Từ Thuốc Tới Thiền
OSHO
Từ Thuốc Tới Thiền
Cách Thiền hỗ trợ cho mạnh khoẻ thể chất và tâm lí
From
Medication to Meditation
How meditation supports physical and psychological health
Người dịch: Ngô Trung Việt
TỪ CHỐI TRÁCH NHIỆM Y TẾ:
Bất kì lời khuyên hay giáo huấn nào
được nêu trong cuốn sách này đều
không có ý định thay thế cho chỉ dẫn
của các bác sĩ điều trị, các nhà trị liệu
tâm lí hay các nhà tâm thần. Nó cũng
không mang nghĩa cung cấp cách
khác cho điều trị y tế chuyên nghiệp.
Cuốn sách này không đưa ra những
chẩn đoán hay cách chữa trị cho bất
kì vấn đề y tế hay tâm lí nào bạn có
thể bị. Trước khi bắt đầu bất kì cách
luyện tập nâng cao có thể là một phần
của cách thiền nào đó, hãy tư vấn với
bác sĩ điều trị của mình.
***************************************
Lời giới thiệu
Chúng ta đã quen thuộc từ bé với quan niệm sống
phải là con người trước hết biết làm chủ thiên nhiên,
làm chủ xã hội và sau đó là làm chủ bản thân mình.
Những lời nói ngắn gọn nhưng lại hàm chứa nhiều điều
mà không phải ai cũng từng hiểu thấu.
Làm chủ thiên nhiên, vâng điều này có thể hình
dung được, cách hiểu thông thường nhất có nghĩa là
làm cho thiên nhiên phải phục tùng ý muốn của con
người, làm ra nhiều sản phẩm, vật dụng cho cuộc sống.
Chúng ta chứng kiến từng ngày những tiến bộ của khoa
học và công nghệ đem tới nhiều sản phẩm cho cuộc
sống, nâng cao cuộc sống. Dường như con người làm
chủ thiên nhiên là điều thật dễ hiểu. Làm chủ xã hội
cũng không phải là khó hình dung ra. Làm chủ xã hội
là con người được tham gia và có ý kiến của mình đối
với công xã bao quanh mình, được đóng góp phần có
giá trị của mình để làm cho xã hội văn minh… Nhưng
rồi mọi sự chấm dứt ở những cái hiểu sơ sơ này mà ít
ai để ý đi sâu thêm để hiểu cho rõ hơn, cuộc sống có
quá nhiều điều bận rộn phải lo toan.
Thế còn làm chủ bản thân mình thì sao? Điều này
nói ra thì dễ nhưng lại ít ai hiểu được tường tận nó như
thế nào. Làm chủ bản thân mình là không tỏ ra giận dữ,
là biết kìm nén những xúc động, phản ứng trào lên từ
bên trong... Đấy là cái hiểu đại khái, mơ hồ như vậy.
Trong thực tế, chúng ta có thể được học và được nghe
nói nhiều về làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội,
nhưng lại rất ít khi được nghe nói và được học về làm
chủ bản thân mình.
Rồi chúng ta đã có thời nghe nói tới việc chống
chủ nghĩa cá nhân, nâng cao tinh thần tập thể. Con
người cá nhân là xấu, quan tâm tới lợi ích của mình là
ích kỉ, và hình ảnh người hết lòng, quên mình vì công
việc chung mới là hình mẫu phấn đấu. Bây giờ thì điều
đó dường như có vẻ xa xôi, phi thực tế, và mọi người
đều đồng ý là quyền lợi chính đáng của mỗi người phải
được tôn trọng. Những điều này dường như có cái gì
đó không rõ ràng và minh bạch ngay trong mỗi chúng
ta mà ít khi được giãi bày, nhìn thấu. Dường như thế
giới bên trong chúng ta với nhiều thứ lộn xộn vẫn chưa
được hiểu một cách tường tận.
May mắn thay một người đương đại với chúng ta,
một người Ấn Độ đã chứng ngộ chân lí, Osho, đã tới
với cuộc sống để đem lại nhiều ý tưởng, nhiều cách
nhìn nhận mới vào bản thân con người, để làm chủ
cuộc sống, làm chủ bản thân, là chính sự tồn tại. Điều
đầu tiên Osho đề cập tới là đảo ngược cách nghĩ bình
thường: trước hết mọi người cần được sáng tỏ về bản
thân mình, cần học cách hiểu bản thân mình, làm chủ
cuộc sống của mình, rồi từ sự sáng tỏ đó mà hoà làm
một với cuộc sống, tham gia vào các hoạt động xã hội
và tự nhiên khác, không từ ham muốn riêng mà hài hoà
với qui luật tổng quát.
Chỉ trên cơ sở tự mình đã thấy rõ ràng những điều
xảy ra trong ý nghĩ, trong tình cảm, trong xúc động,
trong mọi trạng thái của bản thân mình, thì người ta
mới có thể có con mắt sáng tỏ để đi vào các hoạt động
trong xã hội và đi vào thiên nhiên. Việc hiểu rõ bên
trong để đi vào bên ngoài này là cần thiết, bởi vì thông
thường chúng ta có xu hướng đi ra xã hội và thiên
nhiên với hàng loạt điều ngộ nhận, hàng loạt thói quen
bắt nguồn từ truyền thống cũ, từ bản ngã, từ tính ích kỉ
cá thể. Chính sự lẫn lộn đó dẫn đến việc áp đặt những
điều chúng ta cứ nghĩ là đúng lên mọi người xung
quanh, hầu như không mấy khi chúng ta nghĩ lại xem
nó có đúng thật không. Và mọi sự phức tạp của xã hội,
của thiên nhiên và môi trường đều nảy sinh từ đó.
Osho đã nêu ra cho chúng ta rất nhiều phương
pháp để tự quan sát bản thân mình, để nhận ra dấu hiệu
của bản ngã, yếu tố chính làm cho cuộc sống trở thành
nặng nề, khổ sở. Osho cũng chỉ rõ việc thoát ra khỏi
bản ngã và cách suy nghĩ dựa trên nó, tâm trí, là bước
đầu tiên để đưa con người trở về với cái toàn thể, để
hoà nhập với tất cả mọi người. Nhưng việc này là khó
khăn, và người ta phải biết nhìn nhận dần trong mọi
hoàn cảnh. Những bước đầu tiên chính là việc mọi
người tự nhìn nhận về thân thể mình, về vấn đề sức
khoẻ của bản thân mình, để có một quan niệm đầy ý
thức trên bình diện vật chất, thể chất.
Cao hơn nữa, tự mỗi người phải biết nhìn nhận về
thái độ của mình trong mọi mối quan hệ xung quanh,
với mọi người. Người thực sự làm chủ bản thân mình
là người luôn bình thản không bị hoàn cảnh và môi
trường kích thích, không phải kìm nén điều gì. Nhưng
điều đó chỉ có thể đạt được nếu trong lòng người ta
không bị nung nấu bởi quá nhiều thôi thúc, ham muốn.
Do đó thái độ của con người với mọi hoàn cảnh chính
là sự thể hiện việc hiểu biết và làm chủ các ham muốn.
Khi có hiểu biết đó, người ta hành xử ung dung, thuận
theo lí của sự việc diễn ra mà không đi ngược với dòng
chảy cuộc đời.
Osho cũng đã nói rất rõ ràng về thái độ của con
người khi đi vào cuộc sống, để làm cho cuộc sống tốt
đẹp hơn, để cho tâm thức con người phát triển hơn,
nâng cao hơn, không bị những lực vô ý thức bên trong
chi phối. Chính trên cơ sở hiểu thấu mọi sự đang xảy ra
trong thiên nhiên, trong xã hội, mà người ta đi vào các
hoạt động thực tế, tuân theo các qui luật đang diễn ra,
và đóng góp thêm phần tác động của mình để thúc đẩy
xã hội phát triển, cuộc sống văn minh và có hiểu biết.
Con người của thời đại mới phải là con người luôn biết
tự hoài nghi chính bản thân mình để tìm tới cái đích
thực và để đóng góp phần tinh hoa nhất của mình cho
sự phát triển tâm thức, cho sự phát triển xã hội và thiên
nhiên. Thiên nhiên cũng cần được yêu mến và phát
triển qua hành động của chúng ta chứ không thể là đối
tượng bị khai thác chỉ vì quyền lợi của con người.
Thật là may mắn cho những ai được tiếp xúc với
một số quan điểm tư tưởng và tình yêu của Osho, thể
hiện qua những bài nói của ông. Osho bình luận về mọi
tư tưởng và tôn giáo phổ biến trên trái đất cùng ý tưởng
của những người mở đầu ra các tư tưởng và tôn giáo
đó, chỉ để cho bạn đọc thấy một điều rằng con người
đích thực không phụ thuộc gì vào kinh sách cổ cả mà
tự mình phải sáng tạo và xây dựng cho mình con
đường của mình. Nhiều vấn đề của cuộc sống hiện đại
đã được nêu ra để minh hoạ cho những tư tưởng cổ đại
đã có thời bị ngôn ngữ che lấp, bị cách diễn giải không
đúng gây hiểu nhầm. Chính điều này đưa những tư
tưởng và tình yêu của Osho tới gần với con người hiện
đại ngày nay.
Osho không phải là nhà văn, Osho không viết
sách, Osho chỉ nói những bài nói ngẫu hứng, những bài
nói xuất phát từ chiều sâu tâm thức của mình cho
những người bạn gần gũi. Những bài nói đó được ghi
lại và in thành sách, nay có nhiều hơn 650 đầu sách.
Lời của Osho đi sâu vào đông đảo quần chúng chính vì
nó đề cập tới những vấn đề mà con người hiện đại đang
trăn trở trên con đường phát triển tâm thức của mình
trong xã hội ngày nay. Lời của Osho hướng dẫn cho
mọi người đi thẳng vào chính bản thân mình, tìm hiểu
ý nghĩa đích thực của sự phát triển tâm linh là phát
triển và hoàn thiện chính bản thân mình, sống có ý
thức, thoát khỏi mọi chi phối của vô ý thức.
Nhưng có một điều cần lưu ý trước khi đọc điều
Osho nói, chúng ta nên giữ thái độ hồn nhiên như trẻ
thơ để cảm nhận những chân lí quí giá được truyền trao
qua lời. Lời bao giờ cũng hạn hẹp, chỉ nêu ra gợi ý về
cái gì đó, cho nên cần phải nắm được ý nằm sau lời, cái
nằm trong khoảng trống im lặng giữa các lời. Một tâm
trí xét nét theo lời sẽ không thể thu hoạch gì được
nhiều qua những bài nói này. Một tâm trí quá logic sẽ
không thể nào chấp nhận được những điều tưởng
chừng như phi logic đối lập nhau, bởi vì các bài nói
bao giờ cũng có đích cụ thể, dành cho đối tượng cụ thể,
và hoàn cảnh mỗi người lại khác nhau, có khi ngược
nhau. Lời chỉ là công cụ để giúp cho người ta thoát ra
khỏi lời, bay vào chân lí. Và chân lí bao giờ cũng là
cuộc sống đang diễn ra.
Hà Nội, 9/8/2004
******************************************************
Mục lục
Lời nói đầu : Thuốc và Thiền
1. Định nghĩa về mạnh khoẻ
2. Được chữa lành ngụ ý là cái toàn thể
3. Mê tín vào y học
4. Cách tiếp cận mạnh khoẻ khác
5. Chức năng của thầy chữa
6. Thời gian cho chăm sóc, thời gian cho tình yêu
7. Cái chạm chữa lành
8. Thiền và tâm thần học
9. Kính trọng thân thể
10. Gốc rễ của căng thẳng
11. Chìa khoá cho thảnh thơi
12. Dồn nén và quá căng
13. Phiền muộn, bệnh của người giầu
14. Thức ăn và mạnh khoẻ
15. Đau đớn
16. Giấc ngủ
17. Già đi
18. Chết với chân giá trị
19. Bệnh AID
20. Nhìn vào tương lai
21. Sức mạnh chữa lành của tiếng cười
Về Osho
******************************************************
#Lời nói đầu: Thuốc và Thiền
Bài nói của Osho cho Hội y tế Ấn Độ
Con người là bệnh tật. Bệnh tật xảy ra cho con
người, nhưng bản thân con người cũng là bệnh tật rồi.
Đây là vấn đề của con người, và thế nữa, đây là tính
duy nhất của con người. Đây là điều may mắn tốt lành
của con người, và đây cũng là điều bất hạnh cho con
người. Không con vật nào trên trái đất này lại là vấn đề
như vậy, lo âu, căng thẳng, bệnh tật và ốm yếu, theo
cách như con người là vậy. Và bản thân điều kiện này
đã cho con người mọi trưởng thành, mọi tiến hoá, bởi
vì ‘bệnh tật’ có nghĩa là người ta không thể nào hạnh
phúc được với nơi người ta đang hiện hữu; người ta
không thể nào chấp nhận được điều người ta đang là.
Bản thân bệnh tật này đã trở thành tính năng động của
con người, cái bất ổn của con người, nhưng đồng thời
nó cũng là điều bất hạnh của con người nữa, bởi vì con
người bị khuấy động, bất hạnh, và con người đau khổ.
Không con vật nào ngoại trừ con người có khả
năng trở nên điên. Chừng nào con người còn chưa làm
cho con vật nào đó bị mất trí, nó không tự làm cho nó
điên - nó không trở nên thần kinh. Con vật không điên
trong rừng rậm, chúng trở nên điên trong rạp xiếc.
Trong rừng rậm, cuộc sống của con vật không bị làm
méo mó; nó trở nên bị suy đồi trong vườn bách thú.
Không con vật nào tự tử; chỉ con người mới có thể tự
tử.
Hai phương pháp đã được thử để hiểu và chữa cái
bệnh có tên là con người. Một phương pháp là thuốc,
phương pháp kia là thiền. Cả hai phương pháp này đều
là cách trị cùng một bệnh. Cũng là hay để hiểu ở đây
rằng thuốc xét từng bệnh trong con người một cách
tách biệt - cách tiếp cận phân tích bộ phận. Thiền coi
bản thân con người là bệnh tật; thiền coi chính cá tính
của con người là bệnh tật. Thuốc coi rằng bệnh tật đến
với con người rồi chúng đi - rằng chúng là cái gì đó xa
lạ với con người. Nhưng dần dần khác biệt này đã giảm
đi và y học nữa cũng đã bắt đầu nói, “Không trị bệnh,
chữa người bệnh.”
Đây là phát biểu rất quan trọng, bởi vì điều này có
nghĩa là bệnh tật không là gì ngoài cách sống mà bệnh
nhân đang sống. Mọi người không bị ốm theo cùng
cách. Bệnh tật cũng có tính cá thể của riêng chúng, cá
tính của chúng. Không phải là nếu tôi bị bệnh lao và
nếu bạn cũng bị bệnh lao, thì cả hai chúng ta sẽ là bệnh
nhân thuộc cùng một loại. Ngay cả bệnh lao của chúng
ta sẽ tự hiện diện dưới hai dạng, bởi vì chúng ta là hai
cá thể khác nhau. Cũng có thể xảy ra việc cách trị liệu
chữa khỏi bệnh lao cho tôi không đem lại giảm bớt cho
bệnh lao của bạn. Cho nên sâu bên dưới bệnh nhân mới
là gốc rễ, không phải bệnh tật.
Thuốc chặn bệnh tật trong con người một cách rất
bề ngoài. Thiền hiểu thấu con người từ sâu bên trong.
Nói cách khác có thể nói rằng thuốc cố gắng đem lại
mạnh khoẻ cho con người từ bên ngoài; thiền cố gắng
giữ bản thể bên trong con người được mạnh khoẻ.
Khoa học về thiền không thể trở nên đầy đủ nếu thiếu
thuốc, mà khoa học về thuốc cũng không thể trở nên
đầy đủ nếu thiếu thiền, vì con người là cả thân thể và
linh hồn. Trong thực tế, gọi con người là cả hai thành
phần đó thực sự là sai lầm ngôn ngữ.
Trong hàng nghìn năm con người cứ cho rằng thân
thể và linh hồn của người ta là các thực thể tách biệt.
Cách tư duy này đã làm nảy sinh hai kết quả rất nguy
hiểm. Một kết quả là ở chỗ một số người đã coi rằng
con người chỉ là linh hồn và họ lãng quên mất thân thể.
Những người như vậy đem đến sự phát triển trong
thiền nhưng không trong thuốc - thuốc không thể trở
thành khoa học được; thân thể đã hoàn toàn không
được đếm xỉa tới. Ngược lại, một số người lại coi con
người chỉ là thân thể và phủ định linh hồn. Họ đã làm
rất nhiều nghiên cứu và phát triển trong y dược nhưng
không bước nào hướng tới thiền cả.
Nhưng con người lại đồng thời là cả hai. Tôi cũng
đang nói rằng đây là sai lầm ngôn ngữ: khi chúng ta
nói đồng thời cả hai, điều đó gây ấn tượng rằng có hai
thứ nhưng được gắn với nhau. Không, trong thực tế
thân thể và linh hồn của con người là hai đầu của cùng
một cực. Nếu được nhìn theo viễn cảnh đúng, chúng ta
sẽ không có khả năng nói rằng con người là thân thể
cộng với linh hồn - nó không phải là như vậy. Con
người là tâm-thân hay thân-tâm. Con người là tâm tríthân
thể hay thân thể-tâm trí.
Theo tôi, phần của linh hồn ở bên trong việc hiểu
thấu của giác quan chúng ta là thân thể, còn phần của
thân thể ở bên ngoài việc hiểu thấu của giác quan thì là
linh hồn. Thân thể vô hình là linh hồn, linh hồn hữu
hình là thân thể. Chúng không phải là hai thứ khác
nhau, chúng không phải là hai thực thể tách biệt, chúng
là hai trạng thái rung động khác nhau của cùng một
thực thể.
Thực tế, khái niệm hai mặt này đã làm hại loài
người tệ lắm. Chúng ta bao giờ cũng nghĩ dưới dạng
hai và rồi đi vào các vấn đề. Ban đầu chúng ta hay nghĩ
dưới dạng vật chất và năng lượng; bây giờ chúng ta
không nghĩ thế nữa. Bây giờ chúng ta không thể nói
rằng vật chất và năng lượng là tách biệt. Bây giờ chúng
ta nói rằng vật chất là năng lượng. Thực tế là ở chỗ
việc dùng ngôn ngữ cũ đang tạo ra khó khăn. Thậm chí
nói rằng vật chất là năng lượng cũng không đúng. Có
cái gì đó - ta hãy cứ gọi nó là X - cái được thấy ở đầu
này là vật chất trong khi thấy ở đầu kia là năng lượng;
chúng không phải là hai. Chúng là hai dạng khác nhau
của cùng một thực thể.
Tương tự thân thể và linh hồn là hai đầu của cùng
một thực thể. Ốm bệnh có thể bắt đầu từ một trong hai
đầu này. Nó có thể bắt đầu từ thân thể và đạt tới linh
hồn; trong thực tế, bất kì điều gì xảy ra trong thân thể,
rung động của nó cũng được cảm thấy trong linh hồn.
Đó là lí do tại sao đôi khi việc xảy ra là một người
được chữa khỏi bệnh về thể chất nhưng người đó vẫn
cứ cảm thấy ốm. Bệnh đã rời khỏi thân thể; bác sĩ nói
không còn bệnh nữa, nhưng bệnh nhân vẫn cảm thấy
ốm và từ chối tin rằng mình không bệnh. Tất cả các xét
nghiệm và kiểm nghiệm đều chỉ ra rằng về mặt lâm
sàng mọi sự đều ổn cả, nhưng bệnh nhân vẫn cứ nói
rằng người đó không cảm thấy khoẻ.
Kiểu bệnh nhân này thực sự làm phiền bác sĩ nhiều
lắm, bởi vì tất cả các xét nghiệm đều chỉ ra rằng không
có bệnh. Nhưng không có bệnh không có nghĩa là bạn
mạnh khoẻ. Mạnh khoẻ có tính tích cực riêng của nó.
Không có bệnh chỉ là trạng thái phủ định. Chúng ta có
thể nói rằng không có gai, nhưng điều đó không có
nghĩa là có hoa; rằng không có gai chỉ nêu ra việc thiếu
vắng gai. Nhưng hiện diện của hoa lại là vấn đề khác.
Y học cho tới giờ vẫn không có khả năng đạt tới
điều gì theo chiều hướng về mạnh khoẻ là gì. Toàn bộ
công việc của nó đã theo chiều hướng về bệnh tật là gì.
Nếu bạn hỏi y học về bệnh tật, nó cố gắng đưa ra các
định nghĩa, nhưng nếu bạn hỏi nó mạnh khoẻ là gì thế
thì nó cố gắng đánh lừa bạn. Nó nói rằng khi không có
bệnh, thế thì bất kì cái gì còn lại cũng đều là mạnh
khoẻ cả. Đây là lừa dối, không phải là định nghĩa. Làm
sao bạn có thể định nghĩa mạnh khoẻ trong quan hệ với
bệnh tật được? Điều đó cũng giống như là định nghĩa
hoa trong quan hệ với gai; điều đó cũng giống như là
định nghĩa cuộc sống trong quan hệ với cái chết, hay
ánh sáng trong quan hệ với bóng tối. Nó cũng giống
như là định nghĩa đàn ông trong quan hệ với đàn bà,
hay ngược lại.
Không, cho tới nay y học không có khả năng nói
mạnh khoẻ là gì. Nó chỉ có thể nói cho chúng ta bệnh
tật là gì, một cách tự nhiên. Có lí do cho điều đó. Lí do
là ở chỗ y học chỉ hiểu từ bên ngoài, chỉ hiểu những
biểu lộ thân thể - từ bên ngoài chỉ có thể hiểu được
bệnh tật. Mạnh khoẻ chỉ có thể được hiểu thấu từ cái ở
bên trong con người, bản thể bên trong nhất của người
đó và linh hồn người đó. Theo khía cạnh này từ Hindu
swasthya thực sự tuyệt vời. Từ tiếng Anh ‘mạnh khoẻ -
health’ không đồng nghĩa với swasthya. Mạnh khoẻ
health được bắt nguồn từ chữa lành - healing; ốm bệnh
được liên kết với nó. Mạnh khoẻ có nghĩa là được chữa
lành - người đã phục hồi từ ốm bệnh.
Swasthya không ngụ ý điều đó, swasthya ngụ ý
người đã lắng vào bên trong bản thân mình, người đã
đạt tới bản thân mình. Swasthya có nghĩa là người có
khả năng đứng bên trong mình, và đó là lí do tại sao
swasthya lại không chỉ là mạnh khoẻ. Thực tế không có
từ nào trong bất kì ngôn ngữ nào trên thế giới sánh
được với từ swasthya. Tất cả các ngôn ngữ khác của
thế giới đều có từ đồng nghĩa hoặc là với bệnh tật hoặc
là với vô bệnh tật. Chính khái niệm về swasthya mà
chúng ta đang có là khái niện về vô bệnh tật. Nhưng vô
bệnh tật là cần nhưng không đủ cho swasthya. Còn cần
tới một cái gì đó khác - một cái gì đó từ đầu bên kia
của cực này, từ bản thể bên trong của chúng ta. Thậm
chí nếu bệnh bắt đầu từ bên ngoài, rung động của nó
cũng vang vọng khắp nẻo đường tới linh hồn.
Giả sử tôi ném một hòn đá vào cái hồ tĩnh lặng;
nhiễu loạn xuất hiện chỉ tại nơi hòn đá chạm vào nước,
nhưng gợn sóng được tạo ra đạt tới bờ hồ nơi hòn đá
không chạm tới. Tương tự, bất kì cái gì xảy ra cho thân
thể chúng ta, những gợn sóng của nó đều đạt tới linh
hồn. Và nếu trị liệu y tế lâm sàng chỉ dành cho thân
thể, thế thì điều gì sẽ xảy ra cho những gợn sóng đó đã
đạt tới xa bên bờ kia? Nếu chúng ta ném một hòn đá
vào hồ và nếu chúng ta tập trung chỉ vào nơi đá chạm
nước và chìm xuống, thế thì điều gì sẽ xảy ra cho tất cả
những gợn sóng bây giờ đã có sự tồn tại của chúng độc
lập với hòn đá?
Một khi con người bị ốm, các rung động của bệnh
sẽ đi vào linh hồn, và đó là lí do tại sao thường bệnh cứ
còn dai dẳng thậm chí sau khi thân thể đã được điều trị
và được chữa khỏi. Sự dai dẳng này của bệnh vẫn có
đó bởi vì những rung động của nó, đã vang vọng đi
khắp nẻo đường tới bản thể bên trong nhất của người
đó, và với điều này y học cho tới giờ vẫn chưa có giải
pháp. Cho nên y học bao giờ cũng vẫn còn không đầy
đủ nếu thiếu thiền. Chúng ta sẽ có khả năng chữa khỏi
bệnh nhưng chúng ta sẽ không có khả năng chữa cho
bệnh nhân. Tất nhiên, mối quan tâm của bác sĩ là ở chỗ
bệnh nhân không được chữa khỏi; là ở chỗ chỉ bệnh tật
được chữa khỏi nhưng bệnh nhân bao giờ cũng phải
quay lại!
Bệnh tật cũng có thể có nguồn gốc từ đầu kia. Thực
tế, trong trạng thái con người đang hiện hữu, bệnh tật
đã hiện diện ở đó rồi. Trong trạng thái con người đang
hiện hữu, có rất nhiều căng thẳng hiện diện trong người
đó. Tôi đã nói trước đây rằng không con vật nào lại
không được thoải mái theo cách này, lại bất an theo
cách này, lại trong căng thẳng như vậy - và có lí do cho
điều này. Không con vật nào khác lại có ý tưởng này
về việc trở thành cái gì đó khác. Con chó là con chó;
nó không phải trở thành ai đó. Nhưng con người phải
trở thành sinh linh người, con người chưa phải là một
ai đó. Đó là lí do tại sao chúng ta không thể nói với con
chó rằng nó là con chó còn kém chút ít. Mọi con chó
đều là con chó một cách tương đương nhau. Nhưng
trong trường hợp con người, chúng ta nói một cách hợp
lí với một người rằng người đó vẫn còn thiếu chút ít
mới là con người. Con người chưa bao giờ đuợc sinh ra
trong sự đầy đủ của mình.
Con người được sinh ra trong trạng thái không đầy
đủ; tất cả các con vật khác đều được sinh ra trong sự
đầy đủ của chúng. Điều này không phải là như vậy với
con người. Có một số điều mà người đó sẽ phải làm để
thành đầy đủ. Trạng thái không đầy đủ này là bệnh tật
của người đó. Đó là lí do tại sao người đó lại lo lắng
băn khoăn suốt hai mươi bốn giờ. Không phải là chỉ
người nghèo mới lo lắng bởi vì cái nghèo khó của mình
- đây là cách chúng ta vẫn thường nghĩ. Nhưng chúng
ta không nhận ra rằng khi trở nên giầu có, chỉ mức độ
lo lắng là thay đổi, nhưng lo lắng vẫn còn đó.
Sự thực là ở chỗ người nghèo chưa bao giờ lo âu
như người giầu gặp phải, bởi vì người nghèo ít nhất
cũng có biện minh cho vấn đề của mình - rằng người
đó nghèo. Người giầu thậm chí chẳng có biện minh
này. Người đó thậm chí không thể chỉ ra được nguyên
nhân cho nỗi lo âu của mình. Và khi nỗi lo âu không có
nguyên nhân rõ ràng, nó trở thành khủng khiếp.
Nguyên nhân cho bạn sự giảm nhẹ nào đó, an ủi nào
đó, bởi vì thế thì người ta hi vọng rằng người ta có thể
có khả năng vứt bỏ đi các nguyên nhân. Nhưng khi lo
lắng nào đó phát sinh mà không nguyên nhân nào cả
thế thì khó khăn tăng lên.
Các quốc gia nghèo có nhiều đau khổ, nhưng ngày
họ trở thành giầu họ sẽ nhận ra rằng các quốc gia giầu
cũng có nỗi khổ của riêng họ.
Tôi muốn nhân loại chọn cái khổ của người giầu,
không phải cái khổ của người nghèo. Nếu đấy là vấn đề
về việc chọn khổ, thế thì tốt hơn cả là chọn khổ của
người giầu. Nhưng mãnh liệt của bất ổn sẽ được nâng
cao lên.
Ngày nay, khối lượng bất ổn và lo âu nước Mĩ phải
đương đầu còn lớn hơn bất kì nước nào khác trên thế
giới. Mặc dầu không cộng đồng nào khác đã bao giờ có
khối lượng tiện nghi có sẵn như ở Mĩ ngày nay, thực tế
chính là ở Mĩ lần đầu tiên việc vỡ mộng mới xảy ra.
Lần đầu tiên ảo tưởng đã bị phá vỡ. Con người quen
nghĩ mình lo âu là bởi lí do nào đó. Tại Mĩ, lần đầu
tiên, vấn đề trở thành rõ ràng rằng con người đang lo
âu không phải bởi vì bất kì lí do nào cả; bản thân con
người là nỗi lo âu. Con người phát minh ra lo âu mới
cho bản thân mình. Cá tính có bên trong người đó cứ
liên tục đòi hỏi cái gì đó mà lại không có đó. Cái có đó
cứ trở thành vô nghĩa hàng ngày; cái đã đạt được lại trở
thành vô nghĩa, vô tích sự. Có cố gắng liên tục về
những thứ người ta không có.
Nietzsche đã nói đâu đó rằng con người là cây cầu
bắc ngang giữa hai điều không thể được - bao giờ cũng
hăm hở đạt tới điều không thể được, bao giờ cũng hăm
hở trở thành đầy đủ. Chính từ hăm hở trở thành đầy đủ
này mà tất cả mọi tôn giáo đã được sinh ra.
Cũng sẽ có ích mà để ý rằng đã có thời trên trái đất
này các tu sĩ cũng đồng thời là thầy chữa, lãnh tụ tôn
giáo cũng là thầy thuốc. Ông ta là tu sĩ và ông ta là
thầy thuốc. Và cũng sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên
nếu chúng ta kết thúc với cùng tình huống đó lại vào
ngày mai. Sẽ chỉ có một điểm hơi khác biệt: người là
bác sĩ điều trị sẽ là tu sĩ! Điều này đã bắt đầu xảy ra ở
Mĩ, bởi vì lần đầu tiên sự việc trở nên rõ ràng rằng vấn
đề không phải là một mình thân thể; và sự việc đã sáng
dần ra rằng nếu thân thể hoàn toàn mạnh khoẻ, thế thì
vấn đề lại tăng tính nhiều vẻ, bởi vì lần đầu tiên con
người bắt đầu cảm thấy bệnh đang hiện diện bên trong,
tại cực kia của thân thể.
Các giác quan của chúng ta nữa cũng cần nguyên
nhân. Nếu gai đâm vào chân người ta, chỉ thế thì người
ta mới cảm thấy chân. Chừng nào gai còn chưa đâm
vào chân, người ta vẫn còn không nhận biết về chân.
Khi gai có trong chân, thế thì toàn bộ linh hồn người ta
trở thành giống như mũi tên hướng tới chân; nó chỉ để
ý đến chân chứ không cái gì khác - một cách tự nhiên.
Nhưng nếu gai được lấy ra khỏi chân, thế nữa bản thể
sẽ cần chú ý đến cái gì đó khác. Cứ cho là cơn đói của
bạn được thoả mãn, quần áo tốt có sẵn để mặc, nhà bạn
trật tự gọn gàng, bạn lấy được người vợ mình muốn -
mặc dầu không có thảm hoạ nào trên thế giới lớn hơn
điều này. Vẫn không có kết thúc cho những nỗi khổ
của người lấy được người vợ mình mong muốn. Nếu
bạn không lấy được người vợ bạn muốn, thế thì ít nhất
bạn cũng có thể tìm thấy hạnh phúc nào đó từ niềm hi
vọng. Điều đó nữa bị mất đi khi bạn lấy được người vợ
mình muốn.
Tôi đã nghe nói về một nhà thương điên. Một
người tới thăm nhà thương điên và viên giám thị nhà
thương điên đó đưa anh ta đi thăm một vòng. Trước
một xà lim đặc biệt người này hỏi viên giám thị có gì
sai sót với người đang bị giam. Viên giám thị đáp rằng
người này trở nên điên bởi vì anh ta không thể lấy
được người đàn bà anh ta yêu. Trong một xà lim khác,
người tù đang cố gắng đập vỡ thanh chắn, đấm ngực,
dứt tóc. Khi được hỏi có gì sai với người này, viên
giám thị đáp rằng người này đã lấy được người phụ nữ
người kia không lấy được, và anh ta trở nên điên.
Nhưng bởi vì không thể lấy được người mình yêu nên
người thứ nhất thường giữ ảnh cô ta gần tim mình và
bao giờ cũng hạnh phúc trong điên dại, trong khi người
thứ hai đập đầu vào thanh chắn! May mắn là những
người yêu không lấy được người mình yêu!
Trong thực tế, bất kì cái gì chúng ta không đạt tới,
chúng ta hi vọng về nó và có thể cứ sống trong hi vọng
đó. Một khi chúng ta đã đạt được nó hi vọng của chúng
ta tan tành và chúng ta trở thành trống rỗng. Cái ngày
bác sĩ trị liệu làm cho con người thoát khỏi vấn đề thân
thể mình, ngày đó con người sẽ phải nhận lấy phần
khác của công việc này. Cái ngày con người trở nên
thoát khỏi bệnh tật thân thể mình, cái ngày đó chúng ta
đang trao cho người đó một tình huống mà người đó có
thể trở nên nhận biết bệnh tật bên trong của mình. Lần
đầu tiên người đó sẽ lo lắng bên trong và sẽ tự hỏi rằng
mọi thứ bề ngoài đều ổn thoả, ấy vậy mà dường như
chẳng cái gì ổn thoả cả.
Cũng không ngạc nhiên gì rằng ở Ấn Độ, hai mươi
bốn tirthankaras đều là con vua; Phật đã là con vua,
Rama và Krishna tất cả đều từ hoàng gia. Với những
người này cái bất ổn đã biến mất khỏi mức độ thân thể;
cái bất ổn của họ bây giờ đã bắt đầu từ bên trong.
Y học cố gắng giải phóng con người khỏi bệnh tật
bên ngoài, tại mức độ của thân thể. Nhưng nhớ, thậm
chí có được tự do khỏi mọi bệnh tật, con người vẫn
không trở nên tự do khỏi cái bệnh căn bản của việc là
con người. Cái bệnh của việc là con người đó chính là
ham muốn về điều không thể được. Cái bệnh của việc
là con người đó là không được thoả mãn với bất kì cái
gì, cái bệnh của việc là con người đó là việc làm cho tất
cả những cái người ta đạt được đều thành vô tích sự và
việc gắn ý nghĩa cho bất kì cái gì mà người ta không
có.
Việc chữa cho cái bệnh là con người này là thiền.
Với mọi bệnh tật khác, các bác sĩ đều có cách chữa, y
học có cách chữa; nhưng với cái bệnh đặc biệt này của
việc là con người thì chỉ thiền mới có cách chữa. Y học
sẽ hoàn chỉnh vào ngày chúng ta hiểu phía bên trong
của con người và bắt đầu làm việc với điều đó nữa, bởi
vì theo hiểu biết của tôi, người không thoải mái, người
đang ngồi bên trong chúng ta, đang tạo ra cả nghìn lẻ
một ốm yếu ở mức độ thân thể bên ngoài.
Như tôi đã nói, bất kì khi nào thân thể trở nên ốm
yếu, các rung động, các gợn sóng đều được cảm thấy
trong linh hồn. Tương tự, nếu linh hồn bị bệnh thế thì
các gợn sóng đạt tới mức độ của thân thể.
Đây là lí do tại sao lại có biết bao nhiêu loại liệu
pháp trên thế giới này. Đáng ra thì không nên như vậy
nếu bệnh học là khoa học; thế thì không thể có hàng
nghìn liệu pháp được. Nhưng điều đó lại trở thành có
thể bởi vì bệnh tật của con người có đến hàng nghìn
kiểu. Một số kiểu bệnh không thể chữa được với sự
giúp đỡ của đối trị liệu pháp. Với những bệnh có nguồn
gốc ở phần bên trong con người và đi ra bên ngoài, đối
trị liệu pháp là vô dụng. Với những bệnh bắt đầu từ bên
ngoài và hướng vào phần bên trong, đối trị liệu pháp
rất thành công. Những bệnh đạt tới bên ngoài từ bên
trong không phải là bệnh thân thể chút nào. Chúng chỉ
biểu lộ tại mức độ thân thể. Mức độ nguồn gốc của
chúng bao giờ cũng là tâm lí, hay còn sâu hơn - tâm
linh.
Bây giờ, nếu một người đang chịu một bệnh trong
tâm lí mình, điều này có nghĩa là không thuốc lâm sàng
nào có thể làm giảm nhẹ chút ít cho người đó được.
Trong thực tế thuốc còn có thể có hại, bởi vì nó sẽ cố
làm điều gì đó và trong quá trình này, nếu nó không
làm giảm nhẹ, nhất định nó sẽ gây hại gì đó. Duy nhất
những thuốc không có khả năng gây ra hại là những
thuốc không có khả năng đem lại bất kì sự giảm nhẹ
nào. Chẳng hạn, vi lượng liệu pháp không gây hại cho
ai cả, bởi vì không có bất kì vấn đề giảm nhẹ nào từ nó
cả. Nhưng vi lượng liệu pháp quả có cho sự giảm nhẹ.
Nó không có khả năng tạo ra sự giảm nhẹ nhưng điều
đó không có nghĩa là người ta không được giảm nhẹ.
Nhưng việc có được sự giảm nhẹ lại là một chuyện
khác; tạo ra sự giảm nhẹ lại là một chuyện khác. Hai
chuyện này là những hiện tượng tách bạch. Người ta
quả có được sự giảm nhẹ bởi vì nếu người này tạo ra
bệnh tật ở mức độ tâm lí của mình thì người đó cần
thuốc trấn an nào đó cho nó. Người đó cần thuốc trấn
an nào đó cho bệnh tật của mình, người đó cần an ủi
nào đó, đảm bảo nào đó rằng người đó không ốm, mà
chỉ đang mang cái ý tưởng rằng mình ốm. Điều đó
cũng có thể đạt tới được qua tro của kẻ hành khất nào
đó; điều đó có thể đạt được qua nước thánh của sông
Hằng, vân vân.
Ngày nay rất nhiều thực nghiệm đang diễn ra trên
cái điều bạn có thể gọi là thuốc ảo tưởng, thuốc trấn an.
Nếu mười bệnh nhân đang cùng chịu một bệnh, và nếu
ba người trong số họ được điều trị bằng đối trị liệu
pháp, ba người bằng vi lượng liệu pháp và ba người
bằng thiên nhiên liệu pháp, thế thì ta thấy một kết quả
thú vị: mỗi một trong các liệu pháp này đều ảnh hưởng
tới cùng số phần trăm người cho cả kết quả tốt và xấu.
Không khác biệt nhiều lắm về tỉ lệ. Điều này quả có
tạo ra nguyên nhân nào đó để suy nghĩ. Cái gì đang
diễn ra?
Theo tôi, đối trị liệu pháp là y học duy nhất. Nhưng
vì cái gì đó trong con người là không khoa học, nên
một mình y học sẽ không có tác dụng. Đối trị liệu pháp
một mình nó đối phó với thân thể con người theo một
cách khoa học. Nhưng đối trị liệu pháp không thể chữa
được một trăm phần trăm, bởi vì con người ở bản thể
bên trong của mình là tưởng tượng, bịa đặt, và phóng
chiếu nữa. Thực tế một người mà đối trị liệu pháp
không có tác dụng thì ốm là do một nguyên nhân
không khoa học nào đó. Bị ốm do một nguyên nhân
không khoa học nào đó có nghĩa là gì vậy?
Những lời này có vẻ rất kì lạ. Bạn biết rằng có thể
có cách điều trị y học và cũng có thể có cách điều trị
không y học. Tôi đang nói với bạn rằng cũng có thể có
đau yếu khoa học và đau yếu không khoa học - cách
thức không khoa học để bị ốm. Mọi bệnh tật mà bắt
đầu tại mức độ tâm lí của một người và biểu lộ ở mức
độ thân thể, không thể chữa được theo cách khoa học.
Tôi biết một thanh nữ bị mù. Nhưng chứng mù lại
mang tính tâm lí - thực tế mắt cô ta không bị ảnh
hưởng. Các chuyên gia mắt nói rằng mắt ổn cả, cô gái
này đang lừa mọi người. Nhưng cô gái này không lừa
ai cả, bởi vì thậm chí nếu bạn dắt cô ấy đi vào lửa cô ấy
cũng đi vào lửa; cô ấy sẽ loạng quạng đâm vào tường
và làm vỡ đầu. Cô gái này không lừa; cô ấy thực sự
không thể thấy được bằng mắt mình.
Nhưng bệnh này lại ở ngoài tầm của các bác sĩ.
Cô gái này được đưa tới tôi và tôi cố gắng để hiểu
cô ấy. Tôi đi tới nhận ra rằng cô ấy đang yêu ai đó
nhưng các thành viên gia đình cô ấy cấm cô ấy gặp
người kia. Khi tôi cứ hỏi đi hỏi lại cô ấy, cô ấy đáp
rằng cô ấy không còn muốn thấy bất kì ai khác trên thế
giới này ngoại trừ người yêu của cô. Quyết tâm không
thấy bất kì ai khác ngoại trừ người yêu mình... và nếu
sự mãnh liệt này hiện diện trong quyết tâm, mắt trở
thành mù về mặt tâm lí. Mắt sẽ trở thành mù, mắt sẽ
dừng thấy bất kì cái gì. Điều này không thể hiểu được
bởi việc thấy qua mổ mắt, bởi vì mổ mắt là thông
thường, cơ chế thấy vẫn vận hành. Chỉ người thấy,
người vẫn ở đằng sau mắt mới lẩn đi, mới tự loại bỏ
mình tại đó. Chúng ta kinh nghiệm điều này trong cuộc
sống thường ngày, chúng ta chỉ không nhận biết về nó.
Cơ chế của thân thể vận hành chỉ khi sự hiện diện của
chúng ta có đó đằng sau nó.
Bây giờ ta hãy xét một thanh niên đang chơi khúc
côn cầu, vừa bị thương ở chân. Anh ta bị chảy máu
nhưng anh ta không nhận ra điều đó. Người khác có thể
thấy rằng anh ta bị chảy máu nhưng bản thân anh ta lại
không có ý niệm gì về nó cả. Thế rồi, khi cuộc chơi kết
thúc sau nửa giờ, anh ta túm lấy chân mình và bắt đầu
kêu lên và hỏi khi nào anh ta bị thương. Nó gây đau
lắm. Bây giờ nửa giờ đã trôi qua từ khi anh ta bị
thương. Vết thương ở chân anh ta là thực, cơ chế cảm
giác trong chân anh ta vẫn làm việc hoàn toàn ổn thoả -
vậy tại sao thông tin lại không được chuyển vận đi sớm
hơn? Chú ý của anh ta không có đó với cái chân, chú ý
của anh ta là vào cuộc chơi, và chú ý của anh ta lớn
đến mức chẳng có gì còn lại để chú ý đến chân nữa.
Cái chân phải thường xuyên thông báo cho anh ta - các
bắp cơ, thần kinh phải co giật - chân phải đã gõ vào
mọi cánh cửa có thể, nó phải đã rung chuông báo cho
tổng đài, nhưng người trực tổng đài đang ngủ. Người
đó ngủ say hay người đó đang hiện diện ở đâu đó khác.
Người đó vắng mặt, người đó không có mặt. Khi người
đó trở về sau nửa giờ, thế thì mới có chú ý rằng có vết
thương ở chân.
Tôi bảo gia đình cô ấy ấy làm một điều. Tôi bảo họ
rằng vì cô ấy không được phép thấy người cô ấy muốn
gặp, nên cô ấy đã tự tử một phần - tự tử đôi mắt.
Không có vấn đề gì khác với cô ấy ngoại trừ rằng cô ấy
đã đi vào giai đoạn tự tử một phần. Cứ để cho người
yêu của cô ấy gặp cô ấy. Họ nói, “Điều đó có liên quan
gì tới mắt?” Tôi bảo họ cứ thử một lần xem sao. Và
ngay khi cô ấy được báo rằng cô ấy được phép gặp
người yêu của mình và rằng anh ta sẽ tới lúc năm giờ,
cô ấy tới và đứng ngay cửa. Mắt cô ấy ổn thoả cả!
Không, điều này không phải là lừa dối. Bây giờ,
các thực nghiệm trong thôi miên đã chỉ ra cho chúng ta
rằng không có chỗ cho lừa dối. Điều này tôi nói cho
các bạn từ kinh nghiệm của riêng mình. Nếu một người
bị thôi miên sâu mà được trao cho một hòn đá cuội
thông thường trong tay và được bảo cho biết rằng đấy
là một mẩu than nóng, người đó sẽ hành xử theo đúng
cách người đó sẽ làm với một mẩu than hồng trong tay
mình. Người đó sẽ ném nó đi, người đó sẽ bắt đầu kêu
thét, rền rĩ rằng người đó đã bị bỏng. Cho tới điểm này
điều đó cũng còn dễ hiểu. Nhưng người đó cũng sẽ bị
phỏng rộp trên tay mình - và thế thì khó khăn nảy sinh.
Nếu đơn thuần bằng tưởng tượng rằng có than hồng
trong tay mình mà bạn có thể bị bỏng, thế thì cũng
nguy hiểm mà bắt đầu trị liệu cho những vết bỏng này
ở mức độ thân thể. Việc chữa trị cho những vết bỏng
này nên bắt đầu tại mức độ của tâm trí.
Vì chúng ta chỉ xem xét một đầu của con người,
cho nên chúng ta có khả năng khử bỏ dần những bệnh
tật ảnh hưởng tới thân thể, nhưng đồng thời bệnh bắt
nguồn từ tâm trí lại tăng lên. Ngày nay, thậm chí những
người chỉ nghĩ dưới dạng khoa học cũng đã bắt đầu
đồng ý rằng ít nhất năm mươi phần trăm bệnh tật là do
tâm trí. Điều này không phải như vậy ở Ấn Độ, bởi vì
với những bệnh của tâm trí, trước hết cần phải có một
tâm trí mạnh mẽ. Tại Ấn Độ chúng ta vẫn thấy rằng
quãng chín mươi nhăm phần trăm bệnh tật là của thân
thể, nhưng ở Mĩ sự kiện bệnh của tâm trí đang tăng lên.
Bệnh của tâm trí thông thường bắt đầu từ bên trong
và lan ra bên ngoài; chúng là bệnh tật đi ra, trong khi
những bệnh của thân thể là đi vào. Nếu bạn cố chữa trị
các biểu lộ thân thể của bệnh tinh thần, thế thì lập tức
bạn sẽ thấy các cách thức biểu lộ khác. Chúng ta có thể
có khả năng chấm dứt số lượng nhỏ các bệnh tinh thần
từ một chỗ hay chỗ thứ hai, thứ ba, nhưng nó chắc chắn
sẽ biểu lộ tại chỗ thứ tư hay thứ năm. Nó sẽ cố gắng
biểu lộ từ điểm yếu trong cá tính của cá nhân này. Đó
là lí do tại sao biết bao nhiêu lần mà bác sĩ không
những không thể chữa trị một bệnh mà còn chịu trách
nhiệm cho việc di căn, việc nhân lên các dạng khác
nhau của bệnh đó. Điều có thể đi ra từ mỗi một nguồn
nay bắt đầu đổ ra từ nhiều nguồn khác, bởi vì chúng ta
đã dựng lên con đập tại các vị trí khác nhau.
Theo tôi, thiền là việc chữa tại đầu kia của con
người. Một cách tự nhiên, thuốc phụ thuộc vào vật
chất, các yếu tố hoá chất của chúng; thiền phụ thuộc
vào ý thức. Không có viên thuốc chế sẵn nào cho thiền
cả, mặc dầu người ta vẫn đang cố làm ra. LSD,
mescalin, marijuana - cả nghìn thứ đang được thử.
Hàng nghìn nỗ lực đang được tiếp tục để tạo ra viên
thuốc cho thiền. Nhưng bạn chẳng bao giờ có thể có
viên thuốc cho thiền được. Thực tế, cố gắng làm ra
những viên như vậy cũng là cùng cái tính ương ngạnh
của việc chỉ chữa trị từ mức độ thân thể, của việc làm
cho tất cả mọi việc chữa trị chỉ là từ bên ngoài. Thậm
chí nếu tâm lí chúng ta có bị ảnh hưởng bên trong,
chúng ta vẫn sẽ xử trí từ bên ngoài, chưa bao giờ từ
bên trong. Các chất ma tuý như mescalin và LSD chỉ
có thể tạo ra ảo tưởng về mạnh khoẻ bên trong, chúng
không thể tạo ra nó được. Chúng ta không thể đạt tới
bản thể bên trong nhất của con người qua bất kì
phương tiện hoá chất nào. Chúng ta càng đi sâu hơn
vào bên trong tác động của hoá chất lại sẽ càng kém đi.
Chúng ta càng đi sâu vào bên trong con người, cách
tiếp cận vật chất và vật lí bắt đầu trở thành càng ít ý
nghĩa hơn. Cách tiếp cận phi vật chất, hay chúng ta có
thể nói cách tiếp cận tâm lí, có ý nghĩa ở đó.
Nhưng điều đó vẫn còn chưa đạt tới được cho đến
giờ bởi vì một số định kiến. Điều thú vị là bác sĩ lại là
một trong hai hay ba nghề chính thống nhất trên thế
giới. Các giáo sư và bác sĩ ngành y được xếp vào danh
sách cao nhất trong những người chính thống nhất. Họ
không buông bỏ các ý tưởng cũ một cách dễ dàng. Có
lí do cho điều đó - có lẽ điều ấy là lí do hoàn toàn tự
nhiên. Nếu các bác sĩ và giáo sư bỏ các ý tưởng cũ, trở
nên linh hoạt, thế thì họ sẽ gặp thời kì khó khăn trong
việc dạy trẻ con. Nếu mọi thứ đều cố định, thế thì họ có
khả năng dạy có hiệu quả. Các ý tưởng cần phải xác
định, chắc chắn, không dễ lung lay và hay thay đổi; thế
thì họ có thể có niềm tin trong khi dạy về những điều
đó.
Thậm chí những kẻ phạm tội cũng không cần tới
nhiều niềm tin như các giáo sư cần tới. Ông ta phải có
niềm tự tin rằng điều mình nói là tuyệt đối đúng, và bất
kì ai đòi hỏi có loại niềm tin này về việc là đúng đắn
trong nghề nghiệp của mình, đều trở thành chính thống.
Thầy giáo trở thành chính thống. Điều này gây tác hại
lớn, bởi vì theo mọi nghĩa giáo dục nên ít chính thống
nhất; nếu không sẽ có chướng ngại trên con đường tiến
bộ. Đây là lí do tại sao thông thường không thầy giáo
nào là nhà phát minh. Có biết bao nhiêu giáo sư trong
tất cả các trường đại học nhưng phát minh, khám phá
lại do những người ngoài thực hiện. Hơn bẩy mươi
phần trăm người đoạt giải thưởng Nobel đều là người
bên ngoài các đại học.
Nghề khác đầy những người chính thống là các bác
sĩ. Điều đó nữa cũng có các lí do nghề nghiệp của nó.
Các bác sĩ phải đưa ra quyết định rất nhanh chóng. Nếu
họ bắt đầu suy tư khi bệnh nhân đang trên giường chết,
chỉ thế thì các ý tưởng mới còn lại, bệnh nhân sẽ chết.
Nếu bác sĩ rất không chính thống, tự do và thực hành
các lí thuyết mới, tiến hành các thực nghiệm mới mọi
lúc, thế nữa cũng có nguy hiểm. Ông ta phải ra quyết
định tức thời, và tất cả những người phải ra quyết định
tức thời chủ yếu dựa vào tri thức quá khứ; họ không
muốn bị bắt vào các ý tưởng mới.
Nhưng người này, người ra quyết định ngay tại chỗ
hàng ngày phải dựa trên tri thức quá khứ, và đó là lí do
tại sao nghề y lại đi sau nghiên cứu y quãng ba chục
năm. Điều này gây ra kết quả nhiều bệnh nhân chết
một cách không cần thiết, bởi vì điều không nên thực
hành hôm nay thực tế lại được tuân theo. Nhưng đây
lại là nguy cơ chuyên nghiệp. Và do vậy một số quan
niệm về bác sĩ ở sâu phía dưới là rất nền tảng. Một
trong chúng là niềm tin của họ vào thuốc còn hơn vào
bản thân con người - tin vào hoá chất hơn vào tâm
thức, tầm quan trọng được đặt vào ngành hoá học hơn
là tâm thức. Hậu quả nguy hiểm nhất của thái độ này là
ở chỗ trong khi ngành hoá học được cho ngày một
quan trọng hơn, chẳng thực nghiệm nào được tiến hành
về tâm thức cả.
Tại đây tôi muốn nói về một vài thí dụ như vậy để
cho bạn có thể có được ý tưởng nào đó. Việc đẻ không
đau trong khi sinh con đã là một vấn đề rất cổ xưa; làm
sao sinh con không đau từ lâu đã từng là vấn đề. Tất
nhiên các tu sĩ chống lại điều này. Thực tế các tu sĩ
chống lại chính cái ý tưởng rằng thế giới nên thoát khỏi
đau đớn và khổ sở, bởi vì họ sẽ hết việc nếu không có
đau đớn trong thế giới này. Nghề của họ sẽ không còn
ý nghĩa nữa. Nếu có đau đớn, khổ sở và phiền não, thế
thì có lời cầu gọi, lời cầu nguyện. Có thể thậm chí
Thượng đế cũng hoàn toàn bị quên lãng đi nếu không
có đau khổ trên thế giới. Người ta khó có thể cầu
nguyện được, bởi vì chúng ta nhớ tới Thượng đế chỉ
trong đau khổ. Các tu sĩ bao giờ cũng chống lại sinh
con không đau. Họ nói rằng đau trong sinh đẻ là quá
trình tự nhiên.
Nhưng điều này không nên có đó. Gọi nó là việc
thu xếp của Thượng đế là một ý tưởng giả tạo. Không
Thượng đế nào lại muốn trao cái đau đớn trong khi
sinh con cả. Bác sĩ tin rằng để sinh con không đau thì
phải cho thuốc nào đó, cần phải thu xếp hoá chất nào
đó, cần phải gây mê. Tất cả các cách chữa chạy này
của bác sĩ đều bắt đầu từ mức độ thân thể, có nghĩa là
chúng ta để cho thân thể vào trạng thái mà người mẹ
không nhận ra rằng mình đang đau. Một cách tự nhiên
bản thân phụ nữ đã từng kinh nghiệm với điều này theo
cách riêng của mình trong nhiều thế kỉ...
Đó là lí do tại sao bẩy mươi nhăm phần trăm trẻ sơ
sinh được sinh ra ban đêm. Việc sinh ra khó khăn vào
ban ngày bởi vì người phụ nữ rất tích cực và nhận biết
vào lúc đó. Trong đêm họ ngủ, họ thảnh thơi hơn, và
do vậy bẩy mươi nhăm phần trăm trẻ sơ sinh không có
cơ hội được sinh ra khi mặt trời đang chói sáng; chúng
phải lấy việc sinh ra trong bóng tối. Khi người đàn bà
ngủ cô ấy thảnh thơi hơn và dễ dàng hơn cho đứa trẻ
được sinh ra. Người mẹ bắt đầu tạo ra chướng ngại cho
đứa con ngay từ khoảnh khắc nó sắp được sinh ra. Tất
nhiên về sau cô ấy chế ngự biết bao nhiêu chướng ngại
cho đứa trẻ, nhưng cô ấy bắt đầu gây ra cản trở cho đứa
trẻ thậm chí trước khi nó được sinh ra.
Một trong những cách bù đắp là làm điều gì đó qua
thuốc để cho thân thể trở nên thảnh thơi như nó trong
giấc ngủ. Những cách bù đắp này đang được tuân theo
nhưng chúng có nhược điểm riêng. Nhược điểm lớn
nhất là ở chỗ chúng ta không tin chút nào vào tâm thức
của con người. Và vì tin cậy này vào tâm thức con
người cứ giảm đi, cho nên tâm thức bắt đầu biến mất.
Một bác sĩ tên là Lozem đã tin cậy vào tâm thức
con người và ông ấy đã trông nom cho hàng nghìn việc
sinh con không đau cho phụ nữ. Phương pháp này là sự
hợp tác có ý thức - rằng người mẹ cố gắng hợp tác
mang tính thiền, có ý thức, trong khi sinh con, rằng cô
ấy đón chào nó, không tranh đấu với nó hay cố chống
lại nó. Cái đau được tạo ra không phải bởi vì việc sinh
con mà bởi vì tranh đấu người mẹ tiến hành để chống
lại nó. Cô ấy cố gắng siết lại toàn bộ cơ chế sinh con.
Cô ấy đang sợ rằng việc sinh con sẽ đau đớn, cô ấy sợ
việc sinh con. Việc cưỡng lại nhằm vào nỗi sợ này lại
ngăn cản đứa trẻ được sinh ra. Trong khi đứa trẻ đang
cố gắng được sinh ra, có tranh đấu giữa hai người; có
va chạm giữa người mẹ và đứa bé. Xung đột này phần
trách nhiệm thuộc về cái đau. Cái đau này là không tự
nhiên: nó chỉ là từ va chạm, từ kháng cự.
Có hai cách có thể để giải quyết vấn đề cưỡng lại
này. Chúng ta có thể dùng thuốc an thần cho người mẹ,
nếu chúng ta làm việc ở mức độ thân thể. Nhưng điều
phải nhớ ở đây là ở chỗ người mẹ, người cho việc sinh
thành đứa con mình đang trong trạng thái vô ý thức
không bao giờ có thể trở thành người mẹ theo nghĩa
đầy đủ nhất. Và có lí do cho điều đó. Khi đứa con ra
đời, không chỉ đứa con được sinh ra mà người mẹ nữa
cũng được sinh ra. Việc sinh của đứa con thực tế là hai
việc sinh: một mặt đứa con được sinh ra và mặt khác
người phụ nữ thông thường trở thành người mẹ. Và
nếu đứa con được sinh ra trong trạng thái vô ý thức,
chúng ta đã xoay xở làm méo mó mối quan hệ cơ bản
giữa mẹ và con. Người mẹ sẽ không được sinh ra, chỉ
người bảo mẫu sẽ còn lại sau trong quá trình này.
Tôi không thiên về sinh con bằng cách dùng thuốc
an thần cho người mẹ với trợ giúp của hoá chất hay
dùng các phương tiện bên ngoài. Người mẹ nên hoàn
toàn có ý thức trong khi sinh con, bởi vì trong chính ý
thức đó người mẹ cũng được sinh ra nữa. Nếu bạn hiểu
chân lí của vấn đề này, thế thì nó có nghĩa là tâm thức
của người mẹ nên được huấn luyện cho việc sinh.
Người mẹ nên có khả năng lấy việc sinh con mang tính
thiền.
Thiền có hai ý nghĩa đối với người mẹ. Một là ở
chỗ cô ấy không nên cưỡng lại, không nên tranh đấu.
Cô ấy nên hợp tác với bất kì cái gì đang diễn ra. Cũng
giống như dòng sông tuôn chảy ở bất kì đâu có chỗ
trũng trên mặt đất, giống như gió thổi, giống như lá
rụng - không ai có ý niệm mơ hồ về nó và lá khô cứ
rụng khỏi cây - tương tự cô ấy nên trong hợp tác toàn
bộ với tất cả những điều đang hiển lộ ra trước cô ấy.
Và nếu người mẹ đem ra toàn bộ sự hợp tác trong khi
sinh, không tranh đấu chống lại nó, không trở nên sợ
hãi, trở thành hoàn toàn đắm chìm một cách thiền trong
sự kiện này, thế thì sẽ có việc sinh không đau, cái đau
sẽ tan biến đi.
Tôi đang nói với các bạn về điều này trên cơ sở
khoa học. Nhiều thực nghiệm đã được tiến hành bằng
việc dùng phương pháp này. Cô ấy sẽ trở nên thoát
khỏi đau đớn. Và nhớ, điều này sẽ có những kết quả đi
rất xa.
Trước hết, chúng ta bắt đầu nuôi dưỡng cảm giác
ốm yếu hướng về vật hay người tạo ra đau đớn trong
chúng ta từ ngay khoảnh khắc tiếp xúc đầu tiên. Chúng
ta rơi vào trong một loại thù địch với người mà ta
đương đầu trong trận chiến trong chính kinh nghiệm
đầu tiên của mình. Điều này trở thành chướng ngại cho
việc hình thành mối quan hệ thân thiện. Khó mà tạo ra
được cây cầu hợp tác với người mà chúng ta rơi vào
xung đột với người đó ở ngay lúc bắt đầu. Nó sẽ là hời
hợt. Nhưng khoảnh khắc đó khi chúng ta sẽ có khả
năng sinh ra đứa con với sự hợp tác và trong nhận biết
tràn đầy...
Điều này rất thú vị: cho đến giờ chúng ta chỉ nghe
nói về cách diễn đạt ‘đau đẻ,’ nhưng chúng ta chưa bao
giờ nghe nói đến cách diễn đạt ‘phúc lạc đẻ’ - bởi vì
điều đó chưa xảy ra cho tới nay. Nhưng nếu có sự hợp
tác hoàn toàn, thế thì ‘phúc lạc đẻ’ cũng sẽ xuất hiện.
Cho nên tôi không thiên về việc sinh không đau, tôi
thiên về việc sinh phúc lạc. Với sự giúp đỡ từ y học,
nhiều nhất chúng ta có thể đạt tới việc sinh không đau
nhưng không bao giờ đạt tới việc sinh phúc lạc cả. Và
ngay từ khoảnh khắc đầu chúng ta sẽ có khả năng xây
dựng mối nối bên trong có ý thức giữa người mẹ và
đứa con.
Đây chỉ là một thí dụ để làm cho bạn hiểu rằng cái
gì đó có thể được làm từ bên trong nữa. Bất kì khi nào
chúng ta bị ốm chúng ta đều cố gắng tranh đấu lại bệnh
chỉ từ bên ngoài. Vấn đề là, liệu người bệnh có thực sự
sẵn sàng từ bên trong để tranh đấu với bệnh tật không?
Và chúng ta chưa bao giờ bận tâm tìm ra điều này.
Hoàn toàn có thể là đấy chỉ là bệnh do ta tự mời tới. Số
các bệnh tự ta mời tới thì lớn. Thực tế rất ít bệnh tới
theo cách riêng của chúng, phần lớn trong chúng là
được mời tới. Tất nhiên, chúng ta đã mời chúng từ lâu
trước khi chúng tới; do đó chúng ta không thể nào thấy
bất kì mối nối nào giữa hai sự kiện này.
Trong hàng nghìn năm biết bao nhiêu xã hội trên
thế giới này đã không thể nào hình thành được mối nối
giữa giao hợp vật lí và việc sinh con bởi vì thời gian
chênh lệch là lớn - những chín tháng. Thật khó cho họ
đặt mối quan hệ nguyên nhân và hậu quả xa xôi thế. Và
thế rồi không phải việc giao hợp nào cũng đều dẫn tới
sinh con, cho nên hiển nhiên không có lí do nào để
nghĩ dưới dạng mối nối giữa hai điều này. Mãi về sau
con người mới hiểu rằng điều đã xuất hiện trong chín
tháng trước đang tạo ra kết quả trong việc sinh con
hôm nay. Người ta có thể hình thành nên mối quan hệ
nguyên nhân và hậu quả. Cũng điều đó xảy ra cho
chúng ta đối với bệnh tật. Đôi khi chúng ta mời nó,
nhưng nó sẽ tới muộn hơn về sau. Nhiều thời gian trôi
qua giữa hai sự kiện này, và đó là lí do chúng ta không
có khả năng thấy bất kì mối nối nào giữa hai điều đó.
Tôi đã nghe nói về một người đang bên bờ vực phá
sản. Anh ta sợ đi ra chợ, đi tới cửa hàng của mình. Anh
ta sợ thậm chí cả việc bước đi trên phố. Một hôm khi
vừa bước ra khỏi buồng tắm anh ta bị ngã và bị liệt.
Bây giờ đủ mọi loại chữa trị đều được tiến hành cho
anh ta. Nhưng chúng ta không muốn chấp nhận rằng
người này muốn trở nên bị liệt. Anh ta không nghĩ về
điều này một cách có ý thức, nhưng đấy không phải là
vấn đề. Cũng không thành vấn đề liệu anh ta có quyết
tâm hay không để bị liệt - có thể nhất là anh ta chưa
bao giờ nghĩ tới nó. Nhưng đâu đó bên trong tâm trí,
trong vô thức, anh ta phải đã muốn rằng mình không
phải đi ra chợ hay tới cửa hàng hay đi trên phố. Đây là
điều thứ nhất.
Thứ hai là, anh ta cũng muốn mọi người ít thù địch
với anh ta và muốn họ bắt đầu biểu lộ thông cảm nào
đó - đây là ham muốn sâu sắc của anh ta. Hiển nhiên
thân thể anh ta sẽ hỗ trợ cho anh ta. Thân thể bao giờ
cũng tuân theo tâm trí như cái bóng; nó bao giờ cũng sẽ
hỗ trợ cho tâm trí. Tâm trí làm mọi việc thu xếp. Thực
tế, chúng ta chưa bao giờ nhận ra thu xếp nào mà tâm
trí đã có trong kho của nó. Nếu bạn nhịn ăn cả ngày,
thế thì bạn sẽ có bữa ăn vào ban đêm - tâm trí sẽ nhìn
vào điều đó. Nó sẽ bảo bạn trong giấc mơ rằng bạn đã
nhịn ăn cả ngày rồi, bạn phải không thoải mái rồi;
chúng ta hãy đến bữa yến tiệc tại cung vua. Và bạn sẽ
ăn ở đó trong đêm trong giấc mơ của mình.
Tâm trí thu xếp cho mọi thứ mà thân thể không thể
làm được. Cho nên phần lớn các giấc mơ chúng ta thấy
đều giống điều này - chỉ là vật thay thế. Điều chúng ta
không thể làm được trong ngày, chúng ta làm trong
đêm. Tâm trí thu xếp tất cả những điều này. Nếu bỗng
nhiên trong đêm bạn cảm thấy muốn đái, thế thì điều
đó có nghĩa là tâm trí đang rung chuông báo động. Nó
sẽ đưa bạn tới nhà vệ sinh trong giấc mơ và bạn sẽ cảm
thấy đỡ căng bóng đái. Bạn sẽ nghĩ rằng thế cũng được
và rằng bạn đã ở trong nhà vệ sinh. Tâm trí thu xếp để
cho giấc ngủ của bạn không bị quấy rối. Trong suốt
ngày và đêm, tâm trí thường xuyên thu xếp để cho tất
cả các ham muốn của bạn đều được đáp ứng.
Người này đã bị bệnh liệt nửa người tấn công và
anh ta ngã xuống. Bây giờ chúng ta đang cố gắng điều
trị việc đó. Nhưng thực tế là thuốc có thể làm hại anh
ta, bởi vì anh ta không bị liệt nửa người; anh ta đã
mang bệnh đó lên mình. Thậm chí nếu chúng ta chữa
trị được bệnh liệt của anh ta, thế thì anh ta sẽ biểu lộ
bệnh thứ hai, hay thứ ba, hay có thể bệnh thứ tư nữa.
Thực tế, chừng nào mà anh ta còn chưa thu được can
đảm để đi ra chợ anh ta sẽ còn phải chịu hết bệnh nọ
tới bệnh kia. Và ngay khi anh ta bị ốm anh ta nhận ra
rằng toàn bộ tình huống đã thay đổi. Bây giờ anh ta có
biện minh cho việc phá sản. Tôi có thể làm được gì
nào? - Tôi bị liệt rồi! Bây giờ anh ta có thể nói với các
chủ nợ, “Làm sao tôi có thể trả lại tiền cho các ông
được? Các ông có thể thấy tình cảnh tôi đây này.”
Thực tế, khi chủ nợ tới gặp anh ta, bản thân người đó
sẽ cảm thấy xấu hổ khi đòi tiền. Vợ anh ta sẽ chăm sóc
anh ta tốt hơn, con anh ta sẽ phục vụ anh ta tốt hơn,
bạn bè anh ta sẽ tới gặp anh ta, mọi người sẽ vây quanh
giường anh ta.
Trong thực tế chúng ta chẳng hề bày tỏ tình yêu
của mình cho bất kì ai trừ phi người đó bị ốm. Cho nên
bất kì ai muốn được yêu đều phải bị ốm. Phụ nữ bao
giờ cũng bị ốm, và lí do chính là ở chỗ với họ đây là
cách để có được tình yêu. Họ biết không có cách nào
khác để giữ chồng mình ở nhà. Vợ không thể giữ được
chồng ở nhà nhưng bệnh tật có thể giữ được. Một khi
chúng ta nhận ra điều này, và nếu điều này bắt chặt vào
trong tâm trí chúng ta, thế thì mọi lúc chúng ta muốn
có sự thông cảm nào đó chúng ta sẽ ốm. Thực tế cũng
thật là nguy hiểm mà đi bày tỏ thông cảm với người
ốm; bạn chỉ nên điều trị cho người đó. Điều này là
nguy hiểm bởi vì qua thông cảm bạn có thể cho thêm
hương vị vào bệnh của người đó và điều này sẽ có hại.
Không thuốc nào chữa được cho người này, người
đã bị bệnh liệt; nhiều nhất người đó sẽ giữ cho bệnh
thay đổi, bởi vì trong thực tế người đó không có bệnh
này, đấy chỉ là tự gợi ý sâu xa. Bệnh liệt nửa người là
bệnh tinh thần từ nguồn gốc.
Một câu chuyện tương tự là về một người khác,
người cũng bị chứng liệt nửa người. Trong hai năm anh
ta phải chịu bệnh này và không thể nào dậy được. Một
hôm nhà anh ta bị cháy và mọi người đều chạy ra khỏi
nhà. Bỗng nhiên họ hoảng hốt và tự hỏi điều gì sẽ xảy
ra cho người ốm này. Nhưng thế rồi họ thấy anh ta tới -
anh ta chạy - và người này trước đây thậm chí không
thể ngồi được. Và khi gia đình anh ta chỉ ra cho anh ta
rằng anh ta có thể bước được, anh ta nói rằng điều đó
là không thể được và anh ta sụp ngã xuống ngay đó.
Điều gì đã xảy ra cho con người này?... và anh ta
không lừa ai cả. Bệnh này là bệnh của tâm trí, không
phải bệnh của thân thể. Đó là khác biệt duy nhất. Và đó
là lí do tại sao khi bác sĩ điều trị bảo bệnh nhân rằng
bệnh người đó là trong tâm trí, bệnh nhân không thích
điều đó bởi vì điều đó dường như truyền đạt rằng người
đó đang cố gắng không cần thiết để chứng tỏ rằng mình
ốm. Điều này là không đúng. Không ai muốn chứng tỏ
rằng mình ốm mà chẳng có lí do nào cả. Có những lí
do tinh thần cho việc bị ốm, và những lí do này là quan
trọng hay có thể còn quan trọng hơn các lí do cho việc
bị ốm bởi vì một vấn đề thể chất thực nào đó. Và sẽ là
điều trị sai về phần bác sĩ nếu bảo ai đó, cho dù là lầm
lẫn, rằng người đó bị ốm yếu về tinh thần. Bệnh nhân
không cảm thấy khá hơn bởi phát biểu này; trong thực
tế người đó cảm thấy cay đắng hơn với bác sĩ.
Chúng ta vẫn chưa có khả năng phát triển thái độ
thân ái đối với các bệnh tâm trí. Nếu chân tôi bị thương
thế thì mọi người sẽ thông cảm, nhưng nếu tâm trí tôi
bị tổn thương thế thì mọi người sẽ nói rằng đây là bệnh
tinh thần - cứ dường như là tôi đã làm điều gì đó sai.
Nếu chân tôi bị thương thế thì tôi được thông cảm,
nhưng nếu tôi bị bệnh tâm trí thế thì tôi bị trách cứ như
đấy là lỗi của tôi! Không, đấy không phải là lỗi của tôi.
Bệnh kiểu tâm trí có vị trí riêng của chúng, nhưng
các bác sĩ điều trị không chấp nhận nó. Ngần ngại này
là bởi vì họ đã điều trị chỉ cho các bệnh thân thể; không
có lí do nào khác. Điều này ở ngoài ông ta, cho nên
ông ta nói rằng đây không phải là bệnh. Thực tế ông ta
nên nói rằng điều này vượt ra ngoài phạm vi nghề
nghiệp của mình. Ông ta nên khuyên bạn tìm đến một
kiểu bác sĩ khác. Người này thực tế cần việc điều trị
bắt đầu từ bên trong và thế rồi đi ra ngoài. Và có thể
một điều rất nhỏ cũng có thể làm thay đổi cuộc sống
bên trong của người đó.
Theo tôi, thiền là việc điều trị trải rộng từ bên trong
ra.
Một hôm ai đó tới Phật và hỏi, “Ông là ai? Ông có
phải là triết gia, hay nhà tư tưởng hay vị thánh hay nhà
yoga không?” Phật đáp, “Ta chỉ là thầy chữa, người
chữa trị.”
Câu trả lời này của ông ấy thực sự tuyệt diệu: Chỉ
là thầy chữa - ta biết điều gì đó về bệnh tật bên trong
và đó là điều ta thảo luận với ông.
Cái ngày chúng ta hiểu ra rằng chúng ta sẽ phải làm
điều gì đó về bệnh tật kiểu tâm trí - bởi vì đằng nào
chúng ta cũng không bao giờ có khả năng trừ tiệt tất cả
các bệnh thân thể hoàn toàn - ngày đó chúng ta sẽ thấy
rằng tôn giáo và khoa học đã tới gần lẫn nhau. Ngày đó
chúng ta sẽ thấy rằng thuốc và thiền đã tới gần lẫn
nhau. Hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ không nhánh
khoa học nào khác sẽ có ích nhiều như y học trong việc
bắc cầu qua lỗ hổng này.
Hoá học chưa có bất kì lí do nào để tới gần tôn giáo
cả. Tương tự vật lí và toán học cũng chưa có lí do nào
tới gần tôn giáo cả. Toán học có thể tồn tại không có
tôn giáo và tôi nghĩ điều này sẽ vẫn còn đúng mãi, bởi
vì tôi không thấy tình huống mà toán học sẽ cần sự
giúp đỡ của tôn giáo. Mà tôi cũng không thể nào quan
niệm nổi một khoảnh khắc khi toán học sẽ cảm thấy
rằng nó không thể phát triển được nếu thiếu tôn giáo.
Cái ngày đó chẳng bao giờ tới cả. Toán học có thể giữ
trò chơi của nó tiếp diễn mãi mãi, bởi vì toán học chỉ là
trò chơi, nó không phải là cuộc sống.
Nhưng bác sĩ điều trị không chơi trò chơi, ông ta
giải quyết với cuộc sống. Có thể nhất là các bác sĩ y
khoa sẽ trở thành cây cầu đầu tiên giữa tôn giáo và
khoa học. Thực tế điều đó đã bắt đầu xảy ra, đặc biệt
trong các quốc gia phát triển và hiểu biết hơn. Lí do là
ở chỗ các bác sĩ phải giải quyết với mạng sống con
người. Đấy là điều Carl Gustav Jung nói ngay trước lúc
chết. Ông ấy đã nói rằng trên cơ sở là một bác sĩ điều
trị tôi có thể nói rằng tất cả các bệnh nhân tới tôi sau
tuổi bốn mươi, về cơ bản bệnh của họ là do thiếu tôn
giáo. Đây là điểm rất đáng ngạc nhiên. Nếu bằng cách
nào đó chúng ta có thể trao cho họ một loại tôn giáo
nào đó thế thì họ sẽ trở nên mạnh khoẻ.
Điều này đáng để hiểu. Khi cuộc sống của người ta
suy giảm... cho tới độ tuổi ba mươi lăm nó vẫn còn
đang lên, thế rồi nó bắt đầu đi xuống. Ba mươi lăm là
đỉnh. Cho nên có thể là cho tới tuổi ba mươi lăm người
ta không thể tìm thấy bất kì giá trị nào trong thiền, bởi
vì cho tới lúc đó con người vẫn còn hướng thân thể;
thân thể vẫn còn đang lên. Có lẽ tất cả các bệnh tật
trong giai đoạn này đều là của thân thể. Nhưng sau độ
tuổi ba mươi lăm bệnh tật lấy chiều hướng mới, bởi vì
bây giờ cuộc sống đã bắt đầu hướng tới cái chết. Và
khi cuộc sống phát triển nó lan toả ra bên ngoài, nhưng
khi con người chết người đó co lại vào bên trong. Tuổi
già là đã co lại vào bên trong.
Chân lí là ở chỗ điều có thể nhất là tất cả các bệnh
tật của người già đều bắt rễ sâu trong cái chết.
Thông thường mọi người nói rằng người thế này
thế nọ chết bởi vì bệnh nọ bệnh kia. Nhưng tôi nghĩ
chắc sẽ thích hợp hơn để nói rằng người thế này thế nọ
ốm là bởi vì cái chết. Điều xảy ra là ở chỗ khả năng
chết làm cho người ta thành mong manh với mọi loại
bệnh tật. Ngay khi một người cảm thấy rằng mình đang
đi tới cái chết, tất cả các cánh cửa đều mở ra cho các
loại bệnh tật và người đó bắt đầu mắc chúng. Thậm chí
nếu một người mạnh khoẻ biết chắc rằng mình sẽ chết
ngày mai, người đó sẽ ốm. Mọi thứ đều ổn, tất cả các
báo cáo đều bình thường; tia X bình thường, huyết áp
trong giới hạn bình thường, mạch vừa phải; ống nghe
truyền đạt rằng mọi thứ đều hoàn hảo. Nhưng nếu một
người bị thuyết phục hoàn toàn rằng ngày mai người
đó sẽ chết, thế thì bạn sẽ thấy rằng người đó bắt đầu
mắc nhiều loại bệnh. Người đó sẽ mắc nhiều bệnh
trong hai mươi bốn giờ đến mức khó mà mắc được
chúng trong hai mươi bốn kiếp.
Điều gì đã xảy ra cho người này? Người đó đã để
mở bản thân mình cho mọi loại bệnh tật. Người đó đã
dừng việc kháng cự. Vì người đó chắc chắn về cái chết
của mình, cho nên người đó rời xa khỏi tâm thức của
mình, cái vốn vẫn ở bên trong người đó, hành động
như bức tường và tạo nên rào chắn chống lại mọi bệnh
tật. Bây giờ người đó đã trở thành sẵn sàng cho cái chết
của mình và bệnh tật bắt đầu tới. Và đó là lí do tại sao
người về hưu chết sớm.
Cho nên mọi người muốn về hưu nên hiểu điều này
trước khi họ về hưu. Họ chết sớm hơn quãng độ năm
sáu năm. Người đáng sẽ chết vào tuổi bẩy mươi, sẽ
chết khi người đó chỉ sáu mươi lăm; người đáng sẽ chết
vào tuổi tám mươi, sẽ chết khi người đó bẩy mươi lăm.
Mười, mười lăm năm về hưu đó sẽ được dành cho việc
chuẩn bị cái chết; người đó sẽ không hoàn thành bất kì
cái gì khác, bởi vì bây giờ người đó biết rằng mình
chẳng còn có ích gì cho cuộc sống. Không có công việc
cho người đó, không ai đón chào người đó trên đường.
Sự việc khác đi khi người đó đã ở trong văn phòng.
Bây giờ thậm chí chẳng ai thèm nhìn người đó, bởi vì
bây giờ họ phải đón chào ai đó khác. Mọi thứ đều làm
việc theo kinh tế. Người mới đang có đó trong văn
phòng, cho nên mọi người sẽ phải đón chào họ. Họ
không thể đảm đương được việc cứ đi đón chào con
người này nữa. Họ sẽ quên người đó. Bây giờ người đó
bỗng nhiên nhận ra rằng mình đã trở thành vô dụng.
Người đó cảm thấy bị mất gốc. Người đó không có ích
cho ai nữa. Thậm chí con cái cũng bận rộn với vợ của
chúng, đi xem phim. Những người mà người đó đã
quen biết đang dần bắt đầu kết thúc trên dàn thiêu.
Người đó đã trở thành vô dụng cho cùng những người
đã cần người đó trước đây. Bỗng nhiên người đó thành
mong manh, ngưòi đó mở toang cho cái chết.
Khi nào tâm thức của người đó trở thành mạnh
khoẻ ở bên trong? Trước hết, khi người đó bắt đầu cảm
thấy tâm thức bên trong của mình. Thông thường
chúng ta không cảm thấy cái bên trong; tất cả các cảm
giác của chúng ta là về thân thể - về tay, về chân, về
đầu, về tim. Không có cảm giác về “tôi đây.” Toàn bộ
nhận biết của chúng ta đều tập trung vào ngôi nhà và
không vào người cư ngụ trong ngôi nhà.
Đây là tình huống rất nguy hiểm, bởi vì nếu ngôi
nhà bắt đầu sụp đổ ngày mai thế thì tôi sẽ nghĩ rằng tôi
đang sụp đổ, và bản thân điều này sẽ trở thành ốm yếu
của tôi. Nhưng nếu tôi hiểu rằng tôi khác với ngôi nhà,
tôi chỉ thường trú trong nó - thậm chí nếu ngôi nhà có
sụp đổ tôi vẫn sẽ vẫn còn - thế thì điều này sẽ tạo ra
thay đổi lớn, khác biệt căn bản. Thế thì nỗi sợ chết sẽ
mờ đi.
Không có thiền, nỗi sợ chết không bao giờ tan biến
cả. Cho nên ý nghĩa thứ nhất của thiền là nhận biết về
bản thân người ta. Chừng nào chúng ta còn trong ý
thức, tâm thức chúng ta bao giờ cũng là nhận biết về
cái gì đó, nó chưa bao giờ là nhận biết về bản thân nó.
