Truyen Trang Ha Dich

Bài bút ký đầy nước mắt (Trang Hạ dịch)

Những hiểu lầm vô tình nối tiếp, đã làm vấp những bước chân của hạnh phúc. Khi cái thòng lọng của số mệnh bắt ta trả giá, tất cả đã trở nên muộn màng.

1. Khi đưa mẹ chồng về đây an hưởng tuổi già, ai ngờ đó là gốc rễ sự chia ly của chúng tôi.

Sau khi kết hôn hai năm, chồng tôi bàn với tôi đón mẹ lên ở chung để chăm sóc bà những năm tuổi già.

Chồng tôi mất cha từ ngày anh còn nhỏ, mẹ chồng tôi là chỗ dựa duy nhất, mẹ nuôi anh khôn lớn, cho anh học hết đại học.

"Khổ đau cay đắng" bốn chữ ấy vận đúng vào số phận mẹ chồng tôi! Tôi nhanh chóng gật đầu, liền đi thu dọn căn phòng có ban công hướng Nam, phòng có thể đón nắng, trồng chút hoa cỏ gì đó.

Chồng tôi đứng giữa căn phòng ngập tràn nắng, không nói câu nào, chỉ đột ngột bế bổng tôi lên quay khắp phòng, khi tôi giãy giụa cào cấu đòi xuống, anh nói: "Đi đón mẹ chúng ta thôi!".

Chồng tôi vóc dáng cao lớn, tôi thích nép đầu vào ngực anh, cảm giác anh có thể tóm lấy cả thânh hình mảnh mai bé nhỏ của tôi, nhét vào trong túi áo.

Mỗi khi chúng tôi cãi cọ và không chịu làm lành, anh thường nhấc bổng tôi lên đầu quay tròn, cho đến lúc tôi sợ hãi van xin anh thả xuống. Nỗi sợ hãi hạnh phúc ấy làm tôi mê mẩn.

Những thói quen ở nhà quê của mẹ chồng tôi mãi không thể thay đổi.

Tôi thích mua hoa tươi bày trong phòng khách, mẹ chồng tôi sau này không nhịn được bảo: "Bọn trẻ các con lãng phí quá, mua hoa làm chi? Nào có thể ăn được như cơm!"

Tôi cười: "Mẹ, trong nhà có hoa nở rộ, tâm trạng mọi người cũng vui vẻ".

Mẹ chồng tôi cúi đầu cằn nhằn, chồng tôi vội cười: "Mẹ, người thành phố quen thế rồi, dần dần mẹ sẽ quen thôi!"

Mẹ chồng tôi không nói gì nữa, nhưng mỗi lần thấy tôi mang hoa về, bà vẫn không nhịn được hỏi mua hoa mất bao nhiêu tiền, tôi nói, thì bà chép miệng. Có lần thấy tôi xách túi lớn túi nhỏ đi mua sắm về, bà hỏi cái này bao nhiêu tiền cái kia giá bao nhiêu, tôi cứ kể thật, thì bà chép miệng càng to hơn. Chồng tôi véo mũi tôi nói: "Đồ ngốc, em đừng nói cho mẹ biết giá thật có phải đỡ hơn không?"

Cuộc sống hạnh phúc đã lẳng lặng trỗi những âm điệu không êm đềm.

Mẹ chồng tôi ghét nhất là thấy chồng tôi dậy nấu bữa sáng, với bà, làm đàn ông mà phải vào bếp nấu nướng cho vợ, làm gì có chuyện ngược đời đó?

Trên bàn ăn sáng, mặt mẹ chồng tôi thường u ám, tôi giả vờ không nhận thấy. Mẹ chồng tôi bèn khua bát đũa canh cách, đấy là cách phản đối không lời của bà. Tôi là giáo viên dạy múa ở Cung thiếu niên, nhảy múa đã đủ mệt rồi, mỗi sáng ủ mình trong ổ chăn ấm áp, tôi không muốn phải hy sinh nốt sự hưởng thụ duy nhất đấy, vì thế tôi vờ câm điếc trước sự phản ứng của mẹ chồng. Còn mẹ chồng tôi thỉnh thoảng có giúp tôi làm việc nhà, thì chỉ làm tôi càng bận rộn thêm.

Ví như, bà gom tất thảy mọi túi nilông đựng đồ và đựng rác trong nhà lại, bảo chờ gom đủ rồi bán đồng nát một thể, vì thế trong nhà chỗ nào cũng toàn túi nilông dùng rồi; Bà tiếc rẻ không dùng nước rửa bát, để khỏi làm bà mất mặt, tôi đành phải lén lút rửa lại lần nữa. Có một buổi tối, mẹ chồng tôi bắt gặp tôi đang lén rửa lại bát, bà đập cửa phòng đánh "sầm" một cái, nằm trong phòng khóc ầm ĩ.

Chồng tôi khó xử, sau việc này, suốt đêm anh không nói với tôi câu nào, tôi nũng nịu, làm lành, anh cũng mặc kệ. Tôi giận dữ, hỏi anh: "Thế em rốt cục đã làm sai cái gì nào?"

Anh trừng mắt nhìn tôi nói: "Em không chịu nhường mẹ đi một chút, ăn bát chưa sạch thì cũng có chết đâu?"

Sau đó, cả một thời gian dài, mẹ chồng tôi không nói chuyện với tôi, không khí trong gia đình gượng gạo dần. Thời gian đó, chồng tôi cũng sống rất mệt mỏi, anh không biết nên làm vui lòng ai trước.

Mẹ chồng tôi không cho con trai nấu bữa sáng nữa, xung phong đảm nhận "trọng trách" nấu bữa sáng. Mẹ chồng tôi ngắm con trai ăn sáng vui vẻ, lại nhìn sang tôi, ánh mắt bà trách móc tôi làm không trọn trách nhiệm của người vợ. Để tránh bị khó xử, tôi đành ăn tạm gói sữa trên đường đi làm.

Lúc đi ngủ, chồng tôi hơi buồn trách, hỏi tôi: "Rodi, có phải em chê mẹ anh nấu cơm không sạch nên em không ăn ở nhà?". Lật mình, anh quay lưng về phía tôi lạnh lùng, mặc kệ tôi nước mắt tủi thân lăn tràn trề.

Cuối cùng, chồng tôi thở dài: "Rodi, thôi em cứ coi như là vì anh, em ở nhà ăn sáng được không?". Thế là tôi đành quay về ngồi ở bàn ăn ngần ngại mỗi sáng.

Sáng đó, tôi húp bát cháo do mẹ chồng nấu, đột nhiên lợm giọng, mọi thứ trong dạ dầy tống tháo hết ra ngoài, tôi cuống cuồng bịt chặt miệng không cho nó trào ra, nhưng không được, tôi vứt bát đũa (chú thích: người Trung Quốc ăn cháo bằng đũa, không dùng thìa như ở Việt Nam) nhảy bổ vào toa-lét, nôn oẹ hết.

Khi tôi hổn hển thở được, bình tâm lại, thấy mẹ chồng tôi đang khóc lóc than thân trách phận bằng tiếng pha rặt giọng nhà quê, chồng tôi đứng ở cửa toa-lét giận dữ nhìn tôi, tôi há miệng không nói được nên lời, tôi đâu có cố ý. Lần đầu tiên tôi và chồng tôi bắt đầu cãi nhau kịch liệt, ban đầu mẹ chồng tôi ngồi nhìn chúng tôi, rồi bà đứng dậy, thất thểu đi ra khỏi cửa. Chồng tôi hằn học nhìn tôi một cái rồi xuống nhà đuổi theo mẹ.

2. Đón chào sinh mệnh mới, nhưng mất đi tính mệnh bà!

Suốt ba ngày, chồng tôi không về nhà, cũng không gọi điện. Tôi đang giận, tôi nghĩ từ ngày mẹ chồng tôi lên đây, tôi đã cực nhục đủ rồi, còn muốn gì tôi nữa? Nhưng kỳ lạ làm sao, tôi vẫn cứ buồn nôn, ăn gì cũng chẳng thấy ngon, thêm vào đó việc nhà rối ren, tâm trạng tôi cực kỳ tồi tệ. Sau đó, một đồng nghiệp bảo tôi: "Rodi, trông sắc mặt cậu xấu lắm, đi khám bác sĩ xem nào".

Kết quả khám của bác sĩ là tôi đã có thai. Tôi hiểu ra sáng hôm đó vì sao tôi nôn oẹ, trong cảm giác hạnh phúc có xen lẫn chút oán trách, chồng tôi và cả cả bà mẹ chồng đã từng sinh nở, vì sao họ không hề nghĩ đến lý do ấy? Ở cổng bệnh viện, tôi gặp chồng tôi. Mới chỉ ba hôm không gặp mặt, chồng tôi đã trở nên hốc hác. Tôi đáng lẽ định quay người đi thẳng, nhưng trông anh rất đáng thương, tôi không nén được gọi anh lại. Chồng tôi nghe tiếng thì nhìn thấy tôi, nhưng làm như không quen biết, trong mắt anh chỉ còn sự căm thù, ánh nhìn ấy làm tôi bị thương.

Tôi tự nói với mình, không được nhìn anh ấy, không được nhìn anh ấy, tôi đưa tay vẫy một chiếc taxi chạy qua.

Lúc đó tôi mong muốn làm sao được kêu lên với chồng tôi một tiếng: "Anh ơi, em sắp sinh cho anh một đứa con rồi!" và được anh bế bổng lên, quay tròn hạnh phúc, những cái tôi mơ ước nó không xảy ra, trên chiếc taxi, nước mắt tôi chầm chậm rơi xuống.

Vì sao một vụ cãi nhau đã làm tình yêu trở nên tồi tệ như thế này? Sau khi về nhà, tôi nằm trên giường nhớ chồng, nhớ đến sự căm thù trong mắt anh. Tôi ôm một góc chăn nằm khóc. Đêm đó, trong nhà có tiếng mở ngăn kéo. Bật đèn lên, tôi nhìn thấy gương mặt đầy nước mắt của chồng tôi. Anh ấy đang lấy tiền. Tôi lạnh lùng nhìn anh, không nói gì. Anh coi như không có tôi, cầm tiền và sổ tiết kiệm rồi đi. Có lẽ anh đã quyết định rời bỏ tôi thật sự. Thật là một người đàn ông khôn ngoan, tình và tiền rạch ròi thế. Tôi cười nhạt vài cái, nước mắt lại "ồn ào" lăn xuống.

Ngày hôm sau, tôi không đi làm. Tôi dọn lại toàn bộ suy nghĩ của mình, đi tìm chồng nói chuyện một lần cho rõ.

Đến công ty của chồng, thư ký hơi lạ lùng nhìn tôi, bảo: "Mẹ của tổng giám đốc Trần bị tai nạn xe cộ, đang trong viện."

Tôi há hốc mồm trợn mắt, chạy bổ tới bệnh viện, khi tìm được chồng tôi, mẹ chồng tôi đã mất rồi. Chồng tôi không nhìn tôi, mặt anh rắn lại.

Tôi nhìn gương mặt gầy gò trắng bệnh xanh tái lại của mẹ chồng, nước mắt tôi tuôn xuống ào ạt, trời ơi! Sao lại ra thế này? Cho đến tận lúc chôn cất bà, chồng tôi cũng không hề nói với tôi một câu, thậm chí mỗi ánh mắt đều mang một nỗi thù hận sâu sắc. Về vụ tai nạn xe, tôi phải hỏi người khác mới biết đại khái là, mẹ chồng tôi bỏ nhà đi mơ hồ ra phía bến xe, bà muốn về quê, chồng tôi càng theo bà càng đi nhanh, khi qua đường, một chiếc xe bus đã đâm thẳng vào bà...

Cuối cùng tôi đã hiểu sự căm ghét của chồng, nếu buổi sáng hôm đó tôi không nôn, nếu chúng tôi không cãi nhau, nếu như... trong tim anh ấy, tôi chính là người gián tiếp gây ra cái chết của mẹ anh.

Chồng tôi im lặng dọn đồ vào ở phòng mẹ, mỗi tối anh về nhà nồng nặc hơi rượu. Và tôi bị lòng tự trọng đáng thương lẫn sự ân hận dồn nén tới không thể thở được, muốn giải thích cho anh, muốn nói với anh rằng chúng ta sắp có con rồi, nhưng nhìn vào đôi mắt lạnh lùng của anh, tôi lại nuốt hết đi những lời định nói. Thà anh đánh tôi một trận hoặc chửi bới tôi một trận còn hơn, cho dù tất cả đã xảy ra không phải do tôi cố ý.

Ngày lại ngày cứ thế trôi đi trùng lặp, chồng tôi về nhà ngày càng muộn. Tôi cố chấp, coi anh còn hơn kẻ lạ. Tôi là cái thòng lọng thắt trong trái tim chồng tôi.

Một lần, tôi đi qua một tiệm ăn châu Âu, xuyên qua lớp cửa kính trong suốt kéo dài từ trần nhà xuống sát mặt đất, tôi nhìn thấy chồng tôi ngồi đối diện trước một cô gái trẻ, anh nhè nhẹ vuốt tóc cô gái, tôi đã hiểu ra tất cả.

Ban đầu tôi sững sờ, rồi tôi bước vào tiệm ăn, đứng trước mặt chồng, nhìn anh trân trối, mắt khô cạn. Tôi chẳng còn muốn nói gì, cũng không thể nào nói gì. Cô gái nhìn tôi, nhìn chồng tôi, đứng lên định bỏ đi, chồng tôi đưa tay ấn cô ngồi xuống, và, anh cũng trân trối nhìn tôi, không hề thua kém. Tôi chỉ còn nghe thấy tiếng trái tim tôi đang đập thoi thóp, đập thoi thóp từng nhịp một từng nhịp một cho tới tận ranh giới tái xanh của cái chết. Kẻ thua cuộc là tôi, nếu tôi cứ đứng thế này mãi, tôi và đứa bé trong bụng tôi sẽ cùng ngã.

Đêm đó, chồng tôi không về nhà, anh dùng cách đó để nói cho tôi biết: Cùng với cái chết của mẹ chồng tôi, tình yêu của chúng tôi cũng đã chết rồi.

Chồng tôi không quay về nữa. Có hôm, tôi đi làm về, thấy tủ quần áo bị động vào, chồng tôi quay về lấy vài thứ đồ của anh. Tôi không muốn gọi điện cho chồng tôi, ngay cả ý nghĩ ban đầu là giải thích mọi chuyện cho anh, giờ cũng đã biến mất hoàn toàn.

Tôi một mình sống, một mình đi bệnh viện khám thai, mỗi lần thấy những người chồng thận trọng dìu vợ đi viện khám thai, trái tim tôi như vỡ tan ra. Đồng nghiệp lấp lửng xui tôi nạo thai đi cho xong, nhưng tôi kiên quyết nói không, tôi điên cuồng muốn được đẻ đứa con này ra, coi như một cách bù đắp cho cái chết của mẹ chồng tôi. Khi tôi đi làm về, chồng tôi đang ngồi trong phòng khách, khói thuốc mù mịt khắp phòng, trên bàn nước đặt một tờ giấy. Không cần liếc qua, tôi đã biết tờ giấy viết gì.

Trong hai tháng chồng tôi không về nhà, tôi đã dần dần học được cách bình tĩnh. Tôi nhìn anh, gỡ mũ xuống, bảo: "Anh chờ chút, tôi ký!". Chồng tôi cứ nhìn tôi, ánh mắt anh bối rối, như tôi.

Tôi vừa cởi cúc áo khoác vừa tự dặn mình: "Không khóc, không khóc...". Mắt rất đau, nhưng tôi không cho phép nước mắt được lăn ra. Treo xong áo khoác, cái nhìn của chồng tôi gắn chặt vào cái bụng đã nổi lên của tôi. Tôi mỉm cười, đi tới, kéo tờ giấy lại, không hề nhìn, ký lên đó cái tên tôi, đẩy lại phía anh.

"Rodi, em có thai à?"

Từ sau khi mẹ chồng gặp tai nạn, đây là câu đầu tiên anh nói với tôi. Tôi không cầm được nước mắt nữa, lệ "tới tấp" giàn xuống má.

Tôi đáp: "Vâng, nhưng không sao đâu, anh có thể đi được rồi!". Chồng tôi không đi, trong bóng tối, chúng tôi nhìn nhau. Chồng tôi nằm ôm lấy lấy người tôi, nước mắt thấm ướt chăn. Nhưng trong tim tôi, rất nhiều thứ đã mất về nơi quá xa xôi, xa tới mức dù tôi có chạy đuổi theo cũng không thể với lại.

Không biết chồng tôi đã nói "Anh xin lỗi Em!" với tôi bao nhiêu lần rồi, tôi cũng đã từng tưởng rằng tôi sẽ tha thứ, nhưng tôi không tài nào làm được, trong tiệm ăn châu Âu hôm đó, trước mặt người con gái trẻ ấy, ánh mắt lạnh lẽo chồng tôi nhìn tôi, cả đời này, tôi không thể nào quên nổi. Chúng tôi đã cùng rạch lên tim nhau những vết đớn đau. Do tôi, là vô ý; Còn anh, là bởi cố tình.

3. Mong ước hoá giải những ân hận cũ, nhưng quá khứ không bao giờ trở lại!

Trừ những lúc ấm áp khi nghĩ đến đứa bé trong bụng, còn với chồng, trái tim tôi lạnh giá như băng, không ăn bất cứ thứ gì anh mua, không cần ở anh bất cứ món quà gì, không nói chuyện với anh. Bắt đầu từ lúc ký vào tờ giấy kia, hôn nhân cũng như tình yêu đã biến mất khỏi đời tôi. Có hôm chồng tôi thử quay về phòng ngủ, anh vào, tôi ra phòng khách, anh chỉ còn cách quay về ngủ ở phòng mẹ.

Trong đêm thâu, đôi khi từ phòng anh vẳng tới tiếng rên khe khẽ, tôi im lặng mặc kệ. Đây là trò anh thường bày ra, ngày xưa chỉ cần tôi giận anh, anh sẽ giả vờ đau đầu, tôi sẽ lo lắng chạy đến, ngoan ngoãn đầu hàng chồng, quan tâm xem anh bị làm sao, anh sẽ vươn một tay ra tóm lấy tôi cười ha hả. Anh đã quên rồi, tôi lo lắng là bởi tôi yêu anh, còn bây giờ, giữa chúng tôi còn lại gì đâu?

Chồng tôi dùng những tiếng rên ngắt quãng để đón ngày đứa bé chào đời. Dường như ngày nào anh cũng mua gì đó cho con, các đồ dùng của trẻ sơ sinh, đồ dùng của trẻ em, ngay cả sách thiếu nhi, từng bọc từng bọc, sắp chất đầy gian phòng anh. Tôi biết chồng tôi dùng cách đó để cảm động tôi, nhưng tôi không còn cảm thấy gì nữa. Anh đành giam mình trong phòng, gõ máy tính "lạch cà lạch cạch", có lẽ anh đang yêu đương trên mạng, nhưng việc đó đối với tôi không có ý nghĩa gì.

Đêm cuối mùa xuân, cơn đau bụng dữ dội khiến tôi gào lên, chồng tôi nhảy bổ sang, như thể anh chưa hề thay quần áo đi ngủ, vì đang chờ đón giây phút này tới. Anh cõng tôi chạy xuống nhà, bắt xe, suốt dọc đường nắm chặt bàn tay tôi, liên tục lau mồ hôi trên trán tôi. Đến bệnh viện, anh lại cõng tôi chạy vào phòng phụ sản. Nằm trên cái lưng gầy guộc và ấp áp, một ý nghĩ hiện ra trong đầu tôi: "Cả cuộc đời này, còn ai có thể yêu tôi như anh nữa không?"

Anh đẩy cửa phòng phụ sản, nhìn theo tôi đi vào, tôi cố nén cơn đau nhìn lại anh một cái nhìn ấm áp.

Từ phòng đẻ ra, chồng tôi nhìn tôi và đứa bé, anh cười mắt rưng rưng. Tôi vuốt bàn tay anh. Chồng tôi nhìn tôi, mỉm cười, rồi, anh chậm rãi và mệt mỏi ngã dụi xuống. Tôi gào tên anh... Chồng tôi mỉm cười, nhưng không thể mở được đôi mắt mệt mỏi... Tôi đã tưởng có những giọt nước mắt tôi không thể nào chảy vì chồng nữa, nhưng sự thực lại khác, chưa bao giờ có nỗi đau đớn mạnh mẽ thế xé nát thân thể tôi.

Bác sĩ nói, phát hiện chồng tôi ung thư gan đã vào giai đoạn cuối cùng, anh gắng gượng cho đến giờ kể cũng đã là kỳ tích. Tôi hỏi bác sĩ phát hiện ung thư khi nào? Bác sĩ nói năm tháng trước, rồi an ủi tôi: "Phải chuẩn bị hậu sự đi!"

Tôi mặc kệ sự can ngăn của y tá, về nhà, vào phòng chồng tôi bật máy tính, tim tôi phút chốc bị bóp nghẹt. Bệnh ung thư gan của chồng tôi đã phát hiện từ năm tháng trước, những tiếng rên rỉ của anh là thật, vậy mà tôi nghĩ đó là...

Có hai trăm nghìn chữ trong máy tính, là lời dặn dò chồng tôi gửi lại cho con chúng tôi:

"Con ạ, vì con, bố đã kiên trì, phải chờ được đến lúc nhìn thấy con bố mới được gục ngã, đó là khao khát lớn nhất của bố... Bố biết, cả cuộc đời con sẽ có rất nhiều niềm vui hoặc gặp nhiều thử thách, giá như bố được đi cùng con suốt cả chặng đường con trưởng thành, thì vui sướng biết bao, nhưng bố không thể. Bố viết lại trên máy tính, viết những vấn đề mà con có thể sẽ gặp phải trong đời, bao giờ con gặp phải những khó khăn đó, con có thể tham khảo ý kiến của bố... Con ơi, viết xong hơn 200 nghìn chữ, bố cảm thấy như đã đi cùng con cả một đoạn đời con lớn. Thật đấy, bố rất mừng. Con phải yêu mẹ con, mẹ rất khổ, mẹ là người yêu con nhất, cũng là người bố yêu nhất..."

Từ khi đứa trẻ đi học mẫu giáo, rồi học Tiểu học, Trung học, lên Đại học, cho đến lúc tìm việc, yêu đương, anh đều viết hết.

Chồng tôi cũng viết cho tôi một bức thư:

"Em yêu dấu, cưới em làm vợ là hạnh phúc lớn nhất đời anh, tha thứ cho những gì anh làm tổn thương em, tha thứ cho việc anh giấu em bệnh tình, vì anh muốn em giữ gìn sức khoẻ và tâm lý chờ đón đứa con ra đời... Em yêu dấu, nếu em đang khóc, tức là em đã tha thứ cho anh rồi, anh sẽ cười, cảm ơn em đã luôn yêu anh... Những quà tặng này, anh sợ anh không có cơ hội tự tay tặng cho con nữa, em giúp anh mỗi năm tặng con vài món quà, trên các gói quà anh đều đã ghi sẵn ngày sẽ tặng quà rồi..."

Quay lại bệnh viện, chồng tôi vẫn đang hôn mê. Tôi bế con tới, đặt nó bên anh, tôi nói: "Anh mở mắt cười một cái nào, Em muốn con mình ghi nhớ khoảnh khắc ấm áp nằm trong lòng bố..."

Chồng tôi khó khăn mở mắt, khẽ mỉm cười. Thằng bé vẫn nằm trong lòng bố, ngọ nguậy đôi tay hồng hào bé tí xíu. Tôi ấn nút chụp máy ảnh "lách tách", để mặc nước mắt chảy dọc má...

Hết

Sợi dây tình yêu - [Trang Hạ dịch]

Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ, mỗi ngày đều ngập trong khói hương và những lời cầu đảo, nhện dần có Phật tính. Trải nghìn năm tu luyện, nhện đã linh.

Một ngày, bỗng Phật dạo đến ngôi miếu nọ, thấy khói hương rất vượng, hài lòng lắm. Lúc rời miếu, ngài vô tình ngẩng đầu lên, nhìn thấy nhện trên xà.

Phật dừng lại, hỏi nhện: "Ta gặp ngươi hẳn là có duyên, ta hỏi ngươi một câu, xem ngươi tu luyện một nghìn năm nay có thật thông tuệ chăng. Được không?"

Nhện gặp được Phật rất mừng rỡ, vội vàng đồng ý. Phật hỏi: "Thế gian cái gì quý giá nhất?"

Nhện suy ngẫm, rồi đáp: "Thế gian quý nhất là những gì không có được và những gì đã mất đi!". Phật gật đầu, đi khỏi.

Lại một nghìn năm nữa trôi qua, nhện vẫn tu luyện trên thanh xà trước miếu Quan Âm, Phật tính của nhện đã mạnh hơn.

Một ngày, Phật đến trước miếu, hỏi nhện: "Ngươi có nhớ câu hỏi một nghìn năm trước của ta không, giờ ngươi đã hiểu nó sâu sắc hơn chăng?"

Nhện nói: "Con cảm thấy trong nhân gian quý nhất vẫn là "không có được" và "đã mất đi" ạ!"

Phật bảo: "Ngươi cứ nghĩ nữa đi, ta sẽ lại tìm ngươi."

Một nghìn năm nữa lại qua, có một hôm, nổi gió lớn, gió cuốn một hạt sương đọng lên lưới nhện. Nhện nhìn giọt sương, thấy nó long lanh trong suốt sáng lấp lánh, đẹp đẽ quá, nhện có ý yêu thích. Ngày này nhìn thấy giọt sương nhện cũng vui, nó thấy là ngày vui sướng nhất trong suốt ba nghìn năm qua. Bỗng dưng, gió lớn lại nổi, cuốn giọt sương đi. Nhện giây khắc thấy mất mát, thấy cô đơn, thấy đớn đau.

Lúc đó Phật tới, ngài hỏi: "Nhện, một nghìn năm qua, ngươi đã suy nghĩ thêm chưa: Thế gian này cái gì quý giá nhất?"

Nhện nghĩ tới giọt sương, đáp với Phật: "Thế gian này cái quý giá nhất chính là cái không có được và cái đã mất đi."

Phật nói: "Tốt, nếu ngươi đã nhận thức như thế, ta cho ngươi một lần vào sống cõi người nhé!"

Và thế, nhện đầu thai vào một nhà quan lại, thành tiểu thư đài các, bố mẹ đặt tên cho nàng là Châu Nhi. Thoáng chốc Châu Nhi đã mười sáu, thành thiếu nữ xinh đẹp yểu điệu, duyên dáng. Hôm đó, tân Trạng Nguyên Cam Lộc đỗ đầu khoa, nhà vua quyết định mở tiệc mừng sau vườn ngự uyển.

Rất nhiều người đẹp tới yến tiệc, trong đó có Châu Nhi và Trường Phong công chúa. Trạng Nguyên trổ tài thi ca trên tiệc, nhiều tài nghệ khiến mọi thiếu nữ trong bữa tiệc đều phải lòng. Nhưng Châu Nhi không hề lo âu cũng không ghen, bởi nàng biết, chàng là mối nhân duyên mà Phật đã đưa tới dành cho nàng.

Qua vài ngày, tình cờ Châu Nhi theo mẹ lên miếu lễ Phật, cũng lúc Cam Lộc đưa mẹ tới miếu. Sau khi lễ Phật, hai vị mẫu thân ngồi nói chuyện. Châu Nhi và Cam Lộc thì tới hành lang tâm sự, Châu Nhi vui lắm, cuối cùng nàng đã có thể ở bên người nàng yêu, nhưng Cam Lộc dường như quá khách sáo.

Châu Nhi nói với Cam Lộc: "Chàng còn nhớ việc mười sáu năm trước, của con nhện trên xà miếu Quan Âm chăng?"

Cam Lộc kinh ngạc, hỏi: "Châu Nhi cô nương, cô thật xinh đẹp, ai cũng hâm mộ, nên trí tưởng tượng của cô cũng hơi quá nhiều chăng?". Nói đoạn, chàng cùng mẹ chàng đi khỏi đó.

Châu Nhi về nhà, nghĩ, Phật đã an bài mối nhân duyên này, vì sao không để cho chàng nhớ ra chuyện cũ, Cam Lộc vì sao lại không hề có cảm tình với ta? Vài ngày sau, vua có chiếu ban cho Trạng Nguyên Cam Lộc sánh duyên cùng công chúa Trường Phong, Châu Nhi được sánh duyên với thái tử Chi Thụ. Tin như sấm động giữa trời quang, nàng không hiểu vì sao Phật tàn nhẫn với nàng thế.

Châu Nhi bỏ ăn uống, nằm khô nhắm mắt nghĩ ngợi đau đớn, vài ngày sau linh hồn nàng sắp thoát khỏi thân xác, sinh mệnh thoi thóp.

Thái tử Chi Thụ biết tin, vội vàng tới, phục xuống bên giường nói với nàng: "Hôm đó, trong những cô gái giữa bữa tiệc sau vườn thượng uyển, ta vừa gặp nàng đã thấy yêu thương, ta đã khốn khổ cầu xin phụ vương để cha ta cho phép cưới nàng. Nếu như nàng chết, thì ta còn sống làm chi." Nói đoạn rút gươm tự sát.

Và giây khắc ấy Phật xuất hiện, Phật nói với linh hồn sắp lìa thể xác Châu Nhi: "Nhện, ngươi đã từng nghĩ ra, giọt sương (Cam Lộc) là do ai mang đến bên ngươi chăng? Là gió (Trường Phong) mang tới đấy, rồi gió lại mang nó đi. Cam Lộc thuộc về công chúa Trường Phong, anh ta chỉ là một khúc nhạc thêm ngắn ngủi vào sinh mệnh ngươi mà thôi.

Còn thái tử Chi Thụ chính là cái cây nhỏ trước cửa miếu Quan Âm đó, anh ta đã ngắm ngươi ba nghìn năm, yêu ngươi ba nghìn năm, nhưng ngươi chưa hề cúi xuống nhìn anh ta. Nhện, ta lại đến hỏi ngươi, thế gian này cái gì là quý giá nhất?"

Nhện nghe ra sự thật, chợt tỉnh ngộ, nàng nói với Phật: "Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!"

Vừa nói xong, Phật đã đi mất, linh hồn Châu Nhi quay lại thân xác, mở mắt ra, thấy thái tử Chi Thụ định tự sát, nàng vội đỡ lấy thanh kiếm...

Câu chuyện đến đây là hết, bạn có hiểu câu cuối cùng mà nàng Châu Nhi nói không?

"Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!"

Trong suốt đời ta, sẽ gặp hàng nghìn hàng vạn loại người.

Để yêu một người thì không cần cố gắng, chỉ cần có "duyên" là đủ.

Nhưng để tiếp tục yêu một người thì phải cố gắng.

Tình yêu như sợi dây, hai người cùng kéo hai đầu, chỉ cần một người kéo căng hoặc bỏ lơi, tình yêu ấy sẽ căng thẳng hoặc chùng xuống.

Vậy khi bạn đi kiếm người ở đầu kia dây, hãy cân nhắc. Hoặc bạn có quá nhiều sợi dây tình cảm, hoặc bạn cứ liên tục tìm cái mới, hoặc khi dây đã đứt, bạn không còn can đảm hay lòng tin, tình yêu để đi tìm một tình yêu mới nữa.

Bất kể thế nào, khi sợi dây đó đứt, bạn chỉ mất đi một người không yêu bạn, nhưng người đó đã mất đi một người yêu họ.

Mất một người không biết trân quý bạn, có gì phải buồn rầu?

Bởi bạn còn cơ hội, một lần nữa, gặp người biết rằng bạn quý giá.

Có muốn nghe tôi kể câu chuyện ấy lần nữa không, ngày xưa, trước miếu Quan Âm...

Hết

Mẹ điên [Trang Hạ dịch]

Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người. Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!". Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.

Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền. Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.

Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói: "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!". Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con.

Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên: "Đưa, đưa tôi..." bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi: "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao mà phát hiện mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!". Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm.

Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Đặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi.

Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo: "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?". Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã trong miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán: "Đừng... đừng...". Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét: "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?". Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại.

Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài. Bà nội quay đầu đi, nuốt những nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói: "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!". Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi: "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!". Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí.

Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa lại.

Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới phát hiện, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi: "Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi." Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống không?

Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang.

Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo: "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!" Tôi mừng quá đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu. Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo: "Thụ... bóng... bóng...". Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào lòng tôi với vẻ nịnh nọt. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to: "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!"

Tôi tức tối đáp lại nó: "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!" Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.

Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng.

Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn.

Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn". Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa: "Con mẹ điên lúa và cỏ mà không phân biệt được..." Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi: "Đánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..."

Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Đừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo: "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...". Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo: "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!" Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật, là bà. Bà trừng mắt bảo tôi: "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Đấy là mẹ mày đấy!" Tôi vùng vằng bĩu môi: "Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!"

"A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!" Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: "Đánh tôi, đánh tôi!"

Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm: "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!". Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa.

Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: "Thụ... ô...". Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Phạm Gia Hỷ cầm đầu trêu chọc. Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị Phạm Gia Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ Phạm Gia Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.

Mẹ vì tôi gây ra đại hoạ, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt. Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn. Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về. Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín. Đây là những người do nhà Phạm Gia Hỷ nhờ tới, bố Phạm hung hãn chỉ vào cha tôi nói: "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, mẹ mày tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra."

Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà họ Phạm, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu. Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngănbàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Đám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết. "Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành hoạ đấy thôi!". Cha lại nhìn tôi nói: "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!". Tôi gật đầu, tôi hiểu.

Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp.

Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.

27/4/2003, lại là một chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: "Ngọt quá, ở đâu ra?" Mẹ nói: "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì.

Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói: "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!" Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi: "Mẹ mày có nói gì không?" Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:" Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!" Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Đường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói: "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!" Tôi nói: "Thím, thím đừng doạ cháu...". Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi...

Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi: "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..." Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.

Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Đại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi. Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ: "Mẹ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, Mẹ có nghe thấy không? Mẹ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!"

Hết

Vườn Thất Lạc

Tác giả: Diệp Quan Triều

Đề tựa:

Nếu có một ngày phải rời khỏi thế gian này, tôi hy vọng chỗ tôi quay về sẽ là trong lòng em. Cho dù tôi phải uống chén nước quên của sông Nại Hà để xoá đi tất cả mọi ký ức về trần gian, thì kiếp sau, tôi vẫn còn có thể mang những ký ức về đôi ta để tìm lại em.

Một

Vào đêm tân hôn, tôi đột ngột hỏi Đinh Vũ câu ấy:

- Vũ, chúng mình rồi sẽ có ngày già đi, rồi phải chết. Nếu anh có thể chọn, anh hy vọng nơi anh về là đâu?

Buột miệng rồi, tôi rất hối hận. Ngay trong ngày cưới đại hỷ, sao tôi lại dại mồm thế này. Quả nhiên, Đinh Vũ im lặng. Tôi đang định nói vài câu cải chính, thì anh đã trả lời:

- Nếu có một ngày phải rời khỏi thế gian này, anh hy vọng chỗ anh quay về sẽ là trong lòng em. Cho dù anh phải uống chén nước quên của sông Nại Hà để xoá đi tất cả mọi ký ức về trần gian, thì kiếp sau, anh vẫn còn có thể mang những ký ức về đôi ta để tìm lại em.

Trong bóng tối, tôi không nhìn rõ nét mặt Vũ. Nhưng sự chân thành và kiên định trong âm sắc ấy đã chấn động tâm hồn tôi mạnh mẽ.

Đúng, lúc đó, tôi là người phụ nữ hạnh phúc nhất thế giới.

Đinh Vũ là người đàn ông dịu dàng. Tôi không biết liệu có phải chính tính cách đó đã ngăn trở anh, cho đến giờ anh chỉ là một viên chức bình thường trong công ty. Khi mới kết hôn, rất nhiều bạn bè tôi đều không hiểu nổi vì sao tôi chọn anh. Dù gì thì lương anh cũng chỉ bằng một phần tư thu nhập của tôi. Còn tôi, tôi vẫn cho rằng trái tim dịu dàng của anh đã đủ để vỗ về những mỏi mệt mỗi ngày của tôi.

Lấy nhau hơn nửa năm, chúng tôi vẫn sống trong một căn hộ nhỏ trong khu tập thể ba tầng của công ty. Tuy chỉ là một căn hộ nhỏ bé ba buồng, nhưng chúng tôi đều hài lòng. Theo cách mà Đinh Vũ nói: "Nhà riêng và bánh mì rồi một ngày đó ta sẽ có!". Cho dù tôi rất mong được ở một căn phòng xinh đẹp, nhưng trong thành phố đắt đỏ này tôi chỉ mong thu xếp được cho cuộc sống từng ngày.

Song, cũng cùng với thời gian trôi đi, tôi dần dần cảm thấy một nỗi buồn rầu. Tôi đã từng tin rằng, bình dị mới là cốt lõi của mọi tình yêu. Vậy nhưng cuộc sống theo cách ngày lại như ngày qua, đã làm tôi buồn ghét. Những gạo dầu mắm muối đã thay cho lãng mạn đẹp đẽ, những điều nhạt nhẽo mà hôn nhân bày ra làm tôi bắt đầu hoang mang trước những lối đi tương lai.

Tôi vô cùng hy vọng Vũ cũng có thể cảm thấy, hoặc là cách khác, anh sẽ có một thay đổi nào đó. Nhưng anh dường như tĩnh lặng, bình yên sống ngày như ngày. Đinh Vũ viết văn rất hay, anh đã từng viết những truyện ngắn nho nhỏ, vì thế sau khi tan sở anh chỉ thích về ngồi hí húi bên bàn viết lách. Tôi vẫn mong anh tập trung tâm sức vào công việc, nhưng chẳng thấy hiệu quả. Những hoang mang lẫn buồn bã tích tụ nhiều ngày từ cuộc sống vợ chồng làm trái tim tôi chai sạn và bắt đầu khép kín mình, tôi không còn cảm nhận được tình yêu từ anh ấy.

Hứa Dũng bước thẳng vào cuộc sống của tôi trong thời điểm đó.

Dạ tiệc của công ty, tôi ngồi một mình ngoài rìa sàn nhảy nhấm nháp rượu vang, giữa lúc nhàm chán đó, một người đàn ông trung niên mời tôi khiêu vũ. Tối đó đã nhiều người tới mời tôi nhảy, nhưng đều bị tôi tìm lý do khéo léo thoái thác. Vậy mà người đàn ông trước mặt tôi, mỗi cử chỉ đều toát ra vẻ đàn ông chững chạc, đặc biệt có một vẻ hấp dẫn của kẻ thành đạt trong sự nghiệp, đã làm tôi khó cưỡng. Tôi và anh ta dìu nhau nhè nhẹ trong đám đông khiêu vũ và tiếng nhạc. Ánh đèn lấp loá của dạ tiệc làm tôi có lúc như mê đi. Anh ấy thì thầm khe khẽ bên tai tôi:

- Trần Nhiễm, tên em phải không? Phòng kinh doanh?

Tôi hơi bất ngờ, ngước mắt lên nhìn. Người đàn ông này không thật cao, có lẽ chỉ 1m76, nhưng có một phong thái khiến tôi phải ngước lên nhìn.

- Em lạ lắm phải không? Chẳng lẽ ngay cả tên nhân viên mình mà anh cũng không nắm rõ, thì hoá ra anh cũng vô tình lắm à!

Giọng nói nhẹ nhàng ấy lại làm tim tôi hơi thót lại, tôi nghi hoặc hỏi:

- Anh là...?

Đúng lúc đó, bản nhạc kết thúc. Anh ta ôm nhẹ tôi, nói khẽ bên tai:

- Tôi là Hứa Dũng. Em là người phụ nữ duy nhất anh khiêu vũ cùng trong đêm nay.

Nói xong, anh ta đi khuất ngay, để lại tôi ngơ ngẩn đứng đấy. Người đàn ông này, không lẽ là Phó tổng giám đốc công ty chúng tôi? Và tôi, là người phụ nữ duy nhất khiêu vũ cùng anh ấy đêm nay? Một chút kiêu hãnh và êm ái len trong tôi.

Tôi về nhà lúc quá nửa đêm về sáng, mở cửa, Vũ vẫn phục bên đống bản thảo của anh. Thấy tôi về, anh ấy thu gọn bản thảo rồi vào bếp bưng ra một bát mì.

- Vợ ơi, em có mệt không? Bát này để dành cho em này...

- Mì thịt trứng, phải không? - Tôi ngắt lời chồng.

Đinh Vũ hơi bối rối lắc đầu. Cưới nhau đã lâu, anh ấy vẫn cứ cái điệu như ngày còn yêu nhau, làm động tác này nếu lúng túng không biết phải làm gì. Tôi cũng không hiểu vì sao tôi đã ngắt lời anh, nhưng đêm nay tôi cảm thấy dường như tôi đang lén lút làm gì đó, nên rồi buột miệng:

- Anh ngoài việc viết lách, rồi nấu mì thịt trứng ra, thì anh còn làm được gì khác?

Gương mặt Vũ biến sắc. Tôi hơi hối hận, nhìn bát mì nóng tưng bừng chồng tôi bê trong tay, nhẹ giọng lại:

- Em xin lỗi, Vũ, có lẽ em mệt quá đấy thôi!

Đinh Vũ cũng nhẹ nhõm lại, nhắc dịu dàng:

- Thế thì hay là em đi nghỉ sớm đi ?

- Vâng ! - Tôi gật đầu. Đêm ngủ tôi gác đầu quay lưng về phía Vũ, như chúng tôi chưa nói năng gì, trong đêm tối, dáng dấp chắc chắn và lịch duyệt của Hứa Dũng quanh quẩn trong đầu tôi.

Hai

Thời gian buồn tẻ kéo thêm vài ngày, hôm nay cuối tuần. Vừa tan sở, Hứa Dũng gọi điện cho tôi. Tôi không hề ngạc nhiên khi vì sao Hứa Dũng biết số máy di động của tôi, thì anh ấy là sếp. Khi tôi về nhà, Đinh Vũ phấn khởi tràn trề rủ cả hai cùng ra công viên bên sông, bởi từ ngày hôm nay, công viên sẽ mở cửa tự do đón khách miễn phí vé. Tôi điềm đạm nói, tối nay đồng nghiệp hẹn gặp. Có thể thấy nét thất vọng trên mặt Vũ, nhưng anh thay đổi ngay, cười nói thế thì em vui vẻ đi chơi nhé.

Khách sạn Hoàng Luân bốn sao rất nổi tiếng trong thành phố. Những người ra vào đây không giàu thì cũng sang. Tôi vừa đến thềm đã thấy Hứa Dũng, mặc bộ vét màu xanh đứng chờ. Khi tôi cùng Hứa Dũng bước vào sảnh, khung cảnh sang trọng hào hoa làm tôi hơi choáng váng. Chính giữa đại sảnh là bồn phun nước đầy màu sắc, phía sau có một chiếc bục nhỏ hình tròn, một nữ nghệ sĩ dương cầm đang nhàn nhã chơi một khúc nhạc dịu dàng bay bổng. Những bàn ăn quanh đó đầy những đôi nam nữ trang phục sang trọng thời thượng.

Tôi ngầm liếc nhìn quanh và hơi ngần ngại bởi bộ quần áo của tôi có thể đã bị coi không còn là mốt, tôi thầm buồn bã. Hai chúng tôi ngồi sau tán lá một cây cọ của sảnh lớn. Nơi góc nhìn thấp thoáng, có thể quan sát toàn bộ đại sảnh nhưng từ ngoài khó nhìn tới nơi tôi.

Vài ly rượu vang đỏ, tôi dần dần thả lỏng bản thân mình. Hứa Dũng nâng ly, mỉm cười:

- Em biết vì sao hôm đó, tôi chỉ mời em khiêu vũ không?

Tôi không biết.

- Vì em ngồi đơn độc ở đó một mình đã đánh động tôi!

Tôi càng không hiểu. Công ty này mỹ nữ nhan nhản như mây trời, tôi thấy tôi cũng không phải người nổi bật.

- Tôi rất hâm mộ chồng em. Nếu tôi có một người vợ xinh đẹp như em, tôi sẽ không bao giờ để cho đôi tay cô ấy trở nên thô ráp như thế này trong khi cô ấy còn rất trẻ.

Những gì Hứa Dũng nói làm tôi bải hoải. Người đàn ông đầy sức hấp dẫn này nói với tôi những lời đầy hàm ý, làm tôi hơi sợ hãi. Thậm chí sợ gì, vào giây phút đó tôi cũng không biết. Dường như tôi giằng xé:

- Không, ngài Hứa, chồng tôi là một người đàn ông rất đàng hoàng.

Hứa Dũng lại cười:

- Em đừng tự dối mình dối người! Một người phụ nữ sống trong hạnh phúc, vì sao lại có ánh mắt đơn độc và chới với kia! Nó làm đôi mắt xinh đẹp của em mất đi thần thái!

Vào lúc đó, những lời ấy công kích mạnh vào nỗi niềm riêng tôi, tôi như một đứa trẻ, phục xuống bên bàn và khóc nức nở. Bao nhiêu mê hoảng chất chứa suốt nửa năm nay, đã bị người đàn ông này xé toang.

Trong tiếng dương cầm chao đảo, bàn tay Hứa Dũng vuốt ve mái tóc tôi, dịu dàng thì thầm bên tai tôi:

- Nhiễm, hãy để anh làm cho cuộc sống của em tươi mới trở lại, có được không?

Có thể có một vòng xoáy đã hút tôi vào, tôi gật đầu trong lúc tâm trí không còn suy nghĩ gì nữa.

Đêm ấy, tôi không về nhà.

Một người đàn ông, nhóm rực lại ngọn lửa tình trong tôi, mang tôi đi đến một nơi - vườn Thất Lạc.

Ba

Hơn một tháng sau đó, tôi sang trọng như một quý tộc. Khoác tay Hứa Dũng, như một đôi tình nhân đang yêu đương thắm thiết, ra vào những sa-lông, những buổi gặp gỡ xã giao cao cấp. Tất cả đều vô cùng hiện thực, nhưng sao tôi vẫn mơ màng như trong giấc mộng. Đêm hôm đó tôi không về, Đinh Vũ cũng không chất vấn gì tôi. Sau đó khi tới công ty, mọi đồng nghiệp đều nói Đinh Vũ đã gọi điện cho họ hỏi tìm vợ. Tôi biết Vũ đã phát hiện ra tôi nói dối, nhưng vì sao anh lại không nói toạc ra? Có điều quan hệ của tôi với Hứa Dũng cũng rất bí mật, vả lại, những nơi giao thiệp cao sang kia làm sao Đinh Vũ có thể tới được.

Nhưng Đinh Vũ cũng đổi thay. Anh đi làm về đến nhà chỉ ngồi viết lách, nếu tôi không hỏi thì hẳn anh sẽ không bao giờ mở miệng. Vũ vơ vất bất định khiến tôi càng chán, đôi lúc vô cớ, hai chúng tôi đã trở thành chiến tranh lạnh. Mỗi ngày, anh bắt đầu tự làm cơm một mình, còn tôi và Hứa Dũng ở ngoài đường đi một vòng quanh những quán ăn Nhật, nhà hàng Pháp. Những nơi ấy toàn cao sang, có thể nói là để dành cho những người như Hứa Dũng. Tôi nghĩ tôi có lẽ không thuộc vào tầng lớp này, nhưng thói thèm khát hư danh của tôi đã được vỗ về.

