tthcm
Mục lục
1
CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁ TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
..
4
1.1
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
.
4
1.1.1
Cơ sở khách quan
.
4
1.1.2
Nhân tố chủ quan
.
10
1.2
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
.
11
1.2.1
Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước (Trước năm 1911)
.
11
1.2.2
Thời kỳ tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (Từ 1911 - 1920)
.
12
1.2.3
Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (Từ 1921 - 1930)
.
13
1.2.4
Thời kỳ vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định, tiến tới giành thắng lợi đầu tiên cho cách mạng Việt Nam (Từ 1930 - 1945)
.
15
1.2.5
Thời kỳ tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (Từ 1945 - 1969)
16
1.3
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh
.
17
1.3.1
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc
.
17
1.3.2
Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới
18
2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
.
20
2.1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
20
2.1.1
Vấn đề dân tộc thuộc địa.
20
2.1.2
Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
.
21
2.2
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
.
23
2.2.1
Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
.
23
2.2.2
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
.
24
2.2.3
Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
.
25
2.2.4
Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
.
26
2.2.5
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
28
2.2.6
Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực
.
30
3
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
32
3.1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
..
32
3.1.1
Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
..
32
3.1.2
Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
..
33
3.1.3
Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
..
35
3.2
Con đường, biệp pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
..
37
3.2.1
Con đường
.
37
3.2.2
Biện pháp
.
38
4
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
...
39
4.1
Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò và bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
..
39
4.1.1
Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
..
39
4.1.2
Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
..
40
4.1.3
Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
..
41
4.1.4
Quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
.
41
4.2
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh
.
43
4.2.1
Xây dựng Đảng - Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
.
43
4.2.2
Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
..
44
5
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘCVÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
.
49
5.1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
.
49
5.1.1
Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
.
49
5.1.2
Nội dung của đại đoàn kết dân tộc
.
50
5.1.3
Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
.
51
5.2
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
.
54
5.2.1
Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế
.
54
5.2.2
Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
.
57
5.2.3
Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
.
59
6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
..
60
6.1
Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
.
60
6.1.1
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ
.
60
6.1.2
Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
60
6.1.3
Thực hành dân chủ
.
60
6.2
Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân
.
61
6.2.1
Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
.
61
6.2.2
Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước
.
62
6.2.3
Xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
.
63
6.2.4
Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
.
65
7
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
67
7.1
Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa
.
67
7.1.1
Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh
.
67
7.1.2
Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa
.
68
7.1.3
Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa
.
70
7.2
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
.
72
7.2.1
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
.
72
7.2.2
Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
.
79
7.3
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới
80
7.3.1
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
80
7.3.2
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược trồng người
81
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
* Dựa trên định hướng cơ bản của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, có thể đưa ra một định nghĩa hàm súc, ngắn gọn về tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, là sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người”.
1
CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁ TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1
Cơ sở khách quan
1.1.1.1
Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
* Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX - Năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam thì nước ta vẫn là một xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Khi thực dân Pháp xâm lược, lúc đầu triều đình nhà Nguyễn có sự chống cự yếu ớt, sau đã từng bước nhân nhượng, cầu hoà và cuối cùng là cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc. Nhân dân ta lâm vào hoàn cảnh khó khăn chưa bao giờ có là cùng một lúc phải chống “cả Triều lẫn Tây”. - Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, dưới ngọn cờ phong kiến, phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù giặc sôi sục đã rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước. Những cuộc khởi nghĩa do các văn thân, sĩ phu phong kiến lãnh đạo đã nổ ra liên tục, từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực...ở Nam Bộ; Trần Tấn, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở Miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở Miền Bắc. Nhưng đường lối kháng chiến chưa rõ ràng nên trước sau đều thất bại. ð Rõ ràng ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời trước đòi hỏi giành lại độc lập của dân tộc. - Sang đầu thế kỷ XX trước chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và phân hoá, các tầng lớp tiểu tư sản bắt đầu xuất hiện. Đồng thời các “tân thư” và ảnh hưởng của cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu từ Trung Quốc và Việt Nam. Phong trào chống Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Việt Nam Quang phục hội... Các phong trào chưa lôi cuốn được các tầng lớp nhân dân và chủ yếu vẫn do các sĩ phu phong kiến cựu học dẫn dắt nên có rất nhiều hạn chế và cuối cùng cũng lần lượt bị dập tắt. => Như vậy đến đầu thế kỷ XX, ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản đã bất lực trước đòi hỏi độc lập tự do của dân tộc. - Cuối thập niên đầu của thế kỷ XX, khi Nguyễn Tất Thành lớn lên, phong trào cứu nước đang ở vào thời kỳ khó khăn nhất. Muốn giành thắng lợi, phong trào cứu nước của nhân dân ta phải có một con đường mới. => Điều kiện lịch sử xã hội trong nước đặt ra những yêu cầu tất yếu mới là: + Tìm con đường giải phóng dân tộc + Tìm ra giai cấp lãnh đạo cách mạng + Tìm ra cách thức tập hợp để tiến hành cách mạng + Tìm ra phương pháp để tiến hành giải phóng dân tộc thắng lợi Tóm lại, yêu cầu phải có tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, phải có một con đường mới cho phong trào cho phong trào cứu nước giải phóng dân tộc đã trở thành vấn đề cấp thiết. * Bối cảnh thời đại (quốc tế) - CNTB ở đầu thế kỷ XX đã chuyển sang giai đoạn ĐQCN. Một trong những đặc trưng nổi bật là chạy đua vũ trang xâm lược thuộc địa. Vì vậy, nhiều mâu thuẫn mới của thời đại xuất hiện. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa đã trở thành một phong trào chung gắn liền với phong trào cách mạng của giai cấp vô sản quốc tế, là một trong những vấn đề lớn của đời sống chính trị xã hội. - Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 nổ ra và giành thắng lợi đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở ra con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. - Tháng 3/1919, Lênin sáng lập ra Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) - là tổ chức có sứ mệnh bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới và dẫn dắt phong trào cách mạng thế giới. Quốc tế Cộng sản ra đời có ý nghĩa và tác động to lớn tới phong trào cách mạng trên thế giới. - Tháng 7/1920, báo Nhân đạo đăng “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin. Được đọc văn kiện này, trong Nguyễn Ái Quốc đã có bước phát triển nhảy vọt về mặt nhận thức, tư tưởng. 1.1.1.2 Những tiền đề tư tưởng - lý luận · Giá trị truyền thống dân tộc Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân, cha của Người là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, tấm gương lao động cần cù, tấm gương về ý chí vượt qua gian khổ khó khăn để đạt được mục tiêu. Nghệ Tĩnh - quê hương của Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, đó cũng là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các lãnh tụ yêu nước cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu... Do yêu cầu dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam hình thành dân tộc quốc gia từ rất sớm. Đến nay trải qua hàng nghìn năm đã hình thành cho nước ta những giá trị truyền thống phong phú, bền vững: - Trước hết đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. - Thứ hai là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong hoạn nạn, khó khăn. - Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Trong muôn nguy ngàn khó, người lao động vẫn động viên nhau “ chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Hồ Chí Minh chính là hiện thân của truyền thống lạc quan đó. - Thứ tư, dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo. => Trong những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi, là giá trị số một trong bảng giá trị tư tưởng văn hoá truyền thống Việt Nam. Tinh hoa văn hoá nhân loại * Thứ nhất: Tư tưởng văn hoá Phương Đông -Trước hết là Nho giáo: Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị tư tưởng từ Nho giáo như: + Triết lý hành động tích cực: “ tư tưởng nhập thế hành đạo giúp đời” + Triết lý nhân sinh: “ tu thân dưỡng tính”, chủ trương từ thiên tử đến thần dân ai cũng phải lấy tu thân làm gốc, tạo ra một xã hội lấy đạo đức làm trọng. + Nho giáo nêu cao lý tưởng về một xã hội thái bình trị, tư tưởng về một thế giới đại đồng, “ thiên hạ là của chung”. + Nho giáo đề cao văn hoá, lễ giáo, tạo ra một truyền thống hiếu học trong nhân dân. - Tiếp theo là Phật giáo: Phật giáo là một tôn giáo cho nên nó có tính chất hai mặt: Mặt tiêu cực đó là thủ tiêu đấu tranh, khuất phục trước kẻ thù, an bài với số phận... Nhưng những mặt tích cực của phật giáo được Hồ Chí Minh tiếp nhận đó là: + Tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân, tình yêu thương bao la kể cả chim muông cỏ cây. + Nếp sống trong sạch, giản dị, chăm lo điều thiện, lên án cái ác theo thuyết nhân quả. Do vậy con người sống khắc khổ, cam chịu. + Tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ, chất phác, không phân biệt đẳng cấp. Phật dạy: “ Ta là Phật đã thành, chúng sinh là phật sẽ thành, phật ở ngay trong ta”. + Đề cao lao động chân tay, chống lười biếng, chủ trương người tu hành phải sống bằng lao động của mình. + Đề cao tinh thần yêu nước, chủ trương gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào công cuộc đấu tranh của nhân dân, của cộng đồng với tinh thần tốt đời, đẹp đạo. - Ngoài ra, Người còn tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ của Lão tử, Quản tử, đặc biệt là tư tưởng tiến bộ trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. * Thứ hai: Tư tưởng văn hoá phương Tây - Nội dung: + Tư tưởng tự do, bình đẳng của Pháp (Các giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng pháp). + Quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc (của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776). + Lòng nhân ái của Thiên Chúa Giáo. Điểm cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin, sau đây chúng ta nghiên cứu nguồn gốc tiếp theo. · Chủ nghĩa Mác - Lênin + Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chuyển hoá và nâng cao được những yếu tố tích cực, tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như tinh hoa văn hoá nhân loại để tạo ra những tư tưởng của mình. + Tìm thấy quy luật phát triển tất yếu của nhân loại: sớm hay muộn các dân tộc sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội. + Nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tổng kết được kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc, để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, vượt hẳn các thế hệ trước, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước diễn ra từ đầu thế kỷ XX. + Cũng nhờ có thế giới quan và phương pháp luận Mác xít nên Hồ Chí Minh đã nhìn thấy con đường dân tộc Việt Nam phải đi và đích phải đến. Đó là con đường cách mạng vô sản và đích của nó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, là ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. - Đối với Hồ Chí Minh việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin đem lại cho Người một phương pháp nhận thức và hành động đúng đắn, giúp Hồ Chí Minh giải quyết một cách sáng tạo những vấn đề thực tiễn của cuộc sống đặt ra. - Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác - Lênin không đối lập nhau mà gắn bó mật thiết với nhau. - Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận Mác xít soi sáng, bằng thiên tài và trí tuệ của mình, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, con đường cách mạng vô sản, con đường này phù hợp với quy luật vận động của lịch sử, đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Điều này cho phép chúng ta khẳng định: tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, có tính cách mạng, khoa học rất sâu sắc và triệt để. - Phương pháp tiếp nhận lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh là: + Trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin từ trong thuộc tính cách mạng và khoa học của nguyên lý. Người nắm vững cái cốt lõi, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không sao chép giáo điều dập khuôn. + Trên cơ sở nguyên lý, Người vận dụng sáng tạo phù hợp với tình hình thực tiễn trên đất nước, của thời đại trong thế kỷ XX. + Người luôn luôn dũng cảm đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. 1.1.2 Nhân tố chủ quan - Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh Trong quá trình hoạt động cách mạng ở trong nước và nước ngoài, Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình. Người nhận thức đúng đắn về sự thay đổi của dân tộc và thời đại, khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hoá và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ vào con đường nhận thức chân lý như vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học. - Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và tài năng trí tuệ siêu việt của Hồ Chí Minh. Điều này được biểu hiện cụ thể như sau: + Có tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo, đầu óc phê phán, đầu óc thực tiễn, tinh tường tinh tế sáng suốt trong nghiên cứu, học tập những giá trị văn hoá truyền thống, tinh hoa văn hoá nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin. + Trí thông minh tuyệt vời, khổ công học tập, nghiên cứu nhằm chiến thắng sự ngu dốt, tối tăm, chiếm lĩnh tri thức phong phú của thời đại, kinh nghiệm đấu tranh đa dạng của loài người. + Tâm hồn của một nhà yêu nước nồng nàn, của một chiến sỹ cộng sản nhiệt thành cách mạng: Đó là một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì tự do hạnh phúc của đồng bào. + Lòng dũng cảm vô song, nghị lực phi thường. Dũng cảm chiến thắng bản thân mình, đối đầu với nhiều kẻ thù lớn của cách mạng. + Có đạo đức trong sáng, có lối sống khiêm nhường, giản dị, khả năng chinh phục lòng người. 