ttkh kid2404
Bài thảo luận
Môn: thị trường kỳ hạn: tổ chức và quản trị các giao dịch
Đề tài: hiệu quả sử dụng công cụ phái sinh rủi ro tín dụng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại HSBC
Chương 1: Tổng quan 1 số vấn đề lý luận cơ bản về công cụ phái sinh rủi ro tín dụng
1.1. Khái niệm
1.1.1. Công cụ phái sinh?
Các công cụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, rộng và đa dạng của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hoá, lãi suất, tỷ giá trên thị trường là những nguyên nhân gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xẩy ra, các công cụ tài chính phái sinh đã được hình thành, đó thực chất là những hợp đồng tài chính mà giá trị cuả nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở (hay còn gọi là chính phẩm).
Công cụ tài chính phái sinh: được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có (như: cổ phiếu, trái phiếu..) nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất….Công cụ tài chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts), hợp đồng tương lai (future contracts). Những công cụ trên còn có thể kết hợp với nhau, với những khoản vay hoặc những chứng khoán truyền thống để tạo nên các công cụ lai tạo.
Ví dụ: một hợp đồng quyền chọn mua 100 cổ phiếu của Nokia tại mức giá 50 EUR vào tháng 9-2006, công cụ cơ sở là cổ phiếu Nokia. Một hợp đồng tương lai mua trái phiếu chính phủ Đức thời hạn 10 năm trị giá 10 triệu EUR, công cụ cơ sở là trái phiếu chính phủ Đức.
1.1.2. Phái sinh rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng: theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng, đó là khả năng khách hàng không trả, hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho ngân hàng.
Nguồn gốc của phái sinh rủi ro tín dụng: Có rất nhiều động lực thúc đẩy sự ra đời của phái sinh rủi ro tín dụng, song động lực chính vẫn là nhu cầu quản trị rủi ro tín dụng của các tổ chức tài chính đặc biệt là các NHTM. Hiệp định an toàn vốn basel quy định mức an toàn vốn tối thiểu để bù đắp rủi ro tín dụng. Các NH cần một giải pháp bảo hiểm rủi ro tín dụng, qua đó giảm thiểu nhu cầu vốn mà không cần phải bán các danh mục tài sản của mình. Đây chính là động lực ra đời bảo hiểm rủi ro tín dụng mà hình thái thông dụng nhất chính là phái sinh rủi ro tín dụng, bảo lãnh tín dụng đã ra đời làm nhiệm vụ tương tự. Như vậy phái sinh rủi ro tín dụng bậc cao nhằm giúp các NH có một công cụ để chuyển giao mua, bán, gia công chế biến rủi ro tín dụng mà không cần phải chuyển giao các danh mục tín dụng của mình.
Công cụ phái sinh rủi ro tín dụng: là các công cụ phái sinh được sử dụng để quản lí rủi ro tín dụng. Chúng cho phép tách rủi ro tín dụng với các loại hình rủi ro khác vốn có trong mỗi công cụ cụ thể và chuyển rủi ro này từ người bán rủi ro (người mua sự bảo vệ tín dụng) đến người mua rủi ro (người bán sự bảo vệ tín dụng). Các phái sinh tín dụng chủ yếu có thể nêu lên là “total return swap”, “credit default swaps”, các giấy tờ phái sinh gắn với rủi ro tín dụng (credit linked notes). Khả năng tách rủi ro tín dụng khỏi các tài sản Có và tài sản Nợ làm cho phái sinh tín dụng trở nên hấp dẫn trong sử dụng. Nhờ các công cụ này, các TCTD có thể tự bảo vệ mình khỏi các rủi ro tín dụng, đảm bảo đa dạng hoá các rủi ro này.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ của công cụ tín dụng phái sinh bắt nguồn từ 3 sự trùng hợp của thị trường. Đầu tiên đó là trái phiếu công ty truyền thống thường bao gồm trong đó một số rủi ro. Giá của một trái phiếu có thể sụt giảm khi nhà đầu tư ngày càng muốn lợi nhuận cao từ các tài sản có thu nhập cố định (rủi ro lãi suất), do đó, họ thích các loại giấy tờ có giá đến kỳ hạn thanh toán hơn loại khác (rủi ro thời hạn). Cũng có thể họ cho rằng các công ty phát hành giấy tờ có giá này gặp khó khăn trong việc thanh toán chúng. Tín dụng phái sinh tách rủi ro tín dụng - ra khỏi hai vấn đề trên. Điều này cho phép các nhà đầu tư tự bảo vệ mình trước nguy cơ vỡ nợ, hoặc đầu cơ vào rủi ro vỡ nợ.
1.2. Đặc điểm công cụ phái sinh rủi ro tín dụng
Phái sinh rủi ro tín dụng là sản phẩm phái sinh, nên cũng sẽ mang những đặc điểm của sản phẩm phái sinh vì thế giá trị của nó phụ thuộc vào giá trị, trạng thái của tài sản cơ sở. Đó là điều kiện đầu tiên để tồn tại sản phẩm phái sinh rủi ro tín dụng, ở đây tài sản cơ sở là những hợp đồng tín dụng, từ những hợp đồng này chủ thể cấp tín dụng sẽ tạo ra những sản phẩm phái sinh nhằm bảo hiểm cho rủi ro tín dụng.
o phái sinh rủi ro tín dụng là một dạng chuyển giao rủi do tín dụng, được sử dụng nhằm hạn chế rủi ro tín dụng
Do tín dụng bao giờ cũng tiềm ẩn những rủi ro gây ảnh thưởng cho chủ thể cung cấp tín dụng, cho nên để giảm hiểu rủi ro này hay là bảo hiểm cho tín dụng thì những sản phẩm phái sinh được tạo ra nhằm mục đích đó. Những chủ thể cung cấp tín dụng sẽ tạo ra những sản phẩm phái sinh rủi ro tín dụng, sau đó đem bán hay mua nó trên thị trường, lúc này rủi ro tín dụng sẽ được chuyển giao từ chủ thể cấp tín dụng sang một chủ thể khác. Rủi ro càng cao thì phí chủ thể bán phái sinh phải chịu càng cao.
Phái sinh rủi ro tín dụng có thể mua và bán trên thị trường
Phái sinh tín dụng cũng mang tính sản phẩm và nó được tách ra khỏi gốc (hợp đồng tín dụng) cho nên nó như một sản phẩm độc lập. Do vậy, trong thời hạn hợp đồng tín dụng có hiệu lực thì sản phẩm phái sinh này có thể mua bán trên thị trường như những sản phẩm phái sinh từ khác, như chứng khoán phái sinh, quyền mua,…
Phái sinh rủi ro tín dụng là một công cụ để đầu tư trên thị trường
o Do phái sinh rủi ro tín dụng có khả năng mua bán trên thị trường thứ cấp, cho nên nó cũng sẽ trở thành một công cụ đầu tư cho các nhà đầu tư như chứng khoán, chứng chỉ quỹ, hối phiếu… Những nhà đầu tư sẽ mua bán và hưởng lợi từ chênh lệch giá, hay phí mà chủ thể cấp tín dụng chi trả.
o Phái sinh rủi ro tín dụng chỉ chuyển giao rủi ro chứ không cần thiết chuyển giao những danh mục rủi ro tín dụng
Do những sản phẩm phái sinh tín dụng được tách rời khỏi gốc tài sản, cho nên những việc chủ thể cấp tín dụng sẽ không cần phải chuyển giao những danh mục rủi ro, mà chì cần thực hiện việc bán sản phẩm phái sinh, việc đó coi như rủi ro đã được chuyển giao.
o Công cụ phái sinh rủi ro tín dụng giúp doanh nghiệp cân đối luồng tiền, cơ cấu lại tài sản nợ - tài sản có và giảm bớt chi phí vốn trên cơ sở nhận định đúng diễn biến thị trường. Bắt nguồn từ đặc điểm công cụ phái sinh rủi ro tín dụng có tính bảo hiểm rủi ro, cho nên doanh nghiệp không cần phải lập những quỹ dự phòng rủi ro, sử dụng nguồn vốn này vào kinh doanh, kéo theo đó là doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được một khoản phí nhằm duy trì quỹ này.
