TRÊN ĐƯỜNG THEO CHÂN BÁC TỪ THỦ ĐÔ HÀ NỘI LÊN CHIẾN KHU
I. XUÔI NAM HAY NGƯỢC BẮC
1. Phải mất nhiều giờ sau khi tiếng súng kháng chiến bùng nổ đêm 19/12, quân tướng Pháp ở thủ đô Hà Nội mới như hổi tỉnh và phản ứng lại. Sáng 20/12, một đội biệt kích liều tiến từ khách sạn Métropole sang dinh Chủ tịch (Bắc Bộ phủ), và đại tá Herkel vội báo về Bộ chỉ huy: "ông Hồ và ông Giám đã rời dinh ra Hà Đông từ ngày 19".
Sau này, nhà nghiên cứu sử học P. Deviller xác nhận: Pháp đã thất bại trong mưu mô nhằm vô hiệu hóa lãnh tụ Hồ Chí Minh và Chính phủ Hà Nội, ngay từ giờ phút đầu trong một kịch bản đã được tướng Valluy và đô đốc D'Argenlieu dàn dựng kỹ càng.
* Lúc đó, là Bí thư trong Văn phòng Quân sự ủy viên hội, tôi đi theo bộ phận Bộ Tổng Tham mưu. Chúng tôi cùng với số ít cán bộ giúp việc trực tiếp cho Bác, đồng chí Trường Chinh, đồng chí Võ Nguyên Giáp, hình thành một tổ phục vụ các lãnh đạo cao cấp Đảng, Chính phủ, quân đội. Thoạt đầu chúng tôi chuyển ra vùng Mai Lĩnh, Chúc Sơn... huyện Chương Mỹ (Hà Đông), bố trí bao quanh khu vực Chùa Trầm, nơi Bác đóng, gần Đài tiếng nói Việt Nam, rồi chuyển tiếp lên Ngọc Than, Quảng Oai (Sơn Tây). Nhưng Hà Đông vẫn được coi là địa điểm Chính phủ Kháng chiến mới dời ra để chính phủ ta tiếp xúc với Pháp...
Phần lớn các Bộ: Cứu tế xã hội, Tài chính, Nông nghiệp... và các cơ quan Mặt trận... đã "tổng di chuyển" ra Vân Đình, Thường Tín, đang trên đường cùng đồng bào, dân chúng sơ tán về phía Ninh Bình, Nho Quan... hướng vào Thanh Hóa, Khu Bốn... Để lại sau mình nhà cửa, tài sản, vườn tược... trong khói lửa, thực hiện tiêu thổ kháng chiến.
Vào thời điểm đó, tại trung tâm thủ đô Hà Nội, cuộc chiến đấu tiếp tục diễn ra ác liệt. Hàng trăm chiến sĩ quyết tử của Trung đoàn Thủ đô cùng nhân dân phố phường kiên cường đánh lại các đợt tiến công liên tiếp của địch. Hướng về Bác và Trung ương thề quyết giữ vững "Liên Khu I".
* Hòa vào với đồng bào thôn xóm, Bác đã cùng chúng tôi vui một Tết cổ truyền dân tộc đặc sắc thanh đạm, ấm cúng trong tình quân dân thiêng liêng thấm đậm.
Một ngày giữa tháng 2, Bác cho gọi đồng chí Vương Thừa Vũ hỏi tin tức mới nhất về viện binh Pháp mới tới, đã qua Gia Lâm vào tham chiến Liên khu I. Với một chút trầm ngâm sâu lắng, Bác đọc cho viết bức thư của "Già Hồ" gửi các "em", các "chú" chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô yêu quý. Và Bác chỉ thị cho cơ quan chuẩn bị gấp ngay để Bác công khai đi thăm và chúc Tết đổng bào.
Chiến sự đang độ quyết liệt. Cả đất nước xáo trộn. Khói lửa vừa mới bùng lên. Cụ Chủ tịch đích thân xuất hiện công khai về với đồng bào, giữa lúc mà ai cũng biết ông Hồ là mục tiêu quân địch hung bạo đang chú tâm tìm, từ sau thất bại ở Hà Nội.