1.2 Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh 1.2.1 Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước (Trước năm 1911) Ở thời kỳ này có những nhân tố sau đây tác động mạnh mẽ đến việc hình thành nhân cách và tư tưởng Hồ Chí Minh: - Gia đình gồm bên nội, bên ngoại, bố mẹ và anh chị em ruột của Hồ Chí Minh. Đây là một gia đình có nền nếp gia phong mẫu mực, một gia đình có học, yêu nước và gắn bó chặt chẽ với cộng đồng. Chính vì vậy, tuổi thơ của Hồ Chí Minh được sống trong sự thương yêu đùm bọc chăm sóc, dạy dỗ của những người ruột thịt. + Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Người là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Tấm gương lao động cần cù, ý chí kiên cường vượt qua gian khổ để đạt được mục tiêu, đặc biệt là tư tưởng thân dân đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với quá trình hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành. Về sau này, những kiến thức học được từ người cha, bắt gặp tư tưởng mới của thời đại đã được Hồ Chí Minh nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lỗi chính trị của mình. + Cuộc sống của người mẹ - bà Hoàng Thị Loan cũng ảnh hưởng đến tư tưởng , tình cảm của Nguyễn Sinh Cung về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống chan hoà với mọi người. + Mối quan hệ và tác động qua lại giữa ba chị em Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung về lòng yêu nước, thương nòi. - Nghệ Tĩnh là một trong những địa phương tiêu biểu cho lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Là nơi sản sinh ra biết bao anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Trước khi xuống tàu sang Pháp, Hồ Chí Minh đã biết đến, chịu tác động của những sự kiện lớn và những văn thân, sĩ phu nổi tiếng cả nước xuất hiện từ Nghệ Tĩnh như: cuộc khởi nghĩa Hương Khê, các nhà yêu nước Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... - Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình ngay trên quê hương. Khi vào Huế, Người lại tận mắt nhìn thấy tội ác của thực dân Pháp và thái độ ươn hèn của bọn phong kiến Nam triều. Thêm vào đó là những bài học thất bại của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời...Tất cả đã thôi thúc Người ra đi tìm một con đường mới để cứu dân, cứu nước. => Tất cả những nhân tố trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành nhân cách và tư tưởng Hồ Chí Minh ở thời kỳ đầu tiên này. 1.2.2 Thời kỳ tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (Từ 1911 - 1920) - 5/6/1911 Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người tới Pháp và các nước Châu Âu, Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ, tận mắt chứng kiến cuộc sống bị bóc lột, bị đàn áp của nhân dân các dân tộc thuộc địa và cũng đã trực tiếp tìm hiểu đời sống những người lao động các nước tư bản. Người rút ra kết luận: Trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột và chỉ có một mối tình hữu ái - vô sản là thật mà thôi. -Ngày 18/6/1919, Nguyễn Tất Thành ký tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam tới hội nghị Véc xây, đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp, làm cho nhân dân thế giới và nhân dân Pháp phải chú ý tới tình hình Việt Nam và Đông Dương. - Tháng 7/1920, Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin. Đây là sự kiện quan trọng làm biến đổi nhận thức, khẳng định con đường lựa chọn để cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Tháng 12/1920 Người dự Đại hội Tua, tán thành Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. => Trở thành người Macxit, Người rút ra kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Việc xác định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc là công lao to lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh. 1.2.3 Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (Từ 1921 - 1930) Đây là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động lý luận và thực tiễn sôi nổi, phong phú: - Người tham gia và hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp; tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa và là thành viên của Ban lãnh đạo Hội, xuất bản báo Le Paria. - Tháng 10/1923, tại Matxcơva, Nguyễn Ái Quốc tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được bầu làm uỷ viên Đoàn chủ tịch Quốc tế Nông dân. Sau đó vào năm 1924, Người tham dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản và Đại hội của một số tổ chức quốc tế. - Cuối năm 1924, Người tới Quảng Châu, Trung Quốc và tháng 6/1925 tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, xuất bản báo Thanh niên; mở các lớp huấn luyện Đào tạo cán bộ và đưa họ về hoạt động trong nước. Đây là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc tiến thành việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. - Các văn kiện của Người trong thời kỳ này như các bài viết trên báo Le Paria, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), tác phẩm Đường Kách mệnh (1927), các bài viết trên báo Thanh niên và các văn kiện tại Hội nghị hợp nhất đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng của Việt Nam. * Khi nói sự hình thành cơ bản tư tưởng của Người về con đường cách mạng Việt Nam, chúng ta cần nắm vững một số điểm sau: - Bản chất của chủ nghĩa thực dân là ăn cướp và giết người. Vì vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới. - Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản và là một bộ phận của cách mạng thế giới. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai câp công nhân. - Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. ở đây, Nguyễn ái Quốc muốn nhấn mạnh vai trò tích cực, chủ động của các dân tộc thuộc địa. - Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh”, đánh đuổi bọn ngoại xâm, giành độc lập, tự do. - ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, bị đế quốc, phong kiến bóc lột nặng nề. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi cần phải lôi cuốn được nông dân, xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cho cách mạng. Đồng thời, phải thu hút, tập hợp được đông đảo các giai cấp xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh chung của dân tộc. - Cách mạng muốn thành công trước hết cần phải có Đảng lãnh đạo. Đảng phải theo chủ nghĩa Mác – Lênin và phải có một đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì lý tưởng của Đảng, vì lợi ích của nhân dân. - Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải việc của một vài người. Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp lên cao. 1.2.4 Thời kỳ vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định, tiến tới giành thắng lợi đầu tiên cho cách mạng Việt Nam (Từ 1930 - 1945) - Giữ vững lập trường quan điểm trước khuynh hướng “tả khuynh” của Quốc tế Cộng sản. - Nguyễn Ái Quốc theo sát tình hình để chỉ đạo cách mạng trong nước: + Trước khi về nước (28/1/1941), trong thời gian còn hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc vẫn luôn luôn theo dõi tình hình trong nước, kịp thời có những chỉ đạo để cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên. + Ngày 28/1/1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc. Tại hội nghị Trung ương lần thứ tám (từ 10 đến 19/5/1941) họp tại Pác Bó ( Cao Bằng) dưới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc, BCH Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Hội nghị đã đánh dấu sự thay đổi chiến lược đúng đắn, sáng tạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Những tư tưởng và đường lối được đưa ra và thông qua trong Hội nghị này có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta, dẫn đến thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945. - Tư tưởng về các quyền dân tộc cơ bản được thể hiện trong Tuyên ngôn độc lập: Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh các quyền cơ bản của các dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bản tuyên ngôn nêu rõ: “ Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, “ Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. 1.2.5 Thời kỳ tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (Từ 1945 - 1969) - Sau khi giành được chính quyền năm 1945, Đảng và nhân dân ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam. - Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: + Đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”. + Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh. + Xây dựng Đảng với tư cách là một Đảng cầm quyền + Xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân + Củng cố và tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. -Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh để lại Di chúc thiêng liêng, kết tinh trong đó cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có, đã suốt đời phấn đấu hy sinh cho vì Tổ quốc và nhân loại. Di chúc đã tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân tộc ta sau khi kháng chiến thắng lợi. 1.3 Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh 1.3.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc 1.3.1.1 Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam - Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của thời đại, nó trường tồn bất diệt, là tài sản vô giá của dân tộc ta. Tính sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ: + Trung thành với những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin + Khi nghiên cứu, vận dụng những nguyên lý đó, Hồ Chí Minh đã mạnh dạn loại bỏ những gì không thích hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, dám đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu quả. - Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề xung quanh việc giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc. Tư tưởng của Người gắn liền với chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam. - Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm nghiệm trong quá khứ với những hoạt động cách mạng của Người. Ngày nay, tư tưởng đó bao gồm một hệ thống những quan điểm lý luận, tư tưởng về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng XHCN ở nước ta, về sự cải biến cách mạng đối với thế giới, về đạo đức, phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh, về việc hiện thực hoá các tư tưởng ấy trong đời sống xã hội... đang soi sáng cho chúng ta. 1.3.1.2 Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam - Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. - Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. - Trong bối cảnh hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức đúng những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và đảm bảo quyền con người bởi vì Hồ Chí Minh đã suốt đơi phấn đấu cho việc giải phóng các dân tộc, đã đề ra lý luận về sự phát triển của các dân tộc giành được độc lập tiến lên chủ nghĩa xã hội và luôn luôn quan tâm đến lợi ích con người. - Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đi tới thắng lợi. - Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi sống với chúng ta, ngày càng toả sáng và chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu, hàng triệu con người. 1.3.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới 1.3.2.1 Phản ánh khát vọng thời đại - Người đã có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin: Giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cũng có những nhận thức sâu sắc và độc đáo về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc. - Người chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của độc lập dân tộc trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội, về tính tự thân vận động của công cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc và về khả năng giành thắng lợi trước của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. - Từ nghiên cứu lý luận và áp dụng vào thực tiễn, Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống luận điểm chính xác và đúng đắn về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. 1.3.2.2 Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người - Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề “Làm thế nào để giải phóng các dân tộc thuộc địa”. Người đã xác định kẻ thù lớn nhất của các dân tộc bị áp bức là chủ nghĩa đế quốc và để chiến thắng được kẻ thù thì phải thực hiện đại đoàn kết. Đây là một đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh. - Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn ở chỗ ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại và trên cơ sở nắm bắt được đặc điểm thời đại, Người đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. - Từ việc nắm bắt chính xác xu thế phát triển của thời đại, Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. 1.3.2.3 Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả - Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, người thầy thiên tài của cách mạng Việt Nam, nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một chiến sĩ kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX. - Hồ Chí Minh đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp cứu nước của Người đã xóa bỏ tất cả những tủi nhục của gần một thế kỷ nô lệ đè nặng lên đầu dân tộc ta. - Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. 2 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘCVÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. 2.1.1 Vấn đề dân tộc thuộc địa. 2.1.1.1 Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa. * Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc - Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác xít nhằm đấu tranh xóa bỏ áp bức bóc lột bất công, xây dựng chế độ xã hội đem lại bình đẳng, ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. - Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. * Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc. - Các phong trào cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đều bị thất bại vì sai lầm về đường lối, cũng chính là sai lầm trong sự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc. - Hồ Chí Minh lựa chọn con đường phát triển của dân tộc: Giành được độc lập dân tộc rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản. Con đường đó vừa phù hợp với quy luật phát triển của thời đại, vừa phù hợp với lịch sử dân tộc Việt Nam. 2.1.1.2 Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa - Cách tiếp cận từ quyền con người Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Đi tìm đường cứu nước, cứu dân cũng chính là nhằm đem lại quyền cho những người Việt Nam bị áp bức. - Nội dung của độc lập dân tộc: + Độc lập dân tộc thể hiện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế,văn hoá, xã hội, ngoại giao. + Độc lập dân tộc gắn liền với sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. + Độc lập tự do đảm bảo chủ quyền quốc gia phải do chính nhân dân của dân tộc đó tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài. + Độc lập dân tộc gắn liền với cơm no, áo ấm, hạnh phúc của nhân dân. 2.1.1.3 Chủ nghĩa dân tộc - một động lực lớn của đất nước - Hồ Chí Minh sớm nhận thấy ở các nước thuộc địa tất cả các giai tầng xã hội đều phải chịu nỗi nhục của người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập, tự do. Và họ đều có tinh thần yêu nước. - Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất kỳ thế lực ngoại xâm nào. - Hồ Chí Minh tìm thấy từ truyền thống lịch sử dân tộc Việt Nam chủ nghĩa yêu nước của dân tộc là sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. 