Đó là lí do tại sao khi chúng ta đang ngồi một mình
chúng ta bắt đầu cảm thấy buồn ngủ, bởi vì chẳng có gì
làm cả. Nếu chúng ta đọc báo hay nghe đài, thế thì
chúng ta cảm thấy rằng chúng ta thức. Nếu chúng ta để
một người một mình trong buồng tối thế thì người đó
sẽ cảm thấy buồn ngủ, bởi vì khi bạn không thể nào
thấy điều gì bạn không cần tới tâm thức của mình. Nếu
bạn không thể nào thấy cái gì, thế thì bạn có thể làm gì
ngoài việc ngủ? Dường như không có bất kì giải pháp
nào khác. Nếu bạn một mình thì có bóng tối, không ai
để nói chuyện với, chẳng có gì để nghĩ, thế thì giấc ngủ
sẽ bao quanh bạn. Không có cách nào khác.
Nhớ rằng ngủ và thiền giống nhau theo nghĩa này,
và khác nhau theo nghĩa kia. Ngủ có nghĩa là bạn một
mình nhưng bạn trong thiu thiu. Thiền nghĩa là bạn một
mình nhưng thức. Đây là khác biệt duy nhất. Nếu bạn
có thể vẫn còn thức tỉnh về bản thân mình khi bạn một
mình...
Một hôm một người ngồi với Phật mà cứ cựa quậy
ngón chân.
Phật hỏi người đó, “Sao ông cứ cựa quậy ngón
chân thế?”
Người này đáp, “Quên nó đi, nó chỉ cựa quậy thôi.
Tôi thậm chí chẳng để ý đến nó nữa.”
Phật nói, “Ngón chân ông cựa quậy mà ông thậm
chí lại chẳng biết sao? Nó là ngón chân ai vậy? Nó có
phải là của ông không?”
Người này nói, “Nó là của tôi - nhưng tại sao ông
lại cứ làm chệch điều ông đang nói thế? Xin ông cứ
tiếp tục nói đi.”
Phật nói, “Ta sẽ không tiếp tục nói nữa bởi vì
người mà ta đang nói lại vô ý thức. Và ông nhận biết
về ngón chân đang cựa quậy của mình trong tương lai
đi. Điều đó sẽ tạo ra nhận biết kép trong ông. Trong
nhận biết về ngón chân thì nhận biết về người quan sát
nữa cũng sẽ được sinh ra.”
Nhận biết bao giờ cũng theo hướng kép. Nếu chúng
ta thực nghiệm với nó, thế thì một mặt nó sẽ đi ra ngoài
và mặt kia sẽ soi rọi vào bên trong bạn. Cho nên thiền
cơ bản là ở chỗ chúng ta bắt đầu trở nên nhận biết về
thân thể và về bản thân ta. Và nếu nhận biết này có thể
tăng lên, thế thì nỗi sợ chết sẽ phai mờ đi.
Và y học, vốn không thể giải phóng được con
người khỏi nỗi sợ chết, chẳng bao giờ có thể chữa được
bệnh này, bệnh là con người. Tất nhiên y học vẫn cố
gắng vất vả; nó cố gắng để tăng thời gian sống. Nhưng
việc tăng thời gian sống của bạn chỉ tăng thời kì chờ
đợi cái chết chứ không gì khác. Và chờ đợi thời kì ngắn
còn tốt hơn là thời kì dài. Bạn thậm chí còn làm cho cái
chết thành đáng thương bởi việc tăng thời gian sống.
Bạn có biết, hiện đang có một phong trào diễn ở
những nước mà y học đã làm tăng thêm thời gian sống
cho mọi người. Phong trào này ủng hộ việc chết tự
nguyện. Những người già đang yêu cầu rằng họ phải
được quyền chết theo hiến pháp. Họ nói rằng cuộc
sống đã trở thành cực nhọc đối với họ và bạn chỉ đang
giữ họ treo lơ lửng trong bệnh viện. Điều đó đã trở
thành có thể: bạn có thể đặt một người vào bình ô xi và
giữ người đó treo đó vô tận. Bạn có thể giữ cho người
đó vẫn sống, nhưng cuộc sống đó sẽ còn tồi tệ hơn cả
cái chết. Chỉ Thượng đế mới biết được bao nhiêu người
ở châu Âu và châu Mĩ đang sống trong các bệnh viện
theo tư thế lộn ngược hay các tư thế kì lạ khác, được
móc vào bình ô xi. Họ không có quyền được chết, và
họ đang yêu cầu được trao cho quyền chết.
Hiểu biết của tôi là ở chỗ đến cuối thế kỉ này phần
lớn các nước đã phát triển trên thế giới sẽ có quyền
được chết xem như một trong những quyền con người
do hiến pháp đảm bảo, bởi vì bác sĩ không có quyền
giữ một người sống ngược với mong muốn của người
đó.
Bằng việc tăng tuổi của một người bạn không thể
dẹp bỏ đi nỗi sợ chết từ người đó. Bằng việc làm cho
một người mạnh khoẻ bạn có thể làm cho cuộc sống
của người đó hạnh phúc mạnh mẽ hơn nhưng không
làm cho người đó thành bạo dạn được. Bạo dạn tới chỉ
trong một tình huống, khi người ta đi tới hiểu ra từ bên
trong rằng có cái gì đó trong mình không bao giờ chết.
Hiểu biết này là điều tuyệt đối bản chất.
Thiền là việc nhận ra cái bất tử này, rằng cái ở bên
trong mình, không bao giờ chết cả. Chỉ những cái ở
bên ngoài mới chết. Và đó là lí do tại sao bạn lại nên
đối xử với thân thể theo y học để cho nó sống hạnh
phúc dài lâu như nó sống, và đồng thời cố gắng nhận
biết về điều ở bên trong bạn để cho thậm chí nếu cái
chết ở ngay ngưỡng cửa nhà bạn, bạn cũng không sợ.
Hiểu biết bên trong này là bạo dạn.
Thiền từ bên trong và thuốc ở bên ngoài; thế thì
bạn có thể làm cho y học thành khoa học hoàn chỉnh.
Theo tôi, thiền và thuốc là hai cực của cùng một
khoa học nơi móc nối liên kết vẫn còn thiếu. Nhưng
dần dần chúng đang lại gần nhau hơn. Ngày nay, trong
phần lớn các bệnh viện chính ở Mĩ, nhà thôi miên đã
trở thành thiết yếu. Nhưng thôi miên không phải là
thiền. Tuy vậy, đây là một bước tiến tốt. Ít nhất nó
cũng chứng tỏ rằng có hiểu biết là cái gì đó cần phải
được thực hiện về tâm thức con người và rằng mỗi điều
trị thân thể là không đủ.
Và tôi nghĩ rằng nếu nhà thôi miên đã vào bệnh
viện ngày nay, thế thì ngày mai đền chùa cũng sẽ bước
vào. Điều đó sẽ tới muộn hơn, sẽ cần thêm nhiều thời
gian. Sau nhà thôi miên mọi bệnh viện sẽ có khoa
yoga, khoa thiền. Điều này sẽ phải xảy ra. Thế thì
chúng ta sẽ có khả năng điều trị con người như một
tổng thể. Thân thể sẽ được các bác sĩ chăm nom, tâm
trí được các nhà tâm lí quan tâm, còn linh hồn được
yoga, thiền quan tâm.
Cái ngày bệnh viện chấp nhận con người như một
toàn thể, như một toàn bộ, và thế rồi đối xử với con
người như vậy, sẽ là ngày của niềm vui mừng cho nhân
loại. Tôi yêu cầu các bạn nghĩ theo chiều hướng đó, để
cho ngày này sẽ tới sớm.
******************************************************
#1 Định nghĩa về mạnh khoẻ
Mạnh khoẻ được ngụ ý là gì? Điều này chúng ta
phải cố gắng hiểu. Thông thường, nếu chúng ta hỏi bác
sĩ trị liệu định nghĩa của mạnh khoẻ là gì, người đó sẽ
chỉ nói rằng mạnh khoẻ là không có ốm bệnh. Nhưng
định nghĩa này là tiêu cực. Điều không may là chúng ta
phải định nghĩa mạnh khoẻ dưới dạng ốm yếu. Mạnh
khoẻ là điều tích cực, trạng thái tích cực. Ốm yếu là
tiêu cực. Mạnh khoẻ là bản tính của chúng ta; ốm yếu
là sự xâm nhập chống lại tự nhiên. Cho nên điều rất lạ
là chúng ta phải định nghĩa mạnh khoẻ dưới dạng ốm
yếu.
Điều chúng ta phải định nghĩa người chủ dưới dạng
khách - điều này rất lạ thường. Mạnh khoẻ cùng tồn tại
với chúng ta; ốm yếu thỉnh thoảng mới tới. Mạnh khoẻ
đi cùng chúng ta từ lúc sinh; ốm yếu là hiện tượng bề
mặt. Nhưng nếu chúng ta hỏi bác sĩ điều trị ý nghĩa của
mạnh khoẻ là gì, ông ấy chỉ có thể nói rằng mạnh khoẻ
hiện diện khi ốm yếu vắng mặt. Paracelsus thường nói
rằng cách diễn giải này là sai - rằng khái niệm về mạnh
khoẻ cần phải được định nghĩa một cách tích cực.
Nhưng làm sao chúng ta có thể đi tới một định nghĩa
tích cực, một cách diễn giải về khái niệm mạnh khoẻ
mang tính sáng tạo được?
Paracelsus hay nói, “Chừng nào chúng tôi chưa biết
trạng thái của hài hoà bên trong của bạn, chúng tôi
nhiều nhất cũng chỉ có thể giải thoát bạn khỏi ốm yếu -
bởi vì hài hoà bên trong của bạn là cội nguồn của mạnh
khoẻ của bạn. Nhưng khi chúng tôi giải thoát bạn khỏi
bệnh này, lập tức bạn sẽ mắc bệnh khác, bởi vì chẳng
cái gì đã được làm đối với hài hoà bên trong của bạn.
Sự kiện của vấn đề là ở chỗ chính hài hoà bên trong
của bạn cần phải được hỗ trợ.”1
Y học phương Tây đã coi con người như một đơn
vị tách biệt - tách khỏi tự nhiên. Đó là một trong những
lỗi lầm lớn nhất đã phạm phải. Con người là một phần
của tự nhiên; mạnh khoẻ của người đó không là gì khác
hơn việc thoải mái với tự nhiên.
Y học phương Tây lấy quan điểm máy móc về con
người, cho nên bất kì ở đâu mà máy móc có thể thành
công, nó thành công. Nhưng con người không phải là
máy; con người là một thể thống nhất hữu cơ, và con
người cần không chỉ việc chữa trị phần bị ốm. Phần ốm
chỉ là triệu chứng rằng toàn bộ tổ chức đang trải qua
khó khăn. Phần ốm chỉ biểu lộ ra nó bởi vì nó là chỗ
yếu nhất.
Bạn chữa trị phần ốm, bạn thành công... nhưng thế
rồi ở đâu đó khác bệnh lại xuất hiện. Bạn đã ngăn cản
bệnh không cho nó tự biểu lộ qua phần ốm; bạn đã làm
cho phần đó mạnh hơn. Nhưng bạn lại không hiểu rằng
con người là một toàn thể; hoặc con người ốm hoặc
con người mạnh khoẻ, không có trạng thái ở giữa hai
điều này. Người đó nên được coi như một tổ chức toàn
thể. Tôi sẽ nêu cho bạn vài thí dụ có thể làm rõ ràng
điều này cho bạn.
Châm cứu đã được phát triển ở Trung quốc gần bẩy
nghìn năm trước đây nhờ một tai nạn. Một thợ săn định
giết một con hươu, nhưng khi mũi tên của người đó
đang hướng tới con hươu thì người này không biết điều
gì xảy ra ở giữa và mũi tên lại cắm vào chân mình.
Người này đã từng bị chứng đau nửa đầu trong cả đời;
khoảnh khắc mũi tên cắm vào chân người đó thì chứng
đau nửa đầu biến mất. Điều này rất kì lạ. Không ai đã
nghĩ về điều này theo cách đó.
Từ tai nạn đó toàn bộ ngành châm cứu đã phát
triển, và phát triển thành một khoa học đầy đủ. Cho
nên nếu bạn đi tới nhà châm cứu và bạn nói, “Có
chuyện gì đó với mắt tôi, hay chuyện gì đó với đầu tôi,
hay chuyện gì đó với gan tôi,” ông ta có thể chẳng bận
tâm gì tới gan bạn, đầu bạn hay mắt bạn cả. Ông ta sẽ
nghĩ về toàn bộ cơ thể; ông ta sẽ cố gắng chữa lành bạn
- không chỉ phần bị ốm đó.
Châm cứu đã phát triển cách tiếp cận tới bẩy trăm
huyệt, những huyệt được phát hiện trong thân thể con
người. Thân thể con người là hiện tượng sinh-điện,
sống. Nó có điện nào đó - do đó chúng ta gọi nó là
sinh-điện. Sinh điện này có thể được đạt tới qua bẩy
trăm huyệt trong thân thể, và mỗi huyệt lại liên quan
tới phần nào đó của thân thể có thể ở xa hẳn nó. Đó là
điều đã xảy ra trong tai nạn kia: mũi tên đã cắm vào
một huyệt sinh-điện có liên hệ tới đầu, và bệnh đau nửa
đầu biến mất.
Châm cứu mang tính toàn thể hơn. Khác biệt này
phải được hiểu. Khi bạn coi con người như chiếc máy
bạn lấy cái nhìn bộ phận về người đó. Nếu tay người
đó yếu bệnh, bạn chỉ chữa tay thôi; bạn không bận tâm
về toàn bộ thân thể người đó mà tay chỉ là một phần.
Cái nhìn máy móc là mang tính bộ phận. Nó thành
công, nhưng thành công của nó không phải là thành
công thực bởi vì cùng bệnh ấy đã bị kìm nén trong tay
bởi thuốc, giải phẫu hay những thứ khác, lại bắt đầu
bầy tỏ bản thân nó ở đâu đó khác dưới dạng còn tồi tệ
hơn. Cho nên thuốc đã phát triển cực kì nhiều; giải
phẫu đã trở thành khoa học lớn - nhưng con người vẫn
đang chịu đựng nhiều bệnh tật hơn, nhiều ốm yếu hơn
bao giờ hết.
Thế tiến thoái lưỡng nan này có thể hiểu được. Con
người nên được xem như một toàn thể, nên được đối
xử như một thể thống nhất hữu cơ. Nhưng vấn đề với y
học hiện đại, y học phương Tây, là ở chỗ nó không
nghĩ bạn có linh hồn, ở chỗ bạn có cái gì đó còn nhiều
hơn là cấu trúc thân thể-tâm trí. Bạn cũng là cái máy:
mắt bạn có thể được thay thế, tay bạn có thể được thay
thế, chân bạn có thể được thay thế - và sớm hay muộn
não bạn sẽ được thay thế.
Nhưng bạn có nghĩ nếu chúng ta có thể lấy bộ não
của Albert Einstein trong khi ông ấy sắp chết, lấy nó ra
trước khi cái chết là chắc chắn và cấy nó, chẳng hạn
vào sọ Giáo hoàng Polack, bạn có nghĩ ông ta sẽ trở
thành một Albert Einstein không? Bộ não chỉ là một bộ
phận. Ông ta sẽ trở thành một hiện tượng kì lạ, một vật
lai giữa Polack và Albert Einstein. Ít nhất ngay bây giờ
ông ta là một Polack hoàn chỉnh; thế rồi ông ta sẽ vào
trong tình trạng lấp lửng, chẳng biết mình là ai - giáo
hoàng hay nhà vật lí.
Ở Ấn Độ, y học đã phát triển từ gần năm nghìn
năm trước. Và bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng bất kì giải
phẫu nào chúng ta có ngày nay đều được Sushrut mô tả
đích xác, một trong những nhà giải phẫu vĩ đại nhất ở
phương Đông, trong kinh sách cổ từ năm nghìn đến
bẩy nghìn năm trước. Nhưng nó đã bị bỏ đi - và đó là
điểm tôi muốn lưu ý cho bạn. Tại sao một khoa học đã
phát triển lại bị vứt bỏ đi? - bởi vì người ta đã thấy
rằng giải phẫu coi con người như máy móc, mà con
người lại không phải là máy móc; cho nên thay vì phá
huỷ con người họ đã vứt bỏ giải phẫu.
Tất cả các công cụ tinh vi nhất mà giải phẫu dùng
đều đã được Sushrut mô tả trong kinh sách của mình.
Tất cả mọi việc mổ, ngay cả mổ não, cũng đều được
mô tả thật chi tiết cứ như đấy là sách giáo khoa hiện
đại về giải phẫu. Nhưng nó ít nhất đã năm nghìn năm
tuổi. Họ đã phát triển nó tới điểm như chúng ta hiện
giờ, và họ phải đã đối diện với cùng vấn đề mà chúng
ta đang đối diện. Họ phải đã thấy rằng cái gì đó về cơ
bản là sai.
Chúng ta cứ làm việc nhiều thế... và ốm yếu cùng
bệnh tật cứ tăng lên. Thậm chí nếu chúng ta làm cho
một người không ốm yếu, điều đó cũng không có nghĩa
là người đó mạnh khoẻ. Việc thiếu vắng ốm yếu không
phải là mạnh khoẻ; đó là định nghĩa rất tiêu cực. Mạnh
khoẻ nên có cái gì đó tích cực hơn, bởi vì mạnh khoẻ là
điều tích cực còn ốm yếu là điều tiêu cực. Bây giờ cái
tiêu cực lại đang định nghĩa cái tích cực.
Mạnh khoẻ là cảm giác về tình trạng sảng khoái,
toàn thân thể bạn vận hành tại cực đỉnh của nó không
có rối loạn nào. Bạn cảm thấy sảng khoái thế nào đó,
hoà làm một với sự tồn tại. Điều đó không xảy ra qua
giải phẫu.
Ấn Độ đã bỏ toàn bộ khoa học này và đã phát triển
một cách tiếp cận hoàn toàn khác, ayurveda, có nghĩa
là khoa học về cuộc sống. Điều đó là có ý nghĩa. Tại
phương Tây chúng ta gọi nó là y học, và y học đơn
giản chỉ ra ốm yếu. Mạnh khoẻ chẳng liên quan gì tới y
học cả. Y học có nghĩa là toàn bộ khoa học được dành
cho việc chữa lành bạn khỏi ốm bệnh.
Ayurveda có cách tiếp cận khác. Nó là khoa học về
cuộc sống; nó giúp đỡ bạn, không chữa ốm bệnh mà
ngăn ngừa ốm bệnh không cho xảy ra - giữ bạn mạnh
khoẻ đến mức ốm bệnh trở thành không thể có được.
Cách thức của phương Đông và phương Tây là khác
nhau tại điểm này, việc coi con người là thực thể máy
móc hay thực thể tâm linh với tính toàn bộ...
Thứ hai, điều y học phương Tây đã làm là làm cho
mọi người kém miễn nhiễm.
Y học thực sự đáng phải trao cho bạn việc miễn
nhiễm chứ không phải lấy nó đi. Nó phải làm cho bạn
mạnh mẽ hơn, có khả năng tranh đấu với bất kì việc
nhiễm khuẩn nào thay vì làm cho bạn yếu đi đến mức
bạn thành mong manh với mọi loại nhiễm khuẩn.
Một nhà tâm lí học rất nổi tiếng, Delgado, đã làm
việc trên con vật. Ông ấy đã ngạc nhiên biết rằng nếu
chuột được cho ăn một bữa mỗi ngày chúng sống lâu
gấp đôi; thời gian sống của chuột được cho ăn hai bữa
một ngày bị cắt ngắn đi một nửa. Bản thân ông ấy ngạc
nhiên: ăn ít mà sống lâu hơn; ăn nhiều mà sống ít hơn.
Bây giờ ông ấy đã đi tới lí thuyết rằng một bữa là hoàn
toàn đủ; ngoài ra bạn đang chất nặng cho hệ tiêu hoá,
và điều đó gây ra việc cắt ngắn thời gian sống của bạn.
Nhưng với những người đang ăn năm bữa một ngày thì
sao...? Y học sẽ không cho phép họ chết nhưng sẽ
không cho phép họ sống nữa. Họ đơn giản sẽ sống dật
dờ.
Con người phải xem xét lại mọi truyền thống, mọi
nguồn gốc khác nhau; bất kì sự kiện nào đã trở thành
sẵn có đấy đều phải được xem xét lại. Một cách tiếp
cận y học hoàn toàn mới cần phải được tiến hoá ra sẽ
lưu ý tới châm cứu, lưu ý tới ayurveda, lưu ý tới y học
Hi lạp, lưu ý tới Delgado và những nghiên cứu của ông
ấy - lưu ý tới sự kiện rằng con người không phải là
máy. Con người là sinh linh tâm linh đa chiều, và bạn
nên đối xử tương ứng với con người.
Mạnh khoẻ không nên được định nghĩa một cách
tiêu cực: bạn không mang bất kì ốm bệnh nào bạn mới
là mạnh khoẻ. Mạnh khoẻ phải tìm ra một định nghĩa
tích cực nào đó. Tôi hiểu tại sao họ lại không có khả
năng tìm ra định nghĩa tích cực - bởi vì ốm bệnh là đối
thể, còn cảm giác sảng khoái là chủ thể.
Y học Tây phương không chấp nhận rằng có bất kì
chủ thể nào trong bạn. Nó chỉ chấp nhận thân thể bạn;
nó không chấp nhận bạn.
Con người phải được chấp nhận trong tính toàn bộ
của mình.
Tất cả các phương pháp khác đã từng được dùng
trên khắp thế giới nên được đem vào trong việc tổng
hợp; chúng không chống lại lẫn nhau. Ngay bây giờ
chúng đang vận hành dường như chúng chống đối lẫn
nhau. Chúng nên được đem vào sự tổng hợp và điều đó
sẽ cho bạn một cái nhìn tốt hơn về con người và tốt
hơn cho loài người.
Bây giờ người ta biết rõ, đặc biệt bởi giải phẫu não,
rằng mọi thứ đều có trung tâm của nó trong bộ não.
Nếu bàn tay bạn trở nên bị liệt, thì thực là đần mà đi
chữa bàn tay; bạn không thể chữa trị nó được. Thế thì
gợi ý duy nhất, gợi ý máy móc, sẽ là chặt nó đi và đặt
bàn tay máy vào, cái ít nhất cũng chuyển động được,
bạn có thể làm được cái gì đó với nó. Bàn tay này là
hoàn toàn vô dụng, nó đã chết. Nhưng nó đã không
chết. Một trung tâm nào đó trong đầu bạn điều khiển
bàn tay này, và trung tâm đó cần phải được chữa lành.
Không nên động chạm tới bàn tay chút nào; trung tâm
đó không làm việc, có vấn đề gì đó với trung tâm này.
Sớm hay muộn toàn bộ y học sẽ trở nên bị chi phối
bởi các trung tâm não. Những trung tâm đó giữ quyền
kiểm soát mọi thứ trong thân thể. Khi cái gì đó bị sai đi
ở trung tâm này thì nó được biểu thị một cách tượng
trưng bởi phần ngoài của thân thể. Bạn bắt đầu chữa trị
phần ngoài; bạn không đi đủ sâu.
Y học phương Tây hiện đại là hời hợt. Bạn nên đi
tới tận gốc: tại sao bàn tay này bỗng nhiên trở nên bị
liệt? Trung tâm trong não đang gặp rắc rối nào đó, và
trung tâm đó có thể được chữa rất dễ dàng. Đó là trung
tâm sinh-điện.
Có lẽ khi bạn không cảm thấy sảng khoái thì đấy
chỉ là pin của bạn sắp hết - bạn cần việc nạp lại nào đó.
Nếu tay bạn trở nên bị liệt, có lẽ trung tâm đã mất điện
của nó; nó có thể được nạp lại. Không cần thuốc nào
cả, không cần giải phẫu nào cả. Bây giờ chúng ta đang
ở vị trí nhìn vào con người từ các góc độ khác: cách
thức các xã hội khác, trong các nền văn hoá khác, ở các
thời đại khác, đã chữa trị cho con người. Và đôi khi
nếu điều kì lạ dường như là có tác động, chúng nên
được chấp nhận thay vì bác bỏ.
Chẳng hạn, bẩy mươi phần trăm bệnh tật chỉ là
trong tâm trí bạn: bạn không bị bệnh, bạn chỉ nghĩ là
mình bị bệnh thôi. Bây giờ, đưa cho bạn thuốc đối trị
liệu pháp để chữa các bệnh đó là nguy hiểm, bởi vì tất
cả các thuốc đối trị bằng cách này cách khác đều có
quan hệ với nhiều chất độc. Nếu bạn có bệnh, thuốc là
tốt; nhưng nếu bạn không có bệnh mà chỉ có ý tưởng,
thế thì vi lượng liệu pháp là tốt nhất bởi vì nó chẳng
gây hại cho ai cả. Nó chẳng có gì trong nó, nhưng nó
lại là sự giúp đỡ lớn lao cho nhân loại. Hàng nghìn
người đang được chữa bằng vi lượng liệu pháp.
Vấn đề không phải là vi lượng liệu pháp có là
thuốc thực hay không. Vấn đề là: nếu mọi người có
bệnh không thật, bạn cần một hệ thống thuốc không
thật cho họ. Vi lượng liệu pháp chẳng có gì trong nó,
có những người không bị bệnh gì nhưng vẫn cứ bị hành
hạ bởi ý tưởng rằng họ có bệnh. Vi lượng liệu pháp sẽ
giúp cho họ ngay lập tức. Nó chữa cho mọi người
nhưng chưa bao giờ làm hại ai cả. Nó là thuốc hư
huyễn - nhưng phải làm gì với nhân loại hư huyễn đây?
Các bác sĩ điều trị Ấn Độ và các y tá thực hành
không có các dụng cụ, máy móc phức tạp, tia X hay
các thứ khác; họ không có thậm chí cả ống nghe. Họ
chỉ kiểm tra nhịp tim bạn - và điều này đã vận hành
hoàn hảo trong nhiều nghìn năm. Họ kiểm tra nó bởi vì
nhịp tim là chính trung tâm cuộc sống của bạn; nếu cái
gì đó không hoàn hảo thì nó cho chỉ dẫn về điều cần
phải làm. Thay vì chữa bệnh họ sẽ cố gắng làm cho
nhịp tim bạn hài hoà hơn. Thuốc của họ sẽ giúp cho
nhịp tim bạn hài hoà hơn, và ngay lập tức bệnh tật biến
mất. Bạn nghĩ bệnh đã được chữa trị - nhưng bệnh này
chỉ là triệu chứng.
Đó là lí do tại sao trong ayurveda họ đã có thể vứt
bỏ giải phẫu đi hoàn toàn: điều đó đã thu gọn con
người về cái máy. Khi mọi sự có thể được thực hiện rất
dễ dàng với nước khoáng, thảo mộc, những thứ tự
nhiên, không đầu độc hệ thống của con người, thế thì
tại sao cứ trao chất độc một cách không cần thiết cho
con người, cái sẽ có hiệu quả phụ của chúng?
Có lẽ đó là một trong những lí do tại sao thuốc đã
phát triển và tiến hoá, và đi kèm nó bệnh tật cứ tăng lên
mãi. Bạn chữa trị bệnh, nhưng bạn chữa nó bằng chất
độc; bệnh sẽ khỏi nhưng chất độc sẽ còn lại trong hệ
thống. Và chất độc đó sẽ tạo ra hiệu quả riêng của nó.
Cho nên tất cả thuốc thảo mộc, tất cả nước khoáng và
những thứ như thuốc vi lượng nên được tổ hợp lại.
Đáng ra chỉ nên có một khoa học với các nhánh
khác nhau, và người làm nghề y phải quyết định nên
gửi người này tới nhánh nào. Chẳng ích gì bảo ai đó,
“Anh không có bệnh”; điều đó vô dụng hoàn toàn.
Người đó đơn giản sẽ đổi bác sĩ, đó là hiệu quả duy
nhất. Người đó sẽ thích vị bác sĩ nói, “Anh có bệnh
này...”
Vài người đã mất ý chí sống; thế thì chẳng thuốc
nào có thể giúp được bởi vì ý chí cơ bản để sống không
còn nữa. Họ đã chết; họ chỉ đợi thời điểm tang lễ.
Những người này không cần thuốc, họ cần một kiểu trị
liệu khác đem cho họ ý chí để sống lần nữa. Đó là điều
cơ bản của họ - chỉ thế thì mọi thuốc thang khác mới
có ích.
Tất cả những điều này cần phải được tổ hợp với
nhau thành một sự tổng hợp, một toàn thể, và con
người có thể hoàn toàn thoát khỏi bệnh tật. Con người
sẽ có thể sống ít nhất ba trăm năm; đó là ước lượng
khoa học. Thân thể người đó có khả năng cứ làm mới
lại bản thân mình trong ba trăm năm. Cho nên bất kì
cái gì chúng ta đang làm về cơ bản đều sai bởi vì con
người chết vào tuổi bẩy mươi.
Và có những bằng chứng... Trong một phần của
Kashmir bây giờ là một phần của Pakistan - Pakistan
đã chiếm nó - mọi người sống rất dễ dàng tới một trăm
năm mươi tuổi. Tại Nga có nhiều người một trăm năm
mươi tuổi, và có những người thậm chí đã đạt tới một
trăm tám mươi tuổi. Bây giờ, thức ăn của những người
này, thói quen của họ nên được nghiên cứu, và những
thức ăn và thói quen đó nên được mọi người biết tới.
Một người một trăm tám mươi tuổi ở nước Nga Xô
viết, trong phần đặc biệt của Caucasus, vẫn còn làm
việc trên cánh đồng giống hệt như bất kì thanh niên
nào; người đó thậm chí không già. Thức ăn của người
đó, cách sống của người đó cần phải được xem xét rất
sâu sắc. Và có nhiều người trong vùng đó - chỉ trong
vùng đó, Caucasia. Miền đó đã tạo ra những người
thực sự mạnh mẽ. Bản thân Joseph Stalin là từ vùng
đó; George Gurdjieff đã từ vùng đó - những người cực
kì mạnh mẽ.
Y học cần một chiều hướng mới. Điều đó bây giờ
là có thể bởi vì mọi thứ đã xảy ra trên khắp thế giới đều
được biết tới; chúng ta chỉ cần không bị định kiến ngay
từ ban đầu.2
Chỉ có một loại mạnh khoẻ - bạn không cần bất kì
tính từ nào cho nó. Nếu ai đó hỏi, “Anh có mạnh khoẻ
không?” bạn nói, “Tôi hoàn toàn mạnh khoẻ.” Người
đó không hỏi bạn, “Loại mạnh khoẻ nào?” Nếu người
đó hỏi bạn, “Loại mạnh khoẻ nào?” bạn sẽ ngạc nhiên.
Bạn sẽ nói, “Đơn giản mạnh khoẻ! Mạnh khoẻ chỉ là
mạnh khoẻ thôi, cảm giác sảng khoái, rằng chẳng có gì
sai, mọi sự đều chạy êm, rằng tôi sung sướng, rằng tôi
không thể nào nghĩ được mọi sự lại có thể tốt hơn thế
này.”
Có nhiều loại mạnh khoẻ không? Không, chỉ có
một loại: mạnh khoẻ. Nhưng bệnh tật có cả triệu.
Cũng điều ấy là trường hợp với chân lí: chân lí là
một. Nhưng dối trá hàng triệu bởi vì dối trá tuỳ thuộc
vào bạn; bạn có thể cứ bịa đặt bao nhiêu tuỳ ý. Bệnh tật
tuỳ thuộc vào bạn. Bạn có thể cứ sống sai, ăn đồ sai,
làm việc sai, và bạn có thể cứ tạo ra những bệnh tật
mới.
Mạnh khoẻ là một - bao giờ cũng mới, nhưng nó
bao giờ cũng là một. Bạn có thể gọi nó là cái cổ đại
nhất ấy vậy mà nó vẫn gần nhất, mới nhất.
Năm nghìn năm trước đây ai đó đã mạnh khoẻ, và
bây giờ bạn mạnh khoẻ; bạn có cho rằng sẽ có khác
biệt gì đó không? Người đó không mang mầu da bạn,
người đó không biết ngôn ngữ của bạn, và năm nghìn
năm đã trôi qua. Nhưng nếu ai đó đã mạnh khoẻ, dù
người đó là bất kì ai, dù ngôn ngữ của người đó là gì,
dù mầu da người đó là gì, đàn ông hay đàn bà, trẻ hay
già - nếu người đó mạnh khoẻ thế thì ít nhất bạn cũng
biết một điều rằng người đó đã: mạnh khoẻ. Cảm giác
mạnh khoẻ đó bạn có thể kinh nghiệm được. Bạn
không cần biết gì về người đó - đẹp, xấu, cao, thấp
không thành vấn đề; một điều là tương tự, rằng người
đó đã mạnh khoẻ và bạn đang mạnh khoẻ. Một kinh
nghiệm đích xác là như nhau.
Nhưng bệnh tật... mọi ngày các bệnh mới lại cứ
được sinh ra. Có đến hàng triệu bệnh, và sẽ có nhiều
bệnh nữa khi con người trở nên sáng tạo hơn.
Bạn chưa bao giờ đi tới bác sĩ bởi vì bạn cảm thấy
mạnh khoẻ, hay bạn có đi? Chẳng hạn “Trong hai tuần
tôi đã cảm thấy mạnh khoẻ - cái gì đó phải sai rồi.”
Trong thực tế tại Trung quốc cổ đại đã có một điều
đáng nhớ; có lẽ lúc nào đó trong tương lai điều đó có
thể được dùng lại. Khổng Tử đã ghi dấu ấn vào Trung
quốc nhiều nhất. Một trong các ý tưởng của ông ấy là...
và nó đã được thực hiện, trong nhiều thế kỉ nó vẫn còn
vận hành. Ý tưởng đó là: lương y nên được trả tiền để
giữ cho bệnh nhân mạnh khoẻ, không phải để chữa trị
cho người đó. Nếu bác sĩ được trả tiền cho việc chữa trị
bạn thế thì quyền lợi được đảm bảo của ông ta là ở chỗ
bạn vẫn còn ốm đau. Bạn càng ốm nhiều càng tốt; càng
nhiều người ốm càng tốt. Bạn tạo ra sự phân đôi trong
tâm trí bác sĩ điều trị.
Trước hết bạn dạy bác sĩ điều trị rằng công việc của
ông ta là để giữ cho mọi người mạnh khoẻ: “Chức năng
của ông là kéo dài cuộc sống, sức sống, sự trẻ trung
của họ.” Nhưng quyền lợi được đảm bảo của bác sĩ lại
là ở chỗ nếu mọi người vẫn còn mạnh khoẻ, trẻ trung,
không ai ốm cả, thế thì ông ta sẽ chết đói. Nếu mọi
người đều mạnh khoẻ thế thì các bác sĩ sẽ ốm đau,
hoàn toàn đau ốm, đau ốm đến chết. Họ sẽ làm gì?
Không, quyền lợi được đảm bảo của bác sĩ là
chống lại cái triết lí mà ông ta đã từng được dạy. Mối
quan tâm của ông ta là ở chỗ mọi người phải còn ốm,
càng nhiều ốm đau càng tốt. Do đó bạn sẽ thấy một
điều kì lạ: nếu người nghèo ốm, người đó sẽ khoẻ lại
sớm hơn người giầu. Kì lạ thật... tại sao người nghèo
lại khoẻ sớm? - bởi vì bác sĩ muốn gạt bỏ người đó,
người đó làm phí thời gian không cần thiết.
Ý tưởng của Khổng Tử có tầm quan trọng lớn; ông
ấy nói rằng mọi người nên trả cho lương y tiền lương
tháng về việc giữ cho mình mạnh khoẻ. Nếu người ta
vẫn còn mạnh khoẻ trong cả tháng thế thì người đó
phải trả một số tiền nào đó cho lương y. Nếu người đó
bị ốm thế thì lương tương ứng sẽ bị cắt đi.
Rất lạ lúc ban đầu, bởi vì chúng ta đang làm chính
cái đối lập trên khắp trên thế giới - nhưng rất logic, rất
lành mạnh. Và theo nhiều cách thức Khổng Tử là
người lành mạnh. Mọi người nên có bác sĩ điều trị của
mình, và người đó nên trả tiền cho bác sĩ điều trị về
việc giữ cho mình mạnh khoẻ, chứ không vì trả cho
việc chữa chạy người đó. Nếu người đó bị ốm thế thì
phí tổn do bác sĩ chịu; thuốc thang và mọi chi phí khác
- và lương của bác sĩ cũng bị cắt nữa bởi vì ông ta đã
không chăm nom cho người đó.
Hàng thế kỉ điều này đã tiếp tục. Và điều đó có tác
dụng tốt, cực kì tốt, cho cả hai. Cho bác sĩ, cho bệnh
nhân, điều đó làm việc tốt cho cả hai. Bác sĩ không bị
nặng gánh thế. Còn bệnh nhân cũng hoàn toàn hạnh
phúc bởi vì bây giờ quyền lợi được đảm bảo của bác sĩ
không chống lại họ, điều đó thiên về họ.
Cho nên bác sĩ không quan tâm tới điều họ phải bị
ốm theo bất kì cách nào và phải tuỳ thuộc vào thuốc.
Ông ta sẽ kê đơn nhiều bài tập luyện hơn - đi bộ, bơi,
thể thao - để cho họ sẽ vẫn còn mạnh khoẻ. Và trong
nhiều thế kỉ, trong khi ảnh hưởng của Khổng Tử kéo
dài, Trung quốc phải đã là nước mạnh khoẻ nhất trên
thế giới.3
******************************************************
#2 Được chữa lành ngụ ý là cái toàn thể
Từ ‘thiền - meditation’ và từ ‘thuốc - medicine’ có
cùng gốc. Thuốc nghĩa là cái chữa lành về thể chất, còn
thiền nghĩa là cái chữa lành về tâm linh. Cả hai đều là
những năng lực chữa lành.
Một điều khác cần phải nhớ: từ ‘chữa lành -
healing’ và từ ‘toàn thể - whole’ cũng có cùng gốc.
Được chữa lành đơn giản có nghĩa là toàn thể, không
bỏ lỡ bất kì điều gì. Một nghĩa khác của từ này - từ
‘linh thiêng - holy’ cũng có cùng gốc. Chữa lành, toàn
thể, linh thiêng là không khác biệt về nguồn gốc.
Thiền chữa lành, làm cho bạn thành toàn thể, và là
toàn thể tức là linh thiêng.
Tính linh thiêng chẳng liên can gì tới việc thuộc
vào bất kì tôn giáo nào, thuộc vào bất kì nhà thờ nào.
Nó đơn giản có nghĩa là bên trong mình, bạn là toàn
thể, đầy đủ; không cái gì thiếu, bạn được mãn nguyện.
Bạn là điều mà sự tồn tại muốn bạn là vậy. Bạn đã
nhận ra tiềm năng của mình...
Tôn giáo là cuộc hành trình hướng nội, và thiền là
con đường. Điều thiền thực sự làm là, nó đem bạn, tâm
thức bạn, vào sâu nhất có thể được. Ngay cả thân thể
riêng của bạn cũng trở thành cái gì đó bên ngoài. Ngay
cả tâm trí riêng của bạn cũng trở thành cái gì đó bên
ngoài. Ngay cả trái tim riêng của bạn - cái rất gần với
trung tâm của bản thể bạn - cũng trở thành bên ngoài.
Khi thân thể, tâm trí và trái tim, tất cả ba, đều được
thấy là ở bên ngoài, bạn đã đi tới chính trung tâm của
sự tồn tại của mình.
Việc tới trung tâm này là sự bùng nổ cực kì lớn làm
biến đổi mọi thứ. Bạn sẽ không bao giờ là con người cũ
nữa, bởi vì bây giờ bạn biết thân thể chỉ là lớp vỏ bên
ngoài; tâm trí có là bên trong chút ít nhưng không thực
sự là cốt lõi bên trong của bạn; trái tim có chút ít bên
trong hơn, nhưng vẫn không phải là trung tâm bên
trong nhất. Bạn không đồng nhất với tất cả ba điều này.
Bạn bắt đầu cảm thấy, lần đầu tiên, được kết tinh...
không phải là con người mờ nhạt mà bạn bao giờ cũng
đã là. Lần đầu tiên bạn bắt đầu cảm thấy một năng
lượng mênh mông, năng lượng không cạn mà bạn chưa
biết tới. Lần đầu tiên bạn biết rằng cái chết sẽ xảy ra
chỉ cho thân thể, cho tâm trí, cho trái tim, nhưng không
cho bạn.
Bạn là vĩnh hằng. Bạn bao giờ cũng ở đây, và bạn
bao giờ cũng sẽ ở đây - dưới hình dạng khác, và chung
cuộc trong trạng thái vô hình dạng. Nhưng bạn không
thể nào bị huỷ diệt - bạn là bất khả huỷ diệt. Điều đó
lấy đi tất cả mọi nỗi sợ khỏi bạn. Và biến mất của nỗi
sợ là xuất hiện của tự do. Biến mất của nỗi sợ là xuất
hiện của tình yêu. Bây giờ bạn có thể chia sẻ. Bạn có
thể cho bao nhiêu tuỳ ý, bởi vì bạn bây giờ ở tại cội
nguồn nước sống không cạn.
Thiền làm cho bạn thành toàn thể, làm cho bạn
thành linh thiêng, và làm cho bạn thành cội nguồn
không cạn cho tất cả những người đang đói, khát, đang
tìm kiếm, đang tìm tòi, đang dò dẫm trong bóng tối.
Bạn trở thành ánh sáng. Thiền là cách làm chủ bản thể
riêng của bạn. Không cần tới Thượng đế nào cả, không
cần tới giáo lí vấn đáp, không cần tới sách thánh.
Không ai cần phải trở thành người Ki tô giáo hay
người Do thái giáo hay người Hindu giáo - tất cả
những cái đó đều là cực kì vô nghĩa. Tất cả mọi điều
cần là tìm ra trung tâm của bạn, và thiền là cách đơn
giản nhất để tìm thấy nó.
Điều đó sẽ làm cho bạn thành toàn thể, mạnh khoẻ
về tâm linh, và nó sẽ làm cho bạn thành giầu có đến
mức bạn có thể phá huỷ tất cả mọi nghèo nàn tâm linh
của thế giới. Và đó mới là cái nghèo thực sự.
Cái nghèo của thân thể vật lí trong thức ăn, trong
quần áo, trong chỗ trú ngụ, có thể dễ dàng được khoa
học và công nghệ giúp đỡ. Nhưng khoa học và công
nghệ không thể giúp bạn phúc lạc được - điều đó nằm
ngoài phạm vi của chúng. Và bạn có thể có mọi thứ mà
thế giới có thể cung cấp, nhưng nếu bạn không có an
bình, chân thành, im lặng, cực lạc, bạn sẽ vẫn còn
nghèo nàn.
Trong thực tế, bạn sẽ cảm thấy cái nghèo của mình
hơn bao giờ hết, bởi vì tương phản sẽ có đó. Bạn đang
sống trong cung điện vàng, và bạn biết mình là kẻ ăn
mày. Cung điện vàng sẽ trở thành tương phản: bây giờ
bạn có thể thấy bên trong chẳng có gì, bạn chỉ là trống
rỗng.
Đó là lí do tại sao khi nhân loại trở nên thông minh
hơn, chín chắn hơn, ngày càng nhiều người bắt đầu
cảm thấy vô nghĩa, ngày càng nhiều người bắt đầu cảm
thấy cuộc sống là ngẫu nhiên, rằng thật là vô tích sự cứ
tiếp tục sống.
Những phát triển mới nhất trong triết học ở phương
Tây tất cả đều chỉ ra một điều, rằng có lẽ tự tử là giải
pháp duy nhất. Và tất nhiên, nếu bạn không biết về thế
giới bên trong của mình, và bạn có mọi thứ có sẵn mà
thế giới bên ngoài có thể trao cho bạn, tự tử sẽ dường
như là giải pháp duy nhất.
Thiền có thể làm cho bạn thành giầu có trong nội
tâm. Thế thì tự tử nằm ngoài vấn đề này; thậm chí nếu
bạn muốn phá huỷ bản thân mình, cũng không có cách
nào cả. Bản thể bạn là không thể bị huỷ diệt. Và việc
biết tới tính bất tử này là tự do lớn lao - tự do với cái
chết, với bệnh tật, với tuổi già. Tất cả những điều này
sẽ tới và đi, nhưng bạn vẫn còn không bị đụng chạm
tới, không bị xây sát. Mạnh khoẻ bên trong của bạn là
ở ngoài mọi bệnh tật.
Và nó có đó, chỉ cần được phát hiện ra.4
Lần sau bạn vào ngôi đền của Phật Gautam hay
Mahavira, chỉ ngồi im lặng, quan sát bức tượng... bởi
vì bức tượng đã được làm theo một cách, theo một tỉ lệ
mà nếu bạn quan sát nó bạn sẽ rơi vào im lặng. Nó là
bức tượng về thiền; nó không liên quan tới Phật
Gautam hay Mahavira....
Trong trạng thái đại dương đó thân thể lấy điệu bộ
nào đó. Bạn đã tự mình quan sát nó, nhưng bạn lại
không tỉnh táo. Khi bạn giận dữ, bạn có quan sát
không? - thân thể bạn lấy điệu bộ nào đó. Trong giận
dữ bạn không thể để bàn tay để mở được; trong giận dữ
- nắm đấm. Trong giận dữ bạn không thể mỉm cười
được - hay bạn có thể? Với xúc động nào đó, thân thể
phải tuân theo một điệu bộ nào đó. Chỉ những điều nhỏ
bé mới có quan hệ sâu sắc bên trong...
Một khoa học bí mật nào đó đã được sử dụng hàng
thế kỉ để cho các thế hệ mới tới có thể đi vào tiếp xúc
với những kinh nghiệm của các thế hệ cổ hơn - không
qua sách vở, không qua lời, mà qua cái gì đó đi sâu hơn
- qua im lặng, qua thiền, qua an bình. Khi im lặng của
bạn phát triển, tình bạn của bạn, tình yêu của bạn phát
triển; cuộc sống của bạn trở thành điệu vũ từ khoảnh
khắc sang khoảnh khắc, niềm vui, lễ hội...
Bạn đã bao giờ nghĩ tới tại sao, trên khắp thế giới,
trong mọi nền văn hoá, trong mọi xã hội, có vài ngày
trong năm dành cho lễ hội? Vài ngày này dành cho lễ
hội chỉ là việc bù lại - bởi vì những xã hội này đã lấy đi
tất cả mọi lễ hội của cuộc sống của bạn, và nếu không
cái gì được trao bù lại cho bạn, cuộc sống của bạn có
thể trở thành nguy hiểm cho nền văn hoá. Mọi nền văn
hoá đều phải cho bạn cái bù gì đó để cho bạn không
cảm thấy bị mất hoàn toàn trong khổ, trong buồn...
Nhưng những cái bù lại đó là giả. Nhưng trong thế giới
bên trong của bạn có thể vẫn có sự liên tục của ánh
sáng, bài ca, niềm vui.
Bao giờ cũng nhớ rằng xã hội bù lại cho bạn khi nó
cảm thấy rằng cái bị kìm nén có thể bùng nổ thành tình
huống nguy hiểm nếu điều đó không được bù lại. Xã
hội tìm ra cách nào đó để cho phép bạn xả ra cái bị kìm
nén. Nhưng đây không phải là lễ hội đúng, và nó không
thể đúng được. Lễ hội đúng phải tới từ cuộc sống của
bạn, trong cuộc sống của bạn.
Và lễ hội đúng không thể tương ứng theo lịch
được, rằng vào ngày mồng một tháng mười một bạn sẽ
làm lễ hội. Kì lạ, cả năm bạn khổ và vào ngày mồng
một tháng mười một bỗng nhiên bạn thoát ra khỏi khổ,
nhảy múa. Hoặc khổ là giả hoặc ngày mồng một tháng
mười một là giả; cả hai không thể đúng được. Và một
khi ngày mồng một tháng mười một qua rồi, bạn trở lại
trong cái hố tối tăm của mình, mọi người đều trong khổ
của mình, mọi người đều trong lo âu của mình.
Cuộc sống phải là lễ hội liên tục, liên hoan ánh
sáng cả năm ròng. Chỉ thế thì bạn mới có thể trưởng
thành, bạn mới có thể nở hoa. Biến đổi những cái nhỏ
bé thành lễ hội đi... Mọi thứ bạn làm nên mang tính
diễn đạt về bạn; nó nên có chữ kí của bạn lên nó. Thế
thì cuộc sống trở thành lễ hội liên tục.
Cho dù bạn ốm và bạn nằm trên giường, bạn sẽ làm
cho những khoảnh khắc nằm trên giường đó thành
những khoảnh khắc của cái đẹp và niềm vui, khoảnh
khắc của thảnh thơi và nghỉ ngơi, khoảnh khắc của
thiền, khoảnh khắc của việc nghe nhạc hay thơ. Không
có nhu cầu phải buồn rằng bạn ốm. Bạn nên sung
sướng rằng mọi người đều ở văn phòng còn bạn nằm
trên giường như vua, thảnh thơi - ai đó chuẩn bị trà cho
bạn, ấm samovar đang ca lên bài ca, một người bạn tỏ
ý muốn tới và thổi sáo cho bạn. Những điều này còn
quan trọng hơn bất kì thuốc nào. Khi bạn ốm, gọi bác
sĩ. Nhưng điều quan trọng hơn, gọi những người yêu
bạn tới bởi vì không có thuốc nào quan trọng hơn tình
yêu. Gọi những người có thể tạo ra cái đẹp, âm nhạc,
thơ ca tới quanh bạn bởi vì không có gì chữa lành được
như tâm trạng lễ hội.
Thuốc là loại trị liệu thấp nhất. Nhưng dường như
chúng ta đã quên mất mọi thứ, cho nên chúng ta phải lệ
thuộc vào thuốc và thành cục cằn và buồn bã - dường
như bạn đang bỏ lỡ niềm vui lớn lao nào đó bạn đã có
trong văn phòng! Trong văn phòng bạn đã khổ rồi - chỉ
một ngày nghỉ, và bạn lại níu bám lấy khổ nữa; bạn sẽ
không buông bỏ nó.
Làm mọi thứ thành sáng tạo đi, làm ra cái tốt nhất
từ cái tệ nhất - đó là điều tôi gọi là 'nghệ thuật'. Và nếu
một người đã sống cả đời mình trong việc làm cho mọi
khoảnh khắc và mọi pha của nó thành cái đẹp, tình yêu,
niềm vui, một cách tự nhiên cái chết của người đó sẽ là
đỉnh cao tối thượng của toàn thể nỗ lực cuộc sống của
người đó.
Cái chạm cuối cùng... cái chết của người đó sẽ
không xấu như thường vẫn xảy ra mọi ngày cho mọi
người. Nếu cái chết mà xấu, điều đó nghĩa là toàn thể
cuộc sống của bạn đã là phí hoài.
Cái chết nên là chấp nhận an bình, lối đi đáng yêu
vào trong cái không biết, lời chào tạm biệt vui vẻ với
những người bạn cũ, với thế giới cũ. Không nên có
thảm kịch nào trong nó...
Bắt đầu bằng thiền, và mọi sự sẽ cứ phát triển trong
bạn - im lặng, chân thành, phúc lạc, nhạy cảm. Và bất
kì cái gì tới từ thiền, cố đem nó vào cuộc sống. Chia sẻ
nó, bởi vì mọi thứ được chia sẻ đều phát triển nhanh.
Và khi bạn đã đạt tới điểm chết, bạn sẽ biết không có
cái chết. Bạn có thể nói lời tạm biệt, không có nhu cầu
về nước mắt buồn rầy - có thể là nước mắt vui sướng,
nhưng không buồn rầu.5
******************************************************
#3 Mê tín vào y học
Y học, vật lí học, tâm lí học, đều còn rất non nớt
theo nghĩa rằng chúng chỉ làm việc trên bề ngoài của
con người - chúng không tìm thấy con đường vào trung
tâm con người. Và bởi vì chúng không chấp nhận sự
tồn tại của tâm thức nào đó bên ngoài tâm trí, của tâm
thức nào đó bên ngoài cái chết, nên chúng hoàn toàn
đóng, mang định kiến chống lại toàn thể mọi nỗ lực
mênh mông mà các nhà huyền môn đã làm trong việc
tìm ra trung tâm của tâm thức.
Nhiều lần chẩn đoán của nhà sinh lí học hay bác sĩ
điều trị có thể hoàn toàn sai bởi lẽ đơn giản là tầm nhìn
không đủ bao quát toàn diện. Ông ta hiểu con người chỉ
là vật chất, còn tâm trí chỉ là sản phẩm phụ của vật
chất, hiện tượng hình bóng chẳng có gì bên ngoài nó
cả, chẳng cái gì vĩnh hằng, chẳng cái gì sẽ còn lại mãi.
Họ đã tạo ra bức tranh về con người gây ra thất vọng
trong người thông minh. Và bởi vì việc bác bỏ thẳng
thừng của họ mà cách tiếp cận của họ không khoa học;
nó cũng mê tín như bất kì người tôn giáo hay chính trị
cuồng tín nào khác.
Khoa học không có quyền phủ nhận tâm thức
chừng nào nó còn chưa thám hiểm bầu trời bên trong
của tâm thức con người và thấy rằng đó là chất liệu
mơ, không phải là thực tại mà chỉ là cái bóng.
Họ đã không thám hiểm - họ đơn giản giả thiết.
Chủ nghĩa duy vật là giả thuyết, là mê tín của thế giới
khoa học, cũng như Thượng đế, thiên đường và địa
ngục là mê tín của thế giới tôn giáo.
Khoa học còn chưa là khoa học thuần khiết và nó
không thể là thế được, bởi vì nhà khoa học còn chưa
hồn nhiên, vô định kiến, sẵn sàng đi với chân lí mặc
cho bản thân mình và sự huấn luyện của mình.6
#3 Trong y học ngày nay, chúng ta nói về tính chủ
quan của liệu pháp; cùng một thuốc có các kết quả
khác nhau với các bác sĩ khác nhau.
Thầy có thể bình luận về tính chủ quan của khoa
học vẫn cứ nói là khoa học khách quan không?
Bất kì cái gì phải giải quyết với con người thì
chẳng bao giờ có thể là khách quan toàn bộ được; nó sẽ
phải cho phép một không gian nào đó cho tính chủ
quan .
Điều không chỉ đúng là cùng thuốc được cho từ
nhiều bác sĩ khác nhau sẽ có hiệu quả khác nhau; điều
cũng còn đúng là cùng thuốc có những hiệu quả khác
nhau trên các bệnh nhân khác nhau từ cùng một bác sĩ.
Con người không phải là vật.
Trước hết bạn phải hiểu từ ‘vật’. Mẩu đá chỉ là một
vật. Không có nội tâm, không có cái bên trong cho nó.
Bạn có thể đập nó ra thành hai; thế thì có hai vật. Bạn
có thể đập nó thành bốn, và có bốn vật. Nhưng bạn sẽ
không tìm thấy phần bên trong nào.
Tính chủ thể có nghĩa là từ phía bên ngoài một
người là đối thể như bất kì vật nào khác - bức tượng,
xác chết, thân thể sống, khác biệt là gì? Bức tượng đơn
giản là một đối thể, nó không có tính chủ thể. Xác chết
đã có thời là ngôi nhà cho một hiện tượng chủ thể,
nhưng bây giờ nó trống rỗng. Bây giờ nó là ngôi nhà
trống rỗng; người đã sống trong nó đã ra đi rồi.
Người sống có tất cả tính đối thể của bức tượng,
của xác chết, và có cái gì đó hơn nữa - chiều hướng
bên trong - cái có thể làm thay đổi nhiều thứ bởi vì nó
là cái mạnh mẽ nhất trong sự tồn tại. Chẳng hạn, người
ta đã chú ý rằng ba người có thể cùng mắc một bệnh,
nhưng cùng thuốc sẽ không có tác dụng. Trên người
này nó có tác dụng; trên người kia chỉ được năm mươinăm
năm mươi, có tác dụng rồi lại không tác dụng;
nhưng trên người thứ ba nó chẳng có tác dụng chút
nào. Bệnh thì như nhau, nhưng phần bên trong là khác
nhau. Và nếu bạn đem phần bên trong ra xem xét, thế
thì có lẽ bác sĩ sẽ đưa ra những tác động khác trên
những người khác nhau bởi những lí do khác nhau.
Một trong những người bạn tôi là nhà giải phẫu lớn
ở Nagpur - nhà giải phẫu lớn nhưng không phải là
người tốt. Ông ta chưa hề thất bại trong việc giải phẫu,
và ông ấy đòi giá cao gấp năm lần bất kì nhà giải phẫu
nào khác đòi. Tôi đã ở cùng ông ấy và tôi bảo ông ấy,
“Thế này thì quá thể. Khi nhà giải phẫu khác đòi số
tiền nào đó về cùng một bệnh, ông lại đòi gấp năm lần
hơn.”
Ông ta nói với tôi, “Thành công của tôi trong nhiều
điều khác cũng có cơ sở này: khi người ta trả cho tôi
năm lần hơn, thì người đó quyết tâm sống sót. Đấy
không chỉ bởi vì tôi tham tiền đâu. Nếu người đó sẵn
lòng đưa cho tôi năm lần hơn - trong khi người đó có
thể có được việc mổ với giá rẻ - thì người đó quyết tâm
sống sót với bất kì giá nào. Và quyết tâm của người đó
gần như là năm mươi phần trăm thành công của tôi.”
Có những người không muốn sống nữa; họ không
sẵn lòng hợp tác với bác sĩ. Họ uống thuốc, nhưng
không có ý chí để sống sót: ngược lại, họ đang hi vọng
rằng thuốc không có tác dụng để cho họ sẽ không bị
trách là tự tử, tuy rằng họ có thể gạt bỏ cuộc sống. Bây
giờ, từ bên trong người đó đã rút lui. Thuốc không thể
giúp gì cho phần bên trong của người đó, và không có
sự hỗ trợ bên trong của người đó, bác sĩ cũng gần như
bất lực - thuốc là không đủ.
Tôi đi tới nhận biết từ nhà giải phẫu này... Ông ta
nói, “Ông không biết đấy thôi. Đôi khi tôi làm những
điều hoàn toàn vô đạo đức, nhưng để giúp cho bệnh
nhân tôi phải làm những việc đó.”
Tôi nói, “Ông muốn nói gì?”
Ông ta nói, “Tôi bị những người trong nghề kết
án...” Và tất cả các bác sĩ của vùng Nagpur đều kết án
ông ta - “Chúng tôi chưa bao giờ thấy một kẻ lừa bịp
như vậy.”
Ông ấy cho bệnh nhân lên bàn trong phòng mổ -
các bác sĩ đều sẵn sàng, các y tá đều sẵn sàng, sinh
viên sẽ quan sát từ hành lang phía trên. Và ông ấy sẽ
thì thào vào tai bệnh nhân, “Chúng ta đã thoả thuận về
phí mười nghìn đồng - điều đó không có tác dụng. Vấn
đề của anh còn nghiêm trọng hơn nhiều. Chỉ nếu anh
sẵn lòng đưa cho tôi hai mươi nghìn tôi mới cầm dao
mổ trong tay; bằng không thì đứng dậy và bước ra.
Anh có thể đi tìm người khác rẻ hơn.”
Bây giờ, trong tình huống đó... Và người này có
tiền, bằng không thì làm sao người đó có thể nói có
được? Và người đó chấp nhận điều này: “Tôi sẽ đưa
hai mươi nghìn, nhưng hãy cứu tôi.”
Và ông ta bảo tôi, “Bất kì nhà giải phẫu nào cũng
đều có thể cứu được người đó, nhưng không có sự chắc
chắn như vậy. Bởi vì người đó đã trả hai mươi nghìn
đồng, nên người đó tuyệt đối cùng tôi; toàn bộ phần
bên trong người đó đều ủng hộ. Mọi người lên án tôi
bởi vì họ không hiểu tôi. Chắc chắn điều đó là vô đạo
đức: từ thoả thuận mười nghìn rồi đặt người ta vào
phòng mổ và thì thào vào tai người ta, ‘hai mươi nghìn,
ba mươi nghìn; bằng không thì đứng dậy và bước ra -
bởi vì tôi đã không nhận ra rằng bệnh này lại ăn sâu
thế. Tôi đang nhận rủi ro, và tôi đang đặt toàn bộ danh
tiếng về mình mập mờ ở giữa. Với mười nghìn tôi sẽ
không làm điều đó. Và tôi chưa bao giờ sai trong đời
mình cả, thành công là qui tắc của tôi. Tôi chỉ mổ khi
tôi tuyệt đối chắc chắn thành công. Cho nên anh quyết
định đi. Mà tôi không có nhiều thời gian đâu, bởi vì các
bệnh nhân khác đang đợi. Anh chỉ quyết định trong hai
phút thôi: hoặc là đồng ý, hoặc là đứng dậy và bỏ đi.’
Một cách tự nhiên, người này sẽ nói, ‘tôi sẽ đưa cho
ông bất kì cái gì ông muốn, nhưng xin hãy cứ tiến hành
mổ.’
Điều đó là phi pháp, vô đạo đức, nhưng tôi không
thể nói rằng điều đó là phi tâm lí.”
Bất kì điều gì giải quyết với con người cũng không
thể nào thuần tuý khách quan được.
Tôi có một người bạn khác, một bác sĩ bây giờ
đang ở tù bởi vì ông ta không đủ tư cách chút nào. Ông
ta chưa bao giờ tới bất kì trường y nào cả; tất cả các
bằng cấp ông ta đã viết trên biển hiệu mình đều là hư
huyễn cả. Nhưng tôi vẫn có ý kiến rằng sự bất công đã
giáng lên con người này - bởi vì việc ông ta có bằng
cấp hay không, không phải là vấn đề. Ông ta đã giúp
đỡ cho hàng nghìn người, và đặc biệt là cho những
người đã trở nên vô hi vọng, đã tới hết bác sĩ nọ tới bác
sĩ kia - tất cả đều có bằng cấp - và đã mệt mỏi. Và con
người này có thể cứu họ. Ông ta có uy tín nào đó -
không bằng cấp. Và ông ta đã làm bệnh viện của mình
gần như là mảnh đất kì diệu. Khoảnh khắc bệnh nhân
đi vào văn phòng ông ấy, lập tức người này sẽ ngạc
nhiên. Ông ta ở mọi nơi... bởi vì mọi người quen tới
ông ấy như một phương sách cuối cùng. Mọi người đều
biết rằng người này là hư huyễn, điều đó không phải là
cái gì bị che giấu. Nó là một bí mật để mở. Nhưng nếu
bạn sắp chết, hại gì mà không thử?
Và khi bạn đi vào vườn của ông ấy - ông ấy có cái
vườn đẹp - và thế rồi văn phòng ông ấy... Ông ấy có
những phụ nữ đẹp làm tiếp tân, và điều đó là tất cả mọi
phần trị liệu y tế của ông ấy - bởi vì thậm chí nếu một
người sắp chết, nhìn vào phụ nữ đẹp ý chí sống của
người đó cũng sẽ bật ra; người đó muốn sống. Sau khi
đón tiếp, người này sẽ đi qua phòng thí nghiệm của ông
ấy. Hoàn toàn không cần thiết đưa người đó qua phòng
thí nghiệm, nhưng ông ấy muốn người này thấy rằng
ông ấy không phải là một bác sĩ thường. Và phòng thí
nghiệm mới là phép mầu - hoàn toàn vô dụng, chẳng
có gì có nghĩa cả, nhưng biết bao nhiêu là ống nghiệm,
bình thót cổ, nước mầu chảy từ ống nọ sang ống kia, cứ
như là những thực nghiệm lớn đang diễn ra.
Thế rồi bạn sẽ tới ông bác sĩ. Và ông ấy chẳng bao
giờ dùng những phương pháp thông thường để kiểm tra
mạch của bạn, không. Bạn sẽ phải nằm trên một chiếc
giường điện có điều khiển từ xa. Chiếc giường sẽ đi lên
cao trên không, và bạn nằm đó nhìn lên và treo trên
bạn có những ống nghiệm lớn. Và dây dợ sẽ được gắn
vào mạch bạn và mạch sẽ làm cho nước trong ống
nghiệm nhảy lên. Tim sẽ được kiểm tra theo cùng cách
đó - không phải bởi ống nghe thông thường. Ông ấy đã
thực hiện mọi cách bố trí trực quan cho bệnh nhân -
cho nên bệnh nhân có thể thấy mình đã tới đúng một
thiên tài, một chuyên gia.
Ông này không bằng cấp, chẳng có cái gì hết cả.
Dược sĩ của ông ấy có đủ mọi bằng cấp, và ông dược sĩ
thường kê đơn thuốc bởi vì ông này không có ý tưởng
nào về thuốc cả. Trong thực tế ông ấy chưa hề gây tội
nào. Ông ấy chưa hề kê đơn thuốc, ông ấy chưa hề kí
vào đơn thuốc. Điều này được thực hiện bởi người có
bằng cấp, người hoàn toàn có đủ tư cách làm việc đó.
Nhưng bởi vì ông ấy thu xếp tất cả những điều này, và
bởi vì ông ấy đã viết những bằng cấp lạ trên biển hiệu
của mình... và vì những bằng cấp đó cũng không tồn tại
nên tôi không nghĩ chúng là phi pháp. Ông ta không
tuyên bố rằng chúng là từ các đại học hiện đang tồn tại.
Đấy tất cả chỉ là hư cấu - nhưng hư cấu có ích.
Tôi đã thấy các bệnh nhân được chữa khỏi một nửa
trong khi khám bệnh. Đi ra, họ nói, “Chúng tôi cảm
thấy gần như được chữa khỏi, và chúng tôi vẫn còn
chưa uống thuốc. Đơn thuốc vẫn đây - bây giờ chúng
tôi sẽ đi mua thuốc.”
Nhưng bởi vì ông ấy đã làm tất cả những điều
này... Đây là chỗ tôi thấy luật pháp mù quáng. Ông ấy
chẳng làm điều gì phi pháp cả, ông ấy không làm hại ai
cả - nhưng ông ấy bị tù bởi vì ông ấy đã “lừa mọi
người”. Ông ấy chẳng lừa ai cả. Để giúp ai đó sống lâu
hơn, nếu đó là việc lừa dối, thuốc phỏng có ích gì?
Vì con người, ngành y không bao giờ có thể trở
thành tuyệt đối cứng nhắc, một khoa học khách quan
một trăm phần trăm được. Đó là lí do tại sao lại có
nhiều trường phái y thế - ayurveda, vi lượng liệu pháp,
tự nhiên liệu pháp, châm cứu liệu pháp, và nhiều nữa -
và tất cả chúng đều có ích. Bây giờ vi lượng liệu pháp
đơn giản là viên thuốc đường, nhưng nó có ích. Vấn đề
là liệu người ta có tin tưởng hay không. Có những
người theo thiên nhiên liệu pháp cuồng tín - chẳng cái
gì khác có thể có ích cho họ, chỉ thiên nhiên liệu pháp
mới có thể giúp họ. Và điều đó chẳng có mối nối gì tới
bệnh tật cả.
Một trong các giáo sư của tôi mê mẩn về thiên
nhiên liệu pháp. Bất kì vấn đề gì... và trát bùn trên
bụng bạn. Tôi hay đến chỗ ông ấy để hưởng thú, bởi vì
điều đó rất thảnh thơi, và ông ta thu xếp rất khéo -
phòng tắm đẹp và vòi hoa sen... Và cho dù điều đó
không đúng, tôi vẫn hay tới và nói, “Tôi bị đau nửa đầu
tồi tệ lắm.”
Ông ấy nói, “Đừng lo. Cứ trát bùn lên bụng ông là
được.” Bây giờ trát bùn trên bụng chẳng ích gì cho
chứng đau nửa đầu cả. Nhưng nó lại thường có ích cho
tôi, bởi vì tôi đâu có đau đầu! Tắm bùn, bồn tắm đầy,
và bạn chìm trong bùn, chỉ cái đầu ló ra - thật rất là
thoải mái và rất mát mẻ. Chẳng mấy chốc ông ta nhận
ra: “Ông cứ đến mãi với các bệnh mới.”
Tôi nói, “Điều đó đúng... bởi vì tôi kiếm được cuốn
sách về thiên nhiên liệu pháp; qua cuốn sách đó tôi bị
bệnh này, và thế rồi tôi tới ông. Đầu tiên tôi đọc nó, để
xem ông sẽ làm gì. Nếu tôi muốn điều đó được làm cho
tôi, tôi mang bệnh đó; nếu không thì chẳng cần nằm
trong bùn tới nửa giờ...”
Ông ta nói, “Vậy ra ông đã lừa tôi sao?”
Tôi nói, “Tôi không lừa ông. Tôi là bệnh nhân lỗi
lạc nhất của ông đấy! Trong đại học mọi người khác
đều cười ông, tôi là người duy nhất ủng hộ ông. Và
người khác tới đây, họ tới là bởi vì tôi - bởi vì tôi nói
rằng chứng đau nửa đầu đã biến mất.”
Ông ấy nói, “Lạy trời, bây giờ tôi cũng đau nửa đầu
đây. Tắm đi!”
Mọi người thường giận tôi. Họ sẽ bảo tôi, “Chứng
đau nửa đầu của tôi, thay vì ra đi, lại trở nên dữ dội
hơn - bởi vì bụng lạnh đâu có ích gì cho chứng đau nửa
đầu!”
Tôi sẽ nói, “Thế thì hệ thống của ông phải làm việc
khác rồi. Với hệ thống của tôi, nó có ích cho tôi!”
Có vi lượng liệu pháp, những người cuồng tín tin
rằng vi lượng liệu pháp là cách chữa trị duy nhất đúng
còn tất cả các thuốc khác đều nguy hiểm - đặc biệt đối
trị liệu pháp là chất độc. Nếu bạn tới một nhà vi lượng
liệu pháp, điều đầu tiên ông ta sẽ làm là hỏi về toàn bộ
lịch sử từ lúc bạn sinh ra tới giờ - và bạn thì lại đang bị
đau đầu.
Một trong các bác sĩ vi lượng liệu pháp sống gần
nhà tôi. Bất kì khi nào bố tôi tới thăm tôi, tôi lại đưa
ông ấy tới vị vi lượng liệu pháp này. Vị vi lượng liệu
pháp ấy bảo tôi, “Tôi cầu xin ông đừng đưa bố ông tới
nữa bởi vì ông ấy lại bắt đầu kể ra ba thế hệ, rằng ông
của ông ấy đã bị bệnh...”
Tôi nói, “Ông ấy cũng là một người vi lượng liệu
pháp. Ông ấy đi sâu hơn vào gốc rễ.”
Ông này nói, “Nhưng ông ấy làm lãng phí thời gian
quá nhiều, và tôi phải nghe - còn ông ấy chỉ đau đầu
thôi! Về ông của ông ấy và tất cả những bệnh tật của
ông ấy, thế rồi đến bố của ông ấy và mọi bệnh tật... thế
rồi mới đến bản thân ông ấy. Vào lúc ông ấy tới, gần
như cả ngày đi đời. Các bệnh nhân khác của tôi đã đi
cả, còn tôi nghe ông ấy nói với tôi về loại bệnh tật nào
ông ấy đã phải chịu từ hồi trẻ con, và cuối cùng mới ra
là ông ấy bị đau đầu.”
Tôi nói, “Lạy trời, sao ông lại không bảo tôi
trước?” và ông ấy nói, “Cũng hệt như ông là người
theo vi lượng liệu pháp, tôi cũng là người theo vi lượng
liệu pháp. Và tôi muốn cho ông bức tranh đầy đủ.”
Điều đầu tiên họ sẽ hỏi về tất cả mọi bệnh tật của
bạn bởi vì họ tin rằng tất cả các bệnh tật đều có quan
hệ, toàn bộ cuộc sống của bạn là một toàn thể. Không
thành vấn đề liệu bạn bị gì đó trong chân hay trong đầu
- chúng là bộ phận của một thân thể, và để bác sĩ hiểu,
ông ấy phải biết mọi thứ. Bác sĩ vi lượng liệu pháp sẽ
hỏi bạn loại thuốc đối trị nào bạn đã dùng - bởi vì đó là
nguyên nhân gốc rễ cho mọi bệnh tật của bạn; tất cả
mọi loại thuốc đối trị đều là chất độc. Đó là thái độ của
cũng người theo thiên nhiên liệu pháp nữa, rằng đối trị
liệu pháp là chất độc. Cho nên điều đầu tiên bạn phải
nhịn ăn, phải thụt tháo... chỉ để tẩy sạch bạn khỏi mọi
thuốc đối trị. Một khi bạn đã tẩy sạch mọi thứ đối trị...
Con người là sinh linh chủ thể. Nếu bệnh nhân yêu
bác sĩ, thế thì nước có thể có tác dụng như thuốc. Còn
nếu bệnh nhân ghét bác sĩ, thế thì chẳng thuốc nào có
ích cả. Nếu bệnh nhân cảm thấy bác sĩ dửng dưng -
thường đây là trường hợp với các bác sĩ, bởi vì họ cũng
là con người, suốt ngày gặp bệnh nhân, suốt ngày ai đó
chết... Họ dần dần trở nên chai cứng, họ tạo ra rào chắn
với xúc động của mình, với tình cảm, lòng nhân đạo.
Nhưng điều này ngăn cản thuốc của họ phát huy tác
dụng. Nó được trao gần như theo kiểu người máy,
dường như máy đang cho bạn thuốc.
Với tình yêu, bệnh nhân không chỉ được thuốc,
xung quanh thuốc cái gì đó vô hình cũng đang tới với
người đó. Y học phải hiểu tính chủ thể của con người,
tình yêu của con người, và sẽ phải tạo ra một loại tổng
hợp nào đó để qua đó tình yêu và y học cùng được sử
dụng để giúp cho con người.
Nhưng một điều tuyệt đối chắc chắn: rằng y học
không bao giờ có thể trở thành hoàn toàn khách quan
được. Điều đó đã là nỗ lực của y học mãi cho tới nay,
để làm cho nó tuyệt đối khách quan.7
******************************************************
#4 Cách tiếp cận mạnh khoẻ khác
Tất cả mọi vấn đề đều mang tính thần kinh bởi vì
thân thể và tâm trí không phải là hai thứ. Tâm trí là
phần bên trong của thân thể, và thân thể là phần bên
ngoài của tâm trí, cho nên bất kì cái gì có thể bắt đầu
trong thân thể đều có thể đi vào trong tâm trí, hay
ngược lại: nó có thể bắt đầu trong tâm trí và đi vào
trong thân thể. Không có phân chia, không có vách
ngăn chắc chắn.
Cho nên mọi vấn đề đều có hai cạnh với chúng:
chúng có thể được xử trí qua tâm trí và qua thân thể.
Và mãi cho tới nay điều này đã là thực tế trên thế giới:
vài người tin rằng tất cả các vấn đề là từ thân thể - các
nhà sinh lí học, những người theo Pavlov, những nhà
hành vi chủ nghĩa... Họ chữa trị thân thể, và tất nhiên
trong năm mươi phần trăm trường hợp họ thành công.
Và họ hi vọng rằng khoa học phát triển họ sẽ thành
công thêm nữa, nhưng họ sẽ không bao giờ thành công
hơn năm mươi phần trăm; điều đó chẳng liên quan gì
tới sự phát triển khoa học cả.
Thế rồi toán bên kia có đó, những người cho rằng
tất cả mọi vấn đề đều là từ tâm trí - cũng sai như toán
thứ nhất. Những người theo khoa học Ki tô giáo và các
nhà thôi miên và người có tài thôi miên, các nhà trị liệu
tâm lí, tất cả họ đều nghĩ mọi vấn đề là của tâm trí. Họ
cũng thành công cho năm mươi phần trăm trường hợp;
họ cũng nghĩ rằng sớm hay muộn họ sẽ thành công
ngày một nhiều hơn. Điều đó là vô nghĩa. Họ không
thể thành công hơn năm mươi phần trăm; đó là giới
hạn.
Hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ mỗi vấn đề phải
được xử trí từ cả hai phía cùng nhau, đồng thời. Nó
phải bị công kích từ nhiều cửa, cuộc tấn công trên hai
mặt trận; thế thì con người có thể được chữa khỏi một
trăm phần trăm. Bất kì khi nào khoa học trở nên hoàn
hảo nó sẽ làm việc theo cả hai cách...
Trước hết là thân thể, bởi vì thân thể là cánh cổng
vào tâm trí - hành lang vào. Và bởi vì thân thể là thô
nên nó vẫn còn dễ dàng thao tác được. Trước hết thân
thể phải được giải phóng khỏi mọi cấu trúc đã tích luỹ
của nó. Nếu bạn đã sống lâu với cảm giác rằng bạn
yếu, thế thì điều đó phải đã đi vào trong thân thể, vào
trong chính cấu trúc của thân thể. Trước hết điều đó
phải được làm nhẹ bớt từ đó; và đồng thời tâm trí bạn
phải được hứng khởi để cho nó có thể bắt đầu đi lên và
có thể bắt đầu vứt bỏ mọi tải trọng vẫn giữ nó trĩu
xuống.8
#4Tôi hiểu rằng khoa học về Yoga coi con người
không chỉ có một mà nhiều kiểu thân thể. Nếu điều
này là như vậy, thì liệu từ đó có suy được ra rằng
với những cá nhân khác nhau, loại thuốc này có
thể có tác dụng hiệu quả hơn thuốc khác không,
tuỳ theo ốm bệnh bắt nguồn từ đâu?
Khoa học về con người còn chưa tồn tại. Yoga của
Patanjali là nỗ lực gần nhất đã được tiến hành. Ông ấy
chia thân thể thành năm tầng, hay thành năm thể. Bạn
không có một thể, bạn có năm thể; và đằng sau năm thể
này, là bản thể bạn. Cùng điều đã xảy ra trong tâm lí
thì cũng đã xảy ra trong y học. Đối trị liệu pháp chỉ tin
vào thể vật lí, thể thô. Nó song hành với chủ nghĩa
hành vi. Đối trị liệu pháp là y học thô nhất. Đó là lí do
tại sao nó đã trở thành khoa học, bởi vì các công cụ
khoa học chỉ có khả năng cho những thứ rất thô. Đi sâu
hơn đi.
Châm cứu, Trung y, đi vào thêm một tầng nữa. Nó
làm việc trên thể sống, pranamayakos. Nếu cái gì đó đi
sai trong thể vật lí, châm cứu không chạm tới thể vật lí
chút nào. Nó cố gắng làm việc trên thể sống. Nó cố
gắng làm việc trên năng lượng sinh học, bioplasma. Nó
giải quyết điều gì đó ở đó, và ngay lập tức thể thô bắt
đầu vận hành tốt. Nếu cái gì đó đi sai trong thể sống,
đối trị liệu pháp tác động trên thân thể, thể thô. Tất
nhiên, với đối trị liệu pháp, đấy là nhiệm vụ lên dốc.
Với châm cứu, đấy là nhiệm vụ xuống dốc. Nó là dễ
dàng hơn bởi vì thể sống có chút ít cao hơn thể vật lí.
Nếu thể sống được đặt đúng, thể vật lí đơn giản đi theo
nó bởi vì bản kế hoạch tổng thể tồn tại trong thể sống.
Thể vật lí chỉ là việc thực hiện của thể sống.
Bây giờ châm cứu đang nhận được kính trọng, dần
dần, bởi vì một cách chụp ảnh rất nhạy cảm, chụp ảnh
của Kirlian, đã bắt gặp bẩy trăm huyệt trong thân thể
con người như chúng bao giờ cũng đã được các nhà
châm cứu biết tới ít nhất năm nghìn năm nay. Họ
không có công cụ nào để biết huyệt ở đâu trong thân
thể, nhưng dần dần, qua thử và sai lầm, qua hàng thế
kỉ, họ đã phát hiện ra bẩy trăm huyệt. Bây giờ Kirlian
cũng đã phát hiện ra cùng bẩy trăm huyệt đó bằng công
cụ khoa học. Và việc chụp ảnh của Kirlian đã chứng tỏ
một điều: cố gắng thay đổi thể sống qua thể vật lí là
điều ngớ ngẩn. Đấy là việc cố gắng đổi chủ bằng việc
đổi tớ. Điều đó gần như không thể nào được bởi vì chủ
không nghe lời tớ. Nếu bạn muốn thay đổi đầy tớ, thay
đổi người chủ đi. Ngay lập tức, đầy tớ sẽ tuân theo.
Thay vì đi thay đổi từng người lính, tốt hơn cả là thay
đổi tướng. Thân thể có cả triệu lính, tế bào, đơn giản
làm việc theo mệnh lệnh nào đó, theo sự chỉ huy nào
đó. Thay đổi vị chỉ huy, và toàn bộ mẫu hình thân thể
thay đổi.
Vi lượng liệu pháp đi sâu thêm chút ít. Nó làm việc
trên manomayakos, thể tinh thần. Người sáng lập ra vi
lượng liệu pháp, Hannemann, đã phát hiện ra một trong
những điều vĩ đại nhất đã từng được phát hiện ra, và đó
là: lượng thuốc càng ít, nó lại càng đi sâu hơn. Ông ấy
gọi phương pháp làm thuốc vi lượng liệu pháp là ‘phân
mức hiệu nghiệm’. Họ cứ giảm mãi đi lượng thuốc.
Ông ấy sẽ làm việc theo cách này: ông ấy lấy một khối
lượng thuốc nào đó và sẽ trộn lẫn nó với mười lần khối
lượng đường sữa hay với nước. Một lượng thuốc, chín
lượng nước; ông ấy sẽ trộn chúng lại. Thế rồi ông ấy
lại lấy một lượng của dung dịch này, và lần nữa sẽ trộn
nó với chín lần nước thêm nữa, hay đường sữa. Theo
cách này ông ấy cứ tiếp tục mãi; lại từ dung dịch mới
ông ấy lấy ra một lượng và lại trộn nó với chín phần
nước nữa. Điều này ông ấy sẽ làm và mức hiệu nghiệm
của thuốc sẽ tăng lên.
Dần dần thuốc đạt tới mức độ nguyên tử. Nó trở
thành tinh tế đến mức bạn không thể tin được rằng nó
có thể có tác dụng; nó gần như là biến mất. Đó là điều
được viết trong vi lượng liệu pháp, mức hiệu nghiệm:
mười mức hiệu nghiệm, hai mươi mức hiệu nghiệm,
một trăm mức hiệu nghiệm, một nghìn mức hiệu
nghiệm. Mức hiệu nghiệm càng lớn, khối lượng thuốc
càng nhỏ. Với mười nghìn mức hiệu nghiệm, chỉ còn
lại một phần triệu liều thuốc nguyên gốc, gần như
không. Nó gần như biến mất, nhưng thế thì nó đi vào
cốt lõi sâu xa nhất của manomaya. Nó đi vào trong thể
tâm trí của bạn. Nó đi sâu hơn là châm cứu. Gần như là
bạn đạt tới nguyên tử, hay thậm chí mức độ hạ nguyên
tử. Thế thì nó không chạm vào thân thể bạn. Thế thì nó
không chạm vào thể sống của bạn; nó đơn giản đi vào.
