năm

mươi tuổi, và có những người thậm chí đã đạt tới một

trăm tám mươi tuổi. Bây giờ, thức ăn của những người

này, thói quen của họ nên được nghiên cứu, và những

thức ăn và thói quen đó nên được mọi người biết tới.

Một người một trăm tám mươi tuổi ở nước Nga Xô

viết, trong phần đặc biệt của Caucasus, vẫn còn làm

việc trên cánh đồng giống hệt như bất kì thanh niên

nào; người đó thậm chí không già. Thức ăn của người

đó, cách sống của người đó cần phải được xem xét rất

sâu sắc. Và có nhiều người trong vùng đó - chỉ trong

vùng đó, Caucasia. Miền đó đã tạo ra những người

thực sự mạnh mẽ. Bản thân Joseph Stalin là từ vùng

đó; George Gurdjieff đã từ vùng đó - những người cực

kì mạnh mẽ.

Y học cần một chiều hướng mới. Điều đó bây giờ

là có thể bởi vì mọi thứ đã xảy ra trên khắp thế giới đều

được biết tới; chúng ta chỉ cần không bị định kiến ngay

từ ban đầu.2

Chỉ có một loại mạnh khoẻ - bạn không cần bất kì

tính từ nào cho nó. Nếu ai đó hỏi, “Anh có mạnh khoẻ

không?” bạn nói, “Tôi hoàn toàn mạnh khoẻ.” Người

đó không hỏi bạn, “Loại mạnh khoẻ nào?” Nếu người

đó hỏi bạn, “Loại mạnh khoẻ nào?” bạn sẽ ngạc nhiên.

Bạn sẽ nói, “Đơn giản mạnh khoẻ! Mạnh khoẻ chỉ là

mạnh khoẻ thôi, cảm giác sảng khoái, rằng chẳng có gì

sai, mọi sự đều chạy êm, rằng tôi sung sướng, rằng tôi

không thể nào nghĩ được mọi sự lại có thể tốt hơn thế

này.”

Có nhiều loại mạnh khoẻ không? Không, chỉ có

một loại: mạnh khoẻ. Nhưng bệnh tật có cả triệu.

Cũng điều ấy là trường hợp với chân lí: chân lí là

một. Nhưng dối trá hàng triệu bởi vì dối trá tuỳ thuộc

vào bạn; bạn có thể cứ bịa đặt bao nhiêu tuỳ ý. Bệnh tật

tuỳ thuộc vào bạn. Bạn có thể cứ sống sai, ăn đồ sai,

làm việc sai, và bạn có thể cứ tạo ra những bệnh tật

mới.

Mạnh khoẻ là một - bao giờ cũng mới, nhưng nó

bao giờ cũng là một. Bạn có thể gọi nó là cái cổ đại

nhất ấy vậy mà nó vẫn gần nhất, mới nhất.

Năm nghìn năm trước đây ai đó đã mạnh khoẻ, và

bây giờ bạn mạnh khoẻ; bạn có cho rằng sẽ có khác

biệt gì đó không? Người đó không mang mầu da bạn,

người đó không biết ngôn ngữ của bạn, và năm nghìn

năm đã trôi qua. Nhưng nếu ai đó đã mạnh khoẻ, dù

người đó là bất kì ai, dù ngôn ngữ của người đó là gì,

dù mầu da người đó là gì, đàn ông hay đàn bà, trẻ hay

già - nếu người đó mạnh khoẻ thế thì ít nhất bạn cũng

biết một điều rằng người đó đã: mạnh khoẻ. Cảm giác

mạnh khoẻ đó bạn có thể kinh nghiệm được. Bạn

không cần biết gì về người đó - đẹp, xấu, cao, thấp

không thành vấn đề; một điều là tương tự, rằng người

đó đã mạnh khoẻ và bạn đang mạnh khoẻ. Một kinh

nghiệm đích xác là như nhau.

Nhưng bệnh tật... mọi ngày các bệnh mới lại cứ

được sinh ra. Có đến hàng triệu bệnh, và sẽ có nhiều

bệnh nữa khi con người trở nên sáng tạo hơn.

Bạn chưa bao giờ đi tới bác sĩ bởi vì bạn cảm thấy

mạnh khoẻ, hay bạn có đi? Chẳng hạn “Trong hai tuần

tôi đã cảm thấy mạnh khoẻ - cái gì đó phải sai rồi.”

Trong thực tế tại Trung quốc cổ đại đã có một điều

đáng nhớ; có lẽ lúc nào đó trong tương lai điều đó có

thể được dùng lại. Khổng Tử đã ghi dấu ấn vào Trung

quốc nhiều nhất. Một trong các ý tưởng của ông ấy là...

và nó đã được thực hiện, trong nhiều thế kỉ nó vẫn còn

vận hành. Ý tưởng đó là: lương y nên được trả tiền để

giữ cho bệnh nhân mạnh khoẻ, không phải để chữa trị

cho người đó. Nếu bác sĩ được trả tiền cho việc chữa trị

bạn thế thì quyền lợi được đảm bảo của ông ta là ở chỗ

bạn vẫn còn ốm đau. Bạn càng ốm nhiều càng tốt; càng

nhiều người ốm càng tốt. Bạn tạo ra sự phân đôi trong

tâm trí bác sĩ điều trị.

Trước hết bạn dạy bác sĩ điều trị rằng công việc của

ông ta là để giữ cho mọi người mạnh khoẻ: “Chức năng

của ông là kéo dài cuộc sống, sức sống, sự trẻ trung

của họ.” Nhưng quyền lợi được đảm bảo của bác sĩ lại

là ở chỗ nếu mọi người vẫn còn mạnh khoẻ, trẻ trung,

không ai ốm cả, thế thì ông ta sẽ chết đói. Nếu mọi

người đều mạnh khoẻ thế thì các bác sĩ sẽ ốm đau,

hoàn toàn đau ốm, đau ốm đến chết. Họ sẽ làm gì?

Không, quyền lợi được đảm bảo của bác sĩ là

chống lại cái triết lí mà ông ta đã từng được dạy. Mối

quan tâm của ông ta là ở chỗ mọi người phải còn ốm,

càng nhiều ốm đau càng tốt. Do đó bạn sẽ thấy một

điều kì lạ: nếu người nghèo ốm, người đó sẽ khoẻ lại

sớm hơn người giầu. Kì lạ thật... tại sao người nghèo

lại khoẻ sớm? - bởi vì bác sĩ muốn gạt bỏ người đó,

người đó làm phí thời gian không cần thiết.

Ý tưởng của Khổng Tử có tầm quan trọng lớn; ông

ấy nói rằng mọi người nên trả cho lương y tiền lương

tháng về việc giữ cho mình mạnh khoẻ. Nếu người ta

vẫn còn mạnh khoẻ trong cả tháng thế thì người đó

phải trả một số tiền nào đó cho lương y. Nếu người đó

bị ốm thế thì lương tương ứng sẽ bị cắt đi.

Rất lạ lúc ban đầu, bởi vì chúng ta đang làm chính

cái đối lập trên khắp trên thế giới - nhưng rất logic, rất

lành mạnh. Và theo nhiều cách thức Khổng Tử là

người lành mạnh. Mọi người nên có bác sĩ điều trị của

mình, và người đó nên trả tiền cho bác sĩ điều trị về

việc giữ cho mình mạnh khoẻ, chứ không vì trả cho

việc chữa chạy người đó. Nếu người đó bị ốm thế thì

phí tổn do bác sĩ chịu; thuốc thang và mọi chi phí khác

- và lương của bác sĩ cũng bị cắt nữa bởi vì ông ta đã

không chăm nom cho người đó.

Hàng thế kỉ điều này đã tiếp tục. Và điều đó có tác

dụng tốt, cực kì tốt, cho cả hai. Cho bác sĩ, cho bệnh

nhân, điều đó làm việc tốt cho cả hai. Bác sĩ không bị

nặng gánh thế. Còn bệnh nhân cũng hoàn toàn hạnh

phúc bởi vì bây giờ quyền lợi được đảm bảo của bác sĩ

không chống lại họ, điều đó thiên về họ.

Cho nên bác sĩ không quan tâm tới điều họ phải bị

ốm theo bất kì cách nào và phải tuỳ thuộc vào thuốc.

Ông ta sẽ kê đơn nhiều bài tập luyện hơn - đi bộ, bơi,

thể thao - để cho họ sẽ vẫn còn mạnh khoẻ. Và trong

nhiều thế kỉ, trong khi ảnh hưởng của Khổng Tử kéo

dài, Trung quốc phải đã là nước mạnh khoẻ nhất trên

thế giới.3

******************************************************

#2 Được chữa lành ngụ ý là cái toàn thể

Từ ‘thiền - meditation’ và từ ‘thuốc - medicine’ có

cùng gốc. Thuốc nghĩa là cái chữa lành về thể chất, còn

thiền nghĩa là cái chữa lành về tâm linh. Cả hai đều là

những năng lực chữa lành.

Một điều khác cần phải nhớ: từ ‘chữa lành -

healing’ và từ ‘toàn thể - whole’ cũng có cùng gốc.

Được chữa lành đơn giản có nghĩa là toàn thể, không

bỏ lỡ bất kì điều gì. Một nghĩa khác của từ này - từ

‘linh thiêng - holy’ cũng có cùng gốc. Chữa lành, toàn

thể, linh thiêng là không khác biệt về nguồn gốc.

Thiền chữa lành, làm cho bạn thành toàn thể, và là

toàn thể tức là linh thiêng.

Tính linh thiêng chẳng liên can gì tới việc thuộc

vào bất kì tôn giáo nào, thuộc vào bất kì nhà thờ nào.

Nó đơn giản có nghĩa là bên trong mình, bạn là toàn

thể, đầy đủ; không cái gì thiếu, bạn được mãn nguyện.

Bạn là điều mà sự tồn tại muốn bạn là vậy. Bạn đã

nhận ra tiềm năng của mình...

Tôn giáo là cuộc hành trình hướng nội, và thiền là

con đường. Điều thiền thực sự làm là, nó đem bạn, tâm

thức bạn, vào sâu nhất có thể được. Ngay cả thân thể

riêng của bạn cũng trở thành cái gì đó bên ngoài. Ngay

cả tâm trí riêng của bạn cũng trở thành cái gì đó bên

ngoài. Ngay cả trái tim riêng của bạn - cái rất gần với

trung tâm của bản thể bạn - cũng trở thành bên ngoài.

Khi thân thể, tâm trí và trái tim, tất cả ba, đều được

thấy là ở bên ngoài, bạn đã đi tới chính trung tâm của

sự tồn tại của mình.

Việc tới trung tâm này là sự bùng nổ cực kì lớn làm

biến đổi mọi thứ. Bạn sẽ không bao giờ là con người cũ

nữa, bởi vì bây giờ bạn biết thân thể chỉ là lớp vỏ bên

ngoài; tâm trí có là bên trong chút ít nhưng không thực

sự là cốt lõi bên trong của bạn; trái tim có chút ít bên

trong hơn, nhưng vẫn không phải là trung tâm bên

trong nhất. Bạn không đồng nhất với tất cả ba điều này.

Bạn bắt đầu cảm thấy, lần đầu tiên, được kết tinh...

không phải là con người mờ nhạt mà bạn bao giờ cũng

đã là. Lần đầu tiên bạn bắt đầu cảm thấy một năng

lượng mênh mông, năng lượng không cạn mà bạn chưa

biết tới. Lần đầu tiên bạn biết rằng cái chết sẽ xảy ra

chỉ cho thân thể, cho tâm trí, cho trái tim, nhưng không

cho bạn.

Bạn là vĩnh hằng. Bạn bao giờ cũng ở đây, và bạn

bao giờ cũng sẽ ở đây - dưới hình dạng khác, và chung

cuộc trong trạng thái vô hình dạng. Nhưng bạn không

thể nào bị huỷ diệt - bạn là bất khả huỷ diệt. Điều đó

lấy đi tất cả mọi nỗi sợ khỏi bạn. Và biến mất của nỗi

sợ là xuất hiện của tự do. Biến mất của nỗi sợ là xuất

hiện của tình yêu. Bây giờ bạn có thể chia sẻ. Bạn có

thể cho bao nhiêu tuỳ ý, bởi vì bạn bây giờ ở tại cội

nguồn nước sống không cạn.

Thiền làm cho bạn thành toàn thể, làm cho bạn

thành linh thiêng, và làm cho bạn thành cội nguồn

không cạn cho tất cả những người đang đói, khát, đang

tìm kiếm, đang tìm tòi, đang dò dẫm trong bóng tối.

Bạn trở thành ánh sáng. Thiền là cách làm chủ bản thể

riêng của bạn. Không cần tới Thượng đế nào cả, không

cần tới giáo lí vấn đáp, không cần tới sách thánh.

Không ai cần phải trở thành người Ki tô giáo hay

người Do thái giáo hay người Hindu giáo - tất cả

những cái đó đều là cực kì vô nghĩa. Tất cả mọi điều

cần là tìm ra trung tâm của bạn, và thiền là cách đơn

giản nhất để tìm thấy nó.

Điều đó sẽ làm cho bạn thành toàn thể, mạnh khoẻ

về tâm linh, và nó sẽ làm cho bạn thành giầu có đến

mức bạn có thể phá huỷ tất cả mọi nghèo nàn tâm linh

của thế giới. Và đó mới là cái nghèo thực sự.

Cái nghèo của thân thể vật lí trong thức ăn, trong

quần áo, trong chỗ trú ngụ, có thể dễ dàng được khoa

học và công nghệ giúp đỡ. Nhưng khoa học và công

nghệ không thể giúp bạn phúc lạc được - điều đó nằm

ngoài phạm vi của chúng. Và bạn có thể có mọi thứ mà

thế giới có thể cung cấp, nhưng nếu bạn không có an

bình, chân thành, im lặng, cực lạc, bạn sẽ vẫn còn

nghèo nàn.

Trong thực tế, bạn sẽ cảm thấy cái nghèo của mình

hơn bao giờ hết, bởi vì tương phản sẽ có đó. Bạn đang

sống trong cung điện vàng, và bạn biết mình là kẻ ăn

mày. Cung điện vàng sẽ trở thành tương phản: bây giờ

bạn có thể thấy bên trong chẳng có gì, bạn chỉ là trống

rỗng.

Đó là lí do tại sao khi nhân loại trở nên thông minh

hơn, chín chắn hơn, ngày càng nhiều người bắt đầu

cảm thấy vô nghĩa, ngày càng nhiều người bắt đầu cảm

thấy cuộc sống là ngẫu nhiên, rằng thật là vô tích sự cứ

tiếp tục sống.

Những phát triển mới nhất trong triết học ở phương

Tây tất cả đều chỉ ra một điều, rằng có lẽ tự tử là giải

pháp duy nhất. Và tất nhiên, nếu bạn không biết về thế

giới bên trong của mình, và bạn có mọi thứ có sẵn mà

thế giới bên ngoài có thể trao cho bạn, tự tử sẽ dường

như là giải pháp duy nhất.

Thiền có thể làm cho bạn thành giầu có trong nội

tâm. Thế thì tự tử nằm ngoài vấn đề này; thậm chí nếu

bạn muốn phá huỷ bản thân mình, cũng không có cách

nào cả. Bản thể bạn là không thể bị huỷ diệt. Và việc

biết tới tính bất tử này là tự do lớn lao - tự do với cái

chết, với bệnh tật, với tuổi già. Tất cả những điều này

sẽ tới và đi, nhưng bạn vẫn còn không bị đụng chạm

tới, không bị xây sát. Mạnh khoẻ bên trong của bạn là

ở ngoài mọi bệnh tật.

Và nó có đó, chỉ cần được phát hiện ra.4

Lần sau bạn vào ngôi đền của Phật Gautam hay

Mahavira, chỉ ngồi im lặng, quan sát bức tượng... bởi

vì bức tượng đã được làm theo một cách, theo một tỉ lệ

mà nếu bạn quan sát nó bạn sẽ rơi vào im lặng. Nó là

bức tượng về thiền; nó không liên quan tới Phật

Gautam hay Mahavira....

Trong trạng thái đại dương đó thân thể lấy điệu bộ

nào đó. Bạn đã tự mình quan sát nó, nhưng bạn lại

không tỉnh táo. Khi bạn giận dữ, bạn có quan sát

không? - thân thể bạn lấy điệu bộ nào đó. Trong giận

dữ bạn không thể để bàn tay để mở được; trong giận dữ

- nắm đấm. Trong giận dữ bạn không thể mỉm cười

được - hay bạn có thể? Với xúc động nào đó, thân thể

phải tuân theo một điệu bộ nào đó. Chỉ những điều nhỏ

bé mới có quan hệ sâu sắc bên trong...

Một khoa học bí mật nào đó đã được sử dụng hàng

thế kỉ để cho các thế hệ mới tới có thể đi vào tiếp xúc

với những kinh nghiệm của các thế hệ cổ hơn - không

qua sách vở, không qua lời, mà qua cái gì đó đi sâu hơn

- qua im lặng, qua thiền, qua an bình. Khi im lặng của

bạn phát triển, tình bạn của bạn, tình yêu của bạn phát

triển; cuộc sống của bạn trở thành điệu vũ từ khoảnh

khắc sang khoảnh khắc, niềm vui, lễ hội...

Bạn đã bao giờ nghĩ tới tại sao, trên khắp thế giới,

trong mọi nền văn hoá, trong mọi xã hội, có vài ngày

trong năm dành cho lễ hội? Vài ngày này dành cho lễ

hội chỉ là việc bù lại - bởi vì những xã hội này đã lấy đi

tất cả mọi lễ hội của cuộc sống của bạn, và nếu không

cái gì được trao bù lại cho bạn, cuộc sống của bạn có

thể trở thành nguy hiểm cho nền văn hoá. Mọi nền văn

hoá đều phải cho bạn cái bù gì đó để cho bạn không

cảm thấy bị mất hoàn toàn trong khổ, trong buồn...

Nhưng những cái bù lại đó là giả. Nhưng trong thế giới

bên trong của bạn có thể vẫn có sự liên tục của ánh

sáng, bài ca, niềm vui.

Bao giờ cũng nhớ rằng xã hội bù lại cho bạn khi nó

cảm thấy rằng cái bị kìm nén có thể bùng nổ thành tình

huống nguy hiểm nếu điều đó không được bù lại. Xã

hội tìm ra cách nào đó để cho phép bạn xả ra cái bị kìm

nén. Nhưng đây không phải là lễ hội đúng, và nó không

thể đúng được. Lễ hội đúng phải tới từ cuộc sống của

bạn, trong cuộc sống của bạn.

Và lễ hội đúng không thể tương ứng theo lịch

được, rằng vào ngày mồng một tháng mười một bạn sẽ

làm lễ hội. Kì lạ, cả năm bạn khổ và vào ngày mồng

một tháng mười một bỗng nhiên bạn thoát ra khỏi khổ,

nhảy múa. Hoặc khổ là giả hoặc ngày mồng một tháng

mười một là giả; cả hai không thể đúng được. Và một

khi ngày mồng một tháng mười một qua rồi, bạn trở lại

trong cái hố tối tăm của mình, mọi người đều trong khổ

của mình, mọi người đều trong lo âu của mình.

Cuộc sống phải là lễ hội liên tục, liên hoan ánh

sáng cả năm ròng. Chỉ thế thì bạn mới có thể trưởng

thành, bạn mới có thể nở hoa. Biến đổi những cái nhỏ

bé thành lễ hội đi... Mọi thứ bạn làm nên mang tính

diễn đạt về bạn; nó nên có chữ kí của bạn lên nó. Thế

thì cuộc sống trở thành lễ hội liên tục.

Cho dù bạn ốm và bạn nằm trên giường, bạn sẽ làm

cho những khoảnh khắc nằm trên giường đó thành

những khoảnh khắc của cái đẹp và niềm vui, khoảnh

khắc của thảnh thơi và nghỉ ngơi, khoảnh khắc của

thiền, khoảnh khắc của việc nghe nhạc hay thơ. Không

có nhu cầu phải buồn rằng bạn ốm. Bạn nên sung

sướng rằng mọi người đều ở văn phòng còn bạn nằm

trên giường như vua, thảnh thơi - ai đó chuẩn bị trà cho

bạn, ấm samovar đang ca lên bài ca, một người bạn tỏ

ý muốn tới và thổi sáo cho bạn. Những điều này còn

quan trọng hơn bất kì thuốc nào. Khi bạn ốm, gọi bác

sĩ. Nhưng điều quan trọng hơn, gọi những người yêu

bạn tới bởi vì không có thuốc nào quan trọng hơn tình

yêu. Gọi những người có thể tạo ra cái đẹp, âm nhạc,

thơ ca tới quanh bạn bởi vì không có gì chữa lành được

như tâm trạng lễ hội.

Thuốc là loại trị liệu thấp nhất. Nhưng dường như

chúng ta đã quên mất mọi thứ, cho nên chúng ta phải lệ

thuộc vào thuốc và thành cục cằn và buồn bã - dường

như bạn đang bỏ lỡ niềm vui lớn lao nào đó bạn đã có

trong văn phòng! Trong văn phòng bạn đã khổ rồi - chỉ

một ngày nghỉ, và bạn lại níu bám lấy khổ nữa; bạn sẽ

không buông bỏ nó.

Làm mọi thứ thành sáng tạo đi, làm ra cái tốt nhất

từ cái tệ nhất - đó là điều tôi gọi là 'nghệ thuật'. Và nếu

một người đã sống cả đời mình trong việc làm cho mọi

khoảnh khắc và mọi pha của nó thành cái đẹp, tình yêu,

niềm vui, một cách tự nhiên cái chết của người đó sẽ là

đỉnh cao tối thượng của toàn thể nỗ lực cuộc sống của

người đó.

Cái chạm cuối cùng... cái chết của người đó sẽ

không xấu như thường vẫn xảy ra mọi ngày cho mọi

người. Nếu cái chết mà xấu, điều đó nghĩa là toàn thể

cuộc sống của bạn đã là phí hoài.

Cái chết nên là chấp nhận an bình, lối đi đáng yêu

vào trong cái không biết, lời chào tạm biệt vui vẻ với

những người bạn cũ, với thế giới cũ. Không nên có

thảm kịch nào trong nó...

Bắt đầu bằng thiền, và mọi sự sẽ cứ phát triển trong

bạn - im lặng, chân thành, phúc lạc, nhạy cảm. Và bất

kì cái gì tới từ thiền, cố đem nó vào cuộc sống. Chia sẻ

nó, bởi vì mọi thứ được chia sẻ đều phát triển nhanh.

Và khi bạn đã đạt tới điểm chết, bạn sẽ biết không có

cái chết. Bạn có thể nói lời tạm biệt, không có nhu cầu

về nước mắt buồn rầy - có thể là nước mắt vui sướng,

nhưng không buồn rầu.5

******************************************************

#3 Mê tín vào y học

Y học, vật lí học, tâm lí học, đều còn rất non nớt

theo nghĩa rằng chúng chỉ làm việc trên bề ngoài của

con người - chúng không tìm thấy con đường vào trung

tâm con người. Và bởi vì chúng không chấp nhận sự

tồn tại của tâm thức nào đó bên ngoài tâm trí, của tâm

thức nào đó bên ngoài cái chết, nên chúng hoàn toàn

đóng, mang định kiến chống lại toàn thể mọi nỗ lực

mênh mông mà các nhà huyền môn đã làm trong việc

tìm ra trung tâm của tâm thức.

Nhiều lần chẩn đoán của nhà sinh lí học hay bác sĩ

điều trị có thể hoàn toàn sai bởi lẽ đơn giản là tầm nhìn

không đủ bao quát toàn diện. Ông ta hiểu con người chỉ

là vật chất, còn tâm trí chỉ là sản phẩm phụ của vật

chất, hiện tượng hình bóng chẳng có gì bên ngoài nó

cả, chẳng cái gì vĩnh hằng, chẳng cái gì sẽ còn lại mãi.

Họ đã tạo ra bức tranh về con người gây ra thất vọng

trong người thông minh. Và bởi vì việc bác bỏ thẳng

thừng của họ mà cách tiếp cận của họ không khoa học;

nó cũng mê tín như bất kì người tôn giáo hay chính trị

cuồng tín nào khác.

Khoa học không có quyền phủ nhận tâm thức

chừng nào nó còn chưa thám hiểm bầu trời bên trong

của tâm thức con người và thấy rằng đó là chất liệu

mơ, không phải là thực tại mà chỉ là cái bóng.

Họ đã không thám hiểm - họ đơn giản giả thiết.

Chủ nghĩa duy vật là giả thuyết, là mê tín của thế giới

khoa học, cũng như Thượng đế, thiên đường và địa

ngục là mê tín của thế giới tôn giáo.

Khoa học còn chưa là khoa học thuần khiết và nó

không thể là thế được, bởi vì nhà khoa học còn chưa

hồn nhiên, vô định kiến, sẵn sàng đi với chân lí mặc

cho bản thân mình và sự huấn luyện của mình.6

#3 Trong y học ngày nay, chúng ta nói về tính chủ

quan của liệu pháp; cùng một thuốc có các kết quả

khác nhau với các bác sĩ khác nhau.

Thầy có thể bình luận về tính chủ quan của khoa

học vẫn cứ nói là khoa học khách quan không?

Bất kì cái gì phải giải quyết với con người thì

chẳng bao giờ có thể là khách quan toàn bộ được; nó sẽ

phải cho phép một không gian nào đó cho tính chủ

quan .

Điều không chỉ đúng là cùng thuốc được cho từ

nhiều bác sĩ khác nhau sẽ có hiệu quả khác nhau; điều

cũng còn đúng là cùng thuốc có những hiệu quả khác

nhau trên các bệnh nhân khác nhau từ cùng một bác sĩ.

Con người không phải là vật.

Trước hết bạn phải hiểu từ ‘vật’. Mẩu đá chỉ là một

vật. Không có nội tâm, không có cái bên trong cho nó.

Bạn có thể đập nó ra thành hai; thế thì có hai vật. Bạn

có thể đập nó thành bốn, và có bốn vật. Nhưng bạn sẽ

không tìm thấy phần bên trong nào.

Tính chủ thể có nghĩa là từ phía bên ngoài một

người là đối thể như bất kì vật nào khác - bức tượng,

xác chết, thân thể sống, khác biệt là gì? Bức tượng đơn

giản là một đối thể, nó không có tính chủ thể. Xác chết

đã có thời là ngôi nhà cho một hiện tượng chủ thể,

nhưng bây giờ nó trống rỗng. Bây giờ nó là ngôi nhà

trống rỗng; người đã sống trong nó đã ra đi rồi.

Người sống có tất cả tính đối thể của bức tượng,

của xác chết, và có cái gì đó hơn nữa - chiều hướng

bên trong - cái có thể làm thay đổi nhiều thứ bởi vì nó

là cái mạnh mẽ nhất trong sự tồn tại. Chẳng hạn, người

ta đã chú ý rằng ba người có thể cùng mắc một bệnh,

nhưng cùng thuốc sẽ không có tác dụng. Trên người

này nó có tác dụng; trên người kia chỉ được năm mươinăm

năm mươi, có tác dụng rồi lại không tác dụng;

nhưng trên người thứ ba nó chẳng có tác dụng chút

nào. Bệnh thì như nhau, nhưng phần bên trong là khác

nhau. Và nếu bạn đem phần bên trong ra xem xét, thế

thì có lẽ bác sĩ sẽ đưa ra những tác động khác trên

những người khác nhau bởi những lí do khác nhau.

Một trong những người bạn tôi là nhà giải phẫu lớn

ở Nagpur - nhà giải phẫu lớn nhưng không phải là

người tốt. Ông ta chưa hề thất bại trong việc giải phẫu,

và ông ấy đòi giá cao gấp năm lần bất kì nhà giải phẫu

nào khác đòi. Tôi đã ở cùng ông ấy và tôi bảo ông ấy,

“Thế này thì quá thể. Khi nhà giải phẫu khác đòi số

tiền nào đó về cùng một bệnh, ông lại đòi gấp năm lần

hơn.”

Ông ta nói với tôi, “Thành công của tôi trong nhiều

điều khác cũng có cơ sở này: khi người ta trả cho tôi

năm lần hơn, thì người đó quyết tâm sống sót. Đấy

không chỉ bởi vì tôi tham tiền đâu. Nếu người đó sẵn

lòng đưa cho tôi năm lần hơn - trong khi người đó có

thể có được việc mổ với giá rẻ - thì người đó quyết tâm

sống sót với bất kì giá nào. Và quyết tâm của người đó

gần như là năm mươi phần trăm thành công của tôi.”

Có những người không muốn sống nữa; họ không

sẵn lòng hợp tác với bác sĩ. Họ uống thuốc, nhưng

không có ý chí để sống sót: ngược lại, họ đang hi vọng

rằng thuốc không có tác dụng để cho họ sẽ không bị

trách là tự tử, tuy rằng họ có thể gạt bỏ cuộc sống. Bây

giờ, từ bên trong người đó đã rút lui. Thuốc không thể

giúp gì cho phần bên trong của người đó, và không có

sự hỗ trợ bên trong của người đó, bác sĩ cũng gần như

bất lực - thuốc là không đủ.

Tôi đi tới nhận biết từ nhà giải phẫu này... Ông ta

nói, “Ông không biết đấy thôi. Đôi khi tôi làm những

điều hoàn toàn vô đạo đức, nhưng để giúp cho bệnh

nhân tôi phải làm những việc đó.”

Tôi nói, “Ông muốn nói gì?”

Ông ta nói, “Tôi bị những người trong nghề kết

án...” Và tất cả các bác sĩ của vùng Nagpur đều kết án

ông ta - “Chúng tôi chưa bao giờ thấy một kẻ lừa bịp

như vậy.”

Ông ấy cho bệnh nhân lên bàn trong phòng mổ -

các bác sĩ đều sẵn sàng, các y tá đều sẵn sàng, sinh

viên sẽ quan sát từ hành lang phía trên. Và ông ấy sẽ

thì thào vào tai bệnh nhân, “Chúng ta đã thoả thuận về

phí mười nghìn đồng - điều đó không có tác dụng. Vấn

đề của anh còn nghiêm trọng hơn nhiều. Chỉ nếu anh

sẵn lòng đưa cho tôi hai mươi nghìn tôi mới cầm dao

mổ trong tay; bằng không thì đứng dậy và bước ra.

Anh có thể đi tìm người khác rẻ hơn.”

Bây giờ, trong tình huống đó... Và người này có

tiền, bằng không thì làm sao người đó có thể nói có

được? Và người đó chấp nhận điều này: “Tôi sẽ đưa

hai mươi nghìn, nhưng hãy cứu tôi.”

Và ông ta bảo tôi, “Bất kì nhà giải phẫu nào cũng

đều có thể cứu được người đó, nhưng không có sự chắc

chắn như vậy. Bởi vì người đó đã trả hai mươi nghìn

đồng, nên người đó tuyệt đối cùng tôi; toàn bộ phần

bên trong người đó đều ủng hộ. Mọi người lên án tôi

bởi vì họ không hiểu tôi. Chắc chắn điều đó là vô đạo

đức: từ thoả thuận mười nghìn rồi đặt người ta vào

phòng mổ và thì thào vào tai người ta, ‘hai mươi nghìn,

ba mươi nghìn; bằng không thì đứng dậy và bước ra -

bởi vì tôi đã không nhận ra rằng bệnh này lại ăn sâu

thế. Tôi đang nhận rủi ro, và tôi đang đặt toàn bộ danh

tiếng về mình mập mờ ở giữa. Với mười nghìn tôi sẽ

không làm điều đó. Và tôi chưa bao giờ sai trong đời

mình cả, thành công là qui tắc của tôi. Tôi chỉ mổ khi

tôi tuyệt đối chắc chắn thành công. Cho nên anh quyết

định đi. Mà tôi không có nhiều thời gian đâu, bởi vì các

bệnh nhân khác đang đợi. Anh chỉ quyết định trong hai

phút thôi: hoặc là đồng ý, hoặc là đứng dậy và bỏ đi.’

Một cách tự nhiên, người này sẽ nói, ‘tôi sẽ đưa cho

ông bất kì cái gì ông muốn, nhưng xin hãy cứ tiến hành

mổ.’

Điều đó là phi pháp, vô đạo đức, nhưng tôi không

thể nói rằng điều đó là phi tâm lí.”

Bất kì điều gì giải quyết với con người cũng không

thể nào thuần tuý khách quan được.

Tôi có một người bạn khác, một bác sĩ bây giờ

đang ở tù bởi vì ông ta không đủ tư cách chút nào. Ông

ta chưa bao giờ tới bất kì trường y nào cả; tất cả các

bằng cấp ông ta đã viết trên biển hiệu mình đều là hư

huyễn cả. Nhưng tôi vẫn có ý kiến rằng sự bất công đã

giáng lên con người này - bởi vì việc ông ta có bằng

cấp hay không, không phải là vấn đề. Ông ta đã giúp

đỡ cho hàng nghìn người, và đặc biệt là cho những

người đã trở nên vô hi vọng, đã tới hết bác sĩ nọ tới bác

sĩ kia - tất cả đều có bằng cấp - và đã mệt mỏi. Và con

người này có thể cứu họ. Ông ta có uy tín nào đó -

không bằng cấp. Và ông ta đã làm bệnh viện của mình

gần như là mảnh đất kì diệu. Khoảnh khắc bệnh nhân

đi vào văn phòng ông ấy, lập tức người này sẽ ngạc

nhiên. Ông ta ở mọi nơi... bởi vì mọi người quen tới

ông ấy như một phương sách cuối cùng. Mọi người đều

biết rằng người này là hư huyễn, điều đó không phải là

cái gì bị che giấu. Nó là một bí mật để mở. Nhưng nếu

bạn sắp chết, hại gì mà không thử?

Và khi bạn đi vào vườn của ông ấy - ông ấy có cái

vườn đẹp - và thế rồi văn phòng ông ấy... Ông ấy có

những phụ nữ đẹp làm tiếp tân, và điều đó là tất cả mọi

phần trị liệu y tế của ông ấy - bởi vì thậm chí nếu một

người sắp chết, nhìn vào phụ nữ đẹp ý chí sống của

người đó cũng sẽ bật ra; người đó muốn sống. Sau khi

đón tiếp, người này sẽ đi qua phòng thí nghiệm của ông

ấy. Hoàn toàn không cần thiết đưa người đó qua phòng

thí nghiệm, nhưng ông ấy muốn người này thấy rằng

ông ấy không phải là một bác sĩ thường. Và phòng thí

nghiệm mới là phép mầu - hoàn toàn vô dụng, chẳng

có gì có nghĩa cả, nhưng biết bao nhiêu là ống nghiệm,

bình thót cổ, nước mầu chảy từ ống nọ sang ống kia, cứ

như là những thực nghiệm lớn đang diễn ra.

Thế rồi bạn sẽ tới ông bác sĩ. Và ông ấy chẳng bao

giờ dùng những phương pháp thông thường để kiểm tra

mạch của bạn, không. Bạn sẽ phải nằm trên một chiếc

giường điện có điều khiển từ xa. Chiếc giường sẽ đi lên

cao trên không, và bạn nằm đó nhìn lên và treo trên

bạn có những ống nghiệm lớn. Và dây dợ sẽ được gắn

vào mạch bạn và mạch sẽ làm cho nước trong ống

nghiệm nhảy lên. Tim sẽ được kiểm tra theo cùng cách

đó - không phải bởi ống nghe thông thường. Ông ấy đã

thực hiện mọi cách bố trí trực quan cho bệnh nhân -

cho nên bệnh nhân có thể thấy mình đã tới đúng một

thiên tài, một chuyên gia.

Ông này không bằng cấp, chẳng có cái gì hết cả.

Dược sĩ của ông ấy có đủ mọi bằng cấp, và ông dược sĩ

thường kê đơn thuốc bởi vì ông này không có ý tưởng

nào về thuốc cả. Trong thực tế ông ấy chưa hề gây tội

nào. Ông ấy chưa hề kê đơn thuốc, ông ấy chưa hề kí

vào đơn thuốc. Điều này được thực hiện bởi người có

bằng cấp, người hoàn toàn có đủ tư cách làm việc đó.

Nhưng bởi vì ông ấy thu xếp tất cả những điều này, và

bởi vì ông ấy đã viết những bằng cấp lạ trên biển hiệu

của mình... và vì những bằng cấp đó cũng không tồn tại

nên tôi không nghĩ chúng là phi pháp. Ông ta không

tuyên bố rằng chúng là từ các đại học hiện đang tồn tại.

Đấy tất cả chỉ là hư cấu - nhưng hư cấu có ích.

Tôi đã thấy các bệnh nhân được chữa khỏi một nửa

trong khi khám bệnh. Đi ra, họ nói, “Chúng tôi cảm

thấy gần như được chữa khỏi, và chúng tôi vẫn còn

chưa uống thuốc. Đơn thuốc vẫn đây - bây giờ chúng

tôi sẽ đi mua thuốc.”

Nhưng bởi vì ông ấy đã làm tất cả những điều

này... Đây là chỗ tôi thấy luật pháp mù quáng. Ông ấy

chẳng làm điều gì phi pháp cả, ông ấy không làm hại ai

cả - nhưng ông ấy bị tù bởi vì ông ấy đã “lừa mọi

người”. Ông ấy chẳng lừa ai cả. Để giúp ai đó sống lâu

hơn, nếu đó là việc lừa dối, thuốc phỏng có ích gì?

Vì con người, ngành y không bao giờ có thể trở

thành tuyệt đối cứng nhắc, một khoa học khách quan

một trăm phần trăm được. Đó là lí do tại sao lại có

nhiều trường phái y thế - ayurveda, vi lượng liệu pháp,

tự nhiên liệu pháp, châm cứu liệu pháp, và nhiều nữa -

và tất cả chúng đều có ích. Bây giờ vi lượng liệu pháp

đơn giản là viên thuốc đường, nhưng nó có ích. Vấn đề

là liệu người ta có tin tưởng hay không. Có những

người theo thiên nhiên liệu pháp cuồng tín - chẳng cái

gì khác có thể có ích cho họ, chỉ thiên nhiên liệu pháp

mới có thể giúp họ. Và điều đó chẳng có mối nối gì tới

bệnh tật cả.

Một trong các giáo sư của tôi mê mẩn về thiên

nhiên liệu pháp. Bất kì vấn đề gì... và trát bùn trên

bụng bạn. Tôi hay đến chỗ ông ấy để hưởng thú, bởi vì

điều đó rất thảnh thơi, và ông ta thu xếp rất khéo -

phòng tắm đẹp và vòi hoa sen... Và cho dù điều đó

không đúng, tôi vẫn hay tới và nói, “Tôi bị đau nửa đầu

tồi tệ lắm.”

Ông ấy nói, “Đừng lo. Cứ trát bùn lên bụng ông là

được.” Bây giờ trát bùn trên bụng chẳng ích gì cho

chứng đau nửa đầu cả. Nhưng nó lại thường có ích cho

tôi, bởi vì tôi đâu có đau đầu! Tắm bùn, bồn tắm đầy,

và bạn chìm trong bùn, chỉ cái đầu ló ra - thật rất là

thoải mái và rất mát mẻ. Chẳng mấy chốc ông ta nhận

ra: “Ông cứ đến mãi với các bệnh mới.”

Tôi nói, “Điều đó đúng... bởi vì tôi kiếm được cuốn

sách về thiên nhiên liệu pháp; qua cuốn sách đó tôi bị

bệnh này, và thế rồi tôi tới ông. Đầu tiên tôi đọc nó, để

xem ông sẽ làm gì. Nếu tôi muốn điều đó được làm cho

tôi, tôi mang bệnh đó; nếu không thì chẳng cần nằm

trong bùn tới nửa giờ...”

Ông ta nói, “Vậy ra ông đã lừa tôi sao?”

Tôi nói, “Tôi không lừa ông. Tôi là bệnh nhân lỗi

lạc nhất của ông đấy! Trong đại học mọi người khác

đều cười ông, tôi là người duy nhất ủng hộ ông. Và

người khác tới đây, họ tới là bởi vì tôi - bởi vì tôi nói

rằng chứng đau nửa đầu đã biến mất.”

Ông ấy nói, “Lạy trời, bây giờ tôi cũng đau nửa đầu

đây. Tắm đi!”

Mọi người thường giận tôi. Họ sẽ bảo tôi, “Chứng

đau nửa đầu của tôi, thay vì ra đi, lại trở nên dữ dội

hơn - bởi vì bụng lạnh đâu có ích gì cho chứng đau nửa

đầu!”

Tôi sẽ nói, “Thế thì hệ thống của ông phải làm việc

khác rồi. Với hệ thống của tôi, nó có ích cho tôi!”

Có vi lượng liệu pháp, những người cuồng tín tin

rằng vi lượng liệu pháp là cách chữa trị duy nhất đúng

còn tất cả các thuốc khác đều nguy hiểm - đặc biệt đối

trị liệu pháp là chất độc. Nếu bạn tới một nhà vi lượng

liệu pháp, điều đầu tiên ông ta sẽ làm là hỏi về toàn bộ

lịch sử từ lúc bạn sinh ra tới giờ - và bạn thì lại đang bị

đau đầu.

Một trong các bác sĩ vi lượng liệu pháp sống gần

nhà tôi. Bất kì khi nào bố tôi tới thăm tôi, tôi lại đưa

ông ấy tới vị vi lượng liệu pháp này. Vị vi lượng liệu

pháp ấy bảo tôi, “Tôi cầu xin ông đừng đưa bố ông tới

nữa bởi vì ông ấy lại bắt đầu kể ra ba thế hệ, rằng ông

của ông ấy đã bị bệnh...”

Tôi nói, “Ông ấy cũng là một người vi lượng liệu

pháp. Ông ấy đi sâu hơn vào gốc rễ.”

Ông này nói, “Nhưng ông ấy làm lãng phí thời gian

quá nhiều, và tôi phải nghe - còn ông ấy chỉ đau đầu

thôi! Về ông của ông ấy và tất cả những bệnh tật của

ông ấy, thế rồi đến bố của ông ấy và mọi bệnh tật... thế

rồi mới đến bản thân ông ấy. Vào lúc ông ấy tới, gần

như cả ngày đi đời. Các bệnh nhân khác của tôi đã đi

cả, còn tôi nghe ông ấy nói với tôi về loại bệnh tật nào

ông ấy đã phải chịu từ hồi trẻ con, và cuối cùng mới ra

là ông ấy bị đau đầu.”

Tôi nói, “Lạy trời, sao ông lại không bảo tôi

trước?” và ông ấy nói, “Cũng hệt như ông là người

theo vi lượng liệu pháp, tôi cũng là người theo vi lượng

liệu pháp. Và tôi muốn cho ông bức tranh đầy đủ.”

Điều đầu tiên họ sẽ hỏi về tất cả mọi bệnh tật của

bạn bởi vì họ tin rằng tất cả các bệnh tật đều có quan

hệ, toàn bộ cuộc sống của bạn là một toàn thể. Không

thành vấn đề liệu bạn bị gì đó trong chân hay trong đầu

- chúng là bộ phận của một thân thể, và để bác sĩ hiểu,

ông ấy phải biết mọi thứ. Bác sĩ vi lượng liệu pháp sẽ

hỏi bạn loại thuốc đối trị nào bạn đã dùng - bởi vì đó là

nguyên nhân gốc rễ cho mọi bệnh tật của bạn; tất cả

mọi loại thuốc đối trị đều là chất độc. Đó là thái độ của

cũng người theo thiên nhiên liệu pháp nữa, rằng đối trị

liệu pháp là chất độc. Cho nên điều đầu tiên bạn phải

nhịn ăn, phải thụt tháo... chỉ để tẩy sạch bạn khỏi mọi

thuốc đối trị. Một khi bạn đã tẩy sạch mọi thứ đối trị...

Con người là sinh linh chủ thể. Nếu bệnh nhân yêu

bác sĩ, thế thì nước có thể có tác dụng như thuốc. Còn

nếu bệnh nhân ghét bác sĩ, thế thì chẳng thuốc nào có

ích cả. Nếu bệnh nhân cảm thấy bác sĩ dửng dưng -

thường đây là trường hợp với các bác sĩ, bởi vì họ cũng

là con người, suốt ngày gặp bệnh nhân, suốt ngày ai đó

chết... Họ dần dần trở nên chai cứng, họ tạo ra rào chắn

với xúc động của mình, với tình cảm, lòng nhân đạo.

Nhưng điều này ngăn cản thuốc của họ phát huy tác

dụng. Nó được trao gần như theo kiểu người máy,

dường như máy đang cho bạn thuốc.

Với tình yêu, bệnh nhân không chỉ được thuốc,

xung quanh thuốc cái gì đó vô hình cũng đang tới với

người đó. Y học phải hiểu tính chủ thể của con người,

tình yêu của con người, và sẽ phải tạo ra một loại tổng

hợp nào đó để qua đó tình yêu và y học cùng được sử

dụng để giúp cho con người.

Nhưng một điều tuyệt đối chắc chắn: rằng y học

không bao giờ có thể trở thành hoàn toàn khách quan

được. Điều đó đã là nỗ lực của y học mãi cho tới nay,

để làm cho nó tuyệt đối khách quan.7

******************************************************

#4 Cách tiếp cận mạnh khoẻ khác

Tất cả mọi vấn đề đều mang tính thần kinh bởi vì

thân thể và tâm trí không phải là hai thứ. Tâm trí là

phần bên trong của thân thể, và thân thể là phần bên

ngoài của tâm trí, cho nên bất kì cái gì có thể bắt đầu

trong thân thể đều có thể đi vào trong tâm trí, hay

ngược lại: nó có thể bắt đầu trong tâm trí và đi vào

trong thân thể. Không có phân chia, không có vách

ngăn chắc chắn.

Cho nên mọi vấn đề đều có hai cạnh với chúng:

chúng có thể được xử trí qua tâm trí và qua thân thể.

Và mãi cho tới nay điều này đã là thực tế trên thế giới:

vài người tin rằng tất cả các vấn đề là từ thân thể - các

nhà sinh lí học, những người theo Pavlov, những nhà

hành vi chủ nghĩa... Họ chữa trị thân thể, và tất nhiên

trong năm mươi phần trăm trường hợp họ thành công.

Và họ hi vọng rằng khoa học phát triển họ sẽ thành

công thêm nữa, nhưng họ sẽ không bao giờ thành công

hơn năm mươi phần trăm; điều đó chẳng liên quan gì

tới sự phát triển khoa học cả.

Thế rồi toán bên kia có đó, những người cho rằng

tất cả mọi vấn đề đều là từ tâm trí - cũng sai như toán

thứ nhất. Những người theo khoa học Ki tô giáo và các

nhà thôi miên và người có tài thôi miên, các nhà trị liệu

tâm lí, tất cả họ đều nghĩ mọi vấn đề là của tâm trí. Họ

cũng thành công cho năm mươi phần trăm trường hợp;

họ cũng nghĩ rằng sớm hay muộn họ sẽ thành công

ngày một nhiều hơn. Điều đó là vô nghĩa. Họ không

thể thành công hơn năm mươi phần trăm; đó là giới

hạn.

Hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ mỗi vấn đề phải

được xử trí từ cả hai phía cùng nhau, đồng thời. Nó

phải bị công kích từ nhiều cửa, cuộc tấn công trên hai

mặt trận; thế thì con người có thể được chữa khỏi một

trăm phần trăm. Bất kì khi nào khoa học trở nên hoàn

hảo nó sẽ làm việc theo cả hai cách...

Trước hết là thân thể, bởi vì thân thể là cánh cổng

vào tâm trí - hành lang vào. Và bởi vì thân thể là thô

nên nó vẫn còn dễ dàng thao tác được. Trước hết thân

thể phải được giải phóng khỏi mọi cấu trúc đã tích luỹ

của nó. Nếu bạn đã sống lâu với cảm giác rằng bạn

yếu, thế thì điều đó phải đã đi vào trong thân thể, vào

trong chính cấu trúc của thân thể. Trước hết điều đó

phải được làm nhẹ bớt từ đó; và đồng thời tâm trí bạn

phải được hứng khởi để cho nó có thể bắt đầu đi lên và

có thể bắt đầu vứt bỏ mọi tải trọng vẫn giữ nó trĩu

xuống.8

#4Tôi hiểu rằng khoa học về Yoga coi con người

không chỉ có một mà nhiều kiểu thân thể. Nếu điều

này là như vậy, thì liệu từ đó có suy được ra rằng

với những cá nhân khác nhau, loại thuốc này có

thể có tác dụng hiệu quả hơn thuốc khác không,

tuỳ theo ốm bệnh bắt nguồn từ đâu?

Khoa học về con người còn chưa tồn tại. Yoga của

Patanjali là nỗ lực gần nhất đã được tiến hành. Ông ấy

chia thân thể thành năm tầng, hay thành năm thể. Bạn

không có một thể, bạn có năm thể; và đằng sau năm thể

này, là bản thể bạn. Cùng điều đã xảy ra trong tâm lí

thì cũng đã xảy ra trong y học. Đối trị liệu pháp chỉ tin

vào thể vật lí, thể thô. Nó song hành với chủ nghĩa

hành vi. Đối trị liệu pháp là y học thô nhất. Đó là lí do

tại sao nó đã trở thành khoa học, bởi vì các công cụ

khoa học chỉ có khả năng cho những thứ rất thô. Đi sâu

hơn đi.

Châm cứu, Trung y, đi vào thêm một tầng nữa. Nó

làm việc trên thể sống, pranamayakos. Nếu cái gì đó đi

sai trong thể vật lí, châm cứu không chạm tới thể vật lí

chút nào. Nó cố gắng làm việc trên thể sống. Nó cố

gắng làm việc trên năng lượng sinh học, bioplasma. Nó

giải quyết điều gì đó ở đó, và ngay lập tức thể thô bắt

đầu vận hành tốt. Nếu cái gì đó đi sai trong thể sống,

đối trị liệu pháp tác động trên thân thể, thể thô. Tất

nhiên, với đối trị liệu pháp, đấy là nhiệm vụ lên dốc.

Với châm cứu, đấy là nhiệm vụ xuống dốc. Nó là dễ

dàng hơn bởi vì thể sống có chút ít cao hơn thể vật lí.

Nếu thể sống được đặt đúng, thể vật lí đơn giản đi theo

nó bởi vì bản kế hoạch tổng thể tồn tại trong thể sống.

Thể vật lí chỉ là việc thực hiện của thể sống.

Bây giờ châm cứu đang nhận được kính trọng, dần

dần, bởi vì một cách chụp ảnh rất nhạy cảm, chụp ảnh

của Kirlian, đã bắt gặp bẩy trăm huyệt trong thân thể

con người như chúng bao giờ cũng đã được các nhà

châm cứu biết tới ít nhất năm nghìn năm nay. Họ

không có công cụ nào để biết huyệt ở đâu trong thân

thể, nhưng dần dần, qua thử và sai lầm, qua hàng thế

kỉ, họ đã phát hiện ra bẩy trăm huyệt. Bây giờ Kirlian

cũng đã phát hiện ra cùng bẩy trăm huyệt đó bằng công

cụ khoa học. Và việc chụp ảnh của Kirlian đã chứng tỏ

một điều: cố gắng thay đổi thể sống qua thể vật lí là

điều ngớ ngẩn. Đấy là việc cố gắng đổi chủ bằng việc

đổi tớ. Điều đó gần như không thể nào được bởi vì chủ

không nghe lời tớ. Nếu bạn muốn thay đổi đầy tớ, thay

đổi người chủ đi. Ngay lập tức, đầy tớ sẽ tuân theo.

Thay vì đi thay đổi từng người lính, tốt hơn cả là thay

đổi tướng. Thân thể có cả triệu lính, tế bào, đơn giản

làm việc theo mệnh lệnh nào đó, theo sự chỉ huy nào

đó. Thay đổi vị chỉ huy, và toàn bộ mẫu hình thân thể

thay đổi.

Vi lượng liệu pháp đi sâu thêm chút ít. Nó làm việc

trên manomayakos, thể tinh thần. Người sáng lập ra vi

lượng liệu pháp, Hannemann, đã phát hiện ra một trong

những điều vĩ đại nhất đã từng được phát hiện ra, và đó

là: lượng thuốc càng ít, nó lại càng đi sâu hơn. Ông ấy

gọi phương pháp làm thuốc vi lượng liệu pháp là ‘phân

mức hiệu nghiệm’. Họ cứ giảm mãi đi lượng thuốc.

Ông ấy sẽ làm việc theo cách này: ông ấy lấy một khối

lượng thuốc nào đó và sẽ trộn lẫn nó với mười lần khối

lượng đường sữa hay với nước. Một lượng thuốc, chín

lượng nước; ông ấy sẽ trộn chúng lại. Thế rồi ông ấy

lại lấy một lượng của dung dịch này, và lần nữa sẽ trộn

nó với chín lần nước thêm nữa, hay đường sữa. Theo

cách này ông ấy cứ tiếp tục mãi; lại từ dung dịch mới

ông ấy lấy ra một lượng và lại trộn nó với chín phần

nước nữa. Điều này ông ấy sẽ làm và mức hiệu nghiệm

của thuốc sẽ tăng lên.

Dần dần thuốc đạt tới mức độ nguyên tử. Nó trở

thành tinh tế đến mức bạn không thể tin được rằng nó

có thể có tác dụng; nó gần như là biến mất. Đó là điều

được viết trong vi lượng liệu pháp, mức hiệu nghiệm:

mười mức hiệu nghiệm, hai mươi mức hiệu nghiệm,

một trăm mức hiệu nghiệm, một nghìn mức hiệu

nghiệm. Mức hiệu nghiệm càng lớn, khối lượng thuốc

càng nhỏ. Với mười nghìn mức hiệu nghiệm, chỉ còn

lại một phần triệu liều thuốc nguyên gốc, gần như

không. Nó gần như biến mất, nhưng thế thì nó đi vào

cốt lõi sâu xa nhất của manomaya. Nó đi vào trong thể

tâm trí của bạn. Nó đi sâu hơn là châm cứu. Gần như là

bạn đạt tới nguyên tử, hay thậm chí mức độ hạ nguyên

tử. Thế thì nó không chạm vào thân thể bạn. Thế thì nó

không chạm vào thể sống của bạn; nó đơn giản đi vào.

Nó tinh tế và nhỏ bé đến mức nó đi xuyên qua không

có rào chắn nào. Nó có thể đơn giản trượt vào trong

manomayakos, vào trong thể tinh thần, và từ đó nó bắt

đầu vận hành. Bạn đã tìm được một uy quyền lớn hơn

pranamaya.

Ayurved, y học Ấn Độ, là tổng hợp của cả ba điều

này. Nó là một trong những cách tổng hợp y học nhất.

Thôi miên liệu pháp còn đi sâu hơn. Nó chạm tới

vigyanmayakos: thể thứ tư, thể của tâm thức. Nó không

dùng thuốc. Nó không dùng bất kì cái gì. Nó đơn giản

dùng gợi ý, có thế thôi. Nó đơn giản nêu ra một gợi ý

trong tâm trí bạn - gọi nó là từ lực thú vật, thuật thôi

miên, ru ngủ hay bất kì cái gì bạn thích cũng được,

nhưng nó vận hành qua sức mạnh của ý nghĩ, không

qua sức mạnh của vật chất. Ngay cả vi lượng liệu pháp

cũng vẫn là sức mạnh của vật chất trong một lượng rất

tinh tế. Thôi miên liệu pháp gạt bỏ vật chất, bởi vì dù

tinh tế đến đâu, vật chất vẫn cứ là vật chất... Mười

nghìn mức hiệu năng, nhưng dẫu sao, đấy vẫn cứ là

hiệu năng của vật chất. Nó đơn giản nhảy tới năng

lượng ý nghĩ, vigyanmayakos: thể tâm thức. Nếu tâm

thức của bạn chỉ chấp nhận một ý tưởng nào đó, nó bắt

đầu vận hành.

Thôi miên liệu pháp có tương lai lớn. Nó đang trở

thành thuốc tương lai, bởi vì nếu chỉ bằng việc thay đổi

mẫu hình tư duy của bạn mà tâm trí bạn có thể được

thay đổi, qua tâm trí mà thể sống của bạn thay đổi, và

qua thể sống mà thể thô của bạn thay đổi, thế thì tại sao

phải bận tâm tới chất độc, tại sao phải bận tâm tới

thuốc thô? Tại sao không làm việc với nó qua sức

mạnh tư duy? Bạn đã quan sát nhà thôi miên nào đang

làm việc trên người trung gian chưa? Nếu bạn chưa

quan sát, thì cũng đáng quan sát lắm. Nó sẽ cho bạn

hiểu thấu nào đó.

Bạn có thể đã nghe, hay bạn có thể đã thấy - ở Ấn

Độ điều đó xảy ra; bạn phải đã thấy người bước qua

lửa. Đấy chẳng gì khác hơn là thôi miên liệu pháp. Cái

ý tưởng rằng họ đang bị ám ảnh bởi một vị nam thần

hay nữ thần nào đó và không lửa nào có thể đốt cháy

họ được, chính ý tưởng đó là đủ. Ý tưởng này điều

khiển và làm biến đổi vận hành bình thường của thân

thể họ. Họ được chuẩn bị: trong hai mươi bốn giờ họ

nhịn ăn. Khi bạn nhịn ăn toàn bộ thân thể bạn sạch sẽ,

và không có chất bài tiết trong nó, cây cầu giữa bạn và

cái thô thiển bị bỏ đi. Trong hai mươi bốn giờ họ sống

trong ngôi đền hay chùa chiền, ca hát, nhảy múa, thành

hoà hợp với Thượng đế. Thế rồi một khoảnh khắc tới

khi họ bước lên lửa. Họ bước tới trong nhảy múa, bị

ám ảnh. Họ bước tới với niềm tin cậy tràn đầy rằng lửa

không đốt cháy được, có thế thôi; không có gì khác cả.

Cách thức tạo ra tin cậy mới là vấn đề. Thế rồi họ nhảy

múa trên lửa, và lửa không đốt cháy họ.

Việc này đã xảy ra nhiều lần đến mức ai đó, người

chỉ là một khán giả cũng trở nên bị ám ảnh thế. Hai

mươi người đang bước trên lửa và không bị cháy, và ai

đó sẽ lập tức trở nên tin tưởng thế: “Nếu những người

này bước được, sao mình lại không?”; và người đó

nhảy vào, và lửa cũng không đốt cháy người đó. Trong

khoảnh khắc bất thần đó, tin cậy nảy sinh. Đôi khi điều

đã xảy ra là người đã được chuẩn bị, lại bị cháy. Đôi

khi một khán giả chưa chuẩn bị gì bước trên lửa mà

không bị cháy. Điều gì đã xảy ra? - người được chuẩn

bị phải đã mang hoài nghi. Họ phải đã nghĩ liệu điều

đó có xảy ra hay không. Một nghi ngờ tinh tế phải vẫn

còn lại trong vigyanmayakos, trong tâm thức họ. Đấy

không phải là tin cậy hoàn toàn. Cho nên họ tới, nhưng

với hoài nghi. Bởi hoài nghi đó, thân thể không thể nào

nhận được thông báo từ linh hồn cao hơn. Hoài nghi tới

ở giữa, và thân thể vẫn tiếp tục vận hành theo cách

thông thường; nó bị cháy. Đó là lí do tại sao mọi tôn

giáo đều nhấn mạnh vào tin cậy.

Tin cậy là thôi miên liệu pháp. Không có tin cậy,

bạn không thể đi vào phần tinh tế của bản thể mình, bởi

vì với một hoài nghi nhỏ, và bạn bị ném lại với cái thô

thiển. Khoa học làm việc với hoài nghi. Hoài nghi là

phương pháp trong khoa học bởi vì khoa học làm việc

với cái thô thiển. Dù bạn hoài nghi hay không, nhà đối

trị cũng chẳng băn khoăn. Ông ấy không yêu cầu bạn

phải tin cậy vào thuốc của mình; ông ấy đơn giản cho

bạn thuốc. Nhưng nhà vi lượng sẽ hỏi liệu bạn có tin

hay không, bởi vì không có niềm tin của bạn thì sẽ khó

khăn hơn cho nhà vi lượng làm việc với bạn. Còn nhà

thôi miên liệu pháp sẽ yêu cầu buông xuôi toàn bộ; nếu

không thì chẳng thể làm gì được cả.

Tôn giáo là buông xuôi. Tôn giáo là thôi miên liệu

pháp. Nhưng, vẫn còn một thể nữa. Đó là

anandmayakos: thể phúc lạc. Thôi miên liệu pháp đi

tới thể thứ tư. Thiền đi tới thể thứ năm. Thiền

meditation - chính từ này là đẹp bởi vì gốc rễ cũng

cùng như ‘thuốc - medicine’. Cả hai có cùng gốc, thuốc

và thiền đều là các nhánh của một từ: cái chữa lành, cái

làm cho bạn thành mạnh khoẻ và cái toàn thể là thuốc -

và ở mức sâu nhất đó là thiền.

Thiền thậm chí không nêu cho bạn lời gợi ý bởi vì

lời gợi ý được trao từ bên ngoài. Một ai đó khác phải

nêu cho bạn lời gợi ý. Gợi ý có nghĩa là bạn phụ thuộc

vào ai đó. Họ không thể làm cho bạn ý thức hoàn hảo

được bởi vì sẽ phải cần tới người khác, và cái bóng sẽ

che phủ bản thể bạn. Thiền làm cho bạn ý thức hoàn

hảo, không có cái bóng nào - ánh sáng tuyệt đối không

có bóng tối. Bây giờ thậm chí lời gợi ý cũng bị coi như

là một thứ thô thiển. Ai đó gợi ý - điều đó có nghĩa là

một cái gì đó tới từ bên ngoài, và trong phân tích tối

thượng cái tới từ bên ngoài là mang tính vật chất.

Không chỉ vật chất, mà cái mà tới từ bên ngoài là mang

tính vật chất. Thậm chí ý nghĩ cũng là dạng tinh tế của

vật chất. Thậm chí thôi miên liệu pháp cũng là mang

tính vật chất.

Thiền loại bỏ tất cả mọi cái ủng hộ, mọi cái hỗ trợ.

Đó là lí do tại sao việc hiểu thiền lại là điều khó nhất

trong thế giới này, bởi vì chẳng còn lại gì cả - chỉ hiểu

biết thuần khiết, chứng kiến.9

#4Wilheilm Reich nói trong cuốn sách của mình, Hãy

lắng nghe, hỡi con người nhỏ nhen, rằng ông ấy

thấy rằng con người vươn ra ngoài năng lượng

sống của mình khi người đó cảm thấy khoẻ và yêu;

rằng con người kéo lại năng lượng đó khi người ta

sợ hãi. Reich nói rằng ông ấy thấy là năng lượng

sống của con người - điều ông ấy đặt thuật ngữ là

‘orgone’ - lực sống vũ trụ - được ‘tìm thấy trong

bầu khí quyền’, bên ngoài thân thể. Ông ấy nói

ông ấy thành công trong việc thấy nó và đã phát

minh ra công cụ để khuếch đại nó.

Điều ông ấy quan sát có phải vậy không?

Wilhelm Reich là một trong những người thông

minh được sinh ra trong thế kỉ này. Điều ông ấy đã

thấy thì đã từng được biết tới ở phương Đông như hào

quang. Bạn phải đã thấy quanh tượng Phật hay

Mahavira hay Krishna - một hào quang tròn quanh đầu.

Hào quanh tròn quanh đầu đó là thực tế. Điều Wilhelm

Reich nói là đích xác đúng, nhưng những người mà

ông ấy nói với lại không phải là những người hiểu

được nó. Họ nghĩ ông ấy điên bởi vì ông ấy đã mô tả

cuộc sống như năng lượng bao quanh thân thể. Điều đó

đích xác đúng.

Cuộc sống là năng lượng bao quanh thân thể bạn.

Không chỉ thân thể bạn, mà hoa, cây - mọi thứ đều có

hào quang riêng của nó. Và hào quang đó, năng lượng

bao quanh bạn đó co lại và dãn ra trong những tình

huống khác nhau. Bất kì tình huống nào năng lượng

của bạn co lại đều nên coi là xấu, ốm yếu. Và mọi tình

huống năng lượng bạn mở rộng, nên coi là đáng kính

trọng và đáng yêu. Trong tình yêu năng lượng của bạn

vươn ra, bạn trở thành sống động hơn. Và khi bạn

trong sợ hãi, năng lượng bạn co lại, bạn trở nên kém

sinh động.

Bây giờ Wilhelm Reich đáng thương bị người Mĩ

coi là điên bởi vì ông ấy không chỉ khuếch đại năng

lượng đó - ông ấy đã tìm ra vài bài tập trong đó năng

lượng này khuếch đại lên - ông ấy thậm chí còn bắt

được năng lượng đó vào trong hộp, các cái hộp lớn

trong đó một người có thể đi vào được. Và nếu người

này ốm người đó sẽ đi ra toàn thể và mạnh khoẻ. Một

cách tự nhiên một người như thế phải bị coi là điên.

Ông ấy đã bán các cái hộp đó, hộp rỗng - nhưng chúng

lại không trống rỗng. Ông ấy đã tìm ra cách thu thập

năng lượng có sẵn trong bầu không khí. Quanh cái cây

bạn có thể thấy rằng năng lượng đang tuôn trào, nhưng

với đôi mắt trần của mình bạn không thể thấy nó được.

Sau khi ông ấy bị tuyên bố là điên và bị bỏ tù, một

người khác ở Liên Xô thậm chí còn giải quyết được

việc chụp ảnh nó. Và bây giờ nó đã trở thành tâm lí

được thừa nhận tại Liên Xô, rằng cuộc sống có hào

quang. Và người này, Kirlian, đã phát triển một tấm

kính ảnh nhạy nào đó để chụp ảnh nó. Ông ấy đã chụp

bàn tay, và bàn tay hiện ra với vầng hào quang vây

quanh nó. Theo một cách rất lạ các ảnh của ông ấy

thậm chí còn chỉ ra liệu một người có ốm đau gì trong

sáu tháng không: “Ngay bây giờ người đó không biểu

lộ bất kì hình mẫu ốm yếu nào, nhưng hào quang của

người đó đang co lại tại điểm nào đó...” Và nếu tại

điểm nào đó hào quang đang co lại - có thể người đó sẽ

trở thành điếc hay mù nếu hào quang mắt co lại. Và tất

cả ảnh chụp của ông ấy đều được chứng minh là đúng.

Khi ông ấy nói, “Người này có nguy cơ mất thị lực,”

thì không có dấu hiệu nào thấy được, không có lí do

nào để tin vào điều đó, nhưng trong vòng sáu tháng

người đó trở nên loà. Bây giờ trong tâm lí học xô viết,

việc chụp ảnh của Kirlian được chính phủ thừa nhận.

Điều đó cũng lan rộng sang nhiều nước khác. Một

người có thể được chữa trị trước khi người đó trở nên

ốm. Việc chụp ảnh của Kirlian mang tính rất tiên đoán.

Nó chỉ ra, ít nhất sáu tháng trước đó, điều gì sẽ xảy ra.

Tại phương Đông người ta đã biết tới từ nhiều thế

kỉ nay rằng trước cái chết của bạn, sáu tháng trước đó,

bạn chấm dứt khả năng thấy chỏm mũi mình. Bởi vì

mắt bạn bắt đầu quay ngược lên, chúng không có khả

năng thấy được chỏm mũi bạn. Khoảnh khắc bạn nhận

ra mình không thể thấy được chỏm mũi có nghĩa là

trong vòng sáu tháng năng lượng của bạn sẽ co lại, trở

ngược về cội nguồn của nó. Và hào quang, không có kĩ

thuật chụp ảnh nào, đã được yoga thừa nhận từ năm

nghìn năm nay. Nhưng bây giờ, nó có thể được chấp

nhận trên nền tảng khoa học.

Wilhelm Reich là một thiên tài duy nhất. Ông ấy có

thể xoay xở để thấy và cảm cái điều thông thường

không thể thấy được. Nhưng nếu bạn rất mang tính

thiền, bạn sẽ bắt đầu thấy hào quang của mọi người,

thậm chí hào quang của riêng bạn. Bạn sẽ thấy tay của

mình với các tia sáng quanh nó, rạng ngời. Và khi bạn

mạnh khoẻ bạn sẽ cảm thấy hào quang của mình lan

rộng. Khi bạn ốm yếu bạn sẽ cảm thấy hào quang mình

co lại - cái gì đó đang co lại bên trong bạn.