2.1.2 Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp 2.1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin * Thời kỳ Mác - Ăngghen: Mác nêu lên khẩu hiệu: Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại. * Thời kỳ Lênin: Lúc này đấu tranh dân tộc trở thành bộ phận khăng khít của đấu tranh giai cấp. Lênin nêu lên khẩu hiệu: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. 2.1.2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh * Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau - Thứ nhất: Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam. - Thứ hai: Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. - Thứ ba: Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bảo lực phản cách mạng của kẻ thù. - Thứ tư: Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân. - Thứ năm: Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội * Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Vấn đề dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết thì mới giải quyết đúng mâu thuẫn chủ yếu, mới tập hợp được đông đảo lực lượng tạo ra động lực to lớn để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng đặt ra. - Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, con đường cứu nước của Người là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quan điểm này khác với các con đường cứu nước của cha ông trước đó. + Đây là vấn đề dứt khoát và nhất quán xuyên suốt cuộc đời hoạt động của Bác kể từ khi Bác tìm thấy chủ nghĩa Mác – Lênin. + Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vừa thể hiện quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại mới vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. * Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp - Quan điểm trên của Hồ Chí Minh thể hiện sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử Việt Nam, cụ thể là mối quan hệ dân tộc và giai cấp. - Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc. * Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác. + Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. + Suốt cuộc đời của Bác luôn ủng hộ cho các dân tộc khác. Bác có những hành động đấu tranh bảo vệ Liên Xô, bảo vệ cách mạng Trung Quốc. Sau này Bác suốt đời đấu tranh cho dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia và Bác được Quốc tế Cộng sản giao cho phụ trách phong trào cộng sản ở các nước Đông Nam á. + Đề cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết nhưng Bác luôn coi trọng nhiệm vụ quốc tế của cách mạng Việt Nam, không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Bác cho rằng : “ giúp bạn là tự giúp mình”. 2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc 2.2.1 Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc 2.2.1.1 Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa - Hồ Chí Minh phân tích sâu sắc đặc điểm tính chất xã hội và giai cấp ở Việt Nam và các nước thuộc địa khác với đặc điểm ở các nước phương Tây. Người chỉ rõ: “ Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”. - Từ phân tích sự khác nhau giữa các nước thuộc địa và các nước phương Tây, Hồ Chí Minh chỉ rõ: + Đối tượng của các mạng ở thuộc địa là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động. Không phải là giai cấp tư sản bản xứ, càng không phải là giai cấp địa chủ nói chung. + Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc. - Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc đã quy định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc. Điều này đã được Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiều lần trong các bài nói, bài viết của Người. 2.2.1.2 Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc - Lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân - Giành độc lập dân tộc - Thiết lập chính quyền của nhân dân 2.2.2 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản 2.2.2.1 Rút bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó - Con đường cứu nước theo lập trường phong kiến. - Con đường cứu nước theo lập trường dân chủ tư sản. - Khi Nguyễn Tất Thành lớn lên, phong trào cứu nước đầu thế kỷ đang ở vào một thời kỳ khó khăn nhất. Người được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha nhưng không đồng tình với cách làm, cách đi của họ. 2.2.2.2 Cách mạng tư sản là không triệt để - Hồ Chí Minh tìm hiểu và khảo sát thực tiễn của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở 3 nước tư bản phát triển Anh, Pháp, Mỹ. Đây là những nước có cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới. - Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã có sự phân tích rất kỹ về cuộc cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp và thấy rằng đó là những cuộc cách mệnh chưa đến nơi. => Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh không đi theo con đường cách mạng tư sản. 2.2.2.3 Con đường giải phóng dân tộc - Hồ Chí Minh thấy được cách mạng tháng mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Như vậy, Hồ Chí Minh rút ra năm điểm phải làm từ bài học cách mạng tháng Mười Nga, đó là: + Phải dân chúng công nông làm gốc + Phải có Đảng vững bền + Phải bền gan + Phải hy sinh + Phải thống nhất - Hồ Chí Minh tin theo Lênin và quốc tế 3. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản. 2.2.3 Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo 2.2.3.1 Cách mạng trước hết phải có Đảng - Đảng là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân vạch ra đường lối đúng đắn cho cách mạng giải phóng dân tộc. - Đảng tổ chức lãnh đạo toàn thể dân tộc đấu tranh giành thắng lợi. - Đảng biết tranh thủ đoàn quốc tế để cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi. - Đảng là lực lượng xung kích trong cuộc đấu tranh đó. * Quan điểm của Hồ Chí Minh được thể hiện như thế nào? - Đảng Kách mệnh mà Hồ Chí Minh đề cập, đó là Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân - lực lượng chủ lực của cách mạng vô sản. - Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Đó phải là Đảng cách mạng được tổ chức theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. - Đảng đó là một Đảng chiến đấu, đảng hành động vì lợi quyền của giai cấp, của dân tộc, là người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. - Đảng chẳng những có hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại dẫn đường mà còn có đường lối chính trị đúng đắn, sáng suốt, có sức mạnh tổ chức kỷ luật, có đạo đức cách mạng trong sáng làm gương mẫu cho dân noi theo, có cơ sở xã hội rộng lớn, vững chắc là khối đại đoàn kết toàn dân, được dân chúng tin cậy, ủng hộ và bảo vệ. 2.2.3.2 Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất - Ngày 03/02/1930, Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và liên lạc mật thiết với quần chúng. - Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với thực tiễn cách mạng Việt Nam. - Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm và đồng thời là một ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, Đảng đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng. 2.2.4 Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc 2.2.4.1 Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng bị áp bức - Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân và Người cho rằng: Để có cơ thắng lợi, cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. - Người phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động. Phải biết cách tổ chức và khơi dậy tính tự cường trong nhân dân. - Hồ Chí Minh luôn lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Điều này được thể hiện trong cách mạng tháng 8/1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Những quan điểm về sức mạnh của quần chúng nhân dân được thể hiện xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. - Tuy nhiên theo Hồ Chí Minh để cách mạng có thể thắng lợi được, cần phải biết cách tổ chức, vận động, đoàn kết quần chúng nhân dân. - Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dântrong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. 2.2.4.2 Lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc. * Cách sắp xếp lực lượng của Hồ Chí Minh + Hồ Chí Minh xác định vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân trên cơ sở liên minh công nông. Đây là một trong những luận điểm cơ bản mà Hồ Chí Minh tiếp thu được ở chủ nghĩa Mác - Lênin. + Vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng giải phóng dân tộc được Hồ Chí Minh xác định rõ. Đây là lực lượng nòng cốt, chiếm đa số trong hàng ngũ cách mạng Việt Nam. + Tầng lớp tiểu tư sản, trí thức được Hồ Chí Minh hết sức chú trọng trong cách mạng giải phóng dân tộc. + Đối với giai cấp tư sản dân tộc, Hồ Chí Minh đánh giá cao tinh thần yêu nước của họ và thấy rõ họ “ cũng bị đế quốc và phong kiến ngăn trở” con đường phát triển. Vì vậy theo Người, tư sản dân tộc cũng có thể tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến. * Tư tưởng lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc thể hiện trong các giai đoạn cách mạng - Để giành chính quyền năm 1945 thì trước đó Người luôn thể hiện tư tưởng đại đoàn kết trong chủ trương tập hợp lực lượng - Phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (Tháng 12- 1946 ), Người kêu gọi toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay. - Kêu gọi toàn dân kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định: Chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước. 2.2.5 Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. 2.2.5.1 Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo - Hồ Chí Minh tiếp cận và so sánh sự khác nhau giữa chính quốc và thuộc địa. + Ở các nước thuộc địa mọi tầng lớp nhân dân bị áp bức tồi tệ nhất, mọi quyền lợi bị thủ tiêu, nền dân chủ tư sản tối thiểu cũng không được thực hiện. Nguyện vọng chung của họ là độc lập dân tộc. + Thuộc địa là nền tảng của chủ nghĩa đế quốc, thuộc địa chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong đó mâu thuẫn dân tộc với chủ nghĩa đế quốc là gay gắt nhất. Bản chất thối nát của chủ nghĩa đế quốc được bộc lộ rõ nét nhất, đó là sự tàn bạo, bạo lực, đàn áp dã man. + Thuộc địa ở xa chính quốc nên cách mạng dễ thành công + Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa được sự ủng hộ quốc tế mạnh mẽ hơn. Không chỉ nội lực mà có thể tranh thủ đông đảo các loại hình các nước, không chỉ các nước XHCN mà thậm chí cả các nước TBCN. - Xuất phát từ thực tiễn đời sống chính trị nhân loại, theo quy luật chung : có áp bức giai cấp thì có đấu tranh giai cấp, có nô dịch dân tộc thì sẽ có đấu tranh giải phóng dân tộc. 2.2.5.2 Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc * Quan điểm của Mác - Lênin : - Mác - Ăngghen do điều kiện lịch sử chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc thuộc địa nhưng các ông có nhận xét đúng đắn : Cách mạng giải phóng dân tộc về lâu dài muốn thắng lợi triệt để phải tiến tới con đường cách mạng vô sản. - Tuyên ngôn thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919 ( Quốc tế III ) do Lênin đứng đầu khẳng định : Cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa chỉ có thể giành được thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốc giành được thắng lợi. - Đại hội VI Quốc tế Cộng sản ngày 1/9/1928 nhận định trong Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa : cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể giành được thắng lợi khi cách mạng vô sản ở các nước tiên tiến giành được thắng lợi. * Quan điểm của Hồ Chí Minh : - Thứ nhất, theo Hồ Chí Minh giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc hoặc quan hệ chính phụ. - Thứ hai, theo Hồ Chí Minh nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản. - Thứ ba, do nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá đúng sức mạnh dân tộc, năm 1921 Nguyễn ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. 2.2.6 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực 2.2.6.1 Tính tất yếu của bạo lực cách mạng - Bọn đế quốc thực dân dùng bạo lực xâm lược ta và bảo vệ chính quyền của nó. “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”. Chưa đánh bại được lực lượng và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn”. Vì vậy, con đường giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực. - Hồ Chí Minh vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng là dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền. - Dùng bạo lực giành chính quyền và bảo vệ chính quyền là quán triệt tư tưởng bạo lực cách mạng của Mác - Lênin. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nên bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng. * Cách mạng bạo lực bao gồm tất cả các hình thức, phương pháp thích hợp để tiến công liên tục nhằm đánh lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận để tiến tới đánh đổ hoàn toàn bọn đế quốc thực dân giành chính quyền về tay nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng để tiến hành đấu tranh bằng bạo lực cần phải: - Trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị quần chúng từng bước xây dựng lực lượng vũ trang. - Phương thức đấu tranh gồm: chính trị, quân sự, ngoại giao và sự kết hợp chặt chẽ giữa các hình thức đó, trong đó lấy đấu tranh chính trị và quân sự làm vai trò quyết định. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị. 2.2.6.2 Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo và hòa bình. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các thế lực đế quốc xâm lược. - Hồ Chí Minh không tuyệt đối hoá bạo lực. Người chỉ dùng bạo lực để tự vệ trong điều kiện bắt buộc sau khi đã làm hết sức mình để giải quyết mâu thuẫn bằng con đường hoà bình. 2.2.6.3 Hình thái bạo lực cách mạng - Trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc “lực lượng chính là ở dân”. Người chủ trương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân. - Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh đấu tranh toàn diện. Kháng chiến toàn diện ở đây là kháng chiến trên tất cả các mặt : Quân sự, ngoại giao, kinh tế, chính trị, văn hoá. - Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài được thể hiện trong các cuộc cách mạng của nhân dân ta. - Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh, Người chỉ rõ: muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp mình đã. 3 3.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 3.1.1 Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam * Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: - Mác bằng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã chứng minh rằng hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ được thay thế bằng một hình thái cao hơn, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. - Lênin phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Với thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. * Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: - Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự phát triển tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội. - Theo Hồ Chí Minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản. - Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. 