truyrn ma

An Ấu Dư

Font Size: Tác Giả: Bồ Tùng Linh

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

An Ấu Dư là người Thiểm Tay, đã đổ khoa bạt cống. Chàng rất chuộng nghĩa, hay vung tiền vì người khác. Ngoài ra chàng lại thích phóng sinh, gặp ai săn được chim đều không ngại giá cao, mua lấy rồi thả ra. Gặp lúc nhà ông cậu có tang, chàng đến giúp việc đưa đám. Khi trời tối chàng trở về qua núi Hoa Nhạc rồi bị lạc lối trong núi nên lòng rất lo sợ. Tình cờ chàng thấy xa xa có ánh đèn, bèn xăm xăm đi lại. Được mấy bước chàng chợt thấy một cụ già lưng còng kéo lê gậy, băng đường tắt đi tới rất mau. An dừng chân định hỏi thăm thì cụ già đã hỏi trước chàng là ai. An thưa là lạc lối và nói chỗ có ánh đèn kia hẳn là xóm núi, định đến ngủ nhờ. Cụ già bảo:

Nơi đấy không yên ổn đâu. May là cậu gặp lão. Cậu hãy theo lão về nhà, tuy mái tranh đơn sơ song cũng có chỗ nghỉ ngơi thoải mái.

An mừng quá, đi theo chừng một dặm tới một xóm nhỏ. Ông già gõ vào cửa phên, một bà già ra mở cửa chào hỏi:

Ông về đấy à?

Ông già đáp:

Phải.

An bước vào thấy nhà thấp mà hẹp. Cụ già chong đèn giục chàng ngồi rồi bảo bà già bày cơm mời khách rồi nói tiếp:

Công tử đây chính là ân nhân của ta đó. Bà đi lại khó khăn cho nên gọi Hoa Cô Tử ra chuốc rượu đi!

Lát sau một cô gái dọn mâm chén lên rồi đứng cạnh ông cụ, liếc mắt nhìn chàng. An nhìn lại thấy nàng tươi trẻ và xinh đẹp lạ thường. Ông già sai cô gái đi hâm rượu. Ở phía Tây gian nhà có lò than, cô gái vào đó cời lửa. An hỏi:

Tiểu thư kia là người thế nào với cụ?

Cụ già đáp:

Lão họ Chương, bảy chục tuổi rồi mà chỉ có một mụn con gái thôi. Nhà nông không có người hầu. Vả lại do công tử không phải là người lạ, nên tôi mới dám gọi vợ con ra bái kiến, mong chớ chê cười!

An lại hỏi:

Gia đình chồng của tiểu thư ở làng nào?

Cụ già đáp:

Con nó còn độc thân.

An luôn miệng khen cô gái xinh đẹp thông minh. Cụ già tỏ vẻ khiêm nhường. Bất chợt lúc ấy cô gái la hoảng, cụ chạy vào thì rượu sôi ùng ục, còn lửa thì bốc cao ngọn. Cụ dập tắt xong, mắng:

Lớn chừng ấy mà làm ăn chẳng nên thân?

Chợt cụ thấy bên cạnh có hình nữ thần Tử Cô ghép bằng ruột cây quỳ còn dở dang, lại mắng:

Lớn đầu mà còn như con nít!

Cụ cầm hình nữ thần cho An xem và nói:

Nó lo làm cái này nên để rượu sôi trào. Thấy công tử quá khen con gái tôi mà tôi cả thẹn!

An ngắm hình và thấy mắt mày xiêm áo làm rất tinh xảo, bèn khen:

Tuy giống như trò chơi trẻ con nhưng cũng cho thấy tiểu thư rất sáng dạ.

Cô gái nhiều lần ra rót rượu, mỉm miệng cười tươi với An, không chút ngượng ngùng. An nhìn chăm chú, lòng bỗng dưng xao xuyến. Chợt nghe bà cụ gọi, ông lão bèn đi vào. An thấy không có ai, bảo cô gái:

Nàng đẹp quá khiến tôi chao đảo cả thần hồn. Muốn nhờ mối lái, nhưng tôi sợ việc không thành, ý nàng thế nào?

Cô gái lẳng lặng ôm hồ rượu tới bên lò, giả bộ không nghe gì cả. Hỏi mấy lần cô gái vẫn không đáp nên An đi đại vào buồng. Cô gái đứng phắt dậy, nghiêm mặt nói:

Ông khùng này vào đây định làm gì?

An quỳ xuống nài nỉ nàng đừng lớn tiếng. Cô gái đi nhanh tới cửa định ra ngoài. An vụt đứng lên chắn lối, ôm chầm lấy nàng và hôn vào miệng, vào môi. Cô gái run rẩy gọi to lên, ông già vội vàng vào hỏi. An buông tay bước ra, vừa thẹn vừa sợ. Nhưng cô gái bình thản thưa với cha:

Rượu lại sôi trào, nếu công tử đây không vào thì tiêu cả hồ rượu rồi.

An nghe nói thế trong lòng mới yên, chàng càng yêu mến nàng, tâm hồn điên đảo, mất cả ý định ban nãy. Sau đó An giả vờ say rời chiếu rượu, cô gái cũng bỏ ra ngoài. Ông già trải chăn đệm xong, đóng cửa rồi ra nốt. An không ngủ được, trời chưa sáng đã gọi ông cụ từ biệt.

Về đến nhà, An lập tức nhờ bạn bè thân tới nhà cô gái cầu hôn, nhưng mất cả ngày rồi trở về, chẳng tìm được nhà cô gái. An bèn sai người hầu thắng yên cương rồi tự tìm đường lên núi. Đến nơi chỉ thấy vách núi cao ngất, chẳng có xóm làng nào. Hỏi thăm các thôn xóm quanh đấy thì chẳng có ai họ Chương. An thất vọng ra về, bỏ cả ăn ngủ, từ đấy mắc chứng ngơ ngẩn, người nhà ép húp một ít cháo thì An nôn nao muốn mửa. Trong cơn mê sảng chàng cứ gọi tên Hoa Cô Tử, người nhà chẳng hiểu ra sao, đành suốt đêm đứng quanh quan sát, ý chừng sợ An lâm nguy. Một đêm, người canh một mỏi ngủ cả, An lờ mờ thấy có người động vào mình, hé mắt nhìn thì Hoa Cô Tử đứng ngay bên giường. Đột nhiên An cảm thấy tỉnh táo hẳn, nhìn nàng chăm chú và muốn rơi nước mắt. Cô gái nghiêng đầu cười:

Anh chàng si tình bệnh đến thế sao?

Nói xong nàng trèo lên giường, ngồi trên đùi An, lấy hai tay day huyệt thái dương của chàng trai. An cảm thấy mùi xạ hương thơm lạ lùng, len vào mũi và thấm đến tận xương. Nàng day một lúc thì phía trên sống mũi An đổ mồ hôi, dần dần lan tới chân tay mình mẩy. Nàng khẽ nói:

Trong nhà đông người, em không tiện ở lại. Ba ngày nữa em lại đến thăm chàng.

Nàng lấy trong tay áo thêu ra mấy cái bánh hấp đặt ở đầu giường rồi lẳng lặng ra đi. Đến nửa đêm, An toát hết mồ hôi, thấy thèm ăn, bèn lấy bánh mà ăn. Không biết bánh bao nhân gì mà thơm ngon lạ thường, An ăn liền ba cái rồi lấy áo đậy lên chỗ bánh còn lại, nằm xuống ngủ say. Trời sáng lâu rồi An mới tỉnh giấc, cảm thấy khoẻ khoắn lạ thường. Ba ngày ăn hết bánh, tinh thần chàng càng sảng khoái hơn. An bèn cho người nhà di tản hết, nhưng lại sợ nàng đến không vào được cửa, bèn lẻn ra mảnh sân ăn thông vào thư phòng mở hết then khóa. Lát sau, quả nhiên nàng đến, cười nói:

Anh chàng si tình kia, không muốn tạ ơn bà lang sao?

An mừng quá, ôm lấy nàng rồi hai người cùng nhau giao hoan, ân ái mặn nồng. Sau đó cô gái nói:

Thiếp mạo hiểm đến đây vì muốn báo đền ơn sâu thôi, thật ra thiếp không thể vui tình ân ái dài lâu, xin chàng sớm tìm mối mai khác.

An nín lặng hồi lâu mới hỏi:

Tôi không biết trước đây đã giao tiếp với gia đình nàng ở đâu, nay thực không nhớ nữa.

Cô gái không chịu nói, chỉ bảo:

Chàng tự nghĩ thì biết.

An cố nài nỉ được gần gũi dài lâu, nàng đáp:

Đêm nào thiếp cũng trốn đi thì chắc không được rồi, mà vui chuyện ái ân mãi không được nốt.

An nghe nói buốn rầu, cô gái bèn bảo:

Nếu muốn nên việc, mời chàng đêm mai đến nhà thiếp.

An bèn đổi buồn thành vui, hỏi:

Đường thì xa quá, bước chân lại nhỏ bé, làm sao em tới đây được?

Nàng đáp:

Thiếp đã về nhà đâu. Bà điếc ở xóm Đông này là dì của em. Vì chàng mà em ở tạm nhà bà ấy mấy ngày nay, sợ gia đình nghi ngại.

An chung chăn gối với nàng và nhận thấy từ hơi thở đến thịt da nàng, chỗ nào cũng thơm, bèn hỏi:

Nàng xức thứ dầu thơm gì mà thấm cả vào xương thịt thế?

Nàng đáp:

Thiếp sinh ra đã thế rồi, không phải do xức dầu thơm.

An lấy làm lạ hơn. Nàng dậy sớm từ biệt. An sợ mình không kiếm được nhà nàng nên nàng hẹn sẽ đứng chờ bên đường. Đến chiều tối An phóng ngựa đi, quả nhiên nàng đón đợi, hai người cùng đi tới chốn cũ. Cha mẹ nàng vui vẻ đón tiếp, cơm rượi chẳng có gì ngon, chỉ toàn những món rau tạp, ăn xong mời khách đi nghỉ. Cô gái giả vờ không ngó ngàng gì đến An nhưng đến khuya nàng vào chỗ nằm và nói:

Cha mẹ thiếp không ngủ và trò chuyện mãi khiến chàng vất vả chờ lâu.

Hai người gối chăn suốt đêm, rồi nàng bảo:

Gặp đêm nay để rồi ta xa cách nghìn trùng đấy.

An sửng sốt hỏi, nàng đáp:

Cha em thấy xóm này vắng vẻ nên sắp dời đi xa. Sum họp với chàng đêm nay là hết rồi.

An không nỡ buông nàng ra, thở than buồn bã. Đôi uyên ương bịn rịn mà không nhớ màn đêm dần tan, ông già chợt sồng sộc bước vào mắng:

Con bất hiếu, dám làm nhơ nhuốc nhà thanh bạch khiến tao xấu hổ vô cùng!

Cô gái tái mặt, vội vàng chạy mất. Ông già bước theo, vừa đi vừa chửi mắng con. An kinh sợ luống cuống, không biết làm sao đành lẻn trốn về nhà. Mấy ngày lòng dạ bứt rứt không yên, An nghĩ rằng khi đêm xuống sẽ tìm đến nhà nàng, trèo tường vào xem sự thể. Ông cụ đã nói là có ơn với mình, thì dù việc có bại lộ chắc ông cũng không khiển trách mình quá nặng. Thừa lúc đêm tối An lẻn ra đi. Chàng lần mò giữa núi song lạc lối, chẳng biết đường nào vào nhà nàng. Sợ quá An định tìm đường về thì thấy trong hẻm núi thấp thoáng có nhà cửa. Chàng mừng rỡ đến nơi thấy tường cao, cổng rộng tựa nhà thế gia, mấy lớp cửa vào còn chưa đóng. Chàng hỏi thăm người gác cổng và nhà họ Chương. Cô gái áo xanh liền ra hỏi:

Đêm khuya khoắt thế này, ai hỏi thăm nhà họ Chương thế?

An đáp:

Họ là người quen thân với tôi, nhưng do lạc mất lối nên tôi chưa đến được nhà.

Cô hầu nói:

Ông không cần hỏi họ Chương nữa. Đây là nhà dì của Hoa Cô, hiện nàng đang ở đây, để tôi báo với cô ấy.

Cô hầu cáo lui một lát rồi trở ra mời An vào. Vừa bước vào hành lang, An đã thấy Hoa Cô bước nhanh ra đón chàng. Nàng bảo cô hầu:

Chàng trai lặn lội đêm khuya chắc đã mệt rồi em hãy sửa soạn chỗ ngủ cho chàng đi!

Lát sau người hầu dắt tay An vào màn. An hỏi:

Nhà mợ sao không thấy ai khác nữa?

Cô gái đáp:

Mợ đi vắng, để thiếp lại trông nhà. May được gặp chàng, há không phải có duyên số từ trước hay sao?

Trong lúc dự kề bên nhau, An thấy mùi rất hôi tanh, lòng ngờ có điều lạ. Nàng ôm lấy cổ An, thè lưỡi ra liếm vào lỗ mũi chàng như kim đâm buốt óc. An sợ quá muốn trốn đi nhưng thân thể như bị dây chão trói chặt, chàng mệt mỏi ngủ thiếp đi.

Thấy An không về, người nhà tìm kiếm khắp nơi. Có người mách một chiều tối gặp An trên đường vào núi. Người nhà bèn vào núi, thấy chàng nằm chết trần truồng dưới chân vách núi cao. Họ kinh sợ chẳng rõ nguyên do, khiêng xác em về. Cả nhà đang xúm lại khóc than thì có một cô gái đến viếng. Từ ngoài cửa nàng bước vào, vừa đi vừa gào khóc.

Trời ơi! sao chàng ngu muội thế!

Nàng đau đớn kêu khóc khản cả tiếng, một lúc sau mới nguôi, bảo với người nhà:

Xin để đó bảy ngày, đừng liệm vội!

Mọi người không biết là ai, định hỏi thì nàng không chào hỏi gì hết, chỉ nuốt nước mắt lững thững đi ra và không thèm ngoảnh lại. Người nhà vội đi theo, nhưng trong chớp mắt đã không thấy nàng đâu nữa. Ai nấy ngỡ là thần, kính cẩn vâng theo lời dặn. Đêm xuống, nàng lại đến khóc như ngày hôm trước. Đến đêm thứ bảy, An bỗng hồi tỉnh, trở mình rên rỉ, cả nhà đều kinh hãi. Cô gái bước vào nghẹn ngào nhìn chàng. An giơ tay vẫy bảo mọi người lui ra. Cô gái lấy ra một bó cỏ tươi, bỏ vào nồi, nấu với chừng một đấu nước. Sau đó nàng cho An uống ngay trên giường. Lát sau An nói được, thở dài bảo nàng:

Giết chết tôi là nàng, mà tái sinh tôi cũng là nàng đấy!

Nhân đó An kể lại sự việc. Nàng bảo:

Con yêu rắn giả mạo thiếp đó. Hôm chàng lạc lối đầu tiên nhìn thấy ánh đèn chính là nó đấy.

An hỏi:

Sao nàng có thể giúp người chết hồi sinh, xương khô mọc thịt được thế? Nàng là tiên ư?

Cô gái đáp:

Lâu nay thiếp định nói nhưng lại sợ chàng kinh ngạc. Năm năm trước đây, trên đường núi Hoa Sơn, chàng từng mua lại một con chương săn được rồi thả ra, có phải thế không?

An đáp:

Đúng, có việc đó.

Nàng bảo:

Con chương ấy là cha thiếp. Trước đây thiếp nói ơn lớn chính là chuyện ấy. Hôm mới rồi chàng đã đầu thai vào nhà ông chủ chính họ Vương ở thôn Đoài, thiếp cùng cha kiện với Diêm Vương, nhưng Diêm Vương không chịu. Cha thiếp liền tình nguyện chết thay cho chàng, nài nỉ bảy ngày mới nên việc. Chàng được như hôm nay là may mắn lắm. Nhưng tuy sống lại chàng vẫn bị tê liệt, phải lấy máu rắn ấy hòa với rượu uống thì bệnh mới khỏi hẳn.

An nghiến răng căm giận nhưng lo nghĩ không có phép gì bắt được con rắn. Cô gái bảo:

Không khó đâu. Có điều giết nhiều sinh mạng thì lụy cho thiếp trăm năm không được lên tiên thôi. Hang của nó ở sườn núi cũ ấy, vào lúc xế trưa chàng chất cỏ rồi đốt bên ngoài trang bị thêm nỏ cứng ắt bắt được con yêu ấy.

Nói xong, nàng từ biệt:

Thiếp không thể hầu chàng mãn đời, lòng rất đau buồn. Nhưng vì cứu chàng mà công sức tu luyện hao tổn hết bảy phần rồi, xin chàng thương xót giùm. Một tháng nay thiếp nhận thấy có cái gì đạp trong bụng, chắc là nghiệt căn. Con trai hay con gái, năm sau thiếp sẽ gửi chàng.

Nói xong nàng rơi lệ từ biệt. Qua đêm ấy, An thấy từ thắt lưng trở xuống tê bại, cấu véo cũng không biết đau, bèn đem lời cô gái dặn bảo với người nhà. Người nhà tới nơi, hun đốt hang như lời nàng. Từ bên trong con rắn trắng lớn xông qua lửa trườn ra, bị cung nỏ bắn một loạt chết ngay lập tức. Lửa cháy vào hang, rắn lớn rắn bé mấy trăm con đều chết thui, mùi tanh nồng mũi. Người nhà ra về, đưa máu rắn cho An. Chàng uống ba ngày hai chân dần dần có thể xoay trở, nửa năm sau mới đứng lên được.

Sau đó, chàng một mình vào núi, gặp bà già ôm đứa trẻ quấn tã cói trao cho chàng rồi bảo:

Con gái già gửi cho chàng đây.

An định hỏi thăm, nhưng thoáng một cái bà lão đã biến mất. Giở tã xem là trai, An bồng đứa bé về nhà rồi suốt đời nguyện sống độc thân, cam chịu cảnh gà trống nuôi con.

