Tử Cấm Nữ 4

TỬ CẤM NỮ (TT)CHƯƠNG 21 ĐẾN 28

CHƯƠNG 21

Doãn Hoa đã trở lại trường, nhưng cô không muốn gặp tôi.

Giờ đây tôi mang một tâm trạng có lỗi sâu sắc với cô ấy.

Tôi thật sự hối hận rằng trong lúc ốm đau đã ăn nói lung tung. Tuy nhiên trong ký ức tôi chẳng hề để lại một dấu ấn nào, nhưng Ngô Nguyên nói với tôi, chính xác tôi đã nói như vậy.

Cũng chẳng thể trách được Doãn Hoa, cô ấy vừa chịu nỗi đau mất cha.

Quan hệ giữa chúng tôi vốn đã có những mắc míu, tôi nói như vậy, cô ấy nhất định sẽ cho rằng tôi nguyền rủa ác ý. Nhưng, vì sao tôi lại có lý do gì để nguyền rủa bố của cô ấy đây? Cô ấy, cũng như cả gia đình cô đã từng giúp đỡ tôi, trong lòng tôi luôn ấp ủ một tình cảm biết ơn chân thành... chính Doãn Hoa, thực ra cũng không thể trách cô ấy. Doãn Hoa thích hoặc phát triển đến tình yêu với Ngô Nguyên, đó cũng là quyền của cô ấy. Cô ấy còn xét đến chút tình cảm chị em giữa chúng tôi cũng không quá trâng tráo, cố giành lấy được, xét về tính cách của cô ấy, là rất khó rồi. Hơn nữa...

Trong lòng tôi bỗng nhiên có chút lo sợ -- nếu như những lời nói lung tung của tôi thật sự linh nghiệm như vậy, tôi sẽ không chỉ là một thạch nữ, mà còn là một mụ phù thuỷ hoặc một con ma nữ...

Tôi thật sự có chút kỳ lạ, những ngày sau trận ốm tôi luôn có các loại ảo giác.

Tôi nằm trên giường, thường nhìn thấy rất nhiều những hình ảnh hoa xanh biến ảo khôn lường. Lúc thì chúng như những bức tranh trừu tượng đen ngòm, lúc thì lại giống như những mảnh vụn xác pháo tả tơi trong không trung, lơ lửng xoay tròn, càng lúc càng nhanh, càng lúc càng lớn, càng lúc càng gần, rồi bỗng nhiên mất hút. Mà trong khoảnh khắc mất hút đó, một viễn cảnh lầu quỳnh điện ngọc lại manh nha xuất hiện, từ phía tận cùng của vũ trụ xa tít tắp từng đốm, từng đốm nổi lên, cuối cùng biến thành những xà và cột thẳng tắp ngời ngời trước mắt tôi. Cho dù tôi có nhắm mắt, bóng dáng nó vẫn hiển hiện ra rất sinh động, hệt như những hình ảnh trên ti vi không ngừng phát đi phát lại....

Điều càng khiến người ta khó có thể hiểu nổi chính là, có hôm, chúng tôi đang trên đường trở về phòng ngủ, gặp một cậu con trai khoa khác chẳng hề quen biết, tôi bỗng dừng lại, vẻ mê hoặc nhìn anh ta nói:

- Nhà anh có tang phải không? Mẹ anh mất, hôm nay tròn tháng, đúng không?

Vừa nói xong, tôi lập tức muốn vả vào miệng mình, bởi vì bình sinh lần đầu tiên trong lúc tỉnh táo, miệng tôi lại chẳng hề nghe sự chỉ huy của bộ não, toàn nói những chuyện hồ đồ.

Nhưng, điều khiến chúng tôi kinh ngạc mãi không thôi, cậu con trai kia sững sờ, bỗng nhiên lập bập nói:

- ... Đúng, mẹ tôi đã mất, hôm nay... tròn tháng... nhưng... làm sao cậu biết?

Tôi chỉ có thể lắc đầu xin lỗi anh ta.

Những bạn cùng phòng trợn tròn mắt nhìn tôi, đầu tiên là hoài nghi, sau đó là sự kinh ngạc, rồi sự kính phục.

- Thạch Ngọc, cậu bắt đồng linh thông từ lúc nào thế? Nói nghe xem nào.

Một người trong số họ kinh ngạc hỏi tôi. Những người khác thì hết sức thán phục, nói rằng tôi quả thật là "lời vàng lời ngọc", và giằng kéo tôi rằng sau khi về phòng thì phải xem tướng cho họ.

Nhưng tôi chỉ có thể cười đau khổ. Nếu như tôi thật sự linh thông, hoặc giả được thần linh ứng nghiệm, tôi đoán đó cũng chỉ là thần tà ác, nếu không, vì sao cứ bắt tôi bạ đâu nói đấy toàn những lời nguyền rủa người khác chết, mà không phải là những lời tốt đẹp hoặc chúc phúc? Lẽ nào đây cũng là điều chứng thực truyền thuyết dân gian -- thạch nữ đều là hoá thân của tà ác? Hoặc giả, cũng là từ một góc độ khác đưa ra bằng chứng -- thể xác càng u bế thì càng dễ linh ứng? Chu Văn Vương chẳng phải trong ngục tối tại Dữu Lí, mới có thể diễn giải được bát quái sao? Lẽ nào bộ phận sinh dục đáng xấu hổ của tôi cũng là một "bát quái" mới mà chưa có người biết? Hơn nữa, nếu quả là linh ứng, vì sao tôi lại không thể xét tiên cơ vận mệnh của mình? Thậm chí không thể phá giải tám chữ "Một chìa khoá mở một ổ khoá" ...

Cho nên, thực tại tôi chẳng có tâm tình nào để giả thần giả quỷ xem tướng cho họ. Tóm lại, tôi mượn cớ thoái thác.

Tôi và Ngô Nguyên vẫn hò hẹn như cũ, vẫn giữ sự tiếp xúc và qua lại. Làm như vậy, xem ra lại có lợi cho tôi. Nếu không, biết rằng tôi đã cô độc, sẽ có không ít chàng trai khác vây xung quanh, sẽ làm cho tôi suốt ngày chẳng thể yên tĩnh.

Có lúc, chúng tôi còn quấn quýt như đôi uyên ương trong vườn trường, khiến cho ấn tượng của mọi người về chúng tôi vẫn như cũ. Nhưng chỉ hai chúng tôi mới biết, thực ra chúng tôi đã không còn ôm ấp và hôn nhau nữa.

Đây là mối quan hệ cắt không đứt, ghép cũng chẳng lành.

Về mặt lý trí, chúng tôi đều hiểu rõ sự phân ly đã là việc tất yếu, không thể cứu vãn, nhưng về mặt tình cảm vẫn còn có sự lưu luyến không thể hiểu nổi. Dường như tôi cũng nhìn thấy nhiều ưu điểm của anh hơn trước, cảm nhận được sự chân thành và khoan dung của anh đối với người khác, anh cũng chẳng phải là một chính khách thấy lợi vong nghĩa, chỉ giỏi luồn cúi. Tuy ở một số trường hợp anh không thể không nói những lời trái với lòng mình, nhưng phần lớn, anh vẫn giữ gìn tấc lòng của mình. Có lúc tôi cảm giác rằng anh dường như là con người có văn hoá trên chính trường, nhưng dù sao vẫn còn thiếu cơ trí và sự lão luyện của những con người làm chính trị -- đương nhiên còn phải khéo đưa đẩy, nhưng phần lớn dường như đại trượng phu không nên có tình cảm yếu mềm...

Đúng vậy, con người luôn luôn có mâu thuẫn.

Tôi biết, trong lòng anh luôn có tôi, và cũng không thể xa rời tôi.

Có lần, trong đêm trăng mênh mông, chúng tôi đến bên bờ hồ, bỗng anh cảm thán:

- Bây giờ anh mới hiểu, cái đẹp luôn tàn khuyết... nhưng vì sao em không thể lại...

Anh không nói hết câu, bỗng hai tay ôm lấy mặt, ánh mắt nhoà đi, thở dài.

Một thời gian tôi đã cảm động vì sự đau khổ của anh, chút nữa thôi thì tôi đã định đồng ý với anh thử lại một lần nữa. Nhưng bỗng nhiên, một ý nghĩ kỳ quái không thể lung lạc từ trong lòng vươn ra ngăn trở tôi: không cần phải thử, đừng có hại người khác nữa. Một thể xác chính là một đoạn kinh văn mà tổ tiên truyền lại, chính là một bản khế ước thoả thuận với thần linh, một chữ cũng không thể sửa, cho dù là chữ sai.

Sau này, dường như qua rất lâu, anh mới ngoảnh đầu lại, khẩn thiết hỏi tôi:

- Anh có thể hôn em được không?

Tôi hơi do dự, nhưng rồi cự tuyệt. Tôi lẳng lặng nói với anh:

- Không phải em không muốn thế, mà em đã hiểu được một thuyết pháp, nụ hôn của thạch nữ không trong sạch, em không thể hại anh.

- Anh không tin.

Anh kiên quyết lắc đầu.

- Anh hãy nhớ rằng chớ có tin là không có. Hơn nữa, em không thể biết rồi mà vẫn phạm sai lầm được.

Tôi nói, duỗi tay để anh nắm thật chặt.

Anh không còn kiên trì nữa.

Nhưng quan hệ có mà như không của tôi với Ngô Nguyên chẳng kéo dài được bao lâu. Bởi vì có một người càng ngày càng phiền não về sự tiếp tục gần gũi của chúng tôi. Tôi không nói thì anh cũng đoán biết là ai, đó chính là Doãn Hoa.

Cô ấy và tôi giờ đã thành kẻ qua đường, có lúc cô ấy còn xoi mói cay nghiệt nhìn tôi, dường như là tôi đã giết chết bố cô ấy.

Có lần, gặp cô ấy ngoài cổng trường, tôi muốn giải thích, nhưng cô ấy lại phủi tay, nói:

- Khỏi cần, tôi không quen biết cô.

Thần sắc ấy, thái độ ấy khiến tôi hồi tưởng cơn ác mộng trước đây, nó giúp tôi nhận thức được, hoá ra con người cũng có mấy bộ mặt hoàn toàn trái ngược.

Nhưng tôi vẫn thầm cầu mong trong lòng, hy vọng có ngày được cô ấy lượng thứ.

Nhưng sự hận thù của cô ấy đối với tôi dường như chẳng hề giảm, mà càng ngày càng tăng.

Có khi, trước mặt tôi Doãn Hoa biểu lộ thái độ khinh miệt tột cùng, chẳng thèm để ý đến tôi, dường như cô ấy chưa từng là một thạch nữ, cho dù là vậy thì việc "mở cửa môn hộ" cũng đã thành công giờ cô đứng vào hàng những người bình thường.

Thật vậy, cô ấy quả thực may mắn hơn tôi, chỉ có một lần "Minh Trị duy tân", mà nơi đó đã "thông suốt không trở ngại". Cô ấy có lý do để kiêu ngạo, có lý do để đắc ý, có lý do để chẳng xem tôi vào đâu cả...

Nhưng cô ấy không có lý do để lật mặt không thừa nhận "bà chị" mà trước đây cô ấy đã luôn mồm gọi tôi.

Tôi cũng dần dần cảm giác được, cô ấy không thể chịu nổi tôi và Ngô Nguyên ở bên nhau. Khi ấy, trong mắt cô ấy dường như nảy lửa, vằn tia máu. Cô ấy tỏ ra không hiểu, tôi là con người không thể bóc niêm phong, vì sao còn mặt dày mày dạn ở bên Ngô Nguyên... và Ngô Nguyên, dường như nhất định bị sự rắp tâm đầu độc của tôi, nên vẫn theo đuổi gặm mút gân gà "ăn chẳng được quẳng không xong".

Một hôm, tôi có việc phải đến văn phòng Hội sinh viên tìm Ngô Nguyên, thấy cô ấy và Ngô Nguyên đang tranh luận chuyện gì đó rất gay gắt, thấy tôi, cô ấy căm hận liếc nhìn, đột nhiên quày quả, bật khóc và bỏ đi.

Chẳng mấy ngày sau, tin tức tôi là "thạch nữ" đã truyền đi khắp trường.

Mới đầu, có người còn chỉ trỏ sau lưng; sau này, khi tôi vào lớp, có người còn níu vào cửa sổ lén nhìn trộm. Tôi vốn đã quen trở thành trung tâm của mọi sự chú ý, hưởng những hư vinh của người phụ nữ, nhưng giờ đây, trong ánh mắt chú ?ý của mọi người không đơn thuần còn là sự ngưỡng mộ và trầm trồ đối với cái đẹp, mà là sự hỗn tạp của chọc ghẹo, chê cười, thương xót và cảm thông...

Có buổi trưa, tôi từ nhà ăn trở về phòng, bỗng nghe thấy các bạn cùng phòng đang bàn cãi xôn xao.

- ... Thật không thể ngờ nổi. Vốn cảm thấy gần đây nó kỳ kỳ thế nào ấy, cho rằng phòng chúng mình có một mụ phù thuỷ linh thông, chẳng ngờ lại là một thạch nữ...

- Nhưng cũng lạ, Ngô Nguyên và nó yêu nhau từng ấy năm, lẽ nào lại không biết?

- Có thể nó biết làm phép mà.

- Làm cái gì? Không thể biến ra một cái huyệt tạm thời. hi hi hi...

- Mày thật kinh khủng. Ngô Nguyên không chắc đã là một chính nhân quân tử.

- Ôi, chẳng phải cậu cũng thích anh ta à, có cơ hội thì tiến tới đi. Nhưng, nhưng nhanh chân lên một chút, chần chừ chẳng đến lượt đâu.

.....

Tôi nghĩ, nếu không có sự chuẩn bị tinh thần, thì tôi đã ngất ngay trước cửa phòng.

CHƯƠNG 22

Đây lại là một ngưỡng cửa trong cuộc đời không may mắn của tôi.

Nhưng tôi đã trải qua những cảnh gió mưa, đã từng trải việc đời. Hoặc giả, qua một cơn bệnh nặng thì sức đề kháng của cơ thể cũng cao hơn. Tóm lại, tôi còn kiên cường hơn tưởng tượng, chẳng hề bị những lời bình phẩm xôn xao khắp trường quật ngã.

Tôi vẫn lên lớp đều, vẫn đến thư viện như thường, vẫn đến phòng tư liệu, vẫn đến nhà ăn, đi tất cả mọi nơi mà tôi có thể đi... đồng thời, tôi cũng hết sức giữ gìn sự an tường và bình tĩnh của thần thái và tư thế. Bởi vì tôi biết, nếu như tôi không thể làm được điều này, tức là đã chứng thực những lời bàn tán truyền miệng như mưa bão công kích vào tôi... nhưng ở mặt khác, tôi vẫn ra sức biến mình trở thành một con đà điểu -- Tôi cố gắng vùi đầu vào trong những bài vở và cuộc sống nội tâm. Như vậy, tôi mới là một kẻ đui mù, có thể không thấy những ánh mắt hiếu kỳ luôn bám riết không rời; như vậy, tôi mới trở thành một kẻ điếc lác, có thể bỏ ngoài tai tất cả những bàn tán trăm ngàn kiểu cách xung quanh mình.

Thực ra, tôi đã sớm dự cảm, giấy không thể bọc được lửa, tôi không thể giấu giếm mãi cái điều bí mật mà mọi người rất thích thú đó. Nhưng tôi chẳng thể ngờ, sự tình lại phát triển nhanh đến vậy.

Dù tôi có dùng chân tay để phân tích, cũng có thể hiểu được ai đã ra chiêu độc này với tôi. Xem ra, cơn ác mộng ngày đó chẳng phải là mũi tên không có đích, vấn đề là tôi không giác ngộ. Tôi đọc rất nhiều sách, tự cho là thông minh, thực ra cái tôi khiếm khuyết nhất của tôi lại là điểm hiểu biết nhỏ nhặt này. Vạn sự vạn vật của trời cao biển rộng, hồi tưởng kỹ càng, thực ra luôn có mối liên hệ và đối ứng nội tại, đều có những manh mối có thể dò tìm, vấn đề là ở tôi chỉ có một tấm thân phàm thai cốt tục...

Hiện tại, trước mặt tất cả mọi người, tôi dường như đều phải cúi đầu im lặng, nhưng trước Doãn Hoa tôi lại có thể ngẩng cao đầu mà bước, ánh mắt lạnh lùng... đương nhiên, tôi cũng có thể chẳng thèm chớp mắt, để thể hiện thái độ khinh miệt cao nhất của mình. Cô ấy có thể yêu Ngô Nguyên, có thể hận tôi trở thành kẻ cản đường, thậm chí không tiếc lời cãi vã với tôi, nhưng cô ấy không được giở trò như vậy.

Tôi nghĩ, tuyệt đối tôi không đổ oan cho cô ấy. Trong trường này, chỉ có cô ấy và Ngô Nguyên chia sẻ bí mật của tôi. Ngô Nguyên nhất định sẽ không tiết lộ, bởi vì vô hình sẽ làm tổn hại đến anh, hơn nữa, chúng tôi còn có cơ sở tình cảm sâu sắc bao năm.

Nhưng, tiểu muội đáng thương ơi (hãy để tôi một lần nữa được gọi em như vậy), em cho rằng làm như vậy thì em sẽ có được Ngô Nguyên sao?

Nhưng xin em hãy yên tâm, chị không quan tâm em đã nói cười thế nào đâu. Em cũng không cần phải làm việc trái với lương tâm, chẳng phải tìm cách trốn tránh, cho rằng chị cũng ác độc đến mức có thể tạt a-xít vào em... không, em đã từng giúp đỡ chị, cả nhà em nữa, chị luôn ghi nhớ điều đó. Cho nên, chị sẽ dùng đức báo oán.

Còn về Ngô Nguyên, anh càng không phải an ủi tôi. Tôi đã khiến cho anh phải xấu hổ, điều này đã lại khiến lòng tôi thêm một vết thương mãi mãi không lành. Mong anh trân trọng tất cả.

Được rồi, đến đi, cuộc đời còn có những gì tủi nhục nữa, còn có những toán tính gì nữa, còn có những mưa gió dập vùi gì nữa, hãy đến tất cả đi -- tôi gào lên trong giấc mộng.

Tôi thường chạy ra ngoài cánh đồng, tìm một nơi vắng bóng người, đối mặt với bầu trời, gào, hét và khóc to...

Như vậy, tôi có thể có được sự bình tĩnh và quên lãng tạm thời sau khi trút xả tất cả. Nhưng lâu dần, nó càng làm cho tôi thân xác và lòng tôi thêm mệt mỏi.

Tôi dần dần manh nha ý định bỏ học, thậm chí có ?ý nghĩ quay về quê.

Sau khi bỏ học, tôi sẽ đi đâu? Trong cái xã hội cạnh tranh khốc liệt này, tôi sẽ dựa vào cái gì để sinh tồn?

Tôi bỗng nhớ đến sau khi bước ra khỏi chùa Giác Tuệ hôm đó, cô tôi đã giải thích về sấm ngữ "Một chiếc chìa khoá mở một ổ khoá". Có thể sẽ có một ngày nào đó, cửa Phật sẽ là chốn quay về không thể lẩn tránh.

Nhưng trong tôi luôn có điều gì đó không ổn.