3.1.2 Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 3.1.2.1 Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội * Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội khoa học từ quan điểm duy vật lịch sử của Mác, nghĩa là từ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân - giai cấp trung tâm của thời đại mới. * Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin: vì Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa dân tộc nên cũng có sự bổ sung cách tiếp cận mới về chủ nghĩa xã hội. - Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam. - Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức, hướng tới giá trị nhân đạo, nhân văn Mácxit. - Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa 3.1.2.2 Bản chất và đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội * Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin - Xoá bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. - Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công nghiệp hiện đại, tạo ra năng xuất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. - Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỉ luật lao động mới, thực hiện sản xuất có kế hoạch - một kiểu tổ chức lao động mới của bản thân nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và quản lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa với một kỉ luật lao động mới chặt chẽ, tự giác cao. - Chủ nghĩa xã hội thực hiện phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối cơ bản nhất. Nguyên tắc này thể hiện sự công bằng và bình đẳng giữa những người lao động, giữa cống hiến và hưởng thụ trong chủ nghĩa xã hội. - Chủ nghĩa xã hội khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn với thành thị, giữa lao động trí óc với lao động chân tay, dần tiến tới một xã hội tương đối thuần nhất về giai cấp. - Chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công bằng bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện và có điều kiện phát triển khả năng của mình. - Sau khi đã đạt được những đặc trưng trên, khi giai cấp không còn nữa, thì chức năng chính trị của Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ dần tự tiêu vong. Còn trong chủ nghĩa xã hội, Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc, thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân. à Qua những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được C Mác, Ph.Ăngghen khái quát và Lênin bổ sung, ta có thể rút ra phương pháp luận rằng: Thứ nhất, Thực tiễn sinh động là cơ sở để xây dựng quan điểm về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; Thứ hai, các đặc trưng nói trên vừa có ý nghĩa chỉ đạo quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thực tế, vừa có ý nghĩa đấu tranh chống lại các học thuyết phi Mác xít. Vì vậy, những đặc trưng đó dần dần được nhận thức thêm, phù hợp với biện chứng khách quan của hiện thực. * Theo quan niệm của Hồ Chí Minh - Thống nhất với quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội phản ánh giai đoạn thấp của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhưng là giai đoạn phát triển cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. - Định nghĩa tổng quát, xem chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như là một chế độ xã hội hoàn chỉnh bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống xã hội, và là con đường giải phóng nhân loại cần lao khỏi áp bức, bóc lột. - Định nghĩa bằng cách chỉ ra một mặt nào đó của chủ nghĩa xã hội + Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ, một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch sử, một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, đạo đức và văn minh. + Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. + Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. - Định nghĩa bằng cách xác định mục tiêu, động lực và chỉ ra phương hướng để đạt được mục tiêu đó. Những định nghĩa dung dị, dễ hiểu của Hồ Chí Minh đã phản ánh đầy đủ những đặc trưng cốt lõi về chủ nghĩa xã hội: + Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ + Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật + Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người + Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức 3.1.3 Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 3.1.3.1 Mục tiêu * Mục tiêu chung: ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người thống nhất là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. - Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân, và muốn nâng cao đời sống nhân dân thì phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. - Chỉ ra mục tiêu chung, tổng quát của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội đã tồn tại trước đó trong lịch sử, đồng thời cũng chỉ ra nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội là thực hiện sự nghiệp giải phóng con người theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng từng cá nhân con người. - Quá trình đi tới mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, trải qua một thời lì quá độ với nhiều bước trung gian quá độ nhỏ. * Những mục tiêu cụ thể của thời kì quá độ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đó là: - Mục tiêu chính trị: Chế độ chính trị mà chúng ta xây dựng là chế độ do nhân dân lao động làm chủ. - Mục tiêu kinh tế: nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kĩ thuật tiên tiến. - Mục tiêu văn hoá - xã hội: Chủ nghĩa xã hội gắn liền với phát triển văn hoá và là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt giải phóng con người, trước hết là giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột tư bản. Về quan hệ xã hội, xã hội mà chúng ta xây dựng là một xã hội công bằng, dân chủ, có quan hệ tốt đẹp giữa người với người; các chính sách xã hội được quan tâm thực hiện, đạo đức, lối sống phát triển lành mạnh. + Một trong những mục tiêu xây dựng của chủ nghĩa xã hội là đào tạo con người mới, xây dựng cho được mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. + Con người xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh phải là con người có tinh thần và năng lực làm chủ; có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; có tinh thần dám nghĩ, dám làm… + Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, giải phóng mọi tiềm năng sẵn có của con người để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó có sự nghiệp giải phóng phụ nữ. 3.1.3.2 Động lực - Về động lực con người: Hồ Chí Minh nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân (sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng). - Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, gải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội. - Cùng với động lực kinh tế, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. - Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh phải kết hợp được với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả của khoa học - kỹ thuật thế giới... 3.2 Con đường, biệp pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 3.2.1 Con đường 3.2.1.1 Thực chất, loại hình, đặc điểm của thời kỳ quá độ * Đặc điểm: - Về phương diện quốc tế: + Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế thuận lợi. Chủ nghĩa xã hội đã thành công ở một loạt nước, chúng ta nhận được sự hỗ trợ, hợp tác to lớn nhiều mặt từ bên ngoài theo tinh thần giúp đỡ không hoàn lại. + Mặt khác, luôn bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tìm cách phá hoại công cuộc hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Điều đó buộc chúng ta phải có ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, vượt qua những khó khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. - Về tình hình trong nước: Theo Hồ Chí Minh nổi lên 3 đặc điểm chính, có vai trò và ý nghĩa khác nhau, nhưng cần phải tính đến. + Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nền chuyên chính dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, trí thức đã được củng cố vững chắc, nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được kiện toàn thêm một bước, từ các tiền đề sẵn có của chế độ dân chủ nhân dân, Việt Nam tiến dần lên chủ nghĩa xã hội không phải trải qua một cuộc đảo lộn chính trị, giành chính quyền + Một đặc điểm khác của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh, đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược + Nhưng theo Hồ Chí Minh, đặc điểm to nhất, bao trùm nhất 3.2.1.2 Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 3.2.1.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ 3.2.2 Biện pháp 3.2.2.1 Phương châm 3.2.2.2 Biện pháp (Nghiên cứu) 4 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 4.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò và bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam 4.1.1 Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam * Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: - Lênin viết: “Trong tất cả các nước, chỉ có sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân mới xây dựng cơ sở vững chắc cho cả 2”. Luận điểm về sự ra đời Đảng Cộng sản của Lênin hoàn toàn đúng với các nước phương Tây và nước Nga. Sự ra đời của một loạt Đảng Cộng sản ở Tây âu cũng như ở nước Nga cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã chứng minh tính đúng đắn của luận điểm đó. * Quan điểm của Hồ Chí Minh: - Khái quát về qui luật đặc thù của việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với việc khẳng định 2 yếu tố là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn cho rằng ở Việt Nam cần phải kết hợp với cả phong trào yêu nước. + Một là, Phong trào yêu nước có vị trí,vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta. + Hai là, Phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam không những kết hợp được với nhau, mà còn kết hợp được ngay từ đầu và liên tục trong tiến trình cách mạng. + Ba là, Phong trào nông dân luôn kết hợp với phong trào công nhân, Bởi, Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân.Do vậy, giữa 2 phong trào này luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là 2 lực lượng hợp thành đội quân chủ lực của cách mạng, là gốc của cách mạng. + Bốn là, Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1929 - 1930 thấy rõ: Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kết hợp chặt chẽ với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, kết quả đã dân tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, điều đó tất yếu dẫn tới sự thống nhất, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 03/02/1930. 4.1.2 Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam - Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ được phát huy khi được tập hợp, giác ngộ, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản. - Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam là phù hợp với qui luật phát triển của xã hội Việt Nam. Bởi, Đảng Cộng sản Việt Nam không có mục đích tự thân, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn thể dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích nào khác. * Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện ở những vấn đề sau: - Lựa chọn con đường , xây dựng đường lối chiến lược, sách lược cách mạng. + Lựa chọn con đường đúng đắn cho dân tộc: + Xác định chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn: + Xác định phương pháp cách mạng: - Tổ chức, đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng - Ngoài ra, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam còn được thể hiện ở vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. 4.1.3 Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam - Về bản chất giai cấp công nhân của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiền phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. - Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Điều này có nghĩa là: + Về bản chất của Đảng thì Đảng luôn mang bản chất giai cấp công nhân, đứng trên lập trường quan điểm của giai cấp công nhân để giải quyết các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu lý tưởng của Đảng là tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Đảng tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của Lênin. + Về lợi ích: Đảng không chỉ phấn đấu đem lại lợi ích cho giai cấp công nhân mà còn đem lại lợi ích cho nhân dân lao động và cả dân tộc. Những người đảng viên có nguồn gốc xuất thân không chỉ từ giai cấp công nhân mà có thể từ mọi giai tầng xã hội. Nếu có đủ điều kiện đều có thể trở thành đảng viên. + Luận điểm đó của Hồ Chí Minh có ý nghĩa sâu sắc: Hồ Chí Minh luôn gắn bó mật thiết giai cấp công nhân với nhân dân lao động và toàn dân tộc trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Hồ Chí Minh luôn luôn rèn luyện Đảng chú trọng tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và dân tộc; sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác. 4.1.4 Quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền 4.1.4.1 Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền - Hồ Chí Minh tìm hiểu, nghiên cứu và tìm thấy con đường cách mạng ở chủ nghĩa Mác - Lênin. Người quyết định đi theo con đường của cách mạng tháng 10 vĩ đại và xác định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. - Để thực hiện lý tưởng đó, theo Hồ Chí Minh cần phải có một Đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào cách mạng. Chính vì vậy, từ năm 1920 Người luôn tích cực chuẩn bị cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập Đảng. Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một trang mới trong lịch sử dân tộc ta. - Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quan trọng của Đảng cách mạng - nhân tố đầu tiên quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Người khẳng định trong các bài nói, bài viết của mình, đặc biệt là trong tác phẩm Đường Kách mệnh (1927) vai trò của Đảng được Người khẳng định rõ và Đảng đó phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt. - Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mệnh chân chính, mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng dìu dắt và lãnh đạo cách mạng, phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Đó là Đảng có thể đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân, phồn vinh cho đất nước. - Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân tộc giành chính quyền, thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây chính là thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền. 4.1.4.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền - Khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ chính trong các cuộc đấu tranh của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là lật đổ bọn thực dân đế quốc và phong kiến, thiết lập chính quyền nhân dân. - Khi trở thành Đảng cầm quyền, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải thể hiện rõ: + Mục tiêu, lý tưởng của Đảng cầm quyền: Không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Đó là mục đích, lý tưởng cao cả. + Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. + Đảng cầm quyền, dân là chủ 4.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh 4.2.1 Xây dựng Đảng - Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng - Xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để Đảng hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, nhân dân và dân tộc. Xây dựng Đảng vừa là nhiệm vụ cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài. - Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là yêu cầu khách quan, bản thân Đảng phải luôn tự đổi mới, chỉnh đốn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn cách mạng khác nhau. Đặc biệt là trước những chuyển biến lớn của cách mạng. - Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường xã hội, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái xấu... Vì vậy, mỗi cán bộ đảng viên phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để luôn giữ vững tư cách của người đảng viên. Đó là yêu cầu mà từ đảng viên thường đến đảng viên giữ trách nhiệm, trọng trách đều phải tiến hành. - Mục đích của xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng. * Quan điểm chỉ đạo xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh được thể hiện cả trên lý luận và thực tiễn: - Về lý luận: Đảng phải luôn có đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với các giai đoạn cách mạng. Đường lối đó phải giải quyết hài hòa lợi ích của dân tộc, giai cấp và quần chúng nhân dân lao động. Đường lối quan điểm xây dựng Đảng phải luôn vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. - Về thực tiễn: Đảng luôn hoàn thành vai trò lãnh đạo cách mạng. Uy tín của Đảng đối với nhân dân ngày càng được tăng cường, củng cố. 4.2.2 Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam 4.2.2.1 Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận - Phải luôn cho toàn Đảng thấu suốt lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin đó là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. - Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý những điểm sau đây: + Việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp với từng đối tượng. + Việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn luôn phù hợp với từng hoàn cảnh. + Trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những kinh nghiệm tốt của các Đảng Cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin. + Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. 