Kết Thúc (END

Chiếc Gương Đen

Font Size: Tác Giả: Đưc Mẫn

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Ông Thorndye chủ nhân thư viện khu Steplinn, đã nhiều lần nhìn sang mấy ngôi nhà kỳ quái có mặt tiền ốp gỗ đối diện với cửa sổ với cửa sổ phòng ông.

Phòng đọc kê những dãy bàn gỗ đen ngổn ngang sách báo giờ đây không còn một bóng người và ông không thể nào được nói dăm câu ba điều với một người nào đó rằng ông đánh giá hết sức đặc biệt phong cách kiến trúc tuy đo của những công trình này, rằng chỉ riêng những công trình đó mới có thể trụ lại được qua bao nhiêu lần hỏa hoạn và chấn động mà Siti phải chịu đựng từ thế kỷ mười lăm.

Không một bóng người...

Nói chung thì cũng hoàn toàn không phải như vậy, nhưng cái ông khách duy nhất đang uể oải lần giở những tập sách nhaÜn bóng vì dầu mỡ không được người thủ thư tính đến.

Bác sĩ Baster Brown là một thầy thuốc bình thường trong khu; ông sống ở phố Nhà thờ, thuê hai phòng trong một ngôi nhà cao tầng u ám ở ngoại vi công viên Clissold, ông không có riêng một tủ sách, một phòng thí nghiệm, còn những người khách bệnh nhân ít ỏi thì ông tiếp khám trong cái phòng khách xoàng xĩnh có mấy cái ghế bành đen đủi nhồi lông ngựa. Mỗi tuần hai lần ông lê gót xuyên qua thành đô đến Hallborn để vào cái phòng đọc đầy bụi của ông Thorndye, tại đây ông ngồi một vài giờ và cuối cùng ra về với một cuốn sách nhỏ với giá đặt cược là sáu pence.

Ngoài trời mưa lâm thâm, mà cái bàn ông ngồi lại kê vào góc tối nhất của thư viện. Tuy thế ông Thorndye cũng không nghĩ đến chuyện thắp lên một trong số những cây đèn chao xanh vì một độc giả chẳng lấy gì làm giàu có như ông.

Ông Baster Brown không đọc mà chỉ ngồi lật qua lật lại những trang sách "Lịch sử nước Anh", và từng tí một ông dần dần nhét xuống dưới tập sách này một cuốn sổ mỏng lấm tấm những chấm rỉ sắt và đã bị bọ sách cắn thủng.

Đúng lúc này cô Boze bước vào và ông Thorndye trịnh trọng cúi chào. Cô Boze chẳng những đã mượn của thư viện những sách quý hiếm, mà cô còn thích chuyện trò với ông chủ, những lúc như thế ông lại có dịp trình bày nhận thức của mình về mặt lịch sử.

- Cô Boze này, lần trước khi tôi được vinh hạnh và được sung sướng tiếp kiến cô trong tệ xá của mình, chúng ta đã nói đến Ren, đến việc sau vụ cháy năm một ngàn sáu trăm sáu mươi sáu ông ấy đã xây lại Hild Hall.

Ông Baster Brown đứng dậy, cuốn sổ mỏng ông nhẹ nhàng cho vào túi áo bành tô, còn một tay ông cầm một cuốn tiểu thuyết gì đó mới được xuất bản.

- Xin cám ơn ông, chào ông - người thủ thư vừa nói mấy tiếng khô khan, vừa đưa hai ngón tay kẹp lấy đồng xu mà ông thầy thuốc đưa ra.

Cái bóng dáng thấp bé của ông bác sĩ nhòa đi trong màn mưa bụi của Hallborn.

- Làm việc như thế thì cũng chả lấy gì làm no đủ ông Thorndye lẩm bẩm.

Sau đó ông lại mỉm cười và tiếp tục bài giảng của mình cho cô khách hàng thường nhật.

Tuy nhiên cũng cần phải thừa nhận rằng những ngọn tháp mà Ren xây dựng cho Tu viện Westminster không được hài hòa lắm với cái vẻ hùng vĩ của Tu viện...

Đứng ở góc phố Hallborn chờ xe buýt giữa cái đám người âu sầu chịu đựng, quần áo ướt sũng, ông Baster Brown lấy tay giữ khư khư cái túi căng phồng của mình, dường như trong đó có cái ví đầy tiền. Thế nhưng trong đó chỉ vẻn vẹn có một cuốn lịch thư cổ của Warren năm một ngàn tám trăm năm mươi bảy mà cho đến nay thật là may mắn ông Thorndye không đem ra nhóm bếp hoặc không rơi vào tay gã Do Thái buôn đồ cổ Paans cứ mỗi năm hai lần đến mua tất cả những cuốn sách không còn cho mượn được nữa.

Ông Baster Brown về đến nhà thì đã muộn, ở lối cầu thang ông đụng phải cô chủ nhà Skinner, cô xì ra một tiếng không hài lòng và không đáp lại lời chào của ông.

Lẽ ra mình phải tìm cách trả cho cô ấy một phần tiền nhà, ông thầy thuốc lẩm bẩm một cách chán chường khi leo lên tầng tư về phòng mình trên những bậc cầu thang trải một tấm thảm đã trụi lông xơ xác.

Lửa trong lò sưởi đã hết cháy, còn ở cái vòi hơi có cái màn chắn rách nát bằng amiăng thì chỉ còn một chút ánh sáng loe lét.

Ông Baster Brown đặt cuốn lịch thư Warren xuống cái bàn tròn có lớp vécni đã hơi tróc nham nhở bên cạnh chai rượu Uýtxki và một cái ống điếu cáu bẩn vì nước bọt; sau đó ông thận trọng kiểm tra xem cửa đã đóng chặt chưa, ông vo một mảnh giấy nhét vào lỗ khóa và cẩn thận kéo bức rèm vải bông màu xanh che kín cửa sổ.

- Chà..., ông thở một hơi dài, nhưng đầu tiên phải gọi cái điếu Polli giúp đỡ cái đã.

Ông vớ cái ống điếu, nhét vào đó một dúm thuốc vo tròn lồng phồng lấy ra từ một túi giấy màu xám và rít một hơi khoan khoái.

Nàng Polli tốt bụng của tôi ơi! Ông thốt lên với cái giọng dịu dàng thô thiển.

Nàng Polli phần nào đã tô điểm được cho cuộc đời đơn côi của ông, con người ít ỏi về tiền nong mà lại bị bao nhiêu rủi ro khăng khăng theo đuổi; còn ông thì bắt chước nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết trinh thám của ông đã đọc được hồi nào để đặt cho ống điếu một cái tên nghe thật phụ nữ, thậm chí còn khắc lên đầu nó ba dấu thập ác, ông làm thế chỉ cốt để đánh dấu quyền sở hữu của mình và sự ràng buộc đặc biệt.

"Một thứ siêu đẳng" đã có lần ông tự nói với mình khi nhớ lại cái ngày ngẫu nhiên có tiền ông đã mua cái ống điếu theo kiểu "chesterfild" bằng thứ vỏ bạch dương dày cộp của Anh này với giá khá đắt.

- Chà...

Baster Brown đọc sách, hai tay ôm đầu và cắn môi vì căng thẳng: "Năm một ngàn tám trăm bốn mươi hai bộ sưu tập đồ quý hiếm của Horas Wallpo ở Stroberri Hill được đem ra bán đấu giá. Trong những thứ khác lạ có một chiếc gương đen của bác sĩ John Dee, một người thầy thuốc, một nhà phẩu thuật và một nhà chiêm tinh của nữ hoàng Anh Elizabeth. Đó là một tấm than đá màu đen cực kì, được đánh bóng và đẻo gọt tinh xảo hình bầu dục có cán bằng một khúc ngà voi màu sẫm.

Ngày trước tấm gương này được lưu giữ trong bộ sưu tập của các bá tước Peterborough, cũng như trong dòng họ Wallpol chưa bao giờ có ai có ý định sử dụng cái đồ vật bé nhỏ này, họ chỉ thờ ơ lưu giữ, đề phòng có những tai họa lớn có thể gây ra sự tò mò không đúng chỗ của ai đó.

Alias Ashmol, tác giả cuốn sách kì lạ và rùng rợn "Theatrum Chemicum" có kể về một chiếc gương đen theo những lối nói sau đây: "Nhờ khối đá thần thông này có thể nhìn thấy mọi gương mặt mà ta muốn, dù gương mặt đó ở phương trời nào đi nữa, dù nó có lẩn trốn vào những hang sâu khuất nhỏ nhất nằm sâu tít trong lòng đất."

"Cần biết rằng mãi về sau này những người giữ chiếc gương vì khiếp sợ cái uy lực đó mà không dám đem thử..."

Ông Baster Brown thôi không đọc phần cuối bài báo nói đến số phận bi thảm của ông John Dee bí ẩn, mà đi lấy một chiếc kính lúp để soi xét mấy dòng chữ bé líu xíu bên lề sách:

"Phải, nhưng tên đạo tặc Edward Kelli đã theo sát như hình với bóng cái lão Dee khôn ngoan ăn người, tên đạo tặc này đã sử dụng gương để đi tìm kho báu và để gây ra những tội ác bí ẩn.

Trong tay tên bất lương cái vật nhỏ kì diệu này, không còn nghi ngờ gì nữa... (đến đây mảnh giấy bị mọt đục, vì thế mất một đoạn)... cái được Giấu Kín trong gương".

Hai chữ Giấu Kín được gạch chân và viết đậm.

Đoạn ghi chú bên lề được kết thúc bằng mấy dòng viết thân bằng một loại nét chữ khác.

"Gương này đã bị bọn Kwaiter feidzi ăn trộm. Chúng dùng gương để tìm các kho báu (đoạn này lại bị mọt ăn)... nguyền rủa chúng suốt đời".

Ông thở một hơi dài và sâu theo thói quen, ông ấn vào cái lò xo ở một chiếc hộp kín của chiếc bàn nhỏ kì cục làm theo kiểu dedlou, đặt cuốn lịch thư Warren vào đó bên cạnh một cái túi da. Trong túi này có những dụng cụ quý giá tinh xảo bằng thép bóng loáng. Đó là những vật đắc dụng đã một thời là tài sản của Stenton Miller biệt danh Con Dê mà một buổi sáng tháng Ba người ta đã treo cổ hắn ở nhà ngục Newgate, cũng vào lúc đó mưa lớn lẫn với mưa đá to đã đập vỡ hết kính của những ngôi nhà ở Paternos ter Road.

Ông thầy thuốc lắc đầu; ông đã ra tay cứu giúp Stenton Miller khi hắn được chở đến đồn cảnh sát ở Roterhight, thừa sống thiếu chết vì đòn thù của một đám đông.

- Ông bác sĩ, ông cầm lấy cái này thay cho tiền chữa con người bất hạnh ấy thều thào, lúc một viên cảnh sát bỏ đi giây lát, có lúc dùng đến đấy. Mà tôi cũng không muốn để người ta lục thấy trong túi tôi.

"Cái của nợ này" cũng chẳng thấy có ảnh hưởng gì đến kết cục vụ việc của chính Stenton Miller, thế nhưng nó cũng có chút ích lợi cho ông Baster Brown, bởi vì thường mỗi tuần ông không kiếm nổi lấy một đồng bảng.

- Chà, Polli, ông vừa thốt ra mấy tiếng, vừa nhả lên trần một làn khói.

Ba ngày sau ông được biết rằng hầu tước cuối cùng Kwaiterfeidzi đang sống ở Estis Road trong một ngôi nhà cũ nát lụp xụp với mấy cái cửa sổ bụi bậm nhưng lại được che hắn bằng những chiếc rèm gấm nặng nề, đắt tiền.

- À, cái lão bần tiện ma quỷ Kwaiterfeidzi, trời tru đất diệt cái lão ấy đi! một cô bán rau kêu lên đúng lúc Baster Brown vô tư dạo chơi trên đường Estis Road.

Và ông nhìn thấy cái lão già đầu nhỏ xíu, ăn mặc chỉnh tề theo kiểu Bremmel đang lần bước trên bực thềm nhà.

Estis Road là một phố nhỏ heo hút ở Kenonberi, đến ban ngày cũng ít người qua lại, còn đêm khuya thì hoàn toàn không có bóng người.

Lối vào biệt thự của nhà Kwaiterfeidzi; có một cánh cửa chắc chắn có then cài và hai vòng khóa xích, ngược lại thì cánh cửa sân vườn, lối ra kênh đảo Olvin không sâu lắm, chỉ cần một que sắt năm mươi phân thì có thể mở được. Ông Baster Brown đi qua một vạt sân nhỏ đọng đầy nước mưa, tựa như một nhánh sông nhỏ, mở cái chốt cữa sổ phòng giặt và dễ dàng tìm được đường vào các phòng tầng trên.

Phải, cái thằng cha Steton Miller nói đúng, những dụng cụ của hắn cũng có ích thật sự đấy chứ! Ông Baster Brown tin như thế khi ông cắt tấm ốp bằng tấm thép của cái két sắt kỳ cục được trang trí bằng một thứ sợi mạ vàng và những hình hoa văn cầu kỳ diễm lệ.

Ông đang sắp hoàn thành công việc của mình thì hầu tước Kwaiterfeidzi bước vào, trong tay cầm một que chọc lò.

Bác sĩ giật ra khỏi tay ông cái vũ khí nực cười ấy và đập một nhát vào cái hộp sọ bé nhỏ hình trái lê của ông.

Ông già rít lên một tiếng như tiếng chim rồi ngã vật xuống; kinh nghiệm nghề nghiệp mách bảo Baster Brown rằng không cần đến nhát thứ hai nữa.

Không hề vội vã lúng túng, ông lục soát hết mọi thứ trong tủ và phát hiện trong đó có mười hai đồng bảng tiền giấy, một vốc đồng shilling mới và chính cái gương của bác sĩ Dee đựng trong một cái túi bằng lụa màu đỏ.

Về đến nhà ông Baster Brown nốc hết ba phần tư chai Uýtky rồi rút cái gương trong bao ra.

Thở một hơi dài ngao ngán, ông đặt Polli lên bàn vì trong túi ông không còn một chút thuốc nào. Sau đó ông thận trọng bắt tay vào việc nghiên cứu cái vật kỳ quái ma thuật.

Cái khuôn bầu dục nhỏ hẹp và tăm tối ánh lên như một mảnh trời đêm không trăng sao, ông nhận thấy rằng nó lấp lánh, không phản chiếu một thứ ánh sáng nào, vả lại trong cái bề sâu u tối của gương ông cũng chẳng phát hiện thấy có gì đặc biệt.

Để tập trung tư tưởng và tinh thần ông bắt đầu nhắc lại tên tuổi của con người bí hiểm tạo ra chiếc gương, đôi khi ông còn kết hợp cả vào đó tên của Kwaiterfeidzi.

Một giờ sau lưng, ông bắt đầu toát mồ hôi, tay ông thì run rẩy lập cập vì một sức nóng không biết từ đâu sinh ra.

Gần đến sáng ánh đèn hơi đã yếu đi bởi vì ông Baster Brown quên không thả một đồng xu vào cái khe đồng hồ tính tiền.

Ánh sáng tắt hẳn và bây giờ ông thầy thuốc mới thấy một ánh xanh tuyệt vời hắt ra từ lòng gương.

Động tác đầu tiên của ông là cử chỉ run sợ, ông chạy vội sang phòng bên và khóa trái cửa lại.

Tuy nhiên, gần như ngay lập tức ông nguyền rủa mình vì tội nhát gan, và mặc dầu toàn thân run rẩy một cách thiểu não, ông vẫn quay về chỗ bàn.

Ánh sáng ấy vẫn tiếp tục hắt ra, dù không mạnh lắm.

- Cần phải... nghiên cứu hiện tượng này... nhằm mục đích khoa học. Ông thầy thuốc lẩm bẩm. Cái ánh xanh này dường như là ánh xanh từ một đầu cực... Vậy thì, nếu ta đứng sang bên trái gương, ta sẻ nhìn thấy...

Ôi chao, quả đúng như thế! Ông đã nhìn thấy, dù rằng, không còn nghi ngờ gì nữa, bây giờ ông chỉ mong sao trên cái mặt đen lạ lùng kia không hiện ra một hình ảnh nào nữa, mặc dấu ông đã từng ham muốn được chính mình sử dụng cái sức mạnh bí hiểm của nó.

Hình ảnh hiện ra khá là mờ mịt và ông Baster Brown phải vận dụng hết trí lực của mình mới có thể phân biệt được một số đường nét.

- Có vẻ giống như là... hừm, nhưng rất rõ ràng đó là một cái gì như thể một bộ áo dài... mà có lẽ, như là một chiếc áo blu. Hừm,... à à, đây là cái đầu... còn đây là chân.

Hình ảnh dần dần nét hơn.

Cái đầu đội mũ hiệp sĩ lộ ra phía trên một chiếc khiên rộng không rõ hình thể. Cặp chân khẳng khiu dài quá khổ, bên ngoài mặc một thứ quần kỳ dị mà người ta dùng để mô tả trên những bức chạm khắc cổ xưa các nhà hiệp sĩ cuối cùng của cuộc chiến tranh Hoa hồng đỏ và Hoa hồng trắng.

- Đẹp thì chả đẹp, mà ý nghĩa thì không có gì, ông Baster Brown kết luận trong một giây lát hăng hái.

Tuy nhiên, ông cũng không có ý định hăng máu vịt trước một kiểu bất trí, ông hiểu rằng bức tranh khó hiểu và không mạch lạc sẽ tạo ra quanh mình một không khí ghê sợ hãi hùng. Cái ánh sáng xanh kia đủ mạnh để soi các vật xung quanh và ông đã nhìn thấy chai rượu uýtxky và chiếc điếu Polli được bao phủ bởi một lớp ánh lân tinh mờ mờ.

Đó là những đồ vật quen thuộc, thậm chí còn rất đáng yêu của ông, những đồ vật sinh hoạt bình thường, thế mà giờ đây ông nhìn chung một cách khiếp sợ, tựa hồ chúng cũng là một bộ phận của sự bí ẩn nguy nan đã nảy sinh ngay bên cạnh ông.

