Tu nu den hoa - End
Ðiều gì đây?
Kể cho quý bạn nghe những kinh nghiệm trong những ngày đầu tu tập rồi, bây giờ tôi xin chia xẻ vài kinh
nghiệm mới đây hơn, khi vai trò đã đảo ngược và tôi đã trở thành một vị thầy. Chia xẻ những câu chuyện
này, điều quan trọng đối với tôi không phải là cho đạo Phật được hưng thịnh hay Thiền tông được phổ biến
toàn thế giới này, mà nhiều hơn là cho mỗi người trong chúng ta có thể sống cuộc đời này một cách toàn
vẹn, trong một ý nghĩa chân thật nhất, cho đến ngày nhắm mắt lìa đời, trong sự mãn nguyện và an bình nơi
tâm. Chính trong niềm hi vọng này mà tôi đã đi thuyết giảng.
Một thanh niên trẻ có họ với tôi, còn trong lứa tuổi đôi mươi, một hôm đã đến thăm tôi với một điều thắc
mắc. Làm việc trong một hãng mậu dịch, anh thường có cơ hội tiếp đón khách hàng từ các nước khác, và
qua những câu chuyện trao đổi thân mật, những người khách này thường hỏi về tôn giáo của anh. Anh
bảo khi trả lời họ là anh không có tôn giáo gì cả, những vị khách ấy có vẻ phản ứng một cách ngờ vực.
"Có vẻ như những người ngoại quốc ấy xem tôn giáo là rất quan trọng," anh nhận xét, "trong khi những
người Nhật chúng ta lại chẳng biết gì cả. Thật sự là những người trẻ tuổi như chúng con đây chỉ tiếp xúc
với tôn giáo qua những tang lễ, ngoài ra con không cảm thấy nó cần thiết gì cả. Thầy nghĩ sao, với cảm
nghĩ như vậy đó, tôn giáo có còn là quan trọng không?"
Ðiều anh ta hỏi cơ bản là như thế này: tôn giáo là về cái gì đây?
Trong tiếng Nhật, chữ tôn giáo gồm có hai nghĩa "chính" (hay là "gốc") và "dạy dỗ". Vì vậy, tôi nói với anh
ta, "tôn giáo là ở ngay gốc của cái mà chúng ta gọi là đời sống. Ta có thể nói rằng có vô số những điều dạy
chúng ta trong đời và tôn giáo là cái chính thống và cơ bản nhất trong những điều dạy này."
Khi anh chàng trẻ tuổi này nghe giải thích như vậy, anh nói," Như vậy có nghĩa là tôn giáo là một cách căn
bản nhất để nghĩ về cuộc đời, phải không? Nói cách khác, mình có thể diễn dịch nó như là một "nhân sinh
quan" được không?"
Tôi nói với anh rằng có thể nói như vậy, nhưng tôi cũng hỏi anh về nhân sinh quan của anh như thế nào.
"À, con nghĩ rằng mục đích cuộc đời con người là xây dựng một cái gì đó bằng nỗ lực của chính mình,"
anh trả lời.
Ðó cũng là một quan điểm về cuộc đời. Trước đây, chính tôi cũng đã từng có lúc nghĩ như vậy. Trong
những ngày còn son trẻ, tôi đã tin tưởng rằng làm con người tức là có khả năng lấy được hay thụ đắc
được điều gì đó.
Có những người có thể chạy đua đến hơn bốn mươi cây số. Người ta biết rằng nếu luyện tập thân thể thì
sẽ có được sức mạnh thể lực; sự phát triển thể lực có thể được thực hiện trong một hạn tuổi nào đó . Bằng
sự học tập, bạn có thể học được bất cứ cái gì bạn muốn. Bạn có thể tích lũy những kinh nghiệm của mình.
Nếu đủ nỗ lực, bạn có thể có thêm nhiều bạn bè, kiếm được người yêu. Bạn có thể lập gia đình, tạo mãi tài
sản, xây nhà để ở. Trong cuộc đời, có một thời kỳø bạn cảm thấy thế giới như ở trong tay bạn, một thời kỳ
trong đó quan điểm hay mục đích của cuộc đời là "xây dựng một điều gì đó qua nỗ lực của chính mình" có
thể thích hợp.
Thế rồi sau đó, khi bạn già đi, bạn cần phải có kính đeo mắt để đọc sách, tai bạn bắt đầu ù đi, răng lung lay
dần. Khi một đứa bé ở tuổi mẫu giáo mất một cái răng, nó sẽ có một cái răng khác tốt hơn nữa mọc ra,
nhưng khi một người lớn mất răng, thì cái răng đó sẽ mất mãi mãi! Tử thần sẽ đến, cướp đi những người
bạn thân thiết nhất của bạn. Những đứa con mà bạn đã hi sinh nhường cơm xẻ áo sẽ ra đi rời tổ ấm của
gia đình. Rồi tuổi về hưu xế chiều đến, công việc mà bạn đã từng bỏ bao nhiêu công sức vào đó cũng phải
bỏ đi. Bạn bắt đầu quên đi những điều bạn tưởng đã học được. Bạn sẽ mất đi những bắp thịt rắn chắc mà
bạn đã cố công xây đắp, và chúng cũng ra đi không bao giờ trở lại. Dù cho một người có nhìn cuộc đời như thế nào chăng nữa, họ cũng sẽ cảm thấy thật thấm thía rằng cuộc đời con người không phải là một
điều gì có thể thêm vào, mà chỉ là mất đi.
"Khi thời kỳ đó đến, quan điểm về cuộc đời ấy của anh có còn giúp gì được anh không?" Tôi hỏi người bà
con trẻ tuổi của tôi.
Anh chàng trông có vẻ hơi ngượng ngịu khi cúi đầu xuống, thú nhận rằng có lẽ anh đã hơi tự kiêu quá, và
có lẽ cũng nên ít nhất tìm hiểu xem tôn giáo nói cái gì. Anh còn xin tôi hướng dẫn cho anh nữa.
Tất cả mọi người chúng ta đều hay dựng nên những quan điểm của riêng mình tùy theo tuổi tác và hoàn
cảnh đến trong đời sống, từ đó có những lối sống biến đổi và phức tạp khác nhau. Tôn giáo, tuy vậy,
không phải là một nhân sinh quan có giá trị chỉ trong một thời gian nào đó. Ðó là một giáo pháp luôn luôn
dùng được trong mọi thời, luôn luôn đúng thực, không phân biệt tuổi tác và hoàn cảnh.
Mọi hiện tượng trên thế gian này đều thường xuyên thay đổi; tất cả đều trải qua một thời đểø trưởng
dưỡng (thành), một thời để bảo trì (trụ), và rồi trở về với hư không ... sinh, lão, bệnh, và tử. Không một cố
gắng nào có thể làm cho bạn tránh được diễn biến của sự lão hóa. Không một nỗ lực nào có thể làm cho
bạn tránh khỏi cái chết. Những gì tích lũy được rồi sẽ mất đi, những gì có sinh rồi sẽ có diệt, những gì
được xây dựng lên rồi cũng sẽ bị tiêu hủy. Một quan điểm về bản chất của cuộc đời là một quan điểm giúp
chúng ta vượt qua được những đau khổ khi chúng ta phải đối mặt với chúng.
Tôi tin tưởng tự đáy lòng, rằng cái mà chúng ta gọi là tôn giáo chính là điều quan trọng nhất cho con người.
Tôi không thể nhấn mạnh đủ, rằng mục tiêu tối thượng của tôn giáo, dù chúng ta gọi đó là giác ngộ hay là
tâm bình an, vẫn là làm sao cho mỗi người được sống trong sự an bình, được sống một đời đầy đủ và toại
nguyện.
Hàng năm tôi đều đi Hokkaido để thuyết giảng, và sau một buổi nói chuyện trong một cuộc họp U NESCO ở
Sapporo, ông chủ tịch đến tìm tôi nhận xét rằng: "Chúng tôi hân hạnh được nghe thầy diễn thuyết một bài
rất dài và hữu ích, nhưng tôi già rồi, không thể nào nhớ hết một bài dài như thế được. Hơn nữa, tôi cũng
đã là một Phật tử rồi; mỗi buổi sáng trước khi đi làm và mỗi buổi tối khi về nhà tôi cũng đều thắp hương
bàn thờ và tụng một bài kinh."
"Vấn đề là, tôi bị bắt buộc phải giải thể, từng cái một, số lớn những công ty tôi đang quản lý, và điều này
làm cho tôi bị xáo trộn rất nhiều. Thế thì, Lão sư," ông nói thẳng thừng, "Tôi không muốn nghe diễn thuyết
dài dòng. Tôi muốn thầy nói cho tôi, chỉ trong một chữ, làm sao tôi có thể an được cái tâm đang xáo trộn
của tôi."
Những vị cao niên đôi khi thật khó tính, phải không bạn? Tôi đã bỏ công diễn thuyết thật trọn vẹn vấn đề
đó, bây giờ ông lại muốn chỉ tóm lại trong một chữ thôi!
Tôi trả lời bằng cách hỏi ông khi thắp hương và tụng kinh trước bàn thờ ông cầu nguyện cho ai.
"Thì, dĩ nhiên là, nhờ tổ tiên mà tôi mới có mặt ở đây," ông trả lời. "Nên tôi thắp nén hương để tỏ lòng biết
ơn tổ tiên và Phật tổ."
"Trong trường hợp đó", tôi bảo ông, "bắt đầu từ đêm nay, hãy thắp hai nén hương. Một nén để tỏ lòng tri
ân tổ tiên, như ông vẫn thường làm. Một nén kia để thắp cho cái xác của ông."
Chúng ta thường xem sự sống của mình là một điều đương nhiên, và như thếù hay bị lầm lạc khi hoàn
cảnh có những vấn đề, và bị mê mờ không phán đoán được cho đúng thực. Nhưng mặt khác, khi nhìn vào
cái chết của một người khác, chúng ta lại rất bén nhậy với sự mong manh của mọi sự trên đời này.
Nếu cùng với những suy tưởng đó mà chúng ta nhìn vào xác thân của mình, có lẽ chúng ta sẽ không còn
muốn để cho mình bị lôi cuốn trong những dây mơ rễ má của các vấn đề. Chúng ta có thể tự giải thoát
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 39 of 52
mình và quyết định hành động đúng vào căn bản của những vấn đề, vào gốc rễ của chúng. Ðó là điều tôi
ám chỉ khi tôi bảo vị cao niên ấy ngày đêm thắp một nén hương cho xác của chính mình.
Sau khi chấm dứt một bài giảng, tôi thường yêu cầu mọi người hãy quên đi tất cả những gì tôi đã nói. Ðó là
bởi vì chúng ta hay có khuynh hướng thu thập những bài giảng chỉ như những tài liệu, mang chúng về nhà,
rồi đem những trích dẫn từ đó ra làm nguyên liệu để chỉ trích những môi trường chung quanh chúng ta.
Ðiều trở thành cái nhân của sự tranh cãi không phải là trí tuệ; nó không khác gì mầm mống gieo trồng cho
sự than phiền và bất mãn. Có nhiều trường hợp, chúng ta càng cảm thấy mình biết nhiều một vấn đề, càng
cảm thấy bất mãn và bực bội hơn.
Những kiến thức thu lượm được trong vấn đề tôn giáo là không có giá trị gì cả. Tôn giáo, nói cho tới cùng,
là một điều phải tự kiểm chứng lấy qua sự thực hành.
Có nhiều người sẵn sàng muốn theo học những kỹ thuật giúp cho họ sống trong cuộc đời. Nhưng người
muốn tìm cách xác định gốc rễ đời sống của họ và vượt lên khỏi những kỹ thuật để đi vào cái căn bản -- tới
tôn giáo đích thực -- là cực kỳ hiếm hoi. Hiện trạng đó tôi thấy thật đáng tiếc vô cùng. Vì lẽ đó tôi không thể
nào không thúc dục bạn đừng đánh giá cuộc sống hàng ngày của mình trên căn bản những điều bạn
tưởng là đã biết, trên căn bản những tài liệu thu thập được. Tôi muốn bạn thức tỉnh thấy Phật tính trong
vạn pháp và đi tìm một lối sống chân chính. Nhưng đừng có rơi vào sai lầm: bạn có thể trở thành một hạng
người bất mãn hay thành một vị Phật giác ngộ, điều đó hoàn toàn tùy thuộc nơi bạn, hoàn toàn tuỳ thuộc
vào những hành động thực tế của chính bạn.
Thượng đế ở ngay đây
Mùa hè, tôi thường đi qua Anh Quốc diễn thuyết trong khóa tu học mùa hè do Hội Phật Giáo ở đó bảo trợ.
Sau những buổi nói chuyện, những bà mẹ trẻ ôm con trong tay đôi khi đến tìm tôi với nhiều câu hỏi. Gần
như lúc nào họ cũng hỏi tôi làm sao dậy con cái của họ biết về Phật pháp. (Thật bất hạnh là, trong bao
nhiêu năm làm tư vấn cho vô số người ở tại Nhật Bản này, chưa bao giờ có ai hỏi tôi câu này cả.)
