truyenma

Sự liên lạc giữa Douglas Stone và vị phu nhân trứ danh Sannox đã được nhiều người biết tại các phòng khách thính sang trọng mà nàng là một ngôi sao sáng chói cũng như tại các trường đại học khoa học, nơi mà chàng được kể vào hàng những hội viên lỗi lạc nhất. Do đó người ta nhận thức được lòng thương cảm được khuấy động lên một buổi sáng nọ bởi cái tin là bà phu nhân đã vào nhà tu kín, một cách cương quyết và vĩnh viễn và rằng không bao giờ mọi người sê được gặp lại bà nữa. Khi để làm đậm đà thêm tin này, lại có tin đồn được loan truyền rằng nhà phẫu thuật đại tài, người có những giây thần kinh bằng thép, cũng buổi sáng hôm đó được anh em bồi phòng nhìn thấy đang ngồi ở thành giường miệng mỉm cười vu vơ một cách duyên dáng, hai bàn chân cùng xỏ vào một ống quần với bộ óc mềm nhũn như cháo lòng, thì sự việc tỏ ra khá khích động để làm say mê những người không bao giờ tin rằng cảm tính đã bị chai lì của họ còn có thể xúc động được nữa.

Douglas Stone, giữa thuở hoa niên, đã là một trong những người lỗi lạc nhất ở Anh quốc. Nhưng có thật đúng là chàng đã ở độ hoa niên khi nỗi phiền muộn nhỏ nhặt này xảy ra với chàng? Chàng mới chỉ có ba mươi chín tuổi. Các bạn thân thiết nhất của chàng đoan chắc rằng trong hàng chục nghề có thể chàng cũng sẽ đạt được công danh lừng lẫy giống như trong cái nghề giải phẫu vậy. Chàng sẽ có thể chinh phục được vinh quang trên một chiến địa, đạt được vinh quang nhờ những cuộc thám hiểm liều lĩnh, đạt được vinh quang trên một sân quần vợt, hoặc tạo ra vinh quang trong tư cách một kỹ sư với đá và sắt. Chàng được sinh ra với một phần số ngoại hạng, vì chàng có thể trù định những điều mà không ai dám hoàn thành và hoàn thành những diều mà không một ai dám trù định. Về khoa giải phẫu, chàng không có đối thủ. Sự quân bình về thần kinh của chàng, trí phán đoán của chàng, trực giác của chàng đều là ngoại hạng. Đã rất nhiều lần, trong khi khu trừ cái chết, con dao mổ của chàng đã lướt qua ngay những cội nguồn của sự sống và những người phụ tá của chàng mặt mày cũng trở thành trắng bệch như con bệnh vậy. Ký ức về nghị lực của chàng, về sự táo bạo của chàng, về lòng tự tin mãnh liệt của chàng còn lởn vởn tại phía Nam đường Marylanone và phía Bắc phố Oxford.

Những khuyết điểm của chàng cũng quan trong như đức tính của chàng nhưng lại vô cùng thơ mộng hơn. Những lợi tức khá lớn của chàng (trong tất cả thành phố London chỉ có hai đồng nghiệp kiếm nhiều tiền hơn chàng) đã vẫn rất thấp so với sự xa hoa trong nếp sống của chàng. Tại đáy sâu của bản chất phức tạp cua chàng, có sự lưu thông của một luồng nhục cảm mạnh mẽ mà sự tác động đã ban cho cuộc sống của chàng tất cả giá trị của nó. Các vị thầy học của luồng nhục cảm này tên là mắt, tai, bàn tay, khẩu vị. Số vàng ồ ạt đổ vào nhà chàng đã biến thành một mùi rượu vang lâu năm, thành các chai dầu thơm ngoại quốc hiếm có, thành những chén đĩa mà sự tinh vi của nước men và kiểu dáng là thứ có một không hai ở Âu Châu. Và rồi chợt nảy sinh sự say mê điên rồ, đột ngột phu nhân Sannox. Chỉ mới một lần tương kiến mà hai mắt đã cùng liếc, hai lòng cùng ưa, một tiếng thì thầm... thế là chàng đã như lửa cháy bùng. Nàng là người đàn bà kiều diễm nhất London (theo ý chàng thì đó là người đàn bà duy nhất ở London). Chàng là một trong những người đàn ông đẹp nhất London (với nàng thì không có người dàn ông duy nhất nào ở London). Vì nàng có một sở thích thu thập những kinh nghiệm mới lạ nên nàng đã tỏ ra dễ dãi dối với phần lớn những người đàn ông chạy theo tán tỉnh nàng. Phải chăng đó là nguyên nhân, hay là kết quả? Ngài Sannox, người mới có ba mươi sáu tuổi mà nom như đã ngoài năm mươi tuổi.

Ngài Sannox này là một người trầm lặng, ít nói, xuề xòa. Ông có cặp môi mỏng và những mí mắt nặng. Ông rất thích công việc vườn tược và ông thích ở nhà. Ngày xưa ông đã hoạt động kịch trường, ông đã thuê cả một phòng ở London. Chính ở các sân khấu mà lần đầu tiên ông gặp cô Marion Dorson; ông đã dâng cho nàng tên tuổi ông, chức vụ ông và một phần ba lãnh địa của ông. Từ khi lấy vợ ông đã từ bỏ sở thích ngông cuồng này; ông còn cảm thấy chán ghét sở thích đó. Ngay cả trong các câu lạc bộ tư nhân ông cũng từ chối những tràng vỗ tay hoan nghênh một tài năng không thể chối cãi được. Ông thấy sung sướng đứng giữa những cây hoa lan và hoa cúc của ông, với chiếc cuốc dấy cỏ và chiếc bình tưới nước.

Một vấn đề rất quan trọng là mọi người tự hỏi liệu có phải ông hoàn toàn ngốc nghếch hay ông đã thiếu can đảm một cách đáng thương. Phải chăng ông đã biết lối ăn ở của vợ ông và ông đã tha thứ cho bà ấy? Hay ta coi ông là một anh chàng lẩm cẩm mù quáng? Người ta đã bàn tán nhiều về chuyện đó trong các thính phòng tin tức ở London bên trên những chén trà và trên các khung cửa sổ các câu lạc bộ trong khi hút xì gà. Các ông thì nói về ông ta với một vẻ nghiêm khắc chua chát. Trong bọn họ chỉ có một người là không họa theo và ông ta đứng câm như hến: ông ta đã nhìn thấy ông khuất phục một con ngựa tại trường Đại học và về việc đó ông ta đã giữ một kỷ niệm lâu bền.

Khi Douglas Stone trở thành người sủng ái, người ta không được phép nghi ngờ nữa: Stone không biết tới những trí trá của tính đạo đức giả; những cung cách độc đoán và ngạo mạn của chàng đã bất chấp mọi sự dè dặt, coi thường sự thận trọng. Vụ tai tiếng tự hiện ra. Một hiệp hội văn hóa báo cho người tình nhân đang thỏa mãn đó rằng tên chàng đã bị xóa trong danh sách những vị phó chủ tịch. Lấy danh nghĩa vì danh giá trong nghề nghiệp của chàng, hai người bạn đã uổng công nài nỉ chàng. Chàng đuổi những nhà luân lý ra cửa và chàng đi mua một chiếc vòng tay giá năm mươi đồng ghi-nê để tặng vị hoàng hậu của lòng chàng. Tối nào chàng cũng đến nhà nàng. Mỗi buổi chiều chàng cho nàng mượn xe của chàng. Cả chàng và nàng không ai tỏ ra một mảy may cố gắng để che dấu mối giao du của họ, nhưng một sự cố tầm thường đã làm gián đoạn các liên lạc này.

Vào một buổi tối mùa đông ảm đạm, gió thổi từng cơn: gió gầm gào trong các ống khói, gió đập vào các cánh cửa sổ. Mưa rơi rào rào trong các máng xối. Douglas đã ăn xong bữa tối. Chàng ngồi trong phòng làm việc bên lò sưởi, trên một cái bàn bằng đá khổng tước một ly rượu porto hảo hạng đặt dưới tầm tay của chàng; chàng nâng ly rượu lên trước ánh sáng của ngọn đèn và thưởng thức với tư cách một người sành sỏi những váng li ti bập bềnh trong ly rượu vang đỏ ối của chàng. Trong ánh sáng rực rỡ, ngọn lửa đã chiếu sáng khuôn mặt được cạo nhẵn nhụi, táo bạo của chàng. Chàng mỉm cười. Thật ra chàng đã đoạt được cái quyền hài lòng với mình: cưỡng lại ý kiến của 6 bạn đồng nghiệp, chàng vừa mới thành công trong một cuộc giải phẫu mà cuộc giải phẫu này chỉ mới có hai tiền lệ trên thế giới và kết quả đã vượt quá những kỳ vọng. Không một ai ở London có sự táo bạo để trù định và sự khéo léo để hoàn thành một thành tích oai hùng như vậy.

Nhưng chàng đã hứa với phu nhân Sannox là tới thăm bà và đã tám giờ rưỡi rồi. Lúc chàng đang vươn tay về phía cái chuông để gọi xe thì chàng nghe thấy tiếng trầm đục của thanh sắt chặn ngang ở cửa ra vào. Một lát sau có tiếng chân kéo lê ở phòng ngoài, một cách cửa được đóng lại.

- Có một bệnh nhân của ngài trong phòng mạch! - Viên quản gia loan báo.

- Ông ta tới khám bệnh cho chính ông ta à?

- Thưa ngài không. Tôi nghĩ rằng ông ta muốn mời ngài đi vào thành phố.

- Muộn quá rồi! - Douglas Stone kêu lên một cách bực bội. - Tôi không đi.

- Đây là danh thiếp của ông ta, thưa ngài.

Viên quản gia đưa trình tấm danh thiếp đặt trên cái khay bằng vàng mà bà vợ ông Thủ tướng đã biếu ông thầy giáo của bà.

- Hamin Ali Smock... Hừ! Đây là một người Thổ Nhĩ Kỳ, tôi đoán vậy.

- Thưa ngài vâng. Nom ông ta có vẻ từ xa tới. Ông ta có vẻ lo lắng lắm.

- Tặc, tặc! Tôi có cái hẹn. Tôi phải đi. Nhưng trước khi tôi đi tôi sẽ gặp ông ta. Pim, hãy đưa ông ta vào đây.

Thế là viên quản gia đi ra kiếm một người đàn ông nhỏ thó và già yếu. Người này đi vào chỗ Douglas Stone với cái đầu cúi về phía trước và hai mắt nhấp nháy như kiểu những người cận thị thường đi. Ông ta đội cái khăn mút-sơ-lin trắng có sọc đỏ; tay kia là một cái túi nhỏ bằng da linh.

- Chào ông! - Douglas Stone lên tiếng, khi viên quản gia đã thép cửa lại. - Ông nói tiếng Anh được chứ, tôi nghĩ thế.

- Thưa ông vâng. Tôi quê ở Trung Đông, nhưng tôi nói tiếng Anh một cách thong thả được.

- Có phải ông muốn mời tôi đi vào thành phố không?

- Thưa ông vâng. Tôi rất mong ông tới xem cho bà vợ tôi.

- Tôi sẽ có thể thăm bà ấy vào sáng mai. Tối nay tôi có một cuộc hẹn.

Câu trả lời của người Thổ Nhĩ Kỳ thật là bất ngờ. Ông ta kéo sợi giây thắt miệng túi da linh và ông ta đổ ra trên bàn một đống vàng.

- Đây là một trăm bảng Anh, - ông ta giải thích. - Tôi xin đoan chắc với ông rằng công việc sẽ không làm ông mất quá một tiếng đồng hồ. Ở ngoài của tôi đã có sẵn một chiếc xe đang đợi chúng ta.

Douglas Stone nhìn đồng hồ của chàng. Nếu chàng nhận lời, chàng cũng sẽ tới nhà phu nhân Sannox không quá trễ (chàng đã từng tới thăm bà ta vào một giờ còn bất tiện hơn nữa). Và số tiền thù lao này thật đã cao một cách đặc biệt; mới đây các chủ nợ đã quấy rầy chàng đôi chút. Chàng có nên bỏ qua một dịp may như thế không? Chàng không có quyền bỏ qua một dịp may như vậy.

- Bệnh gì vậy?

- Ôi, một chuyện rất buồn! Đây là một chuyện rất buồn! Có lẽ ông không nghe nói tới những con dao găm của người Anmhate?

- Chưa bao giờ.

- Ôi, đó là những con dao găm của người Đông Phương rất cổ xưa và có một hình thù đặc biệt. Cái chuôi của nó giống như cái mà các ông gọi là cái bàn đạp. Tôi là một người buôn những đồ trang trí vặt, ông hiểu chứ? Và vì công việc nên tôi tới nước Anh, nhưng tuần sau tôi trở về Smoch. Tôi có mang theo nhiều món hàng kỳ lạ và nay thì không còn món nào cả; nhưng khốn khổ thay tôi lại giữ lại một trong những con dao găm đó.

- Xin ông nhớ cho rằng tôi đang có một cái hẹn. - Nhà giải phẫu cắt ngang, không giấu giếm thái độ nóng vội. - Xin ông làm ơn giới hạn cho các chi tiết cần thiết.

- Những điều tôi nói với ông đều là thiết yếu cả: ông sẽ phán đoán các điều đó. Hôm nay vợ tôi bị xỉu đi trong phòng nơi mà tôi để các món hàng của tôi và khi té xuống bà ấy bị con dao găm đáng nguyền rủa này của người Anmohate cứa đứt môi dưới.

- Tôi hiểu rồi, - Douglas Stone vừa nói vừa đứng dậy. - Ý ông muốn tôi khâu lại vết thương chứ gì.

- Ồ, không phải! Còn tệ hơn thế nữa.

- Vậy là cái gì?

- Những con dao găm này có tẩm thuốc độc.

- Tẩm thuốc độc ư?

- Vâng. Và không có người nào trên đời này, dù ở Đông phương hay ở Tây phương, có thể xác định tính chất của thuốc độc, cũng không thể chỉ ra một thứ thuốc chống độc. Nhưng tôi biết các hậu quả của thuốc độc đó, vì cha tôi đã làm nghề buôn bán trước tôi và những khí giới có tẩm thuốc độc này đã làm cho chúng tôi rất khổ sở.

- Những triệu chứng của chúng ra sao?

- Một giấc ngủ say, rồi sau ba mươi tiếng đồng hồ là chết.

- Và ông nói rằng không có phương thuốc chữa. Vậy thì tại sao ông lại trả tôi số tiền thù lao lớn như vậy?

- Những gì là một thứ thuốc chống độc không thể làm được thì lưỡi dao mổ sẽ có thể làm được.

- Làm cách nào?

- Thuốc độc chỉ thấm vào cơ thể một cách thong thả. Trong nhiều giờ đồng hồ nó còn đọng lại nơi vết thương.

- Và bằng cách rửa chỗ vết thương...

- Cách đó không công hiệu. Thuốc độc này rất tinh vi và rất tàn bạo.

- Có lẽ nên cắt bỏ chỗ đau đi chăng?

- Đúng đó phải cắt bỏ. Nếu vết thương ở ngón tay, phải cắt ngón tay. Đó vẫn là điều cha tôi đã nói. Nhưng xin ông nghĩ tới chỗ bị vết thương, xin ông nghĩ tới đó là vợ tôi... Thật là khủng khiếp!

Tình cảm vốn rất dễ chai lì đi ở một người đã quen thuộc với nhiều trường hợp đau đớn. Douglas Stone thấy rằng sự việc không phải là chuyện thường. Chàng đã gạt qua những lời phản đối yếu ớt của người chồng, coi như chúng không phải lúc đưa ra.

- Hình như sự thật là phải làm điều đó hoặc thôi chẳng làm gì cả! - Chàng nói một cách cộc lốc. - Thà chịu mất môi còn hơn là mất đời sống.

- Vâng ông nói đúng! Rút lại, đó là định mệnh: ta phải đương đầu với định mệnh. Tôi có một cỗ xe. Xin ông tới với tôi và xin ông giải phẫu cho.

Douglas Stone lấy từ một ngăn kéo ra một hộp dao mổ và chàng xếp nó vào với một cuốn băng để buộc vết thương và một miếng vải ép, bỏ vào túi của chàng. Nếu chàng muốn tới nhà Phu nhân Sannox cho đúng giờ chàng không còn một phút nào để mất đi nữa.

- Tôi đã sẵn sàng, - chàng vừa nói vừa mặc áo khoác ngoài vào. - Ông có vui lòng uống một ly porto trước khi ra ngoài không khí giá lạnh này chăng?

Người khách lùi lại một bước và giơ một bàn tay lên để phản đối.

- Ông quên rằng tôi là người Hồi giáo và là môn đồ trung thành của đấng tiên tri à! - ông ta trả lời. - Nhưng xin ông nói cho tôi biết cái chai xanh mà ông bỏ vào trong túi của ông là chai gì vậy?

- Thuốc mê Chloroforme đó.

- A, cả thứ đó cũng bị cấm đối với chúng tôi. Chloroforme chứa chất rượu. Không bao giờ chúng tôi uống rượu.

- Thế nào? Ông sẽ chấp nhận việc vợ ông chịu một cuộc giải phẫu mà không được gây mê à?

- Hỡi ôi! Nàng sẽ không còn cảm giác gì cả, cái linh hồn thân yêu khốn hhổ ấy. Giấc ngủ đã đè nặng lên nàng, thuốc độc bắt đầu tác động. Và rồi tôi đã cho nàng một chút thuốc phiện Smock của chúng tôi. Thưa ông, xin ông tới cho, một giờ đã trôi qua kể từ lúc nàng gặp tai nạn.

Khi họ lặng lẽ đi vào bóng tối ngoài phố, những hạt mưa quất vào mặt họ. Tại phòng bên ngoài đèn đã tắt ngủm, dù rằng nó đã được treo trên cánh tay của một cột trụ hình người bằng cẩm thạch. Pim, viên quản gia phải tựa cả hai vai vào để đóng cánh cửa nặng nề lại. Gió càng thổi mạnh dữ dội. Hai người lần mò bước tới chỗ ánh sáng vàng yếu ớt chỉ cho họ thấy chiếc xe. Sau đó chưa đầy một phút, họ ngồi xe đi tới nơi phải đến.

- Có xa không? - Douglas Stone hỏi.

- Ồ, không xa! Chúng tôi ở một chỗ nhỏ bé rất yên tĩnh sau đường Euston.

Nhà giải phẫu ấn vào rét-so của cái đồng hồ có chuông báo hiệu và chàng lắng nghe những tiếng kêu nhỏ dùng để cho chàng biết giờ. Chín giờ mười lăm phút. Chàng tính các khoảng đường, thì giờ mà chàng sẽ phải có cho sự mổ xẻ của chàng. Có thể là chàng sẽ tới nhà Sannox phu nhân lúc mười giờ. Qua những tấm kính phủ đầy hơi nước chàng nhìn thấy những trụ đèn rối rắm nhảy múa trên đường đi của chàng và đâu đó là ánh sáng mạnh hơn của một mặt trước cửa hàng hay một cửa kính. Mưa rơi thình thình trên mui xe, các bánh xe làm tung tóe bùn và đất sét. Trước mặt chàng chiếc khăn trắng của người bạn đường lấp lánh một cách yếu ớt trong bóng tối. Nhà giải phẫu lục soát trong các túi áo của chàng và chuẩn bị kim khâu, móc gài, kẹp. Chàng bắt đầu cáu kỉnh. Trên sàn xe hai chân chàng đập thình thịch một cách mất kiên nhẫn.

Chiếc xe đi chậm lại và dừng hẳn. Douglas Stone bước xuống ngay tức thì, ông nhà buôn người Smock theo chân chàng.

- Đợi tôi nhé!

Ông ra lệnh cho người đánh xe. Họ đứng trước một căn nhà xập xệ trong một phố bẩn thỉu. Nhà giải phẫu biết rõ thành phố London của chàng trên đầu ngón tay. Chàng cố nhìn xuyên qua bóng tối, nhưng không nhìn thấy vật gì cho phép phỏng nhận ra phương hướng; không có cửa tiệm, không có người di dạo, không có gì khác ngoài hai dãy nhà buồn thảm, ngoài hai hàng lối đi lát đá ướt sũng và bóng nhoáng, ngoài hai tia nước từ các máng xối nhỏ giọt xuống các tấm lưới của những lỗ cống. Cái cửa mà họ ngừng lại phía trước có một màu không thể đặt tên được Một ánh sáng còm cõi lọt qua khung cửa sổ nhỏ đặt trên cánh cửa lớn soi sáng phần lớn là bụi rậm và sự bẩn thỉu che phủ cái cửa sổ nhỏ đó. Ở trên cao, phía sau những cửa sổ của phòng ngủ, có ánh sáng của một ngọn đèn vàng. Người lái buôn đập cửa một cách mạnh mẽ. Khi ông ta quay mặt về mạn ánh sáng, Douglas Stone nhận thấy ông ta có những nét căng thảng vì lo âu. Người ta kéo một cái chốt cửa; một người đàn bà có tuổi tay cầm một cây nến hiện ra trong khung cửa; bà ta che ngọn lửa bằng những ngón tay sù sì.

- Mọi việc đều yên lành cả chứ? -Người lái buôn hổn hển nói.

- Bà vẫn ở trong tình trạng như lúc ông để bà nằm đó, thưa ông.

- Bà không nói gì à?

- Không, bà ngủ rất say.

Người lái buôn đóng cánh cửa ra vào; Douglas Stone tiến bước vào trong hành lang chật hẹp và không ít ngạc nhiên về những gì chàng quan sát chung quanh. Trên mặt đất không có vải sơn, cũng không có thảm đay. Không có mắc áo trên tường. Ngược lại mạng nhện hàng tràng nặng trĩu và từng lớp bụi bám đầy ở khắp mọi nơi mà chàng nhìn tới. Khi leo lên một cầu thang hình xoáy tròn, bà lão già đi trước Douglas Stone bước theo bà ta, với người lái buôn già theo bén gót chàng. Tiếng bước chân của họ vang lên một cách ảm đạm trên những bực thang không có lấy một mảnh thảm che phủ. Phòng ngủ ở tầng lầu hai, ít nhất ở đó cũng có đồ vật. Sàn gác bừa bãi những rương nhỏ Thổ Nhĩ Kỳ, những chiếc bàn khảm, những áo lưới sắt, những cái ống kỳ dị và những khí giới quái dị. Những đồ vật kỳ quái này nằm chất đống trong các góc nhà. Trên một cái bàn chân quỳ có một ngọn đèn đang cháy. Douglas Stone chộp lấy nó, tìm một lối đi tới cái giường kê ở một góc và trên giường đó một người đàn bà y phục kiểu Thổ Nhĩ Kỳ đang nằm, với khăn che mặt và tấm mạng mỏng. Phần dưới của bộ mặt đó được để hở, nhà giải phẫu nhìn thấy một vết cắt chặt ngoằn ngoèo dọc theo nếp của môi dưới.

- Xin ông vui lòng thứ lỗi cho chiếc khăn che mặt, - người Thổ Nhĩ Kỳ nói. - Ông đã biết các quy luật của chúng tôi về các phụ nữ.

Nhưng nhà giải phẫu không nghĩ tới khăn che mặt. Trước mặt chàng không có người phụ nữ mà là một vụ giải phẫu. Chàng cúi xuống để xem xét cẩn thận vết thương.

- Không có một dấu hiệu nào về sự sưng phù cả, - chàng lẩm bẩm. - Ta có thể hoãn sự mổ cắt cho tới khi các triệu chứng xuất hiện rõ ràng.

Người chồng vặn vẹo hai bàn tay trong một tình trạng dao động điên cuồng.

- Ồ không, thưa ông! Xin ông đùng nói đùa. Ông biết đấy. Đây là một trường hợp chết người. Tôi thì tôi biết! Và tôi đoan chắc với ông rằng một cuộc giải phẫu là tuyệt đối cần thiết. Chỉ có con dao mổ là có thể cứu được bà ấy.

- Tuy nhiên tôi vẫn muốn chờ đợi! - Douglas Stone trả lời.

- Thế là đủ rồi! - Người Thổ Nhĩ Kỳ phản đối một cách giận dữ. - Tôi phải tính từng phút một. Và tôi không muốn ngồi đây và để cho vợ tôi chìm dần vào cái chết. Thưa ông, tôi muốn cám ơn ông đã tới đây; tôi sẽ đi tìm một nhà giải phẫu khác trước khi quá muộn.

Douglas Stone ngần ngừ. Phải trả lại một trăm bảng Anh thật chẳng có gì là dễ chịu. Và nếu chàng từ chối việc cắt mổ thì bắt buộc chàng phải hoàn trả lại số tiền thù lao. Ngoài ra nếu người Thổ Nhĩ Kỳ nói đúng và nếu bà vợ ông ta chết thì chàng sẽ có thể bị truy tố trước một vị quan tòa và tên tuổi của chàng sẽ bị tai tiếng thế nào! Chàng hỏi:

- Ông đã có kinh niệm bản thân về thứ thuốc độc này chưa?

- Có.

- Và ông xác nhận với tôi rằng một cuộc giải phẫu là cần thiết phải không?

- Tôi xin thề về điều này với tất cả những gì thiêng liêng nhất.

- Mặt của bà vợ ông sẽ bị hủy hoại một cách tội nghiệp.

- Tôi nghĩ rằng miệng bà ấy sẽ không còn được ngon lành lắm để hôn...

Douglas Stone giận dữ quay lại nhìn kẻ đối thoại với mình. Ý kiến này làm chàng bực bội. Nhưng chàng nghĩ rằng người Thổ Nhĩ Kỳ có những lối suy nghĩ và phát biểu riêng của họ. Và giờ này không phải là giờ để cãi nhau. Douglas Stone lấy một con dao mổ từ trong cái hộp ra, chàng mở con dao ra và thử lưỡi dao vào ngón tay trỏ của chàng. Chàng nhấc cái đèn lại gần giường. Từ kẽ hở của khăn che mặt hai con mắt đen láy đang nhìn chàng chằm chằm. Chàng chỉ phân biệt được những lòng đen của cặp mắt và mãi mới nhận ra được con ngươi.

- Ông đã cho bà ấy uống một liều thuốc phiến rất mạnh.

- Vâng, bà ấy đã uống một liều mạnh!

Chàng ngắm nghía một lúe cặp mắt đen này đang nhìn thẳng vào mắt chàng. Chúng lờ đờ không có tia sáng; tuy nhiên cái nhìn của chàng làm nảy ra một tia sáng nhỏ chao đảo và cặp môi rung động. Chàng nói:

- Bà ấy không hoàn toàn mất hết tri giác.

- Làm việc cắt xẻo khi bà ấy không cảm biết gì cả chẳng tốt hơn à?

Nhà giải phẫu cũng có một ý nghĩa như vậy nên chàng dùng một cái kẹp chặt cái môi bị thương. Với hai nhát dao mổ thần tốc chàng cắt xẻo một miếng thịt lớn hình chữ V. Người đàn bà chồm lên thốt ra một tiếng thét rùng rợn. Bà giật miếng mải che mặt ra. Đó là một khuôn mặt chàng quen biết. Mặc dù làn môi trên bị vêu lên và đống bọt dãi lẫn máu đỏ ngầu ở dưới, đúng, đó là một bộ mặt mà chàng quen biết. Bà ta giữ nguyên bàn tay đặt lên chỗ đau và hét lên hoài. Douglas Stone ngồi chỗ cuối giường với cái kẹp và con dao mổ của chàng. Căn phòng quay cuồng xung quanh chàng. Chàng cảm thấy phía sau tai một cái gì như tiếng quần áo bị xé rách. Một người dự khán chắc sẽ nói rằng giữa nàng và chàng thì chàng là người bị tái nhợt hơn. Như là trong một giấc mộng, hoặc như là đang dự một màn kịch, chàng chợt thấy mái tóc và bộ râu của người Thổ Nhĩ Kỳ đặt trên bàn và ngài Sannox đứng tựa vào tường, tay ôm bụng và cười. Ông ta cười không thành tiếng. Những tiếng la hét yếu dần, rồi ngừng hẳn. Lúc này thì bộ mặt Douglas Stone không nhúc nhích; ngài Sannox còn cười sằng sặc trong cổ họng.

- Thật ra cuộc cắt xẻo nhỏ nhặt này rất cần thiết cho Marion (tên bà Sannox); - cuối cùng ông ta nói. - Không phải về mặt thể xác, nhưng về mặt tinh thần, ông hiểu chứ? Về mặt tinh thần!...

Douglas Stone cúi mình về phía trước và tay mân mê cái mép của tấm khăn trải giường. Con dao mổ tuột khỏi bàn tay chàng, nó rơi keng một tiếng lớn trên nền nhà.