Nó tinh tế và nhỏ bé đến mức nó đi xuyên qua không
có rào chắn nào. Nó có thể đơn giản trượt vào trong
manomayakos, vào trong thể tinh thần, và từ đó nó bắt
đầu vận hành. Bạn đã tìm được một uy quyền lớn hơn
pranamaya.
Ayurved, y học Ấn Độ, là tổng hợp của cả ba điều
này. Nó là một trong những cách tổng hợp y học nhất.
Thôi miên liệu pháp còn đi sâu hơn. Nó chạm tới
vigyanmayakos: thể thứ tư, thể của tâm thức. Nó không
dùng thuốc. Nó không dùng bất kì cái gì. Nó đơn giản
dùng gợi ý, có thế thôi. Nó đơn giản nêu ra một gợi ý
trong tâm trí bạn - gọi nó là từ lực thú vật, thuật thôi
miên, ru ngủ hay bất kì cái gì bạn thích cũng được,
nhưng nó vận hành qua sức mạnh của ý nghĩ, không
qua sức mạnh của vật chất. Ngay cả vi lượng liệu pháp
cũng vẫn là sức mạnh của vật chất trong một lượng rất
tinh tế. Thôi miên liệu pháp gạt bỏ vật chất, bởi vì dù
tinh tế đến đâu, vật chất vẫn cứ là vật chất... Mười
nghìn mức hiệu năng, nhưng dẫu sao, đấy vẫn cứ là
hiệu năng của vật chất. Nó đơn giản nhảy tới năng
lượng ý nghĩ, vigyanmayakos: thể tâm thức. Nếu tâm
thức của bạn chỉ chấp nhận một ý tưởng nào đó, nó bắt
đầu vận hành.
Thôi miên liệu pháp có tương lai lớn. Nó đang trở
thành thuốc tương lai, bởi vì nếu chỉ bằng việc thay đổi
mẫu hình tư duy của bạn mà tâm trí bạn có thể được
thay đổi, qua tâm trí mà thể sống của bạn thay đổi, và
qua thể sống mà thể thô của bạn thay đổi, thế thì tại sao
phải bận tâm tới chất độc, tại sao phải bận tâm tới
thuốc thô? Tại sao không làm việc với nó qua sức
mạnh tư duy? Bạn đã quan sát nhà thôi miên nào đang
làm việc trên người trung gian chưa? Nếu bạn chưa
quan sát, thì cũng đáng quan sát lắm. Nó sẽ cho bạn
hiểu thấu nào đó.
Bạn có thể đã nghe, hay bạn có thể đã thấy - ở Ấn
Độ điều đó xảy ra; bạn phải đã thấy người bước qua
lửa. Đấy chẳng gì khác hơn là thôi miên liệu pháp. Cái
ý tưởng rằng họ đang bị ám ảnh bởi một vị nam thần
hay nữ thần nào đó và không lửa nào có thể đốt cháy
họ được, chính ý tưởng đó là đủ. Ý tưởng này điều
khiển và làm biến đổi vận hành bình thường của thân
thể họ. Họ được chuẩn bị: trong hai mươi bốn giờ họ
nhịn ăn. Khi bạn nhịn ăn toàn bộ thân thể bạn sạch sẽ,
và không có chất bài tiết trong nó, cây cầu giữa bạn và
cái thô thiển bị bỏ đi. Trong hai mươi bốn giờ họ sống
trong ngôi đền hay chùa chiền, ca hát, nhảy múa, thành
hoà hợp với Thượng đế. Thế rồi một khoảnh khắc tới
khi họ bước lên lửa. Họ bước tới trong nhảy múa, bị
ám ảnh. Họ bước tới với niềm tin cậy tràn đầy rằng lửa
không đốt cháy được, có thế thôi; không có gì khác cả.
Cách thức tạo ra tin cậy mới là vấn đề. Thế rồi họ nhảy
múa trên lửa, và lửa không đốt cháy họ.
Việc này đã xảy ra nhiều lần đến mức ai đó, người
chỉ là một khán giả cũng trở nên bị ám ảnh thế. Hai
mươi người đang bước trên lửa và không bị cháy, và ai
đó sẽ lập tức trở nên tin tưởng thế: “Nếu những người
này bước được, sao mình lại không?”; và người đó
nhảy vào, và lửa cũng không đốt cháy người đó. Trong
khoảnh khắc bất thần đó, tin cậy nảy sinh. Đôi khi điều
đã xảy ra là người đã được chuẩn bị, lại bị cháy. Đôi
khi một khán giả chưa chuẩn bị gì bước trên lửa mà
không bị cháy. Điều gì đã xảy ra? - người được chuẩn
bị phải đã mang hoài nghi. Họ phải đã nghĩ liệu điều
đó có xảy ra hay không. Một nghi ngờ tinh tế phải vẫn
còn lại trong vigyanmayakos, trong tâm thức họ. Đấy
không phải là tin cậy hoàn toàn. Cho nên họ tới, nhưng
với hoài nghi. Bởi hoài nghi đó, thân thể không thể nào
nhận được thông báo từ linh hồn cao hơn. Hoài nghi tới
ở giữa, và thân thể vẫn tiếp tục vận hành theo cách
thông thường; nó bị cháy. Đó là lí do tại sao mọi tôn
giáo đều nhấn mạnh vào tin cậy.
Tin cậy là thôi miên liệu pháp. Không có tin cậy,
bạn không thể đi vào phần tinh tế của bản thể mình, bởi
vì với một hoài nghi nhỏ, và bạn bị ném lại với cái thô
thiển. Khoa học làm việc với hoài nghi. Hoài nghi là
phương pháp trong khoa học bởi vì khoa học làm việc
với cái thô thiển. Dù bạn hoài nghi hay không, nhà đối
trị cũng chẳng băn khoăn. Ông ấy không yêu cầu bạn
phải tin cậy vào thuốc của mình; ông ấy đơn giản cho
bạn thuốc. Nhưng nhà vi lượng sẽ hỏi liệu bạn có tin
hay không, bởi vì không có niềm tin của bạn thì sẽ khó
khăn hơn cho nhà vi lượng làm việc với bạn. Còn nhà
thôi miên liệu pháp sẽ yêu cầu buông xuôi toàn bộ; nếu
không thì chẳng thể làm gì được cả.
Tôn giáo là buông xuôi. Tôn giáo là thôi miên liệu
pháp. Nhưng, vẫn còn một thể nữa. Đó là
anandmayakos: thể phúc lạc. Thôi miên liệu pháp đi
tới thể thứ tư. Thiền đi tới thể thứ năm. Thiền
meditation - chính từ này là đẹp bởi vì gốc rễ cũng
cùng như ‘thuốc - medicine’. Cả hai có cùng gốc, thuốc
và thiền đều là các nhánh của một từ: cái chữa lành, cái
làm cho bạn thành mạnh khoẻ và cái toàn thể là thuốc -
và ở mức sâu nhất đó là thiền.
Thiền thậm chí không nêu cho bạn lời gợi ý bởi vì
lời gợi ý được trao từ bên ngoài. Một ai đó khác phải
nêu cho bạn lời gợi ý. Gợi ý có nghĩa là bạn phụ thuộc
vào ai đó. Họ không thể làm cho bạn ý thức hoàn hảo
được bởi vì sẽ phải cần tới người khác, và cái bóng sẽ
che phủ bản thể bạn. Thiền làm cho bạn ý thức hoàn
hảo, không có cái bóng nào - ánh sáng tuyệt đối không
có bóng tối. Bây giờ thậm chí lời gợi ý cũng bị coi như
là một thứ thô thiển. Ai đó gợi ý - điều đó có nghĩa là
một cái gì đó tới từ bên ngoài, và trong phân tích tối
thượng cái tới từ bên ngoài là mang tính vật chất.
Không chỉ vật chất, mà cái mà tới từ bên ngoài là mang
tính vật chất. Thậm chí ý nghĩ cũng là dạng tinh tế của
vật chất. Thậm chí thôi miên liệu pháp cũng là mang
tính vật chất.
Thiền loại bỏ tất cả mọi cái ủng hộ, mọi cái hỗ trợ.
Đó là lí do tại sao việc hiểu thiền lại là điều khó nhất
trong thế giới này, bởi vì chẳng còn lại gì cả - chỉ hiểu
biết thuần khiết, chứng kiến.9
#4Wilheilm Reich nói trong cuốn sách của mình, Hãy
lắng nghe, hỡi con người nhỏ nhen, rằng ông ấy
thấy rằng con người vươn ra ngoài năng lượng
sống của mình khi người đó cảm thấy khoẻ và yêu;
rằng con người kéo lại năng lượng đó khi người ta
sợ hãi. Reich nói rằng ông ấy thấy là năng lượng
sống của con người - điều ông ấy đặt thuật ngữ là
‘orgone’ - lực sống vũ trụ - được ‘tìm thấy trong
bầu khí quyền’, bên ngoài thân thể. Ông ấy nói
ông ấy thành công trong việc thấy nó và đã phát
minh ra công cụ để khuếch đại nó.
Điều ông ấy quan sát có phải vậy không?
Wilhelm Reich là một trong những người thông
minh được sinh ra trong thế kỉ này. Điều ông ấy đã
thấy thì đã từng được biết tới ở phương Đông như hào
quang. Bạn phải đã thấy quanh tượng Phật hay
Mahavira hay Krishna - một hào quang tròn quanh đầu.
Hào quanh tròn quanh đầu đó là thực tế. Điều Wilhelm
Reich nói là đích xác đúng, nhưng những người mà
ông ấy nói với lại không phải là những người hiểu
được nó. Họ nghĩ ông ấy điên bởi vì ông ấy đã mô tả
cuộc sống như năng lượng bao quanh thân thể. Điều đó
đích xác đúng.
Cuộc sống là năng lượng bao quanh thân thể bạn.
Không chỉ thân thể bạn, mà hoa, cây - mọi thứ đều có
hào quang riêng của nó. Và hào quang đó, năng lượng
bao quanh bạn đó co lại và dãn ra trong những tình
huống khác nhau. Bất kì tình huống nào năng lượng
của bạn co lại đều nên coi là xấu, ốm yếu. Và mọi tình
huống năng lượng bạn mở rộng, nên coi là đáng kính
trọng và đáng yêu. Trong tình yêu năng lượng của bạn
vươn ra, bạn trở thành sống động hơn. Và khi bạn
trong sợ hãi, năng lượng bạn co lại, bạn trở nên kém
sinh động.
Bây giờ Wilhelm Reich đáng thương bị người Mĩ
coi là điên bởi vì ông ấy không chỉ khuếch đại năng
lượng đó - ông ấy đã tìm ra vài bài tập trong đó năng
lượng này khuếch đại lên - ông ấy thậm chí còn bắt
được năng lượng đó vào trong hộp, các cái hộp lớn
trong đó một người có thể đi vào được. Và nếu người
này ốm người đó sẽ đi ra toàn thể và mạnh khoẻ. Một
cách tự nhiên một người như thế phải bị coi là điên.
Ông ấy đã bán các cái hộp đó, hộp rỗng - nhưng chúng
lại không trống rỗng. Ông ấy đã tìm ra cách thu thập
năng lượng có sẵn trong bầu không khí. Quanh cái cây
bạn có thể thấy rằng năng lượng đang tuôn trào, nhưng
với đôi mắt trần của mình bạn không thể thấy nó được.
Sau khi ông ấy bị tuyên bố là điên và bị bỏ tù, một
người khác ở Liên Xô thậm chí còn giải quyết được
việc chụp ảnh nó. Và bây giờ nó đã trở thành tâm lí
được thừa nhận tại Liên Xô, rằng cuộc sống có hào
quang. Và người này, Kirlian, đã phát triển một tấm
kính ảnh nhạy nào đó để chụp ảnh nó. Ông ấy đã chụp
bàn tay, và bàn tay hiện ra với vầng hào quang vây
quanh nó. Theo một cách rất lạ các ảnh của ông ấy
thậm chí còn chỉ ra liệu một người có ốm đau gì trong
sáu tháng không: “Ngay bây giờ người đó không biểu
lộ bất kì hình mẫu ốm yếu nào, nhưng hào quang của
người đó đang co lại tại điểm nào đó...” Và nếu tại
điểm nào đó hào quang đang co lại - có thể người đó sẽ
trở thành điếc hay mù nếu hào quang mắt co lại. Và tất
cả ảnh chụp của ông ấy đều được chứng minh là đúng.
Khi ông ấy nói, “Người này có nguy cơ mất thị lực,”
thì không có dấu hiệu nào thấy được, không có lí do
nào để tin vào điều đó, nhưng trong vòng sáu tháng
người đó trở nên loà. Bây giờ trong tâm lí học xô viết,
việc chụp ảnh của Kirlian được chính phủ thừa nhận.
Điều đó cũng lan rộng sang nhiều nước khác. Một
người có thể được chữa trị trước khi người đó trở nên
ốm. Việc chụp ảnh của Kirlian mang tính rất tiên đoán.
Nó chỉ ra, ít nhất sáu tháng trước đó, điều gì sẽ xảy ra.
Tại phương Đông người ta đã biết tới từ nhiều thế
kỉ nay rằng trước cái chết của bạn, sáu tháng trước đó,
bạn chấm dứt khả năng thấy chỏm mũi mình. Bởi vì
mắt bạn bắt đầu quay ngược lên, chúng không có khả
năng thấy được chỏm mũi bạn. Khoảnh khắc bạn nhận
ra mình không thể thấy được chỏm mũi có nghĩa là
trong vòng sáu tháng năng lượng của bạn sẽ co lại, trở
ngược về cội nguồn của nó. Và hào quang, không có kĩ
thuật chụp ảnh nào, đã được yoga thừa nhận từ năm
nghìn năm nay. Nhưng bây giờ, nó có thể được chấp
nhận trên nền tảng khoa học.
Wilhelm Reich là một thiên tài duy nhất. Ông ấy có
thể xoay xở để thấy và cảm cái điều thông thường
không thể thấy được. Nhưng nếu bạn rất mang tính
thiền, bạn sẽ bắt đầu thấy hào quang của mọi người,
thậm chí hào quang của riêng bạn. Bạn sẽ thấy tay của
mình với các tia sáng quanh nó, rạng ngời. Và khi bạn
mạnh khoẻ bạn sẽ cảm thấy hào quang của mình lan
rộng. Khi bạn ốm yếu bạn sẽ cảm thấy hào quang mình
co lại - cái gì đó đang co lại bên trong bạn.
Khi bạn ở bên cạnh người ốm, bạn sẽ có cảm giác
kì lạ rằng người đó bằng cách nào đó làm cho bạn cảm
thấy ốm, bởi vì người ốm khai thác hào quang của
người khác mà người khác không biết. Người đó cần
nhiều sự sống, cho nên bất kì ai có sự sống và tới
quanh người đó, người đó đều lấy sự sống của người
này. Và bằng kinh nghiệm bạn biết, nhưng không hiểu,
rằng có người bạn muốn tránh, bởi vì gặp họ bạn cảm
thấy ốm yếu, gặp họ bạn cảm thấy rằng cái gì đó đã bị
lấy đi khỏi bạn. Và có những người bạn muốn gặp, bởi
vì gặp họ bạn cảm thấy sự mở rộng, bạn cảm thấy sinh
động hơn.
Wilhelm Reich là phải, nhưng không may là đám
đông lại chẳng bao giờ chấp nhận thiên tài của riêng
họ: ngược lại, họ kết án những người này, bởi vì nếu
Wilhelm Reich là phải, thế thì mọi người khác gần như
là mù. Và trong giận dữ ông ấy đã viết cuốn sách, Hãy
lắng nghe, hỡi con người nhỏ nhen. Nhưng cuốn sách
đó hay, và giận dữ của ông ấy có thể được tha thứ bởi
vì ông ấy đã bị ‘con người nhỏ nhen’, đám đông,
ngược đãi. Ông ấy là người đầu tiên bị coi là điên, thế
rồi bị buộc vào nhà thương điên, và ông ấy chết trong
nhà thương điên. Tại phương Đông ông ấy đáng phải
trở thành một Phật Gautam. Ông ấy có phẩm chất, có
cái sáng suốt. Nhưng một xã hội sai, một xã hội của
những con người rất nhỏ nhen, của những con người
rất nhỏ mọn, những tâm trí chật hẹp, người không thể
nào quan niệm được cái bao la, người không thể nào
quan niệm được điều bí ẩn...
Toàn bộ bầu không khí đều tràn đầy cuộc sống. Và
nếu bạn hiểu cội nguồn riêng của mình về cuộc sống
bạn bỗng nhiên sẽ nhận biết rằng chim chóc sống động,
cây cối sống động, bãi cỏ sống động - mọi nơi đều có
cuộc sống! Và bạn có thể nhảy múa với cuộc sống này,
bạn có thể bắt đầu có đối thoại với bầu không khí. Tất
nhiên, mọi người sẽ nghĩ bạn điên, bởi vì mọi người
vẫn như cũ. Cũng những người đó đã đóng đinh Jesus,
cũng những người đã buộc Wilhelm Reich vào nhà
thương điên, cũng những người đã đầu độc Socrates...
nhưng những con người nhỏ nhen đó lại là đa số.
Sự giận dữ của Wilhelm Reich là phải, nhưng tôi
vẫn nói rằng thay vì giận dữ, con người nhỏ nhen đó
cần tới lòng từ bi. Ông ấy đã giận dữ bởi vì họ đã
ngược đãi ông, họ đã phá huỷ toàn bộ cuộc sống của
ông. Thay vì hiểu ông ấy - ông ấy sẽ mở cánh cửa mới
cho việc kinh nghiệm, cho việc yêu, cho việc sống - họ
lại phá huỷ con người này hoàn toàn. Hiển nhiên, ông
ấy trở nên giận dữ.
Tại phương Đông, cùng con người nhỏ nhen đó có
đó, nhưng thiên tài phương Đông chưa bao giờ giận dữ
họ cả. Thay vì giận dữ, nó đã biểu lộ lòng từ bi, nó đã
cảm thấy từ bi về sự mù quáng của họ, và nó đã cố
gắng theo mọi cách để đem ánh sáng lại cho họ, một
chút ít hiểu biết cho trái tim họ.10
Khi bạn tiếp cận với bất kì khoa học phương Đông
nào bằng tâm trí phương Tây thì bạn bỏ lỡ nhiều thứ.
Toàn bộ cách tiếp cận của bạn là khác: nó là phương
pháp luận, nó là logic, phân tích. Và các khoa học
phương Đông này không thật sự là khoa học mà là
nghệ thuật. Toàn bộ vấn đề phụ thuộc vào liệu bạn có
thể dịch chuyển năng lượng của mình từ trí tuệ sang
trực giác hay không, liệu bạn có thể dịch chuyển từ
nam tính sang nữ tính, từ dương sang âm; từ cách tiếp
cận tích cực, năng nổ, bạn có thể trở thành thụ động,
tiếp nhận không? Chỉ thế thì những việc này mới có tác
dụng; ngoài ra bạn có thể học tất cả mọi điều về châm
cứu, và nó vẫn cứ không là châm cứu chút nào. Bạn sẽ
biết tất cả về nó; nhưng không biết nó. Và đôi khi việc
xảy ra là một người có thể không biết nhiều về nó
nhưng lại biết nó, nhưng thế thì nó là mẹo - chỉ là một
cái nhìn sáng tỏ vào trong nó.
Cho nên điều này đang xảy ra cho nhiều thứ
phương Đông: phương Tây trở nên quan tâm - chúng là
điều uyên thâm. Phương Tây trở nên quan tâm tới một
điều phương Đông, nhưng thế rồi nó lại đem tâm trí
của mình vào để hiểu điều đó. Khoảnh khắc tâm trí
phương Tây đi vào trong nó, chính cơ sở của nó bị phá
huỷ. Thế thì chỉ các mảnh vụn là còn lại và những
mảnh đó không bao giờ có tác dụng cả. Và không chỉ
châm cứu là không có tác dụng, châm cứu có thể có tác
dụng, nhưng nó chỉ có thể có tác dụng qua cách tiếp
cận phương Đông.
Cho nên nếu bạn thực sự muốn học châm cứu,
chẳng hạn, biết về nó cũng là điều tốt nhưng phải luôn
nhớ đấy không phải là điều tinh tuý nhất. Việc học bất
kì thông tin gì đều là có thể được cả, thế rồi quên tất cả
thông tin đi và bắt đầu mò mẫm trong bóng tối. Bắt đầu
lắng nghe cái vô thức của bạn, bắt đầu cảm trong mối
quan hệ với bệnh nhân. Đó là khác biệt...
Khi một bệnh nhân tới một người hành nghề y Tây
phương, người hành nghề y Tây phương này bắt đầu
lập luận, chẩn đoán, phân tích, tìm kiếm xem liệu ốm
bệnh là từ đâu, ốm bệnh này là gì, và cái gì có thể chữa
được cho nó. Người đó dùng một phần của tâm trí
mình, phần lập luận. Người đó tấn công vào bệnh tật,
người đó bắt đầu chinh phục nó: trận đánh bắt đầu giữa
bệnh tật và bác sĩ. Bệnh nhân chỉ đứng ngoài trò - bác
sĩ không bận tâm tới bệnh nhân. Ông ta bắt đầu quần
nhau với bệnh tật - bệnh nhân hoàn toàn bị bỏ quên
lãng.
Khi bạn tới nhà châm cứu bệnh tật không quan
trọng, bệnh nhân mới quan trọng, bởi vì chính bệnh
nhân mới tạo ra bệnh tật: nguyên nhân là ở trong bệnh
nhân, bệnh tật chỉ là triệu chứng. Bạn có thể thay đổi
triệu chứng này và triệu chứng khác sẽ nẩy ra. Bạn có
thể trấn áp bệnh này bằng thuốc, bạn có thể chấm dứt
sự lộ diện của nó, nhưng thế rồi bệnh này sẽ tự khẳng
định nó ở đâu đó khác và với nguy hiểm hơn, mạnh mẽ
hơn, với sự trả thù. Bệnh tiếp sẽ khó xử trí hơn là bệnh
đầu. Bạn lại uống thuốc chống nó, thế thì bệnh thứ ba
thậm chí lại còn khó hơn nữa.
Đấy là cách đối trị liệu pháp đã tạo ra ung thư. Bạn
cứ ép buộc đẩy bệnh sang một bên, nó lại tự khẳng
định nó từ bên kia, thế rồi bạn lại chèn ép nó ở bên kia
- bệnh bắt đầu trở nên rất, rất giận dữ. Và bạn không
thay đổi bệnh nhân, bệnh nhân vẫn như cũ; thế là bởi vì
nguyên nhân vẫn tồn tại, nguyên nhân cứ tạo ra hậu
quả.
Châm cứu giải quyết với nguyên nhân. Đừng bao
giờ đi giải quyết hậu quả, bao giờ cũng đi tới nguyên
nhân. Và làm sao bạn có thể đi tới nguyên nhân được?
Lập luận không thể đi tới nguyên nhân được - nguyên
nhân là quá lớn không thể lập luận được - nó chỉ có thể
xử trí hậu quả. Chỉ thiền mới có thể đi tới nguyên nhân.
Cho nên người châm cứu sẽ cảm bệnh nhân. Người đó
sẽ quên đi tri thức của mình, người đó sẽ chỉ cố gắng
được đồng điệu với bệnh nhân. Người đó sẽ đi vào
trong quan hệ; người đó sẽ bắt đầu cảm thấy chiếc cầu
với bệnh nhân. Người đó sẽ bắt đầu cảm thấy bệnh tật
của bệnh nhân trong thân thể mình, trong hệ thống
năng lượng riêng của mình. Đó là cách duy nhất cho
người đó biết một cách trực giác nguyên nhân là ở đâu,
bởi vì nguyên nhân bị giấu kín. Người đó sẽ trở thành
tấm gương và người đó sẽ tìm thấy sự phản xạ trong
bản thân mình.
Đây là toàn bộ quá trình về nó, và điều này lại
không được dạy bởi vì nó không thể dạy được. Nó thực
sự đáng giá để đi vào, cho nên gợi ý của tôi là trước hết
học theo phương Tây trong hai năm, thế rồi ít nhất
trong sáu tháng đi về một nước Viễn Đông nào đó và
sống cùng với một nhà châm cứu nào đó. Chỉ trong sự
hiện diện của người đó - chỉ để cho người đó làm việc
và bạn quan sát. Chỉ hấp thu năng lượng của người đó,
và thế thì bạn sẽ có khả năng làm điều gì đó; bằng
không thì nó là khó.11
Nếu bạn bắt đầu cảm thấy dần năng lượng của
riêng mình, hay làm việc với năng lượng này trong
thân thể riêng của bạn, châm cứu sẽ không còn chỉ là kĩ
thuật nữa, nó sẽ trở thành nhạc cụ. Và đó là sáng suốt -
bạn có thể học kĩ thuật và chẳng có gì đi ra từ nó cả -
nó là linh cảm hơn là nghệ thuật. Đó là một trong
những khó khăn nhất về các kĩ thuật cổ đại: chúng
không phải là khoa học, và nếu bạn tiếp cận chúng với
cái nhìn khoa học thì bạn có thể có cái nhìn mơ hồ
nhưng phần lớn bị mất. Và bất kì cái gì bạn có thể nắm
bắt được cũng sẽ không nhiều nhặn gì cho lắm, và nó
sẽ là thất vọng.
Toàn bộ cách tiếp cận cổ đại là hoàn toàn khác: nó
không logic chút nào, nó nhiều nữ tính hơn, nhiều trực
giác hơn, nhiều phi logic hơn. Người ta không nghĩ
theo tam đoạn luận như tâm trí khoa học nghĩ; thay vì
thế, người ta trong tham gia sâu sắc với sự tồn tại -
phần nhiều trong trạng thái mơ, trong khải lộ, và cho
phép tự nhiên tiết lộ các bí mật và bí ẩn của nó. Đấy
không phải là xâm lăng vào tự nhiên... nhiều nhất thì
chỉ là thuyết phục. Và cách tiếp cận là từ bên trong.
Người ta phải tiếp cận tới thân thể của riêng mình
từ cốt lõi bên trong nhất. Bẩy trăm huyệt đó không
được biết tới theo cách khách quan, chúng được biết tới
trong thiền sâu sắc. Khi người ta đi sâu vào bên trong
và nhìn từ bên trong - một kinh nghiệm cực kì lớn -
người ta có thể thấy tất cả các huyệt châm cứu bao
quanh mình, dường như bầu trời đêm đầy sao. Và khi
bạn đã thấy những điểm năng lượng này, chỉ thế thì
bạn mới sẵn sàng. Bây giờ bạn có cái hiểu thấu bên
trong, và chỉ bằng việc chạm vào thân thể người khác,
bạn sẽ có khả năng cảm thấy chỗ nào năng lượng thân
thể bị mất và chỗ nào thì không có; chỗ nào nó đang di
chuyển, chỗ nào nó không di chuyển; chỗ nào nó lạnh
và chỗ nào nó ấm; chỗ nào nó sống và chỗ nào nó đã
chết. Có những điểm tại đó nó đáp ứng, và có những
điểm tại đó nó không đáp ứng chút nào.
Bạn sẽ có khả năng biết tới châm cứu chỉ tới mức
bạn trở nên có khả năng biết về chính mình, và khi cả
hai điều này trùng nhau, có ánh sáng vĩ đại. Trong ánh
sáng đó bạn có thể thấy mọi thứ - không chỉ về bản
thân mình, mà còn về các thể của người khác. Cái nhìn
mới nảy sinh dường như con mắt thứ ba đã mở ra.12
******************************************************
#5 Chức năng của thầy chữa
Nghề y không phải là nghề thường. Nó không chỉ
là công nghệ, bởi vì con người có tham dự vào. Bạn
không sửa cái máy, đấy không chỉ là vấn đề bí quyết,
đấy là vấn đề sâu sắc về tình yêu...
Bạn đang chơi với con người và mạng sống của họ,
và đó là một hiện tượng phức tạp. Đôi khi người ta có
thể phạm phải lỗi lầm, và những lỗi lầm này có thể
thành việc chấm dứt cuộc sống của ai đó. Cho nên đi
vào với lời cầu nguyện sâu sắc đi. Đi vào với lòng nhân
đạo, khiên tốn, giản dị.
Những người đơn giản đi vào ngành y cứ dường
như họ đang đi vào trong kĩ nghệ thì không phải đúng
là người làm bác sĩ hay bác sĩ điều trị - họ là những
người sai. Nhưng người không bao giờ cảm thấy phân
vân lưỡng lự thì đều là những người sai. Họ sẽ làm
việc trên con người cứ như là thợ sửa động cơ xử trí
với chiếc xe ô tô. Họ sẽ không cảm thấy sự hiện diện
tâm linh của bệnh nhân. Họ sẽ không chữa trị con
người, họ sẽ chữa trị triệu chứng. Tất nhiên, họ có thể
rất chắc chắn; nhà kĩ thuật bao giờ cũng chắc chắn.
Nhưng khi bạn có sự tham dự của con người thì bạn
không thể nào chắc chắn được đến thế: do dự là tự
nhiên. Người ta nghĩ hai lần, ba lần trước khi làm điều
gì đó, bởi vì có sự tham dự của cuộc sống quí giá -
cuộc sống mà chúng ta không thể nào tạo ra được, cuộc
sống mà một khi đã trôi qua rồi là trôi qua mãi mãi. Và
đó là một cá nhân, người không thể nào thay thế được,
duy nhất, người giống thế chưa bao giờ có đó, và người
giống thế sẽ chẳng bao giờ có lại nữa. Bạn đang chơi
với lửa - do dự là tự nhiên. Đi vào trong nó với khiêm
tốn mênh mông. Có kính trọng sâu sắc với bệnh nhân
đi. Và trong khi chữa trị cho người đó, trở thành
phương tiện của năng lượng thiêng liêng. Đừng trở
thành bác sĩ, đơn giản trở thành phương tiện của năng
lượng chữa lành thiêng liêng - chỉ là một nhạc cụ. Để
bệnh nhân có đó - kính trọng lớn với bệnh nhân, đừng
điều trị người đó như một vật - và để Thượng đế có đó,
và với lời cầu nguyện sâu sắc cho phép Thượng đế
tuôn chảy qua bạn và đạt tới bệnh nhân. Bệnh nhân
đang ốm yếu; người đó không thể nối với Thượng đế
được. Người đó đã đi xa. Người đó đã quên mất chính
ngôn ngữ về cách chữa lành cho mình. Người đó đang
trong trạng thái tuyệt vọng. Bạn không thể trách người
đó được; người đó đang trong trạng thái bất lực.
Ai đó đang mạnh khoẻ có thể có ích lớn lao lắm
nếu người đó trở thành phương tiện. Và nếu người
mạnh khoẻ cũng là người hiểu biết, điều đó có thể còn
quan trọng hơn, bởi vì năng lượng thiêng liêng có thể
cho bạn chỉ những hướng dẫn rất tinh tế - chúng phải
được bạn giải mã. Nếu bạn biết về thuốc, thì bạn có thể
giải mã nó rất dễ dàng. Và thế thì bạn chẳng làm điều
gì cho bệnh nhân cả, chính Thượng đế đang làm điều
đó. Bạn làm bản thân mình thành sẵn có cho Thượng
đế và bạn làm cho tất cả các tri thức của mình thành
sẵn có. Chính năng lượng chữa lành của Thượng đế
trong hợp nối với tri thức của bạn mới thành có ích. Và
nó không bao giờ làm hại cả. Bạn có thể gây hại. Cho
nên vứt bỏ bản thân mình đi, để cho Thượng đế có đó.
Đi vào nghề y, và cứ thiền.13
Mọi người đều có thể trở thành thầy chữa. Việc
chữa lành là cái gì đó giống như việc thở vậy; nó là tự
nhiên. Ai đó ốm; điều đó có nghĩa là người đó đánh
mất khả năng chữa lành cho chính mình. Người đó
không còn nhận biết về cội nguồn chữa lành của riêng
mình. Thầy chữa giúp người đó được gắn nối lại. Cội
nguồn đó là cùng một với cội nguồn mà thầy chữa rút
ra, nhưng người ốm đã quên mất cách hiểu ngôn ngữ
của nó. Thầy chữa đang trong mối quan hệ với cái toàn
thể, cho nên người đó có thể trở thành môi giới trung
gian. Thầy chữa chạm vào thân thể người ốm và trở
thành mối nối giữa người đó và cội nguồn. Bệnh nhân
không được nối một cách trực tiếp với cội nguồn cho
nên người đó trở nên được nối gián tiếp. Một khi năng
lượng này bắt đầu tuôn chảy, người đó được chữa lành.
Và nếu thầy chữa thực sự là người hiểu biết... bởi
vì bạn có thể trở thành thầy chữa và bạn có thể không
phải là con người của hiểu biết. Có nhiều thầy chữa
vẫn cứ làm điều đó nhưng họ không biết tại sao điều đó
xảy ra; họ không biết cơ chế của nó. Nếu bạn cũng hiểu
nữa, thì bạn có thể giúp cho bệnh nhân được chữa lành
và bạn có thể giúp cho người đó nhận biết về cội nguồn
mà từ đó việc chữa lành đang xảy ra. Cho nên không
chỉ người đó được chữa lành bệnh tật hiện tại của
mình, người đó còn được ngăn ngừa khỏi bệnh tương
lai. Thế thì việc chữa lành là hoàn hảo. Nó không chỉ là
chữa chạy, nó còn là phòng ngừa nữa.
Chữa lành gần như trở thành kinh nghiệm về lời
cầu nguyện, kinh nghiệm về Thượng đế, về tình yêu,
về cái toàn thể.14
******************************************************
#6 Thời gian cho chăm sóc, thời gian cho tình yêu
Dường như là tất cả các tôn giáo đều bận tâm với
người ốm, với người bị bệnh, với người nghèo. Không
ai quan tâm tới bạn và cái giầu có của bạn và cái lớn
lao của bạn và cái vĩ đại của bạn.
Tôi nói với bạn: Chừng nào bạn còn chưa yêu bản
thân mình, chừng nào bạn còn chưa tìm thấy giầu có
riêng của mình, chiều cao riêng của mình, bạn sẽ
không có khả năng chia sẻ tình yêu của mình với bất kì
ai cả. Chắc chắn là người ốm và người bị bệnh cần tới
sự chăm sóc, nhưng họ không cần tình yêu. Điều này
cần phải được hiểu, bởi vì Ki tô giáo đã làm cho điều
đó gần như thành một chân lí được chấp nhận phổ quát
- rằng điều mang tính tôn giáo vĩ đại nhất, điều tâm
linh nhất, là yêu lấy người ốm và người bị bệnh.
Nhưng điều đó hoàn toàn chống lại tâm lí và chống lại
tự nhiên. Khoảnh khắc bạn yêu người ốm thì bạn
không giúp người đó phục hồi lại từ cái ốm yếu của
mình, bởi vì khoảnh khắc người đó khoẻ mạnh thì
chẳng ai yêu người đó cả. Ốm yếu là cái cớ tốt để gợi
nên tình yêu của người khác với người đó.
Bạn có thể đã thấy điều đó, nhưng bạn có thể đã
không nghĩ về điều đó. Vợ làm việc cả ngày, hoàn toàn
mạnh khoẻ, nhưng khi chồng về nhà, nhìn qua cửa sổ,
cô ấy lập tức lên giường. Cô ấy đau đầu - bởi vì chừng
nào cô ấy không đau đầu thì anh chồng chẳng biểu lộ
tình yêu gì cả. Nhưng nếu cô ấy đau đầu, thì một cách
miễn cưỡng anh chồng ngồi bên cạnh cô ấy, xoa đầu cô
ấy, biểu lộ một loại tình yêu giả dối nào đó, nói những
lời dịu ngọt và đẹp đẽ. Trong nhiều tháng anh ta đã
không gọi cô ấy là ‘em yêu’, nhưng khi đau đầu có đó
thì anh ta phải gọi cô ấy là ‘em yêu’. Và đó là điều cô
ấy muốn được nghe, “Anh yêu em. Và anh yêu em
không chỉ có hôm nay, anh sẽ yêu em mãi mãi.”
Cũng thật kì lạ là bạn biểu lộ tình yêu của mình cho
con bạn khi chúng ốm. Nhưng bạn không hiểu một tâm
lí đơn giản về sự liên kết - ốm yếu và tình yêu trở thành
được liên kết với nhau. Bất kì khi nào đứa trẻ cần tình
yêu của bạn thì nó phải ốm. Ai chăm lo cho đứa trẻ
mạnh khoẻ, ai chăm lo cho người vợ mạnh khoẻ, ai
chăm lo cho người chồng mạnh khoẻ? Tình yêu dường
như là cái gì đó giống như thuốc; nó chỉ được cần tới
cho người ốm.
Tôi muốn điều đó được rõ ràng cho bạn - chăm sóc
người ốm, nhưng đừng bao giờ biểu lộ tình yêu. Chăm
nom người ốm là điều hoàn toàn khác. Vô tư đi, bởi vì
đau đầu không phải là cái gì đó lớn lao. Chăm nom,
nhưng tránh những chuyện tầm thường dịu ngọt; chăm
nom một cách rất thực dụng. Đặt thuốc lên đầu cô ấy,
nhưng đừng biểu lộ tình yêu, bởi vì điều đó là nguy
hiểm. Khi đứa trẻ ốm, chăm nom, nhưng tuyệt đối vô
tư. Làm cho đứa trẻ hiểu rằng bởi việc ốm nó không
thể hăm doạ bạn. Toàn bộ nhân loại đều đang doạ lẫn
nhau. Ốm yếu, già lão, bệnh hoạn đã trở thành gần như
việc yêu cầu, “Các vị phải yêu tôi bởi vì tôi ốm yếu, tôi
già lão...”
Khi ai đó ốm yếu bạn bầy tỏ tình yêu... Và đó là lệ
thường nhân loại đã tuân theo. Với người ốm bạn
không biểu lộ giận dữ, cho dù bạn đang giận dữ. Với
người ốm, cho dù bạn không cảm thấy yêu gì, bạn vẫn
cứ bầy tỏ tình yêu; nếu bạn không thể bầy tỏ tình yêu,
thì ít nhất cũng là thông cảm. Nhưng những điều này là
nguy hiểm, và rất chống lại những phát kiến tâm lí...
Bạn phải yêu lấy bản thân mình mà không nghĩ liệu
bạn có xứng đáng với điều đó hay không. Bạn đang
sống - điều đó là đủ bằng chứng rằng bạn xứng đáng
với tình yêu, cũng như bạn xứng đáng với việc thở vậy.
Bạn không nghĩ liệu bạn có xứng đáng với việc thở hay
không. Tình yêu là nuôi dưỡng tinh tế cho linh hồn,
cũng như thức ăn dành cho thân thể. Và nếu bạn tràn
đầy tình yêu với chính mình, bạn sẽ có khả năng yêu
người khác. Nhưng tình yêu là mạnh khoẻ, tình yêu là
mạnh mẽ.
Chăm sóc người ốm, chăm sóc người già; nhưng
chăm sóc là vấn đề hoàn toàn khác. Khác biệt giữa tình
yêu và chăm sóc là khác biệt giữa người mẹ và người
vú. Người vú chăm sóc, người mẹ yêu thương. Khi đứa
bé ốm thì thậm chí tốt hơn cả cho người mẹ là hãy là
người vú. Khi đứa trẻ khoẻ mạnh, rót thật nhiều tình
yêu mà bạn có thể có cho nó. Để cho tình yêu được liên
kết với mạnh khoẻ, sức mạnh, thông minh - điều đó sẽ
giúp cho đứa trẻ trên con đường dài trong cuộc đời
nó.15
******************************************************
#7 Cái chạm chữa lành
Xoa bóp là cái gì đó bạn có thể bắt đầu học nhưng
bạn chẳng bao giờ kết thúc. Nó cứ tiếp diễn mãi, và
kinh nghiệm liên tục trở thành ngày một sâu sắc hơn,
và ngày một cao hơn. Xoa bóp là một trong những
nghệ thuật tinh tế nhất - và đấy không chỉ là vấn đề
kinh nghiệm. Nó là vấn đề tình yêu nhiều hơn.
Học kĩ thuật - thế rồi quên nó đi. Thế rồi chỉ cảm
thấy, và di chuyển theo việc cảm. Khi bạn học một
cách sâu sắc, chín mươi phần trăm công việc được làm
bởi tình yêu, mười phần trăm bởi kĩ thuật. Bởi chính
cái chạm, cái chạm yêu thương, một cái gì đó làm
thảnh thơi trong thân thể.
Nếu bạn yêu và cảm thấy từ bi với người khác, và
cảm thấy giá trị tối thượng của người đó; nếu bạn
không đối xử với người đó cứ như là người đó là cái
máy cần phải đặt lại cho đúng, mà là một năng lượng
có giá trị mênh mông; nếu bạn biết ơn rằng người đó
tin cậy bạn và cho phép bạn chơi với năng lượng của
người đó - thế thì dần dần bạn sẽ cảm thấy dường như
bạn đang chơi trên chiếc đàn organ. Toàn bộ thân thể
trở thành các phím của chiếc đàn organ và bạn có thể
cảm thấy rằng hài hoà được tạo ra bên trong thân thể.
Không chỉ người đó sẽ được giúp đỡ mà cả bạn cũng
được giúp đỡ nữa.
Xoa bóp là cần thiết trên thế giới bởi vì tình yêu đã
biến mất. Có thời chính cái chạm của những người yêu
là đủ. Mẹ chạm vào con, chơi với thân thể nó, và đấy là
xoa bóp. Chồng chơi với thân thể người phụ nữ của
mình và đấy là xoa bóp; thế là đủ, quá đủ. Đấy là thảnh
thơi sâu sắc và một phần của tình yêu. Nhưng điều đó
đã biến mất khỏi thế giới này. Dần dần chúng ta đã
quên mất chỗ để chạm, cách chạm, cách chạm sâu sắc.
Trong thực tế chạm là một trong những ngôn ngữ bị
quên lãng nhiều nhất. Chúng ta đã gần như trở thành
vụng về trong động chạm, bởi vì chính từ này đã bị
biến chất bởi cái gọi là những người tôn giáo. Họ đã
cho nó màu sắc dục. Từ này đã trở thành dục và mọi
người đã trở nên sợ hãi. Mọi người đều cảnh giác
không để bị đụng chạm trừ phi người đó cho phép điều
ấy. Bây giờ ở phương Tây cực đoan khác lại tới. Động
chạm và xoa bóp đã trở thành mang tính dục. Bây giờ
xoa bóp chỉ là lớp vỏ che đậy, cái chăn, cho hoạt động
dục. Trong thực tế cả động chạm lẫn xoa bóp đều
không mang tính dục. Chúng là chức năng của tình
yêu. Khi tình yêu rơi khỏi chiều cao của nó thì nó trở
thành dục, và thế thì nó trở thành xấu.
Cho nên có tính cầu nguyện đi. Khi bạn chạm vào
thân thể của một người, có tính cầu nguyện đi - dường
như bản thân Thượng đế có đó, và bạn đang phục vụ
ngài. Tuôn chảy với toàn bộ năng lượng. Và bất kì khi
nào bạn thấy thân thể đang tuôn chảy và năng lượng
tạo ra hình mẫu hài hoà mới, bạn sẽ cảm thấy sung
sướng mà bạn chưa bao giờ cảm thấy trước đây. Bạn sẽ
rơi vào trong thiền sâu.
Trong khi xoa bóp, chỉ xoa bóp thôi. Đừng nghĩ tới
những thứ khác bởi vì những thứ đó là phân tán. Hiện
diện trong ngón tay và bàn tay bạn cứ như là toàn thể
bản thể bạn, toàn thể linh hồn bạn có đó. Đừng để nó
chỉ là cái chạm của thân thể. Toàn bộ linh hồn bạn đi
vào trong thân thể của người kia, thấm vào nó, làm
thảnh thơi những phức cảm sâu sắc nhất. Và làm cho
nó thành trò chơi. Đừng làm nó như công việc; làm nó
thành trò chơi và coi nó như vui đùa. Cười và để cho
người khác cũng cười nữa.16
Xoa bóp là đi tới mối quan hệ với năng lượng của
thân thể ai đó khác để cảm thấy chỗ nó đang thiếu, để
cảm thấy chỗ thân thể này đang bị phân đoạn và làm
cho nó thành toàn thể... để giúp cho năng lượng này
của thân thể đó sao cho nó không còn bị manh mún
nữa, không còn mâu thuẫn nữa. Khi những năng lượng
của thân thể này hoà theo và trở thành một dàn nhạc,
thế thì bạn thành công.
Cho nên rất kính trọng với thân thể con người đi.
Nó chính là điện thờ của Thượng đế, ngôi đền của
Thượng đế. Cho nên với lòng kính trọng sâu sắc, với
lời cầu nguyện, học nghệ thuật của mình. Đó là một
trong những điều vĩ đại nhất để học.17
Chỉ đặt tay bạn lên chỗ cần thiết của người đó. Nếu
người đó đau đầu, đặt tay bạn lên đầu người đó, nhắm
mắt lại, bắt đầu cảm thấy năng lượng đổ ra, và bạn sẽ
có cảm giác rân rân ở tay, chúng sẽ trở thành được điện
hoá. Hay nếu người này đang gặp trục trặc với dạ dầy,
đặt tay bạn lên dạ dầy. Phần cần thiết cần phải được
chạm tới. Nếu nó có thể được chạm tới một cách trần
trụi, không quần áo, thì tốt hơn, sẽ hiệu quả hơn.
Nhưng đừng chạm vào phần cần thiết nhiều hơn một
phút. Nếu bạn chạm vào phần cần thiết nhiều hơn một
phút, thế thì đôi khi bệnh tật có thể bắt đầu chảy sang
bạn.
Năng lượng là nhịp điệu: phút này nó đi ra, phút
khác nó đi vào. Cho nên coi thành vấn đề là khi bạn đặt
tay lên thân thể ai đó khác, thở ra; điều đó đồng bộ hoá
việc thở vào, thở ra. Khi bạn đặt tay lên họ, thở ra, và
cứ thở ra; và khi bạn thấy rằng bạn không thể nào thở
ra thêm được nữa, thì rụt tay lại và rồi thở vào. Nếu
bạn thở vào trong khi đặt tay bạn lên, thì bạn có thể bị
ảnh hưởng bởi bệnh đó. Người này có thể được chữa
lành nhưng bạn sẽ mắc bệnh, và điều đó là vô nghĩa.
Chỉ đặt tay bạn khi thở ra, và khoảnh khắc thở vào bắt
đầu, rụt tay lại.18
Khi bạn đang chữa cho một người, rất nhiều năng
lượng đang đổ ra đó nếu bạn chạm, điều đó sẽ gần như
là bạn đang chạm vào người đó bằng một sợi dây sống,
một dây điện sống. Người đó sẽ trở nên sợ hãi đến mức
các cánh cửa của người đó đóng lại - và nếu các cánh
cửa đều bị đóng lại, bạn có thể cứ mưa rào xuống và
chẳng cái gì xảy ra cả. Việc chữa lành là có thể được
không chỉ bởi vì năng lượng của bạn - nó chỉ có thể khi
năng lượng của bạn đi vào người khác và trở thành
năng lượng của người đó. Nếu nó đi tới cửa và quay
lại, thì chẳng việc chữa lành nào xảy ra cả.
Đó là lí do tại sao nếu một người không tin cậy vào
bạn, đừng bao giờ thử chữa lành - đừng bao giờ thử,
bởi vì điều đó là không thể được. Nếu một người có
hoài nghi về bạn, quên người đó đi. Điều đó là có thể
chỉ trong tin cậy sâu sắc, và nếu bạn thử với những
người không tin cậy vào bạn, bạn sẽ trở nên không tin
tưởng vào năng lượng của riêng mình. Nếu bạn thất bại
nhiều lần, thế thì dần dần bạn sẽ nghĩ, “Chẳng cái gì
xảy ra cả. Mình không có năng lượng.” Trong thực tế
mọi người đều có năng lượng chữa lành. Nó là cái gì
đó tự nhiên. Không phải là vài người mới là thầy chữa
còn người khác thì không, không phải vậy. Mọi người
sinh ra đều là thầy chữa rồi nhưng lại quên mất năng
lực này, hay chưa bao giờ dùng nó cả, hay đã dùng nó
trong các mối liên kết sai và đã đi tới cảm thấy rằng nó
chẳng bao giờ vận hành cả.
Cho nên đừng bao giờ thử nó lên ai đó, người thách
thức bạn. Đấy không phải là thách thức. Nếu ai đó sẵn
sàng tham dự, đi cùng bạn, thế thì đấy là kinh nghiệm
đẹp. Cho nên ngay chỗ ban đầu đừng bao giờ chạm cả.
Khi người đó thảnh thơi ngày càng nhiều và bạn cảm
thấy... và tôi đang nói cảm thấy - không phải là bạn
nghĩ. Nếu bạn cảm thấy có thôi thúc phát sinh để chạm
vào người đó - chẳng hạn người đó bị đau dạ dày hay
đau đầu hay đau cái gì đó khác và bạn cảm thấy rằng
chỉ cần chạm vào đầu sẽ có ích - thế thì chạm, nhưng
trước hết để cho người đó hài hoà với bạn. Trước hết
cho việc xoa bóp năng lượng, đừng chạm vào thân thể.
Để cách xa khoảng sáu cm, bởi vì hào quang thân
thể của người này toả ra cách xa thân thể người đó
quãng hai mươi cm. Giữ cách xa quãng sáu, tám cm,
sao cho theo cách nào đó bạn đang chạm vào hào
quang năng lượng của người đó. Bạn không chạm vào
thân thể vật lí của người đó, nhưng bạn chạm vào thân
thể tinh tế của người đó - và có thế thôi. Để cho năng
lượng thấm vào, thế thôi. Bạn đã thực sự chạm vào
người đó, nhưng người đó sẽ không sợ về điều đó. Khi
bạn cảm thấy rằng người đó đang tham dự cực kì
nhiều, khi tin cậy của người đó là mênh mông và bạn
có thể thấy rằng người đó đang tuôn chảy với bạn, và
bạn có thể cảm thấy rằng năng lượng của mình đang
được hấp thu - nó không bị bác bỏ; người đó đã trở
thành giống như miếng bọt biển và đang trương lên -
thế thì điều đó trở thành một điểm chính xác. Tại điểm
đó toàn bộ năng lượng tuôn trào và đi vào sâu nhất.
Sau mỗi lần chữa tốt hơn cả là bạn đi tắm, làm như
vậy. Nếu điều đó là không thể được, thế thì ít nhất rửa
tay mình ngay lập tức và vung vẩy chúng. Bao giờ
cũng xảy ra rằng khi bạn đang truyền năng lượng vào
người khác, năng lượng của người đó cũng đôi khi đi
vào bạn; chúng chèn lấp lẫn nhau. Đôi khi người đó có
thể rất mạnh, thậm chí còn mạnh hơn bạn. Đôi khi
người đó có thể không mạnh, nhưng bệnh của người đó
lại có thể rất mạnh, cho nên những rung động này của
bệnh đó có thể đi vào bạn và có thể mang tính phá
hoại. Chúng có thể làm cho bạn bị ốm, căng thẳng.
Việc chữa lành là tốt nhưng không đáng bạn phải trả
giá, bởi vì thế thì sẽ là ngu xuẩn và bạn không thể chữa
lành mấy được. Sớm hay muộn bạn sẽ trở nên ốm yếu,
ốm tồi tệ, và thân thể bạn sẽ bị làm xáo trộn nhiều
lắm.19
Xoa bóp không đơn giản là xoa bóp. Bạn đang chia
sẻ năng lượng đấy; và chừng nào bạn còn chưa có năng
lượng tuôn chảy trong mình, thì chẳng mấy chốc bạn sẽ
trở nên mệt mỏi. Thế thì điều ấy là rất mạo hiểm.
Không phải là mệt mỏi thể chất kéo đến đâu - điều đó
không quan trọng; bạn sẽ ngủ, bạn sẽ ăn, và điều đó sẽ
trôi qua. Nhưng xoa bóp là chia sẻ năng lượng sâu sắc
hơn. Khi bạn xoa bóp thân thể ai đó, không chỉ thân thể
các bạn là có tham dự vào - còn các thể tinh tế của bạn,
hai thể năng lượng, hai plasma sinh học nữa. Người
đang nhận xoa bóp cũng có thể nhận nhiều plasma sinh
học của bạn, và chừng nào bạn còn chưa là một nguồn
cung cấp bên trong thường xuyên, chừng nào bạn còn
chưa được nối với cội nguồn, bạn sẽ trở nên bị tiêu tán
rất nhiều bởi điều đó. Nó có thể không ảnh hưởng ngay
lập tức bởi vì bạn còn trẻ. Thậm chí nhiều tháng và
nhiều năm sau bạn có thể không cảm thấy điều đó,
nhưng rồi một hôm bỗng nhiên bạn sẽ cảm thấy mình
sụp đổ.
Cho nên hiểu biết của tôi là ở chỗ trước hết người
ta nên làm việc trên bản thân mình, và người ta nên rất,
rất định tâm. Khi bạn định tâm, bạn không hiện hữu.
Khi bạn định tâm, cội nguồn bắt đầu vận hành. Thế thì
bạn chỉ là lối chuyển. Vũ trụ bắt đầu tuôn chảy qua bạn
– thế thì không có vấn đề gì. Bạn có thể chia sẻ nhiều
năng lượng tuỳ ý, bạn sẽ thường xuyên nhận được năng
lượng mới, hừ? Thế thì bạn không giống như nơi trữ
nước không có suối đổ vào nó. Bạn giống như cái
giếng có nhiều dòng suối đổ vào nó; bạn cứ múc nước
ra và nước mới lại tuôn vào - bạn không thể múc cạn
nó được. Trong thực tế bạn cứ đổ đi nước cũ, ôi thiu,
tanh tưởi, còn nước sạch và sống thì đổ vào. Cho nên
cái giếng rất hạnh phúc - bạn không nặng gánh nó từ
quá khứ và cái cũ và cái tù đọng. Cho nên nếu bạn
đang trong luồng chảy và năng lượng của bạn đang
tuôn chảy thế thì không có vấn đề gì.
Cho nên xoa bóp và chữa lành và những hiện tượng
này là rất tinh tế. Và vấn đề không chỉ là việc biết về kĩ
thuật, vấn đề lớn hơn là cách ở tại cội nguồn - thế thì
không có vấn đề gì. Thế thì tôi chẳng bận tâm ngay cả
về kĩ thuật và liệu bạn có biết nó hay không. Bạn có thể
đơn giản bắt đầu chơi với thân thể ai đó và năng lượng
sẽ tuôn chảy, và sẽ có ích lợi lớn. Nhưng chỉ có một ích
lợi thực khi người đang xoa bóp cũng được lợi qua việc
đó - thế thì có ích lợi thực. Thế thì người chữa cũng
được lợi, và người được chữa cũng lợi nữa - cả hai đều
được lợi. Không ai bị thiệt cả.20
******************************************************
#8 Thiền và tâm thần học
Không trị liệu tâm lí nào có phẩm chất của thiền,
bởi vì không phép trị liệu tâm lí nào tạo ra được một
người chứng ngộ. Những người sáng lập ra chúng
không chứng ngộ còn những người chứng ngộ ở
phương Đông thì lại chẳng bao giờ bận tâm về bất kì
phép trị liệu tâm lí nào. Họ thậm chí chẳng bận tâm gì
tới tâm lí hay bản thân tâm trí, bởi vì với họ sự việc
không phải là giải quyết vấn đề của tâm trí, với họ sự
việc là cách thoát ra khỏi tâm trí, điều vốn dễ dàng
hơn. Thế thì tất cả sự việc đều chấm dứt, bởi vì một khi
bạn thoát ra khỏi tâm trí, thì tâm trí không còn nuôi
dưỡng nào để cứ tạo ra vấn đề; bằng không thì nó là
quá trình không kết thúc. Bạn được phân tâm, dù theo
kiểu cách cũ hay mới thì cũng chẳng thành vấn đề;
chúng chỉ là những biến thể của cùng một chủ đề. Tâm
trí bạn cảm thấy một chút ít tươi tắn và thoải mái sau
phiên tâm lí bởi vì bạn đã được làm nhẹ gánh cho bản
thân mình. Một chút ít hiểu biết về tâm trí cũng tới -
điều đó giữ cho bạn bình thường.
Trong thực tế, tất cả mọi phép trị liệu tâm lí đều
phục vụ cho tổ chức; chức năng của chúng là không để
cho mọi người thành bất thường. Ai đó đang vượt ra
ngoài bầy đoàn và các qui tắc của bầy đoàn và làm
những điều được coi là bạn không được làm... Những
điều đó có thể vô hại nhưng xã hội không thể dung thứ
cho những con người như vậy. Họ phải được đem lại
cái bình thường, về với chuẩn thông thường.
Công việc của nhà trị liệu tâm lí là dọn sạch tâm trí
bạn. Đó là một loại tra dầu bôi trơn cho máy móc của
bạn - nó vận hành chút ít tốt hơn và bạn bắt đầu trở nên
chút ít hiểu biết hơn về cách vận hành của tâm trí, mặc
dầu điều đó không tạo ra bất kì thay đổi cách mạng
nào. Và có thể là bạn cũng có thể giải quyết được một
vấn đề, nhưng bạn vẫn không loại bỏ được nguyên
nhân. Bản thân tâm trí mới là vấn đề. Cho nên bạn có
thể loại bỏ vấn đề này, tâm trí sẽ tạo ra vấn đề khác...
Điều đó cũng giống như tỉa cây vậy: bạn tỉa lá này và
chỉ từ lòng tự trọng và phẩm cách mà cây sẽ ra ba lá ở
ngay chỗ trước đây chỉ có một lá. Đó là lí do tại sao
người làm vườn lại cứ phải tỉa mãi; điều đó làm cho
cây ra nhiều tán lá, nhiều lá hơn.
Cũng điều này là tình huống cho tâm trí: bạn có thể
loại bỏ vấn đề này bằng việc hiểu nó - và điều đó cũng
tốn kém - nhưng tâm trí vẫn có đó là cái tạo ra vấn đề,
và nhà phân tâm không vượt ra ngoài các biên giới của
tâm trí. Tâm trí sẽ tạo ra vấn đề mới, phức tạp hơn vấn
đề bạn đã giải quyết. Một cách tự nhiên, bởi vì tâm trí
hiểu bạn có thể giải quyết loại vấn đề đó thì nó tạo ra
cái gì đó mới, phức tạp hơn, nhiều tán lá hơn.
Thiền là một điều hoàn toàn khác hơn phân tâm
hay bất kì cách trị liệu nào, vốn bị hàm chứa trong tâm
trí. Nó đơn giản nhảy ra khỏi tâm trí: “Đằng ấy có vấn
đề của đằng ấy - tớ về nhà đây.” Bởi vì tâm trí là kẻ ăn
bám nên nó không có sự tồn tại của riêng nó. Nó cần
bạn bên trong nó, để cho nó có thể cứ ăn bạn, cái đầu
bạn. Một khi bạn nhảy ra khỏi nó, tâm trí chỉ còn là
nghĩa địa. Tất cả những vấn đề vốn đã quá lớn không
vứt bỏ được, chúng đơn giản bị vứt bỏ chết đi.
Thiền là chiều hướng hoàn toàn khác: bạn đơn giản
quan sát tâm trí và trong việc quan sát đó bạn đi ra khỏi
nó. Và từ từ, tâm trí với tất cả những vấn đề của nó
biến mất; bằng không thì tâm trí cứ tạo ra những vấn
đề xa lạ...
Tâm trí là vấn đề duy nhất của bạn - tất cả các vấn
đề khác chỉ là nhánh của tâm trí. Thiền cắt tâm trí ngay
từ chính gốc rễ. Và tất cả những phép trị liệu này -
Động thái và Đối thoại Tiếng nói và Fritz Perl - chúng
ta có thể dùng chúng cho những người còn chưa đi vào
trong thiền chỉ để có một chút ít hiểu biết về tâm trí sao
cho họ có thể tìm ra cánh cửa để từ đó thoát ra. Chúng
ta dùng tất cả mọi phép trị liệu có ích, nhưng không
dành cho thiền nhân. Chúng chỉ có ích lúc ban đầu khi
bạn còn chưa trở nên quen thuộc với thiền. Một khi bạn
mang tính thiền rồi, bạn không cần bất kì phép trị liệu
nào, thế thì không phép trị liệu nào có ích cả. Nhưng
lúc ban đầu, nó có thể có ích, và đặc biệt đối với các
sannyasin Tây phương...
Sigmund Freud chỉ đúng về tâm trí phương Tây và
truyền thống của nó. Khi ông ấy nói rằng mọi con gái
đều ghét mẹ bởi vì nó yêu bố, thì toàn bộ vấn đề đều
dựa trên hiểu biết của họ về dục, rằng người ta yêu
người khác giới. Cho nên con gái yêu bố, con trai yêu
mẹ. Nhưng con gái không thể bầy tỏ tình yêu của
chúng, đặc biệt chúng không thể nào có quan hệ dục
với bố được, còn mẹ thì được có quan hệ dục. Cho nên
chúng trở nên ghen tị với mẹ - người mẹ là kẻ thù của
chúng. Con trai trở thành kẻ thù của bố và bởi vì điều
đó mà con trai không thể làm tình với mẹ. Người Nhật
Bản thậm chí không thể nào nghĩ về điều này; thậm chí
người Ấn Độ cũng không thể nghĩ tới điều này - một
cách dạy dỗ hoàn toàn khác. Sigmund Freud hay Jung
hay Alder hay Assagioli hay Fritz Perl chẳng có ý
tưởng nào. Thậm chí trong mơ họ cũng không nghĩ
rằng mọi người có thể khác với người phương Tây...
Tại phương Đông, các nhà phân tâm không có ích
mấy. Với người phương Tây, tôi muốn họ đi qua nhóm
chỉ để dọn sạch tâm trí. Với một tâm trí sạch sẽ, việc đi
vào trong thiền là dễ dàng hơn. Nhưng nếu bạn không
đi vào trong thiền và bạn đơn giản phụ thuộc vào việc
lau dọn tâm trí, thế thì bạn sẽ lau dọn tâm trí trong cả
đời và bạn sẽ không đi đâu khác cả. Bởi vì khuynh
hướng khác của mình mà phương Đông phải tìm chỗ
trong đại học về thiền, không tìm phân tâm...
Tại phương Đông trong hàng thế kỉ vấn đề đã là
làm sao vượt ra ngoài tâm trí - vấn đề duy nhất, vấn đề
độc nhất. Nhưng với tâm trí phương Tây, bởi vì nó đã
phát triển theo một cách khác nên nó chưa bao giờ nghĩ
tới việc siêu việt lên trên tâm trí. Tôi đã xem các tài
liệu gốc Do thái, các tài liệu gốc Ki tô giáo; không có
một phát biểu nào trong toàn bộ lịch sử Tây phương tại
đó ai đó đã nỗ lực để vượt ra ngoài tâm trí. Họ đã dùng
tâm trí để cầu nguyện, họ đã dùng tâm trí để tin vào
Thượng đế; họ đã dùng tâm trí để trở nên mang tính
tôn giáo, đức hạnh, nhưng họ chưa bao giờ thậm chí
nghĩ rằng có một khả năng vượt ra ngoài tâm trí.
Tại phương Đông đã có một việc tìm kiếm duy
nhất, độc nhất. Toàn bộ thiên tài của phương Đông đã
làm việc chỉ cho một điều, không vấn đề nào khác:
cách vượt ra ngoài tâm trí, bởi vì nếu bạn có thể giải
quyết được cả loạt vấn đề của mình chỉ bằng việc vượt
ra ngoài, thế thì tại sao lại cứ đi giải quyết chi tiết từng
vấn đề làm gì? Tâm trí cứ tạo ra vấn đề mãi; nó là một
lực rất sáng tạo. Bạn giải quyết vấn đề này, vấn đề
khác lại nảy sinh. Bạn giải quyết vấn đề kia, vấn đề nọ
lại phát sinh. Đấy là kinh doanh tốt cho các nhà phân
tâm, bởi vì người đó biết bạn chẳng bao giờ được chữa
khỏi cả. Bạn sẽ không được chữa khỏi từ tâm trí; người
đó chữa cho các vấn đề riêng của bạn. Tâm trí bạn có
đó, nguồn gốc. Người đó chưa bao giờ chặt được rễ,
người đó chỉ chặt lá, nhiều nhất là chặt cành, nhưng
chúng cứ mọc ra mãi - gốc rễ vẫn còn đấy.
Thiền là việc chặt tận gốc các vấn đề. Tôi nhắc lại:
tâm trí là vấn đề duy nhất, và chừng nào bạn chưa vượt
ra ngoài tâm trí, bạn sẽ chẳng bao giờ vượt ra ngoài
vấn đề được. Cũng thật là lạ rằng thậm chí ngày nay,
các nhà tâm lí phương Tây thậm chí vẫn chưa cân nhắc
tới sự kiện là phương Đông đã tạo ra biết bao nhiêu
người chứng ngộ. Không một người nào trong số họ lại
bận tâm về việc phân tích tâm trí cả... Hàng trăm
phương pháp đã được tìm ra có thể giúp bạn siêu việt
lên trên tâm trí, và một khi bạn đã ở ngoài tâm trí, tất
cả các vấn đề của nó dường như chúng là vấn đề của ai
đó khác. Bạn đạt tới trạng thái của người quan sát trên
núi, và tất cả các vấn đề này đều trong thung lũng. Và
chúng chẳng có tác động gì lên bạn cả; bạn đã vượt ra
ngoài chúng.
Phương Tây vẫn còn hoàn toàn lấy trọng tâm là
tâm trí. Tại phương Tây điều duy nhất người ta đã nghĩ
tới là vật chất và tâm trí. Và vật chất là thực tại còn tâm
trí chỉ là sản phẩm phụ; vượt ra ngoài tâm trí chẳng có
gì cả. Tại phương Đông vật chất là ảo tưởng, tâm trí là
sản phẩm phụ của tất cả những ảo tưởng, phóng chiếu,
mơ mộng của bạn. Thực tế của bạn ở bên ngoài vật
chất và tâm trí, cả hai. Cho nên ở phương Đông chúng
ta phân chia thực tế làm ba phần: vật chất, phần bên
ngoài nhất; linh hồn, phần bên trong nhất; tâm trí ở
giữa hai điều này. Vật chất có thực tại tương đối; nó
không là thực tuyệt đối, chỉ là thực tương đối. Tâm trí
tuyệt đối không thực, còn linh hồn thì tuyệt đối thực.
Đây là cách phân loại nhân loại hoàn toàn khác. Tại
phương Tây cách phân loại là đơn giản: vật chất là
thực, tâm trí chỉ là sản phẩm phụ, và chẳng có gì bên
ngoài tâm trí. Cho nên nhớ lấy, nếu bạn đang thiền thì
chẳng có gì khác được cần tới nữa. Nếu bạn không
thiền, thế thì các phép trị liệu tâm lí này có thể có ích
như bàn đạp cho thiền... Phương Tây đang bị khai thác
bởi đủ mọi loại giả dối bởi một lí do đơn giản rằng
phương Tây đã không nhìn vào trong vấn đề về bản
thân thiền. Cho nên bất kì kẻ ngốc nào cũng tới và nói
bất kì điều gì, rồi tụ tập tín đồ bởi vì họ không biết
thiền là gì. Họ chẳng tụng mật chú cũng không làm
khinh công... Những điều này chẳng có liên quan gì tới
thiền cả. Thiền chỉ có một nghĩa, và đó là vượt ra ngoài
tâm trí và trở thành nhân chứng. Trong việc chứng kiến
của bạn là phép màu - toàn bộ bí ẩn của cuộc sống.21
#8Trong tạp chí Newsweek tôi đọc được một chuyện
tiếu lâm bên trong một bài báo về cái gọi là trị liệu
chữa nhanh. Một người trung tuần đã là nỗi thất
vọng của gia đình mình trong nhiều năm bởi vì
thói quen xé giấy thành mảnh vụn và rắc rải rác
khắp mọi nơi anh ta đi qua. Gia đình đưa anh ta
tới những chuyên gia nổi tiếng theo Freud, Jung
và Aldler, với chi phí rất lớn nhưng kết quả lại
toàn thất vọng. Cố gắng chiếu ánh sáng vào cái
vực thẳm tăm tối của vô thức của anh ta, nơi thói
quen ngụ ở đó, đã thất bại.
Cuối cùng họ hàng anh ta đưa anh ta tới một nhà
trị liệu tâm lí mới không tiếng tăm nhưng lại canh
tân. Nhà ảo thuật này đi vài bước với bệnh nhân
mới lên và xuống văn phòng của mình, thì thào
điều gì đó vào tai anh ta. Thế rồi ông ta tuyên bố
làm cả gia đình ngạc nhiên, “Các vị có thể đưa
anh ta về nhà được rồi; anh ta đã khỏi.”
Một năm sau thói quen này không trở lại và gia
đình rất biết ơn đã đến hỏi vị bác sĩ rằng ông ấy
đã nói gì với bệnh nhân của mình. Ông ta, nhún
vai, nói, “Đừng xé giấy.” Xin thầy bình luận.
Bí mật của cuộc sống là rất đơn giản, nhưng tâm trí
lại cố gắng làm cho chúng phức tạp lên. Tâm trí yêu
mến cái phức tạp, bởi lẽ đơn giản, tâm trí chỉ được cần
tới nếu có điều gì đó phức tạp. Nếu không có gì phức
tạp, chính cái cần thiết cho sự tồn tại của tâm trí biến
mất. Tâm trí không muốn buông bỏ quyền làm chủ của
nó trên bạn. Nó chỉ là kẻ hầu nhưng nó đã xoay xở để
trở thành người chủ, và mọi sự đã trở thành lộn ngược
trong cuộc sống của bạn.
Câu chuyện tiếu lâm này đơn giản chỉ ra một sự
kiện rất hiển nhiên. Người này xé vụn giấy và rắc
chúng khắp nơi; một cách tự nhiên mọi người cứ nghĩ
một cái gì đó đã đi sai: anh ta cần phân tâm, anh ta cần
một người vĩ đại người hiểu cách thức của tâm trí để
cho anh ta có thể được chữa lại. Không ai thậm chí bận
tâm tới việc bảo anh ta “Đừng làm điều này.”
Hiển nhiên rằng người này đã thành điên khùng,
cho nên họ mới tới các chuyên gia theo Freud, các
chuyên gia theo Adler, các chuyên gia theo Jung, tới
các nhà phân tâm lớn. Và tất cả những nhà phân tâm
này đều phải làm việc vất vả, hàng giờ, hàng năm,
phân tích giấc mơ của người này để tìm ra tại sao
người đó lại xé vụn giấy và vứt rải rác khắp nơi.
Nhưng chẳng ai thành công cả. Như một phương kế
cuối cùng họ mới lôi anh ta tới một nhà ảo thuật, và
người này chữa khỏi cho anh ta.
Nhưng tờ Newsweek lại là một tạp chí hợm hĩnh,
cho nên chuyện tiếu lâm này vẫn còn chưa hoàn chỉnh.
Đó là lí do tại sao bạn lại không thấy đâu là cái lớn lao
của chuyện tiếu lâm này .
Nhà ảo thuật này đã bước lên bước xuống cầu
thang và thế rồi thì thào vào tai người này, “Anh hãy
dừng việc xé giấy; nếu không thì tôi sẽ đá anh ngã lăn
lông lốc xuống từ trên đỉnh.” Và người này lại là người
mạnh khoẻ. “Cho nên hãy lưu ý, bởi vì tôi không tin
vào các nhà phân tâm hay bất kì cái gì, tôi đơn giản tin
vào việc đá. Và tôi đá mọi người từ chỗ này. Thế là họ
ngã lăn lông lốc hàng trăm bậc xuống đường. Bây giờ
anh có thể về nhà; nhớ rằng tôi chỉ có một thủ đoạn
thôi. Khi bất kì một người ốm yếu nào về mặt tinh thần
được đem tới tôi, tôi chữa cho người đó. Đó là lí do tại
sao tôi đã bước cùng anh lên và xuống những bậc
thang này, để chỉ ra cho anh vấn đề có nghĩa là gì khi
tôi đá anh. Cho nên bây giờ về nhà và nhớ lấy điều đó.
Lần sau tôi sẽ không nói gì nữa đâu, tôi sẽ chỉ đơn giản
làm điều đó.” Và người này đã hiểu điều đó; bất kì ai
cũng sẽ hiểu điều đó.
Họ đã bỏ đi cái phần đó của chuyện cười này và đã
phá huỷ mất cái đẹp của nó. Con người kia phải đã tận
hưởng hệt như trò trẻ con, xé vụn giấy ra thành từng
mảnh và vứt lung tung khắp chốn. Và điều đó trở thành
sự tận hưởng bởi vì mọi người đều phân vân. Đấy đơn
giản chỉ là hiện tượng trẻ con. Người này bị phát triển
chậm; người đó không cần nhà phân tâm nào cả. Người
đó cần một cú đá đích đáng - đó là ngôn ngữ mà người
đó hiểu ngay lập tức.
Theo nhiều cách chúng ta cứ nghĩ mãi về những
điều đơn giản theo các cách phức tạp. Vấn đề của
chúng ta gần như rất đơn giản, nhưng tâm trí cứ làm
bạn lẫn lộn. Và có những người khai thác bạn. Họ làm
cho vấn đề của bạn thậm chí còn phức tạp hơn.
Có lần một cậu bé được đưa tới tôi. Nó phải mười
sáu hay mười bẩy tuổi rồi, và gia đình nó lại phân vân,
phiền muộn, mặc dầu chẳng cần bất kì ai phải phiền
muộn cả. Đứa bé này cứ nói rằng hai con ruồi đã chui
vào bụng nó, và chúng cứ bay vòng vo trong thân thể
nó - bây giờ chúng ở trong đầu, bây giờ chúng lại
xuống tay.
Nó được đưa tới bác sĩ, bác sĩ điều trị, và họ nói,
“Đấy không phải là bệnh.” Nó được chiếu tia X, và
không có con ruồi hay cái gì hết cả. Họ cố nói, “Cháu
chẳng có con ruồi nào cả.”
Nhưng đứa bé nói, “Làm sao cháu có thể tin vào
các bác được? Chúng bay vòng vo khắp bên trong thân
thể cháu. Cháu nên tin vào kinh nghiệm của mình hay
giải thích của các bác?”
Ngẫu nhiên ai đó gợi ý với bố mẹ nó về tôi, cho
nên họ đem cậu bé tới. Tôi nghe toàn bộ câu chuyện.
Cậu bé trong có vẻ rất miễn cưỡng, bướng bỉnh, bởi vì
nó đã mệt mỏi với bác sĩ này, bác sĩ nọ, và họ tất cả
đều nói, “Không có ruồi.”
Tôi nói, “Các bác đem nó lại là đúng người rồi đấy.
Tôi có thể thấy mấy con ruồi này. Cậu bé đáng thương
đang khổ sở đây, thế mà các bác lại cứ bảo rằng nó
ngu.” Cậu bé được thảnh thơi. Tôi đâm ra được thuận
lợi - vì lần đầu tiên một người đã chấp nhận ý tưởng
của nó về con ruồi.
Tôi nói, “Tôi biết cách chúng đã chui vào. Nó phải
vừa ngủ vừa há mồm.”
Cậu bé nói, “Vâng đúng ạ,”
Tôi nói, “Việc này đơn giản thế. Khi cháu ngủ há
mồm, thì cái gì mà chẳng có thể vào được. Cháu may
mà chỉ có ruồi mới chui vào thôi. Bác đã thấy những
người... chuột cũng chui vào nữa...”
Nó nói, “Ôi trời, cả chuột nữa sao?”
Tôi nói, “Mà không chỉ có chuột đâu, sau chuột
còn cả mèo nữa.”
Nó nói, ‘Những người đấy phải bị rắc rối lắm.”
Tôi nói, ‘Họ quả vậy đấy. Cháu chưa là cái gì cả,
trường hợp của cháu rất đơn giản - chỉ có hai con ruồi
thôi. Cháu nằm xuống đây, và bác sẽ lấy chúng ra.”
Nó nói, “Bác là người đầu tiên đã bầy tỏ hiểu biết
cho một đứa bé đáng thương. Chẳng ai chịu nghe cháu
cả. Cháu cứ nói mãi rằng chúng nó có đấy. Cháu chỉ
chỗ chúng... chúng ở đây này, bây giờ chúng đã đi sang
đây... và tất cả họ đều cười, và họ làm cháu thành thằng
ngu.”
Tôi nói, “Tất cả họ đều là đồ ngu tuốt. Họ có bắt
gặp những trường hợp như vậy đâu, nhưng đây là tri
thức chuyên gia đặc biệt của bác. Bác chỉ giải quyết
cho những người ngủ há mồm thôi.”
Nó nói, “Cháu biết là bác hiểu, bởi vì ngay lập tức
bác nhận ra rằng chúng có đó - đích xác nơi chúng ở
đấy.”
Tôi bảo với bố mẹ nói hãy ở nhà và để nó mười
lăm phút với tôi. Tôi bảo nó nằm ra. Tôi bịt mắt nó và
bảo nó há mồm ra.
Nhưng nó nói, “Ngộ nhỡ nhiều ruồi nữa lại bay
vào...?”
Tôi nói, “Yên tâm đi: đây là phòng có điều hoà, và
không có ruồi. Cháu chỉ nằm há mồm và bác sẽ cố
gắng và thuyết phục mấy con ruồi đó bay ra.”
Tôi bỏ nó đó và chạy quanh nhà và bằng cách nào
đó bắt hai con ruồi - lần đầu tiên, bởi vì tôi chưa bao
giờ làm điều đó cả. Nhưng dẫu sao thì tôi cũng xoay xở
được, và tôi nhốt hai con ruồi vào chiếc lọ nhỏ. Và
trong khi tôi để chiếc lọ ở gần mồm nó thì tôi tháo
chiếc khăn bịt mắt nó ra và nói, “Nhìn đây!”
Nó nói, “Hai con ruồi bé thế này... nhưng chúng
gây ra rối lung tung làm sao! Cả đời cháu bị tiêu tùng.
Bây giờ bác có thể cho cháu những con ruồi này được
không?
Tôi nói, “Có chứ, bác cho cháu đấy.” tôi đóng nắp
lọ lại và đưa cho nó.
Tôi hỏi nó, “Cháu định làm gì?”
Nói nói, “Cháu định đi tới tất cả các bác sĩ và bác sĩ
trị liệu, những người đã từng ăn tiền mà chẳng làm gì
và chỉ bảo cháu, ‘Không có ruồi.’ Bất kì ai đã bảo cháu
điều đó... Cháu sẽ chỉ cho họ rằng đây là những con
ruồi ấy đấy.”
Nó đã được chữa khỏi. Tâm trí nó mới chỉ bị mắc
kẹt với một ý tưởng. Nhưng nếu bạn tới các nhà phân
tâm, thì ông ấy sẽ tạo ra cả quả núi từ đống đất chuột
đào - biết bao nhiêu là lí thuyết, giải thích... và phải
mất nhiều năm vấn đề vẫn cứ còn đấy, bởi vì vấn đề
vẫn còn chưa được đụng chạm tới. Ông ấy đã triết lí về
nó và ông ấy thử triết lí của mình lên bệnh nhân đáng
thương này.
Nhưng phần lớn bệnh của tâm trí - và bẩy mươi
phần trăm bệnh tật đều là từ tâm trí - có thể được chữa
khỏi dễ dàng. Điều cơ bản nhất là chấp nhận; đừng phủ
nhận, bởi vì việc phủ nhận của bạn là chống lại lòng tự
hào của con người. Bạn càng phủ nhận, thì người đó
càng khăng khăng hơn: đấy là logic đơn giản. Bạn
đang phủ định hiểu biết của người đó, bạn đang phủ
định cảm tính của người đó, bạn đang phủ định tính
nhân bản của người đó, nhân phẩm người đó. Bạn đang
nói, “Anh chẳng biết cái quái gì cả” - về thân thể riêng
của mình!
Bước đầu tiên là chấp nhận: “Anh phải đấy. Những
người đã phủ định anh đều sai cả.” Và ngay lập tức
một nửa nền tảng được khôi phục. Bây giờ có mối
quan hệ thông cảm với người này. Những người đang
phải chịu đựng các bệnh tinh thần đều cần thông cảm;
họ cần chấp nhuận, không phải là phủ nhận. Họ không
muốn bạn coi họ là người điên, người bất bình thường.
Cho họ thông cảm, cho họ hiểu biết, yêu mến.
Để họ tới gần bạn và thế rồi tìm ra cách thức đơn
giản. Đừng đi vòng qua kinh sách của những người
theo Freud - đấy gần như là những kinh sách thiêng
liêng, và sách về phân tâm học cứ tăng lên mãi; cứ
ngày càng lớn hơn. Và bạn lại bắt đầu thử đủ mọi loại
ý tưởng đó lên con người đáng thương kia, mà người
đó thì lại chẳng có gì nhiều.
Hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ mọi người đều cần
tình yêu, và mọi người cũng đều cần yêu. Mọi người
đều cần tình bằng hữu, thân thiện, thông cảm - và mọi
người đều muốn đem cho nó nữa.
Tôi nhớ lại: chuyện xảy ra khi George Bernard
Shaw đã gần tám mươi tuổi. Bác sĩ của ông ấy gần chín
mươi tuổi – bác sĩ điều trị của riêng ông ấy – và cả hai
là những người bạn lớn.
Một lần vào giữa đêm Bernard Shaw cảm thấy bị
đau tim đột ngột, và ông ấy trở nên sợ hãi: có lẽ đó là
cơn đau tim. Ông ấy gọi điện tới bác sĩ và nói, “Ông lại
đây ngay lập tức vì tôi có thể không còn trông thấy mặt
trời lên lần nữa.”
Ông bác sĩ nói, “Bình tĩnh đi, tôi tới đây, đừng lo
nghĩ.” Ông bác sĩ tới. Ông ấy phải leo ba tầng cầu
thang – một ông già chín mươi tuổi mang túi đồ của
mình, vã mồ hôi hột.