Đúng lúc này cái hình ảnh nhòe nhoẹt kia chợt đậm đặc lại mấy giây rồi lại nhanh chóng giãn ra; đầu tiên là cái khiên biến đi, bộ quần áo bỗng thảng thốt như sương, rồi sau đôi chân như hai con rắn chợt tan hòa vào thứ bóng tối lung linh. Thế rồi, thoắt một cái, giống như sau tiếng "tách" của công tắc điện, tất cả đồng loạt tối thui và căn phòng chìm vào bóng đêm.

- Đồng hồ tính tiền, mau lên! Ông Baster Brown kêu lên và điên cuồng chạy khắp phòng tìm những đồng xu.

Ông kịp bỏ tiền vào khe đồng hồ khi nghe thấy sau lưng tiếng thủy tinh vỡ loảng xoảng và tiếng nước chảy đổ.

Một phút sau chiếc đèn hơi sáng lên rực rỡ.

Chai rượu đã vỡ vụn chảy thành hai dòng trên mặt bàn. Chiếc gương đen lại giống như một chiếc đĩa thường.

- Có thể đó là do trí tưởng tượng bệnh hoạn của ta sinh ra mà thôi. Ông bác sĩ ca cẩm.

Nhưng ngay lập tức ông lắc đầu:

- Vậy tại sao cái chai lại vỡ, lại còn...

Ông mở to mắt, đứng như trời trồng, nhìn chằm chằm lên bàn: chiếc điếu Polli đã biến mất.

Phải mất một tuần trôi qua ông Baster Brown mới lấy lại được can đảm để thử nghiệm điều bí ẩn của chiếc gương ma quái trong một đêm đen tĩnh mịch.

Không có gì xảy cả.

Dũng cảm hơn, đêm nào ông cũng thử nghiệm; để có vẻ ly kỳ thậm chí ông đã bắt đầu kêu gọi cả đến bóng dáng của Dee và Kelli, hơn thế nữa, cả những thực thể của thế giới bên kia, khi tìm thấy tên tuổi của họ trong sách thảo luận cổ xưa về ma thuật Nodzerx.

Ông đã thất vọng. Ông đã thôi mơ ước có những cuộc tìm kiếm thần hiệu những kho báu và thậm chí ông đã tự nói với mình rằng thật sự ông không bao giờ tin vào chuyện đó.

- Liệu có đáng công hay không... liệu có đáng công hay không... đôi lúc ông cứ lẩm bẩm như vậy. Tuy nhiên, ông không nói ra hết ý nghĩ của mình và chắc tự ông cũng không thể nói được rằng liệu sự hối tiếc của ông có liên quan đến vụ giết người ở Estis Road hay không.

Dù thế nào đi nữa thì tội ác cũng đã mang đến cho ông mười hai đồng bảng và mấy shilling; nhưng những đồng tiền ấy đã tiêu veo đi như tuyết tan dưới ánh mặt trời.

Vào cái ngày khi đồng shilling cuối cùng được đem ra để mua một ít đường và trả thì ông được cô Skinner cho hay là cô sẽ tới thăm ông.

Cho hay là tới thăm, nói như thế thì trang trọng quá; trên thực tế thì cô chỉ sai người đấy tớ gái Diana Pabsi chuyên làm những việc bẩn thỉu đến báo cho bác sĩ biết rằng ông không được ra khỏi nhà, khi chưa nói chuyện với cô Skinner, nếu ông không muốn thì quay về nhà phải nhìn thấy trên cửa nhà mình những dấu niêm phong lớn màu đỏ.

Cô Skinner là một cô chủ nhà khá giàu tính chịu đựng và cô chưa bao giờ tuyên chiến một mất một còn với người ở thuê vì cái chuyện chậm trả tiền nhà, nhưng ông Baster Brown nợ tiền cô đã tám quý, ấy là chưa kể những khoản lặt vặt mà cô cho vay vào những phút tâm hồn sảng khoái.

Cô chủ đến đúng hồi mười một giờ, tức là hai tiếng sau Diana Pabsi, cô đeo trên mũ chiếc kính đồi mồi và cầm trên tay một sổ nợ khổ lớn.

- Thưa bác sĩ Brown, cô mở đầu, việc này không thể kéo dài hơn nữa. Sức chịu đựng của tôi thì rất lớn, tôi còn có thể chịu đựng được hơn nữa, nếu như tôi không có một nhu cầu rất lớn về tiền. Xin ông vui lòng nhìn bảng kê này, ông sẽ thấy rằng ông còn thiếu của tôi...

Bỗng nhiên cô ngừng bặt, cô hít ngửi một hơi, vẻ tởm lợm rồi kêu lên:

- Trời đất ơi, quái quỷ thật... Có cái gì thối tha trong cái ống điếu của ông thế, hả ông bác sĩ? Tôi không thể ngồi đây được nữa. Thối tha quá... Ông đi ngay đi, ông cút ngay khỏi nhà tôi đi...Ôi! Làm sao lại có cái mùi như thế được chứ?

Cô vùng chạy ra ngoài, còn cái sổ nợ (trường hợp không tiền khoáng hậu trong biên niên sử của ngôi nhà này) trượt khỏi tay cô, rơi tung tóe xuống sàn nhà.

Ông Baster Brown mừng vì thoát khỏi những lời chỉ trích và đe dọa của cô, tuy vậy ông nhíu trán ngồi yên sau cái bàn tròn như chết lặng: từ khi mất Polli, để tiết kiệm tiền ông đã không mua điếu mới, và vì thế ông đã bỏ hút!

Mặt khác, dú ông có đánh hơi ngửi khắp nơi đi nữa, ông cũng không thấy một chút mùi khói thuốc nào, có chăng chỉ là mùi nặng nề của cái xô rác trong bếp và chút mùi của mấy lọ thuốc.

Ông nhún vai nhìn vào cái ngăn kéo bí mật trong góc bàn.

Chiếc gương đen vẫn nằm đó, vẫn tăm tối và lấp lánh, nhưng chẳng có gì hấp dẫn và lạ kỳ; nó vẫn là những công cụ bằng thép nằm trong bao da.

Baster Brown mỉm cười cầm chúng lên tay.

Đúng giây phút đó từ tầng dưới nhà có tiếng rú lên kêu cứu:

- Bác sĩ, bác sĩ ơi! Cô ấy sắp chết rồi!

Người thầy thuốc nhận ra ngay cái giọng the thé của Diana Pabsi.

Ông bắt gặp người hầu gái trước cửa phòng bếp mở rộng. Cô ấy la khóc và mặt mũi ướt đẫm nước mắt.

- Cô chủ về phòng và bảo: "Cái mùi thuốc... chà, sao mà nó thối đến thế!" sau đó cô ấy ngã xuống. Rồi cô ấy không động đậy được nữa! Trời ơi là trời!

Ông Baster Brown đã nhìn thấy cô Skinner nằm xỉu trên nền gạch nung trắng đỏ; cặp kính của cô văng xa vào một góc đã vỡ vụn.

Gương mặt cô chủ nhà méo mó một cách thảm hại.

- Cô ấy không động đậy nữa, ông thấy đấy! Cô hầu gái nức nở.

"Cô ấy sẽ không bao giờ động đậy được nữa" người thầy thuốc tự nhủ, bởi vì ông đã xác định được rằng kẻ bất hạnh đã chết.

Ông ngồi viết một tờ kết luận ngắn gọn cho các chuyên viên y tế của sở cảnh sát thành phố rồi lên gác về phòng mình, sau đó ông cất cả túi da vào chỗ cũ. Vì ông là người đầu tiên xác nhận cái chết của cô Skinner cho nên theo luật pháp ông sẽ phải tham gia điều tra, và với cả hai tư cách ấy ông sẽ được một khoản tiền thù lao là ba bảng sáu shilling.

Với số tiền ấy ông có thể ung dung kéo dài cuộc sống thêm mấy ngày nữa.

Vì sao kể từ ngày đó ông cứ luẩn quẩn với ý nghĩ phải bán đi cái ông điếu Polli?

Cái ống điếu ấy đối với ông dần dần trở nên một cái gì tựa như một cô bạn gái mà trong thời độc thân khốn khó của mình ông không thể nào có được, còn bây giờ thì ông lại gắn bó với nó đến mức không muốn tìm vật thay thế, thậm chí ông đã không còn ham muốn hút nữa.

Nhưng mối quan tâm bé nhỏ ấy chẳng bao lâu đã bị che lấp đi bởi những điều phiền toái lớn lao hơn: chẳng những ông ngồi không không kiếm được đồng nào, mà hơn thế nữa ông còn mắc nợ đầm đìa đến nỗi ông chẳng còn hy vọng nuôi nổi thân mình.

Những khách bệnh nhân trước kia thỉnh thoảng còn đến thì nay hết hẳn; một bọn du đãng nào đó ban đêm đã gỡ đi khỏi cửa cầu thang tấm biển kẽm có ghi họ tên ông và giờ tiếp khách.

Ông cũng chẳng nghĩ đến chuyện gặp lại nó nữa, vì chưng ông đã tin điều ấy vô bổ.

- Chao ôi, Stenton Miller, ông lẩm bẩm, tôi lại phải nhớ đến anh, người anh em sống hèn chết khổ của tôi.

Ông lại lấy từ trong ngăn kéo ra túi đựng những dụng cụ bằng thép bóng loáng.

Bên cạnh đó, trong cái túi riêng bằng lụa đỏ là chiếc gương của bác sĩ John Dee.

Ông ném sang bên ấy một cái nhìn bực dọc và khinh bỉ.

- Mày đấy à! ông càu nhàu, mai ngày kia thì mày xuống đáy sông mà tác oai tác quái!

Từ trước tới nay, trong những lần trộm vặt ban đêm, ông gần như toàn tâm toàn ý tin vào một ngôi sao hạnh phúc vô hình nào đó. Nếu có ngoại lệ thì chỉ là chuyến làm ăn đổ máu ở Estis Road khi ông cướp trắng gương đen này.

Còn chuyện hành nghề lần này nhằm cứu ông khỏi rơi vào cảnh khốn cùng thì ông đã chuẩn bị cẩn thận hơn thế.

Ông đã tìm thấy một ngôi nhà ở Blumsfild không có người ở. Chủ nhân của nó, bà Aberllou đang phải điều trị trong bệnh viện Kosuell Road và mang tất cả đầy tớ theo mình. Ông biết được tất cả những điều đó qua cuộc trò chuyện của các bác sĩ đồng nghiệp, họ không hề chú ý hoặc quan tâm đến việc ông lắng nghe câu chuyện một cách chăm chú.

Một trong những cửa sổ tầng dưới không được đóng kín, còn ông thì lại có thừa kinh nghiệm để biết rằng nó không gây trở ngại gì lớn cho một cuộc đột nhập về đêm.

Khi ông rời xe buýt trên đường Cornhill thì trời đã lạnh và tối. Khi ông đi bộ tới London Wall, một đường phố u ám và sầu muộn đấn nỗi ông thấy như chính mình là quỷ uất hận, thì đường phố đã dần dần tràn ngập sương mù. Ở chỗ này chỗ kia những cây đèn đường thỉnh thoảng lại nhỏ xuống những giọt nước mắt màu nâu đỏ vào trong cái lớp sương mù đầy những bóng ma ấy; thậm chí ở đây những tiếng động cũng âm u đi và những tiếng còi tàu dọc đường bờ sông Victoria cũng tựa hồ bị sương mù nhét giẻ vào mồm, chỉ u u rền rĩ ở phương xa.

Ông Baster Brown thở một hơi dài khoan khoái. Cho dù ông có bịt kín mắt bằng vải đen ông cũng tìm ra được đường đi tới phố Blumsfild, nhà bà Aberllou, tới cái cửa sổ có cánh cửa đóng không chặt.

Ông lẻn vào được trong nhà không mấy khó khăn, cây đèn pin nhỏ hắt ánh sáng trắng trên những tấm vải bao giường màu trắng như màu tang tóc và những tấm thảm cuộn lại trong cái phòng khách nghiêm trang thời Victoria.

Ông bước lên cầu thang xoắn ốc khổ rộng dựa tít lên trên cao, tới một nơi nào đó trong bóng tối, ở tầng hai ông thấy một cái cửa, xem ra thì hình như nó dẫn vào phòng ngủ của bà Aberllou. Ông mở cửa và đứng khựng lại vì cơn khiếp đảm đột ngột, dường như trước mắt ông có con quái vật nào đó vùng dậy.

Thực ra căn phòng làm ông khiếp sợ chỉ vì một lẽ là nó sáng quá.

Ngọn đèn chùm mười hai bóng với các loại râu tua vẫn rực rỡ, đằng sau chiếc ghế nhưng vàng là cây đèn đứng có chao hồng. Người khách không mời mà đến, tức là ông, không thể dự liệu được rằng khi ra đi những người trong nhà đã quên không tắt đèn, căn phòng vẫn nguyên trống vắng, và mặc dù có ánh sáng như trong một ngày hội, nó vẫn hoàn toàn là không có người ở.

Ông Baster Brown lắc lắc đôi vai tựa hồ có một gánh nặng đang khiến ông nghẹt thở trong lồng ngực.

- Thôi, cứ thế, cứ thế. Ông lẩm bẩm, cần phải làm vậy... nếu không thì hỏng hết.

Cái nhìn của ông gắn vào một tấm gương trong xanh kiểu Venise, treo ở tường hậu. Ông bước tới và nhấc lên: có bốn chiếc nút đồn hiện ra như bốn con mắt trên cánh cửa nhỏ một chiếc két chìm trong tường.

Những dụng cụ bằng thép liên tiếp được sử dụng và chẳng mấy nỗi ông đã vượt qua được chướng ngại vật.

- Có thế chứ... có thế chứ, ông Baster Brown đắc chí, và quả thật trên má ông ướt nhòe những giọt nước mắt sung sướng không gì tả nổi khi ông nhìn thấy trước mắt những gói ngân phiếu lớn và ba đồng tiền vàng.

Ông nhét đầy chặt các túi rồi đắc thắng khua lên cái que thép đã giúp ông phút cuối cùng mở khóa.

Bỗng nhiên toàn thân ông bị một cơn co giật: ở tầng dưới một cánh cửa đóng sầm lại, có những bước chân vội vàng đi lên cầu thang; thậm chí ông còn nghe thấy tiếng cò súng lên đạn.

Toàn thân ông hóa đá. Ông không nhích được một bước ngay cả khi có bóng một người đàn ông lực lưỡng, nặng nề xuất hiện trong khuôn cửa mở rộng, ngay cả khi cái nòng dữ tợn, tròn trặn và bé nhỏ của khẩu súng lục tự động đã đặt vào trán ông.

Thế nhưng cái tiếng nổ khốc liệt đã không vang lên, còn người đàn ông thì không kịp kêu bắt cướp hoặc kêu cấp cứu.

Cây gậy thép rời khỏi tay ông Baster Brown, nó rít lên cái tiếng xé gió của tên lửa trong không khí rồi văng vào một nơi nào đó trong bóng tối. Ông Baster Brown không đụng đậy nữa, cái cơ thể kia đổ rụi xuống sàn, mặt úp sấp, từ một mảng đầu máu tuôn xối ra.

Căng thẳng đến khủng khiếp, ông nhón chân khỏi sàn nhà, chân ông tựa như mắc trong đám sình lầy vô hình. Nhưng rồi ông lấy lại được sức mạnh và nhẩy đại một cái qua được xác chết.

Đến chiếu nghỉ cầu thang ông mới nhìn lại.

Mười hai ngọn đèn vẫn đang rót những ánh sáng chói lòa vào cái tủ két đã bật mở và cái hộp sọ đã vỡ óc của người gác cổng bị đập chết, trong ánh sáng dịu dàng của chiếc đèn cây...

Trời ơi! Baster Brown, con người mà đến cảnh ghê sợ của cái chết bạo tàn cũng gần như không làm động tâm, thì đúng giây phút này lại suýt bật kêu lên vì khiếp đảm: ở cái khoảng không gian giữa chao đèn và mấy cái gối đi văng, đang treo lơ lửng cái ống điếu Polli của ông ở cái tư thế như có một người hút thuốc vô hình cắn chặt vào răng.

Ông nhận ngay ra nó một cách chính xác nhờ cái mỏm đầu của nó bị cháy đen và ba cái dấu thập ác.

Bây giờ ông bỗng khát khao được quay ngược lại chỗ cũ, được nhẩy ngược trở lại qua xác chết máu me và được giằng lấy cái ống điếu yêu quý của mình, cái ống điếu bị mất đi một cách kỳ quặc, thì bỗng nhiên đúng lúc đó từ cái ống điếu bay ra một vòng khói tròn, rồi đến vòng thứ hai, thứ ba, và giờ đây cái ống điếu được hút hết sức, nó tỏa vào không khí một đám sương mù xanh đặc; nó tự hút một mình... trong căn phòng trống vắng đến rợn người.

Và thế là ông Baster Brown cắm đầu cắm cổ chạy, ông lao vào bóng tối và sương mù, ông lạc đường trong bóng đêm mỗi lúc một đặc quánh lại, phải mất suốt ba tiếng đồng hồ ông mới mò về được Clissold Park, về căn phòng lạnh băng của mình.

Trong lúc ông đi vắng một cơn gió mạnh đã mở toang cửa sổ, và bây giờ xung quanh ngọn đèn là một quầng sương mù bao bọc và di động như trong một điệu luân vũ ma quỷ.

Mười năm sau, làm quen với bác sĩ Baster Brown, liệu ai có thể nghĩ được rằng trong cái ngăn kéo chứa đầy những thứ tạp pí lù kia ông lại vẫn còn đang lưu giữ cái thứ vũ khí hùng mạnh nhất và dữ dội nhất mà hồi trước những sinh thể từ thế giới vô hình đã để lại cho mọi người, chiếc gương đen của bác sĩ John Dee?

Dù chúng ta có nói gì đi nữa về chiếc nhẫn của Tot, về những cuốn sách kỳ bí của Salon, về những chiếc ống nghiệm cao cổ của Carpenter, thì chỉ riêng chiếc gương đen cũng đã khiến mọi người phải thoát ra khỏi cái lồng xác thịt thô thiển của mình để hòa vào những đám mây đậm đặc căm thù, yêu đương hay trí tuệ mà bay đi khắp nơi không hề lạc bước, những đám mây mà Đấng trí tuệ tối cao đã dùng để tạo ra các loại ma quỷ và những thần linh bất tử.