- Đã từ lâu rồi tôi có ý định nêu một tấm gương nhỏ, - ngài Sannox nói một cách ngọt ngào. - Mảnh giấy của ông hôm thứ tư đã đưa lầm người nhận và tôi đang giữ nó trong ví đây. Để thi hành ý định này tôi cũng phải đôi chút cực nhọc... Nói về vết thương: tôi đã gây ra vết thương đó với nhà nữ hiệp sĩ của tôi. Không có gì nguy hiểm cả, như ông đã thấy...

Ông ta ném một cái nhìn bén nhọn vào người bạn vẫn ngồi yên lặng của ông, rồi ông ta nạp đạn khẩu súng lục nhỏ mà ông có trong túi áo ngoài của ông. Nhưng Douglas Stone đang nhai tấm khăn trải giường.

- Tóm lại ông đã trung thành với buổi hẹn! - Ngài Sannox lẩm bẩm.

Chính câu nói này đã làm bật thành tiếng cười của Douglas Stone. Chàng đi ra với một tiếng cười vang dội, không chấn dứt được. Ngài Sannox thì không cười nữa. Một thứ kinh hoàng đã làm rắn rỏi và rõ rệt dáng điệu của ông. Ông rón rén đi ra khỏi phòng. Người đàn bà già đợi ở ngoài cửa.

- Hãy săn sóc bà chủ của bà khi bà ấy thức dậy! - Ngài Sannox ra lệnh.

Rồi ông đi ra ngoài phố. Chiếc xe vẫn còn ở đó. Người đánh xe đưa một bàn tay lên ngang mũ của anh ta. Ngài Sannox nói:

- John! Trước hết anh hãy đưa bác sĩ về nhà ông ấy. Ông ấy sẽ cần có người đỡ khi đi xuống cầu thang, tôi nghĩ vậy. Anh nói với viên quản gia của ông ấy rằng ông ấy bị khó chịu trong một cuộc giải phẫu.

- Thưa ngài, vâng.

- Rồi anh sẽ đưa phu nhân Sannox về nhà.

- Còn ngài...

- À, trong một vài tháng địa chỉ của tôi sẽ là Khách sạn Di Roma ở Venise! Hãy bảo họ gửi thư từ theo tôi. Và nói với Steven là thứ hai sau phải tổ chức cuộc triển lãm các hoa cúc đỏ. Hắn sẽ đánh điện cho tôi rõ về kết quả cuộc triển lãm nhé.

Ông John Vansta Smith, hội viên của Hội Hoàng Gia, cư ngụ tại số nhà 147A đường Gower, là người có một nghị lực và một khả năng trí tuệ đáng lẽ có thể đưa ông lên hàng đầu của những người nghiên cứu về khoa học. Nhưng ông lại là nạn nhân của một tham vọng muốn bác đủ mọi thứ, tham vọng này thúc đẩy ông muốn tỏ ra lỗi lạc trong nhiều lảnh vực hơn chỉ là vượt trội trong ngành thôi. Tuy hãy còn trẻ, ông đã tỏ ra có những sở kiến làm người ta kinh ngạc về khoa động vật học và thảo mộc học; các bạn của ông đã coi ông là một Darwin thứ hai, khi mà lẽ ra chỉ còn có việc giật lấy chức giác sư ông đã bắt thần từ bỏ nghề đó và tự để mình tự cuốn hút bởi môn hoá học, nhành mà các sự nghiên cứu của ông về các quang phổ của những kim loại đã đưa ông vào Hội Hoàng Gia. Mồi lửa rơm! Ông đã vắng mặt trong một năm trời tại phòng thí nghiệm của ông. Khi quay về, ông gia nhập Hội Đông Phương và công bố một bản tin về các văn bia ở El Kab. Chắn chắn là ông vừa đa năng vừa đa tài.Tuy nhiên những anh bay bướm lắm rút lại thể nào cũng mắc kẹt. John Vansta Smith cũng không thoát khỏi quy luật này. Ông càng đi sâu vào lãnh vực Ai Cập học ông càng thấy say sưa vì khoảng đất bao la mở ra trước mắt ông và vì tầm quan trọng vô cùng của một vấn đề chỉ có thể mang lại những tia sáng về những mầm mống đầu tiên của nền văn minh nhân loại và về nguồn gốc phần lớn các mỹ thuật và khoa học của chúng ta. Ông Smith bị say mê đến mức ông cưới một cô nữ sinh viên trẻ trong môn Ai Cập học, người đã viết một bài luận án về đệ lục triều đại. Đã vững lòng với một căn bản vững chắc dể hoạt động, ông đi kiếm các tài liệu dành cho một công trình hợp nhất sự nghiên cứu của Lepsius với sáng kiến của Champonllion. Việc chuẩn bị cho tác phẩm vĩ đại này bao gồm nhiều chuyến thăm các bộ sưu tầm về Ai Cập tại bảo tàng viện Louvre. Chuyến sau cùng diễn ra vào trung tuần tháng mười năm ngoái; đó là cơ hội của một cuộc mạo hiểm không tầm thường, đáng được thuật lại.

Các chuyến xe lửa thì đi chậm lại và biển Manche rất xấu; vì vậy nhà bác học của chúng ta tới được Paris thì thể xác phát sốt, phát nóng và tinh thần mờ mịt. Tại khách sạn Đại Pháp trên đường Laffitte, ông đã nằm dài trong hai tiếng đồng hồ trên một ghế dài; nhưng ông không thể ngủ được, mặc dù còn mệt mỏi ông quyết định đi tới viện bảo tàng Louvre, để phối kiểm một chi tiết mà vì nó ông đã phải đi tới đây, rồi lại đi chuyến xe lửa buổi chiều tới Dieppe, ông mặc một áo choàng dài, vì trời mưa và ông đi bộ qua con đường lớn Des Italiens và đường Opera. Tại viện bảo tàng Louvre, ông cảm thấy như ở nhà ông vậy; ông vội vã hướng tới chỗ bộ sưu tầm các sách viết bằng chỉ thảo mà ông có ý định tra cứu.

Những người ái mộ điên cuồng nhất của John Vansta Smith chắc cũng phải ngần ngừ khi nói rằng ông là người đẹp trai. Cái mũi lớn mỏ diều hâu và cái cằm nhô ra của ông cho ta một ý niệm về sự linh lợi và đặc tính sắc bén của trí thông minh của ông. Ông mang cái đầu như một con chim và cũng như một con chim, ông ném ra những lời phản đối và những câu ứng đối. Với dáng dấp như vậy, hôm đó ông đứng ở bảo tàng viện Louvre với chiếc cổ áo choàng kéo lên đến tận mang tai, khi tự nhìn mình trong các tủ kính vuông mà ông kiểm kê, có lẽ ông cũng nhận thấy thực ra ông đã có một dáng điệu bình thường, ông đã bị bực bội một cách dũ dội khi ở phía sau lưng ông một giọng nói người Anh đã thốt ra một cách rất rõ ràng:

- Con người kỳ cục!

Nhà bác học không phải là người không có tính kiêu ngạo của ông được biểu lộ bằng sự hoàn toàn hững hờ đối với mọi ý kiến cá nhân. Ông mím môi trong khi nhìn chăm chú cuộn chỉ thảo của ông, nhưng lòng ông chứa đầy mỗi cay đắng đối với tất cả nòi giống của người Anh đang đi nghỉ mát.

- Vâng, - một tiếng nói khác tỏ sự đồng ý. - Đúng thật là một điển hình!

Người thứ nhất nói tiếp:

- Người ta có thể gần như tin chắc rằng cứ ngắm nghía mãi những xác ướp, anh chàng này sẽ tự mình trở thành xác ướp một nửa.

- Thật ra anh ta có diện mạo và dáng dấp của một người Ai Cập.

John Vansta Smith quay gót lại với ý định làm cho các bạn đồng hương của mình xấu hổ bởi một vài lời nhận xét cay độc. Ông đã ngạc nhiên và thấy nhẹ nhõm hẳn khi phát hiện ra rằng hai người thanh niên người Anh đang nói ba hoa đứng quay lưng về phía ông và những lời nói của họ nhằm vào một trong những người bảo vệ viện bảo tàng Lourve đang đánh bóng một mảnh đồng ở phía bên kia của căn phòng.

- Carter sẽ đợi chúng ta ở Palais-Royal, - một trong những người khách du lịch nói, mắt nhìn đồng hồ.

Họ đi xa dần, để nhà bác học ở lại với công việc của ông.

"Ta muốn tò mò biết con người mà mấy thằng cha xuẩn ngốc gọi là một diện mạo và một dáng dấp của người Ai Cập!" John Smith nghĩ. Ông bước nhẹ nhàng để nhìn thấy người đó. Quả thật đó là khuôn mặt mà các cuộc nghiên cứu của ông đã làm ông trở nên quen thuộc. Những nét đều đặn và bất động, vầng trán rộng, cằm tròn trĩnh, nước da màu nâu đen nhạt, tất cả đều là sự mô phỏng chính sác của vô số pho tượng, bức họa để trang hoàng các bức tượng tại nhà ông. Sự việc vượt quá mọi trùng hợp ngẫu nhiên. Người này phải là một người Ai cập. Sự vuông vắn của đôi vai này, sự thót hẹp chỗ hông, anh ta cũng đủ để nhận dạng quốc tịch của anh ta.

Nhón bước trên đầu bàn chân, John Vansta Smith tiến tới chỗ người bảo vệ để nói chuyện với anh ta. Vốn không quen chuyện tầm phào, ông thấy khó tìm được một giọng điệu đúng múc ở giữa sự cộc cằn của kẻ cao sang và lịch thiệp của kẻ ngang hàng. Anh bảo vệ quay nghiêng người. John Vansta Smith chăm chú nhìn nước da của con người mà ông cho là dân Ai Cập, ông có cảm tưởng rằng nước da này có cái gì đó không bìng thường. Chỗ thái dương và lưỡng quyền, nó cũng nhẵn lì và bóng loáng như một miếng da khô vậy. Không thể nhìn thấy các lỗ chân lông. Không thể tưởng tượng được một chút ẩm ướt nào trên khoảng da khô khằn đó. Trái lại nó bị vạch thành từng hằn sâu, từ trán xuống tới cằm, bởi hàng ngàn vết nhăn li ti, vết này cắt vết kia, cắt đi, cắt lại trong một hình vẽ lộn xộn.

- Bộ sưu tầm Mephis ở chổ nào? - Nhà bác học hỏi bằng tiếng Pháp.

Ông có vẻ ngượng ngập của một người đặt ra một câu hỏi chỉ với mục đích là để mào đầu một cuộc nói chuyện.

- Đằng kia kìa! - Người bảo vệ trả lời với một giọng thô lỗ, ngấc đầu ra hiệu chỉ về phía bên kia của căn phòng.

-Anh là người Ai Cập, có phải không?

Người bảo vệ ngẩng cao đầu lên nhướng mắt nhìn kẻ đối thoại với mình. Hai mắt anh ta u ám, mở lờ đờ khô khan, như có ám sương mù, chưa bao giờ ông Smith nhìn thấy những con mắt đó, ông nhận thấy trong đáy nước sâu thẳm của chúng có một cảm xúc mạnh, giống như một sự trộn lẫn của hận thù và kinh hoàng.

- Không, thưa ông. Tôi là người Pháp.

Người bảo vệ quay đi và lại cúi xuống cái vật mà anh ta đang đánh bóng. Nhà bác học hết sức ngạc nhiên, chăm chú nhìn anh ta trong một lúc, không nói năng gì cả, rồi ông đi tới ngồi trên một cái ghế ở trong một góc khuất nẻo, phía sau một cánh cửa, ông ghi chép một vài kết quả của công việc sưu tầm của ông về những cuốn chỉ thảo. Nhưng tinh thần ông không ổn định trước thứ tự thường lệ của các công việc của ông, nó cứ nhất mực quay về với người bảo vệ kỳ bí với bộ mặt nhân sự và nước da thuộc khô vậy.

"Ta đã nhìn thấy những con mắt như thế ở đâu nhỉ?" John Vansta Smith tự hỏi mình. "Chúng có vẻ giống như con mắt thằn lằn, mắt một con vật bò sát; loài rắn có một màng thuấn làm cho mắt sáng long lanh. Nhưng trong cái nhìn của con người này có một cái gì hơn thế. Có một sự biểu lộ về quyền lực, về sự khôn ngoan, về sự chán chường sâu đậm và về sự tuyệt vọng không gì mô tả được. Có phải là trí tưởng tượng của ta quá nhiều không? Ta cần phải tra xét lại một lần nữa!"

Ông đứng dậy và ông đi một vòng qua các phòng trưng bày cổ vật ở Ai Cập; nhưng người bảo vệ đã mất dạng.

Thế là ông trở lại ngồi trong cái góc nhà yên tĩnh của ông. Ông đã tìm thấy các tin tức mà ông kiếm trong các cuốn chỉ thảo, ông chỉ còn có việc viết nó trong ký ức của ông còn tươi tắn. Trong một vài phút, cây bút chì của ông đã bay lượn trên tờ giấy; nhưng rồi những dòng chữ của ông đều đi xiêu vẹo và sau cùng thì cây bút chì rơi xuống đất trong khi đầu nhà bác học gục xuống trước ngực. Quá mệt mỏi vì chuyến đi, ông đã ngủ một giấc quá say trong cái góc hẻo lánh sau cánh cửa để đến nỗi những vòng tuần tiễu của bọn bảo vệ, những lời nói trao đổi giữa các khách du lịch và ngay cả tiếng chuông kéo dài báo hiệu giờ đóng cửa cũng không làm ông tỉnh giấc.

Hoàng hôn đã đi sâu vào đêm tối, tiếng ồn ào của sự lưu thông ngoài phố Rivoli đã lắng dịu, chuông đồng hồ nhà thờ Notre Dame đã gióng lên một cách nặng nề mười hai tiếng nửa đêm, nhưng John Vansta Smith vẫn không động đậy. Chỉ mãi tới khoảng một giờ sáng ông mới mở bừng hai mắt. Thoạt đầu ông tưởng là ông đang nằm ngủ ở nhà, trong phòng làm việc. Nhưng qua những tấm kính không có cánh cửa có ánh trăng chiếu sáng và khi ông nhận ra những hàng xác ướp và tủ kính thì ông nhớ lại ông đang ở đâu và tại sao ông lại ở đó. Duỗi thẳng chân tay đang uể oải, ông nhìn đồng hồ và ông vừa nhìn đồng hồ vừa hít hà vui thích. Nhà bác học không phải là người nhút nhát một mảy may và ông có tính ưa thích một hoàn cảnh mới, đây là một trong nhiều đặc tính của giống nòi ông. Diễn biến này sẽ là một câu chuyện thích thú để cho một bài báo sắp tới; một thứ gì để làm nhẹ bớt những suy tư nghiêm túc hơn, hệ trọng hơn. Ông không thấy nóng nực quá, trái lại ông rất thoải mái. Ông không ngạc nhiên về việc người bảo vệ không chú ý tới ông, cánh cửa đã chiếu bóng của nó chùm đúng lên người ông. Một tên trộm chắc cũng không thể mơ tưởng được một nơi ẩn náu tốt đẹp hơn.

sYên lặng hoàn toàn. Ở bên trong hay ơ bên ngoài, không nơi nào có một tiếng động nhỏ, dù là một tiếng nhẹ nhàng nhất. Chỉ có một mình ông với những người chết của một nền văn minh đã chết. Tuy nhiên, ở phía bên kia các bức tường, thành phố đang phun ra mọi thứ chất độc tàn bạo và những cám dỗ sống sượng của thế kỷ 19. Nhưng trong căn phòng nảy thực sự không có một thứ gì, từ bông lúa màu nâu cho tới chiếc hộp có màu sắc sặc sỡ của nhà họa sĩ nhưng không được giữ gìn từ 4.000 năm nay. Ông đứng giữa những tàn tích được mang về từ cái đế quốc xa lắc biển thời gian rộng lớn: từ thành Thèbes oai nghiêm, từ thành Louqsor quý tộc, từ những ngôi đền lớn Héliopolis, từ hàng trăm ngôi mộ đã bị đào bới. Nhà bác học đảo mắt qua những hình hài của con người đã chết, ông đã để bị xâm chiếm bởi một tình cảm xâu xa của sự tôn kính. Ông nghĩ tới những sự nông nổi buổi thiếu thời của ông, tới sự vô nghĩa của chính bản thân ông. Ngồi tựa lưng vào ghế, ông mơ màng nhìn dẫy phòng chiếm ngự tất cả cái chái của toà nhà rộng lớn. Và bỗng nhiên, ông nhìn thấy sáng vàng vọt của một ngọn đèn.

John Vansta Smith ngồi thẵng dậy trên ghế. Ngọn đèn tiến lên một cách thong thả, thỉnh thoảng ngừng lại bất động, rồi lại tiếp tục đi tới. Người mang ngọn đèn di chuyển không một tiếng động, bước chân của y không làm rộn rã yên lặng chung quanh. Ông khách người Anh nghĩ rằng có lẽ đây là những tên kẻ trộm và ông ngồi thu mình trong cái góc nhà. Ngọn đèn đu đưa trong căn phòng thứ nhì trước mặt ông, nó đi vào căn phòng bên cạnh, vẫn không gây một tiếng động nhỏ nào. Bị sợ sệt một cách mơ hồ, nhà bác học nhìn thấy một cái đầu, cái đầu này nom như trôi nổi bập bềnh trong không khí, phía sau ánh sáng của ngọn đèn. Cái đầu người bị bóng tối che phủ, nhưng vẫn được ánh sáng soi rất rõ. Ông không thể lầm được: cặp mắt màu kim loại này, nước da như một xác chết này đều thuộc về anh chàng bảo vệ mà ông đã từng trò chuyện.

Cử động đầu tiên của John Vansta Smith là đi tới gặp y. Chỉ cần một vài lời giải thích là đủ và ông sẽ có thể đi ra bằng một cái gì đó ra vẻ lén lút, điều này làm thay đổi ý định của ông. Rõ ràng là anh bảo vệ không đi tuần tiễu, dưới chân anh ta mang một đôi giày đế bằng nỉ và anh ta nhìn quanh mình trong khi thở hổn hển. John Vansta Smith đứng nép vào một xó để canh chừng anh ta. Ông tin chắc rằng anh bảo vệ chỉ tới đây với một mục đích thầm kín và rất có thể bất hảo.

Dù với mục đích nào đi nữa, anh ta vẫn không tỏ ra một chút e dè nào. Anh ta bước nhanh tới một trong những tủ kính lớn, rút ở trong túi ra một chiếc chìa khóa và mở tủ kính đó. Anh lấy từ ngăn kệ phía trên xuống một cái xác ướp; anh đặt xác ướp này xuống mặt đất với rất nhiều vẻ thận trọng và cả sự trìu mến nữa. Anh đặt ngọn đèn bên cạnh cái xác ướp rồi ngồi xổm xuống theo lối người Đông Phương, với ngững ngón tay dài và run rẩy anh bắt đầu gỡ lớp vải bọc ngoài và những dải vải buộc quanh xác ướp. Những lớp vải này mở ra đến đâu thì một mùi thơm nồng nặc tỏa ra đến đấy, tràn ngập cả căn phòng; những mảnh vụn gỗ thơm và hương liệu rải rác trên các phiến lát của nền nhà.

John Vansta Smith biết rằng xác ướp này chưa bao giờ bị lột bỏ vải bọc. Do đó công việc này đã có một cái gì đó làm ông chú ý một cách say mê. Từ chỗ ngồi quan sát phía sau cửa; ông đã chìa cái mũi lớn của ông ta ra với một sự tò mò càng lúc càng mãnh liệt. Khi đoạn dây vải cuối cùng rơi khỏi một cái đầu đã có tới bốn ngàn năm tuổi tác, ông đã phải kiềm hãm một tiếng kêu vì sự kinh ngạc, sững sờ. Thoạt đầu một làn suối những lọn tóc dài đen óng ánh được bảo vệ; hiện ra một vần trán trắng và thấp được trang điểm bởi một cặp lông mày cong vút một vẻ đài các, một cặp mắt sáng với những lông mi dài, một cái mũi thẳng một cái miệng dịu dàng nhạy cảm và mũm mĩm, rồi tới một cái cằm lẹm vào một cách tuyệt diệu. Khuôn mặt này đều đặn màu cà phê. Nhưng thật là kỳ công của nghệ thuật ướp xác! John Vansta Smith trầm trồ với sự mãn nguyện, hai mắt trố ra.

Tuy nhiên hiệu lực mà cảnh tượng này gây ra cho nhà Ai Cập học cũng chỉ là việc nhỏ thôi nếu đem so sánh với hiệu lực mà anh chàng bảo vệ kỳ lạ cảm thấy. Anh ta giơ hai tay lên trời, anh lẩm bẩm những lời không ai hiểu được, rồi nằm sấp xuống bên cạnh xác ướp, anh ta ôm lấy nó, hôn nhiều lần lên môi và trán của xác ướp.

- Em cưng của anh! Em cưng khốn khổ của anh. - Anh ta rên rỉ bằng tiếng Pháp.

Do sự xúc cảm, giọng nói của anh ta nghẹn ngào, nhưng nhờ có ngọn đèn nhà bác học có thể nhận thấy cặp mắt anh ta vẫn khô khan như hai cục thép vậy. Anh ta cứ nằm như vậy trong nhiều phút, nét mặt cúm rúm, miệng thốt ra những tiếng rên rỉ than van ở bên trên cái đầu xinh đẹp của người đàn bà. Rồi anh ta nở một nụ cười, anh ta đọc lên một vài tiếng của một ngôn ngữ xa lạ và anh ta bỗng đứng dậy với sức mạnh của một kẻ gồng mình lên vì một cố gắng lớn lao.

Ở giữa căn phòng có một tủ kính tròn lớn chứa đựng một bộ sưu tập quý giá các nhẫn đeo tay của người Ai Cập và những viên đá quý. Anh bảo vệ lại gần cái tủ đó và mở nó ra. Anh đặt cái bàn trên mép kệ phía bên và bên cạnh cái đèn này là một cái bình nhỏ bằng đất mà anh vừa lấy ở túi ra. Sau đó anh lấy từ trong tủ kính ra một nắm nhẫn và trên mặt hằn lên một sự hệ trọng lớn lao, anh lần lượt nhỏ lên từng chiếc nhẫn một chất lỏng chứa trong cái bình bằng đất, rồi anh chìa chúng ra trước ánh sáng. Nắm nhẫn đầu tiên chắc chắn đã làm anh thất vọng, vì anh đã vứt chúng nháo nhào vào trong tủ kính và anh lấy ra những cái khác. Thoạt đầu anh chọn lấy một cái nhẫn to thù lù có nạm một miếng pha lê lớn để đưa nó vào thử chất nước kỳ bí. Bất chợt anh thốt lên một tiếng kêu vui thích và giơ hai tay lên. Cử động hấp tấp của anh làm đổ chiếc bình bằng đất; chất lỏng chảy tràn ra mãi tới chân của ông khách người Anh. Anh bảo vệ lấy từ áo ngoài ra một cái khăn màu đỏ, cúi xuống chùi những phiến đá lát nhà và anh ta đã đứng đối diện với John Vansta Smith.

- Xin thứ lỗi cho tôi! - người Anh nói với tất cả sự lễ độ ta có thể tưởng tượng được. - Tôi vì không may mà phải ngủ đằng sau cánh cửa này.

- Và ông đã canh chừng tôi?

Người bảo vệ nói bằng tiếng Anh, bộ mặt như xác chết của anh ta có một biểu hiện tàn độc.

Nhà bác học không hề biết nói dối.

Ông đáp:

- Tôi thú thực rằng tôi đã quan sát cử động của anh và chúng đã gợi óc tò mò của tôi tới chỗ cùng cực.

Lúc đó người kia đã lấy ở trong mình ra một con dao dài lưỡi để trần.

- Nếu tôi phát hiện ông sớm hơn mười phút thì có lẽ tôi đã moi tim ông rồi. Dù sao đi nữa, nếu ông đụng tới người tôi hoặc ông cản trở tôi bất cứ bằng cách nào đó, ông sẽ là một người chết.

- Tôi không muốn cản trở anh. Sự có mặt của tôi ở đây hoàn toàn do sự ngẫu nhiên thôi. Tất cả những gì tôi yêu cầu chỉ là xin anh vui lòng cho tôi ra khỏi viện bảo tàng.

Ông đã nói với một giọng hết sức ngọt ngào vì anh bảo vệ ấn mũi nhọn con dao của anh ta vào lòng bàn tay anh, làm như anh muốn thử lưỡi dao sắc; sắc diện anh ta vẫn còn giữ vẻ hung hãn như trước.

- Nếu tôi tin... - anh ta cất lên tiếng nói âm hiểm. - Nhưng không! Có lẽ như vậy cũng tốt... Ông tên là gì?

Người Anh nói tên mình cho anh ta biết.

- John Vansta Smith? - Người kia nhắc lại. - Có phải ông là ông John Vansta Smith, người đã viết một bài về El Bak trong một tạp chí ở London không? Tôi có đọc một đoạn trích dẫn của bài đó. Sự hiểu biết của ông về vấn đề này thật đáng khinh.

- Thưa không! - Nhà Ai Cập học phản đối.

- Tuy nhiên nó vẫn cao hơn sự hiểu biết của nhiều nhà thông thái, những người khoa trương nhiều kỳ vọng lớn hơn. Muốn hiểu đời sống cổ xưa của chúng tôi tại Ai Cập, cả những văn bia lẫn những đền đài đều không có tính cách quan trọng. Điều đáng kể là khoa luyện đan của chúng tôi và khoa học kỳ bí là những thứ trên thực tế đã lọt khỏi tay các ông.

- Đời sống cổ xưa của chúng tôi? - Nhà bác học nhắc lại, hai mặt mở to ra. - Lạy chúa tôi! Hãy nhìn bộ mặt của xác ướp!

Người bảo vệ kỳ lạ quay người lại và soi ánh sáng của ngọn đèn vào cái xác người, anh ta thốt lên một tiếng kêu dài đau đớn. Tác động của khí trời đã hủy hoại trọn vẹn nghệ thuật của người ướp xác. Làn da đã xẹp xuống, hai mắt đã chìm vào phía trong, cặp môi hé mở và trưng ra những chiếc răng màu vàng, tuy nhiên cái vết nâu trên trán vẫn còn chỉ rõ rằng đây chính là cùng một khuôn mặt đó, khuôn mặt mấy phút trước đây đã phát lộ biết bao sự trẻ trung và xinh đẹp.

Người bảo vệ vặn vẹo hai bàn tay trong sự buồn thương và kinh hoảng. Rồi anh ta lấy lại bình tĩnh và anh lại phóng cặp mắt đanh thép của anh vào người Anh.

- Việc này không quan trọng, - anh lẩm bẩm với một tiếng nói ồ ề. - Quả thật không quan trọng! Tối nay tôi tới đây với một mục đích đã được cân nhắc kỹ lưỡng. Mục đích đó đã hoàn thành. Tất cả những gì còn lại đều không đáng kể. Lời nguyền ngày xưa không còn hiệu lực nữa. Tôi có thể gặp lại nàng. Có lợi ích gì để tôi kề cà mãi trên cái vỏ ngoài bất động của nàng vì linh hồn nàng đang chờ tôi phía bên kia mức màn.

- Những lời nói kỳ lạ! - John Vansta Smith đưa ra lời phê bình, mỗi lúc ông một tin chắc rằng ông đang đứng trước một thằng điên.

- Thời gian gấp lắm rồi; tôi phải đi, - người kia nói tiếp - Cái giờ phút mà tôi đã chờ đợi từ rất lâu đã tới gần. Nhưng trước hết tôi phải đưa ông ra. Đi theo tôi...

Anh ta cầm lấy cái đèn, đi ra khỏi phòng, vẻ rất bối rối và anh đưa nhà bác học đi qua các phòng về Ai Cập, về Assyrie và Ba Tư. Tới đầu căn phòng cuối cùng về Ba Tư, anh ta đẩy một cánh cửa nhỏ đục trong tường và anh ta đi xuống một cầu thang xoáy trôn ốc. Ông người Anh cảm thấy trên trán mình không khí tươi mát của ban đêm. Trước mặt là một cánh cửa chắc là để mở ra đường, ở bên tay mặt có một cái cửa khác mở hé để lọt vào một tia sáng vàng khè ở hành lang.

- Vào đây! - Anh bảo vệ ra lệnh.

John Vansta Smith ngần ngừ: ông tưởng rằng cuộc phiêu lưu của ông đã chấm dứt và ông sẽ thấy mình ở bên ngoài. Vì sự tò mò của ông khá lớn, ông muốn được biết lý do bí ẩn của sự kỳ bí. Do đó ông dã đi theo người bạn đường kỳ lạ của ông vào trong căn phòng có đèn sáng sủa.