Ông ấy tới và vứt cái túi xuống sàn và ngồi trong
ghế nhắm nghiền mắt lại. Bernard Shaw hỏi, “Có
chuyện gì vậy?” Ông bác sĩ đặt tay mình lên tim, và
Bernard Shaw nói, “Lạy Chúa, ông bị đau tim rồi!” Và
ông ấy có thể thấy... một ông già chín mươi tuổi, leo ba
tầng cầu thang, vào giữa đêm, và ông ấy vã mồ hôi hột.
Bernard Shaw đứng dậy, bắt đầu phe phẩy quạt, lau
mặt cho ông ấy bằng nước lạnh, rót ít rượu uống cho
ông ấy bởi vì đêm thật lạnh, và ông ấy thử đủ mọi
cách... đắp cho ông này các thứ chăn và quên mất hoàn
toàn cơn đau tim của mình, bởi vì điều đó mà ông bác
sĩ này mới được mời tới.
Sau nửa giờ ông bác sĩ cảm thấy khá hơn và ông ấy
nói, “Bây giờ thì tôi đỡ rồi. Đây là cơn đau tim lớn.
Điều này xảy ra lần thứ ba và tôi cứ nghĩ đây là lần
cuối, nhưng bác giúp tôi nhiều lắm đấy. Bây giờ xin
bác trả tiền công cho tôi.”
Bernard Shaw nói, “Tiền công cho bác sao? - mà
tôi thì đã chạy lăng xăng đem đủ mọi thứ đến để phục
vụ bác. Bác đáng phải trả tiền công cho tôi mới phải
chứ?”
Ông bác sĩ nói, “Vô nghĩa. Đây tất cả chỉ là đóng
kịch thôi. Tôi làm điều đó với mọi bệnh nhân tim - và
bao giờ cũng có tác dụng. Họ quên mất cơn đau tim
của họ và họ bắt đầu chăm sóc tôi - một ông già chín
mươi tuổi. Bác phải trả tiền công cho tôi. Nửa đêm đã
qua và tôi phải về nhà đây” - và ông ấy nhận tiền công.
Bernard Shaw nói, “Đây là điều gì đó. Tôi cứ hay
nghĩ rằng tôi là người tiếu lâm, nhưng ông bác sĩ này
mới là người tiếu lâm thực hành. Ông ấy thực sự đã
chữa cho tôi.” Ông ấy thử tim mình, nó hoàn toàn ổn
thoả. Ông ấy đã hoàn toàn quên mất nó. Đấy chỉ là một
cái đau nhỏ mà tâm trí ông ấy đã nhân lên nhiều lần...
nỗi sợ đau tim của ông ấy, cái ý tưởng về đau tim, cái ý
tưởng về chết trở nên được khuếch đại lên.
Nhưng ông bác sĩ này mới thực sự là người tốt.
Ông ấy đã làm cho Bernard Shaw đứng dậy, đã nhận
mọi sự phục vụ, đã uống ngon lành và cuối cùng đã lấy
tiền công và bước xuống cầu thang. Còn Bernard Shaw
đơn giản nhìn theo bối rối toàn toàn. “Con người này
nói rằng ông ấy đã làm điều đó với mọi trường hợp đau
tim, và ông ấy bao giờ cũng thành công. Chỉ bởi vì tuổi
già của ông ấy mà ông ấy mới xoay xở thật tài tình. Bất
kì ai cũng sẽ quên mất... Bất kì bác sĩ nào cũng sẽ bắt
đầu làm cho nó thành một hiện tượng phức tạp, nào
tiêm, nào thuốc, nào nghỉ ngơi, hay thay đổi khí hậu,
hay y tá chăm nom hai mươi tư tiếng. Nhưng con
người này đã làm điều đó một cách nhanh nhẹn, chóng
vánh, chẳng phức tạp gì.”
Tôi đã thấy đủ mọi loại trường hợp liên quan tới
tâm trí. Tất cả những điều họ cần là một cách tiếp cận
rất thông cảm, thân thiện, yêu thương, và trong mọi
trường hợp đều là một cách trị liệu duy nhất - bởi vì bất
kì điều gì đã được làm cho con người này đều là bình
thường, thông thường và dần dần bệnh nhân này bắt
đầu cảm thấy rằng mình đã thành công trong việc làm
thất bại mọi loại bác sĩ - đối trị, vi lượng, tự nhiên,
ayurvedic, châm cứu, acupressurists - đủ mọi loại
người, vậy mà chẳng ai có thể chữa được cho người đó.
Người đó bắt đầu có một bản ngã nào đó về nó, rằng
bệnh của mình là một cái gì đó rất đặc biệt. Người đó
muốn điều đó được chấp nhận như điều đặc biệt. Đấy
là một sự thay thế.
Điều này cần phải được hiểu: mọi người đều muốn
đặc biệt, phi thường - là một nhạc sĩ vĩ đại, một vũ
công vĩ đại, một nhà thơ vĩ đại - nhưng mọi người đều
không thể nào xoay xở được điều đó. Cần một kỉ luật
rất lâu dài, gian khó để trở thành nhạc sĩ vĩ đại...
Mọi người đều dường như bị khép lại. Không trái
tim của ai lại là cửa sổ mở ra. Và cánh cửa của mọi
người đều không mở ra để đón chào khách thăm. Toàn
bộ tình huống này tạo ra những điều kì lạ. Các nhu cầu
thực của tâm trí con người không được thoả mãn; nó
bắt đầu hành xử một cách kì lạ.
Có lẽ đó là lí do duy nhất mà người kia đã xé vụn
giấy và vứt rải rác lung tung đây đó - chỉ để cho mọi
người biết rằng, “Tôi ở đây, và tôi khác với mọi người
khác. Tôi đang làm điều gì đó mà không ai khác làm
cả.” Có lẽ người đó đã không được chấp nhận, không
được đón nhận, không được yêu mến. Và việc chữa
chạy mà người đó nhận được thì lại còn tồi tệ hơn là
bệnh đó. Đấy mới thực sự là bệnh tật - rằng không ai
yêu người đó cả - và bây giờ nhà ảo thuật đem lại việc
chữa chạy cho người đó: “Nếu anh làm điều đó lần nữa
thì tôi sẽ cho anh cú đá tới mức anh sẽ ngã lăn lông lốc
xuống hàng trăm bậc thang này, và đến cuối cùng anh
có thể chỉ tan thành từng mảnh trên đường.” Nhưng
người đó chấm dứt việc làm đó - điều đó chứng tỏ rằng
thay vì có được tình yêu, thì người đó lại thêm sợ hãi
hơn. Nỗi sợ cũng có thể làm thay đổi hành vi của bạn,
nhưng nó không làm thay đổi cho tốt hơn, nó làm thay
đổi cho tồi đi. Và trong khi tình yêu là có sẵn - lại
chẳng tốn kém gì - thì sao không dùng nó?
Tôi thấy rằng chẳng có cách trị liệu tâm lí nào hơn
tình yêu. Nếu nhà trị liệu tâm lí có thể bầy tỏ tình yêu
của mình, thì bệnh tật sẽ biến mất chẳng cần việc phân
tích nào.
Tất cả mọi việc phân tích đều chỉ là nói nhảm. Bản
thân nhà trị liệu tâm lí đang lẩn tránh tình yêu. Người
đó đang lẩn tránh việc đối diện với bệnh nhân. Người
đó sợ nhận ra thực tế. Tất cả các nhà phân tâm theo
trường phái Freud, vốn là trường phái lớn nhất và quan
trọng nhất, đều không ngồi trước bệnh nhân. Bệnh
nhân nằm trên trường kỉ, và đằng sau trường kỉ nhà
phân tâm ngồi. Bệnh nhân nói, khi nằm trên giường,
không với ai cả, còn nhà phân tâm chỉ ngồi đó. Không
đụng chạm con người - người đó thậm chí chẳng cầm
tay bệnh nhân, người đó không thể nhìn vào mắt bệnh
nhân được.
Tại phương Đông chẳng có gì giống như việc phân
tâm đã từng xảy ra cả bởi một lẽ đơn giản là có hàng
nghìn bậc thầy, sâu trong thiền, và bất kì ai tới họ... chỉ
tình yêu của họ, thông cảm của họ, cách họ nhìn vào
trong mắt bệnh nhân là đủ. Mọi người đều được chữa
khỏi. Không phải là không có phân tâm... Tại phương
Đông, điều đã xảy ra cho người bị thần kinh, cho người
bị tâm thần, là ở chỗ họ được thay đổi tức khắc. Tất cả
mọi điều họ cần là một tình yêu mênh mông không đòi
hỏi điều gì - con người của an bình và im lặng, chính
sự hiện diện của người này là liều thuốc. Người đã
thiền trong một thời gian dài trở thành một cội nguồn
mênh mông. Người đó toả ra cái gì đó không thấy được
bằng mắt, nhưng trái tim thì bắt được nó. Một cái gì đó
đạt tới bản thể bên trong nhất của bạn và làm thay đổi
bạn.
Các vấn đề đều đơn giản. Các giải pháp cũng đơn
giản. Chỉ có điều người ta phải thoát ra khỏi tâm trí để
thấy cái đơn giản đó. Và thế thì bất kì cái gì được con
người làm trong im lặng, trong an bình, trong niềm vui,
đều sẽ là thuốc, đều sẽ ban phát mạnh khoẻ. Nó sẽ là
lực chữa lành.22
Nhà tâm thần cần mang tính thiền hơn bất kì ai
khác - bởi vì toàn bộ công việc của bạn là nguy hiểm
theo một cách nào đó. Chừng nào bạn còn chưa rất
bình thản và tĩnh lặng, chừng nào bạn vẫn còn có thể bị
ảnh hưởng bởi những điều xảy ra quanh bạn, thì điều
đó là rất nguy hiểm. Nhiều nhà tâm thần phát điên hơn
bất kì người theo nghề khác, và nhiều nhà tâm thần tự
tử hơn bất kì người theo nghề khác. Đây là điều gì đó
cần được suy nghĩ tỏ tường. Tỉ lệ này thực sự là quá
nhiều! Nhiều gấp đôi theo số người tự tử. Điều đó đơn
giản chỉ ra rằng nghề này đầy nguy hiểm. Chính trong
đống lộn xộn - bởi vì bất kì khi nào bạn điều trị cho
một người đang bị rối loạn về tâm thần, người đó
thường xuyên phát ra các rung động của mình. Người
đó thường xuyên ném ra năng lượng của mình, các đợt
sóng tiêu cực của người đó dồn vào bạn, và bạn phải
nghe người đó. Bạn phải rất chăm chú. Bạn phải chăm
sóc, bạn phải yêu thương và từ bi hướng tới người đó;
chỉ thế thì bạn mới có thể giúp được cho người đó.
Người đó thường xuyên ném ra năng lượng tích tụ tiêu
cực - và bạn đang hấp thu nó. Trong thực tế bạn càng
chăm chú lắng nghe, bạn càng thấp thu nó nhiều hơn.
Khi sống liên tục với người thần kinh và tâm thần,
bạn bắt đầu nghĩ, theo một cách vô ý thức, rằng đây là
điều nhân loại là gì. Chúng ta dần dần trở thành giống
như những người chúng ta sống cùng, bởi vì không ai
là hòn đảo cả. Cho nên nếu bạn đang làm việc với
người buồn, bạn sẽ trở nên buồn. Nếu bạn đang làm
việc với người hạnh phúc, bạn sẽ trở nên hạnh phúc,
bởi vì mọi sự đều tiêm nhiễm nhau. Thần kinh mang
tính tiêm nhiễm: tự tử cũng mang tính tiêm nhiễm.
Nếu bạn sống quanh những người đã chứng ngộ,
rất nhận biết, thế thì cái gì đó trong bạn bắt đầu đáp
ứng với khả năng cao hơn này. Khi bạn sống với những
người rất thấp, thấp bất thường, trong trạng thái băng
hoại, thế thì cái gì đó không lành mạnh trong bạn bắt
đầu tương ứng và có quan hệ với chúng. Cho nên liên
tục bị bao quanh bởi người ốm là nguy hiểm theo cách
nào đó, chừng nào bạn không tự bảo vệ mình. Và
chẳng có gì như thiền lại cho bạn sự bảo vệ này. Thế
thì bạn có thể cho nhiều hơn bạn đang cho ấy vậy mà
bạn vẫn còn không bị ảnh hưởng tới. Bạn có thể giúp
đỡ nhiều hơn bạn đang giúp đỡ, bởi vì năng lượng của
bạn càng cao, thì khả năng giúp đỡ càng nhiều. Ngoài
ra nhà tâm thần, thầy chữa và người được chữa đều gần
như trên cùng một nền; có thể khác biệt nhau chút ít về
mức độ, nhưng khác biệt nhỏ đến mức không đáng
xem xét tới.
Nhà tâm thần có thể đi vào trong điên khùng rất dễ
dàng - chỉ hơi chút đẩy tới, một sự việc ngẫu nhiên nào
đó, và người đó có thể đi vào lãnh thổ bị kết án. Những
người thần kinh không phải bao giờ cũng thần kinh.
Mới chỉ hai ngày trước đây họ còn là người bình
thường, và lần nữa họ có thể trở lại bình thường. Cho
nên bình thường và bất thường không phải là khác biệt
định tính, chỉ là định lượng: chín mươi chín độ, một
trăm độ, một trăm linh một độ - đó là kiểu khác biệt.
Trong thực tế, trong một thế giới tốt hơn, mọi nhà
tâm thần nên được huấn luyện sâu sắc trong thiền, nếu
không thì người đó không nên được phép hành nghề.
Đó là cách duy nhất bạn có thể tự bảo vệ mình và
không bị mong manh - và bạn có thể có ích thực sự.
Nếu không thì ngay cả các nhà tâm thần vĩ đại, các nhà
phân tâm vĩ đại, ngay cả họ theo một cách nào đó cũng
trở thành rất vô vọng về nhân loại... ngay cả Freud. Sau
kinh nghiệm cả đời mình cuối cùng ông ấy nói rằng
ông ấy không thể nào hi vọng vào con người được; ông
ấy cảm thấy vô vọng. Và điều đó là tự nhiên - bốn
mươi năm sống với những người trong đống lộn xộn;
kinh nghiệm duy nhất về nhân loại là những người
điên. Dần dần điều đó bắt đầu dẫn tới việc nhìn vào
mình dường như tính bất thường là bình thường...
dường như là con người nhất định phải vẫn còn thần
kinh, dường như có cái gì đó tự nhiên trong con người
lái người đó hướng tới bị thần kinh.
Cho nên nhiều nhất thì người mạnh khoẻ là người
được điều chỉnh ít nhiều với thế giới, có thế thôi. Việc
điều chỉnh trở thành chuẩn cho mạnh khoẻ. Nhưng nó
không thể thế được. Nếu toàn bộ xã hội điên khùng,
bạn có thể được điều chỉnh theo nó và bạn sẽ vẫn điên
khùng. Trong thực tế, trong một xã hội điên khùng,
người không điên sẽ bị ngược đãi. Và đó mới thực sự
là trường hợp xảy ra.
Khi Jesus bước đi trong thế giới này, ông ấy bị
ngược đãi. Chúng ta phải đóng đinh ông ấy. Ông ấy là
người xa lạ thế - chúng ta không thể dung thứ được ông
ấy. Chúng ta không quan tâm tới ông ấy, chúng ta đơn
giản bận tâm với chính mình. Bởi sự hiện diện của ông
ấy, chỉ hai điều này là có thể - hoặc là ông ấy điên hoặc
chúng ta điên. Cả hai không thể đều lành mạnh. Chúng
ta thì nhiều còn ông ấy chỉ có một mình. Tất nhiên
chúng ta sẽ giết ông ấy; ông ấy không thể giết chúng ta
được. Khi vị phật bước đi, ông ấy trông có vẻ kì lạ -
một người lành mạnh, người bình thường, tự nhiên
thực sự, đi trong một xã hội bất thường.
Cho nên Freud đã đi tới kết luận rằng không có
tương lai cho nhân loại. Nhiều nhất chúng ta có thể hi
vọng rằng con người có thể được hoà giải với hình mẫu
xã hội, có thế thôi. Nhưng không có khả năng nào cho
con người được phúc lạc cả. Không thể có được, bởi
chính bản chất của mọi vật. Tại sao lại có một kết luận
bi quan đến thế? - bởi vì toàn bộ kinh nghiệm của ông
ấy.
Toàn bộ cuộc sống của Freud là cơn ác mộng dài
của người điên. Và dần dần bản thân ông ấy cũng trở
thành bất thường. Ông ấy không thực sự lành mạnh.
Ông ấy không phải là người phúc lạc. Ông ấy không
bao giờ biết tới tính toàn thể là gì. Ông ấy sợ những vật
nhỏ bé - sợ đến mức có vẻ ngớ ngẩn. Ông ấy sợ chết.
Nếu ai đó nói về ma, ông ấy sẽ bắt đầu vã mồ hôi. Hai
lần ông ấy ngất đi bởi vì ai đó bắt đầu nói về cái chết!
Đây dường như là một tâm trí rất không cân bằng,
nhưng theo một cách nào đó nó có thể được giải thích.
Thậm chí điều này cũng là phép màu - rằng ông ấy vẫn
còn lành mạnh cho cả cuộc đời mình.
Một trong những nhà tâm thần sắc sảo nhất,
Wilhelm Reich, đã phát điên. Và lí do duy nhất để ông
ấy phát điên còn người khác thì không, là bởi vì ông ấy
thực sự sắc sảo. Ông ấy có một tài năng thực sự sâu sắc
để đi vào gốc rễ mọi điều - nhưng điều đó là nguy
hiểm. Toàn bộ cuộc sống của Freud hay Reich hay của
những người khác đều biểu lộ một điều - rằng giá mà
họ đã được huấn luyện trong thiền sâu sắc, toàn thể thế
giới đã thành khác. Thế thì những người thần kinh này
đã không trở thành chuẩn.
Có thể rất khó để trở thành vị Phật, nhưng ông ấy
là chuẩn mực. Và người chuẩn mực là người tới gần
với cái chuẩn mực đó. Nó chẳng liên quan gì tới việc
điều chỉnh cả. Người ta tới gần hơn với ý tưởng về tính
toàn thể, hạnh phúc, lành mạnh.23
******************************************************
#9 Kính trọng thân thể
Kính trọng thân thể mình theo cùng cách như bạn
kính trọng linh hồn mình. Thân thể bạn cũng thiêng
liêng như linh hồn bạn vậy. Trong sự tồn tại mọi thứ
đều thiêng liêng bởi vì toàn bộ sự vật đang đập rộn
ràng cùng với nhịp đập của điều thiêng liêng...
Bạn đang chuyển từ khoảnh khắc nọ sang khoảnh
khắc kia, từ một giai đoạn tâm thức này sang giai đoạn
tâm thức khác. Thân thể có thể đang ngủ say, nhưng nó
cũng ý thức nữa. Bạn biết nếu bạn đang ngủ và muỗi
bắt đầu quấy nhiễu bạn, bạn vẫn còn ngủ và tay bạn
xua muỗi... Thân thể có tâm thức riêng của nó.
Các nhà khoa học nói thân thể có hàng triệu, hàng
triệu tế bào sống; mỗi tế bào có cuộc sống riêng của
nó. Bạn đã đánh mất khả năng ngạc nhiên; nếu không
thì bạn sẽ ngạc nhiên trước hết về thân thể mình, cách
thức thân thể biến bánh mì thành máu. Chúng ta vẫn
chưa có khả năng làm ra được một nhà máy biến bánh
mì thành máu. Và không chỉ có thế, thân thể bạn phân
loại ra cái nó cần và cái nó không cần; cái không cần
tới thì bị tống ra, còn cái được cần tới thì là cần cho các
chức năng khác nhau.
Thân thể cứ cung cấp cho các chỗ khác nhau,
những bộ phận khác nhau của thân thể bạn, bất kì cái gì
là nhu cầu của chúng. Bạn ăn cùng thức ăn cho mọi
nhu cầu của mình; từ cùng thức ăn đó xương bạn được
tạo ra, máu bạn được tạo ra, da bạn được tạo ra, mắt
bạn được tạo ra, não bạn được tạo ra; và thân thể biết
cực kì rõ cái gì là cần và nó cần ở đâu. Máu tuần hoàn
liên tục, cung cấp các hoá chất đặc biệt cho các bộ
phận đặc biệt.
Không chỉ thế, thân thể cũng biết đến mức ưu tiên.
Ưu tiên thứ nhất là bộ não của bạn - do đó, nếu không
có đủ ô xi, thì trước hết thân thể sẽ trao ô xi cho não.
Các bộ phận khác dẻo dai hơn và chúng có thể đợi
thêm một chút, nhưng tế bào não thì không dẻo dai
được đến thế. Nếu chúng không có ô xi trong sáu phút
chúng sẽ chết, và một khi chúng đã chết, chúng không
thể nào được làm sống lại.
Một công trình cực kì thông minh là tỉnh táo về các
chức năng khác nhau. Khi bạn bị thương, thế thì thân
thể dừng cung cấp cho những bộ phận nào đó có thể
tồn tại được, nhưng trước hết vết thương phải được
chữa lành. Ngay lập tức các bạch cầu của thân thể sẽ
xô tới vết thương để bao bọc nó để cho nó không bị
mở. Và thế rồi bên trong, công trình này, công trình rất
tinh tế này, tiếp tục.
Y học biết rằng chúng ta vẫn còn chưa trí huệ được
như thân thể. Các bác sĩ điều trị lỗi lạc nhất đã nói rằng
chúng ta không thể chữa lành cho thân thể được; thân
thể tự chữa cho nó - chúng ta chỉ có thể giúp thêm thôi.
Nhiều nhất thuốc thang của chúng ta cũng có thể có ích
nào đó, nhưng chữa chạy cơ bản vẫn tới từ chính thân
thể. Điều đáng ngạc nhiên là cách thức việc đó được
tiến hành. Nó là một công trình bao la thế.
Tôi đã biết từ một người bạn làm khoa học, người
đã làm việc về các chức năng của thân thể, rằng nếu
chúng ta muốn làm tất cả những chức năng đó thì
chúng ta sẽ cần gần như cả một nhà máy rộng một dặm
vuông với nhiều máy móc phức tạp, máy tính. Thế nữa,
chúng ta vẫn không chắc chắn rằng chúng ta thành
công - thế mà tôn giáo của bạn lại kết án thân thể và
bảo bạn rằng việc chăm sóc thân thể là phi tôn giáo...
Trước hết, ở bên trong, trở thành một với thân thể
mình, thế rồi trở thành một với toàn thể sự tồn tại. Cái
ngày mà nhịp đập của bạn có sự đồng bộ với vũ trụ
cùng nhịp đập của nó, bạn đã tìm ra tôn giáo - không
trước điều đó.24
Trong hàng thế kỉ con người đã được dạy cho
những điều phủ định cuộc sống. Thậm chí hành hạ thân
thể bạn đã từng là kỉ luật tâm linh...
Bạn bước đi, bạn ăn, bạn uống, và tất cả những
điều này chỉ ra rằng bạn là thân thể và tâm thức như
một toàn thể hữu cơ. Bạn không thể nào hành hạ thân
thể và nâng cao tâm thức của mình được. Thân thể phải
được yêu mến - bạn phải là người bạn lớn. Nó là ngôi
nhà của bạn, bạn phải dọn sạch mọi đồ đồng nát khỏi
nó, và bạn phải nhớ rằng nó đang phục vụ bạn liên tục,
hết ngày nọ đến ngày kia. Thậm chí khi bạn ngủ, thân
thể bạn cũng vẫn liên tục làm việc để bạn tiêu hoá, biến
đổi thức ăn thành máu, loại bỏ đi những tế bào chết
khỏi thân thể, đem ô xi mới, ô xi tươi vào trong thân
thể - mà bạn vẫn đang ngủ say!
Nó đang làm mọi thứ cho sự tồn tại của bạn, cho
cuộc sống bạn, mặc dầu bạn lại không biết ơn đến mức
bạn chẳng bao giờ cám ơn thân thể mình. Ngược lại,
tôn giáo của bạn đã từng dạy bạn hành hạ nó: thân thể
là kẻ thù của bạn và bạn phải thoát khỏi thân thể, sự
gắn bó của nó. Tôi cũng biết rằng bạn còn nhiều hơn
thân thể và không cần phải có bất kì gắn bó nào.
Nhưng tình yêu không phải là gắn bó, từ bi không phải
là gắn bó. Tình yêu và từ bi là tuyệt đối cần thiết cho
thân thể bạn và nuôi dưỡng cho nó. Và bạn càng có
thân thể tốt hơn, lại càng có nhiều khả năng hơn cho
tâm thức trưởng thành. Nó là một đơn vị hữu cơ.
Một loại giáo dục hoàn toàn mới hiện đang rất cần
trên thế giới này nơi mà về nền tảng mọi người đều
được giới thiệu vào trong cái im lặng của trái tim - nói
cách khác vào thiền - nơi mọi người đều phải được
chuẩn bị để từ bi với thân thể của riêng mình, bởi vì
chừng nào bạn còn chưa từ bi với thân thể của riêng
mình, bạn không thể nào từ bi được với bất kì thân thể
khác nào. Nó là một tổ chức sống, và nó không làm hại
gì bạn. Nó liên tục phục vụ bạn từ khi bạn được thụ
thai và sẽ vẫn trong phục vụ bạn cho tới cái chết của
bạn. Nó sẽ làm mọi điều bạn muốn làm, ngay cả điều
không thể được, và nó sẽ không bất tuân lệnh bạn.
Không thể nào quan niệm nổi việc tạo ra một cơ
chế như vậy, biết vâng lời và trí huệ đến thế. Nếu bạn
trở nên nhận biết về tất cả các chức năng của thân thể
mình, bạn sẽ ngạc nhiên. Bạn chưa bao giờ nghĩ thân
thể mình đã làm những gì. Nó kì diệu thế, bí ẩn thế -
nhưng bạn chưa bao giờ nhìn vào trong nó. Bạn chưa
bao giờ bận tâm tới việc làm quen với thân thể riêng
của mình và bạn giả vờ yêu người khác. Bạn không thể
yêu được, bởi vì những người khác đó xuất hiện với
bạn cũng như các thân thể.
Thân thể là bí ẩn lớn lao nhất trong toàn thể sự tồn
tại. Bí ẩn này cần được yêu mến - những bí ẩn của nó,
vận hành của nó cần được dò hỏi thân mật.
Không may là tôn giáo đã hoàn toàn chống lại thân
thể. Nhưng nó nêu ra manh mối, một chỉ dẫn xác định
rằng nếu con người học trí huệ của thân thể và bí ẩn
của thân thể, thì người đó sẽ không bao giờ bận tâm tới
các tu sĩ hay Thượng đế nữa. Người đó sẽ tìm ra những
điều bí ẩn nhất bên trong bản thân mình, và bên trong
bí ẩn của thân thể chính là điện thờ của tâm thức của
bạn.
Một khi bạn đã trở nên nhận biết về tâm thức của
mình, về bản thể mình, không có Thượng đế ở trên
bạn. Chỉ người như vậy mới có thể kính trọng hướng
tới những người khác, những sinh linh khác, bởi vì tất
cả chúng đều bí ẩn như bản thân người đó... các cách
diễn đạt khác nhau, sự đa dạng khác nhau làm cho cuộc
sống giầu có hơn. Và một khi con người đã tìm ra tâm
thức trong bản thân mình, người đó đã tìm thấy chiếc
chìa khoá tới điều tối thượng. Bất kì giáo dục nào
không dạy bạn yêu lấy thân thể mình, không dạy bạn từ
bi với thân thể mình, không dạy bạn cách đi vào trong
những bí ẩn của nó, đều sẽ không có khả năng dạy cho
bạn cách đi vào trong tâm thức riêng của mình.
Thân thể là cánh cửa - thân thể là bàn đạp. Và bất
kì giáo dục nào không động chạm tới chủ đề về thân
thể và tâm thức của bạn, không chỉ hoàn toàn không
đầy đủ, nó còn cực kì có hại bởi vì nó sẽ cứ mang tính
phá huỷ. Chỉ có nở hoa của tâm thức bên trong bạn mới
ngăn cản bạn khỏi việc huỷ diệt. Và điều đó đem lại
cho bạn thôi thúc vô cùng để sáng tạo - để tạo ra nhiều
cái đẹp hơn trong thế giới này, để tạo ra nhiều thoải
mái hơn trong thế giới này...
Con người cần một thân thể tốt hơn, một thân thể
lành mạnh hơn. Con người cần là một sinh linh ý thức
hơn, tỉnh táo hơn. Con người cần tất cả mọi loại thoải
mái và xa xỉ mà sự tồn tại đang sẵn sàng cung cấp. Sự
tồn tại đang sẵn sàng đem cho bạn thiên đường ở đây
và bây giờ, nhưng bạn cứ trì hoãn nó - điều đó bao giờ
cũng ở sau cái chết.
Tại Sri Lanka một nhà huyền môn vĩ đại sắp chết...
Ông ấy được hàng nghìn người tôn thờ. Họ tụ tập
quanh ông. Ông mở mắt ra: chỉ vài hơi thở nữa sẽ đưa
ông sang bờ bên kia và ông ấy sẽ ra đi, và ra đi mãi
mãi. Mọi người đều nóng lòng muốn nghe những lời
cuối cùng của ông ấy. Ông già này nói, “Cả đời mình,
ta đã dạy các ông về phúc lạc, cực lạc, thiền. Bây giờ ta
sắp sang bờ bên kia - ta sẽ không còn có sẵn nữa. Các
ông đã nghe ta, nhưng các ông lại chưa bao giờ thực
hành điều ta vẫn thường bảo các ông. Các ông bao giờ
cũng trì hoãn. Nhưng bây giờ chẳng có ích gì mà trì
hoãn cả, ta đi đây. Liệu có ai sẵn sàng đi cùng ta
không?”
Có im lặng lớn lao đến chiếc kim rơi cũng nghe
thấy được. Mọi người nhìn lẫn nhau cứ nghĩ rằng có lẽ
con người này, người đã từng là một đệ tử trong suốt
bốn mươi năm, người đó có thể sẵn sàng... Nhưng
người đó lại nhìn vào người khác - chẳng ai đứng dậy
cả. Ngay từ phía sau một người giơ tay lên. Nhà huyền
môn nghĩ, “ít nhất thì một người cũng đủ dũng cảm.”
Nhưng người đó nói, “Xin thầy để tôi làm rõ ràng
cho thầy tại sao tôi lại không đứng dậy. Tôi chỉ giơ tay
thôi. Tôi muốn biết cách đạt tới bờ bên kia, bởi vì hôm
nay tất nhiên là tôi chưa sẵn sàng rồi. Có nhiều điều
vẫn còn chưa hoàn thành: khách sắp tới thăm, con trai
sắp cưới vợ, và hôm nay thì tôi không thể đi được -
thầy lại nói từ bờ bên kia, thầy không thể nào quay lại
được. Một ngày nào đó, chắc chắn một ngày nào đó, tôi
sẽ tới và gặp thầy. Nếu thầy có thể chỉ giải thích cho
chúng tôi một lần nữa thôi - mặc dầu thầy đã giải thích
cho chúng tôi trong cả đời thầy rồi - chỉ một lần nữa
thôi về cách đạt tới bờ bên kia? Nhưng xin thầy nhớ
cho tôi không sẵn sàng để đi ngay bây giờ. Tôi chỉ
muốn làm tươi lại kí ức để cho khi đúng thời điểm
tới...”
Thời điểm đúng đó chẳng bao gì tới cả. Đấy không
chỉ là câu chuyện về con người đáng thương đó đâu,
đấy là câu chuyện của hàng triệu người đấy, của gần
như tất cả mọi người. Tất cả họ đều đang chờ đợi
khoảnh khắc đúng, chòm sao đúng... Họ đang coi đoán
số tử vi, tới xem tướng tay... hỏi theo những cách khác
nhau về điều gì sẽ xảy ra ngày mai. Ngày mai không
xảy ra - nó chưa bao giờ xảy ra cả. Đó đơn giản là một
chiến lược ngu xuẩn để trì hoãn. Cái xảy ra thì bao giờ
cũng hôm nay.
Một loại giáo dục đúng sẽ dạy cho mọi người sống
ở đây và bây giờ, để tạo ra cõi trời trên trái đất này,
không chờ đợi cái chết tới, và không phải khổ cho tới
khi cái chết chấm dứt khổ của bạn. Để cho cái chết tìm
bạn khi đang nhảy múa và vui vẻ và yêu mến. Một
kinh nghiệm lạ kì là nếu một người có thể sống cuộc
sống của mình cứ dường như là người đó đã trong
thiên đường, thì cái chết không thể nào lấy đi được cái
gì từ kinh nghiệm của người đó.
Cách tiếp cận của tôi là để dạy cho bạn rằng đây là
thiên đường, không có thiên đường nào ở bất kì đâu
khác cả, và không cần chuẩn bị nào để hạnh phúc cả.
Không cần tới kỉ luật nào cả để mà yêu; chỉ một chút ít
tỉnh táo, chỉ một chút ít thức tỉnh, chỉ một chút ít hiểu
biết.25
******************************************************
#10 Gốc rễ của căng thẳng
Căng thẳng thân thể đã được tạo ra bởi những
người, nhân danh tôn giáo, đã từng thuyết giảng về thái
độ phản thân thể. Tại phương Tây, Ki tô giáo đã rất
nhấn mạnh tới đối kháng với thân thể. Một phân chia
sai lầm, vực thẳm phân cách, đã được tạo ra giữa bạn
và thân thể bạn; thế thì toàn bộ thái độ của bạn trở
thành việc tạo ra căng thẳng. Bạn không thể ăn theo
cách thảnh thơi, bạn không thể ngủ theo cách thảnh
thơi; mọi hành động thân thể đều trở thành căng thẳng.
Thân thể là kẻ thù, nhưng bạn không thể nào tồn tại
thiếu nó được. Bạn phải vẫn còn cùng với nó, bạn phải
sống với kẻ thù của mình, cho nên có căng thẳng
thường xuyên; bạn không bao giờ thảnh thơi được.
Thân thể không phải là kẻ thù của bạn, nó cũng
không đối nghịch hay thậm chí dửng dưng với bạn theo
bất kì cách nào. Chính sự tồn tại của thân thể là phúc
lạc. Và khoảnh khắc bạn nhận thân thể như một món
quà, như một món quà thiêng liêng, bạn sẽ quay trở lại
với thân thể. Bạn sẽ yêu mến nó, bạn sẽ cảm nhận nó -
và tinh tế là cách thức của việc cảm thấy nó.
Bạn không thể cảm thấy thân thể của người khác
nếu bạn không cảm thấy thân thể của riêng mình, bạn
không thể yêu mến thân thể người khác nếu bạn không
yêu lấy thân thể của riêng mình; điều đó là không thể
được. Bạn không thể chăm sóc thân thể người khác nếu
bạn không chăm sóc thân thể của riêng mình - và
không ai chăm sóc cả! Bạn có thể nói rằng bạn chăm
sóc, nhưng tôi nhấn mạnh: không ai chăm sóc cả.
Thậm chí nếu bạn dường như chăm sóc, thì bạn cũng
không thực sự chăm sóc đâu. Bạn đang chăm sóc bởi lí
do nào đó khác - vì ý kiến người khác, vì nhìn vào mắt
ai đó khác; bạn chưa hề chăm sóc thân thể mình vì
chính mình. Bạn không yêu thân thể mình, và nếu bạn
không thể yêu nó được, thì bạn không thể nào ở trong
nó được.
Yêu lấy thân thể mình và bạn sẽ cảm thấy thảnh
thơi mà bạn chưa hề cảm thấy trước đây. Tình yêu là
thảnh thơi. Khi có tình yêu, có thảnh thơi. Nếu bạn yêu
ai đó - nếu, giữa bạn và anh ấy hay giữa bạn và cô ấy,
có tình yêu - thế thì cùng với tình yêu âm nhạc của
thảnh thơi cũng tới. Thế thì thảnh thơi có đó.
Khi bạn thảnh thơi với ai đó, điều đó là dấu hiệu
của tình yêu. Nếu bạn không thể nào được thảnh thơi
với ai đó, bạn không trong tình yêu; người kia, kẻ thù,
bao giờ cũng có đó. Đó là lí do tại sao Sartre đã nói,
“Người khác là địa ngục!” Địa ngục có đó cho Sartre,
nó nhất định hiện hữu. Khi không có tình yêu giữa hai
người, người kia là địa ngục, nhưng nếu có tình yêu ở
giữa, người kia là cõi trời. Cho nên liệu người kia là
cõi trời hay địa ngục còn tuỳ thuộc vào liệu có tình yêu
ở giữa hay không.
Bất kì khi nào bạn đang trong tình yêu, im lặng tới.
Ngôn ngữ mất đi; lời trở thành vô nghĩa. Bạn có nhiều
điều để nói mà chẳng có gì nói vào cùng lúc đó. Im
lặng sẽ bao trùm bạn, và trong im lặng đó, tình yêu nở
hoa. Bạn được thảnh thơi. Không có tương lai trong
tình yêu, không có quá khứ; chỉ khi tình yêu chết thì
mới có quá khứ. Bạn chỉ nhớ tới tình yêu chết, còn tình
yêu sống thì không bao giờ được nhớ tới cả; nó là đang
sống, không có lỗ hổng nào để nhớ nó cả; không có
khoảng cách để nhớ nó. Tình yêu là trong hiện tại;
không có tương lai và không có quá khứ.
Nếu bạn yêu ai đó, bạn không phải giả vờ. Thế thì
bạn có thể là cái bạn đang là. Bạn có thể lột mặt nạ của
mình ra và được thảnh thơi. Khi bạn không trong tình
yêu, bạn phải đeo mặt nạ. Bạn căng thẳng mọi khoảnh
khắc bởi vì người kia có đó; bạn phải giả vờ, bạn phải
canh chừng. Bạn phải hoặc hung hăng hoặc phòng thủ:
đó là trận đánh, trận chiến - bạn không thể được thảnh
thơi.
Phúc lạc của tình yêu ít nhiều là phúc lạc của thảnh
thơi. Bạn cảm thấy được thảnh thơi, bạn có thể là cái
bạn đang là, bạn có thể trần trụi theo nghĩa nào đó, như
bạn hiện hữu. Bạn không cần phải bị bận tâm về bản
thân mình, bạn không cần giả vờ. Bạn có thể cởi mở,
mong manh, và trong cởi mở đó, bạn thảnh thơi.
Cùng hiện tượng này xảy ra nếu bạn yêu thân thể
mình; bạn trở thành được thảnh thơi, bạn chăm sóc nó.
Điều đó không sai, không phải là tự yêu lấy mình khi
bạn yêu thân thể của riêng mình. Trong thực tế, đấy là
bước đầu tiên hướng tới tâm linh.26
Cội nguồn nguyên thuỷ của mọi căng thẳng là việc
trở thành. Người ta bao giờ cũng cố gắng để là cái gì
đó; không ai thoải mái với chính mình như mình hiện
thế. Bản thể không được chấp nhận, bản thể bị phủ
nhận, và một cái gì đó khác được coi như lí tưởng để
trở thành. Cho nên căng thẳng cơ bản bao giờ cũng là
giữa cái bạn đang là và cái bạn khao khát trở thành.
Bạn ham muốn trở thành cái gì đó. Căng thẳng có
nghĩa là bạn không hài lòng với cái bạn đang là, và bạn
khao khát là cái bạn không đang là. Căng thẳng được
tạo ra giữa hai điều này. Điều bạn ham muốn thì không
liên quan. Nếu bạn muốn trở nên mạnh khoẻ, nổi tiếng,
quyền thế, hay thậm chí nếu bạn muốn được tự do, giải
thoát, được là điều thiêng liêng, bất tử, thậm chí nếu
bạn khao khát về cứu rỗi, moksha, thế nữa căng thẳng
sẽ có đó.
Bất kì cái gì được ham muốn như cái gì đó cần phải
hoàn thành trong tương lai, chống lại bạn như bạn hiện
hữu, đều tạo ra căng thẳng. Lí tưởng càng không thể có
được, nhất định lại càng căng thẳng hơn. Cho nên
người duy vật thông thường không căng thẳng như
người tôn giáo, bởi vì người tôn giáo đang khao khát
điều không thể được, điều xa xôi. Khoảng cách lớn đến
mức chỉ một căng thẳng lớn mới có thể lấp đầy khoảng
trống.
Căng thẳng có nghĩa là lỗ hổng giữa cái bạn đang
là và cái bạn muốn là. Nếu lỗ hổng này lớn, căng thẳng
sẽ lớn. Nếu lỗ hổng này nhỏ, căng thẳng sẽ nhỏ. Và
nếu không có lỗ hổng chút nào, điều đó có nghĩa là bạn
thoả mãn với cái bạn đang là. Nói cách khác, bạn
không khao khát là bất kì cái gì khác hơn cái bạn đang
là. Thế thì tâm trí bạn tồn tại trong khoảnh khắc này.
Chẳng có gì căng thẳng cả; bạn thoải mái với bản thân
mình. Với tôi, nếu không có lỗ hổng nào, bạn là tôn
giáo.
Lỗ hổng có thể có nhiều tầng. Nếu niềm khao khát
là vật lí, căng thẳng sẽ là vật lí. Khi bạn tìm kiếm một
thân thể đặc biệt, một hình dáng đặc biệt - nếu bạn
khao khát một cái gì đó khác hơn cái bạn đang là trên
mức độ vật lí - thế thì có căng thẳng trong thân thể vật
lí của bạn. Người ta muốn đẹp hơn. Bây giờ thân thể
bạn trở nên căng thẳng. Căng thẳng này bắt đầu tại
thân thể bạn trước nhất, tại mức sinh lí, nhưng nếu nó
cứ nhấn đi nhấn lại, thường hằng, thì nó có thể đi sâu
hơn và lan rộng sang các tầng khác của bản thể bạn.
Nếu bạn đang khao khát quyền năng tâm lí, thế thì
căng thẳng bắt đầu ở mức tâm lí và lan rộng. Việc lan
rộng này giống hệt khi bạn ném hòn đá vào trong hồ.
Nó rơi vào một điểm đặc biệt, nhưng những rung động
nó tạo ra thì sẽ cứ lan toả vào vô cùng. Cho nên căng
thẳng có thể bắt đầu từ bất kì một trong bẩy thể của
bạn, nhưng nguồn gốc nguyên thuỷ thì bao giờ cũng là
một: lỗ hổng giữa trạng thái đang đó và trạng thái đang
khao khát tới.
Nếu bạn có một kiểu tâm trí đặc biệt và bạn muốn
thay đổi nó, biến đổi nó - nếu bạn muốn láu lỉnh hơn,
thông minh hơn - thế thì căng thẳng được tạo ra. Chỉ
nếu chúng ta chấp nhận bản thân mình một cách toàn
bộ mới không có căng thẳng. Chấp nhận toàn bộ này là
phép màu, phép màu duy nhất. Tìm ra một người đã
chấp nhận bản thân mình một cách toàn bộ là điều
đáng ngạc nhiên duy nhất.
Bản thân sự tồn tại không căng thẳng. Căng thẳng
bao giờ cũng bởi vì những khả năng giả thuyết, không
tồn tại. Trong hiện tại không có căng thẳng; căng thẳng
bao giờ cũng hướng tương lai. Nó tới từ tưởng tượng.
Bạn có thể tưởng tượng mình như một cái gì đó khác
hơn bạn đang là. Tiềm năng đã được tưởng tượng ra
này sẽ tạo ra căng thẳng. Cho nên một người càng
tưởng tượng nhiều thì căng thẳng lại càng có khả năng
hơn. Thế thì tưởng tượng đã trở thành phá hoại.
Tưởng tượng cũng có thể trở thành xây dựng, sáng
tạo. Nếu toàn bộ khả năng tưởng tượng của bạn được
tập trung vào hiện tại, vào khoảnh khắc này, không vào
tương lai, thế thì bạn có thể bắt đầu thấy sự tồn tại của
mình như thơ ca. Tưởng tượng của bạn không tạo ra
khao khát; nó đang được dùng trong việc sống. Sống
trong hiện tại này là vượt ra ngoài căng thẳng.
Con vật không căng thẳng, cây cối không căng
thẳng, bởi vì chúng không có khả năng tưởng tượng.
Chúng ở dưới căng thẳng, không vượt ra ngoài nó.
Căng thẳng của chúng chỉ là tiềm năng; nó không trở
thành thực tế. Chúng đang tiến hoá. Một khoảnh khắc
sẽ tới khi căng thẳng sẽ bùng nổ trong bản thể chúng
và chúng sẽ bắt đầu khao khát tương lai. Điều đó nhất
định xảy ra. Tưởng tượng trở thành hoạt động.
Điều đầu tiên mà tưởng tượng trở thành hoạt động
là tương lai. Bạn tạo ra hình ảnh, và bởi vì không có
tương ứng với thực tế nên bạn cứ tạo ra ngày càng
nhiều hình ảnh. Nhưng khi có liên quan tới hiện tại,
thông thường bạn không thể nào quan niệm nổi việc
tưởng tượng này trong quan hệ với nó. Làm sao bạn có
thể mang tính tưởng tượng trong hiện tại được? Dường
như là không cần thiết. Điểm này cần phải được hiểu.
Nếu bạn có thể hiện diện một cách có ý thức trong
hiện tại, bạn sẽ không sống trong tưởng tượng của
mình. Thế thì tưởng tượng sẽ tự do sáng tạo bên trong
bản thân hiện tại. Chỉ tập trung đúng là cần thiết. Nếu
tưởng tượng được tập trung vào cái thực, nó bắt đầu
sáng tạo. Sáng tạo có thể lấy bất kì dạng nào. Nếu bạn
là nhà thơ, điều đó trở thành bùng nổ thơ ca. Thơ ca
này sẽ không là khao khát về tương lai, mà là diễn tả
cho hiện tại. Hay nếu bạn là hoạ sĩ, bùng nổ sẽ là việc
vẽ. Việc vẽ sẽ không phải là cái gì đó như bạn đã tưởng
tượng về nó, mà như bạn đã biết nó và sống nó.
Khi bạn không sống trong tưởng tượng, khoảnh
khắc này được trao cho bạn. Bạn có thể diễn đạt nó,
hay bạn có thể đi vào trong im lặng.
Nhưng bây giờ im lặng này không phải là im lặng
chết đang được thực hành. Im lặng này lại là diễn đạt
của khoảnh khắc hiện tại. Khoảnh khắc này là sâu sắc
đến độ bây giờ nó có thể được diễn đạt chỉ qua im lặng.
Thậm chí thơ ca cũng không còn thích hợp; tranh vẽ
không còn thích hợp. Không cách diễn đạt nào là có
thể cả. Im lặng là cách diễn đạt duy nhất. Im lặng này
không phải là cái gì đó tiêu cực mà, thay vì thế, là việc
nở hoa tích cực. Cái gì đó đã nở hoa bên trong bạn,
bông hoa của im lặng, và qua cái im lặng này tất cả
những cái bạn đang sống lại được diễn đạt.
Điểm thứ hai cũng cần được hiểu. Cách diễn đạt
này về hiện tại qua tưởng tưởng thì không là tưởng
tượng về tương lai cũng không là phản ứng chống lại
quá khứ. Nó không phải là cách diễn đạt cho bất kì
kinh nghiệm nào đã từng được biết tới. Nó là kinh
nghiệm về việc kinh nghiệm - như bạn đang sống nó,
như nó đang xảy ra trong bạn. Không phải là kinh
nghiệm đã sống qua, nhưng là quá trình sống của việc
kinh nghiệm.
Thế thì kinh nghiệm của bạn và việc kinh nghiệm
không phải là hai điều. Chúng là một và như nhau. Thế
thì không có hoạ sĩ. Bản thân việc kinh nghiệm đã trở
thành việc vẽ; bản thân việc kinh nghiệm đã diễn đạt
chính nó. Bạn không phải là người sáng tạo. Bạn là
việc sáng tạo, năng lượng sống. Bạn không phải là nhà
thơ; bạn là thơ ca. Kinh nghiệm này không phải là về
tương lai cũng không phải là về quá khứ; nó không đến
từ tương lai cũng không đến từ quá khứ. Bản thân
khoảnh khắc đó đã trở thành vĩnh hằng, và mọi thứ đều
tới từ nó. Đấy là việc nở hoa...
Nếu bạn có thể cảm thấy khoảnh khắc không căng
thẳng này trong thân thể mình, bạn sẽ biết khoẻ mạnh
mà bạn chưa từng biết tới trước đây, khoẻ mạnh tích
cực... Thân thể bạn có thể không căng thẳng chỉ khi
bạn đang sống sự tồn tại khoảnh khắc nọ sang khoảnh
khắc kia. Nếu bạn đang ăn và khoảnh khắc này đã trở
thành vĩnh hằng, thế thì không có quá khứ và tương lai
nữa. Chính quá trình ăn là tất cả những cái đang đó.
Bạn không làm điều gì đó; bạn đã trở thành việc làm.
Sẽ không có căng thẳng; thân thể bạn sẽ cảm thấy được
thoả mãn. Hay nếu bạn đang trong giao cảm dục và dục
không chỉ là việc làm nhẹ khỏi căng thẳng dục mà,
thay vì thế, là diễn đạt tích cực của tình yêu - nếu
khoảnh khắc này đã trở thành toàn bộ, toàn thể, và bạn
đang trong nó hoàn toàn - thế thì bạn sẽ biết khoẻ mạnh
tích cực trong thân thể mình.
Nếu bạn đang chạy, và việc chạy đã trở thành toàn
bộ sự tồn tại của bạn; bạn là cảm giác đang tới với bạn,
không phải là cái gì đó ngoài chúng mà là một với
chúng; nếu không có tương lai, không mục đích cho
việc chạy này, bản thân việc chạy là mục đích - thế thì
bạn biết tới khoẻ mạnh tích cực. Thế thì thân thể bạn
không căng thẳng. Tại mức độ sinh lí, bạn đã biết tới
một khoảnh khắc của việc sống không căng thẳng.27
******************************************************
#11 Chìa khoá cho thảnh thơi
Toàn bộ xã hội đều hướng theo phục vụ cho công
việc. Đây là một xã hội tham công tiếc việc. Nó không
muốn bạn học lấy thảnh thơi, cho nên từ ngay thời trẻ
thơ nó đã nhồi vào tâm trí bạn những ý tưởng phản
thảnh thơi.
Tôi không bảo bạn thảnh thơi cả ngày. Làm công
việc của mình, nhưng tìm ra thời gian nào đó cho bản
thân mình, và điều đó có thể được tìm thấy chỉ trong
thảnh thơi. Và bạn sẽ ngạc nhiên rằng nếu bạn có thể
thảnh thơi trong một hay hai giờ từ mỗi hai mươi tư
giờ, nó sẽ cho bạn sự sáng suốt sâu sắc hơn trong bản
thân mình. Nó sẽ thay đổi hành vi của bạn ở bên ngoài
- bạn sẽ trở thành bình thản hơn, yên tĩnh hơn. Nó sẽ
làm thay đổi phẩm chất công việc của bạn - công việc
sẽ nghệ sĩ hơn và duyên dáng hơn. Bạn sẽ phạm phải ít
sai lầm hơn bạn vẫn phạm trước đây, bởi vì bây giờ
bạn ăn ý hơn, định tâm hơn. Thảnh thơi có quyền năng
kì diệu.
Đây không phải là lười biếng. Người lười có thể có
vẻ, nếu nhìn từ bên ngoài, cứ như người đó không làm
việc gì cả, nhưng tâm trí người đó lại đi xa nhất có thể
được; còn người thảnh thơi - thân thể người đó được
thảnh thơi, tâm trí người đó được thảnh thơi, trái tim
người đó được thảnh thơi. Chỉ thảnh thơi trên cả ba
tầng này - thân thể, tâm trí, trái tim - trong hai giờ thì
người đó gần như vắng mặt. Trong hai giờ này thân thể
người đó phục hồi lại, trái tim người đó phục hồi lại,
thông minh của người đó phục hồi lại, và bạn sẽ thấy
tất cả phục hồi đó trong công việc của người đó.
Người đó sẽ không phải là người mất - mặc dầu
người đó sẽ không còn điên rồ gì nữa, người đó sẽ
không chạy quẩn đây đó một cách không cần thiết.
Người đó sẽ đi trực tiếp tới điểm người đó muốn tới.
Và người đó sẽ làm những điều cần phải làm; người đó
sẽ không làm những điều tầm thường không cần thiết.
Người đó sẽ chỉ nói điều cần phải nói. Lời của người
đó sẽ trở thành vắn tắt như điện báo; chuyển động của
người đó sẽ trở thành duyên dáng; cuộc sống của người
đó sẽ trở thành thơ ca.
Thảnh thơi có thể biến đổi bạn thành những độ cao
đẹp đẽ như vậy - và nó là kĩ thuật đơn giản thế. Chẳng
có gì nhiều trong nó cả; chỉ mới vài ngày trước đây
thôi là bạn còn thấy nó khó khăn bởi vì thói quen cũ...
Thảnh thơi nhất định tới với bạn. Nó sẽ đem ánh sáng
mới tới cho mắt bạn, tươi tắn mới cho bản thể bạn, và
nó sẽ giúp cho bạn hiểu thiền là gì. Đấy chỉ là bước đầu
tiên bước ra ngoài cửa của ngôi đền thiền. Với thảnh
thơi ngày càng sâu sắc hơn nữa thì nó trở thành thiền.28
#11Thầy sẽ nói điều gì đó về thảnh thơi chứ? Tôi nhận
biết về căng thẳng sâu sắc tại cốt lõi của tôi, và tôi
ngờ rằng tôi có lẽ chẳng bao giờ được thảnh thơi
toàn bộ cả.
Thảnh thơi toàn bộ là điều tối thượng. Đó là
khoảnh khắc khi người ta trở thành vị phật. Đó là
khoảnh khắc của việc hiểu ra, của chứng ngộ, tâm thức
Christ. Ngay bây giờ bạn không thể nào hoàn toàn
thảnh thơi được. Tại cốt lõi bên trong nhất căng thẳng
vẫn còn dai dẳng.
Nhưng bắt đầu thảnh thơi đi. Bắt đầu từ phần chu
vi - đó là nơi chúng ta đang ở, và chúng ta chỉ có thể
bắt đầu từ nơi chúng ta đang ở mà thôi. Thảnh thơi
phần chu vi của bản thể bạn - thảnh thơi thân thể bạn,
thảnh thơi hành vi bạn, thảnh thơi hành động bạn.
Bước đi theo cách thảnh thơi, ăn theo cách thảnh thơi;
nói, nghe theo cách thảnh thơi. Làm chậm lại mọi quá
trình. Đừng vội vã và đừng hấp tấp. Đi dường như tất
cả mọi vĩnh hằng đều có sẵn cho bạn - trong thực tế, nó
đang có sẵn cho bạn rồi. Chúng ta ở đây từ lúc bắt đầu
và chúng ta ở đây tại chính lúc kết thúc, nếu có cái bắt
đầu và có cái kết thúc. Trong thực tế, không có bắt đầu
và không có kết thúc. Chúng ta bao giờ cũng ở đây và
chúng ta bao giờ cũng sẽ ở đây. Hình dạng cứ thay đổi,
nhưng bản chất không thay đổi; vỏ bọc ngoài cứ thay
đổi, nhưng linh hồn không thay đổi.
Căng thẳng có nghĩa là vội vàng, sợ hãi, hoài nghi.
Căng thẳng có nghĩa là nỗ lực thường xuyên để bảo vệ,
để an ninh, để an toàn. Căng thẳng có nghĩa là chuẩn bị
cho ngày mai từ bây giờ, hay cho kiếp sau - sợ ngày
mai nên bạn sẽ không có khả năng đối diện với thực tế,
cho nên phải được chuẩn bị. Căng thẳng có nghĩa là
quá khứ bạn chưa sống qua một cách thực sự mà bằng
cách nào đó mới chỉ bị bỏ qua; nó treo đấy, nó treo đâu
đấy, nó bao quanh bạn.
Nhớ một điều rất cơ bản về cuộc sống: bất kì kinh
nghiệm nào chưa được sống qua thì sẽ treo quanh bạn,
sẽ cứ khăng khăng: “Kết thúc tôi đi! Sống tôi đi! Hoàn
thành tôi đi.” Có một phẩm chất cố hữu trong mọi kinh
nghiệm rằng nó có khuynh hướng và muốn được kết
thúc, được hoàn thành. Một khi được hoàn tất, nó bay
hơi; chưa được hoàn tất, nó còn dai dẳng; nó hành hạ
bạn, nó ám ảnh bạn, nó hấp dẫn chú ý của bạn. Nó nói,
“Bạn định làm gì với tôi đây? Tôi vẫn còn chưa hoàn
tất - hoàn thành tôi đi!”
Toàn bộ quá khứ của bạn treo xung quanh bạn
bằng những điều chưa được hoàn thành bởi vì chẳng
cái gì đã được thực sự sống cả, mọi thứ bằng cách nào
đó đã bị bỏ qua, được sống một phần, chỉ làng nhàng,
theo cách hờ hững. Đã không có mãnh liệt, không có
đam mê. Bạn đã đi như kẻ mộng du, người đi trong khi
ngủ. Cho nên quá khứ treo đấy, và tương lai tạo ra nỗi
sợ. Và ở giữa quá khứ và tương lai, hiện tại của bạn,
thực tế duy nhất, bị nghiền nát.
Bạn sẽ phải thảnh thơi từ phần chu vi. Bước đầu
tiên trong việc thảnh thơi là thân thể. Nhớ thật nhiều
lần là phải nhìn vào thân thể, dù bạn đang mang căng
thẳng nào đó trong thân thể ở đâu đó - ở cổ, ở đầu, ở
chân. Thảnh thơi nó một cách có ý thức. Chỉ đi tới
phần đó của thân thể, và khuyên nhủ phần đó, nói với
nó một cách yêu thương, “Thảnh thơi đi!”
Và bạn sẽ ngạc nhiên rằng nếu bạn tiếp cận tới bất
kì phần nào của thân thể, nó đều lắng nghe, nó tuân
theo bạn - nó là thân thể của bạn! Với mắt nhắm, đi
vào bên trong thân thể từ ngón chân cho tới đầu và tìm
kiếm bất kì chỗ nào có căng thẳng. Và thế rồi nói với
phần đó như bạn nói với người bạn; để có đối thoại
giữa bạn và thân thể bạn. Bảo nó thảnh thơi, và bảo nó,
“Không có gì phải sợ cả. Đừng sợ hãi. Tôi đang ở đây
để chăm sóc - bạn có thể thảnh thơi.” Dần dần, bạn sẽ
học được cái mẹo về nó. Thế thì thân thể trở nên được
thảnh thơi.
Thế rồi làm bước nữa, sâu hơn một chút; bảo tâm
trí cũng thảnh thơi. Và nếu thân thể lắng nghe, tâm trí
cũng lắng nghe, nhưng bạn không thể bắt đầu với tâm
trí được - bạn phải bắt đầu từ đầu. Bạn không thể bắt
đầu từ chỗ giữa. Nhiều người bắt đầu với tâm trí và họ
thất bại; họ thất bại bởi vì họ bắt đầu từ chỗ sai. Mọi
thứ nên được tiến hành theo đúng trình tự.
Nếu bạn có khả năng làm thảnh thơi thân thể một
cách tự nguyện, thế thì bạn sẽ có khả năng giúp cho
tâm trí mình cũng tự nguyện thảnh thơi. Tâm trí là hiện
tượng phức tạp hơn. Một khi bạn đã trở nên tin tưởng
rằng thân thể lắng nghe bạn, bạn sẽ có tin cậy mới vào
bản thân mình. Bây giờ thậm chí tâm trí cũng có thể
lắng nghe bạn. Sẽ mất chút ít lâu hơn với tâm trí,
nhưng điều đó sẽ xảy ra.
Khi tâm trí được thảnh thơi, thế thì hãy bắt đầu
thảnh thơi trái tim bạn, thế giới của tình cảm, xúc động
của bạn - thậm chí còn phức tạp hơn, tinh tế hơn. Bây
giờ bạn sẽ biết điều đó là có thể. Nếu điều đó là có thể
với thân thể và có thể với tâm trí, thì điều đó cũng có
thể cả với trái tim nữa. Và chỉ thế khi bạn đã trải qua
ba bước này, bạn mới có thể lấy bước thứ tư. Bây giờ
bạn có thể đi tới cốt lõi bên trong nhất của bản thể bạn
- nằm ngoài thân thể, tâm trí, trái tim - chính trung tâm
của sự tồn tại của bạn. Và bạn sẽ có khả năng thảnh
thơi nó nữa. Và việc thảnh thơi đó chắc chắn sẽ đem lại
niềm vui lớn nhất có thể có, điều tối thượng trong cực
lạc, sự chấp nhận. Bạn sẽ tràn đầy phúc lạc và vui
sướng. Cuộc sống của bạn sẽ có phẩm chất của vũ điệu
trong nó.
Toàn thể sự tồn tại đang nhảy múa, ngoại trừ con
người. Toàn thể sự tồn tại đang trong chính chuyển
động rất thảnh thơi - chuyển động có đó, chắc chắn,
nhưng nó hoàn toàn thảnh thơi. Cây đang lớn lên và
chim đang ríu rít và dòng sông cuộn chảy, sao đang
dời; mọi thứ đều đang trong chính cách thức thảnh
thơi... không vội vã, không hấp tấp, không lo nghĩ, và
không phí hoài. Ngoại trừ con người. Con người đã sa
ngã thành nạn nhân của tâm trí mình.
Con người có thể vươn lên trên thượng đế và sa
ngã xuống dưới con vật. Con người có phổ lớn. Từ chỗ
thấp nhất tới chỗ cao nhất, con người là chiếc thang.
Bắt đầu từ thân thể, và thế rồi đi dần dần sâu hơn.
Và đừng bắt đầu với bất kì cái gì chừng nào bạn còn
chưa giải quyết trước hết cho điều chủ yếu. Nếu thân
thể bạn căng thẳng, đừng bắt đầu với tâm trí. Chờ đã.
Làm việc trên thân thể đã. Và những việc nhỏ có ích
mênh mông.
Bạn bước đi với nhịp nào đó; điều đó đã trở thành
thói quen, tự động. Bây giờ cố bước đi chậm thôi. Phật
hay nói với các đệ tử: “Bước thật chậm, và đi mỗi bước
một cách thật có ý thức.” Nếu bạn đi từng bước có ý
thức, bạn nhất định bước đi chậm rãi. Nếu bạn chạy,
vội vã, bạn sẽ quên mất việc nhớ. Do đó Phật bước đi
rất chậm.
Thử bước đi rất chậm, và bạn sẽ ngạc nhiên - một
phẩm chất mới của nhận biết bắt đầu xảy ra trong thân
thể. Ăn chậm, và bạn sẽ ngạc nhiên - có thảnh thơi lớn
lao. Làm mọi thứ chậm lại... chỉ để thay đổi mẫu hình
cũ, chỉ để thoát ra khỏi thói quen cũ.
Trước hết thân thể phải trở thành hoàn toàn được
thảnh thơi, giống như trẻ nhỏ, chỉ thế thì mới bắt đầu
với tâm trí. Đi một cách khoa học: trước hết là những
điều đơn giản nhất, thế rồi tới điều phức tạp, thế rồi
phức tạp hơn. Và chỉ thế thì bạn mới có thể thảnh thơi
tại cốt lõi tối thượng...
Thảnh thơi là một trong những hiện tượng phức tạp
nhất - rất giầu có, đa chiều. Tất cả những điều này đều
là một phần của nó: buông bỏ, tin cậy, buông xuôi, tình
yêu, chấp nhận, đi với dòng chảy, hợp nhất với sự tồn
tại, vô ngã, cực lạc. Tất cả những điều này đều là một
phần của nó, và tất cả những điều này bắt đầu xảy ra
nếu bạn học cách thức thảnh thơi.
Cái gọi là tôn giáo của bạn đã làm cho bạn thành
rất căng thẳng, bởi vì họ đã tạo ra mặc cảm trong bạn.
Nỗ lực của tôi ở đây là để giúp cho bạn gạt bỏ tất cả
những mặc cảm và mọi sợ hãi. Tôi muốn bảo bạn:
không có địa ngục và không có cõi trời đâu. Cho nên
đừng sợ địa ngục và đừng tham cõi trời. Tất cả những
cái đang tồn tại là khoảnh khắc này. Bạn có thể làm
cho khoảnh khắc này thành địa ngục hay cõi trời - điều
đó chắc chắn là khả năng - nhưng không có cõi trời hay
địa ngục ở đâu đó khác. Địa ngục là khi bạn căng thẳng
tất cả, còn cõi trời là khi bạn được thảnh thơi tất cả.29
******************************************************
#12 Dồn nén và quá căng
Dồn nén không phải bao giờ cũng sai; nó có thể có
ích theo nhiều cách đẹp. Nó không nhất thiết là tiêu
cực, nhưng nếu chúng ta nghĩ rằng nó là tiêu cực, rằng
nó là không tốt, thế thì chúng ta tạo ra vấn đề. Dồn nén
trong bản thân nó có thể được dùng như bàn đạp, nó có
thể trở thành một dạng sáng tạo. Nhưng thông thường
chúng ta đã được dạy trong nhiều thời đại rằng dồn nén
là xấu, rằng khi bạn đang trong bất kì dạng dồn nén
nào thì bạn trở nên sợ hãi. Và nỗi sợ của bạn làm cho
nó thậm chí còn mang tính dồn nén hơn; tình huống
này không ích gì cả.
Chẳng hạn, có một tình huống nào đó trong chợ tạo
ra dồn nén. Khoảnh khắc bạn cảm thấy rằng có căng
thẳng nào đó, dồn nén nào đó, bạn trở nên sợ rằng điều
này không nên như vậy: “Mình phải thảnh thơi.” Bây
giờ, cố thảnh thơi sẽ chẳng có ích gì, bởi vì bạn không
thể nào thảnh thơi được; trong thực tế, cố thảnh thơi sẽ
tạo ra loại dồn nén mới. Dồn nén có đó và bạn đang cố
gắng thảnh thơi mà bạn không thể thảnh thơi được, cho
nên bạn làm phức tạp vấn đề lên.
Khi dồn nén có đó, dùng nó như năng lượng sáng
tạo. Trước hết, chấp nhận nó; không cần phải tranh đấu
với nó. Chấp nhận nó đi, điều đó là hoàn toàn được.
Điều đó đơn giản nói, “Chợ sắp không ổn, cái gì đó
đang đi sai,” “Mình có thể là người mất”... hay cái gì
đó. Dồn nén đơn giản là một chỉ dẫn rằng thân thể đang
sẵn sàng tranh đấu với điều đó. Bây giờ bạn cố gắng
thảnh thơi hay bạn uống thuốc giảm đau hay bạn uống
thuốc an thần; bạn đang chống lại thân thể. Thân thể
đang sẵn sàng tranh đấu cho tình huống nào đó, thách
thức nào đó có đó: tận hưởng thách thức này!
Thậm chí nếu đôi khi bạn không thể ngủ được
trong đêm, cũng chẳng cần phải lo nghĩ. Làm việc từ
nó đi, dùng năng lượng đang tới: đi lên đi xuống, chạy,
đi dạo lâu, lập kế hoạch điều bạn muốn làm, điều tâm
trí muốn làm. Thay vì cố gắng đi ngủ, điều không thể
được, dùng tình huống ấy theo cách sáng tạo. Nó đơn
giản nói rằng thân thể đang sẵn sàng tranh đấu với vấn
đề này; đây không phải là lúc thảnh thơi. Thảnh thơi có
thể được làm về sau.
Trong thực tế, nếu bạn đã sống dồn nén của mình
một cách toàn bộ, bạn sẽ đi tới thảnh thơi một cách tự
động; bạn chỉ có thể đi đến mức nào đó thôi, thế rồi
thân thể tự động thảnh thơi. Nếu bạn muốn thảnh thơi
giữa chừng bạn tạo ra rắc rối; thân thể không thể nào
thảnh thơi giữa chừng được. Cũng gần như là nếu một
người chạy đua Olympic đã sẵn sàng; chỉ đợi tiếng còi,
tín hiệu, và người đó sẽ xuất phát, người đó sẽ chạy đi
như gió. Người đó tràn đầy dồn nén; bây giờ đó không
phải là thời gian để thảnh thơi. Nếu người đó uống
thuốc an thần, người đó sẽ không bao giờ có ích gì
trong cuộc đua. Hay nếu người đó thảnh thơi và cố
gắng thực hiện TM (thiền siêu việt) thì người đó sẽ mất
tất cả. Người đó phải dùng dồn nén của mình: dồn nén
đang sôi lên, nó đang thu thập năng lượng. Người đó
đang trở thành ngày càng sống động và tiềm năng hơn.
Bây giờ người đó phải ngồi trên dồn nén của mình và
dùng nó như năng lượng, như nhiên liệu.
Khi vận động viên chạy đã chạy xong, người đó sẽ
rơi vào giấc ngủ sâu; vấn đề được giải quyết. Bây giờ
không có vấn đề gì, dồn nén biến mất theo cách của nó.
Cho nên thử điều này nữa: khi có một tình huống
dồn nén, đừng phiêu diêu, đừng trở nên sợ nó. Đi vào
trong nó, dùng nó để tranh đấu. Con người có năng
lượng mênh mông và bạn càng dùng nó nhiều, bạn
càng có thêm nó... Khi nó tới và có tình huống, tranh
đấu, làm tất cả những điều bạn có thể làm, thực sự điên
khùng đi vào trong nó. Cho phép nó, chấp nhận nó và
đón chào nó. Nó là tốt, nó chuẩn bị cho bạn tranh đấu.
Và khi bạn đã làm việc xong với nó, bạn sẽ ngạc nhiên:
thảnh thơi lớn lại tới, và thảnh thơi đó không do bạn
tạo ra. Có thể hai, ba ngày bạn không thể ngủ và thế rồi
trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ bạn không thể nào
thức dậy được, và điều đó là được!
Chúng ta cứ mang nhiều khái niệm sai - chẳng hạn,
rằng mọi người phải ngủ tám tiếng mỗi ngày. Điều đó
tuỳ thuộc vào tình huống là gì. Có những tình huống
khi chẳng cần ngủ chút nào: nhà bạn cháy, mà bạn lại
cố gắng ngủ. Bây giờ điều đó là không thể được và
điều đó không nên có thể được; nếu không thì lấy ai đi
dập lửa? Và khi nhà đang cháy, tất cả các việc khác
đều bị dẹp sang bên; bỗng nhiên thân thể bạn sẵn sàng
để tranh đấu với lửa. Bạn sẽ không cảm thấy buồn ngủ.
Khi lửa đã tắt và mọi thứ được giải quyết bạn có thể rơi
vào giấc ngủ trong thời kì dài, và điều đó có tác dụng.
Mọi người không nhất thiết cần cùng thời gian ngủ.
Một vài người có thể ngủ ba tiếng, hai tiếng, bốn tiếng,
năm tiếng, sáu, tám, mười, mười hai. Mọi người khác
nhau, không có chuẩn. Và mọi người cũng khác nhau
về dồn nén nữa.
Có hai loại người trên thế giới: một loại có thể
được gọi là kiểu ngựa đua và loại kia là kiểu rùa. Nếu
kiểu ngựa đua mà không được phép đi nhanh, đi vào
mọi việc với tốc độ, sẽ có dồn nén; người đó phải được
trao cho nhịp của mình. Cho nên nếu bạn là kiểu ngựa
đua, quên về thảnh thơi và những thứ như thế đi; chúng
không dành cho bạn. Những điều đó là dành cho loại
rùa như tôi! Cho nên chỉ là ngựa đua, đó là tự nhiên
cho bạn, và đừng nghĩ đến niềm vui mà rùa đang tận
hưởng; điều đó không dành cho bạn. Bạn có một loại
niềm vui khác. Nếu rùa bắt đầu trở thành ngựa đua thì
nó sẽ trong cùng rắc rối...!
Cho nên chấp nhận bản tính của mình đi. Bạn là
chiến sĩ, chiến binh; bạn phải theo cách đó, và đó là
niềm vui của bạn. Bây giờ, không cần phải sợ hãi; đi
vào trong nó một cách toàn tâm. Tranh đấu với chợ,
cạnh tranh trong chợ, làm tất cả những điều bạn thực
sự muốn làm. Đừng sợ hậu quả, chấp nhận dồn nén.
Một khi bạn chấp nhận, dồn nén sẽ biến mất. Và không
chỉ thế, bạn sẽ cảm thấy rất hạnh phúc bởi vì bạn đã bắt
đầu dùng nó; nó là một loại năng lượng.
Nếu bạn là kiểu ngựa đua, chớ nghe những người
nói thảnh thơi; điều đó không dành cho bạn. Thảnh
thơi của bạn sẽ tới chỉ sau khi bạn đã kiếm được nó
bằng lao động vất vả. Người ta phải hiểu kiểu của
mình. Một khi kiểu này được hiểu thì không có vấn đề
gì; thế thì người ta có thể theo đường rõ ràng.30
Quá căng là trạng thái của tâm trí khi bạn đã trở
nên quá tập trung vào tính hợp lí và bạn quên mất tình
cảm của mình. Quá căng bắt nguồn từ mất quân bình;
quá tin cậy vào lí trí là cơ sở của mọi quá căng. Những
người sống trong cái đầu của mình đều trở nên quá
căng. Thảnh thơi tới qua trái tim. Người ta phải có khả
năng dễ dàng di chuyển từ đầu tới tim, cũng như bạn đi
ra đi vào nhà mình. Người ta nên linh động giữa đầu và
tim. Đây là hai bờ của dòng sông vốn là bạn. Bạn
không nên níu bám lấy một bờ, nếu không cuộc sống
trở thành bị thiên lệch.
Phương Tây chịu đựng rất nhiều về quá căng, bởi
vì nó đã quên mất ngôn ngữ của trái tim, và chỉ trái tim
mới biết cách thảnh thơi bởi vì chỉ trái tim mới biết
cách yêu. Chỉ trái tim mới biết cách tận hưởng, mở hội.
Chỉ trái tim mới biết cách nhảy múa và ca hát. Cái đầu
chẳng biết gì về nhảy múa - cái đầu lên án nhảy múa là
ngu xuẩn. Cái đầu chẳng biết gì về thơ ca, cái đầu lên
án thơ ca.
Bạn có biết rằng một trong những triết gia vĩ đại
nhất, Plato, khi nghĩ về nền cộng hoà không tưởng tối
thượng của mình, đã nói rằng không nhà thơ nào nên
được phép ở đấy? Trong nền cộng hoà của ông ấy,
trong trạng thái xã hội tối thượng của ông ấy, nhà thơ
phải không được phép. Tại sao? - bởi vì ông ấy sợ nhà
thơ. Ông ấy nói: Nhà thơ đem vào phóng túng, nhà thơ
đem vào mơ mộng, nhà thơ đem vào lẫn lộn và huyền
môn, còn chúng tôi thì lại không muốn bất kì cái gì
trong đó. Chúng tôi muốn xã hội rất rõ ràng, logic,
không thơ mộng. Xã hội đó sẽ quá căng; mọi người sẽ
thần kinh hết. Trong nền cộng hoà của Plato - nếu như
nó xảy ra, và có mọi nỗi sợ rằng nó có thể xảy ra - mọi
người đều sẽ thần kinh hết, và mọi người bao giờ cũng
sẽ mang nhà phân tâm theo cùng mình. Dù người đó đi
tới đâu, thì người đó sẽ mang theo nhà phân tâm của
mình. Điều đó đã xảy tới ở phương Tây.
Tôi đã từng nghe: Trong một phố New York hai
cậu bé đang nói chuyện - như chúng bao giờ cũng nói
chuyện suốt hàng thế kỉ, nhưng điều chúng nói thì lại
rất mới. Đứa này nói với đứa kia, “Nhà phân tâm của
tớ chiến hơn nhà phân tâm của đằng ấy mọi bề.” Bọn
trẻ, chúng bao giờ cũng nói theo cách đó: “Bố tớ chiến
hơn bố đằng ấy,” hay “Nhà tớ còn to hơn nhà đằng ấy,”
hay “Con chó của tớ khoẻ hơn con chó của đằng ấy” -
sự bắt đầu bản ngã của trẻ nhỏ. Nhưng “Nhà phân tâm
của tớ chiến hơn nhà phân tâm của đằng ấy vào mọi
bề” - đây mới là điều gì đó mới.
Ba phụ nữ đang nói chuyện về con mình. Một
người nói, “Nó nhất lớp đấy. Nó bao giờ cũng dẫn
đầu.”
Người thứ hai nói, “Thế chẳng là gì cả. Con tôi mới
bẩy tuổi nhưng nó có thể chơi nhạc như Mozart, như
Wagner.”
Người thứ ba nói, “Thế cũng chưa là cái gì nhé.
Con tôi mới năm tuổi mà nó tới nhà phân tâm có mỗi
một mình.”
Quá căng là trạng thái bạn mất quân bình. Bạn
không thể đem trái tim mình về vận hành trong cuộc
sống mình; logic đã trở thành tất cả - và logic thì vẫn
còn bề ngoài. Logic, khi nó trở thành tất cả, chỉ tạo ra
lo âu; nó chưa bao giờ đem cho an bình, nó cứ đem tới
vấn đề mới. Nó chưa bao giờ giải quyết được vấn đề gì
cả - nó không thể giải quyết được, điều đó không trong
quyền lực của nó - nó chỉ giả vờ, nó chỉ hứa hẹn. Nó cứ
nói mãi, “Tớ sẽ chuyển giao điều tốt,” nhưng nó chẳng
bao giờ chuyển giao cả. Thế rồi vấn đề cứ tích luỹ lại
và bạn không biết cách thoát ra khỏi vấn đề này, bởi vì
bạn không biết cách thoát ra khỏi cái đầu. Bạn không
biết cách chơi với trẻ con, cách yêu người đàn bà của
mình, cách đi và nói chuyện với cây cối và đôi khi có
đối thoại với vì sao. Bạn đã quên tất cả, bạn không còn
là nhà thơ nữa, bạn không còn là trái tim sống động
nữa.
Và bất kì khi nào, bất kì phần nào trong thân thể bị
kìm nén, phần đó sẽ báo thù. Nếu phần khác của tâm trí
bị kìm nén, phần đó sẽ báo thù. Và trái tim là phần
sống động nhất, phần nền tảng nhất. Người ta có thể
sống không có đầu, nhưng người ta không thể sống
không có trái tim. Cái đầu có chút ít hời hợt, nó là một
loại xa xỉ phẩm, nhưng trái tim thì rất bản chất. Cái đầu
chỉ tồn tại trong con người, cho nên nó không thể nào
rất bản chất được. Con vật sống không có nó và nó
sống hoàn toàn tốt theo cách phúc lạc và im lặng hơn
nhiều so với con người. Cây sống không có đầu, chim
muông và trẻ con cùng nhà huyền môn cũng sống như
vậy.
Cái đầu là hời hợt. Nó có chức năng nào đó - dùng
nó, nhưng đừng bị nó dùng. Một khi bạn bị nó dùng,
bạn sẽ trở nên lo âu: lo âu sẽ tới và cuộc sống sẽ trở
thành kinh tởm. Nó sẽ là đau đớn lan rộng, trải dài, và
bạn sẽ không tìm thấy bất kì ốc đảo nào ở đâu trong nó
cả; nó sẽ là một thứ khô cằn. Nhớ lấy, điều bản chất
phải không bị kìm nén. Điều không bản chất phải tuân
theo điều bản chất, phải trở thành cái bóng của nó. Bạn
không thể phủ nhận bất kì cái gì mà không lâm vào rắc
rối. Nghe giai thoại này:
Một hôm, một chiếc đĩa bay hạ cánh xuống khu
vườn của cô Elsie Gumtree, ngay giữa đống quần mùa
hè của cô ấy - cô ấy có thể khổ lắm nếu như phải mặc
chúng. Có tiếng vo vo, và một người mầu tía lạ thường
xuất hiện qua cánh cửa phía bên của đĩa bay. Đi thẳng
ra, người đó nhằm cánh cửa sau nhà Elsie và gõ một
cách lễ phép.
Elsie mở cửa, và nhanh chóng làm chủ tình thế,
nói, “Ông từ đĩa bay tới sao?”
“Hừ” người này đáp lại, dường như đang đau.
“Ông từ sao Hoả tới sao?” Elsie hỏi.
“Hừ,” người này lại nói, khuôn mặt ông ta méo mó.
“Ông phải mất bao lâu mới tới được đây? Mười
năm sao?” Elsie hỏi.
"Hừ".
"Hai mươi năm sao?"
“Hừ,” người này nói, một cái nhìn đau đớn hiện lên
trên khuôn mặt ông ta.
“Hai mươi năm sao? Ông để tất cả thời gian trên
đĩa bay sao?”
“Hừ,” người này gật đầu, cáu kỉnh.
“Tôi có thể giúp gì cho ông được?” Elsie hỏi.
Người bé nhỏ này mở mồm ra, và khó khăn lắm
mới nói được, “Tôi dùng nhà vệ sinh của cô được
chứ?”
Phủ nhận bất kì cái gì và nó trở thành quá mạnh.
Bây giờ, trong hai mươi năm ông ấy đã không thể nào
tìm ra nhà vệ sinh còn bạn lại hỏi những câu hỏi vô
nghĩa: “Ông từ đâu tới?” và “Ông là ai?” và “Bao
nhiêu...?” Làm sao ông ấy có thể trả lời tất cả những
điều này? Phần bị phủ nhận của ông ấy có đó để báo
thù.
Trái tim bạn đã bị phủ nhận trong nhiều kiếp sống
đến độ khi nó bùng nổ, nó cứ tạo ra những hỗn loạn lớn
trong cuộc sống của bạn. Trước hết bạn phải chịu đựng
từ tâm trí, căng thẳng, lo âu; và thế rồi bạn có thể chịu
đựng từ việc bùng nổ của trái tim. Đó là điều xảy ra khi
một người bị suy nhược. Trước hết người đó chịu đựng
từ trạng thái căng thẳng của tâm trí, và thế rồi một hôm
nào đó trái tim báo thù, bùng nổ, và người này phát
điên, nổi đoá.
Cả hai tình huống đều xấu. Trước hết lành mạnh
quá nhiều - điều đó tạo ra điên rồ. Người lành mạnh
thực sự là người có thể sống giữa lành mạnh và điên rồ
theo cân bằng tuyệt đối. Người thực sự lành mạnh bao
giờ cũng có cái điên rồ nào đó trong mình - người đó
chấp nhận điều ấy. Người thực sự hợp lí là người kính
trọng cả cái bất hợp lí nữa, bởi vì cuộc sống là như vậy.