4.2.2.2 Xây dựng Đảng về chính trị Theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về chính trị bao gồm nhiều nội dung: - Xây dựng đường lối chính trị mang tính cách mạng và khoa học. Đây là nội dung quan trọng nhất, được coi là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. - Phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng. - Thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh. 4.2.2.3 Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ * Xây dựng hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở * Xây dựng các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng: - Tập trung dân chủ: + Về dân chủ, Hồ Chí Minh cho rằng dân chủ là “cái quý nhất của nhân dân”, là thành quả của cách mạng. Người khẳng định: “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do, tự do là thế nào? đối với mọi vấn đề; mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”. + Về tập trung, Hồ Chí Minh đã viết : “ Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm ra chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Vì vậy, khi nói về tập trung, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh và coi trọng sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động của Đảng. Cho nên, theo Người thiểu số phải phục tùng đa số; Cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi Đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng; Có như vậy, mới làm cho “Đảng ta tuy nhiều Người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”. - Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. + Về tập thể lãnh đạo, Hồ Chí Minh đã giải thích “vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo”. Người cho rằng: Một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến mấy, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, Người thấy rõ mặt này, người thấy rõ mặt khác của vấn đề để góp kinh nghiệm và xem xét của nhiều người thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”. + Về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ tái sinh cái tệ người này uỷ cho người kia, người kia uỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi hành, như thế thì việc gì cũng không xong”. - Tự phê bình và phê bình: + Mục đích của tự phê bình và phê bình: Hồ Chí Minh cho rằng tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên và làm cho phần xấu bị mất dần đi, tức là nói đến sự vươn lên tới chân, thiện, mỹ. + Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình. HCM xem tự phê bình và phê bình là một vấn đề khoa học, nên không những phải được tiến hành thường xuyên như ta rửa mặt hàng ngày, mà còn phải khéo dùng. Trong tự phê bình và phê bình phải thẳng thắn, trung thực, không nể nang, dấu diếm và cũng không thêm, bớt khuyết điểm. Phải có tính thương yêu đồng chí lẫn nhau. - Kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Hồ Chí Minh cho rằng: Sức mạnh của một tổ chức Đảng và của mỗi cán bộ đảng viên còn được bắt nguồn từ ý thức tổ chức kỷ nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất cả mọi tổ chức Đảng, mọi cán bộ đảng viên đều phải bình đẳng trước điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Hơn nữa, Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa nên tính tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Vì, uy tín của Đảng được bắt nguồn tự sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể nhân dân. Do vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn yêu cầu mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp uỷ dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật, tuyệt đối không ai tự cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả. Hồ Chí Minh đã nói: “Mỗi đảng viên phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền cách mạng”. - Đoàn kết thống nhất trong Đảng. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác- Lênin, cương lĩnh, điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, Nghị quyết của tổ chức đảng các cấp. Đây chính là cơ sở tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động của toàn Đảng nhằm biến các chủ trương của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Nếu xa rời nguyên tắc này thì đoàn kết chỉ là hình thức, giả hiệu, tạm thời, đoàn kết mà không thống nhất hoặc thống nhất mà không đoàn kết. Muốn đoàn kết thống nhất trong Đảng thì phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng; thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; thương xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác; phải “sống với nhau có tính có nghĩa”. - Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng + Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ. Người nhận thức rõ vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Cán bộ là dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu trung gian nối liền giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Muôn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Người cán bộ phải có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực trong đó đức, phẩm chất là gốc. + Hồ Chí Minh cho rằng, công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng. Nội dung: - Tuyển chọn cán bộ - Đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ - Đánh giá đúng cán bộ - Tuyển dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ - Thực hiện các chính sách đối với cán bộ 4.2.2.4 Xây dựng Đảng về đạo đức - Theo Hồ Chí Minh, một Đảng chân chính phải có đạo đức. Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp cho Đảng đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng nhân dân. - Đạo đức của Đảng là đạo đức cách mạng, đạo đức đó mang bản chất giai cấp công nhân mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa tập thể, mình vì mọi người, mang tính nhân đạo và chiến đấu. - Giáo dục đạo đức cách mạng là nội dung quan trọng trong việc tu dưỡng, rèn luyện đảng viên, làm cho Đảng ta luôn trong sạch vững mạnh. - Hồ Chí Minh gắn đạo đức với tư cách của một đảng chân chính cách mạng là phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nội dung công tác xây dựng Đảng phù hợp với truyền thống văn hóa của các nước phương Đông. 5 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘCVÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ 5.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc 5.1.1 Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng 5.1.1.1 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, quyết định sự thành công của cách mạng - Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược bất di, bất dịch và luôn luôn được Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. - Đại đoàn kết dân tộc ở bất kỳ giai đoạn cách mạng nào cũng phải được đặt ra và giải quyết cho tốt. Từ khi Đảng ra đời đến nay và về sau đều phải thực hiện tinh thần đại đoàn kết dân tộc. - Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: “ Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Điều đó nói rõ rằng, đoàn kết là vấn đề sống còn của cách mạng. Nếu có khác chăng là ở những thời kỳ cách mạng khác nhau cần có phương pháp tổ chức, bố trí lực lượng cho phù hợp với những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ đó. - Đại đoàn kết có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nên Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên và nhân dân phải tăng cường đoàn kết. 5.1.1.2 Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc - Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng - lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. - Đại đoàn kết theo Hồ Chí Minh luôn là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. - Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc vì theo Bác: + Đại đoàn kết dân tộc là đòi hỏi khách quan của quần chúng trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng. + Đại đoàn kết dân tộc là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. + Đảng có sứ mệnh lãnh đạo quần chúng giải quyết những yêu cầu khách quan của quần chúng đem lại độc lập tự do và hạnh phúc cho quần chúng. 5.1.2 Nội dung của đại đoàn kết dân tộc 5.1.2.1 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân - Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm dân, nhân dân có nội hàm rất rộng. Người dùng các khái niệm: + “Mọi con dân đất Việt” nghĩa là một tập hợp đông đảo quần chúng + “Mỗi một người con rồng cháu tiên” nghĩa là mỗi một con người Việt Nam cụ thể. => Cả hai đối tượng này đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. - Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. - Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam 5.1.2.2 Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc; đồng thời phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người. - Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện được đoàn kết toàn dân thì cần phải: + Phải kế thừa được truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc. + Phải có tấm lòng khoan dung độ lượng với con người. + Để thực hiện đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Người xác định nền gốc của đại đoàn kết: đó là đại đa số nhân dân bao gồm công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. - Hồ Chí Minh đã bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về đoàn kết, liên minh lực lượng trong phạm vi ở đây là dân tộc. 5.1.3 Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc 5.1.3.1 Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất - Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc tập hợp quần chúng vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, từng tôn giáo, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng giới. - Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, nơi tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà con bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài. - Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn. Tuỳ từng thời kỳ mà mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những tên gọi khác nhau, cụ thể là: Hội phản đế đồng minh (năm 1930), Mặt trận dân chủ (1936), Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận liên việt (1946), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955), Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam (1960) 5.1.3.2 Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất - Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. + Mặt trận dân tộc thống nhất không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh. + Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh công nông luôn được Người xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. + Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó cũng chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. => Tại sao theo Hồ Chí Minh, Đảng phải lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất? Bởi vì: + Người thường nhắc lại quan điểm của Lênin: “ Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”. Đảng Cộng sản Việt Nam là chính Đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác - Lênin. + Đây là tổ chức chính trị to lớn nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là bộ tham mưu của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Do đó, Đảng phải lãnh đạo mặt trận dân tộc thống nhất để vạch ra đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn. + Trên thực tế Đảng đã được nhân dân ủng hộ và luôn trở thành hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc; Đảng đánh giá đúng được vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử; Đảng biết vận động, lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn kết trong Mặt trận. + Muốn lãnh đạo tốt mặt trận, Đảng phải thực hiện những yêu cầu sau: * Xác định đúng đắn chính sách mặt trận trong từng giai đoạn cách mạng * Đảng phải dùng phương pháp vận động, nêu gương, giáo dục, thuyết phục, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hoá, kêu gọi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu, mệnh lệnh. * Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở để xây dựng khối đoàn kết toàn dân. - Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân. + Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao về mục tiêu và lợi ích. + Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ thể phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. + Độc lập, tự do là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Vấn đề còn lại là làm thế nào để tất cả mọi người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong Mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết. + Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là độc lập, tự do, hạnh phúc. - Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững. + Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với nhiều lợi ích khác nhau. Do đó, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất phải theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. + Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tấp cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. + Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt... - Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. + Là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, bên cạnh những điểm tương đồng, giữa các thành viên của Mặt trận vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác biệt, cục bộ. + Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất Đảng ta đã làm gì? · Đảng luôn đấu tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả mọi lực lượng có thể tranh thủ được vào Mặt trận. · Luôn đề phòng và đấu tranh chống mọi biểu hiện của khuynh hướng đoàn kết một chiều, vô nguyên tắc, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận. 5.2 5.2.1 Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế 5.2.1.1 Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng. - Về mặt lý luận: + Lịch sử phát triển của nhân loại chỉ ra rằng, quá trình phát triển của mình, các cộng đồng, các nhóm, các dân tộc có cùng lợi ích bao giờ cũng có sự kết hợp lại với nhau. Sự kết hợp này ngày càng tăng. + Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: cách mạng vô sản ra đời muốn thắng lợi phải tạo ra được sức mạnh của bình hành lực. Tức phải biết kết hợp các yếu tố khách quan và chủ quan, trong nước và thế giới, dân tộc và thời đại. Vì vậy: * Mác đã đề xuất “vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. * Đến thời đại đế quốc chủ nghĩa, Quốc tế cộng sản kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. * Trong thời đại giải phóng dân tộc, Nguyễn ái Quốc chủ trương: “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại”. + Các nhà kinh điển Mác - Lênin phân tích thời đại cho thấy, chủ nghĩa tư bản nhất là nó trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa đã tạo ra những mâu thuẫn và những cơ sở cho sự liên kết quốc tế. - Về mặt thực tiễn: + Hồ Chí Minh khảo sát thực tiễn của chế độ thuộc địa của Pháp tại Việt Nam, tại Đông Dương. Sự thống trị tàn bạo của chính sách độc ác của thực dân làm cho ý chí đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta bùng nổ rộng rãi. + Trên bình diện thế giới, Hồ Chí Minh đã thực hiện cuộc khảo sát ở cả bốn châu