Liền đó, tỏi cũng được phép cùng với một vài "lính văn phòng" xuôi về Thường Tín, Vân Đình, tranh thủ thăm gia đình trên đường tản cư về phía Nam. Nhân đấy tôi được căn dặn tìm hỏi tin bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, đại biểu Quốc hội Hà Nội, nghe đồn đã gặp nạn và mất tích trong khi rút ra từ Hà Nội và nhắc các địa phương giúp đỡ thân thuộc các vị Bùi Bằng Đoàn, Vũ Đình Tụng, Lê Tư Lành... cũng đang trên đường hướng vào Khu Bốn...
Về đến gia đình ở Thường Tín tôi ngẩn người, bàng hoàng khi chợt nghe tiếng loa phát thanh inh ỏi: tin Hồ Chủ tịch công khai xuất hiện ở Chi Nê, Nho Quan đi thăm hỏi cán bộ, đồng bào, cán bộ nhân viên Bộ Tài chính mới sơ tán về đồn điền nông nghiệp... Đội Tuyên truyền xung phong thiếu niên tưng bừng loan tin từ ngày 10 đến 20, Cụ Hổ có đồng chí Vũ Đình Huỳnh tháp tùng tới Kim Sơn, Ninh Bình thăm chúc Tết Đức Giám mục Lê Hữu Từ, Cố vấn Chính phủ, các vị chức sắc và đồng bào Thiên chúa giáo. Tin lành đồn xa, bay bổng cho thỏa tấm lòng người dân lương giáo ngày đêm, lo lắng, cầu nguyện phước lành cho "Cụ Hồ" những ngày đầu khói lửa dậy trời ờ tận Thủ đô xa xôi nóng bỏng...
Nhưng cùng lúc, các trạm tình báo 2B quân đội Pháp ở vùng công giáo, cửa ngõ Khu Bốn bỗng nhộn nhịp hấn lên, vội vã đưa tin rất cụ thể ngày giờ và những nơi "Ông Hồ" đi và đến. Ngày ấy Bộ Chỉ huy tối cao quân đội Pháp đã có được một bản tin cập nhật, chính xác, chưa từng có: trước cuộc tiến công dữ dội của quân Pháp "Ông Hồ và Chính phủ Việt Minh" đã phải bỏ Hà Nội đi về phía Nam và cuối tháng 2 đang trên đường chuyển gấp vào Thanh Hóa - Khu Bốn...
Giữa lúc các tướng tá Pháp chưa hết hí hửng thì một tin bất ngờ dội đến làm choáng váng: Đêm 17/2 toàn bộ lực lượng Việt Minh bị vây hãm trong Liên khu I, đã bất ngờ lặng lẽ rút êm hết qua sông Hồng lên hướng Bắc. Sau khi quân đội bao vây biết thì đối phương đã mất hút...
Chà là, vào thời điểm đó, các dũng sĩ "quyết tử" Trung đoàn Thủ đô đã nhận được bức thư của "Già Hồ" kính yêu gửi đến chúc Tết, khen "đã chiến đấu 60 ngày đêm là đại thắng lợi"... cùng lúc là một lệnh tuyệt mật của Bộ Chỉ huy Mặt trận... Và kế hoạch rút quân đã được thực hiộn một cách tuyệt vời vào đêm 17/2 đã bảo toàn được lực lượng một cách tuyệt đối. Một chiến tích hiếm có đầu tiên của quân dân Việt Nam, mà không phải chỉ người lính thủ đô mới cảm thấy sung sướng, tự hào, quyện với nỗi thoáng đau nén chịu phải tạm biệt người thân và phố phường yêu dấu. Trung đoàn Thủ đô vượt sông lên phía Bắc, cùng nhân dân tưng bừng liên hoan ờ Thượng Hội (Đan Phượng) rồi an toàn về chiếm lĩnh trận địa mới tại chân núi Tam Đảo, sừng sững nhìn về Hà Nội còn ngổn ngang khói lửa... Tiếp với chiến tích đêm 19/12, đội quân "chủ lực tiên phong" đã giành thêm được một thắng lợi lớn.