Nếu bạn không thể cười bởi vì lí do của bạn - bởi vì
“cười là kì cục” - thế thì bạn nhất định sẽ bị rắc rối, bạn
mang định mệnh rắc rối rồi. Vâng, logic là tốt, cười
cũng tốt - và cười đem lại cân bằng. Nghiêm chỉnh
cũng tốt, không nghiêm chỉnh cũng tốt, và nên có cân
bằng thường xuyên.
Bạn đã bao giờ thấy người đi trên dây chưa? Người
đó liên tục tự cân bằng mình. Đôi khi người đó nghiêng
cái sào sang trái, và thế rồi người đó đi tới điểm mà
nếu người đó nghiêng thêm một khoảnh khắc nữa thì sẽ
bị ngã. Người đó lập tức thay đổi sự cân bằng của
mình, nghiêng sang phía bên kia - sang phải - nghiêng
sang phải. Thế rồi một khoảnh khắc lại tới khi chỉ một
khoảnh khắc nữa là người đó sẽ tiêu tùng; người đó lại
bắt đầu nghiêng về bên trái. Đấy là cách người đó xử
lí: nghiêng sang trái, sang phải, người đó giữ ở giữa.
Đó là cái đẹp - nghiêng sang trái và sang phải, nghiêng
về cả hai cực đoan, người đó giữ ở giữa.
Nếu bạn muốn giữ cho bản thân mình ở giữa, bạn
sẽ phải nghiêng đi nghiêng lại về cả hai phía. Bạn
không chọn lựa. Nếu bạn chọn, bạn sẽ bị ngã. Nếu bạn
chọn trái tim, bạn sẽ ngã; bạn sẽ trở thành quá căng.
Nếu bạn chọn trái tim và quên mất cái đầu hoàn toàn;
bạn sẽ trở thành điên. Và nếu bạn muốn chọn bằng
cách nào đó, nếu bạn muốn chọn, thế thì chọn điên
khùng đi. Chọn trái tim, bởi vì nó là bản chất hơn.
Nhưng tôi không nói rằng bạn nên chọn. Nếu bạn
cứ khăng khăng và bạn nói, “Tôi phải chọn,” thế thì
điên khùng còn hơn là chỉ khô héo và lành mạnh.
Thuộc vào trái tim. Yêu, yêu điên cuồng; hát, hát điên
cuồng; nhảy múa, nhảy múa điên cuồng. Điều đó còn
tốt hơn nhiều chỉ trở thành tính toán, logic, hợp lí, và
chỉ chịu đựng ác mộng.
Nhưng tôi không nói... đấy không phải là gợi ý của
tôi rằng hãy làm điều đó. Gợi ý của tôi là vẫn còn vô
chọn lựa. ‘Nhận biết vô chọn lựa’ là từ khoá. Vẫn còn
vô chọn lựa, nhận biết và bất kì khi nào bạn thấy rằng
cái gì đó đang sắp mất cân bằng, nghiêng về phía bên
kia. Đem cân bằng lại, và đây là cách người ta di
chuyển. Cuộc sống là giống như đi trên dây.31
******************************************************
#13 Phiền muộn, bệnh của người giầu
Con người bao giờ cũng sống với hi vọng, với
tương lai, với cõi trời ở đâu đó xa xăm. Con người
chưa bao giờ sống trong hiện tại - thời vàng son của
người đó vẫn còn đang tới. Nó giữ cho người đó còn
nhiệt tình bởi vì điều lớn lao hơn đang sắp xảy ra; tất
cả mọi khao khát của người đó đang sắp được hoàn
thành. Có niềm vui lớn trong mong đợi. Người đó đã
chịu đựng trong hiện tại; người đó đã khổ trong hiện
tại. Nhưng tất cả những điều đó bị hoàn toàn quên lãng
trong những giấc mơ đang sắp được hoàn thành vào
ngày mai. Ngày mai bao giờ cũng là cái truyền sinh khí
cho.
Nhưng tình huống này đã thay đổi. Tình huống cũ
là không tốt bởi vì ngày mai - sự hoàn thành các giấc
mơ của người đó - chẳng bao giờ trở thành đúng cả.
Người đó chết đi trong hi vọng. Thậm chí trong cái
chết của mình người đó vẫn còn hi vọng vào cuộc sống
tương lai - nhưng người đó chưa bao giờ thực sự kinh
nghiệm bất kì vui vẻ nào, bất kì ý nghĩa nào. Nhưng
điều đó dung thứ được. Duy nhất chỉ là vấn đề về ngày
hôm nay: nó sẽ trôi qua, và ngày mai nhất định sẽ tới.
Các nhà tiên tri tôn giáo, các đấng cứu thế, những vị
cứu tinh đều hứa hẹn với người đó về mọi niềm hoan
lạc - cái đang bị kết án ở đây - trên cõi. Các lãnh tụ
chính trị, các nhà lí tưởng xã hội, các nhà không tưởng
đều hứa hẹn với người đó về cùng một điều - không
phải trên thiên đường mà là ở đây trên trái đất này, ở
đâu đó xa xăm trong tương lai khi xã hội phát triển qua
một cuộc cách mạng toàn bộ và không có nghèo đói,
không giai cấp, không chính phủ và con người hoàn
toàn được tự do và có mọi thứ mình cần.
Cả hai về cơ bản đều thoả mãn cho cùng một nhu
cầu tâm lí. Với những người duy vật, thì những người
lí tưởng, chính khách, những nhà không tưởng xã hội
thành hấp dẫn; với những người không duy vật mấy,
thì các lãnh tụ tôn giáo lại hấp dẫn. Nhưng đối tượng
của sự hấp dẫn vẫn hệt như nhau: tất cả những điều bạn
có thể tưởng tượng ra, có thể mơ tới, có thể khao khát
tới, sẽ được thoả mãn hoàn toàn. Với những giấc mơ
đó, khổ hiện tại dường như là rất nhỏ.
Có những người nhiệt tình trên thế giới; những
người không phiền muộn. Phiền muộn là hiện tượng
đương đại và nó đi vào hiện hữu bởi vì bây giờ không
có ngày mai. Tất cả các ý thức hệ chính trị đều đã thất
bại. Không còn khả năng nào để con người được bình
đẳng hơn, không có khả năng nào sẽ có lúc mà không
có chính phủ, không có khả năng nào cho tất cả các
giấc mơ của bạn đều sẽ được hoàn thành.
Điều này đã đưa tới cú choáng lớn. Đồng thời con
người đã trở nên chín chắn hơn. Con người có thể tới
nhà thờ, tới đền đài, tới chùa chiền, tới giáo đường Do
thái - nhưng chúng chỉ là những việc tuân theo xã hội,
bởi vì người đó không muốn, trong trạng thái tối tăm
và phiền muộn như thế, bị bỏ lại một mình; người đó
muốn ở cùng với đám đông. Nhưng về cơ bản người đó
biết chẳng có cõi trời đâu; người đó biết rằng chẳng vị
cứu tinh nào sắp tới cả.
Người Hindu đã từng chờ đợi Krishna trong năm
nghìn năm. Ông ấy đã hứa ông ấy không chỉ tới có một
lần, ông ấy đã hứa rằng bất kì khi nào có khổ, đau khổ,
bất kì khi nào đồi bại leo lên đỉnh của đức hạnh, bất kì
khi nào những người đẹp đẽ và đơn giản và hồn nhiên
lại bị những người tinh ranh và đạo đức giả khai thác
thì ông ấy sẽ tới. Nhưng trong năm nghìn năm chẳng
thấy dấu hiệu nào về ông ấy cả.
Jesus đã hứa ông ấy sẽ tới, và khi được hỏi, ông ấy
đã nói, “Rất sớm thôi.” Tôi có thể kéo rộng ra “Rất
sớm thôi,” nhưng vẫn chưa có gì trong hai nghìn năm;
như thế thì quá nhiều rồi.
Cái ý tưởng rằng khổ của chúng ta, đau đớn của
chúng ta, tủi nhục của chúng ta sẽ bị mất đi không còn
hấp dẫn nữa. Cái ý tưởng rằng Thượng đế, người chăm
nom cho chúng ta dường như đơn giản chỉ là trò cười.
Nhìn vào thế giới, dường như là chẳng ai chăm nom cả.
Trong thực tế, ở nước Anh gần ba mươi nghìn
người là người tôn thờ quỉ - chỉ ở Anh thôi, một phần
nhỏ của thế giới. Và ý thức hệ của họ cũng đáng để
nhìn vào khi tham khảo câu hỏi của bạn. Họ nói rằng
quỉ không chống lại Thượng đế, quỉ là con của Thượng
đế. Thượng đế đã bỏ thế giới, và bây giờ niềm hi vọng
duy nhất là thuyết phục quỉ chăm nom vì Thượng đế
không chăm nom. Và ba mươi nghìn người đang tôn
thờ quỉ như con của Thượng đế... và lí do là họ cảm
thấy rằng Thượng đế đã bỏ thế giới này - ngài không
còn chăm nom về nó nữa. Một cách tự nhiên, cách duy
nhất là cầu đến con ngài; nếu bằng cách nào đó con
ngài có thể được thuyết phục bằng các nghi lễ, bằng lời
cầu nguyện, bằng tôn thờ, thì có lẽ khổ, bóng tối, ốm
bệnh có thể bị loại bỏ. Đây là một nỗ lực tuyệt vọng.
Thực tế là ở chỗ con người bao giờ cũng sống trong
nghèo nàn. Nghèo nàn có điều đẹp đẽ về nó: nó không
bao giờ phá huỷ hi vọng của bạn, nó không bao giờ
chống lại ước mơ của bạn, nó bao giờ cũng đem tới
nhiệt tình vì ngày mai. Người ta hi vọng, tin tưởng rằng
mọi sự sẽ tốt đẹp hơn: thời kì đen tối này đã qua đi;
chẳng mấy chốc sẽ có ánh sáng. Nhưng tình huống đó
đã thay đổi. Ở các nước đã phát triển... và nhớ, vấn đề
phiền muộn không phải là ở các nước chưa phát triển -
ở các nước nghèo, mọi người vẫn còn hi vọng - chính
là chỉ có ở các nước đã phát triển, nơi họ có đủ mọi thứ
họ đã từng khao khát. Bây giờ cõi trời sẽ không còn tác
dụng thêm nữa; xã hội phi giai cấp cũng chẳng ích gì
thêm nữa. Không xã hội không tưởng nào lại sẽ tốt
hơn. Họ đã đạt tới mục đích - và việc đạt tới mục đích
này là nguyên nhân của phiền muộn. Bây giờ không
còn hi vọng: ngày mai thành đen tối, và ngày kia sẽ lại
còn đen tối hơn.
Tất cả những điều này mà họ đã từng mơ tới đều
rất đẹp. Họ chưa bao giờ nhìn vào những hệ luỵ của
chúng. Bởi vì họ đã có được chúng, họ có chúng cùng
với những hệ luỵ của chúng. Một người là nghèo,
nhưng người đó ăn ngon miệng. Một người là giầu,
nhưng người đó lại ăn không ngon. Và là người nghèo
và ăn ngon miệng còn tốt hơn là người giầu mà chẳng
ngon miệng. Bạn định làm gì với cả đống vàng, đống
bạc, đống đô la của bạn? Bạn không thể ăn được
chúng. Bạn có mọi thứ, nhưng cái ngon miệng đã biến
mất, cái mà bạn đã vật lộn từ lâu để có được. Bạn
thành công - và tôi đã nói đi nói lại mãi rằng chẳng có
gì thất bại như thành công cả. Bạn đã đạt tới nơi bạn
muốn tới, nhưng bạn lại không nhận biết về sản phẩm
phụ. Bạn có hàng triệu đô la, nhưng bạn không thể ngủ
được...
Khi con người đạt tới mục tiêu ấp ủ, thế thì người
đó trở nên nhận biết rằng có nhiều điều quanh chúng.
Chẳng hạn, trong cả đời mình bạn cố gắng kiếm tiền,
cứ nghĩ rằng một ngày nào đó, khi bạn có nó, bạn sẽ
sống một cuộc sống thảnh thơi. Nhưng bạn đã từng
căng thẳng suốt cả đời - căng thẳng đã trở thành kỉ luật
của bạn - và tới cuối đời, khi bạn đã đạt tới tất cả tiền
bạc bạn muốn, bạn lại không thể thảnh thơi được. Toàn
bộ cuộc đời đã bị khép vào kỉ luật trong căng thẳng, và
khổ sở cùng lo nghĩ sẽ không để cho bạn thảnh thơi.
Cho nên bạn không phải là người chiến thắng, bạn là
kẻ chiến bại. Bạn ăn không ngon, bạn huỷ hoại sức
khoẻ mình, bạn huỷ hoại cảm giác của mình, nhạy cảm
của mình. Bạn huỷ hoại cảm giác thẩm mĩ của mình -
bởi vì không có thời gian cho tất cả những điều này, cái
không tạo ra đô la.
Bạn đang đuổi theo đô la - ai có thời gian để ngắm
hoa hồng, và ai có thời gian để ngắm chim tung cánh,
và ai có thời gian để ngắm cái đẹp của con người? Bạn
trì hoãn tất cả những điều này để cho một ngày nào đó,
khi bạn có mọi thứ, thì bạn sẽ thảnh thơi và tận hưởng.
Nhưng đến lúc bạn có đủ mọi thứ, bạn trở thành một
loại người có kỉ luật nào đó - người mù với hoa hồng,
người mù với cái đẹp, người không thể nào tận hưởng
được âm nhạc, người không thể nào hiểu được điệu vũ,
người không thể nào hiểu được thơ ca, người chỉ có thể
hiểu được đô la. Nhưng những đồng đô la đó không
đem lại thoả mãn.
Đây là nguyên nhân của phiền muộn. Đó là lí do tại
sao nó chỉ có trong những nước đã phát triển và chỉ
trong giai cấp giầu có của các nước đã phát triển -
trong các nước đã phát triển cũng có cả người nghèo
nữa, nhưng họ không bị phiền muộn - và bây giờ bạn
không thể trao cho con người bất kì hi vọng nào thêm
nữa để vứt bỏ đi phiền muộn của người đó bởi vì người
đó có tất cả, còn nhiều hơn điều bạn có thể hứa hẹn.
Hoàn cảnh của người đó thực sự đáng thương. Người
đó chưa bao giờ nghĩ tới những hệ luỵ đó, người đó
chưa bao giờ nghĩ tới sản phẩm phụ, người đó chưa
bao giờ nghĩ tới điều mình sẽ mất bởi việc có được tiền
bạc. Người đó chưa bao giờ nghĩ rằng người đó sẽ mất
mọi thứ mà có thể làm cho người đó hạnh phúc chỉ bởi
vì người đó bao giờ cũng gạt mọi thứ đó sang bên.
Người đó không có thời gian, và cạnh tranh thì lại gay
gắt và người đó phải quyết liệt. Đến cuối cùng người
đó thấy trái tim mình chết, cuộc sống mình vô nghĩa.
Người đó không thấy có bất kì khả năng nào trong
tương lai về bất kì thay đổi nào, bởi vì “Còn có gì hơn
nữa...?”
Tôi hay ở tại Sagar trong ngôi nhà của một người
rất giầu có. Ông già này rất đẹp lão. Ông ấy đã là nhà
chế tạo bidi lớn nhất trong cả nước Ấn Độ. Ông ấy có
đủ mọi thứ bạn có thể tưởng tượng ra, nhưng ông ấy
hoàn toàn không thể nào tận hưởng mọi thứ được. Tận
hưởng là điều gì đó cần phải được nuôi dưỡng. Nó là kỉ
luật nào đó, nghệ thuật nào đó - cách tận hưởng - và
phải mất thời gian để đi vào tiếp xúc với những điều vĩ
đại trong cuộc sống. Nhưng con người này, người đuổi
theo tiền bạc, lại bỏ qua mọi thứ vốn là cánh cửa tới
điều thiêng liêng, và người đó kết thúc tại cuối con
đường và chẳng có gì phía trước người đó ngoại trừ cái
chết.
Toàn bộ cuộc sống của người đó đều khổ. Người
đó chịu đựng nó, lờ nó đi trong hi vọng rằng mọi thứ
sắp sửa thay đổi. Bây giờ người đó không thể nào lờ nó
đi được và cũng không thể nào chịu đựng được nó bởi
vì ngày mai chỉ có cái chết và không cái gì khác cả. Và
toàn bộ cái khổ đã tích luỹ của cả đời mà người đó đã
lờ đi, cái khổ sở mà người đó đã lờ đi, lại bùng nổ
trong bản thể người đó.
Người giầu có nhất này, theo một cách nào đó, lại
là người nghèo nhất trong thế giới. Là người giầu mà
không nghèo là một nghệ thuật vĩ đại. Là người nghèo
mà giầu là mặt bên kia của nghệ thuật này. Có những
người nghèo bạn thấy giầu có vô cùng. Họ chẳng có gì,
nhưng họ giầu. Cái giầu của họ không trong đồ vật mà
trong bản thể họ, trong kinh nghiệm đa chiều của họ.
Và có những người giầu có mọi thứ nhưng hoàn toàn
nghèo và hổng hoác và trống rỗng. Sâu bên trong chỉ là
nấm mồ.
Đấy không phải là phiền muộn của xã hội, bởi vì
thế thì điều đó sẽ ảnh hưởng cả tới người nghèo nữa;
đấy đơn giản là luật tự nhiên, và con người bây giờ sẽ
phải học điều đó. Mãi cho tới giờ đã không có nhu cầu,
bởi vì chẳng ai đạt tới điểm người đó có mọi thứ, trong
khi bên trong thì hoàn toàn đen tối và dốt nát.
Điều đầu tiên trong cuộc sống là tìm ra ý nghĩa
trong khoảnh khắc hiện tại.
Hương vị cơ bản của bản thể bạn nên là hương vị
tình yêu, hương vị hân hoan, lễ hội. Thế thì bạn có thể
làm mọi điều: đô la sẽ không phá huỷ nó. Nhưng bạn
gạt mọi thứ sang bên và đơn giản đuổi theo các đồng
đô la cứ nghĩ rằng đô la có thể mua được mọi thứ. Và
thế rồi một ngày nào đó bạn thấy chúng chẳng thể mua
được cái gì - và bạn đã dành cả đời mình cho đô la.
Đây là nguyên nhân của phiền muộn. Và đặc biệt ở
phương Tây, phiền muộn đang trở thành rất sâu sắc.
Tại phương Đông đã từng có những người giầu có,
nhưng cũng có một chiều hướng nào đó có sẵn. Khi
con đường tới giầu có đã tới chỗ kết thúc, họ không bị
mắc kẹt ở đó; họ chuyển sang chiều hướng mới. Chiều
hướng mới đó là trong không trung, có sẵn hàng thế kỉ.
Tại phương Đông người nghèo đã từng trong điều kiện
rất tốt, còn người giầu đã ở trong điều kiện cực kì tốt.
Người nghèo đã học được sự mãn nguyện cho nên họ
chẳng bận tâm tới việc chạy theo tham vọng. Còn
người giầu đã hiểu rằng một ngày nào đó họ phải từ bỏ
nó tất cả và đi tìm chân lí, đi kiếm ý nghĩa.
Tại phương Tây, đến cuối cùng, con đường này
đơn giản kết thúc. Bạn có thể quay lui, nhưng quay lui
cũng chẳng giúp gì cho phiền muộn của bạn. Bạn cần
một chiều hướng mới. Phật Gautam, Mahavira hay
Parshvanath - những người này đã ở tại đỉnh của giầu
có, và thế rồi họ thấy rằng nó gần như là gánh nặng.
Một cái gì đó khác cần phải được tìm ra trước khi cái
chết đem bạn đi - và họ đủ dũng cảm để từ bỏ tất cả.
Việc từ bỏ của họ đã bị hiểu lầm. Họ từ bỏ tất cả nó bởi
vì không muốn bận tâm thêm một giây nào về tiền bạc,
về quyền lực - bởi vì họ đã thấy cái đỉnh, và chẳng có
gì ở đó cả. Họ đã đi tới bậc thang cao nhất của chiếc
thang và đã thấy rằng nó chẳng dẫn đến đâu cả; nó chỉ
là chiếc thang chẳng dẫn tới đâu. Trong khi bạn còn ở
đâu đó chỗ giữa, hay thấp hơn chỗ giữa, bạn còn có hi
vọng bởi vì có các bậc thang khác cao hơn bạn. Rồi tới
một điểm khi bạn ở tại bậc thang cao nhất và chỉ có tự
tử hay điên khùng - hay đạo đức giả: bạn cứ mỉm cười
cho tới khi cái chết kết thúc bạn, nhưng sâu bên dưới
bạn biết rằng bạn đã phí hoài cuộc sống của mình.
Tại phương Đông, phiền muộn chưa bao giờ là vấn
đề cả. Người nghèo đã học cách tận hưởng bất kì cái gì
nhỏ bé họ có được, còn người giầu đã học rằng việc có
toàn bộ thế giới dưới chân bạn cũng chẳng có nghĩa lí
gì - bạn phải đi tìm ý nghĩa, chứ không phải là tiền bạc.
Và họ đã có những người đi trước: trong hàng nghìn
năm mọi người đã đi tìm kiếm chân lí và đã tìm thấy
nó. Không cần phải thất vọng, phiền muộn, bạn chỉ
phải đi vào trong chiều hướng chưa biết. Họ chưa từng
thám hiểm nó, nhưng khi họ bắt đầu thám hiểm chiều
hướng mới này - điều đó có nghĩa là cuộc hành trình
nội tâm, cuộc hành trình tới cái ta riêng của mình - tất
cả những điều họ đã mất lại bắt đầu quay lại.
Phương Tây cần một phong trào thiền lớn rất cấp
bách; nếu không thì phiền muộn này sẽ giết chết mọi
người. Và những người này sẽ là những người tài năng
nhất - bởi vì họ đã đạt tới quyền lực, họ đã đạt tới tiền
bạc, họ đã đạt tới bất kì cái gì họ muốn... những bằng
cấp cao nhất trong giáo dục. Đây là những người tài
năng, và tất cả họ đều cảm thấy thất vọng.
Điều này sắp thành nguy hiểm bởi vì những người
tài năng nhất này không còn nhiệt tình với cuộc sống
nữa, còn những người bất tài thì lại nhiệt tình với cuộc
sống nhưng họ thậm chí lại không có tài năng để có
được quyền lực, tiền bạc, giáo dục, kính trọng. Họ
không có tài, cho nên họ khổ sở, cảm thấy bị tàn tật.
Họ quay sang thành những kẻ khủng bố, họ quay sang
việc bạo hành không cần thiết chỉ từ việc trả thù - bởi
vì họ không thể làm được gì khác cả. Nhưng họ có thể
phá huỷ. Và người giầu gần như sẵn sàng treo mình lên
bất kì cái cây nào bởi vì chẳng còn lí do gì cho họ sống
cả. Trái tim họ đã ngừng đập từ lâu trước đây. Họ chỉ
còn là cái xác - trang điểm đẹp, được tôn vinh nhưng
hoàn toàn trống rỗng và vô tích sự.
Phương Tây thực sự ở tình trạng tồi tệ hơn phương
Đông nhiều, mặc dầu với những người không hiểu thì
dường như là phương Tây đang ở điều kiện tốt hơn
phương Đông bởi vì phương Đông nghèo nàn. Nhưng
nghèo khó không phải là vấn đề lớn như thất bại của
giầu có; thế thì người ta mới thực sự là nghèo. Người
nghèo thông thường ít nhất cũng có những mơ ước, hi
vọng, nhưng người giầu thì chẳng có gì cả.
Điều đang được cần tới là một phong trào thiền vĩ
đại vươn tới mọi con người.
Và tại phương Tây những người phiền muộn này
lại đang tới các nhà phân tâm, các nhà trị liệu và đủ
mọi loại lang băm, những người mà bản thân họ cũng
phiền muộn, lại còn phiền muộn hơn bệnh nhân mình
nữa - một cách tự nhiên, bởi vì cả ngày họ nghe nói về
phiền muộn, thất vọng, vô nghĩa. Và với việc thấy quá
nhiều người tài trong tình cảnh tồi tệ như vậy, thì bản
thân họ cũng bắt đầu mất tinh thần. Họ không thể giúp
đỡ được; bản thân họ cần sự giúp đỡ.
Chức năng của trường phái của tôi là để chuẩn bị
cho mọi người bằng năng lượng thiền và gửi họ vào
trong thế giới chỉ như những tấm gương cho những
những người còn phiền muộn. Nếu họ có thể thấy rằng
có những người không phiền muộn - ngược lại, những
người hân hoan vô cùng - thì có lẽ hi vọng có thể được
sinh ra trong họ. Bây giờ họ có thể có mọi điều và
không có nhu cầu phải lo nghĩ. Họ có thể thiền.
Tôi không dạy từ bỏ của cải của bạn hay bất kì cái
gì. Cứ để mọi thứ như nó hiện thế. Chỉ bổ sung thêm
một điều nữa vào cuộc sống của bạn. Mãi cho tới nay
bạn đã chỉ thêm đồ vật vào cuộc sống của mình. Bây
giờ thêm điều gì đó vào bản thể bạn - và điều đó sẽ làm
ra âm nhạc, điều đó sẽ làm ra phép màu, điều đó sẽ làm
ra ảo thuật, điều đó sẽ tạo ra xúc động mới, trẻ trung
mới, tươi tắn mới.
Điều đó không phải là không giải quyết được. Vấn
đề thì lớn, nhưng giải pháp lại rất đơn giản.32
******************************************************
#14 Thức ăn và mạnh khoẻ
Không con vật nào ăn như con người; mọi con vật
đều có thức ăn được chọn lựa của nó. Nếu bạn đem
trâu vào vườn và bỏ chúng đấy, chúng sẽ chỉ ăn một
loại cỏ đặc biệt. Chúng sẽ không ăn mọi thứ và bất kì
thứ gì - chúng rất chọn lựa. Chúng có cảm giác nào đó
về thức ăn của chúng. Con người đã đánh mất hoàn
toàn, đã không còn cảm giác về thức ăn của mình. Con
người cứ ăn mọi thứ và bất kì cái gì. Trong thực tế bạn
không thể nào tìm ra được cái gì mà con người không
ăn ở đâu đó chỗ này chỗ khác. Tại một số nơi, kiến
cũng bị ăn. Tại một số nơi, rắn cũng bị ăn. Tại một số
nơi, chó cũng bị ăn. Con người ăn mọi thứ. Con người
đơn giản phát điên. Con người không biết cái gì cộng
hưởng với thân thể mình và cái gì không. Con người
hoàn toàn lẫn lộn.
Một cách tự nhiên con người nên là người ăn chay,
bởi vì toàn bộ thân thể được tạo nên từ thức ăn thực
vật. Ngay cả các nhà khoa học cũng phải thừa nhận sự
kiện là toàn bộ cấu trúc thân thể con người chứng tỏ
rằng con người nên là người ăn chay. Con người tới từ
khỉ. Khỉ ăn là kẻ chay - hoàn toàn chay. Nếu Darwin
đúng thế thì con người nên là kẻ ăn chay. Bây giờ có
cách để đánh giá xem liệu một loài vật nào đó có là ăn
chay hay không ăn chay: điều đó tuỳ thuộc vào ruột,
chiều dài ruột. Con vật không ăn chay có ruột rất nhỏ.
Hổ, sư tử - chúng có ruột rất nhỏ, bởi vì thịt đã là thức
ăn được tiêu hoá rồi. Không cần bộ ruột dài để tiêu hoá
thịt. Công việc tiêu hoá đã được con vật tiến hành rồi.
Bây giờ bạn ăn thịt con vật. Thịt đã được tiêu hoá rồi -
ruột dài không cần. Con người có một trong những bộ
ruột dài nhất: điều đó có nghĩa là con người là loại ăn
chay. Việc tiêu hoá lâu dài là cần thiết, và nhiều chất
xơ sẽ có đó phải được tống ra.
Nếu con người là loại ăn chay và người đó cứ ăn
thịt, thì thân thể bị nặng gánh. Tại phương Đông, tất cả
các thiền nhân vĩ đại - Phật, Mahavira - họ đều nhấn
mạnh vào sự kiện này, không phải bởi vì bất kì khái
niệm bất bạo lực nào, điều đó là phụ, nhưng bởi vì nếu
bạn thực sự muốn đi sâu vào trong thiền, thân thể bạn
cần vô trọng lượng, tuôn chảy tự nhiên. Thân thể bạn
cần được dỡ bỏ gánh nặng; và thân thể của người
không ăn chay rất nặng nề.
Quan sát điều xảy ra khi bạn ăn thịt: khi bạn giết
con vật, điều gì xảy ra cho con vật khi nó bị giết? Tất
nhiên, chẳng ai muốn bị giết cả. Cuộc sống muốn tự nó
kéo dài ra; con vật không sẵn lòng chết. Nếu ai đó giết
bạn, bạn sẽ chết một cách không sẵn lòng. Nếu con sư
tử chồm lên bạn và giết bạn, điều gì sẽ xảy ra cho tâm
trí bạn? Cùng điều ấy cũng xảy ra khi bạn giết con sư
tử. Đau đớn, sợ hãi, chết chóc, khổ não, lo âu, giận dữ,
bạo hành, buồn bã - tất cả những điều này xảy ra cho
con vật. Bạo hành, đau đớn, khổ não lan khắp thân thể
nó. Toàn bộ thân thể trở thành đầy những độc tố, chất
độc. Tất cả các tuyến thân thể đều tiết ra chất độc bởi
vì con vật đang chết một cách rất không sẵn lòng. Và
thế rồi bạn ăn thịt - thịt đó mang tất cả mọi chất độc
con vật đã tiết ra. Toàn bộ năng lượng là độc hại, thế
rồi những chất độc đó được mang vào thân thể bạn.
Và thịt đó bạn đang ăn đã thuộc vào một thân thể
con vật. Nó đã có một mục đích đặc biệt ở đó. Một
kiểu tâm thức đặc biệt đã tồn tại trong thân thể con vật
này. Bạn đang ở trên một bình diện cao hơn tâm thức
con vật đó, và khi bạn ăn thịt con vật đó thì thân thể
bạn lại đi xuống bình diện thấp hơn, tới bình diện thấp
của con vật đó. Thế thì tồn tại lỗ hổng giữa tâm thức
của bạn và thân thể bạn, và căng thẳng nảy sinh, và lo
âu nảy sinh.
Người ta nên ăn những thứ vốn tự nhiên - tự nhiên
cho bạn. Quả, hạt, rau - ăn nhiều thoả sức. Và cái đẹp
là ở chỗ bạn không thể nào ăn được những thứ này
nhiều hơn mức cần thiết. Bất kì cái gì là tự nhiên, bao
giờ cũng đem lại cho bạn thoả mãn, bởi vì nó làn no
thân thể bạn, làm bão hoà bạn. Bạn cảm thấy mãn
nguyện. Nếu điều gì đó không tự nhiên, nó chẳng bao
giờ cho bạn cảm giác về mãn nguyện. Bạn cứ ăn kem
mãi: bạn chẳng bao giờ cảm thấy rằng bạn no. Trong
thực tế bạn càng ăn nhiều, bạn càng cảm thấy thích ăn
hơn. Nó không phải là thức ăn. Tâm trí bạn bị chơi xỏ.
Bây giờ bạn không ăn theo nhu cầu thân thể, bạn đang
ăn chỉ để thưởng thức nó. Cái lưỡi đã trở thành người
điều khiển.
Cái lưỡi không nên là người điều khiển. Nó chẳng
biết gì về dạ dầy cả. Nó không biết gì về thân thể cả.
Cái lưỡi có mục đích nhất định phải hoàn thành:
thưởng thức thức ăn. Một cách tự nhiên, cái lưỡi phải
đánh giá, đó là điều duy nhất, thức ăn nào dành cho
thân thể - cho thân thể tôi - và thức ăn nào là không
dành cho thân thể tôi. Nó chỉ là người gác cổng; nó
không phải là người chủ. Và nếu người gác cổng trở
thành người chủ, thế thì mọi sự sẽ bị lẫn lộn.
Bây giờ các nhà quảng cáo đều biết rõ rằng lưỡi có
thể bị lừa, mũi có thể bị lừa. Và chúng không phải là
người chủ. Bạn có thể không nhận biết: nhiều nghiên
cứu về thức ăn đang tiến hành trên thế giới, và họ nói
nếu mũi bạn bị bịt hoàn toàn và mắt bạn bị bịt lại, và
thế rồi bạn được trao cho củ hành để ăn, bạn không thể
nào biết được bạn đang ăn gì. Bạn không thể nào biết
được hành hay táo nếu mũi bạn bị bịt lại hoàn toàn bởi
vì một nửa việc nếm tới từ mùi vị, do mũi quyết định,
và một nửa do lưỡi quyết định - và hai giác quan này
đã trở thành kẻ điều khiển. Bây giờ chúng biết: kem có
bổ dưỡng hay không cũng chẳng thành vấn đề. Nó có
thể mang một mùi vị, nó có thể mang hoá chất nào đó
thoả mãn cho lưỡi nhưng chẳng cần gì cho thân thể cả.
Con người bị lẫn lộn - còn bị lẫn lộn hơn cả trâu
nữa. Bạn không thể nào thuyết phục con trâu ăn kem
được. Cứ thử mà xem!
Thức ăn tự nhiên... và khi tôi nói ‘tự nhiên’ là tôi
ngụ ý rằng cái thân thể bạn cần. Nhu cầu của hổ là
khác; nó phải rất bạo hành. Nếu bạn ăn thịt hổ, bạn sẽ
bạo hành, nhưng cái bạo hành của bạn sẽ được diễn đạt
ở đâu? Bạn phải sống trong xã hội loài người chứ
không trong rừng rậm. Thế thì bạn sẽ phải kìm nén cái
bạo hành này. Một vòng luẩn quẩn bắt đầu. Khi bạn
kìm nén bạo hành, điều gì xảy ra? Khi bạn cảm thấy
giận dữ, bạo hành, năng lượng độc hại nào đó được tiết
ra, bởi vì chất độc đó tạo ra tình huống bạn có thể thực
sự bạo hành và giết ai đó. Năng lượng này đi vào tay
bạn; năng lượng này đi vào răng bạn - đây là hai chỗ từ
đó con vật trở nên bạo hành. Con người là một phần
của vương quốc loài vật.
Khi bạn giận dữ, năng lượng được thoát ra - nó đi
tới tay và răng, tới hàm - nhưng bạn đang sống trong xã
hội con người và không phải bao giờ giận dữ cũng lợi.
Bạn sống trong thế giới văn minh, và bạn không thể
nào cư xử như con vật được. Nếu bạn cư xử như con
vật, bạn sẽ phải trả giá nhiều về điều đó - mà bạn lại
không sẵn sàng trả giá nhiều như thế. Thế thì bạn làm
gì? Bạn kìm nén giận dữ trong bàn tay; bạn kìm nén
giận dữ trong hàm răng - bạn cứ mỉm cười nụ cười giả
dối, và răng bạn cứ tích luỹ giận dữ.
Tôi hiếm khi bắt gặp mọi người với quai hàm tự
nhiên. Nó không tự nhiên - bị ngăn cản, cứng nhắc -
bởi vì quá nhiều giận dữ có đó. Nếu bạn ấn vào quai
hàm ai đó, giận dữ có thể thoát ra. Bàn tay trở nên xấu
xí. Chúng mất vẻ duyên dáng, chúng mất sự linh động,
bởi vì quá nhiều giận dữ bị kìm nén ở đấy. Những
người đã làm việc trong xoa bóp sâu, họ đã đi tới biết
rằng khi bạn chạm tay một cách sâu sắc, xoa bóp bàn
tay, thì người này bắt đầu trở nên giận dữ. Không có lí
do. Bạn đang xoa bóp người này và bỗng nhiên người
đó bắt đầu cảm thấy cáu bẳn. Nếu bạn ấn vào quai
hàm, người ta lại trở nên giận dữ. Họ đã mang cơn giận
được tích luỹ.
Đấy là những điều không thuần khiết trong thân
thể: chúng phải được thoát ra. Nếu bạn không cho
chúng thoát ra, thân thể sẽ vẫn còn nặng nề. Bài luyện
tập yoga tồn tại để cho thoát ra tất cả mọi loại chất độc
đã tích luỹ trong thân thể. Những chuyển động Yoga xả
chúng ra; và thân thể nhà yoga có tính mềm mỏng của
riêng nó. Các bài tập yoga hoàn toàn khác với các bài
tập khác. Chúng không làm cho thân thể bạn mạnh mẽ;
chúng làm cho thân thể bạn mềm mại hơn. Và khi thân
thể bạn mềm mại hơn, bạn mạnh mẽ theo một nghĩa rất
khác: bạn trẻ trung hơn. Chúng làm cho thân thể bạn
linh động hơn, tuôn chảy hơn - không khối chắn nào
trong thân thể. Toàn bộ thân thể tồn tại như một đơn vị
hữu cơ, trong nhịp điệu sâu sắc của riêng nó. Nó không
giống như tiếng ồn trong chợ, nó giống như dàn nhạc.
Nhịp điệu sâu sắc bên trong, không khối chắn, thế thì
thân thể là thuần khiết. Các bài tập yoga có thể cực kì
có ích.
Mọi người đều đang mang nhiều rác rưởi trong dạ
dầy, bởi vì đấy là chỗ duy nhất trong thân thể bạn có
thể dồn nén mọi thứ. Không có chỗ khác. Nếu bạn
muốn kìm nén bất kì cái gì thì nó phải bị dồn nén vào
trong dạ dầy. Nếu bạn muốn khóc - vợ bạn chết, người
yêu bạn chết, bạn thân của bạn chết - nhưng điều đó
dường như có vẻ không tốt, dường như bạn yếu đuối,
khóc vì đàn bà, bạn kìm nén nó. Bạn sẽ dồn nén cái
khóc đó vào đâu? Một cách tự nhiên, bạn phải dồn nén
nó vào trong dạ dầy. Đó là nơi duy nhất sẵn có trong
thân thể, chỗ hổng duy nhất, nơi bạn có thể ép buộc nó
vào.
Nếu bạn dồn nén vào trong dạ dầy... và mọi người
đều đã dồn nén nhiều loại xúc động: về tình yêu, về
dục, về giận dữ, về buồn bã, về khóc than - thậm chí cả
tiếng cười. Bạn không thể cười khanh khách đến vỡ
bụng được. Điều đó có vẻ bất lịch sự, có vẻ thô tục -
thế thì bạn là người không văn hoá. Bạn phải dồn nén
mọi thứ. Bởi vì dồn nén này, bạn không thể nào thở sâu
được, bạn phải thở nông. Nếu bạn thở sâu thế thì
những vết thương của việc dồn nén đó, chúng sẽ xả ra
năng lượng của chúng. Bạn sợ. Mọi người đều sợ đi
vào trong dạ dầy.
Mọi đứa trẻ, khi được sinh ra, đều thở qua bụng.
Nhìn đứa trẻ ngủ: bụng nó phập phồng - ngực chẳng
bao giờ thế. Không đứa trẻ nào thở từ ngực cả; chúng
thở từ bụng. Bây giờ chúng hoàn toàn tự do, chẳng cái
gì bị kìm nén cả. Dạ dầy của chúng trống rỗng, và cái
trống rỗng đó có cái đẹp trong thân thể. Một khi dạ dầy
có quá nhiều điều dồn nén trong nó, thân thể bị chia
làm hai phần, phần thấp hơn và phần cao hơn. Thế thì
bạn không là một; bạn là hai. Phần thấp hơn là phần bị
bỏ đi. Tính thống nhất bị mất; nhị nguyên đã đi vào
trong con người bạn. Bây giờ bạn không thể nào đẹp
được nữa, bạn không thể nào duyên dáng được nữa.
Bạn đang mang hai thân thể thay vì một - và bao giờ
cũng còn lại lỗ hổng giữa hai thân này. Bạn không thể
nào bước đi đẹp đẽ được. Dẫu sao thì bạn vẫn phải
mang chân mình. Trong thực tế, nếu thân thể là một,
chân bạn sẽ mang bạn đi. Nếu thân thể bị chia thành
hai, bạn phải mang chân mình đi.
Bạn phải kéo lê thân thể mình. Điều đó giống như
gánh nặng - bạn không thể nào tận hưởng điều đó. Bạn
không thể nào tận hưởng việc đi bộ tốt, bạn không thể
nào tận hưởng việc bơi tốt, bạn không thể nào tận
hưởng việc chạy nhanh - bởi vì thân thể không phải là
một. Với mọi chuyển động này, và để hưởng thú
chúng, thân thể cần được thống nhất lại. Thống nhất
phải được tạo ra lần nữa: dạ dầy sẽ phải được dọn sạch
hoàn toàn.
Để dọn sạch dạ dầy cần tới việc thở rất sâu, bởi vì
khi bạn hít vào sâu và thở ra sâu, dạ dầy tống ra tất cả
những cái nó đang mang. Trong việc thở ra, dạ dầy tự
xả bỏ cho nó. Do đó mới có tầm quan trọng của
pranayam, thở nhịp điệu sâu. Việc nhấn mạnh nên vào
việc thở ra để cho mọi thứ dạ dầy đã phải mang một
cách không cần thiết được xả bỏ ra. Và khi dạ dầy
không mang những xúc động bên trong, nếu bạn bị
chứng táo bón, nó bỗng nhiên biến mất. Khi bạn kìm
nén xúc động trong dạ dầy, sẽ có táo bón bởi vì dạ dầy
không được tự do để có chuyển động của nó. Bạn đang
kiểm soát nó sâu sắc; bạn không thể nào cho phép nó
tự do được. Cho nên nếu các xúc động bị kìm nén, sẽ
có táo bón. Táo bón là bệnh mang nhiều tính tinh thần
hơn là bệnh thể chất. Nó thuộc về tâm trí nhiều hơn là
thuộc về thân thể.
Nhưng nhớ lấy, tôi không phân chia tâm trí và thân
thể làm hai đâu. Chúng là hai khía cạnh của cùng một
hiện tượng. Tâm trí và thân thể không phải là hai thứ.
Trong thực tế nói ‘tâm trí và thân thể’ là không tốt:
‘tâm - thân’ là cách diễn đạt đúng. Thân thể bạn là hiện
tượng tâm lí. Tâm trí là phần tinh tế nhất của thân thể,
còn thân thể là phần thô nhất của tâm trí. Và cả hai
chúng đều ảnh hưởng lẫn nhau; chúng chạy song song.
Nếu bạn đang kìm nén cái gì đó trong tâm trí, thân thể
sẽ bắt đầu cuộc hành trình kìm nén. Nếu tâm trí xả ra
mọi thứ, thân thể cũng xả ra mọi thứ. Đó là lí do tại sao
tôi lại nhấn mạnh vào thanh tâm rất nhiều. Thanh tâm
là quá trình dọn sạch.
Đây tất cả đều là cách thức khổ hạnh: nhịn ăn; ăn
uống tự nhiên; thở nhịp điệu, sâu; bài tập yoga; sống
cuộc sống ngày càng tự nhiên, linh động, mềm mỏng
hơn; tạo ra ngày càng ít thái độ kìm nén; cho phép thân
thể có tiếng nói riêng của nó; tuân theo trí huệ của thân
thể...
Khi thân thể được thuần khiết, bạn sẽ thấy những
năng lượng cực kì mới nảy sinh, những chiều hướng
mới mở ra trước bạn, những cánh cửa mới bất thần mở
ra, những khả năng mới. Thân thể có nhiều năng lực ẩn
kín. Một khi nó được thả ra bạn sẽ không thể nào tin
được nó, rằng thân thể mang nhiều thứ trong nó thế, và
lại gần thế.33
Theo những truyền thống huyền môn của phương
Đông, tất cả những điều bạn nghĩ mình đang là, đều
chẳng là gì ngoài thức ăn. Thân thể bạn là thức ăn, tâm
trí bạn là thức ăn, linh hồn bạn là thức ăn. Bên ngoài
linh hồn chắc chắn có cái gì đó không phải là thức ăn.
Cái gì đó ấy được biết là anatta, vô ngã. Đó là sự trống
rỗng hoàn toàn. Phật gọi nó là shunya, cái hư không.
Nó là không gian thuần khiết. Nó không chứa gì ngoài
bản thân nó; nó là tâm thức vô nội dung.
Khi nội dung vẫn còn, thức ăn cũng vẫn còn. Thức
ăn được ngụ ý là cái được tiêu hoá từ bên ngoài. Thân
thể cần thức ăn vật lí; không có nó, thân thể sẽ bắt đầu
teo đi. Đây là cách nó tồn tại; nó không chứa gì ngoài
thức ăn vật lí.
Tâm trí bạn chứa kí ức, ý nghĩ, ham muốn, ghen tị,
quyền lực và cả nghìn lẻ một thứ. Tất cả những cái đó
cũng là thức ăn; nó là thức ăn trên bình diện tinh tế hơn
chút ít. Ý nghĩ là thức ăn. Do đó khi bạn có những ý
nghĩ nuôi dưỡng, lồng ngực bạn nở ra, khi bạn có
những ý nghĩ, cái đem lại cho bạn năng lượng, bạn cảm
thấy tốt. Ai đó nói điều gì đó tốt lành về bạn, lời khen
ngợi, nhìn điều xảy ra cho bạn mà xem: bạn được nuôi
dưỡng. Còn ai đó nói điều gì đó sai về bạn, quan sát
xem: cứ dường như cái gì đó bị tuột ra khỏi bạn, bạn
yếu đuối hơn bạn trước đó.
Tâm trí là thức ăn dưới dạng tinh tế. Tâm trí không
là gì ngoài phía bên trong của thân thể; do đó cái bạn
ăn ảnh hưởng tới tâm trí bạn. Nếu bạn ăn thức ăn
không chay, bạn sẽ có một loại tâm trí đặc biệt; nếu
bạn ăn thức ăn chay, bạn chắc chắn có một loại tâm trí
khác.
Bạn có biết sự kiện quan trọng mênh mông này về
lịch sử Ấn Độ không? Ấn Độ chưa bao giờ tấn công
bất kì nước nào trong toàn bộ lịch sử mười nghìn năm
của nó. Chưa bao giờ - không một hành động xâm lăng
nào. Làm sao điều đó lại có thể được? Tại sao? Cùng
nhân loại đó tồn tại ở đây như tồn tại ở mọi nơi khác.
Nhưng chính là một loại thân thể khác đã tạo ra tâm trí
khác.
Bạn có thể tự mình quan sát điều đó. Ăn cái gì đó
rồi quan sát, ăn cái gì đó khác rồi quan sát. Ghi chép
lại, và bạn sẽ trở nên nhận biết và ngạc nhiên thấy rằng
mỗi thứ bạn tiêu hoá không chỉ là phần vật lí, nó có
một phần tâm lí của nó. Nó làm cho tâm trí bạn thành
mong manh với những ý tưởng nào đó, với những ham
muốn nào đó. Do đó, qua nhiều thời đại, đã từng có
việc tìm kiếm loại thức ăn sẽ không làm mạnh cho tâm
trí nhưng sẽ giúp nó cuối cùng tan biến đi; một loại
thức ăn mà, thay vì làm mạnh cho tâm trí, sẽ làm mạnh
cho thiền, vô trí. Không thể nêu ra được những qui tắc
chắc chắn và cố định, bởi vì mọi người đều khác nhau
và từng người đều phải quyết định cho bản thân mình.
Và quan sát điều bạn cho phép đi vào trong tâm trí
mình. Mọi người hoàn toàn không nhận biết; họ cứ đọc
mọi thứ và bất kì cái gì, họ cứ xem ti vi, bất kì cái gì
ngu si, xuẩn ngốc. Họ cứ nghe đài, họ cứ tán gẫu,
huyên thuyên với mọi người, và họ tất cả đều trút rác
rưởi vào đầu người khác. Rác rưởi là tất cả những cái
họ có.
Tránh những tình huống trong đó bạn bị nặng gánh
không cần thiết bởi rác rưởi. Bạn đã có quá nhiều rác
rưởi như nó đang có đấy; bạn cần được nhẹ gánh khỏi
nó. Và bạn cứ thu thập nó dường như nó là cái gì đó
quí giá. Nói ít đi, chỉ nghe điều bản chất, thấu cảm
trong nói và nghe. Nếu bạn nói ít, nếu bạn nghe ít, dần
dần bạn sẽ thấy rằng một sự sạch sẽ, một cảm giác
thuần khiết, cứ dường như bạn vừa mới tắm, sẽ bắt đầu
nảy sinh bên trong bạn. Điều đó trở thành mảnh đất cần
thiết cho thiền nảy sinh. Bạn đừng cứ đọc đủ mọi loại
vô nghĩa.
Có lần tôi sống trong một ngôi nhà mà hàng xóm là
một người điên, người rất quan tâm tới báo chí. Người
đó ngày nào cũng tới để thu lượm tất cả các báo chí từ
tôi. Nếu đôi khi người đó ốm hay tôi không có nhà, thế
thì người đó sẽ tới muộn về sau. Có lần chuyện xảy ra,
tôi vắng nhà mất mười ngày. Và khi tôi quay về thì
người đó lại tới để thu thập tất cả các báo chí. Tôi nói
với người đó, “Nhưng bây giờ tất cả báo đều cũ cả rồi -
cũ mất mười ngày.”
Người đó nói, “Có vấn đề gì đâu? Đấy toàn là rác
rưởi cả! Chỉ có ngày tháng thay đổi mà thôi.”
Đấy phải là một khoảnh khắc rất lành mạnh trong
cuộc đời người điên đó. Vâng, có những khoảnh khắc
điên loạn trong cuộc sống của cái gọi là người lành
mạnh, và ngược lại. Người đó đang nói ra chân lí, nói
rằng, “Đấy cùng là điều vô nghĩa cũ mèng. Có vấn đề
gì đâu? Tôi có thời gian, và tôi phải vẫn còn bận bịu.”
Tôi hỏi người đó, “Ông đã làm gì trong mười ngày
qua?” Người đó nói, “Tôi đọc báo cũ - đọc đi đọc lại
chúng.”
Để ra vài lỗ hổng trong tâm trí mình không bị bận
rộn. Những khoảnh khắc của tâm thức không bận rộn
đó là những thoáng nhìn đầu tiên về thiền, thấm nhuần
đầu tiên của cõi bên kia, ánh chớp loé đầu tiên của vô
trí. Và thế thì nếu bạn có thể xoay xở làm được điều
này, điều khác là chọn thức ăn vật lí không giúp cho
cái hung hăng và bạo hành, cái không mang tính độc.
Bây giờ thậm chí các nhà khoa học cũng đồng ý
với điều này, rằng khi bạn giết con vật, từ nỗi sợ nó sẽ
tiết ra mọi loại chất độc. Cái chết là không dễ dàng.
Khi bạn giết một con vật, từ nỗi sợ một run rẩy lớn
phát sinh bên trong. Con vật muốn tồn tại: tất cả mọi
loại chất độc bị tiết ra.
Khi bạn trong sợ hãi bạn cũng tiết chất độc ra thân
thể. Những chất độc này là có ích: chúng giúp bạn hoặc
đánh nhau hoặc bỏ chạy. Đôi khi việc xảy ra là trong
giận dữ bạn có thể làm được những việc bạn không bao
giờ có thể hình dung ra mình làm được. Bạn có thể di
chuyển một tảng đá mà bình thường bạn thậm chí
không thể nào lay nổi nó, nhưng giận dữ có đó và chất
độc được tiết ra. Trong sợ hãi, mọi người có thể chạy
nhanh đến mức thậm chí vận động viên chạy Olympic
cũng bị bỏ lại đằng sau. Nghĩ về mình chạy nếu ai đó
đang đuổi sát sau bạn với lưỡi dao găm để giết bạn.
Bạn sẽ làm điều tốt nhất bạn có thể làm được, toàn bộ
thân thể bạn sẽ phục vụ cho việc đó ở mức tối ưu của
nó.
Khi bạn giết con vật, có giận dữ, có lo âu, có sợ
hãi. Cái chết đang đối diện nó: tất cả các tuyến của con
vật đều tiết ra nhiều loại chất độc. Do đó ý tưởng hiện
đại là ở chỗ trước khi giết con vật, làm cho nó vô ý
thức đi, làm mê nó đi. Trong các lò mổ hiện đại, người
ta dùng tới thuốc mê. Nhưng điều đó cũng chẳng tạo ra
khác biệt gì mấy, chỉ một khác biệt rất nông cạn, bởi vì
ở cốt lõi sâu nhất nơi không thuốc mê nào có thể đạt tới
được, cái chết phải bị đương đầu. Điều đó có thể không
ý thức, con vật có thể không nhận biết về điều sắp xảy
ra, nhưng điều đó xảy ra như trong giấc mơ. Nó trải
qua cơn ác mộng. Và ăn thịt là ăn thức ăn đã bị nhiễm
độc.
Tránh bất kì cái gì bị nhiễm độc trên bình diện vật
lí, tránh bất kì cái gì bị nhiễm độc trên bình diện tinh
thần. Và trên bình diện tinh thần mọi điều còn phức tạp
hơn. Nếu bạn nghĩ bạn là người Hindu, bạn bị nhiễm
độc rồi; nếu bạn nghĩ bạn là người Mô ha mét giáo, thì
bạn đã bị nhiễm độc rồi. Nếu bạn nghĩ bạn là người Ki
tô giáo, người Jaina, Phật tử, bạn đã bị nhiễm độc rồi.
Và bạn đã bị nhiễm độc từ từ - chậm đến mức bạn trở
nên hài hoà với nó. Bạn thành nghiện nó. Bạn đã được
nuông chiều từ ngay ngày đầu tiên; từ bầu vú mẹ, bạn
đã bị nhiễm độc rồi. Mọi loại huấn luyện đều là chất
độc. Nghĩ bản thân mình là người Hindu là nghĩ bản
thân mình đối lập với nhân loại. Nghĩ mình là người
Đức, người Trung quốc, là nghĩ bản thân mình đối lập
với nhân loại; là nghĩ dưới dạng thù hằn, không thân
thiện.
Nghĩ bản thân mình chỉ là con người thôi. Nếu bạn
có bất kì thông minh nào, nghĩ về bản thân mình như
một con người đơn giản. Và khi thông minh của bạn
phát triển thêm chút ít nữa, thậm chí bạn còn vứt bỏ
luôn cả cái tính từ ‘người’ đi. Bạn sẽ nghĩ bản thân
mình chỉ như sự hiện hữu. Và sự hiện hữu này bao hàm
tất cả - cây cối và núi non và dòng sông và các vì sao
và chim chóc và con vật.
Trở nên lớn hơn, trở thành khổng lồ. Tại sao bạn
sống trong đường hầm? Tại sao bạn bò trong những hố
đen tối nhỏ bé? Nhưng bạn nghĩ mình sống trong
những hệ thống ý thức hệ vĩ đại. Bạn không sống trong
những hệ thống ý thức hệ vĩ đại đâu, bởi vì chẳng có hệ
thống ý thức hệ vĩ đại nào cả. Không lí tưởng nào đủ vĩ
đại để chứa đựng con người: tính con người không thể
bị hàm chứa bởi bất kì khái niệm nào. Tất cả mọi khái
niệm đều què quặt và tê liệt.
Bạn đừng là người Cơ đốc giáo và đừng là người
cộng hoà - chỉ là con người - đấy tất cả đều là chất độc,
đấy tất cả đều là định kiến. Và qua nhiều thời đại bạn
đã bị thôi miên trong những định kiến này. Chúng đã
trở thành một phần máu bạn, xương bạn, chính tuỷ bạn.
Bạn sẽ phải rất tỉnh táo để gạt bỏ tất cả mọi sự nhiễm
độc này.
Thân thể bạn không bị nhiễm độc nhiều như tâm trí
bạn bị nhiễm. Thân thể là hiện tượng đơn giản, nó có
thể dễ dàng được tẩy sạch. Nếu bạn ăn thức ăn không
chay, điều đó có thể được dừng lại, đấy không phải là
cách xử trí lớn lắm. Và nếu bạn dừng ăn thịt, trong
vòng ba tháng thân thể bạn sẽ hoàn toàn thoát khỏi mọi
chất độc do thức ăn không chay gây ra. Điều đó đơn
giản. Thể chất không phải rất phức tạp. Nhưng vấn đề
nảy sinh với tâm lí. Sư Jaina không bao giờ ăn bất kì
thức ăn nhiễm độc nào, không bao giờ ăn bất kì cái gì
không chay. Nhưng tâm trí người đó lại bị ô nhiễm và
nhiễm độc bởi đạo Jaina mà không người nào khác bị
nhiễm cả.
Tự do thực sự là tự do khỏi mọi ý thức hệ. Bạn
không thể sống đơn giản không ý thức hệ nào được
sao? Ý thức hệ có phải là cần thiết không? Tại sao ý
thức hệ lại cần thiết nhiều đến thế? Nó được cần tới bởi
vì nó giúp cho bạn vẫn còn ngu xuẩn, nó được cần tới
bởi vì nó giúp cho bạn vẫn còn không thông minh. Nó
được cần tới bởi vì nó cung cấp cho bạn câu trả lời có
sẵn và bạn không cần tìm ra câu trả lời của riêng mình.
Con người thực sự của thông minh sẽ không níu
bám vào bất kì ý thức hệ nào - để làm gì? Người đó sẽ
không mang tải trọng của những câu trả lời làm sẵn.
Người đó biết rằng mình có đủ thông minh để cho dù
bất kì tình huống nào nảy sinh, người đó sẽ có khả
năng đáp ứng lại nó. Tại sao lại mang tải trọng không
cần thiết từ quá khứ? Phỏng có ích gì mà mang nó?...
Nếu bạn thay đổi thức ăn độc của mình, bạn sẽ
ngạc nhiên: thông minh mới sẽ thoát ra trong bạn. Và
thông minh mới này sẽ làm cho nó có khả năng không
tọng vào bạn những thứ vô nghĩa nữa. Thông minh mới
này sẽ làm cho bạn có khả năng vứt bỏ quá khứ và
những kí ức về nó, vứt bỏ những ham muốn và mơ
mộng không cần thiết, vứt bỏ ghen tị, giận dữ, chấn
thương và đủ mọi loại vết thương tâm lí.
Bởi vì bạn không thể vứt bỏ đi những vết thương
tâm lí, nên bạn mới trở thành nạn nhân của dối trá tâm
lí. Thế giới này đầy những nhà phân tâm đủ loại, họ tới
theo mọi hình dáng và kích cỡ. Thế giới này đầy các
loại trị liệu tâm lí. Nhưng sao cần tới nhiều cách trị liệu
tâm lí thế? Chúng được cần tới bởi vì bạn không đủ
thông minh để chữa lành vết thương riêng của mình.
Thay vì chữa lành chúng, thay vì mở chúng cho gió và
mặt trời, bạn cứ che giấu chúng. Bạn cần các nhà trị
liệu tâm lí giúp mình mở vết thương ra dưới mặt trời để
cho chúng có thể được chữa lành, để cho chúng có thể
được phép chữa lành. Nhưng rất khó tìm ra nhà trị liệu
tâm lí thực sự. Trong một trăm nhà trị liệu tâm lí, chín
mươi chín người là lừa dối tâm lí, không phải là nhà trị
liệu tâm lí.
Bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng nhiều nhà trị liệu tâm lí
và nhà phân tâm tự tử hơn người ở các nghề khác. Con
số gần gấp đôi. Bây giờ đây là loại người gì vậy? Và
làm sao họ giúp cho người khác được? Họ đã làm gì
trong cả đời mình khi giúp cho người khác? Nhiều nhà
phân tâm phát điên, phát rồ, hơn mọi người trong bất kì
nghề nào khác trên thế giới. Số lượng gần như gấp đôi.
Tại sao? Và họ giúp cho người khác hướng tới lành
mạnh, trong khi bản thân họ thì lại điên khùng. Có mọi
khả năng là họ trở nên quan tâm tới trị liệu tâm lí bởi vì
cái điên khùng của mình. Đấy là một nỗ lực để chữa
cho chính họ. Và bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng các nhà
trị liệu tâm lí thuộc loại này lại đi trị liệu tâm lí tại nhà
trị liệu tâm lí thuộc loại khác. Người theo Freud đi tới
người theo Jung, người theo Jung tới người theo Freud,
và cứ thế mãi. Điều này là một tình huống rất kì lạ.
Nếu thông minh thoát ra trong bạn, bạn sẽ có khả
năng làm tất cả những điều cần thiết. Bạn sẽ có khả
năng chữa lành cho vết thương riêng của mình, bạn sẽ
có khả năng thấy vết thương của riêng mình, bạn
không cần phải đi đến nhà trị liệu nguyên thuỷ.
Tôi cho phép mọi loại trị liệu trong công xã của tôi.
Trong thực tế, không có nơi nào khác trên thế giới
nhiều phép trị liệu tâm lí có sẵn như vậy - tất cả sáu
mươi loại. Tại sao tôi lại cho phép những trị liệu này?
Chỉ bởi vì các bạn thôi, bởi vì các bạn vẫn còn chưa
sẵn sàng để thông minh của mình được thoát ra. Khi
công xã này đi ngày càng sâu hơn vào trong việc hiểu
biết bên trong, trị liệu có thể bị loại bỏ. Khi công xã
này đã thực sự nở hoa, sẽ không cần bất kì phép trị liệu
nào nữa. Thế thì tình yêu là phép trị liệu; thông minh là
phép trị liệu. Thế thì việc sống hết ngày nọ sang ngày
kia, hết khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia, nhận
biết và tỉnh táo, là việc trị liệu rồi. Thế thì mọi thứ bạn
làm trong ngày, lau chùi và nấu bếp cùng giặt dũ, tất cả
chúng đều là trị liệu.
Các phép trị liệu ở đây chỉ để cho thời gian hiện
hữu. Cái ngày tôi trở nên bị thuyết phục rằng bây giờ
phần lớn các bạn đều đã vượt ra ngoài trị liệu, trị liệu
sẽ biến mất, bởi vì thế thì phần lớn các bạn sẽ có khả
năng kéo phần thiểu số vào trong thông minh nữa.
Chúng ta đang cố gắng tạo ra một loại thông minh
của cuộc sống. Tôi không thiên về người tôn giáo, tôi
không phải là thánh nhân, tôi chẳng liên quan gì tới
tâm linh cả. Tất cả những phân loại đó đều không liên
quan gì tới tôi. Bạn không thể phân loại tôi, bạn không
thể nhét tôi vào ô nào được. Nhưng có thể nói một
điều, rằng toàn bộ nỗ lực của tôi là để giúp cho bạn làm
thoát ra cái năng lượng vẫn được gọi là tình yêu-thông
minh. Nếu tình yêu-thông minh được thoát ra, bạn
được chữa lành.
Và kiểu thức ăn nhiễm độc thứ ba là tâm linh. Đó
là điều cái ta là gì. Cái ta cần sự chú ý liên tục: nó được
nuôi dưỡng bằng chú ý, chú ý là thức ăn của nó. Không
chỉ có chính khách mới khao khát sự chú ý, ngày càng
nhiều sự chú ý từ ngày càng nhiều người - cái gọi là
thánh nhân của bạn cũng làm cùng điều đó. Không có
khác biệt giữa thánh nhân và chính khách và diễn viên,
không khác biệt chút nào. Nhu cầu cơ bản là như nhau
- sự chú ý: “Nhiều người hơn nên chú ý tới tôi, nhiều
người hơn nên nhìn vào tôi.” Điều đó trở thành thức ăn
cho bản ngã, và nó là loại thức ăn nhiễm độc...
Vật lí, tâm lí, tâm linh... Để thân thể sinh lí được
thuần khiết khỏi mọi chất độc và độc tố, và tâm trí bạn
được hết nặng gánh khỏi mọi rác rưởi và đồ tạp nham.
Và để cho linh hồn bạn được tự do khỏi ý tưởng về cái
ngã. Khi linh hồn được tự do khỏi ý tưởng về cái “tôi”
bạn đã tới không gian bên trong đó vẫn được gọi là vô
ngã, anatta. Đó là tự do, đó là niết bàn, đó là chứng
ngộ. Bạn đã về tới nhà. Bây giờ chẳng có đâu mà đi cả;
bây giờ bạn có thể lắng đọng, nghỉ ngơi và thảnh thơi.
Bây giờ bạn có thể tận hưởng hàng triệu niềm vui mà
sự tồn tại vẫn đang mưa rào lên bạn.
Khi ba thức ăn nhiễm độc này bị loại bỏ, bạn trở
thành trống rỗng. Nhưng trống rỗng này lại không phải
là loại trống rỗng phủ định. Bạn trống rỗng theo nghĩa
là tất cả các chất độc, tất cả các nội dung, đều mất đi.
Nhưng bạn lại tràn đầy - tràn đầy cái gì đó không thể
nào gọi tên được, tràn đầy cái gì đó mà những người
sùng kính gọi là ‘Thượng đế.’34
Có hai kiểu thức ăn. Một là cái bạn thích, cái bạn
hâm mộ, mà về nó bạn tưởng tượng ra. Chẳng có gì sai
trong nó, nhưng bạn sẽ phải học một mẹo nhỏ về nó.
Có những thức ăn cực kì quyến rũ. Quyến rũ đó không
phải bởi vì bạn thấy rằng thức ăn này là có sẵn. Bạn
vào khách sạn, vào nhà hàng, và bạn thấy thức ăn nào
đó - mùi thơm bốc lên từ phòng sau, mầu sắc và hương
vị của thức ăn này. Bạn đã không nghĩ về thức ăn và
bỗng nhiên bạn lại quan tâm tới nó - điều này sẽ chẳng
ích gì. Đây không phải là ham muốn thực sự của bạn.
Bạn có thể ăn cái này và nó sẽ không thoả mãn cho
bạn. Bạn sẽ ăn và ăn và chẳng có gì sẽ bắt nguồn từ nó
cả; không thoả mãn nào bắt nguồn từ nó. Mà thoả mãn
lại là điều quan trọng nhất. Chính việc không thoả mãn
mới tạo ra nỗi ám ảnh.
Đơn giản thiền hàng ngày trước khi bạn ăn. Nhắm
mắt và chỉ cảm thấy điều thân thể bạn cần - dù nó là
bất kì cái gì! Bạn không thấy bất kì thức ăn nào -
không thức ăn nào có sẵn cả; bạn đơn giản cảm thấy
con người riêng của mình, điều thân thể bạn cần, điều
bạn cảm thấy thích, điều bạn khao khát.
Tiến sĩ Leonard Pearson gọi điều này là ‘thức ăn
chủ chốt’ - thức ăn chủ yếu cho bạn. Bạn cứ tới và ăn
thật nhiều nó thoả thích, nhưng trung thành với nó.
Thức ăn khác ông ấy gọi là ‘thức ăn chào mời’: khi nó
trở thành sẵn đấy, bạn trở nên quan tâm tới nó. Thế thì
nó là một thứ của tâm trí và nó không phải là nhu cầu
của bạn. Nếu bạn lắng nghe thức ăn chủ chốt, bạn có
thể ăn bao nhiêu tuỳ thích và bạn sẽ không bao giờ khổ
cả, bởi vì nó sẽ thoả mãn bạn. Thân thể đơn giản ham
muốn cái nó cần; nó không bao giờ ham muốn bất kì
cái gì khác. Điều đó sẽ là thoả mãn, và một khi có thoả
mãn, người ta sẽ không bao giờ ăn thêm nữa. Vấn đề
chỉ nảy sinh nếu bạn ăn thức ăn là thức ăn chào mời:
bạn thấy chúng sẵn có và bạn trở nên quan tâm và bạn
ăn. Chúng không thể nào thoả mãn bạn được bởi vì
không có nhu cầu trong thân thể về chúng. Khi chúng
không thoả mãn bạn, bạn cảm thấy không được thoả
mãn. Cảm thấy không được thoả mãn, bạn lại ăn thêm,
nhưng dù bạn ăn nhiều đến đâu, điều đó cũng vẫn cứ
không thoả mãn bởi vì không có nhu cầu ngay chỗ đầu
tiên.
Kiểu ham muốn thứ nhất phải được đáp ứng, thế thì
kiểu ham muốn thứ hai sẽ biến mất. Điều mọi người
đang làm là ở chỗ họ chẳng bao giờ nghe ham muốn
thứ nhất, cho nên ham muốn thứ hai trở thành vấn đề.
Nếu bạn lắng nghe thức ăn chủ chốt, thức ăn chào mời
sẽ biến mất. Ham muốn thứ hai là vấn đề chỉ bởi vì bạn
đã hoàn toàn quên mất rằng bạn phải lắng nghe ham
muốn bên trong của mình, và mọi người đã từng được
dạy đừng lắng nghe nó. Họ đã được dạy, ‘Ăn cái này,
đừng ăn cái kia” - những qui tắc cố định. Thân thể
không biết tới những qui tắc cố định.
Họ đã thấy rằng nếu trẻ nhỏ được bỏ lại một mình
với thức ăn, chúng sẽ chỉ ăn cái cần cho thân thể
chúng; và họ đã ngạc nhiên. Nhiều phát kiến tâm lí bây
giờ đã có sẵn; chúng đơn giản đáng ngạc nhiên. Nếu
đứa trẻ đang bị một bệnh nào đó, và nếu táo là tốt cho
bệnh đó, đứa trẻ sẽ chọn táo. Tất cả các thức ăn khác
có đấy nhưng đứa trẻ này sẽ chỉ đi tới táo.
Đó là điều mọi con vật đều làm; chỉ con người mới
quên mất ngôn ngữ đó. Bạn đem tới một con trâu và để
nó trong vườn. Cả khu vườn có đó - tất cả cây cỏ đều
sẵn có; nó chẳng bận tâm. Hoa và cây có thể vẫy mời
nhưng nó sẽ chẳng bận tâm tới chúng. Nó sẽ đi tới bãi
cỏ, cái lôi kéo nó, và nó sẽ chọn chỉ loại cỏ nào đó là
nhu cầu của nó. Bạn không thể đánh lừa trâu được; bạn
chỉ có thể đánh lừa được người thôi.
Con người đã sa ngã thậm chí thấp dưới con trâu.
Bạn không thể lừa khỉ được - nó sẽ ăn thức ăn của nó.
Con người bị lừa. Tại mọi nơi qua quảng cáo, ảnh mầu,
ti vi, phim, bạn đang bị hấp dẫn và phân tán khỏi thân
thể chủ yếu của mình. Một số công ti quan tâm tới việc
bán cái gì đó cho bạn. Cái đó là vì quyền lợi của công
ti, nó đem lại lợi nhuận cho công ti, không phải cho
bạn.
Công ti Coca-Cola nào đó đang quan tâm tới việc
bán Coca-Cola cho bạn. Điều đó chẳng liên quan gì tới
thân thể bạn cả; nó quyến rũ bạn. Dù bạn đi bất kì đâu,
đều có Coca-Cola; Coca Cola dường như là một trong
những thứ phổ dụng nhất. Thậm chí ở nước Nga Xô
viết - không cái gì khác của Mĩ là được phép, nhưng
Coca-Cola lại có đó. Từ mọi nơi cái chai này đang vẫy
gọi bạn, đang chào mời, “Lại đây đi.” Và bỗng nhiên
bạn bắt đầu cảm thấy khát. Cái khát đó là giả. Tôi
không nói đừng uống Coca-Cola - nhưng để cho nó là
cái bản chất; làm cho nó thành vấn đề.
Sẽ phải mất vài ngày, thậm chí vài tuần cho bạn để
đi tới cảm thấy cái gì hấp dẫn bạn. Ăn thật nhiều tuỳ
thích cái hấp dẫn bạn. Đừng bận tâm về điều người
khác nói. Nếu kem hấp dẫn bạn, thì ăn kem. Ăn cho tới
mức thoả mãn bạn, cho tới mức thoả mãn ham muốn
của con tim bạn, và thế rồi bỗng nhiên bạn sẽ thấy rằng
có thoả mãn. Và khi bạn cảm thấy được thoả mãn, ham
muốn về thứ đó sẽ biến mất. Chính trạng thái không
được thoả mãn mới làm cho bạn cứ tọng thứ đó vào
mình thêm nữa không có mục đích nào cả. Bạn cảm
thấy tràn đầy và vẫn không thoả mãn, cho nên vấn đề
mới phát sinh.
Cho nên trước hết bắt đầu học điều gì đó là tự
nhiên và điều đó sẽ tới bởi vì chúng ta chỉ quên mất: nó
có đó trong thân thể. Khi bạn sắp ăn sáng, nhắm mắt lại
và thấy điều bạn muốn; cái thực sự là ham muốn của
bạn. Đừng nghĩ về cái có sẵn; đơn giản nghĩ về ham
muốn của bạn là gì, và thế rồi đi và tìm cái đó và ăn nó.
Ăn thật nhiều tuỳ thích. Trong vài ngày chỉ đi cùng nó.
Dần dần bạn sẽ thấy rằng bây giờ chẳng thức ăn nào
vẫy mời bạn nữa.
Điều thứ hai: khi bạn ăn, nhai cho kĩ. Đừng nuốt nó
vội vàng, bởi vì nếu nó đang trong miệng, tận hưởng
nó trong miệng, vậy tại sao không nhai nó thêm nữa?
Nếu bạn cắn cái gì đó mười cắn, bạn có thể tận hưởng
thêm một cái cắn nữa, nhai nó thêm mười lần nữa. Gần
như có thể cắn mười lần nếu tận hưởng của bạn chỉ về
vị giác.
Chuyện xảy ra là có lần một người uống cốc cà phê
nóng ở đâu đó tại Nhật Bản và người đó làm bỏng
họng mình bên trong. Rắc rối phát sinh và họng người
đó bị cắt đứt hoàn toàn với bên trong; lối chuyển thức
ăn phải bị đóng lại nếu không người này sẽ chết. Các
bác sĩ đặt một cái ống vào trong dạ dầy người đó để
cho người đó phải nhai thức ăn, rồi nhét thức ăn vào
trong ống đó, và ống đó sẽ đưa thức ăn vào trong dạ
dầy.
Người này ngạc nhiên bởi vì người đó liên tục thấy
thích thức ăn như trước đây. Và thậm chí các bác sĩ
cũng ngạc nhiên. Ban đầu họ cảm thấy rất thông cảm
với người đó bởi vì con người đáng thương này không
còn được tận hưởng thức ăn nữa. Nhưng người này cứ
tiếp tục thưởng thức ăn. Trong thực tế người đó lại còn
thích thú ăn nhiều hơn bởi vì bây giờ người đó sẽ nhai
nó và nếu người đó không muốn đưa vào trong dạ dầy,
người đó đơn giản chỉ nhè nó ra. Bây giờ người đó có
thể ăn nhiều tuỳ ý. Không cần phải đưa nó vào trong dạ
dầy: cái mồm và cái dạ dầy hoàn toàn tách biệt.
Cho nên bất kì khi nào bạn ăn, nhai nhiều hơn, bởi
vì thưởng thức ở phía trên cổ họng. Phía dưới họng
không có vị giác - không có gì thuộc loại như thế - cho
nên sao phải vội vàng? Nhai nó thêm chút nữa, nếm nó
thêm chút nữa. Và làm việc nếm này thật mạnh mẽ,
làm tất cả những gì có thể làm được. Khi bạn ăn cái gì
đó, trước hết ngửi nó. Tận hưởng mùi vị của nó bởi vì
một nửa vị giác là khứu giác.
Nhiều thực nghiệm đã được tiến hành. Nếu mũi
bạn bị bịt hoàn toàn và thế rồi bạn được trao cho cái gì
đó, bạn không thể nào nếm được nó. Thế thì bạn sẽ
hiểu rằng thức ăn cần nhiều khứu giác hơn là vị giác.
Nếu mắt bạn nhắm, bạn không thể nào nếm được nó tới
mức đó, bởi vì mầu sắc, cái hấp dẫn với con mắt,
không còn có đó. Người ta đã làm những thực nghiệm
hay: mắt nhắm, mũi bị bịt lại hoàn toàn, và thế rồi họ
đưa cho bạn cái gì đó; bạn thậm chí không thể nào nói
được nó là gì. Họ có thể đưa cho bạn củ hành và bạn
không thể nào nói rằng nó là củ hành bởi vì nhiều điều
phụ thuộc vào khứu giác. Đó là lí do tại sao khi bạn bị
cảm bạn không thể nào thưởng thức được thức ăn, bởi
vì khứu giác không có đó, vị giác không có đó. Khi
người ta đang bị cảm lạnh họ bắt đầu ăn thức ăn cay
bởi vì chỉ thế thì họ mới có thể cảm thấy chút ít rân
rân.
Cho nên ngửi thức ăn, nhìn thức ăn đi. Chẳng vội
gì... để thời gian. Làm cho nó thành việc thiền. Cho dù
mọi người có cho là bạn đã phát điên, cũng đừng lo
nghĩ. Nhìn nó từ mọi phía. Chạm vào nó với mắt nhắm,
chạm vào nó bằng má bạn. Cảm nó theo mọi cách;
ngửi đi ngửi lại nó. Thế rồi cắn miếng nhỏ và nhai nó,
thưởng thức nó; để cho điều đó thành việc thiền. Một
lượng rất nhỏ thức ăn sẽ đủ và sẽ cho bạn nhiều thoả
mãn hơn.35
#14Tôi ghét quá nặng cân nhưng không thể nào làm
giảm trọng lượng được rất lâu mặc cho mọi chế độ
ăn kiêng tôi đã thử...
Bạn có một ý tưởng rất cầu toàn về thân thể phải
thế nào, về bạn phải thế nào. Bạn có một mục đích rất
rõ ràng, và bởi vì mục đích rõ ràng đó mà bạn không
đạt tới và bạn không thể nào chấp nhận được bản thân
mình, bạn cứ bác bỏ. Và từ việc bác bỏ đó, bạn cảm
thấy khổ.
Bỏ các mục đích và lí tưởng đó đi: những lí tưởng
và mục đích đó bạn đã giữ trong tâm trí mình về cách
thức mọi việc đáng phải thế, cách thức bạn đáng phải
thế. Vứt chúng đi! Và chẳng có gì mất cả, chẳng cái gì
thiếu cả; năng lượng của bạn bắt đầu tuôn chảy. Một
khi bạn trong khoảnh khắc này, thân thể bạn bắt đầu
giảm trọng lượng. Chính việc đối kháng liên tục với
thân thể mới làm cho nó béo ra, bởi vì khi bạn liên tục
chống lại thân thể thì thân thể cảm thấy bất an, và từ
bất an mà nó cứ ăn mãi.
Nó cũng giống như đứa trẻ không thể nào tin cậy
vào mẹ nó. Nếu đứa trẻ không thể nào tin cậy được vào
người mẹ, một khi nó vớ được vú mẹ nó sẽ không rời
ra bởi vì nó không thể nào tin cậy được; nó không biết
khi nào nó sẽ lại có được bầu vú lần nữa. Điều đó là
không chắc chắn, nó không thể nào vẫn còn an toàn
trong điều đó - cho nên nó sẽ nắm giữ. Nó sẽ cứ bú thật
nhiều hết sức. Nó sẽ nốc đầy sữa bởi vì tương lai là
không chắc chắn. Khi đứa trẻ biết người mẹ yêu nó và
biết người mẹ sẽ có đấy - bất kì khi nào nó cần tới mẹ,
mẹ đều có sẵn đấy - nó chẳng bận tâm tọng đầy mình.
Nó có thể nghỉ ngơi, nó có thể ăn đủ mức cần thiết
trong khoảnh khắc đó, không có nhu cầu phải tích trữ.
Trong thực tế, béo chính là tích trữ; vì tương lai
không chắc chắn nào đó mà người ta cứ tích trữ. Con
người có thể sống ba tháng không có thức ăn, người ta
có thể thu thập nhiều mỡ như thế. Đấy là thói quen cũ,
cổ điển, sinh học. Đã có thời, hàng nghìn năm trước
đây, khi con người còn là thợ săn và thức ăn không
chắc chắn. Hôm nay thức ăn có đấy, và thừa thãi, và
trong nhiều ngày lại chẳng có gì cả. Con người mang
thói quen sinh học đó. Điều đó liên kết với bất an. Bây
giờ không có vấn đề gì - ít nhất là không vấn đề gì ở
Mĩ: bạn có đủ thức ăn. Lần đầu tiên xã hội có đủ thức
ăn. Người Mĩ không nên béo chút nào. Người Ấn Độ
có thể được phép béo bởi vì thức ăn là không chắc
chắn.
Điều tôi đang nói là ở chỗ bây giờ thức ăn có sẵn,
thức ăn ngon, nuôi dưỡng tốt, không có nhu cầu vật lí
để ăn thêm, nhưng bây giờ bất an tâm lí lại làm lẩy cò
cho cơ cấu của thân thể, và thân thể bắt đầu cảm thấy
bất an. Nó chỉ biết một cách để tránh bất an, và đó là ăn
nhiều hơn, cứ ăn và tọng vào mình. Điều đó trở thành
mối bận tâm.
Vứt mọi lí tưởng đi! Không có gì bạn phải cải tiến;
bạn đẹp hoàn hảo như bạn hiện hữu. Và bắt đầu sống!
Thay vì nghĩ rằng bạn sẽ sống trong tương lai khi bạn
hoàn hảo, khi bạn giống thế này, giống thế nọ, bạn sẽ
sống khi bạn đã đạt tới một chuẩn nào đó tương ứng
với tâm trí bạn... Nhưng cuộc sống là ở đây bây giờ và
đang tuột dần khỏi tay ta. Ngày mai có cái chết - chỉ
hôm nay mới có cuộc sống... nó bao giờ cũng là hôm
nay.
Bắt đầu sống và bắt đầu tận hưởng đi. Bạn càng tận
hưởng nhiều, bạn càng sẽ ăn ít. Người hạnh phúc thực
sự không ăn nhiều. Chính từ khổ, từ đau đớn, từ trống
rỗng, từ vô nghĩa người ta mới muốn nắm bắt cái gì đó
- ít nhất là thức ăn, cái gì đó.36
Thân thể đã tích luỹ nhiều trí huệ, thân thể rất trí
huệ. Nếu bạn ăn quá nhiều thân thể nói, “Dừng lại!”
Tâm trí không trí huệ được đến thế. Tâm trí nói,
“Hương vị này ngon lắm - ăn thêm chút nữa.” Và nếu
bạn nghe lời tâm trí, thế thì tâm trí trở nên phá hoại
thân thể, theo cách này hay cách khác. Nếu bạn nghe
tâm trí, ban đầu nó sẽ nói, “Ăn nữa đi,” bởi vì tâm trí
ngu xuẩn, trẻ con. Nó không biết nó đang nói gì. Nó là
kẻ mới tới, nó không có học. Nó không trí huệ, nó vẫn
là kẻ ngu xuẩn. Lắng nghe thân thể đi. Khi thân thể
nói, “Đói rồi,” thì ăn. Khi thân thể nói, “Dừng lại,” thì
dừng.