Khi bạn ở bên cạnh người ốm, bạn sẽ có cảm giác

kì lạ rằng người đó bằng cách nào đó làm cho bạn cảm

thấy ốm, bởi vì người ốm khai thác hào quang của

người khác mà người khác không biết. Người đó cần

nhiều sự sống, cho nên bất kì ai có sự sống và tới

quanh người đó, người đó đều lấy sự sống của người

này. Và bằng kinh nghiệm bạn biết, nhưng không hiểu,

rằng có người bạn muốn tránh, bởi vì gặp họ bạn cảm

thấy ốm yếu, gặp họ bạn cảm thấy rằng cái gì đó đã bị

lấy đi khỏi bạn. Và có những người bạn muốn gặp, bởi

vì gặp họ bạn cảm thấy sự mở rộng, bạn cảm thấy sinh

động hơn.

Wilhelm Reich là phải, nhưng không may là đám

đông lại chẳng bao giờ chấp nhận thiên tài của riêng

họ: ngược lại, họ kết án những người này, bởi vì nếu

Wilhelm Reich là phải, thế thì mọi người khác gần như

là mù. Và trong giận dữ ông ấy đã viết cuốn sách, Hãy

lắng nghe, hỡi con người nhỏ nhen. Nhưng cuốn sách

đó hay, và giận dữ của ông ấy có thể được tha thứ bởi

vì ông ấy đã bị ‘con người nhỏ nhen’, đám đông,

ngược đãi. Ông ấy là người đầu tiên bị coi là điên, thế

rồi bị buộc vào nhà thương điên, và ông ấy chết trong

nhà thương điên. Tại phương Đông ông ấy đáng phải

trở thành một Phật Gautam. Ông ấy có phẩm chất, có

cái sáng suốt. Nhưng một xã hội sai, một xã hội của

những con người rất nhỏ nhen, của những con người

rất nhỏ mọn, những tâm trí chật hẹp, người không thể

nào quan niệm được cái bao la, người không thể nào

quan niệm được điều bí ẩn...

Toàn bộ bầu không khí đều tràn đầy cuộc sống. Và

nếu bạn hiểu cội nguồn riêng của mình về cuộc sống

bạn bỗng nhiên sẽ nhận biết rằng chim chóc sống động,

cây cối sống động, bãi cỏ sống động - mọi nơi đều có

cuộc sống! Và bạn có thể nhảy múa với cuộc sống này,

bạn có thể bắt đầu có đối thoại với bầu không khí. Tất

nhiên, mọi người sẽ nghĩ bạn điên, bởi vì mọi người

vẫn như cũ. Cũng những người đó đã đóng đinh Jesus,

cũng những người đã buộc Wilhelm Reich vào nhà

thương điên, cũng những người đã đầu độc Socrates...

nhưng những con người nhỏ nhen đó lại là đa số.

Sự giận dữ của Wilhelm Reich là phải, nhưng tôi

vẫn nói rằng thay vì giận dữ, con người nhỏ nhen đó

cần tới lòng từ bi. Ông ấy đã giận dữ bởi vì họ đã

ngược đãi ông, họ đã phá huỷ toàn bộ cuộc sống của

ông. Thay vì hiểu ông ấy - ông ấy sẽ mở cánh cửa mới

cho việc kinh nghiệm, cho việc yêu, cho việc sống - họ

lại phá huỷ con người này hoàn toàn. Hiển nhiên, ông

ấy trở nên giận dữ.

Tại phương Đông, cùng con người nhỏ nhen đó có

đó, nhưng thiên tài phương Đông chưa bao giờ giận dữ

họ cả. Thay vì giận dữ, nó đã biểu lộ lòng từ bi, nó đã

cảm thấy từ bi về sự mù quáng của họ, và nó đã cố

gắng theo mọi cách để đem ánh sáng lại cho họ, một

chút ít hiểu biết cho trái tim họ.10

Khi bạn tiếp cận với bất kì khoa học phương Đông

nào bằng tâm trí phương Tây thì bạn bỏ lỡ nhiều thứ.

Toàn bộ cách tiếp cận của bạn là khác: nó là phương

pháp luận, nó là logic, phân tích. Và các khoa học

phương Đông này không thật sự là khoa học mà là

nghệ thuật. Toàn bộ vấn đề phụ thuộc vào liệu bạn có

thể dịch chuyển năng lượng của mình từ trí tuệ sang

trực giác hay không, liệu bạn có thể dịch chuyển từ

nam tính sang nữ tính, từ dương sang âm; từ cách tiếp

cận tích cực, năng nổ, bạn có thể trở thành thụ động,

tiếp nhận không? Chỉ thế thì những việc này mới có tác

dụng; ngoài ra bạn có thể học tất cả mọi điều về châm

cứu, và nó vẫn cứ không là châm cứu chút nào. Bạn sẽ

biết tất cả về nó; nhưng không biết nó. Và đôi khi việc

xảy ra là một người có thể không biết nhiều về nó

nhưng lại biết nó, nhưng thế thì nó là mẹo - chỉ là một

cái nhìn sáng tỏ vào trong nó.

Cho nên điều này đang xảy ra cho nhiều thứ

phương Đông: phương Tây trở nên quan tâm - chúng là

điều uyên thâm. Phương Tây trở nên quan tâm tới một

điều phương Đông, nhưng thế rồi nó lại đem tâm trí

của mình vào để hiểu điều đó. Khoảnh khắc tâm trí

phương Tây đi vào trong nó, chính cơ sở của nó bị phá

huỷ. Thế thì chỉ các mảnh vụn là còn lại và những

mảnh đó không bao giờ có tác dụng cả. Và không chỉ

châm cứu là không có tác dụng, châm cứu có thể có tác

dụng, nhưng nó chỉ có thể có tác dụng qua cách tiếp

cận phương Đông.

Cho nên nếu bạn thực sự muốn học châm cứu,

chẳng hạn, biết về nó cũng là điều tốt nhưng phải luôn

nhớ đấy không phải là điều tinh tuý nhất. Việc học bất

kì thông tin gì đều là có thể được cả, thế rồi quên tất cả

thông tin đi và bắt đầu mò mẫm trong bóng tối. Bắt đầu

lắng nghe cái vô thức của bạn, bắt đầu cảm trong mối

quan hệ với bệnh nhân. Đó là khác biệt...

Khi một bệnh nhân tới một người hành nghề y Tây

phương, người hành nghề y Tây phương này bắt đầu

lập luận, chẩn đoán, phân tích, tìm kiếm xem liệu ốm

bệnh là từ đâu, ốm bệnh này là gì, và cái gì có thể chữa

được cho nó. Người đó dùng một phần của tâm trí

mình, phần lập luận. Người đó tấn công vào bệnh tật,

người đó bắt đầu chinh phục nó: trận đánh bắt đầu giữa

bệnh tật và bác sĩ. Bệnh nhân chỉ đứng ngoài trò - bác

sĩ không bận tâm tới bệnh nhân. Ông ta bắt đầu quần

nhau với bệnh tật - bệnh nhân hoàn toàn bị bỏ quên

lãng.

Khi bạn tới nhà châm cứu bệnh tật không quan

trọng, bệnh nhân mới quan trọng, bởi vì chính bệnh

nhân mới tạo ra bệnh tật: nguyên nhân là ở trong bệnh

nhân, bệnh tật chỉ là triệu chứng. Bạn có thể thay đổi

triệu chứng này và triệu chứng khác sẽ nẩy ra. Bạn có

thể trấn áp bệnh này bằng thuốc, bạn có thể chấm dứt

sự lộ diện của nó, nhưng thế rồi bệnh này sẽ tự khẳng

định nó ở đâu đó khác và với nguy hiểm hơn, mạnh mẽ

hơn, với sự trả thù. Bệnh tiếp sẽ khó xử trí hơn là bệnh

đầu. Bạn lại uống thuốc chống nó, thế thì bệnh thứ ba

thậm chí lại còn khó hơn nữa.

Đấy là cách đối trị liệu pháp đã tạo ra ung thư. Bạn

cứ ép buộc đẩy bệnh sang một bên, nó lại tự khẳng

định nó từ bên kia, thế rồi bạn lại chèn ép nó ở bên kia

- bệnh bắt đầu trở nên rất, rất giận dữ. Và bạn không

thay đổi bệnh nhân, bệnh nhân vẫn như cũ; thế là bởi vì

nguyên nhân vẫn tồn tại, nguyên nhân cứ tạo ra hậu

quả.

Châm cứu giải quyết với nguyên nhân. Đừng bao

giờ đi giải quyết hậu quả, bao giờ cũng đi tới nguyên

nhân. Và làm sao bạn có thể đi tới nguyên nhân được?

Lập luận không thể đi tới nguyên nhân được - nguyên

nhân là quá lớn không thể lập luận được - nó chỉ có thể

xử trí hậu quả. Chỉ thiền mới có thể đi tới nguyên nhân.

Cho nên người châm cứu sẽ cảm bệnh nhân. Người đó

sẽ quên đi tri thức của mình, người đó sẽ chỉ cố gắng

được đồng điệu với bệnh nhân. Người đó sẽ đi vào

trong quan hệ; người đó sẽ bắt đầu cảm thấy chiếc cầu

với bệnh nhân. Người đó sẽ bắt đầu cảm thấy bệnh tật

của bệnh nhân trong thân thể mình, trong hệ thống

năng lượng riêng của mình. Đó là cách duy nhất cho

người đó biết một cách trực giác nguyên nhân là ở đâu,

bởi vì nguyên nhân bị giấu kín. Người đó sẽ trở thành

tấm gương và người đó sẽ tìm thấy sự phản xạ trong

bản thân mình.

Đây là toàn bộ quá trình về nó, và điều này lại

không được dạy bởi vì nó không thể dạy được. Nó thực

sự đáng giá để đi vào, cho nên gợi ý của tôi là trước hết

học theo phương Tây trong hai năm, thế rồi ít nhất

trong sáu tháng đi về một nước Viễn Đông nào đó và

sống cùng với một nhà châm cứu nào đó. Chỉ trong sự

hiện diện của người đó - chỉ để cho người đó làm việc

và bạn quan sát. Chỉ hấp thu năng lượng của người đó,

và thế thì bạn sẽ có khả năng làm điều gì đó; bằng

không thì nó là khó.11

Nếu bạn bắt đầu cảm thấy dần năng lượng của

riêng mình, hay làm việc với năng lượng này trong

thân thể riêng của bạn, châm cứu sẽ không còn chỉ là kĩ

thuật nữa, nó sẽ trở thành nhạc cụ. Và đó là sáng suốt -

bạn có thể học kĩ thuật và chẳng có gì đi ra từ nó cả -

nó là linh cảm hơn là nghệ thuật. Đó là một trong

những khó khăn nhất về các kĩ thuật cổ đại: chúng

không phải là khoa học, và nếu bạn tiếp cận chúng với

cái nhìn khoa học thì bạn có thể có cái nhìn mơ hồ

nhưng phần lớn bị mất. Và bất kì cái gì bạn có thể nắm

bắt được cũng sẽ không nhiều nhặn gì cho lắm, và nó

sẽ là thất vọng.

Toàn bộ cách tiếp cận cổ đại là hoàn toàn khác: nó

không logic chút nào, nó nhiều nữ tính hơn, nhiều trực

giác hơn, nhiều phi logic hơn. Người ta không nghĩ

theo tam đoạn luận như tâm trí khoa học nghĩ; thay vì

thế, người ta trong tham gia sâu sắc với sự tồn tại -

phần nhiều trong trạng thái mơ, trong khải lộ, và cho

phép tự nhiên tiết lộ các bí mật và bí ẩn của nó. Đấy

không phải là xâm lăng vào tự nhiên... nhiều nhất thì

chỉ là thuyết phục. Và cách tiếp cận là từ bên trong.

Người ta phải tiếp cận tới thân thể của riêng mình

từ cốt lõi bên trong nhất. Bẩy trăm huyệt đó không

được biết tới theo cách khách quan, chúng được biết tới

trong thiền sâu sắc. Khi người ta đi sâu vào bên trong

và nhìn từ bên trong - một kinh nghiệm cực kì lớn -

người ta có thể thấy tất cả các huyệt châm cứu bao

quanh mình, dường như bầu trời đêm đầy sao. Và khi

bạn đã thấy những điểm năng lượng này, chỉ thế thì

bạn mới sẵn sàng. Bây giờ bạn có cái hiểu thấu bên

trong, và chỉ bằng việc chạm vào thân thể người khác,

bạn sẽ có khả năng cảm thấy chỗ nào năng lượng thân

thể bị mất và chỗ nào thì không có; chỗ nào nó đang di

chuyển, chỗ nào nó không di chuyển; chỗ nào nó lạnh

và chỗ nào nó ấm; chỗ nào nó sống và chỗ nào nó đã

chết. Có những điểm tại đó nó đáp ứng, và có những

điểm tại đó nó không đáp ứng chút nào.

Bạn sẽ có khả năng biết tới châm cứu chỉ tới mức

bạn trở nên có khả năng biết về chính mình, và khi cả

hai điều này trùng nhau, có ánh sáng vĩ đại. Trong ánh

sáng đó bạn có thể thấy mọi thứ - không chỉ về bản

thân mình, mà còn về các thể của người khác. Cái nhìn

mới nảy sinh dường như con mắt thứ ba đã mở ra.12

******************************************************

#5 Chức năng của thầy chữa

Nghề y không phải là nghề thường. Nó không chỉ

là công nghệ, bởi vì con người có tham dự vào. Bạn

không sửa cái máy, đấy không chỉ là vấn đề bí quyết,

đấy là vấn đề sâu sắc về tình yêu...

Bạn đang chơi với con người và mạng sống của họ,

và đó là một hiện tượng phức tạp. Đôi khi người ta có

thể phạm phải lỗi lầm, và những lỗi lầm này có thể

thành việc chấm dứt cuộc sống của ai đó. Cho nên đi

vào với lời cầu nguyện sâu sắc đi. Đi vào với lòng nhân

đạo, khiên tốn, giản dị.

Những người đơn giản đi vào ngành y cứ dường

như họ đang đi vào trong kĩ nghệ thì không phải đúng

là người làm bác sĩ hay bác sĩ điều trị - họ là những

người sai. Nhưng người không bao giờ cảm thấy phân

vân lưỡng lự thì đều là những người sai. Họ sẽ làm

việc trên con người cứ như là thợ sửa động cơ xử trí

với chiếc xe ô tô. Họ sẽ không cảm thấy sự hiện diện

tâm linh của bệnh nhân. Họ sẽ không chữa trị con

người, họ sẽ chữa trị triệu chứng. Tất nhiên, họ có thể

rất chắc chắn; nhà kĩ thuật bao giờ cũng chắc chắn.

Nhưng khi bạn có sự tham dự của con người thì bạn

không thể nào chắc chắn được đến thế: do dự là tự

nhiên. Người ta nghĩ hai lần, ba lần trước khi làm điều

gì đó, bởi vì có sự tham dự của cuộc sống quí giá -

cuộc sống mà chúng ta không thể nào tạo ra được, cuộc

sống mà một khi đã trôi qua rồi là trôi qua mãi mãi. Và

đó là một cá nhân, người không thể nào thay thế được,

duy nhất, người giống thế chưa bao giờ có đó, và người

giống thế sẽ chẳng bao giờ có lại nữa. Bạn đang chơi

với lửa - do dự là tự nhiên. Đi vào trong nó với khiêm

tốn mênh mông. Có kính trọng sâu sắc với bệnh nhân

đi. Và trong khi chữa trị cho người đó, trở thành

phương tiện của năng lượng thiêng liêng. Đừng trở

thành bác sĩ, đơn giản trở thành phương tiện của năng

lượng chữa lành thiêng liêng - chỉ là một nhạc cụ. Để

bệnh nhân có đó - kính trọng lớn với bệnh nhân, đừng

điều trị người đó như một vật - và để Thượng đế có đó,

và với lời cầu nguyện sâu sắc cho phép Thượng đế

tuôn chảy qua bạn và đạt tới bệnh nhân. Bệnh nhân

đang ốm yếu; người đó không thể nối với Thượng đế

được. Người đó đã đi xa. Người đó đã quên mất chính

ngôn ngữ về cách chữa lành cho mình. Người đó đang

trong trạng thái tuyệt vọng. Bạn không thể trách người

đó được; người đó đang trong trạng thái bất lực.

Ai đó đang mạnh khoẻ có thể có ích lớn lao lắm

nếu người đó trở thành phương tiện. Và nếu người

mạnh khoẻ cũng là người hiểu biết, điều đó có thể còn

quan trọng hơn, bởi vì năng lượng thiêng liêng có thể

cho bạn chỉ những hướng dẫn rất tinh tế - chúng phải

được bạn giải mã. Nếu bạn biết về thuốc, thì bạn có thể

giải mã nó rất dễ dàng. Và thế thì bạn chẳng làm điều

gì cho bệnh nhân cả, chính Thượng đế đang làm điều

đó. Bạn làm bản thân mình thành sẵn có cho Thượng

đế và bạn làm cho tất cả các tri thức của mình thành

sẵn có. Chính năng lượng chữa lành của Thượng đế

trong hợp nối với tri thức của bạn mới thành có ích. Và

nó không bao giờ làm hại cả. Bạn có thể gây hại. Cho

nên vứt bỏ bản thân mình đi, để cho Thượng đế có đó.

Đi vào nghề y, và cứ thiền.13

Mọi người đều có thể trở thành thầy chữa. Việc

chữa lành là cái gì đó giống như việc thở vậy; nó là tự

nhiên. Ai đó ốm; điều đó có nghĩa là người đó đánh

mất khả năng chữa lành cho chính mình. Người đó

không còn nhận biết về cội nguồn chữa lành của riêng

mình. Thầy chữa giúp người đó được gắn nối lại. Cội

nguồn đó là cùng một với cội nguồn mà thầy chữa rút

ra, nhưng người ốm đã quên mất cách hiểu ngôn ngữ

của nó. Thầy chữa đang trong mối quan hệ với cái toàn

thể, cho nên người đó có thể trở thành môi giới trung

gian. Thầy chữa chạm vào thân thể người ốm và trở

thành mối nối giữa người đó và cội nguồn. Bệnh nhân

không được nối một cách trực tiếp với cội nguồn cho

nên người đó trở nên được nối gián tiếp. Một khi năng

lượng này bắt đầu tuôn chảy, người đó được chữa lành.

Và nếu thầy chữa thực sự là người hiểu biết... bởi

vì bạn có thể trở thành thầy chữa và bạn có thể không

phải là con người của hiểu biết. Có nhiều thầy chữa

vẫn cứ làm điều đó nhưng họ không biết tại sao điều đó

xảy ra; họ không biết cơ chế của nó. Nếu bạn cũng hiểu

nữa, thì bạn có thể giúp cho bệnh nhân được chữa lành

và bạn có thể giúp cho người đó nhận biết về cội nguồn

mà từ đó việc chữa lành đang xảy ra. Cho nên không

chỉ người đó được chữa lành bệnh tật hiện tại của

mình, người đó còn được ngăn ngừa khỏi bệnh tương

lai. Thế thì việc chữa lành là hoàn hảo. Nó không chỉ là

chữa chạy, nó còn là phòng ngừa nữa.

Chữa lành gần như trở thành kinh nghiệm về lời

cầu nguyện, kinh nghiệm về Thượng đế, về tình yêu,

về cái toàn thể.14

******************************************************

#6 Thời gian cho chăm sóc, thời gian cho tình yêu

Dường như là tất cả các tôn giáo đều bận tâm với

người ốm, với người bị bệnh, với người nghèo. Không

ai quan tâm tới bạn và cái giầu có của bạn và cái lớn

lao của bạn và cái vĩ đại của bạn.

Tôi nói với bạn: Chừng nào bạn còn chưa yêu bản

thân mình, chừng nào bạn còn chưa tìm thấy giầu có

riêng của mình, chiều cao riêng của mình, bạn sẽ

không có khả năng chia sẻ tình yêu của mình với bất kì

ai cả. Chắc chắn là người ốm và người bị bệnh cần tới

sự chăm sóc, nhưng họ không cần tình yêu. Điều này

cần phải được hiểu, bởi vì Ki tô giáo đã làm cho điều

đó gần như thành một chân lí được chấp nhận phổ quát

- rằng điều mang tính tôn giáo vĩ đại nhất, điều tâm

linh nhất, là yêu lấy người ốm và người bị bệnh.

Nhưng điều đó hoàn toàn chống lại tâm lí và chống lại

tự nhiên. Khoảnh khắc bạn yêu người ốm thì bạn

không giúp người đó phục hồi lại từ cái ốm yếu của

mình, bởi vì khoảnh khắc người đó khoẻ mạnh thì

chẳng ai yêu người đó cả. Ốm yếu là cái cớ tốt để gợi

nên tình yêu của người khác với người đó.

Bạn có thể đã thấy điều đó, nhưng bạn có thể đã

không nghĩ về điều đó. Vợ làm việc cả ngày, hoàn toàn

mạnh khoẻ, nhưng khi chồng về nhà, nhìn qua cửa sổ,

cô ấy lập tức lên giường. Cô ấy đau đầu - bởi vì chừng

nào cô ấy không đau đầu thì anh chồng chẳng biểu lộ

tình yêu gì cả. Nhưng nếu cô ấy đau đầu, thì một cách

miễn cưỡng anh chồng ngồi bên cạnh cô ấy, xoa đầu cô

ấy, biểu lộ một loại tình yêu giả dối nào đó, nói những

lời dịu ngọt và đẹp đẽ. Trong nhiều tháng anh ta đã

không gọi cô ấy là ‘em yêu’, nhưng khi đau đầu có đó

thì anh ta phải gọi cô ấy là ‘em yêu’. Và đó là điều cô

ấy muốn được nghe, “Anh yêu em. Và anh yêu em

không chỉ có hôm nay, anh sẽ yêu em mãi mãi.”

Cũng thật kì lạ là bạn biểu lộ tình yêu của mình cho

con bạn khi chúng ốm. Nhưng bạn không hiểu một tâm

lí đơn giản về sự liên kết - ốm yếu và tình yêu trở thành

được liên kết với nhau. Bất kì khi nào đứa trẻ cần tình

yêu của bạn thì nó phải ốm. Ai chăm lo cho đứa trẻ

mạnh khoẻ, ai chăm lo cho người vợ mạnh khoẻ, ai

chăm lo cho người chồng mạnh khoẻ? Tình yêu dường

như là cái gì đó giống như thuốc; nó chỉ được cần tới

cho người ốm.

Tôi muốn điều đó được rõ ràng cho bạn - chăm sóc

người ốm, nhưng đừng bao giờ biểu lộ tình yêu. Chăm

nom người ốm là điều hoàn toàn khác. Vô tư đi, bởi vì

đau đầu không phải là cái gì đó lớn lao. Chăm nom,

nhưng tránh những chuyện tầm thường dịu ngọt; chăm

nom một cách rất thực dụng. Đặt thuốc lên đầu cô ấy,

nhưng đừng biểu lộ tình yêu, bởi vì điều đó là nguy

hiểm. Khi đứa trẻ ốm, chăm nom, nhưng tuyệt đối vô

tư. Làm cho đứa trẻ hiểu rằng bởi việc ốm nó không

thể hăm doạ bạn. Toàn bộ nhân loại đều đang doạ lẫn

nhau. Ốm yếu, già lão, bệnh hoạn đã trở thành gần như

việc yêu cầu, “Các vị phải yêu tôi bởi vì tôi ốm yếu, tôi

già lão...”

Khi ai đó ốm yếu bạn bầy tỏ tình yêu... Và đó là lệ

thường nhân loại đã tuân theo. Với người ốm bạn

không biểu lộ giận dữ, cho dù bạn đang giận dữ. Với

người ốm, cho dù bạn không cảm thấy yêu gì, bạn vẫn

cứ bầy tỏ tình yêu; nếu bạn không thể bầy tỏ tình yêu,

thì ít nhất cũng là thông cảm. Nhưng những điều này là

nguy hiểm, và rất chống lại những phát kiến tâm lí...

Bạn phải yêu lấy bản thân mình mà không nghĩ liệu

bạn có xứng đáng với điều đó hay không. Bạn đang

sống - điều đó là đủ bằng chứng rằng bạn xứng đáng

với tình yêu, cũng như bạn xứng đáng với việc thở vậy.

Bạn không nghĩ liệu bạn có xứng đáng với việc thở hay

không. Tình yêu là nuôi dưỡng tinh tế cho linh hồn,

cũng như thức ăn dành cho thân thể. Và nếu bạn tràn

đầy tình yêu với chính mình, bạn sẽ có khả năng yêu

người khác. Nhưng tình yêu là mạnh khoẻ, tình yêu là

mạnh mẽ.

Chăm sóc người ốm, chăm sóc người già; nhưng

chăm sóc là vấn đề hoàn toàn khác. Khác biệt giữa tình

yêu và chăm sóc là khác biệt giữa người mẹ và người

vú. Người vú chăm sóc, người mẹ yêu thương. Khi đứa

bé ốm thì thậm chí tốt hơn cả cho người mẹ là hãy là

người vú. Khi đứa trẻ khoẻ mạnh, rót thật nhiều tình

yêu mà bạn có thể có cho nó. Để cho tình yêu được liên

kết với mạnh khoẻ, sức mạnh, thông minh - điều đó sẽ

giúp cho đứa trẻ trên con đường dài trong cuộc đời

nó.15

******************************************************

#7 Cái chạm chữa lành

Xoa bóp là cái gì đó bạn có thể bắt đầu học nhưng

bạn chẳng bao giờ kết thúc. Nó cứ tiếp diễn mãi, và

kinh nghiệm liên tục trở thành ngày một sâu sắc hơn,

và ngày một cao hơn. Xoa bóp là một trong những

nghệ thuật tinh tế nhất - và đấy không chỉ là vấn đề

kinh nghiệm. Nó là vấn đề tình yêu nhiều hơn.

Học kĩ thuật - thế rồi quên nó đi. Thế rồi chỉ cảm

thấy, và di chuyển theo việc cảm. Khi bạn học một

cách sâu sắc, chín mươi phần trăm công việc được làm

bởi tình yêu, mười phần trăm bởi kĩ thuật. Bởi chính

cái chạm, cái chạm yêu thương, một cái gì đó làm

thảnh thơi trong thân thể.

Nếu bạn yêu và cảm thấy từ bi với người khác, và

cảm thấy giá trị tối thượng của người đó; nếu bạn

không đối xử với người đó cứ như là người đó là cái

máy cần phải đặt lại cho đúng, mà là một năng lượng

có giá trị mênh mông; nếu bạn biết ơn rằng người đó

tin cậy bạn và cho phép bạn chơi với năng lượng của

người đó - thế thì dần dần bạn sẽ cảm thấy dường như

bạn đang chơi trên chiếc đàn organ. Toàn bộ thân thể

trở thành các phím của chiếc đàn organ và bạn có thể

cảm thấy rằng hài hoà được tạo ra bên trong thân thể.

Không chỉ người đó sẽ được giúp đỡ mà cả bạn cũng

được giúp đỡ nữa.

Xoa bóp là cần thiết trên thế giới bởi vì tình yêu đã

biến mất. Có thời chính cái chạm của những người yêu

là đủ. Mẹ chạm vào con, chơi với thân thể nó, và đấy là

xoa bóp. Chồng chơi với thân thể người phụ nữ của

mình và đấy là xoa bóp; thế là đủ, quá đủ. Đấy là thảnh

thơi sâu sắc và một phần của tình yêu. Nhưng điều đó

đã biến mất khỏi thế giới này. Dần dần chúng ta đã

quên mất chỗ để chạm, cách chạm, cách chạm sâu sắc.

Trong thực tế chạm là một trong những ngôn ngữ bị

quên lãng nhiều nhất. Chúng ta đã gần như trở thành

vụng về trong động chạm, bởi vì chính từ này đã bị

biến chất bởi cái gọi là những người tôn giáo. Họ đã

cho nó màu sắc dục. Từ này đã trở thành dục và mọi

người đã trở nên sợ hãi. Mọi người đều cảnh giác

không để bị đụng chạm trừ phi người đó cho phép điều

ấy. Bây giờ ở phương Tây cực đoan khác lại tới. Động

chạm và xoa bóp đã trở thành mang tính dục. Bây giờ

xoa bóp chỉ là lớp vỏ che đậy, cái chăn, cho hoạt động

dục. Trong thực tế cả động chạm lẫn xoa bóp đều

không mang tính dục. Chúng là chức năng của tình

yêu. Khi tình yêu rơi khỏi chiều cao của nó thì nó trở

thành dục, và thế thì nó trở thành xấu.

Cho nên có tính cầu nguyện đi. Khi bạn chạm vào

thân thể của một người, có tính cầu nguyện đi - dường

như bản thân Thượng đế có đó, và bạn đang phục vụ

ngài. Tuôn chảy với toàn bộ năng lượng. Và bất kì khi

nào bạn thấy thân thể đang tuôn chảy và năng lượng

tạo ra hình mẫu hài hoà mới, bạn sẽ cảm thấy sung

sướng mà bạn chưa bao giờ cảm thấy trước đây. Bạn sẽ

rơi vào trong thiền sâu.

Trong khi xoa bóp, chỉ xoa bóp thôi. Đừng nghĩ tới

những thứ khác bởi vì những thứ đó là phân tán. Hiện

diện trong ngón tay và bàn tay bạn cứ như là toàn thể

bản thể bạn, toàn thể linh hồn bạn có đó. Đừng để nó

chỉ là cái chạm của thân thể. Toàn bộ linh hồn bạn đi

vào trong thân thể của người kia, thấm vào nó, làm

thảnh thơi những phức cảm sâu sắc nhất. Và làm cho

nó thành trò chơi. Đừng làm nó như công việc; làm nó

thành trò chơi và coi nó như vui đùa. Cười và để cho

người khác cũng cười nữa.16

Xoa bóp là đi tới mối quan hệ với năng lượng của

thân thể ai đó khác để cảm thấy chỗ nó đang thiếu, để

cảm thấy chỗ thân thể này đang bị phân đoạn và làm

cho nó thành toàn thể... để giúp cho năng lượng này

của thân thể đó sao cho nó không còn bị manh mún

nữa, không còn mâu thuẫn nữa. Khi những năng lượng

của thân thể này hoà theo và trở thành một dàn nhạc,

thế thì bạn thành công.

Cho nên rất kính trọng với thân thể con người đi.

Nó chính là điện thờ của Thượng đế, ngôi đền của

Thượng đế. Cho nên với lòng kính trọng sâu sắc, với

lời cầu nguyện, học nghệ thuật của mình. Đó là một

trong những điều vĩ đại nhất để học.17

Chỉ đặt tay bạn lên chỗ cần thiết của người đó. Nếu

người đó đau đầu, đặt tay bạn lên đầu người đó, nhắm

mắt lại, bắt đầu cảm thấy năng lượng đổ ra, và bạn sẽ

có cảm giác rân rân ở tay, chúng sẽ trở thành được điện

hoá. Hay nếu người này đang gặp trục trặc với dạ dầy,

đặt tay bạn lên dạ dầy. Phần cần thiết cần phải được

chạm tới. Nếu nó có thể được chạm tới một cách trần

trụi, không quần áo, thì tốt hơn, sẽ hiệu quả hơn.

Nhưng đừng chạm vào phần cần thiết nhiều hơn một

phút. Nếu bạn chạm vào phần cần thiết nhiều hơn một

phút, thế thì đôi khi bệnh tật có thể bắt đầu chảy sang

bạn.

Năng lượng là nhịp điệu: phút này nó đi ra, phút

khác nó đi vào. Cho nên coi thành vấn đề là khi bạn đặt

tay lên thân thể ai đó khác, thở ra; điều đó đồng bộ hoá

việc thở vào, thở ra. Khi bạn đặt tay lên họ, thở ra, và

cứ thở ra; và khi bạn thấy rằng bạn không thể nào thở

ra thêm được nữa, thì rụt tay lại và rồi thở vào. Nếu

bạn thở vào trong khi đặt tay bạn lên, thì bạn có thể bị

ảnh hưởng bởi bệnh đó. Người này có thể được chữa

lành nhưng bạn sẽ mắc bệnh, và điều đó là vô nghĩa.

Chỉ đặt tay bạn khi thở ra, và khoảnh khắc thở vào bắt

đầu, rụt tay lại.18

Khi bạn đang chữa cho một người, rất nhiều năng

lượng đang đổ ra đó nếu bạn chạm, điều đó sẽ gần như

là bạn đang chạm vào người đó bằng một sợi dây sống,

một dây điện sống. Người đó sẽ trở nên sợ hãi đến mức

các cánh cửa của người đó đóng lại - và nếu các cánh

cửa đều bị đóng lại, bạn có thể cứ mưa rào xuống và

chẳng cái gì xảy ra cả. Việc chữa lành là có thể được

không chỉ bởi vì năng lượng của bạn - nó chỉ có thể khi

năng lượng của bạn đi vào người khác và trở thành

năng lượng của người đó. Nếu nó đi tới cửa và quay

lại, thì chẳng việc chữa lành nào xảy ra cả.

Đó là lí do tại sao nếu một người không tin cậy vào

bạn, đừng bao giờ thử chữa lành - đừng bao giờ thử,

bởi vì điều đó là không thể được. Nếu một người có

hoài nghi về bạn, quên người đó đi. Điều đó là có thể

chỉ trong tin cậy sâu sắc, và nếu bạn thử với những

người không tin cậy vào bạn, bạn sẽ trở nên không tin

tưởng vào năng lượng của riêng mình. Nếu bạn thất bại

nhiều lần, thế thì dần dần bạn sẽ nghĩ, “Chẳng cái gì

xảy ra cả. Mình không có năng lượng.” Trong thực tế

mọi người đều có năng lượng chữa lành. Nó là cái gì

đó tự nhiên. Không phải là vài người mới là thầy chữa

còn người khác thì không, không phải vậy. Mọi người

sinh ra đều là thầy chữa rồi nhưng lại quên mất năng

lực này, hay chưa bao giờ dùng nó cả, hay đã dùng nó

trong các mối liên kết sai và đã đi tới cảm thấy rằng nó

chẳng bao giờ vận hành cả.

Cho nên đừng bao giờ thử nó lên ai đó, người thách

thức bạn. Đấy không phải là thách thức. Nếu ai đó sẵn

sàng tham dự, đi cùng bạn, thế thì đấy là kinh nghiệm

đẹp. Cho nên ngay chỗ ban đầu đừng bao giờ chạm cả.

Khi người đó thảnh thơi ngày càng nhiều và bạn cảm

thấy... và tôi đang nói cảm thấy - không phải là bạn

nghĩ. Nếu bạn cảm thấy có thôi thúc phát sinh để chạm

vào người đó - chẳng hạn người đó bị đau dạ dày hay

đau đầu hay đau cái gì đó khác và bạn cảm thấy rằng

chỉ cần chạm vào đầu sẽ có ích - thế thì chạm, nhưng

trước hết để cho người đó hài hoà với bạn. Trước hết

cho việc xoa bóp năng lượng, đừng chạm vào thân thể.

Để cách xa khoảng sáu cm, bởi vì hào quang thân

thể của người này toả ra cách xa thân thể người đó

quãng hai mươi cm. Giữ cách xa quãng sáu, tám cm,

sao cho theo cách nào đó bạn đang chạm vào hào

quang năng lượng của người đó. Bạn không chạm vào

thân thể vật lí của người đó, nhưng bạn chạm vào thân

thể tinh tế của người đó - và có thế thôi. Để cho năng

lượng thấm vào, thế thôi. Bạn đã thực sự chạm vào

người đó, nhưng người đó sẽ không sợ về điều đó. Khi

bạn cảm thấy rằng người đó đang tham dự cực kì

nhiều, khi tin cậy của người đó là mênh mông và bạn

có thể thấy rằng người đó đang tuôn chảy với bạn, và

bạn có thể cảm thấy rằng năng lượng của mình đang

được hấp thu - nó không bị bác bỏ; người đó đã trở

thành giống như miếng bọt biển và đang trương lên -

thế thì điều đó trở thành một điểm chính xác. Tại điểm

đó toàn bộ năng lượng tuôn trào và đi vào sâu nhất.

Sau mỗi lần chữa tốt hơn cả là bạn đi tắm, làm như

vậy. Nếu điều đó là không thể được, thế thì ít nhất rửa

tay mình ngay lập tức và vung vẩy chúng. Bao giờ

cũng xảy ra rằng khi bạn đang truyền năng lượng vào

người khác, năng lượng của người đó cũng đôi khi đi

vào bạn; chúng chèn lấp lẫn nhau. Đôi khi người đó có

thể rất mạnh, thậm chí còn mạnh hơn bạn. Đôi khi

người đó có thể không mạnh, nhưng bệnh của người đó

lại có thể rất mạnh, cho nên những rung động này của

bệnh đó có thể đi vào bạn và có thể mang tính phá

hoại. Chúng có thể làm cho bạn bị ốm, căng thẳng.

Việc chữa lành là tốt nhưng không đáng bạn phải trả

giá, bởi vì thế thì sẽ là ngu xuẩn và bạn không thể chữa

lành mấy được. Sớm hay muộn bạn sẽ trở nên ốm yếu,

ốm tồi tệ, và thân thể bạn sẽ bị làm xáo trộn nhiều

lắm.19

Xoa bóp không đơn giản là xoa bóp. Bạn đang chia

sẻ năng lượng đấy; và chừng nào bạn còn chưa có năng

lượng tuôn chảy trong mình, thì chẳng mấy chốc bạn sẽ

trở nên mệt mỏi. Thế thì điều ấy là rất mạo hiểm.

Không phải là mệt mỏi thể chất kéo đến đâu - điều đó

không quan trọng; bạn sẽ ngủ, bạn sẽ ăn, và điều đó sẽ

trôi qua. Nhưng xoa bóp là chia sẻ năng lượng sâu sắc

hơn. Khi bạn xoa bóp thân thể ai đó, không chỉ thân thể

các bạn là có tham dự vào - còn các thể tinh tế của bạn,

hai thể năng lượng, hai plasma sinh học nữa. Người

đang nhận xoa bóp cũng có thể nhận nhiều plasma sinh

học của bạn, và chừng nào bạn còn chưa là một nguồn

cung cấp bên trong thường xuyên, chừng nào bạn còn

chưa được nối với cội nguồn, bạn sẽ trở nên bị tiêu tán

rất nhiều bởi điều đó. Nó có thể không ảnh hưởng ngay

lập tức bởi vì bạn còn trẻ. Thậm chí nhiều tháng và

nhiều năm sau bạn có thể không cảm thấy điều đó,

nhưng rồi một hôm bỗng nhiên bạn sẽ cảm thấy mình

sụp đổ.

Cho nên hiểu biết của tôi là ở chỗ trước hết người

ta nên làm việc trên bản thân mình, và người ta nên rất,

rất định tâm. Khi bạn định tâm, bạn không hiện hữu.

Khi bạn định tâm, cội nguồn bắt đầu vận hành. Thế thì

bạn chỉ là lối chuyển. Vũ trụ bắt đầu tuôn chảy qua bạn

– thế thì không có vấn đề gì. Bạn có thể chia sẻ nhiều

năng lượng tuỳ ý, bạn sẽ thường xuyên nhận được năng

lượng mới, hừ? Thế thì bạn không giống như nơi trữ

nước không có suối đổ vào nó. Bạn giống như cái

giếng có nhiều dòng suối đổ vào nó; bạn cứ múc nước

ra và nước mới lại tuôn vào - bạn không thể múc cạn

nó được. Trong thực tế bạn cứ đổ đi nước cũ, ôi thiu,

tanh tưởi, còn nước sạch và sống thì đổ vào. Cho nên

cái giếng rất hạnh phúc - bạn không nặng gánh nó từ

quá khứ và cái cũ và cái tù đọng. Cho nên nếu bạn

đang trong luồng chảy và năng lượng của bạn đang

tuôn chảy thế thì không có vấn đề gì.

Cho nên xoa bóp và chữa lành và những hiện tượng

này là rất tinh tế. Và vấn đề không chỉ là việc biết về kĩ

thuật, vấn đề lớn hơn là cách ở tại cội nguồn - thế thì

không có vấn đề gì. Thế thì tôi chẳng bận tâm ngay cả

về kĩ thuật và liệu bạn có biết nó hay không. Bạn có thể

đơn giản bắt đầu chơi với thân thể ai đó và năng lượng

sẽ tuôn chảy, và sẽ có ích lợi lớn. Nhưng chỉ có một ích

lợi thực khi người đang xoa bóp cũng được lợi qua việc

đó - thế thì có ích lợi thực. Thế thì người chữa cũng

được lợi, và người được chữa cũng lợi nữa - cả hai đều

được lợi. Không ai bị thiệt cả.20

******************************************************

#8 Thiền và tâm thần học

Không trị liệu tâm lí nào có phẩm chất của thiền,

bởi vì không phép trị liệu tâm lí nào tạo ra được một

người chứng ngộ. Những người sáng lập ra chúng

không chứng ngộ còn những người chứng ngộ ở

phương Đông thì lại chẳng bao giờ bận tâm về bất kì

phép trị liệu tâm lí nào. Họ thậm chí chẳng bận tâm gì

tới tâm lí hay bản thân tâm trí, bởi vì với họ sự việc

không phải là giải quyết vấn đề của tâm trí, với họ sự

việc là cách thoát ra khỏi tâm trí, điều vốn dễ dàng

hơn. Thế thì tất cả sự việc đều chấm dứt, bởi vì một khi

bạn thoát ra khỏi tâm trí, thì tâm trí không còn nuôi

dưỡng nào để cứ tạo ra vấn đề; bằng không thì nó là

quá trình không kết thúc. Bạn được phân tâm, dù theo

kiểu cách cũ hay mới thì cũng chẳng thành vấn đề;

chúng chỉ là những biến thể của cùng một chủ đề. Tâm

trí bạn cảm thấy một chút ít tươi tắn và thoải mái sau

phiên tâm lí bởi vì bạn đã được làm nhẹ gánh cho bản

thân mình. Một chút ít hiểu biết về tâm trí cũng tới -

điều đó giữ cho bạn bình thường.

Trong thực tế, tất cả mọi phép trị liệu tâm lí đều

phục vụ cho tổ chức; chức năng của chúng là không để

cho mọi người thành bất thường. Ai đó đang vượt ra

ngoài bầy đoàn và các qui tắc của bầy đoàn và làm

những điều được coi là bạn không được làm... Những

điều đó có thể vô hại nhưng xã hội không thể dung thứ

cho những con người như vậy. Họ phải được đem lại

cái bình thường, về với chuẩn thông thường.

Công việc của nhà trị liệu tâm lí là dọn sạch tâm trí

bạn. Đó là một loại tra dầu bôi trơn cho máy móc của

bạn - nó vận hành chút ít tốt hơn và bạn bắt đầu trở nên

chút ít hiểu biết hơn về cách vận hành của tâm trí, mặc

dầu điều đó không tạo ra bất kì thay đổi cách mạng

nào. Và có thể là bạn cũng có thể giải quyết được một

vấn đề, nhưng bạn vẫn không loại bỏ được nguyên

nhân. Bản thân tâm trí mới là vấn đề. Cho nên bạn có

thể loại bỏ vấn đề này, tâm trí sẽ tạo ra vấn đề khác...

Điều đó cũng giống như tỉa cây vậy: bạn tỉa lá này và

chỉ từ lòng tự trọng và phẩm cách mà cây sẽ ra ba lá ở

ngay chỗ trước đây chỉ có một lá. Đó là lí do tại sao

người làm vườn lại cứ phải tỉa mãi; điều đó làm cho

cây ra nhiều tán lá, nhiều lá hơn.

Cũng điều này là tình huống cho tâm trí: bạn có thể

loại bỏ vấn đề này bằng việc hiểu nó - và điều đó cũng

tốn kém - nhưng tâm trí vẫn có đó là cái tạo ra vấn đề,

và nhà phân tâm không vượt ra ngoài các biên giới của

tâm trí. Tâm trí sẽ tạo ra vấn đề mới, phức tạp hơn vấn

đề bạn đã giải quyết. Một cách tự nhiên, bởi vì tâm trí

hiểu bạn có thể giải quyết loại vấn đề đó thì nó tạo ra

cái gì đó mới, phức tạp hơn, nhiều tán lá hơn.

Thiền là một điều hoàn toàn khác hơn phân tâm

hay bất kì cách trị liệu nào, vốn bị hàm chứa trong tâm

trí. Nó đơn giản nhảy ra khỏi tâm trí: “Đằng ấy có vấn

đề của đằng ấy - tớ về nhà đây.” Bởi vì tâm trí là kẻ ăn

bám nên nó không có sự tồn tại của riêng nó. Nó cần

bạn bên trong nó, để cho nó có thể cứ ăn bạn, cái đầu

bạn. Một khi bạn nhảy ra khỏi nó, tâm trí chỉ còn là

nghĩa địa. Tất cả những vấn đề vốn đã quá lớn không

vứt bỏ được, chúng đơn giản bị vứt bỏ chết đi.

Thiền là chiều hướng hoàn toàn khác: bạn đơn giản

quan sát tâm trí và trong việc quan sát đó bạn đi ra khỏi

nó. Và từ từ, tâm trí với tất cả những vấn đề của nó

biến mất; bằng không thì tâm trí cứ tạo ra những vấn

đề xa lạ...

Tâm trí là vấn đề duy nhất của bạn - tất cả các vấn

đề khác chỉ là nhánh của tâm trí. Thiền cắt tâm trí ngay

từ chính gốc rễ. Và tất cả những phép trị liệu này -

Động thái và Đối thoại Tiếng nói và Fritz Perl - chúng

ta có thể dùng chúng cho những người còn chưa đi vào

trong thiền chỉ để có một chút ít hiểu biết về tâm trí sao

cho họ có thể tìm ra cánh cửa để từ đó thoát ra. Chúng

ta dùng tất cả mọi phép trị liệu có ích, nhưng không

dành cho thiền nhân. Chúng chỉ có ích lúc ban đầu khi

bạn còn chưa trở nên quen thuộc với thiền. Một khi bạn

mang tính thiền rồi, bạn không cần bất kì phép trị liệu

nào, thế thì không phép trị liệu nào có ích cả. Nhưng

lúc ban đầu, nó có thể có ích, và đặc biệt đối với các

sannyasin Tây phương...

Sigmund Freud chỉ đúng về tâm trí phương Tây và

truyền thống của nó. Khi ông ấy nói rằng mọi con gái

đều ghét mẹ bởi vì nó yêu bố, thì toàn bộ vấn đề đều

dựa trên hiểu biết của họ về dục, rằng người ta yêu

người khác giới. Cho nên con gái yêu bố, con trai yêu

mẹ. Nhưng con gái không thể bầy tỏ tình yêu của

chúng, đặc biệt chúng không thể nào có quan hệ dục

với bố được, còn mẹ thì được có quan hệ dục. Cho nên

chúng trở nên ghen tị với mẹ - người mẹ là kẻ thù của

chúng. Con trai trở thành kẻ thù của bố và bởi vì điều

đó mà con trai không thể làm tình với mẹ. Người Nhật

Bản thậm chí không thể nào nghĩ về điều này; thậm chí

người Ấn Độ cũng không thể nghĩ tới điều này - một

cách dạy dỗ hoàn toàn khác. Sigmund Freud hay Jung

hay Alder hay Assagioli hay Fritz Perl chẳng có ý

tưởng nào. Thậm chí trong mơ họ cũng không nghĩ

rằng mọi người có thể khác với người phương Tây...

Tại phương Đông, các nhà phân tâm không có ích

mấy. Với người phương Tây, tôi muốn họ đi qua nhóm

chỉ để dọn sạch tâm trí. Với một tâm trí sạch sẽ, việc đi

vào trong thiền là dễ dàng hơn. Nhưng nếu bạn không

đi vào trong thiền và bạn đơn giản phụ thuộc vào việc

lau dọn tâm trí, thế thì bạn sẽ lau dọn tâm trí trong cả

đời và bạn sẽ không đi đâu khác cả. Bởi vì khuynh

hướng khác của mình mà phương Đông phải tìm chỗ

trong đại học về thiền, không tìm phân tâm...

Tại phương Đông trong hàng thế kỉ vấn đề đã là

làm sao vượt ra ngoài tâm trí - vấn đề duy nhất, vấn đề

độc nhất. Nhưng với tâm trí phương Tây, bởi vì nó đã

phát triển theo một cách khác nên nó chưa bao giờ nghĩ

tới việc siêu việt lên trên tâm trí. Tôi đã xem các tài

liệu gốc Do thái, các tài liệu gốc Ki tô giáo; không có

một phát biểu nào trong toàn bộ lịch sử Tây phương tại

đó ai đó đã nỗ lực để vượt ra ngoài tâm trí. Họ đã dùng

tâm trí để cầu nguyện, họ đã dùng tâm trí để tin vào

Thượng đế; họ đã dùng tâm trí để trở nên mang tính

tôn giáo, đức hạnh, nhưng họ chưa bao giờ thậm chí

nghĩ rằng có một khả năng vượt ra ngoài tâm trí.

Tại phương Đông đã có một việc tìm kiếm duy

nhất, độc nhất. Toàn bộ thiên tài của phương Đông đã

làm việc chỉ cho một điều, không vấn đề nào khác:

cách vượt ra ngoài tâm trí, bởi vì nếu bạn có thể giải

quyết được cả loạt vấn đề của mình chỉ bằng việc vượt

ra ngoài, thế thì tại sao lại cứ đi giải quyết chi tiết từng

vấn đề làm gì? Tâm trí cứ tạo ra vấn đề mãi; nó là một

lực rất sáng tạo. Bạn giải quyết vấn đề này, vấn đề

khác lại nảy sinh. Bạn giải quyết vấn đề kia, vấn đề nọ

lại phát sinh. Đấy là kinh doanh tốt cho các nhà phân

tâm, bởi vì người đó biết bạn chẳng bao giờ được chữa

khỏi cả. Bạn sẽ không được chữa khỏi từ tâm trí; người

đó chữa cho các vấn đề riêng của bạn. Tâm trí bạn có

đó, nguồn gốc. Người đó chưa bao giờ chặt được rễ,

người đó chỉ chặt lá, nhiều nhất là chặt cành, nhưng

chúng cứ mọc ra mãi - gốc rễ vẫn còn đấy.

Thiền là việc chặt tận gốc các vấn đề. Tôi nhắc lại:

tâm trí là vấn đề duy nhất, và chừng nào bạn chưa vượt

ra ngoài tâm trí, bạn sẽ chẳng bao giờ vượt ra ngoài

vấn đề được. Cũng thật là lạ rằng thậm chí ngày nay,

các nhà tâm lí phương Tây thậm chí vẫn chưa cân nhắc

tới sự kiện là phương Đông đã tạo ra biết bao nhiêu

người chứng ngộ. Không một người nào trong số họ lại

bận tâm về việc phân tích tâm trí cả... Hàng trăm

phương pháp đã được tìm ra có thể giúp bạn siêu việt

lên trên tâm trí, và một khi bạn đã ở ngoài tâm trí, tất

cả các vấn đề của nó dường như chúng là vấn đề của ai

đó khác. Bạn đạt tới trạng thái của người quan sát trên

núi, và tất cả các vấn đề này đều trong thung lũng. Và

chúng chẳng có tác động gì lên bạn cả; bạn đã vượt ra

ngoài chúng.

Phương Tây vẫn còn hoàn toàn lấy trọng tâm là

tâm trí. Tại phương Tây điều duy nhất người ta đã nghĩ

tới là vật chất và tâm trí. Và vật chất là thực tại còn tâm

trí chỉ là sản phẩm phụ; vượt ra ngoài tâm trí chẳng có

gì cả. Tại phương Đông vật chất là ảo tưởng, tâm trí là

sản phẩm phụ của tất cả những ảo tưởng, phóng chiếu,

mơ mộng của bạn. Thực tế của bạn ở bên ngoài vật

chất và tâm trí, cả hai. Cho nên ở phương Đông chúng

ta phân chia thực tế làm ba phần: vật chất, phần bên

ngoài nhất; linh hồn, phần bên trong nhất; tâm trí ở

giữa hai điều này. Vật chất có thực tại tương đối; nó

không là thực tuyệt đối, chỉ là thực tương đối. Tâm trí

tuyệt đối không thực, còn linh hồn thì tuyệt đối thực.

Đây là cách phân loại nhân loại hoàn toàn khác. Tại

phương Tây cách phân loại là đơn giản: vật chất là

thực, tâm trí chỉ là sản phẩm phụ, và chẳng có gì bên

ngoài tâm trí. Cho nên nhớ lấy, nếu bạn đang thiền thì

chẳng có gì khác được cần tới nữa. Nếu bạn không

thiền, thế thì các phép trị liệu tâm lí này có thể có ích

như bàn đạp cho thiền... Phương Tây đang bị khai thác

bởi đủ mọi loại giả dối bởi một lí do đơn giản rằng

phương Tây đã không nhìn vào trong vấn đề về bản

thân thiền. Cho nên bất kì kẻ ngốc nào cũng tới và nói

bất kì điều gì, rồi tụ tập tín đồ bởi vì họ không biết

thiền là gì. Họ chẳng tụng mật chú cũng không làm

khinh công... Những điều này chẳng có liên quan gì tới

thiền cả. Thiền chỉ có một nghĩa, và đó là vượt ra ngoài

tâm trí và trở thành nhân chứng. Trong việc chứng kiến

của bạn là phép màu - toàn bộ bí ẩn của cuộc sống.21

#8Trong tạp chí Newsweek tôi đọc được một chuyện

tiếu lâm bên trong một bài báo về cái gọi là trị liệu

chữa nhanh. Một người trung tuần đã là nỗi thất

vọng của gia đình mình trong nhiều năm bởi vì

thói quen xé giấy thành mảnh vụn và rắc rải rác

khắp mọi nơi anh ta đi qua. Gia đình đưa anh ta

tới những chuyên gia nổi tiếng theo Freud, Jung

và Aldler, với chi phí rất lớn nhưng kết quả lại

toàn thất vọng. Cố gắng chiếu ánh sáng vào cái

vực thẳm tăm tối của vô thức của anh ta, nơi thói

quen ngụ ở đó, đã thất bại.

Cuối cùng họ hàng anh ta đưa anh ta tới một nhà

trị liệu tâm lí mới không tiếng tăm nhưng lại canh

tân. Nhà ảo thuật này đi vài bước với bệnh nhân

mới lên và xuống văn phòng của mình, thì thào

điều gì đó vào tai anh ta. Thế rồi ông ta tuyên bố

làm cả gia đình ngạc nhiên, “Các vị có thể đưa

anh ta về nhà được rồi; anh ta đã khỏi.”

Một năm sau thói quen này không trở lại và gia

đình rất biết ơn đã đến hỏi vị bác sĩ rằng ông ấy

đã nói gì với bệnh nhân của mình. Ông ta, nhún

vai, nói, “Đừng xé giấy.” Xin thầy bình luận.

Bí mật của cuộc sống là rất đơn giản, nhưng tâm trí

lại cố gắng làm cho chúng phức tạp lên. Tâm trí yêu

mến cái phức tạp, bởi lẽ đơn giản, tâm trí chỉ được cần

tới nếu có điều gì đó phức tạp. Nếu không có gì phức

tạp, chính cái cần thiết cho sự tồn tại của tâm trí biến

mất. Tâm trí không muốn buông bỏ quyền làm chủ của

nó trên bạn. Nó chỉ là kẻ hầu nhưng nó đã xoay xở để

trở thành người chủ, và mọi sự đã trở thành lộn ngược

trong cuộc sống của bạn.

Câu chuyện tiếu lâm này đơn giản chỉ ra một sự

kiện rất hiển nhiên. Người này xé vụn giấy và rắc

chúng khắp nơi; một cách tự nhiên mọi người cứ nghĩ

một cái gì đó đã đi sai: anh ta cần phân tâm, anh ta cần

một người vĩ đại người hiểu cách thức của tâm trí để

cho anh ta có thể được chữa lại. Không ai thậm chí bận

tâm tới việc bảo anh ta “Đừng làm điều này.”

Hiển nhiên rằng người này đã thành điên khùng,

cho nên họ mới tới các chuyên gia theo Freud, các

chuyên gia theo Adler, các chuyên gia theo Jung, tới

các nhà phân tâm lớn. Và tất cả những nhà phân tâm

này đều phải làm việc vất vả, hàng giờ, hàng năm,

phân tích giấc mơ của người này để tìm ra tại sao

người đó lại xé vụn giấy và vứt rải rác khắp nơi.

Nhưng chẳng ai thành công cả. Như một phương kế

cuối cùng họ mới lôi anh ta tới một nhà ảo thuật, và

người này chữa khỏi cho anh ta.

Nhưng tờ Newsweek lại là một tạp chí hợm hĩnh,

cho nên chuyện tiếu lâm này vẫn còn chưa hoàn chỉnh.

Đó là lí do tại sao bạn lại không thấy đâu là cái lớn lao

của chuyện tiếu lâm này .

Nhà ảo thuật này đã bước lên bước xuống cầu

thang và thế rồi thì thào vào tai người này, “Anh hãy

dừng việc xé giấy; nếu không thì tôi sẽ đá anh ngã lăn

lông lốc xuống từ trên đỉnh.” Và người này lại là người

mạnh khoẻ. “Cho nên hãy lưu ý, bởi vì tôi không tin

vào các nhà phân tâm hay bất kì cái gì, tôi đơn giản tin

vào việc đá. Và tôi đá mọi người từ chỗ này. Thế là họ

ngã lăn lông lốc hàng trăm bậc xuống đường. Bây giờ

anh có thể về nhà; nhớ rằng tôi chỉ có một thủ đoạn

thôi. Khi bất kì một người ốm yếu nào về mặt tinh thần

được đem tới tôi, tôi chữa cho người đó. Đó là lí do tại

sao tôi đã bước cùng anh lên và xuống những bậc

thang này, để chỉ ra cho anh vấn đề có nghĩa là gì khi

tôi đá anh. Cho nên bây giờ về nhà và nhớ lấy điều đó.

Lần sau tôi sẽ không nói gì nữa đâu, tôi sẽ chỉ đơn giản

làm điều đó.” Và người này đã hiểu điều đó; bất kì ai

cũng sẽ hiểu điều đó.

Họ đã bỏ đi cái phần đó của chuyện cười này và đã

phá huỷ mất cái đẹp của nó. Con người kia phải đã tận

hưởng hệt như trò trẻ con, xé vụn giấy ra thành từng

mảnh và vứt lung tung khắp chốn. Và điều đó trở thành

sự tận hưởng bởi vì mọi người đều phân vân. Đấy đơn

giản chỉ là hiện tượng trẻ con. Người này bị phát triển

chậm; người đó không cần nhà phân tâm nào cả. Người

đó cần một cú đá đích đáng - đó là ngôn ngữ mà người

đó hiểu ngay lập tức.

Theo nhiều cách chúng ta cứ nghĩ mãi về những

điều đơn giản theo các cách phức tạp. Vấn đề của

chúng ta gần như rất đơn giản, nhưng tâm trí cứ làm

bạn lẫn lộn. Và có những người khai thác bạn. Họ làm

cho vấn đề của bạn thậm chí còn phức tạp hơn.

Có lần một cậu bé được đưa tới tôi. Nó phải mười

sáu hay mười bẩy tuổi rồi, và gia đình nó lại phân vân,

phiền muộn, mặc dầu chẳng cần bất kì ai phải phiền

muộn cả. Đứa bé này cứ nói rằng hai con ruồi đã chui

vào bụng nó, và chúng cứ bay vòng vo trong thân thể

nó - bây giờ chúng ở trong đầu, bây giờ chúng lại

xuống tay.

Nó được đưa tới bác sĩ, bác sĩ điều trị, và họ nói,

“Đấy không phải là bệnh.” Nó được chiếu tia X, và

không có con ruồi hay cái gì hết cả. Họ cố nói, “Cháu

chẳng có con ruồi nào cả.”

Nhưng đứa bé nói, “Làm sao cháu có thể tin vào

các bác được? Chúng bay vòng vo khắp bên trong thân

thể cháu. Cháu nên tin vào kinh nghiệm của mình hay

giải thích của các bác?”

Ngẫu nhiên ai đó gợi ý với bố mẹ nó về tôi, cho

nên họ đem cậu bé tới. Tôi nghe toàn bộ câu chuyện.

Cậu bé trong có vẻ rất miễn cưỡng, bướng bỉnh, bởi vì

nó đã mệt mỏi với bác sĩ này, bác sĩ nọ, và họ tất cả

đều nói, “Không có ruồi.”

Tôi nói, “Các bác đem nó lại là đúng người rồi đấy.

Tôi có thể thấy mấy con ruồi này. Cậu bé đáng thương

đang khổ sở đây, thế mà các bác lại cứ bảo rằng nó

ngu.” Cậu bé được thảnh thơi. Tôi đâm ra được thuận

lợi - vì lần đầu tiên một người đã chấp nhận ý tưởng

của nó về con ruồi.

Tôi nói, “Tôi biết cách chúng đã chui vào. Nó phải

vừa ngủ vừa há mồm.”

Cậu bé nói, “Vâng đúng ạ,”

Tôi nói, “Việc này đơn giản thế. Khi cháu ngủ há

mồm, thì cái gì mà chẳng có thể vào được. Cháu may

mà chỉ có ruồi mới chui vào thôi. Bác đã thấy những

người... chuột cũng chui vào nữa...”

Nó nói, “Ôi trời, cả chuột nữa sao?”

Tôi nói, “Mà không chỉ có chuột đâu, sau chuột

còn cả mèo nữa.”

Nó nói, ‘Những người đấy phải bị rắc rối lắm.”

Tôi nói, ‘Họ quả vậy đấy. Cháu chưa là cái gì cả,

trường hợp của cháu rất đơn giản - chỉ có hai con ruồi

thôi. Cháu nằm xuống đây, và bác sẽ lấy chúng ra.”

Nó nói, “Bác là người đầu tiên đã bầy tỏ hiểu biết

cho một đứa bé đáng thương. Chẳng ai chịu nghe cháu

cả. Cháu cứ nói mãi rằng chúng nó có đấy. Cháu chỉ

chỗ chúng... chúng ở đây này, bây giờ chúng đã đi sang

đây... và tất cả họ đều cười, và họ làm cháu thành thằng

ngu.”

Tôi nói, “Tất cả họ đều là đồ ngu tuốt. Họ có bắt

gặp những trường hợp như vậy đâu, nhưng đây là tri

thức chuyên gia đặc biệt của bác. Bác chỉ giải quyết

cho những người ngủ há mồm thôi.”

Nó nói, “Cháu biết là bác hiểu, bởi vì ngay lập tức

bác nhận ra rằng chúng có đó - đích xác nơi chúng ở

đấy.”

Tôi bảo với bố mẹ nói hãy ở nhà và để nó mười

lăm phút với tôi. Tôi bảo nó nằm ra. Tôi bịt mắt nó và

bảo nó há mồm ra.

Nhưng nó nói, “Ngộ nhỡ nhiều ruồi nữa lại bay

vào...?”

Tôi nói, “Yên tâm đi: đây là phòng có điều hoà, và

không có ruồi. Cháu chỉ nằm há mồm và bác sẽ cố

gắng và thuyết phục mấy con ruồi đó bay ra.”

Tôi bỏ nó đó và chạy quanh nhà và bằng cách nào

đó bắt hai con ruồi - lần đầu tiên, bởi vì tôi chưa bao

giờ làm điều đó cả. Nhưng dẫu sao thì tôi cũng xoay xở

được, và tôi nhốt hai con ruồi vào chiếc lọ nhỏ. Và

trong khi tôi để chiếc lọ ở gần mồm nó thì tôi tháo

chiếc khăn bịt mắt nó ra và nói, “Nhìn đây!”

Nó nói, “Hai con ruồi bé thế này... nhưng chúng

gây ra rối lung tung làm sao! Cả đời cháu bị tiêu tùng.

Bây giờ bác có thể cho cháu những con ruồi này được

không?

Tôi nói, “Có chứ, bác cho cháu đấy.” tôi đóng nắp

lọ lại và đưa cho nó.

Tôi hỏi nó, “Cháu định làm gì?”

Nói nói, “Cháu định đi tới tất cả các bác sĩ và bác sĩ

trị liệu, những người đã từng ăn tiền mà chẳng làm gì

và chỉ bảo cháu, ‘Không có ruồi.’ Bất kì ai đã bảo cháu

điều đó... Cháu sẽ chỉ cho họ rằng đây là những con

ruồi ấy đấy.”

Nó đã được chữa khỏi. Tâm trí nó mới chỉ bị mắc

kẹt với một ý tưởng. Nhưng nếu bạn tới các nhà phân

tâm, thì ông ấy sẽ tạo ra cả quả núi từ đống đất chuột

đào - biết bao nhiêu là lí thuyết, giải thích... và phải

mất nhiều năm vấn đề vẫn cứ còn đấy, bởi vì vấn đề

vẫn còn chưa được đụng chạm tới. Ông ấy đã triết lí về

nó và ông ấy thử triết lí của mình lên bệnh nhân đáng

thương này.

Nhưng phần lớn bệnh của tâm trí - và bẩy mươi

phần trăm bệnh tật đều là từ tâm trí - có thể được chữa

khỏi dễ dàng. Điều cơ bản nhất là chấp nhận; đừng phủ

nhận, bởi vì việc phủ nhận của bạn là chống lại lòng tự

hào của con người. Bạn càng phủ nhận, thì người đó

càng khăng khăng hơn: đấy là logic đơn giản. Bạn

đang phủ định hiểu biết của người đó, bạn đang phủ

định cảm tính của người đó, bạn đang phủ định tính

nhân bản của người đó, nhân phẩm người đó. Bạn đang

nói, “Anh chẳng biết cái quái gì cả” - về thân thể riêng

của mình!

Bước đầu tiên là chấp nhận: “Anh phải đấy. Những

người đã phủ định anh đều sai cả.” Và ngay lập tức

một nửa nền tảng được khôi phục. Bây giờ có mối

quan hệ thông cảm với người này. Những người đang

phải chịu đựng các bệnh tinh thần đều cần thông cảm;

họ cần chấp nhuận, không phải là phủ nhận. Họ không

muốn bạn coi họ là người điên, người bất bình thường.

Cho họ thông cảm, cho họ hiểu biết, yêu mến.

Để họ tới gần bạn và thế rồi tìm ra cách thức đơn

giản. Đừng đi vòng qua kinh sách của những người

theo Freud - đấy gần như là những kinh sách thiêng

liêng, và sách về phân tâm học cứ tăng lên mãi; cứ

ngày càng lớn hơn. Và bạn lại bắt đầu thử đủ mọi loại

ý tưởng đó lên con người đáng thương kia, mà người

đó thì lại chẳng có gì nhiều.

Hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ mọi người đều cần

tình yêu, và mọi người cũng đều cần yêu. Mọi người

đều cần tình bằng hữu, thân thiện, thông cảm - và mọi

người đều muốn đem cho nó nữa.

Tôi nhớ lại: chuyện xảy ra khi George Bernard

Shaw đã gần tám mươi tuổi. Bác sĩ của ông ấy gần chín

mươi tuổi – bác sĩ điều trị của riêng ông ấy – và cả hai

là những người bạn lớn.

Một lần vào giữa đêm Bernard Shaw cảm thấy bị

đau tim đột ngột, và ông ấy trở nên sợ hãi: có lẽ đó là

cơn đau tim. Ông ấy gọi điện tới bác sĩ và nói, “Ông lại

đây ngay lập tức vì tôi có thể không còn trông thấy mặt

trời lên lần nữa.”

Ông bác sĩ nói, “Bình tĩnh đi, tôi tới đây, đừng lo

nghĩ.” Ông bác sĩ tới. Ông ấy phải leo ba tầng cầu

thang – một ông già chín mươi tuổi mang túi đồ của

mình, vã mồ hôi hột.

Ông ấy tới và vứt cái túi xuống sàn và ngồi trong

ghế nhắm nghiền mắt lại. Bernard Shaw hỏi, “Có

chuyện gì vậy?” Ông bác sĩ đặt tay mình lên tim, và

Bernard Shaw nói, “Lạy Chúa, ông bị đau tim rồi!” Và

ông ấy có thể thấy... một ông già chín mươi tuổi, leo ba

tầng cầu thang, vào giữa đêm, và ông ấy vã mồ hôi hột.

Bernard Shaw đứng dậy, bắt đầu phe phẩy quạt, lau

mặt cho ông ấy bằng nước lạnh, rót ít rượu uống cho

ông ấy bởi vì đêm thật lạnh, và ông ấy thử đủ mọi

cách... đắp cho ông này các thứ chăn và quên mất hoàn

toàn cơn đau tim của mình, bởi vì điều đó mà ông bác

sĩ này mới được mời tới.

Sau nửa giờ ông bác sĩ cảm thấy khá hơn và ông ấy

nói, “Bây giờ thì tôi đỡ rồi. Đây là cơn đau tim lớn.

