TTDA_C2
CHƯƠNG II
DỰ ÁN ĐẦU TƯ
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ DỰ ÁN
1. Khái niệm dự án
Trong chương 1, chúng ta đã nghiên cứu về đầu tư. Giữa đầu tư và dự án có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là mối quan hệ nhân quả. Đầu tư phát triển là nguồn gốc ra đời của các dự án. Ngược lại, việc xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư sẽ kiểm nghiệm tính đúng đắn và hiệu quả của quyết định đầu tư.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, muốn tối đa hoá hiệu quả của đầu tư thì trước khi ra quyết định đầu tư nhất thiết phải có dự án đầu tư. Nói khác đi, đầu tư phải được tiến hành trên cơ sở các dự án được soạn thảo và xem xét một cách kĩ lưỡng. Vì vậy, đầu tư theo dự án trở thành xu thế phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Trong nhiều năm qua, cách tiếp cận đầu tư bằng dự án đã đứng vững được như một phương pháp đã tôi luyện để quản lý việc sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quan trọng.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh về dự án đầu tư. Dự án đầu tư được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo thời gian, quan niệm về dự án ngày càng phát triển. Có người coi dự án là cách sử dụng các nguồn lực vào mục đích sản xuất nhất định; Ngân hàng Thế giới, một tổ chức tài chính quốc tế lớn nhất và có vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn, viện trợ kinh tế - kỹ thuật, thúc đẩy đầu tư vào các nước đang phát triển thông qua các chương trình và dự án đầu tư đã xem dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí có liên quan với nhau được hoạch định nhằm đạt những mục tiêu nào đó trong một thời gian nhất định; Cũng có người cho rằng: dự án đầu tư là tập hợp các đối tượng được hình thành và hoạt động theo một kế hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu nhất định (các lợi ích) trong một khoảng thời gian nhất định; Với tư cách là người đầu tư, mối quan tâm hàng đầu và mục đích chủ yếu của chủ đầu tư là kiếm lời. Đây là một quá trình tìm kiếm rất khó khăn, vất vả. Để đạt được điều này, nhà đầu tư phải nghiên cứu chi tiết, tỷ mỉ tất cả những vấn đề có liên quan, ảnh hưởng đến tính sinh lời của công cuộc đầu tư đó. Tập hợp những kết quả nghiên cứu này bằng văn bản được gọi là dự án đầu tư...
Dù được xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì dự án đầu tư cũng bao gồm các thành phần chính như sau:
- Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án. Cụ thể là khi thực hiện, dự án sẽ mang lại những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho bản thân chủ đầu tư nói riêng. Những mục tiêu này cần được biểu hiện bằng kết quả cụ thể như tạo nguồn thu cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động, mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư...
- Các hoạt động của dự án. Dự án phải nêu rõ những hành động cụ thể phải thực hiện, địa điểm diễn ra các hoạt động của dự án, thời gian cần thiết để hoàn thành, và các bộ phận có trách nhiệm thực hiện những hành động đó. Cần lưu ý rằng các hoạt động đó có mối quan hệ với nhau vì tất cả đều hướng tới sự thành công của dự án và các hoạt động đó diễn ra trong một môi trường không chắc chắn. Môi trường dự án không phải là môi trường hiện tại mà là môi trường tương lai.
- Các nguồn lực. Hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu các nguồn lực về vật chất, tài chính, con người... Vì vậy, phải nêu rõ các nguồn lực cần thiết cho dự án. Tổng hợp các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án. Mỗi dự án bao giờ cũng được xây dựng và thực hiện trong sự giới hạn về nguồn lực.
Tóm lại, mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về dự án, song quan niệm về dự án đầu tư dưới giác độ của nhà đầu tư sẽ được sử dụng nhằm đáp ứng cho mục đích chủ yếu là tiến hành thẩm định các dự án đầu tư. Theo quan niệm này, dự án đầu tư được hiểu là tập hợp kết quả nghiên cứu các nội dung có liên quan, ảnh hưởng đến sự vận hành và tính sinh lời của công cuộc đầu tư.
2. Vai trò của dự án đầu tư
Dự án đầu tư là “sản phẩm” đem lại cho công cuộc đầu tư một hiệu quả như mong muốn. Chính nguồn gốc ra đời của dự án đã cho thấy một cách khái quát vai trò của dự án đối với sự phát triển. Dự án đầu tư tạo cơ sở vật chất kỹ - thuật nguồn lực mới cho sự phát triển, là phương tiện chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế, giải quyết quan hệ cung - cầu về vốn, về sản phẩm dịch vụ trên thị trường, góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, cải tiến bộ mặt kinh tế xã hội cho đất nước. Vai trò cụ thể của dự án đối với chủ đầu tư, nhà nước và nhà tài trợ được thể hiện ở những điểm chính như sau:
Trước hết đối với chủ đầu tư: Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định sự bỏ vốn đầu tư. Dự án đầu tư được soạn thảo theo một quy trình chặt chẽ trên cơ sở nghiên cứu đầy đủ các mặt về thị trường, kỹ thuật, tài chính, tổ chức quản lý... do đó, chủ đầu tư sẽ yên tâm hơn trong việc bỏ vốn ra để thực hiện dự án vì có khả năng mang lại lợi nhuận và ít rủi ro. Mặt khác, vốn đầu tư của một dự án thường rất lớn và để san xẻ rủi ro (nếu có) nên ngoài phần vốn tự có, để thực hiện các dự án chủ đầu tư còn cần đến nguồn vốn vay. Dự án là một phương tiện để thuyết phục các tổ chức tài chính - tín dụng xem xét tài trợ cho vay vốn. Dự án cũng là cơ sở để chủ đầu tư xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư. Đó là những kế hoạch mua sắm máy móc thiết bị, kế hoạch thi công xây lắp, kế hoạch sản xuất kinh doanh.... Ngoài ra, dự án còn là căn cứ để đánh giá và có điều chỉnh kịp thời những tồn tại và vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư và khai thác công trình.
Đối với Nhà nước, dự án đầu tư là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước xem xét, phê duyệt cấp vốn và cấp giấy phép đầu tư. Vốn ngân sách nhà nước sử dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch thông qua các dự án đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư quan trọng của quốc gia trong từng thời kỳ (điện, xi măng, sắt, thép...). Dự án sẽ được phê duyệt, cấp giấy phép đầu tư khi mục tiêu của dự án phù hợp với đường lối, chính sách phát triển kinh tế của đất nước, hoạt động của dự án không gây ảnh hưởng đến môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội. Khi dự án đã được phê chuẩn thì các bên liên quan đến dự án phải tuân thủ theo nội dung yêu cầu của dự án. Nếu nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên liên quan thì dự án là một trong những cơ sở pháp lý để xem xét, giải quyết.
Đối với các nhà tài trợ. Khi tiếp nhận các dự án xin tài trợ vốn của chủ đầu tư, các tổ chức tài chính - tín dụng sẽ xem xét các nội dung cụ thể của dự án, đặc biệt là về mặt kinh tế - tài chính để đi đến quyết định có đầu tư hay không đầu tư cho các dự án đó. Dự án chỉ được đầu tư vốn nếu mang tính khả thi theo quan điểm của nhà tài trợ và ngược lại. Khi chấp nhận đầu tư, dự án là cơ sở để các tổ chức này lập kế hoạch cấp vốn hoặc cho vay theo mức độ hoàn thành kế hoạch đầu tư, đồng thời lập kế hoạch thu hồi vốn vay.
3. Yêu cầu của dự án
Soạn thảo dự án là một công việc khó khăn, phức tạp. Không thể xem soạn thảo dự án là việc làm chiếu lệ để tìm đối tác hoặc vay vốn đầu tư. Để một dự án đầu tư có tính thuyết phục và thu hút các bên tham gia, khi soạn thảo dự án cần đảm bảo đầy đủ những yêu cầu cơ bản sau:
Một là, dự án phải có tính khoa học. Đây là yêu cầu quan trọng hàng đầu của dự án đầu tư. Đảm bảo yêu cầu này sẽ tạo tiền đề cho việc triển khai và thực hiện thành công dự án. Tính khoa học của dự án được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau:
- Về số liệu thông tin. Những dữ liệu, thông tin để xây dựng dự án phải đảm bảo trung thực, chính xác, tức là phải chứng minh được nguồn gốc và xuất xứ của những thông tin và những số liệu đã thu thập được (do các cơ quan có trách nhiệm cung cấp, nghiên cứu tìm hiểu thực tế...).
- Về phương pháp lý giải. Các nội dung của dự án không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà chúng luôn nằm trong một thể thống nhất, đồng bộ. Vì vậy, quá trình phân tích, lý giải các nội dung đã nêu trong dự án phải đảm bảo logic và chặt chẽ.
- Về phương pháp tính toán. Khối lượng tính toán trong một dự án thường rất lớn. Do đó, khi thực hiện tính toán các chỉ tiêu cần đảm bảo đơn giản và chính xác. Đối với các đồ thị, các bản vẽ kỹ thuật phải đảm bảo chính xác về kích thước, tỷ lệ.
-Về hình thức trình bày. Dự án chứa đựng rất nhiều nội dung, nên khi trình bày phải đảm bảo có hệ thống, rõ ràng và sạch đep.
Hai là, tính pháp lý. Tính pháp lý của dự án phản ánh quyền lợi của quốc gia trong dự án. Vì vậy, việc triển khai, thực hiện dự án phải được phép của các cơ quan có thẩm quyền. Muốn vậy, dự án đầu tư không chứa đựng những điều trái với luật pháp và chính sách của Nhà nước về đầu tư. Nói khác đi là dự án cần có cơ sở pháp lý vững chắc, tức là phù hợp với chính sách và luật pháp của Nhà nước. Điều này đòi hỏi người soạn thảo dự án phải nghiên cứu kỹ chủ trương, chính sách của Nhà nước và các văn bản luật pháp có liên quan đến các hoạt động đầu tư đó.
Ba là, tính thực tiễn. Tính thực tiễn của dự án đầu tư thể hiện ở chỗ nó có khả năng ứng dụng và triển khai trong thực tế. Mỗi dự án bao giờ cũng thuộc một ngành, lĩnh vực cụ thể với những thông số, tính toán và chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật cụ thể. Mặt khác, dự án diễn ra ở những địa điểm cụ thể và chịu tác động của những yếu tố môi trường xác định về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội...
Bởi các lý do chính yếu trên, cho nên, các nội dung, khía cạnh phân tích của dự án đầu tư không thể chung chung mà dựa trên những căn cứ thực tế, tức là dự án phải được xây dựng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về mặt bằng, thị trường, vốn...
Bốn là, tính thống nhất. Lập và thực hiện dự án đầu tư là cả một quá trình gian nan, phức tạp. Đó không phải là công việc độc lập của chủ đầu tư mà nó liên quan đến nhiều bên như cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, các nhà tài trợ...
Vì vậy, dự án phải biểu hiện sự thống nhất về lợi ích giữa các bên có liên quan đến dự án. Muốn các bên đối tác hiểu và quyết định tham gia dự án đầu tư, các tổ chức tài chính quyết định tài trợ hay cho vay đối với các dự án và muốn được cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp giấy phép đầu tư thì việc xây dựng dự án từ các bước tiến hành đến nội dung, hình thức, cách trình bày dự án cần phải tuân thủ theo những quy định chung mang tính quốc tế. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho các bên chấp thuận dự án.
Năm là, tính phỏng định. Xuất phát từ tính phức tạp của đầu tư nên người soạn thảo dự án dù có nhiều kinh nghiệm và chuẩn bị hết sức chu đáo, kỹ lưỡng cũng không thể lường hết được những yếu tố sẽ chi phối hoạt động đầu tư trong tương lai. Những nội dung, tính toán về quy mô sản xuất, chi phí, giá cả, doanh thu, lợi nhuận... trong dự án chỉ có tính chất dự trù, dự báo. Thực tế thường xảy ra không hoàn toàn đúng như dự báo. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, thực tế xảy ra lại khác xa so với dự kiến ban đầu trong dự án. Vì vậy, dự án có tính phỏng định. Nhưng sự phỏng định phải dựa trên những căn cứ khoa học, trung thực và khách quan nhằm giảm thiểu rủi ro, độ bất định trong quá trình thực hiện dự án.