Nếu bạn nghe theo tâm trí, điều đó cũng như là đứa
trẻ nhỏ đang dẫn ông già đi - họ cả hai sẽ ngã xuống
cống. Và nếu bạn nghe tâm trí, thế thì ban đầu bạn sẽ
dính líu quá nhiều vào các giác quan, và thế rồi bạn sẽ
phát ngán. Và mọi giác quan sẽ mang đến cho bạn khổ,
và mọi giác quan sẽ đem đến cho bạn nhiều lo âu, xung
đột, đau đớn. Nếu bạn ăn quá nhiều sẽ có đau bụng và
sẽ nôn mửa, và cả thân thể bị rối loạn. Thế thì tâm trí
nói, “Ăn là xấu, cho nên phải nhịn ăn” Và nhịn ăn cũng
nguy hiểm. Nếu bạn lắng nghe thân thể mình, nó sẽ
không bao giờ ăn quá mức, nó sẽ không bao giờ ăn
thiếu mức - nó sẽ đơn giản tuân theo Đạo.
Vài nhà khoa học đã làm việc trên vấn đề này và họ
đã phát hiện ra một hiện tượng rất hay: trẻ nhỏ ăn bất
kì khi nào chúng cảm thấy đói, chúng ngủ bất kì khi
nào chúng cảm thấy giấc ngủ tới - chúng lắng nghe
thân thể mình. Nhưng bố mẹ quấy rối chúng, họ cứ ép
buộc: bây giờ là giờ ăn tối, hay giờ ăn trưa, hay thế này
thế nọ, hay giờ đi ngủ - làm đi! Họ không cho phép
thân thể chúng. Cho nên một nhà thực nghiệm đã thử
để trẻ con theo ý chúng. Người đó làm việc với hai
mươi nhăm đứa trẻ. Chúng không bị bắt buộc khi nào
phải đi ngủ, chúng không bị bắt buộc khi nào phải dậy.
Chúng không bị bắt buộc chút nào trong sáu tháng. Và
một hiểu biết rất sâu sắc đã tới.
Chúng ngủ ngon. Chúng có ít giấc mơ hơn - không
ác mộng, bởi vì ác mộng tới thông qua bố mẹ người bắt
buộc chúng. Chúng ăn ngon, nhưng không bao giờ quá
nhiều - không bao giờ ít hơn sự cần thiết, không bao
giờ nhiều hơn sự cần thiết. Chúng hưởng thú việc ăn và
đôi khi chúng sẽ không ăn chút nào. Khi thân thể
không cảm thấy khoẻ chúng sẽ không ăn, và chúng
không bao giờ bị ốm bởi vì việc ăn. Và một điều nữa
mà không ai đã từng hoài nghi, lại đi tới được hiểu ra,
và đó là điều huyền bí. Chỉ Tăng Xán mới có thể hiểu,
hay Lão Tử hay Trang Tử, bởi vì họ là những bậc thầy
về Đạo. Đây là một khám phá như vậy: họ đã đi tới
hiểu ra rằng nếu đứa trẻ ốm, thế thì nó sẽ không ăn
những thức ăn đặc biệt. Thế rồi họ cố gắng hiểu tại sao
nó lại không ăn những thức ăn đó. Các thức ăn này
được phân tích ra và người ta tìm thấy rằng với bệnh
đó, những thức ăn này là nguy hiểm. Làm sao đứa trẻ
quyết định được? Chỉ là thân thể.
Và khi đứa trẻ lớn lên, bất kì thứ gì cần cho sự phát
triển của nó, nó sẽ ăn nhiều thứ ấy. Thế rồi họ phân
tích và họ thấy rằng những chất đó là có ích. Và thức
ăn này sẽ thay đổi, bởi vì nhu cầu đã thay đổi. Hôm
nay đứa trẻ ăn cái gì đó và cũng đứa trẻ đó ngày hôm
sau sẽ không ăn cái đó. Và các nhà khoa học cảm thấy
rằng có trí huệ-thân thể.
Nếu bạn cho phép thân thể có tiếng nói của nó, bạn
đang đi trên con đường phải đấy, đường lớn đấy. Và
điều này cũng không chỉ với thức ăn thôi - điều này
cũng là như vậy với toàn bộ cuộc sống. Dục của bạn đi
sai bởi vì tâm trí, dạ dầy bạn đi sai bởi vì tâm trí bạn.
Bạn can thiệp vào thân thể. Đừng can thiệp! Cho dù
bạn có thể làm điều đó trong ba tháng - cũng đừng can
thiệp, và bỗng nhiên bạn sẽ trở nên lành mạnh thế, và
mạnh khoẻ sẽ giáng xuống bạn.37
#14Nhịn ăn giúp cho sảng khoái của thân thể thế nào?
Bất kì khi nào bạn đang nhịn ăn thân thể không làm
việc tiêu hoá nữa. Trong thời kì đó thân thể có thể làm
việc bằng cách vứt bỏ các tế bào chết, các độc tố. Cũng
như một hôm, chủ nhật hay thứ bẩy, bạn đang trong
ngày nghỉ và bạn về nhà và bạn lau chùi nhà cả ngày.
Khi thân thể không có gì để tiêu hoá, bạn không ăn gì
cả, thân thể bắt đầu tự dọn dẹp mình. Một quá trình bắt
đầu một cách tự phát và thân thể bắt đầu vứt đi tất cả
những gì không cần thiết, cái giống như tải trọng. Nhịn
ăn là phương pháp làm thuần khiết. Đôi khi nhịn ăn là
hay - không làm gì cả, không ăn, chỉ nghỉ. Uống thật
nhiều chất lỏng và chỉ nghỉ, và thân thể sẽ được tẩy
rửa.
Đôi khi, nếu bạn cảm thấy rằng nhịn ăn lâu hơn là
cần thiết, bạn cũng có thể thực hiện nhịn ăn lâu hơn -
nhưng ở sâu trong tình yêu với thân thể. Và nếu bạn
cảm thấy nhịn ăn có hại cho thân thể theo bất kì cách
nào, dừng việc đó lại. Nếu nhịn ăn giúp ích cho thân
thể, bạn sẽ cảm thấy nhiều năng lượng hơn; bạn sẽ cảm
thấy sống động hơn; bạn sẽ cảm thấy sảng khoái hơn,
đầy sinh khí hơn. Điều này nên là tiêu chuẩn: nếu bạn
bắt đầu cảm thấy rằng bạn đang trở nên yếu hơn, nếu
bạn bắt đầu cảm thấy rằng run rẩy tinh tế đang tới
trong thân thể, thế thì nhận biết - bây giờ sự việc không
còn là làm thuần khiết nữa, nó đã trở thành huỷ hoại.
Dừng nó lại.
Nhưng người ta nên học toàn bộ khoa học về nó.
Trong thực tế người ta nên tiến hành nhịn ăn gần ai đó,
người đã từng nhịn ăn trong thời gian dài và người biết
toàn bộ con đường này rất rõ, người biết tất cả các triệu
chứng: nếu nó trở thành huỷ hoại cái gì sẽ xảy ra; nếu
nó không huỷ hoại thế thì cái gì sẽ xảy ra. Sau việc
nhịn ăn làm thuần khiết, thực sự, bạn sẽ cảm thấy mới
mẻ, trẻ hơn, sạch hơn, vô trọng lượng, hạnh phúc hơn;
và thân thể sẽ vận hành tốt hơn bởi vì bây giờ nó không
bị tải trọng nữa. Nhưng nhịn ăn chỉ tới nếu bạn đã ăn
sai. Nếu bạn không ăn sai thì chẳng cần phải nhịn ăn.
Nhịn ăn là cần thiết chỉ khi bạn đã làm điều sai với
thân thể - và tất cả chúng ta đều đã ăn sai.38
Tôi không phải là người tin vào nhịn ăn, tôi tin vào
thích ăn. Toàn bộ cách tiếp cận của tôi là cách tiếp cận
của lễ hội. Tôi không chống lại thú vui của các bạn -
chúng không phải là tất cả, người ta nên vượt ra ngoài
chúng, nhưng trong bản thân chúng thì chúng là đẹp.
Con người không nên phủ nhận điều gì, bởi vì phần bị
phủ nhận sẽ báo thù. Khoảnh khắc bạn bắt đầu phủ
nhận thì bạn đi ngược lại Đạo. Đạo là tự nhiên - là
thích ăn và không nhịn ăn. Việc nhịn ăn có thể được
dùng tới chỉ khi nó tới một cách tự nhiên.
Đôi khi con vật nhịn ăn. Đôi khi bạn có thể đã quan
sát con chó nhịn ăn: bạn đặt thức ăn xuống mà nó
không ăn. Nhưng nó không phải là người Jaina, nó
không phải là người tin vào nhịn ăn; nó không cảm
thấy thích ăn. Đấy không phải là vấn đề nguyên tắc,
đấy không phải là triết lí. Nó đang ốm, toàn thể bản thể
nó chống lại việc ăn - thay vì ăn, nó sẽ nôn ra. Nó sẽ đi
và ăn cỏ và nôn ra. Nó muốn làm nhẹ mình, dạ dầy nó
không trong hoàn cảnh sẵn sàng tiêu hoá thêm nữa.
Nhưng nó không phải là kẻ nhịn ăn. Điều đó là tự
nhiên.
Cho nên, nếu đôi khi bạn cảm thấy rằng việc nhịn
ăn tới một cách tự nhiên - không phải như luật, không
như nguyên tắc, không như triết lí phải theo, không
như kỉ luật bị áp đặt, mà là từ cảm giác tự nhiên của
bạn với nó - tốt. Thế nữa, bao giờ cũng nhớ rằng nhịn
ăn là để phục vụ cho thích ăn, để cho bạn có thể ăn lại
ngon hơn. Mục đích của việc nhịn ăn là như phương
tiện, không bao giờ như cứu cánh; và điều đó hiếm khi
xảy ra, hoạ hoằn lắm. Và nếu bạn hoàn toàn nhận biết
trong khi bạn ăn, và hưởng thú nó, bạn sẽ không bao
giờ ăn quá nhiều.
Nhấn mạnh của tôi không phải vào chế độ ăn kiêng
mà vào nhận biết. Ăn cho ngon, tận hưởng việc ấy thật
nhiều. Nhớ, qui tắc là: nếu bạn không tận hưởng thức
ăn, bạn sẽ phải ăn nhiều để bù lại. Nếu bạn tận hưởng
thức ăn bạn sẽ ăn ít, sẽ không cần phải bù vào. Nếu bạn
ăn chậm, nếm từng miếng nhỏ, nhai kĩ, bạn hoàn toàn
bị hấp thu vào trong nó. Ăn nên là thiền.
Tôi không chống lại việc thưởng thức ăn bởi vì tôi
không chống lại giác quan. Nhạy cảm là thông minh,
nhạy cảm là sống động. Cái gọi là tôn giáo của bạn đã
cố gắng để làm bạn mất nhạy cảm, làm bạn đờ đẫn. Họ
chống lại việc thưởng thức ăn, họ muốn bạn làm cho
lưỡi mình hoàn toàn vô cảm để bạn không thưởng thức
việc ăn được. Nhưng điều đó không phải là trạng thái
mạnh khoẻ; lưỡi trở thành vô cảm chỉ trong lúc ốm.
Khi bạn bị sốt, lưỡi trở thành vô cảm. Khi bạn mạnh
khoẻ lưỡi nhạy cảm, sinh động, rộn ràng, đập cùng với
năng lượng. Tôi không chống lại việc thưởng thức ăn,
tôi ủng hộ việc thưởng thức ăn. Ăn cho ngon, thưởng
thức cho ngon; thưởng thức ăn là điều thiêng liêng.
Và cũng vậy, cũng hệt như thưởng thức ăn, bạn
phải nhìn vào cái đẹp và thưởng thức; bạn phải lắng
nghe âm nhạc và thưởng thức; bạn phải chạm vào đá
và lá cây và con người - hơi ấm, đường viền - và
thưởng thức. Dùng tất cả các giác quan của mình, dùng
chúng đến mức tối đa của chúng, thế thì bạn sẽ thực sự
sống động và cuộc sống của bạn sẽ bắt lửa. Nó sẽ
không đờ đẫn, nó sẽ bắt lửa với năng lượng và sinh khí.
Tôi không ủng hộ cho những người đã từng dạy bạn
giết chết các giác quan của mình; họ chống lại thân thể.
Và nhớ, thân thể là ngôi đền của bạn, thân thể là
món quà thiêng liêng. Nó tinh tế thế và nó tuyệt vời thế
và nó kì diệu thế - giết chết nó là vô ơn với Thượng đế.
Thượng đế đã trao cho bạn vị giác; bạn không tạo ra
nó, nó chẳng liên quan gì tới bạn cả. Thượng đế đã trao
cho bạn đôi mắt và Thượng đế đã làm thế giới phiêu
diêu này với nhiều mầu sắc thế, và ngài đã cho bạn đôi
mắt. Để có mối giao cảm lớn giữa mắt và mầu sắc của
thế giới... Mọi thứ đều trong sự hài hoà mênh mông.
Đừng phá vỡ hài hoà này.
Cái gọi là các mahatma này chỉ là vị kỉ, và cách tốt
nhất để cảm thấy rằng bạn vĩ đại là chống lại thân thể.
Trẻ con làm điều đó. Trẻ con cảm thấy rằng buồn ỉa
đang tới; nó kìm điều đó lại, nó cảm thấy mạnh mẽ bởi
vì nó cảm thấy ý chí của mình: nó sẽ không nhường
thân thể. Bóng đái nó căng đầy và nó kìm lại. Nó muốn
chứng tỏ cho thân thể “Ta không phải là kẻ hầu của mi,
ta là chủ mi.” Nhưng đây là những thói quen huỷ hoại.
Lắng nghe thân thể. Thân thể không phải là kẻ thù
bạn, và khi thân thể đang nói điều gì đó, làm theo
tương ứng đi, bởi vì thân thể có trí huệ của riêng nó.
Bạn đừng quấy rối nó, đừng cứ đi theo con đường tâm
trí. Đó là lí do tại sao tôi không dạy bạn bất kì việc ăn
kiêng nào, tôi chỉ dạy bạn nhận biết. Ăn với nhận biết
hoàn toàn, ăn một cách thiền, và thế thì bạn sẽ không
bao giờ ăn nhiều và bạn sẽ không bao giờ ăn ít cả.
Nhiều cũng xấu như ít vậy. Ăn quá nhiều là xấu, cũng
hệt như nhịn ăn quá nhiều; chúng là các cực đoan. Tự
nhiên muốn bạn được cân bằng, trong một loại thăng
bằng nào đó, ở giữa, không ít không nhiều. Bạn đừng
đi vào cực đoan.
Đi vào cực đoan là bị thần kinh. Cho nên có hai
kiểu người thần kinh về thức ăn: những người cứ ăn
mãi, chẳng chịu nghe lời thân thể - thân thể cứ kêu la
“Dừng lại đi!” mà họ cứ tiếp tục. Đây là những người
thần kinh. Và thế rồi lại có loại khác: thân thể cứ kêu la
“Tôi đang đói đây!” còn họ cứ nhịn. Chẳng ai tôn giáo
cả, cả hai loại người này đều thần kinh, cả hai đều bệnh
hoạn - họ cần được trị liệu, họ cần đưa vào bệnh viện.
Người tôn giáo là người cân bằng: trong bất kì cái gì
người đó làm, người đó bao giờ cũng ở giữa. Người đó
không bao giờ đi vào các cực đoan bởi vì mọi cực đoan
đều sẽ tạo ra căng thẳng, lo âu. Khi bạn ăn quá nhiều
có lo âu bởi vì thân thể nặng gánh. Khi bạn không ăn
đủ có lo âu bởi vì thân thể đói. Người tôn giáo là người
biết chỗ cần dừng lại; và điều đó nên bắt nguồn từ nhận
biết của bạn, không từ giáo lí nào.
Nếu tôi bảo bạn phải ăn bao nhiêu, điều đó sẽ là
nguy hiểm bởi vì điều đó sẽ chỉ là con số trung bình.
Ai đó rất gầy và ai đó rất béo, và nếu tôi bảo bạn phải
ăn bao nhiêu - “ba chappatis” thế thì với ai đó điều đó
có thể quá nhiều và đối với ai đó điều đó có thể chẳng
là gì. Cho nên tôi không dạy các qui tắc cứng nhắc, tôi
đơn giản trao cho bạn khả năng phán đoán với nhận
biết. Lắng nghe thân thể bạn: bạn có một thân thể khác.
Và thế thì có các kiểu năng lượng khác nhau, các kiểu
tham dự khác nhau. Ai đó là giáo sư đại học; người đó
không dùng nhiều năng lượng khi có liên quan tới thân
thể mình. Người đó sẽ không cần nhiều thức ăn, và
người đó sẽ cần loại thức ăn khác. Ai đó là người lao
động; người đó sẽ cần nhiều thức ăn, và loại thức ăn
khác. Bây giờ một nguyên tắc cứng nhắc sẽ thành nguy
hiểm. Không qui tắc nào có thể được đưa ra làm qui tắc
phổ quát cả.
George Bernard Shaw đã nói rằng chỉ có một qui
tắc vàng, rằng không có qui tắc vàng nào cả. Nhớ điều
đó, không có qui tắc vàng nào cả - không thể có được,
bởi vì mỗi cá nhân đều duy nhất đến mức không ai có
thể qui định được. Cho nên tôi đơn giản cho bạn khả
năng phán đoán... Và khả năng phán đoán của tôi cũng
không phải là nguyên tắc, không phải là luật; cách tiếp
cận của tôi là của nhận biết, bởi vì hôm nay bạn có thể
cần nhiều thức ăn và ngày mai bạn có thể không cần
nhiều thức ăn đó. Đấy không chỉ là vấn đề về bạn khác
người khác - mọi ngày trong cuộc sống của bạn đều
khác với mọi ngày khác. Cả ngày bạn đã nghỉ, bạn có
thể không cần nhiều thức ăn. Cả ngày bạn đã làm việc
trong vườn đào hố, bạn có thể cần nhiều thức ăn.
Người ta nên tỉnh táo và người ta nên có khả năng lắng
nghe điều thân thể đang nói. Đi theo thân thể.
Thân thể không phải là chủ mà thân thể cũng
không phải là nô lệ; thân thể là người bạn của bạn -
thân thiện với thân thể mình đi. Người ăn quá nhiều và
người ăn kiêng cả hai đều trong cùng một bẫy. Cả hai
đều điếc; họ không lắng nghe điều thân thể đang nói...
Ăn vì niềm vui của việc ăn; thế thì bạn là người,
con người, sinh linh cao hơn. Yêu lấy niềm vui của tình
yêu; thế thì bạn là người, là sinh linh cao hơn. Lắng
nghe niềm vui của việc lắng nghe và bạn sẽ thoát khỏi
hạn chế của bản năng.
Tôi không chống lại hạnh phúc, tôi hoàn toàn ủng
hộ cho nó. Tôi là người theo chủ nghĩa hoan lạc, và đây
là hiểu biết của tôi: tất cả những người tâm linh vĩ đại
trên thế giới bao giờ cũng là người hoan lạc. Nếu ai đó
không phải là người hoan lạc và giả vờ làm người tâm
linh, người đó không phải vậy - thế thì người đó là
người bị bệnh tâm thần, bởi vì hạnh phúc là chính mục
đích, chính cội nguồn, chính cái đích của mọi điều.
Thượng đế đang tìm kiếm hạnh phúc qua bạn, trong
hàng triệu hình dạng. Cho phép ngài trong tất cả mọi
hạnh phúc có thể có và giúp ngài đi lên các đỉnh cao
hơn, đạt tới cao hơn, của hạnh phúc. Thế thì bạn mang
tính tôn giáo, và thế thì ngôi đền của bạn sẽ trở thành
nơi của lễ hội và nhà thờ của bạn sẽ không buồn bã và
xấu xí thế, u ám thế, chết chóc thế, như bãi tha ma vậy.
Thế thì sẽ có tiếng cười và sẽ có bài ca và sẽ có điệu vũ
và sẽ có hân hoan lớn.
Tôn giáo bị tổn hại rất nhiều bởi những người vẫn
đang thuyết giảng về tự hành xác. Tôn giáo phải được
thoát khỏi tất cả những điều vô nghĩa này. Rất nhiều
rác rưởi đã trở nên bám dính vào tôn giáo. Tôn giáo
tinh hoa không là gì khác hơn ngoài vui vẻ. Cho nên
bất kì cái gì đem lại cho bạn vui vẻ đều đức hạnh cả;
bất kì cái gì làm cho bạn buồn, bất hạnh, khổ sở đều là
tội lỗi. Để điều đó làm tiêu chuẩn.
Và tôi không trao cho bạn những qui tắc cứng nhắc
bởi vì tôi biết cách thức tâm trí con người vận hành.
Một khi qui tắc cứng nhắc được trao cho, bạn quên mất
nhận biết và bạn bắt đầu tuân theo qui tắc cứng nhắc
đó. Qui tắc cứng nhắc không phải là vấn đề - bạn có
thể tuân theo qui tắc đó và bạn sẽ chẳng bao giờ trưởng
thành cả.
Nghe vài giai thoại:
Benny về tới nhà thấy trong bếp một đống mảnh sứ
vỡ.
“Chuyện gì thế này?” anh ta hỏi vợ.
“Có điều gì đó sai với sách nấu ăn này,” cô ta giải
thích. “Sách nói rằng chiếc cốc cũ không quai cầm sẽ
có tác dụng để đong đo - và em phải mất mười một lần
để đập cái quai cầm ra mà không làm vỡ cốc.”
Bây giờ nếu sách nấu ăn nói điều đó, điều đó phải
được làm. Tâm trí con người thật là ngu xuẩn - nhớ
điều đó. Một khi bạn có qui tắc cứng nhắc, bạn tuân
theo nó.
Đám đông đi đón một anh chàng quan trọng, và
điều anh chàng quan trọng này đã nói, phải thực hiện.
Chuông vang lên và người phục vụ đi ra để canh cổng.
Người đó nhòm qua khung cửa, và nhận ra khách thăm,
bèn ra hiệu cho người đến tham gia hội họp lùi lại.
“Để ô của các ông ở cửa ấy,” người phục vụ bảo
với vị khách thăm.
“Tôi không có ô,” vị khách trả lời.
“Thế thì về nhà lấy ô đi. Ông chủ bảo tôi là mọi
người đều phải để ô ngoài cửa. Nếu không thì tôi sẽ
không cho ông vào đâu.”
Qui tắc là qui tắc...
Đấy là cuộc săn đuổi vô vọng nhưng chiếc xe cảnh
sát đang đuổi theo các tên trộm nhà băng bỗng nhiên
quẹo vào một trạm xăng, tại điểm đó viên cảnh sát lái
xe gọi điện về cho sếp.
“Bắt được chúng rồi chứ?” Viên sếp hỏi một cách
kích động.
“Chúng may đấy,” viên cảnh sát trả lời. “Chúng tôi
đang khép lại lỗ hổng, chỉ còn cách nửa dặm nữa thôi,
nhưng tôi để ý thấy xe đã đi quá năm trăm dặm rồi và
chúng tôi phải dừng lại để thay dầu.”
Bạn có thể làm gì khi phải thay dầu cứ sau mỗi
năm trăm dặm và năm trăm dặm đã tới số rồi? Bạn
phải thay dầu trước đã.
Tôi chưa bao giờ trao cho bạn các qui tắc cứng
nhắc bởi vì tôi biết tâm trí con người ngu xuẩn thế nào
và nó có thể ngu xuẩn thế nào. Tôi đơn giản trao cho
bạn một cảm giác, một khả năng phán đoán chiều
hướng. Nhận biết và sống qua nhận biết.
Thông thường bạn đang sống một cuộc sống rất
không ý thức. Bạn ăn quá nhiều bởi vì bạn vô ý thức -
bạn không biết bạn đang làm gì. Bạn trở nên ghen tị,
bạn trở nên sở hữu, bởi vì bạn vô ý thức và bạn không
biết mình đang làm gì. Bạn phát điên trong giận dữ,
bạn trở thành gần như bị quỉ ám khi bạn trong cơn
phẫn nộ, và bạn làm những việc mà bạn chẳng biết
điều mình đang làm.
Jesus nói trên cây thánh giá - lời cuối cùng của ông
ấy, nhưng cực kì quan trọng - ông ấy nói: “Xin Cha tha
thứ cho những người này bởi vì họ không biết điều họ
đang làm.” Bây giờ Ki tô giáo chưa bao giờ diễn giải
được những lời cực kì trọng đại này cho đúng. Thông
điệp của Jesus thật là đơn giản. Ông ấy đang nói:
Những người này là những người vô ý thức. Họ không
nhận biết chút nào, cho nên họ không thể chịu trách
nhiệm. Bất kì điều gì họ làm, họ đều làm trong giấc
ngủ; họ là kẻ mộng du, người đi trong khi ngủ. Xin tha
thứ cho họ. Họ không thể chịu trách nhiệm được.
Cho nên khi bạn ăn quá nhiều, tôi cầu nguyện
Thượng đế, “Xin Cha tha thứ cho con người này.
Người đó không biết điều mình đang làm.” Khi bạn
nhịn ăn, tôi lại phải cầu nguyện Thượng đế, “Xin tha
thứ cho người này bởi vì người đó không biết điều
mình đang làm.” Vấn đề thực sự không phải là làm mà
là đem nhận biết vào trong bản thể bạn, và nhận biết đó
sẽ thay đổi mọi thứ. Bạn đang giống như kẻ say khướt.
Tôi đã từng nghe: Mike bảo Pat anh ta sẽ đi thức
canh người chết, và Pat đề nghị được đi theo. Trên
đường Pat gợi ý hãy uống một hay hai cốc rượu và cả
hai sẽ đủ say. Kết quả là Mike không thể nào nhớ nổi
địa chỉ chỗ canh. “Nhà của bạn cậu ở đâu?” Pat hỏi.
“Tớ quên mất số nhà rồi, nhưng tớ chắc chắn đây là
phố ấy.”
Họ bước dọc phố đến vài phút cho tới khi Mike liếc
mắt nhìn vào một cái nhà anh ta nghĩ là đúng chỗ. Thế
là họ loạng choạng đi vào cái phòng tối. Họ mở cửa và
phát hiện ra phòng khách, cũng tối đen ngoại trừ tia
sáng le lói yếu ớt của cây nến đặt trên chiếc piano. Họ
đi tới trước chiếc piano, quì xuống và cầu nguyện. Pat
dừng mắt khá lâu nhìn vào chiếc piano. “Mike,” anh ta
nói, “Tớ không biết anh bạn của cậu, nhưng anh ấy
chắc chắn là có bộ răng đẹp.”
Đây là tình huống đó. Đây là cách thức con người
hiện hữu. Điều duy nhất tôi muốn trao cho bạn là khả
năng phán đoán có nhận biết. Điều đó sẽ làm thay đổi
toàn bộ cuộc sống của bạn. Đây không phải là vấn đề
đưa bạn vào kỉ luật, đây là vấn đề làm cho bạn sáng lên
từ bên trong.39
******************************************************
#15 Đau đớn
Bạn đang trong cơn đau - cái gì thực sự xảy ra bên
trong? Phân tích toàn bộ hiện tượng này: cơn đau có
đó, và có ý thức này rằng cơn đau có đó. Đây là hai
điểm: cơn đau có đó, và có ý thức này rằng cơn đau có
đó. Nhưng không có lỗ hổng, và bằng cách nào đó,
“Tôi đang trong cơn đau” - cảm giác này xảy ra - “Tôi
đang trong cơn đau.” Và không chỉ điều này - sớm hay
muộn, “Tôi là cơn đau” bắt đầu, xảy ra, bắt đầu là cảm
giác.
“Tôi đang đau; tôi đang trong cơn đau; tôi là nhận
biết về cơn đau” - đây là ba trạng thái khác nhau, rất
khác nhau. Tâm thức chứng kiến nói, “Tôi là nhận biết
về cơn đau.” Điều này là có thể được phép, bởi vì thế
thì bạn siêu việt lên trên cơn đau. Nhận biết siêu việt
lên - bạn khác với cơn đau, và có tách biệt sâu sắc.
Thực sự, chưa bao giờ có bất kì quan hệ nào; mối quan
hệ bắt đầu xuất hiện chỉ bởi vì sự gần gũi, bởi vì sự gần
gũi thân thiết của ý thức của bạn và tất cả những điều
xảy ra xung quanh.
Ý thức gần thế khi bạn đang trong cơn đau - nó chỉ
ngay đó bên cạnh, rất gần. Nó phải như thế; nếu không
thì cơn đau không thể nào được chữa khỏi. Nó phải ở
ngay gần để cảm thấy nó, để biết nó, để nhận biết về
nó. Nhưng bởi vì gần gũi này bạn trở nên bị đồng nhất,
và là một. Đây lại là một phương tiện an toàn; đây là
phương tiện an ninh, an ninh tự nhiên. Khi có cơn đau
bạn phải ở gần; khi có cơn đau, ý thức của bạn phải xô
vào cơn đau - để cảm thấy nó, để làm điều gì đó về nó.
Bạn đang trên phố và bỗng nhiên bạn cảm thấy một
con rắn ở đó - thế thì toàn bộ ý thức bạn trở thành cái
nhảy. Không mất khoảnh khắc nào, thậm chí không
suy nghĩ phải làm gì. Không có lỗ hổng giữa việc nhận
biết và hành động. Bạn phải ở rất gần; chỉ thế thì điều
này mới có thể xảy ra. Khi thân thể bạn đang chịu đau
đớn, bệnh tật, ốm yếu, bạn phải ở gần; nếu không thì
cuộc sống không thể tồn tại được. Nếu bạn ở xa và cơn
đau không được cảm thấy, thế thì bạn sẽ chết. Cơn đau
phải được cảm thấy ngay lập tức - không được có lỗ
hổng. Thông báo này phải được nhận ngay lập tức, và
tâm thức của bạn phải đi ngay tới chỗ đó để làm cái gì
đó. Đó là lí do tại sao việc ở gần lại là điều cần thiết.
Nhưng bởi vì sự cần thiết này mà hiện tượng khác cũng
xảy ra: gần quá, bạn trở thành một; gần quá, bạn bắt
đầu cảm thấy, “Đây là mình - cơn đau này, niềm vui
thích này.” Bởi sự gần gũi nên có sự đồng nhất: bạn trở
thành cơn giận dữ, bạn trở thành tình yêu, bạn trở
thành cơn đau, bạn trở thành hạnh phúc.
Có hai cách để dứt bản thân bạn ra khỏi những sự
đồng nhất giả tạo này. Bạn không phải là điều bạn đang
nghĩ, đang cảm, đang tưởng tượng, đang phóng chiếu;
điều bạn đang là đơn giản là sự kiện của nhận biết. Bất
kì cái gì xảy ra, bạn vẫn còn chỉ là nhận biết. Bạn là
nhận biết - sự đồng nhất đó không thể bị phá vỡ, sự
đồng nhất đó không thể bị phủ định. Tất cả các cái
khác đều có thể bị phủ định và vứt bỏ; nhận biết còn lại
là lớp nền tối thượng, cở sở tối thượng. Bạn không thể
phủ nhận điều đó, bạn không thể phủ định điều đó, bạn
không thể dứt bỏ bản thân mình ra khỏi nó.
Cho nên đây là quá trình: Cái không thể nào bị vứt
đi được, cái không thể nào bị làm tách biệt khỏi bạn,
mới là bạn; cái có thể tách ra được, bạn không phải là
nó. Cơn đau có đó; khoảnh khắc sau nó có thể không
có đó - nhưng bạn sẽ hiện hữu. Hạnh phúc đã tới và nó
sẽ ra đi; nó đang đấy và nó sẽ không đấy - nhưng bạn
sẽ có đấy. Thân thể trẻ trung, thế rồi thân thể trở nên
già đi. Tất cả các cái khác tới rồi đi - khách tới rồi đi -
nhưng chủ nhà còn lại như cũ. Cho nên các nhà huyền
môn thiền mới nói: Chớ bị lạc trong đám đông khách
khứa. Nhớ lấy tính chủ nhà của mình. Tính chủ nhà đó
là nhận biết. Tính chủ nhà đó là tâm thức chứng kiến.
Cái gì là phần tử cơ bản bao giờ cũng vẫn còn lại như
cũ trong bạn? Chỉ là cái đó, và không đồng nhất bản
thân bạn với tất cả những cái đến rồi đi. Nhưng chúng
ta trở nên đồng nhất với khách. Thực sự chủ nhà quá
bận bịu với khách, người đó quên mất.
Mulla Nasruddin mời tiệc một số bạn bè và một số
người lạ. Bữa tiệc rất chán, và nửa đêm đã trôi mất mà
nó cứ tiếp diễn mãi. Cho nên một người lạ, không biết
rằng Mulla là chủ nhà, mới nói với anh ta, “Tôi chưa
bao giờ thấy một bữa tiệc như thế, vô nghĩa đến thế.
Nó dường như chẳng bao giờ kết thúc, còn tôi chán đến
mức tôi muốn đi về.”
Mulla nói, “Anh nói đúng cái điều tôi định nói với
anh đấy. Bản thân tôi cũng chưa bao giờ thấy một bữa
tiệc vô nghĩa và chán ngấy đến thế trước đây, nhưng tôi
không đủ dũng cảm như anh. Tôi cũng nghĩ tới việc bỏ
nó và chỉ chực chạy đi.” Thế là cả hai đều chạy đi.
Thế rồi, ra đến giữa phố Mulla mới nhớ ra và nói,
“Cái gì bị sai rồi, bởi vì bây giờ tôi mới nhớ ra : tôi là
chủ nhà! Cho nên tôi xin lỗi, tôi phải quay lại.”
Điều này xảy ra cho tất cả chúng ta. Chủ nhà bị lạc
mất, chủ nhà bị quên lãng vào mọi khoảnh khắc. Chủ
nhà là cái ta chứng kiến của bạn. Cơn đau tới rồi hoan
lạc theo sau; có hạnh phúc, và có khổ. Và từng khoảnh
khắc, bất kì cái gì tới bạn đều bị đồng nhất với nó, bạn
trở thành khách.
Nhớ tới chủ nhà đi. Khi khách có đó, nhớ tới chủ
nhà. Và có nhiều kiểu khách khứa: hoan lạc, đau đớn;
khách bạn thích, khách bạn không thích, là khách của
mình; khách bạn thích sống cùng, khách bạn thích
tránh mặt - nhưng tất cả đều là khách. Nhớ đến chủ
nhà. Thường xuyên nhớ tới chủ nhà. Định tâm vào chủ
nhà. Vẫn còn trong tính chủ nhà của mình; thế thì có
tách biệt. Thế thì có lỗ hổng, khoảng hở - cây cầu bị
gẫy. Khoảnh khắc cây cầu này bị gẫy, hiện tượng từ bỏ
xảy ra. Thế thì bạn là trong nó, và không là nó. Thế thì
bạn có đó trong khách, mà vẫn là chủ nhà. Bạn không
cần trốn khỏi khách - không cần đâu.40
Bạn đã tránh né cả nghìn lẻ một đau đớn trong cuộc
sống mình. Bằng tránh né bạn không thể nào phá huỷ
được chúng - chúng cứ tích luỹ lại. Bạn cứ nuốt chửng
những đau đớn của mình; chúng vẫn còn trong hệ
thống của bạn. Đó là lí do tại sao mọi loại trưởng thành
tâm linh hay tâm lí lại đau đớn - khi bạn bắt đầu trưởng
thành, khi bạn quyết định trưởng thành, bạn phải đối
diện với tất cả những đau đớn bạn đã kìm nén. Bạn
không thể bỏ qua chúng được.
Bạn đã được nuôi dưỡng lớn lên theo cách sai.
Không may là mãi cho tới giờ, không một xã hội nào
đã từng tồn tại trên trái đất này lại không từng kìm nén
đau đớn. Tất cả các xã hội đều phụ thuộc vào kìm nén.
Hai điều họ kìm nén: một là đau đớn, điều kia là hoan
lạc. Và họ kìm nén hoan lạc cũng bởi vì đau đớn. Lập
luận của họ là ở chỗ nếu bạn không quá hạnh phúc bạn
sẽ chẳng bao giờ trở nên quá bất hạnh; nếu niềm vui bị
phá huỷ bạn sẽ không bao giờ ở sâu trong đau đớn. Để
tránh đau đớn họ tránh hoan lạc. Để tránh cái chết họ
tránh cuộc sống.
Và logic này có điều gì đó trong nó. Cả hai phát
triển cùng nhau - nếu bạn muốn có cuộc sống cực lạc
bạn sẽ phải chấp nhận nhiều phiền não. Nếu bạn muốn
có các đỉnh núi Himalayas thế thì bạn cũng sẽ phải có
thung lũng. Nhưng chẳng có gì sai với thung lũng cả;
cách tiếp cận của bạn chỉ phải khác đi. Bạn có thể tận
hưởng cả hai - đỉnh núi đẹp đẽ, thung lũng cũng vậy.
Và có những khoảnh khắc khi người ta nên tận hưởng
đỉnh núi và có những khoảnh khắc khi người ta nên
thảnh thơi trong thung lũng.
Đỉnh núi là ánh sáng mặt trời, nó là trong đối thoại
với bầu trời. Thung lũng là bóng tối, nhưng bất kì khi
nào bạn muốn thảnh thơi bạn đều phải đi vào trong
bóng tối của thung lũng. Nếu bạn muốn có các đỉnh núi
bạn sẽ cần phát triển gốc rễ trong thung lũng - gốc rễ
bạn càng ăn sâu, cây của bạn càng sẽ phát triển cao
hơn. Cây không thể nào phát triển được mà thiếu gốc
rễ và rễ phải ăn sâu vào trong đất.
Đau đớn và hoan lạc là hai phần cố hữu của cuộc
sống. Mọi người sợ đau đớn nhiều tới mức họ kìm nén
đau đớn, họ tránh bất kì tình huống nào đem tới đau
đớn, họ cứ lẩn tránh đau đớn. Và cuối cùng họ vấp vào
sự kiện rằng nếu bạn thực sự muốn tránh đau đớn bạn
sẽ phải tránh hoan lạc. Đó là lí do tại sao các sư tránh
hoan lạc - họ sợ hoan lạc. Trong thực tế họ đơn giản
tránh tất cả các khả năng đau đớn. Họ biết rằng nếu bạn
tránh hoan lạc thế thì một cách tự nhiên đau đớn lớn là
không thể có; nó chỉ tới như cái bóng của hoan lạc. Thế
thì bạn bước đi trên nền đất bằng - bạn chẳng bao giờ
đi trên các đỉnh núi và bạn không bao giờ rơi xuống
thung lũng. Nhưng thế thì bạn là người chết đang sống,
thế thì bạn không sống.
Cuộc sống tồn tại giữa tính chất cực này. Căng
thẳng này giữa đau đớn và hoan lạc làm cho bạn có khả
năng tạo ra âm nhạc vĩ đại; âm nhạc tồn tại chỉ trong
căng thẳng này. Phá huỷ tính cực này đi bạn sẽ thành
đờ đẫn, bạn sẽ tù đọng, bạn sẽ vô vị - bạn sẽ không có
bất kì ý nghĩa nào và bạn sẽ chẳng bao giờ biết rực rỡ
là gì. Bạn sẽ làm lỡ cuộc sống.
Người muốn biết cuộc sống và sống cuộc sống phải
chấp nhận và ôm choàng lấy cái chết. Chúng đi đôi với
nhau, chúng là hai khía cạnh của một hiện tượng. Đó là
lí do tại sao trưởng thành lại đau đớn. Bạn phải đi vào
trong tất cả những đau đớn đó mà bạn đã từng tránh né.
Nó gây đau. Bạn phải đi qua tất cả những vết thương
đó mà bằng cách nào đó bạn đã xoay xở không nhìn
vào. Nhưng bạn càng đi sâu hơn vào trong đau đớn,
khả năng của bạn để đi vào trong hoan lạc cũng càng
sâu hơn. Nếu bạn có thể đi vào trong đau đớn tới giới
hạn tận cùng nhất, bạn sẽ có khả năng chạm tới cõi
trời.
Tôi đã từng nghe: Một người tới một thiền sư và
hỏi, “Làm sao chúng tôi tránh được nóng và lạnh?”
Một cách đầy ẩn dụ, người đó đang hỏi, “Làm sao
chúng tôi tránh được hoan lạc và đau đớn?” Đó là cách
nói của thiền về hoan lạc và đau đớn: nóng và lạnh.
“Làm sao chúng tôi tránh được nóng và lạnh?”
Thiền sư trả lời, “Hãy nóng, hãy lạnh.”
Để thoát khỏi đau đớn, đau đớn phải được chấp
nhận, điều không tránh khỏi và tự nhiên. Đau đớn là
đau đớn - sự kiện đau đớn đơn giản - nhưng chịu đựng
chỉ là và bao giờ cũng là việc chối từ đau đớn, công bố
rằng cuộc sống không nên đau đớn. Nó là việc bác bỏ
một sự kiện, việc phủ nhận cuộc sống và phủ nhận bản
chất của mọi vật. Cái chết là tâm trí và tâm trí đang
chết. Nơi không có nỗi sợ chết thì ai có đó để mà chết?
Con người là duy nhất trong số các sinh vật có tri
thức về cái chết và có tiếng cười. Thế rồi điều kì diệu
là con người có thể làm cho cái chết thành một điều
mới: con người có thể chết khi cười. Chỉ con người
mới biết tiếng cười; không con vật nào cười cả. Chỉ
con người mới biết tới cái chết; không con vật nào biết
tới cái chết cả - con vật đơn giản chết, chúng không có
ý thức về hiện tượng chết.
Con người nhận biết về hai điều mà không con vật
nào nhận biết cả: một là tiếng cười, và điều kia là cái
chết. Thế thì sự tổng hợp mới là có thể. Chỉ con người
mới có thể chết khi cười - người đó có thể gắn ý thức
về cái chết và khả năng cười. Và nếu bạn có thể chết
trong khi cười, chỉ thế thì bạn mới đưa ra bằng chứng
hợp thức rằng bạn phải đã sống trong khi cười. Cái
chết là phát biểu cuối cùng của toàn bộ cuộc sống của
bạn - kết luận, nhận xét kết luận. Cách thức bạn đã
sống sẽ được chỉ ra bằng cái chết của bạn, cách bạn
chết. Bạn có thể chết trong khi cười được không? Thế
thì bạn đã là người trưởng thành. Nếu bạn chết trong
kêu khóc, níu bám, thế thì bạn là trẻ con. Bạn vẫn chưa
trưởng thành, bạn vẫn chưa chín chắn. Nếu bạn chết đi
trong kêu khóc, níu bám vào cuộc sống, điều đó đơn
giản chỉ ra bạn đã tránh né cái chết và bạn đã tránh né
tất cả mọi nỗi đau, tất cả mọi loại đau đớn.
Trưởng thành là đối diện với với thực tế, đương
đầu với sự kiện, dù nó là bất kì cái gì.
Và để cho tôi nhắc lại: Đau đớn đơn giản là đau
đớn; không có chịu đựng trong nó. Chịu đựng tới từ
ham muốn của bạn rằng đau đớn không nên có đó, rằng
có một cái gì đó sai trong đau đớn. Quan sát, chứng
kiến, và bạn sẽ ngạc nhiên. Bạn đau đầu: cái đau có đó
nhưng việc chịu đựng không có đó. Chịu đựng là hiện
tượng phụ, đau đớn là chính. Đau đầu có đó, cái đau có
đó; nó đơn giản là sự kiện. Không có phán xử gì về nó
cả. Bạn không gọi nó là tốt hay xấu, bạn không cho nó
bất kì giá trị nào; nó chỉ là sự kiện. Hoa hồng là sự
kiện, gai nhọn cũng vậy. Ngày là sự kiện, đêm cũng
vậy. Đầu là sự kiện, đau đầu cũng vậy. Bạn đơn giản
lưu ý về nó.
Phật đã dạy cho đệ tử của mình rằng khi bạn đau
đầu đơn giản nói hai lần “Đau đầu, đau đầu.” Lưu ý.
Nhưng không đánh giá, không nói, “Tại sao? Tại sao
cái đau đầu này lại xảy ra cho mình? Nó đáng không
nên xảy ra cho mình.” Khoảnh khắc bạn nói, “Nó đáng
không nên,” bạn mang chịu đựng vào rồi. Bây giờ chịu
đựng do bạn tạo ra, không phải do đau đầu. Chịu đựng
là cách diễn giải đối kháng của bạn, chịu đựng là việc
phủ nhận của bạn về sự kiện này.
Và khoảnh khắc bạn nói, “Nó đáng không nên,”
bạn đã bắt đầu né tránh nó, bạn đã bắt đầu quay lưng
với nó. Bạn muốn bận bịu vào cái gì đó để cho bạn có
thể quên nó đi. Bạn bật đài hay tivi hay đến câu lạc bộ
hay bạn bắt đầu đọc báo hay bạn đi và bắt đầu làm việc
trong vườn - bạn phân tán bản thân mình, bạn làm
mình phân tán đi. Bởi vì đau đớn đã không được chứng
kiến; bạn đơn giản đã phân tán bản thân mình. Đau đớn
đó sẽ bị hệ thống này hấp thu.
Để cho điều mấu chốt này được hiểu rất sâu sắc.
Nếu bạn có thể chứng kiến cơn đau đầu của mình mà
không lấy bất kì thái độ đối kháng nào, không tránh né
nó, không trốn khỏi nó; nếu bạn có thể chỉ có đó, mang
tính thiền ở đó - “Đau đầu, đau đầu” - nếu bạn có thể
chỉ đơn giản thấy nó, cái đau đầu sẽ đi theo thời điểm
của nó. Tôi không nói rằng nó sẽ đi một cách huyền bí,
mà chỉ bởi việc thấy của bạn nó sẽ đi. Nó sẽ đi theo
thời điểm của nó. Nhưng nó sẽ không bị hấp thu bởi hệ
thống của bạn, nó sẽ không đầu độc hệ thống của bạn.
Nó sẽ có đó, bạn sẽ lưu ý tới nó, và nó sẽ trôi qua. Nó
sẽ được thoát ra.
Khi bạn chứng kiến điều gì đó trong bản thân mình
điều đó không thể nào đi vào trong hệ thống của bạn
được. Nó bao giờ cũng đi vào khi bạn tránh nó, khi bạn
trốn khỏi nó. Khi bạn trở nên vắng mặt thế thì nó đi
vào trong hệ thống của bạn. Chỉ khi bạn vắng mặt cái
đau mới có thể trở thành một phần của con người bạn -
nếu bạn hiện diện, chính sự hiện diện của bạn ngăn cản
nó khỏi trở thành một phần của con người bạn.
Và nếu bạn có thể cứ nhìn đau đớn của mình bạn sẽ
không tích luỹ chúng. Bạn đã không được dạy cho
manh mối đúng, cho nên bạn cứ tránh né. Thế thì bạn
tích luỹ quá nhiều đau đớn, bạn sợ đối diện nó, bạn sợ
chấp nhận nó. Việc trưởng thành trở thành đau đớn -
đấy là bởi vì huấn luyện sai. Nếu không thì trưởng
thành là không đau đớn, trưởng thành là hoàn toàn hài
lòng.
Khi cây lớn lên và trở nên to hơn bạn có cho rằng
có đau đớn không? Chẳng có đau đớn gì cả. Thậm chí
khi đứa trẻ được sinh ra, nếu người mẹ chấp nhận nó sẽ
không có đau đớn. Nhưng người mẹ lại bác bỏ nó;
người mẹ sợ hãi. Cô ấy trở nên căng thẳng, cô ấy cố
giữ đứa trẻ bên trong - điều không thể được. Đứa trẻ
này sẵn sàng chui ra để vào trong thế giới rồi, đứa trẻ
sẵn sàng rời khỏi người mẹ. Nó đã chín muồi, bụng mẹ
không thể nào chứa được nó thêm nữa. Nếu bụng mẹ
chứa nó thêm nữa người mẹ sẽ chết và đứa trẻ sẽ chết.
Nhưng người mẹ lại sợ hãi. Cô ấy đã nghe nói rằng đẻ
con rất đau đớn - sinh đau, đẻ đau. Cô ấy sợ hãi, và từ
nỗi sợ cô ấy trở nên căng thẳng và khép kín.
Bằng không - trong các xã hội nguyên thuỷ các bộ
lạc vẫn còn tồn tại - việc sinh con đơn giản thế, chẳng
đau đớn chút nào. Ngược lại, bạn sẽ ngạc nhiên, niềm
cực lạc lớn nhất xảy ra cho người phụ nữ trong khi sinh
con - không đau đớn, không khổ sở chút nào, nhưng là
niềm cực lạc lớn nhất. Không cực thích dục nào lại
thoả mãn đến thế và mênh mông đến thế như cực thích
mà xảy ra cho người phụ nữ khi cô ấy cho sinh thành
đứa con một cách tự nhiên. Toàn bộ cơ cấu dục của
người phụ nữ xung động như nó không thể nào xung
động được trong bất kì việc làm tình nào. Đứa trẻ đang
tới từ cốt lõi sâu nhất của người phụ nữ. Không người
đàn ông nào có thể xuyên thấu vào người phụ nữ tới
cốt lõi đó. Và xung động này nảy sinh từ bên trong.
Xung động này là điều phải có - xung động đó sẽ tới
giống như sóng, những đợt sóng triều lớn của niềm vui.
Chỉ điều đó mới giúp cho đứa trẻ chui ra, chỉ điều đó
mới giúp cho lối đi mở ra cho đứa trẻ. Cho nên sẽ có
xung động lớn và toàn bộ bản chất dục của người phụ
nữ sẽ có niềm vui sướng cực kì. Nhưng điều thực tế đã
xảy ra cho loài người lại chính là điều ngược lại: người
phụ nữ đi tới cảm thấy nỗi khổ lớn nhất trong cuộc
sống mình. Và điều này là do bịa đặt của tâm trí, điều
này là giáo dục sai. Việc sinh có thể tự nhiên nếu bạn
chấp nhận nó.
Và do vậy nó đi cùng với việc sinh của bạn.
Trưởng thành có nghĩa là bạn được sinh ra mọi ngày.
Việc sinh không kết thúc vào ngày bạn được sinh ra -
vào ngày đó nó đơn giản bắt đầu, nó mới chỉ là bắt đầu.
Cái ngày bạn rời khỏi bụng mẹ bạn vẫn chưa được sinh
ra đâu, bạn mới bắt đầu được sinh ra; đấy mới chỉ là
bắt đầu. Và người ta cứ được sinh ra mãi cho đến khi
người đó chết. Không phải là bạn được sinh ra trong
một khoảnh khắc đâu. Quá trình sinh của bạn còn tiếp
tục trong bẩy mươi, tám mươi, chín mươi năm, suốt
chiều dài cuộc sống bạn. Nó là sự liên tục. Và mọi
ngày bạn sẽ cảm thấy niềm vui - phát triển lá mới, tán
lá mới, hoa mới, cành mới, vươn lên cao hơn và cao
nữa và chạm tới độ cao mới. Bạn sẽ sâu sắc hơn, cao
hơn, bạn sẽ đạt tới những đỉnh. Trưởng thành sẽ không
đau đớn. Nhưng trưởng thành lại đau đớn - đấy là vì
bạn, vì huấn luyện sai của bạn. Bạn đã được dạy không
trưởng thành; bạn đã được dạy vẫn còn tĩnh tại, bạn đã
được dạy níu bám lấy cái quen thuộc và cái đã biết. Đó
là lí do tại sao mỗi lần cái biết biến mất khỏi đôi tay,
bạn bắt đầu kêu khóc. Đồ chơi bị vỡ, núm vú giả đã bị
lấy đi...
Nhớ lấy, chỉ một điều sẽ có ích cho bạn: nhận biết -
không cái gì khác. Trưởng thành sẽ vẫn còn đau đớn
nếu bạn không chấp nhận cuộc sống trong tất cả mọi
lên xuống của nó. Mùa hè phải được chấp nhận và mùa
đông cũng phải được chấp nhận nữa. Đây là điều tôi
gọi là thiền. Thiền là khi bạn được làm trống rỗng tất
cả những cái cũ kĩ và cái đã được bảo cho và được thực
hiện đến chết. Thế thì bạn thấy. Hay đúng hơn, thế thì
có việc thấy: sinh thành của cái mới.41
Đau khổ là diễn giải của bạn. Bạn đã trở nên đồng
nhất quá nhiều với nó. Đó là quyết định của bạn. Bạn
có thể không đồng nhất nữa, và đau khổ biến mất. Đau
khổ của bạn cũng giống như cơn ác mộng vậy: trong
mơ bạn nghĩ một tảng đá lớn rơi xuống ngực mình, nó
đè nghiến bạn đến chết. Từ sợ hãi bạn tỉnh dậy... và tất
cả những gì bạn thấy thì chẳng là gì cả - tay bạn vẫn để
trên ngực. Nhưng trọng lượng của tay bạn làm lẩy cò
tưởng tượng trong bạn: nó trở thành tảng đá, và bạn bắt
đầu cảm thấy rất, rất kinh hoàng. Và bởi vì nỗi sợ, bạn
thức dậy... và bây giờ bạn cười. Hỏi chư phật, hỏi
người đã thức tỉnh, và họ nói chẳng có đau khổ gì trong
thế giới này cả - mọi người đều ngủ say và mơ đủ loại
đau khổ.
Và tôi biết khó khăn của bạn: nếu bạn có vấn đề thể
chất, nếu bạn bị mù, làm sao bạn có thể tin rằng đây
chỉ là mơ? Nếu bạn bị què quặt, làm sao bạn có thể tin
rằng đây chỉ là mơ? Nhưng bạn đã không quan sát sao?
- mọi đêm bạn mơ, và mọi sáng bạn biết rằng đấy chỉ
là giấc mơ và tất cả đều vô nghĩa - và lần nữa bạn sẽ
mơ và trong giấc mơ bạn sẽ lại tin rằng đây là chân lí.
Bạn đã mơ bao nhiêu giấc mơ trong đời mình rồi?
Hàng triệu giấc mơ! Mỗi đêm bạn mơ gần như không
dứt; chỉ trong vài phút việc mơ dừng lại, và thế rồi lại
một chu trình mơ khác bắt đầu.
Hàng triệu giấc mơ bạn đã từng mơ. Và mọi sáng
bạn đều cười và bạn nói nó không thực, nhưng bạn vẫn
chẳng học gì được mấy. Đêm nay lần nữa khi bạn mơ,
lại cùng ảo tưởng ấy sẽ dai dẳng: bạn sẽ biết rằng đây
là chân lí - trong mơ bạn sẽ biết đây là đúng. Cái ngày
bạn có thể nhớ trong giấc mơ của mình rằng đây là giấc
mơ, lập tức giấc mơ biến mất... bởi vì bạn đã mang
nhận biết vào trong cuộc sống mình.
Có vẻ rất khó mà tin cậy rằng tất cả những điều bạn
đang đau khổ đều chỉ là mơ do bản thân bạn tạo ra -
nhưng nó là vậy đấy, bởi vì tất cả những người đã trở
nên thức tỉnh đều nói như thế. Không một người đã
thức tỉnh nào đã nói khác đi. Và trong những khoảnh
khắc sáng suốt của nhận biết bạn cũng sẽ cảm thấy
cùng điều đó. Đây là gợi ý của tôi cho cho những
người có loại bệnh tật hay khuyết tật nghiêm trọng nào
đó: vấn đề của bạn không thể nào được giải quyết chỉ
bằng thảo luận trí tuệ - vấn đề của bạn chỉ có thể tan
biến đi, không được giải quyết. Vấn đề của bạn chỉ có
thể được tan biến đi bởi việc trở nên nhận biết hơn.
Một trong những người bạn của tôi, một người bạn
cũ, ngã từ cầu thang xuống và bị gẫy chân. Tôi tới
thăm ông ấy; ông ấy đau ghê gớm lắm. Và ông ấy lại là
một người rất tích cực mặc dầu ông ấy rất già, bẩy
mươi nhăm - nhưng rất tích cực, gần như thanh niên,
và theo đuổi hết cái nọ cái kia, và làm cái nọ cái kia,
việc phải nghỉ trên giường đối với ông ấy là không thể
được. Mà bác sĩ lại nói rằng ít nhất trong ba tháng ông
ấy phải ở trên giường. Điều này còn thảm hoạ hơn là
hai cái chân gẫy.
Khi tôi gặp ông ấy, ông ấy bắt đầu khóc. Tôi chưa
bao giờ thấy người đó khóc cả - ông ấy là người mạnh
mẽ, một người rất mạnh mẽ, gần như là người thép, và
đã thấy đủ mọi loại điều trong cuộc đời mình, là một
người rất hoạt động. Tôi hỏi ông ấy, “Ông cũng khóc
sao - có vấn đề gì với ông vậy?”
Ông ta nói, “Xin ban phúc cho tôi để tôi có thể chết
được. Tôi không muốn sống thêm nữa - ba tháng chỉ
nằm trên giường! Ông có hình dung được không? Đây
là hành hạ. Mới ba ngày trôi qua mà cảm giác cứ như
là ba năm rồi tôi phải trên giường. Ông biết tôi đấy,”
ông ấy nói, “Tôi không thể nào nghỉ được. Xin ban
phúc cho tôi để cho tôi có thể chết sớm! Tôi không
muốn sống thêm nữa. Ba tháng này và thế rồi bác sĩ
còn nói tôi sẽ què quặt cả đời - vậy phỏng có ích gì
nữa?”
Tôi nói với ông ấy, “Xin ông hành thiền đi. Tôi sẽ
ngồi cạnh ông, ông chỉ làm một việc thiền đơn giản:
rằng ông không phải là thân thể.”
Ông ấy hoài nghi. Ông ấy nói, “Điều đó liên can gì
tới tôi? Tôi đã nghe tất cả mọi điều ông nói về thiền
rồi, nhưng tôi không thể nào thiền được bởi vì tôi
không thể nào ngồi im lặng được.”
Tôi nói, “Bây giờ không có vấn đề về việc ngồi im
lặng - ông đã trên giường rồi. Đây là phúc lành đấy!
Nhắm mắt lại và tôi sẽ dạy ông thiền. Và tôi ban phúc
cho ông chết, bởi vì nếu ông muốn chết thì cũng hoàn
toàn tốt thôi. Nhưng phúc lành của tôi có thể có tác
dụng, có thể không có tác dụng, cho nên dẫu sao thì
ông cũng cứ thiền đi.”
Ông ấy hiểu ra vấn đề: “Chẳng có gì để làm cả...
vậy thì sao không thiền?” Một cách thiền đơn giản tôi
bảo ông ấy: “Ông đơn giản đi vào, nhìn vào thân thể từ
bên trong, nói “Nó không phải là tôi - thân thể là xa
xôi, xa xăm, đi xa rồi và ngày càng xa hơn, xa hơn. Tôi
là người quan sát trên núi, và thân thể đang nằm dưới
kia trong thung lũng tối tăm, và khoảng cách mênh
mông sao.”
Một nửa giờ trôi qua. Tôi phải đi, còn ông ấy vẫn
trong việc thiền đến mức tôi không muốn quấy rầy ông
ấy, nhưng tôi lại không muốn rời ông ấy đi bởi vì tôi
muốn biết điều gì đã xảy ra, ông ấy sẽ nói gì. Cho nên
tôi phải lay ông ấy. Ông ấy nói, “Đừng quấy rầy tôi.”
Tôi nói, “Nhưng tôi phải đi đây.”
Ông ấy nói, “Ông có thể đi được, nhưng đừng quấy
rầy tôi - điều này đẹp thế. Thân thể thực sự nằm nơi xa
xôi kia, hàng dặm hàng dặm xa xăm; tôi đã bỏ nó trong
thung lũng và tôi đang ngồi trên đỉnh núi, núi đầy ánh
sáng mặt trời. Nó đẹp thế, và tôi không cảm thấy đau gì
cả.” Và ba tháng đó tỏ ra là thời gian có giá trị nhất của
cuộc đời ông ấy. Ba tháng đó đã làm cho ông ấy thành
con người hoàn toàn khác. Ông ấy vẫn bị què, không
thể bước đi được, vẫn phải ở trên giường hầu hết thời
gian - nhưng bạn không thể nào tìm ra được một người
phúc lạc hơn. Ông ấy toả ra niềm phúc lạc. Bây giờ
ông ấy nói đấy không phải là tai hoạ - đấy là phúc lành.
Đau khổ có thể được biến đổi thành phúc lành. Ai
biết được? - bạn có thể biến đổi phúc lành của mình
thành đau khổ.42
Nếu bạn đau đầu, bác sĩ sẽ cho bạn thuốc aspirin.
Aspirin không phải là phương thuốc, nó đơn giản làm
cho bạn không nhận biết về triệu chứng. Aspirin không
phá huỷ cái đau đầu; nó đơn giản không cho phép bạn
biết về đau đầu. Nó làm lẫn lộn bạn. Đau đầu vẫn còn
đó nhưng bạn không còn nhận biết về nó. Nó tạo ra
một loại quên lãng.
Nhưng tại sao ngay chỗ đầu tiên đau đầu lại có đó?
Thuốc thường chẳng bận tâm về nó. Nếu bạn tới bác sĩ
ông ấy sẽ không bận tâm tại sao ngay chỗ đầu tiên bạn
lại bị đau đầu. Bạn đau đầu à! - vấn đề đơn giản với
ông ấy: "Triệu chứng này có đó, uống thuốc này đi -
thuốc nào đó, hoá chất nào đó - và triệu chứng đó sẽ
biến mất." Đau đầu có thể biến mất và bạn có rối loạn
dạ dầy vào ngày hôm sau; triệu chứng khác đã tới.
Con người là một; con người là một toàn bộ - một
đơn vị hữu cơ. Bạn có thể gạt vấn đề sang một bên, nó
sẽ tự khẳng định nó từ phía khác. Có thể mất thời gian
để đi tới phía khác, để đi tới điểm đó, nhưng nhất định
nó tới. Và thế rồi bị đẩy từ bên đó nó đi sang bên
khác... và con người có nhiều phía. Nó cứ bị đẩy từ góc
nọ sang góc kia.
Từ tất cả những điều này bạn trở thành ngày một
ốm yếu hơn chứ không mạnh khoẻ. Và đôi khi việc xảy
ra là một bệnh rất nhỏ trở thành bệnh lớn. Chẳng hạn,
nếu đau đầu không được phép, và đau dạ dầy không
được phép, và không đau nào được phép cả, cái đau tới
và lập tức bạn uống cái gì đó và bạn chặn nó lại.... Nếu
trong nhiều năm bạn cứ diễn cái trò đè nén này - đây là
kìm nén - thế thì một ngày nào đó tất cả các bệnh tật sẽ
tụ hội với nhau, tự khẳng định nó theo cách có tổ chức
hơn. Nó có thể trở thành ung thư. Tất cả những cái đó
đã tụ tập lại cùng nhau và bây giờ nó tự khẳng định
mình gần như sự bùng nổ.
Sao chúng ta không có khả năng tìm ra thuốc cho
ung thư? Có thể ung thư là diễn đạt của tất cả các bệnh
bị đè nén của con người. Chúng ta biết cách đè nén
từng bệnh cho tới nay; bây giờ đây không phải là một
bệnh nữa, đây là cuộc tấn công rất tập thể. Nó là cuộc
tấn công toàn lực - tất cả các bệnh đều đi cùng nhau,
cùng nắm tay nhau. Chúng đã làm ra quân đội... và
chúng tấn công bạn. Đó là lí do tại sao thuốc lại thất
bại; dường như không có khả năng nào ngay bây giờ
người ta sẽ tìm ra thuốc nào.
Ung thư là bệnh mới. Nó không tồn tại trong các xã
hội nguyên thuỷ. Tại sao? - điều đó đã được hỏi tại sao
nó không tồn tại trong các xã hội nguyên thuỷ - bởi vì
con người nguyên thuỷ không đè nén, không có nhu
cầu. Nó là nổi loạn của chính hệ thống của bạn. Nếu
bạn không đè nén, không có nhu cầu cho bất kì nổi
loạn nào. Những điều nhỏ bé xảy ra rồi đi.
Thái độ tôn giáo là tìm, không phải triệu chứng mà
tìm cội nguồn. Đó là điều tôi gọi là "tâm lí của chư
phật." Nếu bạn bị đau đầu, đấy không phải là ốm bệnh
của bạn đâu, đấy không phải là bệnh tật của bạn đâu.
Thực tế, đấy là dấu hiệu từ thân thể bạn rằng cái gì đó
đang đi sai ở cội nguồn - đi về cội nguồn đi! Tìm ra cái
đang đi sai. Cái đầu đơn giản cho bạn một tín hiệu, một
tín hiệu nguy hiểm, một báo động: "Lắng nghe thân
thể. Cái gì đó đang đi sai, mình đang làm cái gì đó
không đúng, điều đang phá huỷ hài hoà của thân thể.
Đừng làm điều đó thêm nữa; bằng không thì đau đầu sẽ
cứ nhắc nhở bạn."
Đau đầu không phải là bệnh, và đau đầu không
phải là kẻ thì của bạn - nó là bạn của bạn. Nó đang
phục vụ bạn. Điều rất, rất bản chất cho sự tồn tại của
bạn là thân thể nên làm cho bạn tỉnh táo khi cái gì đó đi
sai. Thay vì biến đổi cái sai đó, bạn đơn giản tắt báo
động đi - bạn uống viên Aspro. Điều này là ngớ ngẩn.
Đây là điều đang xảy ra trong thuốc và đây là điều
đang xảy ra trong trị liệu tâm lí - điều trị triệu chứng.
Đó là lí do tại sao điều bản chất lại bị mất. Điều
bản chất là: nhìn vào cội nguồn. Lần sau bạn đau đầu
thử một kĩ thuật thiền nhỏ, chỉ thực nghiệm thôi, thế thì
bạn có thể đi tới các bệnh lớn hơn và triệu chứng lớn
hơn.
Khi bạn đau đầu, thử một thực nghiệm nhỏ. Ngồi
im lặng và quan sát nó, nhìn vào nó - không phải
dường như bạn đang nhìn vào kẻ thù, không. Nếu bạn
nhìn vào nó như kẻ thù của mình, bạn sẽ không có khả
năng nhìn đúng. Bạn sẽ né tránh - không ai nhìn thẳng
vào kẻ thù cả; người ta né tránh, người ta có khuynh
hướng né tránh. Nhìn vào nó như người bạn của mình
vậy. Nó là bạn của bạn đấy, nó đang phục vụ bạn mà.
Nó đang nói, “Cái gì đó sai rồi - nhìn vào trong nó đi.”
Chỉ ngồi im lặng và nhìn vào trong cái đau đầu mà
không ý tưởng nào về việc chấm dứt nó cả, không ham
muốn rằng nó nên biến mất đi, không xung đột, không
tranh đấu, không đối kháng. Chỉ nhìn vào trong nó, vào
trong cái nó đang là.
Quan sát, để xem liệu có thông báo bên trong nào
đó mà cái đau đầu có thể trao cho bạn không. Nó có
thông báo mã hoá đấy. Và nếu bạn nhìn một cách im
lặng thì bạn sẽ ngạc nhiên. Nếu bạn nhìn một cách im
lặng thì ba điều sẽ xuất hiện. Thứ nhất: bạn càng nhìn
vào nó, thì nó sẽ càng trở nên nhức nhối hơn. Và thế thì
bạn sẽ có đôi chút phân vân: “Làm sao điều này lại có
ích nếu cái đau cứ nhức nhối thêm thế này?” Nó trở
thành nhức nhối thêm bởi vì bạn đã né tránh nó. Nó có
đó nhưng bạn đã né tránh nó; bạn đã kìm nén - thậm
chí không có aspirin thì bạn cũng cứ kìm nén nó. Khi
bạn nhìn vào nó, kìm nén biến mất. Cái đau đầu sẽ đi
tới nhức nhối tự nhiên của nó. Thế thì bạn đang nghe
thấy nó với đôi tai thông suốt, không bông nút lỗ tai;
nó sẽ rất nhức nhối.
Điều thứ nhất: nó sẽ trở nên nhức nhối. Nếu nó trở
nên nhức nhối, bạn có thể được thoả mãn rằng bạn
đang nhìn đúng. Nếu nó không trở nên nhức nhối, thế
thì bạn còn chưa nhìn đâu; bạn vẫn còn né tránh. Nhìn
vào nó - nó trở nên nhức nhối. Đó là chỉ dẫn đầu tiên
rằng có, nó đang trong tầm nhìn của bạn.
Điều thứ hai sẽ là ở chỗ nó sẽ trở thành một điểm
nhỏ hơn; nó sẽ không lan rộng trên khoảng lớn hơn.
Trước hết bạn nghĩ, “Đây là toàn bộ việc đau đầu của
mình.” Bây giờ bạn sẽ thấy nó không phải là toàn bộ
cái đầu, nó chỉ là một vùng nhỏ. Đó cũng là một chỉ
dẫn rằng bây giờ bạn đang nhìn chăm chú sâu hơn vào
trong nó. Cảm giác đau đầu lan toả chỉ là thủ thuật - đó
là cách để né tránh nó. Nếu nó ở một điểm thế thì nó sẽ
còn nhức nhối hơn. Cho nên bạn tạo ra ảo tưởng rằng
toàn bộ đầu đang đau, lan rộng khắp đầu, thế thì nó
không mãnh liệt ở bất kì điểm nào. Đây là thủ thuật
chúng ta cứ chơi mãi.
Nhìn vào trong nó, và bước thứ hai sẽ là ở chỗ nó
đi tới nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa, nhỏ mãi. Và một khoảnh
khắc tới khi nó chỉ là chính một điểm bằng đầu kim -
rất sắc nhọn, sắc nhọn vô cùng, rất đau đớn. Bạn chưa
bao giờ thấy cái đau như vậy trong đầu - nhưng rất
nhiều điều được hàm chứa vào trong một chỗ nhỏ. Cứ
nhìn vào trong nó.
Và thế rồi điều thứ ba và là điều quan trọng nhất
xảy ra. Nếu bạn cứ nhìn vào điểm này khi nó thành rất
nhức nhối và bị hạn chế và bị tập trung vào một điểm,
thì nhiều lần bạn sẽ thấy rằng nó biến mất. Khi cái nhìn
của bạn là hoàn hảo nó sẽ biến mất. Và khi nó biến mất
bạn sẽ có thoáng nhìn về nơi nó tới - nguyên nhân là gì.
Điều đó sẽ xảy ra nhiều lần. Lần nữa nó lại có đó. Cái
nhìn của bạn không còn cái tỉnh táo đó, cái tập trung
đó, cái chăm chú đó - nó sẽ quay lại. Bất kì khi nào cái
nhìn của bạn thực sự có đó, nó sẽ biến mất; và khi nó
biến mất, ẩn đằng sau nó là nguyên nhân. Và bạn sẽ
ngạc nhiên: tâm trí bạn sẵn sàng để lộ nguyên nhân đó
là gì.
Có thể có cả nghìn lẻ một nguyên nhân. Có những
nguyên nhân khác nhau. Cùng một báo động được đưa
ra bởi vì hệ thống báo động là đơn giản. Không có
nhiều hệ thống báo động trong thân thể bạn. Với những
nguyên nhân khác nhau có thể cho cùng một báo động.
Bạn có thể vừa mới giận dữ đây thôi và bạn đã chưa
diễn đạt nó. Bỗng nhiên, giống như sự khải lộ, nó sẽ
đứng đó. Bạn sẽ thấy tất cả những giận dữ mà mình đã
từng mang theo, mang theo... giống như mủ bên trong
bạn. Bây giờ điều này là quá thể, và cơn giận đó muốn
trào ra. Nó cần thanh tâm. Thì thanh tâm đi! - và ngay
lập tức bạn sẽ thấy cái đau đầu đã biến mất. Và không
cần phải thuốc aspirin, không cần trị liệu gì cả.*
Và khi cơn giận đã biến mất, một phẩm chất hoàn
toàn khác của sảng khoái sẽ nảy sinh trong bạn mà
không bao giờ có thể nảy sinh được từ aspirin. Aspirin
kìm nén - giận dữ vẫn còn bị giấu kín bên trong bạn,
bạo hành cứ lồng lộn bên trong bạn. Bạn giữ cho báo
động bị tắt đi, có thế thôi. Chẳng cái gì thay đổi cả, chỉ
báo động là không còn có đó.
Điều này cứ tiếp diễn mãi, và nó trở nên ngày càng
tích luỹ lại. Nó có thể gây cho bạn ung nhọt, nó có thể
gây cho bạn bệnh lao - một ngày nào đó nó có thể gây
cho bạn ung thư. Khi một lượng lớn được thu thập lại,
có thay đổi về chất. Có một giới hạn nào đó để thân thể
dung thứ cho bất kì cái gì, vượt ra ngoài giới hạn đó
thân thể bắt đầu cảm thấy ốm. Đây cũng là trường hợp
với tâm trí. Và bạn đừng bao giờ nghĩ thân thể và tâm
trí là hai điều tách biệt; chúng không tách biệt đâu. Con
người là thân thể-tâm trí, tâm thân.43
-------------------------------------------------------------------------
*Thiền động của Osho
Thiền Động kéo dài một giờ và có năm giai đoạn. Nó có thể được
tập một mình, nhưng năng lượng sẽ mạnh hơn nếu nó được thực
hiện trong nhóm. Nó là kinh nghiệm cá nhân cho nên bạn nên
quên đi người khác quanh bạn và cứ nhắm mắt trong cả phiên, tốt
hơn cả là dùng khăn bịt mắt. Tốt nhất là tập khi bụng trống rỗng
và mặc quần áo chùng lỏng, thoải mái.
Giai đoạn thứ nhất: 10 phút
Hít vào thở ra nhanh qua mũi, để cho hơi thở được dồn dập và
hỗn loạn. Hơi thở nên đi sâu vào bên trong phổi. Thở nhanh hết
mức nhưng vẫn phải bảo đảm việc thở sâu. Làm điều này một
cách toàn bộ hết mức bạn có thể; không căng cứng thân thể, phải
bảo đảm cổ và vai vẫn còn thư dãn. Tiếp tục cho tới khi bạn trở
thành đúng việc thở, cho phép việc thở được hỗn loạn (điều đó
nghĩa là không theo cách ổn định, dự kiến trước được). Một khi
năng lượng của bạn chuyển động, nó sẽ bắt đầu làm cho thân thể
bạn chuyển động. Cho phép những chuyển động thân thể được xảy
ra, dùng chúng để giúp mình tạo nên nhiều năng lượng hơn. Việc
vung vẩy tay và thân thể theo cách tự nhiên sẽ giúp cho năng
lượng của bạn dâng lên. Cảm thấy năng lượng dâng lên, chớ có
buông bỏ trong giai đoạn đầu tiên và đừng bao giờ làm chậm đi.
Giai đoạn thứ hai: 10 phút
Tuân theo thân thể bạn. Để thân thể bạn được tự do bày tỏ bất kì
cái gì nó muốn ... Bột phát!... Để cho thân bạn nắm quyền điều
hành. Để cho mọi thứ cần được tung ra. Hoàn toàn phát rồ... Hát,
gào thét, cười, hét, khóc, nhảy, rung lắc, múa, đá và xoay tròn
người. Chớ có giữ lại gì, cứ để cho toàn bộ thân bạn chuyển động.
Một chút ít hành động thường giúp cho bạn bắt đầu. Đừng bao
giờ để cho tâm trí bạn can thiệp vào cái đang xảy ra. Nhớ phải
toàn bộ với thân bạn.
Giai đoạn thứ ba: 10 phút
Để cho cổ và vai bạn được thư dãn, giơ cả hai tay lên cao hết mức
nhưng không khoá khuỷu tay. Tay vẫn giơ cao, nhảy lên xuống và
hô mật chú hoo!...hoo!...hoo! thật sâu hết mức, đi từ tận đáy bụng.
Mỗi lần bạn tiếp sàn bằng bàn chân (phải chắc chắn gót chân
chạm sàn), để cho âm thanh đập sâu vào trung tâm dục. Cho ra
tất cả những cái bạn có, vét cạn bạn hoàn toàn.
Giai đoạn thứ tư: 15 phút
Dừng lại! Co cứng bản thân bạn tại bất kì tư thế nào hiện có.
Đừng sắp đặt lại thân thể theo bất kì cách nào. Chỉ một cái ho,
một chuyển động, bất kì cái gì cũng sẽ làm tiêu tán luồng năng
lượng và cố gắng sẽ bị mất. Là nhân chứng cho mọi điều đang xảy
ra cho bạn.
Giai đoạn thứ năm: 15 phút
Mở hội!... với âm nhạc và vũ điệu bầy tỏ bất kì cái gì có đó. Mang
theo cái sinh động của bạn trong cả ngày.[Các hướng dẫn được
phát triển để dùng tại Osho Commune International, Pune, Ấn Độ.
Để biết thêm thông tin, xem ở cuối cuốn sách này.]
Bản thân Osho đã nói điều này về Thiền Động
Hãy còn là nhân chứng. Đừng bị mất. Rất dễ bị mất. Trong
khi bạn đang thở, bạn có thể quên mất. Bạn có thể trở thành một
với việc thở nhiều đến mức bạn có thể quên nhân chứng đi. Nhưng
thế thì bạn làm lỡ vấn đề. Thở nhanh, sâu nhất có thể được, đem
toàn bộ năng lượng của bạn vào nó, những vẫn còn là nhân chứng.
Quan sát điều đang xảy ra, dường như bạn chỉ là khán giả, dường
như toàn bộ vấn đề đang xảy ra cho ai đó khác, dường như toàn bộ
sự việc đang xảy ra trong thân thể và tâm thức chỉ định tâm và
nhìn. Việc chứng kiến này phải được thực hiện trong cả ba bước.
Và khi mọi việc dừng lại, và trong bước thứ tư bạn đã trở thành
bất hoạt hoàn toàn, đông cứng, thế thì tỉnh táo này sẽ lên tới đỉnh
của nó.44
-------------------------------------------------------------------------
Đây là việc thiền trong đó bạn phải liên tục tỉnh
táo, có ý thức, nhận biết, về bất kì điều gì bạn làm. Nếu
bạn cảm thấy đau, chú ý vào nó, đừng làm gì cả. Chú ý
là lưỡi kiếm vĩ đại - nó chém đi mọi thứ. Bạn đơn giản
chú ý tới chỗ đau.
Chẳng hạn, bạn đang ngồi im lặng trong phần cuối
của phiên thiền, bất động, và bạn cảm thấy nhiều vấn
đề trong thân thể. Bạn cảm thấy rằng chân đang tê dại,
có cái gì ngứa ngáy trong bàn tay, bạn cảm thấy kiến
đang bò trên thân thể. Nhiều lần bạn đã nhìn mà không
có kiến. Cái bò là ở bên trong, không phải ở bên ngoài.
Bạn phải làm gì? Bạn cảm thấy chân tê dại? - có tính
quan sát đi, chỉ để toàn bộ chú ý của bạn vào đó. Bạn
cảm thấy ngứa ngáy sao? - đừng gãi. Điều đó chẳng ích
gì. Chỉ để chú ý của bạn vào. Thậm chí đừng mở mắt
ra nữa. Chỉ để chú ý của bạn hướng vào bên trong, và
chỉ đợi và quan sát. Trong vài giây, cái ngứa ngáy sẽ
biến mất. Bất kì cái gì xảy ra - cho dù bạn cảm thấy
đau, đau nhói trong dạ dầy hay trong đầu. Điều đó xảy
ra bởi vì trong thiền toàn bộ thân thể thay đổi. Nó thay
đổi hoá chất của mình. Những điều mới bắt đầu xảy ra
và thân thể trong hỗn loạn. Đôi khi dạ dầy sẽ bị ảnh
hưởng, bởi vì trong dạ dầy bạn đã kìm nén nhiều xúc
động, và chúng tất cả đều bị khuấy động. Đôi khi bạn
sẽ cảm thấy muốn nôn, mửa. Đôi khi bạn sẽ cảm thấy
đau nhói trong đầu bởi vì việc thiền đang làm thay đổi
cấu trúc bên trong của bộ não của bạn. Trải qua việc
thiền, bạn thực sự trong hỗn loạn. Chẳng mấy chốc,
mọi sự sẽ lắng đọng. Nhưng đang lúc hiện tại, mọi thứ
sẽ bị bất ổn.
Vây bạn định làm gì? Bạn đơn giản thấy cái đau
trong đầu, quan sát nó. Bạn là người quan sát. Bạn chỉ
quên rằng bạn là người làm, và dần dần, mọi thứ sẽ
lắng đi, và sẽ lắng xuống một cách đẹp đẽ và duyên
dáng đến mức bạn không thể nào tin được trừ phi bạn
biết nó. Không chỉ cái đau biến mất khỏi đầu - bởi vì
năng lượng tạo ra cái đau, nếu được quan sát, sẽ biến
mất - cùng năng lượng ấy trở thành hoan lạc. Năng
lượng vẫn là một.
Đau đớn hay hoan lạc là hai chiều của cùng một
năng lượng. Nếu bạn có thể vẫn còn im lặng ngồi và
chú ý tới những điều phân tán, mọi phân tán biến mất.
Và khi tất cả phân tán biến mất, bạn bỗng nhiên trở nên
nhận biết rằng toàn bộ thân thể đã biến mất.45
Lưu ý của người biên tập: Osho đã cảnh báo chống
lại việc biến cách tiếp cận chứng kiến này thành cuồng
tín khác. Nếu các triệu chứng vật lí khó chịu - đau
nhức hay buồn nôn - vẫn cứ còn dai dẳng quá ba hay
bốn ngày của việc thiền hàng ngày, thì không cần cứ
phải là kẻ bạo ác - hãy đi kiếm lời khuyên y tế. Điều
này áp dụng cho tất cả các kĩ thuật thiền của Osho.
******************************************************
#16 Giấc ngủ
Trong giấc ngủ chúng ta đạt tới cùng chỗ chúng ta
tới trong thiền. Khác biệt duy nhất là ở chỗ trong giấc
ngủ chúng ta vô ý thức, còn trong thiền chúng ta tràn
đầy ý thức. Nếu ai đó đã trở nên tràn đầy nhận biết,
thậm chí trong giấc ngủ của mình, người đó sẽ có cùng
kinh nghiệm như trong thiền.