Điều này xảy ra lần thứ ba và tôi cứ nghĩ đây là lần

cuối, nhưng bác giúp tôi nhiều lắm đấy. Bây giờ xin

bác trả tiền công cho tôi.”

Bernard Shaw nói, “Tiền công cho bác sao? - mà

tôi thì đã chạy lăng xăng đem đủ mọi thứ đến để phục

vụ bác. Bác đáng phải trả tiền công cho tôi mới phải

chứ?”

Ông bác sĩ nói, “Vô nghĩa. Đây tất cả chỉ là đóng

kịch thôi. Tôi làm điều đó với mọi bệnh nhân tim - và

bao giờ cũng có tác dụng. Họ quên mất cơn đau tim

của họ và họ bắt đầu chăm sóc tôi - một ông già chín

mươi tuổi. Bác phải trả tiền công cho tôi. Nửa đêm đã

qua và tôi phải về nhà đây” - và ông ấy nhận tiền công.

Bernard Shaw nói, “Đây là điều gì đó. Tôi cứ hay

nghĩ rằng tôi là người tiếu lâm, nhưng ông bác sĩ này

mới là người tiếu lâm thực hành. Ông ấy thực sự đã

chữa cho tôi.” Ông ấy thử tim mình, nó hoàn toàn ổn

thoả. Ông ấy đã hoàn toàn quên mất nó. Đấy chỉ là một

cái đau nhỏ mà tâm trí ông ấy đã nhân lên nhiều lần...

nỗi sợ đau tim của ông ấy, cái ý tưởng về đau tim, cái ý

tưởng về chết trở nên được khuếch đại lên.

Nhưng ông bác sĩ này mới thực sự là người tốt.

Ông ấy đã làm cho Bernard Shaw đứng dậy, đã nhận

mọi sự phục vụ, đã uống ngon lành và cuối cùng đã lấy

tiền công và bước xuống cầu thang. Còn Bernard Shaw

đơn giản nhìn theo bối rối toàn toàn. “Con người này

nói rằng ông ấy đã làm điều đó với mọi trường hợp đau

tim, và ông ấy bao giờ cũng thành công. Chỉ bởi vì tuổi

già của ông ấy mà ông ấy mới xoay xở thật tài tình. Bất

kì ai cũng sẽ quên mất... Bất kì bác sĩ nào cũng sẽ bắt

đầu làm cho nó thành một hiện tượng phức tạp, nào

tiêm, nào thuốc, nào nghỉ ngơi, hay thay đổi khí hậu,

hay y tá chăm nom hai mươi tư tiếng. Nhưng con

người này đã làm điều đó một cách nhanh nhẹn, chóng

vánh, chẳng phức tạp gì.”

Tôi đã thấy đủ mọi loại trường hợp liên quan tới

tâm trí. Tất cả những điều họ cần là một cách tiếp cận

rất thông cảm, thân thiện, yêu thương, và trong mọi

trường hợp đều là một cách trị liệu duy nhất - bởi vì bất

kì điều gì đã được làm cho con người này đều là bình

thường, thông thường và dần dần bệnh nhân này bắt

đầu cảm thấy rằng mình đã thành công trong việc làm

thất bại mọi loại bác sĩ - đối trị, vi lượng, tự nhiên,

ayurvedic, châm cứu, acupressurists - đủ mọi loại

người, vậy mà chẳng ai có thể chữa được cho người đó.

Người đó bắt đầu có một bản ngã nào đó về nó, rằng

bệnh của mình là một cái gì đó rất đặc biệt. Người đó

muốn điều đó được chấp nhận như điều đặc biệt. Đấy

là một sự thay thế.

Điều này cần phải được hiểu: mọi người đều muốn

đặc biệt, phi thường - là một nhạc sĩ vĩ đại, một vũ

công vĩ đại, một nhà thơ vĩ đại - nhưng mọi người đều

không thể nào xoay xở được điều đó. Cần một kỉ luật

rất lâu dài, gian khó để trở thành nhạc sĩ vĩ đại...

Mọi người đều dường như bị khép lại. Không trái

tim của ai lại là cửa sổ mở ra. Và cánh cửa của mọi

người đều không mở ra để đón chào khách thăm. Toàn

bộ tình huống này tạo ra những điều kì lạ. Các nhu cầu

thực của tâm trí con người không được thoả mãn; nó

bắt đầu hành xử một cách kì lạ.

Có lẽ đó là lí do duy nhất mà người kia đã xé vụn

giấy và vứt rải rác lung tung đây đó - chỉ để cho mọi

người biết rằng, “Tôi ở đây, và tôi khác với mọi người

khác. Tôi đang làm điều gì đó mà không ai khác làm

cả.” Có lẽ người đó đã không được chấp nhận, không

được đón nhận, không được yêu mến. Và việc chữa

chạy mà người đó nhận được thì lại còn tồi tệ hơn là

bệnh đó. Đấy mới thực sự là bệnh tật - rằng không ai

yêu người đó cả - và bây giờ nhà ảo thuật đem lại việc

chữa chạy cho người đó: “Nếu anh làm điều đó lần nữa

thì tôi sẽ cho anh cú đá tới mức anh sẽ ngã lăn lông lốc

xuống hàng trăm bậc thang này, và đến cuối cùng anh

có thể chỉ tan thành từng mảnh trên đường.” Nhưng

người đó chấm dứt việc làm đó - điều đó chứng tỏ rằng

thay vì có được tình yêu, thì người đó lại thêm sợ hãi

hơn. Nỗi sợ cũng có thể làm thay đổi hành vi của bạn,

nhưng nó không làm thay đổi cho tốt hơn, nó làm thay

đổi cho tồi đi. Và trong khi tình yêu là có sẵn - lại

chẳng tốn kém gì - thì sao không dùng nó?

Tôi thấy rằng chẳng có cách trị liệu tâm lí nào hơn

tình yêu. Nếu nhà trị liệu tâm lí có thể bầy tỏ tình yêu

của mình, thì bệnh tật sẽ biến mất chẳng cần việc phân

tích nào.

Tất cả mọi việc phân tích đều chỉ là nói nhảm. Bản

thân nhà trị liệu tâm lí đang lẩn tránh tình yêu. Người

đó đang lẩn tránh việc đối diện với bệnh nhân. Người

đó sợ nhận ra thực tế. Tất cả các nhà phân tâm theo

trường phái Freud, vốn là trường phái lớn nhất và quan

trọng nhất, đều không ngồi trước bệnh nhân. Bệnh

nhân nằm trên trường kỉ, và đằng sau trường kỉ nhà

phân tâm ngồi. Bệnh nhân nói, khi nằm trên giường,

không với ai cả, còn nhà phân tâm chỉ ngồi đó. Không

đụng chạm con người - người đó thậm chí chẳng cầm

tay bệnh nhân, người đó không thể nhìn vào mắt bệnh

nhân được.

Tại phương Đông chẳng có gì giống như việc phân

tâm đã từng xảy ra cả bởi một lẽ đơn giản là có hàng

nghìn bậc thầy, sâu trong thiền, và bất kì ai tới họ... chỉ

tình yêu của họ, thông cảm của họ, cách họ nhìn vào

trong mắt bệnh nhân là đủ. Mọi người đều được chữa

khỏi. Không phải là không có phân tâm... Tại phương

Đông, điều đã xảy ra cho người bị thần kinh, cho người

bị tâm thần, là ở chỗ họ được thay đổi tức khắc. Tất cả

mọi điều họ cần là một tình yêu mênh mông không đòi

hỏi điều gì - con người của an bình và im lặng, chính

sự hiện diện của người này là liều thuốc. Người đã

thiền trong một thời gian dài trở thành một cội nguồn

mênh mông. Người đó toả ra cái gì đó không thấy được

bằng mắt, nhưng trái tim thì bắt được nó. Một cái gì đó

đạt tới bản thể bên trong nhất của bạn và làm thay đổi

bạn.

Các vấn đề đều đơn giản. Các giải pháp cũng đơn

giản. Chỉ có điều người ta phải thoát ra khỏi tâm trí để

thấy cái đơn giản đó. Và thế thì bất kì cái gì được con

người làm trong im lặng, trong an bình, trong niềm vui,

đều sẽ là thuốc, đều sẽ ban phát mạnh khoẻ. Nó sẽ là

lực chữa lành.22

Nhà tâm thần cần mang tính thiền hơn bất kì ai

khác - bởi vì toàn bộ công việc của bạn là nguy hiểm

theo một cách nào đó. Chừng nào bạn còn chưa rất

bình thản và tĩnh lặng, chừng nào bạn vẫn còn có thể bị

ảnh hưởng bởi những điều xảy ra quanh bạn, thì điều

đó là rất nguy hiểm. Nhiều nhà tâm thần phát điên hơn

bất kì người theo nghề khác, và nhiều nhà tâm thần tự

tử hơn bất kì người theo nghề khác. Đây là điều gì đó

cần được suy nghĩ tỏ tường. Tỉ lệ này thực sự là quá

nhiều! Nhiều gấp đôi theo số người tự tử. Điều đó đơn

giản chỉ ra rằng nghề này đầy nguy hiểm. Chính trong

đống lộn xộn - bởi vì bất kì khi nào bạn điều trị cho

một người đang bị rối loạn về tâm thần, người đó

thường xuyên phát ra các rung động của mình. Người

đó thường xuyên ném ra năng lượng của mình, các đợt

sóng tiêu cực của người đó dồn vào bạn, và bạn phải

nghe người đó. Bạn phải rất chăm chú. Bạn phải chăm

sóc, bạn phải yêu thương và từ bi hướng tới người đó;

chỉ thế thì bạn mới có thể giúp được cho người đó.

Người đó thường xuyên ném ra năng lượng tích tụ tiêu

cực - và bạn đang hấp thu nó. Trong thực tế bạn càng

chăm chú lắng nghe, bạn càng thấp thu nó nhiều hơn.

Khi sống liên tục với người thần kinh và tâm thần,

bạn bắt đầu nghĩ, theo một cách vô ý thức, rằng đây là

điều nhân loại là gì. Chúng ta dần dần trở thành giống

như những người chúng ta sống cùng, bởi vì không ai

là hòn đảo cả. Cho nên nếu bạn đang làm việc với

người buồn, bạn sẽ trở nên buồn. Nếu bạn đang làm

việc với người hạnh phúc, bạn sẽ trở nên hạnh phúc,

bởi vì mọi sự đều tiêm nhiễm nhau. Thần kinh mang

tính tiêm nhiễm: tự tử cũng mang tính tiêm nhiễm.

Nếu bạn sống quanh những người đã chứng ngộ,

rất nhận biết, thế thì cái gì đó trong bạn bắt đầu đáp

ứng với khả năng cao hơn này. Khi bạn sống với những

người rất thấp, thấp bất thường, trong trạng thái băng

hoại, thế thì cái gì đó không lành mạnh trong bạn bắt

đầu tương ứng và có quan hệ với chúng. Cho nên liên

tục bị bao quanh bởi người ốm là nguy hiểm theo cách

nào đó, chừng nào bạn không tự bảo vệ mình. Và

chẳng có gì như thiền lại cho bạn sự bảo vệ này. Thế

thì bạn có thể cho nhiều hơn bạn đang cho ấy vậy mà

bạn vẫn còn không bị ảnh hưởng tới. Bạn có thể giúp

đỡ nhiều hơn bạn đang giúp đỡ, bởi vì năng lượng của

bạn càng cao, thì khả năng giúp đỡ càng nhiều. Ngoài

ra nhà tâm thần, thầy chữa và người được chữa đều gần

như trên cùng một nền; có thể khác biệt nhau chút ít về

mức độ, nhưng khác biệt nhỏ đến mức không đáng

xem xét tới.

Nhà tâm thần có thể đi vào trong điên khùng rất dễ

dàng - chỉ hơi chút đẩy tới, một sự việc ngẫu nhiên nào

đó, và người đó có thể đi vào lãnh thổ bị kết án. Những

người thần kinh không phải bao giờ cũng thần kinh.

Mới chỉ hai ngày trước đây họ còn là người bình

thường, và lần nữa họ có thể trở lại bình thường. Cho

nên bình thường và bất thường không phải là khác biệt

định tính, chỉ là định lượng: chín mươi chín độ, một

trăm độ, một trăm linh một độ - đó là kiểu khác biệt.

Trong thực tế, trong một thế giới tốt hơn, mọi nhà

tâm thần nên được huấn luyện sâu sắc trong thiền, nếu

không thì người đó không nên được phép hành nghề.

Đó là cách duy nhất bạn có thể tự bảo vệ mình và

không bị mong manh - và bạn có thể có ích thực sự.

Nếu không thì ngay cả các nhà tâm thần vĩ đại, các nhà

phân tâm vĩ đại, ngay cả họ theo một cách nào đó cũng

trở thành rất vô vọng về nhân loại... ngay cả Freud. Sau

kinh nghiệm cả đời mình cuối cùng ông ấy nói rằng

ông ấy không thể nào hi vọng vào con người được; ông

ấy cảm thấy vô vọng. Và điều đó là tự nhiên - bốn

mươi năm sống với những người trong đống lộn xộn;

kinh nghiệm duy nhất về nhân loại là những người

điên. Dần dần điều đó bắt đầu dẫn tới việc nhìn vào

mình dường như tính bất thường là bình thường...

dường như là con người nhất định phải vẫn còn thần

kinh, dường như có cái gì đó tự nhiên trong con người

lái người đó hướng tới bị thần kinh.

Cho nên nhiều nhất thì người mạnh khoẻ là người

được điều chỉnh ít nhiều với thế giới, có thế thôi. Việc

điều chỉnh trở thành chuẩn cho mạnh khoẻ. Nhưng nó

không thể thế được. Nếu toàn bộ xã hội điên khùng,

bạn có thể được điều chỉnh theo nó và bạn sẽ vẫn điên

khùng. Trong thực tế, trong một xã hội điên khùng,

người không điên sẽ bị ngược đãi. Và đó mới thực sự

là trường hợp xảy ra.

Khi Jesus bước đi trong thế giới này, ông ấy bị

ngược đãi. Chúng ta phải đóng đinh ông ấy. Ông ấy là

người xa lạ thế - chúng ta không thể dung thứ được ông

ấy. Chúng ta không quan tâm tới ông ấy, chúng ta đơn

giản bận tâm với chính mình. Bởi sự hiện diện của ông

ấy, chỉ hai điều này là có thể - hoặc là ông ấy điên hoặc

chúng ta điên. Cả hai không thể đều lành mạnh. Chúng

ta thì nhiều còn ông ấy chỉ có một mình. Tất nhiên

chúng ta sẽ giết ông ấy; ông ấy không thể giết chúng ta

được. Khi vị phật bước đi, ông ấy trông có vẻ kì lạ -

một người lành mạnh, người bình thường, tự nhiên

thực sự, đi trong một xã hội bất thường.

Cho nên Freud đã đi tới kết luận rằng không có

tương lai cho nhân loại. Nhiều nhất chúng ta có thể hi

vọng rằng con người có thể được hoà giải với hình mẫu

xã hội, có thế thôi. Nhưng không có khả năng nào cho

con người được phúc lạc cả. Không thể có được, bởi

chính bản chất của mọi vật. Tại sao lại có một kết luận

bi quan đến thế? - bởi vì toàn bộ kinh nghiệm của ông

ấy.

Toàn bộ cuộc sống của Freud là cơn ác mộng dài

của người điên. Và dần dần bản thân ông ấy cũng trở

thành bất thường. Ông ấy không thực sự lành mạnh.

Ông ấy không phải là người phúc lạc. Ông ấy không

bao giờ biết tới tính toàn thể là gì. Ông ấy sợ những vật

nhỏ bé - sợ đến mức có vẻ ngớ ngẩn. Ông ấy sợ chết.

Nếu ai đó nói về ma, ông ấy sẽ bắt đầu vã mồ hôi. Hai

lần ông ấy ngất đi bởi vì ai đó bắt đầu nói về cái chết!

Đây dường như là một tâm trí rất không cân bằng,

nhưng theo một cách nào đó nó có thể được giải thích.

Thậm chí điều này cũng là phép màu - rằng ông ấy vẫn

còn lành mạnh cho cả cuộc đời mình.

Một trong những nhà tâm thần sắc sảo nhất,

Wilhelm Reich, đã phát điên. Và lí do duy nhất để ông

ấy phát điên còn người khác thì không, là bởi vì ông ấy

thực sự sắc sảo. Ông ấy có một tài năng thực sự sâu sắc

để đi vào gốc rễ mọi điều - nhưng điều đó là nguy

hiểm. Toàn bộ cuộc sống của Freud hay Reich hay của

những người khác đều biểu lộ một điều - rằng giá mà

họ đã được huấn luyện trong thiền sâu sắc, toàn thể thế

giới đã thành khác. Thế thì những người thần kinh này

đã không trở thành chuẩn.

Có thể rất khó để trở thành vị Phật, nhưng ông ấy

là chuẩn mực. Và người chuẩn mực là người tới gần

với cái chuẩn mực đó. Nó chẳng liên quan gì tới việc

điều chỉnh cả. Người ta tới gần hơn với ý tưởng về tính

toàn thể, hạnh phúc, lành mạnh.23

******************************************************

#9 Kính trọng thân thể

Kính trọng thân thể mình theo cùng cách như bạn

kính trọng linh hồn mình. Thân thể bạn cũng thiêng

liêng như linh hồn bạn vậy. Trong sự tồn tại mọi thứ

đều thiêng liêng bởi vì toàn bộ sự vật đang đập rộn

ràng cùng với nhịp đập của điều thiêng liêng...

Bạn đang chuyển từ khoảnh khắc nọ sang khoảnh

khắc kia, từ một giai đoạn tâm thức này sang giai đoạn

tâm thức khác. Thân thể có thể đang ngủ say, nhưng nó

cũng ý thức nữa. Bạn biết nếu bạn đang ngủ và muỗi

bắt đầu quấy nhiễu bạn, bạn vẫn còn ngủ và tay bạn

xua muỗi... Thân thể có tâm thức riêng của nó.

Các nhà khoa học nói thân thể có hàng triệu, hàng

triệu tế bào sống; mỗi tế bào có cuộc sống riêng của

nó. Bạn đã đánh mất khả năng ngạc nhiên; nếu không

thì bạn sẽ ngạc nhiên trước hết về thân thể mình, cách

thức thân thể biến bánh mì thành máu. Chúng ta vẫn

chưa có khả năng làm ra được một nhà máy biến bánh

mì thành máu. Và không chỉ có thế, thân thể bạn phân

loại ra cái nó cần và cái nó không cần; cái không cần

tới thì bị tống ra, còn cái được cần tới thì là cần cho các

chức năng khác nhau.

Thân thể cứ cung cấp cho các chỗ khác nhau,

những bộ phận khác nhau của thân thể bạn, bất kì cái gì

là nhu cầu của chúng. Bạn ăn cùng thức ăn cho mọi

nhu cầu của mình; từ cùng thức ăn đó xương bạn được

tạo ra, máu bạn được tạo ra, da bạn được tạo ra, mắt

bạn được tạo ra, não bạn được tạo ra; và thân thể biết

cực kì rõ cái gì là cần và nó cần ở đâu. Máu tuần hoàn

liên tục, cung cấp các hoá chất đặc biệt cho các bộ

phận đặc biệt.

Không chỉ thế, thân thể cũng biết đến mức ưu tiên.

Ưu tiên thứ nhất là bộ não của bạn - do đó, nếu không

có đủ ô xi, thì trước hết thân thể sẽ trao ô xi cho não.

Các bộ phận khác dẻo dai hơn và chúng có thể đợi

thêm một chút, nhưng tế bào não thì không dẻo dai

được đến thế. Nếu chúng không có ô xi trong sáu phút

chúng sẽ chết, và một khi chúng đã chết, chúng không

thể nào được làm sống lại.

Một công trình cực kì thông minh là tỉnh táo về các

chức năng khác nhau. Khi bạn bị thương, thế thì thân

thể dừng cung cấp cho những bộ phận nào đó có thể

tồn tại được, nhưng trước hết vết thương phải được

chữa lành. Ngay lập tức các bạch cầu của thân thể sẽ

xô tới vết thương để bao bọc nó để cho nó không bị

mở. Và thế rồi bên trong, công trình này, công trình rất

tinh tế này, tiếp tục.

Y học biết rằng chúng ta vẫn còn chưa trí huệ được

như thân thể. Các bác sĩ điều trị lỗi lạc nhất đã nói rằng

chúng ta không thể chữa lành cho thân thể được; thân

thể tự chữa cho nó - chúng ta chỉ có thể giúp thêm thôi.

Nhiều nhất thuốc thang của chúng ta cũng có thể có ích

nào đó, nhưng chữa chạy cơ bản vẫn tới từ chính thân

thể. Điều đáng ngạc nhiên là cách thức việc đó được

tiến hành. Nó là một công trình bao la thế.

Tôi đã biết từ một người bạn làm khoa học, người

đã làm việc về các chức năng của thân thể, rằng nếu

chúng ta muốn làm tất cả những chức năng đó thì

chúng ta sẽ cần gần như cả một nhà máy rộng một dặm

vuông với nhiều máy móc phức tạp, máy tính. Thế nữa,

chúng ta vẫn không chắc chắn rằng chúng ta thành

công - thế mà tôn giáo của bạn lại kết án thân thể và

bảo bạn rằng việc chăm sóc thân thể là phi tôn giáo...

Trước hết, ở bên trong, trở thành một với thân thể

mình, thế rồi trở thành một với toàn thể sự tồn tại. Cái

ngày mà nhịp đập của bạn có sự đồng bộ với vũ trụ

cùng nhịp đập của nó, bạn đã tìm ra tôn giáo - không

trước điều đó.24

Trong hàng thế kỉ con người đã được dạy cho

những điều phủ định cuộc sống. Thậm chí hành hạ thân

thể bạn đã từng là kỉ luật tâm linh...

Bạn bước đi, bạn ăn, bạn uống, và tất cả những

điều này chỉ ra rằng bạn là thân thể và tâm thức như

một toàn thể hữu cơ. Bạn không thể nào hành hạ thân

thể và nâng cao tâm thức của mình được. Thân thể phải

được yêu mến - bạn phải là người bạn lớn. Nó là ngôi

nhà của bạn, bạn phải dọn sạch mọi đồ đồng nát khỏi

nó, và bạn phải nhớ rằng nó đang phục vụ bạn liên tục,

hết ngày nọ đến ngày kia. Thậm chí khi bạn ngủ, thân

thể bạn cũng vẫn liên tục làm việc để bạn tiêu hoá, biến

đổi thức ăn thành máu, loại bỏ đi những tế bào chết

khỏi thân thể, đem ô xi mới, ô xi tươi vào trong thân

thể - mà bạn vẫn đang ngủ say!

Nó đang làm mọi thứ cho sự tồn tại của bạn, cho

cuộc sống bạn, mặc dầu bạn lại không biết ơn đến mức

bạn chẳng bao giờ cám ơn thân thể mình. Ngược lại,

tôn giáo của bạn đã từng dạy bạn hành hạ nó: thân thể

là kẻ thù của bạn và bạn phải thoát khỏi thân thể, sự

gắn bó của nó. Tôi cũng biết rằng bạn còn nhiều hơn

thân thể và không cần phải có bất kì gắn bó nào.

Nhưng tình yêu không phải là gắn bó, từ bi không phải

là gắn bó. Tình yêu và từ bi là tuyệt đối cần thiết cho

thân thể bạn và nuôi dưỡng cho nó. Và bạn càng có

thân thể tốt hơn, lại càng có nhiều khả năng hơn cho

tâm thức trưởng thành. Nó là một đơn vị hữu cơ.

Một loại giáo dục hoàn toàn mới hiện đang rất cần

trên thế giới này nơi mà về nền tảng mọi người đều

được giới thiệu vào trong cái im lặng của trái tim - nói

cách khác vào thiền - nơi mọi người đều phải được

chuẩn bị để từ bi với thân thể của riêng mình, bởi vì

chừng nào bạn còn chưa từ bi với thân thể của riêng

mình, bạn không thể nào từ bi được với bất kì thân thể

khác nào. Nó là một tổ chức sống, và nó không làm hại

gì bạn. Nó liên tục phục vụ bạn từ khi bạn được thụ

thai và sẽ vẫn trong phục vụ bạn cho tới cái chết của

bạn. Nó sẽ làm mọi điều bạn muốn làm, ngay cả điều

không thể được, và nó sẽ không bất tuân lệnh bạn.

Không thể nào quan niệm nổi việc tạo ra một cơ

chế như vậy, biết vâng lời và trí huệ đến thế. Nếu bạn

trở nên nhận biết về tất cả các chức năng của thân thể

mình, bạn sẽ ngạc nhiên. Bạn chưa bao giờ nghĩ thân

thể mình đã làm những gì. Nó kì diệu thế, bí ẩn thế -

nhưng bạn chưa bao giờ nhìn vào trong nó. Bạn chưa

bao giờ bận tâm tới việc làm quen với thân thể riêng

của mình và bạn giả vờ yêu người khác. Bạn không thể

yêu được, bởi vì những người khác đó xuất hiện với

bạn cũng như các thân thể.

Thân thể là bí ẩn lớn lao nhất trong toàn thể sự tồn

tại. Bí ẩn này cần được yêu mến - những bí ẩn của nó,

vận hành của nó cần được dò hỏi thân mật.

Không may là tôn giáo đã hoàn toàn chống lại thân

thể. Nhưng nó nêu ra manh mối, một chỉ dẫn xác định

rằng nếu con người học trí huệ của thân thể và bí ẩn

của thân thể, thì người đó sẽ không bao giờ bận tâm tới

các tu sĩ hay Thượng đế nữa. Người đó sẽ tìm ra những

điều bí ẩn nhất bên trong bản thân mình, và bên trong

bí ẩn của thân thể chính là điện thờ của tâm thức của

bạn.

Một khi bạn đã trở nên nhận biết về tâm thức của

mình, về bản thể mình, không có Thượng đế ở trên

bạn. Chỉ người như vậy mới có thể kính trọng hướng

tới những người khác, những sinh linh khác, bởi vì tất

cả chúng đều bí ẩn như bản thân người đó... các cách

diễn đạt khác nhau, sự đa dạng khác nhau làm cho cuộc

sống giầu có hơn. Và một khi con người đã tìm ra tâm

thức trong bản thân mình, người đó đã tìm thấy chiếc

chìa khoá tới điều tối thượng. Bất kì giáo dục nào

không dạy bạn yêu lấy thân thể mình, không dạy bạn từ

bi với thân thể mình, không dạy bạn cách đi vào trong

những bí ẩn của nó, đều sẽ không có khả năng dạy cho

bạn cách đi vào trong tâm thức riêng của mình.

Thân thể là cánh cửa - thân thể là bàn đạp. Và bất

kì giáo dục nào không động chạm tới chủ đề về thân

thể và tâm thức của bạn, không chỉ hoàn toàn không

đầy đủ, nó còn cực kì có hại bởi vì nó sẽ cứ mang tính

phá huỷ. Chỉ có nở hoa của tâm thức bên trong bạn mới

ngăn cản bạn khỏi việc huỷ diệt. Và điều đó đem lại

cho bạn thôi thúc vô cùng để sáng tạo - để tạo ra nhiều

cái đẹp hơn trong thế giới này, để tạo ra nhiều thoải

mái hơn trong thế giới này...

Con người cần một thân thể tốt hơn, một thân thể

lành mạnh hơn. Con người cần là một sinh linh ý thức

hơn, tỉnh táo hơn. Con người cần tất cả mọi loại thoải

mái và xa xỉ mà sự tồn tại đang sẵn sàng cung cấp. Sự

tồn tại đang sẵn sàng đem cho bạn thiên đường ở đây

và bây giờ, nhưng bạn cứ trì hoãn nó - điều đó bao giờ

cũng ở sau cái chết.

Tại Sri Lanka một nhà huyền môn vĩ đại sắp chết...

Ông ấy được hàng nghìn người tôn thờ. Họ tụ tập

quanh ông. Ông mở mắt ra: chỉ vài hơi thở nữa sẽ đưa

ông sang bờ bên kia và ông ấy sẽ ra đi, và ra đi mãi

mãi. Mọi người đều nóng lòng muốn nghe những lời

cuối cùng của ông ấy. Ông già này nói, “Cả đời mình,

ta đã dạy các ông về phúc lạc, cực lạc, thiền. Bây giờ ta

sắp sang bờ bên kia - ta sẽ không còn có sẵn nữa. Các

ông đã nghe ta, nhưng các ông lại chưa bao giờ thực

hành điều ta vẫn thường bảo các ông. Các ông bao giờ

cũng trì hoãn. Nhưng bây giờ chẳng có ích gì mà trì

hoãn cả, ta đi đây. Liệu có ai sẵn sàng đi cùng ta

không?”

Có im lặng lớn lao đến chiếc kim rơi cũng nghe

thấy được. Mọi người nhìn lẫn nhau cứ nghĩ rằng có lẽ

con người này, người đã từng là một đệ tử trong suốt

bốn mươi năm, người đó có thể sẵn sàng... Nhưng

người đó lại nhìn vào người khác - chẳng ai đứng dậy

cả. Ngay từ phía sau một người giơ tay lên. Nhà huyền

môn nghĩ, “ít nhất thì một người cũng đủ dũng cảm.”

Nhưng người đó nói, “Xin thầy để tôi làm rõ ràng

cho thầy tại sao tôi lại không đứng dậy. Tôi chỉ giơ tay

thôi. Tôi muốn biết cách đạt tới bờ bên kia, bởi vì hôm

nay tất nhiên là tôi chưa sẵn sàng rồi. Có nhiều điều

vẫn còn chưa hoàn thành: khách sắp tới thăm, con trai

sắp cưới vợ, và hôm nay thì tôi không thể đi được -

thầy lại nói từ bờ bên kia, thầy không thể nào quay lại

được. Một ngày nào đó, chắc chắn một ngày nào đó, tôi

sẽ tới và gặp thầy. Nếu thầy có thể chỉ giải thích cho

chúng tôi một lần nữa thôi - mặc dầu thầy đã giải thích

cho chúng tôi trong cả đời thầy rồi - chỉ một lần nữa

thôi về cách đạt tới bờ bên kia? Nhưng xin thầy nhớ

cho tôi không sẵn sàng để đi ngay bây giờ. Tôi chỉ

muốn làm tươi lại kí ức để cho khi đúng thời điểm

tới...”

Thời điểm đúng đó chẳng bao gì tới cả. Đấy không

chỉ là câu chuyện về con người đáng thương đó đâu,

đấy là câu chuyện của hàng triệu người đấy, của gần

như tất cả mọi người. Tất cả họ đều đang chờ đợi

khoảnh khắc đúng, chòm sao đúng... Họ đang coi đoán

số tử vi, tới xem tướng tay... hỏi theo những cách khác

nhau về điều gì sẽ xảy ra ngày mai. Ngày mai không

xảy ra - nó chưa bao giờ xảy ra cả. Đó đơn giản là một

chiến lược ngu xuẩn để trì hoãn. Cái xảy ra thì bao giờ

cũng hôm nay.

Một loại giáo dục đúng sẽ dạy cho mọi người sống

ở đây và bây giờ, để tạo ra cõi trời trên trái đất này,

không chờ đợi cái chết tới, và không phải khổ cho tới

khi cái chết chấm dứt khổ của bạn. Để cho cái chết tìm

bạn khi đang nhảy múa và vui vẻ và yêu mến. Một

kinh nghiệm lạ kì là nếu một người có thể sống cuộc

sống của mình cứ dường như là người đó đã trong

thiên đường, thì cái chết không thể nào lấy đi được cái

gì từ kinh nghiệm của người đó.

Cách tiếp cận của tôi là để dạy cho bạn rằng đây là

thiên đường, không có thiên đường nào ở bất kì đâu

khác cả, và không cần chuẩn bị nào để hạnh phúc cả.

Không cần tới kỉ luật nào cả để mà yêu; chỉ một chút ít

tỉnh táo, chỉ một chút ít thức tỉnh, chỉ một chút ít hiểu

biết.25

******************************************************

#10 Gốc rễ của căng thẳng

Căng thẳng thân thể đã được tạo ra bởi những

người, nhân danh tôn giáo, đã từng thuyết giảng về thái

độ phản thân thể. Tại phương Tây, Ki tô giáo đã rất

nhấn mạnh tới đối kháng với thân thể. Một phân chia

sai lầm, vực thẳm phân cách, đã được tạo ra giữa bạn

và thân thể bạn; thế thì toàn bộ thái độ của bạn trở

thành việc tạo ra căng thẳng. Bạn không thể ăn theo

cách thảnh thơi, bạn không thể ngủ theo cách thảnh

thơi; mọi hành động thân thể đều trở thành căng thẳng.

Thân thể là kẻ thù, nhưng bạn không thể nào tồn tại

thiếu nó được. Bạn phải vẫn còn cùng với nó, bạn phải

sống với kẻ thù của mình, cho nên có căng thẳng

thường xuyên; bạn không bao giờ thảnh thơi được.

Thân thể không phải là kẻ thù của bạn, nó cũng

không đối nghịch hay thậm chí dửng dưng với bạn theo

bất kì cách nào. Chính sự tồn tại của thân thể là phúc

lạc. Và khoảnh khắc bạn nhận thân thể như một món

quà, như một món quà thiêng liêng, bạn sẽ quay trở lại

với thân thể. Bạn sẽ yêu mến nó, bạn sẽ cảm nhận nó -

và tinh tế là cách thức của việc cảm thấy nó.

Bạn không thể cảm thấy thân thể của người khác

nếu bạn không cảm thấy thân thể của riêng mình, bạn

không thể yêu mến thân thể người khác nếu bạn không

yêu lấy thân thể của riêng mình; điều đó là không thể

được. Bạn không thể chăm sóc thân thể người khác nếu

bạn không chăm sóc thân thể của riêng mình - và

không ai chăm sóc cả! Bạn có thể nói rằng bạn chăm

sóc, nhưng tôi nhấn mạnh: không ai chăm sóc cả.

Thậm chí nếu bạn dường như chăm sóc, thì bạn cũng

không thực sự chăm sóc đâu. Bạn đang chăm sóc bởi lí

do nào đó khác - vì ý kiến người khác, vì nhìn vào mắt

ai đó khác; bạn chưa hề chăm sóc thân thể mình vì

chính mình. Bạn không yêu thân thể mình, và nếu bạn

không thể yêu nó được, thì bạn không thể nào ở trong

nó được.

Yêu lấy thân thể mình và bạn sẽ cảm thấy thảnh

thơi mà bạn chưa hề cảm thấy trước đây. Tình yêu là

thảnh thơi. Khi có tình yêu, có thảnh thơi. Nếu bạn yêu

ai đó - nếu, giữa bạn và anh ấy hay giữa bạn và cô ấy,

có tình yêu - thế thì cùng với tình yêu âm nhạc của

thảnh thơi cũng tới. Thế thì thảnh thơi có đó.

Khi bạn thảnh thơi với ai đó, điều đó là dấu hiệu

của tình yêu. Nếu bạn không thể nào được thảnh thơi

với ai đó, bạn không trong tình yêu; người kia, kẻ thù,

bao giờ cũng có đó. Đó là lí do tại sao Sartre đã nói,

“Người khác là địa ngục!” Địa ngục có đó cho Sartre,

nó nhất định hiện hữu. Khi không có tình yêu giữa hai

người, người kia là địa ngục, nhưng nếu có tình yêu ở

giữa, người kia là cõi trời. Cho nên liệu người kia là

cõi trời hay địa ngục còn tuỳ thuộc vào liệu có tình yêu

ở giữa hay không.

Bất kì khi nào bạn đang trong tình yêu, im lặng tới.

Ngôn ngữ mất đi; lời trở thành vô nghĩa. Bạn có nhiều

điều để nói mà chẳng có gì nói vào cùng lúc đó. Im

lặng sẽ bao trùm bạn, và trong im lặng đó, tình yêu nở

hoa. Bạn được thảnh thơi. Không có tương lai trong

tình yêu, không có quá khứ; chỉ khi tình yêu chết thì

mới có quá khứ. Bạn chỉ nhớ tới tình yêu chết, còn tình

yêu sống thì không bao giờ được nhớ tới cả; nó là đang

sống, không có lỗ hổng nào để nhớ nó cả; không có

khoảng cách để nhớ nó. Tình yêu là trong hiện tại;

không có tương lai và không có quá khứ.

Nếu bạn yêu ai đó, bạn không phải giả vờ. Thế thì

bạn có thể là cái bạn đang là. Bạn có thể lột mặt nạ của

mình ra và được thảnh thơi. Khi bạn không trong tình

yêu, bạn phải đeo mặt nạ. Bạn căng thẳng mọi khoảnh

khắc bởi vì người kia có đó; bạn phải giả vờ, bạn phải

canh chừng. Bạn phải hoặc hung hăng hoặc phòng thủ:

đó là trận đánh, trận chiến - bạn không thể được thảnh

thơi.

Phúc lạc của tình yêu ít nhiều là phúc lạc của thảnh

thơi. Bạn cảm thấy được thảnh thơi, bạn có thể là cái

bạn đang là, bạn có thể trần trụi theo nghĩa nào đó, như

bạn hiện hữu. Bạn không cần phải bị bận tâm về bản

thân mình, bạn không cần giả vờ. Bạn có thể cởi mở,

mong manh, và trong cởi mở đó, bạn thảnh thơi.

Cùng hiện tượng này xảy ra nếu bạn yêu thân thể

mình; bạn trở thành được thảnh thơi, bạn chăm sóc nó.

Điều đó không sai, không phải là tự yêu lấy mình khi

bạn yêu thân thể của riêng mình. Trong thực tế, đấy là

bước đầu tiên hướng tới tâm linh.26

Cội nguồn nguyên thuỷ của mọi căng thẳng là việc

trở thành. Người ta bao giờ cũng cố gắng để là cái gì

đó; không ai thoải mái với chính mình như mình hiện

thế. Bản thể không được chấp nhận, bản thể bị phủ

nhận, và một cái gì đó khác được coi như lí tưởng để

trở thành. Cho nên căng thẳng cơ bản bao giờ cũng là

giữa cái bạn đang là và cái bạn khao khát trở thành.

Bạn ham muốn trở thành cái gì đó. Căng thẳng có

nghĩa là bạn không hài lòng với cái bạn đang là, và bạn

khao khát là cái bạn không đang là. Căng thẳng được

tạo ra giữa hai điều này. Điều bạn ham muốn thì không

liên quan. Nếu bạn muốn trở nên mạnh khoẻ, nổi tiếng,

quyền thế, hay thậm chí nếu bạn muốn được tự do, giải

thoát, được là điều thiêng liêng, bất tử, thậm chí nếu

bạn khao khát về cứu rỗi, moksha, thế nữa căng thẳng

sẽ có đó.

Bất kì cái gì được ham muốn như cái gì đó cần phải

hoàn thành trong tương lai, chống lại bạn như bạn hiện

hữu, đều tạo ra căng thẳng. Lí tưởng càng không thể có

được, nhất định lại càng căng thẳng hơn. Cho nên

người duy vật thông thường không căng thẳng như

người tôn giáo, bởi vì người tôn giáo đang khao khát

điều không thể được, điều xa xôi. Khoảng cách lớn đến

mức chỉ một căng thẳng lớn mới có thể lấp đầy khoảng

trống.

Căng thẳng có nghĩa là lỗ hổng giữa cái bạn đang

là và cái bạn muốn là. Nếu lỗ hổng này lớn, căng thẳng

sẽ lớn. Nếu lỗ hổng này nhỏ, căng thẳng sẽ nhỏ. Và

nếu không có lỗ hổng chút nào, điều đó có nghĩa là bạn

thoả mãn với cái bạn đang là. Nói cách khác, bạn

không khao khát là bất kì cái gì khác hơn cái bạn đang

là. Thế thì tâm trí bạn tồn tại trong khoảnh khắc này.

Chẳng có gì căng thẳng cả; bạn thoải mái với bản thân

mình. Với tôi, nếu không có lỗ hổng nào, bạn là tôn

giáo.

Lỗ hổng có thể có nhiều tầng. Nếu niềm khao khát

là vật lí, căng thẳng sẽ là vật lí. Khi bạn tìm kiếm một

thân thể đặc biệt, một hình dáng đặc biệt - nếu bạn

khao khát một cái gì đó khác hơn cái bạn đang là trên

mức độ vật lí - thế thì có căng thẳng trong thân thể vật

lí của bạn. Người ta muốn đẹp hơn. Bây giờ thân thể

bạn trở nên căng thẳng. Căng thẳng này bắt đầu tại

thân thể bạn trước nhất, tại mức sinh lí, nhưng nếu nó

cứ nhấn đi nhấn lại, thường hằng, thì nó có thể đi sâu

hơn và lan rộng sang các tầng khác của bản thể bạn.

Nếu bạn đang khao khát quyền năng tâm lí, thế thì

căng thẳng bắt đầu ở mức tâm lí và lan rộng. Việc lan

rộng này giống hệt khi bạn ném hòn đá vào trong hồ.

Nó rơi vào một điểm đặc biệt, nhưng những rung động

nó tạo ra thì sẽ cứ lan toả vào vô cùng. Cho nên căng

thẳng có thể bắt đầu từ bất kì một trong bẩy thể của

bạn, nhưng nguồn gốc nguyên thuỷ thì bao giờ cũng là

một: lỗ hổng giữa trạng thái đang đó và trạng thái đang

khao khát tới.

Nếu bạn có một kiểu tâm trí đặc biệt và bạn muốn

thay đổi nó, biến đổi nó - nếu bạn muốn láu lỉnh hơn,

thông minh hơn - thế thì căng thẳng được tạo ra. Chỉ

nếu chúng ta chấp nhận bản thân mình một cách toàn

bộ mới không có căng thẳng. Chấp nhận toàn bộ này là

phép màu, phép màu duy nhất. Tìm ra một người đã

chấp nhận bản thân mình một cách toàn bộ là điều

đáng ngạc nhiên duy nhất.

Bản thân sự tồn tại không căng thẳng. Căng thẳng

bao giờ cũng bởi vì những khả năng giả thuyết, không

tồn tại. Trong hiện tại không có căng thẳng; căng thẳng

bao giờ cũng hướng tương lai. Nó tới từ tưởng tượng.

Bạn có thể tưởng tượng mình như một cái gì đó khác

hơn bạn đang là. Tiềm năng đã được tưởng tượng ra

này sẽ tạo ra căng thẳng. Cho nên một người càng

tưởng tượng nhiều thì căng thẳng lại càng có khả năng

hơn. Thế thì tưởng tượng đã trở thành phá hoại.

Tưởng tượng cũng có thể trở thành xây dựng, sáng

tạo. Nếu toàn bộ khả năng tưởng tượng của bạn được

tập trung vào hiện tại, vào khoảnh khắc này, không vào

tương lai, thế thì bạn có thể bắt đầu thấy sự tồn tại của

mình như thơ ca. Tưởng tượng của bạn không tạo ra

khao khát; nó đang được dùng trong việc sống. Sống

trong hiện tại này là vượt ra ngoài căng thẳng.

Con vật không căng thẳng, cây cối không căng

thẳng, bởi vì chúng không có khả năng tưởng tượng.

Chúng ở dưới căng thẳng, không vượt ra ngoài nó.

Căng thẳng của chúng chỉ là tiềm năng; nó không trở

thành thực tế. Chúng đang tiến hoá. Một khoảnh khắc

sẽ tới khi căng thẳng sẽ bùng nổ trong bản thể chúng

và chúng sẽ bắt đầu khao khát tương lai. Điều đó nhất

định xảy ra. Tưởng tượng trở thành hoạt động.

Điều đầu tiên mà tưởng tượng trở thành hoạt động

là tương lai. Bạn tạo ra hình ảnh, và bởi vì không có

tương ứng với thực tế nên bạn cứ tạo ra ngày càng

nhiều hình ảnh. Nhưng khi có liên quan tới hiện tại,

thông thường bạn không thể nào quan niệm nổi việc

tưởng tượng này trong quan hệ với nó. Làm sao bạn có

thể mang tính tưởng tượng trong hiện tại được? Dường

như là không cần thiết. Điểm này cần phải được hiểu.

Nếu bạn có thể hiện diện một cách có ý thức trong

hiện tại, bạn sẽ không sống trong tưởng tượng của

mình. Thế thì tưởng tượng sẽ tự do sáng tạo bên trong

bản thân hiện tại. Chỉ tập trung đúng là cần thiết. Nếu

tưởng tượng được tập trung vào cái thực, nó bắt đầu

sáng tạo. Sáng tạo có thể lấy bất kì dạng nào. Nếu bạn

là nhà thơ, điều đó trở thành bùng nổ thơ ca. Thơ ca

này sẽ không là khao khát về tương lai, mà là diễn tả

cho hiện tại. Hay nếu bạn là hoạ sĩ, bùng nổ sẽ là việc

vẽ. Việc vẽ sẽ không phải là cái gì đó như bạn đã tưởng

tượng về nó, mà như bạn đã biết nó và sống nó.

Khi bạn không sống trong tưởng tượng, khoảnh

khắc này được trao cho bạn. Bạn có thể diễn đạt nó,

hay bạn có thể đi vào trong im lặng.

Nhưng bây giờ im lặng này không phải là im lặng

chết đang được thực hành. Im lặng này lại là diễn đạt

của khoảnh khắc hiện tại. Khoảnh khắc này là sâu sắc

đến độ bây giờ nó có thể được diễn đạt chỉ qua im lặng.

Thậm chí thơ ca cũng không còn thích hợp; tranh vẽ

không còn thích hợp. Không cách diễn đạt nào là có

thể cả. Im lặng là cách diễn đạt duy nhất. Im lặng này

không phải là cái gì đó tiêu cực mà, thay vì thế, là việc

nở hoa tích cực. Cái gì đó đã nở hoa bên trong bạn,

bông hoa của im lặng, và qua cái im lặng này tất cả

những cái bạn đang sống lại được diễn đạt.

Điểm thứ hai cũng cần được hiểu. Cách diễn đạt

này về hiện tại qua tưởng tưởng thì không là tưởng

tượng về tương lai cũng không là phản ứng chống lại

quá khứ. Nó không phải là cách diễn đạt cho bất kì

kinh nghiệm nào đã từng được biết tới. Nó là kinh

nghiệm về việc kinh nghiệm - như bạn đang sống nó,

như nó đang xảy ra trong bạn. Không phải là kinh

nghiệm đã sống qua, nhưng là quá trình sống của việc

kinh nghiệm.

Thế thì kinh nghiệm của bạn và việc kinh nghiệm

không phải là hai điều. Chúng là một và như nhau. Thế

thì không có hoạ sĩ. Bản thân việc kinh nghiệm đã trở

thành việc vẽ; bản thân việc kinh nghiệm đã diễn đạt

chính nó. Bạn không phải là người sáng tạo. Bạn là

việc sáng tạo, năng lượng sống. Bạn không phải là nhà

thơ; bạn là thơ ca. Kinh nghiệm này không phải là về

tương lai cũng không phải là về quá khứ; nó không đến

từ tương lai cũng không đến từ quá khứ. Bản thân

khoảnh khắc đó đã trở thành vĩnh hằng, và mọi thứ đều

tới từ nó. Đấy là việc nở hoa...

Nếu bạn có thể cảm thấy khoảnh khắc không căng

thẳng này trong thân thể mình, bạn sẽ biết khoẻ mạnh

mà bạn chưa từng biết tới trước đây, khoẻ mạnh tích

cực... Thân thể bạn có thể không căng thẳng chỉ khi

bạn đang sống sự tồn tại khoảnh khắc nọ sang khoảnh

khắc kia. Nếu bạn đang ăn và khoảnh khắc này đã trở

thành vĩnh hằng, thế thì không có quá khứ và tương lai

nữa. Chính quá trình ăn là tất cả những cái đang đó.

Bạn không làm điều gì đó; bạn đã trở thành việc làm.

Sẽ không có căng thẳng; thân thể bạn sẽ cảm thấy được

thoả mãn. Hay nếu bạn đang trong giao cảm dục và dục

không chỉ là việc làm nhẹ khỏi căng thẳng dục mà,

thay vì thế, là diễn đạt tích cực của tình yêu - nếu

khoảnh khắc này đã trở thành toàn bộ, toàn thể, và bạn

đang trong nó hoàn toàn - thế thì bạn sẽ biết khoẻ mạnh

tích cực trong thân thể mình.

Nếu bạn đang chạy, và việc chạy đã trở thành toàn

bộ sự tồn tại của bạn; bạn là cảm giác đang tới với bạn,

không phải là cái gì đó ngoài chúng mà là một với

chúng; nếu không có tương lai, không mục đích cho

việc chạy này, bản thân việc chạy là mục đích - thế thì

bạn biết tới khoẻ mạnh tích cực. Thế thì thân thể bạn

không căng thẳng. Tại mức độ sinh lí, bạn đã biết tới

một khoảnh khắc của việc sống không căng thẳng.27

******************************************************

#11 Chìa khoá cho thảnh thơi

Toàn bộ xã hội đều hướng theo phục vụ cho công

việc. Đây là một xã hội tham công tiếc việc. Nó không

muốn bạn học lấy thảnh thơi, cho nên từ ngay thời trẻ

thơ nó đã nhồi vào tâm trí bạn những ý tưởng phản

thảnh thơi.

Tôi không bảo bạn thảnh thơi cả ngày. Làm công

việc của mình, nhưng tìm ra thời gian nào đó cho bản

thân mình, và điều đó có thể được tìm thấy chỉ trong

thảnh thơi. Và bạn sẽ ngạc nhiên rằng nếu bạn có thể

thảnh thơi trong một hay hai giờ từ mỗi hai mươi tư

giờ, nó sẽ cho bạn sự sáng suốt sâu sắc hơn trong bản

thân mình. Nó sẽ thay đổi hành vi của bạn ở bên ngoài

- bạn sẽ trở thành bình thản hơn, yên tĩnh hơn. Nó sẽ

làm thay đổi phẩm chất công việc của bạn - công việc

sẽ nghệ sĩ hơn và duyên dáng hơn. Bạn sẽ phạm phải ít

sai lầm hơn bạn vẫn phạm trước đây, bởi vì bây giờ

bạn ăn ý hơn, định tâm hơn. Thảnh thơi có quyền năng

kì diệu.

Đây không phải là lười biếng. Người lười có thể có

vẻ, nếu nhìn từ bên ngoài, cứ như người đó không làm

việc gì cả, nhưng tâm trí người đó lại đi xa nhất có thể

được; còn người thảnh thơi - thân thể người đó được

thảnh thơi, tâm trí người đó được thảnh thơi, trái tim

người đó được thảnh thơi. Chỉ thảnh thơi trên cả ba

tầng này - thân thể, tâm trí, trái tim - trong hai giờ thì

người đó gần như vắng mặt. Trong hai giờ này thân thể

người đó phục hồi lại, trái tim người đó phục hồi lại,

thông minh của người đó phục hồi lại, và bạn sẽ thấy

tất cả phục hồi đó trong công việc của người đó.

Người đó sẽ không phải là người mất - mặc dầu

người đó sẽ không còn điên rồ gì nữa, người đó sẽ

không chạy quẩn đây đó một cách không cần thiết.

Người đó sẽ đi trực tiếp tới điểm người đó muốn tới.

Và người đó sẽ làm những điều cần phải làm; người đó

sẽ không làm những điều tầm thường không cần thiết.

Người đó sẽ chỉ nói điều cần phải nói. Lời của người

đó sẽ trở thành vắn tắt như điện báo; chuyển động của

người đó sẽ trở thành duyên dáng; cuộc sống của người

đó sẽ trở thành thơ ca.

Thảnh thơi có thể biến đổi bạn thành những độ cao

đẹp đẽ như vậy - và nó là kĩ thuật đơn giản thế. Chẳng

có gì nhiều trong nó cả; chỉ mới vài ngày trước đây

thôi là bạn còn thấy nó khó khăn bởi vì thói quen cũ...

Thảnh thơi nhất định tới với bạn. Nó sẽ đem ánh sáng

mới tới cho mắt bạn, tươi tắn mới cho bản thể bạn, và

nó sẽ giúp cho bạn hiểu thiền là gì. Đấy chỉ là bước đầu

tiên bước ra ngoài cửa của ngôi đền thiền. Với thảnh

thơi ngày càng sâu sắc hơn nữa thì nó trở thành thiền.28

#11Thầy sẽ nói điều gì đó về thảnh thơi chứ? Tôi nhận

biết về căng thẳng sâu sắc tại cốt lõi của tôi, và tôi

ngờ rằng tôi có lẽ chẳng bao giờ được thảnh thơi

toàn bộ cả.

Thảnh thơi toàn bộ là điều tối thượng. Đó là

khoảnh khắc khi người ta trở thành vị phật. Đó là

khoảnh khắc của việc hiểu ra, của chứng ngộ, tâm thức

Christ. Ngay bây giờ bạn không thể nào hoàn toàn

thảnh thơi được. Tại cốt lõi bên trong nhất căng thẳng

vẫn còn dai dẳng.

Nhưng bắt đầu thảnh thơi đi. Bắt đầu từ phần chu

vi - đó là nơi chúng ta đang ở, và chúng ta chỉ có thể

bắt đầu từ nơi chúng ta đang ở mà thôi. Thảnh thơi

phần chu vi của bản thể bạn - thảnh thơi thân thể bạn,

thảnh thơi hành vi bạn, thảnh thơi hành động bạn.

Bước đi theo cách thảnh thơi, ăn theo cách thảnh thơi;

nói, nghe theo cách thảnh thơi. Làm chậm lại mọi quá

trình. Đừng vội vã và đừng hấp tấp. Đi dường như tất

cả mọi vĩnh hằng đều có sẵn cho bạn - trong thực tế, nó

đang có sẵn cho bạn rồi. Chúng ta ở đây từ lúc bắt đầu

và chúng ta ở đây tại chính lúc kết thúc, nếu có cái bắt

đầu và có cái kết thúc. Trong thực tế, không có bắt đầu

và không có kết thúc. Chúng ta bao giờ cũng ở đây và

chúng ta bao giờ cũng sẽ ở đây. Hình dạng cứ thay đổi,

nhưng bản chất không thay đổi; vỏ bọc ngoài cứ thay

đổi, nhưng linh hồn không thay đổi.

Căng thẳng có nghĩa là vội vàng, sợ hãi, hoài nghi.

Căng thẳng có nghĩa là nỗ lực thường xuyên để bảo vệ,

để an ninh, để an toàn. Căng thẳng có nghĩa là chuẩn bị

cho ngày mai từ bây giờ, hay cho kiếp sau - sợ ngày

mai nên bạn sẽ không có khả năng đối diện với thực tế,

cho nên phải được chuẩn bị. Căng thẳng có nghĩa là

quá khứ bạn chưa sống qua một cách thực sự mà bằng

cách nào đó mới chỉ bị bỏ qua; nó treo đấy, nó treo đâu

đấy, nó bao quanh bạn.

Nhớ một điều rất cơ bản về cuộc sống: bất kì kinh

nghiệm nào chưa được sống qua thì sẽ treo quanh bạn,

sẽ cứ khăng khăng: “Kết thúc tôi đi! Sống tôi đi! Hoàn

thành tôi đi.” Có một phẩm chất cố hữu trong mọi kinh

nghiệm rằng nó có khuynh hướng và muốn được kết

thúc, được hoàn thành. Một khi được hoàn tất, nó bay

hơi; chưa được hoàn tất, nó còn dai dẳng; nó hành hạ

bạn, nó ám ảnh bạn, nó hấp dẫn chú ý của bạn. Nó nói,

“Bạn định làm gì với tôi đây? Tôi vẫn còn chưa hoàn

tất - hoàn thành tôi đi!”

Toàn bộ quá khứ của bạn treo xung quanh bạn

bằng những điều chưa được hoàn thành bởi vì chẳng

cái gì đã được thực sự sống cả, mọi thứ bằng cách nào

đó đã bị bỏ qua, được sống một phần, chỉ làng nhàng,

theo cách hờ hững. Đã không có mãnh liệt, không có

đam mê. Bạn đã đi như kẻ mộng du, người đi trong khi

ngủ. Cho nên quá khứ treo đấy, và tương lai tạo ra nỗi

sợ. Và ở giữa quá khứ và tương lai, hiện tại của bạn,

thực tế duy nhất, bị nghiền nát.

Bạn sẽ phải thảnh thơi từ phần chu vi. Bước đầu

tiên trong việc thảnh thơi là thân thể. Nhớ thật nhiều

lần là phải nhìn vào thân thể, dù bạn đang mang căng

thẳng nào đó trong thân thể ở đâu đó - ở cổ, ở đầu, ở

chân. Thảnh thơi nó một cách có ý thức. Chỉ đi tới

phần đó của thân thể, và khuyên nhủ phần đó, nói với

nó một cách yêu thương, “Thảnh thơi đi!”

Và bạn sẽ ngạc nhiên rằng nếu bạn tiếp cận tới bất

kì phần nào của thân thể, nó đều lắng nghe, nó tuân

theo bạn - nó là thân thể của bạn! Với mắt nhắm, đi

vào bên trong thân thể từ ngón chân cho tới đầu và tìm

kiếm bất kì chỗ nào có căng thẳng. Và thế rồi nói với

phần đó như bạn nói với người bạn; để có đối thoại

giữa bạn và thân thể bạn. Bảo nó thảnh thơi, và bảo nó,

“Không có gì phải sợ cả. Đừng sợ hãi. Tôi đang ở đây

để chăm sóc - bạn có thể thảnh thơi.” Dần dần, bạn sẽ

học được cái mẹo về nó. Thế thì thân thể trở nên được

thảnh thơi.

Thế rồi làm bước nữa, sâu hơn một chút; bảo tâm

trí cũng thảnh thơi. Và nếu thân thể lắng nghe, tâm trí

cũng lắng nghe, nhưng bạn không thể bắt đầu với tâm

trí được - bạn phải bắt đầu từ đầu. Bạn không thể bắt

đầu từ chỗ giữa. Nhiều người bắt đầu với tâm trí và họ

thất bại; họ thất bại bởi vì họ bắt đầu từ chỗ sai. Mọi

thứ nên được tiến hành theo đúng trình tự.

Nếu bạn có khả năng làm thảnh thơi thân thể một

cách tự nguyện, thế thì bạn sẽ có khả năng giúp cho

tâm trí mình cũng tự nguyện thảnh thơi. Tâm trí là hiện

tượng phức tạp hơn. Một khi bạn đã trở nên tin tưởng

rằng thân thể lắng nghe bạn, bạn sẽ có tin cậy mới vào

bản thân mình. Bây giờ thậm chí tâm trí cũng có thể

lắng nghe bạn. Sẽ mất chút ít lâu hơn với tâm trí,

nhưng điều đó sẽ xảy ra.

Khi tâm trí được thảnh thơi, thế thì hãy bắt đầu

thảnh thơi trái tim bạn, thế giới của tình cảm, xúc động

của bạn - thậm chí còn phức tạp hơn, tinh tế hơn. Bây

giờ bạn sẽ biết điều đó là có thể. Nếu điều đó là có thể

với thân thể và có thể với tâm trí, thì điều đó cũng có

thể cả với trái tim nữa. Và chỉ thế khi bạn đã trải qua

ba bước này, bạn mới có thể lấy bước thứ tư. Bây giờ

bạn có thể đi tới cốt lõi bên trong nhất của bản thể bạn

- nằm ngoài thân thể, tâm trí, trái tim - chính trung tâm

của sự tồn tại của bạn. Và bạn sẽ có khả năng thảnh

thơi nó nữa. Và việc thảnh thơi đó chắc chắn sẽ đem lại

niềm vui lớn nhất có thể có, điều tối thượng trong cực

lạc, sự chấp nhận. Bạn sẽ tràn đầy phúc lạc và vui

sướng. Cuộc sống của bạn sẽ có phẩm chất của vũ điệu

trong nó.

Toàn thể sự tồn tại đang nhảy múa, ngoại trừ con

người. Toàn thể sự tồn tại đang trong chính chuyển

động rất thảnh thơi - chuyển động có đó, chắc chắn,

nhưng nó hoàn toàn thảnh thơi. Cây đang lớn lên và

chim đang ríu rít và dòng sông cuộn chảy, sao đang

dời; mọi thứ đều đang trong chính cách thức thảnh

thơi... không vội vã, không hấp tấp, không lo nghĩ, và

không phí hoài. Ngoại trừ con người. Con người đã sa

ngã thành nạn nhân của tâm trí mình.

Con người có thể vươn lên trên thượng đế và sa

ngã xuống dưới con vật. Con người có phổ lớn. Từ chỗ

thấp nhất tới chỗ cao nhất, con người là chiếc thang.

Bắt đầu từ thân thể, và thế rồi đi dần dần sâu hơn.

Và đừng bắt đầu với bất kì cái gì chừng nào bạn còn

chưa giải quyết trước hết cho điều chủ yếu. Nếu thân

thể bạn căng thẳng, đừng bắt đầu với tâm trí. Chờ đã.

Làm việc trên thân thể đã. Và những việc nhỏ có ích

mênh mông.

Bạn bước đi với nhịp nào đó; điều đó đã trở thành

thói quen, tự động. Bây giờ cố bước đi chậm thôi. Phật

hay nói với các đệ tử: “Bước thật chậm, và đi mỗi bước

một cách thật có ý thức.” Nếu bạn đi từng bước có ý

thức, bạn nhất định bước đi chậm rãi. Nếu bạn chạy,

vội vã, bạn sẽ quên mất việc nhớ. Do đó Phật bước đi

rất chậm.

Thử bước đi rất chậm, và bạn sẽ ngạc nhiên - một

phẩm chất mới của nhận biết bắt đầu xảy ra trong thân

thể. Ăn chậm, và bạn sẽ ngạc nhiên - có thảnh thơi lớn

lao. Làm mọi thứ chậm lại... chỉ để thay đổi mẫu hình

cũ, chỉ để thoát ra khỏi thói quen cũ.

Trước hết thân thể phải trở thành hoàn toàn được

thảnh thơi, giống như trẻ nhỏ, chỉ thế thì mới bắt đầu

với tâm trí. Đi một cách khoa học: trước hết là những

điều đơn giản nhất, thế rồi tới điều phức tạp, thế rồi

phức tạp hơn. Và chỉ thế thì bạn mới có thể thảnh thơi

tại cốt lõi tối thượng...

Thảnh thơi là một trong những hiện tượng phức tạp

nhất - rất giầu có, đa chiều. Tất cả những điều này đều

là một phần của nó: buông bỏ, tin cậy, buông xuôi, tình

yêu, chấp nhận, đi với dòng chảy, hợp nhất với sự tồn

tại, vô ngã, cực lạc. Tất cả những điều này đều là một

phần của nó, và tất cả những điều này bắt đầu xảy ra

nếu bạn học cách thức thảnh thơi.

Cái gọi là tôn giáo của bạn đã làm cho bạn thành

rất căng thẳng, bởi vì họ đã tạo ra mặc cảm trong bạn.

Nỗ lực của tôi ở đây là để giúp cho bạn gạt bỏ tất cả

những mặc cảm và mọi sợ hãi. Tôi muốn bảo bạn:

không có địa ngục và không có cõi trời đâu. Cho nên

đừng sợ địa ngục và đừng tham cõi trời. Tất cả những

cái đang tồn tại là khoảnh khắc này. Bạn có thể làm

cho khoảnh khắc này thành địa ngục hay cõi trời - điều

đó chắc chắn là khả năng - nhưng không có cõi trời hay

địa ngục ở đâu đó khác. Địa ngục là khi bạn căng thẳng

tất cả, còn cõi trời là khi bạn được thảnh thơi tất cả.29

******************************************************

#12 Dồn nén và quá căng

Dồn nén không phải bao giờ cũng sai; nó có thể có

ích theo nhiều cách đẹp. Nó không nhất thiết là tiêu

cực, nhưng nếu chúng ta nghĩ rằng nó là tiêu cực, rằng

nó là không tốt, thế thì chúng ta tạo ra vấn đề. Dồn nén

trong bản thân nó có thể được dùng như bàn đạp, nó có

thể trở thành một dạng sáng tạo. Nhưng thông thường

chúng ta đã được dạy trong nhiều thời đại rằng dồn nén

là xấu, rằng khi bạn đang trong bất kì dạng dồn nén

nào thì bạn trở nên sợ hãi. Và nỗi sợ của bạn làm cho

nó thậm chí còn mang tính dồn nén hơn; tình huống

này không ích gì cả.

Chẳng hạn, có một tình huống nào đó trong chợ tạo

ra dồn nén. Khoảnh khắc bạn cảm thấy rằng có căng

thẳng nào đó, dồn nén nào đó, bạn trở nên sợ rằng điều

này không nên như vậy: “Mình phải thảnh thơi.” Bây

giờ, cố thảnh thơi sẽ chẳng có ích gì, bởi vì bạn không

thể nào thảnh thơi được; trong thực tế, cố thảnh thơi sẽ

tạo ra loại dồn nén mới. Dồn nén có đó và bạn đang cố

gắng thảnh thơi mà bạn không thể thảnh thơi được, cho

nên bạn làm phức tạp vấn đề lên.

Khi dồn nén có đó, dùng nó như năng lượng sáng

tạo. Trước hết, chấp nhận nó; không cần phải tranh đấu

với nó. Chấp nhận nó đi, điều đó là hoàn toàn được.

Điều đó đơn giản nói, “Chợ sắp không ổn, cái gì đó

đang đi sai,” “Mình có thể là người mất”... hay cái gì

đó. Dồn nén đơn giản là một chỉ dẫn rằng thân thể đang

sẵn sàng tranh đấu với điều đó. Bây giờ bạn cố gắng

thảnh thơi hay bạn uống thuốc giảm đau hay bạn uống

thuốc an thần; bạn đang chống lại thân thể. Thân thể

đang sẵn sàng tranh đấu cho tình huống nào đó, thách

thức nào đó có đó: tận hưởng thách thức này!

Thậm chí nếu đôi khi bạn không thể ngủ được

trong đêm, cũng chẳng cần phải lo nghĩ. Làm việc từ

nó đi, dùng năng lượng đang tới: đi lên đi xuống, chạy,

đi dạo lâu, lập kế hoạch điều bạn muốn làm, điều tâm

trí muốn làm. Thay vì cố gắng đi ngủ, điều không thể

được, dùng tình huống ấy theo cách sáng tạo. Nó đơn

giản nói rằng thân thể đang sẵn sàng tranh đấu với vấn

đề này; đây không phải là lúc thảnh thơi. Thảnh thơi có

thể được làm về sau.

Trong thực tế, nếu bạn đã sống dồn nén của mình

một cách toàn bộ, bạn sẽ đi tới thảnh thơi một cách tự

động; bạn chỉ có thể đi đến mức nào đó thôi, thế rồi

thân thể tự động thảnh thơi. Nếu bạn muốn thảnh thơi

giữa chừng bạn tạo ra rắc rối; thân thể không thể nào

thảnh thơi giữa chừng được. Cũng gần như là nếu một

người chạy đua Olympic đã sẵn sàng; chỉ đợi tiếng còi,

tín hiệu, và người đó sẽ xuất phát, người đó sẽ chạy đi

như gió. Người đó tràn đầy dồn nén; bây giờ đó không

phải là thời gian để thảnh thơi. Nếu người đó uống

thuốc an thần, người đó sẽ không bao giờ có ích gì

trong cuộc đua. Hay nếu người đó thảnh thơi và cố

gắng thực hiện TM (thiền siêu việt) thì người đó sẽ mất

tất cả. Người đó phải dùng dồn nén của mình: dồn nén

đang sôi lên, nó đang thu thập năng lượng. Người đó

đang trở thành ngày càng sống động và tiềm năng hơn.

Bây giờ người đó phải ngồi trên dồn nén của mình và

dùng nó như năng lượng, như nhiên liệu.

Khi vận động viên chạy đã chạy xong, người đó sẽ

rơi vào giấc ngủ sâu; vấn đề được giải quyết. Bây giờ

không có vấn đề gì, dồn nén biến mất theo cách của nó.

Cho nên thử điều này nữa: khi có một tình huống

dồn nén, đừng phiêu diêu, đừng trở nên sợ nó. Đi vào

trong nó, dùng nó để tranh đấu. Con người có năng

lượng mênh mông và bạn càng dùng nó nhiều, bạn

càng có thêm nó... Khi nó tới và có tình huống, tranh

đấu, làm tất cả những điều bạn có thể làm, thực sự điên

khùng đi vào trong nó. Cho phép nó, chấp nhận nó và

đón chào nó. Nó là tốt, nó chuẩn bị cho bạn tranh đấu.