Đương nhiên, tôi không yên tâm về cô, đấy là điều chắc chắn. Từ nhỏ tôi đã từng thề, sau khi lớn lên nhất định sẽ báo đáp ân nuôi dạy, tái tạo ân đức của cô. Tôi đã từng vô số lần nghĩ đến, một khi tôi có việc làm, mỗi tháng tiền lương tôi sẽ đưa cả cho cô lo liệu...

Nhưng trong lòng tôi dường như còn có một thứ bất ổn rất mơ hồ khác. Nó giống như con bọ vật vã trong lòng tay tôi, nhưng khi xoè tay ra, bỗng chẳng thấy gì; nó lại như một ánh chớp loé sáng trước mắt tôi, nhưng định thần nhìn kỹ thì đã mất hút. Sau này, tôi mới hiểu, đó thực ra là cái mà chúng ta thường gọi là hy vọng hoặc là mong mỏi. Nó vốn là viễn cảnh ảo nhưng không ngờ lại chính là ngọn lửa luôn tồn tại ẩn giấu tận thẳm sâu cõi lòng. Sau khi trải qua một loạt biến cố, nó không hề bị lụi diệt, mà lặng lẽ e dè ẩn trốn dưới lớp tro bếp lòng tôi, nhẫn nại đợi chờ khi tôi xào nấu lại có cơ hội bùng cháy và bành trướng lần nữa...

Cơ hội của tôi còn ở đâu?

Chắc chắn không phải ở đất cũ, quê cũ, trường cũ. ở đây, tôi đã bị phán xét là một dị loài, thậm chí ngay trong đất đai, trong không khí đã ươm mầm những lời nguyền rủa về sự cẩu thả của thể xác tôi. Hơn nữa, phải đối diện với bao người quen, đồng hương, bạn học và bạn bè, cũng như rất nhiều người quen tôi mà tôi không biết họ. Trước mặt họ, tôi mãi mãi sẽ trần truồng loã lồ. Còn trong ánh nhìn rắp ranh hiếu kỳ của họ, dung mạo xinh đẹp của tôi cũng chỉ càng làm nổi bật lên cái cơ quan sinh dục nửa kín nửa hở giữa háng tôi...

Mọi suy tính đều xám ngoét, có hôm đang trên đường, bỗng có một thuật sĩ lang thang đầu tóc phất phơ níu kéo tôi đòi bấm số cho tôi, lại nói chẳng lấy một xu. Tôi chối không nổi, đành để mặc ông ta. Đầu tiên ông ta bảo tôi nói giờ sinh, rồi lại xem tướng tay, tướng mặt, sau đó lại bấm đốt ngón tay, một lát sau mới nói rằng:

- Cô gái này số mệnh chẳng vừa, nhưng cũng chẳng phải rất tốt, mà là rất xấu, hơn nữa đại nạn, cần phải cẩn thận mới được.

Nói xong, chẳng đợi tôi hỏi, liền viết lên giấy ba câu đưa cho tôi: Thứ nhất, một của cải một hố; thứ hai, giữ thì nghi ngờ (mê hoặc), phá thì gặp hoạ; thứ ba, thích hợp với Tây không thích hợp với Đông.

Tôi xin ông ta giải thích cặn kẽ, nhưng ông ta lại lắc đầu, vẻ thần bí:

- Thiên cơ không thể tiết lộ.

Tôi trả tiền, ông ta kiên quyết không nhận, nói xong, ông lẩm nhẩm khúc Giang Nam thản nhiên bước đi, loáng chốc đã không thấy đâu nữa.

Sau này tôi suy đi nghĩ lại ba câu này, cho rằng "một của cải một hố", đại để là "một chiếc chìa khoá mở một ổ khoá"; "giữ thì nghi ngờ, phá thì gặp hoạ", rất có thể là nói thể xác tôi không thích hợp với việc phẫu thuật, nếu không sẽ gặp hoạ; còn "thích hợp với Tây không thích hợp với Đông"? Tây là nơi nào? chẳng phải là Thanh Hải hay Tây Tạng chăng, lẽ nào chỉ phương Tây?

Trong lòng tôi chợt loé sáng, bỗng tôi nghĩ đến du học nước ngoài, cho rằng đấy chính có thể là cái chìa khoá duy nhất có thể giải cứu vận mệnh khốn cùng của tôi. Hơn nữa, du học ngày nay đang trở thành trào lưu trong trường tôi, một dạng mốt, một dạng theo đuổi và vươn tới, đương nhiên cũng là sự trốn chạy.

Ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn.

Chính xác tôi cũng cần trốn chạy, tốt nhất có thể mai danh ẩn tích sống trong môi trường hoàn toàn lạ lẫm, không người quen biết và mãi mãi không có lời nguyền rủa. Trong môi trường đó, chí ít tôi có loã lồ phần dưới đi trong ánh mắt soi mói của mọi người cũng không còn nhận được những lời bình luận và giễu cợt vô cùng vô tận khắp nơi... Hơn nữa, trong môi trường đó, vì sống nơi đất khách, có thể số mệnh tôi sẽ có những đổi thay mang tính căn bản, chí ít những bùa chú mà ông trời đã dán lên người tôi sẽ không còn linh nghiệm. Nói cho rõ điểm này, ở bên đó kỹ thuật và thiết bị y học tiên tiến hơn rất nhiều, có thể tạo cho tôi cơ hội tái sáng tạo "mở cửa môn hộ" mà không biến quẻ...

Khi tôi nghĩ vậy, trong lòng ít nhiều có những lo âu, tôi rất sợ người ta hiểu sai, cho rằng tôi sùng Tây chuộng ngoại, không yêu tổ quốc mình, chỉ ham muốn cuộc sống vật chất của thế giới phương Tây giàu có. Nhưng, nếu như tôi không đi, ở mãi mảnh đất này, cho dù tôi có tinh thần Ngu Công dời núi và dũng khí để mổ tiếp không dừng, tôi cũng chỉ nhận được những hoá đơn thanh toán phẫu thuật vừa nhìn đã khiếp sợ, đương nhiên, càng không thể chịu nổi một cú đánh chí mạng của một lần thất bại nữa. Cho nên, cái bức thiết của tôi là cần phải tìm cái để sống ở mảnh đất lạ lẫm chẳng người quen biết đó đã, có thể là, gom góp một món tiền, dùng để cứu chính mình...

Nhưng kế hoạch của tôi có khuyết điểm duy nhất -- tôi sẽ quá xa cách cô tôi.

Nhưng cũng chẳng còn cách cứu giúp nào hơn. Tôi có thể gửi nhiều tiền hơn cho cô, tương lai cũng có thể sẽ đón cô đến ở cùng...

Từ khi nảy sinh ý nghĩ này tôi càng lơ là chuyện học hành, hận không thể một bước vọt qua biên giới.

Nhưng quyết định quan trọng này, tôi cần phải bàn bạc với cô, được sự đồng ý của cô. Vạn nhất cô không thể xa rời tôi thì cũng đành thôi.

Cho nên, trước kỳ nghỉ cuối tuần, tôi xin nghỉ hai ngày, mua vé tàu thuỷ, trở về quê một chuyến.

Đêm đó, trời đen kịt không trăng không sao, trên đỉnh màn của cô có chùm đèn tuýp, lạnh lẽo rủ xuống, thắp suốt đêm.

Chúng tôi ngồi hai đầu giường, quấn chung một tấm chăn, nói chuyện một chốc thì nước mắt lại chảy, nước mắt chảy vơi rồi lại nói.

Khi vừa hửng sáng, trong ngõ không ngừng vang lên tiếng bước chân, tiếng chuông xe đạp của những người nông dân vào thành phố bán rau, thỉnh thoảng lại vẳng tiếng rao hàng.

-... Con à, làm theo cách nghĩ của con đi. Con thật sự cần xuất ngoại, món tiền lần trước không dùng tới nay để mua vé máy bay. Con cũng lớn rồi, những cái khác, cô cũng chẳng giúp gì được con. Cô chỉ có thể thắp nhiều hương cầu nguyện cho con trước Bồ tát thôi. Được rồi, ngủ đi...

Cuối cùng cô nói, rồi với tay tắt ngọn đèn ngủ.

Tôi vẫn cúi đầu, vẻ như chăm chú vuốt ve con mèo trắng đang nằm trong lòng, nghe cô nói vậy, tôi ngồi thẳng dậy, ngẩng đầu nhìn cô, có chút bất an:

- Tám chữ tuy bây giờ chẳng còn, nhưng con vẫn còn lo lắng một điều, một khi con đi rồi, nhỡ cô trái nắng trở trời, chẳng còn ai bên mình đưa cơm bưng nước...

Cô vội rụt cánh tay đang giơ ra tắt điện lại, nói:

- Điều này con đừng bận tâm cho cô, làng trên xóm dưới còn có thể giúp đỡ. Hơn nữa, cô thấy gân cốt mình vẫn còn khoẻ mạnh. Cô nghĩ kỹ rồi, nếu như con không ra nước ngoài, thì cũng đưa con đi trời nam biển bắc, cũng chẳng phải như vậy sao? Cho nên, tiền đồ của con là gấp... chỉ có điều... Cô lại không ngăn được dòng nước mắt, nghẹn ngào: - Cô nghĩ khi xưa con được vớt lên từ dòng nước, nay lại phiêu dạt qua biển, trong lòng thấy đau đớn...

- Cô, đừng nói nữa, bởi Thạch Ngọc bất hiếu...

Tôi nói, và cũng không kìm nổi những giọt nước mắt.

CHƯƠNG 23

Khi toàn bộ tâm tư của tôi nỗ lực, bận rộn và chạy vạy vào việc xuất ngoại du học thì sức ép và gánh nặng tinh thần của "thạch nữ" đè nặng lên tôi đã giảm nhẹ đi rất nhiều. Đối với tôi mà nói, con đường cuộc đời dường như lại có hoa hồng và sắc cầu vồng. Hàng ngày, buổi sớm tôi ngồi trước gương bên cửa sổ chải chuốt, thấy hai gò má dần dần có sắc hồng.

Tôi đặt phương hướng lựa chọn nước Mỹ. Đây là quốc gia mà hầu hết mọi anh, chị đi du học trong trường tôi đã lựa chọn. Sự lựa chọn của tôi còn bởi mấy năm nay ngoại ngữ chung mà tôi chọn lựa là tiếng Anh, cơ sở cũng khá; hai là tôi thích kiểu tự do thoải mái bên đó, có không khí tôn trọng đời tư của người khác (đương nhiên là nghe bóng nghe gió, hoặc giả mỗi người một ý kiến).

Nhưng, muốn đi Mỹ du học nào có phải chuyện dễ.

Theo tìm hiểu, con đường bình thường, ít nhất cũng cần phải phải thi TOEFL hoặc GRE, cái quan trọng hơn là nếu như không lấy được học bổng toàn phần, thì bắt buộc phải tìm được người bảo lãnh kinh tế.

Tôi đánh giá trình độ Anh ngữ của mình, trong thời gian ngắn mà giành được điểm cao là rất không thực tế. Cho nên, tôi tránh những trường đại học nổi tiếng ở Mỹ, chỉ lựa chọn một số trường đại học bình thường không đòi thành tích TOEFL hoặc GRE để gửi đơn xin học. Rất nhanh, tôi nhận được thông báo của mấy trường liền. Trong đó có một trường gọi là "Đại học Quốc tế California", học phí đặc biệt rẻ, rất hợp ý tôi. Nhưng cần tìm một người bảo lãnh kinh tế mới được. Tôi không có người thân nào ở nước ngoài, Ngô Nguyên biết được sự việc như vậy, giúp tôi viết hai bức thư, một gửi cho bạn anh ở New York, một gửi cho người họ hàng xa ở San Francisco. Kết quả là một đi không trở lại.

Tôi đang trong lúc tâm tình buồn chán, ngã lòng thậm chí có chút tuyệt vọng thì, một hôm ở phòng đọc khoa Văn bỗng trông thấy Dabruce. Lúc ấy, anh đang ngồi ở góc chăm chú hý hoáy ghi chép gì đó, đúng lúc ngửa mặt trông thấy tôi, anh ta mỉm cười gật đầu và giơ tay vẫy vẫy.

Bất chợt mắt tôi sáng lên, nhưng bấy giờ quá đông người, lại ở trong phòng đọc rất yên tĩnh, tôi không tiện nói với anh ta. Tôi cúi đầu ghi ra mảnh giấy, rồi đeo túi sách lại gần, nhân lúc mọi người không chú ?ý, nhẹ nhàng thả lên mặt cuốn sách trước mặt anh.

Trên mảnh giấy đó tôi ghi: Dabruce:

Tôi có chút việc muốn nhờ anh. Nếu tiện, lát nữa anh ra bãi cỏ ở cổng trường.

Cám ơn.

Thạch Ngọc

Ngày hôm nay.

Sau đó, tôi bước ra giữa thảm cỏ, thả túi sách ngồi xuống, ánh mắt không ngừng nhìn về lối cửa thư viện. Lát sau, tôi thấy Dabruce thấp thoáng qua những cây sồi bên ngoài bãi cỏ, đang tiến đến vườn hoa trước cổng trường. Dabruce dừng lại, dường như là tìm kiếm tôi. Tôi bèn hướng về phía anh vẫy tay, Dabruce nhìn thấy, giơ tay, xem như trả lời, sau đó xăm xăm bước tới.

Đây là lần đầu tiên tôi mới thực sự chú ý anh ta, Dabruce to sù sụ. Khẳng định anh phải cao hơn một mét chín mươi, bờ vai rộng và dày, bụng cũng rất to, còn cái đầu lại có vẻ hơi nhỏ. Những bước chân của anh trong nắng chiều khiến tôi tưởng tượng đến một con gấu đang tập tễnh trên thảm cỏ.

- Hoa hậu trường, xin chào.

Dabruce cao hứng chào hỏi tôi, đồng thời khom người tuột ba lô phía sau lưng xuống. Chiếc ba lô cầm trong tay bỗng nhiên trở nên xinh xắn và nhỏ gọn, dường như chuyên dành cho trẻ em trước tuổi đi học.

Tôi vội đứng dậy, bắt tay anh, nói:

- Cám ơn anh, lần trước đã giúp tôi mua số táo đó.

- Có gì đâu, có gì đâu. Bỗng nhiên lại chắp tay chào tôi: - Đúng ra tôi phải cảm ơn em mới phải, hai tháng tôi không phải ra phố mua hoa quả. Hơn nữa, mình tôi đi mua, nhất định họ chém, thu tiền gấp đôi.

Chúng tôi nhìn nhau cười.

- Tiếng Trung của anh lưu loát hơn nhiều rồi.

Sau khi ngồi xuống bãi cỏ, tôi chân thành khen ngợi.

- Đâu có, đâu có. Anh ta lại cúi đầu, làm ra dáng vẻ cụ đồ khiêm tốn, sau đó ngước mắt nhìn tôi, nói: - Không biết hoa hậu trường tìm tôi có chuyện gì thế?

- Vâng.

Tôi nói, bỗng nhiên chú ý có người đi ngang qua, vội dừng lại. Người này giống như một nghiên cứu sinh mặc áo hoa, mặt gầy, đeo kính, khi tôi đến bãi cỏ, đã thấy cô ta ngồi ở phía góc tây bắc bãi cỏ, tay cầm cuốn sách, một chốc gập lại, một chốc lại dở ra, dường như đang học thuộc từ mới. Nhưng khi Dabruce hướng đi đến chỗ tôi, tôi thấy cô ta cũng nhìn về phía này. Tôi chợt nghĩ có lần Ngô Nguyên nói, chúng ta đối với lưu học sinh nước ngoài trên thực tế là ngoài lỏng trong chặt, bề ngoài biểu hiện rất hữu hảo, bên trong là đề phòng mọi thứ, tôi bất giác rùng mình, nghi ngờ người phụ nữ giống như nghiên cứu sinh này phải chăng là người của cơ quan hữu quan chuyên môn giám sát. Cho nên, mặc dù cô ta đã đi xa chỗ chúng tôi, tôi vẫn còn cảm thấy rất căng thẳng, không biết hiện giờ tôi làm như vậy phải chăng là trái với kỷ luật ngoại sự, và cũng chưa quyết định có nên tiếp tục nói chuyện với Dabruce nữa không.

- Em tìm tôi phải chăng có chuyện gì? Dabruce dường như không chú ý tới người phụ nữ kia, anh nhún vai, làm ra vẻ không đồng ý, rồi cười đùa với tôi: - Yên tâm đi, tôi không phải là CIA đâu.

Dabruce nói xong, tôi lại thấy có chút không phải, cuối cùng quyết tâm, nói:

- ... Việc thế này, tôi mới xin du học, giấy thông báo nhập học cũng đã tới rồi, nhưng không tìm ra người bảo lãnh, cho nên, mới mạo muội muốn nhờ anh giúp đỡ.

Tôi mới nói được một nửa, thần sắc Dabruce đã trở nên rất nghiêm túc, cho đến khi kết thúc, trên gương mặt anh chẳng có lấy một nụ cười.

Vốn tôi định lấy tờ thông báo nhập học của "Đại học Quốc tế California", nhưng liếc mắt nhìn thấy người phụ nữ lại đang hướng về phía chúng tôi, tay tôi vừa thọc vào túi vội rụt lại.

Dabruce cũng chú ?ý tới người phụ nữ đó, đợi khi cô ta lại gần, bỗng anh ngoảnh đầu lại, cười ha hả đóng kịch hướng về phía cô ta gọi với:

- Hello, cô có muốn tham gia gẫu chuyện với chúng tôi?

Người phụ nữ giật mình, đỏ mặt, vội vã lắc đầu, nhanh chân bước đi.

- Tôi nghĩ, đây mới là KGB của các em.

Dabruce cười cười nói với tôi.

Tôi không lên tiếng, cũng không biểu thị thái độ dễ dãi đồng tình, nhân lúc này tôi lôi tờ thông báo nhập học chuyển đến tay Dabruce, đồng thời căng thẳng đảo mắt nhìn ra xung quanh. Tôi hơi bất an, tự cảm thấy như không phải vừa chuyển một tờ thông báo nhập học bình thường mà là một văn kiện dấu đỏ tuyệt mật của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tôi cũng nghi ngờ rằng phải chăng mình đang "có bệnh thì vái tứ phương"...

Bỗng nhiên, Dabruce nói:

- Tôi -- rất muốn giúp em, có thể giúp được em cũng là vinh hạnh của tôi. Nhưng, khả năng kinh tế của tôi rất kém. ở Mỹ, tôi cũng chỉ là giai cấp vô sản. Hai anh của tôi rất giàu, nhưng họ đều là luật sư, rất ngại phiền phức. Cho nên, ngoài những mối quan hệ đặc biệt, họ sẽ không đứng ra bảo lãnh kinh tế cho một học sinh nước ngoài nào đâu. Nhưng...

Như nhìn thấy dáng vẻ thất vọng của tôi, Dabruce lại nói:

- Để tôi thể thử xem. Có thể làm một chút việc tốt cho hoa hậu trường đại học F, tôi cũng rất phấn khởi. Hơn nữa, tôi cũng rất sùng bái em, em là người phụ nữ phương Đông xinh đẹp nhất mà tôi được gặp. Được rồi, có tin thì tôi sẽ báo ngay.

Nói rồi, anh ta trả lại cho tôi giấy báo nhập học, chống tay đứng dậy.

Tôi cũng chỉ nói được "cám ơn", rồi cáo từ.