1.3. Các sản phẩm phái sinh rủi ro tín dụng
1.3.1. Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng ( CDS)
Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS): là một hợp đồng phái sinh tín dụng mà theo đó bên mua sẽ thanh toán một khoản tiền định kỳ cho bên bán, đổi lại họ sẽ nhận được khoản bồi thường nếu công cụ tài chính cơ sở bị mất khả năng thanh toán.
Cơ chế : trong hợp đồng hoán đổi rủi ro tin dụng, bên mua bảo vệ (bên B) sẽ thanh toán cho bên bán bảo vệ (bên A) một khoản phí bảo hiểm cố định hoặc định kỳ trên cơ sở hàng tháng hoặc hàng quý. Ngược lại bên A sẽ thanh toán cho bên B một khoản bồi thường rủi ro tín dụng nhất định khi sự kiện tín dụng xảy ra đối với tài sản tham chiếu mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Khi sự kiện tín dụng xảy ra, hợp đồng hoán đổi tín dụng coi như chấm dứt và các khoản phí bảo hiểm thanh toán định kỳ cũng ngừng thanh toán.. Khoản bồi thường mà bên A thanh toán cho bên B có tính chất tiềm ẩn vì nó phụ thuộc vào việc sự kiện tín dụng có xảy ra hay không đối với tài khoản tham chiếu.
Nếu không xảy ra sự kiện tín dụng, số tiền thanh toán là 0
Nếu xảy ra sự kiện tín dụng, số tiền thanh toán = giá trị gốc - giá trị thu hồi
Lợi ích của hoán đổi tín dụng
- Quản lý danh mục rủi ro chủ động
- Dễ dàng chuyển đổi danh mục
Ứng dụng: hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng có thể sử dụng cho các mục đích bao gồm bảo hiểm rủi ro, đầu tư và khai thác chênh lệch
1.3.2. Chứng khoán tổng hợp
Đối với chứng khoán hóa tổng hợp, công ty có mục đích đặc biệt không mua danh mục rủi ro tín dụng một cách thông thường mà qua công cụ phái sinh, cụ thể là hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS). Các trái phiếu CDO phát hành thông qua chứng khoán tổng hợp gọi là CDO tổng hợp.
Mô hình chứng khoán tổng hợp:
Đối với mô hình trên, ngân hàng bán rủi ro tín dụng cho công ty có mục đích đặc biệt bằng hợp đồng CDS. Đổi lại ngân hàng sẽ được nhận một khoản bồi thường rủi ro khi danh mục tài sản tham chiếu bị rủi ro tín dụng. Phần bồi thường sẽ tương đương mệnh giá danh mục rủi ro- giá trị thu hồi của gốc tài sản.
Công ty có mục đích đặc biệt mua rủi ro tín dụng của ngân hàng và chuyển giao rủi ro sang cho nhà đầu tư bằng cách phát hành trái phiếu lồng ghép phái sinh rủi ro tín dụng. Chứng khoán này chính là CDO tổng hợp mà bản chất của nó là trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng.
Do việc sử dụng công cụ phái sinh, công ty có mục đích đặc biệt không cần dùng tiền mặt để mua rủi ro tín dụng. Thay vào đó, công ty có mục đích đặc biệt sẽ đầu tư tiền thu được từ phát hành trái phiếu CDO tổng hợp và phí bảo hiểm tín dụng vào trái phiếu chính phủ.
Trái phiếu CDO tổng hợp được phân chia làm nhiều gói có mức độ rủi ro tín dụng khác nhau tương ứng với các mức sinh lời khác nhau. Gói Z (gói cổ phiếu) thường được các ngân hàng giữ lại do tính chất rủi ro cao hoặc được bán cho các nhà đầu tư mạo hiểm. Trường hợp này, rủi ro tín dụng không xảy ra, chủ đầu tư gói Z sẽ là người có lợi nhuận cao nhất.
Với mô hình chứng khoán tổng hợp,chủ thể tạo lập tài sản không cần thaoats bỏ danh mục tài sản của mình mà vẫn đạt được mục tiêu chứng khoán hóa là bán rủi ro tín dụng sang cho nhà đầu tư. Do đó chứng khoán tổng hợp có tính ứng dụng cao đối với các ngân hàng muốn giảm bớt rủi ro tín dụng mà không muốn mất quan hệ với các khách hàng trong danh mục tín dụng.
1.3.3. Trái phiếu liên kết phái sinh rủi ro tín dụng (Credit Linked Note)
- Trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng: là sự kết hợp giữa một trái phiếu doanh nghiệp thông thường với một hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng. Về bản chất, nhà đầu từ mua trái phiếu thông thường cộng với việc bán bảo vệ( mua rủi ro) tín dụng của một tài sản tham chiếu, do đó nhận được cuống lãi suất kết hợp một khoản phí bảo hiểm rủi ro tín dụng từ việc bán bảo hiểm rủi ro tín dụng.
Trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng = trái phiếu + hoán đổi rủi ro tín dụng
Ngân hàng là chủ thể phát hành trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng nhằm tăng tính hấp dẫn của sản phẩm, đặc biệt đối với nhóm khách hàng muốn mua rủi ro tín dụng như các quỹ đầu cơ hay các công ty bảo hiểm. Ngân hàng phát hành trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng thông thường sẽ bán lại trái phiếu thông thường cho phòng quản lý vốn và bán bảo vệ tín dụng (mua rủi ro tín dụng) cho thị trường nhằm tìm kiếm lợi nhuận chênh lệch.
Cuống lãi suất Trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng= lãi suất kho bạc+ biên độ tín dụng (chủ thể phát hành)+ phí bảo hiểm tín dụng (tài sản tham chiếu)
Trong quá trình phát hành trái phiếu, nếu k xảy ra sự kiện tín dụng, nhà đầu tư sẽ được hoàn trả toàn bộ số tiền gốc tại thời điểm đáo hạn. Tuy nhiên, nếu sự kiện tín dụng phát sinh trong quá trình lưu hành trái phiếu, nhà đầu tư sẽ không được nhận số tiền gốc của trái phiêu mà chỉ được nhận số tiền gốc sau khi trừ đi tổn thất rủi ro tisnd ụng của gốc tài sản tham chiếu.
1.3.4. Hợp đồng hoán đổi toàn bộ lợi ích (TRS)
Khái niệm: là dạng hợp đồng hoán đổi cho phép nhà đầu tư nhận được toàn bộ lợi ích giống như việc sở hữu tài sản mà không cần phải nắm giữ tài sản thực tế trên bảng cân đối kế toán. Ngược lại, nhà đầu tư sẽ thanh toán chi phí lãi suất dựa trên một tỷ lệ thỏa thuận trước. Về bản chất kinh tế, hợp đồng hoán đổi toàn bộ cũng như việc nhà đầu tư đi vay tiên (phát sinh chi phí tài chính) để mua tài sản và hưởng toàn bộ lợi ích cũng như chịu mọi rủi ro từ việc nắm giữ tài sản.
Hợp đồng hoán đổi toàn bộ lợi ích cho phép nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy tài chính trong việc đầu tư một tài sản nhất định mà không cần bỏ ra số vốn ban đầu. Nhà đầu tư sẽ chịu mọi rủi ro liên quan đến tài sản , trong đó bao gồm rủi ro tín dụng và rủi ro default đối với các tài sản rủi ro, các ngân hàng đầu tư thường phân loại hợp đồng hoán đổi toàn bộ lợi ích như một sản phẩm phái sinh tín dụng.
Mô hình hoán đổi rủi ro tín dụng:
- trong quá trình thực hiện hợp đồng:
- ngày đáo hạn hợp đồng:
Trong mô hình trên, bên bán lợi ích tài sản sẽ nhận được lãi suất thảo thuận và thanh toán cuống lãi suất của tài sản tham chiếu cho bên mua lợi ích tài sản. Đến ngày đáo hạn hợp đồng, bên bán sẽ thanh toán phần tăng giá trị tài sản và nhận về phần giảm giá trị tài sản. Như vậy bên mua lợi ích tài sản sẽ chịu thua lỗ trong trường hợp rủi ro tín dụng xảy ra đối với tài sản tham chiếu. Trong một số trường hợp, bên mua lợi ích tài sản phải duy trì số dư tài khoản ký quỹ để đảm bảo khả năng thanh toán hợp đồng.