Pháp đâu cam chịu, đầu tháng 3 chúng đã tập trung gần toàn bộ lực lượng đội quân viễn chinh tại miền Bắc, mở cuộc hành quân lón, đánh phá dữ dội khu vực rộng lớn phía nam và tây Hà Nội, nam ngạn sông Hồng... và truy lùng Chính phủ ông Hồ "đang chuyển về phía Nam". Từ Hà Nội chúng ra Hà Đông rồi bổ thẳng xuống... Từ Nam Định chúng đánh ngược lên... Bất thình lình thả quân dù tinh nhuệ, ngọn mác sắc của quân viễn chinh, xuống Chi Nê, đầm Đa (phủ Nho Quan). Rồi lại rùng rùng phóng binh đoàn cơ giới bọc thép thọc vào khu vực Chùa Trầm ở phía Bắc.
Nhưng đã chẳng còn thấy đâu bóng dáng thanh mảnh, cao vời của "Cụ Hồ" với cơ quan đầu não Chính phủ vừa mới rời Thủ đô ra.
Địch cũng đã gây thiệt hại ít nhiều cho bộ máy in bạc của Bộ Tài chính ở Chi Nê, cho các bệnh viện ở phía Vân Đình, cho đổng bào, có người chưa hết ngỡ ngàng trước những tên kẻ cướp rằn ri, hiện đại được thả võng xuống cánh đồng nhà họ và phá phách làng xóm, phố phường. Nhưng đã có xe tăng Pháp đã bị thiêu cháy ngay trên đường vào Chùa Trầm bời súng bazaka vừa xuất xưởng (nhờ cống hiến của kỹ sư Trần Đại Nghĩa mới ở Pháp về và công nhân quân giới trẻ tuổi Việt Nam...).
Ngày ấy, giữa lúc phía nam còn đang sôi sục, chúng tôi không giấu được mừng vui, thấy Bác trở lại Ngọc Than, sau một cuộc hành trình ngàn dặm, nhọc nhằn và đầy nguy hiểm về gập thăm chúc Tết đồng bào. Và Bác đã không quên mang hơi ấm niềm tin tới lớp lớp con chiên của Chúa, trong những ngày sôi động, gay cấn của đất nước. Dáng Bác dường như khỏe, trẻ ra tuy có gầy hơn nhưng nhanh nhẹn lạ thường. Bác và anh Văn lắng nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến báo cáo tình hình máy in bạc. Hỏi tin tức mới nhất về tình hình Mặt trận Hà Nội với một động thái đầy tin tường, Bác ra lệnh cho di chuyển cơ quan...
* Tôi vừa từ Thường Tín trở về, được lệnh cùng bộ phận tham mưu, hành quân cấp tốc ra ngay bến đò Trung Hà và bến Chèm cách đó không xa
Đêm đó chúng tôi âm thầm tên ổn qua sông Hồng. Dòng nước hình như cũng chầm chậm trôi một cách rầm rì đưa đẩy một cách khác thường, Để rồi cả đoàn quân lặng kẽ bí mật hành quân trong đêm tối, đặt chân lên đất Phú Thọ. Nghe nói cánh quân cơ giới Pháp, từ Phùng xốc lên, khó nhọc ì ạch vượt qua được bao chướng ngại vật, ổ phá hoại chằng chịt trên đường vừa bị dân quân băm nát,... và những loạt đạn bắn tỉa bắn chặn... Cuối cùng chiều đó, chúng cũng tới được bến phà Trung Hà, nhưng đã chậm.
Mờ sáng, chúng tôi tới Tiên Kiên (Lâm Thao)... Anh Nguyễn Cơ Thạch tìm đến gặp, báo tin Bác, anh Trường Chinh anh Văn, đã ở trong khu vực Tiên Kiên an toàn tuyệt đối, bình yên vô sự. Anh Thạch chuẩn bị, theo ý Bác, để các đổng chí lãnh đạo cùng Bác lên đền Vua Hùng lễ tổ.
Còn tôi, nhận lệnh, không nghỉ, vượt lên trước cùng anh em chia đường kéo bộ, gồng gánh qua suối, leo đèo về Sơn Dương, Đèo Khế, Văn Lãng, rồi vào các bản làng và bìa rừng chân dãy Khâu Trang, Núi Hồng...