Và khi bạn đã làm việc xong với nó, bạn sẽ ngạc nhiên:

thảnh thơi lớn lại tới, và thảnh thơi đó không do bạn

tạo ra. Có thể hai, ba ngày bạn không thể ngủ và thế rồi

trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ bạn không thể nào

thức dậy được, và điều đó là được!

Chúng ta cứ mang nhiều khái niệm sai - chẳng hạn,

rằng mọi người phải ngủ tám tiếng mỗi ngày. Điều đó

tuỳ thuộc vào tình huống là gì. Có những tình huống

khi chẳng cần ngủ chút nào: nhà bạn cháy, mà bạn lại

cố gắng ngủ. Bây giờ điều đó là không thể được và

điều đó không nên có thể được; nếu không thì lấy ai đi

dập lửa? Và khi nhà đang cháy, tất cả các việc khác

đều bị dẹp sang bên; bỗng nhiên thân thể bạn sẵn sàng

để tranh đấu với lửa. Bạn sẽ không cảm thấy buồn ngủ.

Khi lửa đã tắt và mọi thứ được giải quyết bạn có thể rơi

vào giấc ngủ trong thời kì dài, và điều đó có tác dụng.

Mọi người không nhất thiết cần cùng thời gian ngủ.

Một vài người có thể ngủ ba tiếng, hai tiếng, bốn tiếng,

năm tiếng, sáu, tám, mười, mười hai. Mọi người khác

nhau, không có chuẩn. Và mọi người cũng khác nhau

về dồn nén nữa.

Có hai loại người trên thế giới: một loại có thể

được gọi là kiểu ngựa đua và loại kia là kiểu rùa. Nếu

kiểu ngựa đua mà không được phép đi nhanh, đi vào

mọi việc với tốc độ, sẽ có dồn nén; người đó phải được

trao cho nhịp của mình. Cho nên nếu bạn là kiểu ngựa

đua, quên về thảnh thơi và những thứ như thế đi; chúng

không dành cho bạn. Những điều đó là dành cho loại

rùa như tôi! Cho nên chỉ là ngựa đua, đó là tự nhiên

cho bạn, và đừng nghĩ đến niềm vui mà rùa đang tận

hưởng; điều đó không dành cho bạn. Bạn có một loại

niềm vui khác. Nếu rùa bắt đầu trở thành ngựa đua thì

nó sẽ trong cùng rắc rối...!

Cho nên chấp nhận bản tính của mình đi. Bạn là

chiến sĩ, chiến binh; bạn phải theo cách đó, và đó là

niềm vui của bạn. Bây giờ, không cần phải sợ hãi; đi

vào trong nó một cách toàn tâm. Tranh đấu với chợ,

cạnh tranh trong chợ, làm tất cả những điều bạn thực

sự muốn làm. Đừng sợ hậu quả, chấp nhận dồn nén.

Một khi bạn chấp nhận, dồn nén sẽ biến mất. Và không

chỉ thế, bạn sẽ cảm thấy rất hạnh phúc bởi vì bạn đã bắt

đầu dùng nó; nó là một loại năng lượng.

Nếu bạn là kiểu ngựa đua, chớ nghe những người

nói thảnh thơi; điều đó không dành cho bạn. Thảnh

thơi của bạn sẽ tới chỉ sau khi bạn đã kiếm được nó

bằng lao động vất vả. Người ta phải hiểu kiểu của

mình. Một khi kiểu này được hiểu thì không có vấn đề

gì; thế thì người ta có thể theo đường rõ ràng.30

Quá căng là trạng thái của tâm trí khi bạn đã trở

nên quá tập trung vào tính hợp lí và bạn quên mất tình

cảm của mình. Quá căng bắt nguồn từ mất quân bình;

quá tin cậy vào lí trí là cơ sở của mọi quá căng. Những

người sống trong cái đầu của mình đều trở nên quá

căng. Thảnh thơi tới qua trái tim. Người ta phải có khả

năng dễ dàng di chuyển từ đầu tới tim, cũng như bạn đi

ra đi vào nhà mình. Người ta nên linh động giữa đầu và

tim. Đây là hai bờ của dòng sông vốn là bạn. Bạn

không nên níu bám lấy một bờ, nếu không cuộc sống

trở thành bị thiên lệch.

Phương Tây chịu đựng rất nhiều về quá căng, bởi

vì nó đã quên mất ngôn ngữ của trái tim, và chỉ trái tim

mới biết cách thảnh thơi bởi vì chỉ trái tim mới biết

cách yêu. Chỉ trái tim mới biết cách tận hưởng, mở hội.

Chỉ trái tim mới biết cách nhảy múa và ca hát. Cái đầu

chẳng biết gì về nhảy múa - cái đầu lên án nhảy múa là

ngu xuẩn. Cái đầu chẳng biết gì về thơ ca, cái đầu lên

án thơ ca.

Bạn có biết rằng một trong những triết gia vĩ đại

nhất, Plato, khi nghĩ về nền cộng hoà không tưởng tối

thượng của mình, đã nói rằng không nhà thơ nào nên

được phép ở đấy? Trong nền cộng hoà của ông ấy,

trong trạng thái xã hội tối thượng của ông ấy, nhà thơ

phải không được phép. Tại sao? - bởi vì ông ấy sợ nhà

thơ. Ông ấy nói: Nhà thơ đem vào phóng túng, nhà thơ

đem vào mơ mộng, nhà thơ đem vào lẫn lộn và huyền

môn, còn chúng tôi thì lại không muốn bất kì cái gì

trong đó. Chúng tôi muốn xã hội rất rõ ràng, logic,

không thơ mộng. Xã hội đó sẽ quá căng; mọi người sẽ

thần kinh hết. Trong nền cộng hoà của Plato - nếu như

nó xảy ra, và có mọi nỗi sợ rằng nó có thể xảy ra - mọi

người đều sẽ thần kinh hết, và mọi người bao giờ cũng

sẽ mang nhà phân tâm theo cùng mình. Dù người đó đi

tới đâu, thì người đó sẽ mang theo nhà phân tâm của

mình. Điều đó đã xảy tới ở phương Tây.

Tôi đã từng nghe: Trong một phố New York hai

cậu bé đang nói chuyện - như chúng bao giờ cũng nói

chuyện suốt hàng thế kỉ, nhưng điều chúng nói thì lại

rất mới. Đứa này nói với đứa kia, “Nhà phân tâm của

tớ chiến hơn nhà phân tâm của đằng ấy mọi bề.” Bọn

trẻ, chúng bao giờ cũng nói theo cách đó: “Bố tớ chiến

hơn bố đằng ấy,” hay “Nhà tớ còn to hơn nhà đằng ấy,”

hay “Con chó của tớ khoẻ hơn con chó của đằng ấy” -

sự bắt đầu bản ngã của trẻ nhỏ. Nhưng “Nhà phân tâm

của tớ chiến hơn nhà phân tâm của đằng ấy vào mọi

bề” - đây mới là điều gì đó mới.

Ba phụ nữ đang nói chuyện về con mình. Một

người nói, “Nó nhất lớp đấy. Nó bao giờ cũng dẫn

đầu.”

Người thứ hai nói, “Thế chẳng là gì cả. Con tôi mới

bẩy tuổi nhưng nó có thể chơi nhạc như Mozart, như

Wagner.”

Người thứ ba nói, “Thế cũng chưa là cái gì nhé.

Con tôi mới năm tuổi mà nó tới nhà phân tâm có mỗi

một mình.”

Quá căng là trạng thái bạn mất quân bình. Bạn

không thể đem trái tim mình về vận hành trong cuộc

sống mình; logic đã trở thành tất cả - và logic thì vẫn

còn bề ngoài. Logic, khi nó trở thành tất cả, chỉ tạo ra

lo âu; nó chưa bao giờ đem cho an bình, nó cứ đem tới

vấn đề mới. Nó chưa bao giờ giải quyết được vấn đề gì

cả - nó không thể giải quyết được, điều đó không trong

quyền lực của nó - nó chỉ giả vờ, nó chỉ hứa hẹn. Nó cứ

nói mãi, “Tớ sẽ chuyển giao điều tốt,” nhưng nó chẳng

bao giờ chuyển giao cả. Thế rồi vấn đề cứ tích luỹ lại

và bạn không biết cách thoát ra khỏi vấn đề này, bởi vì

bạn không biết cách thoát ra khỏi cái đầu. Bạn không

biết cách chơi với trẻ con, cách yêu người đàn bà của

mình, cách đi và nói chuyện với cây cối và đôi khi có

đối thoại với vì sao. Bạn đã quên tất cả, bạn không còn

là nhà thơ nữa, bạn không còn là trái tim sống động

nữa.

Và bất kì khi nào, bất kì phần nào trong thân thể bị

kìm nén, phần đó sẽ báo thù. Nếu phần khác của tâm trí

bị kìm nén, phần đó sẽ báo thù. Và trái tim là phần

sống động nhất, phần nền tảng nhất. Người ta có thể

sống không có đầu, nhưng người ta không thể sống

không có trái tim. Cái đầu có chút ít hời hợt, nó là một

loại xa xỉ phẩm, nhưng trái tim thì rất bản chất. Cái đầu

chỉ tồn tại trong con người, cho nên nó không thể nào

rất bản chất được. Con vật sống không có nó và nó

sống hoàn toàn tốt theo cách phúc lạc và im lặng hơn

nhiều so với con người. Cây sống không có đầu, chim

muông và trẻ con cùng nhà huyền môn cũng sống như

vậy.

Cái đầu là hời hợt. Nó có chức năng nào đó - dùng

nó, nhưng đừng bị nó dùng. Một khi bạn bị nó dùng,

bạn sẽ trở nên lo âu: lo âu sẽ tới và cuộc sống sẽ trở

thành kinh tởm. Nó sẽ là đau đớn lan rộng, trải dài, và

bạn sẽ không tìm thấy bất kì ốc đảo nào ở đâu trong nó

cả; nó sẽ là một thứ khô cằn. Nhớ lấy, điều bản chất

phải không bị kìm nén. Điều không bản chất phải tuân

theo điều bản chất, phải trở thành cái bóng của nó. Bạn

không thể phủ nhận bất kì cái gì mà không lâm vào rắc

rối. Nghe giai thoại này:

Một hôm, một chiếc đĩa bay hạ cánh xuống khu

vườn của cô Elsie Gumtree, ngay giữa đống quần mùa

hè của cô ấy - cô ấy có thể khổ lắm nếu như phải mặc

chúng. Có tiếng vo vo, và một người mầu tía lạ thường

xuất hiện qua cánh cửa phía bên của đĩa bay. Đi thẳng

ra, người đó nhằm cánh cửa sau nhà Elsie và gõ một

cách lễ phép.

Elsie mở cửa, và nhanh chóng làm chủ tình thế,

nói, “Ông từ đĩa bay tới sao?”

“Hừ” người này đáp lại, dường như đang đau.

“Ông từ sao Hoả tới sao?” Elsie hỏi.

“Hừ,” người này lại nói, khuôn mặt ông ta méo mó.

“Ông phải mất bao lâu mới tới được đây? Mười

năm sao?” Elsie hỏi.

"Hừ".

"Hai mươi năm sao?"

“Hừ,” người này nói, một cái nhìn đau đớn hiện lên

trên khuôn mặt ông ta.

“Hai mươi năm sao? Ông để tất cả thời gian trên

đĩa bay sao?”

“Hừ,” người này gật đầu, cáu kỉnh.

“Tôi có thể giúp gì cho ông được?” Elsie hỏi.

Người bé nhỏ này mở mồm ra, và khó khăn lắm

mới nói được, “Tôi dùng nhà vệ sinh của cô được

chứ?”

Phủ nhận bất kì cái gì và nó trở thành quá mạnh.

Bây giờ, trong hai mươi năm ông ấy đã không thể nào

tìm ra nhà vệ sinh còn bạn lại hỏi những câu hỏi vô

nghĩa: “Ông từ đâu tới?” và “Ông là ai?” và “Bao

nhiêu...?” Làm sao ông ấy có thể trả lời tất cả những

điều này? Phần bị phủ nhận của ông ấy có đó để báo

thù.

Trái tim bạn đã bị phủ nhận trong nhiều kiếp sống

đến độ khi nó bùng nổ, nó cứ tạo ra những hỗn loạn lớn

trong cuộc sống của bạn. Trước hết bạn phải chịu đựng

từ tâm trí, căng thẳng, lo âu; và thế rồi bạn có thể chịu

đựng từ việc bùng nổ của trái tim. Đó là điều xảy ra khi

một người bị suy nhược. Trước hết người đó chịu đựng

từ trạng thái căng thẳng của tâm trí, và thế rồi một hôm

nào đó trái tim báo thù, bùng nổ, và người này phát

điên, nổi đoá.

Cả hai tình huống đều xấu. Trước hết lành mạnh

quá nhiều - điều đó tạo ra điên rồ. Người lành mạnh

thực sự là người có thể sống giữa lành mạnh và điên rồ

theo cân bằng tuyệt đối. Người thực sự lành mạnh bao

giờ cũng có cái điên rồ nào đó trong mình - người đó

chấp nhận điều ấy. Người thực sự hợp lí là người kính

trọng cả cái bất hợp lí nữa, bởi vì cuộc sống là như vậy.

Nếu bạn không thể cười bởi vì lí do của bạn - bởi vì

“cười là kì cục” - thế thì bạn nhất định sẽ bị rắc rối, bạn

mang định mệnh rắc rối rồi. Vâng, logic là tốt, cười

cũng tốt - và cười đem lại cân bằng. Nghiêm chỉnh

cũng tốt, không nghiêm chỉnh cũng tốt, và nên có cân

bằng thường xuyên.

Bạn đã bao giờ thấy người đi trên dây chưa? Người

đó liên tục tự cân bằng mình. Đôi khi người đó nghiêng

cái sào sang trái, và thế rồi người đó đi tới điểm mà

nếu người đó nghiêng thêm một khoảnh khắc nữa thì sẽ

bị ngã. Người đó lập tức thay đổi sự cân bằng của

mình, nghiêng sang phía bên kia - sang phải - nghiêng

sang phải. Thế rồi một khoảnh khắc lại tới khi chỉ một

khoảnh khắc nữa là người đó sẽ tiêu tùng; người đó lại

bắt đầu nghiêng về bên trái. Đấy là cách người đó xử

lí: nghiêng sang trái, sang phải, người đó giữ ở giữa.

Đó là cái đẹp - nghiêng sang trái và sang phải, nghiêng

về cả hai cực đoan, người đó giữ ở giữa.

Nếu bạn muốn giữ cho bản thân mình ở giữa, bạn

sẽ phải nghiêng đi nghiêng lại về cả hai phía. Bạn

không chọn lựa. Nếu bạn chọn, bạn sẽ bị ngã. Nếu bạn

chọn trái tim, bạn sẽ ngã; bạn sẽ trở thành quá căng.

Nếu bạn chọn trái tim và quên mất cái đầu hoàn toàn;

bạn sẽ trở thành điên. Và nếu bạn muốn chọn bằng

cách nào đó, nếu bạn muốn chọn, thế thì chọn điên

khùng đi. Chọn trái tim, bởi vì nó là bản chất hơn.

Nhưng tôi không nói rằng bạn nên chọn. Nếu bạn

cứ khăng khăng và bạn nói, “Tôi phải chọn,” thế thì

điên khùng còn hơn là chỉ khô héo và lành mạnh.

Thuộc vào trái tim. Yêu, yêu điên cuồng; hát, hát điên

cuồng; nhảy múa, nhảy múa điên cuồng. Điều đó còn

tốt hơn nhiều chỉ trở thành tính toán, logic, hợp lí, và

chỉ chịu đựng ác mộng.

Nhưng tôi không nói... đấy không phải là gợi ý của

tôi rằng hãy làm điều đó. Gợi ý của tôi là vẫn còn vô

chọn lựa. ‘Nhận biết vô chọn lựa’ là từ khoá. Vẫn còn

vô chọn lựa, nhận biết và bất kì khi nào bạn thấy rằng

cái gì đó đang sắp mất cân bằng, nghiêng về phía bên

kia. Đem cân bằng lại, và đây là cách người ta di

chuyển. Cuộc sống là giống như đi trên dây.31

******************************************************

#13 Phiền muộn, bệnh của người giầu

Con người bao giờ cũng sống với hi vọng, với

tương lai, với cõi trời ở đâu đó xa xăm. Con người

chưa bao giờ sống trong hiện tại - thời vàng son của

người đó vẫn còn đang tới. Nó giữ cho người đó còn

nhiệt tình bởi vì điều lớn lao hơn đang sắp xảy ra; tất

cả mọi khao khát của người đó đang sắp được hoàn

thành. Có niềm vui lớn trong mong đợi. Người đó đã

chịu đựng trong hiện tại; người đó đã khổ trong hiện

tại. Nhưng tất cả những điều đó bị hoàn toàn quên lãng

trong những giấc mơ đang sắp được hoàn thành vào

ngày mai. Ngày mai bao giờ cũng là cái truyền sinh khí

cho.

Nhưng tình huống này đã thay đổi. Tình huống cũ

là không tốt bởi vì ngày mai - sự hoàn thành các giấc

mơ của người đó - chẳng bao giờ trở thành đúng cả.

Người đó chết đi trong hi vọng. Thậm chí trong cái

chết của mình người đó vẫn còn hi vọng vào cuộc sống

tương lai - nhưng người đó chưa bao giờ thực sự kinh

nghiệm bất kì vui vẻ nào, bất kì ý nghĩa nào. Nhưng

điều đó dung thứ được. Duy nhất chỉ là vấn đề về ngày

hôm nay: nó sẽ trôi qua, và ngày mai nhất định sẽ tới.

Các nhà tiên tri tôn giáo, các đấng cứu thế, những vị

cứu tinh đều hứa hẹn với người đó về mọi niềm hoan

lạc - cái đang bị kết án ở đây - trên cõi. Các lãnh tụ

chính trị, các nhà lí tưởng xã hội, các nhà không tưởng

đều hứa hẹn với người đó về cùng một điều - không

phải trên thiên đường mà là ở đây trên trái đất này, ở

đâu đó xa xăm trong tương lai khi xã hội phát triển qua

một cuộc cách mạng toàn bộ và không có nghèo đói,

không giai cấp, không chính phủ và con người hoàn

toàn được tự do và có mọi thứ mình cần.

Cả hai về cơ bản đều thoả mãn cho cùng một nhu

cầu tâm lí. Với những người duy vật, thì những người

lí tưởng, chính khách, những nhà không tưởng xã hội

thành hấp dẫn; với những người không duy vật mấy,

thì các lãnh tụ tôn giáo lại hấp dẫn. Nhưng đối tượng

của sự hấp dẫn vẫn hệt như nhau: tất cả những điều bạn

có thể tưởng tượng ra, có thể mơ tới, có thể khao khát

tới, sẽ được thoả mãn hoàn toàn. Với những giấc mơ

đó, khổ hiện tại dường như là rất nhỏ.

Có những người nhiệt tình trên thế giới; những

người không phiền muộn. Phiền muộn là hiện tượng

đương đại và nó đi vào hiện hữu bởi vì bây giờ không

có ngày mai. Tất cả các ý thức hệ chính trị đều đã thất

bại. Không còn khả năng nào để con người được bình

đẳng hơn, không có khả năng nào sẽ có lúc mà không

có chính phủ, không có khả năng nào cho tất cả các

giấc mơ của bạn đều sẽ được hoàn thành.

Điều này đã đưa tới cú choáng lớn. Đồng thời con

người đã trở nên chín chắn hơn. Con người có thể tới

nhà thờ, tới đền đài, tới chùa chiền, tới giáo đường Do

thái - nhưng chúng chỉ là những việc tuân theo xã hội,

bởi vì người đó không muốn, trong trạng thái tối tăm

và phiền muộn như thế, bị bỏ lại một mình; người đó

muốn ở cùng với đám đông. Nhưng về cơ bản người đó

biết chẳng có cõi trời đâu; người đó biết rằng chẳng vị

cứu tinh nào sắp tới cả.

Người Hindu đã từng chờ đợi Krishna trong năm

nghìn năm. Ông ấy đã hứa ông ấy không chỉ tới có một

lần, ông ấy đã hứa rằng bất kì khi nào có khổ, đau khổ,

bất kì khi nào đồi bại leo lên đỉnh của đức hạnh, bất kì

khi nào những người đẹp đẽ và đơn giản và hồn nhiên

lại bị những người tinh ranh và đạo đức giả khai thác

thì ông ấy sẽ tới. Nhưng trong năm nghìn năm chẳng

thấy dấu hiệu nào về ông ấy cả.

Jesus đã hứa ông ấy sẽ tới, và khi được hỏi, ông ấy

đã nói, “Rất sớm thôi.” Tôi có thể kéo rộng ra “Rất

sớm thôi,” nhưng vẫn chưa có gì trong hai nghìn năm;

như thế thì quá nhiều rồi.

Cái ý tưởng rằng khổ của chúng ta, đau đớn của

chúng ta, tủi nhục của chúng ta sẽ bị mất đi không còn

hấp dẫn nữa. Cái ý tưởng rằng Thượng đế, người chăm

nom cho chúng ta dường như đơn giản chỉ là trò cười.

Nhìn vào thế giới, dường như là chẳng ai chăm nom cả.

Trong thực tế, ở nước Anh gần ba mươi nghìn

người là người tôn thờ quỉ - chỉ ở Anh thôi, một phần

nhỏ của thế giới. Và ý thức hệ của họ cũng đáng để

nhìn vào khi tham khảo câu hỏi của bạn. Họ nói rằng

quỉ không chống lại Thượng đế, quỉ là con của Thượng

đế. Thượng đế đã bỏ thế giới, và bây giờ niềm hi vọng

duy nhất là thuyết phục quỉ chăm nom vì Thượng đế

không chăm nom. Và ba mươi nghìn người đang tôn

thờ quỉ như con của Thượng đế... và lí do là họ cảm

thấy rằng Thượng đế đã bỏ thế giới này - ngài không

còn chăm nom về nó nữa. Một cách tự nhiên, cách duy

nhất là cầu đến con ngài; nếu bằng cách nào đó con

ngài có thể được thuyết phục bằng các nghi lễ, bằng lời

cầu nguyện, bằng tôn thờ, thì có lẽ khổ, bóng tối, ốm

bệnh có thể bị loại bỏ. Đây là một nỗ lực tuyệt vọng.

Thực tế là ở chỗ con người bao giờ cũng sống trong

nghèo nàn. Nghèo nàn có điều đẹp đẽ về nó: nó không

bao giờ phá huỷ hi vọng của bạn, nó không bao giờ

chống lại ước mơ của bạn, nó bao giờ cũng đem tới

nhiệt tình vì ngày mai. Người ta hi vọng, tin tưởng rằng

mọi sự sẽ tốt đẹp hơn: thời kì đen tối này đã qua đi;

chẳng mấy chốc sẽ có ánh sáng. Nhưng tình huống đó

đã thay đổi. Ở các nước đã phát triển... và nhớ, vấn đề

phiền muộn không phải là ở các nước chưa phát triển -

ở các nước nghèo, mọi người vẫn còn hi vọng - chính

là chỉ có ở các nước đã phát triển, nơi họ có đủ mọi thứ

họ đã từng khao khát. Bây giờ cõi trời sẽ không còn tác

dụng thêm nữa; xã hội phi giai cấp cũng chẳng ích gì

thêm nữa. Không xã hội không tưởng nào lại sẽ tốt

hơn. Họ đã đạt tới mục đích - và việc đạt tới mục đích

này là nguyên nhân của phiền muộn. Bây giờ không

còn hi vọng: ngày mai thành đen tối, và ngày kia sẽ lại

còn đen tối hơn.

Tất cả những điều này mà họ đã từng mơ tới đều

rất đẹp. Họ chưa bao giờ nhìn vào những hệ luỵ của

chúng. Bởi vì họ đã có được chúng, họ có chúng cùng

với những hệ luỵ của chúng. Một người là nghèo,

nhưng người đó ăn ngon miệng. Một người là giầu,

nhưng người đó lại ăn không ngon. Và là người nghèo

và ăn ngon miệng còn tốt hơn là người giầu mà chẳng

ngon miệng. Bạn định làm gì với cả đống vàng, đống

bạc, đống đô la của bạn? Bạn không thể ăn được

chúng. Bạn có mọi thứ, nhưng cái ngon miệng đã biến

mất, cái mà bạn đã vật lộn từ lâu để có được. Bạn

thành công - và tôi đã nói đi nói lại mãi rằng chẳng có

gì thất bại như thành công cả. Bạn đã đạt tới nơi bạn

muốn tới, nhưng bạn lại không nhận biết về sản phẩm

phụ. Bạn có hàng triệu đô la, nhưng bạn không thể ngủ

được...

Khi con người đạt tới mục tiêu ấp ủ, thế thì người

đó trở nên nhận biết rằng có nhiều điều quanh chúng.

Chẳng hạn, trong cả đời mình bạn cố gắng kiếm tiền,

cứ nghĩ rằng một ngày nào đó, khi bạn có nó, bạn sẽ

sống một cuộc sống thảnh thơi. Nhưng bạn đã từng

căng thẳng suốt cả đời - căng thẳng đã trở thành kỉ luật

của bạn - và tới cuối đời, khi bạn đã đạt tới tất cả tiền

bạc bạn muốn, bạn lại không thể thảnh thơi được. Toàn

bộ cuộc đời đã bị khép vào kỉ luật trong căng thẳng, và

khổ sở cùng lo nghĩ sẽ không để cho bạn thảnh thơi.

Cho nên bạn không phải là người chiến thắng, bạn là

kẻ chiến bại. Bạn ăn không ngon, bạn huỷ hoại sức

khoẻ mình, bạn huỷ hoại cảm giác của mình, nhạy cảm

của mình. Bạn huỷ hoại cảm giác thẩm mĩ của mình -

bởi vì không có thời gian cho tất cả những điều này, cái

không tạo ra đô la.

Bạn đang đuổi theo đô la - ai có thời gian để ngắm

hoa hồng, và ai có thời gian để ngắm chim tung cánh,

và ai có thời gian để ngắm cái đẹp của con người? Bạn

trì hoãn tất cả những điều này để cho một ngày nào đó,

khi bạn có mọi thứ, thì bạn sẽ thảnh thơi và tận hưởng.

Nhưng đến lúc bạn có đủ mọi thứ, bạn trở thành một

loại người có kỉ luật nào đó - người mù với hoa hồng,

người mù với cái đẹp, người không thể nào tận hưởng

được âm nhạc, người không thể nào hiểu được điệu vũ,

người không thể nào hiểu được thơ ca, người chỉ có thể

hiểu được đô la. Nhưng những đồng đô la đó không

đem lại thoả mãn.

Đây là nguyên nhân của phiền muộn. Đó là lí do tại

sao nó chỉ có trong những nước đã phát triển và chỉ

trong giai cấp giầu có của các nước đã phát triển -

trong các nước đã phát triển cũng có cả người nghèo

nữa, nhưng họ không bị phiền muộn - và bây giờ bạn

không thể trao cho con người bất kì hi vọng nào thêm

nữa để vứt bỏ đi phiền muộn của người đó bởi vì người

đó có tất cả, còn nhiều hơn điều bạn có thể hứa hẹn.

Hoàn cảnh của người đó thực sự đáng thương. Người

đó chưa bao giờ nghĩ tới những hệ luỵ đó, người đó

chưa bao giờ nghĩ tới sản phẩm phụ, người đó chưa

bao giờ nghĩ tới điều mình sẽ mất bởi việc có được tiền

bạc. Người đó chưa bao giờ nghĩ rằng người đó sẽ mất

mọi thứ mà có thể làm cho người đó hạnh phúc chỉ bởi

vì người đó bao giờ cũng gạt mọi thứ đó sang bên.

Người đó không có thời gian, và cạnh tranh thì lại gay

gắt và người đó phải quyết liệt. Đến cuối cùng người

đó thấy trái tim mình chết, cuộc sống mình vô nghĩa.

Người đó không thấy có bất kì khả năng nào trong

tương lai về bất kì thay đổi nào, bởi vì “Còn có gì hơn

nữa...?”

Tôi hay ở tại Sagar trong ngôi nhà của một người

rất giầu có. Ông già này rất đẹp lão. Ông ấy đã là nhà

chế tạo bidi lớn nhất trong cả nước Ấn Độ. Ông ấy có

đủ mọi thứ bạn có thể tưởng tượng ra, nhưng ông ấy

hoàn toàn không thể nào tận hưởng mọi thứ được. Tận

hưởng là điều gì đó cần phải được nuôi dưỡng. Nó là kỉ

luật nào đó, nghệ thuật nào đó - cách tận hưởng - và

phải mất thời gian để đi vào tiếp xúc với những điều vĩ

đại trong cuộc sống. Nhưng con người này, người đuổi

theo tiền bạc, lại bỏ qua mọi thứ vốn là cánh cửa tới

điều thiêng liêng, và người đó kết thúc tại cuối con

đường và chẳng có gì phía trước người đó ngoại trừ cái

chết.

Toàn bộ cuộc sống của người đó đều khổ. Người

đó chịu đựng nó, lờ nó đi trong hi vọng rằng mọi thứ

sắp sửa thay đổi. Bây giờ người đó không thể nào lờ nó

đi được và cũng không thể nào chịu đựng được nó bởi

vì ngày mai chỉ có cái chết và không cái gì khác cả. Và

toàn bộ cái khổ đã tích luỹ của cả đời mà người đó đã

lờ đi, cái khổ sở mà người đó đã lờ đi, lại bùng nổ

trong bản thể người đó.

Người giầu có nhất này, theo một cách nào đó, lại

là người nghèo nhất trong thế giới. Là người giầu mà

không nghèo là một nghệ thuật vĩ đại. Là người nghèo

mà giầu là mặt bên kia của nghệ thuật này. Có những

người nghèo bạn thấy giầu có vô cùng. Họ chẳng có gì,

nhưng họ giầu. Cái giầu của họ không trong đồ vật mà

trong bản thể họ, trong kinh nghiệm đa chiều của họ.

Và có những người giầu có mọi thứ nhưng hoàn toàn

nghèo và hổng hoác và trống rỗng. Sâu bên trong chỉ là

nấm mồ.

Đấy không phải là phiền muộn của xã hội, bởi vì

thế thì điều đó sẽ ảnh hưởng cả tới người nghèo nữa;

đấy đơn giản là luật tự nhiên, và con người bây giờ sẽ

phải học điều đó. Mãi cho tới giờ đã không có nhu cầu,

bởi vì chẳng ai đạt tới điểm người đó có mọi thứ, trong

khi bên trong thì hoàn toàn đen tối và dốt nát.

Điều đầu tiên trong cuộc sống là tìm ra ý nghĩa

trong khoảnh khắc hiện tại.

Hương vị cơ bản của bản thể bạn nên là hương vị

tình yêu, hương vị hân hoan, lễ hội. Thế thì bạn có thể

làm mọi điều: đô la sẽ không phá huỷ nó. Nhưng bạn

gạt mọi thứ sang bên và đơn giản đuổi theo các đồng

đô la cứ nghĩ rằng đô la có thể mua được mọi thứ. Và

thế rồi một ngày nào đó bạn thấy chúng chẳng thể mua

được cái gì - và bạn đã dành cả đời mình cho đô la.

Đây là nguyên nhân của phiền muộn. Và đặc biệt ở

phương Tây, phiền muộn đang trở thành rất sâu sắc.

Tại phương Đông đã từng có những người giầu có,

nhưng cũng có một chiều hướng nào đó có sẵn. Khi

con đường tới giầu có đã tới chỗ kết thúc, họ không bị

mắc kẹt ở đó; họ chuyển sang chiều hướng mới. Chiều

hướng mới đó là trong không trung, có sẵn hàng thế kỉ.

Tại phương Đông người nghèo đã từng trong điều kiện

rất tốt, còn người giầu đã ở trong điều kiện cực kì tốt.

Người nghèo đã học được sự mãn nguyện cho nên họ

chẳng bận tâm tới việc chạy theo tham vọng. Còn

người giầu đã hiểu rằng một ngày nào đó họ phải từ bỏ

nó tất cả và đi tìm chân lí, đi kiếm ý nghĩa.

Tại phương Tây, đến cuối cùng, con đường này

đơn giản kết thúc. Bạn có thể quay lui, nhưng quay lui

cũng chẳng giúp gì cho phiền muộn của bạn. Bạn cần

một chiều hướng mới. Phật Gautam, Mahavira hay

Parshvanath - những người này đã ở tại đỉnh của giầu

có, và thế rồi họ thấy rằng nó gần như là gánh nặng.

Một cái gì đó khác cần phải được tìm ra trước khi cái

chết đem bạn đi - và họ đủ dũng cảm để từ bỏ tất cả.

Việc từ bỏ của họ đã bị hiểu lầm. Họ từ bỏ tất cả nó bởi

vì không muốn bận tâm thêm một giây nào về tiền bạc,

về quyền lực - bởi vì họ đã thấy cái đỉnh, và chẳng có

gì ở đó cả. Họ đã đi tới bậc thang cao nhất của chiếc

thang và đã thấy rằng nó chẳng dẫn đến đâu cả; nó chỉ

là chiếc thang chẳng dẫn tới đâu. Trong khi bạn còn ở

đâu đó chỗ giữa, hay thấp hơn chỗ giữa, bạn còn có hi

vọng bởi vì có các bậc thang khác cao hơn bạn. Rồi tới

một điểm khi bạn ở tại bậc thang cao nhất và chỉ có tự

tử hay điên khùng - hay đạo đức giả: bạn cứ mỉm cười

cho tới khi cái chết kết thúc bạn, nhưng sâu bên dưới

bạn biết rằng bạn đã phí hoài cuộc sống của mình.

Tại phương Đông, phiền muộn chưa bao giờ là vấn

đề cả. Người nghèo đã học cách tận hưởng bất kì cái gì

nhỏ bé họ có được, còn người giầu đã học rằng việc có

toàn bộ thế giới dưới chân bạn cũng chẳng có nghĩa lí

gì - bạn phải đi tìm ý nghĩa, chứ không phải là tiền bạc.

Và họ đã có những người đi trước: trong hàng nghìn

năm mọi người đã đi tìm kiếm chân lí và đã tìm thấy

nó. Không cần phải thất vọng, phiền muộn, bạn chỉ

phải đi vào trong chiều hướng chưa biết. Họ chưa từng

thám hiểm nó, nhưng khi họ bắt đầu thám hiểm chiều

hướng mới này - điều đó có nghĩa là cuộc hành trình

nội tâm, cuộc hành trình tới cái ta riêng của mình - tất

cả những điều họ đã mất lại bắt đầu quay lại.

Phương Tây cần một phong trào thiền lớn rất cấp

bách; nếu không thì phiền muộn này sẽ giết chết mọi

người. Và những người này sẽ là những người tài năng

nhất - bởi vì họ đã đạt tới quyền lực, họ đã đạt tới tiền

bạc, họ đã đạt tới bất kì cái gì họ muốn... những bằng

cấp cao nhất trong giáo dục. Đây là những người tài

năng, và tất cả họ đều cảm thấy thất vọng.

Điều này sắp thành nguy hiểm bởi vì những người

tài năng nhất này không còn nhiệt tình với cuộc sống

nữa, còn những người bất tài thì lại nhiệt tình với cuộc

sống nhưng họ thậm chí lại không có tài năng để có

được quyền lực, tiền bạc, giáo dục, kính trọng. Họ

không có tài, cho nên họ khổ sở, cảm thấy bị tàn tật.

Họ quay sang thành những kẻ khủng bố, họ quay sang

việc bạo hành không cần thiết chỉ từ việc trả thù - bởi

vì họ không thể làm được gì khác cả. Nhưng họ có thể

phá huỷ. Và người giầu gần như sẵn sàng treo mình lên

bất kì cái cây nào bởi vì chẳng còn lí do gì cho họ sống

cả. Trái tim họ đã ngừng đập từ lâu trước đây. Họ chỉ

còn là cái xác - trang điểm đẹp, được tôn vinh nhưng

hoàn toàn trống rỗng và vô tích sự.

Phương Tây thực sự ở tình trạng tồi tệ hơn phương

Đông nhiều, mặc dầu với những người không hiểu thì

dường như là phương Tây đang ở điều kiện tốt hơn

phương Đông bởi vì phương Đông nghèo nàn. Nhưng

nghèo khó không phải là vấn đề lớn như thất bại của

giầu có; thế thì người ta mới thực sự là nghèo. Người

nghèo thông thường ít nhất cũng có những mơ ước, hi

vọng, nhưng người giầu thì chẳng có gì cả.

Điều đang được cần tới là một phong trào thiền vĩ

đại vươn tới mọi con người.

Và tại phương Tây những người phiền muộn này

lại đang tới các nhà phân tâm, các nhà trị liệu và đủ

mọi loại lang băm, những người mà bản thân họ cũng

phiền muộn, lại còn phiền muộn hơn bệnh nhân mình

nữa - một cách tự nhiên, bởi vì cả ngày họ nghe nói về

phiền muộn, thất vọng, vô nghĩa. Và với việc thấy quá

nhiều người tài trong tình cảnh tồi tệ như vậy, thì bản

thân họ cũng bắt đầu mất tinh thần. Họ không thể giúp

đỡ được; bản thân họ cần sự giúp đỡ.

Chức năng của trường phái của tôi là để chuẩn bị

cho mọi người bằng năng lượng thiền và gửi họ vào

trong thế giới chỉ như những tấm gương cho những

những người còn phiền muộn. Nếu họ có thể thấy rằng

có những người không phiền muộn - ngược lại, những

người hân hoan vô cùng - thì có lẽ hi vọng có thể được

sinh ra trong họ. Bây giờ họ có thể có mọi điều và

không có nhu cầu phải lo nghĩ. Họ có thể thiền.

Tôi không dạy từ bỏ của cải của bạn hay bất kì cái

gì. Cứ để mọi thứ như nó hiện thế. Chỉ bổ sung thêm

một điều nữa vào cuộc sống của bạn. Mãi cho tới nay

bạn đã chỉ thêm đồ vật vào cuộc sống của mình. Bây

giờ thêm điều gì đó vào bản thể bạn - và điều đó sẽ làm

ra âm nhạc, điều đó sẽ làm ra phép màu, điều đó sẽ làm

ra ảo thuật, điều đó sẽ tạo ra xúc động mới, trẻ trung

mới, tươi tắn mới.

Điều đó không phải là không giải quyết được. Vấn

đề thì lớn, nhưng giải pháp lại rất đơn giản.32

******************************************************

#14 Thức ăn và mạnh khoẻ

Không con vật nào ăn như con người; mọi con vật

đều có thức ăn được chọn lựa của nó. Nếu bạn đem

trâu vào vườn và bỏ chúng đấy, chúng sẽ chỉ ăn một

loại cỏ đặc biệt. Chúng sẽ không ăn mọi thứ và bất kì

thứ gì - chúng rất chọn lựa. Chúng có cảm giác nào đó

về thức ăn của chúng. Con người đã đánh mất hoàn

toàn, đã không còn cảm giác về thức ăn của mình. Con

người cứ ăn mọi thứ và bất kì cái gì. Trong thực tế bạn

không thể nào tìm ra được cái gì mà con người không

ăn ở đâu đó chỗ này chỗ khác. Tại một số nơi, kiến

cũng bị ăn. Tại một số nơi, rắn cũng bị ăn. Tại một số

nơi, chó cũng bị ăn. Con người ăn mọi thứ. Con người

đơn giản phát điên. Con người không biết cái gì cộng

hưởng với thân thể mình và cái gì không. Con người

hoàn toàn lẫn lộn.

Một cách tự nhiên con người nên là người ăn chay,

bởi vì toàn bộ thân thể được tạo nên từ thức ăn thực

vật. Ngay cả các nhà khoa học cũng phải thừa nhận sự

kiện là toàn bộ cấu trúc thân thể con người chứng tỏ

rằng con người nên là người ăn chay. Con người tới từ

khỉ. Khỉ ăn là kẻ chay - hoàn toàn chay. Nếu Darwin

đúng thế thì con người nên là kẻ ăn chay. Bây giờ có

cách để đánh giá xem liệu một loài vật nào đó có là ăn

chay hay không ăn chay: điều đó tuỳ thuộc vào ruột,

chiều dài ruột. Con vật không ăn chay có ruột rất nhỏ.

Hổ, sư tử - chúng có ruột rất nhỏ, bởi vì thịt đã là thức

ăn được tiêu hoá rồi. Không cần bộ ruột dài để tiêu hoá

thịt. Công việc tiêu hoá đã được con vật tiến hành rồi.

Bây giờ bạn ăn thịt con vật. Thịt đã được tiêu hoá rồi -

ruột dài không cần. Con người có một trong những bộ

ruột dài nhất: điều đó có nghĩa là con người là loại ăn

chay. Việc tiêu hoá lâu dài là cần thiết, và nhiều chất

xơ sẽ có đó phải được tống ra.

Nếu con người là loại ăn chay và người đó cứ ăn

thịt, thì thân thể bị nặng gánh. Tại phương Đông, tất cả

các thiền nhân vĩ đại - Phật, Mahavira - họ đều nhấn

mạnh vào sự kiện này, không phải bởi vì bất kì khái

niệm bất bạo lực nào, điều đó là phụ, nhưng bởi vì nếu

bạn thực sự muốn đi sâu vào trong thiền, thân thể bạn

cần vô trọng lượng, tuôn chảy tự nhiên. Thân thể bạn

cần được dỡ bỏ gánh nặng; và thân thể của người

không ăn chay rất nặng nề.

Quan sát điều xảy ra khi bạn ăn thịt: khi bạn giết

con vật, điều gì xảy ra cho con vật khi nó bị giết? Tất

nhiên, chẳng ai muốn bị giết cả. Cuộc sống muốn tự nó

kéo dài ra; con vật không sẵn lòng chết. Nếu ai đó giết

bạn, bạn sẽ chết một cách không sẵn lòng. Nếu con sư

tử chồm lên bạn và giết bạn, điều gì sẽ xảy ra cho tâm

trí bạn? Cùng điều ấy cũng xảy ra khi bạn giết con sư

tử. Đau đớn, sợ hãi, chết chóc, khổ não, lo âu, giận dữ,

bạo hành, buồn bã - tất cả những điều này xảy ra cho

con vật. Bạo hành, đau đớn, khổ não lan khắp thân thể

nó. Toàn bộ thân thể trở thành đầy những độc tố, chất

độc. Tất cả các tuyến thân thể đều tiết ra chất độc bởi

vì con vật đang chết một cách rất không sẵn lòng. Và

thế rồi bạn ăn thịt - thịt đó mang tất cả mọi chất độc

con vật đã tiết ra. Toàn bộ năng lượng là độc hại, thế

rồi những chất độc đó được mang vào thân thể bạn.

Và thịt đó bạn đang ăn đã thuộc vào một thân thể

con vật. Nó đã có một mục đích đặc biệt ở đó. Một

kiểu tâm thức đặc biệt đã tồn tại trong thân thể con vật

này. Bạn đang ở trên một bình diện cao hơn tâm thức

con vật đó, và khi bạn ăn thịt con vật đó thì thân thể

bạn lại đi xuống bình diện thấp hơn, tới bình diện thấp

của con vật đó. Thế thì tồn tại lỗ hổng giữa tâm thức

của bạn và thân thể bạn, và căng thẳng nảy sinh, và lo

âu nảy sinh.

Người ta nên ăn những thứ vốn tự nhiên - tự nhiên

cho bạn. Quả, hạt, rau - ăn nhiều thoả sức. Và cái đẹp

là ở chỗ bạn không thể nào ăn được những thứ này

nhiều hơn mức cần thiết. Bất kì cái gì là tự nhiên, bao

giờ cũng đem lại cho bạn thoả mãn, bởi vì nó làn no

thân thể bạn, làm bão hoà bạn. Bạn cảm thấy mãn

nguyện. Nếu điều gì đó không tự nhiên, nó chẳng bao

giờ cho bạn cảm giác về mãn nguyện. Bạn cứ ăn kem

mãi: bạn chẳng bao giờ cảm thấy rằng bạn no. Trong

thực tế bạn càng ăn nhiều, bạn càng cảm thấy thích ăn

hơn. Nó không phải là thức ăn. Tâm trí bạn bị chơi xỏ.

Bây giờ bạn không ăn theo nhu cầu thân thể, bạn đang

ăn chỉ để thưởng thức nó. Cái lưỡi đã trở thành người

điều khiển.

Cái lưỡi không nên là người điều khiển. Nó chẳng

biết gì về dạ dầy cả. Nó không biết gì về thân thể cả.

Cái lưỡi có mục đích nhất định phải hoàn thành:

thưởng thức thức ăn. Một cách tự nhiên, cái lưỡi phải

đánh giá, đó là điều duy nhất, thức ăn nào dành cho

thân thể - cho thân thể tôi - và thức ăn nào là không

dành cho thân thể tôi. Nó chỉ là người gác cổng; nó

không phải là người chủ. Và nếu người gác cổng trở

thành người chủ, thế thì mọi sự sẽ bị lẫn lộn.

Bây giờ các nhà quảng cáo đều biết rõ rằng lưỡi có

thể bị lừa, mũi có thể bị lừa. Và chúng không phải là

người chủ. Bạn có thể không nhận biết: nhiều nghiên

cứu về thức ăn đang tiến hành trên thế giới, và họ nói

nếu mũi bạn bị bịt hoàn toàn và mắt bạn bị bịt lại, và

thế rồi bạn được trao cho củ hành để ăn, bạn không thể

nào biết được bạn đang ăn gì. Bạn không thể nào biết

được hành hay táo nếu mũi bạn bị bịt lại hoàn toàn bởi

vì một nửa việc nếm tới từ mùi vị, do mũi quyết định,

và một nửa do lưỡi quyết định - và hai giác quan này

đã trở thành kẻ điều khiển. Bây giờ chúng biết: kem có

bổ dưỡng hay không cũng chẳng thành vấn đề. Nó có

thể mang một mùi vị, nó có thể mang hoá chất nào đó

thoả mãn cho lưỡi nhưng chẳng cần gì cho thân thể cả.

Con người bị lẫn lộn - còn bị lẫn lộn hơn cả trâu

nữa. Bạn không thể nào thuyết phục con trâu ăn kem

được. Cứ thử mà xem!

Thức ăn tự nhiên... và khi tôi nói ‘tự nhiên’ là tôi

ngụ ý rằng cái thân thể bạn cần. Nhu cầu của hổ là

khác; nó phải rất bạo hành. Nếu bạn ăn thịt hổ, bạn sẽ

bạo hành, nhưng cái bạo hành của bạn sẽ được diễn đạt

ở đâu? Bạn phải sống trong xã hội loài người chứ

không trong rừng rậm. Thế thì bạn sẽ phải kìm nén cái

bạo hành này. Một vòng luẩn quẩn bắt đầu. Khi bạn

kìm nén bạo hành, điều gì xảy ra? Khi bạn cảm thấy

giận dữ, bạo hành, năng lượng độc hại nào đó được tiết

ra, bởi vì chất độc đó tạo ra tình huống bạn có thể thực

sự bạo hành và giết ai đó. Năng lượng này đi vào tay

bạn; năng lượng này đi vào răng bạn - đây là hai chỗ từ

đó con vật trở nên bạo hành. Con người là một phần

của vương quốc loài vật.

Khi bạn giận dữ, năng lượng được thoát ra - nó đi

tới tay và răng, tới hàm - nhưng bạn đang sống trong xã

hội con người và không phải bao giờ giận dữ cũng lợi.

Bạn sống trong thế giới văn minh, và bạn không thể

nào cư xử như con vật được. Nếu bạn cư xử như con

vật, bạn sẽ phải trả giá nhiều về điều đó - mà bạn lại

không sẵn sàng trả giá nhiều như thế. Thế thì bạn làm

gì? Bạn kìm nén giận dữ trong bàn tay; bạn kìm nén

giận dữ trong hàm răng - bạn cứ mỉm cười nụ cười giả

dối, và răng bạn cứ tích luỹ giận dữ.

Tôi hiếm khi bắt gặp mọi người với quai hàm tự

nhiên. Nó không tự nhiên - bị ngăn cản, cứng nhắc -

bởi vì quá nhiều giận dữ có đó. Nếu bạn ấn vào quai

hàm ai đó, giận dữ có thể thoát ra. Bàn tay trở nên xấu

xí. Chúng mất vẻ duyên dáng, chúng mất sự linh động,

bởi vì quá nhiều giận dữ bị kìm nén ở đấy. Những

người đã làm việc trong xoa bóp sâu, họ đã đi tới biết

rằng khi bạn chạm tay một cách sâu sắc, xoa bóp bàn

tay, thì người này bắt đầu trở nên giận dữ. Không có lí

do. Bạn đang xoa bóp người này và bỗng nhiên người

đó bắt đầu cảm thấy cáu bẳn. Nếu bạn ấn vào quai

hàm, người ta lại trở nên giận dữ. Họ đã mang cơn giận

được tích luỹ.

Đấy là những điều không thuần khiết trong thân

thể: chúng phải được thoát ra. Nếu bạn không cho

chúng thoát ra, thân thể sẽ vẫn còn nặng nề. Bài luyện

tập yoga tồn tại để cho thoát ra tất cả mọi loại chất độc

đã tích luỹ trong thân thể. Những chuyển động Yoga xả

chúng ra; và thân thể nhà yoga có tính mềm mỏng của

riêng nó. Các bài tập yoga hoàn toàn khác với các bài

tập khác. Chúng không làm cho thân thể bạn mạnh mẽ;

chúng làm cho thân thể bạn mềm mại hơn. Và khi thân

thể bạn mềm mại hơn, bạn mạnh mẽ theo một nghĩa rất

khác: bạn trẻ trung hơn. Chúng làm cho thân thể bạn

linh động hơn, tuôn chảy hơn - không khối chắn nào

trong thân thể. Toàn bộ thân thể tồn tại như một đơn vị

hữu cơ, trong nhịp điệu sâu sắc của riêng nó. Nó không

giống như tiếng ồn trong chợ, nó giống như dàn nhạc.

Nhịp điệu sâu sắc bên trong, không khối chắn, thế thì

thân thể là thuần khiết. Các bài tập yoga có thể cực kì

có ích.

Mọi người đều đang mang nhiều rác rưởi trong dạ

dầy, bởi vì đấy là chỗ duy nhất trong thân thể bạn có

thể dồn nén mọi thứ. Không có chỗ khác. Nếu bạn

muốn kìm nén bất kì cái gì thì nó phải bị dồn nén vào

trong dạ dầy. Nếu bạn muốn khóc - vợ bạn chết, người

yêu bạn chết, bạn thân của bạn chết - nhưng điều đó

dường như có vẻ không tốt, dường như bạn yếu đuối,

khóc vì đàn bà, bạn kìm nén nó. Bạn sẽ dồn nén cái

khóc đó vào đâu? Một cách tự nhiên, bạn phải dồn nén

nó vào trong dạ dầy. Đó là nơi duy nhất sẵn có trong

thân thể, chỗ hổng duy nhất, nơi bạn có thể ép buộc nó

vào.

Nếu bạn dồn nén vào trong dạ dầy... và mọi người

đều đã dồn nén nhiều loại xúc động: về tình yêu, về

dục, về giận dữ, về buồn bã, về khóc than - thậm chí cả

tiếng cười. Bạn không thể cười khanh khách đến vỡ

bụng được. Điều đó có vẻ bất lịch sự, có vẻ thô tục -

thế thì bạn là người không văn hoá. Bạn phải dồn nén

mọi thứ. Bởi vì dồn nén này, bạn không thể nào thở sâu

được, bạn phải thở nông. Nếu bạn thở sâu thế thì

những vết thương của việc dồn nén đó, chúng sẽ xả ra

năng lượng của chúng. Bạn sợ. Mọi người đều sợ đi

vào trong dạ dầy.

Mọi đứa trẻ, khi được sinh ra, đều thở qua bụng.

Nhìn đứa trẻ ngủ: bụng nó phập phồng - ngực chẳng

bao giờ thế. Không đứa trẻ nào thở từ ngực cả; chúng

thở từ bụng. Bây giờ chúng hoàn toàn tự do, chẳng cái

gì bị kìm nén cả. Dạ dầy của chúng trống rỗng, và cái

trống rỗng đó có cái đẹp trong thân thể. Một khi dạ dầy

có quá nhiều điều dồn nén trong nó, thân thể bị chia

làm hai phần, phần thấp hơn và phần cao hơn. Thế thì

bạn không là một; bạn là hai. Phần thấp hơn là phần bị

bỏ đi. Tính thống nhất bị mất; nhị nguyên đã đi vào

trong con người bạn. Bây giờ bạn không thể nào đẹp

được nữa, bạn không thể nào duyên dáng được nữa.

Bạn đang mang hai thân thể thay vì một - và bao giờ

cũng còn lại lỗ hổng giữa hai thân này. Bạn không thể

nào bước đi đẹp đẽ được. Dẫu sao thì bạn vẫn phải

mang chân mình. Trong thực tế, nếu thân thể là một,

chân bạn sẽ mang bạn đi. Nếu thân thể bị chia thành

hai, bạn phải mang chân mình đi.

Bạn phải kéo lê thân thể mình. Điều đó giống như

gánh nặng - bạn không thể nào tận hưởng điều đó. Bạn

không thể nào tận hưởng việc đi bộ tốt, bạn không thể

nào tận hưởng việc bơi tốt, bạn không thể nào tận

hưởng việc chạy nhanh - bởi vì thân thể không phải là

một. Với mọi chuyển động này, và để hưởng thú

chúng, thân thể cần được thống nhất lại. Thống nhất

phải được tạo ra lần nữa: dạ dầy sẽ phải được dọn sạch

hoàn toàn.

Để dọn sạch dạ dầy cần tới việc thở rất sâu, bởi vì

khi bạn hít vào sâu và thở ra sâu, dạ dầy tống ra tất cả

những cái nó đang mang. Trong việc thở ra, dạ dầy tự

xả bỏ cho nó. Do đó mới có tầm quan trọng của

pranayam, thở nhịp điệu sâu. Việc nhấn mạnh nên vào

việc thở ra để cho mọi thứ dạ dầy đã phải mang một

cách không cần thiết được xả bỏ ra. Và khi dạ dầy

không mang những xúc động bên trong, nếu bạn bị

chứng táo bón, nó bỗng nhiên biến mất. Khi bạn kìm

nén xúc động trong dạ dầy, sẽ có táo bón bởi vì dạ dầy

không được tự do để có chuyển động của nó. Bạn đang

kiểm soát nó sâu sắc; bạn không thể nào cho phép nó

tự do được. Cho nên nếu các xúc động bị kìm nén, sẽ

có táo bón. Táo bón là bệnh mang nhiều tính tinh thần

hơn là bệnh thể chất. Nó thuộc về tâm trí nhiều hơn là

thuộc về thân thể.

Nhưng nhớ lấy, tôi không phân chia tâm trí và thân

thể làm hai đâu. Chúng là hai khía cạnh của cùng một

hiện tượng. Tâm trí và thân thể không phải là hai thứ.

Trong thực tế nói ‘tâm trí và thân thể’ là không tốt:

‘tâm - thân’ là cách diễn đạt đúng. Thân thể bạn là hiện

tượng tâm lí. Tâm trí là phần tinh tế nhất của thân thể,

còn thân thể là phần thô nhất của tâm trí. Và cả hai

chúng đều ảnh hưởng lẫn nhau; chúng chạy song song.

Nếu bạn đang kìm nén cái gì đó trong tâm trí, thân thể

sẽ bắt đầu cuộc hành trình kìm nén. Nếu tâm trí xả ra

mọi thứ, thân thể cũng xả ra mọi thứ. Đó là lí do tại sao

tôi lại nhấn mạnh vào thanh tâm rất nhiều. Thanh tâm

là quá trình dọn sạch.

Đây tất cả đều là cách thức khổ hạnh: nhịn ăn; ăn

uống tự nhiên; thở nhịp điệu, sâu; bài tập yoga; sống

cuộc sống ngày càng tự nhiên, linh động, mềm mỏng

hơn; tạo ra ngày càng ít thái độ kìm nén; cho phép thân

thể có tiếng nói riêng của nó; tuân theo trí huệ của thân

thể...

Khi thân thể được thuần khiết, bạn sẽ thấy những

năng lượng cực kì mới nảy sinh, những chiều hướng

mới mở ra trước bạn, những cánh cửa mới bất thần mở

ra, những khả năng mới. Thân thể có nhiều năng lực ẩn

kín. Một khi nó được thả ra bạn sẽ không thể nào tin

được nó, rằng thân thể mang nhiều thứ trong nó thế, và

lại gần thế.33

Theo những truyền thống huyền môn của phương

Đông, tất cả những điều bạn nghĩ mình đang là, đều

chẳng là gì ngoài thức ăn. Thân thể bạn là thức ăn, tâm

trí bạn là thức ăn, linh hồn bạn là thức ăn. Bên ngoài

linh hồn chắc chắn có cái gì đó không phải là thức ăn.

Cái gì đó ấy được biết là anatta, vô ngã. Đó là sự trống

rỗng hoàn toàn. Phật gọi nó là shunya, cái hư không.

Nó là không gian thuần khiết. Nó không chứa gì ngoài

bản thân nó; nó là tâm thức vô nội dung.

Khi nội dung vẫn còn, thức ăn cũng vẫn còn. Thức

ăn được ngụ ý là cái được tiêu hoá từ bên ngoài. Thân

thể cần thức ăn vật lí; không có nó, thân thể sẽ bắt đầu

teo đi. Đây là cách nó tồn tại; nó không chứa gì ngoài

thức ăn vật lí.

Tâm trí bạn chứa kí ức, ý nghĩ, ham muốn, ghen tị,

quyền lực và cả nghìn lẻ một thứ. Tất cả những cái đó

cũng là thức ăn; nó là thức ăn trên bình diện tinh tế hơn

chút ít. Ý nghĩ là thức ăn. Do đó khi bạn có những ý

nghĩ nuôi dưỡng, lồng ngực bạn nở ra, khi bạn có

những ý nghĩ, cái đem lại cho bạn năng lượng, bạn cảm

thấy tốt. Ai đó nói điều gì đó tốt lành về bạn, lời khen

ngợi, nhìn điều xảy ra cho bạn mà xem: bạn được nuôi

dưỡng. Còn ai đó nói điều gì đó sai về bạn, quan sát

xem: cứ dường như cái gì đó bị tuột ra khỏi bạn, bạn

yếu đuối hơn bạn trước đó.

Tâm trí là thức ăn dưới dạng tinh tế. Tâm trí không

là gì ngoài phía bên trong của thân thể; do đó cái bạn

ăn ảnh hưởng tới tâm trí bạn. Nếu bạn ăn thức ăn

không chay, bạn sẽ có một loại tâm trí đặc biệt; nếu

bạn ăn thức ăn chay, bạn chắc chắn có một loại tâm trí

khác.

Bạn có biết sự kiện quan trọng mênh mông này về

lịch sử Ấn Độ không? Ấn Độ chưa bao giờ tấn công

bất kì nước nào trong toàn bộ lịch sử mười nghìn năm

của nó. Chưa bao giờ - không một hành động xâm lăng

nào. Làm sao điều đó lại có thể được? Tại sao? Cùng

nhân loại đó tồn tại ở đây như tồn tại ở mọi nơi khác.

Nhưng chính là một loại thân thể khác đã tạo ra tâm trí

khác.

Bạn có thể tự mình quan sát điều đó. Ăn cái gì đó

rồi quan sát, ăn cái gì đó khác rồi quan sát. Ghi chép

lại, và bạn sẽ trở nên nhận biết và ngạc nhiên thấy rằng

mỗi thứ bạn tiêu hoá không chỉ là phần vật lí, nó có

một phần tâm lí của nó. Nó làm cho tâm trí bạn thành

mong manh với những ý tưởng nào đó, với những ham

muốn nào đó. Do đó, qua nhiều thời đại, đã từng có

việc tìm kiếm loại thức ăn sẽ không làm mạnh cho tâm

trí nhưng sẽ giúp nó cuối cùng tan biến đi; một loại

thức ăn mà, thay vì làm mạnh cho tâm trí, sẽ làm mạnh

cho thiền, vô trí. Không thể nêu ra được những qui tắc

chắc chắn và cố định, bởi vì mọi người đều khác nhau

và từng người đều phải quyết định cho bản thân mình.

Và quan sát điều bạn cho phép đi vào trong tâm trí

mình. Mọi người hoàn toàn không nhận biết; họ cứ đọc

mọi thứ và bất kì cái gì, họ cứ xem ti vi, bất kì cái gì

ngu si, xuẩn ngốc. Họ cứ nghe đài, họ cứ tán gẫu,

huyên thuyên với mọi người, và họ tất cả đều trút rác

rưởi vào đầu người khác. Rác rưởi là tất cả những cái

họ có.

Tránh những tình huống trong đó bạn bị nặng gánh

không cần thiết bởi rác rưởi. Bạn đã có quá nhiều rác

rưởi như nó đang có đấy; bạn cần được nhẹ gánh khỏi

nó. Và bạn cứ thu thập nó dường như nó là cái gì đó

quí giá. Nói ít đi, chỉ nghe điều bản chất, thấu cảm

trong nói và nghe. Nếu bạn nói ít, nếu bạn nghe ít, dần

dần bạn sẽ thấy rằng một sự sạch sẽ, một cảm giác

thuần khiết, cứ dường như bạn vừa mới tắm, sẽ bắt đầu

nảy sinh bên trong bạn. Điều đó trở thành mảnh đất cần

thiết cho thiền nảy sinh. Bạn đừng cứ đọc đủ mọi loại

vô nghĩa.

Có lần tôi sống trong một ngôi nhà mà hàng xóm là

một người điên, người rất quan tâm tới báo chí. Người

đó ngày nào cũng tới để thu lượm tất cả các báo chí từ

tôi. Nếu đôi khi người đó ốm hay tôi không có nhà, thế

thì người đó sẽ tới muộn về sau. Có lần chuyện xảy ra,

tôi vắng nhà mất mười ngày. Và khi tôi quay về thì

người đó lại tới để thu thập tất cả các báo chí. Tôi nói

với người đó, “Nhưng bây giờ tất cả báo đều cũ cả rồi -

cũ mất mười ngày.”

Người đó nói, “Có vấn đề gì đâu? Đấy toàn là rác

rưởi cả! Chỉ có ngày tháng thay đổi mà thôi.”

Đấy phải là một khoảnh khắc rất lành mạnh trong

cuộc đời người điên đó. Vâng, có những khoảnh khắc

điên loạn trong cuộc sống của cái gọi là người lành

mạnh, và ngược lại. Người đó đang nói ra chân lí, nói

rằng, “Đấy cùng là điều vô nghĩa cũ mèng. Có vấn đề

gì đâu? Tôi có thời gian, và tôi phải vẫn còn bận bịu.”

Tôi hỏi người đó, “Ông đã làm gì trong mười ngày

qua?” Người đó nói, “Tôi đọc báo cũ - đọc đi đọc lại

chúng.”

Để ra vài lỗ hổng trong tâm trí mình không bị bận

rộn. Những khoảnh khắc của tâm thức không bận rộn

đó là những thoáng nhìn đầu tiên về thiền, thấm nhuần

đầu tiên của cõi bên kia, ánh chớp loé đầu tiên của vô

trí. Và thế thì nếu bạn có thể xoay xở làm được điều

này, điều khác là chọn thức ăn vật lí không giúp cho

cái hung hăng và bạo hành, cái không mang tính độc.

Bây giờ thậm chí các nhà khoa học cũng đồng ý

với điều này, rằng khi bạn giết con vật, từ nỗi sợ nó sẽ

tiết ra mọi loại chất độc. Cái chết là không dễ dàng.

Khi bạn giết một con vật, từ nỗi sợ một run rẩy lớn

phát sinh bên trong. Con vật muốn tồn tại: tất cả mọi

loại chất độc bị tiết ra.

Khi bạn trong sợ hãi bạn cũng tiết chất độc ra thân

thể. Những chất độc này là có ích: chúng giúp bạn hoặc

đánh nhau hoặc bỏ chạy. Đôi khi việc xảy ra là trong

giận dữ bạn có thể làm được những việc bạn không bao

giờ có thể hình dung ra mình làm được. Bạn có thể di

chuyển một tảng đá mà bình thường bạn thậm chí

không thể nào lay nổi nó, nhưng giận dữ có đó và chất

độc được tiết ra. Trong sợ hãi, mọi người có thể chạy

nhanh đến mức thậm chí vận động viên chạy Olympic

cũng bị bỏ lại đằng sau. Nghĩ về mình chạy nếu ai đó

đang đuổi sát sau bạn với lưỡi dao găm để giết bạn.

Bạn sẽ làm điều tốt nhất bạn có thể làm được, toàn bộ

thân thể bạn sẽ phục vụ cho việc đó ở mức tối ưu của

nó.

Khi bạn giết con vật, có giận dữ, có lo âu, có sợ

hãi. Cái chết đang đối diện nó: tất cả các tuyến của con

vật đều tiết ra nhiều loại chất độc. Do đó ý tưởng hiện

đại là ở chỗ trước khi giết con vật, làm cho nó vô ý

thức đi, làm mê nó đi. Trong các lò mổ hiện đại, người

ta dùng tới thuốc mê. Nhưng điều đó cũng chẳng tạo ra

khác biệt gì mấy, chỉ một khác biệt rất nông cạn, bởi vì

ở cốt lõi sâu nhất nơi không thuốc mê nào có thể đạt tới

được, cái chết phải bị đương đầu. Điều đó có thể không

ý thức, con vật có thể không nhận biết về điều sắp xảy

ra, nhưng điều đó xảy ra như trong giấc mơ. Nó trải

qua cơn ác mộng. Và ăn thịt là ăn thức ăn đã bị nhiễm

độc.

Tránh bất kì cái gì bị nhiễm độc trên bình diện vật

lí, tránh bất kì cái gì bị nhiễm độc trên bình diện tinh

thần. Và trên bình diện tinh thần mọi điều còn phức tạp

hơn. Nếu bạn nghĩ bạn là người Hindu, bạn bị nhiễm

độc rồi; nếu bạn nghĩ bạn là người Mô ha mét giáo, thì

bạn đã bị nhiễm độc rồi. Nếu bạn nghĩ bạn là người Ki

tô giáo, người Jaina, Phật tử, bạn đã bị nhiễm độc rồi.

Và bạn đã bị nhiễm độc từ từ - chậm đến mức bạn trở

nên hài hoà với nó. Bạn thành nghiện nó. Bạn đã được

nuông chiều từ ngay ngày đầu tiên; từ bầu vú mẹ, bạn

đã bị nhiễm độc rồi. Mọi loại huấn luyện đều là chất

độc. Nghĩ bản thân mình là người Hindu là nghĩ bản

thân mình đối lập với nhân loại. Nghĩ mình là người

Đức, người Trung quốc, là nghĩ bản thân mình đối lập

với nhân loại; là nghĩ dưới dạng thù hằn, không thân

thiện.

Nghĩ bản thân mình chỉ là con người thôi. Nếu bạn

có bất kì thông minh nào, nghĩ về bản thân mình như

một con người đơn giản. Và khi thông minh của bạn

phát triển thêm chút ít nữa, thậm chí bạn còn vứt bỏ

luôn cả cái tính từ ‘người’ đi. Bạn sẽ nghĩ bản thân

mình chỉ như sự hiện hữu. Và sự hiện hữu này bao hàm

tất cả - cây cối và núi non và dòng sông và các vì sao

và chim chóc và con vật.

Trở nên lớn hơn, trở thành khổng lồ. Tại sao bạn

sống trong đường hầm? Tại sao bạn bò trong những hố

đen tối nhỏ bé? Nhưng bạn nghĩ mình sống trong

những hệ thống ý thức hệ vĩ đại. Bạn không sống trong

những hệ thống ý thức hệ vĩ đại đâu, bởi vì chẳng có hệ

thống ý thức hệ vĩ đại nào cả. Không lí tưởng nào đủ vĩ

đại để chứa đựng con người: tính con người không thể

bị hàm chứa bởi bất kì khái niệm nào. Tất cả mọi khái

niệm đều què quặt và tê liệt.

Bạn đừng là người Cơ đốc giáo và đừng là người

cộng hoà - chỉ là con người - đấy tất cả đều là chất độc,

đấy tất cả đều là định kiến. Và qua nhiều thời đại bạn

đã bị thôi miên trong những định kiến này. Chúng đã

trở thành một phần máu bạn, xương bạn, chính tuỷ bạn.

Bạn sẽ phải rất tỉnh táo để gạt bỏ tất cả mọi sự nhiễm

độc này.