Ông Baster Brown đã mua được ở Kemdeltown một phòng nhỏ dùng để khám chữa bệnh. Ở tuổi bên kia dốc núi, người thấy thuốc cấp quận huyện chỉ mơ ước có một căn nhà nhỏ ở một nơi nào đó cạnh một dóng sông có cá hồi tại quê hương Devolshear của ông.

Bây giờ ông thấy hoàn toàn hạnh phúc và yên tĩnh.

Ông béo đẫy ra, để ria mép theo kiểu gall, da mặt bóng nhẫy, bởi lẽ ông đã quen ăn uống ngon lành.

Ông mặc những bộ quần áo kẻ carô của anh em nhà Kerzon, ăn ở nhà hàng Bakki, nơi ông rất thích nhắm món thỏ rừng với thịt lươn rán và rượu mạnh.

Ông cũng tham gia vào hội chơi bài uýt ở quán "Kingfisher" và ông chơi không đến nỗi tồi.

Trong suốt những năm tháng ấy chỉ có ba bốn lần ông phải rút gương đen kỳ diệu khỏi chiếc bao màu đỏ.

Không tò mò và cũng không sợ hãi ông lại cúi mình trước vật kỳ bí câm lặng ấy và ông cũng không hề tỏ ra có ham muốn cầu xin sức mạnh ẩn tiềm trong lòng khối đá đen kia.

Mặc dù thờ ơ như thế nhưng ông không hề quên điều gì, và đôi khi trước đôi mắt vô hình của ký ức ông lại thấy thoáng hiện về hình bóng lạ kỳ của con người hiệp sĩ mang khiên và mặc giáp.

Còn về phần Polli thì có một số sự cố rất đáng quan ngại làm ông không sao quên được.

Đầu tiên là câu chuyện đau buồn của Slamber.

Ở Kemdeltown ông Baster Brown thuê được một trong những căn nhà nhỏ xinh xắn, mà những ông chủ cho thuê thường lấy làm tự hào vào khoảng năm một ngàn tám trăm hai mươi và họ đã giữ được trong từng viên đá hiền lành cũ kỹ của mình khá nhiều những điều ma giáo và lần nào họ cũng thông minh không để bị rơi vào tay những bọn làm ăn hám lợi, những kẻ thướng phá đi những ngôi nhà cũ để dựng thay vào đó những tòa nhà mới cao tầng.

Tầng một là dãy phòng liên thông trần thấp gồm có tiền sảnh để chuẩn bị đón khách, một phòng tiếp khách và một phòng thí nghiệm nhỏ xíu, trong đó chính tay ông Baster Brown đã chế ra gần một tá các loại thuốc cao và thuốc xirô khá là nổi tiếng và được nhiều người ưa dùng.

Trên tầng hai có một phòng khác với những đồ gỗ mới tinh bóng loáng và những thứ đồ kim loại giả theo kiểu dinan, tại đây ông thường nghỉ ngơi thoải mái trong khu nội thất tuyệt vời của mình.

Ông rất ít tiếp khách ở đây, bởi vì mặc dù là một con người cường tráng và luôn luôn thành đạt, nhưng ông vẫn cứ là kẻ cô đơn ẩn dật như xưa.

Trong số rất ít những người bạn mà ông vui lòng mở cổng khu thiên đàng nhỏ bé nơi trần thế của mình có ông Slamber hết sức đáng yêu mà ông đã được làm quen ở "Kingfisher".

Trước đây ông Slamber là giáo viên trung học, sống nghèo khổ và lần hồi kiếm sống bằng nghề sửa bài cho các nhà xuất bản loại xoàng. Ở quán ăn không bao giờ cho phép mình bỏ ra quá hai đồng bạc để ăn bữa tối, còn nếu như ông uống đến đồng tiền thứ ba thì đó là lúc ông Baster Brown trả thay.

Người ta nói rằng khi ăn tối ở nhà ông cũng ít khi từ bỏ những món ăn quen: một quả trứng luộc duy nhất hoặc món kipper chính vì thế ông bác sĩ thường phải mời ông đến để cùng chia sẻ những bữa ăn đầy ắp thức ăn, món thịt gia súc hoặc gia cầm ướp muối lạnh mà bác sĩ đặt một nhà hàng gần đó mang đến tận nhà.

Trong lúc đó chuyện ông Slamber ít có gì nổi bật, nếu như câu chuyện không lái sanng một chủ đề đặc biệt, những phương thức chiếu sáng thời xưa. Ông Slamber thật thà tốt bụng đã trở thành hết sức lãng mạng khi nói đến những ngọn nến, những đĩa đèn hoặc những cây đèn của Karsel. Vì thế, trong con mắt mờ đục của ông giáo về hưu ông Baster Brown gần như trở thành thượng đế vào cái ngày mua được của lão bán hàng tạp hóa ở Triside một chiếc đèn cây thật cao bằng kính to màu xanh có lắp một thấu kính chứa nước đặt trên một đòn tay bằng đồng và tỏa ra một thứ ánh sáng màu xanh mướt mát.

- Tôi cam đoan với ông rằng đó là Kanterpruk! ông Slamber phấn khích kêu lên.

- Kanterpruk?

- Đó là tên của một nghệ nhân hàng thiếc nổi tiếng, ông Slamber tự hào đáp, ông ta sống ở Borough khoảng năm một ngàn bảy trăm chín mươi và đã được vang danh vì tài chế tạo những cây đèn như thế.

Ông Baster Brown chẳng có gì để nói về chuyện ấy, và từ đó cứ mỗi lần ông giáo cũ tới thăm thì cây đèn Kanterpruk lại khiến trái tim nhân hậu, dịu dàng kia vui sướng vì thứ ánh sáng như ánh trăng huyền ảo của nó.

Một lần vào ban đêm, ông Baster Brown bị đánh thức dậy vì những đợt sóng lạ kỳ báo hiệu nguy hiểm.

Đã từ nhiều năm ông không dám ngủ trong phòng tối thui và vẫn để ở đầu giường một ngọn đèn đêm nho nhỏ có cả phao dầu; ánh lửa màu vàng mơ hồ của nó có sức chiến đấu chống lại những đạo quân âm thầm của bóng tối.

Ngọn lửa bé nhỏ ấy bỗng rọi sáng trước mắt ông Baster Brown vừa tỉnh ngủ một hình bóng tan loãng đầy đe dọa trong bóng tối và saÜn sàng tấn công ông; trong những tia sáng của nó loáng lên một hình lưỡi dao lạnh và dài.

Ông Baster Brown nhìn thấy con dao sáng loáng ấy được giơ cao lên một cách hung tợn và từ trong bóng tối có một khuôn mặt bịt băng đen hiện ra như hân hoan đón chờ cơn hấp hối của ông sắp đến.

Ông cảm thấy mình đã chết, nhưng bỗng có một điều khó hiểu xảy ra.

Con dao bỗng rơi xuống, cắm phập vào sàn gỗ, rung lên bần bật, từ bên trong mặt nạ thoát ra một tiếng xì nhỏ, sao tiếng xì là tiếng rên đau đớn và tuyệt vọng rồi cả cái thân hình dữ dội kia đổ vật xuống sàn.

Ông bác sĩ nhảy một bước tới chỗ tên dạ khách, lột chiếc mặt nạ đen, và một giọng hấp hối thều thào cất lên:

- Tha lỗi cho tôi. Tôi muốn lấy Kanterpruk...

Tên cướp tắt thở ngay sau lời thú nhận đáng thương, người ấy không phải ai khác, mà chính là ông Slamber xấu số.

Ông bác sĩ đã gần đoán ra được điều kỳ diệu nào đã gây ra cơn đau tim quật chết ông bạn cũ và cứu sống cuộc đời cho chính ông thì bỗng ông nhìn thấy Polli.

Cái ống điếu treo lơ lửng trong không khí bên trên ngọn đèn đêm đang nhả ra những vòng khói ở ngang chỗ đầu ông có hình ba dấu thập ác. Những vòng khói rất đẹp, đầy đặn và tròn trặn, tựa như chính chúng cũng thấy hài lòng với cái dáng tròn tuyệt vời của mình.

Ông Baster Brown kêu lên một tiếng gằn giọng và đưa tay về phía ông điếu, động tác của ông không được khéo léo khiến ngọn lửa nhỏ bé yếu ớt trong cây đèn đêm tắt ngấm. Khi ông châm lại được thì ống điếu không còn nữa, tuy vậy cả căn phòng vẫn còn đậm mùi thuốc cháy khét lẹt.

Ông phải mất nhiều thời gian để cứu lại thanh danh cho ông Slamber; ông cất dấu đi mặt nạ và con dao của ông bạn rồi kéo xác ông ấy đi cách nhau một trăm bước đến chiếc ghế đá ngoài khuôn viên.

Cô Eddy Bronks có thể đã là xinh đẹp, thậm chí là rất xinh đẹp, nếu như căn bệnh bướu cổ không làm cho đôi mắt màu xanh nhan nhát của cô có vẻ như là hơi dọa nạt người khác một chút.

Ông Baster Brown quen với cô tại nhà người bán hàng thuốc ở Korihill tên là Littelwood, người mà ông hứa chuyển cho cả phòng thí nghiệm và cả những công thức thuốc cao của mình.

Cô Eddy thích nói chuyện tào lao với cả hai người, và như cô thường nói ra không kém phần tự hào, cô là người "chuyện trò chuyên nghiệp".

Trên thực tế cô là hộ lý trong bệnh viện "New Charte".

Ông Baster Brown chưa bao giờ chú ý đặc biệt đến phụ nữ, nhưng hình ảnh cô Eddy Bronks chẳng mấy chốc đã không buông tha ông.

"Lần sau gặp nàng ta sẽ xin cưới nàng làm vợ", nhiều lần ông đã tự nói như vậy.

Lần gặp sau, rồi sau đó là nhiều lần gặp trôi qua, nhưng lời cầu hôn vẫn không sao thoát ra khỏi miệng ông, và mọi câu chuyện đều chỉ qui về việc xem xét các loại thuốc viên nhà Littelwood, các phương thức điều trị bệnh bướu cổ và các trường hợp mắc bệnh đặc biệt mà bác sĩ đã từng gặp trong thực tế.

Một buổi tối mùa thu, ông Baster Brown bắt gặp Littelwood ủ rũ tỳ tay trên quầy thuốc, môi run lên, bàn tay lạnh ngắt.

- Ông biết không, Littelwood rền rĩ, cô Bronks khốn khổ vừa mới ở đây, tâm thần hoảng loạn. Cô ấy mới bị đuổi khỏi bệnh viện sau một cuộc cãi cọ với thượng cấp. Cô ấy bảo rằng cô ấy muốn chết đi cho rồi... Không, không, ông Brown, tôi hiểu những chuyện này... Ông đừng quên rằng bệnh tình của cô ấy có thể dẫn đến thần kinh hỗn loạn. Cô ấy vừa chạy ra phía hồ nước.

Ông Littelwood có một chân tập tễnh nặng nên không thể chạy đuổi theo cô gái tuyệt vọng.

Như điên, ông Baster Brown cắm đầu chạy trên đường phố dài và tối, vừa chạy ông vừa thở dốc, tim đập thình thịch. Ông dừng lại khi thấy trước mặt mình làn nước hồ phẳng lặng dưới ánh trăng.

-Eddy! Eddy! Ông gào lạc giọng.

Và ông thấy cô cúi gập mình qua cái hàng rào ọp ẹp, đầu nghiêng xuống mặt nước tối đen.

- Cô Eddy yêu quý ơi... tôi hết lòng mong muốn...

Chính ở cái nơi không bình thường này, trong cái hoàn cảnh hết sức không bình thường này ông đã tỏ tình với cô và xin đính hôn.

Cô Eddy Bronks đã theo ông về, người phờ phạc và mắt đẫm lệ.

Ông nhóm lửa trong lò sưởi phòng khách, thắp hết mọi đèn, kể cả cây đèn mặt trăng Kanterpruk và với đôi bàn tay lóng ngóng ông đã pha được hai ly rượu kiểu coctail.

- Em thân yêu, ngày mai anh sẽ đi xin giấy phép thành hôn.

Cô không nghe ông nói mà ngửa đầu nhìn lên trần nhà, trong giây lát cái bướu cổ càng khắc họa nét buồn bực sâu sắc trong đôi mắt cô.

- Anh có cái gì thế này, bác sĩ Brown?

Cô vừa thở vừa hỏi.

- Cái gì ấy à?

Cô để rơi mình xuống một chiếc ghế bành sâu lõm bên cạnh lò sưởi.

- Em xin lỗi... em chóng mặt... buồn nôn. Ôi, bác sĩ ơi, anh đừng hút thuốc nữa!

Ông Baster Brown để rơi xuống sàn ly rượu mới pha.

- Nhưng anh có hút đâu, em yêu!

Cô Eddy Bronks đứng bật dậy.

- Kìa kìa, trong góc nhà kia kìa... có người đội mũ sắt... nó trốn... em nhìn thấy chân nó dưới bàn... trời ơi, chân nó như con rắn.

Rồi bỗng cô rít lên:

- Nó ra đây này... nó châm thuốc ở chỗ đèn ấy! Lạy chúa cứu thế!

Cô vùng chạy ra phía cửa; ông Baster Brown muốn giữ cô lại, nhưng cô đã đẩy ông ra với một sức mạnh khủng khiếp.

Ông lảo đảo, mất cân bằng và ngã giúi đầu vào chiếc ghế bành nơi cô vừa ngồi.

Lúc kịp đứng dậy thì ông nghe tiếng cửa ra vào đập mạnh và ông chỉ còn cách lao ra chỗ cửa sổ.

Trong ánh trăng rực rỡ ông nhìn thấy cô gái đang chạy trên đường phố vắng lặng, ông thò đầu ra gọi cô, xin cô quay lại, nhưng bỗng nhiên ông nhìn thấy một bóng đen dữ dội khủng khiếp lướt đuổi theo cô không một tiếng động trên đường phố ngập tràn ánh trăng.

Hôm sau người ta vớt được thi hài cô Eddy Bronks ở hồ nước số hai khu Kemdeltown.

Một năm sau cái chết bi thương ấy ông Baster Brown qua đời. Có một thời gian ông bị bệnh hen và không thể chữa dứt được. Ông Littelwood vẫn thường đến thăm. Ông là người cho chúng tôi biết về những phút cuối cùng của bác sĩ.

Ông ấy hành động rất thiếu lý trí, điều đó làm hại ông người bán thuốc nói: Bạn ông là bác sĩ Ressendl đã kê đơn chỉ định chế độ sinh hoạt và ăn uống, còn ông ta thì lại cứ mãi đi những đâu đâu.

Mưa trút nước và ông trở về như chuột lột.

Tôi mắng cho ông một trận kịch liệt rồi bắt lên giường nằm ngay. Ông điên hay sao mà đi phố bây giờ tôi gắt lên! Không thể hiểu được làm sao trời này lại dám ra đường.

- Tôi vừa thoát được một gánh nặng.

Tôi cặp nhiệt cho ông: gần bốn mươi độ, và tôi hiểu rằng ông đang mê sảng.

Ông bắt đầu lảm nhảm gì đó, đặc biệt là về một cái gương mất bao nhiêu năm tôi mới hiểu được... Trong đó có... cô ấy... cô ấy...

Hai chữ cô ấy ông nhắc lại mỗi lúc một to đến nỗi mấy lần tôi phải lên tiếng bắt ông thôi nói và nằm yên.

Đến gần sáng ông dịu đi, tôi cho rằng ông đã ngủ say, hơn nữa nhiệt độ cũng đã giảm.

Tôi nghĩ, tôi cũng có thể nghỉ một lát, tôi bèn thu mình vào ghế bành và chẳng bao lâu thiếp đi.

Bỗng tôi bừng tỉnh vì ông thét lên.

Ông đã bật ngồi dậy trên giường thở hổn hển, ngực phập phồng như bể lò rèn, và một điều thật là kì lạ tôi chưa từng thấy là ông hút thuốc, quanh người ông là một đám mây thuốc đậm đặc.

- À, đúng nó rồi... đúng nó rồi... bây giờ thì tôi hiểu, tôi hiểu cô ta là ai... Chà, đồ chết tiệt, nó ăn cắp của tôi cái điếu!

Ông đổ vật xuống nằm bất động và không bao giờ tỉnh lại nữa. Nhưng khi đổ xuống ông đã dùng tay làm một cử chỉ lạ lùng, tựa như bắt một cái gì trong không gian. Và đến khi cánh tay rơi xuống thì trong đó có một cái ống điếu dày bằng vỏ bạch dương, trên đầu có khắc ba dấu thập ác.

Người ta không thể nào rút được cái ống điếu ra khỏi tay ông, và có lẽ người ta đã đưa nó theo ông xuống huyệt.

Kết Thúc (END)

Liên Tỏa

Font Size: Tác Giả: Bồ Tùng Linh

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Chàng thư sinh Dương Vô Uý lập nhà học giữa sánh đồng vắng, bên sông Tứ. Ngoài nhà học là một bãi tha ma đầy những nấm mồ vô chủ.

Về đêm, gió lộng vào hàng cây dương vi vu như tiếng nước vỗ vào bờ.

Đêm nọ, chàng thắp đèn đọc sách và cảm thấy buồn vì cảnh cô liêu. Chợt chàng nghe văng vẳng tiếng ngâm thơ bên ngoài.

Tiếng ngâm vừa dứt rồi lại ngâm tiếp, cái giọng tha thiết làm sao.

Cái tiếng ấy nhỏ và êm như tiếng thiếu nữ nên chàng nghi là hồn ma cô nào về trêu ghẹo mình.

Sáng hôm sau, chàng đi quanh nhà quan sát kỹ thì không thấy có dấu chân ai để lại, nhưng lại vớ được một giải lụa màu tím nằm trong đám cỏ gai. Chàng liền đem về treo bên cửa sổ.