Đó là một phòng nhỏ, tương tự như chỗ ở của một người gác cửa. Một ngọn lửa đốt bằng củi nổ lách tách trong lò sưởi. Ở một bên phòng có một cái giường có bánh xe lăn. Phía bên kia là một cái ghế gỗ; ở giữa là một cái bàn còn mang những tàn tích của một bữa ăn. Ông người Anh không thể chế ngự được một cái rùng mình: tất cả những chi tiết nhỏ nhặt của căn phòng hình như được lấy ra từ một tiệm chạp phô thời cổ xưa. Những đế cắm nến, những cái bình trên lò sưởi, những cái giá sắt để gác củi, những đồ trang trí trên tường đều gợi lên một quá khứ đã trôi qua. Anh bảo vệ buông mình ngồi bịch xuống thành giường và anh ta mời vị khách của mình ngồi trên cái ghế.

- Phải chăng tất cả việc này đều do sự tình cờ mà ra, - anh ta bắt đầu nói với ông bằng thứ tiếng Anh tuyệt hảo. - Có lẽ trời đã định rằng tôi phải để lại sau tôi một lời cảnh cáo dành cho những con người ngông cuồng muốn đem óc thông minh của họ ra chống lại các quy luật của tạo hóa. Tôi sẽ giao lời cảnh cáo đó cho ông. Ông sẽ làm điều mà ông muốn làm. Bây giờ tôi đang nói với ông từ ngưỡng cửa của thế giới bên kia.

"Như ông đã đoán, tôi là một người Ai Cập. Không phải là một trong những mẫu người của cái nòi giống nô lệ hiện đang sống tại châu thổ sông Nil, nhưng là một người còn sót lại của dân tộc hùng mạnh hơn nhiều và kiêu hãnh hơn nhiều, cái dân tộc đã đánh bật dân Do Thái, đã đẩy lùi người Ethiopia trong các sa mạc mạn Nam và đã xây dựng những công trình lớn mạnh làm tràn đầy sự thèm muốn và ngưỡng mộ ở những thế hệ sau. Tôi được sinh ra dưới triều đại Tuth Oses, 1.600 năm trước ngày sinh của Chúa Ki Tô. Ông lùi lại à? Xin ông hãy đợi một chút: ông sẽ mau lẹ nhận thấy rằng tôi đáng được thương xót hơn là đáng sợ hãi.

"Tên tôi là Sosra. Cha tôi là đại tu sĩ đạo Oriris trong đền Abaris. Tôi được nuôi dưỡng trong ngôi đền và được học hỏi tất cả các nghệ thuật mà Thánh Kinh của các ông đã nói tới. Tôi là một người học trò giỏi. Năm 16 tuổi tôi đã biết tất cả mọi thứ mà một người tài trí nhất trong giới tu sĩ đã có thể dạy tôi. Từ lúc đó, tôi tự mình nghiên cứu những điều bí ẩn của tạo hóa và tôi không truyền thụ kiến thức của tôi cho bất cứ người nào.

"Trong tất cả các vấn đề làm tôi say mê, những vấn đề lôi kéo sự chú ý của tôi nhiều hơn lại thiên về bản chất của đời sống. Tôi đã dò tìm một cách sâu xa nguyên lý của sự sống. Mục đích của y học là khu trừ tật bệnh khi nó xuất hiện: về phần tôi, tôi nghĩ rằng có thể phát minh ra một phương pháp để làm cho thân thể được khỏe mạnh, làm thế nào mà mọi sự suy yếu và ngay cả sự chết cũng không làm gì được nó. Chắc là không có ích lợi gì nếu tôi kể cho ông nghe tất cả các việc nghiên cứu của tôi. Nếu tôi mạo muội kể ra, ông cũng sẽ không thể hiểu được. Tôi đã theo đuổi những cuộc nghiên cứu này khi thì ở các loài vật, khi thì ở bọn nô lệ, khi thì ở ngay người tôi. Cũng cần nói với ông rằng kết quả những sự nghiên cứu ấy đã cho phép tôi tìm được một chất, mà một khi được trích vào máu, chất đó ban cho thân thể một sức mạnh khiến nó chống lại được các ảnh hưởng của thời gian, của bạo lực hay của bệnh tật. Chất đó không làm cho người ta thành bất tử nhưng quyền lực của nó bao gồm nhiều thiên niên kỷ. Tôi đã thí nghiệm nó vào một con mèo và sau đó tôi cho nó ăn một thứ thuốc độc có sức giết người mạnh nhất, hiện nay con mèo đó vẫn còn sống ở miền Hạ Ai Cập. Xin ông chớ nghĩ tà thuật. Đó chỉ là một phát minh về hóa học, việc này có thể được tìm lại một cách hoàn hảo.

"Lòng yêu đời rất mạnh ở một người tuổi trẻ. Khi đó hình như tôi đã thoát khỏi mọi nỗi ưu tư của con người vì tôi đã loại bỏ được sự đau đớn và đẩy lùi cái chết tới một kỳ hạn rất xa xôi. Với một tâm hồn thư thái, tôi đã trích cái chất đáng nguyền rủa vào các mạch máu của tôi. Rồi tôi đi tìm một người nào đó ở quanh tôi để cho họ được hưởng lợi ích trong sự phát minh của tôi. Một tu sĩ trẻ ở đền Thoth tên là Parme đã chiếm được lòng ưu ái của tôi hởi tính tình trang nghiêm và học vấn của anh ta. Tôi nói cho anh biết bí quyết của tôi; theo lời yêu cầu của anh, tôi đã chích cho anh thứ thuốc của tôi. Tôi nghĩ rằng như vậy là tôi sẽ có một người bạn cùng tuổi tác với tôi.

"Sau sự phát minh lớn đó, tôi có vẻ lơi là trong các công việc của tôi, nhưng Pamer thì vẫn theo đuổi công việc của anh ta với một nghị lực tăng gấp đôi. Hàng ngày tôi thấy anh loay hoay với các chai lọ của anh và lò cất lọc nước của anh trong đền Thoth nhưng anh không cho tôi biết về kết quả sự nghiên cứu của anh. Về phần tôi, tôi đi dạo trong thành phố và tôi nhìn quanh tôi với một vẻ đắc thắng trong khi tôi nghĩ rằng tất cả những gì mà tôi nhìn thấy đều sẽ phải qua đi, nhưng riêng tôi thì sẽ sống mãi. Các cư dân cúi đầu chào tôi khi họ gặp tôi, vì tiếng tăm về kiến thức của tôi đã lan rộng.

"Vào thời kỳ đó, một cuộc chiến tranh đã diễn ra và vị Đại Quốc Vương đã gởi quân lính ra biên giới phía đông để đánh đuổi quân Hyksos. Một viên thống đốc tới Abaris để trấn đóng thành phố của chúng tôi cho quốc vương. Tôi nghe người ta khoe khoang về nhan sắc tuyệt trần của cô ái nữ của vị thống đốc. Một ngày kia, trong khi đi đạo chơi với Parme, chúng tôi đã gặp cô đó được kiệu trên vai mấy tên nô lệ. Thật là một tiếng sét ái tình. Mới thoạt nhìn tôi đã yêu nàng. Trái tim tôi lịm đi. Một suýt nữa thì tôi đã quỵ xuống chân mấy người khiêng kiệu. Nàng là "vợ tôi". Tôi không thể nào sống mà không có nàng: Tôi đã thề trước đấng Tối cao là nàng sẽ phải thuộc về tôi. Tôi đã thề điều này với vị tu sĩ thành Thoth. Anh ta đã ngoảnh mặt đi, vầng trán tối sầm lại, nom u ám như bầu trời lúc nửa đêm vậy.

"Tôi khỏi cần thuật lại với ông về những buổi đầu của mối tình chúng tôi. Nàng đã yêu tôi cũng như tôi yêu nàng. Tôi được biết là Parme cũng đã gặp nàng và đã tỏ cho nàng biết rằng anh ta cũng yêu nàng; nhưng tôi có thể mỉm cười về sự say mê đó vì tôi biết là nàng đã hiến trái tim nàng cho tôi.

"Bệnh dịch hạch phát sinh trong thành phố, nhiều người bị mắc bệnh, nhưng tôi đặt bàn tay tôi lên trán họ và tôi đã chữa khỏi bệnh cho họ không chút sợ hãi nào. Nàng thán phục sự ngổ ngáo của tôi. Lúc đó tôi thì thầm nói cho nàng nghe về bí quyết của tôi và tôi khẩn khoản xin nàng để cho tôi thi triển tài nghệ của tôi vào người nàng.

"Tôi nói với nàng:

- Em yêu! Hãy nghĩ rằng bông hoa của em sẽ không bao giờ tàn úa ! Mọi vật khác đều sẽ qua đi, nhưng em và anh, cũng như sự tương thân, tương ái nồng thắm của chúng ta sẽ sống lâu hơn ngôi mộ của vua Chéops.

"Nhưng nàng đưa ra lời phản đối rụt rè, đáng yêu để chống lại tôi.

- Như vậy có đúng không? - Nàng hỏi tôi. - Như thế có phải là cản trở ý muốn của các vị thần linh không? Nếu đấng Osiris cao cả muốn cho chúng ta sống lâu như vậy, tại sao ngài không tự chính mình ban chất nước thuốc này cho các chúng sinh?

"Với những lời tình tứ và âu yếm, cuối cùng tôi đã thắng được sự lo sợ của nàng. Tuy nhiên nàng vẫn còn ngần ngại. Đó là một vấn đề trọng đại! Nàng thở dài. Nàng suy nghĩ về việc này suốt cả đêm. Sáng dậy nàng cho tôi biết quyết định của nàng. Chắc chắn rằng một đêm không phải là quá lâu để cho ta suy nghĩ. Nàng muốn kêu thần Isis để xin ngài chỉ bảo.

"Trong lòng tràn đầy một điều buồn thảm, tôi bỏ mặc nàng lại với những tỳ nữ của nàng. Buổi sáng, sau khóa lễ đầu tiên, tôi vội vã đi tới nhà nàng. Một tên nô lệ đầy vẻ khiếp sợ chặn tôi lại trên bục thềm để nói với tôi rằng bà chủ của hắn bị bệnh, bệnh rất nặng. Tôi chạy xộc ngay vào phòng của nàng; nàng nằm trên giường, đầu tựa trên một cái gối, người rất xanh xao, mắt lờ đờ. Tôi nhận thấy một vệt đỏ trên trán nàng. Tôi biết cái dấu xưa cũ này của địa ngục, đó là cái thẹo của bệnh dịch hạch, một bản án của tử thần.

"Tại sao cứ nói tới thời kỳ khủng khiếp này? Trong nhiều tháng, tôi gần như phát điên cuồng; tôi bị sốt nóng lạnh, tôi mê sảng và tôi không thể chết được. Chưa bao giờ có một người Ả Rập sắp chết khát lại quằn quại đi tìm những cái giếng giống như tôi đã quằn quại đi tìm cái chết. Nếu thuốc độc hay lưỡi dao thép có thể cắt đứt mạch sống của tôi thì ngay tức thì tôi sẽ nối lại mối tình của tôi ở bên kia cánh cửa hẹp. Tôi đã làm thử uổng công. Cái ảnh hưởng đáng nguyền rủa của nước thuốc thật quá mạnh. Một tối nọ, khi tôi nằm lịm trên giường, người suy yếu và chán nản, thì Parme, vị tu sĩ đền Thoth, đi vào phòng tôi. Anh ta tiến vào vòng ánh sáng của ngọn đèn và nhìn tôi với những con mắt sáng rực vẻ vui mừng.

- Tại sao anh để cô thiếu nữ chết? - Anh ta hỏi tôi - Tại sao anh không tăng cường sức khỏe cho cô ta như là anh đã tăng cường sức khỏe cho chính tôi?

- Tôi tới muộn quá. Nhưng tôi không quên một điều gì. Anh cũng yêu nàng mà. Anh là người bạn đường trong sự bất hạnh của tôi. Nghĩ tới nhiều thế kỷ sẽ trôi qua trước lúc chúng ta gặp lại nàng chẳng phải là điều khủng khiếp à? Chúng ta thật đã điên rồ khi coi cái chết là một kẻ thù!

- Anh có quyền nói điều đó! - Anh ta kêu lên trong khi cười một cách man rợ. - Những lời này là tự nhiên trong miệng anh. Đối với tôi, chúng không còn một chút ý nghĩa nào.

- Anh muốn nói gì? - Tôi la lên trong khi chống khuỷu tay nhỏm dậy. - Anh bạn ơi, chắc chắn là sự buồn thương đã phá rối đầu óc anh rồi!

"Sự vui mừng rạng rỡ trên khắp mặt anh ta. Anh ta run rẩy, co dúm người lại như thể bị quỷ ám.

- Anh có biết rằng tôi đi đâu không? - Anh ta hỏi tôi

- Không. Tôi không biết gì về chuyện đó cả.

- Tôi đi gặp lại nàng. Nàng đã được ướp trong ngôi mộ xa xôi nhất, ở gần những cây cọ bên ngoài bức tường thành.

- Tại sao anh lại đi tới đó?

- Để chết! - Anh ta la lên. - Để chết! Tôi, tôi không bị giữ lại bởi những phiền lụy của trái đất.

- Nhưng anh có nước thuốc trong máu anh!

- Tôi có thể bất chấp nó và thắng được nó, - anh tuyên bố với tôi. - Tôi đã khám phá ra một nguyên tố mạnh hơn để triệt tiêu nó. Ngay trong lúc này nó đang hoạt động trong các mạch máu của tôi và trong một giờ đồng hồ tôi sẽ là một người chết. Tôi sẽ gặp lại nàng. Còn anh, anh sẽ ở lại một mình.

"Trong khi chăm chú nhìn anh ta, tôi hiểu rằng anh ta không nói dối tôi. Ánh sáng rối rắm trong cái nhìn của anh phát lộ rằng anh đã thoát khởi quyền lực của nước thuốc.

- Anh hãy dạy tôi nguyên tố của anh đi! - Tôi nói lớn.

- Không bao giờ!

- Tôi van anh hãy dạy tôi! Nhân danh sự khôn ngoan của Thoth, nhân danh sự cao cả của Anubis!

- Vô ích! - Anh ta lạnh lùng trả lời tôi.

- Vậy thì tôi sẽ khám phá ra nó!

- Anh sẽ không thành công đâu! Tôi đã khám phá ra nó nhờ sự tình cờ. Nó có một thành tố mà không bao giờ anh kiếm được. Ngoài cái thành tố nằm trong chiếc nhẫn của đền Thoth, không còn đâu có nữa.

- Trong cái nhẫn của đền Thoth! - Tôi nhắc lại. - Vậy cái nhẫn của đền Thoth ở đâu?

- Cả cái nhẫn ấy nữa, không bao giờ anh biết được nó. - Anh ta trả lời tôi. - Anh đã chiếm được trái tim nàng. Nhưng rút cục lại ai đã thắng? Tôi để anh ở lại với cuộc đời trần tục bẩn thỉu của anh. Những dây trói buộc tôi đã dứt rồi. Tôi phải đi thôi!

"Anh ta quay người đi và trốn khỏi phòng tôi.

"Sáng hôm sau, tôi được tin về cái chết của tu sĩ đền Thoth.

"Tôi dành những ngày sau đó để nghiên cứu. Tôi phải tìm được thứ thuốc độc tinh vi đủ mạnh để thắng được nước thuốc trường sinh. Từ sáng tinh mơ cho tới nửa đêm, tôi cặm cụi trên các ống thí nghiệm và lò lửa. Tôi đã thu thập các chỉ thảo và các chai lọ của tu sĩ đền Thoth. Than ôi, những thứ này chẳng dạy tôi được bao nhiêu! Có nhiều khi tôi tưởng là đã khám phá ra một chi tiết thiết yếu, nhưng rút lại chẳng có ích lợi gì. Tôi đã tìm tòi hết tháng này tới tháng khác. Khi tôi tuyệt vọng, tôi đi tới mộ nàng ở gần những cây cọ. Ở đó, đứng bên cỗ quan tài mà người ngọc đã bị cướp khỏi tay tôi, tôi cảm thấy sự hiện diện dịu dàng của nàng và tôi thề với nàng rằng một ngày kia tôi sẽ gặp lại nàng nếu có bộ óc thông minh của loài người có thể làm sáng tỏ điều kỳ bí.

"Parme nói rằng sự phát minh của anh ta liên quan tới chiếc nhẫn của đền Thoth. Tôi nhớ lại một cách mơ hồ về món trang sức bé nhỏ ấy. Đó là một cái vòng tròn lớn và nặng. Không phải làm bằng vàng, mà bằng một kim loại hiếm có hơn và nặng hơn, lấy về từ các mỏ tại núi Hartal. Đó là chất bạch kim, như các ông thường gọi tên cho nó. Tôi nhớ là chiếc nhẫn có nạm một miếng pha lê rỗng, bên trong miếng pha lê này có thể đã được giấu một vài chất lỏng. Tôi tin chắc rằng bí quyết của Parme không dính gì tới một mình thứ kim loại đó, vì ngôi đền có đầy rẫy những đồ vật bằng bạch kim. Có lẽ đúng là anh ta đã giấu chất thuốc độc quý giá đó trong lỗ hổng của miếng pha lê. Khi tôi vừa mới đi tới kết luận đó thì bằng cách tìm hiểu rõ ý nghĩa một trong các giấy tờ của anh ta, tôi khám phá ra rằng tôi đã có lý và chỉ còn một ít chất lỏng trong miếng pha lê của chiếc nhẫn đền Thoth.

"Nhưng làm thế nào tìm thấy chiếc nhẫn đó? Parme không mang nó trong mình khi anh ta được lột bỏ quần áo để ướp xác: tôi biết rất chắc chắn về điều này. Nó cũng không có ở trong các tư trang của anh ta. Tôi đã tốn công lục lọi tất cả mọi căn phòng mà anh ta đã đi lại, tất cả các hộp đựng đồ, tất cả các chai lọ, tất cả các đồ vật của riêng anh. Tôi đã xem xét tỉ mỉ cát tại sa mạc ở những nơi mà anh ta thường tự dạo chơi. Nhưng chiếc nhẫn đền Thoth vẫn không tài nào tìm thấy. Có lẽ nỗi vất vả và những sự nghiên cứu của tôi cuối cùng sẽ thắng được các trở ngại nếu một tai họa mới không xảy ra.

"Chiến tranh đã được phát động chống lại người Hyksos, nhưng các đạo quân của Đại Quốc Vương đã bị đánh tan tành trong sa mạc. Những bộ lạc du mục xông vào chúng tôi như đàn cào cào trong những năm hạn hán. Trong khắp nước ban ngày thì máu chảy, ban đêm thì những đám cháy hoàn hành. Abaris là thành lũy của nước Ai Cập, nhưng chúng tôi đã không thể đẩy lui bọn man rợ. Thành phố bị thất thủ. Viên thống đốc và các binh sĩ đều bị chặt đầu. Tôi cùng với nhiều người khác bị bắt mang đi.

"Trong bao nhiêu năm dài dằng dặc tôi đã chăn cừu trong những đồng bằng lớn ở gần sông Euphrate. Ông chủ của tôi chết, con trai của ông cũng trở nên già lão, nhưng lúc nào tôi cũng ở xa cái chết như vậy. Sau cùng tôi đã trốn đi được trên một con lạc đà chạy nhanh và tôi trở về Ai Cập. Người Hyksos định cư trong nước mà chúng đã chinh phục được, vị vua của chúng tri vì nước Ai Cập. Abar Chiếc Phễu Bằng Da

Font Size: Tác Giả: Sir Arthur Conan Doyle

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Người bạn của tôi là Lionel Dacre cư ngụ ở đại lộ Wagram, thủ đô Paris, trong một căn nhà nhỏ có hàng rào lưới sắt và một thảm có khiêm nhường nằm trên hè phố bên trái khi ta đi từ Khải hoàn môn xuống. Tôi cho là căn nhà này đã có từ lâu trước khi đại lộ được kiến thiết, vì đã có rêu mọc trên các hòn ngói màu xám và những bức tường mốc meo phai màu. Từ ngoài phố nhìn vào, nó có vẻ nhỏ bé: năm cửa sổ ở mặt tiền, nếu tôi nhớ đúng; nhưng tại nó kéo dài ra phía sau bằng một căn phòng dài tại đó Dacre đã xếp đặt bộ sưu tập các sách về khoa học của anh và thu thập những món đồ vặt vãnh hay những vật kỳ dị vốn là sở thích của anh và là những thứ làm khuây khỏa các bạn hữu của anh. Là một người giàu có, tao nhã, cổ quái, anh đã giành một phần đời của anh và tài sản của anh để quy tụ một bộ sưu tập riêng độc nhất vô nhị các tác phẩm nói về Do Thái Pháp điển và về ma thuật, trong đó có nhiều vật hiếm có và rất đắt. Các sở thích của anh đã làm cho anh thiên về phía những sự kỳ diệu và quái đản, người ta đoan chắc với tôi rằng các kinh nghiệm của anh hướng tới thế giới xa xăm vượt qua mọi ranh giới của nền văn minh và các nghi thức.

Với những be bạn người Anh, anh không hề thốt ra một tiếng về công việc đó nhưng một người Pháp, người có cùng sở thích với anh xác nhận với tôi rằng những sự thái quá tệ hại của những buổi lễ quỷ quái đã từng được thực hiện trong văn phòng lớn này có bày biện sách vở và các tủ kính.

Khía cạnh thể chất của Dacre đã bộc lộ tính chất sự chú tâm mà anh giành cho các vấn đề tâm linh trước hết là phương diện trí tuệ. Bộ mặt nặng nề của anh không có một chút gì của con người khổ hạnh cả, nhưng cái hiếm hoi của anh như là một chỏm núi bên trên một khu rừng thông, đã làm cho ta thấy một sức mạnh đáng kể về tinh thần. Các kiến thức của anh nhiều hơn sự khôn ngoan của anh một cách rõ rệt, những con mắt nhỏ, sáng của anh nằm sâu trong bộ mặt nung núc thịt long lánh vẻ thông minh và một sự tò mò không bao giờ thỏa mãn, nhưng đó là những con mắt của một kẻ đầy nhục cảm và tự kỷ trung tâm. Nói về anh ta như vậy là khá đủ rồi, vì ngày nay anh đã chết rồi, cái con quỷ xấu số đó: chết ngay đúng vào lúc mà anh tin rằng cuối cùng anh đã khám phá ra nước thuốc trường sinh, ngoài ra tôi không có ý định nói với các bạn về tính tình phức tạp của anh; tôi muốn kể lại với các bạn một sự việc không thể giải thích được đã xảy ra trong một lần tôi đến thăm anh hồi đầu xuân năm 1882.

Tôi biết Dacre ở Anh quốc vì tôi đã bắt đầu các việc sưu tầm của tôi trong căn phòng về Assyrie tại viện bảo tang Anh quốc vào thời kỳ mà anh đang cố gắng gán một ý nghĩa thần kỳ và bí truyền cho các biển của Babylon và sự cùng chung quan tâm này đã đưa chúng tôi lại gần nhau, những ý kiến ngẫu nhiên đã đưa tới những cuộc tranh luận hàng ngày và rút lại chúng tôi đã kết bạn với nhau. Tôi hứa với anh rằng tôi sẽ tới thăm anh trong chuyến qua Paris sắp tới của tôi, ngay cả khi tôi sắp thực hiện lời hứa, tôi cũng ở trọ tại Fontainebleau, vì thường không có các chuyến xe lửa buổi chiều nên anh mời tôi ngủ lại đêm ở nhà anh.

- Tôi chỉ có cái giường này để mời anh, anh nói với tôi trong khi chỉ một cái đi-văng lớn trong căn phòng rộng của anh. Tôi hy vọng rằng dù sao anh cũng sẽ có thể ngủ một cách thoải mái ở đó.

Thật là một căn phòng đặc biệt để người ta nằm ngủ, căn phòng với những bức tường cao được che phủ khắp nơi bằng những cuốn sách màu nâu! Nhưng với một người ham mê sách cũ như tôi, lối trang trí này rất thích thú và tôi quý trọng cái mùi thanh thoát bốc ra từ một cuốn sách cũ. Tôi trả lời anh rằng tôi không ước muốn một căn phòng nào vui mắt hơn thế này cũng không mong ước một khung cảnh nào có nhiều cảm tình hơn thế này.

- Nếu sự thiết trí này cũng kém vẻ thực tế như kém tính chất ước lệ. Ít nhất nó cũng bắt tôi phải trả một cái giá đắt, anh nói với tôi trong khi đảo mắt nhìn một vòng trên các ô tủ của anh. Tôi đã tiêu tốn tới một phần tư triệu để có được tất cả những thứ ở chung quanh anh. Những quyển sách, những khí giới những viên đã quý và những bức điêu khắc, những tấm thảm, những bức họa... mỗi vật đều có lịch sử riêng của nó và thường là một lịch sử thú vị.

Anh ngồi ở một bên lò sưởi và tôi ngồi một bên khác cái bàn mà anh dung làm mắt giấy thì ở về mạn tay phải của anh, trên bàn là một ngọn đèn rất mạnh tở ra một vòng ánh sáng vàng óng, một tấm da mới trải ra một nửa nằm ở giữa bàn, vây quanh bởi những thứ linh tinh chỉ đáng làm đồ lạc soong. Trong đám những đồ này nọ có một cái phễu như là thứ phễu mà ta thường dung để đổ rượu vang vào đầy các thùng, nó có vẻ như bằng gỗ đen và nó được đánh đai chung quanh bằng một khoạn trên bằng đồng đã phai màu.

Tôi nói với anh:

- Đây là một vật kỳ dị. Lịch sử của nó ra thế nào?

- A! đó chính là câu hỏi mà tôi đã nêu lên nhiều lần, xin anh hãy cầm lấy nó trong bàn tay và xem xét nó...

Tôi làm theo những gì anh bảo và tôi thấy rằng cái phễu không phải bằng gỗ mà bằng da nhưng bị thời gian là cho khô đi tới một mức đô quá thái. Nó khá lớn; khi đổ đầy nó phải chứa được một lít chất lỏng. Chiếc khoen đồng bao quanh cái phần lớn nhất nhưng phía dưới cổ phễu cũng có một vòng kim loại.

- ...Anh nghĩ sao về cái phễu này? Dacre hỏi tôi

- Tôi cho là nó thuộc về một anh hàng rượu hoặc một anh làm kẹp mạch nha thời trung cổ, ở Anh quốc, tôi đã nhìn thấy những cái chai phình bụng rất lớn bằng da có từ thế kỷ thứ mười bảy: người ta gọi chúng là những cái "roi bọc da", những cái vồ đập chết trâu chúng cũng cùng một màu và cùng một sức to bền như cai phễu này.

- Tôi nghĩ rằng cái phễu này chắc cũng có vào khoảng cùng một thời kỳ đó, người chủ của cái phễu trả lời tôi và chăc chắn là nó được dung để đổ đầy một cái lọ. Nhưng trừ khi có sự lầm lẫn về phần tôi, đây là một nhà buôn rất đặc biệt đã dung cái phễu này để đổ đầy một cái thùng cũng không kém phần đặc biệt. Anh không nhận thấy gì khác thường ở phía dưới cổ phễu à?

Tôi nhìn cái phễu dưới ánh sáng của cây đèn và lúc đó tôi nhận thấy ở một chỗ phía trên cái khoen đồng nhỏ độ mười phân, cỏ phễu bị sây sát, có rạch, như đã bị một người nào cắt khía với một con dao cùn, chỉ có tại chỗ đó cái bề mặt đen mới mất vẻ xù xì

- Một người nào đó định cắt cái cổ phễu

- Cắt nó, anh nghĩ vậy à?

- Hình như nó bị xé rách ra. Bất kể người ta dùng một khí cụ nào, phải có sức mạnh mới gây được các vết tích này lên một vật cứng như vậy! Nhưng về phần anh, ý kiến anh ra sao? Tôi tin rằng anh đã biết nhiều hơn là điều mà anh đã nói.

Decre mỉm cười và cặp mắ nhỏ ranh mãnh của anh ta đã tiết lộ cho tôi thấy là tôi không lầm.

Anh hỏi tôi:

- Trong các cuộc nghiên cứu về triết học của anh , anh có quan tâm tới môn tâm lý học về các giấc mơ không?

- Tôi không biết là đã có một khoa tâm lý học về loại này.

- Quan ngài quý mến của tôi, anh có trông thấy cái ngăn ở phía trên tủ kính đựng các đá quý không? Nó chứa đầy ắp các sách từ thời Albert le Grand (một nhà thần học và triết gia ở thế kỷ thứ mười ba) nói về chủ đề này, môn tâm lý học về các giấc mơ là một khoa học giống như các môn khoa học khác.