Thân thể bạn không bị nhiễm độc nhiều như tâm trí

bạn bị nhiễm. Thân thể là hiện tượng đơn giản, nó có

thể dễ dàng được tẩy sạch. Nếu bạn ăn thức ăn không

chay, điều đó có thể được dừng lại, đấy không phải là

cách xử trí lớn lắm. Và nếu bạn dừng ăn thịt, trong

vòng ba tháng thân thể bạn sẽ hoàn toàn thoát khỏi mọi

chất độc do thức ăn không chay gây ra. Điều đó đơn

giản. Thể chất không phải rất phức tạp. Nhưng vấn đề

nảy sinh với tâm lí. Sư Jaina không bao giờ ăn bất kì

thức ăn nhiễm độc nào, không bao giờ ăn bất kì cái gì

không chay. Nhưng tâm trí người đó lại bị ô nhiễm và

nhiễm độc bởi đạo Jaina mà không người nào khác bị

nhiễm cả.

Tự do thực sự là tự do khỏi mọi ý thức hệ. Bạn

không thể sống đơn giản không ý thức hệ nào được

sao? Ý thức hệ có phải là cần thiết không? Tại sao ý

thức hệ lại cần thiết nhiều đến thế? Nó được cần tới bởi

vì nó giúp cho bạn vẫn còn ngu xuẩn, nó được cần tới

bởi vì nó giúp cho bạn vẫn còn không thông minh. Nó

được cần tới bởi vì nó cung cấp cho bạn câu trả lời có

sẵn và bạn không cần tìm ra câu trả lời của riêng mình.

Con người thực sự của thông minh sẽ không níu

bám vào bất kì ý thức hệ nào - để làm gì? Người đó sẽ

không mang tải trọng của những câu trả lời làm sẵn.

Người đó biết rằng mình có đủ thông minh để cho dù

bất kì tình huống nào nảy sinh, người đó sẽ có khả

năng đáp ứng lại nó. Tại sao lại mang tải trọng không

cần thiết từ quá khứ? Phỏng có ích gì mà mang nó?...

Nếu bạn thay đổi thức ăn độc của mình, bạn sẽ

ngạc nhiên: thông minh mới sẽ thoát ra trong bạn. Và

thông minh mới này sẽ làm cho nó có khả năng không

tọng vào bạn những thứ vô nghĩa nữa. Thông minh mới

này sẽ làm cho bạn có khả năng vứt bỏ quá khứ và

những kí ức về nó, vứt bỏ những ham muốn và mơ

mộng không cần thiết, vứt bỏ ghen tị, giận dữ, chấn

thương và đủ mọi loại vết thương tâm lí.

Bởi vì bạn không thể vứt bỏ đi những vết thương

tâm lí, nên bạn mới trở thành nạn nhân của dối trá tâm

lí. Thế giới này đầy những nhà phân tâm đủ loại, họ tới

theo mọi hình dáng và kích cỡ. Thế giới này đầy các

loại trị liệu tâm lí. Nhưng sao cần tới nhiều cách trị liệu

tâm lí thế? Chúng được cần tới bởi vì bạn không đủ

thông minh để chữa lành vết thương riêng của mình.

Thay vì chữa lành chúng, thay vì mở chúng cho gió và

mặt trời, bạn cứ che giấu chúng. Bạn cần các nhà trị

liệu tâm lí giúp mình mở vết thương ra dưới mặt trời để

cho chúng có thể được chữa lành, để cho chúng có thể

được phép chữa lành. Nhưng rất khó tìm ra nhà trị liệu

tâm lí thực sự. Trong một trăm nhà trị liệu tâm lí, chín

mươi chín người là lừa dối tâm lí, không phải là nhà trị

liệu tâm lí.

Bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng nhiều nhà trị liệu tâm lí

và nhà phân tâm tự tử hơn người ở các nghề khác. Con

số gần gấp đôi. Bây giờ đây là loại người gì vậy? Và

làm sao họ giúp cho người khác được? Họ đã làm gì

trong cả đời mình khi giúp cho người khác? Nhiều nhà

phân tâm phát điên, phát rồ, hơn mọi người trong bất kì

nghề nào khác trên thế giới. Số lượng gần như gấp đôi.

Tại sao? Và họ giúp cho người khác hướng tới lành

mạnh, trong khi bản thân họ thì lại điên khùng. Có mọi

khả năng là họ trở nên quan tâm tới trị liệu tâm lí bởi vì

cái điên khùng của mình. Đấy là một nỗ lực để chữa

cho chính họ. Và bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng các nhà

trị liệu tâm lí thuộc loại này lại đi trị liệu tâm lí tại nhà

trị liệu tâm lí thuộc loại khác. Người theo Freud đi tới

người theo Jung, người theo Jung tới người theo Freud,

và cứ thế mãi. Điều này là một tình huống rất kì lạ.

Nếu thông minh thoát ra trong bạn, bạn sẽ có khả

năng làm tất cả những điều cần thiết. Bạn sẽ có khả

năng chữa lành cho vết thương riêng của mình, bạn sẽ

có khả năng thấy vết thương của riêng mình, bạn

không cần phải đi đến nhà trị liệu nguyên thuỷ.

Tôi cho phép mọi loại trị liệu trong công xã của tôi.

Trong thực tế, không có nơi nào khác trên thế giới

nhiều phép trị liệu tâm lí có sẵn như vậy - tất cả sáu

mươi loại. Tại sao tôi lại cho phép những trị liệu này?

Chỉ bởi vì các bạn thôi, bởi vì các bạn vẫn còn chưa

sẵn sàng để thông minh của mình được thoát ra. Khi

công xã này đi ngày càng sâu hơn vào trong việc hiểu

biết bên trong, trị liệu có thể bị loại bỏ. Khi công xã

này đã thực sự nở hoa, sẽ không cần bất kì phép trị liệu

nào nữa. Thế thì tình yêu là phép trị liệu; thông minh là

phép trị liệu. Thế thì việc sống hết ngày nọ sang ngày

kia, hết khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia, nhận

biết và tỉnh táo, là việc trị liệu rồi. Thế thì mọi thứ bạn

làm trong ngày, lau chùi và nấu bếp cùng giặt dũ, tất cả

chúng đều là trị liệu.

Các phép trị liệu ở đây chỉ để cho thời gian hiện

hữu. Cái ngày tôi trở nên bị thuyết phục rằng bây giờ

phần lớn các bạn đều đã vượt ra ngoài trị liệu, trị liệu

sẽ biến mất, bởi vì thế thì phần lớn các bạn sẽ có khả

năng kéo phần thiểu số vào trong thông minh nữa.

Chúng ta đang cố gắng tạo ra một loại thông minh

của cuộc sống. Tôi không thiên về người tôn giáo, tôi

không phải là thánh nhân, tôi chẳng liên quan gì tới

tâm linh cả. Tất cả những phân loại đó đều không liên

quan gì tới tôi. Bạn không thể phân loại tôi, bạn không

thể nhét tôi vào ô nào được. Nhưng có thể nói một

điều, rằng toàn bộ nỗ lực của tôi là để giúp cho bạn làm

thoát ra cái năng lượng vẫn được gọi là tình yêu-thông

minh. Nếu tình yêu-thông minh được thoát ra, bạn

được chữa lành.

Và kiểu thức ăn nhiễm độc thứ ba là tâm linh. Đó

là điều cái ta là gì. Cái ta cần sự chú ý liên tục: nó được

nuôi dưỡng bằng chú ý, chú ý là thức ăn của nó. Không

chỉ có chính khách mới khao khát sự chú ý, ngày càng

nhiều sự chú ý từ ngày càng nhiều người - cái gọi là

thánh nhân của bạn cũng làm cùng điều đó. Không có

khác biệt giữa thánh nhân và chính khách và diễn viên,

không khác biệt chút nào. Nhu cầu cơ bản là như nhau

- sự chú ý: “Nhiều người hơn nên chú ý tới tôi, nhiều

người hơn nên nhìn vào tôi.” Điều đó trở thành thức ăn

cho bản ngã, và nó là loại thức ăn nhiễm độc...

Vật lí, tâm lí, tâm linh... Để thân thể sinh lí được

thuần khiết khỏi mọi chất độc và độc tố, và tâm trí bạn

được hết nặng gánh khỏi mọi rác rưởi và đồ tạp nham.

Và để cho linh hồn bạn được tự do khỏi ý tưởng về cái

ngã. Khi linh hồn được tự do khỏi ý tưởng về cái “tôi”

bạn đã tới không gian bên trong đó vẫn được gọi là vô

ngã, anatta. Đó là tự do, đó là niết bàn, đó là chứng

ngộ. Bạn đã về tới nhà. Bây giờ chẳng có đâu mà đi cả;

bây giờ bạn có thể lắng đọng, nghỉ ngơi và thảnh thơi.

Bây giờ bạn có thể tận hưởng hàng triệu niềm vui mà

sự tồn tại vẫn đang mưa rào lên bạn.

Khi ba thức ăn nhiễm độc này bị loại bỏ, bạn trở

thành trống rỗng. Nhưng trống rỗng này lại không phải

là loại trống rỗng phủ định. Bạn trống rỗng theo nghĩa

là tất cả các chất độc, tất cả các nội dung, đều mất đi.

Nhưng bạn lại tràn đầy - tràn đầy cái gì đó không thể

nào gọi tên được, tràn đầy cái gì đó mà những người

sùng kính gọi là ‘Thượng đế.’34

Có hai kiểu thức ăn. Một là cái bạn thích, cái bạn

hâm mộ, mà về nó bạn tưởng tượng ra. Chẳng có gì sai

trong nó, nhưng bạn sẽ phải học một mẹo nhỏ về nó.

Có những thức ăn cực kì quyến rũ. Quyến rũ đó không

phải bởi vì bạn thấy rằng thức ăn này là có sẵn. Bạn

vào khách sạn, vào nhà hàng, và bạn thấy thức ăn nào

đó - mùi thơm bốc lên từ phòng sau, mầu sắc và hương

vị của thức ăn này. Bạn đã không nghĩ về thức ăn và

bỗng nhiên bạn lại quan tâm tới nó - điều này sẽ chẳng

ích gì. Đây không phải là ham muốn thực sự của bạn.

Bạn có thể ăn cái này và nó sẽ không thoả mãn cho

bạn. Bạn sẽ ăn và ăn và chẳng có gì sẽ bắt nguồn từ nó

cả; không thoả mãn nào bắt nguồn từ nó. Mà thoả mãn

lại là điều quan trọng nhất. Chính việc không thoả mãn

mới tạo ra nỗi ám ảnh.

Đơn giản thiền hàng ngày trước khi bạn ăn. Nhắm

mắt và chỉ cảm thấy điều thân thể bạn cần - dù nó là

bất kì cái gì! Bạn không thấy bất kì thức ăn nào -

không thức ăn nào có sẵn cả; bạn đơn giản cảm thấy

con người riêng của mình, điều thân thể bạn cần, điều

bạn cảm thấy thích, điều bạn khao khát.

Tiến sĩ Leonard Pearson gọi điều này là ‘thức ăn

chủ chốt’ - thức ăn chủ yếu cho bạn. Bạn cứ tới và ăn

thật nhiều nó thoả thích, nhưng trung thành với nó.

Thức ăn khác ông ấy gọi là ‘thức ăn chào mời’: khi nó

trở thành sẵn đấy, bạn trở nên quan tâm tới nó. Thế thì

nó là một thứ của tâm trí và nó không phải là nhu cầu

của bạn. Nếu bạn lắng nghe thức ăn chủ chốt, bạn có

thể ăn bao nhiêu tuỳ thích và bạn sẽ không bao giờ khổ

cả, bởi vì nó sẽ thoả mãn bạn. Thân thể đơn giản ham

muốn cái nó cần; nó không bao giờ ham muốn bất kì

cái gì khác. Điều đó sẽ là thoả mãn, và một khi có thoả

mãn, người ta sẽ không bao giờ ăn thêm nữa. Vấn đề

chỉ nảy sinh nếu bạn ăn thức ăn là thức ăn chào mời:

bạn thấy chúng sẵn có và bạn trở nên quan tâm và bạn

ăn. Chúng không thể nào thoả mãn bạn được bởi vì

không có nhu cầu trong thân thể về chúng. Khi chúng

không thoả mãn bạn, bạn cảm thấy không được thoả

mãn. Cảm thấy không được thoả mãn, bạn lại ăn thêm,

nhưng dù bạn ăn nhiều đến đâu, điều đó cũng vẫn cứ

không thoả mãn bởi vì không có nhu cầu ngay chỗ đầu

tiên.

Kiểu ham muốn thứ nhất phải được đáp ứng, thế thì

kiểu ham muốn thứ hai sẽ biến mất. Điều mọi người

đang làm là ở chỗ họ chẳng bao giờ nghe ham muốn

thứ nhất, cho nên ham muốn thứ hai trở thành vấn đề.

Nếu bạn lắng nghe thức ăn chủ chốt, thức ăn chào mời

sẽ biến mất. Ham muốn thứ hai là vấn đề chỉ bởi vì bạn

đã hoàn toàn quên mất rằng bạn phải lắng nghe ham

muốn bên trong của mình, và mọi người đã từng được

dạy đừng lắng nghe nó. Họ đã được dạy, ‘Ăn cái này,

đừng ăn cái kia” - những qui tắc cố định. Thân thể

không biết tới những qui tắc cố định.

Họ đã thấy rằng nếu trẻ nhỏ được bỏ lại một mình

với thức ăn, chúng sẽ chỉ ăn cái cần cho thân thể

chúng; và họ đã ngạc nhiên. Nhiều phát kiến tâm lí bây

giờ đã có sẵn; chúng đơn giản đáng ngạc nhiên. Nếu

đứa trẻ đang bị một bệnh nào đó, và nếu táo là tốt cho

bệnh đó, đứa trẻ sẽ chọn táo. Tất cả các thức ăn khác

có đấy nhưng đứa trẻ này sẽ chỉ đi tới táo.

Đó là điều mọi con vật đều làm; chỉ con người mới

quên mất ngôn ngữ đó. Bạn đem tới một con trâu và để

nó trong vườn. Cả khu vườn có đó - tất cả cây cỏ đều

sẵn có; nó chẳng bận tâm. Hoa và cây có thể vẫy mời

nhưng nó sẽ chẳng bận tâm tới chúng. Nó sẽ đi tới bãi

cỏ, cái lôi kéo nó, và nó sẽ chọn chỉ loại cỏ nào đó là

nhu cầu của nó. Bạn không thể đánh lừa trâu được; bạn

chỉ có thể đánh lừa được người thôi.

Con người đã sa ngã thậm chí thấp dưới con trâu.

Bạn không thể lừa khỉ được - nó sẽ ăn thức ăn của nó.

Con người bị lừa. Tại mọi nơi qua quảng cáo, ảnh mầu,

ti vi, phim, bạn đang bị hấp dẫn và phân tán khỏi thân

thể chủ yếu của mình. Một số công ti quan tâm tới việc

bán cái gì đó cho bạn. Cái đó là vì quyền lợi của công

ti, nó đem lại lợi nhuận cho công ti, không phải cho

bạn.

Công ti Coca-Cola nào đó đang quan tâm tới việc

bán Coca-Cola cho bạn. Điều đó chẳng liên quan gì tới

thân thể bạn cả; nó quyến rũ bạn. Dù bạn đi bất kì đâu,

đều có Coca-Cola; Coca Cola dường như là một trong

những thứ phổ dụng nhất. Thậm chí ở nước Nga Xô

viết - không cái gì khác của Mĩ là được phép, nhưng

Coca-Cola lại có đó. Từ mọi nơi cái chai này đang vẫy

gọi bạn, đang chào mời, “Lại đây đi.” Và bỗng nhiên

bạn bắt đầu cảm thấy khát. Cái khát đó là giả. Tôi

không nói đừng uống Coca-Cola - nhưng để cho nó là

cái bản chất; làm cho nó thành vấn đề.

Sẽ phải mất vài ngày, thậm chí vài tuần cho bạn để

đi tới cảm thấy cái gì hấp dẫn bạn. Ăn thật nhiều tuỳ

thích cái hấp dẫn bạn. Đừng bận tâm về điều người

khác nói. Nếu kem hấp dẫn bạn, thì ăn kem. Ăn cho tới

mức thoả mãn bạn, cho tới mức thoả mãn ham muốn

của con tim bạn, và thế rồi bỗng nhiên bạn sẽ thấy rằng

có thoả mãn. Và khi bạn cảm thấy được thoả mãn, ham

muốn về thứ đó sẽ biến mất. Chính trạng thái không

được thoả mãn mới làm cho bạn cứ tọng thứ đó vào

mình thêm nữa không có mục đích nào cả. Bạn cảm

thấy tràn đầy và vẫn không thoả mãn, cho nên vấn đề

mới phát sinh.

Cho nên trước hết bắt đầu học điều gì đó là tự

nhiên và điều đó sẽ tới bởi vì chúng ta chỉ quên mất: nó

có đó trong thân thể. Khi bạn sắp ăn sáng, nhắm mắt lại

và thấy điều bạn muốn; cái thực sự là ham muốn của

bạn. Đừng nghĩ về cái có sẵn; đơn giản nghĩ về ham

muốn của bạn là gì, và thế rồi đi và tìm cái đó và ăn nó.

Ăn thật nhiều tuỳ thích. Trong vài ngày chỉ đi cùng nó.

Dần dần bạn sẽ thấy rằng bây giờ chẳng thức ăn nào

vẫy mời bạn nữa.

Điều thứ hai: khi bạn ăn, nhai cho kĩ. Đừng nuốt nó

vội vàng, bởi vì nếu nó đang trong miệng, tận hưởng

nó trong miệng, vậy tại sao không nhai nó thêm nữa?

Nếu bạn cắn cái gì đó mười cắn, bạn có thể tận hưởng

thêm một cái cắn nữa, nhai nó thêm mười lần nữa. Gần

như có thể cắn mười lần nếu tận hưởng của bạn chỉ về

vị giác.

Chuyện xảy ra là có lần một người uống cốc cà phê

nóng ở đâu đó tại Nhật Bản và người đó làm bỏng

họng mình bên trong. Rắc rối phát sinh và họng người

đó bị cắt đứt hoàn toàn với bên trong; lối chuyển thức

ăn phải bị đóng lại nếu không người này sẽ chết. Các

bác sĩ đặt một cái ống vào trong dạ dầy người đó để

cho người đó phải nhai thức ăn, rồi nhét thức ăn vào

trong ống đó, và ống đó sẽ đưa thức ăn vào trong dạ

dầy.

Người này ngạc nhiên bởi vì người đó liên tục thấy

thích thức ăn như trước đây. Và thậm chí các bác sĩ

cũng ngạc nhiên. Ban đầu họ cảm thấy rất thông cảm

với người đó bởi vì con người đáng thương này không

còn được tận hưởng thức ăn nữa. Nhưng người này cứ

tiếp tục thưởng thức ăn. Trong thực tế người đó lại còn

thích thú ăn nhiều hơn bởi vì bây giờ người đó sẽ nhai

nó và nếu người đó không muốn đưa vào trong dạ dầy,

người đó đơn giản chỉ nhè nó ra. Bây giờ người đó có

thể ăn nhiều tuỳ ý. Không cần phải đưa nó vào trong dạ

dầy: cái mồm và cái dạ dầy hoàn toàn tách biệt.

Cho nên bất kì khi nào bạn ăn, nhai nhiều hơn, bởi

vì thưởng thức ở phía trên cổ họng. Phía dưới họng

không có vị giác - không có gì thuộc loại như thế - cho

nên sao phải vội vàng? Nhai nó thêm chút nữa, nếm nó

thêm chút nữa. Và làm việc nếm này thật mạnh mẽ,

làm tất cả những gì có thể làm được. Khi bạn ăn cái gì

đó, trước hết ngửi nó. Tận hưởng mùi vị của nó bởi vì

một nửa vị giác là khứu giác.

Nhiều thực nghiệm đã được tiến hành. Nếu mũi

bạn bị bịt hoàn toàn và thế rồi bạn được trao cho cái gì

đó, bạn không thể nào nếm được nó. Thế thì bạn sẽ

hiểu rằng thức ăn cần nhiều khứu giác hơn là vị giác.

Nếu mắt bạn nhắm, bạn không thể nào nếm được nó tới

mức đó, bởi vì mầu sắc, cái hấp dẫn với con mắt,

không còn có đó. Người ta đã làm những thực nghiệm

hay: mắt nhắm, mũi bị bịt lại hoàn toàn, và thế rồi họ

đưa cho bạn cái gì đó; bạn thậm chí không thể nào nói

được nó là gì. Họ có thể đưa cho bạn củ hành và bạn

không thể nào nói rằng nó là củ hành bởi vì nhiều điều

phụ thuộc vào khứu giác. Đó là lí do tại sao khi bạn bị

cảm bạn không thể nào thưởng thức được thức ăn, bởi

vì khứu giác không có đó, vị giác không có đó. Khi

người ta đang bị cảm lạnh họ bắt đầu ăn thức ăn cay

bởi vì chỉ thế thì họ mới có thể cảm thấy chút ít rân

rân.

Cho nên ngửi thức ăn, nhìn thức ăn đi. Chẳng vội

gì... để thời gian. Làm cho nó thành việc thiền. Cho dù

mọi người có cho là bạn đã phát điên, cũng đừng lo

nghĩ. Nhìn nó từ mọi phía. Chạm vào nó với mắt nhắm,

chạm vào nó bằng má bạn. Cảm nó theo mọi cách;

ngửi đi ngửi lại nó. Thế rồi cắn miếng nhỏ và nhai nó,

thưởng thức nó; để cho điều đó thành việc thiền. Một

lượng rất nhỏ thức ăn sẽ đủ và sẽ cho bạn nhiều thoả

mãn hơn.35

#14Tôi ghét quá nặng cân nhưng không thể nào làm

giảm trọng lượng được rất lâu mặc cho mọi chế độ

ăn kiêng tôi đã thử...

Bạn có một ý tưởng rất cầu toàn về thân thể phải

thế nào, về bạn phải thế nào. Bạn có một mục đích rất

rõ ràng, và bởi vì mục đích rõ ràng đó mà bạn không

đạt tới và bạn không thể nào chấp nhận được bản thân

mình, bạn cứ bác bỏ. Và từ việc bác bỏ đó, bạn cảm

thấy khổ.

Bỏ các mục đích và lí tưởng đó đi: những lí tưởng

và mục đích đó bạn đã giữ trong tâm trí mình về cách

thức mọi việc đáng phải thế, cách thức bạn đáng phải

thế. Vứt chúng đi! Và chẳng có gì mất cả, chẳng cái gì

thiếu cả; năng lượng của bạn bắt đầu tuôn chảy. Một

khi bạn trong khoảnh khắc này, thân thể bạn bắt đầu

giảm trọng lượng. Chính việc đối kháng liên tục với

thân thể mới làm cho nó béo ra, bởi vì khi bạn liên tục

chống lại thân thể thì thân thể cảm thấy bất an, và từ

bất an mà nó cứ ăn mãi.

Nó cũng giống như đứa trẻ không thể nào tin cậy

vào mẹ nó. Nếu đứa trẻ không thể nào tin cậy được vào

người mẹ, một khi nó vớ được vú mẹ nó sẽ không rời

ra bởi vì nó không thể nào tin cậy được; nó không biết

khi nào nó sẽ lại có được bầu vú lần nữa. Điều đó là

không chắc chắn, nó không thể nào vẫn còn an toàn

trong điều đó - cho nên nó sẽ nắm giữ. Nó sẽ cứ bú thật

nhiều hết sức. Nó sẽ nốc đầy sữa bởi vì tương lai là

không chắc chắn. Khi đứa trẻ biết người mẹ yêu nó và

biết người mẹ sẽ có đấy - bất kì khi nào nó cần tới mẹ,

mẹ đều có sẵn đấy - nó chẳng bận tâm tọng đầy mình.

Nó có thể nghỉ ngơi, nó có thể ăn đủ mức cần thiết

trong khoảnh khắc đó, không có nhu cầu phải tích trữ.

Trong thực tế, béo chính là tích trữ; vì tương lai

không chắc chắn nào đó mà người ta cứ tích trữ. Con

người có thể sống ba tháng không có thức ăn, người ta

có thể thu thập nhiều mỡ như thế. Đấy là thói quen cũ,

cổ điển, sinh học. Đã có thời, hàng nghìn năm trước

đây, khi con người còn là thợ săn và thức ăn không

chắc chắn. Hôm nay thức ăn có đấy, và thừa thãi, và

trong nhiều ngày lại chẳng có gì cả. Con người mang

thói quen sinh học đó. Điều đó liên kết với bất an. Bây

giờ không có vấn đề gì - ít nhất là không vấn đề gì ở

Mĩ: bạn có đủ thức ăn. Lần đầu tiên xã hội có đủ thức

ăn. Người Mĩ không nên béo chút nào. Người Ấn Độ

có thể được phép béo bởi vì thức ăn là không chắc

chắn.

Điều tôi đang nói là ở chỗ bây giờ thức ăn có sẵn,

thức ăn ngon, nuôi dưỡng tốt, không có nhu cầu vật lí

để ăn thêm, nhưng bây giờ bất an tâm lí lại làm lẩy cò

cho cơ cấu của thân thể, và thân thể bắt đầu cảm thấy

bất an. Nó chỉ biết một cách để tránh bất an, và đó là ăn

nhiều hơn, cứ ăn và tọng vào mình. Điều đó trở thành

mối bận tâm.

Vứt mọi lí tưởng đi! Không có gì bạn phải cải tiến;

bạn đẹp hoàn hảo như bạn hiện hữu. Và bắt đầu sống!

Thay vì nghĩ rằng bạn sẽ sống trong tương lai khi bạn

hoàn hảo, khi bạn giống thế này, giống thế nọ, bạn sẽ

sống khi bạn đã đạt tới một chuẩn nào đó tương ứng

với tâm trí bạn... Nhưng cuộc sống là ở đây bây giờ và

đang tuột dần khỏi tay ta. Ngày mai có cái chết - chỉ

hôm nay mới có cuộc sống... nó bao giờ cũng là hôm

nay.

Bắt đầu sống và bắt đầu tận hưởng đi. Bạn càng tận

hưởng nhiều, bạn càng sẽ ăn ít. Người hạnh phúc thực

sự không ăn nhiều. Chính từ khổ, từ đau đớn, từ trống

rỗng, từ vô nghĩa người ta mới muốn nắm bắt cái gì đó

- ít nhất là thức ăn, cái gì đó.36

Thân thể đã tích luỹ nhiều trí huệ, thân thể rất trí

huệ. Nếu bạn ăn quá nhiều thân thể nói, “Dừng lại!”

Tâm trí không trí huệ được đến thế. Tâm trí nói,

“Hương vị này ngon lắm - ăn thêm chút nữa.” Và nếu

bạn nghe lời tâm trí, thế thì tâm trí trở nên phá hoại

thân thể, theo cách này hay cách khác. Nếu bạn nghe

tâm trí, ban đầu nó sẽ nói, “Ăn nữa đi,” bởi vì tâm trí

ngu xuẩn, trẻ con. Nó không biết nó đang nói gì. Nó là

kẻ mới tới, nó không có học. Nó không trí huệ, nó vẫn

là kẻ ngu xuẩn. Lắng nghe thân thể đi. Khi thân thể

nói, “Đói rồi,” thì ăn. Khi thân thể nói, “Dừng lại,” thì

dừng.

Nếu bạn nghe theo tâm trí, điều đó cũng như là đứa

trẻ nhỏ đang dẫn ông già đi - họ cả hai sẽ ngã xuống

cống. Và nếu bạn nghe tâm trí, thế thì ban đầu bạn sẽ

dính líu quá nhiều vào các giác quan, và thế rồi bạn sẽ

phát ngán. Và mọi giác quan sẽ mang đến cho bạn khổ,

và mọi giác quan sẽ đem đến cho bạn nhiều lo âu, xung

đột, đau đớn. Nếu bạn ăn quá nhiều sẽ có đau bụng và

sẽ nôn mửa, và cả thân thể bị rối loạn. Thế thì tâm trí

nói, “Ăn là xấu, cho nên phải nhịn ăn” Và nhịn ăn cũng

nguy hiểm. Nếu bạn lắng nghe thân thể mình, nó sẽ

không bao giờ ăn quá mức, nó sẽ không bao giờ ăn

thiếu mức - nó sẽ đơn giản tuân theo Đạo.

Vài nhà khoa học đã làm việc trên vấn đề này và họ

đã phát hiện ra một hiện tượng rất hay: trẻ nhỏ ăn bất

kì khi nào chúng cảm thấy đói, chúng ngủ bất kì khi

nào chúng cảm thấy giấc ngủ tới - chúng lắng nghe

thân thể mình. Nhưng bố mẹ quấy rối chúng, họ cứ ép

buộc: bây giờ là giờ ăn tối, hay giờ ăn trưa, hay thế này

thế nọ, hay giờ đi ngủ - làm đi! Họ không cho phép

thân thể chúng. Cho nên một nhà thực nghiệm đã thử

để trẻ con theo ý chúng. Người đó làm việc với hai

mươi nhăm đứa trẻ. Chúng không bị bắt buộc khi nào

phải đi ngủ, chúng không bị bắt buộc khi nào phải dậy.

Chúng không bị bắt buộc chút nào trong sáu tháng. Và

một hiểu biết rất sâu sắc đã tới.

Chúng ngủ ngon. Chúng có ít giấc mơ hơn - không

ác mộng, bởi vì ác mộng tới thông qua bố mẹ người bắt

buộc chúng. Chúng ăn ngon, nhưng không bao giờ quá

nhiều - không bao giờ ít hơn sự cần thiết, không bao

giờ nhiều hơn sự cần thiết. Chúng hưởng thú việc ăn và

đôi khi chúng sẽ không ăn chút nào. Khi thân thể

không cảm thấy khoẻ chúng sẽ không ăn, và chúng

không bao giờ bị ốm bởi vì việc ăn. Và một điều nữa

mà không ai đã từng hoài nghi, lại đi tới được hiểu ra,

và đó là điều huyền bí. Chỉ Tăng Xán mới có thể hiểu,

hay Lão Tử hay Trang Tử, bởi vì họ là những bậc thầy

về Đạo. Đây là một khám phá như vậy: họ đã đi tới

hiểu ra rằng nếu đứa trẻ ốm, thế thì nó sẽ không ăn

những thức ăn đặc biệt. Thế rồi họ cố gắng hiểu tại sao

nó lại không ăn những thức ăn đó. Các thức ăn này

được phân tích ra và người ta tìm thấy rằng với bệnh

đó, những thức ăn này là nguy hiểm. Làm sao đứa trẻ

quyết định được? Chỉ là thân thể.

Và khi đứa trẻ lớn lên, bất kì thứ gì cần cho sự phát

triển của nó, nó sẽ ăn nhiều thứ ấy. Thế rồi họ phân

tích và họ thấy rằng những chất đó là có ích. Và thức

ăn này sẽ thay đổi, bởi vì nhu cầu đã thay đổi. Hôm

nay đứa trẻ ăn cái gì đó và cũng đứa trẻ đó ngày hôm

sau sẽ không ăn cái đó. Và các nhà khoa học cảm thấy

rằng có trí huệ-thân thể.

Nếu bạn cho phép thân thể có tiếng nói của nó, bạn

đang đi trên con đường phải đấy, đường lớn đấy. Và

điều này cũng không chỉ với thức ăn thôi - điều này

cũng là như vậy với toàn bộ cuộc sống. Dục của bạn đi

sai bởi vì tâm trí, dạ dầy bạn đi sai bởi vì tâm trí bạn.

Bạn can thiệp vào thân thể. Đừng can thiệp! Cho dù

bạn có thể làm điều đó trong ba tháng - cũng đừng can

thiệp, và bỗng nhiên bạn sẽ trở nên lành mạnh thế, và

mạnh khoẻ sẽ giáng xuống bạn.37

#14Nhịn ăn giúp cho sảng khoái của thân thể thế nào?

Bất kì khi nào bạn đang nhịn ăn thân thể không làm

việc tiêu hoá nữa. Trong thời kì đó thân thể có thể làm

việc bằng cách vứt bỏ các tế bào chết, các độc tố. Cũng

như một hôm, chủ nhật hay thứ bẩy, bạn đang trong

ngày nghỉ và bạn về nhà và bạn lau chùi nhà cả ngày.

Khi thân thể không có gì để tiêu hoá, bạn không ăn gì

cả, thân thể bắt đầu tự dọn dẹp mình. Một quá trình bắt

đầu một cách tự phát và thân thể bắt đầu vứt đi tất cả

những gì không cần thiết, cái giống như tải trọng. Nhịn

ăn là phương pháp làm thuần khiết. Đôi khi nhịn ăn là

hay - không làm gì cả, không ăn, chỉ nghỉ. Uống thật

nhiều chất lỏng và chỉ nghỉ, và thân thể sẽ được tẩy

rửa.

Đôi khi, nếu bạn cảm thấy rằng nhịn ăn lâu hơn là

cần thiết, bạn cũng có thể thực hiện nhịn ăn lâu hơn -

nhưng ở sâu trong tình yêu với thân thể. Và nếu bạn

cảm thấy nhịn ăn có hại cho thân thể theo bất kì cách

nào, dừng việc đó lại. Nếu nhịn ăn giúp ích cho thân

thể, bạn sẽ cảm thấy nhiều năng lượng hơn; bạn sẽ cảm

thấy sống động hơn; bạn sẽ cảm thấy sảng khoái hơn,

đầy sinh khí hơn. Điều này nên là tiêu chuẩn: nếu bạn

bắt đầu cảm thấy rằng bạn đang trở nên yếu hơn, nếu

bạn bắt đầu cảm thấy rằng run rẩy tinh tế đang tới

trong thân thể, thế thì nhận biết - bây giờ sự việc không

còn là làm thuần khiết nữa, nó đã trở thành huỷ hoại.

Dừng nó lại.

Nhưng người ta nên học toàn bộ khoa học về nó.

Trong thực tế người ta nên tiến hành nhịn ăn gần ai đó,

người đã từng nhịn ăn trong thời gian dài và người biết

toàn bộ con đường này rất rõ, người biết tất cả các triệu

chứng: nếu nó trở thành huỷ hoại cái gì sẽ xảy ra; nếu

nó không huỷ hoại thế thì cái gì sẽ xảy ra. Sau việc

nhịn ăn làm thuần khiết, thực sự, bạn sẽ cảm thấy mới

mẻ, trẻ hơn, sạch hơn, vô trọng lượng, hạnh phúc hơn;

và thân thể sẽ vận hành tốt hơn bởi vì bây giờ nó không

bị tải trọng nữa. Nhưng nhịn ăn chỉ tới nếu bạn đã ăn

sai. Nếu bạn không ăn sai thì chẳng cần phải nhịn ăn.

Nhịn ăn là cần thiết chỉ khi bạn đã làm điều sai với

thân thể - và tất cả chúng ta đều đã ăn sai.38

Tôi không phải là người tin vào nhịn ăn, tôi tin vào

thích ăn. Toàn bộ cách tiếp cận của tôi là cách tiếp cận

của lễ hội. Tôi không chống lại thú vui của các bạn -

chúng không phải là tất cả, người ta nên vượt ra ngoài

chúng, nhưng trong bản thân chúng thì chúng là đẹp.

Con người không nên phủ nhận điều gì, bởi vì phần bị

phủ nhận sẽ báo thù. Khoảnh khắc bạn bắt đầu phủ

nhận thì bạn đi ngược lại Đạo. Đạo là tự nhiên - là

thích ăn và không nhịn ăn. Việc nhịn ăn có thể được

dùng tới chỉ khi nó tới một cách tự nhiên.

Đôi khi con vật nhịn ăn. Đôi khi bạn có thể đã quan

sát con chó nhịn ăn: bạn đặt thức ăn xuống mà nó

không ăn. Nhưng nó không phải là người Jaina, nó

không phải là người tin vào nhịn ăn; nó không cảm

thấy thích ăn. Đấy không phải là vấn đề nguyên tắc,

đấy không phải là triết lí. Nó đang ốm, toàn thể bản thể

nó chống lại việc ăn - thay vì ăn, nó sẽ nôn ra. Nó sẽ đi

và ăn cỏ và nôn ra. Nó muốn làm nhẹ mình, dạ dầy nó

không trong hoàn cảnh sẵn sàng tiêu hoá thêm nữa.

Nhưng nó không phải là kẻ nhịn ăn. Điều đó là tự

nhiên.

Cho nên, nếu đôi khi bạn cảm thấy rằng việc nhịn

ăn tới một cách tự nhiên - không phải như luật, không

như nguyên tắc, không như triết lí phải theo, không

như kỉ luật bị áp đặt, mà là từ cảm giác tự nhiên của

bạn với nó - tốt. Thế nữa, bao giờ cũng nhớ rằng nhịn

ăn là để phục vụ cho thích ăn, để cho bạn có thể ăn lại

ngon hơn. Mục đích của việc nhịn ăn là như phương

tiện, không bao giờ như cứu cánh; và điều đó hiếm khi

xảy ra, hoạ hoằn lắm. Và nếu bạn hoàn toàn nhận biết

trong khi bạn ăn, và hưởng thú nó, bạn sẽ không bao

giờ ăn quá nhiều.

Nhấn mạnh của tôi không phải vào chế độ ăn kiêng

mà vào nhận biết. Ăn cho ngon, tận hưởng việc ấy thật

nhiều. Nhớ, qui tắc là: nếu bạn không tận hưởng thức

ăn, bạn sẽ phải ăn nhiều để bù lại. Nếu bạn tận hưởng

thức ăn bạn sẽ ăn ít, sẽ không cần phải bù vào. Nếu bạn

ăn chậm, nếm từng miếng nhỏ, nhai kĩ, bạn hoàn toàn

bị hấp thu vào trong nó. Ăn nên là thiền.

Tôi không chống lại việc thưởng thức ăn bởi vì tôi

không chống lại giác quan. Nhạy cảm là thông minh,

nhạy cảm là sống động. Cái gọi là tôn giáo của bạn đã

cố gắng để làm bạn mất nhạy cảm, làm bạn đờ đẫn. Họ

chống lại việc thưởng thức ăn, họ muốn bạn làm cho

lưỡi mình hoàn toàn vô cảm để bạn không thưởng thức

việc ăn được. Nhưng điều đó không phải là trạng thái

mạnh khoẻ; lưỡi trở thành vô cảm chỉ trong lúc ốm.

Khi bạn bị sốt, lưỡi trở thành vô cảm. Khi bạn mạnh

khoẻ lưỡi nhạy cảm, sinh động, rộn ràng, đập cùng với

năng lượng. Tôi không chống lại việc thưởng thức ăn,

tôi ủng hộ việc thưởng thức ăn. Ăn cho ngon, thưởng

thức cho ngon; thưởng thức ăn là điều thiêng liêng.

Và cũng vậy, cũng hệt như thưởng thức ăn, bạn

phải nhìn vào cái đẹp và thưởng thức; bạn phải lắng

nghe âm nhạc và thưởng thức; bạn phải chạm vào đá

và lá cây và con người - hơi ấm, đường viền - và

thưởng thức. Dùng tất cả các giác quan của mình, dùng

chúng đến mức tối đa của chúng, thế thì bạn sẽ thực sự

sống động và cuộc sống của bạn sẽ bắt lửa. Nó sẽ

không đờ đẫn, nó sẽ bắt lửa với năng lượng và sinh khí.

Tôi không ủng hộ cho những người đã từng dạy bạn

giết chết các giác quan của mình; họ chống lại thân thể.

Và nhớ, thân thể là ngôi đền của bạn, thân thể là

món quà thiêng liêng. Nó tinh tế thế và nó tuyệt vời thế

và nó kì diệu thế - giết chết nó là vô ơn với Thượng đế.

Thượng đế đã trao cho bạn vị giác; bạn không tạo ra

nó, nó chẳng liên quan gì tới bạn cả. Thượng đế đã trao

cho bạn đôi mắt và Thượng đế đã làm thế giới phiêu

diêu này với nhiều mầu sắc thế, và ngài đã cho bạn đôi

mắt. Để có mối giao cảm lớn giữa mắt và mầu sắc của

thế giới... Mọi thứ đều trong sự hài hoà mênh mông.

Đừng phá vỡ hài hoà này.

Cái gọi là các mahatma này chỉ là vị kỉ, và cách tốt

nhất để cảm thấy rằng bạn vĩ đại là chống lại thân thể.

Trẻ con làm điều đó. Trẻ con cảm thấy rằng buồn ỉa

đang tới; nó kìm điều đó lại, nó cảm thấy mạnh mẽ bởi

vì nó cảm thấy ý chí của mình: nó sẽ không nhường

thân thể. Bóng đái nó căng đầy và nó kìm lại. Nó muốn

chứng tỏ cho thân thể “Ta không phải là kẻ hầu của mi,

ta là chủ mi.” Nhưng đây là những thói quen huỷ hoại.

Lắng nghe thân thể. Thân thể không phải là kẻ thù

bạn, và khi thân thể đang nói điều gì đó, làm theo

tương ứng đi, bởi vì thân thể có trí huệ của riêng nó.

Bạn đừng quấy rối nó, đừng cứ đi theo con đường tâm

trí. Đó là lí do tại sao tôi không dạy bạn bất kì việc ăn

kiêng nào, tôi chỉ dạy bạn nhận biết. Ăn với nhận biết

hoàn toàn, ăn một cách thiền, và thế thì bạn sẽ không

bao giờ ăn nhiều và bạn sẽ không bao giờ ăn ít cả.

Nhiều cũng xấu như ít vậy. Ăn quá nhiều là xấu, cũng

hệt như nhịn ăn quá nhiều; chúng là các cực đoan. Tự

nhiên muốn bạn được cân bằng, trong một loại thăng

bằng nào đó, ở giữa, không ít không nhiều. Bạn đừng

đi vào cực đoan.

Đi vào cực đoan là bị thần kinh. Cho nên có hai

kiểu người thần kinh về thức ăn: những người cứ ăn

mãi, chẳng chịu nghe lời thân thể - thân thể cứ kêu la

“Dừng lại đi!” mà họ cứ tiếp tục. Đây là những người

thần kinh. Và thế rồi lại có loại khác: thân thể cứ kêu la

“Tôi đang đói đây!” còn họ cứ nhịn. Chẳng ai tôn giáo

cả, cả hai loại người này đều thần kinh, cả hai đều bệnh

hoạn - họ cần được trị liệu, họ cần đưa vào bệnh viện.

Người tôn giáo là người cân bằng: trong bất kì cái gì

người đó làm, người đó bao giờ cũng ở giữa. Người đó

không bao giờ đi vào các cực đoan bởi vì mọi cực đoan

đều sẽ tạo ra căng thẳng, lo âu. Khi bạn ăn quá nhiều

có lo âu bởi vì thân thể nặng gánh. Khi bạn không ăn

đủ có lo âu bởi vì thân thể đói. Người tôn giáo là người

biết chỗ cần dừng lại; và điều đó nên bắt nguồn từ nhận

biết của bạn, không từ giáo lí nào.

Nếu tôi bảo bạn phải ăn bao nhiêu, điều đó sẽ là

nguy hiểm bởi vì điều đó sẽ chỉ là con số trung bình.

Ai đó rất gầy và ai đó rất béo, và nếu tôi bảo bạn phải

ăn bao nhiêu - “ba chappatis” thế thì với ai đó điều đó

có thể quá nhiều và đối với ai đó điều đó có thể chẳng

là gì. Cho nên tôi không dạy các qui tắc cứng nhắc, tôi

đơn giản trao cho bạn khả năng phán đoán với nhận

biết. Lắng nghe thân thể bạn: bạn có một thân thể khác.

Và thế thì có các kiểu năng lượng khác nhau, các kiểu

tham dự khác nhau. Ai đó là giáo sư đại học; người đó

không dùng nhiều năng lượng khi có liên quan tới thân

thể mình. Người đó sẽ không cần nhiều thức ăn, và

người đó sẽ cần loại thức ăn khác. Ai đó là người lao

động; người đó sẽ cần nhiều thức ăn, và loại thức ăn

khác. Bây giờ một nguyên tắc cứng nhắc sẽ thành nguy

hiểm. Không qui tắc nào có thể được đưa ra làm qui tắc

phổ quát cả.

George Bernard Shaw đã nói rằng chỉ có một qui

tắc vàng, rằng không có qui tắc vàng nào cả. Nhớ điều

đó, không có qui tắc vàng nào cả - không thể có được,

bởi vì mỗi cá nhân đều duy nhất đến mức không ai có

thể qui định được. Cho nên tôi đơn giản cho bạn khả

năng phán đoán... Và khả năng phán đoán của tôi cũng

không phải là nguyên tắc, không phải là luật; cách tiếp

cận của tôi là của nhận biết, bởi vì hôm nay bạn có thể

cần nhiều thức ăn và ngày mai bạn có thể không cần

nhiều thức ăn đó. Đấy không chỉ là vấn đề về bạn khác

người khác - mọi ngày trong cuộc sống của bạn đều

khác với mọi ngày khác. Cả ngày bạn đã nghỉ, bạn có

thể không cần nhiều thức ăn. Cả ngày bạn đã làm việc

trong vườn đào hố, bạn có thể cần nhiều thức ăn.

Người ta nên tỉnh táo và người ta nên có khả năng lắng

nghe điều thân thể đang nói. Đi theo thân thể.

Thân thể không phải là chủ mà thân thể cũng

không phải là nô lệ; thân thể là người bạn của bạn -

thân thiện với thân thể mình đi. Người ăn quá nhiều và

người ăn kiêng cả hai đều trong cùng một bẫy. Cả hai

đều điếc; họ không lắng nghe điều thân thể đang nói...

Ăn vì niềm vui của việc ăn; thế thì bạn là người,

con người, sinh linh cao hơn. Yêu lấy niềm vui của tình

yêu; thế thì bạn là người, là sinh linh cao hơn. Lắng

nghe niềm vui của việc lắng nghe và bạn sẽ thoát khỏi

hạn chế của bản năng.

Tôi không chống lại hạnh phúc, tôi hoàn toàn ủng

hộ cho nó. Tôi là người theo chủ nghĩa hoan lạc, và đây

là hiểu biết của tôi: tất cả những người tâm linh vĩ đại

trên thế giới bao giờ cũng là người hoan lạc. Nếu ai đó

không phải là người hoan lạc và giả vờ làm người tâm

linh, người đó không phải vậy - thế thì người đó là

người bị bệnh tâm thần, bởi vì hạnh phúc là chính mục

đích, chính cội nguồn, chính cái đích của mọi điều.

Thượng đế đang tìm kiếm hạnh phúc qua bạn, trong

hàng triệu hình dạng. Cho phép ngài trong tất cả mọi

hạnh phúc có thể có và giúp ngài đi lên các đỉnh cao

hơn, đạt tới cao hơn, của hạnh phúc. Thế thì bạn mang

tính tôn giáo, và thế thì ngôi đền của bạn sẽ trở thành

nơi của lễ hội và nhà thờ của bạn sẽ không buồn bã và

xấu xí thế, u ám thế, chết chóc thế, như bãi tha ma vậy.

Thế thì sẽ có tiếng cười và sẽ có bài ca và sẽ có điệu vũ

và sẽ có hân hoan lớn.

Tôn giáo bị tổn hại rất nhiều bởi những người vẫn

đang thuyết giảng về tự hành xác. Tôn giáo phải được

thoát khỏi tất cả những điều vô nghĩa này. Rất nhiều

rác rưởi đã trở nên bám dính vào tôn giáo. Tôn giáo

tinh hoa không là gì khác hơn ngoài vui vẻ. Cho nên

bất kì cái gì đem lại cho bạn vui vẻ đều đức hạnh cả;

bất kì cái gì làm cho bạn buồn, bất hạnh, khổ sở đều là

tội lỗi. Để điều đó làm tiêu chuẩn.

Và tôi không trao cho bạn những qui tắc cứng nhắc

bởi vì tôi biết cách thức tâm trí con người vận hành.

Một khi qui tắc cứng nhắc được trao cho, bạn quên mất

nhận biết và bạn bắt đầu tuân theo qui tắc cứng nhắc

đó. Qui tắc cứng nhắc không phải là vấn đề - bạn có

thể tuân theo qui tắc đó và bạn sẽ chẳng bao giờ trưởng

thành cả.

Nghe vài giai thoại:

Benny về tới nhà thấy trong bếp một đống mảnh sứ

vỡ.

“Chuyện gì thế này?” anh ta hỏi vợ.

“Có điều gì đó sai với sách nấu ăn này,” cô ta giải

thích. “Sách nói rằng chiếc cốc cũ không quai cầm sẽ

có tác dụng để đong đo - và em phải mất mười một lần

để đập cái quai cầm ra mà không làm vỡ cốc.”

Bây giờ nếu sách nấu ăn nói điều đó, điều đó phải

được làm. Tâm trí con người thật là ngu xuẩn - nhớ

điều đó. Một khi bạn có qui tắc cứng nhắc, bạn tuân

theo nó.

Đám đông đi đón một anh chàng quan trọng, và

điều anh chàng quan trọng này đã nói, phải thực hiện.

Chuông vang lên và người phục vụ đi ra để canh cổng.

Người đó nhòm qua khung cửa, và nhận ra khách thăm,

bèn ra hiệu cho người đến tham gia hội họp lùi lại.

“Để ô của các ông ở cửa ấy,” người phục vụ bảo

với vị khách thăm.

“Tôi không có ô,” vị khách trả lời.

“Thế thì về nhà lấy ô đi. Ông chủ bảo tôi là mọi

người đều phải để ô ngoài cửa. Nếu không thì tôi sẽ

không cho ông vào đâu.”

Qui tắc là qui tắc...

Đấy là cuộc săn đuổi vô vọng nhưng chiếc xe cảnh

sát đang đuổi theo các tên trộm nhà băng bỗng nhiên

quẹo vào một trạm xăng, tại điểm đó viên cảnh sát lái

xe gọi điện về cho sếp.

“Bắt được chúng rồi chứ?” Viên sếp hỏi một cách

kích động.

“Chúng may đấy,” viên cảnh sát trả lời. “Chúng tôi

đang khép lại lỗ hổng, chỉ còn cách nửa dặm nữa thôi,

nhưng tôi để ý thấy xe đã đi quá năm trăm dặm rồi và

chúng tôi phải dừng lại để thay dầu.”

Bạn có thể làm gì khi phải thay dầu cứ sau mỗi

năm trăm dặm và năm trăm dặm đã tới số rồi? Bạn

phải thay dầu trước đã.

Tôi chưa bao giờ trao cho bạn các qui tắc cứng

nhắc bởi vì tôi biết tâm trí con người ngu xuẩn thế nào

và nó có thể ngu xuẩn thế nào. Tôi đơn giản trao cho

bạn một cảm giác, một khả năng phán đoán chiều

hướng. Nhận biết và sống qua nhận biết.

Thông thường bạn đang sống một cuộc sống rất

không ý thức. Bạn ăn quá nhiều bởi vì bạn vô ý thức -

bạn không biết bạn đang làm gì. Bạn trở nên ghen tị,

bạn trở nên sở hữu, bởi vì bạn vô ý thức và bạn không

biết mình đang làm gì. Bạn phát điên trong giận dữ,

bạn trở thành gần như bị quỉ ám khi bạn trong cơn

phẫn nộ, và bạn làm những việc mà bạn chẳng biết

điều mình đang làm.

Jesus nói trên cây thánh giá - lời cuối cùng của ông

ấy, nhưng cực kì quan trọng - ông ấy nói: “Xin Cha tha

thứ cho những người này bởi vì họ không biết điều họ

đang làm.” Bây giờ Ki tô giáo chưa bao giờ diễn giải

được những lời cực kì trọng đại này cho đúng. Thông

điệp của Jesus thật là đơn giản. Ông ấy đang nói:

Những người này là những người vô ý thức. Họ không

nhận biết chút nào, cho nên họ không thể chịu trách

nhiệm. Bất kì điều gì họ làm, họ đều làm trong giấc

ngủ; họ là kẻ mộng du, người đi trong khi ngủ. Xin tha

thứ cho họ. Họ không thể chịu trách nhiệm được.

Cho nên khi bạn ăn quá nhiều, tôi cầu nguyện

Thượng đế, “Xin Cha tha thứ cho con người này.

Người đó không biết điều mình đang làm.” Khi bạn

nhịn ăn, tôi lại phải cầu nguyện Thượng đế, “Xin tha

thứ cho người này bởi vì người đó không biết điều

mình đang làm.” Vấn đề thực sự không phải là làm mà

là đem nhận biết vào trong bản thể bạn, và nhận biết đó

sẽ thay đổi mọi thứ. Bạn đang giống như kẻ say khướt.

Tôi đã từng nghe: Mike bảo Pat anh ta sẽ đi thức

canh người chết, và Pat đề nghị được đi theo. Trên

đường Pat gợi ý hãy uống một hay hai cốc rượu và cả

hai sẽ đủ say. Kết quả là Mike không thể nào nhớ nổi

địa chỉ chỗ canh. “Nhà của bạn cậu ở đâu?” Pat hỏi.

“Tớ quên mất số nhà rồi, nhưng tớ chắc chắn đây là

phố ấy.”

Họ bước dọc phố đến vài phút cho tới khi Mike liếc

mắt nhìn vào một cái nhà anh ta nghĩ là đúng chỗ. Thế

là họ loạng choạng đi vào cái phòng tối. Họ mở cửa và

phát hiện ra phòng khách, cũng tối đen ngoại trừ tia

sáng le lói yếu ớt của cây nến đặt trên chiếc piano. Họ

đi tới trước chiếc piano, quì xuống và cầu nguyện. Pat

dừng mắt khá lâu nhìn vào chiếc piano. “Mike,” anh ta

nói, “Tớ không biết anh bạn của cậu, nhưng anh ấy

chắc chắn là có bộ răng đẹp.”

Đây là tình huống đó. Đây là cách thức con người

hiện hữu. Điều duy nhất tôi muốn trao cho bạn là khả

năng phán đoán có nhận biết. Điều đó sẽ làm thay đổi

toàn bộ cuộc sống của bạn. Đây không phải là vấn đề

đưa bạn vào kỉ luật, đây là vấn đề làm cho bạn sáng lên

từ bên trong.39

******************************************************

#15 Đau đớn

Bạn đang trong cơn đau - cái gì thực sự xảy ra bên

trong? Phân tích toàn bộ hiện tượng này: cơn đau có

đó, và có ý thức này rằng cơn đau có đó. Đây là hai

điểm: cơn đau có đó, và có ý thức này rằng cơn đau có

đó. Nhưng không có lỗ hổng, và bằng cách nào đó,

“Tôi đang trong cơn đau” - cảm giác này xảy ra - “Tôi

đang trong cơn đau.” Và không chỉ điều này - sớm hay

muộn, “Tôi là cơn đau” bắt đầu, xảy ra, bắt đầu là cảm

giác.

“Tôi đang đau; tôi đang trong cơn đau; tôi là nhận

biết về cơn đau” - đây là ba trạng thái khác nhau, rất

khác nhau. Tâm thức chứng kiến nói, “Tôi là nhận biết

về cơn đau.” Điều này là có thể được phép, bởi vì thế

thì bạn siêu việt lên trên cơn đau. Nhận biết siêu việt

lên - bạn khác với cơn đau, và có tách biệt sâu sắc.

Thực sự, chưa bao giờ có bất kì quan hệ nào; mối quan

hệ bắt đầu xuất hiện chỉ bởi vì sự gần gũi, bởi vì sự gần

gũi thân thiết của ý thức của bạn và tất cả những điều

xảy ra xung quanh.

Ý thức gần thế khi bạn đang trong cơn đau - nó chỉ

ngay đó bên cạnh, rất gần. Nó phải như thế; nếu không

thì cơn đau không thể nào được chữa khỏi. Nó phải ở

ngay gần để cảm thấy nó, để biết nó, để nhận biết về

nó. Nhưng bởi vì gần gũi này bạn trở nên bị đồng nhất,

và là một. Đây lại là một phương tiện an toàn; đây là

phương tiện an ninh, an ninh tự nhiên. Khi có cơn đau

bạn phải ở gần; khi có cơn đau, ý thức của bạn phải xô

vào cơn đau - để cảm thấy nó, để làm điều gì đó về nó.

Bạn đang trên phố và bỗng nhiên bạn cảm thấy một

con rắn ở đó - thế thì toàn bộ ý thức bạn trở thành cái

nhảy. Không mất khoảnh khắc nào, thậm chí không

suy nghĩ phải làm gì. Không có lỗ hổng giữa việc nhận

biết và hành động. Bạn phải ở rất gần; chỉ thế thì điều

này mới có thể xảy ra. Khi thân thể bạn đang chịu đau

đớn, bệnh tật, ốm yếu, bạn phải ở gần; nếu không thì

cuộc sống không thể tồn tại được. Nếu bạn ở xa và cơn

đau không được cảm thấy, thế thì bạn sẽ chết. Cơn đau

phải được cảm thấy ngay lập tức - không được có lỗ

hổng. Thông báo này phải được nhận ngay lập tức, và

tâm thức của bạn phải đi ngay tới chỗ đó để làm cái gì

đó. Đó là lí do tại sao việc ở gần lại là điều cần thiết.

Nhưng bởi vì sự cần thiết này mà hiện tượng khác cũng

xảy ra: gần quá, bạn trở thành một; gần quá, bạn bắt

đầu cảm thấy, “Đây là mình - cơn đau này, niềm vui

thích này.” Bởi sự gần gũi nên có sự đồng nhất: bạn trở

thành cơn giận dữ, bạn trở thành tình yêu, bạn trở

thành cơn đau, bạn trở thành hạnh phúc.

Có hai cách để dứt bản thân bạn ra khỏi những sự

đồng nhất giả tạo này. Bạn không phải là điều bạn đang

nghĩ, đang cảm, đang tưởng tượng, đang phóng chiếu;

điều bạn đang là đơn giản là sự kiện của nhận biết. Bất

kì cái gì xảy ra, bạn vẫn còn chỉ là nhận biết. Bạn là

nhận biết - sự đồng nhất đó không thể bị phá vỡ, sự

đồng nhất đó không thể bị phủ định. Tất cả các cái

khác đều có thể bị phủ định và vứt bỏ; nhận biết còn lại

là lớp nền tối thượng, cở sở tối thượng. Bạn không thể

phủ nhận điều đó, bạn không thể phủ định điều đó, bạn

không thể dứt bỏ bản thân mình ra khỏi nó.

Cho nên đây là quá trình: Cái không thể nào bị vứt

đi được, cái không thể nào bị làm tách biệt khỏi bạn,

mới là bạn; cái có thể tách ra được, bạn không phải là

nó. Cơn đau có đó; khoảnh khắc sau nó có thể không

có đó - nhưng bạn sẽ hiện hữu. Hạnh phúc đã tới và nó

sẽ ra đi; nó đang đấy và nó sẽ không đấy - nhưng bạn

sẽ có đấy. Thân thể trẻ trung, thế rồi thân thể trở nên

già đi. Tất cả các cái khác tới rồi đi - khách tới rồi đi -

nhưng chủ nhà còn lại như cũ. Cho nên các nhà huyền

môn thiền mới nói: Chớ bị lạc trong đám đông khách

khứa. Nhớ lấy tính chủ nhà của mình. Tính chủ nhà đó

là nhận biết. Tính chủ nhà đó là tâm thức chứng kiến.

Cái gì là phần tử cơ bản bao giờ cũng vẫn còn lại như

cũ trong bạn? Chỉ là cái đó, và không đồng nhất bản

thân bạn với tất cả những cái đến rồi đi. Nhưng chúng

ta trở nên đồng nhất với khách. Thực sự chủ nhà quá

bận bịu với khách, người đó quên mất.

Mulla Nasruddin mời tiệc một số bạn bè và một số

người lạ. Bữa tiệc rất chán, và nửa đêm đã trôi mất mà

nó cứ tiếp diễn mãi. Cho nên một người lạ, không biết

rằng Mulla là chủ nhà, mới nói với anh ta, “Tôi chưa

bao giờ thấy một bữa tiệc như thế, vô nghĩa đến thế.

Nó dường như chẳng bao giờ kết thúc, còn tôi chán đến

mức tôi muốn đi về.”

Mulla nói, “Anh nói đúng cái điều tôi định nói với

anh đấy. Bản thân tôi cũng chưa bao giờ thấy một bữa

tiệc vô nghĩa và chán ngấy đến thế trước đây, nhưng tôi

không đủ dũng cảm như anh. Tôi cũng nghĩ tới việc bỏ

nó và chỉ chực chạy đi.” Thế là cả hai đều chạy đi.

Thế rồi, ra đến giữa phố Mulla mới nhớ ra và nói,

“Cái gì bị sai rồi, bởi vì bây giờ tôi mới nhớ ra : tôi là

chủ nhà! Cho nên tôi xin lỗi, tôi phải quay lại.”

Điều này xảy ra cho tất cả chúng ta. Chủ nhà bị lạc

mất, chủ nhà bị quên lãng vào mọi khoảnh khắc. Chủ

nhà là cái ta chứng kiến của bạn. Cơn đau tới rồi hoan

lạc theo sau; có hạnh phúc, và có khổ. Và từng khoảnh

khắc, bất kì cái gì tới bạn đều bị đồng nhất với nó, bạn

trở thành khách.

Nhớ tới chủ nhà đi. Khi khách có đó, nhớ tới chủ

nhà. Và có nhiều kiểu khách khứa: hoan lạc, đau đớn;

khách bạn thích, khách bạn không thích, là khách của

mình; khách bạn thích sống cùng, khách bạn thích

tránh mặt - nhưng tất cả đều là khách. Nhớ đến chủ

nhà. Thường xuyên nhớ tới chủ nhà. Định tâm vào chủ

nhà. Vẫn còn trong tính chủ nhà của mình; thế thì có

tách biệt. Thế thì có lỗ hổng, khoảng hở - cây cầu bị

gẫy. Khoảnh khắc cây cầu này bị gẫy, hiện tượng từ bỏ

xảy ra. Thế thì bạn là trong nó, và không là nó. Thế thì

bạn có đó trong khách, mà vẫn là chủ nhà. Bạn không

cần trốn khỏi khách - không cần đâu.40

Bạn đã tránh né cả nghìn lẻ một đau đớn trong cuộc

sống mình. Bằng tránh né bạn không thể nào phá huỷ

được chúng - chúng cứ tích luỹ lại. Bạn cứ nuốt chửng

những đau đớn của mình; chúng vẫn còn trong hệ

thống của bạn. Đó là lí do tại sao mọi loại trưởng thành

tâm linh hay tâm lí lại đau đớn - khi bạn bắt đầu trưởng

thành, khi bạn quyết định trưởng thành, bạn phải đối

diện với tất cả những đau đớn bạn đã kìm nén. Bạn

không thể bỏ qua chúng được.

Bạn đã được nuôi dưỡng lớn lên theo cách sai.

Không may là mãi cho tới giờ, không một xã hội nào

đã từng tồn tại trên trái đất này lại không từng kìm nén

đau đớn. Tất cả các xã hội đều phụ thuộc vào kìm nén.

Hai điều họ kìm nén: một là đau đớn, điều kia là hoan

lạc. Và họ kìm nén hoan lạc cũng bởi vì đau đớn. Lập

luận của họ là ở chỗ nếu bạn không quá hạnh phúc bạn

sẽ chẳng bao giờ trở nên quá bất hạnh; nếu niềm vui bị

phá huỷ bạn sẽ không bao giờ ở sâu trong đau đớn. Để

tránh đau đớn họ tránh hoan lạc. Để tránh cái chết họ

tránh cuộc sống.

Và logic này có điều gì đó trong nó. Cả hai phát

triển cùng nhau - nếu bạn muốn có cuộc sống cực lạc

bạn sẽ phải chấp nhận nhiều phiền não. Nếu bạn muốn

có các đỉnh núi Himalayas thế thì bạn cũng sẽ phải có

thung lũng. Nhưng chẳng có gì sai với thung lũng cả;

cách tiếp cận của bạn chỉ phải khác đi. Bạn có thể tận

hưởng cả hai - đỉnh núi đẹp đẽ, thung lũng cũng vậy.

Và có những khoảnh khắc khi người ta nên tận hưởng

đỉnh núi và có những khoảnh khắc khi người ta nên

thảnh thơi trong thung lũng.

Đỉnh núi là ánh sáng mặt trời, nó là trong đối thoại

với bầu trời. Thung lũng là bóng tối, nhưng bất kì khi

nào bạn muốn thảnh thơi bạn đều phải đi vào trong

bóng tối của thung lũng. Nếu bạn muốn có các đỉnh núi

bạn sẽ cần phát triển gốc rễ trong thung lũng - gốc rễ

bạn càng ăn sâu, cây của bạn càng sẽ phát triển cao

hơn. Cây không thể nào phát triển được mà thiếu gốc

rễ và rễ phải ăn sâu vào trong đất.

Đau đớn và hoan lạc là hai phần cố hữu của cuộc

sống. Mọi người sợ đau đớn nhiều tới mức họ kìm nén

đau đớn, họ tránh bất kì tình huống nào đem tới đau

đớn, họ cứ lẩn tránh đau đớn. Và cuối cùng họ vấp vào

sự kiện rằng nếu bạn thực sự muốn tránh đau đớn bạn

sẽ phải tránh hoan lạc. Đó là lí do tại sao các sư tránh

hoan lạc - họ sợ hoan lạc. Trong thực tế họ đơn giản

tránh tất cả các khả năng đau đớn. Họ biết rằng nếu bạn

tránh hoan lạc thế thì một cách tự nhiên đau đớn lớn là

không thể có; nó chỉ tới như cái bóng của hoan lạc. Thế

thì bạn bước đi trên nền đất bằng - bạn chẳng bao giờ

đi trên các đỉnh núi và bạn không bao giờ rơi xuống

thung lũng. Nhưng thế thì bạn là người chết đang sống,

thế thì bạn không sống.

Cuộc sống tồn tại giữa tính chất cực này. Căng

thẳng này giữa đau đớn và hoan lạc làm cho bạn có khả

năng tạo ra âm nhạc vĩ đại; âm nhạc tồn tại chỉ trong

căng thẳng này. Phá huỷ tính cực này đi bạn sẽ thành

đờ đẫn, bạn sẽ tù đọng, bạn sẽ vô vị - bạn sẽ không có

bất kì ý nghĩa nào và bạn sẽ chẳng bao giờ biết rực rỡ

là gì. Bạn sẽ làm lỡ cuộc sống.

Người muốn biết cuộc sống và sống cuộc sống phải

chấp nhận và ôm choàng lấy cái chết. Chúng đi đôi với

nhau, chúng là hai khía cạnh của một hiện tượng. Đó là

lí do tại sao trưởng thành lại đau đớn. Bạn phải đi vào

trong tất cả những đau đớn đó mà bạn đã từng tránh né.

Nó gây đau. Bạn phải đi qua tất cả những vết thương

đó mà bằng cách nào đó bạn đã xoay xở không nhìn

vào. Nhưng bạn càng đi sâu hơn vào trong đau đớn,

khả năng của bạn để đi vào trong hoan lạc cũng càng

sâu hơn. Nếu bạn có thể đi vào trong đau đớn tới giới

hạn tận cùng nhất, bạn sẽ có khả năng chạm tới cõi

trời.

Tôi đã từng nghe: Một người tới một thiền sư và

hỏi, “Làm sao chúng tôi tránh được nóng và lạnh?”

Một cách đầy ẩn dụ, người đó đang hỏi, “Làm sao

chúng tôi tránh được hoan lạc và đau đớn?” Đó là cách

nói của thiền về hoan lạc và đau đớn: nóng và lạnh.

“Làm sao chúng tôi tránh được nóng và lạnh?”

Thiền sư trả lời, “Hãy nóng, hãy lạnh.”

Để thoát khỏi đau đớn, đau đớn phải được chấp

nhận, điều không tránh khỏi và tự nhiên. Đau đớn là

đau đớn - sự kiện đau đớn đơn giản - nhưng chịu đựng

chỉ là và bao giờ cũng là việc chối từ đau đớn, công bố

rằng cuộc sống không nên đau đớn. Nó là việc bác bỏ

một sự kiện, việc phủ nhận cuộc sống và phủ nhận bản

chất của mọi vật. Cái chết là tâm trí và tâm trí đang

chết. Nơi không có nỗi sợ chết thì ai có đó để mà chết?

Con người là duy nhất trong số các sinh vật có tri

thức về cái chết và có tiếng cười. Thế rồi điều kì diệu

là con người có thể làm cho cái chết thành một điều

mới: con người có thể chết khi cười. Chỉ con người

mới biết tiếng cười; không con vật nào cười cả. Chỉ

con người mới biết tới cái chết; không con vật nào biết

tới cái chết cả - con vật đơn giản chết, chúng không có

ý thức về hiện tượng chết.