lục, Người nhận ra: “ Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột” (t1, tr266). Vì vậy, muốn giải phóng dân tộc mình cần đoàn kết với các dân tộc khác cùng cảnh ngộ. Người kêu gọi: “ Vì nền hoà bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị áp bức bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức” (t1, tr452). + Sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai đã trở thành một nhân tố làm nên sức mạnh thời đại chi phối sự phát triển xã hội loài người từ nửa cuối thế kỷ XX. + Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển mạnh mẽ. Theo Hồ Chí Minh: “Thế giới ngày nay đang tiến những bước khổng lồ về mặt kiến thức của con người. Khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội không ngừng mở ra những chân trời mới, con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên cũng như làm chủ được vận mệnh của xã hội và của bản thân mình”. Đó là yếu tố của sức mạnh thời đại cần tận dụng. 5.2.1.2 Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng - Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, thực hiện đoàn kết quốc tế không phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ, thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng. - Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại. Khi Hồ Chí Minh bước lên vũ đài chính trị, thế giới có những thay đổi to lớn: + Đây là thời đại chấm dứt sự tồn tại biệt lập giữa các quốc gia + Quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn giữa các dân tộc + Vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách riêng với vận mệnh chung của cả loài người. + Thời đại mà giai cấp vô sản đứng ở vị trí trung tâm - Trên cơ sở nắm bắt được xu thế phát triển của thời đại, Hồ Chí Minh đã đặt cách mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng thế giới. Đây chính là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. - Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, các Đảng Cộng sản phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh...là những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lực lượng cách mạng thế giới. - Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Điều này đã góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Chúng ta không chỉ chiến đấu vì độc lập của dân tộc mình mà còn vì độc lập của tất cả các dân tộc khác trên thế giới. 5.2.2 Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế 5.2.2.1 Các lực lượng cần đoàn kết Nội hàm khái niệm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, song tập trung chủ yếu vào 3 lực lượng: Thứ nhất : Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế Thứ hai : Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Thứ ba : Phong trào hòa bình, dân chủ thế giới *Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế - lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế - Hồ Chí Minh cho rằng, sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một đảm bảo vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. - Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các Đảng Cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. *Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc: - Hồ Chí Minh kiến nghị Ban phương Đông quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. - Để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc như hai cái cánh của cách mạng thời đại, Hồ Chí Minh còn đề nghi Quốc tế Cộng sản bằng mọi cách phải “làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới đảm bảo cho giai câp công nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng”. *Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự do và công lý: Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết - Trong xu thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. - Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thay mặt chính phủ, Hồ Chí Minh nhiều lần tuyên bố về chính sách ngoại giao của chính phủ là luôn thân thiện, hợp tác với tất cả các nước. - Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hòa bình , tự do và công lý, Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của loài người, tạo nên những tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên hành tinh. 5.2.2.2 Hình thức đoàn kết - Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. - Trong mối quan hệ với các nước, Hồ Chí Minh dành sự ưu tiên theo thứ tự: + Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi nhau,có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. + Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung Quốc, nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hóa lâu đời với Việt Nam. + Thực hiện đoàn kết với các dân tộc Châu á và châu Phi đang đấu tranh giành độc lập. + Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng các quan hệ với Mặt trận dân chủ và lực lượng đồng minh chống phát xít, nhằm tạo thế dựa cho cách mạng Việt Nam. 5.2.3 Nguyên tắc đoàn kết quốc tế 5.2.3.1 Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình - Đối với phong trào cộng sản công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình. - Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. - Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hòa bình trong công lý. 5.2.3.2 Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường - Theo Hồ Chí Minh, để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Người luôn tận lực phát huy sức mạnh dân tộc, coi nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định. Nguồn lực ngoại sinh chỉ phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. - Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Người nói: “ Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào ” . 6 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN 6.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ 6.1.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ - Hồ Chí Minh nói: Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ Như vậy: ở đây Người nhấn mạnh tới vị thế khi nói dân là chủ và nhấn mạnh năng lực và trách nhiệm của dân khi nói dân làm chủ. Hai vế này luôn đi đôi với nhau thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của dân. - Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người. Khi xác định dân là chủ, Hồ Chí Minh đối lập quan niệm dân là chủ với quan niệm quan chủ. 6.1.2 Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội Khẳng định: Dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đó là quyền về tự do, cơm no, áo ấm, mưu cầu hạnh phúc - Dân chủ thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đó là chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Trong đó dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất. (Tự nghiên cứu) 6.1.3 Thực hành dân chủ * Mục đích của thực hành dân chủ: - “Thực hành dân chủ để làm cho dân ai cũng được hưởng quyền tự do” (tập5, trang 30) - Thực hành cũng có nghĩa là phát huy dân chủ ngày càng đầy đủ, đúng đắn, thực chất hơn. Nó có tác dụng giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của dân chúng: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân, đưa cách mạng tiến lên” - Do đó, thực hành dân chủ trở thành động lực của sự tiến bộ, của phát triển: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn * Nội dung thực hành dân chủ 6.1.3.1 Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi 6.1.3.2 Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội (Tự nghiên cứu) 6.2 Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân 6.2.1 Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân 6.2.1.1 Nhà nước của dân - Tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Đây là quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Hồ Chí Minh. - Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước, do vậy nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, uỷ quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. - Trong Nhà nước của dân, Hồ Chí Minh cho rằng: Dân là chủ và dân làm chủ. Khi nói dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nhà nước bằng thiết chế dân chủ phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Hơn nữa, quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Do vậy, đòi hỏi những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân phải làm đúng chức trách và vị thế của mình, không được đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân. 6.2.1.2 Nhà nước do dân Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước do dân là Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao trách nhiệm làm chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng Nhà nước của mình. Người khẳng định: việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ. Đồng thời với yêu cầu trên, Hồ Chí Minh cũng luôn luôn nhắc nhở tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. 6.2.1.3 Nhà nước vì dân - Hồ Chí Minh cho rằng: Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. - Một Nhà nước vì dân theo quan điểm Hồ Chí Minh là từ Chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải làm “quan cách mạng”, để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân” như dưới chế độ đế quốc thực dân. 6.2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước 6.2.2.1 Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Nhà nước ta mang bản chất Giai cấp công nhân vì: - Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản nhằm giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp, phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ là: + Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật, chính sách, kế hoạch. + Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan Nhà nước. + Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra. - Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển của đất nước; ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. 6.2.2.2 Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước - Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc. - Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này, theo Hồ Chí Minh là lợi ích cơ bản giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc là một và Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân và của toàn dân tộc. - Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội rồi đi tới chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng đã xác định cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước ta. 6.2.3 Xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ 6.2.3.1 Xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến Theo Hồ Chí Minh, một Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một Nhà nước hợp hiến. Đây là một trong những vấn đề được Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu để xây dựng một Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3/9/1945), Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức tổng tuyển cử càng sớm càng tốt để lập ra quốc hội, từ đó lập ra chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính thức khác của Nhà nước. Thực hiện chủ trương của Hồ Chí Minh, cuộc tổng tuyển cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu lần đầu tiên ở nước ta, ở Đông Nam á tổ chức thắng lợi vào ngày 6/1/1946: Tất cả người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo… đều đi bỏ phiếu bầu bầu những đại biểu của mình vào trong Quốc hội, Ngày 2/3/1946, Quốc hội khoá I đã họp phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây là chính phủ có giá trị pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề về đổi nội, đối ngoại của đất nước. 6.2.3.2 Hoạt động quản lý nhà nước bằng hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật và cuộc sống - Theo Hồ Chí Minh, quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác, nhưng quan trọng là quản lý bằng hệ thống luật, trong đó quan trọng bậc nhất là hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước. - Suốt thời kỳ giữ trọng trách chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa để bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân. Đồng thời chính Người cũng là một tấm gương sáng về sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. - Để Hiến pháp và pháp luật được thực thi trong cuộc sống, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đòi hỏi mọi người trước hết phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào. Do vậy, Người cho rằng: + Công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền. + Coi trọng việc nâng cao dân trí và phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp, làm tốt nghĩa vụ công dân. 6.2.3.3 Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đủ đức và tài - Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh. “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu”. Do vậy, theo người đội ngũ cán bộ, công chức phải là những người vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc; và đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu quả. - Hồ Chí Minh đề ra những yêu cầu để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. + Tuyệt đối trung thành với cách mạng. + Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. + Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. + Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn. 6.2.4 Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả 6.2.4.1 Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của nhà nước Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Hồ Chí Minh thường đề cập những tiêu cực sau và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục: - Đặc quyền, đặc lợi. - Tham ô, lãng phí, quan liêu. - Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Hồ Chí Minh cho rằng những hành động này gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác. Người kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình không tài năng gì vào chức này, chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài . 6.2.4.2 Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng - Đạo đức và pháp luật đều là 2 hình thái ý thức xã hội, thuộc 2 lĩnh vực khác nhau nhưng lại kết hợp và bổ sung cho nhau trong thực tế trị nước. Trong lịch sử của phương Đông và Việt Nam, các nhà chính trị sáng suốt thường không bao giờ tuyệt đối hoá vị trí độc tôn của một yếu tố riêng lẻ nào. Kế thừa và thâu thái những kinh nghiệm lịch sử quý báu trong văn hoá trị nước của loài người và vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo vào Việt Nam, Hồ Chí Minhlà một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật. Người luôn chú trong giáo dục đạo đức nhưng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật. Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài hoà giữa lý trí và tình cảm; nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao giờ bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Người luôn yêu cầu pháp luật “phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ đó ở địa vị nào, làm nghề gì”. Bên cạnh đó, Người cũng luôn dùng sức mạnh uy tín của mình để cảm hoá những người lầm lỗi, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục những người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp. 7
7.1
Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa
7.1.1
Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh
7.1.1.1
Định nghĩa về văn hóa
* Theo quan niệm chung:
Văn hóa là phạm trù chỉ toàn bộ đời sống con người trong quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Quan hệ đó đã kết tinh các giá trị (vật chất và tinh thần); năng lực hoạt động của con người (trong phương thức sống, năng lực chiếm lĩnh thế giới và khả năng hóa thân vào sản phẩm do mình tạo ra) và trình độ phát triển của chính bản thân con người (hoàn thiện phẩm chất, nhân cách, trình độ người). Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, khắc họa bản sắc, tính cách riêng của một cộng đồng, có tầm quan trọng to lớn và ý nghĩa cách mạng sâu xa đối với vận mệnh con người.