Đêm ấy trời vào canh hai, chàng lại nghe tiếng ngâm thơ như hôm qua. Dương tò mò trèo lên ghế nhìn qua cửa sổ, tiếng ngâm thơ chợt ngừng, chàng nghĩ là chắc có ma rồi nhưng lại nảy ra ý muốn gặp mặt.

Đêm sau nữa Dương núp bên tường rào đợi hết canh một, bỗng thấy một thiếu nữ thong thả từ đám cỏ gai đi ra, miệng ngâm nga xem ra còn ảm đạm hơn những đêm trước. Chàng hắng giọng, cô gái chợt biến mất trong đám cỏ gai.

Đêm sau nữa, Dương lại phục sẵn im lặng chờ đón. Đợi nàng bước ra và ngâm vừa dứt hai câu thơ cũ, chàng ngâm tiếp liền hai câu nữa cho trọn bài tứ tuyệt:

Lòng riêng oán hận không ai biết.

Cơn lạnh se lòng bóng nguyệt soi.

Ngâm rồi đợi mãi không thấy gì chàng đành trở vào nhà.

Chưa kịp tắt đèn đi ngủ thì chàng thấy thiếu nữ từ ngoài bước vào, thẹn thùng lên tiếng:

Thiếp bấy lâu không dám ra mặt vì e gặp kẻ phàm phu tục tử, không ngờ chàng là người phong nhã.

Dương vui vẻ mời nàng ngồi rồi ôm choàng lấy, chàng có cảm giác người nàng ẻo lả như bông hoa. Chàng bèn hỏi thăm quê quán thì nàng đáp:

Thiếp ở Lũng Tây, theo cha trôi dạt đến đây. Hai mươi năm trước thiếp mười bảy tuổi và đã chết vì bạo bệnh, xác vẫn chôn ở bãi cỏ gai lạnh lẽo. Hai câu thơ thiếp đọc là tâm sự của một nỗi lòng u uất. Thiếp định làm trọn bài nhưng mới được hai câu thì chàng đã nối theo thành bài, thiếp xin cảm tạ.

Dương ôm nàng một lát thì cảm thấy động tình, bèn đòi chuyện trăng hoa, nàng cự tuyệt:

Thiếp là ma chứ chẳng phải người trần, ăn nằm với chàng là giết chàng đấy. Nhưng thiếp làm sao nỡ hại chàng?

Dương nghe xuôi tai, không đòi hỏi gì nữa, chỉ ôm nàng trong lòng mà đùa giỡn. Chàng nhìn đôi hài thêu rất đẹp của nàng, thấy thiếu một giải lụa buộc bèn hỏi, nàng đáp:

Hôm nọ lúc chạy trốn thiếp đã đánh rơi mất một bên giải lụa.

Dương cười:

Để ta đền cho nàng!

Chàng bước đến cửa sổ, tháo dải lụa hôm trước vớ được đưa cho nàng. Cô gái buộc hài xong, xem thấy cuốn sách chàng đang để trên bàn học, chợt nàng nhìn thấy tập "Liêu xương cung từ" liền ngậm ngùi nói:

Khi xưa lúc còn sống thiếp rất thích đọc cuốn này. Giờ thấy đây thật mơ màng như trong mộng.

Rồi nàng bàn chuyện văn chương, từ đấy Dương mới biết nàng cũng giỏi tài thi phú, thông tuệ uyên thâm. Suốt đêm đó đôi trai gái hàn huyên bên nhau và đã xem như bạn quí.

Từ đó, đêm nào nàng cũng đến và cẩn thận dặn Dương:

Ngày càng bé thiếp vốn rất nhát gan, mong chàng giấu kín chuyện này. Nếu người khác biết chuyện sẽ đàm tiếu, thiếp không chịu nổi đâu.

Rồi hai người đằm thắm bên nhau còn hơn cả vợ chồng thật.

Dương thường nhờ nàng sao chép văn bài sách vở, chữ nàng rồng bay phượng múa, trông rất tươi sáng.

Nàng lại rất yêu thơ, tự đóng chép thành tập một trăm bài để ngâm nga giải sầu.

Nàng bảo chàng mua đàn tì bà, sắm bàn cờ để cùng nhau tiêu khiển hằng đêm. Chỉ đến lúc ánh bình minh vừa ló dạng nàng mới vội mở cửa đi mất.

Sáng nọ, lúc Dương còn say giấc nồng bù lại việc thức ban đêm thì người bạn học Tiết Sinh đến chơi. Tiết ngạc nhiên vì nhà có bàn cờ và đàn tì bà - những thứ mà xưa nay Dương không biết chơi. Tò mò giở chồng sách, thấy toàn nét chữ lạ. Tiết lấy làm ngờ vực, đợi Dương tỉnh dậy để vặn hỏi. Dương luống cuống bảo rằng chỉ là vật đi mượn. Tiết giở tập thơ ra đến dòng lạc khoản: "Ngày... tháng... Liên Toả viết" liền cười nói:

À, bạn dối tôi làm chi? Rõ ràng đây là tên của con gái chứ nào phải của ai?

Dương càng luống cuống hơn, nhưng nhớ lời nàng dặn nên không dám nói thật. Tiết đùa dai bỏ tập thơ vào túi đòi mang đi, Dương hoảng quá kéo lại và đành nói thật.

Tiết yêu cầu được gặp giai nhân. Dương càng chối, Tiết càng ép, cuối cùng bí quá Dương đành nhận lời. Đêm ấy Dương gặp người tình, chàng nói thật ý muốn của Tiết thì nàng giận dỗi:

Thiếp đã dặn kỹ mà chàng còn lộ chuyện!

Dương năn nỉ và bảo rằng vì tình thế bắt buộc nhưng nàng vẫn giận:

Duyên thiếp với chàng đến đây là dứt.

Dương tìm mọi lời để trấn an nhưng nàng vẫn lo lắng lắm:

Để thiếp tạm lánh đi vậy.

Hôm sau Tiết đến gặp mặt. Dương nói là việc không thành. Tiết càng ngờ bạn thoái thác. Chàng đợi chiều đến rồi rủ thêm hai bạn học nữa kéo tới nhà Dương. Họ cố ý bày tiệc tượu và dằng dai không chịu về. Dương bực lắm nhưng không biết nói sao cho phải.

Đêm ấy không có gì, đêm sau họ lại đến nữa. Liên tiếp vài đêm như thế thì Liên Toả xuất hiện. Nghe có tiếng ngâm thơ não nùng bên ngoài mà không thấy người đâu, bạn Dương vốn là người can đảm, anh nhặt hòn đá ném về phía có tiếng ngâm, quát lớn:

Thơ thẩn mà chi, có gan chường mặt ra xem thử!

Tiếng ngâm liền ngưng bặt.

Dương giận lắm, tìm cách nói lời dè bỉu để đuổi các bạn về.

Khi còn lại một mình, Dương nhớ Liên Toả điên cuồng, chỉ mong nàng đến nhưng vẫn biệt tăm.

Hai hôm sau nàng mới trở lại, khóc lóc:

Bạn chàng hung dữ quá nên thiếp sợ lắm.

Dương chưa kịp xin lỗi nàng đã quay ra:

Thiếp đã nói duyên ta đã dứt. Xin vĩnh biệt.

Dương đưa tay níu áo nhưng nàng đã biến mất.

Hơn cả tháng vẫn không thấy nàng quay lại. Dương đâm ra nhớ nhung hết sức, quên ăn biếng ngủ và chẳng mấy chốc gầy xộc cả người. Chàng nghĩ hết cách mà không thể nào gặp được người yêu.

Một đêm buồn quá, Dương mua rượu uống một mình, đang tan nát cõi lòng thì Dương bỗng thấy nàng xuất hiện. Chàng mừng cuống, vội míu vào:

Em tha thứ cho anh rồi, phải không?

Liên Toả im lặng ngồi khóc tấm tức. Dương cứ vặn hỏi mãi, nàng ngập ngừng một lúc rồi lên tiếng:

Trước thiếp giận chàng mà ra đi, nay gặp chuyện nguy cấp nên đến cầu xin chàng, nhưng hổ thẹn lắm, chẳng biết có nên nói ra không?

Dương an ủi và nằn nì mãi nàng mới nói tiếp:

Có một thằng hung bạo từ xa đến. Hắn nài ép em làm hầu thiếp. Nhưng dù sao em cũng là con nhà có học, đời nào chịu ép thân làm lẽ cho kẻ thất phu, nhưng cô thế một mình, em lấy gì mà chống cự? Nếu chàng coi em như bạn, xin chàng lo liệu giùm.

Dương nghe chuyện lấy làm giận, chàng muốn giết ngay kẻ vũ phu, nhưng sợ người với ma làm sao mà can thiệp được. Nhưng nàng bảo:

Đêm mai chàng cứ ngủ sớm. Thiếp sẽ nhờ chàng trong mộng, thế là sẽ giúp được thiếp.

Chiều hôm sau, Dương uống liền mấy chén rượu để ngà say rồi lên giường đánh một giấc thật sớm.

Dương thấy nàng đến và đưa một con dao rồi dẫn chàng đi. Hai người vào một ngôi nhà, còn đang chuyện vãn thì ngoài cửa có tiếng đập rầm rầm. Nàng tái mặt:

Kẻ thất phu đến đấy!

Dương chạy ra cửa, nhìn thấy một người mũ đỏ áo xanh, mặt mày râu ria trông rất dữ tợn. Dương quát đuổi hắn đi, hắn cũng chửi lại, lời lẽ tỏ ra xấc xược. Dương giận lắm xông tới định đánh, hắn liền vác mấy cục đá to ném vào người Dương. Dương bị trúng thương, cánh tay tê liệt không cầm nổi dao nữa.

Giữa lúc ấy, chàng nhìn thấy từ xa một người bạn đang cầm sẵn cung tên. Chàng kêu bạn, Vương Sinh chạy đến giương cung bắn liền mấy phát trúng kẻ hung ác. Hắn ngã xuống chết liền.

Dương mừng rỡ đón Vương Sinh vào.

Vương hỏi vì sao đến đây. Dương kể sự thật. Vương mừng vì nghĩ rằng đã có dịp chuộc lỗi ném đá Liên Toả trước đây.

Trên bàn có con dao nhỏ rất đẹp với cái bao nạm ngọc, rút ra lưỡi dao sáng như nước. Vương tấm tắc khen và ngắm nghía ra chiều rất thích. Sau đó Vương xin cáo từ.

Dương cũng từ giã người yêu, ra về. Vừa đến cổng nhà thì chàng vấp ngã. Khi tỉnh dậy chàng nghe tiếng gà hàng xóm đang gáy vang chào ngày mới.

Sáng ra Dương xem kỹ chỗ tay đau thì thấy sưng đỏ.

Trưa ấy Vương Sinh tạt qua kể cho Dương nghe chuyện giấc mộng. Dương hỏi:

Anh bắn mấy mũi tên nhớ không?

Vương hỏi sao Dương biết chuyện bắn tên. Dương liền đưa cánh tay bị thương và nói rõ sự việc.

Vương ấm ức tiếc thầm vì chỉ thấy mặt Liên Toả trong giấc mộng chớ chưa rõ mặt thực ra sao. Nhớ lại cũng có chút công cứu nàng, Vương nài bạn cho gặp Liên Toả.

Đêm ấy, nàng đến cám ơn Dương.

Dương nói công lao ấy là nhờ Vương Sinh, nhân dịp chàng xin nàng cho Vương diện kiến. Nàng bảo:

Người đã cứu thiếp, lẽ nào dám từ chối. Nhưng chỉ sợ tính anh chàng gan góc quá, ngại rằng thiếp khiếp đảm thôi.

Rồi nàng nói tiếp:

Xem ra Vương Sinh rất thích con dao của em. Đó là kỷ vật của cha em cho, em mang theo xuống đáy mồ. Nay tặng lại cho Vương Sinh để anh ấy thấy dao như gặp được người rồi.

Vương được con dao quý mừng lắm, không nói đến chuyện xin gặp nữa.

Từ đó, tình nàng với Dương càng quyến luyến hơn.

Một đêm, nàng thẹn thùa nói với Dương:

Lâu nay được chàng yêu quý, được cho thụ hoạt tinh của chàng, và nhờ ăn cơm của người sống nên mớ xương tàn dưới mộ có thể sống dậy được rồi. Nếu có chút tinh huyết của người sống nữa thì em sẽ hồi sinh.

Dương mừng rỡ vuốt ve nàng:

Ta có tiếc gì, nếu nàng muốn?

Nàng bảo:

Thiếp đã tiếp thụ tinh huyết của chàng thì chàng phải ốm liệt hai mươi ngày mới tỉnh. Chẳng biết chàng dám ưng không?

Rồi hai người quấn quít nhau như vợ chồng mới. Gần sáng nàng mặc áo ra đi:

Thiếp cần vài giọt máu tươi của chàng, chàng ưng chứ?

Dương vớ con dao, liền cắt cánh tay mình cho chảy máu. Nàng nằm ngửa trên giường bảo Dương nhỏ máu ấy vào giữa rốn. Sau đó nàng nói:

Thiếp sẽ không đến nữa. Chàng nhớ kỹ, một trăm ngày sau đến mộ thiếp, hễ thấy con chim xanh hót trên ngọn cây thì chàng đào huyệt lên ngay nhé.

Dương gật đầu.

Bước ra cửa nàng còn dặn:

Chàng nhớ kỹ, đừng sớm và cũng đừng muộn hơn, kẻo hỏng việc.

Rồi cô gái ra đi.

Sau đó Dương quả nhiên lâm bệnh nặng, bụng cứ trương phình lên tưởng gần chết. Thầy thuốc cho uống thuốc xổ, sau đó chàng túa ra chất gì đen quánh từ trong bụng, và hai mươi ngày sau chàng khỏi bệnh.

Đợi đúng một trăm ngày chàng dẫn gia nhân ra mộ nàng mang theo cuốc xẻng.

Trời sắp tối mới thấy một con chim xanh đáp xuống ngọn cây líu lo hót vang. Dương hô lớn:

Đến giờ đào mộ.

Gia nhân xúm lại ra sức đào. Quan tài đã mục nát, từ từ lộ ra xác cô gái còn tươi không khác gì người sống. Sờ vào xác vẫn còn ấm, chàng liền bọc lấy khiêng về đặt nằm trên giường.

Khi đêm xuống nàng bắt đầu thở được nhè nhẹ. Dương đổ sữa cho nàng uống. Nửa đêm ấy nàng tỉnh dậy.

Hai người lại sống bên nhau, tình nghĩa mặn nồng. Lúc âu yếm nhau, nàng thường mơ màng bảo Dương:

Hai mươi năm trôi qua, dưới nấm mồ ấy, thiếp thấy giống như một giấc mộng dài.

Kết Thúc (END)

Đứa Bé Ăn Mày

Font Size: Tác Giả: Thái Bá Tân

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Nó là thằng bé ăn mày tội nghiệp. Hơn thế, lại mù. Chiếc quần bẩn khó xác định màu rách bươm cả hai ống cho thấy không chỉ người mà lũ chó cũng chẳng thích nó. Hai ống tay áo đen bóng vì luôn được dùng làm khăn lau mũi. Ðầu nó đội chiếc mũ cói méo mó hơi hất về phía sau, để lộ khuôn mặt đói ăn gầy đét, xạm nắng, và nhất là hai hố mắt trắng dã càng làm tăng thêm vẻ thảm hại đáng sợ. Có thể nó chủ ý phô ra thế để người ta thương hại mà cho chút gì chăng? Vì mù, nó phải chống gậy, chiếc gậy trúc già bằng ngón tay cái, trơn nhẵn và cũng gầy đanh như nó. Sau khi thận trọng gõ hai lần xuống đất, nó mới đi một bước. Nó lặng lẽ đi giữa trời nắng chang chang, chiếc bị, cũng bằng cói, đeo sát nách, và hình như còn lép kẹp hơn bụng nó.

Không ai biết nó từ đâu tới. Thứ nhất vì đây là lần đầu tiên nó xuất hiện ở làng Thượng. Thứ hai, đơn giản vì những loại như nó không đáng được người ta quan tâm. Mà rồi lúc ấy đang giữa trưa nắng gắt chẳng có ai gần đấy ngoài một thằng bé khác trạc tuổi nó, cũng nhếch nhác, nhưng vì không ăn mày nên to khỏe hơn và cũng lành lặn hơn. Thằng này đang chổng đít cố búng viên bi thủy tinh vào một lỗ nhỏ trước mặt dưới bóng cây đa cụt đầu làng. Nó đang cáu vì búng mãi không vào đúng lỗ. Ðã thế, viên bi bị búng mạnh quá lăn đi đâu mất. Nó thất vọng định đứng dậy bỏ về nhà ăn trưa thì bất chợt nhìn thấy thằng ăn mày khốn khổ. Nó thấy có cái gì đấy vừa buồn cười vừa khó chịu ở vẻ ngoài và cách dò đường hai cộc một bước của thằng kia. Ðôi mắt trắng dã làm nó, vốn bực mình vì mất viên bi, càng thêm khó chịu. Cứ như viên bi của nó đã bay vào nằm gọn trong hố mắt thằng kia. Một ý nghĩ chợt lóe lên. Nhẹ và rón rén như con mèo săn chuột, nó bước lại gần thằng ăn mày, bất chợt giật lấy chiếc gậy trúc rồi chạy nhanh về phía gốc đa.

Thằng bé ăn mày kêu ới ới , hai cánh tay khẳng khiu bất lực huơ huơ phía trước. Ai trả lại chiếc gậy cho tôi đi! Trả lại đi, đừng đùa thế! Trả lại đi!... Giọng nó yếu lắm, chắc vì đói. Chờ mãi không thấy ai trả lại gậy, nó đành dò dẫm đi tiếp, điệu bộ trông thật buồn cười, cứ như nó đang lấy thăng bằng đi trên dây thép trong rạp xiếc. Bây giờ thay cho gõ gậy, nó thận trọng uớm thử chân hai lần trước mỗi bước đi. Bằng cách ấy nó có thể không vấp ngã, nhưng khốn nỗi điều quan trọng đối với nó là hướng đi chứ không phải đi như thế nào. Mà hướng nó đang đi tới hiện giờ là chiếc giếng thơi sâu rộng đầy nước của làng Thượng.

Ngồi dưới gốc đa, thằng chơi bi thích thú quan sát điều này.

Ở các làng khác, giếng nước ăn luôn có bờ gạch bao quanh, là điều dễ hiểu, thế mà bao đời nay giếng làng Thượng không hề có cái bờ gạch bao quanh ấy, lại sát đường đi, nên nhiều lần trẻ con và cả trâu bò rơi xuống đó, nhưng luôn vào lúc đông người nên được vớt lên kịp. Khốn khổ thằng bé ăn mày. Nó cũng bị sẩy chân ngã xuống giếng và đã chết, vì bờ giếng lát gạch trơn chẳng có gì để bấu víu, vì nó quá yếu do đói ăn, vì xung quanh không có ai để vớt nó lên. Còn thằng bé chơi bi lếu láo kia thì thấy vậy liền hoảng sợ bỏ chạy về nhà...

Chuyện này xảy ra đã mấy chục năm nay, nhưng dân làng Thượng vẫn nhớ. Mà không chỉ có nhớ.

Phải ba ngày sau xác thằng bé mới nổi lên. Người ta chôn nó ở nghĩa địa Ðồng Chùa như chôn nhiều người vô gia cư chết đói trước đấy. Khác chăng, mộ của nó nhỏ hơn một chút, vì nó là con nít. Có điều đáng ngạc nhiên là không hiểu sao cái mộ bé nhỏ ấy của nó cứ mỗi ngày một lớn thêm, đến mức lấn át cả mộ cụ tổ họ Phạm thế lực nhất trong làng. Thường người ta vui với những trường hợp như thế. Phát mả đồng nghĩa với phát tài, phát lộc, nhưng đây lại là mả một thằng bé ăn mày, vậy thì phát gì? Phát nghề ăn mày à? Các vị chức sắc trong làng không giấu nổi vẻ lo lắng mơ hồ về một tai hoạ nào đó đang treo lơ lửng trên đầu. Cuối cùng cái tai họa ấy đã đến.

Sau nhiều năm liền mất mùa vì thiên tai, nhiều người làng Thượng xách bị đi ăn xin xứ người. Lúc đầu người ta không chú ý mấy đến hiện tượng này, vì xưa nay ăn mày chẳng hiếm. Nhưng khi số lượng gia tăng một cách đáng lo ngại, người ta bắt đầu nghĩ đến cái mả ăn mày phát kia. Sao các làng lân cận đói ăn chẳng kém mà chẳng mấy người làm cái nghề nhục nhã ấy? Vậy chắc đây là đòn báo oán của thằng bé nọ. Ðể giảm bớt tai hoạ, người ta xây mộ xi măng cho nó, bây giờ đã được gọi là Ông. Mấy năm sau xây miếu hẳn hoi, có bàn thờ và được hương khói cẩn thận đúng dịp, đúng quy cách. Dần dần, khi người ta thấy nghề ăn xin cũng không đến nỗi nào cả về thu nhập lẫn quan niệm xã hội (người làng Thượng bỏ nhà đi ăn xin có giấy chứng nhận đàng hoàng của xã, kèm theo chiếc dấu tròn đỏ chói). Tự lúc nào không biết, thằng bé ăn mày tội nghiệp nghiễm nhiên trở thành thành hoàng của làng Thượng, thay chỗ một vị tướng lừng danh thời Lê Mạc. Dần dần trong dân gian, tên làng cũng được gọi khác - Làng Ăn Mày!

*

Chính tôi là thằng bé chơi bi láo lếu ấy đấy, ông ạ , ông M. thở dài nói.

Ông là hàng xóm của tôi. Hàng xóm với nghĩa nhà cạnh nhau chứ giữa nghề viết lách của tôi và nghề buôn sắt vụn phát đạt của ông chẳng có gì liên quan. Ông quý tôi vì tôi nhiều chữ. Tôi chơi với ông vì ông nhiều tiền mà không hợm mình, và cả vì ông đồng ý để chúng tôi luân phiên nhau trả tiền bia ở quán Gió Mới bên cầu Long Biên. Xưa nay ông nổi tiếng hảo tâm, một nhà từ thiện đích thực. Có lẽ ông đã cúng tới hàng chục, nếu không muốn nói hàng trăm triệu đồng cho mục đích cao cả ấy, mà đối tượng bao giờ cũng là những đứa trẻ mù. Trường Nguyễn Ðình Chiểu coi ông như ân nhân. Một số trường khiếm thị ở các địa phương khác cũng vậy.

Tất nhiên lúc ấy tôi chẳng dám cho ai biết tôi đã làm thằng bé ăn mày phải chết, - ông nói tiếp sau khi uống một hơi hết sạch vại bia. - Tôi hối hận và sợ lắm. May mà tháng sau bố tôi, một cán bộ cỡ ở Tổng cục Thống kê, đưa cả nhà lên sống hẳn ở Hà Nội. Từ bấy đến nay tôi chẳng một lần dám trở lại làng Thượng. Vì sao thì ông biết. Tuy vậy, tôi biết hết mọi chuyện xảy ra ở làng. Tôi hỏi thật nhé: Ông có mê tín không?

Không , tôi đáp.

Ông có tin vào báo ân, báo oán không?

Tôi không tin. Sao ông hỏi vậy? Ông tin à?

Ông M. trầm ngâm một chốc rồi nói, vẻ bần thần:

Cả có mà cả không. Nhưng tôi cứ thấy nó thế nào ấy, nhất là thời gian gần đây. Có lẽ tôi già rồi đâm lẩn thẩn. Nói ông đừng cười, đêm nào nằm ngủ tôi cũng nghe tiếng gõ chiếc gậy trúc của thằng bé kia và tiếng kêu yếu ớt Ai đó trả lại gậy cho tôi, đừng đùa. Tình hình có vẻ như ngày càng tồi tệ. Tôi chẳng biết phải tính sao đây. Ông khuyên tôi làm gì bây giờ?

Tôi ngồi im vì chẳng biết trả lời thế nào.

Hay ông đi khám bác sĩ thần kinh, - cuối cùng tôi lên tiếng. - Thời này khối người căng thẳng như ông. Tôi cũng chẳng hơn gì. Còn chuyện thằng bé thì chỉ do ông hay nghĩ đến nó mà tưởng tượng ra thôi , tôi an ủi, mặc dù tự biết ở đây có cái gì đó nghiêm trọng và đáng sợ hơn nhiều.

Mấy hôm sau, trước lời năn nỉ của ông M., và cũng vì tò mò, tôi nhận lời cùng đi với ông về làng Thượng, Làng Ăn Mày.

Ông M. thắp hương, lầm rầm khấn vái hồi lâu trước bàn thờ thành hoàng làng mình. Trước đấy tôi cũng thắp một nén, gọi là tưởng nhớ vong linh thằng bé xấu số. Tôi tế nhị bỏ ra ngoài để ông được tự nhiên sám hối, hi vọng sẽ thanh thản hơn đôi chút. Bằng đức tính nhân từ vốn có và những việc làm từ thiện xưa nay, ông xứng đáng được hưởng một tuổi già thanh thản.

Tối hôm ấy chúng tôi ngủ lại nhà một người bà con xa của ông M.. Nhà ngói hẳn hoi, có tivi, có đài, anh con trai chủ nhà còn có cả xe máy, xe Nhật chứ chẳng phải Tàu. Từ lâu dân làng Thượng không còn xách bị đi ăn xin, nhưng người ta vẫn thành kính thờ cúng ông tổ ăn mày của làng. Ngôi mộ của ông đã phát càng phát thêm, nay gần giống một cái gò nhỏ, trẻ con không dám cho trâu bò dẫm lên.

Nửa đêm, tôi đang ngủ say sau một ngày đi đường vất vả thì bị ông M. túm tay áo giật mạnh. Ông hoảng hốt thì thầm:

Ông nhìn kìa. Ngài đấy!

Ngài nào? tôi ngạc nhiên hỏi vì chẳng thấy gì.

Thần hoàng làng Thượng! Ðứa bé ăn mày...

Ông M. không nói hết câu, liền sụp xuống đất, vái lạy liên hồi:

Con xin ngài tha tội. Dạ, con xin ngài tha tội. Con trót dại... Con chỉ đùa... Lúc ấy con còn nhỏ... Con xin ngài tha tội! Con xin ngài...

Ông làm sao thế? - tôi định đỡ ông dậy nhưng ông không chịu. - Tôi có thấy gì đâu! Ông vái lạy ai đấy?

Quả tôi không thấy gì thật. Nhưng ông M. vẫn tiếp tục cầu khẩn van xin. Dẫu chẳng tin ma quỷ và không thuộc loại nhát gan, tôi vẫn thấy ớn lạnh khắp người.

Lát sau, ông M. im lặng ngồi rũ xuống sàn nhà, thở hổn hển:

Ngài đi rồi. Ði mà chẳng nói gì cả. Nghĩa là ngài không tha thứ cho tôi. Trời ơi, tôi phải làm gì bây giờ?...

Lúc này tôi mới lọ mọ lại gần chiếc công tắc điện để bật đèn. Ông M. mặt cắt không còn hột máu. Ông ngồi yên trong tư thế ấy rất lâu, cuối cùng, như để xác minh về sự hiện diện có thật của ngài , ông quay sang tôi, chìa ra một viên bi thủy tinh bóng loáng dưới ánh đèn.

Ngài để lại đấy!

*

Sau đó có việc, tôi đi công tác xa ba tháng. Lúc về thì được tin ông M. đã chết. Người ta kể rằng ông hóa điên, đi đâu cũng ngửa tay xin ăn như thằng ăn mày. Bị con cháu nhốt trong nhà và cả ở bệnh viện tâm thần, gặp ai ông cũng xin. Có người cho hòn đá, ông rối rít cảm ơn, xúc động đến rơi nước mắt.

Một hôm, ông khôn khéo trốn khỏi bệnh viện. Ðến tối thì có người thấy ông nằm chết trong chiếc ao nhỏ cạnh Cầu Chui Gia Lâm. Vì ao hầu như không có nước, chỉ toàn bùn, nên ông không chìm. Ấy thế mà ông chết. Một điều lạ nữa là lúc chết ông đeo chiếc bị cói sát nách, tay giữ chặt chiếc gậy trúc già trơn bóng, những thứ trước đấy chưa ai nhìn thấy bao giờ.

Một người nhân đức nhường ấy mà phải chết thế thì thật tội nghiệp , ông trưởng dân phố nơi ông M. sống bùi ngùi nói khi người ta liệm ông vào quan tài.

Kết Thúc (END) Chuyện Cũ

Font Size: Tác Giả: Nguyễn Ngọc Ngạn Người Mỹ Niệm Chú

Font Size: Tác Giả: ATOANMT

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Trước hết, các bạn có biết là 2 chân của chúng ta KHÔNG BAO GIỜ DÀI BẰNG NHAU KHÔNG? Nếu bạn ngồi dựa vào tường, hoặc ghế có lưng dựa thẳng, rồi duỗi 2 chân ra, sao cho chân và thân tạo thành 90 độ. (hãy nhờ ai đó dùng bàn tay nâng 2 gót chân của mình lên) Bạn hỏi họ xem hai gót chân có bằng nhau không? Bạn sẽ được trả lời là...so-le, cái dài, cái ngắn!

Nãm 1970, tôi có dịp du học ở Mỹ, và đến Salt Lake City thuộc Bang Utah. Một hôm tôi mượn con ngựa của 1 anh Mỹ dân địa-phương, và định cỡi chạy 1 vòng nhỏ chơi, nhưng không ngờ con ngựa trở chứng, nó phi nước đại, thẳng vào rừng, có những đoạn lên đồi, trên lớp lá khô, phía duới là lá mục nên con ngựa cũng trợt lên trợt xuống, làm tôi phát hoảng, nhưng vẫn cố đeo dính nó, vì sợ nó chạy mất, phải bồi thường! Ðến khi lên đỉnh của 1 cái đồi nhỏ, có một căn nhà rất lớn. Sau này tôi mới biết đó là căn Nhà Nguyện của Ðạo Mormon, Ðây cũng như Ðạo Tin-Lành, tách ra từ Ðạo Thiên-Chúạ. Chỉ có chút khác biệt là họ không có nhà Thờ, không Thờ hình-tượng của Ðức Chúa Giê-Su, mà họ chỉ có Nhà Nguyện, và cây Thập Tự Giá....Con ngựa dừng lại trước sân Nhà Nguyện, và thản-nhiên đứng ăn những cành lá của 1 loại cây lạ trước sân. Tôi bèn vội vàng phóng xuống và cột con ngựa vào luôn cây đó.

Có lẽ tiếng vó ngựa đã làm người trong nhà nghe tiếng, nên họ chạy ra, toàn là Mỹ Trắng, khoảng 30 người, và cỡ từ 15 cho ðến 50 tuổị Họ rất ngạc-nhiên khi thấy tôi, hỏi tôi là người nước nàỏ tôi chỉ đáp chung chung là ngườị."Du Học-Sinh"... Nhưng họ rất thân-thiện và sốt-sắng mời tôi vào nhà Nguyện, mời ăn uống, đồng-thời họ cũng trình-bày sơ về Ðạo, cũng như căn nhà Nguyện của họ. Họ nói cho tôi biết về 2 cái chân...so le của tôi!, coi như chênh-lệch khoảng 1,5cm!. tôi nghe chưa biết phải kiểm- chứng ra sao, thì may quá, cô con gái của chủ Ngựa chạy đi kiếm tôi cũng vừa mò đến trước sân. Tôi vội vàng kéo cô ta vàọ (Cô ta là người Mỹ gốc Ðức, theo Thiên-Chúa Giáo, và cũng là lần đầu tiên mới lên đến đồi này), Tôi nói cô ngồi trên ghế, cởi giày duỗi chân ra và...đúng vậy đó các bạn!, chân của cô ta cũng so-le!. Lúc ấy, nhóm người đạo Mormon mới nói là nếu tôi tin, họ sẽ đọc phép cầu Thiên-Chúa ban ơn cho 2 chân của cô bạn tôi, và tôi dài bằng nhau!. Tôi đề-nghị là để chân cô ta trên lòng bàn tay của tôi cho tôi coi trong khi họ cầu-nguyện, sau đó sẽ đến lượt cô bạn của tôi cầm chân của tôi !. Họ đồng ý và khoảng 10 người đứng sắp lại nắm tay nhau thành 1 vòng tròn, cô bạn tôi ngồi chính giữa trên 1 cái ghế có lưng dựa, tôi ngồi dưới đất và xoè bàn tay của mình, để 2 gót chân của cô bạn lên. Trước mắt tôi là 2 gót chân cái dài, cái ngắn!.

Nhóm người Mỹ bắt đầu đọc lời cầu-nguyện Thiên Chúa, dĩ-nhiên bằng tiếng Anh...Nhưng khi họ đọc được 1 chút thì bỗng nhiên cái tiếng Anh đó biến ra tiếng khác, không phải là tiếng Pháp (Tôi cũng có học Pháp Văn hồi nhỏ), cũng không phải tiếng Ðức (tôi biết chút tiếng Ðức vì cô bồ của tôi lúc đó là người Ðức!)... Thứ tiếng lạ lùng, nó gần như tiếng trộn lẫn của Tiếng Ấn-Ðộ, tiếng Miên, tiếng Lào, và tiếng Tháị! Lúc đó, tôi nhìn thấy 2 cái gót chân của cô bạn từ từ dài ra và bằng nhau ngay trên lòng bàn tay của tôi, cũng là lúc những người Mỹ ngưng đọc chú. Trong lúc họ đọc chú, ai cũng nhắm mắt lạị Tôi bèn hỏi là họ vừa đọc bằng ngôn-ngữ gì vậy, thì được trả lời rằng: "Lúc đầu chúng tôi chỉ cầu-nguyện bằng tiếng Anh, nhưng khi Ơn Trên làm phép lạ thì tự nhiên trong miệng chúng tôi phát ra thứ ngôn-ngữ đó và chính chúng tôi cũng không hiểu là gì cả. Ðó là...Holly Language!"

Ðiểm quan trọng tôi muốn thưa với quý vị là ở chỗ này, đây là TIẾNG ÂM ! Thứ tiếng mà người Mỹ trên 1 ngọn đồi ở Utah năm 1970 đọc lên đúng là thứ tiếng ở VN các Thầy-cao-tay-ấn đều biết dùng (Nhưng không có nhiều Thầy lắm đâu ) và chuyện trò với nhau, gọi là TIẾNG ÂM ! Vì thứ ngôn-ngữ này chỉ Thầy với Thầy nói với nhau, hiểu được nhau mà thôi, không có chữ viết!

Người Mỹ không biết đó là tiếng Âm, họ chỉ cho là tiếng của Trời, và họ phát ra bằng miệng, nhưng họ không hiểu ý-nghĩa của nó...Tôi không muốn làm họ phật lòng nên không dám nói, là vì 3 năm trước đó, khi tôi còn ở VN, 1967, 1 buổi tụ-họp huynh đệ trong Môn Phái tại nhà Thầy tôi, vì anh em gom lại cả 100 người nên tất cả đành quây quần ngồi xếp bằng trước sân nhà Thầy tạo thành 1 vòng tròn rất rộng.