4. Chu trình dự án
Một công cuộc đầu tư được xem như bắt đầu từ ý tưởng về dự án đầu tư. Bất kỳ một dự án đầu tư nào cũng được hình thành từ một ý tưởng ban đầu của nhà đầu tư. Tuy ý tưởng chỉ là một sự “hình dung” mong muốn của nhà đầu tư, nhưng cũng phải dựa trên những căn cứ cụ thể, vì nếu không ý tưởng đó sẽ trở thành viễn tưởng.
Từ ý tưởng của dự án đến đến việc xây dựng, thực hiện và kết thúc dự án là cả một quá trình. Quá trình này thường được chia làm 3 giai đoạn và trong mỗi giai đoạn lại gồm rất nhiều công việc diễn ra vừa tuần tự vừa đan xen lẫn nhau. Sau đây là các giai đoạn với các bước và công việc chính của một chu trình dự án:
Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầu tư.
Giai đoạn này gồm những bước chính như sau:
- Nghiên cứu cơ hội đầu tư.
- Nghiên cứu tiền khả thi.
- Nghiên cứu khả thi.
- Thẩm định để ra quyết định đầu tư.
Nghiên cứu cơ hội đầu tư là nghiên cứu những khả năng, những điều kiện để chủ đầu tư có thể tiến hành đầu tư. Mục đích của nó là tìm ra được cơ hội đầu tư phù hợp nhất đối với chủ đầu tư. Việc nghiên cứu cơ hội đầu tư có tác dụng xác định một cách nhanh chóng và ít tốn kém nhưng lại dễ thấy về các khả năng đầu tư trên cơ sở những thông tin cơ bản đưa ra đủ để làm người có khả năng đầu tư cân nhắc, xem xét và đi đến quyết định có triển khai tiếp sang giai đoạn nghiên cứu sau hay không.
Nghiên cứu tiền khả thi là sự lựa chọn sơ bộ cơ hội đầu tư. Mặc dù mới chỉ là sự lựa chọn sơ bộ cơ hội đầu tư, nhưng không vì thế mà chủ đầu tư coi nhẹ, giảm bớt nội dung nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu tiền khả thi là tất cả những vấn đề có liên quan ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư như thị trường, tài chính, kinh tế - kỹ thuật... Tuy nhiên, vì là sự lựa chọn sơ bộ cho nên chủ đầu tư chưa nghiên cứu những vấn đề đó một cách chi tiết tỷ mỉ. Việc nghiên cứu những vấn đề đó ở mức độ trung bình và trong trạng thái tĩnh. Tức là, chưa đề cập đến sự tác động của các yêú tố bất định và các kết quả tính toán chỉ là những ước tính sơ bộ.
Nghiên cứu khả thi là sự lựa chọn cuối cùng cơ hội đầu tư nên chủ đầu tư phải tiến hành nghiên cứu hết sức chi tiết, tỉ mỉ, toàn diện, triệt để những nội dung về thị trường, tài chính, kinh tế, kỹ thuật... có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư. Điều đáng chú ý là nghiên cứu khả thi diễn ra trong trạng thái động, tức là, có tính đến những yếu tố bất định có thể xảy ra theo từng nội dung cụ thể.
Như vậy, về mặt nội dung, có thể coi nghiên cứu tiền khả thi và khả thi là như nhau. Giữa nghiên cứu tiền khả thi và khả thi chỉ khác nhau về tính chất, mức độ nông, sâu của việc nghiên cứu.
Thẩm định để ra quyết định đầu tư. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu khả thi sẽ tổ chức thẩm định để đi đến quyết định có thực hiện đầu tư hay không.
Giai đoạn 2: Thực hiện đầu tư.
Đây là giai đoạn tiến hành các hoạt động nhằm tạo nên cơ sở vật chất - kỹ thuật, tiền đề cho dự án đi vào giai đoạn sau cùng. Giai đoạn này gồm những bước chính như:
- Đàm phán ký kết các hợp đồng.
- Thiết kế và lập dự toán thi công công trình.
- Thi công xây lắp công trình.
- Vận hành chạy thử nghiệm thu công trình.
Trong giai đoạn này vốn đầu tư được chi ra rất lớn và chưa sinh lời. Thời gian càng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn và có thể xảy ra các tổn thất đối với thiết bị chưa hoặc đang được thi công lắp đặt, các công trình đang được xây dựng dở dang. Thế nhưng, không thể tuỳ tiện rút ngắn thời gian thực hiện đầu tư vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thi công xây dựng - lắp đặt công trình, gây ảnh hưởng xấu đến giai đoạn vận hành, khai thác. Như vậy là, vấn đề đảm bảo chất lượng xây dựng - lắp đặt công trình và thời gian thi công là quan trọng hơn cả trong giai đoạn thực hiện đầu tư.
Giai đoạn 3: Vận hành kết quả đầu tư.
Đây là giai đoạn cuối cùng của dự án đầu tư. Thực chất của giai đoạn này là đưa công trình đã được xây dựng, lắp đặt xong vào vận hành, khai thác. Tức là, thực hiện tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu của dự án đề ra, trong đó mục tiêu chủ yếu là thu hồi vốn và có lợi nhuận.
Ở những năm đầu, khi dự án mới đi vào hoạt động, do tình hình chưa ổn định nên công suất thực tế đạt được không cao. Vì vậy, ở năm thứ nhất, công suất thực tế chỉ nên tính khoảng 50% công suất thiết kế, năm thứ hai ở mức cao hơn, khoảng 75%. Công suất thiết kế thực tế đạt được ở mức cao nhất thường là từ năm thứ 3 trở đi và khi đó cũng chỉ nên tính ở mức xấp xỉ 90% công suất thiết kế.
Tóm lại, chu trình dự án là các giai đoạn và các bước mà một dự án đầu tư cần trải qua bắt đầu từ thời điểm có ý tưởng đầu tư cho đến thời điểm kết thúc dự án.
II. NỘI DUNG CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1. Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư
Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất - kinh doanh, phát triển kinh tế, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và hoạt động tài trợ. Tuỳ theo từng dự án cụ thể để nghiên cứu, xác định những cơ sở về sự cần thiết phải tiến hành đầu tư theo dự án đó. Tuy nhiên, do hoạt động đầu tư mang tính phức tạp, có liên quan, ảnh hưởng và chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là tình hình kinh tế của mỗi vùng, mỗi khu vực và mỗi quốc gia. Vì vậy, có thể nói rằng, tình hình kinh tế tổng quát là cơ sở chủ yếu nhất để nghiên cứu sự cần thiết phải thực hiện các dự án đầu tư. Khi nghiên cứu tình hình kinh tế tổng quát có liên quan đến dự án đầu tư cần xem xét trên các khía cạnh chủ yếu sau:
- Trước hết là điều kiện về địa lý tự nhiên. Các yếu tố thuộc điều kiện về địa lý tự nhiên như địa hình, khí hậu, địa chất, tài nguyên... có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và hoạt động của dự án đầu tư, tác động mạnh mẽ đến “đầu vào” và “đầu ra” của các dự án.
- Điều kiện về dân số và lao động. Đây là yếu tố có liên quan, ảnh hưởng đến nhu cầu và khuynh hướng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ do dự án tạo ra, đồng thời tác động đến nguồn lao động cung cấp cho dự án.
- Tình hình chính trị, các chính sách và hệ thống luật pháp của nhà nước là những yếu tố có liên quan, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và tâm lý của nhà đầu tư. Sự ổn định về chính trị, luật pháp nghiêm minh và các chính sách nhất quán sẽ mang lại sự an tâm cho các nhà đầu tư. Các chính sách phát triển, cải cách và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh nhận thức và sự đổi mới tư duy trong lĩnh vực đầu tư, tạo thuận lợi cho môi trường đầu tư.
- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thực trạng sản xuất - kinh doanh của ngành, của cơ sở thể hiện qua các chỉ tiêu như tốc độ tăng GDP, tỉ lệ đầu tư/GDP, tỉ suất lợi nhuận... có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện và phát huy hiệu quả của dự án.
Ngoài ra, đối với dự án đầu tư mở rộng qui mô sản xuất, cải tiến kĩ thuật, cần phân tích thực trạng hoạt động sản xuất - kinh doanh của những cơ sở đó.
Trên đây là những yếu tố cơ bản tác động đến dự án đầu tư. Nghiên cứu các vấn đề trên sẽ giúp tìm ra câu trả lời vì sao phải thực hiện dự án đầu tư. Để nghiên cứu các vấn đề trên cần sử dụng nhiều nguồn số liệu thông tin. Có thể thu thập các số liệu thông tin đó trong các niên giám, báo cáo thống kê hay trên các tạp chí, sách báo và tài liệu kinh tế quốc tế...
Điều cần chú ý là tuỳ thuộc vào từng dự án cụ thể để lựa chọn các vấn đề kinh tế tổng quát nêu trên khi xem xét đánh giá sự cần thiết phải thực hiện dự án đó.
2. Nghiên cứu về phương diện thị trường
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta trước đây, sản phẩm hàng hoá khan hiếm do nguyên nhân chủ yếu là năng lực sản xuất hạn chế. Hầu hết các sản phẩm sản xuất ra đều được tiêu thụ. Vì vậy, vấn đề thị trường được ít người quan tâm.
Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường đã tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của các đơn vị, đem lại một thực tế là có nhiều sản phẩm hàng hoá xuất hiện trên thị trường. Sự xuất hiện nhiều sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu của con người đã góp phần quan trọng làm thay đổi tư duy của các nhà đầu tư, sản xuất. Tư duy bắt đầu từ việc sản xuất rồi tìm cách bán hàng, tiêu thụ sản phẩm đã khép lại, nhường chỗ cho một tư duy mới, đó là cần bắt đầu từ nghiên cứu thị trường để nắm bắt nhu cầu và tâm lý của người tiêu dùng, từ đó lựa chọn sản phẩm để đầu tư, sản xuất và tổ chức tiêu thụ phù hợp với sở thích, nếp sống và sức mua của khách hàng.
Như vậy là, dự án cần sản xuất sản phẩm gì với số lượng và giá cả bao nhiêu không thể xuất phát từ suy nghĩ chủ quan của nhà đầu tư mà phải xuất phát từ thị trường. Nghiên cứu về phương diện thị trường là nội dung quan trọng đầu tiên và có ý nghĩa sống còn của dự án. Thị trường là nơi phát ra những tín hiệu rất cần thiết đối với chủ đầu tư, là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô của dự án. Mục đích chủ yếu của nghiên cứu thị trường là nhằm:
- Xác định thị trường hiện tại của sản phẩm dự định sản xuất, đánh giá tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai, đồng thời phân tích các yếu tố kinh tế và phi kinh tế tác động đến nhu cầu sản phẩm.
- Xây dựng các biện pháp khuyến thị và tiếp thị cần thiết giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm của dự án.
- Đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm so với sản phẩm cùng loại có sẵn và các sản phẩm có thể sau này xuất hiện trên thị trường.
Về mặt nội dung, nghiên cứu thị trường dự án bao gồm các vấn đề chính như sau:
Một là, lựa chọn sản phẩm dự án. Một sản phẩm được sản xuất ra là nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của xã hội. Tuy nhiên, nhu đó rất đa dạng và có tầm quan trọng khác nhau tuỳ theo mỗi cá nhân và tuỳ theo mỗi xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu lựa chọn sản phẩm của dự án cần xác định rõ loại sản phẩm và đối tượng tiêu thụ sản phẩm đó. Những vấn đề cần được xem xét, làm rõ khi lựa chọn sản phẩm dự án là:
- Đặc điểm, công dụng chủ yếu của sản phẩm là gì? Sản phẩm dự án đáp ứng nhu cầu sản xuất hay nhu cầu của các cá nhân?