Hợp lực cùng anh em công tác đội và đồng bào địa phương, chúng tôi quên cả mệt, đói, cùng nhau chia sẻ cơm, sắn, ngô... tìm suối, chọn rừng, lấy cọ, chặt trúc hối hả dựng lán lớn, lán con chuẩn bị để các đồng chí lãnh đạo hạ trại. Anh em thanh niên vừa rời thành phố hớn hở và ngơ ngác, túm nữ sinh Hà Nội vừa khóc vừa cười; họ được dịp tìm hiểu chú vắt xanh Đèo Khế, cơn sốt ác tính của Đại Từ với những nỗi thoáng nhớ nhà, góc phố.
Thắng lợi căn bản! Thủ đô kháng chiến chính thức ra đời. Đội quân viễn chinh của tướng Valluy lại một lần nữa tuột tay, kết thúc cuộc hành quân sau khi đã đốt phá, bắn giết, gây thêm tội ác cho đồng bào trên cả một vành đai lớn quanh thủ đô. Rồi đành phải chững lại bên bờ phía nam sông Hồng, đối mặt một cách bất lực với các dũng sĩ Trung đoàn Thủ đô, nòng cốt đội quân "tiên phong" mới hình thành, trấn giữ chân ngọn Tam Đảo, án ngữ cửa ngõ căn cứ Việt Bắc, trong một thế trận mới, với một lời nguyền nung nấu quyết rèn quân chiên đấu để có ngày vượt qua sông trở về.
II. SANG ĐÔNG RỒI LẠI VỀ TÂY
Mùa xuân 1947, ờ các bản làng, bìa rừng chân núi Hồng quanh Tân Trào, cơ quan của Bác và các đồng chí lãnh đạo cao cấp Trung ương Đảng, Nhà nước, Mặt trận và Quân đội chia nhau đóng. Hối hả làm việc không kể ngày đêm. Nơi đây đã thành khu căn cứ trung ương (KCCTƯ) ta gọi là Khu 9B, còn với địch là "Bản doanh Ông Hồ". Và thị xã Bắc Cạn, cách đó không xa, được Pháp kêu là Thủ đô kháng chiến.
Tại khu căn cứ bí mật đó dưới sự lãnh đạo kiên cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng vững, ngày càng mạnh mẽ, hiên ngang tỏa sáng...
Tháng 3/1947, tôi thực sự xúc động khi nhận được quyết định cử làm Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Vào thời điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh lập Bộ Tổng Chỉ huy, giao phó đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bộ trường Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân Tự vệ Việt Nam...
Sự kiện lịch sử đó, tiếp theo việc củng cố Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, cùng với những hoạt động ngoại giao thiện chỉ cố gắng hết sức tranh thủ hòa bình, đã đánh dấu việc cả nước triệt để chuyển từ thời bình sang thời chiến và quyết tâm của dân tộc ra quân đón đánh nhũng trận sống còn đầu tiên mà quân viễn chinh xâm lược Pháp đang ráo riết chuẩn bị, nhằm bằng một đòn nhanh chóng triệt ngay cơ quan đầu não kháng chiến và đội quân chủ lực non trẻ của chúng ta vào thu đông 1947 sắp tới.
Trong những ngày ban đầu này, Văn phòng phải phụ trách cả việc bảo vệ an toàn khu căn cứ Trung ương. Với sự hợp tác của Bộ Tổng tham mưu và đại tá Nguyễn Dân, Khu trưởng Khu 9B, kiêm Chỉ huy trưởng Bộ đội bảo vệ căn cứ (sau thành Trung đoàn 15). Quân và dân vùng căn cứ địa vẫn không quên "đồng chí chiến sĩ người Đức" (gốc Áo) Ernest Frey (tên Việt Nam là Nguyễn Dân) đã trốn từ đội quân Lê dương sang phục vụ chính nghĩa Độc lập của Việt Nam: và được giao trọng trách Chỉ huy trưởng các đơn vị bảo vệ Khu căn cứ Trung ương. Lính Văn phòng yên tâm, phấn khởi và cũng rất thích thú với những tình . cảm mới lạ dấy lên mỗi khi chúng tôi, nhiều thanh niên Hà Nội, giữa núi rừng, quây quần giữa đám quân và dân nói đủ thứ tiếng gần gũi mà xa lạ như (Tày, Mán, H'mông, Kinh...) điểm thêm giọng lơ lớ của người chiến sĩ quốc tế. Mọi người xum vầy, tình nghĩa gắn bó keo sơn, chí cốt làm sao...