- Một khoa học của các tay phương sĩ ảo thuật!

- Nhà phương sĩ bao giờ cũng là người tiền đạo. Từ nhà chiêm tinhđã nảy sinh ra nhà thiên văn học, từ nhà luyện đan, nảy sinh ra nhà hóa học, từ nhà chữa bệnh bằng khoa thôi miên nhân điện nảy sinh ra nhà tâm lý học kinh nghiệm, nhà phương sĩ ảo thuật ngày hôm qua là giáo sư của ngày mai. Sẽ có một ngày mà cả những điều tế vi không thể sờ mó được mà chúng ta gọi là những giấc mộng sẽ được xếp loại, chia ra từng bộ, hệ thống hóa. Tới ngày đó, những sự sưu tầm của những người bạn của chúng ta đang nằm choán tất cả cái ngăn này, sẽ không còn là một đề tài mua vui cho người thích chuyện thần bí mà sẽ là nền tảng cho một môn khoa học.

- Cho rằng sự việc là như vậy đi thì khoa học về các giấc mơ có dính líu tới một cái phễu lớn bằng da có đánh đai đồng?

- Tôi sẽ nói với anh về chuyện đó. Anh biết rằng tôi đã trả lương cho một nhân viên, người này lúc nào cũng theo dõi những đồ hiếm có và kỳ lạ giành cho bộ sưu tập của tôi, cách đây vài ngày ông ta được biết tin một lái buôn ở các bến tàu mới mua được một số cổ vật, các cổ vật này được tìm thấy trong tủ tách chén căn nhà cổ tọa lạc chỗ tận cùng một phố của Khu phố La tinh. Phòng ăn của căn nhà đã được trang hoàng một tấm biển huy chương với các huy hiệu: những hình chữ V và gạch đỏ trên nền bạc, một cuộc sưu tra nhanh chóng chứng tỏ rằng đó là huy chương của Nicolas de la Reynie, một trong những quan chức cao cấp của vua Louis thứ XIV. Không ai được phép nghi ngờ điêu gì nữa: những cổ vật khác trong tủ tách chén đã có từ lúc khởi đầu triều đại Đức vua Mặt trời. Do đó, tôi suy đoán rằng tất cả các cổ vật này đều thuộc về ông Nicolas de la Reynie đó, ông là sĩ quan cảnh sát trưởng do đó phụ trách sự áp dụng và đôn đốc việc thi hành các luật lệ khắc nghiệt của thời đó.

- Và sao nữa?

- Bây giờ xin anh hãy cầm lấy cái phễu và xem kỹ cái khoen đồng ở phía trên. Anh không nhìn thấy một cái gì giống như một chữ à?

- Chắc chắn là đã có những bế trầy trên cái khoen bằng đồng, thời gian đã gần như xóa nhòa chúng. Đúng, xó thể thật sự đã có những chữ, chữ cuối cùng có vẻ phảng phất giống chữ B.

-... Anh có phân biệt rõ một chữ B không?

- Có.

- Tôi cũng vậy, ngoài ra tôi tin chắc đó là một chữ B.

- Nhưng quý nhân mà anh nói tới đã có một cái tên bắt đầu bằng chũ R?

- Đúng thế! Đó là chỗ ly kỳ của câu chuyện. Ông ấy sở hữu vật kỳ lạ này, vậy mà vật đó lại mang những chữ bắt đầu bằng tên của một người nào khác, tại sao?

- Tôi không biết chút gì về việc này cả. Còn anh?

- Chúng ta hãy cố đoán xem, ở xa hơn một chút trên cái khoen đồng, anh không nhìn thấy một thứ hình vẽ à?

- Có một cái mũ phải không?

- Đó là một cái mũ, không chối cãi được, nhưng nếu anh nhìn nó lúc ban ngày, anh sẽ thấy đó không phải là một cái mũ thường. Đó là một cái mũ có huy hiệu, biểu trưng cho một địa vị xã hội, nó được cấu tạo bằng sự xen kẽ của bốn viên ngọc trai và những lá dâu, đó là mũ của một vị hầu tước. Do đó, chúng ta có thể suy luận ra rằng người mà chữ tắt cuối cùng là một chữ B đã có quyền đặt cái mũ nhỏ này.

- Vậy là cái phễu da vô tích sự này đã thuộc về một vị hầu tước à?

Decre mỉm cười.

- Hay thuộc về một người trong gia đình một hầu tước, chúng ta đã suy diễn tất cả mọi việc đó từ chiếc khoen được chạm trổ này.

- Nhưng một lần nữa, có liên quan gì với những giấc mơ? Liệu tôi có nên gán một cảm giác đột ngột của sự ghê tởm, sự kinh hãi vô lý đang xâm chiếm người tôi, lúc đó cho một cái nhìn mà tôi tưởng là tôi đã phát hiện ra ở Decre hoặc cho một cái gì mà tôi không biết rõ đã ngấm ngầm trong thái độ của anh.

- Đã hơn một lần, tôi nhận được những thông tin rất quan trọng qua một giấc mơ, anh bạn trả lời tôi với cái giọng thầy giáo mà anh ưa thích. Bây giờ tôi đã đặt thành quy luật là mỗi khi tôi ngần ngại về một chi tiết vật chất thì tôi đặt cái vật đó bên cạnh tôi trong khi tôi ngủ và nhất quyết hy vọng một sự thiên khải. Đối với tôi, phương pháp này không có vẻ tối tăm lắm, mặc dù nó không được sự tán thưởng của khoa học chính thức vào thời buổi này, theo giả thuyết của tôi, bất kể vật nào có liên hệ mật thiết với bất kỳ một sự xúc động cao độ nào đó của con người, dù vui vẻ hay đau khổ, đều lưu giữ được một không khí hay một sự thấm nhiễm có thể truyền thông cho một tâm hồn bén nhạy và dễ cảm thụ. Với những tâm hồn bén nhạy, tôi tuyệt nhiên không có ý định nói tới một tâm hồn bình thường, tôi chỉ nói tới một tâm hồn có rèn luyện và có học vấn, như anh hay tôi là những người đã có một tâm hồn như vậy.

- Thí dụ ý anh muốn nói là nếu tôi nằm ngủ bên cạnh thanh gươm cổ treo ở trên tường này thì tôi có thể nằm mộng thấy một vụ đổ máu mà thanh gươm đã tham dự vào à?

- Anh đã rất khéo chọn ví dụ của anh! Quả thật tôi đã dùng phương pháp mà tôi vừa nói với anh đối với thanh gươm này và trong một cơn mộng tôi đã chứng kiến cái chết của người chủ của nó; ông ta đã chết trong một cuộc giao tranh nhỏ mà tôi không thể biểt rõ rệt là ở nơi nào, nhưng nó đã xảy ra vào thời chiến tranh "Bắn nhau bằng các hòn đá". Nếu muốn suy ngẫm kỹ càng, một vài tín ngưỡng trong dân gian đã chứng tỏ rằng tổ tiên chúng ta cũng đã nhìn nhận sự thật này, mà với sự khôn ngoan của chúng ta, nay chúng ta đã liệt vào loại các dị đoan.

- Thí dụ?

- Chẳng hạn khi người ta đặt chiếc bánh hôn lễ bên dưới gối để cho người ngủ có được những giấc mơ vui thích. Anh sẽ tìm thấy nhiều trường hợp tương tự khác trong một tập sách nhỏ mà tôi đang viết. Nhưng xin quay về với vấn đề lớn của chúng ta, một đêm tôi đã nằm ngủ với cái phễu này ở bên cạnh mình và tôi đã có một cơn mộng chiếu một ánh sáng kỳ lạ vào nguồn gốc và công dụng của nó.

- Anh đã nằm mộng thấy gì?

- Tôi đã mộng thấy...

Anh ngừng lại và anh đột nhiên có vẻ rất chú tâm.

-...Lạy Chúa, đây là một ý kiến mà tôi tin là tốt, anh nói tiếp, thật sự đây là một cuộc thí nghiệm rất bổ ích. Anh là một người thiên về tâm linh, anh có những giây thần kinh phản ứng cấp kỳ được với bất cứ một cảm giác nào...

- Tôi chưa bao giờ thực hiện những cuộc thử nghiệm kể trên.

- Được, chúng ta sẽ thử nghiệm anh tối hôm nay! Liệu tôi có thể yêu cầu anh coi như anh giúp tôi một việc lớn, vì anh sẽ ngủ ở đây tối hôm nay, nằm ngủ với chiếc phễu cũ kỹ này để bên cạnh gối của anh không?

Đối với tôi, lời thỉnh cầu có vẻ vô lý, buồn cười, nhưng một trong những mặc cảm của tôi là sự khao khát vô biên về tất cả những gì liên quan tới sự kinh dị và kỳ lạ. Tôi không tin ở thuyết của Decre tí nào và tôi không nghĩ gì tới sự thành công trong cuộc thí nghiệm của anh, tuy nhiên không co gì làm tôi bực bội khi đem làm thử cuộc thí nghiệm này. Với vẻ nghiêm trọng, Decre đem tới đầu đi-văng của tôi một cái ghế đẩu trên đó được đặt cái phễu. Chúng tôi còn truyện trò ba hoa một lúc, rồi anh chúc tôi ngủ ngon và để tôi một mình.

Tôi còn ngồi lại một lát bên bếp lửa để hút một điếu thuốc lá và tôi suy ngẫm tới cuộc nói chuyện của chúng tôi. Tôi thấy mình hoài nghi quá, đã có một cái gì lúng túng trong sự vững lòng của Decre; tôi cảm thấy xúc động vì khung cảnh hơi khác thường mà tôi đang sống vì căn phòng rộng mênh mông chứa các đồ vật rất lạ lùng và đôi khi quái gở này. Sau cùng tôi cởi bỏ quần áo, tắt đèn và nằm xuống. Sau nhiều lần trằn trọc trở mình, tôi ngủ thiếp đi. Xin các bạn cho phép tôi cố sức mô tả với một sự chính xác nhất khả dĩ có được về giấc mộng mà tôi đã thấy; những tình tiết của nó tồn tại trong ký ức của tôi rõ ràng hơn bất cứ một cảnh trí nào mà tôi thực sự tham dự.

Về khung cảnh thì nó là một căn phòng vòm cong. Ở những góc, bốn cổng tường leo tới một cái mái có cạnh sắc. Lối kiến trúc thô kệch nhưng vững chắc là căn phòng này thuộc về một tòa nhà đồ sộ.

Ba người đàn ông mặc đồ đen, đội những cái mũ nhung đen có vẻ nặng nề ngồi xếp hàng trên một cái bục có trải thảm đỏ. Họ có vẻ rất nghiêm trang, rất buồn bã. Phía bên trái, hai người đàn ông mặc áo dài, mỗi người cầm một cái ví nom như nhét đầy giấy tờ. Phía bên phải, một người con gái bé nhỏ tóc nâu với cặp mắt kỳ dị màu xanh trong sáng, những con mắt của trẻ con đang nhìn về phía tôi. Cô không còn trong tuổi hoa niên nữa, nhưng cô vẫn còn trẻ, người mập, tròn trĩnh, cô có một phong cách kiêu hãnh vững vàng, khuôn mặt tái xanh nhưng tinh khiết. Khuôn mặt kỳ dị, dễ thương với một cái gì có vẻ giả dối như một đôi chút tàn độc trên cái miệng mỏng và thẳng và cái cằm đầy thịt. Cô quấn mình trong một thứ áo dài rộng và trắng. Bên cạnh cô một tu sĩ gày guộ đầy nhiệt tình đang nói nhỏ vào tai cô, co quay đầu đi và nhìn một cách chăm chú, ngoài tầm cây thánh giá, ba người đàn ông mặc đồ đen mà tôi cảm thấy hẳn là các vị quan tòa xử cô.

Ba người đàn ông đứng dậy và nói một vài tiếng mà tôi không nghe rõ, đó là người đàn ông ngồi giữa nói. Rồi họ đi ra khỏi căn phòng, hai người đàn ông mang ví đi theo họ. Ngay cùng lúc đó nhiều người mặc quần áo chẽn đi vào trong phòng, cuốn tấm thảm đỏ rồi tới những tấm ván là thành cái bục, nhanh chóng thu dọn gọn gàng. Khi màn cảnh đó biến mất rồi, tôi nhận thấy sự hiện diện của những đồ vât kỳ dị; một thứ nom giống như một cái giường với những bánh xe nhỏ bằng gỗ ở hai đầu và một cái cân quay tay để điều chỉnh chiều dài, một thứ khác là một con ngựa gỗ; cũng có cả những dây thừng treo lủng lẳng bên trên các bánh xe lăn, người ta có thể nói đó là một phòng tập thể dục tối tân.

Khi căn phòng được chuẩn bị sẵn sàng, một nhân vật mới xuất hiện trong khung cảnh đó. Đó là một người đàn ông lớn và gầy gò, mặc toàn màu đen. Khuôn mặt xương xẩu và khắc khổ của ông ta làm tôi phát run lên. Quần áo của ông lóng lánh chất mỡ và đầy những vết bẩn. Ông đi đứng với một vẻ đường bệ, mực thước, oai nghiêm, như thể từ lúc bước vào căn phòng ông đã nắm quyền điều khiển mọi công việc. Bất kể tới cái dáng điệu thô vụng và những y phục bẩn thỉu của ông, lúc này là phần vụ của ông, căn phòng này là của ông và chính ông là người ra mệnh lệnh. Cánh tay trái của ông mang một cuộn dây thừng nhỏ người đàn bà nhìn ông với một cái nhìn dò xét, nhưng sắc diện của cô ta không hề thay đổi chút nào, chỉ có đôi chút thách thức phụ thêm vào vẻ tự tin vững vàng. Về phần vị tu sĩ thì mặt ông tái đi, tôi nhìn thấy mồ hôi nhỏ giọt trên vầng trán cao và gồ của ông. Ông chắp tay cầu nguyện, ông luôn luôn cúi xuống người đàn bà để thì thận với cô ta những lời khích lệ.

Người đàn ông mặc đồ đen tiến lên, cầm một trong những sợi dây thừng nhỏ và buộc hai bàn tay người đàn bà lại với nhau. Cô ta dịu dàng chìa hai tay cho ông. Rồi ông nắm lấy vai cô ta một cách hung bạo và ông đưa cô ta tới trướccon ngựa gỗ, con ngựa gỗ cao hơn thân mình cô một chút. Ông nhấc bổng cô lên trên, đặt cô nằm dài lên lưng con ngựa, cô nhìn lên trần nhà. Vị tu sĩ tứ chi run rẩy, chạy ù ra khỏi phòng, cặpmôi của người đàn bà mấp máy một cách mau lẹ; tôi không nghe thấy gì cả nhưng tôi biết cô đang cầu nguyện, hai chân cô bỏ thõng ở hai bên mình con ngựa, tôi trông thấy những tên phụ việc mặc quần áo chẽn đã cột các cổ chân cô và buộc đầy dây thừng vào những cái khoen sắt gắn ở ván lót nền phòng. Tim tôi se lại trước những sự chẩn bị hiểm ác này. Tuy nhiên bị đờ đẫn ra vì sự kinh hoàng, tôi không thể quay mắt đi khỏi hoạt cảnh này, một người đàn ông đi vào, mỗi tay xách một thùng nước. Đến lượt người thứ nhì đi vào với một thùng nước thứ ba. Họ đặt những cái thùng bên cạnh con ngựa gỗ, người đàn ông thứ nhì cũng mang một cái chậu nhỏ bằng gỗ có cái cán thẳng. Y đưa cái chậu gỗ nhỏ này cho người đàn ông mặc đồ đen. Cùng trong lúc đó, một trong những tên đầy tớ tiến lại gần, hắn cầm một vật sẫm màu mà vừa nhìn thấy, dù là trong giấc mơ của tôi, nó đã nhắc tôi nhớ tới một cái gì. Đó là một cái phễu bằng da. Với một sức mạnh đầy tội lỗi, hắn cắm sâu cái phễu... Nhưng tôi không thể chịu đựng cảnh này nhiều hơn nữa. Tóc tôi dựng đứng lên vì kinh hãi. Tôi co quắp người lại, tôi giãy giụa, tôi làm đứt đoạn giấc ngủ của tôi và tôi tỉnh dậy kêu lên một tiếng lớn...

Tôi tỉnh lại kinh hoàng trong cái thư viện rộng lớn mắt trăng trải anh sáng xanh xao qua cửa sổ và chiếu ra những lằn màu đen và màu bạc trên bức tường đối diện. Ôi , thật là khoan khoái biết bao khi cảm thấy được trở lại thể kỷ XIX, khi nhận ra tôi đã rời bỏ căn phong của thời trung cổ đó để trở về một thế giới mà những cư dân đã có một trái tim khả dĩ gợi ra cho họ những tình cảm của con người! Tôi ngồi trên đi-văng, người vẫn còn run rẩy, tâm thần pha trộn giữa sự tri ân và nỗi kinh hoàng. Nghĩ ngợi tới những việc như vậy đã được thực hiện, đã có thể thực hiện được mà đấng thượng đế không trừng phạt những kẻ vô lại đã thi hành các việc đó! Phải chăng, đó là một truyện giả tưởng nảy sinh ra bởi trí tưởng tượng của tôi, hay đó là một sự việc đã thật sự xảy ra trong những ngày u ám độc ác của lịch sử thế giới. Tôi gục đầu vào hai bàn tay run rẩy của tôi. Và rồi bỗng nhiên tim tôi ngừng đập và ngay cả tôi không thể cất tiếng kêu lên được khi mà tôi kinh khiếp quá. Qua bóng tối của thư viện, có một người nào đó đang tiến lại chỗ tôi. Sự kinh hoàng được chồng chất thêm làm tiêu hủy lí trí con người. Không còn đủ sức để suy luận, để cầu nguyện, tôi chú mục nhìn cái bóng người đen sẫm đang bước tới gần. Cái bóng đen đó vừa đi qua một tia ánh trăng; lúc đó tôi lấy lại được hơi thở. Đó là Decre, trên mặt anh tôi thấy rằng anh cũng kinh hãi như tôi.

- Có phải anh đấy không? Nhân danh thượng đế, việc gì xảy ra thế? Anh nói với tôi với một giọng nói hốt hoảng.

- Ồ, anh Decre! Tôi sung sướng được thấy anh! Tôi mới xuống địa ngục, thật là khủng khiếp!

- Vậy chính anh mới kêu lên đó anh?

- Tôi nghĩ là vậy.

- Tiếng kêu vang dội khắp căn nhà. Bọn đầy tớ bị kinh hoàng...

Anh bật một que diêm và đốt đèn lên.

-... Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể nhóm lại lửa...

Anh quăng một vài khúc củi lên đống than hãy còn đỏ hồng.

-... Trời ơi, anh có vẻ xanh xao quá này, anh bạn quý. Người ta sẽ nghĩ là anh vừa mới nhìn thấy ma.

- Tôi đã nhìn thấy ma... nhiều ma!

- Vậy là cái phễu da đã đóng vai trò của nó?

- Dù cho tôi tất cả vàng trên thế giới tôi cũng không muốn ngủ một lần bên cạnh vật quỷ quái này.

Decre bật ra một tiếng cười nhỏ. Anh nói với tôi.

- Tôi đã trù liệu rằng anh sẽ có một đêm nơi náo động, nhưng anh đã trả thù rồi, vì tiếng la hét của anh không phải là rất êm ái để mọi người nghe vào lúc hai giờ sáng, theo lời anh nói, tôi tưởng tượng là anh đã nhìn thấy tất cả sự việc khủng khiếp đó phải không?

- Sự việc khủng khiếp gì?

- Sự hành tội bằng nước. "vấn đề dị thường"như người ta đã nói dưới thời Vua Mặt trời. Anh có chịu đựng được cho tới cùng không?

- Không, lạy chúa tôi! Tôi đã thức dậy trước khi việc đó khởi sự.

- À, càng hay cho anh, tôi thì tôi đã cầm cự tới thùng nước thứ ba. Dẫu sao thì đó cũng là câu chuyện từ cổ xưa, những vị anh hùng giờ đây đã bị chôn vùi dưới đất rồi! Chắc chắn là anh không có một chút ý kiến gì về cái quang cảnh mà anh đã chứng kiến phải không?

- Việc hành tội môt nữ phạm nhân nào đó. Hẳn cô ta đã phạm những trọng tội ghê gớm nên mới phải chịu một hình phạt như vậy!

- Việc đáng kể là chúng ta đã có được sự an ủi nhỏ nhoi này, Decre trả lời tôi, trong khi cuộn mình trong chiếc áo ngủ và bước lại gần lò sưởi, những tội ác của cô ta tương xứng với hình phạt của cô ta. Ít nhất nếu tôi không lầm về lý lịch của người đàn bà này.

- Làm thế nào mà anh có thể khám phá ra lý lịch của cô ấy.

Thay cho câu trả lời, Decre lấy từ kệ tủ ra một cuốn sách cổ.

- Hãy nghe điều này! Anh bảo tôi. Anh sẽ tự mình phán đoán xem có phải tôi đã tìm ra lời giải đoán của việc bí ẩn. "Người nữ tù nhân bị đem ra xét xử trước Đại Pháp Viện của Tối Cao Pháp Viện họp tại tòa án với tội danh là đã ám sát ông Dreux d'Anbray, thân sinh ra cô và hai anh trai cô, các ông d'Anbray, một người là tài phấn dân sự và người kia là Ủy viên Tối Cao Pháp Viện. Hình như khó mà tin rằng cô là thủ phạm của những tội ác quái gở như vậy, vì cô có vẻ dịu hiền, cô người nhỏ nhắn, cô có một màu da nâu và những con mắt màu xanh. Tuy nhiên tòa án đã phán quyết cô là thủ phạm, buộc cô phải chịu sự thẩm vấn thường và sự thẩm vấn đặc biệt ngõ hầu bắt cô phải khai tên tuổi những kẻ đồng lõa, rồi bị dẫn giải bằng xe bò tới công trường Genève, ở đó cô sẽ bị chém đầu, xác cô sẽ bị thiêu và tro tàn bị trải tung cho gió cuốn"

"Ngày tháng của sổ đăng lục này là ngày mười sáu tháng bảy năm 1676"

- Thú vị đó! Tôi trả lời. Nhưng không đủ sức thuyết phục. Làm thế nào anh chứng minh được rằng là đó là cùng một người đàn bà này?

- Tôi chứng minh được, câu chuyện kể lại thái độ của người đàn bà trong cuộc thẩm vấn: "Khi kẻ hành tội đến gần cô, cô nhần ra hắn ta vị những dây thừng nhỏ mà hắn ta cầm trong tay và ngay tức thì cô chìa những bàn tay cô cho hắn trong khi mắt nhìn hắn từ đầu tới chân mà không thốt ra một câu nào". Có đúng vây không?

- Đúng.

- "Cô thản nhiên nhìn con ngựa gỗ và những khoen là những thứ đã vặn gãy rất nhiều tay chân và những tiếng kêu đau đớn. Khi mắt cô nhìn tới ba thùng nước đã được chuẩn bị sẵn, cô mỉm cười nói: "Tất cả số nước này được mang tới đây với dụng ý làm tôi chết chìm, thưa ông. Tôi cho rằng ông không nghĩ tới việc bắt một người nhỏ bé như tôi phải nuốt hết chỗ nước này chứ?". Tôi có cần đọc cho anh nghe những chi tiết của sự hành tội không?

- Không, vì lòng lành của Thượng đế!

- Đây là một câu chứng tỏ cho anh thấy rằng những gì được kể trong quyển sách này đúng là cái cảnh mà anh đã chứng kiến hôm nay: "Đạo sư Piror hiền hậu không thể đứng nhìn những sự đau khổ mà người đàn bà bị hành tội sắp phải chịu đựng, đã bước vội ra khỏi căn phòng". Điều này có thuyết phục anh không?

- Hoàn toàn thuyết phục. Không còn nghi ngờ gì, đây đúng là cùng một việc, nhưng như vâỵ thì cái người đàn bà rất duyên dáng này là ai mà phải chịu một kết cục quá khủng khiếp như thế?

Decre bước lại gần tôi và anh đặt cây đèn nhỏ trên cái bàn ở đầu giường, cầm nâng cái phễu chết tiệt lên, anh quay cái khoen bằng đồng lại để cho ánh sáng soi rõ nó. Khi nhìn như vậy tôi thấy những hình chạm rõ hơn là vào buổi tối.

- Chúng ta đã nhận xét rằng đây là biểu trưng của một vị hầu tước hay là một nữ hầu tước, chúng ta đã xác định rằng chữ cuối cùng là một chữ B.

- Đúng, không thể chối cãi được.

- Bây giờ tôi chưa đưa ra một ý kiến, những chữ khác từ trái qua phải, không phải là một chữ M, một chữ M nữa và một chữ d nhỏ, một chữ A, một chữ d nhỏ rồi một chữ B tận cùng hay sao?

- Đúng, tôi nghĩ rằng anh nói có lý. Tôi nhận ra hai chữ d nhỏ một cách hoàn toàn rõ ràng.

- Những gì mà tôi vừa đọc cho anh nghe, Decre tuyên bố, là sự ghi chép chính thức về vụ án Marie Madeleine d'Anbray, nữ hầu tước đất Brinvillien, một trong những người đàn bà can tội đầu độc chứ danh nhất của mọi thời đại.

Tôi đứng yên không nói được lời nào. Tôi bị choáng váng vì tính chất kỳ dị của sự việc và vì tính cách hình thức của bằng chứng mà Decre đã cung cấp cho tôi. Tôi nhớ lại một cách mơ hồ một vài chi tiết về sự nghiệp của người đàn bà này, sự trụy lạc buông thả của cô ta, những sự hành hạ có tính toán và cố ý mà cô đã bắt ông bố ốm đau của cô phải chịu; việc ám sát hai người anh trai của cô vì những lý do quyền lợi trong nhà. Tôi cũng nhớ tới sự dũng cảm mà cô đã biểu lộ vào những giờ phút cuối cùng của cô và sự dũng cảm mà cô đã chuộc lại một phần những tội ác của cô, cũng như mối cảm tình mà tất cả thành phố Paris đã bày tỏ với cô lúc cô bị hành hình; một vài ngày sau khi chửi rủa cô là kẻ đầu độc, những người dân thành phố Paris lại thực sự tôn sùng cô như là một vị thánh tử vì đạo. Có một điều phản đốii và một điều thôi đã nói lên trong đầu tôi:

- Làm thế nào mà các chữ viết tắt của tên cô và huy hiệu của cô lại có thể được khắc trên cái phễu? Tôi nghĩ rằng người ta không đưa sự sùng kính thời trung cổ đối với các bậc quý phái tới mức phải đi trang hoàng các dụng cụ để hành tội họ với các danh vị của họ, phải vây không?

- Điều này đã làm tôi suy nghĩ, Decre công nhân, nhưng nó chỉ có thể có một sự giải thích. Thời đó, vụ này đã gây ra một mối quan tâm đáng kể, không có điều gì tự nhiên hơn là cái việc ông La Raynie, vị phán quan về cảnh sát đó, đã giữ lại cái phễu làm kỷ niệm. Việc một nữ hầu tước của nước Pháp phải chịu cuộc thẩm vấn đặc biệt đâu phải là chuyên thường xảy ra. Chắc chắn ông đã sai khắc lên trên những chữ bắt đầu của từ Brinvillien để thỏa mãn những kẻ tò mò; hẳn là ông ta có thói quen làm những thể thức đó.

- Và còn cái này? Tôi hỏi và chỉ vào những dấu vết trên cổ cái phễu.

- Cô La Brinvillien là một con cọp cái hung ác, Decre vừa trả lời tôi vừa bỏ đi ra. Tôi nghĩ rằng cũng như những con cọp cái khác, cô ta có những cái răng nhọn và cứng.