- Ai là khách hàng chính tiêu thụ sản phẩm dự án? Ai sẽ là những khách hàng mới ?
- Sản phẩm dự án dự định sản xuất đang ở trong giai đoạn nào của chu kì sống? Nếu sản phẩm dự án dự định sản xuất đang ở vào những giai đoạn cuối của chu kì sống thì việc thực hiện dự án đó rõ ràng là bất lợi, không nên tiến hành.
Hai là, xác định nhu cầu thị trường hiện tại. Xác định nhu cầu hiện tại của sản phẩm mà dự án dự định sản xuất là điều cần thiết đối với nhà đầu tư. Để xác định được mức tiêu thụ hiện tại về loại sản phẩm của dự án cần thu thập các số liệu như số liệu sản xuất trong năm của các cơ sở hiện có, số lượng nhập khẩu và xuất khẩu trong năm và lượng tồn kho cuối năm. Cần lưu ý rằng, mức tiêu thụ hiện tại có thể phản ánh đúng hoặc chưa đúng như cầu hiện tại.
Đối với những mặt hàng không còn sự khan hiếm về sản phẩm, hoặc mức độ khan hiếm thấp thì mức tiêu thụ hiện tại sẽ phản ánh đúng nhu cầu thị trường hiện taị.
Đối với những sản phẩm có sự khan hiếm, sản xuất ra đến đâu đều được tiêu thụ hết, có thêm nữa vẫn bán được thì mức tiêu thụ hiện tại chưa phản ánh đúng nhu cầu thị trường hiện tại, nhu cầu có thể còn lớn hơn lượng hàng đã tiêu thụ. Lẽ dĩ nhiên các dự án đầu tư cần phát hiện những mặt hàng còn có sự khan hiếm để đầu tư sản xuất. Lúc này, để xác định nhu cầu thị trường hiện tại có thể gia tăng một hệ số nào đó bằng cách tham khảo số liệu của các nước khác, nhất là các nước có kinh nghiệm có đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội giống với nước ta.
Ba là, dự báo nhu cầu tương lai sản phẩm dự án. Dự báo nhu cầu tương lai của sản phẩm dự án là vấn đề quan trọng và rất cần thiết, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi của nhà đầu tư cũng như các nhà tài trợ cho dự án. Thông thường, các dự án phải trải qua một thời gian thực hiện đầu tư nhất định. Khi quá trình xây dựng và lắp đặt hoàn thành, dự án sẽ được đưa vào khai thác, quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh bắt đầu và kúc đó sản phẩm của dự án mới có mặt trên thị trường.
Để dự báo nhu cầu thị trường tương lai, cần sử dụng các phương pháp dự báo. Có nhiều phương pháp để dự báo nhu cầu tương lai như phương pháp bình quân số học, phương pháp bình quân theo tốc độ tăng trưởng...
Mỗi phương pháp dự báo có nội dung riêng, nhưng cơ sở của chúng về cơ bản là giống nhau. Các phương pháp đều dựa trên giả thiết: những gì diễn ra trong quá khứ theo một quy luật nào đó sẽ tiếp tục ra trong tương lai cũng vấn theo quy luật đó.
Như vậy là, để dự báo nhu cầu tương lai của sản phẩm dự án cần xác định “quy luật” trong quá khứ. Muốn vậy, cần thu thập các số liệu thông tin trong quá khứ về tình hình tiêu thụ sản phẩm đó. Tuỳ theo từng loại sản phẩm mà xác định thời gian cần phải xem xét đến trong quá khứ. Nhìn chung, khoảng thời gian tối thiểu đối với nhiều loại sản phẩm là 5 năm.
Trong nghiên cứu dự báo nhu cầu thị trường tương lai, vấn đề đặt ra là cần lựa chọn phương pháp thích hợp để dự báo đối với từng loại sản phẩm dự định sản xuất. Điều cần chú ý là độ chính xác của các kết quả dự báo còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự biến động của giá cả, thu nhập, dân số và một số ảnh hưởng có tính chất đột biến.
Về giá cả, đây là một yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến nhu cầu thị trường. Thông thường, khi giá cả cao thì người tiêu dùng càng đắn đo khi mua sản phẩm đó. Vì vậy, khi dự báo nhu cầu của thị trường tương lai, để đảm bảo sự chính xác cao hơn cần tính đến tính đàn hồi của nhu cầu so với giá cả sản phẩm.
Về thu nhập, thông thường khi thu nhập tăng thì khuynh hướng tiêu dùng sẽ tăng lên. Khi dự báo nhu cầu cần kết hợp xem xét mối tương quan giữa thu nhập bình quân đầu người và mức tiêu thụ sản phẩm dự án dự định sản xuất.
Về dân số, cũng có ảnh hưởng quan trọng đến nhu cầu thị trường theo hướng “đồng biến”, nhất là các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, may mặc...
Bốn là, phân tích khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Cạnh tranh là điều thường xuyên xảy ra trong nền kinh tế thị trường do có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm. Quá trình này nhiều lúc diễn ra rất gay gắt, biến thương trường thành chiến trường. Nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư không đủ sức cạnh tranh dẫn đến bị phá sản.
Vì vậy, phân tích đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án là điều tất yếu và cần được coi trọng.
Trước hết, cần phân tích, đánh giá tình hình và mức độ cạnh tranh. Cụ thể là, xác định tất cả các nhà cạnh tranh chính ở hiện tại và tương lai. Thu nhập các thông tin về tình hình sản xuất - kinh doanh của họ có ước tính đến sự thay đổi trong tương lai để đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của “đối thủ” cạnh tranh.
Sau khi phân tích, đánh giá các “đối thủ”, cần phân tích đánh giá khách quan ưu thế và bất lợi của dự án trong cạnh tranh trên các mặt chủ yếu như chi phí sản xuất, khả năng tài chính, kỹ năng quản lý và kỹ thuật. Điều quan trọng là cần xác định rõ những ưu thế đó của dự án sẽ tồn tại được bao lâu và những bất lợi của dự án có khắc phục, hạn chế được hay không?
Bước quan trọng trong quá trình cạnh tranh sản phẩm do dự án tiến hành sản xuất nhằm chiếm lĩnh thị trường như đã dự tính là cần sử dụng các công cụ để cạnh tranh trên hai khía cạnh. Cạnh tranh về phương diện giá cả và khả năng cạnh tranh về giá trị sử dụng.
Để cạnh tranh về giá cả cần thu thập giá bán của các sản phẩm cùng loại đang được tiêu thụ trên thị trường do các doanh nghiệp hiện có sản xuất. Từ đó, dự kiến giá bán sản phẩm của dự án sao cho có thể cạnh tranh được mà vẫn có lời.
Nhìn chung, giá cả sản phẩm của dự án phải thấp hơn hoặc tối đa là cao bằng giá cả sản phẩm của các sản phẩm cùng loại đang có mặt trên thị trường mới có lợi thế trong cạnh tranh.
Khả năng cạnh tranh về giá trị sử dụng được thể hiện chủ yếu ở chất lượng sản phẩm, kiểu dáng công nghiệp, hình thức bao bì... Vì vậy, cần nêu rõ những ưu điểm nổi bật của chất lượng sản phẩm, nói rõ sản phẩm đạt tiêu chuẩn cấp nào, đồng thời cũng cần nêu rõ những tiện lợi của sản phẩm trong sử dụng, di chuyển và khả năng đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng... Chính những ưu điểm đó là cơ sở quan trọng để tạo ra uy tín của sản phẩm, là yếu tố có tính chất quyết định nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao được lượng hàng bán ra cũng như đảm bảo được tuổi thọ kinh tế của sản phẩm như dự kiến đề ra trong dự án.
Năm là, xây dựng các biện pháp tiếp thị và màng lưới tiêu thụ sản phẩm của dự án. Qua việc tiến hành dự báo nhu cầu thị trường tương lai đối với sản phẩm dự án dự định sản xuất đã cho biết khả năng xâm chiếm thị trường và tiêu thụ sản phẩm trong tương lai.
Thế nhưng, khả năng đó có trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề, đặc biệt là phải làm cho người tiêu dùng biết và cần đến các sản phẩm của dự án. Vì vậy, cần nghiên cứu các biện pháp tiếp thị và tổ chức màng lưới tiêu thụ sản phẩm của dự án để tăng nhanh khả năng tiêu thụ.
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tiếp thị đóng vai trò quan trọng tỷ lệ với số lượng và sự phức tạp của khách hàng. Mục đích của tiếp thị là làm cho người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của dự án thay vì sử dụng sản phẩm cạnh tranh khác. Vì vậy, cần nghiên cứu kỹ lưỡng đối tượng khách hàng, các hình thức phân phối và kỹ năng của chúng cũng như các phương án giới thiệu sản phẩm.
Tổ chức màng lưới tiêu thụ là một vấn đề cần được nghiên cứu kĩ lưỡng. Về nguyên tắc, phải đảm bảo cho sản phẩm của dự án đến được tay người tiêu dùng một cách nhanh chóng và thuận tiện. Do đó, dự án xem xét tổ chức hệ thống phân phối sản phẩm một cách hợp lý thông qua các phương thức tiêu thụ như bán hàng trực tiếp, bán hàng thông qua các đại lý hoặc thông qua các hợp đồng bao tiêu sản phẩm... Trường hợp áp dụng phương thức bán hàng trực tiếp cần dự trù tính toán các chi phí như chi phí vận chuyển, chi phí mở các cửa hàng tiêu thụ...
Nghiên cứu thị trường là nội dung quan trọng là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và qui mô của dự án. Mặt khác, nghiên cứu về phương diện thị trường cũng là một vấn đề rất phức tạp, mang nặng tính lý thuyết, vận dụng vào thực tế gặp rất nhiều khó khăn do thiếu số liệu hoặc số liệu không đủ độ tin cậy cao.
Thực tế cho thấy nhiều dự án không thành công đều có nguyên nhân do nghiên cứu thị trường không chính xác. Để nghiên cứu thị trường cần các thông tin ở tầm vĩ mô và vi mô như các kế hoạch lớn định hướng việc phát triển kinh tế quốc dân, tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế, chỉ số lạm phát, tình hình xuất - nhập khẩu và tuỳ theo sản phẩm của từng dự án cụ thể để xác định những thông tin cần thiết khác.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu thị trường không phải chỉ là thu lượm các tài liệu, thông tin về tình hình quá khứ, hiện tại và tương lai của sản phẩm dự án dự định sản xuất mà còn cần có các chuyên gia với những hiểu biết về sản phẩm dự án và những sản phẩm có thể thay thế cũng như những kiến thức về qui luật và cơ chế hoạt động của thị trường, pháp luật, thương mại... để có thể lựa chọn, phân tích và rút ra được những kết luận cụ thể và xác đáng.
3. Nghiên cứu phương diện kỹ thuật - công nghệ của dự án
Mục đích chính của việc nghiên cứu kĩ thuật - công nghệ của dự án là nhằm xác định, kiểm tra các thông số đầu vào, quy trình sản xuất, địa điểm sản xuất và nhu cầu để sản xuất một cách tối ưu và phù hợp nhất với những điều kiện hiện có mà vẫn đảm bảo các yêu cầu về chất lượng và số lượng sản qua nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu phương diện kĩ thuật - công nghệ là một trong những tiền đề quan trọng cho việc phân tích về mặt kinh tế - tài chính của dự án. Không có số liệu của phân tích kỹ thuật thì không thể phân tích về mặt kinh tế tài chính. Quyết định đúng đắn trong thẩm định kỹ thuật - công nghệ có tác dụng to lớn trong việc tiết kiệm các nguồn lực và tranh thủ được các cơ hội để tăng thêm nguồn lực.
Mặt khác, kỹ thuật - công nghệ của từng dự án phụ thuộc vào các ngành kinh tế - kỹ thuật và là một vấn đề rất phức tạp nhất là đối với dự án lớn. Vì vậy, cần có những nghiên cứu hỗ trợ bổ sung cho các dự án lớn, phức tạp về kĩ thuật với sự tham gia của các chuyên gia có am hiểu sâu sắc về từng lĩnh vực kĩ thuật cụ thể đó.