* Tháng 10/1947, tướng Salan hùng hổ tập trung hơn 20 ngàn quân mở cuộc tấn công lớn đánh ác liệt căn cứ Việt Bắc, định đập tan cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến "Ông Hồ" và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với mong muốn kết thúc chiến tranh trong một vài tháng. Và thực hiện giải pháp Bollaert - Bảo Đại dựng lên một chính phủ bù nhìn đã sẵn sàng vào đầu 1948.
Ngày 7/10, Lữ đoàn dù, đội quân tinh nhuệ của Pháp đã bất ngờ nhẩy xuống tập kích chiếm thị xã Bắc Cạn, Thủ đô kháng chiến mới. Tinh huống nghiêm trọng. Tinh báo tin tức rối mù... Một Phó Văn phòng, anh Lê Huyền Tụng, trên đường đi công tác qua thị xã bị địch bắt, cùng với số đông cán bộ, dân thường. Nhưng ngày sau anh đã trốn được về cơ quan báo tin, quân dân ta tuy bị bất ngờ vẫn vượt mọi khó khăn anh dũng chiến đấu chung quanh Bắc Cạn, Chợ Mới. Cụ Bộ trưởng Cứu tế - Xã hội Nguyễn Văn Tố đã bị sa vào tay địch và đã bị chúng sát hại, đồng chí Trường Chinh, đồng chí Hoàng Văn Thái, sáng đó có mặt tại thị xã, cũng bị kẹt dưới làn đạn giặc. Nhưng có tin chắc chắn đã thoát được ra rừng...
Sau này mới biết: khi ấy lính Pháp bắt giữ được "Ông già" khăn xếp, áo the, phong cách đàng hoàng, chững chạc đối thoại bằng tiếng Pháp phản đối chúng gây chiến tranh... Nhưng liền đó giặc Pháp đã sát hại ông già và báo cáo về Hà Nội, đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà chúng đã được giao nhiệm vụ truy lùng. Cao ủy Bollaert đang ở Sài Gòn vội bay ra Hà Nội để cùng tướng Salan tiệc mừng. Nhưng đã bị hố, và người hạ sĩ thông tin hôm ấy đã phải ra trước một tòa án binh để có cái mà nói với báo chí, công luận. Nhưng che lấp sao được tội ác là quân đội Pháp đã cố tình sát hại một Bộ trưởng dũng cảm trung hậu của Chính phủ Việt Nam, một học giả đáng kính.
Trở về với cuộc chiến, quân Pháp tiếp tục tăng viện nhẩy dù Cao Bằng, khép vòng vây, cố xúc tiến nhanh hội quân trước định vào ngày 20 nhưng đã bị chậm, để tập trung đánh tiếp đòn quyết định và càn quét khu căn cứ Trung ương, "Bản doanh ông Hồ" chí cách các đồn Bắc Cạn, Chợ Mới của địch chừng 30 cây số đường chim bay.
Trưa đó, dưới những vạch ánh nắng xuyên chếch qua lớp lá tre trong lán giữa rừng gần Lục Rã, chân đèo Nhe, núi Hổng, Bác hội ý nhanh với đồng chí Trường Chinh vừa thoát hiểm trở về, nghe anh Văn trình bày về bản đồ kế hoạch tác chiến của Pháp, ta bắt được khi máy bay của đại tá tham mưu trưởng Lambert bị hạ ở Cao Bằng. Chiến sĩ thông tin Nguyễn Danh Lộc đã phải qua 4 ngày đêm xuyên rừng già chạy tóe máu chân, may mà không bị hổ, gấu vồ mới đưa về được Bộ Tổng tham mưu. Nhanh nhẹn và dứt khoát một cách lạ thường Bác ra lệnh: Di chuyển cơ quan ngay lập tức.
Rời lán, anh Văn lệnh cho tôi, lúc đó đang chờ sẵn ờ lán nhỏ rừng ngoài: Cho rời ngay các bộ phận nhẹ cơ quan Trung ương theo Bác sang căn cứ dự bị "B" ở phía đông.