Kết Thúc (END) Sir Arthur Conan Doyle

» Chiếc Nhẫn Tình Cờ

» Cung Đàn Sau Cuối

» Những Cuộc Phiêu Lưu Của Sherlock Holmes

» Sherlock Holmes Trở Về

» Thung Lũng Khủng Khiếp

» Sự Khủng Khiếp Giữa Trời Cao

» Tên Tử Tù Bất Tử

» Lô Số 249

» Chiếc Nhẫn Giải Thoát

» Cái Thang Máy

» Bàn Tay Nâu

» Con Mèo Brasil

» Con Chó Của Dòng Dọ Baskerville

» Dấu Bộ Tứ

» Những Hồi Ức Về Sherlock Holmes

» Tấn Thảm Kịch Của Tàu Korosko

» Hồn Ma Hiện Lên Từ Đáy Biển

» Vụ Án B.24

» Câu Chuyện Về Sannox Phu Nhân

» Cuộc Thí Nghiệm Ly Kỳ Tại Keinplatz

» Hang Blue John

» Chiếc Phễu Bằng Da

» Chơi Với Lửa

» Tuyển Tập Truyện Giả Tưởng Của Conan Doyle

Bàn Tay Nâu

Font Size: Tác Giả: Sir Arthur Conan Doyle

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Ai cũng biết ngày Dominic Hulden, một y sĩ danh tiếng tại Ấn Độ, đã chọn tôi làm người thừa kế của ông; và cái chết của ông sẽ biến đổi một anh y sĩ nghèo nàn, vất vả thành một ông chủ giàu sang, mọi người cũng đều biết rằng ít nhất có năm người cũng có thể ngấp nghé vào việc thừa kế ấy như tôi và rằng sự lựa chọn của ngài Dominich đã tỏ ra với một vài người là quá độc đoán và kỳ cục. Mặc kệ! Về phần tôi, tôi xác nhận rằng ngài Dominich đã có những lý do rất vững vàng để bày tỏ lòng ưu ái đối với tôi, mặc dù tôi chỉ mới biết ông trong những năm cuối cùng của đời ông. Tôi cũng dám nói rằng những điều tôi đã làm cho ông chú tại nước Ấn Độ này chưa bao giờ có ai từng làm được cho một người khác. Tất nhiên là tôi không thể hy vọng là người khác tin ở lời tôi, khi câu chuyện của tôi không phải là thứ truyện tầm thường. Nhưng tôi có cảm tưởng rằng tôi sẽ không làm tròn bổn phận nếu tôi không kể lại câu chuyện đó. Vậy thì sau đây là câu chuyện đó. Các bạn có tin ở tôi hay các bạn sẽ không tin tôi, đó là tùy ý các bạn.

Ngài Dominic là hội viên của Hội Ordre du Bain, có Huy Chương Ấn Độ Bội Tinh ... lúc sinh thời là một vị y sĩ cực kỳ lỗi lạc, ông đã từ giã quân ngũ để định cư tạI Bombay và mở phòng mạch chữa cho các con bệnh thường dân. Ông thường được mời đi thăm bệnh; ông đã đi tới tất cả các tỉnh của Ấn Độ. Tên tuổi ông được gắn liền mãi với bệnh viện Đông Dương mà ông đã tạo lập và khai triển. Vào một thời điểm nào đó, cái cơ thể vững như thép của ông đã biểu hiện những dấu hiệu của sự mệt mỏi, tiếp theo sự căng thẳng quá độ lâu năm mà ông đã bắt nó phải gánh chịu. Các đồng nghiệp của ông (có thể là không hoàn toàn bất vụ lợi trong trường hợp này) đã khuyên ông trở về Anh. Ông vẫn cố chịu đựng cho tới khi các triệu chứng thần kinh xuất hiện rõ ràng một cách đáng sợ. Lúc đó ông mới trở về cố hương Wiltshire của ông, tâm trí rất chán chường. Ông mua một tài sản đẹp đẽ, với một trang trại cũ, gần cánh đồng Salisbury và ông giành những ngày tàn của ông cho việc nghiên cứu môn so sánh bệnh lý học; môn học này đã là lý tưởng của một đời ông và ông đã đạt được một sự lừng danh bất khả tranh biện về nó.

Là những người trong gia đình ông, như các bạn đã thấy, chúng tôi rất xôn xao khi nghe tin ông chú giàu có và không có con cái này trở về Anh. Mặc dầu không tỏ ra có tính hiếu khách hào sảng, ông vẫn biểu lộ một đôi chút ‎ý niệm về các bổn phận đối với gia tộc ông; lần lượt từng người một, bọn chúng tôi đã được mời tới thăm ông.

Cứ tin ở lời năm người anh em họ của tôi đã tới thăm ông trước tôi thì chuyến đi về vùng quê này chả có gì là vui thích cả. Như vậy là với những tình cảm lẫn lộn, cuối cùng tôi đã nhận được một lá thư bảo tôi tới Rodenhurst. Vợ tôi đã bị gạt ra khỏi danh sách một cách quá cẩn thận khiến cho hành động đầu tiên của tôi là khước từ lời mời; nhưng liệu tôi có quyền lợi cùng với những quyền lợi của lũ con tôi không? Với sự đồng ý của vợ tôi, một buổi chiều tháng mười tôi di Wiltshire. Tôi đã không có chút tưởng tượng nào về các hậu quả của chuyến du hành này.

Tài sản của chú tôi tọa lạc ở một nơi mà những khỏanh đất canh tác được của cánh đồng bắt đầu nhỏ về hướng các vách đá vôi, một nét đặc thù của lãnh địa. Ngồi xe từ nhà ga Đinton vào lúc hoàng hôn của một ngày mùa thu đó, tôi đã bị trấn áp một cách kinh khủng bởi những dấu tích đồ sộ của đời sống tiền sử đến nỗi hiện tại hình như chỉ là một giấc mộng ở bên cạnh những sự thật ngạo nghễ, đầy sức ám ảnh của quá khứ. Con đường vạch ra những lối ngoằn nghèo trong các thung lũng được bao quanh bởi từng dãy đồi liên tiếp nhau và chóp đỉnh của tất cả những trái đồi này đều được đẽo gọt thành những công sự khá phức tạp, hình tròn hoặc hình vuông, những công sự này đã đứng ngạo nghễ trước gió và mưa hành bao nhiêu thế kỷ. Nhiều người nói chúng là của người La Mã, nhiều người khác bảo rằng chúng là của người Anh. Thật ra, nguồn gốc chân thật của chúng không bao giờ được làm cho sáng tỏ cả, cũng như các lý do tại sao trong cả các nơi, miền này lại có nhiều thành lũy như vậy. Rải rác đây đó, trên những triền xanh ô liu kéo dài và phẳng phiu, nổi cao lên những mô đất nhỏ, tròn trĩnh. Những ngôi mả này chứa đựng tro tàn của những người đã đào sâu những ngọn đồi, những bình đựng đầy tro bụi, đó là tất cả những gì còn lại của những người xưa kia đã lao động dưới ánh mặt trời.

Chính là phải đi qua miền quê bí hiểm này mà tôi đã tới gần Rodenhurst, nơi cư ngụ của chú tôi; ngôi nhà rất hòa điệu với những khung cảnh chung quanh. Hai cây cột bị đổ và lem luốc vì tuổi tác, trên mỗi cây đều có một tấm huy hiệu đã bị sứt mẻ, chúng đỡ lấy một tấm lưới mở ra trên một lối đi được chăm sóc một cách cẩu thả. Một cơn lạnh lẽo rít lên trong đám cây du thụ mọc bên cạnh lối đi. Không khí xào xạc những lá bay lả tả. Ở cuối lối đi, dưới một mái cây uốn cong, một ánh sáng vàng vọt lóe ra. Trong cái ánh sáng của giờ giấc này giữa lúc chạng vạng tối, tôi nhận ra một tòa kiến trúc dài và thấp xòe ra đôi cánh không cân đối, nóc nhà thoai thoải có những mái chìa ra ngoài, những xà nhà theo kiểu thời Tudor bắt chéo nhau trên các đầu tường. Một ngọn lửa ấm cúng nhảy múa phía sau bức cửa sổ lớn hình lục lăng ở bên trái cửa lớn ra vào; nó chỉ cho thấy nơi kê bàn giấy của chú tôi; và đó là nơi mà người quản gia đưa tôi tới để ra mắt ngài Dominic.

Chúng tôi đã ăn xong bữa, những kẻ hầu hạ đã rời khỏi phòng sau khi mang cho chúng tôi một ly porto, khi cuộc trò chuyện của chúng tôi quay sang một đề tài làm nẩy sinh một kết quả bất ngờ cho các vị chủ nhà của tôi. Tôi không còn nhớ làm thế nào mà chúng tôi đã đi tới chỗ đề cập tới vấn đề siêu nhiên; đại khái là tôi chỉ cho họ thấy là trong các cuộc thí nghiệm về tâm linh, sự bất bình thường là một vấn đề mà tôi, cũng như nhiều bác sĩ thần kinh học, đã giành rất nhiều sự chú tâm và tôi kết luận bằng cách kể lại một kinh nghiệm bản thân: với tư cách hội viên của Hội nghiên cứu Tâm linh, tôi đã tham dự một ủy ban để ngủ lại qua đêm tại một căn nhà có ma; mặc dù câu chuyện chẳng có gì là say mê, cũng chẳng có sức thuyết phục, cuộc mạo hiểm của tôi cũng khiến cho các vị thính giả của tôi chú ý với mức độ rất cao. Họ nghe tôi nói mà không bao giờ ngắt lời tôi. Tôi bắt gặp giữa họ có một vẻ gì về sự đồng lõa mà tôi không biết giải thích như thế nào. Bà Holden đứng dậy và để bọn tôi ở lại một mình.

Ngài Dominic đẩy một hộp xì gà về phía tôi. Chúng tôi yên lặng hút thuốc trong một lúc. Khi ông để điếu xì gà lên miệng, bàn tay xương xẩu to lớn của ông run rẩy. Những dây thần kinh của ông chắc chắn phải rung lên như những sợi dây đàn. Linh tính của tôi báo trước cho tôi biết rằng ông đang sắp sửa có điều gì thổ lộ tâm can và tôi định bụng không nói gì cả, sợ làm ông cụt hứng. Cuối cùng ông quay lại phía tôi với một cử động mau lẹ của một người vừa rủ sạch được nỗi áy náy sau cùng.

- Bác sĩ Hardane ạ, chú ít biết về cháu, ông bắt đầu nói. Tuy nhiên, đối với chú hình như cháu mới đúng là người chú muốn gặp.

- Thưa chú, hẳn chú thấy cháu rất sung sướng về điều chú nói.

- Chú có cảm tưởng cháu là người bình tĩnh và cháu có can đảm. Cháu đừng nghĩ rằng chú tìm cách phỉnh phờ cháu, vì hoàn cảnh rất trầm trọng khiến cho chú không thể làm thiếu đi bất cứ một chút gì cho sự thành thực. Cháu đã nắm vững một vài quan điểm của một triết gia, điều đó đã làm cho cháu tránh được một sự kinh hoàng tầm thường. Chú giả thiết rằng cảnh ma quỷ xuất hiện sẽ không làm cháu hoảng sợ quá mực.

- Thưa chú, cháu không nghĩ là cháu sẽ hoảng sợ.

- Và thậm chí có thể nó còn làm cho cháu thích thú nữa?

- Cháu rất thích thú.

- Vốn là một quan sát viên về tâm linh, chắc chắn là cháu đã nghiên cứu về vấn đề đặc biệt này một cách khách quan cũng như một nhà thiên văn học nghiên cứu ngôi sao chổi bay ở trên trời chứ?

- Vâng, đúng hệt như vậy.

- Ông bật lên một tiếng thở dài.

- Hãy tin ở chú, bác sĩ Hardane ạ, đã có thời chú có thể nói chuyện với cháu như cháu đang nói chuyện với chú lúc này. Ở Ấn Độ, sự dũng cảm của chú đã trở thành chuyện truyền khẩu. Ngay cả cuộc binh biến lớn lao cũng không làm suy yếu lòng dũng cảm của chú một phút nào. Tuy nhiên, cháu nhìn thấy ngày nay chú đã hóa thành một thứ đồ phế thải như thế nào: chú đã trở thành một kẻ nhút nhát nhất trong khắp vùng Wiltshire. Cháu chớ có ngổ ngáo quá trong lãnh vực này; nếu không có khi cháu sẽ bị vướng vào một cuộc thử thách lâu dài giống như cuộc thử thách mà chú đang vướng phải. Một cuộc thử thách chỉ sẽ chấm dứt trong một nhà thương điên hoặc trong nấm mồ.

Tôi cố kiên nhẫn chờ ông quyết định đi ngay vào điểm chính của mối bận tâm của ông. Khỏi cần phải nói thì ai cũng biết lời mở đầu của ông đã làm tôi say mê.

-... Từ một năm nay, ông nói tiếp, đời sống của chú và đời sống của thím bị buồn phiền. Nguyên nhân rất kỳ cục khiến người ta muốn bật cười. Tuy nhiên tính cách quen thuộc của nó khiến cho người ta không thể chịu đựng được. Trái lại, ngày tháng qua đi, các giây thần kinh của chú càng suy mòn một cách thảm thương. Nếu cháu không bị nỗi lo sợ về thể chất, bác sĩ Hardane ạ, thì chú rất sung sướng được nghe ý kiến của cháu về cái hiện tượng đã làm chúng ta mâu thuẫn nhau rất nhiều.

- Ý kiến của cháu, dù nó có giá trị thế nào đi nữa, xin đặt tùy quyền định đoạt của chú. Cháu có thể hỏi chú về bản chất của hiện tượng đó không?

- Chú nghĩ rằng kinh nghiệm của chính cháu sẽ hữu ích hơn nếu cháu không biết trước những gì mà có thể cháu sẽ khám phá ra. Chắc cháu đã hiểu sự hoạt động của não bộ và những cảm nghĩ chủ quan đã bao hàm một sự mập mờ khó hiểu như thế nào. Chú nghĩ tốt hơn hết là cháu nên tránh điều đó.

- Vậy thì bây giờ cháu phải làm gì?

- Chú sẽ nói cho cháu nghe. Cháu có vui lòng theo chú lại chỗ này không?

Rồi ông dẫn tôi ra khỏi phòng ăn, đi vào một hành lang tới cái cửa. Sau tấm cửa này là một căn phòng lớn không bày biện đồ đạc gì, được trang bị thành phòng thí nghiệm, với một số dụng cụ khoa học và nhiều chiếc bình. Trên một mảnh xích đồng đặt dọc theo mặt tường, có một dẫy xếp đầy những bình đựng các mẫu về bệnh lý học và các bộ phận được giải phẫu.

-... Cháu thấy là chú không xao lãng công việc cũ của chú, ngài Dominic nói. Những bình này chỉ là phần còn sót lại của những gì mà trước đây đã là một bộ sưu tầm quý giá. Bất hạnh thay chú đã đánh mất phần lớn cac mẫu này trong vụ hỏa hoạn làm cháy tiêu tan căn nhà của chú ở Bombay nay 1892. Trong nhiều phương diện vụ cháy tai hại này đã làm chú thiệt thòi quá nhiều. Chú đã có những loại mẫu rất hiếm và bộ sưu tầm của chú về bộ phận lá lách có thể coi là bộ duy nhất trên thế giới. Đây là những thứ đã cứu vãn được...

Tôi đảo mắt nhìn, khá đầy đủ để cho ta thấy rằng quả thực chúng có một giá trị rất lớn và trên phương diện bệnh lý học, đó là những thứ cực kỳ hiếm thấy; các cơ quan tụ đặc lại, các nang thũng rộng ngoắc, các mảnh xương biến dạn, những ký sinh trùng đáng ghét, tóm lại một cuộc trưng bày độc đáo về các sản phẩm của Ấn Độ.

-... Như cháu đã nhìn thấy, ở đây còn có một ghế tràng kỷ, ông chú tôi nói tiếp. Chú không hề nghĩ tới việc giành cho một vị khách một tiện nghi xoàng xĩnh như thế này. Nhưng qua cuộc nói chuyện của chúng ta, chắc cháu sẽ rất vui lòng chấp nhận việc ngủ qua đêm trong căn phòng này. Chú xin cháu đừng ngần ngại gì, mà cứ nói đi nếu lời đề nghị của chú làm cháu phật ý.

- Không có gì phật ý cả, tôi đáp lại. Điều này rất dễ chấp nhận.

- Phòng của chú là căn thứ nhì về bên trái. Trong trường hợp cháu thấy cần có người bầu bạn, cháu chỉ việc gọi chú. Chú sẽ tới ngay tức khắc.

- Cháu hy vọng rằng cháu sẽ không bị buộc lòng phải quấy phiền chú.

- Khó có chuyện là chú ngủ được. Chú không ngủ nhiều được nữa. Cứ gọi chú, chớ ngần ngại gì.

Thế là chúng tôi đã thỏa thuận với nhau, chúng tôi đi ra gặp lại bà Holden trong phòng khách và chúng tôi nói chuyện về những đề tài dí dỏm hơn.

Tôi công nhận không một chút màu mè nào rằng viễn ảnh của cuộc mạo hiểm này làm tôi vui thích. Tôi không muốn tỏ ra can đảm hơn những người ở bên cạnh tôi, nhưng khi người ta đã quen thuộc với một vấn đề, người ta coi thường những nỗi sợ hãi vu vơ và mập mờ đã làm kinh động một bộ óc giàu tưởng tượng. Bộ óc con người chỉ có thể tiếp nhận một cảm xúc mạnh trong một lúc nào đó: nếu nó đang nôn nóng vì tò mò hay nhiệt tình khoa hoc, thì sợ hãi không còn chỗ trong nó nữa. Đúng thật ông chủ tôi đã nói rằng lúc mới đầu ông cũng đã chia sẻ quan điểm của tôi; tôi nghĩ rằng sự suy sụp hệ thần kinh của ông có thể là do bốn mươi năm ông đã sống ở Ấn Độ, cũng như do bất cứ một cuộc mạo hiểm tâm linh nào. Còn về phần tôi, ít nhất tôi cũng vững vàng, nói về phương diện thần kinh và tâm lý; đó là lý do tại sao tôi đã cảm thấy sự hồi hợp dễ chịu mà người thợ săn thường cảm thấy khi ngồi rình gần tổ con mồi, khi tôi đóng sập cánh cửa phòng thí nghiệm sau lưng tôi. Tôi cởi bỏ một phần quần áo, rồi tôi nằm dài trên ghế trường kỷ trải những tấm da thú.

Nếu là một phòng ngủ thì khung cảnh không phải là lý tưởng. Không khí nặng trĩu mùi hóa chất, trong đó mùi cồn chín mươi sặc sụa nhất. Hơn nữa, cách trang trí không có chút gì làm người ta muốn ngủ. Cái dẫy những bình bày trong đó nổi lập lờ các vết tích của những bệnh tật và những sự đau đớn, đang phơi bày ra ngay trước mặt tôi. Trên cửa sổ không có cánh cửa, cũng không có màn che; một vầng trăng khuyết tuôn ánh sáng xanh xao vào căn phòng và vạch ra trên bức tường đối diện một hình vuông màu bạc, trong đó những hình lục lăng chồng chéo lên nhau. Khi đã có một vẻ huyền hoặc và rối rắm. Một sự yên lặng hoàn toàn chiếm ngự tất cả căn nhà cũ kỹ; tiếng xào xạc nhẹ nhàng của các cành cây ngoài vườn lọt tới tai tôi một cách dịu dàng. Phải chăng đó là lời ru ngủ của những tiếng rì rầm liên tục? Hay đó là sự mệt mỏi của một ngày qua? Tôi đã cố chống cự để gìn giữ tất cả sự tỉnh táo cho các giác quan của tôi, tôi đã ngủ một giấc ngủ say sưa.

Một tiếng động trong phòng thí nghiệm làm tôi thức giấc. Ngay tức thì tôi chống khuỷu tay ngồi nhỏm lên. Chắc tôi đã ngủ được một vài giờ đồng hồ, vì vệt sáng hình vuông trên tường đã di chuyển chếch xuống phía dưới và lúc này nó nằm nơi chân ghế trường kỷ của tôi. Phần còn lại của căn phòng bị chìm sâu trong bóng đêm tối sầm. Mới đầu tôi không thể phân biệt được chút gì cả rồi mắt tồi làm quen với bóng tối, rồi thì tôi nhận ra, với một cảm giác ớn lạnh, rùng mình mà các thói quen thiên về khoa học của tôi đã tỏ ra bất lực không thể kìm hãm được, đó là một vật gì đó đang di chuyển thong thả dọc theo bức tường. Thính giác trở nên bén nhạy hơn của tôi ghi nhận thấy một tiếng động nhẹ vừa tắt đi, tiếng động của những chiếc giày vải kéo lê trên mặt đất và tôi phân biệt ra một cách mơ hồ một bóng người bước đi một cách lén lúc; bóng này từ phía của ra vào đi tới; bóng đó nhô ra trong phần được chiếu sáng bởi ánh trăng và tôi đã nhìn thấy nó rõ ràng. Đó là một người đàn ông nhỏ và thấp, mặc một thứ áo dài màu xám đậm, dài thẳng từ hai vai tới chân. Ánh trăng soi sáng một bên mặt hắn ta, tôi nhận thấy da mặt màu sôcôla và hắn ta có một búi tóc đen phía sau đầu. Hắn ta đi thong thả, mũi ngẩng lên trời, hướng về cái xích đông nơi có những bình chứa đựng các mảnh vụn của những người đã chết. Hắn có vẻ xem xét tỉ mỉ từng bình một. Khi hắn xem xét xong, ngay chỗ cuối giường tôi, hắn dừng lại, quay mặt về phía tôi, giơ hai bàn tay lên một vẻ tuyệt vọng và biến mất.

Tôi nói rằng hắn giơ hai bàn tay lên; lẽ ra tôi nên viết rằng hắn giơ hai cánh tay lên, vì khi hắn ta làm dáng điệu tuyệt vọng đó, tôi nhận thấy một điều đặc biệt: hắn chỉ có một bàn tay! Khi những ống tay áo tụt xuống dọc theo những cánh tay giơ lên của hắn, tôi nhìn thấy rõ ràng bàn tay trái, nhừng còn bàn tay phải chỉ là một cái cùi tong teo gớm ghiếc. Ngoài cái bàn tay cụt đó ra, hắn ta có vẻ rất bình thường, tôi đã nhìn thấy hắn và nghe hắn một cách rất rõ rệt đến nỗi tôi tự hỏi có phải hắn là một trong những tên đầy tớ người Ấn Độ của ngài Dominic tới kiếm một vật gì trong phòng thí nghiệm không. Nhưng sự biến mất thình lình của hắn gợi ra cho tôi một sự giải thích thiếu bình thường. Tôi đứng bật dậy, thắp nến lên và xem xét tỉ mỉ căn phòng. Vì tôi không tìm thấy một dấu vết nào của người khách của tôi, tôi phải chấp nhận rằng sự hiện diện của hắn đã một phần nào vượt ra ngoài khuôn khổ các qui luật tự nhiên. Tôi không ngủ lại nữa; nhưng đêm qua đi mà không có một sự cố nào khác.

Bao giờ tôi cũng dậy sớm; nhưng ông chú tôi đã dậy sớm hơn tôi: ông đang đi bách bộ trên thềm cỏ trước nhà; khi ông thấy tôi đứng trên bực cửa, ông chạy lại.

- Thế nào? ông nói lớn. Cháu có thấy hắn không?

- Một gã Ấn Độ chỉ có một bàn tay?

- Đúng.

- Vâng, cháu đã thấy hắn.

Tôi kể lại cho ông nghe những việc đã diễn ra. Sau đó, ông dắt tôi vào phòng làm việc của ông.

- Chúng ta có đôi chút thời giờ trước khi ăn điểm tâm, ông nói với tôi khoảng thời gian đó đủ để cho cháu nghe một cách giải thích về sự việc dị thường này, theo như chỗ chú có thể giảng nghĩa cho cháu một điều mà thật ra không thể nào giải thích được. Trước hết khi chú nói cho cháu hay rằng từ bốn năm nay không bao giờ chú ngủ được trọn vẹn một đêm, dù là ở Bombay, dù là ở trên tàu thủy, dù là ở nước Anh, mà không bị quấy rầy trong giấc ngủ bởi con người đó, cháu sẽ hiểu tại sao chú lại trở thành con người tàn tạ. Chương trình của hắn ta không thay đổi. Hắn hiện ra bên cạnh giường chú, lay mạnh vào vai chú, đi từ phòng chú vào phòng thí nghiệm, đi thong thả trước dãy bình của chú, rồi biến mất. Ít nhất hắn đã làm như vậy hàng ngàn lần.

- Hắn đòi hỏi gì ở chú?

- Bàn tay hắn.

- Bàn tay hắn à?

- Ừ, khoảng độ 10 năm trước, chú được mời tới khám bệnh ở Pessawa; trong chuyến công tác của chú, người ta yêu cầu chú xem bàn tay một người bản xứ đi qua thành phố cùng với một đoàn xe của người Afghanistan. Hắn ta gốc gác ở một bộ lạc sơn cước sinh sống ở từ xa, phía bên kia dẫy núi Kafiristan và hắn nói một thổ ngữ gần như không ai hiểu được. Hắn bị bệnh sưng phù biến nhan ở một trong các khớp xương bàn tay và chú cố sức nói cho hắn ta hiểu là hắn chỉ có thể cứu lấy mạng sống bằng cách hy sinh bàn tay của hắn. Phải vất vả lắm chú mới thuyết phục được hắn ta; sau hết hắn đồng ý việc giải phẫu. Ngay khi việc giải phẫu xong xuôi, hắn ta hỏi chú là hắn phải trả bao nhiêu tiền. Thằng quỷ khốn khổ đó gần như một tên ăn xin, nên chú không lấy tiền của hắn. Nhưng chú trả lời hắn với sự bông đùa rằng chú bằng lòng lấy bàn tay của hắn và rằng chú có ý định lấy bàn tay đó để thêm vào bộ sưu tập về bệnh lý của chú.

"Trước sự kinh ngạc vô cùng của chú, hắn ta đưa ra nhiều lý lẽ để phản đối. Hắn ta cắt nghĩa cho chú thấy là theo tôn giáo của hắn, thật là tối quan trọng việc thể xác phải hợp nhất lại sau khi người ta chết, để dùng lam nơi trú ngụ hoàn hảo cho linh hồn. Như cháu đã biết, sự tín ngưỡng này đã có từ rất lâu đời và những xác ướp của người Ai Cập cũng xuất phát từ một mối dị đoan tương tự. Chú hỏi hắn ta là hắn ta làm cách nào để bảo tồn nó. Hắn nói hắn sẽ cho ngâm nó vào nước muối và hắn sẽ luôn luôn mang nó bên mình. Chú bảo hắn rằng chắc chắn là nó sẽ được an toàn ở nhà chú hơn là ở trong người hắn và rằng chú có sẵn những chất liệu tốt hơn để bảo tồn nó. Khi hắn hiểu rằng chú thực bụng muốn bảo toàn bàn tay ấy, sự chống đối của hắn chấm dứt hình như với sự hoan hĩ. "Nhưng xin ông nhớ rằng, ông quan thầy, hắn nói với chú, rằng tôi sẽ trở lại tìm nó khi tôi chết." Chú bật cười và sự việc đã kết thúc. Chú quay về với các thân chủ của chú và chắc hắn có thể tiếp tục lên đường đi Afghanistan.

"Như chú đã nói với cháu về việc đó chiều hôm qua, nhà của chú ở Bombay hầu như bị cháy rụi hoàn toàn. Cùng với nhiều đồ vật khác, bộ sưu tầm về bệnh lý học của chú đã bị thiêu hủy gần như hoàn toàn, trong đó có cả cái bàn tay của anh chàng người sơn cước đó. Việc đó xảy ra đã sáu năm rồi."

"Ngay lúc đó chú không nghĩ tới việc thương tiếc cái bàn tay đó. Nhưng hai năm sau vụ hỏa hoạn, một đêm chú đã bị đánh thức dậy bởi một kẻ nào đó, hắn giật ống tay áo của chú một cách giận dữ. Chú ngồi dậy, nghĩ rằng con chó cưng của chú muốn làm chú thức giất. Thay vì con chó, chú đã nhìn thấy anh chàn bệnh nhân người Ấn Độ thưở trước, mặc một cái áo dài màu xám, là bộ y phục dân tộc của anh ta. Hắn ta hua cái cùi tay cụt lên va nhìn chú với một vẻ trách móc. Sau đó hắn đi tới phía những bình của chú, mà khi đó chú giữ ở trong phòng của chú; hắn xem xét những bình này một cách chăm chú; rồi hắn đưa ra một điệu bộ giận dữ và biến mất. Chú đoán rằng hắn ta vừa mới chết và hắn ta tới nhắc lại với chú lời hứa của chú và đòi lại bàn tay của hắn."

"Như vậy đó ! Cháu đã biết tất cả, bác sĩ Hardane ạ. Mỗi đêm, cứ vào giờ đó, từ bốn năm nay, cái cảnh đúng hệt như vậy cứ diễn ra. Nó làm chú mòn mỏi đi như một hòn đá bị mòn đi vì một giọt nước cứ đều đặn rơi xuống hoài. Nó đã mang tới cho chú sự mất ngủ, vì chú không thể nào ngủ được, chú chờ đợi sự xuất hiện của thằng cha người Ấn Độ. Việc này đã đầu độc những ngày tàn của chú và những ngày tàn của vợ chú là người cũng dự phần vào nỗi lo âu lớn này. Nhưng chú vừa nghe tiếng kẻng của bữa điểm tâm; chắc bà ấy nôn nóng muốn biết đêm qua cháu ngủ nghê như thế nào. Chú thím rất cảm ơn cháu về sự độ lượng của cháu, vì việc được chia sẻ điều bất hạnh của chú thím với một người bạn, dù chỉ là một đêm thôi, cũng làm cho chú thím được thư thái đôi chút; và đã làm vững lòng chú thím trên sự quân bình về tâm thần mà đôi khi chú thím đã có ý nghi ngờ."