Mục đích sử dụng:
- Tạo đòn bẩy tài chính cho bên mua lợi ích tài sản và cho phép nhà đầu tư xây dựng danh mục phái sinh rủi ro ngoại bảng cho mục đích tiết kiệm thuế
- Đầu tư: cho phép bên bán lợi ích tài sản thực hiện chuyển giao rủi ro của tài sản cho thị trường mà không cần phải bán tài sản; cho phép thay đổi cơ cấu ngày đáo hạn của danh mục tài sản rủi ro hiện tài bằng việc mua hoặc bán lợi ích/rủi ro gắn với tìa sản.
Hoán đổi tổng tỉ suất sinh lời chỉ thiết thực đối với trái phiếu có tính thanh khoản hợp lí và không thích hợp đối với các khoản vay thông thƣờng. Điều này là bởi vì các bên phải có khả năng nhận diện tổng tỉ suất sinh lời trên kì thanh toán để xác định một bên nợ bên kia bao nhiêu. Do đó phải có một thước đo xác thực giá trị thị trường trái phiếu.
1.3.5. Quyền chọn biên độ tín dụng
· Mức thỏa thuận hay CLTD giảm dưới mức quy định
Quyền chọn biên độ tín dụng là quyền chọn trên chênh lệch của trái phiếu so với một trái phiếu tham chiếu. Thông thường trên thị trƣờng trái phiếu, chênh lệch lãi suất trái phiếu so với lãi suất của trái phiếu kho bạc Mĩ có thể so sánh được gọi là chênh lệch tỉ suất sinh lời (yield spread). Chênh lệch này giao động tùy theo khẩu vị rủi ro tín dụng của nhà đầu tư trong thị trường.
· Sử dụng quyền chọn biên độ tín dụng:
- Giả sử rủi ro tín dụng của người đi vay hiện nay cho thấy rằng phải chi trả 50 điểm cơ bản trong lãi suất so với trái phiếu kho bạc Mĩ có cùng ngày đáo hạn. Người nắm giữ trái phiếu có thể mua một quyền chọn chênh lệch tín dụng với giá thực hiện 60 điểm cơ bản. Dĩ nhiên điều này chỉ xảy ra nếu thị trường nhận thấy rủi ro tín dụng gia tăng. Đối với quyền này, người nắm giữ quyền chọn phải trả trước một phần bù. Nhƣ vậy, quyền chọn chênh lệch tín dụng cũng giống như một quyền chọn thông thường những tài sản cơ sở là chênh lệch lãi suất của trái phiếu so với lãi suất trái phiếu kho bạc Mĩ có thể so sánh được. Loại công cụ phái sinh tín dụng này cũng đòi hỏi trái phiếu cơ sở có tính thanh khoản đầy đủ để có thể đánh giá chênh lệch tín dụng một cách chính xác.
1.4. Nguyên nhân rủi ro tín dụng
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và người đi vay. Người đi vay sử dụng tiền vay trong một khoảng thời gian, không gian cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi trường kinh doanh, đây chính là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. RRTD xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ ngân hàng cho vay và người đi vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan.
Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan
- Rủi ro do môi trường kinh tế không thuận lợi:
Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới là nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người đi vay. Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn phụ thuộc rất lớn vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công... vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Những khó khăn do bị khống chế hạn ngạch trong ngành dệt may, hay những vụ kiện bán phá giá trong ngành thủy sản... làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Không chỉ xuất khẩu, những mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt hàng sắt thép bị ảnh hưởng rất lớn bởi giá thép thế giới, việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành rất lớn trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
Quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế cũng dẫn đến những hệ quả tất yếu làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên do các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn đã bị các ngân hàng nước ngoài thu hút bằng các sản phẩm, dịch vụ mới với nhiều tiện ích hơn.
Sự tấn công của hàng nhập lậu làm điêu đứng các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn vào các doanh nghiệp này. Sự tràn lan của hàng nhập lậu tại các thành phố lớn với các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải, quần áo, mỹ phẩm... là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình hàng lậu ở nước ta.
Ngoài ra, sự thiếu quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý, công khai đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành. Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không mang lại lợi nhuận, và do đó dẫn đến sự chuyển dịch vốn từ ngành này sang ngành khác. Nếu để sự cạnh tranh phát triển một cách tự phát mà không có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước sẽ dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư ở một số ngành, gây khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.
- Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi:
Những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành nhiều luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Song, việc triển khai vào hoạt động ngân hàng vẫn còn chậm và gặp phải nhiều vướng mắc. Như việc cưỡng chế tài sản thu hồi nợ, mặc dù các văn bản luật đều có quy định: "Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ, ngân hàng thương mại có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay", nhưng trên thực tế các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để tòa án xử lý theo con đường tố tụng...
Hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống từ NHNN cũng cần phải luôn cải thiện, nâng cao chất lượng và nhất là nắm bắt kịp tốc độ cải tiến công nghệ mới của các NHTM hiện nay. Việc thanh tra tại chỗ là phương pháp quản lý nhanh nhất và hiệu quả nhất nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những rủi ro trong hoạt động tín dụng của các NHTM. Nếu thanh tra ngân hàng chỉ hoạt động một cách thụ động, không cảnh báo và có biện pháp ngăn chặn ngay từ đầu, để khi hậu quả nặng nề xảy ra rồi mới can thiệp thì rủi ro và nguy cơ đe dọa sự an toàn trong toàn hệ thống là rất lớn.
Hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động tương đối hiệu quả và đạt được những kết quả bước đầu rất khả quan. Tuy nhiên, đây vẫn chưa là một cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thậm chí cập nhật không kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu tra cứu thông tin của các NHTM.
Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan
- Rủi ro do nguyên nhân từ phía khách hàng vay:
Phần lớn các khách hàng quan hệ tín dụng tại các NHTM đều có phương án kinh doanh cụ thể, khả thi, mang lại hiệu quả không những cho doanh nghiệp mà còn cho cả ngân hàng. Tuy nhiên, những vụ việc phát sinh từ một số ít những doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản đã để lại những hậu quả hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của cán bộ và ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác.
Ngoài ra, một thực tế hiện nay đã cho thấy phần lớn các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, chủ yếu tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít có doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Một khi quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý thì những rủi ro dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi là rất lớn, mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Bên cạnh đó, sự minh bạch về sổ sách kế toán của doanh nghiệp vẫn còn là một khó khăn rất lớn đối với cán bộ ngân hàng trong công tác thẩm định năng lực tài chính của khách hàng vay vốn. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp đôi khi chỉ thể hiện tính hình thức hơn là thực chất. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn chú trọng phần tài sản đảm bảo như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống RRTD.
- Rủi ro do nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay:
Công tác kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì sự nhanh chóng, kịp thời và sâu sát của kiểm tra viên do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Kiểm tra nội bộ nên được phát huy về bản chất hơn tính hình thức và phải được xem như là hệ thống "giảm phanh" của cỗ xe tín dụng. Tín dụng càng tăng trưởng với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả mới có thể tránh cho cỗ xe lao đi trước những rủi ro vốn luôn tồn tại trên con đường đi tới.
Vấn đề con người cũng cần chú trọng nâng cao tinh thần đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tình trạng một số cán bộ tín dụng tiếp tay với khách hàng làm giả hồ sơ vay, nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng đã tồn tại trên thực tế và để lại những hậu quả nghiêm trọng, gây ảnh hưởng rất lớn đến uy tín ngân hàng.
Việc giám sát và quản lý nợ sau khi cho vay cũng là một trong những công cụ hữu ích góp phần giảm thiểu RRTD. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo được hoàn trả. Đây cũng là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ làm công tác tín dụng nói riêng, và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay không những để tuân thủ các điều khoản đã đề ra trong hợp đồng tín dụng đã ký mà còn là điều kiện để tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng kinh doanh. Tuy nhiên, do tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, cũng như do hệ thống quản lý thông tin của doanh nghiệp còn lạc hậu, không cung cấp kịp thời những thông tin mà ngân hàng yêu cầu, vì vậy, công tác kiểm tra sau cho vay vẫn chưa được thực hiện tốt.