Phóng vội về Văn phòng ở Yên Thông, tôi còn đang loay hoay xoay xở thì chú bộ đội gác cơ quan đã hấp tấp báo: Trông thấy toán vệ binh và Bác ngụy trang đi bộ nhanh theo đường ven rừng sau bản. Đoàn người đã tranh thủ ngay lúc chập tối, bí mật luồn rừng dưới chân đồn Chợ Mới địch vừa đóng băng qua Lang Hít, bắc Thái Nguyên để sang vùng Bắc Sơn, Đình Cả ở phía đông với cả trăm cây số đường rừng.
Đại tá Nguyễn Dân được gọi, hộc tốc phi ngựa, tối mịt mới tới Văn phòng, ông nổi cáu khi được biết Bác đã xuyên rừng qua đường cảnh giới đơn vị bảo vệ lặng lẽ ra ngoài căn cứ. Người đồng chí luôn sục sôi tinh thần trách nhiệm, mẫu mực về tính tổ chức kỷ luật, chi còn việc kêu trời về trọng trách bảo vệ an toàn tuyệt đối cho lãnh tụ tối cao và kiểu làm ăn quá ư du kích của tôi.
Bổn chồn lo lắng đứng ngồi không yên, tôi phải đợi mất ba ngày mới nhận được tín hiệu các đồng chí lãnh đạo đã an toàn đến khu "B". Tôi cho đình chỉ liên lạc vô tuyến điện, bốc các bộ phận còn lại của Văn phòng, nhanh chóng lên đường tiếp sang phía đông. Tôi cũng không quên đổi tên mới là Ma Viết Phương để dễ hòa nhập và giao dịch với đồng bào phần lớn là người Nùng ở địa điểm mới.
Hành quân suốt một ngày đêm, được khoảng nửa đường, tới khúc suối gần Chùa Hang, bỗng gặp đồng chí Lực, vệ sĩ cùa Bác, phóng ngược trở lại bằng tín hiệu và rất vắn tắt anh cho biết: địch đã nhảy dù xuống Tràng Xá, La Hiên, ngay cửa ngõ khu vực các cơ quan Trung ương vừa chuyển tới, nhưng cứ yên trí và phải nhanh lên... Tôi giật mình, cảm thấy có chuyện lớn rồi. Nhưng không được hỏi thêm vì nguyên tắc bí mật, lại cấp tốc tiếp tục hành quân, băng qua La Hiên, Trang Xá, nhà cửa bản làng, cây cối bị cháy đen nham nhở, còn bốc khói khét lẹt. Không gặp địch, chúng tôi tới được Na Chế, Bình Long, gặp lính của đại đội bảo vệ của anh Vũ Lăng, Hoàng Vãn Khánh đang phục kích đánh địch xục vào khe suối.
Đến được khu "B" nhưng Bác, đổng chí Trường Chinh, anh Văn đã không còn ở đó nữa. Các anh Bế Văn Quý (tên mới của anh Nguyễn Cơ Thạch), Nguyễn Thượng (Văn phòng), Đào Văn Trường (Bộ Tổng tham mưu)... sau một buổi lễ kết nghĩa ăn thể với cụ Bá Phương, Trưởng bản, đã đi cùng với các đổng chí lãnh đạo.
Tôi được báo cáo lại: Khi Bác vừa chuyến sang phía đông nghe tin trên đài radio người vệ sĩ mang theo, một phóng viên chiến tranh Pháp bình luận "Cụ Hổ đã phái rời bỏ thủ đô Bác Cạn chạy về "sào huyệt" Bắc Sơn", Bác đã quyết định trở lại ngay khu vực chân núi Hồng, phía tây, nơi quân địch đã và đang càn quét, xục xạo đột phá. Thì cũng đúng vào lúc Bộ Chỉ huy Pháp ngày 26/10 mở cuộc hành quân Cein-ture bất ngờ cho nhảy dù xuống Tràng Xá, La Hiên, và từ Lạng Sơn, Nhã Nam tiến vào đánh và bao vây càn quét khu vực Bắc Sơn, Đình Cả... Một lần nữa quân tướng Pháp lại bị hụt.