Đó là câu chuyện kỳ lạ mà ngài Dominic đã tâm sự với thôi, chắc chắn là nhiều người có thể cho đó là một câu chuyện lố bịch không đúng với sự thật; nhưng tôi đã thừa đủ kinh nghiệm đêm hôm trước và tôi đã quen thuộc từ lâu rồi với những vấn đề như vậy, tôi sẵn sàng chấp nhận chuyện đó như một việc hiển nhiên. Tôi cầu cứu tới tất cả những việc nghiên cứu của tôi và tất cả những ký ức của riêng tôi và sau bữa điểm tâm tôi đã làm cho các vị chủ nhà của tôi sửng sốt khi báo tin cho họ biết rằng tôi sẽ trở về London bằng chuyến tàu sớm nhất.

- Cháu bác sĩ thân mến của chú, ngài Dominic kêu lên, vẻ bối rối, như thế là cháu làm cho chú hiểu rằng chú đã thất thố một cách nặng nề về các qui luật của sự tiếp đãi khách bằng cách lôi kéo cháu dính vào cái việc vất vả này. Lẽ ra phải một mình chú mang lấy gánh nặng.

Tôi đáp lại:

- Trái lại, chính vi việc của chú mà cháu trở về London. Nhưng có lẽ chú đã lầm khi tưởng rằng việc mạo hiểm đêm qua đã làm cháu khó chịu. Ngược lại, cháu còn xin phép chú được trở lại đây chiều nay và được ngủ lại một đêm nữa trong phòng thí nghiệm của chú. Cháu rất khao khát muốn gặp lại người khách của chú.

Ông chú tôi rất muốn biết tôi toan tính làm điều gì, nhưng vì e ngại ông sẽ có những hi vọng sai lầm, tôi không muốn nói gì cả. Sau bữa ăn trưa, tôi về tới phòng mạch của tôi, nơi đó tôi bồi bổ ký ức bằng cách đọc lại một vài đoạn quyển sách mới xuất bản nói về khoa học huyền bí.

"Trong trường hợp những linh hồn bị ràng buộc vào trái đất, tác giả nói, chỉ cần một ý nghĩ nào ám ảnh họ vào giờ phú lâm tử cũng đủ để giữ họ lại trong thế giới vật thể của chúng ta. Họ là những lưỡng thể của cõi đời này, cõi đời sau, họ có thể đi từ đời này sang đời khác giống hệt như con rùa đi từ nước lên đất liền. Những nguyên nhân kết nối một cách vững vàng một linh hồn vào một đời sống mà thể xác của linh hồn đó đã từ bỏ là những cảm xúc dữ dội. Tính keo kiệt, sự trả thù, sự lo âu, tình yêu, lòng thương là những điều mà ta đều biết dể gây nên sự linh hiển này, một sự việc thường xảy ra từ một ý nguyện chưa được hoàn thành. Khi ý nguyện đã được thành toàn, mối dây nối liền với vật thể sẽ nới lỏng. Người ta ghi chép nhiều trường hợp nêu rõ sự bướng bỉnh đặc biệt của những vị khách này; và cả sự biến đi của họ khi những ý nguyện của họ đã được thành toàn, hoặc đôi khi một sự giàn xếp ổn thỏa được đạt tới."

Một sự giàn xếp ổn thỏa... Đây chính là những từ mà tôi đã tìm kiếm suốt một buổi sáng và bây giờ tôi mới thấy trong bài viết. Ở Rodenhurst, không thể có vấn đề một sự tu chỉnh thực sự; nhưng một sự giàn xếp ổn thỏa ! Không để mất một phút nào, tôi đi tới bệnh viện Chartwell của hải quân, nơi mà viên y sĩ giải phẫu tại chức là anh bạn cố tri, Jack Hewell của tôi. Không cần giải thích tình thế với anh, tôi nói với anh điều mà tôi muốn.

- Một bàn tay đàn ông màu nâu ! Anh nhắc lại với một vẻ kinh ngạc. Đồ quỷ quái, tại sao anh lại muốn có một bàn tay màu nâu?

- Xin chớ tìm hiểu. Hôm khác tôi sẽ nói chuyện đó với anh. Tôi biết rằng anh có những người Ấn Độ chật ních các phòng của anh.

- Thật vậy ! Nhưng mà một bàn tay...

Anh suy nghĩ một lát rồi bấm chuông.

-... Taverne, anh bảo một người y tá, những bàn tay của anh thủy thủ mà chúng ta đã cắt hôm qua bây giờ ra sao? Tôi nói cái anh chàng ở bến cảng Đông Ấn đã bị cuốn trục quay chạy hơi nước đó.

- Chúng hiện ở trong phòng giảo nghiệm, thưa ngài.

- Lấy cho tôi một chiếc, để nó vào các hộp khử trùng và trao nó cho bác sĩ Hardane.

Tôi về tới Rodenhurst trước bữa ăn tối với cái gói nhỏ của tôi. Tôi không nói gì với ngày Dominic cả nhưng tôi đóng cửa phòng lại để ngủ đêm trong phòng thí nghiệm và tôi để cái bàn tay của người thủy thủ vào một trong những cái bình ở cuối giường tôi.

Kết quả cuộc thí nghiệm này làm tôi say mê đến mức tôi không thể nào ngủ được. Ngồi yên với một ngọn đèn được che kín đặt bên cạnh, tôi chờ đợi người khách của tôi. Lần này tôi nhìn thấy hắn ta một cách rõ ràng từ lúc bắt đầu. Hắn hiện ra bên cạnh cửa lớn, nom lờ mờ trong vài ba phút, rồi hình dáng hắn tụ đặc lại và trở thành vững chắc nom như hình dáng của một người sống vậy. Đôi giày vải đỏ của hắn lê đi dưới tấm áo dài màu xám của hắn. Cũng như đêm hôm trước, hắn đi kiểm soát dẫy bình một cách thong thả và hắng dừng lại trước cái bình có đựng cái bàn tay. Hắng đứng nhón người lên trên các đầu bàn chân; mặt hắn run run vì sự thèm muốn; hắn cầm lấy cái bình, xem xét nó, nhưng mặt hắn co rúm lại vì điên cuồng và thất vọng và hắn quăng cái bình xuốn đất. Tiếng loảng xoảng của chất thủy tinh bị bể vang dội lên khắp căn nhà. Gã Ấn Độ cụt tay biến mất như bởi sự bùa chú. Cửa mở ra và ngài Dominic chạy vội vào phòng tôi.

- Cháu không bị thương chứ? Ông kêu lên.

- Không, nhưng thành thực là bị thất vọng.

Ông nhìn một cách sững sờ những mảnh thủy tinh vỡ và cái bàn tay màu nâu nằm trên mặt sàn nhà.

- Lạy chúa tôi ! Ông kêu lên. Thế là thế nào?...

Tôi nói cho ông biết về ý nghĩ của tôi và về kết quả hẩm hiu của nó. Ông chăm chú nghe tôi nói nhưng ông lắc đầu.

-... Lý luận như thế là đúng lắm, ông nói với tôi. Nhưng chú sợ rằng những nỗi đau khổ của chú không chấm dứt một cách giản dị như vậy đâu. Ngược lại, chú tuyệt đối nhấn mạnh tới một điểm. Bất cứ vì lý do nào, cháu cũng sẽ không được ngủ ở đây nữa. Nỗi lo sợ mà chú trải qua lúc nãy khi nghĩ rằng có điều gì xảy ra cho cháu, lúc nghe tiếng loảng xoảng đó đã là sự kinh hoàng rùng rợn nhất mà chú từng biết. Chú sẽ không muốn chịu đựng một lần thứ hai.

Tuy nhiên ông vẫn cho phép tôi ngủ nốt đêm đó trong phòng thí nghiệm, nơi mà tôi nằm bực bội nghĩ về sự thất bại của tôi. Những tia sáng đầu tiên của bình minh rọi tới soi sáng cái bàn tay của người thủy thủ còn nằm trên sàn nhà; tôi nhìn nó một cách máy móc... Và một ý nghĩ đột ngột xuất hiện trong đầu tôi.

Tôi nhảy xuống khỏi ghế trường kỷ và tôi cầm lấy cái bàn tay màu nâu lên. Đúng, tôi đã có lý ! Đó là chiếc bàn tay bên trái của người bị cắt cụt tay.

Tôi trở về London bằng chuyến tàu sớm nhất và vội vã tới bệnh viện hải quân. Tôi nhớ rằng người thủy thủ trong câu chuyện nó bị cắt cụt cả hai tay, nhưng tôi cứ thấp thỏm lo sợ rằng cái bộ phận quý giá khiến tôi đến đây để tìm đã bị quăng vào lò thiêu rồi. Nỗi lo sợ của tôi sau đó được xua tan: bàn tay phải còn nằm trong phòng giải nghiệm. Thế là tôi lại đi Rodenhurst ngay buổi chiều hôm đó, nhiệm vụ của tôi đã hoàn tất và cái bàn tay nâu thứ hai nằm trong túi tôi.

Nhưng ngài Dominic không muốn nghe gì cả khi tôi loan báo tôi sẽ ngủ một đêm thứ ba trong phòng thí nghiệm. Ông cứ làm ngơ trước lời thỉnh cầu của tôi. Lòng hiếu khác của ông bị thương tổn: ông tỏ ra không gì lay chuyển được. Thế là tôi phải để cái bàn tay phải vào một cái bình, như tôi đã để cái bàn tay trái đêm hôm qua và tôi đi vào nằm trong một căn phòng rất đầy đủ tiện nghi ở đầu bên kia của căn nhà.

Nhưng số trời đã định rằng giấc ngủ của tôi vẫn cứ bị phá rối. Vào lúc nửa đêm, vị chủ nhà của tôi chạy xộc vào phòng tôi. Ông quấn người trong một chiếc áo choàng và với thân hình đồ sộ của ông, có lẽ ông sẽ làm cho một người yếu bóng vía sợ hãi ông hơn là con ma người Ấn Độ. Nhưng không phải sự xuất hiện của ông làm tôi kinh ngạc: nhưng đó là vẻ mặt và một dáng điệu mà tôi chưa từng thấy có ở ông. Trông ông trẻ ra tới hai mươi tuổi, hai mắt ông sáng ngời, diện mạo ông rạng rỡ sự vui thích. Ông vung vẩy một tay bên trên đầu ông, với một vẻ chiến thắng. Tôi ngồi dậy, thấy lo sợ một cách mơ hồ, lời nói của ông làm tôi thức tỉnh hoàn toàn.

- Thế là xong rồi ! Chúng ta đã thành công ! Cháu Hardane thân yêu của chú, chú làm thế nào để đền ơn cháu cho đủ?

- Hẳn chú không muốn nói là mưu mẹo đã trót lọt?

- Trót lọt chứ ! Chú tin chắc rằng cháu sẽ không giận chú nếu chú đánh thức cháu dậy để báo cho cháu biết một tin tốt đẹp như vậy.

- Giận chú ư? Thật tình cháu không nghĩ tới chuyện đó. Nhưng chú có chắc vậy không?

- Chú không có một mảy may nghi ngờ, cháu thân mếnt của chú ạ, chú là người mắc nợ cháu, từ trước không bao giờ chú mắc nợ bất cứ một ai và chú cũng không mong mắc nợ ai ! Không biết chú có thể làm gì để xứng đáng với công việc mà cháu vừa làm cho chú? Đúng là trời đã xui khiến cháu tới giúp chú. Cháu đã cứu vãn cả linh hồn và đời sống của chú. Và vợ chú nữa !... Bà ấy chết dần, chết mòn ở trước mắt chú. Chưa bao giờ chú dám nghĩ rằng một con người lại có thể gỡ cho chú thoát khỏi gánh nặng đó.

Ông nắm lấy tay tôi và xoắn chặt nó trong hai bàn tay ộng

- Đó chỉ là một cuộc thí nghiệm, một sự mạo hiểm lúc tuyệt vọng, tôi nói nhưng trong thâm tâm, tôi rất vui thích là công việc đã thành công. Làm thế nào chú biết rằng mưu mẹo đã trót lọt? Chú đã nhìn thấy những gì?

Ông ngồi xuống cạnh giường tôi.

- Chú đã thấy đầu đủ, ông đáp lại. Khá đủ để tin chắc rằng từ nay chú sẽ không bao giờ còn bị quấy nhiễu bởi anh chàng Ấn Độ đó. Chú sẽ nói cho cháu rõ những gì đã xảy ra. Đêm hôm qua, hắn ta cũng tới vào giờ thường lệ của hắn ta và hắn lay chú một cách dữ dằn hơn mọi khi. Chú đoán rằng sự thất vọng của hắn đêm qua đã làm tăng thêm sự nóng giận của hắn. Sau khi nhìn chú một cách hung bạo, hắn lại ra đi trong cuộc dạo chơi mỗi đêm của hắn. Nhưng sau một vài phút, hắn quay lại phòng chú. Đây là lần đầu tiên từ khi bắt đầu sự quấy nhiễu của hắn, hắn mỉm cười. Chú nhìn thấy những chiếc răng trắng của hắn sáng long lanh. Hắn đứng trước mặt chú, ở cuối giường, rồi hắn cúi đầu rất thấp ba lần, đây là một kiểu chào kính cẩn của người Đông Phương, một cách chào từ biệt đầy vẻ trang nghiêm, lần cúi thứ ba, hắn đã giơ cả hai tay lên khỏi đầu, chú nhìn thấy hai bàn tay hắn. Và hắn biến mất, theo chú nghĩ, có lẽ sẽ vĩnh viễn biến mất.

Đó là cuộc phiêu lưu kỳ lạ đã khiến cho tôi chiếm được lòng cảm mến và sự biết ơn của ông chú tôi, vị y sĩ nổi danh tại Ấn Độ. Các điều dự đoán của ông đã thể hiện: không bao giờ ông còn bị quấy nhiễu bởi anh chàng người sơn cước lang thang đi đòi lại cái bàn tay bị mất của hắn ta. Ngài Dominic va phu nhân Holden đã hưởng một tuổi già sung sướng, không bị bận tâm bởi một chuyện nhỏ nhặt nào và họ đã qua đời trong thời bệnh dịch cúm hoành hành, mỗi người chết cách nhau vài tuần lễ. Khi ông còn sống, ông luôn luôn hỏi ý kiến tôi để tiếp thu những lời khuyên về cách xử sự của người Anh mà ông biết rất ít; tôi cũng giúp ông trong việc khai thác tài sản của ông. Từ lúc đó còn gì mà tôi phải ngạc nhiên với việc tôi đã vượt qua đầu năm ông anh họ đang giận dữ và trở thành chủ nhân của một lãnh địa lớn tại Wiltshire? Dù sao thì tôi cũng có lý do để tôn kính cái ký ức về con người có bàn tay bị cắt cụt và cái ngày mà tôi có được sự may mắn giải thoát Rodenhurst khỏi sự hiện diện phiền toái của hắn ta.

»

Sự Khủng Khiếp Giữa Trời Cao

Font Size: Tác Giả: Sir Arthur Conan Doyle

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Tất cả những ai đã biết vụ án này đều không chịu tin rằng câu chuyện kỳ lạ mà người ta gọi là "Một mảnh của Joyce - Amstrong " là một sự huyền hó thêu dệt bởi một kẻ lạ mặt do sự gợi hứng của một tâm tính sa đọa. Một anh chàng hề cô hồn nhất và lém lỉnh nhất chắc cũng phải nhìn vào sự vật này hai lão lần trước khi dồn cả cái đầu óc tưởng tượng đầy bệnh hoạn của anh vào những việc không thể chối cãi được một cách bi đát đã dựng nên câu chuyện này, mặc dù câu chuyện này đầy rẫy những lời xác quyết rùng rợn và có khi quái đản nữa, nó vẫn không thiếu tính chất đáng tin và nó khiến chúng ta phải xét lại một quan niệm mà ngày nay đã có vẻ lỗi thời. Chỉ có một lằn ranh an toàn mỏng manh để che chở cho con người chống lại một sự nguy hiểm bất ngờ. Trước khi thuật lại câu chuyện nguyên thủy trong cái hình thức không toàn vẹn một cách khốn khổ của nó, tôi xin trình lên các dộc giả cả mọi sự việc mà người ta được biết vào ngày hôm đó. Trước hết tôi xin nói với các bạn có tính đa nghi đã ngờ vực câu chuyện của Joyce - Armstrong rằng các sự việc có dình líu tới đại uý Myrthe trong Hải quân Hoàng gia và ông Hay Connor đã được phối kiểm: Đúng là họ đã chết như người thuật truyện đã mô tả.

" Một mảnh của Joyce - Armstrong " đã được tìm thấy tại một cánh đồng được gọi tên là Haycock Ha, ở khoảng một cây số rưỡi về phía Tây làng Withyham trên ranh quận Kent và quận Sussex. Ngày 15 tháng chín vừa qua, một anh nông dân là Jamé Flynn, làm công cho trại chủ Mathew Dodd, thuộc Nông Trại Chauntry ở Withyham, trông thấy một cái vố làm bằng rể cây Bruyen ở cạnh con đường chạy dọc theo hàng rào của Haycock Hạ. Cách xa hơn một vài thước nữa, anh ta tìm thấy cặp mắt kính đeo mắt bị bể. Sau rốt, trong những cây gai ở cái hố anh ta phát hiện ra một quyển sách mỏng gáy vải: Đó là một quyển sổ tay, một vài tờ bị long ra và bay tung toé chỗ chân hàng rào. Anh ta nhặt nhanh tất cả: Ba tờ giấy trong đó có hai tờ đầu, đã không thể nào kiếm thấy được. Anh nông dân mang chiến lợi phẩm này về cho ông chủ của anh, rồi ông này đưa cho bác sĩ Atherton ở Hartfield xem. Vị quý nhân này tháy ngay rằng cần có một sự giám định chuyên môn. Vậy là bản thảo được đưa tới câu lạc bộ Hàng không ở London, nơi mà nó vẫn còn tới bây giờ.

Hai trang dầu của bản thảo bị mất. Một trang khác cũng bị rơi mất ở đoạn kết thúc câu chuyện, nhưng sự mạnh lạc của toàn thể không hề hấn gì. Người ta cho rằng đoạn khởi đầu phác hoạ lại giấu tưởng lục của ông Joyce - Armstrong, bằng tưởng lục mà người ta có thể tạo lại một cách dễ dàng và nó vẫn là thứ độc nhất vô nhị trong nghành hàng không Anh quốc. Trong nhiều năm trời Joyce - Armstrong vẫn được coi như một trong những nhân viên phi hành táo bạo nhất và uyên bác nhất. Sự kết hợp các tài năng này đã cho phép ông phát minh và thí nghiệm nhiều phương pháp mà tên tuổi ông vẫn còn được gắn liền. Tất cả bản thảo của ông được viết bằng mực một cách đằng tả, trừ những dòng cuối cùng viết nguệch ngoạc bằng bút chì, gần như không thể đọc được, người ta đoán rằng chúng được viết một cách rất vội vã trên ghế một phi cơ đang bay. Ta cần nói thêm rằng có những vết bẩn làm lem luốc trang cuối cùng và tờ bìa, các giàm định chuyên môn của Bộ Nội vụ tuyên bố rằng đó là những vết máu, có thể là máu người, nhưng chắc chắn là máu của động vật có vú. Sự kiện là việc phân tích chất máu này đã phát hiện một vật gì rất giống con vi khuẩn bệnh sốt rét rừng ( Joyce - Armstrong thường bị những cơn sốt rét ) là một thí dụ đáng kể về những vũ khí mới mà khoa học hiện đại đã đặt vào tay các thám tử của chúng ta.

Bây giờ hãy nói qua tới nhân cách của tác giả một tài liệu sẽ mở ra một kỷ nguyên mới. Nếu ta tin được qua lời một vài người bạn đã biết nhiều về ông, thì Joyce - Armstrong là một người hay mơ mộng và là một thi sĩ, cũng như là một nhà phát minh và một kỹ thuật gia của ngành cơ giới. Ông đã tiêu phầ lớn tài sản đáng kể để thoả mãn sở thích vẻ hàng không trong các xưởng của ông ở gần Devizes. Ông có bốn phi cơ tiêng. Và trong năm ngoái, ông đã bay không dưới 170 lần. Tính nết của ông thường ảm đảm. Trong những dịp này ông tự cách ly và tránh mặt mọi sự tiếp xúc với xã hội. Đại uý Dangerfield, một người bạn đường thân nhất của ông công nhận rằng trong một vài trường hợp tính cổ quái của ông gần đi tới chỗ điên khùng, ông chẳng thường có thói quen mang theo lên ohi cơ một khẩu súng săn đó ư?

Hơn nữa vụ tai nạn xảy ra với Trung Úy Murtle đã khiến ông xúc động một cách hai hại. Trong khi định phá kỷ lục về độ cao, Myrtle đã bị rơi từ một độ cao chừng mười ngàn mét, một sự việc khủng khiếp! Cái đầu ông ta hoàn toàn biến mất, tuy nhiên chân tay và tất cả phần còn lại của thân thể ông vẫn còn giữ được hình thể nguyên thuỷ, mỗi khi các phi công họp mặt với nhau, Joyce - Armstrong lại hỏi với một nụ cười bid hiểm: " Các bjan đã tìm thấy cái đầu của Myrtle chưa? "

Một buổi tối sau bữa ăn tại câu lạc bộ của trường huấn luyện phi công tại Salisbury, ôn đã gây ra một cuộc tranh luận về đề luận sau đây: Trong các sự hiểm nguy đối với các phi hành gia thì cái nào là lớn nhất và thường xảy ra nhất? Sau khi đã nghe các ý kiến được phát biểu về các lỗ hỗng trong không khí, các khiếm khuyết trong việc chế tạo, các trận bảo tố, ông nhún vai từ chối không đưa ra ý kiến riêng của ông. Nhưng ông cho thấy rằng nó hoàn toàn khác với những gì mà ông vừa được nghe.

Thiết tưởng không phải là vô ích để nói rằng một ngày sau khi ông mất tích người ta phát giác ra rằng ông đã thu xếp các công việc của ông đâu vào đó với một sự tỉ mỉ cho phép ta tin rằng ông đã linh cảm được sự cáo chung đang chờ đợi ông.

Nhưng sự chỉ dẫn tiên khởi này rất cần thiết. Bây giờ tôi xin chuyển dịc một cách thật đúng câu chuyện như nó đã được ghi bắt đầu từ trang ba của quyển sổ tay bị dính máu.

"....Tuy nhiên, khi tôi ăn bữa tối ở Reions với Cosetli và Gustave Roymond, tôi phải nhận thấy rằng không có người nào ý thức được sự hiện hữu của một mối nguy hiểm đặc biệt trên những tầng cao của khí quyển, tôi không nói rõ hết với họ những điều tôi suy nghĩ trong đầu óc tôi, nhưng tôi dùng cách nói bóng gió và nếu họ có những ý nghĩ tường đồng với ý nghĩ của thôi thì hẳn họ đã phát biểu chúng ra. Hỡi ôi, hai anh chàng kiêu căng ngu xuẩn này không nghĩ tới điều gì khác hơn là thấy tiên họ được in trên báo. Tôi đã chú tâm ghi nhận rằng cả hai anh chàng đó không người nào đã bay lên cao quá bảy ngàn, bảy ngàn năm trăm mét, chắc chắn là phải ở trên độ cao đó thì phi cơ mới đi vào vùng nguy hiểm ( luôn luôn giả thiết rằng những giả thuyết của tôi là đúng )?

Đã hơn hai mươi năm trời con người bay trên phi cơ? Nếu có ai hỏi tôi rằng tại sao mãi cho tơi ngày nay hiểm họa này mới tự phát hiện, câu trả lời sẽ thật đơn giản. Vào thời những động cơ khiêm nhường khi người ta ước tính rằng động cơ 100 mã lực Gnome hay Green là đủ để đáp ứng tất cả mọi nhu cầu, các phi cơ đã không thể vượt quá những gứoi hạn nào đó. Bây giờ, các động cơ 300 mã lực đã là quy luật chớ không phải là ngoài lệ nữa và những chuyến bay trên những tầng cao của khì quyển đã trở nên dễ dàng hơn, thông thường hơn, một vài người trong bạn chúng ta nhờ lại rằng, khi chúng ta còn trẻ trung Garros đã lừng danh khắp thế giới khi đjat tới độ cao sáu ngàn mét và việc bay bên trên núi Alpes được coi là một thành tích hết sức ghê gớm. Từ đó mức trung bình của chúng ta đã cãi tiến một cách đáng kể và đã có hai mươi chuyến bay lên tới độ cao mà xưa kia chỉ có một chuyến. Thật thế,phần lớn các chuyến bay đã được thực hiện với sự an toàn tuyệt hảo và những độc cao mười ngàn mét đã được đạt tới nhiều lần mà không gặp những trở ngại nào khác ngoài cái lạnh và sự nghẹt thở. Nhưng sự kiện này đã chứng tỏ điều gì? Một người khách lạ sẽ có thể xuống hành tinh chúng ta hàng ngàn lần mà không bao giờ nhìn thấy một con cọp. Tuy nhiên, những con cọp vẫn hiện hữu và nếu vì rủi ro vị khách của chúng ta hạ chân xuống trong rừng già, ông có thể bị nhai ngấu nghiến. Ở trên thượng tầng không khí cũng có những rừng già, nơi cư ngụ của những loài còn khủng khiếp hơn là cọp. Tôi tin rằng sẽ có lúc những rừng già này sẽ được thông bào một cách chính xác trên những bản đồ. Cho tới bây giờ có thể định vị được hai khu rừng già đó, một khu ở bên trên vùng Pau-Biarritz nước Pháp. Một vùng khác ở bên trên đầu tôi trong khi tôi đang viết tại phòng tôi trên chiếc Wiltshire. Tôi tin một cách đầy đủ là có một khu rừng thứ ba ở vùng Wiesbaden.

Chính một vài vụ án mất tích của các phi hành gia đã tạo cho tôi ý nghĩ về các khu rừng già này, chắc chắn là người ta thường nói rằng họ bị rớt xuống biển, nhưng sự giải thích này không làm tôi thỏa mãn chút nào. Trước hết đã có Verrier ở Pháp, phi cơ của ông đã được tìm thấy ở gần Bayonne, nhưng không bao giờ người ta phát hiện ra xác ông. Cũng còn có trường hợp của Baxten người đã mất tích, mặc dù động cơ của ông và một vài mảnh sắt vụn đã được nhận dạng trong một cánh rừng ở Laicesternhire. Bác sĩ Middleton ở Ameabury, người đã theo dõi chuyến bay với kính đeo mắt, đã khai rằng ngay trước khi những đám mây làm tối mù mục trường của ông, ông nhìn thấy phi cơ ở một độ cao khá lớn bỗng nhiên lồng lên theo chiều thẳng trong một loạt rung lắc với một sức mạnh cuồng bạo không thể tưởng tượng được. Đó là hình ảnh cuối cùng được ghi nhận về phi cơ của Baxtẻ. Sau đó còn nhiều trường hợp tương tự khác, rồi tới cái chết của Hay Connor. Đã có bao nhiêu lời nói dông dài vô ích về sự bí ẩn không được làm sáng tỏ này. Đã có bao nhiêu cột trong các báo cáo nhưng người ta đã cố tránh không đi sâu vào các sự việc. Ông ta đã xuống bằng lối bay là là từ độ cao không ai biết rỏ. Ông ta đã không thoát khỏi phi cơ, ông ta đã chết trên ghế ngồi. Ông ta chết vì cái gì mới được chứ? " Đau tim " các y sĩ trả lời như vậy. Vô lý! Tim của Connor cũng mạnh khoẻ như tim của tôi. Venables đã khai báo thế nào? Venables là người duy nhất ở cạnh ông ta khi ông ta chết. Ông xác nhận rằng Hay Connor bị lắc lư vì những cơn run rẩy và ông ta có vẻ kinh hoàng " Chết vì sợ hãi ". Venables nói vậy mà không thể tưởng tượng nổi cái gì đã làm ông ấy sợ hãi. Connor chỉ nói thì thào với Venables có một tiếng. Một tiếng giống như "quái dị "trong cuộc điều tra không ai có thể hiểu rõ cái chữ "quái dị "này chỉ định vào cái gì. Tôi,tôi có thể sẽ hiểu được nó chỉ định vào cái gì! Những con quái vật! Đó là tiếng nói cuối cùng của Harry Hay Connor xấu số! Và thực tình ông đã chết vì sợ hãi. Venables nói đúng.