Sự hợp tác của các NHTM chưa thực sự chặt chẽ cũng là nguyên nhân gián tiếp gây ra những rủi ro trong hoạt động tín dụng. Một khách hàng vay vốn tại nhiều ngân hàng khác nhau nhưng khả năng tài chính để trả được nợ vay phải là một con số cụ thể và có giới hạn tối đa. Nếu do thiếu sự trao đổi thông tin, dẫn đến nhiều ngân hàng cho vay cùng một khách hàng dẫn đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu vốn cho nền kinh tế ngy càng tăng, dẫn đến mức độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này cũng kéo theo sự gia tăng RRTD phát sinh từ nhiều nguyên nhân chủ quan hay khách quan. Được xem là một trong những hoạt động kinh doanh có thu lợi nhuận, tín dụng ngân hàng đương nhiên tồn tại những rủi ro tiềm ẩn vốn có. Các NHTM chấp nhận sự tồn tại của những rủi ro này trên cơ sở đưa ra những chính sách, công cụ, biện pháp quản lý rủi ro cần thiết nhằm hạn chế tối đa các hậu quả phát sinh và tạo ra sự tăng trưởng tín dụng một cách ổn định, bền vững
Chương 2: Hiệu quả sử dụng công cụ phái sinh rủi ro tín dụng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM HSBC Việt Nam.
2.1. Tình hình sử dụng các công cụ phái sinh trong hoạt động kinh doanh của các NHTM tại Việt Nam:
· Thống kê của ngân hàng thanh toán quốc tế cho thấy, đến hết 2006, số dư hợp đồng giao dịch phái sinh trên thị trường tài chính quốc tế tương đương 417 tỷ USD. Thế nhưng, con số này ở Việt Nam rất ít được nhắc tới vì quá khiêm tốn, mặc dù đây là công cụ bảo hiểm rủi ro tài chính phổ biến trên thế giới. Những lợi ích mà ngân hàng thương mại thu được khi thực hiện công cụ phái sinh: mục đích của ngân hàng thương mại khi tham gia công cụ phái sinh là để bảo hiểm rủi ro giao dịch tài chính cho cả ngân hàng và khách hàng. Trong quá trình hoạt động, nếu có sinh lời thì bản chất vẫn là phòng ngừa rủi ro để tối đa hóa lợi nhuận chứ không hẳn là kiếm lời. Vậy, doanh nghiệp sẽ được lợi gì? xét tổng thể qua hàng năm, chỉ riêng doanh nghiệp nước ngoài khi đưa vốn ngoại tệ vào Việt Nam đầu tư, sau khi thu lợi nhuận và chuyển tiền về nước, nếu sử dụng công cụ phái sinh, họ sẽ tránh được thiệt hại khi có rủi ro về tỷ giá. Tiếp đó là các dự án đầu tư với số vốn lớn. Các dự án này đều vay hay mua chịu một lượng lớn hàng hóa nước ngoài bằng USD, nếu sử dụng hoán đổi lãi suất (Swaps) thì có thể tránh được thiệt hại không nhỏ với những biến động khó lường của thị trường tiền tệ. Thế nhưng, chủ các dự án này gần như chưa bao giờ sử dụng công cụ phái sinh. Ngay cả như quỹ dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước, tương đương với lượng ngoại tệ của vài chục tuần nhập khẩu cũng đang tồn tại như một thứ "quỹ chết trong ao tù", mặc dù lượng dự trữ tăng lên và đồng USD đang yếu đi từng ngày. Giá như có một cơ chế rõ ràng, cho phép sử dụng quỹ này thích ứng với các công cụ phái sinh thì đồng vốn sẽ được sinh lời thay vì nằm im trong két sắt. Mặc dù hữu ích là vậy nhưng công cụ phái sinh hiện phát triển khá khiêm tốn ở chi nhánh ngân hàng Citibank, Standard Chartered, BIDV, Vietcombank, HSBC với doanh số chưa đáng kể so với doanh số nghiệp vụ truyền thống. Ngay cả với HSBC, mặc dù hoạt động tại Việt Nam đã 6 năm với hơn 1.000 khách hàng, nhưng sau 2 năm triển khai dịch vụ, mới chỉ có vài doanh nghiệp sử dụng dịch vụ này. Vì giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm bởi tính biến động khôn lường của nó. Các chủ thể tham gia không còn cách nào khác ngoài việc tự bảo hiểm cho mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ 1 phần rủi ro cho thị trường bằng các Công cụ tài chính phái sinh. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, mức độ áp dụng các Công cụ phái sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế. Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho phép chúng áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại. Nói cách khác, thói quen và tập quán kinh doanh là những cản trở lớn đối với quá trình phổ biến các Công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam.
· Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt Nam theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các ngân hàng thương mại khác được phép của ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, Hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị trường liên ngân hàng ở VN chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá và những hạn chế của NHNN. Vì thế, các giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5-7% khối lượng giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
· Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định 430/Q Đ-NHNN13 ngày 24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/ Q Đ –NHNN ngày 17/7/2001 của thống đốc NHNN. Tuy nhiên đây chỉ là những giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa NHNN và NHTM. Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp các NHTM dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VNĐ.
· Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở Việt Nam và được các NH sử dụng do nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động NH quốc tế. NHNN đã cho phép các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo quyết định số 1133/QĐ- NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các NHTM và các TCTD, các DN được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với DN vay vốn tại NH; giữa NH với những DN vay vốn tại các tổ chức tín dụng (TCTD) khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các NH trong nước với nhau và giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các TCTD nước ngoài. Trên cơ sở nới lỏng quản lý của NHNN, nhiều NHTM đã triển khai cung cấp Hợp đồng hoán đổi lãi suất cho các doanh nghiệp (DN), tìm kiếm đối tác là các TCTD nước ngoài để ký kết hợp tác. Tuy nhiên, giao dịch phái sinh trong đó có hoán đổi lãi suất được coi là hoạt động ngoại bảng của NH do đó hướng dẫn hạch toán từ phía NHNN đối với các nghiệp vụ này đang được xem là điều kiện đủ để các NHTM đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho khách hàng.
· Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt Nam (từ 1/2003), đã có một só ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi có quy định chính thức của ngân hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên, khi được NHNN cho phép, HSBC đã cung cấp gói Swaps tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD trên tại thị trường Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ khách hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này, khách hàng đã đạt được mức lãi suất cạnh tranh lớn nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà không chịu bất cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND. Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng sử dụng khi khách hàng vay ngoại tệ. Và trong tương lai, Standard Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản phẩm phái sinh nữa trên thị trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai phát triển thị trường.
· Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán đổi lãi suất cộng dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện trong tương lai …cũng đã xuất hiện và triển khai trên thị trường ngoại hối trong thời gian gần đây. Điều đặc biệt là các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được thí điểm áp dụng tại Việt Nam theo công văn 3324/NHNN-CSTT, tháng 4/2006 cho phép HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm hơn. Tức một bên nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, định kỳ sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp trái phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay trên bị vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ.
· Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng của các loại trái phiếu do chính phủ hoặc các DN Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, các khoản vay dài hạn của DN Việt nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC ở nứơc ngoài. Thời hạn của giao dịch không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ này cũng giống như thực hiện một khoản đầu tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm những mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình thường, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các TCTD. Hơn nữa, việc sử dụng các công cụ mới này còn góp phần nâng cao mức độ tín nhiệm của chính phủ và các DN Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế.
· Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những khoản cho vay và đi vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và chỉ được thực hiện đối với các DN hoạt động tại VN, các NHTM hoạt động ở VN được NHNN cho phép và các NH ở nước ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các NHTM khác, bao gồm cả NHTM cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này.
· Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân hàng Hồng Kông bank chi nhánh thành phố HCM. Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các DN và cá nhân được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VNĐ thông qua một tỷ giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị trường đối với công cụ. Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng được phép của Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện các nghiệp vụ Option. Đặc biệt, Ngân hàng nhà nước cũng đã cho phép thực hiện các Options tiền Đồng tại BIDV, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, ngân hàng cổ phần thương mại quốc tế. Với nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được mở rộng bởi khi đó VND sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Vị thế của VND và Việt Nam cũng qua đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm nên các ngân hàng này bị giới hạn bởi thời gian thực hiện. Nhìn chung, hoạt động này đang đem lại một cơ cấu sản phẩm hiện đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập. Hơn nữa, nhu cầu của khách hàng đối với các giao dịch Options đang có xu hướng tăng, do vậy ngân hàng nhà nước đã tiến hành gia hạn thí điểm hợp đồng các nghiệp vụ này.
· Quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị trường đối với công cụ này.
· Điểm lại những mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở VN, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Đồng thời, các nghiệp vụ phái sinh vẫn còn sơ khai, kém phát triển thể hiện ở doanh số giao dịch thấp, thậm chí ở một số NHTM mặc dù đã triển khai nghiệp vụ option nhưng không có giao dịch. Mặc dù trên thế giới các nghiệp vụ phái sinh để bảo hiểm rủi ro tỷ giá như forward, swap, futures, option đã được sử dụng phổ biến từ rất lâu với doanh số hàng ngày lên tới hàng trăm tỷ USD. Chính vì vậy, việc ứng dụng các công cụ phái sinh nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng tại Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn.
2.2. Thực trạng sử dụng công cụ phái sinh rủi ro tín dụng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh cuả HSBC Việt Nam:
2.2.1. Những thành tựu đạt dược:
HSBC là ngân hàng lớn nhất và mạnh nhất tại Việt Nam trong các ngân hàng nước ngoài với đội ngũ chuyên viên giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn quản lý rủi ro, giao dịch trái phiếu, kinh doanh ngoại hối và tư vấn phát hành trái phiếu … HSBC luôn là ngân hàng tiên phong trong việc cung cấp các các giải pháp phái sinh cho khách hàng doanh nghiệp và các định chế tài chính. HSBC tự hào là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam thực hiện gaio dịch hoán đổi lãi suất giữa đồng đôla Mỹ và đồng Việt Nam, tạo nền tảng cho sự phát triển của thị trường phái sinh trong tương lai của Việt Nam. Giao dịch này cũng là giao dịch phái sinh liên quan tới tiền Đồng đầu tiên tại Việt Nam. Năm 2007, HSBC thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất tiền đồng và hoán đổi USD/VND đầu tiên trên thị trường liên ngân hàng. HSBC cũng là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam được ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép giao dịch sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng của Việt Nam và rủi ro tín dụng của các quốc gia khác. Hiện nay, HSBC là ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực giao dịch quyền lựa chon hối đoái, phái sinh kim loại quý, hoán đổi lãi suất, sản phẩm phái sinh tín dụng và các sản phẩm đầu tư có cấu trúc. HSBC cũng là ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực tư vấn phát hành trái phiếu. Đóng vai trò nhà tư vấn xếp hạng tín dụng, đồng thu xếp và điều hành sổ cho trái phiếu tăng vốn cấp 2 bằng tiền đồng Việt Nam của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Được minh chứng qua các giải thưởng mà HSBC đã đạt được như: Ngân hàng nước ngoài tốt nhất Việt Nam 2006, 2007, 2008, 2009, 2010 do tạp chí FinanceAsia bình chọn, … Mặc dù các sản phẩm phái sinh mang lại những lợi ích vô cùng to lớn cho tất cả các chủ thể trong kinh tế và đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Nhưng thực tế ở Việt Nam các ngân hàng chưa tận dụng được lợi ích của các công cụ này, ngay cả HSBC là một trong những ngân hàng nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam cũng chỉ mới cung cấp các sản phẩm phái sinh sau:
· Hoán đổi lãi suất: HSBC cung cấp các dịch vụ hoán đổi lãi suất như sau (bao gồm cả VND):
o Phòng chống rủi ro lãi suất hay thay đổi hình thức rủi ro để phù hợp với yêu cầu của khách hàng.
o Chuyển đổi từ lãi suất thả nổi sang lãi suất cố định (không làm thay đổi những điều kiện khác của các khoản vay hiện có) để tránh các rủi ro tăng lãi suất (trong trường hợp khách hàng đang vay lãi suất thả nổi).
o Chuyển đổi từ lãi suất cố định sang thả nổi khi dự đoán lãi suất có xu hướng tăng (trong trường hợp khách hàng đang gửi tiền với lãi suất cố định)
Số tiền thanh toán được tính dựa trên mức lãi suất chênh lệch giữa cố định và thả nổi vào ngày thanh toán (nhân với vốn gốc). Nếu lãi suất thả nổi lớn hơn lãi suất cố định, HSBC sẽ trả cho khách hàng phần chênh lệch (lãi suất thả nổi - lãi suất cố định) trong trường hợp khách hàng đang vay lãi suất thả nổi và giao dịch Hoán đổi lãi suất để chuyển từ thả nổi sang cố định.
Nếu lãi suất thả nổi nhỏ hơn lãi suất cố định, khách hàng sẽ trả lại cho ngân hàng khoản chênh lệch (lãi suất cố định – lãi suất thả nổi).
Số tiền gốc không phải trao đổi, không phải trả phí.
Một bên trong nghiệp vụ hoán đổi sẽ trả lãi suất cố định cho phía bên kia để nhận được lãi suất thả nổi.
Chúng tôi sẵn sàng cung cấp nghiệp vụ quyền lựa chọn lãi suất cho đồng USD nếu khách hàng có nhu cầu.
Ø Lợi ích:
o Phòng ngừa sự biến động bất lợi của lãi suất.
o Đảm bảo các chi phí vay nợ hoặc lợi nhuận từ đầu tư.
o Không phải trả phí khi tham gia vào nghiệp vụ hoán đổi.
o Sản phẩm có tính linh hoạt cao vì nghiệp vụ này hoàn toàn độc lập với các khoản vay hay các khoản đầu tư thực tế.
o Không chuyển vốn gốc.
ü Quyền chọn ngoại tệ: HSBC sẽ tính phí quyền chọn để đổi lấy sự linh hoạt cần thiết khi lượng tiền tệ giao dịch không ổn định. Giá trị hợp đồng tối thiểu là 200.000 USD hay giá trị tương đương bằng các tiền tệ khác. Không giới hạn giá trị tối đa của hợp đồng. Kỳ hạn tối đa lên đến 12 tháng. Phí quyền chọn hay phí trả trước phải được thanh toán trong vòng 2 ngày kể từ ngày ký hợp đồng và không yêu cầu hạn mức tín dụng giao dịch ngoại hối đối với hợp đồng quyền chọn ngoại tệ tiêu chuẩn. Có hình thức phí quyền chọn bằng 0.
Ø Lợi ích:
o Cung cấp các giải pháp linh hoạt, phù hợp giúp quản lý rủi ro ngoại hối của doanh nghiệp.
o Bảo vệ doanh nghiệp trước biến động bất lợi đồng thời tạo cơ hội cho doanh nghiệp hưởng lợi từ biến động có lợi của thị trường hối đoái.
o Nâng cao năng lực hoạch định ngân sách và quản lý dòng ngân lưu.
o Các điều khoản linh động.
o Luôn sẵn có đối với các ngoại tệ mạnh.
ü Hoán đổi tiền tệ: HSBC cung cấp các dịch vụ hoán đổi tiền tệ như sau (bao gồm cả VND):
o Kỳ hạn thông thường lên đến 5 năm. Kỳ hạn dài hơn tùy thuộc vào sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
o Thực hiện việc trao đổi vốn gốc vào ngày đáo hạn.
o Tỉ giá giao ngay tại thời điểm thực hiện giao dịch quyết định tổng số vốn gốc.
o Việc thanh toán lãi được xác định ngay từ đầu.
o Hạn mức tín dụng lớn.
o Khách hàng được bảo vệ chống lại các rủi ro về tỉ giá hối đoái cho cả phần vốn gốc lẫn phần lãi.
o Khách hàng nhận được vốn với số lượng cần thiết, loại tiền tệ và kỳ hạn mong muốn.