Những phụ nữ này, họ là những thành viên của một xã hội được gán cho tính cách cá nhân chủ nghĩa, đã
biết từ trong xương tủy rằng tự do chân chính có nghĩa là không nương tựa vào người khác. Người ta
thường hay xem tự do như là có thể làm mọi việc theo ý mình, nhưng những người xuất thân từ những
quốc gia có một truyền thống cấp tiến thường có ý thức thật bén nhậy rằng cái cốt yếu của tự do là không
cần đến sự giúp đỡ của người khác. Vì hiểu tự do trong nghĩa đó, họ lấy một tuần lễ nghỉ phép để dấn thân
vào một lối sống mới lạ, tự kỷ luật mình qua những buổi tọa thiền đau đớn thân xác và lắng nghe thuyết
pháp trong sự chân thành nhất mực. Ðồng thời, họ cũng cầu nguyện rằng Phật pháp nhiệm mầu mà họ đã
cảm nhận sâu xa đó có thể truyền lại cho con cái họ, giúp chúng có được một đời sống đáng quý.
Một người mẹ trẻ đã có lần đến với tôi với câu chuyện về bé gái năm tuổi con bà. Một buổi sáng khi bà và
chồng đang uống trà nơi hiên nhà, con gái bà chơi ngoài vườn với một người bạn. Hình như là bạn em
quay qua em và nói rằng, "Ông tao mới mất . Bây giờ ông đang lên ở với Thượng đế trên Thiên đàng."
Trong khi cha mẹ em nghe mà không chú ý gì lắm, họ bỗng nghe thấy đứa con gái năm tuổi của họ bất
đồng ý với bạn. "Không, không," Em nói một cách tin tưởng. "Nếu ông mày mất và đi lên Thượng đế, thì
ông không ở Thiên đàng đâu. Thượng đế là ở ngay đây này, ở trong mày và tao, ở trong cái hoa này nữa
đó. Vì thế nên, ông mày chẳng đi đâu hết." Ðứa bé gái khăng khăng nói, "Mẹ tao tọa thiền nên biết hết mấy
cái đó mà."
Tôi nói với người mẹ trẻ rằng đây thật là một câu chuyện tuyệt vời.
Khi cha mẹ khuyên răn con không được phung phí, đứa trẻ có thể phản ứng bằng cách gọi cha mẹ là keo
kiệt và nêu lên rằng bất cứ cái gì rồi cũng có thể mua thêm được . Ít có cha mẹ nào có thể đặt ra luật lệ và
kiên trì sửa sai con mình hoài được. Ðến khi lớn, tất nhiên là, sẽ có những lúc đứa trẻ buông mình trongnhư thế nào chăng nữa, họ cũng sẽ cảm thấy thật thấm thía rằng cuộc đời con người không phải là một
điều gì có thể thêm vào, mà chỉ là mất đi.
"Khi thời kỳ đó đến, quan điểm về cuộc đời ấy của anh có còn giúp gì được anh không?" Tôi hỏi người bà
con trẻ tuổi của tôi.
Anh chàng trông có vẻ hơi ngượng ngịu khi cúi đầu xuống, thú nhận rằng có lẽ anh đã hơi tự kiêu quá, và
có lẽ cũng nên ít nhất tìm hiểu xem tôn giáo nói cái gì. Anh còn xin tôi hướng dẫn cho anh nữa.
Tất cả mọi người chúng ta đều hay dựng nên những quan điểm của riêng mình tùy theo tuổi tác và hoàn
cảnh đến trong đời sống, từ đó có những lối sống biến đổi và phức tạp khác nhau. Tôn giáo, tuy vậy,
không phải là một nhân sinh quan có giá trị chỉ trong một thời gian nào đó. Ðó là một giáo pháp luôn luôn
dùng được trong mọi thời, luôn luôn đúng thực, không phân biệt tuổi tác và hoàn cảnh.
Mọi hiện tượng trên thế gian này đều thường xuyên thay đổi; tất cả đều trải qua một thời đểø trưởng
dưỡng (thành), một thời để bảo trì (trụ), và rồi trở về với hư không ... sinh, lão, bệnh, và tử. Không một cố
gắng nào có thể làm cho bạn tránh được diễn biến của sự lão hóa. Không một nỗ lực nào có thể làm cho
bạn tránh khỏi cái chết. Những gì tích lũy được rồi sẽ mất đi, những gì có sinh rồi sẽ có diệt, những gì
được xây dựng lên rồi cũng sẽ bị tiêu hủy. Một quan điểm về bản chất của cuộc đời là một quan điểm giúp
chúng ta vượt qua được những đau khổ khi chúng ta phải đối mặt với chúng.
Tôi tin tưởng tự đáy lòng, rằng cái mà chúng ta gọi là tôn giáo chính là điều quan trọng nhất cho con người.
Tôi không thể nhấn mạnh đủ, rằng mục tiêu tối thượng của tôn giáo, dù chúng ta gọi đó là giác ngộ hay là
tâm bình an, vẫn là làm sao cho mỗi người được sống trong sự an bình, được sống một đời đầy đủ và toại
nguyện.
Hàng năm tôi đều đi Hokkaido để thuyết giảng, và sau một buổi nói chuyện trong một cuộc họp U NESCO ở
Sapporo, ông chủ tịch đến tìm tôi nhận xét rằng: "Chúng tôi hân hạnh được nghe thầy diễn thuyết một bài
rất dài và hữu ích, nhưng tôi già rồi, không thể nào nhớ hết một bài dài như thế được. Hơn nữa, tôi cũng
đã là một Phật tử rồi; mỗi buổi sáng trước khi đi làm và mỗi buổi tối khi về nhà tôi cũng đều thắp hương
bàn thờ và tụng một bài kinh."
"Vấn đề là, tôi bị bắt buộc phải giải thể, từng cái một, số lớn những công ty tôi đang quản lý, và điều này
làm cho tôi bị xáo trộn rất nhiều. Thế thì, Lão sư," ông nói thẳng thừng, "Tôi không muốn nghe diễn thuyết
dài dòng. Tôi muốn thầy nói cho tôi, chỉ trong một chữ, làm sao tôi có thể an được cái tâm đang xáo trộn
của tôi."
Những vị cao niên đôi khi thật khó tính, phải không bạn? Tôi đã bỏ công diễn thuyết thật trọn vẹn vấn đề
đó, bây giờ ông lại muốn chỉ tóm lại trong một chữ thôi!
Tôi trả lời bằng cách hỏi ông khi thắp hương và tụng kinh trước bàn thờ ông cầu nguyện cho ai.
"Thì, dĩ nhiên là, nhờ tổ tiên mà tôi mới có mặt ở đây," ông trả lời. "Nên tôi thắp nén hương để tỏ lòng biết
ơn tổ tiên và Phật tổ."
"Trong trường hợp đó", tôi bảo ông, "bắt đầu từ đêm nay, hãy thắp hai nén hương. Một nén để tỏ lòng tri
ân tổ tiên, như ông vẫn thường làm. Một nén kia để thắp cho cái xác của ông."
Chúng ta thường xem sự sống của mình là một điều đương nhiên, và như thếù hay bị lầm lạc khi hoàn
cảnh có những vấn đề, và bị mê mờ không phán đoán được cho đúng thực. Nhưng mặt khác, khi nhìn vào
cái chết của một người khác, chúng ta lại rất bén nhậy với sự mong manh của mọi sự trên đời này.
Nếu cùng với những suy tưởng đó mà chúng ta nhìn vào xác thân của mình, có lẽ chúng ta sẽ không còn
muốn để cho mình bị lôi cuốn trong những dây mơ rễ má của các vấn đề. Chúng ta có thể tự giải thoát
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 39 of 52
mình và quyết định hành động đúng vào căn bản của những vấn đề, vào gốc rễ của chúng. Ðó là điều tôi
ám chỉ khi tôi bảo vị cao niên ấy ngày đêm thắp một nén hương cho xác của chính mình.
Sau khi chấm dứt một bài giảng, tôi thường yêu cầu mọi người hãy quên đi tất cả những gì tôi đã nói. Ðó là
bởi vì chúng ta hay có khuynh hướng thu thập những bài giảng chỉ như những tài liệu, mang chúng về nhà,
rồi đem những trích dẫn từ đó ra làm nguyên liệu để chỉ trích những môi trường chung quanh chúng ta.
Ðiều trở thành cái nhân của sự tranh cãi không phải là trí tuệ; nó không khác gì mầm mống gieo trồng cho
sự than phiền và bất mãn. Có nhiều trường hợp, chúng ta càng cảm thấy mình biết nhiều một vấn đề, càng
cảm thấy bất mãn và bực bội hơn.
Những kiến thức thu lượm được trong vấn đề tôn giáo là không có giá trị gì cả. Tôn giáo, nói cho tới cùng,
là một điều phải tự kiểm chứng lấy qua sự thực hành.
Có nhiều người sẵn sàng muốn theo học những kỹ thuật giúp cho họ sống trong cuộc đời. Nhưng người
muốn tìm cách xác định gốc rễ đời sống của họ và vượt lên khỏi những kỹ thuật để đi vào cái căn bản -- tới
tôn giáo đích thực -- là cực kỳ hiếm hoi. Hiện trạng đó tôi thấy thật đáng tiếc vô cùng. Vì lẽ đó tôi không thể
nào không thúc dục bạn đừng đánh giá cuộc sống hàng ngày của mình trên căn bản những điều bạn
tưởng là đã biết, trên căn bản những tài liệu thu thập được. Tôi muốn bạn thức tỉnh thấy Phật tính trong
vạn pháp và đi tìm một lối sống chân chính. Nhưng đừng có rơi vào sai lầm: bạn có thể trở thành một hạng
người bất mãn hay thành một vị Phật giác ngộ, điều đó hoàn toàn tùy thuộc nơi bạn, hoàn toàn tuỳ thuộc
vào những hành động thực tế của chính bạn.
Thượng đế ở ngay đây
Mùa hè, tôi thường đi qua Anh Quốc diễn thuyết trong khóa tu học mùa hè do Hội Phật Giáo ở đó bảo trợ.
Sau những buổi nói chuyện, những bà mẹ trẻ ôm con trong tay đôi khi đến tìm tôi với nhiều câu hỏi. Gần
như lúc nào họ cũng hỏi tôi làm sao dậy con cái của họ biết về Phật pháp. (Thật bất hạnh là, trong bao
nhiêu năm làm tư vấn cho vô số người ở tại Nhật Bản này, chưa bao giờ có ai hỏi tôi câu này cả.)
Những phụ nữ này, họ là những thành viên của một xã hội được gán cho tính cách cá nhân chủ nghĩa, đã
biết từ trong xương tủy rằng tự do chân chính có nghĩa là không nương tựa vào người khác. Người ta
thường hay xem tự do như là có thể làm mọi việc theo ý mình, nhưng những người xuất thân từ những
quốc gia có một truyền thống cấp tiến thường có ý thức thật bén nhậy rằng cái cốt yếu của tự do là không
cần đến sự giúp đỡ của người khác. Vì hiểu tự do trong nghĩa đó, họ lấy một tuần lễ nghỉ phép để dấn thân
vào một lối sống mới lạ, tự kỷ luật mình qua những buổi tọa thiền đau đớn thân xác và lắng nghe thuyết
pháp trong sự chân thành nhất mực. Ðồng thời, họ cũng cầu nguyện rằng Phật pháp nhiệm mầu mà họ đã
cảm nhận sâu xa đó có thể truyền lại cho con cái họ, giúp chúng có được một đời sống đáng quý.
Một người mẹ trẻ đã có lần đến với tôi với câu chuyện về bé gái năm tuổi con bà. Một buổi sáng khi bà và
chồng đang uống trà nơi hiên nhà, con gái bà chơi ngoài vườn với một người bạn. Hình như là bạn em
quay qua em và nói rằng, "Ông tao mới mất . Bây giờ ông đang lên ở với Thượng đế trên Thiên đàng."
Trong khi cha mẹ em nghe mà không chú ý gì lắm, họ bỗng nghe thấy đứa con gái năm tuổi của họ bất
đồng ý với bạn. "Không, không," Em nói một cách tin tưởng. "Nếu ông mày mất và đi lên Thượng đế, thì
ông không ở Thiên đàng đâu. Thượng đế là ở ngay đây này, ở trong mày và tao, ở trong cái hoa này nữa
đó. Vì thế nên, ông mày chẳng đi đâu hết." Ðứa bé gái khăng khăng nói, "Mẹ tao tọa thiền nên biết hết mấy
cái đó mà."
Tôi nói với người mẹ trẻ rằng đây thật là một câu chuyện tuyệt vời.