Sau đó, tôi gần như quên việc này. Tôi chỉ xem những lời Dabruce nói khi ấy là câu khách sáo anh ta mới học được của người Trung Quốc chúng tôi. Tôi cũng đã chuẩn bị tư tưởng để thi TOEFL, cố gắng đạt điểm cao để có thể xin được học bổng toàn phần, như vậy sẽ không cần phải có người bảo lãnh.

Nhưng việc này lại phải tốn rất nhiều thời gian. Mà trong lòng tôi luôn nghĩ, chỉ hận rằng ngày mai không thể một bước vượt qua biên giới.

Nhưng một hôm sau giờ tan học, tôi bỗng nhìn thấy Dabruce đang đứng dưới đường đối diện với giảng đường tôi học. Thấy tôi vừa bước ra cửa, anh ta đã vẫy vẫy từ xa.

Tôi vội nhìn ngó xung quanh, hấp tấp bước tới.

- Tôi có việc phải báo với em.

Hai tay anh ta ra hiệu trước ngực.

Đấy là lúc tan tiết cuối cùng, con đường chính hướng về phía đông của khu giảng đường này chật cứng dòng người vội vã về ký túc xá hoặc đến nhà ăn. Những cao thủ xe đạp thì liên tục bấm chuông leng keng leng keng, len lỏi trong dòng người.

- Chúng ta đi bên này.

Tôi nói với Dabruce, chỉ ra sang con đường qua sân vận động lúc này tương đối yên tĩnh hơn.

Con đường này đi qua bãi cỏ trước cổng trường. Tôi liếc nhìn một cái, bỗng nhiên nhớ tới tình cảnh buổi nói chuyện hai tuần trước của chúng tôi. Tôi ngoái đầu lại, ngẩng nhìn Dabruce, dò đoán xem phải chăng tôi đã có tin vui -- đã tìm được người bảo lãnh cho tôi!

Nhưng những gì tôi nhìn thấy dưới hàng ria kiểu Stalin, bờ môi có vẻ thâm thâm kia vẫn mím chặt, dường như có điều gì khó nói.

Cuối cùng, sau khi chúng tôi đi qua bãi cỏ, Dabruce mới nói:

- Tôi đã liên hệ với gia đình. Tôi muốn nói -- xin lỗi -- em là vị hôn thê của tôi, như vậy họ sẽ sẵn lòng giúp đỡ. Nhưng sau khi bàn bạc, họ đã viết thư lại, bảo rằng phải nhìn thấy giấy đăng ký kết hôn, mới giúp đỡ. Cho nên, tôi rất lấy làm tiếc. Cho nên...

Dabruce nói, lắc đầu có vẻ cam chịu.

- Cám ơn, anh không phải xin lỗi. Tôi hiểu anh đã cố hết sức mình.

Tuy tôi có chút thất vọng, nhưng vẫn rất nhiệt tình cảm ơn anh ta.

- Chủ yếu bởi vì trước đây họ đã giúp một cô gái Đài Loan, nhưng cô ấy đã khiến họ thất vọng...

Lát sau, Dabruce lại nói.

- Vâng. Tôi thể hiện thái độ hiểu biết, rồi lại nói: - Cho dù thế nào, tôi cũng rất cám ơn anh.

Chúng tôi im lặng đi qua sân vận động, rồi lại qua căng tin, rồi hướng về phía lầu lưu học sinh mới xây. Khi tôi đang chuẩn bị tạm biệt anh ta, rẽ trái về khu phòng của tôi, bỗng Dabruce đứng lại, dường như phải quyết tâm lắm mới nói ra được:

- Như thế này, tôi có cách nghĩ này. Em cũng đừng giận. Tôi nghĩ, nếu như... nếu như em cho rằng có thể, đương nhiên, điều này cần em quyết định... Tôi nghĩ, chúng ta có thể dùng biện pháp kết hôn. Đương nhiên, đây là giả, sau khi tới Mỹ em có tự do của em, có thể muốn ly hôn lúc nào cũng được, nhưng về giấy tờ cần phải là thật... đương nhiên, đây chỉ là đề nghị của tôi, tôi chỉ muốn -- giúp đỡ -- em, đương nhiên,...

Dabruce bỗng cứng hàm, mặt đỏ bừng.

- Nếu như, nếu như tôi nói sai, xin em hãy tha thứ.

Dabruce càng nói càng cảm thấy bối rối

- Không, không phải. Có điều quá đột ngột, để tôi suy nghĩ rồi sẽ trả lời anh, được không?

Tôi vội nói.

- Đương nhiên, đương nhiên...

Anh ta gật đầu liên tục, khiến tôi cảm giác rằng anh ta đang cầu xin sự giúp đỡ của tôi.

Tôi suy nghĩ độ khoảng một tuần.

Giống như người đang mò mẫm trong hầm tối, tôi bỗng phát hiện ra một sợi dây đang đung đưa trước mắt, giá phải trả là tôi phải kết hôn với người đã thả cho mình sợi dây đó. Nhưng, tôi, một thạch nữ trong những lời đồn đại, hiện lại cưới một người nước ngoài, nghe ra phải chăng là hành động khác đời?

Tôi có thể tưởng tượng được, việc này vỡ lở, dư luận trong trường sẽ xôn xao. Chắc chắn có người cho rằng tôi có ?ý định gài bẫy "Tây", nếu không thể xác và tinh thần tên "Tây" này nhất định có vấn đề. Cho nên, tôi bỗng hy vọng rằng Dabruce đã nghe được những thông tin về tôi, và hơn nữa hiểu gốc tích về tôi, chỉ có như vậy, đề nghị của anh mới mang tính chất hoàn toàn chỉ là giúp đỡ tôi, chứ không phải là vì động cơ và mục đích nào khác...

Nhưng, tôi nghĩ, cho dù động cơ và mục đích của anh ta thế nào, cho dù là không phải thật sự giúp đỡ tôi, rốt cục trong cuộc hôn nhân này, tôi chẳng mất gì cả, thậm chí chẳng mất đi trinh tiết của tôi. Hơn nữa, cho dù có mất đi cái gì đi nữa, đó cũng chỉ có thể là "xiềng xích", mà tôi thì lại được một "thế giới hoàn toàn mới mẻ"...

Đã dự định, tôi chuẩn bị giơ tay ra nắm lấy sợi "dây thừng" đó. Đúng vừa may khi tôi từ thư viện trở về lại gặp ngay Dabruce, tôi bèn hẹn với anh đến cầu môn sân bóng đá.

- ... Như thế này, em đã nghĩ kỹ, em sẽ làm theo lời anh. Cám ơn. Em biết, anh cũng hoàn toàn là giúp đỡ em. Em thật sự cảm ơn anh. Em cũng nói để anh yên tâm, em nhất định sẽ không trở thành gánh nặng và phiền phức cho anh, cả cuộc đời em sẽ mang ơn anh rất nhiều. Nhưng có một việc, em cũng cần phải nói rõ. Hoặc giả, có lẽ anh đã được nghe rồi. Em là người mà người Trung Quốc gọi là "thạch nữ", trong tiếng Anh là "the forbidden lady". Cho nên, nói nghiêm túc, thực tại em không thể kết hôn, cũng không thể sống cuộc sống vợ chồng, em hy vọng anh có thể hiểu được điều này...

Tôi nói một mạch những điều đã đắn đo suy nghĩ nhiều lần. Tôi nghĩ, nếu như không có màn đêm che đậy, tôi đã không có dũng khí và mạnh dạn như vậy.

Nhưng dường như do sự thẳng thắn của tôi mà Dabruce trở nên rất cảm động, anh luôn miệng nói:

- Anh đã biết rồi. Nhưng đó là chuyện riêng, họ cũng không nên bàn luận như vậy về em. Văn hoá các em quá bất công với phụ nữ. Cho nên, anh cho rằng, em cần phải rời khỏi nơi này, thay đổi môi trường. Nếu không, em sẽ không thể chịu đựng nổi. Em tin tưởng anh, anh cũng rất phấn khởi, anh rất muốn giúp đỡ em...

Nhưng tối đó, khi quay về nằm trên giường, tôi không dám tin rằng mình đã đưa ra quyết định mà ngay bản thân tôi cũng khó có thể tin được, cũng khó có thể tưởng tượng được tương lai không xa -- cho dù là giả -- tôi sẽ trở thành một người ngoại quốc, một người Mỹ mà từ nhỏ chúng tôi đã luôn hò hét rằng phải đả đảo, vợ một người "to sù sụ" như con gấu...

CHƯƠNG 24

"Hôn nhân có yếu tố nước ngoài" của tôi có gặp một số phiền hà trong việc kê khai làm giấy đăng ký kết hôn, nhưng về mặt visa lại vô cùng thuận lợi. Sau khi tôi điền vào tờ khai rồi gửi đi chưa đầy một tháng thì nhận được giấy hẹn phỏng vấn của toà lãnh sự quán Mỹ tại Quảng Châu. Quá trình phỏng vấn cũng rất giản đơn. Tóm lại, buổi chiều hôm ấy, tôi đã nhận được một phong thư đã dán kín từ ô cửa sổ nơi làm visa di dân. Một vị ở toà lãnh sự nói với tôi rằng, khi vào Mỹ thì đưa bức thư này cho nhân viên cục Di dân là được.

Nhưng lúc này tôi mới chợt nhận ra, chỉ còn ba tháng nữa là tốt nghiệp.

Dabruce hỏi tôi:

- Visa có thời hạn nửa năm. Em muốn đi ngay hay đợi khi tốt nghiệp rồi mới đi?

Nghĩ đến tiền đồ sau này của tôi, đương nhiên là có thể đợi đến khi tốt nghiệp, cầm được mảnh bằng là điều tốt nhất. Nhưng bởi vì việc "hôn nhân có yếu tố nước ngoài" này, tôi đã đắc tội với một số vị lãnh đạo khoa và người phụ trách quản lý công tác ngoại sự trường, trước mắt cảnh ngộ ở trường rất khó khăn, trên dưới thậm chí là nhân cách của tôi cũng bắt đầu bị bàn tán xôn xao. Ngoài ra còn một điều quan trọng nữa, tôi đã không thể ở lại trường để nhìn thấy, gặp gỡ hoặc chạm mặt với Ngô Nguyên...

- Em muốn đi sớm một chút, nhưng còn anh?

Tôi biết anh ở Mỹ học châm cứu Trung Quốc, cuối năm ngoái tốt nghiệp mới đến Thượng Hải để bồi dưỡng tiếng Trung, đến cuối tháng sáu này mới kết thúc.

- Đương nhiên là về cùng em. Chúng ta còn phải nghỉ "tuần trăng mật" nữa. Nếu không, cục Di dân người ta sẽ nghi ngờ.

Dabruce nửa đùa nửa thật nói.

- Chương trình học của anh vẫn chưa kết thúc...

- Chẳng sao. Bằng tốt nghiệp của em còn chẳng cần, tiến tu của anh đáng kể gì? Hơn nữa, sau khi về Mỹ anh còn có thể mời em làm gia sư cho nữa. Nhưng, xin hỏi "phu nhân", em có đồng ý không?

Dabruce nói, bỗng nhiên chớp mắt nhìn tôi rất hạnh phúc.

- Sure(1).

Tôi vội vã gật đầu.

Như vậy, lại qua hơn một tuần, tất cả mọi chuyện đã được sắp xếp ổn thoả, vé máy bay cũng đã cầm trong tay, chỉ còn đợi ngày bay.

Trước lúc lên đường, tôi quyết định trở về quê một chuyến. Dabruce rất muốn về cùng tôi để thăm thú cảnh sắc nông thôn Trung Quốc cũng như phong tục tập quán vùng huyện lỵ ngoại ô Thượng Hải, nhưng tôi đã khéo léo từ chối.

Anh là người nước ngoài tóc vàng mắt xanh, tôi lo lắng phố huyện nhỏ bé của chúng tôi sẽ vì anh đến mà xảy ra những xáo động không bình thường.

Nhưng anh và cô đã từng gặp nhau ở đất Thượng Hải này.

Mỗi đường đi nước bước của tôi, tôi đều kịp thời biên thư hoặc gọi điện xin ý kiến cô. Cô biết tôi cũng bởi bất đắc dĩ mới đưa ra hạ sách như vậy, cho nên, mặc dù không muốn, cũng đành phó mặc tất cả "tuỳ duyên".

Sau khi trở về nhà, nhằm đảm bảo an toàn, cô bắt tôi nằm nhà nghỉ ngơi, không được chạy lung tung. Nhưng tôi quyết định trở về quê một chuyến, một mặt thắp hương từ biệt cha tôi, mặt khác trong lòng cũng muốn tìm đáp án có nhiều câu hỏi.

Cô đề xuất sẽ đi cùng tôi, nhưng tôi kiên quyết từ chối.

- Con có còn trẻ con nữa đâu. Con đốt cho cha con mấy nén vàng rồi trở về ngay. Tôi nói.

Mấy ngày hôm nay khớp chân cô bị sưng đau nên cô cũng không quyết tâm đi.

Ngôi nhà tổ vẫn là nhà ngói ba gian, nhưng vào lúc nông nhàn mùa đông năm ngoái, thôn đã cử người tu sửa lại những chỗ bị dột nát. Nhưng trong khung cảnh của các ngôi nhà lớn bé xung quanh, trông nó nửa cũ nửa mới, cũng có chút cọc cạch, luộm thuộm. Đặc biệt là nóc nhà đầu hồi phía tây, rõ ràng nó thấp hơn một chút. Tóm lại, hình ảnh thô kệch, dường như chỉ là để chứng kiến lai lịch và vận mệnh của tôi.

Cây dải quạt cũng đã bị chặt đi, nói là bán lại cho thôn, xem như sung vào số tiền công sửa nhà mà lẽ ra chúng tôi phải trả. Không còn sự bảo vệ và bầu bạn của cây dải quạt, ngôi nhà tổ trông càng lạ lẫm.

Đúng vào ngày xuân hoa cỏ mơn mởn, những cây đậu tằm trước và sau nhà đua nhau khoe hoa màu tím nhạt. Chỉ có chúng dường như còn mỉm cười nghênh đón tôi trở về ngôi nhà cũ.

Tôi quỳ trên đất, từ xa vái lạy cha tôi, đương nhiên còn cả mộ ông bà nội (đáng tiếc là tôi chưa từng biết mặt họ), lặng lẽ đốt giấy tiền, nuốt nước mắt từ biệt cha:

- ... Cha ơi, con sắp "lấy chồng xa" sang Mỹ "lăn lộn giang hồ". Con bất đắc dĩ mới phải làm hạ sách này, mong cha phù hộ cho con, tha thứ cho con, đứa con này từ sau không còn thường xuyên được thấy cha, nhưng con sang bên đó, cũng sẽ thường xuyên đốt giấy tiền cho cha. Con cũng sẽ mang theo ảnh cha, mang theo lá bạc cha cho con... để chúng và con nương dựa lẫn nhau...

Tôi đốt xong giấy tiền thì trưởng thôn cho người bảo tôi sang nhà anh ta ăn cơm.

Trong lúc ăn cơm, tôi không đừng được bèn thăm dò nguyên nhân cái chết của cha. Anh ta ngập ngừng muốn nói, nhưng vợ anh ta liên tục nháy mắt, vậy là cứ chùng chình hai ba lượt.

Trong lòng tôi không thoải mái, cơm nước xong xuôi liền mượn cớ cáo từ.

Đầu tiên tôi đến nhà thím Ba, nhà bà ta ở phía bắc sông nhánh, gần con kênh dẫn nước mạn tây. Nhưng chú Ba nói rằng thím ấy đã đi thăm người thân, ngày mai mới trở về.

Tôi đành phải vội vã quay trở lại con đê sông nhánh.

Con sông lớn này, một số năm trước sau khi Trấn Bình sở hữu nhánh sông Hà Đường, đã cho đào thêm một con sông lớn đâm thẳng ra mạn đông tây, người trong thôn đều gọi là nhánh. Nghe nói ngược nhánh sông lên sẽ gặp sông La Mã, thông với Trường Giang.

Tôi đứng trên bờ đê, hướng về ngôi nhà ngói ba gian của chúng tôi để định vị, lại hỏi một người phụ nữ trung niên đang xuống bến sông rửa rau, bỗng phát hiện ra nơi mình đang đứng là vị trí giữa con đập Long Bối năm xưa. Cũng có nghĩa là, hai mươi hai năm trước, phía dưới chân tôi chính là dòng nước cuộn đỏ, tấm thân bọc chiếc yếm nằm trong "nửa chiếc thuyền vuông" của tôi từ đây dạt qua... nhưng, ai có thể ngờ, đứa cô nhi phiêu dạt trong dòng nước năm xưa đến nay lại thật sự sắp phiêu diêu vượt bể?

Sau đó ánh mắt của tôi chăm chú hồi lâu vào mặt nước vân vẩn đục trong nhánh sông lớn. Tôi cố gắng tưởng tượng mình năm đó, đã từng yên lặng nằm trong chiếc chậu gỗ nhỏ đó, chẳng hề kinh sợ tiếng mưa tiếng gió gào thét bên ngoài tàu lá sen, chốc chốc bị xoáy tròn trong dòng lũ xiết, rồi thuận dòng trôi xuôi, cuối cùng hoàn thành một chuyến phiêu lưu huy hoàng có lẽ là ít tuổi nhất trong lịch sử nhân loại.

Nhưng đâu mới là điểm xuất phát của chuyến phiêu lưu của tôi? Lại là ai đã chuẩn bị cho tôi "con thuyền vuông" đó?

Sẽ là người đã từng kéo tôi đứng dậy trên bờ ruộng, người có hai lúm đồng tiền một to một nhỏ, và đã từng nhét cho tôi chiếc bánh ngô sao?

Người đàn mất trí, người đàn bà mất trí, mất trí... tôi thật sự là hậu duệ của một người đàn bà mất trí sao? Phải chăng cô ấy không thể nuôi dưỡng nổi tôi, mới không thể không...?

Nhưng, cô ấy còn sống không?

Đó là người gọi là Mỹ Hoa đã yên giấc ngủ dài trong khu vườn rau nhà bà Tư, phải chăng là cô ấy? Nếu như không phải cô ấy, vì sao cô tôi lại muốn dẫn tôi đến lạy trước ngôi mộ đó?

Tôi đã nói, tôi không phải là một người có tầm hiểu biết uyên bác, cho dù tôi có ngu si, cũng còn chút ít tâm linh ứng cảm của những người cùng máu mủ ruột rà bình thường... nhưng, bởi tâm tính tôi có chút kiêu ngạo và có lúc đột nhiên nảy sinh tình cảm oán hận, nhất thời còn chưa chịu thừa nhận mà thôi.

Nhưng bước chân của tôi đã hướng về phía trước, hướng đến bao nhiêu dấu hỏi dồn nén trong đầu tôi, hướng tới phía nhà bà Tư, cất bước...

Khi nhìn thấy ngôi nhà hai gian thấp lè tè của bà Tư, tôi dừng lại hỏi một ông cụ già đang tắm nắng trước thềm nhà:

- Ông cho hỏi, ở thôn ông có người đàn bà mất trí nào không?

- Người đàn bà mất trí? Ông già sững người giây lát, ngờ vực nhìn tôi hỏi lại, rồi ông ta ngồi thẳng dậy, nói: - Có. Nhưng cô ấy chết mười mấy năm rồi. Cô hỏi để làm gì?

- à, trước đây cháu đã gặp một lần, tiện đây hỏi vậy thôi. Cháu cảm ơn.

Tôi nói rồi vội vã bước đi.