Ø Lợi ích:
o Rẻ hơn so với thị trường tiền mặt (ví dụ như phát hành trực tiếp trái phiếu ngoại tệ)
o Có thể quyết định đổi tiền đầu tư ngay từ đầu nếu mong muốn.
o Hồ sơ giao dịch đơn giản hơn so với thị trường tiền mặt (ví dụ như phát hành trái phiếu hay thu xếp vay tiền).
o Tùy biến và có thể đảo ngược bất cứ lúc nào.
o Nằm ngoài bảng cân đối kế toán.
ü Giao dịch hối đoái hoán đổi: HSBC có thể cung cấp hạn mức giao dịch lên đến 6 triệu USD và một kỳ hạn giao dịch tối đa 12 tháng. Hạn mức tín dụng giao dịch ngoại hối được áp dụng và các ngoại tệ mạnh luôn sẵn có. Các giao dịch hối đoái giao ngay và kỳ hạn được thực hiện với cùng giá trị hợp đồng, tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn được trích dẫn trong mỗi hợp đồng.
Ø Lợi ích:
o Loại bỏ nguy cơ phát sinh lỗ tỷ giá do biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái (tuy nhiên, doanh nghiệp không tận dụng được những thay đổi có lợi).
o Tăng tính thanh khoản cho dòng ngân lưu.
o Công cụ hoạch định ưu việt vì những chênh lệch trong dòng ngân lưu được phát hiện ngay từ đầu.
Tình hình thực hiện cụ thể như sau: Ngày 27 tháng 4 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Công văn số 3324/NHNN-CSTT cho phép Ngân hàng HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, trong vòng 1 năm kể từ ngày Công văn này được ký, triển khai thực hiện thí điểm việc cung cấp sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng cho khách hàng. Như vậy, HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên trong khu vực ngân hàng tài chính của Việt Nam được phép cung cấp sản phẩm này. Sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng mà Ngân hàng HSBC Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh được phép cung cấp có một số đặc điểm chủ yếu bao gồm:
ü Khách hàng là ngân hàng hoặc các định chế tài chính đang hoạt động tại Việt Nam.
ü Sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng của HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh chỉ gắn với rủi ro tín dụng của Chính phủ Việt nam và/hoặc các doanh nghiệp Việt Nam đã phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế.
ü Thời hạn của giao dịch đầu tư gắn với rủi ro tín dụng không quá 5 năm.
ü Sản phẩm này cho phép nhà đầu tư chấp nhận rủi ro tín dụng của một hoặc một vài tổ chức và/hoặc Chính phủ Việt Nam, bù lại nhà đầu tư có cơ hội để được hưởng mức lãi suất cao hơn so với việc gửi tiền thông thường vào hệ thống ngân hàng.
ü Sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng không có tính năng bảo đảm vốn gốc, tức là số tiền gốc được nhận lại tuỳ thuộc vào việc có xảy ra sự kiện tín dụng hay không.
ü Sau khi bán các sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng cho khách hàng tại Việt Nam, HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh sẽ thực hiện giao dịch đối ứng với chi nhánh HSBC Hồng Công.
v Một giao dịch điển hình, bao gồm cả giao dịch đối ứng, có thể được hình dung gồm 6 bước tuần tự như sau:
+ Khách hàng => (1) HSBC chi nhánh TP HCM => (2) HSBC chi nhánh Hồng Công => (3)HSBC chi nhánh TP HCM => (4)Khách hàng
+ HSBC chi nhánh Hồng Công => (5)HSBC chi nhánh TP HCM =>(6)Khách hàng.
Trong đó:
(1) là giao dịch khách hàng mua khoản đầu tư do HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh phát hành có gắn với sự kiện tín dụng của Chính phủ hoặc tổ chức Việt Nam
(2) là giao dịch HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh mua khoản đầu tư do HSBC chi nhánh Hồng Công phát hành có gắn với sự kiện tín dụng của Chính phủ hoặc tổ chức Việt Nam,
(3) là giao dịch HSBC chi nhánh Hồng Công thanh toán lãi định kỳ cho HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh dựa trên khoản đầu tư,
(4) là giao dịch HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thanh toán lãi định kỳ cho khách hàng theo lãi suất phù hợp với số tiền lãi được thanh toán từ HSBC chi nhánh Hồng Công,
(5) là giao dịch HSBC chi nhánh Hồng Công thanh toán khoản đầu tư cho HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh,
(6) là giao dịch HSBC chi nhánh Hồ Chí Minh thanh toán khoản đầu tư cho khách hàng, phù hợp với việc thanh toán khoản đầu tư của chi nhánh HSBC Hồng Công.
Việc thanh toán khoản đầu tư ở bước 5 và 6 phụ thuộc vào việc có xảy ra hay không sự kiện tín dụng của một hoặc một vài tổ chức hoặc Chính phủ Việt Nam:
+ Trường hợp không xảy ra sự kiện tín dụng, việc thanh toán ở giao dịch 5 và 6 nêu trên sẽ được thực hiện khi khoản đầu tư đến hạn thanh toán và số tiền thanh toán là phần vốn gốc đầu tư.
+ Trường hợp có xảy ra sự kiện tín dụng, việc thanh toán ở giao dịch 5 và 6 sẽ được thực hiện ngay khi sự kiện tín dụng xảy ra. Khách hàng sẽ chỉ được nhận lại phần chênh lệch giữa số vốn gốc đầu tư ban đầu và phần phân bổ của số lỗ phát sinh do giảm giá trái phiếu của Chính phủ Việt Nam hoặc của tổ chức Việt Nam có sự kiện tín dụng được gắn vào giao dịch. Phương thức thanh toán có thể là bằng tiền mặt hoặc bằng trái phiếu hay quyền đòi nợ đối với tổ chức có sự kiện tín dụng xảy ra.
v Như vậy, sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng của Ngân hàng HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thực chất là một giao dịch hoán đổi rủi ro tín dụng có chuyển vốn ban đầu (Funded credit default swaps). Tại thị trường châu Á, sự kiện tín dụng được áp dụng trong các giao dịch hoán đổi rủi ro tín dụng chỉ liên quan đến trái phiếu và/hoặc khoản vay của Chính phủ hay doanh nghiệp nào đó và phải được các bên thoả thuận trước trong hợp đồng, bao gồm các trường hợp sau:
· Chính phủ vỡ nợ, chậm trả nợ (do không đủ khả năng trả nợ đúng hạn) hay tái cơ cấu khoản nợ có liên quan.
· Doanh nghiệp vỡ nợ, phá sản hay tái cơ cấu khoản nợ có liên quan.
v Cùng với sản phẩm đầu tư rủi ro tín dụng đơn giản như trên, HSBC cũng được cung cấp sản phẩm đầu tư có lãi suất tăng tốc gắn với rủi ro tín dụng. Theo đó, mức lãi được trả cho nhà đầu tư là mức lãi cơ sở thoả thuận trong giao dịch đầu tư vào rủi ro tín dụng thông thường nhân với hệ số k định trước. Ngược lại, rủi ro mà nhà đầu tư phải chấp nhận cũng được nhân lên với hệ số k. Nghĩa là, trong trường hợp xảy ra sự kiện tín dụng, số vốn đầu tư bị mất sẽ được tính bằng phần được phân bổ của số lỗ phát sinh do giảm giá trái phiếu của tổ chức hay Chính phủ có sự kiện tín dụng được gắn vào giao dịch nhân với hệ số k, nhưng không vượt quá tổng số vốn gốc đầu tư ban đầu. Phần chênh lệch rủi ro vốn gốc giữa số vốn đầu tư của khách hàng và tổng vốn đầu tư bị rủi ro sẽ do HSBC chịu trách nhiệm. Có thể thấy rằng, sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng của Ngân hàng HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh gần giống như sản phẩm tiền gửi/giấy tờ có giá có lãi suất cơ cấu mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chấp thuận cho một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện. Hai điểm khác biệt cơ bản ở đây là yếu tố tham chiếu, tức là loại rủi ro có liên quan, và khả năng bảo toàn vốn gốc. Về yếu tố tham chiếu, trong sản phẩm tiền gửi/giấy tờ có giá có lãi suất cơ cấu, yếu tố tham chiếu chỉ bao gồm các biến động về tỷ giá và lãi suất các loại tiền tệ trên thị trường, giá cả các loại hàng hoá phi tài chính trên thị trường. Trong khi đó, yếu tố tham chiếu của sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng là sự biến động về khả năng trả nợ của một đơn vị nào đó được thể hiện thông qua việc có xảy ra hay không các sự kiện tín dụng.Từ sự khác biệt về yếu tố tham chiếu nêu trên, mức độ rủi ro của hai loại giao dịch này cúng khác nhau và theo thông lệ quốc tế, sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng sẽ không có tính năng bảo toàn vốn gốc. Và vì vậy, theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành, các tổ chức tín dụng hoạt động ở Việt Nam không thể cung cấp sản phẩm tiền gửi hay giấy tờ có giá gắn với rủi ro tín dụng.