Tuỳ thuộc vào từng loại dự án cụ thể mà nội dung nghiên cứu kĩ thuật - công nghệ có nội dung và mức độ phức tạp khác nhau. Tuy nhiên, những nội dung cơ bản cần tập trung nghiên cứu bao gồm các vấn đề chính sau đây:
Một là, lựa chọn hình thức đầu tư. Việc nghiên cứu lựa chọn hình thức đầu tư mới hay đầu tư chiều sâu, cải tiến kĩ thuật, mở rộng qui mô sản xuất cần dựa trên một số cơ sở như tính chất sản phẩm và điều kiện cụ thể của các cơ sở hiện có. Thông thường, đối với loại sản phẩm hoàn toàn mới cần phải đầu tư mới, ít khi tận dụng được các cơ sở hiện có. Trong trường hợp cần tăng số lượng sản phẩm hoặc đa dạng hoá sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, thông thường sẽ thực hiện hình thức đầu tư chiều sâu, cải tạo, mở rộng và đổi mới thiết bị, công nghệ cơ sở hiện có.
Hai là, nghiên cứu lựa chọn công suất của dự án. Công suất của dự án là khả năng tạo ra sản lượng sản phẩm và dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định như một tháng, một quí hoặc một năm. Công suất của dự án bao gồm các loại sau:
- Công suất lý thuyết. Công suất lý thuyết là công suất lớn nhất mà dự án có thể thực hiện được trong điều kiện sản xuất lý thuyết. Điều kiện sản xuất lý thuyết được hiểu theo giả thiết là máy móc hoạt động liên tục, không bị gián đoạn vì bất kì lý do nào. Công suất lý thuyết mang tính chất tham khảo, không thể đạt được.
- Công suất thiết kế. Công suất thiết kế là công suất mà dự án đạt được trong điều kiện sản xuất bình thường. Điều kiện sản xuất bình thường được hiểu là: máy móc thiết bị hoạt động theo đúng qui trình công nghệ, không bị ngừng vì những lý do không được dự tính trước; các yếu tố “đầu vào” được cung cấp đầy đủ, kịp thời. Công suất thiết kế của dự án được tính dựa vào công suất thiết kế của máy móc, thiết bị chủ yếu trong một giờ cùng với số giờ, số ca và số ngày làm việc. Khi tính công suất thiết kế một năm, thông thường số ngày làm việc trong năm lấy bằng 360 ngày, còn số ca/ngày, số giờ/ca lấy theo dự tính trong dự án.
- Công suất thực tế. Công suất thực tế là công suất đạt được trong điều kiện sản xuất cụ thể của dự án. Điều kiện sản xuất cụ thể của dự án được hiểu là sự chi phối của các yếu tố như sự thành thạo của người công nhân, kinh nghiệm tổ chức sản xuất, khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào và các trục trặc “kĩ thuật” khác. Công suất thực tế được xác định trên cơ sở công suất thiết kế. Thông thường, năm đầu khi dự án đi vào hoạt động, công suất thực tế được tính bằng 50% công suất thiết kế, năm thứ hai công suất thực tế được tính bằng 75% công suất thiết kế, từ năm thứ ba trở đi công suất thực tế được tính bằng 90% công suất thiết kế. Đây được coi là công suất thực tế lớn nhất của dự án.
- Công suất tối thiểu. Công suất tối thiểu là công suất tạo ra mức sản phẩm tối thiểu cần thiết để dự án không bị lỗ. Đây là công suất tương ứng với điểm hoà vốn. Nếu sản lượng sản phẩm dưới mức sản lượng hoà vốn thì chi phí cố định cho một đơn vị sản phẩm sẽ gia tăng, khiến giá thành cao, từ đó việc sản xuất trở thành không kinh tế nữa, mặc dù về mặt kĩ thuật chất lượng có thể vẫn được đảm bảo.
Lựa chọn công suất của dự án là điều cần thiết có ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án đầu tư. Thông thường công suất của dự án được lựa chọn trong khoảng giữa công suất thực tế và công suất tối thiểu. Khi xác định công suất của dự án lớn hay nhỏ cần căn cứ vào các yếu tố chủ yếu sau đây:
+ Nhu cầu của thị trường hiện tại và tương lai đối với sản phẩm của dự án.
+ Khả năng mở rộng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm do dự án dự định sản xuất.
+ Khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất, nhất là đối với nguyên vật liệu phải nhập khẩu.
+ Khả năng mua thiết bị - công nghệ có công suất phù hợp đối với dự án.
+ Khả năng về vốn đầu tư và năng lực về tổ chức, điều hành sản xuất - kinh doanh.
Đa số các dự án đều khởi đầu bằng cách: một mặt, phát triển dần mức thương vụ và xâm nhập thị trường tiêu thụ, mặt khác điều chỉnh dần các yếu tố nguyên vật liệu, lao động, thiết bị... theo sự lựa chọn để tăng dần công suất của dự án, vì ngay cả nếu có sản xuất hết công suất trong những năm đầu thì khả năng tiêu thụ thường vẫn gặp khó khăn. Nói cách khác, việc xác định một cách rõ ràng các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn công suất của dự án thường gặp khó khăn. Vì vậy, trong thực tế thường áp dụng phương pháp phân kì đầu tư, đưa công suất tăng dần lên cho đến khi đạt được công suất yêu cầu.
Ba là, nghiên cứu xác định chương trình sản xuất và nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản xuất.
Nghiên cứu xác định chương trình sản xuất bao gồm các vấn đề chính như xác định cơ cấu sản phẩm, chất lượng và giá cả sản phẩm. Về cơ cấu sản phẩm, cần xác định rõ tỉ trọng của mỗi loại sản phẩm cũng như bán thành phẩm và các phế liệu thu hồi theo từng năm sản xuất và cho cả đời dự án.
Về chất lượng sản phẩm, cần xác định tiêu chuẩn của sản phẩm phân theo nhiều cấp hạng thông qua các chỉ tiêu như đặc tính cơ lý hoá, kiểu dáng công nghiệp, hình thức, bao bì, nhãn mác công dụng và cách sử dụng.
Về giá cả sản phẩm, thông thường giá bán sản phẩm được xác định trên cơ sở chi phí giá thành. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường giá cả chủ yếu do người mua và người bán thoả thuận nên xác định giá bán sản phẩm là điều phức tạp, nếu không có kinh nghiệm dễ dẫn đến tình trạng hoặc bị thua lỗ hoặc không tiêu thụ được sản phẩm. Khi xác định giá cả sản phẩm trong dự án cần chú ý một số khía cạnh như vừa sức mua của người tiêu dùng, cân đối với các mặt hàng khác trên thị trường, có thể cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại đồng thời bảo đảm một tỉ suất lợi nhuận thích đáng để duy trì và mở rộng sản xuất.
Nghiên cứu xác định nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Khi dự án hoàn thành giai đoạn thực hiện đầu tư sẽ được đưa vào vận hành khai thác. Nói cụ thể hơn là quá trình sản xuất - kinh doanh của dự án bắt đầu. Để sản xuất ra sản phẩm, cần rất nhiều yếu tố trong đó có một số yếu tố chính như nguyên vật liệu, lao động, năng lượng, nước...
Nghiên cứu xác định chính xác nhu cầu các yếu tố đầu vào đó của dự án sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất diễn ra đều đặn, đồng thời tránh sự lãng phí, ứ đọng vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư. Nghiên cứu xác định các yếu tố đầu vào bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
+ Về nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu là đối tượng lao động, khi tham gia vào quá trình sản xuất cấu tạo nên thực thể sản phẩm. Vì vậy, đây là một trong những nội dung quan trọng cần được nghiên cứu kĩ trên các khía cạnh như phân loại nguyên vật liệu; đặc tính và chất lượng nguyên vật liệu sẽ dùng; nguồn và khả năng cung cấp nguyên vật liệu; kế hoạch cung ứng và giá mua nguyên vật liệu.
Trước hết, về phân loại nguyên vật liệu. Để sản xuất ra sản phẩm cần rất nhiều loại nguyên vật liệu. Mỗi loại có vai trò khác nhau trong quá trình sản xuất. Trong dự án cần xác định và phân rõ thành các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, bán thành phẩm và bao bì đóng gói. Để đi sâu nghiên cứu, có thể phân chia nguyên vật liệu theo ngành nông - lâm nghiệp và công nghiệp.
Đối với những nguyên vật liệu là nông, lâm, thuỷ hải và gia súc, gia cầm cần đi sâu phân tích điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến quá trình sản xuất nông, lâm ngư nghiệp, đồng thời chú ý đến nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của mọi người dân đối với sản phẩm của các ngành đó.
Đối với nguyên vật liệu là sản phẩm của ngành công nghiệp như khoáng sản, sản phẩm công nghiệp trung gian... cần đi sâu xem xét về trữ lượng, khả năng thay thế giữa các loại nguyên vật liệu.
Về đặc tính và chất lượng nguyên vật liệu. Đặc tính và chất lượng nguyên vật liệu phải phù hợp với chất lượng sản phẩm của dự án. Thông thường nghiên cứu các đặc tính và chất lượng nguyên vật liệu trên các khía cạnh như đặc tính lý học thể hiện qua kích cỡ, thể trạng, tỷ trọng, độ nhớt, điểm nóng chảy... Đặc tính cơ học thể hiện độ biến dạng, độ cứng, sức nén...Đặc tính hoá học thể hiện độ tinh khiết, độ cứng của nước, chỉ số axít... Đặc tính về điện và từ thể hiện khả năng dẫn điện, điện trở, từ tính...
Về nguồn và khả năng cung cấp nguyên vật liệu. Nguồn và khả năng cung cấp nguyên vật liệu, nhất là nguyên vật liệu chính là điều kiện quan trọng để xác định tính sống còn cũng như tầm cỡ đa số các dự án.
Nguồn cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu phải đảm bảo cho dự án hoạt động bình thường trong suốt đời dự án. Cần chú trọng khai thác các nguồn trong nước, thường là rẻ hơn, đỡ phiền hà hơn khâu nhập khẩu và tiết kiệm được ngoại tệ, đồng thời hỗ trợ thêm cho các ngành khác cùng phát triển. Chỉ nên nhập khẩu những nguyên vật liệu trong nước không có hoặc không đẩm bảo yêu cầu về chất lượng.
Về kế hoạch cung ứng và giá mua nguyên vật liệu. Kế hoạch cung ứng nguyên vật liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất của dự án sau này. Trên cơ sở nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu hằng năm cho dự án, cần nghiên cứu và lập kế họach thu mua, cung ứng để bảo đảm cho việc cung cấp nguyên vật liệu cho dự án được đầy đủ và đều đặn, không ảnh hưởng đến quá trình sản xuất. Có thể tổ chức thu mua trực tiếp, qua các màng lưới và tổ chức khác.
Ngoài ra, cần phân tích giá mua nguyên vật liệu vì đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án. Đối với nguyên vật liệu trong nước, giá mua hiện tại có đối chiếu với giá trong quá khứ và chiều hướng trong tương lai. Các chi phí thu mua, vận chuyển cần được tính đầy đủ. Trong trường hợp nguyên vật liệu nhập khẩu, nên áp dụng giá CIF cùng với các chi phí bốc dỡ, lệ phí cảng, phí bảo hiểm, các loại thuế, chi phí chuyên chở đến nhà máy...
+ Về lao động. Lao động là yếu tố quan trọng quyết định mọi hoạt động trong dự án. Vì vậy, cần nghiên cứu lao động cho dự án trên các khía cạnh như nhu cầu về lao động, nguồn lao động và chi phí lao động.
Về nhu cầu lao động. Trên cơ sở yêu cầu kĩ thuật của sản xuất, sơ đồ bộ máy quản lý điều hành để ước tính số lượng lao động trực tiếp và bậc thợ tương ứng cho mỗi loại công việc và số lượng lao động gián tiếp với trình độ lao động thích hợp.
Về nguồn lao động. Cần chú trọng xem xét lao động trong nước và tại địa phương để tuyển dụng đào tạo. Có thể tuyển dụng trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan chuyên môn. Nếu phải đào tạo, phải có chương trình đào tạo lao động chuyên môn, lập kế hoạch và dự tính chi phí. Việc đào tạo có thể tiến hành ở trong nước hoặc nước ngoài (nếu trong nước không đủ điều kiện) hoặc thuê chuyên gia nước ngoài vào huấn luyện ở trong nước.
Về chi phí. Chi phí về lao động bao gồm chi phí tuyển dụng, đào tạo và chi phí cho lao động trong các năm hoạt động của dự án sau này. Dự án có thể áp dụng trả lương khoán, lương sản phẩm hoặc lương thời gian. Căn cứ vào hình thức trả lương được áp dụng, số lao động mỗi loại sử dụng, các chi phí có liên quan để tính ra quĩ lương hàng năm cho mỗi loại lao động và cho tất cả lao động của dự án. Các chế độ về lương, phúc lợi, bảo hiểm xã hội... cần được tuân thủ chặt chẽ theo luật lao động và các văn bản hướng dẫn dưới luật của Nhà nước.
+ Về năng lượng. Có nhiều loại năng lượng có thể sử dụng cho dự án như điện năng, than, củi, xăng dầu, khí đốt... Khi xem xét về năng lượng, cần xem xét nhu cầu sử dụng, nguồn cung cấp, đặc tính, chất lượng, tính kinh tế khi sử dụng, vấn đề ô nhiễm môi trường... của mỗi loại sử dụng để dự tính chi phí.
Trong các nguồn năng lượng, điện năng là nguồn năng lượng chính mà hầu hết các dự án sử dụng. Cần nghiên cứu nguồn năng lượng này trên các khía cạnh như công suất thiết kế, nguồn cung cấp và chi phí. Căn cứ vào đặc tính kĩ thuật của máy móc thiết bị, tính ra tổng số công suất cần thiết về điện cho dự án. Đối với dự án tiêu thụ điện năng lớn cần hợp đồng với đơn vị cung cấp. Trường hợp cần thiết có thể dự tính phương án trang bị riêng các trạm phát điện.
Cần dự kiến đầy đủ các chi phí đầu tư và sử dụng năng lượng như: mua và lắp đặt trạm biến áp, đường dây, hệ thống điện, tính toán chính xác mức tiêu thụ năng lượng cho mỗi ngày sản xuất.
+ Về nước. Cần xem xét cả cấp nước và thoát nước cho sản xuất và cho sinh hoạt. Nghiên cứu nhu cầu sử dụng nước theo từng mục đích (làm nguyên liệu, làm mát, tẩy rửa, chạy lò hơi, sinh hoạt...), từ đó cân đối quy mô với nguồn cung cấp (của công ty kinh doanh nước sạch, nước sông, nước giếng khoan) và có biện pháp xử lý nước nguồn hợp lý tuỳ yêu cầu sử dụng.
Vấn đề nước thải công nghiệp. Cần phải lọc và xử lý sạch trước khi thải ra các công trình công cộng hay sông ngòi để tránh ô nhiễm môi trường.
Xác định các chi phí đầu tư xây dựng hệ thống cấp thoát nước và chi phí dùng nước thường xuyên.
Bốn là, lựa chọn địa điểm xây dựng dự án. Thực chất việc nghiên cứu, lựa chọn địa điểm xây dựng dự án là xem xét các khía cạnh về tự nhiên, kinh tế - xã hội của nơi xây dựng dự án để thấy rõ những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dự án. Trước hết, cần lựa chọn một khu vực tương đối rộng mà trong đó có thể có nhiều địa điểm khác nhau để xét chọn. Khi lựa chọn khu vực địa điểm, những vấn đề cần phân tích đánh giá bao gồm:
- Chủ trương, chính sách của Nhà nước về phân bổ các ngành, các cơ sở sản xuất. Các chính sách kinh tế - xã hội, đặc biệt là chính sách khuyến khích đầu tư có ảnh hưởng rất lớn đến sự hoạt động và hiệu quả sau này của dự án. Các chủ trương chính về phân bổ ngành, cơ sở sản xuất có ảnh hưởng đến sự ô nhiễm môi trường, sự phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng... Thông thường, đầu tư vào những vùng Nhà nước khuyến khích đầu tư sẽ được sự trợ giúp về vốn, kĩ thụât, tiêu thụ sản phẩm, thuế...
- ảnh hưởng của địa điểm đến quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của dự án. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng đối với việc lựa chọn địa điểm của hầu hết các dự án. Cách tiếp cận đơn giản nhất là tính toán chi phí thu mua, vận chuyển nguyên vật liệu và chi phí tiêu thụ sản phẩm ở nhiều địa điểm khác nhau, được xác định qua khả năng cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm của dự án. Lựa chọn được địa điểm vừa gần nơi cung cấp nguyên vật liệu vừa gần nơi tiêu thụ sản phẩm là điều tốt nhất. Trường hợp không thể được, cần căn cứ vào từng dự án cụ thể để lựa chọn cho phù hợp.
- Cơ sở hạ tầng của nơi xây dựng dự án. Trước hết, cần nghiên cứu xem mức độ thích hợp của cơ sở hạ tầng đến mức nào? Có cần phải đầu tư thêm không? Nếu đầu tư chi phí hết bao nhiêu? Tuỳ theo địa điểm cụ thể của từng dự án mà đi sâu nghiên cứu vấn đề giao thông có liên quan đến có liên quan đến tình hình cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Cụ thể là cần xem xét từng loại giao thông đối với dự án.
Đối với giao thông đường biển, cần làm rõ các chi tiết về tiện nghi ở cảng, độ sâu, công suất bốc dỡ hàng, cỡ tàu sẽ sử dụng...
Đối với giao thông đường bộ, cần làm rõ độ rộng của đường và cầu, tình trạng chất lượng của đường và luật lệ, phí giao thông...
Đối với giao thông đường sắt, cần xem xét khả năng vận tải hàng hoá, các phương tiện bốc dỡ, chi phí vận tải từ ga chính đến nơi xây dựng dự án...
Đối với giao thông đường sông, cần xem xét về bề rộng, độ sâu của kênh rạch, sông ngòi, khả năng của xà lan, chi phí chuyên chở...
- Môi trường kinh tế - xã hội nơi xây dựng dự án. Nghiên cứu môi trường kinh tế - xã hội bao gồm nhiều vấn đề có liên quan đến hoạt động của dự án như tuyển chọn lao động, trình độ phát kinh tế - xã hội của địa phương, khả năng đảm bảo an ninh, quốc phòng...
Về lao động, mặc dù có thể sử dụng từ nơi khác đến nhưng sẽ làm tăng chi phí. Do đó, nên tuyển chọn lao động nói chung và lao động có chuyên môn hoặc đào tạo chuyên môn từ dân cư của địa phương là tốt nhất.
Về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Thông thường, trình độ phát triển kinh tế xã - hội của địa phương càng cao sẽ càng thuận lợi cho sự hoạt động của dự án và ngược lại.
Về đảm bảo an ninh, quốc phòng. Xây dựng dự án ở những nơi có tình hình an ninh tốt, đảm bảo về quốc phòng cũng sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho dự án, đặc biệt là giai đoạn đi vào sản xuất - kinh doanh sau này.
Sau khi lựa chọn khu vực địa điểm, cần tiến hành nghiên cứu lựa chọn địa điểm cụ thể. Khi nghiên cứu địa điểm cụ thể cần làm rõ những nội dung chủ yếu sau đây:
+ Mô tả vị trí: toạ độ địa lý và ranh giới của địa điểm, khu vực hành chính và quan hệ của địa điểm với qui hoạch chung.
+ Diện tích mặt đất, mặt nước và giá trị quyền sử dụng mặt đất, mặt nước cho dự án.
+ Hiện trạng mặt bằng và hệ thống kết cấu hạ tầng (đường xá, cầu cống, điện nước, thông tin liên lạc...)
+ Sơ đồ khu vực địa điểm và sơ đồ hiện trạng tổng mặt bằng.
+ Chi phí đền bù giải phóng mặt bằng như các công trình xây dựng, cây cối, hoa màu...
+ Chi phí san lấp mặt bằng.
+ Những ảnh hưởng của dự án đối với các cơ sở kinh tế, văn hoá và dân cư cũng như đối với tài nguyên trong khu vực.
+ Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dự án tại địa điểm đó.
Năm là, nghiên cứu về công nghệ và trang thiết bị. Điều quan trọng nhất của phân tích về phương diện kỹ thuật công nghệ là vấn đề xem xét lựa chọn công nghệ và trang thiết bị.
Để sản xuất một loại sản phẩm có nhiều công nghệ khác nhau. Sự khác nhau đó được thể hiện chủ yếu ở qui trình sản xuất, mức độ hiện đại, công suất, giá cả.
Công nghệ được lựa chọn phải mang tính hiện đại, kinh tế, đảm bảo vệ sinh môi trường. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra khi nghiên cứu công nghệ của dự án là phải lựa chon được công nghệ thích hợp. Tính thích hợp được thể hiện trên những khia cạnh chủ yếu là đảm bảo công suất của dự án; đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của dự án; chi phí chuyển giao công nghệ và nhập thiết bị không quá cao; công nghệ càng hiện đại càng tốt nếu các yếu tố nói trên đạt như nhau.
Thông thường công nghệ và thiết bị có mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau. Lựa chọn thiết bị được tiến hành trên cơ sở công nghệ đã lựa chọn. Thiết bị là bộ phận chủ lực của tài sản cố định, có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy, khi chọn thiết bị chú ý chọn của những hãng nổi tiếng để đảm chất lượng của thiết bị và giá cả để tránh lãng phí về năng lực sản xuất cần chú ý tính đồng bộ của thiết bị. Mặt khác, trong quá trình sử dụng, sự hao mòn giữa các bộ phận của thiết bị không đều nhau, nên cần chú ý đến phụ tùng sửa chữa, thay thế của các thiết bị được lựa chọn.
Một vấn đề quan trọng cần phân tích xem xét là chi phí. Chi phí thiết bị trong các dự án, nhất là các dự án công nghiệp thường rất lớn, vì vậy, khi lựa chọn cần đưa ra tối thiểu 2 phương án để lựa chọn. Việc lựa chọn căn cứ chủ yếu vào hiệu quả tài chính của từng phương án.
Sau khi tính toán, phân tích, so sánh các phương án công nghệ, thiết bị trong dự án cần nêu rõ các vấn đề sau đây:
+ Tên và các đặc điểm chủ yếu của công nghệ đã lựa chọn.
+ Sơ đồ tiến trình công nghệ chủ yếu của dự án.
+ Nguồn công nghệ và phương thức chuyển giao công nghệ.
+ ảnh hưởng do công nghệ, thiết bị của dự án đến môi trường và các giải pháp xử lý.
+ Lập danh mục trang thiết bị cần thiết cho dự án.
Tóm lại, công nghệ và thiết bị được lựa chọn phải phù hợp với điều kiện sản xuất ở Việt Nam. Các điều kiện đó thông thường là điều kiện về khí hậu, thời tiết, trình độ người lao động...
Sáu là, nghiên cứu kĩ thuật xây dựng công trình của dự án. Công trình xây dựng của dự án bao gồm các hạng mục công trình nhằm tạo điều kiện và đảm bảo cho cho dây chuyền thiết bị sản xuất, công nhân hoạt động được thuận lợi và an toàn.
Để xác định các hạng mục công trình cần xây dựng, phải căn cứ vào yêu cầu về đặc tính kĩ thuật của máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất, cơ sở hạ tầng, cách tổ chức điều hành, nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu và sản phẩm, số lao động sẽ sử dụng... Như vậy, thông thường các hạng mục công trình có thể bao gồm:
+ Các phân xưởng, văn phòng, kho bãi.
+ Hệ thống cấp điện, cấp nước, chiếu sáng, cây xanh.
+ Hệ thống giao thông nội bộ, xếp dỡ hàng hoá, bãi đỗ xe các loại.
+ Nhà ăn, khu giải trí.
+ Hệ thống thông tin liên lạc.
+ Hệ thống xử lý chát thải, bảo vệ môi trường.
+ Hệ thống phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ.
+ Tường rào bảo vệ...
Nhu cầu về công trình xây dựng cần xác định vừa đủ để dự án hoạt động bình thường, đồng thời có thể mở rộng phát triển trong tương lai khi cần thiết. Đối với mỗi công trình, hạng mục công trình cần xem xét trên những khía cạnh như diện tích xây dựng, đặc điểm kiến trúc, chi phí dự kiến... Việc xác định chi phí dự kiến có thể sử dụng chỉ tiêu đơn giá tổng hợp dựa trên thực tế các công trình tương tự trong thời gian xây dựng nhà xưởng của dự án, đồng thời phù hợp với định mức qui định hiện hành của Nhà nước trong từng thời kì.
Sau khi xem xét xác định các công trình và hạng mục công trình, cần đi sâu xem xét phần kĩ thuật và tổ chức xây dựng với những nội dung chủ yếu sau:
+ Xác định cấp hạng các công trình và hạng mục công trình.
+ Lập hồ sơ bố trí mặt bằng tổng thể.
+ Lên bản vẽ hình thức kiến trúc phối cảnh.
+ Lựa chọn các giải pháp kết cấu, vật liệu.
+ Lựa chọn các giải pháp về kĩ thuật thi công và thiết bị thi công.
+ Lập biểu đồ tiến độ thi công.
+ Lập bảng dự trù vật liệu, xe máy thi công.
+ Các biện pháp an toàn trong thi công.
Bảy là, nghiên cứu về lịch trình thực hiện dự án. Sau khi đã nghiên cứu dự án khả thi trên mọi khía cạnh kĩ thuật, nghĩa là dự án có thể thực hiện được, cần phải ước tính thời gian cần thiết để thực hiện các công việc đó. Nói khác đi là phải phải lập lịch trình thực hiện dự án.
Công trình đầu tư bao gồm nhiều hạng mục, quá trình thực hiện việc xây lắp đòi hỏi một trình tự nhất định, khoa học để đảm bảo đưa công trình vào vận hành khai thác đúng thời điểm dự kiến. Có nhiều công trình có thể tiến hành xây - lắp song song hoặc phải được hoàn tất trước khi công trình khác bắt đầu.
Mặt khác, đối với ngân hàng là cơ quan tài trợ vốn, lịch trình thực hiện liên quan chặt chẽ với tíên độ rút vốn vay của dự án, do đó ngân hàng cần nắm rõ lịch trình này để chủ động trong viêc tạo lập nguồn vốn cho vay nếu ký hợp đồng tín dụng với chủ đầu tư. Cụ thể, cần nghiên cứu và nêu rõ các vấn đề như thời gian hoàn thành từng hạng mục và cả công trình; những hạng mục nào phải hoàn thành trước, những hạng mục nào có thể hoàn thành sau, những công việc nào có thể tiến hành song song...
4. Nghiên cứu phương diện quản trị nhân lực dự án
Nghiên cứu tổ chức quản trị dự án bao gồm nghiên cứu sơ đồ tổ chức bộ máy, phân rõ chức năng nhiệm vụ của các bộ phận, các cấp lãnh đạo điều hành, thực hiện, bố trí lao động và đào tạo cán bộ công nhân.
Tổ chức quản trị dự án hình thành dần dần trong suốt quá trình hình thành dự án, từ khi bắt đầu nhận dạng dự án. Trong suốt quá trình soạn thảo, triển khai thực hiện dự án vẫn còn nhiều khả năng phải thay đổi tổ chức, nhân sự cho phù hợp với tình hình thực tế, nhất là đối với dự án có thời hạn đầu tư kéo dài.
Về tổ chức bộ máy. Tuỳ theo từng dự án cụ thể mà xác định mô hình tổ chức bộ máy cho thích hợp, đảm bảo tuân thủ những qui định của luật doanh nghiệp và luật công ty. Bất kỳ một bộ máy nào cũng cần đảm bảo nguyên tắc tinh giản, gọn nhẹ, có hiệu quả; phân định rõ ràng nghĩa vụ và quyền lợi của từng bộ phận và từng người lao động ở mỗi vị trí. Các cấp quản trị bao gồm cấp lãnh đạo, cấp điều hành, cấp thừa hành. Mỗi cấp có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn riêng do luật pháp qui định.
Tổ chức bộ máy, tự nó chưa có sức mạnh. Sức mạnh của tổ chức bộ máy phụ thuộc rất lớn vào những con người cụ thể đảm trách các chức vụ trong bộ máy đó. Bố trí mô hình tổ chức bộ máy là cơ sở để xác định số lượng và chất lượng cán bộ, công nhân, từ đó tính toán tổng quĩ tiền lương.
Cần phân tích, xác định một cách cụ thể số lượng lao động cho dự án. Nhìn chung, nhu cầu về nhân lực cần được chia nhỏ theo ngành nghề và kỹ năng có tính đến nguồn cung cấp của thị trường. Triển vọng các lợi ích về mặt kinh tế và tài chính có đạt được hay không phụ thuộc khá lớn vào nguồn nhân lực và năng lực quản lý dự án. Mặt khác, cần nghiên cứu kỹ thị trường lao động, gắn nhu cầu kỹ thuật và quản lý của dự án cho phù hợp với khả năng về nguồn nhân lực được cung cấp cho dự án. Nếu hai vấn đề này không hoà hợp được với nhau thì dự án không nên thực hiện.
Về chế độ đối với người lao động. Chế độ trả lương, mức bảo hiểm xã hội, chế độ nghỉ ngơi... của từng loại cán bộ nhân viên từ Tổng giám đốc đến công nhân cần tuân thủ những qui định chung của Nhà nước, đảm bảo khuyến khích người lao động phát huy tính sáng tạo của mình.
Phân tích đánh giá về quản trị nhân lực của dự án cần phải xem xét, dự kiến kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho người lao động làm việc trong dự án. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các dự án lớn có sử dụng kĩ thuật cao. Có thể xem xét vận dụng các hình thức đào tạo như tổ chức đi tham quan trong nước, nước ngoài; mở các lớp tập huấn; cử đi học theo các lớp chính qui, dài hạn, ngắn hạn. Đối với vấn đề sử dụng các chuyên gia, cần tuân thủ các nguyên tắc: chỉ sử dụng các chuyên gia nước ngoài ở những khâu công việc đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao mà lao động Việt Nam không đảm đương nổi.
5. Nghiên cứu phương diện tài chính dự án
Đầu tư là hoạt động sử dụng vốn nên quyết định đầu tư trước hết và thường là quyết định tài chính. Trên thực tế hoạt động đầu tư, các quyết định như chọn địa điểm xây dựng, mua máy móc thiết bị, xây dựng công trình... luôn được cân nhắc, xem xét từ khía cạnh tài chính. Nếu dự án có thể khả thi ở một số phương diện nhưng không khả thi ở phương diện tài chính sẽ không thể thực hiện trên thực tế. Điều đó khẳng định tầm quan trọng của việc thẩm định, đánh giá về phương diện tài chính của dự án.
Mục đích chủ yếu của việc thẩm định, đánh giá về mặt tài chính của dự án đầu tư nhằm:
- Kiểm tra nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư.
- Kiểm tra tình hình, kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án để đánh giá khả năng sinh lời của vốn đầu tư, thời gian hoàn vốn, độ rủi ro của dự án...
Để đạt được mục tiêu trên, cần tiến hành thẩm định thông qua các nội dung chủ yếu sau:
5.1. Xác định tổng vốn đầu tư và nguồn vốn
Về tổng vốn đầu tư dự án. Đó là giới hạn chi phí tối đa mà chủ đầu tư có thể sử dụng để thực hiện đầu tư.
Tổng vốn đầu tư cho thấy một cách khái quát quy mô của dự án, thông thường bao gồm các bộ phận: vốn đầu tư nhằm tạo ra tài sản cố định; vốn đầu tư nhằm tạo ra tài sản lưu động và một bộ phận vốn đầu tư dùng để dự phòng.
Vốn đầu tư để hình thành tài sản cố định và tài sản lưu động là hai bộ phận hết sức cần thiết cho quá trình xây dựng và thực hiện dự án. Chúng ta cần đi sâu xem xét nội dung của hai bộ phận vốn này.
Về vốn đầu tư hình thành tài sản cố định. Muốn tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật (hình thành tài sản cố định) để sản xuất ra sản phẩm của dự án cần thực hiện các chi phí ban đầu và chi phí cơ bản. Chi phí ban đầu bao gồm các chi phí sau:
+ Chi phí thành lập và nghiên cứu dự án.
+ Chi phí đào tạo, cố vấn.
+ Chi phí công trình tạm thời.
+ Chi phí thí nghiệm.
+ Chi phí quản lý ban đầu (hội họp, thủ tục).
+ Chi phí ban đầu khác.
Chi phí cơ bản bao gồm những chi phí như sau:
+ Chi phí thuê nhà, mặt đất, mặt nước, mặt biển.
+ Chi phí chuẩn bị địa điểm.
+ Chi phí xây dựng cơ bản.
+ Chi phí máy móc thiết bị.
+ Chi phí lắp đặt các thiết bị.
+ Chi phí vận hành chạy thử.
+ Chi phí cơ bản khác.
Về vốn đầu tư hình thành tài sản lưu động. Để tạo ra sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường, ngoài chi phí tạo ra tài sản cố định, còn phải chi ra những khoản để mua sắm nguyên vật liệu, trả lương công nhân... nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất - kinh doanh theo dự án diễn ra được đều đặn, liên tục. Nói khác đi là cần có vốn đầu tư để hình thành tài sản lưu động. Vốn đầu tư hình thành tài sản lưu động bao gồm vốn sản xuất, vốn lưu thông, vốn bằng tiền.
Về vốn sản xuất. Đây là vốn dùng trang trải cho các chi phí để dự trữ cho quá trình sản xuất. Những chi phí đó bao gồm:
+ Chi phí nguyên vật liệu.
+ Chi phí nhiên liệu, điện, nước...
+ Tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội,
+ Chi phí phụ tùng thay thế
+ Chi phí sản xuất khác.
Về vốn lưu thông. Đây là vốn dùng trang trải cho các chi phí nằm trong quá trình lưu thông tiêu thụ sản phẩm. Những chi phí này bao gồm:
+ Thành phẩm, bán thành phẩm tồn kho.
+ Hàng hoá bán chụi.
+ Chi phí lưu thông khác.
Vốn bằng tiền. Đây là vốn dùng để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu phát sinh thường xuyên khi dự án đi vào hoạt động. Đó có thể là một lượng tiền mặt tại quĩ hoặc được gửi tại Ngân hàng.
Do đầu tư thường gặp rủi ro và có thể phát sinh những chi phí không lường trước đựơc nên ngoài hai bộ phận vốn cố định và vốn lưu động còn có một bộ phận vốn dự phòng.
Khi xác định tổng vốn đầu tư cho một dự án phải đảm bảo sự chính xác. Cần tránh những khuynh hướng và lầm lẫn dễ mắc: tính cao để tranh thủ vốn, gây lãng phí vốn; tính thấp để tạo ra hiệu quả kinh tế giả tạo, gây thiếu vốn khi thực hiện. Ngoài ra, còn xem xét tỷ trọng vốn tự có trên tổng vốn đầu tư. Nếu tỷ trọng này tối thiểu là 50% dự án chấp nhận được.
Về nguồn vốn đầu tư. Vốn đầu tư của một dự án có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy, cần xác định rõ từng nguồn vốn đựơc sử dụng cho dự án trên các mặt: lượng vốn, thời điểm tài trợ và chi phí sử dụng vốn.
Thực chất của việc xem xét nguồn vốn về mặt lượng là so sánh giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng. Nếu khả năng lớn hơn nhu cầu thì dự án chấp nhận được. Trường hợp ngược lại có thể xem xét giảm quy mô dự án trên cơ sở kỹ thuật để đảm bảo sự đồng bộ.
Thời điểm tài trợ của nguồn vốn cần được đảm bảo để việc thực hiện dự án diễn ra theo đúng kế hoạch đã định. Nếu nguồn cung ứng chậm có thể sẽ làm cho quá trình thực hiện đầu tư bị ngưng trệ. Ngược lại, sẽ gây ra lãng phí ứ đọng vốn. Cần xem xét các cam kết của những người tài trợ theo từng nguồn vốn.
Chi phí sử dụng vốn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư. Nếu chi phí sử dụng vốn quá cao dự án có thể bị lỗ. Trong trường hợp chi phí sử dụng vốn thấp việc huy động sẽ gặp khó khăn.
5.2. Nghiên cứu giá thành sản phẩm dự án
Giá thành sản phẩm là những chi phí cần thiết để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đây là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, phản ánh tình hình sản xuất - kinh doanh của dự án và cũng là chỉ tiêu gốc để tính toán các chỉ tiêu khác. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần xác định chính xác giá thành sản phẩm dự án.
Cần lưu ý rằng, nếu giá thành sản phẩm của dự án không chính xác sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến việc đánh giá hiệu qủa tài chính của dự án. Để giá thành sản phẩm của dự án được chính xác cần xem xét, kiểm tra tính hợp lý của các định mức như: mức tiêu hao nguyên vật liêụ, đơn giá tiền lương, mức khấu hao... Mặt khác, cần xem xét phương pháp tính giá thành có phù hợp với qui trình sản xuất sản phẩm hay không?
Sau khi kiểm tra việc tính toán giá thành sản phẩm dự án, sẽ sử dụng so sánh với giá thành sản phẩm tương tự, cùng loại của các cơ sở sản xuất trong và ngoài nước để đánh giá theo nguyên tắc chung là giá thành sản phẩm dự án cần thấp hơn hoặc có thể ngang với giá thành sản phẩm cùng loại.
5.3. Nghiên cứu doanh thu của dự án
Trong nghiên cứu phương diện tài chính của dự án, việc xem xét xác định doanh thu của dự án là điều hết sức cần thiết. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để xác định kết quả tài chính (lãi - lỗ) của dự án.
Trước hết, cần xác định tất cả các nguồn doanh thu của dự án. Thông thường, các dự án có những nguồn doanh thu như sau:
+ Doanh thu từ việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ chính.
+ Doanh thu từ việc tiêu thụ sản phẩm phụ.
+ Doanh thu từ việc thực hiện các dịch vụ cung cấp cho bên ngoài.
+ Doanh thu từ bán phế liệu, thanh lý tài sản cố định.
+ Doanh thu khác.
Cơ sở chủ yếu để xác định doanh thu từ mỗi nguồn là số lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp trên thị trường và giá bán sản phẩm, dịch vụ đó. Cần chú ý xác định giá bán sản phẩm của dự án trong tương lai. Do vậy, cần tính đến hai khả năng có thể xảy ra là gia bán không thay đổi và giá bán có thay đổi khi thực hiện dự án.
5.4. Lập bảng cân đối tài chính theo thời gian
Trên cơ sở nghiên cứu chi phí đầu tư và doanh thu dự án, cần lập bảng cân đối tài chính theo thời gian làm cơ sở cho việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả dự án về mặt tài chính.
5.5. Nghiên cứu các chỉ tiêu hiệu quả tài chính chủ yếu của dự án
Mục tiêu quan trọng nhất của nghiên cứu về phương diện tài chính của dự án là đánh giá xem có nên đầu tư vào dự án đó không ? Nếu đầu tư thì lợi ích tài chính thu được là bao nhiêu ? Câu trả lời cho các vấn đề này là cần nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án. Như vậy, nghiên cứu xác định chính xác các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án là điều có ý nghĩa cực kì quan trọng.
Lợi ích về mặt tài chính của dự án được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu, trong đó những chỉ tiêu chủ yếu bao gồm:
+ Thời gian hoàn vốn.
+ Khả năng sinh lời.
+ Suất thu hồi nội bộ.
+ Điểm hoà vốn.
+ Độ nhạy dự án.
Nội dung, cách xác định, ý nghĩa, các chỉ tiêu trên được giới thiệu ở chương sau.
6. Nghiên cứu lợi ích kinh tế - xã hội của dự án
Trong một nền kinh tế, khi một dự án đầu tư được đề xuất và thực hiện, bao giờ cũng chịu sự tác động của nhiều yếu tố và động cơ khác nhau. Có những động cơ thuộc về tài chính nhằm mục đích cuối cùng là kiếm lời và có những đông cơ có tính chất khác hơn như ý muốn đống góp vào công cuộc phát triển kinh tế quốc gia...
Đối với chủ đầu tư (các doanh nghiệp), khả năng tạo ra lợi nhuận của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm là bỏ vốn để thực hiện đầu tư. Khả năng sinh lời càng cao càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Tuy nhiên, không phải mọi dự án có khả năng sinh lời cao đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đối với nền kinh tế và dễ ràng được chấp thuận. Điều đó đặt ra vấn đề cần xem xét mặt kinh tế xã hội của dự án.
Quá trình nghiên cứu đánh giá lợi ích kinh tế - xã hội của một dự án là xem xét các lợi ích mà toàn thể nền kinh tế quốc dân và xã hội thu được so với các đóng góp mà xã hội đã bỏ ra khi dự án được thực hiện.
Lợi ích xã hội là sự đáp ứng của dự án đối với các mục tiêu quốc gia; những đáp ứng đó có thể đo lường qua các so sánh có tính chất định tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, đáp ứng các chính sách, chủ trương của Nhà nước... hoặc đo lường bằng cách tính toán có tính định lượng về mức gia tăng sử dụng nhân lực, tài nguyên, tăng thu ngoại tệ, tăng thuế cho ngân sách...
Chi phí xã hội phải gánh chịu khi một dự án đựơc thực hiện là toàn bộ các tài nguyên xã hội phải dành cho dự án khi đựoc thực hiện thay vì sử dụng vào những công việc khác trong tương lai không xa; là hậu quả dự án có thể gây ra như ô nhiễm môi trường, thất nghiệp...
Với sự phát triển của xã hội, nghiên cứu đánh giá dự án về mặt lợi ích kinh tế - xã hội ngày càng được coi trọng. Trong bất cứ dự án nào phần nghiên cứu kinh tế xã hội là không thể thiếu được.
Trước hết, cần xem xét sự khác nhau giữa lợi ích tài chính và lợi ích kinh tế - xã hội. Sự khác nhau này được thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau:
+ Về quan điểm: Xem xét lợi ích về mặt tài chính là đứng trên quan điểm của nhà đầu tư (tầm vi mô), còn xem xét lợi ích kinh tế - xã hội là đứng trên quan điểm của toàn xã hội (tầm vĩ mô); Mục tiêu chính của nhà đầu tư là tối đa hoá lợi nhuận, còn mục tiêu chính của xã hội là tối đa hoá phúc lợi xã hội.
+ Về tính toán: Nghiên cứu kinh tế xã hội của dự án đầu tư không thể tách rời nghiên cứu tài chính. Giữa chúng có mối liên hệ nhất định, vì các yếu tố đầu vào và đầu ra nói chung giống nhau. Do đó, nghiên cứu tài chính phải tiến hành trước làm cơ sở cho nghiên cứu kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, do có sự khác nhau về quan điểm, nên khi sử dụng các kết quả tài chính để tiến hành nghiên cứu kinh tế - xã hội cần có sự điều chỉnh nhất định như không đưa vào dòng tiền những giá trị chuyển dịch trong phạm vi nội bộ nền kinh tế; đánh giá và bổ xung vào dòng tiền các khoản ngoại ứng liên quan đến việc thực hiện dự án...
Nghiên cứu lợi ích kinh tế - xã hội của dự án đầu tư được thực hiện trên nền tảng nghiên cứu lợi ích tài chính, có trình tự thực hiện và phương pháp luận tương tự như nhau. Điểm khác biệt cơ bản là thành phần các chi phí và kết quả được mở rộng cho phạm vi toàn xã hội.
Đối với nước ta, nghiên cứu lợi ích kinh tế - xã hội của các dự án là điều con mới mẻ.
Trong nhiều thập niên trước đây, với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, khi xác định hiệu quả kinh tế của một dự án đầu tư, kể cả các dự án đầu tư lớn cũng chưa từng được sử dụng.
Trong những năm gần đây, với sự phát triển của xã hội và sự hội nhập quốc tế, yêu cầu nghiên cứu hiệu quả kinh tế - xã hội đã được đặt ra cho các dự án. Tuy nhiên, đây cũng là một công việc khó khăn phức tạp xuất phát từ những lý do chính như sau:
+ Việc nghiên cứu dựa trên nhiều thông tin có tính chất dự báo trong một tương lai có nhiều rủi ro không lường hết được.
+ Nghiên cứu lợi ích kinh tế - xã hội nhằm lựa chọn dự án không tuân theo một tiêu chuẩn mà theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau.
+ Việc nghiên cứu đòi hỏi những kiến thức cao về kinh tế và phương pháp phân tích hoàn toàn không đơn giản.
Những phân tích trên đây đã khẳng định tầm quan trọng và tính chất phức tạp của nghiên cứu kinh tế - xã hội. Chính sự phân tích đánh giá này giữ vài trò quyết định để các cấp có thẩm quyền cho phép đầu tư, đảm bảo các dự án đầu tư phù hợp với mục tiêu sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đạt đựơc tăng trưởng tối đa. Các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)... cũng coi lợi ích kinh tế xã hội là yếu tố quyết định cho việc họ tài trợ cho một dự án đầu tư.
Về nội dung, khi tiến hành phân tích đánh giá tác động xã hội của một dự án cần lập luận rõ ràng về việc dự án đó sẽ gây ảnh hưởng xã hội theo cách nào. Cụ thể hơn là phải làm rõ các câu hỏi:
- Dự án đó có thể giúp đạt được những mục tiêu nào của Chính phủ?
- Ai là đối tượng hưởng lợi của dự án và ai sẽ là người phải chịu chi phí của dự án?
- Mức hưởng lợi cũng như chi phí của dự án phải trả là bao nhiêu?
Những tác động nêu trên có thể lượng hoá được và không lượng hoá được. Nói khác đi, những tác động đó có thể được xem xét mang tính định tính hoặc có thể đo lường bằng các tính toans định lượng. Nghiên cứu về lợi ích kinh tế - xã hội thường dựa vào các chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu giá trị gia tăng.
- Chỉ tiêu tạo công ăn việc làm.
- Chỉ tiêu đóng góp cho Ngân sách.
- Chỉ tiêu tiết kiệm, tăng thu ngoại tệ.
Nội dung, cách tính toán và ý nghĩa các chỉ tiêu trên sẽ được trình bày trong chương sau.
IV. QUẢN LÝ DỰ ÁN
1. Mục đích quản lý dự án
Trong dự án đầu tư luôn chứa đựng một tập hợp các công việc cần tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác, dự án bao gồm một tập hợp các hoạt động có điểm khởi đầu và điểm kết thúc riêng.
Các hoạt động của dự án rất đa dạng và phong phú. Căn cứ vào phạm vi diễn ra các hoạt động có thể chia hoạt động của dự án thành 2 loại: hoạt động vận hành và hoạt động kinh doanh.
Hoạt động vận hành là hoạt động diễn ra thuộc phạm vi nội bộ tổ chức của dự án như hoạt động điều hành sản xuất - kinh doanh, xây dựng các định mức kinh tế - kĩ thuật, phân phối thu nhập trong phạm vi nội bộ dự án...
Hoạt động kinh doanh bao gồm các hoạt động vượt ra ngoài phạm vi tổ chức dự án như hoạt động của dự án trên thị trường tài chính, thị trường tư liệu sản xuất, quan hệ của dự án đối với Nhà nước...