Tôi đang lơ đãng lựa đồ giữa hai giá quần áo thời trang giá đắt tận trời, bỗng Hứa Dũng đột ngột dừng lại. Tôi ngạc nhiên nhìn anh, anh ta không nhìn tôi, chỉ nói:

- Người đàn ông kia cứ nhìn em chằm chằm!

Tôi thuận hướng nhìn theo, tôi bỗng cứng đờ người, chân bị chôn chặt xuống đất.

Đinh Vũ.

Tôi choáng váng sững sờ. Một nơi đắt đỏ như ở đây, nơi mà Vũ không bao giờ đủ sức mua nổi cái gì, anh ấy chưa bao giờ đặt chân đến. Tôi nằm mơ cũng không ngờ anh xuất hiện trước mặt tôi. Ánh mắt của Vũ như thể đan xen bao nhiêu thứ cảm xúc, ánh mắt đó làm tôi đau kinh khủng. Tôi đẩy Hứa Dũng ra, chạy về phía Vũ: "Anh Vũ, anh nghe em nói..."

Vũ đã quay đi vội vã.

Tôi đứng lại, cắn chặt môi, nhìn theo phía anh ấy đi mất, bất động.

Hứa Dũng đi tới, ôm lấy vai tôi cười nhẹ:

- Thôi, đừng nhìn nữa, anh đưa em về nhà!

Tôi liếc anh ta, trong lòng oán trách sao lúc này anh ta lại có thể cười được. Vào giây phút đó, tôi có một tia mệt mỏi và hối hận. Tôi không đáp lại, kệ anh ta đưa tôi về đến cổng nhà. Trong nhà, Đinh Vũ đang rít mạnh thuốc từng điếu này sang điếu khác. Trong ánh đèn điện, căn phòng mù mịt khói thuốc và ánh hoàng hôn buồn bã. Chỉ vừa đây thôi mà trông Đinh Vũ đã như già lão tiều tuỵ đi bao nhiêu.

Tôi nhìn chằm chằm gương mặt năm năm yêu nhau đã thân quen, nước mắt có lẽ dân dấn. Đinh Vũ chỉ gằn từng ngụm khói, dụi tàn thuốc:

- Nhiễm, đằng nào cũng về nhà rồi thì đi ngủ sớm đi.

Giọng anh ấy lạnh lùng hơn tôi tưởng. Trong lòng tôi tràn lên nỗi bất an.

- Anh... anh không muốn hỏi em cái gì à?

Vũ lắc đầu, cười ngao ngán và khổ sở:

- Không cần nữa, có những điều mà, thà không biết thì còn tốt hơn là biết được.

Tôi cắn môi, nói khẽ:

- Vũ ! Em...

Đinh Vũ hua tay cắt lời ngang:

- Nhiễm, đừng nói nữa. Tôi thật sự không muốn nghe nữa. Chuyện của em và hắn, tôi biết từ lâu rồi!

Tôi đứng đờ ra, chỉ nhìn thấy một khoé cười cay đắng;

- Đừng quên là tôi còn bao nhiêu bạn bè ra đời còn hơn tôi nhiều. Tôi vẫn không chịu tin lời họ nói, hôm nay thì thấy tận mắt rồi. Sự vui vẻ của em khi ở bên cạnh hắn, lâu rồi anh đã không còn được nhìn thấy.

Đinh Vũ lại châm một điếu thuốc, hít sâu, nghẹn ngào:

- Nhiễm, anh rất hối hận!

Tôi oà khóc, hoá ra anh có những ý nghĩ của riêng anh. Tôi nói:

- Anh Vũ, chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu, được không?

Đinh Vũ chỉ hút thuốc, lẳng lặng nhìn tôi. Nét mặt nhợt nhạt ấy khiến tôi không dám đối diện.

Sự im lặng của anh ấy đã trả lời tôi.

Bốn

Một tuần sau, tôi và Đinh Vũ đổi tờ giấy kết hôn thành tờ giấy ly hôn.

Đi ra khỏi cổng toà án, tôi choáng váng mất một lúc, hình như tất cả đều không phải là thật.

Trời trong sáng, trong không khí, một làn hơi lạ kỳ dày đặc. Những tầng mây nặng kia như đang đè ngàn ngạt lên trái tim tôi.

Chúng tôi đều chẳng nói năng gì. Đinh Vũ mở lời trước:

- Đi đi, về thu gọn đồ đạc, chờ anh ta đến đón em!

Tôi chỉ nghe, toàn thân trống rỗng, có một sự mất mát quá lớn lao. Tôi muốn khóc, một cảm xúc xuyên qua. Cho đến tận bây giờ, tất cả hoang mang như một giấc mộng, và tôi không biết thân tôi đang ở phía nào.

Đi về căn phòng từng sống bên nhau, tôi thu dọn áo xống của tôi. Tôi định để cuốn sổ tiết kiệm lại cho Đinh Vũ, nhưng anh cự tuyệt.

Ngoài nhà, tiếng còi xe hơi vang lên gấp gáp.

Hứa Dũng đã đến.

Tôi bước ra cửa, hít thở sâu một hơi, nhắm mắt lại. Cái mùi vị quen thuộc đến thế của căn phòng này từ nay sẽ thành xa lạ, và trái tim tôi hỗn loạn sẽ biết thu xếp lại từ đâu.

Hốt nhiên, Đinh Vũ gọi tôi lại, đưa cho tôi một cái hộp. Tôi nhìn anh dò hỏi, không nhận nó. Tâm trạng anh lại lúng túng như ngày xưa:

- Cái này... đây là tặng cho em. Coi như một kỷ niệm!

- Cảm ơn! - Tôi định mở ra, bị anh ngăn lại.

- Đừng xem, đi đi rồi hãy xem! Hoặc vĩnh viễn đừng mở!

Tôi lại muốn bật khóc to.

Nhìn qua cửa sổ, trời đất ảm đạm đáng sợ. Tuy mới chỉ hơn năm giờ chiều, mà sao như đêm đã gần sập.

Chiếc đèn điện treo bỗng lắc lư, tắt bụp vài giây. Tôi vô cớ lạnh toát hết cả người.

Còi xe lại vang lên ngoài cửa sổ.

Chiếc đèn tắt ngóm.

Lập loè vài bận, chiếc bóng đèn giãy giụa tống ra luồng sáng cuối rồi tắt hoàn toàn. Vào đúng sát na (*) đó, tôi nhìn thấy dòng lệ lăn dọc má Vũ.

Căn phòng rung lên chấn động dữ dội.

Tất cả đột ngột xảy ra như thế.

Chỉ trong vài giây ngắn ngủi, ngoài kia ào lên như chảo dầu sôi, tiếng người bùng lên, mọi âm thanh hỗn loạn dâng tôi đến đỉnh điểm kinh hãi.

Những lớp vữa trần rào rào rơi xuống. Căn phòng rung lên kịch liệt.

Tôi cảm thấy ngày tận thế đã đến rồi.

Một đôi tay rắn ôm tôi thật chặt, giọng nói trầm trầm bình tĩnh:

- Nhiễm, đừng sợ! Anh đỡ cho em ra, mau chạy ra xe anh ta nhanh lên!

Vào đúng lúc đó, phía ngoài nhà vọng lên tiếng ô tô nổ máy. Đinh Vũ ôm che cho tôi, mò mẫm mở cửa, tôi gào lên gọi: "Hứa Dũng! Hứa Dũng!"

Không ai đáp.

Toà nhà rung lên làm tôi không thể nào đứng vững, Hứa Dũng đã bỏ mặc tôi phóng xe ra xa tháo thân, ý nghĩ làm cả người tôi lạnh toát đi, tràn ngập trái tim tôi là nỗi đau đớn bị lừa dối và tuyệt vọng.

"Rầm rầm" những tiếng đổ cực lớn, hầu như cùng một lúc, tôi bị tay Vũ ép mạnh vào một bên. Trong tối tăm, một vật rất nặng đè lên đùi tôi, quá đau đớn tôi thét lên. Tiếp theo tôi nghe thấy Vũ hự lên một tiếng.

Nỗi kinh hãi của tôi chi phối mọi tư duy, tôi bắt đầu lảm nhảm: " Đồ khốn kiếp! Nó đã chạy trước rồi! Khốn nạn!" Chửi một lúc cơn đau dữ dội nổi lên, cũng giúp tôi tỉnh hẳn khỏi cơn mê hoảng. Tôi thử cất giọng gọi Đinh Vũ.

Trong bóng tối, tiếng Vũ rõ mồn một: "Anh không sao đâu em. Nhiễm, em có bị sao không?"

"Đùi em bị đè rồi, không thể cử động được." Tôi nói lẫn khóc: "Thằng khốn nạn, nó bỏ chạy rồi, thằng khốn nạn!"

Đinh Vũ không đáp, rất lâu sau, thở ra một âm thanh: "Bây giờ thôi đừng nói phí lời. Tốt xấu gì anh cũng luôn bên em". Dừng lại một lúc, Vũ có vẻ buồn: "Kiểu này có lẽ phải chờ sáng mai mới có người tới cứu ta ra, đùi anh cũng bị đè chặt rồi".

Nỗi khủng khiếp của địa ngục này tôi chưa bao giờ gặp, đau đớn sợ hãi làm tôi không còn bình tĩnh được.

Tôi cảm thấy tôi sắp phát điên.

- Nhiễm! - Vũ gọi tôi, giọng phảng phất cười: "Em à, em còn nhớ lúc mới cưới, em hỏi anh cái gì không?"

-.....

- Em quên à? Em nhớ lại đi. Đêm hôm đầu tiên của mình ấy! - Giọng Vũ vẫn bình tĩnh, làm tôi vững dạ một chút. Tuy không hiểu vì sao lúc nguy cấp này anh lại nhắc chuyện cũ, nhưng tôi vẫn thật thà trả lời.

- Em nói xem, báo ngày mai liệu có đăng tin, đầu đề... đầu đề là... cặp vợ chồng vì tình, chết trong cơn địa chấn không? - Giọng Vũ run lẩy bẩy. Tôi hoảng hốt, vội vàng hỏi: "Vũ, anh có sao không?".

Trong bóng tối dày đặc vô biên, chỉ có anh làm tôi yên lòng.

- Anh... anh không sao đâu, em ơi... em còn lo cho anh sao? ... hụ hụ... Một cơn ho sặc kịch liệt, một sự im lặng lâu tuyệt đối. Trong lúc cuống cuồng, tôi giãy giụa bạt mạng, vết thương ở đùi xông thẳng lên óc, tôi ngất đi.

Không biết đã bao nhiêu thời gian, tôi dần dần tỉnh lại. Mở mắt ra, vẫn là một mảng đen ngòm. Hoảng loạn sợ hãi như một móng vuốt khổng lồ của ma quỷ chụp lấy người tôi, tôi gọi to Đinh Vũ trong nỗi cô đơn cực độ.

Rất lâu, mới nghe thấy tiếng anh yếu ớt: "Nhiễm, anh... nằm ở đây, em... em vẫn chịu được chứ?"

Tôi cuối cùng đã khóc oà được lên: " Vũ, anh Vũ ơi... em sợ.."

- Đừng khóc, đừng khóc! - Vũ có vẻ lo lắng-"Anh... còn... ở bên em, em đừng... đừng khóc..." Biết anh đang cố hết sức trấn tĩnh để an ủi tôi, trái tim tôi dường như bị xé rách ra một mảng lớn.

- Đừng khóc, anh... anh từng bảo em, cho dù... bao nguy hiểm, anh luôn... ở bên cạnh em..- Hơi thở của Vũ ngày càng dồn dập.

- Anh Vũ, anh đừng làm em sợ, anh đừng doạ em! Ôi... Tôi không khóc ra tiếng được.

Vũ đã không trả lời tôi.

Tôi hoảng kinh, tim phổi lộn tùng phèo.

- Hụ... hụ... Nhiễm! anh... anh buồn ngủ...quá!

Nước mắt tôi dào ra như suối: "Đừng, anh Vũ, anh phải cầm cự, anh không được ngủ!"

- Hư...hư, anh... anh không ngủ... anh muốn bên... bên em... đến sáng mai...- Đinh Vũ yếu ớt như một giọng nói phiêu dạt từ trên không trung.

Một đống lửa bùng lên thiêu đốt ngực tôi, trong đầu óc không ngừng hiện ra những ký ức ngày yêu nhau và lúc kết hôn. Tuy rằng bình lặng thế, nhưng đến giờ tôi mới phát hiện sự bình yêu đó vô cùng hiện hữu và quý giá. Tôi triền miên tự đau khổ, trong khi lại không hiểu ra những hạnh phúc tôi theo đuổi được hoài sinh từ chính trong những thứ bình dị đó. Và tôi, cho đến lúc sinh tử cập kề này mới phát giác ra.

- Nhiễm ơi... anh... lạnh quá..., có thể... anh không cách nào... bên em được... nữa- Vũ vì sao vẫn còn tự trách mình!

- Không! - Tôi dùng hết sức lực kêu to: "Em không cho! Anh Vũ, anh bảo anh sẽ ở bên em, em không cho anh bỏ em, em muốn sống với anh hết cả đời này! Em xin anh đồng ý!"

Trong tối đen, là một sự yên tĩnh vô tận. Không khí lạnh lẽo ngập đầy thứ mùi của chết chóc.

Giữa đau đớn vô biên, Đinh Vũ dường như chỉ lào thào tự mình nghe, yếu ớt:

- Nếu như... có một ngày... sẽ... sẽ phải chia tay... thế gian này, anh hy vọng... nơi quay về... sau cùng... là trong... lòng em... cho dù... cho dù...uống chén nước Quên... anh... kiếp sau... vẫn... vẫn sẽ... tìm...

Cho dù tôi ra sức gọi tên, cũng không còn nghe bất cứ âm thanh nào của Vũ nữa. Nỗi đau xé ruột xé gan làm tôi vỡ tan sụp đổ.

Trong tối tăm lạnh buốt xương, chỉ có nỗi đau vô tận của tôi.

Không rõ đã qua bao nhiêu tiếng đồng hồ, tôi mới được cứu ra từ trong đống phế tích tan hoang.

Trước mắt tôi là cảnh tượng cả đời tôi vĩnh viễn không thể quên.

Một mặt tường đè cứng lên nửa người Đinh Vũ, chỉ còn ló ra đầu và tay trái. Dưới thân thể Vũ là một bãi máu đã thành màu nâu cứng. Khuôn mặt Vũ còn ngoái về hướng tôi nằm, mang nụ cười, như còn đang chuẩn bị an ủi nỗi sợ hãi cho tôi. Trên khuôn mặt trắng nhợt như sáp nặn ấy, là một đôi mắt đã vĩnh viễn khép.

Ngực tôi như bị khối nặng ngàn cân đè, phục xuống bên anh, ôm lấy đầu anh, dùng hết sức lực còn lại thét lên: "Đinh Vũ..."

Âm thanh xé đống đổ nát, nhưng không gọi lại được Vũ đã ngã vào trong giấc ngủ vĩnh viễn.

Những người cứu hộ quanh tôi đều rơi nước mắt.

Một tháng sau, khi Hứa Dũng ôm bó hoa tươi xuất hiện ở cổng bệnh viện đón tôi, tôi đã cầm bó hoa ném thẳng vào mặt anh ta. Bên giường bệnh của tôi, một chồng bản thảo bừa bộn, chính là cuốn sách mà Vũ viết trong những lúc rảnh rỗi: "Tôi yêu vợ tôi". Trong đó là những dòng ghi chép tất cả những gì trong cuộc sống của hai chúng tôi từ lúc còn yêu.

Tôi không mắng Hứa Dũng, tôi không muốn tâm hồn đê tiện của anh ta làm nhục tới Đinh Vũ trong lòng tôi.

Vâng, trong lòng tôi là Đinh Vũ, một hộp tro nhẹ bỗng.

Anh ấy từng nói, trong lòng tôi là nơi anh ấy muốn quay về.

Tôi muốn kiếp sau anh ấy vẫn còn tìm ra tôi.

Hết

Những đống lửa trên vịnh Tây Tử [Trang Hạ dịch]

Ngày Tiểu Lỗi lên đường, tôi đã dặn em mang theo nhiều khẩu trang và áo ấm, chống lại cái rét của Thượng Hải mùa Noel và bệnh Viêm phổi cấp đang có nguy cơ lan tràn từ Quảng Đông sang miền duyên hải phía Đông đại lục. Đêm qua xem truyền hình cáp, bản tin trực tiếp mười hai giờ đêm, thấy nói Quảng Đông lại đang đối mặt với ca SARS đầu tiên kể từ khi khống chế ca bệnh cuối cùng hồi mùa hè năm 2003. Triệu Vy và Tạ Đình Phong phải lên ti-vi than thở về những rạp chiếu phim trống rỗng ở Bắc Kinh, những buổi tiệc Noel bị hoãn ở Thượng Hải, gây thiệt hại cho những ngôi sao thời thượng này trong mùa làm ăn cuối năm. Tôi lái chiếc Audi về đỗ trong bãi đỗ xe tầng một khu sân bay nội địa Cao Hùng, sau đó theo cầu thang nội bộ quay lại cổng sau sân bay quốc tế. Sở dĩ tôi không muốn Tiểu Lỗi bắt gặp, vì sợ trong một thoáng mủi lòng, tôi sẽ bất chấp. Tôi sẽ bỏ lại tất cả để đi cùng Tiểu Lỗi đến Hồng Công, Thượng Hải, đến bất cứ nơi nào chúng tôi được tự do.

Tôi sợ Tiểu Lỗi biết tôi đã đến đây, chỉ để nhìn theo, và khóc.

Tình yêu đến vào lúc không ai ngờ nhất. Nhưng không phải là lúc chúng tôi hôn nhau, lúc chúng tôi yêu nhau mê man trong gian phòng cũ bên bến du thuyền vịnh Tây Tử. Cho dù bên kia vịnh Tây Tử, hơn hai trăm năm mươi trái phi đạn vượt đại dương có thể bất cứ lúc nào kết thúc mọi đắm say của chúng ta, trên giường ngủ hay bên bờ vịnh tươi đẹp, như đã thử từng bay qua đây tám năm trước, từ căn cứ địa Phúc Kiến. Nhưng ngồi bên cái vòng cung duyên dáng của núi và biển này, lướt bên vai hơi thở ấm, ghì chặt trong ngón tay những ngón tay, là thấy những nóng bức, khao khát, đớn đau mới thật sự dài lâu. Tình yêu đau đớn hơn tất cả mọi sự sợ hãi kia.

Hay yêu là lúc cái di động BenQ rung lên bần bật trong những cuộc gọi lỡ làng dài hàng nghìn khoảnh khắc. Là lúc tôi đứng cuối băng chuyền, nhìn thấy Tiểu Lỗi mang theo tuổi trẻ của tôi đi khuất sau lớp lớp người vội vã kịp chuyến bay trên sân bay Cao Hùng trưa nay. Cái băng tải đưa tới một chàng người Mỹ to béo cõng ba-lô ngật ngưỡng, che khuất hoàn toàn màu áo khoác Germani xám đặc biệt của riêng em.

Nếu ngửa đầu lên đôi chút, tôi có thể thấy Tiểu Lỗi lâu hơn một giây, giữa biển người. Từ biệt Tiểu Lỗi, hy vọng em sẽ tìm thấy chính con người em ở mảnh đất cuối thiên đường bị vứt bỏ kia.

Tiểu Lỗi chạy dọc bờ biển, con *** Ken trắng lông dài bờm xờm chạy cuống quýt theo sau, tức tối nhảy sóng sủa ăng ẳng đầy kinh hãi. Tiểu Lỗi cười sằng sặc, bắt đầu ném tất cả những thứ có thể vớ được ra biển. Và Ken bạt mạng xông ra, bơi, lội, lặn, hụp để vớt cho bằng được. Mỗi lần Ken hí hửng tha đồ về, Tiểu Lỗi không thèm xoa đầu nó mà tức tốc lột thêm thứ gì trên người vứt ra biển. Dường như trò đùa bất tận khiến em vui phát điên. Chiếc quần soóc ướt sũng lộ ra thân thể mảnh khảnh của cậu trai mới đôi mươi, ngực trần loang loáng những giọt nước to và trong suốt. Làn da căng và đầy sức thanh xuân. Tiểu Lỗi gợi lên trong tôi khát vọng tha thiết muốn được trẻ mãi không già, muốn bắt thời gian dừng lại để chúng ta mãi mãi là tuổi thanh xuân, tươi trẻ, vui sướng, tràn đầy. Khi Tiểu Lỗi không còn gì để vứt xuống biển, thì tôi lao tới hất em ngã vào con sóng lặng, tạt tai cậu ta một cái rồi vùng bơi ra xa. Tiểu Lỗi điên tiết bơi đuổi theo, miệng la hét những câu vô nghĩa.

Con Ken bối rối lao theo, vừa hồng hộc nhảy sóng vừa quẫy chân cuống quýt bám lấy ông chủ. Rồi Ken vượt lên, bơi song song giữa hai chúng tôi, mệt mỏi và khoan khoái trong một khoảng trống an toàn trước khi đợt sóng mới ồn ào đổ ập lên đầu, cuốn chúng tôi ngược lại phía bờ.

Đêm đến, những đám lửa chấp chới dọc bờ biển gợi lên sự hoang vu và lo âu. Những người đã đến vịnh Tây Tử, đã đi du thuyền dọc bờ vịnh hẳn sẽ không thể nào quên những đám lửa sáng lên thảng thốt đây đó trong đêm gió thốc. Những sinh viên cắm trại dọc bờ hoặc những đôi tình nhân năm này qua năm khác thay nhau tới ngồi chỗ bãi này, phía ngọn gió này. Chúng tôi không có đống lửa nào, không ánh sáng nào trong màn đêm tối tăm. Tiểu Lỗi dựa đầu vào vai tôi, bình yên đợi những ngôi sao thưa thớt trên bầu trời Cao Hùng hé sáng. Ngày mai, ngày sau sẽ là những gì rất khác, sẽ rất hạnh phúc, nếu cứ mãi mãi hơi thở cậu ấy thơm ấm vai tôi trong những đêm thế này.

- Nghe nói Mã Anh Cửu đã làm chủ hôn cho đám cưới..

- Đây không phải Đài Bắc !

- Hay mình sẽ đi thật xa...

- Không phải chúng mình...

- Nhưng em cũng muốn một đống lửa...

Tôi im lặng kéo cậu ấy úp mặt dúi dụi vào ngực rộng, qua cơn ngạt thở, môi cậu bắt đầu hôn nhẹ vào giữa hai bờ vai rụt rè, tay cậu ấy vuốt ve quai hàm tôi, xoa dịu cái nghiến răng gằn gượng. Không có gì đâu Tiểu Lỗi ạ, đừng mơ những giấc mơ không có thật khi mở mắt ra là biết, lại một ngày nữa qua mất trong đời mình. Trôi qua cô đơn và lặng im.

Tôi rời phòng vé lúc chín giờ tối. Sững sờ sau tay lái chiếc Audi, tôi không bật máy xe, ngồi im lìm trong bóng tối. Một ngày nữa đã trôi qua không màu sắc, không tiếng vọng. Hai mươi tám cuộc điện thoại nhỡ từ số máy 092748..., chỉ để Tiểu Lỗi nói với tôi một câu duy nhất:

"Anh hãy đi với em!"

" Anh hãy đi cùng em!"

"Hãy cùng đi, với em!"

Chuyến bay Cao Hùng - Thượng Hải sẽ tran-sít tại Hồng Kông. Hy vọng mùa xuân năm 2004 chúng tôi có thể bay trực tiếp từ Đài Loan sang Đại Lục. Song đó là hy vọng. Còn Tiểu Lỗi, cậu ta sẽ bay chuyến 13 giờ 45 đi Hồng Kông vào ngày hai mốt tới. Chờ thêm hai tiếng để sau đó đáp máy bay tới Thượng Hải, nơi cậu mơ ước biết bao. Dù chỉ đến thiên đường đó một lần, để một lần trong đời được đàng hoàng cầm tay tôi đi bộ trên phố trong đêm Giáng Sinh sắp tới, khoác vai dưới những chiếc đèn giấy trong chợ đêm Thượng Hải, uống với nhau một tách cà phê trong quán như tình nhân mà không cần phải giấu giếm. Chúng tôi cũng sẽ không phải lén lút tìm tới một bãi biển vắng người. Tự tay tôi đã check cái vé đó cho Tiểu Lỗi, xếp cho em một chỗ trên chuyến bay tốt nhất trong ngày. Song chuyến du lịch này sẽ chỉ một người. Đó là tất cả can đảm của tôi.

Tôi không thể. Tôi tin Tiểu Lỗi sẽ hiểu.

Mỗi chúng tôi đều từng mơ đến Thượng Hải, ngồi trong quán bar và hôn lên môi nhau qua chiếc bàn gỗ hẹp, uống ly rượu đỏ rực như lửa. Nhưng đó là chuyện cổ tích, khi chúng tôi bước ra khỏi đó, cái hơi lạnh của cả thế giới rét mướt sẽ đông cứng lại, bóp vỡ chúng tôi trong nỗi cô quạnh. Tiểu Lỗi tưởng chặng đường xa có thể hàn gắn vết thương trong vô vọng, tôi lại thấy nơi xa chính là nơi tôi không bao giờ đến được, là chỗ trống bên tôi trên bờ Tây Tử, là đống lửa tôi không bao giờ nhóm lên.

Bar Nhật Bản Kiều trên con lộ Tứ Duy nổi tiếng Cao Hùng mười năm trước với rượu ngon và gái đẹp. Sau những thăng trầm của cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á từ năm 1997 về sau này, Nhật Bản Kiều xuống cấp theo đà tụt dốc của thị truờng. Những Hoa Kiều từ Hồng Kông sang Cao Hùng vội vã tất bật, không còn nhiều thời gian đi dạo hàng đêm với túi tiền đầy nhóc. Thay vào đó là những cậu trai trẻ măng, những đêm hát ồn ào, những khách quen uể oải tìm chỗ ngồi. Đêm chạy xe qua Nhật Bản Kiều, tôi chỉ cho Tiểu Lỗi cái quán lập loè đèn la-de:

- Khi nào buồn lắm thì anh ra đây, nhớ lại anh của mười năm về trước.

Mười năm trước tôi còn ở Đại học Trung Sơn. Có thể chạy bộ mười ki-lô-mét vào núi, leo lên đỉnh Thiếu Nữ và tin tưởng vào những gì tôi tìm kiếm. Hôm trước lễ tốt nghiệp, tôi choáng ngợp với tự do. Bắp tay rắn từ hàng nghìn buổi quần mệt lử trên sân bóng rổ của truờng căng lên trẻ trung trong bộ đồ đại lễ vải len Anh quốc - chất vải mà Thái tử Sác-lơ từng mặc trong bức ảnh chụp cùng Công nương Diana mùa hè năm 1989. Một chất vải mềm sang trọng đầy quyến rũ, cho tôi cảm giác tự tin song hơi man mác và luyến tiếc. Đó là cảm giác khi ta đứng trước một gương mặt đẹp, một cơ thể tràn sức thanh xuân song ngay khi đó ta đã biết, tất cả sẽ biến mất nhanh như một ảo ảnh. Cuộc sống không cho ta dài lâu và những vẻ đẹp đó sẽ biến mất đi trong thời gian vô tận của cõi người, như chưa từng xuất hiện. Sự thật đó chua xót biết chừng nào.

Cảm giác đó giống như tình yêu, u uất rời rã trong sâu thẳm trái tim tôi.

Những khi kiếm đủ thời gian cho một chuyến picnic, tôi vẫn hẹn Tiểu Lỗi đi tới bãi thuyền cũ mạn tây bắc kín đáo của vịnh Tây Tử. Tuần nào lớp nghiên cứu sinh được nghỉ làm đề tài, Tiểu Lỗi lại tìm tôi. Hoặc em sẽ một mình lang thang trong những cửa hàng sách rộng lớn của Cao Hùng, đọc chùa những cuốn sách văn học mới nhất được dịch sang tiếng Hoa. Ở đâu em cũng có vẻ ngơ ngác và bối rối.

Dường như em sẵn sàng đứng tránh sang bên cho cuộc sống tuôn chảy về phía trước. Hay đó là tâm trạng khó xác định của một cậu trai lần đầu biết yêu tha thiết đời sống này.

Con Ken chồm lên vờn quả bóng rổ Nike trên tay tôi. Đừng hòng, tôi cao một mét tám hai cộng thêm tầm tay với, chỉ đẩy một cái, trái bóng da nâu căng bật tường, rơi vào rổ và trong nháy mắt, tôi cướp lại trái bóng trên tay hai anh em nhà Ken. Ken nhảy chồm chồm sủa nhặng xị. Tiểu Lỗi khùng lên, lao đến dùng hết sức xô ngã tôi, cuời sằng sặc xua Ken ra đuổi theo trái bóng da. Con lông xù quả là lợi hại, thoăn thoắt vừa đuổi bóng vừa sủa mừng rỡ, ý nịnh chủ không giấu giếm. Giằng co mãi trong trò đùa phung phí sức lực, những cú đánh bật ra không nương tay. Chúng tôi đấm nhau thật lực, quật ngã và vớ lấy tất cả những thứ gì trong tầm tay để tấn công. Cho đến khi Tiểu Lỗi đè chặt tôi xuống nền cát, vừa cười sung sướng vừa thở hổn hển. Phía trên đầu em là một bầu trời tím lịm lúc hoàng hôn, ma quái và rực rỡ. Gió biển từ vịnh Tây Tử thổi phần phật qua những lá buồm rách nát treo trên những cây sào dài ngất ngư quang bến. Tiểu Lỗi thôi cuời, nhìn tôi, cậu ấy biến sắc mặt. Cái nhìn ngỡ ngàng và hoảng sợ, đôi môi của em rất gần. Một hơi nóng cuồn cuộn từ sâu trong ***g ngực và cơn run rẩy bất chợt làm tôi tê dại. Tôi không hiểu điều gì đã xảy ra. Tôi chỉ thấy thèm giữ lại những sức lực và tuổi trẻ như của cải của đời người giữa ngày tháng bất tận, tôi chỉ khát bởi cảm nhận được thân thể tràn trề sức sống của em ghì tôi lại đầy lo sợ và táo tợn. Tôi không biết tôi đã gặp khoảnh khắc này từ sâu xa trong tiềm thức, hay trong một giấc mơ mê đắm nào về nụ hôn đầu đời.

Nụ hôn đầu tiên của em đầy run rẩy và sợ hãi, áp chặt đôi môi nóng bừng vào mặt tôi. Em ngậm chặt môi tôi và bắt đầu nức nở. Trong cảm giác thương xót kinh khủng và muốn vỗ về, tôi lật cậu bé xuống cát và dùng thân thể tôi bao phủ nỗi đau không có tận cùng, giống như một lỗi lầm không bao giờ kịp giải thích.

Con Ken sủa ăng ẳng phía xa, khi đuổi hụt quả bóng Nike da nâu căng mịn màng.

Trong những khách bộ hành vội vàng trên đại lộ mùa hè năm ấy, có hai người đang đọc sách chùa vỉa hè đường khu Tả Doanh. Đọc từ trưa qua chiều, đọc từ tuần này sang tuần khác. Khi đó tôi vừa du học ở Mỹ về, đang giữ một chân trợ lý quản lý phân nhánh công ty hàng không Vinh Trường tại Cao Hùng. Còn cậu bé ấy cao và mảnh khảnh trong bộ vest đồng phục một Học viện, chìa tay ra cười lặng lẽ và chân thành:

- Em rất mừng khi được làm quen với anh. Em tên là Tiểu Lỗi!

Nụ cười ấy, suốt đời tôi không thể nào quên.

Đôi vợ chồng sống trong kho chứa đồ [Trang Hạ dịch]

Từ ngày đầu tiên dọn tới ở phòng trọ này, tôi đã bắt đầu nghi ngờ căn phòng chứa đồ sát bên phòng tôi bỏ trống không có người. Suốt từ sáng đến tối, bên đó lặng như tờ.

Tôi không thích cái ghế Sô pha rách trong phòng, cuối cùng một lần đã đòi chủ nhà trọ xem có thể cho tôi vứt cái sô pha vào kho chứa đồ bên cạnh hay không. Chủ nhà liếc mắt hứ một tiếng:

- Tôi bảo cô bao lần rồi? Cái kho đó cho một cặp vợ chồng làm thuê ở nhờ, có người ở đó chứ!

Tôi coi như là gặp phải một bà ki bo đặc trưng dân Quảng Đông, thôi thì lần sau sẽ không bao giờ động đến cái loài hẹp hòi nhà bà nữa nhé!

Hôm đó, tôi đi đổ rác, qua cửa kho chứa đồ, nghe thấy bên trong lào xào, bực mình không chịu được, tôi biết chắc chắn đó chỉ là chuột đang chạy loạn bên trong ị đầy thôi. Tôi cáu kỉnh đá một cái lên cửa, chưa đã bèn đạp mạnh thêm cái nữa.

Cửa ọt ẹt hé ra, tôi giật thót cả mình. Tôi tưởng mình đã đạp vỡ cửa mất rồi. Đang lúc phấp phỏng, một cô gái ló đầu ra, nói đúng ra thì phải là một phụ nữ hoặc một thiếu phụ, tôi khó mà xác định được tuổi cô ta từ mái tóc buộc đuôi gà rối phồng lên và khuôn mặt còn quá non nớt.

Cô gái khẽ hỏi: Chị tìm ai?

Tôi sững người, đứng đờ ra, không biết nên trả lời thế nào.

Lúc đó, một người con trai nhếch nhác cũng thò đầu ra, hoài nghi hỏi: Chị ở phòng bên cạnh à? Tôi vội sực tỉnh ra ngay, đáp: Vâng, vâng. Người con trai cười hì hì đắc ý: Lần trước đi làm về em đã thấy chị.

Bầu không khí xung quanh ngưng đọng rất lâu, có một chút ngần ngại. Tôi vội vã nói: Xin lỗi, xin lỗi, làm phiền đến hai bạn rồi. Rồi tôi vội vã cút thẳng về phòng mình. Tôi nghe thấy tiếng họ nhè nhẹ đóng cửa lại, còn nghe thấy tiếng họ lào thào, dường như đang thì thầm với nhau: Có phải chúng mình làm tiếng động hơi to, ảnh hưởng đến hàng xóm rồi à? Thế thì về sau chúng mình phải cẩn thận khẽ khàng hơn nhé! Đại loại là những lời như thế.

Tôi uống một ngụm nước, im lặng trở lại, tôi mới tin chắc là, trong gian phòng chứa đồ suốt ngày im ỉm tăm tối đó quả thực có hai người đang ở, có lẽ họ chính là đôi vợ chồng làm thuê mà chủ nhà nhắc đến. Tự dưng tôi cười nhạt, lại còn vợ chồng cơ đấy, nhìn thì biết chỉ khoảng 20, chắc trốn nhà đi bụi? Hay là tảo hôn mới cưới? Tôi bất giác cười, tự hài hước nghĩ: Làm thuê cái gì, nhà quê ra tỉnh thì có, nhà quê toàn cưới sớm. Chắc sau này phải gọi đôi này là, thằng cha đấy, con mẹ đấy. Cứ nghĩ ngợi thế, tôi bất giác cười lên thành tiếng.

Lần đầu tiên tiếp xúc với đôi vợ chồng này là lần tôi quên chìa khoá, không vào nhà được, đành tìm họ mượn dụng cụ, tôi định phá khoá cửa phòng.

Đó là lần đầu tiên tôi thật sự gõ cửa phòng họ, cũng là lần đầu tiên tôi quá bộ vào cái phòng chứa đồ u ám đấy.

Cửa mở, đôi vợ chồng họ nhìn thấy tôi dường như có vẻ kinh ngạc vui sướng, vội vã mời tôi vào. Tôi nói lý do sang đây, vợ chồng họ liền quay người đi tìm cái gì giúp. Cửa để mở, bên trong tối mờ mờ, tôi không kìm được liền bước vào một bước. Không biết có cái gì vướng vào chân tôi, tôi cứ tưởng là chuột, sợ hãi kêu lên "ối trời". Một người trong cặp vợ chồng liền bật đèn sáng. Ngọn đèn nhỏ trên trần phát ra thứ ánh sáng hoàng hôn, tôi dám khẳng định loại bóng đèn này không thể quá 10 Wat. Tôi rất nghi ngờ không biết cặp này mua được cái bóng đèn ở chỗ nào, chứ ở cái đô thị phương Nam này tôi thực sự không thể tưởng tượng được lại có chỗ nào bán loại bóng đèn này. Tôi nghĩ không chừng là bọn họ mang từ quê lên đây.

Tôi nhìn ước lượng căn nhà kho mà tôi từng định vứt mấy thứ tạp nham đồ cũ vào đây. Tôi tính rộng rãi ra, thì cái phòng này cũng chẳng quá 10 mét vuông. Bốn phía không có bất kỳ một cái cửa sổ nào, cửa ra vào là nơi duy nhất có thể thông gió và đi ra đi vào được. Trong phòng có một mùi ẩm mốc, xộc thẳng vào cổ họng, làm người ta phát ớn. Tôi vội vã lùi ra ngoài. Nhưng tôi đã nhìn thấy rõ, trong phòng ngoài một chiếc giường gỗ cá nhân và vài nồi niêu bát đĩa lỏng chỏng dưới đất ra, thật sự không còn chỗ nào có thể đặt chân vào, tôi thật sự bái phục đôi vợ chồng trẻ này làm sao mà có thể sống ở đây được.

Cuối cùng, đôi vợ chồng tìm được con dao làm bếp của họ, cũng là thứ duy nhất có thể phá khoá được giúp tôi, kỳ cạch bao nhiêu công sức cuối cùng họ cũng giúp được tôi mở cửa. Cửa mở được rồi, tôi lại không hề có ý định mời họ vào nhà. Họ đứng ở cửa, nắm lấy khung cửa, nhón mũi chân, vẻ bẽn lẽn, nhìn ngắm căn phòng của tôi. Người con gái cuối cùng cũng thốt lên một câu: Sao từ trước đến nay chưa được gặp chồng chị? Tôi cau mặt lại bảo: Tôi chưa kết hôn! Người con gái đỏ mặt lên, có vẻ nói hớ mất rồi, bèn cúi đầu, chẳng dám đáp gì. Người con trai ngại ngần nói, thế một mình chị lại ở cái phòng to thế này ư. Tôi chẳng đáp. Cả hai người, hồi lâu chẳng nói năng gì. Không rõ là ai nhìn thấy cái máy tính tôi để trong phòng khách, bèn buột miệng: Ơ kìa, chị có cả máy tính! Tôi hơi ngạc nhiên, lũ làm thuê mà cũng biết máy vi tính cơ à? Tôi bảo, ờ, thế cậu biết lên mạng à? Người chồng gãi gãi da đầu, nói: Hồi chúng em học đại học, có giờ học vi tính, em đã học vài buổi.

Tôi giật mình toát cả mồ hôi, đại học? Họ mà là sinh viên ư? Thế mà sao trông chả có vẻ gì cả? Trong lòng tôi có cảm giác bị lừa, nên tôi cố ý nói: Thế các bạn đang làm nghề gì? Các bạn tốt nghiệp trường nào đấy? Học khoa gì? Họ mím môi, có một thoáng ngượng ngùng, tôi tưởng thế là các cậu bị lật tẩy rồi, đồ giả dối!

Đột ngột người con trai cất lời: Chúng em học trường tầm tầm thôi, loại trường dân lập hạng ba ấy mà, em và vợ em vừa học cùng trường vừa là đồng hương, cô ấy học khoa văn, em học khoa Lý. Giờ em làm chân phân phối hàng, cô ấy làm phục vụ ở quán ăn. Tôi bĩu môi, kêu một tiếng, ồ! "Tôi thì tốt nghiệp Cao học ở Đại học **".

Khi tôi nói xong câu ấy, tôi mới phát hiện, hai người ở cửa đã đi từ lúc nào chả biết.

Tôi hơi thất vọng, tôi đoán xem liệu họ có nghe thấy tôi đến tên trường Đại học ** nổi tiếng mà ai cũng biết không.

Mấy năm nay mở rộng tuyển sinh, ra ngõ là gặp sinh viên. Đại học dễ thi vào quá, nhưng kiếm việc thì lại khó khăn hơn nhiều. Sinh viên tốt nghiệp những trường hạng ba, nói thật còn không bằng cửu vạn ngoài đường, sức vóc thì không có, năng lực thì chẳng bằng được ai. Mà học phí của những trường hạng ba đâu có thấp, thậm chí còn đắt hơn những trường đại học danh giá rất nhiều, tôi biết chắc chắn học phí của những trường đó đắt kinh người.

Nhìn đôi vợ chồng này, xem ra cũng chỉ là con nông dân thôi, ban đầu hẳn họ không hiểu rằng, dù có tiêu sạch cả gia sản, có nắm được mảnh bằng, thì họ cũng chẳng là cái gì trong xã hội này. Mang theo trên lưng cả một gánh nợ lớn, ra đời kiếm việc thì mới nhận ra rằng, sinh viên tốt nghiệp những trường hạng bét thì cũng chỉ cùng tầng lớp với những người làm thuê chưa tốt nghiệp Tiểu học thôi, dựa vào sức lực mà kiếm sống, mệnh còn bạc hơn giấy mỏng, người còn kém hèn hơn cả mệnh.

Hôm sau, dù trong đáy lòng tôi vẫn lo âu, hai người kia họ biết cách cầm dao phá khoá nhà tôi được như thế, thì liệu có bữa nào lợi dụng tôi đi vắng sẽ quen mui bén mùi tới kiếm chác? Nhưng tôi vẫn thấy dù sao người ta giúp mình thì mình thấy áy náy, bèn mua vài cân trái cây phương Nam đưa cho họ.

Hai vợ chồng dường như kinh ngạc vì được ban ơn, nói mãi không dám nhận. Tôi bèn bảo họ đây là thói quen người Quảng Châu, được giúp rồi nhất định phải có gì cảm ơn, không lấy là làm tôi mất mặt. Họ nghe rồi mới nơm nớp trân trọng nhận lấy.

Được một lúc, họ lại đến gõ cửa phòng tôi. Tôi cứ tưởng họ đem quà trả lại, kết quả mở cửa ra câu đầu tiên họ hỏi:

- Xin hỏi, chỗ trái cây này có thể để được bao lâu?

Tôi ngạc nhiên nhìn họ, trong bụng hơi bực tức, nghĩ: Chẳng lẽ họ lại bảo là mình mua hoa quả "hết đát" biếu họ à? Tôi đang định cáu, họ nói thêm một câu:

- Có thể để đến Tết không?

Tôi sững sờ, họ nói:

- Tết đến chúng em chả có quà cáp gì mang theo về quê, chỗ trái cây này chắc là rất đắt? Chúng em định cuối năm mang về quê làm quà Tết.

Tôi dở khóc dở cười, bảo:

- Quảng Châu trời nóng, làm sao mà để lâu được, vài tuần là thối hỏng hết đấy!

Họ hơi buồn bã, cảm ơn tôi, rồi về.

Nhưng rõ ràng tôi nghe thấy người con trai nói với cô gái: Nếu không thì chúng mình tìm cách để dành đến rằm Trung Thu đi, lúc Tết Trung thu có cái ăn cho đỡ thèm.

Một tháng sau, Âm lịch là 15 tháng 8, cơ quan tôi phát cho mỗi cán bộ một hộp bánh Trung thu, mang bánh về, tôi mở ra ăn thử một cái, cảm thấy không ngon lắm, định mang vứt đi.

Lúc đi qua gian nhà kho, tôi đổi ý, tôi nghĩ mang vứt đi thì phí quá, họ thì tội nghiệp như thế, thôi thà mang cho họ ăn Rằm còn hơn.

Thấy cánh cửa khép hờ, tôi không gõ cửa, cứ thể đẩy thẳng cửa vào, ngọn đèn vàng vọt đang thắp trên trần, hai người ngồi xổm trên đất, người con trai đang cẩn thận cắt nhỏ một cái bánh Trung thu bé xíu, đúng lúc định đưa miếng bánh hơi to một tí cho vợ ăn, nhìn thấy tôi đứng giữa cửa phòng, cậu ta luống cuống chẳng biết làm gì, không nói được câu nào. Người con gái đang cúi đầu gặm một miếng trái cây rõ ràng trông đã có vẻ bị thối, ăn rất ngon lành, tôi nhìn thấy cô không gọt vỏ, lựu và thanh long mà ăn cả vỏ.

Người con trai đờ ra mất năm giây, rồi cuống quýt mang cái miếng bánh cắt hơi to một tí ấy mời tôi ăn, tôi nói tôi không ăn bánh Trung Thu đâu, rồi tôi nói vì sao tôi sang đây. Tôi đặt hộp bánh xuống cửa rồi chuẩn bị đi ra. Cô gái gọi tôi lại:

- Chị, em chẳng biết nói thế nào hơn, chị xem, trái cây chúng em ăn cũng là chị cho, chị còn mang bánh Trung thu đến cho chúng em nữa, em không biết làm gì để báo đáp chị, thực ra hôm nay chồng em được công ty phát một chiếc bánh dẻo, chúng em bàn nhau là mang đi biếu chị, nhưng biếu có một cái thì chẳng bõ bèn gì, nên vợ chồng em ngượng, chúng em cũng không có quà gì quý nữa, nếu mà chị có việc gì cần giúp, chúng em sẽ sẵn sàng ngay!

Lúc đó tôi mới biết, cái bánh Trung thu kia là cậu chồng được công ty phát, tôi cũng lúc đó mới biết, trái cây cô vợ ăn là của tôi tặng tháng trước. Tôi vốn định bảo: Ăn thanh long thì phải bỏ vỏ đi. Nhưng tôi nhịn không nói, tôi ra về.

Cuối tuần, cô gái sát vách tới gõ cửa, hỏi tôi có việc gì mà họ có thể giúp không, tôi cười bảo không. Cô nhanh mắt nhìn thấy trên sô pha nhà tôi chất một đống quần áo bẩn, nằng nặc đòi giặt giúp, tôi nói tôi có máy giặt rồi, chờ tí nữa đem vứt vào máy giặt là xong, không cần phải nhọc sức. Cô ngần ngại đứng ở đó, có vẻ như áy náy, không biết nên làm gì.

Lần đầu tiên tôi rất nhiệt tình mời cô vào nhà, ngồi xuống. Cô bỏ giầy, chân trần bước vào nhà. Rón rón rén rén như thể sợ làm bẩn sàn nhà tôi, không dám dẫm cả bàn chân xuống. Cô không biết chứ thực ra tôi đã hơn tuần nay có lau nhà đâu.

Cô nói cho tôi biết, hôm nay cô xin nghỉ ca, vốn định giúp tôi làm việc nhà, nhưng không ngờ chẳng giúp được gì. Cô có vẻ rất xấu hổ, cứ lí nhí trảlời tôi. Cô ngồi ở nhà tôi nửa tiếng, kể cho tôi hoàn cảnh của hai vợ chồng, khi nói những điều đó giọng cô vô cùng dịu dàng, dường như khi kể câu chuyện, cô không để tôi thấy những oán trách và khổ cực của cô.