Khi tôi tìm đến bà Tư, bà đang hái rau trong vườn.

Tôi gọi nhưng bà Tư chẳng hề nghe thấy. Tôi bèn gọi to lại một lần nữa, bà ta mới ngoảnh đầu lại.

- Cô tìm ai?

Bà Tư nghi ngờ hỏi, vẫn còng còng đứng đó, hai tay nắm hai túm cải còn cả gốc rễ đầy đất cát.

- Cháu là Thạch Ngọc.

Tôi nói, loạng choạng dậm dậm dũ đất bùn ruộng bám ở gót giầy.

- Thạch Ngọc?

Bà Tư hỏi lại, nhưng vẫn lắc đầu, biểu thị rằng không quen biết tôi.

- Cháu là cháu của cô Tiểu Lan.

Tôi nói to hơn, nghe rõ cả tiếng hét của mình

.

Bà già mắt mũi kèm nhèm lại lướt nhìn tôi một lượt từ đầu tới chân, cuối cùng chợt hiểu:

- Cháu là -- cháu của cô hai Thạch Lan...

Bà Tư nói, bờ môi lập bập, bỗng nhiên thả mớ rau ở tay ra, nghiêng ngả bước ra khỏi vườn rau, dường như muốn nắm lấy tay tôi, nhưng ý thức được tay mình còn đầy bùn đất, vội vã rụt tay lại, run run giơ lên trước ngực:

- à, à, vào đây.

Cuối cùng bà Tư cũng lên tiếng.

Chúng tôi bước vào gian phòng, bà Tư rửa tay trong bồn rửa chân gỗ trước cửa, rồi bước vào nhà nhặt một chiếc ghế con để tôi ngồi ngay sát cửa, nói:

- Trong nhà tối lắm, lại có khói, cháu ngồi đây đã, để bà đi pha trà.

Nói rồi bà lại loạng choạng đi về phía bếp.

- Thôi bà.

Tôi đứng dậy, muốn gọi bà Tư lại, nhưng bà vẫn kiên quyết nói.

- Thế sao được? Lần trước hai cô cháu cháu đến, ngụm nước cũng chẳng kịp uống...

Tôi đành phải nghe theo bà ta.

Nhưng, tôi ngồi trên chiếc ghế chưa đầy hai phút đã muốn đứng dậy, bước đến bếp giúp bà Tư nhen lửa. Lúc đầu, bà Tư không chịu, phải giằng co mãi mới thôi.

Thế là bà Tư lại hớt ha hớt hải cắt hành tỉa hẹ, lấy trứng gà trong chum ngô... Tóm lại, đợi khi tôi ngồi trước bàn ăn nho nhỏ của bà thì trước mặt đã bày một đĩa xôi lạc, một đĩa trứng rán, một bát trà táo đỏ, còn có cả nồi bánh rán dầu vàng vàng, mong mỏng và giòn.

Sau đó, bà Tư ngồi trên chiếc ghế đối diện với tôi, vừa giục tôi ăn, vừa rỉ rả vẻ có lỗi:

-... Không biết cháu đến, chẳng có gì để tiếp đãi. Hôm nay, cháu nhất định không được về, bà đi mua ít thịt, mua con cá...

Tôi mới dùng bữa trưa xong chưa lâu nên không đói, nhưng tôi biết, nếu như tôi không ăn, trong lòng bà sẽ cảm thấy rất buồn rầu, đành miễn cưỡng ăn cố một chút.

- Bà, bà cũng ăn một chút đi.

Tôi nhìn thấy bà Tư chỉ cầm đũa để trước mặt mà không gắp, bèn nói.

- Không, cháu ăn đi, cháu ăn đi, ăn nhiều vào, bà vừa mới ăn xong.

Bà Tư nói, ánh mắt chăm chú nhìn tôi, dường như tìm kiếm hồi ức xa xăm trên người tôi.

Cuối cùng, tôi đã uống xong "trà". Đặt bát đũa xuống, do dự một lát, nói:

- Bà à, cháu muốn hỏi bà một chuyện.

- Chuyện gì?

Trên gương mặt đượm sương gió của bà thoảng qua chút kinh hoàng không dễ nhận thấy, hai tay lóng nga lóng ngóng lau lau vào cạp váy.

- Bà có biết ở thôn này trước đây có một người đàn bà mất trí không?

- Biết, đấy là con Mỹ Hoa. Nó chết rồi, cháu hỏi làm gì?

- Cháu muốn biết rốt cục có phải cô ấy là mẹ đẻ của cháu không?

Tôi bất ngờ hỏi.

Bà Tư nghe xong, bỗng nhiên hoảng loạn, nói năng lộn xộn:

- ừ, không, không. Cháu nghĩ gì mà hỏi đến điều... Cô Hai cháu đã nói với cháu những gì?

- Không, cô Hai không nói gì. Tự nhiên cháu đoán vậy.

- ừ, không phải, không phải đâu. Có thể cháu nhầm rồi.

Cuối cùng bà Tư thở phào, đứng dậy đi về phía bếp đun. Bà Tư như muốn lấy một cái gì đó, nhưng sờ sờ cái này, lần lần cái kia rồi lại bỏ xuống, cuối cùng vẫn hai tay không trở lại:

- Cô Hai cháu có khoẻ không?

Bà Tư xoay hỏi sang chuyện khác.

- Vẫn khoẻ. Tôi lại nói: - Bà Tư, bà có thể ngồi xuống không? Cháu vẫn còn rất nhiều câu hỏi muốn hỏi bà.

Bà Tư hốt hoảng dè dặt ngồi xuống trước mặt tôi.

- ... Cháu biết có thể bà không muốn nói, cô Hai cũng vậy. Nhưng cháu đã lớn rồi, rất muốn biết thân thế của mình. Cháu nghĩ bà biết, cho nên cháu mới quyết tìm đến chỗ bà. Bà yên tâm, cháu bảo đảm sẽ không nói lại chuyện với cô Hai đâu...

Bà Tư do dự giây lát, hai môi giật giật nhưng vẫn kiên quyết lắc đầu:

- Không, bà không biết, thật sự chẳng biết gì cả.

Tôi cũng do dự. Tôi tin bà Tư nhất định biết bí mật về thân thế của tôi và cũng tin rằng bà Tư có thể là bà ngoại của tôi, nếu không, những biểu hiện vừa rồi của bà sẽ không hoảng loạn và luống cuống như vậy. Nhưng nếu như một người già không muốn thổ lộ chân tình với mình, như vậy chứng tỏ nhất định có điều gì khó nói, mình nỡ bức bách người ta ư? Hơn nữa, thái độ của bà Tư cũng đã khiến tôi có một ấn tượng sâu sắc -- nguyên nhân bà Tư không chịu nói với tôi, đúng như những gì mà cô tôi luôn nói, dường như là để không gây hại gì đến tôi. Tôi chợt nản lòng, một thể xác chẳng xứng đáng đã mang lại cho tôi đủ điều tủi nhục rồi, hà tất phải lại phải tìm đến cái thân thế không rõ ràng của mình để chuốc thêm phiền não và khó xử?

Nhưng lòng hiếu kỳ vẫn khiến tôi hỏi tiếp những câu dưới đây --

- Bà chỉ có một con thôi à?

- ừ.

Bà Tư gật đầu.

- Cô ấy có lấy chồng không?

- Không, một đứa con mất trí thì sao lấy được chồng.

- Nhưng -- có lẽ cháu không nên hỏi, vì sao cô ấy chết?

- Nhảy sông, ở bờ tây con sông này.

Bà Tư dụi dụi mắt.

- Cô ấy mất bao năm rồi?

- Gần mười bốn năm.

Bà Tư cẩn thận bấm bấm đốt tay rồi nói với tôi.

Trong lòng tôi chợt rùng mình, năm đó cha tôi cũng qua đời.

- Cháu đã gặp con gái bà một lần. Tôi nói: - Cô ấy đang làm ruộng, mặc chiếc áo cánh hoa, lại còn cho cháu một chiếc bánh ngô...

- ờ, lúc về nó cũng đã nói thế, nó biết cha cháu, ông ấy đã nom bệnh cho nó, nhưng ngày ấy tâm tình cha cháu không tốt, cũng không hỏi han nó, khi nó về nhà có vẻ không vui...

.....

Cuối cùng tôi kết thúc cuộc điều tra về thân thế của mình một cách đầu voi đuôi chuột.

Nói thật lòng, tôi chẳng còn hứng thú đối với việc làm rõ thân thế của mình.

Thực ra, từ khi tôi hiểu rõ người chôn trong vườn rau kia là một người đàn bà mất trí thì tôi đã dám chắc chắn cô ấy có một mối liên hệ gì đó với tôi. Cô tôi nói dối đó là em út của cô (làm sao bỗng dưng cô lại có một cô em út, mất trí được chứ), đó cũng chẳng ngoài mục đích để tôi có cơ hội được đến lạy trước mồ mẹ tôi một lần mà thôi. Hơn nữa, từ miệng của bà Tư tôi đã có được một thông tin quan trọng -- đó là Mỹ Hoa chưa từng lấy chồng. Cho nên, nếu như cô ấy thực sự là mẹ đẻ của tôi, tôi cũng chỉ có thể là một đứa con hoang.

Người đàn bà mất trí, đứa con hoang... đây lẽ nào lại chính là những việc mà tôi muốn làm sáng tỏ?

Tôi chợt hiểu, sở dĩ cô không muốn tôi biết về thân thế của mình, cũng vốn là sợ tôi không thể chịu đựng nổi cú sốc này...

Ôi, vận mệnh đau thương của tôi, còn người mẹ số mệnh khổ ải kia của tôi...

Chẳng biết sao, tôi bỗng muốn xuất xứ của mình là khoảng trắng mà không một ai biết, hoặc giả thật sự là từ khe đá nứt chui ra, trứng được ấp nở trong lá sen...

Nhưng tôi không thể không ? ý thức được rằng, bà Tư mắt lòa tai điếc, lưng còng trước mặt tôi đây, có thể chính là người thân duy nhất có cùng dòng máu với tôi trên thế gian này. Nhưng, vì sao bà lại không chịu thừa nhận mình là bà ngoại của tôi? Là bởi vì không có trách nhiệm nuôi dưỡng tôi nên cảm thấy đau khổ và ân hận, hay là lo lắng một khi tôi đã hiểu được thân thế của mình thì sẽ quay lại oán trách?

Đúng thế, năm xưa sao các người lại nhẫn tâm vứt bỏ thả tôi trôi sông?

Trong lòng tôi bỗng cuộn lên nỗi đớn đau và buồn thảm.

Nhưng tôi lại nhìn bà Tư đáng thương, trong lòng trào dâng sự cảm thông và thương hại. Ờ, một bà già cô độc như ngọn đèn tàn trước gió, vì sao tôi lại nỡ lấy chuyện xưa như cơn ác mộng để quấy quả bà? Vừa rồi bà Tư đã không muốn phá thủng cửa sổ giấy mỏng tang ngăn cách giữa chúng tôi thì hãy để thuận theo lòng của bà vậy!

Tôi đứng dậy, chỉ dành lại một chút tiền vé xe, số còn lại đặt tất trên bàn.

Bà Tư lại một phen đưa đẩy, nhưng tôi bắt buộc bà phải nhận.

Sau đó tôi bước đến vườn rau trước mặt, lặng lẽ đứng trước nấm mồ bên cây đào, lấy mấy nén tiền giấy còn lại ra, quỳ xuống, chậm rãi châm lửa...

- Người mẹ đáng thương, đứa con đáng thương, giữa chúng ta, ai sẽ bất hạnh hơn ai?...

Tôi nghĩ miên man, bỗng chợt thấy cô ấy chẳng phải là mẹ của tôi mà là người chị sinh song của tôi, hai quả mướp đắng cùng một dây gốc dây khô...

Đốt xong tiền giấy, bỗng một cơn gió ùa tới, cuốn tất cả những bụi tro bay vào thinh không. Tôi sững người, ngửng mặt nhìn những đóm tro tàn chao liệng trên không, mới? Ý thức được rằng đó có thể là người mẹ dưới đất của tôi đã bằng một phương thức đặc thù giao hoà với tôi...

Tạm biệt, mẹ, tạm biệt, mẹ; tạm biệt, quê hương...

Mặt trời sắp xuống núi. Tôi cáo từ bà Tư, hớt hải trên con đường trở về thành phố. Nhưng chưa đi được bao xa, tôi đã lạc đường. Đến khi tôi hiểu ra, tôi phát hiện mình đang đứng giữa sân đập lúa mì, bên trái là đống cỏ, bên phải là một trụ đá xanh xám vuông vuông dài dài, lớp ngoài sần sùi dùng để buộc trâu...

Tôi bỗng nhớ ra, đây chính là cảnh cuối cùng trong cơn ác mộng, cũng là nơi mà bảy tám thằng đàn ông và một mụ đàn bà thay phiên hãm hiếp tôi...

CHƯƠNG 25

-- Anh có thể đi ra từ lối ra dưới kia không? Đúng, đấy chính là overland... được rồi, lại rẽ phải. Trước mặt là pico, đi tiếp, thấy Olympic chúng ta sẽ rẽ trái... được rồi, chính đây, đúng, rẽ trái... bây giờ anh đã nhìn thấy trước mặt có biển của cây xăng "76", chúng ta đi qua nó rồi rẽ phải vào... đúng, lại tiến về phía trước, qua chỗ stop sign... tốt, chính đây, chúng ta dừng bên đường một lát, không cần xuống xe, nhìn qua rồi đi.

-- Khi vừa tới Los Angeles là ở một gian tầng hai phía đông kia. Chỗ cửa sổ bị cây bồ kết che kia chính là phòng ngủ của tôi. Góc bên kia thực ra còn có ban công nho nhỏ, trên đó tôi trồng mai tam giác, lưu ly, hoa huệ tây, cây thạch xương bồ... có một lối nhỏ thông với buồng ngủ. Nhưng ở chỗ chúng ta bây giờ không nhìn thấy. Được rồi, chúng ta đi, nếu không sẽ cản trở xe phía sau. Anh có thể rẽ phải đến Santamonica blvd, sau đó đi thẳng về phía tây, độ khoảng năm sáu phút là đến chỗ tham quan bến cảng Santamonica.

-- ái chà, anh không nói trước. Sớm biết anh cũng đã từng ở khu tây này, tôi đã không làm người chỉ đường cho anh. Ai chẳng biết, tôi là người nhớ phương hướng cực kém, lái xe thường xuyên quên đường. Anh nhìn kìa, tôi đã đến bờ biển mấy lần rồi, thế mà chẳng biết trong chợ còn có chỗ đỗ xe miễn phí...

-- ờ, đông du khách quá. Trước đây anh có thường ra đây không?

-- Khi mới đến, mỗi khi nhớ nhà tôi đều ra đây, đa số vào buổi tối. Sau nghe nói ở đây đã từng xảy ra tai nạn, còn có người chết, mới ít đến. Anh hít gió biển, ngửi mùi mằn mặn tanh tanh của biển, ngắm thuỷ triều là thấy tinh thần sảng khoái ngay. Hơn nữa, bên kia bờ đại dương chính là trường xưa, quê cũ, sẽ cảm thấy rất gần nhà, tưởng chỉ với tay một cái là có thể tới được. Có lúc, tôi cũng đã đứng hàng giờ trước mũi tận cùng của bến cảng này. Tôi luôn có cảm giác rất kỳ lạ, dường như tôi chẳng phải ngồi máy bay bay tới, mà là ngồi thuyền -- một chiếc thuyền con dạt trôi tới đây. Anh nói đại dương mênh mông này, ngồi máy bay cũng mất mười mấy tiếng, cũng đủ biết rồi, nhưng có lúc lại nghĩ rất nhỏ, có lẽ cũng chỉ như con kênh Long Bối. Thế giới thật nhỏ bé.

-- Còn có việc này, đến nay tôi vẫn còn chưa rõ. Chúng ta nhìn từ Thượng Hải, nước Mỹ là phía tây, nhưng chúng ta đứng từ đây, Thượng Hải lại ở phía tây. Trong lòng tôi hiểu, đó là bởi vì trái đất tròn, nhưng có lúc càng nghĩ càng không thông, càng nghĩ càng lú lẫn...

-- Tán gẫu xa quá rồi. Nhưng, tôi vẫn còn muốn hỏi một chút, anh có hứng thú đối với triết học và lịch sử không?

-- Tôi biết mà, đàn ông các anh chẳng ai không thích triết học và lịch sử. Các anh lại giỏi đấu, triết học chính là khẩu súng săn trong tay các anh, mà lịch sử lại cung cấp cho các anh những âm mưu quỷ kế vô tận, dùng không bao giờ hết, để các anh "tư trị thông giám". Nhưng tôi lại chẳng ưa gì lịch sử. Ngẫm thấy mình đã đầu thai nhầm, lại chọn nhầm nghề. Tôi cũng không biết vì sao khi điền vào tờ nguyện vọng ở đại học F năm xưa lại điền vào khoa Lịch sử. Chẳng những đây là chuyên ngành rất khó xin việc hiện nay, mà còn là ngành mà tôi chẳng có hứng thú gì. Lịch sử Trung Quốc cổ đại quá nhiều đao kiếm, toàn hơi hướng chém giết và chinh phục, tuy nhiên cũng có phồn vinh và huy hoàng, nhưng dường như đều chóng vánh như sao băng. Lịch sử cận đại thì khiến tôi bị dồn nén và uất ức, thậm chí là hận gang không thành thép... cho nên, lịch sử ư, tôi thường nghĩ: lịch sử này rốt cục là cái như thế nào? Hứng thú đối với triết học của tôi còn khá hơn một chút, nhưng tôi không thích "triết học kinh viện" quá tư biện, quá lý tính như Aristotle, Kant, Hegel gì đó, Nietzsche còn khả dĩ, nhưng "triết học siêu nhân", "duy ý chí luận" của ông ta luôn khiến tôi cảm thấy ông ta bởi vì bất đắc chí mà nổi xung với người khác. Đương nhiên, có thể là rắp tâm khó dễ với Thượng đế. Trong các nhà triết học chỉ có Schopenhauer và Sartre là tôi còn tương đối thích. Đương nhiên, có lẽ thực sự khiến tôi thích thú chẳng qua là tinh thần nhân văn được thể hiện trong triết học của họ. Sartre quan tâm đến nỗi khổ muộn và ngại ngùng của nội tâm con người hiện đại. Cơ sở triết học của Schopenhauer lại là sự tương thông giữa Phật và Đạo. Không ai phủ nhận được, con người sinh ra đã khổ, biển khổ vô biên...

-- Được rồi, chúng ta xuống bãi biển vừa đi dạo vừa nói chuyện...

Los Angeles quả là thành phố tươi đẹp, quanh năm đều như mùa xuân, đặc biệt khu vực phía tây toàn những người giàu ở.

Khi vừa mới đến Los Angeles, Dabruce đã từng đánh xe đưa tôi tham quan sơn trại Beverly, ngắm nhìn những ngôi nhà sang trọng của các đạo diễn, minh tinh lớn ở Hollywood, những ngôi nhà ở đó đều ẩn núp trong rừng cây, giống như tiểu thư khuê các "sống tại thâm khuê người chửa biết", không dễ để người khác nhìn thấy dung nhan. "Ngẫu nhiên ngất nghểu trên đường" đều tỏ vẻ cao nhã quyền quý, lấp lánh và xa hoa. Đường sá sạch sẽ tịnh không chút bụi trần, yên tĩnh đến nghe được cả tiếng chim hót dế kêu. Chỉ mấy ngôi nhà mà chiếm cả quả đồi, trông xa lại giống như thành luỹ và trang trại thời Trung cổ.