Tôi ở lại khu "B" và được giao trọng trách tổ chức bảo vệ an toàn cho bộ phận các vị lãnh đạo Quốc hội, Mặt trận đi cùng cụ Bùi Bằng Đoàn. Các cụ lúc đó còn đóng giữa rừng trên triển núi giữa đèo Phương Giao và đèo Ỉnh. ở khe suối trước mật, thỉnh thoảng còn có loạt súng nổ của bộ đội và dân quân phục đánh bọn biệt kích xục xạo. Trong khi có tin quân địch từ phía Nhã Nam vẫn cứ tiến lên gần...
*
* *
Qua cuộc hành quân thần kỳ 1947, Bác là Chủ tịch nước, Tổng Chỉ huy tối cao quân đội, cùng với những học trò xuất sắc Trường Chinh, Võ Nguyễn Giáp... đã minh chứng, nêu lên một tấm gương sáng ngời về Người tướng Việt Nam với bản lĩnh, tài ba mưu lược, đũng cảm, chủ động sáng tạo đã bước đầu đánh bại quân đội đế quốc hiộn đại với cách đánh "du kích vận động chiến" độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Và đặc biệt, trong tác chiến đánh địch Tướng quân Việt Nam bao giờ cũng để lên hàng đầu nhiệm vụ giữ vững, củng cố đại đoàn kết dân tộc, như cách Bác hành xử đối với đồng bào công giáo
ngay sau sự kiện 19/12 và với "các cụ" nhân sĩ trong cuộc bao vây truy lùng năm 1947.
Lớp "lính mới" chúng tôi, vừa từ cuộc Tổng Khởi nghĩa Hà Nội ra, lần đầu xông vào trận mạc rất hăng hái nhưng còn nhiều bỡ ngỡ, đã may mắn và rất vinh dự thấy được và thấm nhuần những điều cơ bản đó và coi đó chính là những "cẩm nang" vô giá để ta đánh bại được mưu đồ đế quốc thực dân định chinh phục Việt Nam bằng đại bác và chính sách lỗi thời khét tiếng của nó nhằm chia cắt dân tộc và đất nước Việt Nam non trẻ.
Hà Nội năm 1996
Có điện khẩn. Từ một địa điểm bên phía tây, đâu đó trong rừng chân núi Hồng còn nóng khói lửa, Bác lo lắng chỉ thị... Tôi trực tiếp đến gặp ngay để thưa với "các Cụ" và giao nhiệm vụ cho đồng chí Lê Hùng cẩn trọng tổ chức đưa các cụ an toàn ra khỏi khu núi rừng đang bị vây sục để về đổng bằng. Anh cán bộ trẻ Lê Hùng vốn là một học sinh trường Tây cũ theo Việt Minh từ Hà Nội, được tin cậy, đã nhanh nhẹn, tháo vát, cùng với anh em trong tiểu đội bảo vệ, mang theo một va li con nhét đầy giấy bạc Cụ Hổ thay nhau, vai các bin, vai cáng võng hăng hái hộ tống các cụ lìa rừng, xuống núi... Bỏ đèo Ỉnh vì bản Mô Na Lương ở chân đèo đã bị liêu thổ. Cả đoàn võng cáng qua đèo Phương Giao "đủng đỉnh" cuối cùng với không ít khó khăn cực nhọc, các chiến sĩ bảo vệ đã hoàn thành nhiệm vụ, theo ý Bác ở xa đã quan tâm căn dặn, cẩn trọng đưa các vị lãnh đạo Quốc hội, Mặt trận về được an toàn và hòa mình vào giữa đồng bào vùng cam ngọt Bố Hạ, Bắc Giang...
Trong kí ức tôi còn ghi mãi những ấn tượng khá sâu sắc, ấm lòng khi tới gặp các cụ ở giữa núi rừng Việt Bắc u tịch và đầy bí ẩn ngày ấy. Các cụ đã không quản tuổi tác, bất chấp muôn vàn khó khăn..., mang tinh thần "thất phu hữu trách" lặn lội vẫn theo Cụ Hồ đi kháng chiến cứu nước. Đến gần võng cụ Bùi Bằng Đoàn, vẫn cốt cách trang nghiêm, và cụ Vi Văn Định, đã qua đi cái thời là Tổng đốc khét tiếng một vùng, tôi chợt nghe có giọng nói vui vẻ, khoan thai nhưng lạ tai:
- Ôi, ông bạn cố tri!