Chẳng hạn, nếu chúng ta đưa một người vào cơn
mê, và trong trạng thái vô ý thức của người đó chúng ta
đem người đó trên cáng ra vườn nơi hoa nở đầy, nơi
hương thơm lan trong không trung, nơi mặt trời chiếu
sáng và chim chóc hót véo von, người này sẽ hoàn toàn
không nhận biết gì về tất cả những điều này. Sau khi
chúng ta đem người đó lại và người đó ra khỏi cơn mê,
nếu chúng ta hỏi người đó thích vườn thế nào, người
đó sẽ không thể nào nói được cho chúng ta điều gì. Thế
rồi, nếu bạn lại đem người này ra cũng vườn đó khi
tràn đầy ý thức, người đó sẽ kinh nghiệm mọi thứ hiện
diện ở đó khi được đem ra trước đây. Trong cả hai
trường hợp, mặc dầu người này được đem ra cùng
chỗ... người này không nhận biết về cái đẹp bao quanh
ở lần đưa ra đầu tiên, trong khi ở lần thứ hai người đó
sẽ tràn đầy nhận biết về hoa, về hương thơm, về tiếng
chim véo von, về mặt trời lên. Cho nên, mặc dầu bạn rõ
ràng sẽ đạt tới xa trong trạng thái vô ý thức, việc đạt tới
chỗ nào đó trong trạng thái vô ý thức cũng tốt ngang
như chẳng đạt tới đó chút nào.
Trong giấc ngủ, chúng ta đạt tới cùng thiên đường
như ta đạt tới trong thiền, nhưng chúng ta không nhận
biết về nó. Mỗi đêm chúng ta lại du hành tới thiên
đường này, và thế rồi chúng ta quay lại - không nhận
biết. Mặc dầu làn gió tươi tắn và hương thơm đáng yêu
của chỗ đó chạm tới chúng ta, và tiếng véo von của
chim chóc vang bên tai chúng ta, chúng ta cũng chẳng
bao giờ nhận biết về nó cả. Và ấy vậy mà, mặc dầu
quay về từ thiên đường này hoàn toàn không nhận biết
về nó, người ta vẫn có thể nói, “Tôi cảm thấy rất tốt
sáng nay. Tôi cảm thấy rất an bình - tôi ngủ ngon đêm
qua.”
Bạn cảm thấy tốt thế về cái gì vậy? Đã ngủ ngon,
cái gì tốt xảy ra? Điều đó không thể chỉ vì bạn ngủ
được, chắc chắn là bạn phải đã ở đâu đó; cái gì đó phải
đã xảy ra cho bạn. Nhưng vào sáng sớm bạn chẳng có
tri thức gì về nó cả, ngoại trừ vài ý niệm mông lung về
cảm giác tốt lành. Người đã có giấc ngủ say ban đêm
tỉnh dậy tươi tắn vào buổi sáng. Điều này chứng tỏ
người này đã đạt tới cội nguồn làm khoẻ lại trong giấc
ngủ - nhưng trong trạng thái vô ý thức. Người không
thể nào ngủ ngon vào ban đêm thấy mình mệt mỏi vào
buổi sáng hơn là tối hôm trước. Và nếu một người
không ngủ ngon trong vài ngày thì sẽ trở thành khó
khăn cho người đó sống còn, bởi vì mối nối của người
đó với cội nguồn của cuộc sống bị gẫy. Người đó
không thể nào đạt tới chỗ về bản chất người đó phải đạt
tới...
Tại New York, ít nhất ba mươi phần trăm người
không thể ngủ được nếu không có thuốc an thần. Các
nhà tâm lí tin rằng nếu điều kiện này lan rộng trong
một trăm năm nữa, thì chẳng người nào sẽ có khả năng
ngủ được mà không dùng thuốc. Mọi người đã hoàn
toàn mất giấc ngủ. Nếu một người mất ngủ hỏi bạn
cách đi ngủ, và câu trả lời của bạn là, “Tất cả mọi điều
tôi làm là kê đầu lên gối và rơi vào giấc ngủ,” người đó
sẽ không tin bạn. Người đó sẽ thấy điều này là không
thể được và hoài nghi sẽ phải có thủ đoạn gì đây mà
người đó không biết - bởi vì người đó kê đầu lên gối
đấy, nhưng chẳng cái gì xảy ra cả.
Lạy trời đừng có chuyện đó, nhưng một thời có thể
tới, sau đây một nghìn hay hai nghìn năm, khi mọi
người sẽ mất giấc ngủ tự nhiên, và mọi người sẽ từ
chối tin rằng, một nghìn hay hai nghìn năm trước thời
họ, mọi người đơn giản kê đầu lên gối của mình và rơi
vào giấc ngủ. Họ sẽ coi điều này là câu chuyện hư cấu,
huyền thoại từ quá khứ cổ đại. Họ sẽ không tin điều đó
là đúng. Họ sẽ nói, “Điều này không thể được, bởi vì
nếu điều đó không đúng cho chúng tôi, thì làm sao nó
có thể đúng cho bất kì ai khác được?”
Tôi đang lôi kéo sự chú ý của bạn tới tất cả những
điều này bởi vì ba hay bốn nghìn năm trước mọi người
sẽ nhắm mắt lại và đi vào thiền dễ dàng như bạn đi vào
giấc ngủ ngày nay. Hai nghìn năm nữa từ bây giờ sẽ
khó mà ngủ ở New York được - ngày nay thậm chí đã
khó rồi. Ngủ ở Bombay đang trở nên ngày càng khó
khăn hơn - đấy chỉ là vấn đề thời gian thôi. Ngày nay
khó mà tin đã có thời khi con người có thể nhắm mắt
lại và đi vào thiền - bởi vì bây giờ, khi bạn ngồi với đôi
mắt nhắm, bạn chẳng đạt tới đâu cả; bên trong, ý nghĩ
cứ lởn vởn xung quanh và bạn vẫn còn ở nơi bạn đang
hiện hữu.
Trong quá khứ, thiền là dễ dàng cho những người
gần với tự nhiên giống như ngủ dễ dàng cho những
người sống gần với tự nhiên. Đầu tiên thiền biến mất;
bây giờ giấc ngủ đang trên đường ra đi. Những thứ mất
đầu tiên là ý thức; sau đó, những thứ mất đi là vô ý
thức. Với việc biến mất của thiền, thế giới này đã gần
thành phi tôn giáo, và khi giấc ngủ biến mất thì thế giới
sẽ trở thành hoàn toàn phi tôn giáo. Chẳng còn hi vọng
nào về tôn giáo trong một thế giới không ngủ.
Bạn sẽ không tin làm sao chúng ta lại được nối với
giấc ngủ sâu thế, chặt thế. Cách thức một người sẽ
sống cuộc sống mình phụ thuộc hoàn toàn vào cách
người đó ngủ. Nếu người đó không ngủ ngon, toàn bộ
cuộc sống của người đó sẽ là hỗn loạn: tất cả mọi mối
quan hệ của người đó sẽ trở thành rối rắm, mọi thứ sẽ
trở thành chất độc, tràn đầy với điên dại. Nếu, ngược
lại, một người ngủ sâu, sẽ có tươi tắn trong cuộc sống
người đó - an bình và niềm vui sẽ tuôn chảy liên tục
trong cuộc sống người đó. Nằm dưới các mối quan hệ
của người đó, tình yêu của người đó, mọi thứ khác, sẽ
có sự chân thành. Nhưng nếu người đó mất ngủ, mọi
mối quan hệ của người đó sẽ thành rối rắm. Người đó
sẽ làm lộn xộn cuộc sống với gia đình mình, vợ mình,
con mình, mẹ mình, bố mình, thầy giáo mình, sinh viên
mình - tất cả họ. Giấc ngủ đem chúng ta tới một điểm
trong vô ý thức của mình tại đó chúng ta được chìm
ngập vào trong Thượng đế - mặc dầu không được lâu
lắm. Ngay cả người mạnh khoẻ nhất cũng chỉ đạt tới
mức độ sâu sắc hơn của mình trong mười phút của giấc
ngủ cả đêm tám tiếng. Với mười phút này người đó
hoàn toàn mất hút, chìm vào trong giấc ngủ, thậm chí
mơ cũng không tồn tại.
Giấc ngủ không kéo dài toàn bộ khi người ta mơ -
người ta cứ di chuyển giữa các trạng thái ngủ và thức.
Mơ là trạng thái trong đó người ta nửa ngủ và nửa
thức. Đang trong mơ có nghĩa là cho dù mắt bạn nhắm
đấy, nhưng bạn lại không ngủ; những ảnh hưởng bên
ngoài vẫn tác động tới bạn. Những người bạn gặp trong
ngày, bạn vẫn cùng họ ban đêm trong giấc mơ của
mình. Giấc mơ chiếm trạng thái trung gian ở giữa ngủ
và thức. Và điều bạn không nhớ vào buổi sáng rằng
bạn đã mơ cả đêm là bên ngoài vấn đề. Nhiều nghiên
cứu về giấc ngủ đang được tiến hành ở Mĩ. Quãng
mười phòng thí nghiệm lớn vẫn đang thực nghiệm trên
hàng nghìn người từ tám đến mười năm nay.
Người Mĩ đang biểu lộ mối quan tâm vào thiền bởi
vì họ đã làm mất giấc ngủ. Họ nghĩ rằng có lẽ thiền có
thể đem giấc ngủ lại cho họ, rằng nó có thể đem an
bình nào đó vào trong cuộc sống của họ. Đó là lí do tại
sao họ lại nhìn vào thiền chẳng gì nhiều hơn thuốc an
thần. Khi Vivekananda lần đầu tiên giới thiệu thiền ở
Mĩ, một bác sĩ trị liệu tới ông ấy và nói, “Tôi thích thú
việc thiền của ông lắm. Nó hoàn toàn là thuốc an thần
không thuốc. Nó không phải là thuốc ấy vậy mà nó lại
làm cho người ta ngủ - thật là vĩ đại.” Các nhà yoga
không phải là lí do cho ảnh hưởng của họ đang tăng lên
nhiều thế ở Mĩ - thiếu ngủ mới là lí do thật. Việc ngủ
của mọi người đang trong đống lộn xộn, và hậu quả là
cuộc sống ở Mĩ tràn đầy những nặng nề, phiền muộn,
căng thẳng. Và do vậy ở Mĩ chúng ta thấy nhu cầu
đang tăng lên về thuốc an thần - bằng cách nào đó, để
đem giấc ngủ lại cho mọi người.
Mỗi năm, hàng triệu đô la đã được tiêu cho thuốc
an thần ở Mĩ. Mười phòng thí nghiệm lớn đang tiến
hành nghiên cứu trên hàng nghìn người, những người
được trả tiền để trải qua các đêm ngủ khá phiền phức
và không thoải mái. Đủ mọi loại điện cực và hàng
nghìn dây dợ được gắn vào thân thể người đó, và họ
được kiểm tra từ mọi góc độ để tìm ra cái gì đang xảy
ra bên trong họ. Một phát hiện không thể nào tin được
mà những thực nghiệm này để lộ ra là ở chỗ con người
mơ gần như cả đêm. Thức dậy, một số người nói họ
không mơ, trong khi số khác nói họ có mơ. Nhưng
trong thực tế, tất cả họ đều mơ. Khác biệt duy nhất là ở
chỗ những người có trí nhớ tốt hơn nhớ được việc mơ,
trong khi những người với trí nhớ kém hơn không thể
nhớ lại được việc mơ. Nhưng người ta đã tìm ra rằng
người hoàn toàn mạnh khoẻ có khả năng trượt vào giấc
ngủ, giấc ngủ không mơ trong mười phút.
Người ta có thể nhòm vào giấc mơ qua máy. Thần
kinh trong não vẫn còn hoạt động trong trạng thái mơ
của chúng ta, nhưng khi giấc mơ dừng lại, thần kinh
cũng dừng hoạt động, và máy chỉ ra một lỗ hổng đã
xuất hiện. Lỗ hổng này chỉ ra rằng vào thời điểm đó,
người này chẳng mơ cũng chẳng nghĩ - người đó mất
hút ở đâu đó.
Điều thú vị là máy cứ ghi lại những chuyển động
bên trong người này trong khi người đó đang trong
trạng thái mơ, nhưng ngay khi người đó rơi vào trong
giấc ngủ không mơ, máy chỉ ra lỗ hổng. Họ không biết
con người này biến mất đi đâu trong lỗ hổng đó. Cho
nên, giấc ngủ không mơ có nghĩa là người này đã đạt
tới một chỗ bên ngoài phạm vi của máy. Chính trong lỗ
hổng đó người này đi vào điều thiêng liêng. Máy
không có khả năng phát hiện ra không gian này ở giữa,
lỗ hổng này. Máy ghi lại hoạt động nội bộ chừng nào
người này còn mơ - thế rồi tới lỗ hổng và người này
biến mất đâu đó. Và thế rồi, sau mười phút, máy bắt
đầu ghi trở lại. Khó nói được người này ở đâu trong
khoảng hở mười phút đó. Các nhà tâm lí học Mĩ rất say
mê với lỗ hổng này; do đó họ coi việc ngủ là bí ẩn lớn
nhất.
Bạn ngủ hàng ngày, ấy vậy mà bạn chẳng có ý
tưởng về ngủ là gì. Người ta ngủ cả đời, ấy vậy mà
chẳng có gì thay đổi - người đó chẳng biết gì về giấc
ngủ cả. Lí do bạn không biết gì về giấc ngủ là ở chỗ
khi giấc ngủ có đó, bạn không có đó. Nhớ lấy, bạn hiện
hữu chỉ khi giấc ngủ không có đó, và do vậy bạn đi tới
biết nhiều lắm cũng chỉ như cái máy biết. Cũng hệt như
trong việc đối diện với lỗ hổng máy dừng lại và không
thể nào đạt tới được chỗ người này đã được đưa tới,
bạn cũng không thể nào đạt tới đó - bởi vì bạn chẳng
nhiều hơn cái máy.
Vì bạn cũng không bắt gặp lỗ hổng đó, cho nên
giấc ngủ vẫn còn là một bí ẩn; nó vẫn còn ở bên ngoài
tầm với của bạn. Điều này là như vậy bởi vì con người
rơi vào giấc ngủ không tỉnh chỉ khi người đó dừng tồn
tại trong cái ‘tôi đây’ của mình. Và do đó, vì bản ngã
cứ phát triển, giấc ngủ trở nên ngày một ít đi. Và người
bản ngã mất khả năng ngủ của mình bởi vì bản ngã của
mình, cái ‘tôi’, cứ tự khẳng định nó hai mươi bốn giờ
một ngày. Chính cái ‘tôi’ đánh thức, cũng cái ‘tôi’ đó
bước đi trên phố. Cái ‘tôi’ vẫn còn hiện diện cả hai
mươi bốn tiếng đồng hồ đến mức lúc rơi vào giấc ngủ,
khi thời điểm tiến tới việc vứt bỏ cái ‘tôi’, người ta
không thể nào gạt bỏ được nó. Hiển nhiên, điều đó trở
thành khó khăn để rơi vào giấc ngủ. Chừng nào cái
‘tôi’ còn tồn tại, giấc ngủ là không thể có được. Và
chừng nào cái ‘tôi’ còn tồn tại, việc đi vào trong sự tồn
tại là điều không thể được.
Việc đi vào trong giấc ngủ và đi vào trong sự tồn
tại đích xác là một và là cùng một điều; khác biệt duy
nhất là ở chỗ qua giấc ngủ người ta đi vào trong sự tồn
tại trong trạng thái vô ý thức, trong khi qua thiền người
ta đi vào trong sự tồn tại trong trạng thái có ý thức.
Nhưng đây là khác biệt rất lớn lao. Bạn có thể đi vào
sự tồn tại qua giấc ngủ trong hàng nghìn kiếp, ấy vậy
mà bạn sẽ chẳng bao giờ đi tới biết sự tồn tại. Nhưng
nếu, cho dù một khoảnh khắc thôi, bạn đi vào thiền bạn
sẽ đạt tới cùng chỗ bạn đã đạt tới trong giấc ngủ say
trong hàng nghìn hàng triệu kiếp - mặc dầu bao giờ
cũng trong trạng thái vô ý thức - và điều đó sẽ làm biến
đổi bạn toàn bộ.
Điều thú vị là, một khi người ta đi vào thiền, đi vào
cái trống rỗng nơi giấc ngủ say đưa người đó tới, người
đó sẽ chẳng bao giờ còn vô ý thức nữa - thậm chí trong
khi người đó ngủ.
Ananda đã sống với Phật trong nhiều năm, trong
nhiều năm ông ấy đã ngủ gần Phật. Một sáng ông ấy
hỏi Phật, “Trong nhiều năm tôi đã quan sát thầy ngủ.
Không lần nào thầy trở mình cả; thầy ngủ cả đêm trong
cùng tư thế. Các chi vẫn nguyên chỗ chúng ở khi thầy
nằm xuống ban đêm; không một chuyển động nhỏ nào.
Nhiều lần tôi tỉnh dậy lúc nửa đêm để kiểm tra xem
liệu thầy có cử động không. Tôi đã thức nhiều đêm
quan sát thầy - bàn tay thầy, bàn chân thầy, vẫn cứ y
nguyên ở cùng vị trí; thầy chẳng bao giờ đổi bên cả.
Thầy có giữ một loại kỉ lục nào về giấc ngủ trong cả
đêm không?”
“Ta không cần phải giữ bất kì kỉ lục nào cả”, Phật
đáp, “Ta ngủ trong trạng thái có ý thức, cho nên ta thấy
không cần đổi bên. Ta có thể đổi bên nếu ta muốn. Trở
mình bên nọ sang bên kia không phải là yêu cầu của
giấc ngủ, đấy là yêu cầu của tâm trí bất ổn của ông.”
Tâm trí bất ổn thậm chí không thể nào nghỉ yên một
chỗ cho một đêm, nói chi đến cả ngày dài. Thậm chí
việc ngủ ban đêm, toàn bộ thời gian này thân thể cũng
biểu lộ cái bất ổn của nó.
Nếu bạn quan sát một người ngủ ban đêm bạn sẽ
thấy người đó liên tục bất ổn suốt đêm. Bạn sẽ thấy
người đó di chuyển tay nhiều phần hệt như cách người
đó làm khi người đó thức trong ngày. Trong giấc mơ
ban đêm của mình, bạn sẽ thấy người đó chạy và thở
hổn hển nhiều phần hệt như cách điều đó xảy ra với ai
đó trong ngày - người đó cảm thấy thở gấp, mệt mỏi.
Ban đêm, trong giấc mơ, người đó tranh đấu nhiều
phần hệt như cách thức người đó tranh đấu ban ngày.
Người đó tràn đầy đam mê ban ngày, cả ban đêm nữa.
Không có khác biệt cơ bản giữa ngày và đêm của
người như vậy, ngoại trừ rằng ban đêm người đó nằm
xuống, kiệt sức, vô ý thức; mọi thứ khác vẫn tiếp tục
vận hành như thường lệ. Cho nên Phật nói, “Ta có thể
đổi bên nếu ta muốn, nhưng không có nhu cầu.”
Nhưng chúng ta không hiểu... Một người ngồi trên
ghế cứ rung đùi. Hỏi người đó, “Sao chân anh lại cứ
rung rung như thế? Điều đó có thể hiểu nổi nếu chúng
di chuyển khi anh bước, nhưng sao chúng lại chuyển
động khi anh đang ngồi trong ghế?” Khi bạn nói điều
này người đó sẽ dừng ngay lập tức. Thế rồi người đó sẽ
không rung đùi trong một giây, nhưng người đó sẽ
không có lời giải thích nào về việc tại sao người đó lại
làm điều ấy. Điều ấy chứng tỏ sự bất ổn bên trong gây
ra khuấy động trong toàn bộ thân thể. Bên trong là tâm
trí bất ổn; nó không thể nào tĩnh lặng, ở một tư thế, cho
dù là một khoảnh khắc. Nó sẽ luôn giữ cho toàn bộ
thân thể bồn chồn: chân sẽ rung rung, đầu sẽ lắc lư;
thậm chí ngồi mà thân thể vẫn sẽ đổi bên.
Đó là lí do tại sao, ngay cả đến mười phút, bạn
cũng thấy khó thế để ngồi im trong thiền. Và từ hàng
nghìn chỗ khác nhau thân thể cứ thôi thúc bạn co duỗi
và quay người. Chúng ta không chú ý đến điều này
chừng nào chúng ta còn chưa ngồi với nhận biết trong
thiền. Thế thì chúng ta hiểu đây là thân thể thuộc loại
gì; nó không muốn vẫn còn tĩnh lặng trong một tư thế
cho dù là một giây. Lẫn lộn, căng thẳng, và kích động
của tâm trí khuấy động toàn bộ thân thể.
Trong khoảng mười phút mọi thứ đều biến mất
trong giấc ngủ không tỉnh - mặc dầu mười phút này là
có sẵn chỉ cho người hoàn toàn mạnh khoẻ và an bình,
không phải cho mọi người. Những người khác có được
loại giấc ngủ này ở bất kì đâu từ một đến năm phút;
phần lớn mọi người chỉ được hai hay một phút ngủ say.
Chút ít tinh hoa chúng ta nhận được trong một phút đạt
tới cội nguồn cuộc sống đó chúng ta dùng cho hai mươi
bốn giờ làm việc tiếp. Chút ít lượng dầu đó ngọn đèn
nhận được trong thời kì ngắn ngủi đó, chúng ta dùng
nó để thực hiện cuộc sống của chúng ta trong trọn hai
mươi bốn tiếng. Ngọn đèn của cuộc sống người ta bùng
cháy trên bất kì lượng dầu nào nó nhận được. Đây là lí
do cho ngọn đèn cháy chậm thế - không đủ dầu được
thu thập để làm cho ngọn đèn cuộc sống bùng cháy
sáng, để cho nó có thể trở thành ngọn đuốc bốc cháy
sáng.
Thiền đem bạn dần trở về cội nguồn của cuộc sống.
Thế thì không phải là bạn cứ lấy một chút ít nuôi
dưỡng từ nó ra, bạn đơn giản ở trong bản thân cội
nguồn đó. Thế thì không phải là bạn đổ thêm dầu vào
chiếc đèn của mình - thế thì toàn bộ đại dương dầu trở
thành sẵn có cho bạn. Thế thì bạn bắt đầu sống trong
chính đại dương đó. Với loại sống đó, giấc ngủ biến
mất - không theo nghĩa là người ta không ngủ thêm
nữa, mà theo nghĩa là, thậm chí khi người ta ngủ, một
ai đó bên trong vẫn còn thức tỉnh xa cách. Thế thì giấc
mơ không còn tồn tại nữa. Nhà yoga vẫn còn tỉnh thức,
người đó ngủ, nhưng người đó không bao giờ mơ - mơ
của người đó biến mất toàn bộ. Và khi mơ biến mất, ý
nghĩ cũng biến mất. Điều chúng ta biết như ý nghĩ
trong trạng thái tỉnh được gọi là mơ trong trạng thái
ngủ. Chỉ có hơi khác biệt giữa ý nghĩ và mơ: ý nghĩ là
mơ có hơi văn minh hơn, trong khi mơ có chút ít
nguyên thuỷ hơn về bản chất. Về cả hai điều này,
người ta là ý nghĩ nguyên gốc.
Trong thực tế, trẻ con, hay các bộ lạc nguyên thuỷ,
chỉ có thể nghĩ theo hình ảnh, không theo lời. Ý nghĩ
đầu tiên của con người bao giờ cũng là hình ảnh.
Chẳng hạn, khi đứa trẻ đói thì nó không nghĩ bằng lời,
“Mình đang đói.” Đứa trẻ có thể hình dung ra bầu vú
mẹ; nó có thể tưởng tượng bản thân mình đang bú vú.
Nó có thể được tràn đầy với ham muốn rúc vào bầu vú,
nhưng nó không thể nào hình thành nên lời. Việc hình
thành lời nói bắt đầu muộn mãi về sau; hình ảnh xuất
hiện trước nhất...
Ngôn ngữ của lời nói thuận tiện trong ngày, nhưng
nó lại không có ích vào ban đêm. Chúng ta lại trở thành
nguyên thuỷ vào ban đêm. Chúng ta biến mất trong
giấc ngủ như chúng ta hiện thế. Chúng ta làm mất địa
vị mình, giáo dục đại học của mình, mọi thứ. Chúng ta
được đưa tới một điểm nơi con người nguyên bản có
thời đã ở đó. Đó là lí do tại sao hình ảnh lại nổi lên vào
ban đêm trong giấc ngủ, còn lời lại xuất hiện vào ban
ngày. Nếu chúng ta muốn làm tình trong ngày, chúng
ta có thể nghĩ dưới dạng lời nói, nhưng ban đêm thì
không có cách nào để bầy tỏ tình yêu cả ngoại trừ qua
hình ảnh.
Ý nghĩ dường như không sinh động bằng mơ.
Trong mơ toàn bộ hình ảnh xuất hiện trước bạn. Đó là
lí do tại sao chúng ta lại tận hưởng việc xem phim dựa
theo tiểu thuyết còn hơn là việc đọc chính tiểu thuyết
đó. Lí do duy nhất cho điều này là ở chỗ tiểu thuyết là
trong ngôn ngữ của lời nói, trong khi phim ảnh lại là
trong ngôn ngữ của hình ảnh. Theo cùng cách này, bạn
cảm thấy niềm vui lớn lao hơn để ở đây và lắng nghe
tôi một cách sống động. Bạn sẽ không cảm thấy cùng
niềm vui đó khi nghe bài nói này qua băng ghi âm, bởi
vì ở đây hình ảnh hiện diện, trên băng ghi âm chỉ có
lời. Ngôn ngữ của hình ảnh gần gũi với chúng ta hơn,
tự nhiên hơn. Ban đêm lời chuyển thành hình ảnh; đó
là khác biệt có đó.
Cái ngày mơ biến mất, ý nghĩ cũng biến mất; cái
ngày ý nghĩ biến mất, mơ cũng biến mất. Nếu ngày mà
trống rỗng ý nghĩ, đêm sẽ trống rỗng mơ. Và nhớ, mơ
không cho phép bạn ngủ, và ý nghĩ không cho phép
bạn ngủ, và ý nghĩ không cho phép bạn thức tỉnh. Chắc
chắn mình hiểu cả hai điều: mơ không để bạn ngủ, còn
ý nghĩ không để bạn thức tỉnh. Nếu mơ biến mất, ngủ
sẽ là toàn bộ; nếu ý nghĩ biến mất thức tỉnh sẽ là toàn
bộ. Nếu thức tỉnh là toàn bộ và ngủ là toàn bộ, thế thì
chẳng có gì khác biệt nhiều lắm giữa hai điều này.
Khác biệt duy nhất là trong việc giữ cho mắt mở hay
nhắm thôi, và khác biệt trong thân thể là làm việc hay
nghỉ ngơi. Người thức tỉnh toàn bộ thì ngủ toàn bộ,
nhưng trong cả hai trạng thái tâm thức người đó vẫn
còn đích xác là một. Tâm thức là một, không thay đổi;
chỉ thân thể thay đổi. Thức tỉnh, thân thể làm việc; ngủ,
thân thể nghỉ ngơi.
Một người bạn đã hỏi tại sao Thượng đế lại không
đạt được tới trong giấc ngủ. Câu trả lời của tôi là: ngài
có thể được đạt tới nếu bạn có thể vẫn còn thức tỉnh
ngay cả trong giấc ngủ. Và do vậy phương pháp thiền
của tôi là phương pháp ngủ - ngủ trong nhận biết, đi
vào trong giấc ngủ với nhận biết. Đó là lí do tại sao tôi
lại yêu cầu bạn làm thảnh thơi thân thể mình, thảnh
thơi hơi thở mình, làm bình lặng ý nghĩ mình. Tất cả
những điều này là việc chuẩn bị cho giấc ngủ. Do đó,
việc thường xảy ra là một số bạn đi vào ngủ trong khi
thiền - hiển nhiên; đây là việc chuẩn bị cho ngủ. Và,
trong khi chuẩn bị cho nó, họ không biết khi nào họ đi
ngủ. Đó là lí do tại sao tôi cứ lặp lại lời gợi ý thứ ba:
vẫn còn thức tỉnh bên trong, vẫn còn có ý thức bên
trong; để thân thể được thảnh thơi toàn bộ, để cho việc
thở được thảnh thơi toàn bộ, thông thường được thảnh
thơi hơn là trong khi ngủ. Nhưng vẫn còn thức tỉnh bên
trong. Bên trong, để cho nhận biết của bạn bùng cháy
tựa như ngọn đèn cho nên bạn không rơi vào giấc ngủ.
Điều kiện ban đầu cho thiền và ngủ là như nhau,
nhưng có khác biệt trong điều kiện cuối cùng. Điều
kiện thứ nhất là ở chỗ thân thể nên được thảnh thơi.
Nếu bạn đang bị chứng mất ngủ, điều đầu tiên bác sĩ sẽ
dạy cho bạn là việc thảnh thơi. Ông ấy sẽ yêu cầu bạn
làm cùng điều tôi đang yêu cầu đây: thảnh thơi thân thể
bạn, đừng để bất kì căng thẳng nào vẫn còn trong thân
thể bạn; để cho thân thể bạn được chùng lỏng toàn bộ,
giống như nùn bông vậy. Bạn đã bao giờ để ý đến cách
thức con chó hay con mèo ngủ không? Chúng ngủ cứ
dường như là chúng không ngủ vậy. Bạn đã bao giờ để
ý đứa trẻ mới đẻ ngủ không? Không có căng thẳng ở
đâu cả - tay chân nó vẫn để chùng không thể nào tin
được. Quan sát thanh niên và người già - bạn sẽ thấy
mọi thứ căng thẳng trong họ. Cho nên bác sĩ sẽ yêu cầu
họ thảnh thơi.
Cùng điều kiện này áp dụng cho giấc ngủ: việc thở
nên được thảnh thơi, sâu sắc và chậm. Bạn phải đã để ý
rằng với chạy bộ, việc thở trở nên nhanh hơn. Tương
tự, khi thân thể sử dụng bản thân nó lúc làm việc, việc
thở trở nên nhanh hơn và tuần hoàn máu tăng lên. Với
việc ngủ, tuần hoàn máu phải chậm dần lại - tình huống
này nên đối lập lại với việc chạy bộ - và thế thì việc thở
sẽ thảnh thơi. Cho nên điều kiện thứ hai là: thảnh thơi
việc thở của bạn...
Cho nên các điều kiện cho thiền chủ yếu là cùng
những điều kiện áp dụng được cho ngủ: thảnh thơi thân
thể, thảnh thơi việc thở, buông bỏ ý nghĩ. Và do vậy,
với ngủ cũng như với thiền, các điều kiện ban đầu là
đúng như nhau. Khác biệt là ở điều kiện cuối cùng.
Trong ngủ bạn vẫn còn trong việc ngủ say; trong thiền
bạn vẫn còn hoàn toàn thức tỉnh - có thế thôi.
Cho nên có mối quan hệ sâu sắc giữa ngủ và thiền.
Tuy nhiên, có một khác biệt rất có ý nghĩa giữa hai
điều này: khác biệt giữa trạng thái có ý thức và vô ý
thức. Ngủ là vô nhận biết, thiền là thức tỉnh.46
Khi bạn rơi vào giấc ngủ trong đêm, sẵn sàng rơi
vào trong giấc ngủ, đi ngược lại qua trí nhớ của cả
ngày - đi ngược lại. Đừng bắt đầu từ buổi sáng. Bắt
đầu từ ngay nơi bạn đang hiện hữu, ngay trên giường -
khoản mục cuối cùng, và thế rồi quay ngược lại. Thế
rồi đi ngược dần lại, từng bước một, cho tới kinh
nghiệm đầu tiên vào buổi sáng khi bạn lần đầu tiên trở
nên tỉnh dậy. Đi ngược lại, và liên tục nhớ rằng bạn
không tham dự vào.
Chẳng hạn, vào buổi chiều ai đó xúc phạm bạn.
Nhìn lại mình, hình tướng mình, bị ai đó xúc phạm -
nhưng bạn vẫn chỉ là quan sát viên. Bạn đừng tham dự
vào; đừng giận dữ lần nữa. Nếu bạn giận dữ lần nữa,
thế thì bạn bị đồng nhất đấy. Thế thì bạn đã bỏ lỡ điểm
thiền. Đừng bị giận dữ. Người đó không đang xúc
phạm bạn, người đó đang xúc phạm vào hình tướng có
đó vào buổi chiều. Hình tướng đó bây giờ đã qua rồi.
Bạn giống hệt như dòng sông đang chảy: các hình
tướng đang tuôn chảy. Trong thời niên thiếu bạn đã có
một hình tướng, bây giờ bạn không có hình tướng đó.
Hình tướng đó đã qua. Giống như dòng sông, bạn đang
thay đổi liên tục. Cho nên khi trong đêm bạn thiền
ngược trở lại về việc xảy ra trong ngày, nhớ rằng bạn là
nhân chứng: đừng bị giận dữ. Ai đó đã ca ngợi bạn:
đừng hãnh diện. Nhìn vào toàn bộ vấn đề dường như
bạn đang xem phim một cách vô tư. Và việc quay
ngược lại này là rất có ích - đặc biệt đối với những
người có trục trặc với việc ngủ.
Nếu bạn có bất kì trục trặc nào với giấc ngủ, bị mất
ngủ, không ngủ được, nếu bạn thấy khó rơi vào giấc
ngủ, điều này sẽ có ích sâu sắc. Tại sao? Bởi vì điều
này là việc tháo gỡ tâm trí. Khi bạn quay trở lại bạn
đang tháo gỡ tâm trí ra. Buổi sáng bạn bắt đầu cuộn
tâm trí lại, và tâm trí bị trở nên dính líu vào nhiều điều,
nhiều chỗ. Không được hoàn tất và hoàn chỉnh, nhiều
điều sẽ vẫn còn trong tâm trí, và không có thời gian để
cho chúng lắng đọng vào đúng khoảnh khắc chúng xảy
ra.
Cho nên trong đêm hãy đi ngược lại. Đây là quá
trình tháo gỡ ra. Và khi bạn sẽ quay trở lại tới buổi
sáng lúc bạn vừa mới ở trên giường, tới điều đầu tiên
trong buổi sáng, bạn sẽ lại có cùng tâm trí tươi tắn bạn
đã có vào buổi sáng đó. Và thế rồi bạn có thể rơi vào
giấc ngủ giống như đứa trẻ rất nhỏ...
Cho nên nhiều người đang chịu đựng một bệnh đặc
biệt, và chẳng cái gì sinh lí học, chẳng thuốc nào có ích
cả; bệnh cứ tiếp tục. Bệnh này dường như là bệnh tâm
lí. Phải làm gì về nó đây? Nói với ai đó rằng bệnh của
người đó là bệnh tâm lí thì cũng chẳng ích gì. Thay vì
thế, điều đó có thể tỏ ra có hại bởi vì không ai cảm thấy
tốt lành gì khi bạn nói bệnh của người đó là bệnh tâm
lí. Thế thì người đó có thể làm được gì? Người đó cảm
thấy bất lực.
Việc đi ngược lại này là một phương pháp kì diệu.
Nếu bạn đi ngược lại một cách từ từ - từ từ tháo tâm trí
trở về khoảnh khắc đầu tiên lúc bệnh này xuất hiện,
nếu dần dần bạn quay lại tới lần đầu tiên bạn bị bệnh
này tấn công, nếu bạn có thể tháo ra đến khoảnh khắc
đó, bạn sẽ đi tới biết rằng bệnh này về cơ bản là một
phức hợp của những thứ khác nào đó, những thứ tâm lí
nào đó. Bằng việc đi ngược lại những thứ này sẽ nổi
bong bóng lên.
Nếu bạn đi qua khoảnh khắc đó khi bệnh này lần
đầu tiên tấn công bạn, bỗng nhiên bạn sẽ trở nên nhận
biết về điều các nhân tố tâm lí đã đóng góp vào cho nó.
Và bạn không làm điều gì cả: bạn chỉ là nhận biết về
những nhân tố tâm lí đóng góp vào cho nó và cứ đi
ngược lại. Nhiều bệnh tật đơn giản biến mất khỏi bạn
bởi vì cái phức hợp này bị tan vỡ. Khi bạn đã trở nên
nhận biết về cái phức hợp đó, thế thì không còn cần
đến nó nữa. Bạn đã chùi sạch nó - gột sạch.
Đây là cách thanh tâm sâu sắc. Và nếu bạn có thể
làm nó hàng ngày, bạn sẽ cảm thấy mạnh khoẻ mới,
tươi tắn mới xảy tới bạn. Và nếu chúng ta có thể dạy
cho trẻ con thực hiện điều đó hàng ngày, chúng sẽ
chẳng bao giờ bị nặng gánh bởi quá khứ của mình.
Chúng sẽ không cần phải đi về quá khứ. Chúng bao giờ
cũng ở đây và bây giờ. Sẽ không có cái gì treo ở đấy;
không cái gì sẽ lơ lửng trên chúng từ quá khứ cả.47
******************************************************
#17 Già đi
Tâm trí phương Tây được huấn luyện theo ý tưởng
rằng bạn chỉ có một kiếp sống - bẩy mươi năm - và tuổi
thanh niên sẽ không bao giờ quay lại nữa. Tại phương
Tây, mùa xuân chỉ tới một lần; một cách tự nhiên, có
ham muốn sâu xa để níu bám lâu nhất có thể được, để
giả vờ theo đủ mọi cách có thể rằng bạn vẫn còn trẻ.
Tại phương Đông người già hơn bao giờ cũng có
giá trị, được kính trọng. Người đó đã từng trải nhiều,
người đó đã chứng kiến nhiều, nhiều mùa tới rồi đi;
người đó đã sống qua đủ mọi loại kinh nghiệm, tốt và
xấu. Người đó đã trở nên dầy dạn; người đó không còn
non nớt nữa. Người đó có tính toàn vẹn nào đó, cái chỉ
tới với tuổi tác. Người đó không còn ngây thơ, ôm gấu
bông; người đó không còn trẻ trung, vẫn lãng phí thời
gian nghĩ rằng đây là tình yêu.
Người đó đã trải qua tất cả những kinh nghiệm này,
đã thấy rằng cái đẹp phai mờ đi; người đó đã thấy rằng
mọi thứ đều đi tới chỗ kết thúc, rằng mọi thứ đang đi
tới nấm mồ. Từ chính khoảnh khắc người đó rời bỏ cái
nôi, đã chỉ có một con đường - và đó là từ cái nôi tới
nấm mồ. Bạn không thể đi đâu khác được; bạn không
thể đi lạc lối cho dù bạn có thử. Bạn sẽ đạt tới nấm mồ
dù bạn làm bất kì cái gì.
Người già được kính trọng, được yêu mến; người
đó đã đạt tới một sự thuần khiết nào đó của trái tim bởi
vì người đó đã sống qua các ham muốn, và đã thấy
rằng mọi ham muốn đều dẫn tới thất vọng. Những ham
muốn đó là kí ức quá khứ. Người đó đã sống trong đủ
mọi loại quan hệ, và đã thấy rằng mọi loại quan hệ đều
biến thành địa ngục. Người đó đã trải qua tất cả những
đêm tối của linh hồn. Người đó đã đạt tới thái độ tách
rời nào đó - sự thuần khiết của người quan sát. Người
đó không còn quan tâm tới việc tham gia vào bất kì
trận đấu bóng nào. Chỉ sống cuộc sống mình, người đó
đã đi tới siêu việt; do đó, người đó được kính trọng, trí
huệ của người đó được kính trọng.
Nhưng ở phương Đông, ý tưởng đã là cuộc sống
không chỉ là một mẩu nhỏ bẩy mươi năm trong đó tuổi
thanh niên của bạn chỉ tới có một lần. Ý tưởng đã là,
hệt như trong sự tồn tại, mọi thứ đều chuyển động vĩnh
cửu - mùa hè tới, mưa tới, mùa đông tới và mùa hè lại
tới; mọi thứ chuyển vận tựa bánh xe - cuộc sống không
phải là ngoại lệ. Cái chết là kết thúc của bánh xe này và
là bắt đầu của bánh xe khác. Lần nữa bạn sẽ là đứa trẻ,
và lần nữa bạn lại là thanh niên, và lần nữa bạn sẽ là
người già. Điều đó đã là như vậy từ lúc bắt đầu, và nó
sẽ là như vậy cho tới chính lúc cuối - cho tới lúc bạn
trở nên chứng ngộ đến mức bạn có thể nhảy ra khỏi cái
vòng luẩn quẩn và có thể đi vào trong một luật hoàn
toàn khác. Từ cá nhân, bạn có thể nhảy vào vũ trụ. Cho
nên không có gì vội vã, và không có níu bám.
Phương Tây dựa trên truyền thống Do Thái vốn tin
vào chỉ một kiếp sống. Ki tô giáo chỉ là một nhánh của
Do thái giáo. Jesus đã là một người Do Thái, được sinh
ra là người Do Thái, sống là người Do Thái, chết đi là
người Do Thái; ông ấy chưa bao giờ biết rằng ông ấy là
người Ki tô giáo. Nếu bạn gặp ông ấy ở đâu đó và chào
ông ấy bằng, “Xin chào, Jesus Christ,” ông ấy sẽ không
nhận ra bạn đang nói về ai bởi vì ông ấy chưa bao giờ
biết rằng tên mình là Jesus và ông ấy chưa bao giờ biết
rằng mình là Christ. Tên của ông ấy là Joshua, cái tên
Do Thái, và ông ấy là vị cứu tinh của Thượng đế,
không phải là Christ. Jesus Christ là việc dịch sang
tiếng Hi lạp từ tiếng Do Thái. Mô ha mét giáo cũng là
sản phẩm phụ của cùng một tín ngưỡng - Do Thái. Ba
tôn giáo này tin vào một kiếp sống. Việc tin vào một
kiếp sống là rất nguy hiểm bởi vì nó không cho bạn cơ
hội để phạm sai lầm, nó không cho bạn cơ hội để có đủ
kinh nghiệm về bất kì cái gì; bạn bao giờ cũng vội vã.
Toàn bộ tâm trí phương Tây đã trở thành tâm trí
của khách du lịch, người đang mang hai, ba máy ảnh,
và xô đi chụp ảnh mọi thứ bởi vì người đó chỉ có visa
ba tuần. Và trong ba tuần này, người đó phải bao quát
cả đất nước - tất cả những đài kỉ niệm lớn. Không có
thời gian cho người đó xem trực tiếp chúng; người đó
sẽ xem chúng ở nhà, lúc thoải mái, trong tuyển tập ảnh
của mình. Bất kì khi nào tôi nhớ tới người khách du
lịch này, tôi lại thấy bà già ấy chạy xô từ chỗ nọ sang
chỗ kia - từ Ajanta tới Ellora, từ Taj Mahal tới Kashmir
- trong vội vàng, bởi vì cuộc sống là ngắn ngủi.
Chỉ trong tâm trí phương Tây mới tạo ra câu ngạn
ngữ rằng thời gian là tiền bạc. Tại phương Đông mọi
thứ trôi qua chậm chạp; không có vội vàng - người ta
có toàn thể sự vĩnh hằng. Chúng ta đã từng ở đây và
chúng ta sẽ ở đây nữa, cho nên vội gì? Tận hưởng mọi
thứ với sự mãnh liệt và tính toàn bộ.
Cho nên, một điều: bởi vì cái ý tưởng về một kiếp
sống, phương Tây đã trở thành quá bận tâm tới việc trẻ
trung, và thế thì mọi thứ đều được làm để duy trì trẻ
trung lâu nhất có thể được, để kéo dài quá trình này.
Điều đó tạo ra thói đạo đức giả, và điều đó phá huỷ sự
phát triển đích thực. Điều đó không cho phép bạn trở
thành trí huệ thực sự trong tuổi già của mình, bởi vì
bạn ghét tuổi già; tuổi già chỉ nhắc bạn về cái chết,
không cái gì khác. Tuổi già có nghĩa là dấu chấm hết
không còn xa xôi nữa; bạn đã đi tới điểm cuối cùng -
chỉ một tiếng còi nữa, và con tầu sẽ dừng.
Tôi đã có một thoả thuận với ông tôi. Ông thích
chân ông được xoa bóp, còn tôi đã bảo ông, “Ông nhớ
đấy nhé, khi cháu nói ‘phẩy,’ điều đó nghĩa là tỉnh táo;
chấm phẩy đang tới gần. Khi cháu nói, ‘chấm phẩy,’
thì sẵn sàng, bởi vì dấu chấm hết đang tới gần. Còn
một khi cháu nói ‘chấm hết,’ cháu muốn nói điều đó.”
Thế là ông sợ “phẩy” đến mức khi tôi sắp nói, “phẩy”
thì ông sẽ nói, “Được rồi, nhưng để cho chấm phẩy lâu
hơn chút nữa. đừng làm nó ngắn và nhanh chóng!”
Tuổi già đơn giản nhắc nhở bạn, ở phương Tây,
rằng dấu chấm hết đang tới gần - kéo dài dấu phẩy ra.
Và bạn định lừa dối ai? Nếu bạn đã nhận ra rằng tuổi
thanh niên của bạn không còn đó, bạn có thể cứ lừa dối
cả thế giới nhưng bạn không còn trẻ, bạn đơn giản làm
trò cười... Mọi người đều đang cố gắng duy trì trẻ
trung, nhưng họ không biết rằng chính nỗi sợ về mất
tuổi trẻ không cho phép bạn được sống nó trong tính
toàn bộ của nó.
Và điều thứ hai là, nỗi sợ về mất đi tuổi trẻ không
cho phép bạn chấp nhận tuổi già với sự duyên dáng.
Bạn bỏ lỡ cả hai tuổi thanh xuân - niềm vui của nó,
mãnh liệt của nó - và bạn cũng bỏ lỡ cả duyên dáng, và
trí huệ, và an bình mà tuổi già đem lại. Nhưng toàn bộ
vấn đề dựa trên một quan niệm sai lầm về cuộc sống.
Chừng nào phương Tây còn chưa thay đổi ý tưởng rằng
chỉ có một kiếp sống, thái độ đạo đức giả này, níu bám
này, nỗi sợ này không thể nào được thay đổi.
Trong thực tế, một kiếp không phải là tất cả; bạn đã
sống nhiều lần, và bạn sẽ sống nhiều lần nữa. Do đó,
sống từng khoảnh khắc một cách toàn bộ nhất có thể
được; chẳng vội vàng gì nhảy vào khoảnh khắc khác.
Thời gian không phải là tiền bạc, thời gian là không thể
vét cạn; nó có sẵn cho người nghèo cũng nhiều như
cho người giầu. Người giầu không giầu hơn khi có liên
quan tới thời gian, và người nghèo cũng không nghèo
hơn. Cuộc sống là hoá thân vĩnh viễn.
Điều xuất hiện trên bề mặt được bắt rễ rất sâu trong
các tôn giáo của phương Tây. Họ rất keo kiệt trong
việc cho bạn chỉ bẩy mươi năm. Nếu bạn cố gắng vạch
tỉ mỉ ra, gần như một phần ba thời gian cuộc sống bạn
sẽ mất đi cho việc ngủ, một phần ba cuộc sống bạn sẽ
phải phí hoài cho việc kiếm ăn, quần áo, nhà cửa. Bất
kì cái gì nhỏ bé còn lại đều phải dành cho giáo dục,
trận đá bóng, phim ảnh, những cuộc cãi cọ, đánh nhau
ngốc nghếch. Nếu bạn có thể tiết kiệm, trong thời gian
bẩy mươi năm, bẩy phút cho mình, tôi sẽ tính bạn là
người trí huệ. Nhưng khó mà tiết kiệm thậm chí bẩy
phút trong cả cuộc sống của bạn; cho nên làm sao bạn
có thể tìm thấy bản thân mình? Làm sao bạn có thể biết
được bí ẩn của bản thể mình, của cuộc sống mình?
Làm sao bạn có thể hiểu được rằng cái chết không phải
là kết thúc? Bởi vì bạn đã bỏ lỡ kinh nghiệm bản thân
cuộc sống, bạn đang bỏ lỡ kinh nghiệm lớn về cái chết
nữa; nếu không thì chẳng có gì để mà sợ trong cái chết
cả. Đó là giấc ngủ đẹp, ngủ không mơ, giấc ngủ cần
cho bạn để chuyển vào thân thể khác, im lặng và an
bình. Đó là hiện tượng giải phẫu; nó gần giống như
việc đánh thuốc mê. Cái chết là bạn bè, không phải là
kẻ thù.
Một khi bạn hiểu cái chết như bạn bè, và bắt đầu
sống cuộc sống không sợ hãi gì mà nó chỉ là một
khoảng thời gian rất nhỏ chừng bẩy mươi năm - nếu
viễn cảnh của bạn mở tới điều vĩnh hằng của cuộc sống
bạn - thế thì mọi thứ sẽ chậm lại; thế thì không cần
phải mau lẹ. Trong mọi việc, mọi người đơn giản chạy
xô vào. Tôi đã thấy mọi người lấy cặp đi làm, nhét mọi
thứ vào đó, hôn vợ, chẳng thèm nhìn xem cô ấy là vợ
mình hay ai đó khác, và nói lời tạm biệt với con họ.
Đây không phải là cách sống! Và bạn đạt tới đâu với
tốc độ này?
Tôi đã nghe về một đôi thanh niên mới mua một
chiếc xe mới, và họ cho chạy hết tốc độ. Người vợ cứ
hỏi đi hỏi lại chồng, “Chúng ta đang đi đâu?” - bởi vì
người vợ vẫn mang tâm trí cổ: “Chúng ta đang đi đâu?”
Người đàn ông trả lời, “Thôi đừng làm phiền tôi
nữa, tận hưởng tốc độ chúng ta đang đi. Câu hỏi thực
không phải là chúng ta đang đi đâu; câu hỏi thực là
chúng ta đang đi với tốc độ lớn nào?”
Tốc độ đã trở thành quan trọng hơn cái đích, và tốc
độ đã trở thành quan trọng hơn bởi vì cuộc sống ngắn
ngủi thế. Bạn phải làm nhiều thứ đến mức chừng nào
bạn chưa làm mọi thứ với tốc độ, bạn không thể quản lí
nổi. Bạn không thể nào ngồi im lặng thậm chí lấy vài
phút - điều đó dường như là phí hoài. Trong vài phút
đó bạn có thể đã kiếm được vài đồng đô la.
Chỉ phí thời gian nhắm mắt lại, và cái gì có đó bên
trong bạn? Nếu bạn thực sự muốn biết, bạn có thể đi
tới bất kì bệnh viện nào và nhìn bộ xương. Đó là cái ở
bên trong bạn. Tại sao bạn dính líu vào rắc rối một
cách không cần thiết bằng việc nhìn vào trong? Nhìn
vào trong, bạn sẽ thấy xương. Và một khi bạn đã thấy
xương mình, cuộc sống sẽ trở nên khó khăn hơn; hôn
vợ mình, bạn biết hoàn toàn rõ cái gì đang xảy ra - hai
bộ xương. Ai đó chỉ cần phát minh ra kính tia X, thế là
mọi người có thể đeo kính tia X và thấy tất cả các bộ
xương xung quanh đang cười. Có lẽ nhất, người đó sẽ
không sống để tháo kính của mình ra; biết bao nhiêu bộ
xương đang cười cũng đủ để chấm dứt nhịp tim của bất
kì ai. “Lạy trời, đây là thực tại sao! Và đây là điều tất
cả các nhà huyền môn đã từng nói với mọi người,
‘Nhìn vào trong; - phải tránh họ thôi!”
Phương Tây không có truyền thống huyền môn. Nó
là hướng ngoại: Nhìn ra ngoài, có nhiều thứ thế để
xem. Nhưng họ không nhận biết rằng bên trong không
chỉ có bộ xương, còn có cái gì đó bên trong hơn bộ
xương. Đó là tâm thức bạn. Bằng việc nhắm mắt lại
bạn sẽ không bắt gặp bộ xương, bạn sẽ bắt gặp chính
cội nguồn sống của mình. Phương Tây cần quen biết
sâu sắc với cội nguồn cuộc sống của riêng nó, thế thì sẽ
không có vội vàng. Người ta sẽ tận hưởng khi cuộc
sống đem đến tuổi thanh niên, người ta sẽ tận hưởng
khi cuộc sống đem tới tuổi già và người ta sẽ tận hưởng
khi cuộc sống đem tới cái chết. Bạn đơn giản biết một
điều - cách tận hưởng mọi thứ bạn bắt gặp, cách biến
đổi nó thành lễ hội. Tôi gọi tôn giáo đích thực là nghệ
thuật biến đổi mọi thứ thành lễ hội, thành bài ca, thành
điệu vũ.
Một ông già bước vào trong bệnh viện sức khoẻ và
bảo với bác sĩ, “Anh cần làm cái gì đó để hạ thấp động
lực dục của tôi.”
Bác sĩ nhìn vào ông già yếu đuối và nói, “Bây giờ,
bây giờ, thưa ông, tôi đã có cảm giác rằng động lực dục
của ông tất cả đều ở trong đầu ông.”
“Đó chính là điều tôi muốn nói đấy, cu con,” ông
già nói, “Tôi phải hạ thấp nó xuống một ít.”
Thậm chí đến ông già cũng còn muốn là kẻ ăn chơi.
Điều đó chứng tỏ một điều chắc chắn - rằng ông ấy
chưa sống thời thanh niên của mình một cách toàn bộ.
Ông ấy đã bỏ lỡ tuổi thanh niên của mình, và ông ấy
vẫn nghĩ về nó. Bây giờ ông ấy không thể làm được
điều gì về nó cả, nhưng toàn bộ tâm trí ông ấy vẫn liên
tục nghĩ về những ngày ông ấy còn trong tuổi thanh
niên chưa được sống qua; vào lúc đó ông ấy đã vội vã.
Nếu như ông ấy đã sống tuổi thanh niên của mình,
ông ấy sẽ được tự do trong tuổi già của mình với mọi
kìm nén, dục tình; sẽ không cần cho ông ấy vứt bỏ bản
năng dục của mình. Nó biến mất, nó bay hơi trong việc
sống. Người ta chỉ phải sống không bị ngăn cấm,
không có can thiệp nào từ tôn giáo, từ các tu sĩ, và nó
biến mất; bằng không, khi bạn còn thanh niên bạn đi
nhà thờ, và khi bạn già, bạn lại đọc tạp chí Playboy
bằng cách che giấu nó trong Kinh thánh thiêng liêng.
Mọi Kinh thánh thiêng liêng đều được dùng chỉ với
một mục đích, che giấu các tạp chí như Playboy, để
cho bạn không bị trẻ con bắt gặp - điều đó thật xấu hổ.
Tôi đã nghe nói về ba người, ba ông già. Một người
bẩy mươi, người kia tám mươi và người thứ ba chín
mươi. Họ tất cả đều là bạn cũ, đã về hưu, người quen đi
dạo và ngồi ghế dài trong công viên, và có đủ mọi loại
chuyện tán gẫu. Một hôm người trẻ nhất trong ba người
này, người bẩy mươi tuổi, trông có vẻ chút ít buồn bã.
Người thứ hai, tám mươi tuổi, hỏi, “Có chuyện gì vậy?
Ông trông rất buồn.”
Ông ấy nói, “Tôi cảm thấy rất mặc cảm. Nếu tôi kể
cho các ông thì điều đó sẽ giúp tôi được nhẹ gánh. Đấy
là một vụ: Một bà đẹp đang tắm - bà ấy là khách trong
nhà tôi - và tôi nhìn qua lỗ khoá và mẹ tôi bắt quả tang
tôi.”
Cả hai người bạn già đều cười; họ nói, “Ông là
thằng ngu. Mọi người đều làm như thế hồi trẻ con.”
Ông ấy nói, “Vấn đề không phải là thời trẻ con,
điều đó mới xảy ra hôm nay.”
Người thứ hai đáp, “Thế thì đấy thực sự là nghiêm
trọng. Nhưng tôi sẽ kể cho ông một điều vừa mới xảy
ra với tôi trong ba ngày, và tôi vẫn còn chịu nó như
một hòn đá, một tảng đá đè lên tim tôi. Liên tục suốt ba
ngày vợ tôi đã từ chối làm tình với tôi.”
Người thứ nhất nói, “Điếu đó thực sự rất tồi tệ.”
Nhưng người thứ ba, người già nhất cười phá lên
và ông ấy nói, “Trước hết ông hãy hỏi ông ấy làm tình
nghĩa là gì.”
Thế là ông này hỏi, và ông già thứ hai nói, “Cũng
không có gì nhiều lắm. Đừng làm tôi cảm thấy bối rối
thêm. Đấy là một quá trình đơn giản. Tôi cầm tay vợ
tôi và bóp nó ba lần, thế rồi bà ấy đi ngủ và tôi đi ngủ.
Nhưng trong ba ngày, bất kì khi nào tôi cố gắng cầm
tay bà ấy, bà ấy nói, “Không phải hôm nay, không phải
hôm nay! ê cảm thấy xấu hổ đi; ông đủ già rồi - không
phải hôm nay!” Thế là trong ba ngày tôi đã không làm
tình.”
Ông già thứ ba nói, “Điều này chẳng là gì cả. Điều
đã xảy ra cho tôi, tôi phải thú nhận, bởi vì các ông còn
trẻ và điều đó sẽ có ích cho các ông trong tương lai của
các ông. Đêm qua, khi đêm vừa qua đi và sáng tới gần
hơn, tôi bắt đầu chuẩn bị làm tình với vợ tôi và bà ấy
nói với tôi, ‘Ông đang cố gắng làm gì vậy, ông ngốc?’
Tôi nói, ‘Tôi đang cố gắng làm gì ư? Tôi đơn giản cố
gắng làm tình với bà,’ còn bà ấy nói, ‘Đây là lần thứ ba
trong đêm đấy; ông không ngủ mà ông cũng chẳng cho
phép tôi ngủ. Yêu, yêu, yêu!’ Thế là tôi nghĩ dường
như là tôi mất trí nhớ rồi. Vấn đề của các ông chẳng là
gì cả; tôi đã mất trí nhớ.”
Nếu bạn lắng nghe người già, bạn sẽ ngạc nhiên;
họ đang nói chỉ những điều họ đáng phải đã sống,
nhưng thời gian đã trôi qua khi nó là có thể để sống
chúng. Vào thời gian đó họ đã đọc Kinh thánh thiêng
liêng và nghe tu sĩ. Các tu sĩ đó và những kinh sách
thiêng liêng kia đã làm biến chất mọi người, bởi vì
chúng đã trao cho họ cái ý tưởng chống lại tự nhiên và
chúng không thể cho phép họ sống một cách tự nhiên.
Nếu chúng ta cần một nhân loại mới, chúng ta sẽ phải
xoá đi toàn bộ quá khứ và bắt đầu mọi thứ mới. Và
nguyên tắc cơ bản đầu tiên sẽ là: cho phép mọi người,
giúp mọi người, dạy mọi người sống theo bản tính của
mình, không theo bất kì ý tưởng nào, và sống một cách
toàn bộ và mãnh liệt không sợ hãi gì. Thế thì trẻ con sẽ
tận hưởng tuổi thơ của chúng, thanh niên sẽ tận hưởng
tuổi xuân của họ và người già sẽ có cái duyên dáng tới
một cách tự nhiên, bắt nguồn từ toàn bộ cuộc sống
được sống một cách tự nhiên.
Chừng nào tuổi già của bạn còn chưa duyên dáng
và trí huệ và tràn đầy ánh sáng cùng vui vẻ, mãn
nguyện, hoàn thành, phúc lạc... trong chính hiện diện
của bạn, chừng nào hoa chưa nở và chưa có hương
thơm của điều vĩnh hằng, thế thì chắc chắn là bạn vẫn
còn chưa sống đâu. Nếu nó không xảy ra theo cách đó,
điều đó có nghĩa là bạn đã đi lạc lối ở đâu đó, đâu đó
bạn đã nghe các tu sĩ, những kẻ làm biến chất, kẻ tội
phạm, đâu đó bạn đã đi ngược lại tự nhiên - và tự nhiên
báo thù. Và trả thù của nó là phá huỷ tuổi già của bạn
và làm cho nó xấu đi, xấu với người khác và xấu trong
con mắt riêng của bạn; bằng không tuổi già có vẻ đẹp
mà thậm chí tuổi thanh niên không thể có được.
Tuổi thanh xuân có chín muồi, nhưng nó vẫn còn
chưa trí huệ. Nó có quá nhiều cái ngu xuẩn trong nó;
nó mang tính tài tử. Tuổi già đã cho nét vẽ cuối cùng
lên bức tranh của cuộc sống riêng của người ta. Và khi
người ta đã cho nét vẽ cuối cùng, người ta sẵn sàng
chết một cách sung sướng, vũ hội. Người ta sẵn sàng
đón chào cái chết.48
******************************************************
#18 Chết với chân giá trị
Chết tự nhiên là gì? Đây là câu hỏi có ý nghĩa, và
có nhiều điều ngụ ý có thể có trong đó. Điều đơn giản
nhất và hiển nhiên nhất là ở chỗ con người chết đi
chẳng có nguyên nhân gì: người đó đơn giản trở nên
già đi, già hơn, và việc thay đổi từ tuổi già sang cái
chết không qua bất kì bệnh tật nào. Cái chết đơn giản là
tuổi già tối thượng - mọi thứ trong thân thể bạn, trong
não bạn, đều dừng hoạt động. Đây sẽ là ý nghĩa thông
thường và hiển nhiên của cái chết tự nhiên.
Nhưng với tôi cái chết tự nhiên có ý nghĩa sâu sắc
hơn nhiều: người ta phải sống cuộc sống tự nhiên để
đạt tới cái chết tự nhiên. Cái chết tự nhiên là đỉnh điểm
của cuộc sống đã được sống một cách tự nhiên, không
bất kì cấm đoán nào, không bất kì kìm nén nào - hệt
như cách con vật sống, chim chóc sống, cây cối sống,
không bất kì chia chẻ nào... cuộc sống buông bỏ, cho
phép tự nhiên tuôn chảy qua bạn không có bất kì cản
trở nào từ phía bạn, dường như bạn vắng mặt và cuộc
sống đang di chuyển theo cách riêng của nó. Thay vì
bạn sống cuộc sống, cuộc sống sống bạn, bạn là phụ;
thế thì đỉnh điểm sẽ là cái chết tự nhiên. Theo định
nghĩa của tôi chỉ người đã thức tỉnh mới có thể chết cái
chết tự nhiên; ngoài ra tất cả mọi cái chết đều phi tự
nhiên bởi vì tất cả các cuộc sống là phi tự nhiên.
Làm sao bạn có thể đi tới cái chết tự nhiên, khi
sống cuộc sống phi tự nhiên? Cái chết sẽ phản ánh tột
đỉnh tối thượng, cao trào của toàn bộ cuộc sống bạn.
Dưới dạng cô đọng, nó là tất cả những điều bạn đã
sống qua. Cho nên chỉ rất ít người trên thế giới mới
chết một cách tự nhiên bởi vì chỉ rất ít người đã sống
một cách tự nhiên. Huấn luyện của chúng ta không cho
phép chúng ta được tự nhiên. Huấn luyện của chúng ta,
ngay từ ban đầu, dạy chúng ta rằng chúng ta phải là cái
gì đó còn hơn tự nhiên, rằng chỉ là tự nhiên mới là con
vật; chúng ta phải là siêu tự nhiên. Và điều đó dường
như rất logic. Tất cả các tôn giáo đều đã từng thuyết
giảng điều này - rằng là con người có nghĩa là vượt lên
trên tự nhiên - và họ đã thuyết phục nhân loại trong
hàng thế kỉ để vượt lên trên tự nhiên. Không ai đã
thành công trong việc vượt lên trên tự nhiên cả. Tất cả
mọi điều họ đã thành công là phá huỷ cái tự nhiên của
họ, cái đẹp tự phát, cái hồn nhiên của họ. Con người
không cần siêu việt lên trên tự nhiên. Tôi nói với các
bạn, con người phải hoàn thành tự nhiên - điều không
con vật nào có thể làm được. Đó là khác biệt.
Tôn giáo đã tinh ranh, dối trá và lừa bịp mọi người.
Họ đã tạo ra sự phân biệt rằng con vật là tự nhiên còn
bạn phải siêu nhiên. Không con vật nào có thể nhịn ăn;
bạn không thể thuyết phục bất kì con vật nào rằng nhịn
ăn là cái gì đó thiêng liêng. Con vật chỉ biết rằng nó
đói, và không có khác biệt gì giữa nhịn ăn và đói cả.
Bạn không thể thuyết phục bất kì con vật nào đi ngược
lại tự nhiên.
Điều này đã tạo ra một cơ hội cho cái gọi là những
người tôn giáo, bởi vì con người có khả năng ít nhất là
đấu tranh chống lại tự nhiên. Người đó sẽ không bao
giờ thắng lợi cả, nhưng người đó có thể tranh đấu. Và
trong tranh đấu người đó sẽ không phá huỷ tự nhiên;
người đó sẽ phá huỷ chỉ bản thân mình. Đó là cách con
người đã phá huỷ bản thân mình - mọi niềm vui của
mình, mọi tình yêu của mình, mọi vĩ đại của mình - và
đã không trở thành một cái gì đó cao hơn con vật, mà
là một cái gì đó thấp hơn, trong mọi cách có thể. Có lẽ
các bạn chưa bao giờ nghĩ về điều đó: không con vật
hoang dã nào đồng dục. Chính cái ý tưởng này, và toàn
bộ thế giới con vật sẽ phá lên cười. Điều đó đơn giản là
xuẩn ngốc! Nhưng trong vườn thú, nơi con cái không
có sẵn, con vật biến thành đồng dục do sự cần thiết cực
điểm.
Nhưng con người đã biến thế giới này thành vườn
bách thú: hàng triệu và hàng triệu người đồng dục,
đồng dục nữ, người thú dâm, và đủ thứ tầm thường - đủ
mọi loại đồi bại. Và ai chịu trách nhiệm? Người dạy
bạn vượt ra ngoài tự nhiên, đạt tới điều thiêng liêng
siêu nhiên...
Bất kì khi nào bạn ép buộc điều gì đó, kết quả
không định đem lại cải thiện. Trong nhiều lĩnh vực, bởi
các tôn giáo khác nhau, điều đó đã được thử để làm
cho con người là một cái gì đó trên tự nhiên. Kết quả
đã là thất bại, không ngoại lệ nào cả. Bạn được sinh ra
như một sinh linh tự nhiên. Bạn không thể nào vượt lên
trên bản thân mình. Đấy cũng hệt như là tự nâng mình
lên khỏi mặt đất bằng việc kéo chân mình lên. Bạn có
thể nhảy lên một chút, nhưng sớm hay muộn bạn rơi
trở lại mặt đất, và bạn có thể bị gãy xương. Bạn không
thể bay được.
Và đó là điều đã được làm. Mọi người đã cố gắng
nâng mình lên trên tự nhiên, điều có nghĩa là trên bản
thân mình. Họ không tách khỏi tự nhiên, nhưng ý
tưởng này phù hợp với bản ngã của họ: bạn không phải
là con vật cho nên bạn phải ở trên tự nhiên; bạn không
thể hành xử giống con vật. Mọi người thậm chí đã thử
làm con vật không hành xử như con vật; họ đã thử làm
cho chúng đi lên cao hơn tự nhiên một chút.
Vào thời Victoria tại England chó được mặc quần
áo khi người ta đưa chúng đi dạo. Chó có áo choàng để
ngăn cản chúng khỏi tự nhiên, để ngăn cản chúng khỏi
ở truồng và trần trụi - điều vốn thích hợp cho con vật.
Những loại người này đang cố gắng nâng con chó của
mình lên cao hơn con vật chút ít.
Bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng trong thời Victoria ở
England, thậm chí đến chân ghế cũng được bao bọc -
bởi một lí do đơn giản rằng chúng đã được gọi là chân,
và chân cần phải được che đậy. Bertrand Russell,
người sống gần một thế kỉ - một cuộc sống dài - nhớ lại
thời thơ ấu của mình là việc thấy chân của phụ nữ cũng
đủ làm kích động dục. Trang phục đã được làm thời đó
theo cách chúng che phủ hết cả bàn chân; bạn không
thể thấy được bàn chân.
Người ta đã tin, cho dù một trăm năm trước đây,
rằng phụ nữ của gia đình hoàng gia không có hai chân.
Hoàng gia bằng cách nào đó phải khác với thứ dân,
người thường, và không ai thấy - và cũng chẳng có khả
năng nào để thấy - liệu chân của họ có tách biệt lẫn
nhau không. Nhưng bản ngã... những người hoàng gia
này đã không làm điều đó rõ ràng: “Điều này là vô
nghĩa, chúng tôi là con người như các bạn vậy.” Bản
ngã ngăn cản họ. Nếu mọi người sùng bái họ, thế thì
sao phải bận tâm? - vẫn cứ là hoàng gia đi. Đó là một
trong những lí do tại sao gia đình hoàng gia không cho
phép bất kì ai, người thường, được lấy người trong
hoàng gia, bởi vì người đó có thể phơi bầy toàn bộ vấn
đề: “Những người này cũng chỉ là con người như mọi
người khác; chẳng có gì hoàng gia về họ cả.” Nhưng
trong nhiều thế kỉ họ vẫn duy trì cái ý tưởng này.
Tôi cũng muốn bạn khác với con vật, nhưng không
theo nghĩa rằng bạn có thể đi cao hơn tự nhiên - không.
Bạn có thể đi sâu hơn tự nhiên, bạn có thể tự nhiên hơn
con vật. Chúng không được tự do, chúng đang trong
cơn mê sâu; chúng không thể nào làm được bất kì điều
gì khác hơn điều tổ tiên chúng đã làm từ hàng nghìn
năm.
Bạn có thể tự nhiên hơn bất kì con vật nào. Bạn có
thể đi vào các chiều sâu không đáy của tự nhiên, và bạn
có thể đi lên các đỉnh rất cao của tự nhiên, nhưng bạn
sẽ không vượt ra ngoài theo bất kì cách nào. Bạn sẽ trở
thành tự nhiên hơn, bạn sẽ trở thành tự nhiên nhiều
chiều hơn. Với tôi con người tôn giáo không phải là
người ở trên tự nhiên, mà là người hoàn toàn tự nhiên,
tràn đầy tự nhiên, người đã thám hiểm tự nhiên theo đủ
mọi chiều của nó, người đã không bỏ lại cái gì không
được thám hiểm.
Con vật bị tù đày; chúng có một vùng giới hạn của
sự hiện hữu. Con người có khả năng, thông minh, tự do
để thám hiểm. Và nếu bạn đã thám hiểm tự nhiên một
cách toàn bộ, bạn đã về tới nhà - tự nhiên là nhà bạn.
Và thế thì cái chết là niềm vui, là lễ hội. Thế thì bạn
chết không phàn nàn gì; bạn chết với sự biết ơn sâu
sắc, bởi vì cuộc sống đã cho bạn nhiều thế, còn cái chết
đơn giản là chiều cao tối thượng của tất cả những điều
bạn đã sống.
Cũng giống như trước khi ngọn lửa của cây nến tắt
đi nó bùng cháy sáng nhất. Con người tự nhiên, trước
khi người đó chết, sống sáng rực trong khoảnh khắc;
người đó là tất cả ánh sáng, tất cả chân lí. Với tôi điều
này là cái chết tự nhiên. Nhưng nó phải được giành lấy,
nó không được trao cho bạn. Cơ hội này được trao cho
bạn, nhưng bạn phải thám hiểm, bạn phải giành lấy nó,
bạn phải xứng đáng.
Thậm chí để thấy cái chết của một người đích thực,
chỉ ở gần người đó trong khi người đó chết, bạn sẽ
bỗng nhiên được tràn đầy với niềm vui kì lạ. Nước mắt
bạn sẽ không phải bởi buồn bã, buồn rầu; chúng sẽ là
bởi lòng biết ơn và phúc lạc - bởi vì khi một người chết
một cách tự nhiên, việc sống cuộc sống người đó tràn
đầy, người đó trải rộng bản thể mình vào trong toàn thể
tự nhiên. Những người hiện diện và ở gần người đó
đều được tắm... một sự tươi mát bất thần, một làn gió
thoảng, một hương thơm mới và một cảm giác mới
rằng cái chết không phải là cái gì đó xấu, rằng cái chết
không phải là cái gì đó phải sợ, rằng cái chết là cái gì
đó phải giành lấy, phải được xứng đáng.
Tôi dạy bạn nghệ thuật của cuộc sống. Nhưng nó
cũng có thể được gọi là nghệ thuật của cái chết nữa.
Chúng cả hai đều như nhau.49
Trong tâm trí phương Tây, ốm bệnh, bệnh tật, đau
đớn và cái chết tất cả được nhóm lại - được gói lại
thành một gói. Từ đó vấn đề nảy sinh.
Cái chết là đẹp; ốm bệnh thì không, đau đớn thì
không, bệnh tật thì không đẹp. Cái chết không phải là
lưỡi gươm cắt đứt cuộc sống bạn, nó giống như hoa
vậy - hoa tối thượng - cái nở ra vào khoảnh khắc chót.
Nó là đỉnh cao. Cái chết là hoa trên cây của cuộc sống.
Nó không phải là chấm dứt cuộc sống mà là cao trào.
Nó là cực thích tối thượng. Chẳng có gì sai trong cái
chết cả; nó là đẹp - nhưng người ta cần biết cách sống
và cách chết. Có nghệ thuật sống và có nghệ thuật chết;
và nghệ thuật thứ hai còn giá trị nhiều hơn nghệ thuật
thứ nhất. Nhưng nghệ thuật thứ hai có thể được biết tới
chỉ khi bạn đã biết nghệ thuật thứ nhất. Chỉ những
người biết cách sống đúng mới biết cách chết đúng. Và
thế thì cái chết là cánh cửa tới điều thiêng liêng.
Cho nên, điều đầu tiên: xin giữ cái chết tách rời ra.
Nghề y chỉ nghĩ đến ốm yếu, bệnh tật và đau khổ. Họ
không cần tranh đấu chống lại cái chết. Điều đó đang
tạo ra rắc rối trong tâm trí phương Tây, trong các bệnh
viện phương Tây, trong y học phương Tây. Mọi người
đang tranh đấu chống lại cái chết. Mọi người gần như
sống dật dờ trong bệnh viện, chỉ sống dựa vào thuốc.
Họ bị buộc phải sống một cách không cần thiết khi họ
đáng sẽ chết một cách tự nhiên. Qua hỗ trợ của thuốc
cái chết của họ bị trì hoãn. Họ không còn công dụng gì,
cuộc sống không còn công dụng gì cho họ, trò chơi đã
hết, họ đã chấm dứt. Bây giờ giữ cho họ sống chỉ làm
cho họ đau khổ thêm. Đôi khi họ có thể trong cơn mê,
và một người có thể trong cơn mê hàng tháng hay
nhiều năm. Nhưng bởi vì có đối nghịch với cái chết
nên điều đó đã trở thành vấn đề lớn trong tâm trí
phương Tây: phải làm gì khi một người đang trong cơn
mê và sẽ không bao giờ khôi phục lại, nhưng có thể
được giữ cho sống nhiều năm? Người đó sẽ là cái xác,
chỉ là cái xác thở, có thế thôi. Người đó đơn giản sống
dật dờ, sẽ không có cuộc sống. Vấn đề là gì? Tại sao
không cho phép người đó chết? Có sợ về cái chết. Cái
chết là kẻ thù - làm sao lại đầu hàng kẻ thù, cái chết?
Cho nên có tranh luận sôi nổi trong tâm trí y học
phương Tây. Phải làm gì? Người ta có nên được phép
chết không? Người ta có nên được phép quyết định liệu
mình muốn chết không? Gia đình có nên được phép
quyết định liệu họ muốn người đó chết hay không? -
bởi vì đôi khi người này có thể vô ý thức và không thể
quyết định được. Nhưng có quyền giúp ai đó chết đi
không? Nỗi sợ lớn nảy sinh trong tâm trí phương Tây.
Chết đi sao? Điều đó có nghĩa là bạn đang giết người!
Toàn bộ khoa học tồn tại để giúp cho người đó sống.
Bây giờ điều này là ngu xuẩn! Cuộc sống trong bản
thân nó không có giá trị trừ phi có niềm vui, trừ phi có
điệu vũ, trừ phi có cái gì đó sáng tạo, trừ phi có tình
yêu - cuộc sống trong bản thân nó là vô nghĩa. Chỉ
sống là vô nghĩa. Một điểm sẽ tới khi người ta đã sống,
một điểm tới khi chết là tự nhiên, khi chết đi là đẹp.
Hệt như khi bạn đã làm xong việc cả ngày, một điểm
tới khi bạn rơi vào giấc ngủ; cái chết là một loại giấc
ngủ - giấc ngủ sâu hơn. Bạn sẽ được sinh ra lần nữa
trong một thân thể mới hơn với máy móc mới hơn, với
những tiện nghi mới, với những cơ hội mới, thách thức
mới. Thân thể này già rồi và người ta phải bỏ lại nó; nó
chỉ là chỗ trú ngụ...
Tại phương Đông chúng ta có cái nhìn khác: cái
chết không phải là thù mà là bạn. Cái chết cho bạn nghỉ
ngơi. Bạn đã trở nên mệt mỏi, bạn đã sống cuộc sống
của mình, bạn đã biết tất cả mọi niềm vui có thể được
biết trong cuộc sống, bạn đã đốt cháy toàn bộ cây nến
của mình. Bây giờ đi vào trong bóng tối, nghỉ ngơi một
chốc và thế rồi bạn có thể được sinh ra lần nữa. Cái
chết sẽ làm sống lại bạn lần nữa theo một cách tươi tắn
hơn.
Cho nên điều đầu tiên: Cái chết không phải là kẻ
thù.
Điều thứ hai: Cái chết là kinh nghiệm lớn nhất
trong cuộc sống nếu bạn có thể chết một cách có ý
thức. Và bạn có thể chết một cách có ý thức chỉ nếu
bạn không sợ nó. Nếu bạn chống lại nó bạn trở nên rất
hãi hùng, rất sợ sệt. Khi bạn sợ đến mức mà bạn không
thể nào dung thứ được cái sợ đó, có cơ chế tự nhiên
trong thân thể, tiết ra thuốc mê vào trong thân thể và
bạn trở nên vô ý thức. Có một điểm mà bên ngoài nó
khả năng chịu đựng sẽ không thể có được; bạn trở
thành vô ý thức. Cho nên hàng triệu người chết đi một
cách vô ý thức và bỏ lỡ một khoảnh khắc vĩ đại, vĩ đại
nhất trong tất cả các khoảnh khắc. Đó là samadhi, đó là
satori, đó là thiền xảy ra cho bạn. Đó là món quà tự
nhiên.
Nếu bạn có thể tỉnh táo và bạn có thể thấy rằng bạn
không phải là thân thể... Bạn sẽ phải thấy, bởi vì thân
thể sẽ biến mất. Chẳng mấy chốc bạn sẽ có khả năng
thấy rằng bạn không là thân thể, bạn tách biệt. Thế thì
bạn sẽ thấy bạn đang tách ra khỏi tâm trí nữa; thế thì
tâm trí sẽ biến mất. Và thế thì bạn sẽ chỉ là ngọn lửa
của nhận biết, và đó là phúc lành lớn nhất có đó. Cho
nên đừng nghĩ về cái chết như ốm yếu, bệnh tật và đau
khổ của con người.50
Tự do chọn lựa cái chết của bạn nên được chấp
nhận như quyền tập ấm của mọi con người. Một giới
hạn có thể được đặt ra cho nó, chẳng hạn, bẩy mươi
nhăm tuổi. Sau độ tuổi bẩy mươi nhăm bệnh viện nên
sẵn sàng giúp cho bất kì ai muốn gạt bỏ thân thể mình.
Mọi bệnh viện nên có một nơi dành cho người sắp
chết, và những người đã chọn chết nên được trao cho
sự quan tâm và giúp đỡ đặc biệt. Cái chết của họ sẽ
đẹp.
Mọi bệnh viện nên có một giáo viên về thiền.
Người sắp chết nên được cho một tháng và sẽ được
cho phép... nếu người đó đổi ý kiến người đó có thể
quay lại, bởi vì không ai ép buộc người đó. Những
người hay xúc động, người muốn tự tử không thể vẫn
còn xúc động trong một tháng - xúc động có thể là tạm
thời. Phần lớn những người tự tử, nếu họ chờ đợi một
thời gian lâu hơn, họ sẽ không tự tử chút nào. Đấy là từ
giận dữ, từ ghen tị, từ hận thù hay cái gì đó mà họ quên
mất giá trị của cuộc sống.
Toàn bộ vấn đề là ở chỗ các chính khách coi việc
chấp nhận chết tự nguyện, có nghĩa là tự tử, không là
tội ác. Không, điều đó không có nghĩa như thế. Tự tử
vẫn là một tội ác.
Chết tự nguyện sẽ là việc cho phép của ban y tế.
Việc ở lại một tháng trong bệnh viện - mọi loại giúp đỡ
có thể được trao cho người này để trở nên bình thản và
yên tĩnh... tất cả bạn bè tới gặp người đó, vợ người đó,
con người đó, bởi vì người đó đang đi trên một cuộc
hành trình dài. Không có vấn đề ngăn cản người đó -
người đó đã sống lâu, và người đó không muốn tiếp tục
sống nữa, công việc của người đó đã kết thúc.
Và người đó nên được dạy thiền trong một tháng
này, để cho người đó có thể thiền trong khi cái chết tới.
Và với cái chết, sự giúp đỡ của thuốc nên được trao
cho để cho nó tới như giấc ngủ - dần dần, song song
với thiền, giấc ngủ trở thành sâu hơn. Chúng ta có thể
thay đổi cái chết của hàng nghìn người thành chứng
ngộ. Và không có sợ tự tử, bởi vì người đó không định
tự tử; nếu ai đó cố tự tử người đó vẫn sẽ phạm tội ác.
Người đó đang yêu cầu việc cho phép. Với việc cho
phép của ban y tế... và người đó có thời gian một tháng
trong đó người đó có thể thay đổi ý kiến của mình vào
bất kì lúc nào. Vào ngày cuối cùng người đó có thể nói,
“Tôi không muốn chết” - thế thì người đó có thể về
nhà. Không có vấn đề trong đó: đấy là quyết định của
người đó.