Con người nhận biết về hai điều mà không con vật

nào nhận biết cả: một là tiếng cười, và điều kia là cái

chết. Thế thì sự tổng hợp mới là có thể. Chỉ con người

mới có thể chết khi cười - người đó có thể gắn ý thức

về cái chết và khả năng cười. Và nếu bạn có thể chết

trong khi cười, chỉ thế thì bạn mới đưa ra bằng chứng

hợp thức rằng bạn phải đã sống trong khi cười. Cái

chết là phát biểu cuối cùng của toàn bộ cuộc sống của

bạn - kết luận, nhận xét kết luận. Cách thức bạn đã

sống sẽ được chỉ ra bằng cái chết của bạn, cách bạn

chết. Bạn có thể chết trong khi cười được không? Thế

thì bạn đã là người trưởng thành. Nếu bạn chết trong

kêu khóc, níu bám, thế thì bạn là trẻ con. Bạn vẫn chưa

trưởng thành, bạn vẫn chưa chín chắn. Nếu bạn chết đi

trong kêu khóc, níu bám vào cuộc sống, điều đó đơn

giản chỉ ra bạn đã tránh né cái chết và bạn đã tránh né

tất cả mọi nỗi đau, tất cả mọi loại đau đớn.

Trưởng thành là đối diện với với thực tế, đương

đầu với sự kiện, dù nó là bất kì cái gì.

Và để cho tôi nhắc lại: Đau đớn đơn giản là đau

đớn; không có chịu đựng trong nó. Chịu đựng tới từ

ham muốn của bạn rằng đau đớn không nên có đó, rằng

có một cái gì đó sai trong đau đớn. Quan sát, chứng

kiến, và bạn sẽ ngạc nhiên. Bạn đau đầu: cái đau có đó

nhưng việc chịu đựng không có đó. Chịu đựng là hiện

tượng phụ, đau đớn là chính. Đau đầu có đó, cái đau có

đó; nó đơn giản là sự kiện. Không có phán xử gì về nó

cả. Bạn không gọi nó là tốt hay xấu, bạn không cho nó

bất kì giá trị nào; nó chỉ là sự kiện. Hoa hồng là sự

kiện, gai nhọn cũng vậy. Ngày là sự kiện, đêm cũng

vậy. Đầu là sự kiện, đau đầu cũng vậy. Bạn đơn giản

lưu ý về nó.

Phật đã dạy cho đệ tử của mình rằng khi bạn đau

đầu đơn giản nói hai lần “Đau đầu, đau đầu.” Lưu ý.

Nhưng không đánh giá, không nói, “Tại sao? Tại sao

cái đau đầu này lại xảy ra cho mình? Nó đáng không

nên xảy ra cho mình.” Khoảnh khắc bạn nói, “Nó đáng

không nên,” bạn mang chịu đựng vào rồi. Bây giờ chịu

đựng do bạn tạo ra, không phải do đau đầu. Chịu đựng

là cách diễn giải đối kháng của bạn, chịu đựng là việc

phủ nhận của bạn về sự kiện này.

Và khoảnh khắc bạn nói, “Nó đáng không nên,”

bạn đã bắt đầu né tránh nó, bạn đã bắt đầu quay lưng

với nó. Bạn muốn bận bịu vào cái gì đó để cho bạn có

thể quên nó đi. Bạn bật đài hay tivi hay đến câu lạc bộ

hay bạn bắt đầu đọc báo hay bạn đi và bắt đầu làm việc

trong vườn - bạn phân tán bản thân mình, bạn làm

mình phân tán đi. Bởi vì đau đớn đã không được chứng

kiến; bạn đơn giản đã phân tán bản thân mình. Đau đớn

đó sẽ bị hệ thống này hấp thu.

Để cho điều mấu chốt này được hiểu rất sâu sắc.

Nếu bạn có thể chứng kiến cơn đau đầu của mình mà

không lấy bất kì thái độ đối kháng nào, không tránh né

nó, không trốn khỏi nó; nếu bạn có thể chỉ có đó, mang

tính thiền ở đó - “Đau đầu, đau đầu” - nếu bạn có thể

chỉ đơn giản thấy nó, cái đau đầu sẽ đi theo thời điểm

của nó. Tôi không nói rằng nó sẽ đi một cách huyền bí,

mà chỉ bởi việc thấy của bạn nó sẽ đi. Nó sẽ đi theo

thời điểm của nó. Nhưng nó sẽ không bị hấp thu bởi hệ

thống của bạn, nó sẽ không đầu độc hệ thống của bạn.

Nó sẽ có đó, bạn sẽ lưu ý tới nó, và nó sẽ trôi qua. Nó

sẽ được thoát ra.

Khi bạn chứng kiến điều gì đó trong bản thân mình

điều đó không thể nào đi vào trong hệ thống của bạn

được. Nó bao giờ cũng đi vào khi bạn tránh nó, khi bạn

trốn khỏi nó. Khi bạn trở nên vắng mặt thế thì nó đi

vào trong hệ thống của bạn. Chỉ khi bạn vắng mặt cái

đau mới có thể trở thành một phần của con người bạn -

nếu bạn hiện diện, chính sự hiện diện của bạn ngăn cản

nó khỏi trở thành một phần của con người bạn.

Và nếu bạn có thể cứ nhìn đau đớn của mình bạn sẽ

không tích luỹ chúng. Bạn đã không được dạy cho

manh mối đúng, cho nên bạn cứ tránh né. Thế thì bạn

tích luỹ quá nhiều đau đớn, bạn sợ đối diện nó, bạn sợ

chấp nhận nó. Việc trưởng thành trở thành đau đớn -

đấy là bởi vì huấn luyện sai. Nếu không thì trưởng

thành là không đau đớn, trưởng thành là hoàn toàn hài

lòng.

Khi cây lớn lên và trở nên to hơn bạn có cho rằng

có đau đớn không? Chẳng có đau đớn gì cả. Thậm chí

khi đứa trẻ được sinh ra, nếu người mẹ chấp nhận nó sẽ

không có đau đớn. Nhưng người mẹ lại bác bỏ nó;

người mẹ sợ hãi. Cô ấy trở nên căng thẳng, cô ấy cố

giữ đứa trẻ bên trong - điều không thể được. Đứa trẻ

này sẵn sàng chui ra để vào trong thế giới rồi, đứa trẻ

sẵn sàng rời khỏi người mẹ. Nó đã chín muồi, bụng mẹ

không thể nào chứa được nó thêm nữa. Nếu bụng mẹ

chứa nó thêm nữa người mẹ sẽ chết và đứa trẻ sẽ chết.

Nhưng người mẹ lại sợ hãi. Cô ấy đã nghe nói rằng đẻ

con rất đau đớn - sinh đau, đẻ đau. Cô ấy sợ hãi, và từ

nỗi sợ cô ấy trở nên căng thẳng và khép kín.

Bằng không - trong các xã hội nguyên thuỷ các bộ

lạc vẫn còn tồn tại - việc sinh con đơn giản thế, chẳng

đau đớn chút nào. Ngược lại, bạn sẽ ngạc nhiên, niềm

cực lạc lớn nhất xảy ra cho người phụ nữ trong khi sinh

con - không đau đớn, không khổ sở chút nào, nhưng là

niềm cực lạc lớn nhất. Không cực thích dục nào lại

thoả mãn đến thế và mênh mông đến thế như cực thích

mà xảy ra cho người phụ nữ khi cô ấy cho sinh thành

đứa con một cách tự nhiên. Toàn bộ cơ cấu dục của

người phụ nữ xung động như nó không thể nào xung

động được trong bất kì việc làm tình nào. Đứa trẻ đang

tới từ cốt lõi sâu nhất của người phụ nữ. Không người

đàn ông nào có thể xuyên thấu vào người phụ nữ tới

cốt lõi đó. Và xung động này nảy sinh từ bên trong.

Xung động này là điều phải có - xung động đó sẽ tới

giống như sóng, những đợt sóng triều lớn của niềm vui.

Chỉ điều đó mới giúp cho đứa trẻ chui ra, chỉ điều đó

mới giúp cho lối đi mở ra cho đứa trẻ. Cho nên sẽ có

xung động lớn và toàn bộ bản chất dục của người phụ

nữ sẽ có niềm vui sướng cực kì. Nhưng điều thực tế đã

xảy ra cho loài người lại chính là điều ngược lại: người

phụ nữ đi tới cảm thấy nỗi khổ lớn nhất trong cuộc

sống mình. Và điều này là do bịa đặt của tâm trí, điều

này là giáo dục sai. Việc sinh có thể tự nhiên nếu bạn

chấp nhận nó.

Và do vậy nó đi cùng với việc sinh của bạn.

Trưởng thành có nghĩa là bạn được sinh ra mọi ngày.

Việc sinh không kết thúc vào ngày bạn được sinh ra -

vào ngày đó nó đơn giản bắt đầu, nó mới chỉ là bắt đầu.

Cái ngày bạn rời khỏi bụng mẹ bạn vẫn chưa được sinh

ra đâu, bạn mới bắt đầu được sinh ra; đấy mới chỉ là

bắt đầu. Và người ta cứ được sinh ra mãi cho đến khi

người đó chết. Không phải là bạn được sinh ra trong

một khoảnh khắc đâu. Quá trình sinh của bạn còn tiếp

tục trong bẩy mươi, tám mươi, chín mươi năm, suốt

chiều dài cuộc sống bạn. Nó là sự liên tục. Và mọi

ngày bạn sẽ cảm thấy niềm vui - phát triển lá mới, tán

lá mới, hoa mới, cành mới, vươn lên cao hơn và cao

nữa và chạm tới độ cao mới. Bạn sẽ sâu sắc hơn, cao

hơn, bạn sẽ đạt tới những đỉnh. Trưởng thành sẽ không

đau đớn. Nhưng trưởng thành lại đau đớn - đấy là vì

bạn, vì huấn luyện sai của bạn. Bạn đã được dạy không

trưởng thành; bạn đã được dạy vẫn còn tĩnh tại, bạn đã

được dạy níu bám lấy cái quen thuộc và cái đã biết. Đó

là lí do tại sao mỗi lần cái biết biến mất khỏi đôi tay,

bạn bắt đầu kêu khóc. Đồ chơi bị vỡ, núm vú giả đã bị

lấy đi...

Nhớ lấy, chỉ một điều sẽ có ích cho bạn: nhận biết -

không cái gì khác. Trưởng thành sẽ vẫn còn đau đớn

nếu bạn không chấp nhận cuộc sống trong tất cả mọi

lên xuống của nó. Mùa hè phải được chấp nhận và mùa

đông cũng phải được chấp nhận nữa. Đây là điều tôi

gọi là thiền. Thiền là khi bạn được làm trống rỗng tất

cả những cái cũ kĩ và cái đã được bảo cho và được thực

hiện đến chết. Thế thì bạn thấy. Hay đúng hơn, thế thì

có việc thấy: sinh thành của cái mới.41

Đau khổ là diễn giải của bạn. Bạn đã trở nên đồng

nhất quá nhiều với nó. Đó là quyết định của bạn. Bạn

có thể không đồng nhất nữa, và đau khổ biến mất. Đau

khổ của bạn cũng giống như cơn ác mộng vậy: trong

mơ bạn nghĩ một tảng đá lớn rơi xuống ngực mình, nó

đè nghiến bạn đến chết. Từ sợ hãi bạn tỉnh dậy... và tất

cả những gì bạn thấy thì chẳng là gì cả - tay bạn vẫn để

trên ngực. Nhưng trọng lượng của tay bạn làm lẩy cò

tưởng tượng trong bạn: nó trở thành tảng đá, và bạn bắt

đầu cảm thấy rất, rất kinh hoàng. Và bởi vì nỗi sợ, bạn

thức dậy... và bây giờ bạn cười. Hỏi chư phật, hỏi

người đã thức tỉnh, và họ nói chẳng có đau khổ gì trong

thế giới này cả - mọi người đều ngủ say và mơ đủ loại

đau khổ.

Và tôi biết khó khăn của bạn: nếu bạn có vấn đề thể

chất, nếu bạn bị mù, làm sao bạn có thể tin rằng đây

chỉ là mơ? Nếu bạn bị què quặt, làm sao bạn có thể tin

rằng đây chỉ là mơ? Nhưng bạn đã không quan sát sao?

- mọi đêm bạn mơ, và mọi sáng bạn biết rằng đấy chỉ

là giấc mơ và tất cả đều vô nghĩa - và lần nữa bạn sẽ

mơ và trong giấc mơ bạn sẽ lại tin rằng đây là chân lí.

Bạn đã mơ bao nhiêu giấc mơ trong đời mình rồi?

Hàng triệu giấc mơ! Mỗi đêm bạn mơ gần như không

dứt; chỉ trong vài phút việc mơ dừng lại, và thế rồi lại

một chu trình mơ khác bắt đầu.

Hàng triệu giấc mơ bạn đã từng mơ. Và mọi sáng

bạn đều cười và bạn nói nó không thực, nhưng bạn vẫn

chẳng học gì được mấy. Đêm nay lần nữa khi bạn mơ,

lại cùng ảo tưởng ấy sẽ dai dẳng: bạn sẽ biết rằng đây

là chân lí - trong mơ bạn sẽ biết đây là đúng. Cái ngày

bạn có thể nhớ trong giấc mơ của mình rằng đây là giấc

mơ, lập tức giấc mơ biến mất... bởi vì bạn đã mang

nhận biết vào trong cuộc sống mình.

Có vẻ rất khó mà tin cậy rằng tất cả những điều bạn

đang đau khổ đều chỉ là mơ do bản thân bạn tạo ra -

nhưng nó là vậy đấy, bởi vì tất cả những người đã trở

nên thức tỉnh đều nói như thế. Không một người đã

thức tỉnh nào đã nói khác đi. Và trong những khoảnh

khắc sáng suốt của nhận biết bạn cũng sẽ cảm thấy

cùng điều đó. Đây là gợi ý của tôi cho cho những

người có loại bệnh tật hay khuyết tật nghiêm trọng nào

đó: vấn đề của bạn không thể nào được giải quyết chỉ

bằng thảo luận trí tuệ - vấn đề của bạn chỉ có thể tan

biến đi, không được giải quyết. Vấn đề của bạn chỉ có

thể được tan biến đi bởi việc trở nên nhận biết hơn.

Một trong những người bạn của tôi, một người bạn

cũ, ngã từ cầu thang xuống và bị gẫy chân. Tôi tới

thăm ông ấy; ông ấy đau ghê gớm lắm. Và ông ấy lại là

một người rất tích cực mặc dầu ông ấy rất già, bẩy

mươi nhăm - nhưng rất tích cực, gần như thanh niên,

và theo đuổi hết cái nọ cái kia, và làm cái nọ cái kia,

việc phải nghỉ trên giường đối với ông ấy là không thể

được. Mà bác sĩ lại nói rằng ít nhất trong ba tháng ông

ấy phải ở trên giường. Điều này còn thảm hoạ hơn là

hai cái chân gẫy.

Khi tôi gặp ông ấy, ông ấy bắt đầu khóc. Tôi chưa

bao giờ thấy người đó khóc cả - ông ấy là người mạnh

mẽ, một người rất mạnh mẽ, gần như là người thép, và

đã thấy đủ mọi loại điều trong cuộc đời mình, là một

người rất hoạt động. Tôi hỏi ông ấy, “Ông cũng khóc

sao - có vấn đề gì với ông vậy?”

Ông ta nói, “Xin ban phúc cho tôi để tôi có thể chết

được. Tôi không muốn sống thêm nữa - ba tháng chỉ

nằm trên giường! Ông có hình dung được không? Đây

là hành hạ. Mới ba ngày trôi qua mà cảm giác cứ như

là ba năm rồi tôi phải trên giường. Ông biết tôi đấy,”

ông ấy nói, “Tôi không thể nào nghỉ được. Xin ban

phúc cho tôi để cho tôi có thể chết sớm! Tôi không

muốn sống thêm nữa. Ba tháng này và thế rồi bác sĩ

còn nói tôi sẽ què quặt cả đời - vậy phỏng có ích gì

nữa?”

Tôi nói với ông ấy, “Xin ông hành thiền đi. Tôi sẽ

ngồi cạnh ông, ông chỉ làm một việc thiền đơn giản:

rằng ông không phải là thân thể.”

Ông ấy hoài nghi. Ông ấy nói, “Điều đó liên can gì

tới tôi? Tôi đã nghe tất cả mọi điều ông nói về thiền

rồi, nhưng tôi không thể nào thiền được bởi vì tôi

không thể nào ngồi im lặng được.”

Tôi nói, “Bây giờ không có vấn đề về việc ngồi im

lặng - ông đã trên giường rồi. Đây là phúc lành đấy!

Nhắm mắt lại và tôi sẽ dạy ông thiền. Và tôi ban phúc

cho ông chết, bởi vì nếu ông muốn chết thì cũng hoàn

toàn tốt thôi. Nhưng phúc lành của tôi có thể có tác

dụng, có thể không có tác dụng, cho nên dẫu sao thì

ông cũng cứ thiền đi.”

Ông ấy hiểu ra vấn đề: “Chẳng có gì để làm cả...

vậy thì sao không thiền?” Một cách thiền đơn giản tôi

bảo ông ấy: “Ông đơn giản đi vào, nhìn vào thân thể từ

bên trong, nói “Nó không phải là tôi - thân thể là xa

xôi, xa xăm, đi xa rồi và ngày càng xa hơn, xa hơn. Tôi

là người quan sát trên núi, và thân thể đang nằm dưới

kia trong thung lũng tối tăm, và khoảng cách mênh

mông sao.”

Một nửa giờ trôi qua. Tôi phải đi, còn ông ấy vẫn

trong việc thiền đến mức tôi không muốn quấy rầy ông

ấy, nhưng tôi lại không muốn rời ông ấy đi bởi vì tôi

muốn biết điều gì đã xảy ra, ông ấy sẽ nói gì. Cho nên

tôi phải lay ông ấy. Ông ấy nói, “Đừng quấy rầy tôi.”

Tôi nói, “Nhưng tôi phải đi đây.”

Ông ấy nói, “Ông có thể đi được, nhưng đừng quấy

rầy tôi - điều này đẹp thế. Thân thể thực sự nằm nơi xa

xôi kia, hàng dặm hàng dặm xa xăm; tôi đã bỏ nó trong

thung lũng và tôi đang ngồi trên đỉnh núi, núi đầy ánh

sáng mặt trời. Nó đẹp thế, và tôi không cảm thấy đau gì

cả.” Và ba tháng đó tỏ ra là thời gian có giá trị nhất của

cuộc đời ông ấy. Ba tháng đó đã làm cho ông ấy thành

con người hoàn toàn khác. Ông ấy vẫn bị què, không

thể bước đi được, vẫn phải ở trên giường hầu hết thời

gian - nhưng bạn không thể nào tìm ra được một người

phúc lạc hơn. Ông ấy toả ra niềm phúc lạc. Bây giờ

ông ấy nói đấy không phải là tai hoạ - đấy là phúc lành.

Đau khổ có thể được biến đổi thành phúc lành. Ai

biết được? - bạn có thể biến đổi phúc lành của mình

thành đau khổ.42

Nếu bạn đau đầu, bác sĩ sẽ cho bạn thuốc aspirin.

Aspirin không phải là phương thuốc, nó đơn giản làm

cho bạn không nhận biết về triệu chứng. Aspirin không

phá huỷ cái đau đầu; nó đơn giản không cho phép bạn

biết về đau đầu. Nó làm lẫn lộn bạn. Đau đầu vẫn còn

đó nhưng bạn không còn nhận biết về nó. Nó tạo ra

một loại quên lãng.

Nhưng tại sao ngay chỗ đầu tiên đau đầu lại có đó?

Thuốc thường chẳng bận tâm về nó. Nếu bạn tới bác sĩ

ông ấy sẽ không bận tâm tại sao ngay chỗ đầu tiên bạn

lại bị đau đầu. Bạn đau đầu à! - vấn đề đơn giản với

ông ấy: "Triệu chứng này có đó, uống thuốc này đi -

thuốc nào đó, hoá chất nào đó - và triệu chứng đó sẽ

biến mất." Đau đầu có thể biến mất và bạn có rối loạn

dạ dầy vào ngày hôm sau; triệu chứng khác đã tới.

Con người là một; con người là một toàn bộ - một

đơn vị hữu cơ. Bạn có thể gạt vấn đề sang một bên, nó

sẽ tự khẳng định nó từ phía khác. Có thể mất thời gian

để đi tới phía khác, để đi tới điểm đó, nhưng nhất định

nó tới. Và thế rồi bị đẩy từ bên đó nó đi sang bên

khác... và con người có nhiều phía. Nó cứ bị đẩy từ góc

nọ sang góc kia.

Từ tất cả những điều này bạn trở thành ngày một

ốm yếu hơn chứ không mạnh khoẻ. Và đôi khi việc xảy

ra là một bệnh rất nhỏ trở thành bệnh lớn. Chẳng hạn,

nếu đau đầu không được phép, và đau dạ dầy không

được phép, và không đau nào được phép cả, cái đau tới

và lập tức bạn uống cái gì đó và bạn chặn nó lại.... Nếu

trong nhiều năm bạn cứ diễn cái trò đè nén này - đây là

kìm nén - thế thì một ngày nào đó tất cả các bệnh tật sẽ

tụ hội với nhau, tự khẳng định nó theo cách có tổ chức

hơn. Nó có thể trở thành ung thư. Tất cả những cái đó

đã tụ tập lại cùng nhau và bây giờ nó tự khẳng định

mình gần như sự bùng nổ.

Sao chúng ta không có khả năng tìm ra thuốc cho

ung thư? Có thể ung thư là diễn đạt của tất cả các bệnh

bị đè nén của con người. Chúng ta biết cách đè nén

từng bệnh cho tới nay; bây giờ đây không phải là một

bệnh nữa, đây là cuộc tấn công rất tập thể. Nó là cuộc

tấn công toàn lực - tất cả các bệnh đều đi cùng nhau,

cùng nắm tay nhau. Chúng đã làm ra quân đội... và

chúng tấn công bạn. Đó là lí do tại sao thuốc lại thất

bại; dường như không có khả năng nào ngay bây giờ

người ta sẽ tìm ra thuốc nào.

Ung thư là bệnh mới. Nó không tồn tại trong các xã

hội nguyên thuỷ. Tại sao? - điều đó đã được hỏi tại sao

nó không tồn tại trong các xã hội nguyên thuỷ - bởi vì

con người nguyên thuỷ không đè nén, không có nhu

cầu. Nó là nổi loạn của chính hệ thống của bạn. Nếu

bạn không đè nén, không có nhu cầu cho bất kì nổi

loạn nào. Những điều nhỏ bé xảy ra rồi đi.

Thái độ tôn giáo là tìm, không phải triệu chứng mà

tìm cội nguồn. Đó là điều tôi gọi là "tâm lí của chư

phật." Nếu bạn bị đau đầu, đấy không phải là ốm bệnh

của bạn đâu, đấy không phải là bệnh tật của bạn đâu.

Thực tế, đấy là dấu hiệu từ thân thể bạn rằng cái gì đó

đang đi sai ở cội nguồn - đi về cội nguồn đi! Tìm ra cái

đang đi sai. Cái đầu đơn giản cho bạn một tín hiệu, một

tín hiệu nguy hiểm, một báo động: "Lắng nghe thân

thể. Cái gì đó đang đi sai, mình đang làm cái gì đó

không đúng, điều đang phá huỷ hài hoà của thân thể.

Đừng làm điều đó thêm nữa; bằng không thì đau đầu sẽ

cứ nhắc nhở bạn."

Đau đầu không phải là bệnh, và đau đầu không

phải là kẻ thì của bạn - nó là bạn của bạn. Nó đang

phục vụ bạn. Điều rất, rất bản chất cho sự tồn tại của

bạn là thân thể nên làm cho bạn tỉnh táo khi cái gì đó đi

sai. Thay vì biến đổi cái sai đó, bạn đơn giản tắt báo

động đi - bạn uống viên Aspro. Điều này là ngớ ngẩn.

Đây là điều đang xảy ra trong thuốc và đây là điều

đang xảy ra trong trị liệu tâm lí - điều trị triệu chứng.

Đó là lí do tại sao điều bản chất lại bị mất. Điều

bản chất là: nhìn vào cội nguồn. Lần sau bạn đau đầu

thử một kĩ thuật thiền nhỏ, chỉ thực nghiệm thôi, thế thì

bạn có thể đi tới các bệnh lớn hơn và triệu chứng lớn

hơn.

Khi bạn đau đầu, thử một thực nghiệm nhỏ. Ngồi

im lặng và quan sát nó, nhìn vào nó - không phải

dường như bạn đang nhìn vào kẻ thù, không. Nếu bạn

nhìn vào nó như kẻ thù của mình, bạn sẽ không có khả

năng nhìn đúng. Bạn sẽ né tránh - không ai nhìn thẳng

vào kẻ thù cả; người ta né tránh, người ta có khuynh

hướng né tránh. Nhìn vào nó như người bạn của mình

vậy. Nó là bạn của bạn đấy, nó đang phục vụ bạn mà.

Nó đang nói, “Cái gì đó sai rồi - nhìn vào trong nó đi.”

Chỉ ngồi im lặng và nhìn vào trong cái đau đầu mà

không ý tưởng nào về việc chấm dứt nó cả, không ham

muốn rằng nó nên biến mất đi, không xung đột, không

tranh đấu, không đối kháng. Chỉ nhìn vào trong nó, vào

trong cái nó đang là.

Quan sát, để xem liệu có thông báo bên trong nào

đó mà cái đau đầu có thể trao cho bạn không. Nó có

thông báo mã hoá đấy. Và nếu bạn nhìn một cách im

lặng thì bạn sẽ ngạc nhiên. Nếu bạn nhìn một cách im

lặng thì ba điều sẽ xuất hiện. Thứ nhất: bạn càng nhìn

vào nó, thì nó sẽ càng trở nên nhức nhối hơn. Và thế thì

bạn sẽ có đôi chút phân vân: “Làm sao điều này lại có

ích nếu cái đau cứ nhức nhối thêm thế này?” Nó trở

thành nhức nhối thêm bởi vì bạn đã né tránh nó. Nó có

đó nhưng bạn đã né tránh nó; bạn đã kìm nén - thậm

chí không có aspirin thì bạn cũng cứ kìm nén nó. Khi

bạn nhìn vào nó, kìm nén biến mất. Cái đau đầu sẽ đi

tới nhức nhối tự nhiên của nó. Thế thì bạn đang nghe

thấy nó với đôi tai thông suốt, không bông nút lỗ tai;

nó sẽ rất nhức nhối.

Điều thứ nhất: nó sẽ trở nên nhức nhối. Nếu nó trở

nên nhức nhối, bạn có thể được thoả mãn rằng bạn

đang nhìn đúng. Nếu nó không trở nên nhức nhối, thế

thì bạn còn chưa nhìn đâu; bạn vẫn còn né tránh. Nhìn

vào nó - nó trở nên nhức nhối. Đó là chỉ dẫn đầu tiên

rằng có, nó đang trong tầm nhìn của bạn.

Điều thứ hai sẽ là ở chỗ nó sẽ trở thành một điểm

nhỏ hơn; nó sẽ không lan rộng trên khoảng lớn hơn.

Trước hết bạn nghĩ, “Đây là toàn bộ việc đau đầu của

mình.” Bây giờ bạn sẽ thấy nó không phải là toàn bộ

cái đầu, nó chỉ là một vùng nhỏ. Đó cũng là một chỉ

dẫn rằng bây giờ bạn đang nhìn chăm chú sâu hơn vào

trong nó. Cảm giác đau đầu lan toả chỉ là thủ thuật - đó

là cách để né tránh nó. Nếu nó ở một điểm thế thì nó sẽ

còn nhức nhối hơn. Cho nên bạn tạo ra ảo tưởng rằng

toàn bộ đầu đang đau, lan rộng khắp đầu, thế thì nó

không mãnh liệt ở bất kì điểm nào. Đây là thủ thuật

chúng ta cứ chơi mãi.

Nhìn vào trong nó, và bước thứ hai sẽ là ở chỗ nó

đi tới nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa, nhỏ mãi. Và một khoảnh

khắc tới khi nó chỉ là chính một điểm bằng đầu kim -

rất sắc nhọn, sắc nhọn vô cùng, rất đau đớn. Bạn chưa

bao giờ thấy cái đau như vậy trong đầu - nhưng rất

nhiều điều được hàm chứa vào trong một chỗ nhỏ. Cứ

nhìn vào trong nó.

Và thế rồi điều thứ ba và là điều quan trọng nhất

xảy ra. Nếu bạn cứ nhìn vào điểm này khi nó thành rất

nhức nhối và bị hạn chế và bị tập trung vào một điểm,

thì nhiều lần bạn sẽ thấy rằng nó biến mất. Khi cái nhìn

của bạn là hoàn hảo nó sẽ biến mất. Và khi nó biến mất

bạn sẽ có thoáng nhìn về nơi nó tới - nguyên nhân là gì.

Điều đó sẽ xảy ra nhiều lần. Lần nữa nó lại có đó. Cái

nhìn của bạn không còn cái tỉnh táo đó, cái tập trung

đó, cái chăm chú đó - nó sẽ quay lại. Bất kì khi nào cái

nhìn của bạn thực sự có đó, nó sẽ biến mất; và khi nó

biến mất, ẩn đằng sau nó là nguyên nhân. Và bạn sẽ

ngạc nhiên: tâm trí bạn sẵn sàng để lộ nguyên nhân đó

là gì.

Có thể có cả nghìn lẻ một nguyên nhân. Có những

nguyên nhân khác nhau. Cùng một báo động được đưa

ra bởi vì hệ thống báo động là đơn giản. Không có

nhiều hệ thống báo động trong thân thể bạn. Với những

nguyên nhân khác nhau có thể cho cùng một báo động.

Bạn có thể vừa mới giận dữ đây thôi và bạn đã chưa

diễn đạt nó. Bỗng nhiên, giống như sự khải lộ, nó sẽ

đứng đó. Bạn sẽ thấy tất cả những giận dữ mà mình đã

từng mang theo, mang theo... giống như mủ bên trong

bạn. Bây giờ điều này là quá thể, và cơn giận đó muốn

trào ra. Nó cần thanh tâm. Thì thanh tâm đi! - và ngay

lập tức bạn sẽ thấy cái đau đầu đã biến mất. Và không

cần phải thuốc aspirin, không cần trị liệu gì cả.*

Và khi cơn giận đã biến mất, một phẩm chất hoàn

toàn khác của sảng khoái sẽ nảy sinh trong bạn mà

không bao giờ có thể nảy sinh được từ aspirin. Aspirin

kìm nén - giận dữ vẫn còn bị giấu kín bên trong bạn,

bạo hành cứ lồng lộn bên trong bạn. Bạn giữ cho báo

động bị tắt đi, có thế thôi. Chẳng cái gì thay đổi cả, chỉ

báo động là không còn có đó.

Điều này cứ tiếp diễn mãi, và nó trở nên ngày càng

tích luỹ lại. Nó có thể gây cho bạn ung nhọt, nó có thể

gây cho bạn bệnh lao - một ngày nào đó nó có thể gây

cho bạn ung thư. Khi một lượng lớn được thu thập lại,

có thay đổi về chất. Có một giới hạn nào đó để thân thể

dung thứ cho bất kì cái gì, vượt ra ngoài giới hạn đó

thân thể bắt đầu cảm thấy ốm. Đây cũng là trường hợp

với tâm trí. Và bạn đừng bao giờ nghĩ thân thể và tâm

trí là hai điều tách biệt; chúng không tách biệt đâu. Con

người là thân thể-tâm trí, tâm thân.43

-------------------------------------------------------------------------

*Thiền động của Osho

Thiền Động kéo dài một giờ và có năm giai đoạn. Nó có thể được

tập một mình, nhưng năng lượng sẽ mạnh hơn nếu nó được thực

hiện trong nhóm. Nó là kinh nghiệm cá nhân cho nên bạn nên

quên đi người khác quanh bạn và cứ nhắm mắt trong cả phiên, tốt

hơn cả là dùng khăn bịt mắt. Tốt nhất là tập khi bụng trống rỗng

và mặc quần áo chùng lỏng, thoải mái.

Giai đoạn thứ nhất: 10 phút

Hít vào thở ra nhanh qua mũi, để cho hơi thở được dồn dập và

hỗn loạn. Hơi thở nên đi sâu vào bên trong phổi. Thở nhanh hết

mức nhưng vẫn phải bảo đảm việc thở sâu. Làm điều này một

cách toàn bộ hết mức bạn có thể; không căng cứng thân thể, phải

bảo đảm cổ và vai vẫn còn thư dãn. Tiếp tục cho tới khi bạn trở

thành đúng việc thở, cho phép việc thở được hỗn loạn (điều đó

nghĩa là không theo cách ổn định, dự kiến trước được). Một khi

năng lượng của bạn chuyển động, nó sẽ bắt đầu làm cho thân thể

bạn chuyển động. Cho phép những chuyển động thân thể được xảy

ra, dùng chúng để giúp mình tạo nên nhiều năng lượng hơn. Việc

vung vẩy tay và thân thể theo cách tự nhiên sẽ giúp cho năng

lượng của bạn dâng lên. Cảm thấy năng lượng dâng lên, chớ có

buông bỏ trong giai đoạn đầu tiên và đừng bao giờ làm chậm đi.

Giai đoạn thứ hai: 10 phút

Tuân theo thân thể bạn. Để thân thể bạn được tự do bày tỏ bất kì

cái gì nó muốn ... Bột phát!... Để cho thân bạn nắm quyền điều

hành. Để cho mọi thứ cần được tung ra. Hoàn toàn phát rồ... Hát,

gào thét, cười, hét, khóc, nhảy, rung lắc, múa, đá và xoay tròn

người. Chớ có giữ lại gì, cứ để cho toàn bộ thân bạn chuyển động.

Một chút ít hành động thường giúp cho bạn bắt đầu. Đừng bao

giờ để cho tâm trí bạn can thiệp vào cái đang xảy ra. Nhớ phải

toàn bộ với thân bạn.

Giai đoạn thứ ba: 10 phút

Để cho cổ và vai bạn được thư dãn, giơ cả hai tay lên cao hết mức

nhưng không khoá khuỷu tay. Tay vẫn giơ cao, nhảy lên xuống và

hô mật chú hoo!...hoo!...hoo! thật sâu hết mức, đi từ tận đáy bụng.

Mỗi lần bạn tiếp sàn bằng bàn chân (phải chắc chắn gót chân

chạm sàn), để cho âm thanh đập sâu vào trung tâm dục. Cho ra

tất cả những cái bạn có, vét cạn bạn hoàn toàn.

Giai đoạn thứ tư: 15 phút

Dừng lại! Co cứng bản thân bạn tại bất kì tư thế nào hiện có.

Đừng sắp đặt lại thân thể theo bất kì cách nào. Chỉ một cái ho,

một chuyển động, bất kì cái gì cũng sẽ làm tiêu tán luồng năng

lượng và cố gắng sẽ bị mất. Là nhân chứng cho mọi điều đang xảy

ra cho bạn.

Giai đoạn thứ năm: 15 phút

Mở hội!... với âm nhạc và vũ điệu bầy tỏ bất kì cái gì có đó. Mang

theo cái sinh động của bạn trong cả ngày.[Các hướng dẫn được

phát triển để dùng tại Osho Commune International, Pune, Ấn Độ.

Để biết thêm thông tin, xem ở cuối cuốn sách này.]

Bản thân Osho đã nói điều này về Thiền Động

Hãy còn là nhân chứng. Đừng bị mất. Rất dễ bị mất. Trong

khi bạn đang thở, bạn có thể quên mất. Bạn có thể trở thành một

với việc thở nhiều đến mức bạn có thể quên nhân chứng đi. Nhưng

thế thì bạn làm lỡ vấn đề. Thở nhanh, sâu nhất có thể được, đem

toàn bộ năng lượng của bạn vào nó, những vẫn còn là nhân chứng.

Quan sát điều đang xảy ra, dường như bạn chỉ là khán giả, dường

như toàn bộ vấn đề đang xảy ra cho ai đó khác, dường như toàn bộ

sự việc đang xảy ra trong thân thể và tâm thức chỉ định tâm và

nhìn. Việc chứng kiến này phải được thực hiện trong cả ba bước.

Và khi mọi việc dừng lại, và trong bước thứ tư bạn đã trở thành

bất hoạt hoàn toàn, đông cứng, thế thì tỉnh táo này sẽ lên tới đỉnh

của nó.44

-------------------------------------------------------------------------

Đây là việc thiền trong đó bạn phải liên tục tỉnh

táo, có ý thức, nhận biết, về bất kì điều gì bạn làm. Nếu

bạn cảm thấy đau, chú ý vào nó, đừng làm gì cả. Chú ý

là lưỡi kiếm vĩ đại - nó chém đi mọi thứ. Bạn đơn giản

chú ý tới chỗ đau.

Chẳng hạn, bạn đang ngồi im lặng trong phần cuối

của phiên thiền, bất động, và bạn cảm thấy nhiều vấn

đề trong thân thể. Bạn cảm thấy rằng chân đang tê dại,

có cái gì ngứa ngáy trong bàn tay, bạn cảm thấy kiến

đang bò trên thân thể. Nhiều lần bạn đã nhìn mà không

có kiến. Cái bò là ở bên trong, không phải ở bên ngoài.

Bạn phải làm gì? Bạn cảm thấy chân tê dại? - có tính

quan sát đi, chỉ để toàn bộ chú ý của bạn vào đó. Bạn

cảm thấy ngứa ngáy sao? - đừng gãi. Điều đó chẳng ích

gì. Chỉ để chú ý của bạn vào. Thậm chí đừng mở mắt

ra nữa. Chỉ để chú ý của bạn hướng vào bên trong, và

chỉ đợi và quan sát. Trong vài giây, cái ngứa ngáy sẽ

biến mất. Bất kì cái gì xảy ra - cho dù bạn cảm thấy

đau, đau nhói trong dạ dầy hay trong đầu. Điều đó xảy

ra bởi vì trong thiền toàn bộ thân thể thay đổi. Nó thay

đổi hoá chất của mình. Những điều mới bắt đầu xảy ra

và thân thể trong hỗn loạn. Đôi khi dạ dầy sẽ bị ảnh

hưởng, bởi vì trong dạ dầy bạn đã kìm nén nhiều xúc

động, và chúng tất cả đều bị khuấy động. Đôi khi bạn

sẽ cảm thấy muốn nôn, mửa. Đôi khi bạn sẽ cảm thấy

đau nhói trong đầu bởi vì việc thiền đang làm thay đổi

cấu trúc bên trong của bộ não của bạn. Trải qua việc

thiền, bạn thực sự trong hỗn loạn. Chẳng mấy chốc,

mọi sự sẽ lắng đọng. Nhưng đang lúc hiện tại, mọi thứ

sẽ bị bất ổn.

Vây bạn định làm gì? Bạn đơn giản thấy cái đau

trong đầu, quan sát nó. Bạn là người quan sát. Bạn chỉ

quên rằng bạn là người làm, và dần dần, mọi thứ sẽ

lắng đi, và sẽ lắng xuống một cách đẹp đẽ và duyên

dáng đến mức bạn không thể nào tin được trừ phi bạn

biết nó. Không chỉ cái đau biến mất khỏi đầu - bởi vì

năng lượng tạo ra cái đau, nếu được quan sát, sẽ biến

mất - cùng năng lượng ấy trở thành hoan lạc. Năng

lượng vẫn là một.

Đau đớn hay hoan lạc là hai chiều của cùng một

năng lượng. Nếu bạn có thể vẫn còn im lặng ngồi và

chú ý tới những điều phân tán, mọi phân tán biến mất.

Và khi tất cả phân tán biến mất, bạn bỗng nhiên trở nên

nhận biết rằng toàn bộ thân thể đã biến mất.45

Lưu ý của người biên tập: Osho đã cảnh báo chống

lại việc biến cách tiếp cận chứng kiến này thành cuồng

tín khác. Nếu các triệu chứng vật lí khó chịu - đau

nhức hay buồn nôn - vẫn cứ còn dai dẳng quá ba hay

bốn ngày của việc thiền hàng ngày, thì không cần cứ

phải là kẻ bạo ác - hãy đi kiếm lời khuyên y tế. Điều

này áp dụng cho tất cả các kĩ thuật thiền của Osho.

******************************************************

#16 Giấc ngủ

Trong giấc ngủ chúng ta đạt tới cùng chỗ chúng ta

tới trong thiền. Khác biệt duy nhất là ở chỗ trong giấc

ngủ chúng ta vô ý thức, còn trong thiền chúng ta tràn

đầy ý thức. Nếu ai đó đã trở nên tràn đầy nhận biết,

thậm chí trong giấc ngủ của mình, người đó sẽ có cùng

kinh nghiệm như trong thiền.

Chẳng hạn, nếu chúng ta đưa một người vào cơn

mê, và trong trạng thái vô ý thức của người đó chúng ta

đem người đó trên cáng ra vườn nơi hoa nở đầy, nơi

hương thơm lan trong không trung, nơi mặt trời chiếu

sáng và chim chóc hót véo von, người này sẽ hoàn toàn

không nhận biết gì về tất cả những điều này. Sau khi

chúng ta đem người đó lại và người đó ra khỏi cơn mê,

nếu chúng ta hỏi người đó thích vườn thế nào, người

đó sẽ không thể nào nói được cho chúng ta điều gì. Thế

rồi, nếu bạn lại đem người này ra cũng vườn đó khi

tràn đầy ý thức, người đó sẽ kinh nghiệm mọi thứ hiện

diện ở đó khi được đem ra trước đây. Trong cả hai

trường hợp, mặc dầu người này được đem ra cùng

chỗ... người này không nhận biết về cái đẹp bao quanh

ở lần đưa ra đầu tiên, trong khi ở lần thứ hai người đó

sẽ tràn đầy nhận biết về hoa, về hương thơm, về tiếng

chim véo von, về mặt trời lên. Cho nên, mặc dầu bạn rõ

ràng sẽ đạt tới xa trong trạng thái vô ý thức, việc đạt tới

chỗ nào đó trong trạng thái vô ý thức cũng tốt ngang

như chẳng đạt tới đó chút nào.

Trong giấc ngủ, chúng ta đạt tới cùng thiên đường

như ta đạt tới trong thiền, nhưng chúng ta không nhận

biết về nó. Mỗi đêm chúng ta lại du hành tới thiên

đường này, và thế rồi chúng ta quay lại - không nhận

biết. Mặc dầu làn gió tươi tắn và hương thơm đáng yêu

của chỗ đó chạm tới chúng ta, và tiếng véo von của

chim chóc vang bên tai chúng ta, chúng ta cũng chẳng

bao giờ nhận biết về nó cả. Và ấy vậy mà, mặc dầu

quay về từ thiên đường này hoàn toàn không nhận biết

về nó, người ta vẫn có thể nói, “Tôi cảm thấy rất tốt

sáng nay. Tôi cảm thấy rất an bình - tôi ngủ ngon đêm

qua.”

Bạn cảm thấy tốt thế về cái gì vậy? Đã ngủ ngon,

cái gì tốt xảy ra? Điều đó không thể chỉ vì bạn ngủ

được, chắc chắn là bạn phải đã ở đâu đó; cái gì đó phải

đã xảy ra cho bạn. Nhưng vào sáng sớm bạn chẳng có

tri thức gì về nó cả, ngoại trừ vài ý niệm mông lung về

cảm giác tốt lành. Người đã có giấc ngủ say ban đêm

tỉnh dậy tươi tắn vào buổi sáng. Điều này chứng tỏ

người này đã đạt tới cội nguồn làm khoẻ lại trong giấc

ngủ - nhưng trong trạng thái vô ý thức. Người không

thể nào ngủ ngon vào ban đêm thấy mình mệt mỏi vào

buổi sáng hơn là tối hôm trước. Và nếu một người

không ngủ ngon trong vài ngày thì sẽ trở thành khó

khăn cho người đó sống còn, bởi vì mối nối của người

đó với cội nguồn của cuộc sống bị gẫy. Người đó

không thể nào đạt tới chỗ về bản chất người đó phải đạt

tới...

Tại New York, ít nhất ba mươi phần trăm người

không thể ngủ được nếu không có thuốc an thần. Các

nhà tâm lí tin rằng nếu điều kiện này lan rộng trong

một trăm năm nữa, thì chẳng người nào sẽ có khả năng

ngủ được mà không dùng thuốc. Mọi người đã hoàn

toàn mất giấc ngủ. Nếu một người mất ngủ hỏi bạn

cách đi ngủ, và câu trả lời của bạn là, “Tất cả mọi điều

tôi làm là kê đầu lên gối và rơi vào giấc ngủ,” người đó

sẽ không tin bạn. Người đó sẽ thấy điều này là không

thể được và hoài nghi sẽ phải có thủ đoạn gì đây mà

người đó không biết - bởi vì người đó kê đầu lên gối

đấy, nhưng chẳng cái gì xảy ra cả.

Lạy trời đừng có chuyện đó, nhưng một thời có thể

tới, sau đây một nghìn hay hai nghìn năm, khi mọi

người sẽ mất giấc ngủ tự nhiên, và mọi người sẽ từ

chối tin rằng, một nghìn hay hai nghìn năm trước thời

họ, mọi người đơn giản kê đầu lên gối của mình và rơi

vào giấc ngủ. Họ sẽ coi điều này là câu chuyện hư cấu,

huyền thoại từ quá khứ cổ đại. Họ sẽ không tin điều đó

là đúng. Họ sẽ nói, “Điều này không thể được, bởi vì

nếu điều đó không đúng cho chúng tôi, thì làm sao nó

có thể đúng cho bất kì ai khác được?”

Tôi đang lôi kéo sự chú ý của bạn tới tất cả những

điều này bởi vì ba hay bốn nghìn năm trước mọi người

sẽ nhắm mắt lại và đi vào thiền dễ dàng như bạn đi vào

giấc ngủ ngày nay. Hai nghìn năm nữa từ bây giờ sẽ

khó mà ngủ ở New York được - ngày nay thậm chí đã

khó rồi. Ngủ ở Bombay đang trở nên ngày càng khó

khăn hơn - đấy chỉ là vấn đề thời gian thôi. Ngày nay

khó mà tin đã có thời khi con người có thể nhắm mắt

lại và đi vào thiền - bởi vì bây giờ, khi bạn ngồi với đôi

mắt nhắm, bạn chẳng đạt tới đâu cả; bên trong, ý nghĩ

cứ lởn vởn xung quanh và bạn vẫn còn ở nơi bạn đang

hiện hữu.

Trong quá khứ, thiền là dễ dàng cho những người

gần với tự nhiên giống như ngủ dễ dàng cho những

người sống gần với tự nhiên. Đầu tiên thiền biến mất;

bây giờ giấc ngủ đang trên đường ra đi. Những thứ mất

đầu tiên là ý thức; sau đó, những thứ mất đi là vô ý

thức. Với việc biến mất của thiền, thế giới này đã gần

thành phi tôn giáo, và khi giấc ngủ biến mất thì thế giới

sẽ trở thành hoàn toàn phi tôn giáo. Chẳng còn hi vọng

nào về tôn giáo trong một thế giới không ngủ.

Bạn sẽ không tin làm sao chúng ta lại được nối với

giấc ngủ sâu thế, chặt thế. Cách thức một người sẽ

sống cuộc sống mình phụ thuộc hoàn toàn vào cách

người đó ngủ. Nếu người đó không ngủ ngon, toàn bộ

cuộc sống của người đó sẽ là hỗn loạn: tất cả mọi mối

quan hệ của người đó sẽ trở thành rối rắm, mọi thứ sẽ

trở thành chất độc, tràn đầy với điên dại. Nếu, ngược

lại, một người ngủ sâu, sẽ có tươi tắn trong cuộc sống

người đó - an bình và niềm vui sẽ tuôn chảy liên tục

trong cuộc sống người đó. Nằm dưới các mối quan hệ

của người đó, tình yêu của người đó, mọi thứ khác, sẽ

có sự chân thành. Nhưng nếu người đó mất ngủ, mọi

mối quan hệ của người đó sẽ thành rối rắm. Người đó

sẽ làm lộn xộn cuộc sống với gia đình mình, vợ mình,

con mình, mẹ mình, bố mình, thầy giáo mình, sinh viên

mình - tất cả họ. Giấc ngủ đem chúng ta tới một điểm

trong vô ý thức của mình tại đó chúng ta được chìm

ngập vào trong Thượng đế - mặc dầu không được lâu

lắm. Ngay cả người mạnh khoẻ nhất cũng chỉ đạt tới

mức độ sâu sắc hơn của mình trong mười phút của giấc

ngủ cả đêm tám tiếng. Với mười phút này người đó

hoàn toàn mất hút, chìm vào trong giấc ngủ, thậm chí

mơ cũng không tồn tại.

Giấc ngủ không kéo dài toàn bộ khi người ta mơ -

người ta cứ di chuyển giữa các trạng thái ngủ và thức.

Mơ là trạng thái trong đó người ta nửa ngủ và nửa

thức. Đang trong mơ có nghĩa là cho dù mắt bạn nhắm

đấy, nhưng bạn lại không ngủ; những ảnh hưởng bên

ngoài vẫn tác động tới bạn. Những người bạn gặp trong

ngày, bạn vẫn cùng họ ban đêm trong giấc mơ của

mình. Giấc mơ chiếm trạng thái trung gian ở giữa ngủ

và thức. Và điều bạn không nhớ vào buổi sáng rằng

bạn đã mơ cả đêm là bên ngoài vấn đề. Nhiều nghiên

cứu về giấc ngủ đang được tiến hành ở Mĩ. Quãng

mười phòng thí nghiệm lớn vẫn đang thực nghiệm trên

hàng nghìn người từ tám đến mười năm nay.

Người Mĩ đang biểu lộ mối quan tâm vào thiền bởi

vì họ đã làm mất giấc ngủ. Họ nghĩ rằng có lẽ thiền có

thể đem giấc ngủ lại cho họ, rằng nó có thể đem an

bình nào đó vào trong cuộc sống của họ. Đó là lí do tại

sao họ lại nhìn vào thiền chẳng gì nhiều hơn thuốc an

thần. Khi Vivekananda lần đầu tiên giới thiệu thiền ở

Mĩ, một bác sĩ trị liệu tới ông ấy và nói, “Tôi thích thú

việc thiền của ông lắm. Nó hoàn toàn là thuốc an thần

không thuốc. Nó không phải là thuốc ấy vậy mà nó lại

làm cho người ta ngủ - thật là vĩ đại.” Các nhà yoga

không phải là lí do cho ảnh hưởng của họ đang tăng lên

nhiều thế ở Mĩ - thiếu ngủ mới là lí do thật. Việc ngủ

của mọi người đang trong đống lộn xộn, và hậu quả là

cuộc sống ở Mĩ tràn đầy những nặng nề, phiền muộn,

căng thẳng. Và do vậy ở Mĩ chúng ta thấy nhu cầu

đang tăng lên về thuốc an thần - bằng cách nào đó, để

đem giấc ngủ lại cho mọi người.

Mỗi năm, hàng triệu đô la đã được tiêu cho thuốc

an thần ở Mĩ. Mười phòng thí nghiệm lớn đang tiến

hành nghiên cứu trên hàng nghìn người, những người

được trả tiền để trải qua các đêm ngủ khá phiền phức

và không thoải mái. Đủ mọi loại điện cực và hàng

nghìn dây dợ được gắn vào thân thể người đó, và họ

được kiểm tra từ mọi góc độ để tìm ra cái gì đang xảy

ra bên trong họ. Một phát hiện không thể nào tin được

mà những thực nghiệm này để lộ ra là ở chỗ con người

mơ gần như cả đêm. Thức dậy, một số người nói họ

không mơ, trong khi số khác nói họ có mơ. Nhưng

trong thực tế, tất cả họ đều mơ. Khác biệt duy nhất là ở

chỗ những người có trí nhớ tốt hơn nhớ được việc mơ,

trong khi những người với trí nhớ kém hơn không thể

nhớ lại được việc mơ. Nhưng người ta đã tìm ra rằng

người hoàn toàn mạnh khoẻ có khả năng trượt vào giấc

ngủ, giấc ngủ không mơ trong mười phút.

Người ta có thể nhòm vào giấc mơ qua máy. Thần

kinh trong não vẫn còn hoạt động trong trạng thái mơ

của chúng ta, nhưng khi giấc mơ dừng lại, thần kinh

cũng dừng hoạt động, và máy chỉ ra một lỗ hổng đã

xuất hiện. Lỗ hổng này chỉ ra rằng vào thời điểm đó,

người này chẳng mơ cũng chẳng nghĩ - người đó mất

hút ở đâu đó.

Điều thú vị là máy cứ ghi lại những chuyển động

bên trong người này trong khi người đó đang trong

trạng thái mơ, nhưng ngay khi người đó rơi vào trong

giấc ngủ không mơ, máy chỉ ra lỗ hổng. Họ không biết

con người này biến mất đi đâu trong lỗ hổng đó. Cho

nên, giấc ngủ không mơ có nghĩa là người này đã đạt

tới một chỗ bên ngoài phạm vi của máy. Chính trong lỗ

hổng đó người này đi vào điều thiêng liêng. Máy

không có khả năng phát hiện ra không gian này ở giữa,

lỗ hổng này. Máy ghi lại hoạt động nội bộ chừng nào

người này còn mơ - thế rồi tới lỗ hổng và người này

biến mất đâu đó. Và thế rồi, sau mười phút, máy bắt

đầu ghi trở lại. Khó nói được người này ở đâu trong

khoảng hở mười phút đó. Các nhà tâm lí học Mĩ rất say

mê với lỗ hổng này; do đó họ coi việc ngủ là bí ẩn lớn

nhất.

Bạn ngủ hàng ngày, ấy vậy mà bạn chẳng có ý

tưởng về ngủ là gì. Người ta ngủ cả đời, ấy vậy mà

chẳng có gì thay đổi - người đó chẳng biết gì về giấc

ngủ cả. Lí do bạn không biết gì về giấc ngủ là ở chỗ

khi giấc ngủ có đó, bạn không có đó. Nhớ lấy, bạn hiện

hữu chỉ khi giấc ngủ không có đó, và do vậy bạn đi tới

biết nhiều lắm cũng chỉ như cái máy biết. Cũng hệt như

trong việc đối diện với lỗ hổng máy dừng lại và không

thể nào đạt tới được chỗ người này đã được đưa tới,

bạn cũng không thể nào đạt tới đó - bởi vì bạn chẳng

nhiều hơn cái máy.

Vì bạn cũng không bắt gặp lỗ hổng đó, cho nên

giấc ngủ vẫn còn là một bí ẩn; nó vẫn còn ở bên ngoài

tầm với của bạn. Điều này là như vậy bởi vì con người

rơi vào giấc ngủ không tỉnh chỉ khi người đó dừng tồn

tại trong cái ‘tôi đây’ của mình. Và do đó, vì bản ngã

cứ phát triển, giấc ngủ trở nên ngày một ít đi. Và người

bản ngã mất khả năng ngủ của mình bởi vì bản ngã của

mình, cái ‘tôi’, cứ tự khẳng định nó hai mươi bốn giờ

một ngày. Chính cái ‘tôi’ đánh thức, cũng cái ‘tôi’ đó

bước đi trên phố. Cái ‘tôi’ vẫn còn hiện diện cả hai

mươi bốn tiếng đồng hồ đến mức lúc rơi vào giấc ngủ,

khi thời điểm tiến tới việc vứt bỏ cái ‘tôi’, người ta

không thể nào gạt bỏ được nó. Hiển nhiên, điều đó trở

thành khó khăn để rơi vào giấc ngủ. Chừng nào cái

‘tôi’ còn tồn tại, giấc ngủ là không thể có được. Và

chừng nào cái ‘tôi’ còn tồn tại, việc đi vào trong sự tồn

tại là điều không thể được.

Việc đi vào trong giấc ngủ và đi vào trong sự tồn

tại đích xác là một và là cùng một điều; khác biệt duy

nhất là ở chỗ qua giấc ngủ người ta đi vào trong sự tồn

tại trong trạng thái vô ý thức, trong khi qua thiền người

ta đi vào trong sự tồn tại trong trạng thái có ý thức.

Nhưng đây là khác biệt rất lớn lao. Bạn có thể đi vào

sự tồn tại qua giấc ngủ trong hàng nghìn kiếp, ấy vậy

mà bạn sẽ chẳng bao giờ đi tới biết sự tồn tại. Nhưng

nếu, cho dù một khoảnh khắc thôi, bạn đi vào thiền bạn

sẽ đạt tới cùng chỗ bạn đã đạt tới trong giấc ngủ say

trong hàng nghìn hàng triệu kiếp - mặc dầu bao giờ

cũng trong trạng thái vô ý thức - và điều đó sẽ làm biến

đổi bạn toàn bộ.

Điều thú vị là, một khi người ta đi vào thiền, đi vào

cái trống rỗng nơi giấc ngủ say đưa người đó tới, người

đó sẽ chẳng bao giờ còn vô ý thức nữa - thậm chí trong

khi người đó ngủ.

Ananda đã sống với Phật trong nhiều năm, trong

nhiều năm ông ấy đã ngủ gần Phật. Một sáng ông ấy

hỏi Phật, “Trong nhiều năm tôi đã quan sát thầy ngủ.

Không lần nào thầy trở mình cả; thầy ngủ cả đêm trong

cùng tư thế. Các chi vẫn nguyên chỗ chúng ở khi thầy

nằm xuống ban đêm; không một chuyển động nhỏ nào.

Nhiều lần tôi tỉnh dậy lúc nửa đêm để kiểm tra xem

liệu thầy có cử động không. Tôi đã thức nhiều đêm

quan sát thầy - bàn tay thầy, bàn chân thầy, vẫn cứ y

nguyên ở cùng vị trí; thầy chẳng bao giờ đổi bên cả.

Thầy có giữ một loại kỉ lục nào về giấc ngủ trong cả

đêm không?”

“Ta không cần phải giữ bất kì kỉ lục nào cả”, Phật

đáp, “Ta ngủ trong trạng thái có ý thức, cho nên ta thấy

không cần đổi bên. Ta có thể đổi bên nếu ta muốn. Trở

mình bên nọ sang bên kia không phải là yêu cầu của

giấc ngủ, đấy là yêu cầu của tâm trí bất ổn của ông.”

Tâm trí bất ổn thậm chí không thể nào nghỉ yên một

chỗ cho một đêm, nói chi đến cả ngày dài. Thậm chí

việc ngủ ban đêm, toàn bộ thời gian này thân thể cũng

biểu lộ cái bất ổn của nó.

Nếu bạn quan sát một người ngủ ban đêm bạn sẽ

thấy người đó liên tục bất ổn suốt đêm. Bạn sẽ thấy

người đó di chuyển tay nhiều phần hệt như cách người

đó làm khi người đó thức trong ngày. Trong giấc mơ

ban đêm của mình, bạn sẽ thấy người đó chạy và thở

hổn hển nhiều phần hệt như cách điều đó xảy ra với ai

đó trong ngày - người đó cảm thấy thở gấp, mệt mỏi.

Ban đêm, trong giấc mơ, người đó tranh đấu nhiều

phần hệt như cách thức người đó tranh đấu ban ngày.

Người đó tràn đầy đam mê ban ngày, cả ban đêm nữa.

Không có khác biệt cơ bản giữa ngày và đêm của

người như vậy, ngoại trừ rằng ban đêm người đó nằm

xuống, kiệt sức, vô ý thức; mọi thứ khác vẫn tiếp tục

vận hành như thường lệ. Cho nên Phật nói, “Ta có thể

đổi bên nếu ta muốn, nhưng không có nhu cầu.”

Nhưng chúng ta không hiểu... Một người ngồi trên

ghế cứ rung đùi. Hỏi người đó, “Sao chân anh lại cứ

rung rung như thế? Điều đó có thể hiểu nổi nếu chúng

di chuyển khi anh bước, nhưng sao chúng lại chuyển

động khi anh đang ngồi trong ghế?” Khi bạn nói điều

này người đó sẽ dừng ngay lập tức. Thế rồi người đó sẽ

không rung đùi trong một giây, nhưng người đó sẽ

không có lời giải thích nào về việc tại sao người đó lại

làm điều ấy. Điều ấy chứng tỏ sự bất ổn bên trong gây

ra khuấy động trong toàn bộ thân thể. Bên trong là tâm

trí bất ổn; nó không thể nào tĩnh lặng, ở một tư thế, cho

dù là một khoảnh khắc. Nó sẽ luôn giữ cho toàn bộ

thân thể bồn chồn: chân sẽ rung rung, đầu sẽ lắc lư;

thậm chí ngồi mà thân thể vẫn sẽ đổi bên.

Đó là lí do tại sao, ngay cả đến mười phút, bạn

cũng thấy khó thế để ngồi im trong thiền. Và từ hàng

nghìn chỗ khác nhau thân thể cứ thôi thúc bạn co duỗi

và quay người. Chúng ta không chú ý đến điều này

chừng nào chúng ta còn chưa ngồi với nhận biết trong

thiền. Thế thì chúng ta hiểu đây là thân thể thuộc loại

gì; nó không muốn vẫn còn tĩnh lặng trong một tư thế

cho dù là một giây. Lẫn lộn, căng thẳng, và kích động

của tâm trí khuấy động toàn bộ thân thể.

Trong khoảng mười phút mọi thứ đều biến mất

trong giấc ngủ không tỉnh - mặc dầu mười phút này là

có sẵn chỉ cho người hoàn toàn mạnh khoẻ và an bình,

không phải cho mọi người. Những người khác có được

loại giấc ngủ này ở bất kì đâu từ một đến năm phút;

phần lớn mọi người chỉ được hai hay một phút ngủ say.

Chút ít tinh hoa chúng ta nhận được trong một phút đạt

tới cội nguồn cuộc sống đó chúng ta dùng cho hai mươi

bốn giờ làm việc tiếp. Chút ít lượng dầu đó ngọn đèn

nhận được trong thời kì ngắn ngủi đó, chúng ta dùng

nó để thực hiện cuộc sống của chúng ta trong trọn hai

mươi bốn tiếng. Ngọn đèn của cuộc sống người ta bùng

cháy trên bất kì lượng dầu nào nó nhận được. Đây là lí

do cho ngọn đèn cháy chậm thế - không đủ dầu được

thu thập để làm cho ngọn đèn cuộc sống bùng cháy

sáng, để cho nó có thể trở thành ngọn đuốc bốc cháy

sáng.

Thiền đem bạn dần trở về cội nguồn của cuộc sống.

Thế thì không phải là bạn cứ lấy một chút ít nuôi

dưỡng từ nó ra, bạn đơn giản ở trong bản thân cội

nguồn đó. Thế thì không phải là bạn đổ thêm dầu vào

chiếc đèn của mình - thế thì toàn bộ đại dương dầu trở

thành sẵn có cho bạn. Thế thì bạn bắt đầu sống trong

chính đại dương đó. Với loại sống đó, giấc ngủ biến

mất - không theo nghĩa là người ta không ngủ thêm

nữa, mà theo nghĩa là, thậm chí khi người ta ngủ, một

ai đó bên trong vẫn còn thức tỉnh xa cách. Thế thì giấc

mơ không còn tồn tại nữa. Nhà yoga vẫn còn tỉnh thức,

người đó ngủ, nhưng người đó không bao giờ mơ - mơ

của người đó biến mất toàn bộ. Và khi mơ biến mất, ý

nghĩ cũng biến mất. Điều chúng ta biết như ý nghĩ

trong trạng thái tỉnh được gọi là mơ trong trạng thái

ngủ. Chỉ có hơi khác biệt giữa ý nghĩ và mơ: ý nghĩ là

mơ có hơi văn minh hơn, trong khi mơ có chút ít

nguyên thuỷ hơn về bản chất. Về cả hai điều này,

người ta là ý nghĩ nguyên gốc.

Trong thực tế, trẻ con, hay các bộ lạc nguyên thuỷ,

chỉ có thể nghĩ theo hình ảnh, không theo lời. Ý nghĩ

đầu tiên của con người bao giờ cũng là hình ảnh.

Chẳng hạn, khi đứa trẻ đói thì nó không nghĩ bằng lời,

“Mình đang đói.” Đứa trẻ có thể hình dung ra bầu vú

mẹ; nó có thể tưởng tượng bản thân mình đang bú vú.

Nó có thể được tràn đầy với ham muốn rúc vào bầu vú,

nhưng nó không thể nào hình thành nên lời. Việc hình

thành lời nói bắt đầu muộn mãi về sau; hình ảnh xuất

hiện trước nhất...

Ngôn ngữ của lời nói thuận tiện trong ngày, nhưng

nó lại không có ích vào ban đêm. Chúng ta lại trở thành

nguyên thuỷ vào ban đêm. Chúng ta biến mất trong

giấc ngủ như chúng ta hiện thế. Chúng ta làm mất địa

vị mình, giáo dục đại học của mình, mọi thứ. Chúng ta

được đưa tới một điểm nơi con người nguyên bản có

thời đã ở đó. Đó là lí do tại sao hình ảnh lại nổi lên vào

ban đêm trong giấc ngủ, còn lời lại xuất hiện vào ban

ngày. Nếu chúng ta muốn làm tình trong ngày, chúng

ta có thể nghĩ dưới dạng lời nói, nhưng ban đêm thì

không có cách nào để bầy tỏ tình yêu cả ngoại trừ qua

hình ảnh.

Ý nghĩ dường như không sinh động bằng mơ.

Trong mơ toàn bộ hình ảnh xuất hiện trước bạn. Đó là

lí do tại sao chúng ta lại tận hưởng việc xem phim dựa

theo tiểu thuyết còn hơn là việc đọc chính tiểu thuyết

đó. Lí do duy nhất cho điều này là ở chỗ tiểu thuyết là

trong ngôn ngữ của lời nói, trong khi phim ảnh lại là

trong ngôn ngữ của hình ảnh. Theo cùng cách này, bạn

cảm thấy niềm vui lớn lao hơn để ở đây và lắng nghe

tôi một cách sống động. Bạn sẽ không cảm thấy cùng

niềm vui đó khi nghe bài nói này qua băng ghi âm, bởi

vì ở đây hình ảnh hiện diện, trên băng ghi âm chỉ có

lời. Ngôn ngữ của hình ảnh gần gũi với chúng ta hơn,

tự nhiên hơn. Ban đêm lời chuyển thành hình ảnh; đó

là khác biệt có đó.

Cái ngày mơ biến mất, ý nghĩ cũng biến mất; cái

ngày ý nghĩ biến mất, mơ cũng biến mất. Nếu ngày mà

trống rỗng ý nghĩ, đêm sẽ trống rỗng mơ. Và nhớ, mơ

không cho phép bạn ngủ, và ý nghĩ không cho phép

bạn ngủ, và ý nghĩ không cho phép bạn thức tỉnh. Chắc

chắn mình hiểu cả hai điều: mơ không để bạn ngủ, còn

ý nghĩ không để bạn thức tỉnh. Nếu mơ biến mất, ngủ

sẽ là toàn bộ; nếu ý nghĩ biến mất thức tỉnh sẽ là toàn

bộ. Nếu thức tỉnh là toàn bộ và ngủ là toàn bộ, thế thì

chẳng có gì khác biệt nhiều lắm giữa hai điều này.

Khác biệt duy nhất là trong việc giữ cho mắt mở hay

nhắm thôi, và khác biệt trong thân thể là làm việc hay

nghỉ ngơi. Người thức tỉnh toàn bộ thì ngủ toàn bộ,

nhưng trong cả hai trạng thái tâm thức người đó vẫn

còn đích xác là một. Tâm thức là một, không thay đổi;

chỉ thân thể thay đổi. Thức tỉnh, thân thể làm việc; ngủ,

thân thể nghỉ ngơi.

Một người bạn đã hỏi tại sao Thượng đế lại không

đạt được tới trong giấc ngủ. Câu trả lời của tôi là: ngài

có thể được đạt tới nếu bạn có thể vẫn còn thức tỉnh

ngay cả trong giấc ngủ. Và do vậy phương pháp thiền

của tôi là phương pháp ngủ - ngủ trong nhận biết, đi

vào trong giấc ngủ với nhận biết. Đó là lí do tại sao tôi

lại yêu cầu bạn làm thảnh thơi thân thể mình, thảnh

thơi hơi thở mình, làm bình lặng ý nghĩ mình. Tất cả

những điều này là việc chuẩn bị cho giấc ngủ. Do đó,

việc thường xảy ra là một số bạn đi vào ngủ trong khi

thiền - hiển nhiên; đây là việc chuẩn bị cho ngủ. Và,

trong khi chuẩn bị cho nó, họ không biết khi nào họ đi

ngủ. Đó là lí do tại sao tôi cứ lặp lại lời gợi ý thứ ba:

vẫn còn thức tỉnh bên trong, vẫn còn có ý thức bên

trong; để thân thể được thảnh thơi toàn bộ, để cho việc

thở được thảnh thơi toàn bộ, thông thường được thảnh

thơi hơn là trong khi ngủ. Nhưng vẫn còn thức tỉnh bên

trong. Bên trong, để cho nhận biết của bạn bùng cháy

tựa như ngọn đèn cho nên bạn không rơi vào giấc ngủ.