* Theo quan niệm của Hồ Chí Minh
Tháng 8 năm 1943, khi còn trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, trong mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hoá:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
7.1.1.2
Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
- Hồ Chí Minh đưa ra năm điểm lớn định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
5. Xây dựng kinh tế”.
- Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa từ rất sớm, đã thấy rõ vai trò, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội.
- Ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến tâm lý con người, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước.
7.1.2
Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa
7.1.2.1
Quan điểm về vị trí và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội
* Thứ nhất, sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh xác định văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hoá có mối quan hệ mật thiết với kinh tế, chính trị, xã hội, tạo thành 4 vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và được nhận thức.
- Văn hoá quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội. Cho nên, trong công cuộc kiến thiết nước nhà 4 vấn đề đó phải được chú ý ngang nhau.
- Mối quan hệ giữa văn hoá với chính trị, xã hội, kinh tế được thể hiện:
+ Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hoá phát triển.
+ Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho xây dựng và phát triển văn hoá.
* Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng nhưng không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hoá phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
7.1.2.2
Quan điểm về tính chất của nền văn hóa
Tính chất của nền văn hoá mới được Hồ Chí Minh xác định:
- Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hoá của ta có 3 tính chất: Dân tộc - khoa học - đại chúng.
+ Tính dân tộc (hay còn gọi là đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc) là cái “cốt”, cái tính tuý bên trong rất đặc trưng của nền văn hoá dân tộc, để phân biệt với nền văn hoá của dân tộc khác .
+ Tính khoa học của nền văn hoá: Phải thuận với trào lưu tiến hoá của tư tưởng hiện đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nền văn hóa mới phải phục vụ trào lưu đó. Muốn vậy, tính khoa học phải được thể hiện ở cơ sở hạ tầng - nền tảng kinh tế phải khoa học, hiện đại; ở đội ngũ những người làm công tác văn hoá - đội ngũ này phải có trí tuệ, hiểu biết khoa học tiên tiến, phải có chiến lược văn hoá, xây dựng lý luận văn hoá mang tầm thời đại.
+ Tính đại chúng của nền văn hoá là phục vụ nhân dân, hợp với nguyện vọng nhân dân, đậm đà tính nhân văn và do đại chúng nhân dân xây dựng.
- Trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, thời kỳ đầu Hồ Chí Minh xác định tính chất nền văn hoá mới phải “Xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”. Từ Đại hội III (tháng 9 năm 1960), Hồ Chí Minh khẳng định là nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
+ Nội dung xã hội chủ nghĩa là thể hiện tính tiên tiến, tiến bộ, khoa học, hiện đại, biết tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phù hợp với trào lưu tiến hoá trong thời đại mới.
+ Tính dân tộc của nền văn hoá là phải biết giữ gìn, kế thừa, phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước.
7.1.2.3
Quan điểm về chức năng của văn hóa.
- Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp.
- Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí.
- Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách, lối sống tốt đẹp, lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để hoàn thiện bản thân.
7.1.3
Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa
7.1.3.1
Văn hóa giáo dục
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục:
+ Mục tiêu của văn hoá giáo dục để thực hiện cả 3 chức năng của văn hoá bằng giáo dục: dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp; mở mang dân trí ; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con người .
+ Cải cách giáo dục: Xây dựng chương trình, nội dung dạy và học hợp lý, phù hợp với các giai đoạn cách mạng.
+ Nội dung giáo dục phải toàn diện cả văn hoá, chính trị, khoa học- kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động.
+ Phương châm, phương pháp giáo dục.
* Phương châm học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế; học tập kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội. Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học ở mọi lúc, mọi nơi, học ở mọi người.
* Phương pháp giáo dục: Phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục. Cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; phải dùng phương pháp nêu gương; phải gắn liền với thi đua.
+ Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên vì không có giáo viên thì không có giáo dục. Xây dựng đội giáo viên có phẩm chất yêu nghề, có đạo đức cách mạng, yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi về chuyên môn; thuần thục về phương pháp.
7.1.3.2
Văn hóa văn nghệ
- Văn hóa - Văn nghệ là một mặt trận, nghệ sỹ là chiến sỹ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh cách mạng, trong xây dựng con người mới, xã hội mới.
- Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân.
- Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân tộc.
7.1.3.3
Văn hóa đời sống
.
- Văn hoá đời sống thực chất là đới sống mới với 3 nội dung: Đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Trong đó, đạo đức mới đóng vai trò chủ yếu nhất. Vì có dựa trên nền đạo đức mới thì mới xây dựng được lối sống mới, nếp sống mới, và đạo đức mới lại được thể hiện trong lối sống và nếp sống mới.
+ Đạo đức mới: Thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức cách mạng.
+ Lối sống mới: Là lối sống có lý tưởng, có đạo đức; kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại tạo nên lối sống văn minh tiên tiến.
+ Nếp sống mới.
* Xây dựng nếp sống mới (nếp sống văn minh) là xây dựng những thói quen và phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa được những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc.
* Xây dựng nếp sống mới rất khó khăn, phức tạp, vì thói quen rất khó sửa, nó có sức ì cản trở ta. Thực tế cho thấy cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu; cái xấu mà quen, người ta có thể cho là thường. Vì vậy, quá trình đổi mới nếp sống phải rất cẩn thận, chịu khó, lâu dài, không thể dùng cách trấn áp thô bạo đối với cái cũ, lạc hậu. Phải tuyên truyền, giải thích một cách hăng hái, bền gan, chịu khó, cẩn thận, khôn khéo và mềm mỏng...
Phải dùng biện pháp nêu gương; nói đi đôi với làm.
7.2
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
7.2.1
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
7.2.1.1
Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
* Về vai trò và sức mạnh của đạo đức:
- Hồ Chí Minh coi đạo đức là cái gốc, là nền tảng của người cách mạng.
+ Sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình hủ hoá, xấu xa thì không làm nổi.
+ Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ. Vì vậy, Người cho rằng: “sức có mạnh mới gánh nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
+ Con đường để đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường dài, không phải là đại lộ thẳng tắp, đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ, hơn nữa còn của nhiều thế hệ nối tiếp nhau.
- Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
+ Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú.
+ Phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản mà con do những phảm chất đạp đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch.
+ Tấm gương đạo đức trong sáng của một nhân cách vĩ đại song cũng rất đời thường của Hồ Chí Minh có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ đối với nhân dân Việt Nam và nhân dân toàn thế giới.
7.2.1.2
Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
* Trung với nước, hiếu với dân.
- “Trung” và “Hiếu” vốn là những khái niệm đạo đức cũ, chứa đựng nội dung hạn hẹp “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”, phản ảnh bổn phận, trách nhiệm của dân đối với Vua, con cái hiếu thảo với cha mẹ.
- Nội dung chủ yếu của “Trung với nước, hiếu với dân” .
+ Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội phải đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết.
+ Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.
+ Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
+ Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân; đồng thời phải tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đồng thời đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân.
* Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư.
Theo Hồ Chí Minh: Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm vật tư, tiền bạc, của cải, thời gian, không sa sỉ, không hoang phí (của dân, của nước và của bản thân mình). Liêm là trong sạch, không tham tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Các đức tính đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo người, cần mà không kiệm giống như “chiếc thùng không đáy, làm chừng nào sào chứng ấy”, rốt cuộc “không lại hoàn không”. Còn kiệm mà không cần thì “sản xuất được ít, không đủ tiêu dùng, không có tăng thêm, không có phát triển”. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới hoàn chỉnh.
- Cần,kiệm, liêm, chính cần thiết với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết: “Trời có 4 mùa: Xuân, hạ, thu, đồng; Đất có 4 phương: Đông, tây, nam, bắc; Người có 4 đức: Cần, kiệm, liêm, chính; thiếu một mùa thì không thành trời; thiếu một phương thì không thành đất; thiếu một đức thì không thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết với cán bộ, đảng viên. Vì, nếu cán bộ đảng viên mắc sai lầm khuyết điểm sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung của cách mạng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Mặt khác, “những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành, nếu không giữ đúng cần, kiêm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”. Hơn nữa, cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc; đồng thời là nền tảng của đời sống mới, của thi đua yêu nước, là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ” để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại.
- Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
* Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
- Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của các dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng, trên đời này có nhiều người, nhiều công việc, nhưng có thể chia thành 2 hạng người: Người thiện và người ác và 2 thứ việc: việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Từ đó, Người kết luận: Những người bị áp bức, bị bóc lột, những người làm điều thiện thì dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo có khác nhau, vẫn có thể thực hành chữ “bác ái”, vẫn có thể đại đoàn kết, đại hoà hợp, coi nhau như anh em một nhà.
- Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng kiểu tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản giành cho các dân tộc và con người bị áp
bức, đau khổ. Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh vừa sâu sắc, bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người. Người luôn quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc làm, việc ăn, mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi công dân, không quên sót một ai. Mặt khác tính thương yêu con người ở Hồ Chí Minh luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người. Hồ Chí Minh đã nói: “Tôi chí có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
* Có tinh thần quốc tế trong sáng Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, hoà quyện giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Người khẳng định: “4 phương vô sản đều là anh em; giúp bạn là giúp mình; thắng lợi của mình cũng là thắng lợi của nhân dân thế giới”. Hồ Chí Minh là người đã góp phần to lớn, có hiệu quả xây đắp tình đoàn kết quốc tế, tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay đối đầu, kiến tạo một nền văn hoá hoà bình trên thế giới. Như vậy, tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc do đó, theo Hồ Chí Minh, việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế không thể coi nhẹ. Trong đó, đường lối chính trị của Đảng và những chủ trương, chính sách cụ thể của nhà nước có ý nghĩa định hướng đúng đắn trong việc bồi dưỡng tinh thần quốc tế ở mỗi người. 7.2.1.3 Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới * Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. - Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về nói đi đôi với làm. Người quan tâm đặc biệt, hàng đầu tới vấn đề đạo đức không phải chỉ để lại những bài viết, bài nói về đạo đức mà quan trọng hơn là Người đã thực hiện trước hết, nhiều nhất những tư tưởng ấy. Ngay trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), bàn về tư cách của một người cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “nói thì phải làm”, trong thực tế Người còn làm nhiều hơn những điều Người nói, kể cả những việc làm mà không nói. - Theo Hồ Chí Minh, đối với mỗi người lời nói phải đi đôi với việc làm, phải nêu gương về đạo đức thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân mình và có tác dụng đối với người khác. Hơn nữa, đây là điều để phân biệt rạch ròi với thói đạo đức giả, đạo đức của giai cấp bóc lột với những đặc trưng bản chất là nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, nói một đằng làm một nẻo, đem lại lợi ích không phải cho quần chúng nhân dân lao động, mà cho thiểu số những kẻ bóc lột. Mặt khác, nói đi đôi với làm còn nhằm chống lại hiện tượng nói không đi đôi với làm vẫn còn tồn tại ở cán bộ, đảng viên trên những mức độ khác nhau. Hiện tượng này, từ rất sớm Hồ Chí Minh (10.1945) đã nói tới những kẻ “vác mặt làm quan cách mạng”. Sau này, trong nhiều lần bàn tới việc cần tẩy sạch bệnh quan liêu, mệnh lệnh, Người chỉ rõ: “Miệng thì nói dân chủ nhưng làm việc thì họ theo lối quan chủ. Miệng thì nói phụng sự quần chúng, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích quần chúng, trái ngược với phương châm, chính sách của Đảng và chính phủ”. - Nêu gương đạo đức, nói đi đôi với làm còn là nét đẹp của văn hoá phương Đông. Hồ Chí Minh cho rằng : “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm và đối với họ một tấm gương sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Như vậy, Hồ Chí Minh là người đào tạo thế hệ cách mạng Việt Nam không chỉ bằng lý luận cách mạng, mà còn bằng cả chính tấm gương đạo đức cao cả. * Xây đi đôi với chống - Làm cách mạng là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Xây dung đạo đức mới lại càng phải quan tâm đến điều này vì: + Trong Đảng và mỗi con người, vì những lý do khác nhau, nên không phải “Người người đều tốt, việc việc đều hay”; mỗi con người đều có cái thiện, cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi đó là thái độ của người cách mạng. + Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, cuộc chiến đấu khổng lồ. Theo Hồ Chí Minh, trong cuộc chiến đấu đó, có nhiều kẻ địch nhưng thường có 3 loại: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc - là kẻ địch rất nguy hiểm; thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ; loại thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn lấp trong mình mỗi người chúng ta, nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi để ngóc đầu dậy, nó là bạn đồng minh của hai kẻ địch kia. Do vậy, muốn xây thì phải chống. Chống và sử lý nghiêm là nhằm xây, đi liền với xây. Mục đích cuối cùng là xây con người có đạo đức và nền đạo đức mới ở Việt nam. Xây đi đôi với chống trong lĩnh vực đạo đức cũng là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài. - Để xây dựng nền đạo đức mới cần thực hiện tốt các yêu cầu sau: + Phải giáo dục những phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng cho con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. + Giáo dục đạo đức phải phù hợp với lứa tuổi, nghành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau; đồng thời phải chú ý tới hoàn cảnh, nhiệm vụ từng giai đoạn cách mạng. + Giáo dục đạo đức phải được tiến hành từ gia đình, nhà trường và ngoài xã hội, nhất là trong những tập thể - nơi mỗi người gắn bó bằng hoạt động thực tiễn. + Mỗi người và tổ chức phải có ý thức tự giác trau dồi đạo đức cách mạng. - Xây đi đôi với chống phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. * Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. - Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và văn hoá phương Đông. Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh thường nêu lại tấm gương của người xưa: Bỏ đỗ đen, đõ trắng vào hai cái lọ, để nhìn vào đó có thể biết mình tốt xấu ra sao. Người cũng nói về ưu điểm của khổng tử là “vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân”. Theo khổng tử : “chính tâm, tu thân”, mới làm được những việc lớn khác như trị quốc, bình thiên hạ”. Hồ Chí Minh yêu cầu: Chúng ta phải nhớ câu “chính tâm, tu thân” để trị quốc, bình thiên hạ. Chính tâm, tu thân tức là cải tạo, cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ vì đó là một cuộc cách mạng cho bản thân mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ để trở thành con người mới không phải là một việc dễ dàng... dù khó khăn gian khổ, nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công. - Việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng bền bỉ suốt đời, phải như công việc rửa mặt hàng ngày và là một trong những yêu cầu có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Vì: + Đạo đức cách mạng gắn với thực tiễn cách mạng, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. + Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Hồ Chí Minh cho rằng, nó cũng giống như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Vì vậy, Người luôn đòi hỏi “gian nan rèn luyện mới thành công”, “kiên trì và nhẫn nại không nao núng tinh thần”. + Cái ác luôn ẩn nấp trong mỗi người, nên không được sao nhãng, chủ quan, tự mãn, mà phải rèn luyện suốt đời và bền bỉ. - Đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự do cho con người, nên tu dưỡng đạo đức phải gắn liền với hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm, trách nhiệm của mỗi người. 7.2.2 Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 7.2.2.1 Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân - Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh 7.2.2.2 Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay + Phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch lành mạnh, khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập thân lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn, thách thức, dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chây lười; luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. + Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế,do sự bùng phát của lối sống thực dụng chạy theo danh lợi, bất chấp đạo lý đã dân đến những tiêu cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ biến. Đó là tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống, tham nhũng cửa quyền, âm mưu diễn biến hòa bình...đã tác động không nhỏ đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên trí thức. Làm cho một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng, không có ý chí, sống dựa dẫm, ỷ lại và gian lận. - Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh + Học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. + Học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. + Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng , hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người. + Học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống. 7.3
7.3.1
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
7.3.1.1
Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
- Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái chân – thiện – mỹ.
- Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ... bao gồm cả tính người – mặt xã hội và tính bản năng – mặt sinh học của con người.
7.3.1.2
Con người cụ thể, lịch sử
Hồ Chí Minh đề cập con người cụ thể, lịch sử; không có con người chung chung, trừu tượng phi nguồn gốc lịch sử hay con người kiểu tôn giáo. Đồng thời Người xem xét con người trong các quan hệ xã hội và tuỳ theo thời điểm lịch sử cụ thể, gắn với từng thời kỳ cách mạng, Người dùng khái niệm này hay khái niệm khác để chỉ con người. Ví dụ :
- Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh dùng các khái niệm: “người bản xứ bị bóc lột”, “người mất nước”, “người da đen”, “người da vàng”, “người vô sản”, “người cùng khổ”.
- Từ khi về nước lãnh đạo nhân dân giành chính quyền cách mạng, HCM dùng các khái niệm: “đồng bào”, “nhân dân”, “quốc dân”, “dân” qua đó đặt con người trong mối quan hệ gắn bó với khối thống nhất của cộng đồng dân tộc.
- Khi miền bắc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh dùng thêm nhiều khái niệm mới như “công nhân”, “nông dân”, “trí thức”, “lao động chân tay”, “lao động trí óc”, “người chủ xã hội”.
- Hồ Chí Minh chỉ dùng khái niệm “con người”, “phẩm giá con người”, “giải phóng con người” trong một số trường hợp hãn hữu. ở những trường hợp này đều được nhận thức trong bối cảnh cụ thể và thông thường đặt những khái niệm đó trong một mạch tư duy chung.
7.3.1.3
Bản chất con người mang tính xã hội
- Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động sản xuất, con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội, hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau... xác lập các mối quan hệ giữa người với người.
- Con người là sản phẩm của xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hôi từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em; họ hàng; bầu bạn; đồng bào; loài người.
7.3.2
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược trồng người
7.3.2.1
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
- Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng.
+ Hồ Chí Minh đã nêu một luận điểm khẳng định tính tất yếu của vai trò con người trong phát triển xã hội. Người viết: “Vô luận việc gì, đều do con người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”.
+ Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị, cả vật chất và tinh thần và mọi của cả, cũng như loài người đã sản sinh ra “mọi phương thức sinh hoạt và các biểu hiện của nó” giúp con người tồn tại và phát triển.
+ Hồ Chí Minh không chỉ thấy rõ vai trò con người mà còn thấy rất rõ sức mạnh của con người khi được tổ chức lại. Người khẳng định: “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Người cho rằng, việc dễ mấy không có dân cũng chịu, việc khó mấy có dân lo liệu cũng xong.
+ Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc vào tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “ Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.
- Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người.
+ Trong khi khẳng định mục tiêu cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh phúc cho con người. Hồ Chí Minh cũng đồng thời khẳng định sự nghiệp giải phóng là do chính bản thân con người thực hiện. Trong tuyên ngôn hành động của mình, Hồ Chí Minh nói rõ: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
+ Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người.
+ Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ, bản lĩnh, văn hóa, đạo đức và hoạt động trong một tổ chức nhất định - đó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
7.3.2.2
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người
- Trồng người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng
- Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa
+ Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, những con người xã hội chủ nghĩa lại là chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Không phải chờ cho kinh tế, văn hóa phát triển rồi mới xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng xong con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng con người phải đặt ra từ đầu và quan tâm suốt quá trình.
+ Thế nào là “Trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”, có nghĩa là không phải tất cả mọi người phải và có thể trở thành người xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ, thật hoàn chỉnh ngay một lúc, mà chỉ có nghĩa là trước hết cần có những người tiên tiến, có được những nét tiêu biểu của con người xã hội chủ nghĩa để có thể làm gương và lôi cuốn người khác và toàn xã hội xây dựng con người mới, đồng thời họ cũng không ngừng được hoàn thiện, được nâng cao.
+ Xây dựng con người mới là đào tạo, xây dựng con người phát triển toàn diện: Đức, trí, thể, mỹ. Hồ Chí Minh hay nhắc nhiều đến đức và tài, hồng và chuyên, song không hề coi nhẹ việc rèn luyện thể lực và giáo dục thẩm mĩ cho con người, nhất là thanh thiếu niên.
+ Tiêu chuẩn của con người xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí Minh nêu lên nhiều lần, có thể khái quát ở mấy điểm chính sau:
^ Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể, có tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình, có tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết vươn lên hàng đầu, có tinh thần tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
^ Có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, cần kiệm liêm chính chí công vô tư, có tinh thần quốc tế trong sáng, có lối sống lành mạnh trong sáng.
^ Có tác phong xã hội chủ nghĩa: làm việc có kế hoạch, có biện pháp, có quyết tâm, có tổ chức, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất, chất lượng hiệu quả, lao động quên mình, không sợ khó, sợ khổ, làm việc vì lợi ích của xã hội, tập thể và bản thân mình.
^ Có năng lực làm chủ: bản thân, gia đình và công việc mình đảm nhiệm, đủ sức khỏe và tư cách tham gia làm chủ nhà nước và xã hội, thực hiện có kết quả quyền công dân, phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học và công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ.
^ Ngoài những tiêu chuẩn chung nêu trên, Hồ Chí Minh còn nêu những tiêu chuẩn cụ thể cho từng giới, từng ngành. Đảng ta tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh đã vạch ra một cách toàn diện nội dung của con người mới Việt Nam trong tất cả các quan hệ xã hội đa dạng phức tạp. Tổng hòa các quan hệ xã hội với những tiêu chuẩn đã được xác định sẽ tạo ra cái bản chất của con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Chiến lược trồng người là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
+ Để thực hiện chiến lược trồng người có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu tới thanh niên.
+ Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng , lối sống XHCN lên hàng đầu. Hai mặt đức và tài thống nhất với nhau, không tách rời nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm... Có như vậy mới có thể “học để làm người”.
+ Trồng người là công việc trăm năm, không thể nóng vội một sớm một chiều, không phải làm một lúc là xong, cũng không phải làm tùy tiện, đến đâu hay đến đó. Nhận thức vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top