Ngay bây giờ có một tình huống rất kì lạ trong
nhiều nước. Mọi người cố gắng tự tử: nếu họ thành
công, thì tốt; nếu họ không thành công, thế thì toà án
phạt họ tội chết. Kì lạ thế! - bản thân họ đã làm điều
đó. Họ đã bị vướng giữa chừng. Bây giờ trong hai năm
việc xử án sẽ diễn ra; chánh án và luật sư sẽ tranh luận,
và thế này thế nọ, và cuối cùng người này phải bị treo
cổ, lần nữa. Người đó đã làm điều đó ngay chỗ đầu
tiên, tự mình! Tại sao lại tất cả những điều vô nghĩa
này?
Chết tự nguyện đang trở thành ngày càng cần hơn,
bởi vì với tiến bộ y học mọi người đang sống lâu hơn.
Các nhà khoa học vẫn chưa bắt gặp bộ xương nào từ
năm nghìn năm trước đây của một người quá bốn mươi
tuổi khi người đó chết. Năm nghìn năm trước người ta
sống lâu nhất không quá bốn mươi tuổi, và trong mười
đứa con sinh ra thì chín đứa chết đi trong vòng hai năm
- chỉ một đứa sống sót - cho nên cuộc sống có giá trị
mênh mông.
Hippocrates đã đưa ra lời thề với nghề y rằng bạn
phải giúp đỡ cuộc sống trong mọi trường hợp. Ông ấy
không nhận biết - ông ấy không phải là nhà tiên tri -
ông ấy đã không có sáng suốt để thấy rằng một ngày có
thể tới khi trong mười đứa trẻ, cả mười đều sống sót.
Bây giờ điều đó đang xảy ra. Một mặt, chín đứa nữa
sống sót; và mặt khác, y học giúp cho mọi người sống
lâu hơn - chín mươi tuổi, một trăm tuổi không phải là
hiếm. Trong các nước đã phát triển rất dễ tìm ra người
chín mươi tuổi hay người một trăm tuổi.
Tại Liên Xô có người đã đạt tới một trăm năm
mươi tuổi, và có vài nghìn người đã đạt tới một trăm
tám mươi tuổi - và họ vẫn còn làm việc. Nhưng bây giờ
cuộc sống đã trở thành nhàm chán. Một trăm tám mươi
năm, nghĩ về điều đó, làm cùng một thứ - thậm chí đến
xương cũng sẽ đau - và vậy mà họ vẫn không có khả
năng chết. Cái chết vẫn dường như là xa xôi - họ vẫn
làm việc và mạnh khoẻ.
Tại Mĩ có hàng nghìn người trong các bệnh viện
chỉ nằm trong giường với đủ mọi loại dụng cụ được nối
vào họ. Nhiều người đang dùng máy thở nhân tạo.
Phỏng có ích gì nếu bản thân người đó không thể thở
được? Bạn trông đợi người đó làm gì? Và tại sao bạn
làm cho cả quốc gia nặng gánh bởi con người này khi
có nhiều người đang chết trên phố, chết đói?
Ba mươi triệu người ở Mĩ ở ngoài phố không nơi
trú ẩn, không thức ăn, không quần áo, và hàng nghìn
người đang chiếm các giường bệnh viện, bác sĩ, y tá -
công việc của họ, lao động của họ, thuốc men. Mọi
người đều biết họ sẽ chết sớm hay muộn, nhưng chừng
nào mà bạn vẫn có thể thì bạn vẫn phải giữ họ sống.
Họ muốn chết. Họ hét lên là họ muốn chết, nhưng bác
sĩ chẳng thể giúp cho điều đó. Những người này chắc
chắn là cần một quyền nào đó; họ đang bị buộc phải
sống, và theo mọi cách thức bắt buộc là không dân chủ.
Cho nên tôi muốn điều đó là điều rất hợp lí. Làm
điều đó bẩy mươi nhăm năm hay tám mươi năm, thế
thì cuộc sống được sống đủ. Trẻ con lớn lên... khi bạn
tám mươi, con bạn sẽ năm mươi, năm mươi nhăm; họ
đang già đi. Bây giờ không có nhu cầu cho bạn để phải
bận tâm và lo nghĩ. Bạn nghỉ ngơi; bây giờ bạn đơn
giản là gánh nặng, bạn không biết làm cái gì.
Và đó là lí do tại sao người già cáu bẳn thế - bởi vì
họ không có việc gì, họ không có bất kì sự kính trọng
nào, họ không có bất kì chân giá trị nào. Không ai bận
tâm về họ, không ai để ý đến họ. Họ sẵn sàng đánh
nhau, giận dữ và hét lên. Đây đơn giản là nỗi thất vọng
của họ biểu lộ ra; điều thực là họ muốn chết. Nhưng họ
thậm chí không thể nói ra được điều đó. Điều đó là trái
giáo lí, điều đó là phi tôn giáo - chính cái ý tưởng về
chết.
Họ nên được trao cho tự do, nhưng không chỉ chết;
họ nên được trao cho tự do của huấn luyện một tháng
về cách chết. Trong huấn luyện đó, thiền nên là phần
cơ bản; chăm sóc vật lí nên là một phần cơ bản. Họ nên
chết một cách lành mạnh, toàn thể, im lặng, an bình -
dần dần trượt sâu vào trong giấc ngủ. Và nếu thiền
được nối liền với ngủ thì họ có thể chết được chứng
ngộ. Họ có thể biết rằng chỉ thân thể là bị bỏ lại đằng
sau, còn họ là một phần của vĩnh hằng.
Cái chết của họ sẽ tốt hơn cái chết thông thường,
bởi vì trong cái chết thông thường bạn không có cơ hội
trở nên được chứng ngộ. Trong thực tế ngày càng
nhiều người sẽ ưa thích chết trong bệnh viện, trong các
viện đặc biệt dành cho việc chết nơi mọi thu xếp được
tiến hành. Bạn có thể rời bỏ cuộc sống theo cách cực
lạc, vui sướng, với cám ơn và biết ơn lớn lao.
Tôi hoàn toàn ủng hộ cho chết tự nguyện với
những điều kiện này.51
******************************************************
#19 Bệnh AID
Tôi không biết gì ngay cả về bệnh aid đầu tiên, và
bạn lại hỏi tôi về AIDS cuối cùng! Nhưng dường như
tôi sẽ phải nói đôi điều về nó. Và trong một thế giới mà
những người chẳng biết gì về bản thân mình có thể nói
về Thượng đế, những người chẳng biết gì về địa lí của
trái đất có thể nói về cõi trời và địa ngục, thì không
phải là không thể quan niệm nổi việc tôi nói điều gì đó
về AIDS, mặc dầu tôi không phải là bác sĩ điều trị.
Nhưng cái bệnh bây giờ được gọi là AIDS cũng không
phải chỉ là bệnh. Nó là cái gì đó nhiều hơn, một cái gì
đó ở bên kia giới hạn của nghề y.
Như tôi thấy nó, nó không phải là bệnh theo cùng
loại như các bệnh khác; do đó mới nguy hiểm về nó.
Có lẽ nó sẽ giết chết ít nhất hai phần ba nhân loại. Về
cơ bản nó là việc không có khả năng chống lại các
bệnh tật. Người ta dần dần thấy bản thân mình mong
manh đối với đủ mọi loại nhiễm khuẩn, và người ta
không có kháng cự bên trong để đấu tranh lại việc
nhiễm khuẩn này.
Với tôi điều đó có nghĩa là nhân loại đang mất ý
chí để sống. Bất kì khi nào một người mất đi ý chí để
sống thì kháng cự của người đó sụp đổ ngay lập tức,
bởi vì thân thể tuân theo tâm trí. Thân thể là kẻ phục vụ
rất bảo thủ của tâm trí; nó phục vụ tâm trí theo cách tôn
giáo. Nếu tâm trí mất ý chí để sống điều đó sẽ được
phản ánh trong thân thể bằng việc vứt bỏ kháng cự
chống lại ốm bệnh, chống lại cái chết. Tất nhiên bác sĩ
điều trị sẽ chẳng bao giờ bận tâm về ý chí để sống - đó
là lí do tại sao tôi lại nghĩ tốt hơn cả là tôi nói điều gì
đó.
Vấn đề này đang sắp trở thành một vấn đề khổng lồ
trên khắp thế giới đến mức bất kì sáng suốt nào từ bất
kì chiều hướng nào cũng có thể có ích mênh mông.
Ngay lúc bắt đầu người ta đã nghĩ nó là bệnh đồng dục.
Từ khắp nơi trên thế giới các nhà nghiên cứu đã ủng hộ
cho ý tưởng rằng nó là cái gì đó đồng dục - người ta đã
tìm ra rằng bệnh này xảy ra ở đàn ông nhiều hơn đàn
bà. Nhưng bây giờ các nhà nghiên cứu nói rằng AIDS
không phải là bệnh đồng dục chút nào, đó là bệnh dị
dục, và nó xảy ra nếu mọi người cứ thay đổi bạn tình -
trộn lẫn với nhiều đàn bà, với nhiều đàn ông, liên tục
thay đổi bạn tình. Việc thay đổi liên tục này là nguyên
nhân cho bệnh này. Đồng dục chẳng liên quan gì tới
nó, theo nghiên cứu của họ.
Với tôi điều đó rất có ý nghĩa. Nó chẳng liên quan
gì tới cả dị dục lẫn đồng dục. Nó chắc chắn có điều gì
đó liên quan tới dục. Và tại sao nó có điều gì đó liên
quan tới dục? - bởi vì ý chí sống được bắt rễ trong dục.
Nếu ý chí sống biến mất, thế thì dục sẽ là vùng dễ tổn
thương nhất của cuộc sống để mời cái chết.
Nhớ thật rõ rằng tôi không là người ngành y, và bất
kì điều gì tôi đang nói cũng là từ một quan điểm hoàn
toàn khác. Nhưng có nhiều khả năng về điều tôi đang
nói lại còn đúng hơn điều cái gọi là những nhà nghiên
cứu này đang nói, bởi vì việc nghiên cứu của họ là
nông cạn. Họ chỉ nghĩ tới các ca; họ thu thập dữ liệu,
sự kiện.
Đấy không phải là cách thức của tôi - tôi không là
người thu thập sự kiện. Công việc của tôi không phải là
nghiên cứu mà là nhìn thấu. Tôi cố gắng nhìn vào trong
mọi vấn đề sâu nhất có thể được. Tôi đơn giản bỏ qua
điều nông cạn, vốn là lĩnh vực của các nhà nghiên cứu.
Công việc của tôi có thể gọi là tìm vào trong
(insearch), không là nghiên cứu (research). Tôi cố gắng
hiểu thấu sâu, và tôi thấy rõ ràng rằng dục là hiện
tượng có liên quan nhiều nhất tới ý chí sống. Nếu ý chí
sống suy giảm đi, dục sẽ dễ tổn thương; thế thì đấy
không phải là vấn đề dị dục hay đồng dục.
Dường với tôi, bệnh này là tâm linh. Con người đã
đi tới điểm người đó thấy hết đường. Quay ngược lại là
vô nghĩa bởi vì tất cả mọi điều người đó đã thấy, đã
sống, đều chỉ ra cho người đó chẳng có gì trong đó cả;
nó đã chứng tỏ tất cả đều vô nghĩa. Quay trở lại không
có nghĩa; tiến lên trước không có đường: đối diện với
người đó là vực thẳm. Trong tình huống này nếu người
đó mất ham muốn, ý chí sống, điều đó không phải là
không dự kiến được.
Bằng thực nghiệm người ta đã chứng minh rằng
nếu một đứa trẻ không được nuôi lớn lên bởi những
người yêu thương - mẹ, bố, trẻ con khác trong gia đình
- nếu đứa con không được nuôi lớn lên bởi những
người yêu thương, bạn có thể cho nó mọi thứ nuôi
dưỡng nhưng bằng cách nào đó thân thể nó cứ co lại.
Bạn cho mọi thứ cần thiết - nhu cầu thuốc được đáp
ứng, nhiều chăm sóc được thực hiện - nhưng đứa trẻ cứ
co lại. Đấy là bệnh chăng? Vâng, với tâm trí thuốc men
mọi thứ đều là bệnh tật; cái gì đó phải sai. Họ sẽ cứ
nghiên cứu các sự kiện, tại sao nó lại xảy ra. Nhưng
đấy không phải là bệnh tật.
Ý chí sống của đứa trẻ thậm chí còn chưa nảy sinh.
Nó cần hơi ấm tình yêu, những khuôn mặt vui vẻ, trẻ
con nhảy nhót, hơi ấm của thân người mẹ - ở giữa
những điều làm cho đứa trẻ cảm thấy rằng cuộc sống
có kho báu vô cùng cần được thám hiểm, rằng có nhiều
niềm vui, điệu vũ, trò chơi; rằng cuộc sống không chỉ
là sa mạc, rằng có những khả năng mênh mông. Nó
phải có thể thấy những khả năng đó trong những con
mắt xung quanh nó, trong những thân thể quanh nó.
Chỉ thế thì ý chí sống mới tràn ra - gần giống như dòng
suối. Bằng không, nó sẽ co lại và chết - không bởi bất
kì bệnh vật lí nào, nó sẽ đơn giản co lại và chết.
Tôi đã ở các trại mồ côi; một trong các bạn tôi,
Rekhchand Parekh, ở Chanda Maharashtra, đã cai quản
một trại trẻ mồ côi - quãng một trăm đến một trăm
mười trẻ mồ côi ở đó. Một trẻ mồ côi tới, hai ngày tuổi,
ba ngày tuổi; mọi người sẽ bỏ chúng lại ngay trước trại
trẻ. Ông ấy muốn tôi tới thăm trại trẻ, tôi nói, “Lúc nào
đó về sau tôi sẽ tới thăm nó, bởi vì tôi biết bất kì cái gì
có đó sẽ làm cho tôi buồn không cần thiết.” Nhưng ông
ấy cứ nài nỉ, thế là một lần tôi tới, và điều tôi đã thấy...
Họ làm mọi chăm sóc, ông ấy đã đổ tiền của mình cho
những đứa trẻ này, nhưng chúng tất cả đều sẵn sàng
chết vào bất kì lúc nào. Các bác sĩ có đó, y tá có đó,
tiện nghi thuốc có đó, thức ăn có đó, mọi thứ đều có
đó. Ông ấy đã cho ngôi nhà gỗ một tầng đẹp của riêng
ông ấy - ông ấy đã chuyển sang ở căn nhà gỗ nhỏ hơn -
một khu vườn đẹp và mọi thứ có đó; nhưng ý chí sống
không có đó.
Tôi bảo ông ấy, “Những đứa trẻ này sẽ cứ chết dần
đi.”
Ông ấy nói, “Ông đang nói tôi sao? Tôi đã cai quản
trại trẻ mồ côi này mười hai năm nay; hàng trăm đứa
trẻ đã chết. Chúng tôi đã cố gắng mọi cách có thể để
giữ chúng sống, nhưng chẳng cái gì dường như có tác
dụng. Chúng cứ co lại và một ngày nào đó đơn giản
chúng không còn đó.”
Nếu có bệnh tật bác sĩ có thể giúp đỡ, nhưng không
có bệnh gì; đơn giản, đứa trẻ không có ham muốn
sống. Khi tôi nói điều này cho ông ấy vấn đề trở thành
rõ ràng cho ông ấy. Ông ấy ngay lập tức, ngay ngày
hôm đó, trao trại trẻ cho chính phủ, và ông ấy nói, “Tôi
đã cố gắng giúp những đứa trẻ này trong mười hai năm
trời; bây giờ tôi biết điều đó là không thể được. Điều
chúng cần tôi không thể cho được, cho nên tốt hơn cả
là chính phủ tiếp quản nó.” Ông ấy nói với tôi, “Tôi đã
đi tới điểm này nhiều lần, nhưng tôi không phải là
người giỏi phát biểu ra cho nên tôi không thể hình
dung ra nó là gì. Nhưng theo một cách mơ hồ tôi đã
cảm thấy rằng cái gì đó bị bỏ lỡ và điều đó cứ giết chết
chúng.”
AIDS là cùng hiện tượng này nhưng ở đầu bên kia.
Đứa trẻ mồ côi co lại và chết bởi vì ý chí sống của nó
chưa bao giờ nẩy ra, chưa bao giờ tràn ra, chưa bao giờ
trở thành dòng chảy. AIDS là tại đầu bên kia: Bạn
bỗng nhiên cảm thấy bạn là kẻ mồ côi của sự tồn tại.
Cảm giác là đứa trẻ mồ côi của sự tồn tại này làm cho
ý chí sống của bạn biến mất. Và khi ý chí sống biến
mất, dục sẽ là cái đầu tiên bị ảnh hưởng bởi vì cuộc
sống của bạn bắt đầu với dục; nó là sản phẩm phụ của
dục.
Cho nên trong khi bạn đang sống, đang rộn ràng, hi
vọng, tham vọng, và ngày mai vẫn còn là điều mơ
tưởng - để cho bạn có thể quên đi tất cả ngày hôm qua
cái đã là vô nghĩa, bạn có thể quên đi hôm nay cũng là
vô nghĩa... nhưng ngày mai khi mặt trời lên và mọi thứ
sẽ khác... Tất cả các tôn giáo đều đã cho bạn hi vọng
đó.
Những tôn giáo này đều đã thất bại. Mặc dầu bạn
cứ giữ mãi cái nhãn - Ki tô giáo, Do Thái giáo, Hindu
giáo - đấy chỉ là cái nhãn. Bên trong, bạn đã mất hi
vọng, hi vọng đã biến mất. Các tôn giáo không thể giúp
gì, chúng là giả. Chính khách không thể giúp gì. Họ
chưa bao giờ có ý định giúp đỡ cả; đấy chỉ là chiến
lược để khai thác bạn. Nhưng cái không tưởng giả tạo
này - chính trị hay tôn giáo - có thể giúp ích gì cho
bạn? Sớm hay muộn, một ngày nào đó con người sẽ trở
nên chín chắn; và đó là điều đang xảy ra. Con người
đang trở nên chín chắn, nhận biết rằng mình đã bị lừa
bởi các tu sĩ, bởi bố mẹ, bởi chính khách, bởi các nhà
sư phạm. Người đó đơn giản bị lừa bởi mọi người, và
họ đã nuôi dưỡng người đó bằng những hi vọng giả
tạo. Cái ngày người đó chín chắn và nhận ra điều này,
ham muốn sống sẽ rơi mất. Và điều đầu tiên bị tổn
thương bởi nó sẽ là bản năng dục của bạn. Với tôi đó là
AIDS.
Khi bản năng dục của bạn bắt đầu co lại bạn thực
sự hi vọng rằng cái gì đó sẽ xảy ra và bạn sẽ đi vào
trong im lặng vĩnh hằng, vào trong việc biến mất vĩnh
hằng. Việc cưỡng lại của bạn không có đó. AIDS
không có triệu chứng nào khác ngoại trừ rằng sự cưỡng
lại của bạn cứ bị vứt bỏ đi. Và nhiều nhất bạn có thể
sống được hai năm nếu bạn may mắn và không ngẫu
nhiên bị nhiễm bệnnh. Mỗi lần nhiễm bệnh sẽ không
thể nào chữa nổi, và từng lần nhiễm bệnh sẽ làm yếu
bạn thêm nữa. Hai năm là dài nhất để bệnh nhân AIDS
có thể sống; và người đó có thể biến mất lúc nào đó
trước đó. Và không cách chữa nào sẽ có ích, bởi vì
không cách chữa nào có thể đem trở lại ý chí sống của
bạn.
Điều tôi đang làm ở đây là đa chiều. Bạn không
nhận biết đầy đủ về điều tôi đang cố gắng làm; có lẽ
bạn có thể trở nên nhận biết chỉ khi tôi đã ra đi. Tôi
đang cố gắng trao cho bạn không phải là hi vọng vào
tương lai - bởi vì điều đó đã thất bại - tôi đang cố gắng
trao cho bạn hi vọng ở đây bây giờ. Tại sao lại bận tâm
về ngày mai?... bởi vì ngày mai không ích gì. Trong
nhiều thế kỉ ngày mai đã từng giữ bạn sống kéo lê bằng
cách nào đó, và nó đã làm thất bại bạn biết bao nhiêu
lần đến mức bây giờ bạn không thể cứ níu bám lấy nó.
Điều đó sẽ là ngu xuẩn cực kì. Những người đang níu
bám lấy nó vẫn chỉ chứng tỏ rằng họ đang chậm trễ
trong tâm trí mình.
Tôi đang cố gắng làm chính khoảnh khắc này được
hoàn thành, mãn nguyện sâu sắc đến mức không cần ý
chí sống nữa. Ý chí sống là cần tới bởi vì bạn không
sống. Ý chí này giữ việc phục hồi bạn: bạn cứ trượt
xuống, ý chí này giữ việc phục hồi bạn. Tôi không cố
gắng trao cho bạn ý chí sống mới, tôi đơn giản cố gắng
dạy bạn sống không có ý chí nào, sống vui vẻ. Chính
cái ngày mai mới đầu độc bạn. Quên hôm qua đi, quên
ngày mai đi. Đây là ngày của chúng ta - chúng ta mở
hội nó và sống nó. Và chỉ bằng việc sống nó bạn sẽ đủ
mạnh để cho không có ý chí sống bạn sẽ vẫn có khả
năng cưỡng lại mọi loại bệnh tật, mọi thái độ tự tử.
Sống động tràn đầy là một sức mạnh mà bạn không
chỉ có thể sống, bạn còn có thể làm cho người khác bốc
lửa, bốc cháy nữa.
Điều này đã là một sự kiện nổi tiếng. Khi có bệnh
dịch lớn bạn không tự hỏi tại sao các bác sĩ và y tá và
những người khác không bị nhiễm bệnh? Họ cũng là
con người như bạn, và họ lại còn làm việc quá tải, dễ bị
lây nhiễm bởi vì họ liên tục mệt mỏi. Khi có bệnh dịch
bạn không thể cứ đòi làm việc năm giờ hay sáu giờ một
ngày, và một tuần năm ngày. Bệnh dịch là bệnh dịch;
nó không bận tâm tới ngày nghỉ của bạn hay làm quá
giờ của bạn. Bạn phải làm việc - mọi người làm việc
mười sáu giờ, mười tám giờ, mọi ngày, nhiều tháng.
Vậy mà các bác sĩ, y tá, người chữ thập đỏ, họ không
bị nhiễm bệnh.
Vấn đề là gì? Tại sao người khác bị nhiễm bệnh?
Đây là những loại người như nhau. Nếu chỉ có một chữ
thập đỏ trên áo sơ mi của bạn... thế thì hãy đặt chữ thập
đỏ lên áo sơ mi của mọi người đi; đặt chữ thập đỏ lên
mọi nhà. Nếu chữ thập đỏ ngăn cản việc truyền nhiễm
công việc sẽ dễ dàng thế - nhưng điều đó lại không
phải là vấn đề.
Không, những người này tham dự quá nhiều vào
việc giúp đỡ người khác, họ không có ngày mai nào.
Khoảnh khắc này bao hàm thế, họ không có ngày hôm
qua. Họ không có thời gian nào để nghĩ hay thậm chí lo
nghĩ, “Mình có thể bị nhiễm bệnh.” Sự tham dự của
họ... Khi hàng triệu người đang chết, bạn có thể nghĩ
về bản thân mình, và cuộc sống mình, và cái chết của
mình được không? Toàn bộ năng lượng của bạn đang
chuyển ra để giúp mọi người, để làm bất kì điều gì bạn
có thể làm. Bạn đã quên mất bản thân mình, và bởi vì
bạn đã quên mất bản thân mình nên bạn không thể nào
bị nhiễm bệnh. Người có thể bị nhiễm bệnh vắng mặt:
người đó quá tham gia vào việc làm điều gì đó, người
đó mất đi trong công việc gì đó.
Không thành vấn đề là bạn đang vẽ hay hay đang
tạc tượng, hay bạn đang phục vụ người sắp chết -
không thành vấn đề bạn đang làm gì, vấn đề là: Bạn có
tham dự toàn bộ trong ở đây bây giờ không? Nếu bạn
tham dự trong ở đây bây giờ thì bạn hoàn toàn ở ngoài
vùng mà việc nhiễm bệnh là có thể. Khi bạn tham gia
nhiều thế, cuộc sống bạn trở thành một lực chảy xiết.
Và bạn sẽ thấy: thậm chí một bác sĩ lười biếng, trong
thời gian dịch bệnh, khi hàng trăm người đang chết,
bỗng nhiên quên mất tính lười biếng của mình. Và bác
sĩ già bỗng nhiên quên mất tuổi mình...
Chỉ thiền mới có thể xả ra năng lượng của bạn ở
đây bây giờ. Và thế thì không có nhu cầu về bất kì hi
vọng nào, về bất kì nơi không tưởng nào, về bất kì
thiên đường ở bất kì đâu. Mỗi khoảnh khắc đều là thiên
đường cho chính nó. Nhưng khi có liên quan tới hạn
chế của tôi, tôi không đủ tư cách để nói gì về AIDS cả.
Tôi thậm chí chưa bao giờ học một giáo trình nào về
cứu giúp đầu tiên. Cho nên xin tha thứ cho việc tôi đi
vào trong cái gì đó không phải là công việc của tôi.
Nhưng tôi vẫn cứ làm điều đó, và tôi đang tiếp tục làm
điều đó.52
******************************************************
#20 Nhìn vào tương lai
Các khả năng mà kĩ nghệ gen mang tới là tuyệt đối
hấp dẫn, và không có nhu cầu cảm thấy sợ gì về nó cả.
Trong thực tế, điều chúng ta đã làm trong hàng triệu
năm là việc sinh sản số lượng lớn - việc sinh sản số lớn
ngẫu nhiên.
Bạn có biết loại trẻ con nào chúng ta đang cho sinh
thành ra không? Bạn có biết liệu nó có mù loà, què
quặt, chậm phát triển, ốm đau, yếu đuối, dễ tổn thương
với đủ mọi loại bệnh tật trong cả cuộc sống nó không?
Người yêu của bạn có biết anh ta đang làm gì không?
Trong khi bạn làm tình bạn chẳng có quan niệm, thậm
chí không một khả năng phán đoán. Bạn đang cho sinh
thành ra trẻ con giống hệt con vật, và bạn không cảm
thấy sợ về điều đó, bạn không cảm thấy khiếp hãi gì về
điều đó cả. Và bạn thấy cả thế giới này đầy những
người chậm phát triển, què quặt, đui mù, điếc lác, câm
tịt. Tất cả những điều này đều là rác rưởi! Ai chịu trách
nhiệm cho điều đó? Và đấy không là sinh sản số đông
sao?
Quan niệm của tôi về việc sinh đẻ khoa học ra trẻ
con là ở chỗ, có ý thức, tỉnh táo, có chủ ý, chúng ta
đang mang một vị khách tới trái đất. Chúng ta biết
người đó là ai, người đó là gì và người đó cuối cùng trở
thành cái gì; người đó sẽ sống bao lâu, người đó thông
minh như thế nào. Chúng ta đang cắt bỏ tất cả các khả
năng về trẻ con mù, trẻ con điếc, trẻ con câm, chậm
phát triển theo đủ mọi cách - về mặt vật lí, tâm lí - và
bạn cảm thấy sợ sao? Đừng ngu xuẩn thế.
Việc sinh thành khoa học ra đứa trẻ không phải là
mang thú tính. Bạn đang siêu việt lên trên con vật bằng
việc cho sinh thành đứa trẻ một cách khoa học. Điều đó
thật hấp dẫn, điều vĩ đại nhất, điều quyến rũ nhất.
Chúng ta có thể làm được điều đó, điều đó đã là thực tế
khoa học. Chúng ta có thể tạo ra con người mạnh khoẻ
hơn, người sẽ sống lâu như chúng ta muốn, và chúng ta
có thể cho chúng nhiều thông minh như được cần tới
trong công việc của chúng.
Một đôi lứa đi tới một phòng thí nghiệm khoa học
và bảo họ rằng họ muốn có một đứa trẻ như Albert
Einstein, nhưng còn hơn ông ấy, sống hai trăm tuổi; và
nó không nên bị bệnh tật gì, nó nên mạnh mẽ. Phòng
thí nghiệm khoa học tìm đúng trứng trong ngân hàng,
đúng tinh trùng trong ngân hàng, và đứa trẻ được tạo ra
trong ống nghiệm với mọi sự thận trọng.
Bạn sẽ phải chấp thuận đứa trẻ này, bạn không thể
tạo ra đứa trẻ được. Việc sinh sản trẻ con mang tính thú
vật. Việc nhận trẻ con từ trí tưởng tượng của bạn... Mọi
người đều muốn Shakespeare được sinh ra, muốn con
họ là nhà thơ vĩ đại, nhạc sĩ vĩ đại, vũ công vĩ đại. Mọi
người mẹ đều nghĩ rằng con mình đang sắp là một siêu
nhân theo cách nào đó, và mọi người mẹ đều thất vọng
- đứa con trở nên hư hỏng. Nó mất hút trong cả cái đám
đông này trên một hành tinh quá đông đúc cư dân. Đây
là sinh sản số đông. Nhưng với việc nhận một đứa con,
bạn có thể suy tư về tất cả những phẩm chất bạn cần.
Bạn có thể hỏi lời khuyên của các chuyên gia về phẩm
chất nào sẽ có ích trong cuộc sống của nó, nó sẽ có khả
năng yêu bao nhiêu... Bạn muốn một Romeo sao? - bạn
có thể được một Romeo. Đấy chỉ là vấn đề hoá học.
Romeo có nhiều hooc môn nam hơn bất kì người nào
khác, anh ta giầu hơn; đó là lí do tại sao một phụ nữ
không đủ cho anh ta.
Bạn muốn một nhà thơ siêu việt lên trên tất cả các
nhà thơ của quá khứ? Một nhà khoa học mà trong so
sánh thì tất cả những nhà khoa học của quá khứ sẽ
giống như người lùn? Một nhạc sĩ đem tới cái chưa
biết, cái vô hình qua âm thanh cho bạn? Một nhà thơ
cất lên bài ca về niềm vui và lễ hội mà không ai khác
đã từng làm? Bạn có thể yêu cầu bất kì cái gì, và họ chỉ
làm việc, tính toán trứng nữ nào, tinh trùng nam nào sẽ
tạo ra con người như vậy. Tinh đó không phải là của
bạn, trứng đó không phải là của vợ bạn; bạn nhận đứa
con. Theo cách này bạn có thể nhận được nhân loại mà
bao giờ cũng được mơ ước tới: việc sinh ra siêu nhân,
người được làm ra gần như bằng thép. Mohammad Ali
vĩ đại sẽ không thể nào đối diện với người đó - chỉ một
cú đấm vào mũi và ông ta sẽ đi đời.
Điều gì làm bạn sợ? Bạn không muốn ở trên con
vật sao? Cái ham muốn rằng đó sẽ là tinh trùng của
bạn, đó sẽ là trứng của vợ bạn, đơn giản là xấu. Trẻ con
thuộc về vũ trụ. Nó có đặc biệt gì nếu đấy là tinh trùng
của bạn? Phỏng có ích gì tạo ra người què quặt, chỉ bởi
vì đấy là tinh trùng của bạn? Khoa học có thể làm được
việc nâng cao bạn lên trên con vật - và đấy không phải
là việc sinh sản số đông, nó sẽ chính là điều đối lập. Sẽ
không có dây chuyền lắp ráp như cách ô tô được sản
xuất ra. Nó sẽ là rất cá nhân bởi vì mọi đôi đều có chọn
lựa và tự do để quyết định loại trẻ con nào họ muốn.
Làm sao ý tưởng về sinh sản số đông lại đi vào tâm
trí bạn? Bạn có cho rằng mọi người đều muốn có cùng
loại con không? Bạn lầm. Bạn có cho rằng các phòng
thí nghiệm khoa học sẽ cứ sản sinh ra trẻ con theo ý
muốn riêng của họ, và bạn phải chấp nhận chúng
không? Thế thì đấy sẽ là sinh sản số đông. Tôi không
ủng hộ điều đó. Bạn tuyệt đối tự do chọn lựa. Ngay bây
giờ bạn hoàn toàn mù quáng và làm bất kì cái gì bạn
đang làm trong bóng tối hoàn toàn. Bạn đơn giản là kẻ
nô lệ của sinh vật mù quáng.
Bạn không muốn thoát khỏi sinh vật mù quáng
sao? Bạn không muốn vượt lên trên gắn bó ngu xuẩn
này với cái ý tưởng rằng trẻ con được sinh ra từ tinh
trùng của bạn và trứng của vợ bạn sao? Những cái
trứng ấy không biết chúng thuộc vào ai. Và có gì đặc
biệt về tinh trùng của bạn nào? Bạn không biết gì về nó
cả. Bạn hoàn toàn vô nhận biết về loại người nào đang
tranh đấu bên trong bạn để được sinh ra. Bạn không có
chọn lựa, bạn đơn giản là nô lệ.
Điều tôi đang nói về việc sinh khoa học làm cho
bạn vượt ra ngoài nô lệ, mù quáng, đen tối. Nó làm cho
bạn theo một cách chắc chắn được tâm linh hơn, bởi vì
bạn không còn bận tâm rằng tinh trùng của bạn, trứng
của vợ bạn là tuyệt đối cần thiết cho con bạn. Bạn nêu
ra yêu cầu của mình; bạn nhận lấy đứa bé. Và bạn có
thể hỏi các chuyên gia cái gì sẽ là tốt nhất cho đứa trẻ.
Bạn không thích con bạn là thiên tài duy nhất sao? Với
gắn bó vô tích sự bạn được thoả mãn với đứa trẻ què
quặt. Và cho việc sinh ra đứa bé què quặt, đứa trẻ mù
loà, bạn có làm điều ân huệ gì cho đứa trẻ không? Nó
sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho bạn cả! Bạn chịu trách
nhiệm. Và nó sẽ phải sống một cuộc sống không phải
là cuộc sống chút nào.
Tầm nhìn của tôi đem cho bạn tự do toàn bộ, và tất
nhiên, cả trách nhiệm lớn lao. Ngay bây giờ bạn đang
sản sinh ra trẻ con chẳng có trách nhiệm nào cả. Bạn có
phương tiện có sẵn để xác định đứa trẻ có mầu da gì,
có khuôn mặt thế nào - Hi lạp, La mã?... Bạn có thể tạo
ra trẻ con trông giống như bức điêu khắc, hoàn toàn
đẹp, với thiên tài ở chiều nào đó của cuộc sống, sống
một cuộc sống của tình yêu, đủ thông minh để loại bỏ
đi tất cả các tu sĩ và mọi chính khách. Chúng sẽ không
trở thành tín đồ của lãnh tụ, chúng sẽ đủ là chính
chúng.
Ngay bây giờ, bạn đang làm gì? Trước hết bạn tạo
ra đứa trẻ trong mù quáng, bóng tối, không biết nó sẽ
trở thành giống gì. Thế rồi bạn buộc nó phải trở thành
nô lệ bằng việc làm cho nó thành người Ki tô giáo,
Hindu giáo, Mô ha mét giáo, hay về chính trị thì cho
chúng những ý thức hệ nào đó - xã hội, phát xít, tư bản.
Và nó lại không đủ thông minh để nổi dậy chống lại tất
cả những cảnh nô lệ này.
Đứa trẻ trong tầm nhìn của tôi sẽ tuyệt đối tự do.
Nó sẽ không thuộc vào bất kì đảng phái chính trị nào,
nó sẽ không thuộc vào bất kì tôn giáo có tổ chức nào.
Nó sẽ có tôn giáo riêng của mình, nó sẽ có ý thức hệ
chính trị riêng của mình. Cần gì nó phải bám theo
quanh ai đó và là người thuộc đảng nào đó? Nó có thể
nghĩ xa hơn Karl Marx - và Karl Marx chỉ là một nhà
tư tưởng. Nó có thể sống lâu đến mức nó không vội
vàng về cái gì cả; kiên nhẫn, sẵn sàng chờ đợi - nó có
đủ thời gian. Nghĩ về Albert Einstein sống ba trăm
tuổi. Ông ấy sẽ đem phép mầu cho thế giới. Nhưng bởi
vì chúng ta đã sống trong một thân thể ngẫu nhiên, nên
ông ấy phải chết.
Chúng ta có thể gạt bỏ bệnh tật, tuổi già. Chúng ta
có thể lập chương trình cuộc sống theo mọi cách.
Chúng ta thậm chí có thể lập chương trình cho cuộc
sống của đứa trẻ, để cho khi nó muốn chết chỉ thế thì
nó mới chết; ngoài ra nó có thể cứ sống mãi. Nếu nó
cảm thấy rằng vẫn còn tinh hoa nó chưa nếm trải, nếu
nó cảm thấy vẫn còn những chiều hướng nó chưa thám
hiểm, nếu nó cảm thấy rằng cần thêm thời gian nữa, thế
thì nó là người chủ để quyết định sống bao lâu.
Cho tới nay, các bạn đã sống trung bình bẩy mươi
năm - điều đó bao gồm cả những người sống một trăm
năm mươi năm ở nơi nào đó trên thế giới. Tại Nga có
những người đã vượt qua một trăm năm mươi năm, và
họ vẫn còn trẻ trung. Có những người ở phần nào đó
của Kashmir, bị Pakistan xâm chiếm, sống rất dễ dàng
đến một trăm năm mươi năm, một trăm sáu mươi, một
trăm bẩy mươi tuổi. Và đó là sự kiện đáng ngạc nhiên -
tôi đã ở với những người đó - người một trăm năm
mươi tuổi vẫn đang làm việc trên cánh đồng theo cùng
cách như người đó đã làm khi năm mươi, với cùng sức
mạnh, với cùng sảng khoái.
Tất cả mọi điều cần thiết là việc lập kế hoạch tốt
hơn, lai giống tốt hơn. Đấy là sự kiện đã được biết và
được áp dụng với con vật. Bạn có thấy nhiều loại chó
đẹp trên khắp thế giới không? - nhỏ, to, mạnh mẽ, hay
chỉ đẹp. Xem chúng nhảy quanh bạn vui sướng thế.
Bạn có nghĩ rằng chúng tới từ thiên nhiên mù quáng
không? Không, trong nhiều thế kỉ chúng ta đã lai giống
chó.
Bạn biết điều đó như một sự kiện - toàn bộ thế giới
chấp nhận điều đó - rằng đàn ông không nên lấy chị em
riêng của mình. Tại sao? Điều đó đáng phải là điều đơn
giản nhất, lấy chị em riêng của mình. Bạn đã yêu cô ấy
rồi, bạn đã sống cùng cô ấy từ lúc sinh, các bạn biết lẫn
nhau. Nhưng tại sao tất cả các nền văn hoá lại cấm điều
đó? Tất cả các nền văn hoá đều nói rằng hôn nhân nên
tiến hành với người xa, người không thuộc cùng một
cây gia đình, bởi vì khoảng cách càng xa, sản phẩm
càng tốt. Nếu người Mĩ da trắng lấy người da đen, đứa
trẻ sẽ tốt hơn người Mĩ da trắng lấy người Mĩ da trắng,
hay người da đen lấy người da đen khác, bởi vì khoảng
cách giữa hai người này là rất lớn - khác nhau nhiều
thế kỉ. Họ đã trưởng thành trong các bầu không khí
khác nhau, việc lập trình của họ là hoàn toàn khác lẫn
nhau. Cho nên khi hai nền văn hoá, truyền thống, tập
tục, kiểu sống hoàn toàn khác nhau gặp nhau, họ cho
sinh thành con người tốt hơn, người có thừa kế kép:
thừa kế của người da đen và thừa kế của người Mĩ da
trắng... Trong phòng thí nghiệm sẽ có thể tìm ra các tế
bào trứng và tinh trùng xa nhau nhất có thể được. Và
chúng ta có thể tạo ra qua việc lai giống đó một người
hoàn toàn mới.
Chẳng có gì hoảng sợ về nó cả. Đấy không phải là
sinh sản đám đông. Đôi này phải nói loại người nào họ
muốn có làm con của mình. Điều đó tránh đi mọi sự
ngẫu nhiên. Và chúng ta sẽ tạo ra con người vũ trụ -
không Trung Quốc, không Ấn Độ, không Anh Quốc,
mà là con người vũ trụ. Cho nên, xin cứ say mê, đừng
cảm thấy hoảng và sợ. Chẳng có gì phải sợ cả.
Bạn đã thấy cách trẻ con được sinh ra trong quá
khứ. Trong hàng triệu năm bạn đã làm cùng điều đó -
kết quả là gì? Kết quả quyết định giá trị của điều bạn
đã làm. Thỉnh thoảng mới có một Einstein hay
Bertrand Russell - thỉnh thoảng thôi! Điều này không
phải. Điều đó đáng là hiện tượng thông thường, bình
thường. Thỉnh thoảng có lẽ sẽ có một người được sinh
ra từ vô nhận biết, vô tỉnh táo về phần nhà khoa học;
nếu không thì mọi người đã là thiên tài cả. Nghĩ xem:
toàn thế giới đầy những người như Rabindranath, Jean-
Paul Sartre, Jaspers, Heideger! Và chúng ta có thể ngăn
cản những người như Aldolph Hitler, Mussolini,
Joseph Stalin khỏi được sinh ra, bởi vì họ đã là tai hoạ
ở đây. Chúng ta có thể đóng cánh cửa hoàn toàn với
mọi Genghis Khans, Tamerlanes, Nadir Shahs - tất cả
những con quỉ xấu xí đó mà có cuộc sống chỉ gồm giết
người, phá huỷ mọi người, thiêu đốt mọi người.
Cách chúng ta đã sống không chứng tỏ điều phải.
Chúng ta chỉ có một đám đông người lùn tất cả xung
quanh - đây là điều bạn nên hoảng sợ! Nhưng việc có
khu vườn các thiên tài, những người sáng tạo, một khu
vườn tại đó chúng ta đã vứt bỏ đi tất cả những người
cuồng tín, những kẻ khờ, chính khách - nói tóm lại,
chúng ta đã lấy ra tất cả những cái độc, mọi ô nhiễm...
Có biết bao nhiêu thứ trong ý tưởng này. Bây giờ, bao
nhiêu người đang đau khổ bởi vì họ có mũi hếch? Toàn
bộ cuộc đời họ, họ cảm thấy kém cỏi. Bao nhiêu người
đau khổ bởi vì họ chỉ có một mũi? Nếu bạn nhìn vào
họ, mọi thứ khác nhỏ thế còn mũi lại lớn thế...
Tôi đã từng nghe: một nhà triệu phú có cái mũi rất
to và đôi mắt rất nhỏ, nhưng ông ấy là người giầu nhất
trong cộng đồng. Mọi người hay cười sau lưng ông ta,
nhưng không ai dám... Ông ta được một gia đình mời
đến ăn tối. Gia đình này bận tâm mỗi một điều: con họ,
một triết gia bẩm sinh, cứ hỏi về mọi thứ.
Ngay từ sáng họ đã dạy cho nó, “Con có thể hỏi bất
kì cái gì, nhưng khi người giầu này tới, con không
được hỏi về cái mũi của ông ấy.” Họ bảo nó nhiều lần
đến mức nó trở nên quan tâm ghê lắm: “Mũi ông ấy
lớn thế nào nhỉ?” Họ chưa bao giờ ngăn cản nó hỏi bất
kì câu hỏi nào. Tại sao cái mũi này lại quan trọng thế?
Nó thực sự kích động, háo hức chờ cho nhà triệu phú
này tới. Khi ông ấy tới, đứa trẻ cười phá lên. Nó nói
với bố mẹ nó, “Ông ấy chỉ có mũi, không có gì hết cả!
Và sao bố mẹ lại ngăn cản con...? Ông ấy là loài
hiếm!” Nó phá huỷ toàn bộ mọi nỗ lực.
Nhưng mọi người... gần như mọi người đều đang
chịu đựng cái gì đó này khác. Ai đó chịu đựng mầu da,
ai đó chịu đựng chiều cao; ai đó quá cao, ai đó quá
thấp. Bạn đã tạo ra cái gì? Đây là sinh sản số đông đấy
- ngẫu nhiên, được sinh ra trong bóng tối. Ít nhất con
người - người là đỉnh cao nhất của sự tồn tại - cũng
không nên phải chịu đựng thêm nữa cái phức cảm tự ti
này. Cách duy nhất là sinh sản khoa học ra trẻ con. Và
có vô hạn khả năng trong nó.
Chẳng hạn, nếu đứa trẻ được sinh ra trong phòng
thí nghiệm khoa học họ có thể sinh ra một đứa trẻ
tương tự đồng thời. Đứa trẻ kia sẽ được giữ trong
phòng thí nghiệm lớn lên đồng thời; hệt như đứa đã
đưa đi cho một gia đình nhận, đứa kia sẽ lớn lên trong
phòng thí nghiệm. Chính sự tồn tại của đứa kia tạo ra
những cơ hội lớn. Chẳng hạn, bạn bị gẫy chân. Bây giờ
chẳng cần phải bận tâm để cố định chỗ gẫy nữa - chân
của đứa kia có thể được lấy ra và trao cho bạn. Một cái
gì đó đi sai, nổi đoá, trong đầu bạn - bây giờ không cần
gì tất cả các nhà tâm lí, phân tâm, tâm thần. Đầu bạn
chỉ việc bỏ đi, bạn lấy cái đầu mới. Người kia sẽ vẫn
còn trong trạng thái mê man cả đời, trong việc đông
cứng sâu. Nó sẽ không biết gì về điều đang xảy ra. Nó
chỉ có đó trong trường hợp một cái gì đó đi sai với bạn
- và nhiều điều đi sai trong cuộc sống, thậm chí với
mọi thận trọng. Cái gì đó bao giờ cũng có thể đi sai;
cuộc sống là câu chuyện dài. Bạn có thể gặp tai nạn ô
tô... bây giờ, điều đó không thể nào bị ngăn cản bởi
việc sản sinh khoa học ra trẻ con...
Nhưng tất cả phụ thuộc vào liệu chúng ta có đủ
dũng cảm để vươn lên trên bản thân nỗi sợ của chúng
ta không. Chúng ta phải vươn lên trên cảm giác sợ hãi.
Bị hấp dẫn với con người mới đi! Con người mới phải
có loại sinh thành mới. Con người mới phải có loại
cuộc sống mới, loại tình yêu mới, loại cái chết mới.
Người đó sẽ là mới trong mọi cách có thể. Người đó sẽ
thay thế mô hình cũ đã quá đông đúc trên thế giới -
những đồ đồng nát. Họ không còn cần thiết nữa.
Đấy là quá trình đơn giản của việc lập trình cho tế
bào đầu tiên. Và chỉ tế bào đầu tiên mới có thể được
lập chương trình, bởi vì thế thì nó cứ tái tạo bản thân
nó - đó là quá trình tự động. Bạn có thể lập trình nó cho
mọi thứ. Ngay bây giờ điều đó là khó; nó đã được lập
trình cho đủ mọi loại bệnh tật, nó đã được lập trình cho
cái chết, tuổi già. Bạn không thể nào có bất kì kiểm
soát nào lên nó. Không có cách nào để thay đổi chương
trình bây giờ, bởi vì tất cả các tế bào đều có cùng
chương trình. Nếu chúng được lập trình cho một bệnh
đặc biệt mà bạn bị mắc bởi việc kế thừa, bạn sẽ chịu
cái bệnh đó. Nó có thể được thay đổi, nhưng chỉ trong
gặp gỡ đầu tiên của các tế bào đực và cái. Mọi thứ có
thể được lập trình, và bản sao chính xác của bạn có thể
được giữ trong phòng thí nghiệm. Nếu tim bạn không
làm việc tốt, tim mới có sẵn - sẽ khớp đích xác với bạn,
bởi vì nó tới từ bản sao của bạn, bản sinh đôi của bạn.
Bất kì cái gì mới cũng gây hoảng sợ, nhưng nó chỉ
gây sợ cho kẻ hèn nhát. Bất kì cái gì mới cũng quyến
rũ, nhưng nó quyến rũ chỉ người bạo dạn. Hãy bạo dạn,
bởi vì chúng ta cần một thế giới mới, dũng cảm.53
#20Thầy coi các thực nghiệm trên cuộc sống con
người, như sinh nhân tạo và đổi tim và não, là tiến
bộ hay như hành động chống lại tự nhiên?
Việc này tất cả phụ thuộc vào ai định làm điều đó.
Nếu chính khách định làm điều đó, hay cái gọi là tôn
giáo định làm điều đó, thế thì nó là chống lại tự nhiên.
Họ không thể làm bất kì cái gì tự nhiên, họ chống lại tự
nhiên. Nhưng nếu điều đó được thực hiện bởi một viện
hàn lâm quốc tế của các nhà khoa học - tôi nói viện hàn
lâm khoa học quốc tế - điều đó có thể là một bước tiến
bộ cực kì, và nó sẽ không chống lại tự nhiên. Nó sẽ là
trưởng thành của tự nhiên. Nhưng tất cả phụ thuộc vào
ai làm điều đó. Bản thân thực nghiệm là trung lập.
Không thực nghiệm nào có bất kì lợi ích được đầu tư
nào, nó là trung lập. Bạn có thể dùng thuốc độc để giết
bạn; cùng chất độc đó có thể được dùng bởi người
ngành y để cứu bạn. Tất cả đều phụ thuộc vào người
làm điều đó.
Chẳng hạn, việc phát hiện ra năng lượng nguyên tử
là một bước tiến bộ cực kì lớn, bước nhảy lượng tử.
Chúng ta đã tìm ra chìa khoá để biến đổi trái đất thành
thiên đường - biết bao nhiêu năng lượng trong một
nguyên tử nhỏ bé thế. Và chúng ở trong mọi thứ... chỉ
trong giọt sương sớm có tới hàng triệu nguyên tử. Bất
kì nguyên tử nào, nếu nó được làm nổ ra, sẽ thoát ra
nhiều năng lượng đến mức bạn có thể làm cho cả trái
đất sống trong xa hoa. Hay bạn có thể tạo ra Hiroshima
và Nagasaki - hàng nghìn người chết trong vài giây.
Nhưng bởi vì năng lượng nguyên tử, sau phát minh của
nó, rơi vào tay của các chính khách, nó đã trở thành kẻ
phục vụ cho cái chết. Bây giờ thậm chí còn có nhiều vũ
khí hạt nhân tiên tiến hơn có thể phá huỷ toàn bộ trái
đất. Đã có những vũ khí đủ để phá huỷ trái đất này bẩy
lần. Người ta đơn giản tự hỏi tại sao các quốc gia lại cứ
phát triển mãi ngày một nhiều vũ khí hạt nhân thế. Bẩy
lần phá huỷ trái đất này không đủ sao? Trong thực tế,
bạn có thể phá huỷ trái đất này chỉ một lần thôi.
Nhưng tiến bộ khoa học rơi vào trong tay các chính
khách bởi vì chỉ họ mới có thể cung cấp đủ tài chính để
làm cho các phát hiện này thành có thể. Các nhà khoa
học của cả thế giới nên nghĩ lại điều đó: thiên tài của
họ đang bị những kẻ đần độn sử dụng! Các nhà khoa
học nên tự ngắt mình ra khỏi mọi quốc gia - dù đấy là
Liên Xô hay Mĩ. Họ nên tạo ra một viện hàn lâm khoa
học quốc tế. Và điều đó không khó. Nếu tất cả các nhà
khoa học trên thế giới đều hợp sức cùng nhau, tài chính
có thể thành có sẵn, và những phát minh này có thể
giúp cho con người vô cùng...
Khoa học không nên là độc quyền của bất kì quốc
gia nào, bất kì nước nào. Toàn bộ ý tưởng này là đần
độn. Làm sao khoa học lại có thể bị độc quyền được?
Và mọi quốc gia đều đang cố gắng độc quyền các nhà
khoa học, giữ bí mật các phát minh của họ. Điều này là
chống lại nhân loại, chống lại tự nhiên, chống lại sự tồn
tại. Bất kì cái gì một thiên tài phát hiện ra nên phục vụ
cho toàn thể.
Bạn đang hỏi liệu các phát minh như thay tim
người hay thay não người có là các bước tiến bộ hay
không. Chúng có tầm quan trọng lớn để đem nhân loại
mới vào trên trái đất. Nếu thân thể của Einstein không
còn có khả năng sống, bạn có nghĩ việc cấy toàn bộ
não của ông ấy vào một người mạnh khoẻ, trẻ trung là
tốt hay không? Người mới này sẽ trở thành Einstein,
bởi vì tất cả thiên tài của Einstein đã được cấy sang
một thân thể trẻ hơn.
Theo cách này thân thể có thể cứ thay đổi, nhưng
chúng ta giữ thiên tài của Albert Einstein phát triển qua
nhiều thế kỉ. Và nếu một người trong cuộc sống bẩy
mươi năm có thể cho nhiều thế, bạn có thể tưởng tượng
nếu bộ não người đó tiếp tục làm việc hàng thế kỉ điều
đó sẽ ích lợi biết bao nhiêu cho nhân loại, cho toàn bộ
vũ trụ. Đây thực sự là lãng phí: cái bình chứa bị cũ đi,
và bạn vứt cả nội dung nữa. Thân thể chỉ là cái bình
chứa. Nếu bình chứa trở nên bẩn, cũ, không dùng được,
thì đổi bình, nhưng đừng vứt nội dung đi. Tâm trí thiên
tài có thể sống vĩnh viễn trong các thân thể khác; điều
đó chẳng có gì chống lại tự nhiên cả. Tim bạn, nếu nó
bắt đầu yếu đi, và nếu bạn có giá trị mênh mông với
nhân loại... sợ gì mà không đổi tim? Ai đó có thể chết
vì ung thư, nhưng tim người đó hoàn toàn mạnh khoẻ;
trái tim đó có thể được cấy vào một người có tài, một
thiên tài, vẫn mạnh khoẻ, nhưng trái tim lại không
mạnh. Điều này là đơn giản; chẳng có gì trong nó
chống lại tự nhiên cả.
Nhưng với các chính khách và quyền lực trong tay
họ, tất nhiên mọi tiến bộ đều chống lại tự nhiên. Mọi
thứ mà thiên tài con người đã phát hiện ra, đã phát
minh ra, cuối cùng đều phục vụ cho cái chết. Các tu sĩ
cũng vậy. Bây giờ khoa học không còn là đứa trẻ nữa,
rằng nó phải phụ thuộc vào người khác. Khoa học bây
giờ đủ trưởng thành, nó là người lớn. Chút dũng cảm...
Tôi đưa ra lời mời tất cả các nhà khoa học trên thế
giới; chúng tôi có chỗ, chúng tôi có những người thông
minh ở đây để giúp bạn theo mọi cách có thể. Đây sẽ là
cuộc cách mạng lớn trong lịch sử con người. Toàn thể
sức mạnh sẽ nằm trong tay các nhà khoa học, người
chưa bao giờ làm điều gì hại cho bất kì ai. Và một khi
tất cả các sức mạnh là trong tay của các nhà khoa học,
chính khách sẽ mờ đi theo cách của họ. Họ đã khai thác
các nhà khoa học vì mục đích của mình, và bị bất kì ai
khai thác thì không phải là hành động có chân giá trị.
Các nhà khoa học nên nhận ra chân giá trị của
mình, họ nên nhận ra tính cá nhân của mình. Họ nên
nhận ra rằng họ đã bị khai thác qua nhiều thời đại bởi
các tu sĩ và chính khách. Bây giờ là lúc tuyên bố rằng
khoa học đang sắp đứng trên đôi chân của riêng mình.
Đây sẽ là tự do vĩ đại. Thế thì tất cả những thực
nghiệm này, như những đứa trẻ phòng thí nghiệm, sẽ
mang phẩm chất khác, bởi vì bạn có thể thu xếp loại
thiên tài bạn cần. Mãi cho tới nay điều đó mới chỉ là
ngẫu nhiên, và bởi vì nó đã là ngẫu nhiên, nên chín
mươi chín phần trăm mọi người chẳng có gì để đóng
góp cả. Họ chỉ đóng góp thêm vấn đề cho thế giới. Bây
giờ, Ethiopia đã đóng góp gì cho thế giới? Những nước
nghèo đã đóng góp gì cho thế giới - hay ngay cả nước
giầu? Ngoại trừ các vấn đề, các cuộc chiến tranh,
chẳng có đóng góp gì về phần họ cả.
Nhưng nếu bạn có thể cho sinh ra trẻ con trong
phòng thí nghiệm khoa học... Điều đó là có thể, không
có vấn đề gì trong nó... Dục, lần đầu tiên, sẽ đơn giản
là trò vui! Trẻ con sẽ được sinh ra trong phòng thí
nghiệm. Chúng sẽ thuộc về tất cả. Và bởi vì bạn không
định tạo ra trẻ con theo cách cũ - nó đáng phải là bất
hợp pháp và tội lỗi khi làm như vậy, bạn sẽ ở sau chấn
song tù nếu bạn làm điều đó - thế thì nhiều vấn đề của
cuộc sống bạn sẽ đơn giản tan biến đi.
Tại sao con người cứ khăng khăng thế? Trong suốt
nhiều thời đại khăng khăng vẫn còn đó: con người
muốn chắc chắn rằng đứa con được sinh ra từ bụng vợ
mình là của mình. Tại sao? Dẫu sao thì bạn là ai? Đấy
là vấn đề về tài sản, bởi vì con bạn sẽ trở thành người
kế thừa tất cả những cái bạn đã tích luỹ. Bạn muốn
chắc chắn rằng đấy là con bạn, không phải con của
hàng xóm. Phụ nữ đã bị giữ gần như bị tù bởi nỗi sợ
đơn giản rằng nếu họ bắt đầu trộn lẫn với mọi người sẽ
khó quyết định được đứa trẻ là con ai. Chỉ người mẹ
mới biết, hay thậm chí cô ấy có thể cũng chẳng biết.
Một khi việc sinh ra cuộc sống chuyển vào trong
tay của khoa học, dục sẽ được biến đổi. Thế thì bạn
không ghen tuông, thế thì bạn không là độc đoán, thế
thì chế độ một vợ một chồng là ngớ ngẩn. Thế thì dục
chỉ là vui đùa, cách thức bạn chơi quần vợt. Và bạn
không bận tâm rằng bạn tình phải theo kiểu một vợ một
chồng - hai thân thể tận hưởng lẫn nhau... Và sẽ không
có sợ hãi rằng vợ có thể mang thai và sẽ có vấn đề, tài
chính hay cái gì khác. Dục sẽ không còn là vấn đề cho
dân số thế giới; nó sẽ không còn là vấn đề cho tu sĩ.
Trong thực tế, nếu trẻ con được sinh ra trong phòng thí
nghiệm khoa học nhiều vấn đề rắc rối của thế giới sẽ
tan biến. Và chúng ta có thể tạo ra những người tốt
nhất: đẹp đẽ, mạnh khoẻ, có khả năng sống lâu như
chúng ta mong muốn. Tuổi già là không cần thiết - con
người có thể vẫn còn trẻ trung, mạnh khoẻ, không ốm
bệnh. Tất cả những bệnh viện này và biết bao nhiêu
người, bao nhiêu tiền đổ vào. Bạn có biết - Mĩ chi tiêu
nhiều tiền vào thuốc nhuận tràng còn hơn vào giáo dục.
Ý tưởng vĩ đại sao! Ai quan tâm tới giáo dục? Vấn đề
là ở thuốc nhuận tràng chứ!
Nhưng điều cơ bản phải ghi nhớ: các nhà khoa học
phải đủ dũng cảm và tuyên bố rằng họ không thuộc vào
bất kì quốc gia nào, vào bất kì tôn giáo nào, rằng bất kì
điều gì họ làm đều sẽ dành cho toàn nhân loại. Và tôi
không thấy rằng có bất kì cái gì không thể được trong
nó cả. Tôi hoàn toàn ủng hộ cho những phát minh tiến
bộ đó có thể làm cho con người hạnh phúc hơn, sống
lâu hơn, trẻ trung hơn, mạnh khoẻ hơn, và điều đó làm
cho cuộc sống của người đó nhiều vui đùa hơn và ít là
cuộc hành trình hành hạ từ cái nôi tới nấm mồ.54
******************************************************
#21 Sức mạnh chữa lành của tiếng cười
Tiếng cười có năng lực thiền và năng lực thuốc. Nó
chắc chắn làm thay đổi chính hoá chất của bạn; nó thay
đổi sóng não của bạn, nó thay đổi thông minh của bạn -
bạn trở nên thông minh hơn. Phần tâm trí của bạn đã
từng ngủ bỗng nhiên tỉnh dậy. Tiếng cười đạt tới phần
bên trong nhất của bộ não của bạn, tới trái tim bạn.
Con người của tiếng cười không thể bị đau tim được.
Con người của tiếng cười không thể tự tử được. Con
người của tiếng cười tự động đi tới biết thế giới của im
lặng, bởi vì khi tiếng cười dừng lại bỗng nhiên có im
lặng. Và mỗi lần tiếng cười trở nên sâu hơn thì đi theo
ngay sau nó là im lặng sâu lắng hơn.
Nó chắc chắn gạn lọc bạn - khỏi truyền thống, khỏi
rác rưởi của quá khứ. Nó cho bạn tầm nhìn mới về
cuộc sống. Nó làm cho bạn sống động hơn và rạng
ngời hơn, sáng tạo hơn.55
Bây giờ, thậm chí y học nói rằng tiếng cười là một
trong những thuốc đi sâu nhất mà tự nhiên đã cung cấp
cho con người. Nếu bạn có thể cười khi bạn ốm bạn sẽ
làm cho mạnh khoẻ của mình quay trở lại sớm hơn.
Nếu bạn không thể cười, thậm chí nếu bạn đang mạnh
khoẻ, sớm hay muộn bạn sẽ mất mạnh khoẻ của mình
và bạn sẽ trở nên ốm yếu. Tiếng cười đem năng lượng
nào đó từ cội nguồn bên trong của bạn lên bề mặt.
Năng lượng bắt đầu tuôn chảy, theo sát tiếng cười như
cái bóng. Bạn đã quan sát nó chưa? - khi bạn thực sự
cười, trong vài khoảnh khắc đó bạn trong trạng thái
thiền sâu sắc. Suy nghĩ dừng lại. Không thể nào vừa
cười vừa nghĩ được. Chúng là đối diện nhau: hoặc bạn
có thể cười hoặc bạn có thể nghĩ. Nếu bạn thực sự
cười, suy nghĩ dừng lại. Nếu bạn vẫn nghĩ, tiếng cười
sẽ chỉ làng nhàng, nó sẽ chỉ làng nhàng, vuốt đuôi. Nó
sẽ là tiếng cười què quặt. Khi bạn thực sự cười, bỗng
nhiên tâm trí biến mất. Và toàn bộ phương pháp luận
thiền là cách đi vào vô trí - tiếng cười là một trong
những cánh cửa đẹp để đi vào nó.
Như tôi được biết, nhảy múa và tiếng cười là những
cánh cửa tốt nhất, tự nhiên, dễ tiếp cận. Nếu bạn thực
sự nhảy múa, suy nghĩ dừng lại. Bạn cứ tiếp tục và tiếp
tục mãi, bạn xoay tròn và xoay tròn, và bạn trở thành
cơn lốc - tất cả biên giới, tất cả phân chia đều bị mất.
Bạn thậm chí không biết thân thể bạn kết thúc ở đâu và
sự tồn tại bắt đầu từ đâu. Bạn tan chảy vào trong sự tồn
tại và sự tồn tại tan chảy vào trong bạn; có chờm lấp
biên giới. Và nếu bạn thực sự nhảy múa - không điều
khiển nó mà cho phép nó điều khiển bạn, cho phép nó
sở hữu bạn - nếu bạn bị điệu vũ sở hữu, suy nghĩ dừng
lại. Cùng điều đó xảy ra với tiếng cười. Nếu bạn bị
tiếng cười sở hữu, suy nghĩ dừng lại. Và nếu bạn biết
tới vài khoảnh khắc vô trí, những thoáng nhìn đó sẽ
hứa hẹn cho bạn nhiều phần thưởng nữa đang tới. Bạn
chỉ phải trở thành ngày càng nhiều về loại đó, về phẩm
chất đó, về vô trí đó. Càng cười nhiều hơn, suy nghĩ
phải bị vứt bỏ. Tiếng cười có thể là việc đưa vào trạng
thái vô suy nghĩ tuyệt vời....
Trong vài thiền viện các nhà sư phải bắt đầu buổi
sáng của mình bằng tiếng cười và phải kết thúc buổi
đêm của mình bằng tiếng cười - điều đầu tiên và điều
cuối cùng! Thử điều đó đi. Nó rất tuyệt vời. Nó có vẻ
chút ít điên rồ - bởi vì biết bao nhiêu người nghiêm
chỉnh ở khắp xung quanh. Họ sẽ không hiểu. Nếu bạn
hạnh phúc, họ bao giờ cũng hỏi tại sao. Việc hỏi này là
ngu ngốc! Nếu bạn buồn, họ chẳng bao giờ hỏi tại sao.
Họ coi điều đó là đương nhiên - nếu bạn buồn, thế là
tốt. Mọi người đều buồn cả. Có gì mới trong đó nào?
Thậm chí nếu bạn muốn kể cho họ thì họ cũng chẳng
quan tâm bởi vì họ biết tất cả về nó, bản thân họ cũng
buồn. Cho nên phỏng có ích gì mà kể câu chuyện dài? -
cắt nó đi cho ngắn! Nhưng nếu bạn cười chẳng bởi lí
do gì thế thì họ trở nên cảnh giác - cái gì đó đã đi sai.
Con người này dường như có chút ít điên rồ bởi vì chỉ
người điên mới tận hưởng tiếng cười; chỉ trong nhà
thương điên bạn mới tìm thấy người điên cười. Điều
này là không may, nhưng điều này là như vậy.
Sẽ khó, nếu bạn là chồng hay vợ, sẽ khó cho bạn để
bỗng nhiên cười vào sáng sớm. Nhưng cứ thử nó - nó
đáng giá cực kì đấy. Đấy là một trong những tâm trạng
đẹp nhất khi thức dậy, đi ra khỏi giường. Chẳng bởi lí
do gì cả! - bởi vì không có lí do nào. Đơn giản bạn lại
có đó, vẫn sống - đó là phép màu. Điều đó dường như
kì cục - tại sao bạn lại sống? Và lần nữa thế giới có đó.
Vợ bạn vẫn ngáy, và vẫn cùng phòng ấy, cùng nhà ấy.
Trong cái thế giới thay đổi thường xuyên này - điều
người Hindu gọi là ảo vọng maya - ít nhất một đêm
không gì thay đổi cả sao? Mọi thứ có đó: bạn có thể
nghe thấy tiếng người đưa sữa và giao thông đã bắt
đầu, và cùng tiếng ồn đó - cũng đáng cười lắm chứ!
Một ngày nào đó bạn sẽ không dậy vào buổi sáng
nữa. Một ngày nào đó người đưa sữa sẽ gõ cửa, vợ bạn
sẽ ngáy, nhưng bạn sẽ không có đó. Một ngày nào đó
cái chết sẽ tới. Trước khi nó quật ngã bạn, cười to -
trong khi có thời gian cười to. Và nhìn vào toàn bộ cái
buồn cười này: lại cùng ngày bắt đầu; bạn đã làm đi
làm lại cùng những điều đó trong cả đời mình. Lần nữa
bạn sẽ xỏ chân vào đôi dép lê, xô vào buồng tắm - để
làm gì? Đánh răng, tắm táp - để làm gì? Bạn đi đâu?
Sẵn sàng rồi chẳng đâu mà đi cả! Mặc quần áo, xô đến
văn phòng - để làm gì? Chỉ để làm cũng những điều đó
vào ngày mai sao?
Nhìn vào toàn bộ cái buồn cười của nó - và cười to.
Đừng mở mắt vội. Khoảnh khắc bạn cảm thấy rằng
giấc ngủ đã qua, trước hết bắt đầu cười đã, thế rồi mở
mắt - và điều đó sẽ đặt ra xu hướng cho cả ngày. Nếu
bạn có thể cười sáng sớm bạn sẽ cười cả ngày. Bạn đã
tạo ra hiệu ứng dây chuyền; việc này dẫn tới việc khác.
Tiếng cười dẫn tới nhiều tiếng cười hơn. Và gần như
bao giờ tôi cũng thấy mọi người chỉ làm điều sai. Từ
ngay sáng sớm vừa ra khỏi giường là đã phàn nàn, u
sầu, buồn bã, chán nản, khổ. Thế rồi cái nọ dẫn tới cái
kia - và chẳng để làm gì cả - và họ giận dữ. Điều đó rất
tồi bởi vì nó sẽ thay đổi bầu không khí của bạn cho cả
ngày, nó sẽ đặt ra hình mẫu cho cả ngày.
Thiền nhân lành mạnh hơn. Trong cái điên khùng
của họ, họ vẫn lành mạnh hơn bạn. Họ bắt đầu bằng
tiếng cười... và thế thì cả ngày bạn sẽ cảm thấy tiếng
cười bật ra, phụt ra. Có biết bao nhiêu điều buồn cười
xảy ra khắp nơi! Thượng đế phải chết vì cười - hàng
thế kỉ, vĩnh hằng, khi thấy cái buồn cười này của thế
giới. Những con người mà ngài đã tạo ra, và tất cả
những cái ngớ ngẩn - đấy thực sự là vở hài kịch. Ngài
phải cười to. Nếu bạn trở nên im lặng sau cái cười của
mình, một ngày nào đó bạn sẽ nghe thấy Thượng đế
cũng cười, bạn sẽ nghe thấy toàn bộ sự tồn tại cười -
cây cối và đất đá và các vì sao với bạn.
Thiền sư đi ngủ ban đêm với tiếng cười. Ngày qua
rồi, vở kịch khép lại rồi - với tiếng cười ông ấy nói,
“Tạm biệt nhé, và nếu tôi còn sống sáng mai nữa tôi sẽ
đón chào bạn lần nữa với tiếng cười.”
Thử nó đi! Bắt đầu và kết thúc ngày của bạn với
tiếng cười, và bạn sẽ thấy, dần dần, ở giữa hai điều này
ngày càng nhiều tiếng cười bắt đầu xảy ra. Và bạn càng
trở nên cười nhiều hơn, bạn càng tôn giáo hơn.56
Hàng triệu người đã quên mất cách cười. Ở một số
nước các nhà tâm lí đang chuẩn bị tài liệu cho mọi
người được dạy ở trường phổ thông, đại học, bệnh
viện, về cách cười, bởi vì họ đã phát hiện ra điều tôi đã
nói liên tục với bạn: tình yêu và tiếng cười đi đôi với
nhau, và tiếng cười là một trong những phương thuốc
lớn lao nhất. Đồng thời nó cũng là việc thiền lớn. Các
nhà nghiên cứu đã làm việc rất sâu để tìm điều gì xảy
ra khi mọi người cười. Luồng máu của họ thay đổi, các
tế bào não của họ trở nên tích cực hơn, nhịp tim của họ
trở nên nhịp điệu hơn. Cái gì đó giống như tiếng cười
đã được các nhà khoa học tìm ra là cực kì quan trọng -
nhưng họ cũng lại cực kì đần độn về nó. Họ nghĩ điều
đó phải là việc huấn luyện; mọi học sinh phổ thông
phải được huấn luyện cách cười.
Và nếu mọi người được huấn luyện cách cười, thì
không tiếng cười nào sẽ tồn tại cả! Bây giờ họ đang nói
rằng trong mọi bệnh viện nên có một cái buồng đặc
biệt, buồng khôi hài nơi tất cả các bệnh nhân nên kể
chuyện tiếu lâm và cười. Điều đó được tính toán rất kĩ:
điều mà thuốc của họ không thể làm được, tiếng cười
có thể làm được. Nhưng với tôi, nếu tiếng cười tới như
việc huấn luyện thì nó có thể làm cái gì đó, nhưng nó
không thể là việc biến đổi toàn bộ, chỗ mà trong một
khoảnh khắc toàn thể bản thể bạn ngân lên, bao la ra,
trẻ lại và không có hiệu quả phụ.
Mới hôm nay tôi đã đi tới biết rằng một phần ba
bệnh tật trên thế giới là do bác sĩ tạo nên. Một cách
không chủ ý - chỉ bởi vì thuốc của họ, cái cứ làm phát
sinh hiệu quả phụ.Vào khoảnh khắc này chúng có thể
hữu dụng, nhưng chúng có thể tạo ra cái gì đó trong
hoá chất của bạn, trong hooc môn của bạn, trong sinh
học của bạn. Và bạn có thể chẳng bao giờ liên hệ với
chúng. Bạn đã uống thuốc aspirin chỉ để chữa đau đầu -
nói cho đúng, chỉ cho vợ bạn! - nhưng aspirin đó sẽ có
hiệu quả riêng của nó, và bạn là hiện tượng phức tạp.
Chính nhân loại đáng thương mới cần huấn luyện
cười. Cái ngày đó sẽ rất xấu nếu chim hỏi, “Trước hết
huấn luyện cho chúng tôi đã, thế rồi chúng tôi sẽ hót.”
Và công sẽ nói, “Chúng tôi chẳng quan tâm tới mây.
Trước hết dạy chúng tôi đi; thế rồi chúng tôi sẽ xoè
cánh ra.” Nhưng công múa khi đám mây mưa đầu tiên
bắt đầu tới; không có huấn luyện cho nó, không có
trường huấn luyện cho công. Không huấn luyện nào
cho chim cả, không huấn luyện nào cho hoa cả - tại sao
con người lại phải được huấn luyện về mọi thứ? Tại
sao người đó không được phép tự phát?
Có nỗi sợ nào đó trong tính tự phát, bởi vì hành vi
tự phát là không thể dự đoán được. Bạn có thể cười ai
đó và người đó có thể đơn giản nhìn vào bạn dường
như bạn là kẻ đần độn. Không có nhu cầu cho người đó
cười đáp lại - người đó là tự phát, người đó đang cảm
thấy giống như nhìn bạn là kẻ đần độn. Chẳng có gì sai
trong đó; đấy là vấn đề của người đó. Bạn cười - đấy là
vấn đề của bạn. Tại sao làm lộn xộn lên? Để tránh né
những tình huống như vậy, mọi người đã được huấn
luyện về mọi thứ: cách bước đi, cách nói, nói gì, khi
nào nói điều đó. Một cách tự nhiên, dần dần họ trở
thành rất giả dối - chỉ là các diễn viên trong vở kịch,
lặp lại điều đối thoại.
Tôi đã tới thăm một trường đại học thần học lớn
nhất châu Á, nơi huấn luyện các nhà truyền giáo đi tới
tất cả các vùng phương Đông nghèo khó để cải đạo họ
thành Ki tô giáo. Ông hiệu trưởng là một người bạn, và
ông ấy đưa tôi đi quanh khu trường. Trong một lớp, tôi
không thể nào tin vào mắt mình được. Điều tôi thấy
được thực hiện là ngớ ngẩn đến mức tôi gần như sững
sờ. Thầy giáo đã dạy quãng sáu mươi sinh viên, những
người đã sẵn sàng, gần như sẵn sàng ra đi làm việc
truyền giáo. Ông ấy bảo họ, khi họ lặp lại phát biểu nào
đó của Jesus, loại điệu bộ nào, loại diễn tả khuôn mặt
nào phải dùng... khi nào là lúc đập bàn, và khi nào là
lúc thì thào im lặng rằng Thượng đế là tình yêu. “Và
khi các em mô tả cõi, đừng chỉ mô tả nó một cách
nhàm chán. Để cho khuôn mặt các em rạng rỡ lên; để
cho từng lời là dịu ngọt thuần khiết, toàn thơ ca.”
Vào lúc đó một sinh viên hỏi, “Và khi chúng tôi
mô tả địa ngục, chúng tôi phải làm gì?”
Thầy nói, “Khi có liên quan tới địa ngục... cứ như
các anh, thế là hoàn hảo đấy.”
Không có huấn luyện về địa ngục bởi vì bạn trông
đã như là đang trong địa ngục rồi!
Tôi hỏi ông hiệu trưởng, “Ông không thấy điều vô
nghĩa này sao? Những người này chẳng có cảm động
gì, còn ông ấy lại đang áp đặt lên họ rằng khi người ta
nói điều gì đó thì cần cách diễn đạt nào đó trên khuôn
mặt, trong ánh mắt, trong bàn tay.”
Tôi chưa bao giờ theo bất kì khoá huấn luyện nào,
nhưng khi cần thì tay biết điều phải làm. Lời biết khi
nào dừng và khi nào để im lặng kế tục. Mắt chớp lên
bởi chính chúng khi bạn đang mô tả kinh nghiệm của
riêng mình. Thế thì không có nỗ lực...
Tất cả những điều cần thiết là bảo cho mọi người:
Tự phát! Khi tiếng cười tới, đừng chặn nó lại. Trong
thế giới này, mọi thứ đều trở thành giả, bởi vì bạn tin
vào cái giả. Đơn giản thôi, chỉ là chính mình. Không
cần phải hành động. Bất kì hành động nào tới một cách
tự phát, để nó tới; tận hưởng tự phát của nó. Thế thì
bạn sẽ thấy cái đẹp, định tâm, đơn giản. Cái gì đó đích
thực - không giả, không rởm. Tất cả điều này đơn giản
thế.
Ngày xưa một nông dân trong trang trại mình có
một con gà trống, vốn là một trong những sinh vật lười
biếng nhất đã từng sống tới giờ. Thay vì gáy như lúc
phải gáy, khi mặt trời lên vào buổi sáng, nó đơn thuần
đợi cho tới khi gà trống khác gáy đã - và thế rồi nó mới
gật đầu đồng ý.
Nhưng nếu đấy là tự phát, nó có cái đẹp riêng. Tại
sao phải bận tâm? - ai đó khác đang làm điều đó. Tôi
hoàn toàn đồng ý với con gà trống đó; tôi chưa bao giờ
làm bất kì cái gì trong đời mình cả. Nếu ai đó ngẫu
nhiên làm nó...
Để mở hội mừng kỉ niệm đám cưới vàng, Saul và
Sylvia Shulman quyết định lặp lại cùng những điều họ
đã làm vào tuần trăng mật. Họ tới cùng khách sạn đó
và đặt đúng cái phòng đó. Sylvia bôi cùng loại nước
hoa và mặc cùng loại áo ngủ. Như ông ta đã làm vào
đêm trăng mật, Saul vào buồng tắm và Sylvia nghe
thấy ông ta cười - hệt như anh ta đã làm năm mươi năm
trước đây. Cho nên khi ông ta quay lại Sylvia nói,
“Anh yêu, điều đó thực là tuyệt - mọi thứ vẫn như cũ.
Em có thể nhớ điều đó cứ như là nó mới hôm qua.
Năm mươi năm trước anh cũng đi ra từ buồng tắm và
cười theo cùng cách ấy. Vào lúc đó em không có đủ
dũng cảm để hỏi anh, nhưng bây giờ, anh hãy nói cho
em. Tại sao anh đã cười?”
“Thế này, nó cũng giống như thế này, em yêu,”
Pail nói. “Năm mươi năm trước đó, khi anh đi đái, anh
đái ướt cả trần nhà. Còn tối nay anh đái ướt cả chân!”
Đơn giản một cách hồn nhiên. Con người này phải
đã là người rất tự phát. Người đó đã nói ra chân lí -
chẳng có gì phải che giấu về nó cả. Nhưng phần lớn
trong các bạn sẽ không dám nói ra chân lí. Chân lí rất
đơn giản; nó không cần huấn luyện, không chuẩn bị,
không bài tập. Bạn đơn giản là cái bạn đang là. Chỉ
chấp nhận nó và bộc lộ nó cho thế giới.57
******************************************************
#Trích dẫn
1 Hidden Mysteries, Ch.5 (chưa xuất bản)
2 Socrates Poisned Again After 25 Century,Ch. 20
3 From Misery to Enlightenment, Ch. 25
4 From Bondage to Freedom, Ch.28
5 Beyond Enlightenment, Ch. 28
6 Sermons in Stones, Ch. 10
7 Sermons in Stones, Ch.2
8 God’s Got a Thing About You, Ch. 8
9 Yoga: The Alpha and the Omega, Vol. 10, Ch. 7
10 The Zen Manifesto: Freedom From Oneself, Ch. 7
11 Far Beyond the Stars, Ch. 15
12 The Shadow of the Whip, Ch. 20
13 God is not for Sale, Ch. 7
14 Beloved of my Heart, Ch. 19
15 Zarathustra: The Laughing Prophet, Ch. 15
16 Hammer on the Rock, Ch. 18
17 Dance Your Way to God, Ch. 9
18 Won’t You Join the Dance, Ch. 24
19 The Passion for the Impossile, Ch. 1
20 The Shadow of the Whip, Ch. 9
21 The Invitation, Ch. 26
22 The Path of Mystic, Ch. 41
23 The Passion for the Impossiblr, Ch. 8
24 The Messiah, Vol. 2, Ch. 16
25 Om Shantih, Shantih, Shantih, Ch. 27
26 Meditation: The Art of Ecstasy, Ch. 5
27 The Psychology of the Esoteric, Ch. 8
28 The Transmission of the Lamp, Ch. 33
29 The Dhammapada, Vol. 1, Ch. 8
30 Don’t Bite My Finger, Look Where I’m Pointing,
Ch. 9
31 I Say Unto You, Vol. 2, Ch. 4
32 The Transmission of the Lamp, Ch. 33
33 Yoga: The Alpha and the Omega, Vol. 6, Ch. 5
34 The Book of Wisdom, Ch. 13
35 The Shadow of the Whip, Ch. 3
36 Only Losers Can Win in This Game, Ch. 12
37 Hsin Hsin Ming: The Book of Nothing, Ch. 6
38 Yoga: The Alpha and the Omega, Vol. 6, Ch. 5
39 Tao: The Pathless Path, Vol. 1, Ch. 6
40 That Art You, Ch. 16
41 The Revolution, Ch. 6
42 Philosophia Perrennis, Vol. 1, Ch. 2
43 Zen: The Path of Paradox, Vol. 3, Ch.6
44 A Bird on the Wing, Ch.1
45 Yoga: The Alpha and the Omega, Vol. 3, Ch. 2
46 And Now And Here, Vol. 1, Ch. 4
47 Vigyan Bhairav Tantra, Vol. 1, Ch. 15
48 The Golden Future, Ch. 16
49 Beyond Psychology, Ch. 11
50 Sufis: The People of the Path, Vol. 2, Ch. 6
51 Socrates Poisoned Again After 25 Centuries, Ch. 1
52 From Misery to Enlightement, Ch. 28
53 From False to the Truth, Ch. 29
54 From False to the Truth, Ch. 19
55 Yahoo! The Mystic Rose, Ch. 30
56 A Sudden Clash of Thunder, Ch. 9
57 Yahoo! The Mystic Rose, Ch. 26
END
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top