truyện tổng hợp 1

Hổ và Ngựa

Hổ và Ngựa

Con ngựa có tính huênh hoang, khoác lác, ra khỏi nhà là nó nện bốn cái vó xuống đất, nghe ròn hơn gõ mõ làng, hí váng cả tai hàng xóm. Một hôm trời chưa sáng hẳn, ngựa còn đang ngủ say, chủ nhà đã ra bắt ngựa cưỡi đi chợ.

Ngựa phải đưa chủ qua suối, qua đồi, qua khe. Đường xa, bụng đói, chân mỏi, người đẫm mồ hôi, nhưng con ngựa không dám kêu, vì kêu thì sợ lúc trở về chủ sẽ không cho ăn bắp ngô, chậu cám. Đến chợ, chủ nhà buộc ngựa ngoài gốc cây, vào quán ăn thịt uống rượu. Con ngựa khát nước khô cả cổ mà không dám đòi, vì sợ chủ ăn không ngon, lúc về sẽ bắt ngựa chạy nhanh hơn. Ngựa về, bụng đã đói, chân đã mỏi, nhưng chủ nhà vẫn giục ngựa chạy nhanh. Lưng ngựa oằn xuống, bọt xùi ra mép, ngựa vẫn cắm đầu chạy một mạch, mong mau về đến nhà kiếm nắm cỏ tươi. Nhưng vừa mới về đến cửa thì con chủ nhà đã ra đón. Ngựa lại phải đưa con chủ nhà đi thăm nương, rẫy. Mãi đến nửa chiều, ngựa mới được về nhà uống một chậu nước cám. Uống xong, lại sức, con ngựa ra sông tắm. Vừa mới tắm xong ngựa đã lên bờ giũ lông, hí vang, ra dáng khoan khoái lắm. Lúc đó có một con hổ đi ngang. Thấy hổ lủi thủi đi một mình, đuôi cụp, đầu cúi, dáng buồn bã, ngựa nghển cổ lên nói khích:

- Đi đâu mà trông khổ sở thế anh hổ?

- Tôi đi kiếm ăn ở rừng dưới về. Anh chẳng làm gì sao mà trông thong thả thế?

Ngựa càng lên mặt, giũ lại bộ lông một lần nữa, hí vang thêm một lượt, rồi mới ngạo nghễ nói:

- Tôi lúc nào mà chẳng thong thả? Đi dạo chơi từ sáng đến giờ, bây giờ ra tắm cái cho khỏe.

- Anh sung sướng quá! Phận tôi thì phải chạy tối ngày mà có khi cũng chẳng được miếng ăn.

Được hổ nịnh, ngựa càng vênh mặt:

- Anh vất vả quá thật. Đường rộng rãi thế này, mà tôi dạo một lúc đã thấy mỏi chân. Còn anh thì núi rừng thế kia, đi vướng trước, đụng sau làm sao mà chịu được?

Ngựa còn khoe lúc nào cũng thừa thóc thừa ngô, ăn chẳng hết, rồi mời hổ về nhà chơi, để xem những thứ đó. Tính hổ ít nói, lại không muốn mang ơn bạn trước, nên mời ngựa đến nhà mình chơi trước, rồi mới đến trả lễ sau. Hổ về, chạy vào rừng tìm bắt những con nai, con hươu làm tiệc đón ngựa. Ngựa đến cùng hổ ăn thịt, uống rượu tới một ngày rồi kết nghĩa làm anh em. Xong bữa tiệc đó, ngựa về lo đón hổ, tỏ cho hổ biết mình là người sang trọng. Ngựa lấy lục lạc tròng vào cổ, mang yên vào lưng, ngắm nghía một lúc rồi ra đứng đón hổ. Hôm đó nhà chủ ngựa lại có cỗ, ngựa chờ chủ nhà ngủ yên, vào lấy hết mâm cỗ ra tiếp hổ. Hai bên ngồi ăn uống, ngựa chỉ vào từng món thức ăn, khoe:

- Cái này là thịt gà xào này!

- Cái này là mật ong này, ngọt lắm.

- Cái này làm chỗ ở của tôi - Ngựa chỉ ra chuồng, nói tiếp - chỗ tôi ở mưa không dột, nắng không đến, chứ đâu có khổ sở như anh, lúc mưa phải núp vào hang đá, lúc nắng trú dưới bóng cây...

Ngựa còn đang khoác lác thì trời đã sáng, chủ nhà cầm một cái roi ra bắt ngựa cưỡi đi chợ. Thấy ngựa ăn cắp mâm cỗ, sẵn roi chủ nhà đến tóm bờm ngựa đánh một trận nên thân. Ngựa cúi đầu chạy, hổ núp bên ngoài nhìn thấy mọi chuyện vừa xảy ra. Hổ tự hỏi:

- Ta ở trong rừng. Núp mưa trong hang đá, núp nắng dưới gốc cây mà không bị đánh là sướng, hay ở nhà gỗ ăn cám ngô mà bị đánh là sướng?

- Đi đường dốc, vấp phải đá, quàng phải dây mà không bị người ta ngồi trên lưng là sướng, hay đi đất bằng, đường rộng mà bị người ngồi trên lưng là sướng?