Rồi thì lại cái đầu của Myrtle. Bạn có thực sự tin rằng ( Có người nào đó thực sự tin ) một cái đầu người ta lại có thể hoàn toàn thụt vào sâu cái mình sau khi bị rơi từ trên cao xuống không? Tôi, dù thế nào đi nữa, không bao giờ tôi tin vào lời giải thích cho vụ Myrtle. Va vết mỡ trên quần áo ông ấy " Quần áo dính dầu mỡ ", một người nào đó đã khai trong cuỗ điều tra, thật lạ lùng khôngcó ai chịu suy nghĩ về chuyện này! Tôi thì tôi đã suy nghĩ quả thực tôi đã suy nghĩ từ lâu rồi. Tôi đã làm thử ba lần ( Và Dagerfield trêu chọc tôi vì tôi đã mang theo súng săn!) nhưng tôi không lên đủ độ cao. Bây giờ, với chiếc Paul Wroner mới, nhẹ và động cơ Rubur 175 mã lực của nó. Ngày mai tôi sẽ phải đạt một cách dễ dàng tới độ cao 10.000 mét. Tôi sẽ làm thử kỷ lục. Có thể là tôi cũng sẽ làm thử với tử thần!...Tôi không phủ phận nguy hiểm, nhưng nếu một người muốn tránh hiểm nguy thì ông ta chỉ có việc thôi đừng bay nữa và sống suốt đời với lối đi giày vải và mặc đồ ngủ thôi- Ngày mai tôi sẽ thám hiểm khu rừng già trên không gian. Nếu có chuyện gì trong đó thì tôi sẽ biết. Nếu tôi trở về được tôi sẽ trở thành một nhân vực lừng danh, một ngôi sao sáng. Nếu tôi không trờ về được, cuốn sổ tay này sẽ chứng nhận những gì tôi định làm và tôi đã chết như thế nào, trong khi thử làm việc đó. Nhưng cầu ơn trên ban phước lành, không có chuyện lẩm cẩm về một " tai nạn " hay một sự " bí ẩn ".

Tôi đã chọn chiếc phi cơ một tầng cánh Paul Veroner để dùng trong công việc nhỏ mọn này. Chỉ cần chiếc phi cơ một tầng cánh này như thế khi người ta thực sự muốn thành công trong một việc gì. Ông Beaumont đã nhận ra việc này ngay từ lúc đầu. Chẳng hạn sự ẩm ươt không ảnh hưởng gì tới nó, mà thời gian hiện tại cho ta thấy trước rằng ta sẽ luôn luôn bay trong những đám mây. Đây là một loại phi cơ nhỏ, xinh xắn dễ điều khiển như một con ngựa non dưới tay tôi. Động cơ của nó là máy Rubur mười si lanh sức mạnh 175 mã lực. Phi cơ được trang bị những dụng cụ tấn tiến nhất của kỷ thuật; thân máy bọc thép, các bánh xe để hạ canh có vòng cong cao bộ thắng mạnh, những bộ phận ổn định hồi chuyển, ba tốc độ các bình diện theo nguyên tắc những tấm sáo có lá sách di động. Tôi có mang theo một khẩu súng săn và hơn một chục viên đạn chì lớn chắc các bạn đã thấy cái đầu của Perkins, anh thợ máy già của tôi, khi tôi nhờ anh ấy để súng đạn vào trong phi cơ. Tôi mặc quần áo theo kiểu nhà thám hiểm Bắc Cực, với hai áo len dài tay có cổ cao bên trong bộ đồ bay của tôi, những đôi tất dầy bên trong đôi ủng lót lông, một mũ kết có vành và cặp mắt kính bằng mi ca. Ra bên ngoài, gần những xưởng phi cơ, tôi bị nghẹt thở nhưng tôi muốn bay lên vượt khỏi độ cao của đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, nhất định là tôi phải mặc y phục thích hợp, Perkins có vẻ nghi ngại một điều gì và anh năn nỉ tôi cho anh ta theo. Nếu tôi sử dụng phi cơ hai tầng cánh, có thể tôi đã phải ưng thuận lời yêu cầu của anh, nhưng với phi cơ một tầng cánh mà ta muốn có tốc độ tối đa để vọt lên cao thì chỉ là công việc của một người thôi. Dĩ nhiên là tôi mang theo một bong bóng dướng khí, một phi hành gia muốn thử lập một kỷ lục bay cao mà không mang theo dướng khí thì sẽ chết cóng hay chết ngộp hoặc bị cả hai sự tệ hại chồng chất lên.

Trước khi vào chỗ ngồi tôi đã kiểm soát các hành trình. Khi đã hài lòng với sự kiểm tra của tôi, tôi mở máy và cho chạy một cách êm đềm, tôi cất cánh ở số một, tôi bày hai vòng quanh bãi đâu để làm cho động cơ nóng lên đôi chút. Sau khi vẫy tay tôi chào tạm biệt Perkins và những người khác. Tôi vọt đi và xả hết sức máy. Phi cơ trườn đi trong gió như một con nhạn trong khoảng độ mười lăm cây số. Tôi hướng mũi nó lên cao và bắt đầu leo lên, vạch thành một vòng tròn xoáy trên ốc lơn hướng vào những đám mây dầy đặc. Điều tối quan trọng là phải lên cao một cách thong thả để thích ứng với áp lực của không khí.

Thời tiết nặng nề và oi nóng đối với một ngày tháng 9 nước Anh. Trời có vẻ muốn mưa. Từng cơn gió một từ phía tây nam thổi tới; một trong những cơn gió này đã ậo tới lúc tôi không đề phòng và đã đẫy tôi bay trệch đường một cách phủ phàng. Tôi nhớ lại lúc mà những cơn gió và những lỗ hỗng không khí đã trở thành những nguy hiểm nghiêm trọng vì các động cơ của chúng ta không đủ sức mạnh. Ngay lúc tôi bay tới các tầng mây thì trời bắt đầu mưa; đồng hồ đo độ cao của tôi chỉ một ngàn mét. Trời ơi! Trận mưa lớn lắm sao! Mưa đập lốp bốp vào cánh phi cơ, tát vào mặt tôi gần như roi quất làm mờ kính mắt của tôi, tôi gần như không còn thấy gì nữa, mưa làm cản trở tốc độ trung bình của tôi, nhưng biết làm thế nào? Trong lúc tôi vọt lên cao, nó trở thành mưa đá và tôi phải tìm cách đi vòng qua nó, một trong các si lanh của tôi không hoạt động được nữa; chắc chắn là một bu gi đã bị đóng cặn, tuy nhiên tôi vẫn có thể tiếp tục leo lên không mật một chúc sức mạnh nào. Chỉ ít lâu sau đó, sự bực bội về máy móc của tôi đã chấm dứt và tôi lại nghe thấy tiếng nổ đều đặn, ròn rã của mười si lanh cùng háy lên trong một tiếng hài hoà tuyệt diệu. Đây là công việc của phép lạ của máy hãm thanh hiện đại của chúng ta, rút cục ta đã có thể kiểm soát được các động cơ của chúng ta bằng tai. Khi chúng không quay một cách đều đặn, làm như chúng thét lwn, chúng cự nự chúng thổn thức! Thời xưa tất cả những tiếng kêu cứu đó đều mất đi, bị chìm ngập vào tiếng ồn ào dữ dội của động cơ. À, giá mà những bạc tiên phong của ngành hàng không có thể sống lại để nhìn thấy sự hoàng hảo về cơ giới là thứ đã được mua bằng giá mạng sống của họ.

Khoảng chín giờ rưỡi tôi tới sát gần những đấm mây. Bên dưới chân tôi chỗ nào cũng mịt mù trong mưa. Cánh đồng Salíbủy chạy dài bao la: năm sáu chiếc phi cơ chậm dãi bay ở độ cao ba hay bốn trăm mét, người ta có thể nói đó là những con chim sẽ. Tôi có cảm tưởng rằng họ đã tự hỏi tôi đang làm gì trong những đám may. Đột nhiên một tấm màn xám được chắng ra bên dưới tôi buồn bã, nhưng tôi đã thắng được trận mưa đá và thế là đã thắng nhiều rôi, mây cũng u ám và dày đặc như sương mù ở London. Vì mong muốn ra khỏi mây mà tôi kéo cần tốc độ chô tới khi chuông báo nguy tự reo lên. Tôi bắt đầu thấy giật lùi, những cánh đồng ướt sũng làm cho tôi nặng thêm hơn là tôi đã nghĩ, nhưng rồi tôi cũng tới được một vùng mây đỡ dày đặc hơn, rồi tôi lên được một lớp mây thứ hai màu trắng đục, lổng phổng như bông đang chờ tôi ở độ cao bên trên đầu tôi, nó làm thành một cái sàn màu đen nhẵn thín được trãi dài ra, giữa hai cái trần và sàn chiếc phi cơ một tầng hai cánh của tôi đang bay tới giữa trời. Trong khoảng cách không gian bao là này, người ta cảm thấy một đàn thủy điểu bay thẳng hàng về hướng Tây, tôi thú thực rằng sự hiện diện của chúng làm tôi vui thích, tôi nghĩ rằng đó là những con mồng két, nhưng tôi là một nhà động vật học hạng tồi. Bây giờ con người đã hóa thành những con chim, ta phải học để nhận ra những người anh em của chúng ta ngay khi vừa nhìn thấy.

Bên dưới chân tôi, gió khuấy động cái cánh đồng mây rộng lớn. Vào một lúc nào đó, nó gây ra mọt sự xáo trộn dữ dội, khơi ra một cái hố sâu và qua lỗ hổng cái ống khói của nó. Tôi nhìn thấy mặt đất, một chiếc phi cơ lớn màu trắng đang bay rất thấp, chắc chắn đó là chuyến bay thường xuyên buổi sáng Bristol - London. Rồi cơn lốc lại bắc đầu xoay sang hướng khác và tôi lại cảm thấy sự cô quạnh của tôi. Sau lúc mười giờ ít lau, tôi tiếp cận với cái vành phía dưới của tầng mây bên trên, những lớp mây này là hơi nước nhẹ, trong lờ mờ đang thông thả trôi về hướng đông. Sức gió tăng lên một cách đều đặn, nhiệt độ đã rất lạnh, mặc dù cao độ kế của tôi mới chỉ có ba ngàn mét. Động cơ quẫy đều đặn một cách đáng khen, mây đã dày đặc nhiều hơn là điều tôi ước tính, nhưng cuối cùng cũng mỏng manh đi thành một đám sương màu vàng và tôi được tiếp đón bởi một bầu trời hoàn toàn trong trẻo và một vầng mặt trời rực rỡ. Bên trên đầu tôi, chỉ toàn là màu xanh và vàng, ở phía dưới toàn là bạc lóng lánh. Đã mười giờ mười lăm phút, cây kim của khí áp biểu chỉ bốn ngàn hai trăm mét, tôi tiếp tục cuộc lên cao, hai tai lắng nghe tiếng nổ đều đều của động cơ, hai mắt luôn luôn nhìn vào đồng hồ, kim chỉ vòng quay, mức độ ét xăng, bộ phận bơm nhót không có gì đáng ngạc nhiên khi các phi hành gia được coi là những người không sợ hãi điều gì họ phải nghĩ tới quá nhiều việc khiến họ không có thì giờ để nghĩ tới chính mình chính vào lúc đó mà tôi nhận thấy rằng một cái địa bàn ít đáng tin vậy khi người ta vượt qua một độ cao nào đó bên trên mặt đất, may măn thay, mặt trời và gío đã cho tôi những toạ độ chính xác.

Tôi hy vọng tìm thấy một sự yên tĩnh vĩnh hằng trong khi cứ bay trên cao mãi, nhưng càng lên cao thì bão tố càng tăng thêm một cách cuồng bạo. Chiếc phi cơ một tầng cánh của tôi rên rỉ, run lên tới tận mọi con ốc của nó, chao đảo như một tờ giấy khi tôi muốn chuyển hướng. Nó lướt nhanh hơn trong gió, có lẽ không có một con người nào đã từng bay nhanh như vậy. Tôi phải luôn luôn giữ phi cơ cho thẳng và bay vát ngọn gió, vì tôi không chỉ có tham vọng riêng về kỷ lục độ cao: theo cách tính toán của tôi khu rừng già trên không trung toạ lạc ngay bên trên khu tiểu Wiltshire nếu tôi chinh phục các tầng cao của khí quyển ở những nơi khác, tôi sẽ mất hết kết quả cố gắng của tôi.

Vào khoảng giữa trưa tôi đạt tới sáu ngàn mét. Gió quá bạo cuồng khiến tôi phải lo lắng nhìn vào những sợi dây ở cánh phi cơ của tôi. Lúc nào tôi cũng tưởng là sẽ thấy chúng giãn ra hay đứt hẳn. Tôi đã tháo cái dù ở đằng sau và móc nó vào cái khoen ở đây lưng tôi ngõ hầu đề phòng điều tồi tệ nhất! Chính vào những lúc như thế này mà một việc làm vội vã, cẩu thả của một anh thợ máy có thể làm mất mạng một phi công! Nhưng phi cơ đã chống chỏi một cách dũng cảm, những dây và những bộ phận chống đỡ của nó kêu o o và run lên như là những sợi dản vậy. Tuy nhiên, tôi cũng kinh ngạc là bất chấp những sự va đập và lay động của gió đánh vào nó làm thế nào mà nó vẫn theo đuổi được sứ mạng chinh phục bầu trời của nó. Phải có một cái gì thàn thánh trong con người để anh ta lên tới cao như thề này bên trên những giới hạn mà hình như tạo hoá đã ấn định cho con người. Và để cho con người lên cao nhờ vào sự kế tục vô tư lợi, dũng cảm này mà sự chinh phục không gian đã chứng tỏ, người ta nói tơi sự sa đoạ của con người! Đến khi nào một câu chuyện tương tự thế này mới được viết vào sách biên niên của nòi giống chúng ta?

Với những ý nghĩ đó trong đầu tôi cứ luôn luôn thúc đẩy phi cơ của tôi lên cao hơn nữa, những cơn gió lúc thì quất vào mặt lúc thì rít lên sau tai tôi. Giải bình nguyên những đám mây phía dưới tôi đã lùi xa, những chỗ nhấp nhô, phập phồng màu bạc của nó đã rộn lên lộn vào một mặt bằng phẳng sáng rực rỡ, chắc chắn là tôi đã là nạn nhân của một sự thăng trầm chưa bao giờ có, chắc chắn là tôi đã biết người ta bị nguy hiểm thế nào khi ở trong tình trạng mà các ông bạn láng giềng ở phía bên kia biển Manche gọi là một cơn lốc, nhưng tới một mức độ như thế nào thì tôi chưa từng thấy bao giờ. Cái luồng gió khủng khiếp này có thể quét sạch tất cả. Mà hình như ngay trong lòng nó còn có những sự xao động cũng khủng khiếp như chính nó nữa. Không có một điềm báo trước nào, tôi bị cuốn một cách tàn bạo vào một trong hai sức mạnh đó trong một hay hai phút tôi đã quay tròn với một tốc độ làm tôi suýt nữa ngất đi. Rồi tôi bị rơi vào xuống, cạnh bên trái xuống trước, cái lỗ hỗng của ống khói chính khoảng chân không mà tôi rơi xuống mà không bị thứ gì cản trở cả, như một hòn đá, trong gần 300 mét, tôi còn ngồi được trên ghế là chỉ nhờ vào cái dây lưng của tôi thôi. Sự rung chuyển làm tôi nghẹt thở và xỉu đi nửa tỉnh, nửa mê trên thành của thân phi cơ, nhưng ( và đây chính là đức tính của một phi hành gia trong tôi ) bao giờ cũng đủ triển khai những nỗ lực siêu phàm. Tôi nhận thấy rằng tốc độ rơi xuống của tôi là một ống khói viên hình trụ. Và tôi tiến gần tới đỉnh cao của hình chóp này, phải chịu đựng một sức xoắn vặn ghê gớm. Bằng cách dồn tất cả trọng lực của tôi vào một bên, tôi lấy thăng bằng lại cho dôi cánh và giành lại sự điều khiển phi cơ để bay ra khỏi chỗ xáo trộn. Bị te tua nhưng đắc thắng, tôi lại kéo cần lái và lại bắc đầu leo lên cao. Lúc một giờ chiều, tôi đã ở bảy ngàn mét bên trên mức mặt biển, tôi hết sức mãn nguyện là tôi đã tới chỗ bên trên cơn bão tố, tôi càng lên cao thì không gian càng yên tĩnh. Ngược lại, trời rất lạnh và tôi bắt đầu thấy cảm, thấy nôn mửa đặc biệt thường đi kèm với sự loãng không khí của tôi và trong những khoảng cách đều đặn. Tôi hít chất hơi thần diệu này, tôi cảm thây khoan khoái gần như say sưa. Tôi kêu lên, tôi ca hát trong khi vạch ra những quỹ đạo của tôi trong bầu trời băng giá.

Tôi tin chắc rằng sự thất bại mà Glaisher và ở một mức độ thấp hơn, Coxwell đã là nạn nhân khi vào năm 1892 họ dùng kinh khí cầu lên tới độ cao mười ngàn mét bị gây ra bởi sự mau lẹ quá sức mà sự vọt thẳng lên cao bằng khinh khí cầu đã thực hiện. Khi ta lên cao theo một giác độ vừa phải và ta tậo làm quen dần với sự suy giảm của áp suất không khí thì ra sữ tránh được loại khó khăn đó. Về phần tôi ở một dộ cao tương đương, tôi nhận thấy rằng ngay dù không có bình dưỡng khí tôi cũng vẫn có thể thở mà không có sự khó khăn quá quắt. Tuy nhiên csi lạnh trở nên dữ dội, nhiệt kế của tôi chỉ mười tám độ âm. Lúc một giờ rưỡi chiều tôi ở khoảng gần mười một ngàn mét bên trên địa cầu và tôi cứ tiếp tục leo lên một cách đều đặn. Tuy nhiên không khí lỏng loãng nâng đỡ cặp cánh của tôi không được như trước và giao độ cao của tôi bị sút giảm một cách đáng kể. Tôi biết rằng ngay với một phi cơ nhẹ như thế này và một động cơ cực mạnh tôi cũng sẽ sắp sửa đạt tới tột đỉnh của tôi. Lại có sự rủi ro: một bugi dở chứng, động cơ của tôi bắt đầu trục trặc.

Trong lúc tôi đang lo sợ một sự thất bại thì một việc hoàn toàn kỳ dị diễn ra. Một vật bay vược qua tôi, tiếng kêu ù ù và nhả khói ra ở phía sau rồi nổi lên trong một tiếng rít lơn ở giữa một đám may hơi nước. Tôi bị sững sờ trong một lúc. Rồi tôi nhớ lại rằng trái bất đã bị bắn phá một cách liên tục bởi những vân thạch này không hoá thành hơi nước khi chúng chạm tới những tầng cao của khí quyển. Đây là một hiểm hoạ mới cho những tay tài tử của không gian, vì có hai vân thạch khác bay gần tôi khi tôi tới độ cao mười hai ngàn mét. Ở chỗ ranh giới vỏ bọc trái đất, hiểm hoạ chắc phải rất lớn và rất thực tại.

Kim áp kế của tôi chỉ mười hai ngàn ba trăm mét khi tôi biết rằng sẽ không thể bay lên cao hơn nữa. Về thế lực tôi sẽ có thể chịu đựng được một cố gắng nữa, nhưng phi cơ của tôi đã đạt tới giới hạn của nó rồi. Không khí lỏng loãng không còn nâng đỡ một cách đầy đủ cặp cánh của tôi: Khi hơi nghiêng đi một chút phi cơ đã chúc cánh xuống và không chịu theo sự điều khiển nữa. Có lẽ nếu động cơ không lộn xộn thì tôi đã lên thêm được ba bốn trăm mét nữa. Nhưng những tiếng nổ sì hơi mỗi lúc một nhiều thêm và tôi thấy hình như trong mười si lanh thì hai cái đã bị liệt. Nếu tôi chưa ở khu vực mà tôi tìm kiếm thì nhất định lúc này tôi không thể nào bay lên tới nơi được! Nhưng tôi đã chẳng lọt vào khu vực đó rồi sao? Vạch ra những vòng tròn và bay lượn như một mình và với cặp ống nhòm tôi quan sát một cách cẩn thận vùng chung quanh. Bầu trời quang đãng một cách tuyệt mỹ. Không có gì để cho ta dự đoán sự hiện hữu của những hiểm nguy mà tôi e ngại.

Tôi đã nói rằng tôi bay lượng trong khi vạch ra những vòng tròn. Tôi nghĩ rằng tôi đã đạt kết quả mỹ mãn hơn nhiều khi thăm dò một vùng rộng lớn hơn, một người thợ săn vào một trong những rừng già trên trái đất mà lại không đi xuyên từ đầu này tới đầu nọ của khu rừng đó với hy vọng phát hiện ra con mồi hay sao? Mà theo sự suy đóan của tôi, khu rừng già trong không gian mà tôi nhắm tới chắc chẳng phải toạ lạc nơi nào đó bên trên trái đất Wiltshire, nghĩa là phía Tây Nam của tôi. Tôi thực hiện một sự chồm lên theo sau mặt trời, vì địa bàn đã hỏng và tôi không còn phân biệt được trái đất nữa. Tôi lao về hướng đã chọn. Bay thật thẳng, vì tôi đã tính rằng chỉ còn đủ ít xăng cho một giờ nữa thôi. Nhưng tôi muốn chơi ngông là chạy cho tới cạn giọt xăng cuối cùng. Vì một lối bay lượng là là tuyệt diệu sẽ đưa tôi trở lại mặt đất không khó khăn gì.

Bỗng nhiên tôi cảm thấy một cái gì mới lạ. Trước mặt tôi, không khí đã mất sự trong sáng của pha lê, nó chứa đựng những hình thù dài xoắn xoeo của một chất gì mà tôi chỉ có thể so sánh với luồng khói rất mỏng của thuốc lá, những tràng những vòng của chúng lăn đi một cách chậm chạp trong ánh sáng mặt trời. Khi chiếc phi cơ một tầng cánh xuyên qua cái chết lạ hoắc đó. Tôi thấy trên môi có một vị mơ hồ của dầu nhớt và cái sả của phi cơ phủ đầy một thứ bọt của chất mỡ. Một chất mỡ hữu cơ vô cùng vi tế hình như đang lơ lững trong khí quyển. Có phải đó là đời sống không? Cái chất mỏng manh, thô sơ này kéo dài ra hàng nhiều mẫu tây rồi bươm tua vào khoảng hư không, đó không phải là thuộc về đời sống! Nhưng có thể là những dấu vết của đời sống, món ăn của một đời sống cổ quái? Chất mỡ đơn sơ của đại dương chính là món ăn của con cá voi dũng mãnh. Tôi còn đang nghĩ ngợi việc đó thì khi nhìn lên tôi rất thích thú thấy một điều hoàn toàn độc đáo. Liệu tôi có hy vọng thuật lại với các bạn đúng như nó đã xuất hiện trước tôi hôm thứ ba trước không?

Các bạn hãy tưởng tượng một con sứa như ta từng thấy tại các biển vùng nhiệt đới, có hình thù cái chuông nhưng tầm vóc cực lớn! Theo tôi thấy thì lớn hơn vòm nhà thờ Saint Paul, nó có màu hồng đạm với những vân xanh nhạt, nó có một khí chất rất vì tế khiến nó có vẻ chỉ như một hình thù huyền ảo trên nền trời màu xanh rủ xuống lòng thòng, lúng liếng một cách chậm chạp từ phía sau và từ phía sau ra phía trước, làm trọn vẹn hình thể của nó. Cái ảo ảnh huy hoàng này diễn ra trên đầu tôi với một vẻ uy nghi thầm lặng nhẹ nhàng và mong manh như một cái bọt xà bông. Nó tiếp tục một cách đường bệ con đường của nó.

Tôi đổi hướng phi cơ để nhìn nó rõ hơn, nhưng bổng chốc tôi phát hiện ra rằng tôi đang bị bám quanh bởi toàn những sinh vật như vậy, với những tầm vóc một trái banh cỡ trung bình. Cách cấu tạo sinh đẹp và màu sắc của chúng làm tôi nhớ tới hàng thủy tinh của Venise. Màu hồng và màu xanh lá cây nhạt là những màu chủ yếu, nhưng chúng trở thành lóng lánh đủ màu khi mặt trời nở rộ với những hình thù mảnh mai của chúng. Hàng trăm con đã lướt qua gần tôi như vậy. Hình thù và thể chất của chúng đã hoà hợp một cách quá hoàn hảo với sự tinh khiết của những độ cao này khiến ta không thể nào hình dung được một thứ gì đẹp đẽ hơn.

Nhưng rồi sự chú tâm của tôi lạii bị thu hút bởi một hiện tượng khác: những con rắn của ngoại tầng không gian, các bạn hãy tưởng tượng ra những cái ống dài, mỏng manh, kỳ ảo bằng một chất gì nom giống như hơi nước. Chúng quay lộn vặn vẹo mình với một tốc độ không thể ngờ được, mắt ta khó có thể thưo kịp sự biến hoá của chúng, một vài con trong những con vật ma quái này có thể dài tới tám hay mười mét, nhưng thật là bực bội khi muốn ước lượng đường kính của chúng như sương mù và hình như tan loãng trong không khí. Những con rắn không gian này có một màu xám rất sáng ở phía trong có rạch những đường sậm hơn khiến ta có cảm tưởng rằng chúng là những sinh vật thực tại. Một con trong bọn chúng vờn qua mặt tôi. Tôi cảm thấy chạm phải một vật gì lạnh và ẩm ướt, chúng không có vẻ gì là vật thể cả, khiên tôi tuyệt nhiên không nghĩ tới một nguy hiểm nào về thể chất có thể xảy ra khi quan sát chúng gần như vậy. Hình thù của chúng cũng thiếu sự vững chắc như đám bọt của một ngọn sóng khi tan vỡ.

Một kinh nghiệm khủng khiếp hơn được dành cho tôi. Từ trên một độ rất cao lao xuống, một vệt hơi nước màu tía lúc đầu tôi tưởng là nhỏ, nhưng nó lớn lwn rất mau khi tớigần tôi. Mặc dù được cấu tạo bởi một thứ chất liệu trong vắt nom giống như băng, nó vẫn có một hình thù rất rõ rệt và một sự đông đặc chắc hơn những thứ mà tôi đã nhìn thấy cho tới lúc này, tôi cũng nhận ra những dấu vết rõ hơn một thứ sinh vật có thể chất. Đặc biệt là hai tấm hình trònkhá rộng, có đóng rợp ở mỗi bên, có thể là những con mắt và giữa hai tấm đó có một vật gì màu trắng, rất vững chãi nho hẳn ra ngoài và cũng cong lại nữa, có vẽ cũng hung dữ như cái mỏ của một con diều hâu.

Toàn thể dáng dấp của con quái vật này thật ghê gớm, đáng sợ. Nó luôn luôn thay đổi màu sắc, chuyển từ màu tím nhạt sáng sủa sang màu đỏ tối sẫm ghê người. Tôi không thể phủ nhận khối thể chất của nó vì nó đã giọi ra một cái bóng khi nó len vào giữa mặt trời và phi cơ. Ở khoảng cong phía trên của mình nó có ba cái bướu lớn mà tôi không biết mô tả thế nào hơn là so sánh chúng với những chỗ da phồng cực lớn. Tôi nghĩ rằng chúng chứa đựng một thứ hơi cực nhẹ dùng để chống đỡ cái khối lượng không hình thù gì và nữa đặc loãng này trong bầu không khí loãng lỏng. Di chuyển một cách nhanh nhẹn, con quái vật đi theo tốc lực chiếc phi cơ một tầng của tôi không cần sự cố gắng nào, trong khoảng độ ba chục cây số bay là là bên trên tôi giống như con chim săn mồi đang sửa soạn nhào xuống nạn nhân của nó. Muốn tiến lên, cách thức của nó là tung ra phía trước một vật gì như một cái ống dài loãn xoãn, bày nhầy, để rồi hình như cái ống này lôi kéo phần còn lại của thân mình. Nó rất chun dãn, có rất nhiều chất dính nên không bao giờ nó giữ nguyên một hình dáng trong hai phút liền, nhưng mỗi sự biến đổi hình dạng lại làm cho nó càng đáng sợ hơn, càng khủng khiếp hơn.