Theo quy định tại Điều 3 Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005, việc các nhà đầu tư mua sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng của HSBC về bản chất là một hình thức đầu tư gián tiếp. Sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng của tổ chức nào thì cũng có thể xem như sản phẩm thay thế cho việc đầu tư vào trái phiếu của tổ chức đó và hoạt động mua trái phiếu của tổ chức khác là hoạt động các NHTM được phép thực hiện theo quy định của Luật Các TCTD. Vì là sản phẩm thay thế cho việc đầu tư vào trái phiếu của một tổ chức nào đó, nên theo thông lệ quốc tế, giao dịch này thường có thời hạn từ 1 đến 10 năm, phù hợp với thời hạn của các loại trái phiếu do tổ chức đó phát hành. Việc Ngân hàng HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh phòng ngừa rủi ro cho giao dịch này bằng cách thực hiện giao dịch đối ứng toàn bộ với chi nhánh HSBC ở nước ngoài sẽ làm phát sinh giao dịch chuyển vốn gốc đầu tư ra nước ngoài. Và về mặt nào đó, có thể coi như Ngân hàng HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh chỉ đóng vai trò trung gian cho các tổ chức tín dụng ở Việt Nam thực hiện việc đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.Sản phẩm mà HSBC đề nghị có thể đem lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư trong nước, tức là các TCTD đang hoạt động tại Việt Nam, đồng thời mở rộng khả năng tiếp cận các sản phẩm tài chính trong nước và quốc tế, bao gồm các sản phẩm gắn với rủi ro tín dụng của chính phủ Việt Nam. So với việc các TCTD đang hoạt động tại Việt Nam gửi ngoại tệ ở nước ngoài theo hình thức tiền gửi thông thường, sản phẩm này có thể đem lại lãi suất cao hơn. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra rủi ro, chi nhánh HSBC ở nước ngoài và các tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam sẽ phải gánh chịu toàn bộ rủi ro, còn HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh (trong vai trò trung gian giao dịch) sẽ không có rủi ro. Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng do Ngân hàng HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh cung cấp sẽ chủ yếu liên quan đến rủi ro tín dụng của Chính phủ Việt Nam và/hoặc doanh nghiệp Việt Nam có phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế. Và vì vậy, việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận cho phép thực hiện sẽ góp phần phát triển thị trường các công cụ tài chính mới, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, củng cố tín nhiệm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với trái phiếu của Chính phủ Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam phát hành ra thị trường quốc tế.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế:
v Hạn chế: Ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh mới bắt đầu được sử dụng từ đầu những năm 2000. Tuy nhiên, các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính thí điểm và đơn lẻ. Số lượng giao dịch của các công cụ này còn hết sức khiêm tốn. Một số tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện giao dịch các công cụ phái sinh như: Chi nhánh Ngân hàng Citibank, Ngân hàng Standard Chartered, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương, nhưng doanh số và số các khách hàng tham gia còn hết sức khiêm tốn. HSBC là một trong những ngân hàng không thể tránh khỏi tình hình chung đó. Về quyền chọn ngoại tệ (ngoại tệ/VND): NHNN đã cho phép thực hiện thí điểm đối với NHTMCP Quốc tế, Ngân hàng Ngoại thương; NHTM cổ phần Á Châu, NHĐT&PT, NHTMCP Kỹ thương, NHTMCP Quân đội, nhưng doanh số về hoạt động này vẫn không đáng kể so với doanh số các hoạt động truyền thống.
· Hoạt động giao dịch hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng chưa thu hút được nhiều khách hàng tham gia. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm hơn. Tức một bên nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, định kỳ sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp trái phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay trên bị vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ. Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng của các loại trái phiếu do chính phủ hoặc các DN Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, các khoản vay dài hạn của DN Việt nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC ở nứơc ngoài. Thời hạn của giao dịch không quá 5 năm.
· Lý do một phần là do doanh thu của các sản phẩm phái sinh vẫn còn hạn chế nên ngân hàng chưa quan tâm đúng mức tới việc quảng bá sản phẩm. Chính vì thế nên việc sử dụng công cụ phái sinh rủi ro tín dụng phòng ngừa rủi ro vẫn chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm.
· Các công cụ tài chính phái sinh đang được sử dụng nhiều hơn để tìm kiến lợi nhuận và thực hiện các hoạt động đầu cơ. Chính vì thế không phải lúc nào sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa rủi ro cũng có hiệu quả.
· Nguyên nhân:
· Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp dưới “tầm” tác động của các cơn gió lớn hay cơn bão tài chính quốc tế. Ngoài ra, tham gia thị trường tài chính Việt nam còn thiếu các nhà đầu tư am hiểu về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại nghiệp vụ này. Các nhà môi giới chuyên nghiệp, các trung gian tài chính đủ năng lực tổ chức thị trường phái sinh còn quá ít trên thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng, thị trường chứng khoán Việt nam để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ vào thị trường phái sinh. Bản thân các khách hàng nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng còn dè dặt áp dụng công cụ phái sinh. Được biết, với Ngân hàng HSBC mặc dù hoạt động tại Việt Nam đã hơn 6 năm với trên 1.000 doanh nghiệp là khách hàng “ruột”, nhưng sau 2 năm được phép sử dụng các công cụ phái sinh, mới chỉ có một vài doanh nghiệp trong số hàng ngàn doanh nghiệp khách hàng đó dám ứng dụng nghiệp vụ này. Chỉ riêng việc thực hiện một giao dịch hoán đổi giữa hai đồng tiền, ngân hàng này cũng mất tới nửa năm để giải thích, thoả thuận. Các hợp đồng quyền chọn ngoại tệ cũng thường phải mất một vài tháng mới được ký kết. Theo HSBC, việc xúc tiến các dịch vụ phái sinh quản lý rủi ro cho khách hàng là doanh nghiêp vẫn đang được ngân hàng này tích cực khuyến khích.
· Ở Việt Nam, do chưa từng phải chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nhờ chính sách quản lý các giao dịch vốn những năm trước đây còn chủ yếu dựa vào cơ chế hành chính, tự phong toả là chính, mức độ tự do hoá rất hạn chế..., nên việc áp dụng các công cụ phái sinh còn chưa trở thành nhu cầu bức xúc. Các nghiệp vụ phái sinh nói chung và phái sinh tín dụng vẫn còn ít được khách hàng áp dụng, thậm chí có công cụ chưa có khách hàng nào giao dịch vì tư duy “trách nhiệm truyền thống” sợ rằng nếu đưa ra quyết định hoán đổi, nếu dự đoán của họ không xảy ra thì doanh nghiệp sẽ bị mất một khoản chi phí mà không có lợi nhuận thì “sinh mạng chính trị” của người ra quyết định đó cũng bị lung lay; Còn nếu mọi dự báo đúng như thực tế thì bản thân người quyết định đó cũng không được “ban thưởng” gì.
· Về môi trường chính sách, vẫn còn rất thiếu và yếu đã tham gia gây cản trở sự phát triển của thị trường công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam mà đầu tiên là việc tính thuế. Có những qui định thậm chí trực tiếp bóp chết sự phát triển công cụ phái sinh như qui định về thuế đánh trên lãi thu được từ việc thực hiện công cụ hoán đổi. Chẳng hạn như quy định về mức thuế đánh trên lãi thu được từ việc thực hiện nghiệp vụ hoán đổi. Nhiều ý kiến bày tỏ, quy định này vừa kìm hãm vừa khó thực hiện vì lãi suất thả nổi biến động hàng ngày. Hơn nữa, công cụ phái sinh mang bản chất phòng ngừa rủi ro để tối đa hóa lợi nhuận chứ không phải vì mục đích kiếm lời.
Tiếp đó là vấn đề hạch toán kế toán. Hiện nay, trong hạch toán kế toán dường như chỉ chú trọng tới phần lãi/lỗ thực tế phát sinh, trong khi phần lãi/ lỗ dự kiến, chưa phát sinh thì dường như chưa được quan tâm. Chẳng hạn, doanh nghiệp mua một hợp đồng phái sinh trị giá 1 tỷ đồng và bút toán ghi sổ 1 tỷ đồng nhưng ngày mai, ngày kia, giá trị "hàng hóa" đã mua chỉ còn 800 triệu đồng hoặc lên 1,5 tỷ đồng thì sổ sách kế toán vẫn chỉ thể hiện 1 tỷ đồng. Thực tế này đã không những không phản ánh hết giá trị thực trong hệ thống sổ sách kế toán mà còn là kẽ hở của tình trạng "lãi giả, lỗ thật" và ngược lại trong báo cáo kế toán của doanh nghiệp.
· Thiếu nhu cầu thực sự từ phía khách hàng. Mặc dù vài năm trở lại đây thị trường chứng kiến sự biến động mạnh giữa tỷ giá VND so với USD song các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có thói quen hay nói chính xác hơn làchưa quan tâm tới phòng chống rủi ro đối với các hoạt động ngoại tệ của mình.
· Thiếu kiến thức, hiểu biết về công cụ phái sinh nói chung và công cụ phái sinh rủi ro tín dụng nói riêng. Sản phẩm phái sinh trong phòng chống rủi ro là một sản phẩm khá mới và phức tạp đối với thị trường Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp cũng như các NHTM nói chung và HSBC nói riêng phải có hệ thống thông tin dự báo tỷ giá quốc tế nhanh, chính xác, cập nhật liên tục; phải có công cụ đo lường và cảnh báo rủi ro tỷ giá, lãi suất; đội ngũ các nhà quản lý, các giao dịch viên chuyên nghiệp, Thực tế có nhiều NHTM được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại hối từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được. HSBC mới chỉ sử dụng phái sinh để phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái. Đốivới các doanh nghiệp thì việc hiểu biết các công cụ phái sinh để phòng chống rủi ro còn nhiều hạn chế.
2.2.3. Một số kết luận và kiến nghị giúp HSBC sử dụng hiệu quả hơn công cụ phái sinh rủi ro tín dụng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh:
· Để tạo điều kiện cho phái sinh tín dụng nói riêng, các sản phẩm phái sinh nói chung phát triển cần giải quyết những rào cản hiện nay đối với công cụ phái sinh, không chỉ xét từ góc độ từ các ngân hàng thương mại hay doanh nghiệp mà rất cần sự hợp lực từ phía các cơ quan quản lý như Bộ Tài chính (tháo gỡ vướng mắc về thuế và chế độ ghi sổ kế toán) và của ngân hàng thương mại trong việc ban hành các văn bản pháp lý, tổ chức hội thảo hay hướng dẫn các nghiệp vụ cụ thể. Các nhà khoa học, các nhà lập chính sách về phát triển thị trường tài chính Việt nam cần sớm bày tỏ quan điểm để xây dựng và đề xuất hệ thống chính sách khuyến khích phát triển thị trường các công cụ tài chính phái sinh “ăn theo” và bên cạnh các thị trường chính thức như thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng và thị trường chứng khoán đang phát triển rất mạnh hiện nay. Theo đó, các văn bản pháp lý cần mở đường và minh bạch hoá về các nội dung cấu thành và hoạt động của thị trường phái sinh này như: Hàng hoá, giá cả, người mua, người bán, cơ chế thanh toán, quyền, nghĩa vụ các bên và sự bảo vệ của Luật Pháp Nhà nước đối với các bên tham gia trong thị trường này.
· Ngân hàng HSBC cần tổ chức các buổi hội thảo để giới thiệu sản phẩm và cung cấp thông tin, những lợi ích mà khách hàng có thể nhận được để khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ.
· Sản phẩm phái sinh trong phòng chống rủi ro là một sản phẩm khá mới và phức tạp đối với thị trường Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp cũng như các NHTM phải có hệ thống thông tin dự báo tỷ giá quốc tế nhanh, chính xác, cập nhật liên tục; phải có công cụ đo lường và cảnh báo rủi ro tỷ giá, lãi suất; đội ngũ các nhà quản lý, các giao dịch viên chuyên nghiệp, Thực tế có nhiều NHTM được thực hiệnnghiệp vụ quyền chọn ngoại hối từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được. Đối với các doanh nghiệp thì việc hiểu biết các công cụ phái sinh để phòng chống rủi ro còn nhiều hạn chế
Một số kiến nghị:
· Để giải quyết những rào cản hiện nay đối với công cụ phái sinh, không chỉ xét từ góc độ từ các ngân hàng thương mại hay doanh nghiệp mà rất cần sự hợp lực từ phía các cơ quan quản lý như Bộ Tài chính (tháo gỡ vướng mắc về thuế và chế độ ghi sổ kế toán) và của ngân hàng thương mại trong việc ban hành các văn bản pháp lý, tổ chức hội thảo hay hướng dẫn các nghiệp vụ cụ thể.
· Cần nâng cao chất lượng công tác thẩm định và phân tích tín dụng.
· Sử dụng đảm bảo tài sản chắc chắn.
· Chú trọng công tác thu thập thông tin.
· Phân tán rủi ro.
· Ngân hàng vẫn còn yếu trong tuyên truyền, tiếp cận khách hàng. Chính vì thế ngân hàng cần phải năng động hơn trong việc tìm kiếm va tiếp cận khách hàng, đặc biệt là những khách hàng tiềm năng.
· Cần tiếp cận khách hàng, tổ chức hội thảo để giới thiệu và tư vấn nhằm mục đích nâng cao nhận thức của khách hàng hiểu biết về các công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro. Phát triển các công cụ phái sinh và thị trường phái sinh là giúp cho các doanh nghiệp có thêm cơ hội lựa chọn loại hình giao dịch hối đoái phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
· Cần tập trung ưu tiên đào tạo và bồi dưỡng cho các cán bộ trực tiếp kinh doanh trên thị trường hối đoái quốc tế về các công cụ phái sinh nói chung và phái sinh phòng ngừa rủi ro tín dụng nói riêng, vì đây là những sản phẩm mới, phức tạp cả về lý thuyết lẫn thực tiễn áp dụng.
· Ngoài ra cần trang bị thêm những kiến thức và kinh nghiệm, kỹ năng phân tích kỹ thuật, phân tích cơ bản trên cơ sở chọn lọc, tổng hợp và phân tích thông tin để dự đoán xu hướng diễn biến của thị trường nhằm sử dụng các công cụ phái sinh một cách hiệu quả nhất.
Kết luận
Ø Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, rộng và đa dạng của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hoá, lãi suất, tỷ giá trên thị trường là những nguyên nhân gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xẩy ra, các nghiệp vụ tài chính phái sinh đã được hình thành, đó thực chất là những hợp đồng tài chính mà giá trị cuả nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở
Ø Thị trường các công cụ tài chính phái sinh đã hình thành và phát triền ngày cang mạnh mẽ ở Việt Nam, tuy nhiên nó còn nhỏ bé và chưa phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị rường vốn còn thấp, trên thị trường cón thiếu vắng các nhà đầu tư am hiểu kỹ về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại nghiệp vụ này. Bên cạnh đó các nhà môi giới, các nhà cơ lợi cón quá ít trên thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị trường này. Sự kém phát triển của thị trường phái sinh là một thách thức không nhỏ trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính ở Việt Nam. Khi mà rủi ro luôn là bạn đường của các nhà đầu tư và ngày càng gia tăng trong quá trình hội nhập, thì phát triển thị trường các nghiệp vụ phái sinh được xem như là là chắn quan trọng để hạn chế rui ro cuả thị trường đối với những nhà đầu tư. Vì vậy phát triển thị trường phái sinh là rất cần thiết hiện nay.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top