Điều kiện ban đầu cho thiền và ngủ là như nhau,

nhưng có khác biệt trong điều kiện cuối cùng. Điều

kiện thứ nhất là ở chỗ thân thể nên được thảnh thơi.

Nếu bạn đang bị chứng mất ngủ, điều đầu tiên bác sĩ sẽ

dạy cho bạn là việc thảnh thơi. Ông ấy sẽ yêu cầu bạn

làm cùng điều tôi đang yêu cầu đây: thảnh thơi thân thể

bạn, đừng để bất kì căng thẳng nào vẫn còn trong thân

thể bạn; để cho thân thể bạn được chùng lỏng toàn bộ,

giống như nùn bông vậy. Bạn đã bao giờ để ý đến cách

thức con chó hay con mèo ngủ không? Chúng ngủ cứ

dường như là chúng không ngủ vậy. Bạn đã bao giờ để

ý đứa trẻ mới đẻ ngủ không? Không có căng thẳng ở

đâu cả - tay chân nó vẫn để chùng không thể nào tin

được. Quan sát thanh niên và người già - bạn sẽ thấy

mọi thứ căng thẳng trong họ. Cho nên bác sĩ sẽ yêu cầu

họ thảnh thơi.

Cùng điều kiện này áp dụng cho giấc ngủ: việc thở

nên được thảnh thơi, sâu sắc và chậm. Bạn phải đã để ý

rằng với chạy bộ, việc thở trở nên nhanh hơn. Tương

tự, khi thân thể sử dụng bản thân nó lúc làm việc, việc

thở trở nên nhanh hơn và tuần hoàn máu tăng lên. Với

việc ngủ, tuần hoàn máu phải chậm dần lại - tình huống

này nên đối lập lại với việc chạy bộ - và thế thì việc thở

sẽ thảnh thơi. Cho nên điều kiện thứ hai là: thảnh thơi

việc thở của bạn...

Cho nên các điều kiện cho thiền chủ yếu là cùng

những điều kiện áp dụng được cho ngủ: thảnh thơi thân

thể, thảnh thơi việc thở, buông bỏ ý nghĩ. Và do vậy,

với ngủ cũng như với thiền, các điều kiện ban đầu là

đúng như nhau. Khác biệt là ở điều kiện cuối cùng.

Trong ngủ bạn vẫn còn trong việc ngủ say; trong thiền

bạn vẫn còn hoàn toàn thức tỉnh - có thế thôi.

Cho nên có mối quan hệ sâu sắc giữa ngủ và thiền.

Tuy nhiên, có một khác biệt rất có ý nghĩa giữa hai

điều này: khác biệt giữa trạng thái có ý thức và vô ý

thức. Ngủ là vô nhận biết, thiền là thức tỉnh.46

Khi bạn rơi vào giấc ngủ trong đêm, sẵn sàng rơi

vào trong giấc ngủ, đi ngược lại qua trí nhớ của cả

ngày - đi ngược lại. Đừng bắt đầu từ buổi sáng. Bắt

đầu từ ngay nơi bạn đang hiện hữu, ngay trên giường -

khoản mục cuối cùng, và thế rồi quay ngược lại. Thế

rồi đi ngược dần lại, từng bước một, cho tới kinh

nghiệm đầu tiên vào buổi sáng khi bạn lần đầu tiên trở

nên tỉnh dậy. Đi ngược lại, và liên tục nhớ rằng bạn

không tham dự vào.

Chẳng hạn, vào buổi chiều ai đó xúc phạm bạn.

Nhìn lại mình, hình tướng mình, bị ai đó xúc phạm -

nhưng bạn vẫn chỉ là quan sát viên. Bạn đừng tham dự

vào; đừng giận dữ lần nữa. Nếu bạn giận dữ lần nữa,

thế thì bạn bị đồng nhất đấy. Thế thì bạn đã bỏ lỡ điểm

thiền. Đừng bị giận dữ. Người đó không đang xúc

phạm bạn, người đó đang xúc phạm vào hình tướng có

đó vào buổi chiều. Hình tướng đó bây giờ đã qua rồi.

Bạn giống hệt như dòng sông đang chảy: các hình

tướng đang tuôn chảy. Trong thời niên thiếu bạn đã có

một hình tướng, bây giờ bạn không có hình tướng đó.

Hình tướng đó đã qua. Giống như dòng sông, bạn đang

thay đổi liên tục. Cho nên khi trong đêm bạn thiền

ngược trở lại về việc xảy ra trong ngày, nhớ rằng bạn là

nhân chứng: đừng bị giận dữ. Ai đó đã ca ngợi bạn:

đừng hãnh diện. Nhìn vào toàn bộ vấn đề dường như

bạn đang xem phim một cách vô tư. Và việc quay

ngược lại này là rất có ích - đặc biệt đối với những

người có trục trặc với việc ngủ.

Nếu bạn có bất kì trục trặc nào với giấc ngủ, bị mất

ngủ, không ngủ được, nếu bạn thấy khó rơi vào giấc

ngủ, điều này sẽ có ích sâu sắc. Tại sao? Bởi vì điều

này là việc tháo gỡ tâm trí. Khi bạn quay trở lại bạn

đang tháo gỡ tâm trí ra. Buổi sáng bạn bắt đầu cuộn

tâm trí lại, và tâm trí bị trở nên dính líu vào nhiều điều,

nhiều chỗ. Không được hoàn tất và hoàn chỉnh, nhiều

điều sẽ vẫn còn trong tâm trí, và không có thời gian để

cho chúng lắng đọng vào đúng khoảnh khắc chúng xảy

ra.

Cho nên trong đêm hãy đi ngược lại. Đây là quá

trình tháo gỡ ra. Và khi bạn sẽ quay trở lại tới buổi

sáng lúc bạn vừa mới ở trên giường, tới điều đầu tiên

trong buổi sáng, bạn sẽ lại có cùng tâm trí tươi tắn bạn

đã có vào buổi sáng đó. Và thế rồi bạn có thể rơi vào

giấc ngủ giống như đứa trẻ rất nhỏ...

Cho nên nhiều người đang chịu đựng một bệnh đặc

biệt, và chẳng cái gì sinh lí học, chẳng thuốc nào có ích

cả; bệnh cứ tiếp tục. Bệnh này dường như là bệnh tâm

lí. Phải làm gì về nó đây? Nói với ai đó rằng bệnh của

người đó là bệnh tâm lí thì cũng chẳng ích gì. Thay vì

thế, điều đó có thể tỏ ra có hại bởi vì không ai cảm thấy

tốt lành gì khi bạn nói bệnh của người đó là bệnh tâm

lí. Thế thì người đó có thể làm được gì? Người đó cảm

thấy bất lực.

Việc đi ngược lại này là một phương pháp kì diệu.

Nếu bạn đi ngược lại một cách từ từ - từ từ tháo tâm trí

trở về khoảnh khắc đầu tiên lúc bệnh này xuất hiện,

nếu dần dần bạn quay lại tới lần đầu tiên bạn bị bệnh

này tấn công, nếu bạn có thể tháo ra đến khoảnh khắc

đó, bạn sẽ đi tới biết rằng bệnh này về cơ bản là một

phức hợp của những thứ khác nào đó, những thứ tâm lí

nào đó. Bằng việc đi ngược lại những thứ này sẽ nổi

bong bóng lên.

Nếu bạn đi qua khoảnh khắc đó khi bệnh này lần

đầu tiên tấn công bạn, bỗng nhiên bạn sẽ trở nên nhận

biết về điều các nhân tố tâm lí đã đóng góp vào cho nó.

Và bạn không làm điều gì cả: bạn chỉ là nhận biết về

những nhân tố tâm lí đóng góp vào cho nó và cứ đi

ngược lại. Nhiều bệnh tật đơn giản biến mất khỏi bạn

bởi vì cái phức hợp này bị tan vỡ. Khi bạn đã trở nên

nhận biết về cái phức hợp đó, thế thì không còn cần

đến nó nữa. Bạn đã chùi sạch nó - gột sạch.

Đây là cách thanh tâm sâu sắc. Và nếu bạn có thể

làm nó hàng ngày, bạn sẽ cảm thấy mạnh khoẻ mới,

tươi tắn mới xảy tới bạn. Và nếu chúng ta có thể dạy

cho trẻ con thực hiện điều đó hàng ngày, chúng sẽ

chẳng bao giờ bị nặng gánh bởi quá khứ của mình.

Chúng sẽ không cần phải đi về quá khứ. Chúng bao giờ

cũng ở đây và bây giờ. Sẽ không có cái gì treo ở đấy;

không cái gì sẽ lơ lửng trên chúng từ quá khứ cả.47

******************************************************

#17 Già đi

Tâm trí phương Tây được huấn luyện theo ý tưởng

rằng bạn chỉ có một kiếp sống - bẩy mươi năm - và tuổi

thanh niên sẽ không bao giờ quay lại nữa. Tại phương

Tây, mùa xuân chỉ tới một lần; một cách tự nhiên, có

ham muốn sâu xa để níu bám lâu nhất có thể được, để

giả vờ theo đủ mọi cách có thể rằng bạn vẫn còn trẻ.

Tại phương Đông người già hơn bao giờ cũng có

giá trị, được kính trọng. Người đó đã từng trải nhiều,

người đó đã chứng kiến nhiều, nhiều mùa tới rồi đi;

người đó đã sống qua đủ mọi loại kinh nghiệm, tốt và

xấu. Người đó đã trở nên dầy dạn; người đó không còn

non nớt nữa. Người đó có tính toàn vẹn nào đó, cái chỉ

tới với tuổi tác. Người đó không còn ngây thơ, ôm gấu

bông; người đó không còn trẻ trung, vẫn lãng phí thời

gian nghĩ rằng đây là tình yêu.

Người đó đã trải qua tất cả những kinh nghiệm này,

đã thấy rằng cái đẹp phai mờ đi; người đó đã thấy rằng

mọi thứ đều đi tới chỗ kết thúc, rằng mọi thứ đang đi

tới nấm mồ. Từ chính khoảnh khắc người đó rời bỏ cái

nôi, đã chỉ có một con đường - và đó là từ cái nôi tới

nấm mồ. Bạn không thể đi đâu khác được; bạn không

thể đi lạc lối cho dù bạn có thử. Bạn sẽ đạt tới nấm mồ

dù bạn làm bất kì cái gì.

Người già được kính trọng, được yêu mến; người

đó đã đạt tới một sự thuần khiết nào đó của trái tim bởi

vì người đó đã sống qua các ham muốn, và đã thấy

rằng mọi ham muốn đều dẫn tới thất vọng. Những ham

muốn đó là kí ức quá khứ. Người đó đã sống trong đủ

mọi loại quan hệ, và đã thấy rằng mọi loại quan hệ đều

biến thành địa ngục. Người đó đã trải qua tất cả những

đêm tối của linh hồn. Người đó đã đạt tới thái độ tách

rời nào đó - sự thuần khiết của người quan sát. Người

đó không còn quan tâm tới việc tham gia vào bất kì

trận đấu bóng nào. Chỉ sống cuộc sống mình, người đó

đã đi tới siêu việt; do đó, người đó được kính trọng, trí

huệ của người đó được kính trọng.

Nhưng ở phương Đông, ý tưởng đã là cuộc sống

không chỉ là một mẩu nhỏ bẩy mươi năm trong đó tuổi

thanh niên của bạn chỉ tới có một lần. Ý tưởng đã là,

hệt như trong sự tồn tại, mọi thứ đều chuyển động vĩnh

cửu - mùa hè tới, mưa tới, mùa đông tới và mùa hè lại

tới; mọi thứ chuyển vận tựa bánh xe - cuộc sống không

phải là ngoại lệ. Cái chết là kết thúc của bánh xe này và

là bắt đầu của bánh xe khác. Lần nữa bạn sẽ là đứa trẻ,

và lần nữa bạn lại là thanh niên, và lần nữa bạn sẽ là

người già. Điều đó đã là như vậy từ lúc bắt đầu, và nó

sẽ là như vậy cho tới chính lúc cuối - cho tới lúc bạn

trở nên chứng ngộ đến mức bạn có thể nhảy ra khỏi cái

vòng luẩn quẩn và có thể đi vào trong một luật hoàn

toàn khác. Từ cá nhân, bạn có thể nhảy vào vũ trụ. Cho

nên không có gì vội vã, và không có níu bám.

Phương Tây dựa trên truyền thống Do Thái vốn tin

vào chỉ một kiếp sống. Ki tô giáo chỉ là một nhánh của

Do thái giáo. Jesus đã là một người Do Thái, được sinh

ra là người Do Thái, sống là người Do Thái, chết đi là

người Do Thái; ông ấy chưa bao giờ biết rằng ông ấy là

người Ki tô giáo. Nếu bạn gặp ông ấy ở đâu đó và chào

ông ấy bằng, “Xin chào, Jesus Christ,” ông ấy sẽ không

nhận ra bạn đang nói về ai bởi vì ông ấy chưa bao giờ

biết rằng tên mình là Jesus và ông ấy chưa bao giờ biết

rằng mình là Christ. Tên của ông ấy là Joshua, cái tên

Do Thái, và ông ấy là vị cứu tinh của Thượng đế,

không phải là Christ. Jesus Christ là việc dịch sang

tiếng Hi lạp từ tiếng Do Thái. Mô ha mét giáo cũng là

sản phẩm phụ của cùng một tín ngưỡng - Do Thái. Ba

tôn giáo này tin vào một kiếp sống. Việc tin vào một

kiếp sống là rất nguy hiểm bởi vì nó không cho bạn cơ

hội để phạm sai lầm, nó không cho bạn cơ hội để có đủ

kinh nghiệm về bất kì cái gì; bạn bao giờ cũng vội vã.

Toàn bộ tâm trí phương Tây đã trở thành tâm trí

của khách du lịch, người đang mang hai, ba máy ảnh,

và xô đi chụp ảnh mọi thứ bởi vì người đó chỉ có visa

ba tuần. Và trong ba tuần này, người đó phải bao quát

cả đất nước - tất cả những đài kỉ niệm lớn. Không có

thời gian cho người đó xem trực tiếp chúng; người đó

sẽ xem chúng ở nhà, lúc thoải mái, trong tuyển tập ảnh

của mình. Bất kì khi nào tôi nhớ tới người khách du

lịch này, tôi lại thấy bà già ấy chạy xô từ chỗ nọ sang

chỗ kia - từ Ajanta tới Ellora, từ Taj Mahal tới Kashmir

- trong vội vàng, bởi vì cuộc sống là ngắn ngủi.

Chỉ trong tâm trí phương Tây mới tạo ra câu ngạn

ngữ rằng thời gian là tiền bạc. Tại phương Đông mọi

thứ trôi qua chậm chạp; không có vội vàng - người ta

có toàn thể sự vĩnh hằng. Chúng ta đã từng ở đây và

chúng ta sẽ ở đây nữa, cho nên vội gì? Tận hưởng mọi

thứ với sự mãnh liệt và tính toàn bộ.

Cho nên, một điều: bởi vì cái ý tưởng về một kiếp

sống, phương Tây đã trở thành quá bận tâm tới việc trẻ

trung, và thế thì mọi thứ đều được làm để duy trì trẻ

trung lâu nhất có thể được, để kéo dài quá trình này.

Điều đó tạo ra thói đạo đức giả, và điều đó phá huỷ sự

phát triển đích thực. Điều đó không cho phép bạn trở

thành trí huệ thực sự trong tuổi già của mình, bởi vì

bạn ghét tuổi già; tuổi già chỉ nhắc bạn về cái chết,

không cái gì khác. Tuổi già có nghĩa là dấu chấm hết

không còn xa xôi nữa; bạn đã đi tới điểm cuối cùng -

chỉ một tiếng còi nữa, và con tầu sẽ dừng.

Tôi đã có một thoả thuận với ông tôi. Ông thích

chân ông được xoa bóp, còn tôi đã bảo ông, “Ông nhớ

đấy nhé, khi cháu nói ‘phẩy,’ điều đó nghĩa là tỉnh táo;

chấm phẩy đang tới gần. Khi cháu nói, ‘chấm phẩy,’

thì sẵn sàng, bởi vì dấu chấm hết đang tới gần. Còn

một khi cháu nói ‘chấm hết,’ cháu muốn nói điều đó.”

Thế là ông sợ “phẩy” đến mức khi tôi sắp nói, “phẩy”

thì ông sẽ nói, “Được rồi, nhưng để cho chấm phẩy lâu

hơn chút nữa. đừng làm nó ngắn và nhanh chóng!”

Tuổi già đơn giản nhắc nhở bạn, ở phương Tây,

rằng dấu chấm hết đang tới gần - kéo dài dấu phẩy ra.

Và bạn định lừa dối ai? Nếu bạn đã nhận ra rằng tuổi

thanh niên của bạn không còn đó, bạn có thể cứ lừa dối

cả thế giới nhưng bạn không còn trẻ, bạn đơn giản làm

trò cười... Mọi người đều đang cố gắng duy trì trẻ

trung, nhưng họ không biết rằng chính nỗi sợ về mất

tuổi trẻ không cho phép bạn được sống nó trong tính

toàn bộ của nó.

Và điều thứ hai là, nỗi sợ về mất đi tuổi trẻ không

cho phép bạn chấp nhận tuổi già với sự duyên dáng.

Bạn bỏ lỡ cả hai tuổi thanh xuân - niềm vui của nó,

mãnh liệt của nó - và bạn cũng bỏ lỡ cả duyên dáng, và

trí huệ, và an bình mà tuổi già đem lại. Nhưng toàn bộ

vấn đề dựa trên một quan niệm sai lầm về cuộc sống.

Chừng nào phương Tây còn chưa thay đổi ý tưởng rằng

chỉ có một kiếp sống, thái độ đạo đức giả này, níu bám

này, nỗi sợ này không thể nào được thay đổi.

Trong thực tế, một kiếp không phải là tất cả; bạn đã

sống nhiều lần, và bạn sẽ sống nhiều lần nữa. Do đó,

sống từng khoảnh khắc một cách toàn bộ nhất có thể

được; chẳng vội vàng gì nhảy vào khoảnh khắc khác.

Thời gian không phải là tiền bạc, thời gian là không thể

vét cạn; nó có sẵn cho người nghèo cũng nhiều như

cho người giầu. Người giầu không giầu hơn khi có liên

quan tới thời gian, và người nghèo cũng không nghèo

hơn. Cuộc sống là hoá thân vĩnh viễn.

Điều xuất hiện trên bề mặt được bắt rễ rất sâu trong

các tôn giáo của phương Tây. Họ rất keo kiệt trong

việc cho bạn chỉ bẩy mươi năm. Nếu bạn cố gắng vạch

tỉ mỉ ra, gần như một phần ba thời gian cuộc sống bạn

sẽ mất đi cho việc ngủ, một phần ba cuộc sống bạn sẽ

phải phí hoài cho việc kiếm ăn, quần áo, nhà cửa. Bất

kì cái gì nhỏ bé còn lại đều phải dành cho giáo dục,

trận đá bóng, phim ảnh, những cuộc cãi cọ, đánh nhau

ngốc nghếch. Nếu bạn có thể tiết kiệm, trong thời gian

bẩy mươi năm, bẩy phút cho mình, tôi sẽ tính bạn là

người trí huệ. Nhưng khó mà tiết kiệm thậm chí bẩy

phút trong cả cuộc sống của bạn; cho nên làm sao bạn

có thể tìm thấy bản thân mình? Làm sao bạn có thể biết

được bí ẩn của bản thể mình, của cuộc sống mình?

Làm sao bạn có thể hiểu được rằng cái chết không phải

là kết thúc? Bởi vì bạn đã bỏ lỡ kinh nghiệm bản thân

cuộc sống, bạn đang bỏ lỡ kinh nghiệm lớn về cái chết

nữa; nếu không thì chẳng có gì để mà sợ trong cái chết

cả. Đó là giấc ngủ đẹp, ngủ không mơ, giấc ngủ cần

cho bạn để chuyển vào thân thể khác, im lặng và an

bình. Đó là hiện tượng giải phẫu; nó gần giống như

việc đánh thuốc mê. Cái chết là bạn bè, không phải là

kẻ thù.

Một khi bạn hiểu cái chết như bạn bè, và bắt đầu

sống cuộc sống không sợ hãi gì mà nó chỉ là một

khoảng thời gian rất nhỏ chừng bẩy mươi năm - nếu

viễn cảnh của bạn mở tới điều vĩnh hằng của cuộc sống

bạn - thế thì mọi thứ sẽ chậm lại; thế thì không cần

phải mau lẹ. Trong mọi việc, mọi người đơn giản chạy

xô vào. Tôi đã thấy mọi người lấy cặp đi làm, nhét mọi

thứ vào đó, hôn vợ, chẳng thèm nhìn xem cô ấy là vợ

mình hay ai đó khác, và nói lời tạm biệt với con họ.

Đây không phải là cách sống! Và bạn đạt tới đâu với

tốc độ này?

Tôi đã nghe về một đôi thanh niên mới mua một

chiếc xe mới, và họ cho chạy hết tốc độ. Người vợ cứ

hỏi đi hỏi lại chồng, “Chúng ta đang đi đâu?” - bởi vì

người vợ vẫn mang tâm trí cổ: “Chúng ta đang đi đâu?”

Người đàn ông trả lời, “Thôi đừng làm phiền tôi

nữa, tận hưởng tốc độ chúng ta đang đi. Câu hỏi thực

không phải là chúng ta đang đi đâu; câu hỏi thực là

chúng ta đang đi với tốc độ lớn nào?”

Tốc độ đã trở thành quan trọng hơn cái đích, và tốc

độ đã trở thành quan trọng hơn bởi vì cuộc sống ngắn

ngủi thế. Bạn phải làm nhiều thứ đến mức chừng nào

bạn chưa làm mọi thứ với tốc độ, bạn không thể quản lí

nổi. Bạn không thể nào ngồi im lặng thậm chí lấy vài

phút - điều đó dường như là phí hoài. Trong vài phút

đó bạn có thể đã kiếm được vài đồng đô la.

Chỉ phí thời gian nhắm mắt lại, và cái gì có đó bên

trong bạn? Nếu bạn thực sự muốn biết, bạn có thể đi

tới bất kì bệnh viện nào và nhìn bộ xương. Đó là cái ở

bên trong bạn. Tại sao bạn dính líu vào rắc rối một

cách không cần thiết bằng việc nhìn vào trong? Nhìn

vào trong, bạn sẽ thấy xương. Và một khi bạn đã thấy

xương mình, cuộc sống sẽ trở nên khó khăn hơn; hôn

vợ mình, bạn biết hoàn toàn rõ cái gì đang xảy ra - hai

bộ xương. Ai đó chỉ cần phát minh ra kính tia X, thế là

mọi người có thể đeo kính tia X và thấy tất cả các bộ

xương xung quanh đang cười. Có lẽ nhất, người đó sẽ

không sống để tháo kính của mình ra; biết bao nhiêu bộ

xương đang cười cũng đủ để chấm dứt nhịp tim của bất

kì ai. “Lạy trời, đây là thực tại sao! Và đây là điều tất

cả các nhà huyền môn đã từng nói với mọi người,

‘Nhìn vào trong; - phải tránh họ thôi!”

Phương Tây không có truyền thống huyền môn. Nó

là hướng ngoại: Nhìn ra ngoài, có nhiều thứ thế để

xem. Nhưng họ không nhận biết rằng bên trong không

chỉ có bộ xương, còn có cái gì đó bên trong hơn bộ

xương. Đó là tâm thức bạn. Bằng việc nhắm mắt lại

bạn sẽ không bắt gặp bộ xương, bạn sẽ bắt gặp chính

cội nguồn sống của mình. Phương Tây cần quen biết

sâu sắc với cội nguồn cuộc sống của riêng nó, thế thì sẽ

không có vội vàng. Người ta sẽ tận hưởng khi cuộc

sống đem đến tuổi thanh niên, người ta sẽ tận hưởng

khi cuộc sống đem tới tuổi già và người ta sẽ tận hưởng

khi cuộc sống đem tới cái chết. Bạn đơn giản biết một

điều - cách tận hưởng mọi thứ bạn bắt gặp, cách biến

đổi nó thành lễ hội. Tôi gọi tôn giáo đích thực là nghệ

thuật biến đổi mọi thứ thành lễ hội, thành bài ca, thành

điệu vũ.

Một ông già bước vào trong bệnh viện sức khoẻ và

bảo với bác sĩ, “Anh cần làm cái gì đó để hạ thấp động

lực dục của tôi.”

Bác sĩ nhìn vào ông già yếu đuối và nói, “Bây giờ,

bây giờ, thưa ông, tôi đã có cảm giác rằng động lực dục

của ông tất cả đều ở trong đầu ông.”

“Đó chính là điều tôi muốn nói đấy, cu con,” ông

già nói, “Tôi phải hạ thấp nó xuống một ít.”

Thậm chí đến ông già cũng còn muốn là kẻ ăn chơi.

Điều đó chứng tỏ một điều chắc chắn - rằng ông ấy

chưa sống thời thanh niên của mình một cách toàn bộ.

Ông ấy đã bỏ lỡ tuổi thanh niên của mình, và ông ấy

vẫn nghĩ về nó. Bây giờ ông ấy không thể làm được

điều gì về nó cả, nhưng toàn bộ tâm trí ông ấy vẫn liên

tục nghĩ về những ngày ông ấy còn trong tuổi thanh

niên chưa được sống qua; vào lúc đó ông ấy đã vội vã.

Nếu như ông ấy đã sống tuổi thanh niên của mình,

ông ấy sẽ được tự do trong tuổi già của mình với mọi

kìm nén, dục tình; sẽ không cần cho ông ấy vứt bỏ bản

năng dục của mình. Nó biến mất, nó bay hơi trong việc

sống. Người ta chỉ phải sống không bị ngăn cấm,

không có can thiệp nào từ tôn giáo, từ các tu sĩ, và nó

biến mất; bằng không, khi bạn còn thanh niên bạn đi

nhà thờ, và khi bạn già, bạn lại đọc tạp chí Playboy

bằng cách che giấu nó trong Kinh thánh thiêng liêng.

Mọi Kinh thánh thiêng liêng đều được dùng chỉ với

một mục đích, che giấu các tạp chí như Playboy, để

cho bạn không bị trẻ con bắt gặp - điều đó thật xấu hổ.

Tôi đã nghe nói về ba người, ba ông già. Một người

bẩy mươi, người kia tám mươi và người thứ ba chín

mươi. Họ tất cả đều là bạn cũ, đã về hưu, người quen đi

dạo và ngồi ghế dài trong công viên, và có đủ mọi loại

chuyện tán gẫu. Một hôm người trẻ nhất trong ba người

này, người bẩy mươi tuổi, trông có vẻ chút ít buồn bã.

Người thứ hai, tám mươi tuổi, hỏi, “Có chuyện gì vậy?

Ông trông rất buồn.”

Ông ấy nói, “Tôi cảm thấy rất mặc cảm. Nếu tôi kể

cho các ông thì điều đó sẽ giúp tôi được nhẹ gánh. Đấy

là một vụ: Một bà đẹp đang tắm - bà ấy là khách trong

nhà tôi - và tôi nhìn qua lỗ khoá và mẹ tôi bắt quả tang

tôi.”

Cả hai người bạn già đều cười; họ nói, “Ông là

thằng ngu. Mọi người đều làm như thế hồi trẻ con.”

Ông ấy nói, “Vấn đề không phải là thời trẻ con,

điều đó mới xảy ra hôm nay.”

Người thứ hai đáp, “Thế thì đấy thực sự là nghiêm

trọng. Nhưng tôi sẽ kể cho ông một điều vừa mới xảy

ra với tôi trong ba ngày, và tôi vẫn còn chịu nó như

một hòn đá, một tảng đá đè lên tim tôi. Liên tục suốt ba

ngày vợ tôi đã từ chối làm tình với tôi.”

Người thứ nhất nói, “Điếu đó thực sự rất tồi tệ.”

Nhưng người thứ ba, người già nhất cười phá lên

và ông ấy nói, “Trước hết ông hãy hỏi ông ấy làm tình

nghĩa là gì.”

Thế là ông này hỏi, và ông già thứ hai nói, “Cũng

không có gì nhiều lắm. Đừng làm tôi cảm thấy bối rối

thêm. Đấy là một quá trình đơn giản. Tôi cầm tay vợ

tôi và bóp nó ba lần, thế rồi bà ấy đi ngủ và tôi đi ngủ.

Nhưng trong ba ngày, bất kì khi nào tôi cố gắng cầm

tay bà ấy, bà ấy nói, “Không phải hôm nay, không phải

hôm nay! ê cảm thấy xấu hổ đi; ông đủ già rồi - không

phải hôm nay!” Thế là trong ba ngày tôi đã không làm

tình.”

Ông già thứ ba nói, “Điều này chẳng là gì cả. Điều

đã xảy ra cho tôi, tôi phải thú nhận, bởi vì các ông còn

trẻ và điều đó sẽ có ích cho các ông trong tương lai của

các ông. Đêm qua, khi đêm vừa qua đi và sáng tới gần

hơn, tôi bắt đầu chuẩn bị làm tình với vợ tôi và bà ấy

nói với tôi, ‘Ông đang cố gắng làm gì vậy, ông ngốc?’

Tôi nói, ‘Tôi đang cố gắng làm gì ư? Tôi đơn giản cố

gắng làm tình với bà,’ còn bà ấy nói, ‘Đây là lần thứ ba

trong đêm đấy; ông không ngủ mà ông cũng chẳng cho

phép tôi ngủ. Yêu, yêu, yêu!’ Thế là tôi nghĩ dường

như là tôi mất trí nhớ rồi. Vấn đề của các ông chẳng là

gì cả; tôi đã mất trí nhớ.”

Nếu bạn lắng nghe người già, bạn sẽ ngạc nhiên;

họ đang nói chỉ những điều họ đáng phải đã sống,

nhưng thời gian đã trôi qua khi nó là có thể để sống

chúng. Vào thời gian đó họ đã đọc Kinh thánh thiêng

liêng và nghe tu sĩ. Các tu sĩ đó và những kinh sách

thiêng liêng kia đã làm biến chất mọi người, bởi vì

chúng đã trao cho họ cái ý tưởng chống lại tự nhiên và

chúng không thể cho phép họ sống một cách tự nhiên.

Nếu chúng ta cần một nhân loại mới, chúng ta sẽ phải

xoá đi toàn bộ quá khứ và bắt đầu mọi thứ mới. Và

nguyên tắc cơ bản đầu tiên sẽ là: cho phép mọi người,

giúp mọi người, dạy mọi người sống theo bản tính của

mình, không theo bất kì ý tưởng nào, và sống một cách

toàn bộ và mãnh liệt không sợ hãi gì. Thế thì trẻ con sẽ

tận hưởng tuổi thơ của chúng, thanh niên sẽ tận hưởng

tuổi xuân của họ và người già sẽ có cái duyên dáng tới

một cách tự nhiên, bắt nguồn từ toàn bộ cuộc sống

được sống một cách tự nhiên.

Chừng nào tuổi già của bạn còn chưa duyên dáng

và trí huệ và tràn đầy ánh sáng cùng vui vẻ, mãn

nguyện, hoàn thành, phúc lạc... trong chính hiện diện

của bạn, chừng nào hoa chưa nở và chưa có hương

thơm của điều vĩnh hằng, thế thì chắc chắn là bạn vẫn

còn chưa sống đâu. Nếu nó không xảy ra theo cách đó,

điều đó có nghĩa là bạn đã đi lạc lối ở đâu đó, đâu đó

bạn đã nghe các tu sĩ, những kẻ làm biến chất, kẻ tội

phạm, đâu đó bạn đã đi ngược lại tự nhiên - và tự nhiên

báo thù. Và trả thù của nó là phá huỷ tuổi già của bạn

và làm cho nó xấu đi, xấu với người khác và xấu trong

con mắt riêng của bạn; bằng không tuổi già có vẻ đẹp

mà thậm chí tuổi thanh niên không thể có được.

Tuổi thanh xuân có chín muồi, nhưng nó vẫn còn

chưa trí huệ. Nó có quá nhiều cái ngu xuẩn trong nó;

nó mang tính tài tử. Tuổi già đã cho nét vẽ cuối cùng

lên bức tranh của cuộc sống riêng của người ta. Và khi

người ta đã cho nét vẽ cuối cùng, người ta sẵn sàng

chết một cách sung sướng, vũ hội. Người ta sẵn sàng

đón chào cái chết.48

******************************************************

#18 Chết với chân giá trị

Chết tự nhiên là gì? Đây là câu hỏi có ý nghĩa, và

có nhiều điều ngụ ý có thể có trong đó. Điều đơn giản

nhất và hiển nhiên nhất là ở chỗ con người chết đi

chẳng có nguyên nhân gì: người đó đơn giản trở nên

già đi, già hơn, và việc thay đổi từ tuổi già sang cái

chết không qua bất kì bệnh tật nào. Cái chết đơn giản là

tuổi già tối thượng - mọi thứ trong thân thể bạn, trong

não bạn, đều dừng hoạt động. Đây sẽ là ý nghĩa thông

thường và hiển nhiên của cái chết tự nhiên.

Nhưng với tôi cái chết tự nhiên có ý nghĩa sâu sắc

hơn nhiều: người ta phải sống cuộc sống tự nhiên để

đạt tới cái chết tự nhiên. Cái chết tự nhiên là đỉnh điểm

của cuộc sống đã được sống một cách tự nhiên, không

bất kì cấm đoán nào, không bất kì kìm nén nào - hệt

như cách con vật sống, chim chóc sống, cây cối sống,

không bất kì chia chẻ nào... cuộc sống buông bỏ, cho

phép tự nhiên tuôn chảy qua bạn không có bất kì cản

trở nào từ phía bạn, dường như bạn vắng mặt và cuộc

sống đang di chuyển theo cách riêng của nó. Thay vì

bạn sống cuộc sống, cuộc sống sống bạn, bạn là phụ;

thế thì đỉnh điểm sẽ là cái chết tự nhiên. Theo định

nghĩa của tôi chỉ người đã thức tỉnh mới có thể chết cái

chết tự nhiên; ngoài ra tất cả mọi cái chết đều phi tự

nhiên bởi vì tất cả các cuộc sống là phi tự nhiên.

Làm sao bạn có thể đi tới cái chết tự nhiên, khi

sống cuộc sống phi tự nhiên? Cái chết sẽ phản ánh tột

đỉnh tối thượng, cao trào của toàn bộ cuộc sống bạn.

Dưới dạng cô đọng, nó là tất cả những điều bạn đã

sống qua. Cho nên chỉ rất ít người trên thế giới mới

chết một cách tự nhiên bởi vì chỉ rất ít người đã sống

một cách tự nhiên. Huấn luyện của chúng ta không cho

phép chúng ta được tự nhiên. Huấn luyện của chúng ta,

ngay từ ban đầu, dạy chúng ta rằng chúng ta phải là cái

gì đó còn hơn tự nhiên, rằng chỉ là tự nhiên mới là con

vật; chúng ta phải là siêu tự nhiên. Và điều đó dường

như rất logic. Tất cả các tôn giáo đều đã từng thuyết

giảng điều này - rằng là con người có nghĩa là vượt lên

trên tự nhiên - và họ đã thuyết phục nhân loại trong

hàng thế kỉ để vượt lên trên tự nhiên. Không ai đã

thành công trong việc vượt lên trên tự nhiên cả. Tất cả

mọi điều họ đã thành công là phá huỷ cái tự nhiên của

họ, cái đẹp tự phát, cái hồn nhiên của họ. Con người

không cần siêu việt lên trên tự nhiên. Tôi nói với các

bạn, con người phải hoàn thành tự nhiên - điều không

con vật nào có thể làm được. Đó là khác biệt.

Tôn giáo đã tinh ranh, dối trá và lừa bịp mọi người.

Họ đã tạo ra sự phân biệt rằng con vật là tự nhiên còn

bạn phải siêu nhiên. Không con vật nào có thể nhịn ăn;

bạn không thể thuyết phục bất kì con vật nào rằng nhịn

ăn là cái gì đó thiêng liêng. Con vật chỉ biết rằng nó

đói, và không có khác biệt gì giữa nhịn ăn và đói cả.

Bạn không thể thuyết phục bất kì con vật nào đi ngược

lại tự nhiên.

Điều này đã tạo ra một cơ hội cho cái gọi là những

người tôn giáo, bởi vì con người có khả năng ít nhất là

đấu tranh chống lại tự nhiên. Người đó sẽ không bao

giờ thắng lợi cả, nhưng người đó có thể tranh đấu. Và

trong tranh đấu người đó sẽ không phá huỷ tự nhiên;

người đó sẽ phá huỷ chỉ bản thân mình. Đó là cách con

người đã phá huỷ bản thân mình - mọi niềm vui của

mình, mọi tình yêu của mình, mọi vĩ đại của mình - và

đã không trở thành một cái gì đó cao hơn con vật, mà

là một cái gì đó thấp hơn, trong mọi cách có thể. Có lẽ

các bạn chưa bao giờ nghĩ về điều đó: không con vật

hoang dã nào đồng dục. Chính cái ý tưởng này, và toàn

bộ thế giới con vật sẽ phá lên cười. Điều đó đơn giản là

xuẩn ngốc! Nhưng trong vườn thú, nơi con cái không

có sẵn, con vật biến thành đồng dục do sự cần thiết cực

điểm.

Nhưng con người đã biến thế giới này thành vườn

bách thú: hàng triệu và hàng triệu người đồng dục,

đồng dục nữ, người thú dâm, và đủ thứ tầm thường - đủ

mọi loại đồi bại. Và ai chịu trách nhiệm? Người dạy

bạn vượt ra ngoài tự nhiên, đạt tới điều thiêng liêng

siêu nhiên...

Bất kì khi nào bạn ép buộc điều gì đó, kết quả

không định đem lại cải thiện. Trong nhiều lĩnh vực, bởi

các tôn giáo khác nhau, điều đó đã được thử để làm

cho con người là một cái gì đó trên tự nhiên. Kết quả

đã là thất bại, không ngoại lệ nào cả. Bạn được sinh ra

như một sinh linh tự nhiên. Bạn không thể nào vượt lên

trên bản thân mình. Đấy cũng hệt như là tự nâng mình

lên khỏi mặt đất bằng việc kéo chân mình lên. Bạn có

thể nhảy lên một chút, nhưng sớm hay muộn bạn rơi

trở lại mặt đất, và bạn có thể bị gãy xương. Bạn không

thể bay được.

Và đó là điều đã được làm. Mọi người đã cố gắng

nâng mình lên trên tự nhiên, điều có nghĩa là trên bản

thân mình. Họ không tách khỏi tự nhiên, nhưng ý

tưởng này phù hợp với bản ngã của họ: bạn không phải

là con vật cho nên bạn phải ở trên tự nhiên; bạn không

thể hành xử giống con vật. Mọi người thậm chí đã thử

làm con vật không hành xử như con vật; họ đã thử làm

cho chúng đi lên cao hơn tự nhiên một chút.

Vào thời Victoria tại England chó được mặc quần

áo khi người ta đưa chúng đi dạo. Chó có áo choàng để

ngăn cản chúng khỏi tự nhiên, để ngăn cản chúng khỏi

ở truồng và trần trụi - điều vốn thích hợp cho con vật.

Những loại người này đang cố gắng nâng con chó của

mình lên cao hơn con vật chút ít.

Bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng trong thời Victoria ở

England, thậm chí đến chân ghế cũng được bao bọc -

bởi một lí do đơn giản rằng chúng đã được gọi là chân,

và chân cần phải được che đậy. Bertrand Russell,

người sống gần một thế kỉ - một cuộc sống dài - nhớ lại

thời thơ ấu của mình là việc thấy chân của phụ nữ cũng

đủ làm kích động dục. Trang phục đã được làm thời đó

theo cách chúng che phủ hết cả bàn chân; bạn không

thể thấy được bàn chân.

Người ta đã tin, cho dù một trăm năm trước đây,

rằng phụ nữ của gia đình hoàng gia không có hai chân.

Hoàng gia bằng cách nào đó phải khác với thứ dân,

người thường, và không ai thấy - và cũng chẳng có khả

năng nào để thấy - liệu chân của họ có tách biệt lẫn

nhau không. Nhưng bản ngã... những người hoàng gia

này đã không làm điều đó rõ ràng: “Điều này là vô

nghĩa, chúng tôi là con người như các bạn vậy.” Bản

ngã ngăn cản họ. Nếu mọi người sùng bái họ, thế thì

sao phải bận tâm? - vẫn cứ là hoàng gia đi. Đó là một

trong những lí do tại sao gia đình hoàng gia không cho

phép bất kì ai, người thường, được lấy người trong

hoàng gia, bởi vì người đó có thể phơi bầy toàn bộ vấn

đề: “Những người này cũng chỉ là con người như mọi

người khác; chẳng có gì hoàng gia về họ cả.” Nhưng

trong nhiều thế kỉ họ vẫn duy trì cái ý tưởng này.

Tôi cũng muốn bạn khác với con vật, nhưng không

theo nghĩa rằng bạn có thể đi cao hơn tự nhiên - không.

Bạn có thể đi sâu hơn tự nhiên, bạn có thể tự nhiên hơn

con vật. Chúng không được tự do, chúng đang trong

cơn mê sâu; chúng không thể nào làm được bất kì điều

gì khác hơn điều tổ tiên chúng đã làm từ hàng nghìn

năm.

Bạn có thể tự nhiên hơn bất kì con vật nào. Bạn có

thể đi vào các chiều sâu không đáy của tự nhiên, và bạn

có thể đi lên các đỉnh rất cao của tự nhiên, nhưng bạn

sẽ không vượt ra ngoài theo bất kì cách nào. Bạn sẽ trở

thành tự nhiên hơn, bạn sẽ trở thành tự nhiên nhiều

chiều hơn. Với tôi con người tôn giáo không phải là

người ở trên tự nhiên, mà là người hoàn toàn tự nhiên,

tràn đầy tự nhiên, người đã thám hiểm tự nhiên theo đủ

mọi chiều của nó, người đã không bỏ lại cái gì không

được thám hiểm.

Con vật bị tù đày; chúng có một vùng giới hạn của

sự hiện hữu. Con người có khả năng, thông minh, tự do

để thám hiểm. Và nếu bạn đã thám hiểm tự nhiên một

cách toàn bộ, bạn đã về tới nhà - tự nhiên là nhà bạn.

Và thế thì cái chết là niềm vui, là lễ hội. Thế thì bạn

chết không phàn nàn gì; bạn chết với sự biết ơn sâu

sắc, bởi vì cuộc sống đã cho bạn nhiều thế, còn cái chết

đơn giản là chiều cao tối thượng của tất cả những điều

bạn đã sống.

Cũng giống như trước khi ngọn lửa của cây nến tắt

đi nó bùng cháy sáng nhất. Con người tự nhiên, trước

khi người đó chết, sống sáng rực trong khoảnh khắc;

người đó là tất cả ánh sáng, tất cả chân lí. Với tôi điều

này là cái chết tự nhiên. Nhưng nó phải được giành lấy,

nó không được trao cho bạn. Cơ hội này được trao cho

bạn, nhưng bạn phải thám hiểm, bạn phải giành lấy nó,

bạn phải xứng đáng.

Thậm chí để thấy cái chết của một người đích thực,

chỉ ở gần người đó trong khi người đó chết, bạn sẽ

bỗng nhiên được tràn đầy với niềm vui kì lạ. Nước mắt

bạn sẽ không phải bởi buồn bã, buồn rầu; chúng sẽ là

bởi lòng biết ơn và phúc lạc - bởi vì khi một người chết

một cách tự nhiên, việc sống cuộc sống người đó tràn

đầy, người đó trải rộng bản thể mình vào trong toàn thể

tự nhiên. Những người hiện diện và ở gần người đó

đều được tắm... một sự tươi mát bất thần, một làn gió

thoảng, một hương thơm mới và một cảm giác mới

rằng cái chết không phải là cái gì đó xấu, rằng cái chết

không phải là cái gì đó phải sợ, rằng cái chết là cái gì

đó phải giành lấy, phải được xứng đáng.

Tôi dạy bạn nghệ thuật của cuộc sống. Nhưng nó

cũng có thể được gọi là nghệ thuật của cái chết nữa.

Chúng cả hai đều như nhau.49

Trong tâm trí phương Tây, ốm bệnh, bệnh tật, đau

đớn và cái chết tất cả được nhóm lại - được gói lại

thành một gói. Từ đó vấn đề nảy sinh.

Cái chết là đẹp; ốm bệnh thì không, đau đớn thì

không, bệnh tật thì không đẹp. Cái chết không phải là

lưỡi gươm cắt đứt cuộc sống bạn, nó giống như hoa

vậy - hoa tối thượng - cái nở ra vào khoảnh khắc chót.

Nó là đỉnh cao. Cái chết là hoa trên cây của cuộc sống.

Nó không phải là chấm dứt cuộc sống mà là cao trào.

Nó là cực thích tối thượng. Chẳng có gì sai trong cái

chết cả; nó là đẹp - nhưng người ta cần biết cách sống

và cách chết. Có nghệ thuật sống và có nghệ thuật chết;

và nghệ thuật thứ hai còn giá trị nhiều hơn nghệ thuật

thứ nhất. Nhưng nghệ thuật thứ hai có thể được biết tới

chỉ khi bạn đã biết nghệ thuật thứ nhất. Chỉ những

người biết cách sống đúng mới biết cách chết đúng. Và

thế thì cái chết là cánh cửa tới điều thiêng liêng.

Cho nên, điều đầu tiên: xin giữ cái chết tách rời ra.

Nghề y chỉ nghĩ đến ốm yếu, bệnh tật và đau khổ. Họ

không cần tranh đấu chống lại cái chết. Điều đó đang

tạo ra rắc rối trong tâm trí phương Tây, trong các bệnh

viện phương Tây, trong y học phương Tây. Mọi người

đang tranh đấu chống lại cái chết. Mọi người gần như

sống dật dờ trong bệnh viện, chỉ sống dựa vào thuốc.

Họ bị buộc phải sống một cách không cần thiết khi họ

đáng sẽ chết một cách tự nhiên. Qua hỗ trợ của thuốc

cái chết của họ bị trì hoãn. Họ không còn công dụng gì,

cuộc sống không còn công dụng gì cho họ, trò chơi đã

hết, họ đã chấm dứt. Bây giờ giữ cho họ sống chỉ làm

cho họ đau khổ thêm. Đôi khi họ có thể trong cơn mê,

và một người có thể trong cơn mê hàng tháng hay

nhiều năm. Nhưng bởi vì có đối nghịch với cái chết

nên điều đó đã trở thành vấn đề lớn trong tâm trí

phương Tây: phải làm gì khi một người đang trong cơn

mê và sẽ không bao giờ khôi phục lại, nhưng có thể

được giữ cho sống nhiều năm? Người đó sẽ là cái xác,

chỉ là cái xác thở, có thế thôi. Người đó đơn giản sống

dật dờ, sẽ không có cuộc sống. Vấn đề là gì? Tại sao

không cho phép người đó chết? Có sợ về cái chết. Cái

chết là kẻ thù - làm sao lại đầu hàng kẻ thù, cái chết?

Cho nên có tranh luận sôi nổi trong tâm trí y học

phương Tây. Phải làm gì? Người ta có nên được phép

chết không? Người ta có nên được phép quyết định liệu

mình muốn chết không? Gia đình có nên được phép

quyết định liệu họ muốn người đó chết hay không? -

bởi vì đôi khi người này có thể vô ý thức và không thể

quyết định được. Nhưng có quyền giúp ai đó chết đi

không? Nỗi sợ lớn nảy sinh trong tâm trí phương Tây.

Chết đi sao? Điều đó có nghĩa là bạn đang giết người!

Toàn bộ khoa học tồn tại để giúp cho người đó sống.

Bây giờ điều này là ngu xuẩn! Cuộc sống trong bản

thân nó không có giá trị trừ phi có niềm vui, trừ phi có

điệu vũ, trừ phi có cái gì đó sáng tạo, trừ phi có tình

yêu - cuộc sống trong bản thân nó là vô nghĩa. Chỉ

sống là vô nghĩa. Một điểm sẽ tới khi người ta đã sống,

một điểm tới khi chết là tự nhiên, khi chết đi là đẹp.

Hệt như khi bạn đã làm xong việc cả ngày, một điểm

tới khi bạn rơi vào giấc ngủ; cái chết là một loại giấc

ngủ - giấc ngủ sâu hơn. Bạn sẽ được sinh ra lần nữa

trong một thân thể mới hơn với máy móc mới hơn, với

những tiện nghi mới, với những cơ hội mới, thách thức

mới. Thân thể này già rồi và người ta phải bỏ lại nó; nó

chỉ là chỗ trú ngụ...

Tại phương Đông chúng ta có cái nhìn khác: cái

chết không phải là thù mà là bạn. Cái chết cho bạn nghỉ

ngơi. Bạn đã trở nên mệt mỏi, bạn đã sống cuộc sống

của mình, bạn đã biết tất cả mọi niềm vui có thể được

biết trong cuộc sống, bạn đã đốt cháy toàn bộ cây nến

của mình. Bây giờ đi vào trong bóng tối, nghỉ ngơi một

chốc và thế rồi bạn có thể được sinh ra lần nữa. Cái

chết sẽ làm sống lại bạn lần nữa theo một cách tươi tắn

hơn.

Cho nên điều đầu tiên: Cái chết không phải là kẻ

thù.

Điều thứ hai: Cái chết là kinh nghiệm lớn nhất

trong cuộc sống nếu bạn có thể chết một cách có ý

thức. Và bạn có thể chết một cách có ý thức chỉ nếu

bạn không sợ nó. Nếu bạn chống lại nó bạn trở nên rất

hãi hùng, rất sợ sệt. Khi bạn sợ đến mức mà bạn không

thể nào dung thứ được cái sợ đó, có cơ chế tự nhiên

trong thân thể, tiết ra thuốc mê vào trong thân thể và

bạn trở nên vô ý thức. Có một điểm mà bên ngoài nó

khả năng chịu đựng sẽ không thể có được; bạn trở

thành vô ý thức. Cho nên hàng triệu người chết đi một

cách vô ý thức và bỏ lỡ một khoảnh khắc vĩ đại, vĩ đại

nhất trong tất cả các khoảnh khắc. Đó là samadhi, đó là

satori, đó là thiền xảy ra cho bạn. Đó là món quà tự

nhiên.

Nếu bạn có thể tỉnh táo và bạn có thể thấy rằng bạn

không phải là thân thể... Bạn sẽ phải thấy, bởi vì thân

thể sẽ biến mất. Chẳng mấy chốc bạn sẽ có khả năng

thấy rằng bạn không là thân thể, bạn tách biệt. Thế thì

bạn sẽ thấy bạn đang tách ra khỏi tâm trí nữa; thế thì

tâm trí sẽ biến mất. Và thế thì bạn sẽ chỉ là ngọn lửa

của nhận biết, và đó là phúc lành lớn nhất có đó. Cho

nên đừng nghĩ về cái chết như ốm yếu, bệnh tật và đau

khổ của con người.50

Tự do chọn lựa cái chết của bạn nên được chấp

nhận như quyền tập ấm của mọi con người. Một giới

hạn có thể được đặt ra cho nó, chẳng hạn, bẩy mươi

nhăm tuổi. Sau độ tuổi bẩy mươi nhăm bệnh viện nên

sẵn sàng giúp cho bất kì ai muốn gạt bỏ thân thể mình.

Mọi bệnh viện nên có một nơi dành cho người sắp

chết, và những người đã chọn chết nên được trao cho

sự quan tâm và giúp đỡ đặc biệt. Cái chết của họ sẽ

đẹp.

Mọi bệnh viện nên có một giáo viên về thiền.

Người sắp chết nên được cho một tháng và sẽ được

cho phép... nếu người đó đổi ý kiến người đó có thể

quay lại, bởi vì không ai ép buộc người đó. Những

người hay xúc động, người muốn tự tử không thể vẫn

còn xúc động trong một tháng - xúc động có thể là tạm

thời. Phần lớn những người tự tử, nếu họ chờ đợi một

thời gian lâu hơn, họ sẽ không tự tử chút nào. Đấy là từ

giận dữ, từ ghen tị, từ hận thù hay cái gì đó mà họ quên

mất giá trị của cuộc sống.

Toàn bộ vấn đề là ở chỗ các chính khách coi việc

chấp nhận chết tự nguyện, có nghĩa là tự tử, không là

tội ác. Không, điều đó không có nghĩa như thế. Tự tử

vẫn là một tội ác.

Chết tự nguyện sẽ là việc cho phép của ban y tế.

Việc ở lại một tháng trong bệnh viện - mọi loại giúp đỡ

có thể được trao cho người này để trở nên bình thản và

yên tĩnh... tất cả bạn bè tới gặp người đó, vợ người đó,

con người đó, bởi vì người đó đang đi trên một cuộc

hành trình dài. Không có vấn đề ngăn cản người đó -

người đó đã sống lâu, và người đó không muốn tiếp tục

sống nữa, công việc của người đó đã kết thúc.

Và người đó nên được dạy thiền trong một tháng

này, để cho người đó có thể thiền trong khi cái chết tới.

Và với cái chết, sự giúp đỡ của thuốc nên được trao

cho để cho nó tới như giấc ngủ - dần dần, song song

với thiền, giấc ngủ trở thành sâu hơn. Chúng ta có thể

thay đổi cái chết của hàng nghìn người thành chứng

ngộ. Và không có sợ tự tử, bởi vì người đó không định

tự tử; nếu ai đó cố tự tử người đó vẫn sẽ phạm tội ác.

Người đó đang yêu cầu việc cho phép. Với việc cho

phép của ban y tế... và người đó có thời gian một tháng

trong đó người đó có thể thay đổi ý kiến của mình vào

bất kì lúc nào. Vào ngày cuối cùng người đó có thể nói,

“Tôi không muốn chết” - thế thì người đó có thể về

nhà. Không có vấn đề trong đó: đấy là quyết định của

người đó.

Ngay bây giờ có một tình huống rất kì lạ trong

nhiều nước. Mọi người cố gắng tự tử: nếu họ thành

công, thì tốt; nếu họ không thành công, thế thì toà án

phạt họ tội chết. Kì lạ thế! - bản thân họ đã làm điều

đó. Họ đã bị vướng giữa chừng. Bây giờ trong hai năm

việc xử án sẽ diễn ra; chánh án và luật sư sẽ tranh luận,

và thế này thế nọ, và cuối cùng người này phải bị treo

cổ, lần nữa. Người đó đã làm điều đó ngay chỗ đầu

tiên, tự mình! Tại sao lại tất cả những điều vô nghĩa

này?

Chết tự nguyện đang trở thành ngày càng cần hơn,

bởi vì với tiến bộ y học mọi người đang sống lâu hơn.

Các nhà khoa học vẫn chưa bắt gặp bộ xương nào từ

năm nghìn năm trước đây của một người quá bốn mươi

tuổi khi người đó chết. Năm nghìn năm trước người ta

sống lâu nhất không quá bốn mươi tuổi, và trong mười

đứa con sinh ra thì chín đứa chết đi trong vòng hai năm

- chỉ một đứa sống sót - cho nên cuộc sống có giá trị

mênh mông.

Hippocrates đã đưa ra lời thề với nghề y rằng bạn

phải giúp đỡ cuộc sống trong mọi trường hợp. Ông ấy

không nhận biết - ông ấy không phải là nhà tiên tri -

ông ấy đã không có sáng suốt để thấy rằng một ngày có

thể tới khi trong mười đứa trẻ, cả mười đều sống sót.

Bây giờ điều đó đang xảy ra. Một mặt, chín đứa nữa

sống sót; và mặt khác, y học giúp cho mọi người sống

lâu hơn - chín mươi tuổi, một trăm tuổi không phải là

hiếm. Trong các nước đã phát triển rất dễ tìm ra người

chín mươi tuổi hay người một trăm tuổi.

Tại Liên Xô có người đã đạt tới một trăm năm

mươi tuổi, và có vài nghìn người đã đạt tới một trăm

tám mươi tuổi - và họ vẫn còn làm việc. Nhưng bây giờ

cuộc sống đã trở thành nhàm chán. Một trăm tám mươi

năm, nghĩ về điều đó, làm cùng một thứ - thậm chí đến

xương cũng sẽ đau - và vậy mà họ vẫn không có khả

năng chết. Cái chết vẫn dường như là xa xôi - họ vẫn

làm việc và mạnh khoẻ.

Tại Mĩ có hàng nghìn người trong các bệnh viện

chỉ nằm trong giường với đủ mọi loại dụng cụ được nối

vào họ. Nhiều người đang dùng máy thở nhân tạo.

Phỏng có ích gì nếu bản thân người đó không thể thở

được? Bạn trông đợi người đó làm gì? Và tại sao bạn

làm cho cả quốc gia nặng gánh bởi con người này khi

có nhiều người đang chết trên phố, chết đói?

Ba mươi triệu người ở Mĩ ở ngoài phố không nơi

trú ẩn, không thức ăn, không quần áo, và hàng nghìn

người đang chiếm các giường bệnh viện, bác sĩ, y tá -

công việc của họ, lao động của họ, thuốc men. Mọi

người đều biết họ sẽ chết sớm hay muộn, nhưng chừng

nào mà bạn vẫn có thể thì bạn vẫn phải giữ họ sống.

Họ muốn chết. Họ hét lên là họ muốn chết, nhưng bác

sĩ chẳng thể giúp cho điều đó. Những người này chắc

chắn là cần một quyền nào đó; họ đang bị buộc phải

sống, và theo mọi cách thức bắt buộc là không dân chủ.

Cho nên tôi muốn điều đó là điều rất hợp lí. Làm

điều đó bẩy mươi nhăm năm hay tám mươi năm, thế

thì cuộc sống được sống đủ. Trẻ con lớn lên... khi bạn

tám mươi, con bạn sẽ năm mươi, năm mươi nhăm; họ

đang già đi. Bây giờ không có nhu cầu cho bạn để phải

bận tâm và lo nghĩ. Bạn nghỉ ngơi; bây giờ bạn đơn

giản là gánh nặng, bạn không biết làm cái gì.

Và đó là lí do tại sao người già cáu bẳn thế - bởi vì

họ không có việc gì, họ không có bất kì sự kính trọng

nào, họ không có bất kì chân giá trị nào. Không ai bận

tâm về họ, không ai để ý đến họ. Họ sẵn sàng đánh

nhau, giận dữ và hét lên. Đây đơn giản là nỗi thất vọng

của họ biểu lộ ra; điều thực là họ muốn chết. Nhưng họ

thậm chí không thể nói ra được điều đó. Điều đó là trái

giáo lí, điều đó là phi tôn giáo - chính cái ý tưởng về

chết.

Họ nên được trao cho tự do, nhưng không chỉ chết;

họ nên được trao cho tự do của huấn luyện một tháng

về cách chết. Trong huấn luyện đó, thiền nên là phần

cơ bản; chăm sóc vật lí nên là một phần cơ bản. Họ nên

chết một cách lành mạnh, toàn thể, im lặng, an bình -

dần dần trượt sâu vào trong giấc ngủ. Và nếu thiền

được nối liền với ngủ thì họ có thể chết được chứng

ngộ. Họ có thể biết rằng chỉ thân thể là bị bỏ lại đằng

sau, còn họ là một phần của vĩnh hằng.

Cái chết của họ sẽ tốt hơn cái chết thông thường,

bởi vì trong cái chết thông thường bạn không có cơ hội

trở nên được chứng ngộ. Trong thực tế ngày càng

nhiều người sẽ ưa thích chết trong bệnh viện, trong các

viện đặc biệt dành cho việc chết nơi mọi thu xếp được

tiến hành. Bạn có thể rời bỏ cuộc sống theo cách cực

lạc, vui sướng, với cám ơn và biết ơn lớn lao.

Tôi hoàn toàn ủng hộ cho chết tự nguyện với

những điều kiện này.51

******************************************************

#19 Bệnh AID

Tôi không biết gì ngay cả về bệnh aid đầu tiên, và

bạn lại hỏi tôi về AIDS cuối cùng! Nhưng dường như

tôi sẽ phải nói đôi điều về nó. Và trong một thế giới mà

những người chẳng biết gì về bản thân mình có thể nói

về Thượng đế, những người chẳng biết gì về địa lí của

trái đất có thể nói về cõi trời và địa ngục, thì không

phải là không thể quan niệm nổi việc tôi nói điều gì đó

về AIDS, mặc dầu tôi không phải là bác sĩ điều trị.

Nhưng cái bệnh bây giờ được gọi là AIDS cũng không

phải chỉ là bệnh. Nó là cái gì đó nhiều hơn, một cái gì

đó ở bên kia giới hạn của nghề y.

Như tôi thấy nó, nó không phải là bệnh theo cùng

loại như các bệnh khác; do đó mới nguy hiểm về nó.

Có lẽ nó sẽ giết chết ít nhất hai phần ba nhân loại. Về

cơ bản nó là việc không có khả năng chống lại các

bệnh tật. Người ta dần dần thấy bản thân mình mong

manh đối với đủ mọi loại nhiễm khuẩn, và người ta

không có kháng cự bên trong để đấu tranh lại việc

nhiễm khuẩn này.

Với tôi điều đó có nghĩa là nhân loại đang mất ý

chí để sống. Bất kì khi nào một người mất đi ý chí để

sống thì kháng cự của người đó sụp đổ ngay lập tức,

bởi vì thân thể tuân theo tâm trí. Thân thể là kẻ phục vụ

rất bảo thủ của tâm trí; nó phục vụ tâm trí theo cách tôn

giáo. Nếu tâm trí mất ý chí để sống điều đó sẽ được

phản ánh trong thân thể bằng việc vứt bỏ kháng cự

chống lại ốm bệnh, chống lại cái chết. Tất nhiên bác sĩ

điều trị sẽ chẳng bao giờ bận tâm về ý chí để sống - đó

là lí do tại sao tôi lại nghĩ tốt hơn cả là tôi nói điều gì

đó.

Vấn đề này đang sắp trở thành một vấn đề khổng lồ

trên khắp thế giới đến mức bất kì sáng suốt nào từ bất

kì chiều hướng nào cũng có thể có ích mênh mông.

Ngay lúc bắt đầu người ta đã nghĩ nó là bệnh đồng dục.

Từ khắp nơi trên thế giới các nhà nghiên cứu đã ủng hộ

cho ý tưởng rằng nó là cái gì đó đồng dục - người ta đã

tìm ra rằng bệnh này xảy ra ở đàn ông nhiều hơn đàn

bà. Nhưng bây giờ các nhà nghiên cứu nói rằng AIDS

không phải là bệnh đồng dục chút nào, đó là bệnh dị

dục, và nó xảy ra nếu mọi người cứ thay đổi bạn tình -

trộn lẫn với nhiều đàn bà, với nhiều đàn ông, liên tục

thay đổi bạn tình. Việc thay đổi liên tục này là nguyên

nhân cho bệnh này. Đồng dục chẳng liên quan gì tới

nó, theo nghiên cứu của họ.

Với tôi điều đó rất có ý nghĩa. Nó chẳng liên quan

gì tới cả dị dục lẫn đồng dục. Nó chắc chắn có điều gì

đó liên quan tới dục. Và tại sao nó có điều gì đó liên

quan tới dục? - bởi vì ý chí sống được bắt rễ trong dục.

Nếu ý chí sống biến mất, thế thì dục sẽ là vùng dễ tổn

thương nhất của cuộc sống để mời cái chết.

Nhớ thật rõ rằng tôi không là người ngành y, và bất

kì điều gì tôi đang nói cũng là từ một quan điểm hoàn

toàn khác. Nhưng có nhiều khả năng về điều tôi đang

nói lại còn đúng hơn điều cái gọi là những nhà nghiên

cứu này đang nói, bởi vì việc nghiên cứu của họ là

nông cạn. Họ chỉ nghĩ tới các ca; họ thu thập dữ liệu,

sự kiện.

Đấy không phải là cách thức của tôi - tôi không là

người thu thập sự kiện. Công việc của tôi không phải là

nghiên cứu mà là nhìn thấu. Tôi cố gắng nhìn vào trong

mọi vấn đề sâu nhất có thể được. Tôi đơn giản bỏ qua

điều nông cạn, vốn là lĩnh vực của các nhà nghiên cứu.

Công việc của tôi có thể gọi là tìm vào trong

(insearch), không là nghiên cứu (research). Tôi cố gắng

hiểu thấu sâu, và tôi thấy rõ ràng rằng dục là hiện

tượng có liên quan nhiều nhất tới ý chí sống. Nếu ý chí

sống suy giảm đi, dục sẽ dễ tổn thương; thế thì đấy

không phải là vấn đề dị dục hay đồng dục.

Dường với tôi, bệnh này là tâm linh. Con người đã

đi tới điểm người đó thấy hết đường. Quay ngược lại là

vô nghĩa bởi vì tất cả mọi điều người đó đã thấy, đã

sống, đều chỉ ra cho người đó chẳng có gì trong đó cả;

nó đã chứng tỏ tất cả đều vô nghĩa. Quay trở lại không

có nghĩa; tiến lên trước không có đường: đối diện với

người đó là vực thẳm. Trong tình huống này nếu người

đó mất ham muốn, ý chí sống, điều đó không phải là

không dự kiến được.

Bằng thực nghiệm người ta đã chứng minh rằng

nếu một đứa trẻ không được nuôi lớn lên bởi những

người yêu thương - mẹ, bố, trẻ con khác trong gia đình

- nếu đứa con không được nuôi lớn lên bởi những

người yêu thương, bạn có thể cho nó mọi thứ nuôi

dưỡng nhưng bằng cách nào đó thân thể nó cứ co lại.

Bạn cho mọi thứ cần thiết - nhu cầu thuốc được đáp

ứng, nhiều chăm sóc được thực hiện - nhưng đứa trẻ cứ

co lại. Đấy là bệnh chăng? Vâng, với tâm trí thuốc men

mọi thứ đều là bệnh tật; cái gì đó phải sai. Họ sẽ cứ

nghiên cứu các sự kiện, tại sao nó lại xảy ra. Nhưng

đấy không phải là bệnh tật.

Ý chí sống của đứa trẻ thậm chí còn chưa nảy sinh.

Nó cần hơi ấm tình yêu, những khuôn mặt vui vẻ, trẻ

con nhảy nhót, hơi ấm của thân người mẹ - ở giữa

những điều làm cho đứa trẻ cảm thấy rằng cuộc sống

có kho báu vô cùng cần được thám hiểm, rằng có nhiều

niềm vui, điệu vũ, trò chơi; rằng cuộc sống không chỉ

là sa mạc, rằng có những khả năng mênh mông. Nó

phải có thể thấy những khả năng đó trong những con

mắt xung quanh nó, trong những thân thể quanh nó.

Chỉ thế thì ý chí sống mới tràn ra - gần giống như dòng

suối. Bằng không, nó sẽ co lại và chết - không bởi bất

kì bệnh vật lí nào, nó sẽ đơn giản co lại và chết.

Tôi đã ở các trại mồ côi; một trong các bạn tôi,

Rekhchand Parekh, ở Chanda Maharashtra, đã cai quản

một trại trẻ mồ côi - quãng một trăm đến một trăm

mười trẻ mồ côi ở đó. Một trẻ mồ côi tới, hai ngày tuổi,

ba ngày tuổi; mọi người sẽ bỏ chúng lại ngay trước trại

trẻ. Ông ấy muốn tôi tới thăm trại trẻ, tôi nói, “Lúc nào

đó về sau tôi sẽ tới thăm nó, bởi vì tôi biết bất kì cái gì

có đó sẽ làm cho tôi buồn không cần thiết.” Nhưng ông

ấy cứ nài nỉ, thế là một lần tôi tới, và điều tôi đã thấy...

Họ làm mọi chăm sóc, ông ấy đã đổ tiền của mình cho

những đứa trẻ này, nhưng chúng tất cả đều sẵn sàng

chết vào bất kì lúc nào. Các bác sĩ có đó, y tá có đó,

tiện nghi thuốc có đó, thức ăn có đó, mọi thứ đều có

đó. Ông ấy đã cho ngôi nhà gỗ một tầng đẹp của riêng

ông ấy - ông ấy đã chuyển sang ở căn nhà gỗ nhỏ hơn -

một khu vườn đẹp và mọi thứ có đó; nhưng ý chí sống

không có đó.