Cụ Phan Kế Toại ở võng bên đã tươi cười gọi khi nhận ra tôi trước khi tôi kịp chào. Từ những ngày khởi nghĩa Tháng 8/1945 tôi không có dịp đuợc gặp lại cụ.
Tin từ phía tây đến như lửa đốt, Pháp tiếp tục nhẩy dù mạn Cù Vân, Thái Nguyên, tập trung quân từ Bình Ca sông Lô tới và từ Bắc Kạn xuống cùng với cánh quân từ Nhã Nam sang chà đi sát lại nhiều lần vùng Chợ Chu, Đại Từ... cho tới Sơn Dương Bộ đội bảo vệ của đại tá Nguyễn Dân cùng du kích và đổng bào địa phương quyết liệt bám sát địch, đánh chặn, bán tỉa khắp nơi, ở quán ông Già, ờ Quảng Nạp... quyết chặn không cho chúng tới sát khu vực lán Bác Hồ.
Cuối cùng sau hơn hai tháng hành quân, bị đánh tới tấp và thiệt hại không ít, ngay trong lòng căn cứ Việt Bắc, trên sông Lô và đường 4, Pháp đành phải chịu thua, đem quân về Thái Nguyên rồi rút về Hà Nội.
Ngày 29/12 kết thúc trận tấn cống lớn của hơn hai vạn quân Pháp vào Việt Bắc thu đông 1947. Không đạt được mục tiêu chiến lược số một, diệt cơ quan đầu não Lãnh đạo kháng chiến, Chính phủ Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cũng chẳng đập tan được bộ đội chủ lực ta mà còn được nếm đòn đau của quân "Tiên phong" ở vùng nam Thái Nguyên; lúc này Bảo Đại đã được Bolaert đưa về chờ ở Vịnh Hạ Long đã phải rút lui một bước.
Tôi được lệnh chuyển theo đường cũ, lại trở về chân núi Hồng, qua bắc Thái Nguyên bị tàn phá, đây đó còn vương vãi tro khói, khét mùi chó lợn chết, tre nứa nhà cháy, mùi Tây và mùi thuốc súng...
Trên Đèo So, bắc Chợ Chu, chúng tôi tưng bừng tổ chức liên hoan chiến thắng: Đã làm thất bại thảm hại kế hoạch tấn công Việt Bắc của địch trong một trận lớn đầu tiên khi cả đất nước ra quân, bước lên võ đài quốc tế đối mặt với những đội quân chính quy hiện đại của đế quốc thực dân cũ mới.
Chúng tôi xôn xao, nôn nóng hỏi han tin tức, bàn tán tình hình... chia sẻ những mất mát, hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ, cán bộ vùng có chiến sự đi qua. Không quên nhắc đến hình ảnh tiết tháo của cụ Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố...
Thật vui mừng, phấn khởi khi lại được tận mắt thấy Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và đông đủ các đổng chí khác trong ánh sáng huy hoàng chiến thắng. Bác - "ông Hồ" đã đi đầu cùng các cán bộ lãnh đạo cao cấp Đảng, Nhà nước, Quân đội, Mặt trận đích thân xông pha lửa đạn, trèo đèo, lội suối cùng quân dân cả nước đánh thắng một trận "kinh thiên dộng địa" theo kiểu cách Việt Nam mình lúc đó.
Trận thắng đầu tiên vô cùng quan trọng đã buộc đế quốc thực dân Pháp phải từ bỏ chiến lược "chớp nhoáng" hiện đại, để rồi bị sa lầy vào một giai đoạn đấu tranh mới và Bác Hổ, sau cuộc hành quân chiến đấu hơn 300 ngày đầy huyền thoại từ Hà Nội ra đi ngày 19/12/1946 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trọng đại số một lúc đó là bảo toàn được cơ quan lãnh đạo tối cao Đảng, Chính phủ Kháng chiến và chuyển Thủ đô Hà Nội an toàn lên chiến khu. Bác lại trở về trụ ở Tân Trào, Thủ đô kháng chiến mới, nơi mà cũng từ khi ấy quân địch không thể nào tới được nữa, cho đến lúc kết thúc chiến tranh, qua trận đánh lịch sử Điện Biên Phủ... Bác và đoàn quân chiến thắng trở về với thủ đô Hà Nội thân yêu năm 1954.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top