Hổ ra bờ suối, chui vào bụi rậm nằm, chờ ngựa, còn ngựa đưa chủ đi đến nửa buổi chiều mới được về. Ăn xong một nắm cỏ, nó lại ra suối tắm. Hổ hỏi:

- Anh ngựa này? Cái sướng của anh tôi không muốn đâu! Anh được ăn ngô, ăn thóc, ăn cỏ, được ở nhà gỗ mà bị người ta đánh vào đầu, người ta cưỡi lên lưng thì sướng làm sao được?

Con ngựa chống chế:

- Tôi không phải làm nhà mà được ở, ngô, thóc tôi không cấy mà được ăn... Anh bảo thế chưa sướng thì thế nào là sướng? Lủi thủi trong rừng quanh năm suốt đời như anh là sướng đấy sao?

- Núi rừng tuy có âm u rậm rạp, nhưng tôi muốn đi đâu cũng được, muốn nằm đâu cũng được. Lúc tôi ngủ không ai dám gọi, lúc tôi chơi không ai dám ngăn. Hươu, nai, cáo, cầy không phải là của tôi, nhưng tôi có công bắt được thì tôi cứ ăn; không bị ai giành lại, không bị ai đánh mắng. Cái sướng của anh tôi không muốn đâu... Tôi không làm bạn với anh nữa đâu. Tôi đi về rừng rậm núi cao của tôi đây.

Nói rồi hổ cong đuôi chạy vào rừng.

Đại bàng và con chim sẻ

Đại bàng và con chim sẻ

Ở khu rừng nọ có một con đại bàng huênh hoang hợm hĩnh. Gặp bất cứ con chim nào, đại bàng cũng khoe khoang rằng nó là chúa tể của các loài chim, rằng nó khỏe nhất, kêu to nhất, bay cao nhất.

Một hôm, đại bàng tập hợp tất cả các loài chim lại và lên giọng thách thức:

- Hỡi các loài chim, trong các người có kẻ nào dám đọ sức kêu to, ăn nhiều, bay cao cùng ta không nào?

Cả bầy chim sợ hãi nhìn nhau chẳng dám ho he một tiếng. Thấy thế đại bàng càng được thế:

- Ta bất chấp tất cả các ngươi đấy.

Lúc ấy, một chú sẻ con bèn lên tiếng:

- Bác đại bàng ơi, thi ăn nhiều, kêu to với bác thì chúng em chẳng dám rồi, nhưng thi bay cao với bác thì em cũng thử một lần xem sao.

Cả đại bàng lẫn các loài chim khác đều sửng sốt ngoảnh lại nhìn chim sẻ nhưng nó không hề nao núng.

Cuộc thi bắt đầu. Ðại bàng vỗ cánh bay lên. Khi đã bay cao hơn cả những ngọn cây cao nhất, đại bàng liền gọi:

- Ê, sẻ con chết rấp ở đâu rồi?

Lúc ấy sẻ bay lên đầu đại bàng, đáp:

- Em đây, bác cứ yên tâm, em không bỏ cuộc đâu. Ðại bàng cố sức bay cao lên nữa. Khi cao hơn cả những đỉnh núi mù sương, đại bàng lại cất tiếng gọi:

- Thế nào, sẻ con, vẫn theo ta được đấy chứ?

Chim sẻ lại bay lên trả lời:

- Vâng, em vẫn cố theo bác đây. Chừng bác mệt rồi sao mà bay chậm thế?

- Ðời nào!

Ðại bàng nói hổn hển rồi bay ngược lên cao cao mãi, lần này đại bàng đã ở trên cả những đám mây trắng xóa. Nó tin là sẻ con chẳng thể nào bay lên tầng cao này được. Ðôi cánh đã mỏi rã rời. Cổ và đầu nặng trĩu, đại bàng nói chẳng ra hơi.

- Sẻ con đã chịu thua ta rồi chứ?

- Chưa đâu, em vẫn ở trên đầu bác đây này - Giọng sẻ con vẫn lanh lảnh.

Ðại bàng quyết không chịu thua chim sẻ, nó lấy hết sức tàn rướn lên cao nhưng không được nữa. Ðại bàng tắt thở. Từ trên cao nó rơi thẳng xuống vực như một hòn đá vậy. Khi ấy, sẻ con chỉ việc xòe cánh ra từ từ hạ xuống giữa các loài chim đang nóng lòng chờ tin cuộc đọ sức. Chúng không hiểu sẻ con có mưu mẹo gì mà thắng được đại bàng vốn bay cao nhường ấy. Chỉ có mỗi một con sẻ con khác là trông thấy lúc cuộc thi bắt đầu, sẻ con đã đậu ngay trên lưng đại bàng. Thì ra đại bàng đã mất công chở chim sẻ trên lưng mà không biết. Mỗi lần đại bàng cất tiếng hỏi, sẻ con lại từ lưng đại bàng bay lên đáp lời, thành thử nó chẳng mất tí sức nào.

Bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, sẻ con đã thắng đại bàng kiêu ngạo và to lớn hơn nó gấp nghìn lần.

Tham ăn

Ngày xưa, ở vương quốc Thái Lan, có một ngôi chùa rất lớn và đẹp, trụ trì ngôi chùa này là một ông sư còn trẻ nhưng lại nổi tiếng tham lam và ích kỷ. 

Không biết ai đã đưa ông vào ngôi chùa này mặc dù đức hạnh ông ta không hề có. Trong sân chùa này có một cây táo rất sai quả, quả nào quả nấy to bằng nửa nắm tay người lớn và trái rất ngọt. Đến mùa quả chín nhà sư chỉ cho phép một mình được hái táo vì ông ta chỉ nghĩ đến bản thân mình mà thôi. Ngay cả những sư khác trong chùa cũng không được đụng tới. 

Trong vùng có hai người nông dân nghe tiếng ông sư này tham lam liền tìm cách lừa ông ta một vố để dạy cho ông một bài học. Một trong số hai người liền tìm đến chùa ra mắt vị sư tham lam nọ và hỏi xin ít táo. Nhà sư nói:

- Không được, những táo này chỉ dành cho ta thôi. Không ai được hái đâu.

Người nông dân nài nỉ mãi nhưng nhà sư nhất quyết không cho. Cuối cùng, anh nông dân nói:

- Ông chưa hiểu ý tôi. Tôi sang mời ông chiều nay đến nhà tôi để ăn thịt hươu. Tôi xin ít quả táo để nướng chung với thịt hươu. 

- Thế sao anh không nói ngay từ đầu? – Nhà sư thốt lên, mắt nhìn xung quanh xem có ai thấy không rồi tiếp – Anh cứ hái đi, cần bao nhiêu cứ hái. Trông vẻ mặt nhà sư lúc này rạng rỡ hẳn lên, không còn cau có như lúc đầu nữa. 

Thấy đã trúng kế, anh nông dân mỉm cười đắc ý. Thế rồi nhà sư dẫn anh nông dân ra chỗ cây táo và cùng anh ta hái một túi đầy. Vừa hái táo nhà sư vừa hỏi về bữa thịt hươu sắp tới với vẻ mặt của một người sắp được đánh chén. Còn anh nông dân thì luôn miệng ca ngợi món thịt hươu nướng của mình. 

Sau khi hái đầy bao táo, người nông dân cáo từ và hẹn chiều gặp lại. 

Anh ta về được một lúc thì có một người nông dân khác vào xin táo và cũng bị nhà sư từ chối như anh nông dân lúc nãy. Nhà sư nghĩ: “Ta dại gì cho hắn, cho tên kia thì còn được mời đến ăn thịt hươu chứ cho tên này thì ta mất không, chẳng được lợi lộc gì?”. Nghĩ vậy nhà sư lắc đầu nguầy nguậy nhất định không cho. 

Biết tẩy của anh ta, anh nông dân nói:

- Tôi đến mời ông đi ăn thịt gà, nhân tiện xin ông ít quả táo hầm với gà cho ngon. Bữa tiệc này chỉ có tôi và ông thôi, chớ ngại. 

Nghe xong nhà sư mừng lắm, định bụng hôm nay sẽ được chén một bữa no nê thịt hươu và thịt gà. Nhưng ông đâu có biết sa vào bẫy của hai người kia. Thấy nhà sư im lặng, người kia nói:

- Ông thấy thế nào? Hay ông không thích ăn thịt gà của tôi? 

Nhà sư vội vã đáp:

- Không phải, không phải, tôi rất vui lòng nhận lời mời của anh bạn. À mà nhà ông bạn ở đâu?

Anh nông dân đáp:

- Chỉ ở cuối xóm này thôi. 

Tuy miệng hỏi vui vẻ như vậy nhưng trong đầu của nhà sư đã hình dung một con gà béo tròn đặt lên đĩa còn đang bốc khói nghi ngút. Và tất nhiên anh đựơc nhà sư mời ra sân và cho hái quả thoải mái trên cây táo đã nổi tiếng là "bất khả xâm phạm" của mình. Sau khi đã hái đầy một bịch táo, anh nông dân chào nhà sư ra về dưới con mắt ngạc nhiên của các chú tiểu trong chùa. Từ đó trước tới nay họ chưa bao giờ thấy nhà sư của mình cho ai nhiều táo như vậy. 

Chiều đến hai anh nông dân cùng đến ngôi chùa nọ để mời nhà sư đi ăn tiệc. Họ gặp nhà sư và như đã bàn tính trước, một trong hai anh nông dân nói:

- Bây giờ sư ông đến nhà tôi trước, nhà tôi ở gần ngay đây thôi.

Người thứ hai phản đối:

- Không được! Đến nhà tôi trước vì cả nhà đang đợi. 

Không ai nhường ai họ cãi nhau ỏm tỏi khiến nhà sư phải lên tiếng:

- Thôi thôi, được rồi, tôi sẽ đi với cả hai vị. 

Hai người nông dân nháy mắt với nhau, họ đưa nhà sư đi lòng vòng khắp nơi, được một lúc mỏi chân quá, nhà sư nói:

- Đã đến chưa mà sao đi mãi vậy?

Hai người nông dân đồng thanh đáp:

- Sắp tới rồi, ông ráng lên, chỉ còn một đoạn nữa thôi. 

Hai anh nông dân đáp trấn an nhà sư. Mãi đến lúc này nhà sư nọ vẫn chưa biết mình bị hai người đàn ông kia lừa.

Đến chiều nọ họ đã tới làng, đi một đỗi nữa đến ngã ba, một trong hai người nắm tay kéo nhà sư vào con đường phía bên trái và nói:

- Đã đến nhà tôi rồi, xin ông hãy qua nhà tôi trước, đánh chén xong hãy qua nhà ông kia. 

Người kia đâu có chịu bèn chạy lại nói:

- Đâu có được, chính tôi mời ông qua nhà tôi trước. 

Thế là họ cãi nhau. Còn nhà sư không biết phải đi theo ai trước nên chỉ biết phải im lặng. 

Cãi nhau chán mỗi người bèn tóm một tay của nhà sư mà kéo về phía mình. Vừa kéo họ vừa chửi bới nhau cho đến lúc nhà sư không chịu nổi nữa phải thốt lên:

- Hãy để tôi yên! Tôi chẳng đến nhà ai cả, buông tôi ra!

Đến lúc này hai người mới buông tha nhà sư ra. Bây giờ ông ta đã quá mệt, vừa chẳng ăn đựơc gì, lại vừa phải nghe tiếng chửi rủa suốt buổi của hai người nông dân. 

Nhà sư chẳng nói chẳng rằng, bỏ đi một mạch về với vẻ mặt mệt mỏi xen lẫn thất vọng vì hụt bữa ăn ngon, và ông ta cũng chưa biết rằng mình bị chơi một vố đau. Đợi cho nhà sư đi rồi, hai anh nông dân nhìn nhau cười đắc ý. Về phần nhà sư, ông không những mất một số táo đáng kể mà còn chẳng ăn được gì. Đúng là tham thì thâm!

Chim Sơn Ca

Bụi trường xuân vừa ra hoa, Sơn Ca lập tức đoán ra ngay cái nguy cơ rình rập loài có lông vũ. Tập hợp các loài chim lại, nó lên tiếng thuyết phục chúng: 

- Tốt hơn hết là nên hạ cây sồi có bụi trường xuân mọc trên đó. Nếu không làm nổi việc đó thì nên bay đến gặp loài người để cầu xin họ đừng dùng bụi trường xuân để săn chim. 

Nhưng các lồi chim không nghe lời và chế nhạo nó. Sơn Ca liền bay đi để gặp loài người để xin điều đó. Nhờ sự khôn lanh của nó, loài người đã chịu để nó sống bên cạnh mình. Chính vì thế các loài chim khác đều bị loài người bắt ăn thịt, chỉ riêng có loài Sơn Ca xin được nương náu bên cạnh loài người là không bị đụng đến, được loài người cho phép xây tổ bình yên trong nhà của họ. 

Truyện ngụ ngôn này cho thấy ai có khả năng nhìn thấy trước sự việc thì dễ dàng tránh khỏi những cảnh hiểm nghèo.

Chỉ có một người thôi

Người đến dự đám cưới khá đông. Ông hàng xóm gọi bác làm công đến và bảo:

- Này, anh đi xem xem có bao nhiêu người đến dự đám cưới bên ấy.

Bác làm công ra đi. Bác để lên ngưỡng cửa một khúc gỗ và ngồi lên bờ tường đợi khách khứa ra khỏi nhà. Họ bắt đầu ra về. Ai đi ra cũng vấp phải khúc gỗ, văng lên chửi và lại tiếp tục đi. Chỉ có một bà lão vấp phải khúc gỗ, liền quay lại đẩy khúc gỗ sang bên. 

Bác làm công trở về gặp người chủ.

Người chủ hỏi:

- Ở bên ấy có nhiều người không?

Bác làm công trả lời:

- Chỉ có mỗi một người mà lại là bà lão.

- Tại sao vậy?

- Bởi vì tôi để khúc gỗ bên thềm nhà, tất cả đều vấp phải, nhưng cũng chẳng ai buồn dẹp đi. Thế thì lũ cừu cũng làm như vậy. Nhưng một bà lão đã dẹp khúc gỗ sang bên để người khác khỏi vấp ngã. Chỉ có con người mới làm như vậy. Một mình bà lão là người.

Chim ưng và Cáo

Chim ưng và Cáo quyết định sống với nhau như bạn bè và thoả thuận ở gần nhau cho tình bạn thêm bền chặt nhờ tình láng giềng. Chim ưng xây tổ trên ngọn cây cao còn Cáo đào hang đẻ con ngay trong những bụi cây dưới đất. Nhưng có một lần, cáo đi kiếm mồi, chim ưng đang đói bay sà xuống bụi cây vồ lấy các con cáo con và cùng với các con chim ưng con của mình ăn thịt chúng. 

Cáo về nhà, biết được điều gì đã xảy ra và rất đau đớn: đau vì các con của mình đã chết không bằng đau vì không trả được thù, vì các con thú rừng không tài nào bắt được chim ưng. Nó chỉ còn biết đứng từ xa mà cất tiếng nguyền rủa kẻ vong tình bội nghĩa kia. Kẻ sức yếu, thế cô thì có thể làm được gì hơn? 

Nhưng rồi cũng đến lúc chim ưng phải trả giá cho tình bạn bị nó chà đạp. Một người nào đó đem dê ra đồng để hiến tế. Chim ưng bay đến con vật bị hiến và tha đi bộ lòng bốc khói của nó. Và khi nó chỉ vừa mới tha về đến tổ, một cơn gió mạnh ập đến, những dây bện tổ cũ kỹ mỏng mảnh bốc lửa cháy sáng rực. Những con chim ưng con bị cháy xém rơi xuống đất. Chúng chưa thể bay lên được. Thế là Cáo chạy ra ăn thịt chúng ngay trước mắt chim ưng. 

Truyện ngụ ngôn này cho thấy kẻ phản bạn dù có thoát được sự trả thù của người bị xúc phạm nhưng cũng không tránh khỏi được sự trừng phạt của Thượng đế.

Chuyện hai con ngựa

Ngựa Cái ngày đêm không làm lụng gì hết và chỉ tha thẩn trên cánh đồng, còn Ngựa Đực đêm đêm mới được thả đi ăn, ban ngày phải cày đất. Thấy vậy Ngựa Cái mới bảo Ngựa Đực:

- Anh việc gì phải kéo cày? Giá tôi ở địa vị anh thì tôi không có chịu. Chủ mà lấy roi quật tôi, tôi sẽ tung vó đá lại. 

Sang ngày hôm sau, Ngựa Đực bèn nghe lời Ngựa Cái. Bác nông dân thấy Ngựa Đực trở nên ương bướng, bèn đóng Ngựa Cái vào vai cày. 

Xúi giục kẻ khác làm bậy trước tiên làm hại chính mình.

Có còn hơn không

Người đánh cá quăng chài, kéo lên được chú cá con. Cá van xin được thả ra vì nó còn nhỏ tẹo, đợi khi nó lớn thì người hãy bắt. Nhưng người đánh cá bảo:

- Quả là tao ngốc mới buông tha cho mày khi mày nằm trong tay tao. Thói thường, có ngay được lợi nhỏ, hơn là lợi lớn không chắc chắn.

Phật ở đâu?

Thuở xưa, có anh chàng đọc kinh nghe nói về Phật, thích lắm, quyết định đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp ra đi. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, hầm hố gian nguy hiểm trở... Chàng vẫn chưa gặp được Phật giống như hình dạng trong Kinh đã diễn tả.

"Thân Phật sắc vàng, cao một trượng sáu, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chói sáng. "

Một hôm tại một sườn non, chàng trai tình cờ gặp một cụ già râu tóc bạc phơ, cốt cách siêu phàm, mừng quá, chàng khẩn khoản:

- Thưa cụ, cụ có biết Phật đang ngụ ở đâu không... Xin chỉ dùm cho con với.

Ông lão mĩm cười:

- Ồ! Chỗ nào mà không có Phật... Trên quãng đường vừa qua, chả lẽ con không gặp được Ngài ư...

- Thưa cụ, trên đường đi con đã từng gặp vô số người, nhưng đều là hạng phàm phu tục tử cả. Con chưa từng thấy người nào có được vài tướng tốt như trong kinh đã mô tả về Phật cả.

Ông cụ cười ha hả:

- Cháu ngốc nghếch thật, cháu không biết rằng cái thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đó người Ấn Độ đã đốt thành tro và chia nhau xây tháp thờ cúng cả rồi ư...

- Thưa, thế thì Phật chết rồi sao...

- Hiện giờ Đức Phật đang phân thân ở khắp mọi nơi. Ngài cũng mang thân tốt và xấu như chúng sinh vậy. Con có còn muốn gặp Ngài nữa không...

- Thưa, dù bất cứ với hình dáng nào, nếu đích thật là Ngài thì con vẫn vô cùng khát ngưỡng.

- Vậy thì, để ta mách nước cho con nhé... Con hãy quay về, trên đường về nếu con gặp người nào mang guốc trái ở chân phải, guốc phải ở chân trái thì người đó chính là một hóa thân của Phật. Hãy thừa sự và cúng dường vị Phật ấy như trong kinh đã dạy.

Chàng trai hối hả quay về. Suốt quãng đường dài, chàng không gặp Đức Phật nào mà hình dạng như cụ già diễn tả. Chán nản, chàng đi luôn về nhà. Trời đã khuya, bà mẹ còn chong đèn ngồi đợi con. Nghe tiếng gọi cửa bà mừng quá, quờ quạng tìm đôi guốc rồi chống gậy tất tả ra mở cửa.

Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào: "Ôi Đức Phật yêu quí của con. "

Con ốc nhỏ mang linh hồn của biển…

Trần Thị Ngọc Thủy

Chuyện rằng...

Ngày xưa trên mặt đất chưa có biển xanh. Thần Tình yêu bấy giờ là người duy nhất cai quản cõi đời. Thần tặng cho tâm hồn mỗi con người thứ quý giá nhất: viên ngọc tình yêu. Khi con người đánh rơi viên ngọc của mình, nó sẽ tan thành trăm nghìn mảnh. Và mỗi mảnh hóa thành một giọt nước mắt mang hương vị của nỗi đau. Chúng không mất đi mà được thần tình yêu giữ lại để làm nên những viên ngọc khác. Biển từ đó ra đời…

Thuở ấy biển chỉ có một mình. Tình yêu càng làm cho con người đớn đau, biển lại càng thêm mênh mông, càng thêm cô quạnh. Lúc đó, trên mặt đất đầy những dấu chân của tình yêu, người ta thấy một con ốc nhỏ bé và lạc lõng. Con ốc tội nghiệp loay hoay không tìm được cho mình một lối đi, chỉ biết trú sâu trong chiếc vỏ. Thần Tình yêu không còn viên ngọc nào để cho nó. Thế là người đưa nó về với biển.

Biển từ đó bỗng biếc xanh, không phải vì phép nhiệm màu nào của thần Tình yêu, chỉ vì biển đã thôi một mình. Ngày ngày có con ốc nhỏ cạnh bên nghe biển hát…

Một đêm buồn, biển nói với con ốc nhỏ rằng biển chẳng có gì cho riêng mình. Nước mắt của con người, tình yêu của con người làm nên biển. Biển không có tình yêu. Biển chỉ có tiếng hát - chỉ có linh hồn. Nhưng tiếng hát ấy, người ta chỉ nghe một khoảnh khắc nào đó trong đời, rồi quên. Và linh hồn ấy, biển có nhờ gió mang đi giữ hộ, nhưng gió mãi vui nên đã đánh rơi đâu đó giữa đất trời. Thế nên biển thấy mình vô nghĩa…

Con ốc nhỏ nghe câu chuyện của biển, nó thương lắm…

Rồi một ngày kia, biển gọi mãi, gọi mãi mà không thấy con ốc nhỏ trả lời. Thần Tình yêu bảo con ốc nhỏ đã ra đi. Biển ngỡ ngàng, con sóng ngày ngày tràn về rồi lại ra đi như chờ mong một điều gì... Biển buồn. Nhưng rồi biển cũng nguôi quên…

Câu chuyện có lẽ mất hút vào hư vô, hay tan biến đi như những bọt biển, nếu không có một ngày…

Một ngày, ở một nơi rất xa biển, có một cô bé nhặt được chiếc vỏ ốc nằm lẻ loi. Tình cờ cô bé áp chiếc vỏ ốc vào tai, và chao ôi… từ trong ấy có những thanh âm da diết vọng về.

"Sao trong chiếc vỏ ốc này lại có tiếng hát của biển hở thần Tình yêu?" – cô bé tìm gặp và tò mò hỏi Người. Thần Tình yêu kể cho cô bé nghe câu chuyện về con ốc nhỏ. Ngày ấy, con ốc nhỏ đã thỉnh cầu với Người rằng hãy cho biển được giữ lại tiếng hát. Người bảo đó là điều không thể, trừ phi… Vậy là con ốc nhỏ từ bỏ linh hồn mình để được giữ linh hồn của biển. Nó phải ra đi thật xa. Và biển sẽ mãi mãi không bao giờ biết được…

Con ốc nhỏ đã khóc thật nhiều, nước mắt của nó cũng không được trở về bên biển.

Nhưng nó biết, giờ đây, biển đã có linh hồn, và rồi biển cũng sẽ có tình yêu.

Chuyện rằng con ốc nhỏ vẫn ngàn năm mang theo linh hồn của biển…

Sự tích hoa hồng bạch

Phan Thị Hà Dương

Chúng tôi chân thành cám ơn bạn Thái Linh đã cung cấp thông tin về tác giả Hà Dương và truyện ngắn này.

Câu chuyện này xảy ra vào thời mà những khu vườn còn ngập tràn cỏ dại, các loài hoa rất hiếm và chưa có hương thơm, còn hoa hồng chỉ có một màu đỏ thắm. 

Ở một làng quê nọ, nơi một dòng sông nối liền với biển, có hai đứa trẻ chơi rất thân với nhau, cô bé có mái tóc dài đen mượt, còn tóc cậu bé màu vàng tơ. Buổi sáng tinh mơ, khi mặt trời còn chưa tròn, hai đứa trẻ đã cùng nhau vui đùa trong sóng biển hay mải mê tìm kiếm những viên đá màu xanh. Buổi chiều muộn, lúc mặt trăng đã hiện dần vành vàng nhạt màu, cả hai vẫn còn ở trong rừng hái cho nhau những chùm quả dại ngọt lịm. Tháng ngày như thế trôi qua, nhưng chưa bao giờ cậu bé được nghe giọng nói của cô bé, vì cô bị câm từ thuở nhỏ. Và thay vì kể chuyện cho cô, cậu hát cho cô nghe những bài ca cuả những dân du mục thường cưỡi ngựa qua làng, những bài ca của những người đánh cá khi cả đoàn thuyền kéo về những con cá lớn, những bài ca về câu chuyện dòng sông... Hai đứa trẻ dần lớn lên, và rồi cậu bé đi học việc theo đoàn thuyền đánh cá, còn cô bé ở nhà với bố mẹ làm vườn. Cậu vẫn thường hát cho cô nghe, nhưng những sáng tinh mơ mặt trời hay những chiều tà mặt trăng không còn nữa. 

Ngày cậu bé tròn mười lăm tuổi, đoàn thuyền đánh cá mở hội gia nhập cậu. Suốt một ngày sẽ vui chơi, và buổi tối các cô bé sẽ tặng cậu hoa để rồi sớm hôm sau, cậu sẽ theo đoàn thuyền ra khơi. Chiều hôm ấy, có cô bé tóc vàng con một người đánh cá đến hỏi cô phải làm gì. Và cô rủ cô bé ấy đi tìm hoa vì cô biết những khu vườn nhiều hoa đẹp nhất. Nhưng vào mùa hè nóng bỏng ấy, ánh nắng chói chang đã làm khô đi nhiều cây cối, suốt buổi chiều bọn trẻ đi rất xa mà chỉ tìm được vài bông hồng nhỏ. Khi mặt trời dần lặn, hai cô bé sợ lạc, và cô bé tóc vàng đứng lại trên con đường nhỏ đợi những bác thợ đi qua để hỏi lối về. 

Còn lại một mình, cô bé tóc đen vui chạy như một cánh chim từ vườn này sang vườn khác, cô rẽ từng khóm lá, từng rặng cây để tìm chọn. Một làn gió dịu dàng, man mát bỗng đưa bước chân cô đến một vườn hoa, nơi một khóm hồng đỏ thắm như đang chờ đợi. Ôm vào ngực những nụ hồng chúm chím, cô lặng mình hôn lên những cánh hoa. Lạ kỳ làm sao, những bông hoa bỗng tỏa hương thơm ngọt ngào, dịu nhẹ. Vui sướng, cô nhắm mắt và thầm nghĩ "cám ơn trời, trời đã ban cho bạn những bông hoa này qua tôi", và nước mắt cô chảy dài trên má, khẽ rơi xuống những cánh hoa. Khi mở mắt, cô ngây người đi trước vẻ đẹp lạ lùng của những bông hoa. Nước mắt cô đã làm phai đi màu đỏ, những cánh hoa bên ngoài đã mang sắc trắng, và bên trong phơn phớt màu hồng. Những nụ hoa thẹn thùng, trong trắng như e ấp, dịu dàng trên ngực cô, trong vòng tay cô. 

Khi cô quay trở lại, cô bé tóc vàng đã hỏi được đường về, và cả hai cùng chạy đến nhà cậu bé. Đến gần khu vườn nhà cậu, mái tóc của cô bay theo gió và vướng vào bụi gai, cô càng gỡ càng thêm rối. Đưa cho cô bé tóc vàng bó hồng, cô giữ lại cho mình một nụ hoa, nụ hoa bé nhỏ nhất. Đứng sau lùm cây, cô bé như nghe thấy tiếng hát của cậu bé, và bên những cành lá rì rào trong gió, cô tưởng tượng nụ cười thân thương của cậu, nụ cười của mặt trời những sáng tinh mơ và mặt trăng những khi chiều tà. 

Nụ hồng của cô bé đã nở ngày hôm sau và bên cô luôn có hương thơm thoang thoảng. Rồi một sớm tinh mơ, khi mặt trời còn chưa tròn, cô bé đem cành hồng ra vườn trồng. Sáng sáng cô tưới chút nước và chăm sóc cho cây hồng bé nhỏ của mình. Mùa hè qua đi, mùa thu rồi hết mùa đông, khi mùa xuân đến, cô bé mừng vui thấy những nụ hồng đầu tiên chúm chím hé nở. Và dù cô bé không còn hôn lên những nụ hoa, dù nước mắt cô không bao giờ còn chảy trên những cánh hoa, thì kỳ diệu thay, những bông hồng mới vẫn mang hương thơm dịu ngọt và màu trắng phớt hồng. 

Từ đó loài hoa hồng bạch ra đời.

Thư viết cho... một con nhóc

Hải Đăng

Gởi con nhóc mỗi sáng ta vẫn nhìn thấy trong chiếc gương soi. 

Nhóc mi có biết không, mi có nhiều nét khiến ta chán ghét đến không chịu được, có những lúc ta chán đến mức muốn bắt lấy ngươi mà ném đi xa thật xa, ném đi đến một nơi nào đó mà ta vĩnh viễn không nhìn thấy mi. Vì mi đáng ghét. 

Nhóc! 

Mỗi sáng mi thức dậy và ngắm ta đi qua đi lại, ta tự hỏi mỗi lần đi ngang mi chẳng biết thế nào là ta gặp ngay ánh mắt mi đang nhìn ta. Rồi khi ta ngồi trước gương là mi cũng ngay ngắn trước mặt, ta lại nhìn thấy mi rõ nét và thấy bực bội vì mái tóc của mi, nó rối rung và khó ưa một cách không thể tưởng được, ta cầm chiếc lược đi lòng vòng trong phòng, nhìn đâu cũng thấy mi vừa ngắm ta vừa gỡ tóc, mi xoay vòng rồi mi tết tóc, mi thay quần áo mới rồi thoa son... Ta tự hỏi tại sao lại có con bé nào điệu đến thế kia chứ? Một đứa con gái mất gần một tiếng đồng hồ vào mỗi buổi sớm mai chỉ để xí xọn những tóc tai quần áo thì có còn đủ thời gian để làm những việc khác hay không? Bớt điệu một chút hẳn mi sẽ có nhiều thời gian hơn, khi đó mi sẽ làm được nhiều việc hơn, quét dùm Mẹ cái nhà, dọn dẹp phòng ốc hay chỉ là đi quẳng mớ giấy tờ mi vừa bày bừa tối hôm qua trước khi đeo cặp ra khỏi nhà thì có lẽ mi sẽ dễ thương hơn, nhóc à! 

Nhóc mi biết không , mi hậu đậu và vụng chưa từng có. Nấu nồi cơm không ngon, rán con cá không vàng giòn, kho nồi thịt không thơm... chỉ biết có rửa chén thôi làm sao mà ra con gái cho được? Sáng Chủ Nhật cũng không chịu dậy sớm dọn nhà giúp Mẹ, ngủ nướng đến trưa nắng chói chang mới uể oải ngồi dậy mà đi giặt dăm bộ quần áo, dọn qua loa rồi ôm riết lấy cái máy vi tính, Mẹ mắng thì nhe răng ra mà cười. Dòm mà bắt ngứa con mắt. Đến khuya khi cả nhà ngủ ngon thì mi thức trắng mắt ra mà viết lách những thứ lảm nhảm, đọc sách đến khi Mẹ giật mình thức dậy mà thúc mi đi ngủ. Buổi trưa yên tĩnh mi mở Rock đùng đùng, ba la thì nhăn nhăn mặt: "Con nghe chút rồi đi học mà ..." . Hơ, có đứa con gái nào hư đến thế không cơ chứ? Mà ta thì ta không có cảm tình với những đứa hư, nhóc à! 

Nhóc nhà mi ngoại hình đã không xinh rồi, tính tình lại càng xấu xí. Dở dở ương ương khó mà chiều theo được. Mi có biết đôi khi ta muốn phát khùng vì cái tính khí thất thường của mi không? Ngoài kia mưa gió đùng đùng như thế kia, chẳng công chẳng việc gì mi cũng kéo ta mặc áo mưa vào rồi chạy biến đi, bỏ luôn cái đống sách vở đang học dở chỉ để... tắm mưa, mặc dù sau đó cái lỗ mũi của ta sẽ có trục trặc khó chịu vô cùng. Công viên vắng tanh chẳng một bóng người, mi chạy ra đó dựng xe xuống và ta phải ngồi chơ vơ trên những cái ống cống to đùng đùng, chỉ để ngắm con diều bay tít ngoài kia. Túi ta chỉ còn vài đồng tiền cuối cùng, vì mi mà ta phải đổ đầy bình xăng rồi chạy ra biển chỉ để tha thẩn suốt một buổi chiều. Mi lung tung. Mi rắc rối. Mi tưng tưng. Mi đáng ghét. Mi xoay ta vòng vòng với những cảm xúc thay đổi thất thường của mi, ta muốn phát ốm vì điều đó. Ta đấu tranh nhưng chẳng bao giờ ta thắng được mi cả, khi ta muốn về học bài vì bài thi ngày mai thì mi còn đang bận đếm sóng dạt vào bờ, khi ta muốn đi đánh cầu lông thì mi hí hửng: nghỉ một bữa có chết ai đâu rồi tung tăng đi thả diều, khi ta muốn về ngủ thì mi còn đang mải mê online... Chính vì ta phụ thuộc quá nhiều vì mi, ta chẳng bao giờ cãi lý nổi với mi, vì ta chẳng thể độc lập khi thiếu mi... chính vì tất cả nên ta ghét mi, ghét thậm tệ! 

Bỏ qua những thứ ấy, giá như mi học hành cho đàng hoàng thì chắc ta còn thương mi đôi chút. Mi coi điểm của mi mà coi nhóc, chẳng có cái nào ngóc lên được điểm giỏi cả, lúc hứng chí thì mi học đến cả lớp nhìn mi mắt tròn mắt dẹt, lúc tưng tưng thì lết thết đi sau lưng thiên hạ, đáng chán thay mi tưng tưng nhiều hơn là mi hứng chí nên ta lãnh trọn mấy cái kí đầu muốn lủng sọ của con nhỏ ngồi kế bên ta. Còn đâu cái quyết tâm mi hứa với ta là lãnh học bỗng để đi du lịch với ta hả? 

Nhóc! 

Càng ngày ta càng tưng tưng theo mi, có buổi sáng thức dậy ta tá hoả khi thấy đôi mắt mình sưng húp trong gương, thì ra đêm qua mi khóc, đêm qua mi thức khuya nên sáng mắt ta đỏ kè, bất đắc dĩ ta phải đi chườm đá mới có thể đi học được. Đôi khi ta đang ghi chép bài trong lớp, tự dưng mi chán... thế là ta phải đeo bì chuồn ra khỏi lớp theo cái tiếng thôi thúc của mi. Hơ, ta có lỗi với Mẹ, với mọi người... tại mi cả đấy nhóc! 

Ta ghét những lúc không làm chủ được mi, ta ghét những lúc ta phải buông xuôi theo mi, ta ghét những khi mi chạy lung tung khiến ta ngồi ngơ ngác như mất hồn... Ta ghét mi... Nhưng ta chẳng bao giờ muốn rời bỏ mi vì mi chính là một phần của ta, nhóc à! 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top