Khu phố người giầu Maryd sát bờ tây lại mang một quang cảnh khác. Những toà nhà ở đây phần lớn dựa vào núi hướng mặt ra biển, tao nhã đoan trang, tráng lệ, khu vườn nhà nào nhà nấy hoa nở như gấm, cỏ mọc xanh rì, sau lưng là tùng biếc cỏ xanh, trước mặt bể xanh sóng bạc đầu...

Hai anh của Dabruce làm luật sư đều ở Maryd, bố mẹ thì ở Santamonica ngay sát cạnh. Sau khi tới Los Angeles, chúng tôi đã từng đi thăm viếng họ. Nhưng họ để lại cho tôi ấn tượng chỉ là khách khí, và không nhiệt tình. Người đứng ra bảo lãnh kinh tế cho chúng tôi là anh hai, một người đàn ông gầy đét đến mức có phần khắc khổ, nhưng ánh mắt lại rất sáng và sắc sảo. Khi tiếp chúng tôi, thần sắc có vẻ không vui. Sau này, tôi mới hiểu, hoá ra gia đình Dabruce thuộc gia đình người da trắng rất chính thống, luôn có thiên kiến về văn hoá phương Đông. Mới đầu, Dabruce bỏ không chịu học thương mại mà kiên trì theo học châm cứu Trung Quốc, họ đã có thành kiến, nay anh lại lấy một người con gái phương Đông làm vợ thì càng cảm thấy thất vọng. Thêm vào đó, trước đây Dabruce đã sang Đài Loan học nửa năm, và đã nhờ bố mẹ bảo lãnh cho một cô gái Đài Loan, sau này trong thời gian học tập cô ta gặp một số phiền phức về kinh tế, có lúc còn gửi hoá đơn thanh toán đến nhà bố mẹ anh và đã làm cho bố mẹ anh không vui...

Cho nên, sau khi tôi đến Los Angeles, cũng chỉ nói là chúng tôi kết hôn du lịch, muốn mời mọi người đến dự một bữa cơm thân mật, rồi sau đó rất ít qua lại. Chúng tôi cũng chưa từng ở nhà bố mẹ của anh, vừa xuống máy bay là thuê một nhà trọ xe thùng, sau đó lại thuê một căn hộ hai phòng.

Buổi tối hôm chúng tôi chuyển tới khu chung cư, tôi và Dabruce đã bàn bạc rất kỹ.

Đầu tiên, anh nói với tôi, anh đã thông qua người anh trai làm luật sư về vấn đề di dân và biết rằng, kể từ hôm tôi đến Mỹ, đại khái trong vòng hai ba tháng thì có thể lấy được thẻ xanh hôn nhân do cục Di dân gửi cho. Nhưng tấm thẻ xanh này trong vòng hai năm vẫn mang tính chất tạm thời, nhân viên cục Di dân có thể gõ cửa kiểm tra tính chân thực của hôn nhân bất cứ lúc nào. Nếu phát hiện ra bất cứ hành động giả dối nào, tấm thẻ xanh đó lập tức bị tiêu huỷ, đương sự còn bị truy cứu tránh nhiệm pháp luật, hoặc sẽ bị trục xuất. Sau hai năm, cục Di dân sẽ bố trí một cuộc phỏng vấn, nếu không nghi ngờ gì thì mới chính thức cấp thẻ xanh. Một năm sau khi có được tấm thẻ xanh thì mới có thể xin nhập quốc tịch Mỹ...

- ... Cho nên, trong hai năm này chúng ta đồng thời là vợ chồng, vừa là bạn cùng phòng. Em cần phải diễn cho tốt vai trò của người vợ, đừng lộ một chút sơ hở gì trước mặt nhân viên kiểm tra của cục Di dân. Như vậy, hai năm sau em mới có thể thuận lợi lấy được thẻ xanh. Bấy giờ, em có thể chính thức tự do.

Dabruce rất kiên trì sử dụng tiếng Trung, chỉ trong tình hình không thể biểu đạt được rõ ràng, anh mới chêm vào những từ đơn và câu ngắn bằng tiếng Anh; còn tôi thì ngược lại, chủ yếu thử dùng tiếng Anh. Gặp khi có việc không thể nói rõ ràng được, bèn viết ngay ra giấy, sau đó tra lại từ điển tiếng Anh hoặc từ điển Hán - Anh.

- Thế -- nói như thế, anh vẫn còn bị em trói trong hai năm nữa, có ảnh hưởng đến anh không? Cái này...

Tôi thấp thỏm nhấp nhổm nói.

Tôi còn nhớ lúc đó mình ngồi trên chiếc sô pha đơn tàng tàng hoa văn xám, còn Dabruce nặng nề vùi trong chiếc sô pha ba chỗ ngồi. Trong suốt thời gian chúng tôi nói chuyện, anh luôn ôm chiếc gối trước ngực và không ngừng rút rút dài sợi tua màu tím trên gối. ánh sáng của ngọn đèn cây chiếu thẳng xuống tay anh, trông rõ cả một đám lông măng lấp láp màu vàng.

- Không sao, em đừng bận tâm. Anh đã quyết định giúp đỡ em, cần phải giúp đến cùng. Hơn nữa, một mình anh thuê phòng, cũng cần phải tìm người thuê chung. Có em làm bạn là vinh dự rất lớn của anh. Đúng rồi, anh phải nói với em, anh đã tìm được việc làm rồi, một người bạn giới thiệu, cũng gần đây, đấy là một phòng mạch châm cứu. Đúng lúc họ đang thiếu người, bảo anh hai ngày sau phải đi làm. Nhưng còn em, em tính sao? Anh nghĩ, em cũng nên đi học bổ túc tiếng Anh đã. Trước cửa không xa có lớp học màu xanh, nửa tiếng một ca. Đợi khi tiếng Anh kha khá rồi hẵng tìm việc, dành dụm được ít tiền rồi đi học... anh rất lấy làm tiếc, mặc dù bố mẹ anh giầu có, hai ông anh cũng có tiền, thế mà anh lại nghèo kiết xác, chẳng giúp gì được em. Tiền thuê khách sạn, tiền đặt cọc và thuê căn hộ này anh đều vay của bố mẹ. Cho nên, anh rất mong em lượng thứ...

Anh nói rồi cố vươn người đứng dậy, đi qua phòng ngủ vào nhà vệ sinh.

Tôi cũng đứng dậy, đi đi lại lại trong gian phòng khách, vung duỗi chân tay.

Những lời anh vừa nói cũng đã gắn liền với những lo lắng và bất an sâu kín trong lòng tôi.

Tục ngữ có câu: thiên hạ chẳng ai mời không ai. Điều này, Ngô Nguyên cũng đã một lần nhắc nhở tôi (tôi quên mất thú thật, khi rời Thượng Hải, anh đã từng đến sân bay đưa tiễn tôi, va li cũng như một số quần áo và vật phẩm hàng ngày của tôi đều do anh và em gái anh mua tặng). Tôi muốn tin rằng, cũng cảm thấy rằng, đích xác Dabruce là một người rất tốt, ở một chừng mực nào đó, thậm chí còn có thể nói là "Lôi Phong sống" có phẩm chất cao thượng trong xã hội Mỹ hiện đại. Nhưng trong thẳm sâu tâm linh tôi không tránh khỏi những lo nghĩ vấn vương -- anh thật sự không hề có động cơ và mục đích cá nhân ngấm ngầm nào? Cô tôi cũng đã phân tích, nếu như thật sự anh ta có mưu đồ nào khác, chẳng qua là hai con đường "tài sắc", về phương diện "sắc", anh ta đã biết tôi là "thạch nữ", đương nhiên sẽ không có ý nghĩ nào khác. Còn về "tài"? Vừa rồi anh ta đã nhắc đến mình nghèo rớt mùng tơi, tiền thuê phòng cũng phải vay của bố mẹ, chẳng phải là ngầm bảo với tôi rằng, tôi cần phải bồi thường thích đáng cho anh ta về mặt kinh tế sao?

Dabruce cũng đã từ phòng trong đi ra, lại đè cót ca cót két lên chiếc sô pha.

Tôi nắm chủ định, mạnh dạn nói với anh:

- ... Thế này, Dabruce, anh đã giúp tất cả những việc này, thực sự em rất cảm động, em không biết lấy gì để báo đáp anh. Em cũng đã nghĩ, vì giúp em, anh đã phải trả giá rất nhiều. Ví như, trong hai năm này, vì em, anh có muốn tìm bạn gái cũng bất tiện. Cho nên, em nghĩ, cho dù là thế nào, em cũng sẽ bù đắp cho anh về mặt kinh tế. Chỉ có điều em vừa mới tới, cũng chưa hiểu chuyện ở đây. Cho nên, anh tính xem, nên chăng anh cho em biết một con số, sau này em đi làm thuê và sẽ trả anh dần dần...

- Em nói cái gì thế? Anh vẫn chưa hiểu ý em.

Dabruce khó khăn ngồi thẳng trên sô pha.

Tôi lại cố thử giải thích lại một lần nữa.

Thần sắc Dabruce lúc đầu có chút ngại ngùng, kế đó như có vẻ phẫn nộ, đôi mắt xanh mở rất to, hàng ria không ngừng giật giật:

- Sao em có thể nói vậy được chứ? Nếu như anh cần tiền của em, em chẳng phải... em, em sao có thể như vậy....?!

Từ khi tôi quen biết với anh, đây là lần đầu tiên tôi thấy Dabruce tức giận, lần đầu tiên tôi thấy anh nổi nóng, lần đầu tiên tôi thấy anh ta dùng khẩu khí hoàn toàn lạ lẫm để nói chuyện với tôi. Ngay lúc đó, tôi chẳng biết phải làm thế nào.

- Xin lỗi, thật sự, ý em không phải như thế, em chỉ nghĩ, anh giúp đỡ em đã quá nhiều, em cần... thể hiện ý nghĩ cảm ơn. Nhưng em chẳng thể ngờ được, điều này lại... xin anh lượng thứ, thật mà, không phải em có ý...

Tôi nói như sắp oà khóc.

Tâm trạng của Dabruce mới dần dần nguôi ngoai. Anh nhìn tôi rồi bỗng nhiên nằm vật ra sô pha, hai tay ôm mặt, nhắm mắt dưỡng thần một lát. Nhưng sau khoảnh khắc ấy, anh lại ngồi dậy, nói với tôi giống như một đứa trẻ mắc lỗi:

- ... Xin lỗi, anh hiểu nhầm em. Anh cũng không nên cộc cằn với một phụ nữ... xin em lượng thứ. Nhưng, anh thật sự hy vọng em có thể hiểu, anh chỉ muốn giúp đỡ em. Nếu như em nói đến chuyện tiền nong thì việc này quả là sai lầm. Văn hoá ở xứ anh là phản đối nói dối và giở trò xảo trá -- đương nhiên, trong xã hội ấy có thể thuê luật sư chuyên môn nói dối và giở trò xảo trá, nhưng anh xem nó là một phẩm chất không tốt. Anh và em kết hôn tuy ở một ý nghĩa nào đó là giả, là việc không tốt, nhưng anh vẫn kiên trì làm, bởi vì anh cảm thấy em thật sự cần được giúp đỡ, Chúa sẽ tha thứ và hiểu cho anh. Nhưng nếu như em muốn trả anh tiền, tính chất sự việc này sẽ hoàn toàn thay đổi... cho nên, anh cũng hy vọng em có thể hiểu...

Tôi nghe những lời anh bộc bạch, trong lòng rất cảm động và cũng vui mừng vì mình đã gặp được một chính nhân quân tử phong độ chỉ thấy trong những cuốn tiểu thuyết phương Tây trước đây. Tôi dụi dụi mắt, nhìn anh cười cười:

- ... Em hiểu rồi, từ nay về sau sẽ không nhắc đến chuyện ngu xuẩn ấy nữa...

Dabruce cũng cười, vẻ áy náy nói:

- Khi anh cục cằn có chỗ không phải, hy vọng không làm cho em hoảng sợ.

Chúng tôi lại hoà hảo như ban đầu, tiếp theo do Dabruce chủ đạo, tiến hành thương thảo tiếp về "gia chính". Để ứng phó với sự kiểm tra và hỏi han đột xuất của nhân viên cục Di dân, anh cũng đã kể cho tôi mấy nốt ruồi trên đùi, bụng dưới, cũng như vết sẹo ở bả vai anh. Lại còn dặn tôi biết kích cỡ, số hiệu của quần lót, áo lót của anh, cũng như mùi nước hoa, keo xịt tóc, dầu gội đầu thuộc hãng nào...

Còn về những chi phí liên quan như tiền phòng, điện nước, khí đốt, điện thoại trong thời gian chúng tôi ở chung, thì theo nguyên tắc chia đôi. Tiền ăn chủ yếu xét đến những thói quen ăn uống rất khác nhau -- Dabruce tự nhiên là một loại "thùng rác thực vật", anh ưa thích các loại như hamburger, còn tôi vẫn là dạ dày của người Trung Quốc, quen những món canh nước và các loại rau xào; ngoài ra, trừ bữa sáng Dabruce húp một chút súp sữa, hai bữa còn lại cơ bản ăn ở ngoài. Cho nên, về nguyên tắc của ai người ấy lo (đương nhiên, tôi cũng đã nghĩ kỹ, vào những buổi cuối tuần Dabruce được nghỉ, tôi sẽ bày biện mấy món đặc sắc như "sườn xào chua ngọt", "tôm muối tiêu" mà tôi đã học được ở mẹ Doãn Hoa khi còn ở nhà cô ấy để chiêu đãi anh. Chí ít anh cũng không ngớt lời tán thưởng hai món ăn Trung Quốc này).

Thời gian sau, Dabruce lại nói, hy vọng mỗi ngày tôi sẽ bỏ ra một hai giờ đồng hồ để dạy tiếng Trung cho anh, nói rằng lúc đầu sẽ trả mười đô la cho mỗi tiếng, ba tháng sau sẽ tăng lên mười lăm đô la...

Vừa nghe, tôi đã lắc đầu lia lịa:

- Không được, tuyệt đối không được. Dạy anh tiếng Trung còn là trách nhiệm của em, không có lý do gì để thu tiền cả...

Nhưng anh lại rất bướng bỉnh kiên trì một nguyên tắc của mình -- bất kể một ai cũng không được chiếm hữu thời gian của người khác mà không có sự bù đắp. Bởi vì thời gian là tiền bạc, không bồi thường thời gian chiếm hữu đó chẳng khác gì kẻ cướp.

Tranh luận mãi, rồi tôi cũng đưa ra nguyên tắc của mình -- bảo tôi lấy tiền, tuyệt đối tôi không làm, thực sự không làm, đổi lại, anh có thể dạy tôi một hai giờ tiếng Anh. Như vậy, xem như miễn cưỡng đạt được hiệp nghị.

Cuối cùng, cần phải đi ngủ, nhưng tôi nhìn vào gian nhà trong, đánh trống ngực -- ngủ thế nào đây? Lẽ nào chúng tôi cần phải ngủ chung một gian, một giường?

Khi mới thuê nhà nghỉ xe thùng, Dabruce đã hỏi ?ý kiến tôi. Bấy giờ, tôi đã thành thực mà nói:

- Em vẫn chưa quen. Nếu như có thể, em hy vọng chúng mình ngủ riêng ra.

Còn bây giờ, chúng tôi đã có căn hộ của mình, có phòng ngủ của mình, trong phòng ngủ lại còn một chiếc giường nệm kiểu bậc vua chúa (cũng là việc sắp đặt bất đắc dĩ để che mắt việc kiểm tra của cục Di dân)... Nhưng, quả là tôi vẫn chưa chuẩn bị tâm lý cùng chăn gối với anh.

Tôi chủ động đề xuất:

- Anh ngủ trong giường nhé, em nhỏ, nằm ở sô pha ngoài này là được rồi.

Anh vẫn ngồi đó, ánh mắt trầm tư điều gì đó, nghe tôi nói vậy, hơi sững sờ nhưng anh phản ứng rất nhanh, nói:

- Không, thế không được. Nếu thế này, anh sẽ ngủ ngoài này. Anh là đàn ông, tiện hơn...

Anh nói rồi đứng dậy, sắp bước vào nhà trong lấy chăn.

- Thế, không được. Hay là em...

Tôi cũng nhổm dậy, hòng chặn lại. Nhưng cánh tay to lớn như cái xà gồ của anh đã chắn ngang mặt tôi:

- Không được tranh, ở xứ anh lúc nào cũng phải ưu tiên phụ nữ...

Nhưng nghe khẩu khí của anh có chút gì đó không vui.

Cho nên, buổi tối đó, sau khi uể oải nằm vật trên chiếc giường rộng êm ái, tôi cứ trăn trở mãi không sao ngủ được. Nghĩ đến con người đã vô tư giúp đỡ tôi còn nằm trên sô pha ở gian ngoài, lòng tôi day dứt và cũng nghi ngờ cách ứng xử của mình phải chăng là quá đáng. Lòng tin, lòng tin giữa con người với con người là quan trọng nhất. Nói thẳng ra, tôi còn có gì không yên tâm về Dabruce? Anh đã tính ngủ chung giường với tôi, động cơ phần nhiều cũng là vì... nghĩ đi nghĩ lại, nếu như thật sự có nhân viên cục Di dân đến kiểm tra giữa đêm, há chẳng phải thêm rắc rối, rách chuyện sao? Hơn nữa, căn hộ của chúng tôi chỉ có một nhà vệ sinh, nó nằm phía bên trong phòng ngủ. Cho nên, buổi tối nếu Dabruce cần phải đi vệ sinh, ắt sẽ vòng qua đầu giường của tôi... nói như vậy, tôi không còn có không gian riêng của mình...

Đã vậy thì anh ngủ trên sô pha hay ngủ ở giường, với tôi mà nói thì có gì khác nhau?

CHƯƠNG 26

Tôi cần phải nói thẳng, nguyên nhân tôi không muốn ngủ chung giường với Dabruce ngoài ý thức bản năng tự bảo vệ ra, còn có hai nguyên nhân quan trọng khác.

Thứ nhất, tôi không quen ngửi cái mùi là lạ không rõ là mùi hôi nách hay mùi cá tanh khẳn. Mùi đó quyện với mùi nước hoa xịt quá nhiều đến nhức mũi, khi anh đi sát người tôi, hay đứng trước cửa sổ nói chuyện, tôi luôn ngửi thấy mùi là lạ nhức mũi như mùi tã bẩn của trẻ con bị nước nóng xối vào.

Thứ hai, cơ thể đầy lông lá của anh cũng thường khiến tôi sinh ra phản ứng không thích nghi về sinh lý.

Trời nóng, mặc ít quần áo, tôi phát hiện bắp tay, bắp chân, trước ngực, sau lưng anh nơi nào cũng toàn những lông vàng dầy kín, óng a óng ánh... điều này càng khiến anh giống một con gấu lông dài, hoặc giả là một con lợn trắng. Cho nên, có lúc tôi có cảm giác nhầm lẫn, cho rằng anh chẳng qua là một con thú tiến hoá chưa hoàn toàn triệt để, một ngày nào đó thú tính sẽ trỗi dậy, rất có thể sẽ gây hại cho tôi. Vì vậy, cho dù lúc anh hiền hoà nhất, trong tiềm thức tôi cũng "luôn luôn sẵn sàng" đề phòng.