Tôi, hôm đó được ngồi sát Ông Sư-Bá, trong khi các đệ-tử lần lượt ra đứng giữa vòng tròn để báo-cáo về thành quả võ-thuật hoặc phép-tắc đã luyện được cho Sư-Phụ và Sư-Thúc, Sư-Bá coi, bỗng có 1 anh đến sau, từ ngoài chạy chiếc xe đạp vào, thắng 1 cái két rồi phóng xuống đất, cho chiếc xe chạy không lủi vào bụi chuốị Anh ta mặt đỏ gay, làm tôi tưởng anh chàng này say, nhưng khi anh ta tiến gần đến vòng người ngồi, anh ta vội tháo cái đồng hồ ra, liệng vô bụi, rồi chắp tay lại xá lung tung và xổ ra 1 hơi tiếng gì lạ quá.. Thầy tôi (ngồi ở phía bên kia đốiđiện với tôi, rất xa vì quá nhiều người), lên tiếng nói 1 hơi cũng toàn là tiếng kiểu như vậy Tôi chẳng hiểu gì hết, bèn ghé tai hỏi nhỏ Chú Sư-Bá, Chú Sư-Bá liền trả lời tỉnh bơ: "Ðó là Tiếng Âm", đồng thời Sư-Bá cũng khẽ dịch từng câu đối-thoại giữa Thầy tôi và anh chàng mặt đỏ đó. Ðại-khái là Thầy tôi hỏi: "Ngài là aỉ tại sao lại nhập vô người nàỷ" Thì "Ông kia" xin lỗi, xưng danh là Thần...gì đó, nhân người đệ-tử của Thầy tôi luyện phép, hợp duyên nên muốn nhập vào để chào và thamđự cuộc hội của nhóm chúng tôi..." Hai người chuyện trò 1 lúc thì chàng mặt đỏ cung tay vái chào tứ phía rồi...té cái bịch! (Ðó là Thần đã rời xác thân anh ta) nên anh ta liền lồm cồm ngồi dậy, mặt hết đỏ, và ngỡ-ngàng, sượng-sùng chào mọi người, đồng thời hỏi: "Có Huynh nào thấy chiếc xe của tôi và cái đồng-hồ của tôi không?"

Lúc đó, tôi liền bỏ chỗ ngồi mà đi lại chen vô ngồi cạnh Thầy, khi mọi chuyệm êm xuống bình-thường, tôi liền hỏi Thầy là hồi nãy Thầy nói tiếng gì? chuyện gị vậỷ có thể chỉ cho tôi được không? " Thầy tôi cũng từ từ kể lại, đặc biệt là Tên của 1 Vị Thần nhập vào lúc nãy, 1 cái tên rất lạ với tôi nhưng lại đúng y như Chú Sư-Bá đã thầm dịch cho tôi nghe lúc trước! Như vậy, Sư-Bá của tôi và Thầy tôi đều biết dùng Tiếng Âm!. Sau đó tôi đi vòng vòng hỏi hết mọi người, thì mới biết là trên cả 100 người, chỉ có 5 người trong buổi Hội đó biết Tiếng Âm mà thôị

Hôm nay khi viết lại những giòng này, tôi vẫn thích thú khi thấy sự huyền-bí vô-biên của Trời Ðất. Các bạn có ngạc nhiên không khi nghe chuyện Người Mỹ đọc chú? Và các bạn hãy thử kiểm tra đôi chân của mình đi....Hì... Hì...

Kết Thúc (END) ATOANMT

» Nhất Dương Chỉ

» Người Mỹ Niệm Chú

» Chùa Tứ Phương Tăng

» Trâu Tự Tử

» Bùa Nhức Răng

Những Truyện Ma (Kinh Dị) Khác

» Nhà Xác!

» Người về từ đáy mộ

» Ma Quá Giang

» Mối Tình Âm Dương

» Hồn Ma Của Người Bạn Thân

» Hồn Ma Trong Biệt Thự

» Người đẹp đông phương

» Tiếng Cười Trong Đêm Khuya

» Giết Người Lấy Sọ Luyện \"Thiên Linh Cái\"

» Ma Nhập Vì Cầu Cơ

» Người Bạn Ma

» Ma Không Đầu

» Bí Ẩn Lời Nguyền

» Con Ma Áo Trắng

» Ngôi Nhà Ma Ở Đà Lạt

» Ma Nhập

» Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới

» Ngôi nhà ma ám ở San Diego....!

» Bóng Ma Trên Gác Thượng

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Đời người, ai cũng có những kỷ niệm, đau thương hay hạnh phúc. Kỷ niệm đôi khi chỉ thoáng qua, mờ nhạt như áng mây bay ngang bầu trời, để lại chút hình ảnh bâng khuâng. Nhưng cũng có khi hết sức sâu đậm, đến nỗi có thể coi là một biến cố, khả dĩ tạo thành khúc rẽ quan trọng cho cuộc đời. Đó là trường hợp của tôi với câu chuyện xảy ra hơn 20 năm về trước mà giờ này ngồi ghi lại, tôi vẫn thấy hiển hiện như mới hôm qua.

Ngày ấy, miền Nam vừa đổi chủ được 3 năm, tình hình chính trị còn cực kỳ khắt khe. Đã thế, chính sách áp dụng lại không đồng nhất, mỗi phường mỗi tổ là một lãnh chúa, phát huy sáng kiến mà bức chế nhân dân. Tôi ở trại cải tạo, cầm tờ giấy tha vào giữa năm 78, về trình diện Sở Giáo Dục Thành Phố cho đúng thủ tục, dù biết trước sẽ không được thu nhận trở lại nghề cũ. Không có nghề nghiệp biên chế, tôi chỉ được tạm trú 3 tháng tại Sài Gòn để thu xếp đi vùng kinh tế mới. Thời gian này, miền Nam đang lên cơn sốt về phong trào vượt biên tìm tự do. Những người ở vào hoàn cảnh của tôi, bị công an khu vực theo dõi và hăm dọa thường xuyên thì lại càng nôn nóng kiếm đường bỏ trốn. Những người bạn tù chúng tôi ngày ngày đôn đáo gặp nhau, đề tài chính đem ra bàn bạc chỉ xoay quanh một chuyện duy nhất là vượt biên.

Thời gian trôi qúa nhanh, trong nháy mắt đã hết hạn tạm trú, tôi trở thành kẻ sống lậu không hộ khẩu tại thành phố. Giữa lúc lao đao tuyệt vọng, không biết ngày nào bất ngờ bị bắt lại, thì một hôm em trai tôi giới thiệu cho tôi một đầu cầu qúy giá: đó là ông Ân, một người đàn ông trí thức, tuổi vừa 50, tính tình hiền hoà và đứng đắn. Ông là nhân viên lâu đời của cơ quan viện trợ Hoa Kỳ trước 75, đồng thời góp phần chuyển âm Anh-Pháp cho hãng phim Cosunam ở Sài Gòn. Vì làm ăn chung với em tôi từ sau 75, nên ông có lòng tốt rủ em tôi cùng đi với ông trong chuyến vượt biển bán chính thức vốn dành riêng cho người Hoa đang rầm rộ đăng ký lúc đọ Thông cảm hoàn cảnh bấp bênh của tôi,em tôi giới thiệu tôi với ông, để xem ông có giúp gì được tôi chăng? Đi bán chính thức lúc ấy đắt tiền lắm, vì đang là những đợt đầu. Có người nộp tới 12 hoặc 14 cây vàng, vì phải qua nhiều trung gian. Còn gía trung bình thì ít ra cũng phải 10 lượng một người. Tôi mới ở tù ra, làm gì có số tiền khổng lồ ấy!

Bà xã tôi bận con nhỏ -- khi tôi đi tù thì cháu mới hơn 1 tuổi -- cho nên chỉ buôn bán vớ vẩn, đủ nuôi con và tiếp tế cho chồng là giỏi lắm rồi. Số vốn ít ỏi của vợ tôi lại cứ vơi dần sau mấy chuyến đi chui bất thành. Con đường bán chính thức mua vé bằng cả chục lượng vàng, là điều vượt qúa sự kỳ vọng của tôi, trừ khi có một phép lạ! Vậy mà phép lạ dường như đang xảy đến!

Hôm ấy, một buổi tối khoảng đầu tháng 11, gia đình em tôi đưa tôi lại quán bò bảy món Duyên Mai bên Chi Lăng, để gặp ông Ân lần đầu tiên. Tôi lúc này đang trốn chui trốn nhủi vì đã hết hạn nộp hộ khẩu từ lâu, phải xoay đủ mọi thứ giấy tờ lao động để qua mặt công an khu vực, nấn ná lưu lại thành phố được ngày nào hay ngày nấy. Khu vực Công giáo tôi cư ngụ lại hay xảy ra những vụ bắt bớ bí mật, vì những tin đồn về các tổ chức Phục Quốc -- cả thật lẫn giả -- làm liên lụy đến khá nhiều người vô can. Trước năm 75, tôi có dạy một ít giờ tại 2 trường tư thục Công giáo là trung học Quang Minh ở nhà thờ Vinh Sơn đường Trần Quốc Toản, và trung học Saint Thomas trên đường Trương Minh Giảng. Nhà thờ Vinh Sơn là nơi phát khởi vụ nổi dậy chống chính quyền đầu tiên, sau 30 tháng 4 năm 75, và linh mục Nguyễn Quang Minh bị bắt ngay sau đó. Cha Vàng ở trường Saint Thomas cũng đã bị bắt, vì nghe đồn bị vu cáo có giấu vũ khí trong khuôn viên trường học. Khi tôi ở trại cải tạo về, công an có gọi tôi ra và thẩm vấn về quan hệ của tôi với hai vị linh mục này. Có thể đó chỉ là những câu hỏi thủ tục về lý lịch, nhưng cũng làm tôi hết sức lo sợ, bởi xã hội không có luật pháp rõ ràng. Một khi công an nghi ngờ, thì sớm muộn gì cũng vào tù. Bởi vậy, tôi càng nôn nóng muốn trốn đi.

Tối hôm ấy, gặp ông Ân ở nhà hàng, tôi bàng hoàng xúc động khi ông cho biết ông sẵn lòng đóng tiền cho vợ chồng tôi đi cùng chuyến với ông và em tôi. Nghĩa là ông cho tôi vay 20 lượng vàng, qua Mỹ đi làm trả lại. Vợ chồng tôi chỉ cần góp 5 lượng cho đứa con mà thôi! Tôi như người đi trên mây, buồn ngủ gặp chiếu manh, không ngờ đời mình có lúc gặp qúi nhân dễ dàng như thế này! Dĩ nhiên, qua trung gian em trai tôi, ông Ân mới dám tin là tôi sẽ trả ông sau khi đến Hoa Kỳ. Nhưng dù sao đi nữa, việc ông giúp một người xa lạ như tôi, trong hoàn cảnh này, phải coi là một phép lạ mà tôi không mường tượng trước được, nhất là ở thời kỳ gạo châu củi quế năm 78. Bà Ân ngồi cạnh chồng chỉ cười hiền hoà không có ý kiến gị Lúc đó bà 39 tuổi, thua chồng hơn 10 tuổi. Sáu đứa con, đứa nào cũng xinh xắn và ngoan hiền. Sau đó, tôi còn được biết thêm. Ông Ân cho tới 18 người vay tiền đi, tổng cộng là gần 200 lượng vàng!

Những ngày hồi hộp trôi qua rất chậm, tôi nôn nóng chỉ sợ chuyện bất trắc xẩy ra trước khi lên đường. Tôi vẫn hăng hái tham gia công tác thủy lợi tại địa phương, hoặc tự nguyện dạy lớp bổ túc văn hóa ban đêm trong tổ dân phố, để tránh sự chú ý của công an khu vực. Song song với những việc đó, tôi âm thầm mua giấy tờ, lấy tên giả, học nói dăm câu tiếng Hoa, và cuối cùng ra đi vào một ngày cuối năm khi sóng biển đang gầm thét dữ dội ngoài khơi.

Khi những chiếc ghe nhỏ đưa người ra thuyền lớn ở Kiến Hòa, thì một chuyện bất ngờ xảy ra: công an cùng với chủ ghe đọc danh sách lên tầu, và quyết định bỏ lại 17 người đã đóng tiền, trong đó có toàn bộ gia đình em trai tôi gồm 4 người. Em trai tôi là người giới thiệu tôi đi, vậy mà phút chót lại bị Ở lại! Tôi lên tầu, hết sức hoang mang, ngờ ngợ linh cảm trước là sẽ có chuyện chẳng lành trên cuộc hành trình đầy sóng gió sắp tới. Tầu đi bán chính thức chỉ được một lợi thế là không sợ bị bắt ở bến hẹn, nhưng luôn luôn chở qúa trọng tải, có chuyến vừa ra tới cửa biển đã chìm. Chiếc thuyền gỗ tôi đi nom rất mong manh, mà chủ tầu và công an chất lên tới hơn 300 người, cố nhét càng nhiều càng tốt để thu vàng tối đa. Họ gạch tên bỏ lại 17 người, để thay vào bằng những hành khách khác bằng lòng nộp nhiều vàng hơn. Đây là loại tầu đánh cá có hầm chứa nước đá để ướp cá, bây giờ được dọn sạch để đưa người vượt biển. Hơn 100 người đàn ông chúng tôi bị dồn xuống hầm, cấm không được leo lên, và chỉ có mỗi cái cửa vuông ở giữa tầu để ngày ngày bên trên ném thức ăn xuống. Đàn bà con nít thì được ngồi ở tầng trên cùng với thân nhân của chủ tầu và tài công. Có nghĩa là từ lúc bước chân xuống tầu, tôi không được liên lạc với vợ con nữa. Tôi không biết, trong số hơn 100 người đàn ông ngồi dưới hầm tầu, có bao nhiêu người Việt; chỉ nghe tiếng chuyện vãn chung quanh toàn là tiếng Hoa. Ông Ân với 3 cậu con trai tuổi từ 14 tới 18, ngồi dưới hầm bên cạnh tôi. Vợ Ông cùng cô con gái đầu lòng 19 tuổi, đứa áp út 13 và đứa con út 3 tuổi ở trên boong cùng với vợ con tôi. Vì là người Việt, không dám tranh cãi với đại đa số người Hoa, chúng tôi bị dồn vào cuối hầm tầu, ngồi chịu trận tại chỗ, nước lúc nào cũng ngập từ thắt lưng trở xuống, và có khi lên tới ngực. Thức ăn cũng ít khi đến lượt mình, vì những người ngồi gần cửa lấy hết, lâu lâu mới quẳng vô phía chúng tôi cái bánh tét hay ổ bánh mì đã cứng như thanh củi. Tuy vậy, ai cũng tự an ủi là cuộc hành trình sẽ không lâu, cố gắng chịu đựng vài ngày là tới bến, tha hồ thong dong.

Sang đến ngày thứ tư, rồi thứ năm, tất cả đều mệt mỏi vì con thuyền nhỏ bị sóng nhồi liên tục. Nước biển rỉ vào hầm tầu mỗi lúc một nhiều hơn, mà chẳng ai buồn múc từng thùng đổ ra ngoài như hai hôm đầu. Chỗ tôi ngồi càng ngày càng thê thảm hơn. Nước ngập tới ngực, mà rác rến lại nổi lềnh bềnh chung quanh, Lá bánh chưng bánh tét, vỏ quít, vỏ bưởi cùng các thứ linh tinh không tên, trôi vật vờ, chẳng ai thèm vớt mà đem quăng xuống biển. Vì quá chật chội, di chuyển rất khó khăn, nên ai cũng ngồi lì tại chỗ, đứng lên không nổi, đi tiểu luôn chỗ mình ngồi cho tiện. Trong hầm tầu, chúng tôi mất hết ý niệm thời gian, không ngày hay đêm, cũng chẳng biết tầu đang chạy hay đứng tại chỗ. Đến ngày thứ năm, vì nóng bức qúa, có người ngộp thở ngất xỉu dưới hầm, tài công mới cho khoét một cái lỗ vuông mỗi bề hơn một gang tay ngay trên đầu tôi, nghĩa là phía dưới tầu, để lấy không khí từ trên lùa xuống cho hơn 100 người phía dưới. Vị ân nhân của tôi, ông Ân và các con, lúc đầu còn nói chuyện với tôi, sau mệt qúa, ai cũng nhắm mắt dựa vào nhau mà sống cho qua cuộc hành trình dài lê thê.

Bước sang ngày thứ bảy, buổi sáng tinh mơ, chắc chưa đến 6 giờ, tôi đang thiu thiu ngủ, thì nghe có tiếng gọi nhỏ:

- Anh Ngạn Anh Ngạn ơi!

Tôi giật mình ngơ ngác ngước nhìn lên, thì thấy bà xã tôi thò mặt qua cái lô thông hơi để tìm tôi. Tôi không nhận ra mặt vợ tôi vì trời còn tối thẳm, nhưng nhờ giọng nói tôi biết vợ tôi cần gặp tôi có chuyện khẩn cấp. Tôi hồi hộp tìm cách đứng dậy. Tàu chật ních, lại thêm đã gần một tuần ngồi một chỗ, hai chân tê cứng dưới lớp nước mặn, tôi loanh quanh khá lâu mới đứng lên được. May cho tôi là quanh tôi mọi người còn đang ngủ cả. Chứ nếu họ thức thì tôi khó lòng di chuyển, vì họ sẽ lôi lại và dí đầu tôi bắt ngồi xuống. Bà xã tôi giục nho nhỏ:

- Lên đi anh! Lên đại đi! Chui lỗ thông hơi này lên đi!

Tôi lo lắng nhìn quanh. Lúc ấy tôi còn gầy yếu lắm. Thời gian ở trại cải tạo bị sốt rét nặng, kéo dài 21 ngày, bước đi phải nhờ người vịn, bạn bè cùng tổ cứ tưởng tôi là sắp phải đem tôi đi chôn trên đồi tranh ở Bù Gia Mập. Giờ này vượt biển, tôi vẫn chưa lại sức, mới chỉ lên cân được chút ít. Nhà tôi lại bảo:

- Đêm qua bão lớn. Cái áo của con bị rách tung rồi bay mất. Nó phải cởi trần cả đêm lạnh tím cả người. Anh lên một chút đi!

Nghe nhắc đến đứa con hơn 4 tuổi, tôi vùng đứng lên, bước đại qua vào người đang ngồi ngủ, rồi chui liền lên, cái lỗ nhỏ, phải lách người khó khăn, làm trầy sứt cả hai vai, nhưng tôi không có cảm giác gì lúc đó. Từ hôm lên tầu, tôi vẫn mặc cái jacket nylon của Không Quân ngày trước và chiếc quần tây màu vàng đục. Lúc ngồi, dĩ nhiên phải cởi hết nút quần, kéo fermeture xuống cho thoải mái. Bâygiờ đứng dậy, vội vã dùng hai tay đu lên khỏi hầm tầu, có người nào đó đã nắm ống quần tôi kéo lại, làm tôi chỉ còn mỗi cái quần đùi khi lên tới tầng trên. Trời mưa không nặng hạt lắm, nhưng gió biển thổi phần phật trong không gian mờ tối. Tôi cúi xuống ôm đứa con đang run cằm cặp. Nhà tôi ưu tư bảo: - Tầu sắp đắm mất, anh ạ!