Mặt khác, các hoạt động của dự án cần được đảm bảo bằng các nguồn lực nhất định, tức là cần một lượng kinh phí nhất định để hướng tới những mục tiêu cụ thể đã đặt ra. Những hoạt động trong một dự án luôn có mối quan hệ và chi phối lẫn nhau theo những logic nhất định. Khi một công việc không được thực hiện hoặc thực hiện không tốt, không đúng tiến độ và chất lượng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các công việc khác và toàn bộ công việc của dự án, điều này sẽ gây ảnh hưởng đến việc đạt được những mục tiêu đề ra của dự án.
Như vậy, dự án là một hệ thống. Quan niệm dự án như một hệ thống có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình quản lý dự án. Dự án không phải là một hệ thống kĩ thuật thông thường, nó là một hệ thống xã hội. Một hệ thống được đặc trưng bởi các hoạt động của con người. Hơn nữa, dự án là một hệ thống mở, có sự trao đổi, qua lại với môi trường.
Một hệ thống muốn tồn tại và phát triển cần phải phù hợp với môi trường, phải có một cơ cấu hợp lý với những chức năng nhất định, phải đảm bảo đủ đầu vào để có được đầu ra mong muốn, trên hết, phải có cơ chế điểu khiển thích hợp cho hệ thống. Điều đó đặt ra vấn đề là cần có sự phối hợp tốt giữa các công việc diễn ra trong dự án cũng như xem xét môi trường có tác động, ảnh hưởng đến dự án.
Quản lý nói chung là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào các đối tượng quản lý để điều khiển đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Quản lý dự án có thể hiểu là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào các công việc, các hoạt động của dự án trong suốt quá trình lập và thực hiện dự án.
Chủ thể quản lý dự án là tổng thể các cơ quan quản lý dự án với những cơ cấu tổ chức nhất định gồm các cơ quan chức năng của Nhà nước, thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với mọi dự án và các cơ quan của chủ đầu tư, thực hiện quản lý vi mô đối với từng dự án.
Mục đích có tính chất bao trùm trong quản lý dự án là phải xác định được các công cụ và phương tiện để sử dụng tác động vào các hoạt động của dự án nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Cụ thể hơn, những mục đích cần đạt được khi thực hiện quản lý dự án bao gồm:
+ Đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các hoạt động của dự án.
+ Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ phận của dự án.
+ Giảm chi phí, tăng khả năng tạo doanh lợi cho dự án.
+ Phát hiện và giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh, đảm bảo sự thành công của dự án.
2. Yêu cầu của quản lý dự án
Quản lý dự án là một đòi hỏi khách quan của các cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ quan của chủ đầu tư. Xuất phát từ tính hệ thống của dự án, khi thực hiện quản lý dự án yêu cầu đặt ra là cần phải xem xét đảm bảo về các phương diện thời gian, chi phí và kết quả cuối cùng.
Về phương diện thời gian. Cần xem xét dự án là một quá trình gồm 3 giai đoạn kế tiếp và chi phối lẫn nhau. Mỗi giai đoạn đều có những công việc, hoạt động cụ thể khác nhau và đều diễn ra trong một thời gian xác định. Sự chậm trễ không đảm bảo về mặt thời gian của công việc này sẽ có ảnh hưởng, kéo theo sự chậm trễ của công việc khác và cuối cùng sẽ có ảnh hưởng đến mục tiêu đề ra của dự án.
Chẳng hạn, trong giai đoạn 1, nếu các kết quả nghiên cứu các vấn đề về thị trường, tài chính, kinh tế - kĩ thuật... của dự án không đảm bảo về phương diện thời gian sẽ dẫn đến việc chậm trễ trong việc ra quyết định đầu tư và do đó việc triển khai thi công xây dựng công trình sẽ chậm lại và việc đưa công trình vào vận hành khai thác sẽ không đảm bảo đúng kế hoạch đã đề ra. Vì vậy, cần lập kế hoạch, tổ chức, điều hành và kiểm tra tiến độ thực hiện từng công việc đã ghi trong dự án, đảm bảo đúng thời gian đã đề ra.
Về phương diện chi phí. Các hoạt động của dự án luôn đòi hỏi một lượng chi phí nhất định. Nói khác đi là cần được đảm bảo bằng các nguồn lực. Các nguồn lực cần thiết cho một dự án bao giờ cũng có giới hạn và ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của dự án.
Đối với mỗi dự án, điều quan trọng không chỉ xác định lượng chi phí cần thiết cho mỗi hoạt động mà còn cần xác định nguồn vốn để đáp ứng cho các chi phí đó. Cơ cấu nguồn vốn là một nhân tố phản ánh khả năng an toàn của dự án.
Phương diện chi phí của dự án cần được xem xét ở cả 3 giai đoạn của chu trình dự án. Giai đoạn 1 xác định số lượng và nguồn vốn cần thiết cho các giai đoạn sau. Chi phí cần thiết của giai đoạn 1 của dự án chiếm tỉ lệ thấp so với 2 giai đoạn sau nhưng tính chất hoạt động của giai đoạn này có tính chất quyết định, vì vậy, không nên quá hạn chế chi phí để ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động.
Chi phí của giai đoạn 2 chiếm tỉ trọng rất lớn và thường phát sinh nhiều lãng phí, do tính chất phức tạp của quá trình xây dựng và lắp đặt công trình, cần đặc biệt quan tâm, quản lý.
Chi phí của giai đoạn 3 là chi phí khai thác dự án (vốn lưu động), vì vậy, cần tính toán đảm bảo đủ vốn để dự án hoạt động đều đặn, liên tục đồng thời tránh ứ đọng, lãng phí vốn.
Về kết quả cuối cùng. Kết quả cuối cùng là mối quan tâm lớn nhất trong quản lý dự án. Bất kì một hoạt động yếu kém nào trong 3 giai đoạn đều ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. Vì vậy, cần coi trọng chất lượng hoạt động của cả 3 giai đoạn.
Chất lượng hoạt động của giai đoạn 1 được thể hiện ở chất lượng của tập hồ sơ phản ánh kết quả nghiên cứu các vấn đề về thị trường, kinh tế - kĩ thuật, tài chính... có ảnh hưởng đến sự vận hành và tính sinh lời của công cuộc đầu tư.
Chất lượng của giai đoạn 2 được thể hiện chủ yếu ở chất lượng xây dựng và lắp đặt các hạng mục công trình nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm của dự án.
Chất lượng hoạt động của giai đoạn 3 được thể hiện chủ yếu ở kết quả khai thác dự án thông qua sản xuất - kinh doanh những sản phẩm, dịch vụ của dự án.
3. Nội dung của quản lý dự án
Tham gia quản lý dự án đầu tư có nhiều chủ thể khác nhau. Đó là các cơ quan chức năng của Nhà nước và các cơ quan của chủ đầu tư. Mỗi chủ thể thực hiện quản lý dự án với những nội dung cụ thể khác nhau.
Các cơ quan chức năng của Nhà nước sẽ thực hiện quản lý vĩ mô đối với các dự án đầu tư. Quản lý vĩ mô bao gồm tổng thể các biện pháp tác động đến quá trình hình thành và hoạt động của các dự án nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sự hoạt động cuả dự án, hướng được dự án hoạt động theo khuôn khổ luật pháp và thực sự trở thành hạt nhân của sự phát triển và tăng trưởng trong nền kinh tế.
Hoạt động của dự án gồm hoạt động vận hành và hoạt động kinh doanh. Do đó, quản lý vĩ mô các dự án cũng được xem xét theo từng loại hoạt động này.
Đối với hoạt động vận hành. Trong qúa trình xây dựng và thực hiện dự án, chủ đầu tư thường nhận được sự hỗ trợ cuả Nhà nước về nhiều phương diện. Chẳng hạn, khi soạn thảo các dự án phải sử dụng rất nhiều loại thông tin do Nhà nước thu thập, công bố và qui định như tỉ giá, lãi suất, giá cả thị trường trong nước và trên thế giới, các kế hoạch định hướng, những qui định về kế toán, tiền lương, phân phối thu nhập... Đây cũng chính là những công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động vận hành của dự án.
Thông qua các công cụ này, Nhà nước sẽ hướng các hoạt động của dự án phù hợp với đường lối chính sách phát triển kinh tế - xã hội đồng thời mang lại hiệu quả tài chính cho chủ đầu tư.
Đối với hoạt động kinh doanh. Dự án không thể tồn tại nếu không có mối quan hệ với thị trường bên ngoài cả về đầu vào lẫn đầu ra. Đó là mối quan hệ với người cung cấp tư liệu sản xuất, lao động, vốn và người tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, trong suốt quá trình hoạt động, dự án luôn có mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước.
Quản lý vĩ mô đối với hoạt động kinh doanh của dự án được thể hiện, thông qua các chính sách của mình, Nhà nước tác động đến sự hoạt động của các doanh nghiệp cả trong quá trình cung cấp các yếu tố đầu vào lẫn tiêu thụ sản phẩm của dự án.
Thông qua hệ thống luật pháp và các chính sách như tài chính, tín dụng, lãi suất... để khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư vào những lĩnh vực cụ thể nào đó. Chẳng hạn, đối với các sản phẩm không khuyến khích đầu tư sẽ qui định thuế cao, trợ giá cho các sản phẩm vật tư nông nghiệp để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp.
Các cơ quan của chủ đầu tư thực hiện quản lý vi mô dự án. Chu trình dự án diễn ra qua 3 giai đoạn, do đó quản lý dự án cần phải gắn liền với các giai đoạn đó và phải thực hiện đối với tất cả các hoạt động diễn ra trong các giai đoạn. Trong mỗi giai đoạn của dự án, tuy đối tượng cụ thể của quản lý khác nhau nhưng đều phải quan tâm đến các mặt chi phí, chất lượng, thời gian và kết quả cuối cùng.
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Đây là giai đoạn bao gồm công việc phức tạp, chứa đựng các nhân tố chiến lược, quyết định sự thành bại của các giai đoạn tiếp theo và toàn bộ dự án. Do đó, trọng tâm quản lý của giai đoạn này là chất lượng của các kết quả nghiên cứu về thị trường, kinh tế - kĩ thuật, tài chính...
Trong giai đoạn này, mặc dù chi phí chiếm tỉ trọng không lớn trong tổng số vốn đầu tư nhưng cũng cần được quan quản lý, tránh lãng phí. Ngoài ra, vấn đề thời gian hoàn thành các hoạt động cũng phải quan tâm.
Giai đoạn thực hiện đầu tư. Đây là giai đoạn tạo nên cơ sở vật chất kĩ thuật cho sự hoạt động của dự án sau này. Đại bộ phận số vốn đầu tư của dự án đựơc chi ra trong giai đoạn này. Số vốn này không sinh lời trong suốt thời gian thực hiện đầu tư.
Trong giai đoạn này, các công việc, các hoạt động cần được thực hiện theo một lịch trình chặt chẽ và tuân thủ những yêu cầu mà giai đoạn chuẩn bị đấu tư đã xem xét. Do đó, trọng tâm quản lý của giai đoạn này là phối hợp, điều chỉnh, tổ chức triển khai thực hiện các công việc, các hoạt động của dự án đã được kế hoạch hoá khi soạn thảo dự án như thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng, đàm phán các hợp đồng mua sắm thiết bị, thi công xây lắp... Đồng thời, giám sát các hoạt động này về các mặt thời gian, chất lượng và chi phí.
Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Đây là giai đoạn đưa các công trình của dự án vào khai thác nhằm thu hồi đủ vốn đầu tư và có lãi theo đúng thời gian và số lượng đã dự kiến trước trong dự án.
Trong giai đoạn này, nội dung quản lý chủ yếu là tổ chức điều phối mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ của dự án, đảm bảo cho quá trình sản xuất - kinh doanh diễn ra suôn sẻ, tránh lãng phí lao động, vật tư, tiền vốn và ứ đọng sản phẩm.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top