Tôi biết nó là kẻ thù của tôi, mỗi bộ phận đỏ ửng của thân mình nó đề nói lên sự thù hận của nó, những con mắt lớn, không rõ ràng của nó không rời khỏi tôi. Nom chúng lạnh lẽo, tàn độc, bị xao động bởi một hận thù xuất tự tâm can. Tôi hạ thấp mũi phi cơ của tôi như một nhát roi. Khi va chạm phải động cơ nóng bỏng, tôi nghe thấy một tiếng rít sắc nhọn và cái vòi vọt trở lại như là do sự đau đớn bất thần. Tôi muốn nhào thẳng xuống, nhưng một cái vòi lại đâm xuống phi cơ. Cánh quạt đã cắt nó với một sự dễ dàng như cắt một cuộn khói vậy. Một cái ống dài dính vào một cái bể mặt nhẵn lì như nhựa, xé rách nó và tôi được giải thoát nạn trong một lát; nhưng ngay tức khắc một cái ống khác lại quấn vào chân tôi với một sự hung hãn phía sau.

Trước sự tấn công này, tôi nhả đạn cả hai nòng súng của tôi. Đúng là tôi cũng giống như một người đi săn và tấn công con mồi mình bằng chiếc ống sì đồng (ống thổi bắn các viên tròn bất để giết loài chim nhỏ ) nhỏ bé. Làm sao tôi có thể hy vọng rằng một thứ vũ khí của con người mà làm tê liệt được một tiếng nổ vang một trong những viên đạn chì của tôi. Tôi đã đoán đúng: các bướu này căng phồng lên hơn vì khí hơi. Thật sự kẻ thù của tôi đã lăn trên phía bên, vặn vẹo một cách tuyệt vọng để lấy lại thăng bằng cho nó, cái mỏ trắng há ra và gõ lộp bộp vì điên dại, nhưng tôi đã thực hiện một lối nhào thẳng xuống liều lĩnh nhất mà tôi có thể làm thả hết ga. Nói một cách khác, tôi đã rơi xuống theo đúng nghĩa đen của từ, như một cục vân thạch. Từ phía xa đằng sau tôi một vệt đỏ từ từ thu nhỏ lại một cách nhanh chóng, rồi tan lẫn vào màu xanh của nền trời. A! Tôi đã hoàn toàn vô sự thoát khỏi khu rừng già khủng khiếp này của ngoại tầng không gian.

Một khi đã ở ngoài tầm nguy hiểm, tôi đóng ga lại, vì không có gì làm hư hỏng một động cơ tệ hơn là bổ nhào xuống với tất cả sức mạnh của nó. Từ độ cao sấp sỉ mười hai ngàn mét tôi thực hiện việc lượn là theo hình xoáy trôn ốc, thoạt đầu cho tới lơp mây màu bạc rồi tới những đám mây đầy bão tố ở phía dưới và sau hết qua một đám mây mưa dồn dập, cho tới mặt đất. Khi trồi ra khỏi những đám mây, tôi nhìn thấy biển Manche bên dưới tôi, vì tôi còn lại được đôi chút ít xăng tôi vượt đi bộ ba chục cây số trong nội địa và tôi đáp xuống một cánh đồng, cách làng Ashcombe nửa cây số. Ở đó, tôi đi mua ba bình ét xăng. Lúc sáu giờ mươi phút buổi chiều tôi đạu xuống bãi Davizé của tôi sau một chuyến du hành mà không một người nào trước tôi trên trái đất đã đến.

Kết Thúc (END)

Tên Tử Tù Bất Tử

Font Size: Tác Giả: Sir Arthur Conan Doyle

Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:

Hồi đó tôi là y sĩ trưởng ở Los Amigos. Tất nhiên mọi người đều nghe nói tới nhà máy điện chính là nơi cung cấp điện lực cho thành phố cũng như hàng mấy chục thị trấ và làng xung quanh. Do đó có rất nhiều xưởng máy ở trongkhu vực. Những cư dân ở Los Amigos đều công nhận rằng đó là những xưởng máy lớn nhất trên trái đất. Họ cũng nói rằng đó là những xưởng máy lớn nhất trên trái đất. Họ cũng nói rằng tất cả những thứ gì hiện hữu ở Ló Amigos đều là những thứ vĩ đại nhất trên trái đất, ngoại trừ các nhà tù và tử xuất (tỷ lệ người chết) nếu ta tin vào lời nói của của họ, là những thứ nhỏ nhất trên thế giới.

Với một nhà máy điện trung tâm đồ sộ như thế, chúng tôi suy nghĩ rằng chúng tôi sẽ phạm phải một sự tăng phí đáng tội về dây gai nếu những tên tội phạm của Los Amigos bị đem ra hành quyết như thời cổ xưa tốt đẹp đó. Chúng tôi biết rằng những vụ hành quyết bằng cách cho điện giật đã diễn ra ở phương đông, nhưng dù sao thì các kết quả của chúng cũng đã không mau lẹ ngay tức thì như người ta đã hy vọng, các vị kỹ sư của chúng tôi cau mày lại khi họ được các tờ báo cho biết rằng những diện tích quá yếu đã được sử dụng để làm cho người ta chết; họ xét thấy rằng ở Los Amigos, khi một kẻ bất khả hoàn lương được giao cho họ thì hắn ta sẽ được xử lý một cách lịch sự và được hưởng sự quy tụ của tất cả những máy phát điện cực lớn. Những ông kỹ sư nói rằng ta không nên bủn xỉn trong những trường hợp như thế, và một tên tử tội phải "lẫnh đủ", không ai dám liều lĩnh tiên đoán một cách chắc chắn hiệu quả đạt được, nhưng tất cả mọi người nghĩ tằng tất cả mọi người đều đống ý xác nhật là nó sẽ huỷ diệt và gây tử vong, một vài người nghĩ rằng kẻ tử - tội sẽ bị phân hủy, đúng theo nghĩa đen của từ ngữ, nhiều người khác thì nghĩ tới dự tan rã của y. Chỉ có kinh nghiệm mới có thể chấm dứt được cuộc tranh luận. Chính vào lúc đó thì Duncan Warner bị bắt.

Từ nhiều năm nay Warner đã luôn bị luật pháp truy tìm. Một đầu óc cuồng dại, một kẻ sát nhân thủ phạm của vô số kể những vụ hành hung trấn lột trên các tuyến xe lửa, hoặc trên các nẻo đường, y đã tự đạt cho mình ra ngoài tình thương của nhân loại. Y đã có mười hai lần đáng tội chết và những người Los Amigos hứa hẹn với y một cái chết thật hào hoa. Có vẻ như y tự cho là mình không xứng đáng với chiếu cố của họ, nên đã hai lần y vượt ngục. Y người to lớn, khoẻ mạnh, đầy bắp thịt, y có một cái đầu của con sư tử, những bờm tóc đen rối bù, một bộ râu cằm hình rẽ quạt che kín nửa trên của thân mình. Khi y bị đem ra xét sử, không có người đàn ông nào đẹp hơn trong đám đông ngồi chật ních pháp đình. Đôi khi trên ghế các bị cáo người ta thấy người đẹp hơn. Tuy vậy, cái bộ mã đẹp đẽ này không làm sao bù lại được các hành động xấu xa của y. Vị luật sư của y đã cố gắng hết sức mình, nhưng Duncan Warner vẫn bị phó thác cho những cái máy phát điện khổng lồ của Los Amigos.

Khi vụ của y được đem ra thảo luận thì tôi có tham dự cuộc họp của ủy ban. Thực ra hội đồng thành phố đã chỉ định một ủy hội gồm bốn chuyên gia để quyết định vụ hành quyết. Ba vị trong bốn người này là những tay cừ khôi. Joseph M'Connor đã sáng chế và lắp đặt các máy phát điện; Joshua Westmacott chủ trì vận mạng vủa công ty Đieejn lực tại Los Amigos, tôi thì là y sĩ trưởng của thành phố. Người thứ tư là một ông già người Đức tên là Peter Stulpnagel. Ở Los Amigos có rất nhiều người Đức; tất cả bọn họ đều bỏ phiếu cho người đồng bào của họ. Đó là lý do tại sao ông ấy được bầu vào ủy ban. Người ta nói rằng khi còn ở nước Đức, ông ấy đã là một tay thợ điên, những vật cách điện và những bình điện, nhưng vì đã chẳng có gì nảy sinh ra từ những công việc này, vì ông đã không đạt được một thành quả nào đáng được công bố với mọi người, người ta đã đi tới chỗ coi ông như một kẻ cuồng si vô hại đã biến khoa học thành sự đam mê của mình. Bọn ba người chúng tôi, những con người thực tế, chúng tôi mỉm cười khi được biết là ông ấy sẽ ngồi bên cạnh chúng tôi. Trong buổi họp của ủy ban, chúng tôi đã dàn xếp mọi việc với nhau không cần bận tâm tới ông già hiền hậu đang ngồi nghe, với một bàn tay để quanh tai làm cái loa, vì thính giác của ông ấy không được tốt lắm. Ông ấy đã không tham gia vào cuộc tranh luận cũng như các đại diện báo chí là người chỉ ghi chép những điêu cần thiết trên những cái ghế dài ở cuối phòng.

Chúng tôi đã tốn ít thời giờ để quyết định tất cả mọi việc. Ở New York, phải chăng một sự phóng điện hai ngàn volt đã diễn ra mà cái chết của tử tội lại không mau lẹ tức thì? Điện thế đã không đủ, đó là tất cả lý do! Los Amigos sẽ không tái phạm lỗi lầm này. Dòng điện sẽ mạnh hơn sáu lần, như vậy nó sẽ có hiệu lực sáu lần nhiều hơn. Không có gì là hợp lý hơn nữa. Tất cả công suất tập trung của những máy phát điện khổng lồ sẽ được sử dụng trên người Duncan Warner.

Tất cả bọn ba người chúng tôi đã đưa ra những quyết định đầy đủ và chúng tôi đang sắp kết thúc phiên họp thì người bạn thầm lặng của chúng tôi mới hé miệng lần đầu tiên.

- Thưa quí vị, ông nói với chúng tôi, tôi thấy các ông có vẻ dốt nát một cách đặt biệt về các hiệu ứng của điện lực, các ông không biết những nguyên lý đầu tiên của tác động của nó lên một con người.

Ủy ban đang sắp trả lời một cách thẳng thừng cho lời phê bình sống sượng đó, nhưng ông chủ tích công ty điện lực xoa một bàn tay lên trán để yêu cầu sự khoan dung như đối với một người mắc bệnh tâm thần.

- Thưa ông, ông có thể chỉ cho chúng tôi là ông đã thấy chỗ khiếm khuyết nào trong các kết luận của chúng tôi? Ông hỏi với một nụ cười mỉa mai.

- Sự giả định của các ông cho rằng một liều lượng mạnh sẽ làm tăng thêm hiệu ứng của một liều lượng nhỏ hơn. Các ông không tin rằng rất có thể nó sẽ gây ra một hiệu ứng hoàn toàn khác biệt à? Bằng những cuộc thí nghiệm thật sự, các ông có biết một điều gì về các hiện tượng của một sự chấn động thế không?

- Chúng tôi biết điều đó bằng cách loại suy, ông chủ tịch trả lời. Tất cả mọi thứ thuốc đều có một hiệu ứng gia tăng khi ta gia tăng liều lượng. Thí dụ...thí dụ....

- Rượu uýt ki! Joseph M'Connor mách nhỏ.

- Đúng vậy! Rượu uýt ki. Bằng chứng là ở đó.

Peter Stulpnagel lắc đầu và mỉm cười.

- Lập luận của ông không vững, ông ta nói. Khi tôi uống uýt ki, tôi htấy một cốc làm tôi uể oải, nhưng sáu cốc làm cho tôi ngủ gục, điều này đúng là sự trái ngược. Nay hãy giả thiết rằng điện cũng tác động như vậy, với một hiệu năng theo tỷ lệ trái ngược với sức mạnh của nó thì ông sẽ làm gì?....

Bọn ba người chúng tôi những con người thực tế, chúng tôi phá lên, chúng tôi biết rằng ông bạn đồng chức của chúng tôi là người tài hoa, nhưng không bào giờ chúng tôi nghĩ rằng ông ấy lại đưa trí tưởng tượng tới chỗ đó.

- Và sao nữa, Peter Stulpnagel thúc giục.

- Chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm về những sự rủi ro, ông chủ tịch trả lời.

- Tôi xin các ông hãy suy nghĩ. Peter nói, là những người thợ chạm vào các dây điện và chỉ nhận được sự phóng điện của vài trăm vôn thôi mà cũng bị chết ngay tại chỗ. Sự kiện này ai cũng biết. Ấy vậy mà khi một lực lớn hơn đã được sử dụng với một tên tội phạm ở New York, tên đó còn giẫy giụa được một lúc lâu, các ông không thấy một cách rõ ràng là một liều lượng nhỏ hơn là thứ làm chết người nhiều hơn à?

- Thưa quí vị, tôi nghĩ rằng cuộc tranh luận này đã kéo dài một cách đầy đủ rồi, ông chủ tịch tuyên bố trong khi đứng lên. Tôi nghĩ rằng điểm này đã được giải quyể bởi đa số uỷ ban và Duncan Warner sẽ bị hành hình trên ghế điện ngày thứ ba bằng sự phóng điện của tất cả luồng điện của những máy phát điện ở Los Amigos. Có đúng vậy không?

- Tôi đồng ý, Joseph M'Connor chấp thuận.

- Tôi cũng vậy, tôi nói.

- Còn tôi, tôi phản đối! Peter Stulpnagel nói lẩm bẩm.

- Vậy là nghị quyết đã được chuẩn nhận, nhưng sự phản kháng của ông sẽ được ghi vào biên bản, ông chủ tịch kết luận.

Và phiên họp bế mạc.

Những người tham dự cuộc hành quyết không đông lắm. Dĩ nhiên là có bốn ủy viên của ủy ban, cũng như tên đao phủ là người phải hành động theo lệnh của họ. Ngoài ra còn có viên tư lệnh Hiến binh của nước Mỹ, viên giám đốc lao thất, cha tuyên úy và ba nhà báo. Căn phòng, một gian nhà nhỏ xây bằng gạch, vốn là một phòng phụ thuộc của trạm điện trung ương, nó đã được dùng làm nơi giặt giũ, ở một góc vẫn còn một cái nồi và củi vụn, nhưng không có đồ vạt nào khác, ngoại trừ một cái ghế lẻ loi và độc đáo dành cho người tử tội. Một tấm kim loại được đặt phía trước cái ghế để dành cho bàn chân của Warner, tấm kim loại này được nối vào một sợi dây cáp lớn có vỏ bọc cách điện. Ở phía trên cái ghế, một sợi dây cáp khác thòng xuống từ trần nhà, sợi cáp này có thể được nối vào một thanh kim loại nhỏ nhô ra từ một thứ mũ nồi được chụp lên đầu hắn ta. Khi sự nối kết này được hoàn tất, lúc đó sẽ là giây phút tử vong của Duncan Warner.

Chúng tôi im lặng đợi chờ người tù tới. Các kỹ sư có vẻ hơi tái mặt đi, và họ loay hoay mọt cách nôn nóng với những sợi dây cáp. Ngay cả viên tư lệnh hiến binh, mặc dù đã chai lỳ cũng thấy khó chịu, vì một sự treo cổ tầm thường là một chuyện, và sự hủy diệt thịt và máu lại là một chuyện khác. Về phần các nhà báo, họ đã trắng bẹch ra hơn là những tờ giấy của họ, người duy nhất tỏ ra không bị một chút ảnh hưởng nào của những sự chuẩn bị độc ác này là anh chàng người Đức nhỏ bé mắc bệnh di cuồng, ông ta đi tới chỗ người này rồi tới chỗ người nọ với một nụ cười trên môi và cặp mắt long lanh đầy vẻ tinh quái. Ông còn quên cả địa vị của mình đến nỗi phá lên cười hai, ba lần, việc này khiến cho ông bị vị tuyên uý nhắc nhỏ phải giữ trật tự.

- Làm thế nào mà ông có thể biểu lộ một sự khinh xuất không đúng chỗ như vậy, thưa ông Stulpnagel? Tôi ngạc nhiên hỏi. Ông cười trước mặt cái chết à!

Nhưng ông già người Đức không lộ ra một vẻ bối rối nào.

- Nếu tôi đứng trước cái chết, tôi sẽ không cười, ông ta nói. Nhưng vì tôi không đứng trước cái chết mà, tôi có quỳen tự do làm những gì tôi thích.

Câu trả lời xác xược này chắc chắn sẽ làm nảy sinh một câu khác, còn nghiêm khắc hơn về phía vị tuyên uý. Nhưng cái cửa đã mở ra và hai viên giám thị đẩy Duncan Warner vào trong phòng. Y nhìn quanh mình y với một vẻ quả cảm, tiến lên với một bước chân vững vàng và người xuống cái ghế điện.

- Ra tay đi! Y nói.

Kéo dài sự chờ đợi của y thật là một điều man rợ. Vị tuyên uý nói thì thào một vài câu vào tai y, tên đao phủ chụp cái mũ nồi lên đầu y, tất cả bọn chúng tôi đều nín thở, sự nối kết đã được thiết lập giữa dây cáp và tấm kim loại.

- Chư vị thánh thần! Duncan Warner kêu lớn.

Y chồm lên trên cái ghế khi sự phóng điện khủng khiếp nổ bung ra trong cơ thể y. Nhưng y không chết. Ngược lại hai mắt y long lanh một tia sáng linh hoạt hơn. Y chỉ trải qua một sự biến đổi thôi, mà sự biến đổi này thật là bất ngờ, màu đen đã mất dạng trên tóc y và râu y giống hệt như một bóng đêm đã rời khỏi một cảnh quan. Tóc và râu y bây giờ đã trắng như tuyết. Ngoài việc đó ra, y không mang một dấu vết nào của sự phân hủy. Y có làn da tươi mát, mịn màng, bóng loáng của một đứa trẻ con.

Viên tư lệnh hiến binh ném sang cho ủy ban một cái nhìn đầy vẻ trách móc.

- Tôi có cảm tưởng rằng đã có một điều gì sai trái đó thưa quí vị! Ông ta nói.

Bọn ba người chúng tôi, những người có đầu óc thực tế lẳng lặng nhìn nhau.

Peter Stulpnagel cười mỉm với vẻ trầm ngâm.

- Tôi nghĩ rằng một lần phóng điện khác sẽ làn xong chuyện, tôi nói.

Luồng điện lại chạy qua. Duncan Warner lại nhảy bật lên trên ghế và kêu lên; nhưng đúng là chỉ vì y vẫn cón ngồi trên cái ghế nên chúng tôi mới nhận ra y. Trong một phần nhỏ của giây đồng hồ, y đã mất hết cả rau và tóc trên đầu, và căn phòng trông giống như một cửa hiệu cắt tóc vào buổi tối thứ bảy. Y vẫn còn ngồi yên, hai mắt vẫn còn sáng ngời, làn da óng ánh của một sức khoẻ hoàn hảo, nhưng y có một cái sọ trọc lóc như một miếng phô ma Hòa Lan và một cái cằm không còn một sợi râu nào. Y bắt đầu vung vẩy một trong hai tay của y, vung một cách thong thả và với sự hoài nghi lúc bắt đầu, nhưng rồi mỗi lúc càng thêm tin tưởng.

- Hồi trước tôi bị nhức nhối ở cái tay này, y nói. Mấy ông thầy thuốc vùng Thái Bidnh Dương chữa trị uổng công. Vậy mà lúc này hình như nó được tân trang lại, và nó cũng mềm mại như một nhánh mai châu vậy.

- Anh cảm thấy khoẻ mạnh chứ? Ông già người Đức hỏi.

- Trong suốt cả đời tôi, chưa bao giờ tôi cảm thấy khoẻ khoắn như thế này. Duncan Warner đáp lại một cách hớn hở.

Tình thế thật là bực bội. Viên tư lệnh hiến binh nhìn thẳng đôi mắt nảy lửa về mạn ủy ban, Peter Stulpnagel nhe răng ra cười và xoa hai bàn tay vào với nhau. Các ông kỹ sư thì gãi đầu. Gã tù nhân bị mất từng mảng da đầu đang vung vẫy cái tay của y và có vẻ khoan khoái.

- Tôi nghĩ rằng một sự phóng điện nữa.... ông chủ tịch đánh liều nói.

- Không, thưa ông! Viên tư lệnh hiến binh chặn lại. Chỉ trong một buổi sáng mà chúng ta đã có khà nhiều sự ngu xuẩn rôi. Chúng ta tới đây để làm một vụ hành quyết, sự hành quyết sẽ diễn ra!

- Ông có ý kiến ra sao?

- Trên trần nhà có một cái khoen có thể dùng được việc. Hãy đi tìm một sợi dây thừng, và công việc sẽ được giải quyết.

Trong lúc mấy anh giám thị đi kiếm dây thừng thì một khoảng thời gian trôi qua trong sự khó chịu mỗi lúc một gia tăng. Peter Stulpnagel nghiêng đầu lại phía Duncan Warner và nói một vài tiếng gì vào tai y. Kẻ tử tội nhìn ông ta một cách ngơ ngác, sửng sốt.

- Không thật vậy chứ? Y hỏi.

Ông già người Đức gật đầu khẳng định

-....Thế nào! Không có cách nào à?....

Peter lắc đầu, lần này thì một cách phủ định, và hai người cười phá lên như thể họ vừa trao đổi một câu chuyện vui thú vị. Các anh giám thị mang dây thứng tới, và vị tư lệnh hiến binh tự tay mình chòng cái dây thòng lọng vào cổ tên tội phạm. Rồi hai viên giám thị, tên đao phủ và chính cả ông nâng bổng nạn nhân của họ lên trên không, tại đó y đu đưa lơ lửng. Trong một nửa giờ đồng hồ y bị treo thõng trên trần nhà. Đó là một cảnh tượng khủng khiếp. Rồi thì trong một sự im lặng trang nghiêm, họ hạ sợi dây thừng xuống, một viên giám thị đi ra ngoài để kiểm một cái quan tài. Nhưng khi vừa chạm chân xuống tới mặt đất, Duncan Warner đã đưa hai bàn tay lên cổ y, tháo lỏng sợi dây thòng lọng và hít một hơi không khí thật dài và thật sâu.

- Việc buôn bán của Paul Jefferson trôi chảy lắm! Y nói. Từ trên cao tôi trông thấy đám đông chen chúc trong cửa tiệm của ông ta.

Y chỉ vào cái móc ở trên trần nhà.

- Treo lên một lần nữa đi! Viên tư lệnh hiến binh gầm lên. Chúng ta sẽ kết thúc một cách tốt đẹp bằng sự tước bỏ mạng sống của y!

Họ lại treo cổ y lên lần nữa.

Họ để cho y hai chân lủng lẳng trong khoảng không trong một giờ đống hồ. Khi họ lại hạ y xuống, tính ba hoa của y vẫn không cạn kiệt chút nào.

- Ông già Plunket thường tới quán rượu Arcady quá nhiều lần! Y xác nhận. Trong một giờ đồng hồ tôi đã trông thấy ông ta vào đó ba lần. Phải nói rằng ông ta có một gia đình! Ông Plunket nên chừa rượu đi thì phải.

Việc này thật là quái gở, không thể tin được, nhưng đúng thật là thế.

Không có gì để cãi cọ nữa, tên tử tội cứ nói lung tung trong khi lẽ ra y đã phải chết rồi, nhưng vị tư lệnh hiến binh Carpentier không phải là người tự để cho mình bị lừa phỉnh một cách dễ dàng như thế. Ông kéo chúng tôi vào một góc, người tù đứng một mình ở giữa gian phòng.

- Duncan Warner, ông từ tốn nói với y, anh có mặt ở nơi đây để đóng vai trò của anh. Và tôi có mặt ở đây để đóng vai trò của tôi. Vai trò của anh là cố sức sống càng lâu càng tốt, vai trò của tôi là cố gắng làm cho luật pháp được chấp hành. Anh đã đánh bại chúng tôi về điện năng, tôi ghi cho anh một điểm. Anh đã đánh bại chúng tôi về sợi dây thừng, mà tôi thấy hình như không thành công lắm đối với anh. Nhưng bây giờ đến lượt tôi đánh bại anh, vì tôi phải hoàn thành nhiệm vụ của tôi.

Ông lấy từ trong áo ra một khẩu súng ru-lô có sáu viên đạn, và nhả tất cả những viên đạn vào thân thể của người tù. Căn phòng đầy đặc những khói đến nỗi chúng tôi không còn có thể trông thấy gì nữa. Khi khói đã tan đi, người tù không nhúc nhíc trong chỗ đứng, cũng như trong thái độ y chỉ ngắm nhìn với sự chán ngán mặt trước cái áo của y.

- Ở đây thì những quần áo không được tính giá đắt y nói. Cái áo này đã làm tôi tosn mất ba mươi đô-la, và xin ông hãy nhìn những gì ông đã làm cho nó! Sáu lỗ thủng ở phía trước thế cũng là khá tệ rồi! Nhưng có bón viên đạn đã xuyên qua mình tôi, từ bên này tới bên nọ, cái lưng chắc cũng không còn lành lặn.

Viên tư lệnh hiến binh buông khẩu súng ra để nó rơi xuống đất, và ông để thõng tay xuống, đó là một kẻ chiến bại.

- Có lẽ một người nào trong bọn các ông, thưa quý ông sẽ có thể nói cho tôi biết việc này có nghĩa làm sao? Ông hỏi ủy ban với sự tuyệt vọng.

Peter Stulpnagel bước lên một bước về phía trước.

- Tôi sẽ giải thích tất cả với các ông.

- Tôi thấy hình như ông là người duy nhất ở đây biết một điều gì.

- Tôi là người duy nhất ở đây biết được tất cả mọi việc, tôi đã cố cảnh báo các quý vị này. Nhưng các ông ấy đã không muốn nghe lời tôi, thế là tôi đành trông đợi vào những gì mà họ học được bằng kinh nghiệm. Các ông có biết những gì mà các ông đã làm với sức điện lớn lao của cácông không? Một cách đơn giản, các ông đã làm gia tăng sức sống của tên tử tội; hiện nay y có đủ khả năng thách thức cái chết trong nhiều thế kỷ.

- Nhiều thế kỷ!

- Phải. Phải mất nhiều trăm năm để làm cạn kiệt cái năng lượng vô biên về thần kinh mà các ông đã chích vào người y. Điện năng là sự sống, các ông đã cung cấp điện năng tới mức tối đa cho y. Có lẽ là trong vòng năm mươi năm các ông sẽ có thể hành quyết y, nhưng tôi không dám đóan chắc điều đó.

- Trời ơi! Nhưng tôi sẽ làm gì với y? Viên tư lệnh bất hạnh của sở hiến binh kêu lên.

Peter Stulpnagel nhún vai.

- Và nếu chúng ra rút hết điện năng của y ra bằng cách treo ngược y lên bằng hai bàn chân không có được không? Ồn chủ tịch đánh liều hỏi.

- Không, việc đó sẽ vô dụng thôi.

- Dù sao thì y cũng sẽ không làm điều sai quấy ở Los Amigos nữa, viên tư lệnh hiến binh nói tiếp với một sự quyết định. Y sẽ vào lao thất mới. Cái lao thất này sẽ tồn tại lâu hơn y.

- Trái lại, Peter Stulpnagel trả lời. Tôi tin rằng y sẽ tồn tại lâu hơn là cái lao thất.

- Đó là một sự thất bại lớn, và trong nhiều năm trời, đã không bao giờ chúng tôi nói về vụ đó trong bọn chúng tôi. Những ngày này thì sự bí mật đã phơi bày, và tôi nghĩ rằng ông sẽ thích đặt câu chuyện vào bộ sưu tập các án lệ của ông.

Kết Thúc (END) Sir Arthur Conan Doyle

» Chiếc Nhẫn Tình Cờ

» Cung Đàn Sau Cuối

» Những Cuộc Phiêu Lưu Của Sherlock Holmes

» Sherlock Holmes Trở Về

» Thung Lũng Khủng Khiếp

» Sự Khủng Khiếp Giữa Trời Cao

» Tên Tử Tù Bất Tử

» Lô Số 249

» Chiếc Nhẫn Giải Thoát

» Cái Thang Máy

» Bàn Tay Nâu

» Con Mèo Brasil

» Con Chó Của Dòng Dọ Baskerville

» Dấu Bộ Tứ

» Những Hồi Ức Về Sherlock Holmes

» Tấn Thảm Kịch Của Tàu Korosko

» Hồn Ma Hiện Lên Từ Đáy Biển

» Vụ Án B.24

» Câu Chuyện Về Sannox Phu Nhân

» Cuộc Thí Nghiệm Ly Kỳ Tại Keinplatz

» Hang Blue John

» Chiếc Phễu Bằng Da

» Chơi Với Lửa

» Tuyển Tập Truyện Giả Tưởng Của Conan Doyle

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: