truyen tong hop

BÁ NHA_TỬ KỲ

********************************************

Cách đây đến mấy ngàn năm, vào thời Xuân thu Chiến quốc, đất nước Trung Hoa bị chia năm xẻ bảy, Tề, Ngụy, Sở,... Trong thời buổi loạn ly ấy, có những nhân tài muốn nhân cơ hội để phát huy khả năng của mình, nhưng cũng có người vì chán cảnh thế nhân đau khổ nên tìm nơi xa lánh, ẩn cư. Lúc đó, ở nước Tề, có một vị tướng quốc tên là Du Bá Nha. Ông là một người có tài tế thế ấn bang, một tay giúp Tề Vương củng cố và xây dựng đất nước Trung Hoa trở thành nước lớn lúc bấy giờ. Và ít ai biết rằng Du Bá Nha còn là một trong những kỳ nhân về đàn. Cây đàn của ông là một trong những báu vật đương thời. Điều đặc biệt ở chỗ, cây đàn của ông được làm bằng cây ngô đồng. Từ loại gỗ đặc biệt được dùng để làm nhạc cụ ấy, người ta đã công phu chọn một cây ưng ý nhất trong cả ngàn cây. Phần ngọn được bỏ đi, vì gỗ non sẽ làm tiếng đàn quá trong trẻo và non nớt. Phần gốc cũng không dùng, vì gỗ quá già, tiếng đàn sẽ bị đục, không hay. Họ chỉ giữ lại phần giữa để làm đàn cho Bá Nha.

Trong những năm tháng chiến tranh, cây đàn vẫn theo Bá Nha đi khắp mọi nơi, từ những lúc gian nan nhất đến những khi thành công vang dội nhất. Thế nhưng, Bá Nha vẫn ấp ủ một nỗi buồn trong tâm trí, bởi lẽ, khi ấy có biết bao nhiêu tao nhân mặc khách, ông vẫn không thể tìm được người nào có thể hiểu được tiếng đàn cũng như hiểu được nỗi lòng ông.

Rồi vào một đêm nọ, trên đường đi kinh lý trở về ngang qua một khu rừng hoang vắng, Bá Nha nhìn thấy cảnh vật thanh tịnh và trầm lắng vô cùng. Cánh rừng già âm u bên bờ sông ấy vừa rực sáng dưới trăng khuya, lại vừa sâu thẳm mịt mù. Bá Nha cho thuyền ghé lại bên bờ, hạ trại. Sau đó, ông tìm được một phiến đá rất to nằm dưới cây cổ thụ. Bá Nha lệnh người mang đàn đến; ông thắp bật trầm hương, ngồi lặng lẽ suy tư một lát, và trỗi lên khúc nhạc của lòng mình. Đàn vừa ngân lên được nửa bài thì bị đứt dây. Bá Nha rất đỗi kinh ngạc, nhưng vẫn vô cùng mừng rỡ: Có người nào đó đã hiểu được ông, thấu đáo tất cả những tâm tư ông đã dồn hết trong tiếng nhạc. Bởi vậy, Bá Nha nhất quyết yêu cầu đoàn tuỳ tùng tìm cho bằng được người đã nghe đàn để đưa đến gặp ông.

Lúc bấy giờ, trên cây cổ thụ, nơi mà Bá Nha đang ngồi đàn, quả thật có một người đang ở đó. Người ấy là một người tiều phu rất nghèo tên gọi Chung Tử Kỳ. Ông vốn sống chung với thân phụ của mình trong một ngôi làng ven rừng cách đó khá xa. Hôm ấy, ông định bụng đi tìm thật nhiều củi, gánh về để bán lấy tiền mua thang thuốc cho cha già đang bệnh nặng. Ông mải lo kiếm củi mà quên cả thời gian, đến khi hay thì đêm đã về khuya, trăng đã lên cao, đường về thì xa, lại có biết bao nhiêu nguy hiểm, nên Tử Kỳ đành phải ở lại trong rừng ngủ qua đêm. Không ngờ, nơi ông nằm ngủ lại chính là nơi tướng quốc Du Bá Nha chọn làm nơi đánh đàn. Không hiểu vì cơ duyên nào ông lại được nghe và hiểu được trọn vẹn nỗi niềm tâm sự ấy, thế nên đàn mới đứt.

Từ trên cây nhìn xuống, thấy nhiều người đốt đuốc sáng rực một vùng, Tử Kỳ lo sợ trong lòng vì tưởng Bá Nha tức giận, muốn hại mình. Nhưng vì bản tính là người trung thực và thẳng thắn nên Tử Kỳ bèn leo xuống để đoàn tuỳ tùng đưa ông đến tiếp kiến Bá Nha. Vừa thấy Tử Kỳ quì tạ lỗi, Bá Nha vội vã đỡ ông dậy và đưa ông bước lên tảng đá lớn ngồi đàm đạo. Đêm càng về khuya, hai người càng nói chuyện vô cùng tâm đắc. Bên ánh lửa bập bùng bên rừng vắng, hai con người tượng trưng cho hai thế giới khác xa nhau, một người tột đỉnh cao sang, đứng đầu một nước một người chỉ là một tiều phu nghèo khó chốn thâm sơn, thế mà họ lại có thể hiểu nhau, thân nhau, và cuối cùng cả hai nâng chén rượu thề kết tình huynh đệ. Sau khi kết nghĩa, Bá Nha thay dây đàn và tiếp tục khúc nhạc còn dang dở. Quả nhiên, đàn ngân lên đến đâu, Tử Kỳ giải bày nỗi lòng của Bá Nha đến đó.

Tiệc vui đến mấy cũng tàn... Khi đàn vừa dứt cũng là lúc gà rừng gáy sáng. Bá Nha lại phải lên đường tiếp tục về kinh. Tử Kỳ phải quay về lo cho cha già đang đau yếu. Khi này, Bá Nha đã hiểu gia cảnh của Tử Kỳ và ngỏ ý muốn tặng cho người em mình thật nhiều vàng bạc châu báu. Tuy nhiên, dù có nói thế nào, Tử Kỳ cũng cương quyết không nhận bất cứ thứ gì ngoại trừ tình cảm của Bá Nha. Trước lúc chia tay, Bá Nha hẹn với Tử Kỳ đến năm sau, vào đúng giờ này, tại chính nơi đây, hai anh em sẽ gặp nhau và khi ấy sẽ cùng hàn huyên tâm sự. Tử Kỳ đồng ý… Và họ ra đi…. Đêm hôm ấy chính là Đêm rằm Tháng Tám. Tiết Trung Thu.

Thời gian thấm thoát thoi đưa. Bá Nha, từ khi về kinh đô, dù bận trăm ngàn việc nước ông vẫn không quên người em trai kết nghĩa ngày xưa. Vì vậy, khi tạm yên công việc, Bá Nha lại đi thuyền về khúc sông ngày trước. Khi đến nơi thì chỉ mới buổi bình minh của tiết Trung Thu và đến tối mới đến giờ hẹn. Bá Nha nảy ra ý định tìm đến thăm nhà của Tử Kỳ. Dò hỏi mãi, và phải băng qua một cánh rừng mới đến được ngôi làng mà Tử Kỳ đang ở. Tìm được nhà thì trời đã xế chiều. Ông bước vào trong. Ngôi nhà lạnh lẽo và trống vắng. Chỉ có một ông lão già nua râu tóc bạc phơ đang ngồi lặng lẽ trước chiếc lư hương có cắm một nén nhang đã gần tàn. Bá Nha ra mắt ông cụ. Cụ nói: "Tôi chờ đại nhân đã lâu rồi." Bá Nha hỏi Tử Kỳ. Ông cụ tiếp: "Con tôi bận chút việc, giờ chưa gặp ngài đươc đâu. Tối nay, tôi sẽ đưa ngài đi gặp nó."

Đến tối, mọi người lên đường, ông cụ đưa Bá Nha đi qua cánh rừng cũ. Theo bước chân cụ, Bá Nha đến trước một ngôi mộ dưới tán cây cổ thụ, bên tảng đá ngày nào hai anh em đã cùng nhau trò chuyện suốt đêm. Ông cụ khóc nghẹn ngào và nói: "Bây giờ thì đại nhân đã gặp con tôi rồi đó." Bá Nha sững sờ đến lặng người. Ông có ngờ đâu ngày gặp Tử Kỳ lần đầu tiên lại cũng là ngày cuối. Từ khi chia tay, vì Tử Kỳ quá lao tâm lao lực để lo thang thuốc cho cha nên phải lâm trọng bệnh. Lúc cha Tử Kỳ vừa qua khỏi nguy nan cũng là lúc Tử Kỳ phải đi xa mãi mãi. Trước lúc lâm chung, ông nói với cha tâm nguyện cuối cùng là muốn được yên nghỉ nơi này để đợi Bá Nha.

Trong đau xót tột cùng, Bá Nha thắp hương khấn vái tiếc thương em. Sau đó, ông cho người mang cây đàn quý giá của ông đến. Ngồi bên ngôi mộ của Tử Kỳ, dưới ánh trăng khuya, Bá Nha lặng lẽ đàn lên khúc bản nhạc ngày xưa. Nhưng chỉ được nửa bài, đàn lại đứt dây! Bá Nha ngửa mặt than rằng: "Trên đời này, dù có thế nào, cũng chỉ có Tử Kỳ mới hiểu được Bá Nha. Nay Tử Kỳ đã ra đi thì cây đàn kia ta còn giữ lại làm gì nữa." Rồi ông đập cây đàn vào tảng đá,... vỡ tan!...

Truyện 2 anh em!

Ngày xửa ngày xưa, lâu lắm rối có một gia đình sống côi cút trong một túp lều tranh. Cha Mẹ mất sớm để lại 2 người con. 1 trai 1 gai, anh là trai tên là Tuấn còn gái là em tên là Hường. Em gái rất hiền và ngoan ngoãn luôn vâng lời anh. Ngày ngày 2 anh em vào rừng kiếm củi để ra chợ bán lấy tiền mua gạo ăn qua ngày. Thế rồi một hôm, người anh cảm thấy mình không thể sống mãi ở nơi rách nát này được. Rồi anh quyết định bở cô em gái mình đi nới khác kiếm ăn.

Người anh không muốn đưa em gái đi theo, anh ta sợ đưa em đi theo thì làm phiền anh. Nên anh ta lừa Em mình mà nói rằng: Hôm nay anh mệt nên không thể vào rừng kiếm củi được, nếu em thương anh thì hãy đi kiếm củi một mình giúp anh nhé. Hương ngoan ngoãn vâng lời anh mình rồi đi. Trong lúc Hương đang kiếm cửi người anh bèn thu xếp đồ áo của mình bỏ đi. Khi Hương kiếm củi trở về từ đằng xa Hương gọi: "Anh, anh ơi! Em đã về rồi nè" Hương gọi mãi một hồi lâu không thấy anh mình trả lời, Hương hoảng hốt chạy xộc vào nhà thì không thấy anh mình nữa và cũng không thấy đồ áo của anh mình. Lúc ây Hương nghĩa rằng: "Anh ấy đã lừa mình bị ốm, để bỏ nhà đi. Anh ấy thật xấu xa" Hương ngồi khóc một hồi lâu, Hương nghĩ thầm trong lòng rẳng; Hương hứa sẽ ở lại mảnh đất này. Mảnh đất mà gia đình Hương đã sống rất lâu. Hương cam đảm sống tự lập còn người anh của Hương thì đi lang lang. Năm năm đã trôi qua, Hương đã trưởng thành và tròn 20 tuổi. Nhưng Hương vẫn không rời xa căn nhà đó. Cứ sống một mình trong suốt 5 năm mà chăng cần ai giúp đỡ. Trong lúc đó người anh của Hương bây giờ không biết ra sao. Hương lúc nào cũng xin Chúa phù hộ cho anh mình được khoẻ mạnh và hạnh phúc. Thế rồi một hôm, Hương cảm thấy không yên tâm về anh mình nên đã đi tìm anh mình 1 thời gian dài, nhưng chẳng thấy tung tích của anh mình. Đang trên đường đi Hương nghe người đồn rằng: Có người tên là Tuấn đi ăn trộm tiền của một cửa hành lờn ở đây. Hương nghĩ là anh của mình nên chạy lại hỏi người dân ở đó. Quả rất đúng đó là anh trai của Hương. Hương nhờ người dân dẫn Hương đến cửa hàng đó để xin lỗi. Đến nới Hương cúi đầu xuống xin lỗi ông chủ và nói Cháu xin Ông hãy tha cho Anh cháu, gia đình cháu nghèo quá nên anh ấy lên đây kiếm ăn không ngờ anh ấy lại làm chuyện này. Cháu xin Ông hãy tha cho Anh cháu, nhưng Ông chủ đã đuổi Hương ra ngoài và nói với Hương rằng: Anh mày đã ăn trộm của Tao 3 triệu, Tao cho May 3 tháng phải trả đủ số tiền đó nghe chưa. Bây giờ Mày hãy thu xếp trả lại Tao nếu không Tao đạp anh mày chết trước mặt Mày cho Mày biết. Hương rất lo không biết lấy đâu ra 3 triệu để trả cho họ. Hương trở về căn nhà đó và nói thầm với Vong Ân của Cha Mẹ rằng: Cha Mẹ ah! Anh Tuấn đã ăn trộm tiền của họ nếu không trả cho họ thì họ sẽ đánh chết anh ấy. Con xin Cha Mẹ hãy cho Con rời khỏi căn nhà này để kiếm việc làm lấy tiền trả cho Họ. Ho giao hạn là 3 tháng Mẹ ah.

Thôi con chào Cha Mẹ. Khi nào xong việc Con sẽ trờ về với Cha Mẹ, xin Cha Mẹ hãy phù hộ cho 2 anh em Con. con đi đây. Hương vừa nói nước mắt Hương vừa tuôn ra chảy như sông.

Hương đi tìm việc làm mà chẳng có. Một hôm Hương thấy một gia đình đang cần có người phục vụ. Hương vào xin và họ đã chấp nhận. Hương làm việc không quản nhọc nhằn, làm đến nỗi quên ăn mất ngủ, sáng dậy từ 3h làm đên 12h đêm mới được nghỉ nhưng tiền lương vẫn ít. Hương cảm thấy cũng chưa ổn nên đã bán mạng mình cho gia đình đó. Mạng của Hương cũng không được bao nhiêu. Nhưng Hương vẫn chấp nhận tất cả mọi sự đau khổ để cứu thoát anh mình. Thế là 3 tháng đã trôi qua, đến hẹn Hương phải trả số tiền cho Họ. Hương đến Cửa hàng và nói: Cháu đã giữ đúng hẹn với Ông, bây giờ Ông hãy cho Cháu gặp Anh Cháu đi. Cháu sẽ trả đúng 3 triệu Cho Ông. Ông ta chấp nhận và Ông ta cho 2 anh em gặp nhau. Khi anh ta ra thì anh ta không nói 1 lời cảm ơn với Hương còn trách Hương rằng: Tại Mày tao mới bị thế này, Mày ác lắm Tao sẽ không tha thứ cho Mày. Hương nghe những lời nói của Anh mình mà đau lòng. Hương nói: Anh ác lắm em đã không tiếc mạng sống mình để cứu anh vậy mà anh không có một lời cảm ơn với em còn trách em. Không biết Cha Mẹ sẽ nghĩ gì về Anh. Từ đó 2 anh em mỗi người một nơi. Hương không còn được gặp Cha Mẹ mình nữa. Ông chủ của Hương đối xữ với Hương rất tàn nhẫn. Nhưng Hương vẫn chịu đừng được. Ngày ngày Hương phải làm việc vất vả không được nghỉ giải lao. Có 1 cô hàng xóm đi qua thấy Hương siêng năng làm việc thương Hương qua nên Bà này đã cưu mang Hương và cho Hương đi Du Học nước ngoài. Từ đó Hương sống rất vui vẻ và hạnh phúc. Hương rất biết ơn bà đó. Sau này Hương là người nỗi tiếng nhưng Hương vẫn nhớ đến Gia Đình của Hương. Sau : 3 năm đi Du Học Hương đã trờ lại căn nhà cũ đó và nói với Vong Ân Cha Mẹ rằng: Con chào Cha Mẹ. con đã trở về cha mẹ ah. Con giời đây rất sung sường và hạnh phúc cha mẹ ah. Giá như cha me cùng hương sự vui vẻ và hạnh phuc này với con thì tốt biết mấy. Sau này Hương làm lại ngôi nhà cho Cha Mẹ Hương.

Người ta thường nói: Ở hiền thì gặp lành. quả đúng như vậy.

Đôi giày hạnh phúc.

Truyện cổ Andecxen :cool1:

Trong một ngôi nhà, cạnh Hoàng trường mới, phố Đông, thành Côpenhagơ, chủ nhà đang tiếp khách. Khác hôm ấy rất đông, chủ nhà vốn là hiếu khách, hơn nữa là để được mời lại.

Khách khứa người thì tập trung vào bàn thờ, người thì xúm nhau trò chuyện. Xen vào nhiều chuyện khác, họ bàn đến thời Trung Cổ. Hầu hết cho rằng thời ấy không hơn thời nay, chỉ riêng ngài hội thẩm Knap và thêm bà chủ nhà kiên quyết phản đối ý kiến ấy. Hai ngài cho rằng từ trước tới nay, thời vua Hanx là thời đại huy hoàng nhất, hạnh phúc nhất.

Lúc này ngoài phòng đợi, đày áo choàng, gậy chống, ô, giầy, có hai người hầu gái, một già một trẻ. Nhưng khách đã nhầm, hai bà không phải là người hầu phòng. Hai bà là hai nàng tiên. Cứ nhìn họ mà xem: bàn tay thanh tú, dáng ngồi, điệu đi lịch sự. Quần áo của họ cũng khác thường, đầy vẻ tao nhã.

Nàng tiên trẻ là thị tỳ của người hầu phòng của Thần may rủi, còn bà tiên già là Thần trừng phạt. Nàng tiên trẻ có nhiệm vụ đi phát của Thần may rủi. Bà tiên Thần trừng phạt có nét mặt nghiêm khắc đi kiểm soát kết quả của công việc.

Hai bà đang kể cho nhau nghe những công việc đã làm hôm ấy. Nàng tiên thị tỳ nói mới làm được mấy việc lặt vặt: giữ cho chiếc mũ khỏi bị ướt mưa, chuyển cho người tài lời chào mừng của một kẻ vô lại nổi tiếng và mấy việc nữa cũng đại loại như thế. Nhưng nàng còn phải làm một việc nữa, một việc dị thường là đem đôi giầy làm quà cho người lớn dưới trần. Đôi giầy có phép lạ hễ ai xỏ chân vào nhà thì muốn đi đến đâu hoặc muốn sống lại thời đại nào cũng được ngay tức khắc. Thật là sướng! Nàng kết luận.

- Chưa chắc đâu! Bà tiên già, không khéo lại khổ gần cửa ra vào, ai nhặt được thì nhặt.

Đêm đã khuya, chuyện đã vãn, ngài thẩm phán ra về. Ra đến cửa, đầu óc còn đang mãi nghĩ về thời đại vua Hanx, ngài thẩm phán xỏ nhầm vào đôi giầy người thì tỳ vừa đặt. Đường về nhà ngài qua phố Đông, ngài bước về phía ấy, nhưng phép lạ của đôi giày lại đưa ngài quay trở lại thời vua Hanx, chân ngài lội vào bùn và qua các vũng nước, vì thời ấy các đường phố chưa đổ nhựa, hè phố chưa lát bê tông như bây giờ. Ngài vừa đi vừa ca cẩm:

- Bùn khiếp thật! Hè phố chẳng còn, đèn cũng tắt ngấm.

Trăng chưa mọc, sương mù nhiều, mọi vật chìm trong đêm tối. ở một góc đường gần đấy có treo một ngọn đèn hắt ánh sáng xuống pho tượng đức mẹ nhưng ánh sáng mờ quá phải đến tận nơi mới nhìn rõ, trông thấy đức mẹ đang bế Hài đồng trên tay. Ngài nghĩ thầm:

- Có lẽ đây là một cửa hàng mỹ phẩm mà người ta quên cất mẫu quảng cáo.

Vừa lúc ấy có hai người mặc quần áo thời cổ vượt lên trước ngài thẩm phán nói:

- Họ ăn mặc lạ nhỉ. Có lẽ họ vừa đi dự buổi khiêu vũ trá hình về.

Có tiếng trống và tiếng sáo nổi lên, ngài đứng lại thấy một đám rước diễu qua. Đi đầu là trống rồi đến thị vệ cầm cung tên và binh khí. Người chỉ huy đám rước là một nhà tu hành. Ngạc nhiên với cảnh lạ, ngài lẩm bẩm: "sao lại thế nhỉ? Người ấy là ai?" Có tiếng trả lời:

- Đấy là Đức giám mục Xilen.

- Sao đức giám mục lại thế? Có lẽ không phải đâu, các ngài nhầm đấy.

Mải suy nghĩ, chẳng nhìn đường, ngài hội thẩm đi qua phố Đông và quảng trường Cầu lớn. Không sao tìm được cái cầu bắc sang quảng trường Cung điện, ngài chỉ thoáng nhìn thấy một con sông rộng và gặp hai người đang ngồi trên một chiếc thuyền. Họ hỏi: "Ngài có muốn qua sông Hô lông không?

- Qua sông Hô lông à? Sao lại qua sông? Hỏi vớ vẩn. Tôi muốn đến ngõ Crixtianhavu khu phố chợ (ngài hội thẩm quên là mình đang sống trở lại thời vua Hanx)

Thấy hai người kia ngạc nhiên nhìn ngài, ngài nói tiếp:

- Các ông chỉ dùm cho tôi lối lên cầu. Chẳng có đèn đuốc gì cả, tối đen như mực, lội bì bà bì bõm như đi trong ruộng lầy vậy. Bùn ơi là bùn!

Ngài càng nói chuyện với hai người thuỷ thủ lại càng ngạc nhiên, chẳng hiểu họ nói gì. Ngài vùng vằng:

- Chẳng thể nào hiểu được tiếng địa phương của các bác!

Ngài bực tức quay phắt đi. Ngài không thể nào tìm ra được cái cầu, ngay cả lan can dọc bờ sông cũng chẳng có. Ngài lẩm bẩm:

- Loạn thật!

Ngài chưa bao giờ thấy thời đại của ngài đang sống lại thảm hại đến thế. Ngài nghĩ bụng:

- Có lẽ phải gọi một cái xe mà đi mới được.

Nhưng tìm đâu ra xe? tRông mỏi mắt cũng chẳng có cái nào. Ngài tự nhủ:

- Phải quay về Hoàng trường mới mà kiếm cái xe chứ không thì chẳng đến được Crixtianhavu được.

Ngài thẩm phán quay trở lại phố Đông; đi gần đến phố thì trăng lên. Trông thấy cổng thành phía Đông, ngài kêu lên:

- Trời ơi! Người ta dựng cái đài này ở đây để làm gì kia chứ?

Cuối cùng ngài thẩm phán cũng tìm ra được cỗ xe ngựa và ra đến quảng trường mới hiện nay. Thời xưa chỗ nàyy là một bãi trống chỉ có cỏ mục và một vài bụi cây; có một con sông đào chảy qua, đổ ra biển. Bờ bên kia có một vài túp lều gỗ tồi tàn của những thuỷ thủ xóm Halăng ( vì vậy nơi ấy nay đặt tên là mũi Halăng).

Ngài thẩm phán nghĩ bụng: ma quỷ ám mình hay mình say rượu thế này? Sao lại lung tung chẳng còn hiểu thế nào nữa! Có khi mình ốm rồi!

Ngày quay lại. Vào đến trong phố, ngài nhìn thấy rõ nhà cửa hơn, đa số vách thủng bằng thanh, mái lợp rạ.

Ngài lẩm bẩm:

- Sao người khó chịu quá! Mình chỉ uống có một cốc rượu pha đường thôi thì sao thấy khó chịu thế? Lại cho mình rượu pha đường với hồi nóng nữa chứ. Thật là điên! Các bà vợ quan nội thần này ác thật! Hay là mình quay lại để cho họ biết họ làm ăn linh tinh. Nhưng chắc gì họ còn thức? Mà như vậy cũng dở lắm.

Ngài tìm sân nhà, nhưng tìm không ra. Ngài lẩm bẩm:

- Không sao nhận ra phố Đông nữa. Chẳng còn cái nửa hiệu nào! Chỉ thấy trên những túp lều cũ kỹ tồi tàn như ở Rôtxôkin hay ở Rinhxtet. Mình ốm thật rồi! Nhà quan nội thần đâu rồi nhỉ? Quái thật! Sai ta lại ốm thế này! Thấy một nhà có ánh sán lọt qua khe cửa. Đây là một quán trọ thời vua Hanx, một quán rượu bia. Căn phòng giống như quán rượu ở vùng Honxtanh. Trong quán đang có một số lính thủy, mấy người thành thị và hai nhà bác học. Cả mấy người đang trò chuyện náo nhiệt, trước mặt mỗi người một cốc bia. Ngài hội thẩm mở cửa bước vào. Họ vẫn tiếp tục trò chuyện không để ý đến ngài. Bà chủ quán chạy đến. Ngài hỏi:

- Thưa bà, tôi thấy trong người khó chịu như muốn ốm. Bà có thể giúp tôi gọi hộ một cái xe chở tôi về Crixitianhavu được không?

Bà chủ quán ngó ra, lắc đầu trả lời bằng tiếng Đức. Ngài hội thẩm cho là bà không biết tiếng Đan Mạch, nên hỏi bà ta lần này bằng tiếng Đức. Nghe tiếng nói và cách ăn mặc của ông thẩm phán, bà chủ quan tin rằng ông là người nước ngoài. Bà ta hiểu là ông ấy ốm và mang ra cho ông một cốc nước mới hứng ở vòi ra nhưng có vị mặn. Nhắp thử, ngài lắc đầu:

Ngài ôm trán thở dài suy nghĩ về những hiện tượng kỳ lạ chung quanh mình.

Thấy bà chủ quán gấp một tờ giấy khổ rộng, ngài hỏi:

- Có phải tờ báo "Ban ngày" mới ra tối nay đấy không?

Bà ta không hiểu ngài muốn nói gì, cứ chìa cho ngài tờ giấy đang gấp. Đấy là một tờ tranh khắc gỗ, vẽ một hiện tượng thiên văn như ông đã nhìn thấy ở Côlônhơ. Ngài nói:

- Bức tranh này cổ lắm! Bà làm thế nào mà kiếm được bức tranh hiếm có này? Quý đấy! Nhưng lời giải thích ghi trong tranh không hợp thời nữa, nó có vẻ hoang đường. Bây giờ người ta gọi hiện tượng ấy là một bắc cực quan, do điện gây ra.

Những người ngồi gần đấy thấy ngài thẩm phán nói đều lấy làm ngạc nhiên. Một người đứng dậy, cung kính nói:

- Thưa ngài, chắc hẳn ngài là một nhà bác học đại tài!

- Không đâu! Tôi chỉ mỗi thứ biết một tí, như mọi người thôi.

- Ngài khiêm tốn quá!

- Tôi biết thế thì nói như thế, các ngài biết thêm gì cho tôi được học. Ngài hội thẩm nói với người kia: "Ngài có thể cho tôi biết quý danh được không?"

- Tôi là tú tài thánh thư, người kia trả lời.

Học vị của người ấy cũng phù hợp với cách ăn. Nhưng ngài hội thẩm nghĩ thầm:

- Đây hẳn là một lão hương sự loạn óc, còn sót lại ở một nơi hẻo lánh của xứ Giuytlăng.

Người xưng là tú tài thánh thư nói thêm:

- Đây không phải là một diễn đàn, nhưng mời ngài cứ tiếp tục phát biểu. Chún tôi rất thíchh được nghe, chắc là ngài am hiểu các tác gia thời xưa.

- Vâng, sách thời xưa bổ ích lắm, tôi rất thích đọc. Tôi cũng biết nhiều sách thời nay. Nhưng những "Truyện hàng ngày" thì tôi không thích vì cuộc sống thực tế cũng đã đủ lắm rồi.

- "Truyện hàng ngày" là truyện gì thưa ngài?

- Là những quyển tiểu thuyết mới viết hiện nay.

- Tôi thấy những quyển tiểu thuyết hiện nay cũng thú vị đấy chứ ạ! Đức vua cũng hay đọc. Người thích nhất cuốn "Ipven tiên sinh và Gôđiô tiên sinh" kể chuyện vua Actuýt và các hiệp sĩ bàn tròn.

- Chuyện ấy tôi chưa được đọc. Chắc là sách mới của nhà xuất bản Giêmen.

- Ông Giêmen là tác giả cuốn truyện có phải không?

Cái tên ấy nghe xưa lắm nhỉ. Đúng là tên nhà xuất bản đầu tiên của nước Đan Mạch đấy.

- Đúng ạ. Nhà in đầu tiên của chúng ta là nhà in Giêmen.

Câu chuyện đang vui bỗng có người nói đến trận dịch hạch xảy ra gần năm ấy nên họ cũng nhắc luôn cả chuyện quân cướp người Anh xông vào tận hải cảng cướp thuyền bè. Nghe thấy thế ngài hội thẩm lại tưởng họ nói về cuộc mưu sát năm 1801, nên những lời ngài nguyền rủa quân Anh trong vụ mưu sát ấy cũng vẫn khớp với câu chuyện.

Nhưng về sau câu chuyện trở nên chuệch choạc. Cứ ông nói gà bà nói vịt, chẳng bên nào hiểu bên nào. Họ ngẩn người ra nhìn nhau. Đến khi bí quá, vị tú tài phải phát biểu bằng tiếng Latinh hy vọng với thứ tiếng ấy người ta sẽ hiểu ông. Nhưng cuối cùng thì ngài thẩm phán không hiểu ông, mà ngài thẩm phán nói gì ông cũng không hiểu.

Bà chủ kéo tay áo ngài thẩm phán hỏi:

- Bây giờ ngài thấy thế nào rồi?

Câu hỏi của bà chủ quán làm ngài sực tỉnh. Vì mải nói chuyện, ngài đã quên tất cả những sự việc vừa xảy ra lúc trước. Rồi khi nhớ lại chuyện cũ ngài choáng người kêu lên:

- Đây là đâu thế này, các ông?

Một vị khách hô lớn:

- Cùng nhau cạn chén, các vị! Rượu mật ong pha với bia xứ Brêmơ. Xin mời ngài chạm cốc với chúng tôi.

Hai chị hầu bàn bừng khay ra, cúi chào khách rồi rót rượu.

- Rượu gì thế này? Ngài hội thẩm tự hỏi, không dám uống. Nhưng thấy người ta mời chào quá nên buộc lòng phải uống vậy. Có người bảo ngài say rượu, ngài tin vậy và nhờ thuê giúp cho một cái xe ngựa để về nhà. Nghe thấy ngài nói, người ta lại tưởng ngài nói tiếng Nga. Ngài chưa tiếp xúc với những người thô lỗ như thế bao giờ. Đất nước như lùi lại thời tà giáo. Ngài nghĩ thầm:

- Đây đúng là giờ phút kinh khủng nhất trong đời mình.

Ngài bèn chui xuống gầm bàn để bò ra cửa. Ngài bò ra gần đến nơi thì có người trông thấy. Họ vội nắm cẳng ngài lôi lại. Đôi giày tụt ra khỏi chân, phép lạ cũng biến mất. Ngài hội thẩm nhìn thấy trước mặt là một cột đèn đang chiếu sáng, còn phía sau là một toà nhà lớn. Bên cạnh ngôi nhà lớn là nhiều ngôi nhà khác đang đứng xếp hàng tiếp theo nó. Lúc này ngài đang ở phố Đông. Ngài vẫn còn đương bò dưới đất trước một cái cửa. Ngài trông thấy người tuần canh đang ngủ say trước mặt mình. Ngài ngồi lên, chung quanh và kêu lên:

- Quái thật! Sao mình lại nằm giữa đường mà ngủ thế này nhỉ. Giữa ngay phố Đông! Đèn ơi! Cảm ơn mày nhé! Mình chỉ uống một cốc rượu pha đường mà say như thế! Khiếp thật!

Hai phút sau ngài đã lên xe trở về Crixtinanhavu. Ngài nhớ lại những lo sợ khổ ải vừa trải qua và thầm khen cuộc sống thực tại sung sướng và hạnh phúc, thấy rõ ràng thời đại chúng ta chưa hoàn hảo lắm, nhưng đã hơn nhiều cái thời đại ngài sống lúc nãy.

Bác tuần canh nghe tiếng động bừng tỉnh và reo lên:

- Ơ này! Đôi giầy của ai thế này? Chắc là của quan trung uý trên gác này. Nhưng sao ngài lại để giầy ở đấy thế?

Bác tuần canh đã định bấm chuông gọi cửa đem trả lại giầy cho ngài. Nhưng bác thấy như vậy các nhà bên cạnh sẽ mất ngủ nên lại thôi, để sáng mai sẽ báo cho ngài biết.

Rồi buồn tay, bác sỏ thử giầy vào chân, miệng khen:

”Vừa khít. Da mềm quá! Đi êm!“

Xỏ thử vào giầy rồi bác ngồi nghĩ:

- Ngài trung uý vậy mà sướng! Chẳng vợ chẳng con, không bấn bíu gì. Tối đến lại đi tiêu khiển đến các giới giàu sang. Ước gì mình được như ngài thì sướng.

Mong được ước thấy. Do phép lạ của đôi giầy, bác tuần canh vừa ước thế thì liền nhập cả hồn lẫn xác và quan trung uý. Bác thấy mình đang sống trên gác, trong căn phòng của quan trung uý, tay cầm một mảnh giấy là bản thảo một bài thơ do quan trung uý viết. Đúng là của quan trung uý. Trong đời ai mà chả có lúc hồn thơ lai láng. Lúc ấy người ta viết những ý nghĩ của mình ra giấy thế là thành thơ. Nhưng bác tuần canh không thích thơ và cũng không thích làm quan trung uý. Mới thử một tí mà bác đã thấy chán, tiếc cái nghề tuần canh của mình, nó vất vả nhưng mà thích.

Do phép lạ của đôi giầy, bác đang thở dài thì từ trung uý bác lại thành tuần canh, mừng là đã từ bỏ được cái nghề mới của mình. Vậy là thân tuần canh lại trở về với phận tuần canh.

Mình vừa mơ thấy một giấc mơ kỳ cục; tự dưng lại thành ông trung uý ở trên gác, chẳng được hơn cái gì mà lại đâm ra nhớ mẹ thằng cu và mấy đứa con.

Bác ngồi xuống cái ghế vẫn ngồi canh cúi đầu suy nghĩ mông lung. Bỗng trên trời có một vì sao đổi ngôi. Bác lẩm bẩm:

- Sao đổi ngôi! Chắc là đổi sang một thế giới sung sướng hơn. Ước gì mình được đến gần vì tinh tú ấy mà xem nhỉ. Nhất là lại được đến mặt trăng thì tuyệt. Giá được đi chơi một vòng trên ấy thì nếu có chết ở bậc cửa này cũng cam.

Trên đời này có nhiều điều phải dè dặt trong lời nói.

Xỏ đôi giầy hạnh phúc vào lại càng phải thận trọng. Chuyện đã xảy đến với bác tuần canh như sau:

Vừa dứt lời, bác tuần canh đã vượt qua sáu vạn dặm lên tới cung trăng. Bác tuần canh sa vào một ngọn núi lửa thường thấy vẽ trên tấm bản đò mặt trăng của nhà bác học Hat-le. Mặt trăng được cấu tạo bằng một chất nhẹ hơn trái đất của chúng ta, tựa như tuyết khi mới rơi xuống đất. Bác tuần canh thụt sâu xuống đến nửa dặm Đan Mạch. Bên dưới là một làng hoàn toàn một màu lòng trắng trứng hoà với nước, nhưng nom rõ cả cái tháp tròn, cửa cuốn ban thờ đung đưa trên không. Trái đất của chúng ta tựa như một ngọn đèn khổng lồ treo lơ lửng trên đầu. Trên mặt trăng có nhiều sinh vật mà trái đất ta gọi là người, nhưng họ không giống chúng ta. Họ cũng có tiếng nói linh hồn bác tuần canh nghe hiểu được.

Trên mặt trăng họ cũng có những cuộc tranh luận về trái đất chúng ta. Họ nêu giả thuyết trái đất có người sinh sống và bàn cãi. Nhiều ý kiến cho rằng không khí ở trái đất dầy đặc quá, không thể sống được, chỉ có mặt trăng là có sinh vật mà thôi. Mặt trăng là tinh tú hoàn hảo nhất. Đấy là nơi trú ngụ của người nhà trời thời cổ xưa.

Chúng ta quay lại phố cửa Đông xem bác tuần canh bây giờ thế nào.

Bác đang nằm chết ở bậc cửa, mắt bác ngước lên mặt trăng, nơi hồn bác đang du ngoạn. Một người đi đường hỏi:

- Mấy giờ rồi bác?

Thấy bác không trả lời, người ta véo vào mũi bác, lấy tay vả vào mồm bác. Bác vẫn nằm sóng sượt bất tỉnh như một xác chết. Ai thấy thế cũng sợ. Họ cho là bác chết rồi, không thể cứu chữa được. Nhưng tảng sáng họ vẫn đưa bác vào nhà thương. Chúng ta tưởng tượng xem khi trở bác về trái đất hồn bác không tìm thấy xác thì bối rối biết chừng nào. Chắc hẳn hồn bác phải chạy đến sở cảnh sát, rồi đến phòng giữ đồ đạc, đánh mất và cuối cùng đến nhà thương. Hồn con người được thả lỏng thì tinh khôn lắm. Chỉ khi nhập vào xác. Hồn mới trở thành đần độn, nhất định nó sẽ tìm được xác bác tuần canh. Khi đem bác vào nhà thương, người ta đưa bác ngay xuống nhà xác. ở đây người ta chuẩn bị để nhập quan. Trước tiên phải cởi bỏ quần áo cũ và giầy dép để lau rửa cho bác rồi mặc áo quần mới. Người hộ lý vừa tụt đôi giầy ở chân bác tuần canh ra bỗng bác bật dậy. Thì ra hồn bác đã quay về tìm được xác bác và nhập vào và bác sống lại.

Bác tuần canh đã kể lại câu chuyện trong đêm và nói rằng đêm ấy là một đêm khủng khiếp nhất trong đời bác. Có cho bác hai đồng tiền mà bảo bác sống lại một đêm như thế, bác cũng xin chịu.

Ngay hôm ấy bác ra viện, nhưng đôi giầy thì ở lại trong nhà thương.

Người dân thủ đô Côpenhahagơ không ai biết cách cửa vào bệnh viện Frêđêrich, nhưng tất cả các bạn đọc sách của tôi không phải ai cũng là người Côpênhagơ, nên tôi muốn giới thiệu vắn tắt vài nét.

Từ ngoài phố đi vào nhà thương có một hàng rào sắt khá cao, chấn song sắt to và thưa, đủ cho trẻ con chui qua. Thông thường thì có cái đầu là khó chui nhất. Hễ đầu đi thì đuôi cũng lọt, người ta vẫn nói thế mà. Nhưng trường hợp sắp kể dưới đây có khác.

Một anh y tá phụ trẻ tuổi của nhà thương hôm ấy có phiên gác đêm. Mưa rào nhưng anh ta vẫn muốn bỏ trốn đi chơi mười lăm phút. Tối trời lại mưa, chẳng ai ra ngoài lúc này, nên cậu gác chui qua lối cổng chính.

Vừa lúc ấy cậu ta trông thấy đồi giầy bác tuần canh để quên. Giời mưa được đôi giầy đi thì tiện quá. Cạu liền vơ lấy xỏ luôn vào chân. Rồi cậu ra phía cổng để chui qua hàng rao. Vừa đi cậu vừa lẩm nhẩm như cầu nguyện: ”Lạy giời, sao cho đầu tôi lọt qua được!“

Nhờ phép lạ của đôi giầy, cái đầu to tướng của cậu chui qua một cách dễ dàng. Giờ đến lượt cái mình. cậu cứ tưởng đầu đi thì đuôi lọt. Nhưng loay hoay mãi vẫn không lách bụng ra được.

- Không ngờ mình lại to béo thế. Cậu lẩm bẩm một mình.

Xoay người đi, xoay người lại đến rách cả áo, cậu ta vẫn không sao qua được.

Oái oăm hơn nữa là rút đầu lại cũng không được. Thế là tiến thoái lưỡng nan! Cậu nổi cáu, không còn giữ được vui vẻ như ngày thường. Giẫy giụa mãi cũng không ăn thua gì. Thế mới chết chứ!

Trời vẫn mưa như trút nước xuống, phố xá vắng tanh. Muốn với cái chuông để giật nhưng không với tới. Làm thế nào để thoát khỏi bước nguy khốn này. Chưa biết chừng cứ phải đứng như thế này cho đến sáng, rồi nhờ ông thợ khoá đến cưa một song sắt đi. Nhưng vậy thì lâu quá, mưa rét thấm vào người cảm mất; rồi các chị nhà bếp và bọn trẻ con kéo nhau đến xem và bêu xấu mình.

- Ôi nguy quá! Nguy quá! Ước gì thoát khỏi nơi này! Cậu vừa dứt lời liền rút được đầu ra ngay. Giá cậu biết đôi giầy có phép lạ thì phải ước sớm hơn nhưng cậu không hay biết gì cả.

Hết tội ấy lại đến tội khác, rõ khổ cho cậu phụ tá bệnh viện. Tôi xin kể tiếp để bạn đọc nghe.

Ngay tối hôm ấy tại câu lạc bộ có đêm văn nghệ. Chương trình có tiết mục ngâm thơ. Đầu đề bài thơ là: "Đôi kính lão của bà nội".

Nội dung bài thơ như sau: Bà nội có đôi kính nhìn thấy suốt tâm can mọi người, nhìn ai là đọc được những ý nghĩ thầm kín của người ấy. Cậu phụ tá nhà thương cũng có mặt trong buổi văn nghệ ấy. Trời mưa đường lội nên cậu ta vẫn kéo đôi giầy bắt được hôm trước, vì không thấy ai đến đòi.

Cậu ta cứ suy nghĩ về chủ đề bài thơ và ước ao có được cái kính như thế nào thì cậu cũng có thể thấu suốt tâm can mọi người.

Nếu mình đột nhập vào đáy lòng các ông bà khán giả ngồi ghế hàng đầu kia thì mình sẽ lục lọi khắp chỗ trong lòng họ như lục lọi một kho hàng. Lòng bà này thì như một ngăn chứa đầy quần áo đủ kiểu đủ mốt; lòng bà kia thì rộng tuếch chẳng có gì. Lòng bà thứ ba con tim thấy mình mời chào rối rít lại xem. giá mình lọt được vào một con tim nhỉ!

Cầu được ước thấy.

Cậu chui ngay vào tim một bà sang trọng. Cậu thấy tim bà ta như một mỹ viện. Cậu vào một căn phòng, trên tường treo nhiều chân tay dị dạng. ở đây khác với mỹ viện. ở mỹ viện, người tàn tật đến mới làm khuôn, còn trong tìm bà thì những con người tội nghiệp không cần trình diện cũng được làm khuôn và khuôn được giữ lại cẩn thận. Bà chủ có toàn bộ chân dung các bạn của bà rất phong phú làm nổi bật những nhược điểm về thể chất và tinh thần từng người.

Lục lọi xong trái tim bà thứ nhất, cậu phụ tá sang trái tim một bà khác. Tim bà thứ hai này giống như một toà nhà thờ rộng lớn và thần bí. Chim bồ câu trắng tượng trưng cho sự trong sạch xoè cánh trên bàn thờ. Nếu không phải đi sang trái tim khác thì cậu ta đã quỳ xuống rồi. Sang đến trái tim khác vẫn còn nghe vọng thấy tiếng phong cầm. Tìm trong danh sách các vị tai to mặt lớn thế nào cũng thấy tên bà.

Bước sang trái tim khác, anh thấy như vào một phòng khách dát toàn bằng gương như trong lâu đài Rôxăngpo nhưng khác ở lâu đài kia là gương ở đây phóng đại mọi vật lên to một cách ghê ghớm.

Sau cùng cậu ta vào một trái tim, cậu thấy bí rì, gỡ mãi mới tìm được lối ra.

Đến đây thấy mệt rồi, cậu đình chỉ việc khám nghiệm. Cậu thấy choáng váng, đầu óc quay cuồng, thân thể bất an.. Và cậu ta nghĩ ngay đến cách chữa là nước tắm nước nóng.

- ước gì mình được ở trên bậc cao nhất của phòng tắm để nước đầy đủ và có độ nóng tốt nhất.

Cầu sao được vậy. Hơi nước tụ thành giọt nhỏ xuống mặt cậu. Nước nóng quá! Cậu thét lên và nhảy bổ sang phòng tắm nước lạnh. Cậu hầu phòng thét lên khi thấy cậu ta mặc cả quần áo vào buồng tắm. Cậu ta đã nhanh trí biện bạch.

- Tôi chơi đánh cuộc đấy mà.

Về đến nhà, việc đầu tiên là cậu ta dán ngay một lá cao lên gáy và lưng để khỏi phát điên. Vậy mà hôm sau lưng cậu ta vẫn rộp cả lên.

Đi đôi giầy hạnh phúc vào, cậu ta sướng thế đấy.

Mấy hôm sau cũng chẳng thấy ai đến nhận đôi giầy, bác tuần cành để đem đến sở cảnh sát.

Một ông tham làm việc tại đó, ngắm nghía đôi giầy, rồi đặt cạnh đôi giầy của mình, ông bảo:

- Hai đôi giầy giống nhau như hệt. Ngay thợ giầy cũng khó phân biệt đôi nào với đôi nào.

Có người cầm lá đơn đến trình:

- Bẩm quan tham!

Ông tham quay lại nói vài câu, rồi quay lại chỗ để giầy. Nhưng ông chẳng còn nhớ đôi giầy nào là của mình. Ông nghĩ đôi nào ướt là của mình.

Nhưng ông ta đã nhầm, chính đôi giầy ướt là đôi giầy hạnh phúc.

Ông tham xỏ giầy, nhét công văn vào túi đem về nhà xem. Thấy đẹp trời ông đi dạo một lúc lên quảng trường Frêđêrich. Vừa đi ông vừa ngắm cảnh. Ông nhìn chim chóc nhảy nhót ca hát vui vẻ trên cành và nói như than thở:

- Chúng sướng thật! Sướng hơn ta nhiều! Bay bổng tít trên trời, đi mây về gió, tha hồ tung cánh. ước gì mình cũng bay được như chúng!

Vừa nói xong, cánh tay và vạt áo của ông biến thành cánh chim, vải biến thành lông, giầy biến thành chân chim. Ông đã thay hình đổi dạng và nghĩ thầm:

- Vậy là mình đã thành chim, tha hồ bay lượn. Tất cả vạn vật đều ở dưới ta. Bạn của ta là nắng, là gió, là mây.

Vừa nói một mình như thế, ông tham bây giờ là chim sơn ca, chao lên đảo xuống. Một lúc lâu, ông xà xuống, ngó nghiêng tứ phía. Bỗng có cái gì to lớn úp chụp lên người ông. Thì ra một chú bỏ đi ngang qua đấy, thấy con chim đẹp liền lấy mũ chụp lấy và nắm chắc mang đi.

Ông tham hoảng quá, ông kêu lên:

- Bỏ tao ra, đồ ranh con! Có bỏ ra không?

Thằng bé chỉ nghe tiếng chim chiêm chiếp nên chẳng biết là ông tham.

Dọc đường, nó gặp hai cậu học trò. Các cậu hỏ mua thằng bé đồng ý bán với giá tám si linh. Thế là ông tham được chúng đem về phố Gốt, kinh thành Côpennhagơ.

Mấy đứa trẻ mang ông vào một ngôi nhà đẹp. Một bà to béo ra đón chúng. Nhưng bà tỏ vè không thích chim sẻ (bà gọi chim sơn ca, tức ông tham là chim sẻ); bà ta chỉ cho đem vào một ngày thôi mà phải nhốt vào lồng, treo ở cửa sổ.

- Có lẽ Pốp thích lắm đây! Bà vừa nói vừa chỉ tay vào một con vẹt xanh to tướng đang lắc lư cái đầu trong chiếc lồng bằng đồng thau. Hôm nay vừa đúng là ngày sinh nhật của Pốp. Con chim sẻ sẽ chúc mừng nó.

Một con hoàng yến trong lồng hót vang. Bà to béo mắng và vứt cái giẻ trắng trùm lên lồng nó. Con chim hoàng yến kêu thêm vài tiếng rồi im bặt. Ông tham (tức chim sẻ) được nhốt vào lồng bên cạnh lồng hoàng yến, đặt gần lồng con vẹt. Con vẹt oang oang một tràng tiếng người mà chủ dạy nó. "Thôi thôi để yên cho chúng tao sống làm người với chứ!".

Hoàng yến cũng hót lên cho người bạn mới nó là con chim sẻ nghe:

"Mới đây không lâu tôi còn bay lượn dưới bóng dừa xanh và bóng cây hạnh đang nở hoa. Tôi bay cùng các anh chị tôi trên rừng hoa thơm ngát, trên mặt biển trong vắt, trên bờ rợp bóng cây. Tôi cũng đã nghe nhiều con vẹt hót nhiều chuyện rất hay rất lạ.

Vẹt ngắt lời:

- Anh nghe đấy là vẹt rừng. Chúng không được dạy dỗ gì cả. "Thôi để yên cho chúng ta sống làm người với chứ! Sao mày không cười lên. Bà chủ và khách cũng đang cười kia kìa. Mày không biết thưởng thức những cái hay cái dở ở đời. Thôi thôi! để yên cho chúng tao sống làm người với chứ!

Hoàng yến cũng hót lên cho người bạn mới nó là con chim sẻ nghe:

"Mới đây không lâu tôi còn bay lượn dưới bóng dừa xanh và bóng cây hạnh đang nở hoa. Tôi bay cùng các anh chị tôi trên rừng hoa thơm ngát, trên mặt biển trong vắt, trên bờ rợp bóng cây. Tôi cũng đã nghe nhiều con vẹt hót nhiều chuyện rất hay rất lạ.

Vẹt ngắt lời:

- Anh nghe đấy là vẹt rừng. Chúng không được dạy dỗ gì cả. "Thôi để yên cho chúng tao sống làm người với chứ! Sao mày không cười ầm lên. Bà chủ và khách cũng đang cười kia kìa. Mày không biết thưởng thức những cái hay ở đời. Thôi!thôi để yên cho chúng tao sống làm người với chứ!

- Mày còn nhớ bóng dáng các cô xinh đẹp nhảy múa dưới rặng chuối đang trổ hoa hay không! Có nhớ những khu rừng già rợp bóng mát và đầy hoa thơm quả ngọt không?

Vẹt đáp:

- Có chứ! Nhưng bây giờ tao thấy sung sướng hơn. Tao được nuôi nấng đầy đủ, được đối xử tử tế. Tao thấy thế nàyy là thoả mãn rồi không còn gì hơn nữa. Từ nay trở đi chúng ta hãy sống như người thật. Hãy bỏ giọng hót bi ai của mày đi! Hãy nói cái gì làm cho người ta cười lên. Tiếng cười biểu hiện sự thông minh đã đến tuyệt đỉnh. Chó hay ngựa có biết cười đâu? Chúng nó kêu thì được, chứ cười thì không. Chỉ có loài người mới biết cười.

Từ nay trở đi chúng ta sẽ sống như người thật.

Hoàng yến quay lại sẻ nói:

- Này chú chim sẻ xứ Đan Mạch. Thế là chú cũng bị cầm tù rồi. Chú sống trong cánh rừng chắc rét lắm, nhưng mà được tự do. Hãy quay về đi thôi. Chuông chú người ta quên đóng cửa. Phía trên lại có cái cửa sổ để ngỏ. Trốn được đấy! Trốn đi!

Không một phút do dự, chim sẻ nhảy phắt ra khỏi lồng. Cùng lúc có tiếng cửa phòng rít lên. Một ocn mèo mắt xanh lẻn vào săn chim. Hoàng yến vùng vẫy kêu lên. Từ nay chúng ta hãy sống với nhau như người thật! Ông tham sợ quá, vội bay vọt ra khỏi lồng, rồi chẳng phương hướng gì, cứ mải miết bay, qua nhà cửa, phố phường. Đến lúc mỏi cánh, ông dừng lại xả hơi. Thấy nhà bên cạnh quen quen, có một cửa sổ để ngỏ, ông bay vào.

Lại chính nhà ông! Ông ngồi ngay vào bàn, chẳng suy nghĩ gì, chỉ nhắc lại câu nói của con vẹt: "Từ nay trở đi chúng ta hãy sống như người thật".

Và, kỳ diệu sao, ông tham lại biến thành ông đang ngồi ở bàn. Ông kêu lên:

- Lạy trời phù hộ! Thế nào mà mơ xong, mình lại ngồi đây! Lúc nãy mới lo làm sao chứ! Thật là dại dột!

Sáng sớm tinh mơ hôm sau, ông tham còn đang nằm trên giường đã nghe tiếng gõ cửa. Đấy là một anh sinh viên khoa thần học, nhà ở phòng bên cạnh, cùng một gác. Anh bước vào khẩn khoản:

- Bác cho tôi mượn đôi giầy. Ngoài vườn ướt quá, tôi muốn ra thở hít không khí trong lành buổi sáng.

Anh xỏ giầy vào chân và xuống ngay dưới vườn. Trong vườn chỉ có một cây táo và một cây mận. Nhưng giữa thủ đô Côpenhagơ mà có được một mảnh vườn dù nhỏ cũng là thú vị. Anh sinh viên đi bách bộ. Trời còn sớm. Chưa đến sáu giờ. Ngoài phố bỗng vang lên tiếng tù và của người đánh xe ngựa. Nghe tiếng vó ngựa lọc cọc trên đường cái quan, anh liên tưởng ngay đến chuyện du lịch và kêu lên:

- Ôi du lịch! Du lịch thật là sung sướng, thật là hạnh phúc ở đời. Ta không mong gì hơn. Đó là liều thuốc an thần giữa lúc ta đang bị tâm can cắn rứt. Ước gì ta được sang Thuỵ Sĩ một chuyến, rong ruổi qua nước ý.

Cầu được ước thấy. Cũng như những người trước anh xỏ đôi giầy hạnh phúc vào chân, ước cái gì được ngay cái ấy. Anh sinh viên ước đi du lịch, lập tức đôi giầy đã đưa anh sang nước ý đúng như mong ước của anh. Anh ngồi trong một cái xe ngựa, giữa mấy kiện hàng. Anh thấy nhức óc, khó thở, đầu nặng như chì, máu dồn xuống đôi chân nhét chật cứng trong ủng. Anh thấy như nửa tỉnh nửa mê; túi bên phải anh để phiếu tín dụng, túi bên trái để giấy thông hành, trên ngực lại lủng lẳng một cái túi đựng mấy đồng tiền vàng và khâu kỹ bên trong. Cứ hễ chợp mắt lại mơ thấy một thứ gì đấy. Thế là anh giật mình tỉnh dậy, vội vàng sờ xem có còn không. Chẳng đêm nào được ngủ yên giấc. Suốt ngày cứ như thấy có kẻ đến cướp đến trấn lột. Rồi mũ, ô, gậy quặc trên mui xe cứ đung đưa và vào đầu vào mặt làm anh bứt rứt khó chịu.

Cảnh vật xung quanh vĩ đại, oai nghiêm, những cánh rừng từng nhô ra trên vách núi dựng đứng, đỉnh núi khuất trong sương mù. Tuyết bắt đầu rơi, trời lạnh. Anh bắt đầu cảm thấy chán cảnh ngao du nơi đây. Anh nghĩ thầm:

- Ước gì lại được sang phía bên kia dãy núi Anpơ! Sang bên ấy sẽ được sống khí hậu mùa hè và được lĩnh tiền bằng phiếu tín dụng. Giá lạnh thế này chẳng muốn ở lại đất Thuỵ Sĩ nữa. Làm sao sang được bên kia núi nhỉ!

Điều mong ước của anh sinh viên lập tức được thực hiện. Chỉ một chớp mắt anh đã thấy ở bên kia dãy núi, trên đất ý, giữa Florăngxơ và Rômơ. Nước hồ Traxinen lấp lánh dưới ánh nắng chiều tà nom như vàng lỏng giữa màu xanh thẫm của núi non, nơi xưa kia Anniban đã đánh bại những cây du thụ xanh tươi một cách thanh bình. Bọn trẻ con mình trần đang chăn đàn lợn đen trong cánh rừng nguyệt quế màu hồng toả hương thơm ngát hai bên đường. Giá tôi có tài mô tả được đầy đủ cảnh tượng mỹ lệ nơi đây, chắc bạn đọc phải kêu lên: "nước ý đẹp quá!" Nhưng anh sinh viên của chúng ta và các khách du đi cùng xe với anh, chẳng ai reo lên như thế một lời nào.

Côn trùng và ruồi muỗi bay quanh chiếc xe. Họ lấy cành xim xua chúng đi nhưng không được. Không một người nào trong xe không bị chúng đốt cho sưng mặt. Chúng bâu vào cả mắt mặt những con ngựa kéo xe, làm ngựa phải vất vả mới nhìn ra đường đi. Từng đàn ruồi xông vào đốt chúng, người đánh xe liên tục xuống xe đuổi ruồi cho chúng. Lúc mặt trời lặn, gió nổi lên làm cảnh vật rung chuyển. Núi non toàn một màu xanh ngắt. Đến tận nơi ngắm mới thấy thật là hùng vĩ. Những lúc này du khách đang đói bụng. Họ mong được gặp một quán trọ để ăn nghỉ hơn là cảnh đẹp thiên nhiên.

Lúc qua một cánh rừng ô-liu, anh sinh viên thần học lại nhớ về tổ quốc mình. Anh thấy những cây ô-liu ấy không đẹp bằng những cây liễu già xu xi đấy mấu nơi quê hương mình. Đi thêm một quãng nữa, họ đến một quán trọ quạnh hiu. Trước cửa quán là một tốp ăn mày, người thì chân thọt, người thì mụn nhọt đầy tay, người thì tay thọt đến tận khuỷu. Họ thi nhau kêu xin cứu giúp, giọng rền rĩ xé ruột xé gan. Anh sinh viên vất vả lắm mới thoát khỏi vòng vây của họ, để vào quán trọ. Chủ quán là một mụ già, quần áo bẩn thỉu, đi đất, tóc xoã, miệng mỉm cười, trông ghớm ghiếc như con quỷ cái, ra mời khách. Cửa quán buộc bằng dây thừng, trần nhà đầy dơi đậu, một mùi hôi kinh khủng vào mũi.

Một khách hàng hỏi:

- Dọn bàn ăn xuống chuồng ngựa có được không, bà chủ. Xuống đấy chỉ có riêng mùi phân ngựa, chứ ở đây đủ mọi thứ mùi, ngồi đây ăn sao nổi.

Bà chủ quán hiểu ý, ghé mở cửa phòng cho thoáng; nhưng cửa vừa mở, cả đoàn ăn xin xô đến, van nài:

- Xin các ông các bà cứu khổ cứu nạn, giúp cho kẻ khốn cùng.

Nhà hàng bưng mâm ra. Vừa đặt mâm xuống mùi hạt tiêu và dầu xả xông lên. Trứng thì ung, thịt gà thì khét, rượu vang thì pha, khó uống quá, đắng như thuốc.

Đêm ngủ không an toàn. Khách phải lấy xích sắt cửa, thay nhau thức để canh gác. Trong nhà không khí ngẹt thở. Bên ngoài lũ ăn mày vẫn lảm nhảm: "Xin các ông các bà cứu khổ cứu nạn, giúp cho kẻ khốn cùng."

Trong lúc còn đang mắt nhắm mắt mở, anh sinh viên thần học cứ tưởng mình đang trên giường một căn phòng, giữa thủ đô Côpenhagơ, dưới kia là mảnh vườn nhỏ có cây táo và cây mận.

Đến lúc tỉnh hẳn, anh ta mới nhớ ra rằng mình đang trên đường đi du lịch tại nước ý. Dần dần anh nhớ ra những nhọc nhằn vừa trải qua và những chán ngán gặp phải trên đường. Rồi anh nằm chen chúc trên một ổ rơm hôi hám, chốc nữa mới dậy lại ngồi vào bàn ăn món gà khét lẹt, trứng tráng ung, rượu vang pha uống đắng như uống thuốc trong một căn phòng bí hơi, vừa ăn vừa nghe lũ ăn này lảm nhảm ngoài cửa: "Lạy ông, lạy bà, cứu khổ cứu nạn, giúp kẻ bần cùng".

Anh sinh viên nghĩ bụng:

- Giá đi du lịch mà chỉ đem theo cái hồn thôi thì khoái biết mấy! Chứ như thế này thì phiền toái quá! Ước gì mình chỉ có linh hồn không thôi nhỉ. Như vậy khoái hơn, cứ như thế này chẳng khoái tí nào!

Anh sinh viên nghĩ như thế bỗng dưng anh thấy mình đang ở quê nhà. Rèm trắng dài buông rủ trên các cửa sổ. Giữa phòng đặt một chiếc quan tài sơn đen, trong đó xác anh sinh viên đang nằm ngay ra bất động, còn linh hồn thì đang chu du thiên hạ.

Một học giả Aten cổ đại là Xôlông đã có lần nói:

"Đừng có vội vàng nhận định ai sung sướng trước khi người ấy chết".

Câu nói ấy của nhà học uyên thâm đã được thể hiện trong câu chuyện tôi kể trên đây.

Hai cái bóng bước vào phòng. Đó là thần Trừng phạt và sứ giả của thần Hạnh phúc. Hai thần ghé xuống nhìn xác chết.

Thần Trừng phạt hỏi:

- Đi giầy hạnh phúc đã đem lại hạnh phúc gì cho người trần?

Thần kia trả lời:

- Đã đem cái chết dịu dàng, cái chết giữa tuổi thanh xuân cho anh ta trước khi anh ta phải nếm mùi khổ hạnh của cuộc sống.

- Cô nhầm rồi! Thần trừng phạt lại nói. - Anh ta đã chết quá sớm. Sống chưa hết kiếp. Do vậy tuy anh ta có quyền hưởng hạnh phúc sau nhiều thử thách gian lao, nhưng anh ta đã không được hưởng. Ta sẽ thực sự cứu giúp anh ta.

Nói rồi thần trừng phạt tháo đôi giầy hạnh phúc từ chân anh ra. Anh sinh viên bỗng tỉnh dậy. Cả thần Trừng phạt lẫn đôi giầy biến mất.

Vanđơma và các con gái

Truyện cổ Andecxen :cool1:

Các bạn có muốn nghe gió kể chuyện không? Gió biết nhiều chuyện hơn tất cả chúng ta, chuyện phiêu lưu, chuyện cổ tích, và nhiều chuyện khác. Hôm nay chúng ta hãy nghe gió kể chuyện Vanđơma và các cô gái ông ta.

Gió kể:

- Vốn dòng dõi vua chúa, nên ông ta rất kiêu hãnh. Ông ta uống rượu và săn bắn thì ít ai bắng. Bà vợ ông ta lúc nào cũng quần lượt là thêu vàng dát bạc. Sàn nhà bao giờ cũng bóng loáng. Các phòng ở trải thảm rực rỡ, bày những đồ đạc quý giá, chạm trổ tinh vi; nhiều thứ là của hồi môn của bà chủ đem từ nhà bố mẹ về. Hầm nhà đầy ắp rượu quí. Đàn ngựa đen hí trong chuồng.

- Ông bà có ba cô con gái, cô nào cũng xinh đẹp. Tên ba cô là Iđa, Gian và Đôrôtê. Cả ba đều giàu sang phú quý. Vi vu, vi vu.. Tất cả đều trôi đi.

(Trong lúc kể chuyện, gió hay đưa vào điệp khúc ấy)

- Bà chủ nhà ở đây không ngồi quay tơ vào phòng với bọn thị tỳ như ở nhiều nơi khác. Bà chủ ở đây chỉ đàn hát. Lâu đài lúc nào cũng náo nhiệt, khách khứa ra vào tấp nập. Tiếng cốc chén va chạm vào nhau, tiếng ca nhạc, át cả tiếng gió thổi.

- Một sáng tháng năm ta ở phía tây thổi về (vẫn lời của gió), rong ruổi trên bờ bể, qua các khu rừng và đồng bằng, vượt qua sông Ben.

Đến khu rừng dẻ gai, gần lâu đài Bôrôby.

Vừa lúc ấy có một chiếc xe dát vàng có sáu ngựa kéo đi tới. Trên xe bà bá tước và ba nàng con gái xinh đẹp, dịu dàng; một người trông như đoá hoa hồng, một người như hoa huệ, người thứ ba như hoa dạ hương. Bà mẹ cũng xinh đẹp rực rỡ. Mấy đứa trẻ thấy xe đến, đứng dậy cúi chào. Ta trông thấy ba nàng con gái xinh đẹp và tự hỏi ai sẽ là chồng của họ? Chắc phải là các hiệp sĩ, hoặc các hoàng tử xứng đáng với họ.

Vi vu, vi vu... Tất cả sẽ trôi đi!

Chiếc xe quay rồi, những đứa trẻ lại tiếp tục nhảy múa. ở làng này nhân dân thường vui chơi như vậy để đón mùa hạ.

Đến đêm, bà chủ lâu đài đã ngủ lịm đi, không bao giờ thức giấc nữa. Bà ta đã qua đời như tất cả mọi người.

Vanđơma sống một thời gian âm thầm và lo âu. Nhưng rồi ông ta tự nhủ: Ngọn cây cứng cáp nhất cũng có lúc phải uốn mình, nhưng nó cũng có thể lại vươn lên. Các nàng con gái trong lâu đài và gia nhân ai cũng khóc và thương xót bà quý phái. Bà đã mất, ta cũng bay đi nơi khác, vì mọi vật đều trôi đi, vi vu, vi vu...

Nhưng rồi ít lâu sau ta lại trở lại. Ta đã từng ngồi trên bờ biển gần bôrôdy và trong khu rừng gần đấy. Trong rừng có nhiều loài chim trú ngụ: cò, diêc, chim cu, quạ khoang, quạ đen. Nhiều con đã đẻ trứng, nhiều trứng đã nở. Bỗng có sự huyên náo khác thường. Chim cò bay vút lên, gào inh ỏi. Có tiếng rìu đốn cây, người sắp phá trịu khu rừng. Vađơma đóng một chiếc ba tầng để bán cho nhà vua. Vì thế ông ngả rừng nơi trú ngụ của chim chóc. Đàn cú vội vàng bay đi trốn. Chúng kêu gào ầm ĩ trên khu rừng. Quạ đen, quạ khoang chế diễu: "Bị tống cổ rồi! Bị tống cổ rồi! Quạ! Quạ!"

Vađơma cùng các con gái và những tiều phu thấy vậy phá lên cười. Riêng cô con gái út Đôrôtê thấy mủi lòng. Một cây trên có tổ quạ đen, quạ con đang thò đầu ra ngoài kêu. Người ta cũng định chặt cả cây ấy. Nhưng Đôrôtê đã van xin, nên riêng cây ấy được để lại.

Họ đẵn cây, cưa gỗ, đóng chiếc thuyền ba tầng. Người trông nom điều khiển công việc không phải con nhà quyền quý nhưng có trí thông mình. Đôi mắt và vầng trán anh biểu lộ tài sáng tạo. Vanđơma và cô con gái cả Ida thích nghe anh kể chuyện.

Trong khi thiết kế cho người cha con tàu, thì anh cũng thiết kể trong óc một toà lâu đài cho mình và cô con gái cả của ông. Nhưng vì chỉ là tưởng tượng nên không thành sự thực. Và làm xong con tàu, người trẻ tuổi ấy lại ra đi. Cô bé cũng đã yêu anh. Đàn ngựa đen đang dậm chân trong chuồng.

Một vị thuỷ sư đô đốc được nhà vua cử đến xem xét con tàu và bàn việc mua bán. Nhưng chẳng biết thế nào việc mua bán không thành, con tàu vẫn nằm trên bến, chẳng bao giờ được hạ thuỷ, vi vu. Mọi việc trôi qua, trôi qua... Đấy là thất bại đầu tiên của Vanđơma.

Mùa đông, tuyêt phủ đầy mặt đất, những tảng băng trôi giạt trên dòng sông Ben. Từng đàn quạ bay kéo đến, đậu trên chiếc tàu bỏ chỏng chơ trên bờ sông. Chúng kêu than về cảnh rừng bị phá, cảnh quạ non quạ già không có chỗ làm tổ và tất cả những tai họa đã xảy ra do việc đóng con tàu gây nên, con tàu kiêu căng chẳng bao giờ được nổi trên mặt nước.

Ta cuộn tuyết lên phủ quanh thân tàu, kín đến tận nóc và cao giọng thổi thành cơn giông tố. Ta làm mọi cách để cho con tàu biết thế nào là cuộc đời trên biển cả. Vi vu, vi vu... mọi việc trôi qua!

Đông qua, Xuân tới. Các mùa tiếp nối nhau như gió thoảng qua. Tuyết tan, hoa nở, lá vàng lại rụng...

Tất cả đều trôi qua. Đời người cũng vậy. Các cô con gái Vanđơma vẫn trẻ măng. Nàng Iđa mơn mởn như đoá hoa hồng. Có lúc ta thổi vào bộ tóc màu hạt dẻ của nàng khi nang ngồi trầm ngâm dưới gốc cây táo trong vườn. Ta rũ tóc nàng ra và phủ lên đầy hoa.

Gian cô em thứ hai tươi tắn như bông huệ, nhưng điệu bộ cứng nhắc, kiêu kỳ, giống như bà mẹ. Nàng hay vào gian phòng nơi treo chân dung những người trong gia đình. Các bà trong tranh ăn mặc lịch sự, trên tóc úp một chiếc mũ nạm ngọc, trông thật duyên dáng. Các ông chồng thì áo giáp thép hoặc áo choàng loại đắt tiền. Các ông không đeo kiếm ở hông mà đeo ở đùi.

Đôrôtê là một cô bé mười bốn tuổi. Tính cô trầm lặng và chín chắn. Cô có cặp mắt to, xanh tựa sóng, lúc nào cũng mơ màng, một nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi. Nàng luôn ở ngoài vườn hay trên đồng ruộng để hái hoa bứt cỏ.

Vanđơma là người cứng rắn và kiêu ngạo nhưng rất thông thái. Ngay giữa mùa hè ông vẫn đốt lò, cửa buồng đóng kín. Suốt ngày ông ở trong đó, chẳng bao giờ nói với ai công việc ông làm. Ông muốn tìm ra một vật quí nhất trên đời. ấy là vàng đỏ.

Vì vậy khói luôn bay trên mái toà lâu đài, trong buồng Vanđơma luôn luôn có lửa, lửa từ trong lò loè ra. Mọi vật sẽ biến thành than tro, than tro thành khói. Ngay cả Vanđơma rồi cũng sẽ cháy tan ra thành khói. Vi vu, vi vu... mọi vật trôi qua!

Những con ngựa oai phong trong chuồng biến đâu cả?

Tất cả súc vật, vàng bạc, trang trại và cả lâu đài nữa, biến đâu rồi? Chúng chảy thành nước cả rồi, chảy tan trong nồi nấu vàng, nhưng chẳng nấu ra tí vàng nào.

Chẳng còn chút gì trong các ngăn tủ và trong kho thóc. Người hầu giảm đi mà chuột thì lại tăng lên. Cửa kính cứ vỡ dần nay một tấm, mai một tấm, ta ra vào tự do, tình hình trong nhà thế nào ta đều biết cả (vẫn là lời gió kể).

Bữa ăn của chủ nhà trở nên đam bạc. Các nàng con gái của Vanđơma cũng chỉ đắp lên người một tấm da. Chẳng còn gì ăn, chẳng còn củi để sưởi. Cuộc đời một quí tộc phá sản là như thế đấy. Vi vu, vi vu. Mọi vật trôi qua!

Sống giữa khói than và tro bụi, qua bao lo âu phiền muộn, râu tóc Vanđơma ngả màu xám, nước da tái nhợt, nhưng đôi mắt vẫn ánh lên một niềm hy vọng. Ông nói: "Đông qua rồi xuân sẽ tới. Sau cơn bĩ cực đến tuần thái lai. Rồi ta sẽ có vô số vàng. Gắng chịu đến ngày lễ Phục sinh.

Sáng ngày lễ phục sinh, tiếng chuông nhà thờ vang lên. Nắng làm tươi vui hẳn bầu trời. Trong cơn lo lắng, Vanđơma đã thức suốt đêm, nấu chảy rồi để nguội, pha trộn rồi gạn lọc. Lão thở dài, rồi cầu nguyện, nín thở. Đèn tắt ngấm mà lão cũng chẳng để ý. Ta thổi vào đám củi tàn, ánh lửa soi sáng mặt lão hốc hác trắng bệch. Mắt lo âu, sâu trũng, tròn xoe, to ra mãi như muốn bật khỏi tròng.

"Vàng đây rồi!" lão reo lên - nó tinh khiết và đặc sệt". Lão nhấc bình thuỷ tinh luyện kim lên, tay run run, miệng lắp bắp: "vàng vàng!" Lão cầm bình thuỷ tinh vào phòng những đứa con gái mình, giơ cao lên hét: "Chế ra vàng rồi!" Tay lão run run. Chiếc bình rơi xuống vỡ tan tành. Niềm hy vọng cuối cùng của lão tan tành. Vi vu, vi vu, mọi việc trôi qua.

Vào một ngày cuối năm ngắn ngủi, ở lâu đài Bôrôby, Ôvơ Ramen, chủ nợ của Vanđơma đang ngồi đấy với bản khế ước cầm cố gia sản của Vanđơma. Iđa và Đôrôtê oà lên khóc, Gian ngồi cắn móng tay.

Ôvơ Ramon đã mời Vanđơma ở lại lâu đài suốt đời, nhưng lão chỉ cảm ơn. Lão chỉ còn quần áo mặc trên người, và một cái bình thuỷ tinh mới mua đựng nước luyện kim vét dưới đất, thứ nước quý báu hứa hẹn nhiều nhưng chẳng đem lại gì. Lão chúa đất trước kia già có, nay ôm chặt cái bình, một tay chống gậy cùng các con ra khỏi lâu đài Bôrôđy. Ta thổi hơi lạnh buốt vào đôi má lão, lay chòm râu xám và bộ tóc bạc của lão. Ta hét: vi vu, vi vu.. Mọi việc trôi qua! Thế là hết hạnh phúc.

Iđa và Đôrôtê đi cạnh lão. Gian trước khi đi theo còn quay lại nhìn ngôi nàh cũ một lần. Các nàng đi theo con đường mà trước đây họ thường đi dạo bằng xe ngựa. Người nào cũng lếch thếch như những kẻ ăn xin. Họ đến một ngôi nhà đất mới thuê mỗi năm mười mác, tường vách trống trơn. Đàn bay qua lượn chung quanh gào: "Họ bị đuổi đi! Họ bị đuổi đi!"

Gió còn biết Vanđơnma và các cô gái sau này ra sao nữa kia.

Gió kể:

- Năm mươi năm sau ta gặp lại Đôrôtê. Lúc ấy nàng đã già, lưng đã còng. Nàng là người cuối cùng trong gia đình còn sống và còn nhớ lại mọi chuyện cũ. Nàng đã kể thế này: "Giữa đồng bằng trong thành phố Viho, mọc lên một toà lâu đài sang trọng của mục sư, xây bằng đá đỏ, khói nghi ngút toả trên mái. Gia đình chủ nhà mới đứng gần cửa sổ nhìn qua khe lá leo trên đầu, về phía đồng cỏ màu nâu nhạt. Họ nhìn một túp lều tiều tuỵ, trên mái là những tổ cò. Cái lều thật thảm hại. Các bạn chỉ đứng xem chớ có động vào.

Cái lều ấy đáng lẽ phải phá đi vì nó làm xấu cả cảnh quan. Xong ông mục sư không nỡ. Vì trong túp lều ấy còn có một bà già. Thế là túp lều còn lại và người đàn bà đáng thương còn được ở trong đó.

Qua lời bà già Đôrôtê, chúng ta còn được biết: Ông Vanđơma đã chết một cách đáng buồn, chẳng có một tiếng chuông, chẳng có một lời cầu nguyện, Iđa lấy một người nông dân, ông bố rất đau khổ chả là con rể chỉ là một người bình dân mà ông thường khinh rẻ. Còn Gian sau này xung vào lính thuỷ. Nàng luôn lầm lỳ và ủ rũ nhưng chẳng than phiền gì. Trong một cơn bão, chiếc tàu trên nàng làm việc đã chìm xuống biển, kéo theo nhiều người trong đó có Gian. Người cuối cùng của gia đình Vanđơma là Đôrôtê đã hát lời cầu nguyện trong túp lều tiều tuỵ vào một ngày lễ Phục Sinh. Nàng đã qua đời.

Người bạn đồng hành

Truyện cổ Andecxen

Cha nó đang ốm thập tử nhất sinh. Nó rất buồn. Trong túp lều nhỏ chỉ có hai cha con. Cha nó bảo: "Giăng ơi! con thật hiếu thảo! Cha cầu mong Thượng đế phù hộ cho con trên đường đời."

Giăng oà khóc. Nó chẳng còn ai trên đời này nữa! Không mẹ, không cha, không anh không em. Nó quỳ bên cạnh giường hôn tay cha, nước mắt giàn giụa. Một lúc nó mệt, nằm thiếp đi, gục đầu xuống thành giường bằng gỗ cứng.

Nó mơ một giấc mơ kỳ diệu. Nó thấy mặt trời và mặt trăng sà xuống, cha nó mạnh khoẻ, cười với nó như những lúc cha vui. Một cô gái xinh đẹp, đội chiếc mũ miện chìa tay cho nó. Cha nó lại cười và bảo: "Người vợ tương lai cha sắp cưới cho con đấy!"

Giăng bừng tỉnh. Trước mặt nó là sự thực đáng buồn: Cha nó đã chết, nằm sóng sượt trên giường, ngoài ra chẳng có một ai. Tội nghiệp cho nó!

Hôm sau Giăng đi theo quan tài người cha thân yêu ra mộ. Thế là từ nay nó chẳng bao giờ được thấy mặt cha nó. Lòng nặng trĩu buồn phiền, tim nó như tan nát thành muôn mảnh.

Người đi đưa ma hát một bài thánh thi. Tiếng hát làm nó chan hoà nước mắt, giọt lệ làm nhẹ bớt đau khổ.

ánh dương lấp lanh trên hàng cây xanh như an ủi nó: "Đừng buồn phiền! Hãy nhìn lên trời xanh. Cha cậu đang trên đó và đang cầu nguyện cho cậu gặp mọi sự tốt lành thành đạt trong mọi việc".

Giăng đáp: "Còn tôi, tôi sẽ ăn ở tốt lành để sau này được lên đấy gặp lại và đoàn tụ với cha tôi".

Giăng mỉm cười, hai hàng lệ lăn trên gò má. Trên cây mấy con chim non cất tiếng hót: quy vit! quy vit! Chúng vừa chứng kiến đám tang. Chúng cũng tin rằng giờ đây người cha đang ở trên Thiên đường, ông sung sướng mỉm cười vì đã sống phúc hậu khi ở dưới trần.

Giăng thấy đàn chim chuyền từ cành nọ sang cành kia rồi cùng nhau bay vút lên cao. Giăng thấy khao khát được bay theo chúng. Nhưng nó không quên đẽo một cây thập tự bằng gỗ đem cắm bên mộ cha. Khi mang cây thập tự đến, nó đã thấy ngôi mộ có cỏ đắp và cắm đầy hoa. Bạn bè đã đem đến trang hoàng mộ ông, vì ai cũng quý ông.

Chôn cất cha xong, sáng hôm sau Giăng gói quần áo thành một bọc nhỏ và dắt lưng toàn bộ gia tài gồm có năm mươi đồng tiền vàng và vài hào bạc. Nó định dùng món tiền ấy và đi chu du thiên hạ.

Trước khi đi, Giăng ra nghĩa địa, tìm đến mộ cha, quỳ xuống khấn: "Vĩnh biệt cha thân yêu. Con nguyện trước vong hồn cha lúc nào cũng sẽ ăn ở tốt lành. Xin cha yên lòng cầu Thượng đế phù hộ cho con".

Trên những cánh đồng Giăng đi qua, nó thấy hoa nào cũng tươi đẹp dưới ánh năng ấm. Chúng nghiêng mình trong gió nhẹ như chào mừng Giăng.

Đi được một quãng Giăng đứng lại nhìn ngôi nhà thờ cổ kính, nơi nó đã đến với cha để nghe giảng đạo.

Nó nhìn thấy trên cửa tò vò gác chuông anh lùn gác chuông nhà thờ đầu đội mũ đỏ, tay đang che mắt để tránh những tia nắng. Nó vẫy tay vĩnh biệt anh ta.

Anh lùn cũng chào lại, vẫy chiếc mũ, lấy tay gửi cho Giăng nhiều chiếc hôn gió, tỏ ý chúc Giăng lên đường mạnh khỏe gặp nhiều may mắn.

Giăng vừa đi vừa nghĩ đến những gì sẽ gặp trên đường. Nó đi, đi mãi; chưa bao giờ đi xa thế. Trên đường chẳng hề gặp một người nào quen, thành phố cũng lạ. Nó đã đến một nơi chưa bao giờ đặt chân.

Đêm đầu tiên nó ngủ trong một đống rơm vì không tìm được chỗ nào khác. Tuy vậy nó thấy rất may mắn, đến vua cũng không có được chỗ ngủ như thế. Này nhé; một cánh đồng một con sông, một đống rơm và bầu trời xanh trên đầu; còn có các phòng ngủ nào đẹp hơn thế! Thảm cỏ xanh có điểm hoa trắng đỏ. Hương mộc và và dã tường là những bó hoa trang trí tuyệt đẹp; rửa mặt thì đã có cả một con sông và làn nước trong mát in bóng những vì sao từ trên trời soi xuống. Chị hằng như một đèn lớn treo lơ lửng trên bầu trời xanh chẳng còn sợ bén lửa sang rèm cửa, nên Giăng có thể yên chí nằm ngủ.

Lúc tỉnh dậy, mặt trời đã lên cao, khắp nơi chim chóc líu lo: "Chào cậu! Chào cậu!"

Hôm ấy đúng vào ngày chủ nhật. Chuông nhà thờ rộn rã. Giáo dân trong vùng kéo nhau đến nhà thờ. Giăng đi theo họ vào nhà thờ và cùng hát với họ. Nó tưởng như đang đứng trong nhà thờ quê nhà nơi nó đã chịu lễ ban thánh thể và đến lễ với cha.

Ngoài nghĩa địa có nhiều mộ. Có những ngôi mộ cỏ mọc cao. Giăng nghĩ đến ngôi mộ của cha ở quê nhà, thiếu người chăm sóc, chắc cũng giống thế. Nó ngồi xuống nhổ cỏ, dựng laị những cây thánh giá bị đổ, xếp lại những bó hoa bị gió cuốn đi.

Nó nghĩ: "có lẽ mộ cha mình cũng được người khác chăm sóc thay mình như thế này".

Có một ông lão nghèo đang đứng ở nghĩa địa. Giăng cho ông mấy hào lẻ rồi tiếp tục chu du thiên hạ.

Chiều tối gặp một cơn giông khủng khiếp. Giăng rảo bước tìm nơi trú ẩn. Nó đã tìm được một ngôi nhà thờ biệt lập trên một quả đồi. Nó thấy cửa mở, chẳng có người. Nó vào ngồi xếp nghỉ và cầu kinh. Chưa hết một bài mắt đã díu rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Lúc tỉnh dậy, đã nửa đêm, cơn giông đã tan, trăng lấp lánh ngoài cửa kính. Giữa nhà thờ nó nhìn thấy một chiếc quan tài mở nắp, bên trong có một thi hài sắp đem chôn. Giăng không chút sợ hãi. Nó biết rằng người chết rồi không hại ai. Có chăng chỉ những kẻ còn sống có tâm địa xấu xa mới tìm cách hại người, mới đáng sợ. Giữa lúc ấy có hai tên có vẻ là bọn bất lương, định lôi xác chết ra để quẳng đi. Vốn là người nhân đức, Giăng động lòng thương, hỏi: - Các anh định giở trò gì thế? Phải tội chết. Người ta chết rồi, để cho vong hồn người ta yên.

- Không được! Hai tên bất lương trả lời. Nó nợ tiền chúng tao, không trả. Bây giờ nó vào áo quan rồi mà chúng tao chẳng được lấy một xu. Chúng tao phải quẳng nó ra cửa nhà thờ cho bõ tức.

Giăng điều đình.

- Người ấy nợ các anh bao nhiêu không biết. Đây tôi có tất cả năm mươi đồng vàng, tôi sẽ đưa cả cho các anh rồi để cho người ấy yên lành. Còn tôi vẫn đang khỏe mạnh, lành lặn. Thượng đế sẽ phải phù hộ tôi.

- Được! Nếu anh muốn trả nợ thay cho nó thì đây đồng ý tha.

Chúng cầm tiền, cười ngất bỏ đi, chắp hai tay người chết với nhau, từ biệt bước đi vào khu rừng lớn. Ra khỏi khu rừng thì trời vừa sáng. Bỗng Giăng nghe có tiếng gọi sau lưng:

- Anh bạn về đâu thế?

- Đi chu du thiên hạ. Giăng đáp. Tôi là đứa trẻ không cha không mẹ, nhưng Thượng đế sẽ phù hộ tôi.

- Tôi cũng chu du thiên hạ đây - người lạ mặt nói - Chúng ta cùng đi với nhau chăng?

- Nhất trí, Giăng đáp và họ cùng đi với nhau.

Chỉ mười lăm phút sau, họ đã trở thành đôi bạn ý hợp tâm đầu. Vì cả hai đều là người tốt. Nhưng Giăng thấy người bạn đồng hành, khôn hơn mình nhiều. Anh ta đã đi nhiều, từng trải nhiều, chuyện gì cũng biết.

Họ bảo nhau hãy ngồi xuống gốc cây nghỉ và ăn sáng. Vừa lúc ấy, có một bà cụ đi tới.

Bà cụ lụ khụ, lom khom chống nạng, trên lưng mang một bó củi khô nhặt trong rừng, dưới tạp dề lòi ra đầu ba cái roi bằng cây đuôi chuồn và dương liễu. Còn cách hai người một quãng, bà cụ ngã lăn kềnh ra, kêu thét lên.

Giăng muốn khiêng bà cụ về nhà, nhưng người bạn đồng hành bảo: "Không cần, tôi có thứ thuốc bôi vào bà lão dậy được tự đi về nhà ngay như không có chuyện gì xảy ra". Nhưng anh ta đòi bà cụ phải trả công ba cái roi, cụ dắt dưới tạp dề.

- Thế thì đắt quá đấy! Bà cụ nói, ngần ngừ không muốn đưa.

Nhưng gãy chân nằm đấy thì khổ, cụ đành phải đưa ba cái roi cho người kia. Anh ta lấy thuốc bôi vào chỗ chân đau, bà cụ đứng ngay lên, đi được.

Thật là một thứ thuốc công hiệu ít thấy.

Xong rồi hai anh bạn ra đi. Giăng hỏi anh kia:

- Cậu lấy mấy cái roi ấy làm gì?

- Mình hay thích những cái lặt vặt như thế. Tính mình vậy.

Hai người đi một hồi khá lâu. Giăng nhìn về phía trước và nói:

- Nom kìa! Những đám mây đen đang kéo đến mù mịt khiếp quá!

- Không phải mây đâu! Anh bạn đồng hành nói- Đấy là những ngọn núi cao.

Thực vậy. Đấy chỉ là những ngọn nũi. Trông gần mà hoá ra xa. Đi cả một ngày ròng rã mới tới nơi. Rừng ở đây rậm, mọc toàn cây thẳng đứng. Lại còn có những hòn đá cực to. Vượt qua nơi này không dễ, hai người bàn nhau nghỉ lại mai đi sớm.

Trong quán trọ bên dưới một đám đông người đang tụ tập. Một người đang làm trò múa rối. Khán giả ngồi xem chung quanh. Trên hàng đầu là một lão hàng thịt béo phị. Cạnh lão là một con chó to xù, nom dữ tợn như sắp cắn người. Mở đầu buổi diễn là một hài kịch. Hai nhân vật chính là vua và hoàng hậu, đầu đội mũ miện vàng, khoác áo choàng, ngồi trên ngai. Những chú lính hầu xinh xắn, mắt bằng thuỷ tinh, đứng gác cửa. Cửa đóng ra mở vào liên tục để lấy gió vào cung. Màn kịch thật vui, khán giả vỗ tay ran ran.

Đến lúc hoàng hậu ra sân khấu, dạo được vài bước, thì chả biết thế nào, con chó của lão hàng thịt nhảy lên ngoạm vào lưng, hoàng hậu ngã vật xuống. Chủ gánh xiếc rất buồn, phần vì mất vai hoàng hậu là con rối đẹp nhất, phần vì mất buổi diễn. Những người bạn của Giăng biết anh ta có thể chữa được. Anh ta lấy lọ thuốc vừa dùng chữa chân cho bà lão lúc nãy, bôi cho con búp bê hoàng hậu. Con búp bê đứng ngay lên và biểu diễn luôn, lại không cần có dây điều khiển. Mà khéo như người thật, chỉ không biết nói. Chủ xiếc mừng quá.

Hết buổi diễn mọi người ra về. Người trong quán trọ đi ngủ cả. Bỗng có tiếng rên rỉ vọng lên. Mọi người dậy xem, thì thấy đám con rối nằm ngổn ngang, nào vua, nào cận thần, nào lính hầu, giương to đôi mắt thuỷ tinh rên rỉ thảm hại, cầu xin được bôi thuốc để có thể tự ngọ nguậy được như hoàng hậu.

Thấy vậy, hoàng hậu quỳ xuống, hai tay nâng mũ miện kêu van xin "ông lang" bôi thuốc và tất cả những người trong cung.

Người chủ gánh hát hứa anh bạn của Giăng xin biếu tất cả tiền bán vé vào cửa tối ấy chỉ cầu an bôi thuốc cho tất cả những con búp bê còn lại. Nhưng anh bạn chỉ đòi mỗi thanh gươm đeo cạnh sườn quốc vương. Nhận gươm rồi, anh bạn bôi thuốc cho mấy con búp bê. Tức thì tất cả mấy con tự hoạt động được, không cần giật dây, trông thật là buồn cười. Các cô cậu hầu bàn cười ngặt nghẹo và nháy theo chúng. Cả người đánh xe, cả bác bếp, cả những khách trọ đang ngủ cũng bật dậy ôm nhau nhảy. Lại cả xẻng, cái cặp than cũng hối hả chạy vào nhảy. Rõ thật là vui.

Sáng hôm sau. Giăng và anh bạn đồng hành từ biệt mọi người lên đường. Họ vượt qua những cánh rừng bát ngát, leo lên những đỉnh núi cao chót vót. Họ trông được rất xa, nhìn đến tận những nơi họ chưa từng đến, ngắm nhiều cảnh đẹp huy hoàng. Mặt trời lấp lánh trên khoảng trời xanh mát rượi. Tiếng kèn săn chốc chốc vẳng lên từ các khe núi.

Say sưa trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hai anh bạn đường đứng chắp tay tạ ơn Thượng đế đã cho hưởng những cảnh tuyệt diệu trên thế gian này. Bỗng trên đầu có tiếng vang. Ngẩng lên họ thấy một con thiên nga đang bay lượn trong không trung và không biết thế nào lại lảo đảo rồi rơi bịch xuống ngay dưới chân họ. Anh bạn của Giăng trầm trồ:

- Đôi cánh đẹp quá! Tôi phải cắt mới được. Cậu xem mình lấy thanh gươm đem đi, có được việc không?

Rồi anh lấy gươm chặt phăng đôi cánh. Xong rồi họ lại đi. Sau mấy ngày họ đến một kinh thành lớn xung quanh có một trăm ngọn tháp lấp lánh dưới nắng như làm bằng bạc. Giữa kinh thành là một toà lâu đài bằng đá cẩm thạch, mái bằng vàng. Đấy là cung điện nhà vua.

Giăng và người bạn đồng hành vào một quán trọ nghỉ ngơi và sửa sang lại quần áo cho nghiêm chỉnh trước khi bước chân vào thành phố. Trò chuyện với chủ quán, họ được biết rằng nhà vua rất nhân từ, độ lượng. Nhưng công chúa, con người lại rất ghê ghớm. Đẹp thì có đẹp, nhưng nàng nham hiểm độc ác, đã từng làm chết nhiều hoàng tử.

- Sao vậy? Anh bạn của Giăng ngạc nhiên hỏi.

- Nàng cho phép bất kỳ ai đến cầu hôn cũng được, không kể người quyền quý hay thứ dân. Nàng chỉ yêu cầu trả lời một điều nàngh ỏi. Nếu trả lời đúng sẽ được lấy nàng. Nếu không đúng sẽ bị treo cổ hoặc chặt tay.

- Thế từ trước đến giờ thế nào? Hai người hỏi.

- Chưa ai trả lời được. Đều bị nàng chặt tay hoặc treo cổ. Cha nàng cũng không sao can khuyên được nàng và tuyên bố không dính đến chuyện chồng con của nàng, mặc nàng muốn làm thế nào thì làm. Cũng có lần nhà vua cùng triều đinh quỳ xuống van xin nhưng công chúa vẫn kiên quyết không nghe cứ làm theo ý mình.

Giăng nghe thấy thế liền bảo: "Mụ công chúa này ghê ghớm thật! Phải đánh cho mụ ta một trận để mụ ta chừa thói đánh ác mới được".

Thấy Giăng nói vậy ai cũng can khuyên, đừng nóng nẩy mà thiệt thân.

- Không! Giăng kiên quyết. Tôi sẽ vào cung gặp nàng xin trả lời câu hỏi, để xem ra sao.

Giữa lúc ấy dân chúng reo hò. Công chúa ngự du ngoài phố. Giưng len đám đông ra xem. Công chúa quả là một trang tuyệt thế giai nhân. Nàng cưỡi trên một con ngựa trắng, mình đầy kim cương châu báu. Nàng mặc quần, dệt bằng sợi vàng chiếc roi ngựa trong tay lóng lánh như một tia mặt trời. Chiếc mũ miện trên đầu lấp lánh như các vì sao, tấm áo choàng óng ánh như muốn ngàn cánh bướm. Thật là tuyệt! Nhưng tuyệt hơn cả là sắc đẹp của chính nàng, một sắc đẹp mê hồn, không thể rời mắt được. Lại còn một điều kỳ lạ nữa là nàng giống hệt như cô gái đẹp anh mơ thấy đêm hôm cha anh chết.

Anh nghĩ thầm:

- Một người con gái sắc nước hương trời thế này mà lại nham hiểm độc ác thật là vô lý! Ta cứ đến xem sao!

Vậy là bất chấp những lời can ngăn của mọi người kể cả người bạn đồng hành. Giăng kiên quyết vào cung vua để gặp công chúa xin trả lời câu hỏi của nàng. Anh chải giầy và quần áo, rửa mặt mũi rồi ra phố để vào cung. Nghe tiếng gõ cửa, nhà vua phán:

- Cứ vào!

Giăng mở cả thấy nhà vua mặc quần áo ngủ, đi hài thêu, ra tiếp anh. Ngài đưa tay cho Giăng.

Khi biết là chàng đến cầu hôn, người oà khóc lên, bỏ rơi quyền trượng xuống đất, lấy ao lau nước mắt và nói:

- Đừng dại mà vào đấy! Ngươi sẽ không tránh khỏi số phận những người đi trước đâu. Hãy đi theo ta!

Nhà vua dẫn Giăng ra khu vườn. Trên cây lủng lẳng những bộ xương người, dưới đất lăn lóc những đầu lâu.

Đấy là xác chết của những người đã đến cầu hon nhưng không trả lời được câu hỏi của công chúa, bị nàng treo cổ.

Vua hỏi: Thấy chưa? Tốt nhất là nên quay về, không thì sẽ mất xác vô ích.

Giăng hôn tay nhà vua nhân đức và tâu rằng tình yên mãnh liệt của chàng đối với công chúa sẽ giúp nàng vượt qua tất cả.

Vừa lúc công chúa đi du ngoạn về. Nàng mời Giăng vào phòng khách trò chuyện và hẹn sáng hôm sau nàng sẽ tiếp. Hội đồng giám khảo và các quan tư pháp sẽ họp để nghe anh trả lời và phán quyết. Sẽ có ba câu hỏi. Trả lời được câu thứ nhất mới được trả lời câu sau. Nếu ngay từ đầu đã trả lời sai thì coi như mất đầu. Giăng chấp nhận tất cả các điều kiện, không sợ hãi, rồi ra về quán trọ nghỉ, để hôm sau vào cung.

Người bạn đồng hành đang đợi Giăng về để hỏi tình hình. Giăng đã kể lại đầu đuôi và khăng định quyết của mình. Người bạn nói:

- Tôi quý cậu lắm. Lẽ ra chúng ta còn sống chung với nhau lâu dài. Nhưng cậu đã quyết tâm, mình không biết làm thế nào.

Trong thành phố người ta biết tin có người đến cầu hôn công chúa. Ai cũng buồn cho anh. Nhà vua và các linh mục quỳ lễ trong nhà thờ. Ai cũng cho rằng ngày tận số của Giăng đã đến.

Đến tối hai người bạn uống rượu vĩnh biệt. Giăng say nằm ngủ đi. Người bạn đứng dậy lấy đôi cánh thiên nga chắp vào vai mình, giắt một chiếc roi bà cụ đưa hôm nọ rồi mở cánh bay đến cung vua.

Đến nơi, anh bạn của Giăng nép vào một bóng tối. Anh thấy công chúa khoác áo màu trắng, mở cửa sổ xòe đôi cánh rộng bay qua thành phố đến một ngọn núi cao. Anh bạn của Giăng tàng hình và bay theo công chúa. Anh vừa bay lấy roi vụt vào công chúa. Anh có roi tàng hình nên công chúa không nhìn thấy.

Rồi hai người đến ngọn núi cao. Công chúa gõ khẽ vào một tảng đá. Tảng đá nứt làm đôi thành một hang sâu. Công chúa lẻn vào. Anh bạn của Giăng vẫn tàng hình đứng nấp sau chiếc ngai nghe ngóng.

Anh nghe thấy công chúa nói lại có một chàng trai đến xin cầu hôn và hỏi lão phù thuỷ nên đố câu gì trước.

Phù thuỷ bảo: "Giầy, giầy là vật tầm thường, hắn không ngờ tới, không đoán ra được đâu. Vậy là con có thể chặt đầu nó ngay nó ngay từ ngày thứ nhất không bị quấy rầy sang ngày sau. Nhớ đem đôi mắt nó về để ta dùng bữa.

Công chúa lạy ta ra về. Anh bạn của Giăng cũng bay về quán trọ ngủ. Sáng hôm sau thức dậy, anh bạn nó bảo: "Đêm qua mình mơ thấy đôi giầy. Hôm nay vào cung nếu công chúa hỏi nàng đang nghĩ gì thì cậu cứ nói "Giầy".

Giăng ra đi để vào cung. Đến nơi đã thấy đông đủ các quan chức ngồi chật ních trong phòng. Cùng lúc ấy công chúa trong bộ quần áo lộng lẫy bước vào. Sau khi cúi chào cử toạ một cách duyên dáng nàng đi lại chỗ ngồi, chìa tay cho Giăng và hỏi câu thứ nhất trong bài đố.

Không ngần ngừ gì, Giăng nói "Giầy"

Công chúa tái mặt, Giăng đã đoán đúng.

Nhà vua mừng quá! Cử toạ reo lên.

Anh bạn của Giăng biết tin thắng lợi mặt mày hớn hở. Giăng chắp tay cảm ơn Thượng Đế, cho rằng người đã phù hộ mình. Đêm hôm sau, anh bạn của Giăng đợi Giăng ngủ rồi chắp cánh đi theo công chúa. Lần này anh mang theo những hai roi để quật cho công chúa thật đau để tàng hình chắc chắn hơn. Anh bạn đã chú ý lắng nghe thấy lão phù thuỷ bảo công chúa. "Tất tay".

Nghe được bí mật rồi anh bạn quay về ngủ, sáng hôm sau lại dặn dò Giăng trước khi đi. Nghe Giăng trả lời đúng, Công chúa run bắn người, còn cử toạ vỗ tay như pháo nổ.

Còn một lần nữa, lần quyết định. Nếu Giăng đoán được, anh sẽ lấy công chúa, nếu đoán sai, anh sẽ hết đời.

Đến tối Giăng đi ngủ, còn anh bạn lại chắp cánh vào vai, đem theo ba cái roi lại thêm thanh gươm giắt cạnh sườn, bay đến cung công chúa.

Trời tối đen như mực, bão làm tốc cả mái ngói, cây cối treo các bộ xương đổ rạp, sấm chớp ầm ầm. Cửa sổ phòng công chúa bỗng mở toang, nàng bay vụt ra theo hướng ngọn núi hai đêm trước. Nàng tái nhợt như một xác chết. Tấm áo choàng trắng căng phồng như một cánh buồm lớn.

Người bạn đồng hành chập ba ngọn roi quật cho nàng tối tăm mặt mũi, máu chảy ròng ròng rơi cả xuống đất tưởng nàng không thể bay được đến ngọn núi. Nhưng rồi nàng cũng bay tới được.

Đến nơi nàng nói với lão phù thuỷ chưa bao giờ nàng thấy mưa to gió lớn đến như thế. Rồi nàng kể việc chàng trai kia trả lời đúng hai câu hỏi trước và nói thêm: "Nếu lần này nữa chàng ta lại đoán đùng thì hắn sẽ được cuộc và nàng sẽ không bao giờ quay lại gặp lão tại ngọn núi này nữa. Nàng rất buồn vì như thế sẽ chấm dứt những đêm ma quái như thế này trong hang núi.

Lão phù thuỷ bảo: Con yên tâm. Lần này thì nó sẽ không thể đoán ra được. Ta sẽ tìm một vật mà nó không thể nghĩ tới, trừ phi nó cao tay hơn ta.

Công chúa sốt ruột hỏi: "Vật gì?"

- Được! Phù thuỷ trả lời có vẻ tự tin - Cứ hãy vui vầy với nhau đã.

Lão nói và nắm hai tay công chúa. Rồi hai người nhảy nhót. Lũ ma chơi cùng hoà nhịp lắc lư, đàn nhện đỏ đung đưa trên tường, còn đám hoa lửa thì phọt ra những tia sáng chói. Con cú vỗ trống, đàn châu chấu bật chân tanh tách như đánh đàn. Thật là một dạ hội ma quái.

Công chúa nóng ruột muốn bay về, sợ ở nhà vua cha và hoàng hậu thấy nàng vắng lại đi tìm. Nhưng lão phù thuỷ vẫn nhởn nhơ, cố ý kéo dài thời gian gần gũi nàng.

Nhưng rồi chúng phải bay đi. Lần về này có cả lão phù thuỷ bay theo.

Anh bạn Giăng ra sức quất hai người kia, quất đến mỏi tay. Chưa bao giờ lão phù thuỷ bị một trậnk đòn như thế, tê tái cả người.

Đến cung vua hắn từ biệt công chúa và nói: "Hãy nghĩ tới cái đầu của ta".

Anh bạn đồng hành của Giăng đã nghe thấy câu ấy.

Lão phù thủy vừa chào từ biệt công chúa và bay về được một quãng thì anh bạn của Giăng đã túm lấy râu của lão, lấy gươm chặt phăng cái đầu của lão. Xác lão, anh quẳng xuống ao cho trôi vào bụng cá, nhúng đầu lão xuống ao cho sạch máu, rồi bọc vào chiếc khăn lụa, đem về quán trọ rồi đi ngủ.

Sáng hôm sau Giăng lại ra đi đến cung vua để dự kỳ sát hạch thứ ba cũng là kỳ cuối cùng, kỳ thi quyết định anh lấy được công chúa, được làm phò mã, hay là chết.

Trước khi Giăng ra đi, anh bạn đồng hành đưa cho Giăng chiếc khăn gói và dặn hễ hôm nay công chúa hỏi nàng nghĩ gì thì đưa chiếc khăn gói không cần nói gì thêm.

Giăng đến nơi đã thấy sân rồng chật ních. Tất cả mọi người trong cung đều có mặt và chen chúc nhau như nêm cối. Các quan giám khảo ngự trên bục, đầu thụt vào trong những tấm thảm. Các quan thẩm phán cũng tề tựu đông đủ. Ngoài phố, dân chúng nín thở nghe ngóng tin tức trong cung. Đức vua hôm ấy bận quần áo mới, đầu đội mũ miện vàng, tay cầm quyền trượng, trông rất đường bệ. Trong khi đó, công chúa mặt tái mét, bận quần áo đen như để tang. Nhưng cố giữ vẻ bình tĩnh, nàng hỏi Giăng:

- Ngươi hãy đoán xem ta đang nghĩ gì?

Giăng cởi chiếc khăn lụa. Chiếc đầu phù thuỷ hiện ra. Ai nấy giật thót mình trước cảnh tượng ghớm giếc. Còn công chúa lịm đi, ngồi ngay như pho tượng, không nói thành lời.

Nhưng rồi định thần lại, nàng đứng lên, chìa tay cho Giăng và nói:

- Bây giờ thiếp đã thuộc về chàng.Tối nay làm lễ cưới!

Nhà vua reo lên. Đình thần hô lớn: Hoan hô! Ngoài phố dân chúng reo mừng. Chuông nhà thờ reo vang lên ầm ĩ.

Người ta mở hội ăn mừng. Riêng tại một phố nhỏ, người ta mổ ba con bò để quay, còn thêm nhiều gà vịt nhồi để mọi người có thể lấy một miếng đem về ăn. Còn rượu vang thì chảy ở các vòi công cộng suốt ngày đêm, ai muốn cứ tự do.

Tối đến mở dạ hội. Đèn thắp sáng trưng. Lính bắn súng đại bác. Trẻ con đốt pháo. Trong cung tổ chức ăn uống nhảy múa.

Công chúa còn đang bị ma ám ảnh chẳng quan tâm gì đến Giăng. Anh bạn đồng hành bày cho Giăng một cách như sau: Cầm vào phòng công chúa ba chiếc lông thiên nga và mọt lọ đựng chất nước màu hồng. Cả hai thứ này do anh bạn của Giăng cho. Giăng đặt cạnh giường công chúa một thùng nước đầy, đổ lọ nước màu hồng vào thùng nước, bỏ thêm vào đấy ba chiếc lông thiên nga, rồi dìm công chúa vào đấy ba lần.

- Sau trận tắm ấy, công chúa sẽ hết lòng yêu cậu - anh bạn Giăng bảo thế.

Giăng đã làm theo đúng lời dặn của bạn. Công chúa bị dìm trong nước kêu váng lên. Người nàng ướt lướt thướt như con thiên nga bị bão và đen xì, mắt sáng quắc. Khi bị dìm lần thứ hai, công chúa ngoi lên mặt nước, màu đen đổi thành màu trắng. Riêng ở cổ còn lại một vòng đen. Giăng lo ngại. Nhưng dìm lần thứ ba thì vòng đen biến đi, công chúa trở thành một thiếu nữ đẹp mê hồn. Nàng cảm ơn Giăng đã trả lại cho nàng sắc đẹp mà ma quái đã làm cho phai nhạt. Quốc vương và cả triều đình rất mừng làm lễ thành hôn cho nàng, suốt ngày hôm ấy văn võ bá quan và cả hoàng gia đến chúc mừng đôi vợ chồng mới.

Người khách cuối cùng là người bạn đồng hành. Một tay chống gậy, một tay cầm khăn gói, anh bạn từ biệt ra đi. Giăng khẩn khoản mời mà anh không ở lại.

- Tôi thiết tha mời bạn ở lại với tôi- Giăng nói - Tất cả hạnh phúc của tôi là nhờ ơn anh.

Nhưng người bạn đồng hành vẫn lắc đầu. Anh nói "Duyên số của tôi với anh chỉ có đến đây là hết. Tôi giúp anh cũng chỉ là để đền ơn anh thôi. Anh còn nhớ cái người chết mà những tên vô lại định dày vò không? Lúc ấy anh đã hy sinh tất cả gia sản để cho tấm thân người ấy được yên nghỉ dưới mồ. Người đó chính là tôi.

Nói rồi anh ta biến mất.

Lễ cưới kéo dài một tháng. Toàn dân tổ chức hội mừng. Nhà vua thọ thêm nhiều năm nữa. Ngài sống sung sướng, vui vẻ với đàn cháu nhỏ, cho chúng nhong nhong trên đùi, nô giỡn với chúng.

Rồi Giăng được nối ngôi vua trị vì trăm họ.

Cây huyết dụ

Ngày xưa có một người chuyên mua lợn về giết thịt để mang bán ở chợ. Nhà bác ta ở bên cạnh một ngôi chùa làng. Hàng ngày, vào lúc mờ sáng là lúc sư cụ bên chùa theo lệ thường thức dậy tụng kinh. Và cũng theo lệ thường, chú tiểu dậy gõ một hồi chuông mai. Bấy giờ cũng là lúc bác sửa soạn giết lợn, cho nên bác ta quen lấy tiếng chuông làm chừng thức dậy làm việc hằng ngày. Cứ như thế, ngày nào cũng như ngày ấy không bao giờ sai lạc.

Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: "Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư hỏi người đàn bà: - "A Di Đà Phật! Cứu mạng là cứu thế nào? Bần tăng phải làm gì đây?". Người mẹ có bộ điệu hãi hùng ấy trả lời: - "Ngày mai xin hòa thượng hãy đánh chuông chậm lại. Như vậy mẹ con chúng thiếp rất đội ơn". Nhà sư tỉnh dậy không hiểu thế nào cả. Nhưng tờ mờ sáng hôm đó, vâng theo lời báo mộng, sư cụ chỉ lâm râm đọc kinh cầu nguyện mà không đánh thức chú tiểu dậy thỉnh chuông.

Lại nói chuyện hôm ấy bác đồ tể ngủ một giấc li bì. Mãi đến lúc mặt trời lên chừng một cây sào, tiếng chuông chùa mới bắt đầu vang rền làm cho bác giật mình choàng dậy. Thấy trời đã quá trưa, bác không dám giết lợn như thường lệ, vì nếu làm thịt thì khi đưa ra đến chợ, chợ đã vãn người rồi. Tức mình vì lỡ mất một buổi chợ, bác ta lật đật sang chùa trách sư cụ. Sư cụ bèn đem câu chuyện nằm mộng đêm qua để phân trần với ông hàng xóm không phải lỗi tại mình.

Nhưng lúc bước chân về chuồng lợn của nhà thì bác đồ tể ngạc nhiên thấy con lợn cái mua ngày hôm qua toan giết thịt sáng đó, đã đẻ được năm con lợn con. Vừa mừng vừa sợ, bác ta kể cho mọi người biết sự lạ lùng: - "Đúng là linh hồn người đàn bà ẩn trong con lợn cái đã tìm cách cứu bầy con của mình khỏi chết".

Tự nhiên bác đồ tể đâm ra suy nghĩ. Bác thấy bàn tay của mình đã từng vấy máu biết bao nhiêu là sinh mạng. Trong một lúc hối hận đến cực điểm, bác ta cầm cả con dao bầu chạy sang chùa bộc bạch nỗi lòng với sư cụ. Bác ta quả quyết cắm con dao của mình trước sân chùa, thề trước Phật đài từ nay xin giải nghệ.

Không rõ bác đồ tể rồi sau đó thế nào, nhưng con dao của bác tự nhiên hóa thành một loại cây có lá đỏ như máu và nhọn như lưỡi dao bầu, người ta vẫn gọi là cây huyết dụ.

Ba Bà Hoàng Hậu

Ngày xửa, ngày xưa, có một ông vua trẻ. Ðức vua cai trị một vương quốc giàu có, xinh đẹp, nhưng đẹp nhất có lẽ là ba bà hoàng hậu của đức vua.

Ba vị hoàng hậu này vừa có sắc lẫn có tài, nên cả ba đều được đức vua sủng ái như nhau, " Mỗi người một vẻ, mười phần vẹn mười". Cho đến một hôm, nhà vua bỗng nảy ra một ý nghĩ: Trong ba mỹ nhân này thế nào cũng có một người tuyệt diễm hơn hai người kia, nhưng ta không tài nào nhận ra được, có lẽ vì mình nhìn mãi nó quen mắt đi chăng? Hay là ta hỏi ý kiến bọn cung phi vậy".

Ðức vua bèn mở cuộc trưng cầu dân ý tại hậu cung để tìm xem trong ba mỹ nhân ai là người đẹp nhất. Kết quả cũng không lấy gì làm sáng sủa cho lắm, vì ai cũng cho rằng cả ba vị hoàng hậu đều đẹp ngang nhau. Kẻ tám lạng, người nửa cân vậy.

Nhà vua lại đem nội vụ ra bàn với đình thần. Kết quả cũng tương tợ như trên. Quan tể tướng khuyên đức vua nên dừng cuộc giảo nghiệm lại, vì e nó chẳng ích lợi gì mà đôi khi mang đến hậu họa khó lường được.

Thay vì nghe lời khuyên sáng suốt của vị trung thần lão thành ấy thì đức vua của chúng ta lại nổi cơn thịnh nộ, truyền lịnh cho quan tể tướng phải giải quyết cho xong công việc trong vòng ba hôm. Sau một lúc im lặng, quan tể tướng kính cẩn tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, thần trộm nghĩ rằng, bọn hạ thần chỉ sở trường về chuyện cung kiếm văn thơ, còn chuyện đẹp xấu tướng hảo ra sao thì chắc phải nhường cho các vị bốc sư nổi tiếng. Hay là bệ hạ cho vời y vào, y sẽ phân biệt rõ ràng hơn không?

Nhà vua nguôi giận. Một ông thầy bói được lập tức triệu vào cung để chiêm ngưỡng dung nhan ba người đẹp. Vị bốc sư không chịu cho biết kết quả ngay mà xin khất lại ngày hôm sau để về "tra tự điển" lại.

Lão bốc sư đi rồi, quan tể tướng bèn tâu nhỏ với đức vua:

- Muôn tâu thánh thượng! Hạ thần trộm nghĩ rằng qúi đức bà, mỗi người có một vẽ đẹp riêng, tùy theo nhãn quan và sở thích của từng người. Ý kiến của chúng thần có thể bất đồng nhau, nhưng vì sợ uy quyền của quí đức bà, nên bọn hạ thần không dám nói lên ý kiến của mình mà chỉ kết luận chung chung rằng, cả ba đức bà đều tài sắc như nhau. Nếu thần không lầm thì lão bốc sư này cũng lâm vào một tình thế khó xử như bọn hạ thần, nên lão mới xin khất lại vào ngày mai đó thôi.

- Thế thì khanh giải quyết bằng cách nào?

- Muôn tâu! Ngu thần có một kế mọn là bệ hạ giả mạo bức thư, ký tên của ba đức bà, hẹn lão ấy đến ba địa điểm riêng. Nếu y đến địa điểm nào thì đức bà ấy sẽ là người đẹp nhất.

- Hay lắm, khanh hãy thi hành ngay cho trẩm.

Ba bức thư tức tốc được gởi đi và lão bốc sư đi đến chỗ hẹn với bà hoàng đẹp nhất.

Ðức vua truyền lệnh chém đầu lão thầy bói ... Và từ đó ngài đặc biệt sủng ái vị hoàng hậu vào chung kết nầy.

Hai bà hoàng hậu còn lại vô cùng tức tối, họ âm mưu với nhau dùng độc dược giết chết bà hoàng hậu đẹp nhất.

Chuyện bại lộ, đức vua truyền lệnh xử tử luôn hai bà hoàng hậu còn lại.

Ba vị hoàng hậu xinh đẹp nhất nước đều chết hết, đức vua còn lại một mình để thấy hoàng cung sao mà trống trải lạnh lẽo, bất kể Xuân Hạ Thu Ðông.

Lời bàn:

Các bạn thân mến!

Vạn pháp trên thế gian này, mỗi pháp đều có một đặc tính riêng, nhưng khi chúng ta bắt đầu "ưu tiên một" cho pháp nào, tức là để tâm vào nó, thì sự việc bắt đầu trở nên rắc rối. Có lẽ vì vậy mà đức Phật thường khuyên chúng ta là hãy để yên cho các pháp trụ ở bản vị của nó. Chớ xen vào phân biệt để tự chuốc khổ cho mình và làm di hoạ cho người chung quanh.

Cũng thế, trong cuộc tương giao với bạn bè lân cận, mỗi người bạn của chúng ta đều mang một cái tính riêng biệt, chiếm một vị trí, cách thế khác nhau, chẳng ai giống ai. Và chúng ta cũng khó mà kết luận rằng ai quan trọng hơn ai. Mùa Xuân có hoa lan, mùa Thu có hoa cúc, mỗi loài hoa đều có hương sắc riêng của nó, không thể nào bắt loại hoa này phải bắt chước hoa kia được. Em có thấy rằng số phần rủi ro luôn luôn đến với người mà chúng ta đặc biệt ưu ái hay không?

Vậy thì, ta có nên ngu muội đem cái ý thức phân biệt của mình xen vào các mối tương giao ấy, để cảm thấy cuộc đời này sao mà lạnh lẽo bất kể bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Ðông hay không?

Truyền thuyết ngày Valentine

Ngày Valentine được bắt đầu từ thời kì đế chế La Mã. Dưới thời La Mã cổ đại, ngày 14 tháng 2 là ngày tưởng nhớ Juno. Juno là nữ hoàng của các nam thần và nữ thần La Mã. Người La Mã cũng coi bà là nữ thần cai quản phụ nữ và hôn nhân. Ngày tiếp theo của ngày 14 tháng 2, ngày 15 tháng 2 là ngày đầu tiên của lễ hội Lupercalia. Cuộc sống của các chàng trai và cô gái trẻ bị ngăn cấm vô cùng hà khắc. Tuy vậy, họ vẫn có thể đến với nhau thông qua phong tục rút thăm tên nhau. Vào đêm hôm trước ngày hội Lupercalia, tên của những cô gái La Mã được viết lên một mảnh giấy nhỏ và được cho vào trong các bình đựng. Mỗi một chàng trai trẻ sẽ rút thăm một cái tên bất kì và sau đó chàng trở thành bạn của cô gái mà anh ta chọn trong suốt thời gian diễn ra lễ hội. Ðôi khi, việc kết đôi của đôi bạn trẻ kéo dài suốt cả một năm ròng và thông thường họ yêu nhau và sau đó thì cưới nhau.

Dưới sự trị vì của Hoàng đế Claudius đệ nhị, đế chế La Mã tham gia nhiều cuộc chinh phạt đẫm máu và không được người dân ủng hộ. Claudius bạo chúa gặp phải khó khăn khi động viên các chàng trai trẻ gia nhập vào đội chiến binh của ông ta. Claudius bạo chúa cho rằng nguyên nhân chính là đàn ông La Mã không muốn rời xa gia đình hay người yêu của mình. Bởi vậy, Claudius ra lệnh cấm tất cả các đám cưới hoặc lễ đính hôn ở thành La Mã. Thánh Valentine tốt bụng là một linh mục ở thành La Mã dưới thời Claudius đệ nhị. Ông cùng thánh Marius đã giúp đỡ những người Cơ Ðốc giáo phải chịu cảnh đọa đầy và cho những cặp vợ chồng bí mật cưới nhau. Vì hành động nhân ái này mà thánh đã bị bắt giam và bị kéo lê trước mặt tên thái thú thành La Mã. Hắn đã xử thánh Valentine phải bị đánh bằng gậy đến chết và sau đó phải bị chặt đầu. Valentine phải chịu cuộc hành hình vào đúng ngày 14 tháng 2 vào khoảng năm 270 TCN. Vào thời gian này đang diễn ra một phong tục truyền thống của người dân thành La Mã, thực ra đó là một lễ hội rất cổ xưa được tổ chức vào tháng 2, lễ hội Lupercalia, lễ hội để nhớ đến một vị thần của người La Mã. Vào dịp này, trong số rất nhiều các nghi lễ thì có một lễ rút thăm một cách ngẫu nhiên tên của các cô gái trẻ trong những chiếc bình như là một trò chơi may rủi của tình yêu. Các mục sư từ những nhà thờ Cơ Ðốc giáo ở La Mã đã cố gắng loại bỏ yếu tố ngoại đạo bằng cách thay thế bằng tên của các vị thánh cho những ngày hội của các thiếu nữ này. Bởi lễ hội Lupercalia bắt đầu vào giữa tháng 2, có vẻ như các mục sư đã chọn ngày Thánh Valentine làm ngày kỉ niệm cho lễ hội mới này. Như vậy, dường như phong tục các chàng trai trẻ chọn các thiếu nữ làm người yêu của mình (trong dịp Valentine) hay chọn cho mình các vị thánh bảo hộ cho năm tới cũng phát sinh từ đây.

Hòn đá thần diệu

Cách đây đã lâu lắm rồi , có 1 người đàn bà nghèo sống trong núi. vào 1 mùa xuân khi số kê dự trữ của bà đã hết sạch , bà buộc lòng phải ăn rau củ để sống. hôm đó khi bà đang bới củ thì có cái ji' đó động đậy ở trong cỏ , đó là 1 con gà lôi vàng óng ko bay lên được vì nó bị gãy 1 chân và đôi cánh của nó thì bị vặt lông luôm nhuôm , thân hình nó thì đang rớm máu

động lòng thương nên bà đã mang nó về lều của bà để băng bó. bà băng vết thương của nó = 1 miếng gạc tẩm nước thuốc hãm của lá cây ngải đắng, lá cúc cam và các lá thuốc khác nhưng có vẻ như con gà ko thể sống qua đêm nay được , bà bèn kết thúc nỗi đau của nó bằng sự cắt tiết , vặt lông làm thức ăn tối

nhưng thật ngạc nhiên vì sau vài tháng bà sinh hạ 1 bé trai kháu khỉnh. cuộc sống của bà đã trở nên vui vẻ và ko còn cô đơn nữa. ngày tháng trôi qua đứa trẻ nay đã trở thành 1 chàng trai khoẻ mạnh và chăm chỉ. đã đến lúc chàng trai lấy vợ

và bà nhờ bà mối tìm giúp và bà mối đã mang cho bà 1 tin vui " ở bên kia 3 núi , 3 sông có 1 cô gái trẻ cùng tuổi với con bà , đôi má của cô như 1 bông hoa lệ quyên. cô rất chăm chỉ và nghe lời cha mẹ "

chẳng bao lâu sau 2 bên gia đinh đã qua lại và họ chuẩn bị sính lễ và chọn ngày lành tháng tốt để cử hành hôn lề. theo tục lệ bấy giờ khi người con trai đến nhà vợ tương lai của mình vào 1 ngày định trước và ko có ai ngoài người mẹ thân yêu, anh chỉ đi bộ 1 mình , vượt qua 1 con đèo anh gặp 1 con rắn khổng lồ. anh nói với rắn :

" mày tránh đường cho tao đi dự tiệc cưới "

" phtt !mày hãy quên chuyện ấy đi ". con rắn thù địch nói - tao đã rình mày từ lâu rồi cốt chỉ để ăn thịt mày

" với quyền ji' mà mày muốn cướp đi cuộc sống của tao? "

" rồi tao sẽ nói cho mày biết mày là ai , mày thuộc về tao. mày chớ có nghi ngờ , cha mày vốn là 1 con gà lôi vàng. ngày xưa khi tao bắt được cha mày , đang chuẩn bị ăn thit thì mẹ mày đã nẫng mất của tao. nhưng mẹ mày đã ko cứu nổi con chim bị thương và cuối cùng đã phải ăn thịt nó và mày được sinh ra từ đấy "

" cha của tao là 1 con gà lôi ư ?"- chàng trai ngạc nhiên , anh chưa bao giờ nghe nói đến điều này

" phải , trong người mày có dòng máu của con chim ấy. mày xem tự nhiên tao bị mất 1 miếng mồi ngon vô cớ , thật bất công ! phtt! mày phải thừa nhận là tao có quyền ăn thịt mày "

chàng trai ko muốn chêt trước khi lấy vợ , anh mặc cả với con rắn

" tao thừa nhận là mày có quyền , nhưng tao hứa với mày tao sẽ quay trở lại đây , mày hãy cho tao vài ngày sau khi tao đã lấy vợ. con rắn đông ý nhưng với điều kiện chàng trai phải gặp nó trên đèo vào ngày thứ tư sau lễ cưới

trong nhà người vợ mới sau khi đã hoàn thành mọi thủ tục hôn lễ. tiệc cưới bắt đầu giũa bàn bầy 1 mâm cỗ thịnh soạn có 1 con vịt = gỗ biểu tượng của hạnh phúc và bền chặt. nhưng khi nhìn con vật , chàng rể sa sầm mặt : nếu vợ chàng biết 1 nỗi buồn sắp xảy đế với chàng

anh bỏ đũa , từ chối những món ăn ngon mà bố mẹ vợ đãi anh. suốt 3 ngày cưới , nỗibuoo'n chàng trai cứ tăng lên. vợ anh rất lo lắng và đêm nào vợ anh cũng hỏi. cuối cùng anh đã ko thể giấu được. vợ anh an ủi để anh vững lòng

" anh yên tâm , anh yêu em sẽ theo anh và chúng ta sẽ tìm ra cách "

ngày thứ 4 , đúng hẹn , chàng rể phải trở về. bố mẹ vợ rất ngạc nhiên khi thấy con gái họ cũng chuẩn bị. vợ anh đã quyết định 2 vợ chồng sẽ đi qua núi

khi đến đèo con rắn đã chờ sẵn. người vộ trẻ lên tiếng :

" chúng ta đã biết quyền của rắn , nhưng với tư cách là 1 người vợ , ta cũng có quyền. chồng là chỗ dựa của ta , như vậy cuộc sống của ta phải dựa vào chồng ta. nếu rắn giết chồng ta thì ngươi phải đảm đương nuôi ta ăn, mặc cho đến hết đời "

con rắn suy nghĩ 1 lát trước khi trả lời :

"phtt , mày nói đúng , nhưng ta ko để chồng mày lại đâu. trái lại ta nhận chu cấp tất cã mọi thứ cần thiết cho mày "

con rắn thè lười có 2 nhánh ra , trên đấy lấp lánh 1 viên đá quý màu trắng đục , mặt đá được gọt giũa rất đẹp

" phtt , mày cầm lấy hòn đá này , nó sẽ cho mày sống sung sướng đến cuối đời "

" vô ích thôi rắn ạ , hòn đá tuy đẹp nhưng làm sao nó phục vụ ta được. nếu ta đem bán ta cũng chỉ đủ sống trong vài năm thôi " - người vợ trẻ nói

"phtt , tại sao lại bán nó đi. trái lại mi đừng bao giờ rời nó. nó là 1 viên ngọc có ma thuật. phtt , mày có nhìn thấy cái cạnh này ko? mày chỉ cần xoa tay lên đó"

" Mày chỉ cần xoa tay lên đó và nói : vàng , thì lập tức sẽ có rất nhiều vàng hiện ra , còn cái cạnh bên này , mày chỉ cần xoa tay vào nó và nói : quần áo thì cũng như vậy nó sẽ hiện ra rất nhiều quần áo cho mày ,phtt "

cứ thế con rắn chỉ cho người vợ trẻ từng cạnh của viên ngọc và nói cho cô nghe đâu là cạnh biến ra tiền , ra vàng , quần áo...

nhưng cô vợ trẻ để ý thấy con rắn đã chỉ hết các cạnh nhưng còn 1 cạnh cuối cùng thì con rắn ko nhắc đến. cô gái hỏi con rắn

"ông rắn ơi ,tại sao tất cả các cạnh thì ông nói đến chỉ còn có 1 cạnh thì ông ko nói. nhỡ chẳng may khi tôi sử dụng viên đá mà vô ý ko biết lại làm hại tôi thì sao "

con rắn lưỡng lự 1 lát , cuối cùng nó nói " phtt , thôi được. cái cạnh này khi cô xoa vào nó và hướng nó vào người mà cô ko thích , cô chỉ việc nói : ngươi phải chết , tức khắc người đó sẽ chêt"

khi con rắn vừa nói dứt câu thì cô gái cầm ngay viên đá và hướng vào con rắn , xoa nhẹ viên đá và nói : rắn ơi ngươi phải chết . vừa dứt câu con rắn chết ngay.

2 vợ chồng trẻ trở về cùng viên ngọc quý từ đó cô và chồng sống hạnh phúc suốt đời

Con búp bê kỳ diệu

Câu chuyện tôi sắp kể sau đây diễn ra cách đây ba năm và tất cả vì một con búp bê. Tôi là một bác sĩ và tên tôi là Stephan Amony.

Tôi sống và làm việc ở thành phố Luân Đôn, gần sông Thêm. Tôi còn nhớ rõ buổi sáng tháng Mười năm ấy, từ cửa sổ nhà mình tôi thấy mặt trời đang chiếu sáng trên dòng sông.

Tôi rời nhà va đi mua tờ Thời báo, cái việc mà tôi vẫn làm sáng sáng. Khi đến quầy báo, tôi sực nhớ rằng mình cần phải mua một món quà cho đứa cháu gái vào sinh nhật sắp tới. Như thường lệ, cửa hàng có rất nhiều đồ chơi, bút màu và giấy màu, một vài thứ trong số đó dường như đã ở trong tủ kính rất lâu. Tôi quyết định mua một con búp bê cho cháu gái tôi vì nó rất đẹp. Con búp bê nằm ở cuối góc tủ, nó làm bằng vải, khuôn mặt được vẽ thật đẹp va đáng yêu nhưng đôi mắt thì đượm buồn, tôi thấy thương cho nó phải ở trong cái tủ kính chật hẹp đó. Tôi quyết định nhìn nó kỹ hơn.

Cửa hiệu đó của một người dàn ông tên là Jim Carter. Khi tôi đi vào, ông ta mỉm cười “Xin chào bác sĩ”, ông đến mua báo phải không?”. “Vâng, tôi muốn một món quà cho đứa cháu gái, tôi muốn xem con búp bê trong tủ của ông, nó được làm bằng vải”. Ông chủ cửa hàng nhìn tôi ngạc nhiên “Con búp bê à, nó đặc biệt nhưng ma đắt đấy bác sĩ à”.

Jim lấy con búp bê ra khỏi tủ kính va đưa cho tôi. Khi cầm con búp bê tôi ngạc nhiên đến nỗi suýt đánh rơi. Nó được làm rất đẹp và trông giống như thật. Trang phục của con búp bê được làm bằng tay và khuôn mặt, mặc dù tôi không nhìn rõ lắm, được vẽ bởi một nghệ sĩ. Nó thật đáng yêu. Bất kỳ ai làm ra con búp bê này chắc chắn đã làm nó với sự yêu mến và cẩn thận, nó thật dịu dàng va đó là cảm giác đầu tiên khi tôi nhìn thấy khuôn mặt nó.

Tôi đặt con búp bê nhẹ nhàng xuống và hỏi “Con búp bê này bao nhiêu tiền?” Ông chủ cửa hàng bảo “Tôi đã nói với bác sĩ rằng nó rất đắt, ở Luân Đôn người ta bán với giá hai mươi bảng nhưng ở đây tôi lấy ông mười một bảng thôi”. “Ai đã làm ra nó vậy?” - tôi hỏi vì tò mò muốn biết ai đã làm ra con búp bê xinh đẹp này. “Đó là người dàn bà ở phố Harley, bà ta sống ở đây nhiều năm rồi, thỉnh thoảng bà ta đến đây bán búp bê cho tôi”. Tôi hỏi Jim bà ta tên là gì và trông như thế nào. “Tôi cũng không chắc, hình như bà ta tên là Callamy. Bà ta cao, tóc đỏ và mặc quần áo đắt tiền. Mặt bà ta trông khó chịu và ít khi nói chuyện khi đến đây”. Ông ta ngừng một lát rồi nói thêm “Tôi chưa bao giờ thấy bà ta cười”.

Tôi không thể hiểu được điều này, làm sao một người đàn bà như thế lại làm ra những con búp bê xinh đẹp đến vậy. Khi tôi đếm tiền tôi cảm thấy mình thật ngớ ngẩn. Mặc dù con búp bê để làm quà tặng nhưng nguyên nhân chính để tôi mua nó là tôi không thể để con búp bê xinh đẹp như vậy trong một cửa hàng đầy bụi.

Tôi mang con búp bê về nhà va đặt trong căn phòng nhỏ của tôi và trong căn phòng này dường như càng phù hợp hơn với vẻ đáng yêu của nó. Tôi cho nó vào một cái hộp được bọc bằng giấy màu nâu. Buổi chiều hôm đó tôi mang đến bưu điện và gửi cho cháu tôi.

Tôi nghĩ rằng tôi sẽ quên con búp bê đó nhưng tôi đã không. Tôi không thể không nghĩ về nó. Làm sao một con búp bê đẹp đẽ như vậy lại được làm bởi bàn tay của người phụ nữ như Jim bảo được chứ. Khi tôi đang cố tìm ra người phụ nữ đó là ai thì có rất nhiều trẻ em bị ốm, đặc biệt trong thời tiết giá lạnh và ẩm ướt và tôi đã bận rộn vài tuần liền, tôi đã quên cả người đàn bà và con búp bê.

Một ngày kia, vài tuần sau đó, tôi có điện thoại, giọng một người phụ nữ: “Đó có phải bác sĩ Amony không?”. “Vâng tôi đây”. “Ông có thường xuyên đi khám cho bệnh nhân không?”. “Có, thỉnh thoảng”. Bà ta hỏi tôi bao nhiêu tiền một lần khám bệnh, giọng người phụ nữ có vẻ hơi cáu bẩn. Bà ta dường như quan tâm tới tiền nhiều hơn tới người đang ốm. Tôi nói một lần khám bệnh mất năm bảng nhưng nếu bà ta không thể trả tiền thì tôi cũng không đòi hỏi. “Được rồi”. Người đàn bà nói “Tôi sẽ trả ông năm bảng tôi tên là Rose Callamit, nhà tôi ở cạnh hiệu bánh ở trên đường Harley, phòng của tôi ở trên tầng hai”. “Tôi sẽ đến đó ngay” tôi nói.

Tôi đến căn nha đó sau mười phút. Tôi lên cầu thang, đó là một cầu thang chật hẹp, bụi bặm và tối mò. Khi tôi lên đến đầu cầu thang, cửa đã được mở và một giọng nói vọng ra “Ông bác sĩ đấy à, vào đi tôi là Rose Callamit đây”. Trước mặt tôi là một người đàn bà với một mái tóc đỏ kỳ dị. Mắt bà ta màu đen, môi bà ta bóng và sáng đỏ. Bà ta khoảng bốn lăm, năm mươi gì đó.

Tôi thất vọng khi nhìn thấy người dàn bà và tôi càng thất vọng hơn khi vào trong căn phòng. Đồ đặc trong phòng đều la đồ xuềnh xoàng và trên chạn bát, trong góc phòng có một vài cái chai và mấy cái chén nhỏ. ở đây không có tí hơi ấm nào, căn phòng lạnh lẽo và bẩn thỉu. Và khi đã ở trong nhà tôi nhìn thấy mấy con búp bê, chúng được treo trên tường, một vài con khác bị vất một cách cẩu thả ở trên giường. Mỗi con búp bê có một vẻ khác nhau nhưng đều có một đặc điểm chung, đó là vẻ dịu dàng, đáng yêu giống như con búp bê tôi đã mua cho cháu gái của mình. Tôi đoán người dàn bà kia không thể làm ra những con búp bê như thế này.

“Ông quá trẻ để làm một bác sĩ”, bà ta nói. Tôi trả lời bà ta một cách gay gắt bởi vì sự thất vọng khi nhìn thấy những con búp bê ở trong nhà. “Tôi già hơn bà tưởng nhiều, nhưng nếu bà nghĩ tôi trẻ quá, tôi sẽ đi ngay”. Bà ta cười “Đừng có mà giận dữ bác sĩ, nhưng trông ông rất đẹp trai”. “Tôi là bác sĩ nên không có nhiều thì giờ, ở đây ai bị ốm?”. “Không phải tôi mà là cháu gái tôi. Nó đang ở trong phòng trong, tôi sẽ đưa ông vào đó. Trước khi bước vào tôi thấy cần phải biết về những con búp bê, tôi hỏi “Bà làm ra những con búp bê này à?”. “Vâng, nhưng tại sao?”. “Vì một vài nguyên nhân tôi cảm thấy buồn, tôi đã mua một con búp bê cho cháu tôi”. Bà ta cười “Tôi đoán ông chắc phải trả rất nhiều tiền”.

Người đàn bà dẫn tôi qua một hành lang nhỏ ở phía trong. Khi bà ta sắp mở cửa bà ta kêu to “Mary, bác sĩ đã đến”. Sau đó ba đẩy tôi vào. Bà ta cố ý nói to để cô gái có thể nghe thấy “Đừng ngạc nhiên nhé bác sĩ, chân cô ta bị khoèo”. Cô gái đang ngồi trên một chiếc ghế ở cạnh cửa sổ. Khi cô nghe thấy những lời như vậy, sự tuyệt vọng càng hiện sâu trên khuôn mặt. Tôi căm thù người dàn bà quái ác đó. Những lời của bà ta khiến cô gái phải nghĩ về cái chân của mình. Mary chưa tới hai lăm tuổi nhưng khuôn mặt rất xanh xao, cô ấy có một đôi mắt to đen. Dường như linh hồn cô ấy đang chết dần, cô ấy rất yếu.

Từ những giây phút đầu tiên tôi đã xúc động bởi sự ngọt ngào trong khuôn mặt buồn của cô ấy. Cô ấy gầy gò, mái tóc khô. Nhưng tất cả những điều ấy vẫn làm tôi rung động. Cô ấy được bao quanh bởi những chiếc bàn nhỏ. Một trong số chúng để đầy sơn và bàn chải, những cái khác để kim, chỉ khâu và một vài mảnh vải với nhiều màu và kích cỡ khác nhau. Tất cả những thứ đó để làm những con búp bê.

Tôi có thể nhận ra sự ốm yếu của cô ấy không phải do cái chân bị khoèo. Nhưng cái chân cô ấy thu hút sự chú ý của tôi. Đó là cái cách cô ấy ngồi. Tôi nghĩ nếu được điều trị tôi có thể kéo thẳng cái chân ra cho cô ấy. “Cô có thể đi được không Mary?”. “Có”. Cô ấy nói nhẹ nhàng. “Hãy đi đến chỗ tôi”. “Không, tôi không thể. Đừng bắt tôi”. “Tôi không muốn làm cô đau đâu nhưng tôi phải biết chắc chắn, cố lên Mary”.

Cô ấy cẩn thận đứng dậy và lê từng bước đến chỗ tôi. Tôi nhìn rất kỹ cái chân của cô ấy tôi chắc mình sẽ chữa được cái chân cho cô ấy. “Tốt rồi”, tôi mỉm cười. Tôi đưa tay ra giúp cô ấy. Khi Mary ngẩng lên tôi chứng kiến sự tuyệt vọng, đau khổ mà cô ấy đang phải chịu đựng. Cô như muốn khóc trong câm lặng khi được tôi giúp. Tay cô ấy với tới tôi và sau đó lại thõng xuống. Thế là hy vọng đã ra đi. “Cô đã bị như thế này bao lâu rồi Mary?”. Bà Rose nói, “Mary bị khoèo chân gần mười năm rồi, nhưng tôi mời ông đến đây không phải vì việc ấy. Cô ấy đang bị ốm. Tôi muốn biết có vấn đề gì đối với cô ấy”. Đúng vậy, cô ấy đang bị ốm. Cô ấy đang chết dần khi tôi nhìn vào khuôn mặt của cô ấy.

Tôi hy vọng rằng bà Rose sẽ rời khỏi phòng nhưng bà ta không. Bà ta cười, “Tôi sẽ ở đây bác sĩ. Ông phải tìm ra có vấn đề gì với cô ấy và nói cho tôi biết”. Khi tôi khám cho Mary xong tôi và bà Rose đi ra phòng ngoài. Tôi nói tôi có thể kéo thẳng cái chân cho cô ấy, nếu được điều trị cô ấy có thể đi được. “Thôi đủ rồi đấy” bà ta quát vào mặt tôi. “Nếu ông còn dám nói về những điều đó. Cô ta đã được khám bởi những người giống như ông. Tôi không muốn một vài tay trẻ tuổi ngu ngốc gợi cho cô ta những hy vọng. Nếu ông tiếp tục làm việc ấy thì ông đừng bao giờ đến đây nữa. Tôi chỉ muốn biết có vấn đề gì với Mary. Cô ấy không ăn cũng không ngủ, cô ấy không làm việc tốt được. Ông đã tìm ra nguyên nhân gì chưa?”.

“Tôi vẫn chưa biết có điều xảy ra với Mary nhưng tôi biết cô ấy đang dần dần bị phá huỷ. Tôi sẽ khám cho cô ấy lần nữa và tôi sẽ đưa cho cô ấy một ít thuốc. Nó sẽ giúp cô ấy khoẻ hơn, tôi sẽ quay lại trong vài ngày tới”. “Ông không được nói gì về việc chữa cái chân cho cô ấy. Ông hiểu không? Nếu ông tiếp tục như vậy tôi sẽ gọi bác sĩ khác”. “Được rồi”. Tôi nghĩ mình sẽ đến thăm Mary, và có lẽ khi nào cô ấy khoẻ hơn tôi sẽ nói cho Mary biết về cái chân của cô ấy.

Khi cầm túi của mình, tôi hỏi “Có phải bà bảo rằng bà làm ra những con búp bê này phải không?”. “Chính tôi”, bà ta nói một cách khó chịu. “Tôi đã vẽ chúng và sau đó để Mary làm. Điều đó giúp cô ấy không nghĩ về cái chân của mình nữa và sự thực là cô ấy sẽ không có gia đình và con cái”. Tôi đi ra ngoài trong một ngày tháng Mười quang đãng, tôi biết rằng bà Rose đã nói dối. Tôi phải tìm ra con người tuyệt vời nào đã làm ra những con búp bê kỳ diệu kia, mặc dù hạnh phúc nghĩ về điều đó. Tôi rất lo lắng cho Mary trừ khi tôi tìm ra có điều gì đang xảy ra với cô ấy, nếu không cô ấy sẽ chết.

Trong tuần tiếp theo tôi đến thăm Mary. Tên thật của cô ấy là Mary Nolan, khi cô ấy mới mười lăm tuổi cô ấy bị tai nạn xe hơi. Cả bố cô và mẹ cô đều chết và Mary bị thương nặng. Chính tai nạn đó khiến cái chân cô ấy bị khoèo. Toà án yêu cầu bà Rose chăm sóc Mary bởi vì không có ai chăm sóc được cô ấy nữa. Bà Rose nhận chăm sóc cô bởi nghĩ rằng bố Mary rất giàu. Nhưng khi bà ta biết rằng cô chỉ có một món tiền nhỏ bà ấy đã đối xử độc ác với Mary. Bà ấy làm cho cô ấy đau khổ càng nhiều càng tốt. Bà ta để Mary không bao giờ quên cái chân của cô ấy. Bà ta muốn nói rằng sẽ không người đàn ông nào dám yêu Mary. Cô sẽ không bao giờ có chồng và có con, không người đàn ông nào muốn có một người vợ bị khoèo chân.

Nhiều năm đã trôi qua Mary dần dần tin tưởng vào bà cô của mình. Cô ở với bà Rose và làm những điều bà ta yêu cầu. Mary không có điều gì để chống lại bà cô của mình và dời đi nơi khác, cô ấy sống một cuộc đời vô vọng và bất hạnh.

Khi Mary bắt đầu làm những con búp bê, bà Rose thấy những con búp bê rất đáng yêu và biết rằng chúng có thể bán được nhiều tiền. Sau khi đã bán được vài con, bà ta bắt Mary làm từ sáng đến đêm khuya. Điều này tiếp tục trong nhiều năm nhưng bây giờ Mary đang bị ốm. Mặc dù không yêu quý gì Mary nhưng bà Rose biết rằng nếu không có Mary thì sẽ không có tiền.

Khi tôi đang tìm hiểu nguyên nhân cái gì đang giết chết Mary, tôi phát hiện ra rằng cô ấy rất sợ bà cô của mình. Nhưng tôi không thể tìm hiểu gì hơn từ Mary bởi vì bà Rose luôn ở bên cạnh chúng tôi. Tôi cảm thấy khó khăn để nói cho Mary bất cứ điều gì trong phòng. Tôi chưa nói cho Mary biết rằng tôi có thể chữa được cái chân cho cô ấy. Điều quan trọng là tôi cần phải khám phá ra tại sao cô ấy không muốn sống nữa.

Mười ngày tiếp theo Mary đã khá hơn. Tôi yêu cầu cô ấy không làm búp bê nữa. Tôi mua cho cô ấy một vài quyển sách và vài chiếc sôcôla. Lần tiếp, tôi đến thăm, Mary đã mỉm cười giống như lần đầu tiên tôi gặp cô ấy. Cô sẽ khá hơn nhiều nếu không phải làm những con búp bê trong mười ngày tới. Tôi muốn Mary được nghỉ ngơi, ngủ và đọc sách sau đó sẽ tính tiếp. Nhưng tôi biết rằng bà Rose không vừa lòng khi nghe những điều đó.

Lần tiếp theo, khi tôi đến thăm Mary, bà ta đã đợi sẵn “Ông không cần phải đến đây nữa, ông bác sĩ ạ”. “Nhưng còn Mary?” tôi nói. “Mary đã khoẻ rồi”. “Xin tạm biệt bác sĩ”. Tôi nhìn thấy những cái hộp đặt ở góc phòng, có vài ba con búp bê mới nằm ở trên đó. Khuôn mặt chúng vẫn đáng yêu nhưng đối với tôi chúng chứa đầy sự chết chóc. Bỗng nhiên tôi lo sợ cho Mary. Tôi biết rằng bà Rose đang nói dối. Tôi muốn đẩy bà ta ra để vào thăm Mary. Nhưng tôi là một bác sĩ và khi người ta không cần nữa thì nhiệm vụ của tôi là phải ra đi. Tôi chưa tìm ra vấn đề gì với Mary và tôi đoán rằng bà Rose sẽ tìm một bác sĩ khác. Rất buồn, tôi rời đi và những ngày sau đó tôi không thể nào quên được Mary. Tôi lúc nào cũng nghĩ về Mary.

Chẳng lâu sau chính tôi cũng bị ốm, ban đầu thì chỉ nhẹ thôi nhưng càng ngày càng nặng hơn. Tôi mời một anh bạn bác sĩ đến khám nhưng anh bảo rằng anh không thấy trục trặc gì với tôi cả. Anh ta nói rằng chắc là do tôi làm việc quá nhiều. Nhưng tôi biết đấy không phải là nguyên nhân. Tôi càng ngày càng tệ hơn, tôi không muốn ăn và bị sút cân, mệt mỏi vô cùng. Buổi đêm tôi cũng không ngủ được bình yên, thỉnh thoảng tôi mơ thấy Mary đang gọi tôi đến cứu trong khi bà Rose giữ chặt cánh tay cô ấy. Tôi bắt đầu xanh xao và gầy đi rõ rệt, tôi không thể quên rằng mình đã không giúp được Mary. Cô ấy muốn được tôi giúp nhưng tôi đã không làm được gì cho cô ấy cả.

Một buổi tối kia khi tôi mệt mỏi và ngủ được tí nào. Tôi thức dậy va đi đi lại lại trong phòng, tôi nghĩ về bản thân và căn bệnh của mình. Hình như tôi cũng bị ốm giống Mary. Đột nhiên tôi phát hiện ra nguyên nhân: Tôi đã yêu Mary mất rồi. Tôi bị ốm bởi vì tôi không thể nhìn thấy và chăm sóc cô ấy. Bây giờ thì tôi biết rằng tại sao Mary đang chết dần. Cô ấy đang chết dần, bởi vì không có ai yêu cô ấy và không có ai trên thế giới này cho cô ấy hy vọng. Mẹ cô ấy và bố cô ấy đều đã chết, bà Rose giữ cô bởi vì bà kiếm được tiền nhờ vào việc bán những con búp bê. Mary không có bạn bè và tồi tệ hơn, bởi vì cái chân của cô ấy, cô ấy cảm thấy mình thật xấu xí. Cuộc đời cô ấy thật trống rỗng cô ấy không có gì cả ngoại trừ những con búp bê ra. Tôi biết rằng tôi phải đến thăm Mary, tôi phải nói với Mary một điều gì đó, nếu không tôi sẽ mất vĩnh viễn.

Sáng hôm ấy tôi gọi điện đến cửa hàng ông Jim Carter. “Đây là bác sĩ Amoney. Jim, ông có thể làm ơn giúp tôi một việc được không?”. “Bất cứ điều gì, bác sĩ. Ông đã cứu con trai tôi và tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông yêu cầu”. “Cảm ơn ông”. “Ông có nhớ cái bà bán búp bê cho ông không?”.

“Nếu lần sau bà ta đến đây tôi muốn ông gọi điện cho tôi và sau đó ông cố giữ bà ta ở lại khoảng ít phút”. “Được rồi”. “Tôi sẽ cảm ơn ông suốt cả cuộc đời”.

Tôi sợ rằng khi tôi ra ngoài thì Jim gọi đến cho nên mỗi buổi tối tôi thường qua cửa hàng ông ấy, nhưng ông ấy chỉ bắt tay tôi và nói chưa có tin tức gì cả. Một ngày kia, vào lúc năm giờ chiều chuông điện thoại reo. Jim gọi điện cho tôi “Ông có thể đến được rồi đấy”.

Tôi mất đến vài ba phút để chạy đến nhà Mary. Khi lên cầu thang, tôi hy vọng mình có thể vào được nhà. Thật may mắn, cửa không khoá. Bà Rose tưởng rằng sẽ quay về trong vài phút.

Mary rất gầy và yếu, cô ấy vẫn bao quanh bởi những bút sơn và những mảnh vải, cô ấy dường muốn làm thêm một con búp bê nữa trước khi chết. Cô ấy ngẩng lên khi tôi bước vào, mắt cô ấy mở to và ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi. Cô ấy tưởng tôi là bà Rose. Cô ấy gọi tên tôi, không phải là “Bác sĩ Amony” mà là “Anh Stephan!”. “Mary!” tôi kêu lên. “Nhờ chúa anh đã đến kịp, anh đến đây để giúp em”. “Anh đã biết điều gì làm em ốm rồi”. “Bây giờ có còn quan trọng nữa đâu.” Cô ấy thì thầm. “Vẫn còn kịp mà, anh biết được bí mật của em, anh biết cách làm cho em khoẻ nhưng em phải nghe anh nói”. Cô ấy nhắm mắt lại “Thôi, đừng. Hãy để mặc em, em không muốn biết gì hết. Rồi mọi việc sẽ sớm kết thúc thôi mà”.

Tôi ngồi xuống và cầm lấy tay cô ấy. “Mary, hãy nghe anh. Mỗi người đều có một kho tình yêu cho suốt cuộc đời họ. Cái kho này được xây từ khi họ còn là trẻ con. Họ nhận được tình yêu từ gia đình của mình khi họ trưởng thành. Khi họ lớn hơn tình yêu được trao tặng và chiếc kho lại được đổ đầy sự tốt bụng, hạnh phúc, niềm vui và sự hy vọng. Bao giờ trong kho cũng có một chút gì còn lại. Nhưng kho tình yêu của em thì hoàn toàn trống rỗng, em không còn gì cả”.

Tôi không chắc rằng cô ấy có đang nghe tôi hay không nhưng tôi rất muốn cô ấy sống. Tôi tiếp tục: “Chính cô của em đã gây ra điều này, bà ấy đã mang đi tất cả tình yêu và hạnh phúc của em, bà ấy đã làm một điều tồi tệ. Bà ta đã đưa những đứa con của em đi”. Tôi thì thầm những điều cuối cùng nhưng tôi cảm thấy mình bắt buộc phải nói.

Tôi nhìn Mary. “Tôi đã giết cô ấy?”. “Không, tôi rất yêu cô ấy”, sau đó tôi cảm thấy cánh tay nhỏ bé của cô ấy ôm lấy tôi và mắt từ từ mở. Mary như vui khi nghe thấy điều tôi nói. Điều này cho tôi hy vọng rằng tôi sẽ cố làm cho cô ấy hiểu. “Những con búp bê chính là con của em. Khi em nghĩ rằng em đã mất hết cơ hội để yêu và làm mẹ, em đã làm những con búp bê tuyệt vời này. Trong mỗi con búp bê em đưa vào đấy tình yêu. Em làm chúng với sự dịu dàng và cẩn thận như chúng chính là những đứa con của em. Mỗi khi bà Rose đưa những con búp bê đi và không mang gì trở lại. Em tiếp tục mất hết kho tình yêu của mình cho đến tận khi linh hồn của em rời bỏ em. Người ta sẽ chết kho không có gì còn lại nữa”.

Khi tôi ngừng nói, cô ấy bắt đầu động đậy. Dường như cô ấy hiểu những điều tôi đang nói. “Nhưng em sẽ không chết”, tôi gào lên “Bởi vì anh rất yêu em. Em có nghe anh nói không Mary?. Anh yêu em và anh không thể sống thiếu em”. “Yêu em ư?” Cô ấy thì thầm “Nhưng chân em bị khoèo cơ mà, làm sao mà anh có thể yêu em được chứ”. “Điều đấy không phải là vấn đề, anh vẫn yêu em. Bà Rose đã nói dối em. Cái chân của em có thể kéo thẳng được. Trong vòng một năm em có thể đi lại bình thường như những cô gái khác”.

Tôi tiếp tục nhìn vào mắt cô ấy. Tôi nhìn thấy những giọt nước mắt hạnh phúc lăn dài trên má Mary. Cô ấy mỉm cười trong sự tin cậy hoàn toàn và quàng tay ôm lấy tôi, tôi ôm cô ấy. Cô ấy nhẹ quá, nhẹ như một con chim. Cô ấy giữ chặt lấy tôi trong khi tôi choàng cho cô ấy một chiếc áo ấm. Tôi đưa Mary ra khỏi phòng.

Đột nhiên tôi nghe thấy tiếng cửa mở và tiếng chân chạy. Bà Rose xông vào. Trông bà ta thật giận giữ, tôi thấy Mary run lên vì sợ, cô ấy nấp vào sau gáy tôi. Nhưng bà Rose đã quá muộn. Bà ta không thể làm gì được nữa. Bà ta biết điều đó. Tôi không nói một lời khi đi ngang qua, tôi giữ chặt Mary ở trong lòng.

Tôi đi ra cửa trước, xuống cầu thang vaf đi xuống phố. Bên ngoài mặt trời vẫn đang toả sáng trên con phố bụi bặm va đám trẻ con thì nô đùa ầm ĩ khi tôi đưa Mary về nhà.

Tất cả những điều đó đã ba năm rồi. Khi tôi viết những dòng này thì Mary đang chơi với đứa con trai của chúng tôi. Đứa con thứ hai của chúng tôi sẽ sinh trong vài tuần nữa.

Cô ấy cũng không làm búp bê nữa. Cô ấy không cần phải làm điều đó, nhưng tôi thì vẫn cầu chúa cho cái ngày đầu tiên khi tôi nhìn thấy con búp bê diệu kỳ ở trong cửa hàng nhà Jim Carter.

Có phúc có phận

Thạch Phủ người nước Tề, thời Xuân thu. Có tiếng là tài giỏi, nên được lắm kẻ thương yêu và… ghen ghét. Vợ của Thạch Phủ là Lã thị, thấy vậy, mới than thở với chồng rằng:

- Khôn chốn bạo tàn, khôn ấy dại. Dại chốn bạo tàn, dại ấy khôn. Nay vận nước đang hồi loạn lạc. Lòng dân ly tán - mà chàng cứ nổi bật kiểu ni - ắt sẽ có ngày chàng hối hận, rồi lúc ấy thiếp làm sao sinh sống? Giữa chốn bụi đời lắm sự truân chuyên? Lắm cái u mê của oai quyền danh vọng?

Thạch Phủ liền nắm lấy tay vợ, mà khẳng khái đáp rằng:

- Ở đời có ba cái nhiều mà không tốt. Đó là đường, muối và lòng do dự. Nay ta một lòng lo xây đắp. Cuộc sống an lành cho thế hệ mai sau, thì chẳng thể sợ… tiểu nhân mà đắp mền mãi được. Chớ cái giỏi ni mà không dùng chi hết ráo - thì đứng nhìn Trời - Chẳng hổ thẹn hay sao?

Lã thị nghe chồng nói vậy. Lòng bỗng dâng lên một niềm hãi sợ, rồi rầu rầu suy nghĩ tự mình ên:

- Nóng giận khác nào như cơn gió, sẽ thổi cái ào tắt ngọn lửa thông minh, thì ta không thể thiếu nghĩ suy mà làm liều mãi được. Chi bằng ta cứ cầu xin tới tới. Mong Cậu dắt dìu đến được bến bình yên, thì nải chuối tiêu ta sẽ tâm thành dâng Cậu. Chớ đến nước ni mà không mần không tính - thì nghĩa vợ chồng - Biết có còn kéo nữa đặng hay chăng?

Đoạn, thở hắt ra một tiếng, rồi tha thiết mà nói với Thạch Phủ rằng:

- Danh là một loại y phục không hình, không màu sắc song vô cùng rực rỡ. Danh càng rực rỡ thì lại càng đáng sợ, bởi nó là mầm ganh tị. Nó sẽ đem tai họa đến cho người mang nó. Phần chàng. Dẫu trải tấm lòng ra, nhưng tha nhân mấy ai hiểu được điều trân quý đó? Hay lại đâm bị thóc thọc bị gạo, để ngày qua ngày chàng phải… héo úa đi, thì chữ phu thê làm sao mà ấm mặn? Đó là chưa nói càng nổi rền tăm tiếng, hẳn thiên hạ tìm về mỗi ngày một dày hơn, thì sung sướng chi mà chàng muốn này muốn nọ? Bởi chúng đến đông thì chàng mau chết gấp. Mau chóng giã từ vợ mọn quá ngây thơ. Mau chóng ra đi khi tóc còn chưa bạc. Chớ Danh cho lắm mà tan tành xí quách, thì mê đắm làm gì cho nhọc hở chàng ơi!

Thạch Phủ nghe vậy, liền hất tay vợ ra, mà bực bội gắt tràn:

- Tuyết trước cửa nhà ai nấy quét. Việc của ai người nấy lo. Còn bà. Thêu thùa may vá lại chẳng lo, mà cứ thích xen vô… bình thiên hạ, thì có còn hiền phụ được hay chăng?

Một hôm, Thạch Phủ bị người vu tiếng xấu, nên bị bắt giam. Bọn nha lại đòi ba mươi lạng bạc mới được thả về. Bằng không sẽ giải về kinh xử xét. Lã thị hổng biết mần răng, bởi của cải trong tay chỉ chưa đầy hai mươi lạng, nên trong lòng bừng lên như lửa đốt. Tựa như kiến cả đàn dẫm nát ruột gan tim, thành thử nước mắt tuôn không sao cầm thắng được, khiến sự sáng suốt bỗng ào nhiên tan biến, mới chạy vào nhà thắp vội nén nhang thơm, mà vái lịa vái lia rồi khấn này khấn nọ:

- Chồng con chẳng may vướng vào kiếp nạn. Thọ lãnh tai ương. Lành ít dữ nhiều. Nay kính xin Cậu Bà từ cao soi xét. Viện dẫn điều ngay, để đấng phu quân sớm ra vòng lao lý - thì ân đức này - con nguyện sẽ hết đời báo đáp. Không thể nào quên…

Ngày nọ. Thạch Phủ bị dẫn độ tới kinh đô. Thời may có Án Tử từ xa bang tới, liền dừng cương lại hỏi thăm điều cớ sự. Khi hiểu rõ ngọn nguồn, Án Tử liền sai gia nhân đem tiền đến chuộc, rồi đưa về nhà. Thạch Phủ bỗng nghe lòng hưng phấn, như thể ngày nào khăn đóng bưng trầu rượu chạy qua, mà mát tận tim gan rồi nghĩ này nghĩ nọ:

- Có phần không cần gì lo. Thiệt là người xưa nói chơi chơi mà lúc nào cũng đúng.

Về đến nhà. Án Tử sai gia nhân dọn phòng cho Thạch Phủ nghỉ tạm, rồi vào nhà trong, mà chẳng nói thêm gì nữa cả. Mấy hôm sau, Án Tử cũng mần y như rứa. Vợ của Án Tử là Hàn thị, thấy vậy, mới ngạc nhiên mà hỏi rằng:

- Người ta bị hàm oan. Chàng ra tay cứu giúp, rồi đưa người ta về ở tạm, mà chẳng nói gì. Là cớ làm sao? Hay lại thích… bỏ dùi quên trống?

Án Tử đáp:

- Nước có thể làm chở thuyền, mà cũng có thể làm đắm thuyền. Vật tự bản chất nó. Không hẳn là thiện. Không hẳn là ác. Vậy thiện hay ác, là do cái Tâm của người mà ra. Việc của Thạch Phủ cũng tuồng y như rứa. Chớ có gì đâu mà nàng phải làm lớn chuyện - khiến đụng chữ phu thê - thì cái sai đó nàng mau mà dừng lại…

Hàn thị bỗng cười nhạt một tiếng, rồi mạnh dạn nói rằng:

- Người giàu có khi nào xem trọng kẻ nghèo? Nay chàng đang làm quan Tướng Quốc, thì xá gì bọn khổ cực dân đen, mà vướng víu chi cho bận lòng quân tử?

Nói rồi, nhìn thẳng vào mắt của Án Tử, mà quyết liệt những lời xuất phát tận tâm can:

- Chàng cứu người. Chỉ vì muốn nổi danh. Chứ thực ra chẳng có thương yêu gì hết cả. Có phải vậy chăng?

Án Tử mặt mày tái mét. Mắt trợn ngược lên. Mãi một lúc sau mới lớn tiếng mà nói rằng:

- Bất cứ làm việc gì, ta cũng tự vấn Lương Tâm, để xem việc đó có làm cho ta hổ thẹn. Còn dư luận của người đời ra sao, ta chẳng cần biết đến. Bởi ta luôn nhủ thầm: Phàm làm việc gì, là làm cho mình. Chớ nào phải làm cho người ta, mà sợ dư luận hợp hay là không hợp? Phần nàng không khen chồng thì chớ - lại buông lời nói ngược nói xuôi - Há chẳng khiến cho thiên hạ cười chê trách móc?

Hôm sau, Án Tử đang ngồi uống cà phê với vợ. Chợt Thạch Phủ bước vô, rồi ấp úng nói rằng:

- Tôi được ông ra tay cứu giúp, rồi cho về đây ở tạm. Lo đủ miếng ăn. Áo quần tươm tất. Nay tôi xin lạy ông một lạy. Trước là cám ơn tấm thịnh tình ông đã dành cho tôi. Sau thay lời từ biệt. Chớ cứ nơi đây ngày đêm nương náu - mà thui thủi một mình - thì còn luyến tiếc đất ni làm chi nữa?

Nói rồi. Quỳ xuống mà lạy. Án Tử vội đỡ lên, rồi tha thiết nói rằng:

- Tôi dù chẳng ra gì, song cũng vừa gỡ được tội cho ông. Sao lại nỡ nào đối xử với tôi… cạn tàu như thế?

Thạch Phủ ngậm ngùi, đáp:

- Tôi nào dám đối xử với ông như thế. Chẳng qua tôi nghe người quân tử gặp phải kẻ bất tri kỷ thì cực thân. Gặp người tri kỷ thì hả dạ. Nay tôi đã gặp người vu hại giá oan, rồi được ông đây cứu ra vòng lao lý - thì với tôi - Ông là người tri kỷ. Mà giả như ông không nhận tôi là người tri kỷ, rồi bỏ mặc không một lời đoái đến, thì chẳng thà tôi mắc nạn còn hơn. Chớ không thể sống dây dưa thế này mãi được!

Án Tử nghe ra bỗng sinh lòng kính trọng, rồi trong bụng nghĩ thầm:

- Thằng này thấu hiểu tình đời, mà lại có tài có trí. Ngang nhiên nói rõ lòng mình mà không sợ mất lòng ân nhân, thì rõ ra là người có gan nhiều lắm vậy. Người này mà dùng đúng nơi đúng chỗ, thì trên có thể trị quốc an dân, dưới đem lại yên bình cho bá tánh…

Đoạn, tôn Thạch Phủ lên hàng thượng khách. Nhất mực ân cần. Tiếp đãi nồng hậu, khiến Phủ cảm phục trong dạ mà âm thầm nghĩ tựa như ri:

- Ta nặng lời oán trách, mà Án Tử lại vui lòng đón nhận. Chẳng những không mang niềm buồn phiền trong tâm tưởng, mà còn mở lượng hải hà dung thứ đỡ nâng, thì đúng là kẻ yêu quý người hiền như chính thân mình vậy. Những tưởng, ở cõi hồng trần lắm đục ít trong - thì khó mà có được một tấm lòng như Án Tử - Nào dè xa đâu hổng thấy lại chình ình ngay trước mặt, thì thiệt là… quá đã!

Phần Hàn thị thấy chồng mình biết nghe lời phải trái. Rộng lượng bao dung, mới bừng bừng bảo dạ:

- Đàn ông. Dáng thì to. Tiếng thì hùng, nhưng thật ra chỉ là đồ… giả để chưng. Chớ chẳng được chút ngô khoai gì hết cả!

Nghĩ vậy, mặt mày bỗng hớn hở, khiến mắt sáng long lanh. Miệng cười chúm chím. Như thể tuổi thanh xuân đang ào ào dấy động, nên chốn tâm can bỗng rần lên lửa cháy, mới đã cả lòng mà nghĩ thật mông lung:

- Đàn ông mà không vợ, thì như thuyền không lái. Như phản gỗ long đong. Như bánh bông lan thiếu men không thèm… dậy. Cho nên cõi dương gian nói cũng chẳng có gì là quá, khi cho rằng: Vợ là… mẹ của người ta. Như bá mẫu chăm con như gà dang cánh rộng…

Ngày nọ, Án Tử đang ở thư phòng làm việc. Chợt Thạch Phủ bước vào. Xá cho một phát, rồi thẳng thắn nói rằng:

- Chim có tổ. Cây có cội. Nước có nguồn. Người có… thê. Nay tôi đã cách chia với hiền nội qua ba mùa lá rụng, nên trong lòng chẳng đặng phút nào yên, khiến khi ngủ khi ăn cứ mong ngày hội ngộ. Vậy nếu ông không thấy gì cấn cái. Có thể nào, bắc nhịp cầu cho đôi lứa đặng gặp nhau?

Án Tử cười cười, đáp:

- Vợ chồng là duyên trăm năm. Không phải duyên sớm tối, thì lỡ có cách xa thêm vài năm nữa - cũng chẳng hề chi - nếu so với cả trăm năm tâm đầu ý hợp…

Thạch Phủ bỗng mặt mày tái mét. Lạnh toát cả người, khiến miệng cứ ấp a không sao mà nói được. Mãi một lúc sau, mới thu hết can đảm đặng tỏ bày khúc mắc tận trong tim:

- Người ta lấy lửa thử vàng. Lấy vàng thử đàn bà. Lấy đàn bà thử đàn ông. Lấy đàn ông thử… rượu. Nay tôi ở chốn này được ăn trắng mặc trơn. Kẻ hầu người hạ, trong khi hiền nội ở quê nhà thì phòng không chiếc bóng, khổ nhọc tìm… đô. Tôi chỉ sợ rằng: Cái nghèo đang vây bủa. Tin chồng lại biệt tăm, thì khó giữ cho chữ phu thê sống hùng sống mạnh. Rồi lỡ một mai liều thân vui duyên mới - thì phận trai này - Biết có còn vui sướng được không đây?

Án Tử bỗng dõi mắt nhìn vào cõi hư vô, rồi đứng lên đến gần bên Thạch Phủ, mà mạnh dạn nói rằng:

- Giàu đổi bạn. Sang đổi vợ. Tôi thấy ông là người có thực tài. Lòng mong tiến dẫn với ngôi cao, để cùng nắm tay mà lo cho đất nước, nên tôi muốn ông ở đây để dễ dàng vui duyên mới, đắp dựng tương lai. Chớ có dè đâu ông vẫn vướng mắc với ngày xưa tháng cũ. Vướng hình hài phai nhạt với thời gian, thì tôi hỏi ông: Có còn là… quân tử?

Thạch Phủ nghe thế mới tá hỏa tam tinh, rồi hớt hãi đáp rằng:

- Nội tử tôi tuy già và xấu, nhưng cùng tôi ăn ở đã lâu. Kể từ lúc còn trẻ và quá chừng là đẹp. Xưa nay. Đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già. Lúc đẹp để nhờ cậy lúc xấu, và tôi với nàng đã nhờ cậy lẫn nhau. Ngay trong lúc sáng trưng cũng như thời hoạn nạn. Nay ân nhân lại muốn tôi bỏ đi điều ân nghĩa đó - để bội bạc với nàng - thì tôi chẳng thà chết rục ở nhà giam. Chớ không thể bỏ bờ qua bến khác!

Đoạn, chắp tay lạy Án Tử hai lạy. Quyết lòng không nhận. Lúc ấy, Hàn thị ở phòng trong. Nghe hết đầu đuôi câu chuyện, mới bụng bảo dạ rằng:

- Chồng ta đem danh lợi và nữ sắc ra mà nhử. Nào dè Thạnh Phủ vẫn một dạ trung… trinh, thì rõ ra là người có thể cùng chồng ta giữ gìn an vui cho bá tánh. Lo việc nước non. Chớ không phải hạng mới có chút tiền của chức tước - đã vội bỏ vợ nhà - để sống đời phụ bạc, mà chẳng để ý gì đến hậu vận mai sau, thì thiệt là… hết biết.

Ba điều khó học

Thầy Tăng Tử, nói với Đức Khổng Tử rằng:

- Tôi biết thầy có ba điều hay. Tôi học mãi mà chưa làm được!

Khổng Tử hỏi:

- Ba điều gì?

Tăng Tử đáp:

- Thứ nhất. Thầy thấy người ta có được một điều phải, mà quên cả trăm điều trái của người ta. Thế là thầy dễ tính. Thứ hai. Thầy thấy người có điều gì phải, thì vui vẻ như là mình có. Thế là thầy không ghen tị. Thứ ba. Thầy nghe thấy điều gì phải. Nhất quyết làm rồi mới nói sau. Thế là thầy chịu khó. Tôi học mãi ba điều ấy của thầy, mà chưa có thể làm được!

Khổng Tử nghe nói. Cả cười mà rằng:

- Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu đần. Công lao to hơn thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung. Sức khỏe hơn đời nên giữ bằng tính nhút nhát. Giàu có bốn biển nên giữ bằng thói nhún nhường. Tựu trung những gì ngươi muốn học, đều nằm ngay chỗ đó. Chứ thực chẳng có gì lạ lẫm lắm đâu!

Khổng Miệt, là cháu của Khổng Tử. Nghe thế, mới hỏi rằng:

- Thưa thầy! Có thể vì lòng... nhân từ, mà thầy nói rõ được chăng?

Khổng Tử đáp:

- Lấy một điều phải mà quên trăm điều trái. Thế là có bụng khoan dung người ta, lại có ý gây cho người làm nên điều phải. Thấy người làm phải, cũng vui như chính mình làm điều phải, thế là có lòng vô ngã, muốn giục cho người gắng làm điều phải nhiều hơn. Thấy điều phải làm ngay rồi mới nói, thế là có bụng thực làm, chớ không chỉ có một cái nói giỏi mà thôi. Ba điều này mới nghe tưởng dễ mà làm thực khó. Bởi, thói thường, người đời chỉ hay bơi xấu, ghen tị nhau. Nói giỏi mà làm càn. Cho nên mới ghét bỏ nhau. Lừa dối nhau. Hãm hại nhau. Đưa nhau đến chỗ tử vong mà không gỡ ra được!

Bật Tử Tiện, là học trò của Khổng Tử. Nghe thầy nói mới nóng ruột nóng gan, bởi cứ chất chứa thêm những điều hơi lạ, nên tự thâm tâm bỗng thấy buồn thấy chán. Thấy cõi ta bà lắm chuyện... cái gì đâu. Thấy ở dương gian rối tung đời với đạo, nên trong phút chốc bỗng thấy lòng trống vắng, khi thấy tình thầy lắm đục lại ít trong. Hết cơn bão ni kéo tràn cơn lốc nọ, nên chốn tâm tư cứ tràn lên thôi thúc, mới lủi thủi ra ngoài suy nghĩ tự mình ên:

- Từ ngày theo thầy đến nay. Ta đi đã vẹt cả chục đôi giày cỏ, nhưng tự lương tâm chẳng thấy thầy làm chi hết ráo, mà chỉ nhậu tràn nói chuyện sống lành ngay, thì có nói đến bao niên cũng chẳng nhằm nhò chi hết cả. Mà giả như thầy khó khăn hay xét lời xét lối - ắt chẳng ma nào vui nhậu với thầy đâu - bởi bá tánh trăm thân, thân nào mà chẳng tội, thành thử thầy quên phứt cho dễ bề dễ tính. Dễ được tiếng thương người dễ có chữ bao dung. Dễ để tiếng trăm năm, dễ có người ngưỡng mộ. Chớ thực ra chẳng có ai đụng chạm thầy chi hết ráo - bởi Tiền và Quyền - thầy chẳng có một ly, thì muốn nói... quên luôn cũng đáng chi mà thầy phải sợ. Đó là chưa nói vì một điều phải mà quên cả trăm điều trái, thì hại quá chừng chừng chớ có phải dễ tính mẹ gì đâu, bởi cái... tha nhân tưởng ngon nên không cần phải học, để cái nết hay được đổ xô tràn vào tâm trí, thì mới mong ngày hoàn thiện với người ta. Mới mong buổi... mất đi có nhiều người khóc bạo. Chớ cái tính xấu mà không rèn không uốn, hẳn sẽ có ngày hối hận với lòng tâm. Sẽ đến lúc tiếc than thì đã muộn.

Đã vậy thầy lại còn tào lao thiên tướng, khi nhận cái phải của người như là cái phải của mình đây - thì dẫu đến muôn Thu - thầy cũng sẽ không bao giờ có được, bởi muốn cái hay thì phải gồng phải cố. Phải thắng cả chính mình thắng cả cái lòng ganh. Thắng cái hư danh thắng luôn điều nhỏ mọn. Mà giả như thầy cứ thích làm tràn đi chăng nữa, thì có khác gì muốn... họ với người ngon. Muốn cái cao sang bắt quàng vào làm... tộc. Chớ tự thâm tâm thầy chẳng mài chi hết ráo, thì biết chừng nào mới có được cây kim? Mới thấy công lao của bao ngày khổ nhọc?

Phần Tăng Tử nghe trong lòng khoan khoái, khi giữa chốn đông người nói được mấy lời hay. Nói tới nói lui đều khen thầy ráo nạo, khiến chốn thâm sâu bỗng bùng lên sung sướng, khi hậu vận sáng ngời không khỏi dính điều may. Dính tới chức quan của bao giờ mong đợi, thành thử tim gan cứ trồi lên rơi xuống, nên... đã quá chừng mới nghĩ thật mông lung:

- Nước chảy đá mòn. Lời ngon ngọt dễ dòn lỗ nhĩ. Câu nói đó ngàn năm ta ghi nhớ, đặng áp dụng cho đời bớt khổ bớt sầu lo. Bớt đi sự ghét ghen bớt thêm thằng khó chịu. Chỉ là thế nhân thằng nào cũng như thằng nấy. Cũng khoái sự khen tràn khen bạo tới tầng mây. Cũng khoái nói cái ưu chớ mấy ai thích nghe điều khuyết, tật, thành ra nhân chi sơ tính... ưa nịnh nó nằm ngay chỗ đó - nên dẫu là thầy - thì ngọt ngào là cái phải đầu tiên. Là cái thước đo của tấm lòng trung hậu. Chớ cứ đi theo mà chẳng khen điều chi hết ráo, thì dẫu cả đời, cũng chẳng bao giờ thầy biết đến được đâu!

Tối hôm ấy Tăng Tử về nhà. Vừa đi vừa hát, khiến Tăng thị vội vàng lúp xúp chạy ra, bởi hổng hiểu sao cái... lang quân tối này hơi lạ, mà mặt mũi lên màu - màu tươi roi rói - thì chẳng phải rượu nồng thúc ép tỏ lộ ra. Chẳng phải tí hơi men đã làm ra như dzậy, nên lúc đụng nhau đã ào lên hỏi tới, cho thỏa tấm lòng thắc mắc chợt trào dâng:

- Lang quân đi chuyến này về. Chắc gặp điều phấn chấn. Có thể vì chút tình nồng, mà chia đều với thiếp được chăng?

Tăng Tử liền nắm tay vợ. Vừa đi vừa nói:

- Nước không tin tất tiêu. Người không lẽ tất chết. Của không nghĩa tất mất. Tướng không mạnh tất thua. Người không biết nịnh, tất chẳng làm nên... cái gì cả. Lẽ trời đất xưa nay thường ra vẫn thế! Ta là người, thì cũng cứ thế mà theo!

Tăng thị như trên trời rơi xuống, bởi hổng hiểu chồng mình ám chỉ cái gì đây, mà nói lung tung không ra điều... có học. Đã vậy miệng cười cười như vào cơn hứng thú - khiến Tăng thị vội vàng đưa trán thử, rờ qua - đặng xét xem đức lang quân có gì không được? Hay lặn lội nơi xa khiến người thêm đau ốm, mới nói um sùm chẳng thấy tí đầu đuôi, nên tự chốn tâm can đã bùng lên hãi sợ, rồi trong lúc với chồng đi vào trong vách lá, mới nát cả lòng mà nghĩ tựa như ri:

- Huynh đệ như thủ túc. Phu thê như y phục. Câu nói đó ngàn năm vẫn đúng. Dẫu tự đáy tâm hồn ta chẳng khoái một ly, nhưng nghĩ hết cách vẫn không sao mà thoát được, thành thử chữ Phu thê cứ ngày qua là héo úa. Là lụi dần dần theo nhịp của thời gian. Là chẳng ngon chi khi sắc hương tàn theo vài... cuốn lịch. Chớ thuở đời nay chồng chi mà chán ngắt. Xa cả tháng ròng hổng đặng nghía mặt nhau, mà chẳng thấy trông mong thấy nhớ nhung gì hết cả. Đó là chưa nói đi xa về chẳng quà chi hết ráo. Lại lảm nhảm cái gì như thể... bóng đồng lên, thì dẫu thương hung ta cũng chẳng ham gì nữa được.

Thôi thì cứ làm thinh như không màng không biết, rồi hãy âm thầm khăn gói để mà đi. Chớ hông thể sống chung với người không... tỉnh mộng, rồi sẽ đến lúc tiếc đời xuân qua chóng, mà chẳng có gì gởi lại, để ngày mai. Chẳng có chi ấm áp thân thương nhiều túi mật, thì cõi dương gian quả buồn lên mắt biếc. Quả tủi cho mình sớm gặp những điều đau. Quả cháy tâm can cháy luôn từng khúc ruột. Chứ phận nữ nhi chỉ cần... nâng khăn sửa túi - mà sửa túi người thường - chớ dại gì sửa đứa hổng lành ngay!

Chừng một hôm, Khổng Tử tới đất Tiết, mới triệu các môn sinh đến mà dạy rằng:

- Người quân tử có ba điều vui. Tuy cho làm vua cả thiên hạ là sướng, mà cũng không thể kể vào trong ba điều vui ấy được. Thứ nhất. Cha mẹ còn sống, Anh em bình yên, là một điều đáng vui. Thứ hai. Ngửa lên không tủi thẹn với trời, Cúi xuống không xấu hổ với người. Ấy là hai điều đáng vui. Thứ ba. Tìm được những bậc anh tài trong thiên hạ mà dạy dỗ. Gầy dựng cho ra người. Đó là ba điều đáng vui của người quân tử!

Lúc ấy, thầy Tăng Tử mới nói rằng:

- Lời vàng ngọc của thầy có những điều chưa rõ. Dám mong thầy giải nghĩa được chăng?

Khổng Tử đưa tay vuốt râu, rồi mới đáp rằng:

- Xử trong gia đình, Trên thì cha mẹ còn mạnh khỏe để ta hết lòng phụng dưỡng. Dưới thì anh em hòa thuận để ta được hết đạo hữu ái. Thật là cái cảnh khó được mà ta được, thì còn gì vui hơn nữa? Xử với thân mình, mà tu dưỡng đến việc gì cũng có thể. Trên tỏ cho Trời biết được. Dưới đối với người nói được. Thân thể nhẹ nhàng. Tâm thần khoan khoái, thì còn gì vui hơn nữa? Xử với xã hội, mà tuyển được những bậc anh tài, để có nhiều người truyền đạo cho thiên hạ, hầu hậu thế được nhờ, thì cũng còn gì vui hơn nữa?

Ba cái vui này. Hai cái thuộc về gia đình và bản thân. Một cái về thiên hạ hậu thế, là ba cái vui về tinh thần. Nghĩa là vui bên trong. Chính là cái vui thực vậy. Chớ còn cái vui bên ngoài, thì dù cho đem đến niềm vui cả một nước. So với cái vui kia, cũng không sao bằng được!

Bật Tử Tiện nghe qua, mới thầm nghĩ rằng:

- Cha mẹ còn sống. Anh em bình yên, thì ai cũng biết đó là điều đáng vui. Cần chi phải là người quân tử? Còn ngửa lên không xấu hổ với trời. Cúi xuống không hổ thẹn với người, thì lẽ tất nhiên, thế nhân phải làm theo như rứa. Chớ cần chi phải là người quân tử mới biết đặng điều hay? Còn tìm được những bậc anh tài trong thiên hạ mà dạy dỗ. Gầy dựng cho ra người mới là... trớt hướt, bởi đã anh tài thì cần dạy dỗ làm chi? Bởi đã quá ngon cơm, thì còn xắn dzô làm chi cho mệt? Đó là chưa nói mình tự cao cho người thấp kém - nên mới lên... đồng đòi dạy dỗ người ta - thì thiệt là chưa thấy áo quan chưa thèm ra giọt lệ!

Mà nói hổng phải chứ người yếu kém gầy nên danh tướng, mới bảnh mới tài mới đáng mặt hùng anh. Mới đáng tấm gương soi cho đời sau học tập. Chớ cứ một hai kiếm người ngon hết biết - rồi vỗ ngực xưng tài - thì có được cái mụ nội gì đâu? Bởi như đám theo voi kiếm vài cây mía dập. Thế mới biết quân tử chẳng nhằm chi hết ráo, mà chỉ cần sáng dạ với lòng ngay. Chỉ có cái tâm trong, là đủ sức sống hùng sống mạnh. Chớ cứ dựa vô quân tử để làm mưa làm gió. Làm tấm phông màn phủ lấp cái tà tâm. Làm cái hoa văn để che mắt người đương đại - thì quân tử xét ra chẳng bằng hàng tôm cá - lăn giữa chợ đời kiếm vội cái... bình vôi!

Sự Tích Hoa Quỳnh Và Hoa Mẫu Đơn

Theo truyền thuyết, ngày xưa vào thời nhà Tùy (Dương Quảng 605 - 617) ở Dương Châu, Trung Quốc, có Tùy Dạng Đế là ông vua hôn quân vô đạo, chơi bời trác táng, xa hoa, phung phí, một đêm nằm mơ thấy một cây trổ hoa đẹp... Cùng thời điểm ấy, tại Lạc Dương thành có ngôi chùa cổ kính là Dương Ly, vào giữa canh ba, ngoài cửa chùa thình lình ánh sáng rực lên như lửa cháy, hương thơm sực nức lạ lùng, như sao trên trời sa xuống, làm dân chúng bàng hoàng đổ xô đến xem đông như kiến cỏ. Gần giếng nước trong sân chùa mọc lên cây bông lạ, trên ngọn trổ một đóa ngũ sắc với 18 cánh lớn ở phía trên, 24 cánh nhỏ ở phía dưới, mùi thơm ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi, lan xa ngàn dặm. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh.

Điềm báo mộng của vua Tùy Dạng Đế được ứng với tin đồn đãi, nên Vua yết bảng bố cáo: "Ai vẽ được loại hoa Quỳnh đem dâng lên, Vua trọng thưởng". Không đầy tháng saụ.. có một họa sĩ dâng lên Vua bức họa như ý. Nhìn đóa hoa trong tranh cực kỳ xinh đẹp, tất nhiên hoa thật còn đẹp đến dường nào! Nghĩ vậy, Vua liền quyết định tuần du Dương Châu để thưởng ngoạn hoa Quỳnh.

Trong chuyến tuần du cần có đủ mặt bá quan văn võ triều thần hộ giá, nên để tiện việc di chuyển, Tùy Dạng Đế ban lệnh khai kênh Vạn Hà từ Trường An đến Dương Châụ Hàng chục triệu ngày công lao động phải bỏ ra, hàng vạn con người phải vất vả bỏ mình. Kênh rộng cả chục trượng, sâu đủ cho thuyền rồng di chuyển. Hai bên bờ kênh được trồng toàn lệ liễu đều đặn cách nhau 10 mét một cây (cụm từ "dặm liễu" xuất phát từ đó, điển hình câu thơ: Dặm liễu sương sa khách bước dồn của Bà Huyện Thanh Quan). Kênh đào xong, một buổi lễ khánh thành được cử hành trọng thể, đoàn thuyền giương buồm gấm khởi hành... cả nghìn cung nữ xiêm y rực rỡ, mặt hoa da phấn... thuyền rồng được buộc bằng các dải lụa dùng để kéo đị Vua Tùy Dạng Đế ngồi trên mui rồng uống rượu nghe đàn hát ca sang ngắm cảnh Giang Nam và đàn cung nữ tuyệt thế giai nhân. Vua thấy nàng nào thích ý cho vời vào hầu ngaỵ Chuyến tuần du của bạo chúa Tùy Dạng Đế vô cùng xa xỉ, hao tốn công quỹ triều đình. Đây là một trong những nguyên nhân đẩy đất nước đến đói nghèo, loạn lạc khắp nơi, đưa nhà Tùy đến sụp đổ, dựng nên cơ nghiệp nhà Đường. Trong những quan quân hộ giá, có cha con Lý Uyên. Qua thời gian hơn 90 ngày, đoàn du hành đến đất Dương Châụ Thuyền vừa cặp bến, con của Lý Uyên phương danh là Lý Thế Dân cùng bằng hữu rủ nhau lén lút đi xem hoa ngay trong đêm, sợ sáng hôm sau triều thần cùng đi đông vầy lớp trẻ khó chen chân lọt vào vườn hoạ Lý Thế Dân là người có chân mạng đế vương (về sau là Vua Đường Thái Tông 627 - 649) nên giống hoa nhún mình lên xuống 3 lần để nghinh đón. Cánh hoa cong trắng nõn, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngọt ngàọ Dưới ánh trăng vằng vặc hoa đẹp tuyệt vời! Xem xong, một cơn mưa to rụng hết.

Sáng hôm sau, Tùy Dạng Đế xa giá đến xem hoa, chỉ còn thấy trơ vơ cánh hoa úa rũ, tan tác!... Vua tức giận, tiếc công nghìn dặm không được xem hoa, ra lệnh nhổ bỏ, vứt đi! Từ đó hoa Quỳnh chỉ nở về đêm cho những ai có lòng lân ái: "Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên".

Qua cuộc tuần du, nhiều cuộc bạo loạn nổi lên khắp nơị Tùy Dạng Đế bị cận thần sát hại dẫn đến nhà Tùy mất ngôi, Lý Thế Dân đứng lên lập nên nhà Đường.

... Đến đời Đường Cao Tông, say đắm Võ Hậu, lúc Vua băng hà con còn nhỏ, Võ Hậu chuyên quyền nhiếp chánh hãm hại công thần, tự xưng vương, đổi nhà Đường thành nhà Đại Châu, xưng hiệu Võ Tắc Thiên hoàng đế. Một hôm, Võ Tắc Thiên ngự du vườn thượng uyển nhìn cỏ cây xác xơ trơ trọi liễu đào ủ rũ điêu tàn, liền truyền lệnh bằng bài tứ tuyệt khắc ngay cửa vườn:

Lai triều du thượng uyển - Hỏa tốc báo xuân trị

Bách hoa liên dạ phát - Mạc đãi hiểu phong xuỵ

Dịch: (Bãi triều du thượng uyển - Gấp gấp báo xuân haỵ

Hoa nở hết đêm nay - Đừng chờ môn gió sớm).

Linh ứng thay! Trăm hoa phụng mệnh, chỉ trong một đêm bừng nở khắp vườn, mùi thơm sực nức nhân gian! Rạng sáng hôm sau, Võ Tắc Thiên dạo vườn trông muôn hồng ngàn tía ngoan ngoãn đua chen nở rộ, lấy làm tự mãn cho rằng quyền uy tột đỉnh. Bất giác, bà Chúa bạo dâm Võ Tắc Thiên nhìn đóa Mẫu Đơn bất tuân thượng mệnh, thân cây khẳng khiu cứng cỏi, không hoa lá. Giận thay cho loài hoa ngoan cố, Võ Tắc Thiên ra lệnh đày Mẫu Đơn xuống tận Giang Nam. Do đó, vùng Giang Bắc thiếu vắng loài hoa vương giả, biểu trưng cho quốc sắc thiên hương nhằm ám chỉ tuyệt sắc giai nhân. Người đương thời thấy vậy dệt bài Phú Ngọc Lâu Xuân Tứ nhằm thương hại và tán thán vẻ đẹp, sự khẳng khái của hoa Mẫu Đơn, thà chịu cảnh phong trần lưu lạc tự giải phóng cuộc đời chớ không làm vương giả chốn kinh đô, chịu giam mình trong vườn hoa tù hãm của bạo chúa, đem sắc đẹp hương thơm ban rải cho mọi người để được dự phần thanh caọ

Đó là truyền thuyết hoa Quỳnh và hoa Mẫu Đơn được đời sau dệt thành giai thoại đầy hấp dẫn qua thuyết Đường của Trung Quốc biểu thị cho người đời suy gẫm Hoa và Người: Ai là người xứng đáng thưởng hoa và hoa phải thế nào cho con người thưởng ngoạn

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top