Tôi bảo ông ấy, “Những đứa trẻ này sẽ cứ chết dần

đi.”

Ông ấy nói, “Ông đang nói tôi sao? Tôi đã cai quản

trại trẻ mồ côi này mười hai năm nay; hàng trăm đứa

trẻ đã chết. Chúng tôi đã cố gắng mọi cách có thể để

giữ chúng sống, nhưng chẳng cái gì dường như có tác

dụng. Chúng cứ co lại và một ngày nào đó đơn giản

chúng không còn đó.”

Nếu có bệnh tật bác sĩ có thể giúp đỡ, nhưng không

có bệnh gì; đơn giản, đứa trẻ không có ham muốn

sống. Khi tôi nói điều này cho ông ấy vấn đề trở thành

rõ ràng cho ông ấy. Ông ấy ngay lập tức, ngay ngày

hôm đó, trao trại trẻ cho chính phủ, và ông ấy nói, “Tôi

đã cố gắng giúp những đứa trẻ này trong mười hai năm

trời; bây giờ tôi biết điều đó là không thể được. Điều

chúng cần tôi không thể cho được, cho nên tốt hơn cả

là chính phủ tiếp quản nó.” Ông ấy nói với tôi, “Tôi đã

đi tới điểm này nhiều lần, nhưng tôi không phải là

người giỏi phát biểu ra cho nên tôi không thể hình

dung ra nó là gì. Nhưng theo một cách mơ hồ tôi đã

cảm thấy rằng cái gì đó bị bỏ lỡ và điều đó cứ giết chết

chúng.”

AIDS là cùng hiện tượng này nhưng ở đầu bên kia.

Đứa trẻ mồ côi co lại và chết bởi vì ý chí sống của nó

chưa bao giờ nẩy ra, chưa bao giờ tràn ra, chưa bao giờ

trở thành dòng chảy. AIDS là tại đầu bên kia: Bạn

bỗng nhiên cảm thấy bạn là kẻ mồ côi của sự tồn tại.

Cảm giác là đứa trẻ mồ côi của sự tồn tại này làm cho

ý chí sống của bạn biến mất. Và khi ý chí sống biến

mất, dục sẽ là cái đầu tiên bị ảnh hưởng bởi vì cuộc

sống của bạn bắt đầu với dục; nó là sản phẩm phụ của

dục.

Cho nên trong khi bạn đang sống, đang rộn ràng, hi

vọng, tham vọng, và ngày mai vẫn còn là điều mơ

tưởng - để cho bạn có thể quên đi tất cả ngày hôm qua

cái đã là vô nghĩa, bạn có thể quên đi hôm nay cũng là

vô nghĩa... nhưng ngày mai khi mặt trời lên và mọi thứ

sẽ khác... Tất cả các tôn giáo đều đã cho bạn hi vọng

đó.

Những tôn giáo này đều đã thất bại. Mặc dầu bạn

cứ giữ mãi cái nhãn - Ki tô giáo, Do Thái giáo, Hindu

giáo - đấy chỉ là cái nhãn. Bên trong, bạn đã mất hi

vọng, hi vọng đã biến mất. Các tôn giáo không thể giúp

gì, chúng là giả. Chính khách không thể giúp gì. Họ

chưa bao giờ có ý định giúp đỡ cả; đấy chỉ là chiến

lược để khai thác bạn. Nhưng cái không tưởng giả tạo

này - chính trị hay tôn giáo - có thể giúp ích gì cho

bạn? Sớm hay muộn, một ngày nào đó con người sẽ trở

nên chín chắn; và đó là điều đang xảy ra. Con người

đang trở nên chín chắn, nhận biết rằng mình đã bị lừa

bởi các tu sĩ, bởi bố mẹ, bởi chính khách, bởi các nhà

sư phạm. Người đó đơn giản bị lừa bởi mọi người, và

họ đã nuôi dưỡng người đó bằng những hi vọng giả

tạo. Cái ngày người đó chín chắn và nhận ra điều này,

ham muốn sống sẽ rơi mất. Và điều đầu tiên bị tổn

thương bởi nó sẽ là bản năng dục của bạn. Với tôi đó là

AIDS.

Khi bản năng dục của bạn bắt đầu co lại bạn thực

sự hi vọng rằng cái gì đó sẽ xảy ra và bạn sẽ đi vào

trong im lặng vĩnh hằng, vào trong việc biến mất vĩnh

hằng. Việc cưỡng lại của bạn không có đó. AIDS

không có triệu chứng nào khác ngoại trừ rằng sự cưỡng

lại của bạn cứ bị vứt bỏ đi. Và nhiều nhất bạn có thể

sống được hai năm nếu bạn may mắn và không ngẫu

nhiên bị nhiễm bệnnh. Mỗi lần nhiễm bệnh sẽ không

thể nào chữa nổi, và từng lần nhiễm bệnh sẽ làm yếu

bạn thêm nữa. Hai năm là dài nhất để bệnh nhân AIDS

có thể sống; và người đó có thể biến mất lúc nào đó

trước đó. Và không cách chữa nào sẽ có ích, bởi vì

không cách chữa nào có thể đem trở lại ý chí sống của

bạn.

Điều tôi đang làm ở đây là đa chiều. Bạn không

nhận biết đầy đủ về điều tôi đang cố gắng làm; có lẽ

bạn có thể trở nên nhận biết chỉ khi tôi đã ra đi. Tôi

đang cố gắng trao cho bạn không phải là hi vọng vào

tương lai - bởi vì điều đó đã thất bại - tôi đang cố gắng

trao cho bạn hi vọng ở đây bây giờ. Tại sao lại bận tâm

về ngày mai?... bởi vì ngày mai không ích gì. Trong

nhiều thế kỉ ngày mai đã từng giữ bạn sống kéo lê bằng

cách nào đó, và nó đã làm thất bại bạn biết bao nhiêu

lần đến mức bây giờ bạn không thể cứ níu bám lấy nó.

Điều đó sẽ là ngu xuẩn cực kì. Những người đang níu

bám lấy nó vẫn chỉ chứng tỏ rằng họ đang chậm trễ

trong tâm trí mình.

Tôi đang cố gắng làm chính khoảnh khắc này được

hoàn thành, mãn nguyện sâu sắc đến mức không cần ý

chí sống nữa. Ý chí sống là cần tới bởi vì bạn không

sống. Ý chí này giữ việc phục hồi bạn: bạn cứ trượt

xuống, ý chí này giữ việc phục hồi bạn. Tôi không cố

gắng trao cho bạn ý chí sống mới, tôi đơn giản cố gắng

dạy bạn sống không có ý chí nào, sống vui vẻ. Chính

cái ngày mai mới đầu độc bạn. Quên hôm qua đi, quên

ngày mai đi. Đây là ngày của chúng ta - chúng ta mở

hội nó và sống nó. Và chỉ bằng việc sống nó bạn sẽ đủ

mạnh để cho không có ý chí sống bạn sẽ vẫn có khả

năng cưỡng lại mọi loại bệnh tật, mọi thái độ tự tử.

Sống động tràn đầy là một sức mạnh mà bạn không

chỉ có thể sống, bạn còn có thể làm cho người khác bốc

lửa, bốc cháy nữa.

Điều này đã là một sự kiện nổi tiếng. Khi có bệnh

dịch lớn bạn không tự hỏi tại sao các bác sĩ và y tá và

những người khác không bị nhiễm bệnh? Họ cũng là

con người như bạn, và họ lại còn làm việc quá tải, dễ bị

lây nhiễm bởi vì họ liên tục mệt mỏi. Khi có bệnh dịch

bạn không thể cứ đòi làm việc năm giờ hay sáu giờ một

ngày, và một tuần năm ngày. Bệnh dịch là bệnh dịch;

nó không bận tâm tới ngày nghỉ của bạn hay làm quá

giờ của bạn. Bạn phải làm việc - mọi người làm việc

mười sáu giờ, mười tám giờ, mọi ngày, nhiều tháng.

Vậy mà các bác sĩ, y tá, người chữ thập đỏ, họ không

bị nhiễm bệnh.

Vấn đề là gì? Tại sao người khác bị nhiễm bệnh?

Đây là những loại người như nhau. Nếu chỉ có một chữ

thập đỏ trên áo sơ mi của bạn... thế thì hãy đặt chữ thập

đỏ lên áo sơ mi của mọi người đi; đặt chữ thập đỏ lên

mọi nhà. Nếu chữ thập đỏ ngăn cản việc truyền nhiễm

công việc sẽ dễ dàng thế - nhưng điều đó lại không

phải là vấn đề.

Không, những người này tham dự quá nhiều vào

việc giúp đỡ người khác, họ không có ngày mai nào.

Khoảnh khắc này bao hàm thế, họ không có ngày hôm

qua. Họ không có thời gian nào để nghĩ hay thậm chí lo

nghĩ, “Mình có thể bị nhiễm bệnh.” Sự tham dự của

họ... Khi hàng triệu người đang chết, bạn có thể nghĩ

về bản thân mình, và cuộc sống mình, và cái chết của

mình được không? Toàn bộ năng lượng của bạn đang

chuyển ra để giúp mọi người, để làm bất kì điều gì bạn

có thể làm. Bạn đã quên mất bản thân mình, và bởi vì

bạn đã quên mất bản thân mình nên bạn không thể nào

bị nhiễm bệnh. Người có thể bị nhiễm bệnh vắng mặt:

người đó quá tham gia vào việc làm điều gì đó, người

đó mất đi trong công việc gì đó.

Không thành vấn đề là bạn đang vẽ hay hay đang

tạc tượng, hay bạn đang phục vụ người sắp chết -

không thành vấn đề bạn đang làm gì, vấn đề là: Bạn có

tham dự toàn bộ trong ở đây bây giờ không? Nếu bạn

tham dự trong ở đây bây giờ thì bạn hoàn toàn ở ngoài

vùng mà việc nhiễm bệnh là có thể. Khi bạn tham gia

nhiều thế, cuộc sống bạn trở thành một lực chảy xiết.

Và bạn sẽ thấy: thậm chí một bác sĩ lười biếng, trong

thời gian dịch bệnh, khi hàng trăm người đang chết,

bỗng nhiên quên mất tính lười biếng của mình. Và bác

sĩ già bỗng nhiên quên mất tuổi mình...

Chỉ thiền mới có thể xả ra năng lượng của bạn ở

đây bây giờ. Và thế thì không có nhu cầu về bất kì hi

vọng nào, về bất kì nơi không tưởng nào, về bất kì

thiên đường ở bất kì đâu. Mỗi khoảnh khắc đều là thiên

đường cho chính nó. Nhưng khi có liên quan tới hạn

chế của tôi, tôi không đủ tư cách để nói gì về AIDS cả.

Tôi thậm chí chưa bao giờ học một giáo trình nào về

cứu giúp đầu tiên. Cho nên xin tha thứ cho việc tôi đi

vào trong cái gì đó không phải là công việc của tôi.

Nhưng tôi vẫn cứ làm điều đó, và tôi đang tiếp tục làm

điều đó.52

******************************************************

#20 Nhìn vào tương lai

Các khả năng mà kĩ nghệ gen mang tới là tuyệt đối

hấp dẫn, và không có nhu cầu cảm thấy sợ gì về nó cả.

Trong thực tế, điều chúng ta đã làm trong hàng triệu

năm là việc sinh sản số lượng lớn - việc sinh sản số lớn

ngẫu nhiên.

Bạn có biết loại trẻ con nào chúng ta đang cho sinh

thành ra không? Bạn có biết liệu nó có mù loà, què

quặt, chậm phát triển, ốm đau, yếu đuối, dễ tổn thương

với đủ mọi loại bệnh tật trong cả cuộc sống nó không?

Người yêu của bạn có biết anh ta đang làm gì không?

Trong khi bạn làm tình bạn chẳng có quan niệm, thậm

chí không một khả năng phán đoán. Bạn đang cho sinh

thành ra trẻ con giống hệt con vật, và bạn không cảm

thấy sợ về điều đó, bạn không cảm thấy khiếp hãi gì về

điều đó cả. Và bạn thấy cả thế giới này đầy những

người chậm phát triển, què quặt, đui mù, điếc lác, câm

tịt. Tất cả những điều này đều là rác rưởi! Ai chịu trách

nhiệm cho điều đó? Và đấy không là sinh sản số đông

sao?

Quan niệm của tôi về việc sinh đẻ khoa học ra trẻ

con là ở chỗ, có ý thức, tỉnh táo, có chủ ý, chúng ta

đang mang một vị khách tới trái đất. Chúng ta biết

người đó là ai, người đó là gì và người đó cuối cùng trở

thành cái gì; người đó sẽ sống bao lâu, người đó thông

minh như thế nào. Chúng ta đang cắt bỏ tất cả các khả

năng về trẻ con mù, trẻ con điếc, trẻ con câm, chậm

phát triển theo đủ mọi cách - về mặt vật lí, tâm lí - và

bạn cảm thấy sợ sao? Đừng ngu xuẩn thế.

Việc sinh thành khoa học ra đứa trẻ không phải là

mang thú tính. Bạn đang siêu việt lên trên con vật bằng

việc cho sinh thành đứa trẻ một cách khoa học. Điều đó

thật hấp dẫn, điều vĩ đại nhất, điều quyến rũ nhất.

Chúng ta có thể làm được điều đó, điều đó đã là thực tế

khoa học. Chúng ta có thể tạo ra con người mạnh khoẻ

hơn, người sẽ sống lâu như chúng ta muốn, và chúng ta

có thể cho chúng nhiều thông minh như được cần tới

trong công việc của chúng.

Một đôi lứa đi tới một phòng thí nghiệm khoa học

và bảo họ rằng họ muốn có một đứa trẻ như Albert

Einstein, nhưng còn hơn ông ấy, sống hai trăm tuổi; và

nó không nên bị bệnh tật gì, nó nên mạnh mẽ. Phòng

thí nghiệm khoa học tìm đúng trứng trong ngân hàng,

đúng tinh trùng trong ngân hàng, và đứa trẻ được tạo ra

trong ống nghiệm với mọi sự thận trọng.

Bạn sẽ phải chấp thuận đứa trẻ này, bạn không thể

tạo ra đứa trẻ được. Việc sinh sản trẻ con mang tính thú

vật. Việc nhận trẻ con từ trí tưởng tượng của bạn... Mọi

người đều muốn Shakespeare được sinh ra, muốn con

họ là nhà thơ vĩ đại, nhạc sĩ vĩ đại, vũ công vĩ đại. Mọi

người mẹ đều nghĩ rằng con mình đang sắp là một siêu

nhân theo cách nào đó, và mọi người mẹ đều thất vọng

- đứa con trở nên hư hỏng. Nó mất hút trong cả cái đám

đông này trên một hành tinh quá đông đúc cư dân. Đây

là sinh sản số đông. Nhưng với việc nhận một đứa con,

bạn có thể suy tư về tất cả những phẩm chất bạn cần.

Bạn có thể hỏi lời khuyên của các chuyên gia về phẩm

chất nào sẽ có ích trong cuộc sống của nó, nó sẽ có khả

năng yêu bao nhiêu... Bạn muốn một Romeo sao? - bạn

có thể được một Romeo. Đấy chỉ là vấn đề hoá học.

Romeo có nhiều hooc môn nam hơn bất kì người nào

khác, anh ta giầu hơn; đó là lí do tại sao một phụ nữ

không đủ cho anh ta.

Bạn muốn một nhà thơ siêu việt lên trên tất cả các

nhà thơ của quá khứ? Một nhà khoa học mà trong so

sánh thì tất cả những nhà khoa học của quá khứ sẽ

giống như người lùn? Một nhạc sĩ đem tới cái chưa

biết, cái vô hình qua âm thanh cho bạn? Một nhà thơ

cất lên bài ca về niềm vui và lễ hội mà không ai khác

đã từng làm? Bạn có thể yêu cầu bất kì cái gì, và họ chỉ

làm việc, tính toán trứng nữ nào, tinh trùng nam nào sẽ

tạo ra con người như vậy. Tinh đó không phải là của

bạn, trứng đó không phải là của vợ bạn; bạn nhận đứa

con. Theo cách này bạn có thể nhận được nhân loại mà

bao giờ cũng được mơ ước tới: việc sinh ra siêu nhân,

người được làm ra gần như bằng thép. Mohammad Ali

vĩ đại sẽ không thể nào đối diện với người đó - chỉ một

cú đấm vào mũi và ông ta sẽ đi đời.

Điều gì làm bạn sợ? Bạn không muốn ở trên con

vật sao? Cái ham muốn rằng đó sẽ là tinh trùng của

bạn, đó sẽ là trứng của vợ bạn, đơn giản là xấu. Trẻ con

thuộc về vũ trụ. Nó có đặc biệt gì nếu đấy là tinh trùng

của bạn? Phỏng có ích gì tạo ra người què quặt, chỉ bởi

vì đấy là tinh trùng của bạn? Khoa học có thể làm được

việc nâng cao bạn lên trên con vật - và đấy không phải

là việc sinh sản số đông, nó sẽ chính là điều đối lập. Sẽ

không có dây chuyền lắp ráp như cách ô tô được sản

xuất ra. Nó sẽ là rất cá nhân bởi vì mọi đôi đều có chọn

lựa và tự do để quyết định loại trẻ con nào họ muốn.

Làm sao ý tưởng về sinh sản số đông lại đi vào tâm

trí bạn? Bạn có cho rằng mọi người đều muốn có cùng

loại con không? Bạn lầm. Bạn có cho rằng các phòng

thí nghiệm khoa học sẽ cứ sản sinh ra trẻ con theo ý

muốn riêng của họ, và bạn phải chấp nhận chúng

không? Thế thì đấy sẽ là sinh sản số đông. Tôi không

ủng hộ điều đó. Bạn tuyệt đối tự do chọn lựa. Ngay bây

giờ bạn hoàn toàn mù quáng và làm bất kì cái gì bạn

đang làm trong bóng tối hoàn toàn. Bạn đơn giản là kẻ

nô lệ của sinh vật mù quáng.

Bạn không muốn thoát khỏi sinh vật mù quáng

sao? Bạn không muốn vượt lên trên gắn bó ngu xuẩn

này với cái ý tưởng rằng trẻ con được sinh ra từ tinh

trùng của bạn và trứng của vợ bạn sao? Những cái

trứng ấy không biết chúng thuộc vào ai. Và có gì đặc

biệt về tinh trùng của bạn nào? Bạn không biết gì về nó

cả. Bạn hoàn toàn vô nhận biết về loại người nào đang

tranh đấu bên trong bạn để được sinh ra. Bạn không có

chọn lựa, bạn đơn giản là nô lệ.

Điều tôi đang nói về việc sinh khoa học làm cho

bạn vượt ra ngoài nô lệ, mù quáng, đen tối. Nó làm cho

bạn theo một cách chắc chắn được tâm linh hơn, bởi vì

bạn không còn bận tâm rằng tinh trùng của bạn, trứng

của vợ bạn là tuyệt đối cần thiết cho con bạn. Bạn nêu

ra yêu cầu của mình; bạn nhận lấy đứa bé. Và bạn có

thể hỏi các chuyên gia cái gì sẽ là tốt nhất cho đứa trẻ.

Bạn không thích con bạn là thiên tài duy nhất sao? Với

gắn bó vô tích sự bạn được thoả mãn với đứa trẻ què

quặt. Và cho việc sinh ra đứa bé què quặt, đứa trẻ mù

loà, bạn có làm điều ân huệ gì cho đứa trẻ không? Nó

sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho bạn cả! Bạn chịu trách

nhiệm. Và nó sẽ phải sống một cuộc sống không phải

là cuộc sống chút nào.

Tầm nhìn của tôi đem cho bạn tự do toàn bộ, và tất

nhiên, cả trách nhiệm lớn lao. Ngay bây giờ bạn đang

sản sinh ra trẻ con chẳng có trách nhiệm nào cả. Bạn có

phương tiện có sẵn để xác định đứa trẻ có mầu da gì,

có khuôn mặt thế nào - Hi lạp, La mã?... Bạn có thể tạo

ra trẻ con trông giống như bức điêu khắc, hoàn toàn

đẹp, với thiên tài ở chiều nào đó của cuộc sống, sống

một cuộc sống của tình yêu, đủ thông minh để loại bỏ

đi tất cả các tu sĩ và mọi chính khách. Chúng sẽ không

trở thành tín đồ của lãnh tụ, chúng sẽ đủ là chính

chúng.

Ngay bây giờ, bạn đang làm gì? Trước hết bạn tạo

ra đứa trẻ trong mù quáng, bóng tối, không biết nó sẽ

trở thành giống gì. Thế rồi bạn buộc nó phải trở thành

nô lệ bằng việc làm cho nó thành người Ki tô giáo,

Hindu giáo, Mô ha mét giáo, hay về chính trị thì cho

chúng những ý thức hệ nào đó - xã hội, phát xít, tư bản.

Và nó lại không đủ thông minh để nổi dậy chống lại tất

cả những cảnh nô lệ này.

Đứa trẻ trong tầm nhìn của tôi sẽ tuyệt đối tự do.

Nó sẽ không thuộc vào bất kì đảng phái chính trị nào,

nó sẽ không thuộc vào bất kì tôn giáo có tổ chức nào.

Nó sẽ có tôn giáo riêng của mình, nó sẽ có ý thức hệ

chính trị riêng của mình. Cần gì nó phải bám theo

quanh ai đó và là người thuộc đảng nào đó? Nó có thể

nghĩ xa hơn Karl Marx - và Karl Marx chỉ là một nhà

tư tưởng. Nó có thể sống lâu đến mức nó không vội

vàng về cái gì cả; kiên nhẫn, sẵn sàng chờ đợi - nó có

đủ thời gian. Nghĩ về Albert Einstein sống ba trăm

tuổi. Ông ấy sẽ đem phép mầu cho thế giới. Nhưng bởi

vì chúng ta đã sống trong một thân thể ngẫu nhiên, nên

ông ấy phải chết.

Chúng ta có thể gạt bỏ bệnh tật, tuổi già. Chúng ta

có thể lập chương trình cuộc sống theo mọi cách.

Chúng ta thậm chí có thể lập chương trình cho cuộc

sống của đứa trẻ, để cho khi nó muốn chết chỉ thế thì

nó mới chết; ngoài ra nó có thể cứ sống mãi. Nếu nó

cảm thấy rằng vẫn còn tinh hoa nó chưa nếm trải, nếu

nó cảm thấy vẫn còn những chiều hướng nó chưa thám

hiểm, nếu nó cảm thấy rằng cần thêm thời gian nữa, thế

thì nó là người chủ để quyết định sống bao lâu.

Cho tới nay, các bạn đã sống trung bình bẩy mươi

năm - điều đó bao gồm cả những người sống một trăm

năm mươi năm ở nơi nào đó trên thế giới. Tại Nga có

những người đã vượt qua một trăm năm mươi năm, và

họ vẫn còn trẻ trung. Có những người ở phần nào đó

của Kashmir, bị Pakistan xâm chiếm, sống rất dễ dàng

đến một trăm năm mươi năm, một trăm sáu mươi, một

trăm bẩy mươi tuổi. Và đó là sự kiện đáng ngạc nhiên -

tôi đã ở với những người đó - người một trăm năm

mươi tuổi vẫn đang làm việc trên cánh đồng theo cùng

cách như người đó đã làm khi năm mươi, với cùng sức

mạnh, với cùng sảng khoái.

Tất cả mọi điều cần thiết là việc lập kế hoạch tốt

hơn, lai giống tốt hơn. Đấy là sự kiện đã được biết và

được áp dụng với con vật. Bạn có thấy nhiều loại chó

đẹp trên khắp thế giới không? - nhỏ, to, mạnh mẽ, hay

chỉ đẹp. Xem chúng nhảy quanh bạn vui sướng thế.

Bạn có nghĩ rằng chúng tới từ thiên nhiên mù quáng

không? Không, trong nhiều thế kỉ chúng ta đã lai giống

chó.

Bạn biết điều đó như một sự kiện - toàn bộ thế giới

chấp nhận điều đó - rằng đàn ông không nên lấy chị em

riêng của mình. Tại sao? Điều đó đáng phải là điều đơn

giản nhất, lấy chị em riêng của mình. Bạn đã yêu cô ấy

rồi, bạn đã sống cùng cô ấy từ lúc sinh, các bạn biết lẫn

nhau. Nhưng tại sao tất cả các nền văn hoá lại cấm điều

đó? Tất cả các nền văn hoá đều nói rằng hôn nhân nên

tiến hành với người xa, người không thuộc cùng một

cây gia đình, bởi vì khoảng cách càng xa, sản phẩm

càng tốt. Nếu người Mĩ da trắng lấy người da đen, đứa

trẻ sẽ tốt hơn người Mĩ da trắng lấy người Mĩ da trắng,

hay người da đen lấy người da đen khác, bởi vì khoảng

cách giữa hai người này là rất lớn - khác nhau nhiều

thế kỉ. Họ đã trưởng thành trong các bầu không khí

khác nhau, việc lập trình của họ là hoàn toàn khác lẫn

nhau. Cho nên khi hai nền văn hoá, truyền thống, tập

tục, kiểu sống hoàn toàn khác nhau gặp nhau, họ cho

sinh thành con người tốt hơn, người có thừa kế kép:

thừa kế của người da đen và thừa kế của người Mĩ da

trắng... Trong phòng thí nghiệm sẽ có thể tìm ra các tế

bào trứng và tinh trùng xa nhau nhất có thể được. Và

chúng ta có thể tạo ra qua việc lai giống đó một người

hoàn toàn mới.

Chẳng có gì hoảng sợ về nó cả. Đấy không phải là

sinh sản đám đông. Đôi này phải nói loại người nào họ

muốn có làm con của mình. Điều đó tránh đi mọi sự

ngẫu nhiên. Và chúng ta sẽ tạo ra con người vũ trụ -

không Trung Quốc, không Ấn Độ, không Anh Quốc,

mà là con người vũ trụ. Cho nên, xin cứ say mê, đừng

cảm thấy hoảng và sợ. Chẳng có gì phải sợ cả.

Bạn đã thấy cách trẻ con được sinh ra trong quá

khứ. Trong hàng triệu năm bạn đã làm cùng điều đó -

kết quả là gì? Kết quả quyết định giá trị của điều bạn

đã làm. Thỉnh thoảng mới có một Einstein hay

Bertrand Russell - thỉnh thoảng thôi! Điều này không

phải. Điều đó đáng là hiện tượng thông thường, bình

thường. Thỉnh thoảng có lẽ sẽ có một người được sinh

ra từ vô nhận biết, vô tỉnh táo về phần nhà khoa học;

nếu không thì mọi người đã là thiên tài cả. Nghĩ xem:

toàn thế giới đầy những người như Rabindranath, Jean-

Paul Sartre, Jaspers, Heideger! Và chúng ta có thể ngăn

cản những người như Aldolph Hitler, Mussolini,

Joseph Stalin khỏi được sinh ra, bởi vì họ đã là tai hoạ

ở đây. Chúng ta có thể đóng cánh cửa hoàn toàn với

mọi Genghis Khans, Tamerlanes, Nadir Shahs - tất cả

những con quỉ xấu xí đó mà có cuộc sống chỉ gồm giết

người, phá huỷ mọi người, thiêu đốt mọi người.

Cách chúng ta đã sống không chứng tỏ điều phải.

Chúng ta chỉ có một đám đông người lùn tất cả xung

quanh - đây là điều bạn nên hoảng sợ! Nhưng việc có

khu vườn các thiên tài, những người sáng tạo, một khu

vườn tại đó chúng ta đã vứt bỏ đi tất cả những người

cuồng tín, những kẻ khờ, chính khách - nói tóm lại,

chúng ta đã lấy ra tất cả những cái độc, mọi ô nhiễm...

Có biết bao nhiêu thứ trong ý tưởng này. Bây giờ, bao

nhiêu người đang đau khổ bởi vì họ có mũi hếch? Toàn

bộ cuộc đời họ, họ cảm thấy kém cỏi. Bao nhiêu người

đau khổ bởi vì họ chỉ có một mũi? Nếu bạn nhìn vào

họ, mọi thứ khác nhỏ thế còn mũi lại lớn thế...

Tôi đã từng nghe: một nhà triệu phú có cái mũi rất

to và đôi mắt rất nhỏ, nhưng ông ấy là người giầu nhất

trong cộng đồng. Mọi người hay cười sau lưng ông ta,

nhưng không ai dám... Ông ta được một gia đình mời

đến ăn tối. Gia đình này bận tâm mỗi một điều: con họ,

một triết gia bẩm sinh, cứ hỏi về mọi thứ.

Ngay từ sáng họ đã dạy cho nó, “Con có thể hỏi bất

kì cái gì, nhưng khi người giầu này tới, con không

được hỏi về cái mũi của ông ấy.” Họ bảo nó nhiều lần

đến mức nó trở nên quan tâm ghê lắm: “Mũi ông ấy

lớn thế nào nhỉ?” Họ chưa bao giờ ngăn cản nó hỏi bất

kì câu hỏi nào. Tại sao cái mũi này lại quan trọng thế?

Nó thực sự kích động, háo hức chờ cho nhà triệu phú

này tới. Khi ông ấy tới, đứa trẻ cười phá lên. Nó nói

với bố mẹ nó, “Ông ấy chỉ có mũi, không có gì hết cả!

Và sao bố mẹ lại ngăn cản con...? Ông ấy là loài

hiếm!” Nó phá huỷ toàn bộ mọi nỗ lực.

Nhưng mọi người... gần như mọi người đều đang

chịu đựng cái gì đó này khác. Ai đó chịu đựng mầu da,

ai đó chịu đựng chiều cao; ai đó quá cao, ai đó quá

thấp. Bạn đã tạo ra cái gì? Đây là sinh sản số đông đấy

- ngẫu nhiên, được sinh ra trong bóng tối. Ít nhất con

người - người là đỉnh cao nhất của sự tồn tại - cũng

không nên phải chịu đựng thêm nữa cái phức cảm tự ti

này. Cách duy nhất là sinh sản khoa học ra trẻ con. Và

có vô hạn khả năng trong nó.

Chẳng hạn, nếu đứa trẻ được sinh ra trong phòng

thí nghiệm khoa học họ có thể sinh ra một đứa trẻ

tương tự đồng thời. Đứa trẻ kia sẽ được giữ trong

phòng thí nghiệm lớn lên đồng thời; hệt như đứa đã

đưa đi cho một gia đình nhận, đứa kia sẽ lớn lên trong

phòng thí nghiệm. Chính sự tồn tại của đứa kia tạo ra

những cơ hội lớn. Chẳng hạn, bạn bị gẫy chân. Bây giờ

chẳng cần phải bận tâm để cố định chỗ gẫy nữa - chân

của đứa kia có thể được lấy ra và trao cho bạn. Một cái

gì đó đi sai, nổi đoá, trong đầu bạn - bây giờ không cần

gì tất cả các nhà tâm lí, phân tâm, tâm thần. Đầu bạn

chỉ việc bỏ đi, bạn lấy cái đầu mới. Người kia sẽ vẫn

còn trong trạng thái mê man cả đời, trong việc đông

cứng sâu. Nó sẽ không biết gì về điều đang xảy ra. Nó

chỉ có đó trong trường hợp một cái gì đó đi sai với bạn

- và nhiều điều đi sai trong cuộc sống, thậm chí với

mọi thận trọng. Cái gì đó bao giờ cũng có thể đi sai;

cuộc sống là câu chuyện dài. Bạn có thể gặp tai nạn ô

tô... bây giờ, điều đó không thể nào bị ngăn cản bởi

việc sản sinh khoa học ra trẻ con...

Nhưng tất cả phụ thuộc vào liệu chúng ta có đủ

dũng cảm để vươn lên trên bản thân nỗi sợ của chúng

ta không. Chúng ta phải vươn lên trên cảm giác sợ hãi.

Bị hấp dẫn với con người mới đi! Con người mới phải

có loại sinh thành mới. Con người mới phải có loại

cuộc sống mới, loại tình yêu mới, loại cái chết mới.

Người đó sẽ là mới trong mọi cách có thể. Người đó sẽ

thay thế mô hình cũ đã quá đông đúc trên thế giới -

những đồ đồng nát. Họ không còn cần thiết nữa.

Đấy là quá trình đơn giản của việc lập trình cho tế

bào đầu tiên. Và chỉ tế bào đầu tiên mới có thể được

lập chương trình, bởi vì thế thì nó cứ tái tạo bản thân

nó - đó là quá trình tự động. Bạn có thể lập trình nó cho

mọi thứ. Ngay bây giờ điều đó là khó; nó đã được lập

trình cho đủ mọi loại bệnh tật, nó đã được lập trình cho

cái chết, tuổi già. Bạn không thể nào có bất kì kiểm

soát nào lên nó. Không có cách nào để thay đổi chương

trình bây giờ, bởi vì tất cả các tế bào đều có cùng

chương trình. Nếu chúng được lập trình cho một bệnh

đặc biệt mà bạn bị mắc bởi việc kế thừa, bạn sẽ chịu

cái bệnh đó. Nó có thể được thay đổi, nhưng chỉ trong

gặp gỡ đầu tiên của các tế bào đực và cái. Mọi thứ có

thể được lập trình, và bản sao chính xác của bạn có thể

được giữ trong phòng thí nghiệm. Nếu tim bạn không

làm việc tốt, tim mới có sẵn - sẽ khớp đích xác với bạn,

bởi vì nó tới từ bản sao của bạn, bản sinh đôi của bạn.

Bất kì cái gì mới cũng gây hoảng sợ, nhưng nó chỉ

gây sợ cho kẻ hèn nhát. Bất kì cái gì mới cũng quyến

rũ, nhưng nó quyến rũ chỉ người bạo dạn. Hãy bạo dạn,

bởi vì chúng ta cần một thế giới mới, dũng cảm.53

#20Thầy coi các thực nghiệm trên cuộc sống con

người, như sinh nhân tạo và đổi tim và não, là tiến

bộ hay như hành động chống lại tự nhiên?

Việc này tất cả phụ thuộc vào ai định làm điều đó.

Nếu chính khách định làm điều đó, hay cái gọi là tôn

giáo định làm điều đó, thế thì nó là chống lại tự nhiên.

Họ không thể làm bất kì cái gì tự nhiên, họ chống lại tự

nhiên. Nhưng nếu điều đó được thực hiện bởi một viện

hàn lâm quốc tế của các nhà khoa học - tôi nói viện hàn

lâm khoa học quốc tế - điều đó có thể là một bước tiến

bộ cực kì, và nó sẽ không chống lại tự nhiên. Nó sẽ là

trưởng thành của tự nhiên. Nhưng tất cả phụ thuộc vào

ai làm điều đó. Bản thân thực nghiệm là trung lập.

Không thực nghiệm nào có bất kì lợi ích được đầu tư

nào, nó là trung lập. Bạn có thể dùng thuốc độc để giết

bạn; cùng chất độc đó có thể được dùng bởi người

ngành y để cứu bạn. Tất cả đều phụ thuộc vào người

làm điều đó.

Chẳng hạn, việc phát hiện ra năng lượng nguyên tử

là một bước tiến bộ cực kì lớn, bước nhảy lượng tử.

Chúng ta đã tìm ra chìa khoá để biến đổi trái đất thành

thiên đường - biết bao nhiêu năng lượng trong một

nguyên tử nhỏ bé thế. Và chúng ở trong mọi thứ... chỉ

trong giọt sương sớm có tới hàng triệu nguyên tử. Bất

kì nguyên tử nào, nếu nó được làm nổ ra, sẽ thoát ra

nhiều năng lượng đến mức bạn có thể làm cho cả trái

đất sống trong xa hoa. Hay bạn có thể tạo ra Hiroshima

và Nagasaki - hàng nghìn người chết trong vài giây.

Nhưng bởi vì năng lượng nguyên tử, sau phát minh của

nó, rơi vào tay của các chính khách, nó đã trở thành kẻ

phục vụ cho cái chết. Bây giờ thậm chí còn có nhiều vũ

khí hạt nhân tiên tiến hơn có thể phá huỷ toàn bộ trái

đất. Đã có những vũ khí đủ để phá huỷ trái đất này bẩy

lần. Người ta đơn giản tự hỏi tại sao các quốc gia lại cứ

phát triển mãi ngày một nhiều vũ khí hạt nhân thế. Bẩy

lần phá huỷ trái đất này không đủ sao? Trong thực tế,

bạn có thể phá huỷ trái đất này chỉ một lần thôi.

Nhưng tiến bộ khoa học rơi vào trong tay các chính

khách bởi vì chỉ họ mới có thể cung cấp đủ tài chính để

làm cho các phát hiện này thành có thể. Các nhà khoa

học của cả thế giới nên nghĩ lại điều đó: thiên tài của

họ đang bị những kẻ đần độn sử dụng! Các nhà khoa

học nên tự ngắt mình ra khỏi mọi quốc gia - dù đấy là

Liên Xô hay Mĩ. Họ nên tạo ra một viện hàn lâm khoa

học quốc tế. Và điều đó không khó. Nếu tất cả các nhà

khoa học trên thế giới đều hợp sức cùng nhau, tài chính

có thể thành có sẵn, và những phát minh này có thể

giúp cho con người vô cùng...

Khoa học không nên là độc quyền của bất kì quốc

gia nào, bất kì nước nào. Toàn bộ ý tưởng này là đần

độn. Làm sao khoa học lại có thể bị độc quyền được?

Và mọi quốc gia đều đang cố gắng độc quyền các nhà

khoa học, giữ bí mật các phát minh của họ. Điều này là

chống lại nhân loại, chống lại tự nhiên, chống lại sự tồn

tại. Bất kì cái gì một thiên tài phát hiện ra nên phục vụ

cho toàn thể.

Bạn đang hỏi liệu các phát minh như thay tim

người hay thay não người có là các bước tiến bộ hay

không. Chúng có tầm quan trọng lớn để đem nhân loại

mới vào trên trái đất. Nếu thân thể của Einstein không

còn có khả năng sống, bạn có nghĩ việc cấy toàn bộ

não của ông ấy vào một người mạnh khoẻ, trẻ trung là

tốt hay không? Người mới này sẽ trở thành Einstein,

bởi vì tất cả thiên tài của Einstein đã được cấy sang

một thân thể trẻ hơn.

Theo cách này thân thể có thể cứ thay đổi, nhưng

chúng ta giữ thiên tài của Albert Einstein phát triển qua

nhiều thế kỉ. Và nếu một người trong cuộc sống bẩy

mươi năm có thể cho nhiều thế, bạn có thể tưởng tượng

nếu bộ não người đó tiếp tục làm việc hàng thế kỉ điều

đó sẽ ích lợi biết bao nhiêu cho nhân loại, cho toàn bộ

vũ trụ. Đây thực sự là lãng phí: cái bình chứa bị cũ đi,

và bạn vứt cả nội dung nữa. Thân thể chỉ là cái bình

chứa. Nếu bình chứa trở nên bẩn, cũ, không dùng được,

thì đổi bình, nhưng đừng vứt nội dung đi. Tâm trí thiên

tài có thể sống vĩnh viễn trong các thân thể khác; điều

đó chẳng có gì chống lại tự nhiên cả. Tim bạn, nếu nó

bắt đầu yếu đi, và nếu bạn có giá trị mênh mông với

nhân loại... sợ gì mà không đổi tim? Ai đó có thể chết

vì ung thư, nhưng tim người đó hoàn toàn mạnh khoẻ;

trái tim đó có thể được cấy vào một người có tài, một

thiên tài, vẫn mạnh khoẻ, nhưng trái tim lại không

mạnh. Điều này là đơn giản; chẳng có gì trong nó

chống lại tự nhiên cả.

Nhưng với các chính khách và quyền lực trong tay

họ, tất nhiên mọi tiến bộ đều chống lại tự nhiên. Mọi

thứ mà thiên tài con người đã phát hiện ra, đã phát

minh ra, cuối cùng đều phục vụ cho cái chết. Các tu sĩ

cũng vậy. Bây giờ khoa học không còn là đứa trẻ nữa,

rằng nó phải phụ thuộc vào người khác. Khoa học bây

giờ đủ trưởng thành, nó là người lớn. Chút dũng cảm...

Tôi đưa ra lời mời tất cả các nhà khoa học trên thế

giới; chúng tôi có chỗ, chúng tôi có những người thông

minh ở đây để giúp bạn theo mọi cách có thể. Đây sẽ là

cuộc cách mạng lớn trong lịch sử con người. Toàn thể

sức mạnh sẽ nằm trong tay các nhà khoa học, người

chưa bao giờ làm điều gì hại cho bất kì ai. Và một khi

tất cả các sức mạnh là trong tay của các nhà khoa học,

chính khách sẽ mờ đi theo cách của họ. Họ đã khai thác

các nhà khoa học vì mục đích của mình, và bị bất kì ai

khai thác thì không phải là hành động có chân giá trị.

Các nhà khoa học nên nhận ra chân giá trị của

mình, họ nên nhận ra tính cá nhân của mình. Họ nên

nhận ra rằng họ đã bị khai thác qua nhiều thời đại bởi

các tu sĩ và chính khách. Bây giờ là lúc tuyên bố rằng

khoa học đang sắp đứng trên đôi chân của riêng mình.

Đây sẽ là tự do vĩ đại. Thế thì tất cả những thực

nghiệm này, như những đứa trẻ phòng thí nghiệm, sẽ

mang phẩm chất khác, bởi vì bạn có thể thu xếp loại

thiên tài bạn cần. Mãi cho tới nay điều đó mới chỉ là

ngẫu nhiên, và bởi vì nó đã là ngẫu nhiên, nên chín

mươi chín phần trăm mọi người chẳng có gì để đóng

góp cả. Họ chỉ đóng góp thêm vấn đề cho thế giới. Bây

giờ, Ethiopia đã đóng góp gì cho thế giới? Những nước

nghèo đã đóng góp gì cho thế giới - hay ngay cả nước

giầu? Ngoại trừ các vấn đề, các cuộc chiến tranh,

chẳng có đóng góp gì về phần họ cả.

Nhưng nếu bạn có thể cho sinh ra trẻ con trong

phòng thí nghiệm khoa học... Điều đó là có thể, không

có vấn đề gì trong nó... Dục, lần đầu tiên, sẽ đơn giản

là trò vui! Trẻ con sẽ được sinh ra trong phòng thí

nghiệm. Chúng sẽ thuộc về tất cả. Và bởi vì bạn không

định tạo ra trẻ con theo cách cũ - nó đáng phải là bất

hợp pháp và tội lỗi khi làm như vậy, bạn sẽ ở sau chấn

song tù nếu bạn làm điều đó - thế thì nhiều vấn đề của

cuộc sống bạn sẽ đơn giản tan biến đi.

Tại sao con người cứ khăng khăng thế? Trong suốt

nhiều thời đại khăng khăng vẫn còn đó: con người

muốn chắc chắn rằng đứa con được sinh ra từ bụng vợ

mình là của mình. Tại sao? Dẫu sao thì bạn là ai? Đấy

là vấn đề về tài sản, bởi vì con bạn sẽ trở thành người

kế thừa tất cả những cái bạn đã tích luỹ. Bạn muốn

chắc chắn rằng đấy là con bạn, không phải con của

hàng xóm. Phụ nữ đã bị giữ gần như bị tù bởi nỗi sợ

đơn giản rằng nếu họ bắt đầu trộn lẫn với mọi người sẽ

khó quyết định được đứa trẻ là con ai. Chỉ người mẹ

mới biết, hay thậm chí cô ấy có thể cũng chẳng biết.

Một khi việc sinh ra cuộc sống chuyển vào trong

tay của khoa học, dục sẽ được biến đổi. Thế thì bạn

không ghen tuông, thế thì bạn không là độc đoán, thế

thì chế độ một vợ một chồng là ngớ ngẩn. Thế thì dục

chỉ là vui đùa, cách thức bạn chơi quần vợt. Và bạn

không bận tâm rằng bạn tình phải theo kiểu một vợ một

chồng - hai thân thể tận hưởng lẫn nhau... Và sẽ không

có sợ hãi rằng vợ có thể mang thai và sẽ có vấn đề, tài

chính hay cái gì khác. Dục sẽ không còn là vấn đề cho

dân số thế giới; nó sẽ không còn là vấn đề cho tu sĩ.

Trong thực tế, nếu trẻ con được sinh ra trong phòng thí

nghiệm khoa học nhiều vấn đề rắc rối của thế giới sẽ

tan biến. Và chúng ta có thể tạo ra những người tốt

nhất: đẹp đẽ, mạnh khoẻ, có khả năng sống lâu như

chúng ta mong muốn. Tuổi già là không cần thiết - con

người có thể vẫn còn trẻ trung, mạnh khoẻ, không ốm

bệnh. Tất cả những bệnh viện này và biết bao nhiêu

người, bao nhiêu tiền đổ vào. Bạn có biết - Mĩ chi tiêu

nhiều tiền vào thuốc nhuận tràng còn hơn vào giáo dục.

Ý tưởng vĩ đại sao! Ai quan tâm tới giáo dục? Vấn đề

là ở thuốc nhuận tràng chứ!

Nhưng điều cơ bản phải ghi nhớ: các nhà khoa học

phải đủ dũng cảm và tuyên bố rằng họ không thuộc vào

bất kì quốc gia nào, vào bất kì tôn giáo nào, rằng bất kì

điều gì họ làm đều sẽ dành cho toàn nhân loại. Và tôi

không thấy rằng có bất kì cái gì không thể được trong

nó cả. Tôi hoàn toàn ủng hộ cho những phát minh tiến

bộ đó có thể làm cho con người hạnh phúc hơn, sống

lâu hơn, trẻ trung hơn, mạnh khoẻ hơn, và điều đó làm

cho cuộc sống của người đó nhiều vui đùa hơn và ít là

cuộc hành trình hành hạ từ cái nôi tới nấm mồ.54

******************************************************

#21 Sức mạnh chữa lành của tiếng cười

Tiếng cười có năng lực thiền và năng lực thuốc. Nó

chắc chắn làm thay đổi chính hoá chất của bạn; nó thay

đổi sóng não của bạn, nó thay đổi thông minh của bạn -

bạn trở nên thông minh hơn. Phần tâm trí của bạn đã

từng ngủ bỗng nhiên tỉnh dậy. Tiếng cười đạt tới phần

bên trong nhất của bộ não của bạn, tới trái tim bạn.

Con người của tiếng cười không thể bị đau tim được.

Con người của tiếng cười không thể tự tử được. Con

người của tiếng cười tự động đi tới biết thế giới của im

lặng, bởi vì khi tiếng cười dừng lại bỗng nhiên có im

lặng. Và mỗi lần tiếng cười trở nên sâu hơn thì đi theo

ngay sau nó là im lặng sâu lắng hơn.

Nó chắc chắn gạn lọc bạn - khỏi truyền thống, khỏi

rác rưởi của quá khứ. Nó cho bạn tầm nhìn mới về

cuộc sống. Nó làm cho bạn sống động hơn và rạng

ngời hơn, sáng tạo hơn.55

Bây giờ, thậm chí y học nói rằng tiếng cười là một

trong những thuốc đi sâu nhất mà tự nhiên đã cung cấp

cho con người. Nếu bạn có thể cười khi bạn ốm bạn sẽ

làm cho mạnh khoẻ của mình quay trở lại sớm hơn.

Nếu bạn không thể cười, thậm chí nếu bạn đang mạnh

khoẻ, sớm hay muộn bạn sẽ mất mạnh khoẻ của mình

và bạn sẽ trở nên ốm yếu. Tiếng cười đem năng lượng

nào đó từ cội nguồn bên trong của bạn lên bề mặt.

Năng lượng bắt đầu tuôn chảy, theo sát tiếng cười như

cái bóng. Bạn đã quan sát nó chưa? - khi bạn thực sự

cười, trong vài khoảnh khắc đó bạn trong trạng thái

thiền sâu sắc. Suy nghĩ dừng lại. Không thể nào vừa

cười vừa nghĩ được. Chúng là đối diện nhau: hoặc bạn

có thể cười hoặc bạn có thể nghĩ. Nếu bạn thực sự

cười, suy nghĩ dừng lại. Nếu bạn vẫn nghĩ, tiếng cười

sẽ chỉ làng nhàng, nó sẽ chỉ làng nhàng, vuốt đuôi. Nó

sẽ là tiếng cười què quặt. Khi bạn thực sự cười, bỗng

nhiên tâm trí biến mất. Và toàn bộ phương pháp luận

thiền là cách đi vào vô trí - tiếng cười là một trong

những cánh cửa đẹp để đi vào nó.

Như tôi được biết, nhảy múa và tiếng cười là những

cánh cửa tốt nhất, tự nhiên, dễ tiếp cận. Nếu bạn thực

sự nhảy múa, suy nghĩ dừng lại. Bạn cứ tiếp tục và tiếp

tục mãi, bạn xoay tròn và xoay tròn, và bạn trở thành

cơn lốc - tất cả biên giới, tất cả phân chia đều bị mất.

Bạn thậm chí không biết thân thể bạn kết thúc ở đâu và

sự tồn tại bắt đầu từ đâu. Bạn tan chảy vào trong sự tồn

tại và sự tồn tại tan chảy vào trong bạn; có chờm lấp

biên giới. Và nếu bạn thực sự nhảy múa - không điều

khiển nó mà cho phép nó điều khiển bạn, cho phép nó

sở hữu bạn - nếu bạn bị điệu vũ sở hữu, suy nghĩ dừng

lại. Cùng điều đó xảy ra với tiếng cười. Nếu bạn bị

tiếng cười sở hữu, suy nghĩ dừng lại. Và nếu bạn biết

tới vài khoảnh khắc vô trí, những thoáng nhìn đó sẽ

hứa hẹn cho bạn nhiều phần thưởng nữa đang tới. Bạn

chỉ phải trở thành ngày càng nhiều về loại đó, về phẩm

chất đó, về vô trí đó. Càng cười nhiều hơn, suy nghĩ

phải bị vứt bỏ. Tiếng cười có thể là việc đưa vào trạng

thái vô suy nghĩ tuyệt vời....

Trong vài thiền viện các nhà sư phải bắt đầu buổi

sáng của mình bằng tiếng cười và phải kết thúc buổi

đêm của mình bằng tiếng cười - điều đầu tiên và điều

cuối cùng! Thử điều đó đi. Nó rất tuyệt vời. Nó có vẻ

chút ít điên rồ - bởi vì biết bao nhiêu người nghiêm

chỉnh ở khắp xung quanh. Họ sẽ không hiểu. Nếu bạn

hạnh phúc, họ bao giờ cũng hỏi tại sao. Việc hỏi này là

ngu ngốc! Nếu bạn buồn, họ chẳng bao giờ hỏi tại sao.

Họ coi điều đó là đương nhiên - nếu bạn buồn, thế là

tốt. Mọi người đều buồn cả. Có gì mới trong đó nào?

Thậm chí nếu bạn muốn kể cho họ thì họ cũng chẳng

quan tâm bởi vì họ biết tất cả về nó, bản thân họ cũng

buồn. Cho nên phỏng có ích gì mà kể câu chuyện dài? -

cắt nó đi cho ngắn! Nhưng nếu bạn cười chẳng bởi lí

do gì thế thì họ trở nên cảnh giác - cái gì đó đã đi sai.

Con người này dường như có chút ít điên rồ bởi vì chỉ

người điên mới tận hưởng tiếng cười; chỉ trong nhà

thương điên bạn mới tìm thấy người điên cười. Điều

này là không may, nhưng điều này là như vậy.

Sẽ khó, nếu bạn là chồng hay vợ, sẽ khó cho bạn để

bỗng nhiên cười vào sáng sớm. Nhưng cứ thử nó - nó

đáng giá cực kì đấy. Đấy là một trong những tâm trạng

đẹp nhất khi thức dậy, đi ra khỏi giường. Chẳng bởi lí

do gì cả! - bởi vì không có lí do nào. Đơn giản bạn lại

có đó, vẫn sống - đó là phép màu. Điều đó dường như

kì cục - tại sao bạn lại sống? Và lần nữa thế giới có đó.

Vợ bạn vẫn ngáy, và vẫn cùng phòng ấy, cùng nhà ấy.

Trong cái thế giới thay đổi thường xuyên này - điều

người Hindu gọi là ảo vọng maya - ít nhất một đêm

không gì thay đổi cả sao? Mọi thứ có đó: bạn có thể

nghe thấy tiếng người đưa sữa và giao thông đã bắt

đầu, và cùng tiếng ồn đó - cũng đáng cười lắm chứ!

Một ngày nào đó bạn sẽ không dậy vào buổi sáng

nữa. Một ngày nào đó người đưa sữa sẽ gõ cửa, vợ bạn

sẽ ngáy, nhưng bạn sẽ không có đó. Một ngày nào đó

cái chết sẽ tới. Trước khi nó quật ngã bạn, cười to -

trong khi có thời gian cười to. Và nhìn vào toàn bộ cái

buồn cười này: lại cùng ngày bắt đầu; bạn đã làm đi

làm lại cùng những điều đó trong cả đời mình. Lần nữa

bạn sẽ xỏ chân vào đôi dép lê, xô vào buồng tắm - để

làm gì? Đánh răng, tắm táp - để làm gì? Bạn đi đâu?

Sẵn sàng rồi chẳng đâu mà đi cả! Mặc quần áo, xô đến

văn phòng - để làm gì? Chỉ để làm cũng những điều đó

vào ngày mai sao?

Nhìn vào toàn bộ cái buồn cười của nó - và cười to.

Đừng mở mắt vội. Khoảnh khắc bạn cảm thấy rằng

giấc ngủ đã qua, trước hết bắt đầu cười đã, thế rồi mở

mắt - và điều đó sẽ đặt ra xu hướng cho cả ngày. Nếu

bạn có thể cười sáng sớm bạn sẽ cười cả ngày. Bạn đã

tạo ra hiệu ứng dây chuyền; việc này dẫn tới việc khác.

Tiếng cười dẫn tới nhiều tiếng cười hơn. Và gần như

bao giờ tôi cũng thấy mọi người chỉ làm điều sai. Từ

ngay sáng sớm vừa ra khỏi giường là đã phàn nàn, u

sầu, buồn bã, chán nản, khổ. Thế rồi cái nọ dẫn tới cái

kia - và chẳng để làm gì cả - và họ giận dữ. Điều đó rất

tồi bởi vì nó sẽ thay đổi bầu không khí của bạn cho cả

ngày, nó sẽ đặt ra hình mẫu cho cả ngày.

Thiền nhân lành mạnh hơn. Trong cái điên khùng

của họ, họ vẫn lành mạnh hơn bạn. Họ bắt đầu bằng

tiếng cười... và thế thì cả ngày bạn sẽ cảm thấy tiếng

cười bật ra, phụt ra. Có biết bao nhiêu điều buồn cười

xảy ra khắp nơi! Thượng đế phải chết vì cười - hàng

thế kỉ, vĩnh hằng, khi thấy cái buồn cười này của thế

giới. Những con người mà ngài đã tạo ra, và tất cả

những cái ngớ ngẩn - đấy thực sự là vở hài kịch. Ngài

phải cười to. Nếu bạn trở nên im lặng sau cái cười của

mình, một ngày nào đó bạn sẽ nghe thấy Thượng đế

cũng cười, bạn sẽ nghe thấy toàn bộ sự tồn tại cười -

cây cối và đất đá và các vì sao với bạn.

Thiền sư đi ngủ ban đêm với tiếng cười. Ngày qua

rồi, vở kịch khép lại rồi - với tiếng cười ông ấy nói,

“Tạm biệt nhé, và nếu tôi còn sống sáng mai nữa tôi sẽ

đón chào bạn lần nữa với tiếng cười.”

Thử nó đi! Bắt đầu và kết thúc ngày của bạn với

tiếng cười, và bạn sẽ thấy, dần dần, ở giữa hai điều này

ngày càng nhiều tiếng cười bắt đầu xảy ra. Và bạn càng

trở nên cười nhiều hơn, bạn càng tôn giáo hơn.56

Hàng triệu người đã quên mất cách cười. Ở một số

nước các nhà tâm lí đang chuẩn bị tài liệu cho mọi

người được dạy ở trường phổ thông, đại học, bệnh

viện, về cách cười, bởi vì họ đã phát hiện ra điều tôi đã

nói liên tục với bạn: tình yêu và tiếng cười đi đôi với

nhau, và tiếng cười là một trong những phương thuốc

lớn lao nhất. Đồng thời nó cũng là việc thiền lớn. Các

nhà nghiên cứu đã làm việc rất sâu để tìm điều gì xảy

ra khi mọi người cười. Luồng máu của họ thay đổi, các

tế bào não của họ trở nên tích cực hơn, nhịp tim của họ

trở nên nhịp điệu hơn. Cái gì đó giống như tiếng cười

đã được các nhà khoa học tìm ra là cực kì quan trọng -

nhưng họ cũng lại cực kì đần độn về nó. Họ nghĩ điều

đó phải là việc huấn luyện; mọi học sinh phổ thông

phải được huấn luyện cách cười.

Và nếu mọi người được huấn luyện cách cười, thì

không tiếng cười nào sẽ tồn tại cả! Bây giờ họ đang nói

rằng trong mọi bệnh viện nên có một cái buồng đặc

biệt, buồng khôi hài nơi tất cả các bệnh nhân nên kể

chuyện tiếu lâm và cười. Điều đó được tính toán rất kĩ:

điều mà thuốc của họ không thể làm được, tiếng cười

có thể làm được. Nhưng với tôi, nếu tiếng cười tới như

việc huấn luyện thì nó có thể làm cái gì đó, nhưng nó

không thể là việc biến đổi toàn bộ, chỗ mà trong một

khoảnh khắc toàn thể bản thể bạn ngân lên, bao la ra,

trẻ lại và không có hiệu quả phụ.

Mới hôm nay tôi đã đi tới biết rằng một phần ba

bệnh tật trên thế giới là do bác sĩ tạo nên. Một cách

không chủ ý - chỉ bởi vì thuốc của họ, cái cứ làm phát

sinh hiệu quả phụ.Vào khoảnh khắc này chúng có thể

hữu dụng, nhưng chúng có thể tạo ra cái gì đó trong

hoá chất của bạn, trong hooc môn của bạn, trong sinh

học của bạn. Và bạn có thể chẳng bao giờ liên hệ với

chúng. Bạn đã uống thuốc aspirin chỉ để chữa đau đầu -

nói cho đúng, chỉ cho vợ bạn! - nhưng aspirin đó sẽ có

hiệu quả riêng của nó, và bạn là hiện tượng phức tạp.

Chính nhân loại đáng thương mới cần huấn luyện

cười. Cái ngày đó sẽ rất xấu nếu chim hỏi, “Trước hết

huấn luyện cho chúng tôi đã, thế rồi chúng tôi sẽ hót.”

Và công sẽ nói, “Chúng tôi chẳng quan tâm tới mây.

Trước hết dạy chúng tôi đi; thế rồi chúng tôi sẽ xoè

cánh ra.” Nhưng công múa khi đám mây mưa đầu tiên

bắt đầu tới; không có huấn luyện cho nó, không có

trường huấn luyện cho công. Không huấn luyện nào

cho chim cả, không huấn luyện nào cho hoa cả - tại sao

con người lại phải được huấn luyện về mọi thứ? Tại

sao người đó không được phép tự phát?

Có nỗi sợ nào đó trong tính tự phát, bởi vì hành vi

tự phát là không thể dự đoán được. Bạn có thể cười ai

đó và người đó có thể đơn giản nhìn vào bạn dường

như bạn là kẻ đần độn. Không có nhu cầu cho người đó

cười đáp lại - người đó là tự phát, người đó đang cảm

thấy giống như nhìn bạn là kẻ đần độn. Chẳng có gì sai

trong đó; đấy là vấn đề của người đó. Bạn cười - đấy là

vấn đề của bạn. Tại sao làm lộn xộn lên? Để tránh né

những tình huống như vậy, mọi người đã được huấn

luyện về mọi thứ: cách bước đi, cách nói, nói gì, khi

nào nói điều đó. Một cách tự nhiên, dần dần họ trở

thành rất giả dối - chỉ là các diễn viên trong vở kịch,

lặp lại điều đối thoại.

Tôi đã tới thăm một trường đại học thần học lớn

nhất châu Á, nơi huấn luyện các nhà truyền giáo đi tới

tất cả các vùng phương Đông nghèo khó để cải đạo họ

thành Ki tô giáo. Ông hiệu trưởng là một người bạn, và

ông ấy đưa tôi đi quanh khu trường. Trong một lớp, tôi

không thể nào tin vào mắt mình được. Điều tôi thấy

được thực hiện là ngớ ngẩn đến mức tôi gần như sững

sờ. Thầy giáo đã dạy quãng sáu mươi sinh viên, những

người đã sẵn sàng, gần như sẵn sàng ra đi làm việc

truyền giáo. Ông ấy bảo họ, khi họ lặp lại phát biểu nào

đó của Jesus, loại điệu bộ nào, loại diễn tả khuôn mặt

nào phải dùng... khi nào là lúc đập bàn, và khi nào là

lúc thì thào im lặng rằng Thượng đế là tình yêu. “Và

khi các em mô tả cõi, đừng chỉ mô tả nó một cách

nhàm chán. Để cho khuôn mặt các em rạng rỡ lên; để

cho từng lời là dịu ngọt thuần khiết, toàn thơ ca.”

Vào lúc đó một sinh viên hỏi, “Và khi chúng tôi

mô tả địa ngục, chúng tôi phải làm gì?”

Thầy nói, “Khi có liên quan tới địa ngục... cứ như

các anh, thế là hoàn hảo đấy.”

Không có huấn luyện về địa ngục bởi vì bạn trông

đã như là đang trong địa ngục rồi!

Tôi hỏi ông hiệu trưởng, “Ông không thấy điều vô

nghĩa này sao? Những người này chẳng có cảm động

gì, còn ông ấy lại đang áp đặt lên họ rằng khi người ta

nói điều gì đó thì cần cách diễn đạt nào đó trên khuôn

mặt, trong ánh mắt, trong bàn tay.”

Tôi chưa bao giờ theo bất kì khoá huấn luyện nào,

nhưng khi cần thì tay biết điều phải làm. Lời biết khi

nào dừng và khi nào để im lặng kế tục. Mắt chớp lên

bởi chính chúng khi bạn đang mô tả kinh nghiệm của

riêng mình. Thế thì không có nỗ lực...

Tất cả những điều cần thiết là bảo cho mọi người:

Tự phát! Khi tiếng cười tới, đừng chặn nó lại. Trong

thế giới này, mọi thứ đều trở thành giả, bởi vì bạn tin

vào cái giả. Đơn giản thôi, chỉ là chính mình. Không

cần phải hành động. Bất kì hành động nào tới một cách

tự phát, để nó tới; tận hưởng tự phát của nó. Thế thì

bạn sẽ thấy cái đẹp, định tâm, đơn giản. Cái gì đó đích

thực - không giả, không rởm. Tất cả điều này đơn giản

thế.

Ngày xưa một nông dân trong trang trại mình có

một con gà trống, vốn là một trong những sinh vật lười

biếng nhất đã từng sống tới giờ. Thay vì gáy như lúc

phải gáy, khi mặt trời lên vào buổi sáng, nó đơn thuần

đợi cho tới khi gà trống khác gáy đã - và thế rồi nó mới

gật đầu đồng ý.

Nhưng nếu đấy là tự phát, nó có cái đẹp riêng. Tại

sao phải bận tâm? - ai đó khác đang làm điều đó. Tôi

hoàn toàn đồng ý với con gà trống đó; tôi chưa bao giờ

làm bất kì cái gì trong đời mình cả. Nếu ai đó ngẫu

nhiên làm nó...

Để mở hội mừng kỉ niệm đám cưới vàng, Saul và

Sylvia Shulman quyết định lặp lại cùng những điều họ

đã làm vào tuần trăng mật. Họ tới cùng khách sạn đó

và đặt đúng cái phòng đó. Sylvia bôi cùng loại nước

hoa và mặc cùng loại áo ngủ. Như ông ta đã làm vào

đêm trăng mật, Saul vào buồng tắm và Sylvia nghe

thấy ông ta cười - hệt như anh ta đã làm năm mươi năm

trước đây. Cho nên khi ông ta quay lại Sylvia nói,

“Anh yêu, điều đó thực là tuyệt - mọi thứ vẫn như cũ.

Em có thể nhớ điều đó cứ như là nó mới hôm qua.

Năm mươi năm trước anh cũng đi ra từ buồng tắm và

cười theo cùng cách ấy. Vào lúc đó em không có đủ

dũng cảm để hỏi anh, nhưng bây giờ, anh hãy nói cho

em. Tại sao anh đã cười?”

“Thế này, nó cũng giống như thế này, em yêu,”

Pail nói. “Năm mươi năm trước đó, khi anh đi đái, anh

đái ướt cả trần nhà. Còn tối nay anh đái ướt cả chân!”

Đơn giản một cách hồn nhiên. Con người này phải

đã là người rất tự phát. Người đó đã nói ra chân lí -

chẳng có gì phải che giấu về nó cả. Nhưng phần lớn

trong các bạn sẽ không dám nói ra chân lí. Chân lí rất

đơn giản; nó không cần huấn luyện, không chuẩn bị,

không bài tập. Bạn đơn giản là cái bạn đang là. Chỉ

chấp nhận nó và bộc lộ nó cho thế giới.57

******************************************************

#Trích dẫn

1 Hidden Mysteries, Ch.5 (chưa xuất bản)

2 Socrates Poisned Again After 25 Century,Ch. 20

3 From Misery to Enlightenment, Ch. 25

4 From Bondage to Freedom, Ch.28

5 Beyond Enlightenment, Ch. 28

6 Sermons in Stones, Ch. 10

7 Sermons in Stones, Ch.2

8 God’s Got a Thing About You, Ch. 8

9 Yoga: The Alpha and the Omega, Vol. 10, Ch. 7

10 The Zen Manifesto: Freedom From Oneself, Ch. 7

11 Far Beyond the Stars, Ch. 15

12 The Shadow of the Whip, Ch. 20

13 God is not for Sale, Ch. 7

14 Beloved of my Heart, Ch. 19

15 Zarathustra: The Laughing Prophet, Ch. 15

16 Hammer on the Rock, Ch. 18

17 Dance Your Way to God, Ch. 9

18 Won’t You Join the Dance, Ch. 24

19 The Passion for the Impossile, Ch. 1

20 The Shadow of the Whip, Ch. 9

21 The Invitation, Ch. 26

22 The Path of Mystic, Ch. 41

23 The Passion for the Impossiblr, Ch. 8

24 The Messiah, Vol. 2, Ch. 16

25 Om Shantih, Shantih, Shantih, Ch. 27

26 Meditation: The Art of Ecstasy, Ch. 5

27 The Psychology of the Esoteric, Ch. 8

28 The Transmission of the Lamp, Ch. 33

29 The Dhammapada, Vol. 1, Ch. 8

30 Don’t Bite My Finger, Look Where I’m Pointing,

Ch. 9

31 I Say Unto You, Vol. 2, Ch. 4

32 The Transmission of the Lamp, Ch. 33

33 Yoga: The Alpha and the Omega, Vol. 6, Ch. 5

34 The Book of Wisdom, Ch. 13

35 The Shadow of the Whip, Ch. 3

36 Only Losers Can Win in This Game, Ch. 12

37 Hsin Hsin Ming: The Book of Nothing, Ch. 6

38 Yoga: The Alpha and the Omega, Vol. 6, Ch. 5

39 Tao: The Pathless Path, Vol. 1, Ch. 6

40 That Art You, Ch. 16

41 The Revolution, Ch. 6

42 Philosophia Perrennis, Vol. 1, Ch. 2

43 Zen: The Path of Paradox, Vol. 3, Ch.6

44 A Bird on the Wing, Ch.1

45 Yoga: The Alpha and the Omega, Vol. 3, Ch. 2

46 And Now And Here, Vol. 1, Ch. 4

47 Vigyan Bhairav Tantra, Vol. 1, Ch. 15

48 The Golden Future, Ch. 16

49 Beyond Psychology, Ch. 11

50 Sufis: The People of the Path, Vol. 2, Ch. 6

51 Socrates Poisoned Again After 25 Centuries, Ch. 1

52 From Misery to Enlightement, Ch. 28

53 From False to the Truth, Ch. 29

54 From False to the Truth, Ch. 19

55 Yahoo! The Mystic Rose, Ch. 30

56 A Sudden Clash of Thunder, Ch. 9

57 Yahoo! The Mystic Rose, Ch. 26

END

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #osho#thuoc