Tôi đảo mắt nhìn quanh sau sáu ngày bảy đêm chui trong bóng tối dưới hầm. Chỉ một phút sau, tôi nhận ra ngay là mình sắp chết! Vợ tôi nói đúng. Là bởi vì, khi ở dưới hầm, tôi cứ tưởng tầu đang chạy. Hóa ra tầu bị bỏ neo đậu tại chỗ suốt cả đêm rồi, mặc cho gió mưa và sóng dữ cuối năm vùi dập. Tuy cùng ở trên tầu, nhưng những tin tức bên trên không được thông báo cho người dưới hầm biết, sợ gây cảnh náo loạn, dẵm đạp lên nhau. Bởi vậy, tôi hoàn toàn không biết gì cả, cho đến bây giờ leo lên mới thấy kinh hoàng, Tôi nhìn lại phía buồng máy. Một cảnh tượng hãi hùng và thê lương: không có tài công, không có người phụ máy. Chiếc tầu không người lái cứ bập bềnh nghiêng ngửa theo từng đợt sóng khổng lồ đưa vào, đẩy ra, phó mặc sinh mạng mấy trăm người cho đại dương. Với sức sóng như thế này, tôi biết chắc tầu sắp vơ. Đàn bà con nít, người đứng người ngồi lố nhố, quên cả cái ướt lạnh, nhớn nhác hỏi nhau, không biết phải làm gì trong hoàn cảnh tuyệt vọng này. Bà xã tôi bảo:

- Tài công bỏ tầu từ nửa đêm rồi!

Bấy giờ tôi mới hiểu đầu đuôi câu chuyện. Đêm qua, khi thuyền chúng tôi vào còn cách bờ Mã Lai khoảng nửa cây số, thì có tầu cảnh sát Mã Lai ra đuổi. Rồi họ dựng mấy cây đại liên và đèn pha trên bờ bắn ra xối xa. Mười mấy người tài công cùng với thân nhân chủ ghe đeo phao nhảy xuống bơi vào, nói là để điều đình rồi sẽ ra đưa tầu vô. Nhưng rồi họ đi luôn, không ai trở lại! Người ngoài khơi cứ đợi. Người đã lên bờ thì bỏ mặc. Đàn bà con nít trên boong không ai biết lái tầu. Hơn 100 người ngồi dưới hầm thì tưởng tầu vẫn đang chạy bình thường! Tôi biết mình sắp chết, nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh bảo con tôi: - Con ơi! Đằng nào tầu cũng sắp chìm. Bây giờ con ôm lấy cổ ba, để ba nhảy xuống biển khơi, bơi vào...

Tôi không biết bơi. Mà có biết thì cũng không còn sức, bởi bờ ở qúa xa, tôi cố nhướng mắt nhìn mà chỉ thấy lờ mờ trong mưa. Đứa con trai hơn 4 tuổi, quấn chiếc khăn quanh người ướt đẫm từ đầu xuống chân, run lẩy bẩy nhìn tôi im lặng gật đầu. Dường như nó cũng linh cảm thấy chuyện chẳng lành sắp đến, cho nên chỉ nhìn tôi chia sẻ. Quanh tôi, có vài cái bình nylon đựng nước ngọt đã uống hết, nằm lăn lóc trên sàn. Tôi nắm bàn tay lạnh ngắt của vợ tôi và bảo:

- Em lấy cái bình nylon, ôm vào người rồi nhảy xuống. May ra sóng đánh vào bờ! Thà nhẩy xuống trước, chứ để tầu vỡ thì khó lòng mà sống được, vì cả trăm người sẽ níu chặt lấy nhau và cùng chết hết!

Vợ tôi nhìn tôi bằng ánh mắt ly biệt, đưa tay làm dấu đọc kinh. Tôi và con trai tôi cũng làm dấu Thánh giá và cầu xin Chúa che chở trong cơn nguy khốn. Tôi vừa đưa cho vợ tôi cái bình nylon, chưa kịp nói gì thêm thì một đợt sóng vĩ đại ấp tới, làm chiếc tầu lật ngang, vỡ tung buồng lái ở tầng trên. Tiếng người đồng thanh kêu ru lên, bị tiếng gầm của sóng át đi. Buồng máy, kính cửa sổ, mui tầu, mái gỗ bọc tôn và bao nhiêu thứ ngổn ngang trên tầu đều rụng hết xuống biển, kéo theo qúa nửa hành khách gồm đàn bà và trẻ em.

Tôi té lăn trên sàn tầu trong khối nước mặn khổng lồ vừa ập tới, đôi tay quờ quạng bám víu bất cứ thứ gì để sống còn. Từ giây phút ấy, tôi không còn nhìn lại được vợ tôi lần nào nữa! Đứa con tôi cũng vuột khỏi tay tôi và văng xuống biển. Tôi níu được một sợi giây nào đó trên tầu, nên chỉ bị văng mất đôi mắt kính cứ chưa rơi hẳn xuống nước. Nhưng ngay sau đó, tôi chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp đứng vững thì lớp sóng khổng lồ vừa đẩy vô bờ, lại rút ra mạnh hơn, làm tầu lật ngang một lần nữa ra phía ngoài, và lần này trên boong tầu không còn sót lại một ai. Tất cả đều rụng xuống biển. Những lớp ván, lớp kính và những gì chưa vỡ qua đợt sóng trước, lần này tan tành hết. Nhưng đau đớn hơn cả là chiều tầu chìm dần xuống đáy biển mà hầm tầu lại chưa bể, cho nên hơn 100 người đàn ông ngồi với tôi suốt tuần lễ vừa qua, đều chết ngộp hết trong hầm, trong đó có cả cha con ông Ân, người đã đóng tiền cho gia đình tôi đi!

Tôi rớt xuống biển, cố gắng vùng vẫy theo bản năng sinh tồn, mặc dầu không biết bơi. Trên mặt biển bao la, sóng nhồi khủng khiếp, tôi thấy từng mảng gỗ thật lớn của ván tầu, rồi thùng phuy, va li, nồi niêu, áo quần, thùng gạo và hàng chục thứ đồ lặt vặt khác trôi nổi theo triền sóng, đôi khi lao vào mặt mình. Đàn bà con nít ngụp lên lặn xuống, bán lấy nhau mà cùng chết. Tôi uống no nước, chìm sâu xuống, đụng phải bao nhiêu xác người còn bấu chặt không rời nhau. Tôi nín hơi ngoi lên được một chút để thở, rồi lại bị sóng cuốn đi không định được phương hướng. Là người Công giáo trong lúc lâm chung, tôi cố gắng đọc kinh sám hối để chuẩn bị lìa đời. Đọc kinh, nhưng không cầm trí tập trung được. Tôi uất ức lắm, bởi thấy mình chết tức tưởi ở tuổi 32 sau khi đã kình qua bao nhiêu năm gian khổ. Ngày còn trong quân đội, mấy năm tác chiến, tôi đã kề cận tử thần mà tại sao không chết ngay trên chiến trường cho xong? Tôi nhớ một lần hành quân ở Cái Bè, tôi đứng dưới đường mương bên gốc xoài, VC từ cánh đồng trước mặt bắn đạn pháo trúng ngọn xoài chỗ tôi đứng, miểng văng tung tóe, làm bay mất cây súng Colt tôi đang đeo bên hông và cắt đứt sợi giây ống liên hợp máy truyền tin PRC 25 tôi đang nói chuyện với Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Lúc ấy tôi thấy số mình còn lớn lắm, chỉ bị trầy sát nhẹ Ở bên đùi! Rồi khi ở trại cải tạo Sông Bé, tôi lại bị sốt rét nặng nề đến kiệt sức, tưởng không còn sống nổi tới ngày được tha về. Vậy mà cũng không sao! tôi uất ức tự hỏi tại sao vược biển gần đến nơi thì lại chết? Thế rồi tôi uống no nước, đuối sức không vùng vẫy nổi, đành buông xuôi tay chìm xuống đáy bể, không biết gì nữa!

Khi tôi tỉnh lại trên bờ, thấy mình nằm sấp trên đống xác chết ngổn ngang. Nước ộc từ trong bụng ra giúp tôi hồi sinh. Tôi mơ màng tưởng mình đang nằm chiêm bao.. Đứa con trai 13 tuổi của ông Ân chạy lại lôi tôi dậy và nói:

- Chú Ngạn ơi! Tỉnh dậy! Tỉnh dậy! Đắm tầu, chú Ngạn ơi!

Tôi ngơ ngác nhìn nó, chưa nhận ra ai bởi qúa đuối sức và vì không có mắt kính. Thằng bé lay tôi và nhắc lại:

- Chú Ngạn ơi! Đắm tầu! Ba cháu, chị cháu với 3 người anh của cháu chết hết rồi! Vợ chú với con chú cũng chết cả rồi!

Tôi vùng đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh. Lính Mã Lai đang quây những người sống sót vào gốc dừa. Họ cũng như tôi là những người được sóng đẩy vào bờ và may mắn thoát khỏi tử thần. Nhưng họ không được phép cứu những người bị ngộp nước như tôi. Nếu được cấp cứu, tôi tin chắc trong đám người nằm kia, ít lắm cũng có cả chục người sống dậy. Lính Mã Lai không cho cứu là bởi vì những kẻ xa lạ và bất nhân ấy đang lột quần áo người chết để lấy vàng và dollars giấu trong gấu quần, gấu áo, cổ áo, vạt áo. Moi của xong, họ lôi xác chết tập trung lại một chỗ chở xe mang đi chôn tập thể. Tôi từ gốc dừa bò tới, tìm trong đám 97 cái xác, thấy con trai tôi đã chết hẳn. Tôi bế cháu lên và nhận ra ván tầu hoặc ghềnh đá đã đánh vỡ trán con tôi, còn để lại một vệt dài thật rõ. Còn vợ tôi thì sóng biển đánh trôi đi mất, không tìm được xác!

Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp nhoáng. Ngoài kia, biển vẫn ầm ầm gào thét, chỉ thấy sóng xô chập chùng, không còn dấu tích gì của chiếc thuyền định mệnh. Hôm sau, từ trại tạm cư, chúng tôi được đưa trở lại bãi biển, thả bộ dọc xuống hướng Thái Lan, tìm thêm được một số xác chết nữa, nhưng cũng không thấy vợ tôi. Tổng số 161 người chết, chỉ vào bờ được khoảng 100 cái xác, phần còn lại bị sóng đưa đi mất tích. Có hai nhà sư Mã Lai gốc Hoa đem vải và nhang đến làm lễ cầu siêu trước khi lính Mã Lai đem chôn tập thể.

Trên bãi biển Mã Lai dài thăm thẳm tôi dừng chân, ngồi dưới hàng dừa trông ra đại dương, nao nao mường tượng lại chặng đường đã qua. Nhớ những buổi sáng Chúa Nhật vợ tôi lên thăm ở Khu Tiếp Tân trường Bộ Binh Thủ Đức. Rồi những lần từ thành phố xuống miền Tây chờ tôi ở hậu cứ tiểu đoàn. Khi sinh con đầu lòng, tôi từ đơn vị hành quân, không kịp thay quân phục, vội vã đón xe về thăm ở bảo sanh viện Đức Chính trên đường Cao Thắng. Nhớ hơn nữa là những lần vợ tôi gánh quả nặng trĩu đi tiếp tế cho tôi trong trại cải tạo, băng ngang 17 cây số đường rừng từ thị xã Phước Bình vào Bù Gia Mập. Tất cả đều đã qua đi, chỉ còn lại mặt nước mênh mông xanh thẳm trước mặt, từng cuốn mất bao nhiêu xác người đồng hương trên hành trình tìm tự do!

Vợ tôi mất đi ở tuổi 26, sau những tháng ngày vất vả vì chồng. Lấy tôi khi tôi đã vào quân đội, thường xuyên xa nhà, vợ tôi cũng giống như bao nhiêu người đàn bà khác trong thời khói lửa, chẳng mấy khi được gần chồng. Khi tôi được biệt phái về lại Bộ Giáo Dục, dạy học tại Sài Gòn, đã tưởng vợ chồng có thể sống đời dân sự yên ổn lâu dài, nào ngờ chỉ hơn một năm sau thì mất nước, bắt đầu cuộc sống mới lao đao gấp bội. Đoạn đường trầm luân ấy, có ngờ đâu rút cuộc lại kết thúc bi thảm bằng cái chết trên đại dương cùng với đứa con đầu lòng hơn 4 tuổi!

Tôi tin chắc cái chết của vợ tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của tôi. Nếu nói theo niềm tin thiêng liêng, thì chính vợ tôi đã cứu tôi vào phút chót, trước khi đắm tầu. Bằng chứng là hơn 100 người đàn ông ngồi chung với tôi dưới hầm tầu đều chết cả vì ngộp nước. Em tôi -- người giới thiệu tôi cho ông Ân -- nếu đi cùng tôi chuyến ấy, chắc chắn cũng đã bỏ xác trên đại dương. Nhờ bị bỏ lại, nửa năm sau, em tôi cùng gia đình vượt biển thành công và gặp lại tôi tại Vancouver, Canada vào giữa năm 80. Bà Ân và hai đứa con nhỏ được sóng đánh vào bờ thoát chết, đi định cư ở Texas, tôi vẫn liên lạc cho đến khi trả xong 20 lượng vàng chồng bà cho tôi vay.

Biến cố hãi hùng của chuyến tầu định mệnh làm tôi càng vững tin rằng đời người có sự sắp đặt của định mệnh, hay nói theo đức tin Công giáo, thì đó là sự an bài của Thiên Chúa. Còn đó rồi mất đó! Kiếp người mong manh như chiếc bách giữa dòng, cho nên các cụ ngày xưa thường ví là cuộc phù thế nhân sinh. Vợ con tôi chết trước mặt tôi. Hơn 160 người chết ngay bên cạnh tôi. Mà một kẻ yếu đuối như tôi lại sống sót! Đó phải là quyền năng của Thiên Chúa chưa muốn tôi lìa trần. Lúc ngồi trên tầu, ông Ân thường tâm sự với tôi:

những ngày gần mất nước, gia đình ông đã có thể đi Mỹ dễ dàng, bởi ông làm việc cho cơ quan viện trợ Hoa Kỳ suốt hai mươi năm. Nhưng ông thấy mình tuổi đã lớn, muốn ở lại quê nhà khi đất nước hết chiến chinh, nên ông từ khước quyền lợi di tản mà người Mỹ dành cho ông. Ba năm sau, đất nước qúa lầm than, mà chiến tranh vẫn không dứt. Các con ông chuẩn bị bước vào tuổi nghĩa vụ quân sự phục vụ cuộc xâm lăng Kampuchia, thúc đẩy ông phải ra đi. Năm 75 ông từ chối di tản bằng máy bay. Năm 78 ông phải trốn bằng thuyền, để rồi chính bản thân ông cùng với 4 đứa con lớn đều chết cả!

Có thể do những suy nghĩ về cuộc đời sau chuyến hải hành khủng khiếp mà tôi thoát nạn chỉ trong đường tơ kẽ tóc, tôi bắt đầu có những thay đổi lớn trong tâm tư. Tôi trở nên dễ tính, ít chấp nhất và không nuôi lòng thù ghét với bất cứ ai. Tôi tâm nguyện rằng cuộc đời mình, hễ làm được điều gì cho cộng đồng, cho xã hội, cho tha nhân, tôi đều cố gắng để đền đáp lại phép lạ của Chúa đã cứu tôi trên biển.

Những ngày trống vắng ở trại tị nạn Mã lai chờ đi định cư, tôi suy nghĩ nhiều về nửa thế kỷ trầm luân của đất nước, và nhận ra một điều đơn giản rằng: trong xã hội Việt Nam người đàn bà mới chính là thành phần chịu nhiều gian truân nhất, thời chiến tranh cũng như thời hậu chiến. Cảm thông cái thực tế chua xót ấy, cùng với nỗi nhớ thương người vợ mới mất, tôi bắt đầu viết truyện dài "Những người đàn bà còn ở lại" trong 3 tháng ở trại tạm cư. Cuốn sách đầu tiên ấy, tuy kỹ thuật chưa cao, nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc. Nó là bậc thềm thứ nhất, là nấc thang khởi đầu, để rồi từ đó đến nay tôi đã có được gần 30 tác phẩm xuất bản.

Hai mươi năm đã qua, trên mặt báo chí Việt ngữ, tôi chưa hề viết lại những dòng này để mô tả tỉ mỉ cái chết của vợ tôi với đứa con đầu lòng. Tuy vậy, từ thâm sâu, tôi vẫn tin chắc một điều rằng: chính cái chết của vợ tôi đã mở ra cho tôi một cánh cửa mới tôi chưa hề dự trù trong qúa khứ. Đó là thế giới văn chương mà tôi miệt mài theo đuổi cho đến hôm nay.

Kết Thúc (END) Nguyễn Ngọc Ngạn

» Trong Đó Có Tôi

» Chuyện Cũ

» Bãi Đất Hoang Sau Nhà

» Dòng Mực Cũ

» Đêm Trong Căn Nhà Hoang

» Hồn Về Trong Gió

Những Truyện Ma (Kinh Dị) Khác

» Nhà Xác!

» Người về từ đáy mộ

» Ma Quá Giang

» Mối Tình Âm Dương

» Hồn Ma Của Người Bạn Thân

» Hồn Ma Trong Biệt Thự

» Người đẹp đông phương

» Tiếng Cười Trong Đêm Khuya

» Giết Người Lấy Sọ Luyện \"Thiên Linh Cái\"

» Ma Nhập Vì Cầu Cơ

» Người Bạn Ma

» Ma Không Đầu

» Bí Ẩn Lời Nguyền

» Con Ma Áo Trắng

» Ngôi Nhà Ma Ở Đà Lạt

» Ma Nhập

» Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới

» Ngôi nhà ma ám ở San Diego....!

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: