tu nu den hoa p2
Trong những thiền tự, bữa điểm tâm bằng cháo được tiếp theo với tuần trà trong phòng của vị thiền sư.
Thiền sư duyệt qua công việc phải làm hàng ngày trong khi một ấm trà xanh bột được khuấy kỹ rồi dâng
lên cho ông đầu tiên, và những người khác tiếp theo. Khi tôi mới đến học đạo với lão sư Zuigan, có một nữ
nhân, tên là Okamoto, cũng đang sống ở trong chùa Daishuin. Người đàn bà lớn tuổi này đã tốt nghiệp
truờng nữ đại học Ochanomizu dưới triều đại Taisho và đã làm việc trong ngành giáo dục nữ sinh trong
nhiều năm, cả ở Tokyo lẫn Kyushu. Khi đã ngoài 40 tuổi, cô trở thành một đệ tử nghiêm túc của Thầy. Cô
xin nghỉ việc và dọn đến ở gần với Thầy, và, lúc nào cũng trong bộ quần áo lao động thùng thình, cô đã
chăm nom săn sóc Thầy cho đến khi ngài viên tịch. Vào lúc ấy, ở chùa chỉ có ba chúng tôi, và trong khi
dùng trà Ðại sư thường nói chuyện với cô Okamoto, nhưng ngài chẳng bao giờ thèm nói với tôi tiếng nào.
Một hôm cô Okamoto, có lẽ vì thương hại, đã đem tôi vào câu chuyện. "Còn con nghĩ thế nào, Morinaga?"
"Không, không," Lão sư nói chen vào. "Nó chưa đủ tư cách để nói trước mặt ai hết."
Theo quan niệm của lão sư, muốn nói chuyện trước người khác, người ta phải tự biết mình hoàn toàn mới
được. Sự nhận biết bản thể của chính mình được gọi là Kiến Tánh trong thiền môn. Những người chưa
kiến tánh được coi như chưa đủ tư cách để nói chuyện trước mặt người khác.
Sự việc này làm tôi tức tối, và một lần nữa tôi lại rủa thầm trong bụng, "Ông già đáng ghét! Ông ấy nói
chẳng có người nào, vật nào là rác cả, nhưng ông ấy đối xử với mình có khác gì rác rến đâu?"
Tôi chỉ nghĩ thầm như vậy thôi. Nhưng nếu tôi dám tỏ lộ thái độ ra ngoài, chắc mọi sự sẽ chấm dứt ngay!
Lão sư chắc sẽ nói thẳng với tôi không ngần ngại rằng: "Thế à, vậy thì mi trở về nhà đi. Không ai có thể
học đạo với một vị thầy mà không tôn kính và tin tưởng vị thầy ấy được."
Qua kinh nghiệm của tuần trà này, tôi hiểu rằng sự tin tưởng thực sự tức là sự chấp nhận mà không có
quyền thắc mắc. Tôi phải đồng ý nhận bất cứ công việc gì, cho dù nó khó khăn vượt bực đến đâu. Cho dù
tôi có được bảo phải làm ba việc cùng một lúc, cho dù tôi được bảo phải làm điều gì tôi chưa từng làm, tôi
cũng không bao giờ, dưới bất cứ hoàn cảnh nào, được nói rằng: "Con không làm được. Ðiều đó không thể
làm được."
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 14 of 52
Nếu vậy, tôi phải làm sao bây giờ? Sống chết, tôi cũng phải dồn hết mọi nỗ lực tập trung vào công việc ...
đó là điều duy nhất tôi có thể làm được. Ðiều đầu tiên mà Ðại sư đã nhồi nhét vào trong tôi là phải tin
tưởng nơi vị thầy. Ðiều đó có nghĩa là tôi phải lo làm công việc của chính mình, qua sự cố gắng toàn diện,
và không được than phiền chút nào.
" Không thể làm được "
Khi xưa lúc cha mẹ tôi còn sống và khỏe mạnh, tôi thường cằn nhằn suốt ngày, và câu nói "Con không thể
làm được" lúc nào cũng sẵn sàng trên đầu môi chót lưỡi của tôi. Tuy vậy, tôi để ý thấy rằng câu "Con
không thể làm được" mà lúc nào tôi cũng nói luôn mồm này, thực sự ra không phải là một lượng định vô
tư về sự thiếu khả năng một cách khách quan, mà sự thiếu khả năng đó là dựa trên sự lượng định đầy chủ
quan của tôi về năng lực của mình vào thời điểm đó.
Khi bạn nghĩ rằng bạn có khả năng, tỷ như là, tới 10.0 chẳng hạn, tất cả những gì lên đến 9.9 là có thể làm
được; cái cảm tưởng "Không thể làm được" khởi lên đúng vào lúc bạn được giao cho một công việc lên
đến 10.1. Người nào mau chóng cho rằng một công việc nào đó là không thể làm được sẽ không bao giờ
làm được một việc gì quá 10.0. Người đó sẽ chẳng bao giờ khá hơn được. Vì vậy, bạn không bao giờ nên
nghĩ rằng, "Tôi không làm được".
Không cần biết thầy của mình đòi hỏi mình tới mức nào, bạn phải luôn luôn làm tròn nhiệm vụ. Bạn phải cố
gắng không ngừng để lo cho xong việc, và trong khi bạn leo thang ... từ 10.1, 10.2, 10.3 ... bạn sẽ dần dần
phát triển, lần đầu tiên, một khả năng mà bạn không bao giờ ngờ là bạn có thể có được.
Giả tỷ như bây giờ Thầy tôi ra lệnh, "Giết!" hay "Chết đi!" Tôi có sẽ phải giết, hay chết thực không? Tôi sẽ
phải làm gì bây giờ? Nếu nhận những lệnh như vậy, làm sao người ta có thể tin tưởng được vị thầy đó?
Trước hết, chúng ta phải nhận biết rằng người thầy mà chúng ta tin tưởng sẽ không bao giờ bảo chúng ta
làm một điều gì vô đạo đức. Do đó, khi vị thầy dùng đến chữ giết hay là chết, những chữ này phải có một
ẩn ý sâu xa, mà người đệ tử chưa thể hiểu được.
Và rồi, chấp nhận rằng những ngôn từ được dùng có một ý nghĩa khác sâu xa hơn, nhưng không hiểu ý
nghĩa ấy như thế nào, người đệ tử thấy mình bị dằn vặt bởi một mối nghi lớn. Ðeo đẳng mối nghi này trong
tâm, thường xuyên bị thúc đẩy với ý nghĩ về nan đề trước mắt, người đệ tử dồn hết sức lực để lo tập trung
tu tập. Ðiều đó, theo nhà Thiền, gọi là "đại tín căn".
Những câu như là "Giết Phật, giết Tổ" và ngay cả "Giết cha, giết mẹ" xuất hiện nhan nhản trong những
văn bản của Thiền tông. "Ðại tín căn" trong Thiền là làm tới nơi tới chốn những gì được giao cho, đúng với
ý nghĩa của chữ này. Bất kỳ bạn có nghe nói gì, bất kỳ bạn có được giao cho việc gì, bạn cũng làm việc đó
một cách siêng năng, không một chút phàn nàn. Sự siêng năng này là đặc điểm nổi bật trong thời gian
đầu tiên học đạo của tôi .
Ðiều đó, tuy nhiên, không có nghĩa là tôi thi hành những việc được giao phó một cách đáng tin cậy hay là
thành thạo gì. Ví dụ như, có lúc trong ngày đầu tiên của tôi, khi tôi được sai đi lau nhà, tôi quỳ gối xuống
sàn nhà, cầm cái giẻ lau trong một tay, lau qua lau lại từ phải sang trái. Tuy nhiên, những sàn gỗ của một
ngôi thiền tự thật bao la lớn rộng hơn nhà thường rất nhiều.
"Ðồ ngu! Mi tính ngồi đó lau nhà tới bao nhiêu ngày mới xong hả? Phải lau như thế này này." Khi tôi thấy
Thầy quỳ xuống cả hai tay lẫn hai chân, mông chổng lên, lấy hai tay đè lên miếng giẻ trên sàn rồi kéo lê
thoăn thoắt suốt dọc hành lang, tôi cảm thấy như những lớp vẩy đang che lấp tầm mắt nhìn của tôi đang
rơi xuống đất.
Khi học khoa văn ở trường trung học, những bạn đồng học và tôi thuờng đọc những sách triết và rồi thảo
luận với nhau suốt đêm. Toàn là những câu chuyện lý thuyết! Tôi đã bỏ biết bao nhiêu thì giờ trong những
hoạt động đó rất lâu trước khi tôi bước chân vào cổng Thiền. Nhưng tất cả chỉ là lý thuyết, và trong thực tế,
tôi còn chưa biết lau nhà cho đúng cách nữa! Tôi cảm thấy thật xấu hổ với mình khi nhận ra điều này, và
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 15 of 52
tự quyết định rằng từ đây tôi sẽ cố gắng làm hết sức mình. Nhưng tôi vẫn chưa biết hướng nguồn năng
lượng của mình đến đúng nơi đúng chỗ.
Ban ngày thường có một nhóm thanh niên trẻ đến chùa làm công quả. Nếu một người trong số họ cầm cây
chổi lên và bắt đầu quét vườn, tôi sẽ nhẩy bổ nào nói: "Ðưa đây, để tôi làm!" ... và giằng lấy cây chổi trên
tay anh ta. Nếu có một người khác đi lau nhà, tôi cũng sẽ nhào đến, dựt lấy cái giẻ lau, "Ðưa đây, để tôi
làm!" Nếu có một ai đó đi nhóm lửa để đun nước tắm, tôi cũng sẽ chạy bay vào dành lấy việc, tuyên bố
"Ấy để tôi làm!"
Cuối cùng, tất cả bọn họ đều kêu lên với tôi, "Bộ thầy không tìm được việc gì làm mà không phải dành lấy
việc của người khác hả?"
Lúc ấy, tôi quả tình không hiểu được tôi đã làm gì sai. Có lẽ đó là bởi vì tôi không thể tự xoay xở được điều
gì, bằng những nỗ lực riêng của chính mình.
Bây giờ, khi các thiền sinh đến chùa của tôi để tập tọa thiền, việc đầu tiên tôi giao cho họ làm là đun nước
tắm. Biết rằng đôi khi họ có thể nhóm lửa dưới một bồn tắm trống không, tôi thường bắt đầu hỏi dò họ vài
câu.
"Anh sắp phải sửa soạn đun nước tắm. Việc đầu tiên anh làm là gì?"
Rất nhiều khi, câu trả lời là: "Nhóm lửa."
"Anh không định đốt tôi đấy chứ hả?" Tôi hỏi.
"Ồ không, đầu tiên con phải cho nước vào đầy bồn đã," thiền sinh sẽ nói vậy.
"Anh chỉ cho nước vào bồn như vậy thôi à?" Câu hỏi này làm họ bối rối vì họ không hề có ý nghĩ là phải cọ
sạch bồn tắm trước. Sau khi duyệt qua với họ những cái căn bản ... cọ sạch bồn tắm, bơm nước vào đầy
bồn, kiểm soát lại mực nước, đậy nắp lên, rồi nhóm lửa ... tôi trở lại để thấy họ đang loay hoay khó xử bên
cái lỗ nhóm mồi. Nhìn vào trong lò, tôi thấy vài khúc củi to nằm chắn lên trên đống giấy báo đang cháy rụi.
"Làm thế này lửa sẽ không bắt được, có phải không? Sao không dùng mấy que củi nhỏ hơn?" Tôi hỏi.
"Nhưng bạch thầy, không có que củi nào nhỏ hơn cả."
"Thế thì chẻ nó ra cho nhỏ hơn được không?"
"Con không biết cái rìu ở đâu."
"Nếu không biết, tại sao không hỏi?"
Cuối cùng sau đó, người thiền sinh trẻ tuổi bắt đầu đi chẻ củi. Nhưng đó không có nghĩa là sẽ có ngay một
ngọn lửa bùng lên. Khói tuôn ra từ cái lỗ nhóm mồi, mà lửa vẫn nhất định không chịu cháy. Khi tôi đến
thanh tra mọi việc, tôi thấy đám tro tàn từ ngọn lửa trước vẫn chưa được bốc đi. Tôi bèn hỏi, "Này, cái gọi
là lửa thực ra là gì nhỉ?"
"Thì, đó là một hỗn hợp của oxygen và vật ."
"Oxygen ở đâu?"
"Ở trong không khí."
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 16 of 52
"Nếu vậy, sao anh không hốt cái đống tro này đi để cho không khí có thể vào được dễ dàng? Và nếu ống
khói bị nghẽn, anh cũng phải thông cái đó cho sạch luôn nữa."
Nếu tôi nói như vậy, người thiền sinh sẽ trèo lên trên mái nhà để thông ống khói, nhưng khi trở xuống thế
nào họ cũng đạp chân lên làm vỡ mất vài miếng ngói.
Nhưng tôi không thể cười những người trẻ tuổi này, bởi vì tôi cũng đã có thời giống y như họ!
Giữa thầy và trò
Một buổi sáng trong thời kỳ tôi còn mới vào tu, cô Okamoto hỏi đại sư Zuigan trong khi dùng trà: "Bạch
thầy, nếu so sánh đại sư Kosen và Soen, ai giỏi hơn?"
Có lẽ tôi cần phải giới thiệu một chút về tông phái của tôi qua đồ biểu dưới đây để trình bầy được rõ ràng
hơn:
Hakuin (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 1685-1768)
|
Kosen (Hồng Xuyên Tông Ôn, 1816-1892)
|
Soen (Hồng Nhạc Tòng Diễn, 1859-1919)
____ |____
| |
Sokatsu Josho
|
(Chuyết Ông Tông Hoạt)
1870-1954
|
Zuigan
(Thuỵ Nham Tông Hoạt, 1879-1965)
|
Sesso
|
Soko
Tôi là "Soko" ở dưới cùng của bảng này, và Sesso là sư huynh của tôi trong hệ phái. Cả hai chúng tôi cùng
là đệ tử của đại sư Zuigan, và sư phụ của thầy chúng tôi là đại sư Sokatsu. Nếu bạn đi ngược dòng cho
tới tận nguồn gốc cuối cùng, bạn sẽ đến ngay Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Trong Thiền tông, sự truyền thừa của các bậc đại sư đã đạt được giác ngộ qua quá trình tu tập rất là minh
bạch. Kinh nghiệm tâm linh này phải được người thầy xác nhận, và chỉ những ai được ấn chứng mới chính
thức gia nhập vào tông phái. Tất cả mọi người đều biết rõ ràng ai là người đã được thầy truyền tâm ấn, và
sự kế thừa này được giữ gìn rất cẩn trọng. Trong tông Lâm Tế, danh hiệu "lão sư" (Roshi) được dùng để
tôn xưng những người được kế thừa trong hệ phái.
Kosen Roshi, người đứng đầu trong hệ phái ở trên, tức là Kosen Imakita, một bậc đại sư xuất chúng đã
từng trụ trì chùa Viên Giác (Engakuji) ở Kamakura suốt từ những ngày cuối cùng của thời đại Ðức Xuyên
trải dài cho đến thời Minh Trị trong thế kỷ thứ 19. Trong những ngày đen tối Phật giáo bị đàn áp, ngài đã
vượt lên trên những phân chia phe phái và nỗ lực bằng mọi cách để phục hưng lại đạo Phật. D.T. Suzuki,
một cư sĩ nổi tiếng, đã rất ngưỡng mộ ngài và viết một quyển sách nói về ngài.
Người truyền thừa sau Kosen Roshi là Soen Shaku Roshi, người đầu tiên phổ biến đạo Phật ở Mỹ Quốc,
và cũng đã trụ trì chùa Viên Giác (Engakuji) ở Kamakura. Soseki Natsume là một trong vô số người đã học
Thiền dưới vị đại sư này.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 17 of 52
Chính hai vị này là người cô Okamoto đã nói đến khi cô hỏi Thầy ai là người giỏi hơn.
Lão sư Zuigan, trông rất khắc khổ và không hay nói đùa, đã trả lời với bộ mặt thật nghiêm nghị, "Ðại sư
Kosen giỏi hơn."
"Nếu vậy, giữa đại sư Soen và đại sư Sokatsu, ai là người giỏi hơn?" cô Okamoto tiếp tục.
Ðại sư Sokatsu mà cô đang nói đến là người đã từ chối không sống trong một tự viện danh tiếng sau khi
đã được truyền thừa, mà đi về sống ẩn dật tại một cái am nhỏ xíu gọi là Ryoboan, ở trong khu vực Yanaka
của thành phố Tokyo; ở đó ngài đã dạy Thiền cho những cư sĩ . Những phụ nữ đầu tiên nổi danh với lập
trường đòi hỏi nữ quyền ở Nhật Bản đãø ở trong số rất nhiều các đệ tử của ngài. Vị lão sư Sokatsu này là
nhân vật mà cô Okamoto đã hỏi tới, nhưng lão sư Zuigan vẫn trả lời rằng: "Lão sư Soen giỏi hơn."
"Ồ, thầy ơi! Thế thì tệ quá! Chẳng lẽ tông phái này càng ngày càng xuống dốc tới mức không còn gì sao?
Thế thì bây giờ, thầy nghĩ sao, ai giỏi hơn, Sokatsu đại sư hay Zuigan đại sư?" Cô Okamoto nhất định hỏi.
Lão sư Zuigan, đáp lại sự quan tâm của cô về tông phái càng ngày càng xuống dốc, đã trả lời mau mắn,
"Ta giỏi hơn."
Suốt từ đầu cho tới lúc ấy, luôn luôn vẫn là người thầy giỏi hơn, nhưng khi được hỏi về vị trí của chính
mình trong tông phái, ông lại bảo rằng, "Tôi giỏi hơn thầy của tôi."
Ðiều này làm cô Okamoto vô cùng hoan hỉ, sau đó cô lại hỏi tiếp, "À, nếu vậy thì, Lão sư ơi, thầy với đệ tử
của thầy, Sesso, ai là người giỏi hơn?"
Nghe vậy, tôi muốn bật cười lớn lên. Lão sư Zuigan, người đã từng trụ trì các thiền viện Diệu Tâm và Ðại
Ðức, là một đỉnh cao trong thế giới Thiền tông. Trong khi đệ tử của ngài, Sesso, còn chưa có chùa để trụ
trì, còn đang sống như người quản tự giữ một ngôi chùa nhỏ trong hệ thống thiền viện Diệu Tâm, mà việc
làm chỉ là giữ gìn vườn tược cho sạch sẽ. Bởi vì tôi chưa thể nhìn thấu được những giá trị ẩn tàng trong
con người mà chỉ phán xét dựa trên vị thế xã hội, tôi đã nghĩ rằng so sánh lão sư Zuigan với thầy Sesso
giống như là so sánh mặt trăng trên cao với con rùa vậy. Không thể nào nói đến chuyện đọ sức giữa hai
nguời ở đây được, và tôi gần như muốn phá lên cười.
Lão sư Zuigan, không cần ngừng lại một giây nào để suy nghĩ, nói ngay: "Cái đó còn phải xem."
Khi những lời nói này đập vào tai tôi, bộ mặt tôi, lúc đó đang sẵn sàng để cười phá lên, lập tức nghiêm
chỉnh lại, và bây giờ dù là ngoài ý muốn, tôi cũng vẫn cảm thấy rưng rưng như muốn khóc. Tôi thật có
phước mới được một vị thầy như thế này. Ngài có thể mắng tôi thật phũ phàng, gọi tôi là đồ vô dụng, và
nói rằng tôi không xứng đáng để nói trước mặt ai cả, nhưng ngài vẫn luôn luôn để mắt đến tương lai các
đệ tử của mình. Tôi nhận ra rằng, dù bây giờ phải đương đầu với sự non kém của tôi, ngài cũng đã tin
tưởng tôi sẽ trở thành người như thế nào trong một năm, hai năm, mười năm, hay hai chục năm nữa. Từ
bấy lâu nay làm việc với tôi, ngài vẫn luôn luôn mang trong tâm hình bóng tiềm năng của tôi trong tương lai
cũng như trong hiện tại. Tôi cảm nhận mãnh liệt được điều đó khi ngài nói: "Cái đó còn để xem."
Và rồi sự việc xẩy ra là, vài năm sau đó, thầy Sesso đã tỏ ra xứng đáng với câu nói ấy, đã trở thành người
truyền thừa của đại sư Zuigan và rồi trở thành viện trưởng thiền viện Ðại Ðức. Theo những lời dậy dỗ của
đại sư Zuigan, tôi đã ở bên cạnh sư huynh Sesso trong nhiều năm và sau này trở thành người truyền thừa
của ngài. Trong giây phút thị tịch, Ðại sư Sesso đã đạt được một trạng thái siêu xuất của tâm, không kém
gì người thầy của ngài.
Và thế là, câu chuyện trong tuần trà của một buổi sáng ấy, cuối cùng, đã làm cho tôi tin tưởng được Thầy
của mình tự đáy lòng.
Nhưng mặc dù vậy, tôi cũng vẫn chưa đi đến đâu trong đường tu của mình.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 18 of 52
Chuyện của nó và tôi
Có một câu chuyện nữa cũng miêu tả được tương quan tin cậy mật thiết giữa thầy và trò. Ðại sư Soen có
một người đệ tử tên là Josho Ota. Người đệ tử này sau đó đã trở thành viện trưởng thiền viện Viên Giác và
rồi viện trưởng thiền viện Ðại Ðức, nhưng câu chuyện tôi kể ra sau đây xẩy ra khi ông vẫn còn tu tập dưới
trướng của lão sư Soen.
Một ngày mùa hè, có một đạo hữu đến chùa Viên Giác ngỏ lời mời đại sư Soen rằng, "Ðại sư, thường
ngày ngài vẫn dùng những thức ăn do các vị sư ở đây nấu, nhưng hôm nay nóng nực như thế này, con
muốn mời ngài đi ăn tối, một cúng dường nho nhỏ để giúp ngài quên cái nóng đi phần nào."
Vốn là người rất phóng khoáng, Ðại sư Soen trả lời, "Thế à, ngươi sắp cho ta ăn tiệc hả?" Ngài bèn gọi đệ
tử Josho theo hầu cận, và rồi đi đến tiệm ăn.
Vì lúc đó là mùa hè, nên những liếp cửa bằng tre chắn ngang những phòng riêng lót chiếu tatami được kéo
qua một bên, khiến các thực khách từ phòng này có thể nhìn qua các phòng khác được. Lão sư Soen ăn
uống rất tận tình và trở nên hoàn toàn cao hứng. Ông gắp mấy miếng cá sống lên nói, "A, mấy cái rau này
quý hiếm quá! Sao mấy ông sư không trồng rau này trong vườn của chùa nhỉ?" và rồi cứ tiếp tục đùa dỡn
như vậy cho đến khi, y phục trên người bung ra gần hết, gần như trần truồng, ông nhẩy múa um sùm.
Vị lão sư là người rất nổi tiếng, tên ngài được biết đến kể cả ở nước ngoài nữa. Chẳng mấy chốc các thực
khách ở những phòng kế bên bắt đầu xôn xao, "Có phải thầy viện trưởng chùa Viên Giác đang nhẩy múa
trần truồng ở đó không nhỉ?" Josho liền đi ra kéo cánh cửa tre ngăn lại.
Bất ngờ, đại sư nắm lấy cổ áo Josho, mắng ngay: "Ê! Bộ mi chê bai hành vi của ta hả? Mi đóng cánh cửa
đó có phải vì mi nghĩ là ta đã làm sai không hả?"
Josho, trong một lúc lung lay niềm tin nơi thầy, tự nhiên đã thấy mình bị đấm đá tơi bời.
Các vị thiền tăng thường qua một quá trình tu tập dựa trên cơ sở hành động nhiều hơn lời nói. Nhưng mặc
dù vậy, trong tình trạng ma men như thế này, và không thấy có cơ gì chấm dứt sau năm sáu cú đấm đá,
Josho, từ đó tới giờ vẫn im lặng và ngoan ngoãn chịu đòn, bây giờ không muốn chịu đựng thêm nữa. Nắm
chặt lấy tay thầy, ông nói:" Dù có là đại sư hay không đại sư, thầy cũng không được tiếp tục như thế này."
Soen đại sư dằng tay ra và trở về chỗ ngồi. Làm như không có gì đã xẩy ra, ông tiếp tục uống rượu cho
đến khi trở về chùa Viên Giác, vẫn trong tình trạng cao hứng tột độ.
Mặc dù câu chuyện đã chấm dứt ở đó, người đạo hữu đã mời họ đi ăn tối đó cảm thấy rất ái ngại. Biết rằng
quan hệ giữa thầy trò nơi thiền viện rất là nghiêm khắc, ông lo lắng không biết lão sư có đuổi Josho đi sau
khi họ trở về chùa không. Cảm thấy không thể nào yên tâm được với tình trạng này, ông vội vàng đi đến
chùa Enkakuji để làm người trung gian hòa giải.
"Xin cám ơn thầy đã hoan hỉ nhận bữa cơm cúng dường nhỏ nhoi của con và đã cho con được hân hạnh
dùng bữa với thầy," ông nói với lão sư, "Nhưng con cũng muốn nói thêm rằng, mặc dù Josho đã không
được lễ độ với thầy trong bữa ăn, nhưng con tin chắc rằng thầy ấy không có ý xấu gì đâu. Cúi xin thầy, vì
nể tình con, mà bỏ qua mọi sự và tha thứ cho thầy ấy."
"Cái đó là việc của tôi với nó," lão sư trả lời cộc lốc.
Xin đừng hiểu câu nói đó rằng đây là vấn đề giữa thầy và đệ tử và người ngoài không nên xen vào. Thực
sự ra ý của ông là thầy trò ông có thể đấm đá lẫn nhau, nhưng giữa hai người họ không bao giờ có một
khoảng cách nào dù nhỏ như sợi tóc. Ðối với một người tu thiền, được nghe thầy mình nói như vậy quả là
một điều đáng mừng, nhưng đối với một vị thầy, có được một người đệ tử xứng đáng để nói điều ấy ra
cũng thật là một điều hạnh phúc lớn lao. Tôi đã nghe kể lại rằng, sau đó, người đạo hữu đang tính xen vào
trong quan hệ thầy trò kia đã đỏ mặt ngượng ngùng và rút lui ngay khi nghe câu trả lời cộc lốc đó.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 19 of 52
Câu chuyện này nhắc nhở tôi đến quan hệ giữa những võ sĩ sumo và cái vòng đai. Lý do khiến hai người
võ sĩ to béo khổng lồ, mà hợp với nhau lại có thể cân đến trên năm trăm pounds Anh, đã đến đấu chiến với
nhau, dùng hết sức lực để đánh bại người kia, là vì có một vòng đai ở dưới họ; vòng đai ấy, như sợi dây
nối liền thầy và đệ tử, tuyệt đối sẽ không được phá vỡ. Nếu một võ sĩ, dù có khéo léo đến đâu, mà phải đi
đấu trong một vòng đai vẽ trên băng đá, chắc hẳn ông ta sẽ cố hết sức mình để làm cho băng đá ấy không
bị tan vỡ mất, phải vậy không?
Ba loại đệ tử
Trong tu thiền, có một điều cần làm là phải "phá vỡ bản ngã" ... không có cách nào có thể né tránh điều đó
được. Hơn nữa, nếu rụt rè không dám phá vỡ bản ngã của mình ... cái thường hay chống trả lại dữ dội khi
có nguy cơ bị phá vỡ ... thì coi như sẽ chẳng có hi vọng đạt tới Ðạo được. Những người không biết nghiến
răng chịu đựng, nhất quyết không sờn lòng dù là bị đá đấm bầm dập, bị đánh đuổi tàn nhẫn, sẽ không thể
tồn tại được trong cái gọi là tu thiền này. Vì lý do đó, có thể nói rằng những đệ tử học thiền được chia làm
ba loại, tùy vào sự liên hệ của họ với thầy của họ: "Những người xuất sắc nhất ràng buộc với thầy họ trong
sự căm ghét, người tầm thường trung bình trong lòng thương xót, và những người yếu kém nhất là trong
sự khuất phục quyền lực."
Những người xuất sắc nhất là những đệ tử hạng nhất, hay là người có đức hạnh lớn. Nếu nhìn bề ngoài,
những đệ tử này trông còn có vẻ hằn học nữa. Thầy càng đối xử với họ nghiêm khắc chừng nào, họ càng
cố gắng tiến sâu hơn, thề quyết phải vượt qua cho bằng được, để tỏ cho thầy họ thấy khả năng của họ đạt
được như thế nào. Không có điều gì làm những đệ tử này có thể buông lơi ra được.
Những đệ tử tầm thường trung bình là những người thực sự gặp khó khăn trong sự tu tập và muốn rút lui,
nhưng cảm thấy họ không thể bỏ cuộc được, khi thấy Thầy đã hết sức tử tế và yểm trợ cho họ. Những đệ
tử loại này được lôi kéo nhờ tình thương của người Thầy.
Sau hết, loại đệ tử yếu kém nhất, khi cảm nhận thấy quyền lực độc tôn của người Thầy, họ muốn nương
dựa vào "bóng mát cây cổ thụ" ấy. Ðiều đó có nghĩa là, đối với họ nếu phải nương dựa vào một người nào,
thì tốt nhất là người ấy phải có nhiều quyền lực. Câu nói, "Những kẻ thấp kém hay bị hấp dẫn bởi quyền
lực" không chỉ dừng lại ở trong cánh cổng của một thiền viện, mà còn đúng với xã hội nói chung.
Tất cả những điều trên nhắc tôi nhớ lại một trong những lỗi lầm mà tôi đã phạm phải khi tôi đã vào tu được
một thời gian. Trong một dịp, có một người đã nêu ra một trong những khuyết điểm của tôi, và tôi nổi đóa
lên: "Anh biết gì mà nói!" rồi mắng cho anh ta một trận. Tôi đã biểu lộ sự ngã mạn mà người ta đôi khi gặp
phải trong bước đường tu, một loại "đầu óc đã bị rỉ sét trong sự tu."
Khi câu chuyện này đến tai Thầy tôi, người gọi tôi vào trong phòng ngay lập tức, để nói rằng tôi bị đuổi ra
khỏi chùa. Người nói bằng cách là: "Thu dọn hành lý đi."
Ap trán xuống đất, trong ba mươi phút tôi khẩn khoản xin lỗi hết lời, nhưng những lời van xin tha thứ của
tôi chẳng có công hiệu gì.
"Con làm điều đó vì con đã không suy nghĩ kỹ càng. Cái đó xẩy ra chỉ vì con chót lỡ, trong một phút sơ xuất
của con thôi." Tôi nại cớ ra bào chữa như vậy.
"Nếu đó là một điều mi làm sau khi đã suy nghĩ kỹ càng, và rồi sau đó thấy sự sai lầm của mình, thì điều đó
sẽ không xẩy ra lại," thầy đáp lại, "nhưng nếu nó "xẩy ra vì chót lỡ" trong một phút sơ xuất của mi, thì tức là
nó đã khởi lên từ một cái gì thâm căn trong tâm của mi, trong tánh khí của mi. Nếu thật như vậy thì lại càng
không đáng để được tha thứ!"
Tôi đã dùng hết cách để xin lỗi mà vẫn không được. Cuối cùng, tôi ngẩng người lên, cái thân hình mà từ
nẫy giờ đã quỳ mọp xuống như một con nhện đang bám lấy sàn, và rồi tôi nhìn thẳng vào mặt lão sư. Mắt
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 20 of 52
của người vốn đã to, mà khi ngài nhìn trừng trừng vào tôi lúc đó, trông như là cả bộ mặt của ngài chỉ còn là
hai con mắt khổng lồ. Tôi trừng mắt lại, không chịu thua chút nào.
"Không có chỗ nào cho con đi cả, chỉ có chỗ ở với thầy thôi. Thầy có ném con ra ngoài một ngàn lần hay
mười ngàn lần, con cũng tuyệt đối không bao giờ rời thầy ra đâu!" Tôi hét lại.
Ðáng ngạc nhiên thay, nước mắt bỗng dâng lên trong mắt thầy, và tôi tưởng chừng như những giọt lệ to
long lanh sắp rơi xuống má người. Rồi tôi nghe thầy nói, "Ta tha cho mi đó. Ði ra ngoài lo công việc đi."
Khi nhớ lại câu chuyện này, tới lúc này, tôi vẫn còn rưng rưng nước mắt.
Người thầy đem sự khắc nghiệt ra đối với đệ tử để làm khơi động ý chí chống trả, kể cả sự căm ghét, nghĩ
rằng làm như vậy người đệ tử sẽ bằng cách nào đó vượt qua được tới đích cuối cùng. Nhưng thật sự
không phải thế, khi áp dụng sự đối xử nghiêm khắc với đệ tử, người thầy luôn luôn cầu nguyện cho đệ tử
của mình sẽ có thể vượt qua hết được mọi sự. Nếu ngày nay có một đệ tử nào đến nói với tôi rằng:"Dù cho
có giết con, con cũng không bao giờ rời xa thầy," chắc chắn rằng tôi cũng sẽ khóc.
Vì vậy, bạn có thể thấy được tại sao tôi cảm thấy biết ơn khi nghĩ đến cung cách vị Thầy mà hiện nay đã ra
người thiên cổ đối xử với tôi. Từ đầu đến cuối, ngài đã hành xử như ø thể là tôi, một kẻ không ra gì, là một
loại đệ tử xuất sắc nhất vậy. Nếu Lão sư lượng định về tôi một cách khác, nếu người đã nghĩ rằng, "Nếu
mình không nương tay, thì chắc người này sẽ bỏ cuộc", thì có lẽ ngài đã đối xử với tôi nhẹ nhàng hơn.
Cho tiền m ai táng
Tôi đã kể lại câu chuyện làm sao tôi, một kẻ vụng về chẳng biết làm gì cho đúng cách, đã được huấn luyện
trở thành một người ít nhất có thể nấu cơm trên bếp lửa, đun nước tắm, cọ nhà vệ sinh, và làm việc trong
vườn được. Và rồi, theo đúng thời đúng lúc, tôi cũng được dạy những điều khác, như là đọc kinh điển và
cử hành những lễ nghi thích hợp đối với một vị tăng sĩ.
Rồi một ngày kia, sau khi tôi đã ở chùa Daishuin hơn một năm, lão sư nói với tôi, "Một người, nhất là một
người đã xuất gia làm tăng sĩ, cần phải có những giao tiếp với người khác. Mi không thể sống cô lập được.
Mi phải có những liên hệ đến nhiều người khác. Tuy rằng một đệ tử học đạo chỉ với một người thầy thôi
cũng có thể gọi là đủ, nhưng vì mục đích phải có những liên hệ xã hội khác, mi cần phải đi đến một thiền
đường để tu tập ở đó."
Có hai loại thiền tự. Thường thường các vị sư khi mới xuất gia ở trong một loại chùa cho đến khi tốt nghiệp
đại học. Ra trường rồi, những vị tăng trẻ này gia nhập một thiền viện để chuyên tu tọa thiền một cách triệt
để. Tôi đã được thầy định đoạt cho gia nhập vào thiền viện Ðại Ðức để tu trì như loại sau này.
Một tăng sĩ trên đường đến thiền viện chuyên tu đem theo trong mình một cái hộp nhỏ đựng quần áo. Cái
hộp đó, theo truyền thống, làm bằng giấy dầy được phết lên một lớp sơn mài cho cứng, lớn hơn cái hộp
đựng sách một chút. Bát ăn cơm, đũa, dao cạo và đá mài để cạo đầu, kinh sách, đồ lót, và áo mưa được
gói làm hai gói và cột lại bằng một sợi dây để vị sư đó có thể quẩy hết những đồ dùng đó lên trên lưng.
Ông ta vén áo lên giắt vào lưng quần, nai nịt hai bắp vế, cột chặt lại đôi giầy rơm, đội nón tre lên đầu, rồi
lên đường đến thiền viện.
Tôi đang sắp xếp lại cái hộp quần áo của tôi thì lão sư đi vào hỏi, "Thế nào? Mi đã cột cái hộp lại chưa?"
"Chưa, con đang sắp làm đây."
"Thế thì đúng lúc quá. Ðem cái nắp hộp đi vào phòng của thầy." Thầy ra lệnh.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 21 of 52
Cái hộp này, trông giống như một cái rương nhỏ đựng thuốc, được đóng chặt lại bằng một cái nắp. Không
hiểu lão sư có ý định gì, tôi đem cái nắp vào trong phòng của người. Lão sư cầm lấy nắp hộp và để vào
dưới đáy ba tờ giấy một ngàn yen. (vào thời buổi đó, tờ giấy một ngàn yen vẫn còn có giá lắm)
"Mi có hiểu ý nghĩa của cái này không?" lão sư hỏi sau khi người đã bỏ tiền vào.
"Có phải tiền cho con tiêu không?" tôi định hỏi, nhưng đã kịp ngăn lại trước khi thốt ra lời nói, biết rằng tôi
sẽ bị mắng ngay lập tức nếu nói điều gì ngu dại.
Lão sư đã quá bẩy mươi tuổi khi tôi đến đó xin làm đệ tử của ngài. Lúc đó ngài đã cảnh cáo tôi là, "Ta
không biết ta còn sống bao nhiêu lâu nữa. Nếu thầy của mi chết nửa chừng, mi sẽ bị đứt gánh nửa đường
tu. Nếu không có ai để nương dựa vào để sống, mi sẽ gập rất nhiều khó khăn. Tốt hơn là nên đi tìm một vị
thầy khác trẻ hơn."
"Con vẫn còn ít tiền cha con để lại. Con sẽ không là gánh nặng tài chánh cho thầy đâu," tôi năn nỉ.
Với lời hứa đó, tôi đã được Lão sư thâu nhận vào làm đệ tử dưới trướng. Theo sự thỏa thuận trước này,
ông đã chưa bao giờ cho tôi một xu nào để tiêu.
Bây giờ, khi tôi sắp rời chốn này đi đến thiền viện, tôi nghĩ chắc Lão sư, dù luôn luôn có vẻ chắc nịch, cũng
có thể cho tôi một ít tiền để tiễn đưa. Tuy nhiên, trái ngược với sự trông đợi của tôi, ngài cho biết là, "Ðây
là tiền Niết Bàn."
Hình ảnh Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nằm nghiêng một bên khi ngài nhập diệt được biết đến như là "hình
ảnh Niết Bàn."
"Mi sắp đến thiền viện đem thân mạng phó thác ở đó. Nếu không may mắn, mi sẽ bị thất bại và rồi sẽ chết
giữa chừng trong lúc tu. Ðể cho mi không là một gánh nặng với bất cứ ai, ta cho tiền này để mai táng cái
thân."
Lão sư bình thường rất nghiêm khắc và không hay nói đùa. Nghe người nói, với bộ mặt nghiêm trọng, "tiền
này là để mai táng ngươi đó," làm cho tôi ớn lạnh xương sống. Với một quyết tâm mới, tôi tự thề với mình,
"Ta sẽ làm được điều đó"!
Tôi đã từng nghĩ về cái chết trước đây, khi còn là một học sinh phải đi ra trận tuyến, tuy nhiên cái chết mà
Lão sư đã ám chỉ trong câu ... "Tiền này để mai táng cho ngươi" ... có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn.
Cái chết mà ngài nói đến đó không phải là cái chết của thể xác, mà là cái chết của bản ngã tôi.
Không cần biết chúng ta có khéo léo biện hộ đến thế nào, khi đi thẳng đến gốc của vấn đề, động cơ chính
của mọi sự vẫn là để nâng niu cái bản ngã quý giá của chúng ta. Trừ khi chúng ta tu tập để vượt qua được
sự vướng mắc ngoan cố vào cái ngã của mình, chúng ta sẽ không mở mắt ra được. Những lời lẽ của Lão
sư đã đánh thức tôi như vậy. Tôi cảm thấy những lời người nói về sự mai táng thân tôi như là cái thúc ở
bên sườn vậy. Ngày nay, tôi cũng gởi các đệ tử của tôi đến thiền viện với một tờ giấy bạc mười ngàn yen,
để mai táng thân của họ.
Ngày hôm sau, khi trời vẫn còn đen như mực, tôi đến phòng Lão sư từ biệt, và rồi rút lui ra cửa sau, bước
xuống nền đất ở trên lối ra vào. Một vị tân sa di không được phép dùng cửa trước. Khi với tay lấy đôi giầy
rơm, tôi nghe tiếng Lão sư bước ra đàng sau. Bởi vì Lão sư luôn luôn là người giữ cung cách uy nghiêm,
không phải là loại có thể đi ra tiễn đưa đệ tử, tôi ngạc nhiên thấy người đi ra qua cửa bếp phía sau. Hơn
thế nữa, người lại còn bước xuống thềm đất, ngồi xổm dưới chân tôi, và lấy dây cột đôi giầy rơm của tôi
lại.
Ngượng ngùng, tôi vội vàng rụt chân lại và phản đối, "Ấy, thầy đừng làm như vậy. Con làm lấy được mà."
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 22 of 52
"Ðây, đưa chân đây cho thầy," thầy dục, kéo chân tôi về phía người. Sau khi đã cột mấy sợi dây gọn gàng
lên đôi giầy, người gõ tay vào mấy cái nút và nói, "Ðừng có cẩu thả mà làm lỏng mấy sợi dây này."
Dĩ nhiên, khi tôi đến thiền viện và được nhận vào đấy, tôi cũng sẽ tháo dây của những đôi giầy rơm này ra.
Ðiều thầy muốn nói, tôi hiểu là, đừng bao giờ sơ xuất làm lơi lỏng sợi dây của lời nguyện trong đường tu.
Một lần nữa, tôi run người trong ý chí quyết tâm của chính mình, cúi rạp xuống chào Lão sư rồi cất bước ra
đi trong bóng tối của buổi sáng sớm tinh mơ đến thiền đường của thiền viện Ðại Ðức ở Kyoto.
Ý nghĩa của sự can đảm
Khi một vị tăng xin đăng nạp vào trong một thiền viện để tu tập, lúc đến tiền điện của thiền viện ấy, vị tăng
bỏ nón ra cất đi trong một góc nhà, trèo lên bực thang, và lên tiếng gọi. Trong một đại thiền viện, thường
có tiền điện lớn mênh mông và một bực thang dẫn lên một giải hành lang rộng lớn ngoài xa. Tuy rằng có
thể có đến khoảng mấy tá tăng sĩ đang tu tập ở trung tâm của thiền viện, chung quanh bốn bề đều không
một tiếng người, không khí im lặng như một cái nhà mồ. Vị tăng gọi lớn, giọng ngân dài, "Quý thầy ơi! Xin
mở cửa cho tôi!", một thủ tục đã được lập ra từ thời xa xưa đến giờ.
Vị tăng xin đăng nạp cảm thấy như giọng nói của mình bị hút vào trong khoảng không gian sâu thẳm của
thiền viện. Bấy giờ, có tiếng trả lời từ đàng xa. "Ai đấy?" Một vị sư xuất hiện, mặc y áo bằng vải thô và
trông có vẻ rất kinh nghiệm. "Anh đến từ đâu?" Ông tra hỏi.
Vị tăng trẻ đứng trên bực thềm đưa tay ra trước mặt lễ phép trình giấy tờ mang theo. Trong những giấy tờ
đó có đăng lục của tiểu sử cá nhân, một thơ giới thiệu vào thiền viện, và một thỉnh nguyện thư trong đó ông
nguyện sẽ hi sinh cuộc đời mình cho đạo pháp, tất cả đều viết tay với bút lông và cho vào một phong bì.
Một cách thật trịnh trọng, người mới đến xưng danh tính và nói rõ xuất xứ của mình đến từ quận huyện
nào, thành phố nào, ở chùa nào, và đã học với vị thầy nào. Vị tăng nói rằng ông muốn đến đây để gia nhập
chúng và có thể treo y bát, gậy của mình ở trong thiền đường nơi đây. Sau đó ông xin cho lời thỉnh nguyện
ấy được chấp nhận.
Vị sư bảo thí sinh đợi ở đấy rồi biến mất vào phía trong. Một lúc lâu sau trở lại, theo đúng nguyên tắc, vị sư
sẽ không nói rằng:"Xin đón chào anh đến đây. Mời đi vào trong." Thay vào đó, thế nào vị sư cũng đưa lệnh
ra là lời thỉnh nguyện của thí sinh đã bị từ chối. Ví dụ như, vị sư có thể nói rằng thiền viện đã đủ chỗ rồi,
hay lúc này phương tiện rất eo hẹp, không thể nào kham nổi thêm một người nữa.
Trường hợp của tôi là, bây giờ tôi cân tới 150 cân Anh, nhưng hồi ấy tôi chỉ nặng chưa đến 90 cân và trông
toàn là da bọc xương khi đến đó xin vào thiền viện. Tôi bị từ chối với lý do là, "Trông anh có vẻ yếu ớt quá.
Sẽ không thể nào đủ sức để theo kịp sự tu tập gắt gao ở đây. Xin hãy đến thiền viện khác mà nạp đơn."
Có khoảng chừng bốn mươi thiền viện chuyên tu trong cả nước, nhưng bất cứ đến chỗ nào, vị tăng cũng
sẽ bị từ chối ở đó. Bị bác rồi, vị tăng cầm lấy cái phong bì bị ném vào mặt lúc nẫy, rồi rút lui vào một xó để
không cản trở người qua lại. Oâng trụ vào một chỗ trên bực thềm, phủ phục xuống, trán áp xuống đất trong
tư thế khẩn cầu cho tới khi nào được chấp nhận gia nhập thiền viện.
Bồ Ðề Ðạt Ma, sư tổ của Thiền tông Trung Hoa, là một tăng sĩ xuất thân từ An độ trong thế kỷ thứ 6, cũng
là vị tổ chân truyền đời thứ hai mươi tám kể từ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tục truyền rằng Huệ Khả (tiếng
Nhật gọi là Eka), người sau này kế thừa Bồ Ðề Ðạt Ma làm vị tổ thứ hai của thiền tông Trung Hoa, khi đến
đó xin học đạo, Tổ Ðạt Ma đã hoàn toàn không thèm biết đến ông. Huệ Khả đứng ở cổng và nhất định
không chịu di chuyển cho đến khi được Tổ Ðạt Ma nhìn tới.
Mấy ngày liền, Huệ Khả đứng yên vị ở một chỗ. Ðến ngày 9 tháng 12, tuyết bắt đầu rơi phủ kín đến đầu gối
của ngài, nhưng ngài vẫn đứng yên không nhúc nhích. Cuối cùng, Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma quay ra nhìn Huệ Khả
và hỏi: "Ngươi làm gì ở đây?"
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 23 of 52
Khi nghe được tiếng của thầy sau bao nhiêu ngày chờ đợi lâu dài, Huệ Khả, những giọt lệ biết ơn tuôn trào
trên má, trình bầy ý nguyện muốn đến để cầu đạo giải thoát. Bồ Ðề Ðạt Ma trả lời một cách phũ phàng,
"Ðạo vi diệu, đạo vô thượng của Phật chỉ có thể đạt được qua những nỗ lực vô tận, qua sự hành trì cái
không thể hành được, chịu đựng điều không thể chịu đựng được. Nay ngươi chỉ có một chút đạo hạnh,
một ít trí tuệ nhỏ nhoi, với một tâm nông cạn và đầy ngã mạn, làm sao có thể mong đạt tới chân pháp
được?"
Như vậy, Huệ Khả đã bị nói thẳng ra rằng chỉ với một ít trí tuệ, một ít khả năng và một tâm si mê đầy giao
động, sẽ không thể nào mong đạt sự giác ngộ chân lý và an lạc được. Ðể trả lời sự khích bác của Tổ Bồ
Ðề Ðạt Ma và chứng minh rằng ý chí quyết tâm cầu đạo của mình là hoàn toàn chân thật, tương truyền
rằng ngài đã rút dao phay ra chặt mất cánh tay của mình. Chỉ khi ngài dâng lên cánh tay bị chặt đẫm máu
ấy, Bồ Ðề Ðạt Ma mới chịu chấp nhận cho ngài vào học đạo.
Bắt nguồn từ truyền thống này, những nghi thức để nhập thiền viện tu tập thật cực kỳ cam go, ngay cả bây
giờ vẫn áp dụng sau một ngàn năm trăm năm. Tôi đã biết ngay từ đầu là tôi cũng sẽ phải tuân theo những
luật lệ của truyền thống này. Do đó, đầu tiên tôi đã bò qua cổng, sửa soạn tinh thần để chịu đựng cái thủ
tục không thể tránh khỏi này.
Mặc dù vậy, dù chỉ là thủ tục, điều tôi phải chịu đựng cũng thật là khó khăn. Chẳng bao lâu sau khi đơn xin
của tôi đã bị từ chối, một vị sư khác xuất hiện, cầm theo một cây gậy bằng gỗ. "Mặc dù người đã bị từ chối
không cho nhập viện, ngươi vẫn ngoan cố chường mặt ở đây làm phiền người khác, làm cản trở lối ra vào
của thiền viện," ông nói, "yêu cầu ngươi phải đi ra khỏi đây ngay lập tức."
Từ trước cho tới lúc đó, tôi vẫn còn được nghe những lời nhã nhặn, nhưng bây giờ thì những câu mắng
chửi bắt đầu, mặc dù vậy, tôi vẫn không chịu rút lui. Tôi cứ tiếp tục ở yên chỗ của mình, không động đậy
chút nào.
"Ê! Tên kia! Bộ ngươi điếc hay sao?"
Vị sư tiếp theo câu chửi mắng kia với những cú đấm, cú đá, và nguyền rủa hết lời, và chỉ một lúc sau tôi đã
thấy mình bị đá văng ra khỏi cổng. Khi tôi ngẩng lên thấy vị sư đã đi vào trong rồi và lối vào đã trống trải,
tôi lại len lén đi vào, như một con mèo đang rình mồi, và lại tiếp tục tư thế phủ phục trên bậc thềm. Sau đó,
cảnh trên lại tiếp tục xẩy ra nhiều lần.
Sự nhẫn nhục của tôi khởi đầu còn tồn tại là vì tôi biết rằng đây là một thủ tục mà tôi phải chịu đựng qua,
nhưng dần dần, khi nó cứ kéo dài, tôi bắt đầu thấy bực dọc. "Họ không thấy là họ đã quá đáng một cách
không cần thiết sao, khi mình không hề có một chút chống trả lại?" Tuy nhiên, đến tối, những ý tưởng này
cũng chẳng còn, và tôi chỉ còn cảm thấy khốn khổ và tủi nhục. Rồi tôi càng lúc càng thương xót cho mình.
"Tại sao mình lại để cho họ đối xử như một cái giẻ rách vậy?" Tại sao tôi phải ở trong tư thế khốn nạn này
trước cánh cổng đáng ghét này? Cha mẹ của tôi chết rồi, nhưng dù sao tôi cũng vẫn còn trở về Toyama
được mà. Tôi vẫn còn họ hàng ở đó, tôi vẫn có thể sống được mà không phải bị đối xử tàn nhẫn như thế
này."
Tất cả những điều đó và nhiều điều nữa đã băng ngang tâm trí tôi lúc đó.
Khi được thọ giới xuất gia, tôi đã phần nào mang một quyết tâm muốn tu hết sức mình. Sau đó, khi Lão sư
nói với tôi, "Ðây là món tiền Niết Bàn, để mai táng thân ngươi," tôi đã lại lạnh mình trong một quyết tâm
mới. Rồi, khi Lão sư cột lại dây giầy rơm cho tôi và khuyến cáo rằng, "Ðừng có lơ là mà làm lỏng những
dây này," chẳng phải là lúc đó tôi đã càng thêm quyết chí, nhất định phải đi đến cùng đó sao? Nhưng bây
giờ tôi ở đây, chỉ chưa đầy một ngày sau đó, tâm đã đầy dao động, tự hỏi mình tại sao lại ở đây, sao lại
phải chịu cảnh khốn cùng như thế này.
Tôi nghĩ rằng con người ta rất là yếu đuối. Nếu không biết tự kỷ luật mình, người ta sẽ không thể tin vào ý
chí của mình được. Rất dễ dàng để bị lung lạc. Khi tôi thấy mình đang bị lung lạc, lần đầu tiên tôi đã hiểu
được sự hệ trọng của việc tiếp tục bò lại vào trong chỗ tiền đường. Sự tiếp tục bò lại chỗ cũ này được gọi
là "bị giữ đứng ở ngoài vườn." Trong tình trạng bị giữ ở ngoài vườn và đứng đó, vị tăng bị bắt buộc phải
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 24 of 52
làm mới lại quyết tâm ban đầu, phải tăng cường cho quyết tâm đó, phải quyết tâm trở lại, và củng cố sự
quyết tâm đó càng xa hơn nữa. Chính vì lý do này mà vị tăng bị bắt phải ở ngoài cửa ra vào tiền đường
của thiền viện.
Tất cả răng của tôi ... vốn chẳng mạnh khỏe gì ... bắt đầu cảm thấy như đang long ra, máu nóng trào lên
mặt. Tôi nghĩ chắc đôi mắt của tôi như muốn nổ ra khỏi xương sọ, và lưng tôi, với vị thế phủ phục lâu dài
như vậy, cũng muốn sụm xuống. Trời vẫn còn lạnh khi tôi đến tiền đường vào đầu tháng ba, vì năm đó tiết
mùa đông đã thật khắc nghiệt ở Kyoto. Cái lạnh bắt đầu từ mấy ngón chân, thấm qua chân tôi trong đôi
giầy rơm ướt đẫm, và dâng lên đến đầu gối, khiến đôi chân tôi tê dại, không còn một cảm giác gì nữa.
Trực diện với con người bất an của mình, trong bất cứ điều kiện nào, và rồi trở về với cái tâm của lúc ban
đầu, tự mình đứng dậy sau khi tâm đã thay đổi, suy yếu, và sụp đổ, để rồi củng cố trở lại cái quyết tâm
muốn hoàn thành tới nơi lời nguyện ban đầu ... phải chăng đây chính là ý nghĩa của sự can đảm?
Tôi đang làm gì ở đây?
Trong lúc chờ đợi ngoài cổng chùa, tôi bắt buộc phải định nghĩa lại thế nào là sự dũng cảm. Khi còn nhỏ,
tôi thường hay phô trương sự dũng cảm của mình bằng cách tấn công người khác, nhưng đó không phải
là dũng cảm. Sự hung hăng đó có thể ví như một con chó nhỏ mà hay sủa thật to. Sự dũng cảm đích thực
là chấn chỉnh lại cái tinh thần đã sa sút và kiên tâm theo đuổi mục tiêu ban đầu của mình. Ðể có thể giữ
vững được như vậy, phải tự đặt câu hỏi với mình là: "Tôi đang làm gì ở đây?"
Trong khi bị giữ ở ngoài vườn, nhiều tư tưởng khác nhau đã trôi qua trong tâm trí tôi. Tôi nghiệm ra rằng
mỗi con người được vào tu trong thiền viện này đều bẩm sinh ra khác nhau. Mỗi con người đi vào trong
cuộc đời này đều có những khả năng khác nhau, những kinh nghiệm và học vấn khác nhau, suy nghĩ
những tư tưởng khác nhau; không ai giống ai cả. Trong tất cả những sắc thái dị biệt ấy, nếu ai nấy ở trong
thiền viện đều muốn làm theo ý của mình, đều khăng khăng rằng, "Tôi nghĩ như thế, tôi làm như thế đấy,"
thì việc tu hành rồi sẽ ra làm sao?
Có câu ngạn ngữ rằng, "Rượu mới đổ vào bình mới". Nếu muốn chuyển hóa bản thân mình bằng cách
đem thân đến thiền viện để tu tập, thì đó cũng có thể được ví như cái bình mới, và như thế cần phải xả bỏ
hết những kinh nghiệm quá khứ, những kiến thức, và địa vị xã hội của mình. Người thiền sinh phải trở nên
trống rỗng hoàn toàn và đi vào trong thiền viện với một tâm khiêm tốn, nhẫn nhục. Ở trong cái xó góc trước
cổng chùa này, người sa di thiền sinh bị bắt buộc phải nghĩ cho thấu suốt tất cả những điều ấy và dọn
mình để hành động cho thích hợp.
Trong buổi tối ngày thứ ba bị giữ ở ngoài vườn chờ đợi, một vị sư đi ra thông báo với tôi rằng: "Xét rằng kể
từ hôm kia tới nay, ngươi vẫn giữ nguyên vị trí ở trước cổng ra vào mặc dù đã bị mắng chửi, đánh đập;
nay ra quyết định rằng: ngươi có vẻ cũng có ý chí muốn tu tập, vì thế, ngươi được phép bước vào trong.
Tuy nhiên, vì chưa được chấp nhận chính thức vào tu tập ở đây, nên ngươi phải luôn luôn cẩn trọng." Với
những lời nói đó, cuối cùng tôi đã được bước chân vào thiền viện.
Căn phòng tôi được phép vào gồm có một bên là tường và ba bên là liếp cửa bằng giấy mở toang. Tôi đặt
cái hộp đồ vẫn đeo trên lưng vào cạnh tường, rồi ngồi xuống đối diện vách tường và bắt đầu tọa thiền.
Không có cách gì biết ai đang nhòm ngó mình từ ba vách trống trải kia. Lúc này là lúc tôi không thể nào lơ
đễnh được.
Ban ngày tôi được cho ăn ba lần và ban đêm được phát chăn chiếu ngủ, nhưng vẫn phải ở năm ngày nữa
trong phòng này; như thế, tôi đã bị đặt mình trong sự tự vấn thật căng thẳng suốt trong tám ngày liền. Tôi
đã tự hỏi mình biết bao nhiêu lần, "Tôi đang làm gì ở đây? Tôi sẽ làm gì bây giờ?" Dưới áp lực của sự tự
vấn này, buộc mình tôi luôn luôn phải quay trở về cái khởi điểm, về cái tâm ban đầu trong sự tu tập của
tôi.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 25 of 52
Ðã bao lần tôi đã trở lại cái khởi điểm ấy, đã bao lần tôi khẳng định lại quyết tâm của mình. Tôi tin rằng sự
dũng cảm là kiên trì theo điều mình đã quyết định làm và chịu đựng tất cả những khó khăn gặp phải trên
đường. Giữ vững và làm được cái ý định ban đầu ấy -- chỉ một điều ấy thôi -- cũng đã là dũng cảm thực sự
rồi.
Niềm tin vạn năng
Và thế là tôi đã nhập thiền viện Ðại Ðức và ở đó suốt trong mười lăm năm. Trong thời gian đó, tôi thực tập
tọa thiền, rồi dần dà sau đó đã được thầy ấn chứng và tôi cũng đã mắc phải biết bao nhiêu sai lầm. Nhưng
dù với tất cả những thất bại ấy, tôi vẫn kiên trì tu tập được, và đó không phải là nhờ những lý lẽ biện luận,
mà nhờ những kinh nghiệm cá nhân sống thực. Chính nhờ tôi đã sống trong niềm tin, nên đã vượt qua
được những cửa ải khó khăn trong sự nỗ lực tập trung tận cùng, không một lời than van. Thay vì ngã gục
khi thấy mình bị dồn vào phía chân tường, dù có vẻ đáng sợ đến đâu, tôi cũng vẫn tự quán xét lại, thẩm
định lại, để rồi tiếp tục bước tới. Tôi nghĩ rằng sở dĩ tôi có được sự can trường như vậy là nhờ ở bài học
đầu tiên tôi đã nhận lãnh được khi đang cố xin gia nhập vào thiền viện này.
Hakuin Zenji (Bạch Ẩn thiền sư), người được coi như đỉnh cao của tông Lâm Tế, đã khẳng định rằng ba
yếu tố cần thiết để đưa tới sự đạt ngộ trong đường tu cũng như trong bất cứ nỗ lực nào là: đại tín căn, đại
nghi đoàn, và đại phấn chí.
"Niềm tin" (đại tín căn) có nghĩa là tin tưởng nơi thầy mình và nơi chân lý mà thầy của mình là biểu tượng.
Nếu phân tích một cách rốt ráo, đó là niềm tin nơi năng lực vô tận của Phật tính mà chúng ta đều vốn đã
có sẵn.
Trong khi cái yếu tố thứ hai, đại nghi đoàn (mối nghi lớn), xem có vẻ như là đối nghịch với sự tin tưởng,
nhưng thực ra nó lại khiến ta thường xuyên ý thức đến sự non kém của mình, cũng như ý thức đến vấn đề
mà ta vẫn hằng ôm ấp trong tâm. Từ cái lực nội tại của con người, Phật tính, đã sinh ra một truyền thống
trí tuệ thật kỳ diệu, và ta tin tưởng vững chắc nơi trí tuệ này. Nhưng khi tự xét đến sự non yếu của chính
mình và thấy không thể chấp nhận được, ta sẽ thường mang một vấn đề thắc mắc trong tâm, một sự xung
đột nội tại.
Từ đó ta phải tiến tới trong sự phẫn chí, có nghĩa là kiên trì tu tập trong sự dũng cảm. Trong tiếng Nhật,
chữ "phẫn chí" được ghép bằng hai chữ mang ý nghĩa riêng là "phẫn nộ" và "kỳ vọng". Sự phẫn nộ này
không phải hướng đến ai khác mà đến sự yếu kém của chính mình, và vì thế ta vung lên ngọn roi mạnh
mẽ của sự kỳ vọng, đó là sự phẫn chí.
Chẳng phải qua sách vở hay kinh kệ mà tôi đã học được ba yếu tố cần thiết mà ngài Bạch Ẩn đã đề ra cho
sự hoàn thành bất cứ mục tiêu gì trong đời. Chính ở trong cuộc sống hàng ngày mà tôi đã luôn luôn phải
dùng đến ba yếu tố này. Vì lẽ đó tôi cảm thấy rất trân trọng và biết ơn. Trong hai mươi năm đầu của cuộc
đời tôi chỉ hiện hữu một cách nửa vời, và nếu tôi không bị bắt buộc phải sống thực với ba yếu tố này --
niềm tin, sự nghi hoặc, và quyết tâm -- tôi sẽ không bao giờ có được sự kiên trì để vượt qua được những
khó khăn tên đường tu Thiền.
Tin tưởng vào thầy của mình, vào những sư huynh tiền bối của mình, theo truyền thống, nói khác đi có
nghĩa là tin tưởng nơi chính mình. Ta phải tự gỡ rối những khuyết điểm của chính mình. Hơn thế nữa, ta
còn phải tiếp tục tiến bước, và đứng vững trong mọi thử thách. Dù ở lúc nào, chốn nào, nếu không có ba
yếu tố này, ta sẽ không thể hoàn thành được điều gì. Tôi tin chắc rằng dù thế gian này có biến đổi đến thế
nào chăng nữa, đây cũng vẫn là ba cột trụ nâng đỡ cho bất cứ những gì chúng ta mong ước thực hiện
được.
Những thầy cô giáo thường xem bổn phận của họ là phải làm sao cho học sinh thích thú để học. Những
bậc cha mẹ thường tin rằng làm cha mẹ là phải nuôi nấng những đứa trẻ sao cho chúng càng ít khóc càng
tốt, càng ít bị va chạm càng tốt.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 26 of 52
Tôi xin các bạn hãy xét lại những điều này thật cẩn thận. Xã hội chúng ta, mà những đứa trẻ này rồi sẽ gia
nhập, có phải là một xã hội có sự thông cảm không? Ðó là một xã hội mà trong đó tâm trí mỗi người đều
đầy ắp những vấn đề riêng tư của mình; đó không phải là một thế giới trong đó người ta đối xử với nhau
trong sự thông cảm và quan tâm. Ngược lại, đó là một xã hội đầy rẫy những người cảm thấy thích thú khi
thấy người khác thất bại, thưởng thức sự nghèo nàn của người hàng xóm như thưởng thức một miếng thịt
thơm ngon. Thật đáng tiếc là, xã hội của chúng ta không hề là một xã hội lý tưởng chút nào. Khi trẻ con
được dạy dỗ bởi những giáo viên luôn luôn tìm cách làm vui lòng, chiều đãi chúng, để cho chúng muốn làm
gì thì làm, và những cha mẹ luôn luôn tìm đủ mọi cách để không cho chúng nếm mùi đau khổ, chịu sự bất
tiện, thì điều gì sẽ xẩy ra cho chúng khi chúng bị ném ra ngoài đời trong một thế giới như vậy? Phải chăng
đây là trường hợp của nhiều người hiện đang đắm chìm, không nhiều thì ít, trong sự hoang mang, bực bội
và thất vọng hàng ngày?
Tôi tự hỏi tại sao những cha mẹ, thầy cô giáo, và những người lớn khác không sớm sủa tìm cách cung
ứng cơ hội và tập cho những con trẻ có thể tự xử dụng được tiềm năng có sẵn nơi chúng, cái tiềm năng
mà chúng ta đều có, nhờ vào đấy ta có thể đứng lên tự giải quyết được những vấn đề của mình trong
những lúc khó khăn. Chỉ khi chúng ta nếm mùi bất mãn và bực bội, tinh thần vô uý, ý chíhí quy ết tâm muốn
vượt qua mọi trở ngại mới dấy lên từ năng lực nội tại, từ năng lực tiềm tàng ấy của chúng ta.
Và đây chính là điều mà sự tu luyện của một vị thiền tăng đã đem lại
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top