Cốc nước tinh khiết tôi rót cho cô, cô cứ cầm mãi trong lòng tay, lúc sắp về, cô nhìn tôi, tôi gật đầu tỏ vẻ đồng ý, cô liền mang về cả cái cốc nhựa mỏng dùng một lần chứa đầy nước tinh khiết ấy. Tôi đoán, cô sẽ để dành cho chồng về uống.

Từ hôm đó tôi mới biết, chuyện hai người đó thế này:

Cả hai đều con nhà nông dân, bố mẹ là nông dân chính gốc suốt đời bám một mẫu ba đất ruộng, thu nhập cả năm của gia đình chưa bao giờ vượt quá 2.000 tệ ( tương đương 4 triệu VND), họ lại thi đậu vào một trường đại học dân lập loại xoàng, học phí mỗi năm bằng bố mẹ không ăn không uống để dành 5 năm. Học không giỏi, không muốn học đại học, nhưng bố mẹ không chịu, nói đây là cơ hội duy nhất để thay đổi số phận nông dân của con, rồi quỳ xuống xin con đi học. Lên đây học rồi, thì không có tiền nộp học phí, may còn được vay nợ ngân hàng trả chậm, khó khăn lắm mới vay được nhờ bảng thành tích học tập khá giỏi. Nhưng khi tốt nghiệp đại học, chỉ vì chưa trả hết nợ ngân hàng nên bị giữ tấm bằng tốt nghiệp lại. Suốt bốn năm đại học sống vất vả dựa vào nguồn tiền vay hỗ trợ học tập, đến giờ, tất cả những công sức bỏ ra không đổi lại được mảnh bằng tốt nghiệp kia. Vì thế họ chỉ còn cách ra đường làm thuê kiếm tiền, nhặt nhạnh gom góp để mong đủ để chuộc lại tấm bằng đại học.

Họ thuê căn phòng rẻ tiền nhất thành phố, ăn những bữa cơm rau rẻ tiền nhất thành phố, sống một cuộc sống cơ cực nghèo khổ nhất thành phố, nhưng một năm vỏn vẹn chỉ góp lại không đủ một vạn tệ. Cứ thế này, thì trả hết nợ của cả hai vợ chồng còn phải mất 8 năm nữa.

Tôi không biết 8 năm có ý nghĩa thế nào với tuổi thanh xuân của một con người, cũng không biết sau 8 năm liệu họ có quyền chuộc lại tấm bằng đại học không. Nhưng tôi biết sống như thế này tiếp 8 năm, thì không phải bất kỳ người nào cũng có thể cầm cự được!

Hôm đó, khi tôi về phòng, hơi muộn, ngọn đèn hành lang toà nhà đã được bật lên, khi đi qua cửa gian chứa đồ sát phòng tôi, nhìn thấy họ đang mở cửa, trong phòng vẫn tối âm u như cũ, người con trai ngồi xổm ở cửa ăn mì sợi, và từng miếng to từng miếng to, say sưa ăn ngon lành. Tôi hỏi một câu:

- Đèn hỏng rồi à?

Ban đầu, cậu hơi ngần ngừ một chút, rồi cười ngượng ngùng:

- Không, tiết kiệm điện, vì đèn cầu thang cũng sáng lắm, mở cửa, trong nhà cũng đủ sáng lắm rồi.

Tôi cười. Tôi giờ mới biết, chả trách nhà họ suốt ngày chẳng bao giờ bật đèn.

Đêm đó, cửa phòng họ cứ mở toang đến tận khuya. Tôi ngồi ở phòng khách nghe được tiếng họ thì thầm lúc được lúc mất.

Đầu tiên họ nói chuyện một lúc, tháng này đã tiêu bao nhiêu tiền, đại loại xà phòng dùng hơi nhanh hết, vừa rồi sinh nhật anh đáng lẽ chúng mình không nên mua 1kg thịt, về sau này nước rửa rau mình có thể rửa mặt, nước rửa mặt mình có thể tắm, rửa chân tay, nước rửa chân mình có thể dùng giặt tất, nước giặt tất mình có thể dùng để dội hố xí... v.v...đại loại là những chuyện như vậy.

Họ vừa tự ngồi trách mình đã tiêu quá nhiều tiền, vừa không nén được ngồi nghĩ tới một tương lai tươi đẹp.

Họ tưởng tượng, trong một tương lai nào đó gần thôi, có thể là khi đã trả hết nợ, họ có thể đẻ một đứa con, thậm chí có thể tương lai nào đó, họ sẽ dành dụm tiền để mua một căn phòng.

Nghe những tiếng thì thầm vui sướng của họ, tôi mãi vẫn không thể nào chợp mắt.

Nửa đêm, tôi nghe thấy tiếng người con trai kêu đau bụng, dường như có vẻ đau rất kinh khủng, "ái chà, ái chà" cứ thế kêu. Người con gái cuống lên, hỏi anh làm sao đấy? Người con trai nói hình như là tối nay anh ăn no quá, chướng bụng. Cô gái vội kêu, anh mau ra nhà xí đi ngoài thôi.

Người con trai chần chừ rất lâu, dường như không muốn đi, hồi lâu, tôi nghe người con trai nói: Anh không muốn đi ngoài, chúng mình tiết kiệm nước dội nhà xí vẫn không đủ đâu, thế là tháng này tiền nước lại trội lên thôi. Mà còn nữa, nếu đi ngoài xong, bụng rỗng rồi, thì đêm nay dễ đói lắm!

Nghe đến đây, đầu óc tôi choáng váng, trống rỗng, trái tim tôi bị thụi một cái đau buốt, câu nói đó trở thành ác mộng suốt đêm của tôi: Đi ngoài hết rồi, anh sợ đói!

Nghe câu nói đó, trái tim tôi đau buốt. Tôi nhớ đến ông nội tôi.

Ông nội tôi sống khổ cực trong xã hội cũ, cái thời ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, quanh năm trẻ con vàng mắt ra đợi Tết, vì Tết được ăn một bữa cơm no!

Vì thế, mỗi năm vào ngày Tất niên, trẻ con đứa nào cũng ăn no, cái bụng nhỏ tròn căng, bụng có chướng đến thế nào cũng dứt khoát không chịu đi ngoài. Bởi vì, đi ngoài hết, bụng trống rỗng rồi, sẽ dễ cảm thấy cơn đói, nhưng Tết qua rồi, không còn cơ hội được ăn một bữa no nữa! Vì thế đứa trẻ nào cũng nhịn, cũng nín, bởi vì những năm tháng đó, nghèo, người người sợ đói, trẻ con càng sợ đói!

Nhưng giờ đã là thế kỷ 21, những năm phát tài no đủ, anh lại nghe thấy từ miệng một sinh viên tốt nghiệp đại học cái câu nói đó, anh sẽ có cảm giác gì? Cảm động? Đau khổ? Hay là chua xót? Hay là thương hại nhưng chẳng làm gì được?

Hay là tất cả mọi cảm xúc đó? Hay là chẳng có cảm xúc nào?

Tôi không có thời gian để quan tâm đến nỗi lòng một kẻ hèn kém, vì xã hội nó đã như vậy, tôi cũng lực bất tòng tâm thôi. Cái duy nhất tôi có thể biểu lộ, ngoài ái ngại ra thì cũng chỉ có ái ngại.

Tôi cũng từng khinh bỉ họ, thậm chí còn nhục mạ họ từ trong đáy lòng tôi: Đáng kiếp mày! Ai bảo mày không đủ tài thi vào một trường đại học danh tiếng nhất cơ! Không có tiền thì học đại học cái cứt ấy, mình làm thì mình chịu chứ trách ai!

Nhưng tôi cũng không thể không thừa nhận rằng, một đứa trẻ từ miền sơn cước, nông thôn nghèo khó, không thể chỉ dựa vào trí thông minh mà có thể với tới cánh cổng trường đại học danh tiếng; Nó đòi phải có năng lực và thực lực; Thực lực đến từ một nền giáo dục tốt toàn vẹn, những thầy giáo ưu tú, và còn rất nhiều rất nhiều, như tiền chất thành núi để vào những lớp luyện thi tốt, như một nền giáo dục đa chiều và toàn diện mà chỉ những đứa trẻ thành phố mới được hưởng, như phải có những ông bố bà mẹ có quyền có chức hiểu biết v.v...

Hai bạn trẻ này đều không có, họ chỉ là những đứa con nông dân, họ không có tư cách cũng như quyền lợi để có, không ai mua sách tham khảo, tài liệu học tập cho họ, cũng không có những thầy cô giáo ưu tú cầm tay chỉ dạ, họ chưa từng được nhìn thấy đàn Dương cầm, họ chưa được thấy máy vi tính. Thậm chí ngoài Bí thư chi bộ thôn, họ chưa từng quen bất kỳ một công chức cán bộ nào.

Họ từ sáng đến tối chỉ biết đọc mỗi sách giáo khoa, chỉ biết học cật lực, chỉ biết rằng thi đỗ được đại học mới có thể thay đổi được số phận họ.

Nghe họ ngọng nghịu nói tiếng Anh, trúc trắc tiếng Hoa phổ thông, quần áo hơi nhếch nhác, toàn đồ lỗi thời sờn vai, chúng ta vẫn thường không nén được tiếng cười.

Chúng ta thích thú đàm tiếu sau lưng những người ấy, thích mỉm miệng giả cười như kiểu thiếu nữ để trêu chọc sự ngốc nghếch của họ, thậm chí chúng ta thích cố tình hỏi họ có đi ăn Mc'Donald với ta không, chúng ta quen nhìn thấy họ phải ngần ngại, quen thấy họ bơ vơ, quen với việc những người nhà quê thua thiệt ấy mất nhiều được ít.

Khi chúng ta có quá nhiều những thói quen như thế, chúng ta sẽ bắt đầu không để ý xem họ có đói không, lúc chúng ta lãng phí thức ăn thì họ còn nghĩ thầm đâu đó: Không dám đi nhà xí, sợ đi ngoài hết rồi, đói!

"Một con người có thể đem đi so đọ với một con người không? Không thể so đọ! Một đứa trẻ nông thôn thì nên so sánh cái gì với một đứa trẻ thành phố? Mà không cần so sánh!" Đó là một câu ngày xưa một người bạn tôi hay nói, ngày đó tôi chỉ thấy ngộ nghĩnh, giờ nhớ lại, thấy trong lòng chỉ còn chua chát khó chịu.

Con người thực sự phân đẳng cấp ư? Ai phân chia? Phải chính là bạn không?

An ninh ở Quảng Châu càng ngày càng tồi tệ, trọ trong những phòng trọ thế này, thật sự là có vẻ khá liều lĩnh. Tuy nhiên trước mắt tôi không tìm ra nơi nào thích hợp hơn để chuyển đi, đành chấp nhận tạm.

Chung cư này có mười mấy bà chủ có phòng cho thuê, họ ngày ngày vây quanh bàn mạt chược chầu chực, vả lại có bị trộm cắp gì thì cũng chả phải đồ nhà họ. Cuối cùng, dưới sự đòi hỏi của vài khách trọ chúng tôi, chung cư đành thuê thêm một bảo vệ.

Lúc tôi tan giờ làm về, thấy dưới nhà đang ồn ào xôn xao, hoá ra bảo vệ bắt được một đứa nghi là trộm. Tôi hiếu kỳ dòm vào, nào phải ai xa lạ đâu, chính là anh chồng dáng vẻ yếm thế trọ bên cạnh phòng tôi. Anh ta đang cúi gằm, cố gắng phân bua: Tôi không phải là kẻ trộm, tôi sống ở đây mà.

Nhưng không ai tin anh ta, vì khi bảo vệ hỏi trú ở tầng nào, phòng số mấy, anh ta chỉ nói được là ở tầng 6, mà chẳng nói được số phòng. Kho xép chứa đồ làm gì có số phòng!

Anh ta như một đứa trẻ sợ sệt, mắt hoang mang nhìn khắp mọi người chung quanh, nghe những lời xì xào tiếng Quảng Đông đặc sịt giọng, anh ta cố gắng giải thích như thể kẻ tội đồ giãy giụa lần cuối.

Tôi định bước qua, anh ta đã nhìn thấy tôi, mắt tràn ngập hy vọng, con ngươi đựng lệ, như ánh lên một thứ cảm kích. Tôi ngẩng cao đầu với ánh nhìn luôn thẳng và xa, phát hiện toàn bộ đám đông đang quay nhìn tôi chằm chằm.

Tôi do dự, lập tức đứng lại trên đôi giày cao gót đế 8 phân. Tôi khẽ liếc xuống bộ đầm hồng của mình, mặt thoáng qua một vẻ hãi hãi và sợ sợ mà người khác khó phát giác thấy. Tôi định quay đầu đi thẳng về cầu thang, giả như không thấy gì hết. Nhưng không sao nhấc nổi chân lên, tôi chết đứng ở đó nửa giây.

Tôi cố gắng thấp giọng, lịch sự từ tốn nói: Sao cậu toàn để quên chìa khoá thế nhỉ? Chắc lại vứt đâu rồi chứ gì? Bực mình cậu quá!

Bảo vệ buông anh ta ra, tôi mỉm cười bảo: Anh này là họ hàng xa của tôi. Xin lỗi bác nhé, phiền bác quá.

Tôi quay đầu, dẫm gót giầy nhọn lên gác, cầu thang buông lại những tiếng lọc cọc.

Khi cô vợ quay về, cô cứ đứng mãi trước cửa nhà tôi, cách một cánh cửa và luôn mồm nói: Cảm ơn chị. Tôi không đáp trả. Một lúc sau, dường như cô ta về rồi, tôi mở cửa, bỗng thấy hai vợ chồng vẫn đứng trước cửa, tay nâng một vốc to lạc và táo.

Tôi nhìn họ, không mở cửa, họ cũng không dám nói là cho tôi. Chỉ một mực giải thích: Lúc chiều, anh chồng định nhặt mấy vỏ chai nước dưới tầng, nếu biết trước là không được nhặt, anh bảo anh hẳn sẽ không xuống nhặt rồi.

Tôi vốn định ngắt lời cô vợ, bảo họ: Không phải là người ta không cho nhặt, mà bởi trông các bạn không giống vẻ người sống ở nhà này. Nhưng tôi nén được, nghe họ nói tiếp.

Họ bắt đầu cúi gằm, nhỏ nhẹ bảo: Họ cũng biết thói quen ở đây, ai giúp gì thì nhất định phải cảm tạ, nhưng họ chả có gì trong tay, đây là ít đặc sản ở nhà gửi lên, đều là nhà trồng được, chưa hề bón phân hoá học, xin tôi cứ yên tâm ăn.

Tôi mở cửa, lấy một tờ giấy, bảo họ để các thứ lên trang A6 trắng tinh đấy.

Chỗ lạ và táo nhỏ đấy tôi không ăn, tôi cứ để đó, nhìn ngắm. Chúng trơn nhẵn, ánh bóng lên, có vẻ mong mỏi, to đều. No căng.

Chủ nhà trọ rốt cuộc đã mò lên, rất thẳng thừng nói ngay câu đầu tiên: Nhà cô có thêm người mới đến à? Tôi thừ ra một lúc lâu, mới nhớ ra, có lẽ ông cảnh vệ mách ông ta.

Tôi kể toàn bộ sự tình cho chủ nhà, đồng thời hỏi chủ nhà có thể treo thêm biển số phòng cho phòng bên đó không, chủ nhà miễn cưỡng bảo "Ừ" rồi đi xuống.

Hôm sau, tôi thấy đúng là trên phòng bên đã dán thêm tờ giấy lên cửa, viết: "Phòng cất dụng cụ vệ sinh".

Được vài ngày, lũ bạn thân hồi đại học và thằng người yêu mới tìm xuống Quảng Châu chơi, tôi bị bắt phải nghỉ một ngày phép đón chúng nó.

Chọn đại một quán định mời chúng ăn đồ ăn Quảng Châu, nhưng bạn tôi chê đồ ăn Quảng Châu nhạt nhẽo, chỉ ăn mấy miếng bèn gọi nhau đi, rồi sang quán bán đồ ăn Hồ Nam, mới vừa miệng chúng nó. Ăn xong, chả có việc gì, lại không dám xách túi dạo phố, chúng tôi tìm quán Karaoke Party World, hát đến nửa chừng, lại ngẫu hứng nhảy sang quán Karaoke Triều Ca, đổi đi đổi lại, hát không mấy bài, lại mất thời gian.

Tối về nhà, đã rất muộn. Nhưng tôi thấy phòng bên đèn vẫn sáng, trong phòng còn vọng ra tiếng thút thít.

Tôi kệ âm thanh đó, mở cửa, cho đám bạn vào. Bạn tôi vào phòng liền bật máy tính, mở nhạc bài "Không sợ không sợ" ( ... re=related) rất to, chấn động cả tầng lầu.

Dưới nhà cuối cùng cũng không chịu nổi nữa. Lên gõ cửa, bảo lũ chúng tôi khẽ đi. Tôi tắt nhạc, ngồi tám về đôi vợ chồng phòng bên. Lũ bạn cứ tưởng tôi đang kể chuyện, vừa bảo nhảm, vừa tìm thuốc châm hút. Tôi ghét nhất là mùi thuốc lá, vì khói thuốc làm chảy nước mắt. Tôi đuổi bạn khỏi cửa, bảo nó ra ngoài hút đã đi rồi vào.

Khoảng nửa điếu thuốc cháy, bạn tôi cuống quýt gõ cửa, hào hứng gọi tên anh người yêu, bảo ra đây mau lên nghe ca kịch.

Hai đứa họ ra ngoài, rồi im ắng như tờ. Rất lâu mới trở lại.

Bạn tôi quay vào liền tới ghé tai tôi: Mày đừng giả vờ nữa, có phải buổi tối không có việc gì làm, mày toàn sang phòng bên nghe nhạc chứ gì? Tôi còn không kịp định thần, họ đã cười phá lên. Bọn này cứ thế thôi, bực mình lắm chuyện quá.

Sau tôi biết, hoá ra bọn họ ra ngoài ngóng động tĩnh phòng bên. Nhưng động tĩnh gì thì tôi không hỏi, nhưng tôi nghĩ, có lẽ là gì đó có liên quan đến màu sắc..

Đêm không ngủ được tôi cầm cuốn "Lolita" xem đôi trang, rồi bắt đầu lơ mơ. Khi mơ mơ hồ hồ vào giấc ngủ, tôi hình như nghe tiếng động phòng bên, tiếng nhỏ nhưng mê ly.

Bạn tôi ở không đến ba ngày, tôi đã bắt đầu thấy chán, tôi thấy sự yên tĩnh trước đây bị phá vỡ, mà một cô gái độc thân thấy một đôi tình nhân cứ lượn qua trước mắt thân mật, dễ trúng gió mất thôi!

Tiễn bạn đi, tôi bắt đầu trở nên khó tính, tôi thường cố ý đóng cửa thật mạnh, cố ý đóng mở cửa sắt thật nhiều, cố ý để mọi người biết tôi đang bực, cố ý để bất cứ ai cũng biết tôi đang cau có.

Đôi vợ chồng trẻ phòng bên mỗi lần gặp tôi vẫn cười, có chút ngượng ngùng bẽn lẽn. Anh chồng trên máy tóc rối bù có dầu vẫn dính ít gàu trên đuôi tóc, đuôi tóc tết của cô vợ vẫn bùng lên đằng sau như cũ, như lá thu bay tơi tả.

Nhưng tôi thấy họ, tôi không cười, cũng không còn nghiêm mặt như xưa, tôi chỉ lạnh lùng gật đầu, dùng gót giày mình gõ mạnh lên nền, nhanh chóng đi qua họ.

Mỗi lần cúi xuống, nhìn đôi giầy gót cao 8cm của mình, tôi mới hoảng hốt thấy, thực ra nếu không có đôi giầy này, dường như tôi cũng chẳng cao!

Rồi sau đó là một chuỗi những mất mát và u uất triền miên! Tôi đoán, chỗ quà kia hẳn họ từng tỉ mỉ lựa ra. Hẳn phải một bao tải mới chọn được từng đó táo và lạc.

Nghĩ đến đây, tôi bật cười. Chẳng mấy chốc tôi lại hối hận, mình đáng lẽ không nên cười họ!

Có những ngày thế này, cánh cửa đó khép im ỉm, trong phòng đó không có ánh đèn, tôi úp mặt vào khe cửa dòm, không nhìn thấy bên trong có bất cứ thứ đồ gì. Có mấy lần, tôi thậm chí dán tai nghe, chẳng hề có chút động tĩnh. Tôi bắt đầu lo sợ, lo ngại họ đã lẳng lặng dọn đi rồi.

Thậm chí tôi bắt đầu oán trách, vì sao khi đi chẳng chào hỏi gì. Tôi không biết làm sao, loanh quanh ra vào phòng mình, vầy vò cái gối, mạnh tay gõ vào bàn phím, viết những blog sắc nhọn, dùng ánh mắt miệt thị dòm xung quanh.

Tôi phát hiện đã lâu tôi không còn xúc động, thậm chí có lẽ nói bao năm nay tôi không hề bồn chồn thế này rồi. Bỗng dưng tôi thấy đau buồn. Như thể mất đi thứ gì quý báu, như thể ai cướp mất một cảm xúc của tôi. Tôi bắt đầu nguyền rủa, bắt đầu lăng mạ, bắt đầu chán ghét cái thế giới này.

Hàng ngày tôi đều đứng dựa cửa, hy vọng đột ngột có người ra trước mặt tôi cười, và không kìm được tôi lại ngó cánh cửa đó, hy vọng chút ánh sáng vàng vọt nào hắt ra nhè nhẹ. Nhưng suốt mấy ngày, chả có gì.

Rốt cuộc, tôi phải chạy đi tìm bà chủ nhà hơi lắm chuyện kia. Tôi nói tôi cần thuê gian phòng chứa đồ. Bà chủ nhà lạ lẫm nhìn tôi: Cô định ở đó sao? Tôi nhíu mày, bảo: Tôi cần đặt sô pha vào đó. Bà chủ nhà dường như hơi gây khó dễ: Thế cô định lúc nào thuê? Tôi ngạc nhiên: Chả lẽ vẫn còn người ở trong đó sao? Không phải đã để không rồi sao? Chủ nhà nói: Cặp thợ thuyền kia tháng sau hết hạn thuê nhà.

Tôi bỗng nhiên có một niềm vui lạ lùng, hoá ra họ vẫn chưa dọn đi? Tôi lắp bắp nói: Thế thì tháng sau nhé!

Chờ khi tôi đi qua cánh cửa đó một lần nữa, tôi thấy vui mừng, vì tôi dường như thấy trong phòng có tiếng bát đũa chạm nhau lách cách, bởi dường như tôi có thể nghe thấy tiếng họ đang khe khẽ thủ thỉ.

Hôm đó, tôi ngủ sớm, thực ra tôi không buồn ngủ. Nhưng tôi vẫn đi nằm sớm, tôi mở mắt nhìn lên trần nhà, nghĩ liệu có một lần sẽ có người đến gõ cửa phòng tôi.

Một chuỗi tiếng mở cửa làm tôi giật mình, cho dù tiếng mở cửa chỉ nhỏ như thể tiếng muỗi vo ve, nhưng suốt mấy ngày nay tôi đã luyện được một đôi tai thính. Tôi nhảy phóc từ giường xuống đất, chạy ra.

Cô vợ thấy tôi mở cửa lạch xạch, sợ hãi đứng yên một chỗ. Tôi ngại quá, vội vàng che giấu sự mừng vui của mình: Đã về rồi à? Sao mấy hôm rồi đi vắng? Về quê à? Cô gái nhìn tôi một hồi, lắp ba lắp bắp nói: Còn chưa ngủ ư, chị. Không, không, không về quê. Mấy hôm nay có chuyện.

Lần đầu tiên cô nói với tôi mà không cười, cũng là lần đầu tiên cô nói dài, rồi bước vào gian phòng cất đồ mà mấy hôm nay tôi vẫn quan sát chặt.

Tôi lặng đi ở đó, rất lâu, rất lâu, tôi mới sực tỉnh. Tôi tự nhiên muốn khóc, có chút gì như tủi thân, như đã bỏ ra nhiều nhiệt tình nhưng bị lạnh nhạt tới mức đau lòng. Nhưng tôi không khóc, cũng không rơi lệ, tôi chỉ đóng cửa lại, bật máy tính, bắt đầu lên mạng ngao du khắp nơi.

Tối đó, tôi nghe thấy một mình cô ta bận rộn đến khuya, linh tinh lang tang nghe như tiếng làm cơm hay thu xếp đồ đạc.

Nghe những âm thanh của một người vọng sang từ phòng bên, tôi tự nhiên lạ lẫm, nghĩ, thế còn người con trai đâu?

Tôi bỗng cô đơn, cảm thấy nỗi cô quạnh đến đáng sợ, nhất là những âm thanh đơn điệu vọng từ vách sang, làm tôi cảm thấy vô cùng rõ sự lạnh lẽo của mình.

Tôi tự nhiên hiểu ra: Thì ra một mình là nỗi thê lương, hoang lạnh đến buồn bã thế. Tôi quấn chặt áo ngủ, nhưng vẫn không cách nào kháng cự lại được cảm giác cô quạnh lúc nửa đêm.

Cô ta dường như có vẻ khá ngần ngại, đứng rất lâu ngoài cửa, không gõ cửa, cũng không định bỏ đi, cứ cúi đầu, như suy nghĩ xem nên mở cửa thế nào.

Thật ra với những lời lẽ giản đơn hôm qua, trong thành phố phương Nam lạnh nhạt này, chả là gì, khách sáo là thứ xa xỉ, đãi bôi là thái độ đương nhiên của mỗi người với mọi người. Nhưng tôi lại nhìn thấy, họ hoàn toàn không thể thích nghi nổi nơi đường lạ người với người nhạt nhẽo. Có lẽ, cô cho rằng, nơi đây vẫn giống quê nhà. Nhưng, cô chất phác quá, làm sao có thể tưởng tượng được nơi đất khách tha hương này người với người chả có gì tình nghĩa để nói.

Tôi chủ động mở cửa, đi ra, nhìn cô, chờ cô hỏi trước.

Cô vợ nghe tiếng mở cửa, chợt ngẩng đầu, mắt hơi ngạc nhiên, có vẻ mừng rỡ. Cô cười nhưng rõ ràng tôi thấy mắt cô đỏ hoe, sưng lên, như vừa khóc.

Cô hơi gật đầu: Xin lỗi chị, bình thường chị vẫn quan tâm tới chúng em, hôm qua em hơi mệt mỏi, có gì không phải với chị, chị đừng để ý nhé. Giờ em còn có việc, phải đi bây giờ, nếu không có gì thì em đi đây.

Cô quay người, tôi giữ cô lại. Lần đầu tiên tôi hỏi cô thân mật như bạn bè: Có việc gì vậy?

Cô chững người lại, nước mắt liền rơi xuống thành dòng, rơi lã chã, tất thảy mọi ức chế, tủi thân, và nỗi khổ sở trong đáy lòng đã theo nước mắt rơi xuống. Tôi không ngờ cô gục vào vai tôi, khóc lên thành tiếng. Tôi nhẹ nhàng ôm lấy cô, nghĩ thế này biết đâu chia sẻ được với cô chút đau khổ nào chăng.

Cô lắp bắp kể lại, tôi mới biết, anh chồng giờ đang nằm trong bệnh viện.

Anh chồng vốn làm nghề đưa hàng, nhưng vì tính tình chậm chạp, không khéo mồm, thành ra doanh số cứ lẹt đẹt, đành phải bỏ việc, tìm việc cần sức vóc để làm tạm. Nhưng anh chồng vốn chẳng khoẻ gì, lại ăn uống kham khổ, ngày nào làm cũng mệt nhọc, hôm đó đi làm, không may bị gạch rơi xuống vỡ đầu, phải đưa đi nằm viện rồi. Đáng lẽ tưởng đây là tai nạn lao động thì chủ phải lo cho tiền thuốc thang, ngờ đâu chủ mặc kệ, lại sai thải anh chồng ngay. Dành dụm được bao tiền giờ đã tiêu hết, cô chỉ còn nước quay về nhà dọn dẹp, rồi đi đón chồng về nhà nằm.

Tôi lấy tấm thẻ tín dụng ra, định rút ít tiền cho cô dùng tạm, cô sống chết từ chối, cứ thế chạy xuống lầu đi mất.

Buổi chiều, hai vợ chồng quay về, trên đầu anh chồng quấn tấm băng trắng, dáng vẻ yếu ớt, nhìn thấy tôi còn cố mỉm cười. Nhìn dáng anh ta gầy gò bé nhỏ, tôi cảm thấy anh chồng nhìn không có vẻ hèn kém, dù hơi bé nhỏ, nhưng có ý chí; cho dù nhút nhát, nhưng vẫn kiên cường. Tôi cười đáp lại anh, lần này, tôi cười thật lòng, chân thành.

Hôm ấy, cả một ngày, tâm trạng tôi rất vui vẻ. Đó là ngày tôi vui nhất kể từ khi đến thành phố này, lần đầu tiên được cười chân thật, lần đầu tiên để ý chính mình cười có thật lòng không.

Hôm đó, tôi nhìn thấy cái mặt nạ của tôi rơi xuống, trần trụi rơi trước mặt tôi, lộ ra tiếng thở dài não nuột, những giằng xé vô vọng, kêu gào không hơi.

Và tôi, đã nhẹ nhõm cầm bật lửa, đốt nó đi.

Tôi dè dặt gõ cửa phòng họ, cô vợ đi làm vắng rồi, anh chồng liêu xiêu tựa vào cửa, nhìn tôi cười ngờ nghệch, không biết làm thế nào để mời tôi vào nhà.

Tôi không hề định bước vào, mà cứ đứng ngoài, như thể tán gẫu, như thể nói với người thân bạn bè: Chỗ anh làm là cơ quan nào? Vì sao anh bị thương trong giờ làm nhưng lại không chịu gánh chi phí y tế cho anh? Họ có lý do gì sa thải anh? Theo Luật Lao Động thì anh có quyền... Tôi còn chưa nói xong, anh chồng đã cười ngộc nghệch, chen vào: Em biết, em cũng đã học đại học, em biết luật, nhưng không ích gì đâu! Luật Lao Động có lẽ chỉ bảo vệ được những viên chức như chị thôi, chứ với thợ thuyền bọn em, thì chả có tác dụng gì đâu! Lấy gì để bảo đảm đây? Ai bảo đảm cho? Tìm ai để khiếu nại đây? Cơ quan này tổ chức kia em đều đi cả rồi, nói rách mép ra, có ai thèm để ý đâu! Về chỗ chủ, bọn tay chân của chủ nó không đánh thêm cho thành què quặt ra đã là may rồi, hơn nữa, có cố đấm ăn xôi, thì rồi cũng vẫn phải móc tiền túi ra trả thuốc men, chả bõ bèn gì. Thôi vậy, em chịu thế này vậy, ai bảo chúng em không có địa vị trong xã hội này cơ!

Nghe anh ta than thân, nghe những lời ấy, tôi như cảm thấy những ấu trĩ của mình, xã hội tàn nhẫn, cuộc đời cũng tàn nhẫn. Mắt tôi hiện lên những tin thợ thuyền hàng năm phản đối đòi tiền lương bị chủ đánh đập, làm cật lực bị nợ lương, bị tai nạn không ai ngó ngàng đăng đầy rẫy trên báo. Tôi hiểu ra, xã hội này vốn thế, anh bắt những kẻ yếm thế đi đòi công bằng, anh để những kẻ ở dưới đáy cùng của xã hội lấy gì để bảo vệ quyền lợi của chính mình?

Tôi không nói gì nữa, tôi thấy lời nói là thứ hụt hơi yếu đuối, tôi cảm thấy ngôn từ nghèo nàn, tôi cũng thấy những bất bình của tôi mới non nớt bốc đồng sao.

Tôi thở dài bất lực, lẩm bẩm như mơ: Xã hội ngoài kia bất nhẫn quá, khó khăn quá, hay là quay về đi, chứ chịu đựng và khốn khổ thế này, chi bằng quay về quê, tuy nghèo khổ nhưng được trân trọng.

Anh chồng vẫn cười, cười méo mó. Anh ta ngẩng đầu, nhìn ra nơi xa, như tự nói: Về ư? Về làm sao được? Học phí nợ còn chưa trả nổi, nhà nước thì sao? Nhà nước đã chìa cánh tay giúp đỡ ra lúc tôi cần nhất, giờ làm sao tôi dám vong ân bội nghĩa, làm người phải giữ đạo! Huống hồ nhà tôi còn em trai em gái đang đi học, bố mẹ lại già rồi, đau yếu luôn, không kiếm ra tiền, lấy gì nuôi các em? Lấy gì nuôi bố mẹ?

Làm người phải giữ đạo! Nghe câu nói ấy, tôi thẫn thờ, một người sống khổ sở như anh ta, một người đã lăn xuống tận đáy cùng của xã hội, còn nghĩ tới quốc gia, thì anh chồng đã cao thượng hơn bao nhiêu người mũ cao áo dài chúng tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy mình tầm thường, bé nhỏ.

Tôi mở to mắt nhìn anh, có chút nể phục, anh chồng kể tiếp giọng đều đều:

Nông thôn nghèo lắm, rất nhiều người bảo, nghèo sao đẻ lắm thế? Thật ra, vì sao lại đẻ đứa này rồi còn sinh tiếp đứa khác? Có ai muốn đã nghèo lại còn phải nuôi thêm mấy đứa con đâu, cuộc sống thêm gánh nặng, nhưng biết làm sao được, người ta buộc phải thế! Ở nhà quê, người ta già rồi, không còn sức lao động, coi như là bắt đầu phải nuôi báo cô, người già ở nông thôn không có lương hưu, không hề có phúc lợi xãhội gì, không có gì đảm bảo cho cuộc sống, nếu không có nhiều con, thì một đứa nuôi làm sao nổi hai bố mẹ già, thế không phải là sẽ cứ thế mà chết đói ư? Vì thế nên phải đẻ thêm vài đứa, chia gánh nặng ra. Đẻ con dưỡng già là một thứ truyền thống bất đắc dĩ của nhà quê!

Mỗi ông bố bà mẹ ở nông thôn đều mong con mình mở mày mở mặt, mà muốn đổi đời chỉ có mỗi con đường là thi đỗ đại học, nhưng học đại học thì đắt lắm, cho nên trong nhà chỉ cần một đứa đỗ đại học thì cả nhà phải vạ, rồi chổi cùn rế rách bán hết. Nhưng bây giờ sinh viên tốt nghiệp đại học xong khó kiếm việc lắm, nhất là những người học không giỏi, nghề cũng không giỏi, càng khó xin việc; mà không lấy được mảnh bằng đại học thì khác gì chưa học đại học, đi đâu xin việc người ta cũng cần bằng cấp, không bằng, thì chỉ đi làm thợ.

Nói đến đây, anh chồng ngao ngán lắc đầu, mím môi lại, không nói nữa.

Tôi cũng im lặng, tôi không biết nên nói gì, bởi một đứa trẻ từ nhỏ sống ở thành phố như tôi khó tưởng tượng nổi, vì thế tôi chọn cách im lặng.

Buổi trưa, tôi gọi hai suất cơm, tôi mang một suất cho anh ta, anh ta dứt khoát không nhận. Tôi giả bộ giận dữ nói: Tôi làm phiền anh suốt buổi sáng, không cho anh nghỉ ngơi, giờ xin lỗi bằng hộp cơm thôi! Anh ta không chối được, đành nhận lấy.

Tôi biết, một suất cơm thì đạm bạc quá, nhưng nếu tôi mua những thứ đắt tiền hơn, chắc chắn anh ta không bao giờ chịu lấy.

Buổi tối, cô vợ rất muộn mới quay về, mệt mỏi rã rời. Tôi nghe thấy anh chồng nói: Anh để phần em cái này ngon lắm, chắc em đói rồi hả, ăn đi. Cô vợ cứ bảo đã ăn rồi, đòi chồng ăn cùng, anh còn đang bị thương, cần tẩm bổ.

Nghe họ đùn đẩy nhau miếng ăn, nước mắt tôi rơi xuống.

Tôi biết, tôi lại sai rồi, tôi không hiểu gì về tình yêu của họ, vì tình yêu của họ nhân đôi! Làm sao có thể nhẫn tâm một mình ngồi nuốt một phần ăn mà mình cho là ngon miệng, mà để người còn lại ngồi nhìn nuốt nước bọt?

Hôm đó, tôi cuối cùng đã hiểu: Bội số của một tình yêu nhân đôi là rất lớn, rất lớn, rất lớn. Tới mức tôi khó nhìn thấy hình dáng nó, không thể biết bề sâu của nó.

Anh chồng rồi cũng khoẻ dần lên, chờ anh ta khoẻ hẳn, tôi nhờ bạn bè tìm giúp anh một công việc nhẹ nhàng một chút, tuy lương không cao, nhưng dù sao cũng tốt hơn việc cũ. Hai vợ chồng họ đầy cảm kích không rõ đã nhắc lại bao lần chữ cảm ơn. Cho dù tôi nói mãi đó chỉ là việc dễ như trở bàn tay, họ vẫn không ngừng cảm ơn tôi. Làm tôi hơi ngại.

Một tháng sau, anh chồng cùng cô vợ hớn hở chạy đến kéo tôi đi ra ngoài, tôi còn chưa hiểu việc gì, họ đã lôi được tôi ra khỏi cổng. Xuống đến nhà, tôi mới biết thì ra anh chồng được lĩnh lương, nhất định mời tôi đi ăn. Tôi cười ha ha nói: Thôi đừng khách khí, đều là người đi kiếm sống, giúp nhau là chuyện thường tình, thôi đừng cơm nước gì nhé. Nhưng họ cố chấp cứ lôi tôi lại, mời mọc mãi: Không mời chị, cả tình cả lý đều không xuôi. Thấy tôi có vẻ kiên quyết không đi, họ bắt đầu cuống lên: Hay là chị sợ chúng em mang không đủ tiền theo, xem này, em mang hẳn mấy trăm tệ. Nói đoạn bèn móc tiền ra. Thấy họ đôn hậu lại ngộ nghĩnh, tôi không từ chối nổi, đành nhận lời.

Tôi vừa đi vừa nghĩ: Làm thế nào để họ mời mình, thoả mãn tâm nguyện của họ mà lại tiết kiệm tiền cho họ nhỉ. Tôi nghĩ tới quán cơm rẻ tiền nhất Quảng Châu, là quán mì sợi.

Vì thế tôi làm vẻ trầm ngâm: Tôi biết có một chỗ đồ ăn vô cùng ngon, tôi thích đi ăn nhất. Không biết 2 người đã ăn mì sợi Lan Châu bao giờ chưa. Họ đều ngỡ ngàng, rồi nói: Sao lại thế được? Sao lại chỉ mời chị đi ăn mì sợi? Kiểu gì cũng phải mời chị một bữa hoành tráng.

Tôi cố ý ra vẻ giận: Nhưng tôi thích mì sợi, nếu định mời tôi, thì mời mì sợi đi, ăn cái khác tôi không thích lắm.

Hai người họ thấy tôi giận, chỉ biết dạ dạ, làm theo ý tôi.

Đến quán mì, tôi gọi một bát mì bò, anh chồng gọi một bát mì suông, một bát thịt bò. Chờ lúc mì bưng lên, anh chồng bưng một bát mì to nhiều thịt bò tới trước mặt tôi, một bát mì ít thịt bò cho vợ, còn anh chỉ ăn một bát mì nhỏ suông.

Thấy tôi nhìn thắc mắc, anh vội vàng giải thích: Em thích ăn chay. Vết thương cũ chưa lành, em sợ ăn thịt vào sẽ lâu khỏi, thôi ăn chay cho lành.

Thực ra tôi biết, đây đâu phải chuyện vết thương, tôi biết anh ta muốn tiết kiệm tiền, nhưng anh ta không bạc đãi bạn bè, nên chỉ bạc đãi bản thân mình.

Thấy anh ta ăn mì ngon lành từng miếng lớn, thấy vợ anh liên tục gắp thịt vào bát chồng, thấy hai vợ chồng họ không ngừng gắp thịt cho tôi, tôi lại gắp trả họ; cổ họng tôi nghẹn lại ở chỗ nào đó, rất khó khăn cũng không nuốt được một miếng mì xuống. Tôi có thể cảm thấy được trước mắt tôi một màn mờ ảo, không biết là hơi nước nóng đang lơ lửng trước mặt, hay có nước gì đã bao lấy mắt tôi, có thể cảm thấy âm ẩm.

Lần đầu tiên, tôi học được cách của họ, ăn hết sạch mì trong bát, húp cạn canh trong bát, cho dù tôi đã no căng bụng. Nhưng lần đầu tiên tôi cảm thấy đáy lòng mình quá ấm áp quá thật thà.

Tuy chỉ là một bát mì tám đồng, nhưng tôi biết bữa ăn đó với họ là xa xỉ. Tiêu mất tiền ăn mấy ngày của họ. Nhưng thứ tôi được nhận không phải là một bữa no, mà là cảm giác thấu hiểu và cảm động mà tôi chưa từng có được. Đó mới là thứ không tiền nào mua nổi, cũng là thứ mà không phải ai cũng may mắn có được, thứ chỉ tới từ tình người.

Tôi nghĩ, đây là bữa ăn đắt tiền nhất mà tôi từng được mời, nó thật sự rất xa xỉ, rất đáng giá.

Một buổi chiều lười biếng, bạn tôi gọi điện tới, khi tôi nghe hết những lời tường thuật của anh ta, tôi kinh ngạc tới mức đờ ra, tôi không biết anh ta nói đúng không, cũng không hiểu rõ sự thể ra sao, tôi chỉ biết, cậu trai sống kề vách phòng tôi đã bị bắt lên đồn công an.

Anh bạn kia không ngừng trách móc tôi, tại sao lại giới thiệu một người như thế đến làm ở chỗ anh quen, ý anh nói rằng, không còn nghi ngờ gì nữa, tôi để anh giúp tìm cho họ công việc đó, sự thể tới mức này, anh ta còn mặt mũi nào với ông sếp ở đó nữa. Nghe thấy anh ta hậm hực gác máy điện thoại, tôi biết, về sau coi như là tôi mất người bạn này rồi, chớ có nói còn nhờ vả họ tìm cho đôi vợ chồng kia công việc nào khác.

Tôi không kịp để ý xem mối quan hệ bạn bè này từ nay còn hay mất, cũng không còn lòng dạ nào đi xin lỗi anh bạn, tôi chỉ còn muốn biết anh hàng xóm giờ ra sao? Tôi chỉ muốn làm rõ xem chuyện gì đã xảy ra. Dường như trong tôi có phần nào thấy phải chịu trách nhiệm với họ, tôi dặn tôi, biết đâu đây chỉ là sự hiểu lầm.

Tôi xin nghỉ phép, vội vã chạy về nhà, chạy lên lầu, đi gõ cửa phòng kia, nhưng khá lâu, chẳng ai ra mở cửa. Tôi hơi thất vọng, tôi nghĩ có lẽ cô vợ đã ra đồn công an rồi.

Tôi mệt mỏi tựa vào tường, nhìn sang cánh cửa sát phòng tôi, bỗng thấy tự dưng xót thương. Chợt tôi nhìn thấy trên khung cửa phòng tôi dán một mẩu giấy nhắn, tôi vội tới giật nó ra, là cô vợ nhắn cho tôi. Trên đó chả ghi gì, chỉ có địa chỉ một đồn công an. Tôi chẳng kịp suy nghĩ gì nữa vội vã tới đó ngay.

Lúc tôi tới, thấy hai cảnh sát đang hỏi han cô gái, cô chỉ cúi đầu, nín tiếng nức nở, đôi vai run bần bật dường như đang kiềm chế những tiếng khóc sắp bật ra. Bên cạnh cô là một bà trung niên đang ngồi. Bà cứ nhíu mày, cố né người sang một bên như sợ bộ quần áo cũ rách của cô gái làm bẩn sang bà. Tôi chạy vào cầm lấy cánh tay cô, hỏi: Thế có chuyện gì vậy?

Hai cảnh sát nhìn tôi, im lặng, rồi hỏi ôn tồn: Chị là ai? Tôi không nhìn họ, nói liền: Tôi là phóng viên báo buổi chiều, cô này là bạn tôi, tôi muốn đến tìm hiểu sự việc.

Hai cảnh sát nhìn nhau, bán tín bán nghi, rồi như ngại phiền phức, họ hạ thấp giọng xuống, không nặng lời với cô gái nữa, cũng tỏ ra lịch thiệp với tôi.

Tôi kéo cô ra một bên, hỏi có việc gì xảy ra vậy, chồng cô đâu? Cô gái nhìn tôi, chưa kịp nói thì nước mắt đã rơi xuống, tôi an ủi cô nín đi, cứ nói rõ đầu đuôi đã, chúng ta sẽ tìm cách giải quyết.

Thì ra sự thể thế này, buổi sáng, chồng cô đi đưa hàng cho một khách hàng của công ty, trong lúc chờ xe bus thì thấy một bọn cướp đường giật túi xách của một người phụ nữ. Người phụ nữ cố sức giằng lại cái túi, miệng la lớn nhưng chẳng ai tới giúp bà, đang giằng giật như vậy, chồng cô nhìn thấy bèn không suy nghĩ gì chạy ngay tới, giúp người phụ nữ giữ lại cái túi. Mặc cho bọn cướp đánh anh, rút dao ra, anh vẫn không buông tay, lúc này cảnh sát vừa tới, lũ cướp bị tóm gọn.

Sự việc chỉ có thế, nhưng lúc cảnh sát tới thấy mấy người đang giằng giật, nghĩ người chồng cũng là kẻ cướp giật, là đồng bọn, nên hỏi người phụ nữ, bà có quen anh này không, người phụ nữ khăng khăng bảo không quen biết gì, còn bồi thêm, bà chẳng biết thằng này là đồng bọn hay là băng đảng khác xông tới cướp hôi, chỉ biết thằng này cũng chạy tới giằng túi xách của tôi. Cảnh sát không nói không rằng tóm luôn anh chồng đi.

Anh chồng đang vội đi đưa hàng cho khách, nên cũng chẳng có thời giờ giải thích, đã bị bọn cướp đánh thì chớ, còn bị cảnh sát đập cho một trận không cho nói nửa lời. Anh sợ làm lỡ việc của công ty, chỉ biết nói tên công ty ra, tưởng có thể nhanh chóng rút lui để đi làm tiếp, nào ngờ cảnh sát vừa gọi điện tới hỏi công ty, đầu dây kia sợ liên luỵ đã một mực phủ nhận công ty tôi chẳng có người nào tên là như thế này, như thế cũng có nghĩa là anh mất việc từ nay.

Cảnh sát gọi người vợ tới, với tư cách thân nhân tội phạm. Cô liên tục bị gặng hỏi, cô sợ tới mức chẳng biết nói gì, đầu óc trống rỗng, nếu tôi không tới, có lẽ cô cũng chẳng biết làm thế nào.

Nghe xong, tôi nổi giận đùng đùng. Tôi đi thẳng tới trước mặt bà kia: Này bà, bà có phải người bị cướp giật không? Tôi sẽ phỏng vấn bà, đây là thẻ nhà báo của tôi. Người đàn bà đó ngớ ra, tôi không để bà ta kịp hoàn hồn đã hỏi luôn: Đề nghị bà thuật lại tình huống lúc đó, vì sao bà cho rằng người giúp bà đánh cướp cũng là kẻ cướp? Vì sao bà không thừa nhận rằng anh này đã giúp mình lấy lại đồ đạc từ tay kẻ cướp?