Nhưng buổi tối hôm sau, khi nhìn thấy anh chuẩn bị ôm chăn gối ra ngoài sô pha, tôi muốn ngăn lại.

- Thôi anh, đừng nằm ngủ ở sô pha nữa, chân anh dài. Anh vào giường ngủ đi, chúng ta mỗi người một chăn là được!

- Không, không cần. Anh chịu được.

Anh sững người giây lát, vội nói.

Tôi liếc nhìn anh một cái, cũng không nói nhiều, giật tấm chăn trong tay anh đi vào phòng trong.

......

Đó là buổi tối thật khó chịu đựng nổi.

Người Dabruce toát ra một mùi kinh khủng, mấy lần khiến tôi suýt nôn.

Hơn nữa, chỉ cần nghĩ đến "con người lông" to lớn đang nằm bên cạnh mình, trong lòng tôi cũng đã run lên. Nếu như nửa đêm "con người lông" này bỗng nhiên mộng du, hoặc giả mơ mơ màng màng trèo lên người tôi, cho dù anh ta không muốn làm cái chuyện xấu xa đồi bại, thì cũng đã đè tôi chết bẹp...

Đệm giường của chúng tôi do sức nặng của anh đè lên nghiêng lệch hẳn về một bên -- con gấu anh nằm ở cuối dốc, còn tôi dè chừng nằm ở đỉnh dốc. Trong giấc mơ nửa tỉnh nửa mê, tôi vẫn gắng sức co quắp cảnh giác, sợ sẽ bị lăn xuống dốc và rơi vào "bàn tay gấu" không đáng có...

Phải mất mấy tuần sau đó, không phát hiện Dabruce có hành động khác lạ nào trong đêm, tôi mới có chút yên tâm. Còn về mùi ở cơ thể anh cũng không thấy lạ nữa, tuy chưa hoàn toàn thích nghi, nhưng ít ra cũng không bị nhức mũi.

Nhưng tôi thường thường tỉnh giấc giữa đêm.

Tôi lặng lẽ ngắm nghìn "người chồng" đang ngủ ngon bên cạnh mình, lắng nghe tiếng thở đều đều ở anh, tôi không dám tin rằng đây là cuộc sống hiện tại của mình. Tôi cũng không dám tin, để trốn chạy những lời nguyền rủa và sự tủi nhục ở quê hương, để có thể sinh tồn ở một mảnh đất hoàn toàn lạ lẫm này -- tôi, một người con gái đã từng được coi là "hoa khôi trường" lại phải chịu cảnh éo le đến nước này... Tôi lại nhớ đến cô, nhớ đến Ngô Nguyên, nhớ đến tất cả...

Sau khi đến Mỹ, tôi đã viết thư cho Ngô Nguyên, anh viết thư trả lời, nhưng tôi quyết định sẽ không gửi thư cho anh nữa. Cuộc sống của tôi thực tại chẳng có gì đáng viết cả, huống hồ tôi đã là "cô dâu" nhà người, điều có thể kể, có thể bày tỏ cũng chỉ là những sự ngượng ngùng, lung tung và phi lý. Cho nên, hãy để Thạch Ngọc trong tim anh ngày xưa đã chết rồi...

Hơn một tháng sau, tôi tìm được công việc bồi bàn trong một nhà hàng nhỏ gần chỗ ở của chúng tôi, một tuần sáu buổi, sáng từ chín giờ hơn đã đi, tối hơn mười giờ đêm mới về. Lúc đầu tôi chưa quen, cả ngày bưng khay đĩa, lưng đau chân mỏi, khi trở về đến nhà, người rời rã đến tất cũng chẳng buồn cởi, cứ thế nằm vật ra giường.

Dabruce thấy vậy, có hôm nói với tôi rằng:

- Anh có thể giúp em xoa bóp được không? Anh đã học qua, có thể giúp em bớt mệt mỏi.

- Đương nhiên, em đang định cầu cứu anh đây.

Tôi nói rồi làm theo lời anh, lôi chiếc ghế trước bàn ăn lại, xoay người ngồi xuống gục đầu vào thành ghế.

Anh thật sự có phương pháp, nắn, xoa, bóp, ấn, day... tất thảy đều có bài có bản.

Anh vừa làm vừa không quên nói với tôi, đây là huyệt gì, kia là huyệt gì. Tiếc rằng tôi không thể nhớ nổi. Tôi chỉ cảm thấy bàn tay thô thô, dầy dầy, âm ấm của anh không ngừng day day ấn ấn trên vai, trên cổ tôi. Ngón tay thô thô của anh cứ ấn day khi mạnh lúc nhẹ, khi nhanh khi chậm trên những khớp đau mỏi của tôi, dần dần, tôi thấy thoải mái và mất đi sự tự chủ, mơ mơ màng màng ngủ thiếp lúc nào chẳng hay. Có lúc, vô tình, vì anh dùng lực quá mạnh, tôi buột miệng kêu "ái", lúc đó, anh vội dừng tay, nói "Anh xin lỗi", sau lại chuyển sang chỗ khác...

Sau này dịch vụ mát xa miễn phí trở thành "sự gần gũi xác thịt" dường như không thể thiếu được trong cuộc sống "vợ chồng" của chúng tôi.

Những phần của thể xác tôi được hưởng thụ bắt đầu dần mở rộng từ bả vai, cổ đến tay và đùi. Có thời gian, Dabruce rất chuyên chú "mát xa chân" cho tôi...

Một hôm, anh còn dùng khoản tiền lương mới lĩnh mua cho tôi một bộ ghế mát xa có thể nâng lên hạ xuống, có thể duỗi thẳng ra nằm, phần đầu còn có lỗ thông khí. Như vậy, tôi không còn phải ngồi trên ghế nữa, thoải mái nằm sấp trên chiếc giường nhỏ để tiếp nhận sự phục vụ mát xa toàn phương vị của anh.

- Cái này mất nhiều tiền không?

Tôi nhìn anh đang xé hộp giấy ở phòng khách, rồi lại cầm kìm, tuốc nơ vít lắp dựng chiếc ghế mát xa, không đừng được bèn hỏi.

- Cả thuế là hơn tám trăm đô.

Anh nói.

- Số tiền này em sẽ trả.

Tuy rất buốt ruột nhưng giọng tôi vẫn tỏ ra kiên quyết.

- Vì sao. Anh ngoái đầu lại nhìn tôi: - Đây là tự anh sắm thêm.

- Nhưng dùng để phục vụ em.

- Anh không cho là thế, anh có thú vui của mình. Hơn nữa, em cũng giúp anh ôn lại tay nghề.

.........

Anh thật sự có thú vui của mình sao? Tôi rất nghi ngờ. Nhưng tôi không thể không thừa nhận, ở nơi đất khách quê người, hưởng thụ "mát xa khác giới tính" mà tổ tiên ông cha chúng tôi đã truyền qua người xứ lạ, thực sự khiến tôi rất sung sướng. Nó khiến tôi quên đi, khiến tôi lơ là, khiến tôi mê mẩn muốn ngủ.

Tôi có vẻ béo ra một chút.

Áo lót tôi mang từ Trung Quốc sang đã chật không thể mặc nổi, đành phải mua toàn bộ mới với kích cỡ lớn hơn một số.

Có hôm nghỉ, tôi đến phòng mạch của Dabruce chơi, leo lên cân cân thử, thấy mình đã nặng hơn gần chục pound so với lúc vừa mới đến Mỹ.

- Ái chà, em thật sự cần phải giảm béo thôi. Cứ như này em sắp thành bà béo rồi.

Tôi kinh hãi kêu lên.

- Em mảnh khảnh thế lại còn đòi giảm béo thì anh phải làm thế nào đây? Còn nên sống nữa hay không?

Dabruce đứng bên cạnh, nghe tôi nói vậy, không chịu được ngoái đầu lại chau mày nói.

- Xin lỗi, không phải em...

Tôi thấy mình lỡ lời, vội nói.

Dần dần tôi đã hiểu, anh rất không vừa ý về cơ thể của mình. Béo như vậy, cồng kềnh như vậy không chỉ là một gánh nặng về thể xác mà cũng còn là gánh nặng về tinh thần.

Lại nghe nói năm mười bốn tuổi anh đã nặng một trăm hai mươi pound (gần sáu chục cân), anh rất tự ti, không dám chơi với bạn gái, luôn sợ họ lấy mình làm trò cười.

Cho nên, thực ra anh cũng là một người đồng bệnh tương lân.

Dabruce thực sự có bệnh.

Nó không chỉ biểu hiện ở chỗ anh lấy việc "mát xa khác giới" cho tôi làm thú vui mà còn ham muốn không biết mệt, hơn nữa, có lần tôi giặt quần áo còn lôi được từ túi quần anh ra chiếc áo vú của tôi. Từ sau đó, tôi càng lưu tâm hơn, chiếc quần lót tơ tằm màu hồng của tôi để trong ngăn tủ quần áo thường mất tung tích, thậm chí băng vệ sinh dính máu tôi vứt trong thùng rác ở nhà vệ sinh cũng thường có người lật tung...

Tôi hiểu vị ân nhân phong độ đã gần ba mươi tuổi của tôi chưa từng nói chuyện yêu đương này đích thực có khiếm khuyết về mặt tâm lý.

Thể xác quá béo và cồng kềnh đã tạo ra sự tự ti khiến cho anh ngày càng mất đi dũng khí tiếp cận với người khác giới, nhưng trái lại không thể tiêu trừ được khát vọng của người đàn ông ẩn kín trong thẳm sâu tâm hồn anh.

Có đêm tôi bỗng tỉnh giấc giữa chừng, phát hiện cánh tay anh đang đè lên tôi. Tôi lập tức muốn gạt tay anh ra, nhưng do dự một lát rồi thôi. Tôi nghĩ, nếu như anh đang thật sự ngủ say, tôi sẽ làm anh tỉnh giấc và khiến anh cảm thấy áy náy; còn nếu như anh vẫn chưa hề ngủ mà chỉ giả vờ ngủ, như vậy chắc sẽ làm anh mất hứng. Vậy là, nhờ ánh trăng tôi không đừng được dò xét kỹ gương mặt anh. Anh nằm ngửa, trán hơi nhô, cằm hơi cong, nét môi rõ ràng, sống mũi rất thẳng, thần thái an tường và lặng lẽ. Nếu như nhìn khuôn mặt này, không nghĩ đến thể xác cồng kềnh bọc trong tấm chăn kia thì có thể nói anh là một bậc anh tuấn -- giống như vẻ đẹp của dung nhan tôi...

Tôi chợt hiểu, những khiếm khuyết về thể xác của chúng tôi cũng chính là duyên cớ để cho thể xác hai đứa được gần gũi. Vậy là, một tình cảm người khéo quý kẻ khôn bỗng bao trùm lên tôi, khiến tôi lâu lắm không thể nhấc tay anh ra.

Tôi tiếp tục ngắm nhìn anh trong đêm tối. Dần dần, tôi hoàn toàn quên thể xác của anh, chỉ còn lại cái trán anh tú, lại còn hàng râu kiểu Stalin rất kiêu hãnh. Tôi phát hiện, nếu như không có hàng ria đó, gương mặt anh thực ra rất giống trẻ con.

Con người của cô độc, đè nén ảo tưởng, truy cầu bản năng... đó là bản chất của cuộc sống sao?

Tôi bỗng nhắm mắt, không dám ngắm nhìn tiếp. Bởi vì từ cái trán ấy, gương mặt ấy tôi lại nhìn thấy khúc xạ của bóng dáng chính mình...

Tôi bỗng muốn khóc -- vừa xót thương cho chính mình, vừa xót thương cho bàn tay và cánh tay đang đè trên người tôi.

Đây là cánh tay cần mẫn không biết mệt mỏi, bàn tay đầy tình hữu hảo, bàn tay đã vượt qua muôn núi ngàn sông trên thể xác tôi, bàn tay luôn hoá giải những mệt mỏi, nhưng có lẽ, đây chỉ là một cánh tay tuyệt vọng...

Trong tình cảm tự xót thương đó, tôi không kìm được ôm lấy cánh tay này. Dường như nó đã là một phần của thể xác tôi. Tôi kéo nó lại, đặt ngay ngắn lên vai tôi. Sau đó, nhẹ nhàng khẽ đặt lên đầu, lên mặt tôi, đặt lên... tôi lúc đó không còn thấy mùi vị, cũng không còn sợ hãi, cánh tay đầy lông lá chỉ còn tạo cho tôi ảo tưởng của một đám lông lá bù xù...

Chắc chắn Dabruce đã tỉnh giấc. Dường như anh cũng lưỡng lự, nhưng đúng như dự tính của tôi, chỉ lát sau anh đã nhẹ nhàng ôm tôi vào lòng.

Như vậy, dường như là một kiểu ngầm ước hẹn, hoặc giả cũng là một sự thoả hiệp không tuyên bố, chúng tôi áp mặt vào nhau, nhưng cơ thể của hai chúng tôi vẫn nằm nguyên trong tấm chăn ấm áp như cũ...

Đấy là một ngày đáng ghi nhớ. Bởi vì bắt đầu từ ngày hôm đó, "hôn nhân" giả của chúng tôi cuối cùng đã được rót vào một chút nội hàm chân thực. Chí ít, một số bộ phận trên cơ thể chúng tôi trên thực tế đã là "ở chung".

Nhưng trong lòng tôi, cái thực sự "ở chung" với tôi chính là bàn tay của Dabruce. Trước đó, tôi thích ngón tay của nó giống như một lão nông phu "cày sâu cuốc bẫm" trên cơ thể tôi, nhưng giờ đây tôi khát khao nó vuốt ve ấm áp trong đêm...

Đó là kiểu vuốt ve thế nào?

Chắc chắn anh không thể nghĩ nổi, một người vụng về thế nhưng lại có đôi bàn tay khéo léo đến thế. Ngón tay chắc chắn, đầy thịt và ấm áp khi vuốt ve có điểm khác với lúc mát xa, dường như là không xương, lướt nhẹ như mộng như ảo trên cơ thể anh. Có lúc, nó cũng là bàn tay của nghệ sĩ piano, còn tấm thân giàu tính đàn hồi của tôi lại là những phím đàn nổi bị ngón tay anh ấn xuống nhấc lên không ngừng, mỗi lần tiếp xúc của anh đều gợi ra một âm phù thanh thoát, xâu lại thành một chuỗi thanh nhạc tuyệt diệu, lướt chảy, đồng cảm, lắng đọng và ngưng tụ trên thể xác tôi... nó khiến anh đắm say, khiến anh rung động, khiến anh khát khao, khiến anh mê mẩn, khiến anh thiêm thiếp, khiến anh khẽ rên lên... nó cũng khiến anh biến thành một con vật cưng, chỉ đơn thuần không phải là con mèo biết suy nghĩ, một con chó có bốn cái chân mềm mềm, đôi mắt nhắm nghiền...

Đương nhiên, là một dạng báo đáp, tôi cũng đã từng mong muốn được anh vuốt ve như vậy. Quãng thời gian này trôi qua rất vui vẻ.

Chúng tôi có sự kết hợp hữu hạn, nhưng lại đạt đến sự hài hoà và nhất trí chỉnh thể.

Đương nhiên, chúng tôi cũng có những lúc tranh luận và không vui vẻ. Chúng tôi đặc biệt không thể hoà hợp khi xem truyền hình phát bằng tiếng Trung động chạm đến vấn đề Trung Quốc phải chăng nên thống nhất, Đài Loan nên chăng độc lập. Đại để anh ấy đã từng học tập ở Đài Loan nửa năm, rất có tình cảm với Đài Loan, luôn kiên trì cho rằng Đài Loan độc lập hay không thì do người Đài Loan tự đưa ra lựa chọn của mình.

- Nhưng anh đã nghĩ tới chưa, Đài Loan từ xưa đến nay là một bộ phận của Trung Quốc, nếu họ muốn chia cắt, toàn nhân dân Trung Quốc có thể đồng ý không?

Tôi đã luôn tranh luận với anh như vậy.

- Sao em lại biết Đài Loan từ xưa đến nay là một bộ phận của Trung Quốc? Đây chỉ là những lời mà chính phủ nước em thích nói. Cứ xem đó là một bộ phận, trong một đại gia đình, người quá đông thì cũng còn có thể chia nhà khác mà.

Còn anh lại luôn nói như vậy.

Tôi có chút kích động nói:

- Được, thế anh thử chia bang California ra khỏi Mỹ xem nào...

- Vấn đề là bang California không muốn tách ra khỏi Mỹ, còn người Đài Loan lại không muốn hợp nhất với Trung Quốc.

Anh vẫn cười cười nói.

Tôi tức điên không nói nên lời.

Lúc này, anh đứng dậy tiến lại vỗ vỗ vào vai tôi, vui vẻ bảo với tôi rằng:

- Thôi, không nói chuyện nữa, Đài Loan là cái thá gì? Hãy để Trung Quốc, Hoa Kỳ ngủ một giấc đã.

Lại một câu đùa khiến tôi bật cười.

Anh cũng thích để tâm tới những việc không đâu. Nhìn thấy có xe đỗ trên đường vào gara, cho dù không phải trước cửa nhà mình, anh cũng thò đầu ra cửa sổ để bảo, hoặc cũng chạy xuống lầu nhắc nhở. Gặp khi trên xe không có người, anh viết một mảnh giấy rồi kẹp vào cần gạt nước trên kính xe. Có lần, anh nhìn thấy trong một gia đình người Trung Đông phía đối diện đánh trẻ con, chẳng chút do dự anh gọi điện đến cảnh sát, báo hại người ta bị nhốt ở đồn cảnh sát ba ngày hai đêm, suýt nữa mất quyền nuôi con... Tôi nói với anh:

- Anh sao mà khổ thế, làm cho người ta xui xẻo, và cũng lôi thêm phiền phức vào người.

Anh bất mãn nói:

- Cứ nghĩ như em thì có được không, nhỡ ra họ đánh đứa trẻ bị thương thì sao? Nói rồi anh lại phê bình tôi: - Em có tư tưởng xấu của người Trung Quốc chính cống. "Chỉ quét tuyết trước cửa nhà mình, không quản sương rơi trên nóc nhà khác".

Tôi chỉ còn cách lắc đầu, trút hơi thở dài mà thôi.

Chúng tôi cũng đã có lần xảy ra tranh cãi bởi vì mầu sắc mình yêu thích. Anh đặc biệt thích mầu trắng, luôn cho rằng màu trắng là tượng trưng cho thuần khiết, đẹp mắt, cao quý. Tôi chủ quan cho rằng, trong xương cốt anh có "chủ nghĩa người da trắng chí thượng" đang tác oai tác quái, liền trề môi châm chọc:

- Trắng có gì là hay? Trắng nhợt nhạt là mầu của cái chết, hoa trắng là biểu hiện của tang lễ; màu trắng ở giới thực vật cũng luôn gắn liền với sự đột biến gien. Lại nói người da trắng các anh, rất có thể là sự đột biến gien của loài người. Nói như tiếng Anh mà người Mỹ các anh nói, thực ra cũng là sản phẩm tạp giao giữa tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Đan Mạch. Cho nên... Tôi thấy anh nghiêng đầu, lắng nghe vẻ rất chăm chú, nửa cười nửa không, thì dương dương tự đắc nói tiếp: - Màu đen xem ra tốt hơn màu trắng, chí ít cũng khá điềm đạm, bao dung, thắm thiết. Nhưng màu vàng mới thực sự là màu của lý tưởng chân chính. Chúa đã dùng đất nặn nên con người, màu của đất phần lớn là màu vàng... anh nghĩ xem, có người nào thấy đất màu trắng chưa? ánh mặt trời cũng màu vàng, vàng cũng là màu vàng...

- Xin lỗi -- Dabruce vội xua tay, phản pháo: - Đừng quên, ngoài vàng còn có bạch kim, ánh mặt trời cũng chẳng phải lúc nào cũng là màu vàng cả. Còn nữa, cái quan trọng hơn, đất trong lò nung tới một nhiệt độ vừa phải mới có thể biến thành đồ sứ trắng được. Còn em nói người da trắng là đột biến gien, tiếng Anh là tạp chủng, anh cũng đồng ý. Nhưng em đã nghĩ đến chưa? Người Trung Quốc các em, người Hán các em, tiếng Hán của các em lẽ nào không phải là tạp chủng?

Tôi ngẫm nghĩ cũng đúng -- "không có Tiên Tần, thì sao có Hán". Chốc lát không đáp nổi lời, tự nhiên nhìn về phía anh, mỉm cười nói:

- Anh cũng nghiên cứu về lịch sử Trung Quốc cơ à. Rồi lại nói tiếp: - Nhưng anh cũng đừng quên, tục ngữ Trung Quốc có câu, "một cái trắng che đậy trăm điều xấu". Người da trắng các anh có rất nhiều điểm xấu đây, thực ra đều được các anh dùng cái màu trắng bề ngoài để che đậy.

Anh cũng cười cười gật đầu.

Có thể nói thế này, tuy chúng tôi có những cuộc tranh luận, quan hệ cơ bản vẫn là hoà hợp, nhưng điều đáng tiếc có một việc, dù thế nào vẫn luôn là bóng đen ám ảnh trong lòng tôi, và cũng ảnh hưởng đến quan hệ hài hoà vốn có của chúng tôi.

Sự việc bắt đầu từ lúc anh thường xuyên cùng một anh đồng nghiệp ở phòng mạch thường xuyên đến đường Holywood để xem khiêu vũ thoát y, sau này lại thường xuyên hẹn hò đi Las Vegas, với danh nghĩa là đi Casino, tìm hiểu thực tế nhưng thực sự là đi mấy ổ chứa hợp pháp ở đó. Sau đó, có quãng thời gian anh dường như càng chìm đắm vào những việc như thế, ngày càng mê đắm, khi trở về nhà bắt gặp ánh mắt tôi, anh cũng có vẻ là lạ.

Khi tôi quét dọn phòng hoặc kê lại giường nệm, ba lần năm lượt thấy anh giấu dưới gối, hoặc quên tờ "Play Boy" cũng như một số tạp chí và hoạ báo khác của anh để quên trên bể nước xả toilet. Lật giở những trang này tôi thấy đấy là loại báo sex cấp thấp, dần dần trở thành một nội dung không thể thiếu được trong cuộc sống của anh.

Anh cũng thường xuyên đến cửa hàng băng đĩa gần đó thuê những loại băng đĩa sex đem về nhà xem. Lúc đầu, đại để còn chiếu cố đến sự khác biệt về văn hoá, hoặc bởi tôn trọng tôi, anh luôn trốn tôi xem một mình. Khi tôi trở về nhà, anh tắt phụt ti vi, lôi băng ra cất vào tủ quần áo hoặc ngăn bàn riêng. Sau đó, dần dần, cũng chẳng còn phải cẩn thận như thế nữa. Cho nên, bởi sự hiếu kỳ, tôi cũng đã từng nhìn những cảnh tượng giới tính đủ màu trần truồng...

Tôi rất sợ hãi, lại vừa kinh ngạc bởi văn hoá phương Tây thẳng thắn và thể hiện đến mức từng ly từng tí, cũng rất kinh ngạc bởi Dabruce như một "Lôi Phong sống" cũng không thể thoát tục nổi ở phương diện này... nhưng tôi cũng chỉ đành giả câm giả điếc, có nhìn mà không thấy, coi nó là cách giải thoát và trút xả những khổ muộn, vô liêu của anh. Nhưng, tôi đặc biệt chú ý kỳ cọ nhà vệ sinh, khi giặt giũ đặc biệt lưu tâm không để lẫn lộn quần áo lót của anh và tôi. Chẳng phải tôi sợ sự ham mê của anh sẽ tạo nên sự "ô nhiễm tinh thần" cho tôi ở một mức độ nào đó, cái chính là sợ thể xác và quần áo anh có thể sẽ lây sang tôi một căn bệnh xã hội huỷ diệt. Tôi ngày càng phát hiện thấy, trong đêm cùng với những tiếng rung rung sột soạt trong chăn là hơi thở phì phò của anh, quần lót anh thay ra sáng hôm sau có một mùi tanh đến lạ kỳ, sờ lên còn thấy một vệt đôm đốm...

Những cuốn băng sex anh mượn về phần lớn là giống nhau, nhưng có một cuốn khiến tôi đặc biệt có ấn tượng sâu sắc, thậm chí có thể nói là khiến tôi mở rộng tầm mắt. Tóm lại, xưa nay tôi chưa từng nghĩ đến, hoạt động giới tính của loài người hoá ra còn có phương thức đảo điên và thác loạn khiến người ta buồn nôn đến thế...

Đây dường như là cuốn băng mà Dabruce yêu thích nhất, rất lâu mà anh không đem đi trả (hoặc có thể anh đã mua), hơn nữa anh như thể lơ đãng vứt ở những nơi mà tôi rất dễ để ý tới.

Sau này tôi mới hiểu, thực là anh cố tình để lại một kiểu ám thị cho tôi.

-- Nói thẳng ra, anh muốn dùng cuốn băng này để nhắc nhở tôi: tuy nơi kín dưới thân của tôi đã bị cấm cố, nhưng thể xác tôi vẫn còn "đường thông" ngoài chỗ đó.

Trong đêm, anh thường ngắm nhìn tôi với ánh mắt khát khao cháy bỏng. Có đến mấy lần, anh ngập ngừng, gần như muốn thổ lộ dục vọng và nhu cầu sâu kín trong lòng, nhưng đại khái còn chưa biết được phản ứng của tôi sẽ như thế nào, cuối cùng mất đi dũng khí, lời nói đến cửa miệng lại bị nuốt vào.

Tôi cũng cần thừa nhận, trước đó có một lần, khi vuốt ve tôi, anh rất kích động, kéo mạnh cánh tay tôi vượt qua phần bụng lồi cao của anh để sờ sờ nơi kín của anh -- cũng như cơ thể anh, cái nơi đó của anh cũng làm người ta kinh hãi. Phản ứng lần đầu tiên của tôi là như chạm phải đầu con rắn nóng rẫy, tôi kinh hãi rụt tay lại, không còn dám bừa ẩu làm lại...

Ý thức được anh bây giờ đang ấp ủ mưu đồ biến thái đối với thể xác tôi, hình tượng tốt đẹp về anh trong mắt tôi cũng đã vợi đi ít nhiều, thậm chí gợi lên sự chán ghét nào đó đối với thể xác anh. Đương nhiên, tôi cũng kiểm điểm lại mình, phải chăng mình đã phát đi tín hiệu sai lầm nào đó, khiến anh cho rằng tôi là người đàn bà trong lòng thực sự tràn đầy dục vọng... Thế rồi, hằng đêm, tôi đành phải cắt bỏ bớt những vuốt ve khích động lòng người. Tôi không muốn vì những ham muốn và đồng tình nhất thời mà khơi dậy hưng phấn ở anh, thậm chí sẽ có ngày đánh thức thật sự phần thú dục cực đoan trong con người anh (tôi nhớ đến anh đã từng tham gia luân phiên hiếp dâm tôi trong cơn ác mộng).

Nhưng tôi cũng thật sự cảm tạ anh, cuối cùng anh vẫn là một con người đàng hoàng, chưa từng bộc bạch và càng chưa từng bức ép tôi. Tôi biết, nếu như anh thật sự đề xuất yêu cầu đó với tôi, tôi sẽ rất khó xử, nhất định sẽ cự tuyệt. Kết quả nhất định sẽ gây tổn hại rất lớn đối với quan hệ giữa chúng tôi.

Cho nên, nhằm giữ khoảng cách vừa phải với anh, cũng nhằm tránh những điều nghe nhiều quen tai, nhìn nhiều quen mắt rồi sẽ tạo thành sự mất kiềm chế tình thế trong một ngày nào đó, ngày nghỉ tôi lại đi tìm một công việc sáng sủa khác. Như vậy, mỗi tuần tôi làm đủ bảy ngày. Tuy có mệt hơn một chút, nhưng cảm giác nắm được nhiều Mỹ kim trong tay luôn vẫn tốt. Nghĩ đến nỗi khổ sở không có tiền tiêu khi còn ở trong nước, tôi càng thấy mình cần phải nắm bắt thời gian kiếm thật nhiều tiền. Hơn nữa, trong lòng tôi cũng luôn có sự mong mỏi ngấm ngầm chưa bao giờ tiêu tan -- chỉ cần khi tôi có thể góp đủ tiền, trong một tương lai không xa, sẽ có ngày, nhờ kỹ thuật y học tiên tiến của nước Mỹ, cánh cổng thể xác tôi sẽ được mở tung. Chỉ cần không nhụt chí thì mấy chục nghìn đô la chẳng phải là chuyện không thể có. Nó cũng chẳng đáng kể gì, chỉ cần tôi chịu kham chịu khổ, hiện giờ một ngày làm việc cũng gần bằng cả tháng ở trong nước.

Nghĩ đến lúc mình chắt bóp được nhiều tiền như thế để đi bệnh viện, trong lòng tôi có chút thảnh thơi. Trước hết chẳng nói đến chuyện nắm chắc thành công được bao nhiêu phần trăm, cho dù thành công rồi, nhưng nếu như không thể gặp được ý trung nhân thì tất cả thứ đó còn có nghĩa gì? Cho nên, tôi lại nghĩ, việc phẫu thuật, tốt nhất là đợi đến khi tôi tìm được công việc chính thức, có công ty mua bảo hiểm cho rồi hãy hay. Còn số tiền tích cóp được, ngoài việc thường xuyên gửi về cho cô một chút, hãy dành lại còn lo chuyện học hành sau này của mình.

"Cho nên", trong đêm nằm trên giường tôi nghĩ, "bất kể như thế nào thì cứ góp được nhiều tiền là điều quan trọng nhất".

CHƯƠNG 27

Nói cho tận cùng, thực ra tôi là một người do dự không quyết đoán.

Tôi đã chủ động quyết định không tiếp nhận sự ám thị của Dabruce, không duy trì việc "gần gũi xác thịt" hữu hạn với anh nữa, nhưng trong lòng vẫn thường xuyên có lúc dao động và phân vân. Tôi biết, từ ngày tiếp nhận sự giúp đỡ của Dabruce, tôi đã mắc nợ anh điều gì đó, hơn nữa càng ngày nợ càng nhiều. Một người nước ngoài, từ xa xôi vạn dặm tới Trung Quốc, giúp đỡ một người con gái Trung Quốc chưa hề quen biết, đó là tinh thần gì? Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa? Tinh thần quốc tế chủ nghĩa? Tinh thần cộng sản chủ nghĩa? Nhưng tôi biết, những điều này dường như chẳng phải là nguyện vọng ban đầu của anh...

Xưa nay tôi chưa muốn mắc nợ một ai. Điều này khiến tôi ăn ngủ không yên

Khi xưa Ngô Nguyên đã cho tôi tiền để phẫu thuật, mặc dù anh nói không cần phải trả, nhưng sau khi làm thuê kiếm được tiền, tôi đã gửi tiền nhờ cô trả giúp. Còn những món nợ khác lo liệu cho việc xuất ngoại của tôi cũng đã thanh toán sòng phẳng trong vòng nửa năm.

Nhưng cái tôi mắc nợ Dabruce lại không phải tiền của, mà là món nợ tình người. Món nợ tình người thì chẳng thể xem là nợ, thực ra nó còn khó trả hơn nợ tiền rất nhiều, bởi vì nó vô giá.

Có lúc tôi nghĩ, chỉ cần tôi thể hiện giống như trong cuốn băng, thoả mãn Dabruce mấy lần, có lẽ có thể tôi chẳng còn nợ anh điều gì. Đây là việc thật sự quá giản đơn, thậm chí có thể coi là việc há miệng giơ tay mà thôi. Nhưng tôi vẫn không quyết tâm nổi. Bởi vì nếu như tôi làm như vậy, chắc chắn chẳng phải vì tình, thậm chí cũng chẳng phải chơi đùa, mà là một việc trao đổi xác thịt bẩn thỉu đê hèn, sẽ khiến cho tôi từ nay về sau không thể còn là mình nữa.

Nếu như, khi xưa Ngô Nguyên cũng yêu cầu tôi dùng phương thức này để thoả mãn anh, tôi có cam tâm tình nguyện không? Cũng không thể. Tôi cho rằng đó sẽ là việc mà anh cố ý lăng nhục tôi.

....

Dabruce chắc chắn cũng hiểu tâm tư của tôi. Dần dần trong vô vọng, những dục vọng luôn luôn giày vò anh cũng dần dần lắng xuống, tinh thần anh cũng dần từ trạng thái băng hoại trở lại bình thường. Một buổi sáng khi tỉnh dậy, anh nói với tôi mà tôi chẳng hiểu ra sao:

- Xin lỗi em.

- Anh có lỗi gì đâu. Tôi nói và nắn nắn bàn tay anh: - Chỉ vì em mắc nợ anh quá nhiều. Nhưng có thứ em có thể cho anh, cũng có thứ thật sự em không thể làm nổi. Xin anh lượng thứ cho.

- Không, anh xin em lượng thứ cho mới phải.

Anh nói, trong ánh mắt ra chiều có lỗi.

Tôi biết, tôi đã làm đúng. Bởi vì tôi đã không đón chờ sự ám thị nào đó của anh nên khiến anh càng thêm tôn trọng tôi.

Ánh mắt của anh, ngữ khí của anh, ngón tay anh, từ bây giờ không lúc nào ngừng nói lên tình yêu tận đáy lòng của anh đối với tôi. Tôi cũng tin rằng, nếu như tôi đồng ý, thì anh sẽ chấp nhận mãi mãi "ở chung" với tôi như vậy. Có lần, anh đi công tác miền Đông một tuần, lúc trở về anh đã nói với tôi:

- Mỗi ngày khi trở về khách sạn, không nghe được tiếng em, không ngửi được mùi em, anh như mất mát...

Từ sau đó, anh chủ động bớt thời gian dạy tôi lái xe, mỗi tối kiên trì đợi tôi về đến nhà thì mới chịu đi ngủ... có một lần tôi về hơi muộn, anh lái chiếc xe cũ nát của mình đến tận khách sạn tìm tôi.

Nhưng trong lòng tôi biết rõ, tôi và Dabruce sẽ không thể ở chung mãi mãi như thế này được.

Đó chẳng phải vì thể xác cồng kềnh, nhiều lông lá và mùi vị quái lạ của anh luôn ám ảnh tôi hoặc sự kỳ thị văn hoá, tập quán sinh hoạt khác nhau, mà cái quan trọng hơn chính là tôi không muốn mình sớm sớm chiều chiều tồn tại bên anh để từng giây từng phút tạo nên sự quyến rũ chết người với anh.

Nơi muốn cho thì cho không nổi, nơi có thể cho lại không muốn cho... đấy chính là toàn bộ những nghịch lý trong cuộc sống của tôi.

Có hôm, anh quan tâm hỏi tôi dự định khi nào phẫu thuật và khuyên tôi nên sớm mua bảo hiểm y tế, nhưng tôi lại nói với anh:

- Em không còn muốn phẫu thuật nữa.

- Vì sao? Kỹ thuật và thiết bị y tế của Mỹ có thể nói là hàng đầu thế giới, vì sao em không thử?

- Phí bảo hiểm đắt quá, em chịu không nổi. Tôi trả lời.

- Đấy không phải là lý do. Chỉ cần em nỗ lực, tiền tiết kiệm nhất định mỗi ngày sẽ nhiều lên.

- Em đã quyết định sống độc thân, cho nên có phẫu thuật hay không cũng chẳng để làm gì.

- Thế... quá vô nhân đạo. Em còn có cơ hội, em cần phải thử.

Dabruce ra sức thúc giục tôi.

Nhưng tôi chỉ biết lắc đầu cười đau khổ.

Anh, một "ông tây", mãi mãi không thể hiểu nổi tâm tư luôn dậy sóng cồn trong tôi.

Trong những năm trước đây, tôi đã trao tất cả tình yêu của mình cho Ngô Nguyên, nếu như không vì anh, e rằng tôi cũng đã chẳng làm phẫu thuật... ngẫm đến hôm nay, người đã trở thành dĩ vãng thì còn nói đến phẫu thuật hay không? Cứ coi phẫu thuật thành công thì cũng sẽ còn có ai đáng là đức lang quân như ý của tôi đây?

Thạch nữ, cho dù một thạch nữ đã xé đi niêm phong thì vẫn là một thạch nữ, cô ta vẫn phải chịu những lời nguyền nhiều hơn ở chính quê hương của mình, và vĩnh viễn không được tiếp nhận thiện chí...

Cho nên, sau khi lấy được thẻ lưu trú vĩnh viễn -- thường gọi là thẻ xanh, tôi đã lập tức làm thủ tục "ly hôn", rời bỏ Dabruce. Thực tại, tôi không thể chịu đựng hơn nữa việc cứ mãi mãi sống trong ánh mắt của một người đã biết tôi quá rõ, cho dù anh là một con người rất tốt.

Tuy có chút không vui nhưng Dabruce vẫn giữ lời hứa của mình.

Đêm chia tay, chúng tôi cùng "ăn bữa cơm cuối cùng" tại một nhà hàng Phúc Châu ở phố Trung Quốc.

Khăn trải bàn, khăn ăn toàn một màu phấn hồng, điều đó khiến tôi nghĩ đến tấm thẻ xanh mới nhận cũng màu phấn hồng này, rất ấm áp. Chúng tôi gọi bia, chọn những món hải sản như tôm hùm, hàu, sò và cũng không quên thưởng thức món đặc sản của nhà hàng này -- "Canh cá viên Phúc Châu".

Bình thường tôi chưa từng uống rượu, nhưng trong bữa tiệc hôm nay lại liên tục nâng cốc, cảm tạ sự giúp đỡ vô tư của Dabruce đã dành cho mình.

- Không phải cám ơn anh, mà phải cám ơn chính quyền Mỹ kia, họ đã cấp thẻ xanh cho em, hơn nữa chưa từng gây rắc rối.

Dabruce chớp chớp mắt vui vẻ nói, rồi anh lại nâng ly bia trong tay.

Tôi hớp một ngụm bia đầy, nói:

- Nhưng người cần cảm ơn nhất nhất vẫn chính là anh, ân nhân mãi mãi của em, là người đã giải cứu em từ nước sôi lửa bỏng ra... Nói rồi, tôi lấy ra một bao giấy hồng từ chiếc xắc nho nhỏ đặt lên bàn trước mặt anh: - Đây là chút lòng thành của em, hy vọng anh sẽ nhận lấy.

- Nhưng em có thể nói với anh đây là món quà gì không?

Dabruce nheo mày nhìn chiếc phong bì.

- Anh cầm về rồi hẵng xem. Tôi nói.

- Không, anh muốn biết ngay.

Anh khăng khăng cầm chiếc bao giấy nhỏ lên bóc ra, rồi sau đó khẽ khẽ dốc xuống, ba chiếc chìa khoá ô tô mới tinh trôi tuột xuống lòng bàn tay anh:

- Cái gì thế này?

Anh ngước mắt ngạc nhiên nhìn tôi hỏi.

- Xe của anh nát quá rồi, em mua cho anh chiếc Ford. Em nghĩ, nếu có khả năng, nhất định em sẽ mua cho anh chiếc BMW hoặc là Mercedes, nhưng tiếc là hơn hai năm nay em mới chỉ có thể dành dụm mua được chiếc Ford này, hy vọng anh thích nó.

Dabruce sững người một thoáng:

- Không được, anh không thể nhận món quà quý giá thế này, anh không thể nhận.

- Em đã nói rồi, đây là chút lòng thành của em. Nếu như anh không nhận, em sẽ rất đau lòng đấy.

- Không được, anh không thể nhận.

Dabruce nói rồi cất chùm chìa khoá vào phong bì, kiên quyết đẩy đến trước mặt tôi.

- Nếu như anh không nhận, được thôi, tấm thẻ xanh này em trả lại anh. Em sẽ trở về Trung Quốc của em.

Tôi cũng nghiêm mặt lại, chàu chạu, lôi tấm thẻ xanh từ trong ví ra, đẩy đến trước mặt Dabruce.

Chúng tôi làm căng nhau một lúc, chẳng ai muốn uống, chẳng ai muốn ăn mà cứ nhìn nhau chằm chặp, chẳng ai nói với ai một lời.

Lúc này bỗng có người đi ngang qua, Dabruce ngoái đầu lại nhìn, một tay vội vã cầm phong bì giấy màu hồng, tay kia nhặt tấm thẻ xanh đưa cho tôi, cười nói:

- Thôi được, chúng ta nhận lấy đi. Nhưng...Bỗng anh có chút buồn rầu nhìn tôi.

- Nhưng cái gì? Tôi hỏi.

- Em không bye - bye anh vĩnh viễn chứ?

- Sao thế được? Mãi mãi em không thể quên anh, cho dù là đi đến đâu, em cũng luôn giữ liên hệ với anh.

Tôi nói rất thành thực.

CHƯƠNG 28

"Xin chớ hỏi tôi từ nơi nào đến

Quê hương tôi ở mãi phương xa

Vì sao lưu lạc

Lưu lạc viễn phương

Lưu lạc..."

Tôi xách đôi giầy thể thao màu trắng đi dạo trên bãi biển. Bầu trời đầy sao, bên tai tiếng sóng biển đập thì thùm, tôi khe khẽ hát bài hát mang tên Cây trám. Ca từ không còn nhớ lắm, nhịp điệu cứ thong thả ngân nga, có chút gì bi ai, thê lương, băn khoăn, day dứt.

Những con sóng dưới chân, nước biển lành lạnh thỉnh thoảng ào tới, lặng lẽ hôn khắp bàn chân rồi lặng lẽ rút đi. Quay lại nhìn, những dấu chân đã bị xoá sạch trơn chẳng để lại một chút dấu vết gì.

Tôi đi đến lúc hơi mệt, bèn ngồi xuống chỗ cát khô cách khá xa mép nước.

Những du khách đi men theo bờ biển đã vãn, lác đác như sao sớm. Cầu cảng Santamonica như cánh tay vươn ra biển sâu, gần đó đèn nến sáng choang, người đi lại tấp nập như mắc cửi.

Tôi nhìn ra đại dương đen kịt, trong lòng chợt có những con sóng ở một cõi thăm thẳm từng đợt nổi lên, tràn qua, xoáy vào lòng...

Sau khi rời bỏ Dabruce, tôi dự định chuẩn bị đi học tiếp, nhưng vì chưa tốt nghiệp đại học nên phải học lại từ đầu, học phí rất cao, cho nên tôi thấy quá khó mà nản lòng. Tôi nghĩ đi nghĩ lại, quyết định cứ đi làm thuê kiếm tiền trước rồi tính sau. Người ta nói sống đến già, học đến già, có tiền thì lại ung dung đi học cũng chẳng muộn.

Trước khi rời bỏ Dabruce tôi cũng đã thi lấy bằng lái xe, và bỏ ra một nghìn hai trăm đô la để mua một chiếc xe Toyota cũ. Có xe của mình cảm giác thật tuyệt vời, dường như mới mọc thêm đôi chân vạn dặm, đi đi lại lại tiện hơn rất nhiều. Vậy là tôi chuyển đến ở phố A nơi tập trung tương đối đông người Hoa ở phía đông Los Angeles, tiếp tục làm phục vụ trong một khách sạn tương đối cao cấp. Tiền bo ở khách sạn này không đến nỗi nào, gần gấp đôi ở khách sạn nhỏ trước đây, khi thuận lợi thu nhập hàng tháng có thể được hai ngàn đô la. Như vậy, trừ tiền thuê phòng và những chi tiêu cần thiết khác, hàng tháng tôi cũng có thể để lại được hơn một nghìn đô la. Tôi đã có kế hoạch, một khi số tiền chắt bóp được lên tới hàng năm con số, tôi sẽ trở về nước thăm cô một chuyến.

Thông tin giữa tôi và cô chưa hề bị gián đoạn, vào những dịp tết nhất, tôi cũng thường xuyên gọi điện về hỏi thăm cô, và thường xuyên gửi tiền về cho cô, dặn dò cô không được quá tiết kiệm, cái cần dùng thì cứ dùng. Điều đáng tiếc là, ở nhà cô không lắp điện thoại, mỗi lần gọi về đều phải nhờ vả nhà người khác, rất bất tiện.

Số tiền tiết kiệm của tôi tăng lên rất nhanh, mới chỉ có tám tháng làm lụng tôi đã có vạn đô la. Tôi đang dự định vào mùa xuân sẽ trở về nước thăm cô. Một hôm, có cô gái làm cùng bỗng thì thầm với tôi, có một công ty đầu tư gọi là "Tập đoàn tài chính Tây Dương" đang tuyển nhân viên, đầu tư một vạn đô la, mỗi tháng sẽ được nhận hoa hồng một ngàn năm trăm đô la. Lại nói ông chủ này trước đây là thiên tài gửi tiền ngoại tệ, đã mở ở San Francisco hơn nửa năm, ổn định kiếm lãi. Lời cô ấy đã khiến tôi động tâm, bèn cùng cô ấy đến đó xem xét, quả nhiên thấy rất lớn, quy mô hoành tráng, chỉ riêng văn phòng cũng đã chiếm gọn cả toà lầu ở khu phố náo nhiệt, chỉ ngại trong công ty có quá nhiều lưu học sinh Trung Quốc, tôi lo ngại lâu ngày sẽ chạm mặt người quen nên không tham gia, nhưng tôi đã giao cả một vạn đô la đầu tư dưới tên cô ta. Không ngờ hơn một tháng sau, một đồng lãi cũng chẳng thấy đâu mà nghe nói công ty vi phạm quy định, bị niêm phong điều tra, ông chủ thì trốn chạy biệt vô âm tín... cho nên những gì dành được của tám tháng cần lao của tôi bỗng chốc bốc hơi, không cánh mà bay.

Đúng lúc này cô tôi gửi thư tới, nói là từ tết đến giờ, sức khoẻ cô không được tốt lắm, thường xuyên đau đầu, rất muốn tôi sớm trở về. Tôi dự định vay Dabruce ba ngàn rưỡi đô la, nhưng khi lái xe đến trước cửa nhà anh bỗng nhiên lại do dự, đành quay lại bãi biển này...

Tôi nhìn đồng hồ, đã sắp chín giờ, thấy hơi lạnh, bèn lên khỏi bãi biển, đến chỗ nước ngọt rửa chân đi giầy.

Kế hoạch trong lòng tôi là thế này: sau khi trở về sẽ gọi điện cho cô, nếu như bệnh tình không quá nặng, đợi đến cuối năm tôi sẽ về.

Tôi thật sự không muốn mình lại mang nợ Dabruce một điều gì nữa.

Tôi rửa chân đi giầy xong, đang lúc muốn đến bậc thang lên đầu bãi, chợt nhìn thấy một người đàn ông phương Đông dong dỏng vừa vượt qua sau tôi, bỗng anh ta dừng lại nhìn tôi phân vân.

Anh ta đứng xoay lưng với cột đèn nên tôi không nhìn rõ mặt, vì thường xuyên có người chăm chú nhìn tôi như vậy, nên tôi cũng không lấy làm điều, nhưng khi tôi đi ngang qua anh ta, bỗng nghe tiếng gọi giật giọng:

- Thạch Ngọc.

Tôi ngoái vội đầu lại, nhận ra người đó là Thường Đạo.

Anh gầy đi rất nhiều, dáng vóc to lớn chỉ còn lại khung xương, hốc mắt trũng sâu, lưỡng quyền nhô cao.

- Ra anh! Sao anh lại ở đây? Tôi rất kinh ngạc.

- Đúng thế. Anh cũng chẳng thể ngờ lại gặp em ở đây. Em, tốt chứ?

Thường Đạo nói, trên gương mặt không giấu nổi nét vui mừng tràn trề.

- ờ... tốt, tốt. Tôi luống cuống trả lời.

Tôi không biết đáng mừng hay đáng lo. Trên bãi biển nơi dị quốc tha hương này, gặp lại một người bạn cùng trường, một người quen là việc khiến người ta vui vẻ và phấn khởi. Hồi tưởng lại chuyện xưa khi còn ở trường Thường Đạo đã từng cho tôi cả giỏ tôm hùm, anh đã để lại ấn tượng rất tốt trong tôi. Nhưng điều khiến tôi thấp thỏm bất an là tôi không biết anh có nghe được những tin đồn kia không...

- Tìm một nơi ngồi đã, được không?

Thường Đạo nói. Trong bóng tối, mắt anh sáng ngời, giống như hai đốm hương đỏ trong khám thờ Phật tối.

- Được. Tôi nói, nhưng lại hỏi: - Ngồi đâu bây giờ?

- Đến bên kia đi, chỗ đó ít người, tương đối yên tĩnh.

Thường Đạo chỉ tay về tận cùng bãi. Nơi đó nhìn ra xa ra, ánh đèn sáng láng.

- Anh đến từ lúc nào thế?

Tôi vừa đi vừa hỏi.

- Cuối năm Tám Chín.

- Du học à?

- Đúng, mà cũng không. Anh đến để tìm một người.

Anh nói, ngữ khí mang chút bí hiểm.

Trong lòng tôi chợt khẽ rùng mình, không đừng được cười nói:

- Người yêu, đúng không?

- Đúng, mà cũng không đúng.

Thường Đạo nhìn tôi cười.

- Anh rất thích đọc Quan Tử mà.

Tôi cũng cười.

- Nhưng anh nói thực mà.

Thường Đạo vội cải chính.

- Anh học ở trường nào?

Tôi lại hỏi.

- Tốt nghiệp lâu rồi.

- Thế thì công việc tốt rồi?

- Sống dở chết dở ở một tờ báo Trung văn.

- Nói thế, anh là một nhà báo?

- Chỉ mưu sinh mà thôi. Đương nhiên, họ đồng ý giúp làm thẻ xanh.

....

Trong lúc nói chuyện, chúng tôi đã đi đến tận cùng bến cảng. Đón gió biển thốc lên mặt, vịn vào lan can sắt nhìn ra xa, chỉ thấy những con sóng đen dưới chân ào tới, những đợt sóng ào ào trong đêm.

Lại đi quanh một vòng, phát hiện ra có mấy người Mexico đang câu cá. Những chiếc giỏ đằng sau tấm thân khom khom của họ đều rỗng không.

- Anh có thường tới đây câu cá không?

Tôi quay đầu lại, bắt gặp ánh mắt Thường Đạo đang chăm chú nhìn mình

.

- ờ, không, anh đã bỏ ác theo thiện rồi, không sát sinh. Nhưng anh thích tới đây ngắm biển, nghe biển, nghe biển... Có lúc anh nghĩ, vùng nước này gọi là biển Thái Bình Dương thực ra thông với vùng biển ở quê anh, nước ở hai nơi đã quyện vào nhau từ lâu, không còn nhận ra đâu là ở đây, đâu là ở bên kia. Chỉ có điều nước biển ở quê anh xanh hơn nhiều, sạch hơn nhiều và linh thiêng hơn... em kể về mình đi, mấy năm vừa rồi sống thế nào?

- ờ. Tôi cảm thấy mình bị chiếu tướng, cũng không biết Thường Đạo hiểu về việc của mình như thế nào, bèn ậm ừ nói: - Cũng như thế, tạm bợ qua ngày mà.

Thường Đạo bỗng trầm lặng một lát rồi chợt lên tiếng:

- Hình như em béo hơn đấy. Thấy còn chưa thoả đáng, anh lại bổ sung: - ý của anh là em có hơi béo hơn trước.

Tôi bất giác mỉm cười, hiểu được ý tốt của anh ta, bèn nói theo:

- Anh cũng gầy đi nhiều.

- Nhưng lạc đà gầy còn hơn ngựa béo.

Thường Đạo cười, giơ tay bưng mặt và đầu.

Câu chuyện của chúng tôi bỗng đến đây chợt dừng.

Nói đến cùng, tôi không muốn người quen chen vào cuộc sống của mình, đồng thời có thể cảm giác rõ được hiện trạng của tôi, vì vậy tôi luôn luôn nhắc nhở mình không nên nói chuyện quá nhiều với Thường Đạo, biểu hiện quá thân mật, ngày ở trường cũng chỉ gặp nhau mấy lần. Bởi vậy tôi đưa ánh mắt nhìn ra biển cả đen ngòm, nhìn vào hư không tĩnh lặng dưới chòm sao lấp lánh.

Nhưng tiếng Thường Đạo nặng trình trịch dường như không phải ở bên tai, mà là từ biển rộng bao la, từ ngút tận bờ bên kia vẳng lại:

- Thạch Ngọc, anh vạn dặm xa xôi đến nước Mỹ, em có biết là tìm ai không?

- Tìm ai? Làm sao em biết được. Tôi sững người, cười đùa: - Chắc là tìm em.

Thường Đạo chợt biến sắc mặt, hai mắt trân trân nhìn tôi, bỗng nhiên nói:

- Đúng, chính là tìm em. Anh trút hơi thở dài, chợt dừng lại ngoảnh mặt đi nơi khác rồi mới nói tiếp: - Anh chỉ biết em ở Los Angeles. Hơn hai năm nay, cứ rỗi là anh lại đi tìm em khắp nơi, tìm hỏi tin tức về em, anh đã đi gần khắp các trường đại học. Anh cho rằng mình không thể tìm được em, nào ngờ hôm nay lại được gặp em trên bãi biển này...

- Em không đi học, từ trước đến giờ vẫn đi làm thuê. Nhưng, vì sao anh lại tìm em?

Tôi nói, bán tín bán nghi nhìn Thường Đạo, cảm thấy rất lạ trong lòng "Mình chẳng nợ tiền anh ta và cũng chẳng có ước hẹn gì, vậy anh ta tìm mình làm gì? Lẽ nào Ngô Nguyên nhờ cậy?"

- Vì sao? Anh cũng đã từng hỏi mình như vậy. Vì sao? Vì sao? Tối qua anh vẫn còn hỏi như vậy. Anh chỉ biết từ sau buổi tối anh ở nơi thực tập trở về thì mới biết rằng em đã rời trường, đã chia tay với Ngô Nguyên. Anh hồn phiêu phách lạc... dường như một phần cuộc sống không tồn tại. Anh đã không để ý tới tất cả --

Tim tôi thót lên, chợt hiểu mình đã gặp một gã "si tình"...

- Vì sao anh lại phải thế chứ?

Tôi nói giọng lạnh lùng cắt ngang lời Thường Đạo.

- Em hãy nghe anh nói, chẳng phải anh bốc đồng nhất thời. Thật mà, anh tin rằng, trong cõi thẳm sâu chúng ta đã có sự ràng buộc nào đó. Cho nên, anh hy vọng có thể cùng em, làm một người bạn trung thành với em nhất, cùng em đi qua quãng đời dằng dặc...

- Anh đang nói đùa đấy chứ? Không có người nào có thể làm bạn cùng em, đường em chỉ mình em đi. Chắc anh cũng đã nghe nói rồi, em là một người phụ nữ không hoàn chỉnh...

- Không, đừng nói thế. Anh ta nói rồi vung mạnh tay, chặn không cho tôi nói tiếp: - Anh đã biết hết rồi, chính vì vậy anh mới tìm em. Thật vậy, Thạch Ngọc, em đừng chán nản như vậy. Trong lòng anh, em mãi mãi duy nhất. Trên thế gian này nhất định còn có một tấm chân tình độc nhất vô nhị làm bạn với em.

Tôi cười lạnh lùng:

- Được rồi, Thường Đạo, đừng nói nữa. Trên thế gian này em sợ nhất hai chữ chân tình, nó khiến em không chịu nổi. Xin lỗi, em hơi lạnh, anh cũng đừng nói những lời ngốc ngếch nữa, đừng nghĩ ngợi lung tung. Mau về đi. Thật mà, em không đáng để anh phải mất công mất sức đi tìm như thế đâu.

Nói rồi tôi đứng dậy, chuẩn bị bước đi.

Thường Đạo thấy vậy cũng đứng lên, luống cuống nói:

-... Có thể em đã hiểu nhầm, Thạch Ngọc, anh chỉ muốn làm một người bạn đáng tin cậy của em, người bạn tri tâm, người bạn trung thực...

- Vậy em cám ơn anh, em sẽ ghi nhớ. Chỉ có điều em cũng muốn nói với anh, mấy năm nay, em đã rất bình tĩnh, em không muốn khơi lại vết thương của mình, cũng không muốn nghĩ đến chuyện cũ. Thạch Ngọc trước kia, Thạch Ngọc quen biết anh nay đã không còn nữa rồi, mất rồi, chết rồi. Hiện nay tên tiếng Anh của em là Fanny. Rất nhiều người gọi nhầm là Funny, cũng tốt. Em cũng muốn mình vui lên một chút, cười lên một chút, chỉ e đó là sự hài hước chua cay...

Thường Đạo không nói, ánh mắt khó hiểu nhìn tôi.

- Được rồi, tạm biệt, rất vui mừng vì đã gặp anh ở đây.

Tôi nói một câu rất khách khí, chìa cánh tay phải về phía Thường Đạo.

Thường Đạo chần chừ nắm lấy, đấy là một cánh tay cứng cáp khoẻ mạnh. Sau đó, Thường Đạo nói:

- Anh tiễn em nhé.

Thường Đạo lặng lẽ cùng tôi ra đến bãi đỗ xe bên đường.

- Em có thể cho anh số điện thoại không?

Thấy tôi sắp lên xe, Thường Đạo hỏi.

- Đương nhiên.

Tôi đáp liền, trong lòng vẫn còn chút do dự, nhưng thấy ánh mắt mong đợi của anh thì mềm lòng. Thường Đạo vội đặt cuốn sổ vào lòng bàn tay, đồng thời ghi số điện thoại của mình trên tấm danh thiếp của người khác rồi đưa cho tôi.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top