Khi cha mẹ khuyên răn con không được phung phí, đứa trẻ có thể phản ứng bằng cách gọi cha mẹ là keo
kiệt và nêu lên rằng bất cứ cái gì rồi cũng có thể mua thêm được . Ít có cha mẹ nào có thể đặt ra luật lệ và
kiên trì sửa sai con mình hoài được. Ðến khi lớn, tất nhiên là, sẽ có những lúc đứa trẻ buông mình trongtình trạng chán nản tuyệt vọng. Những đứa trẻ được cha mẹ nuông chiều thường hay mạnh miệng nói trả
treo là, "Ðó là việc của con! Cha mẹ không phải là con; cha mẹ không hiểu con gì cả. Ðể cho con yên có
được không! Con có muốn sinh ra đời đâu." Người cha hay mẹ bị con mình mắng lại như thế không còn có
thể nói gì được nữa.
So sánh tình trạng của bậc phụ huynh đó với tình trạng của bà," tôi nói với người mẹ Anh Quốc. "Con bà
biết được Thượng đế ở ngay nơi nó và nơi tất cả mọi vật. Nhờ nó biết như vậy, khi con bà có phí phạm cái
gì, bà có thể hỏi nó là làm như thế nó không thấy là đã hơi xử tệ với Thượng đế trong đó hay sao. Nhắc
nhở như vậy, cô bé sẽ tự thấy được sự sai lầm trong hành động của mình."
Khi cô bé cảm thấy thất vọng, bà có thể hỏi em là nếu em không đối xử tử tế với mình liệu có làm cho Phật
ở trong em buồn không, và rồi cho em về phòng suy nghĩ điều này một mình. Chỉ cần nhắc nhở điều em đã
biết rồi, như vậy chắc đứa trẻ sẽ có thể tự mình đứng dậy được chứ? Nếu giáo dục em trong đường lối
như vậy sẽ rất dễ dàng."
Cặp vợ chồng này chỉ có cơ hội hỏi những câu hỏi và được sự hướng dẫn của tôi một lần một năm, trong
thời gian một tuần, nhưng họ thường thảo luận với nhau về những kinh nghiệm của đôi bên, hàng ngày
một, 365 ngày trong năm. Bởi vì đó là một phần của câu chuyện nói hàng ngày của họ, em bé năm tuổi con
họ có thể nói một cách vững chắc rằng Thượng đế là ở trong tôi, và trong bạn tôi nữa; Thượng đế cũng ở
trong cả hoa lá, đá sỏi và tất cả mọi thứ.
Những lời nói này thấm vào trong tôi thật tự nhiên như nước thấm qua đất cát vậy.
Cái chết có bí hiểm không?
Tuy tôn giáo là về những điều không liên hệ gì đến sự chết, nhưng ở đây, để rộng đường thảo luận, chúng
ta hãy lui mười bước và coi như là không phải vậy, thật ra là sự chết có một ảnh hưởng chủ yếu trên tôn
giáo. Có cách nào để chúng ta nghĩ đến sự sống mà không nghĩ đến sự chết không? Xã hội của chúng ta
có khuynh hướng rất thiên về tuổi trẻ, và khi chúng ta già đi, chúng ta thường hay nhìn cuộc đời như đang
trên đà xuống dốc từ một ngọn đồi cao, như một sự phế thải cô đơn của một đời người.
Nhưng vấn đề không chỉ là như vậy. Có thể nào chúng ta thực sự sống trọn vẹn được mà không biết nhìn
kỹ vào sự chết không? Tôi không tin điều đó có thể được. Nếu không nhìn thẳng vào sự chết, như là mặt
trái của sự sống, chúng ta không thể nào sống trọn vẹn và đầy đủ được. Tôi hoàn toàn tin chắc như vậy.
Nhìn sự chết như là cách biệt và xa vời với sự sống, chúng ta không hay ưa thích cái chết. Khi nghĩ rằng
họ sẽ mất hết tất cả những gì họ đã tích lũy được, những người đã nỗ lực thật nhiều trong cuộc đời sẽ đặc
biệt thù ghét cái chết và họ còn không muốn nhắc đến vấn đề đó nữa. Ngoài ra, nếu có ai nghĩ về sự chết
thì cũng đều có một ý nghĩ như nhau là cái chết là một điều ï không thể hiểu được. Lý luận của họ là không
thể biết đến cái chết được vì người ta không thể kinh nghiệm nó trong khi còn sống, và không có ai chết rồi
mà lại trở về để có thể kể cho chúng ta nghe được. Tuy rằng có những người đã trở về sau khi trải qua cái
chết giả, nhưng không một ai chết thật đã trở về sau đó vài năm để mà kể cho chúng ta nghe về thế giới
bên kia. Một vài người nói rằng, nghĩ về sự chết là chỉ có phí thời giờ.
Chấp trước trong thái độ đó, chúng ta sẵn sàng đơn giản hóa ý nghĩa của câu nói Khổng Tử là: "Chúng ta
chưa biết gì về sự sống, làm sao chúng ta biết về sự chết được?" Chúng ta cho rằng có thể tập trung sống
một cuộc sống trọn vẹn mà không cần phải nhìn kỹ đến cái chết. Do đó chúng ta thường hạ thấp tầm quan
trọng của sự chết để mà không cần nghĩ đến nó.
Nhưng thực sự chết có phải là điều gì chúng ta không thể biết đến không?
Có một điều chúng ta chắc chắn sẽ gập phải trong đời sống hàng ngày của chúng ta, đó chính là sự chết.
Người ta chết khắp nơi nơi. Hơn thế nữa, còn có những cái chết của các gia súc như chó, mèo, chim chóc
nuôi trong nhà. Còn cây cối bạn mua ở vườn cây đem về trong chậu nữa, chúng cũng khô héo và chết đó
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 41 of 52
thôi? Còn những đóa hoa tươi nghệ thuật được mua ở tiệm về, chúng cũng tàn tạ dần trong những kiểu
trưng bầy của chúng đó thôi? Rồi cái tách đặc biệt mà bạn dùng đến hàng ngày và giữ gìn cẩn thận đó,
một ngày nào nó vuột khỏi tay bạn và rơi xuống đất vỡ tan tành. Cái "chết" luôn luôn ở đó, với ý nghĩa của
sự biệt ly.
Nếu sự chết chiếm một phần đáng kể như vậy trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, làm sao chúng ta
không biết đến nó được? Tại sao chúng ta cứ nhất quyết cho rằng không thể nào biết đến sự chết được
khi cái chết vẫn hiện hữu thường nhật nơi cuộc đời chúng ta? Làm sao chúng ta có thể bác bỏ vấn đề này
một cách lơ là như vậy được?
Cái nguyên nhân gốc của sự bác bỏ sự chết của chúng ta là, theo từ ngữ Phật pháp, cái quan điểm đối đãi
của năng và sở -- của cái ta và cái ngoài ta -- "Ðó là người ta, còn đây là tôi." Chúng ta thường hay lãnh
đạm với những gì thấy có vẻ như không trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống của mình trong hiện tại ... "Ðiều
ấy thì liên quan gì đến tôi?"
Tuy rằng sự chết tràn lan ở chung quanh chúng ta, chúng ta thường xem đó như là cái chết của một cái gì
hay một người nào khác chúng ta. Nhưng làm sao để biện minh cho điều đó được?
Sự phân biệt rõ ràng giữa chúng ta và người khác có nói lên được thực chất trong tình trạng của chúng ta
không? Giữa những người chúng ta, có phải là không có gì trung gian nối kết chúng ta với nhau không?
Tâm như thủy
Bất cứ khi nào đi diễn thuyết ở ngoại quốc, tôi cũng đều đi với một thông dịch viên. Có một dịp, trước một
buổi nói chuyện ở Anh Quốc, người thông dịch này nói với tôi rằng: "Lão sư, thầy thường hay dùng chữ
chúng ta ngay cả khi thầy nói về chính mình. Nhưng trong một xã hội cá nhân chủ nghĩa như ở nước Anh
này, nếu con dịch nguyên văn chữ chúng ta ấy, thầy sẽ mất đi một chút hấp lực đối với họ. Vì vậy, ngay cả
khi thầy nói chúng ta, mà con biết chắc rằng thầy có ý nói là tôi, con sẽ muốn dùng chữ tôi để thông dịch.
Mong thầy thông cảm cho phép con được làm như vậy."
Tôi lấy làm lạ khi nghe như vậy. Nghĩ lại, tôi nhận ra rằng người Nhật, ở trong một nhóm, khi nói chuyện có
dùng từ chúng ta thật mơ hồ, và như thế áp đặt mọi người vào với nhau mà không hề có sự đồng ý trước
của những cá nhân liên hệ. Và khi làm như vậy là đã trốn tránh được trách nhiệm cho cá nhân. Tuy nhiên,
khi đào sâu hơn vào vấn đề, tôi không thấy được đó là một điều sai lầm khi dùng chữ chúng tôi.
Bạn có thể giả dụ là có nhiều thực thể riêng biệt gọi là tôi đã đến với nhau họp thành một nhóm gọi là
chúng ta. Nhưng đây không hẳn là thực chất của vấn đề.
Hãy suy ngẫm như thế này: giả sử như có một người đang ở trong tâm trạng rất chân thực và an tịnh,
không có một lo nghĩ nào, tinh thần thật là sáng suốt và lành mạnh. (khi tâm đang quằn quại và bế tắc thì
đó lại là chuyện khác). Giả sử như người ấy là một bà nội trợ đang ở trong bếp một buổi tối, và bà nghe
tiếng chân quen thuộc của ông chồng đang về đến nhà. Vội vã lau tay vào cái yếm mặc ngoài, bà đi ra cửa
đón chồng. Trong giây phút đó người này -- với bộ mặt của người vợ, tiếng nói của người vợ, thân hình và
cử chỉ của người vợ -- là một người vợ đang đi ra đón chồng.
Thế rồi, đúng lúc bà đang đưa tay ra lấy áo khoác của chồng, một giọng nói vang ra từ đàng sau, "Mẹ!" Bà
quay lại trả lời, "Gì đó con?" Ngay lúc đó người này không còn mang bộ mặt của người vợ nữa, mà là bộ
mặt của người mẹ. Bà quay lại với bộ mặt của người mẹ, tiếng nói của người mẹ, cử chỉ của người mẹ.
Thế rồi, một người bạn láng giềng đến gọi cửa, bà tiếp đón khách không phải với bộ mặt của người vợ hay
người mẹ, mà với bộ mặt của một người bạn hàng xóm.
Có thể khi bạn đọc những điều này, bạn sẽ tưởng tượng hình dáng bề ngoài tôi như một vị thầy tăng.
Nhưng sáng mai tôi sẽ đi viếng mộ của cha mẹ tôi. Ðứng trước mộ, tôi chỉ là một đứa trẻ không hơn không
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 42 of 52
kém. Ðối trước với cha mẹ mình là một đứa trẻ, đối trước với con mình là một bậc phụ huynh, đối trước
chồng mình là một người vợ, đối trước vợ mình là một người chồng. Ơû nơi làm việc, bộ mặt và bề ngoài
người ta khoác lên là tùy thuộc vào địa vị có trong sở. Ðó là thực chấtø bề ngoài của chúng ta.
Không có thực thể nào gọi là "Tôi" di chuyển từ điểm này sang điểm khác, lúc này qua lúc khác. Mà đúng
hơn là, qua những lúc gập gỡ chuyên biệt nào đó với những người chuyên biệt nào đó, trong mỗi lần gập
gỡ, trong mỗi sự giao tiếp, cái gọi là "Tôi" sẽ xuất hiện. Như vậy ta thấy dường như một cái gì ở ngoài con
người chúng ta, thật ra, lại bổ túc cho chúng ta, làm cho mỗi giây phút trong cuộc đời thêm phần rực rỡ.
Nếu bạn hiểu được điều này, bạn sẽ hiểu tại sao Thiền tông dùng sự tu tập để đạt được giác ngộ bằng
cách quán chiếu thật thâm sâu vào tâm của mình. Nếu cái tâm đó là của riêng bạn, dù bạn có không
ngừng soi chiếu vào nó thật miên mật, bạn cũng không thể ngộ được cái chân lý chung nhất của vạn pháp.
Nhưng tâm bạn không phải là một vật sở hữu cá nhân, nó không phải chỉ là của riêng bạn thôi.
Tâm bạn, sự sống trong bạn, được sanh ra trong sự liên đới với môi trường. Tâm bạn là đời sống của vũ
trụ rộng lớn vĩ đại này. Chính tâm của chúng ta là cái nôi từ đó khởi đầu mọi sự, và như tôi là một biểu hiện
của tánh Phật, bạn cũng là một biểu hiện của tánh Phật. Vì thế, Thiền tông dậy rằng chúng ta không nên
cố gắng để biết "hết mọi sự", mà chúng ta phải tìm hiểu những gì gần nhất với mình, đó là thân và tâm của
mình. Vì thế mà chỉ cần nhìn sâu vào cái tâm bé nhỏ của bạn, bạn cũng có thể mẫn cảm với tâm của
người khác ... không những thế còn có thể ngộ được chân lý của toàn thể vũ trụ vô biên này nữa!