Người đàn bà nhìn tôi, lại nhìn cảnh sát, rồi lắp bắp nói: Làm gì có người tốt như thế ở trên đời? Thời buổi này làm gì còn ai thích dây dưa phiền hà? Chả lẽ anh ta không sợ chết? Nếu anh ta giúp tôi đánh cướp thì hoặc là anh ta bị bệnh thần kinh, hoặc anh ta là một thằng ngu. Cảnh sát nghe cũng gật đầu, như thể những gì bà nghĩ là những gì một người bình thường sẽ cư xử.

Thấy thái độ điềm nhiên của họ, tôi càng giận dữ, tôi hét lên: Nếu nếu anh này là đồng bọn thì tại sao lại bị bọn cướp đánh? Nếu anh ta cũng cướp của bà thì tại sao công an đến anh ta không bỏ chạy? Trong khi anh ta có thể cướp được rồi thì chạy trước khi công an đến? Bà mất cái gì không? Anh ta có đánh bà không? Có ai làm chứng là anh ta cũng đi cướp của bà cái gì không? Các anh công an thử hỏi có chứng cứ gì nói anh này cũng là cướp không? Hay chỉ vì anh ta không có hộ khẩu thành phố? Hay là vì anh ta ăn mặc tồi tàn? Một người quên cả tính mạng mình đi cứu bà, bà lại nói người ta là cướp ư? Thế nếu bà cũng bị oan như anh này thì bà sẽ thế nào?

Tôi hít một hơi thở sâu: Các anh bắt giữ người trong lúc không có chứng cứ gì cả, mới là giam giữ trái phép, mới là phạm pháp! Tôi chỉ vào người đàn bà: Còn loại người như bà không biết phân biệt tốt với xấu, không biết người ngay kẻ gian, bà không thấy áy náy sao? Hay là bà cũng đi dạy con cái bà rằng, người khác gặp nạn thì mình sẽ cao chạy xa bay?

Tất cả những người ở đó đều ngẩn ra, không nói được gì, tôi biết, vào thời buổi hỗn loạn mà người ta sống vô tâm này, trong một xã hội mà giữa người với người không có một chút tình người này, với cuộc sống mà người này bị nhục người kia làm ngơ này, không có ai tin vào sự lương thiện nữa, cũng không ai tin người này sẽ giúp đỡ vô tư người kia nữa, thậm chí khi anh mang tấm lòng ra đối đãi người khác, trong mắt mọi người, anh cũng chỉ là một người khoác một tấm áo giả tạo đẹp đẽ.

Cảnh sát có thể bắt nhầm bạn, pháp luật có thể xử oan bạn, nhưng nếu muốn đi đôi co những điều đó chắc chắn không dễ dàng gì.

Bắt nhầm bạn, có thể là do nghi ngờ bạn, chụp lên đầu bạn cái mũ kẻ tình nghi, có tội hay không có tội thực ra chỉ khác nhau bởi một câu trong văn bản pháp luật thôi, trên thực tế, không bắt oan không bỏ sót có khi chỉ đếm trên đầu ngón tay. Còn xử oan bạn ư, có thể có hàng vạn lý do như đổ lỗi rằng pháp luật không kiện toàn, chứ không ai bảo nếu bạn bị oan, nhà nước phải có trách nhiệm đứng ra bồi thường, có mấy người được xin lỗi công khai sau án oan?

Tôi biết, muốn cứu anh, tôi phải dốc sức ra giúp, tôi phải có căn cứ để chứng minh anh vô tội, anh là người tốt, lúc đó anh muốn giúp người bị hại.

Cho dù người phụ nữ kia ăn nói hồ đồ, bà ta chắc chắn không bao giờ thú nhận mình đã lầm, được người ta giúp lại quay lại giở trò cắn một miếng. Cho dù cảnh sát không có chứng cứ để chứng minh anh ta đi cướp, nhưng họ có thể lấy lý do khi họ xuất hiện, anh chồng là người liên quan trong sự việc, để không bao giờ tha ngay cho anh.

Tôi biết, nếu có lôi hai tên cướp ra làm chứng để trả lại sự trong sạch cho anh, khả năng đó cực kỳ ít ỏi, tôi chỉ còn biết cố gắng nghĩ xem liệu có chứng cứ gì giúp anh. Tôi quay lại hiện trường tìm người làm chứng, may quá tìm được hai người. Một ông lão và một người đàn bà bán hoa quả, họ nói đúng là họ thấy anh thanh niên chạy tới giúp người đàn bà chống cướp giật. Nhưng khi tôi đề nghị họ tới đồn công an làm chứng trước mặt công an, họ cự tuyệt quyết liệt. Họ bảo chẳng thích dây dưa phiền hà.

Tôi phải nghĩ ra một kế, cũng không phải là mưu mẹo gì, chỉ là bất đắc dĩ.

Tôi nói tôi là nhà báo, tôi đang viết bình luận cho tờ Quảng Châu buổi chiều, rằng đề tài là người tốt bị vu vạ, người ngoài đứng làm ngơ. Tôi nói tôi sẽ đưa lên nội dung bình luận rằng, trong khi người tốt giúp kẻ khác mà bị vạ, những người còn lại đã không giúp một mảy may. Và tôi sẽ đưa hai người vào, để con cái các vị biết bố mẹ chúng đã sống và cư xử ra sao. Thật may hai người phù hợp với đề tài tôi định viết.

Hai nhân chứng tỏ ra lưỡng lự, tôi lại bảo, nếu hai người ra làm chứng, thì trong bài báo của tôi, hai vị sẽ được đưa tên lên như những người vì nghĩa mà không ngại khó khăn, vì cái tốt đẹp trong xã hội này vẫn còn tồn tại.

Họ cân nhắc, bàn với nhau, rồi theo tôi đi.

Tôi tìm tiếp đến công ty của anh chồng, cho dù người phụ trách rất không vui vẻ gì phải ra đồn công an làm chứng rằng, đúng là hôm đó ông ta cử anh này đi gặp khách hàng, nhưng trước mặt tôi, để giữ thể diện với anh bạn tôi, cuối cùng họ cũng đi. Cho dù anh bạn tôi giờ cũng có thể không còn là bạn tôi nữa.

Cuối cùng, tôi cũng lôi được anh chồng ra khỏi nơi tạm giữ.

Lúc rời đồn, công an chẳng một lời xin lỗi. Người đàn bà kia cũng chả một lời cảm ơn. Nhưng tôi thấy, anh chồng không so đo gì cả, anh vừa lòng bởi đã được chứng minh mình là người tốt, mình vô tội.

Tôi mất một anh bạn tốt, nhưng tôi được một kinh nghiệm, trả lại danh dự cho người có danh dự, và cũng đã giúp đôi vợ chồng hiểu ra một kết quả của việc làm người tốt. Nhưng tôi tin họ không vì thế mà đánh mất đi sự thiện lương của họ.

Cho dù sau này thế nào, dù anh ta liệu còn rút ra bài học hay không, chúng ta cũng không có quyền đi trách cứ anh ấy, cũng không có quyền bắt một người tốt từng chịu oan phải tiếp tục đi hứng chịu phong ba đầu ngọn gió. Bởi người cầm dao đi làm anh ta bị thương, có phải chính là chúng ta không, những người chúng ta, những người bình thường đang sống trong xã hội này.

Trời lất phất mưa bụi, hơi âm u, người qua lại vội vã, mang theo những khuôn mặt vô cảm đi lại trong thành phố này, không ai biết đã từng xảy ra chuyện gì, thậm chí cả những người từng tận mắt chứng kiến sự việc có thể cũng đã quên.

Thế giới đã bỏ quên, nhưng tôi còn nhớ, từ ngày hôm đó, tôi luôn nhớ.

Sau sự việc đó, đôi vợ chồng sống trong kho chứa đồ có vẻ tự ti hẳn đi, họ luôn có vẻ hàm ơn với tôi, rồi sau đó lại mang tâm trạng yếm thế yếu đuối. Dường như thể tất là cả là lỗi ở họ, như thể họ đã mang cho tôi, cho mọi người vô số phiền nhiễu. Có thể, những người thật sự lương thiện sẽ có tâm trạng ấy, không ngừng đổ lỗi cho bản thân, sao lại để sự việc xảy ra như thế, mà họ sẽ chẳng bao giờ đi trách móc người khác, không trút lỗi lầm lên người khác.

Tôi thử tìm cách kiếm công việc tốt hơn cho anh chồng, nhưng đôi vợ chồng lại tỏ vẻ khép nép nói: Thôi phiền chị quá, chúng tôi đã tự kiếm được việc rồi, chúng tôi đang có việc làm rồi. Thực ra tôi hiểu vì lần trước đã kéo theo quá nhiều rắc rối làm phiền tôi, giờ họ không dám và cố gắng để cự tuyệt lòng tốt của tôi.

Người con trai đi sớm về muộn, có vẻ như đúng là đi làm thật. Thấy họ nỗ lực và cần mẫn mỗi ngày, tôi thấy lòng man mác buồn, nhưng cũng không biết giúp họ thế nào. Lần đầu tiên tôi nhận ra: Nỗi phiền muộn vô cớ cũng có thể dày vò ta đến thế.

Tết đến, tôi gặp họ trên hành lang, hai vợ chồng vui vẻ chào tôi, thông báo họ sẽ đi ăn mừng một bữa thịnh soạn. Thấy họ vui vẻ cười nói đi ra ngoài, tôi cũng mừng lây, biết đâu trong lúc tôi buồn bã thay họ, thì họ đã tìm được niềm vui và hạnh phúc thuộc về chính họ chăng.

Ngày hôm sau, tôi vừa thấy họ đã chất vấn, hôm qua đi ăn ở đâu vậy? Họ chẳng ngại ngần gì mà còn cười bí mật và ngây thơ. Người vợ ghé vào tai tôi nói khẽ: Chị ơi, chị biết không, có tiệm ăn mà một đồng ăn thoả sức đấy! Tôi kinh ngạc, mở to mắt nhìn họ.

Những ai từng sống ở Quảng Châu đều biết, có rất nhiều tiệm ăn nhanh, ăn tự chọn, thích dán lên cửa tiệm dòng chữ một đồng ăn no thì thôi, nhưng ai đã vào rồi đều biết, đó chỉ là quảng cáo thôi, chứ vào đó ăn không bao giờ một đồng một bữa. Nói thật, hễ vào là họ tính một người, ăn xong, tính kiểu gì cũng ít nhất 20 đồng. Nữa là hai vợ chồng họ hai người chỉ ăn một đồng?

Tôi nghi ngờ nhìn họ, họ có vẻ hơi ngượng, anh chồng đành bảo: Thật đấy chị ạ, bọn em không nói dối chị, tối qua bọn em đi ăn rồi, hai người chúng em chỉ tốn hết có 5 đồng thôi! Tôi cười bảo, làm gì có chuyện, chỉ cơm không thôi hai người hai bát đã bốn đồng, thì năm đồng ăn được cái gì?

Cô vợ cười hì hì: Chúng em vào quán, xem thực đơn, phát hiện ra có một món chỉ có một đồng thôi, đó là lạc rang, một đĩa bé xíu. Vừa nói cô vừa lấy tay vẽ mô tả cái đĩa nhỏ, mà thực ra chả cần cô miêu tả tôi cũng hình dung được cái đĩa nhỏ, hẳn trong lòng đĩa không có quá mười hạt lạc. Bởi cái đĩa lạc ấy chỉ dùng để cho phù hợp với câu quảng cáo "một đồng ăn đến no" ngoài cửa mà thôi. Chứ thực tế nếu có người thật sự gọi món đó, thì hẳn cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Cô vợ mặt mày vẫn rạng rỡ kể: Nước canh nóng họ cho miễn phí nhé, bọn em lấy đầy một bát to! Còn cơm thì cứ tính đổ đầu mỗi người hai đồng, thế là bọn em gọi một đĩa lạc rồi mỗi người ăn hết bốn bát cơm lèn chặt, chan hết tất cả canh, ăn no nê xong, chỉ hết có năm đồng.

Nói xong họ nhìn nhau cười, thế mà tôi lại thấy ngượng. Tôi không biết họ dũng cảm nhường nào, khi đi vào một quán ăn đàng hoàng, lại chỉ gọi một đĩa lạc bé xíu, rồi ăn hết bốn bát cơm đầy? Tôi cũng không biết khi họ húp hết bát nước canh miễn phí, rồi mỗi hạt lạc xơi hết cả bát cơm đầy họ mãn nguyện thế nào, vui mừng thế nào.

Tôi nghĩ, chắc lúc đó, rất nhiều người dùng ánh mắt không thiện cảm nhìn họ, thậm chí sẽ có người thì thào chỉ trỏ cười họ quê mùa, có thể thậm chí họ còn nghe được người ta dè bỉu xúc phạm họ, cũng bắt gặp những ánh mắt khinh bỉ nhìn họ, những họ vẫn tiếp tục ngồi đó, ăn hết bữa cơm của họ, còn vui vẻ phấn khởi ăn hết bữa của họ, rồi lấy ra năm đồng trả cho chủ quán.

Tôi không nghĩ làm thế là đáng xấu hổ, cũng không nghĩ là không nên dè xẻn như thế, bỏ năm đồng ra thì cũng được là khách hàng rồi, tiêu năm đồng cũng không thấp hèn hơn khách tiêu năm mươi đồng. Nhưng, cho dù thế nào, chúng ta vẫn luôn nhìn vào việc tiêu tiền, như thể tiêu nhiều tiền sẽ được phục vụ chu đáo hơn tiêu ít tiền, như thể hễ có nhiều tiền thì tất nhiên ta sẽ được người khác tôn trọng.

Tôi thừa nhận, nếu là tôi, trong túi chỉ có năm đồng, tất sẽ không bao giờ dám vác mặt tới những tiệm ăn lớn, tôi không có đủ dũng cảm để gọi một đĩa lạc một đồng, cho dù thực tế sức tôi chỉ ăn hết một bát cơm nhỏ và một đĩa lạc con con, nhưng tôi sẽ vẫn gọi những món đắt tiền hơn cho dù có khi tôi lại không đụng qua đũa. Cho dù trong lòng tôi biết như thế là lãng phí, nhưng có bao nhiêu người lại không chọn cách tiêu lãng phí tiền để mua lấy được thể diện cho mình?

Trong xã hội này, người có tiền ăn nói vẫn hiên ngang hơn hẳn, người giàu vẫn được người ta tôn trọng hơn hẳn người nghèo, những người thượng lưu ở trên ta đều là những kẻ lắm của, những người dưới đáy xã hội đều khốn cùng túng quẫn. Như thế trong một xã hội tiêu thụ hàng hoá, kinh tế quyết định chúng ta, tiền quan trọng biết bao, tiền biến thành tự trọng, tiền là tên gọi của danh dự. Mỗi ngày chúng ta sống là một ngày ta kiếm tiền để mua thể diện. Vào lúc ta bỏ nhiều tiền ra để mua cái gọi là thể diện ấy, chúng ta có bao giờ nghĩ đến những người đang vật lộn giữa ranh giới đói no?

Lương không cao bằng người khác thì cảm thấy xấu hổ, chưa có nổi một căn nhà thì thấy xấu hổ, đi làm mấy năm vẫn chưa lên chức sẽ thấy xấu hổ, thấy vợ người khác đẹp hơn vợ mình sẽ tiu nghỉu, thậm chí chỉ vì quần áo người ta là hàng hiệu, hơn mình, mà cũng thấy mất mặt. Chúng ta đang sống trong một thế giới hãnh tiến chuộng bề ngoài, còn lòng tự tôn bé nhỏ thì bị che giấu ở bên trong con người ta yếu đuối. Ngoái nhìn những năm tháng đã qua, mới nhận thấy thì ra ta sống không hề vui, bởi tiền kiếm được thì ít, không mua nổi những thứ thể diện mà mình muốn, hay là bởi những thứ thể diện đã mua bằng tiền, đã che đậy mất lòng tự trọng đầy nhân tính của chính ta?

Tiền, sinh tồn, thể diện, tự tôn; trên cán cân đời người, bên nào nặng bên nào nhẹ?

Cuối năm, tôi lười biếng uể oải chờ mùa xuân tới, nghĩ bụng có nên về nhà thăm bố mẹ. Vì cứ lần lữa mãi, tôi phát hiện ra chỉ còn mười ngày nữa là Tết, tôi nghĩ có lẽ công ty phải sát Tết mới cho nghĩ, thế này lại phải mua vé máy bay giá cao thôi, nhủ lòng nhất định năm sau phải mua sẵn vé trước Tết hẳn hai tháng, thì mới mua được vé giảm giá còn 40%.

Vào lúc tôi đang miễn cưỡng trực nốt mấy ngày trước kỳ nghỉ Tết, đang nghĩ tìm cách nào xin nghỉ phép trước về quê sớm thăm bố mẹ, tôi bỗng mất hút bóng dáng đôi vợ chồng sát vách. Tôi cứ tưởng họ đã về quê ăn Tết.

Nhưng vào một đêm, người vợ gõ cửa nhà tôi. Tôi mắt nhắm mắt mở hỏi: Có việc gì vậy? Cô vợ bẽn lẽn ngại ngần nói: Xin lỗi, em làm phiền chị lúc này, em muốn nhờ chị, nghe nói làm công nhân thì có thể lên mạng đặt vé giá rẻ, chị có thể giúp em không? Tôi đồng ý, cho cô vào nhà, tôi bật máy tính, bắt đầu giúp họ đặt vé tàu hỏa. Nhưng đáng tiếc là trên mạng lại đòi công nhân phải đặt vé tập thể theo từng đơn vị, mà nơi cô và chồng cô làm lại không cho đặt vé, họ không thể mua vé cá nhân trên mạng. Cô đọc quy định, buồn bã đi về. Tôi đang ngái ngủ cũng quên không nói đôi câu an ủi cô.

Ngày hôm sau, tôi vẫn nhớ việc đó, nghĩ mình phải làm gì đó. Tôi đọc thấy trên báo nói có thể đặt vé qua điện thoại, bèn vội vã bấm số, chuẩn bị tặng họ món quà bất ngờ.

Chưa đến lúc tan sở, tôi đã vội vàng về nhà, lúc tôi về cô vợ đang có mặt, tôi tò mò sao cô lại không đi làm, nhưng tôi chỉ kịp thông báo việc có thể đặt vé bằng điện thoại, rồi cũng không kịp hỏi. Anh chồng đi vắng, tôi vội vã nói cho cô vợ biết số điện thoại, còn rút máy di động của mình ra giục cô bấm số đặt vé.

Cô vợ cười buồn, không đón lấy máy di động của tôi. Mắt cô ngập nước mắt, rồi nghẹn ngào nói với tôi: Thì em gọi điện đặt vé tàu đây, cho nên bị chủ đuổi việc rồi. Nói đoạn khóc nấc lên: Tháng này cũng không trả em nửa tháng lương, bảo là em vi phạm quy định, không phạt tiền em là may rồi.

Thì ra cô vợ cũng nghe người ta nói có thể mua vé qua điện thoại, từ lúc sáng sớm đã đi ra bốt điện thoại công cộng gọi bằng thẻ nhưng tổng đài bận liên tục, vào lúc giờ nghỉ trưa, cô lén ra ngoài gọi điện thoại thì người ta toàn bảo đã bán hết rồi. Cả tuần liền không mua được vé, không còn cách nào khác cô đành lựa lúc trong tiệm không có khách, dùng điện thoại cửa hàng gọi đi đặt vé, lúc tám rưỡi sáng may quá nói được liên lạc với nhà ga, đang vui mừng thì nghe báo là hết vé rồi. Vé không mua được thì chớ, lại bị ông chủ nhìn thấy, mắng tại sao trong giờ làm việc lại gọi điện thoại việc riêng, đuổi việc cô luôn. Mặc cô cầu cứu van xin.

Tôi vừa an ủi cô vợ rằng, dù sao cũng Tết đến nơi rồi, nghỉ cũng tốt, sau Tết kiếm việc mới, vừa bảo cô dùng điện thoại của tôi mà đặt vé, biết đâu mua được vé.

Cô gái lắc đầu: Không được đâu, em gọi mười mấy hôm nay rồi mà có đặt được đâu. Kể cả chị gọi vào lúc mở cửa là tám rưỡi sáng, cũng chẳng còn vé đâu. Tuyến tàu đó khách đông lắm, làm sao mua nổi vé.

Tôi không nghĩ rằng mua vé tàu tết lại khó khăn thế này. Tôi hỏi: Thế ra ga xếp hàng được không? Mua không được thì kiếm vé chợ đen.

Cô gái trầm ngâm nói: Chồng em đã xếp hàng ngoài ga nửa tháng rồi, chả mua nổi. Ban ngày anh xếp hàng không nổi, ban đêm anh không ngủ ra ngoài đó xếp hàng sẵn, cũng vẫn không mua nổi. Bọn phe vé quen mặt chồng em quá, chủ động ra mời chào anh ấy, nói bọn họ có vé, đảm bảo vé thật, nhưng nó lấy hoa hồng quá đắt, chúng em không dám vung tay quá trán!

Tôi nói: Hoa hồng bao nhiêu? Chắc chắn không thể đắt hơn vé! Cô vợ mím miệng cười miễn cưỡng: Chúng em về quê, ngồi ghế cứng, vé mới hai trăm thôi, nhưng hoa hồng phải ba trăm, chị bảo hai vé, tiền lẫn hoa hồng lót tay là một nghìn rồi, bằng cả tháng lương của chúng em. Hút máu chúng em sao? Một nghìn đồng, ở quê em là thu nhập tròn một năm rồi, làm sao chúng em dám!

Nghe cô nói, tôi lặng im. Tôi bỗng cảm thấy tự ti, thấy mình sao hời hợt thế, vô tâm thế.

Chỉ vì hai tấm vé xe lửa về quê, mất việc, hai người ngày đêm chầu chực xếp hàng, mang tiền ăn đi gọi điện đặt vé mà phí điện thoại còn đắt hơn cả gọi đường dài, nửa tháng nay, kết quả họ có được là: Hết vé!

Thế bao nhiêu vé tàu đã đi đâu cả rồi? Vì sao ngày đêm xếp hàng vẫn hết vé, phe vé thì lại gọi, bảo đi đâu cũng có vé hết, chỉ cần chi thêm ba trăm?

Rốt cuộc, vé đã vào tay ai? Sao không tới tay họ? Và số hoa hồng ngất trời kia là để nuôi ai?

Tôi tức giận đùng đùng gọi ngay số điện thoại phục vụ của nhà ga, tôi vừa nói số tàu, đã bị thông báo: Trước Tết những chuyến đó đều kín chỗ, xin hãy đi chuyến khác.

Tôi hơi thất vọng, định khuyên cô vợ mua vé tuyến khác rồi đổi xe, hoặc ngồi xe khách về. Cô vợ cười buồn: Chỗ quên chúng em chỉ có đúng tuyến tàu đó đi qua thôi, mà các tuyến tàu khác cũng khó mua vé lắm, xe khách thì đắt quá, giá gần bằng vé máy bay rồi, hay có khi chúng em đi bộ về quê. Cô đùa, như thể đang an ủi tôi.

Nhìn đôi mày nhíu lại của cô, nghĩ tới anh chồng cô vẫn đang vạ vật ngoài ga ôm hy vọng giữa đám đông xếp hàng, chờ ông trời rủ lòng thương, cho họ hai tấm vé về quê, mà tôi thì lại do dự có nên về nhà thăm bố mẹ hay không, sợ về nhà thì mệt.

Tôi bắt đầu thấy mình nhỏ bé, thậm chí nhỏ nhen. Họ có thể không về quê, nhưng vẫn kiên quyết về, vì bố mẹ tuổi cao hay về để gánh vác đỡ gia đình? Dù vì lẽ gì, để về quê mà phải trả giá đắt thế này, có đáng không? Có lẽ rất nhiều người cho là thường, nhưng trên cán cân tình người, họ đã nặng tình hơn tôi.

Một tấm vé tàu về quê ăn tết, chỉ một tờ giấy mỏng manh, không biết tốn bao tâm sức, xếp bao nhiêu hàng mỗi ngày đêm, bỏ bao nhiêu thứ để đánh đổi! Trên tấm vé chứa bao máu và mồ hôi, viết bao nhiêu nước mắt?

Vé máy bay của tôi đã đặt mua rồi, vé giá bán lẻ.

Mỗi năm tới dịp Tết, hãng hàng không đều bắt đầu kiêu ngạo, có chết cũng không thèm giảm giá, thế nhưng vé luôn không kiếm ra, người Trung Quốc có lẽ quá yêu gia đình nên cuối năm dù có phải tiêu khoản lộ phí khổng lồ cũng hài lòng, coi như là một động tác giúp cho nền kinh tế phát triển.

Ngành đường sắt, cũng bướng bỉnh nói thì bảo là sẽ mở thêm những tàu tốc hành, tàu thêm chuyến, nhưng làm thì lại xin lỗi khách: Vé đã hết! Đôi vợ chồng sống trong kho chứa đồ cạnh phòng tôi thay nhau xếp hàng để mua vé tàu về cũng không kiếm nổi tấm vé thông hành cho đường về quê mẹ. Họ ngày ngày đi ra quảng trường nhà ga đứng chầu chực, hy vọng một ngày nào may mắn có người nào đó trả lại vé, nhưng vận may đó hiếm hoi lắm, họ dường như cũng đã cảm thấy hết sức lực, trừ phi có một phép màu nào đó, họ chỉ còn biết nhẩm tính liệu có về được hay không.

kennymaxdcvrelax10Trong lúc đó, tôi liên tục lên mạng tìm kiếm những thông tin về chuyến tàu này. Mỗi lần thấy có tin hành khách chuyển nhượng vé, tôi vội liên hệ ngay, nhưng hoá ra đều là lũ con buôn quảng cáo vé chợ đen, tiền hoa hồng còn đắt hơn tiền vé, mà xem tình hình căng thẳng thế này thì hẳn giá sẽ ngày càng đắt.

Tôi muốn trả tiền chênh lệch vé chợ đen cho họ, họ chỉ cần bỏ ra tiền vé gốc thôi, nhưng họ có chết cũng không chịu, nói đây là nguyên tắc của chúng em, về quê hay không cũng chỉ mua đúng giá vé quy định thôi. Họ trịnh trọng nói với tôi: Chúng em là công dân Trung Quốc, vì sao ngồi tàu lại phải mua vé đắt? Chúng em đâu thấp kém hơn người khác! Lẽ nào chúng em không có quyền được hưởng giá vé đúng quy định? Nếu đi mua vé chợ đen, sau này chắc chỉ toàn vé giá đắt, không mua được vé gốc, thì những lợi nhuận chênh lệch kia chỉ nuôi béo lũ người xấu, chúng em càng nuôi họ, họ lại càng tham lam.

Nghe hai vợ chồng nói, tôi trầm ngâm. Tôi bỗng dưng sợ hãi cái xã hội đang ngày càng bệnh hoạn này, tôi sợ bị nhiễm dần những vi khuẩn chết người từ xã hội!

Tôi buồn bã bất lực, rất muốn giúp họ nhưng tôi lại chẳng giúp được họ điều gì cả, thậm chí chỉ một đôi vé tàu, tôi cũng không giúp được.

Rốt cuộc tôi đành tìm lối thoát lo liệu. Tôi nhờ bạn, bạn tôi lại nhờ một người quen của một người bạn khác làm trong ga, tốn bao công sức để kiếm được một đôi vé ngồi ghế cứng. Nào mời ăn cơm, nào thù tạc, nào vô số cảm ơn cảm tạ, cuối cùng tôi cũng có được hai chiếc vé trong tay, với giá chỉ chênh lệch so với giá vé gốc 100 tệ một vé.

Cơm no rượu say, người đó ợ lên cả rượu, vẫn cố nói tiếp, vé này mua là khó khăn lắm, người ta có mất thêm 300 tệ cũng chẳng mua nổi, bởi vì tôi nể bạn bè mới giúp đó nhé!

Tôi chỉ biết dùng ánh mắt cảm kích nhìn anh ta, cảm tạ rối rít. Anh ta mãn nguyện cười, còn tôi cũng nhẹ nhõm nghĩ, có vé rồi, họ sẽ về quê được rồi.

Vào lúc tôi đưa hai tấm vé ra trước mặt đôi vợ chồng nghèo, họ đờ ra, họ dùng một ánh mắt nghi ngờ và sùng kính đăm đăm nhìn tôi, rất lâu không nói nổi lời nào. Tôi mỉm cười, tôi cũng không nói câu nào.

Cô vợ bỗng hỏi: Chị mua vé chợ đen ư? Tôi lắc đầu. Thế vé này từ đâu ra? Tôi cười. Tôi không nói thật, tôi cũng chẳng biết vì sao, trước mặt họ tôi thấy không nên nói ra những lời thật thà sáo rỗng. Tôi chỉ bảo, vé là một người bạn mua, họ định về quê, nhưng công ty có việc đột xuất, họ không về được nữa, đành phải nhượng lại. Kết quả là may sao tôi lại biết tin, tôi vội vàng mua tặng họ. Tôi sợ họ nói đến tiền nên vội bổ sung: vé bạn tôi không lấy thêm đồng nào đâu, họ mà đi ra ga trả lại vé còn bị mất thêm tiền phạt trả vé nữa ấy chứ, hai bạn đương cần, lại cũng là giúp họ đỡ vất vả, giúp họ đỡ mất tiền nữa.

Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết, vừa nhận vé tàu vừa nhìn ngắm nó, vuốt ve tấm vé, rồi rút tiền ra đưa tôi. Tôi nhất định không lấy. Họ vội vàng nghiêm nghị bảo, chị mà không lấy tiền thì chúng em không dám lấy vé. Tôi đành nhận tiền.

Ngày họ lên đường, họ đi sớm lắm, tôi ra ga tiễn họ. Tôi lặng lẽ mua một ít đặc sản và trái cây của Quảng Châu, vào lúc họ soát vé vào sân ga, tôi mới nhét quà vào túi vải gai đựng hành lý của họ.

Thấy họ lúc lỉu túi lớn túi nhỏ, bên trong chất chứa có lẽ cũng toàn những đồ ít giá trị, nhưng trên mặt họ tràn trề niềm vui sướng hạnh phúc và nụ cười, tôi cảm thấy giây phút đó thật đáng giá để sống và cảm nhận.

Họ cứ chốc chốc lại ngoái ra sau nhìn tôi, vừa xách túi vừa giơ tay gắng vẫy tôi thật lực, ngoác miệng cười, mắt lấp lánh vui vẻ, trong lòng tôi có một nỗi cảm động không tên. Lại có nỗi gì như muốn khóc, tôi cũng mỉm cười vẫy lại họ.

Bóng họ khuất chìm trong đám đông, tôi không bỏ đi, tôi đứng lại, tôi dường như nghe thấy tiếng còi tàu, đó chắc chắn là của đoàn tàu đưa họ về quê, trên chuyến đó chắc chắn họ có hai chỗ.

Đường về rất mệt mỏi, rất xa, nhưng đường về quê nhà luôn ấm áp.

Lần đầu tiên tôi thấy Tết thật nhạt nhẽo, lần đầu tiên tôi thấy đường về mệt mỏi thế. Suốt cả năm, tôi đã vui vẻ thế cơ mà. Khi tôi từ quê về lại Quảng Châu, tôi thấy đôi vợ chồng kia chưa lên.

Tôi nghĩ, họ chắc lại không mua được vé tàu, lại chờ qua giai đoạn cao điểm mới lên. Tôi cứ lặng lẽ chờ, tôi ngắm cánh cửa kho chứa đồ cạnh phòng tôi, hy vọng, vào một ngày nào đó, sẽ thấy hình dáng quen thuộc.

Họ lên rất muộn, một tuần sau Rằm tháng Giêng mới lò dò xuất hiện. Tôi mỉm cười chào họ, bưng bát chè tàu tôi mới mua sang cho họ ăn cùng.

Cô vợ thảo luận với anh chồng: Cô muốn đẩy xe gỗ ba bánh đi bán trái cây hoặc quà vặt. Hỏi ý kiến tôi, tôi nói tốt lắm. Dù sao so với việc đi làm thuê cực khổ cho người ta thì buôn bán riêng cũng còn tự do hơn.

Thế là hai vợ chồng họ bắt đầu mua một chiếc xe ba bánh gỗ cũ kỹ, mua một ít dứa, dưa hấu, tập luyện cách gọt dưa hấu và dứa cho nhuần nhuyễn rồi bắt đầu ra phố bán hàng, tằn tiện từng đồng. Ban ngày cô vợ đi một mình, tối đến cả hai vợ chồng đều đi bán, vì Quảng Châu rất lộn xộn, anh chồng không yên tâm, tối nào cũng cùng vợ bán hết hàng mới về. Ngày hôm sau anh lại đi làm từ sáng sớm.

Thấy họ ân ái yêu thương, ra vào hàng ngày với nhau, tôi vừa ghen tị vừa vui mừng, tôi nghĩ, cho dù khổ sở, hai người cùng nhau gánh chịu, cũng coi như là ngọt ngào! Nếu tương lai có một ai đó nói với tôi rằng: Cho dù khổ sở tai ương, anh cũng ở bên cạnh em. Thì tôi sẽ khóc và sẽ đồng ý làm vợ của người ấy, cho dù tôi không biết tôi sẽ phải chờ người ấy xuất hiện bao lâu nữa.

Có hôm đêm khuya lắm, họ chưa bán hết chỗ trái cây gọt sẵn, họ bèn mang về mời tôi ăn. Tôi cứ ăn một miếng lại đùa họ rằng, tôi đang ăn mất thêm một đồng của họ rồi.

Thực ra tôi biết, chỗ chưa bán cũng không nhiều, họ có thể ăn, ngày thường họ cũng đâu dám ăn một miếng. Nhưng tôi biết họ sẵn lòng mời tôi, vì họ cho rằng trái cây ngon và bổ, họ sẵn sàng mời tôi cùng chia sẻ.

Nhớ ngày xưa, khi đi học, ta thường được học những từ như cống hiến, vô tư, lương thiện. Nhưng không rõ từ khi nào, trong xã hội thay đổi này, từ điển của mỗi chúng ta đã mất đi những từ đẹp đẽ đó. Và tôi, khi đã lâu mới bắt gặp những cảm xúc này, tôi vui mừng khôn xiết, như đứa trẻ nhặt được bảo vật, tôi nghĩ tôi sẽ giữ gìn nâng niu, vào lúc nào tôi quên lãng, tôi sẽ lại lôi ra xem để nhắc nhớ chính mình.

Hôm đó, tôi về nhà buổi chiều, tôi thấy cô vợ trong nhà, lạ quá sao cô không đi bán hàng. Tôi vừa cười hỏi đùa: Bà chủ, bà nghỉ làm sao? Cô vợ thấy tôi bèn cười buồn buồn, nói: Hôm nay em có đi bán nữa đâu, mất hết rồi!

Mất hết? Bán rồi ư? Mất cắp? Tôi hỏi dồn dập. Cô trả lời: Tối qua, em bị các bác quản lý đô thị bắt được, họ đập nát xe em rồi.

Đập nát xe rồi? Sao lại đập? Tôi đùng đùng nổi giận hỏi. Cô buồn bã lắc đầu, nói: Họ bảo ảnh hưởng mỹ quan đô thị, còn ảnh hưởng cả vệ sinh môi trường nữa! Họ có việc gì mà làm nữa đâu, suốt ngày chỉ đi đập các xe hàng rong mà thôi!

Tôi ngạc nhiên đứng ngớ ra, đi bắt hàng rong? Bỗng dưng tôi thấy cồn lên một nỗi chua xót, cho dù có một trăm lý do để bắt họ, thì cũng có thể đập phá cướp bóc họ như vậy sao? Không thể giải thích cho họ sao? Dùng cái cách của thổ phỉ lâm tặc để hành xử sao?

Cô vợ nghe tôi nói, cười bò ra, bảo: Em chỉ xót mấy chỗ dưa hấu với dứa thôi, ngon lành thế, gọt sẵn rồi mà còn bị vứt, chỗ chưa gọt thì bị đập nát vứt đầy đường, làm cho em cũng lẫn lộn cả, không biết là bảo bọn em bán hàng rong vứt rác bừa bãi, thì tại sao chính mấy ông này lại đập phá bừa bãi, tung toé khắp nơi?

Nghe cô vợ nhận xét, tôi chẳng biết trả lời sao!

Đúng, rốt cuộc ai là kẻ bẩn thỉu vứt rác tung toé? Là người bán dưa ư? Hay là người đập nát cả xe dưa?

Ai mới là kẻ làm bẩn thỉu tung toé, là ai làm bẩn cả thế giới ta đang sống?

Một chiếc xe ba bánh bằng gỗ cũ kỹ đáng giá bằng cả tháng sinh hoạt phí, một đống dứa và dưa hấu trị giá bằng nửa tháng tiền ăn, bỗng chốc giữa ban ngày ban mặt bị một đám cũng được gọi là người, như bạn, đập nát bét, mặc cho bạn kêu gào khẩn cầu, mặc bạn nói hết nước hết cái, mặc bạn nước mắt ròng ròng!

Những đòn vọt vô tình đập nát tia hy vọng kiếm sống, những lời nói lạnh lùng chà đạp lên lòng tự tôn của bạn, những lời gào thét ra lệnh doạ nạt đáp lại sự khẩn cầu và ánh mắt nhìn đờ đẫn của bạn, như thế, trong một xã hội người với người được bình đẳng, bạn bị người khác xéo lên!

Tôi có thể hình dung sự tan nát cõi lòng của cô vợ khi ấy, cách tuyệt vọng, lòng tự trọng đáng thương. Nhưng cho dù tôi đi tìm cách hiểu, tôi cũng không thể hiểu được cảm giác đau muốn chết ấy. Có thể, đó là bi kịch của đời sống, một thứ ranh giới bạn cho dù bất chấp cũng không được quyền vượt qua, chỉ có quyền đi tìm hiểu, nhưng không được quyền cảm nhận.

Tôi nghĩ đến những gì đã xảy ra, nhưng chỉ còn biết cười buồn. Ngay cả việc nói một câu an ủi cô vợ tôi cũng không làm được, tôi thấy sức mình có hạn, thấy như thể sau khi được người khác trao ân huệ mà tôi không thể đền đáp nổi, một nỗi khổ sở đầy mâu thuẫn.

Tôi rất muốn lại bỏ tiền ra mua cho họ một cỗ xe, nhưng cô vợ bảo cô chẳng dám đi buôn bán trái cây nữa, không phải sợ quản lý đô thị, mà là không chịu được cảnh những trái quả ngon tươi bị dẫm nát đập tung toé.

Tôi nghĩ ra mấy cách có thể kiếm tiền, cô vợ thì bảo đồng hương đã giúp em một việc phát tờ rơi miễn phí, em thử làm xem sao đã. Tôi nhìn gò má gầy guộc của cô mà thấy đau lòng.

Tôi bỗng dưng phát cơn đau răng, nửa mặt sưng vù lên, đau tới mức không nuốt nổi gì, mũi cũng bị chảy máu cam. Tôi đành xin nghỉ ivệc, đi khám răng ở bệnh viện.

Mấy ngày uống thuốc, tiêm thuốc không khỏi, bác sĩ bảo răng sưng dẫn tới mấy bệnh vặt, lại tiêm, lại uống thuốc, vẫn vô hiệu, răng vẫn sưng đau, tôi vẫn bực bội khó chịu.

Sau cùng, bác sĩ cho tôi nhổ răng trồng răng mới, lại đau đớn vài ngày, cuối cùng cũng khỏi, tính ra một chiếc răng đau tốn của tôi hơn sáu nghìn tệ. Giờ tôi mới biết, hoá ra hai mươi tám cái răng trong miệng mình có khi là hai mươi tám cục vàng đấy, phải giữ gìn.

Thế nhưng xem tin buổi tối, về mảng tin y học trị liệu, có người đau ốm tốn tới cả triệu đồng tiền thuốc thang, tôi chỉ đau răng và mất có sáu nghìn tệ, còn rẻ chán.

Tôi liên tưởng, có thể những khoản chi phí y tế khổng lồ kia của người ta, tôi không trả nổi! Có thể khoản sáu nghìn tệ của cái răng đau tôi trả được nhưng người khác lại không trả nổi! Và còn bao người bần cùng hơn tôi, là có bấy nhiêu người xem thường bệnh tật!

Giá như có một ngày nào đó y tế miễn phí, tôi nghĩ, trên báo sẽ không có bài nói cô bé này mắc bệnh máu trắng cần cứu giúp, cũng không có người kia vì không tiền chữa bệnh nên tự sát, càng không có việc chữa bệnh cho một người xong mà cả gia đình tập trung nhau lại lên đường đi ăn mày.

Sinh bệnh đâu phải tội? Là tội của thân thể ư? Không tiền cũng là tội? Tội của người nhà ư? Tiền chữa bệnh ngày càng đắt là lỗi của ai, lỗi của bác sĩ ư?

Có thể ai cũng có lỗi, có thể ai cũng không có lỗi!

Hôm đó, tôi ôm má nhịn cơn đau răng, nghĩ thầm chắc sáu nghìn tệ của mình công mất không mà vô ích rồi.

Cô vợ từ sau khi bị đập xe hàng, chuyển sang làm nghề phát tờ rơi quảng cáo, thế nhưng nguồn sống ấy đâu phải ngày nào cũng có, cho nên bữa đực bữa cái đi làm hoặc ngồi nhà chơi. Hôm đó cô thấy tôi đang quỳ gối xuống ôm lấy cánh cổng bưng má đau, cô sợ hãi.

Cô đập đập lên vai tôi, tôi ngẩng lên, cô mới thấy mặt tôi sưng vù. Cô xót xa hỏi: Sao vậy chị? Tôi lúng búng than: Xui quá, răng đau muốn chết.

Cô vợ vội vã hỏi: Thế chị đi khám chưa? Tôi thốt lên qua kẽ răng đau: Khám rồi, mất sáu nghìn tệ rồi, răng vẫn đau, ruột lại xót nữa!

Cô vợ bắt tôi há to ra cho cô xem, miệng lẩm bẩm: Sưng ghê thật, phải trị từ gốc. Chị cứ chờ em một tí. Nói đoạn cô chạy tuột vào phòng cô.

Một lúc lâu sau, tôi thấy cô bưng một bát nước đen xịt sang bắt tôi uống, thấy thứ nước bẩn đó tôi nhíu mày. Cô cứ bắt tôi phải uống. Cứ thế, suốt mấy ngày, cô vợ đều bắt tôi uống thứ thuốc ấy. Kết quả là hết sưng, răng cũng không đau nữa. Tôi nghĩ chắc chắn là nhờ thứ thuốc này.

Thì ra cô vợ sợ nơi đất khách ăn uống không quen thuỷ thổ lại bị nóng sốt, đã mang sẵn thuốc đông y từ quê lên, anh chồng thỉnh thoảng cũng hay bị đau răng nên mang kèm theo thuốc đặc trị. Thấy tôi đau quá, cô đã mang thuốc đó sắc cho tôi uống, không ngờ uống xong bệnh chuyển biến hẳn.

Tôi nghĩ, thuốc cô đã cho tôi uống rồi, lỡ một mai chồng cô đau răng thì sao đây? Cô vợ cười: Không sao đâu ạ, anh ấy cứ cắn cắn vài cái là lại khỏi. Tôi đã biết thế nào là đau răng, cho nên tôi hối hận lắm vì đã uống mất thuốc của người khác.

Tôi hỏi thuốc đắt không? Cô vợc cười: Không đáng gì đâu ạ, chỉ là cỏ cây thôi mà, quê em ở trên núi mọc đầy, cũng chẳng cần chế biến gì, mỗi thang thuốc chỉ vài đồng!

Tôi đùa: Mấy đồng thôi ư? Thế thì sáu nghìn tệ của tôi chắc nuôi đủ? Cô vợ cười: Chúng em nhà nghèo, bệnh cũng không đi khám nổi, chỉ biết tìm những thầy lang, thuốc đông y sắc uống thôi! Sáu nghìn đồng để khám một cái răng sâu, ngay cả trưởng thôn em có cả đời cũng không được cái phúc ấy! Là thu nhập cả năm của bao nhiêu người đấy.

Tôi nghe cô vợ nói, thấy lòng man mác. Sáu nghìn tệ, con số đó bắt đầu nặng nề trong tâm trí tôi.

Cô vợ đột ngột hỏi một câu: Sinh con ở bệnh viện ở đây cần bao nhiêu tiền? Tôi trầm ngâm một lúc: Có lẽ phải vài vạn tệ! Cô vợ nhảy nhỏm lên: Vài vạn? Thế nếu chỉ đẻ thôi rồi đi ngay, không nằm viện thì sao? Tôi ngẫm nghĩ: Cũng phải hơn vạn tệ! Cô vợ ngồi thừ ra: Lúc sắp sinh đến nơi mới vào viện, cho bác sĩ đỡ đẻ hộ, đẻ xong em sẽ đi ngay, thế mà vẫn phải hơn vạn cơ ư? Em không dùng bất cứ thứ gì của họ, em chỉ mượn họ một lúc thôi, chỉ đỡ tay cho em là xong thôi mà.

Tôi chưa hiểu ý cô nói, cũng không nghĩ lâu la, chỉ lo âu những bà vợ người làm thuê thu nhập cả tháng không đủ nghìn tệ kia mà vào thành phố, nếu lỡ có bầu, không kịp về quê sinh nở, thì họ lấy gì để bước qua cánh cổng của bệnh viện, sinh ra một đứa con khoẻ khoắn?

Sinh tồn là quyền lợi của con người, nếu ngay cả quyền sinh tồn cũng bị tước bỏ, hoặc vì được sinh tồn phải bỏ ra một cái gì đắt như cắt da cắt thịt, cái sinh tồn đó còn xứng đáng với ý nghĩa ban đầu khi con người được trao tặng sự sinh tồn chăng?

Một sinh linh, một cái răng, một câu nói, cho tôi biết: sống = gian khó!

Đùi tôi ngày càng tròn, eo ngày càng phì ra, rồi mặt cũng tròn trịa, tôi thấy ngày càng béo ra, nên quyết định phải giảm béo!

Giảm béo, đối với một người lười biếng vận động như tôi, là một việc khó khăn. Khắc phục được nó phải cần tới một điểm tựa, tôi định kiếm một người đốc thúc tôi, hoặc tìm một người cùng tôi tích cực giảm béo.

Người đầu tiên tôi nghĩ tới là đôi vợ chồng cạnh nhà, cô ấy dù sao bây giờ cũng không bận bịu đi làm nữa. Tôi không trù trừ gì nói cho cô biết, cô không băn khoăn gì cả, đồng ý ngay.

Từ đó, mỗi sáng mỗi tối cô đều chạy bộ cùng tôi, đi tập luyện cùng. Lần nào tôi cũng hài hước bảo cô: Tôi tàn nhẫn quá, đi tìm một người gầy da bọc xương như cô để cùng nhau giảm béo! Cô thường động viên tôi: Rèn luyện thân thể có ích cho sức khoẻ, gầy hay béo thì tập luyện cũng đều tốt.

Tôi thường hơi áy náy mỗi khi thấy cô vợ đi tập luyện với tôi mà ngày càng gầy đi, nhưng mỗi khi thấy nụ cười sáng rạng rỡ của cô tôi lại thấy yên tâm. Tôi chỉ biết lấy cớ là đang giảm béo, mang tất cả đồ ăn ngon sang cho cô, bắt cô phải nhận lấy, mắt cô thường chan chứa sự cảm kích. Và cô lại dốc sức ra kèm tôi tập luyện như để trả ơn.

Nhưng tôi nằm mơ cũng không ngờ rằng, hôm sau ngày Cá nói dối 1/4, cô đến chào tôi đi: Cô phải về quê! Tôi cứ tưởng cô đùa vì hôm qua ngày Cá nói dối cô chưa kịp đùa tôi, nào ngờ tôi đã nhầm, cô thực sự về quê! Vì cô đã có thai năm sáu tháng rồi!

Vốn cô vợ định ở lại đây sinh con, nhưng sau đó nghe tôi nói sinh ở thành phố phải trên một vạn tệ, cô quyết định về quê sớm, ở quê chờ sinh. Cô sợ nếu chậm trễ, chờ đến lúc gần lâm bồn thì đi tàu xe về lỡ mất, nên cô phải đi ngay từ bây giờ.

Tôi kinh hãi, không biết nên nói gì. Trong đầu tôi chỉ có hình ảnh, cô đang mang thai, tôi còn bắt cô phải chạy theo tôi để tập luyện giảm béo! Tôi căm ghét chính tôi, để một người phụ nữ bụng bầu năm sáu tháng chạy theo đằng sau, nhìn mà không phát hiện ra, là do tôi ích kỷ hay tôi chỉ nghĩ đến bản thân tôi? Hay là tôi đã vô tình quên cả người khác?

Nghĩ tới việc hàng ngày cô vẫn tươi cười, chưa hề có nửa lời trách móc hay oán than tôi, lần đầu tiên tôi thấy mình độc ác quá. Tôi khinh rẻ chính tôi, tôi căm thù thói quen điềm nhiên đón nhận sự nhường nhịn của người khác.

Nhìn kỹ, thấy cô gầy rõ ràng đi, nên tôi càng ăn năn. Có lẽ mỗi ngày cô đều đùa với tính mệnh khi chạy bên tôi, về nhà lại ăn không đủ no, ngày hôm sau mới sáng sớm vác bụng đói chạy tiếp, đứa bé trong bụng cũng bị đói, sao mà đành lòng nổi?

Vào lúc tôi ăn to nuốt lớn, dồi dào mỹ vị để mình béo lăn quay, lại bắt một người mẹ mang bầu không đủ cơm ăn cũng phải đi tập cùng mình? Sự tàn nhẫn ích kỷ ấy thuộc về bản chất?

Tôi thấy từ đầu tới giờ tôi nào có cao thượng gì, tôi vẫn nguyên vẹn là người thô lỗ khinh khi như lúc lần đầu nhìn thấy họ, tôi chỉ dùng họ để lấp vào che đậy tính ích kỷ của tôi, nhưng rồi cũng thất bại, bản chất của tôi đã in dấu rõ ràng, đã in vào sâu trong tâm hồn tôi!

Tôi bắt đầu hối hận, không tha thứ cho mình, thấy mình thật không xứng làm bạn của họ, dù tôi từng là bạn, nhưng tôi không đủ tư cách là bạn, tôi chỉ là một đứa ích kỷ, không có tư cách đi xin họ tha thứ!

Cảm giác ấy thật đau, thật tê dại.

Họ dường như không phát hiện ra những gì tôi đang nghĩ, họ chỉ dùng một giọng buồn bã để tạm biệt tôi.

Cô vợ một mình về quê, để đỡ tốn tiền, cô không để cho anh chồng đưa đi.

Tôi không biết một cô gái bụng bầu, xách túi lớn túi nhỏ thế kia, chen chúc trong đám đông nhếch nhác lên được cửa toa tầu, rồi một mình đơn độc về nhà thế nào. Nhưng tôi biết, nếu là tôi, tôi không làm được, tôi không đủ dũng cảm, tôi không đủ sức!

Mấy hôm sau, anh chồng dọn đi, vì anh thấy một mình ở trong một gian phòng thuê mấy trăm đồng một tháng là quá hoang phí, tiền kiếm được toàn tiêu vào đó hết, để tiết kiệm, anh chọn cách ở miễn phí, tức cùng một đám cửu vạn sống trong túp lều mái phủ bạt dưới gầm cầu. Vào lúc anh chồng sắp đi, tôi đưa cho anh một phong bì, trong phong bì có bức thư tôi viết cho cô vợ và một tấm thẻ rút tiền ngân hàng. Tôi dặn dò anh, bất kể thế nào, lúc về quê cũng phải đưa thư cho vợ. Anh gật đầu nhận lời, nói chắc chắn: Em đảm bảo sẽ hoàn thành nhiệm vụ.

Từ đó căn phòng trữ đồ cạnh phòng tôi để trống, bà chủ nhà nói có thể vứt cái ghế sô-pha cũ của tôi vào đó, nhưng tôi không cất, mỗi lần đi qua đấy, tôi đều dừng lại, ghé mắt vào trong hoặc nhìn nó rất lâu, rất lâu.

Từ đó về sau, tôi không còn gặp lại đôi vợ chồng ấy nữa. Tôi không biết anh chồng có còn ở trong túp lều chăng bạt dưới gầm cầu mà anh nói đó không, cũng không biết anh liệu có thời gian về quê để đưa cho vợ bức thư mà tôi dặn không, càng không biết ở nơi quê xa, nơi mà tên là gì tôi cũng không biết ấy, cô vợ liệu có bình an không.

Chỉ có điều, từ sau ngày họ ra đi, tôi bắt đầu thích đi giày đế bệt, bởi cảm giác rất thật, rất thật, tới mức độ, tôi nghĩ có thể sáng mai ra tôi sẽ học cách dọn nhà cho chính tâm hồn mình.

Hết

Cõi luân hồi [Trang Hạ dịch]

Lời đề tựa:

Ai cũng nói hễ chết không còn vương vấn

Bao nhiêu chuyện đời vẫn kể đấy thôi

Không mất không hết

Không tử không sinh...

Tôi là một ngạ quỷ.

Tôi là một tiểu ngạ quỷ lắm chuyện ở dưới Âm ty, hầu hạ dưới quyền Ty chủ cõi Luân hồi.

Chúng tôi được coi là loài ti tiện nhất thấp bé nhất trong cõi đất trời, chỉ sống trong địa ngục tăm tối, đời đời kiếp kiếp. Công việc của tôi là đi tuần bên cầu qua sông Nại Hà (sông Lú), một việc nhàn hạ, bởi ngoài những bóng hồn lẻ quỷ đói đôi khi đi qua, thì không có gì xảy ra, sẽ chẳng có gì xảy ra.

Tôi thường đờ đẫn ngồi bên cầu Nại Hà, đờ đẫn nhìn những hồn phách cô đơn, lẻ loi bay qua.

Ngày ngày, tháng tháng, năm năm, ngày nối ngày, năm lại năm.

Một ngày, Ty chủ cõi Luân hồi gọi tôi tới, nói tôi đã trung thành canh giữ, bởi tôi đã đi tuần cầu Nại Hà suốt 300 năm, chưa hề xảy ra sai sót. Bởi vậy nên cho tôi làm sứ giả đi câu hồn, cho tôi cơ hội đi lên chốn nhân gian.

Cõi người thật sự rất tươi đẹp, thứ gì cũng có, so với chốn địa ngục tối đen u ám này thật như một giấc mộng. Nhưng chỉ tiếc mỗi lần tôi đi lên cõi nhân gian đều là nửa đêm, mà đều là đi lấy hồn phách con người.

Thời gian lâu dần, tôi biết loại người như tôi, à không, phải nói là loài quỷ như tôi, làm loài người sợ hãi đau khổ nhất, bởi hễ chúng tôi xuất hiện, có nghĩa là một cuộc đời người kết thúc. Tôi chỉ có thể cười đau khổ, bởi con người tin vào số mệnh, nhưng lại sợ hãi số mệnh, rồi căm ghét lây sang cả chúng tôi.

Thời gian trôi thật nhanh, một trăm năm lại đã trôi qua. Ty chủ cõi Luân hồi nói với tôi, ngươi đã có 400 năm đạo hạnh rồi, chờ khi ngươi tu đủ 500 năm đạo hạnh, ngươi có thể lên cõi người để đầu thai, hoặc tiếp tục tu hành nơi địa ngục, rồi đi làm một thần tiên.

Khi đó tôi rất vui mừng, vui tới mức cười lên, có lẽ là lần đầu tiên tôi cười. Bạch Vô Thường đại ca lúc đó trêu tôi, nói tôi cười còn xấu hơn quỷ. Tôi nghĩ: Tôi chính là quỷ đây, mà Bạch Vô Thường cười còn xấu hơn tôi, loài người mà nhìn thấy anh ta cười, hẳn quá nửa sợ chết giấc.

Trong một trăm năm cuối cùng này, tôi tiếp tục cố gắng làm trọn mọi việc Ty chủ giao cho. Nhưng sao tôi thấy 100 năm sao dài hơn cả 400 năm trước đây? Tôi rất hy vọng nó trôi nhanh, để một ngày, tôi sẽ được đầu thai...

Chương Một: Duyên tự ngàn năm

Một ngày, tôi đi bên cầu Nại Hà, trong bóng tối mơ hồ tiếng khóc thút thít rất mảnh. Tôi bước tới xem, thì ra là một quỷ nữ đang khóc phía đó. Tôi hỏi nó vì sao nó đến đây, cô ta bảo, cô ta vô ý đã làm tắt mất ngọn đèn lồng soi sáng đường luân hồi chuyển kiếp rồi.

Những lúc vui vẻ, tôi cũng thường hay giúp đỡ người khác (quỷ khác), lúc đó tôi đang vui vẻ, nên tôi bảo, tôi có thể dẫn cô quay về phủ Luân Hồi. Quỷ nữ gạt nước mắt, cười với tôi, nói: "Cảm ơn anh!"

Trong sát na đó, ngực tôi như bị cái gì đấm mạnh một cái, tim hỗn loạn...

Tôi chưa bao giờ thấy một hồn quỷ cười đẹp như thế, tôi chỉ cảm thấy sao chân tôi mềm nhũn ra...

Quay về phủ Luân Hồi, Ty chủ tra sổ ký lục của quỷ nữ, nói cô ta là vong chết oan, không được đầu thai chuyển thế, chỉ có thể vào giam trong Thành Chết Oan (Uổng Tử Thành) mà thôi.

Cô ta khóc than, tôi phút chốc cũng thấy thương xót, hỏi Ty chủ liệu có cách gì cho cô ta đi đầu thai không?

Ty chủ nổi trận lôi đình, mắng nhiếc tôi thậm tệ, mắng đến mức toàn thân tôi run lẩy bẩy, cô ta cũng sợ hãi không dám khóc nữa.

Tôi cúi đầu nuốt giận dẫn quỷ nữ đến thành Chết Oan, trên đường đi tôi không nói một lời.

Đến thành Uổng Tử, tôi để cô ta đi vào, cô ta gật đầu, đi vào trong. Tôi nhìn theo cô ta đi khuất, lúc đó, cô ngoái lại, lại nói một câu: "Cảm ơn anh". Bóng quỷ nữ tan ra trước cổng thành, chỉ còn lại tôi thẫn thờ đứng đấy.

Ngày lại qua ngày, tôi thất kinh phát hiện ra tôi vẫn nhớ đến cô ta.

Nên đôi khi tôi chạy tới thành Uổng Tử, lén nhìn cô.

Tôi phát hiện cô ta thường vội vã chạy ra Lầu Nhớ Quê (Vọng Hương Đài) từ rất sớm, rồi ở đó đứng nhìn ra suốt một ngày, rồi cuối cùng khóc lóc đi về. Tôi không hiểu vì sao, mỗi lần nhìn thấy cô ta khóc, tôi cũng rất muốn khóc...

Mùa xuân đã lặng lẽ tàn, những bông Liễu tan tác đã biến thành đầy trời tuyết bay. Khi chim nhạn trở về, chân trời những đám mây chiều tà sáng lên màu tuyệt diệu, xa như đôi mắt như nước chảy tiêu tan, gần như đã in vào sâu trong trái tim.

Vô tình, có nỗi niềm cảm động mơ hồ dường như đang quấn quýt mãi trong lòng, chưa từng theo nhạn phương Nam bay về miền di cư. Tiết Thanh minh tảo mộ năm ấy, tôi đã tìm thấy mộ của cô ta.

Một doi hoàng thổ, trước có cốc rượu, đĩa trái cây ba màu (tam sắc quả phẩm), hai người đang than khóc, một người lớn, một đứa trẻ con. Tôi thẫn thờ đứng nhìn hai người họ, một nỗi buồn và mất mát tôi chưa từng bao giờ cảm thấy đã đến quấn lấy tim tôi, tôi ở lại nơi đó rất lâu, đến tận nửa đêm.

Uống một chén rượu nhân gian, rượu mạnh đắng cay, lòng tôi có dư vị không biết nên gọi là gì.

Một lần, tôi vô tình hỏi Bạch Vô Thường đại ca, những người chết oan thì làm thế nào đầu thai được? Anh ta nói, cần có nhân quả. Tôi hỏi, nhân quả là gì?

Anh bảo, nhân quả thực ra chính là sự trả giá, nếu có người gieo nhân ắt có người nhận quả, như có người tặng cơ may đầu thai thì người chết oan có thể trở lại cõi người. Anh còn nói, cơ hội đầu thai thì có quỷ nào ngu lắm cũng không bao giờ nhường.

Ngày nối ngày trôi mãi mãi, Ty chủ cõi Luân hồi kêu tôi tới, bảo tôi biết năm trăm năm đã qua. Ngài hỏi tôi chọn gì. Tôi nói tôi rất muốn được đi đầu thai, Ty chủ hỏi tôi thích đầu thai đi xứ nào, tôi trả lời tôi mong được cô ấy đi đầu thai.

Ty chủ trợn mắt nhìn tôi - sứ giả câu hồn, Bạch Vô Thường đại ca còn kinh hãi hơn, lưỡi anh rơi xuống đất.

Ty chủ phán, nếu tôi từ bỏ 500 năm đạo hạnh, tôi sẽ lại trở thành một tiểu ngạ quỷ đi tuần quanh sông Nại Hà.

Tôi đáp: "Con xin vâng!" Nói xong, tôi lặng lẽ đi ra, lúc này lòng tôi yên tĩnh, dường như chưa có gì xảy ra...

Ngày cô ấy ra đi, tôi lén lút trông theo, cho đến lúc quỷ nữ uống bát canh Mãnh Bà lãng quên tất cả, rồi bước lên Đài hoá kiếp (Chuyển Luân Đài). Xa quá, tôi không thể nhìn thấy cô ấy nữa, tôi không kìm được bước từ chỗ nấp ra, ngóng tới phương đó. Mãnh Bà giật mình ngạc nhiên nhìn tôi, bà thở dài, rồi lại tiếp tục nấu món canh lãng quên...

Tôi lại biến thành tiểu ngạ quỷ, tôi vẫn giữ nhiệm vụ đi tuần bên sông Nại Hà, tôi hàng ngày vẫn đi đến chân cầu Nại Hà, tôi đi ngóng.

Tôi tin tưởng, rồi một ngày nào đó, khi cái chết đến, cô ấy sẽ quay trở lại qua đây...

Một vết nước mắt lăn qua giấc mơ.

Ngày lại nối ngày lại một ngày qua.

Tôi ở bên chân cầu ngóng đợi ngày lại ngày.

Ngày trôi nhiều quá tôi không nhớ đã trôi bao ngày.

Ty chủ cõi Luân hồi kêu tôi tới, nói, tôi đã canh gác đủ 500 năm rồi, giờ tôi có thể tự quyết định con đường sau này.

Ty chủ vừa dứt lời, tôi đã bàng hoàng, lại đã 500 năm rồi ư, suốt 500 năm nay tôi luôn đợi ở chân cầu cõi Chết nơi âm ty này, nhưng vì sao tôi không thấy cô ấy quay về đây...

Ty chủ nhìn thấy tôi thần trí hoảng hốt mơ hồ, chỉ thở dài. Trong cơn mê man tôi lại bước chân ra đến bên chân cầu Nại Hà. Ở cây cầu cõi Chết này, tôi đã ngồi một nghìn năm nay. Ở bên cây cầu này, tôi đã chờ đợi suốt 500 năm nay. Năm trăm năm tang điền thương hải (ruộng dâu đã hoá biển xanh, vật đổi sao dời), ngay cả đá cũng lên xanh rêu. Nhưng tôi thì không thấy cô ấy quay lại...

Sau này, Bạch Vô Thường nói cho tôi hay rằng, mỗi hồn lên trần gian đầu thai, có trời mới biết cô ấy đã đầu thai thành ai, là nam hay là nữ.

Phút chốc tôi thấy mình rất ngu ngốc, quá ngốc. Nhưng vì sao lại có sự xếp đặt đó. Và trong khoảnh khắc đó mắt tôi duềnh lên những lệ...

Trong sâu thẳm đêm tối, một con quỷ khóc than.

Giờ đây tôi không biết mình còn chờ đợi gì nữa, quá khứ đã trở thành quá khứ, y như vết nước mắt lăn trong giấc mơ đêm qua, sáng nay tỉnh dậy nào biết tìm nơi đâu. Những nỗi niềm trong mộng, mơ màng như tiếng trống vỗ xa xôi, kinh hoảng như thế giới sụp đổ. Khi tỉnh mộng chợt chỉ còn sót lại những mảnh vỡ không thể nào ghép vừa nhau, như những chữ nghĩa viển vông, khó lòng nói được. Nhưng những lời thì thầm còn lấp ló đâu trong trí óc thì như mảnh sáng chớp điện, xé toạc màn đêm vĩnh hằng trong tâm trí. Không biết mộng thấy gì, cũng không mong đuổi theo phù vân trong mơ. Tôi biết, nếu không đau lòng, sẽ không phải rơi nước mắt.

Lướt phím tơ khẽ ngâm, hát gì khúc bi ai, trong cõi hồng trần đã quá nhiều chuyện bi thương.

Buồn tay giở bút mực, khó viết nổi câu cười, những hoan lạc vui vầy thế gian nào ai biết?

Và tôi như bông hoa dại trong gió sương, tôi biết vì ai mà nở.

Lại như ngọn cỏ dại cô đơn giữa hoang vu, tôi biết xanh vì ai?

Tôi một lần nữa vứt bỏ cơ hội được đầu thai, tôi sợ phải gặp lại chốn vạn dặm bụi trần từng mê hoặc tôi... Tôi sợ phải nhìn thấy nụ cười duyên dáng làm tôi vĩnh viễn không thể nào quên...

Ty chủ thấy tôi thì than, loại quỷ còn giằng giữ nghiệp chướng cõi trần như tôi có tu cũng chẳng thể thành thần tiên.

Tôi lại ngồi bên chân cầu Nại Hà, tôi làm một tiểu ngạ quỷ, tôi chờ đợi một người có lẽ chưa từng bao giờ tồn tại.

Lại năm trăm năm, suốt năm trăm này, tóc tôi đã dài bằng đầu cầu này sang đầu cầu kia, trắng, tôi thường gạt mớ tóc trắng phất phơ đầy trời đứng lặng ở bên này Nại Hà. Những quỷ qua cầu thường rùng mình, đứt nốt sợi dây cuối nối với cõi trần.

Thế giới của họ sẽ luân hồi, biến hoá, thế giới của tôi lặng lẽ trì đọng.

Môi hồng lệ xanh em điêu đứng nhân gian

Tôi bạc tóc phía bên này Duyên cũ

Bao năm đó, chỉ mang cho tôi những hồ nghi:

Nếu mất mát là khổ, bạn có chịu mất mát không.

Nếu truỵ lạc là khổ, bạn còn cần đến hạnh phúc không?

Nếu mê loạn là khổ, ta nên bắt đầu hay nên kết thúc?

Nếu theo đuổi là khổ, đây là kiên trì hay là Chấp, Mê không tỉnh ngộ nổi?

Nếu phân ly là khổ, bạn sẽ mang phân ly thổ lộ cùng ai?

Nếu hứa hẹn là khổ, tình thật thà nên ngỏ với người chăng?

Nếu si mê là khổ, lẽ nào yêu là lầm lạc?

Nếu yêu nhau là khổ, trên thế gian nào biết tìm đâu chân tình?

Biết bao chuyện sau này mới hiểu ra, mà lúc đó tôi không còn cách nào quay lại, biết bao chuyện xưa làm ta hạnh phúc, giờ đớn đau tôi cũng chấp nhận.

Lại ngồi đầu cầu bên này, tôi nhìn những hồn ma quỷ đi qua cầu, mặt chúng dường như đều vẽ nên một câu chuyện, trong những đôi mắt trống rỗng của chúng, phảng phất kể lại một khoảnh khắc nào của dĩ vãng. Nhìn chúng nhớn nhác, tôi thầm mừng vui bởi tôi còn tri giác, còn cảm nhận, tôi dần dần hiểu, cõi nhân gian đã mang cho tất cả mọi người vô số dấu hỏi, mà câu trả lời biết tìm nơi đâu? Địa ngục này ư? Tôi nghĩ không phải, bởi trong tim tôi, cũng vẫn còn quá nhiều chất ngất những câu hỏi.

Tôi một lần nữa lại quay về với cuộc tồn tại không vui sướng, không hy vọng, không đau buồn, cuộc tồn tại của một hồn quỷ.

Buồn tay lướt dây đàn, vốn định hát bâng quơ trường ca, ai ngờ tiếng đàn não nề, đỗ quyên rỉ máu, người mong về cội. Thời thanh xuân nào biết đến sầu thương, phổ chi lời thơ mang buồn... Nào ai hay giữa bạt ngàn thanh âm bỗng hai tim gặp gỡ, để một đời sầu nhớ! Dây đàn rung cùng tiếng trái tim, hận tay vụng khó đàn nên nỗi lòng, để cho nửa khúc vụng lời, cả điệu bi ai (lời quê kệch phổ đến nửa khúc nhạc, đàn lên cả điệu chỉ sầu đau).

Chìm nổi ngàn kiếp, trong nỗi nhớ chỉ còn ngàn điều hụt hẫng. Ngoái lại ngày cũ, người với việc thiếu gì thị phi phải trái. Hy vọng biết bao mọi nỗi nhớ về hội tụ, ai ngờ lại thành chiếc thuyền vô hướng không người chèo lái băng giữa hoang vu.

Thời gian cứ ngày nối ngày trôi qua, tôi ngày nối ngày đi lại bên cầu, tuy rằng tôi đã không còn gì để mong mỏi, nhưng mỗi lần đi qua tôi lại không kìm lòng được ngóng sang, nhìn xem trên cầu liệu có xuất hiện hình bóng tôi nhớ nhung.

Cứ mỗi lần như thế, tôi đều tự mắng mình thậm ngốc, tự mắng thầm mình vài câu, nhưng, chỉ cần đi tới đấy, tôi lại làm cái việc ngu xuẩn ấy. Thậm chí tôi còn ngớ ngẩn đến mức đi ra thành Uổng Tử, nhìn xem liệu có vong nào đang khóc trên Vọng hương đài chăng.

Trong những ngày sau này, tôi bắt đầu có chút hối hận, hối hận vì sao lúc cô ấy ra đi tôi không bước lên nói với cô ấy một câu; hối hận vì sao khi cô ấy ra đi tôi không trốn đi để khỏi phải nhìn cô ấy lần cuối; hối hận vì sao khi cô ấy ra đi... Thế gian hạnh phúc bởi còn ký ức, còn có thể ghi nhớ sắc màu thế giới; Thế gian bi ai bởi còn ký ức, còn có thể ghi nhớ bóng tối của thế giới. Ma thuật của thời gian đã chồng màu sắc lên đen và trắng, xé toạc chúng ra, phủ bụi lên... còn lại đầy trời bay những mảnh giấy vụn, cho tôi đuổi theo với, cho tôi ghép lại... để quên, để không thể quên, để quên mà không thể, tất cả.

Trên những đoá hoa tươi nở trong mưa mùa xuân, giữa những cánh hoa rụng bay tơi tác trong gió thu, hãy để những gì tươi đẹp sau cùng ngân lên khúc ca tình yêu lưu luyến không rời dưới tia nắng. Hỡi những cánh hoa không chịu lìa xa, sao giống trái tim tôi nát tan vụn vỡ. Hỡi thiên nhiên, người làm những cơn gió xuân dịu dàng gọi thức linh hồn hoa, sao người nỡ để những cơn mưa thu bịt bùng giết chết đời hoa, vì sao trên thế gian này có khởi đầu tức là có kết thúc... Li biệt vẫn luôn vội vã thế, vẫy tay nhé, vầng mây bên trời xa vẫn cũ. Người qua vội vã, chỉ giây lát ngoái lại người mới chợt hiểu. Mà lúc đó đã là cuối cuộc vui, nhạc tàn người tan, vẫy tay chào nhau, nhìn nhau như sắp lìa xa nhau.

Có tiếng người đi trong gió thu, những nếp áo vấn quanh mềm mại, những tiếng dịu êm bên tai, như sợi diều gió, diều càng bay càng vời xa. Sợi dây đã đứt từ lâu, và cánh diều giờ biết lưu lạc phương nào.

Tôi không ngờ rằng tất cả đã kết thúc, tôi còn giữ chặt sợi dây, tôi chờ cánh diều quay lại, quay lại. Biệt ly vội vàng quá, vẫy tay chào nhau, còn ghi nhớ hơi thở em, còn nhớ đến tóc dài em, còn đôi khi tìm hình bóng em...

Khi mùa thu quay trở lại, tôi không biết phải tất cả đã như bông hoa bị mưa dập nát bị gió cuốn đi, tan tác, mai một, mất đi không dấu vết.

Khó lòng gặp nhau, sao dễ lìa nhau, mà lại gặp lầu cao điện ngọc hoa như tuyết dễ tàn...

Rất lâu về sau, rất lâu, rất lâu...

Hôm đó, tôi gặp được Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Địa Tạng Vương Bồ Tát là vị Phật tối cao của chốn địa ngục, cũng là người hiền hoà thiện lương nhất. Huệ nhãn của Địa Tạng Vương Bồ Tát thoáng chốc nhìn thấu nỗi do dự mê hoảng đau đớn tích tụ nghìn năm trong lòng tôi. Bồ Tát kinh hãi bởi, một hồn quỷ như tôi sao lại có tâm sự. Bồ Tát thở dài: "Chúng sinh nơi biển khổ, quay đầu lại là bờ".

Nhưng tôi đã không hiểu lời của Ngài.

Tôi mang tất cả những nỗi lòng dồn nén của tôi kể cho Bồ Tát nghe. Bồ Tát hỏi tôi: "Cái gì là Duyên?" Tôi không trả lời nổi.

Bồ Tát lại hỏi tôi: "Cái gì là Tình?" Tôi hoàn toàn không rõ.

Cuối cùng, Bồ Tát hỏi tôi: "Người muốn gì?"

Không ghìm giữ nổi bản thân, tôi khóc ròng đau đớn van xin Bồ Tát cho tôi được một lần làm người, xin Bồ Tát hãy cho tôi và cô ấy kết một đoạn trần duyên.

Bồ Tát đồng ý, đồng ý cho tôi đổi nghìn năm tu đạo hạnh lấy một cơ duyên được cùng cô ấy làm người trong một kiếp luân hồi.

Cuối cùng, Bồ Tát nói: "Vạn sự tuỳ Duyên, đừng Chấp nữa!"

Hôm đó, tôi cuối cùng đã được chuyển thế làm người rồi. Nhà tôi là danh gia vọng tộc trong vùng, tôi vừa sinh ra đã là Thiếu gia. Thời gian trôi, tôi lớn lên, tôi phải lòng cô gái nhà hàng xóm.

Nhà cô ấy là nô bộc cho nhà tôi, từ nhỏ cô ấy đã hầu hạ trong nhà tôi, ngày nhỏ chúng tôi thường cùng chơi đùa với nhau, nhưng lớn lên chúng tôi dần lạnh nhạt với nhau.

Nhưng tôi nhận ra, tôi càng ngày càng thích cô ấy.

Và tôi nghĩ, cô ấy hẳn cũng phải thích tôi. Năm cô 18 tuổi, cha mẹ không ngăn cản được ý tôi, đành sang nhà cô ấy cầu thân, gia đình cô tất nhiên nhận lời ngay.

Hôm đó, tôi chạm mặt cô ấy ở cửa, tôi vui vẻ định nói với cô vài câu, ai ngờ được, tôi chỉ thấy trong mắt cô tràn ngập căm hờn. Trái tim tôi phút chốc ngưng đọng lại, tôi nôn nao quay về, mơ hồ dự cảm một điều gì đó sẽ xảy ra.

Quả nhiên, ngày tôi đón dâu về, cô ấy đã bỏ trốn cùng một người con trai trong làng.

Cha tôi nổi trận lôi đình, sai đám gia đinh đông đúc trong nhà đuổi theo, tôi hoang mang cũng chạy theo đám người. Không mấy lâu chúng tôi bắt được đôi trai gái, tôi kinh ngạc, mê hoảng, khiếp sợ, không biết nên nói gì, chỉ biết đứng đực ra nhìn cô, tôi nhìn cô.

Cô ấy cũng nhìn tôi, con ngươi trong đôi mắt trong như một vực xoáy đầy hận thù nuốt chửng tôi. Trong lúc bối rối hoang mang, trái tim tôi co thắt lại:

"Cô ấy hận thù tôi!"

Trước mắt tôi tối sầm...

Chờ lúc tôi tỉnh lại, gia đinh nói cho tôi biết cô ấy đã cùng chàng trai kia chạy trốn, cuối cùng cả hai nhảy xuống vực sâu tự sát...

Tôi vừa nghe thấy tin đó, cả thế giới dường như không còn tồn tại nữa, thời gian không gian như hoá thành hư không... Người yêu dấu ngày xưa nay chỉ còn lại nét mặt xám tối.

Viên thuỷ tinh quá khứ đã vụn thành cát lỏng trong tay tôi, bị những ngọn gió thời gian và không gian thổi bay tung, bay mất dần, tan vào trong gió. Gió ơi gió về đâu? Sao không mang tôi đi theo, nhưng gió đã lấy trái tim tôi đi xa, làm ơn đừng vứt bỏ tôi ở lại một mình, gào thét ở tận cùng thế giới, thét gào vô tận.

Đêm đen sẽ đến, sự sống sẽ tiêu tàn, vì sao tương tư nhau mà không thể quay lưng nhau, vì sao tương tư nhau mà không thể oà lên nhau? Chờ đến lúc tôi tỉnh dậy một lần nữa, tôi phát hiện mình đã ở bên cầu Nại Hà, Bạch Vô Thường đang đứng bên cạnh nhìn tôi.

Chờ khi tôi định thần, Bạch Vô Thường nói cho tôi biết, sau khi ngất đi không lâu, hồn tôi đã lìa khỏi xác...

Anh ta còn nói cho tôi biết, người con gái vì tình mà tự vẫn kia, chính là hồn quỷ nữ năm nào tôi đau khổ chờ đợi, giờ đã phải đi vào thành Uổng Tử rồi!

Đầu óc tôi mụ mị, tất cả mọi ký ức đều dội tới, tôi không biết phải làm gì... Bạch Vô Thường dắt tay tôi đến trước Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ Tát mỉm cười im lặng.

Tôi không nén được hỏi ngài: "Vì sao cô ấy hận thù tôi?"

Bồ Tát nói, đấy là nhân quả.

Tôi hỏi, nhân quả là gì.

Bồ Tát nói: "Hữu duyên chính là nhân quả.

Ngươi đã từng cho cô ấy một kiếp luân hồi, cô ấy cả đời hầu hạ ngươi, đó chính là nhân quả.

Ngươi cho cô ấy một kiếp luân hồi, là bởi vì cô ấy đã bị chết oan vì ngươi.

Cô ấy vì ngươi mà chết, cho nên cô ấy đòi ngươi đền cô ấy một kiếp luân hồi.

Con người thường bảo là có Tiền sinh Hậu thế (kiếp trước thế nào thì kiếp sau nhận báo ứng thế), nhưng thực ra làm gì có trước và sau, chỉ có kiếp này ở đây thôi!

Có đến có đi, nhưng trước sau không có sinh không có tử".

Tôi cảm thấy tất cả là một sai lầm lớn, vào một thời điểm đặc biệt, gặp một người đặc biệt, xảy ra một điều đặc biệt. Dường như có thể thấy sẵn một kết quả, nhưng thế sự đâu phải thế, đó là tôi sai rồi. Tôi đã bỏ lỡ mất một ngàn năm của tôi. Tôi đã bỏ lỡ mất hai kiếp đầu thai đáng lẽ được làm người hạnh phúc của tôi.

Trong khoảnh khắc đó tôi ngộ được hai chữ luân hồi, con người còn phải luân hồi, là bởi con người có vô vàn sai lầm, vô vàn ân hận, vô vàn mất mát, nên phải đi tới kiếp sau để đền bù.

Nhưng nếu cứ luân hồi mãi mãi, con người làm sao nhớ được kiếp trước đã làm gì, trong một cõi nhân gian hẹp hòi, để chỉ đường cho kiếp sau đi hoá giải?

Luân hồi là lời kinh của Phật, để chúng sinh mê muội hiểu rằng ngoái đầu là bờ, nhưng những người còn Chấp thì sao hiểu ý nghĩa lời Phật, ngoảnh lại những việc mình đã làm lại hối tiếc.

Còn tôi, chí ít, tôi đã không hối tiếc.

Đến cuối cùng, tôi đã hiểu lời Phật nhắc tôi, nhưng tôi vẫn không đáp lời Phật, tôi cũng không muốn đi ngẫm ngợi lời Bồ Tát. Bởi tôi đã nếm trải được hạnh phúc, nếm trải được đau thương, đã từng hạnh phúc, đã từng đau thương. Đã có được một giấc mộng một nghìn năm, đã có nợ kiếp trước duyên kiếp này, đã có tất cả, tôi đã mãn nguyện rồi.

Tôi, cuối cùng, đã vứt bỏ mọi cơ hội tiếp tục luân hồi hay tu đạo hạnh, tôi tình nguyện vĩnh viễn quẩn quanh ở cái kiếp tiểu ngạ quỷ mà tôi đã ảo mộng suốt nghìn năm, vĩnh viễn làm một tiểu ngạ quỷ bên chân cầu Nại Hà.

Bởi tôi tin tưởng, lại sẽ có một ngày, tôi sẽ gặp lại cô ấy, một cô ấy vĩnh viễn không đổi thay...

Chương 2: Lá thu rơi muôn lối

Người có tâm, tất ngẫm ngợi nhiều chuyện, cũng sẽ quên nhiều chuyện. Tôi không biết một con quỷ dưới địa ngục thì có tâm hay không.

Ngày ngày tháng tháng trôi, tôi thấy tôi ngày lại ngày càng trở nên lãnh đạm, rất nhiều những chuyện trong quá khứ đều trở nên mờ nhạt, tôi đã dần dà lãng quên đi những xúc động, những thương xót, những lúc đau đớn, quên rồi, dường như quên tất cả rồi...

Trí óc đã quên rất nhiều, cần có thứ gì đó mới mẻ lấp đầy, cho nên, tôi bắt đầu chăm chú nghiền ngẫm những lời nói của Bồ Tát năm ấy, dường như tôi hiểu ra đôi chân lý.

Cõi phù sinh đều là khổ ải, vạn vật chỉ có hình tướng mà chẳng có gốc căn (vạn tượng bản vô). Đó là lời Bồ Tát, tôi tin rằng Bồ Tát đúng, nhưng tôi vẫn không thể hiểu, vì sao đã có Cõi Người mười dặm hồng trần, thì tại sao nó lại chỉ là Hư Không? Chả lẽ cõi người chỉ là một trò chơi mà Thần Phật dùng để giày vò con người thôi ư? Làm cho con người không chịu đựng nổi biển khổ nữa đành quay đầu về Cõi Phật? Thần Phật ti tiện nham hiểm như thế, thì đáng cho xuống địa ngục! Nhưng, tôi dứt khoát không tin rằng Thần Phật đang đùa giỡn với người đời, bởi Phật luôn là đấng từ bi nhất. Và tất cả tất cả những điều này, nên giải thích thế nào?

Tôi vùi đầu vào kinh kệ, một lòng niệm giáo lý nhà Phật, tôi muốn biết, tất cả, vì sao lại xảy ra? Tôi còn nhớ được đôi chút chuyện ngày xưa trên trần gian, giờ hồi tưởng đến, tôi không đành ngoái lại. Nếu tôi có thể hiểu được nhân quả của chuyện cũ, tôi tin rằng, những đau khổ trên thế gian này sẽ dần tiêu tan đi. Tôi đã trải qua ngàn năm mơ hồ và đợi chờ, tôi muôn giúp đỡ những linh hồn đang còn mê man như tôi, những người đang còn đau khổ như tôi, như thể giúp chính tôi được giải thoát.

Mải mê tìm kiếm, đông qua đã bao năm, không biết không hay, tôi lại đã vùi đầu vào kinh kệ 300 năm. Ty chủ đã gọi tôi qua, khen tôi đắc Đại Đạo, cho tôi làm phán quan bên ngài, tôi tạ ơn và từ chối. Bạch Vô Thường đại ca lại kinh ngạc tới mức để rơi lưỡi xuống đất, nói tôi sao đã xem nhẹ được danh vọng, thật đã "tứ đại giai không (thoát được những lệ thuộc thể phách hư ảo cõi nhân gian như không hình người, không bản ngã, không súc sanh, không dài lâu.) có thể viên mãn đắc đạo như thần tiên (bạch nhật phi thăng). Tôi chẳng nói gì, trong lòng tôi mắng thầm: Tôi cũng chẳng phải sư, Không cái gì mà Không, coi thường danh lợi gì đâu, chẳng qua là trong lòng tôi đang rối bời mà thôi.

Nhưng cũng không rõ từ bao giờ, những người quanh tôi, à không nên gọi là quỷ quanh tôi, bắt đầu kính trọng tôi, Bồ Tát cũng thường gọi tôi đi nghe ngài giảng kinh thuyết pháp. Thực ra tôi chỉ hiểu rõ một điều, cho dù hiểu rồi, tôi vẫn thấy không phải tất cả những lẽ Phật đều đúng, bởi tôi tin cõi mang mang đất trời tự nó đã có chân lý, chân lý là gì? Tôi cảm thấy đó chính là đừng để chúng sinh phải khổ đau nữa.

Bồ Tát nói phải cắt đứt mọi dục vọng, nhưng tôi lại thấy đó đâu phải là Lẽ Phải, một cuộc sống đã tắt mọi dục vọng thì còn gì để sống? Nhưng tôi không dám nói ra mồm, tôi chỉ mơ hồ trong sâu thẳm, rồi cật lực tìm đáp án giữa những trang kinh.

Đọc hàng nghìn vạn trang sách Kinh, đọc Phật gia, đọc Đạo gia, tôi chỉ thấu đáo nửa chừng, rồi cảm thấy tuy những lời đó có lý, nhưng đều đâu phải thứ tôi cần tìm. Nhất là "Nam Hoa Kinh" của Trang Tử, tôi hoàn toàn bị lý lẽ "Bướm bay múa - Hồ điệp phi vũ" của ông ta làm quay cuồng đầu óc, bị đánh lạc hướng, ngập tràn trang giấy, không rõ nên nói sao. Càng làm tôi mơ hồ hơn là mỗi lần Bồ Tát hỏi tôi Thiền cơ.

Tôi hoặc tuỳ tiện đáp lời, hoặc trầm ngâm không nói.

Bồ Tát thì phảng phất nụ cười, tôi không thể hiểu ý ngài ra sao, hoang hoải rồi trọn ngày.

Rồi lại thế 200 năm, tôi kinh ngạc vì tính nhẫn nại của chính mình, sao tôi vẫn có thể cứ đọc mãi sách kinh, cho dù tâm tôi không ở trang sách mà vẫn đọc nổi.

Xem ra đọc Kinh phật cũng có ưu điểm, đó là niệm Kinh chẳng thành, nhưng lại được lòng Bồ Tát, được Ngài truyền thụ cho tu luyện pháp môn, học những bế khí thăng thiên, khai huyệt phi thăng, sát pháp biến hoá...

Tôi vốn chỉ là một tiểu ngạ quỷ ti tiện, vốn làm gì đủ tư cách học, cũng chẳng biết học về làm cái gì, nhưng Bồ Tát nói, tu luyện pháp lực chính là gốc rễ cho việc trừ ma giữ đạo. Tôi không hiểu, nếu Phật pháp đã là vô biên, thì vì sao còn tồn tại tà ma ngoại đạo. Nhưng Bồ Tát nói, có những kẻ bản tính ngoan cố độc ác, không thể giáo hoá. Tôi ngoan ngoãn nghe lời ngài.

Có một ngày, tôi đang vật vờ tại địa phủ, bước chân lơ đãng đưa tôi đến nơi Mãnh Bà đang nấu canh Lãng Quên. Mãnh Bà ngủ gật. Tôi bước tới gọi bà dậy, Mãnh Bà hốt hoảng thức giấc, hoảng loạn ngó trước nhìn sau, hồi lâu mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi lấy làm lạ, sao bà lo âu thế, bà nói, nếu có quỷ nào không uống bát canh của bà đã đi đầu thai, thì bà mang tội lớn. Tôi hỏi bà, vì sao hồn quỷ phải uống canh Lãng quên rồi mới được đi đầu thai?

Bà trả lời, để ký ức của hồn đó không bao giờ được nối tiếp. Để mỗi kiếp nó đều có muôn vàn những nuối tiếc, cứ thế đến ngày nó mệt mỏi chán ghét những đau đớn dằn vặt, nó từ bỏ cơ hội được luân hồi, nó sẽ một lòng theo đại đạo.

Tôi nghi ngại quá, tôi thấy điều đó khác gì lừa dối con người, cố ý dày vò con người. Tôi hỏi, chẳng lẽ người đời toàn xấu xa thôi sao? Vì sao không để cho những hồn ma đó vui vẻ tiếp tục đầu thai làm người.

Sắc mặt của Mãnh Bà chuyển từ ngạc nhiên sang sợ sệt, không trả lời tôi, vội vã đẩy tôi tránh xa bà...

Từ chỗ Mãnh Bà về, lòng tôi dồi lên như sóng, tôi không muốn tin rằng những thủ đoạn đối đãi với chúng sinh như thế này là hợp lẽ. nhưng đó rõ ràng lại là luật trời, vậy vì sao luật trời là một bất công lớn lao? Trong sách Phật đều nói chúng sinh là bình đẳng, tức là nói mỗi chúng sinh có toàn quyền lựa chọn con đường sống của họ, nếu họ có chọn lấy những đời lầm lạc, thì cũng có thể hiểu được.

Nhưng nếu ép chúng sinh vì khổ sở dày vò trăm đường rồi đành phải quay đầu về đại đạo, thì rõ ràng đây là một trò lừa đảo. Đại đạo cũng tốt, cõi người cũng tốt, vũ trụ vạn vật đều sinh ra trong tự nhiên, bản thân mỗi vật đã có một giá trị riêng của mình, vì sao buộc phải dùng cách ép uổng đó để bắt họ hướng về đại đạo?

Ôm nỗi hoài nghi, tôi lại vùi đầu vào kinh sách, tôi không biết tôi đã lật dở bao trang kinh, chỉ có một lời đáp, chỉ có trái tim hướng về đại đạo mới là đúng, lý do ư? Không có lý do, cũng không cần lý do. Dần dần, tôi trở nên lười đọc kinh sách, chỉ chuyên tâm đi tu luyện những pháp thuật trừ ma.

Thời gian lại qua 500 năm, địa ngục xảy ra một sự kiện,

Mọi người coi đó là một chuyện nhỏ, nhưng với tôi, đó là một sự kiện lớn đã thay đổi vĩnh viễn mệnh vận...

Châu Bút phán quan Tần Sở dưới quyền Tần Quảng Vương đã yêu một cô gái cõi trần gian (những chuyện thế này đôi khi xảy ra), song ông đã trốn lên cõi người. Sứ giả địa ngục khuyên can ông cũng vô ích, Thập điện Diêm La bèn phái âm quan quỷ binh đi tóm Tần Sở quay về. Không ai ngờ Tần Sở quá yêu say đắm không chịu dời bỏ, chỉ tìm cách lên trần gian gặp cô gái kia, và ông trốn ngục. Cuối cùng vẫn bị bắt lại, nhưng quỷ sứ đã bắt luôn theo cả linh hồn cô gái kia, đày cô vĩnh viễn giam cầm trong hang địa ngục tăm tối, để phán quan vĩnh viễn không bao giờ có thể gặp lại cô ta.

Phán quan đau đớn quá, nhục mạ thần linh huỷ diệt nhân tính, làm mọi thần đều nổi giận, quyết định huỷ diệt Tần Sở, mãi mãi không được siêu thoát.

Hôm đấy, trên Tru Hồn Đài (đài hành hình giết hồn), phán quan bị xiềng bằng xích sắt.

Móc sắt Nhiếp Hồn móc xuyên xương lồng ngực, phán quan Tần Sở ngoài dáng cao lớn ra, tan nát không còn thấy sót lại chút hình hài người.

Tôi cảm thấy trong tim tôi đau đớn như bị bóp giật, tôi nhìn trộm Địa Tạng Vương Bồ Tát trên đài cao. Gương mặt ngài vẫn từ thiện ôn hoà từ bi nhưng không chút cảm xúc, tôi tưởng tôi thấy thấp thoáng trong con ngươi thâm thuý ấy một tia lạnh lùng. Trong tôi lạnh buốt, tôi chỉ cảm thấy chính tôi đang chìm xuống, chìm xuống mãi giữa từ bi.

Trái tim bây giờ của bạn đã mất hết những xót thương sao?

Tần phán quan cuối cùng bị sấm sét đánh tan thành khói bụi...

Mọi người rời đó đã lâu, tôi lẳng lặng mò đến chân Tru Hồn Đài.

Tôi nhìn một mảnh áo đỏ của phán quan còn sót lại...

Tôi thấy một nỗi thê lương vô hạn độ.

Giây phút đó bỗng một trận gió tới, một mảnh vải lụa vuông vắn bị gió thốc tới, tôi vội vã chụp lấy, kỳ lạ sao, địa ngục mà cũng có gió ư?

Tôi nghi hoặc cầm manh vải sót lại, trên vải có chữ:

"Thu xanh năm ấy, nhạn lạc bên cầu, duyên gặp nhau

Lòng như nước chảy trôi, mây vẽ ngọn núi thắm

Cúi đầu mỉm miệng cười như hoa sớm, muốn say mê dọc kiếp này bên nhau

Từ ấy, ngồi buồn dằng dãi canh thâu nghe tiếng mưa tan vỡ"

Một khúc "Môi Hồng" diễm tuyệt!

Mơ một câu ngồi buồn dằng dãi canh thâu mưa nghe tan vỡ. Tôi đột ngột nhớ ra những chuyện cũ từ nghìn năm, tôi cô đơn bên cầu, tôi cô đơn làm quỷ, tôi ngồi buồn dằng dãi, tôi vô vọng chờ một người con gái không bao giờ quay trở lại.

Một giọt nước mắt lăn xuống, thấm dần lên tấm vải trên tay tôi, đấy là lần đầu tiên bao nhiêu tương tư đau khổ, bao nhiêu li biệt u uất đã lại dào lên qua nghìn lớp khoá trong đáy sâu tim tôi, nước mắt cũng thấm vào tim tôi như đang thấm tấm lụa trên tay tôi.

Chỉ có điều giờ tôi không biết, giọt lệ của tôi đã chảy vì tôi hay vì phán quan họ Tần? Hay chảy vì người con gái ấy? Hay chảy vì tương tư? Hay nước mắt chỉ chảy vì chính bản thân nước mắt...

Gió tiếp tục nổi lên thổi bay phơ phất những mảnh vải rách nát sót lại trên đài hành hình, địa ngục không bao giờ có gió, phải chăng đó chính là linh hồn oan khuất của Tần phán quan đã bất tử? Thổi lay động mảnh vải trên tay tôi, tôi như đã mờ mịt hiểu ra ý nghĩa của gió, tôi cầm mảnh vải đi xuống khỏi Tru Hồn Đài, tôi đi về hướng địa phủ u tối thâm sâu, khi ngoái lại, gió đã lặng, chỉ tan tác đây đó những mảnh vải áo rách nát của phán quan, như những mảnh lá đỏ rụng xuống giữa thu thăm thẳm...

Lúc này tôi nhận ra, hay là Tần phán quan vẫn còn tồn tại...

Tôi lén lút đi tới gian ngục giam linh hồn của người nữ kia, gương mặt tiều tuỵ thảm hại còn sót lại chút xuân sắc ngày xưa, tôi không nén được tiếng thở dài.

Tôi không ngờ ma quỷ cũng luỵ bởi tương tư, cũng đau đớn bởi biệt ly, cũng tiều tuỵ bởi đôi lứa chia uyên ương rẽ.

Tôi đưa mảnh vải đó cho hồn quỷ nữ kia, tôi quay người rời khỏi lao ngục, tôi không muốn phải nghe thấy tiếng khóc của người nữ kia.

Đi một đoạn, tôi không nghe thấy tiếng khóc, mà lại nghe thấy từ trong ngục tối cất lên một tiếng hát tuy ai oán nhưng kiên định:

"Thu xanh năm ấy, nhạn lạc bên cầu, duyên gặp nhau

Lòng như nước chảy trôi, mây vẽ ngọn núi thắm

Cúi đầu mỉm miệng cười như hoa sớm, muốn say mê dọc kiếp này bên nhau

Từ ấy, ngồi buồn dằng dãi canh thâu, nghe tiếng mưa tan vỡ"

Tiếng ca nghẹn ngào, nhưng chứa một nỗi ngọt ngào; tiếng ca ai oán, song mang đôi chút bình yên. Tiếng hát càng bay càng cao, nhưng lại như sát ngay bên tai tôi, tôi cắn chặt môi, thả thân hoá một làn khói xanh, tôi bay ra khỏi chốn địa ngục...

Hôm đó, tôi hiểu ra tình yêu là gì, tình yêu dạy người ta chết đi cũng hẹn được bên nhau.

Hôm đó, tôi đã căm ghét sự thâm uyên vô đáy nhưng mê man vô bờ của địa ngục.

Hôm đó, tôi dứt bỏ việc đi tìm đại đạo trong kinh phật.

Hôm đó, tôi bỏ địa ngục.

Hôm đó, tôi quay trở lại với cõi người.

Tôi phản bội địa ngục, đại đạo, tôi đi tìm đạo chân chính của tôi giữa cõi người.

Trong giây phút tháo thoát khỏi địa ngục, tôi quay đầu lại nơi địa ngục đã trói buộc hai nghìn năm của tôi, "Chờ khi nào tôi hiểu được những lẽ đời chân chính, tôi mới quay lại!". Tôi nghĩ, đến lúc đó, hẳn tôi sẽ không còn mê man, không còn đau khổ nữa...

Chương Ba: Trong cõi phù vân

Trời mờ sáng, khóm núi phủ một dải mây u ám, tôi dật dờ giữa đám mây mù. Trong tim tôi tràn ngập cảm giác không thể nói ra, bình yên và hỗn loạn, kiên quyết mà lưỡng lự. Có lẽ đây là lần tôi ra đi vĩnh viễn, cảm giác trào lên đâu đó trong tim, để tôi thấy nỗi hoang mang và cô độc tột cùng.

Ra đi thật dễ dàng, cũng chả cần nói chia tay, cũng chả cần vẫy tay, nhưng rời khỏi nơi đã gắn gốc rễ, thành cụm bèo phiêu dạt trong gió lạnh lẽo trở thành khoảnh khắc không ai quên được. Chim di cư còn biết chốn bay về, lá rụng từ cây còn biết về cội, giây lát ấy, tôi rốt cuộc hiểu ra cảm giác của những người bạt xứ chết nơi đất khách, cuộc đời đã trôi chảy hết, vạn sự đã dĩ vãng, nắm xương còn mòn mỏi hóng về quê cũ.

Tôi không biết tôi sẽ sống bao lâu, có lẽ 100 năm, có thể 1.000 năm, có thể 10.000 năm. Một vạn năm rất dài, dài tới mức tôi không biết dài bao lâu, nhưng khi kết thúc, cũng không biết vạn năm đó kết thúc ở một ngày nào, rồi liệu có người nào mang nắm xương tàn của tôi về lại chốn mà hôm nay tôi ra đi.

Nắng xuyên qua mây mù, rọi vạn dặm nhân gian rỡ ràng. Tôi đứng trong ánh nắng cảm giác được nỗi nhẹ nhõm chưa từng nếm trải, từng sợi nắng từng sợi ấm áp hắt vào buồng tim tôi, ánh sáng quyến rũ như xuyên suốt thân thể tôi đang trong veo như một đám mây.

Một hồn quỷ thì làm sao nhìn thấy được nắng trời, hạnh phúc làm sao khi tôi được Bồ Tát truyền giáo Pháp môn tu Tiên, tôi lãnh ngộ được ân sủng từ thiên nhiên. Tôi vô tình nhớ tới Bồ Tát, trong tim tôi ngài là bậc tối cao nhân từ, tôi kính trọng ngài, tôi yêu ngài.

Nhưng cùng lúc đó tôi nhớ đến nỗi tuyệt vọng của Tần phán quan, gương mặt gỗ đá tuyệt vọng trong oán hận, những mảnh hồn sót lại nhầy nhụa và tấm lụa áo bay phấp phới, và lúc đó gương mặt Bồ Tát lạnh lùng như băng, đôi con ngươi sâu thẳm... Tôi chưa biết từ bao giờ bắt đầu có một sợi tơ ai oán với Bồ Tát, cũng không rõ tôi đã thương xót Tần phán quan từ bao giờ.

Không quên nổi nụ cười nhân ái như cha của Bồ Tát.

Không quên nổi ánh mắt vô thần khi sấm sét giáng tới của Tần phán quan.

Không quên nổi khúc hát ai oán của linh hồn đơn côi nơi ngục tăm tối.

Đầu óc hỗn loạn, như có vô số người đang cãi cọ trong tôi, kéo tôi về nhiều hướng... Tôi không biết tôi nên ngả về đâu, về ai.

Tôi ngơ ngẩn ngồi bên đường, nhìn người qua lại, mỗi người đều một vẻ mặt vội vã, vội vàng tới, vội vàng đi. Tôi hâm mộ họ, họ biết họ nên đi đâu, còn tôi thì chả biết đi đâu, cũng không ai nói cho tôi biết, tôi nên đi về đâu.

Ngày của người trôi sao nhanh, chớp mắt, mặt trời đã tắt đi tà huy của mình, đêm lại tối rồi, bốn phía người đi thưa dần, đôi khi có người ngang qua, mặt có nỗi thèm mau về ngôi nhà nhỏ. Nhà, tốt biết bao. Trong nhà có thể vợ đã nấu xong cơm, chờ người chồng về sum vầy, con cái chờ bố mang quà về...

Mà những người vội vã qua đường này, có lẽ cũng đang nhớ bữa cơm thịnh soạn chờ ở nhà và người vợ dịu dàng, đám con ngoan, mở cửa về con cái sẽ sà vào lòng, vợ mỉm cười êm ái...

Nhà, tôi không có nhà, cũng không biết ở đâu có nhà của tôi.

Đột nhiên, tôi nghĩ đến ngôi nhà một nghìn năm trước tôi đã đầu thai, ở đó có cha tôi, có mẹ, có cô ấy... tôi như người chết đuối vớ được cọc, người đi đường ban đêm nhìn thấy một tia sáng đèn, tôi không kìm được nỗi cảm động: "Tôi phải về nhà!"

Vào giây cuối cùng khi đêm tới, trong ngọn khói leo lét, đèn nến thắp lên đây đó, tôi hoá thành làn gió, bay về phương xa, nơi xa là nhà tôi, cách xa đã nghìn năm.

Loáng thoáng nhớ vị trí nhà nghìn năm trước, ở bên núi. Tôi khôi phục vóc tướng, bước lên đường núi. Đường núi quanh co, bên núi có thị trấn nhỏ, gọi là "Đào Nguyên Hương", tôi từng sống ở đây. Đi trên đường núi, bốn bề xanh ngắt điệp trùng, chim hót vượn kêu, hoa dại phả vào tôi hương vị nhân gian.

Được sống trong đời sống này thật hạnh phúc, tôi nghĩ. Tôi lục lọi tìm ký ức những gì còn nhớ về cuộc sống trần gian ngày xưa, xuân hoa thu nguyệt hạ đỗ quyên, tuyết hoa trắng trời mùa đông.

Hoa đào trước cổng vườn cũ, không rõ hôm nay tôi về có nở hoa rực đầy cành như ngày xưa? Cây liễu bên hồ trước làng liệu còn bầy trẻ con đùa nghịch? Những quán rượu dọc đường bay hương thơm liệu còn nhộn nhịp như ngày cũ? Những ngôi nhà cổ còn che người qua cơn mưa gió? Những bạn bầy thanh mai trúc mã thơ trẻ xưa liệu còn đầu thai về đất cũ này?

Nghĩ rồi chân bước chậm dần, quê càng gần lòng càng âu lo, cách biệt ngàn năm thời gian, cố hương, vẫn là cố hương của tôi chứ? Thị trấn ngày càng gần, tim tôi càng thắc thỏm, cảm xúc hỗn tạp, không biết nên bắt đầu từ đâu. Trong tâm trạng hoang mang, tôi một lần nữa đặt chân lên quê cũ.

Ấn tượng về khu vườn xưa đã mất, tất cả xa lạ, những con phố xa lạ, những cái cây xa lạ, những người mãi mãi là người lạ. Tất cả vừa như vẫn có gì quen thuộc, màu viên đá lát đường như xưa, dáng cây vẫn yểu điệu như xưa, gương mặt người dường như ta từng gặp, chỉ có điều không biết nói từ đâu.

Quanh quẩn mãi, tôi mới tìm được nền nhà nghìn năm trước, nơi tôi đã từng sống với cha mẹ và người thân. Nhà đã không còn, nền đất đã biến thành rừng hoa đào, giữa rừng chỉ còn sót lại một hòn thạch sư lở lói cho tôi biết đây vốn là nhà tôi, đây, là nhà tôi, ngôi nhà một nghìn năm trước, ngôi nhà đã không còn tồn tại.

Chậm rãi đi giữa rừng đào, cẩn trọng soi xét kỹ dưới chân mình đất nào là nền nhà cũ, đâu là phòng, tôi không ngờ tôi có trí nhớ tốt thế, nhớ được bao nhiêu chuyện xưa cũ. Nhè nhẹ ngẩng đầu nhìn về xa xăm rừng đào, đôi mắt ầng ậng mây mù, mơ hồ như rừng không còn nữa, tôi đang đứng giữa nhà tôi, lầu gác vòm mái, hiển hiện trong mắt.

Trong nhà giữa như vọng đến tiếng mẹ gọi tôi về ăn cơm, thư phòng dường như có tiếng cha mắng tôi trốn học. Tiểu viện tường đông, đầu tường như mọc chút rêu xanh, đó là âm thanh gì? Cô ấy ở bên tường gọi tôi, đòi tôi gấp cho cô ấy một cành hoa đào, bắt một con chim sẻ nhỏ...

Một cánh hoa rụng xuống, ngả lên những vân sóng tầng tầng giữa dòng, từng vòng sóng từng vầng loang ra, trong làn ánh sáng xao động, phòng ốc, đình viện chìm đi không dấu vết, cha mẹ, gia nhân, những lứa bạn bè quen thân hoá thành hư ảo theo sóng nước. Chỉ có hoa đào như cũ, những cánh hoa bay trong gió như mơ như ảo, như khói như mưa, như khóc như than, trái tim tôi như những làn khói bay xa, phiêu dạt theo cánh hoa, phiêu bạt...

Đêm tối, tôi mang bầu rượu, ngồi bên hòn đá thạch sư, nói chuyện cả đêm với đá. Tôi kể với đá quá khứ của tôi, nói với nó chuyện kiếp trước của tôi, nói với đá về cha mẹ tôi xưa, nói với đá về sự vô tri của tôi, nói với đá sự đau đớn của tôi, nói với đá sự buồn bã của tôi, nói với đá những khao khát của tôi, nói với đá sự hoảng loạn của tôi...

Cuối cùng tôi đắp ba doi đất vàng bên hòn thạch sư, làm thành mộ của cha mẹ tôi và người tôi yêu, dùng chỗ rượu còn sót lại, tế cúng linh hồn đã xa xưa của họ. Rượu thấm vào đất, thoáng đã khô ngay, tôi hy vọng nhờ rượu này có thể rửa đi những đau thương và bất hạnh mà tôi đã mang đến cho họ nghìn năm trước, có thể rửa đi những tiếng than vì sự bất hiếu của tôi, những oán hận vì tôi ngỗ ngược.

Nhưng tôi không biết rượu có khả năng đó thật không, đi giải những vết thương suốt ngàn năm, đi bù đắp những tiếc nuối đã ngàn năm.

Tôi quyết định ở lại sống nơi quê nhà, sau khi từ bỏ địa phủ, tôi hồn phách rã rời, không còn muốn bước chân ra đi nữa, tôi muốn có một cái nhà, đây đã là nhà tôi ở kiếp trước, cũng sẽ là nhà tôi ở kiếp này.

Tôi vốn định ở lâu trong rừng hoa đào, nhưng rừng đào ven thị trấn. Vốn cô độc trong địa phủ, tôi không thể sống chung với hàng xóm, hàng xóm luôn thấy tôi cổ quái, tránh né tôi, tôi rất buồn, tôi muốn sống như họ, nhưng tôi không biết bắt đầu từ đâu. Vì thế tôi đành dọn ra rìa núi ngoài thị trấn, tự lợp cho mình một gian cỏ.

Mặt trời mọc rồi lặn, năm nối năm, ngày trôi qua rất nhanh, tôi cũng tập tành dần thói quen người trần gian, tôi tự cày lấy vài mẫu đất cằn cỗi, trồng vài loại rau, nuôi vài con gà con vịt. Cuộc sống tuy thanh đạm, nhưng so với cuộc sống u ám nơi âm ty, tôi cảm thấy rất mãn nguyện. Đôi khi tôi cũng xuống núi vào thị trấn, bán vài thức rau mình trồng, vài con gà vịt mình nuôi, rồi vào quán quen nhắm vài cốc rượu nhỏ.

Dần dà, tôi quên mình là quỷ, quên mình đang đi tìm đại đạo, tôi dường như cảm thấy mình là người, là một kẻ phàm phu nhàn rỗi.

Một ngày, núi yên tĩnh xuất hiện một người khách không mời mà tới.

Hôm đó, tôi vừa cho gà vịt ăn xong, chuẩn bị nghỉ ngơi, uống ấm trà. Một đạo sĩ bước tới trước mặt tôi, định hoá duyên (xin đồ khất thực).

Tôi bèn đưa chút cơm rau và trà nước cho ông. Khi đưa tay ra nhận, mặt đạo sĩ biến sắc, trở nên rất khủng khiếp, mắt chòng chọc nhìn thẳng vào mặt tôi. Rồi không nói không rằng, quay người chạy mất. Tôi cảm thấy thật kỳ quặc, nhưng không ngờ một tai hoạ từ trên trời giáng xuống...

Sáng hôm sau, tôi còn chưa cơm nước gì, thì thấy đạo sĩ kia dẫn một đoàn người lên núi, có cả đạo sĩ, hoà thượng, rất nhiều dân làng. Nhóm người vừa nhìn thấy tôi đã cuống lên, rồi toả ra bao vây tôi, hoà thượng niệm kinh liên tục, niệm những gì mà tôi nghe không hiểu. Những đạo sĩ thì ném bùa chú tới tấp, cầm chuông rung lắc loạn xạ, thoáng chốc sân nhà tôi náo loạn gà vịt bay chó chạy, ruộng rau bị dẫm nát tan hoang. Tôi chịu không nổi phản đối, các người đang làm cái gì đấy! Ai ngờ đạo sĩ kia hắt một thứ đen sì vào người tôi, một mùi tanh nồng nặc lên mũi, thì ra là một chậu máu!

Tôi nổi cơn thịnh nộ, tiến tới, vung tay lên một quyền, đạo sĩ bị đánh bay văng ra vài trượng, thổ ra máu tươi, nằm úp trên đất phều phào. Tôi sững lại, giờ mới nhớ ra công phu tôi tu luyện suốt ngàn năm đâu phải sức người thường chịu nổi, may quá tôi chỉ ra một đòn nhẹ, nếu không đạo sĩ kia chết ngắc.

Đám người hỗn loạn kêu oai oái, một đạo sĩ mắng chửi: "Đồ súc sinh quỷ đói, lại còn không sợ máu chó đen!" Tôi mắng lại: "Ngươi mới nói nhảm, ta không phải ác quỷ, ta là... ta là..."

Tôi sững sờ.

Tôi là quỷ, tôi chính là quỷ đây.

Đạo sĩ quát: "Ngạ quỷ nhà ngươi, vì sao không ở địa ngục, chạy lên trần gian hại người! Quyết không tha cho ngươi!"

Tôi giận dữ, tôi nào hại người. Tôi hét lên: "Tôi chưa hề hại người!"

Đạo sĩ hét lớn: "Ác quỷ không hại người, lên trốn trần gian làm gì! Xảo trá!"

Tôi giận đùng đùng, tôi chỉ muốn về sống ở quê hương tôi, chỉ muốn có một mái nhà. Chẳng lẽ như thế là sai lầm ư? Ai ngăn cấm quỷ về dương gian! Ai! Tôi không hại ai, tôi chưa bao giờ hại ai. Tôi chỉ sống trên mảnh đất của tôi thôi!!! Tim tôi ngày càng kích động, lời mắng mỏ của đạo sĩ làm tôi không kiềm chế nổi nữa, tiếng niệm kinh, tiếng chuông, những tiền giấy bay tới tấp đầy trời, những gậy gộc gạch đá đập lên người làm tôi bức bối.

Một luồng sức mạnh tiềm ẩn trong thân tôi bạo phát, tôi ngửa đầu lên trời gào thét, một luồng âm khí từ ngực tôi vụt thoát, tức khắc biến thành một quầng vần vụ xanh lè và hoá thành cơn lốc dữ dội, thổi bay đất đá, mái nhà bị san phẳng, ruộng vườn tơ tướp, cây cối bật nhào rễ... Mấy hoà thượng đạo sĩ bị thổi bay, những người còn lại sợ hãi kinh khủng, cuống cuồng bỏ chạy xuống núi.

Hôm sau, tôi vào thị trấn định mua vài thứ cất lại nóc nhà.

Ai ngờ vừa vào trấn, những người gặp tôi mặt thảy đều xanh lè, hoảng hốt bỏ chạy. Người người tán loạn sợ hãi, cả những lính gác cổng thành đều không rõ nấp vào đâu trốn. Tôi cũng không hiểu xảy ra điều gì, cho đến khi tôi tới quán mì quen thuộc của ông Vương định ăn chút lót dạ, tôi mới hiểu ra.

Ông Vương nhìn thấy tôi đi vào, sợ run lên cầm cập, vội vàng bảo: "Đừng đến nữa, đừng có đến nữa..."

Tôi nghi hoặc nhìn, ông ta nói vấp váp: "Anh là quỷ thật ư?".

Óc tôi oà ra một tiếng, tôi hiểu rồi, tôi hiểu hết, người, không bao giờ đón nhận quỷ, cũng sẽ không bao giờ cho phép quỷ chia sẻ cõi sống cùng họ. Tôi không biết trong lòng tôi là cảm xúc gì nữa, là bi thương, là bi phẫn, là buồn bã, tôi ngơ ngẩn quay người đi ra khỏi quán nhỏ, nhìn phố không người, hàng quán xô lệch.

Tôi muốn gào, tôi muốn gọi, tôi muốn khóc... Tôi, nơi quán rượu trống hoác, cầm hồ rượu, vứt xuống một đồng xu, tôi đi khỏi thị trấn không ngoái đầu.

Giữa rừng đào, tôi uống một hơi cạn nửa hồ rượu, còn lại nửa bình rưới lên đất.

Tôi vốn định năm nay mùa hoa đào nở, tôi sẽ xây những nấm mồ thật cho họ, nhưng xây rồi nào để làm chi, mà tôi cũng chẳng còn thể nào ở lại nơi này.

Tôi vốn tưởng đây là quê nhà, nhưng không phải, nghìn năm trước là, nghìn năm sau không! Bãi bể ruộng dâu, thiên địa vô tình, ai ngờ nhân gian lạnh lùng thế, những người bạn ta từng quen thân, lại nghĩ ta không phải đồng loại mà vứt bỏ ta, những người qua đường từng đi bên cạnh, giờ trốn tránh ta, như ta là hồng thuỷ, ta là thuốc độc...

Lần này tôi không có nước mắt, nhưng trong tim tôi đau như là nhỏ nước mắt, đau tới mức tôi không thể thở...

"Lang tang..." chiếc hồ rượu vỡ tan dưới chân, như mảnh vườn tan nát của đời tôi, giấc mơ tan nát của tôi.

Chương Bốn: Tình về chốn nào

Ngọn cả lả bóng tà dương, lả ngoài bóng tà dương, nước lạnh mây vàng, nếu có ruột cũng đau đớn đứt ruột, nữa là tôi không có ruột.

Những ngày trên cõi thế, tôi như con trùng bám trên lá khô trôi dật dờ, vật vờ mãi không hết ngày, những cơn sóng triều của nhân gian lôi tôi đi, tôi muốn phản kháng, nhưng hết sức, cũng không kháng cự nổi. Tôi không biết bờ bên kia của tôi là phía nào, tôi chỉ biết nhìn xa vời triều lên triều xuống, kệ dòng trôi dạt.

Tôi là quỷ, là thứ con người ghê sợ nhất, cho dù tôi dùng nỗi niềm nào đi khao khát những dịu dàng êm ái, nhưng cũng không bao giờ có được một trái tim ấm áp, bởi vì tôi là quỷ.

Dần dà tôi quy thuận số mệnh của mình, ban ngày, tôi nấp trong góc tối, nhìn ra những tấp nập nhiều màu của người sống, ban đêm, tôi lẩn vào dòng người, thử đi nếm những niềm vui cõi hồng trần. Tôi tưởng tôi đã rèn một chiếc mai, cõng nó lên, sống cẩu thả tạm bợ qua ngày, giữa xã hội của con người.

Bình minh, những tia nắng sớm uể oải chiếu vào từ cửa sổ, trời đã sáng rồi...

Tim tôi bỗng trở nên lo âu luống cuống, tôi không thích bình minh và nắng trời. Sự mát mẻ của bình minh và tia nắng ấm làm da tôi có cảm giác hỗn loạn, một hơi ấm từ ngoài thấm vào làn da còn lạnh lẽo, làm tôi cảm giác ngứa ngáy và tê tái bứt rứt khó tả. Trên da như có nghìn con côn trùng đang bò, muốn bắt chúng không được. Tâm trạng càng lúc càng cồn cào...

Lại qua một đêm ngập trong rượu. Với người đời, một ngày vừa mới bắt đầu, với tôi, một cuộc vui sống vừa kết thúc. Tôi không ngăn được tôi căm ghét cả thế giới này, mọi sức mạnh thần linh trên đời.

Tôi thích đêm đen, vì tôi là ngạ quỷ, giữa tiếng câm lặng yên tịch, trái tim tôi từ tốn lại, màn đen kịt của đêm che phủ lên tất cả những gì tôi không muốn để người đời thấy. Tôi thả lỏng người trong bóng đêm, tôi lúc này mới thực sự là tôi. Tôi không cần để ý xung quanh, không cần canh cánh bên lòng mọi sự, cho dù bên tôi ẩn chứa những ác mộng của đêm đen tôi cũng không bận lòng. Bởi tôi với ác mộng là một, đều thuộc về bóng tối...

Trong màu đêm vô tận, tình cảm của tôi chảy lan, theo nước triều lên xuống, tất cả đã là vật ngoài ta, đã không còn liên quan gì đến tôi... Quan trọng nhất là trong màn trời tối đen, tôi được phục sinh.

Tôi rất cô độc. Tôi khao khát được đến gần, khao khát được quan tâm. Hy vọng có một người bên tôi, lúc nào cũng bên tôi. Đó, sẽ là những giây phút hạnh phúc nhất. Hiện thực thì vô cùng u ám, tôi không còn cơ hội nào cất tiếng nói với con người, kể chuyện tâm sự. Đôi khi, tôi phát hiện một cơ hội nhỏ nhoi, nhưng cũng chỉ là một chấm sáng vụt tắt. Lâu dần, tôi bắt đầu buồn phiền, bắt đầu oán trách. Cuối cùng, tôi cũng chẳng được thần linh nào đoái hoài, có thể ngay cả thần phật cũng đã vứt bỏ tôi rồi, bắt tôi phải sống trong đêm tăm tối.

Những lúc lên đèn, người như một đàn ong huyên náo trong tổ ong, tôi thèm được hưởng sự huyên náo thoải mái ấy, nhưng tôi dường như không sống trong cõi người, tuy tôi nhìn được họ, nhưng tôi mãi mãi không thể tới gần.

Xuân đi xuân lại, thu về thu qua. Những mầm non từng vươn nở trong gió xuân, những chiếc lá đã mọc lên giữa đêm hè, những khúc biệt ly lưu luyến bay múa giữa gió thu, những bùn hoá dưới tan tác tuyết đông, rồi như phép lạ xuất hiện ở đầu cành, lại một màn xanh tươm óng toàn thân cây. Cỏ cây như đều hớn hở sinh sôi, có sinh có tử, có đến có đi, kẻ tới hôm nay tiếp kẻ vừa lìa ngày qua.

Nhìn những sinh linh mạnh mẽ ấy, tim tôi như dây đàn bị ai lướt một khúc nhạc, nặng lòng và cuống quýt. Cây cỏ cũng có thể vậy, tôi tuy là một hồn quỷ, nhưng tôi đã sống qua hai nghìn năm rồi, tôi cũng đã từng tu luyện đại đạo rồi. Giữa bao la chúng sinh, tôi cũng điềm nhiên có một số mệnh như ai. Tôi đã bỏ địa ngục rồi, không thể quay về đấy nữa, và tôi cũng không muốn quay về, tôi đã tới cõi mười dặm hồng trần này rồi, thì tôi sẽ sống như một "người" trong nhân gian, tôi không muốn làm một "quỷ" chỉ có quyền sống dưới địa ngục.

Tôi phiêu dạt tứ xứ, lưu biệt lãng đãng, tôi lại tìm một nơi mới cho tôi trồng lên số mệnh mình.

Tôi muốn tìm một người bầu bạn, bên mình suốt đời. Quên đã bao mùa nhạn bay về phương Bắc, quên đã bao mùa én con rời tổ. Bạc những vết bụi hoàng thổ con đường cũ dưới chân tôi, bạc những ngọn khói liễu heo hắt bên mình. Giữa đất trời chỉ có mỗi một tôi đi...

Nhớ chớm thu năm ấy...

Ngoài quan tái cảnh vật không còn giống như Giang Nam, Trung Nguyên, trời cao mây nhạt, mênh mang chân trời, có khúc ca vọng tới:

"Trời xanh xanh, cỏ mênh mang, gió thổi cỏ ngả xuống, hiện lưng cừu đàn."

Tôi đi lang thang trong thảo nguyên, nhìn núi Hạc Lan uy nghi xa xa, những mạch núi gân guốc dưới nắng mặt trời. Trên thảo nguyên không có đường đi, chỉ có những người du mục đôi khi ngang qua đuổi một đám bò cừu.

Lòng tôi nhẹ nhõm, có lẽ bởi phong cảnh rộng rãi ngoài biên ải đã giúp tôi thở rộng lồng ngực, hít vào ngọn gió xua mây mù trong tim tôi. Tôi rất muốn chào hỏi người chăn cừu, trò chuyện với họ, nhưng tôi lại sợ người ta phát hiện ra tôi là ai, tôi do dự mãi. Tôi chỉ nhìn theo họ lùa những đàn súc vật đi xa dần...

Có một ngày, tôi ngồi trên một gò cỏ nhỏ, yên lặng ngắm đám mây màu uyển chuyển cuối trời. Màu mây biến đổi diệu kỳ, lúc là ngọn núi, lúc thành cái mũ, lúc là con ngựa, một chú dê... Dê? Tôi đột nhiên phát hiện, không biết từ lúc nào một đàn dê đã chạy tới bên tôi, dê rất đáng yêu, chỉ cúi đầu yên lặng gặm cỏ... Tôi ôm một chú dê vào lòng, vuốt ve lông dê, lúc đó, một chú chó chăn dê chạy đến chỗ tôi, dừng lại trước mặt tôi, nhìn tôi, tôi nhìn nó.

Một lúc sau, con chó chăn dê lười biếng nằm xuống chân tôi, tôi đưa tay xoa đầu nó, mũi nó ngửi hít áo quần tôi, thè lưỡi liếm tay tôi. Một bóng người chạy tới, là một con người, tôi bắt đầu tự dưng lo lắng, không biết nên bỏ đi hay nên...

Người đó đã chạy đến trước mặt tôi, con chó dưới chân tôi đứng dậy, nhiệt tình chạy tới bên chân chủ, vẫy đuôi rối rít.

Người đó chăm chú nhìn tôi, tôi cũng nhìn người đó, là một cô bé, chừng mười lăm mười sáu tuổi. Tôi luống cuống đứng dậy, tôi sợ họ nghĩ mình là kẻ trộm, sợ họ ghét mình, sợ nói chuyện với họ. Tôi ngốc nghếch cười với cô bé, nhưng vì quá lo âu, tôi cứ ôm khư khư con dê trong lòng không thả ra.

Cô gái quỳ xuống, đỡ lấy con dê trong tay tôi, ôm nó vào lòng. Rồi bảo tôi, anh có đói không?

Tôi không ngờ cô gái nói với tôi câu đó, tôi há miệng trợn mắt không trả lời được. Cô gái ấy đi xuống sườn đồi, nhìn tôi đờ đẫn không phản ứng, quay lại nói thêm: "Đi với em đi!"

Rồi cô ấy cười rạng rỡ...

Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một nụ cười đẹp như thế...

Không, tôi đã từng nhìn thấy, tôi đã từng gặp...

Tôi quay lại một nghìn năm trước, bên chân cầu Nại Hà, một nụ cười không có gì xinh đẹp hơn...

Trái tim tôi buốt nhói một ý nghĩ "lẽ nào là cô ấy?"

Tôi không biết nên làm gì, nên nói gì, chỉ thấy chân mình đã bước, theo cô ấy.

Dưới sườn núi là một lều Mông Cổ, tôi đứng ngoài lều, lưỡng lự. Cô ấy mở rèm cửa, lại cười với tôi, rồi vẫy tay cho tôi.

Trong lều Mông Cổ, trên bếp lửa đang đun nồi thịt dê, một người đàn ông cao to kêu tôi ngồi xuống. Cô cười vui đưa cho tôi bát sữa ngựa. Tôi chẳng biết nói gì, vụng về lúng túng, thôi thì họ đưa gì tôi ăn nấy, nghe họ nói chuyện tôi biết tên cô gái là Hốt Lan, người đàn ông cao lớn là cha cô.

Tôi chăm chú ăn thịt dê, uống sữa ngựa, bố cô nhìn tôi ăn bèn cười ha hả, còn cô nhìn tôi tủm tỉm, tôi cũng cười theo ngô nghê.

Ăn hết, tôi quẹt mồm, lúc này Hốt Lan mới mủm mỉm và nghiêm túc nói: "Anh ăn thức ăn nhà tôi, anh trở thành nô lệ cho nhà tôi, đây là luật lệ của thảo nguyên!".

Tôi lại đờ đẫn cả người, mồm há hốc, nhưng thấy cô ấy nói rất nghiêm túc, tôi chỉ còn biết vâng. Lúc này cô cười lên một tràng giòn giã lanh lảnh như chuông bạc, bố cô cũng cười phá lên sảng khoái, chỉ có tôi ngồi đó, mồm vẫn tiếp tục há hốc.

Bố cô hỏi tôi: "Anh là người ở đâu?" Tôi ngơ ngẩn lắc đầu, ông ta lại hỏi: "Anh mấy tuổi?" Tôi không dám nói tôi 2000 tuổi, vì thế, tôi thờ thẫn lắc đầu. Bố cô nhìn tôi dò xét: "Thằng này bị dở hơi chăng!".

Cô cứ cười tủm tỉm mãi, rồi bảo bố: "Người này thú vị ghê, bố giữ nó lại nhé!"

Bố cô đánh giá tôi, không nói gì. Tôi nhìn cô, tôi nhìn qua đôi con ngươi nâu xanh trong vắt, tôi dường như thấy cả quá khứ xa thăm thẳm, những biệt ly cũ, những nhớ nhung xưa, những sầu đau xưa, tất cả tất cả xưa xa... Tôi không kìm được nước mắt chảy ròng ròng xuống má, tôi dập đầu lên nền đất, van xin: "Xin hãy giữ tôi ở lại đây, cho dù bắt tôi làm nô lệ cho ông, xin ông hãy cho tôi ở lại!"

Tôi thành tâm khẩn cầu, như năm đó tôi khóc ròng đau đớn van xin Bồ Tát.

Hai cha con người Mông Cổ kinh ngạc vì phản ứng của tôi, nhưng thấy tôi thành tâm và đầy nước mắt trên mặt, cả những lời nói khẩn cầu không thể giả tạo, họ tỏ vẻ thương hại. Cuối cùng cha cô giữ tôi lại.

Trong tim tôi có niềm vui không lời, tôi lén nhìn cô gái, muốn biết cô nghĩ gì, mắt cô vẫn trong sáng, nhưng dường như trong sâu thẳm tâm hồn có chút nghi ngại.

Tôi không dám nhìn cô lần nữa, những ngọn triều trong hồn tôi đã phản chiếu lại một đôi mắt trong ký ức nhìn tôi căm hận ai oán, tôi sợ hãi đôi mắt ấy, tôi sợ hãi ánh nhìn ấy. Tôi sợ hãi số mệnh...

Tôi tự nhủ: Cho dù cô coi tôi là gì, đời này kiếp này tôi nguyện làm nô lệ cho cô một đời một kiếp, cho dù tôi là nô bộc, nhưng chỉ cần được ở bên nhau, được nhìn thấy nhau, cũng đủ...

Từ đó, tôi ở lại, ngày ngày tôi ở bên cô, cưỡi ngựa, chăn dê...

Ngày nối ngày qua, tôi ngày ngày cầu xin, cầu cho cô mãi mãi vui tươi, cầu cho cô mãi mãi không bao giờ ghét bỏ tôi, mãi mãi để cho tôi theo cô, mãi mãi làm nô bộc của cô... Tuy cô ấy chưa bao giờ coi tôi là nô lệ, nhưng tôi là một ngạ quỷ, một ngạ quỷ chỉ có thể làm nô bộc...

Tôi đã từng nghe người nói, những cây cỏ đá núi cũng có linh hồn, nếu nó cứ một lòng một dạ cầu nguyện làm người, rồi sau sẽ được biến thành người thật. Tôi tuy đã có hình người,nhưng tôi vẫn ngày đêm mơ được làm người, không rõ bao nhiêu đêm mộng say, tôi mơ thấy tôi biến thành người thật sự.

Cứ thế qua vài năm, cô đã lớn, mỗi ngày nhìn thấy cô, tôi như mê mẩn tâm thần, nhưng tôi cố gắng kìm nén tình yêu dành cho cô ấy, khao khát với cô ấy. Tôi vĩnh viễn ghi nhớ những ảo mộng đau đớn khắc cốt ghi tâm của kiếp trước, đôi mắt oan khuất của một người con gái tình nguyện chết đi.

"Chỉ sợ tình thắm thiết, tan vỡ mộng mỹ nhân" tôi hiểu rõ lẽ đời này. Tôi tình nguyện làm một cái cây cho cô ngồi bóng mắt, tôi tình nguyện làm lưng ngựa cho cô tuỳ ý vung roi cưỡi, tôi tình nguyện làm đốc dao cho cô phòng thân, tôi tình nguyện làm vò đựng trà sữa cho cô uống.

Tôi không muốn hé nỗi lòng với cô ấy, không muốn hoang tưởng được ôm cô vào giấc ngủ, bên nhau cười xem hoa nở, hoa rụng... Tôi đã không còn tin đời mình có hạnh phúc, không muốn biết tôi và cô liệu có duyên, nếu những giấc mơ tươi đẹp đó có thể vì tôi mà tan vỡ, tôi nguyện mãi mãi im lặng...

Rồi sau, cha cô mất. Trước lúc chết, ông hứa gả cô cho một chàng trai trẻ của bộ tộc khác.

Ngày đón dâu, cô ấy trang điểm rất đẹp, làn da mịn trắng hơn cả sữa ngựa, tóc nhóng nhánh hơn ngọc trai, những phấn hồng trên gò má hồng hơn những mây chiều, ánh sáng trong đôi mắt cô ấy đẹp hơn mọi ngôi sao lạnh lẽo bên trời.

Tôi đăm đăm nhìn cô ấy, giá như cô ấy là cô dâu của tôi, nếu như là của tôi... Tôi chỉ thấy mình rơi dần vào địa ngục, chìm sâu dưới bóng đêm vô tận, những bùn lầy tăm tối nuốt chửng tôi, tất cả đã như một kết thúc. Tôi đăm đăm nhìn cô ấy, tôi thấy cô rực rỡ thế, sáng rạng như thế, tôi thấy đôi mắt long lanh màu hổ phách, trong mắt cô những câu hỏi khôn cùng, tôi không cách nào hiểu nổi những gì trong mắt, bởi những lời trong đôi mắt nói nhiều quá, quá nhiều.

Đám rước dâu đi xa dần, tôi đứng lại một mình giữa thảo nguyên bao la, tôi đứng rất lâu, tôi không biết giờ tôi nên làm gì, tôi không biết, trái tim tôi đã bị móc mất, tôi đã mất tất cả.

Đêm tối xuống thảo nguyên, tôi ngửa mặt nhìn trời cao, trên tấm màn lông ngỗng bao la phủ vòm trời kia, gương mặt cô ấy hiện ra xinh đẹp và rạng rỡ mỉm cười, rồi lại biến mất.

Trong một giây khắc đó ánh sáng bỗng chói loà vạn trượng, mắt tôi nhìn thấy những ánh sao như mưa rơi tới tấp, cả thế giới đã ngừng lại, tôi không biết nụ cười đã mất đi ấy là những hồi ức từ tiền kiếp hay chính là tương lai của cõi này.

Đứng một mình giữa đêm khuya, chợt phát hiện thấy chính mình đã lệ rơi xuống ướt đẫm mặt mày...

Tôi thấy kiếp người đau khổ quá, tôi không dám thổ lộ cùng con người, không dám đi dọ tìm, sợ tất cả sẽ kết thúc. Ai biết được thế gian này cái gì có khởi đầu thì đều có kết thúc, mà đến lúc kết thúc tôi mới hiểu, đáng lẽ tôi phải nắm lấy cơ hội sớm hơn, nhưng, làm sao tôi biết được điều đó?

Đêm trên thảo nguyên rất yên tĩnh, tĩnh tới mức cho tôi nghe thấy tiếng tim đập, cũng không thể ngủ, tôi ôm lấy cái chăn cô ấy vẫn đắp, thở mùi thơm cô ấy còn để lại mơ hồ, trong tim tôi không hề đau đớn, không hề hối hận, tôi chỉ nhớ lại những ánh mắt của cô ấy, những cái nhìn trong veo như nước...

Khi sắp li biệt, thường có muôn ngàn lời muốn nói. Nhưng ra đi thì vẫn phải ra đi. Ngày em đi, gió sẽ thổi hết những hơi thở em để lại, nhật nguyệt sẽ mang nốt những chuyện cũ của em, làn mây trắng sẽ xoá đi những vết thương ngày xưa của em, và đám sao sẽ che giấu cái khoảnh khắc em vẫy tay sau cùng.

Tôi vĩnh viễn ghi nhớ khoảnh khắc ấy, như khoảnh khắc lần đầu tiên tôi nhìn thấy em...

Đột ngột, một đôi tay vạch tấm cửa ra, ánh trăng dát bạc toả khắp lều, trong lều là tôi, kinh ngạc vạn lần, ngoài lều là cô ấy, gương mặt đã hút hồn tôi bao cơn mê! Tôi không dám tin vào mắt mình, cho mãi tới khi cô ấy chạy vào trong lều, chầm chậm ngồi xuống cạnh tôi. Tôi nhận ra mình vẫn còn ôm chặt tấm chăn của cô ấy, thoáng chốc tôi đỏ mặt xấu hổ ghê gớm, không biết phải giải thích thế nào, tôi vừa ngước lên, nhìn cô ấy, cô ấy cũng nhìn tôi, như trên sườn núi nào gặp tôi. Tôi không nói lên lời.

Cô ấy sát tới, nhè nhẹ đỡ cái chăn trong tay tôi, rồi nhè nhẹ nói: "Ôm em đi..."

Tôi không chống cự, không thể chống cự, không muốn chống cự, run rẩy đưa tay ôm lấy eo cô ấy. Cô ấy rúc vào lòng tôi, khóc nghẹn lời... Tôi ôm chặt cô, cô cũng ôm chặt tôi, bấu chặt cánh tay tôi, chúng tôi cùng khóc. Chúng tôi ôm nhau rất lâu, cho đến lúc nước mắt khô đi...

Đêm đó, cô ấy thành vợ tôi. Tôi rất vui, rất hạnh phúc, dường như một nghìn năm luân hồi đã chuộc lại cho tôi tất cả, số phận u ám trầm uất đã rời tôi, tôi thấy giây phút này, đến địa phủ cũng nên gội trong ánh mặt trời. Tôi cảm tạ thần phật anh minh, cảm tạ lòng nhân từ của trời đất, thoát khỏi bể khổ, tôi thành tâm cầu nguyện đất trời.

Chúng tôi đến một đồng cỏ thật xa để dựng lều, ngày trôi qua thật hạnh phúc, thứ hạnh phúc yên bình như nước. Chúng tôi vẫn như thuở trước, cùng nhau cưỡi ngựa, cùng nhau chăn dê. Đêm xuống, cô ấy dựa vào lòng tôi, thủ thỉ những tâm sự của mình. Tôi thường lơ mơ ngủ quên, rồi cô ấy nổi giận lay tôi dậy, rồi cô ấy lại thủ thỉ tiếp những câu chuyện mãi mãi không kết thúc, mãi mãi...

Những ngày vui sướng qua mau, trời đất như cố ý nhạo tôi, cho tôi nếm một chút hạnh phúc, rồi bắt tôi cõng nỗi đau vĩnh hằng...

Cô ấy ốm, ngày càng tiều tuỵ, thuốc gì cũng không khỏi, thân thể cô ngày càng yếu ớt, còn như chiếc lá thu trước cơn gió, tôi nghĩ mọi cách, thậm chí đi đánh tuỳ tùng của Tây Vương Mẫu Côn Lôn bị thương, ăn cắp tinh của Tuyết Liên. Nhưng cô ấy không khoẻ lại. Tôi nhìn hai gò má cô ấy ngày càng gầy xanh xao, nhìn đôi mắt đen quyến luyến, tôi không kìm được lệ.

Cô ấy cười thê thiết: "Ở bên anh, thực sự rất hạnh phúc, em không hối hận..."

Trong sát na đó, tôi chợt hiểu ra! Tôi là quỷ, quỷ hút mất tinh khí của người! Là tôi đã hại cô ấy, tôi là một con quỷ hại người! Tôi khóc không thành tiếng, cô ấy ôm chặt lấy tay tôi, nước mắt nhoà cái nhìn của hai chúng tôi...

Khi đôi tay cô ấy chậm rãi trượt xuống khỏi tay tôi, tôi không còn nhớ gì nữa, tôi chỉ nghe thấy cô ấy nói câu cuối cùng: "Đừng bỏ em...". Nỗi đau ngập tràn thân thể tôi, căng tức rồi bùng nổ ra, biến thành đầy trời cát bay lấp hết thảo nguyên... Trong bão cát, tôi gạt đi dòng lệ cuối cùng, cô đơn đi về phía thế gian mênh mang.

Luân hồi, Nhân quả, Tình duyên, Yêu đương, Thương đau, Mê hoảng trong giờ phút này đều hoá thành sao băng rơi, vạch qua chân trời, rơi vào trong cõi xa sâu vô đáy. Thế giới là một màn đen kịt, là trái tim tôi, trong tim loé lên một ánh sao băng huy hoàng ngắn ngủi, thế giới đã sáng lên trong khoảnh khắc đó, thứ ánh sáng không bao giờ tắt nổi...

Cô ấy vì tôi đã lại chết đi một lần nữa, nhưng tôi không hối hận, bởi chúng tôi đã từng được hạnh phúc, quen nhau kề nhau, không rời không lìa, những ngày ôm ấp bên nhau không sợ li tan. Tôi sẽ lại chờ cô ấy, chờ cô ấy lại quay lại trần thế này, tôi tin lần sau tới, tôi sẽ tìm được cô ấy, tìm được cách ở bên cô. Tôi tin, rồi sẽ có một ngày, cô ấy sẽ quay lại.

Vạn thế luân hồi, nghìn ảnh hợp tan, mây về lại bên trời, trăng mém góc rừng, không rõ gió vô định về đâu, là về, hay là đang ra đi?

Trái tim vừa nhói, lệ đã một hàng...

P/S: Tôi gõ xong những dòng cuối cùng của truyện, rời quán cafe internet, hít một hơi thật dài trong lồng ngực nhẹ nhõm. Phố đã muộn, đang đi bộ ra bến xe bus thì nghe thấy tiếng khóc thút thít. Là một cô gái bên đường. Cô bảo đã đánh mất túi xách, giờ không có tiền đi xe về nhà. Tôi cho cô mượn máy di động để gọi về nhà, rồi cùng đứng đợi xe bus. Cô ấy gạt nước mắt, cười với tôi, nói: "Cảm ơn anh!"

Trong sát na đó, ngực tôi như bị cái gì đấm mạnh một cái, tim hỗn loạn...

Tôi chưa bao giờ thấy một cô gái cười đẹp như thế, tôi chỉ cảm thấy sao chân tôi mềm nhũn ra...

Em Còn Yêu Anh Không? [Trang Hạ dịch]

Lúc nửa đêm, máy di động của cô gái có tin nhắn mới, cô lười biếng bò dậy khỏi giường, mở máy xem, tin nhắn chỉ một câu ngắn ngủi mà để cô cả đêm trằn trọc:

"Em còn yêu anh không?"

Đó là tin nhắn của người yêu cũ, vào lúc họ đã chia tay nhau nửa năm. Cô cứ nghĩ anh ấy sẽ chẳng bao giờ send tới bất kỳ tin nhắn nào nữa, bởi ngày đó họ chia tay nhau khó hiểu mập mờ, và cô chưa từng nghe từ chính miệng anh nói một lời dứt khoát: "Ta chia tay thôi!"

Cô cứ chờ đợi người bạn trai nói với cô câu đó, nhưng anh không, anh chọn cách chạy trốn, không cho ai tìm ra mình. Bạn bè đều khuyên cô nên thôi, vẫn chê anh không ra gì, vô trách nhiệm, không dám đối mặt, cho dù sau này cả hai có thành gì của nhau thì rồi cô cũng khổ thôi.

Cô chỉ mỉm cười, thường nói cô đã lâu rồi chẳng bận tâm, thiếu gì chàng theo đuổi, đời nào cô để ý tới người chẳng trân trọng cô. Nhưng mọi người đều biết, nửa năm qua, cô vẫn không quên anh.

Bởi những chàng theo đuổi cô nào ai đến gần được cô nửa bước.

Có lẽ anh còn yêu mình, cô đoán thầm. Anh chỉ chiến tranh lạnh mà thôi, chỉ tạm không liên lạc thôi, chỉ vì muốn cả hai có chút không gian tự do, để không như trước đây, anh luôn trách cô bám anh quá, làm anh thấy vướng víu nặng nề.

Có lẽ chỉ vì thế, chờ khi anh thấy nhẹ nhõm, tự nhiên quay lại bên anh, hai người sẽ như xưa, sẽ là quan trọng nhất của nhau.

Nghĩ thế, nên cô đã cố để tự đứng vững, cô bắt đầu một mình đi dạo, xem phim, một mình nấu cơm chăm sóc mình, một mình ra ngân hàng trả nợ, một mình học lái xe, chọn xe, thậm chí đi mua xe ô tô, một mình đi tìm nhà, dọn nhà mới, một mình đối mặt với cái chết của cha mẹ mình sau tai nạn giao thông...

Cô giờ đây đảm đương đời mình. Nhưng trong tình yêu, vẫn cần có anh ở bên.

"Em còn yêu anh không?"

Trời đã rạng, cô đã nhìn tin nhắn suy nghĩ dọc đêm, biết người con trai ấy đã hiểu ra, dù anh không chịu gọi điện trực tiếp cho cô, nhưng ít nhất đã gửi tin xem cô thế nào. Cô rất muốn gọi điện ngay cho anh, nói với anh rằng nửa năm nay em nhớ anh biết bao; nói rằng trong những thời gian đáng lẽ anh phải ở bên cô, thì cô đã chống chọi vất vả vượt qua; nói rằng dù nửa năm nay anh bỏ rơi, nhưng cô không đành xoá anh khỏi tim mình...

Nhưng cô kìm được, cô không muốn nửa năm chờ đợi sẽ tiêu tan thế này, cô muốn anh phải đau khổ, cô muốn giữ chút tự tôn.

"Không còn yêu!"

Cô mỉm cười bấm ba chữ, reply.

Sau đó, cô cứ chờ anh gọi lại cầu xin, chờ tin nhắn thăm dò tiếp theo của anh, chờ anh đột nhiên nhấn chuông cửa, rồi khi cửa mở anh đã đứng trước mắt, mạnh mẽ ôm lấy cô vào lòng, và dịu dàng nói anh biết anh đã từng sai lầm, rồi sau anh sẽ nâng niu cô...

Nhưng, ngày nối ngày, tháng nối tháng, nửa năm lại trôi qua, cô gái không hề nhận được bất kỳ tin tức gì về người yêu cũ.

Một ngày, từ bạn thân của anh, cô biết người yêu cũ tháng sau sẽ cưới vợ, cưới một người con gái cô chưa từng quen.

"Anh ấy bảo anh ấy rất cảm ơn em, nếu nửa năm trước em không reply tin nhắn, anh ấy làm sao đủ quyết tâm quên em đi, càng không thể cho cô gái kia một cơ hội..."

Nắm tay và làm tình [Trang Hạ dịch]

Có một người bạn tôi thổ lộ, cô ấy yêu anh bạn trai suốt một năm, mà mới chỉ nắm tay, còn chưa hề hôn. Tôi hỏi cô bạn, thế giờ là năm nào, cô ấy trả lời là năm 2004. Cô ấy không còn trinh, cô ấy từng có bạn trai, nhưng cô ấy chấp nhận chỉ nắm tay người yêu mới suốt một năm, mà vẫn chưa vội hôn.

Từng có người bạn viết một bài, nói con trai thường nắm tay cô ấy lúc đi qua đường, lúc đi dạ hội, lúc đi xem phim ma ở rạp, và bảo cô, nắm tay hay không nắm tay rất quan trọng.

Tôi nhớ về khi còn yêu, những phút làm tôi cảm động nhất, đều có liên quan đến cái nắm tay.

Lần đầu tiên tôi nắm tay bạn trai trong mối tình đầu, tôi xấu hổ đến mức độ cứ cúi gằm xuống, hồi hộp lo lắng nên ra cả mồ hôi tay, dường như lúc đó là tuyên bố: "Chúng ta sẽ cùng bên nhau!", và trái tim tôi đập vội vàng cuống quýt đến gần tắt cả thở.

Tôi rất thích người bạn trai lúc đó, khi đi đường, bước chân anh ấy rộng hơn vượt lên tôi, thì tay vẫn nhớ đưa về sau, lòng bàn tay hướng lên trên, ngầm nói với tôi rằng em ơi, đưa tay đây cho anh. Cái cảm giác đó êm ái lắm.

Tôi cũng thích lúc đi ăn cùng bạn bè, người yêu tôi lén nắm tay tôi dưới gầm bàn, và cả hai thậm chí không nhìn vào mắt nhau, mà qua hơi ấm lòng bàn tay anh ấy làm tôi hiểu rằng anh đang ở bên tôi.

Khi đi xe máy, anh ấy buông tay trái ra nắm lấy tay trái tôi, lúc lái ô tô, anh sẽ buông tay phải ra nắm lấy tay phải tôi. Tôi thích bàn tay rộng lớn của một người con trai, ngón tay dài, lòng bàn tay chắc chắn, để tôi cảm nhận được sức mạnh của anh, và yên tâm dựa vào trong vòng tay anh.

Mỗi lần mùa đông, tay người bạn trai là lò sưởi của riêng tôi, cho dù trời lạnh thế nào, cho dù là mười độ dưới không, tôi đều có hơi ấm của anh. Mà hơi nóng của lòng tay người con trai bạn yêu thường vừa đủ ấm, cho dù người con trai khác cũng có thân nhiệt như thế, thì bạn cũng chỉ quen với hơi ấm của người yêu thôi.

Khi chúng ta lớn lên, làm người trưởng thành, nhịp điệu của tình yêu trở nên vội vã hơn, và một cái nắm tay đã trở nên không còn nhiều ý nghĩa nữa, bạn có thể thấy một cái nắm tay sao dễ dàng, hoặc nó chả còn biểu lộ cái gì nữa. Khi chúng ta ở cạnh nam giới, có thể tất cả không còn bắt đầu bằng cầm tay nữa. Mà có thể tình yêu sẽ bắt đầu từ một cái hôn, hoặc là ta có thể làm tình với một người con trai, rồi mới yêu anh ta.

Hoặc thậm chí, cái gì cũng đã "trao" rồi, nhưng vẫn không hề yêu anh ta một chút nào.

Tôi cũng nghĩ đến rất nhiều người đàn ông, họ có thể đồng ý hôn một cô gái, làm tình với cô ta, nồng nhiệt như những tình nhân hạnh phúc nhất, thế nhưng chưa chắc anh ta đã chịu công khai nắm tay bạn trước đám đông.

Chúng ta đã bắt đầu quen với những quan hệ tình cảm phức tạp, quen dần cả những quan hệ quá sâu về xác thịt, nhưng chúng ta lại bỏ qua một cái nắm tay giản đơn. Hoặc có thể ta không bỏ qua, ta chỉ không coi nó là một cái gì quan trọng và cần thiết.

Tôi nghĩ, nắm tay hẳn rất đơn giản, nhưng nó chính là một thứ quan hệ xác thịt khó thực hiện nhất.

Chúng ta có thể dễ dãi nắm tay bất kỳ người nào, nhưng chúng ta không dễ dãi làm tình với bất kỳ người nào.

Ngược lại, chúng ta có thể rất dễ làm tình với một người nào đó, nhưng chúng ta lại rất khó nắm tay một cách giản dị và thiết tha với họ.

Tôi nhớ lại những người con trai đã yêu tôi, họ rất ít nắm tay tôi, và khi đi đường, đại đa số là tôi chủ động nắm lấy tay họ.

Họ vì là người chững chạc, trưởng thành, nên không còn bột phát và chủ động, tôi đã không bao giờ nói với họ rằng, tôi mong biết bao người yêu đưa tay dắt tôi trước, chủ động nói anh yêu em, chủ động nói anh trân trọng em biết bao, anh cần em biết bao. Mặc dù tôi là một cô gái rất tự tin năng động, nhưng tôi rất cần bạn trai chủ động, anh hãy cho tôi sức mạnh để tôi yêu anh đi.

Không lẽ nắm tay, nói yêu tôi lại khó khăn thế? Phụ nữ dù đã chững tuổi, hay còn thơ ngây, cái phụ nữ cần rất giản đơn.

Có nhiều khi trên đường về, những cái nắm tay của những đôi vợ chồng già đã làm tôi cảm động. Có bao nhiêu người trên thế giới già rồi, đi không nổi nữa, nhưng vẫn được một bàn tay nắm dìu đi chầm chậm? Trong cả cuộc đời này, đến khi bạn già, xấu xí, bệnh tật đầy, bước đi thập thễnh, anh ấy sẽ còn ở bên bạn nắm tay bạn chăng? Cho nên mỗi khi nhìn thấy những đôi vợ chồng già tôi thường mỉm cười, nhưng không ngăn được nước mắt thấm ướt mi.

Có người nói với tôi, làm tình xa cách hơn nắm tay. Tôi không hiểu, tôi nghĩ làm tình thì phải gần gũi hơn nắm tay chứ. Không phải chúng ta vẫn phân loại tình cảm theo thứ tự này: Nắm tay - ôm - hôn - âu yếm vuốt ve - làm tình. Rõ ràng làm tình chứng tỏ tình yêu sâu sắc hơn nắm tay chứ?

Không đâu.

Thật sự là không đâu.

Có những người làm tình trước, nắm tay sau. Cũng có người hôn trước, rồi mới cầm tay. Nếu sau đó chúng ta yêu nhau, thì thứ tự trên chẳng còn gì là quan trọng nữa. Nhưng bạn có phát hiện ra rằng, rất nhiều người họ muốn bí mật làm tình cùng bạn, nhưng lại không đồng ý nắm tay bạn giữa đám đông?

Mà những gì còn lại ngọt ngào trong trái tim người con gái, không hẳn là lúc làm tình, mà thường là lúc bạn trai nắm tay thật chặt, thật sát, khi dọc đường, khi trên xe, hoặc cái nắm tay ngay cả lúc đã ở trên giường. Như thể qua lòng tay ấm truyền cho mình cảm giác, anh ấy yêu chân thành.

Nếu một cái nắm tay có thể làm mình cảm động, nếu tình yêu có thể đơn giản như thế, thì có thể, cái nắm tay còn quan trọng hơn chuyện lên giường.

Chuyện Kể Trong Nước Mắt

Cưới nhau được hai năm, chồng tôi bàn với tôi việc về quê đón mẹ anh lên ở với chúng tôi để bà được sống an nhàn những ngày cuối đời. Bố anh ấy mất sớm từ khi anh còn nhỏ, nên bà mẹ gửi gắm tất cả mọi hy vọng vào anh, một mình bà chắt chiu thắt lưng buộc bụng nuôi anh khôn lớn cho tới ngày học xong đại học.

Tôi đồng ý ngay và lập tức dọn dẹp dành riêng cho bà căn phòng có ban công hướng nam, vừa có thể sưởi nắng vừa có thể bày vài chậu cây cảnh.

Bước vào căn phòng chan hoà ánh sáng vừa dọn xong, anh ấy chẳng nói chẳng rằng bất chợt bế xốc lấy tôi và quay một vòng quanh phòng. Khi tôi sợ quá cào cấu anh xin anh bỏ xuống thì anh bảo: "Nào, chúng mình về quê đón mẹ nhé !"

Chồng tôi cao lớn, còn tôi thì bé nhỏ và thích được nép đầu vào ngực anh. Những lúc ấy, tôi có cảm giác như anh có thể nhét gọn tôi vào túi áo. Những bận hai người tranh cãi nhau mà tôi không chịu thua, anh bèn nhấc bổng tôi lên ngang đầu và quay tít cho đến khi tôi sợ hết hồn xin anh buông tha mới thôi. Tôi rất thích cái cảm giác vừa sợ vừa sung sướng ấy.

Mẹ anh sống ở thôn quê lâu năm nên rất khó có thể sửa ngay được những tập quán của người nhà quê. Chẳng hạn, thấy tôi hay mua hoa tươi bày ở phòng khách, bà có vẻ khó chịu. Cực chẳng đã, một hôm bà bảo: "Các con thật chẳng biết chi tiêu gì cả. Hoa có ăn được đâu mà mua làm gì kia chứ ?" Tôi cười: "Mẹ ơi, trong nhà có hoa tươi nở rộ thì ai nấy đều vui vẻ cả." Bà cúi đầu lầu bầu gì gì đấy. Chồng tôi bảo: "Đây là tập quán của người thành phố, mẹ ạ. Lâu ngày mẹ sẽ quen thôi."

Bà không nói gì nữa, nhưng sau đấy mỗi bận thấy tôi mua hoa về, bao giờ bà cũng không thể im lặng mà cứ hỏi mua hết bao nhiêu tiền. Khi tôi nói giá cả thì bà chép miệng tiếc rẻ. Có lần thấy tôi xách về túi to túi nhỏ các thứ mua sắm được, bà gặng hỏi giá tiền từng thứ một. Tôi kể lại giá tiền mỗi thứ. Nghe xong bà chép miệng thở dài thườn thượt. Chồng tôi véo mũi tôi và thì thầm: "Ngốc ơi, nếu em đừng nói giá thật với bà thì sẽ chẳng sao cả, phải không nào ?"

Cuộc sống đang vui tươi thế là dần dần có những hoà âm trái tai.

Điều làm bà khó chịu nhất là thấy con trai mình ngày ngày dạy sớm chuẩn bị bữa sáng. Đàn ông mà chui vào bếp nấu ăn cho vợ thì coi sao được, bà nghĩ vậy. Vì thế mà bữa sáng nào bà cũng nặng mặt không vui. Tôi giả tảng không thấy gì thì bà khua đũa đụng bát tỏ ý không bằng lòng. Làm giáo viên dạy múa ở Cung Thiếu niên, ngày nào tôi cũng phải nhảy nhót mệt bã người nên khi ngủ dạy thường nằm rốn tận hưởng chăn đệm ấm áp, coi đó là một thú hưởng thụ. Vì thế tôi đành giả câm giả điếc trước sự chống đối của bà mẹ chồng.

Đôi khi bà cũng làm giúp tôi một ít việc nhà, nhưng thật ra chỉ làm tôi thêm bận bịu mà thôi. Chẳng hạn, những túi ni lông đựng đồ, mọi khi tôi đều quẳng vào thùng rác thì bà tích cóp lại, bảo là để hôm nào bán cho hàng đồng nát. Thế là khắp nhà đầy những túi ni lông. Mỗi lần rửa bát hộ tôi, bà đều hà tiện không dùng nước rửa bát, thế là tôi phải rửa lại, dĩ nhiên phải kín đáo để bà khỏi tự ái.

Một tối nọ, khi tôi đang rửa bát trộm như thế thì bà nhìn thấy. Thế là bà sập cửa đánh sầm một cái, nằm lỳ trong buồng khóc gào lên. Chồng tôi cuống quýt chẳng biết làm gì. Cả tối hôm ấy anh không nói với tôi câu nào. Tôi làm nũng với anh, anh cũng chẳng thèm để ý. Tôi điên tiết lên vặn lại: " Thế thì rốt cuộc em sai chỗ nào ạ ?" Anh trợn mắt: "Tại sao em không thể phiên phiến một chút nhỉ, bát không sạch thì ăn cũng có chết đâu, hả ?"

Một thời gian dài sau đấy, bà chẳng nói chuyện với tôi. Không khí trong nhà bắt đầu dần dần căng thẳng. Chồng tôi rất mệt mỏi, chẳng biết nên làm ai vừa lòng trước.

Không muốn để con trai làm bữa sáng, bà cả quyết nhận lấy "nhiệm vụ nặng nề" này. Rồi khi thấy anh ăn uống ngon lành, bà lại nhìn ngó tôi với ý trách móc tôi không làm tròn bổn phận người vợ, khiến tôi rất khó xử. Để thoát khỏi cảnh ấy, tôi đành không ăn bữa sáng ở nhà mà mua túi sữa trên đường đi làm, mang đến cơ quan ăn.

Tối hôm ấy lúc đi ngủ, anh bực bội bảo: "Có phải là em chê mẹ anh nấu ăn bẩn nên mới không ăn sáng ở nhà, đúng không ?" rồi anh lạnh nhạt nằm quay lưng lại, mặc cho tôi nước mắt đầm đìa vì ấm ức. Sau cùng anh thở dài: "Cứ coi như là em vì anh mà ăn sáng ở nhà, được không nào ?"

Thế là sáng sáng tôi đành ngồi vào bàn ăn với tâm trạng ê chề.

Một hôm, khi đang ăn món cháo bà nấu, tôi chợt thấy buồn nôn, mọi thứ trong bụng cứ muốn oẹ ra, gắng kìm lại mà không tài nào kìm được, tôi đành quăng bát đũa chạy ù vào phòng vệ sinh, nôn thốc nôn tháo. Sau một hồi hổn ha hổn hển thở, khi tôi bình tâm lại thì nghe thấy bà bù lu bù loa vừa khóc vừa đay nghiến oán trách tôi bằng những từ ngữ nhà quê, còn anh thì đứng ngay trước cửa phòng vệ sinh căm tức nhìn tôi. Tôi há hốc miệng chẳng nói được gì, thật ra nào mình có cố ý nôn đâu.

Lần đầu tiên chúng tôi cãi nhau to. Mới đầu mẹ anh còn giương mắt đứng nhìn, sau đấy bà thất thểu bỏ ra ngoài. Anh tức tối nhìn tôi rồi đi ra theo bà.

Ba ngày liền không thấy bà và anh về nhà, cả đến điện thoại cũng không thấy gọi. Tôi tức điên người mỗi khi nghĩ lại từ hôm bà lên đây ở mình đã phải chịu bao nhiêu nỗi oan ức, thế mà anh ấy còn muốn tôi thế nào nữa đây ?

Không hiểu sao dạo này tôi hay buồn nôn thế, ăn gì cũng không thấy ngon, lại thêm trong nhà bao nhiêu chuyện rắc rối, tâm trạng vô cùng tồi tệ. Cuối cùng, vẫn là các bạn ở cơ quan bảo: "Sắc mặt cậu xấu lắm, nên đi khám bệnh thôi !"

Kết quả kiểm tra ở bệnh viện cho thấy tôi đã có mang. Bây giờ mới rõ tại sao sáng hôm ấy tôi bỗng dưng buồn nôn. Niềm hạnh phúc sắp có con pha trộn với một chút buồn giận oán trách: tại sao chồng mình và cả bà mẹ chồng nữa lại không nghĩ tới chuyện ấy nhỉ ?

Tôi gặp anh tại cổng bệnh viện. Xa nhau mới có ba ngày mà trông anh tiều tuỵ quá chừng. Tôi định quay đi, nhưng bộ dạng ấy khiến lòng tôi sót sa, không nén được, tôi gọi anh. Anh nhìn tôi như người xa lạ, ánh mắt không dấu nổi nỗi chán ghét như một mũi kim lạnh buốt đâm vào lòng tôi.

Tôi tự nhủ "đừng nhìn anh ấy, đừng nhìn anh ấy", và chặn một chiếc ta xi lại. Thật ra lúc ấy tôi chỉ muốn hét to: "Anh yêu của em, em sắp sinh cho anh một cục cưng đây !" rồi được anh bế xốc lên sung sướng quay một vòng.

Ước muốn ấy đã không xảy ra. Khi ngồi trên xe ta-xi, nước mắt tôi ứa ra lã chã.

Vì sao chỉ một lần cãi nhau đã làm cho tình yêu của chúng tôi trở nên tồi tệ tới mức này cơ chứ ? Về nhà, tôi nằm trên giường nghĩ tới chồng, tới nỗi chán ghét đầy trong mắt anh. Tôi nắm lấy góc chăn khóc nấc lên.

Nửa đêm, có tiếng lạch cạch mở ngăn kéo. Khi bật đèn lên tôi trông thấy khuôn mặt đầy nước mắt của anh. Thì ra anh về nhà lấy tiền. Tôi lạnh nhạt nhìn anh không nói gì. Anh cũng làm như không thấy tôi, lấy xong các thứ liền vội vã bỏ đi.

Có lẽ anh định thật sự chia tay với tôi đây. Thật là một người đàn ông có lý trí, biết tách bạch tình và tiền rạch ròi như thế đấy. Tôi cười nhạt, nước mắt lã chã tuôn rơi.

Hôm sau tôi không đi làm mà ở nhà, muốn xem xét lại mọi ý định của mình rồi tìm anh trao đổi cho xong mọi chuyện.

Khi đến công ty của anh, cậu thư ký ngạc nhiên nhìn tôi: "Ơ kìa, mẹ Tổng Giám đốc bị tai nạn, hiện đang nằm ở bệnh viện kia mà." Tôi trố mắt cứng họng, lập tức đến ngay bệnh viện. Nhưng khi tìm được anh thì bà đã tắt thở rồi.

Anh không hề nhìn tôi, mặt cứ lầm lầm. Tôi nhìn khuôn mặt nhợt nhạt hốc hác của bà, nước mắt ứa ra: Trời ơi ! Tại sao lại đến nông nỗi này cơ chứ ?

Cho tới hôm an táng mẹ, anh vẫn không thèm nói với tôi một câu nào, thậm chí mỗi khi nhìn tôi, ánh mắt anh đều hiện lên nỗi chán ghét tột độ.

Nghe người khác kể lại, tôi mới biết sơ qua về vụ tai nạn. Hôm ấy bà bỏ nhà rồi thẫn thờ đi về phía ga xe lửa, bà muốn về quê mà. Chồng tôi đuổi theo, thấy thế bà rảo bước đi nhanh hơn. Khi qua đường, một chiếc xe buýt đâm vào bà ...

Cuối cùng thì tôi đã hiểu tại sao anh ấy chán ghét mình. Nếu hôm ấy mình không nôn oẹ, nếu hôm ấy mình không to tiếng cãi nhau với anh ấy, nếu ... Trong lòng anh, tôi là kẻ tội phạm gián tiếp giết chết bà.

Anh lẳng lặng dọn vào ở phòng mẹ, tối tối khi về nhà, người sặc mùi rượu. Lòng tự trọng bị tổn thương bởi nỗi xấu hổ và tự thương hại đè nặng khiến tôi thở không ra hơi nữa. Muốn giải thích mọi chuyện, muốn báo anh biết chúng tôi sắp có con rồi, nhưng cứ thấy ánh mắt ghẻ lạnh của anh là tôi lại thôi không nói gì. Thà anh đánh tôi mắng tôi một trận còn hơn. Tôi có cố ý để xảy ra mọi tai hoạ ấy đâu !

Ngày tháng cứ ngột ngạt lặp đi lặp lại. Càng ngày anh ấy càng về nhà muộn hơn. Chúng tôi cứ thế căng với nhau, xa lạ hơn cả người qua đường. Tôi như cái thòng lọng thắt vào tim anh.

Một hôm, khi đi qua một hiệu ăn Âu, tôi nhìn qua cửa kính thấy chồng mình đang ngồi đối diện với một cô gái trẻ và nhè nhẹ vuốt tóc cô. Thế là tôi đã hiểu rõ tất cả. Sau giây lát ngớ người ra, tôi vào hiệu ăn, đến đứng trước mặt chồng mình, trân trân nhìn anh, mắt ráo hoảnh. Tôi không muốn nói gì hết, và cũng chẳng biết nói gì.

Cô gái nhìn tôi, nhìn chồng tôi rồi đứng lên định bỏ đi. Anh ấn cô ngồi xuống rồi cũng trân trân nhìn lại tôi, không chịu thua. Tôi chỉ còn nghe thấy tim mình đập chầm chậm từng nhịp như đang sắp kề cái chết.

Kẻ thua cuộc là tôi, nếu cứ đứng nữa thì tôi và đứa bé trong bụng sẽ ngã xuống.

Đêm ấy anh không về nhà. Bằng cách đó anh báo cho tôi biết : cùng với sự qua đời của mẹ anh, tình yêu giữa hai chúng tôi cũng đã chết.

Những ngày sau, anh vẫn không về nhà. Có hôm đi làm về, tôi thấy tủ áo như bị xếp sắp lại, chắc anh ấy về lấy các thứ của anh.

Tôi chẳng muốn gọi điện thoại cho anh, ý định giải thích mọi chuyện cho anh cũng biến mất hẳn.

Tôi sống một mình. Đi bệnh viện khám thai một mình. Trái tim tôi như vỡ vụn mỗi khi trông thấy cảnh các bà vợ được chồng dìu đến bệnh viện. Các bạn ở cơ quan bóng gió khuyên tôi bỏ cái thai đi cho yên chuyện nhưng tôi kiên quyết không chịu. Tôi như điên lên muốn được sinh đứa bé này, coi đó như sự bù đắp việc bà mẹ chồng qua đời.

Một hôm đi làm về nhà, tôi thấy anh ngồi trong phòng khách mù mịt khói thuốc lá, trên bàn đặt một tờ giấy. Không cần xem, tôi đã biết tờ giấy đó viết gì rồi. Trong hơn hai tháng chồng vắng nhà, tôi đã dần dà học được cách giữ bình tĩnh. Tôi nhìn anh, cất mũ rồi bảo: "Đợi một tí, tôi sẽ ký ngay đây." Anh nhìn tôi, ánh mắt lộ vẻ bối rối chẳng khác gì tôi. Vừa cởi cúc áo khoác, tôi vừa tự nhủ: "Chớ có khóc đấy, chớ có khóc đấy ..." Hai mắt nhức nhối lắm rồi, nhưng tôi quyết không cho chúng nhỏ lệ nữa.

Mắc xong áo lên móc, thấy anh cứ chằm chằm nhìn cái bụng to của tôi, tôi mỉm cười đi đến bàn, cầm lấy tờ giấy, rồi chẳng xem gì hết, liền ký tên mình và đẩy tờ giấy cho anh.

"Em có bầu rồi đấy à ?"

Đây là lần đầu tiên anh ấy nói chuyện với tôi kể từ hôm bà bị nạn. Nước mắt tôi trào ra không thể nào ngăn nổi. "Vâng, nhưng không sao cả, anh có thể đi được rồi."

Anh không đi mà ngồi lại, hai chúng tôi nhìn nhau trong bóng tối. Anh từ từ ôm lấy tôi, nước mắt nhỏ ướt đầm vai áo tôi. Thế nhưng lòng tôi đã không còn gì nữa, rất nhiều thứ đã biến đi xa lắm rồi, xa tới mức có đuổi theo cũng chẳng lấy lại được nữa.

Không nhớ là anh ấy đã nói với tôi bao nhiêu lần câu "Xin lỗi" nữa. Trước đây tôi cứ tưởng mình sẽ tha thứ cho anh, nhưng bây giờ thì không. Suốt đời tôi sao quên được ánh mắt băng giá anh nhìn tôi khi đứng trước cô gái nọ ở hiệu ăn Âu hôm ấy.

Chúng tôi đã rạch vào tim nhau một vết thương sâu hoắm. Tôi không cố tình, còn anh thì cố tình. Quá khứ không thể nào trở lại được nữa.

Trái tim tôi chỉ ấm lên mỗi khi nghĩ đến đứa bé trong bụng, còn với anh thì tim tôi đã lạnh như băng. Tôi không đụng đến tất cả những thức ăn anh mua về, không nhận bất cứ món quà nào anh tặng, không nói với anh nửa lời. Kể từ hôm ký vào tờ giấy kia, hôn nhân và tình yêu, tất cả đều đã biến mất khỏi trái tim tôi.

Có hôm anh định trở lại phòng ngủ của chúng tôi. Anh vào thì tôi ra phòng khách nằm. Thế là anh đành phải về ngủ ở phòng của bà.

Đêm đêm, đôi lúc từ phòng anh vẳng ra tiếng rên rỉ khe khẽ. Tôi nghe thấy nhưng lặng thinh. Lại giở trò cũ chứ gì. Ngày trước, mỗi bận bị tôi làm mặt giận phớt lờ, anh ấy đều giả vờ ốm như vậy, khiến tôi ngoan ngoãn đầu hàng và chạy đến hỏi xem anh có sao không. Thế là anh ôm lấy tôi cười ha hả. Anh quên rồi, ngày ấy tôi thương anh vì hai người yêu nhau. Bây giờ thì chúng tôi còn có gì nữa đâu ?

Tiếng rên rỉ ấy kéo dài đứt quãng cho tới ngày đứa bé ra đời. Suốt thời gian chờ đợi ấy, hầu như ngày nào anh cũng mua sắm thứ gì cho con, nào là đồ dùng của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, nào là sách nhi đồng, v.v.. Những thứ ấy chất gần đầy căn phòng của anh. Tôi biết anh làm thế là để tôi cảm động, nhưng tôi giờ đã trơ như đá. Anh đành giam mình trong phòng, ngồi gõ phím máy tính lạch cạch. Chắc là tìm vợ trên mạng. Nhưng chuyện ấy đâu còn có ý nghĩa gì với tôi nữa.

Năm sau, vào một đêm khuya cuối xuân, cơn đau bụng dữ dội khiến tôi thét lên. Anh nhảy xổ vào buồng, hình như khi đi nằm anh vẫn không thay quần áo chỉ là để chờ giây phút này. Anh cõng tôi chạy xuống cầu thang, chặn ta-xi lại. Dọc đường, anh cứ nắm chặt tay tôi, luôn lau mồ hôi trên trán tôi. Đến bệnh viện, anh lại cõng tôi chạy đến khoa sản. Khi nằm trên đôi vai gày guộc mà ấm áp của anh, một ý nghĩ chợt loé lên trong óc tôi: trên đời này, liệu có ai yêu thương mình như anh ấy không nhỉ ?

Rồi anh vịn cánh cửa khoa sản, đưa ánh mắt ấm áp dõi theo tôi đi vào trong. Tôi cố nhịn đau mỉm cười với anh.

Khi tôi ra khỏi phòng đẻ, anh nhìn tôi và thằng bé, rưng rưng nước mắt mỉm cười. Tôi chạm vào tay anh, chợt thấy anh mềm nhũn người, mệt mỏi từ từ ngã xuống. Tôi gào tên chồng mình ..., anh chỉ mỉm cười, nhắm nghiền mắt lại ...

Tôi cứ tưởng mình sẽ không bao giờ còn nhỏ nước mắt vì anh, thế mà lúc ấy một nỗi đau xé ruột xé gan bỗng dội lên trong lòng.

Bác sĩ cho biết chồng tôi bị ung thư gan, cách đây 5 tháng mới phát hiện, khi đó bệnh đã ở thời kỳ cuối, anh chịu đựng được lâu thế quả là một chuyện lạ hiếm có. Ông bảo: "Chị nên chuẩn bị hậu sự đi thì vừa." Mặc y tá ngăn cấm, tôi trốn ngay về nhà, xộc vào phòng anh, mở máy tính ra xem. Một nỗi đau nhói lên làm trái tim tôi nghẹn lại. Thế đấy, 5 tháng trước đây anh đã phát hiện mình bị ung thư gan, những tiếng rên rỉ của anh là thật cả, nhưng tôi lại cứ cho là ...

Những điều ghi trong máy tính rất dài, đó là lời trăn trối anh để lại cho con mình:

Con của bố. Vì con mà bố ráng chịu đựng cho tới nay, chờ bao giờ trông thấy con thì bố mới chịu ngã xuống. Đấy là nguyện vọng lớn nhất của bố hiện giờ ... Bố biết rằng, đời con sẽ có nhiều niềm vui hoặc có thể gặp những trắc trở. Nếu bố có thể cùng con đi suốt quãng đời con lớn lên thì vui biết bao. Nhưng bố không có dịp may ấy nữa rồi. Bây giờ bố ghi lại vào máy tính từng vấn đề con sẽ có thể gặp phải trên đường đời, khi nào gặp những vấn đề ấy thì con có thể tham khảo ý kiến của bố, con nhé.

....

Con ơi, viết xong mấy chục trang này, bố cảm thấy như mình đã cùng đi với con suốt chặng đường trưởng thành của con. Bây giờ bố thật sự vô cùng sung sướng. Hãy yêu mẹ, con nhé. Mẹ rất vất vả vì con đấy. Mẹ con là người yêu con nhất và cũng là người bố yêu quý nhất...

Chồng tôi viết về tất cả mọi chuyện, kể từ khi đứa bé ở vườn trẻ cho tới lúc nó học tiểu học, trung học, đại học, rồi ra công tác, cả đến chuyện yêu đương của con nữa.

Anh cũng để lại cho tôi một bức thư:

Em yêu quý.

Được lấy em làm vợ là niềm hạnh phúc lớn nhất trong đời anh. Em hãy tha thứ việc anh đã làm tổn thương em. Hãy tha lỗi việc anh dấu tình hình bệnh tật của mình, chẳng qua chỉ vì anh không muốn để em phải lo nghĩ trong thời gian chờ bé chào đời.

... Em yêu quý. Nếu khi đọc những dòng này mà em khóc thì nghĩa là em đã tha thứ cho anh rồi. Như thế anh sẽ có thể mỉm cười cảm ơn em luôn luôn yêu anh.

... Anh sợ rằng mình sẽ không có dịp tự tay tặng cho con những món quà anh đã mua sắm. Phiền em hàng năm thay anh tặng quà cho con, trên bao gói nhớ đề rõ ngày tặng, em nhé !

...

Khi tôi trở lại bệnh viện thì anh vẫn đang hôn mê. Tôi bế con đến, đặt nó nằm bên cạnh anh và nói: "Anh ơi, anh hãy mở mắt ra cười lên nào. Em muốn để con mãi mãi ghi nhớ hơi ấm của bố nó khi nó nằm trong lòng anh đấy, anh ạ ..."

Chồng tôi khó nhọc mở mắt ra, khẽ mỉm cười. Thằng bé rúc vào lòng bố, ngọ ngoạy nắm tay nhỏ xíu hồng hồng. Tôi ấn nút chiếc máy ảnh, nước mắt ràn rụa trên mặt ...

Hết

Rẽ trái, rẽ phải [Trang Hạ dịch]

Mùa đông năm ấy đặc biệt giá lạnh, cả thành phố chìm trong biển mưa phùn. Trong màn không khí mờ mịt, không ánh mặt trời, thường có một nỗi buồn tiếc mơ hồ xâm chiếm trong lòng những người khách bộ hành đi dưới những hàng cây khẳng khiu dọc phố.

Ngày mùng 6 tháng 10, trời hửng nắng.

Cô sống trong một căn phòng trên một toà chung cư cũ kỹ phía ngoại ô thành phố, mỗi khi ra phố, bất kể đi đâu cô cũng giữ thói quen ra đến cửa liền rẽ trái.

Anh sống trong một căn phòng trên một toà chung cư cũ kỹ phía ngoại ô thành phố, mỗi khi ra phố, bất kể đi đâu anh cũng giữ thói quen ra đến cửa liền rẽ phải.

Ngày 15 tháng 10, mặt trời bị che lấp sau những đám mây chất ngất, ánh sáng trong những căn phòng cũng chập chờn.

Họ từ trước đến nay chưa từng gặp nhau.

Ngày 28 tháng 10, trời hửng nắng. Dạo gần đây anh sống chật vật. Đôi khi buổi tối, anh đến những quán ăn thượng lưu trong thành phố kéo đàn, kiếm thêm chút thu nhập ít ỏi.

Ngày 7 tháng 11, trời u ám ẩm ướt, có một nỗi buồn nhẹ nhàng len tới như mỗi khi mùa đông quay trở lại. Những lúc không luyện đàn, anh thích lang thang ngoài phố, lượn qua công viên thành phố chơi cùng đàn bồ câu, có khi ngồi lại đó cả chiều.

Ngày 11 tháng 11, buổi chiều, gió bắt đầu trở từng cơn lạnh lùng. Có lần anh cảm thấy tâm hồn rã rời, trống trải.

Ngày 19 tháng 11, mặt trời mùa đông ngả xuống những cái bóng thật dài, thật dài. Cô vẫn quen chân rẽ trái, anh vẫn quen chân rẽ phải, họ chưa từng gặp nhau trong đời.

Ngày 23 tháng 11, ngày thật ngắn, chưa đến 5 giờ chiều trời đã tối. Cô đang dịch một tiểu thuyết buồn, cuốn sách khiến cô cảm thấy thế giới quanh cô tràn một màu xám ảm đạm.

Ngày 2 tháng 12, những đám mây đồ sộ chất ngất phương xa chậm chạp kéo tới bầu trời thành phố. Những khi không làm việc, cô thích vào thành phố tìm một quán cà phê, tản bộ trên phố nhìn dòng người qua lại, hay ngồi xuống trò chuyện cùng con mèo hoang trên một vỉa hè.

Ngày 10 tháng 12, mặt trời ló ra. Trong phòng đầy hơi nước. Có khoảng khắc cô đơn nhìn mình trong gương, cô hốt nhiên cảm nhận dư vị cả một cõi người.

Ngày 17 tháng 12, trời hửng nắng. Cô vẫn quen chân rẽ trái, anh vẫn quen chân rẽ phải, họ chưa từng gặp nhau trong đời.

Ngày 20 tháng 12, hình như trời sắp mưa. Họ cũng như hàng nghìn hàng vạn người trong thành phố ấy, cả đời sống bên nhau, nhưng cả đời sẽ không bao giờ gặp được nhau...

Nhưng, cuộc đời cũng có bao nhiêu tình cờ, có một ngày, hai đường thẳng song song đã cắt nhau...

Ngày 22 tháng 12, mặt trời ngượng nghịu ló mặt ra, những đám mây đen dầy đặc giấu mình trên đỉnh núi xa xa. Ngày hôm đó, họ đã gặp nhau bên đài phun nước giữa công viên.

Họ giống như những người yêu đã thất lạc nhau nhiều năm trong đời.

Mùa đông vì sao không còn buồn bã cô đơn? Anh ở bên cô trong suốt một buổi chiều hạnh phúc và ngọt ngào.

Lúc hoàng hôn, trời chợt đổ một cơn mưa dữ dội. Họ vội vã ghi số điện thoại của nhau rồi vội vàng chia tay trong cơn mưa. Anh, theo thói quen, lại chạy bổ về bên phải...

Cô, theo thói quen, cũng vội vã chạy về bên trái... Cơn mưa làm họ lạnh buốt và ướt đẫm, nhưng trái tim cả hai nóng bừng lên vì hạnh phúc.

Đêm ấy, cả anh và cô đều thao thức... Mưa, từng giọt từng giọt rả rích rơi suốt đêm dài...

Nhưng, cuộc sống cũng ẩn giấu bao nhiêu những bất ngờ buồn rầu, con diều gió ta từng nắm trong tay bỗng một hôm đứt dây giữa trời.

Ngày 23 tháng 12, gió lạnh đột ngột tràn vào lòng thành phố, nhiệt độ buổi sáng tụt xuống rất thấp.

Những tờ giấy nhỏ bé ướt sũng ghi số điện thoại chiều mưa qua đã nhoè hết chữ.

Ngày 24 tháng 12, mưa rơi không ngớt trong suốt đêm Giáng sinh. Cô ở lì trong nhà vì sợ sẽ bỏ lỡ một cuộc điện thoại từ...

Anh chằm chằm nhìn nét chữ số nhoè nhoẹt mờ mịt, với những cuộc gọi nhầm số bất tận...

Tình yêu đang ở đâu, ơi nỗi cô đơn?

Ngày 31 tháng 12, trời lạnh như cắt, giá rét quẩn quanh trong căn phòng, mưa vẫn tiếp tục rơi rả rích.... Anh và cô đều thao thức đến rã rời trong những căn phòng... Từ trong ra-đi-ô vọng tới tiếng nói cười náo nức của đám đông tụ tập trên quảng trường trước toà nhà thị chính, đếm ngược theo từng giây còn lại của năm cũ, thế là một năm lại đã qua đi.

Ngày 5 tháng 1, buổi chiều đưa tới từng cơn gió lạnh như châm vào da thịt, giá rét lại tràn về quanh đây...

Ngày 12 tháng 1, rồi cuối cùng trời cũng hửng lên, ánh mặt trời lấp ló, nhưng nhiệt độ lại hạ xuống thấp... Thành phố thay đổi quá nhanh khiến con người phải kinh ngạc. Bồn phun nước trong công viên đã biến thành công trường xây dựng cầu vượt cao tốc.

Ngày 1 tháng 2, trời ấm lên, dù còn đầy hơi giá. Anh đầy hy vọng, nhủ thầm có lẽ giống như một tình huống trong phim, tại một góc ngoặt đầu phố, hay trong quán cà phê ngoài công viên kia, anh sẽ gặp lại được cô.

Ngày 14 tháng 2, đêm của Lễ tình nhân Valentine, những ngôi sao thưa thớt sáng trên trời đêm. Trên con phố lạnh lùng cô đơn, khi những bóng đèn nhiều màu mắc quanh vòm cây khô cuối phố vui vẻ sáng lên, cô đã không kìm được lòng mình bật khóc.

Ngày 25 tháng 2, những lớp mây mỏng tang bao phủ bầu trời một màu xám, mông lung như khói. Cô vẫn quen chân rẽ trái, anh vẫn quen chân rẽ phải.

Ngày 28 tháng 2, hoa Đỗ Quyên bên đường nở rộ, nghe nói trong núi, hoa anh đào cũng đã mở cánh rồi. Ngày nối ngày lặng lẽ, họ chưa từng gặp lại nhau.

Ngày 9 tháng 3, không khí tràn ngập hương thơm cỏ non, mùa xuân đến thật rồi. Họ vẫn đi về giữa dòng người lặng lẽ, nhớ vô cùng buổi chiều gặp gỡ ngắn ngủi song tràn ngập hạnh phúc ấy.

Ngày 23 tháng 3, cuối ngày trời ấm hơn, buổi tối, trăng lên trong veo giữa đám sao lấp lánh. Giữa thành phố vừa quen vừa lạ, anh và cô tìm kiếm vô vọng hình bóng vừa xa xôi vừa gần gũi của nhau.

Ngày 30 tháng 3, mùa mưa đã đến. Những cơn mưa làm cô nhớ tới anh.

"Sao cô ấy có thể biến mất không dấu vết trong thành phố như thế?"

Ngày 13 tháng 4, mưa ngớt. Xa xa, chim bồ câu lượn vòng bay trên bầu trời thành phố. Anh cũng muốn bay được như đàn chim kia để tìm tới bên cô.

Ngày 9 tháng 5, bầu trời hoàng hôn ửng màu cánh hoa hồng, chuyển dần thành màu xanh thăm thẳm của ngọc bích. Cô thích ngồi một mình trầm tư, ở một góc thành phố trên cao.

Ngày 18 tháng 5, chiều tối, gió nam thổi tới nhè nhè, mặt trời đỏ lừ chậm rãi trôi xuống chân trời, mùa hạ đến gần. Sao những ngọn lửa nến chấp chới trong đêm cứ khiến người ta hoài nhớ một cách trống trải và cô đơn?

Ngày 9 tháng 6, từng đám mây lớn nặng nề chất đống, bất động giữa không trung. Trong lòng có nỗi niềm gì vô cớ, cô buồn bã ngoái nhìn nỗi cô đơn của mình.

Ngày 20 tháng 7, đêm sau cơn giông, ánh trăng vô cùng rạng rỡ.

Thành phố như một mê cung khổng lồ, không nghe được tiếng gọi, không tìm ra phương hướng.

Ngày 19 tháng 8, đêm trước cơn giông, những tầng mây trôi vùn vụt. Họ oán trách thành phố với bầu không khí ngầu đục, những ngả đường vỡ vụn, những ngã tư đèn đỏ quá lâu, những chuyến xe bus hay bỏ bến.

Ngày 31 tháng 8, chính ngọ, một chú ong mật bay lạc vào phòng anh, đập cánh mù quáng trước lớp cửa kính trong veo.

"Anh vẫn còn trong thành phố này chứ? Hay anh đã rời đi từ rất lâu?"

Ngày 5 tháng 9, trời ngột ngạt hơi nóng, trong người khó chịu. Họ cùng trêu chọc một con mèo con lông vàng, cho cùng một con chó hoang ăn, cùng nghe một chú chim hót trong ánh lê minh mới rạng.

Ngày 24 tháng 9, buổi sáng có thêm một lớp sương mỏng, nghe nói lá phong trong núi đã đỏ rồi. Họ nhìn ra cùng một khung trời ngoài cửa sổ chung cư, cùng ngửi một làn hương, cùng nghe thấy người hàng xóm tập chơi hoài một bản nhạc của Trai-cốp-xki.

Ngày 5 tháng 10, không khí mát dịu, lá trong công viên dần nhuộm màu vàng rực. Anh và cô dạo qua cùng một con đường nhỏ trong công viên, cùng dẫm lên một lớp lá vàng khô giòn.

Ngày 15 tháng 10, trời mùa thu vô cùng dịu mát, một quả bóng bay màu vàng trôi ngang song cửa. Họ cùng thơm một đứa trẻ. Cùng nhìn thấy chiếc mũ bông màu xanh của đứa trẻ có gắn đôi tai thỏ dài rất đáng yêu.

Ngày 26 tháng 10, gió thổi, lá rụng tơi bời.

Trong ký ức của anh và cô chỉ còn đọng lại hình ảnh mẩu giấy ướt nhẹp của buổi chiều mưa ấy và số điện thoại nhoè ướt.

Ngày 8 tháng 11, ngày có nắng. Nến cô đơn trên chiếc bánh sinh nhật trong phòng cô in lên tường một cái bóng màu tím chậm rãi đung đưa. Cô nghe thấy bên hàng xóm vẳng tới tiếng vĩ cầm, đang chơi một bản nhạc rất buồn.

Anh nhớ ra hình như hôm nay là sinh nhật cô. Cây vĩ cầm trên vai anh nức nở khe khẽ. Ngoài cửa sổ là ánh trăng. Không biết giờ em đang ở nơi nào?

Ngày 19 tháng 11, hơi thở mùa đông ngày càng gần.

Nỗi nhớ ngày càng mơ hồ, dường như tình yêu ấy chưa từng đến trong đời anh?

Ngày 30 tháng 11, nửa khuya, ánh trăng xanh xao lạnh lẽo soi một góc sân thượng chung cư.

Họ đều nhận được từ tay cùng một ông bưu tá, tờ thư của bạn thân nơi phương xa.

Ngày 6 tháng 12, trời rét căm căm.

Họ ở gần nhau đến thế, mà sao lại xa nhau vời vợi?

Ngày 17 tháng 12, lại một ngày không thấy ánh mặt trời, không thấy trăng, không thấy tinh tú. Thành phố giống một nhà tù khổng lồ không tường bao quanh, làm con người cảm thấy ngạt thở, rời rã...

Ngày 22 tháng 12, mưa phùn rơi như vĩnh viễn không ngưng nữa. Cô quyết định chia tay thành phố hoang vu này.

Anh quyết định du lịch đến một thành phố đầy nắng ấm.

Ngày 23 tháng 12, tuyết bắt đầu rơi, thành phố đã bao nhiêu năm nay không hề có tuyết rơi. Anh, theo thói quen, ra khỏi cửa là rẽ phải.

Cô, theo thói quen, ra khỏi cửa là lập tức rẽ trái.

Tuyết rơi lẳng lặng trên phố

Ở bến xe bus trên quảng trường trước khu chung cư, anh bất chợt nhìn thấy...

Ở bến xe bus trên quảng trường trước khu chung cư, cô cũng bất chợt nhìn thấy...

Ngày 24 tháng 12, tuyết rơi dày đặc, chuyến xe bus đi về phía tiếng hát Giáng sinh an lành đang vọng tới. Nhưng hai hành khách ở lại.

Ngày 31 tháng 12, tuyết ngừng rơi, trời ấm. Trên quảng trường trước toà thị chính, người ta chen chúc trong biển người điên cuồng vui sướng, hò reo đếm theo từng giây đổ ngược của năm cũ cho đến 0 giờ 0 phút 0 giây. Người ta ôm chặt nhau trong giây phút hạnh phúc của một mùa xuân mới.

Ngày 6 tháng 3, trời hanh nắng, mây lơ đãng trên tầng không. Hai căn phòng cô đơn trên khu chung cư cũ kỹ ở ngoại ô được mở sang nhau, mây bay trên những bức tường hoa.

Và cuối cùng, mùa xuân rồi cũng sang...

Hết

Trôi dạt về đâu [Trang Hạ dịch]

Đau! Đau thấu tim gan!

Muốn thét, nhưng không ra tiếng, nhưng rõ ràng biết rằng đời mình đã hết! Khi hắn quật tôi như con lợn chết xuống sàn nhà và vung lưỡi dao loáng lên ánh sắc lạnh tôi đã hiểu rằng thế là cuộc đời mình kết thúc.

Mặt hắn xanh đen, vết sẹo đuôi lông mày đỏ lên, càng thêm vẻ khủng bố và hung hãn, đuôi mắt cụp hình tam giác phóng ra cái nhìn sát nhân ghê rợn, môi bần bật lộ ra hàm răng đen, cả khuôn mặt biến thành ác quỷ. Tôi trợn mắt cánh tay khô gầy như móng vuốt ma quỷ giơ con dao lên, một dao xuống, cảm giác đau đớn xé rách thân thể tôi, tôi mất đi khả năng thở, máu tuôn ra, gương mặt đen sì kia bắn lên những chấm máu, như gương mặt quỷ sứ vẫn kể trong truyền thuyết, hắn đã biến thành nhân vật quỷ sứ ấy!

Dao thứ hai xuống, đã không còn cảm giác đau nữa, rồi những dao điên cuồng nữa, mảnh đá ngọc quan âm đeo trên cổ tôi vỡ tan nát làm bốn năm mảnh, đó là thứ tôi yêu quý nhất đời. Đầu tôi cuối cùng lìa khỏi xác.

Vào giây phút đó, tôi nhìn thấy Tiểu Hồng ngã ngồi ở cửa đang đờ ra như một con gà gỗ, hắn cố trấn tĩnh quay lại bảo con bé: "Ở đây không có việc của mày, cút!" "Dạ dạ" Tiểu Hồng sợ hãi vội vã bò dậy bỏ chạy, tôi cố gắng mở to mắt nhìn theo nó, coi như đó là cái nhìn tiễn biệt cuối cùng.

Và một cơn nhẹ nhõm, nhẹ nhõm trở dậy nhẹ nhõm trôi, thì ra cái chết nhẹ nhõm như thế này, tôi được giải thoát rồi, thoát khỏi nhục thể, thoát khỏi hồng trần, thoát khỏi tất cả nhân gian này, tôi cuối cùng đã vượt qua đỉnh cao của người khác, có thể tuỳ ý làm chủ chính tôi, tôi đã tự do rồi!

Cúi xuống nhìn, tôi thấy mắt tôi vô thần, đôi môi sưng vù. Hắn đang run rẩy móc điện thoại ra khỏi túi gọi đi. Một lúc sau, có một người cao lớn một người nhỏ bé đến, hai người này tôi quen, là đồng bọn của hắn, tối qua tôi còn ngủ với một người trong số họ. Họ mang tới một bao bố lớn, ba người cuống cuồng cho thân thể tôi vào bao, không quên nhét tất mọi quần áo vào. Tứ Gia xé ga giường lau cuống quýt nền nhà, giờ máu đã không còn đỏ nữa, đen dần. Lúc này bọn họ tỏ ra vô cùng sợ hãi hoảng loạn, muốn mau chóng bỏ chạy khỏi nơi đầy tội ác này.

Tôi trôi trên đầu họ, đi theo đường họ bỏ chạy, muốn nhìn thấy cuối cùng tôi sẽ về đâu. Họ lái một chiếc xe cũ nát không biển số, đến bờ sông ở cách xa thành phố, ánh trăng soi sáng trên dòng sông, phản chiếu làn ánh sáng xanh xanh lạnh buồn, vài người họ như những bóng quỷ đi lại hỗn loạn, thân xác tôi bị lôi ra từ thùng xe, vứt trên nền đất phát ra tiếng bịch bịch, nhưng tôi không hề cảm thấy đau, chỉ thấy trong lòng mình buồn khôn tả xiết, oan uổng quá, tôi mới hai mươi tuổi, đáng lẽ là tuổi được đến trường đại học, nhưng lại bị lũ độc ác này hãm hại. Không một ai hay biết, càng sẽ chẳng bao giờ có ai báo thù rửa oan cho tôi, bởi loài người vốn đã không hiểu rằng tôi từ đâu tới, ngay từ lúc tay tôi cầm được mảnh giấy Chứng minh thư mang tên Trần Yến, tôi đã quên mất tôi là ai.

Ánh trăng lúc mờ lúc tỏ, bày ra một cảnh quỷ quái. Họ đang làm gì? Ôi, thì ra họ bỏ vào bao một hòn đá, tôi hiểu nơi tôi sẽ đến rồi, và cũng đồng lúc hiểu ra hàm ý của câu nói: Chết không chỗ chôn, tức là sẽ không bao giờ có được một mộ bia cho bản thân mình. Mấy người hợp lực cùng đổi tôi xuống dòng sông, dòng nước chảy về hướng Đông trôi đi. Lúc đó, chỉ có vầng trăng cong yên lặng chứng kiến tất cả, im ắng không tiếng nói.

Đã kết thúc, đã hết tất thảy những hỉ nộ ái ố, hết những ân ân oán oán! Thì ra một cuộc đời sẽ kết thúc đơn giản như thế.

Muốn khóc, nhưng không giọt lệ nào chảy, sự việc đã xảy ra thế nào? Làm tôi không kịp nhìn ngắm thế giới này một lần cuối cùng. Ánh sáng đỏ, rượu vang đỏ, tấm mành đỏ, màu đỏ châm nhức mắt tôi, ý nghĩ bị bó chặt trong một cảnh tượng toàn màu đỏ loang rộng, bóp chặt trí óc mới nhớ ra những việc đã xảy ra trong hai tiếng gần đây, kỳ lạ sao, một oan hồn cũng có được trí nhớ dị thường.

Như mọi ngày, tôi và vài cô gái phiền muộn ngồi đếm những ngôi sao thưa thớt trên cao, hơi mong mỏi có người khách nào gọi. Thật là mâu thuẫn, không ai tới thì buồn, có người tới càng buồn hơn, ai biết sẽ gặp những ai.

Hắn, xuất hiện đúng lúc đó, đại ca Tứ Gia xưng bá cả đất này mà không ai dám động vào, Tứ Gia dù chưa đến bốn mươi, nhưng đã như một lão già khô khốc, ma tuý làm mặt hắn tiều tuỵ, gân cốt khô khỏng. Tứ Gia chưa bao giờ tắm, người đầy mùi hôi thối, đáng sợ, nhưng hắn có tiền, có rất nhiều tiền, hào phóng, nên các cô gái luôn muốn lấy lòng. Tôi có gương mặt xinh đẹp, nên trước đây đã cùng hắn vài lần.

Hắn đi về phía tôi, cho nên, tôi đành giấu sự ghê tởm và trước ánh mắt thèm muốn của các chị em, tươi cười đón hắn.

Tứ Gia gầy mòn đêm nay đặc biệt sung sức, tôi có kinh nghiệm rằng những người đàn ông thế này thường đầu hàng rất nhanh, nhưng cho đến khi được biết rằng hắn vừa chơi ma tuý, tôi chợt rùng cả mình.

Không có những cảnh tình tứ lãng mạn như trong thơ ca mộng tưởng, không có những lời thủ thỉ trữ tình anh anh em em, chỉ có sự thô ráp và xa lạ lạnh lùng. Trong ánh sáng đỏ hôn ám mê muội, quần áo bị bấu bỏ, hắn dùng sức mạnh kéo tôi vào lòng, hai nhục thể trần trụi quắp lại thành một quái vật xấu xí. Hơi Tứ Gia thở ra nồng nặc hôi hám, làm người ta nghẹn thở, tôi không dám tỏ ra một chút khó chịu nào, tôi không có sự lựa chọn khác, đây là công việc của tôi, đây là cuộc sống của tôi. Máy móc và miễn cưỡng nói những lời tình tứ nổi da gà, một trái tim gỗ đá điều khiển một thân thể gỗ đá kệ cho Tứ Gia giày xéo. Với tôi, là ai cũng không quan trọng, tôi chỉ cần làm cho họ hài lòng, rồi sau, lấy tiền, càng nhiều càng tốt. Rồi đi, sợ gì một đi không hẹn lại.

Chất bột trắng đáng sợ, nó làm một người cường tráng biến thành bải hoải như bùn, cũng có thể làm một kẻ cơ thể suy nhược trở thành một con sư tử đực. Đêm nay Tứ Gia như thế, sự kích thích của chất độc khiến hắn hưng phẫn dai dẳng, cho dù tôi toát mồ hôi đầy người cũng không thể làm hắn mãn nguyện. Đã hai tiếng trôi qua, Tứ Gia ướt đẫm mồ hôi, còn tôi cũng thế, thể lực không kham nổi nữa, tôi xin tha, xin Tứ Gia hãy tha cho tôi, nhưng hắn càng điên loạn. Tôi gạt tóc tơi tả như một con gà lạc ổ bại trận bò xuống quỳ xuống dập đầu xuống đất liên tục xin hắn tha cho, Tứ Gia tàn nhẫn nói, không được, ông mày chưa xong! Tôi biết tôi sắp không thể nữa, thân thể tôi như một cái giá sắp rời khỏi khung, chỉ đụng vào là rụng xuống, giây phút đó kêu trời trời không thấu, kêu đất đất không linh, bức tường cách âm là cánh cửa đã chặn đứt sinh mệnh tôi. Tứ Gia điên cuồng làm tôi hãi hùng khiếp đảm, tôi như một nắm bùn trong tay hắn, bị bóp sẽ nát lìa, một ý nghĩ duy nhất thôi thúc trong tim tôi là mau mau chạy trốn. Vì thế, tôi hổn hển xin: Anh nghỉ đi, cho em xin đi toa-lét, em vào ngay. Tứ Gia lưỡng lự rồi quát: "Mau lên!" Rồi hắn châm một điếu thuốc.

Vì quá vội vã tay tôi run lẩy bẩy, để tránh bị phát hiện tôi cố ý không mặc áo lót vào, choàng vội áo quần dài rồi vội vã rời quán trốn ra ngoài. Trời! Ngoài trời không khí sao trong lành thế, một cảm giác mát lành thấm đẫm vào tận cùng đáy tim, tôi hít một hơi thở thật dài, tôi không muốn ngoái đầu lại, sau lưng tôi là quán Karaoke thâu đêm bị bóng tối chụp phủ, là nơi tôi trú thân, và cũng là nơi duy nhất tôi có thể gửi thân thể. Tình cảm? nghĩ đến đó tôi cười lên quái lạ, tình cảm có ở nơi đây chăng? Như cơn gió chuyển bay muôn phương, thành phố tôi thay hết nơi này sang nơi khác, cái thay đổi là hoàn cảnh, còn cái không đổi là cái lõi trong vỏ bọc đó: Đàn ông, khách đĩ. Đàn bà, gái điếm. Tôi mọc rêu ở trong cái lõi đó, tôi mục rỗng thối nát.

Luồn qua lối sau toa-lét là ra đường cái, trên đường không còn ai đi, không gian cô tịch điểm chút thê lương. Tôi như con nhặng mù quáng bay chuyển loạn xạ, không biết nên trốn vào đâu, nhưng tôi biết chắc, cho dù đêm nay lang thang suốt đêm không quay về tôi cũng chẳng sợ.

Ngọn đèn đường kéo cái bóng tôi quá dài trên lối đi, như một con quái thú đang nhe nanh giơ vuốt, trông quá xấu xí, ngẫm nghĩ thân phận mình nào khác gì thú vật, ngày náu đêm ra, không ra người không ra quỷ, còn mai danh ẩn tính, sống cẩu thả qua ngày, giờ đây nào biết trách ai! Ôi... Nghĩ đến ánh mắt xanh xám đen tối của Tứ Gia, lòng tôi nặng nề.

Tôi bị túm tóc giật lại: "Định trốn? Lại lừa Tứ Gia hả, không muốn sống à?" Tôi lạnh toát toàn thân, miệng lắp bắp, mặt trăng sáng bỗng trốn đi, trời mịt mù. Mái tóc dài duyên dáng vốn làm nhiều cô gái ghen tị bị kéo mạnh tới mức gần dứt khỏi da đầu, bị lôi lại phòng Karaoke, tôi bị quật xuống đất, đầu đập vào góc sô pha, tôi biết tôi không tránh khỏi hạn rồi, da thịt hẳn bị hành hạ rồi, cắn chặt răng chờ những nhục hình không tên sắp giáng tới. Nhưng không thể ngờ tới Tứ Gia điên loạn đã vung con dao lên, vào giây phút đó tôi đột nhiên nghĩ đến cái chết, ông trời ơi, xin ông trời mở mắt ra! Tôi điên cuồng giãy giụa, nhưng tất cả đều vô hiệu, không thể thốt lên một câu, dao đã buông xuống, tôi mất đi tri giác, linh hồn thoát khỏi nhân gian, tôi, tôi đã chết! Chết dưới tay một kẻ gầy gò trói gà không chặt, chết không nhắm được mắt!

Đây là báo ứng sao, tôi đã nhận phải rồi!

--

Xác người bên sông không còn liên quan đến tôi nữa, cho dù thân thể thối rữa hay bị nước cuốn trôi, cuốn về nơi đâu cũng không còn liên quan đến tôi nữa, cái chết của tôi là một án mạng không thể loan báo, trên thế giới này cái chết của tôi như một con kiến nào có giá trị gì, sẽ không bao giờ có ai hỏi tới.

Tôi trôi dạt trong màn đêm âm u, chưa bao giờ được tự do như thế, nhưng lại không biết tôi sẽ trôi dạt về nơi đâu, đột nhiên nghĩ đến nhà, "nhà" là một từ xa lạ và xa xôi thế, tôi đã quá lâu không chạm đụng cái từ đó, nghĩ đến một bà già mà mái tóc bạc trắng sớm không phù hợp với tuổi, đó là mẹ tôi, người duy nhất mà tôi nhớ, một cảm giác muốn khóc oà tới, đã đến lúc nên quay về rồi, quay về bên mẹ thôi, quay về quê hương ngàn dặm xa thôi!

Mặt trăng trốn náu chả chịu ló mặt, nó không chịu nhìn trực diện một xác chết tan nát trên cõi nhân gian này. Tôi không thấy mình, nhưng có thể cảm giác được có đụn mây khói hình oan hồn, đi về thôi! Nam! A, đột nhiên nhớ ra mình đã từng có một cái tên trìu mến là Nam.

Thu xếp lấy linh hồn tan tác, tìm hướng, phương bắc, đi về thôi!

Không đếm được bao nhiêu cảnh vật đã lướt qua bên thân, cảm giác được sự bao la của không trung, thì ra trời đất rộng lớn dường này, mà tôi đã luôn sống trong một cõi nhỏ hẹp.

Vô tình nhìn thấy Tứ Gia kẻ giết tôi, con ác quỷ đáng bị xuống địa ngục này hoá ra chạy tới ngôi nhà cũ trong núi sâu nơi không bóng người, còn ồn ào ăn uống nhồm nhoàm, đôi chân tanh tưởi gác lên chiếc bàn để rượu thịt, thật kinh tởm. Tàn nhẫn quá, tuổi trẻ của tôi bị biến thành quỷ dưới lưỡi dao hắn, và vĩnh viễn sẽ không có ngày báo thù. Thế giới này quả là bất công, những kẻ ác tận cùng như Tứ Gia, những kẻ táng tận lương tâm vì sao vẫn sống khoẻ khoắn trên thế gian, trời cao sao không trừng phạt chúng! Phật nói không phải là không có quả báo, chỉ chưa đến lúc, vậy sao người tốt phải bị hại, kẻ xấu lại đàng hoàng? Tôi không giết người đốt nhà, tôi chỉ dùng thân thể tôi để kiếm tiền, nhưng lại gặp nạn, phải câu nói đó chỉ có nghĩa là, trời phật sợ kẻ ác.

Thốt nhiên tôi nghĩ đến những người, những người trong vô số người đàn ông đã qua đời tôi để lại chút vết dấu. Ngày cuối của họ ra sao.

--

Căn gác nhỏ, ngọn đèn dịu dàng toả sáng, cục trưởng Vương nửa nằm nửa ngồi, khuôn mặt béo trắng phì mỡ, đứa con nhỏ ngồi lên bụng ông đùa vui với cha,tôi cũng đã từng ngồi lên như thế, ông ta nói tôi là một nàng tiên cá, sao buồn cười thế! Vợ ông ngồi tựa bên cạnh, hạnh phúc vẽ lên khuôn mặt, cả nhà sum vầy thân thương. Tôi cười lạnh lùng, họ nào biết ông là khách thường xuyên của vũ trường, ông có quyền, có thể tuỳ ý chi phối tiền bạc, mỗi lần đến đều tự lái xe, lén lén lút lút sợ bị người ta phát hiện. Con người thật lạ lùng, thường tùy lúc mà đổi vai kịch. Đàn ông rút cuộc là gì? Nói cho cùng, họ trước mặt là người, sau lưng là quỷ. Là người ban ngày, là quỷ ban đêm.Tôi quá hiểu những kẻ chức quyền, lúc cần thì tôn nghiêm, khi trút hết vỏ bọc trang nghiêm ấy, còn lại chỉ là một thứ súc sinh trần trưồng đi tìm nơi khoái lạc. Cho dù thế nào, cục trưởng Vương cũng đối xử rất tốt với tôi, dịu dàng thân thiết, ông ta biết cách giữ phấn gìn hương, thương hoa tiếc ngọc, ông chưa bao giờ đánh mắng tôi, mỗi lần đều để lại một nghìn đồng, thành thật nói: "Các cô làm nghề này cực quá, giữ lấy mà tiêu!" như Chúa cứu thế, tôi thích ông hào phóng, cho dù đâu phải ông tiêu tiền của ông. Lần trước khi chia tay ông bảo vợ ông sắp đi vắng rồi, sau có thể lúc nào thích là đến thăm tôi được, tôi sẽ mang một món quà đến tặng em. Đã hết tất cả, đã không có lần sau ấy nữa, tôi không nén được thở dài tiếc nuối.

Tiền làm tôi đôi khi nhớ đến cục trưởng Vương, nhưng với một người đàn ông già có thể làm cha chú, tôi nào yêu ông, ông cũng giống như những đàn ông đã sớm nhạt nhòa gương mặt, chỉ là một khách qua đường bên tôi, không đáng giữ lại chút kỷ niệm nào.

Nơi sâu thẳm nỗi nhớ của tôi chỉ duy nhất có Tân Văn người tôi yêu tha thiết, anh là người đàn ông duy nhất tôi yêu chân thành kể từ ngày tôi làm gái. Văn sắp ba mươi mà chưa kết hôn, vì công việc, vì mục tiêu lớn, anh không có thời gian lo cho hôn nhân, anh muốn theo đuổi sự nghiệp của anh, bạn gái không hiểu anh, không chấp nhận cách sống của anh đã đòi chia tay. Chúng tôi gặp nhau lần đầu vào một đêm mùa hạ, Văn bị một đám bạn lôi đến quán hát hò, lần đầu tiên đến nơi thế này, Văn bị mấy cô chủ động làm cho tơi bời nhếch nhác, mặt đỏ bừng sau chén rượu, Văn chỉ kiếm cớ để trốn về. Bạn bè anh khuyên ở lại, bảo tinh tướng gì, hát hò vui vẻ tí thôi mà! Mic chuyền tới, Văn hát trọn một bài hát, tiếng vỗ tay vang lừng. Giọng hát của Văn dày ấm và trong trẻo, tràn đầy sự cuốn hút khó cưỡng, trái tim tôi xốn xang, trong phút hào hứng có chút thẹn thùng, đây là sự ngượng ngùng tôi chưa bao giờ gặp. Hẳn lúc đó mắt tôi cháy bừng lên một đốm lửa, tôi ngưỡng mộ tới bên Văn, chớp thời cơ và vô liêm sỉ, tôi khiêu khích anh và giữ anh lại, trước mặt tôi anh cuống lên cúi gằm, tay chân lóng ngóng, một sợi tơ cảm thương giăng lên từ lúc nào. Tôi đột ngột thích người đàn ông nhìn qua thì chẳng đẹp trai nho nhã gì, cho dù anh hơn tôi đến mười tuổi. Rõ ràng Văn cũng không khinh bỉ gì tôi, điều đó có thể nắm bắt được từ cái nhìn của anh, cuối cùng Văn đã ở lại quán, sau này anh nói, anh ở lại vì tôi.

Có người nói, đàn ông đều như nhau, gặp đàn bà đẹp là chân không bước nổi, tôi không muốn nghĩ Văn cũng thế, bởi anh rơi vào cái bẫy êm dịu của tôi dệt từ những chân tình. Tôi đã yêu, không kìm được lòng mình tôi đã yêu anh, dù tình yêu ấy mang nhiều dèm pha. Tôi bị các chị em khác cười, Tiểu Hồng khuyên tôi đừng nằm mơ giữa ban ngày nữa, hãy nhìn rõ mình là ai, cắm sào sâu khó nhổ. Tôi mặc kệ, tôi chỉ muốn yêu anh, tôi không cần tương lai, dù tan thân nát thịt cũng đành lòng, dù chỉ còn thêm bên nhau một ngày cũng đáng, tôi sẽ nguyện đến bên anh, tôi thả mình đắm chìm say sưa trong cơn mơ xa vời.

Tôi chưa bao giờ thật lòng thế với người đàn ông nào, bởi tôi quá quyết liệt và thành tâm, Văn đã đổ gục, hoặc giả trời cao đã thương xót tôi, mang một tình yêu của người đàn ông ưu tú như thế đến bù đắp đời tôi, tôi vui sướng, cuồng điên. Khi Văn nhìn tôi, toàn thân tôi mỗi tế bào đều như đang mỉm cười, đôi mắt là cửa sổ, cho Văn nhìn thấy tất cả.

Văn nói mắt tôi như hai viên Ngọc đen sáng trong, khi cười đẹp như búp bê, nên anh gọi tôi là Em búp bê, tôi thích thế lắm. Văn luôn tế nhị với tôi, thật lòng và nâng niu, anh cho tôi hiểu được thế nào là hạnh phúc của một người phụ nữ.

Văn thường vờ vô tình chỉ ra những thói quen xấu của tôi, và tôi dùng trái tim mình đón nhận anh. Văn ghét thuốc lá, tôi cố gắng cai thuốc, không chạm vào nó nữa, đó vốn chỉ là những tiêu khiển lúc cô đơn, có Văn rồi tôi không còn cô đơn nữa, nên không cần thuốc lá. (ha, dịch đến đây mới phát hiện ra đúng là tớ lúc vui ko bao giờ động tới điếu thuốc)

Văn không thích nói tục chửi bậy, tôi bèn nỗ lực khắc phục thói xấu thô lỗ của mình, vì anh mà thay đổi bản thân. Chúng tôi thường ngồi bên nhau ôm chặt nhau, ngồi yên không làm bất cứ điều gì, cứ im lặng như thế dựa vào nhau, Văn kể cho tôi những câu chuyện buồn rầu rực rỡ, những Romeo và Juliet khiến tôi nước mắt lã chã tuôn. Tài học của Văn làm tôi xấu hổ về bản thân ngu dốt, anh thường hiểu tâm trạng tôi, nên dùng một cái hôn thật dài xoá tan đi sự tự ti của tôi, cảm tạ trời xanh cho chúng tôi gặp gỡ. Văn thường thích ngâm thơ, một lần say đắm nhất anh buột miệng: "Giọt mưa ngọt lành nên bông hồng nở" (Lộ đích mẫu đơn khai - trùng âm, còn có thể dịch là La Dolce Vita - Cuộc sống Tươi đẹp). Tôi không hiểu, gặng hỏi, ngậm miệng không đáp, cười tủm tỉm, anh cứ đáng yêu như thế.

Tôi hy vọng sao được sống như thế suốt đời này, nhưng anh không thể đến thường xuyên, càng không thể cưới tôi, ở đây anh là con thiên nga, tôi là con ếch xấu xí. Nhìn thấy nỗi đau ngậm ngùi kín đáo của tôi, Văn không giấu được nỗi xót xa, thương cảm và bất nhẫn, anh nói, em bị giời phạt, anh thì không cứu được em, anh vô dụng quá! Nỗi đau viết lên mặt Văn, niềm vui giấu trong tim tôi, tôi vui lòng nói với anh rằng: Đủ rồi anh ạ, thật đó, được ở gần bên anh, em đã mãn nguyện.

Chúng tôi yêu nhau đau đớn như thế, nếm đủ những ngọt ngào của tương tư và những chát đắng của chờ đợi. Có một thời gian tôi không tiếp khách, tôi chỉ đợi người tôi yêu, tôi đã quen với sự lịch sự của anh, sự thân thương của anh, cả những câu chuyện không bao giờ lặp lại, đây thật sự là mối tình đầu của tôi.

Những ngày đó hạnh phúc vô vàn, tôi đã sống những ngày hạnh phúc nhất của đời tôi.

Trong tiềm ý thức tôi đã từ lâu coi Văn như người thân yêu nhất đời, giữa chúng tôi tiền đã trở thành vô nghĩa, nhưng Văn vẫn tìm được cách mua sắm gì đó cho tôi, lần đó đi công tác về Văn tặng tôi miếng ngọc Quan Âm, nói miếng ngọc đã được Khai quang, được chạm vào Phật phúc, sẽ phù hộ cho tôi cả đời bình an. Tôi giữ nó như báu vật, ngày đêm đeo trên ngực, chưa bao giờ rời ra, như thể mang theo tình yêu của anh.

Nhưng chính Ngọc Quan Âm đã bị Tứ Gia chém vỡ nát vụn, làm sao có thể giữ gìn tôi khỏi nỗi đau, tôi đã chết thê thảm như thế, khi Văn biết, hẳn anh sẽ đau đứt gan ruột.

Văn nằm tĩnh lặng trên giường, an lành. Vuốt ve trên từng phân vuông da thịt đẹp đẽ rất đàn ông của Văn, trái tim tôi tan vỡ ra thành từng mảnh nhỏ, chúng tôi đã từng nhập vào nhau thành một cơ thể, từ nay về sau không còn ngày gặp gỡ nữa, không tìm được tôi hẳn anh sẽ lo lắng lắm!

Tôi lặng lặng tới bên, dùng đôi môi giá lạnh hôn lên trán anh, Văn giật mình ngồi dậy, mê hoặc dụi dụi mắt, cười khổ rồi lắc lắc đầu, lại chìm vào giấc ngủ, Văn chắc chắn đã cảm nhận được tôi đã từng đến đây, nhưng, người yêu ơi, vĩnh biệt nhé, từ nay âm dương cách biệt, thế giới này từ đây không còn Em búp bê của anh nữa.

Nỗi đau thương đập vào trái tim vụn vỡ của tôi, lần cuối nhìn người yêu dấu trong tim, vẫy tay ly biệt!

Đây không phải là Khâu cao lớn sao, đã lợi dụng còn quỵt tiền định chuồn, lại còn là trưởng phòng nữa cơ, mẹ mày! Tao là điếm đây tao còn sợ ai. Khi tôi kéo vạt áo ông ta lớn tiếng đòi tiền, ông ta lại mặt dày trốn vào trong ô tô không chịu mở cửa, lại còn để cho người khác phải trả tiền chơi gái thay ông, thật đồ mất dạy. Hay có lẽ ông ta quả thật không có tiền, nhưng hết tiền thì ở nhà hầu vợ đi, đòi ra chơi gái làm gì? Hứ, đồ lợn khốn kiếp, đồ nguỵ quân tử giả mạo đứng đắn, thật chó chết. Bà cạch mày ra!

Đã đến nhà Sơn, một cơn hối hận. Sơn đáng thương vẫn một mình lẻ loi sống đạm bạc, lỗi ở tôi, chỉ trách tôi! Ngày đó sao tôi tàn nhẫn thế đã thề sẽ phá nát gia đình Sơn, và khi tôi dùng mọi thủ đoạn, cuối cùng tôi đã đạt được điều tôi muốn, Sơn đành phải ly hôn với vợ, và cũng từ đó anh ta tan nhạt dần khỏi tầm mắt tôi. Sơn chắc hận thù tôi tới chết, anh vốn không có ý định bỏ vợ và con gái, anh chỉ là một phút sa ngã, nhưng đã bị tôi níu kéo đeo bám tới mức không dứt nổi. Hồi đó tôi đâu muốn bày trò với anh, chỉ bởi vợ anh quá cay nghiệt, đã tới tìm đánh tôi trước, để lại những vết móng tay trên mặt tôi, tôi hận người đàn bà đó, và sự việc cứ lan dần ra như thế, tôi cố tình tìm Sơn, hôn Sơn trước mặt cô ta, cô ta chửi tôi là đồ đĩ mặt dày, tôi không thèm liếc cô ta một cái, làm nghề này tôi còn cần thể diện làm gì? Cô ta chửi tôi ti tiện, ha ha, tôi đúng là ti tiện đó! Tôi chọc tức cô ta. Sơn không có mặt tôi thô lỗ chửi bới cô ta, sỉ nhục cô ta. Cách cô ta nổi giận làm tôi thấy rất thú vị, tôi chỉ muốn thế mà thôi. Còn nhớ ai đã từng nói, giận dữ chính là bạn mang lỗi lầm của người khác đi trừng phạt chính mình. Sao cô ta lại không hiểu ra điều đó cơ chứ! Tôi thì không bao giờ giận dữ, tôi chỉ nghĩ đến lúc tôi nhận được những gì mà đáng lẽ ra cô ta được nhận, đã đủ làm tôi vui sướng, tôi liên tục nhắn tin, gọi điện quấy rầy cuộc sống của cô ta, cuộc chiến giữa hai người đàn bà, đàn ông làm sao phân biệt nổi đâu là phải đâu là trái. Tôi thường lăn lộn giữa những người đàn ông hư hỏng, tôi quá hiểu chiến thuật lấy nhu khắc cương. Vợ Sơn có lý nên làm căng, luôn giữ bộ mặt sư tử Hà Đông, còn tôi lại tỏ ra một cô gái yếu ớt bị bắt nạt, khi Sơn thương tôi, Sơn đã hết sức mình bảo vệ tôi. Điều đó làm người đàn bà đau đớn nhất, người vợ chịu không nổi cái gai trong mắt đó rốt cuộc đã đâm đơn li dị chồng, vạch đất rẽ lối khác, dắt con gái lưu lạc phương xa, một gia đình hoàn hảo đã tan vỡ như thế. Người thân cũng không tha thứ cho anh, Sơn trở thành một người đơn côi lẻ loi. Tôi đã thành công, nhưng tôi không vui, không hào hứng, Sơn không đến tìm tôi nữa, mối quan hệ giữa chúng tôi đã đặt dấu chấm hết như thế, nhưng có điều Sơn tỉnh ngộ quá muộn. Đấy là việc duy nhất trong đời làm tôi hối hận vì hậu quả nặng nề. Sơn ơi, em xin lỗi anh! Em biết em đã sai, không nên thế! Không nên thế! Không nên thế! Nhưng dù hối hận thế nào cũng đã quá muộn rồi, vì sao cho đến khi mất đi cuộc sống tôi mới thức tỉnh, giờ đây mới biết mình vô sỉ, nham hiểm. Nếu kiếp sau lại được làm người, tôi sẽ sống tốt với cả gia đình anh, bù đắp những lỗi lầm không thể tha thứ!

Đã lên giường với bao đàn ông, không thể đếm nổi, trong mắt tôi chỉ còn hoa lên những màu lục màu hoa của những tờ tiền giấy, vì những thứ ở ngoài thân thể, ba năm nay, tôi đã chịu bao khổ cực, chịu bao nhiêu lần đánh đập, chịu bao nhiêu lần bị chửi bới, tôi đã không còn là chính tôi nữa, tôi chỉ còn là một thứ công cụ để đàn ông trút dục vọng, đêm nay triền miên quẩn quanh, khó chia khó rời thiết tha quấn quýt, mai đã xa lạ như người qua đường, gặp mặt làm ngơ. Tôi đã cầm cố tuổi thanh xuân, linh hồn tôi như miếng sắt rỉ dần đang lở bong từng lớp từng lớp, đang mòn đi trong những dục vọng vô biên.

Thôi đành! Không muốn nhớ nữa, cái tôi mang lại cho người khác chỉ là sự thương hại, giữa xã hội tôi chỉ mang tới những điều hỗn loạn, giờ đây không còn lý do gì để lưu luyến nữa, đã tỉnh giấc mộng rồi, về thôi!

Về Bắc! Đi mãi về phương Bắc! Nơi xa xôi nhất trên bản đồ Trung Quốc chính là nơi tôi sinh ra đời! Ôi, tôi ngửi thấy mùi cỏ thơm thanh thoảng, mùi cỏ của triền đê dài quê tôi, thân thiết như thế, lay động trái tim tôi như thế, tôi đã nhìn thấy những dấu chân thơ bé của tôi in lại mờ nhẹ. Lần ấy một đám trẻ thi chạy, tôi hào hứng chạy đi, hụt chân ngã từ đỉnh gò cỏ xanh rậm, suốt triền gò dày những bụi cỏ mềm như tấm đệm đỡ tôi lăn xuống ngã êm, bò dậy không quên hét lên, tao là số một! Lũ bạn nhóc tâm phục khẩu phục làm tôi đắc chí bao lâu, thời ấy vui sướng biết bao! Ngày xưa ơi, bây giờ tôi cũng đang đứng trên đỉnh ngọn dốc dài, nhưng tôi đã thay đổi hoàn toàn, người đi đằng người quỷ ra đằng quỷ, có ai rồi sẽ nhớ đến tôi?

Nhà ở trước mặt tôi, trong óc tôi là sự xanh xao và ánh mắt nhẫn nại của mẹ cùng gương mặt luôn nghiêm nghị đau khổ của cha, ôi gia đình mãi không thoát nổi đói nghèo của tôi, đã mấy năm không về, nhà đã thế nào!

Tôi bay tự do trong bóng đêm như một linh hồn u tối, không ai nhìn thấy tôi, tôi thì có thể nhìn thấy tất cả, quen lối cũ tôi về căn buồng nhỏ tôi sống với em gái, đã xa lâu rồi, lại thấy lại mùi hương quen thuộc, bao lâu trước nơi đây tôi cũng đã có những giấc mơ nhiều màu sắc, tôi đã từng chuyên cần học để thi đỗ đại học, từ đó thoát được cảnh con nhà nông, đi tới con đường trải đầy hoa tươi. Rồi em trai ra đời, đạp vỡ những giấc mơ tôi như bong bóng xà phòng, để nuôi em trai, cha tôi không chần chừ bắt tôi nghỉ học, đã khóc bao lần mà không lay chuyển nổi quyết định vững chắc như sắt đá của cha, mẹ tôi cũng đành nhẹ lời khuyên giải, con gái nhà người ta chỉ học hết Tiểu học là đủ, còn phải cho em trai con đi học, nhà ta làm sao đủ tiền nuôi cả ba đứa đi học. Đứa em gái kiên cường của tôi kiên quyết không bỏ học, gào khóc suốt ba ngày, không ăn không uống, tuyệt thực tranh đấu, cha mẹ tôi không còn cách nào khác đành thoả hiệp. Nhưng tôi không thể ngẫu hứng như em tôi, tôi là chị cả, vì thương mẹ, tôi chấp nhận!

Em gái tôi đang ngồi học, để thay đổi mệnh vận, vì kỳ thi cuối cấp sắp tới, nó đang cố gắng hết sức, người gầy gò đi nhiều. Ngày xưa mỗi khi đông tới, tôi và em gái đều chui chung một giường để có hơi ấm qua những đêm dài dằng dặc giá lạnh, giờ đây chỉ còn mình em tôi, em chắc cô đơn lắm, nhưng tôi không bao giờ còn cơ hội đi cùng em nữa. Em ơi, hãy tha thứ cho chị, chị từng hứa với em sẽ dành tiền mua cho em một chiếc áo len màu em yêu, chị đành nuốt lời, chị có lỗi, chị sẽ làm em thất vọng! Em hãy cố lên, hãy thi đỗ đại học, hãy học thay chị! Đứa em gái hình như nghe thấy lời tôi, nó gật đầu.

Tôi nôn nao và ngóng trông bay tới phòng mẹ tôi, dưới ánh đèn, mặt mẹ tiều tuỵ và có vẻ ốm yếu, gương mặt sắt đen của bố càng có vẻ buồn thảm hơn, một cơn đau ngầm tới, ai không hy vọng con cái mình có ngày mở mặt, chỉ là cuộc sống cơ cực quá nặng nề, đáng lẽ ngày xưa tôi không nên bức xúc quá và càng không nên oán trách bố mẹ.

Ngôi nhà nghèo khó giờ càng lạnh lẽo, tay mẹ làm việc mãi mãi không ngơi nghỉ, bố hút những điếu thuốc thơm rẻ tiền, liên tục ho khan vài tiếng, trong không khí đầy tràn những mùi nghẹt thở ô hợp. Cho dù trong đáy lòng tôi không muốn tha thứ cho bố mẹ, nhưng dòng máu di truyền cùng những tình thân gia đình đã xoá nhạt những buồn bã oán trách ngày xưa. Tôi dùng thân thể vô hình ôm lấy mẹ, mẹ tôi linh cảm, đột ngột nói: "Cái Nam nhà mình lâu quá không thư từ, không biết giờ nó đang làm gì?"

Nỗi lo lắng bóp lấy tim tôi, chỉ có trời mới hiểu được tôi muốn biết bố tôi trả lời ra sao.

Nghe đến tên tôi, bố như một con sư tử bị chọc giận, rống to: "Đừng nhắc con chết tiệt đó nữa, tôi hận không thể bóp chết nó!" Mẹ phản đối nhỏ: "Nó cũng là con gái mình!" "Con gái? Hừ, con gái mà chỉ biết ích kỷ, việc tốt đẹp thế mà bị nó vứt bỏ rồi, nó vốn đâu có cần cái nhà này! Đi rồi, mấy năm trước còn biết gửi tí tiền về, cả năm nay mất tăm luôn, chỉ lo hưởng thụ mình nó, bà còn nhớ nó làm gì?" Nói xong bố tôi nặng nề: "Thôi coi như nó chết rồi, chết rồi!"

Ba tôi, người cha xưa nay chưa từng cho tôi chút chiều chuộng nào sao giờ đáng ghét đến thế, từ khi tôi còn thơ, tôi đã sống trong sợ hãi và tiếng chửi mắng, người ta đi học sao nhẹ nhàng vô tư, tôi thì vừa trông thằng em vừa học, trong nhà chỉ có em trai tôi là quan trọng, cái người đàn ông lạnh lùng được gọi là ba trong gia đình tôi sao trọng nam khinh nữ, đã coi đứa con gái mình đẻ ra như thể bảo mẫu không mất tiền, hơi bực mình bèn lôi ra trút giận, tai đã quen nghe chửi những từ "ăn hại cơm" "đồ vô dụng".

Tôi hận ba tôi! Nếu không nghe lỏm được ba bắt gả tôi cho một người đàn ông trung niên hàng xóm bị câm để đổi lấy nhiều tiền gả cưới, tôi đã chẳng lưu lạc tới cảnh ngộ bây giờ, và ông ta vẫn còn ấm ức vì món tiền hồi đó cho đến tận giờ, tôi căm thù ông ấy thế.

Ngay từ lúc biết tôi sẽ phải về đâu, tôi đã âm thầm tính toán cho việc lớn. Một buổi sáng bình minh u ám mây tối, tôi và Tiểu Hồng, đứa bạn bị cha dượng ngược đãi đã cùng nhau trốn nhà ra đi, dẫm chân lên con đường mờ mịt không lối về này.

Bắt đầu để dành tiền và nhớ đến mẹ tôi đáng thương, bóp mồm bóp miệng dành dụm tiền gửi về nhà, nhưng sau gặp nạn này, tôi đành dứt liên lạc cùng gia đình. Những ngày không muốn nhớ ấy đã biến tôi trở thành người bất hạnh nhất thế giới. Từ sau khi bị cảnh sát miền Tây ập vào quán Karaoke bẩn thỉu tối tăm đó bắt giữ, tôi rơi vào hoàn cảnh không giấy tờ tùy thân, rồi vì thế bị tú bà khống chế, quay sang nơi khác, tôi lại biến thành công cụ kiếm tiền cho bảo kê khác, tất cả mọi tiền kiếm ra đều phải nộp hết không giữ được cắc nào, đã kháng cự, đã trốn chạy, để lại là vết bỏng trên đùi non và vết đâm bằng vật nhọn, không thể quên nổi nỗi khốn khổ lần bị tóm về đánh què chân, suốt một thời gian dài không thể đi lại bình thường. Bọn bảo kê độc ác dùng nhục hình đánh tôi, khống chế tôi cả tiền và thân thể, mỗi ngày, ngoài ba bữa cơm ra, tôi tay trắng, và từ ngày đó đã không thể gửi đồng nào về cho gia đình. Nhưng ba tôi như kẻ vô tình, chỉ nghĩ đến tiền mà không lo tôi sống chết, tôi là con đẻ của ông kia mà! Và ông không xứng làm cha tôi!

Để tự do, để thoát khỏi biển khổ, tôi liên tục chạy trốn, lại liên tục bị bắt lại, nhận lấy những sự trừng phạt ghê gớm hơn, cho dù thế, tôi không bao giờ nguôi ý định chạy trốn, bất cứ lúc nào tôi cũng đi tìm cơ hội chạy trốn. Để bảo kê khỏi cảnh giác, tôi vờ như một con mèo ngoan ngoãn nghe lời. Cuối cùng một ngày, bảo kê say rượu ngủ, tôi thu hành lý nghèo nàn, bất chấp bảy ba hai mốt, nhảy xe khách đường dài trốn khỏi nanh vuốt bảo kê, bốn phương lưu lạc.

Sau này trong cảnh khốn khó, từng được một ông già nhiệt tình cứu mang, nhưng tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, tôi bị giam trong lò gạch cũ trên thị trấn gần nửa tháng, không thấy ánh mặt trời, không thấy người, cứ tưởng mãi mãi không bao giờ thoát nổi.

May mắn, một bà già đi qua vô tình phát hiện ra tôi, đã dẫn tôi trốn. Từ đó tôi học cách phân biệt người tốt kẻ xấu, học cách tự bảo vệ mình. Cũng hiểu ra rằng, mục tiêu của mình là kiếm đủ tiền, quay về nhà cùng Tiểu Hồng, làm bạn với nhau, tránh công an tìm bắt, mệt mỏi ngang dọc khắp chốn, hoàn toàn đánh mất bản thân. Dọc ngang giang hồ hiểm ác, cứ tưởng có thể tự do giữa đám đàn ông nhẹ nhàng kiếm tiền, chẳng ngờ việc không thành, người đã chết, cuối cùng là trả giá bằng sinh mệnh.

Giờ đã hiểu, nhà cũng không có chỗ cho tôi, hồn đã về quê mẹ nhưng hồn không nơi nương tựa, nếu như cả thế giới rộng lớn này chả có chốn cho tôi nương náu, đáng thương sao!

Muốn khóc mà vô lệ, tôi đau buồn oán trách nhìn ba tôi, cố hết sức lực vô hình để ôm chặt lấy mẹ tôi, thì thầm tạm biệt, mẹ yêu dấu ơi, con gái bất hiếu, kiếp sau con xin được hầu hạ mẹ!

Hoang mang bay qua trời đêm, không nơi để về. Nhớ lại Văn từng nói, thiên đường là nơi đầy niềm vui và tình yêu, là thế giới quang minh không u sầu và đau đớn, nhưng tôi đã không tìm ra lối lên thiên đường, lại lại thấp thoáng thấy cánh cửa địa ngục đen tối mở ra sau đám rừng tối, hay là, từ cõi sống cho đến cõi chết, tôi đã bị số mệnh buộc phải sống trong đêm chẳng ánh ngày.

Tôi là một hạt cát vô cùng nhỏ bé giữa trần gian, là người diễn vở bi kịch chính mình, đã không chinh phục nổi đàn ông, cũng càng không chinh phục nổi thế giới, sự sống ngắn ngủi của tôi không có ý nghĩa gì, bởi tên tôi chỉ là: một con điếm!

Tôi không phải người! Tôi phải chết! Tôi chết như lẽ thường!

Một cơn mưa lạnh lùng quật tới, suýt nữa làm tôi hồn bay phách lạc, gà đã gáy sáng rồi, trời sắp rạng! Tôi lưu luyến nhìn lại lần cuối cùng nơi đã sinh tôi nuôi dưỡng tôi khôn lớn, luyến tiếc đau đáu biến mất đi dần trong bóng đêm trước khi bình minh.

Sống đã trôi dạt, chết cũng phiêu linh!

Hết

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top