Chúng ta không hiện hữu như những thỏi nước đá, di chuyển một cách cứng nhắc từ nơi này sang nơi
khác. Mà chúng ta như giòng nước chẩy tự do, lúc vào một cái hộp bốn góc, lúc ở trong một cái hộp ba
góc, mỗi lúc mỗi sinh ra lại và đổi mới. Tôi tin rằng, đó là một sự thực trong sự hiện hữu của chúng ta, và
sự tồn tại như thế của con người, sự tồn tại như thế của vạn pháp trong vũ trụ này, là điều mà Ðức Phật
tuyên dương.
Xét như vậy, chúng ta không phải là những cá thể những cái "Tôi" tập hợp lại để làm thành "chúng ta",
nhưng trong sự hiện diện của "chúng ta", có một thứ gọi là "Tôi" đã khởi lên. Tôi tin rằng, đây cũng là một
sự thực.
Khi chúng ta hòa đồng với thể nguyên thủy của mình, chúng ta sẽ có thể thông cảm được sự chết, sự đau
đớn, buồn khổ, hạnh phúc của người khác như của chính mình.
Cái chết của ông tôi
Năm trước khi tôi vào trường tiểu học, trong một ngày hè nóng đỏ lửa, ông tôi dẫn tôi đi xem đô vật trong
thành phố. ông tôi bao giờ cũng rất cưng chiều tôi. Chúng tôi rời nhà đi vào buổi sáng, và có lẽ ông định về
nhà từ lúc trưa, nhưng vì tôi vòi vĩnh nên rốt cuộc chúng tôi đã ở ngoài đường suốt ngày và đến tối mới trở
về nhà. Hậu quả là sau khi ở ngoài nắng quá lâu, ông tôi đã bị trúng nắng. Dù mới là một đứa bé sáu tuổi,
tôi cũng nhận ra là sự vòi vĩnh của tôi đã là nguyên nhân cho tình trạng bất thường của ông.
Cha tôi, vốn là một bác sĩ, đã không đưa ông đến bệnh viện, nhưng để ông ở nhà chăm sóc và nuôi dưỡng
ông. Lúc bấy giờ mới bắt đầu triều đại Chiêu Hòa (Showa), trong thập niên 1930, những cách chữa trị còn
rất là thô sơ. Một tảng nước đá được đặt trong một đĩa thiếc mỏng, và khi nước đá tan ra, thì nước lạnh đó
được dùng để làm hạ nhiệt nơi lông mày của ông.
Cả nhà tôi lúc ấy náo loạn lên, cử người đi gọi các bà con họ hàng. Trong những ngày ấy điều kiện không
dễ dàng như bây giờ, chỉ việc nhẩy lên xe lái đến nơi sau khi nhận một cú điện thoạ i; mà sau khi nhận
được tin báo, bà con phải đi bộ vượt núi trong những đôi dép rơm để đến. Tôi hoàn toàn bị bỏ rơi trong khi mọi người tề tựu lại và, từng giây từng phút một, hết vui mừng lại đến than
khóc, tùy theo tình trạng biến đổi của ông. Thấy các người trong họ như vậy và cùng lúc cảm thấy cái
không khí xáo trộn trong gia đình, tôi cảm thấy sợ hãi. Tôi chạy trốn lên gác và nằm bẹp nơi cầu thang
ngắm nhìn quang cảnh ở dưới. Trong khi nhìn xuống cảnh tượng hoang mang yên lặng ở dưới, tôi nhận ra
rằng ông tôi sắp chết. Tôi nhớ mình đã tự hỏi không biết như vậy có nghĩa là tôi có còn gập được ông nữa
hay không.
Bởi vì đối với một đứa trẻ như tôi, cái ý tưởng ông đột nhiên có thể biến mất đi không phải là một cái gì có
thể dễ dàng thấu hiểu được. ông tôi vẫn thường luôn ở đó, lúc nào cũng tỏ thật nhiều tình thương mến.
Trong khi tôi còn đang ngẫm nghĩ về vấn đề đó, mẹ tôi trèo lên gác tìm tôi và giải thích cho tôi biết rằng
ông sắp chết rồi.
"Khi một người sắp chết", mẹ nói, "người ấy khát nước lắm, nên chúng ta phải cho họ uống nước. Bởi vì
ông đã cưng chiều con hơn hết thẩy mấy đứa cháu khác, con phải xuống cho ông uống nước." Thế là tôi bị
lôi xuống dưới nhà.
Tôi được đưa cho một miếng bông thấm nước để lau môi cho ông. Tôi thấy rõ ràng rằng trong khi trán ông
ẩm ướt, thì miệng ông ngậm chặt lại, đôi môi khô và nứt nẻ, và tôi cảm thấy như ông đang rất khát nước.
Khi tôi bắt đầu lau nhè nhẹ, những giọt nước chẩy vào những đường trên môi ông và làm cho ẩm ướt,
nhưng không có một giọt nào lọt được vào miệng của ông. Tưởng rằng tôi không dùng đủ nước, tôi vắt
miếng bông gòn ướt lên miệng của ông. Nước chẩy ròng ròng nơi mặt ông, nhưng vẫn không có một giọt
nào lọt vào miệng ông được.
Ông tôi, vốn vẫn hay có thú uống trà, và bây giờ đang khát nước như vậy, lại không thể mở miệng ra được
để nuốt lấy một ngụm nước. Cái cảm giác có một sự thay đổi lớn đang diễn ra đã thấm thấu vào trong tâm
của đứa trẻ này đến tận xương tủy. Không bao lâu sau đó, ông đã thở hơi cuối cùng, và chúng tôi tắm rửa
xác ông để sửa soạn hỏa thiêu.
Người ta thường nghĩ rằng thật là tội cho người chết, khi đang trên đường đến cõi Tịnh Ðộ của Ðức Phật
Di Ðà, lại phải đem theo bụi trần của thế gian này, cho nên với cảm nghĩ đó, người chết thường được tắm
rửa lần cuối cùng. Bồn tắm được đổ vào đầy nước lạnh, sau đó thêm nước nóng vào.
Trong ngày ấy, ở nhà tôi nước nóng được đổ vào bồn, rồi một ít rượu được thêm vào, và xác ông tôi được
lau với một khăn bông ướt. Tôi được phép lau ngực của ông, nhưng cái khăn vuột ra khỏi bàn tay bé nhỏ
của tôi, trượt trên da mình của ông. Tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác khi sờ vào da của ông. Trước đây, khi
ông để tôi leo lên vai ngồi, tôi có thể thấy được làn da nhăn nheo trên gáy ông. Dưới bàn tay tôi, lúc nắm
chặt lấy trán ông để khỏi ngã, tôi cũng cảm thấy được làn da nhăn nheo . Lúc đó người ông dẻo dai và ấm
áp, trong khi bây giờ đôi tay tôi bất ngờ chạm vào người ông chỉ thấy cứng đơ. Cái lạnh toát ra từ xác ông,
một cái lạnh hoàn toàn khác với cái lạnh của nước đá, làm cho tôi phát rùng mình. Ðứa trẻ sáu tuổi này đã
nhận được một bài học bén nhậy về sự chết.
Gia đình tôi mang tôi đi dọc theo những con đường nhỏ hẹp nằm giữa hai bên đồng ruộng khi đưa quan tài
đi. Lò thiêu không phải như ngày nay, với những cửa dầy nặng nề như dưới hầm của nhà băng. Trông nó
không hơn gì một cái lỗ, trong đó người nhà cho quan tài vào và qua đó còn có thể thấy được hai bên. Cái
lỗ đó được chất đầy rơm, và củi được đặt chung quanh quan tài. Rồi tất cả mọi người trong gia đình cùng
nhóm cây đuốc thông lên và cho lửa cháy. Khi rơm cùng củi và quan tài bắt đầu nứt ra và nổ lách tách
trong ngọn lửa, chúng tôi đi về nhà đợi đến ngày hôm sau sẽ đến thu lượm tro cốt của ông. Dù với con mắt
của một đứa trẻ sáu tuổi, khi tôi ngoái cổ nhìn lại cột khói mờ đục bốc lên từ ống khói của ngọn lửa thiêu
mà tôi đã tiếp tay nhóm lên đó, tôi cũng cảm nhận cái chết như một cái gì thật riêng tư đối với mình. Cái
chết đó không phải chỉ là của "một người nào khác."
Bây giờ, tôi đang thấy ông tôi -- người tôi kính trọng và muốn noi theo -- đang bị thiêu đốt. Cái tôi thấy đó
không phải là cái chết của một người nào khác, mà chính là tôi của ngày tương lai. Tôi đã không nói quá
về việc này, khi nhiều năm sau nhìn lại và kể câu chuyện bi thảm này . Mà thật sự là tôi lúc ấy, một đứa trẻ
sáu tuổi, đã thấy thân xác mình tương lai bị thiêu đốt trong ngọn lửa đó.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 44 of 52
Pháp Vô Lậu
Kể từ kinh nghiệm đó về cái chết của ông tôi, cũng đã có mấy lần tôi có ý tưởng muốn chết, muốn tự trong
đáy lòng. Có lẽ đôi lúc bạn cũng có cảm nghĩ như vậy. Thực ra, có lần tôi đã từng thử uống thuốc quá liều,
nhưng tôi tin rằng một cách vô thức, tôi đã giữ liều lượng thuốc đó trong vòng an toàn. Tôi không thể chết
được. Có lẽ lý do chính khiến tự thâm tâm tôi ngần ngại không muốn chết là vì kinh nghiệm tôi đã trải qua
khi chứng kiến cái chết của ông tôi. Sự cảm nhận về cái chết của tôi, qua kinh nghiệm đó, đã sâu xa tới
mức khó thể nào vượt qua được.
Cái "chết" mà nhiều người biết đến, tuy nhiên, không phải là cái chết tan rã thực sự của thể xác trong
tương lai. Thường thì cái chết duy nhất được biết đến là cái chết như trong một phim lịch sử hay một phim
kinh dị nào đó mà người ta thưởng thức trong khi nằm dài trên sàn nhà hay trên ghế sofa, ăn kẹo hay
những thức ăn lặt vặt khác.
Tôi xin kể lại một câu chuyện khác, về một người thầy thời tiểu học của tôi, một con người vĩ đại. Suốt từ
lớp hai cho đến khi ra trường, các bạn học và tôi đã may mắn được thầy chỉ đạo lớp, và thầy đã có một
ảnh hưởng tiên quyết lên trên mỗi người chúng tôi.
Vài năm trước, để kỷ niệm nửa thế kỷ đã qua từ lúc ra trường, chúng tôi có một buổi hội ngộ. Trong năm
mươi học trò thuở trước, hơn mười người đã qua đời, và ba mươi ba người chúng tôi còn lại đã đến thật
đông đủ. Chính tôi cũng dẹp bỏ hết mọi việc để đến, vì không muốn bỏ lỡ cơ hội này. Chúng tôi có một
buổi tiệc và nghỉ đêm ở một nơi du lịch có suối nước nóng, và tuy rằng có uống rượu saké, nhưng không
có ai đề nghị hát karaoke cả. Ngay cả lúc chúng tôi tụ tập quanh người thầy cũ hồi xưa, uống rượu vui
chơi, buổi họp mặt này vẫn có vẻ nghiêm túc. Có nhiều thành viên trong nhóm tham vấn với thầy, và cũng
có vài người hỏi tôi về đủ thứ vấn đề ảnh hưởng đến đời sống của họ. Buổi họp mặt tái ngộ này hoàn toàn
giống như một khóa tu học nhờ ảnh hưởng sâu đậm của thầy đã để lại trên chúng tôi trước nay.
Thầy là một nhà mô phạm vĩ đại, và từ khi về hưu, thầy cũng vẫn tiếp tục sống một đời gương mẫu trong
cộng đồng. Nếp sống cá nhân của thầy cũng không có điều gì đáng chê trách. Mặc dù đã ngoại tám mươi
tuổi, trông thầy vẫn khỏe mạnh hơn bất cứ học trò cũ nào của thầy!
Khi đến lúc tan tiệc, tất cả những người đã quay quần chung quanh thầy để nghe những lời vàng ngọc đều
có vẻ không muốn làm phiền thầy hơn nữa, nên rốt cuộc là thầy và tôi đêm ấy được xếp chung một phòng.
Chúng tôi để gối bên cạnh nhau, nằm xuống, tắt đèn rồi, bỗng thầy gọi tôi một cách lịch sự, "Morinaga-
san", thêm tiếng ... san vào tên đứa học trò cũ của thầy thời xa xưa trước đây.
"Xin lỗi, tôi thấy tôi điên quá", thầy nói tiếp, "nhưng dạo sau này tôi đâm ra sợ chết quá, đến nỗi tôi hầu như
là cảm thấy rằng giá không được sanh ra lại hơn!"
Những lời của thầy đập vào tai tôi đã đem lại một ấn tượng không nhỏ. Tôi nhớ lại về trước, suốt tám mươi
năm ròng rã thầy đã chuyên cần làm việc như thế nào, và sự thú nhận của thầy làm tôi cảm thấy thật mủi
lòng.
Những con người chúng ta sống một đời sống hữu hạn, hiện thân trong những hình tướng ở thế giới hiện
tượng này, và bắt buộc phải chịu sự chi phối của luật nhân quả, luật của nghiệp. Ðiều cơ bản trong giáo lý
đạo Phật là hễ có sanh, là có tử; có nỗ lực làm thì mới có kết quả. Tất cả những nghiên cứu khoa học về
thiên nhiên và con người cũng đều đặt trên căn bản của luật nhân quả này. Không những vậy, trong đời
sống hàng ngày, cả những người ít khi suy nghĩ nghiêm chỉnh đến những vấn đề này cũng cố sống sao để
được những cái nhân tốt đem lại kết quả tích cực.
Tuân theo luật (nhân quả) ấy, một số người đã không ngừng cố gắng tạo lấy nghiệp tốt và cũng được
thành công trong sự nỗ lực của họ. Nhưng khi cuối cùng họ trạm chán phải bức tường kiên cố của sinh,
lão, bệnh, tử, không có một số lượng tích trữ thiện nghiệp nào có thể giúp họ vượt qua được, và họ sẽ cảm
thấy thất vọng vô cùng.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 45 of 52
Một điều tất nhiên là, người nào càng đặc biệt hãnh diện về công việc làm của họ, khi gập sự tấn công ồ ạt
của tuổi già -- khiến cho họ không còn làm việc được như từ trước tới nay -- sẽ rất là hãi sợ. Người nào
khoe khoang trí thông minh sắc bén phi thường của họ sẽ lo sợ sự suy yếu dần của trí óc. Người nào sống
một đời gương mẫu của một thành viên trong xã hội sẽ đặc biệt hãi sợ khi chứng kiến sự hao mòn của
năng lực thể chất cũng như tinh thần của họ.
Như thế, chúng ta không thể mong sống với một tâm an lạc trong những ngày cuối cùng của cuộc đời chỉ
bằng những việc công đức mà ta cố gắng tạo nên theo luật nhân quả này.
Trong giáo pháp của đạo Phật, có đề cập đến sự tồn tại hữu hạn của chúng ta, bị chi phối trong luật nhân
quả, và được gọi với danh từ pháp hữu lậu hay pháp hữu vi. Pháp này còn được gọi là Giới của Bẩy Vị
Phật bởi vì nó đã được chư Phật ba đời trong thế gian này giảng nói, trong đó có dạy chúng ta nên cố
gắng gieo trồng những hạt giống lành trong đời, như vậy sẽ thọ nhận được những phước báo. Một bài kệ
nổi tiếng đã tóm lược giáo pháp này như sau:
Tránh làm điều ác
Năng làm điều lành
Giữ tâm thanh tịnh
Ðó lời Phật dạy.
Nếu ta thâm cứu và thực hiện pháp tu này, soi chiếu vào bản tâm của mình, điều đó cũng đủ làm cho tâm
thanh tịnh và đưa ta vượt qua khỏi một giáo lý chỉ dậy những pháp hữu vi cho một đời sống giới hạn trong
hình tướng và nghiệp quả. Thật đáng tiếc là người ta thường diễn dịch giáo pháp này -- gieo nhân tốt, hái
quả tốt, gieo nhân xấu, hái quả xấu -- là chỉ áp dụng để thụ đắc những hạnh phúc và thịnh vượng của thế
gian. Dĩ nhiên mục tiêu đó trong đời tự nó cũng đã là quan trọng vô cùng, nhưng những công đức hữu vi
này không thể đem lại sự an lạc tuyệt đối cho tâm khi trải qua sinh, lão, bệnh, tử.
Dù bạn có nỗ lực đến thế nào để tạo dựng nên những thành quả mong muốn, một khi tên đã được gọi lên
trong sổ bộ Nam tào, tất cả những tích lũy thế gian ấy cũng sẽ bị quét sạch. Cái vòng luân hồi này không
chỉ áp dụng cho cõi giới của người mà còn cho tất cả mọi hiện tượng, cái gì cũng phải trải qua một thời kỳ
sinh, một thời kỳ trưởng, một thời kỳ suy, và một thời kỳ hủy diệt để trở về với cái Không ban đầu. Trong
con người thì đó là sinh, lão, bệnh, tử. Tất cả mọi hiện tượng đều trống rỗng như bọt nước, chợt hiện chợt
mất, vô thường, biến đổi. Không có một thực thể cá nhân nào trên đời này có thể giữ nguyên trạng mãi mãi
được.
Ðó là khái niệm Không của Phật pháp, theo tiếng Phạn được gọi là shunyata và tiếng Nhật gọi là mu, và
thực trạng của tánh Không này được gọi là Pháp Vô Lậu. Tất cả mọi chúng sinh đều là hữu lậu. Nhưng
tánh Không, vốn ở nơi gốc cơ bản của mọi chúng sinh, là vô lậu. Hữu lậu và vô lậu là bất khả phân với
nhau, điều đó đã được nói đến trong câu kinh bất hủ của Bát Nhã Tâm Kinh: "Sắc tức thị Không, Không
tức thị Sắc." (Sắc chính thực là Không, Không chính thực là Sắc).
Tuy nhiên, thực tế rất khó mà tự mình thấy rõ ràng được rằng tất cả mọi pháp tự nó đều căn bản là không.
Có thể nói rằng, muốn tự giác ngộ được cái Không vốn có này nơi chính mình, ta phải dụng thân mình
bằng mọi công phu, với tất cả mồ hôi và nước mắt. Tôi hoàn toàn bị bỏ rơi trong khi mọi người tề tựu lại và, từng giây từng phút một, hết vui mừng lại đến than
khóc, tùy theo tình trạng biến đổi của ông. Thấy các người trong họ như vậy và cùng lúc cảm thấy cái
không khí xáo trộn trong gia đình, tôi cảm thấy sợ hãi. Tôi chạy trốn lên gác và nằm bẹp nơi cầu thang
ngắm nhìn quang cảnh ở dưới. Trong khi nhìn xuống cảnh tượng hoang mang yên lặng ở dưới, tôi nhận ra
rằng ông tôi sắp chết. Tôi nhớ mình đã tự hỏi không biết như vậy có nghĩa là tôi có còn gập được ông nữa
hay không.
Bởi vì đối với một đứa trẻ như tôi, cái ý tưởng ông đột nhiên có thể biến mất đi không phải là một cái gì có
thể dễ dàng thấu hiểu được. ông tôi vẫn thường luôn ở đó, lúc nào cũng tỏ thật nhiều tình thương mến.
Trong khi tôi còn đang ngẫm nghĩ về vấn đề đó, mẹ tôi trèo lên gác tìm tôi và giải thích cho tôi biết rằng
ông sắp chết rồi.
"Khi một người sắp chết", mẹ nói, "người ấy khát nước lắm, nên chúng ta phải cho họ uống nước. Bởi vì
ông đã cưng chiều con hơn hết thẩy mấy đứa cháu khác, con phải xuống cho ông uống nước." Thế là tôi bị
lôi xuống dưới nhà.
Tôi được đưa cho một miếng bông thấm nước để lau môi cho ông. Tôi thấy rõ ràng rằng trong khi trán ông
ẩm ướt, thì miệng ông ngậm chặt lại, đôi môi khô và nứt nẻ, và tôi cảm thấy như ông đang rất khát nước.
Khi tôi bắt đầu lau nhè nhẹ, những giọt nước chẩy vào những đường trên môi ông và làm cho ẩm ướt,
nhưng không có một giọt nào lọt được vào miệng của ông. Tưởng rằng tôi không dùng đủ nước, tôi vắt
miếng bông gòn ướt lên miệng của ông. Nước chẩy ròng ròng nơi mặt ông, nhưng vẫn không có một giọt
nào lọt vào miệng ông được.
Ông tôi, vốn vẫn hay có thú uống trà, và bây giờ đang khát nước như vậy, lại không thể mở miệng ra được
để nuốt lấy một ngụm nước. Cái cảm giác có một sự thay đổi lớn đang diễn ra đã thấm thấu vào trong tâm
của đứa trẻ này đến tận xương tủy. Không bao lâu sau đó, ông đã thở hơi cuối cùng, và chúng tôi tắm rửa
xác ông để sửa soạn hỏa thiêu.
Người ta thường nghĩ rằng thật là tội cho người chết, khi đang trên đường đến cõi Tịnh Ðộ của Ðức Phật
Di Ðà, lại phải đem theo bụi trần của thế gian này, cho nên với cảm nghĩ đó, người chết thường được tắm
rửa lần cuối cùng. Bồn tắm được đổ vào đầy nước lạnh, sau đó thêm nước nóng vào.
Trong ngày ấy, ở nhà tôi nước nóng được đổ vào bồn, rồi một ít rượu được thêm vào, và xác ông tôi được
lau với một khăn bông ướt. Tôi được phép lau ngực của ông, nhưng cái khăn vuột ra khỏi bàn tay bé nhỏ
của tôi, trượt trên da mình của ông. Tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác khi sờ vào da của ông. Trước đây, khi
ông để tôi leo lên vai ngồi, tôi có thể thấy được làn da nhăn nheo trên gáy ông. Dưới bàn tay tôi, lúc nắm
chặt lấy trán ông để khỏi ngã, tôi cũng cảm thấy được làn da nhăn nheo . Lúc đó người ông dẻo dai và ấm
áp, trong khi bây giờ đôi tay tôi bất ngờ chạm vào người ông chỉ thấy cứng đơ. Cái lạnh toát ra từ xác ông,
một cái lạnh hoàn toàn khác với cái lạnh của nước đá, làm cho tôi phát rùng mình. Ðứa trẻ sáu tuổi này đã
nhận được một bài học bén nhậy về sự chết.
Gia đình tôi mang tôi đi dọc theo những con đường nhỏ hẹp nằm giữa hai bên đồng ruộng khi đưa quan tài
đi. Lò thiêu không phải như ngày nay, với những cửa dầy nặng nề như dưới hầm của nhà băng. Trông nó
không hơn gì một cái lỗ, trong đó người nhà cho quan tài vào và qua đó còn có thể thấy được hai bên. Cái
lỗ đó được chất đầy rơm, và củi được đặt chung quanh quan tài. Rồi tất cả mọi người trong gia đình cùng
nhóm cây đuốc thông lên và cho lửa cháy. Khi rơm cùng củi và quan tài bắt đầu nứt ra và nổ lách tách
trong ngọn lửa, chúng tôi đi về nhà đợi đến ngày hôm sau sẽ đến thu lượm tro cốt của ông. Dù với con mắt
của một đứa trẻ sáu tuổi, khi tôi ngoái cổ nhìn lại cột khói mờ đục bốc lên từ ống khói của ngọn lửa thiêu
mà tôi đã tiếp tay nhóm lên đó, tôi cũng cảm nhận cái chết như một cái gì thật riêng tư đối với mình. Cái
chết đó không phải chỉ là của "một người nào khác."
Bây giờ, tôi đang thấy ông tôi -- người tôi kính trọng và muốn noi theo -- đang bị thiêu đốt. Cái tôi thấy đó
không phải là cái chết của một người nào khác, mà chính là tôi của ngày tương lai. Tôi đã không nói quá
về việc này, khi nhiều năm sau nhìn lại và kể câu chuyện bi thảm này . Mà thật sự là tôi lúc ấy, một đứa trẻ
sáu tuổi, đã thấy thân xác mình tương lai bị thiêu đốt trong ngọn lửa đó.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 44 of 52
Pháp Vô Lậu
Kể từ kinh nghiệm đó về cái chết của ông tôi, cũng đã có mấy lần tôi có ý tưởng muốn chết, muốn tự trong
đáy lòng. Có lẽ đôi lúc bạn cũng có cảm nghĩ như vậy. Thực ra, có lần tôi đã từng thử uống thuốc quá liều,
nhưng tôi tin rằng một cách vô thức, tôi đã giữ liều lượng thuốc đó trong vòng an toàn. Tôi không thể chết
được. Có lẽ lý do chính khiến tự thâm tâm tôi ngần ngại không muốn chết là vì kinh nghiệm tôi đã trải qua
khi chứng kiến cái chết của ông tôi. Sự cảm nhận về cái chết của tôi, qua kinh nghiệm đó, đã sâu xa tới
mức khó thể nào vượt qua được.
Cái "chết" mà nhiều người biết đến, tuy nhiên, không phải là cái chết tan rã thực sự của thể xác trong
tương lai. Thường thì cái chết duy nhất được biết đến là cái chết như trong một phim lịch sử hay một phim
kinh dị nào đó mà người ta thưởng thức trong khi nằm dài trên sàn nhà hay trên ghế sofa, ăn kẹo hay
những thức ăn lặt vặt khác.
Tôi xin kể lại một câu chuyện khác, về một người thầy thời tiểu học của tôi, một con người vĩ đại. Suốt từ
lớp hai cho đến khi ra trường, các bạn học và tôi đã may mắn được thầy chỉ đạo lớp, và thầy đã có một
ảnh hưởng tiên quyết lên trên mỗi người chúng tôi.
Vài năm trước, để kỷ niệm nửa thế kỷ đã qua từ lúc ra trường, chúng tôi có một buổi hội ngộ. Trong năm
mươi học trò thuở trước, hơn mười người đã qua đời, và ba mươi ba người chúng tôi còn lại đã đến thật
đông đủ. Chính tôi cũng dẹp bỏ hết mọi việc để đến, vì không muốn bỏ lỡ cơ hội này. Chúng tôi có một
buổi tiệc và nghỉ đêm ở một nơi du lịch có suối nước nóng, và tuy rằng có uống rượu saké, nhưng không
có ai đề nghị hát karaoke cả. Ngay cả lúc chúng tôi tụ tập quanh người thầy cũ hồi xưa, uống rượu vui
chơi, buổi họp mặt này vẫn có vẻ nghiêm túc. Có nhiều thành viên trong nhóm tham vấn với thầy, và cũng
có vài người hỏi tôi về đủ thứ vấn đề ảnh hưởng đến đời sống của họ. Buổi họp mặt tái ngộ này hoàn toàn
giống như một khóa tu học nhờ ảnh hưởng sâu đậm của thầy đã để lại trên chúng tôi trước nay.
Thầy là một nhà mô phạm vĩ đại, và từ khi về hưu, thầy cũng vẫn tiếp tục sống một đời gương mẫu trong
cộng đồng. Nếp sống cá nhân của thầy cũng không có điều gì đáng chê trách. Mặc dù đã ngoại tám mươi
tuổi, trông thầy vẫn khỏe mạnh hơn bất cứ học trò cũ nào của thầy!
Khi đến lúc tan tiệc, tất cả những người đã quay quần chung quanh thầy để nghe những lời vàng ngọc đều
có vẻ không muốn làm phiền thầy hơn nữa, nên rốt cuộc là thầy và tôi đêm ấy được xếp chung một phòng.
Chúng tôi để gối bên cạnh nhau, nằm xuống, tắt đèn rồi, bỗng thầy gọi tôi một cách lịch sự, "Morinaga-
san", thêm tiếng ... san vào tên đứa học trò cũ của thầy thời xa xưa trước đây.
"Xin lỗi, tôi thấy tôi điên quá", thầy nói tiếp, "nhưng dạo sau này tôi đâm ra sợ chết quá, đến nỗi tôi hầu như
là cảm thấy rằng giá không được sanh ra lại hơn!"
Những lời của thầy đập vào tai tôi đã đem lại một ấn tượng không nhỏ. Tôi nhớ lại về trước, suốt tám mươi
năm ròng rã thầy đã chuyên cần làm việc như thế nào, và sự thú nhận của thầy làm tôi cảm thấy thật mủi
lòng.
Những con người chúng ta sống một đời sống hữu hạn, hiện thân trong những hình tướng ở thế giới hiện
tượng này, và bắt buộc phải chịu sự chi phối của luật nhân quả, luật của nghiệp. Ðiều cơ bản trong giáo lý
đạo Phật là hễ có sanh, là có tử; có nỗ lực làm thì mới có kết quả. Tất cả những nghiên cứu khoa học về
thiên nhiên và con người cũng đều đặt trên căn bản của luật nhân quả này. Không những vậy, trong đời
sống hàng ngày, cả những người ít khi suy nghĩ nghiêm chỉnh đến những vấn đề này cũng cố sống sao để
được những cái nhân tốt đem lại kết quả tích cực.
Tuân theo luật (nhân quả) ấy, một số người đã không ngừng cố gắng tạo lấy nghiệp tốt và cũng được
thành công trong sự nỗ lực của họ. Nhưng khi cuối cùng họ trạm chán phải bức tường kiên cố của sinh,
lão, bệnh, tử, không có một số lượng tích trữ thiện nghiệp nào có thể giúp họ vượt qua được, và họ sẽ cảm
thấy thất vọng vô cùng.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 45 of 52
Một điều tất nhiên là, người nào càng đặc biệt hãnh diện về công việc làm của họ, khi gập sự tấn công ồ ạt
của tuổi già -- khiến cho họ không còn làm việc được như từ trước tới nay -- sẽ rất là hãi sợ. Người nào
khoe khoang trí thông minh sắc bén phi thường của họ sẽ lo sợ sự suy yếu dần của trí óc. Người nào sống
một đời gương mẫu của một thành viên trong xã hội sẽ đặc biệt hãi sợ khi chứng kiến sự hao mòn của
năng lực thể chất cũng như tinh thần của họ.
Như thế, chúng ta không thể mong sống với một tâm an lạc trong những ngày cuối cùng của cuộc đời chỉ
bằng những việc công đức mà ta cố gắng tạo nên theo luật nhân quả này.
Trong giáo pháp của đạo Phật, có đề cập đến sự tồn tại hữu hạn của chúng ta, bị chi phối trong luật nhân
quả, và được gọi với danh từ pháp hữu lậu hay pháp hữu vi. Pháp này còn được gọi là Giới của Bẩy Vị
Phật bởi vì nó đã được chư Phật ba đời trong thế gian này giảng nói, trong đó có dạy chúng ta nên cố
gắng gieo trồng những hạt giống lành trong đời, như vậy sẽ thọ nhận được những phước báo. Một bài kệ
nổi tiếng đã tóm lược giáo pháp này như sau:
Tránh làm điều ác
Năng làm điều lành
Giữ tâm thanh tịnh
Ðó lời Phật dạy.
Nếu ta thâm cứu và thực hiện pháp tu này, soi chiếu vào bản tâm của mình, điều đó cũng đủ làm cho tâm
thanh tịnh và đưa ta vượt qua khỏi một giáo lý chỉ dậy những pháp hữu vi cho một đời sống giới hạn trong
hình tướng và nghiệp quả. Thật đáng tiếc là người ta thường diễn dịch giáo pháp này -- gieo nhân tốt, hái
quả tốt, gieo nhân xấu, hái quả xấu -- là chỉ áp dụng để thụ đắc những hạnh phúc và thịnh vượng của thế
gian. Dĩ nhiên mục tiêu đó trong đời tự nó cũng đã là quan trọng vô cùng, nhưng những công đức hữu vi
này không thể đem lại sự an lạc tuyệt đối cho tâm khi trải qua sinh, lão, bệnh, tử.
Dù bạn có nỗ lực đến thế nào để tạo dựng nên những thành quả mong muốn, một khi tên đã được gọi lên
trong sổ bộ Nam tào, tất cả những tích lũy thế gian ấy cũng sẽ bị quét sạch. Cái vòng luân hồi này không
chỉ áp dụng cho cõi giới của người mà còn cho tất cả mọi hiện tượng, cái gì cũng phải trải qua một thời kỳ
sinh, một thời kỳ trưởng, một thời kỳ suy, và một thời kỳ hủy diệt để trở về với cái Không ban đầu. Trong
con người thì đó là sinh, lão, bệnh, tử. Tất cả mọi hiện tượng đều trống rỗng như bọt nước, chợt hiện chợt
mất, vô thường, biến đổi. Không có một thực thể cá nhân nào trên đời này có thể giữ nguyên trạng mãi mãi
được.
Ðó là khái niệm Không của Phật pháp, theo tiếng Phạn được gọi là shunyata và tiếng Nhật gọi là mu, và
thực trạng của tánh Không này được gọi là Pháp Vô Lậu. Tất cả mọi chúng sinh đều là hữu lậu. Nhưng
tánh Không, vốn ở nơi gốc cơ bản của mọi chúng sinh, là vô lậu. Hữu lậu và vô lậu là bất khả phân với
nhau, điều đó đã được nói đến trong câu kinh bất hủ của Bát Nhã Tâm Kinh: "Sắc tức thị Không, Không
tức thị Sắc." (Sắc chính thực là Không, Không chính thực là Sắc).
Tuy nhiên, thực tế rất khó mà tự mình thấy rõ ràng được rằng tất cả mọi pháp tự nó đều căn bản là không.
Có thể nói rằng, muốn tự giác ngộ được cái Không vốn có này nơi chính mình, ta phải dụng thân mình
bằng mọi công phu, với tất cả mồ hôi và nước mắt. Chết trong khi đang sống
Khi tôi trở thành một tăng sĩ và gia nhập thiền viện, tôi đã ước ao thật mãnh liệt, hơn bất cứ thứ gì trên đời,
là làm sao được giác ngộ. Kyoto, nơi có trụ sở thiền viện của tôi, không phải là một mảnh đất có ruộng
đồng trù phú, vì thế phần thực phẩm quy định cho một tháng thường được giới hạn chỉ đủ cho mười ngày.
Thực phẩm chính của mười ngày ấy bao gồm những thứ như là bắp và bột khoai lang, và đôi khi một thứ
bột trà mầu vàng úa không thể nào uống được. Ðó là những thứ đã nuôi thân mạng tôi khi đang ở trong
thiền đường, nhất tâm tọa thiền và tìm sự giác ngộ.
Nhưng kinh nghiệm giác ngộ không đến một cách dễ dàng. Trước khi bắt đầu tu Thiền, tôi đã được dậy để
nhìn bằng mắt, nghe bằng tai, suy nghĩ bằng đầu óc, và đó là cách duy nhất tôi dùng để tìm hiểu mọi sự.
Nhưng khi vào tu, tôi lại được chỉ cho rằng satori (giác ngộ) không phải là một loại kết luận rút ra từ những
phán xét riêng tư dựa trên những cảm giác phân biệt của sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Dù vậy, tôi
vẫn chưa thể nắm được cách nào để buông bỏ những thói quen cảm nhận xưa nay và tập kinh nghiệm
theo một cách khác.
Ðại Ðăng Quốc Sư (Daito Kokushi), vị sáng lập ra thiền viện Ðại Ðức (Daitokuji) và là một trong những vị
thiền sư kiệt xuất nhất trong lịch sử của Nhật Bản, trong những lời thị tịch đã khuyến cáo như sau: "Hãy
luôn luôn chú tâm, suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ trong ngày, để học cái Không Thể Nghĩ Bàn." Cái
Không Thể Nghĩ Bàn ấy vượt lên trên mọi lý luận hay sự hiểu biết của trí thức, và tôi không biết một chút gì
để tìm cách nào dồn năng lượng vào sự tu học cái Không Thể Nghĩ Bàn này. Vì thế tôi cứ tọa thiền một
cách mù quáng. Hàng đêm khi mọi người đã ngủ say hết rồi, tôi vẫn kiên trì ở đó ngồi trên chiếc gối thiền.
Không may là, trong thời gian này tôi lại được giao nhiệm vụ đánh thức mọi người buổi sáng.
Như tôi đã nói ở trên, thực phẩm lúc đó rất ít oi, và tôi vốn lại gầy gò nữa. Ban ngày tôi vất vả làm những
việc lao tác chân tay và thực hành tu tập, đến tối lại tiếp tục tọa thiền không ngủ suốt đêm, vì vậy tuy hết
sức muốn ngồi thẳng người lên, nhưng rồi tôi cũng lại rơi vào một trạng thái mê mệt, sẵn sàng ngất xỉu đi
và ngã lăn khỏi gối thiền.
Giờ thức dậy buổi sáng trong thiền viện là ba giờ sáng mỗi ngày. Chắc tôi thường hay ngất đi vào khoảng
2 giờ hay 2 giờ rưỡi sáng. Lúc bừng tỉnh dậy, tôi đã thấy quá giờ đánh thức mọi người rồi. Việc này kéo dài
khoảng ba ngày, cuối cùng tôi bị khiển trách nặng nề, bị kết tội "ngủ quên" và vì thế đã làm xáo trộn
chương trình hàng ngày của cả thiền viện. Chức vụ tôi được giao cho gọi là Densu. Tôi được nhắc nhở
thật rành rọt rằng luật lệ của thiền viện đã quy định rằng người làm densu phải canh đồng hồ như là "canh
chính cặp mắt của mình vậy".
"Ngươi có thực sự có ý muốn tu hay không hả?" Vị huynh trưởng của tôi quát lớn. "Ngươi tưởng ngươi
đến đây để làm gì?"
Khi bị hỏi là có ý muốn tu hay không, điều đó có nghĩa là có thể bị đá ra khỏi thiền đường. Nhưng may
thay, Thầy đã thương hại tôi, và những học tăng bạn cũng giúp đỡ, che chở tôi khỏi bị sơ sểnh thêm nữa.
Dù vậy, tôi vẫn còn bướng bỉnh tiếp tục tọa thiền mà không nằm xuống chút nào về đêm. Mặc dù liên miên
ngồi thiền một cách kiên trì như vậy, hàng đêm tôi vẫn rơi vào trong cơn mê mệt và ngủ thiếp đi, nên việc
tọa thiền của tôi chẳng mạnh mẽ và sáng tỏ được chút nào.
Thế rồi, vấn đề lại càng trở nên tệ hại hơn, khi tôi lý luận rằng ăn vào là chỉ làm buồn ngủ thêm, nên ngưng
không ăn nữa. Như tôi đã nói ở trên, những bữa ăn thời ấy không được đầy đủ chút nào. Chúng tôi dùng
bữa theo nghi thức, tụng một bài kinh trước và sau khi ăn. Trước mỗi bữa ăn thường có thông báo về bữa
ăn ấy như là "Bữa trưa hôm nay phần mỗi người sẽ gồm có ba cái bánh xếp". Như vậy có nghĩa là mỗi vị
tăng sẽ nhận được ba viên bánh làm bằng bột khoai ép lại, mỗi viên chỉ to bằng đồng xu thời xưa. Không
có nước tương hay miso gì cả, những viên bánh này được luộc trong nước muối, và chúng tôi mỗi người
được phát cho ba chén. Dù chỉ có thế mà tôi cũng ngưng không ăn vì nghĩ là sẽ bị làm cho buồn ngủ, điều
đó quả tình là tôi đã đi quá xa.
Thế rồi, một đêm nọ, tôi không còn một chút sức lực nào nữa.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 47 of 52
Tôi mất hết cả ý chí muốn được giác ngộ; sự tiếp tục tìm kiếm giác ngộ (satori) dường như là điều không
thể nào tưởng tới được nữa. Tôi không còn một chút năng lực tối thiểu nào của vật chất và tinh thần cần
thiết để giữ một mức độ ý thức trong đó cái thấy được xác định bằng mắt và cái nghe được xác định bằng
tai. Cái gối thiền mềm mại ở dưới tôi lúc đó là cả một miếng thép cứng đơ. Toàn thân tôi là một tổng hợp
của những cơn đau như dần. Ðó không còn là "Tôi" đang ngồi trên gối thiền nữa; mà chỉ là cả một sự mệt
mỏi chất ngất . Ýù thức tưởng chừng như đã lạc mất trong màn sương mù dầy đặc, tất cả chỉ còn là một
sự mơ hồ.
Ðột nhiên, dưới một lực nào đó mà tôi không được rõ, màn sương mù bỗng tan đi và biến mất. Và không
phải là cơn đau đớn của thể xác tôi đã biến đi, nhưng là cái thân chịu đựng sự đau đớn đó đã biến đâu
mất. Mọi sự trở nên hoàn toàn sáng tỏ. Ngay cả trong màn đêm mờ tối, mọi sự cũng được thấy một cách
thật tinh tường. Tiếng động nhỏ nhất cũng có thể nghe được rõ ràng, nhưng không còn người đang nghe.
Tôi tin rằng, điều này cũng tựa như là đã chết đi trong lúc còn đang sống vậy.
Vào lúc đó, không còn có một khởi niệm nào cả. Tôi không có một ý niệm gì là trạng thái sáng tỏ hoàn toàn
ấy kéo dài bao lâu, là điều gì đã xẩy ra trước đó hay sau đó. Có lẽ rằng một giọng nói sắc cạnh nào đó đã
đánh thức tôi ra khỏi trạng thái đó. Tôi chỉ biết rằng khi sực tỉnh lại, tôi cảm thấy hạnh phúc vô ngần! Như
tôi không còn biết là bàn tay tôi đang múa, tiếng chân tôi đang bước. Trong tâm trí tôi không hề có một ý
tưởng nào thoảng qua là tôi đang có một kinh nghiệm giác ngộ hay là "tôi đã kiến tánh" (kensho). Không
cần lý luận gì cả, tôi chỉ cảm thấy một niềm vui choáng ngợp, tưởng chừng như có một gánh nặng chĩu
trên vai bỗng nhiên đã được lấy đi.
Hồi tưởng lại kinh nghiệm này, nhớ đến nhiều đoạn kinh khác nhau và qua những ngữ lục của các vị tổ
thời xưa, tôi thấy một bài kệ của Thiền sư Chí Ðạo Vô Nan (Shido Bunan Zenji) thật là thích hợp:
Chết trong khi đang sống
Chết một cách toàn diện
Mọi việc cứ tùy duyên
Sẽ tốt đẹp tự nhiên
Tâm lý gia danh tiếng Elizabeth Kubler-Ross đã thu thập những lời kể lại của những người đã trải qua kinh
nghiệm chết giả và rồi trở về được và thuật lại. Theo những bản tường trình này, khi người ta bắt đầu chết,
ngay trong giây phút đó, không những cái thân xác bị dầy vò bởi bệnh hoạn và đau đớn được hoàn toàn
giải thoát khỏi sự đau khổ ấy, mà chính người ấy cũng có cảm giác thực sự là họ được giải thoát khỏi thân
xác ấy. Những người này báo cáo rằng, tuy là họ không biết họ đang ở đâu, nhưng họ có thể thấy rõ ràng
những người khác đang tụ tập chung quanh xác họ, than khóc níu kéo và cố lay xác họ. Xem thế, dường
như là có sự tương đồng nào đó giữa kinh nghiệm của cái chết giả và cái "chết" trong khi nhập định, nhưng
đây là một điều tôi không dám chắc được.
Những gì mà tôi và những người khác đã trải qua những kinh nghiệm tương tự có thể xác định được là có
một trạng thái của tâm vượt ra khỏi nhân và quả, một trạng thái khác biệt với trạng thái trong đó chúng ta
tìm cách thụ đắc được "điều này" bằng việc làm một "điều kia". Ðó là một trạng thái Ðịnh trong đó mỗi giây
phút đều tự nó là đầy đủ, đều là trọn vẹn như thế. Mỗi giây phút đều được phản chiếu lại một cách hoàn
hảo, như đang đứng trước một tấm gương vậy.
Nếu chúng ta dồn hết năng lực để sống với tính cách như là "trồng cây rồi ăn quả", gieo tạo nhân lành cho
đời sống thế gian hữu hạn này, thì đó cũng là một điều kỳ diệu và cần thiết. Nhưng nếu sống mà chỉ biết
tùy thuộc vào luật Nhân Quả -- hành động để nhận lãnh cái quả sẽ tới trong tương lai gần hay xa -- thì rồi
thế nào, người ấy cũng gập phải chướng ngại và sẽ cảm thấy tuyệt vọng.
Tuy nhiên, bằng cách trực diện với những gì bạn đang có ngay trước mắt, ngay trong lúc này, hoàn toàn
không phán xét hay lượng định gì cả, bạn có thể vượt qua tất cả những vấn đề của nhân và quả. Bạn có
thể làm việc trong bếp hay quét sân ngoài vườn, cọ rửa phòng tắm hay làm một việc lao động nào đó cho
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 48 of 52
một người nào khác, nhưng bạn làm mà không có một chút suy tư gì về cái giá trị tương đối của công việc
ấy. Một cách đơn giản, điều đó có nghĩa là bạn làm mọi việc với hết sức của mình, trở thành một với bất
cứ hiện trạng nào của bạn, ngay trong giây phút đó. Tôi muốn bạn sẽ biết rõ ràng được rằng, đây là một
cách khác để sống cuộc đời của bạn.
Một mặt, dù cho bạn có dồn nỗ lực và rồi được thành công trong sự gặt hái những quả tốt cho mình,
nhưng nếu không biết vượt qua chướng ngại lớn của sinh, lão, bệnh, tử, bạn sẽ không thể an lạc được
trong những buổi xế chiều của cuộc đời. Mặt khác, nếu bạn bám víu vào khái niệm về cái không và rồi rơi
vào trong vô ký của sự phủ nhận cái có, bạn sẽ dễ sai lầm mà sống cả một cuộc đời vô ích. Nhưng có một
cách khác hơn thế, đó là con đường trung đạo, sẽ giúp cho chúng ta không rơi vào hai bên nào cực đoan.
Con đường Trung Ðạo này còn được gọi là Pháp Môn Giải Thoát, giải thoát khỏi cả hai cái hữu lậu và vô
lậu.
Buông thả trong cái chết
Tôi xin kể lại đây một câu chuyện cuối cùng, một câu chuyện đã làm tôi xúc động sâu xa. Ðó là chuyện của
cô Okamoto, người đã ở bên cạnh thầy tôi trong suốt bốn mươi năm cho đến khi ngài viên tịch.
Cô Okamoto, như tôi đã nói trước đây, đã rời bỏ việc làm trong ngành giáo dục nữ sinh và vào sống ở
chùa trong tuổi bốn mươi như một đệ tử của Thiền sư Zuigan. Cô tu như một người cư sĩ, không hề thế
phát hay thọ giới, nhưng cũng không bao giờ trang điểm như những nữ cư sĩ khác. Cô làm mọi việc thật
gọn gàng, lúc nào cũng trong bộ quần lao động rộng thùng thình.
Cô không có ý định trở thành một đại nhân trong ni giới, nên thay vì chăm chú vào công việc tu tập, cô
siêng năng làm công quả nhiều hơn, hầu giúp cho người thầy mà cô hằng kính ngưỡng được thoải mái
hơn trong đời sống . Qua những công việc giặt quần áo, nấu bếp, và trồng rau tươi, Cô Okamoto muốn
bảo đảm cho thầy khỏi cần bận tâm gì hết để có thể giảng pháp cho mọi người. Bất cứ người nào nhìn đến
cô Okamoto cũng sẽ thấy ngay cô là một người rất tận tụy.
Ðại sư Zuigan viên tịch vào tuổi tám mươi bẩy, lúc đó cô Okamoto đã sáu mươi tuổi . Sau khi kỳ thất cuối
cùng 49 ngày đã xong xuôi, cô thu dọn đồ đạc và, tuyên bố không muốn là một gánh nặng cho tôi, đã ra đi
khỏi chùa. Cô dọn đến một thất nhỏ thuê trong một ngôi chùa khác, và tiếp tục sống những năm tháng còn
lại của tuổi già ở đó, không chịu sự kiểm soát của một ai, y như thờiø cô đã sống khi Ðại sư Zuigan còn
sinh tiền vậy.
Mỗi buổi sáng cô Okamoto dậy vào lúc 4 giờ 15, và tuy rằng không phải phần việc của mình, cô cũng đi
quét dọn vườn tược chùa chung quanh căn thất thuê của cô. Cô trồng rau trên những mảnh đất trống, và
hái rau đó cúng dường các vị học tăng đang theo tu với tôi, đồng thời chia cho những khách thập phương,
và đem lên bàn thờ cúng dường tam bảo.
Khi đã tới tuổi quá thất tuần, cô cảm thấy muốn tìm cách tu bản thân mình cho tốt hơn, nên sau một ngày
quét tước, nhổ cỏ dại, làm vườn, cô Okamoto ở trong nhà nghe băng giảng và học hỏi thêm về văn
chương cổ điển Trung Hoa. Có những lúc khác, nhớ lại những bài giảng của Lão sư về Thiền thư, cô mở
lại những sưu tập hệ công án như Bích Nham Lục và Vô Môn Quan. Ðó là cuộc sống hàng ngày của cô
Okamoto.
Cô là một bà già bé nhỏ, thấp lùn với bộ mặt tròn trĩnh như trẻ thơ, nhưng với lối sống đặc biệt khắc khổ,
cứng nhắc, cô Okamoto dường như có một vẻ gì đáng sợ, và những học tăng trẻ không cảm thấy thích thú
chút nào nếu họ bị giao cho công việc phải đến gập cô.
Hàng tháng tôi đều đến thăm cô Okamoto, và lúc nào cô cũng có vẻ phấn chấn với những buổi đến thăm
đó. Nhưng có một hôm, cô nhắn tin cho tôi biết rằng cô muốn tôi đến thăm ngay, vì cô có chuyện cần muốn
nói.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 49 of 52
"Nửa năm vừa qua, tôi thấy cơ thể mình yếu mệt vô cùng," cô bắt đầu nói khi tôi đến thăm. "Tôi nghĩ chắc
mình đã đến tuổi suy nhược rồi, nên cố tự răn mình phải tiếp tục mọi công việc như thường, nhưng rồi
cũng không thấy khá gì hơn."
"Cuối cùng," cô giải thích tiếp, "dường như tôi không còn cách gì hơn là nhờ người đưa đi bác sĩ khám.
Tuy bác sĩ không nói gì nhiều, nhưng hình như là tôi đã bị ung thư. Từ khi biết được chuyện này, tôi đâm
ra sợ chết quá đi."
Những lời nói của cô mang âm hưởng của lời ông thầy giáo cũ của tôi. Nhưng không những là cô Okamoto
sợ chết, cô còn cảm thấy xấu hổ với cái sợ đó. Cô cảm thấy sợ chết là một điều nhục nhã, sau bao nhiêu
năm tu tập với một vị lão sư như vậy. Cô cảm thấy biết ơn Lão sư và Thiền tông vô cùng, và không chịu
nổi ý tưởng là những người ở gần cô sẽ nghĩ tu Thiền là vô ích, vì rõ ràng đã không giúp cho một người
như cô có thể vượt qua được nỗi sợ hãi khi đối diện với tử thần.
"Có vấn đề gì đây trong cách tu của tôi từ đó tới giờ ... để giờ này tôi sợ chết đến thế? Xin thầy làm ơn chỉ
cho tôi thấy tôi đã sai như thế nào trong cách tu, được không? " cô khẩn khoản, trải bầy tâm sự ra với tôi,
như thể tôi là con trai của cô vậy.
Tuy rằng cô Okamoto hơn tôi đến hai mươi bốn tuổi, sự thổ lộ nhiệt tình của cô đã khiến cho tôi, mặc dù
kính trọng sự lớn tuổi của cô, đã thẳng thắn nêu ra với cô điều tôi thấy không ổn lắm trong thái độ sống của
cô.
Người đàn bà này đã sống một đời không có gì khiếm khuyết, đáng ngợi khen, nhưng bà lúc nào cũng
nghiến răng lại để cố "làm điều lành, tránh điều xấu". Lúc nào cũng phân biệt thật rành mạch giữa cái "tốt"
và cái "xấu", lúc nào cũng cân nhắc, phán xét mọi tình thế, bà lo làm hết sức để cố đạt lấy cái "tốt hơn",
nhưng luôn luôn là trong sự cứng cỏi của hàm răng nghiến chặt. Tôi xin nói rõ hơn về vấn đề này. Nỗ lực
phân biệt tốt với xấu và rồi chọn lựa hành động một bên để lo tích lũy nhân lành cho những quả tốt, tự nó,
không thể đem lại sự an bình trong tâm được.
Như tôi đã giải thích với cô Okamoto, chúng ta sinh ra lọt lòng mẹ và rồi sau này sẽ vào trong quan tài
nằm. Trong khoảng thời gian trung gian đó chúng ta gọi là sống, và chắc hẳn bạn nghĩ rằng vào quan tài
nằm tức là chết. Nhưng sự hiện hữu đúng thực tức là sống và chết lặp đi lặp lại, từng giây từng phút một.
Nếu bạn nhìn vào một ngọn lửa, bạn thấy nó cháy liên tục và tạo ra một ánh sáng liên tục. Nhưng thực sự,
sáp nến đang chẩy dần từng chút một, và tim nến trong khi đang rực cháy cũng đang cạn dần, đưa ngọn
lửa càng lúc càng xuống thấp hơn.
Cuộc đời chúng ta trông có vẻ như những khối kiên cố suốt bẩy chục năm hay tám chục năm liền, nhưng
thực sự ra, chúng cũng giống như tỷ dụ đã nói đến trước đây: bạn là một người vợ khi quay qua bên này;
bạn là người hàng xóm khi quay qua bên khác. Khi bạn giữ cho tâm được thẳng thắn, tự nhiên với từng
giây từng phút sống thực, dù không có một cố gắng nào, dù không có sự tập luyện nào, bạn cũng được
sinh ra thật đẹp đẽ với từng giây phút một. Bạn chết đi trong từng giây phút, và rồi sinh ra trở lại trong từng
giây phút nối tiếp nhau.
Như tôi đã nói với cô Okamoto, khi bạn đi vào bếp sửa soạn bữa ăn tối, hãy sinh ra ở trong bếp. Khi bạn
xong việc ở đó, hãy chết đi. Rồi lại sinh ra ở bàn ăn khi bạn ăn bữa tối và, sau khi bạn ăn xong rồi, hãy
chết đi ở đó. Hãy sinh ra trong vườn khi bạn lấy cây chổi quét sân. Rồi khi bạn vào giường ngủ ban đêm,
hãy chết đi ở đó. Và khi ánh dương tỏa sáng, bạn thức dậy trong giường, và lại sinh ra lại như mới. Nếu
bạn có bệnh ung thư, hãy sinh ra với bệnh ung thư.
Luôn luôn trong giây phút hiện tại bây giờ -- và chỉ ngay bây giờ thôi -- bạn đi vào đời sống. Luôn luôn
trong giây phút hiện tại bây giờ -- và chỉ ngay bây giờ thôi -- bạn buông thả trong cái chết. Thực tập chân lý
đó tức là tập Thiền vậy. Mạng sống Phật
Tôi đã thấy nhiều người áp dụng tu, nhưng tôi không biết có ai thực hành theo những lời chỉ dậy của tôi
một cách thật hoàn hảo, thật tuyệt vời như cô Okamoto. Cô tuân theo lời tôi thật ngoan ngoãn như một con
cừu non. Chưa đầy mười ngày, bộ mặt nghiêm khắc của cô đã dịu đi trông như một đứa trẻ, trở thành bộ
mặt của một bà lão hiền từ. Cô đã bỏ lại đàng sau cái lối sống khắc khổ, gò bó để cố làm điều tốt.
Bệnh của cô Okamoto càng ngày càng nặng thêm, và cuối cùng cô phải vào nhà thương. Tôi nhớ khi tôi
đến thăm cô, các bác sĩ và y tá đều nhận xét rằng họ đã làm việc trong bệnh viện bao nhiêu năm nay, mà
chưa gặp một bệnh nhân nào như vậy. Khi cô Okamoto vào bệnh viện, cô đón nhận tất cả mọi người, tất
cả mọi thứ, tất cả mọi hoàn cảnh đến trong tinh thần "cơ hội chỉ đến một lần".
Hầu hết mọi người đều diễn giải "cơ hội chỉ đến một lần" như là những trường hợp thật là đặc biệt, một cơ
hội hãn hữu cả đời chỉ có một lần. Câu nói đó gợi lên trong trí ta một dịp gì như là một buổi lễ trà đạo chỉ
được diễn ra một lần độc nhất. Người ta thường lý luận rằng cái gì chỉ xẩy ra một lần trong đời, một cuộc
tao ngộ có một không hai trong đời, phải là một dịp may hiếm có lạ thường, và câu nói này thường chỉ
được dùng giới hạn trong nghĩa đó mà thôi.
Tuy nhiên, theo một nghĩa đích thực, "cơ hội chỉ đến một lần" có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, khi người ta gặp
một tảng đá, nhìn thấy một cây cỏ dại, khi lau chùi phòng tắm hay nấu cơm. Ðó là một trạng thái tâm thức
trong đó tuyệt đối không có một dự kiến nào mang tính chất yêu ghét, trong đó tuyệt đối không có một ý
tưởng nào muốn trốn tránh hiện thực. Thực tập "cơ hội chỉ đến một lần" là hoàn toàn hòa nhập vào mỗi
việc đang xẩy đến, và đó đúng là cách mà cô Okamoto đã dùng để đi ra khỏi cuộc đời.
Không may là, tôi đã đồng ý trước cho chuyến du hành sang Anh và Hoa Kỳ trong thời điểm đó, và tôi ra đi
trong lòng cảm thấy khó chịu. Tôi chỉ thị cho các đệ tử ở nhà phải săn sóc cô Okamoto trong lúc tôi đi vắng,
nhưng cô đã qua đời mà không chờ đợi tôi trở về. Khi trở về, tôi nghe người đệ tử lớn nhất của tôi, vị tăng
đã trông nom cô lúc sau cùng, kể lại những giây phút cuối của cô trước khi chết. Tuy vị tăng này ít khi nào
biểu lộ cảm xúc trên nét mặt, ông cũng không ngăn nổi những giòng lệ tuôn trào khi kể lại câu chuyện.
Trước khi cô Okamoto qua đời, cô đã nói với ông, "Nhìn lại, tôi thấy cuộc đời tôi đã sống bao nhiêu năm
nay thật là tù túng. Nên bây giờ tôi có ý muốn cầm một quả bóng đi vào chơi trong rừng." Ðó là những lời
cuối của cô.
Chúng tôi đã đặt một quả bóng thật đẹp, làm bằng những sợi chỉ mầu, vào bên trong mộ của cô.
Tôi mong bạn sẽ không xem những lời nói cuối cùng của cô Okamoto chỉ như những lời nói xúc cảm hay
chỉ có ý nghĩa thuần túy như vậy . Khi tôi nghe những lời nói cuối cùng đó, tôi cảm thấy vui mừng tự trong
đáy lòng. Vui mừng, vì tôi tin tưởng rằng trong đời sống và trong cái chết, cô Okamoto đã thực sự đạt tới
trạng thái có thể được gọi là "du hí tam muội."
Nếu một người được lãnh lương để làm công việc dùng xẻng xúc cát vào trong thùng xe vận tải, chắc họ
sẽ cảm thấy mỏi mệt. Lúc đó nếu có ai đến và đề nghị giúp họ, chắc họ sẽ vui vẻ mà đưa cái xẻng ra cho
người ấy. Nhưng giả tỷ có một đứa trẻ đang chơi trên một đống cát, xúc cát vào trong cái xô. Nếu có người
nào đến nói với nó cho họ làm thế việc đó một lúc, chắc đứa trẻ sẽ cự lại rằng, "Tại sao tôi lại muốn ông
thế tôi trong khi tôi đang thích thú như thế này?"
Ngay cả một trong những công việc phù du nhất như việc sửa soạn một bữa ăn cũng có thể là du hí tam
muội được. Bạn dốc tâm vào việc sửa soạn một bữa ăn ngon, lo bầy biện trang hoàng những đĩa thức ăn
thật nghệ thuật rồi đem lên mời mọi người dùng, chẳng mấy chốc những món ăn đó sẽ được tiêu thụ hết
sạch, và còn lại chỉ là những đĩa bát bẩn. Thực hành du hí tam muội không chỉ có ý nghĩa sáng tạo một tác
phẩm nghệ thuật làm đẹp cho viện bảo tàng trong vài trăm năm, mà còn áp dụng cho những việc tầm
thường hàng ngày mà chúng ta vẫn làm. Một tỷ dụ cụ thể là những công việc làm trong nhà. Trong một
vòng vô tận, chúng ta lau chùi nhà cửa, rồi nhà cửa lại bẩn trở lại. Chúng ta quét nhà, rồi bụi lại bám trở lại.
Chúng ta giặt quần áo, rồi quần áo lại bị lấm bẩn trở lại.
Từ Nụ Đến Hoa Thiền sư: Soko Morinaga
Page 51 of 52
Ðiều này không chỉ giới hạn trong việc chăm sóc nhà cửa, nếu nhìn kỹ, bạn sẽ thấy rằng hiện trạng này
cũng có trong mọi hoạt động của con người nơi thế gian này.
Du hí tam muội là một trạng thái tâm thức trong đó người ta làm một việc gì mà không hề cân nhắc đến cái
giá trị tương đối của nó, y như một đứa trẻ chơi nghịch trong cát sẽ không muốn để một người nào khác
đến thế chỗ nó. Ðó chính là tâm thức của cô Okamoto khi cô đi vào chơi bóng trong rừng.
Du hí tam muội là một trạng thái trong đó tâm đã siêu vượt lên sự đối đãi của cả hai pháp hữu lậu và vô
lậu. Ðó là Pháp môn Giải thoát, một trạng thái tâm thức tự do tự tại, giải thoát khỏi cả hai cái hữu hạn và vô
hạn.
Nơi bản thân chúng ta đã có sẵn mạng Phật vĩnh cửu thường hằng. Mạng Phật ấy thể hiện trong mọi sắc
tướng, sinh sinh diệt diệt theo từng sát na, và tiếp nối nhau hiển lộ trong du hí tam muội. Chúng ta có thể
khẳng định rằng có được trạng thái tâm như vậy chính là đã đạt được trạng thái giác ngộ trong Thiền.
Nơi bản thân chúng ta đã có sẵn mạng sống vĩnh cửu miên viễn. Mạng sống đó thể hiện trong những sắc
tướng và tương tục biến hiện theo từng sát na. Tuy nhiên, ánh chớp lập lòe của sự biến hiện này không
phải là ánh chớp của một cái ngã riêng biệt kiên cố, mà là sự biến hiện rực rỡ của một thể nhập hòa điệu
giữa cá thể và ngoại cảnh chung quanh.
Ðây là điều mà vị tổ khai sáng của tông Tào Ðộng ở Nhật, thiền sư Ðạo Nguyên (Dogen Zenji) đã ngụ ý khi
ngài bảo rằng sinh và tử chính là mạng sống Phật. Sinh và tử là nhịp đập của mạng sống Phật.
Ơ đâu có một ngàn con người, trong một ngàn lối sống, sẽ có một ngàn vị Phật hiển lộ. Phật hiển lộ trong
đồi núi, trong thung lũng, cỏ cây, qua muôn vàn hiện tượng khác nhau. Cái tâm thể hiện nơi bất cứ mọi
hình tướng nào trước mắt ta, nơi bất cứ phương hướng nào chung quanh ta là cái tâm đáng kính ngưỡng;
đó chính là tâm Phật, đó chính là mạng Phật vậy.
Riêng đối với cá nhân tôi, chữ sinh và tử được hiểu như Ðời Sống Lớn Rộng, đầy năng động và nhẩy múa
thật linh hoạt. Trong suốt quyển sách này tôi đã nói chuyện với các bạn về đời sống lớn rộng, nhẩy múa
thật linh hoạt này và về tiến trình tôi đã trải qua để có được cái nhìn như vậy về đời sống.
Như tôi đã nói trước đây, khi chấm dứt một bài giảng, tôi thường yêu cầu mọi người hãy quên hết những
điều tôi vừa nói. Nhưng mặc dù vậy, tôi cũng tha thiết mong rằng những lời kể vụng về của tôi sẽ là một
khích lệ, phần nào giúp cho bạn sống được đời sống của mình ... sống với hết tâm ý trong từng giây từng
phút, trong ý thức trọn vẹn trước mắt đời sống bao la lớn rộng, đầy năng động, và nhẩy múa thật linh hoạt
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top