Truyền thuyết Tam Quốc Chí
Truyền thuyết Tam Quốc Chí
Nguồn : luongsonbac.de
Thực hiện ebook : hoi_ls
Quan Vũ gặp Trương Phi
Trương Phi là một anh chàng bán hàng thịt. Bên quày của anh có để một tảng đá nặng ngàn cân, trên tảng đá có đề mấy chữ: "Ai cử nổi tảng đá ngàn cân này, cứ cắt lấy thịt mà khỏi trả tiền".
Một hôm, Trương Phi đang ngồi uống trà trong quán kế bên thì Quan Vũ đến. Quan Vũ đọc thấy hàng chữ ấy liền đưa tay cử tảng đá lên đầu và đi luôn mấy vòng. Đặt tảng đá xuống, Quan Vũ cầm đao cắt lấy một miếng thịt rồi bỏ đi.
Bà vợ Trương Phi vội chạy vô quán bảo cho chồng biết. Trương Phi chạy theo nắm áo Quan Vũ lại, hỏi:
- Sao anh dám lấy thịt mà không trả tiền?
Quan Vũ nói:
- Anh chẳng đã viết: "Ai cử nổi tảng đá ngàn cân này, cứ cắt lấy thịt mà khỏi trả tiền" đó sao? Tôi đã cử nó khỏi đầu và đi ba vòng, như vậy không đáng đưọc tặng thịt hay sao?
Trong lúc hai người đang giằng co qua lại thì Lưu Bị bán giày đi ngang qua, ông liền một tay kéo Quan Vũ, một tay lôi Trương Phi để hai người dang ra và khuyên nhủ họ. Thế rồi ba người kết làm anh em.
Quan Vũ vẽ trúc
Truyền thuyết nói rằng, sau khi Lưu, Quan, Trương bị bại binh ở Tiểu Bái, Quan Vũ vì bảo vệ hoàng tẩu nên phải ở lại doanh trại Tào Tháo.
Tào Tháo thấy Quan Vũ là người trung nghĩa, biết lễ nên sinh lòng kính trọng. Một hôm, Tào Tháo lại mời Quan Vũ tới phó yến. Giữa bữa tiệc, Tào Tháo gọi người mang đến một cẩm bào mới để cho Quan Vũ thay. Quan Vũ không tiện từ chối bèn mặc cẩm bào vào, song ông vẫn khoác lục bào của mình bên ngoài cẩm bào.
Có một tối hàn đông vào cuối năm, tuyết bay mù trời, Quan Vũ đi dự tiệc bên doanh Tào Tháo trở về. Ông nhớ tới Lưu Bị, Trương Phi không biết hiện giờ ở đâu, muốn đi tìm nhưng cứ bị Tào Tháo cầm cố ở lại. Quá buồn bực, ông bèn xách Thanh Long Yển Nguyệt đao đến bên khóm trúc trong sân đội gió, đạp tuyết mà múa. Quan Vũ múa được một hồi cảm thấy hào khí hừng hực, liền thu đao đứng lặng thinh, ngưng thần nhìn khóm trúc. Chỉ thấy trong hoa tuyết bay, thân trúc ngang nhiên sừng sững, cành xỏa thẳng như trường thường, lá như tên bén đón gió thách tuyết, xanh tươi rờn rợn. Quan Vũ vô cùng thán phục trúc xanh cao phong Lượng tiết, và rồi ông liên tưởng đến hoàn cảnh của mình mà cảm khái vạn phần. Ông bèn xách đao trở vô phòng, trải giấy mài mực, vẫy bút múa cuồng.
Lúc này Quan Vũ lặng khí im hơi, bút theo tay múa, những đường nét đi theo tâm ý, và một bức mặc trúc đồ bỗng dưng đã thành. Chỉ thấy trên bức họa mấy gốc trúc xanh từ phía dưới xé đất đâm thẳng lên, nhánh cành như sắt, lá mực tựa gươm.
Hôm sau, Quan Vũ sai thủ hạ mang bức họa tặng cho Tào Tháo. Tào Tháo mở ra xem, luôn miệng khen đẹp, song ngắm kỹ lại, bất giác ông thở dài không thôi. Thì ra trên bức họa, lá mực sắc bén như tên ấy lại hợp thành một bài thơ ngũ ngôn:
Bất tạ đông quân ý,
Đan thanh độc lập danh
Mạc hiềm cô diệp đạm,
Chung cửu bất điêu linh.
Tạm dịch:
Không đáp đuợc ý ông,
Đan thanh đứng riêng cõi
Đừng hiềm lá đơn nhạt,
Mãi mãi chẳng tiêu điều.
Trong lòng Tào Tháo đã rõ, đây là Quan Vũ mượn trúc nói rõ cái chí khí của mình. Dù là Tào Tháo có làm gì đi nữa cũng không thể lưu giữ ông ta lại được!
Không lâu sau, Viên Thiệu tiến công Tào Tháo, Quan Vũ chém Nhan Lương, giết Văn Sú và khi đã nghe được tin tức của Lưu Bị, ông lập tức bảo vẹ hoàng tẩu, ngày đêm rời khỏi Hứa Xương, qua năm cửa, chém sáu tướng, và anh em ba người đã được gặp lại.
Tào Tháo nghe nói Quan Vũ đoạt cửa chém tướng mà chạy, ông chẳng những càng thêm kính phục ông trung can nghĩa khí của Quan Vũ, mà còn lệnh cho nguười đem bức họa của Quan Vũ tặng khắc trên bia đá, hiện nay bia đá này vẫn còn trong rừng bia trong chùa Thiếu Lâm ở Trung Nhạc Tung Sơn, trên bia còn có khắc thêm ấn chương "Quan Thọ Đình Hầu chi ấn"!
Trương Phi Trồng Bách
Từ Thiểm Tây đi Tứ Xuyên, qua Quảng Nguyên lại đi về phía trước, ấy là con đường đặc biệt của tỉnh Tứ Xuyên. Trên con đường rộng thênh thang này, hai bên có không biết bao nhiêu cây bách ngàn năm, cũng có cây mọc chênh vênh trên sườn núi. Tại sao lại có những cây bách này? Nơi này có một truyền thuyết về việc Trương Phi trồng bách.
Thời Tam Quốc, khi Lưu Bị làm vua Hán Trung, tam đệ Trương Phi của ông thường lãnh binh đi đánh giặc.
Có một tối nọ, khi Trương Phi trở về thì bị lạc đường, nên binh mã của ông cứ lòng vòng chuyển mé này sang mé nọ suốt đêm. Đến khi trời sáng, ông thấy đoàn quân của mình vẫn chưa ra khỏi thung lũng mà lại trở về chỗ cũ. Nộ khí xung thiên, ông bèn nạt to một tiếng:
- Chọc giận ta hử?
Theo đó ông rút xà mâu nhắm vách núi mà đánh tới.
chỉ nghe "păng" một tiếng, lửa nháng lên, rồi bỗng đâu có một cụ già râu bạc hiện ra trước mặt Trương Phi, bảo:
- Muốn khỏi lạc đường, hãy trồng nhiều cây dọc đường, mùa đông án gió Cát, mùa hạ có thể tránh nắng.
Trương Phi nghe nói liền ngẫm nghĩ, và cảm thấy đây là biện pháp hay để sau này đi hành quân, vận Lương sẽ không bị lạc nữa. Nhưng trồng cây gì đây? Ông vừa định hỏi cụ già, thì ông cụ đã đi xa rồi. Ông hỏi với theo:
- Ông cụ, trồng loại cây nào bây giờ?
Ông cụ là một vị tiên, thấy Trương Phi hung dữ nên ngoái đầu, khoát khoát tay không nói và như trận gió đã mất hút.
Trương Phi tuy là người thô lỗ nhưng cũng khá tinh tế, ông thấy cụ già không nói mà khoát tay, trong lòng liền chợt hiểu. Ông "A" một tiếng chỉ về phía đường núi, nói:
- Hay lắm! Ta hiểu ra rồi, ông kêu lão tam trồng cây bách!
Sau đó, Trương Phi bèn hạ lệnh cho quan sĩ trồng bách dọc theo đường núi.
Trương Phi Thét Gãy Cầu Bát Long
Cầu Bát Long bắc trên sông Bát Long. Tương truyền trước kia ở giữa cầu có một đoạn đã bị Trương Phi thét gẫy. Câu chuyện như thế này:
Vào thời Tam Quốc, lúc Lưu Bị kiến lập nước Thục ở Tứ Xuyên, và lên làm hoàng đế nước Thục. Làm hoàng đế thì phải tìm một nơi để xây hoàng thành. Vì chưa có chỗ nào vừa ý nên ông phái người đi khắp nơi để lựa đất. Lựa tới lựa lui, ông thấy vùng Cửu Long bảo là vừa ý nhất.
Một hôm, Lưu Bị dẫn Quan Vân Trường và Trương Phi đến xem dãi đất Cửu Long bảo, nếu hai người em này đều đồng ý, thì có thể lấy vùng đất này làm hoàng thành. Bọn họ bò lên một đỉnh sơn bảo cao nhất. Lưu Bị chỉ từng đỉnh sơn bảo cho hai em xem. Từng sơn bảo hình như là có ai dụng ý sắp đặt. Nếu đánh nhau, bảo bảo liên tiếp, bốn mặt đều có thể tiếp ứng, đều có thể công có thể thủ, quả là một địa hình tốt. Quan Vân Trường thấy vậy rất hài lòng, luôn tiếng khen:
- Vùng đất tốt thật! Vùng đất tốt thật!
Trương Phi vốn cũng thích vùng đất này, có điều càng xem, càng cảm thấy lạ lùng. Ông đếm các sơn bảo, nhưng đếm tới đếm lui, vẫn chỉ thấy có tám sơn bảo mà thôi. Tại sao vậy? Bởi ông quên đếm cái sơn bảo mà mình đang đứng. Ông đếm một hồi thì phát nổi đóa, nói:
- Ai dám bảo là Cửu Long bảo? Chỉ có bát bảo thôi.
Vừa nói ông vừa nắm chặt bàn tay phải, đánh vào lòng bàn tay trái một cái, và "gầm" lên một tiếng. Tiếng đánh vào lòng bàn tay cộng với tiếng gầm" của ông, so ra còn hơn tiếng sấm nổ. Theo tiếng "gầm" long trời lỡ đất này, nước ở đầu sông Bát Long bắt vọt lên làm ngập chiếc cầu Bát Long và tràn ra bốn phương tám hướng.
Lưu Bị thoạt thấy trận thế không hay, liền rút bảo kiếm chỉ vào hòn núi phía trước quát:
- Mau, mau! Ngăn nó lại, ngăn nó lại!
Dường như hòn núi nghe theo tiếng quát của ông, nó rẽ ra một lằn đê chặn nước lại, nước sông buộc phải chuyển đầu quày ngược trở xuống. Và rồi nước mới từ từ phẳng lặng trở lại.
Sau khi nước rút, cầu Bát Long lại hiện ra, nhưng đoạn giữa cầu đã bị gãy, Người ta cho rằng chính tiếng thét của Trương Phi đã làm gãy cầu, lại còn gọi hòn núi mà Lưu Bị dùng kiếm chỉ bảo ngăn nước lại là hòn Tiệt Yêu Sơn.
Từ ấy trở đi, nước sông Bát Long chảy đến vùng Tiệt Yêu Sơn thì lộn ngược trở lại, và đổ ra bốn phía có hơn bốn mươi dặm.
Cái Chết Của Đặng Ngải
Miếu Võ Hầu ở Thành Đô trải qua nhiều phen chiến loạn, đến nay vẫn được bảo toàn. Theo người ta nói ấy là vì có liên quan đến cái chết của Đặng Ngải.
Năm ấy, Đặng Ngải lãnh binh đi diệt Thục, ông ta hết sức vênh vang. Hôm ấy, ông ta đến miếu Võ Hầu ở Thành Đô, thấy miếu đình huy hoàng, sơn môn trang nghiêm, ông ta chẳng khỏi buông tiếng cười nhạt:
- Thần vong quốc, đâu được hưởng hương hỏa cửa nhân gian! Ta sẽ thiêu rụi miếu này.
Đoạn, ông ta sát khí đằng đằng sấn vào trong miếu. Chợt ông ta thấy trên bình phong ở ngưỡng cửa có viết hai hàng chữ lớn:
Gia Cát chết, Đặng Ngải còn;
Kẻ chết Gia Cát sẽ chém kẻ sống Đặng Ngải!
Đặng Ngải thoạt thấy liền thất kinh, sợ bên trong có mai phục gì, liền vội lui ra khỏi sơn môn. Dừng bước lại và thấy không có động tĩnh gì, ông ta bèn vòng qua cửa sau. Chỉ thấy gần trong cửa, ở hai bên ỗi bên có treo một đại đao, còn ở giữa thì treo một cái chày đá lớn, ông ta lại giựt mình và lo sợ nữa. Khi trấn tĩnh lại, ông ta nghĩ đây là một trò đùa để hù doạ, và rồi tảng đá đè nặng trong lòng chợt rơi mất. Đặng Ngải lại thầm nghĩ: "Gia Cát Lượng khi chết đã từng hơn một lần hù dọa Trọng Đạt chạy thất điên bát đảo, xem ra trong đời Gia Cát chỉ biết hù dọa thôi, Đáng tiếc là cái gan của Tư Mã Ý quá nhỏ, để cho Gia Cát chiếm lấy thượng phong. Đặng Ngải ta đâu phải là kẻ có lá gan con tép, sợ gì cái trò đùa của hắn mà ngay cửa miếu cũng không dám vô?" Nghĩ đến đây, ông ta ngẩng đầu, ưỡn ngực, sải bước tiến vào.
Khi ấy, chỉ nghe "xoẹt" một tiếng, lập tức hai đại đao loang loáng đồng thời chém xuống: một lưỡi thì chém vào ngực, một lưỡi thì bổ xuống đầu ông ta. Chiếc chày lại từ trên giáng xuống như nện gạo. Thân xác của Đặng Ngải lập tức nát bấy như tương.
Từ đó về sau, không còn ai dám phá phách miếu Võ Hầu nữa. Còn như đao và chày treo kia thì ở đâu mà có? Có người bảo là lúc Gia Cát Lượng còn sống đã bố trí, có người thì nói bá tánh vì muốn bảo vệ miếu Võ Hầu đã thiết lập cơ quan này. Mỗi người một phách nhưng không ai dám quyết đoán là thuyết nào đúng.
Gia Cát Lượng Thiết Kế Mộ Phần
Theo truyền thuyết, Gia Cát Lượng sợ sau khi ông chết rồi sẽ có người quật mộ ông. Suy đi nghĩ lại, ông đã nghĩ ra được một kế sách.
Hôm ấy, ông cho gọi sáu người tới nói:
- Sau khi ta chết, nhờ sáu người chôn ta. Bốn người thì lo việc chôn cất, còn hai người thì lo việc nấu cơm. Ta có bốn thỏi vàng, tặng cho các người làm việc này. Sau khi chôn cất xong thì trở vê nhà ta mà lấy, và mong các người đừng nói cho ai biết là chôn ta ở đâu.
Không lâu, Gia Cát Lượng chết, trong doanh Thục lớn nhỏ đều phát tang, còn sáu người này thì y theo lời dặn bảo của Gia Cát mà làm.
Hai người nấu cơm bàn: "Thừa tướng thật làm khổ người quá. Sáu người mà chia bốn thỏi vàng thì làm sao chia cho đều đây? Chi bằng chúng ta giết bốn người kia thì chúng ta một người được hai thỏi". Bàn xong, hai người bèn bỏ thuốc độc vào món ăn. Bốn người lo việc chôn xất cũng có lòng dạ đen tối, họ nghĩ sáu người mà chia bốn thỏi vàng thì khó mà chia được. Và sau khi bàn tính, họ cũng quyết lòng giết chết hai người nấu cơm này để mỗi người được một thỏi. Chủ ý đã định , họ túa vô nhà và bất kể bảy ba hai mốt gì , liền kẻ côn người gậy đánh chết hai người nấu cơm. Nhác thấy cơm nước đã nấu xong, họ bèn rót rượu ăn uống. Còn chưa ăn hết chén cơm thì người nào người nấy hai chân đều Duỗi thẳng, cùng nhau đi gặp Diêm Vương.
Thế cho nên đến nay, không ai biết mộ phần của Khổng Minh chôn ở đâu, chỉ biết rằng: "Dưới núi Bạch Hổ chôn Khổng Minh, trên núi Thanh Long táng Hàn Tín".
Dùng Trí Lui Mạnh Hoạch
Lúc Gia Cát Lượng đánh nhau với Mạnh Hoạch ở Lư Thủy, Gia Cát Lượng nói với Mạnh Họach:
- Hai nước chúng ta đánh nhau chẳng qua là vì tranh chiếm một địa bàn, và càng đánh thì càng gây khốn khổ cho bá tánh. Chúng ta khổ gì phải làm như vậy chớ? Nhân mã của tôi đông hơn của ông, ông không thể nào đánh thắng tôi được, đó là điều hiển nhiên rồi, vậy chi bằng ông đem ít nhiều địa bàn giao cho tôi để tôi về tâu lại với hoàng thượng tôi thì tốt hơn.
Mạnh Hoạch nói:
- Nếu ông muốn vậy thì cũng được, nhưng không thể nhiều quá.
Gia Cát Lượng nói:
- Tôi cũng không cần phải nhiều lắm, chỉ cần đất bằng một tầm tên bắn là đủ rồi.
Mạnh Hoạch nghĩ: "Ông ta bắn một mũi tên đâu có bao xa, bất quá mấy trăm thước là cùng"! Thế là Mạnh Hoạch bằng lòng.
Gia Cát Lượng:
- Bữa nay thì tôi chưa bắn, tốt nhất ông hãy trở về kêu thợ chuyên môn làm một mũi tên và ghi một dấu hiệu riêng trên mũi tên đó, như vậy sẽ tránh được việc đôi co cãi lẫy sau này.
Mạnh Hoạch gật đầu ưng thuận.
Gia Cát Lượng trở về, vội thỉnh thổ địa tới nhờ ông ngày mai giúp đem mũi tên bắn ra đó cắm ở núi Đại Lương. Thổ địa nói:
- Hà, giúp suông tôi không làm đâu! Tôi chạy mệt thì ông phải đền ơn tôi cái gì mới được chớ!
Gia Cát Lượng nói:
- Được thôi, thế này nhé, sau khi ông làm việc này xong rồi, tôi sẽ hạ lệnh cho các châu, phủ, huyện cất miếu cho ông.
Thổ địa hỏi cất miếu cao bao nhiêu, Gia Cát Lượng bảo là cất cao bằng một mũi tên. Thổ địa nghĩ thầm: "Bắn một mũi tên thì cao lắm! Thế thì được!" Thổ địa bèn bằng lòng.
Hôm sau, người của hai bên đốt nhang đèn làm lễ đất trời xong, Gia Cát Lượng cầm lấy mũi tên mà Mạnh Hoạch đã kêu người chuyên môn làm, và giương cung bắn, Thổ địa thấy tên đã bắn ra liền đỡ lấy tên chạy đi, chạy miết tới núi Đại Lương và cắm ở đấy.
Mạnh Hoạch sai người đi tìm tên, cuối cùng phải tới tận núi Đại Lương mới tìm thấy được. Ông biết là đã bị mắc lừa nhưng không còn cách nào hơn, chỉ còn biết lui binh đến núi Đại Lương. Cho nên núi Đại Lương còn kêu là núi Nhất Tiễn.
Thổ địa bèn tìm đến Gia Cát Lượng đòi trả công! Gia Cát Lượng y lời hứa bèn cất miếu cho ông nhưng chỉ là ngôi miếu thấp lùn mà thôi.
Thổ địa cũng biết là bị mắc lừa Gia Cát Lượng, nhưng vì lúc giao hẹn không nói rõ, nên bây giờ không nói gì khác hơn được nữa.
Gia Cát Lượng Nuôi Gà Tìm Cá
Thuở nhỏ Gia Cát Lượng tới nhà thầy học tập và ông thầy chỉ dạy buổi sáng. Nhà thầy có nuôi một con gà trống, giờ học bắt đầu cho đến khi con gà trống này gáy thì tan học. Liên tiếp mấy ngày đều như thế.
Gia Cát Lượng muốn được thầy dạy nhiều hơn, bèn mang theo một túi thóc. Khi gà sắp gáy ông liền rải thóc cho gà ăn, nhờ dùng cách này, mà ông học thêm được rất nhiều.
Một hôm, thầy bận việc phải đi ra ngoài. Trước khi đi, thầy bảo Gia Cát Lượng nướng cho thầy một con cá, để lúc trở về thầy sẽ ăn. Gia Cát Lượng nướng cá xong, bèn ngồi đọc sách. Khi thầy trở về, ông vội đi lấy cá dâng cho thày nhưng không thấy cá đấu. Ông chỉ còn cách bẩm lại với thầy. Thầy bảo ông:
- Mi phải tìm cho ra kẻ nào ăn trộm con cá thì ta mới không phạt mi!
Gia Cát Lượng suy nghĩ một hồi, đoạn kêu các bạn đồng học tới, sau đó giả vờ thất kinh nói:
- Ai ăn trộm con cá của thầy? Con cá đó dùng tre độc lụi nướng, nếu như ai ăn phải thì hai giờ sau sẽ ói máu mà chết!
Bấy giờ, trong bọn có người khóc rống lên. Gia Cát Lượng cười và thưa lại với thầy:
- Chính hắn là kẻ ăn con cá nướng ạ!
Thầy thấy Gia Cát Lượng thông minh hơn người, trong lòng lấy làm vui, sau này ông đem hết những điều hiểu biết mà dạy cho Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng Được Báu Vật
Truyền thuyết nói rằng tổ tông ba đời Gia Cát Lượng đều sống bằng nghề nấu rượu. Nghề này truyền đến Gia Cát Lượng thì tay nghề đã rất cao siêu, việc làm ăn cũng theo đó mà phát đạt.
Một hôm, có một cụ già chống gậy tới, thấy rượu Gia Cát Lượng nấu thì thèm đến chảy nước dãi. Gia Cát Lượng thấy vậy bèn rót một chén mời ông uống. Cụ già tiếp lấy chén rượu và uống một hơi cạn ráo. Từ đó về sau, ngày ngày cứ đến khoảng giờ đó thì cụ già lại ghé chơi. Mỗi ngày Gia Cát Lượng đều đãi cho ông ta một chén. Ngày qua ngày, cụ già thấy Gia Cát Lượng là người thật thà trung hậu, nên nói:
- Cậu tốt bụng lắm, ta sẽ chỉ cho cậu biết một nơi có vật quí và cách lấy nó.
- Vật quí gì thế?
- Ở miếu thổ địa gần đây có một con rùa tu đạo đã năm trăm năm, mỗi bước chân đi của nó đều có một đồng tiền nhỏ. Nếu như cậu trộm được ngọc của nó mà giấu vô chiếc xe bốn bánh thì ngồi trước xe, cậu có thể biết được chuyện năm trăm năm về trước, ngay cả chuyện quân cơ trên sa trường cũng có thể đoán định được.
Gia Cát Lượng nghe vậy, thầm ghi nhớ trong lòng. Ông tìm cơ hội tốt để trộm lấy ngọc rùa.
Khi rùa biết được ngọc mình bị trộm và Gia Cát Lượng đã giấu mất rồi. Rùa không còn cách chi, chỉ còn cách xin Gia Cát Lượng một chén rượu. Gia Cát Lượng cũng không tiếc gì bèn tặng cho nó một chén rượu. Sau khi rùa uống rượu xong, bèn hỏi Gia Cát Lượng tại sao biết được chuyện này. Gia Cát Lượng bảo là có một cụ già mách cho biết. Rùa nghe vậy mặt liền biến sắc, nghĩ: "Được rồi, con ưng tinh ni, ta với mi đời này không oán, kiếp trước không cừu, vì sao mi kêu người ta lây trộm ngọc của ta? Mi không muốn ta thành tiên thì ta cũng không để mi thành phật". Do đó nó nói với Gia Cát Lượng:
- Hừ! Lão già đó chính là con chim ưng tinh tu đã năm trăm năm. Trong miệng nó có một hạt châu. Nếu như anh lấy trộm được, anh có thể biết được chuyện năm trăm năm về sau. Và nếu lấy được lông cánh của nó làm quạt, chiếtc quạt đó sẽ làm lòng người sảng khoái, minh mẫn thêm ra.
Gia Cát Lượng nghe nói thầm mừng, lại tặng cho rùa một chén rượu nữa.
Hôm sau, cụ già ấy lại đến. Như hằng khi, Gia Cát Lượng rót rượu mời ông. Lần này không như lần trước, uống chén rượu xong, ông không đi liền. Gia Cát Lượng lại mời ông chén thứ hai. Ông uống hết vẫn chưa chịu đi. Gia Cát Lượng phải mời ông tiếp. Uống xong chén thứ ba thì ông đã say chếnh choáng, lúc ấy mới chịu bỏ đi. Gia Cát Lượng thấy ông đã say như thế, bèn đi theo phía sau. Ông cụ đi tới một gian nhà đá liền bước vô và nằm vật xuống ngủ. Phút chút miệng đã ngáy vang như sấm. Lát sau, trong miệng ông nhả ra một hạt minh châu sáng ngời. Gia Cát Lượng trông thấy liền chộp lấy.
Chim ưng tỉnh dậy, thấy hạt châu bị người lấy liền vội đi cướp lại. Gia Cát Lương quýnh quá nên bỏ vô miệng. Không ngờ hạt châu quá trơn, thuận theo cổ họng mà chạy tuốt vô bụng. Chim ưng thấy vậy liền khóc rống lên, nói:
- Đáng tiếc cho ta tu luyện đã năm trăm năm, chỉ vì mấy chén rượu mà công tu dành cho mi cả.
Nói xong, nó tức quá, ngã chết trên mặt đất, Gia Cát Lượng lấy lông cánh của nó kết thành chiếc quạt lông ưng.
Đề Cử Người Hiền
Gia Cát Lượng rất coi trọng nhân tài. Ông phá cách trọng dụng Tưởng Uyển, đây là một đoạn truyện sinh động.
Tưởng Uyển vốn là người giữ kho sách ít ai biết đến. Ông cảm thấy mình như một con trâu cổ rơi trong giếng nước, cả người đầy tài năng mà không cách chi dùng được. Có lúc, ông uống rượu đến say khướt và nói chuyện đâu đâu. Lần nọ, Lưu Bị đi tuần du bắt gặp ông như thế bèn rầy la ông mấy câu. Nhưng Tưởng Uyển chẳng những không nghe, đằng này còn đem chuyện an bang định quốc ra nói lung tung. Lưu Bị thấy ông xem thường, không lý gì tới lời nói của mình, nên định giết ông.
Gia Cát Lượng biết được việc này, khẩn thiết nói với Lưu Bị:
- Tôi thấy ông ta có vẻ khác thường, cách làm việc cũng hơi lạ, còn việc quan hệ với bá tánh mọi người thì rất tốt. Ông ta dám ngang nhiên bàn luận với chúa công, chứng tỏ ông ta không phải là người ăn không ngồi rồi. Nếu biết sử dụng đúng chỗ, nhất định ông ta sẽ lập nên nghiệp lớn. Hãy hưỡn hưỡn xét kỹ lại xem, rồi xử trí cũng chưa muộn.
Lưu Bị nghe lời Gia Cát Lượng, tha tội chết cho Tưởng Uyển. Sau này, Gia Cát Lượng thành lập cơ cấu phủ Thừa tướng để làm việc, ông điều Tưởng Uyển về giúp việc cho ông. Rồi cách đó không lâu, có người báo cáo với Gia Cát Lượng là Tưởng Uyển đem rượu đổ xuống hầm cầu. Gia Cát Lượng nghe báo, liền cho vời Tưởng Uyển đến truy hỏi căn do.
Tưởng Uyển thưa:
- Trước kia tôi cảm thấy mình không gặp thời, nên thường lấy rượu giải sầu, nay được Thừa tướng tin tưởng giao cho việc lớn việc nhỏ, tôi thường trách mình trước kia sao có những ý nghĩ nông nổi. Với lấu khi Thừa tướng uỷ thác trọng nhậm, tôi làm hết sức nhưng e còn sai sót, nên tôi quyết tâm chừa rượu. Nhưng hôm qua, có người bạn tới chơi lại mang theo bình rượu tặng tôi, để chứng tỏ mình quyết tâm thay đổi nên tôi đem bình rượu đó mà đổ xuống hầm cầu vậy
Gia Cát Lượng nghe nói, thầm gật đầu khen, lại sai thủ hạ đi điều tra, quả nhiên đúng như lời Tưởng Uyển đã trình bày, Gia Cát Lượng vui mừng bèn phá cách để thăng cho Tưởng Uyển một cấp bậc nữa.
Tưởng Uyển dĩ nhiên rất vui mừng, vui giúp đỡ Gia Cát Lượng trong việc an bang trị quốc càng xuất sắc hơn. Gia Cát Lượng thấy Tưởng Uyển ngày càng thành thục giỏi giang hơn, nên lại càng tín nhiệm ông. Chính lúc ông lâm chung, ông còn đặc biệt giao hậu cần cho Tưởng Uyển để Tưởng Uyển tiếp nối sự nghiệp của ông.
Về sau, Tưởng Uyển kế thừa sự nghiệp của Gia Cát Lượng, trở thành cột trụ của hậu kỳ Tây Thục.
Gánh Đất Của Trương Phi
Ngoài của đông thành Kinh Châu Hồ Bắc có một gò đất, tời cổ đại gọi là Họa Phiến Phong, cảnh sắc đẹp đẽ, một màu xanh tươi mát. Nay thì gò đất này đã trở thành trơ trụi. Truyền thuyết cho rằng đây là tác phẩm của Trương Phi. Câu chuyện như thế này:
Tương truyền vào thời Tam Quốc, Lưu Bị lãnh binh mã đi đánh Tây Xuyên, để quân sư Gia Cát Lượng và Quan Vũ ở lại trấn thủ Kinh Châu, Trương Phi thì đóng binh ở Lư Hoa Đăng. Do bởi đất Kinh Châu là yết hầu của Ba Thục, là nơi mà binh gia tranh lấy. Tào Tháo cũng muốn chiếm, Tôn Quyền cũng muốn đoạt, ba nước đã ở đây giao tranh không biết bao nhiêu trận, hình như mãi mãi không thôi. Vương Mẫu nương nương trên trời thấy thế, lòng cũng rất phiền, quyết tâm thu đất Kinh Châu làm thánh địa để khỏi có ai tranh giành nữa. Do đó bèn phái chín tiên nữ xuống phàm tới gặp Quan Vũ để thu đất.
Chín tiên nữ cưỡi mây lành, chẳng mấy chốc đã tới Kinh Châu, bước xuống mây thẳng đến soái phủ Quan Vũ. Quan Vũ thấy chín tiên nữ, liền đứng lên nghinh tiếp. Chín tiên nữ nói rõ ý định của Vương Mẫu cho Quan Vũ biết, Quan Vũ nghe xong bèn cười ha hả, nói:
- Các tiên cô không biết thành này là Quan mỗ phải đánh chiếm mới được ư? Sao có thể tùy ý thu lấy được? Tôi thấy thế này: tối nay chúng ta cùng tỉ thí bằng cuộc xây thành. Cô xây thành đông, thành bắc; tôi xây thành tây, thành nam, trời tối bắt đầu, gà gáy thì ngưng. Tôi thắng thì cô không được thu thành, cô thắng thì cô cứ việc thu.
Chín tiên nữ suy nghĩ giây lát, nói:
- Được, chúng ta một lời đã định ,không hối hận đấy nhé!
Quan Vũ nói:
- Nhà binh chẳng nói đùa đâu!
Trời vừa sập tối, hai bên bắt đầu tỉ thí xây thành. Chín tiên nữ là thần tiên trên trời , pháp thuật vô biên, còn Quan Vũ là người trần mắt thịt, đương nhiên không phải là đối thủ của chín tiên nữ. Do đó , Quan Vũ đã nảy ra một kế là dùng cây lau kết tường thành, và cho người giả tiếng gà gáy sớm hơn. Lúc này, chín tiên nữ xây thành sắp xong, chợt nghe tiếng gà gáy tứ bề, và thấy bên kia Quan Vũ đã xây xong . Trong bóng tối chập choạng, chín cô ngỡ là mình bị thua, nên cưỡi mây về thiên cung.
Lại nói Trương Phi, nghe nói chín tiên nữ từ trên trời xuống thu thành và nhị ca muốn tỉ thí với họ, ông bèn kêu người làm hai chiếc giỏ rất lớn. Ông xúc đất Nm Hồ đổ đầy hai giỏ lớn này, rồi mỗi tay xách một giỏ, ra đi từ cửa đông. Sắp đến thành, nghe tiếng gà gáy, ông ngó sang mé tây thấy thấp thoáng thành đã xây xong. Ông nghĩ, thành đã xây xong thì gánh đất này còn dùng vào được được nữa? Lại nghe bọn quân sĩ nói Quan Vũ đã thắng nên trong lòng hết sức vui mừng, ông xoe tròn cặp mắt, tay buông thỏng hai gánh đất lớn đổ ra trên mặt đất. Gò đất lớn ngoài của đông chính là do hai gánh đất của Trương Phi đổ xuống vậy.
Thần Đồng Chu Du
Hồi Chu Du mới năm tuổi, ông ngoại ông mời một ông thầy đến nhà dạy.
Một hôm, thầy có việc phải trở về nhà, ông ngoại muốn thử việc học vấn của Chu Du, nên nói:
- Thầy không có ở đây, ông thì tuổi cao mắt kém, trong nhà có nhiều việc không nhớ hết nổi, cháu nhớ giùm ông nhé. Nếu như có chữ chưa biết viết thì đợi thầy tới mà hỏi.
Chu Du vâng vâng dạ dạ.
Hôm đầu, ông ngoại ra chợ mua về chín con lươn, hôm sau lại mua về tám con cá chạch, và hôm sau nữa thì mua về bảy bình rượu đế. Chu Du theo lời dặn bảo của ông ngoại, đều lấy bút ghi vô tờ giấy. Đến ngày thứ tư, ông ngoại muốn xem tờ giấy Chu Du ghi những gì. Khi mở giấy ra, ông rất ngạc nhiên khi thấy ba món đồ mà ông mua đó không thấy ghi mà trên giấy chỉ có vẽ hai gạch dài và một cái vòng. Ông ngoại ngỡ Chu Du vẽ chơi, mới hỏi:
- Cháu nhớ được gì đâu nào?
Chu Du chỉ gạch dài và vòng tròn, đáp:
- Cháu ghi rõ ràng lắm rồi mà.
Ông ngoại hỏi:
- Như thế thì tính làm sao?
Chu Du nói:
- Ông chẳng đã nói, chữ nào không biết viết thì đợi thầy đến hỏi đó sao? Lươn này, cá chạch này, bình rượu này. Ba chữ đó cháu không biết viết nên chỉ vẽ gạch và vòng tròn. Gạch dài nhất là lươn, gạch ngắn hơn là cá chạch, còn vòng tròn thì là bình rượu đế.
Ông ngoại hỏi:
- Thế làm sao biết mỗi thứ là bao nhiêu?
Chu Du đáp:
- Số Lượng mỗi món cháu đều có ghi phía trên đó cả.
Ông ngoại xem kỹ lại, quả nhiên trên phía gạch dài có ghi số 9, gạch ngắn ghi số 8 và vòng tròn thì ghi số 7.
Ông ngoại hỏi:
- Thế cháu đọc làm sao nè?
Châu Du đọc:
- Chín con lươn, tám con cá chạch, bảy bình rượu đế.
Bảy Tuổi Bàn Mộng
Nhà ông ngoại Chu Du cách vách nhà Trương đại má. Trương đại má có người con tên Trương Hiếu. Lúc mười tám tuổi Trương Hiếu đi ra ngoài học buôn bán, mãi ba năm mà vẫn chưa thấy về. Trương đại má ở nhà ngày đêm tưởng nhớ và vì thế mà sinh bệnh. Một đêm bà nằm mộng thấy một trái lê bỗng dưng nổ thành hai ảmh. Bà không hiểu nên nhờ thầy của Chu Du giải hộ.
Ông thầy thở dài, bảo:
- Lê chính là ly cách con cái, nếu chẳng là bà chết thì chính con bà đã không còn ở thế gian này. Bà nên chuẩn bị hậu sự đi.
Trương đại má nghe mấy câu này liền ré lên khóc ngất.
Lúc ấy Chu Du cũng có mặt trong đám trẻ đứng xem. Nghe thầy luận thế, cậu cảm thấy chưa đúng. Đợi thầy ra về rồi, cậu nói với Trương đại má:
- Mừng cho bà đấy! Trương đại ca đi buôn bán sắp về tới rồi, bà mau giết gà mổ lợn chuẩn bị ăn mừng đi!
Trương đại má bực tức nói:
- Ta sắp chết đến nơi rồi, mà mi còn đùa cợt được nữa sao??!!
Chu Du giảng:
- Nói lê chính là ly thì phù hợp với tình huống ba năm chia ly đã qua. Thầy kể ra chỉ mới nói đúng một nửa, nhưng ông còn chưa giải hết ý. Lẽ nổ ra chính là có thể thấy trong ruột nó, đây chính là nói bà sắp thấy đứa con ly biệt ba năm!
Trương đại má cảm thấy Chu Du nói có lý, liền bắt gà làm thịt. Hai ngày sau, quả nhiên Trương Hiếu đã trở về nhà. Do đó Trương đại má gặp ai cũng khoe:
- Thằng Chu Du mới bảy tuổi mà nó còn hơn thầy nó nữa.
Thầy Chu Du nghe được, ông chỉ còn cách giã từ học trò, không tới nhà Chu Du dạy học nữa.
Đài Điểm Binh Của Chu Du
Xưa kia ở phía sau nha môn huyện Vô Tích có một đài cao tên "Phụ Dân đài". Tương truyền đó là đài điểm binh của Chu Du.
Thời Tam Quốc, Tôn Quyền phái người nhà của ông ta tới đây làm Điển nông hiệu úy. Người nầy thấy tiền thì mắt mở to, vơ vét không chừa một xu nhỏ. Bá tánh bị hắn đục khoết đến tận xương tủy. Hắn lại là tên bợm nhậu, tay không lúc nào rời bình rượu, sơn trân hải vị gì hắn cũng đều có thưởng thức qua cả.
Chu Du rất bất bình về những việc làm của Tôn hiệu úy. Một hôm ông gởi một đạo dụ viết tay cho hắn:
- Vài hôm sau sẽ xuất binh tới Thái Hồ thao luyện thủy quân, phải kịp chuẩn bị đón tiếp.
Ngay trong đêm, Tôn hiệu úy liền triệu tập thủ hạ quan sử thương nghị. Hắn gióng trống ra lệnh:
- Mau chuẩn bị phòng ốc để Đô đốc ở được hài lòng.
Mọi người cũng hùa theo nói:
- Đại nhân nghĩ như vậy là chu đáo nhất.
Duy có một tiểu tướng tên là Quách Huân không đồng ý. Ông ta nói:
- Nên chuẩn bị sân bãi trước để Đô đốc an doanh hạ trại thì tốt hơn.
Hiệu úy chẳng màng đển mắt tới cứ thúc giục bộ hạ lo thiết lập phủ cho Đô đốc. Bây giờ chỉ có Quách Huân dẫn bản bộ binh đến bên sông Tây Khê sửa sang một sân bãi.
Không bao lâu, Chu Du lại đưa tới một đạo dụ khác chỉ vỏn vẹn có một chữ "cao". Hiệu úy tự cho mình đã hiểu, lại sai binh lính xây phủ Đô đốc cao hơn nữa. Quách Huân hiểu ý, ông vạch một khuông vuông giữa bãi và cùng với bản bộ binh đao bùn gánh đất làm một cái đài cao giữa bãi rất nghiêm chỉnh.
Hôm ấy, Chu Du dẫn đại đội binh mã tới, Tôn hiệu úy vội mời ông tới xem phủ Đô đốc. Chu Du hết sức giận, quát nạt:
- Lếu láo!
Đoạn chuyển binh mã tới Tây Khê, ông thấy ở đây có sẵn bãi, có đài cao nên hết sức bằng lòng, lập tức dời quân đội tới, đăng đài điểm tướng: "Tôn hiệu úy làm trễ nãi việc quân cơ, cách chức đợi tra xét. Nay thăng Quách Huân làm Hiệu úy".
Biết chuyện, bá tánh trong thành đều nức lòng hả dạ, nói Đô đốc đã cứu bá tánh. Do đó họ gọi đài điểm tướng là "Phụ Dân đài". Về sau , Tôn Quyền biết được chuyện này, khen ngợi Chu Du đã làm được việc tốt. Ông còn lệnh từ nay, phàm ai đến Vô Tích làm quan trước hết phải đến dưới "Phụ Dân đài" mà đi ba vòng.
Tào Tháo Bảy Tuổi Thử Kế
Truyền thuyết nói rằng, ngay từ nhỏ Tào Tháo đã có mưu kế hơn người. Năm ông vừa bảy tuổi, hôm nọ, ông bưng nghiên mực tới giếng của nhà nọ để mài. Đến bên giếng, ông thấy có một người đang ngồi khóc. Tào Tháo lấy làm lạ, hỏi:
- Xin hỏi ông anh vì sao mà khóc lóc thế này?
Người kia nghe hỏi, bèn kể lể sự tình.
Thì ra, gia đình người này chỉ có hai anh em. Người anh lớn lòng dạ xấu xa. Sau khi cha mẹ mất, người anh phân chia gia sản, tự mình lấy hai phần, ngay cái giếng nước cũng chia theo cách ấy.
Nhưng nước trong giếng thì toàn một khối, làm sao chia? Ai mà ngờ ông anh chia miệng giếng làm ba phần, tự lấy hai phần và để cho người em một phần, lại đậy cả nắp giếng nữa.
Sáng nay, người em gánh thùng đến múc nước. Cái phần mà người em hưởng chỉ có một phần ba miệng giếng, chiếc thùng xách nước không cách chi bỏ xuống lọt, và anh không biết phải làm sao, chỉ còn biết ngồi ra đó mà khóc thôi!
Tào Tháo nghe lời người em thuật lại, ông suy nghĩ giây lát, đoạn nói:
- Ông anh, đừng khóc nữa, tôi bày cho anh cách này, bảo đảm anh có thể lấy được nước.
Người kia lau nước mắt, chăm chăm ngó Tào Tháo, lòng đầy nghi hoặc. Một đứa con nít mới chừng ấy tuổi đầu thì nghĩ ra được cách gì chớ? Nhưng anh ta chợt nghĩ lại, Tào Tháo bấy lâu cần mẫn học tập, thông minh nhanh lẹ, biết đâu sẽ có cách hay? Anh bèn nhờ Tào Tháo nói ra cách thức.
Tào Tháo kề tai người em nói nhỏ mấy câu. Người em nghe xong, liền mừng rỡ nhẩy cẩng lên, luôn mồm nói:
- Hay lắm! Kế hay lắm!
Hôm sau, người em gánh cặp thùng đến bên giếng lấy nước. Anh ta chờ đợi một lúc thì thấy ông anh cũng gánh thùng tới. Người em thấy người anh , liền vén quần ngồi xoạc bên miệng giếng, giả vờ đái. Người anh thấy vậy, la lớn:
- Này, sao mày lại đái xuống giếng?
Người em quát trả lại:
- Phần miệng giếng của tôi quá hẹp, không cách chi múc nước được, mà để đó cũng không ích lợi gì, tôi định sửa lại làm cầu xí, tôi muốn làm gì mặc tôi!
Người anh vội chạy đến, mở nắp miệng giếng ra, nói dịu:
- Em , miệng giếng này từ này không chia nữa, anh em chúng ta dùng chung vậy.
Gò Chu Lang
Mé tây nam chỗ eo sông huyện Sào có một gò đất cao quá nóc nhà, hình dáng như cái vạc, trên gò cây cối xanh tươi, tên là "gò Chu Lang".
Theo lời kể lại, mùa mưa năm ấy Chu Du dẫn binh đi qua đây. Nước ngập ruộng vườn nhà cửa, đâu đâu cũng chỉ toàn một màn nước trắng xóa. Cảnh bá tánh loi ngoi trong nước thật thê Lương. Chu Du đến hỏi thì dân huyện đáp lại rằng:
- Cái cách vài năm thì xảy ra tình trạng ngập lụt thế này. Mà mỗi khi xảy ra thì dân chúng đói khổ, cơm không có mà ăn, chỉ húp nước cháo thôi.
Chu Du lại hỏi có cách nào trị thủy không, thì dân huyện đáp:
- Chỉ cần đường nước đừng ứ và đắp một con đê thôi, nhưng rất tiếc không đủ người để làm việc này, lại không tiền, có muốn cũng không làm nổi.
Chu Du bèn bàn tính với Lỗ Túc, rồi phân binh làm hai đội, một đội do Lỗ Túc chỉ huy đi khơi dòng nước ứ, còn một đội thì do Chu Du dẫn đi đắp đê. Khi dân chúng nghe được tin này, họ đánh chiêng đánh trống, hoan hô như sấm dậy.
Không ngờ, khi khởi công, mới đắp được cái đài để cho có chỗ trú, thì Tào Tháo đới lĩnh tám mươi ba vạn nhân mã bức cận Giang Đông. Chu Du phải ngày đêm trở về lui địch. Khi sắp đi , ông hứa với dân chúng:
- Chừng nào lui được binh Tào Tháo thì tôi sẽ trở lại tiếp tục hoàn thành con đê, trừ phi tôi tử trận, quyết không sai lời.
Ai ai cũng biết ơn ông, mong ông thắng trận để sớm hồi sư trở lại huyện Sào.
Chu Du đến tiền tuyến, chỉ huy đánh trận Xích Bích. Do bởi ông làm việc quá sức nên bị bệnh mà mất, và thế là ông không bao giờ còn trở lại chỗ eo sông huyện Sào nữa.
Dân chúng nhớ mãi tấm lòng của ông. Cho nên hằng năm đến ngày giỗ kỵ, mọi người đều đến chỗ đài mới đắp, thắp hương và tu bổ sửa sang thêm. Năm qua năm, đài không ngừng tăng cao và lớn thêm, và trở thành một cái gò. Người ta gọi đó là "gò Chu Lang".
Chu Du ôm hận
Sau khi Tào Tháo bị bại binh ở Xích Bích, ông chưa cam tâm, lại phái tinh binh mãnh tướng kéo tới Trường Giang, đánh thẳng tới Đông Ngô.
Chu Du nghe báo binh Tào lại xâm phạm, ông chỉ cười nhạt và không để vào mắt:
- Tướng bại binh, cuốn đất trở lại thì làm được trò trống gì? Huống chi Trường Giang hiểm trở!
Chu Du đến núi Bán Bích bên bờ sông, thấy ngọn núi này quả nhiên giống hệt bị dao cắt. Mé nam một nửa, mé bắc một nửa, sông lớn vòng quanh thật vô cùng hiểm yếu. Thuận tay ông nhặt một hòn đá ném qua sông. Hòn đá đập vào vách núi bên kia, một tia lửa nháng ra. Do đó ông yên lòng nói:
- Mặt sông hẹp thế này, bờ sông chót vót thế này, thật là một người đóng vạn người mở chưa ra! Há Tào Tháo chắp cánh qua được sao?
Đại tướng giải đãi một thước, binh sĩ lười nhác một trượng. Bọn họ chẳng lý tới đại địch trước mắt, mạnh ai nấy ngủ khò. Hay đâu binh Tào quyết lòng báo cừu, binh bộ, binh thủy cùng tiến, trên bờ ngựa không rời yên, dưới sông thuyền nhẹ thuận dòng, nhất tề đánh giết tới đại doanh Chu Du.
Chu Du tay chân bấn loạn, hoảng hồn mất vía, ngó lên bờ không thấy sông, ngó xuống sông lại không thấy bờ, hai mặt đều bị quân Tào giáp công, chỉ còn cách thua chạy thục mạng, trên đường ông nghe bọn chăn trâu hát khúc đồng dao.
Năm ấy mi đốt Xích Bích
Ngày nay mi phá Bán Bích
Thắng bại biết đâu mà lường
Ấy bởi khinh thường quá mức.
Chu Du thấy mình cũng bị bọn chăn trâu cười , ông chẳng khỏi căm hận đến tuôn hai dòng lệ. Bấy giờ, dân chúng gọi trận này là "Tứ khí Chu Du Bán Bích sơn" (núi Bán Bích Chu Du ôm hận". Đến nay, trên núi vẫn còn hai dòng suối chảy xuống, tương truyền ấy là hai dòng nước mắt của Chu Du).
Đồn Binh Thành Thiên
Ngoài tây bắc huyện Vạn ở Xuyên Đông có một tòa thành cổ sừng sứng trên ngọn núi cao, ấy chính là Thiên Tử thành, mộ ttrong tám phong cảnh nổi tiếng của huyện Vạn.
Thiên Tử Thành vốn tên Thiên thành. Tương truyền, lúc Lưu Bị chưa dẫn binh vào Thục đã từng trú quân ở thành Thiên này. Lưu Bị vì được lòng dân, trị quân cực nghiêm, không hề để binh sĩ quấy nhiễu bá tánh, cho nên bá tánh rất đội ơn ông. Ở Xuyên Đông vào mùa mưa thường mưa dầm lê thê, mà vào mùa hạ thì oi bức, nóng đổ lửa. Hầu hết binh của Lưu Bị đều là người phương bắc, thủy thổ không hợp nên bị bệnh không ít.
Nông dân ở chung quanh thành Thiên biét được điều này, họ bèn vào rừng sâu núi cao đào hái thuốc đem về sắc một thùng lớn, mang đến doanh tặng ông . Binh sĩ sau khi uống thuốc, bệnh liền thuyên giảm . Lưu Bị hết sức vui mừng. Từ đó, ông càng thương mến bá tánh ở đất này hơn.
Đất đai ở thành Thiên cằn cỗi, núi trọc bao quanh, thành thử việc trồng trọt hết sức vất vả, họ chỉ có thể tỉa đậu, trồng cây hoài sơn làm thuốc thôi. Đậu ăn chừng được nửa năm thì hết, những ngày còn lại họ chỉ còn cách vô rừng đào củ, hái rau nấm mà ăn qua ngày. Do đó, nông dân ở đây da vàng, bủng beo gầy ốm, ông già bà cả và trẻ nít bị chết đói rất nhiều. Lưu Bị thấy tình cảnh này, cho dù lương thực trong quân còn chưa đủ dùng, nhưng ông cũng vẫn ra lệnh cho bộ hạ đem một phần lúa mạch ở phương bắc cứu trợ bá tánh. Nông dân được lúa đâu dám dùng hết, họ lại lấy lúa đem gieo trồng. Vì thế trên đồi Thiên, đâu đâu cũng đều trồng lúa.
Nhưng lúa vừa nảy mầm, trổ lá thì mưa đông lại đến khiến cho lúa non bị hư hết. Lưu Bị thấy vậy mới nói:
- Xem kìa, xung quanh toàn là những dải núi trọc, cây cối không có, mưa trút xuống thế này thì lúa làm sao không hư!?? Các ngươi phải trồng cây trên núi thật nhiều, dọc từ trên đỉnh núi xuống tới chân núi mới được. Cây thành rừng, rừng thành hàng rồi mới có thể trồng lúa.
Nông dân không đủ sức làm, nói:
- Hộ dân ở đây ít ỏi quá nên chúng tôi thiếu nhân lực, không thể nào trồng ngần ấy cây cổi!
Lưu Bị ha hả cười, nói:
- Đừng lo, tôi sẽ kêu binh sĩ giúp các người.
Ông bèn ra lệnh cho toàn quân tướng sĩ, mỗi người phải trồng sống một cây, đồng thời ông kêu bộ hạ cấp lúa giống cho nông dân.
Sau mấy năm, rừng cây đã lớn. Lúa mạch có rừng cây bảo vệ nên không còn sợ mưa to gió lớn nữa. Đến mùa thu hoạch, nông dân hết sức vui mừng, họ tuyển một số lúa ngon đem tặng cho Lưu Bị thưởng thức, lại còn tặng cho quân lương. Hằng năm quân lính không phải còn thiếu lương thực nữa.
Mọi người vì cám ơn sự giúp đỡ của Lưu Bị, nên mong mỏi ông đánh thắng Tào Tháo và Tôn Quyền, sớm được thiên hạ để họ tôn ông làm "thiên tử". Và cũng vì thế mà Thiên thành từ đó được sửa lại là "Thiên tử thành".
Thành Chu Du và Gò Luyện Mã
Sau khi Tôn Sách gặp được Chu Du thì như hổ thêm cánh. Ông cảm thấy từ nay có thể dọc ngang tranh thiên hạ. Một hôm ông cao hứng nói với Chu Du:
- Ngàn quân dễ kiếm, một tướng khó cầu. Ông hãy cùng tôi nam chinh bắc phạt!
Chu Du nói:
- Dưa chín cuống mới rụng, nước đến sông tự thành. Tôi còn phải luyện tập binh mã. Chừng nào binh mạnh ngựa khỏe mới có thể ra quân.
Chu Du bèn đi tìm một chỗ thao luyện binh mã. Ông đi khắp nơi, sau cùng tìm thấy một gò đất nằm trên một bình nguyên có núi bao quanh và không xa sông mấy. Cách con sông lại có thể thấy núi Xuân Thu; mé đông ngọn núi là khoảng đất rất rộng, phóng tầm mắt nhìn không thấy bờ; đi về phía tây thì núi nhỏ tiếp núi lớn. Trên gò có thể xây một tòa thành. Thành có thể mở bốn mặt cửa, và đầu gò mà mở rộng ra thì nầng quân vạn ngựa có thể lên xuống dễ dàng, đây chính là chỗ luyện binh tốt nhất.
Người đời sau này gọi thành này là thành Chu Du, và giếng nước ở đây cũng gọi là giếng Chu Du.
Ngày ngày Chu Du dẫn tướng sĩ ra ngoài thành tập sải ngựa bắn tên, ai nấp đều rắp tâm khổ luyện, không lâu họ đều có tài bách bộ xuyên dương. Nghề cao, mật lớn, họ hăm hở nói:
- Binh mạnh, ngựa khỏe rồi, xin cho chúng tôi xuất chính.
Chu Du chưa đồng ý, nói:
- Với chút tài mọn này, chỉ đủ bắt trộm cướp vặt mà thôi. Muốn ra trận đại chiến cần phải khổ luyện nhiều hơn nữa kia!
Ở ngoài thành xa có ba gò đất lớn, ông chỉ mà bảo với họ:
- Kẻ địch như ba gò đất lớn kia mà ở giữa còn có con sông rộng vắt ngang. Các ngươi hãy luyện tập làm sao để có thể cỡi ngựa từ bờ bên này nhảy sang bờ bên kia thì mới ra quân được.
Bọn tướng sĩ nghe vậy, từ đó người không rời lưng ngựa, sáng luyện tới chiều, chiều luyện tới tối; mùa đông luyện tam cửu, mùa hạ luyện tam phục, từng bước tiến lên, tài năng đã không phụ người có lòng. Rốt cuộc, ai cũng đều có thể giơ roi cưỡi ngựa như sao xẹt, thoáng cái đã có thể từ gò này nhảy sang gò khác.
Cho nên người đời sau gọi nơi này là "gò Luyện Mã" hoặc "Luyện Ba gò".
Năm ấy, Tào Tháo dẫn mười ba vạn binh xuống Giang Nam, bụi bay lấp trời, thế như gió cuốn, không gì ngăn nổi. May là binh mã của Chu Du sớm đã luyện xong, chỉ cần một tiếng hiệu lệnh truyền xuống, bọn tướng sĩ liền vượt sông tới núi Xuân Thu lẹ như bay, va chỉ trong chớp mắt đã tới núi Xích Bích. Họ trên đâm dưới chém xông vào binh địch như vào chỗ không người, chẳng ai dám ngăn cản. Cuối cùng, trên sông Hàng Phụ họ phóng một mồi lửa, đốt thuyền bè Tào Tháo cháy sạch.
Cho nên người bấy giờ tương truyền rằng: chiến công Xích Bích qui Chu lang, Chu lang thắng trận nhờ binh luyện. Và trên bờ sông Hàng Phụ có dựng bia đề "Tiểu Xích Bích".
Sự Tích Cồn Cứu Mệnh
Huyện Dương Tân có cái hồ Võng, giữa hồ là một cồn đất, người ta gọi đó là "cồn Cứu Mệnh". Cồn này rất kỳ lạ, cho dù nước lớn lên bao nhiêu cũng không ngập được. Nước dâng nó cũng dâng, nước hạ nó cũng hạ, cứ là cao cách mặt nước ba thước. Nếu nói từ đâu nó có, ắt phải nói từ thời Tam Quốc.
Năm ấy, mười tám lộ chư hầu thảo phạt Đổng Trác. Đầu tiên Tôn Kiên dẫn binh đánh vào Lạc Dương, lấy được ngọc tỉ truyền quốc. Ông sợ bị kẻ khác cướp mất, nên ngay trong đêm đới lãnh nhân mã, không giã từ mà bỏ về Đông Ngô. Lúc thuyền tới hồ Võng, chợt gặp gió to. Chỉ thấy sóng cả ngập trời, thuyền chông chênh sắp chìm. Tôn Kiên vừa lo vừa sợ, vội hỏi Đại tướng Trình Phổ ngồi kế bên:
- Làm sao bây giờ?
Trình Phổ nói:
- Thuở xưa, lúc Tần Thủy Hoàng tuần thú đến Động Đình hồ gặp phải sóng to gió lớn, vội đem ngọc tỉ ném xuống hồ, tức khắc sóng lặng gió yên. Hiện giờ cứu lấy mạng là việc gấp, chúng ta cũng học theo Tần Thủy Hoàng thôi.
Lúc này Tôn Kiên không còn nghĩ chi tới việc làm hoàng đế, liền ném ngọc tỉ xuống hồ. "Bũm" một tiếng, ngọn sóng vượt lên mấy trượng cao, và bên thuyền chợt xuất hiện một cồn đất lớn cao khỏi mặt nước ba thước. Mọi người lên cồn mới bảo toàn tính mạng. Và rồi, trên mặt hồ không còn gió to sóng lớn nữa. Tôn Kiên nghĩ tới ngọc tỉ và đâm hối tiếc bởi ngọc tỉ mất rồi thì sau này làm sao có thể lên ngôi làm hoàng đế? Ông bèn sai người nhảy xuống mò nhưng không được.
Trình Phổ nói:
- Khỏi phải mò vớt, cồn đất dưới chân chúng ta đây có lẽ chính là ngọc tỉ biến thành đấy.
Tôn Kiên thoạt nghe liền hiểu ra, chỉ nói mấy tiếng:
- Đáng tiếc, đáng tiếc!
Về sau, Tôn Kiên không quên việc ngọc tỉ cứu mạng, nên gọi côn đất này là "cồn Cứu Mệnh", và ở giữa cồn cho xây một tòa tháp đá chín tầng, gọi là "Tháp Trấn Ngọc". Tòa tháp này đến nay vẫn còn.
Đổng Trác Làm Thái Sư
Cuối thời Đông Hán nảy sanh ra một đại gian thần là Đổng Trác. Hắn làm nhất phẩm Thái sư, là một tay trùm trời chuyên quyền ngang ngược. May sao có Vương Doãn lập mỹ nhân kế, lợi dụng Lã Bố trừ gian, chẳng thế thì ngôi vua đã bị gian thần này soán đoạt. Đổng Trác làm sao mà bò lên đưọc tới chức Thái sư? Ấy là từ trong một bữa tiệc, hắn được lọt vào mắt hoàng đế
Đổng Trác vốn quan phẩm không cao, về chín bậc trong Kim loan điện, đừng nói hắn có thể tiếp cận hoàng đế, mà bình thời ngay một Thái giám kề cận bên hoàng đế thôi, hắn cũng chưa dễ gì gặp được.
Một hôm, may gặp ngày sinh nhật, hoàng đế đãi yến văn võ bá quan, chức quan Đổng Trác không cao, kể là vừa đủ tư cách để đến phó hội. Trên bàn tiệc, các triều thần đến dự tiệc đều muốn làm trò để vui lòng hoàng đế, có người thì ngâm thơ, có người thì vẽ, có người thì thổi tiêu thổi sáo, đánh đàn, đương nhiên cũng có người phất tay áo dài khiêu vũ, chỉ mong sao long nhan hoàng thượng có đưọc nụ cười.
Ở vào trường hợp này, Đổng Trác cũng muốn biểu diễn một trò, nhưng hắn là một bị thịt, dốt đặc cán mai, muốn hiến một trò cũng hiến không ra. Có điều, hắn có một sức mạnh vô địch, có thể cử ngàn cân. Hắn thấy ở trước Kim loan điện có đôi sư tử đá, do đó liền nảy ra một ý, hắn chạy ra ngoài cửa, mỗi tay xách một con đi vào, lớn tiếng nói:
- Chúa ta hồng phúc bằng trời, sư tử đá cũng tới chúc thọ!
Nói xong, hắn giơ cao cặp sư tử lên khỏi đầu và đi quanh một vòng.
Hoàng đế thấy tên quan viên này có vẻ hay hay, cho nên mặt rồng liền lộ nét vui. Bọn triều thần thấy vậy cũng vỗ tay tán thưởng không ngớt. Chính lần này. Đổng Trác được hoàng đế để mắt tới. Theo đó hắn lại thừa cơ đem đứa con gái mình dâng cho hoàng đế làm phi tử. Từ đó hắn lần bò lên địa vị Thái sư tối cao.
Quạ Phú Trì
Toàn thân quạ mang một màu đen, tiếng kêu khàn khàn, hầu như không ai thích nó, nhưng quạ Phú Trì thì lại được gọi là quạ thần. Tập tục này có liên quan đến Cam Ninh.
Truyền thuyết cho rằng, Lưu Bị vì muốn báo cừu giết em, nên ông nhờ chúa Phiên cùng tiến công Đông Ngô, thế tới rất hung mãnh. Bấy giờ Cam Ninh còn đang bệnh nặng, nhưng ông vẫn xuất chinh, ác chiến với Phiên vương một trận. Vì sức còn quá yếu, nên Cam Ninh không sao thủ thắng được, ông đành quay ngựa lui binh, định nghỉ ngơi lấy lại sức rồi sẽ đánh nữa.
Ai ngờ vua Phiên đuổi mãi không buông; Cam Ninh lui mãi tới bờ sông Bát Tương, và trong một phút không phòng bị, ông bị té xuống sông. Thi thể ông bị cuốn trôi theo dòng nước. Bọn binh Phiên chạy tới, định lội xuống vớt thây lập công lãnh thưởng. Chợt có tiếng kêu "quạ, quạ" hình như tiếng khóc, và theo đó có trăm ngàn con sà xuống sông, chúng dùng mỏ mổ vào mắt, dùng móng cào xé vào ngực binh Phiên làm bọn binh Phiên máu me tuôn lai láng nhuộm đỏ cả dòng sông. Phiên vương nghe tiếng kêu la thảm đang định chạy trốn, lại nghe có tiếng kêu "quạ, quạ" nữa, quạ lại tấn công hắn. Phiên vương chỉ cảm thấy mắt tối sầm và lòng ngực đau nhói. Hắn té xuống ngựa chõng gọng và đành bỏ mạng.
Quạ càng tụ càng nhiều, làm thành một màn đen như chiếc dù khỏng lồ án mất cả vòm trời, che cho thi thể Cam Ninh không bị mưa nắng. Chúng còn di chuyển theo chiếc thây trôi phệp phều trên dòng nước. Sau ba ngày ba đêm, cuối cùng chiếc thây đã trôi về cửa khẩu Phú Trì mà trước đây hồi còn sống Cam Ninh đã trấn thủ, và tới cái doi thì chiếc thây bất động không trôi nữa.
Cửa Phú Trì có người thợ đá nổi tiếng. Ông và hai người học trò trên đường đi làm phải qua đây. Xa xa thấy có bầy quạ đang quần tụ ở khúc doi này, ông cảm thấy kỳ lạ, bèn đến xem. Ông nhận ra là tướng quân Cam Ninh, thi thể chưa sình thúi, vẫn còn tinh thần như hồi còn sống. Ông vớt thi thể Cam Ninh lên bờ. Thấy trên người Cam Ninh còn mang mấy mùi tên đọc, nghĩ Cam Ninh đã có ân đức với bá tánh, ông không sao ngăn được hai dòng nước mắt, và quì xuống nhổ tên độc ra.
Về sau, doi sông này được gọi là "doi Bạt Tiễn" .
Người thợ đá dặn hai học trò hãy mau đưa Cam Ninh trở về làng, còn ông thì đi lo việc chôn cất. Nào dè, hai đứa học trò này là kẻ tiểu nhân ham lợi , thầy vừa đi khỏi thì chúng muốn lột chiến bào Cam Ninh đem bán. Hai tên vừa định ra tay, chợt bầy quạ lại kêu "quạ, quạ" và sà xuống mổ đến thân thể không còn miếng da, và chết ngay tại chổ.
Người thợ đá than thở khôn cùng, ông trở về làng kêu gọi người thân đưa thi thể Cam Ninh đến an táng dưới chân núi Đại Lãnh, Cửa đá, tường đá, quạ đá, sư tử đá ở mộ phần Cam Ninh đều do tay người thợ này điêu khắc. Còn bầy quạ cũng bay tới núi Đại Lãnh. Ngày đêm canh giữ mộ phần. Từ đó chúng không mở miệng kêu nữa, sợ e quấy rầy Cam Ninh.
Truyền thuyết nói rằng về sau có kẻ tham lợi tới trộm mộ, bầy quạ lại nhất tề kêu lên, bá tánh đến xem, thì thấy tên trộm đã phơi thây trước mộ Cam Ninh. Nguyên bầy quạ này đều là bộ hạ của Cam Ninh đã chết trong trận chiến biến thành, cho nên chúng không dễ gì kêu, mà đã kêu lên rồi tất có kẻ gian phải chết.
Dưới Trăng Chém Điêu Thuyền
Theo truyền thuyết thì Điêu Thuyền là Nguyệt thần hạ phàm, nàng hóa thành một cô gái xinh đẹp khác thường để xuống trần gian. Thấy gian thần triều đình hoành hành, bá tánh chịu khổ, nàng hết sức giận. Bấy giờ, gian thần lớn nhất là Đổng Trác. Đổng Trác vì sao có thể ở trong triều hoành hành bá đạo mà không ai dám chuốc tới hắn? Là vì bên cạnh hắn còn có võ tướng Lã Bố vô địch thiên hạ, là con nuôi của hắn.
Hôm nọ, trong triều có vị đại thần tên Vương Doãn, nhân đi qua một vườn hoa, thấy có một cô gái dung mạo xinh đẹp, trong lòng ông chợt nảy ra một kế. Người con gái tuyệt sắc này chính là Nguyệt thần Điêu Thuyền. Vương Doãn đem mưu kế bàn với Điêu Thuyền; Điêu Thuyền đang muốn vì bá tánh làm một việc tốt nên vui vẻ bằng lòng ngay. Vương Doãn nhận Điêu Thuyền làm con nuôi, trước đem Điêu Thuyền về hứa gả cho Đổng Trác. Sau đó lại hứa gả cho Lã Bố. Đổng Trác là con quỉ háo sắc, sớm đã mê mẩn vì sắc đẹp của Điêu Thuyền, nghe nói Lã Bố cũng muốn lấy Điêu Thuyền làm vợ, hắn nào chịu buông.
Một hôm, Điêu Thuyền và Lã Bố đang ở hoa viên thưởng nguyệt bị Đổng Trác bắt gặp. Hắn bèn rút kiếm nhắm Lữ Bố chém tới. Lã Bố nổi giận, trong lòng nghĩ: "Mi đã cắt tình thì ta cũng dứt nghĩa", đoạn rút kiếm đâm ngay. Bọn họ chém nhầu với nhau. Nhưng Đổng Trác đâu phải là đối thủ của Lã Bố, nên bị Lã Bố một kiếm giết chết.
Điêu Thuyền vì bá tánh mà đem thân trừ gian, trong triều, giờ nàng đã trút được tâm sự. Một tối, trăng sáng vừa nhô, Điêu Thuyền đang đốt hương nhìn trăng lạy trời thì bỗng Quan Công đi qua vườn hoa này. Ông thấy dưới trăng có bóng người, nhìn kỹ thì lại là một "yêu tinh". Ông rút kiếm chém tới. "Yêu tinh" liền không thấy đâu nữa. Lúc Quan Công đi rồi có người thấy giữa không trung có một mỹ nhân bay về mặt trăng, ấy chính là Nguyệt thần trở về Nguyệt cung của mình.
Lưu Bị Biết Mã Lương
Thành Nghi có anh chàng Mã Lương, từ nhỏ theo Lưu Bị làm người chăn ngựa. Ngựa Lưu Bị cỡi tên Đích Lư, nó là một con thiên lý mã. Trên lưng ngựa trang bị một chiếc yên đẹp do một thợ giỏi may. Tục ngữ có câu: "Người tốt vì lụa, ngựa tốt vì yên", ngựa Đích Lư được yên đẹp càng có thần khí hơn.
Năm ấy, mùa đông đã qua, mùa xuân lại tới, sườn núi cỏ non mơn mởn tốt tươi, nhưng Đích Lư ở trong tàu vẫn gặm ăn lương thực mùa đông chẳng ngon lành gì. Lưu Bị nghĩ tới điều này bèn kêu Mã Lương dẫn ngựa đi ăn, Mã Lương được sai liền mừng rỡ, anh thót lên ngựa giơ roi dông đi. Mã Lương vốn là kẻ chăn trâu, từ trước tới giờ chỉ biết ngồi trên lưng trâu, không quen ngồi yên. Cho nên khi anh phóng ngựa từ Tương Dương đến Cốc Thành thì mông bị ê ẩm. Anh chê yên quá trở ngại nên anh lột yên treo ở cổ ngựa. Quả nhiên ngồi ngựa không yên. Mã Lương cảm thấy thư thả hơn. Anh sải một đỗi nữa, đến khi dừng nghỉ mệt mới phát hiện chiếc yên đã mất. Vậy nó rơi ở chỗ nào? Không hiểu được, Mã Lương chỉ còn cách quầy đầu ngựa đi theo đường cũ trở lại tìm. Nhưng mênh mông quá, làm sao có thể tìm được? Về sau mới biết, chiếc yên ngựa tốt đẹp này vừa rơi xuống đất đã biến thành một hòn núi cao, ấy là núi Mã Yên.
Mã Lương tìm không được yên ngựa, trong lòng anh như có tảng đá ngàn cân đè nặng, cứ lo nghĩ mãi. Trông sắc trời đã không còn sớm, anh chỉ còn cách xin tá túc ở một quán trong trấn nhỏ gần đó, định bụng ngày mai sẽ đi tìm nữa. Người chủ quán này tên Hướng Lãng, thấy Mã Lương dẫn con ngựa không yên mà mặt mày ủ dột, ông nghĩ hẳn có tâm sự gì đây, bèn hỏi anh đã gặp phải việc gì. Mã Lương bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Hướng Lãng an ủi:
- Thôi đừng buồn, anh yên lòng mà nghỉ đi, suốt tối nay tôi sẽ chiếu theo lời anh nói mà làm chiếc yên khác, bảo đảm nhìn không ra đâu!
Hướng Lãng là tay thợ khéo, ngay trong đêm đó, ông đã may xong chiếc yên ngựa như lời Mã Lương đã tả. Mã Lương lật đi lật lại nhìn mấy lần vẫn nhìn không ra là chiếc yên khác. Anh tiếp lấy chiếc yên mà cảm kích vô cùng, đọan cỡi ngựa trở về doanh. Về sau, quán mà Mã Lương nghỉ lại tối hôm đó được gọi là "quán Nghỉ Ngựa".
Lại nói Lưu Bị ở quân doanh. Hôm ấy lại nhằm lúc tiếp được thiệp mời của Lưu Biểu đi phó yến, ông vội kêu Mã Lương chuẩn bị ngựa. Bấy giờ Lưu Bị mới phát hiện Mã Lương đã dẫn ngựa đi cho ăn, suốt đêm vẫn chưa thấy trở về doanh. Lưu Bị trong lòng vừa nóng lại vừa lo, tức cái là không bắt được Mã Lương trở về ngay để đánh cho hai mươi roi. Ông liền cho người đi tìm khắp nơi. Chính trong lúc vội vàng ấy, Mã Lương hổn hển trở về. Lưu Bị thấy người ngựa bình yên nên không trách phạt, liền cỡi ngựa đi phó yến.
Sau bữa tiệc, Lưu Bị trở về, ông ôn tồn hỏi Mã Lương rốt cuộc là chuyện xảy ra như thế nào. Mã Lương nhẹ nhõm trong lòng, bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Lưu Bị còn bán tín bán nghi. Ông lấy yên ngựa xem kỹ, bấy giờ mới phát hiện ra yên ngựa này không phải là cái cũ của ông. Ông hết sức cảm khác, lòng nghỉ: "Chiếc yên ấy đã theo mình nam chinh bắc chiến bao năm nay, mình rờ rẫm nó , nhìn nó đến quen mắt, vậy mà ai ngờ hôm nay ta dối lừa mắt ta, còn nói chi là người hiểu biết. Bá Nhạc có thể nhận biết ngựa, nói ra thì dễ mà làm thì rất khó. Ta nhìn không thấy ra thằng nhỏ Mã Lương này, còn nói chi là nhận ra ngựa tốt hay lương câu. Thứ nhất, nó là kẻ chăn ngựa, tìm không được yên ngựa thề quyết không thôi; thứ hai, làm sai biết sai mà sửa đổi; thứ ba, dù biết nói ra sự thật thì sẽ bị phạt nó cũng không nói dối, thật hiếm có được". Do đó, ông giao Mã Lương cho quân sư Gia Cát, dặn ông kiếm người dạy võ nghệ và thao lược cho nó. Quả nhiên Mã Lương không phụ kỳ vọng của Lưu Bị, sau này ông lập không ít công lao, và đã trở thành một danh tướng của nước Thục.
Quan Công Không Ăn Đậu Hũ
Dải Tương Dương từ xưa có lưu truyền bài hát như thế này:
Đậu hũ Quan Công tưng bừng bán,
Kiếm tiền đổi lấy bát cơm ăn
Quan Công sướng hay Quan Công khổ
Ông vẫn không ăn đậu hũ chăng?
Bài hát này có một lai lịch. Vốn là khi Quan Công ở nhà, ông có giết một tên tham quan ỷ thế hiếp người và sau đó ông chạy trốn, đi phụ bán đậu hũ cho người để kiếm sống qua ngày. Có lần, ông gặp một anh bán đường. Anh này nói cương với ông là đậu hũ ông bán là đậu hũ giả:
- Này, ông đùa bỡn đấy sao, nước lỏng bỏng thế này mà muốn gạt người để lấy tiền à?
Quan Công nhìn kỹ lại đậu hũ của mình, quả thực hầu hết là nước, ông bối rối đến thẹn đỏ mặt, và từ đó trở thành Quan Công mặt đỏ . Nhưng ông chẳng cam chịu lép, ông nghĩ: "Cái vật mà bên trong có nước hẳn là giả rồi, nhưng đường kia cũng đâu phải không có nước?"
Ông bèn hỏi ngược lại anh bán đường:
- Đường anh bán đó cũng chẳng là biến thành nước mới có thể vô bụng được ư? Vậy còn trách tôi cái nỗi gì?
Anh bán đường nói:
- Hức, tuy là nước nhưng đâu có phải giống nhau. Nước đậu hũ của ông là nước gạt người, còn nước đường này của tôi lại là nước thực.
Đều là vật mang nước, vậy mà anh ta lại bảo là cái gạt người, cái là thực, trên đời này đâu có lý nào như vậy? Thế này thì rõ ràng là hắn muốn đùa cợt ta đây! Quan Công bốc lửa giận, giơ quyền khỏi đầu, quát:
- Mi hãy mau nói rõ cho ta nghe, bằng không, ta cho một quyền là mi nát bấy như đậu hũ đấy!
Anh bán đường chậm rãi nói:
- Ông xem, đường này của tôi là thực , nước đường nấu, thành đường, đường có thể hóa thành nước đường, và nước đường này vẫn có thể nấu lại thành đường, năm lần bảy lượt chung qui vẫn là đường. Còn đậu hũ của ông kia, nó là đậu nành thêm nước xay thành bột, lại thêm thạch cao mà thành. Nếu lượt bỏ đi cái xác bã thì được bao nhêiu đậu hũ!? Vả lại, đậu hũ này cho dù làm cách gì, cũng không trở lại thành bột hay đậu nành được! Như vậy nói đậu hũ này là do vật giả biến chất có gì là sai? Làm sao nó có thể so với đường của tôi được?
Quan Công nghe anh bán đường phân tích, cảm thấy có lý, lòng nghĩ: "Ta từ thuở nhỏ tập văn luyện võ, mưu cầu chân tài thực nghệ, nay đã là đường đường đại trượng phu, sao đi làm cái việc bán buôn giả dối thế này được?" Nghĩ vậy, ông liền quẳng bỏ gánh đậu hũ, dức khoát không bán đậu hũ và cũng kể từ đấy ông không ăn đậu hũ nữa.
Hạt Sương Sanh Điêu Thuyền
Trong "Tam Quốc diễn nghĩa", Điêu Thuyền là nhân vật có tên mà không có họ. Dân gian, truyền thuyết đều cho Điêu Thuyền là do hạt sương biến thành.
Hôm nọ, Tư đồ Vương Doãn đang đi trên đường làng. Ngồi trong kiệu, ông thấy một cô gái ở trước mặt, bước đi như gió rung dương liễu, đằng sau có khói tím lởn vởn cuốn theo. Tư đồ cảm thấy rùng mình, vội kêu hạ kiệu, bảo với quan Tông chính:
- Ta thấy trước mặt có một cô gái, ông mau đi mời lại đây cho ta.
Quan Tông chính liền chạy đi, nhưng có cô gái phong độ bất phàm nào đâu, chỉ phát hiện một cô gái nằm khoanh ngủ bên đường. Ông quay trở lại báo với quan Tư đồ. Vương Doãn không tin, lòng nghĩ: "Ta vừa thấy rõ ràng, sao nói là không có được? Ta đâu có mê loạn tâm thần, và mắt đâu có hoa!" Ông càng nghĩ càng cảm thấy lạ, lại sai quan Tông chính đưa cô gái đến kiệu để hỏi.
Khi quan Tông chính tới trước mặt cô gái này, thì nàng đang ngồi liếm ăn những hạt sương trên đầu ngọn cỏ. Quan Tông chính dợm hỏi thì chợt thấy mặt cô gái. Ông kinh hãi vô cùng. Thì ra cô gái mặc chiếc áo vải vá víu, đầu nổi đầy u nần, mặt mày thì mũi dãi lòng thòng, hai cánh tay thô kệch đen đúa. Quan Tông chính chẳng khỏi sanh lòng ghét bỏ, và khịt mũi quay người đi.
Chợt cô gái "oa" lên một tiếng và khóc sướt mướt. Quan Tông chính dừng bước ngoái lại, thấy cô gái vừa khóc vừa dùng tay áo rách quẹt nước mắt trên mặt. Nàng lau qua lau lại một lúc thì khuôn mặt vừa đen vừa xấu đã trở nên vừa trắng vừa xinh. Nhất thời quan Tông chính cảm thấy kỳ lạ , ông đang định bước tới gần cô gái thì thấy nàng đưa tay gỡ bỏ mấy u mụt trên đầu. Nàng gỡ một hồi thì những u nần đầu hết sạch, để lộ ra một mái tóc dài đen mượt. Quan Tông chính nhìn ngó sững sờ, ngỡ mắt mình hoa loạn. Lại bước tới gần hơn mà nhìn. Ồ ! Quả là đã thay đổi: một khuôn mặt trái xoan xinh xắn, cặp mắt to ướn ướt long lanh, đôi môi chúm chím đỏ hồng, thật là hoa Dung nguyệt mạo, đẹp vô cùng! Quan Tông chính rạng mặt cười, nói với cô gái:
- Cô tiên nhỏ, cô từ trên trời hạ phàm phải không? Mau theo tôi đi, có người đang muốn gặp cô đấy!
Nói đoạn, liền kéo cô gái đi.
Vương Doãn nghe quan Tông chính nói, trong lòng hết sức mừng. Ông bèn hỏi qua thân thế cô nương này, nhưng cô chỉ lắc đầu. Cô chỉ biết từ ngay hiểu việc, cô thường tới lui trong huyện nghèo này. Đói ăn sương, no thì ngủ vất vơ bên bờ ruọng, dưới tường đổ. Nàng nói, nhưng u nhọt vừa rồi có lúc mọc, có lúc mất. Kẻ qua đường gặp nàng, có lúc vui vẻ ngó nhìn, nói năng niềm nở, có lúc hiềm nàng dơ dáy mà bịt mũi bỏ đi. Nàng còn nói, khuôn mặt người đời hay thay đổi, nàng không thích nhìn, chỉ muốn tự mình sống thế này. Vương Tư đồ cảm thấy cô gái vừa đáng thương vừa đáng yêu, bèn nhận nàng làm nghĩa nữ.
Vương Tư đồ sau khi được nàng thì quí thương như trân bảo. Ông nghĩ điêu là loài thú quí trong sơn dã, thuyền (ve sầu) uống sương mà sống như cô gái nhỏ này, do đó ông đặt cho nàng cái tên là "Điêu Thuyền".
Lục Tốn Học Võ
Tương truyền, thuở bé, Lục Tốn là người hết sức kiêu ngạo. Lúc mới mười bốn, mười lăm tuổi, ông đã tỏ ra thông minh hơn người. Lục Tốn học quyền thuật với một vị thầy, trong chu vi mấy mươi dặm không ai là đối thủ. Chính vì vậy mà ông ngỡ mình là đệ nhất thiên hạ. Thậm chí cả thầy dạy võ của mình, ông cũng chẳng coi ra gì.
Một hôm, phụ thân Lục Tốn làm lễ thọ, quyến thuộc bạn bè ngồi chật ních cả nhà, thật vô cùng náo nhiệt. Trong tiệc, mọi người bàn luận về võ nghệ. Thầy của Lục Tốn nói:
- Trong giới võ thuật ngày nay có thiếu gì người tài giỏi, muốn trở thành người tài giỏi trong giới võ thuật thì phải cầu tiến, học mãi mới được.
Lục Tốn nghe lời thầy nói giữa bàn tiệc liền cảm thấy không vui. Có người lại hỏi, trong giới võ thuật hiện nay ai là người tài giỏi? Thầy của Lục Tốn bấy giờ cũng đã ngà ngà, bèn nói:
- Người tài giỏi thì thiếu gì. Ngay như lão phu đây, từ lúc luyện võ đến giờ vẫn chưa gặp đối thủ! Mà nói thiệt ra, lão phu cũng chưa giết ai bao giờ.
Lục Tốn thoạt nghe, hết dằn nổi, nghĩ: "Ông gầy như que củi, mà làm tàng, để ta cho ông nếm thử một quyền xem sao!?" Lục Tốn chẳng nói chẳng rằng, bỏ ly rượu xuống, bước tới sau lưng thầy, giáng vào lưng thầy một quyền!
Ông thầy vẫn híp mắt ngồi tỉnh bơ. Ai ngờ quyền của Lục Tốn chưa tới lưng thì đã bị ông nắm chặt. Rồi ông nhấc nhẹ quyền lên, tựa hồ chim ưng quặp gà con, làm Lục Tốn xích vính chúi tới trước. Ông thầy cười, nói:
- Hiền đồ không được vô lễ! Vừa rồi thầy uống rượu nên có lỡ lời, con lại muốn cho thầy ăn quyền ư? May là tay chân thầy còn nhanh, chứ không thì toi mạng rồi.
Mặt mày Lục Tốn bỗng thộn ra, đỏ bừng. Thầy lại nói:
- Bản lãnh con hiện nay tuy đã khá, nhưng chưa tinh lắm, chủ yếu bởi con chưa phá được chữ "mãn". Ta e tài năng của con sẽ mai một mất!
Nghe lời dạy của thầy, Lục Tốn "dạ" và quì xuống tạ lỗi với thầy. Từ đó ông khiêm nhường thận trọng, học tập không biết mệt. Sau cùng ông đã trở thành một vị tướng lãnh có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử Trung Quốc.
Khổng Minh Một Chữ Phục Trương Phi
Lưu Bị ba lần đến thảo lư mời Gia Cát Lượng làm quân sư, binh tướng đều do một tay ông điều khiển. Trương Phi rất không phục, nghĩ: "Văn sách ra gì, sức trói gà chưa chặt, ta há sợ hắn sao?"
Một hôm, Lưu Bị có việc phải ra đi, Khổng Minh một mình ngồi trong quân doanh. Trương Phi cố ý ở ngoài trướng chỉ đông đánh tây, lớn tiếng nói:
- Trương Dực Đức người Yên ta, thương không sợ, đao không sợ, trời không sợ , đất không sợ, thiên vương, địa vương gì gì cũng không sợ...
Khổng Minh ung dung bước ra ngoài trướng, làm ra vẻ không biết ý Trương Phi , hỏi:
- Ta nghĩ trên đời này, Tam tướng quân ắt phải sợ một thứ gì chớ ?
Trương Phi thấy Khổng Minh mở lời, sự bực tức bèn bùng ra, nói:
- Anh hùng ở đời, cùng lắm là cái chết, Tôi đã không sợ chết, thì còn sợ cái gì nữa?
Khổng Minh hỏi:
- Tướng quân dám cá không?
Trương Phi nói:
- Dám chớ! Nếu có cái gì làm tôi sợ thì từ nay về sau tôi chịu cho ông điều khiển, xung phong chém giết. Nếu quân sư không chỉ ra cái làm tôi sợ thì sao?
- Từ nay không dám chỉ huy tam tướng quân nữa, chỉ nghe tam tướng quân sai khiến thôi!
Hai người giao hẹn xong, Trương Phi dương dương tự đắc, nghĩ mình chắc được cuộc. Khổng Minh bảo Trương Phi đưa bàn tay ra, ông dùng bút mực viết lên bàn tay Trương Phi một chữ. Trương Phi rút tay lại nhìn, thì ra Khổng Minh viết chữ "bệnh". Tức thì Trương Phi nhớ tới lúc còn bán thịt heo, ông từng bị một cơn thương hàn. Lúc đó đừng nói là cầm dao chặt xương, cắt thịt, mà ngay cái tai heo nặng bốn lạng thôi cũng nhắc lên không nỏi, nói gì cầm trượng bát xà mâu xung phong hãm trận! Ta há quên lời dân gian xưa nói: "Xưa nay anh hùng nào sợ chết, hảo hán chỉ sợ bệnh mà thôi" đó sao? Do đó ông luôn mồm nói:
- Đáng sợ thật! Tôi sợ bệnh lắm!
Khổng Minh ha hả cười lớn:
- Trên đời còn có thứ ông sợ, thế thì từ nay ông phải nghe tôi điều khiển đấy!
- Được, được mà!
Trương Phi chỉ còn cách gật đầu lia lịa, và từ đó mới phục Khổng Minh.
Ghe Chìm Thoát Hiểm
Về phía nam cách thành Công An chưa đầy trăm dặm, có một cái hồ rộng tên là hồ Lục Tốn. Thời Tam Quốc. Đại tướng Đông Ngô Lục Tốn từng luyện binh ở đây.
Có một lần, Lục Tốn đang ở trên hồ thao luyện thủy binh, mình ông khoác chiến bào xanh, tay cầm hạnh huỳnh kỳ đứng trên mui thuyền phát hiệu lệnh, oai phong lẫm liệt. Một trăm chiến thuyền theo hạnh huỳnh kỳ huy động, ở trên mặt hồ qua lại như thoi đưa, tiến tiến thoái thoái rất quy cũ.
Chợt kình phong nổi dậy, làm cho sóng trắng dậy ngất trời, nước hồ bỗng dưng như một thùng nước sôi. Bọn thủy binh thấy gió liền cuốn buồm hạ mui; đèn đuốc trên thuyền tắt ngấm, thân thuyền bị sóng vỗ đến nghiêng đảo. Thế này thì thuyền bè sẽ bị chìm nghỉm hết thôi.
Sự tình xảy đến quá đột ngột, tướng sĩ thủy binh nhất thời đành khoanh tay bất lực, ai nấy chỉ còn biết ngó chủ soái, chờ xem Lục Tốn có kế sach gì hay không. Lục Tốn vẫn bình tĩnh, chỉ thấy ông phất hạnh huỳnh kỳ, hạ tướng lệnh: "Hãy đục đáy thuyền cho vỡ ra!"
Mọi người nhận được mệnh lệnh này, ai nấy cũng đều thất kinh. Gió to sóng lớn thế này mà lại đục thủng đấy thuyền, chẳng là tự sát hay sao? Nhưng đã là tướng lệnh thì như sơn băng, ai dám chống lại. Tức thì họ liền dùng đao to, trường mâu mà đục thuyền. Chẳng mấy chốc , đáy thuyền đều bị đục thủng cả.
Kể cũng lạ, đáy thuyền bị chọc thủng, nước tràn vô khoang, thân thuyền liền lấy lại được thăng bằng ổn định. Bọn thủy binh thừa thế ôm chặt lái thuyền từ từ chèo thuyền vô bờ. Sau khi tới bờ, Lục Tốn lại tức khắc hạ lệnh cho đếm lại số thuyền và số người trên thuyền. Kết quả số thuyền đều đầy đủ, và không một ai bị chết hay mất tích cả. Mọi sự đều bình an tốt đẹp.
Tướng lĩnh Đông Ngô đều thầm phục trong lòng Lục Tốn quả chẳng thẹn là một vị chủ soái đại tài.
Trương Phi tặng dầu
Mé nam thành Công An có một con sông nhỏ, dài ước chừng hơn ba mươi dặm. Nước sông trong vắt một màu xanh biết, bốn mùa chẳng cạn. Truyền thuyết nói rằng, vào thời Tam Quốc, có một năm vào mùa hạ, khắp vùng bị nạn châu chấu hoành hành, ruộng nương thát bát, các hộ dân đều nghèo khó, thậm chí đến không có dầu mà ăn. Vì không có cái ăn nên dân chúng gầy yếu không còn sức lực. Bấy giờ Trương Phi đang đồn quân ở đây luyện tập . Biết được điều này, ông liền tự chở đến một ghe dầu để phân phát cho bá tánh.
Tin tốt đẹp này liền được truyền ra. Bá tánh ở dọc hai bờ sông dài ước mười dặm đều ra bờ sông đón tiếp. Quả nhiên thuyền dầu từ thượng du thuận dòng đi xuống, càng lúc càng gần. Trương Phi đứng ở mũi ghe, đưa tay che ánh mặt trời mà nhìn thì thấy dọc hai bên bờ sông toàn người là người. Có người xách thùng, có người cầm bình, có người bưng bồn, cũng có người đem cả khạp tới. Trương Phi thấy đông quá, trong lòng liền thấp thỏm lo, miệng lẩm bẩm: "Ta chỉ có một ghe dầu thôi, mà người nhiều như vầy thì làm sao chia cho đủ đây?" Có người bên cạnh thuận miệng nói: "Nếu cả con sông này là sông dầu thì mới mong phân phát đủ". Lời nói vô tình này khiến Trương Phi chợt nảy ra một ý hay. Ông liền rút ngay thanh đao bên lưng ra mà đục thủng đáy ghe mấy lỗ. Tức thì nước sông tràn vô ghe, ghe dầu từ từ chìm nghỉ xuống nước. Người bên cạnh vội la lên: "Tướng quân, ông làm gì kỳ lạ vậy?" Trương Phi cầm bầu rượu cười ha hả, nói lớn: "Ghe dầu chìm thì ta có nguyên một con sông dầu cho bá tánh tha hồ múc!"
Chẳng mấy chốc, dầu trong ghe đều tràn ra, nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Dầu theo dòng mà chảy, ánh vàng óng ánh chẳng khác gì đây là con sông dầu. Dân chúng thấy vậy, họ lũ lượt nhảy xuống sông vớt dầu, anh một thùng, tôi một gánh đem về nhà.
Kể cũng lạ, ai nấy đều vớt mãi mà vẫn không hết dầu, họ vui mừng không kể xiết, Về sau trên bờ sông này có xây một cái miếu Trương Phi, người dân gọi sông Trương Phi tặng dầu là sông Dầu.
Tòng Sư
Theo truyền thuyết, thuở nhỏ Gia Cát Lựơng là đệ tử của Thủy Kính tiên sinh. Thủy Kính tiên sinh ẩn cư ở trang Thủy Kính, mé nam thành Tương Dương để dạy học. Trong sân nhà ông có nuôi một con gà trắng cổ bông. Con gà này mỗi khi đến trưa là gáy lên ba tiếng. Và Thủy Kính hễ nghe tiếng gà gáy là cho học trò tan học ra về.
Gia Cát Lượng vốn rất say mê nghe thầy giảng thiên văn địa lý nên mỗi lần nghe tiếng gà gáy thì ông rất buồn. Sau này mỗi khi đi học, ông bèn hốt một túi thóc trong bồ đem theo. Lúc thấy con gà trống vừa nghểnh cổ sắp gáy thì ông liền lén vãi thóc ra ngoài cửa sổ cho gà ăn. Cứ thế khi con gà ăn hết túi thóc thì thầy cũng đã giảng hơn một giờ rồi.
Sự việc cứ lặp đi lặp lại nhiều lần khiến bà thầy trưa nào cũng phải chịu đói bụng chờ ông thầy. Bực mình, bà thầy trách chồng:
- Ông hẳn là thần tiên rồi, giảng bài đến quá ngọ mà không thấy đói ư?
Thủy Kính tiên sinh hỏi:
- Ở, hễ tôi nghe tiếng gà gáy là tôi cho bọn học trò nghỉ học ngay mà.
Bà thầy là người tế nhị, hôm sau, sắp đến giờ ngọ bà lén đi ra sân. Bấy giờ bà mới vỡ lẽ, khi con gà trống bông sắp sửa nghểnh cổ gáy thì từ trong cửa sổ phòng học có người ném thóc ra. Bà bước tới nhìn kỹ hơn, rồi chẳng nói chẳng rằng, bà trở vô.
Hôm ấy Thủy Kính tiên sinh cảm thấy hết sức đói, vừa vô nhà ông liền hối vợ dọn cơm. Bà thầy đợi ông ăn xong, mới cười và kể lại nguyên do vì đâu ông dạy trễ đến thế, và bà còn nói:
- Không ngờ ông thầy còn chưa bằng tiểu Gia Cát!
Thủy Kính tiên sinh nghe chuyện này giận lắm, bảo:
- Cái thằng ngoan đồng này dám giỡn mặt với thầy, ngày mai ta cho nó về luôn!
Hôm sau Gia Cát Lượng trở lại học thì bị Thủy Kính tiên sinh đuổi về. Bà thầy mới xin:
- Tiểu Gia Cát cho gà ăn, ấy cũng là vì nó ham học, tôi thấy nên tha cho nó phen này!
Thủy Kính tiên sinh vốn biết Gia Cát Lượng thông minh hơn người, rất cần mẫn học tập, tương lai ắt trở thành cái thế kỳ tài, ông làm sao mà đuổi học cho đựơc. Nhưng lại nghĩ, nhìn cây nhìn thẳng, nhìn người nhìn phẩm, kỳ tài có thể trở thành tuấn kiệt an bang trị quốc, mà cũng có thể trở thành gian hùng gây họa nước ương dân. Vậy muốn thu nhận thì phải xem lại phẩm hạnh, đạo đức của nó mới được. Do đó, ông sai thư đồng về Long Trung tìm hiểu.
Thư đồng đến Long Trung, ngầm hỏi thăm mấy ngày rồi trở về bẩm với Thủy Kính tiên sinh được ba điều: Một là, mẹ của Gia Cát Lựơng mùa đông sợ rét. Gia Cát Lượng phải lên núi cắt cỏ xương bồ đem về trải giường cho mẹ, mà còn nằm ngủ trước cho ấm mới mời lên ngủ sau. Hai là nhà Gia Cát Lượng ở cách xa giếng nước chừng hai mẫu đất, nhưng Gia Cát Lượng thì nhỏ mà thùng thì to, sợ e thùng đụng hư hàng rào của người ta nên phải đi đường vòng dọc chân núi xa hơn cả dặm đường. Ba là trước kia Gia Cát Lượng khi muốn hỏi điều gì với một bạn hàng xóm thì phải kêu nó bằng thầy và phải quét sân cho nhà nó. Nay thì sức học của GIa Cát Lượng đã hơn nó, bây giờ nó lại phải hỏi bài với Gia Cát Lượng và gọi Gia Cát Lương bằng thầy, lại phải quét sân nhà cho nhà Gia Cát Lượng.
Thủy Kính tiên sinh nghe được ba điều này, gục gật đầu nói:
- Ngày sau tiểu Gia Cát ắt thành một trang tuấn kiệt.
Do đó, bèn sai thư đồng đến Long Trung kêu Gia Cát Lượng trở lại học.
Xuất Sư
Gia Cát Lượng theo Thủy Kính tiên sinh học tập, thấm thoát đã được ba năm.
Một hôm Thủy Kính tiên sinh nói với các đệ tử:
- Năm ngày nữa, các con sẽ thi ra trường. Ai thi đỗ thì xuất sư, còn ai không đỗ thì tuỳ ý muốn làm gì thì làm, và ta không chấp thuận những người thi rớt tự xưng là đệ tử của ta.
Bọn học trò thoạt nghe, ai nấy cũng đều dốc lòng học tập, suốt ngay đêm cầm sách tụng bài. Trong khi đó thì Gia Cát Lượng suốt ngày đi chơi thơ thẩn ở bên ngoài , không hề để mắt tới sách vở.
Ngày thứ năm đã đến. Bọn đệ tử có người thì đã tụng thuộc nằm lòng, có người thì thuộc đại khái, nhưng cũng có người thì lén chép bài bỏ trong tay áo. Ai nấy đều tất bật, hồi hộp.
Sau bữa điểm tâm, Thủy Kính tiên sinh ngồi vào bàn, bảo:
- Ta chỉ ra một đầu đề: từ bây giờ cho đến giờ ngọ ba khắc, ai mà được ta cho phép đi ra ngoài phòng thi thì người đó kể như được xuất sư.
Bọn đệ tử rất ngạc nhiên với đầu đề này và đều tròn mắt nhìn nhau, quýnh quáng vò đầu bứt tai. Có người hô to: "Lửa cháy bên ngoài trang!" Có người chạy tới thông báo: "Nước lụt tới trang Thủy Kính rồi!" song Thủy Kính tiên sinh vẫn lờ đi không lý tới.
Bấy giờ, Từ Thứ lén viết một lá thư giả trình lên, khóc lóc mà nói:
- Sáng nay có người nhà mang thư tới, bảo rằng mẹ con đau nặng, con bằng lòng không dự kỳ thi này, xin thầy cho phép con được về gấp để lo cho mẹ.
Thủy Kính tiên sinh lắc đầu, bảo:
- Sau giờ ngọ ba khắc, con muốn đi đâu tùy ý!
Bàng Thống bước tới thưa:
- Xin phép thầy cho con được ra ngoài, con không còn cách gì hơn nữa. Nhưng nếu con đứng ngoài trang, con có thể nghĩ ra cách, xin thầy cho con được ra ngoài. Nếu không tin thì thầy thử xem.
Thủy Kính tiên sinh cười:
- Bàng Sĩ Nguyên kể ra cũng có chút thông minh, đứng ra đó đi!
Còn Gia Cát Lượng thì sao? Ông đã gục đầu trên bàn ngủ khò từ lúc nào, chẳng thèm lý gì tới cuộc thi.
Thủy Kính tiên sinh thấy vậy liền nổi giận. Giá mà vào ngày thường thì ông đã đuổi quách ra rồi. Hôm nay thì ông ráng nhẫn nhịn.
Giờ ngọ ba khắc sắp tới. Gia Cát Lượng vươn vai ngáp dài và đứng lên. Mặt hầm hầm giận, ông đập bàn, xô ghế ngã lung tung, đoạn nắm áo Thủy Kính tiên sinh, nói lớn:
- Mi là ông thầy ngu dốt, lại ra đầu đề như vậy để hại bọn ta. Ta không làm học trò mi đâu, hãy trả tiền học phí ba năm lại cho ta! Hãy trả tiền lại cho ta!
Thủy Kính tiên sinh là danh sĩ thiên hạ, ai chẳng tôn kính. Nay bị Gia Cát Lượng sỉ nhục như vầy sao khỏi bốc lửa giận, người ông run lên bần bật, ông kêu Bàng Thống, Từ Thứ tới, bảo:
- Hãy lôi đầu cái thằng yêu này ra khỏi Thủy Kính trang cho ta!
Gia Cát Lượng còn vùng vằng chưa chịu đi , la lối rùm beng làm náo loạn cả phòng thi. Bàng Thống, Từ Thứ hết sức lôi kéo mới đưa ông ra được.
Vừa ra khỏi phòng, Gia Cát Lượng liền ha hả cười lớn. Bàng Thống, Từ Thứ thấy ông cười như vậy, đang dợm hỏi thì Gia Cát Lượng đã xoay người chạy trở vô. Tới trước mặt Thủy Kính tiên sinh, Gia Cát Lượng qùi xuống nói:
- Vừa rồi con xúc phạm đến ân sư, tội thật đáng chết!
Thủy Kính tiên sinh ngẩn người ra, rồi chợt tỉnh ngộ ra, đổi giận làm vui, đỡ Gia Cát Lượng lên, bảo:
- Con có thể xuất sư!
Gia Cát Lượng nói:
- Bàng Thống, Từ Thứ cũng đã ra khỏi phòng, xin thầy thuận cho họ xuất sư!
Thủy Kính tiên sinh ngẫm nghĩ, miễn cưỡng bằng lòng.
Từ đấy, đệ tử được Thủy Kính tiên sinh thừa nhận chỉ có Gia Cát Lượng, Bàng Thống và Từ Thứ mà thôi.
Núi Ẩn Mã
Sau khi thấy Lục Tốn thao luyện thủy quân, Ngô vương Tôn Quyền hết sức hài lòng. Ông lại muốn xem Lục Tốn thao luyện mã bộ binh như thế nào. Đinh Phụng là người bản địa, rất quen địa hình ở đây, ông đứng bên bờ, mé đông sông Lục Thủy, chỉ về hướng nam, nói:
- Xem kìa! Dải đất này kề sông cận rạch, có bình nguyên, có đồi gò, địa thế rất hiểm yếu. Một khi đánh nhau, hai bên đều liều chết tranh đoạt nó, vậy cần có tướng soái tài giỏi mới được. Đô đốc muốn thao luyện mã bộ binh thì nên đến dãi đất này mà thao luyện.
Lục Tốn thừa biết muốn điều động binh mã ở đây không phải dễ. Ông cũng biết. Ngô hầu và Đinh Phụng muốn thử tài ông mà thôi, song ông vẫn an bài đội ngũ, rồi mời Ngô hầu và Đinh Phụng lên đài xem điều binh.
Sau ba tiếng pháo nổ, Ngô hầu và Đinh Phụng chợt thấy một đội cờ lam, từ đông tây nam bắc tủa ra từng đợt nhân mã, toàn là thiên tướng tinh binh, khí thế oai dũng ngất trời. Phút chốc đội binh đã tiến thẳng đến trước đài. Lục Tốn nói với Tôn Quyền:
- Bọn họ đóng giả quân địch đấy!
- Thế giặc mạnh như vậy, ông có thể phá được chăng?
Tôn Quyền vừa dứt lời, chợt thấy cờ vàng phất ra, tức thời có một đội nhân mã khác như từ dưới đất chui lên, bốn mặt nghênh địch, đánh xắp tới khiến cho đội quân lam phải bỏ chạy tuốt lên đầu núi xa. Người trên đài đều ngơ ngác. Ai nấy đều khen ngợi không ngớt lời. Ngô hầu cũng chẳng khỏi buột miệng nói:
- Bất ngờ chế thắng, dụng binh như thần!
Dè đầu lão tướng Đinh Phụng lại lắc đầu, tay chỉ về phía quân lam chạy lên núi, nói:
- Đáng tiếc không có một đội nhân mã nào mai phục để xuất kỳ bất ý tận diệt địch!
Lục Tốn nghe vậy liền mỉm cười. Chợt trên ngọn núi khác không xa mấy, dấy lên một làn khói bốc thẳng lên trời. Vùng đất này sau này được gọi là gò Khói. Nguyên làn khói này là một tín hiệu. Phía sau ngọn núi mà Đinh Phụng đưa tay chỉ đó đã có sẵn một đội nhân mã mai phục trước rồi, và đội nhân mã này nhanh như chớp xông ra chém giết, khiến cho "quân địch" chạy lên núi đã bị vây kín mít, phải lột mão cởi giáp qui hàng.
Tôn Quyền và lão thần Đinh Phụng thấy Lục Tốn dụng binh như vậy đều nức nở khen ngợi không ngớt miệng.
Từ đó, Tôn Quyền yên lòng giao hết binh quyền cho ông. Về sau, Lục Tốn lãnh binh đóng ở Lục Khẩu, hai nước Nguỵ, Thục đều không dám xâm phạm.
Sau buổi tập trận đó, ngọn núi vô danh này có tên là núi Ẩn Mã.
Thần Đạn Tử Đinh Phụng
Truyền thuyết nói rằng đại chiến Xích Bích diễn ra từ đầu sớm mai cho đến tối. Khổng Minh ở trên núi, sau khi cần gió đông xong, liền lén lên chiếc thuyền nhỏ để Triệu Vân đưa về. Kế hoạch này đã bị Đông Ngô biết trước, nên họ đã sai Đinh Phụng dùng thuyền đuổi theo.
Trên sông, thuận buồm xuôi gió, thuyền nhỏ như thớt ngựa thoát cương, như tên rời cung vùn vụt băng đi. Đinh Phụng ở trên thuyền lớn cùng với bọn binh sĩ cố gắng chèo thuyền đuổi theo, mắt thấy đốm đen nhỏ trước mặt càng lúc càng lớn, và rồi đã nhìn thấy cột buồm. Triệu Vân thấy chiến thuyền Đông Ngô đuổi tới, ông bèn bắn ra một mũi tên, làm đứt dây buồm thuyền lớn, tức thời buồm bị hạ ngay. Thuyền Đông Ngô không cách chi đuổi kịp thuyền Gia Cát Lượng. Đinh Phụng giận đến nghiến răng, lòng nghĩ: "Chớ ỷ Thường Sơn Triệu Tử Long mi có bản lãnh, ta cũng sẽ cho mi thấy cái lợi hại của Đại tướng Đông Ngô!" Thuận tay, từ trong túi ông móc ra viên đạn sắt, nhắm ngay cột buồm nhỏ trên thuyền Khổng Minh búng một phát. Chỉ nghe "xoẹt" một tiếng, một vệt đen đã bay thẳng đến chiếc ròng rọc để kéo dây buồm, trúng ngay giữa mắt chiếc ròng rọc, làm người trên thuyền phải giật mình. Họ còn chưa biết viên đạn từ đâu bắn tới thì đã nghe "rắc", "tách tách", "bốp bốp", "xoẹt xoẹt" liên thanh. Tiếng "rắc" là tiếng chiếc ròng rọc bị vỡ làm hai mảnh. Tiếng "bốp bốp" là hai viên đạn sắt rơi xuống ván thuyền. Còn tiếng xoẹt xợt" là tiếng buồm và dây rơi xuống. Cái buồm bị bắn rơi phủ ngay lên đầu Khổng Minh đang ngồi trong khoang khiến bọn tiểu binh hết hồn lo sợ. Triệu Vân vội dùng trường thương hất chiếc buồm, kéo Khổng Minh ra, rồi bỏ thuyền lên bờ, nhắm hướng đông nam chạy thẳng.
Từ đấy về sau, Đinh Phụng nổi tiếng như cồn, người người đều xưng tụng ông là "Thần Đạn Tử bách phát bách trúng" Đinh Phụng. Ở huyện Gia Ngư, ông bà thường kể cho con cháu nghe tuyệt kỹ này. Họ còn lập miếu, đắp tượng để thờ phụng, tay tượng thần có cầm hai quả thần đạn.
Cứu Cháu Bảy Đời
Ai cũng biết Gia Cát Lượng là một nhà tiên tri mưu trí hơn người.
Một hôm, Gia Cát Lượng đã đoán biết ngày chết của ông sắp đến, nên ông đã chuẩn bị trước một túi gấm, giao cho con mà dặn:
- Con hãy cất giữ vật này. Đến khi con chết thì đem nó giao lại cho con của con! Khi con của con chết thì đem nó giao lại cho cháu của con! Con con cháu cháu đời đời truyền giữ lấy. Và nhớ là đừng có mở ra! Chừng nào tới người cuối cùng bị họa xử tử thì hãy giao túi này cho quan trên!
Nói xong, ông từ từ nhắm mắt đi xuôi.
Con của Gia Cát Lượng tuân theo lời căn dặn của cha, cất giữ túi gấm và đời đời truyền giữ. Gia Cát Linh là cháu đời thứ bảy của Gia Cát Lượng. Gia Cát Linh lỡ tay đánh chết người, người ta kiện ông tới huyện nha đòi thường mạng. Cả nhà lớn bé đều khóc than sầu não. Bấy giờ Gia Cát Linh sực nhớ tới chiếc túi gấm do tổ tiên truyền lại, ông bèn lấy chiếc túi giao cho quan huyện. Quan huyện vửa định mở ra xem, chợt thấy trên mặt túi có viết: "Xuống bệ ba bước hãy xem!" Vì bên trên túi có đóng dáu ấn vua, nên quan huyện không dám vội vã, liền bước xuống bệ đường ba bước. Quan huyện còn chưa kịp xem bản văn thì "rầm" một tiếng, chiếc đà trên nóc nhà đã rơi xuống đập nát chiéc bàn. Quan huyện thấy vậy thì giựt thót người, vã mồ hôi trán. Ông ta nghĩ: "Thật nguy hiểm! Nếu chiếc túi gấm này không bảo ta bước xuống bệ ba bước hãy xem thì ta đã toi mạng rồi!" Theo đó ông mở túi gấm ra xem, thấy vỏn vẹn có hai câu: "Tôi cứu ông khỏi chết, ông cứu cháu bảy đời của tôi". Phía dưới ký tên "Tiểu nhân Gia Cát Lượng". Quan huyện hỏi kỹ lại sự tình, Gia Cát Linh đúng là cháu bảy đời của Gia Cát Lượng. Do đó, quan huyện chẳng nói lời nào, bèn tìm cách cứu Gia Cát Linh khỏi chết.
Tư Mã Ý trộm sách
Tương truyền Tư Mã Ý và Gia Cát Lượng thuở còn nhỏ là bạn học cùng thầy.
Ấy là vào những năm cuối đời Đông Hán, triều chính hủ bại, quần hùng nổi dậy, thiên hạ đại lọan. Thầy của họ là người uyên thâm học vấn, ẩn cư trong sơn lâm, nhưng lòng hằng muốn cứu bá tánh thiên hạ. Phụ thân của Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý là bạn bè, đều quen biết vị thầy này, do đó, họ mới đem con gởi cho ông. Hai đứa trẻ thông minh lanh lợi, cần mẫn học tập, học lực xấp xỉ, không ai nhường ai.
Ông thầy có một bộ sách do tiên nhân bí truyền. Trong sách đầy đủ thiên văn, địa lý, hành binh bố trận, định quốc an dân..., có thể nói đó là thiên hạ đệ nhất kỳ thư và do đó gọi là tiên thư. Ông thầy tuổi hạc đã cao thế mà không con cái, ông định đem sách này giao cho một học trò yêu ái nhứt. Nhưng hai học trò này, biết truyền lại cho ai bây giờ?
Một hôm, ông thầy dẫn Gia Cát và Tư Mã Ý lên ngọn núi nhỏ sau nhà, ông giảng cho cả hai nghe thuật hình thế núi sông, hành binh bố trận. Chợt nghe một tiếng kêu to. Ba thầy trò ngẩng đầu nhìn lên thì thấy trên vách núi phía trước mặt có một tiều phu đốn củi, vì bất cẩn bị té xuống. Ông thầy vẫn bình thản tiếp tục giảng bài. Tư Mã Ý cũng tỉnh bơ như không việc gì xảy ra, và an nhiên ngồi nghe. Nhưng Gia Cát Lượng thì chạy bay xuống núi đỡ người tiều phu trọng thương ấy dậy, lại quanh quất đi tìm lá thuốc, nhai đắp vết thương và xé vạt áo băng bó cho ông. Bây giờ, ông thầy cũng vừa dẫn Tư Mã Ý xuống núi, giúp Gia Cát Lượng đưa người tiều phu trở về nhà.
Qua một thời gian sau, Gia Cát Lượng tiếp được thư nhà báo cho biết cha bị đau nặng. Gia Cát Lựơng đành nuốt lệ từ giã thầy và bạn học, vội vã trở về nhà. Không lâu sau, phụ thân ông qua đời. Ông buồn bã lo việc chôn cất cha xong, mới trở lại bên thầy. Kể cũng lạ, sau đó mấy ngày, Tư Mã Ý cũng nhận được thư nhà báo là mẹ đau nặng. Nhưng Tư Mã Ý sợ sau khi đi, thầy sẽ đem kỳ thư giao cho Gia Cát Lượng, bèn hối hả viết thư trở về nhà, rốt cuộc ông vẫn không về.
Sau đó mấy tháng, ông thầy bị cảm bệnh phong hàn. Hai học trò phục vụ bên giường, lo thuốc thang ân cần chăm sóc. Nhưng thấy đã quá già, cơ thể suy yếu, bệnh tình ngày càng trầm trọng thêm. Một hôm, Gia Cát Lượng ra ngoài hái thuốc. Tư Mã Ý ở bên giường hầu hạ. Ông thấy thầy đã mê man không biết gì, ông bèn lén vô phòng sách của thầy lục lọi tìm kiếm. Cuối cùng ông đã tìm được một chiếc rương nhỏ, mở ra xem, quả nhiên bộ kỳ thư nằm ở đây. Ông nghĩ, gần đây thầy thương Gia Cát Lượng hơn, nếu còn đợi nữa thì bộ sách quý nhất định sẽ vào tay Gia Cát Lựơng. Vô độc bất trượng phu, kỳ thư đã đến tay, bây giờ không lấy đi còn đợi đến chừng nào nữa? Thế là ông ẵm gọn chiếc rương và bỏ trốn đi biệt tăm.
Khi Gia Cát Lượng đi hái thuốc về, thầy liền mở mắt, bảo Gia Cát Lượng đỡ ông xuống giường bệnh. ông thầy móc phía dưới giường lấy ra một chiếc túi vải vàng, hai tay trao cho đứa học trò yêu, khẽ dặn.
- Sau khi thầy mất, con hãy đốt hết nhà của rồi mau đi xứ khác.
Nói xong, ông an nhiên xuôi tay nhắm mắt.
Gia Cát Lượng tuân theo lời thầy dặn. Ông đau lòng đốt căn nhà và thi thể thầy, quảy chiếc túi vải vàng trở về nhà, rồi theo chú đến Nam Dương, ẩn cư ở Long Trung, chuyên cần đọc sách.
Lại nói Tư Mã Ý sau khi trở về nhà, ông mở chiếc rương, lấy thiên thư ra xem. Lật đến trang bìa phía sau thì thấy có viết mấy cau: "Định quốc cần thương dân, tận hiếu thờ cha mẹ, hai điều đều trái lẽ, sao truyền sách cho được?" Ông thẹn quá thành giận, liền dẫn người đến nhà thầy, ai ngờ ở đây sớm đã biến thành đống tro than rồi.
Ba Lần Mời Ụ Lò Sắt
Tôn Quyền giao cho Lỗ Túc lo việc chế tạo các thứ binh khí. Lỗ Túc một mặt dẫn người lên đồi cao góc tây bắc Thổ Thành Thái Bình dựng nhà xây lò, một mặt đi tìm thợ rèn giỏi.
Gần đó có anh thợ rèn họ Trần tay nghề rất cao, người ta gọi anh là "Ụ Lò Sắt". Vợ anh vì bị con em phú hào cưỡng hiếp, đến phải treo cổ tự vận. Quan phủ lại bao che cho hành động bỉ ổi đó. Ụ Lò Sắt chẳng làm sao kêu oan được. Anh ta thề rằng, từ đây về sau quyết không dính dáng gì tới bọn quan viên nữa. Lỗ Túc quyết lòng mời cho được Ụ Lò Sắt ra giúp mình. Ông dẫn tùy tùng tìm đến nhà Ụ Lò Sắt, hỏi:
- Ông thầy Trần có nhà không ạ ?
Một đứa bé trả lời:
- Thầy đi thăm bà con rồi.
Lần đầu Lỗ Túc tìm không gặp, chỉ còn cách trở về Thổ Thành.
Hôm sau, người của Lỗ Túc báo là Ụ Lò Sắt đã trở về nhà rồi. Lỗ Túc vội đi gặp anh. Trên đường ông gặp một người trung niên đang dắt tay một bà cụ từ đằng trước đi lại. Lỗ Túc xuống ngựa, thi lễ hỏi:
- Xin hỏi tráng sĩ, có biết thầy Ụ Lò Sắt có nhà không?
Bà cụ đang dợm đáp thì người trung niên đã cướp lời nói trước:
- Tiểu nhân chả biết ụ lò sắt, ụ lò đồng gì ráo!
Đoạn người ấy xoay qua nói với bà cụ:
- Mẹ , mình đi thôi kẻo trễ!
Lỗ Túc chỉ còn cách lên ngựa tới nhà Ụ Lò Sắt, hỏi đứa học trò nhỏ. Đứa học trò đáp:
- Thầy tôi vừa dẫn bà cụ đi rồi!
Lỗ Túc chợt hiểu, người trung niên mà ông gặp trên đưùơng ấy chính là Ụ Lò Sắt. Ông bèn gởi hai trăm lạng bạc và viết một phong thư nhờ đứa học trò trao lại cho Ụ Lò Sắt.
Sáng sớm hôm sau, đứa học trò nhỏ chạy tới xin được gặp Lỗ Túc. Nó dâng cho Lỗ Túc thư trả lời của Ụ Lò SẮt. Thư viêt rằng: "Tiểu nhân đã có lời thề không làm thợ rèn nữa; tướng quân có lòng tốt, thật thẹn không dám lãnh, hai trăm lạng bạc này theo thư xin trả lại; đã phạm đến oai hùng, kính xin tha thứ".
Ngày thứ ba Lỗ Túc đặc biệt thức dậy sớm, ông chỉ dẫn theo hai kẻ tùy tùng, đi bộ tới nhà Ụ Lò Sắt, mong gặp mặt để mời. Khi Lỗ Túc vô tới thôn, trời còn chưa sáng. Chợt ông thấy một bóng đen dang muốn lẻn vô cửa sổ phía sau nhà Ụ Lò Sắt. Lỗ Túc đoán tên này hẳn không phải là người tốt, liền bước nhanh tới trước chặn lại. Hai tùy tùng phía sau vội sấn tới bẻ quặt hai tay tên này ra sau lưng. Ụ Lò SẮt nghe động, giật mình tỉnh giấy, vội phóng ra xem. Anh nhận ra ngay tên ấy chính là tử đệ của phú hào đã hại vợ anh chết. Lỗ Túc vặn hỏi, thì ra tên ác ôn này nghe nói có người tặng hai trăm lạng bạc cho Ụ Lò SẮt, hắn muốn tới cướp. Hai án nhập một, tội trạng càng tăng, Lỗ Túc sai thủ hạ trói hắn lại, giải tới nhà lao và phán xử trọng tội.
Ụ Lò Sắt thấy Lỗ Túc làm quan thanh liêm ngay thẳng, lấy lễ đối với người tài, còn giúp anh trả được mối hận, bèn sắp xếp việc ăn ở cho bà cụ, đoạn dẫn đồ đệ theo Lỗ Túc đi chế tạo binh khí.
Người đời sau gọi những binh khí cao cấp mà anh chế tạo khi ấy là "Ụ Lò Sắt" mãi cho đến bây giờ.
Thiếu Lương Mời Khách
Năm Lưu Bị trú quân ở Công An, trong quân thiếu lương thực. Trương Phi lo lắng lăng xăng, muốn đại ca nghĩ ra biện pháp. Lưu Bị cười hề hề nói:
- Đừng quýnh quáng như vậy, ta đang muốn nhờ chú đi làm một việc. Việc này mà làm tốt thì lương thực hẳn có.
Trương Phi hỏi làm việc gì, Lưu Bị nói:
- Ta đang chuẩn bị làm trăm bàn tiệc mời dân đến dự, chú đi lo liệu giúp nhé!
Trương Phi nghe mà giật mình, nói:
- Đại ca, anh làm sao thế? Anh không biết trong quân đang thiếu lương thực mà lúc này lại bày vẽ mời khách, như thế chẳng là bể mặt sao? Sao mà làm khổ mình đến thế?
Lưu Bị cười:
- Càng thiếu lương thì càng không thể thiếu lễ! Vả lại, không có lương thực chẳng lẽ không mời khách được sao? Ngoài thành có núi, bên thành có sông, có thể lên núi săn bắn, xuống sông bắt cá mà!
Trương Phi vẫn chưa hiểu được ông anh của mình tính kế gì, nhưng ông cũng vâng mệnh lệnh đi chuẩn bị mọi việc.
Tiệc tùng đang sắp sửa dọn ra, dân chúng cảm thấy Lưu Bị đã để mắt tới họ, nên trong lòng ai nấy đều vui nhưng chưa biết trong quân sẽ làm tiệc bàn gì để chiêu đãi đây.
Tiệc đã bắt đầu. Món thứ nhứt dọn lên là gà rừng, món thứ hai là vịt nước, theo đó là heo rừng, thỏ rừng, cá nướng, cá hấp. Món ăn thật ê hề, rượu cũng không tệ, nhưng chờ mãi không thấy cơm. Lúc này Lưu Bị tự đi rót rượu mời khách, ông nói:
- Hôm nay anh em bà con thứ lỗi cho, những món ăn trong quân tôi có ngon thì cùng ăn, mà có dở thì cũng đừng chê. Chúng ta lấy rượu thay cơm vậy. Xin mời hãy cạn ly, chừng nào say hãy nghỉ!
Mọi người thoạt nghe thì trong lòng đã hiểu, nâng ly cùng cạn, uống hết mới tan.
Hôm sau, dân chúng lũ lượt, kẻ gồng người gánh, lớp thuyền lớp xe, họ chở lương thực đem đến tặng cho Lưu Bị. Chưa được nửa ngày, lương thực đã chất thành đống. Bấy giờ Trương Phi mới hiểu ra dụng ý của Lưu Bị; lấy lễ mời khách, có qua có lại; trên tiệc có cá có thịt, Duy chỉ thiếu có cơm để cho dân chúng thấy vậy mà biết. Ông hết sức phục cao kiến của đại ca.
Gia Cát Lượng Điếu Chu Du
Cả dải Sa Thị - Kinh Châu đều lưu truyền câu: Gia Cát Lượng điếu tang - giả nhân giả nghĩa. Vậy câu chuyện này như thế nào?
Truyền thuyết nói rằng, Gia Cát Lượng ba lần chọc tức Chu Du, lần thứ ba là ở ngoài cửa nam thành Kinh Châu, làm Chu Du tức đến phải hộc máu tươi, từ trên ngựa té xuống mê man bất tỉnh. Chúng tướng Đông Ngô chỉ còn cách đỡ ông trở về.
Chu Du về đến Đông Ngô, ngước đầu than dài:
- Ôi! Ông trời đã sinh Chu Du sao lại còn sinh Gia Cát Lượng? Gia Cát Lượng mà không chết, mối hận trong lòng ta khó tiêu được!
Và ông đã nghĩ quàng xiên: "Mình giả chết nằm trong quan tài, gạt Gia Cát Lượng tới điếu tang mà giết hắn vậy!”
Gia Cát Lượng tiếp được thiệp báo tang của Đông Ngô gởi tới, bèn nói với Lưu Bị:
- Chu Du là một tướng tài đáng gờm! Hiện giờ tuy với chúng ta là địch, song ấy cũng là ai vì chúa nấy. Ông ta đã lên trời, tôi cũng nên đi điếu ông ta.
Lưu Bị vội ngăn lại:
- Quân sư không cần thiết phải mạo hiểm như vậy, sợ e mắc kế Đông Ngô chăng?
Gia Cát Lượng nói:
- Khi Chu Du còn sống, tôi còn chưa sợ ông ta, như nay ông ta đã chết rồi, chẳng lẽ tôi lại sợ sao? Ví bằng đây là bẫy đi nữa, tôi cũng tự có cách đối phó.
Nói xong, ông dẫn Triệu Vân cùng lên đường.
Gia Cát Lượng đến linh đường Chu Du, nhưng thấy linh bài đặt ở giữa, lò hương nghi ngút khói, ánh nến sáng choang, mà chúng tướng Đông Ngô thì mang đao kiếm, mặt hầm hầm đứng hai bên, chẳng có vẻ chi đau buồn cả. Trong lòng Gia Cát Lượng đã hiểu hơn một nửa. Ông vẫn bình tĩnh bước tới bên quan tài. Lại thấy trên nắp quan tài có mười chín cái lỗ nhỏ, trong lòng lại càng tỏ hơn, đồng thời cũng đã có sẵn cách đối phó. Gia Cát Lượng sắp xếp tế vật ở linh tiền xong, ông thắp hương đốt giấy tiền, sau đó cúng rượu đọc văn tế, khiến người nghe chẳng khỏi xót xa. Cúng tế xong ông phục trên quan tài khóc đau đớn, khóc một tiếng "Chu đô đốc" lại đập lên nắp quan tài một cái; khóc một tiếng "Công Cẩn huynh" lại đập lên quan tài một cái nữa; đập đến nỗi quan tài kêu "pinh pinh", người bên cạnh khuyên ông cũng không ngừng, kéo ông , ông cũng không chịu ra, thật cha mẹ vợ con ông chết cũng chưa bằng!
Chúng tướng Đông Ngô thấy vậy đều cũng buồn lây, có người nghĩ: "Ngày thường chúng ta đều nghĩ rằng Đô đốc và Gia Cát lựơng là kẻ cừu, nay thấy ra, cảm tình hai người thật là thắm thiết!". Có người nghĩ: "Khi đại chiến ở trận Xích Bích, Gia Cát tiên sinh vốn thật tình giúp chúng ta, vậy mà khi ấy Đô đốc cứ muốn giết ông; bây giờ nghĩ ra cách này để giết Khổng Minh, thế thì thật là bây!". Do đó mọi người đều không nỡ lòng hạ độc thủ.
Sự thực Gia Cát Lượng chỉ giả vờ thôi. Ông thoạt thấy kẻ hở, nên lúc cúng rượu thắp hương, ông đã ngầm lấy sáp nến vo tròn bỏ trong ống tay áo. Khi đập tay trên quan tài, ấy là ông dùng nhnững viên sáp vo tròn đó ém các lỗ khí trên quan tài lại.
Đến khi Gia Cát Lượng tế xong và dẫn Triệu Vân đi, chúng tướng Đông Ngô tới giở nắp quan tài ra thì thấy Chu Du đã bị ngộp thở chết tự bao giờ!
Râu Và Mặt Quan Công
Thuở còn trẻ, Quan Vũ là một thanh niên da trắng mịn màng, sức mạnh hơn người. Ông ngay thẳng, can thiệp chuyện bất bình.
Một hôm, QUan Vũ đi du xuân tới một thung lũng nọ, chợt nghe có tiếng nữ nhân kêu cứu. Ông vội nương theo tiếng kêu mà chạy đến, thấy một công tử ăn mặc diêm dúa ngồi trên ngựa, đang chỉ trỏ cho bọn gia nhân cưỡng bắt một cô gái. Có một cụ già liều mạng xông vô giải cứu thì bị bọn người này đánh cho một gậy lăn ra chết tốt. Quan Vũ thấy vậy liền nổi giận, ông rút bảo kiếm đánh chết mấy tên này, làm cho kẻ chết người bị thương không ít. Tên công tử thấy không xong, vội vã quày ngựa chạy thục mạng, nhưng bị Quan Vũ lia kiếm chặt đứt chân ngựa khiến hắn té xuống đất, Quan Vũ cho hắn một kiếm nữa đứt làm hai đoạn. Quan Vũ quay ngó lại cô gái thì thấy nàng đang nằm co quắp trên đất. Quan Vũ khuyên nhủ nàng mấy lần, cô gái mới nói với ông:
- Tên ác tặc ấy là con của quan huyện, nó muốn bắt tôi làm thiếp, đáng thương cho cha tôi đã bị bọn chúng đánh chết rồi!
Nói xong, nàng khóc lớn. Quan Vũ không còn cách chi, ông móc ra một mớ bạc vụn để xuống đất và lặng lẽ bỏ đi.
Quan huyện nghe tin con bị giết, hắn đâu chịu xuôi tay, bèn cho dán cáo thị, treo giải thưởng cho ai bắt được tên thanh niên ấy. Một hôm, hành tung Quan Vũ bị bại lộ. Bọn quan binh truy lùng ông thật gắt gao. Quan Vũ chạy đến bên núi, thấy một nhà dân, trong nhà có một cô gái đang dệt vải, ông xin được tạm núp trốn trong nhà. Cô gái thấy có người hơ hải chạy vô nhà, sợ đến phát run, nhưng rồi nàng trấn tĩnh lại, vội chỉ chiếc giường nói:
- Anh đừng sợ, cứ giả đò bị bệnh mà nằm trên giường này đi.
Quan Vũ nói:
- Tôi sợ liên luỵ đến cô đấy!
Cô gái đáp:
- Tôi tự có cách!
Nói xong, nàng giết một con gà lấy máu bôi lên mặt Quan Vũ, rồi lại tự cắt tóc của mình dán lên cằm Quan Vũ, bảo ông yên lòng mà ngủ đi.
Lát sau, bọn quan binh đuổi tới, chúng sấn vô nhà cô gái, nạt lớn:
- Con kia, hãy mau giao tội phạm ra!
Cô gái tỉnh bơ nói:
- Tôi ở trong nhà dệt vải, chả thấy tội phạm nào cả!
Quan binh chỉ tay về phía giường, quát:
- Thế ai nằm trên giường kia?
- Dạ đó là chồng tôi, ổng bị bệnh thường hàn, đang phát sốt đấy!
Tên dẫn đầu nói:
- Chồng bà à? Hắn đắp mền giả bộ ngủ, nhất định là tên tội phạm đấy!
Hắn liền xông xộc tới, giật tấm mền ra. Bọn chúng đều ngớ người khi thấy một người mặt đỏ râu dài quá ngực, đang nằm ngủ khì. cả bọn ngó nhau rồi lẳng lặng bỏ đi.
Chờ cho bọn chúng đi xa rồi. Quan Vũ liền bật dậy, hết lời cám ơn cô gái. Cô gái nói:
- Kẻ phải cám ơn là tôi đây. Tôi chính là người con gái mà anh đã cứu lúc trước.
Nhưng từ đó, mặt Quan Vũ trở nên đỏ quạch, còn bộ râu giả dài thườn thượt kia cũng không gỡ ra được nữa.
Mã Tắc Đầu Chúa
Ngoài cửa đông Nghi Thành có một ngôi miếu nhỏ, được gọi là miếu Mã Tắc. Từ đâu mà có tên gọi ấy? Đó là câu chuyện có dính dáng tới việc Mã Tắc đầu chúa thời Tam Quốc.
Nhà Mã Tắc ở trên khúc doi sông Nghi Thành. Từ nhỏ ông quyết chí lập nghiệp, ham đọc binh thư, rắp tâm làm nên sự nghiệp để báo ân nước nhà. Bấy giờ quần hùng đang chia phân, Mã Tắc nghĩ: "Nhà cất cần chọn chỗ đất cao, chim đậu nên chọn cây lành, làm người cũng phải tìm minh chúa mà đầu".
Chính lúc này, Kinh Châu mục Lưu Biểu đã chết. Lưu Tông - con Lưu Biểu - chẳng ra gì, đã đầu hàng Tào Tháo, mở hoác cửa thành hiến trọn Kinh Châu. Lưu Bị một tay khó gây dựng, dẫn nhân mã triệt thoái xuống nam, trên đường phải qua Nghi Thành. Mã Tắc lâu nay nghe tiếng Lưu Bị là người thương dân, có nhân có nghĩa, lại được Gia Cát Lượng và Quan Vũ, Trương Phi là giúp sức, hiện tuy có khốn khó, nhưng sau này hẳn lập nên nghiệp lớn. Do đó, ông quyết lòng đầu Lưu Bị.
Cửa đông Nghi Thành là nơi nhân mã Lưu Bị tất đi qua. Mã Tắc bàn tính với cha lập một quán trà ở cửa đông, thêm nồi lớn, chuẩn bị củi lửa, ngày đêm nấu trà tiếp tế cho đại quân Lưu Bị đi qua. Mã Tắc còn đặc biệt sai người vào núi hái cây thuốc, phối chế với trà, làm cho nước mát dịu và có thể giải độc xua nóng.
Nhân mã Lưu Bị đới lãnh chỉ bất quá vài ngàn, nhưng vì ông phải lo cho bá tánh trốn nạn, cho nên gặp không ít khó khăn, già trẻ kẻ khóc người lạ. Lại chính lúc gặp ngày hè oi bức, bọn họ đã mệt nhừ. Uống được chén trà của Mã Tắc , người người đều cảm thấy ruột thông phổi mát, còn mùi vị sợ e nước cam lộ cũng chưa bằng!
Lưu Bị thấy vậy, trong lòng hết sức cảm động. Ông hỏi: "Ai chủ trương làm việc này?" Mọi người cùng nói, ấy là do hậu ý của Mã Tắc. Lưu Bị bèn dẫn Khổng Minh, Quan Vũ , Trương Phi đến cám ơn Mã Tắc. Mã Tắc khiêm tốn nói:
- Ấy chẳng qua là một chén nước thôi, có lớn lao gì đâu!?
Lưu Bị nói:
- Tuy là môt chén nước, song còn quí hơn cam lộ!
Khổng Minh phe phẩy chiếc quạt lông ngổng tiếp lời:
- Trà ngon người càng ngon, người ngon nước cũng ngon!
Lưu Bị gục gặc đầu, và thu Mã Tắc làm bộ tướng. Người đời sau vì thế kỷ niệm Mã Tắc, đã sửa sang quán trà trở thành "miếu Mã Tắc".
Ba Lần Thử Huyền Đức
Mọi người đều biết chuyện Lưu Bị ba lần mời Gia Cát Lượng. Nhưng sự thật thì trước khi Gia Cát Lượng xuống núi, ông đã thử qua Lưu Bị ba lần!
Lưu Bị vì muốn mời Gia Cát Lượng nên dẫn Quan Vũ, Trương Phi đến Long Trung. Vừa tới núi đã nghe mấy người nông phu vừa vác cày vừa hát:
Cuộc thế như ván cờ,
Một phen định sự nghiệp
Chọn đúng nước cờ đi,
Cờ thua trở thành thắng.
Kẻ biết ổn định chơi,
Đến nên đi quá vội!
Từng câu hát đều đúng với tâm trạng của Lưu Bị. Ông nghĩ, nghe nói Ngọa Long tiên sinh tự cày kiếm ăn, thích hát Lương Phụ Ngâm, phải chăng là đây? Ông vội nhảy xuống ngựa, kêu mọi người đứng chờ, rồi một mình ông bước tới, cung kính hỏi:
- Xin cho biết vị nào là Gia Cát tiên sinh ạ?
Gia Cát Lượng vốn đang ở trong đám người nông dân này, thấy Lưu Bị là hoàng thúc mà không hiềm "lễ bất hạ thứ nhân". Đối với nông dân mà từ tốn cung kính thế này, quả thật là "lễ hiền tạ sĩ", ông đã có mấy phần tình cảm đối với Lưu Bị. Nhưng ông chưa ra mặt, muốn tìm cơ hội thứ hai để thử Lưu Bị.
Một hôm trời đỗ tuyết, dải Long Trung trắng xóa, Lưu Bị và Quan Vũ, Trương Phi, ba anh em mang hậu lễ, trải gió đội tuyết đến Long Trung lần thứ hai. Khi họ vừa qua khỏi hàng rào tre của một quán rượu không xa, chợt Lưu Bị nghe có người ở trong quán ngâm thơ:
Văn Vương cầu hiền Khương Thái Công
Di Ngô, Nhại Nghị, thảy thảy hùng
Trương Tử Phòng cầu Di lượm dép
Thạch Công nhân kiệt thử ba lần.
Lưu Bị vội xuống ngựa trở lại quán rượu, lại nghe có người ngâm tiếp:
Trên sườn núi Ngọa Long
Lược thao chứa đầy bụng
Một sáng sớm xuân, đông
Tiếng nổ rền bốn phương.
Lưu Bị nghe xong, cảm thấy chỉ có Ngọa Long tiên sinh mới có khẩu khí thế ấy, ông liền xô cửa bước vô quán. Chỉ thấy có hai người đang ngồi bên bàn uống rượu, Lưu Bị bước tới hỏi thăm, thì ra hai người đó là Thạch Nghiễm Nguyên và Mạnh Công Uy. Lưu Bị nghĩ họ và Gia Cát Lượng hẳn quen biết, nên mời họ theo mình cùng lên núi thỉnh Gia Cát Lựơng. Thạch Nghiễm Nguyên khuyên:
- Lưu tướng quân, nhà họ Lưu các ông đã ngồi giang sơn bốn trăm năm, không đời nào như đời nào. Nay tướng quân muốn giao tranh với Tào Tháo, bất quá là trứng chọi đá thôi!
Mạnh Công Uy cũng tiếp lời:
- Lưu tướng quân, trước kia Sở Hán tương tranh, Sở Bá Vương bị Cao Tổ Lưu Bang bức đến phải tự vẫn ở Ô Giang. Hiện giờ ông có thể so với Sở Bá Vương khi ấy không?
Lưu Bị nghe xong, nghiêm sắc mặt nói:
- Lời nói của hai ông sai rồi! Sao có thể lấy thành bại mà luận anh hùng? Nếu nói về cái dũng của thất phu thì tôi so không hơn Tây Sở Bá Vương, song ở trường hợp đó, tôi quyết không rút gươm tự vẫn, mà phải qua sông trở về Giang Đông chỉnh đốn lại cờ trống! Ta không như kẻ tiểu nhân nản lòng nửa đường mà bỏ.
Gia Cát Lượng ở trong nhà nghe Lưu Bị nói thế, trong lòng thầm khen.
Mùa xuân năm sau, Lưu Bị lại dẫn Quan Vũ, Trương Phi tới Long Trung nữa. Gia Cát Lượng nhác thấy họ còn ở đằng xa, ông vốn muốn lánh đi song không nỡ xử tệ với người trung hậu như Lưu Bị. Mãi cho đến lúc Lưu Bị gõ cửa, ông vẫn chưa có chủ ý dứt khoát, chỉ biết để nguyên y phục mà nằm giả vờ ngủ. Lưu Bị bảo Quan Vũ, Trương Phi đứng hầu bên ngoài, tự mình khẽ bước đến chỗ Gia Cát Lượng năm. Thấy Ngọa Long tiên sinh còn đang ngủ ngon, ông chẳng dám làm kinh động. Trong nhà ngoài cỏ lặng lẽ như tờ, cơ hồ ngay tiếng con kiến bò cũng có thể nghe thấy, Gia Cát Lượng càng nằm càng bứt rứt, lòng nghĩ, nếu không lý gì tới sự kính trọng của Lưu Bị, và ngay cả hai người em tính nóng như lửa theo ông như vầy thì thật chẳng phải. Cuối cùng, Gia Cát Lượng sau ba lần thử Lưu Bị, mới nhận lời làm quân sư cho Lưu Bị.
Thu Chu Thương
Một hôm, Quan Công đi ngang qua núi Ngọa Long Ngưu, chợt thấy ở lưng chừng núi có một đại hán râu ria mặt như lọ chảo tên Chu Thương, chạy xuống quát:
- Hãy nộp tiền mãi lộ!
Quan Công khẽ cười, dừng ngựa để đao nói:
- Mi muốn đòi tiền mãi lộ phải không? Hãy hỏi cây đao này xem nó chịu không?
Chu Thương nổi giận, một thương đâm tới. Quan Công giơ đao cản lại. Đánh nhau chừng mười hiệp, Quan Công vờ nạt lên một tiếng lớn và chỉ nhẹ hất một cái, Chu Thương đã té xuống ngựa.
Chu Thương tính tình cứng cỏi, chưa chịu thua, liền thót lên ngựa, và cũng chẳng thèm nói một tiếng, lại dùng thương đâm tới. Do đó, hai bên đánh nhau một trận nữa.
Quan Công cảm thấy thương pháp của đối phương vững chắc, sức mạnh hơn người nên nghĩ thầm: "Ta có thể dùng trí thu phục tên hữu dũng vô mưu này!" Do đó, ông đưa ra phương pháp tỉ thí khác với điều kiện nếu Chu Thương thua thì phải làm lính trước ngựa của Quan Công, Chu Thương đồng ý.
Quan Công thấy bên ruộng có đống rơm, bèn rút ra một cọng, và nói với Chu Thương:
- Mi có thể ném cọng rơm này qua ngôi đình bên kia đường không?
Chu Thương chẳng cần nghĩ ngợi, buột miệng nói:
- Có gì khó đâu!
Và ông cầm cọng rơm, dùng sức ném mạnh đi, nhưng cọng rơm chỉ bay được một trượng cao là đã rơi xuống đất. Quan Công cũng cầm cọng rơm, nhưng nhẹ ném đi, cọng rơm đã bay qua bên kia đình. Sau đó ông hỏi Chu Thương:
- Mi xem, bản lĩnh ta thế nào?
Chu Thương vẫn chưa phục, nói:
- Lần này không kể, thử keo nữa đi!
Quan Công gật đầu, chỉ con kiến nhỏ đang bò trên mặt đất, nói:
- Mi có thể đâm chết con vật nhỏ nhít này không?
Chu Thương sợ con kiến bò mất liền giơ quyền đấm mạnh một quả. Xem lại con kiến nhỏ vẫn còn bò. Ông đổ quạu, đánh luôn cho ba đấm nữa. Song con kiến vẫn không chết.
Quan Công ha hả cười lớn, ông bưóc tới giơ ngón tay chà nhẹ con kiến một cái, con kiến đã bị nát bấy.
Chu Thương há hốc miệng, ngẩn người. Quan Công thấy vậy, bảo tùy tùng đem tới một quả trứng gà, đưa cho Chu Thương rồi nói:
- Nếu như mi có thể dùng tay bóp nát quả trứng này, kể ra mi cũng còn có chút tài!
Chu Thương để quả trứng trong lòng bàn tay, bóp chặt lại, nhưng quả trứng trước sau vẫn không bể.
Quan Công lại cười, nói:
- Quả trứng nhỏ thế này mà sao dùng sức đến như vậy!?
Theo đó ông tiếp lấy quả trứng, dùng hai ngón tay kẹp nhẹ một cái, quả trứng đã bể, Chu Thương thấy vậy liền quì xuống nói lia:
- Xin bái phục! Xin bái phục!
Từ đó, Chu Thương trở thành tên lính trước ngựa của Quan Công, Vác đao dắt ngựa cho ông.
Thanh Long Yển Nguyệt Đao
Người xem qua "Tam Quốc diễn nghĩa" đều biết câu nói "Dưói háng Xích Thố thiên lý mã, tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao" của Quan Công. Ngựa Xích Thố vốn là của Đổng Trác tặng Lã Bố. Về sau, ở lầu Bạch Môn, Lã Bố bị bắt và ngựa Xích Thố đã thuộc về Tào Tháo. Tào Tháo vì muốn mua lòng Quan Vũ, nên đem con ngựa này tặng cho Quan Vũ. Thế còn Thanh Long Yển Nguyệt đao thì có xuất xứ như thế nào?
Truyền thuyết nói rằng, thuở Quan Vũ còn trẻ, võ nghệ siêu quần, chỉ hận là chưa có thanh đại đao nào vừa tay để sử dụng. Do đó, ông mời tất cả thợ rèn giỏi ở khắp vùng lân cận tới nhà bàn tính để rèn cho ông một đại đao tốt nhất. Một người thợ nói:
- Chẳng hay Quan tráng sĩ muốn loại đao nào ạ?
Quan Vũ hỏi ngược lại:
- Thế tổng cộng có mấy loại đao?
Người thợ nói:
- Có sáu loại; thiết đao, cương đao, thuần cường đao, nhu cương đao, thanh cương đao, bảo đao. Thiết luyện lâu ngày thành thuần cương, thuần cương luyện lâu thành nhu cương, và luyện nữa thành thanh, rồi lại thành bảo. Một số người chỉ biết chế tại thiết đao và cương đao thôi. Chí như thuần cương đao, rèn mười thanh đã bị hư hết chín; nhu cương đao rèn một trăm thì lại hư hết chín mươi chín; còn như thanh cương đao, bảo đao kể là trân bảo, thế gian hiếm có.
Quan Vũ nghe vậy, bèn nói:
- Quan mỗ muốn rèn một bảo đao.
Bọn thợ rèn nghe lời nói đấy đều lắc đầu lè lưỡi. Quan Vũ nói:
- Các vị khỏi phải lo, cho dù rèn bao nhiêu đao, Quan Vũ tôi đều gánh hết, không thiếu đồng nào đâu.
Bọn thợ nghe ông nói thế, bèn bắt đầu khởi công chọn sắt rèn cho Quan Vũ một thanh đao. Rèn luôn mười thanh đều hư cả mười, ngay như cương đao cũng không thành. Quan Vũ thấy vậy cũng chẳng trách móc chi, mà ngày ngày còn đãi bọn thợ đầy đủ rượu thịt, trong lòng bọn thợ cảm thấy áy náy, lại đem hết tinh thần cố gắng cẩn thận mà rèn nữa. Rốt lại, ngày kia đã rèn được một lưỡi thanh cương đại đao, ánh ngời ngời, buốt căm căm. Những người thợ rèn hết sức vui mừng, vội đưa tới cho Quan Vũ. Quan Vũ hỏi đao gì, bọn họ đáp là thanh cương đao. Quan Vũ bảo là cần phải luyện nữa. Bọn thợ rèn nói:
- Quan tráng sĩ, thanh cương đao có thể chém được sắt, ấy là trân bảo thế gian rồi. Thanh hồng kiếm cũng chính là thanh cương. Thanh cương mà luyện bảo, chúng tôi thật không dám bảo đảm, nếu luyện nữa sợ e hư thôi, và như thế có hối cũng không kịp.
Quan Vũ khoát tay:
- Đừng lắm lời, Quan mỗ cần bảo đao!
Bọn thợ rèn không biết làm sao hơn, đành đem đại đao luyện nữa. Luyện đến lúc lửa tối hậu thì trời sụp tối, vành trăng tròn đã treo trên không. Chợt trong lò bắn ra một luồng hào quang sáng ngời vút thẳng lên không. Bọn thợ la lên:
- Không xong, mau tránh ra, đao sắp nổ!
Bấy giờ, hay đâu trên trời có một con rồng xanh lướt qua, con rồng vô tình lại bị luồng hào quang xuyên trúng, hào quang chém trúng thanh long, theo đó lại rút trở về đao khiến máu rồng nhuộm khắp lưỡi đao như xối. Đại đao không nổ.
Thanh Long bảo đao đã luyện thành. Quan Vũ mừng rở, thưởng cho bọn thợ rất hậu. Do vì lưỡi Thanh Long bảo đao này hình bán nguyệt cho nên gọi là "Thanh Long Yển Nguyệt Đao.
Gia Cát Lượng Học Đạo
Lúc Gia Cát Lượng được mấy tuổi thì cha đã qua đời. Mẹ ông phải nuôi nấng mấy đứa con thì không thể làm ăn gì được, do đó bà mới đem Gia Cát Lượng gởi cho một lão đạo làm đệ tử.
Ở đây, mỗi ngày Gia Cát Lượng siêng năng bửa củi gánh nước. Nhờ ông thiên tư thông minh, gặp việc hay hỏi, cho nên thầy và các bạn đồng học đều thương. Một năm đã trôi qua, thế mà thầy chưa dạy cho ông gì cả. Gia Cát Lượng vẫn cung kính hầu hạ thầy.
Hôm nọ, có một đạo nhân ở bên ngoài tới thăm thầy của Gia Cát Lượng. Nhưng gặp lúc thầy đi vắng, Gia Cát Lượng ân cần mời ông ở lại. Trong lúc trò chuyện, đạo nhân nói:
- Thầy cháu có tiên thuật, luyện được quả châu tiên, nếu như uống rượu say, tiên châu sẽ nhả ra ngoài. Chỉ cần được quả tiên châu ấy, cháu có thể thông hiểu thiên văn địa lý, bát quái âm dương, dụng binh như thần.
Gia Cát Lượng đáp lại:
- Đệ tử mong được thầy dạy dỗ đã là cảm ân rồi, đâu dám trộm lấy tiên châu của người.
Trong khi trò chuyện, chợt thầy Gia Cát Lượng trở về, và đã cùng đạo nhân đến thăm đối ẩm, uống đến say khướt. Quả nhiên thầ của Gia Cát Lượng say ngủ, nhả ra một quả bảo châu sắc hồng. Gia Cát Lượng sợ đạo nhân có lòng tham, bèn chộp lấy quả châu. Lúc thầy tỉnh, Gia Cát Lượng liền hai tay dâng bảo châu, trả lại cho thầy. Thầy thấy ông là người thành thật, bèn nói:
- Quả bảo châu này là công quả thầy đã tu chín mươi năm, bấy lâu đã có ý muốn truyền cho con, nhưng e con còn trẻ, lông cánh chưa đủ, hôm nay nó đã lọt vào tay con, thì con hãy giữ nó mà tu luyện.
Gia Cát Lượng biết nếu thầy mà không có bảo châu thì sẽ không còn ở lại thế gian, cho nên thầy có nói gì, ông cũng không chịu nhận.
Từ đó, Gia Cát Lượng càng tôn trọng thầy hơn, tình thầy trò chẳng khác cha con. Mấy năm sau thầy hay bệnh, Gia Cát Lượng ngày đêm hầu hạ bên giường thầy. Thầy ăn cơm, ông đút, thầy tiểu tiện, ông đổ, thế mà ông không một lời than vãn. Có một lần cổ thầy bị đàm chận, Gia Cát Lượng phải dùng miệng hút miệng thầy, do bởi hút mạnh, nên quả bảo châu trong miệng thầy chạy tuốt vô bụng ông, muốn nhả cũng nhả không được, ông liền quì xuống chẳng dám đứng lên. Thì ra ấy là ý thầy muốn truyền bảo châu cho ông. Bấy giờ thầy đưa tay vuốt đầu ông, nói:
- Ta được một đồ đệ tốt như con, cũng đã thỏa lòng lắm rồi. Ngoài quả bảo châu ấy, thầy còn tặng cho con chiếc quạt, nó được dùng trong lúc thầy luyện châu. Châu mà không có quạt thì không linh, quạt mà không có châu thì không uy, hai thứ này không thể thiếu một.
Nguyên chiếc quạt này là một bộ thiên thư, nó do năm lông vũ kết thành. Năm lông vũ này chính là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, hô phong hóan vũ, chuyển động càn khôn.
Sau này để tỏ lòng tôn trộng đối với thầy, ông không hề giơ quạt khỏi đầu. Mãi cho đến nay, những khúc múa về Gia Cát Lượng trên sân khấu vẫn như thế.
Thạch Ngưu Não
Dưới núi Đại Mạc có một thôn tranh tên Thạch Ngưu Não. Vì sao người ta gọi nó là Thạch Ngưu Não? Chuyện bắt nguồn từ thời TAm Quốc, lúc Gia Cát Lượng mượn gió đông.
Truyền thuyết nói rằng, Gia Cát Lượng là thần tiên trên trời giáng thế, có thể hô phong hoán vũ. Vì để giúp Đông Ngô đánh bại tám mươi ba vạn binh mã của Tào Tháo, ông hứa giúp gió đông cho Chu Du ba ngày ba đêm. Đêm ấy ông lên Thất Tinh đàn làm phép, làm luôn ba lần, song chẳng mảy may thấy có chút hơi gió từ hướng đông thổi lại. Mắt thấy giờ hẹn đã đến, ông luôn thầm kêu khổ. Hồi hôm quan sát tinh tượng rõ ràng bây giờ phải có gió đông nam mà tại sao chưa thấy? Ông lại lên đàn trông lên không, quan sát kỹ một lần nữa, thì ra có hai con quái vật từ trên không bay xuống làm nghẽn mất cửa gió núi Đại Mạc. Hai con quái vật này là hai con thần ngưu cửa Ngọc Tuyền Đại Đế. Bọn chúng sút dây dàm, lén xuống hạ giới ăn lúa của bá tánh. Gia Cát Lượng nổi nóng, chụp lấy hai lư hương trên thần đàn ném chúng, quát:
- Súc sanh cút ngay!
Hai lư hương đánh trúng đầu hai thần ngưu, làm chúng từ trên núi té xuống và gió đông đã từ cửa núi ù ù thổi tới , giúp Đông ngô hỏa công binh Tào. Về sau thần ngưu biến thành hai hòn Thạch Ngưu nằm ở đầu thôn dưới núi, từ đó, người ta gọi thôn này là Thạch Ngưu Não.
Tử Long Bắn Buồm
Mặt đông mé bắc cồn Xích Bích có một bãi cát rộng. Lúc nước lớn, bãi ngập trong nước, lúc nước ròng cát vàng trải rộng mênh mang. Theo lời đồn, trên chính bãi cát này, lúc xảy ra trận Xích Bích, danh tướng Triệu Vân của Lưu Bị đã bắn một mũi tên hạ cánh buồm Đông Ngô.
Lúc ấy, Gia Cát Lượng mượn gió đông giúp Chu Du hoả công doanh Tào, đánh bại Tào Tháo. Lẽ ra Chu Du nên cám ơn Gia Cát Lượng không hết, đằng này ông lại sanh lòng đố kỵ, muốn ra tay trừ phứt người tài giỏi này đi.
Gia Cát Lượng đã liệu biết trước Chu Du sẽ qua sông chặt cầu. Cho nên trong lúc gió đông thổi tới, ông liền lẻn xuống Thất Tinh đài, lên thuyền nhỏ của Triệu Vân đến rước, thuận dòng xuôi gió mà cao bay xa chạy.
Sau khi Châu Du biết liền phái Đại tướng Từ Thịnh, Đinh Phụng lên thuyền nhẹ đuổi gấy theo. Trước sau hai thuyền càng lúc càng gần, dần dần hai bên có thể nói nghe nhau được. Gia Cát Lượng phe phẩy chiếc quạt lông, nhàn tản đứng ở đầu thuyền, mắt ngó dòng Trường Giang, tươi cười nói:
- Biển rộng mặc cá nhảy, trời cao phó chim bay, hai vị tướng quân bất tât phải theo nữa cho uổng công!
Từ Thịnh, Đinh Phụng vẫn đuổi mà không buông, huy động đao thương nói:
- Đây không phải là biển, ông cũng không có cánh, xin lỗi, tha cho bọn tôi phải thất lễ!
Triệu Vân nhịn hết nổi, to tiếng trách:
- Các ngươi muốn làm gì chứ? Đừng hòng động tới một sợi lông của quân sư ta.
Từ Thịnh, Đinh Phụng vẫn biết Triệu Vân lợi hại , vì vậy trong lòng có ý hơi gờm,. Nhưng ngoái đầu nhìn lại, hai tướng thấy có nhiều chiến thuyền theo sau, cho nên mặc cho Triệu Vân võ nghệ cao cường, cũng quả bất địch chúng, bèn vờ bình tĩnh căn dặn binh sĩ cứ ra sức tiến tới.
Triệu Vân có thể bách bộ xuyên dương, ông liền lắp tên trương cung định bắn hai tưóng. Chợt ông nghĩ, nếu bắn chết bọn họ rồi thì cừu hận càng kết càng sâu sau này, ông bèn nhích tên nhắm ngay dây thuyền mà bắn. Mũi tên của Tử Long đã bắn đứt đây thuyền, chỉ nghe phành phạch một tiếng, cánh buồm đã rơi bay xuống sông.
Từ Thịnh, Đinh Phụng thấy thiên hạ có tay thần tiễn thế ấy, đều hoảng hồn đến ngẩn cả người. Khi hai người định tỉnh lại thì chiếc thuyền nhỏ đã xa rồi. Bấy giờ, mé sau lại túa ra nhiều chiến thuyền, trên thuyền đầy ắp đại đội nhân mã, do đó bọn họ lấy lại tinh thần và cho thuyền rượt theo nữa.
Hay đâu, cánh buồm bị Triệu Vân bắn rơi đó chợt biến thành một bãi cát rộng, ngăn chặn đường sông phía trước làm cho thuyền Đông Ngô không thể tiếng lên được. Từ Thịnh, Đinh Phụng không còn cách chi, chỉ còn cách quay thuyền, thiểu não trở về gặp Chu Du.
Sau này, người ta gọi đất này là "bãi Tử Long".
Tào Xung Giải Thơ
Tào Xung là con út của Tào Tháo, rất thông minh lanh lợi, lại ham học, gặp chuyện hay suy nghĩ, vì thế đã sớm trở thành thần đồng nổi tiếng.
Năm ấy, Tào Tháo muốn tu sửa lại vườn hoa, ông kêu kiến trúc sư Trương Dực Tông vẽ sơ đồ để ông xem. Trương Dực Tông vẽ xong, đưa đến tướng phủ xin Tào Tháo xem qu. Tào Tháo đang ở trong trướng hội họp. Thoạt xem qua họa đồ, ông liền cầm bút viết mấy câu trên tường chính của bức họa đồ:
Náo thị vô thị khách,
Lâu các thất trung không,
Nhàn hạ tuế nguyệt thiểu
Thời gian cận hoàng hôn.
Trương Dực Tông xem bốn câu thơ này, suy nghĩ một hồi lâu mà vẫn không hiểu ý gì, ông bèn đưa cho các quan trong trướng đang hội họp với Tào Tháo nhờ giải giùm:
- Tiểu nhân ngu ngốc, mong chư vị đại nhân chỉ điểm cho.
Các quan trong trướng cầm xem, nhưng không ai nói lời nào. Bây giờ Tào Tháo mới cười mà hỏi:
- Sao, chẳng lẽ không ai có thể xem biết ý lão phu trong mấy câu đó ư?
- Sao không có được, tôi biết ý mấy câu này rồi!
Bọn người bị Tào Tháo hỏi, thẹn đến đỏ mặt, nhưng nghe đứa con nít nói, lièn giựt mình. Con cái nhà ai mà dám gan mật trả lời trước mặt Thừa tướng như vầy? Bọn họ ngoái nhìn và nhận ra tiểu công tử Tào Xung. Tào Xung đang học ở trong phòng, cậu thấy mệt mỏi, nên ra ngoài dạo chơi một vòng, thấy mọi người đang xúm xít coi cái gì đó, cậu khẽ lần bước đến xem. Cậu xem qua mấy câu này, mắt chớp chớp mấy cái là hiểu ra ngay. Tào Tháo thấy đứa con cưng của mình liền vui ngay, nhưng miệng vờ quát:
- Vỗ lễ! Con nít mà dám múa búa Lỗ Ban trước bao nhiêu người, thiệt là mất dạy!
Bọn quan thừa cơ mượn gò xuống ngựa, nói:
- Thưa thừa tướng, nhờ công tử nói thử xem?
Tào Tháo gật đầu bảo:
- Xung nhi, mau giải thích xem nào!
Tào Xung nói:
- SỰ thực, ý mấy câu này thật đơn giản, chỉ là kêu mở thêm cửa ở mặt tường chính đó thôi. "Náo thị vô thị khách" là nói chữ náo (....) mà không có chữ thị (.....), không là chữ môn (....) sao? "Lâu các thất trung không" là nói bên trong các (....) mà trốn gkhông, cũng chẳng là chữ môn (....) sao? "Nhàn hạ tuế nguyệt thiều" là nói chữ nhàn (....) mà thiếu mất chữ nguyệt (....), cũng chẳng là chữ môn (....) sao? "Thời gian cận hoàng hôn", hoàng hôn mặt trời vừa lặn, chữ gian (....) mà không có mặt trời (....) đương nhiên là chữ môn (....) vậy).
Tào Xung nói luôn một hơn, nói đến Tào Tháo cười lên ha hả. Bọn quan đồng thanh khen Tào Xung là một thiên tài. Tào Xung ngoẹo cổ nói:
- Chẳng biết thiên tài, địa tài gì hết, tôi chỉ là người gặp việc hay động não mà thôi!
Quan Vân Trường Và Đình Đạt Đán
Gác Xuân Thu ở Quan Lăng - Đương Dương được gọi là "Đạt Đán Đình", trên biển cổng có đề "Bình Chúc Đại Đán".
Theo lời đồn cũng như trong thơ văn thường dùng câu thánh ngữ "bình chúc đạt đán" (cầm đuốc thâu đêm) nầy. Lai lịch của nó là từ câu chuyện của Quan Vân Trường, Đại tướng Thục Hán thời Tam Quốc.
Một đời Quan Công thích xem kinh "Xuân Thu", lấy thanh răn mình, sắc răn mình, hương răn mình, vị răn mình. Nói "Thanh răn mình" chính là không nên nghe nhiều âm nhạc quyến rũ; nói "sắc răn mình" chính là không hiếu sắc, đa dâm; nói "hương răn mình" chính là không quá chưng diện, không bôi son phấn mà làm lỡ sự nghiệp; nói "vị răn mình" chính là thức ăn không cần quá trân quí; nói "nhà cửa răn mình" chính là cung thất không cần quá cao rộng; nói "áo xống răn mình" chính là y phục không cần diêm dúa, mượt mà chi cho lắm, ăn mặc vừa phải, cảm thấy thoải mái là được.
Năm ở Tiểu Bái, trận chiến Từ Châu, Lưu hoàng thúc bại tẩu qua đầu Viên Thiệu. Quan Công và hai phu nhân của Lưu Bị đều bị lọt vào tay Tào Tháo. Tào Tháo vì mến mộ Quan Vũ nên đối đãi với ông rất ân cần, đem nhiều gấm, da lông ban cho Quan Vũ, Quan Vũ từ chối không nhận, Tào Tháo cứ ba ngày một tiểu yến, năm ngày một đại yến thết đãi Quan Vũ, song Quan Vũ tự tiết chế, không tùy tiện ăn uống thả giàn. Tào Tháo lại cấp cho Quan Công một ngôi nhà hai gian, Quan Công đem gian trong cấp cho binh già, ông ở gian ngoài. Tào Tháo còn mời nhạc sư diễn tấu âm nhạc quyến rũ, ý đồ làm giảm ý chí phấn đấu của Quan Vũ, nhưng Quan Vũ nghe mà vẫn tỉnh bơ. Tào Tháo lại sai hơn mười gái đẹp đến hầu hạ ông, ông đều cho bọn gái này sang hầu hạ hai vị phu nhân của Lưu Bị, Tào Tháo không làm sao hơn, cuối cùng sắp xếp Quan Vũ ở chung một nhà với hai phu nhân của Lưu Bị, lòng nghỉ để xem lần này ông xử trí thế nào cho biết? Quan Vũ vẫn bất động sắc, đốt đuốc ngồi một mình ngoài cửa, chuyên tâm trì chí đọc kinh "Xuân Thu" suốt đêm ròng mà chẳng thấy mệt. Tào Tháo thấy vậy càng kính phục ông hơn.
Từ đó chuyện Quan Vũ "cầm đuốc thâu đêm" được lưu truyền thế gian. Và để khen tặng Quan Vũ quang minh chính đại, không vì phú quí mà thay lòng, không vì sắc đẹp mà đổi chí, chẳng biết từ năm tháng nào, ở Quan Lăng có xây cất một tòa "Đạt Đán đình". Một vị hoàng đế triều Minh nhân ngự qua đây có đề thơ:
Ngọ dạ hả nhân năng bình chúc
Cửu châu vô địa bất phần hương.
Tạm dịch:
Nửa đêm ai đó còn cầm đuốc
Khắp chốn đâu đây chẳng đốt hương.
Hai câu này là để khen tặng ý chí cương quyết "cầm đuốc thâu đêm" của Quan Công.
Khổng Minh Đốt Binh Giáp Mây
Khổng Minh nam chính đến Cung Đô đánh bại Mạnh Hoạch. Binh sĩ, binh khí Mạnh Hoạch bị hao hớt rất nhiều, lại không có khôi giáp bằng da trâu thì làm sao đây? Quân sư Mạnh Hoạch hiến kế:
- Không có da trâu thì dùng dây mây làm khôi giáp bảo vệ thân thể vậy. Nó có thể chống được đao thương đấy.
Mạnh Hoạch hạ lệnh cho binh sĩ giết voi lấy mỡ, dùng mỡ voi nấu mềm dây mây, chế thành khôi giáp vừa nhẹ vừa mềm, lại rất chắc. Mạnh Hoạch còn hạ lệnh cho binh sĩ lấy xương chân voi chế thành "đô đà" "đai anh hùng) đeo trước ngực làm quân hàm. Đeo "đô đà" càng thêm tăng oai võ hùng tráng, sau đó lại giao chiến với Khổng Minh. Bây giờ Khổng Minh đánh hết thắng nổi, chỉ còn cách lùi binh mấy mươi dặm an dinh hạ trại. Nếu không tin, hiện giờ ở vùng Lương Sơn vẫn còn bộ tộc Di, thanh niên rất thích đeo "đô đà".
Sau lại, Khổng Minh biết binh sĩ Mạnh Hoạch mặc khôi giáp ấy chính là dùng dây mây nấu với mỡ voi mà chế thành, chả trách tên bắn không thủng, đao chém không vô, xem ra muốn đánh với binh Mạnh Hoạch nữa, chỉ còn cách phải nghĩ ra kế sách đối phó thôi. Lúc này,Mạnh Hoạch lậi dẫn binh mã tới khiêu chiến. Khổng Minh bèn lệnh cho binh sĩ:
- Chúng tướng quan binh, lần này giao chiến với Mạnh Hoạch, chỉ lui chớ không được tiến, chỉ chấp nhận thua chớ không chấp nhận thắng, ai vi lệnh sẽ bị chém đầu!
Khi binh lính Mạnh Hoạch và đội ngũ Khổng Minh vừa chạm trán, binh mã Khổng Minh liền triệt thoái. mạnh Hoạch thừa thắng đuổi theo. Khi đuổi tới khe Đại Sơn, Mạnh họach thấy hai bên vách núi cheo leo, ông ta biết đã bị trúng kế, liền ra lệnh cho đội ngũ dừng lại không đuổi theo nữa. Chính lúc này, chợt nghe phía sau tiếng trống, tiếng tù và rền trời, tiếng la ó dậy đất, một đội nhân mã đã ra chận đường. Thì ra Khổng Minh đã cho bố trí quân mai phục, chận đầu chận đuôi đội ngũ Mạnh Hoạch, lại dùng hỏa công. Chỉ thấy khôi giáp mây dùng mở voi nấu gặp lửa liền bén, nhất thời ánh lửa rợp trời, hơi nóng ngùn ngụt, binh sĩ Mạnh Hoạch lớp chết lớp bị thương vô số kể. May là Mạnh Hoạch anh dũng thiện chiến mới đột phá vòng vây trốn được. Đây chính là câu chuyện "Khổng Minh đốt giáp mây" nổi tiéng thời Tam Quốc. Về sau Mạnh Hoạch vẫn dùng da trâu làm khôi giáp. Nếu không tin, hiện nay nhân dân bộ tộc Di vùng Lương Sơn vẫn còn bảo tồn khôi giáp da trâu cổ xưa này!
Một thời gian sau, Khổng Minh sai một sứ thần sang gặp Mạnh Hoạch, nói:
- Đánh nhau có đánh có nghỉ, không nên kéo dài cuộc chiến thế này. Giờ hai nhà chúng ta nên kết mối hòa thân, chúng tôi sẽ đem công chúa nước Thục gả cho con trai ông, kết thành thân thích mà hòa hảo vậy.
Mạch Hoạch gật đầu nói:
- Được lắm!
Sau này Mạnh Hoạch thấy công chúa nước Thục xinh đẹp như thiên tiên, ông hết sức vui mừng, liền cho làm lễ thành hôn với con trai ông ngay, và hai bên từ đó hòa hảo, dứt hẳn chiến tranh.
Tám Tuổi Giữ Đất
Sau khi phụ thân mất, cảnh nhà Gia Cát Lượng trở nên sa sút.
Lên tám tuổi, một hôm Gia Cát Lượng đi chăn trâu bên sườn núi, ông thấy người giàu bên hàng xóm dẫn thầy địa lý đi dò dẫm tìm đất. Khỏi phải nói, hẳn là họ đang đi tìm đất phong thủy.
Sau khi dò dẫm một hồi, thầy địa lý vờ đã tìm ra được cuộc đất, nói:
- Cuộc đất này có phong thủy tốt nhất, nếu như ai có thể chiếm được thì cho dù đời này không phát thì hẳn đời sau cũng phát, dám cam đoan con cháu sẽ làm quan to, đi lọng cỡi ngựa.
Người nhà giàu nghe ông thầy địa lý nói, hình như còn chưa tin lắm, mới hỏi:
- Có chắc linh nghiệm không?
Thầy địa lý vỗ ngựa, bảo:
- Nếu chưa tin, để tôi thử nghiệm ngay cho ông thấy.
Thế rồi, thầy địa lý bảo người đào một cái lỗ không sâu không cạn ở giữa cuộc đất, và trong lỗ đó ông chôn ba quả trứng gà. Đoạn ông nói với người nhà giàu.
- Dám đoán chắc với ông, trong vòng bảy ngày, trứng này sẽ nở ra ba gà con thôi.
Người nhà giàu bị lời ngon ngọt mê hoặc bèn nhe răng cười, nói:
- Cách này mà linh nghiệm thật thì tôi sẽ tặng cho ông mười mẫu đất tốt dưới chân núi kia; còn nếu trong bảy ngày mà không nở ra gà con thì ông tính sao?
Thầy địa lý háy mắt, thuận tay lột chiếc mão đội trên đầu xuống, nói:
- Nếu không linh thì bửa cái sọ đầu tôi đi!
Gia Cát Luợng ở bên nghe rất rõ ràng, lòng nghĩ: "Cuộc đất này là của ông bà để lại, đâu có dễ cho lão nhà giàu tham lam chiếm mất. Phải tìm cách trị tên địa lý này một mẻ mới được.
Thế rồi, thoắt đó đã bảy ngày. Trời chưa sáng, thầy địa lý đã có mặt ở chỗ chôn trứng. Ông ta moi lấy trứng đã chôn bữa trước lên, và thay vào đó ba quả trứng sắp nở, đoạn rút êm trở về. Gia Cát Lượng núp một bên ngó thấy hết. Chờ cho thầy địa lý đi xa rồi, ông bèn moi trứng vừa mới chôn lên, lại thay vào đó ba trứng khác, rồi chờ đợi sự việc xảy ra.
Khi mặt trời lên được một sào, thầy địa lý bèn dẫn lão nhà giàu tới, và moi trứng lên. Ôi thôi! Trứng moi lên toàn là trứng thúi! Lão nhà giàu giận đến đỏ mặt tía tai, bèn mắng cho thầy địa lý một chập. Thầy địa lý chỉ còn biết bỏ đi một nước.
Cõng Gái Qua Sông
Thuở nhỏ, Gia Cát Lượng rất ham học. Nghe nói bên kia sông có ông thầy đồ dạy rất giỏi, ông bèn tìm đến xin được học tập.
Có một lần, lúc tan học về nhà, Gia Cát Lượng chợt gặp một cô gái có dung nhan khá đẹp, mặc chiếc áo vải, mắt rơm rớm đang đứng bên bờ nhìn dòng nước cuộc ba đào. Trước cảnh này ông biết chuyện không hay sắp xảy ra. Động lòng trắc ẩn, ông vội xắn quần chạy tới, và chẳng nói chẳng rằng, ông kề lưng cõng cô gái qua sông.
Ai ngờ việc này bị các bạn học nom thấy, họ bèn thêm dầu thêm mỡ thưa lại với thầy. Thầy nghe Gia Cát Lượng có hành vi sàm sỡ, không còn ra thể thống gì, bèn hết sức giận. Ông cho gọi Gia Cát Lượng tới trách hỏi, và buộc phải viết giấy kiểm điểm nhận sai lầm.
Gia Cát Lượng bình tĩnh cầm bút viết:
Cô gái bên sông đứng khóc thầm
Thư sinh thấy vậy cõng qua sông.
Gặp nhau lọ phải quen nhau trước,
Cứu độ nguy nan há đợi cầu.
Bãi cát đầu ghềnh kinh khiếp điểu,
Chòm cây bên suối động tình âu.
Bờ lau se sẽ buông tay nhẹ,
Lẳng lặng nhìn nhau thấy ngại ngùng.
Thầy thấy ý thơ của Gia Cát Lượng có nỗi niềm trắc ẩn, văn bút bất phàm, cơn giận cũng đã giảm đi mất nửa, lại thấy bài ông làm cũng hợp tình hợp lý, không có chi dối gạt, nên chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ thành không, từ đó chẳng hỏi chi đến chuyện này nữa.
Đào Viên Xưng Huynh
Chuyện Lưu, Quan, Trương kết nghĩa ở vườn đào, mọi người đều biết. Nhưng ba người họ đã sắp xếp ngôi thứ thế nào?
Truyền thuyết nói rằng, trước nhất là căn cứ vào tuổi tác mà sắp lớn nhỏ. Ban đầu tuy trong lòng ba người ai cũng muốn làm anh cả, song chẳng lẽ mở miệng tranh giành. Người này nói bao nhiêu tuổi người kia cũng nói bấy nhiêu tuổi, rốt cuộc ba người bảo tuổi y hệt nhau! Lưu Bị nói:
- Thế thì sự trùng hợp này cũng lạ, đã cùng năm cùng tháng lại cùng ngày, theo tôi nghĩ, giờ thì mình tính theo giờ sanh nhé?
Quan Vũ nói:
- Phải, chúng ta chiếu theo giờ sanh mà định ngôi thứ lớn nhỏ vậy!
Trương Phi thoạt nghe nói, liền nghĩ: "À, mình phải báo cái giờ sớm nhất để họ hết tranh, chức đại ca hẳn thuộc về mình thôi". Ý đã định, ông liền nói:
- Lão Trương tôi khi mới chào đời thì trợi rựng sáng!
Bây giờ thì không ai nhường ai. Quan Vũ tiếp:
- Quan mỗ tôi khi được sanh ra thì gà mới bắt đầu gáy!
Lưu Bị thong thả nói:
- Còn tôi, vừa ra đời thì đúng canh ba, bấy giờ là nửa đêm.
Trương Phi nghe hai người nói xong, hai mắt liền tròn xoe:
- Sao chớ, hai người tính cả giờ sau nửa đêm ư?
Lưu Bị nói:
- Sau nửa đêm, ấy là bắt đầu của một ngày mới chớ sao!
Trương Phi nói:
- Tôi chưa nghĩ tới điều này, mà giờ sanh của hai người tôi cũng không tin.
Lưu Bị nói:
- Vậy anh định thế nào?
Trương Phi ngước đầu nhìn thấy trong vườn có một gốc cây to, liền nghĩ: "Nói về leo cây thì mình ăn đứt họ, mình chiếm ngọn cao trước thì chức đại ca này năm chắc trong tay!" Do đó, ông xắn tay áo, nói:
- Chúng ta thi tài leo cây!
Lưu Bị nói:
- Được thôi. Ý của lão Quan thế nào?
Quan Vũ nói:
- Thì cũng được vậy!
Quan Vũ vừa dứt lời, Trương Phi liền chạy tới, ôm cậy "rẹt rẹt" leo tới cành cao nhứt. Quan Vũ cũng theo đó leo lên, nghĩ thầm: "Ta trên có anh, dưới có em, ở hàng lão nhị cũng đủ rồi!" Lưu Bị lại không vội vàng, đến dưới gốc cây, ôm lấy gốc mà đứng ở dưới đấy. Trương Phi dòm xuống thấy vậy cười khanh khách, nói:
- Nào! Giờ hai người tôn ta làm đại ca đi!
Lưu Bị ngước mặt nói:
- Chú mày chớ vội xưng đại ca. Ta hỏi chú mày, cây này sanh gốc trước hay sanh ngọn trước?
Trương Phi buột miệng đáp:
Ô, điều này ai chẳng biết! Đương nhiên gốc phải sanh trước!
Lưu Bị nói:
- Đấy! Đã bảo sanh gốc trước sanh ngọn sau, mà ta ôm gốc, chú mày ôm ngọn, thế thì tam đệ là thuộc phần chú mày rồi!
Bây giờ Trương Phi mới ngẩn ngơ, muốn nói mà nói không được. Ông cảm thấy sự việc chỉ nên nhứt nhị, bất quá tam, chẳng thế không khỏi thất tín, và không kể là nam tử hán đại trượng phu được. Cho nên ông nhận thua. Quan Vũ cũng cảm thấy mưu trí của mình không bằng Lưu Bị, nên tôn ông làm anh. Do đó Lưu Bị làm đại ca, Quan Vũ xếp hàng lão nhị, và Trương Phi lọt xuống hàng tam đệ.
Đường Tử Long
Đi qua cửa tây thành Đương Dương, trấn Ngọc Dương, phải thông qua một con đường đá nhỏ, đấy chính là Đường Tử Long.
Truyền thuyết nói rằng, Triệu Tử Long ở giếng Nương Nương bồng A Đẩu giết chất Yến Minh xong, liền nhắm theo con đường dưới núi Ngọc Dương mà chạy. Chính trong lúc đó, phía trước lại có tướng Tào Trương Cáp chận đường. Triệu Tử Long hươi thương đánh, ước chừng hơn mười hiệp, Triệu Tử Long bèn quất ngựa bỏ chạy, không ngờ chạy được một đoạn, cả người lẫn ngựa đều bị sụp té xuống hầm sâu mấy trượng. Bấy giờ, Trương Cáp cùng binh tướng bao vây chung quanh, vô số đao thương đều chĩa xuống hầm, tiếng la hét vang rền bốn bề, buộc Triệu Tử Long phải mau đầu hàng. Binh Tào vốn có thể bắn tên hoặc một đao giết chết Triệu Vân, chỉ vì Tào Tháo có lệnh: "Chỉ được bắt sống, không được giết chết!" nên họ không dám xuống tay.
Mắt thấy cái chết kề bên, chợt trên người thái tử trong lòng Triệu Tử Long lóe ra một đạo hồng quang, luồng tiên khí này làm cho binh Tào rối loạn. Triệu Tử Long thừa lúc binh Tào hỗn loạn, bèn chộp lấy cán đao binh Tào, hét to một tiếng, con chiến mã liền tung vó nhảy lên khỏi hầm. Và Tử Long tung hoành phá vỡ trùng vây.
Triệu Tử Long đang giục ngựa vượt qua đường thì trước sau lại có bọn tướng Tào là Mã Diên, Trương Khải, Tiêu Dũng chận Triệu Vân lại. Triệu Vân tiến lui không thể được, tay cầm thanh hồng kiếm, tả xung hữu đột. Chỗ tay giơ lên thì thịt văng tứ phía. Máu tuôn như suối. Triệu Tử Long giết lui bọn tướng địch liền vượt qua đường nhắm về hướng cầu Dương Dương mà đột phá vòng vây. Tại cầu Trường Bản gặp binh tiếp viện của Trương Phi, cuối cùng đã cứu được A Đẩu. Triệu Vân ôm A đẩu đến bên Lưu Bị, ngại ngần thưa:
- My phu nhân vì bị thương nặng đã qua đời. Tôi chỉ còn cách đem chôn cất. May nhờ hồng phước chúa công, nên đã cứu được thái tử vượt khỏi trùng vây.
Nói đoạn Tử Long tháo cái yếm buộc trước ngực, hai tay ẵm thái tử dâng lên cho Lưu Bị. Lưu Bị tiếp lấy A Đẩu mà vô cùng kích động, ông lại cố ý quăng A Đẩu xuống đất, nói:
- A Đẩu, A Đẩu, vì cái tính mệnh nhỏ nhoi của mi mà ta suýt tí nữa phải tổn mất một viên đại tưóng!
Máu nhuộm đỏ chiến bào, xông trận phò tiểu chúa, Tử Long đại chiến Trường Bản, xông trận hiểu anh hùng. Và để kỷ niệm trận đại chiến này, người ta đặt tên con đường đá nhỏ này là "đưòng Tử Long".
Lời Thú Của Kẻ Trộm
Khi Gia Cát Lượng dẫn ba mươi vạn đại quân bắc phạt Trung Nguyên thì gặp phải Tư Mã Ý. Hai bên dằng dai đánh rồi lại ngưng, ngưng rồi lại đánh, kéo dài cả nửa năm trời, quả là bên tám lạnh, đằng nửa cân. Gia Cát Lượng vì muốn dưỡng quân nên bỏ ý định tiếng công Bắc Ngụy. Ở cửa Thiên Thủy ông hạ đại doanh, phái tâm phúc là Đại tướng Mã Lăng trấn thủ, cản trở binh Ngụy; còn ông thì rút về Tây Thành trùng tu lương thảo.
Bấy giờ chiến tranh liên miên, ruộng đất hoang vu, lương thực thiếu hụt. Lương thảo Tây Thành thường bị trộm cắp. Gia Cát Lượng hết sức giận, tự ông dẫn binh sĩ vô thành đến từng nhà sưu tra. Tốn công cả ngày trời nhưng vẫn chưa tìm ra manh mối lương thảo bị bọn trộm cắp cất giấu ở đâu. Đến tối, khi Gia Cát Lượng trở về doanh, chợt thấy trong miếu ở lưng chừng núi sau thành có ánh đèn rọi ra, ông lấy làm lạ: đây là ngôi miếu hoang bị hư đổ, đã từ lâu không người đến cúng kiến, vì sao bữa nay lại có ánh đèn? Ông vội lệnh cho quân sĩ thổi tắt đèn lồng, rón rén để chỗ miếu hoang ấy. Qua khe hở, Gia Cát Lượng thấy bốn người bên trong, bọn chúng đang vừa uống rượu vừa kháo chuyện.
Một người nói:
- Ai cũng nói Gia Cát Thừa tướng liệu việc như thần, xem ra chỉ có danh mà thôi.
Người thứ hai nói:
- Gia Cát Thừa tướng thương dân như con, chúng ta trộm lấy quân lương của ông ta như vầy thật không phải!
Người thứ ba nói:
- Mấy tên giữ kho lương đều bị cách chức, chuyện này để xem ông ta làm thế nào?
Người thứ tư nói:
- Trừ phi ổng sử dụng chúng ta, nếu không chúng ta sẽ còn lấy trộm dài dài.
Nghe đến đây, Gia Cát Lượng biết bốn người này đều là thủ phạm. Ông xô mạnh cửa miếu xông vào nạt lớn:
- Gia Cát Lượng đây này!
Bốn tên tặc đạo thoạt thấy Gia Cát Lượng, nhất thời đều giật mình hốt hoảng, lại thấy quân sĩ đã chận đường tẩu thoát, nên chỉ còn cách quì xuống đó chờ phát lạc.
Ngay trong đêm, Gia Cát Lượng thăng đường thẩm vấn. Bốn tên đều khai: những lương thực lấy trộm đó đầu đã bán cho bá tánh hết rồi.
- Lương thực lấy trộm hồi hôm cũng bán hết rồi phải không?
- Bẩm thừa tướng, quân lương hồi hôm chưa bán, vẫn còn ở trong thành ạ!
Gia Cát Lượng có hơi không tin, lại hỏi vặn:
- Quân lương còn ở trong thành, vậy các người cất giấu ở đâu?
- Thưa còn ở trong tửu điếm ngang cửa miếu đây!
- Bọn bây làm sao lấy trộm được?
- Nghe nói đại nhân túc trí đa mưu, hiềm vì chưa được lãnh giáo. Hôm qua bọn tôi và bọn phổ kỵ tửu điếm có thương lượng, quân lương lấy trộm được sẽ đem toàn bộ gởi trong tửu điếm. Hồi sáng, khi đại nhân dẫn binh sưu tra, chúng tôi lại cố ý mở hoác cửa điếm, giả vờ như không có chuyện gì xảy ra, ngỡ là có thể lừa được đại nhân. Ai dè đại nhân liệu việc như thần, đã tìm ra manh mối. Bọn tôi hết sức khâm phục, bây giờ tùy đại nhân phát lạc.
Bọn trộm vừa khai xong thì gương mặt Gia Cát Lượng cũng đỏ bừng. Thì ra, hồi sáng ông dẫn quân sĩ đi từng nhà sưu tra, thấy cửa điếm mở hoác, bàn ghế trong điếm bày sắp ngăn nắp đàng hoàng, mấy phổ kỵ cũng cứ tỉnh bơ quét dọn, ông ngỡ rằng điếm này hẳn không tàng trữ lương thực trộm, do đó mà không tra xét kỹ càng.
Ba ngày sau, quân thám mã về báo với Gia Cát Lượng: Vệ Đình thất thủ!
Chưa đầy hai tiếng đồng hồ lại có quân thám mã bay về báo: Tư Mã Ý thống lĩnh hai mươi vạn đại quân tiến đến Tây Thành. Tiếp đó, quân thám mã lại báo: đại quân Tư Mã Ý chỉ còn cách thành mười lăm dặm.
Nhất thời, Gia Cát Lượng chưa có ý định dứt khoát, bỏ thành ư, Lương thảo chỉ mới chuyển đi có một nửa; kiên thủ ư, thủ hạ chỉ có một số binh già và quan văn sức trói gà không chặt. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan, ông chợt nhớ tới bọn tặc trộm lương, liền chẳng khỏi mừng, và đã nảy ra chủ ý. Ông lập tức ra lệnh: cờ xí trên đầu thành hãy thu dẹp. Trong quân cám ngắt đánh trống thổi hiệu, không ai đưọc ngóng đầu ngó ra, và bốn cửa thành đều mở hoác, ở mỗi cửa thành chỉ phái mấy binh già què quặt rưới nước quét đường. Ông còn truyền lệnh: khi quân Ngụy đến, không được sợ hãi rối loại, ai vi phạm thì chém đầu! Mọi việc bố trí vừa xong, ông bèn lên lầu ngồi đánh đàn, bên cạnh có mấy thư đồng hầu hạ. Đội quân tiên phong của Tư Mã Ý vừa đến dưới chân thành, thấy cửa thành mở hoác liền ngạc nhiên, vội báo cáo cho Tư Mã Ý hay. Tư Mã Ý đến dưới thành, xem trong ngoài trước sau kỹ lưỡng qua một lượt, càng xem càng hồ nghi,đặc biệt là thấy trên lầu, Gia Cát Lượng đang ngồi đánh đàn với vẻ nhàn tản. Và như bị ong chích một mũi, ông vội quay về, vừa chạy vừa hạ lệnh: "Hỏa tốc lui binh!"
Khi Gia Cát Lượng thấy quân Nguỵ rút lui hết, ông liền trở về đại doanh, sai người cho mời bốn tên đạo tặc tới, đoạn thi lễ, nói:
- Đa tạ bốn vị mưu sĩ, kế mưu của các vị đã cứu được Tây Thành.
Theo đó, Gia Cát Lượng bèn thuật lại chuyện ông đã áp dụng lời thú của bốn nguời về việc cất giấu lương vào kế bỏ thành trống, và đã đẩy lui hai mươi vạn đại quân Tư Mã Ý cho họ nghe. Sau đó ông còn nói:
- Bọn ông tuy là đạo tặc, nhưng mưu kế hơn tôi một bực. Chỉ cần các ông cải tà qui chánh. Gia Cát Lượng tôi xin bái các ông làm thầy.
Nước Trời Xây Thành
Sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng giữ mặt trận Thành Đô. Ông thừa lúc quân Nguỵ không phòng bị, liền dẫn quân binh đến Kỳ Sơn, dùng kế phản gián thu được Khương Duy, và theo đó tiến công Quan Trung. Quân Tào hoảng sợ đến rụng rời tay chân. Tào Phi, con trưởng của Tào Tháo phải tự tìm đến Tư Mã Ý hỏi kế sách đối phó với Gia Cát Lượng.
Trước tiên quân Ngụy phải đoạt lại Quận Trị đã mất. Tư Mã Ý hạ lệnh công thành. Đá và tên thành bắn xuống như mưa. Tư Mã Ý không chiếm được thượng phong nên rất giận dữ, bèn tự mình chỉ huy, lợi dụng thang mây và xa càn tấn công. Nhưng thang mây vừa tiếp cận tường thành liền bị cung nỏ của Gia Cát Lượng vừa phát minh bắn ra đốt cháy hết; xe càn vừa đến cửa thành cũng bị đá lớn đã dự phòng từ trước phá tan. Tận mắt thấy những biện pháp công thành này đều không dùng được. Tư Mã Ý lại nghĩ ra hai biện pháp công thành khác: một là lắp hào, hai là đào địa đạo. Ông nghĩ rằng chỉ cần một đoạn hào bị san lắp là có thể trực tiếp công thành. Ai ngờ bên ngoài có hào sâu, bên trong còn có tường thành xây ngoằn ngoèo, binh sĩ không cách chi tiến lên được. Tư Mã Ý lại chỉ huy quân lính đào địa đạo ăn thông vô thành. Gia Cát Lượng lại sai quân ở trong thành đạo hào sâu cắt đứt địa đạo. Do đó, hai bên cứ giằng co mãi đến bốm mươi chín ngày. Tư Mã Ý thề quyết phải hạ thành này cho bằng được, xin Tào Phi cho tăng cường nhân mã để ngày đêm công thành.
Tướng sĩ của Gia Cát Lượng thấy binh địch đông, còn thành thì đã bị bắn lửng cả trăm lỗ, nên ai nấy đều hết sức lo lắng. Để ổn định lòng quân, tự Gia Cát Lượng cầm kiếm lên thành cố thủ. Tướng sĩ của ông tuy hết sức lo, nhưng không ai dám có chút gì lơ là sai phạm, và mặc tình cho Tư Mã Ý bốn mặt vây công, thành nhỏ này vẫn cố thủ hết sức nghiêm ngặt. Nhưng không dè thời tiết thay đổi đột ngột, gió bất thổi lạnh ghê người. Bọn binh sĩ của Gia Cát Lượng lòng đã lạnh lại thêm thân lạnh, run cầm cập, ngay đao thương kiếm kích đều không cầm được.
Tư Mã Ý sau khi quan sát xong, bèn nói:
- Lần này ta sẽ bắt sống được Gia Cát Lượng!
Một tên thủ hạ nói:
- Làm sao bắt sống được?
Tư Mã Ý đưa tay chỉ lên trời, chỉ xuống đất, vỗ ngựa bảo:
- Quân ta là người phương bắc giỏi chịu rét nhưng lại sợ nóng; binh mã của Gia Cát Lượng đều là người miệt nam Trường Giang, chịu nóng nhưng sợ rét. Trời lạnh giá băng thế này, binh mã của ông ta làm sao mà chiến đấu nữa? Hơn nữa, bốn mặt đều bị vây chặt, một con kiến cũng khó lọt, lương thảo tất phải cạn kiệt. Hừ! Binh mã của ông ta không chết rét thì cũng chết đói thoi. Ông hãy nhìn Gia Cát Lượng đang đi rảo trên bốn mặt thành kia là có thể thấy nhân tâm đã bấn loạn. Ông ta đã mất thiên thời, địa lợi, nhân hòa rồi. Nếu ta thừa lúc này công thành, tất ông ta bị bắt thôi!
Người thủ hạ nghe Tư Mã Ý phân tích, luôn gật đầu khen hay. Tư Mã Ý cảm thấy trong lòng phơi phới, bèn tươi cười viết một lá thư khuyên Gia Cát Lượng hãy sớm qui hàng: "Hiện giờ binh lực hai bên quá chênh lệch, ngay ông trời kia còn chống lại ông, sao ông còn chưa thức thời mà qui hàng cho sớm, chẳng lẽ đợi gươm kề tới cổ ư? Nghĩ ông là chỗ bạn bè với tôi hồi thuở nhỏ, hạn cho ông thời gian ba ngày, nếu không mở cửa thành qui hàng thi khi thành bị phá e ông sẽ không có đất chôn thây".
Gia Cát Lượng hồi thư đáp: "Tôi có binh tinh tướng giỏi, lương thảo không thiếu, có lý nào chưa chiến mà hàng? Chỉ cần ông lui binh ba dặm, sau ba ngày sẽ biết ai mạnh yếu thế nào. Cho dù chết không đất chôn, tôi cũng không có gì phải hối hận".
Tư Mã Ý mở thư Gia Cát Lượng ra xem, đoạn ha hả cười lớn:
- Gia Cát Lượng chết đã đến nơi mà còn bướng bỉnh. Bây giờ ta cứ lui binh ba dặm, thử xem trong ba ngày hắn có thể làm đưọc gì?
Tư Mã Ý nghĩ, đằng nào Gia Cát Lượng cũng không thoát khỏi bàn tay của mình, chi bằng tiên lễ hậu binh, cứ cho lui binh ba dặm rồi ba ngày sau sẽ cho hắn biết thế nào là lễ độ, và hắn có chết cũng không oán trách!
Gia Cát Lượng thấy quân Ngụy đã lui doanh, bèn ra lệnh cho binh sĩ dời hết các thứ chứa trong kho ra, lấy ván đóng tường đôi, lại bảo múc nước gánh đổ vô tường đôi đó. Ba ngày sau, nước kết thành băng, Gia Cát Lượng cho quân sĩ gỡ lấy ván ra, thế là ông đã có một bức tường băng kiên cố. Ba ngày sau, Tư Mã Ý đến trước thành dòm ngó, thấy tưòng thành hôm trước loang lỗ vậy mà chỉ trong vòng ba hôm đã đổi mới. Ông xem tả ngó hữu, thấy tường thành này chẳng khác gì pha lê, lại hệt như mã não, ở mỗi cửa tưòng lại có vô số đao kiếm như rừng kiếm, núi đao, loa lóa dưới ánh mặt trời đến chói mắt, khí lạnh đến rợn người. Tư Mã Ý thấy vậy chẳng khỏi thở dài từng hồi:
- Gia Cát Lượng người mạnh ngựa khỏe, trong ba ngày mà xây được tường mới thế này thật là thiên hạ hiếm có. Thực lực của hắn hùng hậu như vầy, làm sao có thể giao chiến với hắn được?!
Và Tư Mã Ý chỉ còn cách lui binh.
Tư Mã Ý lại nghĩ mình chinh chiến nhiều năm, công thành đoạt ải không biết bao nhiêu mà chưa hề thấy tường thành nào kỳ quái như thế này, bèn sai mấy têm thám tử đi dò la xem tường ấy thực ra là cái gì?
Chẳng bao lâu thám tử trở về bẩm lại:
- Chúng ta vừa lui binh thì Gia Cát Lượng cũng lui binh, hiện giờ thành đã trống trơn!
Tư Mã Ý muốn biết Gia Cát Lượng xây thành mới này bằng cách nào, bèn đến thành quan sát, ông thấy trên mặt tường băng có bốn hàng chữ lớn:
Tư Mã bé con khéo học đòi,
Về nhà bú mẹ chới thòi loi,
Cho mi thưởng thức gió tây bắc,
Thành ấy ta xây bằng nước trời.
Tư Mã Ý sau khi xem qua, giận đến thất khiếu bốc khói. Nhưng nhìn kỹ lại, thì ra đây là một bức tường băng. Ông vô cùng khâm phục Gia Cát Lượng. Do đó ông bèn xin gặp Tào Phi, tấu lại thực tình:
- Ngày trước, khi Tào công còn tại thế, Gia Cát Lượng đã giả vờ mượn gió đông, nay hắn lại mượn nước trời xây thành, quả thật đến thần tiên cũng không sánh kịp.
Câu chuyện Gia Cát Lượng mượn nước trời xây thành càng đồn đại càng mơ hồ. Cùng với thời gian, người ta đã quên đi nguồn gốc tên thành này là gì, chỉ kêu tòa thành này là Thiên Thủy thành, tên ấy đến nay vẫn còn.
Tào Tháo Ba Lần Hẹn Hoa Đà
Truyền thuyết nói rằng, Hoa Đà và Tào Tháo hồi thuở ban đầu, hai người chẳng những cùng làng mà còn là bạn học, từng học chung với nhau một quyền sách. Cả hai đều học hành thông minh giỏi giang ngang ngửa với nhau, và cũng vì thế mà họ kết thành đôi bạn. Sau này lúc hai người sắp xa nhau, Tào Tháo có tặng cho Hoa Đà một bức lụa đề bốn chữ: "Thân như huynh đệ"; Hoa Đà cũng tặng cho Tào Tháo một bức, đề: "Tình đồng thủ túc".
Sau mấy năm, hai người đi theo hai con đường khác nhau. Tào Tháo tráng chí hùng tâm, quyết tâm đứng đầu thiên hạ, thay triều đổi đại, còn Hoa Đà thì theo nghề phò nguy cứu tử, dốc lòng vì bá tánh trừ bệnh. Nhân vì y thuật của Hoa Đà cao siêu, y đức cao thượng, cho nên danh tiếng của ông truyền đi khắp nơi, người cầu ông xem bệnh từ sớm đến tối không dứt.
Một hôm, Hoa Đà nhận được thư của Tào Tháo mời ông đến nhà chơi. Từ sau khi chia tay, hai người không có dịp gặp lại, bấm đầu ngón tay mà tính thì đã mấy năm trời. Nghĩ tình bạn học cũ, Hoa Đà liền viết thư trả lời, và theo thư của Tào Tháo nói, ước định là vào tiết đoan dương mồm năm tháng sau sẽ gặp nhau.
Không ngờ, năm ấy ôn dịch lan tràn, người mắc bệnh rất nhiều. Hoa Đà lo trị bệnh cho bá tánh, nên quên mất đi cái ngày ước hẹn với Tào Tháo. Trong ngày tiết đoan dương, ông cứ bận rộn lo đi hái thuốc chữa bệnh cho bá tánh từ sáng sớm cho tới chiều tối mà cũng không xuể.
Tiết đoan dương qua rồi, trong lòng Tào Tháo thật hết sức không vui. Tào Tháo nghĩ thầm: "Chính anh ta phúc đáp thư hẹn ngày sẽ tới, tại sao anh ta lại lỗi hẹn?" Ông lại nghĩ: "Có lẽ Hoa Đà gặp chuyện chi chăng, ta cứ chờ thư anh ta gởi lại hẳn sẽ biết!"
Tào Tháo thì nghĩ vậy, song Hoa Đà là người hết mình vì mọi người, ông có nhớ chi tới chuyện của ông đâu. Tiết đoan dương qua rồi, lời hứa với Tào Tháo ông cũng quên bẵng đi, ông mãi bôn ba đi hái thuốc cứu người, và ông cũng không hề viết thư cho Tào Tháo. Tào Tháo chờ mãi mà vẫn không nhận được thư của Hoa Đà, trong lòng lại nghĩ: "Thôi thì nhân tiết trung thu tháng tám cũng sắp tới, mình hẹn với Hoa Đà tới úông rượu ngắm trăng chơi vậy". Do đó, ông lại viết thư hẹn với Hoa Đà.
Hoa Đà nhận được thư của Tào Tháo lần thứ hai, ông nghĩ, lần trước không đi được, vậy thì lần này phải đi cho khỏi thất lễ. Do đó, ông liền gởi thư hồi đáp cho Tào Tháo. Thư viết:
"Tiết đoan dương kỳ rồi lỗi hẹn, A Man đừng trách nhé; rằm tháng tám này, tôi sẽ đến thăm anh. Quân tử ước hẹn, một lời hứa ngàn vàng".
Man là tiểu danh của Tào Tháo, Hoa Đà xưng hô thế này là biểu thị tình cảm thắm thiết. Tào Tháo nhận được thư hồi âm của Hoa Đà thì rất vui mừng, bèn lo sắp xếp chuẩn bị trước.
Không ngờ, đêm mười bốn tháng tám lại có một bà sanh khó, Hoa Đà được mời đi hộ sản cứu nạn. Bà sản phụ này đã năm mươi ba tuổi mà mới sanh con so, đau bụng cả hai ngày mà vẫn chưa sanh được. Những bà mụ đỡ đẻ được mới tới ai cũng từ chối, ông chồng không còn cách nào hơn, chỉ biết ngay trong đêm đi rước Hoa Đà. Hoa Đà đến nơi phải giải phẫu bụng mới cứu được cả mẹ lẫn con. Và cũng vì vậy mà Hoa Đà phải thất hứa với Tào Tháo một lần nữa.
Hai lần hẹn, hai lần đều thất tín, Tào Tháo sao hiểu thấu được hoàn cảnh của Hoa Đà? Ông rất giận Hoa Đà, thầm nói:
"Một lời hứa ngàn vàng cái gì? Rõ là hắn đùa bỡn với ta. Tào Mạnh Đức ta há có thể để Hoa Đà mi trêu cợt ư!?"
Tào Tháo quyết lòng cắt đứt tình bạn với Hoa Đà.
Dè đâu, chính trong lúc Tào Tháo giận Hoa Đà đến cực điểm thì Hoa Đà viết thư tới. Trong thư, Hoa Đà thuật lại lý do thất hứa, lại tỏ ý xin lỗi. Tào Tháo nghĩ: "Hừ! Đã thế thì đến tiết trùng dương này, ta hẹn với ông ta một lần nữa, xem ông ta có tới không!?"
Nghĩ vậy, Tào Tháo lại viết một bức thư cho Hoa Đà, muốn Hoa Đà vào ngày mồng chín tháng chín tiết trùng dương này đến nhà ông thưởng ngoạn hoa cúc.
Nhận được thư hẹn lần thứ ba của Tào Tháo, Hoa Đà rất quyết tâm, lần này cho dù thế nào cũng không thể không đến, cho nên ông đếm từng ngày để chuẩn bị vào ngày mồng chín tháng chín đi thăm bạn.
Đúng vào ngày mồng chín tháng chín tiế trùng dương, thu cao khí sảng, trời đẹp trong lành, Hoa Đà ăn cơm sớm xong liền cỡi ngựa lên đường, nghêu ngao nhàn tản thẳng đến nhà Tào Tháo.
Muốn đến nhà Tào Tháo, Hoa Đà phải đi qua một cánh rừng. Hoa Đà vừa tới con đường nhỏ trong rừng, chợt thấy trên cây cổ thụ bên đường treo tòng teng một xác người. ông thất kinh, hối hả xuống ngựa chạy tới xem, thì ra là một ông lão. Hoa Đà liền vội vàng mở dây đỡ ông lão xuống, sờ vào mũi thấy còn chút hơi thở, lại xem qua mạch, mạch vẫn còn nhảy nhẹ, ông vội bóp thuốc cứu tỉnh ông lão này.
Thì ra, con trai ông lão bị bệnh mà lại không tiền chữa trị, ông phải đem đợ đứa con gái cho người ta. Ông mang trăm lạng bạc tiền đợ con đem về, không ngờ trên đường đi qua cánh rừng này lại bị bọn cướp chặn đường lấy ráo. Nhất thời, lão hết biết tính làm sao nên thắt cổ tự vận.
Hoa Đà nói:
- Lão trượng đừng quá đau lòng, nên biết tiền tài là vật ngoại thân, ông mà chết đi há chẳng là lại mất đi một mạng người sao? Trăm lạng bạc thì đâu đáng giá tới ba mạng người. Được rồi, để tôi đưa ông về nhà, rồi trị bệnh cho con ông luôn thể, nhất định giúp ông qua khỏi cơn hoạn nạn này.
Đến nhà ông lão, Hoa Đà thoạt nhìn qua đứa trẻ biết là mắc chứng bệnh vàng da, ông bèn kê toa, lấy năm lạng bạc tặng cho lão để lão đi bổ thuốc. Ông lão cảm kích đến sa nước mắt, và quì xuống lạy Hoa Đà ba lạy.
Hoa Đà từ biệt ông lão, cỡi ngựa thẳng tới nhà Tào Tháo. Nhưng lúc ấy thì mặt trời đã lặn khỏi núi tây, bóng đêm bao trùm. Tào Tháo rất không vui, nói:
- Nguyên Hóa huynh, trời tối mịt rồi mới tới đây, phải chăng lại là vì người bệnh nữa?
- A Man đoán đúng đấy!
Tào Tháo cười gằn:
- Tình bạn nhẹ hơn tình con bệnh ư?
Hoa Đà nói:
- Ba lần hẹn ước đều sai, Nguyên Hoá tôi cảm thấy hổ thẹn vô cùng.
Tào Tháo nhạt phèo nói:
- Ban đêm không thưởng thức cúc được, cũng như tay chân không thể dùng được, sao có thể cộng đồ đại sự? Hết rồi, xem ra người xưa nói rất đúng. kết giao với bạn bè mà lời không giữ. Người mà không giữ lời, không phải quân tử vậy!
Hoa Đà thấy Tào Tháo nói vậy, liền đứng lên cáo từ. Tào Tháo cũng không cầm giữ lại, chỉ đem bức họa có bốn chữ "Tình đồng thủ túc" mà Hoa Đà tặng, trả lại cho Hoa Đà. Hoa Đà tiếp lấy và mở ra xem, ông không nói một lời, liền ngay trong đêm cỡi ngựa về nhà. Khi vô tới nhà, trước hết ông mở tủ tìm lấy bức lụa có bốn chữ "Thân như huynh đệ" của Tào Tháo, bỏ vô ngọn lửa thiêu rụi, kể như tình bạn bè đã tuyệt. Và từ đó hai người chẳng hề gặp lại nhau nữa.
Anh Em Gia Cát Làm Quản Gia
Truyền thuyết nói rằng, sau khi mẹ Gia Cát Lượng qua đời, Gia Cát Lượng và người anh Gia Cát Cẩn, người em Gia Cát Quân đều theo nghề nông. Ba anh em đang tuổi thanh thiếu niên, người nào cũng tràn đầy nhiệt huyết, gặp chuyện chi cũng đều chủ trương tự giải quyêt, không ai chịu phụ ai, có khi ba anh em tranh biện một chuyện cả nửa ngày mà chẳng ai chịu ai cả.
Một hôm, Gia Cát Lượng đề nghị với người anh và người em:
- Lời tục nói: nhà có ngàn mịêng, chủ sự một người. Anh em chúng ta sống chung với nhau, cũng nên đề cử một người quản gia mới được.
Lão đại và tiểu tam đều đồng ý. Nhưng,ai sẽ làm quản gia đây? Ba người lại tranh cãi nửa ngày, cuối cùng họ quyết định: ba anh em luân phiên làm quản gia, mỗi người làm thử một năm, nếu ai quản gia giỏi thì để người ấy làm chủ nhà vậy.
Năm đầu, lão đại làm quản gia. Gia Cát Cẩn chạy đến thỉnh giáo cụ Trương, hỏi: "Làm sao có thể sống qua ngày?"
Cụ Trương bảo:
- Nếu muốn no cơm ấm áo thì phải ra sức làm việc; nếu muốn khỏi đói thì những lúc giàu sang nên nghĩ tới khi nghèo khó.
Gia Cát Cẩn khắc ghi hai câu nói này, bèn trở về bảo hai em ra sức làm việc. Nói về vấn đề ruộng rẫy, Gia Cát Cẩn đâu có ngại gì, còn nói về tiết kiệm thì con nhà nghèo có sợ chi đói khô? Ngày ba bữa, chỉ đạm bạc cháo rau mà thôi. Do đó anh em ngày càng gầy ốm xanh xương. Đến ngày thu hoạch lúa thì tiểu tam ngả bệnh; hôm sau lại đến lão nhị nằm liệt giường, lão đại rối rắm bận lo cho hai em. Ba mẫu ruộng cắt chưa được một mẫu thì chính ông cũng đã mệt nhoài, hết làm nổi. Mắt thấy lúa chín rụng hư nhiều mà lòng sốt ruột, bất ngờ trời lại vần vũ, tiếp đó sấm chớp liên hồi và trời đổ mưa. Lúa đã tới miệng bây giờ để rụng trôi theo dòng nước. ba anh em đau xót đến phải sa nước mắt. Rồi tiếp nối vụ hè thu, mùa màng thất bất. Đến cuối năm, không cần đợi lão nhị, tiểu tam mở lời, lão đại bèn tự động rút lui.
Năm sau, tiểu tam làm quản gia. Gia Cát Quân chạy đến cầu cứu Bà Vương, hỏi: "Làm sao có thể sống qua ngày?"
Bà Vương bảo:
- Trong nhà có cơm ngon, việc ngoài đồng khỏi phải sợ!
Tiểu tam thoạt nghe, liền vỗ tay nói:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Hồi năm ngoái đại ca tôi làm quản gia đã để cho mọi người đói khát, năm nay, tôi quyết sẽ không để cho ai đói khát nữa!
Gia Cát Quân lập tức trở về nhà, nói với hai người anh: "Sống phải làm việc, nhưng cơm canh cần phải cho ngon, có gạo ăn gạo, có mì ăn mì". Hai người anh khuyên em nên tiết kiệm một chút, song nói đã cạn lời và năn nỉ hết mức mà tiểu tam vẫn không thay đổi chủ ý. Ba anh em cật lực làm việc một năm, Lương thực thu hoạch đâu phải ít, có điều vì ăn quá mức nên rốt cuộc đến cuối năm, bồ chẳng còn lấy một hột thóc. Đến ngày ba mươi tháng chạp, Gia Cát Quân cũng chỉ còn cách "giao ấn" từ chức.
Sang năm thứ ba tới phiên Gia Cát Lượng làm quản gia. Nói về việc nông tang, ông sắp xếp đâu vào đó, việc ăn uống có chừng mực, không quá lãng phí mà cũng không quá keo kiệt. Lão đại và tiểu tam thấy vậy đều có ý phục. Qua mùa lúa, Gia Cát Lượng lại trồng mấy mẫu ấu. Lão đại thầm nghĩ: "Ấu này mà cho nước, thêm phân vào thì nhắm mắt tới mùa cũng thu được bốn ngàn cân Lương thực, đủ để anh em ăn ba năm chưa hết". Gia Cát Cẩn thầm khen như vậy, hay đâu lão nhị chẳng những không cho phân mà cũng không cho nước, lại bảo anh em mau lặt ấu xanh đem về. Gia Cát Cẩn liền nóng mặt, gân cổ nói:
- Này chú mày, chú có nằm mơ không? Ai đờ ấu chưa già mà hái cái nỗi gì, chẳng lẽ chú muốn gặm vỏ xanh?
Gia Cát Quân cũng giãy nẩy, la lối:
- Nhị ca, tôi và đại ca vốn phục anh, ai ngờ anh cũng quá tệ! Ấu phải để già mới lặt được, bộ anh muốn uống gió tây bắc mà sống sao?
Gia Cát Lượng cười mà bảo:
- Đại ca và tiểu đệ chớ vội giận, các người cứ làm theo ý tôi đi, dám chắc không đến nỗi nào đâu!
Cho dù lão đại, tiểu tam rất không hài lòng, nhưng đâu cãi được ý lão nhị quản gia, họ chỉ còn biết bực bội đi hái ấu. Chính trong lúc lão đại, tiểu tam đang càu nhàu thì chợt nghe trong huyện nhao nháo về bệnh ôn dịch. Thứ bệnh ôn dịch này Duy chỉ có ấu xanh thanh nhiệt giải độc mới trị khỏi thôi. Song lúc này muốn tìm đưọc ấu xanh thấy ra còn khó hơn đi tìm sữa chim!
Bấy giờ anh em Gia Cát bèn dùng ấu xanh trị bệnh cho mọi người. Nhiều tài chủ phú hộ vì muốn trị bệnh cho con cháu, cũng đã bỏ bạc tiền mua lấy ấu xanh. Gia Cát Lượng chẳng những cứu được sanh mạng của không ít người, mà lại còn thu được tiền bạc, Lương thực rất nhiều. Đến lúc này, lão đại, tiểu tam mới xem lão nhị Gia Cát Lượng như thần tiên sống.
Tôn Quyền Cầu Thân
Năm ấy, Đông ngô đã thu lại được đất Kinh Châu, Tôn Quyền dẫn văn thần võ tướng tới thành Công An. Nơi đây núi xanh nước biêt, đất rộng trời cao khiến ông chẳng khỏi mừng thầm. Tối đó ông thao thức không ngủ được. Chợt nghe tiếng cung treo trên tường khua lách cách. Tôn Quyền vốn là người thích săn bắn, nghe tiếng cung kêu nên chẳng khỏi ngứa tay. Sáng sớm hôm sau, ông phấn khởi dẫn tùy tùng lên ngựa vô rừng săn bắn.
Ông săn bắn suốt ngày, mãi đến mặt trời ngả về tây mới quay trở về. Vô đến cửa tây Công An, xuyên qua con đường nhỏ, Tôn Quyền thấy bên đường có một cái giếng. Săn bắn cả ngày, mình mẫy đẫm ướt mồ hôi, cổ khô miệng khát, ông bèn xuống ngựa định đi mượn thùng múc nước giải khát. Lúc ấy, chợt từ trong một tiệm thuốc có cô gái trạc mười tám mười chín, dáng vẻ rất doan trang thùy mị chạy ra, nàng cất tiếng nói:
- Tuớng quân, tôi nghe cha tôi nói, tháng sáu mà uống nước sống là không tốt đấy. Ông vừa dang nắng, không nên uống nước lạnh, nếu uống nước này thì hàn bức hỏa thiêu, ông sẽ sanh bệnh đấy.
Tôn Quyền cười:
- Miệng khô cổ khát quá chừng rồi!
Cô gái chạy vô nhà bưng ra một chén nước trà, nói:
- Đây là thứ trà mát của tổ phụ truyền để giải nắng, mời tướng quân dùng.
Tôn Quyền ừng ực uống một hơi cạn ráo chén trà. Uống xong ông cảm thấy trong người sảng khoái, cái nóng bức cũng tiêu tan. Để cám ơn tám lòng tốt này, ông bèn cởi chiếc ngọc bội đeo bên mình đưa cho cô gái, nói:
- Chút lễ mọn này, xin cô nhận cho!
Dè đâu cô gái không chịu nhận:
- Thật không dám, lời xưa nói: nước trà không rời nhà. Có ai ra khỏi cửa mà mang theo nước trà bao giờ? Chúng tôi cũng là người thanh bạch, nào có thể vì mời một chén trà mà chờ đền ơn, như vậy há chẳng đê tiện lắm sao?
Tôn Quyền nghe mấy câu nói này, ông có vẻ phân vân. Không ngờ ở thành Công An này lại có một cô gái hiểu tình biết lễ như vậy, từ đó mà trong lòng ông luôn có sự suy nghĩ.
Sau đó Tôn Quyền quay trở về doanh, ông liền phái thân tín đến nhà Vương Lang Trung cầu thân. Bấy giờ Vương Lang Trung mới biết cái vị tướng quân mà Xuân Muội con gái ông gặp bên giếng đó chính là Tôn Quyền. Ông chẳng khỏi vừa ngạc nhiên vừa mừng, nghĩ: "Nhà dân dã tầm thường sao dám vói cửa cao quyền quí!", song lại sợ làm buồn lòng Tôn Quyền nên ông vội gọi Xuân Muội ra hỏi ý. Xuân Muội nói: "Tốt thôi!" Và nàng liền vẽ một bức họa trả lời cho Tôn Quyền.
Tôn Quyền mở ra xem, nửa bên trái bức họa thấy vẽ một con phụng, còn nửa bên phải thì còn bỏ trống. Suy nghĩ một hồi lâu, ông mới hiểu được dụng ý của Xuân Muội. Ông liền mang bức họa, tự đến nhà Vương Lang Trung, nói:
- Bức họa của lệnh ái vẽ tuyệt lắm, đáng tiếc chưa vẽ xong, còn chừa một nửa, tôi tới xem có vẽ thêm được hay không?
Và rồi ngay tại chỗ, ông dùng bút cọ vẽ một người đầu bạc kề bên con phụng. Xong, Tôn Quyền hỏi Xuân muội:
- Cô thấy thế nào?
Xuân Muội đáp:
- Nét bút tướng quân tuyệt vời lắm, sợ e phụng hoàng không sánh nổi bạch đầu ông đó thôi!
Tôn Quyền cười mà rằng:
- Xứng chứ! Xứng chứ!
Ông bèn cầm bút đề trên bức họa mấy chữ: "Phụng hoàng cộng bạch đầu". Và rồi chuyện cầu thân đã thành công tốt đẹp.
Tào Tháo Rèn Đao
Năm ấy ở Nghiệp Quận, Tào Tháo dựng ba lâu đài: Đồng Tước đài nổi tiếng và lớn nhứt, chính ông ở nơi đây, mé bắc, cách ba mươi trượng có Băng Tỉnh đài, là nơi ông cất giữ lưong thực đông lạnh; mé nam, cách ba mươi trượng có Kim Phụng đài, là nơi ông điểm tướng dụng binh; trước đài Kim Phụng là phường luyện đồng sắt, rèn đúc binh khí. Tào Tháo thường đến phường rèn này thị sát, và ông hay trò chuyện với bọn thợ rèn, xem họ rèn và học thêm kỹ thuật. Nhiều lúc ông hứng chí còn tự kéo ống bễ.
Có lần đánh nhau ở miệt bắc, Tào Tháo bị địch vây, con ông phải xông pha mở trùng vây để cứu ông ra. Đứa con này tóc vàng râu vàng, đánh trận rất giỏi nên Tào Tháo thương lắm. Ông bèn đến phường rèn, tự rèn cho đứa con râu vàng này một bảo đao, khi bảo đao rèn xong, mạt sắt văng ra có đến mấy mươi cân. Bọn thợ thấy vậy đều hết sức khâm phục Tào Tháo. Cho nên đống mạt sắt của Tào Tháo rèn đao đó vẫn lưu lại ở phường rèn, không ai đá động gì tới cả.
Thời gian đã qua đi, bao triều đại đã đổi thay, sông Chương Hà bao lần ngập lụt đã cuốn trôi đài Đồng Tước và đài Băng Tỉnh, nay chỉ còn lưu lại nèn đài Kim Phụng và đống mạt sắt lớn ấy mà thôi.
Đô Đốc Chăn Dê Từ Thịnh
Thuở nhỏ, Từ Thịnh là một đứa bé cơ khổ ở trong núi Nghi Mông, không có họ. Lên mười tuổi Từ Thịnh được tài chủ Từ Huyền Gia nhận nuôi để chăn dê cho ông, và Từ Huyền Gia đặt tên cậu là Nhỏ Chăn Dê. Nhỏ Chăn Dê sau ba năm chăn dê đã thành thạo đến mức có thể chạy như bay trên vách đá cheo leo. Trong vòng trăm bước, Nhỏ Chăn Dê muốn ném đá con dê nào là trúng phóc đầu con dê ấy; ngay chim trĩ thỏ rừng mà để cậu trông thấy thì đừng hòng thoát được. Chỉ có một mình mà cậut rông coi hằng mấy trăm con dê, con nào cũng cụp tai nghe lời. Người trong thôn gọi câu là "Đô đốc chăn dê".
Mỗi ngày, từ sáng sớm tinh mơ cậu đã phải lùa dê lên núi, vô rừng ăn cỏ; tối lùa dê về, cậu phải ngủ trong chùông làm bạn với dê.
Mỗi ngày, từ sáng sớm tinh mơ cậu đã phải lùa dê lên núi, vô rừng ăn cỏ, tối lùa dê về, cậu phải ngủ trong chuông làm bạn với dê. Những lúc gặp phải trời mưa dầm không lùa dê đi ăn được, cậu lẻn tới bên cửa sổ lớp học riêng của Từ Huyền Gia để trộm nghe, thầy dạy học. Cậu vốn thông minh nên chẳng bao lâu, tuy là học trộm nhưng sức của cậu còn vượt quá mấy đứa con của vị tài chủ. Ông thầy dạy là thầy nho nghèo, thấy Nhỏ Chăn Dê thông minh hiếu học nên trong lòng có ý mến, những lúc rảnh rang ông lén dạy cậu học và còn đặt tên cho cậu là Từ Thịnh.
Đêm nọ, lão tài chủ đi đánh bạc trở về, bắt gặp ông thầy đang dạy "Luận ngũ" cho Từ Thạnh, lão liền nổi giận đạp cửa xông vô, nắm lấy ông thầy và Từ Thịnh đánh cho một trận.
Sáng sớm hôm sau, khi Từ Thịnh rân rấn nước mắt lùa dê lên núi cho ăn thì có hai gia đinh chận cậu lại, đưa cho một chiếc túi và một cái nồi bể, một bình nước, nói: "Ông chủ bảo từ nay chú mầy phải ăn luôn trên núi, ở luôn trên núi, chừng nào tuyết chưa rơi thì chưa được về".
Từ đó trở đi, Từ Thịnh một mình bơ vơ ở chốn hoang sơn mà làm Đô đốc chăn dê.
Hôm ấy Từ Thịnh lùa dê lên núi cho ăn xong, cậu bèn vô rừng hái nấm. Chợt nghe dưới núi có tiếng quát tháo và tiếng ngựa hí, cậu vội chạy ra khỏi khu rừng để xem có việc gì, thì thấy vô số quan binh hình như đang lục soát núi. Từ Thịnh đang buồn, chợt nghe phía sau có tiếng người nói:
- Người anh em, chú mày có thể cứu ta chăng?
Từ Thịnh nghe mà giật mình, cậu bé ngoái đầu ngó lại, thì thấy một ông lão mình đầy thương tích, đang đứng thở mệt trước mặt cậu. Từ Thịnh chẳng nói năng gì, vội kéo ông lão vô hang núi chỗ cậu ở, sau đó lại quày quả trở ra chỗ chăn dê của mình.
Lát sau, một quan tướng cỡi ngựa dẫn theo toán binh lính dữ dằn tìm tới. Còn ở đằng xa, hắn đã quát tháo:
- Này thằng nhỏ chăn dê! Có thấy tội phạm chạy qua đây không?
Từ Thịnh lắc đầu khoát tay. Tên tướng trờ tới, vung roi dọa:
- Tên ấy là dư đảng Hoàng Cân, chống lại triều đình! Nếu mày dám cả gan giấu giếm thì chết cả dòng họ đấy!
Từ Thịnh nói:
- Tôi mới thấy có một ông chạy về phía thung lũng mé đông kia.
Bọn quan binh thoạt nghe, lập tức như bầy dê túa về phía trước đuổi theo.
Tối đến, bé Từ Thịnh đốt củi thông trò chuyện với ông lão. Thì ra ông lão này là một vị đầu lĩnh của quân Hoàng Cân. Ông đã đốt phá vòng vây, chạy cả ngày cả đêm mới tới đây. Bé Từ Thịnh rất vui mừng, cậu liền ngả vô lòng ông lão, nói:
- Từ nay về sau, cháu đã có bạn rồi. Ông đừng đi đâu nữa!
Ông lão gật đầu:
- Được, được! Từ nay ta ở đây bầu bạn với cháu, không đi đâu hết!
Ngày qua ngày, Từ Thịnh và ông lão càng gắn bó chẳng khác gì cha con. Tối đến hai người nằm ngủ trên cỏ, ông lão đem chuyện thiên hạ đại sự cắt nghĩa cho cậu nghe. Từ Thịnh say sưa nghe, lòng thầm nghĩ: "Ta phải làm một nam tử hán đội trời đạp đất, sau này gây nên sự nghiệp mới được!" Do đó, cậu bèn xin ông lão dạy võ nghệ cho cậu, ông lão cũng hết sức bằng lòng. Họ chặt nhánh trúc nhánh tùng làm thập bát ban võ khí. Ông lão hết lòng dạy võ nghệ cho cậu, không đày nửa năm rèn luyện, Từ Thịnh đã sử dụng thành thục các thứ vũ khí.
Một hôm, Từ Thạnh đi chăn dê trở về, không thấy ông lão đâu cả mà lại thấy trên đống cỏ có một quyển sách. Cậu cầm lên giở ra xem đến mê mẩn, ngay cả khi ông lão trở về kêu cậu, cậu cũng không nghe. Ông lão bước tời cười mà hỏi:
- Con xem mê say như vậy mà có biết trong đó nói gì không?
Từ Thịnh nói:
- Không giấu chi thầy, năm ngoái ông chủ nhà có thuê thầy tới nhà dạy cho con cháu ổng học, con có lén học được một ít chữ nghĩa. Sau này bị ông chủ biết được, ông ta bèn đuổi ông thầy đi và bắt con lên núi này chăn dê. Chữ nghĩa trong sách này con đều đọc được, có điều nghĩa lý thì chưa rõ lắm.
Ông lão nghe vậy, vui vẻ nắm tay cậu nói:
- Từ nay ta sẽ giảng bộ "Tôn Tử binh pháp" này cho con hiểu. Con luyện giỏi võ nghệ, thấu hiểu binh thư, sau này sẽ có chỗ dùng!
Hôm sau khi thả dê đi ăn, Từ Thịnh nghĩ thầm: "Người ta đều gọi mình là Đô đốc chăn dê, sao mình không đem bầy dê này, án chiếu theo binh thư mà bày trận?".
Nói làm là làm, cậu bèn lùa dê lên sườn núi, tiếp theo đó lại dựa vào màu lông đen trắng của chúng mà chia thành hai đội. Một tay Từ Thịnh cầm roi, tay kia cầm nón; roi vẫy lên, đội dê đen liền chạy tới trước, nón phất lên, đội dê trắng liền xông ra nghênh "địch". Chàng vừa thay đổi thế tay, đội dê đen liền kêu "be" và phân tán ra, trong phút chốc đã biến thành "hắc long bái vĩ"; chàng huýt "toe toe", đội dê trắng theo đó lại hóa thành "ngân xà thổ tu".... Quả thật luyện dê như Từ Thịnh thật là thế gian hiếm có, thiên hạ khó tìm; bé Từ Thịnh huấn luyện dê thật chẳng khác gì Đại Đô Đốc chỉ huy thiên quân vạn mã. Huấn luyện dê được một thời gian, cậu bèn mời ông lão tới sườn núi xem diễn tập dương quần trận. Ông lão rất đỗi ngạc nhiên, ông ôm chầm Từ Thịnh, nói:
- Thằng bé giỏi lắm, có chí khí, nhẫn nại lắm, sau chắc chắc sẽ tạo nên sự nghiệp lớn!
Tuyết đã phủ đầy ngọn núi mà vẫn chưa thấy Từ Thịnh trở về, lão tài chủ có ý hồ nghi trong lòng. Hiện nay trên núi đã trời băng đất tuyết, cỏ xanh không còn, chẳng lẽ thằng quỉ nhỏ đó gặm đá ăn tuyết mà sống? Còn mấy trăm con dê thì sao? Lão bèn dẫn bọn gia đinh lên núi xem sự việc thế nào.
Bọn gia đinh phát hiện trên núi có một hang đá, bèn len lén đến xem, chỉ thấy Từ Thịnh và ông lão đang bàn luận mê say! Bọn nô tài liền đi tâng công với lão tài chủ. Bọn họ và lão tài chủ đều nhất trí cho ông lão ấy nhất định là tội phạm của triều đình bèn dẫn đại dội nhân mã tới bắt.
Từ Thịnh không chút bối rối hoảng sợ, cậu bé lập tức huy động roi dê và chiếcnón. Hai đội ngũ dê đen dê trắng kêu lên "be be" rồi xông ra tấn công bọn quan binh ngay. Bé Từ Thịnh lại thi triển tài ném đá thần diệu của mình. Cậu vung tay ném ba hòn đá ngay chóc khiến lão tài chủ và hai nha tướng vỡ sọ chết ngay. Từ Thạnh và ông lão xông tới giật lấy binh khí, thót lên ngựa đuổi theo giết bọn quan binh , khiến bọn chúng phải bỏ chạy thục mạng.
Một già một trẻ cỡi trên mình ngựa, bất kể ngày đêm chạy thẳng xúông miệt Giang Nam. Sau khi ông lão bị bệnh qua đời, Từ Thịnh đến Đông Ngô đầu quân dưới trướng Đại đô đốc Chu Du và được phong làm Hiệu Úy. Sau khi đầu quân, chàng đi chinh chiến lập được rât nhiều chiến công. Về sau, vị "Đô đốc chăn dê" ngày xưa đã trở thành một viên danh tướng Đông Ngô.
Sen Hồng Phấn
Ngoại thành huyện Tiềm Sơn, ao sen từng cái nối tiếp từng cái; đến mùa hạ thì lá sen ngút ngàn trông không thấy bờ, những đóa sen to tướng nhô lên chẳng biết cơ man nào mà kể, thật là một cảnh sắc tuyệt đẹp! Hoa sen ở đây không những đẹp mà ngay ngó sen cũng tuyệt vời. Ngó sen ở nơi khác đều màu trắng, riêng ngó sen ở Tiềm Sơn thì lại là màu hồng phấn, ăn vô miệng vừa ngọt vừa thanh. Theo mấy cụ già ở đây thì Tiềm Sơn trước kia vốn không có sen này. Sen này bắt đầu có là do nàng Đại Kiều, Tiểu Kiều thời Tam Quốc đem giống về đây và được gọi là "sen Hồng Phấn".
Chị em Đại Kiều, Tiểu Kiều đều là tuyệt sắc giai nhân, ngay từ nhỏ không dùng son phấn mà da mặt lúc nào cũng ửng hồng trắng mịn. Ngay đến nước của hai nàng rửa mặt cũng trở thành màu hồng đào. Tháng năm kéo dài, nước giếng của hai nàng dùng cũng nhuộm hồng, người bấy giờ gọi giếng này là "giếng Hồng Phấn". Hai chị em tuy sắc đẹp nổi tiếng, song chữ nghĩa cũng làu thông, lòng ôm ấp chí lớn, không giống hạng nữ lưu khinh cuồng, lấy sắc mê hoặc lòng người. Đại Kiều được gả cho Tôn Sách, còn Tiểu Kiều thì gả cho Chu Du, cả hai đều là bậc anh hùng nổi tiếng thiên hạ. Sau khi Ngô hầu Tôn Kiên mất, ngôi truyền lại cho Tôn Sách; Tôn Sách là người kiêu dũng trận mạc, trong một lần giao chiến bị trọng thương. Trước lúc lâm chung, ông truyền ngôi lại cho người em là Tôn Quyền, và căn dặn: "Cần trị lý Đông Ngô và chiếu cố tới chị dâu góa bụa cho tốt".
Sau khi lo việc chôn cất người anh xong, việc đầu tiên của Tôn Quyền là lo xây tòa Dưỡng Tâm lâu cho chị dâu, để chị dâu an hưởng cuộc đời còn lại. Đại Kiều không bằng lòng, nói với tiểu thúc Tôn Quyền:
- Việc nước còn khó khăn, hãy để tiền ấy lo cho quốc sự. Anh chú lúc lâm chung có dặn điều trước tiên là phải trị lý Đông Ngô cho tốt, sao có thể vì riêng tôi mà hao phí sức nước như vậy?
Tôn Quyền thấy chị dâu hiểu sâu đại nghĩa thế này, bèn nghe lời và không xây cất Dưỡng Tâm lâu nữa. Lời xưa nói: chị già như mẹ. Tôn Quyền mỗi ngày hai lần, sớm chiều đều tới thăm hỏi chị dâu, cho dù bận việc thế nào ông cũng không bỏ lễ. Đại Kiều nghĩ Tôn Quyền ngày đêm làm việc mệt mỏi, chính mình không giúp đỡ được gì, đằng này lại còn làm phiền cho chú ấy nữa thì thật không nên. Do đó bà tỏ ý muốn trở về cố hương để an cư lập nghiệp. Tôn Quyền cầm cố ở lại không được, chỉ còn cách bằng lòng mà thôi.
Lúc Đại kiều sắp lên đường, Tôn Quyền đem tặng cho bà rất nhiều vàng bạc châu báu, song người chị dâu không nhận, nói:
- Vàng bạc châu báu tôi không cần lắm. Chú có muốn tặng thì hãy cho tôi vài xe sen Kiến Nghiệp thật tốt là được rồi!
Tôn Quyền hỏi:
- Chị cần loại sen đó làm gì?
Đại Kiều nói:
- Tôi đến Kiến Nghiệp nhiều năm, cái tôi thích nhất ấy là sen ở đây, cọng nó thẳng đứng giữa bùn nhơ, hoa nở trên mặt nước chẳng nhuốm chút mùi bùn, hương thanh dìu dịu. Hoa sen để người thưởng thức, hạt sen bổ dưỡng, lá sen có thể làm thuốc, ngó sen có thể làm thức ăn, có thể nói ai cũng có cái sở cầu về nó không ít. Và tôi cảm thấy người cũng nên cao khiết vô tư như nó thế ấy. Cho nên tôi muốn đem giống ấy về trồng ở quê nhà để người làng có dịp thưởng thức.
Tôn Quyền cảm động đến trào nước mắt, nói:
- Lời dạy của chi, tiểu đệ suốt đời không quên. Loại sen mà chị muốn đó, em cho người đem tới ngay lập tức.
Đại Kiều trở về làng, gần bên nhà, bà cho đào mười mấy mẫu ao hồ. Tuy bà không trang điểm phấn son, song nước rửa mặt của bà cứ là một màu hồng phấn, và sau khi bà rửa mặt, nước đó được đem đổ xuống ao sen. Lâu ngày, ngó sen cũng dần dần biến thành màu hồng phấn.
Mấy năm sau, Đô Đốc Chu Du nước Ngô vì quá lo việc nước nên sinh bệnh mà chết. Tiểu Kiều theo bước người chị, cũng xin trở về cố hương. Bà trở về mái nhà xưa, cùng với chị trồng sen. Năm năm sau, hai bà còn đem giống sen này tặng cho dân làng. Vì thế sen càng lúc càng phát triển rộng khắp, ngó sen toàn là màu hồng phấn, và vì thế mà được gọi là "sen Hồng Phấn" Tiềm Sơn. Lại nhân vì giống sen này do Nhị Kiều truyền ra, cái vẻ sen đặc biệt thanh tú, cho nên người ta còn gọi là "sen Mỹ Nhân".
Ngọc Tuyền Sơn Hiển Thánh
Năm ấy Quan Công rời bỏ Tào Tháo, đi tìm Lưu Bị. Quan Công qua năm ải, chém sáu tướng, và ông từng được lão tăng Phổ Tĩnh chùa Trấn Quốc cứu. Sau này Phổ Tĩnh vân du đến núi Ngọc Tuyền ở Đương Dương, dưới chân núi này ông dựng một am cỏ và tu tại đây.
Vào một đêm trăng thanh gió mát, lúc canh một, Phổ Tĩnh đang ở trong am đốt đèn đọc sách, chợt một luồng gió lạnh lướt qua, cửa am bị mở hoác làm ngọn đèn phụt tắt. Phổ Tĩnh hoa mắt, phảng phất thấy Quan Công lởn vởn đốt đèn, rồi không thấy đâu nữa. Đến canh ba, Phổ Tĩnh nằm ngồi không yên, ông ra ngoài xem thiên tượng, chợt thấy một tướng tinh từ trên không Mạch Thành hướng La Hán Âm Câu rơi xúông. Ông thất kinh than thở:
- Ôi, Mạch Thành, hết rồi! Quan tướng quân không còn ở Mạch Thành, ông ta đã trầm xuống cõi âm La Hán rồi!
Quả nhiên không ngoài dự đoán, sắp hết canh năm, chợt ông nghe trên không có tiếng người kêu:
- Hãy trả đầu lại cho ta!
Phổ tĩnh ngước mắt nhìn, thấy từ trên không có ba thớt ngựa đạp mây xuống, chính giữa là một tướng quân không đầu cỡi ngựa Xích Thố, tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao, bên tả có Đại tướng Chu Thương mặt đen, bên hữu có đại tướng Quan Bình mặt trắng. Ba người từ trên mây thẳng xuống đỉnh núi Ngọc Tuyền. Phổ Tĩnh nhận ra vị tướng không đầu này chính là Quan Công, bèn hỏi với lên đỉnh núi:
- Vân Trường tướng quân từ đâu đến đây vậy?
Quan Công nghe tiếng hỏi bèn hạ mây xuống trước am.
Phổ Tĩnh liền bước tới chắp tay hỏi:
- Lão tăng Phổ Tĩnh xin hỏi, từ ngày gặp nhau ở chùa Trấn Quốc tới nay, tướng quân đi đâu biệt dạng vậy?
Quan Công nghe nhà sư xưng là Phổ Tĩnh, vội xuống ngựa, vòng tay đáp:
- Bạch thầy, ngày trước ở chùa Trấn Quốc được thầy cứu, ơn ấy tôi không hề quên. Nay tôi lại gặp họa, đầu bị chém, mong cầu thầy cứu cho!
Phổ Tĩnh thấy tướng quân không đầu máu me ướt đẫm chiến bào mà chẳng khỏi sa lệ, ông ngẩng đầu lên trời thở dài:
- Tráng chí tướng quân chưa trả, vì nước tổn thân, đáng tiếc ôi là đáng tiếc, Thục Hán lại mất một viên đại tướng!
Quan Công lại vái Pháp sư:
- Mong thầy mở lựơng chỉ điểm đường mê, trả đàu lại cho tôi, để tôi được sống lại.
Phổ Tĩnh nói:
- Nay tướng quân vì Lã Mông sát hại mà kêu đòi: "Hãy trả đầu lại cho ta"; vậy chớ Nhan Lương, Văn Sú, sáu tướng ở năm ải bị tướng quân chém đầu đó, họ đòi lại với ai đây?
Phổ Tĩnh thở dài một tiếng, tiếp tục nói:
- Thị phi xưa nay, tất cả đừng bàn, nhân quả khó tránh được!
Ngựa Xích Thố bấy lâu nay theo Quan Công xông pha chiến trận, lập được không ít công lao, đã cùng chủ nhân kết duyên sanh tử, nó nghe lão tăng nói mấy lời này liền bi phẫn hí vang, bốn vó lướt khỏi đất làm đá nhọn văng bay tứ tung tạo thành một dòng suối. Tức thì nước suối tuôn chảy cuồn cuộn.
Quan Công nghe lão tăng nói vậy, lòng ông như bị đao cắt, cả người run rẩy, nước mắt dầm dề, và tức khắc biến thành từng chuỗi, từng màn, từng bó, từng cuộn trân châu tuôn rơi lã chã xuống nước. Chợt một cơn gió mạnh từ lòng suối xoáy thẳng lên một cột nước cao hơn ba trựơng. Quan Công và ngựa Xích Thố đã bay về trời.
Từ đó, chỗ suối nước này ngày đêm không ngừng tuôn ngọc phun châu, hết năm này đến năm khác không hề dứt, và vì thế được đặt tên là "suối Trân Châu Ngựa Chạy", gọi tắt là "suối Trân Châu". Người đời sau, ở bên suối Trân Châu này có lập một bia đá khắc ghi câu chuyện Hán Thọ Đình Hầu hiển thánh để kỷ niệm.
Lò Quan Công Và Nồi Trương Phi
Từ chỗ dốc sông Tố Thư, Đương Dương, Trường Bản trở lên, nếu đi hướng tây ước độ mười dặm thì có ngọn Kim Ngưu hình dáng như một con trâu khổng lồ. Duới ngọn Kim Ngưu có một cánh đồng sâu, chính giữa đồng có ba hòn đá to bày thành hình tam giác, mỗi hòn nặng chắc cxung có hơn vạn cân. Truyền thuyết nói rằng, ba hòn đá lớn này là do Quan Công làm lò để nấu cơm, người ta gọi nó là lò Quan Công, còn tảng đá phẳng mặt kia là chiếc bàn để Quan Công dùng cơm.
Quan Công từ Mạch Thành đột phá vòng vây chạy ra, liên tục từ Hoàng Lâm Cương và Cẩm Bình Sơn đột phá hai phòng tuyết của tướng Ngô - Chu Nhiên và Phan Chương, tuy đựơc trời phò thần giúp, song binh mã vẫn tổn thất không ít, đám quân sĩ tùy tùng chỉ còn sống sót hơn mười người. Quan Công chạy đến ngọn Kim Ngưu, người mệt ngưa mỏi, do đó, ông phải cho quân dừng lại nghỉ ngơi giây lát. Bá tánh nghe nói Quan tướng quân gặp nạn chạy qua đây, bèn lũ lượt đêm thăm hỏi, có người dâng cho nước trà, có người mang theo cơm, có người tặng gà vịt, cũng có người tặng lợn dê. Từ khi đánh nhau ở Mạch Thành và bị khốn, mỗi bữa cơm Quan Công chỉ ăn đuợc có hai chén, còn các binh sĩ thì phải nhịn đói, họ rất muốn có một bữa ăn no nê. Do bởi nồi niêu, lò bếp của nông dân quá nhỏ, cho nên Quan Công bèn từ trên vách núi vác xuống ba hòn đá ngàn cân và tảng đá phẳng mặt này để dùng làm lò và bàn ăn. Nhân vì ở Phàn Thành đại chiến, cánh tay hữu Quan Công bị trúng tên, tuy đã được Hoa Đà nạo xương chữa trị, song vết thương vừa mới lành thì lại thất thủ Kinh Châu, ông phải bại tẩu về Mạch Thành, theo đó lại liên tiếp phá luôn hai phòng tuyết, rồi phải đánh nhau với Chu Nhiên và Phan Chương, bây giờ lại vác đá lớn ngàn cân như vầy, cho nên vết thương bị xé miệng máu chảy không ngừng. Bá tánh thấy vậy vội tranh nhau cầm đèn lên núi hái thuốc, băng bó vết thương cho ông. Quan Công ngậm ngùi, vòng tay cám ơn bá tánh.
Có lò rồi, nhưng biết lấy đâu ra nồi? Lúc đột phá vòng vây, nồi đã đánh rơi hết rồi! Các tướng sĩ đang buồn thì từ trên ngọn Kim Ngưu có tiếng kêu ngé ngọ, lưỡi Thanh Long Yển Nguyệt Đao cũng rít lên tiếng u u. Quan Công lại ngỡ trúng kế mai phục của binh Ngô, chính lúc ông muốn phóng lên ngựa thì bỗng từ trên trời rơi xuống một chiếc nồi to ,chiếc nồi đặt đúng trên chiếc lò đá, không sai một ly.
Thật kỳ lạ! Chiếc nồi này từ đâu bay tới đây? Nguyên trong chùa Thừa Thiên thành Kinh Châu có hai chiếc "nồi Trương Phi" nấu ba ngày chưa nóng. Trương Phi đã dùng hai chiếc nồi này khi qua sông, sau đó tặng cho nhị ca Quan Vũ lúc trấn thủ Kinh Châu. Nồi Trương Phi hình như linh ứng, biết Quan Công dang ngộ nạn, nên từ trong chùa tự bay ra. Vừa rồi "Kim Ngưu" nghé ngọ kêu là Kim Ngưu hiển linh, Thanh Long Yển Nguyệt Đao u u kêu là tín hiệu truyền thông. Quan Công vừa kinh ngạc vừa mừng, ông bước tới sờ chiếc nồi thấy còn nóng, bèn buông tiếng cảm thán:
- Trời giúp ta, đệ cũng giúp ta!
Thế là họ dùng chiếc nồi nấu cơm. Bọn tướng sĩ vây quanh chiếc bàn đá ăn một bữa no nê. Chợt một cơn lốc thổi đến khiến không ai mở mắt ra nổi, đợi cơn lốc qua rồi, mở mắt ra thì chiếc nồi Trương Phi đã không còn thấy đâu nữa. Hiện nay ở nhà bảo tàng Kinh Châu, còn lưu giữ hciếc nồi này và người ta vẫn gọi nó là "nồi Trương Phi".
Lục Thủy Thanh Sơn
Góc tây bắc huyện Đương Dương có trại Bách Bảo hình thế núi sông tuyệt đẹp. Bách Bảo vốn tên "Bách Bao", hơn trăm đồi núi cái cao cái thấp tiếp nối nhô lên trên một bình nguyên. Bên trên đồi núi ấy còn có trăm hoa đua nhau khoe sắc thắm. Dòng sông rong róc chảy qua đây gặp phải núi đồi chắn lối, phải quay ngược trở lại và tạo nên một cái đầm nước trong vắt. Bách Bảo trại thật là một địa phương mê người. Ai cũng gọi nơi đây là quế lâm sơn thủy của Đương Dương!
Chỗ núi sông gặp nhau có một cửa ải hiểm trở rộng hai thước, một bên là đầm sâu xanh ngăn ngắt, một bên là vách đá sừng sững. Trên vách đá có khắc bốn chữ lớn "Lục Thủy Thanh Sơn" đầy khí thế và sắc bén, mỗi chữ to bằng chiếc nón lá. Tương truyền trước lúc Quan Công bại tẩu Mạch Thành, trên đường chạy viết nên. Lúc ấy mà Quan Công vẫn còn tâm trí để thưởng ngoạn phong cảnh tự nhiên ư? Câu chuyện về ông như thế này:
Quan Công từ cửa bắc Mạch Thành đột phá vòng vây. Ông cặp theo con đường nhỏ giữa núi công phá hai phòng tuyến Hoàng Lâm Cương, Cẩm Bình Sơn của tướng Châu Nhiên và Phan Chương - Đông Ngô, lại ở dưới ngọn núi Kim Ngưu dùng cơm xong, bèn thừa lúc có trăng lại tiếp tục chạy về sông Tố Thư. Đi hai ba dặm đường thì đến BÁch Bảo trại. Đến cửa ải, ngựa Xích Thố chợt không chịu đi nữa, nó quày đầu ngóng về cố thổ và vươn cổ hí lên. Bấy giờ trăng sao vằng vặc, ánh sáng lung linh. Quan Công mắt nhìn cảnh nước biết non xanh này, nhất thời chẳng khỏi thấy cảnh sinh tình. Do đó ông đứng trên lưng ngựa vẫy Thanh LOng Yển Nguyệt Đao, uống nước mắt, ngậm căm phẫn vạch lên vách đá bốn chữ lớn "Lục Thủy Thanh Sơn". Khi vạch đến chữ "Sơn" cuối cùng, chợt gió lạnh rít lên, trăng sao mờ mịt, một tiếng nổ làm đinh tai nhức óc, vách đá bỗng đổ một góc. Quan Công ngậm ngùi thở dài không thôi, ông lẩm bẩm:
- Nửa vách núi sông đổ, thế lớn đã hết rồi!
Có phải vậy chăng? Quan Công vừa để mất Kinh Châu thì giang sơn Tây Thục đã chao đảo ngả nghiêng rồi!
Đến nay, bốn chữ "Lục Thủy Thanh Sơn" này vẫn còn rành rành trước mắt, có điều chữ "Sơn" đã bị khuyết mất, không được vẹn toàn.
Hoa Đà và Huyện Thược
Quanh nhà Hoa Đà trồng đủ thứ cây hoa cỏ thuốc. Trước khi sử dụng loại hoa cỏ nào, ông nếm thử nhiều lần để biết rõ dược tính của nó rồi mới dám dùng để chữa trị cho người. Vì vậy hễ Hoa Đà trị cho người nào thì người đó hết bệnh, không ai bị phạm thuốc chết bao giờ.
Lần nọ, có người từ Hàng Châu mang tới một cây bạch thược, Hoa Đà đem trồng ở trước nhà. Trước hết ông nếm thử lá, nếm thử cành, rồi nếm thử hoa, song cảm thấy cây này bình thường thôi chứ không có dược tính gì và cũng không dùng vào đâu được. Thế là ông xem nó như hoa đồng cỏ nội và không lưu ý gì tới nữa.
Ban ngày, Hoa Đà xem bệnh cho bệnh nhân, tối đến ông chong đèn đọc sách. Có lần, giữa đêm khuya khoắt chợt ông nghe có tiếng người con gái khóc thút thít. Mở cửa sổ nhìn ra, trong ánh trăng mông lung, ông thấy một cô gái mảnh mai, mặc y phục xanh đậm, khuôn mặt trái xoan, má hây hây hồng, cô gái hình như có ẩn khúc gì trong lòng muốn bày tỏ với ông. Hoa Đà vội gấp sách lại và mở cửa bước ra, song ông không thấy bóng hình cô gái đâu, chỉ tháy chỗ cô gái đứng ban nãy là cây bạch thược cành lá xanh rờn, những đóa hoa hồng phấn khoe sắc đẫm sương đêm, từng giọt từng giọt long lanh rơi xuống.
Hoa Đà nghĩ thầm: "Chẳng lẽ cây này chính là cô gái vừa rồi ấy sao?" Rồi ông lắc đầu cười, nói với nó:
- Cho dầu cô có linh nhưng cũng đừng khóc lóc làm gì. Bởi trên người cô không có chỗ nào dùng được, tôi làm sao có thể để cô vào lọ thuốc bây giờ?
Ông quay trở lại thư phòng. Nhưng vừa ngồi xuống ghế lại nghe tiếng khóc của cô gái nữa. Khi nhìn kỹ ra thì lại là cây bạch thược. Cứ thế, ông phải ra mấy bận. Hoa Đà cảm thấy lạ, bèn vô phòng gọi vợ dậy, thuật lại câu chuyện.
Vợ ông nhìn qua cửa sổ nói:
- Cây cỏ hoa lá trong vườn đến tay ông, đều trở thành vị thuốc cứu sống không biết bao nhiêu mạng người, duy có cây bạch thược này là bị ông hất hủi, không ngó ngàng gì tới. Tôi nghĩ cần ông dòm nó qua khe cửa thôi là nó cũng cảm thấy đau lòng muốn khóc rồi.
Hoa Đà chưa tin, cười mà nói:
- Tôi đã thử qua trăm thứ cỏ, không thứ nào tôi không phân biệt ra dược tính. Riêng đối với cây bạch thược này, tôi đã thử qua hoa, lá , cành của nó, rõ ràng không có vị thuốc chi, vậy nó còn thương tâm nỗi gì?
- Hoa, lá , cành ở bên trên, còn rễ ở trong đất, ông cũng nên thử qua xem.
Hoa Đà không bận tâm, ông chẳng nói nữa và đã ngả người xuống giường ngủ thiếp.
Bà vợ Hoa Đà cảm thấy chồng thị có tay nghề cao nên không còn để ý đến lời mình nói nữa nên lo lắng ông sẽ phạm phải sai lầm đáng tiếc. Lời tục nói: "Dùng thuốc như dùng binh", dùng sai thuốc sẽ giết chết người. Đợi đến khi nhận ra sai lầm thì còn hối được gì? Nghĩ thế nên suốt đêm bà thao thức không chợp mắt được. Sáng sớm hôm sau, bà cầm dao cắt một miếng thịt nhỏ trên đùi mình, khiến máu tuôn dầm dề. Hoa Đà thấy vậy hoảng hồn, vội dùng các thứ cỏ thuốc để cầm máu cho vợ, song tất cả các thứ thuốc cỏ đều vô hiệu quả. Ông bứt tai vò đầu, hai chân nhảy dựng không biết phải làm thế nào.
Bấy giờ bà vợ mới nói:
- Sao ông không dùng rễ bạch thược thử xem?
Đến nước này thfi Hoa Đà chỉ còn biết vâng lời vợ mà thôi. Mà cũng lạ, ông vừa dùng rễ bạch thược giã nát đắp lên vết thương thì tức khắc máu được cầm ngay, và không mấy ngày sau, vết thương đã lành miệng, thật là từ trước tới nay chưa thấy thuốc nào công hiệu đến như thế.
Hoa Đà vừa thẹn vừa mừng nói với vợ:
- Tự mãn là mất, khiêm tốn là nhận. Cám ơn bà đã chỉ dạy tôi, bà đã vì tôi mà mất máu quá nhiều.
Thế rồi Hoa Đà không chút tự ái, ông tự nếm qua rễ bạch thược nhiều lần, mỗi lần nếm ông lại phát hiện rõ thêm dựơc tính. Bạch thược thuộc hàn tính có thể xua đuổi được hỏa, nếu sao nóng lạib iến thành ôn tính có thể bổ dưỡng. Từ đó nó đã trở thành một vị thuốc trọng yếu thường dùng.
Sau này ở huyện nhà của Hoa Đà, nhà nào cũng đều trồng bạch thược; còn ở ruộng nương, cây bạch thược mọc lên không thấy bờ. Lúc chế thuốc, bạch thược được chất đống đầy đường, xe tải thuyền chờ đến các quận huyện có nhu cầu không ngớt. Cho nên huyện Hào còn có cái tên đẹp là huyện Thược.
Được Hứa Chử
Một hôm, Tào Tháo đến tiệm thuốc Hoa Đà chơi, chợt nghe bên ngoài có tiếng cãi cọ, ông và Hoa Đà bèn bước ra. Thì ra đứng bên quày là một thanh niên Đại Hán vai u thịt bắp đang giận dữ mắng phổ kỵ. Tào Tháo bước tới hỏi, mới biết Đại Hán này họ Hứa, vì mẹ đau nên tới đây mua thuốc. Lúc đi vì vội nên anh quên mâng theo tiền, và phổ kỵ trong tiệm không bằng lòng cho anh mang thuốc về. Muốn lấy được thuốc, anh bèn cởi chiếc áo ngoài thế lại. Nhưng phổ kỵ không chịu ,thành thử mới xảy ra chuyện cãi vã.
Tào Tháo thấy môi miệng thanh niên bị lạnh đến thâm tím nên rất phục lòng hiếu thảo của anh. Do đó ông lấy gói thuốc và chiếc áo cánh còn để trên quày đưa cho anh, nói:
- Chú mau mặc áo vào kẻo lạnh chết; còn tiền gói thuốc này để tôi trả cho, thôi về đi!
Người thanh niên cúi người, vòng tay nói:
- Xin cám ơn, xin cám ơn, ngày mai tôi nhất định đem tiền lại trả cho ông.
Nói xong anh tạ lại cúi tạ lần nữa rồi mới quay người vội vã ra về.
Hoa Đà nhìn theo nói với Tào Tháo:
- Người ấy tên Hứa Chử, sức mạnh vô cùng, vì nhà nghèo nên ngay từ nhỏ anh ta phải đi chăn trâu chăn ngựa cho người ta. Có lần hai con trâu húc nhau, anh ta tức giận nắm lấy đuôi một con kéo chạy đi một đỗi rất xa. Nghe nói anh ta huấn luyện ngựa cũng rất đại tài, hay là anh nhận anh ta giữ ngựa cho anh đi.
Tào Tháo nghe xong gật đầu luôn. Sau bữa cơm trưa, Tào Tháo liền đội tuyết đến nhà Hứa Chử. Hứa Chử ngỡ là ông tìm đến đòi tiền, liền vội đến đầu giường mò lấy tiền đem trả. Tào Tháo vội ngăn anh lại và hướng ra ngoài cửa vẫy vẫy tay. Tức thời có hai tùy tòng mỗi người gánh một gánh lương thực đi vô. Tào Tháo nói:
- Tôi rất phục lòng hiếu thảo của chú. Bữa nay tôi tới đây là muốn được kết anh em với chú. Mấy bao gạo này xin chú nhận cho, gọi là chút lòng kính của tôi.
Hứa Chử cám ơn Tào Tháo và hai người trò chuyện với nhau rất tâm đắc. Tào Tháo mời Hứa Chử vô thành huấn luyện ngựa cho ông, và không quên cho Hứa Chử đem Hứa mẫu theo để tiện chăm sóc. Hứa Chử rất vui mừng và bằng lòng theo đi.
Thuở nhỏ Hứa Chử đã từng chăn ngựa, chàng đã học được bản lãnh huấn luyện ngựa. Cho dù ngựa chứng hay hung dữ bao nhiêu, chỉ cần Hứa Chử quất cho mấy roi là ngựa sẽ ngoan ngoãn nghe theo. Một hôm Tào Tháo mang bình rượu hảo hạng đến trường luyện ngựa thưởng cho Hứa Chử. Hứa Chử vui mừng uống hết mấy ly. Chàng thừa lúc tửu hứng, bèn dẫn một con đại thanh mã ra, muốn trổ tài huấn luyện ngựa trước mặt Tào Tháo. Vì tính con ngựa này quá hung hăng, hơn nữa Hứa Chữ đã quá chén, cho nên ngựa vừa cất vó đã hất té Hứa Chử xúông đất. Hứa Chử tức giận liền cởi áo, ở trần thót lên ngựa và nắm quyền đấm vào mông ngựa. Ngựa bị đấm liền hoảng kinh, nó cất bón vó, điên cuồng chạy như bay về phía bờ sông, chắc là nó định băng qua sông. Lúc này Tào Tháo ở phía sau la lớn:
- Cầm chặt cương vào.
Lời nói này đã cảnh tỉnh Hứa Cử, chàng sử dụng tuyệt chiêu, răng cắn chặt, mắt trừng trừng ,hai tay nắm chặt dây cương giật mạnh về phía sau một cái. Ngựa bị giật cương, hai chân trước liền chổm lên trời, hí dài một tiếng và khựng lại. Tào Tháo thở phào, luôn miệng nói:
- Nguy hiểm, nguy hiểm quá!
Vì để tránh trường hợp nguy hiểm thế này có thể xảy ra nữa, Tào Tháo đã kêu người xây bức tường cao cặp theo bờ sông mé bắc trường luyện ngựa. Người ta gọi là "tường chận ngựa". Đồn rằng Tào Phi con của Tào Tháo sau khi lên làm hoàng đế, trở về nhà tế lễ tổ tông đặc biệt có đến thăm trường luyện ngựa này và con leo trên "tường chận ngựa" đề một bài "Lâm qua phú" nổi tiếng.
Lưu Biểu và Vương Xán
Vương Xán là một thi nhân nổi tiếng trong "Kiến An thất tử". Ở Lạc Dương, ông ôm tài mà không gặp thời bèn đến Tương Dương nương tựa Kinh Châu mục Lưu Biểu.
Lưu Biểu đã từng nghe qua đại danh của Vương Xán. Nhưng thoạt thấy Vương Xán vừa gầy vừa lùn, tướng mạo xấu xí nên Lưu Biểu không thèm để ý tới. Vương Xán bị xem thường nên trong lòng không vui, ông rắp tâm tìm cơ hội để dạy cho Lưu Biểu một bài học.
Ngoài cửa sơn trang có một đầm nước trong, bên đầm dựng một bia đá có khắc bài văn chương vừa dở vừa dài của Lưu Tông, con của Lưu Biểu viết. Phàm văn nhân nào đến Kinh Tương, Lưu Biểu cũng đều muốn để họ thưởng thức. Những người này vì bất đắc dĩ phải xưng tụng khen ngợi, điều đó càng làm cho Lưu Biểu cảm thấy bia văn của con mình viết là một tác phẩm xuất chúng thiên hạ.
Bữa nọ, Lưu Biểu có hẹn Vương Xán và các văn nhân tới sơn trang bình phẩm bia văn. Vừa đến trước bia ông huênh hoang hỏi:
- Vương thị lang, xin bình phẩm bia văn này thử xem?
Vương Xán thủng thỉnh bước tới xem, thấy tác giả và ngày tháng đề phía dưới thì trong lòng hiểu ngay. Không đợi những người khác mở lời tán thưởng, ông vội vờ ngạc nhiên hỏi:
- Lưu tướng quân, những bài văn chương hay mà tôi viết không biết bao nhiêu mà kể, sao các ông chẳng tuyển chọn lại đi lấy nửa bản thảo vụng về mà tôi vứt bỏ khắc vào bia đá này làm gì?
Rồi Vương Xán lại tiếp:
- Thiên văn chương đến nay tôi vẫn còn nhớ rành rành, để tôi đọc thuộc lòng cho ông nghe.
Thế rồi Vương Xán đọc thuộc lòng vanh vách từng chữ một bài văn trên bia.
Mọi người nghe xong đều to nhỏ bàn tán. Lưu Biểu cũng hết sức lạ lùng, lòng nghĩ: trên đời sao có chuyện trùng hợp thế nhỉ? Trước mặt mọi người ông thật khó nói, bèn nổi đóa kêu bọn thủ hạ đào bia lên, tức thì, và quăng ngay xuống đầm. Sau khi bia chìm nghỉm dưới đáy nước mất dạng, Vương Xán mới cười ha hả:
- Lưu tướng quân, vừa rồi tôi chỉ đùa đó thôi, dè đâu ông ngỡ là thiệt. Sự thật bia văn ấy tôi mới học thuộc mà đọc lại, giờ bị quăng mất thật đáng tiếc biết bao!
Lưu Biểu quá tức nhưng ông cố cắn răng dằn lòng, đợi tìm cơ hội sẽ trả đũa lại.
Sau này, mọi người ra cồn ở giữa đầm chơi, có người đánh cờ với Lưu Tông. Lưu Biểu, Vương Xán và mọi người đứng bên ngoài xem đấu. Đợi đến lúc cờ của Lưu Tông đang lợi thế, Vương Xán cố ý làm lật đổ bàn cờ, khiến những quân cờ rơi vãi xuống đất. Mọi người đang say sưa theo dõi đến hồi hứng thú đều lên tiếng trách. Vương Xán thong thả nói:
- Không sao, không sao! Để tôi sắp lại như cũ cho, và rồi mọi người sẽ xem đánh tiếp.
Quả nhiên trong một chớp, Vương Xán đã sắp lại những quân cờ vào vị trí cũ. Lưu Biểu vô cùng kinh ngạc, nhưng lại nghĩ: mà cũng gần tàn cuộc rồi, có còn được mấy quân cờ đâu, dễ sắp lại thôi, vấn đề có chi đáng nói. Và rồi ông nói:
- Vương thị lang quả lắm tài, chúng tôi thật muốn mở tầm mắt. Giờ tôi sắp một bàn cờ và xóa đi, nếu như ông có thể sắp lại như cũ, tôi sẽ thua ông chiếc ngọc bội gia truyền này.
Vương Xán nói:
- Vậy có gì là khó! Tiếc là trong người tôi không có vật gì quý giá để cá với ngài, nhưng nếu tôi sắp lại mà sai một quân cờ, thì tôi sẽ nhảy xuống đầm này làm bạn với bia đá kia!
Lúc Lưu Biểu sắp những quân cờ, ông không án chiếu theo nước đi mà sắp loạn tứ tung. Đùng nói là học thuộc lòng, mà chỉ nhìn thôi cũng đủ hoa mắt. Lưư Biểu bày cờ xong, trong lòng thầm đắc ý; bàn cờ này cho dẫu thần tiên cũng khó hiểu nỗi, họ Vương mi sức mấy mà sắp lại đựơc! Vương Xán đợi Lưu Biểu sắp cờ xong, bèn đi đến rảo mắt nhìn qua, đoạn rút trong túi ra chiếc khăn, gom hết quân cờ lại. Sau đó ông thong thả sắp lại từng quân cờ. Khi ông sắp xong, quả thật không sai một quân cờ nào! Mọi người trố mắt và hết lời khen ngợi. Lưu Biểu chỉ còn cách mở ngọc bội thắt lưng trao cho Vưong Xán.
Từ đó người ta gọi đầm nước trong ở núi Vạn Sơn này là "đầm Trầm bi" và cồn giữa đầm này là "Cồn Giải Bội".
Bát trận đồ
Bên bờ Trường Giang, dưới thành Bạch Đế huyện Phụng Tiết tỉnh Tứ Xuyên, lưu truyền rằng đây là nơi Gia Cát Lượng bày Bát trận đồ. Gia Cát Lượng mượn bảy, tám mươi tảng đá ở bờ sông này làm kế trá binh, và nghe đâu đại tướng Lục Tốn của Đông Ngô rựơt theo Lưu Bị tới đây đã một phen khiếp vía mà phải lui binh. Từ đó, Bát trận đồ nổi tiếng ngàn thu, và danh tiếng Gia Cát Lượng bày trận cũng lẫy lừng.
Bát trận đồ được bày ra sao? Dựa vào uy thế nào mà đuổi được Lục Tốn? Trong dân gian bấy giờ có một truyền thuyết:
- Nói rằng bảy, tám mươi tảng đá ngổn ngang của bát trận đồ không phải là do Gia Cát Lượng sắp, đó là đài tế lễ của người dân nước Ba cổ đại ở dải Tam Giáp. Khi Gia Cát Lượng qua sông, từ Tố Giang - Kinh Châu lên đến đây, ông thấy từng tảng đá bày xếp ngổn ngang mà có vẻ trang nghiêm lạ lùng. Hiếu kỳ ông hỏi bá tánh ở đây, thì được một cụ già cho biết: Lai lịch của những tảng đá này thì không đựơc rõ cho lắm, cụ già nói rằng những tổ tiêng của nước Ba cổ đại cư trú ở Tam Giáp, vì cầu xin thiên thần bảo hộ che chở cho khoi tai họa bệnh tật, nên họ đã lập tế lễ này.
Gia Cát Lựơng nghe đến nhập thần, ông không chỉ chớp mắt chau mày, tựa hồ đang suy nghĩ một điều gì. Xem kỹ lại bát trận đồ lần nữa, ông thủng thỉnh đến bờ sông xem phong cảnh. Chỉ thấy vách núi hai bên bờ cao vời vợi , nguy nga hùng tráng che khuất ánh mặt trời. Thế vách núi túm lại như miệng chiếc hồ lồ, phát ra tiếng rầm rập như vạn vó ngựa phi. Nước mênh mông cuồn cuộn chảy tạo ra tiếng gầm théo rền rền làm chấn động sơn cốc chẳng khác chi ngàn vạn hùng binh mai phục...
Ở bờ sông một người câu cá có nói với Gia Cát Lượng, chỗ này là cửa Tam Giáp, nước toàn sông tụ về đây đổ xuống ngàn dặm, thế không gì ngăn nổi, được gọi là "thiên hạ hùng quan".
Gia Cát Lượng nhìn tận mắt, nghe tận tai, ông không ngừng gật đầu ngạc nhiên, thán phục! Thưởng xong phong cảnh, bấy giờ dã xế chiều, ông đang muốn tản bộ trở về doanh, chợt cuồng phong thổi tới hang cốc, hang hẹp gió mạnh, uy mãnh dị thường, cát bụi bốc đầy trời không còn nhìn thấy được gì xung quanh. Một nông phu nói với Gia Cát Lượng, ở đây mỗi ngày đều có cuồng phong thế này.
Tối đến, Gia Cát Lựơng ngồi trong doanh phòng, ông nhớ lại những cảnh kỳ dị mà ban ngày đã nghe thấy được và nghĩ tới đạo trị độc về sau. Ông liên tưởng tới bát trận đồ dùng tế lễ của người đất Ba. Bát trận đồ này há cẳhng là trong binh sách có nói đó sao? Đồ này tám tám sáu mươi bốn quẻ, sao bày cờ bố, bốn mặt tám hướng ngang dọc thông nhau, nơi nơi đều cửa, người ngựa vô trận không còn phân biệt đâu là phương hướng, thế trận làm mê loạn người, thêm vào đó sóng vỗ ầm ầm như sấm còn hơn trăm vạn hùng binh mai phục. Sao không lợi dụng thế trận này để đối phó với sự tiến công của Đông Ngô? Gia Cát Lượng càng nghĩ càng sáng ra, và ông liền có ý định.
Rạng ngày, Gia Cát Lựơng dặn dò người ở lại, trấn thủ theo sự bố trí của ông, đấy chính là bát trận đồ kỹ xão mà Gia Cát Lượng đã thành lập. Sau đó, Gia Cát Lượng mới rút quân về Thành đô.
Quả nhiên ngoài dự tính của Gia Cát Lượng. Khi Lục Tốn đuổi theo Lưu Bị tới đây đã bị sa vào bát trận đồ mà ông ngỡ đã trúng kế phục binh của Gia Cát Lượng...
Lai lịch chiếc hộc bàn
Vào thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, sáu lần ra Kỳ Sơn, đồn quân ở Ngũ Trượng Nguyên đánh nhau với Tư Mỹ Ý nước Ngụy. Gia Cát Lựơng và Tư Mã Ý đều là người túc trí đa mưu, dụng binh giỏi. Song nếu so sánh giữa hai người thì Gia Cát Lựơng hơn Tư Mã Ý một bậc.
Bấy giờ, tuổi tác Tư Mã Ý chưa phải là lớn và sức khỏe cũng tốt; còn tuổi tác Gia Cát Lựơng thì đã già, và sức khỏe đã suy, song luận về binh lực thì Gia Cát Lựơng mạnh hơn Tư Mã Ý. Chính vì nguyên nhân này nên mỗi lần đánh nhau, Gia Cát Lượng luôn nắm chắc phần thắng.
Dù vậy, Tư Mã Ý vẫn có tính toán riêng của mình. Theo ông: Gia Cát Lượng đã vào lúc tuổi già bệnh tật, cầm cự giỏi lắm cũng chỉ vài năm nữa. Vả lại, vài năm nữa binh lực của ta cũng đã mạnh thêm, đến lúc ấy mà đánh nhau, lo gì ta không thắng. Do đó, sau mấy lần Gia Cát Lượng hạ chiến thư, Tư Mã Ý vẫn án binh bất động.
Lần nọ, Tư Mã Ý sai sứ giả lấy danh nghĩa đến thăm để dò xem tình hình hư thực của Gia Cát Lượng. Sứ giả vừa đến doanh trướng Gia Cát Lượng, ông đã có sự tính toán trong lòng. Ông kêu một thợ mộc, ở bên chiếc bàn làm cho ông một cái hộc. Trong lúc đãi tiệc, sứ giả ngồi ở bàn đối diện, còn Gia Cát Lượng thì ngồi ở bàn có chiếc hộc. Rượu qua được ba tuần, nhà bếp dâng cơm và thức ăn lên, sứ giả ý muốn để xem trong bữa cơm Gia Cát Lượng dùng được mấy chén, sức ông còn có thể ăn được bao nhiêu. Chỉ thấy Gia Cát Lượng bưng chén đon đả mời sứ giả dùng, tự ông cầm đũa và ăn tỉnh bơ. Thừa lúc sứ giả không để ý, Gia Cát Lượng đã đổ hết cơm vô hộc bàn và cất tiếng bảo lớn: "bới cơm". Sứ giả thầm đếm, một chén, hai chén, ba chén... cả thảy năm lần. Đến lần cuối, Gia Cát Lựơng còn kêu: "bới thêm cho nửa chén nữa". Sứ giả nhẫm tính, thế là tất cả sáu chén rưỡi, sức ăn chưa kém. Nhưng từng ấy tuổi sao còn ăn nổi đến sáu chén rưỡi cơm.. Vốn tánh hiếu kỳ, sứ giả lom hai mắt nhìn Gia Cát Lượng, và cuối cùng thì nửa chén cơm đã dứt láng. Sự thật, sáu chén cơm trước, Gia Cát Lượng chỉ và cho rớt xuống hộc bàn, còn nửa chén sau mới là ăn vô bụng thiệt.
Sứ giả trở về báo cáo lại với Tư Mã Ý chuyện Gia CÁt Lượng ăn hết sáu chén rưỡi cơm mà chính mắt mình chứng kiến cho Tư Mã Ý nghe. Tư Mã Ý không thể không tin. Không lâu, Gia Cát Lượng bị bệnh nặng và qua đời, Tư Mã Ý vẫn chưa biết sự bí mật này.
Từ đó về sau, vì để kỷ niệm và nhớ tới Gia Cát Lượng, người ta đã làm bàn có hộc và thấy cũng tận dụng, cho nên sau này bàn thường có hộc.
Gia Cát Lựơng mượn lương
Sau khi mượn được Kinh Châu, Lưu Bị quyết lòng mở rộng thế lực của mình. Ông lợi dụng địa bàn này mà chiêu binh mãi mã, tích thảo dồn lương.
Kinh Châu vốn là một "huyện lúa cá". Chỉ vì trong lúc Tào, Tôn, Lưu ba nhà kẻ tranh người đoạt, liên miên đánh nhau suốt tháng này năm nọ, đến binh mã hoảng loạn khiến bá tánh không thể an cư lạc nghiệp nên phải lũ lượt trốn sang huyện khác.
Lưu Bị giao hết quyền quản lý Kinh Châu cho Gia Cát Lượng, muốn ông quản lý cả tiền lương và thuế má.
Sau khi nhận nhiệm vụ, Gia Cát Lựơng liền dán bảng công bố một đạo "lệnh đồn điền. Văn bản qui định rõ ràng: Bá tánh khai hoang trồng trọt, ai làm nấy hưởng, trong vòng ba năm khỏi phải đóng thuế. Khi bá tánh thấy được lệnh đồn điền này bèn bàn tán với nhau. Một đồn mười, mười đồn trăm, những người bỏ huyện ra đi, khi nghe đựơc tin tức này cũng đều rủ rê nhau về.
Sau khi bá tánh trở về huyện thì những vùng đất hoang vu đã được khai khẩn. Người chưa có đất trồng thì đào hồ nuôi cá, lập chuồng chăn nuôi. Những đất, những hồ ao, những chuồng trại được mở mang này đã làm cho đất đai phì nhiêu, cuộc sống trở nên nhộp nhịp. May sao năm ấy gió thuận mưa hòa, ngũ cốc đầy vựa đầy bồ, lương thực nhà nào cũng đầy ắp dư dả.
Lưu Bị ở Kinh Châu chiêu binh mãi mã rất cần một số lương thực lớn. ông thấy lương thực của đồn điền thu được nhiều, bèn muốn thu thuế. Nhưng lệnh đồn điền đã qui định, bá tánh khai hoang trồng trọt, trong vòng ba năm không lấy thuế. Tuy lương thảo trong quốc khố thiếu hụt nhưng cũng không thể sửa đổi pháp lệnh để đòi thuế bá tánh được.
Gia Cát Lượng thấy Lưu Bị bối rối không vui, bèn hỏi:
- Chúa công, bộ có chuyện gì sao mà không đựơc vui thế?
Lưu Bị buồn buồn, nói:
- Quân đội đang cần lương thảo mà không cách chi giải quyết được!
Gia Cát Lượgn đã trù liệu trước nên vội vàng lấy trong tay áo ra một cuộn giấy. Lưu Bị mở ra xem, chỉ thấy vỏn vẹn có một chữ "Mượn". Lưu Bị hỏi:
- Mượn ai bây giờ?
Gia Cát Lựơng đáp:
- Bá tánh!
Lưu Bị ngạc nhiên:
- Bá tánh chịu cho ta mượn sao?
Gia Cát Lượng cười:
- Nay trong nhà bá tánh đều dư dả, họ đều cám ơn chúa công ban bố lệnh đồn điền! Lời tục nói: Trong nồi có gạo thì lo gì trong chén không cơm?
Lưu Bị đổi buồn làm vui, nói:
- Tiên sinh quả là túc trí đa mưu, chúng ta nên làm sao mượn đây?
Gia Cát Lượng nói:
- Chúa công ra một đạo lệnh, tôi theo đó mà đi mượn, có chi là khó đâu?
Thế là chẳng bao lâu, trong thành Kinh Châu có niêm cáo thị, nói là lương thảo quốc khố đang thiếu hụt, nhà nước muốn mượn lương của bá tánh, trong vòng ba năm sẽ trả lại. Bá tánh đã có đất đai làm ăn, của tiền dư dả nên cũng bằng lòng cho nhà nước mượn lương.
Đêm trăng tiễn Điêu Thuyền
Theo truyền thuyết, Tào Tháo, Lưu Bị, hợp binh công đả Hạ Bì, bắt Lã Bố xử tử ở lầu Bạch Môn. Sau khi Lã Bố chết, những tướng lĩnh trong thành Tào nghe nói Điêu Thuyền là một tuyệt sắc giai nhân nên rất muốn gặp, nhưng phủ Lữ Bố đã được Lưu Bị phái Quan Vũ đem binh đóng giữ, người khác không vào được.
Tối nọ, Quan Vũ sau khi giải quyết xong sự vụ, chợt vẳng nghe có tiếng khóc, ông bèn hỏi kẻ hầu là ai đang khóc. Kẻ hầu nói là Điêu Thuyền. Quan Vũ lệnh cho dẫn nàng tới.
Lát sau, Điêu Thuyền được dẫn tới, Quan Vũ ngước đầu nhìn, quả nhiên là một người dung mạo xuất chúng, dáng vẻ mê người. Trong lòng nghĩ: Rõ ràng Đổng Trác, Lã Bố đã vì nàng này mà bỏ mạng, thứ hại nước giết người này không thể để lâu. Bèn vỗ án quát:
- Mi trước hầu Đổng Trác, sau lấy Lã Bố, trăng gió lả lơi gây hại còn khóc nỗi gì!
Điêu Thuyền ngưng khóc, nói:
- Tướng quân chỉ biết một mà không biết hai. Buổi đầu Đổng Trác loạn triều chính, Lã Bố trợ trụ làm ngược, xã tắc nguy tai như trứng xếp chồng, dân tình khốn đốn. Các quan trong triều đối với cường tặc đều bó tay không còn cách gì hơn. Vương ân công thiếp đành phải thiết kế liên hoàn, nhờ thiếp xả thân. Tiện thiếp tuy là hạng nữ lưu, xong vì việc nước, há dám tiếc gì tấm thân mình. Bây giờ hai kẻ tặc đều bị trừ, mà không dè thiếp lại trở thành tội nhân. Sự thế đảo điên như vầy sao khiến người ta không đau lòng cho được?
Nói xong nàng lại khóc.
Quan Vũ nghe xong, lòng cảm thấy xốn xang. Ông nghĩ lại lời nói của Điêu Thuyền cũng hợp tình hợp lý mà không khỏi động lòng trắc ẩn. Lúc này kẻ hầu bước vô kề tai Quan Vũ nói:
- Bẩm, chúa công có dặn, người doanh Tào tới bắt Điêu Thuyền thì cứ để bắt đi.
Quan Vũ nghĩ, nếu Điêu Thuyền mà bị bắt đi thì nhất định dữ nhiều lạnh ít, mình há có thể tháy chết trước mắt mà ngồi nhìn không cứu sao? Điêu Thuyền thấy Quan Vũ lộ vẻ đắn đo, bèn nói:
- Tiện thiếp từ nhỏ đã được nghe uy danh tướng quân và ngưỡng mộd dã lâu; nay được gặp, nếu như không hiềm chê ghét thì thiếp nguyện trải giường xếp chăn làm nô lệ hầu hạ tướng quân.
Quan Vũ thoạt nghe, lliền vừa thuwogn vừa giận, quát:
- Cầm mồm, ta có ý tốt đãi mi, sao mi dám nói ngông cuồng. Không nghĩ tình mi đáng thương, ta đã lấy đầu mi tức khắc.
Điều Thuyền thấy Quan Vũ nổi giận, lòng hồi hộp, nói:
- Nếu tướng quân tha thiếp, thiếp sẽ vô sơn lâm ở ẩn, cạo đầu làm ni cô.
Quan Vũ gật đầu:
- Thế thì được.
Đoạn Quan Vũ bảo ngưòi dẫn tới một con ngựa, lại chọn hai mươi tên lính tốt, và cho Điêu Thuyền thay đổi y phục trà trộn trong quân, thẳng ra cửa thành.
Đến rạng sáng ngày mới tới một nơi sơn thanh thủy tú, vượn kêu chim hót. Quan Vũ gò ngựa lại, nói với Điêu Thuyền:
- Từ đây đi về phía trước khỗng a mấy có am Tĩnh Từ, đến đó nói là Quan mỗ gởi lời hỏi thăm thì chủ trì sẽ đối xử tốt với cô nàng.
Điêu Thuyền cám ơn không ngớt, chắp tay nói:
- Tiện thiếp mong kiếp sau làm thân trâu ngựa báo đền ơn này.
Nói xong, che mặt khóc lớn mà đi.
Chính lúc đó, chợt nghe phía sau có tiếng hét, Quan Vũ ngoái đầu ngó lại liền giật mình. Chỉ thấy bụi bay lấp đầu, Trương Phi cầm bát xà mâu bay tới, hai bên còn có Lý Điển và Nhạc Tiến. Thì ra Trương Phi nghe nói người Doanh Tào tới bắt Điều Thuyền, ông sợ chuyện không hay sẽ xảy ra, nên quyết định giết Điêu Thuyền trước.
Quan Vũ thấy đoàn người ngựa tới, vội hỏi:
- Chuyện chi mà hơ hải thế này?
Trương Phi hét to:
- Đặc biệt tới lấy thủ cấp mi!
Nói xong hươ mâu thích tới. Quan Vũ vội né sang một bên, vừa may Lưu Bị cũng đã đến nạt Trương Phi dừng tay. Quan Vũ hỏi ra mới biết họ vì Điêu Thuyền mà tới đây. Ông bèn kể lễ nỗi niềm cũng vì việc nghĩa cứu Điêu Thuyền cho họ nghe. Lưu Bị nghe xong, buột miệng khen:
- Em ta quả là kẻ sĩ cương liệt!
Lý Điển, Nhạc Tiến thấy việc đã như vầy, chỉ còn biết trở về nhà báo lại với Tào Tháo. Tào Tháo thở dài một tiếng:
- Thấy sắc đẹp mà không tham, gặp cường quyền mà không sợ, đáng mặt đại trượng phu thay!
Đinh đâm ngựa
Đồn rằng năm ấy khi Gia Cát Lượng dẫn quân đánh nhau với binh Tào ở Miện Thủy, vì thế đất ở đây bằng và rộng nên rất lợi cho binh Tào dùng cung tên. Để phá được binh Tào, mỗi lần trước khi giao chiến, Gia Cát Lượng sai bộ hạ chuẩn bị dây và đào hầm sẵn. Đợi đến khi giao chiến thì giả thua dẫn dụ địch quân, khiến cho ngựa địch không rơi xuống hầm thì cũng bị dây cản té mà bắt sống. Có điều cách này tuy có thể dùng, nhưng vì cần nhân lực, vật lực quá nhiều nên bất tiện. Có thể nghĩ ra biện pháp gì để khỏi phí công mà vẫn có thể bắt được binh địch đây? Việc này khiến Gia Cát Lượng phải suy nghĩ điên đầu.
Một hôm, Gia Cát Lượng cảm thấy phiền muộn, bèn dẫn thư đồng men theo sông Hán dạo chơi, ông muốn mượn cảnh để khuây khỏa tâm thần. Hai người ra đến bờ sông, phóng mắt nhìn ra bãi cát trắng phau trải dài không thấy bờ. Trên bãi từng cụm từng mô nhấp nhô, cỏ xanh như khói điểm xuyến cho bờ sông càng thêm tươi đẹp. Không Minh bất giác hứng thú, ông cởi hài xắn quần, để chân trần đùa chơi với thư đồng trễn bãi. Cát mịn, mỗi bước chân giẫm xuống như đạp lên bọt biển mềm mềm lạnh lạnh, việc quân chính đa đoan rối rắm, Khổng Minh tạm thời gác bỏ, ông vui thích đùa giỡn với thu đồng. lúc ông vô tình đạp lên trên một bụi dây leo, chợt cảm thấy bàn chân đau nhói như vạn mũi kim đâm. Ông kêu lên mấy tiếng đau đớn rồi ngồi bệt trên bãi cát. Thư đồng thấy vậy hoảng hồn, quýnh quáng chạy tới đỡ Khổng Minh dậy và hỏi tại sao. Khổng Minh nhăn mặt cố chịu đau giơ bàn chân trái lên xem; dưới bàn chân một vật nhỏ như trái cầu vàng dính tòn ten. Thư đồng vội đưa tay gỡ ra, ai ngờ vừa đụng phải thì tay cũng liền đau buốt như ong chích tay. Khổng Minh bèn lấy trong tay áo ra chiếc khăn tay, nhẹ hất cái vật như quả ccầu xuống đất. Sau khi nhìn kỹ vật đó, ông bật cười to lên. Thư đồng ngạc nhiên hỏi:
- Vừa rồi Thừa tướng vừa mới kêu đau, sao bây giờ bỗng dưng cười to vậy?
Khổng Minh đáp:
- Ta lấy cái đau đớn nhất thời để đổi lấy một thứ lợi khí phá giặc, sao không cười được chớ?
Thư đồng càng không hiểu, nhưng thấy Khổng Minh đã lấy khăn gói vật đó lại nên không tiện hỏi nữa.
Lại nói sau khi Khổng MInh trở về doanh, ông liền chiếu theo cái vạt đã đâm ông đó mà vẽ ra trên giấy, đoạn bảo thợ rèn trong quân, chiếu theo đồ họa mà chế ra rất nhiều, rồi đem cất giữ trong kho. Về sau khi giao chiến với quân Tào, ông bảo binh sĩ lấy ra ném đầy đất, quả nhiên đã đánh bại địch quân. Cái vật nhỏ có gai ấy chính là quả tật lê, còn gọi là "đinh đâm ngựa".
Đầu Tây Thi, mật Kinh Kha
Một hôm, thần y Hoa Đà hỏi Vương Doãn về việc trừ gian. Vương Doãn thở dài nói:
- Ối, đáng tiếc là trước mắt chọn không ra một cô gái nào có thể gánh vác nhiệm vụ lớn lao này!
Hoa Đà ngạc nhiên hỏi:
- Dung nhan Điêu Thuyền có thể nghiêng thành, lại hiểu được đại nghĩa, ông đã tốn công vì cô ta rất nhiều mà còn chưa được sao?
Vương Doãn lắc đầu, rồi thở dài:
- Ổi, không được rồi! Ông chưa biết, nhan sắc Điêu Thuyền thay đổi lúc vầy lúc khác, nay đã không cách chi khiến Đổng tặc động lòng!
Hoa Đà ngó điêu Thuyền, đọan nói với Vương Doãn:
- Tôi có thể giúp ông một tay.
Hoa Đà rời nhà Vương Doãn ra đi, mười hôm sau ông quảy tới một bị thuốc. Ông và Vương Doãn vô thư phòng, từ trong bị ông lấy ra một cái đầu mỹ nhân rạng rỡ như còn sống thật! Vương Doãn không biết đã xảy ra việc gì, hoảng sợ đến tái mặt. Hoa Đà nói:
- Đây là "đầu Tây Thi", tôi từ Tây Vương mẫu lấy về.
Vương Doãn hồi hộp hỏi:
- Cần "đầu Tây thi" làm gì?
Hoa Đà mỉm cười không đáp, lại sắc một chén thuốc để Vương Doãn đem cho Điêu Thuyền uống.
Điêu Thuyền uống xong chén thuốc, liền mê man nằm vật trên giường. Hoa Đà lấy ra chiếc dao thần, nhắm đúng vào cổ Điêu Thuyền định xuống tay, Vương Doãn hồn phi phách tán, bảo:
- Dừng tay! Ông... ông định làm gì?
Hoa Đà nói:
- Tư đồ đừng hoảng sợ, hãy xem thuật thay đầu của tôi đây!
Nói xong, chỉ thấy ánh đao chớp động, "đầu Tây Thi" đã thay vào cổ Điêu Thuyền. Sau đó Hoa Đà sao cỏ linh chi ngàn năm, đốt mai rùa vạn năm chế thuốc. Suốt bảy ngày bảy đêm, tim mạch Điêu Thuyền không nhảy, nàng nằm mơ như chết. Đến ngày thứ tám, khuông mặt trái xoan của Điêu Thuyền mới có huyết sắc và trở nên ửng hồng. Đến lúc này Vương Doãn mới thở phào nhẹ nhõm. Giờ thì chiếc miệng anh đào Điêu Thuyền đã hé, nàng ngáp một cái và lông mi chớp chớp, đôi mắt long lanh mở ra! Vương Doãn vừa ngạc nhiên vừa mừng, nói:
- Tiên thuật, tiên thuật, đúng là Tây Thi sống lại!
Đổng Trác nghe nói Vương Doãn có một dưỡng nữ đẹp tựa thiên tiên, bèn ra lệnh Vương Doãn phải đưa Điêu Thuyền tới phủ của ông lập tức. Vương Doãn sợ đến rụng rời, ông chỉ còn cách thối thác bảo là Điêu Thuyền đang bệnh. Do đó Đổng Trác hạn cho Vương Doãn trong vòng nửa tháng phải trị hết bệnh cho Điêu Thuyền và đưa đến. Điêu Thuyền sau khi biết được việc này, nàng vừa lo vừa sợ đến mê man bất tỉnh luôn . Vương Doãn thấy đại sự đã không còn cách nào cứu vãn nữa, lòng ông đau nhói như vạn mũi tên đâm vào.
Hoa Đà sau khi thay đầu cho Điêu Thuyền xong, phát hiện thấy mật nàng nhỏ như lá lúa không thể nào đảm đương việc lớn được, bèn về bát động thần tiên mượn "mật Kinh Kha".
BẤy giờ, Điêu Thuyền mê man đã ba hôm, Vương Doãn suốt ngày ngồi bên giường nàng sa nước mắt. Chợt thấy Hoa Đà bước vô, ông liền than thở:
- Nay xảo kế của ông không thành rồi, hai cha con tôi e khó sống nổi!
Hoa Đà nói:
- Đừng lo!
Đoạn ông dùng thủ thuật lấy chiếc mật nhỏ như hạt lúa của Điêu Thuyền ra, và thay vào đó là chiếc "mật Kinh Kha" to bằng quả trứng ngỗng và bây giờ Điêu Thuyền mới trở thành mỹ nữ dung mạo như Tây Thi, mật chẳng khác Kinh Kha.
Thế rồi, Vương Doãn lén đem Điêu Thuyền hứa gã cho Lã Bố, lại đúng hạn kỳ đưa nàng cho Đổng Trác. Điêu Thuyền dựa vào săc đẹp và mật của nàng, đã khôn khéo sắp xếp mọi việc mà không để lộ hình tích. Rốt lại đã ly gián được mối quan hệ giữa cha con Đổng Trác và Lã Bố, mượn tay Lã Bố giết chết tên gian tặc Đổng Trác khuấy dân hại nước này.
Lỗ Túc đòi Kinh Châu
Sau cuộc đại chiến Xích Bích, Tào Tháo phải chịu thua to mà dẫn binh trở về phương Bắc. Chu Du - đại tướng Đông Ngô thừa thắng đuổi theo, tới Sa Thị liền hạ trại và định chiếm lấy Kinh Châu.
Lưu Bị cũng muốn đoạt Kinh Châu, có điều cọp muốn ăn trời, không cách chi ngoạm được.
Gia Cát Lượng sớm đã thấy rõ được tâm sự của Lưu Bị, bèn hỏi:
- Chúa công vì việc Kinh Châu mà buồn phải không?
Lưu Bị gật đầu, hỏi lại:
- Tiên sinh có kế chi chăng?
Gia Cát Lượng cười mà không đáp, chỉ nhét vô tay Lưu Bị một mảnh giấy.
Lưu Bị mở ra xem, trên tờ giấy vỏn vẹn có một chữ "mượn".
Lưu Bị cười khổ sở nói:
- Xưa nay chỉ có mượn tiền, mượn gạo, mượn dầu, mượn muối, đâu có cái chuyện mượn địa bàn bao giờ!
Gia Cát Lượng cười:
- Đến lúc đó sẽ có cách mượn của tôi...
Lúc tranh giành Kinh Châu, Chu Du và Tào Tháo ác chiến kịch liệt. Quân Tào thua chạy, Chu Du bị trúng tên. Thừa cơ hội hỗn loạn, binh mã của Lưu Bị bèn chiếm lấy Kinh Châu.
Chu Du đuổi theo, khi thu binh lại thì thấy trên thành Kinh Châu đã treo lá cờ lớn đề chữ "Lưu". Ông giận đến nghiến răng kèn kẹt, liền muốn phát binh so tài cao thấp với Lưu Bị.
Bây giờ, Lỗ Túc, mưu sĩ trong quân Chu Du khuyên:
- Tướng quân tạm thời bớt giận, để tôi đi hỏi cho rõ ràng, trước lý sau binh cũng còn chưa muộn.
Chu Du lúc này đã trúng tên bị thương, chỉ còn cách đồng ý.
Lỗ Túc tới dưới thành Kinh Châu, hỏi:
- Người ta tốn tiền của, hao nhân lực đánh nhau, các người thừa cơ chiếm tiện nghi, như vậy có đúng không?
Gia Cát Lượng đứng trên thành trả lời:
- Chúa công nhà tôi tạm mượn đỡ Kinh Châu đóng binh, sau này được Tây Xuyên thì sẽ trả lại Kinh Châu cho các người.
Lỗ Túc thấy gạo đã nấu chín thành cơm, chỉ còn cách thuận nước xô thuyền, liền nói:
- Nói miệng không bằng chứng, phải lập văn tự mới được!
Gia Cát Lượng từ trên lầu thành ném xuống một bản văn thư, Lỗ Túc cầm đem cho Chu Du.
Chu Du mở văn thư ra xem, chỉ thấy viết có mấy chữ "năm nay mượn sang năm trả".
Chu Du liền tức giận, nói:
- Tiên sinh mắc bẫy Khổng Minh rồi!
Lỗ Túc hỏi:
- Sao biết được?
Châu Du chỉ văn thư nói:
- Trên tờ giấy chỉ vỏn vẹn có mấy chữ cho dù năm nào tháng nào cũng đều có thể nói "năm nay mượn sang năm trả" cả!
Quả nhiên, sau khi Lưu Bị mượn được Kinh Châu rồi cứ dằng dai không chịu trả. Đến nay dân gian vẫn còn lưu truyền câu: "Lưu Bị mượn Kinh Châu, Lỗ Túc đòi không trả".
Ba chàng thợ da
Khi đại chiến Xích Bích, Chuu Du thấy tài Gia Cát Lượng hơn mình nên ngầm ôm hận, bèn bảo ông trong vòng ba ngày phải có bằng được mười vạn mũi tên, ấy là muốn mượn cơ hội này để giết ông.
Gia Cát Lượng không nhờ thợ, cũng không mua vật liệu. Ông phe phẩy chiếc quạt lông ngỗng, ung dung dẫn ba tùy tùng đến bờ sông ngắm cảnh, lại đến nhà chứa cỏ xem qua, rồi nhìn khí trời. Liệu định sáng ngày thứ ba sẽ có mù dày, ông bèn nghĩ ra biện pháp thuyền cỏ mượn tên. Ông bảo ba tùy tùng chuẩn bị hai mươi chiéc thuyền nhỏ, bện cỏ hai bên và phủ vải xanh, đợi có lúc sẽ dùng đến.
Ba tùy tòng chiếu theo lời dặn của Gia Cát Lượng mà làm. Xong rồi trở lại bẩm báo, hỏi:
- Chắc là quân sư muốn chèo những chiếc thuyền cỏ này, tới thủy trại quân Tào để dẫn dụ họ bắn tên phải không?
Gia Cát Lượng cười, nói:
- Đây là quân cơ đại sự, các người đừng hỏi kỹ!
Ba tùy tòng ngó nhìn nhau, đoạn nói:
- Ý định này tốt thì tốt. Nhưng có điều, nếu muốn nhận tên thì phải chèo thuyền đến gầy thủy trại, mà lỡ ra họ thấy được vải che chớ không có người thì họ sẽ bao vây ngài thôi.
Ba người này đều xuất thân là thợ da. Họ bàn tính một hồi và đã nghĩ ra được một biện pháp tốt.
Tối hôm sau, ba thợ da mời Gia Cát Lượng tới bờ sông kiểm tra lại, ở đằng mũi mỗi thuyền nhỏ đều có ba hình nộm mặc áo da, đội nón da, y như người thật.
Ngày thứ ba, trên sông, mù bắt đầu xuống. Gia Cát Lượng cho người chèo hai mươi thuyền nhỏ này sang bên kia sông ,và chiêng trống reo hò rất hùng dũng.
Binh Tào ở trên bờ không biết Giang Đông tới bao nhiêu thuyền, lại sợ trúng kế mai phục nên chỉ ra lệnh bắn tên.
Đã bắn một trận mà không thấy lính Giang Đông rối loạn, Binh Tào bắt đầu nghi ngờ và không bắn nữa. Họ phái những người gan dạ đến gần bờ thám xét. Trong màn lù mờ, những người do thám thấy trên thuyền nhỏ nào cũng có "binh sĩ" đầu đội mão, mình mặc giáp, bèn vội chạy về báo cáo là "có người, quả là có người!"
Lúc này, tiếng trống trên thuyền càng vang dội, tiếng reo hò càng mãnh liệt. Binh Tào ngỡ binh Giang Đông muốn đánh lên bờ, lại bắn tên xuống như mưa. Chẳng bao lâu, Gia Cát Lượng đã "mượn" được hơn mười vạn mũi răng sói.
Trong dân gian lưu truyền câu "ba chàng thợ da hơn một Gia Cát Lượng" chính là nói về chuyện này.
Gia Cát Lượng & người vợ họ Hoàng
Gia Cát Lượng vì Lưu Bị mà tốn rất nhiều tâm cơ, trong đó phải nói cũng có phần công lao của người vợ họ Hoàng của ông.
Thưở nhỏ Gia Cát Lượng say mê đọc sách, ông đi khắp nơi để tìm sách đọc. Nghe nói ở Ngọa Long cương có viên ngoại họ Hoàng bụng chứa đầy theo lược, trong nhà giữ rất nhiều sách cổ kim kỳ lạ, và từ xưa đến nay chưa hề truyền ra ngoài. Vì muốn gần gũi với Hoàng viên ngoại, nên Gia Cát Lượng mới dời nhà đến Ngọa Long cương này.
Hoàng viên ngoại có bầy ngỗng, mỗi ngày ông chăn ngỗng bên bờ sông dưới Ngọa Long cương. Gia Cát Lượng bèn dựng một nhà tranh ở dưới Ngọa Long cương. Ban ngày ông trồng trỉa, ban đêm đọc sách, có lúc ông bàn luận chuyện cổ kim với Hoàng viên ngoại khi ông tới chăn ngỗng. Hai người rất tâm đầu ý hợp, nhưng Gia Cát Lượng vẫn chưa đề cập đến chuyện mượn sách.
Hoàng viên ngoại chú ý tới người trai trẻ bác học đa tài này, và lo xa khi về già không có người nối dõi. Ông bèn nhờ người mai mối, đem con gái mình hứa gả cho Gia Cát Lượng. Khi sắp làm đám cưới, người mai hỏi Gia Cát Lượng muốn nhà họ Hoàng chuẩn bị lễ cưới những thứ gì. Gia Cát Lượng nói:
- Chẳng cần thứ gì hết, chỉ cần nhạc phụ tội tặng cho sách vở, đó là ân huệ lớn lao rồi.
Quả nhiên Hoàng viên ngoại tặng cho con rể mấy tủ sách lớn. Gia Cát Lượng như bắt được báu vật, suốt ngày đêm ra công đọc, và không bao lâu đã thuộc nằm lòng. Nhưng ông còn chưa hài lòng, thở ra nói:
- Sách quí tuy nhiều, có điều thiếu sách binh pháp.
Vợ ông nghe, chỉ mỉm cười chứ không nói gì.
Vài ngày sau, nàng vẽ một bát quái trận đồ đưa cho Gia Cát Lượng, nói:
- Chàng xem, có thể phá được trận này không?
Gia Cát Lượng tiếp lấy, ông phải suy nghĩ suốt tháng ròng mới phá được trận bát quái này. Hoàng phu nhân hé miệng nói:
- Xem ra chàng cũng thông minh đấy!
Lúc này nàng mới đem tất các cách hành binh bố trận mà phụ thân truyền, dạy lại cho chồng. Bấy giờ, Gia Cát Lượng văn võ đều làu thông, gần xa nghe tiếng.
Sau đó khong lâu, Lưu Bị ba lần đến thảo lư mời Gia Cát Lượng xuống núi. Trước khi tiễn chồng lên đường. Hoàng thị phu nhân đã thức suốt mấy đêm, may chế một chiếc áo bào bát quái và nói với Gia Cát Lượng:
- Áo bào này bên ngoài là án chiếu theo bát quái đồ, đường máy bên trong là bát quái trận thế, chàng mặc áo này trên người, lãnh binh bày trận trong lòng sẽ sáng suốt hơn.
Gia Cát Lượng mặc áo bát quái đến bái từ nhạc phụ. Hoàng viên ngoại cao hứng bèn tự tay làm thịt ngỗng, bày yến tiệc đãi con rể lên đưòng. Ông còn dùng lông ngỗng làm một chiếc quạt tàng cất binh pháp kỳ thư tặng cho Gia Cát Lượng và căn dặn kỹ:
- Ngỗng là sinh linh cơ cảnh, gió thổi cỏ động, nó đều hay biết. Chủ soái lãnh binh đánh trận, hai chữ "cơ cảnh" không thể quên được.
Sau này, qua mấy mươi năm lăn lộn sinh nhai trong nhung mã, áo bát quái và quạt lông ngỗng vẫn là vật bât ly thân; cho nên có thể biết mình biết người, trăm trận trăm thắng.
Cha con khuyên Gia Cát
Theo lịch sử thì Lưu Bị ba lần đến thảo lư, Gia Cát Lượng cảm động nên mới chịu xuống núi. Nhưng theo truyền thuyết thì nói, đó là do lời khuyên của nhạc phụ Hoàng Thừa Ngạn và phu nhân Hoàng Nguyệt Anh của ông.
Lưu Bị hâm mộ đại danh Gia Cát Lượng, đã từng hai lần lên núi mời ông. Thấy vậy Gia Cát Quân nói:
- Lưu Bị đã hai phen tới mời anh, nhưng chưa gặp anh ắt chưa chịu!
Gia Cát Lượng mỉm cười, khẽ hỏi:
- Chị dâu chú biết chuyện này, chị ấy nói sao?
Hoàng Nguyệt Anh từ ngoài bước vô, vừa đi vừa nói:
- Xem ra cái chuyện thiên cổ bàn luận khen Thành Thang ba lần mời Y Doãn, đời nay sắp tái diễn.
Gia Cát Lượng vội nói:
- Gia Cát Lượng tôi có tài đức gì mà có thể so với bậc thánh hiền triều trước? Huống chi Lưu Bị phiêu bạt nửa đời người, đến nay còn chưa có mảnh đất cắm dùi, nào chắc đã ra trò trống gì, phu nhân chớ để người cười.
- Sao không thể ra trò trống gì chớ? Lưu Bị anh danh cái thế, hào khí không sút giảm nhất định sẽ làm nên nghiệp lớn!
Gia Cát Lượng nghe tiếng nói từ xa đưa lại, ông ngước đầu lên, thì ra là nhạc phụ Hoàng Thừa Ngạn.
Hoàng Thừa Ngạn rất biết tính con gái ông, nên khẽ hỏi:
- Con có chịu để chồng con đi xa không?
Câu hỏi này khiến con gái ông đỏ mặt tía tai. Nàng đưa mắt nhìn Gia Cát Lượng, lớn tiếng nói:
- Người ta muốn đi trổ tài, chuyện chi phải ngại con. Có điều, cuộc thế rối loạn, đường đời gian nan, nếu thật muốn sáng lập một cuộc diện mới mà không có quyết tâm kéo sóng dữ và lòng tin thì làm sao được! Xem ra cái ý Lưu Bị đến mời như vầy không phải như mời khách thường, mà là muốn ủy thác trọng trách. Cố nhiên việc được mất lợi hại chưa biết chắc, con nghĩ người làm sự nghiệp lớn nên cẩn thận một chút mọi việc không nên sơ sảy.
Hoàng Thừa Ngạn nghe đến đây, nhịn không được bèn cười lên ha hả:
- Nói thế này thì chẳng những trong lòng con đã nuôi sẵn kỳ vọng , mà còn tán thành rồi! Yên trí đi, với tài anh ta, con chỉ chờ tin tức phong hầu bái tướng thôi.
Hoàng Nguyệt Anh ngúng ngoảy háy cho một cái và miệng chu lại.
Hoàng Thừa Ngạn thấy Gia Cát Lượng cứ mãi cúi đầu trầm tư, bèn xoay qua khuyên:
- Hiền tế, Lưu Bị tới Kinh Châu này đã mấy năm nay, ông ta một mặt ráo riết luyện binh giảng võ, một mặt chọn nhân tài. Trước đây không lâu ông ta còn đến Thủy Kính tiên sinh cầu giáo, và gần đây lại mời Từ Thứ ra giúp. Cha thấy Lưu Bị cho dù có thất bại đi nữa, những lòng nhẫn nại có dư thừa, huống chi các hổ tướng đều lần lượt tới giúp ông ta, chỉ còn thiếu một mình "Ngọa Long" con nữa đó thôi. Người thế này, hiền tế đi giúp ông ta bày mưu tính kế, điều tướng khiển binh thì không còn gì hay bằng!
Gia Cát Lượng nghe lời của cha con ông nói xong, bèn thưa:
- Nhạc phụ đã nói vậy khiến con sáng ra; phu nhân khuyên nhủ càng khiến tôi hiểu thêm đại nghĩa. Khi Lưu Bị mà tới nữa, con sẽ vui lòng hầu chuyện với ông ta. Chỉ cần chí đồng đạo hợp thì con sẽ lấy hết sức mình giúp ông ta tạo nên sự nghiệp. Theo lời phu nhân thì thế cuộc đang rối loạn, đường đời đầy gian nan, nhưng cho dù thế nào chăng nữa, khi mình đã quyết rồi thì quyết làm cho đến nơi đến chốn! Cứ hết sức mình thôi, còn cái việc thành bại là việc về sau.
Cách mấy ngày, quả nhiên Lưu Bị lại đến Long Trung vừa gặp mặt Gia Cát Lượng liền đem tâm sự, giải bày cho ông hết. Gia Cát Lượng cũng đem hết tấm lòng nói ra, hai bên vỗ tay một lòng. Với sự thành tâm mời thỉnh của Lưu Bị. Gia Cát Lượng cáo từ mọi người và hăm hở theo Lưu Bị xuống núi.
Chu Thương cưỡi Xích Thố
Có một lần, từ Kinh Châu, Quan Vũ muốn trở về Giải Châu thăm gia đình, Chu Thương nói:
- Quan tướng quân, ngài về quê thăm nhà lần này, có thể đánh một vòng qua Quan Tây, nhà của tôi một chuyến không?
Quan Vũ nghĩ, Chu Thương đã vác đại đao cho mình bấy lâu nay, có đi vòng xa hơn một chút cũng chả sao. Do đó ông vui vẻ bằng lòng.
Chu Thương lại nói:
- Quan tướng quân, tôi vác đao cho ngài cả đời, lần này đi qua huyện nhà tôi, ngài có thể nể mặt tôi mà vác đao được không?
Quan Vũ ngẫm nghĩ rồi nói:
- Được thôi, có điều chúng ta nên bàn một điều kiện.
Chu Thương vội hỏi:
- Điều kiện chi?
Quan Vũ nói:
- Chúng ta tỉ thí, ngươi mà thắng thì ta vác đại đao.
Lần thứ nhứt thi ném cọng rơm, lần thứ hai thi đánh con kiến, lần thứ ba thi đánh bọt nước, kết quả Quan Vũ đã dùng xảo thuật mà thắng Chu Thương (xem bài trước).
Chu Thương vẫn chưa hài lòng, trong lòng nghĩ: Quan tướng quân là người thích đọc sách "Xuân Thu", tất nhiên là có mưu kế. Được rồi, Chu Thương ta cũng có cách vậy. Chu Thương nói:
- Quan tướng quân, ba lần ấy tôi chịu thua, song ngài thắng tôi lần thứ tư này tôi mới phục. Vả lại ba lần thi ấy đều do ý ngài đưa ra cả, phen này thì tới tôi.
Quan Vũ cười:
- Giờ thì thi thế nào? Ngươi nói đi.
Chu Thương cung người nói:
- Cướp đại đao!
Theo cách này thì Quan Vũ ở trên ngựa nói giết, Chu Thương ở dưới đất nói cướp, và hai người giành giựt đại đao. Được một hồi vẫn chưa phân thắng bại. Chu Thương đã có rắp tâm, bèn buông đao giả thua. Quan Vũ ngờ đã thắng liền thúc ngựa rượt theo. Hay đâu Chu Thương từ dưới đất rút roi đánh "pặc" vào chân ngựa, làm ngựa vướng dây phải té, và Chu Thương liền phi thân phóng tới đoạt lấy đại đao trong tay Quan Vũ, Chu Thương đã thắng!
Thế là, khi trên đường đi qua huyện nhà Chu Thương, Chu Thương oai phong lẫm liệt cỡi trên ngựa xích thố. Quan Vũ vác đại đao đi theo phía sau. Người trong huyện Chu Thương đều ngạc nhiên khen rối rít:
- Ồ! Ông mặt đen Chu Thương đã làm quan rồi! Kìa, Quan Công mặt đỏ, thượng tướng Ngũ Hổ mà còn vác đại đao cho ông kìa!
Chu Thương nghe vậy, lấy làm khoái, lòng nghĩ: Làm quan thì làm thiệt, có điều quan giữ ngựa vác dao thôi!
Kịp thời cho mưa
Nói rằng sau khi Quan Vũ thành thần, Ngọc Đế phái ông cai quản việc mưa gió, Chu Thương cũng theo bên ông giúp việc. Bấy giờ là khí trời của tháng ba tháng tư, thường có người tới cầu mưa cầu nắng, và mọi việc đều được Quan Vũ sắp xếp ổn thỏa. Chu Thương thấy vậy lòng nghĩ: Việc nhỏ nhặt ấy ai làm chả xong cần chỉ phải tới Quan Vũ mới làm được!
Một hôm, Quan Vũ có việc phải đi ra ngoài, việc cai quản gió mưa nhờ Chu Thương làm thay cho một ngày. Chu Thương khỏe re bằng lòng, nghĩ: Đừng nói thay một ngày, cho dù thay cả đời luôn cũng được.
Khi Quan Vũ ra đi chưa được bao lâu thì có một nông dân tới, quì xuống thỉnh cầu:
- Bẩm ngài, mai này tôi gặt lúa, mong ngài đừng đổ mưa ạ!
Chu Thương chẳng cần đắn đo suy nghĩ, buột miệng nói:
- Yên chí mà về đi, ngày mai trời nắng thôi.
Nông dân ấy vừa ra về, thì nông dân khác bước vô xin:
- Bẩm ngài, ngày mai xin ông mưa cho để tôi gieo giống ạ!
Chu Thương ngẩn ra một hồi, nhất thời chưa biết phải trả lời làm sao. Lại thêm một chủ vườn và một người buôn bán tiến vào. Người chủ vườn xin:
- Bẩm ông, hoa lê nhà tôi đã nở rộ, mai này xin ông đừng nổi gió lớn ạ!
Người buôn bán cũng xin:
- Ngày mai tôi ra khơi, mong ngài được thuận buồm xuôi gió ạ!
Sự thể này khiến Chu Thương rối beng, ông bò đầu đứng lên, nói:
- Khoan đã! Chuyện này lắm phiền phức, để ta đi hỏi rõ rồi mới trả lời được.
Chu Thương vội chạy tới chỗ Quan Vũ kể lễ lại sự tình. Quan Vũ cười:
- Chút việc nhỏ vầy mà cũng lăng xăng tìm đến đây. Ta không rảnh đi được, hãy cầm mảnh giấy này trở về rồi theo đó thu xếp.
Nói xong bèn cầm bút vẫy lia.
Chu Thương tiếp lấy xem, thấy có viết bốn câu:
Tháng tư trời sáng khí ôn hòa,
Đêm đến trời mưa sáng tạnh ra,
Gió thổi vườn lê đừng quá lớn,
Ngọn đưa về biển cánh buồm xa.
Chu Thương cười thầm và lẩm bẩm:
- Ối dào, cái chuyện dễ như vầy mà làm ta điên cái đầu!
Đội mũ cao
Một hôm, Quan Vũ dẫn Chu Thương đến Trương Thiên Sư bàn chuyện. Vừa đến Nam Thiên Môn thì có hai vị thần tướng oai phong lẫm liệt đang đứng giữ cửa, bên cạnh còn có để một chiếc mũ cao. Quan Vũ không hiểu vì lẽ gì, bèn sai Chu Thương đến báo là có Quan mỗ muốn vào Nam Thiên Môn.
Chu Thương vâng lệnh, liền tới báo trước ý như vậy, Thần tướng giữ cửa nói:
- Cho dù là ai, đều xin mời đội chiếc mũ cao này rồi mới được vào.
Chu Thương trở lại báo với Quan Vũ lời này:
Quan Vũ nghe xong, liền bốc lửa giận, nạt lớn:
- Ai lớn gan như vậy, dám không cho Quan mỗ vào ư?
Lại chỉ Chu Thương, nói:
- Mi thật là đồ ngu xuẩn vô dụng ,tránh ra , để ta đến xem.
Quan Vũ tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt đao, vỗ ngựa Xích Thố đến trước thiên môn, mắt tròn xoe, hỏi:
- Ai lớn mật dám cản trở không cho Quan mỗ vào Nam Thiên Môn đây?
Thần tướng nói:
- Quân hầu bớt giận, bọn tôi chỉ vâng lệnh Ngọc Đế giữ cửa, phàm ai muốn vô đều phải đội chiếc mũ cao này mới được vô. Mong quân hầu nể mặt Ngọc Đế, thông cảm cho nỗi khổ của bọn tiểu tướng chúng tôi mà đội chiếc mũ cao này.
Quan Vũ thoạt nghe càng thêm giận, không đợi thần tướng nói hết liền quát:
- Ta chẳng cần biết Ngọc Đế hay không Ngọc đế gì cả, nếu như thật tình không cho Quan mỗ vào thì hãy phóng ngựa tới đánh với ta ba trăm hiệp, ai có thể thắng được Thanh Long Yển Nguyệt Đao của ta thì ta không vào, trái lại, ta chém đầu bọn bây hết!
Thần tướng giữ của nghe nói vậy liền vội bước tới cúi người nói:
- Xin quân hầu dằn cơn giận, bọn tiểu tướng sao dám giao thủ với quân hầu công Hoàng Cân, chiến Lữ Bố, chém Hoa Hùng ở Ôn Tửa, trảm Nhan Lương, Văn Sú ở thành Bạch Mã; qua năm cửa chém sáu tướng, dưới Cổ Thành chưa hết ba hồi trống đã lấy đầu Sái Dương. Đã anh hùng như vậy còn ai dám sánh? Nam Thiên Môn này đừng nói là bọn chúng tôi giữ, cho dẫu là Bát Tí Na Tra cũng không dám cản trở quân hầu, bọn tôi thật có mắt mà khong biết Thái Sơn, dám xin quân hầu thứ cho.
Quan Vũ nghe đến đây, khí trận đã nguôi đi một nữa, bèn thu đao gác trên yên ngựa. Hai thần tướng giữ cửa lại tiếp tục nói:
- Nhưng mệnh lệnh lại có qui định: "Nếu như ai cái thế anh hùng, đã thông báo cho Ngọc Đế, và được Ngọc Đế chấp thuận thì có thể khỏi đội chiếc mũ cao này!", nghĩ rằng quân hầu đã lọt vào doanh Tào hết mấy năm, Tào Tháo lên ngựa ban vàng, xuống ngựa ban bạc, ba ngày một tiểu yến, năm ngày một đại yến, cẩm bào mỹ nữ hậu đãi như vậy, mà đều không thể khiến quân hầu lòng quên triều Hán. Trung nghĩa thế ấy, tôi nghĩ nếu thông báo cho Ngọc Đế, chắc Ngọc Đế cũng không buộc quân hầu đội mũ cao đâu.
Quan Vũ nghe xong liền cười ha hả:
- Các ngươi mà nói sớm thế này thì Quan mỗ sao giận được. Được rồi, ta sẽ chờ ở đây, các người mau vô thông báo cho Ngọc Đế đi.
Nào dè thần tướng cười lên ha hả nói:
- Quan hầu đã đủ tư cách rồi, thôi khỏi phải vô thông báo làm chi, mời quân hầu vô thôi!
Như vậy lại khiến Quan Vũ chẳng hiểu gì ráo. Chu Thương đứng phía sau không nhịn cười được, nói:
- Nhị gia thôi mau vô đi! Ngay cái thằng ngu xuẩn vô dụng đã làm bẽ mặt nhị gia,tôi đây cũng biết ngài đã đội mũ cao người ta rồi, mà là đội mũ cao nhứt đấy!
Chu Du bắc cầu
Giữa trấn Giang Trữ có sông Giang Trữ, chiếc cầu bắc qua dòng sông này có tên là cầu Chu Lang. Đồn rằng thời Tam Quốc Chu Du đã tạo dựng cầu này.
Lúc ấy Chu Du là danh tướng của Đông Ngô, tuy tuổi còn trẻ nhưng rất có tài. Bấy giờ, Ngụy, Thục, Ngô mạnh ai bá chiếm một cõi riêng. Khi Chu Du dẫn nhân mã cặp theo Giang Đông đi đánh Kiến Nghiệp (Nam Kinh). Tới trấn Giang Trữ này thì bị một con sông chắn ngang, không tiến quân được. Người hướng đạo vội trở lại báo cáo với Chu Du. Chu Du liền tức tốc tới bờ sông. Ông thấy sông sâu, mà nước chảy xiết, thế mà một chiếc cầu cũng không có, người ngựa phải đùn lại ở bờ sông.
Chu Du cho kêu quan địa phương tới hỏi:
- Sao không có cầu?
Quan địa phương ú ớ trả lời:
- Còn chưa, chưa có...
Chu Du trừng mắt:
- Nơi đây là yếu địa, sao không bắc cầu?
- Dạ, dạ...
Chu Du vẫy roi chỉ:
- Trong vòng một ngày phải dựng cầu cho xong!
Quan địa phương và các bộ hạ thoạt nghe liền ngẩn người. Lòng nghĩ: "Ông nói thật dễ nghe, trong vòng một ngày mà bắc được chiếc cầu qua sông ư!"
Thật ra trong bụng Chu Du đã có chủ ý. Ông vội đưa vật dụng cần thiết đến chỗ bắc cầu, và chính ông đốc suất chỉ huy. Với sức của đông người, chưa đầy một ngày đã bắc xong chiếc cầu rộng để binh mã đi qua. Châu Du thấy bên đường có một đầm nước, bèn kêu binh sĩ tắm rửa cho ngựa, sau đó ông dẫn binh đến Kiến Nghiệp.
Người đời sau gọi chiếc cầu mà Chu Du đã bắc ấy là "cầu Chu Lang", và đầm nước mà Chu Du tắm cho ngựa đó là "đầm tắm ngựa".
Trương Phi học nghệ
Trương Phi sinh ra vào thời quần hùng tranh giành, bốn cõi lửa binh. Ông muốn trong thời loạn này làm nên chút sự nghiệp. Do đó, lúc mười tám tuổi, ông đã rời làng đi tìm thầy học võ nghệ.
Dưới núi Kê Công, Trương Phi gặp một lão trượng hạc phát đồng nhan trạc bảy mươi tuổi. Khi biết lão trượng này là một hảo hán ẩn cư, ông bèn bái lão trượng làm thầy. Lão trượng ban đầu không nhận, cho dù Trương Phi quì lạy khẩn cầu, ông chỉ nói:
- Mi hãy đi khuân những tảng đá ở mé nam rừng Trúc Lâm kia bỏ hết đi rồi nói chuyện sau!
Trương Phi nghĩ: Mình có sức mạnh thế này, mấy tảng đá ấy sợ gì dời đi không nổi? Do đó ông dập đầu lạy lão trượng, rồi nhắm mé nam rừng Trúc Lâm mà đi. Ai ngờ khi tới nơi thì thấy, ô hô: những tảng đá tròn có vuông có kia đều nằm sâu dưới đất ba tước, chỉ trồi lên ba thước, và mỗi tảng đá nặng ít nhất cũng tám mươi cân. Trương Phi tận dụng hết sức bình sanh đến mặt đỏ rần, những tảng đá vẫn không hề lay chuyển. Trong khi đó thì lão trượng đi tới, hai tay ôm lấy đầu đá và nhẹ nhàng nhấc lên, chỉ nghe "phựt" một tiếng, tảng đá đã lên khỏi mặt đất. Trương Phi cũng bắt chước cách làm như ông, song tảng đá vẫn không nhúc nhích, giận quá ông hét to một tiếng, dùng chân đạp tảng đá cho ngã. Từ đó, ông học cách nhổ đá của lão trượng: một ngày, hai ngày, ba ngày, rốt cuộc ông đã nhổ được tảng đá lên. Sau này, mỗi ngày ông dời đi được những một trăm hai mươi tảng mà mặt không hề đổi sắc, không thở mệt nữa.
Đá đã dời hết, Trương Phi vui mừng chạy đến lão trượng báo công. Ai ngờ sáng sớm hôm sau, những tảng đá kia lại bị lão trượng đá văng trở về chỗ cũ, và ông lại kêu Trương Phi dời nữa. Trương Phi thầm trách: kêu mình dời hết đá rồi dạy mình võ nghệ là như vậy đó ư? Trong lòng thì giận, nhưng ông vẫn cứ làm. Dời đến tảng đá cuối cùng, không may ông quăng tảng đá trúng ngay chiếc giường của lão trượng, làm chiếc giường gãy đi. Lão trượng nổi giận, nhảy tới đánh một tát tai vào mặt Trương Phi. Trương Phi né khỏi. Đến nước này thì ông hết chịu nổi, bèn cáo biệt lão trượng mà bỏ đi.
Lão trượng nói:
- Nếu mi có thể đuổi đàn chim sẻ trên cây hạnh kia đi được thì mi mới đi được.
Trương Phi nghĩ: Việc này quá dễ. Ông liền chạy tới gốc hạnh, hai tay ôm lấy thân cây mà rung, chim sẽ đều bay lên. Ai ngờ chim sẻ lượn một vòng lại bay đậu trở về như cũ. Lão trượng vẫy tay phất tới, một luồng gió lạnh phát ra khiến bầy chim sẻ hoảng sợ bay đi hét.
Trương Phi thấy vậy vội quì xuống đất xin lão trượng tha thứ. Lão trượng thấy Trương Phi thật lòng muốn học võ nghệ, bèn ngồi xuống bàn luận chuyện triều chính thế sự với ông. Càng bàn ý càng hợp, và rồi lão trượng mới chịu thu Trương Phi làm đồ đệ. Từ đó, thầy hết lòng dạy, trò hết lòng học. Không đầy một năm, Trương Phi đã học được một thân công phu. Đao thương kiếm kích đều rành, quyền cước đều thông, quả là như hổ thêm cánh.
Trượng Bát Xà Mâu
Trương Phi vốn là người mổ heo, ban đầu đi theo Lưu Bị đánh giặc, ông chỉ dùng dao giết heo thôi, nhưng về sau tại sao ông lại dùng trượng bát xà mâu? Nói ra, có câu chuyện lý thú thế này.
Chuyện xảy ra lúc Lưu Bị được triều đình phong làm Huyện úy huyện An Hỷ. Lưu Bị và Quan, Trương đến đây nhậm chức không lâu thì ở khe An Hỷ ngoại thành huyện An Hỷ thường xuất hiện một con rắn lớn gây vạ cho dân.
Lưu Bị nghĩ, con rắn này gây rối khiến bá tánh không được yên ổn làm ăn, ta làm quan ở đây mà ngay con rắn trừ không được thì còn mặt mũi nào thấy mọi người! Do đó ông tìm tới Quan Vũ và Trương Phi bàn tính.
Trương Phi nói:
- Đại ca, việc này có khó gì. Con heo nặng mấy trăm cân tôi chỉ cần một dao là nằm ngay đơ, một con rắn chỉ dài hơn trượng, để tôi bắt nó đem đến cho anh.
Lưu Bị, Quan Vũ nghe vậy, cùng nói:
- Tam đệ chớ nên xem thường, con nghiệt súc này lợi hại lắm, bị nó mổ một cái là tánh mạng đi đời ngay!
Trương Phi nghe mà giận, ông to tiếng bảo:
- Các anh xem thường tôi quá, người ta nói dao mổ heo của tôi rất lợi hại, chỉ có hai anh là xem thường. Lần này tôi không cần dùng dao, tay không bắt nó cho mà xem!
Đến nửa đêm, Trương Phi đợi Lưu Bị và Quan Vũ ngủ hết, một mình ông lén lần ra khe An Hỷ.
Ông tới bên khe, nghe thấy tiếng "tách tác tách" trong khe, trong lòng thầm nghĩ: tiếng này là tiếng gì nhỉ? Bèn nấp một nơi chờ xem. Trong ánh trăng nhàn nhạt mông lung, ông thấy trong khe có một bóng đen vờn qua lại, lúc lên lúc xuống như đang bay múa. Trương Phi đứng xem, ngẩy người ra và chưa biết phải làm sao. Một hồi, dường như bóng đen ấy đã phát hiện có người trên khen, nó liền chúi đầu nguẩy đuôi. Trương Phi nghĩ: mi chạy đằng trời cũng không thoát! Và vội nhảy xuống khen, một tay ông nắm đuôi bóng đen và thuận thế giật mạnh một cái! Thì ra là một con rắn dài hơn trượng. Trương Phi cười hắc hắc, tối nay tao bắt mày không ngờ chẳng phí sức chút nào. Ông đang khoái chí trong lòng, chợt một tiếng gió "vút" tới , con rắn đã ngẩng đầu há miệng, thè chiếc lưỡi nhắm ngay Trương Phi định mổ. Trương Phi vội nhảy phóng ra sau, thuận tay ông nắm đuôi nó quay mấy vòng. Chuyện cũng lạ, con rắn ấy lại biến thành một cây mâu, dài một trượng tám thước, mũi mâu sắc bén vô cùng. Trương Phi mừng rỡ miệng cười ha hả, ông huơ mâu múa vùn vụt một hồi.
Từ đó, Trương Phi dùng cây trượng bát xà mâu này làm võ khí.
Trương Phi xử án
Tương truyền khi Trương Phi đi qua huyện Cổ Thành, sau cơn tức giận ông đọan lấy ấn huyện và tự lên làm huyện quan.
Một hôm, trong huyện có hai người đến cáo trạng, Trương Phi vội thăng đường xét xử, được biết hai người cáo trạng một người thì bán nồi và người kia thì tàn tật cụt mất tay chân bèn hỏi:
- Hai người thưa gởi ai đây?
Người bán nồi đáp:
- Hai chúng tôi cùng ở chung một nhà, một phòng và cứ sáng sớm tôi thức dậy thì phát hiện nồi của tôi bị mất. Tôi nghĩ trong phòng chỉ có hai chúng tôi, nên tôi nghi ngờ anh này lấy trộm nồi tôi.
Trương Phi lại hỏi người tàn tật:
- Còn ngươi thì thưa ai?
Người tàn tật chỉ người bán nồi nói:
- Bẩm đại gia! Tôi thưa đây không phải ai khác mà là anh bán nồi đây. Tôi là người tàn phế, đi đứng bất tiện, làm sao có thể trộm nồi anh ta được chớ? Cho nên tôi thưa anh ta về tội vu oan giá họa cho người, xin đại gia xét soi cho.
Trương Phi nghe hai người trần thuật, nghĩ: cái chuyện hai người nói đều có lý, chuyện người này bị ăn cắp nồi là thiệt; song người tàn phế đã mát hết một tay, một chân , đi đứng còn khó khăn, sao có thể trộm nồi cho được? Ông nhìn kỹ sắc mặt hai người một lát, đoạn quát:
- Người ta tàn tật như vậy, đi đứng còn phải chống gậy, thì sao có thể lấy nồi được chớ? Tên bán nồi rõ ràng là vu khống người tốt. Bây đâu! Lôi tên này ra ngoài chờ định tội!
Đợi bọn nha dịch kéo người bán nồi đi khỏi rồi, Trương Phi mới nói với người tàn tật:
- Anh chịu oan ức, thế thì hiện giờ ta cho anh toàn bộ nồi này, anh đem về muốn bán hay làm gì cũng được, kể như đền bù... tiền lộ phí cho anh đấy.
Người tàn tật thoạt nghe vội khấu đầu cám ơn đại gia lia lịa, sau đó với vẻ thành thạo, anhđem chiếc gậy cặp vô nách, đọan khom lưng vói tay lấy nồi đội lên đầu và xoay người dợm đi ra. Trương Phi thình lình nạt:
- Cả gan cho tên gian xảo, dám ở trước mặtd dại gia đùa bỡn, khôn hồi hãy kể lại đầu đuôi câu chuyện!
Người tàn tật thấy mưu kế của mình bị bại lộ chỉ còn cách nhận tội.
Từ đó bá tánh ở dải Cổ Thành đều nói, Trương Phi là người thô lỗ mà tế nhị.
Một hôm, Trương Phi tay cầm trượng bát xà mâu ngồi trên đại đường, hỏi nha dịch hai bên:
- Có ai cáo trạng không?
Lời nói vừa dứt thì từ bên ngoài có một nam một nữ bước vô cáo trạng. Người đàn ông thì vừa lùn vừa mập, lưng to bụng phệ, hai tay ôm quả dưa hấu lớn. Người đàn bàn thì mảnh mai, khuôn mặt hây hây như hoa đào, trong tay bồng đứa con nhỏ. Người đàn ông đường đường quỳ xuống, cướp lời nói trước:
- nàng ta trộm dưa của tôi, bị tôi bất quả tang. Xin quan huyện trị tội nàng ta dùm tôi!
Người đàn bà ôm chặt đứa con nhỏ trong lòng và chỉ biết khóc chớ không nói gì.
Trương Phi là người gặp chuyện cứ thích hươ đao chém loạn. Ông vói lấy trượng bát xà mâu dộng rầm rầm làm đại đường rung rinh, rồi quát nạt người đàn bà:
- Này, mi trộm dưa của người ta, có chịu nhận tội hay không?
Người đàn bà nghe quát nạt, mồ hôi ướt đẫm và chỉ biết gục đầu, luôn mồm van xin:
- Quan lớn ơi, xin tha tội cho tôi!
Trương Phi nghĩ, đã kêu tha hẳn có tội, không tội cần gì phải kêu tha? Đối với kẻ trộm cắp, Trương Phi rất ghét và muốn giết chết ngay, do đó ông giwo trường mâu nhắm ngay người đàn bà đâm tới. Khi mũi mâu sắp đâm trúng đứa trẻ trong lòng người đàn bà, ông bỗng dừng lại: ôi, đứa bé vô tội, sao giết nó, ông bèn kêu nha dịch bồng đứa bé ra ngoài. Ai ngờ người đàn bà ôm chặt cứng đứa con, chết cũng không chịu buông.
Trương Phi nảy suy nghĩ. Ông quay qua nói với người đàn ông.
- Bà ta trộm dưa của ông, ta xử tội chết, ông hài lòng rồi chớ?
Lúc này người đàn ông như con mèo thấy mỡ, ông ta thẫn thờ nhìn người đàn bà, khi nghe Trương Phi hỏi vội nói:
- Bẩm quan, trộm một trái dưa tội chưa đáng chết. Xin phạt nàng ta tới nhà tôi làm đày tớ là được rồi.
Trương Phi nói:
- Thế thì để nàng ta làm vợ lẽ ông, ông thấy thế nào?
Người đàn ông nghe vậy liền toe toét cười, dập đầu lia lịa nói:
- Cám ơn quan lắm, cám ơn quan lắm!
Trương Phi cười ha hả, bảo:
- Vậy ông hãy ẵm đứa bé trước, rồi ôm trái dưa đưa đây. Ông làm được thì có thể lãnh bà này về.
Người đàn ông liền làm theo lời Trương Phi bảo. Ai ngờ ông ta bồng đứa trẻ rồi thì không cách nào ôm trái dưa hấu lên được, còn nếu ôm dưa lên thì cũng không cách chi bồng đứa bé được. Loay hoay cả buổi đến mồ hôi đầu nhỏ giọt, cuối cùng chỉ còn cách khổ sở nói:
- Bẩm quan, một tay khó bắt hai con cá ạ!
Trương Phi vụt trừng mắt nổi giận, quát lớn:
- Mi sức vóc đàn ông mà còn làm không được, huống chi người đàn bà này? Chuyện này là chí trên đầu trọc, rõ cả rồi: mi vì muốn chiếm người đàn bà này nên mù quáng lương tâm mà tìm kế hãm hại, lại tới đây định gạt lão Trương? thật đáng giận! Bây đâu đập hắn 50 thước bảng và nhốt vào nhà lao cho ta!
Sau đó ông thả người đàn bà ra về và bãi hầu.
Tiếng hét chuyển dòng nước
Ai cũng đều biết chuyện tiếng hét trên cầu Đương Dương của Trương Phi, tiếng hét chận dòng nước phải chạy ngược, làm tám mươi vạn đại quân Tào Tháo phải kinh hồn. Nhưng, cho dù thanh âm lớn thế nào cũng chỉ bất quá làm cầu rung rinh thôi, sao khiến dòng nước bị tắt nghẽn mà chạy ngược lại được?
Nguyên lai, trên trời có một con rồng lười biếng chỉ biết ăn no nằm ngủ thôi. Lần nọ, Ngọc Hoàng thượng đế sai nó làm mưa, nhưng nó cứ ngủ gà ngủ gật; nghe sai làm mưa một thước một tấc lẻ bảy phân, lại làm thành bảy thước bảy tấc lẻ bảy phân. Thế là sông hồ tràn ngập, nhà cửa bị lụt lội, gây khổ hại cho sinh linh hạ giới.
Sau khi Ngọc Đế biết được, ông liền nổi giận lôi đình, bèn sai tướng sĩ đồ long đao áp giải con rồng lười biếng này đi chặt đầu. May có Thái Bạch Kim Tinh đứng ra xin, nên Ngọc Đế mới tha tội chết cho nó, băt nó đày xuóng hạ giới chịu khổ. Trước khi xuống hạ giới, con rồng lười dập đầu hỏi Ngọc Đế:
- Tâu bệ hạ, chừng nào thàn mới cỏ thể trở lại thiên đình ạ?
ngọc Đế bảo:
- Mi muốn trở lại thiên đình thì hãy đợi khi trên không trời lặng mà có tiếng sấm.
Thế là con rồng lười đã bị đày xuống hạ giới, đầu tây đuôi đông, nằm khoanh dưới cầu Đương Dương, Trường Bản. Tuy nó không thể tự do hành động nhưng cũng hợp với cái tính lười biếng của nó. Bao nhiêu cá tôm trong sông, nó đều có thể ăn no rồi nằm ngủ, ngủ rồi ăn. Nhưng dẫu sao cũng không sung sướng bằng sống trên trời.
Lúc nào nó cũng chỉ mong sao không trung trời lặng mà có sấm. Mong rồi lại mong, thấm thoát sự mong đợi đã năm trăm năm. Hôm nay, nó ăn cá tôm no, rồi lại nằm dưới cầu đán hgiấc. Chợt, một tiếng vang trên đỉnh đầu làm nó tỉnh dậy.
Tiếng vang này, chính là tiếng hét của Trương Phi. Thì ra Trương Phi phụng tướng lệnh quân sư, ngang nhiên cầm mâu cỡi ngựa, đứng giữ cầu Đương Dương. Khi binh Tào tới, thấy Trương Phi oai phong đứng giữ trên cầu thì ai nấy đều run sợ, đánh thì không dám mà lui thì cũng không dám. Trương Phi thấy vậy bèn hét một tiếng lớn. Tiếng hét này như tiếng sấm giữa lúc trời đang lặng, khiến cho con rồng lười biếng tỉnh giấc. Ngước đầu nhìn trời, nó ngỡ là khong trung trời lặng mà sấm nổ, và ngỡ Ngọc Đế muốn triệu gọi nó về thiên đình nên nó mừng rỡ, dùng sức tung mình lên thiên không. Nào ngờ tiếng hét của Trương Phi như sám, nhưng đâu phải sấm, con rồng lười sao có thể lên trời được? Nó chỉ vút lên vài chục trượng cao, lại phải rợu lộn xuống sông. Cái tung mình của nó đã làm gẫy khúc cầu. Lại vì đầu nó ở tây đuôi nó ở đông àm nó vút lên cao nên nước sông theo sức cuốn phải đổ về tây. Con rồi lười tuy không lên trời được, song nó đã làm tám mươi ba vạn quân Tào khiếp vía phải lui lại, và đã giúp cho Lưu Bị tranh thủ được thời gian. Trương Phi cũng nhân đó mà oai chấn thiên hạ.
Đãi vàng cứu nạn
giữa năm Kiến Hưng Thục Hán, Thừa tướng Gia Cát Lượng đóng binh ở Định Quân Sơn mé nam sông Hán. Mỗi ngày ông thao luyện nhân mã, tìm cơ hội chuẩn bị bắc phạt Tào Tháo.
Một hôm, sau khi giải quyết xong việc quân, ông dẫn Quan Hưng, Trương Bào vô làng quan sát, và cũng là định xem cuộc sống của người dân thế nào. Tại đây ông mới biết Hán Trung đang trải qua cơn chiến loạn, lại thêm sông Hán không được tu sửa nên đến mùa thu nước tràn ngập lụt, làm ruộng lúa hư hao. Tới mùa xuân lại gặp phải hạn hán, hai tháng liền không có lấy một giọt mưa. Trước mắt đừng nói thiếu trâu bò canh tác, mà ngay miếng ăn của dân chúng cũng trở thành vấn đề nan giải. Mười nhà đã có hết chín nhà không nấu nướng, toàn nương vào việc ăn rau cỏ vỏ cây để sống qua ngày.
Gia Cát Lượng lấy làm lo tron glòng, gặp lúc quan khâm sai pháp chánh vâng mệnh Hậu chủ Lưu Thiện áp vận lương thảo quân tới. Và vì Gia Cát Lượng có công giúp dân làm thủy lợi khiến cho đất Tây Xuyên nhiều năm trúng mùa, thương khố dư dả nên Hậu Chủ cũng truyền chỉ tưởng thưởng cho Thừa tướng ngàn lạng vàng gọi là biểu dương.
Thấy vàng óng ánh, Gia Cát Lượng chau mày suy nghĩ, một ý niệm đãi vàng cứu nạn thoáng qua đầu óc ông. Nguyên lai, khi tới đây ông có hỏi qua thôn dân và ông đã từng nhiều lần để chân trần lội xuống sông Hán; phát hiện cát ở dưới sông có ánh vàng lấp lánh.
Ông nghĩ, sao ta không tìm cách chế dụng cụ đãi vàng để cho bá tánh khỏi cơn đói khổ? Ông đem ý này nói cho quan pháp chánh biết, quan pháp chánh gật đầu tỏ ý tán thành.
Thế là ông mời người thợ tên Bồ Nguyên tới để cùng ông nghĩ cách. Sau mấy lần sửa đổi, một thứ công cụ gọi là "sàng đãi vàng" đã được tạo thành. Ông dẫn Bồ Nguyên và hai binh sĩ tới sông đãi vàng thử nghiệm. Qua một ngày đã đãi được hai ba phân vàng. Ông vui mừng nắm tay Bồ Nguyên nói:
- Thé là có cách cứu được bá tánh rồi!
Sau đó ông đem số vàng mà Hậu chủ ban cho, chi dùng vào việc tạo hai ngàn sàng đãi vàng, và truyền lệnh cho một số binh sĩ xuống sông đãi vàng.
Một sáng, khi hướng đông Định Quân Sơn mặt trời hồng đã treo cao, cư dân hai bờ sông Hán chợt phát hiện rất nhiều quân Thục nhóm ba, nhóm năm quây quần đang hì hục đãi cái gì trong cát. Có mấy người hiếu kỳ bèn tới hỏi chuyện. Binh sĩ liền nói:
- Chúng tôi đã vàng!
- Đãi vàng? Trong cat làm gì có vàng?
Dân chúng người nào cũng đều lấy làm lạ trố mắt nhìn, rồi họ đồn đãi ầm lên tin đặc biệt này.
- Phải , thừa tướng chúng tôi gần đây có phát hiện thấy trong cát có lẫn vàng, do đó truyền lệnh cho chúng tôi xuống sông đãi vàng. Sau khi nắm được kỹ thuật rồi, ông sẽ truyền ra cho dân chúng. Ông xem kìa, chẳng là Gia Cát Lượng thừa tướng cũng xuống đãi vàng đó sao?
Mọi người ngước nhìn, thấy bên bờ có một người xăn cao ống quần, đang sàng cát không ngừng. Tuy ông ta thay đổi quan phục, nhưng khuôn mặt quá quen thuộc ấy chẳng là Gia Cát Lượng thừa tướng mà mọi người kính ngưỡng đó sao? Mọi người đều chạy tới xem cách thứ đãi vàng của thừa tướng, có chỗ nào chưa rõ họ liền hỏi lại cho đến khi tường tận mới thôi.
Chẳng mấy ngày, dân chúng tới lãnh số "sàng" mà Gia Cát Lượng phát cho đã hết sạch, và họ xuống sông Hán đãi vàng. Gia Cát Lượng bảo quan địa phương thu mua hết số vàng mà dân chúng đãi được, rồi đem lương thực bán cho họ. Thế là, chẳng những nhà nhà đều có cơm ăn mà còn có thể canh tác. Vả lại việc đãi vàng năm này qua năm nọ cũng khiến lòng sông sâu thêm và nước sông không còn bị ô nhiễm. Đúng là một công mà hai việc. DÂn chúng mãi mãi không quên công ơn Gia Cát Lượng, nên hằng năm vào tiết thanh minh, họ đều đến mộ Võ Hầu quét dọn.
Đánh cờ thử Hoàng Cái
Trước chiều đại chiến Xích Bích, Chu Du đã sắp xếp mọi việc xong, song ông thấy còn thiếu người thích hợp qua sông trá hàng. Thế này thì chẳng khác gì đã có lưỡi câu vàng mà còn thiếu mồi, vậy làm sao câu được cá mập? Ôi! Cờ mà đi sai một nước, chẳng là bao nhiêu công phu vứt bỏ hết sao? Nghĩ đến cờ, lòng ông vụt sáng ra. Do đó ông lập tức đến quân doanh Hoàng Cái, bảo là trong lòng phiền muộn, đặc biệt tới đây muốn đánh vài ván cờ.
Thế là hai người đến vách núi bên dòng suối của một sơn thôn nhỏ hết sức yên tĩnh, bày cờ trên tảng đá bằng phẳng và ngồi đối diện đánh.
Đầu óc Hoàng Cái chẳng để vào bàn cờ, ông không ngừng dò xét Chu Du ngồi trước mặt, và ván cờ này nên đánh sao cho phải đây? Chu Du nói:
- Muốn thủ thắng phải có người sang sông trá hàng, mà trá hàng phải thi hành khổ nhục kế. Đảm nhận gánh nặng này thì phải xé da bày thịt chịu khổ, đây là chưa nói tới việc phải bỏ mạng!
Chu Du vừa nói vừa nhìn trộm thần sắc Hoàng Cái, thấy ông đang chau mày nghĩ ngợi, bèn thở ra một hơi dài, tiếp:
- Nuôi binh ngàn ngày, dùng binh một lúc. Sống chết tới nơi, trung lương khó được vậy!
Huỳnh Cái trong lòng cũng muốn đi trá hàng, song lại không biết Chu Du có tin mình không, bất giác ông nhìn bàn cờ mà sững sờ.
Chu Du thấy vậy, bèn giả vờ hối thúc:
- Đi đi chớ!
Hai người lại tiếp tục đánh. Xa mã pháo của Hoàng Cái đã ra hết và đã dàn thế hỗ trợ cho nhau, nên rất mau chiếm được thượng phong. Nhưng Chu Du lại không đi những con cờ mạnh, mà chi nhích tốt mà thôi.
Hoàng Cái lấy làm lạ, hỏi:
- Sao ông chỉ đi binh tốt không vậy?
Chu Du ủ rủ mày buồn đáp:
- Tiểu tốt tuy không mạnh, nhưng tôi lại khó đi những con cờ khác!
Hoàng Cái giật mình, không vui nghĩ: Theo lời ông ta nói bề ngoài, hẳn là ngụ ý gì bên trong. Ông dợm miệng định nói, nhưng lại xoay qua ý nghĩ khác: Khoan đã! Việc quan trọng phải cẩn thận mới được. Do đó ông nhích con xe tiến tới, nói:
- Chiếu tướng!
Ai ngờ Chu Du không chống sĩ mà cũng không lên tướng để cứu thế nguy, lại đi tướng ra ngoài khung chữ điền.
Hoàng Cái buột miệng cười:
- Đô đốc đi nhầm rồi! Tướng đâu có thể ra khỏi cung được?
Chu Du làm ra vẻ khó khăn:
- Nhưng con cờ khác tôi đều khó điều khiển, thì tướng không tự ra cung làm sao được?
Lời nói ấy đã rõ rồi, Hoàng Cái vừa lo vừa mừng, ông đẩy bàn cờ ra, nói:
- Đúng, đúng, đúng, tướng ra cung, Công Phúc tôi nguyện qua sông trá hàng, muôn chết cũng không từ!
Gò Hắc Thổ
Lúc trấn thủ Kinh Châu, cha con Quan Công từng đóng quân trên gò Hắc Thổ. Gò dài độ hai dặm, cũng thuộc phạm vi Đương Dương. Gò Hắc Thổ cách gò Trường Bản chừng năm mươi dặm. Vì sao gọi là gò Hắc Thổ? Truyền thuyết này có liên quan đến việc Quan Công dạy con.
Tương truyền, Quan Công nhận Quan Bình làm nghĩa tử, ngoại trừ mỗi ngày dạy cho Quan Bình tập võ luyện binh, ông còn dạy cho Quan Bình học văn viết chữ.
Quan Công nói với Quan Bình:
- Phàm người tướng, chỉ biết võ mà không hiểu văn thì thật tệ quá!
Cho nên mỗi ngày sau việc binh. Quan Vũ đều dạy Quan Bình học "Xuân Thu", luyện thư pháp.
Theo qui định của nghĩa phụ, mỗi ngày Quan Bình đều luyện thư pháp và nước rửa bút mực phải đem ra ngoài gò đổ. Ngày ngày viết, ngày ngày đổ, lâu rồi khiến cả gò đất đều nhuộm đen. (theo "Quan Thánh Lăng miếu ký lược" viết: "... người làng tương truyền Vương thường đóng binh, dạy con học, học xong, lấy nước rửa bút đem đổ ra gò, thế nên đất đều nhuộm đen"). Côn gphụ không phụ lòn gngười cực khổ, chữ viết của Quan Bình rốt lại đã luyện nên. Quan Công thấy nghĩa tử qua thời gian cố gắng khổ luyện nay đã văn võ song toàn, biết đao pháp lại hiểu thư pháp nên ông hết sức vui mừng. Cầm bút ông viết tặng Quan Bình mười hai chữ triện:
Đọc sách giỏi
Nói năng giỏi
Làm việc tốt
Làm người tốt.
Mười hai chữ này, truyền làm lời dạy còn để lại ngàn năm. Trong gia đình Thánh Tương trước mặt gác Xuân Thu của miếu Quan Lăng ở Đương Dương, có một bia đá khắc mười hai chữ này, phía dưới đề là: năm 10 Đồng Trị (1871 công nguyên) Tri huyện Đương Dương Mân Đinh Chung khắc, tới nay vẫn còn.
Ba người kết nghĩa
Trương Phi vốn là người mổ lợn. Bữa nọ, ông giết một con lợn, lại sợ một lúc bán không hết thì thịt sẽ ươn, ông cắt một miếng lớn treo trong giếng trước cửa. Vì để phòng ngừa những kẻ đi ngang thuận tay lấy mất, nên ở miệng giếng, ông dùng một tảng đá ngàn cân đậy lại, rồi viết một hàng chữ lớn: "Ai có thể nhấc nổi tảng đá này thì cứ cắt lấy thịt mà ăn khỏi phải trả tiền!". Sau đó ông gánh số thịt còn lại đem đi bán.
Bấy giờ, từ đại lộ mé nam có một Đại Hán đẩy chiếc xe chở hai bao đậu xanh, thẳng tới giếng và dừng lại định uống nước. Ông ta thấy chữ viết trên tảng đá liền chau cặp mày tằm; A! Thật lớn lối, hắn xem hảo hán thiên hạ chẳng ra gì cả, phải để cho hắn mở rộng tầm mắt! Nghĩ thế, ông bước tới trước, một tay nhấc đầu tảng đá xích qua, nhẹ nhàng như trở tấm đệ. Tảng đá ngàn cân bị nhấc qua một bên rồi, ông bèn lấy dao xẻo một miếng thịt lớn bỏ lên xe và đẩy đi về hướng Trác Châu.
Trương Phi bán thịt trở về, bà vợ của ông liền quýnh quáng thuật lại chuyện vừa rồi. Trương Phi thoạt nghe thiếu chút nữa đã tức đến vỡ bụng, ông nhảy lên quát:
- Dám đương nhiên xẻo thịt lấy đi, để ta cho mi một bài học! Không phải hẹp hòi keo kiệt nhưng ta phải dằn mặt mi một mẻ!
Trương Phi duổi theo về hướng Trác Châu, cặp theo đường Quan Âm mà tim. Quả nhiên thấy một Đại Hán mặt đỏ râu dài đang đứng bán đậu xanh. Trương Phi giương to cặp mắt, hất mặt hỏi:
- Này, đậu xanh của mi có ăn được không?
Quan Công ngạc nhiên khi nghe người này sao hỏi lạ vậy? Ông bực tức đáp:
- Đậu ta bán là hảo hạng, hãy nhìn cho rõ đi.
Trương Phi đưa tay học vô bao hốt một nắm đậu xanh, dùng sức vò một cái tức thì nắm đậu đã biến thành bột. Khi mở tay ra, ông thry bột đậu trước mặt Quan Công , cười khẩy:
- Bán đậu như vầy đó hả? Dối gạt!
Trương Phi lại thọc tay vô bao khác và bóp nát nữa. Trước mặt mọi ngwuời, ông lớn tiếng nói:
- Muốn còn mặt mũi thì chớ ăn không thịt của ta; muốn ăn không thịt của ta thì đừng hòng còn mặt mũi!
Quan Vũ đã hiểu được cái ý của người này đến đây và ông nào chịu lép. Ông vọt ngay ra giữa đuờng và đánh nhau với Trương Phi.
Lúc này, trên đường có một người bán giày đi tới, cất tiếng khuyên:
- Ngưng tay, chớ đánh lộn ngoài đuowfng ngoài chợ! Có chuyện chi hãy ngồi lại thủng thỉnh nói sau.
Người đứng xem thấy ông ta trắng trẻo, gầy yếu, áo mặc vá víu, đều khúc khích cuwòi ngạo:
- Cóc nhái mà cũng lớn lối! Có giỏi thì ra tay kéo họ ra đi.
Quả nhiên người bán giày liền phóng ra đường, một tay nắm vai Quan Vũ, một tay nắm vai Trương Phi, đẩy hai người ra rồi đứng chận ở giữa. Quả là một rồng ngăn hai cọp.
Mọi người đều buột miệng khen hay. Quan Vũ và Trương Phi cũng bội phục trong lòng. Hỏi ra mới biết người bán giày này là Lưu Bị mà họ đã từng nghe danh. Lời tục nói: Hảo hán thích hảo hán. Trương Phi khoái chí nói:
- Không đánh nhau không biết nhau, chúng mình kết làm anh em ngay tại đây đi!
Do đó, ông hốt đất thành đống, lấy vài que cây nhỏ cắm làm hương, sau đó Lưu Bị, Quan Vũ cùng quì xuống dậy đầu, như vậy kể như đã kết bái thành anh em. BÁ tánh chứng kiến, gọi đây là lần đầu kết nghĩa của họ.
Trương Phi nổi giận
Một hôm, Lưu Bị dẫn Quan Vũ, Truơng Phi tìm tới Gia Cát Lượng nữa, hỏi ra thì chủ nhân đã đi vắng. Lưu Bị nhẫn nại đứng trước cửa chờ đợi. Trương Phi thấy thêm một lần hoài công, nên trong bụng đã nổi quạu. Nhìn Lưu Bị tỏ vẻ kính cẩn, trong lòng ông càng thêm bực bội. Ông bèn quày người bỏ đi, bỏ mặc Quan Vũ đứng trơ ra đó.
Trương Phi rảo bước trên đường ngắm hoa xem cảnh, mục đích muốn giải bớt phiền tức trong lòng, không dè ông đã đến trước gò Hướng Dương. Xuống ngựa, ông định ngồi nghỉ ở đây, chợt nghe tiếng la ơi ới ở thôn trang dưới núi vọng lên. Còn chưa biết xảy ra chuyện gì, bỗng thấy một tiều phu hoảng hốt chạy tới, Trương Phi vội hỏi dưới núi có chuyện chi vậy. Tiều phu thở mệt, nói:
- Không xong rồi, chẳng biết từ đâu tới một vị đại vương râu dài, tự xưng là nhị đệ của Lưu Bị gì đó, tên Quan Vân Trường. Hắn không những cướp giựt của cải tiền bạc mà còn đốt nhà dân nữa. Ôi, thôn này sắp nguy tới nơi rồi!
Trương Phi, thoạt nghe qua, hai mắt ông liền tròn xoe, lông tóc dựng ngược, thầm mắng:
- Quan Vân Trường mi ư! Vừa mới khuyên ta ở lại đợi chờ, thế mà mi đã bỏ đi gây rối cho dân, ta há có thể dung tha mi được sao?
Ông nói với tiều phu cho ông mượn bộ quần áo mặc vào, đoạn sãi bước xuống thôn.
Trong thôn, một cảnh hỗn độn đang diễn ra, người lớn con nít đều nhốn nháo hoảng sợ. Lại thấy có một đám người đang quì lạy xin tha. Trương Phi vội chen vào đám đông. Ông thấy một Đại Hán râu dài cỡi trên con đại thanh mã, tay cầm đại đao, đang diễu võ dương oai với mọi người. Trương Phi định xông tới,c hợt phát hiện người này tuy có râu dài nhưng mặt mày thì đen thui, vốn không phải là Quan Vũ. Ông không khỏi cười thầm trong bụng, rồi bước tới cố ý hỏi:
- Ông là thần thánh nào ở đâu, sao tới đây làm thế này?
Đại Hán ngó nhìn Trương Phi, thấy ông ăn mặc rách rưới nên chẳng để vào mắt, ngang nhiên đáp:
.- Ta chính là Quan Vũ Quan Vân Trường. Hẳn ngươi đã nghe chuyện ta giết Văn Sú, Nhan Lương, chém Hoa Hùng chớ?
Trương Phi không nhịn cười được, nói:
- Nghe thì có nghe, nhưng không phải là thứ chuột bạ như mi! Có chăng, mi là đồ cháu chắt của Quan Vũ thì được.
Thôn dân chung quanh nghe vậy đều hoảng hồn ngó Trương Phi. Lại thấy tên hán tử hoành đao, quát:
- Cả gan cho tên cuồng đồ, còn chưa chịu cút khuất mắt ta ư! Hay là mi muốn bay đầu?
Trương Phi nảy ra một kế, ông cố dằn cơn giận, giả đò xoay người bỏ đi hai bước, rồi vụt quay đầu hét lớn. Tiếng hét này như sấm nổ giữa trời đang lặng, làm cho tên hán tử hết hồn phải té rơi xuống ngựa, đại đao cũng "leng keng" văng xuống đấ.
Trương Phi bước tới đạp lên lưng hắn, khiến hắn thở khò khè, miệng kêu cha không dứt. Trương Phi nắm râu hắn giật mạnh, thì ra toàn là râu giả. Do đó Trương Phi đã dạy hắn một bài học về tội dám mạo danh "Quan Vân Trường".
Ngọn bàn cờ
Đồn rằng, Gia Cát Lượng rất thích đánh cờ. Lúc "cùng canh long mẫu", chưa ra Long Trung, ông là cao thủ đánh cờ ở vùng đất này. Sau khi Lưu Bị ba lần viếng thảo lư, ông xuống núi mang theo những con cờ và bàn cờ do ông chế đem theo trong quân. Nhưng, ông có thể tự kiềm chế mình. Trước kia, ông đánh mỗi ngày ba ván, rồi giảm xuống ba ngày một ván, cho dù thắng bại thế nào cũng nghỉ. Bây giờ thân làm chủ soái tam quân, còn thời giờ rảnh đâu để đánh nữa?
Ở gò tế cờ ngoài cửa Nam, chợ Thiệu Dương có ngọn Bàn Cờ, chính là nơi Gia Cát Lượng đã từnga đánh cờ ở đây.
Năm ấy, hành doanh trung quân của Gia Cát Lượng đóng tại gò tế cờ. Vào một buổi xế chiều, Gia Cát Lượng đưa tiễn một danh nho gần động Đào Hoa ra về, xa xa ông thấy hai binh sĩ ngồi đánh cờ trên một tảng đá xanh lớn. Ông bèn nhẹ bước tới, lặng lẽ đứng một bên xem họ đánh và rồi ông bị lôi xuốn bởi những nước cờ họ đi. Thỉnh thoảng ông lại phe phẩy chiếc quạt lông quạt mát cho một tên binh đang tính nước cờ đến đổ mồ hôi đầu. Thấy người này lâm vào thế nguy vẫn không bối rối, liên tiếp đi mấy nước cờ thật tuyệt diệu, và đã chuyển bại thành thắng, ông buột miệng khen:
- Hay lắm!
Tiếng "hay lắm" này như tiếng sấm làm giật mình hai binh sĩ, Gia Cát Lượng trị binh rất nghiêm, có binh sĩ nào mà không sợ ông, có tướng quân nào mà không kính ông. Hai tên binh "rụp" một tiếng đã song song quì xuống đất, mồ hôi đẫm ướt tr án, cất tiếng khẩn cầu thứ tội. Gia Cát Lượng đỡ họ dậy, mỉm cười nói:
- Miễn sao không phải là thời gian tập luyện, đừng sai trái giờ thao diễn. Còn lúc rảnh rỗi hãy cứ đánh cờ tiêu khiển, không sao cả.
Ông còn nói mình là tay mê cờ đáo để. Tiếp đó, Gia Cát Lượng lại hỏi sĩ binh, trong doanh có được mấy người biết đánh cờ và được mấy tay chơi giỏi, và rồi ông còn muốn đánh với họ một ván. Ban đầu , Gia Cát Lượng nói thế nào hai người cũng lắc đầu, sau thấy thái độ ông bình dị gần gũi nên sau một phút đắn đo họ đã bằng lòng ngồi xuống tảng đá và bày cờ ra đánh với ông. Phút chốc đã hơn một tiếng đồng hồ mà còn chưa phân thắng bại. Thấy mặt trời sắp lặn về tây, Gia Cát Lượng nhớ tối nay còn có cuộc họp quan trọng nên đành bỏ dở cuộc cờ. Lúc sắp đi, ông chỉ tảng đá xanh bày bàn cờ, muốn hai người tìm thợ đá khắc lại bàn cờ còn bỏ dở đó, ngoài ra cũng có thể khắc thêm vài bàn cờ trống để tướng sĩ lúc nhàn rỗi có thể ngồi đánh cờ tiêu khiển.
Hơn một ngàn tám trăm năm qua rồi, song tảng đá xanh lớn vuông vức ba thước hình bàn cờ vẫn y nhiên tồn tại, cùng với tấm lòng tốt của Gia Cát Lượng quan tâm thương yêu binh sĩ được lưu truyền trong dân gian.
Camlòng lão tam
Ở vườn đào, Trương Phi với Lưu Bị, Quan Vũ kết nghĩa làm anh em. Trương Phi bị xếp hàng lão tam, trong lòng có ý không phục.
Một hôm, nhân lúc tửu hứng, ông muốn cùng Quan Vũ tỉ thí. Lưu Bị nói:
- Hai cọp đánh nhau tất có một bị thương. Chi bằng so khí lực thì tốt hơn.
Trương Phi hỏi:
- Cách thức thế nào?
Lưu Bị nói:
- Ai có thể nhấc mình lên không nổi thì người đó mạnh hơn.
Trương Phi nghe nói liền nở mày, cười khẩy, nói:
- Hai tay tôic ó thể nhấc tảng đá ngàn cân, chẳng lẽ nhấc kô nổi thân mình tôi một hai trăm cân ư?!
Nói xong, hai tay ông liền nắm lấy tóc mình kéo lên. Da đầu đau điếng, tóc bị đứt tả tơi, nhưng hai chân vẫn đứng yên trên mặt đất. Trương Phi chay mày kêu:
- Đau quá! Đau quá!
Còn Quan Vũ, ông tìm một sợi dây mắc lên cháng cây để hai đầu thòng xuống. Một đầu ông cột vào lưng mình, hahi tay nắm chặt kéo đầu kia lên, thân ông từ từ lơ lửng rời khỏi mặt đất đi lên không trung.
Trương Phi thấy Quan Vũ thắng, bĩu môi nói:
- Không kể, đó là nhị ca mượn sức đấy thôi!
Lưu Bị nói:
- Không kể thì không kể, làm lại vậy.
Ông bảo người lấy tới một bành đậu hũ lỏng, một sợi dây và một cái cân xách rồi nói:
- Ai có thể cân bành đậu hũ này nặng bao nhiêu thì người đó thắng.
- Truowng Phi Dực Đức tôi giết heo bán thịt, việc cân này xem như trò đùa, dễ ợt thôi!
Ông bèn dùng dây cột đậu hũ định treo lên móc để cân. Ai ngờ cột tới vòng lui, làm bành đậu hữ nát bấy mà kô cách chi cân được. Trương Phi đổ mồ hôi hột nói:
- Hức! Tôi mà cân kô được rồi thì nhị ca sức mấy cân được. Đại ca ra đề khác đi!
Quan Vũ nói:
- Chớ vội, tôi có cách cân.
Ông bèn dùng dây trói một con heo và cân nó trước, sau đó đem đậu hũ đổ trong thao rồi cho con heo này ăn hết cả cái lẫn nước. Đoạn đem heo cân lại. Cân xong, chỉ đòn cân mà nói:
- Đậu hũ nặng hai cân hai lạng.
Trương Phi nói:
- Nói ẩu, nói ẩu! Anh cân heo chớ cân đậu hũ đâu nào.
Quan Vũ nói:
- Heo hòi chưa ăn đậu hũ là tám mươi tám cân tám lạng, khi ăn hết đạu hũ rồi thì nặng chín mươi mốt cân. Vậy chẳng phải đậu hũ nặng hai cân hai lạng là gì?
Lưu Bị nói:
- Tam đệ, nhận thua đi thôi!
Trương Phi vãn cãi bướng:
- lần này đại ca thiên vị. Nhị ca chuyên nghề bán đậu hũ, cân đậu hũ đương nhiên đúng thôi, kô thể kể là thua hay thắng được!
Lưu Bị nói:
- Thôid dược! Lần này ra đề cho tam đệ vậy.
Ông đưa tay chỉ con heo bị trói dưới đất nói:
- Hai người đếm lông heo. Ai đếm mau thì người đó thắng.
Trương Phi kô ngớt tán thành, liền vạch lông heo đếm ngay từng sợi từng sợi một. Lông heo dày đặc rất khó đếm. Trương Phi ngồi xoạc xuống đất chăm chú mà đếm. Miệng thao thao, quyết lòng tranh hơn thua với Quan Vũ phen này.
Riêng Quan Vũ kô vội, ông dùng chân đá nhẹ lên mình con heo mấy cái, nói:
- Tôi đếm xong rồi đấy, lông con heo này cả thảy có mười va vạn ba ngàn, ba trăm ba chục sợi!
Trương Phi mới đếm được bốn mươi lăm sợi, bỗng nghe Quan Vũ nói đếm xong rồi liền đứng phắt dậy nói:
- Nhị ca, chẳng lẽ anh có ba đầu sáu tay?
Lưu Bị ha hả cười lớn:
- Nhị ca chú kô phải ba đầu sáu tay, mà hơn chú con mắt và đầu óc thôi! Đây kêu là hư hư thực thực, thực thực hư hư. Binh bất yếm trá vậy!
Trương Phi chớp mắt mấy cái suy nghĩ, và đã hiểu ra, bèn vòng tay nói:
- Tam đệ tôi tâm phục, xin chịu thua vậy!
My Trúc thi kế cứu người
Lưu Bị ở Tứ Xuyên kiếm lập nước Thục. Thừa Tướng Gia Cát Lượng chủ trương dùng hình phạt nặng để trị loạn. Trong đó có một hình pháp - không chấp nhận bá tánh dùng ngũ cốc nấu rượu, ai vi phạm sẽ bị chặt đầu.
Một hôm, Lưu Bị và My Trúc, anh của My phu nhân cùng ra ngoài thành du ngoại. Đến trước thôn nọ, phát hiện ở bên chái nhà có để một thùng rượu, Lưu Bị tức thời nổi giận, liền bảo tùy tòng:
- Hãy bắt chủ nhà này chém đầu răn chúng!
My Trúc thoạt nghe liền lấy làm lạ, vội hỏi Lưu Bị:
- Chủ nhà này phạm tội gì mà khiến ngài nổi giận đến như vậy?
Lưu Bị nói:
- Thừa tướng có lệnh cấm, kô chấp nhận cho ai nấu rượu cả. Nhà này đã biết rõ mà cố vi phạm thì phải chặt đầu.
My Trúc hỏi:
- Sao chúa thượng biết chủ nhà này nấu rượu?
Lưu Bị nói:
- Xem kìa, nhà ông ta có thùng ruọwu đấy!
My Trúc nhìn và mỉm cười. Ông nghĩ: Nếu như bắt chủ nhà đem tới thì chưa kịp giải bày đã đứt đầu rồi, như thế sẽ oan uổng cho người ngay; còn nếu cản trở khuyên ông đừng bắt người thì lại kô có lý do. Thế phải làm sao đây?
Chính trong lúc này, may có một thiếu phụ đi ngang. My Trúc nhanh trí liền ra lệnh cho tùy tòng:
- Bắt thiếu phụ ấy và chặt đầu ngay!
Lưu Bị nghe rất đỗi ngạc nhiên, liền hỏi My Trúc:
- Sao ông lại muốn giết thiếu phụ này? Bà ta phạm tội gì?
My Trúc nói:
- Bà ta phạm tội dâm, đáng chém đầu lắm!
Lưu Bị hỏi:
- Sao ông biết bà ta phạm tội dâm chứ?
- Vì bà ta là đàn bà!
- Đàn bà chưa hẳn phạm tội dâm!
My Trúc nói:
- Thế a!
Đoạn chỉ tay về chiếc thùng rượu bên chái nhà người kia, tiếp:
- Có bình rượu cũng chưa hẳn là nấu rượu!
Bây giờ Lưu Bị mới vỡ lẽ ra:
- Ông nói đúng đấy.
Bèn sai tùy tòng đến nhà ấy xem có phải nấu rượu không.
Tùy tòng xem xét xong, trở lại bẩm báo với Lưu Bị là nhà ấy không có nấu rượu.
Lưu Huyền Đức hỏi:
- Thế tại sao bên chái mái nhà ông ta có để thùng rượu?
Tùy tòng đáp:
- Chủ nhà nói, vì không nấu rượu nên mới bỏ thùng không ra ngoài ấy.
Lưu Bị nghe xong, xoay qua My Trúc nói:
- May có ông đề tỉnh tôi, kô thì đã giết oan một mạng người rồi.
Bà Lã mở quán
Lã Phạm vốn là mưu sĩ của Viên Thiệu, người rất thông minh. Ông thấy Viên Thiệu tự quyết đoán không cần nghe ai, tâm địa lại hẹp hòi, như thế sẽ không xây dựng được nghiệp lớn, và rồi, cũng sẽ uổng một đời mình. Thế nên ông bàn tính với vợ, lén bỏ Viên Thiệu mà sang đầu Đông Ngô. Trên đường đi, bà vợ ông bị bệnh, nhưng bà quyết nằm lại một mình để Lã Phạm không lỡ mất cơ hội sang đầu Đông Ngô.
Lã Phạm đến Đông Ngô và đã được Tôn Quyền trọng dụng. Ông bận rộn viện nước đến quên mất việc rước bà vợ về. Bữa nọ, Tôn Quyền đến thăm, thấy ông cô độc một mình bèn hỏi duyên cớ, Lã Phạm thực tình nói lại. Tôn Quyền nghe qua vội bảo Lã Phạm viết thư để sai quân đi tiếp đón.
Lại nói sau khi Lã Phạm đi rồi, bệnh tình bà vợ từ từ thuyên giảm. Bà là người có kiến thức, có thể tự dự đoán được những năm đầu chiến loạn thế này thì vợ chồng đến năm tháng nào mới gặp mặt lại, do đó bà tìm cách xoay xở mở một lữ quán tiếp đón khách vãng lai. Bà vốn là người nhã nhặn, lịch thiệp nên việc làm ăn của bà rất mau phát đạt. Khi Tôn Quyền định sai người đến rước bà, bà đã là bà chủ có ít nhiều tiếng tăm. Khách nam lai bác vãng trong lữ điếm tấp nập, nên tin này đồn rất nhanh. Bà lại nghe nói chuyện Lã Phạm bày mưu việc gả cưới để cầm chân Lưu Bị, thì trong lòng nghĩ: Không biết Lã Phạm làm quan ở Đông Ngô có bền không, nếu lỡ có bề nào thì cũng còn đường lui về giữ cơ nghiệp này. Do đó, khi sứ giả tới, bà nói:
- Xin về nói với Lã Đại nhân, tôi ở đây công việc quá bề bộn, trâu ngựa, lừa dê đang cần người trông nom, nhất thời chưa có thể bỏ đi được.
Sứ giả không biết nói sao hơn, đành chỉ biết trở về báo lại.
Sau khi sứ giả đi rồi, mọi người mới biết bà chủ là vợ của Lã Phạm, Ai gặp bà cũng đều gọi là bà Lã, và lữ quán này cũng được gọi là "Quán Bà Lã".
Lại qua mấy năm, Tôn Quyền dẫn binh công đả Hợp Phì, ông bị tướng Ngụy Trương Liêu đánh bại phải sải ngựa chạy dài. Khi thu thập tàn binh thì chỉ còn cách rút chạy. Ba ngày sau tới núi Thái Sơn thì ngựa hết cỏ, binh cạn lương. Tôn Quyền sai Lã Phạm đến vùng kế cận mượn lương. Tàn binh những mấy trăm người, thế này thì lương thực mượn đâu ra? Lã Phạm lo buồn. Dân trong vùng mách cho ông tới quán Bà Lã xem.
Lữ Phạm tới khách điếm, thấy ở cửa điếm có hai câu đối:
Ông quan làm mải không nghĩ vợ, xem nước là trước,
Bà vợ mở quán nhẹ thu lời, coi dân làm đầu.
Lã Phạm đọc xong, trong lòng liền mừng: Thì ra chính là vợ mình! Năm ấy ly biệt tóc vẫn còn xanh, nay gặp lại thì đầu đã điểm bạc. Hai người cách biệt lâu ngày gặp lại, sao không buồn vui lẫn lộn. Lã Phạm nói:
- Trước mắt, Ngô chúa gặp nạn, khốn đốn dưới núi Thái Sơn, chín trăm binh hai ngày chẳng có hột cơm.
Bà Lã nói:
- Ông hãy yên lòng, trong quán có lương thảo, bảy tám trăm người ăn một tháng cũng không sao.
Lã Phạm rước Tôn Quyền đến quán. Sắp xếp việc lương thảo xong, ông trình bày rõ việc vợ chồng ông xa nhau cho Tôn Quyền nghe. Tôn Quyền vui mừng nói:
- Ông và bà Lã là người có công lớn với Đông Ngô, Tôn mỗ tôi thề quyết không quên. Xin mời hai người trở về Kiến Nghiệp mà đoàn tụ vui vầy.
Bấy giờ bà Lã mới chịu theo chồng đi.
Hỏa thiêu đồn Bác Vọng
Tào Tháo trải qua chín năm chiến đấu gian khổ, đã chiếm được nửa vùng trời mé Bắc, và quyết lòng lấy cho được Kinh Châu, hạ Đông Ngô, thống nhất thiên hạ.
Lời tục nói: Binh mã chưa động chớ lương thảo hàng đầu. Ông đã chọn trúng đồn Bác Vọng, cách sáu mươi dặm về hướng đông bắc Nam Dương làm nơi tích thảo đồn lương.
Cái nhìn của Tào Tháo rất sâu xa. Ở đồn Bác Vọng, ông kiến lập kho lương nhưng lại sợ có người phóng hỏa. Tuy ông đã phái đại tướng Hạ Hầu Đôn lãnh ba vạn thiết kỵ binh trấn giữ song vẫn chưa yên lòng, mỗi ngày ông thường chau mày nghĩ ngợi. Suy đi tính lại, ông đã nghĩ ra được một cách an toàn.
Ở vùng này có lắm cây chà là, lá chĩa tứ tung, toàn thân là gai, gai dài hai ba tấc vừa nhọn vừa sắc. Tào Tháo sai người trồng loại cây này theo chu vi đồn Bác Vọng dầy hơn nửa dặm để làm tường vây. Bốn mặt đều có cửa sắt an toàn. Cây chà là lớn lên rễ mọc chằng chịt, lá gai đâm dày đặc. Đừng nói là người mà cho dù chim muông cũng đừng hòng lọt vô được. Tào Tháo cỡi ngựa đi vòng quanh quan sát, trong dạ hết sức hài lòng, và kô dằn được, ông bật cười lên ha hả rồi xoay qua chúng tướng, nói:
- Có tường này bảo hiểm, kô có cách nào thua được! Ai muốn đốt đồn Bác Vọng của ta, trừ phi mặt trời mọc ở hướng Tây!
Trong đồn Bác Vọng, lương thảo như núi. Chín mươi vạn đại quân từ cái ăn, cái mặc, cái dùng đều dựa vào đây, chỉ còn chờ luyện xong binh mã là ra quân Nam chinh thôi.
Lúc này Lưu Bị đang trấn giữ Tân Dã. Tân Dã cách Nam Dương mọt trăm hai mươi dặm, chỉ cần Tào Tháo xuất binh thì trận đầu đã đụng độ với binh của ông.
Lưu Bị sau ba lần viếng thảo lư, đã mời được Gia Cát Lượng làm quân sư. Trương Phi thấy Gia Cát Lượng là một thư sinh văn nho yếu ớt nên tỏ ý xem thường ông. Bấy giờ Lưu Bị buồn dàu dàu, Trương Phi bèn lạnh lùng châm chích:
- Đại ca, chẳng là anh đã nói "được Gia Cát Lượng như cá được nước" đó sao? Thử kêu "nước" của anh trổ tài xem!
Lưu Bị bèn dẫn Trương Phi đến gặp Khổng Minh. Gia Cát Lượng nói:
- Ở trọ nhà người sống qua ngày không thể làm nên việc lớn, chúng ta phải chiếm Tây Xuyên làm căn cơ tranh lấy thiên hạ!
Lưu Bị nói:
- Tiên sinh nghĩ vậy rất đúng, đây chẳng qua là tạm thời đó thôi. Trước mắt thì vậy để rồi lo liệu mà xoay xở sau!
Trương Phi nói:
- Tào Tháo đang muốn xuất binh, việc như lửa đốt tới mày rồi!
Gia Cát Lượng cười:
- Chỉ cần đốt được đồn Bác Vọng, thì đố hắn dám xuất binh, và như vậy ta sẽ có thời gian!
Trương Phi cười nhạt:
- Tiên sinh nói dễ nghe quá! Đồn Bác Vọng tường gai vây quanh rộng hơn nửa dặm, cho dù thần tiên muốn xâm nhập cũng không cách chi!
Gia Cát Lượng nói:
- Thần tiên không có cách nhưng chúng ta có cách!
Lưu Bị sợ Trương Phi nói ra lời khó nghe, vội cắt ngang:
- Tiên sinh cứ nghĩ cách đi, tôi đem ấn tín, lệnh tiễn giao cho ông, ai không nghe lệnh thì cứ theo quân pháp!
Trương Phi hết dám hó hé, trong lòng thầm nguyền rủa: Xem lão mũi trâu mi tìm ra biện pháp gì cho biết!
Gia Cát Lương truyền hạ tướng lệnh, sai rất nhiều người xuống huyện thu mua cỏ rơm. Mua với giá rất cao, một cân cỏ rơm trị giá bằng hai ba cân lương thực. Dân chúng vui vẻ cung cấp, chẳng mấy ngày cỏ rơm ở ngoài đồng, trong núi, trong đầm, trong ao đều được thu mua sạch...
Gia Cát Lượng kêu quân sĩ đem cỏ rơm nhào với đất bùn vo thành rất nhiều viên đạn. Lại sai Triệu VÂn chọn một ngàn tinh binh mang đạn, men theo đường nhỏ vòng qua Nam Dương, đến đêm lẻn tới gần đồn Bác Vọng. Triệu Vân chia binh làm bốn lộ bao quanh đồn Bác Vọng, nhất tề dùng ná bắn những viên đạn vào rừng chà là, bằn đến bằng hét mới thôi.
Hạ Hầu Đôn nghe nói bên ngoài có động tĩnh, vội truyền lệnh thủ trại. Nhưng qua một lúc không thấy địch tấn công vào, ông bèn cho đốt đèn lồng lên, đi xem xét thì chỉ thấy những viên đất tròn mà thôi. Ông trấn tỉnh lại, cười lên ha hả:
- Đây là Lưu Bị chọc phá! Hắn nghèo đến không làm nổi đầu tên sắt, chỉ lấy đất vò viên mà bắn thôi.
Bây giờ ông mới truyền lệnh mở cổng, dẫn một vạn thiết kỵ xông ra. Nhưng lúc này, người ngựa của Triệu Vân đã mất dạng tự bao giờ.
Qua mấy trận mưa xuân, viên đạn rơm cỏ trong rừng chà là rã đất và theo gió bay lên mắc đầy trên đọt chà là, phủ kín kho lương.
Ngày ba mươi tháng mười một, Gia Cát Lượng liên tiếp truyền ba đạo tướng lệnh: Sai Trương Phi, Triệu Vân mỗi ngwời lãnh năm trăm tinh binh, trang bị đầy đủ tên lửa, vào canh ba hỏa thiêu đồn Bác Vọng. Mệnh cho Quan Công lãnh một ngàn nhân mã, mai phục mé đông bắc Nam Dương cách ba mươi dặm để hư trương thanh thế, cản trở binh cứu viện của Tào Tháo, và đồng thời tiếp ứng hai tướng Trương Triệu.
Đến canh ba, Trương Phi, TRiệu Vân đã tới đồn Bác Vọng. Chọn địa thế mặt đông và mặt bắc xong rồi liền triển khai đội ngũ. Hôm đó trời không trăng và gió mạnh. Binh Tào tuần tiễu nghe thấy động tĩnh vội vào đại trướng báo cáo. Hạ Hầu Đôn cười hắc hắc, nói:
- Lần trước ta ra không kịp để cho bọn bây có cơ hội tẩu thoát, lần này thì ta phải bắt sống Lưu Bị.
Tức thời truyền lệnh hạ tướng lệnh. Lời nói còn chưa dứt thì nghe phía ngoài có tiếng pháo hiệu, tên lửa bắn vải tới như sao xẹt đầy trời. Cỏ rơm trong rừng chà là đã không, gặp lửa. Lửa thừa thế gió, gió giúp oai lửa bùng cháy lên. Bây giờ chỉ thấy kho trại bốc lửa, khắp nơi ngùn ngụt khói. Tức thời đồn Bác Vọng đã thành biển lửa, đầy trời khắp đất là lửa đỏ rực, trong chu vi trăm dặm đêu thấy được. Ba vạn nhân mã của Hạ Hầu Đôn kêu khóc vang trời, ngựa đạp người, người đụng ngựa, tranh nhau mà tháo chạy. Nhưng khắp nơi đầu là rừng chà là cháy ngất trời, ngay con kiến cũng khó bò ra được. Tường bảo hiểm của Tào Tháo nói đó, bây giờ đã trở thành tường vong mệnh. tuy có bốn cửa trại, song cửa nhỏ người đông chỉ còn chen giẫm lên nhau mà chết. Lửa táp tới, người người như cây đuốc. Hạ Hầu Đôn thấy chính mình e còn khó thoát dưới biển lửa nên bất chấp tất cả, dẫn mấy mươi thân binh, lên ngựa mở đường máu chạy ra ngoài đồn Bác Vọng. Đến Hứa Đô, Hạ Hầu Đôn khóc kể với Tào Tháo. Ba vạn nhân mã gần như đều chết trong biển lửa , lương thảo đã bị thiêu sạch.
Quan Công mặt trắng
Ngoài cửa Nhạn môn có hòn núi Ngũ chỉ, dưới núi có vũng Mã Đề. Trên triền núi bên vũng có ngôi miếu Quan Đế, tượng Quan Công trong miếu mặt trắng. Tượng Quan Công ở nơi khác đều mặt đỏ, vì sao tượng ở đây mặt trắng?
Có câu chuyện thế này:
Nói rằng thuở xưa, Quan Vân Trường một người một đao trên đường đi qua đây. Bấy giờ đang lúc thời tiết nóng bức, tuy đã gần tối mà hơi nóng vẫn chưa giảm . Quan Vân Trường vừa đói lại vừa khát, ngựa cũng đổ mồ hôi dầm dề. Mỗi bước đi, trên đường đều in sâu dấu chân ngựa. Vừa vòng qua một góc núi, chợt từ trong hang nhỏ vụt ra hai nông phu trẻ, trong tay đều cầm trường thương chận đường ông, khuyên:
- Ở hang núi phía trước có một con mãng xà lớn hay chận đường tác quái, gặp người ăn người, gặp thú ăn thú, dân lành quanh đây sớm đã trốn đi hết. Vì bảo đảm an toàn cho người đi đưòng, chúng tôi được dân làng giao nhiệm vụ phải ở đây ngăn cản người đi qua.
Quan Vân Trường nghe mấy lời này, một luồng máu nóng liền xông lên tận đầu. Ông nghĩ, bá tánh của vùng này đã khổ sở vì mãng xà, tuy đã đã bỏ đi xa rồi mà vẫn nghĩ đến khách thập phương sẽ gặp nạn. Tấm lòng lương thiện ấy thật đáng thương đáng kính biết bao. Nghĩ vậy, trong đầu ông không khỏi dấy lên việc phải giết mãng xà trừ hại cho dân. Do đó , ông chẳng nói gì, bèn đề đao lên ngựa thẳng tới phía trước.
Đường núi vắng lặng, không có một con chim bay , không nghe cả tiếng côn trùng kêu. Quan Vân Trường cho ngựa đi vòng bên vũng một hồi, nhưng chẳng phát hiện bóng dáng mãng xà đâu cả. Ông lại lách qua một mỏm núi hẹp; cảnh vật cũng chẳng có chi thay đổi, duy trong bóng liễu lòng thòng có một khe suối nước trong đổ xuống gây sóng lấp loáng. Quan Vân Trường mừng rỡ, ông vội xuống ngựa, dựng cây đao bên vách núi, sải bước đến bên suối định vốc nước uống. Chợt cuồng phong từ dưới đất dấy lên, ,một con mãng xà thè cái lưỡi dài đỏ lòm, cặp mắt sáng như cặp đèn bay thẳng tới. Quan Vân Trường thấy mãng xà quá hung hăng nên không còn thiết nghĩ đến việc uống nước nữa, bèn xoay người lùi lại định lấy thanh đao. Nhưng không thể được, con mãng xà đã sớm vút tới. Quan Vân Trường vội lách sang phải tránh, nó bổ vào khoảng trống. Con mãng xà bổ tới hai lần nữa, nhưng Quan Vân Trường đã tránh khỏi. Lần này một qua một lại đã hơn trăm hiệp. Quan Vân Trường vừa mệt, vừa khát lại vừa đói, bây giờ hơi thở ông ồ ồ, mồ hôi nhễ nhại làm gương mặt đỏ của ông cũng biến thành trắng bệnh.
Mãnh xà thấy bổ không trúng, nó càng lồng lên, lè cái lưỡi đỏ, liên tục hung hăng bổ mạnh tới nữa. Trong lúc khẩn trương như ngàn cân treo sợi tóc. Quan Vân Trường liền lùi tới vách núi, chộp lấy thanh long yển nguyệt bản đao, chợt hét to một tiếng:
- Xem đao!
Con mãng xà dài một trượng tám đã bị chặt đứt làm hai khúc.
Sau khi giết chết mãng xà rồi, Quan Vân Trường bèn đến suối nước, khoát tay vốc nước uống no nê và ngã người ra tảng đá xanh nằm ngủ. Lúc ông tỉnh dậy thì suối nước đã chảy tràn hồ, làm thành con sông nhỏ chảy xuống phía dưới.
Trong khi Quan Vân Trường và mãng xà đánh nhau, giây phút mặt ông trắng bệch đã bị hai nông phu đi theo sau ngó thấy. Sau này, vì để nhớ ơn Quan Công chém mãng xà trừ hại, người ta bèn dựng tượng ông mặt trắng.
Tu sửa miếu Hoa Đà
Thời Tam Quốc, ở huyện An Huy có hai người nổi tiếng. Ngụy Vương Tào Tháo, Thần Y Hoa Đà.
Ta đừng nhìn trên chính trường mà vẽ Tào Tháo thành tên gian hùng, thật ra tài năng của ông không nhỏ! Văn thao võ lược, ngâm thơ làm phú, mỗi cái đều giỏi. Chỉ có một điều không tốt: Mối nghi ngờ quá lớn, động một cái là giết người.
Một hôm, Nguỵ Vương đang nghị sự trong phủ, bỗng người choáng váng, mắt hoa lên, trời xoay chuyển, đầu nhức nhhối khôn tả. Nhức đến hết biết tìm chỗ nằm. bọn thủ hạ cuống cuồng sợ hãi, vội chạy đi mời thái y tới, Thuốc thang châm cứu cả ngày đều vô dụng. Bà vợ Biện thị vái van cầu thần, xem bói, khóc đến sưng vù cặp mắt. Mưu sĩ Tuân Du sực nhớ tới thần y Hoa Đà, lập tức sai người đi mời.
Hôm đó, Hoa Đà đang bận ở ngoài làng xem bệnh, nghe có người tới mời đi xem bệnh, lại thấy cái dáng vẻ người đó quýnh quáng, ông biết bệnh chắc đã nguy cấp. Hoa Đà không kịp trở về nhà báo tin, ông vội cỡi ngựa , ngày đêm lên đường tới phủ Ngụy Vương. Tới nơi thấy Tào Tháo nằm liệt giường, trên đầu cột chiếc khăn, sắc mặt như tàu lá, mồ hôi ướt đẫm. Biết bệnh không nhẹ, ông liền đi rửa tay, rửa mặt rồi ngồi bên giường. Không xem, không nghe, không hỏi, không bắt mạch, thoát thấy thế này ông liền rút cây kim bạc bảy tấc, nhằm vào huyện đạo trên đầu mà đâm vào. Tào Tháo chỉ thấy đau nhói như kiến cắn một cái, sau đó tê rần và rồi khắp người lưng lửng. Nghĩ cũng lạ, đàu của Tào Tháo giựt giựt vài cái rồi hết đau.
Tào Tháo mừng quá! Ông chuộng tài ư! Lòng nghĩ: huyện nhà có người giỏi thế này thì mình đâu còn phải lo nữa, có ông ta bên cạnh, sau này đi hành quân đánh trận thì ông ta sẽ là một cánh tay của mình. Tào Tháo quyết ý không để Hoa Đà bỏ đi. Ông ban cấp cho Hoa Đà rất nhiều vàng bạc, gấm vóc lụa là, Hoa Đà cương quyế tkông nhận, Tào Tháo lại hứa cho ông làm quan cao bổn glộc nhiều, Hoa Đà cũng tảng lờ không màng tới. Tào Tháo khó nghĩ, vậy ông ta muốn gì?
Hoa Đà muốn trở về nhà, ông nằm ngủ trên giường cao nệm ấm mà như nằm trên gai, ăn sơn trân hải vị mà vẫn thấy thua bánh trong nồi ở nhà. Tối đến vừa chợp mắt là ông thấy mình đã về Tiểu Hoa trang. Hoa Đà không thể ở thêm được nữa. Sáng sớm hôm sau tới gặp Tào Tháo, ông phịa chuyện nói lúc sắp đi bà vợ đang bị bệnh, cần phải về thăm mới được.
Tào Tháo thật tình không muốn để Hoa Đà trở về, nhưng thật khó nói. Ông đành để Hoa Đà đi, chỉ căn dặn Hoa Đà mau trở lại.
Nhưng rồi ngày tháng trôi qua. Tào Tháo không thấy Hoa Đà trở lại. Trong lòng rất lo lắng, ông bèn phái châu quan phủ huyện đến thúc dục mấy lần, nhưng Hoa Đà cũng không tới. Tào Tháo lại nghe nói Hoa Đà nạo xương trị độc cho Quan Vũ, giúp đại tướng Đông Ngô Chu Thái mổ ruột dư khiến ông càng nổi giận. Hừ, mi trị bệnh cho bọn chúng để chúng đánh lại ta ư?
Lúc này Tào Tháo đang dẫn binh đánh giặc, bỗng ông thấy xây xẩm, đầu đau quay cuồng, ông lại nghĩ tới Hoa Đà, liền sai người đi mời. Bọn thủ hạ biết ông hận Hoa Đà sợ e mời không được, bèn hỏi:
- Mời bằng cách nào đây?
Tào Tháo nói:
- Ba trăm thạch lúa, ba trăm cây lụa, cầm giấy này mà đi mời.
- Nếu ông ta không tới thì sao?
- Tiên lễ hậu binh, Hoa Đà không tới ấy bởi ông ta!
Bọn thủ hạ vâng mệnh ra đi.
Hoa Đà đến không? Đến. Chẳng phải vì ông sợ quyền thế của Tào Tháo. Cũng không phải ông tham tước quyền vật chất, mà ông nhận thấy rằng Tào Tháo là một nhân vật ở vào lúc thế loạn này, nếu thiếu ông, để ông ta chết cũng là điều đáng tiếc. Do đó, ông đem ba trăm thạch lúa, ba trăm cây lụa phân phát cứu tế cho người nghèo trong làng, đọan giã từ vợ lên đường.
Hoa Đà vừa đến, liền vào ngay xem bệnh cho Tào Tháo. Tào Tháo đang lúc dùng người nên hết sức niềm nở. Hoa Đà xem mạch xong, đoạn ngồi trầm ngâm cả nửa ngày cũng kô nói.
Tào Tháo không dằn được, hỏi:
- Hoa tiên sinh, bệnh tôi chữa được không?
Hoa Đà nói:
- Ông bị viêm não.
- Vậy châm cứu cho tôi đi.
- Châm cứu cũng không lợi ích gì.
- Thế thì cho thuốc uống.
- Uống thuốc cũng kô hiệu quả.
- Chẳng lẽ hết cách rồi sao?
- Cách thì có nhưng không dùng được.
- Ông nói nghe xem.
- Bửa cái đầu ông mà trị mới được thôi.
Tào Tháo thoạt nghe liền hít vào.
Hừ! Thế này chẳng là toi mạng ta sao? Hoa Đà ơi Hoa Đà, ba lần bảy lượt ta thúc giục mi đến, đến rồi mi muốn bửa đầu ta ư! Trước mắt là lúc hai quân đang giao chiến, chẳng là mi muốn lấy đầu ta để mãi thông ư?! Được, Tào Tháo ta đâu dễ lầm mưu mi, ta chém đầu mi trước cái đã!
Hoa Đà có chết không? Không. Ông đã thành thần rồi! Thần Y quá giận. Hay cho Tào A Man, bỗng dưng mi dám giết người vô tội! Mi làm vương công đại thần mà thế này ư?... Hoa Đà quyết lòng trị dứt bệnh cho ông rồi dạy cho ông một bài học.
Lại nói Tào Tháo sau cơn giận đã giết Hoa Đà, đầu đau đến nửa đêm vẫn chưa ngủ được. Mãi cho tới gần sáng mới vừa chợp mắt thì nằm mơ. Ông mơ thấy Hoa Đà cười khanh khách một tiếng rồi đem đầu ông bửa ra, sau đó lấy não rửa trong nước thuốc, đoạn may đầu ông lại. Nói cũng lạ, bệnh nhức đầu của ông đã hết. Tào Tháo lấy vạn lạng vàng đền ơn, Hoa Đà nói:
- Ta không cần vàng, không cần bạc, chỉ cần mi một lòng cứu lê dân; ta không nhớ oán, không nhớ cừu, chỉ mong mi đừng có giết người vô tội nữa.
Nói xong, nhẹ khoát tay mà bay đi. Tào Tháo vội đưa tay níu lại, nào ngờ tay ông nắm nhằm vật gì âm ấm. Ông mở mắt nhìn, thì ra vợ ông đang định đổ thuốc cho ông, mấy thầy thuốc theo trong quân cũng đang chực hầu đại tướng. Tào Tháo nhớ lại giấc mơ, thấy trước mắt mà nửa tin nửa ngờ, nhưng dẫu sao bệnh đã hết, ông chẳng màng nghĩ gì sâu xa hơn nữa.
Đã qua mấy năm, Tào Tháo trở về làng kỵ giỗ tổ tiên, dân làng (bấy giờ thuộc quận Tiêu) ở trước mặt không dám nói nhưng sau lưng mắng nhiếc ông không ít. Có người nói:
- Hoa Đà y thuật cao minh, Vương Đại Đầu bị chứng đau óc, được ông bổ đầu trị khỏi. Tào A Man đã giết nhầm người tốt!
Tào Tháo đâu phải điếc, mấy lời nói này ông đã nghe. Ông sai người đi tìm Vương Đại Đầu, tận mặt hỏi, thì hỡi ôi! Mười năm trước Vương Đại Đầu bị chứng đau màng óc, Hoa Đà đã bửa đầu ông ra và trị khỏi. Nay trên da đầu của Vương Đại Đầu vẫn còn dấu may!
Tào Tháo bây giờ mới hối hận:
- Ôi, ta đã giết nhầm Hoa Đà!
Ông là kẻ bại binh Xích Bích, tám mươi vạn đại quân vì ông đã bỏ mạng, thế mà ông không sa một giọt nước mắt. Vì sao? Thắng bại binh gia là lẽ thường có. Nhưng bây giờ, ông đã khóc, khóc tức tưởi, nước mắt tuôn ròng ròng.
Ông định tu sửa miếu Hoa Đà lại bèn phát ra mười vạn lượng vàng, mời năm trăm thợ nổi tiếng, với ý muốn miếu phải tu sửa lộng lẫy đường hoàng. Bây giờ dân trong huyện cũng đã có ý định sửa miếu Hoa Đà, nhưng vì còn sợ Tào Tháo nói tu sửa miếu Hoa Đà thì ai nấy cũng đều nức lòng! Người người tình nguyện, kéo tới giúp hằng mấy ngàn người. Phố phường dân chúng người năm mươi kẻ một trăm đóng góp thêm vô, số tiền gom góp lại thật nhiều.
Đang muốn phá đất khởi công thì Hoa Đà báo mộng cho người chủ quán. Dáng vẻ ông như ngày thường: trên lưng mang chiếc túi xanh, tay cầm hổ thức (Kim châm cứu bằng xương cọp) dường như vừa từ đâu trị bệnh mới về. Gương mặt ông hiền hòa nói với người chủ quán:
Đừng ngói ngọc gạch xanh
Đừng tượng vàng dát ngọc
Một đời Hoa Đà chỉ trong sạch
Cửa nhà đạm bạc giúp thế nhân.
Thần y đã nói thế, ai còn có thể không tin? Người chủ quán kính phục vô cùng! Tào Tháo cũng phải tôn trọng ý kiến đó, bèn ở trong thành xây một ngôi miếu ngói đỏ đơn sơ, tượng đất thiếp vàng, với biển đề "Hoa Đà tổ miếu", vẫn còn bảo tồn đến ngày nay.
Chết mà còn trị Tư Mã Ý
Tư Mã Ý và Gia Cát Lượng đã liên tục đánh nhau nhiều trận, rốt cuộc vì tính lầm nước nên Tư Mã Ý thường thường bại trận. Một trận ở Hồ Lô cốc, suýt tí nữa Gia Cưt Lượng đã thiêu chết cha con ông trong hang. Và điều đó khiến Tư Mã Ý tức đến nghiến răng trèo trẹo mà không biết phải làm sao.
Một hôm, Tư Mã Ý đang ngồi buồn, chợt nghe thám tử về báo tin:
- Gia Cát Lượng đã chết và đem chôn ở Định Quân Sơn, nghe người ta đồn rằng, thiên thư cũng đem chôn theo ông ta luôn.
Tư Mã Ý nghe vậy, vội phái người đi lấy tin cho đích xác hơn. kết quả, các lượt tin tức thám thính báo về đều y như nhau. Tư Mã Ý tức thời mặt mày rạng rỡ. Ông chau mày một cái và nghĩ ra một kế: phải quật mộ trộm lấy thiên thư để trút hận trong lòng!
Tư Mã Ý dẫn nhân mã đến Định Quân Sơn. Tới nơi, thấy lưng chừng núi mới xây xong một mái điện cao, trước điện có tấm biển lớn, trên biển khắc sáu chữ:
"Gia Cát Võ Hầu Chi Mộ". Bên trong thấy vắng lặng không người. Tư Mã Ý dợm sải bước đi vào, chợt ông lùi mấy bước, lòng nghĩ, làm sao biết Gia Cát Lượng không cho quân mai phục ở đây? Bèn sai binh vào dò xét trước. Không lâu binh trở ra bẩm báo:
- Bên trong xác thực không người.
Tư Mã Ý bây giờ mới yên lòng bước qua tấm biển và vô trong đại điện.
Trong đại điện có ba thần tượng, đồng tử bên tả ôm kiếm, đồng tử bên hữu ôm cổ cầm, chính giữa là thần tượng: đầu chít khăn lụa xanh, người mặc áo bát quái, tay cầm quạt lông ngỗng, mặt như Quan Ngọc, ba chòm râu, vẻ tiêu sái như thần tiên giáng phàm,đấy chính là Gia Cát Khổng Minh danh chấn Tam Quốc. Tư Mã Ý nhác thấy tượng Gia Cát Lượng liền nhớ tới kế bỏ trống thành, Bát Quái Trận, Hồ Lô cốc, trong lòng bỗng dưng nỗi giận, ông tức thời xô ngã tượng ngay. Nhưng một ý nghĩ thoáng qua: Ông ta đã là người chết mất rồi, và dẫu sao cũng là bạn đồng học, mình cũng nên lạy ông ta một lạy. đoạn kêu binh lính đốt nến thắp hương. Tư Mã Ý bước tới mấy bước, quỳ xuống trước tượng Gia Cát Lượng, lạy mấy lạy. Ai ngờ vừa quỳ xuống thì người ông như mọc rễ dưới đất, muốn đứng dậy cũng đứng không được. Tư Mã Ý hoảng hồn hoảng vía. Chính trong lúc tuyệt vọng ấy, ông ngước nhìn trên cây đà thấy có hàng chữ nhỏ: "Nghĩ tình bạn học, tha mạng cho đó. Hãy bởi bỏ khôi giáp mới có thể đứng dậy được". Tư Mã Ý liền kêu hai đứa con ông phụ giúp ông cởi khôi giáp ra. Bấy giờ mới đứng lên được. Tư Mã Ý cảm thấy lạ kỳ, bèn sai binh lính đào chỗ đất ấy lên xem. Thì ra phía dưới chôn một nam châm cả ngàn cân.
Tư Mã Ý càng nghĩ càng giận, "xoạt" một tiếng đã rút thanh phong ngọc kiếm ra, hầm hầm chặt đứt tay và chân Gia CÁt Lượng, lại lệnh hai đứa con và binh sĩ tiến lên, trước xô ngã đồng tử hai bên, kế đó xô ngã cả tượng Gia Cát Lượng đổ xuống. Tư Mã Ý thấy tượng Gia CÁt Lượng đổ xuống thiếu mất tay chân, ông không khỏi phá lên cười nhạt. Sau đó dẫn hai đứa con tới trước mộ lớn được xây bằng đá xanh bên sau đại điện. Ông nhìn quanh quất trước sau để xem xét một hồi, thấy không dấu vết gì khả nghi, mới hạ lệnh phá cửa mộ ra.
Sau khi mộ bị phá, Tư Mã Ý lại do dự, bởi tánh ông đa nghi, nếu một mình đi vào e bị trúng kế, mà để người khác vào trước thì lại không yên lòng. Ngẫm nghĩ một hồi, ông bảo binh lính đốt đuốc, để đứa con lớn Tư Mã Sư của ông cầm kiếm mở đường đi trước, đứa con nhỏ Tư Mã Chiêu đi sau, còn ông thì đi chính giữa. Cha con ba người tiến vào trong mộ, chân thấp chân cao lần mò đi vào, mắt dáo dác ngó đông ngó tây. Tư Mã Ý lần tới trước quan tài, chợt bắt gặp một chiếc hộp nhỏ. Quá mừng rỡ, ông chộp ngay lấy chiếc hộp và liền ra khỏi cửa mộ. Ông hồi hộp mở hộp ra, thấy ên trong có một gói bao vải vàng, mở vải ra, đúng là bộ kỳ thư của thầy! Tư Mã Ý vừa mừng vừa giận, ông muốn mở sách ra xem ngay bởi lần trước ông đã bị mắc lừa thầy một phen, hôm nay, không thể để trúng kế Gia Cát Lượng được nữa. Ông chợt lóe lên một ý nghĩ, và tự lẩm bẩm:
- Hừ, ta từ phía sau lật tới mà xem vậy.
Nghĩ thế, ông bèn lật từ trang cuối cùng xem ngược trở lại.
Tư Mã Ý có thói quen khi xem sách, ông hay dùng ngón tay thấm nước miếng mà lật, vừa lật vừa xem. Còn chưa lật hết quyển sách thì ông đã cảm thấy đầu óc xây xẩm, trời đất quay cuồng. Ráng cố gắng xem tới trang cuối thì thấy hàng chữ nhỏ: "Sách tẩm thuốc độc, Gia Cát Lượng chết mà còn trị Tư Mã Ý". Tư Mã Ý kinh hồn hoảng vía, hai dòng nước mắt bất giác tuôn trào, ông ngước đầu lên trời than dài. Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu vội vàng chạy đến, chỉ nghe Tư Mã Ý nói trong tiếng khóc:
- Đáng hận Gia Cát Lượng, đã chết rồi mà còn hại ta.
Nói xong, ngã dài trên mặt đất, hai mắt trợn trừng, hơi thở cũng đã tắt.
Ngọa Long Cương
Nói rằng, gia đình Gia Cát Lượng thưỏ trước rất nghèo. Lên mười hai tuổi, ông phải đi chăn trâu cho một nhà giàu.
Ông nhà giàu đối xử với người ở thật tệ bạc. Ngoài việc chăn trâu ra, Gia Cát Lượng còn phải đi đốn củi, nhổ cỏ. Bữa nọ Gia Cát Lượng vác đòn xóc, mang rựa vào núi đốn củi, ông thấy hai đứa trẻ, một đứa mặc áo lam, một đứa mặc áo lục đang đánh nhau. Hai đứa quyền qua cước lại, đánh túi bụi không thôi. Gia Cát Lượng bỏ đòn xóc xuống chạy tới can. Đứa áo lục thừa lúc ông kéo đứa kia liền xoay người phóng tuốt vào rừng mất dạng.
Đứa trẻ áo lam trách ông:
- Chú này, vì sao can thiệp chuyện người ta! Sao chú nắm tay tôi? Bây giờ bắt đền chú đấy!
- Đền cái gì nào?
- Thằng áo lục cướp lấy thiên thư của tôi. Chú thả nó chạy mất, thì chú đền tôi đấy!
Gia Cát Lượng vội khuyên:
- Cậu bớt giận, để tôi đi tìm nó, đòi lại thiên thư trả lại cho cậu.
Đứa trẻ áo lam cười mà nói:
- Thằng áo lục là tinh cây linh lăng, chú đến chỗ sườn núi kia, ngước lên thấy cây linh lăng nào cao nhất, chỗ cháng ba có vết sẹo hồng nho nhỏ. Chú dùng rựa mà chặt vào thì sẽ có người tìm chú nói chuyện.
Gia Cát Lượng bèn đi đến chỗ sườn núi vừa chỉ, trên sườn núi quả có cây linh lăng cao ngất, cành là rợp trời, gốc to sần sùi, dễ có trên vạn năm. Ông giơ rựa định chặt vào vết sẹo hồng nhỏ thì chợt đứa trẻ áo lục hiện ra trước mặt nói:
- Này chú, chú định làm gì vậy?
Gia Cát Lượng nói:
- Xin cậu hãy trả lại thiên thư cho người ta.
Đứa bé áo lục nói:
- Chú bị lừa rồi. Nó đoạt lấy hạt dạ minh châu của tôi trước, tôi mới lấy sách của nó sau. Nó là tinh dây cát đằng, quấn mình tôi mấy ngàn năm nay. Vì sao chú lại nghe lời nó?
Nói xong, bèn giao thiên thư cho Gia Cát Lượng giữ lấy.
Gia Cát Lượng nói với đứa bé áo lục:
- Tôi trách lầm cậu, tôi nhất định phải giúp cậu lấy được dạ minh châu trở về.
Đứa bé áo lục nói:
- Lúc chú trở lại thằng áo lam nhất định sẽ gật đầu cúi lưng niềm nở đón tiếp chú. Bấy giờ, chú chỉ cần vỗ nhẹ lên lưng nó, nó sẽ nhả hạt dạ minh châu ra thôi.
Khi Gia Cát Lượng, trở lại, đứa bé áo lam quả nhiên ra giữa đường tiếp đón ông, và cười tươi cúi mình chào. Gia Cát Lượng mau lẹ vỗ nhẹ lên lưng nó: "bịch" một hạt minh châu sáng ngời đã từ trong miệng cậu ta rơi xuống đất.
Bây giờ, đứa trẻ áo lam và áo lục cùng cất tiếng nói:
- Chú thành thật, chú là người tốt, những vật quý của bọn tôi đều tặng cho chú đấy.
Nói xong liền không thấy đâu nữa. Thì ra, hai đứa bé này đều là tiên đồng trong rừng.
Từ đấy về sau, mỗi khi đêm đến, Gia Cát Lượng đều nhờ ánh sáng dạ minh châu mà nằm trong chuồng trâu đọc thiên thư. Ông say mê đọc đến canh năm mới đi ngủ.
Vào một đêm nọ, lão tài chủ thức dậy đi tiểu, lão thấy trong chuồng trâu sáng ngời ngời, lão ngỡ chuồng trâu phát hỏa liền chạy đến xem. Tới nơi, lão thấy chuồng trâu vẫn im lìm không có việc gì xảy ra cả, liền từ khe hở của bức vách dòm vô, thì thấy Gia Cát Lượng đang đọc sách, mà ở trước mặt có hạt minh châu lớn chiếu sáng ngời.
Lão muốn chiếm đoạt vật quý này, nên làm đơn tố cáo lên huyện nha, nói là Gia Cát Lượng trộm lấy dạ minh châu của lão. Quan huyện đã được hối lộ trước, bèn tới bắt Gia Cát Lượng nhốt về nhà giam.
Ngày rằm tháng giêng năm ấy, bọn lính giữ nhà giam muốn ra đường xem cộ đèn, Gia Cát Lượng nói:
- Mấy cây đèn rồng chiết bằng giấy hồ ấy có gì đáng xem? Để tôi làm một cây đèn rồng sống cho mấy người xem còn đã hơn nhiều!
Bọn lính canh giữ ngục đều muốn xem đèn rồng sống, bèn mang đến rất nhiều tre và giấy. Gia Cát Lượng lui cui làm một con rồng.
Vào ngày mồng hai tháng hai, quan huyện và văn võ quan viên đều ngồi trong sân đá xanh rộng chờ xem tên phạm tội nhỏ bày trò đèn rồng sống. Chiếc đèn rồng của Gia Cát Lượng quả là kỳ lạ, có sừng có móng có vảy, trong miệng nhả mù, trên móng mây bay. Gia Cát Lượng phóng người cỡi lên lưng đèn rồng, hai tay ôm sừng rồng lắc lắc, đèn rồng lập tức ngúc ngoắc đầu, vẫy đuôi, chớp chớp mắt, khiến quan huyện và bọn văn võ quan viên đều khoái trá cười lên ha hả. Bấy giờ rồng bỗng dưng bay lên và mang theo cả Gia Cát Lượng ngồi trên lưng.
Rồng bay một mạch rất xa, mãi cho đến lúc trời sẫm tối mới từ từ đáp xuống ngoại thành Nam Dương, trong đêm tối nó biến thành một gò núi. Gia Cát Lượng ở ẩn trong gò này chăm chỉ đọc thiên thư. Gò núi này người ta gọi là "Ngọa Long Cương".
Gò Dạng Mễ & bờ Cá Nhảy
Gia Cát Lượng bắt được Mạnh Hoạch, hất mặt bảo:
- Ai cũng biết việc không quá ba lần. Ta đã bảy lần bắt bảy lần tha, ngươi còn có gì nói nữa không?
Mạnh Hoạch đáp:
- Đánh giặc thì ta không phải đối thủ của mi, điều đó ta rất phục. Có điều rốt cuộc thì cái thua là về mi chứ không về ta.
Gia Cát Lượng hừ một tiếng, hỏi:
- Con vịt chết còn cạp mỏ kêu to! Mi dựa vào đâu mà huênh hoang đến thế?
Không dè Mạnh Hoạch nói đùa mà có lý:
- Ta đâu có huênh hoang. Ai cũng đều biết: "Binh chưa động, lương thảo phải chực hờ", đại quân mi chẳng lẽ chỉ uống gió tây bắt mà sống! Mi bắt quân viễn chinh, ngàn dặm xa xôi, xe khó đi, thuyền khôn vượt, lương hướng chẳng tiếp tế được thì chẳng bao lâu quân tướng của mi sẽ bị chết đói hết thôi!
Gia Cát Lượng thoạt nghe liền thót người, nhưng ông lập tức trấn tĩnh nói:
- Lương thảo của ta chất thành núi, sao ăn hết được chớ?
- Tai nghe không bằng mắt thấy, hãy cho ta tự thấy đi rồi hãy nói:
- Tốt thôi, để ta cho mi thấy!
Gia Cát Lượng sau khi xử giam ông ta lại rồi, liền ra lệnh ba quân dùng xe đẩy, xe kéo, ngày đêm chở đất, đổ đầy vô số đống như gò núi, đoạn ở trên mặt trải một lớp lương thực, dẫn dụ nhiều chim sẻ tới để xem như thật.
Hôm sau, Gia Cát Lượng tự dẫn Mạnh Hoạch đi xem gò lương. Mạnh Hoạch ở xa xa đã nhìn thấy liền lấy làm ngạc nhiên và tin thật. Những gò đất này, về sau người Tung Minh gọi là "gò Dạng Mễ".
Gia Cát Lượng lại hỏi Mạnh Hoạch:
- Giờ thì ngươi có thể phục rồi chớ?
Mạnh Hoạch nghĩ ngợi một chút, lắc đầu nói:
- Lương thực chỉ có thể no bụng; cá, rượu chưa có thì vẫn chưa đủ.
Quanh đây đều là núi không có sông hồ rộng, họa hoằn mới có những ngòi nước sâu tới thắt lưng thì việc bắt đánh cá xem ra còn khó hơn đào vàng trong cát. Thế này chẳng là quá khó cho người sao? Ai ngờ Gia Cát Lượng đã có chuẩn bị trước, nên ông trả lời ngay:
- Được , được, được, ngươi hãy theo ta đi bắt cá!
Trống ngực Mạnh Họach đánh thình thịch: Hắn quả là siêu phàm, dám có thể sao trên trời hắn cũng hái được. Ta không thể theo hắn bắt cá, mà làm sao cho hắn không cách chi bắt được. Lòng đã nghĩ thế, Mạnh Họach lại ra đề khó:
- Cá mà ta muốn, không thể dùng lưới bắt, lại không thể dùng lưỡi câu mà muốn chúng nó tự dâng đưa đến tay kia.
Gia Cát Lượng tươi cưòi đáp ngay:
- Được , được, được, cứ theo ta đi ngay khắc thấy.
Họ ra cửa bắt Tung Minh, liền thấy một ngòi nước nhỏ chặn bởi một bờ mới xây, khoảng giữa có dựng cửa ván rộng hơn thước. Nước chưa đổ ra cửa ván thành một thác nhỏ vang lên tiếng rào ràn, hai bên thác có hai chiếc máng dốc cắm sâu trong bờ, sóng nước bắn lên không ngừng rẽ làm hai đổ vào ống máng như muốn đổ ngược trở lại. Cá lội từ trên dòng xuống bị chận lại nó nào chịu, bèn tả xung hữu đột tìm đưòng chui vô ống máng. Nước lúc có lúc không, lúc lên lúc xuống khiến cho bọn cá bực mình bèn nhảy bắn lên, rốt cuộc nhảy vô thúng tre hết.
Gia Cát Lượg chỉ hai thúng cá, nói với Mạnh Họach:
- Chỉ cần một đêm thôi, bọn chúng không mời cũng nhảy vô đầy thúng! Ngươi thấy thế nào?
Mạnh Họach không ngờ Gia Cát Lượng thông minh tột bực, quả là thần cơ diệu toán và hết sức khâm phục. Từ đó không dám làm phản nữa. Còn bờ bắt cá này, về sau được gọi là "bờ Cá Nhảy".
Ấp mộ
Nói rằng, mẹ của Từ Thứ thấy con bị Tào Tháo gạt đến Hứa Xương, bà tức giận mắng cho con một trận, rồi thắt cổ lên đà nhà tự vận. Từ Thứ là người con có hiếu nổi tiếng, ông thấy mẹ mất liền vật ngã khóc đến mê man. Sau khi chôn cất mẹ xong, ông vẫn buồn đau không dứt. Tối đến ông cảm thấy trong nhà lạnh lẽo bèn cuốn mền chiếu ra mồ mẹ ngủ. Đêm khuya lạnh chịu hết nổi, ông đốt lửa sưởi ấm, rồi vừa khóc vừa nói:
- Mẹ ơi, hồi mẹ còn sống con không hiếu thuận với mẹ, từ đây về sau con sẽ ở đây với mẹ suốt đời.
Từ Thứ đang khóc, bỗng thấy một bóng đen đến trước mồ, sang sảng nói:
- Từ tiên sinh nói thế là sao? Cho dù khóc thế nào chăng nữa, bà cụ cũng không thể sống lại được, chi bằng đến đầu Lưu hoàng thức để báo cừu còn hơn!
Từ Thứ giật mình ngước nhìn lên, thấy một bóng người cao lớn, đầu đội nón cỏ rách lưng xoay về phía đống lửa.
Đầu óc Từ Thứ chuyển một vòng, đoạn hỏi bóng đen:
- Ngươi là ai? Tại sao tới đây nói càn dở, hãy theo ta đi gặp Tào Thừa tướng!
Bóng đen cười hắc hắc, và quay người đi mất dạng.
Tối hôm sau, Từ Thứ cũng cuốn mền chiếu ra mồ ngủ, vừa đốt lửa xong thì bóng đen lớn ấy lại xuất hiện. Hắn tới bên đống lửa, lột chiếc nón rách che mặt ra, mặt đối ánh lửa. Từ Thứ vừa thấy liền ngẩn người. Thì ra bóng đen ấy không ai khác chính là Trương Phi! Trương Phi cười hì hì bước tới thi lễ:
- Từ tiên sinh ngạc nhiên lắm phải không! Tôi phụng mệnh đại ca. Tới Hứa Xương mời tiên sinh đây.
Trong lòng Từ Thứ xốn xang, những hạt nước mắt rỏ xuống. Ông bước tới nắm lấy tay Trương Phi nói:
- Trương tướng quân, ông vất vả quá! Nhờ tướng quân nói lại với Lưu hoàng thúc: Từ khi bà cụ qua đời, tôi đã tro lạnh tấm lòng, quyết ở bên phần mộ suốt đời, không cách chi góp công khuyển mã.
Trương Phi không chịu, cứ dằng dai mãi, khiến Từ Thứ vô phương, chỉ còn cách chối từ:
- Thôi thì để tôi giữ mộ ba năm rồi sẽ tính sau.
Trương Phi nói: - Không.
Từ thứ nói: - Một năm.
Trương Phi vẫn nói: - Không.
Từ Thứ hết biết, bèn xuống giọng: - Ít nhất cũng ba tháng!
Trương Phi nói: - Tối đa không quá ba ngày!
Từ Thứ tìm cách tránh né, nói: - Vậy ngày mai sẽ trả lời!
Từ Thứ đã có một ý, một lòng giữ mồ ấp mả. Ngày thứ ba, ông đang ở trước mộ phần mẹ dựng một lều cỏ, lòng nghĩ Trương Phi mà thấy lều này chắc sẽ nản lòng. Ai ngờ tối đến, Từ Thứ vừa định chui vô lều ngủ thì bỗng lều cỏ phát hỏa, trong khoảng khắc chiếc lều đã cháy thành tro than. Từ Thứ đang lấy làm lạ thì Trương Phi ha hả cười lớn bước tới nắm tay Từ Thứ nói:
- Từ tiên sinh, mồi lửa của tôi đủ để mộ phần bà cụ ấm rồi, hẳn bà cụ đã yên lòng nhắm mắt. Giờ thi hãy theo tôi!
Từ Thứ vì tấm lòng thành của Trương Phi mà cảm động và cũng dốc hết đáy lòng nói với ông:
- Trương tướng quân ôi, nói thiệt với ông, Từ Thứ tôi phiêu bạt giang hồ, học nghệ không thành. Theo hoàng thúc nửa đường mà bỏ là bất trung, đối với mẹ chưa hết lòng phụng dưỡng là bất hiếu. Thêm vào đó là không phân biệt chân ngụy, bỏ sáng theo tối, tự mang danh ác. Người bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất trí như tôi lại xuất đầu lộ diện chỉ làm trò cười cho thiên hạ lại càng làm nhục cho anh danh Hoàng thúc. Tôi đã thề không thiết kế chi cho Tào tặc, mong tướng quân sớm rời khỏi đất thị phi này
Trương Phi thấy Từ Thứ rắn lòng, liền ngay trong đêm trở về Tân Dã.
Sau khi trời sáng, Tào Tháo cho vời Từ Thứ tới, hỏi:
- Nghe nói hồi hôm, mộ phần của lệnh đường phát hỏa, không biết vì nguyên nhân gì vậy?
Từ Thứ giật mình, nhưng vội bình tĩnh đáp:
- Gia mẫu qua đời, tôi thật xót xa, nửa đêm sợ người cô đơn lạnh lẽo, thành thử đêm đêm tôi đến mộ phần đối lửa cho ấm, tới tối hôm qua là đã đủ ba ngày.
Tào Tháo thường nghe mọi người ca ngợi Từ Thứ hiếu thảo, giờ lại nghe thấy này, bèn bảo thủ hạ văn võ nên học theo Từ Thứ. Về sau, người ta không rõ lý do bèn bắt chước Từ Thứ, nhà ai có người chết bèn đốt lửa sưởi ấm mộ phần ba ngày liền. Tập tục này chính phát xuất từ đây.
Tửu điếm khoái đãi Quan Công
Trước kia, các tửu điếm ở Hồ Bắc đều thích đãi quan Công. Vì sao tửu điếm kính trọng Quan Vân Trường đến thế?
Quan Vân Trường vốn là người Sơn Tây, thuở nhỏ làm nghề bán đậu hũ, ông có người bạn láng giềng tên Vương Tam chuyên nghề nấu rượu, hai người rất thân tình, thường đi buôn bán chung. Về sau, Quan Vân Trường theo Lưu Bị làm đại tướng, trấn thủ Kinh Châu. Còn Vương Tam thì vận số không may, tai bay họa gió liên miên, phải bỏ xứ ra đi. Ông cũng rất khó đến Kinh Châu để gặp Quan Công. Quan Công biết tinh có giúp đỡ ông một số tiền để làm vốn, ông bèn đến một trấn gần Kinh Châu, mở một quán rượu sống lại với nghề cũ. Ở đây, Vương Tam được cụ già tửu điếm Hạnh Hoa Thôn truyền cho nghề nấu rượu. Rượu của ông hương vị đặc biệt mà giá lại rẻ, thành thử quán lúc nào cũng tấp nập. Không đầy mấy năm, rượu của ông đã nổi tiếng. Vương Tam lại mở rộng nhà cửa và cưới vợ đem về; vợ chồng sống một cuộc sống rất thoải mái và hạnh phúc.
Một hôm, Vương Tam đi vắng, chợt có một bọn người tiến vô quán, bắt người nhà Vương Tam đánh một trận tơi bời, lại còn cướp đi hết sạch tiền bạc của cải.
Khi Vương Tam về, ông liền làm đơn thưa lên quan phủ, và lên cả thành Kinh Châu tìm Quan Vân Trường. Mấy ngày sau, khi ông vừa trở về thì quan phủ địa phương sai nha dịch tới bắt trói ông lại, ngay vợ ông và những gia đinh cũng đều bị bắt đi. Ở trên cửa quán của ông còn dán tờ cáo thị niêm phong.
Thì ra tên cầm đầu bọn tới đánh cướp nhà Vương Tam họ Lý, tên Quang Tổ, là một ác bá luôn cấu kết với bọn quyền quý địa phương, xem thường huyện quan. Nhà hắn cũng chuyên nghề nấu rượu. Thấy Vương Tam xen vào cuộc làm ăn của hắn, làm hắn mất khách hàng, nên hắn thuê một số côn đồ đến tửu điếm Vương Tam đánh đập cướp phá. Hắn nghe nói quan phủ đã bắt Vương Tam và ngày mai sẽ xử chém, nên chẳng khỏi vui mừng, bèn rủ rê đám côn đồ làm tiệc ăn mừng, lại còn hẹn ngày mai sẽ tới pháp trường để chính mắt thấy Quan Vân Trường xử Vương Tam.
Hôm sau, Lý Quang Tổ và đám côn đồ gật gù xiêu vẹo đến pháp trường. Vương Tam bị trói đang bị áp giải ra. Người đến xem náo nhiệt kẻ chen người lấn; Lý Quang Tổ và đám côn đồ cũng càn vô đám đông, muốn xem cho kỳ được cái đầu của Vương Tam rơi xuống đất. Ai ngờ lúc nầy, ở sau có mấy mươi binh sĩ, tóm gọn bọn chúng. Thì ra bọn người tới bắt Vương Tam và gia đình ông dẫn đi đó là do kế sách của Quan Vân Trường nghĩ ra. Hôm sau, ông kêu những gia đinh bị bắt, giả dạng làm binh sĩ trà trộn vô pháp trường ngầm tìm ra hung phạm. Quả không ngoài dự tính, bọn người Lý Quan Tổ đến xem xử chém đều bị nhận diện và bị bắt về qui án. Qua cuộc thẩm vấn điều tra thì án tình đã rõ, Quan Vân Trường sai đem bọn chúng giết hết.
Vợ chồng Vương Tam và gia đinh mừng rỡ trở về nhà làm tiệc lớn đãi đằng, lại còn mời những bạn đồng nghiệp xa gần tới dự, rồi truyền lại cho họ kỹ thuật nấu rượu ngon. Vương Tam nói, tiệc này là báo đáp ơn giúp đỡ của Quan Vân Trường. Các quán rượu ở Kinh Châu từ khi học được phương pháp bí truyền về nghề nấu rượu của Vương Tam, việc làm ăn càng ngày càng khấm khá hơn, nên họ rất sung sướng được khoản đãi Quan Công.
Lỗ Túc làm mai
Truyền thuyết Lỗ Túc và Kiều Huyền là thân thích. Một hôm, Lỗ Túc đến thăm Kiều Huyền. Ông hớn hở nói với Kiều Huyền rằng, không bao lâu nữa sẽ có người tới mời ông ta xuống núi. Kiều Huyền hỏi ai, Lỗ Túc bảo là Ngô hầu Tôn Kiên sẽ tới mời ông, vì Tôn Kiên mấy lần bị bại binh, trong quân hết lương từng tới nhà Lỗ Túc xin được giúp đỡ, và ông đã giúp hơn mười vạn gánh quân lương để ông ta qua cơn ngặt nghèo, cho nên nghĩ rằng Tôn Kiên sẽ tới mời ông ra tham chinh. Kiều Huyền nghe qua, liền khoát tay nói:
- Thế là hỏng bét, chú nghĩ như vậy là nhầm rồi!
Lỗ Túc không tin, muốn Kiều Huyền nói rõ lý do, Kiều Huyền bảo:
- Nay giềng mối triều đình rối ren, gian thần lộng quyền mua quan bán tước, bá tánh đều than: "Chọn tú tài không biết đọc, bổ hiếu liêm toàn người ngốc, quan tướng chực hờ đâm thọc". Tôn Kiên là vị anh hùng, chọn tài cử hiền chấn hưng Đông Ngô, mục đích làm bá chủ thiên hạ. Nếu vì mấy hộc lương thảo của chú mà không hỏi hiền ngu , bổ chú làm quan thì ông ta ccũng chẳng qua là hôn quân thôi; vả lại chú "dâng hương cầu quan" thì có khác chi những kẻ "dùng tiền mua chức". Chú là người có tài sao lạic ó tư tưởng như thế?
Nghe Kiều Huyền nói, Lỗ Túc như trong mộng vừa tỉnh lại, lòng nghĩ: quả là người trong cuộc mù quáng, hèn chi đã lâu rồi mà chưa thấy Tôn Kiên tới? Kiều Huyền thấy Lỗ Túc im lặng kô nói, mới tiếp:
- Tử Kính, nếu chú muốn làm được việc ấy cũng kô khó. Tôi có việc này đây, nếu chú hoàn thành xong thì Ngô hầu sẽ dùng chú thôi.
Lỗ Túc vội hỏi việc chi, Kiều Huyền bèn nói ra chuyện anh hùng sánh mỹ nhân; năm ấy ông hứa gả Đại Kiều, Tiểu Kiều cho Tôn Sách và Chu Du, nay hai người đều là tướng quân của Đông Ngô, anh hùng tiếng tăm bốn biển , những mãi đến giờ vẫn chưa tới bàn việc cưới gả, và đấy là điều lo của hai đứa con gái cưng của ông ta! Hay là Tôn Kiên cho rằng con gái nhà họ Kiều ông với không tới họ nữa? Lỗ Túc nghe xong, liền mỉm cười bằng lòng làm việc này!
Hôm sau, Lỗ Túc dẫn nhị Kiều đến Kiến Nghiệp. Sau khi lo nơi ăn chốn ở cho họ xong, ông bèn đến gặp Tôn Kiên.
Lại nói, sau khi Tôn Kiên trở về Kiến Nghiệp, ông rất cảm kích tấm lòng của Lỗ Túc giúp đỡ ông. Các mưu sĩ muốn Tôn Kiên ban cho Lỗ Túc chút quan chức gọi là thù tạ, nhưng Tôn Kiên sợ Lỗ Túc là một thư sinh khó phó thác việc lớn, nên chưa bằng lòng. Nay nghe nói Lỗ Túc tới xin ra mắt, ông suy nghĩ giây lát, bèn dặn dò thủ hạ: ra hỏi ông ta tới đây vì việc gì, nếu là tới đòi nợ thì hẹn mùa thu tới sẽ trả! Lát sau, bọn thủ hạ trở vào thưa:
- Lỗ túc tiên sinh tới đây là vì việc mai mối cho đại công tử!
Tôn Kiên thoạt nghe liền hớn hở vui mừng.
Thì ra năm ấy, thầy của Tôn Sách thay mặt định cưới Đại Kiều cho ông. Nhưng Tôn Kiên thấy Kiều Huyền muốn gả con gái mà không chịu định ngày, ngỡ là Kiều Huyền xem thường nên đâm ra giận. Đợi đến khi thầy của Tôn Sách mất thì Tôn Kiên hối hôn, nhưng Tôn Sách không bằng lòng theo ý cha, và việc cưới gả này đến nay vẫn chưa thành.
Do đó, Tôn Kiên tự ra mời Lỗ Túc và khách sảnh để bàn chuyện. Lỗ Túc nói ông tới đây vì việc mai mốt để đại công tử yên bề gia thất. Tôn Kiên nghe mà mừng rỡ, bèn kêu bà vợ vô nội phủ xem mặt cô dâu. Vợ ông và mọi người sau khi nhìn qua đều nức lời khen cô dâu phong tư diễm lệ, thoát tục phi phàm, và rất tán thành cuộc hôn nhân này. Tôn Kiên càng mừng hơn, bèn định ngày cưới. Nhưng Tôn Sách lại giả bệnh kô thấy đâu, điều này khiến Tôn Kiên thật khó xử.
Lỗ Túc thấy Tôn Kiên không còn cách chi thuyết phục Tôn Sách, bèn mỉm cười nói:
- Để tôi khuyên lơn đại công tử thử xem!
Tôn Kiên vui mừng cám ơn ông rối rít.
Lỗ Túc tìm tới Tôn Sách. Tôn Sách nằm dài trên giường không dòm dõ gì tới ông Lỗ Túc lại mỉm cười, móc lấy túi gấm để trên bàn, nói:
- Tôi từ quận Lô Giang mang tới cho công tử món quà này, công tử hãy tự mở ra mà xem. Tử Kính tôi xin cáo từ.
Nói xong, ông vòng tay bỏ đi. Điều này khiến Tôn Sách giận run. Ông vội ngồi dậy mở chiếc túi ra xem. Thì ra bên trong là chiếc khăn lụa mỏng, bên trên có thêu bài thơ:
Tôn lang nhất khứ nhận tâm kiều,
Khổ liễu Lô Giang si tình nữ,
Tú phang thủ phách cầu thiên tương,
Hoành lai tư lai thụ dã tư.
(Tôn lang một đi lòng người héo hắt. Để khổ cô gái Lô Giang si tình, Thêu chiếc khăn tay mong chàng đoái nghĩ, Dẫu sao chúng mình cũng chẳng thay lòng).
Bên dưới có thêu bốn chữ triện Tôn lang tại tâm. Tôn Sách đọc đi đọc lại mấy lần mới thấy ở mỗi chữ cuối câu, nếu kết lại chính là "Kiều nữ tương tư". Lời cuối chính là lời mà Đại Kiều và mình nói lúc giã biệt. Lúc này Tôn Sách mới rõ cô gái mà Lỗ Túc mai mối, chính là vị hôn thê Đại Kiều của mình, bèn lòng vui rộn rã, lập tức sửa áo đuổi theo Lỗ Túc, cúi đầu bái lạy, nói:
- Cám ơn tiên sinh vì tôi mà đường xa tới đây, việc này, vạn vọng tiên sinh ngọc thành.
Lỗ Túc đỡ Tôn Sách dậy, nói:
- Khỏi phải cám ơn, tôi vì mối tình si của Đại Kiều , cũng không muốn Ngô hầu làm việc sai trái, cho nên mới nghĩ ra kế sách này. Công tử hãy yên lòng làm chàng rể đi!
Tôn Sách thấp thỏm lo cha biết được sự thật thì sẽ sanh rắc rối. Lỗ Túc nói:
- Với ba tấc lưỡi của Tử Kính tôi, nhất định Ngô hầu bằng lòng thôi, Tôn lang cứ yên lòng.
Tôn Kiên nghe nói con đã bằng lòng, ông rất bội phục tài Lỗ Túc, tức thời truyền lệnh treo đèn kết hoa sửa soạn đám cưới cho Tôn Sách.
Sáng hôm sau, Lỗ Túc một mình tới gặp Tôn Kiên. Vừa gặp mặt, ông liền nói cô gái ấy chính là Đại Kiều con gái của Kiều Huyền.
Tôn Kiên vừa nghe liền đùng đùng nổi giận, ông đập bàn hét:
- Cả gan cho Lỗ Túc, dám ỷ công giúp lương mà đùa cợt bản hầu. Tôn mỗ há dễ tha mi!
Lời vứa dứt: "xoẹt" một tiếng, đao đã rút ra khỏi vỏ. Lỗ Túc mặt không đổi sắc, mỉm cười nói:
- Xin bớt giận, sở dĩ tôi làm như vậy là vì Ngô hầu đó thôi!
Tôn Kiên vẫn chưa hết tức:
- Lão Kiều Huyền xem nhẹ ta quá, con gái của hắn mà muốn sánh với con trai hùm của ta ư! Mi tiếp tay hắn hử? Rõ ràng làm nhục ta, sao bảo là vì ta chứ?
Lỗ Túc ung dung nói:
- Người xưa nói "nhân vô tín bất lập; quân vô tín diệt quốc". Tôi lấy cái đẹp của người con gái động lòng người mẹ, lấy cái trinh của Đại Kiều cảm mến người con. Hoàn thành việc tốt, một là thành toàn túc nguyện của đôi gái, khiến cha con ngài một lòng, hai là vì đại công tử kết tình anh em cột chèo, khiến Chu Du tướng quân càng trung với Đông Ngô; ba là ngăn cản Ngô hầu không phạm sai lầm lớn của người ở địa vị cao bội ước, bảo toàn danh tiếng cho ngài, khiến ngài thủ tín với dân. Thế chẳng là cái may cho họ Tôn ngài sao? Cái may cho Ngô quân sao? Tử Kính tôi thấy ngài anh kiệt đương thời mới không tiếc lương, lấy hết sức mình để lo cho ngài, ngài chẳng những không phân trắng đen, đằng này còn muốn giết tôi.
Những lời vàng đá đã dứt mà âm thanh con văng vẳng, khiến Tôn Kiên lom mắt nghẹn lời, một hồi lâu mới buông tiếng:
- Tử Kính thứ lỗi cho tôi!
Vừa nói vừa rời chỗ ngồi, bước tới cầm tay Lỗ Túc vô vàn cảm khái nói:
- Mong Tử Kính ở lại Kiến Nghiệp để thường xuyên khuyên bảo tôi, chỉ rõ cho tôi con đường mê, Tôn mỗ rất may, Ngô quận rất may!
Bấy giờ Lỗ Túc mới ở lại thọ nhậm quan chức, rồi theo ý của Lỗ Túc, do Tôn Kiên chủ hôn, lại tổ chức lễ cưới cho Chu Du và Tiểu Kiều.
Trương Phi cầu gió đông
Lịch sử có trận chiến Xích Bích nổi tiếng, nói là Chu Du mượn gió đông của Khổng Minh hỏa thiêu chiến thuyền của Tào Tháo, thực ra, trận gió đông ấy không phải của Gia Cát Lượng cầu, mà là Trương Phi, nhờ có viên đá phong vũ mà dự tính ra, cho nên phải nói là Trương Phi cầu gió đông.
Trước chiều đại chiến Xích Bích, Lưu Bị sợ Đông Ngô tiến công, bèn hạ thư liên minh với Tôn Quyền, chung sức đối phó với Tào Tháo. Tào Tháo suất lĩnh mấy mươn vạn đại quân, đưa chiến thuyền liên hoàn rẽ sóng thẳng tới thủy giới Đông Ngô. Chu Du nghe theo kế hoạch của Bàng Thống, quyết định hỏa công thuyền Tào, nhưng mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng chỉ còn thiếu gió đông. Chu Du gởi Lưu Bị một lá thư, nói:
- Gia Cát quân sư pháp lực vô biên, nhờ ông ta giúp tôi mượn gió đông. Nếu không thì xe đi đường xe, ngựa đi đường ngựa, chẳng ai dính dáng gì tới ai!
Lưu Bị chỉ còn cách phái Khổng Minh sang Đông Ngô trước. Nói ra cũng lạ, hôm ấy mây bủa đen nghịt, sao trời mờ mịt. Gia Cát Lượng quan sát, nhưng có gió hay không chưa quyết định được. Ông sợ sơ sẩy nên gửi cho Lưu Bị một bức thư. Lưu Bị xem thư xong toát mồ hôi lạnh, nôn nóng đi tới đi lui. Lúc này, ông chợt nhớ tới cái năm ở Hứa Xương, Trương Phi biết xem thiên văn, liền tức tối mời Trương Phi tới. Trương Phi hỏi:
- Đêm khuya kêu tôi tới đây có chuyện chi chăng?
Lưu Bị đem chuyện Đông Ngô kêu Khổng Minh cầu gió đông nói lại. Trương Phi sớm đã có ý sẵn, bèn cười mà nói:
- Chuyện này có khó gì, để tôi đi giúp nhân sư, nhất định sẽ cầu gió đông được thôi, xin đại ca hãy yên lòng.
Trương Phi ngồi thuyền nhỏ tới núi Nam Bình và lên thất tinh đàn, chỉ thấy Khổng Minh chau mày ủ mặt bước tới bước lui trên đàn. Trương Phi nói:
- Quân sư khỏi phải buồn, nguyên soái kêu tôi tới giúp ông cầu gió đông đây.
Khổng Minh thoạt nghe nói là Lưu Bị phái Trương Phi tới thay mình cầu gió đông, bất giác nhoẻn cười nghĩ : "Không biết cái ông Trương Phi dữ dằn này cũng học biết xem thiên văn hồi nào". Lời này tuy Khổng Minh chưa thốt ra miệng, nhưng Trương Phi sớm đã nhận thấy. Trương Phi mở đầu, nói:
- Quân sư, Trương Phi tôi là kẻ hồ đồ, còn ông thì quá chừng mực. Tuy tôi không hiểu thiên văn, nhưng tôi có được vật quí này, có thể dự đoán được thời tiết hết sức linh nghiệm. Tôi đã thử rồi, ông hãy báo với Chu lang đi, tối mai sẽ có gió đông nam thổi mạnh.
Trương Phi nói xong, bèn lấy viên đá phong vũ đưa ra, để trước mặt Khổng Minh, đoạn đem cách thức quan sát chỉ vẽ một hồi. Khổng Minh nghe mà nửa tin nửa ngờ, nói:
- Trương tướng quân, chuyện này không đùa được đâu! Ông có dám chắc hay không?
Trương Phi vỗ ngực nói:
- Tôi dám đem cái đầu tôi bảo đảm!
Trương Phi cam đoan thế, Khổng Minh mới an tâm đi báo với Chu Du, nói đêm mai sẽ có gió đông nam thổi mạnh. Chu Du tiếp được tin báo liền mừng rỡ như bay được lên trời, ngay trong đêm liền hạ chiếu thư cho Tào Tháo. Quả nhiên, Tào Tháo đã bị đánh tơi bời. Đông Ngô cảm kích Khổng Minh, Khổng Minh cảm kích Trương Phi. Bấy giờ Khổng Minh mới thổ lộ lời thật: Cái danh dự cầu gió đông thì tôi được, nhưng thực tế lại là do Trương Phi cầu.
Bãi Anh Vũ
Ở Hán Dương có bãi Anh Vũ, vùng đất không rộng lắm nhưng rất nổi tiếng. Từ xưa đến nay không biết có bao nhiêu thơ văn nói về nó, kkô biết có bao nhiêu bức họa vẽ về nó. Bãi cát này vì sao có tên Anh Vũ, vì sao nổi danh đến thế này? Có đoạn truyền thuyết sau đây:
Nói rằng, vào cuối năm triều Hán có một tài tử tên Nễ Hành, bấy giờ ông đang làm việc dưới tay Tào Tháo. Ông chẳng những là người có học vấn mà còn có danh khí, thẳng thắn, trời không sợ đất cũng không sợ. Câu đùa cợt "Gióng trống mắng Tào" chính là của ông nói. Tào Tháo tức cái là chưa chém được đầu Nễ Hành vì sợ bị người dèm xiểm. Ông bèn tiến cử Nễ Hành đến làm quan dưới tay Lưu Biểu ở Kinh Châu, định mượn Lưu Biểu giết ông. Lưu Biểu đâu dễ mắc bẫy này, ông lại tiến cử Nễ Hành đến đầu Thái thú Hoàng Tổ ở Giang Hạ.
Hoàng Tổ là người lòng dạ hẹp hòi, nổi tiếng giết người như bỡn. Ông càng không dung được Nễ Hành nên không để Nễ Hành làm quan, mà chỉ miễn cưỡng cho Nễ Hành có chén cơm qua ngày, và muốn tìm cơ hội đuổi Nễ Hành đi.
Mùa hạ năm nay, Hoàng Tổ thết yến đãi khách, bàn tiệc được bày trên bãi cát gần bờ sông. Giữa tiệc, khách đều hăm hở giành mời rượu Hoàng Tổ trước, và chúc tụng ông với những lời thật cung kính, chỉ riêng Nễ Hành là không mời không chúc chi cả.
Hoàng Tổ thấy ngứa mắt, trong lòng đã bốc lửa giận: Nễ Hành mi ngạo mạn ư! Ta sẽ có cách trị mi!
Lúc này có người đem tặng cho Hoàng Tổ một con chim anh vũ , còn ân cần nói:
- Chim anh vũ này thông minh lanh lợi lắm, nó có thể biết nói. Nếu lấy nó làm đề tài mà viết một bài phú thì càng trợ tửu hứng cho Thái thú.
Lại xoay qua Nễ Hành, tiếp:
- Mọi người đều nói ông là tài tử hiếm có trong thiên hạ, ông có thể trước mặt mọi người múa bút được chăng?
Hoàng Tổ đang muốn tìm cơ hội trị tội Nễ Hành, bèn cố ý lắc đầu, nói khích:
- Nói sao dễ quá, sợ e thiên hạ không ai nhanh đến thế, ai mà có tài đến thế được!
Nễ Hành, một là trong lòng không phục, hai là cũng muốn thừa cơ hội này trút ra nỗi oán hận trong lòng, bèn nói:
- Điều này có gì là khó đâu? Trong vòng bữa tiệc có thể làm xong!
- Nếu như không xong thì sao?
- Thì dùng cái đầu này nộp quyển!
Nễ Hành dứt lời liền cầm bút viết nhanh như gió, mau như mưa, một hơi đã viết xong bài "phú Anh Vũ". Mọi người đều ngạc nhiên luôn mồm khen không ngớt.
Hoàng Tổ cầm bài "phú Anh Vũ" xem, quả nhiên từng chữ từng câu như châu ngọc làm động lòng người, nên chẳng khỏi thầm khen hay. Nhưng để ý kỹ thì ông ta đem chim anh vũ nói thành chim thần, tài hoa tuyệt vời mà lại bị nhốt trong lồng sống chịu tội. Như thế chẳng là rõ ràng oán trách mình ém tài ông ta sao? Hoàng Tổ cảm thấy trong từng chữ từng câu đều là châm chích mình, nên chẳng khỏi bốc lửa giận, lập tức bảo người lôi Nễ Hành ra bãi cát Hán Dương giết chết.
Người đời sau hết sức thương tiếc Nễ Hành, nên gọi bãi cát này là bãi Anh Vũ.
Tôn Quyền trồng dưa
Có lần, Tôn Quyền dẫn tùy tùng của ông đi xem xét đất Thủy Quân Doanh. Tới ngoại ô mé tây nam, ông thấy ruộng nương cò bay thẳng cánh, lúa nấp xanh rờn, cải hoa vàng hực, gà bay chó sủa, trâu đang gặm cỏ, nông dân thì đang vận trồng dưa, trồng hoa màu. Trong lòng ông đang không vui bèn tới trò chuyện với họ. Ông hỏi:
- Ruộng đất ở đây nhiều thế này, vì sao còn phải trồng dưa trồng hoa màu làm gì?
Nông dân đáp:
- Lúc trúng mùa không quên lúc đói, dưa và hoa màu có thể hơn nửa năm lương thực đấy!
- Dưa và hoa màu mà hơn nửa năm lương thực ư!
Tôn Quyền cảm thấy có lý. Việc này rất tốt cho việc dưỡng quân đánh giặc. Ông bèn ở bên một đầm rộng học cách trồng dưa hoàng kim. Ông canh tác đất trồng dưa, tưới nước bón phân, còn làm giàn để cho dưa bò. Nói cũng lạ, dưa của ông trồng dây nào cũng sai, kô dây nào dưới năm bảy trái, vỏ mỏng, cơm dầy, sản lượng cao gấp rưỡi. Từ đó về sau nó trở thành đặc sản của đất này.
Một hôm, Trương Phi muốn gặp Tôn Quyền. Ông từ thành Ngô Vương tìm đến cung Tị Thử, từ núi Ngô Vương tìm đến Phàn Khẩu, ai cũng đều nói Tôn Quyền bận đi trồng dưa. Trương Phi không tin, ngỡ là ông kiếm cớ để đóng cửa nhậu nhẹt, bèn bực tức la lối om sòm. Ông cỡi ngựa tới bên một ngòi nước nọ, thấy bên ngòi nước có đám người quây quần, kẻ gồng người gánh, lại có kẻ đẩy xe, trên xe trên gánh chất đầy quả gì tròn tròn giống dưa gang mà không phải dưa gang. Trương Phi hỏi là quả gì thì người ta bảo là dưa hoàng kim của Ngô Vương trồng, lại còn cả dưa hất, dưa leo nữa. Trương Phi nửa tin nửa ngờ, ông đưa mắt dòm ra xa, quả nhiên thấy có nhiều giàn dưa, trên giàn lủng lẳng những quả dưa vàng hực, mỗi dây ít nhất cũng năm bảy quả. Lại thấy một lão nông dân đội nón lá, mình mặc chiếc áo lấm lem bùn, chân mang giày cỏ, bên tai tòn ten mang dây dưa còn cả lá. Trương Phi nghĩ: Những quả dưa hoàng kim tốt tươi này hẳn là do lão nông này trồng. Tôn Quyền chuyện quốc gia đại sự còn lo chưa xuể thì công đâu tới đây trồng dưa nữa chớ? Hừ, ông ta lấy không làm có để phỉnh gạt bá tánh sao? Lại còn hại lão Trương ta lặn lội tìm tới đây. Thật đáng giận! Và rồi ông quát lên một tiếng lớn, hươ mâu đập mấy trái dưa. Bây giờ, lão nông mới cất tiếng nói:
- Tam tướng quân, đánh chó cũng nên kiêng mặt chủ nhà chớ, xin nương tay cho, đừng đánh bể hết những trái dưa của tôi trồng!
Trương Phi vừa thấy Tôn Quyền, biết là mình nghĩ lầm, chỉ còn cách xin lỗi.
Người đời sau gọi mảnh đất nơi Tôn Quyền trồng dưa là đất Qua Kỳ, đầm mà Tôn Quyền lấy nước tưới dưa là đầm Qua Kỳ. Gọi ngòi nước Trương Phi gặp mọi người chở dưa về nhà là ngòi Chở Dưa, sau này còn kêu là ngòi Tống Gia. Lại còn có truyền thuyết nói dưa gang mà Tôn Quyền trồng được đều đem dâng cho Hán Hiến Đế hết, cho nên về sau vùng đất này không còn giống dưa gang.
Tôn Sách bái sư
Nhà Chu Du ở Thư Thành. Cuối đời Hán, thế nước đại loạn, Ngô hầu Tôn Kiên đem gia đình đưa về Thư Thành tránh loạn. Hai nhà Tôn, Chu lại ở khít vách nhau.
Hai trẻ Tôn Sách, Chu Du mỗi ngày ra cửa gặp mặt, vừa thấy nhau là rủ chơi với nhau, lớn lên đã trở thành bạn sanh tử chi giao. Hai người cùng tuổi, Tôn Sách chỉ lớn hơn Chu Du hai tháng. Cả hai đều khôi ngô tuấn tú, dáng vẻ đường đường. Nhà họ Chu mời một ông thầy văn võ song toàn về dạy cho Chu Du, Chu Du rất tôn kính thầy. Nhà họ Tôn cũng mời một vị thầy cho Tôn Sách, nhưng do bởi tánh khí Tôn Sách nóng nảy lại kiêu ngạo, nên mời tới thầy nào thì Tôn Sách đuổi đi thầy nấy, riết rồi có mời cũng kô ai dám tới.
Một hôm, Chu Du hỏi Tôn Sách, vì sao anh đuổi hết thầy này đến thầy nọ đi vậy. Tôn Sách ngạo mạn bảo:
- Họ đều là kẻ vô danh có tài năng chi đâu.
Lại nói Chu Du vì sao không đuổi thầy, Chu Du nói:
- Thầy tôi giỏi lắm, tôi rất kính ổng.
Tôn Sách không tin, muốn chạm mặt thử, bèn hỏi:
- Tôi muốn theo ông thầy giỏi của anh học được không?
Chu Du gật đàu bằng lòng, bèn dẫn Tôn Sách tới gặp thầy.
Ông thầy ngắm Tôn Sách một hồi, đoạn lạnh nhạt nói:
- Tôi tài không cao, mà tánh thì lạ, chỉ nhận một trò thôi, không thu thêm người thứ hai.
Tôn Sách thoạt nghe, trong lòng đã nổi xung song mới lần đầu tới cửa chưa rõ ngọn ngành , nên dằn lòng nói:
- Thế thì con theo bên thầy làm thư đồng nhé!
Một hôm, thầy dẫn hai người tản bộ đi chơi, tới đầu thôn thấy có cây hồng quân trái chín sai oằn. Thầy bảo:
- Này, không được leo!
Tôn Sách quày người chạy trở lại, vừa chạy vừa nói:
- Vậy để con đi tìm cây sào chọc nó!
Thầy lại bảo:
- Khỏi mắc công tìm sào!
Tôn Sách thấy trái trên cành cách đầu mình ít nhất cũng hai cánh tay, dù có nhảy lên cũng không hái tới. Đứng ngẫm nghĩ một hồi, Tôn Sách không tìm ra cách chi nên thẹn đỏ mặt.Thầy xoay qua Chu Du, hỏi:
- Con có cách chi không?
Chu Du cung kính đáp: - Dạ có.
Nói đoạn, Chu Du cởi dây thắt lưng ném ra, dây thắt lưng mắc trên cành. Chu Du một tay nắm đầu dây kéo ghì cành xuống, một tay với hái trái đem đến cho thầy. Thầy tươi cười, theo đó nói:
- Thấy chưa? Đây kêu là "thầy dẫn cửa, tu hành do mỗi người". Tôn Kiên cha của con văn võ toàn tài, thân làm Ngô hầu mà chưa hề nghe nói ông chê sư phụ của ông bao giờ!
Tôn Sách nghe vậy, vội cúi người thi lễ, nói:
- Thưa thầy, con hiểu rồi, xin thầy thu con làm đồ đệ!
Thầy thấy Tôn Sách tỉnh ngộ, nên bằng lòng thu nhận, lại cho Tôn Sách và Chu Du kết bái làm huynh đệ.
Thầy vui vẻ bảo:
- Tôn lang, Chu lang, nay hai con là anh em kết nghĩa, cũng là anh em một thầy tình như thủ túc. Từ nay phải chuyên học văn võ, sau này giúp đỡ lẫn nhau, vì nước nhà mà ra sức
.Định thân Nhị Kiều
Kiều Huyền người quận Lô Giang có hai cô con gái tên Đại Kiều và Tiểu Kiều. Hai chị em đều là người có học và biết lễ nghĩa, xinh đẹp như hai đoá hoa tươi; còn có cái lạ là hai chị em chưa hề biết dùng son phấn, song khuôn mặt cứ như là hoa đào, nước rửa mặt hai nàng dùng qua cũng trở nên màu hồng phấn, cho nên xa gần đều nghe tiếng.
Năm đó, Tôn Sách, Chu Du đều mười tám tuổi, việc học văn đã thành mà nghiệp võ cũng đã xong. Thầy của Chu Du vui mừng không nói hết được. Sau khi bàn tính với cha mẹ Chu Du, ông dẫn hai đứa học trò đến nhà họ Kiều hỏi vợ. Kiều Huyền thấy Chu Du, Tôn Sách đều khôi ngô anh tuấn, nếu sánh duyên cùng hai đứa con gái ông thì rất xứng đôi, nên trong lòng thầm vừa ý. Nhưng ngày một tách trà ông cũng không đem ra mời khách mà lại bỏ đi vô nhà cả buổi trời không thấy ra cũng không nghe tiếng. Ba người ở ngoài sốt ruột, chợt gia nhân ra nói với Tôn, Chu:
- Ở cổng đầu làng có hai con dê húc nhau chí tử đã nửa ngày mà không ai kéo ra được, chủ tôi nhờ hai anh tới giúp thử xem.
Hai người cảm thấy cái chuyện thiệt ngộ, hẳn là bên trong có ý gì, lại thấy thầy nhìn mình mỉm cười nên trong lòng càng rõ hơn, vội đáp:
- Chúng tôi tới ngay.
Đến cổng làng, quả nhiên thấy hai con dễ đực đang húc nhau kịch liệt, cát bụi bay tung tóe, mặt đất bị giày nát bấy. Hai người liền xăn tay áo, nhưng kô chạy tới nắm kéo dê ra mà chạy thẳng tới đám dâu ở đằng xa, mỗi người bẻ một nhánh dâu để luôn cả lá. Đoạn đưa đến trước mặt mỗi con dê. Hai con dễ thấy lá dâu xanh non bèn ngừng húc, ngoái cổ lại ăn. Thế là trận đấu kô can dự chấm dứt. Đợi dê ăn xong, hai người mới lùa về nhà.
Kiều Huyền thấy dê đã về, bèn nói:
- Hai cậu mạnh ghê, mới đó mà đã kéo được dê trở về.
Hai người đáp:
- Lấy sức của chúng tôi thì cũng có thể kéo dê không cho húc nhau được vậy. Nhưng hai con dê đang hăng máu, mắt đỏ hoe, dù có kéo ra thì chúng cũng xáp lại đất nhau nữa thôi. Và như thế không chỉ làm mất thời gian mà còn mất sức. Bọn chúng đấu nhau đã nửa ngày, nghĩ rằng chắc đã đói, cho nên chúng tôi chỉ đem lá dâu cho chúng ăn và chúng đã tự ngưng đấu. Khi chúng no rồi, mối cừu cũng hết, cho nên ngoan ngoãn theo chúng tôi về thôi.
Kiều Huyền gật đầu, khen:
- Biết mình biết người, trăm trận kô thua. Sự tình này tuy nhỏ, nhưng cái lý vẫn như nhau. Các cậu học tập kô uổng công vậy!
Lúc này Đại Kiều bưng ly tới trước mặt Tôn Sách, nhoẻn cười, nói:
- Tôn lang, xin mời chàng dùng ly trà!
Tiểu Kiều cũng bưng ly tới trước mặt Chu Du, vui vẻ nói:
- Chu lang, xin mời chàng ạ!
Còn trước mặt thầy thì cũng có một ly trà bốc hương thơm phức, chính do Kiều Huyền tự mời.
Bấy giờ, nhà họ Kiều tấu nhạc inh trời, mổ gà giết dê, khoản đãi ba vị khách quí. Thầy hỏi Kiều Huyền định ngày nào cho xin cưới hỏi. Kiều Huyền cười, chỉ nói:
- Anh hùng sánh mỹ nhân, tốt thôi, tốt thôi!
Thầy còn chưa rõ nhưng hai trò đã nghe ra được hàm ý bên trong: Nay thế loạn, nên thi thố tài năng anh hùng rồi mới có thể tính tới việc cưới hỏi. Do đó hành lễ ra về.
Cầu Khổng Minh
Mé tây núi Bát Bửu có một tấm đá màu trắng xếp tầng như những miếng đậu hũ chồng lên nhau, người ta gọi nó là thác Đậu hũ, dưới thác Đậu hũ có một con sông là sông Hộ Thành của thành Kinh Châu thời Tam Quốc. Trên sông có chiếc cầu đúc, tên cầu Khổng Minh.
Truyền thuyết, có lần Gia Cát Lượng không ngại ngàn dặm xa tới đây thị sát Kinh Châu. Quan Công đang trấn giữ thành Kinh Châu, nghe được tin này, bèn sai quân phá bỏ cầu treo trên sông, muốn cho Gia Cát Lượng khỏi qua. Vì sao vậy? Một là ông cảm thấy Gia Cát Lượng còn nhỏ hơn mình mà lại làm quan lớn hơn mình; hai là ông cho rằng Gia Cát Lượng chỉ biết văn bút mà không biết võ nghệ; ba là cũng để trút cái hận phải đến thảo lư chầu chực Gia Cát Lượng hết ba lần.
Gia Cát Lượng tới bờ sông Hộ Thành, thấy Quan Công đã phá đứt cầu treo, ông chẳng nói lời nào, lập tức ra lệnh quân lính đi theo phá cỏ đốn cây, nung gạch chuẩn bị xây cầu.
Nghe nói Gia Cát Lượng định xây cầu, Quan Công đâu dễ tin? Sáng hôm ấy trời lạnh, ông thay đổi y phục, đầu đội nón gấm úp vành tai, chỉ để lộ cặp mắt, cất gánh giả trang thành người đi bán đậu hũ, ra thành dò xét.
Trên đường, Quan Công nghe người xầm xì bàn tán, có người trách ông quá cá nhân hẹp hòi, đáng lẽ kô nên cắt đứa dây cầu như vậy; có người khen ngợi Gia Cát Lượng chỉ lo đại cuộc, tấm lòng cao thượng. Quan Công nghe vậy, trong lòng như đeo đá nặng không chịu nổi.
Quan Công tới vách núi Bát Bửu, gần sông Hộ Thành. Ông đặt gánh đậu hũ xuống, trố mắt nhìn. Bất giác ông giật mình, thì ra Gia Cát Lượng đang chân trần, quần xắn lên, đứng trong nước cùng với quân lính xây cầu. Ông vội lột chiếc nón úp vành tai quăng ra xa, lại xô ngã gánh đậu hũ. Chiếc nón sau này biến thành một gò đất, người ta gọi là gò Lạc Mạo; gánh đậu hũ thì biến thành một tấm đá người ta gọi là thác Đậu hũ.
Quan Công bèn chạy tới bờ sông, lúc này chiếc cầu đã hoàn thành xong, ông vội quì xuống chịu tội với Gia Cát Lượng. Sau đó, lại để Gia Cát Lượng cỡi trên ngựa, còn ông thì tự dẫn dây cương đưa quân sư về thành Kinh Châu.
Chiếc cầu đúc trên sông Hộ Thành từ đấy được gọi là cầu Khổng Minh.
Cửa Tên Rơi
Trong lúc chiến chinh bức xúc, Gia Cát Lượng thiết kế chế tạo mộc ngưu, lưu mã và liên nỏ cung. Thời bấy giờ ba thứ này có thể nói là vật tiên tiến nhất. Liên nỏ cung có thể liên tục bắn ra hàng loạt mũi tên nhọn. Nói rằng, liên nỏ cung này chính là Gia Cát Lượng phát minh ra. Bao đêm ông mất ngủ, vẽ hết tờ họa đồ này đến tờ họa đồ khác, sửa đi sửa lại cho đến lúc thật hoàn hảo mới kêu thợ chiếu theo đồ họa mà chế ra. Lần đầu tiên sau khi liên nỏ cung chế xong, Gia Cát Lượng cử hành nghi thức tế cung ở gò tế cờ rất long trọng.
Hôm ấy, hết giờ mãi, hành doanh trong quân vừa dứt ba hồi trống, Gia Cát Lượng liền suất lĩnh văn quan võ tướng, chầm chậm đi ra viên môn, lên đài điểm tướng, đứng dưới soái kỳ. Từ trong tay quân hiệu, ông lấy ra chiếc liên nỏ cung. Dây cung giật nghe păng păng, trên gương mặt Gia Cát Lượng để lộ nụ cười hài lòng. Theo đó, ông cất tiếng giảng giải cách cấu tạo và sử dụng cung cho các tướng sĩ nghe. Ba quân tướng sĩ người nào nghe cũng đều say mê, và họ muốn được là tay xạ thủ đầu tiên của liên nỏ cung này. Người khỏe mạnh nhất được đề cử đương nhiên là Trương Dực Đức. Gia Cát Lượng mỉm cười, khoái tay ra hiệu yên lặng, đoạn tuyên bố với mọi người mời Trương Phi lên đài. Trương Phi tiếp lấy liên nỏ cung từ trong tay Gia Cát Lượng, vận sức kéo đến như trăng tròn. Phát đầu sẽ bắn thẳng lên ngọn núi mé đông trước mặt, và đang chờ hiệu lệnh của Gia Cát Lượng.
- Bắn!
Tiếng của Gia Cát Lượng vừa thốt thì đã nghe một trận gió "vút vút vút". Thì ra, Trương Phi tuy có cánh tay mạnh kô phải thiện xạ. Chín mũi bắn trúng đích cách năm trăm bước, còn mũi thứ mười thì lệch hướng không biết bay về đâu. Các tướng sĩ nhân đó cười nhạo Trương Phi một trận.
Một buổi trưa nọ, Gia Cát Lượng sai Trương Phi lãnh một cánh quân tới mé ngoài thành Đông Quan an doanh hạ trại. Doanh trại sau khi dựng xong, Trương Phi muốn đặt cho cửa trại một cái tên. Gia Cát Lượng nhất thời cũng chưa biết đặt cho cửa trại tên gì mới phải. Bỗng một binh sĩ tới trước mặt ông, hai tay trình lên mũi tên vàng. Gia Cát Lượng cầm lấy xem qua thì chính là mũi tên đã bị Trương Phi bắn lệch hướng. Ông vội hỏi:
- Mũi tên này lượm được ở đâu?
Tên binh bẩm:
- Ở vách bên hông trại này.
Gia Cát Lượng nghe nói mỉm cười:
- Dực Đức, cửa trại tìm được tên rồi đây.
Nói đoạn, ông dùng đầu mũi tên viết ba chữ dưới đất "Cửa Tên Rơi".
Về sau, doanh trại tuy không còn, nhưng vùng đất này vẫn được gọi là "Cửa Tên Rơi" còn dùng mãi cho tới bây giờ.
Chùa Tây Ngưu
Năm đầu Hiến Đế thời Đông Hán, người đất Bảo Khánh còn chưa biết sử dụng trâu bò trong việc cày ruộng, cũng kô có người chăn nuôi trâu bò. Sử dụng trâu trong việc cày ruộng và chăn nuôi trâu là sau việc Gia Cát Lượng đồn binh tế cờ. Chùa Tây Ngưu chính là vì kỷ niệm việc này mà được xây cất.
Vào trưa hôm ấy, Gia Cát Lượng cùng ban mưu sĩ đi ra ngoài thị sát tình hình để tìm chỗ luyện binh. Lúc đi qua mé hữu gò tế cờ, thấy ở dưới núi có một cụ già và một thanh niên đang cày ruộng, trên vai người thanh niên là một sợi dây thừng miết sâu vào vai. Anh đang cong ngưòi cố gắng bước đi từng bước một, còn cụ già thì ở sau ì ạch đẩy chiếc cày, dùng hết hơi hết sức. Gia Cát Lượng thấy vậy lòng cảm thấy bất nhẫn, bèn bước đến gần hai người, muốn họ ngưng cày nghỉ mệt, sau đó nói:
- Bộ ở nhà các người không có trâu bò để cày ruộng sao?
- Trâu bò cày ruộng ư?!
Hai cha con rất đỗi ngạc nhiên, dùng trâu bò cày là thế nào? Gia Cát Lượng bèn dùng cán quạt, vẽ dưới đất một con trâu , nói:
- Dùng nó để kéo cày đấy, mảnh đất này giỏi lắm chỉ cày một giờ thì xong.
Hai cha con nghe nói mà nửa tin nửa ngờ:
- Có chuyện này thiệt sao?
Người thanh niên tiếp lời cha:
- Cái con vật này ở đâu có? Chúng tôi phải tìm mua cho được một con .
Gia Cát Lượng nói:
- Khỏi phải mua, hai ngày nữa tôi sẽ sai người đem đến tặng cho hai cha con ông.
Gia Cát Lượng trở về quân doanh, cũng kịp lúc lương thảo vừa áp tải tới. Ông bèn chọn lấy một con trâu trong đám trâu chở lương tới, và ngay trong ngày ông sai người đem tặng cho cha con ông cụ cày ruộng. Nhưng mặt trời còn chưa khuất núi thì người thanh niên đã hối hả chạy tới quân doanh tìm Gia Cát Lượng. Thì ra, con trâu cổ mà Gia Cát Lượng đem tặng cho đó, đã đá vào hông người cha người thanh niên đến bị thương nặg. Gia Cát Lượng nghe nói bèn nhíu mày, nghĩ như vầy phải sai người chuyên sử dụng trâu bò cày ruộng tới dạy cho họ mới được.
Thế rồi, ông dùng lời nhỏ nhẹ khuyên người thanh niên mấy câu , sau đó lấy mười lạng bạc tặng cho anh để anh đem về lo thuốc thang điều trị cho ông cụ, lại còn nói là sẽ phái người tới dạy cho anh biết sử dụng trâu. người thanh niên nghe nói vội khoát tay lia lịa, bảo rằng không muốn học, mà còn muốn Gia Cát Lượng kêu người tới dẫn trâu về. Trâu được dẫn trở về, Gia Cát Lượng trong lòng thật áy náy, ông nghĩ: Cái cách canh tác hậu thế này sớm nên vứt bỏ đi. Nhưng, phải làm thế nào để họ tin dùng đây? Suy nghĩ cả nửa đêm, ông mới tìm ra được biện pháp. Sáng hôm sau, ông sai người đi dán bố cáo khắp nơi, muốn mọi người tới xem trâu cày ruộng. Người nông dân chưa hề thấy qua chuyện kỳ lạ này, đều hiếu kỳ kéo tới xem rất đông. Một binh sĩ đã từng cày ruộng cho trâu vào ách, cầm một chiếc roi dài trong tay. Một tiếng nạt "đi", con trâu liền cất bước, ngoan ngoãn kéo chiếc cày phía sau đi tới. Tên binh cầm chuôi cày thỉnh thoảng nạt "ví", "thá" để trâu biết rẽ trái sang phải mà không tốn một chút sức lực nào, đã vậy anh đi theo lưỡi cày, vừa đi vừa ca hát. Không đầy một tiếng đồng hồ, khoảnh đất rộng đã được cày xong. Mọi người đứng xem không ngớt lời khen tặng. Họ lũ lượt đến bên Gia Cát Lượng, xin ông sai người sai trâu giúp đỡ mọi nhà cày ruộng. Gia Cát Luọng mỉm cười bằng lòng. Từ trong quân ông chọn ra bốn con trâu và năm binh sĩ biết cày để đi dạy họ kỹ thuật cày, dạy đến thuần thục mới thôi.
Về sau, nông dân xây một ngôi chùa tên "Chùa Tây Ngưu" để nhớ công đức này củaGia Cát Lượng.
Bàng Thống xử án
Lúc Bàng Thống mới đến đầu Lưu Bị, ông chỉ làm được một chức huyện lệnh. Trong lòng cứ ấm ức, nên suốt ngày ông chỉ uống rượu, rong chơi và ngủ li bì. Lưu Bị biết được, liền nổi giận, sai Trương Phi tới tra hỏi.
Khi Trương Phi dẫn mười tùy tòng tới, liền tức khắc sai người kêu Bàng Thống tới. Phừng phừng lửa giận, ông ta hỏi Bàng Thống:
- Ông nhậm chức cả trăm ngày nay, vì sao chưa thăng đường một lần nào?
Bàng Thống chậm rãi nói:
- Đến nay chỉ mới có 98 vụ án, tướng quân chưa biết tánh tôi. Bàng Thống tôi chưa đủ 100 án thì chưa xét xử!
Trương Phi gầm lên:
- Lớn lối! Chẳng lẽ trong một ngày ông có thể xử 100 vụ án sao?
Bàng thóng nói:
- Ít nhất phải 100 vụ.
Trương Phi thấy ông ngạo mạn, trong lòng lièn muốn trị ông một mẻ. Suy nghĩ giây lát, ông nói:
- Trong quân ta còn hai vụ án, cộng với 98 vụ án ông nói đó là vừa đủ 100, ngày mai ông hãy thăng đường, ta muốn tận mắt thấy tài của ông! Có điều, ông liệu chừng cái đầu ông, xét xử rành mạch thì thôi, nếu không rành mạch thì chớ trách.
Hôm sau, nha môn huyện Lai Dương đánh trống thăng đường. Nguyên cáo, bị cáo của 98 vụ án đều chực hầu dưới đường. Trương Phi dẫn mười tùy tòng cũng lên đường coi xét xử. Bàng Thống vừa thấy liền vỗ đường mộc, hỏi:
- Các ngươi ai là nguyên cáo?
Trương Phi vỗ ngực đáp: - Ta!
Bàng Thống lại hỏi: - Ai là bị cáo?
Mười tùy tòng đều đáp: - Bọn tôi.
Bàng thống nghiêm sắc mặt đáp:
- Trên công đường, quốc pháp uy nghiêm, nguyên cáo bị cáo hãy lui xuống đường chờ hầu thẩm, ai lôi thôi cãi lệnh ,trước đánh năm mươi thước bảng!
Trống thăng đường vừa dứt, Bàng Thống lại vỗ đường mộc, bảo :
- Các nguyên cáo và bị cáo hãy tự thân tố cho ta nghe qua một lượt!
Sau tiếng lệnh này, trên đại đường liền bảy miệng tám lời, mạnh ai nấy nói, chẳng còn ra thể thống gì. Chỉ thấy hai tay Bàng Thống cầm bút ghi lia lịa kô ngừng, Trương Phi thấy thế cũng lom mắt nhìn.
Không đầy nửa ngày, 98 vụ án đã xét xong rạch ròi: Kẻ đáng giết thì xử giết, kẻ đáng giam thì bị giam, kẻ đáng bị đánh thì bị đánh, kẻ được thả thì được thả, kẻ được bồi thường thì bồi thường. Phán xét rành mạch đến nguyên cáo và bị cáo đều hết sức phục và không có đến nửa câu khiếu nại.
Xét án Trương Phi
Lúc Bàng Thống để nguyên cáo, bị cáo thân tố, Trương Phi cũng tố Lý Tứ, Vương Nhị trộm thịt trâu và vụ mất trượng bát xà mâu của ông. Trương Phi thấy 98 vụ án Bàng Thống đều xét xong, trong lòng nghĩ: Sợ e Bàng Thống mi tra hỏi mấy án này trước, rồi cố ý khoác lác thẩm vấn đó thôi? Trương Phi đợi mọi người đều lui ra, bèn bước tới hỏi:
- Hai vụ án mà ta thưa đó, vì sao ông chưa phán xét, hay là xử không nổi?
Bàng Thống ha hả cười:
- Án mà ông báo đó, dễ ợt thôi, có gì xử không ra.
Trương Phi nổi giận, quát:
- Lão Trương ta ghét nhất là cái thứ huênh hoang, mau xử cho ta xem!
Bàng Thống nghe xong, nghiêm sắc mặt vỗ đường mộc, lệnh Lý Tứ, Vương Nhị đến đứng trước công đường sau đó nạt:
- Đạo thủ phủ đâu, mổ bụng hai tên Lý Tứ, Vương Nhị này, xem ai đã ăn thịt trâu?
Đao phủ giơ dao dợm mổ, Lý Tứ, Vương Nhị la lên. Lý Tứ nói:
- Tôi xin khai thật, thịt trâu ấy do tôi ăn!
Bàng Thống nạt:
- Đánh 50 thước bảng cho ta!
Trương Phi vội ngăn lại, bảo:
- Khoan đã, để thẩm vấn xong việc bát trượng xà mâu rồi xử luôn cũng không trễ.
Bàng Thống nói:
- Vậy thì xử luôn. Hiện giờ tôi có một tờ giấy thần, kẻ trộm cắp cầm nó trong tay thì tờ giấy sẽ trở nên dài ra.
Nói xong, ông bèn lấy ra một tờ giấy và cắt thành tám mảnh dài bằng nhau. Đoạn đưa cho tám tên tùy tòng đi theo Trương Phi mỗi người một mảnh. Triệu Đại là tên láu cá đã trộm lấy trượng bát xà mâu, sợ e mảnh giấy sẽ dài ra, cho nên sau khi ra khỏi cửa nha môn, hắn liền lén xé mảnh giáy ngắn đi một nửa. Tám tùy tòng trở về và bước lên đường trình giấy. Bàng Thống chỉ Triệu Đại , nạt:
- Kẻ trộm chính là mi!
Triệu Đại nói:
- Không phải tôi, mảnh giấy của tôi có dài ra đâu.
Bàng Thống nói:
- Xem ra không đánh mi ba trăm roi thì mi há chịu khai sự thật!
Triệu Đại thoạt nghe, vội quì xuống xin tha:
- Đại nhân chớ đánh, chớ đánh! Trượng bát xà mâu chính là do tôi lấy trộm. Có điều đó là Trương tướng quân mệnh lệnh tôi trộm.
Bàng Thống nghe xong lại ha hả cười lớn. Trương Phi nghe vậy ngầm kính phục trong lòng.
Sau khi trở về, ông bèn đem chuyện thấy được trình lại với Lưu Bị, Lưu Bị mới biết Bàng Thống quả là thiên hạ kỳ tài, nên tự tìm đến Bàng Thống nói lời xin lỗi, và rồi thăng ông làm quân sư.
Châu Thương nhượng râu
Gần nhà Quan Công và Châu Thương là nhà của một vị tú tài, tên là Nhân Đức Tài. Cha mẹ không còn, thân nhân cũng không còn, một mình ở một căn nhà, suốt ngày vị tú tài lo đọc sách viết chữ nên tài học rất cao. Nhưng năm nào vào kinh thi cũng không đỗ.
Ngày nọ, Quan Công đi vắng. Châu Thương ở nhà một mình buồn tênh, ông bèn ra đường lang thang hóng gió. Khi đi ngang nhà Nhân Đức Tài, nghe có tiếng đàn bà to nhỏ xầm xì bên trong. Châu Thương bèn tạt qua ghé mắt xem. Thì ra là một người đàn bà trạc hăm mốt hăm hai tuổi. Nghe trao đổi, được biết này này đi tìm con, lỡ đường hết tiền, muốn nhờ Nhân Đức Tài giúp đỡ, Châu Thương nghĩ: Mẹ tổ ơi, bà nhờ ai không ngờ, sao tới đây nhờ hắn! Cho dù bà có khóc đến ráo hỏanh nước mắt cũng chẳng đưọc một xu nào! Thấy vậy, Châu Thương muốn bước vô ngăn cản người đàn bà, song ông muốn để xem sự tình thế nào? Nhìn thấy Nhân Đức Tài dùng lời vỗ về bảo nàng vô trong, Châu Thương nổi đóa, liền cúi xuống nhặt hòn đá. Vừa muốn ném thì lại nghĩ: Lão gia cứ bảo mình hay làm việc hồ đồ, chuyện nhân mạng lớn lao này phải dè chừng, đẻ xem cho tỏ tường rồi tính sau.
Sự thật, Nhân Đức Tài chẳng có ý gì xấu xa, chỉ thật lòng thật ý muốn giúp đỡ nàng này mà thôi. Chàng ta dọn cơm mời nàng ăn và nói:
- Chị ạ, chị nằm trên giường này nghỉ đở đi, tôi ra bên ngòai ngủ cũng được!
Nói xong, không đợi người đàn bà đáp lời, Nhân Đức Tài liền ra chõng ngòai nằm ngủ. Châu Thương vẫn còn chưa tin Nhân tú tài, lòng nghĩ "để ta xem tiểu tử mi vờ vịt thế nào cho biết". Nhưng, chẳng máy chốc sau, đã thấy chàng ta ngủ khò. Mãi cho đến lúc cánh cửa kêu, Châu Thương mới giật mình tỉnh dậy. Xem ra thì trời đã sáng. Còn Nhân tú tài thì sao? Chàng ta vẫn còn nằm ngủ trên chõng. Người đàn bà ra cửa đến đứng trước chõng, kêu Nhân tú tài dậy, nói:
- Đại ca, tôi quá làm phiền anh, thật không biết cám ơn anh như thế nào mới phải.
Nhân tú tài nói:
- Sao nói vậy, ai ra khỏi cửa mà chẳng gặp khó khăn.
Châu Thương nghe vậy, trong lòng nghĩ. À, thì ra Nhân tú tài là người tốt, vậy mình phải làm thế nào đây!
Khi Quan Công trở về, Châu Thương đem chuyện Nhân tú tài giúp đỡ người đàn bà thuật lại. Xong rồi còn hỏi:
- Lão gia, theo ngài thấy, Nhân tú tài là người tốt , tài học cũng cao mà sao đi thi vẫn không đỗ vậy?
Quan Công nói:
- Trên mặt người này không có râu, nếu râu trên mặt ngưoi mà cắm được lên mặt anh ta , thì anh ta đỗ trạng nguyên như chơi!
Châu Thương nghe mà cười, nhưng lòng nghĩ, làm sao đem râu mình mà cắm trên mặt anh ta cho được! Đêm đến, Châu Thương nằm trên giường, gác tay trên trán mà buồn. Chính trong lúc buồn đó, chợt thấy có một cụ già đến. Cụ già hỏi ông vì sao buồn, Châu Thương nói ra lòng mình, cụ già cười:
- Dễ thôi!
Nói xong, bèn đưa tay nắm râu trên mặt Châu Thương nhổ láng rồi bỏ đi. Châu Thương đau quá liền giật tình. Khi mở mắt, thì ra là một giấc mơ. Nhưng, sờ lên mặt thì ô hô, mặt ông chẳng còn một sợi râu. Sáng dậy, ông đến nhà Nhân tú tài xem, không dè trên khuôn mặt Nhân tú tài đã mọc đầy râu. Ông một lời chẳng nói, lòng khấp khởi trở về nhà. Về sau, quả nhiên Nhân tú tài đã đỗ trạng nguyên thật.
Hoa Đà uống rượu chế thuốc tê
Khi "Quan Vân Trường nạo xương trị độc", vì sao ông có thể vừa uống rượu vừa đánh cờ mà không cảm thấy đau. Cứ theo truyền thuyết dân gian thì do Hoa Đà trong khi phẫu thuật đã bôi chất thuốc tê trên lưõi dao.
Thuốc tê là do Hoa Đà sáng chế. Muốn biết rõ chuyện này, tất phải nói từ chuyện Hoa Đà uống rượu.
Một hôm, Hoa Đà đến vùng Thương Khâu tỉnh Hà Nam trị bệnh. Khi châm cứu chữa trị xong cho gia đình nọ, chủ gia đình bệnh nhân vô cùng cảm kích, nên mời ông ở lại dùng bữa tiệc. Hoa Đà không cách chi từ chối đành phải ở lại. Chồng của bệnh nhân đem ra bình rượu tự chế, cung kính mời Hoa Đà dùng. Hoa Đà tuy có tửu lượng cao song uống với chủ nhà đến ly thứ ba thì cảm thấy đầu óc chóang váng, thân thể mềm nhũn khó kềm nổi. Chủ nhà cũng cảm thấy xây xẩm, cả người rã rời hết nhúc nhích. Do đó chỉ còn cách ngưng uống chuẩn bị ăn cơm. Ai ngờ cơm chưa dọn ra thì cả hai đã nằm kềnh trên mặt đất. Gia Đình người bệnh cứ ngỡ hai người say rượu, dè đâu mãi đến chạng vạng vẫn chưa thấy họ tỉnh lại. Ai nấy đều hết hồn lo lắng. Họ sai người đến nhà Hoa Đà báo rõ sự tình.
Vợ của Hoa Đà là con gái một vị thầy thuốc, từ nhỏ cũng đã theo cha học về y thuật, đặt biệt là bà có nghề châm cứu cũng rất đại tài. Bà sờ vào mạch của hai người, kô phát hiện ra bệnh tật gì, bèn chiếu theo phương pháp bình thường, dùng châm cứu trị bệnh say rượu. Châm cho hai người mấy mũi rồi, song chẳng thấy có chút hiệu nghiệm. Chẳng còn cách nào khác, bà đành nhẫn nại chờ đợi.
Khỏang chừng hơn một giờ sau, hai người mới từ từ tỉnh lại.
Hoa Đà nghe mọi người nói lại tòan bộ tình huống sau khi mình mất hết tri giác, ông cảm thấy hết sức kỳ lạ , bèn vặn hỏi cặn kẽ chủ nhà trong rượu đã pha chế những thứ gì. Chủ nhà không rõ dụng ý của ông, tròng lòng có hơi lo sợ, bèn đem tòan bộ quá trình chế rượu này nói hế cho ông biết, không giấu giếm một chi tiết nào. Hoa Đà quyết tìm ra bí mật của chất rượu này. Cuối cùng ông kiểm tra tới men rượu, dùng tay bóp tới bóp lui, và đã phát hiện trong men, ngọai trừ chât bã của nếp và men còn có một chất khác. Và sau khi hỏi kỷ lại một lần nữa thì ông đã tìm ra được giải đáp. Té ra đứa con trai năm tuổi của chủ nhà đã hái hạt dương kim hoa ở trong vườn đem nghiền nát bỏ vô trong men rượu.
Bài tóan đã được giải. Hoa Đà hết sức mừng rỡ. Bấy giờ là vào cuối thời Đông Hán, Hoa Đà được Tào Tháo mời tới trị thương cho các tứơng sĩ. Người thì cưa chân cắt tay, người thì mỗ thịt nạo xuơng, trước khi ra tay, Hoa Đà đều dùng hạt dương kim hoa pha chế với rượu làm thành thuốc tê để trị thương cho họ. Về sau, nhân vì dùng rượu pha chế có hơi bất tiện, nên Hoa Đà đã nghiên cứu chế thành thuốc tê tán công hiệu hơn.
Trương Phi phó yến
Một hôm, Lưu Bị tiếp được thiệp của Tào Tháo, muốn mời ông tới doanh dự tiệc.
Gia Cát Lượng mỉm cười, nói:
- Đi thì cũng được, có điều chúa công đừng nên đi.
- Vậy thì ai đi?
- Trương Phi.
Lưu Bị nghe xong liền lắc đầu:
- Không được, không được.
Gia Cát Lượng phe phẩy chiếc quạt, chậm rãi nói:
- Chúa công bất tất phải lo. Dực Đực tướng quân có cái dũng của vạn người. Năm ấy trên cầu Trường Bản, với một tiếng hét, dòng sông phải chảy ngược, khiến cho trăm vạn hùng binh của Tào Tháo phải lui. Mãi cho đến hôm nay, tướng bên doanh Tào hễ nghe nhắc tới mấy chữ "Trương Dực Đức người nước Yên" vẫn còn rụng rời. Ông ta đi phó yến, có gì đâu không được.
Do đó, Trương Phi đơn thương độc mã đến doanh Tào, Tào Tháo hỏi:
- Lưu hoàng thúc vì sao không tới phó yến?
Trương Phi đáp:
- Hồi hôm qua, ca ca chúng tôi bị cảm, bữa nay còn uống thuốc, mồ hồi dầm dề, cho nên sai tôi đi thay để tạ tấm lòng tốt của Thừa tướng.
Tào Tháo nói:
- Bấy lâu nghe đồn Dực Đức tướng quân là người hào sảng, lão phu không thể không tiếp đón. Nhưng để gây hứng, ta đưa ra cuộc chơi, ai thua thì phải chịu phạt ba ly lớn.
Trương Phi nói:
- Mời thừa tướng ra đề đi.
Tào Tháo nói:
- Đã! Đã! Dực Đức tướng quân là người hào sảng. Ông với tôi khỏi cần ra đề chi cho răc rối, chỉ cần vài dấu hiệu là xong!
- Được! Được! Mời thừa tướng ra trước.
Tào Tháo cười, nói:
- Thứ cho lão phu chiếm tiện nghi trước.
Nói xong, Tào Tháo khuỳnh hai tay như một cái vòng tròn. Trương Phi suy nghĩ một lúc, đoạn đưa hai cánh tay thẳng lên trời. Tào Tháo giật mình, liền chìa ngón tay cái bên phải ra. Trương Phi xòe bàn tay hữu khoát khoát mấy cái. Tào Tháo lại hết hồn, bèn đưa ra năm ngón tay mặt, Trương Phi lại khoát tay, chĩa ra ba ngón tay mặt. Tào Tháo ngầm thở dài một tiếng, bưng lấy ly rượu, liên tiếp uống ba ly lớn.
Trương Phi khoái chí cười:
- Thừa tướng uống rượu mọt mình cũng buồn, để tôi tiếp một ly với.
Trương Phi no đủ rượu thịt bèn cáo từ ra về. Thót lên ngựa, hai tay ôm quyền, nói:
- Cám ơn Thừa tướng nhé!
Đoạn sải ngựa đi.
Trương Phi về đến doanh, Lưu Bị và Gia Cát Lượng liền hỏi đến việc phó yến.
Trương Phi rang rảng nói:
- Ôi thôi, chớ thấy lão tặc làm Thừa tướng mà tưởng ngon, lão ta quỉ quyệt lắm.
Lưu Bị hỏi:
- Lão tặc ấy quỉ quyệt thế nào?
- Hắn sợ tôi ăn mạnh uống đậm hết mồi của lão.
- Thế là thế nào?
- Vừa mới uống được mấy ly, lão bày vẽ chơi "oẳn tù tì". Mà chơi thì chơi ai ngán. Ai dè hắn chơi kỳ lạ quá.
- Kỳ lạ thế nào?
Trương Phi nói:
- Hắn khuỳnh tay đưa ra như cái vòng tròn. Tôi suy nghĩ liền hiểu ngay, hắn muốn bảo tôi ăn hết cả nồi bánh lớn. Đâu được, làm sao tôi ăn hết nổi! Tôi chỉ muốn ăn hai phần ba nồi thôi, nên tôi liền xỉa ra hai cánh tay để cho hắn biết. Lão tặc lại chìa ra ngón tay cái ngầm bảo, vậy thì chỉ cho tôi ăn một cái. Tôi liền khoát tay, ý bảo khôngd dwuợc, một cái ăn sao no! Lão tặc lại xòe ra năm ngón tay ý bảo tôi chỉ ăn được năm cái. Năm cái thì thấm tháp gì cái bụng tôi. Do đó tôi phải hẩy ra ba ngón tay, cho hắn biết, ít nhất tôi cũng phải ăn ba phần nồi. Lão tặc không cách chi, chỉ còn nước chịu thua và phải uống liên tiếp ba ly rượu phạt.
Gia Cát Lượng nói:
- Lời nói quá thật tình rồi, có điều Trương Dực Đức đã hiểu lầm ý lão tặc, và lão tặc cũng hiểu lầm ý tướng quân. Thế nên cái câu đố của lão tặc mới bị tướng quân phá.
Trương Phi không phục. Gia Cát Lượng giảng:
- Ông nghe tôi cắt nghĩa đây. Nghĩ rằng lão tặc đã làm quan tới cực phẩm, há có thể tiếc rẻ chỉ một bữa ăn với tướng quân sao? Đừng nói sức ăn của tướng quân mạnh, ví dù có một ngàn người có sức ăn như tướng quân chăng nữa, hắn cũng đâu keo kiệt đến thế. Câu đố của hắn, đó là hoài bão của hắn. Hắn khuỳnh hai cánh tay như một vòng tròn là muốn nói hắn sẽ độc bá Trung Nguyên. Ông lại ngỡ hắn muốn bảo ông xơi láng nồi bánh, nên ông không chịu. Ông giơ hai tay lên trời, hắn ngỡ là "ông muốn độc bá Trung Nguyên thì phải hỏi xem cây trượng bát xà mâu của tôi có chịu không". Hắn chìa ngón tay cái là ý bảo, hắn là Thừa tướng đương triều có thể ép thiên tử và ra lệnh cho chư hầu. Ông lại ngỡ hắn chỉ để cho ông ăn một cái; ông khoát tay lia, hắn lại ngỡ là "khỏi phải đề cập, dù đương triều thừa tướng cũng chẳng là cái thớ gì đâu". Hắn lại xòe ra năm ngón tay, ý hắn bảo, hắn có Hứa Chử, Hạ Hầu Đôn, Trương Liêu, Trương Cáp, Vu Cấm ngũ hổ tướng, nếu ông không phục thì ra chiến trường sẽ biết. Ông lại khoát tay, chìa ra ba ngón, ý muốn nói năm cái chưa thấm, phải ăn ba nồi. Hắn lại "năm việc thượng tướng của ông đâu bằng ba anh em đào viên kết nghĩa đồng sanh cộng tử của tôi". Do vậy, lão tặc chỉ còn cách thở ra chịu thua và uống ba ly rượu phạt.
Trương Phi thêu hoa
Một hôm, Gia Cát Lượng gọi Trương Phi tới dưới trướng. Ông lấy một cái kim thêu và một sợi chỉ màu đặt vào tay Trương Phi nói:
- Tôi đặc biệt nhờ tướng quân xỏ kim.
- Xỏ kim ư?
Trương Phi thoạt nghe liền cười lên ha hả.
- Tôi giết heo mổ lợn thì được, chớ làm sao xỏ kim được?
- Thì thử xem!
Trương Phi xỏ tới xỏ lui, càng xỏ lòng càng nôn nóng. Gia Cát Lượng chận bàn tay gồ của Trương Phi lại, bảo:
- Đừng vội ! Hôm nay xỏ chưa qua, ngày mai xỏ, ngày mai xỏ chưa qua thì bữa sau lại xỏ nữa. Trong vòng ba ngày mà xỏ chỉ qua kim được thì kể như ông đã đánh thắng một trận lớn!
Sau ba ngày, quả nhiên Trương Phi đã xỏ được sợi chỉ qua lỗ kim. Gia Cát Lượng phe phẩy chiếc quạt lông ngỗng, cười hề hề. Tiếp đó, lại đưa cho Trương Phi một mảnh lụa trắng, muốn ông thêu hoa.
Trương Phi vội nói:
- Ái chà, nam tử hán, đại trượng phu ai lại đi học thêu thùa chớ?
Gia Cát Lượng nói:
- Thêu hoa là đánh giặc, thêu được hoa đẹp, dám cam đoan ông có thể thắng giặc như chơi!
Hoa chưa kịp thêu thì đã có lệnh xuất quân. Gia Cát Lượng giao một vạn nhân mã, bảo Trương Phi đi chiếm Ba Quận trước, sau đó đến Lạc Ấp hội sư. Và căn dặn rằng trên đường đi đừng bao giờ quên việc thêu hoa.
Trương Phi kéo đại đội nhân mã thẳng đến Ba Quận, thế như chẻ tre. Nhưng đến nơi thì bị Nghiêm Nhan, Thái thú Ba Quận ngăn lại.
Nghiêm Nhan chỉ đánh với Trương Phi một trận, rồi tử thủ thành không ra đánh nữa. Trương Phi nôn nóng muốn phá thành, chợt ông nhớ tới việc thêu hoa, trong lòng liền nảy ra một kế là phải bắt sống Nghiêm Nhan.
Trương Phi hầm hầm giận hỏi Nghiêm Nhan:
- Đại quân ta đến đây, mi chống cự không đầu hàng, ngoan cố đến như vậy có phải không?
Nghiêm Nhan trả lời:
- Bọn ngươi xâm phạm đất ta, việc thủ thành chống giữ là phận sự của ta!
Trương Phi trợn mắt tròn xoe, nói:
- Nay mi đã bị ta bắt, hàng hay không hàng?
Nghiêm Nhan mặt chẳng hề đổi sắc, đáp:
- Muốn chém cứ chém, ta không đầu hàng!
Trương Phi quát như sấm:
- Lôi hắn ra ngoài chém đầu cho ta!
Lời nói vừa thốt ra khỏi miệng, ông vụt nhớ tới việc thêu hoa, vội sửa lời, bảo:
- Khoan đã!
Đoạn bước tới gần Nghiêm Nhan, tự mở trói cho ông, còn mời ông ngồi, và dùng lời nhỏ nhẹ nói:
- Xin thứ lỗi cho, lão tướng quân thật anh hùng. Bội phục! Bội phục! Vừa rồi tôi quá lỗ mãng.
Nghiêm Nhan thấy ông nghĩ khí như vậy, trong lòng sanh bội phục, vội quì xuống đất nói:
- Lão phu nguyện vì tướng quân ra sức!
Trương Phi đỡ ông dậy và thỉnh giáo ông muốn đánh Lạc Ấp phải làm sao. Kết quả do Nghiêm Nhan dẫn đường, Trương Phi đã đưa quân đén được Lạc Ấp và cùng Gia Cát Lượng hội sư.
Sau khi lấy được Lạc Ấp, Trương Phi nói với Gia Cát Lượng:
- Quân sư, hoa của tôi còn chưa thêu xong ạ!
Gia Cát Lượng hài lòng, nói:
- Không! Hoa của ông đã thêu xong rồi! TRận Ba Quận đánh quá xuất sắc, lấy trí thu được Nghiêm Nhan, ấy là trong cái thô kệch có cái tế nhị!
Từ đó chuyện "Trương Phi thêu hoa trong cái thô có cái tế" thường được người đời nhắc nhở trong những cuộc trò chuyện.
Nước suối động Lão Long
Ở Xung Khẩu núi Long Trung, có động Lão Long mà xa gần đều nghe tiếng. Một năm 4 mùa, nước suối thơm ngọt trong mát từ trong động phun ra chảy chan hòa vào ruộng đồng, thấm nhuộm sơn trà cung cấp nước uống cho mọi người.
Có một năm, khắp nơi đều hạn hán, thôn trang "Vọng Thiên Thu" trên Ngọa Long Cương khô cằn, ngay mảnh "ruộng cùng canh" của Gia Cát Lượng cũng nứt nẻ. Lòng người trong thôn nóng như lửa đốt, khắp nơi cầu tế mưa, song ngay một áng mây đen cũng không thấy xuất hiện. Gia Cát Lượng nghĩ, nước mưa từ trên trời đổ xuống đất, vậy có thể từ lòng đất sẽ tìm ra được mạch nước! Ông nghe bọn tiều phu nói, trong động Lão Long từng có cá bay ra. Do đó, ông vác cuốc tiến sâu vô động tìm mạch nước.
Gia Cát Lượng mò mẫm khắp nơi, mỗi tảng đá trong động đều được đào, mỗi chỗ trũng đều được xới, nhưng ngoại trừ hít thở khí lạnh ra, thì ngay một giọt nước cũng không tìm thấy. Xung quanh núi, cây lá trơ sắc vàng song trong hang thì rêu bám xanh um, Gia Cát Lượng thầm nghĩ, nếu tìm không được mạch nước thì chẳng là toi công hết sao. Do đó ông lại tiếp tục đào, tiếc tục xới! Quá mệt ông dựa lưng bên một tảng đá nghỉ. Ai ngờ vừa buông tay thì cả người ông rã rời, mắt lim dim mở hết nổi.
Bỗng Gia Cát Lượng cảm thấy trên người có cái gì lành lạnh ngọ nguậy. Ông vụt mở mắt nhìn, thì ra trên mặt đất có mấy con cá còn sống đang bắn mình nhảy loạn xạ. Tức thì ông để ý quan sát khắp động. Chợt, ông phát hiện từ trong chỗ trũng bay ra một con cá. Ông mừng rỡ, bước tới chỗ cá bay ra đó làm một dấu hiệu để nhớ, đoạn quay về kêu nông dân tới cùng đào xới.
Mọi người hì hục đào, từng tảng đá bị xới lên những vẫn chưa thấy bóng nước đâu. Nhiều người cau có không chịu đào tiếp. Gia Cát Lượng lắng nghe chỗ đào hình nhhư có tiếng nước chảy, nên thuyết phục mọi người tiếp tục đào nữa.
Nào ngờ, đào xới đến hòn đá cuối cùng, bỗng từ bên trong lưu sa đổ ra. Mọi người vừa đào vừa vận chuyển cát đem đổ, nhưng lưu sa cứ chảy ra mãi không ngừng khiến ai nấy đào xới, vận chuyển đến đuối sức mà vẫn chưa thấy nước. Gia Cát Lượng bèn đốn mấy cây tre núi, và khoét mắt bên trong, ông thọc sâu vô chỗ lưu sa đổ ra đó. Chẳng mấy chốc, bỗng thấy một dòng nước suối trắng từ trong thân tre chảy ra.
Mọi người reo mừng, Gia Cát Lượng lại suy nghĩ: Ống tre dẫn nước quá nhỏ, phải có ống rộng miệng hơn thì tiệc vô cùng! Ông và mọi người cùng bàn tính, cuối cùng họ dùng ống đất nung thay cho ống tre. Thế là nước suối trong động Lão Long rốt cuộc đã bị Gia Cát Lượng dùng kế dẫn ra được. Từ đó về sau ruộng đồng dải Ngọa Long Cương không còn sợ hạn hán nữa.
Khổng Minh chừa rượu kiêng đậu hũ
Nói tới Gia Cát Lượng, hầu hết mọi người đều biết ông có thể đoán số, liệu việc như thần, là một người rất tài giỏi, nhưng đâu ngờ ông cũng từng bị một vố chua cay. Thậm chí ông phải chỉ trời mà thề, suốt đời không uống rượu và ăn đậu hũ.
Lúc Gia Cát Lượng ẩn cư ở Long Trung - Tương Dương, ông thường ví mình như Quản Trọng Nhạc Nghị, tự phụ hơn người. Một hôm, ông ở đình Bảo Tất đọc sách, vì hơi mệt, ông bèn kẹp sách, tản bộ xuống núi. Đến dưới núi, thấy có một lão hán ngồi dưới gốc đại thụ, trước mặt là một gánh hàng, Gia Cát Lượng bèn bước tới xem. Thì ra một đầu là thau đậu hũ, một đầu là bình rượu cao lương thơm ngát. Lúc này, Gia Cát Lượng cảm thấy bụng đã đói nên bước tới cúi mình thi lễ, hỏi:
- Thưa cụ, đậu hũ và rượu này có bán không?
Lão hán vừa đứng dậy vòng tay đáp lễ, vừa cười trả lời:
- Tôi có điều thắc mắc, xin tiên sinh tính giúp cho, nếu như tính ra thì đậu hũ và rượu này xin biếu ông.
Gia Cát Lượng mỉm cười gật đầu. Lão hán vòng tay nói:
- Tôi muốn thỉnh giáo tiên sinh: một cân đậu có thể cho được bao nhiêu đậu hũ? Một cân cao lương có thể nấu được bao nhiêu rượu?
Gia Cát Lượng thoạt nghe liền buột miệng cười, ngỡ vấn đề này quá giản đơn nhưng càng suy nghĩ càng cảm thấy hóc búa! Quả là, Gia Cát Lượng từ nhỏ tuy nói ăn không ít đậu hũ, uống không ít rượu, nhưng có bao giờ xay đậu hũ và nấu rượu, nên không biết phải trả lời thế nào cho đúng. Ông kẹp cuốn sách đi tới đi lui, vắt óc ra nghĩ, song vẫn tính không ra, và chỉ còn cách bước tới, thẹn đỏ mặt cúi người nói với lão hán:
- Hổ thẹn quá, thiệt tình kô ra. Cụ hẳn biết, vãn sanh nhờ cụ chỉ dạy!
Lão hán vuốt râu, cười hề hề:
- Sự thực, điều nhỏ nhặt này không phải khó. Tục ngữ nói: "Đậu xay đậu hủ không định số, cao lương nấu rượu có gia tăng". Tiên sinh chưa hề làm qua việc này, nên tính chưa ra đó thôi. Đây chính là "việc chưa trải qua chưa biết". Như Gia Cát tiên sinh đã thế này thì người khác càng khỏi phải nói.
Gia Cát Lượng nghe ra, vui vẻ nói:
- Cảm ơn cụ đã chỉ dạy, thật khiến tôi hiểu thêm không ít, xin cụ nhận tôi một lạy!
Nói xong, Gia Cát Lượng sụp xuống lạy. Vì để nhớ lời dạy mà cảnh giác nhược điểm của mình, nên về sau Gia CÁt Lượng kiêng đậu hũ và chừa rượu luôn!
Và cũng từ đó về sau, Gia Cát Lượng sống đến già, học đến già, cẩn thận đến suốt đời. Phàm thấy ai ăn đậu hũ, uống rượu, ông đều ngầm tự kềm chế và không dám tham gia.
Quan Công đổi đao
Thanh Long Yển Nguyệt đao, trước kia trên đời vốn có hai cây, một cây của Quan Công, một cây của Châu Thương. Không dè cây của Quan Công lúc Tào Tháo tặng bào cho ông thì đã bị hư, tự ông dựa vào hình dạng cũ mà chế ra một cây cương đao khác. Nhưng cương đao thì đâu sử dụng tốt bằng Thanh Long Yển Nguyệt Đao. Do đó Quan Công cứ luôn miệng trầm trồ cây đao của Châu Thương.
Có lần, tuyết lông ngỗng bay mù mịt suốt đem, khí lạnh buốt người. Quan Công chợt nhớ mỗi sáng sớm Châu Thương đều đến sau đầm sâu Thủy Hoa Hà rửa đao, mày ông liền chau lại và đã nghĩ ra một kế sách. Trời vừa hửng sáng, Quan Công gọi Châu Thương tới, nói:
- Hôm nay trời lạnh, chúng ta đi luyện đao pháp cho ấm người.
Châu Thương nói phải. Thế là hai người đề đao lên ngựa đến trường luyện binh. Luyện được một giờ Quan Công ngưng tay, bảo:
- Thôi, trở về doanh ăn cơm cái đã!
Châu Thương trù trừ, nói:
- Tướng quân, ngài về trước đi, tôi còn phải đi rửa đao mới được.
Quan Công vờ ngạc nhiên, hỏi:
- Sao, đao phải rửa nữa à?
Châu Thương thật tình nói:
- Bộ tướng quân chưa biết sao? Đao này là thanh long biến thành, mỗi ngày đều phải tẩy rửa!
Quan Công nghe xong, nói:
- À, ra là vậy. Thế thì, đao này của ta cũng là thanh long biến thành, ngươi mang nó đem tẩy rửa luôn một thể!
Nói xong, Quan Công đưa đao cho Châu Thương và một mình trở về trước.
Châu Thương đến bên đầm Thủy Hoa Hà, ông quăng hai thanh đao xuống đầm sâu một lượt. Nhưng thanh đao của Quan Công chìm nghỉm ngay xuống đáy đầm sâu, còn đao của Châu Thương thì như ngày thường, lượn lờ trong nước chuyển qua chuyển lại. Ông hoảng hốt, vội vớt cây đao của mình lên và đi về gặp Quan Công. Ông ấp úng nói:
- Tướng quân, đao của ngài... chìm .. .xuống đáy đầm rồi.
Quan Công cũng không giận, giả vờ chưa hiểu, nói:
- Thế sao đao ngươi không chìm mà đao ta chìm?
Châu Thương chẳng biết trả lời làm sao, lại thấy Quan Công bước tới bước lui mấy bước, rồi thở ra nói:
- Ta thân làm đại tướng quân mà không có binh khí, làm sao ra trận giết địch đây?
Châu Thương bị gạt mà không hay, còn ngỡ lỗi do mình, nên nói:
- Nếu tướng quân không chê thì đao của tôi tặng cho ngài đó.
Quan Công chỉ mong được như vậy! Nhưng ông giả bộ chối từ:
- Thế thì sao được? Tặng đao cho ta rồi, còn ngươi?
- Tôi sẽ nghĩ cách khác.
Quan Công chỉ chờ có vậy. Từ đó, ông lại dùng Thanh Long Yển Nguyệt Đao.
Nhổ lông chân
Truyền thuyết ngựa xích thố của Quan Công, ngày đi ngàn dặm , tối đi tám trăm dặm. Châu Thương vác Thanh Long Yển Nguyệt Đao chạy bộ theo, nhưng không rời ngựa một bước. Nguyên vì trong lòng đôi bàn chân của Châu Thương mỗi bên có ba sợi lông. Ông đi trên đường, chỉ cần một cái vận thần, thì những sợi lông liền giương ra, tức thời hai chân sinh gió, chạy không chậm hơn ngựa xích thố chút nào.
Có một đêm nọ, Quan Công phụng mệnh dẫn một cánh binh mã đi phục kích quân Tào. Do bởi thời gian gấp rút, lộ trình xa nên Quan Công vụt ngựa xích thố chạy như bay, giục binh mã gấp rút lên đường. Châu Thương cũng vận hết thần lực để theo kịp ngựa. Lúc này ánh trăng chiếu vào người ngựa kéo chiếc bóng dài thườn thượt. Vô tình, Quan Công nhìn xuống đất thấy bóng người Châu Thương cao nghều nghệu, vác đại đao hướng vào cổ mình bổ tới. Ông thất kinh, ngoái đầu lại thì thấy Châu Thương đang theo bén gót bên lưng, bấy giờ ông mới biết mình lầm. Thì ra ánh trăng từ phía sau dọi xiên tới, khiến bóng họ trùng lấp lên nhau. Từ trên ngựa nhìn, thật giống hệt Châu Thương vác đao giết ông. Nhưng cho dù thế nào, Quan Công vẫn có chút nghi ngờ. Ông thầm nghĩ: Châu Thương vốn xuất thân là thảo khấu, lòng người khó lường, nên phòng bị vẫn hơn. Ông bèn hỏi Châu Thương:
- Nghe nói lòng bàn chân của ngươi có mọc lông, có thật vậy không?
Châu Thương giơ bàn chân lên, quả nhiên không sai, trên lòng mỗi bàn chân đều có ba sợi lông hồng hồng, trong chỗ tối hình như còn lấp lánh. Quan Công nói:
- Mấy sợi lông này làm cản trở bước đi của ngươi, chi bằng nhổ bớt mỗi bên một sợi đi.
Châu Thương vốn là hán tử thành thực chất phác, nghe Quan Công nói thế, bèn nhổ bớt mỗi bên một sợi đi. Ai ngờ việc này đã khiến cho ông chạy không còn kịp ngựa xích thố nữa. Cho dù ông cố gắng vận sức cách mấy, rốt cuộc vẫn còn một khoảng cách chưa theo kịp. Bấy giờ Châu Thương mới biết mình bị lừa, nhưng có hối cũng không còn kịp nữa.
Châu Thương đi ngã tắt
Con người vì muốn tiện lợi nhanh chóng, nên thường tìm đường tắt mà đi. Nói rằng, người ưa đi đường tắt nhứt phải kể là Châu Thương.
Từ lúc Quan Công vờ vịt gạt nhổ lông bay trên lòng bàn chân Châu Thương thì Châu Thường không còn chạy nhanh được nữa. Mỗi lần hành quân đánh trận, Châu Thương luôn phải lục tục chạy cách sau đít ngựa một khoảng xa, thế nên không ít lần bỏ lỡ chiến cơ. Quan Công hiểu được lỗi lầm này là do chính mình tạo ra nên cũng không trách móc gì Châu Thương.
Có lần, quân Tào kéo tới đánh Kinh Châu, Quan Công lên ngựa Xích Thố, lãnh binh chống lại. Thấy người ngựa binh Tào dày đặc, Châu Thương đâm ra quýnh quáng. Ông cố chạy thục mạng theo sau ngựa Quan Công. Nhưng hai chân có chạy chí chết cũng không theo kịp bốn chân, khiến Châu Thương mệt đến toát mồ hôi, hơi thở hào hển mà càng lúc càng xa Quan Công, Châu Thương là người tánh nóng nảy, bối rối, chân lạng quạng. Tới một ngã ba, ông sẩy chân té lộn nhào xuống ruộng. Ông vội lồm cồm bò dậy, ngó về phía trước: A! Hóa ra nhờ cái té đó mà gần ngựa xích thố hơn. Lúc này quân Tào như nước cuốn vỡ bờ, Quan Công ngồi trên ngựa, ngoái đầu gọi to:
- Châu Thương! mang đao lại cho ta.
Châu thương không còn kịp trở lên đường, ông bằng tắt qua ruộng đưa đại đao cho Quan Công. Quan Công ngồi trên lưng ngựa lấy lại tinh thần, phấn chấn thần oai, xông vào địch quân, giết quân Tào đến máu thịt văng tứ tung, quăng khôi giáp mà chạy.
Quan Công đánh thắng trận rồi, ông tập hợp quan binh bày tiệc thết đãi để thưởng công. Giữa tiệc, ông hỏi Châu Thương:
- Việc đánh lui binh Tào này may là nhờ người theo kịp đưa đao cho ta, ta phải ở trước mặt đại ca đề nghị ban công cho ngươi. Sao, lông bay trên lòng bàn chân ngươi đã mọc dài rồi chớ?
Châu Thương đáp:
- Chưa đâu, việc này là nhờ tôi băng theo đường ruộng đó.
- Thế là thế nào?
Châu Thương không biết trả lời ra sao, mọi người cũng chưa hiểu. Quan Công bèn lấy chiếc cung mang theo bên mình giơ lên, nói với mọi người:
- Các ngươi xem chiếc cung này đây. Hai bên là hai còn đường. Ta cỡi trên ngựa là đi theo cần cung, còn Châu Thương băng ruộng là đi theo dây cung, cho nên có thể nói hắn chạy theo đường tắt...
Mọi người bây giờ mới vỡ lẽ. Châu Thương nhân vì theo đường tắt mà lập công.
Trương Phi xỏ kim
Trương Phi sắp xuất chinh. Một hôm, bà cụ Triệu phu nhân nói:
- Trước khi con xuất chinh có thể làm việc này cho mẹ đuợc không?
Trương Phi hỏi:
- Phải chăng là việc dời núi lấp biển?
Triệu phu nhân nói:
- Không phải dời núi, mà cũng không phải lấp biển, nhưng so với việc dời núi lấp biển còn khó hơn.
Trương Phi nhún vai, nói:
- Trên đời này có việc gì khó đối với Trương Dực Đức con đâu!
Triệu phu nhân đem chiếc kim thêu và mảnh lụa hồng ra, bảo:
- Thế thì con giúp mẹ xỏ kim này.
Trương Phi ha hả cười lớn:
- Xỏ chỉ luồn kim ai mà chả làm được, cần chi đến con!
Nói xong, bàn tay gồ của Trương Phi, một tay tiếp lấy kim, một tay tiếp lấy chỉ. Ông nhắm ngay lỗ kim mà xỏ mạnh qua. Nhưng đầu chỉ đâu giống dao mổ heo, đã bị lệch qua mé tả. Một lần không thành, lần thứ hai lại xỏ lệch qua mé hữu. Trương Phi bỏ kim chỉ xuống, ông nhổ nước miếng vào lòng bàn tay, lại xỏ lần thứ ba - lần này xỏ rất chính xác, nhưng đầu chỉ bị tưa ra, không thể nào xỏ vô được.
Trương Phi tròn xoe cặp mắt, bỏ kim chỉ xuống, nói:
- Chắc mẹ cố tình muốn gây khó cho con! Chỉ to hơn lỗ kim, làm sao mà xỏ được chớ?
Triệu phu nhân nói:
- Chẳng là con đã nói, trên đời này không có việc chi là khó đối với con đó sao?
Trương Phi bị hỏi vặn, lòng tức tối nói:
- Con không tin có việc chi khó đối với con cả!
Nói xong, một tay cầm kim, một tay cầm chỉ, lại xỏ loạn. Và thế này chỉ làm cho đầu chỉ tưa ra thêm thôi. Trương Phi gắng hết sức xỏ đến mắt lớn trừng mắt nhỏ mà vẫn xỏ chưa được, đành buột miệng nói:
- Cái vật quí này, mày làm khó tao ư!
Triệu phu nhân ở bên cạnh nói:
- Mẹ nghe nói, người biết dụng binh thường lấy hư làm thực, lấy thực làm hư, có phải vậy không?
Trong lòng Trương Phi sáng ra được ba phần, ông bèn se đầu chỉ cho nhỏ và xỏ nữa, song vẫn chưa lọt qua vì đầu chỉ cứ tưa ra mãi. Trương Phi không để ý, ông ngó qua mẹ cầu cứu. Triệu phu nhân nói:
- Mẹ nghe nói, người biết dụng binh thường mượn nước công địch, phải vậy chăng?
Trương Phi vụt hiểu ra, ông bèn đưa đầu chỉ nhấm vào miệng và vuốt nhỏ lại, thế rồi ông đã xỏ được.
Trương Phi vui mừng đến nhảy cẩng lên. Chính trong lúc đang đắc ý, chợt Triệu phu nhân kéo sợi chỉ ra. Trương Phi nói:
- Con đã hết hơi hết sức mới xỏ được, sao mẹ kéo ra?
Triệu phu nhân bảo:
- Cái chuyện xỏ kim đơn giản này, mẹ cần gì phải phiền đến con chứ. Con sắp xuất chinh đánh giặc, sau này không thể bừa bãi làm càn, mà phải nhớ chuyện xỏ kim ngày hôm nay. Việc chi cũng vậy, trước khi làm cần suy tính chín chắn, trong cái thô có cái tế, có dũng cũng cần có mưu thì mới có thể trăm trận trăm thắng được.
Cái đãy của Lưu Bị
Sau đào viên kết nghĩa, Lưu, Quan, Trương - ba người thường tụ họp kháo chuyện và cùng đi uống rượu. Mỗi lần như vậy, Lưu Bị đều gọi món ăn, và sau đó thì Lưu Bị mượn cớ rút lui trước, để cho Quan Trương trả tiền rượu thịt.
Bữa nọ, sau khi ăn uống xong, Lưu Bị y mửng mấy lần trước lại bỏ đi. Trương Phi trả tiền, đang dợm với Quan Vũ đứng lên thì chợt phát hiện cái đãy của Lưu Bị bỏ quên không mang theo. Chiếc đãy này, Lưu Bị luôn mang theo bên mình. Theo Lưu Bị nói trong đó là cát, cát hàng hỏa, ông hay có chứng hỏa vọng làm nhức đầu, thành thử đặc biệt dùng chiếc đảy này làm gối để giảm bớt hỏa khí.
Trương Phi nhặt chiếc đãy của Lưu Bị và mở ra xem thì thấy ở trong đầy ắp toàn là bạc vụn. Quan Vũ và Trương Phi nổi xung liền đi tìm Lưu Bị. Đến trước mặt Lưu Bị. Trương Phi quăng chiếc đãy trên bàn, nói:
- Đại ca, cát trong đãy anh mát lạnh ghê!
Lưu Bị thoạt thấy đãy mình trong tay Trương Phi, trong lòng đã hiểu ra một nửa, tự trách mình quá lơ đễnh. Và khi thấy Trương Phi quăng mạnh chiếc túi thì ông hiểu: hai người đã biết bí mật trong túi ấy. Bây giờ đầu óc Lưu Bị chuyển nhanh, ông vờ tỉnh bơ như không việc gì, hỏi:
- Tam đệ, đãy này thế nào vậy?
Trương Phi bất mãn nói:
- Thì tự xem đi!
Quan Vũ ở một bên cũng khịt mũi một cái.
Lưu Bị chỉ còn cách nhặt chiếc đãy lên, từ từ mở ra. Khi bạc trong đãy sắp lộ ra, Lưu Bị quì gối xuống đất, hốt đất làm hương, miệng niệm lâm râm:
- Thần minh ở trên nhận cho đệ tử Lưu Bị một lạy! Xin thần minh giúp đỡ, biến cát của Lưu Bị tôi thành bạc, Lưu Bị tôi không bao giờ phụ ý trời, nhớ mãi thần ân, giữa trời đất làm nên một phen sự nghiệp!
Chưa hết, ông lại còn dập đầu mấy cái.
Cái trò ngờ nghệch này khiến cho Quan Vũ và Trương Phi đứng một bên phải sững sờ: họ ngỡ mình trách lầm đại ca, mà xác thực là đại ca có ý trời giúp đỡ. Lập tức, lửa giận nguôi đi. Chẳng những như vậy, họ còn nghe theo lời Lưu Bị, vì họ đều tin cái "ý trời" của Lưu Bị.
Lã Bố chọn Hoạ Kích
Lã Bố vốn là kẻ hữu dũng vô mưu song cũng có thể nói là người rất khắt khe trong việc chọn binh khí. Thoạt đầu y định chọn một cây thương dài ba tấc song lại thấy cây thương đó thật không vừa với sức vóc trai tráng của mình, y cầm cây thương đó lên múa tung hoành vài chiêu thì trời bỗng nổi gió lớn nhưng mà cây thương thì bị cong queo trông hết sức thảm thương. Lã Bố vứt cây thương xuống đất mặt ngửa lên trời mà than rằng:
- Trên đời này chả có thứ binh khí nào hợp với ta cả.
Tên hầu cận nghe thấy vậy bèn lon ton chạy ra mà rằng
- Ở xứ Long Xuyên có một người chuyên mài rèn binh khí cho các võ quan trong triều nghe nói thứ binh khí nào do anh ta làm ra cũng đều có sức bền bỉ cả, không biết tướng quân có ưng ý không thì cho người sai anh ta làm
Lã Bố nghe thấy vậy thì trong lòng vui mừng lắm nhưng y lại nghĩ với sức vóc của ta không biết nên chọn loại binh khí nào thì phù hợp, nghĩ đến đây Lã Bố đành đi dạo trong hoa viên. Khi mới bước chân vào cổng hoa viên y thấy cành trúc trên cao uốn éo khác thường, hình dạng của nó trông như đầu của một cây học kích vậy y liền có ý tưởng làm thử một cây như vậy xem sao và lập tức cho người đốc thúc anh thợ rèn ở Long Xuyên làm. Ba ngày sau cây Hoạ kích đó được hoàn thành thân dài hơn ba tấc nặng 90 cân, Lã bố thấy có được binh khí mới thì hào hứng nhấc cây Hoạ kích lên múa vài chiêu nhưng càng múa càng hăng say khi dừng lại thì đã thấy cây cối xung quanh đều đổ cả, binh sĩ thì kẻ nào người nấy chạy tán loạn. Uy phong của Lã Bố cũng từ đó mà vang vọng.
Tào Phi sửa cầu
Diêu Hà của Định Viễn vốn tên Dã Khê. Trên Dã Khê có một chiếc cầu đá tên cầu Lư, nói rằng cầu này do Tào Phi tu sủa.
Truyền thuyết năm ấy Tào Tháo khởi binh, nhân mã chưa nhiều, hay thua xiểng liểng. Nhưng ăn chén ngó nồi, ông quyết lòng tranh thiên hạ nên ngấm ngầm chuẩn bị. Một hôm, ông hỏi riêng đứa con Tào Phi:
- Con thấy thế nào mới có thể hàng cứ được thiên hạ?
Tào Phi đáp thẳng:
- Chiêu binh mãi mã, phất ngọn cờ lớn mà đánh!
Tào Tháo nói:
- Cây to gió lớn, e lỡ lầm đại sự. Con hãy ngấm ngầm giúp cha chuẩn bị.
Theo đó, Tào Tháo dẫn Tào Phi đến bên Diêu Hà, chỉ dòng nước rẽ hai, một chảy về đông, một chảy về tây, nói:
- Nơi này địa thế rất thuận lợi để rèn binh khí. Xung quanh không người, không đường lớn, không để lộ phong thanh. Con lãnh một số người ở đây ngầm rèn binh khí nhé!
Tào Phi biết binh khí chưa cần gấp lắm, việc làm cũng nhẹ nhàng thôi, nên buột miệng nhận lời ngay. Tào Tháo vẫn chưa yên lòng, lại còn căn dặn:
- Nuôi binh ngàn ngày, dùng trong một lúc. Đến khi cha cần con phải ngàn thuyền vạn xe chở binh khí tới. Trong thời gian ba khắc phải cung ứng đủ bốn phương tám hướng. Nếu như lỡ việc lớn thì con chớ trách cha sao không nể tình.
- Con hiểu, lời cha như chém sắt, con không dám trễ nải.
Thế rồi Tào Phi chọn một bãi lớn, xây 9999 lò rèn, tìm 9999 thợ rèn, ngày đêm thụt bể thổi lò, đúc rèn binh khí. Lò lửa ánh xuống nước sống một màu hông, làm dòng sông trở nên tuyệt đẹp. Về sau người ta gọi sông này là Dã Khê. Và bãi này giống như một con rùa lớn đang bò, nên gọi là bãi Rùa.
Về sau, binh khí rèn được càng lúc càng nhiều, chất đống thành núi, Có điều, nếu có lệnh truyền trong thời gian ba khắc thì không thể nào vận chuyển hét đi được, thế phải làm sao? Tào Phi bèn cho người vận chuyển vô số tảng đá lớn tới, dùng mạt sắt đổ làm nên, trên song tu sửa lại một chiếc cầu đá lớn. Cầu rộng hơn trượng, dài hơn mười trượng kiên cố như vách sắt tường đồng, mỗi ngày ngàn cỗ xe có thể đi qua dưới cầu, nước thông lưu, có thể trương buồm qua lại.
Như vầy thì binh khí có thể vận chuyển kịp thời đến tay Tào Tháo. Và Tào Tháo cũng đã nhờ vào binh khí này mà đánh thắng không hết biết bao nhiêu trận. Tào Tháo cảm thấy Tào Phi rất mẫn cán, nên về sau ông truyền ngôi vị cho Tào Phi. Người đời sau vẫn nhớ việc Tào Phi tu sửa cầu, nên hết lời khen tặng. Vì thế ở bên cầu, người ta thấy vô số bia đá ghi công.
Giếng bốn mắt
Ở Lạc Dương có cái giếng bốn mắt rất nổi tiếng. Một giếng mà có bốn miệng. Nói rằng gàu thòng xuống kéo nước lên có bốn vị chua, ngọt, đắng cay khác nhau. Đó là vì giếng này có lai lịch bất bình thường.
Tương truyền Tào Tháo từng đóng quân, luyện binh ở dải đất này, cho nên quanh vùng còn để lại những dấu vết, tượng đài, bãi luyện binh. Ở đây vốn dân cư thưa thớt, người dân trong vùng chỉ sử dụng một cái giếng nhỏ. Việc lấy nước lên cũng chỉ bằng một chiếc gàu nhỏ. Nhưng bây giờ ngàn quân vạn mã tới đây, người muốn uống, ngựa muốn uống thì nước làm sao có thể đủ dùng? Huống chi bá tánh ở đây cũng không thể nhân vì thế mà nhường! Quân và dân tranh lấy nước thường xảy ra chuyện rắc rối, đôi khi còn gây gỗ ẩu đả nhau.
Sau này Tào Tháo biết được, ông lệnh cho binh sĩ đào một cái giếng khác. Giếng mới này vừa sâu vừa rộng, mạch nước như sông, ngày đêm tuôn không ngừng. Nhưng tiếc là giếng chỉ có một miệng, nếu như mọi người cùng tới kéo nước thì rất dễ bị té xuống giếng. Lại nói bọn binh sĩ trai tráng sức mạnh nên chen nhau tới trước còn ngưòi dân già yếu, bệnh tật không xen vô được, chỉ có thể đứng trố mắt nhìn thôi. Do đó, tiếng dân óan trách không ngớt. Một số người "già miệng" còn chửi bới om sòm, nói rằng Tào Tháo ăn lương dùng cỏ đều dựa vào dân, vậy mà cho chút nước cũng tiếc, không được lòng dân, quyết không làm nên trò trống gì.
Tào Tháo biết chuyện. Ông bèn bảo cho người khiêng tới một tảng đá hình chữ nhựt rất lớn. Ở hai đầu tảng đá đục hai lổ tròn có thể bỏ chiếc gàu xuống được Sau đó khuân tảng đá gác lên giữa miệng giếng. Vì vậy miệng giếng này thành giếng bốn mắt, mỗi mắt đều có thể thòng gàu xuống múc nước được. Tào Tháo chỉ miệng giếng nói với mọi người:
- Từ nay về sau sẽ không sợ té xuống giếng nữa; hai mắt cấp cho lính dùng, hai mắt cấp cho dân dùng. Nhất nhất không được tranh giành nhau nữa!
Mọi người đều cám ơn Tào Tháo. Họ cứ chiếu theo lời dặn của ông mà làm. Và vì người tới xách nước đều đối xử tốt với nhau, nên cảm thấy nước giếng đặc biệt ngọt. Lại vì giếng từng trải qua chua, ngọt, đắng, cay, cho nên mọi người có cảm giác như từ trong một giếng nước mà có thể thấy ra nhiều mùi vị khác nhau.
Cầu Tam Bách Cống
Trên sông ngoài cửa đông Hứa Xương có một cầu cống nhỏ, gọi là cầu Tam Bách Cống. Tương truyền vào thời Tam Quốc cầu này do Tào Tháo xây.
Từ trên ngự đạo thông qua Cổ Thành Hứa Xương có con sông Thanh Tháp, một chiếc cầu nhỏ được bắc từ đông sang tây. Mỗi lần hoàng thượng xuất du đến Hứa Xương, hoặc văn võ bá quan buổi sớm đi chầu, xe rồng rộn rịp, kiệu qua ngựa lại, đều phải đi qua đây. Do vì cầu quá hẹp nên thường xảy ra việc kẹt lối giữa người ngựa . Quốc cựu Đổng Thừa tướng muốn mượn lý do này mà giết chết Tào Tháo. Ông bèn tâu với hoàng thượng, buộc Tào Tháo trong vòng một ngày phải xây xong chiếc cầu ba trăm ống cống để nước lưu thông dễ dàng. Nếu làm không xong thì sẽ kết tội giết ông.
Tào Tháo ngồi nằm không yên, ông cứ chau mày đi tới đi lui trong hoa viên. Chợt ông thấy một khúc gỗ bách nằm chỏng chơ, trong lòng liền sáng ra. Ông bèn ngồi uống rượu đánh đàn, tỏ ra hết sức an nhàn thư thái. Thấy trời sắp tối mà còn chưa động tĩnh chi, bọn mưu sĩ của ông nôn nóng không chịu được. Có người bước tới, hỏi:
- Thừa tướng, thời giờ sắp hết, phải làm sao đây?
Tào Tháo cười nhạt, bảo:
- Đừng nôn nóng, ta đã có cách rồi.
Đổng Trác được biết Tào Tháo còn chưa rục rịch, ngầm mừng rõ, bảo rằng Tào Tháo túc trí đa mưu , lần này thì đầu hắn chắc sẽ bị treo ngoài thành.
Đợi tới lúc sao mọc đầy trời, Tào Tháo mới dẫn bọn tướng sĩ và thợ tới sông Thanh Tháp. Ông hạ lệnh hỏa tốc bắc cầu. Bọn tướng sĩ kẻ gánh người vác, kẻ đẽo người cưa, chưa đến gà gáy sáng thì một chiếc cầu lớn đã hoàn thành. Tiếp đó, Tào Tháo lại kêu bọn lính , từ trong hoa viên, bứng ra ba gốc bánh trồng ở bên đầu cầu.
Hôm sau, bãi triều sớm, Đổng Trác dẫn nhân mã đến nghiệm thu cầu. Thoạt thấy chiếc cầu, ông liền tức giận, quát:
- Cả gan cho Tào tặc, dám chống đối thánh chỉ, phép nước khó tha!
Tào Tháo cười lạnh lùng, giơ tay chỉ ba cây bách, lại chỉ chiếc cầu cống lớn, cất giọng sang sảng, nói:
- Cầu tam bách cống, tôi đã hoàn thành xong đúng kỳ hạn, sao nói tôi chống thánh chỉ chớ?
Đổng Trác trừng mắt câm mồm, chỉ còn cách hậm hực trở về phủ.
Trương Phi cứu Lưu Kỳ
Ở Tương Dương có châu Thái Gia. Nhà Sái thị, vợ bé của Lưu Biểu ở đây. Sái thị người độc ác, luôn ganh ghét với Lưu Kỳ, con của bà vợ lớn. Bà ta thường lui tới người em Sái Mạo để bàn mưu tính kế trừ bỏ Lưu Kỳ. Lưu Kỳ biết vậy, bèn tới Gia Cát Lượng hỏi kế sách. Gia Cát Lượng viết vào lòng bàn tay ông một chữ "Ra", muốn ông nên tìm một nơi lánh đỡ. Do đó ông tìm tới Lưu Biểu xin được ra trấn thủ đất ngoài.
Sái thị biết được, liền nhờ Sái Mạo giả vờ đi đưa tiễn mà lãnh binh đuổi theo Lưu Kỳ, để thừa cơ giết ông.
Sái Mạo dẫn binh ra thành đuổi theo, nào dè trên đường gặp phải Trương Phi chận đường cản lại. Trương Phi tay cầm bát trượng xà mâu, từ đằng xa trợn mắt nói:
- Sái tướng quân, phải chăng ông hưng binh đánh giặc, thế thì cho tôi làm tiên phong đi đánh với?
Sái Mạo ngầm kêu khổ, lòng nghĩ: "Để hắn đeo theo bên mình thật gây trở ngại, như vậy làm sao có thể giết Lưu Kỳ được?" Thế nên ông ta vội bước tới trước bành miệng cười:
- Tôi vốn đi tiễn công tử Lưu Kỳ thôi chớ nào phải hưng binh động võ gì. Tôi chưa dám phiền đến tướng quân, nhờ ông tránh ra cho.
Sợ Trương Phi ngờ vực, Sái Mạo bèn cố ý chỉ rượu ngon thịt béo mà binh lính mang theo sau, nói:
- Xem kìa, đều là rượu ngon thịt béo cả đấy!
Trương Phi cười lên ha hả, bước tới xem thịt, ngửi mùi rượu, sau đó nói:
- Rượu thịt đã sẵn thế này, tướng quân có thể nể mặt Trương mỗ tôi mà cùng chén một bữa chăng?
Sái Mạo sợ Trương Phi làm chậm trễ công việc nên bảo thủ hạ để lại một phần rượu thịt cho ông và chuẩn bị tiếp tục lên đường đuổi theo. Ai ngờ Trương Phi tiếp lấy rượu thịt, lại giơ ngang trường mâu cản trở, nói:
- Một người không thể thi uống được, phải hai người mới vui. Hôm nay rượu của Sái tướng quân, chúng ta ở đây đối ẩm một bữa cho đã!
Trong lòng Sái Mạo nóng như dầu sôi, nhưng không biết làm sao bèn phải cầm lấy ly. Trương Phi rót rượu từ trong bình ra, nói:
- Chủ không mời, khách không uống! Nào! Mời tướng quân uống trước.
Sái Mạo đang nôn nóng, vội bưng ly cạn ráo:
- Xin tướng quân từ từ ở đây uống một mình nhé. Tôi cần tiễn Lưu Kỳ nên đi trước vậy.
Trương Phi nằng nặc không nghe, nhất định muốn ông ở lại uống rượu.
Bây giờ trong lòng Sái Mạo mới dần dần rõ lẽ ra: Trương Phi nào phải muốn uống rượu rõ ràng là cố ý cầm chân ta để làm trễ nải thời gian cho Lưu Kỳ thoát thân đi xa. Và ông chợt nghĩ ra, điều này hẳn là do sự sắp xếp của của Gia Cát Lượng. Do đó, ông không đếm xỉa gì tới lời Trương Phi nữa, vội vẫy tay bảo thủ hạ:
- Này, mau xuống núi!
Trương Phi thấy vậy, cũng trở mặt, nói:
- Bộ ỷ người đông rồi muốn hiếp ta được ư? Chỉ sợ các ngươi hè nhau lại cũng không phải là đối thủ của lão Trương ta đâu.
Nói xong, Trương Phi dang chân cỡi trên hòn đá dùng sức kẹp lại, chỉ nghe "rốp" một tiếng, tức thì hòn đá vỡ nát. Bọn binh lính của Sái Mạo bị thần lực Trương Phi dọa đến hết hồn, không ai dám cất bước. Đợi đến khi tỉnh lại thì Trương Phi đã đi mất tự bao giờ, và nhân mã của Lưu Kỳ cũng mất dạng biệt tăm.
Tuân Úc ướm lời
Tương truyền vào cuối đời Đông Hán, Tào Tháo ở Sơn Đông phất cờ trung nghĩa, chiêu binh mã được hơn 30 vạn, quyết lòng thâu tóm đất Trung Nguyên. Trước khi ra quân, có một lão hòa thượng trao cho ông một cẩm nang, bảo:
- Sau khi ông tiến quân vào Trung Nguyên, nếu có người dám đề tên mắng ông thì ông hãy xem cẩm nang này sẽ rõ:
Tào Tháo cất giấu cẩm nang, thống suất đại quân ồ ạt đánh rốc vào Trung Nguyên. Đi tới đâu gà chó đều chạy, trên đường vắng bóng người. Khi đến Hứa Xương ông phát hiện trên cửa thành có dán một mảnh giấy, trên viết hàng chữ "Tào Tháo đến Hứa Xương khó an khương". Bên dưới còn đề rành rành bốn chữ "Hứa Xương Tuân Úc".
Tào Tháo đọc xong liền nghiến răng bốc lửa giận. Đang muốn hạ lệnh bắt Tuân Úc, chợt ông nhớ tới túi gấm mà vị tăng đã trao tặng bèn mở ra xem. Thì ra đó là một tờ giấy trắng có viết mấy chữ:
Khai khẩu tựu thưởng ngọ,
Nhựt lạc thiên nguyệt thượng.
Thập thiên đầu trường thảo,
Hoặc tự tam phiệt bàng.
Tài quá tích Tử Nha,
Mưu thâm tự Tử Phòng.
Đây là bài thơ ẩn ý. Tào Tháo xem tới xem lui một hồi chợt hiểu ra, mừng rỡ nói:
- Hứa, Xương, Tuân, vốn có tài của Tử Nha, Tử Phòng! Ta phải mời ông ta đến.
Tào Tháo bèn sai Tào Nhân đi mời Tuân Úc. Tuân Úc cố ý đóng cửa không ra. Tào Nhân nổi giận, trở về phịa thêm chuyện nói Tuân Úc dám xem thường Tào Tháo, đề nghị giết ông ta. Tào Tháo quát bảo:
- Cả gan cho nô tài mi, giết ông ta thì chẳng khác chi chặt hết cánh tay ta, mi biết chăng?
Về sau, Tào Tháo thêm hai lần nữa cho mời Tuân Úc nhưng không gặp , dẫu vậy ông cũng chẳng nản lòng.
Một hôm, Tào Tháo nghe nói Tuân Úc đi tế mộ phần ở phía đông bắc thành Bát Bách, bèn chuẩn bị lễ vật tới ra mắt. Tào Tháo đến nơi, thấy một thanh niên khoảng chừng hai mươi mấy tuổi, cốt cách phong lưu, dáng vẻ đường đường, đang chăm chú đọc sách "Tôn Tử binh pháp" mà đầu không hề ngó lên. Chợt một cơn gió thổi qua, cuốn sách bị thổi rơi xuống đất. Tào Tháo vội bước tới nhặt lên, cung kính để lại trên bàn, thi lễ nói:
- Tuân Công an khang!
Tuân Úc nhắm mắt lại hỏi:
- Tiên sinh là ai? Tới đây có việc chi chăng?
Tào Tháo đáp:
- Tôi là Tào Mạnh Đức người quận Tiều, tới mời Tuân công cùng chung lo giang sang nhà Hán.
Tuân Úc nói:
- Không sợ tôi mắng ông hay sao?
Tào Tháo gật đầu lia lịa, nói:
- Mắng mà có lý, mắng nhiều càng tốt.
Tuân Úc viện cớ chân có tật không thể đi đứng được.
Tào Tháo bèn tự dắt tới một con ngựa tốt, đỡ Tuân Úc ngồi lên và tiền hô hậu ủng đón vô điện Cảnh Phước.
Về sau, Tuân úc khuyên Tào Tháo phải nghiêm minh kỷ luật, chăm lo bá tánh, chiêu hiền đãi sĩ, săn đón nhân tài thiên hạ. Tào Tháo bèn hỏi:
- Chọn người hiền thế nào?
Tuân Úc nói:
- Hễ có tài là đề cử. Cho dẫu anh em bà con, nếu có tài thật đều sử dụng được cả.
Tào Tháo nghe qua, vỗ tay tán đồng. Ông nghe theo kiến nghị của Tuân Úc, bèn công bố năm đạo lệnh cầu hiền. Do vì Tào Tháo biết trọng dụng người tài nên có nhiều hiền tài Trung Nguyên đến giúp ông.
Tào Tháo đánh Bồ Tát
Năm ấy, Tào Tháo được hoàng thược phong làm tri phủ Tế Nam. Sau khi tới nhậm chức, ông thấy trong thành Tế nam, chùa chiền đâu đâu cũng mọc lên như măng rừng trúc, không biết cơ man nào kể. Ông còn thấy bá tánh lũ lượt tới chùa dâng hương cúng Phật, bao nhiêu tiền của mồ hôi nước mắt đều rơi vào hồ bao của thân hào phú thương. Do đó, ông muốn ra mặt dạy cho những hào phú này một mẻ.
Một hôm, nhân lúc thành Tế Nam làm lễ tế liên tục ba ngày, Tào Tháo bèn giả dạng một thư sinh nghèo, tới một chùa lớn trong thành.
Khi sắp tới phiên Tào Tháo tế, ông ngậm một hạt châu chuẩn bị trước trong miệng, chỉ chỉ vào miệng mình, ý nói là cầu Bồ Tát bỏ hộ cho miệng ông được hết sưng. Thân hào quản lý chùa ngó thấy cúng phẩm của Tào Tháo là ba cục cốm đen, trong lòng không vui, mặt bí xị nói:
- Tế lễ lòng phải thành, không thành thần chẳng linh.
Nếu muốn hết miệng sưng, minh châu thay đồ cúng.
Hôm sau, Tào Tháo cũng y như vậy, ông đem ba cục cốm đen đến cúng, nhưng trong miệng thì ngậm hạt châu lớn hơn. Thân hào quản lý thấy đồ cúng của Tào Tháo vẫn là ba cục cốm đen càng bực tức hơn nữa. Lại thấy miệng người này còn sưng lớn hơn hôm qua, liền gặn giọng nói:
- Tế lễ không thành, thần linh đã quở trách.
Chẳng cúng gà dê heo, miệng sưng sao hết được?
Đến ngày cuối, Tào Tháo lại ngậm hai hạt châu trong miệng, khiến miệng càng "sưng" to hơn. Ông tới chùa, thân hào quản lý chùa thấy miệng người này càng sưng to thêm, nhưng đồ cúng vẫn là ba cục cốm đen, lòng nghĩ: chẳng lẽ người này bị điếc, đã nói hai lần rồi mà vẫn không nghe! Do đó, ông ta từ trên đài tế nhảy xuống, kề sát tai Tào Tháo quát lớn:
Bánh cốm đem tế lễ, vô tâm bái thần linh.
Nếu không đổi lễ cúng, mạng sống e không còn!
Ông ta nói xong, Tào Tháo liền há miệng, hai hạt châu bắn ngay vô mặt hắn; theo đó là hai tiếng tát tai "bốp bốp" giáng vào mặt hắn. Tào Tháo vừa đánh vừa nói:
- Ta đổi lễ cúng cho mi đó!
Bọn thân hào khác trong chùa thấy vậy liền xáp vô vây Tào Tháo lại, và muốn hành hung ông. Vừa nghe tiếng gây gổ, đám quân chực hờ do Tào Tháo căn dặn trước liền chen tới, họ giơ cao ấn quan của Tào Tháo, quát lớn:
- Đây là Tào đại nhân mới tới nhậm chức, ai dám cả gan đâu?
Bọn thân hào quản lý chùa thoạt nghe, tên nào tên nấy cũng đều xếp ve chưng hửng. Tào Tháo thừa cơ nhảy lên đài tế, chỉ mấy Bồ Tát bằng đất, nói với các thần hào phú thương đã lợi dụng lòng mê tín để vơ vét của tiền bá tánh. Sau cùng ông tuyên bố ba điều: Một là toàn bộ gia tài của thân hào phú thương không tịch thu, nhưng phạt khổ dịch ba năm; hai là từ nay ai còn cúng bái thần linh nữa, cho dù là quan chức lớn nhỏ, đều nhất luật tăng thuế gấp mười; ba là bá tánh chủ động phá bỏ chùa miếu Bồ Tát thì được miễn thuế ba năm. Thế là trong thời gian chưa đầy mười ngày, các Bồ Tát trong thành Tế Nam đều bị đánh bể nát sạch. Từ đấy về sau, Tào Tháo mỗi khi đi đến đâu, hễ thấy tượng Bồ Tát là đánh, thấy chùa miếu cúng tế Bồ Tát là phá. Phàm địa phương nào ông quản hạt, đều không có miếu Bồ Tát.
Tiệc tùng không dọn thịt chó
Đổng Trác vô kinh không lâu, đã phế Thiếu đế, lập Hiến Đế. Nói là lập Hiến Đế chớ trên thực tế lão nắm hết quyền hành, Hiến đế chỉ có vị mà thôi. Bá quan văn võ trong kinh thành, ai có chút gì bất mãn lộ ra nét mặt trước việc làm của lão thì bị chém đầu ngay. Chỉ trong một thời gian, máu kinh đô chảy thành sông, thây chất thành núi, người chết vô số kể.
Ban đầu, nếu nghi ngờ ai Đổng Trác còn kêu tới hỏi sau đó là giam hoặc giết. Nhưng rồi lòng nghi của ông quá mạnh. Kẻ tâm phúc lại bày vẽ, kêu ông làm bữa tiệc thịt chó, mời quan viên lớn nhỏ tới dự tiệc. Người tới dự tiệc phải từ lỗ chó bò vô, phàm ai không chịu bò thì nhất luật giết chết.
Lúc này, Tào Tháo đang làm quan ở phủ Tế Nam, nhận thấy các bạn hữu ở kinh đô đều được Đổng Trác "mời" dự tiệc, và thấy nhiều người bị giết, lòng ông thật không an. Nếu như bò vô thì đó là cái nhục rất lớn của nam tử hán; còn nếu không chịu bò thì tánh mạng cũng chỉ thế thôi! Vả lại, mình đang có hoài bão lớn, vì muốn thực hiện nó mà phải bôn ba khắp xứ, nếm đủ mọi gian nan, ví bằng để chết thế này thì cái hoài bão sẽ trở thành bọt nước! Hàn Tín năm ấy cũng chẳng đã chịu cái nhục lòn trôn đó sao? Qua một phen đắn đo suy nghĩ, Tào Tháo quyết định làm một đại trượng phu vừa nhu vừa cương.
Đến phiên Tào Tháo bò qua cửa chó, ông chẳng chút do dự cúi lưng. Đổng Trác thấy có người khuất phục bò vào, lão rất vừa ý. Lại hỏi chuyện với Tào Tháo một hồi, Tào Tháo cứ hỏi đâu trả lời đó, hơn nữa mỗi câu trả lời đều làm hài lòng Đổng Trác. Đổng Trác cao hứng, bèn dùng Tào Tháo làm kẻ tâm phúc, dời ông về kinh đô phong chức Đốc quân tuần thành, lại đem ấn quan mới giao cho ông.
Tào Tháo làm đốc quân tuần thành, nhận ấn quan mới, ông bèn lấy danh nghĩa tuần thành thoát thân. Thấy khắp nơi đều có quân đội của Đổng Trác xét hỏi, ông giơ cao ấn quan mới, một mạch giục ngựa nhắm cửa thành chạy đi. Quan sĩ giữ cửa thành thấy ông giơ quan ấn ra cũng chẳng màng hỏi tới, cứ để ông ra khỏi thành. Khi Đổng Trác sực tỉnh liền tức tốc phái người đuổi theo, nhưng đã trễ, Tào Tháo đã sớm ra khỏi thành và không thấy bóng hình đâu nữa.
Tào Tháo tuy đã trốn thoát nhưng ông không thể nào quên cái nhục của lần dự tiệc thịt chó. Cho nên sau này, trong địa bàn quản hạt của Tào Tháo, thịt chó không dùng trong bữa tiệc, và dần dần trở thành một thứ tập tục. Mãi đến nay, món ăn nào cũng có thể dọn lên bàn, duy chỉ riêng món thịt chó bổ khí, tráng dương mùi vị thơm ngon này là không thấy bày lên bàn , ấy cũng bởi vì nguyên nhân này.
Củi đậu đun hạt đậu
Tào Thực tự là Tử Kiến, là con trai thứ của Tào Tháo, có tài xuất khẩu thành thơ. Tuy nhiên khi đó Tào Thực còn nhỏ tuổi, Tào Tháo vốn tính lại đa nghi không tin rằng Tào Thực tự mình có thể nghĩ nên những áng thơ tuyệt tác như lời đồn thổi. Tháo bèn rỉ tai viên quan cận thần sai hắn đi dò la hư thực ra sao nhưng Thực đứng gần đó nghe thấy mới ngâm rằng.
Buông lời thi đã luận
Xuống bút lại nên thơ
Như không tin thì thử
Kẻo Phụ vương nghi ngờ.
Tháo nghe xong thì bật cười ha hả, mới tin rằng Tào Phi có tài làm thơ, từ đó hết mực tin yêu.
Tào Phi là anh của Tào Thực. Sau khi Tào Tháo băng hà, Tào Phi chiếm ngôi nhà Hán lập nên nhà Nguỵ tự xưng là Nguỵ vương bấy giờ mới sanh lòng ghen ghét Tào Thực, bèn gán cho Tào Thực tội phản loạn đem vào cung xử tội chết, bá quan văn võ ai nấy đều ra sức can ngăn bởi dẫu sao cũng là dòng dõi hoàng tộc. Phi bèn nói rằng:
- Nghe nói ngươi có tài xuất khẩu thành thơ, bây giờ ta ra đề hạn trong bảy bước đi ngươi phải ứng được thơ, nhược bằng không ứng nổi thì chém đầu không thương tiếc, ai can ngăn cũng đều đem ra xử trảm cả.
Tào Thực đi đúng bảy bước rồi đọc một bài thơ như đề mà Tào Phi đã cho. Bá quan văn võ kẻ nào người nấy đều trầm trồ khen ngợi. Tào Phi thấy vậy vẫn chưa nể phục.
- Bảy bước mới ứng được một bài thì vẫn còn chậm. Bây giờ ta ra đề như sau. Ta với ngươi vốn là anh em huynh đệ vậy ngươi hãy lập tức ứng một bài thơ về tình huynh đệ nhưng cấm không được nhắc đến hai từ huynh đệ trong bài thơ.
Tào Thực nghe xong không chút đắn đo liền ngâm ngay.
Chữ đậu nhiên đậu cơ
Đậu tại phẫu trung khấp
Bản thị đồng căn sinh
Tương tiễn hà thái cấp.
Tạm dịch:
Củi đậu đun hạt đậu
Đậu trong nồi khóc kêu
Cùng sinh từ một gốc
Bức nhau chi đến điều.
Có bản dịch là:
Cẳng đậu nung hạt đậu
Hạt đậu khóc hu hu
Sinh ra cùng một gốc
Mà nỡ đốt nhau ru ?
Bá quan văn võ nghe xong ai nấy đều gạt lệ cảm động. Phi thấy thế cũng hối hận vô cùng nhưng đã trót gán tội cho Thực, Vua không nói chơi nên đành giáng chức An Hương Hầu rồi cho đi đày ở nơi xa.
Trời chưa dứt Tào
Trong thành Đồng Quan ở Thiểm Tây có một gốc cổ thụ ngàn năm, thân to sần sùi nhưng đã bị bộng. Hằng năm cây vẫn nhú mầm đâm cành thay lá. Nói rằng câu chuyện "Trời chưa dứt Tào" được lưu truyền ở gốc cổ thụ này.
Triều Hán, tuy Lưu Hiệp làm hoàng thượng, nhưng trong tay chẳng có chút quyền hành, chỉ là một vị vua bù nhìn cho có vị mà thôi. Tất cả mọi sự đều do Tào Tháo chủ trương chuyên quyền. Trong lòng hoàng thượng hết sức phiền muộn. Muốn trừ Tào Tháo, hoàng thượng tìm tới Đổng Thừa, anh của Đổng hoàng hậu bàn tính. Cuối cùng quyết định là để Đổng Thừa mang huyết chiếu đến Tây Lương tìm Mã Đằng để trừ Tào Tháo.
Nhưng Tào Tháo là kẻ rất giảo quyệt, những ai vô cung đi ra đều bị xét hỏi, thế nên chiếu có thể mang ra được là vấn đề hết sức khó. Suy nghĩ tìm đủ mọi biện pháp, cuối cùng mọi người nhất trí: cấp cho Đổng Thừa một dây ngọc đái mới, đem chiếu thư giấu bên trong mà đi ra.
Đổng Thừa vừa ra khỏi cửa cung liền bị người của Tào Tháo bắt giữ. Tào Tháo bảo vệ binh xé ngọc đái ra. Ngọc đái bị xé thì huyết chiếu cũng bị lộ. Tào Tháo cầm lên xem, thấy chiếu bảo Mã Đằng tới giết ông. Tào Tháo liền nổi giận, nói:
- Hay cho Đổng Thừa mi, dám cả gan hại lão phu, dẫn ra chém đầu!
Đổng Thừa thấy huyết chiếu bị lộ thì sợ đến điếng hồn, cho nên Tào Tháo nói gì ông cũng không nghe thấy, và chỉ nhắm mắt đợi chết.
Lúc này một mưu sĩ của Tào Tháo kề tai nói nhỏ với ông mấy câu. Tào Tháo nghe xong gật đầu, và rồi không giết Đổng Thừa, tạm đem ông giam lại. Thì ra , mưu sĩ này tương kế tựu kế cho Tào Tháo, nên Đổng Thành mới không bị giết. Tào Tháo liền sai người tâm phúc đi Tây Lương đưa chiếu thư.
Tây Lương Mã Đằng đang hận Tào Tháo, vừa tiếp được chiếu thư của hoàng thượng, ông liền vô kinh, định cùng chung bàn tính đại kế trừ Tào Tháo. Khi ông đến kinh thành thì gặp Tào Tháo ra nghinh tiếp, nên lòng chẳng có chút gì e ngại, nhưng sau đó lại thấy Đổng Thừa cùng tới. Trong lúc hoang mang thì một sợi dây hò la (dây dùng để chăn giữ ngựa) đã vút tới quấn chặt, xiết chết ông.
Mã Siêu nghe tin cha bị Tào Tháo giết, liền lập tức phát binh, mão trắng giáp trắng cờ hiệu trắng, toàn quân đều mặc đồ trắng! Mười vạn đại quân đánh xốc từ Tây Lương tới Trường An. Binh của Tào Hồng ra ngăn cản, một trận đánh nhau kịch liệt đã khiến cho TÀo Hồng đại bại. Chính lúc này, quân tiếp viện của Tào Tháo cũng đã đến. Mã Siêu liền bỏ Tào Hồng, không đuổi theo nữa mà nhắm vào Tào Tháo đánh tới. Kết quả trận đấu, binh tướng của Tào Tháo không phải là đối thủ của Mã Siêu, Tào Tháo phải ôm cán thương giục ngựa chạy dài. Mã Siêu ở phía sau đuổi nã theo. Tào Tháo chạy thục mạng đến Đồng Quan. Mã Siêu đuổi tới, phân binh vây chặt. Đám binh của Mã Siêu quát loạn lên:
- Bắt Tào Tháo, bắt Tào Tháo. Tào Tháo đội mão gió mặc hồng bào!
Tào Tháo nghe quát thế liền sợ quýnh , ông quăng mão, thay hồng bào bằng hắc bào rồi tiếp tục chạy. Lúc này bọn binh tướng lại la:
- Bắt Tào Tháo, bắt Tào Tháo, tên mặt đen, mày đen, râu sậm.
Tào Tháo sợ người nhận ra, ông bèn bứt râu cạo mày lẫn trốn. Chính lúc này Mã Siêu sải ngựa giơ thương giết tới. Tào Tháo muốn tránh cũng không chỗ tránh, muốn trốn không chỗ trốn, muốn chạy cũng chạy không được, bèn lánh dưới một gốc cổ thụ bên đường, giả làm khách thương. Mã Siêu phóng ngựa tới, thoắt thấy người dưới gốc cây kia chính là Tào Tháo liền gầm lên một tiếng:
- Mi nhổ râu cạo mày, ta cũng nhận ra mi là Tào gian tặc.
Nói xong , một thương liền đâm tới. Tào Tháo vừa thấy mũi thương sáng rỡ đâm tới, liền lách người né tránh. Cây ngân thương của Mã Siêu đâm tới gốc cây liền thấy lóa lên một ánh bạch quang, và Tào Tháo thì đã chạy đâu mất. Mã Siêu nghĩ tới ánh bạch quang vừa rồi, ông tức tối thở dài, buông ra một tiếng:
- Mười vạn đại quân ta giết không nổi Tào tặc, phải chăng trời chưa dứt Tào?
Quan Công xử con
Một hôm có bà lão dắt đứa cháu đang đi trên đường, chợt một con hồng mã sải vút qua, đụng phải đứa cháu chết tươi, còn bà lão thì mê man bất tỉnh.
Người ta áp tới cứu bà lão tỉnh dậy, nói:
- Cái người cưỡi ngựa là Quan Bình đó, bà đi thưa đi!
Bà lão nhờ người làm đơn thưa. Khập khiễng tìm đến nha huyện Kinh Châu, bà quì trước đại đường đội đơn kêu oan.
Quan huyện Lư tiếp lấy. Ông xem đi xem lại một hồi, đoạn "ái chà" một tiếng và ngồi phịch xuống đại đường , ngập ngừng nói:
- Này cụ, án của cụ rất quan trọng, bổn quan không cách chi xét xử được. Cụ hãy thưa lên cấp trên đi!
Nói xong, quan huyện bảo nha dịch trả đơn lại cho bà cụ.
Sau đó, nhờ người khác mách lối, bà cụ lại thưa đến Quan Vũ.
Bà cụ đã là người gần đất xa trời, còn sợ nỗi gì? Bà chẳng chút ngại, nhất nhất nói ra hết nỗi oan của bà. Quan Vân Trường càng nghe càng giận, ông bảo bà cụ:
- Cụ về đi, tôi sẽ giải nỗi oan cho bà!
Thế rồi ông hạ lệnh trói Quan Bình dẫn tới.
Quan Bình nào biết đầu đuôi sự việc ra sao lòng nghĩ: "Ta sải ngựa ra đường hồi nào! Không, hẳn là do Quan Hưng em ta gây ra rồi. Thôi được, ta chịu tội thay cho Quan Hưng vậy". Đang lúc bối rối chợ nghe phụ thân quát:
- Bình nhi!
- Dạ.
Quan Bình liền bưới tới qùi xuống:
- Phải ngươi sải ngựa đạp chết Vương Bằng con của Vương Độ không?
- Dạ phải.
- Ngươi là thứ bất nhân bất nghĩa , thứ vô dụng! Giam vô tử lao, chờ ngày chém đầu!
Các quan viên quì trước mặt Quan Vân Trường hết lời cầu xin.
Quan Vũ đột nhiên bốc lửa giận:
- Trên đơn đã viết rành rành, vả lại Quan Bình đã cung nhận không chối cãi. Đừng lắm lời ! Giết người thường mạng, xưa nay đều vậy. Quan huyện Lư, án này giao cho ông đấy, trong ba hôm thẩm vấn xong định tối. Thoái đường!
Quan Vũ nói xong, phẩy tay áo bỏ đi.
Lại nói , làm sao cứu Quan Bình đây? Trương Bào con của Trương Phi nghĩ ra một diệu kế. Trước một ngày Quan Bình bị dẫn ra pháp trường xử chém, Trương Bào chạy tới nhà bà cụ cầu xin, trình bày rõ việc người anh Quan Bình đã vì người em Quan Hưng mà chết thay cho bà cụ nghe.
Bà cụ sững sờ: thì ra Quan Bình vì em mà mang tội chết, thiện là một người đại nhân đại nghĩa! Do đó, bà nói với Trương Bào:
- Này cháu thế thì cháu hãy dẫn bà đi cứu Quan Bình!
Trương Bào nghe được lời này liền gạt nước mắt mà cười. Chàng liền chạy tới đỡ bà cụ lên ngựa, chạy một mạch ra pháp trường.
Ở pháp trường, người đứng chật như nêm, đao thương tua tủa. Quan Vân Trường ngồi trên đài cao giám trảm, đao phủ thủ đao đứng kề bên Quan Bình đang quì chờ lệnh.
Trung quân báo:
- Đã đến giờ!
Quan Vân Trưòng lấy bình tĩnh đứng lên, từ trên bàn rút một cây lệnh tiễn, hô lớn:
- Chém!
Chính lúc này, từ đằng xa truyền đến tiếng kêu:
- Khoan đã!
Mọi người nhìn lại, thì ra là Quan Hưng chạy tới trước mặt Quan Vân Trường thưa:
- Cha, người đạp chết Vương Bằng là con, chớ không phải Quan Bình.
Quan Vân Trường ngạc nhiên đứng lên, hỏi gằn:
- Thật không?
- Dạ thật.
- Vậy thì đem Quan Hưng chém đầu! Thả Quan Bình ra.
Một tiếng dạ ran, Quan Hưng bị đao phủ thủ trói dẫn ra pháp trưòng. Lại chính lúc muốn giơ đao, chợt nghe tiếng quát như sấm động:
- Đừng xuống đao!
Khi mọi người ngoái đầu nhìn thì thấy Trương Bào dẫn theo một bà lão chạy tới.
Trương Bào dìu bà lão đến quì trước mặt Quan Vân Trường, bà lão nói:
- Thằng Bằng cháu tôi đã chết, có giết Quan Hưng cũng không cứu nó sống lại được. Hiện thời nước nhà đang cần người , chi bằng để cậu ta lập công chuộc tội.
Quan Vân Trường đang do dự, chợt có tiểu binh đến báo:
- Bẩm đại nhân, quân Tào đã đánh tới Phàn Thành!
Quan Vân Trường giật mình, thở ra nói:
- Thế thì theo ý bà cụ nói mà làm. Đưa bà cụ về phủ nuôi dưỡng. Quan Bình, Quan Hưng, Trương Bào nghe lệnh: mệnh bọn ngươi ba đứa lãnh ba ngàn binh mã, suốt đêm tới Phàn Thành cứu viện, không được trễ nải!
- Dạ!
Quan Vân Trường sau khi điều động binh mã xong bàn cùng phu nhân đưa bà lão về phủ.
Trương Phi thi văn chương
Tào Tháo binh mạng lương thừa, thế mà luôn thua dưới tay Lưu Bị binh ít lương thiếu. Ông thật không vui, bèn đóng cửa suy nghĩ tìm cách: Thủ hạ Lưu Bị toàn là võ tướng dũng mãnh, nhưng không hiểu văn chương, nên ta lấy điểm yếu này phá Lưu Bị một phen, rồi sau đó tìm cơ hội dụng võ công thì mới mong thắng được. Nghĩ đến đây, ông bèn hạ chiến thư thách đấu văn chương. Lưu Bị sau khi nhận chiến thư, trong lòng đâm ra bối rối, ông vội tìm tới quân sư Gia Cát Lượng bàn tính. Gia Cát Lượng nghe được liền chay mày. Một hồi lâu, ông ha hả cười lớn, nói:
- Chúa công khỏi phải lo, có thể phái Trương Dực Đức đi thi keo này, cho Châu Thương theo phụ giúp, nhất định thắng Tào Tháo thôi.
Sáng sớm, vừng đông vừa ló dạng. Tào Tháo cùng quân sư Bàng Thống đã ra trận. Ông thoắt thấy bên kia là Trương Phi dữ dằn đi ra. liền không khỏi ngước mắ lên trời cười ha hả. Bàng Thống ngạc nhiên, hỏi:
- Chúa công, vì sao cười vậy?
Tào Tháo tỉnh bơ nói:
- Ta cười bọn thủ hạ Lưu Bị thật hết văn tài, ai đời sai tên Trương Phi thô lỗ tới thi văn chương với ta, như vậy chẳng là muốn lấy ngọc lau sậy mà khuấy trời sao?
Bàng Thống không vui, nói:
- Chúa công, không nên xem thường Trương Phi, hắn là một tên văn võ toàn tài đấy.
Tào Tháo ngạo nghễ khoát tay, ý nói Trương Phi không đáng để vào mắt ông, rồi sẽ thua nhục nhã bỏ về thôi .Trương Phi thấy thái độ Tào Tháo như vậy, liền nổi xung, ông nhảy sấn tới, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, ý nói: Tào Tháo mi chưa biết trời cao đất dày là gì đừng quá huênh hoang.
Tào Tháo thấy Trương Phi cười ông không biết trời cao đất dày, bèn đưa ra câu đối gây khó cho Trương Phi:
- Cá lư bốn má duy chỉ thao túng một phủ.
Câu nói của ông còn chưa dứt. Trương Phi hầm hầm gầm lên:
- Con cua tám cẳng mặc sức hoành hành chín châu.
Tào Tháo thấy Trương Phi buột miệng không cần đắn đo, liền lom mắt sững sờ, chỉ còn cách hội ý với quân sư Bàng Thống. Đoạn ông xổ ra một bài văn cả mấy ngàn lời. Trương Phi sau khi tập trung toàn lực để nghe, đoạn bảo lời lẽ bài văn quá tầm thường, chẳng có chi đặc sắc cả, văn lý không hợp, kết cấu thiếu cảnh thiếu tình, kém tệ... Mấy câu phê bình này khiến Tào Tháo bốc lửa giận, nói:
- Thế thì con rùa mi thử làm một bài cho ta xem đi!
Trương Phi gục gặc không nói, mặc cho Tào Tháo nhục mạ, ông đang tập trung suy nghĩ. Tào Tháo lại giục:
- Trương Dực Đức, đọc đi, hay là chịu thua cho rồi, trước mặt ta cần gì phải làm bộ làm tịch nữa chớ?
Sau một hồi suy nghĩ, Trương Phi đã nghĩ ra. Ông thấy Tào Tháo đang cười nhạo liền nhảy cẫng lên , nói:
- Tào Mạnh Đức nghe ta đọc đây!
Nói xong, Trương Phi đọc một bài với nhan đề: "Núi Châu Đa đề tên". Tiếp đó ông ngâm tóm lại toàn thiên bằng ba câu:
- Ngũ Phương Bình hái thuốc núi nầy, đồng tử ca ba động Ngọc Lư. Tuyết, tá túc lại đi.
Tào Tháo và Bàng Thống nghe xong, hai người đều giật mình hết hồn. Quả là một bài văn vừa ngắn vừa tinh thâm, từng câu từng chữ đều đặc sắc. Ba câu tóm gọn là ba ý tuyệt vời. Trước tiên ông dùng điển cố nhân kiệt địa linh điểm xuyết cho núi Chân Đa mà không ai hiểu. Tiếp đó tả mình tai nghe mắt thấy con trẻ có niềm vui hồn nhiên trên ngọn Tung Sơn cao vòi vọi. Cuối cùng nói ra tình huống mình ở đây nghỉ ngơi một ngày để xem xét chuyện đời nay mà tìm tưởng đến ngày xưa. Lời ít mà ý nhiều. Quả là văn như người, rất hợp với tính cách Trương Phi. Vả lại, ba câu tóm gọn với 19 chữ, tả có cảnh (tuyết), có tình (ba động Ngọc Lư), có xưa (Ngũ Phương Bình), có nay (đồng tử), có thực (ca), có thời gian (tá túc), có địa điểm (núi Chân Đa). Thật có thể nói mọt bài văn tuyệt vời, rất ngắn mà rất hay.. . Tào Tháo ở trước mặt Trương Phi nhận thua. Ông vẫy tay, hổ thẹn ra về.
Làm văn cho học trò
Trên sách đều có ghi chép việc Gia Cát Lượng vì muốn trì chí học tập cho nên mới dựng ngôi nhà tranh ở Long Trung mà ẩn cư những mười năm. Sự thực, ông vì đắc tội với Kinh Châu mục Lưu Biểu nên mới bị đuổi đến đây.
Lưu Biểu là thân thích của dòng vua chúa, ngồi trấn nhậm Tương Dương, quan cao vị hiển. Vì muốn gia nghiệp họ Lưu được nối dõi nên ông mở một trường học ở nhà, dùng bạc tiền mời danh sư tới để dạy cho hai đứa con ông.
Từ sau khi Gia Cát Lượng tới dạy, việc học tập của hai anh em họ Lưu so với trước có tiến bộ hơn nhiều, nhất là văn chương càng làm càng hay. Lưu Biểu nghĩ, có lẽ vì văn chương mình xuất chúng, hưỏng được cái danh dự của một kẻ sĩ tiếng tăm xa gần, cho nên hai con mình cũng giỏi giang không kém gì mình năm ấy; do đó ông thầm mừng. Mỗi lần gặp các văn võ bá quan tham chính nghị sự, ông thường đem văn chương của hai con ông đọc trước mặt mọi người để họ bình phẩm. Mọi người khen ngợi không ngớt lời, nói là hai anh em thiên tư thông tuệ, văn chương xuất chúng không hơn không kém.
Sái phu nhân vợ của Lưu Biểu thấy sức học của hai đứa con không phân cao thấp, trong lòng sanh ra lo lắng. Ý bà là muốn cho Lưu Tôn, đứa con trai cưng do bà sinh ra phải hơn Lưu Kỳ một bậc để sau này kế thừa sự nghiệp cha. Cho nên, mỗi lần Lưu Biểu định đọc văn chương của hai vị công tử ở trước mặt mọi ngưòi là bà ở bên gối thỏ thẻ để biết nội dung Lưu Biểu sắp ra đề mà nói riêng cho Lưu Tôn biết trước. Lưu Tôn kiêu ngạo, nào biết nỗi khổ tâm của mẹ, chàng cảm thấy lười biếng không muốn làm và nhờ Gia Cát Lượng làm thay. Thế nên, văn chương người em thưòng là hay hơn văn chương người anh, và điều đó làm cho Lưu Biểu đặc biệt có tình thương với Lưu Tôn nhiều hơn. Như vậy là trúng với lòng mong mỏi của Sái phu nhân. Bà gặp ai cũng khoe con bà trẻ hơn mà giỏi hơn người anh ngờ nghệch gấp cả trăm lần. Do vậy mà Lưu Kỳ thường bị Lưu Biểu quở trách. Chàng không nói một tiếng nào, nhưng quyết để tâm lưu ý Lưu Tôn. Một thời gian không lâu, chàng đã biết được cái "mánh" của Lưu Tôn. Do vậy, cũng y như Lưu Tôn, cứ mỗi lần làm văn chương, Lưu Kỳ đều nhờ Gia Cát Lượng làm dùm, và kết quả không còn bị thua sút nữa.
Lưu Biểu tuổi đã cao, ông muốn giữa hai người con chọn lấy một để sau này trăm tuổi có người chủ sự. Theo ông thấy, tài học hai đứa con ông ngang ngửa nhau , nhất thời ông chưa quyết định dứt khoát được. Nhưng rồi ông đã tìm ra biện pháp để khảo sát. Mỗi lần trong phủ tổ chức yến tiệc trọng đại hoặc tiếp đãi tân khách, ông đều bảo hai đứa con, mỗi người tự soạn một bài văn đọc trước mặt mọi người để phân tài cao thấp. Qua mấy lần hai người con đều viết bài rất hay, văn từ lưu loát, nghĩa lý rành mạch, không ai không khen hai vị công tử là văn chương tuyệt vời, là Văn Khúc tinh trên trời giáng thế. Lời khen tặng làm Lưu Biểu mặt nở mày rạng, nhưng rốt lại ông cũng chưa đạt được mục đích.
Có một hôm, Lưu Bị chợt đến Tương Dương. Lưu Biểu muốn anh em trong nhà giúp mình định tài cao thấp hai đứa con, cho nên ông mở một đại hội yến rất trọng đại, và hai con ông sẽ đọc bài văn trước mặt Lưu hoàng thúc để ông phân định. Người em nhờ Gia Cát Lượng viết cho một bài. Khi người em lấy đi thì người anh cũng đến nhờ. Gia Cát Lượng nghe nhạc tấu thúc giục bên tai, biết là giờ mở tiệc sắp bắt đầu, thời gian không đợi người, ông chỉ còn cách lấy bản thảo trước đã giao cho người em, sửa đổi lại đôi chút rồi giao cho người anh đem đi.
Yến hội bắt đầu, Lưu Tôn chiếu theo bản văn đã chuẩn bị, từng lời từng câu đọc lưu loát, văn phong thật diễm lệ. Lưu Bị nghe xong, ông chìa ngón tay cái khen không ngớt lời. Tiếp theo, người anh Lưu Kỳ cũng lấy bài văn đã làm sẵn ra đọc, cũng là giọng thao thao như nước chảy. Lưu Bị lắng nghe mà chau mày mím cười, ông đưa ánh mắt nghi ngờ dòm qua Lưu Kỳ và Lưu Biểu. Lưu Biểu lắng nghe cũng trầm nét mặt. Sao ngôn từ người anh và người em không kách gì mấy? Lại tiếp tục nghe nữa, thì hình như hai bài từ một khuôn ra. Lưu Biểu thấy tân khách trong bàn tiệc đều xầm xì bàn tán, còn sắc mặt Lưu Bị thì không được tự nhiên, ánh mắt cứ ngó qua ngó lại mà không nói gì. Ông bèn kêu hai đứa con đưa hai bản văn tới cho ông xem, thì ra nét chữ viết chỉ là một người. Ông giận đến râu tóc dựng đứng, liền bảo thủ hạ:
- Mau đi kêu ông thầy dạy học đến cho ta!
Ông thầy dạy học được gọi đến , Lưu Biểu đưa hai bản văn viết tay ra trước mặt ông, hỏi:
- Đây là nét chữ của ai?
Ông thầy thú nhận, nói:
- Đều của Gia Cát Lượng tôi ạ!
Lưu Biểu nghe nói liền đùng đùng nổi giận, ở trước mặt tân khách ông trách mắng hai đứa con. Theo đó, bảo kẻ thủ hạ:
- Cái thằng Gia Cát Lượng mi dám trêu cợt tiểu chủ nhân, đuổi ra khỏi trường cho ta, đuổi tuốt ra ngoài thôn dã thật xa. Chỉ cần ta còn ở Kinh Châu, dù tài học mi có giỏi đến đâu cũng đều vô dụng.
Thế này là vì Gia Cát Lượng làm văn dùm cho học trò đã bị đuổi đến miền núi rừng Long Trung. Để tránh bị họa, ông bèn cất một thảo lư mà an thân, và cày bừa sống qua ngày.
Tình cờ từ bữa yến tiệc, tên tuổi Gia Cát Lượng được khắc ghi trong đầu óc Lưu Bị. Do đó, cách mấy năm sau, có người tiến cử Gia Cát Lượng cho ông, ông bèn ba lần đến thảo lư, cúi mình cầu Gia Cát Lượng. Truyền thuyết là như vậy, uyên nguyên thế nào còn được ghi ở sách vở khác!
Quan Công hai lần viếng Tưởng Cán
Sau trận chiến Xích Bích, Tưởng Cán cảm thấy mình giúp đỡ không được gì cho Tào Tháo, nên thừa lúc quân Tào hoảng loạn thua chạy, ông cũng cất bước lẻn luôn. Ông đến một nơi hoang dã ngoài thành Kinh Châu ẩn cư, và đổi tên là Đơn Quang.
Tưỏng Cán nghĩ mình bụng đầy tài hoa, bởi vì thời vận không may mới ra nông nỗi này. Do đó ông viết hai câu đối dán ở cửa:
Chim nam về bể bắc, cặp cánh đông tây có trên có dưới.
Xe trước để dấu sau, hai gọng tả hữu không thấy không cao.
Dân làng đọc chẳng hiểu hàm nghĩa câu đối, chỉ cảm thấy trong bụng ông chứa đầy học vấn, nên gọi ông là thầy. Tưởng Cán cũng nhận vậy mà thôi.
Bây giờ, Kinh Châu đã về tay Lưu Bị. Lưu Bị sau khi tiến quân vô Tây Xuyên, liền phái Quan Vũ trấn thủ. Không lâu, câu đối này truyền đến nha môn Kinh Châu. Quan Vũ nghe được, trong lòng có vẻ suy nghĩ, nói:
- Kinh Châu này quả là nơi rồng ẩn cọp nằm, nhân tài lớp lớp!
Thế rồi ông tìm đến Bạch Mi Mã Lương bàn tính. Mã Lương khi nghe qua câu đối, nói:
- Đúng vậy, đúng vậy, nếu không phải là ông ta thì sao biết tính tình rõ ràng đến thế. Đi, chúng ta đi tìm ông ta chơi!
Quan Vũ tìm Tưởng Cán chơi phải không? Thì ra Tưởng Cán là tay cờ vây rất cao, ở doanh Tào ông và Tào Tháo đã từng so nhiều ván, nhưng vẫn bình thủ.
Quan Vũ cũng thích cờ, ông muốn tìm Tưởng Cán kết bạn cờ với nhau.
Quan Vũ và Mã Lương cỡi ngựa ra thành Kinh Châu, vào thôn tìm tới ngôi trường, chỉ thấy cửa đóng, trên cửa quả nhiên có dán câu đối ấy. Bọn họ định tìm người hỏi thăm, chợt nghe tiếng huyên náo truyền lại, hai người lần về phía ấy. Tới nơi, thấy ở dưới gốc cổ thụ không xa , một bọn trẻ vây quanh hai đứa đang ngồi đánh cờ, một bên dùng đất sét vo hình tròn, một bên nặn hình vuông, bàn cờ đang tới hồi gây cấn. Người thì đang suy nghĩ, kẻ thì đang hét:
Quan Công Quan Công,
Đừng cậy anh dũng;
Toàn cậy anh dũng,
Khó giữ Kinh Châu!
Quan Công thoạt nghe liền nổi giận, nạt to một tiếng như sấm nổ giữa lưng trời. Mấy đứa trẻ hoảng hồn bỏ chạy. Mã Lương khuyên:
- Bài hát này chẳng khác gì như điều quân sư đã căn dặn, biết đâu trong bọn trẻ này cũng có cao hiền, chúng ta nên tới cửa cầu giáo:
Quan Vũ hầm hầm nói:
- Cao hiền gì, chẳng qua tên chết bằm Tưởng Cán bày vẽ đó thôi!
Lúc này chợt có mấy nông phu dẫn trâu vác cày đi qua, Mã Lương liền kéo họ lại hỏi:
- Xin hỏi các anh, câu đối trên cửa này là của vị cao hiền nào vậy? Hiện giờ ông ta ở đâu?
Mấy người đồng thanh nói:
- Người này à, ông ta nói trước kia ông tên Tưởng Cán, nói thì nhiều mà làm thì ít, đã giúp người mà không thành công, hiện giờ hối hận cũng còn chưa muộn, nên đổi tên là Đơn Quang. Ông ta dạy mấy đứa trẻ học ở đây. Hiện giờ không biết đã đi đâu rồi.
Mã Lương lại hỏi:
- Vậy cho hỏi nhà Tưởng Cán ở đâu?
- Ở dưới rặng cây xuân đàng trước kia.
Lúc này, Quan Vũ đã hết cảm tình với Tưởng Cán, ông viện lẽ trời đã tối nên đánh ngựa trở về thành.
Sau khi trở về thành, luôn mấy bữa, Quan Vũ không đề cập gì tới chuyện Tưởng Cán nữa, song Mã Lương vẫn nhớ trong lòng, ông lại thúc giục Quan Vũ đi nữa. Quan Vũ không biết từ chối sao, bèn nói:
- Vậy ông sai người đi mời ông ta tới đi!
Mã Lương nói:
- Không, thỉnh người phải thành tâm. Chúa công còn có thể ba lần tới thảo lư, chúng ta chẳng lẽ không thỉnh được Tưởng Cán sao?
Quan Công nghe nói liền cười:
- Đại ca tôi thỉnh đó là quân sư, còn chúng ta đi thỉnh cái tên chết bằm về làm gì?
Mã Lương nghe vậy chỉ biết lặng thinh. Ông không nói nhưng trong lòng nôn nóng. Ông đã nhận lời ủy thác của Gia Cát quân sư, là phải khuyên cho Quan Vũ bớt kiêu ngạo. Sau khi nghe bài đồng dao ấy, ông cảm thấy Tưởng Cán là người rất thông minh nên muốn mời Tưởng Cán về giúp. Có hai người kề cận khuyên lơn, hoạ hoằn Quan Vũ mới bớt nóng nảy kiêu căng, và mới khiến đầu óc ông thanh tỉnh hơn.
Hôm nay, Mã Lương lại nói với Quan Vũ:
- Bữa nay gió mát trời trong, chúng ta đi chơi một chuyến nhé !
Quan Vũ nói:
- Tốt thôi !
Do đó, hai người lên ngựa đi về phía rặng cây xuân. Cột ngựa xong, lại th ấy dăm đứa trẻ nít xúm xít vừa chơi vừa hát. Bài hát vẫn là bài hát cũ.
Quan Vũ vừa nghe , gương mặt lại lạnh như đồng, nạt một tiếng lớn:
- Hát xàm điên!
Mấy đứa trẻ hoảng hồn, túa chạy tứ tán. Nhìn lại ngôi trường , cửa vẫn đóng, có điều câu đối trên cửa đã đổi lại:
Vây trấn sơn điên, na cá tiêm phong cảm xuất đầu?
(Mây án đỉnh núi, ngọn nào dám lộ?)
Quan Vũ tự Vân Trường, ông cho rằng câu này khen ngợi ông, nên ông vuốt râu nghênh đầu. Lại thấy hàng dưới:
Quang xuyên lâu bích, giá điều quang côn khước nan nã.
(Tia sáng rọi qua khe vách, tên vô lại này lại khó bắt).
Quan Vũ sững sờ. Ông nghĩ: tên Tưởng Cán này sao ví mình là tên vô lại?
Mã Lương thấy Quan Vũ sững sờ, dè dặt nói:
- Quân hầu, chúng ta đi tìm ông ta nhé!
Quan Vũ xua tay, bảo:
- Vô lại, vô lại, tìm làm gì. Thôi, tôi chẳng muốn gặp hắn nữa!
Nói xong, liền tới tháo ngựa nhảy lên yên, ra roi mà đi . Phút sau đã không còn thấy bóng hình. Mã Lương thở dài, cũng chỉ còn biết lên ngựa trở về Kinh Châu.
Không lâu, Quan Vũ vì quá lơ đễnh đã để mất Kinh Châu, bại tẩu chạy về Mạch Thành để rồi phải đầu một nơi mình một nẻo . Từ đấy người đời lưu truyền câu: "Quan Công xui xẻo, không gặp được Tưởng Cán!"
Chu Du ba lần thử Gia Cát Lượng
Tương truyền trước khi xảy ra trận đánh Xích Bích, Chu Du nghe đồn Gia Cát Lượng học thức uyên bác, tài hoa xuất chúng, trong lòng rất ganh tị. Ông tìm đủ mọi cách để thử xem Gia Cát Lượng đúng là có tài thật vậy không. Gia Cát Lượng đã biết hết, nhưng giả vờ như không có việc gì, và trong lòng đã tính sẵn.
Về sau, Gia Cát Lượng vì việc Thục liên quân với Ngô phá Tào, ông phải đển Đông Ngô. Lần đầu tiên gặp nhau, Chu Du nhận thấy thời cơ đã đến, nên định mượn cơ hội này thử Gia Cát Lưọng, xem tài học ông có thật là cái thế không, hay chỉ là hư danh, để tiện việc chu toàn ứng phó sau này . Do đó, trên mặt ông giả vờ sốt sắng khoản đãi, nhưng trong lòng thì tìm đủ mọi cách để thăm dò Gia Cát Lưọng. Gia Cát Lượng vẫn giả đò như không biết gì.
Một hôm, vừa ăn sáng xong, Chu Du rủ Gia Cát Lượng ra khỏi doanh trướng tản bộ đi chơi. Chỉ thấy bầu trời xanh biết, ngàn dặm không mấy, rất là thanh sảng. Hai người chậm rãi đi về phía trước. Bấy giờ, Chu Du ngước đầu trông lên trời, lại nghiêng mắt nhìn Gia Cát Lượng, trong đầu ông nảy ra một câu hỏi khó. Vừa đi ông vừa hỏi:
- Bấy lâu nghe đại danh quân sư, ai cũng đều khen quân sư học thức uyên bác, tài hoa xuất chúng, hôm nay tôi muốn hỏi quân sư, vậy chớ ngài có thể biết trời cao bao nhiêu, đất dày bao nhiêu không?
Hỏi xong, Chu Du chăm chăm nhìn Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng có hơi giật mình, ông biết Chu Du cố ý muốn gây khó cho mình, nên chẳng cần suy nghĩ, thuận miệng đáp luôn:
- Người đời đều biết, trời có sao cao, đất có biển dày cả mà!
Gia Cát Lượng trả lời vậy, Chu Du tiếp đó hỏi ngay:
- Sao quân sư biết trời có sao cao, đất có biển dày, chẳng lẽ đã đo rồi chăng? Tôi có thê biết trên sao còn có trời, dưới biển còn có đất.
Nói xong bèn cười nhạt.
Gia Cát Lượng vẫn không vội , thủng thỉnh nói:
- Việc đó đàn bà trẻ nít đều biết, dù không có đo qua. Nếu như việc đó mà ngay tôi trả lời cũng không được, há chẳng là để người đời cười tôi sao?
- Cười cái gì?
Chu Du chưa hiểu. Thấy Chu Du hỏi nữa, Gia Cát Lượng cười mà nói:
- Chẳng lẽ Đô đốc không biết trời cao đất dày thiệt sao?
Chu Du bây giờ mới rõ, biết Gia Cát Lượng chơi xỏ mình nên đỏ mặt cúi đầu, ngay một lời cũng thốt không ra, vội viện cớ trong người không khỏe, bước nhanh trở về đại trướng.
Chu Du ấm ức trong lòng, nghĩ chẳng lẽ tài học của tên Gia Cát Lượng này hơn người thiệt? Việc hồi sáng đó , sợ e là mèo đui gặp chuột chết. Bị hắn hết một vố, để thử lại nữa xem.
Do đó, vào buổi cơm trưa, Chu Du cứ theo lệ nào rượu nào thịt ê hề khoản đãi Gia Cát Lượng, còn đặc biệt mời văn võ bá quan tới hầu rượu. Rượu được ba tuần, Chu Du chợt dùng đũa gắp một miếng trứng gà nóng đưa lên trước mắt nhìn mải mê, rồi lại để xuống. Theo đó xoay qua Gia Cát Lượng hỏi:
- Quân sư, tôi có chuyện này muốn hỏi ngài, chẳng biết có nên nói ra không?
Gia Cát Lượng không đáp, chỉ khẽ gật đầu. Thế là Chu Du nói:
- Tôi vừa muốn ăn miếng trứng ấy, chợt nghĩ tới một điều khó hiểu, nhờ quân sư giảng cho. Ngài nói xem, trên đời này gà có trước hay trứng có trước? Nhờ quân sư chỉ dạy dùm!
Nói xong, Chu Du cảm thấy câu hỏi mình quá tuyệt vời, nên cười thầm.
Gia Cát Lượng vãn bình thản như không, ông chậm rãi để đũa xuống, buột miệng đáp:
- Đương nhiên là gà phải có trước.
Chu Du thoạt mừng, ai dè Khổng Minh mi cũng quá hàm hồ thiếu suy nghĩ, vậy thì đã vào tròng của ta. Nghĩ thế, Chu Du liền hỏi vặn:
- Lời nói của quân sư , tôi chưa rõ lắm, theo tôi biết trứng là do gà sanh ra, nhưng gà lại do trứng nở, sao nói là gà có trước trứng được? Chẳng lẽ quân sư tài khí quá mức rồi muốn đùa cợt tôi như thế nào cũng được sao?
Nói xong, Chu Du liếc mắt dòm qua văn võ bá quan và đắc chí cười lên ha hả.
Nào dè Gia Cát Lượng vẫn tỉnh bơ, cũng y như trước, nói:
- Đô đốc khoan cười đã. Khổng Minh tôi đương nhiên cũng biết trứng là do gà sanh ra, gà là do trứng nở, nhưng tại sao tôi bảo là gà có trước? Nghe tôi giảng đây. Mọi người đều biết, phàm muốn có gà phải có gà mái, vì gà mái mới có thể đẻ trứng. Mà trứng ư? Lại chia ra làm hai loại, trứng có thể nở ra gà gọi là trứng có trống, trứng không nở ra gà gọi là trứng hoang, còn gọi trứng ung. Nếu như trên đời chỉ toàn có trứng ung thôi, thế thì gà há chẳng là tuyệt giống từ lâu rồi sao?
Chu Du ngẩn ngơ, đôi đũa "lách cách" rơi xuống mâm, mặt đang hồng đổi sang trắng bệch, rồi từ trắng biến sang hồng, và một hồi không còn thấy đổi sắc nữa. Ông lẩm bẩm nói:
- Có lý, có lý.
Ông vội mời cạn ly. Mãi cho đến tan tiệc cũng không nghĩ ra câu nói gì cho thích hợp.
Chu Du liên tiếp hai lần đều nuốt phải bồ hòn, trong lòng ông càng cảm thấy tức tối. Suốt cả buổi trưa ông cứ đăm chiêu. Lòng nghĩ: Đâu phải dễ gì mới nghĩ ra được hai câu hỏi khó, thế mà rốt cuộc hắn đều thắng; khổ có thể nuốt, tội có thể chịu, nhưng cái tức khó nhận cho được. Chẳng lẽ m ình đường đường là một Thủy Lục Đô đốc, cũng là nhân vật có danh thế mà phải chịu bại trước tay hắn thế này; để người đời cười chê, há chẳng phải là đầu đội quần, gục mặt mà đi sao? Không được, cái tức tối này không trả không được. Phàm sự việc chớ quá ba , Chu Du ta hôm nay phải thử thêm một làn nữa mới được. Nhưng muốn tìm ra một đề khó đâu phải dễ!
Ăn cơm chiều xong, Chu Du tiếp Gia Cát Lượng vô trong trướng kháo chuyện. Giữa lúc đang nói, Chu Du ngước đầu nhìn ra ngoài trướng, chỉ tháy bên ngoài trăng soi vằng vặc, sao trời lưa thưa, đêm khuya người vắng; trời vào hạ, một làn gió nhẹ nhàng. Chu Du giả vờ suy nghĩ một hồi, đoạn xoay qua Gia Cát Lượng, hỏi:
- Quân sư, tôi có điều muốn nhờ ngài chỉ dạy. Nhưng nghĩ rằng ngài đã suốt ngày mệt nhoài, chẳng biết ngài có ưng trả lời không?
Gia Cát Lượng nở nụ cười:
- Thì đô đốc cứ nói đi.
Chu Du mới nói:
- Xin hỏi quân sư, theo ngài nghĩ, ban ngày tốt hay ban đêm tốt?
Gia Cát Lượng ngó ra bên ngoài nói:
- Ban ngày có thể làm việc, ban đêm thì nghỉ ngơi, ngày đêm gì cũng đều tốt cả!
Chu Du cười nhạt:
- Chưa chắc, nghĩ rằng ban ngày người ồn ào, ngựa rộp rịp, gà kêu chó sủa, thế gian náo động chẳng ra gì hết, còn đêm đến, gió mát đêm thanh, trăng sáng hoa thơm, người yên tĩnh nghỉ ngơi, ngựa nằm trong tàu, quả là cảnh thế thái bình. Vì thế tôi thấy, con người thích ban đêm hơn, họ khỏi phải bận tâm đến việc thị phi, trắng đen xô bồ thăm rối rắm.
Nói xong, khoái chí cười híp mắt, và chờ đợi Gia Cát Lượng trả lời.
Gia Cát Lượng nghe xong bèn mỉm cười, trước hết ông lắc đầu, sau đó mới từ từ nói:
- Đô đốc nói vậy chưa đủ lắm. Ban đêm, ông chỉ mới thấy được cái vắng lặng bề ngoài mà thôi, chớ chưa thấy vào ban đêm, bọn trộm cướip rình mò đánh phá giựt cắp nhà người ta, loài chuột bọ thừa cơ cắn phá. Đám côn đồ du đãng coi yên vắng như phước, xem ban đêm làm mừng, khuấy nhiễu thế gian , lòng người khó yên. Đô đốc thích ban đêm há chẳng sợ bị người hiểu lầm là đạo tặc chuột bọ...
Không đợi nói hết, Gia Cát Lượng đã cười lên ha hả.
Chu Du đâu còn lòng dạ nào trò chuyện nữa, ông giận đến thất khiếu bốc khói, bụng như cái bánh bao vừa hấp chín, ruột nóng rang hết chịu nổi. Bây giờ, ông mới biết, học thức của Gia Cát Lượng quả là sâu rộng, ứng đối lưu loát, mưu kế cũng rõ ràng là hơn mình một bực. Còn để người này thế này sống trên đời thì công danh sự nghiệp của mình sao không bị cản trở? Nhưng lại tìm chưa ra cớ để hạ thủ, chỉ còn cách dằn lòng đợi thời cơ.
"Gả" Kinh Châu
Người ta thưòng nói "Lưu Bị mượn Kinh Châu", thật ra không phải như vậy, mà là Tôn Quyền đem Kinh Châu cho em gái làm của hồi môn về nhà chồng (tùy muội "giá" Kinh Châu). Còn về việc em gái Tôn Quyền, xuất giá cũng không phải như "Tam Quốc diễn nghĩa" nói, mà là có một duyên cớ khác. Nếu muốn nói ra hết thì chuyện rất dài dòng.
Tôn Giao là cô gái duy nhất ba đời tổ tông nhà Tôn Quyền. Hơn nữa nàng còn là cô gái có nhan sắc, có tài, nên người trong gia đình đều xem nàng như "của quí", ngậm trong miệng thì sợ tan biến, để trên tay thì sợ bay đi. Do Tôn Giao được cưng chiều, riết rồi sanh thành tánh bướng bỉnh có một không hai.
Lớn lên, Tôn Giao thấy người ta luyện võ lấy làm thích thú, bèn giảy nảy đòi học võ. Tôn Quyền con nhà dòng dõi võ tướng, thấy em gái muốn học võ, ông cũng chẳng nói gì, bèn mời mấy cao thủ võ th uật về dạy cho em gái thập bát ban võ nghệ. Tôn Giao là người thông minh, đao thương kiếm kích học qua liền biết, binh thư chiến sách đọc xong liền thông. Từ đó, Tôn Giao không chịu ngồi yên trong khuê phòng. Suốt ngày nàng cứ muốn huơ thương múa kiếm, mãi đến lúc mồ hôi dầm dề cũng còn chưa chịu ngưng tay. Khi cỡi ngựa đi săn, lá gai đâm móc xổ cả mái tóc, nàng cũng bất kể. Có lúc, ngay cả Tôn Quyền và các đại thần ngồi bàn việc quân cơ đại sự, nàng cũng hay quấy rối đòi tham gia. Nói chung, nàng chẳng có chút gì dịu dàng của một cô gái khuê các cả.
Một hôm, Tôn Giao đi săn trở về, không biết vì sao đột nhiên bị bệnh, nàng khóc đến thảm thương, không ăn cũng không uống. Ngô Quốc thái, mẹ của Tôn Quyền và Tôn Quyền đều lo quýnh quáng, vội kêu ngự y tới chẩn bệnh, Tôn Giao thấy nhiều người tới lại c àng khóc rống hơn nữa, nàng rút kiếm đuổi quan y và tất cả mọi người ra hết, duy chỉ một mình mẫu thân Ngô Quốc thái ở lại mà thôi.
Ngô Quốc Thái không biết con gái bị bệnh gì, cứ hỏi mãi, nhưng Tôn Giao chỉ khóc chớ chẳng chịu mở miệng nói. Ngô Quốc Thái năn nỉ mãi , Tôn Giao mới nói ra là trong người không khỏe, còn cái bệnh riêng thì không nói được. Ngô Quốc Thái thoạt nghe, trên gương mặt liền phủ một lớp mây mù , bà lo cho con gái đã làm cái chuyện bậy bạ. Do đó, bà muốn đi mời nữ ngự y tới để xem mạch thăm thử. Ai ngờ, Tôn Giao cản lại, nói:
- Nếu mời nữ ngự y tới, con chết liền tức khắc!
Nói xong, nàng rút kiếm ra, bảo nếu ngự y tới là nàng cắt cổ ngay. Thấy thái độ của con gái, Ngô Quốc thái càng tin nỗi lo của bà là chắc chắn.
Bà giận đến quăng bỏ chiếc gậy đầu rồng, muốn đánh lại không nỡ xuống tay; muốn mắng mà miệng cứ ú ớ nói không ra. Bà chỉ còn cách lắc đầu thở dài, và bỏ ra khỏi khuê phòng Tôn Giao.
Tôn Quyền nghe nói em gái làm chuyện bại hoại gia phong, ông liền giận đến mắt đổ lửa, rút bảo kiếm muốn đi giết Tôn Giao ngay. Ngô Quốc thái kéo ông lại, nói:
- Tôn nhi, con Giao chết là chuyện nhỏ, cái danh dự họ Tôn chúng ta mới là việc lớn. Con làm rùm beng lên chẳng là chổng mông kêu người ta dòm sao? Chỉ còn cách gấp rút tìm biện pháp vẹn toàn thôi.
Nghĩ cách nào vẹn toàn đây? Hai mẹ con bàn tính tới lui một hồi, chỉ còn cách duy nhất là kíp tìm cho Tôn Giao một người nào đó, gả nàng đi thôi!
Hôm sau, Tôn Quyền mời Chu Du, Lỗ Túc và các văn thần võ tướng tới, nhờ họ tìm nguyệt lão se tơ cho em gái ông. Chu Du, Lỗ Túc vốn không thích Tôn Giao vì nàng không giữ khuê huấn, ra vào đại doanh luyện võ, săn bắn, đặc biệt là đòi tham gia việc quân cơ đại sự..., cho nên cũng muốn nàng có chồng phứt cho rồi. Do đó, ai cũng tỏ ra vui lòng muốn làm nguyệt lão hồng nương.
Mọi người đều nói: Con gái của hoàng đế lo gì không thành gia thất. Sự thật, lời nói này chưa hoàn toàn đúng, cũng có khi "cô nương của hoàng đế khó được tấm chồng". Tôn Giao chính là người khó có chồng. Vì nhà họ Tôn phải có môn đương hộ đối, lại phải có chàng trai tài mạo song toàn. hơn nữa, tự nhỏ Tôn Giao là người thiên lôi còn chưa sợ, tiếng tăm đã đồn khắp, Đông Ngô há có người dám cầu thân!
Hôm đó , Gia Cát Lượng đến Đông Ngô bàn việc Thục Ngô liên minh chống Tào, trong lúc tán chuyện gẫu, Lỗ Túc đem chuyện Tôn Quyền nhờ người mai mốt cho em gái nói với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng liền nẩy ý. Ông nghĩ: Nếu Lưu Bị cưới Tôn Giao, thì Thục Ngô hai nhà sẽ kết thành thân gia , và việc liên minh kháng Tần càng thêm vững chắc. Do đó, Gia Cát Lượng đem việc My phu nhân trong vòng vây địch đã phải nhảy xuống giếng chết, nói cho Lỗ Túc nghe, còn thêm:
- Chúa công tôi có ý muốn được cùng nhà họ Tôn kết thành Tần Tấn, không biết Tử Kính có chịu xe tơ bắc cầu chăng?
Lỗ Túc nghe xong liền vui mừng ra nét mặt, ông vỗ ngực đoán chắc, cửa thân sự này ông sẽ lo xong.
Đợi đến khi tiễn Gia Cát Lượng ra về, Lỗ Túc liền chạy tới gặp Tôn Quyền, đem việc Lưu Bị cầu thân nói lại. Tôn Quyền nghĩ, nếu em gái mình mà gả cho Lưu Bị thì cách sông cách núi, đường sá xa xôi, như vậy cũng có thể tránh được lời dị nghị bàn tán; huống chi Lưu Bị cũng là bá vương một cõi, dưới tay có ban văn võ đại thần, kể ra cũng là môn đăng hộ đối, chuyện tốt thế này cho dù đốt đuốc cũng khó tìm. Do đó ông bèn căn dặn Lỗ Túc:
- Vậy ông hãy qua sông tìm Khổng Minh bàn tính , nói tôi đồng ý và đang chuẩn bị lễ cưới.
Thế rồi ngay trong đêm, Tôn Quyền tìm tới mẫu thân bẩm báo. Ngô Quốc Thái không nói tiếng nào, vội kêu Tôn Giao tới, nói rõ việc cầu thân của Lưu Bị cho nàng nghe.
Thực ra, Tôn Giao không làm việc gì bại hoại gia phong, chẳng qua nàng có một thứ bệnh của người con gái thôi. Tôn Giao là khuê nữ hoàng hoa, thứ bệnh này làm sao nói ra cửa miệng được? Nàng vì xuýnh quýnh nên mới khóc. Qua mấy ngày, nghe nha hoàn nói ca ca Tôn Quyền đang đôn đáo nhờ người làm mai mốt cho mình , nàng mới biết mẹ và anh đã hiểu lầm. nàng định tìm mẹ giải bày nhưng lại khó bề mở miệng. Khi nghe mẹ nói muốn gả nàng cho Lưu Bị, thoạt đàu nàng nổi giận lên nhưng cũng từng nghe người ta đồn Lưu Bị là người anh hùng có học thức, thế thì lấy ông ta cũng chẳng có gì thẹn nhục, cho nên nàng gật đầu bằng lòng việc môn thân này.
Tôn Giao là một cô gái có rất nhiều tâm kế, sau khi đã bằng lòng nàng lại đắn đo suy nghĩ, bất giác có hơi hối hận, bởi Lưu Bị đã có vợ. Đường đường một nữ hổ con nhà võ tướng, mà đi làm thiếp người ta há chẳng để người cười sao? Lại nghĩ: mình cũng chẳng phải là cô gái yếu mềm, chỉ cần có của hồi môn hơn người, thì đố Lưu Bị dám xem thường mình. Trước mắt Lưu Bị còn chưa có địa bàn cố định, chi bằng tìm ca ca, xin lấy thành Kinh Châu cho mình làm của hồi môn về nhà chồng, và như thế chẳng là sau khi cưới hỏi xong, mình cũng có đất an thân sao, và trước Cam phu nhân mình cũng không có chi phải đầu lụy!
Tôn Giao đã nghĩ tới điều gì là quyết làm bằng được, nàng liền đi tìm ca ca. Ban đầu, Tôn Quyền nghe em đề cập đến của hồi môn, bèn cười, nói:
- Giao muội, em bận tâm quá đi thôi. Nhà họ Tôn mình chỉ có em là gái, chẳng lẽ để em thiếu thốn gì sao. Em hãy yên lòng, vàng bạc châu báu trong cung, em muốn lấy bao nhiêu cứ lấy; nha hoàn sử nữ em thích ai cứ dẫn theo.
Tôn Giao nói:
- Vàng bạc châu báu, nha hoàn sử nữ, em chẳng cần, em chỉ muốn một tòa thành Kinh Châu xa xôi, anh quản lý bất tiện, sao không tặng Kinh Châu cho em, đó chẳng là của hồi môn rồi sao?
- Đuợc, được.
Tôn Quyền ngỡ Tôn Giao nói đùa, nên tiếp:
- Đừng nói một thành Kinh Châu, mà cả sáu quận Đông Ngô, anh cũng bằng lòng thôi.
- Ái chà, ca ca của em tốt quá!
Tôn Giao mừng đến nhảy cẫng, vội xòe tay nói:
- Anh, thế thì đưa địa đồ và sổ hộ khẩu thành Kinh Châu cho em đi.
- Cái gì, bộ em muốn thành Kinh Châu làm của hồi môn thiệt à?
- Ai đùa với anh đâu nào? Em anh có khi nào nói chơi với anh đâu?
Tôn Quyền thấy Tôn Giao vẫn lặp lại y như cũ, mới biết nàng không phải nói đùa , nên đổi thành mặt giận, nói:
- Từ xưa đến nay, em thấy có ai lấy thành trì làm của hồi môn bao giờ đâu! Chưa xuất giá mà đã trở mặt ra ngoài! Muốn đem bản đồ thành Kinh Châu từ họ Tôn đổi thành họ Lưu, đó là việc bắc thang hái sao trên trời, việc không thể được!
- Người khác không cần lấy thành trì làm của hồi môn, chớ em thì cần! Việc người khác làm không được , em phải làm cho kỳ được!
Tôn Giao thấy anh giận, nhưng vẫn làm tới.
- Anh rắp tâm gả em cho Lưu Bị, Lưu Bị đã có vợ, em sang đó chỉ có thể làm bé thôi. Nếu không có của hồi môn xứng đáng để trấn áp người, há chẳng để người xem thường sao? Em bị người ta xem thường, mặt mày anh chưa chắc rạng rỡ gì đâu? Vả lại, anh họ Tôn, em cũng họ Tôn, anh có sáu quận Đông Ngô, em muốn một thành Kinh Châu mà cũng chẳng được sao ? Nói thiệt với anh, thành Kinh Châu này, em đã dứt khoát rồi!
Tôn Giao nói xong, lại tìm đến mẫu thân Ngô Quốc Thái làm trận làm thượng một phen nữa. Ngô Quốc thái bị nàng quậy hết chịu nổi, chỉ còn cách miễn cưỡng bằng lòng.
Thấy mẹ đã bằng lòng Tôn Quyền quýnh lên, vội chiêu tập Chu Du, Lỗ Túc, Trương Chiêu và các ban văn võ tới thương nghị. Kết quả trong cuộc thương nghị là: Tôn Giao phải gả, nhưng thành Kinh Châu không thể "gả". Ngoài ra, Chu Du còn nghĩ ra một cao chiêu khiến cho Tôn Quyền và ban văn thần đều gật đầu khen tuyệt diệu.
Thoáng đó đã đến ngày Tôn Giao xuất giá. Tôn Quyền y theo kế hoạch của Chu Du, lấy địa đồ, sổ hộ khẩu và tờ giấy ủy quyền của hồi môn, tất cả đưa cho Tôn giao, có mặt Lưu Bị trước ngày rước dâu, và nói với Lưu Bị:
- Kinh Châu là của hồi môn của em gái tôi, đất an thân đó thuộc quyền sở hữu của nó.
Đoạn quay sang Tôn Giao, nói:
- Của hồi môn của em là vật không phải tầm thường, em hãy giữ bên mình, chớ giao cho Huyền Đức. Đợi chừng nào thấy Huyền Đức không phụ rẫy, em hãy giao cũng chưa trễ.
Khi Tôn Giao sắp lên kiệu , Tôn Quyền ôm chầm lấy em khóc rống lên nói:
- Tiểu muội ơi, từ bé anh ẵm bồng em tới lớn , nay cách biệt, anh hết được chăm bẵm, cưng chiều em nữa rồi. Em hãy để cho anh trọn tình nghĩa huynh trưởng, được đỡ em lên kiệu lần cuối cùng nhé!
Tôn Quyền lại khóc, Tôn Giao cũng ngậm ngùi, nước mắt rơi lã chã trước tình nghĩa anh em. Khi Tôn Giao khóc đến mùi mẫn thì Tôn Quyền mới đỡ em lên kiệu, và thừa cơ lén trộm lấy tờ giấy ủy quyền của hồi môn cất trong người Tôn Giao.
Tôn Giao sau khi theo Lưu Bị đến Kinh Châu, hai người vô cùng ân ái. Tôn Giao cảm thấy Lưu Bị đối đãi thực tình với mình, nhớ tới lời nói của anh, nàng muốn đem tời giây ủy quyền địa đồ , hộ khẩu Kinh Châu, chính thức giao cho Lưu Bị. Nào dè, khi Tôn Giao mở túi ra xem thì chỉ có địa đồ và hộ khẩu Kinh Châu, còn giấy ủy quyền của hồi môn thì không thấy đâu. Nàng phiền muộn trong lòng , song không tiện nói cho Lưu Bị biết, lòng lại nghĩ, đằng nào Kinh Châu cũng thuộc về ta, đã có địa đồ, hộ khẩu ở đây, giấy ủy quyền của hồi môn có mất cũng chả sao!
Không ngờ một năm rưỡi sau, Chu Du tới tìm Lưu Bị đòi Kinh Châu. Lưu Bị trong lòng không vui, Tôn Quyền chẳng từng nói Kinh Châu đã tặng em gái "gả" (giá) cho ta đó sao? Do đó, ông lặp lại lời Tôn Quyền nói hôm ấy làm lý do, muốn Chu Du hãy trở về.
Dè đâu Chu Du lại cười hô hố, nói:
- Này ông Huyền Đức, bộ ông nghe nhầm sao chớ? Chúa công nhà tôi chỉ nói giao thành kInh Châu cho em gái để ông mượn (tá) mà thôi. Gốc gác chúa công tôi ở Giang Đông , người Giang Đông nói "tá" (mượn) và "giá" (gả) không phân biệt, cũng đồng âm (jia) vậy. Ông chẳng nghĩ, từ cổ chí kim , nào có ai đem cả tòa thành mà làm lễ vật gả cưới bao giờ? Vả lại, chúa công nhà tôi nếu bằng lòng đem thành Kinh Châu giao cho em gái làm lễ vật gả cưới , hẳn là trên giấy tờ phải có ghi lễ cưới rõ ràng chứ?
Miệng nói không bằng chứ, Huyền Đức chỉ còn cách đi tìm phu nhân để lấy giấy tờ ủy quyền ra xem lại.
Tôn Giao đành phải nói thiệt ra là tờ giấy ủy quyền thành Kinh Châu đã bị mất. Lúc này, Lưu Bị như nằm mơ mới tỉnh, biết là Tôn Quyền đã giở trò mưu ma chước quỉ. Ông chỉ còn cách đi hỏi Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng cũng không nghĩ ra cách gì cho ổn thỏa, chỉ miễn cưỡnng nói:
- Kể là "mượn" (tá) đi, có điều, đã mượn vào tay được rồi, có trả hay không trả là do thái độ của Đông Ngô.
Về sau, Lưu Bị quả nhiên cứ cù cưa không chịu trả. Thế nên người đời thường nhắc "Lưu Bị mượn Kinh châu, có mượn mà không trả".
Người sau này đâu biết là khi Tôn Quyèn đỡ em gái lên kiệu, đã lén lấy lại tờ giấy ủy quyền thành Kinh Châu trong người em gái, và còn ngỡ là anh em họ tình sâu khó rời nhau. Cũng từ đấy, những cô gái ở ven sông khi lấy chồng, đều bắt chước anh em Tôn Quyền, lúc sắp lên kiệu, trước khóc cho đã đời, sau đó mới nhờ anh em đỡ lên kiệu để về nhà chồng, và đã thành một tập tục.
Quạt lông hạc & áo bát quái
Thuở nhỏ, Gia Cát Lượng rất thông minh hiếu động, dáng vẻ cũng bảnh trai, chỉ có khuyết điểm là đã mười tuổi rồi mà vẫn chưa biết nói. Cha mẹ ông nghĩ chắc là ông không thể học được, nên để ông đi chăn trâu.
Bữa nọ, Gia Cát Lưọng lùa trâu lên núi cho ăn, chợt thấy một lão đạo đằng xa đi lại. Lão đạo này râu tóc bạc phơ, mặc đạo bào, tay cầm chiếc phất trần trắng, đi đến trước mặt Gia Cát Lượng, nói:
- Này cậu bé, ta có thể trị được bệnh không biết nói cho cậu đấy!
Nói xong, ông mở chiếc hộp nhỏ, lấy ra một chiếc kim bạc, một lưỡi dao nhỏ, lại hỏi:
- Dùng cái này có thể làm cho cậu nói. Chẳng hay cậu có ưng chịu không?
Gia Cát Lượng thấy khuôn mặt tươi cười của lão đạo có vẻ hiền từ, bèn gật đầu đồng ý.
Lão đạo nói:
- Thế thì tốt, cậu ngồi trên tảng đá kia, há họng ra và cuốn đầu lưỡi lên!
Gia Cát Lượng liền ngồi xuống tảng đá, ngước đầu há miệng và cuốn đàu lưỡi lên cao. Lão đạo vừa nói "Tốt, tốt", vừa dùng lưỡi dao nhỏ đâm vô dưới gốc lưỡi ông và giật ra ngay.
- Tốt rồi. Ngậm miệng lại đi!
Nói xong, lão đạo đem cất lưỡi dao nhỏ, đoạn lấy kim bạc châm vào huyệt "nhân trung". Được một lát mới nhổ kim ra , nói:
- Xong rồi, cậu muốn nói gì thì cứ nói đi!
Gia Cát Lượng mở miệng nói:
- Thưa cụ, cám ơn cụ ạ!
Nói xong liền chắp tay cúi người cung kính.
Lão đạo cười ha hả:
- Khỏi cám ơn, khỏi cám ơn.
Gia Cát Lượng hỏi:
- Dạ , không biết cụ lấy bao nhiêu tiền, để ngày mai cháu đem đến trả cho cụ ạ.
Lão đạo thoạt nghe, liền cười "ha ha ha" rồi nói:
- Ta xem không nhầm, cậu là đứa trẻ rất thông minh, ta muốn thâu cậu làm đồ đệ, dạy cho cậu đọc sách viết chữ, làm văn chương, còn dạy cho cậu xem thiên tượng, dùng binh pháp. Một đồng xu cũng không lấy. Cậu trở về bàn tính với cha mẹ cậu đi, nếu họ đồng ý thì ngày mai cậu đến ngôi nhà kia tìm ta.
Gia Cát Lượng nhìn theo ngón tay lão đạo chỉ. Bây giờ mới phát hiện cách đấy không xa có một ngôi nhà trước cổng còn có cây tòng lớn. Khi ông quay đầu lại định hỏi vài điều thì lão đạo đã đi xa rồi.
Gia Cát Lượng trở về nhà thuật lại chuyện gặp lão đạo cho cha mẹ biết. Cha mẹ thấy con biết nói, và lão đạo lại bằng lòng dạy con mình học thì vui mừng không xiết, không biết lời cảm tạ nào nói ra mới phải. Thử nghĩ, làm sao không đồng ý cho được. Hôm sau, để con mang lương khô lên vai rồi, người cha còn căn dặn thêm:
- Lên tới núi, trước hết con hãy dập đầu lạy thầy, và cố gắng học nhé!
Gia Cát Lượng vâng dạ ra đi. Ông thẳng lên núi và tới nhà lão đạo. Vừa thấy lão đạo, Gia Cát Lượng liền dập đầu kêu thầy. Từ đó, Gia Cát Lượng sớm đi chiều về, cần mẫn chịu khó học tập, thầy cũng hết sức vui mừng khen ông.
Một hôm, Gia Cát Lượng xuống núi trở về nhà, đi đến bờ sông ông cảm thấy khát nước, bèn cúi người dùng tay vốc nước uống. Vừa ngước lên, bỗng thấy một cô gái đứng bên mình đẹp tựa tiên nữ, cô gái cười khúc khích nói:
- Này người anh em, anh dày công gắng sức chắc đã mệt, mời anh về nhà thiếp dùng nước.
Gia Cát Lượng hỏi:
- Nhà cô ở đâu? Sao tôi chưa hề gặp cô baogiờ?
- Thiếp thường thấy chàng luôn sớm đi tối về, có lúc đi trên đường còn đọc sách. Đi, tới nhà tôi dùng nước một lát rồi hãy về!
Gia Cát Lượng theo cô gái đi vào một cái hang. Cô mời ông ngồi và mời dùng trà. Lại nói với ông:
- Từ nay khi nào chàng cảm thấy mệt thì cứ ghé đây uống trà nhé! Chàng đừng uống nước sông, nước sông không được sạch, lỡ ra bệnh hoạn thì phiền lắm.
Gia Cát Lượng cảm thấy cô gái rất tốt. Thế là sau đó, mỗi lần trên đường đi về, ông thường ghé nhà cô gái uống nước.
Hôm nọ, thầy gọi Gia Cát Lượng tới bảo:
- Trước kia con học hành tiến bộ rất nhanh, sao bây giờ học không bằng lúc trước? Thầy thấy hình như tinh thần con không được tập trung, con đang có điều gì suy nghĩ phải không?
Gia Cát Lượng sợ thầy quở phạt nên không dám nói là khi ông đọc sách hay viết chữ là cứ thấy cô gái ấy, mà nói trớ đi:
- Tối đến, cứ mỗi lần giở sách ra học là mắt con nhướng không nổi, sáng ra thì đầu óc choáng váng, xin thầy thứ lỗi cho!
Thầy nói:
- Con chớ dối gạt thầy, cô gái ấy thầy gặp rồi. Nó vốn là cung nữ ở thiên cung, vì tội trộm lấy bảo y của Vương mẫu nương nương nên bị đuổi xuống trần biến thành tiên hạc. con phải tìm cách trừ con yêu quái ấy, nếu không, con ở đây học chỉ uống phí thời gian thôi, và sau này cũng không lập nên sự nghiệp gì.
Gia Cát Lượng nghe thầy dạy mà giật mình:
- Cô ta là yêu quái ư?
- Phải, nó là yêu quái hại người.
- Thế thì làm sao trừ được?
- Yêu quái này có thói quen, mỗi đêm nó thường tắm trên thiên hà, y phục để lại trong động. Con chờ nó đi rồi, vô động ấy lấy áo quần nó đốt hết đi, nó sẽ không còn biến thành người được nữa. Nó thấy trong động lửa cháy, nhất định sẽ trở về, con hãy dùng gậy này đập, sau đó bắt nó nhổ lông đuôi rồi đem đến cho thầy.
Gia Cát Lượng làm y theo lời thầy dặn bảo. Thế là cô nương xinh như tiên nữ đã trở thành con hạc trụi lông đuôi. Thầy dùng lông hạc làm chiếc quạt tặng cho Gia Cát Lượng để một năm bốn mùa ông cầm trong tay mà lấy đó răn mình, nhớ việc này làm bài học.
Lại khổ công học thêm ba năm nữa. Một hôm thầy nói với ông:
- Thầy dạy con như vậy đã đủ rồi, từ nay con đừng trở lại nữa, hãy về đi.
Gia Cát Lượng nghe thầy nói mà cuống cuồng , ông xin được ở bên thầy để hầu hạ tuổi già. Thầy nói:
- Nếu con không đi thì thầy đi!
Gia Cát Lượng vội quì xuống dập đầu lạy, muốn thầy đừng đi. Dập đầu xong nhìn lên, thì thầy đã đi mất tự bao giờ, không còn thấy bóng hình đâu nữa, nhưng chiếu áo bát quái thì để lại, trên áo có cài mảnh giấy, viết:
Bát quái mặc ở thân,
Đừng phụ thầy truyền tâm;
Gặp việc nên suy nghĩ,
Vì nước lập công danh.
Về sau, Gia Cát Lượng làm quân sư nước Thục, trong tay ông luôn phe phẩy chiếc quạt lông hạc và thường hay mặc áo bát quái.
Ngàn dặm đấu cờ
Thời Tam Quốc, đại chiến Xích Bích, Tào Tháo thua chạy về hướng Bắc. Đại tướng Chu Du của Đông Ngô thừa thắng đuổi theo, và phải phí rất nhiều sức mới đoạt được thành Kinh Châu, nhưng sau đó Gia Cát Lượng dùng diệu kế, không tốn một binh một tốt đã giúp Lưu Bị mượn được Kinh Châu.
Lưu Bị được Kinh Châu rồi, cứ cù nhầy không chịu đi. Vì việc này mà suýt nữa làm cho Chu Du tức đến vỡ bụng. Ông vắt óc tìm mọi cách đòi được Kinh Châu trở về.
Bấy giờ, thành Kinh Châu tên Nam Quận, trên danh nghĩa Chu Du là thái thú Nam Quận, nhưng ông lại trấn giữ Ba Khâu ở Hồ Nam, và chưa hề tới thành Kinh Châu nhận chức bao giờ.
Một hôm, Chu Du ngồi trong quan nha bỗng cảm thấy buồn bực, ông chống tay trên bàn viết suy nghĩ. Trong mơ hồ, ông hình như thấy mình và Gia Cát Lượng đang đánh cờ. Trên bàn cờ, Chu Du vội muốn đưa xe qua sông, Gia Cát Lượng dùng liên hoàn mã cản đường lại. Chu Du hỏi:
- Vì sao ông cản chiếm đường tôi?
Gia Cát Lượng đáp:
- Đường rộng thênh thang, mạnh ai nấy đi, ai cản chiếm đường ông đi đâu nào !
Chu Du lại hỏi:
- Vì sao bọn ông mượn Kinh Châu mà cứ dằng dai chưa chịu trả?
Gia Cát Lượng cười:
- Kinh Châu đã thuộc họ Lưu...
Hai người tranh cãi một hồi, Chu Du nhờ ông cụ râu bạc đang đứng coi đánh cờ một bên phán xét. Ông cụ râu bạc trầm nét mặt, nói:
- Ông là người thông minh một đời, mà hồ đồ một lúc. Người ta có thể mượn Kinh Châu được, chẳng lẽ ông không thể tìm người ta mượn trở lại sao...
Chu Du giật mình tỉnh lại, thì ra là giấc mộng Nam Kha. Ông cố nhớ lại những sự việc đã xảy ra trong giấc mộng, muốn tiếp tục đánh bàn cờ đang còn lỡ dở.
Chu Du liền sai người đi tìm Lỗ Túc tới nói:
- Tiên sinh, phiền ông lại đi qua Kinh Châu muốn chuyến nữa nhé!
Lỗ Túc hỏi:
- Tướng quân hẳn muốn đòi Kinh Châu nữa phải không?
Chu Du hừ mũi một tiếng:
- Hức ! tôi có bàn cờ đang đánh lỡ dở, muốn Gia Cát Lượng đánh tiếp với tôi.
Lỗ Túc trong lòng nghĩ: Hai người quá ghiền cờ! Cách cả ngàn dặm xa mà còn mời đánh cờ.
Chu Du sắp lại bàn cờ, nói:
- Đây là bàn cờ sắp tàn, bên đỏ có con xe muốn qua sông chiếu con tướng bên đen, nhưng ở giữa kẹt con ngựa, ông đi hỏi Gia Cát Lượng xem, nước cờ này nên đi thế nào?
Lỗ Túc không biết trong cái hồ lô của Chu Du bán thuốc gì, chỉ biết vâng lệnh sang Kinh Châu.
Lỗ Túc đến thành Kinh Châu, Lưu Bị và Gia Cát Lượng nhiệt tình bày tiệc khoản đãi ông. Giữa tiệc, Lưu Bị hỏi:
- Có phải tiên sinh phụng mệnh tới đây đòi Kinh Châu nữa không?
Lỗ Túc trả lời:
- Lần này chúng tôi không bàn chuyện nước, mà chỉ bàn về tài nghệ.
Gia CÁt Lượng cười:
- Sợ e cái ý ông say mà không phải bởi rượu!
Lỗ Túc bèn nói:
- Cách mấy ngày nay, Chu tưóng quân chợt có nhã hứng về thuật đánh cờ, muốn được cùng Gia Cát quân sư đánh một ván.
Nói xong, Lỗ Túc sắp bàn cờ bày binh giữa hai bên và nói rõ cái ý.
Gia Cát Lượng sau khi xem kỹ cuộc cờ, ha ha cười lớn:
- Một con xe của Chu tướng quân muốn qua sông chiếu tướng, còn muốn ngựa của người ta nhượng đường, đây là cao chiêu nhất tiễn song điêu đó thôi!
Lỗ Túc đăm đăm mắt, thầm nghĩ:
- Hà! Hai người đánh cờ, cách xa ngàn dặm mà như trong gan tấc, còn có thể một xướng một họa nữa chớ!
Gia Cát Lượng phe phẩy chiếc quạt lông ngỗng, chậm rãi nói:
- Con xe này là ví Chu tướng quân, con tướng này ví Lưu Chương ở Tây Xuyên. Xe của tướng quân muốn đến Tây Xuyên, chính giữa bị kẹt Kinh Châu, thành thử Chu tướng quân muốn con ngựa chúng tôi nhường đường chớ gì?
Một lời nói đã vạch ra được ý đồ, Lỗ Túc giật mình, hết sức khâm phục, nói:
- Tiên sinh quả là người liệu việc như thần!
Gia Cát Lượng khẳng khái nói:
- Nhờ tiên sinh về bẩm báo lại với Chu tướng quân, Kinh Châu không thể nhượng, chỉ có thể mượn. Nếu Chu tướng quân lên tiếng mượn thì chúng tôi hẳn cho mượn thôi...
Lỗ Túc vội đứng lên cáo từ, trở về Ba Khâu phục mệnh.
Sau khi Lỗ Túc đi rồi, Lưu Bị lo lắng hỏi:
- Tiên sinh! Ông không ngại Chu Du có mưu đồ gì khác sao!
Gia Cát Lượng vẫn nhất mực nói:
- Chu Du mượn đường, bề ngoài bảo là đánh Tây Xuyên, chớ bên trong là muốn lấy Kinh Châu, kế này gọi là "mượn đường diệt Quắc"
Lưu Bị vội hỏi:
- Sao tiên sinh lại đồng ý cho mượn đường?
Gia Cát Lượng cười:
- Binh bất yếm trá, tương kế tựu kế vậy!
Lỗ Túc trở về Ba Khâu, nói với Chu Du về việc mượn đường. Chu Du vừa nghe, liền thất kinh: Gia Cát Lượng biết thần cơ diệu toán, nhưng lần này không thoát khỏi tròng của ta!
Lỗ Túc nghe vậy, lòng nghĩ:
- Hai người này quả là kỳ phùng địch thủ, tướng ngộ lương tài.
Không lâu sau, quả nhiên Chu Du thống lãnh đại binh ồ ạt từ Ba Khâu xuất phát, trên đường đi vẫn bình an vô sự. Thuyền đội tiếng vào địa giới Kinh Châu, Chu Du thấy nhân mã của Lưu Bị không động tĩnh , ông bỏ thuyền lên bờ , chia hai đường thủy lục đánh thẳng vào thành Kinh Châu.
Chu Du giục ngựa ra roi, dẫn đại đội nhân mã, đánh riết tới dưới thành Kinh Châu. Chợt cửa thành mở hoác, từ bên trong một tướng quân mặt trắng lướt ra, thi lễ nói:
- Chu đô đốc dừng bước lại đã, mạt tướng phụng mệnh quân sư, đặc biệt tới đón tiếp.
Chu Du thấy người tới chính là Triệu Vân, hỏi:
- Chúa công và quân sư các người đâu?
Triệu Vân đáp:
- Chúa công và quân sư chúng tôi nghe nói tướng quân giá đáo, đang chuẩn bị vì tướng quân tiếp phong tẩy trần, nhưng không biết tướng quân lần này định bàn văn hay luận võ?
Lời tục nói: Nghe lời nghe âm, trống mõ nghe tiếng. Chu Du là người thông minh, lòng nghĩ: chẳng lẽ Lưu Bị và Gia Cát Lượng đã có chuẩn bị trước rồi? Do đó ghìm ngựa lại hỏi:
- Bàn văn là thế nào?
Triệu Vân đáp:
- Lấy lễ đãi nhau.
Chu Du lại hỏi:
- Luận võ lại thế nào?
Triệu Vân đáp:
- Binh nhung giáp mặt, đao kiếm vô tình...
Chu Du thấy thế không hay, chỉ còn cách quay đầu ngựa, nhắm về phía bãi lau sậy bên bờ sông mà lui binh.
Người ngựa của Chu Du vừa tới bãi lau sậy, bỗng nghe một tiếng pháo nổ, trước mặt một vị tướng quân mặt đỏ đang đánh xốc tới. Chu Du nhận ra đó là Quan Vũ. Ông không tham chiến, nên quay đầu ngựa nhắm hướng khác mà chạy đi. Nhưng phía trước lại gặp một tướng quân mặt đen, người này chính là Trương Phi. Chỉ nghe tiếng gầm lớn:
- Thằng oắt con Chu Du! Tam gia nhà mi chờ đây đã lâu rồi!
Nói thì chậm, việc thì nhanh, liền thấy trượng bát xà mâu đã thích tới trước rồi. Chu Du lách người tránh, quát lớn:
- Trương hắc tử không được vô lễ, ta là quí khách của chúa công và quân sư ngươi mời tới đây!
Trương Phi cười hắc hắc:
- Mi đừng già mồm lẻo mép, quân sư ta đã biết trước mi mượn cớ đánh Tây Xuyên mà ý đồ đoạt Kinh Châu rồi!
Chu Du tự biết việc đã hỏng, vội giật cương muốn cho ngựa quày đầu đi. Trương Phi níu giáp ông lại. Chu Du hất đầu ưỡn ngực nói:
- Muốn giết cứ giết!
Trương Phi cười:
- Oắt con! Đừng trách, một thương thôi, chôn mi xuống lỗ, chẳng qua quân sư ta nghĩ tình mi có công lao trong trận đại chiến Xích Bích, nên mới tha chết cho mi đó thôi, cút đi!
Chu Du thấy binh mã mình đã chết sạch, lòng càng thêm hối hận, ngước mặt lên trời ông than một tiếng:
- Trời hỡi! Ông đã sinh Chu Du, cần chi phải sanh Gia Cát Lượng?...
Tức thì, miệng hộc máu tươi, té xuống ngựa bất tỉnh.
Mảnh giấy trắng lui binh
Năm ấy, Tư Mã Ý đới lĩnh trăm vạn đại quân khí thế ồ ạt đánh tới Tương Dương, Phàn Thành. Thủ hạ của Gia Cát Lượng chỉ có đại tướng Trương Phi và mấy ngàn binh già yếu ớt. Đừng nói đương đầu cự địch, mà ngay đếm đầu người ra chia giữ cửa hai thành cũng còn thiếu!
Thấy binh mã Tư Mã Ý kéo tới Phàn Thành như nước vỡ bờ mà Gia Cát Lượng vẫn tỉnh bơ chưa điều binh khiển tướng. Trương Phi lòng nóng như lửa đốt, vội chạy vào viên môn tìm Gia Cát Lượng bàn tính.
Gia Cát Lượng lấy tờ giấy trắng trên bàn viết bỏ vô cẩm nang, đưa tận tay Trương Phi, dặn:
- Miễn sau từ bây giờ trở đi, Trương tướng quân đừng rời khỏi viên môn nửa bước, đợi đến khi đại quân Tư Mã Ý công tới dưới thành , hãy mở cẩm nang ra xem, bên trong sẽ có kế lui binh.
Gia Cát Lượng đi rồi, thì sau đó binh mã của Tư Mã Ý đã công tới dưới thành.
Trương Phi y theo lời dẫn của Gia Cát Lượng, vẫn ngồi yên trong viên môn. Tiếp được tin báo địch quân đã tới dưới thành, ông chẳng hoang mang, mở cẩm nang ra xem kế sách của quân sư. Ông lấy ra một tờ giấy, lật xem trước xem sau, chỉ thấy là tờ giấy trắng. Trương Phi giận đến thất khiếu bốc khói, luôn mồm oán trách:
- Việc quân cơ đại sự như vầy mà quân sư xem như trò chơi trẻ nít. Thế này chẳng là muốn bỡn cợt lão Trương ta sao!
Việc đã đến nước này, đâu còn thời giờ bàn tính gì kịp nữa.
Suy trước nghĩ sau, thấy tình cảnh này chẳng khác chi tình cảnh giữ Hán Trung năm ấy. Thế thì cứ bỏ thành trống y theo kế quân sư khi trước vậy!
Tư Mã Ý công đến dưới thành, thấy ở bờ thành có mười mấy tên binh đang phun nước quét dọn. Chẳng khỏi hắc hắc cười nhạt:
- Gia Cát Lượng a Gia Cát Lượng, người đời đều nói, mi thông minh tuyệt đỉnh, riêng ta thấy mi càng già càng ngu xuẩn. Ngày trước ta mắc kế bỏ thành trống của mi, hôm nay mi đổi thanh mà không đổi thuốc, ta mà không bắt sống mi được mới là chuyện lạ đó!
Tư Mã Ý liền hạ lệnh công thành.
Trương Phi lại nghĩ, ăn món ăn mà người khác đã gậm nhắm rồi đâu còn mùi vị gì nữa, do đó ông căn dặn binh sĩ dưới tay, mỗi người hãy cỡi ngựa, cầm cành cây nơi tay sải qua sải lại trong thành.
Tư Mã Ý chỉ huy tấn công đang lúc đắc ý nhất, chợt nghe trong thành chiến mã hí vang làm kinh thiên động địa, trong lòng liền hốt hoảng.
Lại thầm nghĩ: theo tin thám báo, trong thành chỉ có một tướng và đám binh gầy yếu, sao bỗng dưng xuất hiện thiên binh vạn mã thế này? Hay là Trương Phi muốn dùng kế nghi binh như ở Đương Dương?
Ông muốn biết thực hư thế nào, nên hạ lệnh ngưng tiến công, lại vòng qua Phàn Thành, ngước nhìn lên thành Tương Dương, thì thấy trên thành vô số binh giáp, trong thành gà không gáy, chó chẳng sủa. Trong lòng mới biết là binh giữ hai thành này hợp nhau tại một chỗ. Do đó, Tư Mã Ý liền hạ lệnh ngưng công Phàn Thành mà đánh chiếm Tương Dương.
Tư Mã Ý giục ngựa đi chưa được bao xa, chợt thấy ở bên góc trời khói lửa ngùn ngụt, chiêng trống vang dậy, tiếng hò hét chói tai, liền la lớn:
- Đại sự không xong rồi! Trương Phi ở Phàn Thành dụ khị chúng ta , Gia Cát Lượng thừa cơ đánh bọc hậu, muốn hai nẻo giáp công giết hết binh ta!
Liền hỏa tốc hạ lệnh lui binh.
Trương Phi tố quân sư
Lưu Bị nghe nói Gia Cát Lượng và Trương Phi lãnh mấy ngàn binh tàn già yếu đã lấy trí lui được trăm vạn đại quân của Tư Mã Ý, liền đích thân đến Tương Dương, Phàn Thành khao thưởng.
Sau khi tiếp giá, Trương Phi bẩm cáo lại việc Gia Cát Lượng sắp lâm trận dúi vào tay ông mảnh giấy trắng bảo là diệu kế, suýt tí nữa đã làm hư quân cơ đại sự, và muốn Lưu Bị trừng trị Gia Cát Lượng.
Lưu Bị hỏi:
- Có việc thế à?
Trương Phi móc ra mảnh giấy trắng, nói:
- Chứng cớ còn đây, khỏi phải chối cãi!
Lưu Bị lại hỏi:
- Mảnh giấy này là thế nào?
Gia Cát Lượng phe phẩy chiếc quạt, mỉm cười nói:
- Hai quân đối trận, thiên biến vạn hóa, tùy cơ ứng biến, sự quyết đoán hoàn toàn do chủ tướng. Hôm ấy, Trương Phi hỏi kế tôi, vì muốn chia binh thủ thành, tôi sợ ra lệnh sẽ làm vướng mắc tay chân Trương tướng quân, nên trao mảnh giấy này cho ông tự mưu quyết đoán. Trương tướng quân vốn là người trong cái thô có cái tế, trong cấp bách sẽ sanh trí đối phó với Tư Mã Ý, và cũng như vậy tôi mới có đủ thời gian phái binh đánh bọc hậu Tư Mã Ý, phóng hỏa vòng chân núi làm kế nghi binh. Đây là thật thật giả giả, hư hư thực thực, khiến cho Tư Mã Ý một đời đa nghi như con lừa bịt mắt hết biết đông tây nam bắc là gì!
Không đợi Gia Cát Lượng nói xong, Trương Phi liền làm ầm lên:
- Đại ca chớ nghe ổng khéo mồm mép, cho dẫu ổng phịa ra bao nhiêu lý do mà cũng không chạy chữa cho mảnh giấy trắng rành rành này được!
Lưu Bị thấy lúc khánh công, mà Trương Phi làm rùm beng thế này, nên muốn cho qua lề, nói:
- Tam đệ, giao việc phải xem người. Anh em chúng ta và quân sư tình như thủ túc, bấy nay nói gì, làm gì như đinh đóng cột, mảnh giấy trắng cũng vẫn là điều hay thôi!
Trương Phi vẫn lãi nhãi không thôi:
- Trên mảnh giấy ngay một chữ cũng không có, ai biết dùng làm cái gì!
- Thôi được, từ nay quân sư có muốn tam đệ làm gì thì sẽ viết rõ vậy.
Lưu Bị vừa nói mà vừa nháy mắt qua Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng tiếp lời, nói:
- Theo ý chúa công, từ nay tôi và Trương tướng quân có qua lại, sẽ viết rõ trên giấy, giờ thì đừng nhắc nữa.
Trương Phi vẫn chưa nguôi giận, liền bổ sung thêm:
- Và phải ký tên nữa kia. Nếu không đến lúc đó lại nói tới nói lui thì phiền quá.
Lưu Bị nghe đến đây liền rót rượu đưa cho hai người, nói:
- Uống rượu mừng công này, bỏ qua tất cả.
Hai người nể mặt Lưu Bị , việc mảnh giấy trắng cũng cho qua.
Trương Phi lập kế gạt Khổng Minh
Truyền thuyết nói Lưu, Quan, Trương hai lần tới thảo lư cầu Gia Cát Lượng đều về không. Lần thứ ba tới nữa thì gặp lúc tiết trời tuyết lông ngỗng bay mù mịt. Họ cỡi ngựa đến con đường nhỏ vào Long Trung, đường núi trơn trợt nguy hiểm rất khó đi. Trương Phi càng nghĩ càng giận nên nói với Lưu Bị và Quan Vũ:
- Hai anh tới quán rượu kia tránh tuyết đỡ đi. Để một mình tôi tới am cỏ đó, dùng dây trói gô tên Gia Cát Lượng này đem đến đây là xong ngay!
Lưu Bị vội nạt:
- Tam đệ nói năng kính trọng một chút, không được làm hư việc lớn của chúng ta.
Trương Phi bực bội nói:
- Vậy thì hai anh đi đi, tôi không thể đi chung được!
Nói vậy rồi Trương Phi tự bỏ vô quán rượu bên đường ngồi. Ông định kêu tửu bảo đem rượu, bỗng thấy bà chủ quán hối hả chạy ra, cất tiếng la lớn:
- Tiểu nhị, bữa nay gió lớn, nhóm lửa phải coi chừng đấy. Rủi ro, văng lửa vô vách thì thiêu mất cái quán này!
Trương Phi nghe bà la, trong lòng liền nảy ra một kế, muốn thiêu quách thảo lư của Khổng Minh cho rồi. Thế là ông không uống rượu, vội bước ra khỏi quán, lên ngựa theo một con đuờng nhỏ đuổi theo Lưu Bị và Quan Vũ.
Lúc này Lưu Bị, Quan Vũ đang cung kính đứng phơi tuyết trước thảo lư, cửa thảo lư vẫn đóng chặt, không nghe chút động tĩnh gì. Trương Phi thấy vậy càng như lửa chế thêm dầu, ông hầm hầm hỏi Lưu Bị:
- Đại ca, chúng ta đội tuyết đường xa tới đây, Gia Cát Lượng vì sao lại không mở cửa ra gặp?
Lưu Bị nói:
- Vừa rồi, thư đồng đi ra nói là tiên sinh không có nhà, chúng ta chỉ còn cách đứng đây chờ thôi, không nên khuấy động.
Trương Phi chẳng tin, ông bước tới bên cửa dòm qua khe hở, thấy Gia Cát Lượng nằm trên giường có vẻ rất an nhàn. Trương Phi thầm nghĩ: Gia Cát Lượng mi làm thế này thì quả là bất cận nhân tình, vậy chớ trách tam gia Trương ta sao vô lễ! Ông liền lén vòng qua phía sau thảo lư, chợt la inh ổi lên:
- Cửa sau am bốc lửa. Cháy cháy! Mau ra chửa cháy!
Gia Cát Lượng đam nhắm mắt dưỡng thần, trong mơ hồ chợt nghe tiếng la thảo am cháy liền hốt hoảng vội phóng xuống giường, không kịp sửa áo mão, cũng không kịp xỏ hài, chỉ còn quýnh quáng ôm ba quyền thiên thư trên bàn chạy ra ngoài. Lòng nghĩ: Kỳ lạ thật! Tuyết rơi dầm dề như vầy, ai đốt lửa mà cháy cho được? Vừa chạy đến bên thềm đá thảo đường thì đụng phải Lưu Bị. Lưu Bị , Quan Vũ vội đỡ Gia Cát Lượng dậy, luôn miệng nói:
- Tiên sinh chớ hoảng, có Lưu Bị , Quan Vũ ở đây, không việc chi đâu!
Lúc này, chợt nghe ngoài cửa có tiếng cười ha hả, một Đại Hán mặt đen thui đang tiến vô, nói:
- Giỏi cho Ngọa Long tiên sinh, rõ ràng ở nhà ngủ thẳng cẳng mà dối người để anh em ta phải chịu rét bên ngoài chờ, vậy có phải không? Cho dù ông có tài thần cơ diệu đoán, cũng bị tam gia Trương ta gạt phải chạy ra thôi.
Gia Cát Lượng không ngờ Long Trung lại bị trúng kế Trương Phi, nên trong lòng cảm thấy thẹn, vội hỏi Lưu Bị:
- Người này phải chăng là Trương Phi?
Lưu Bị đáp:
- Chính là tam đệ kết nghĩa với tôi. Hôm nay làm kinh động tới tiên sinh, thật thất lễ! Thất lễ.
Gia Cát Lượng thú vị cười:
- Trương Phi thô lỗ mà tế nhị, thật khó mà được vậy!
Đổng Trác tiến kinh
Đổng Trác phế Thiếu Đế, giết đại thần, loạn triều đình, làm cho nước không một ngày yên ổn, dân tình tao ương đồ thán, điều này ai cũng đều biết.
Nhưng Đổng Trác không phải là làm quan ở kinh đô ngay từ lúc đầu, ông ta chẳng qua là một thứ sử của Tây Lương một miền đất xa mà thôi.
Hán Linh Đế chết, Lưu Biện con ông 14 tuổi lên kế vị xưng hiệu Thiếu Đế. Thiếu Đế là do em gái của Đại tướng quân Hà Tiến sanh ra, hay nói rõ thêm Hà Tiến còn là cậu của Hoàng đế. Lúc làm hoàng đế, Thiếu Đế còn nhỏ tuổi, ngủ còn đái dầm, sao có thể lo liệu được đại sự triều chính. Thành thử trong triều, việc lớn như phong quan ban tước cho văn thần võ tướng; việc nhỏ như phê duyệt các tấu chương công văn, đều do Hà Thái hậu, mẹ của ông và người cậu Hà Tiến phê duyệt thay.
Nhưng Hà Tiến tổng lý triều chính được một thời gian thì hắn lại muốn chiếm đoạt ngôi vị của cháu. Có điều hắn biết việc này chẳng phải tầm thường, ngôi vị thiên tử ngồi không được không nói gì, ngay chén cơm cũng sẽ bị vỡ. Hắn suy nghĩ: muốn chiếm đoạt ngôi vua không phải một sớm một chiều, mà phải chịu khó tìm cách, và phải có người tiếp tay nữa mới được.
Ở kinh đô, tìm không được người trúng ý, Hà Tiến quyết định ra đi một chuyến, một là có thể kết bè kết đảng, hai là có thể mượn cơ hội đi du sơn ngoạn thủy tìm hái những đóa hoa bên ngoài, Hà Tiến ra ngoài kinh đô với cờ hiệu thay thiên tử tuần sát, chơi Tô Châu, Hàng Châu, dạo Tây Kinh, lên Thái Sơn... Quan viên các châu các phủ không nơi nào không bày lư hương bàn hương, quì tiếp quì đưa, dùng lễ tiết đối đãi hoàng thượng mà thị hầu.
Hôm nay Hà Tiến tới quận Tây Lương, Đổng Trác thứ sử Tây Lương vốn là một tên thổ phỉ, hắn giết người cướp bạc, đốt nhà giựt của, không tội nào không làm. Về sau hắn thấy tiếng tăm thổ phỉ nghe không tốt, nên hắn dùng bạc cướp được mua chức quan thứ sử Tây Lương. Hắn lại muốn mau được thăng quan vinh hiển, muốn được bổ nhậm tới chỗ giàu có hơn, nhưng hắn chưa quen lớn. Nay, sau khi nghe tin đồn cậu vua thay thiên tử tuần sát tới đây, Đổng Trác liền sai người đi thăm dò xem cậu vua thích thứ gì. Khi Đổng Trác nghe nói cậu vua thích nhất là món gái đẹp, kế đó là châu báu, thì trong lòng hắn đã có ý định.
Khi Hà Tiến vừa đến phủ Tây Lương, Đổng Trác liền đem gái đẹp nhứt Tây Lương cũng là sủng thiếp hắn mới được gần đây dâng cho cậu vua, còn mở kho báu phủ Tây Lương để Hà Tiến tùy ý lựa chọn. Hà Tiến hết sức hài lòng, suốt ngày cứ bành miệng cười hỉ hả.
Ai dè, lúc Hà Tiến tới Tây Lương thì nhằm tiết trời tháng sáu oi bức, thêm vào đó thủy thổ Tây Lương không hợp, nên chỉ mấy ngày sau sinh chứng đau bụng. Bụng đau vừa khỏi, hắn lại bị trĩ, đau đến kêu cha réo mẹ.
Đổng Trác mời gọi thầy thuốc lăng xăng: nay mời thầy này thấy thuốc chưa công hiệu mai liền đổi thầy khác. Bệnh Hà Tiến vì thế chẳng những không thuyên giảm còn trầm trọng thêm. Đít sưng to hơn, máu lại ra dầm dề. Vì cần nịnh nọt người cậu vua này, Đổng Trác mời Hà Tiến đưa đít máu cho hắn bôi thuốc. Cũng lạ, sau khi Đổng Trác bôi thuốc thì bệnh giảm ngay và dứt hẳn. Trải qua một phen đau khổ, Hà Tiến cảm thấy rất vừa ý Đổng Trác, cho là người tay chân khó kiếm được. Thế là, sau khi về kinh, Hà Tiến tâu lên thái hậu, điều Đổng Trác về kinh làm Trung lang tướng.
Một hôm, Hà Tiến bày tiệc ở nhà, sai kẻ tâm phúc đi mời Đổng Trác tới. Giữa tiệc, thừa cơ có rượu vào, Hà Tiến đem hết tâm sự thổ lộ cho Đổng Trác biết: Hắn muốn soán đoạt ngôi của cháu, tự mình lên làm hoàng đế, mục đích điều Đổng Trác về kinh chính là vì có thể giúp hắn trong việc này.
Đổng Trác nghe Hà Tiến nói, hắn liền phát thệ, nói là sẽ vì cậu mà ra sức, cho dù núi đao biển lửa cũng không từ. Nhưng rồi sau đó hắn lại tới trước mặt Hà thái hậu quì xuống, nhất nhất nói hết ra việc Hà Tiến muốn soán đoạt ngôi vị của cháu. Hà thái hậu nổi giận, lập tức lấy danh nghĩa của Thiếu Đế con bà phát chiếu, cách hết chức quan của Hà Tiến. Bà còn nghĩ rằng Đổng Trác có công tốt cáo, nên đem hết quyền lực giao cho Đổng Trác. Và thế là, Đổng Trác đã trở thành một người có quyền có thế nhất kinh đô. Về sau, Đổng Trác lập kế cho bọn gian thần giết chết Hà Tiến. Rồi phế Thiếu Đế, lập Hiến Đế, nắm hoàng đế ở trong tay mình.
Do bởi Đổng Trác sau khi vô kinh, luôn làm chuyện bất lượng, tới nay dân gian còn lưu truyền câu "Đổng Trác tiến kinh, dân tình điêu linh".
Điêu Thuyền vốn là con gái của Đổng Trác
Tương truyền đời mạt Hán, gần Lạc Dương có một ni am, trong am có một ni cô còn trẻ, nhan sắc tợ mẫu đơn, dung nhan dường thược dược, đẹp chẳng khác thiên tiên. Bữa nọ, lang tướng ra thành săn bắn, tình cờ gặp một cơn mưa xối xả, mình mẩy ướt dầm như gà mắc nước. Hắn thấy gần đó có một ni am, liền tới trú mưa. Ra mở cửa am thì là ni cô trẻ đẹp như tiên nga giáng trần. Tên Đổng Trác này vốn là thổ phỉ xuất thân, bây giờ hắn đội mão quan, cái nét "phỉ" của hắn chẳng những không còn thấy trên gương mặt, mà càng không có chút gì phải ái ngại. Lúc này hắn thoạt thấy ni cô trẻ như hoa ngọc, lòng dâm liền khởi dậy. Đáng thương ni cô thơ ngây như dê non phải rơi vào miệng cọp, như gà trong móng vuốt diều hâu, đã bị Đổng Trác cưỡng bức.
Sau lần đó, bụng của ni cô trẻ càng ngày càng lớn ra. Nàng muốn đi tìm cái chết, nhưng mấy lần đều bị chúng ni cô khuyên ngăn cản trở. Gần bên am, chúng ni cô dựng một chòi tranh để ni cô trả sắp sanh tới đó nghĩ ngơi đợi ngày, và còn săn sóc cơm nước hằng bữa.
Vào một đêm tuyết rơi lã chã, gió giật từng hồi, ni cô trẻ chuyển dạ, vì sanh khó, mãi cho đến sáng hôm sau, khi tiểu ni cô bưng cơm nước tới thì ni cô trẻ vì máu ra nhiều nên hơi thở đã thoi thóp. Nàng chỉ chỉ đứa bé gái sơ sinh được quấn trong tấm da điêu bên mình, rồi đôi mắt nhắm nghiền từ giã cõi đời.
Tiểu ni cô bồng đứa bé gái sơ sinh vô am. Ni cô trụ trì nhìn nó thấy y hệt mẹ, vả lại so ra còn đẹp hơn nhiều nên hết sức hài lòng, bèn nuôi dưỡng nó. Nhân vì nó được bọc trong da điêu đem vô am, tiếng khóc re ré như ve kêu, nên ni cô trụ trì đặt tên cho nó là Điêu Thuyền.
Tiểu Điêu Thuyền thông minh đĩnh ngộ, mới ba tuổi đã biết ca biết múa, nhưng hết sức khó bảo. Ni cô trụ trì sợ trong am nuôi dưỡng trẻ cứng đầu sẽ gây khó cho mọi người, hơn nữa sợ hương khách tới đốt hương lạy Phật dị nghị, nên tìm người đem cho. Người này chính là Vương Doãn.
Tào Tháo trộm vàng
Lúc Tào Tháo khởi binh, nhất hô bá ứng, không bao lâu ông đã chiêu tập được hằng vạn nhân mã. Đừng nói, chẳng những lương thảo dư dùng mà ngay tiền bạc cũng không thiếu. Nhưng ở đâu Tào Tháo có tiền nhiều đến thế?
Phụ thân của Tào Tháo lúc làm quan lớn ở kinh thành đã vơ vét không ít vàng bạc châu báu. Lúc ấy, triều đình mục nát, gian thần lộng hành tranh quyền chiếm đất, mặc ai nấy giết nấy cướp, làm cho bá tánh không có được một ngày an nhàn, nước nhà không lúc nào được an ninh. "Thế loạn trộm cướp sanh". Phụ thân Tào Tháo sợ bị cưóp, nên đem tài vật mua vàng, nhờ thợ đúc thành 20 tấm gạch vàng lớn. Như thế này thì việc cất giấu dễ dàng hơn.
Nhưng lão vẫn còn nơm nớp chưa yên bụng, lão giả đò nghỉ phép về Sơn Đông thăm quê. Lúc xây cất lại nhà cửa, lão đem 20 tấn gạch vàng này sơn thành màu gạch đánh xanh và dùng làm gạch xây cất. Sau đó, lão sợ bị lộ bí mật, nên những thợ xây cất phủ cho lão, lão tìm cách đầu độc chết hết.
Phủ mới xây cất được ba năm, trong nhà Tào Tháo đã bị bọn trộm cướp đến viếng hơn mười lần, nhưng những viên gạch vàng thì vẫn thái bình vô sự. Tào Phụ không khỏi thầm đắc ý trong bụng.
Nhưng vai lắm thì sanh buồn. Năm nay, bỗng dưng Tào Phụ mắc bệnh nặng. Trước lúc hấp hối, lão dặn Tào Tháo:
- Sau khi cha mất, tiền bạc trong nhà dư xài hai ba mươi năm. Những gạch vàng kia là tổ nghiệp, con đừng động tới. Sau này có mệnh hệ nào như cha, thì con truyền lại cho các con của con vậy.
Trên đời, không việc lạ gì không có. Tào Phụ sau khi trăn trối , chỉ chỗ bí mật gạch lát vàng cho con xong, thì lão bình phục như xưa. Và cũng chính vào năm này, quân Hoàng Cân tạo phản, quần hùng chiếm cứ, thiên hạ loại lạc khắp nơi.
Lúc Tào Tháo còn nhỏ, ông rất có chí hướng, muốn tạo một phen đại sự nghiệp kinh thiên động địa. Nay thấy thiên hạ đại loạn, ông liền muốn chiêu tập đội ngũ dấn thân vào đời. Nói là làm, sau khi bàn tính với nhiều bạn bè, ông đã chiêu tập được mấy vạn nhân mã rất mau.
Nhân mã đao thương đều đã có, nhưng lương thảo mới là quan trọng đây? Vậy thì phải tìm phụ thân bàn tính. Tào Phụ là con gà trống chiến nổi tiếng, có thể đồng ý không?
Tào Phụ vừa nghe Tào Tháo muốn lấy tiền của trong nhà dùng vào việc quân , lão liền phẩy tay áo, trừng mắt mắng:
- Người ta làm quan quân đội, đều kiếm tiền kiếm bạc đem về nhà. Mày không kiếm tiền thì thôi, đằng này lại muốn lấy tiền bạc của tao chắt mót được mà tiêu dùng, thật là thứ ăn hại!
Nói xong, lão khóa cửa kho và niêm phong cẩn thẩn, ngồi kiệu trở lại quan nha.
Sau khi phụ thân đi rồi. Tào Tháo ngẩn ngơ. Sực nghĩ tới gạch vàng ở dưới cây đà nhà, ông chẳng khỏi nở mắt cười, vội đi tìm thợ giở hết 20 tấn gạch vàng lên, và thay vào đó bằng 20 tấn gạch xanh khác y như cũ. Ông sợ phụ thân biết, còn hăm dọa gia nhân, nếu ai nói ra thì sẽ bị cắt lưỡi.
Lại nói Tào Phụ sau khi trở về nhà, trong lòng cứ là phập phồng lo, lão mãi nhớ tới kho lương tiền ở nhà. Ở quan nha chưa được hai ngày , lòng lại xốn xang muốn trở về. Sau khi trở về, thấy khóa niêm phong kho vẫn còn nguyên vẹo, lòng lão mới nhẹ nhõm. Từ đó, mỗi ngày lão đều đánh vòng đến thăm chừng. Một sáng nọ, lão đang đứng ngắm, chợt phía trên rào rào bụi bay xuống. Tào Phụ sanh nghi, vội bảo gia đinh bắc thang cho lão lên xem. Lão dùng búa gõ mấy tấm "gạch vàng" của lão , xem có bị trộm đi không, ai ngờ, chỉ nghe "rắc" một tiếng, cây đà bị đổ xuống và gãy làm hai đoạn.
Cây đà này vốn là gỗ bạch đàn, nặng tệ nhứt cũng ngày mấy trăm cân, đầu cây đà vốn gác lên mấy tảng gạch vàng chắc chắn vô cùng. Nhưng vì sau khi Tào Tháo lén lấy gạch vàng đi thì cây đà bị oằn, thêm vào đó Tào Phụ dùng búa gõ, những gạch mới xây chưa được cứng, nên chỗ cây đà chạm rồng khắc phượng chịu không nổi, liền đổ gãy xuống.
Tào Phụ biết điều này là do Tào Tháo gây ra, lão tức đến vỡ ngực nhưng chỉ than:
- Ôi tặc đạo trong nhà khó phòng, trộm gãy đà ta rồi!
Từ đó về sau, câu "tặc đạo trong nhà khó phòng, trộm gãy đà ta rồi!" trở thành câu tục ngữ.
Trương Phi bái sư
Thuở Trương Phi còn nhỏ, cha mẹ mất sớm, ông phải nương nhờ vào chú thím nuôi dưỡng. Vì không có anh chị em, chẳng người dạy dỗ, nên suốt ngày ông rong ngoài đường chơi với đứa trẻ lưu manh, bài bạc , đổ bác, rượu chè, đánh lộn.
Sau khi thành người, Trương Phi cao to dềnh dàng, sức mạnh như trâu, lại trời sanh cái dáng dữ tợn như cọp beo, nên người lớn trẻ con trong huyện thành Trác thấy ông đều lánh xa, thậm chí cả huyện nha cũng sợ ông luôn. Chẳng cần biết nhà ai, nếu có tiệc tùng lớn nhỏ đều phải mời ông ngồi chiếu đầu ăn uống, nếu không vậy thì bữa tiệc e khó đến tàn cuộc được. Mọi người đều nói: "Trương Phi là cái tai họa của huyện thành Trác này".
Có lần, một tên du đãng chạy đến mách với ông:
- Ông Trương, có chuyện không hay rồi. Chính cái bữa ông uống rượu đó, trong huyện có một tên lạ mặt tới, người ta gọi là "Tam sư truyền". Tên này tài nghệ lắm, bán thịt mà khỏi cân, chỉ mới ba hôm mà hắn đi bán không biết mấy con heo thịt. Thế này...
Không đợi tên nọ nói hết câu, Trương Phi đã không dằn nổi, nói:
- Cái gì, hắn là tên lạ mặt, tới đây không lạy ta làm thầy mà còn dám bán buôn nữa ư! Đâu, hãy dẫn ta đi!
Một bọn côn đồ du đãng liền dẫn Trương Phi tới cửa Nam. Người đi đường vừa thấy, biết là tai họa sắp đến nơi, cho nên mạnh ai nấy tránh bước nhường đường.
Trương Phi đến trước tợ thịt lom mắt nhìn: bên tợ người bán thịt này đúng là không có chiếc cân. Cho dù ai cân bao nhiêu thịt , ông ta đều nói đưa tiền đây và chiếc dao trên tay "xoẹt" một cái, đã cắt xong miếng thịt quẳng ra. Người mua không ai thắc mắc, cứ đưa tiền, miệng cười hề hề và ra đi. Trương Phi thấy vậy bèn kề tai nói nhỏ với tên lưu manh mấy câu. Tên này giả đò câm, tới mua thịt.
Tên lưu manh chìa ra một ngón tay lắc lắc hai cái.
- À , một trăm đồng.
Người bán thịt vừa nói vừa tính, "một trăm đồng, vậy là ba cân bốn lạng". Miệng vừa tính thì thịt trong tay cũng đã quăng ra tới tay tên lưu manh.
- Khoan đã!
Trương Phi sấn tới, cầm lấy miếng thịt, gằn giọng hỏi:
- Ông thầy, sao biết người câm này mua ba cân bốn lạng thịt chớ?
Người bán thịt ung dung cười, bảo:
- Mua thịt đều phải nói mua bao nhiêu tiền trước. Anh ta không nói được, đương nhiều là phải ra hiệu. Một ngón tay của anh ta lắc lắc hai cái ý là nói 100 đồng, 100 đồng thì phải 3 cân 4 lạng thôi!
Trương Phi quẳng miếng thịt trở lại trên bàn:
- Một ngón tay lắc lắc hai cái có thể nói là 100 , thế sao không thể nói là mươi xu? Không thể nói là một ngàn, một vạn? Bộ ông là con giun con sán trong bụng anh ta ư?
Người bán thịt hỏi vặn lại Trương Phi:
- Sao anh biết được anh ta không phải mua 100 đồng, chẳng lẽ anh là con lãi trong bụng anh ta ?
Trương Phi bị hỏi đến cứng họng không biết trả lời sao cho phải. Lúc này, ở đằng sau Trương Phi có một tên lưu manh khác xen tới, hất đầu nói một hơi:
- Này lão bán thịt, hãy bán thịt cho ta. Ta không mua thịt nạc, không mua thịt mỡ, không phải xương mà cũng không phải da, phải là thịt trong da, da trong thịt đấy! Bao nhiêu hử?
Người bán thịt nghe vậy, liền không chần chờ, từ trong thúng dưới tợ lấy ra một bọng đái heo, thảy ra cho tên lưu manh này, nói:
- Khỏi lấy tiền.
Tên lưu manh vốn muốn gây sự với người bán thịt, nên phịa đặt nói bậy ra vậy thôi, cho nên vừa thấy bọng đái heo thảy ra, hắn liền trợn mắt, nói:
- Thứ ta cần là thịt trong da, da trọng thịt kia!
Người bán thịt dằn cơn giận, toe toét cười, bảo:
- Này anh, bọng đái heo không kể là nạc, cũng không kể là mỡ, một là không xương, hai là không da; nó giống thịt lại là thịt trong da, nó giống da lại là da trong thịt. Đây chẳng là thứ anh đòi đó sao? Người ta dùng cái này để chế thuốc trị bệnh lậu, nên tôi không cần lấy tiền. Tôi nghĩ anh chắc cũng bị bệnh lậu nên tặng không cho đấy.
Nghe ông bán thịt nói thế, người đứng xem không nhịn được đều cười rộ lên. Trương Phi vốn hay quậy phá người ngoài đường, và chưa hề gặp phái cái vố nào chua đến như vậy, nên trong lòng liền bốc lửa giận. Ông sấn tới nắm lấy tóc người bán thịt nói:
- Ta muốn cái đầu heo năm móng mi, mi bán không?
Người bán thịt không đáp, liền hất mạnh đầu vào ngực Trương Phi, khiến Trương Phi bật ngửa, cắm đầu vô thúng đựng tim gan phèp phổi và chỏng cẳng lên trời.
Mười mấy tên lưu manh thấy Trương Phi bị chỏng gọng, liền xáp vô vây người bán thịt. Người bán thịt không chút hoảng sợ, ông dùng chân đá tợ thịt nặng cả ngàn cân đổ vô bọn chúng, làm chúng bị chiếc tợ đè ngã nghiêng ngã ngửa đến phải kêu cha kêu mẹ om trời!
Trương Phi từ lúc lọt lòng mẹ tới giờ chưa hề gặp phải địch thủ nào cao tay hơn. Lần này bị một vố đâu dễ chịu thua được! Sau khi ra khỏi thúng, thừa lúc người bán thịt mắc lo đối phó, ông liền chụp lấy cây dao cắt thịt dưới tợ, nhắm ngay sau gáy người bán thịt chém bổ tới. Sau gáy người bán thịt hình như có mắt, đợi con dao Trương Phi chỉ còn cách chừng một tấc , ông liền xoay cổ tay, bắt lấy tay cầm dao của Trương Phi, vặn mạnh một cái. Trương Phi chẳng những tay giơ dao không nổi, mà cán dao còn vuột khỏi lòng bàn tay văng đi xa lắc. Ông kêu lên như heo bị thọc huyết.
Người bán thịt heo này không ai khác, ông cố nội người này chính là đại tướng Phàn Khoái xuất thân từ nghề mỗ heo, sau làm thủ hạ Lưu Bang. Vì ông bị gian thần hãm hại nên bỏ quan trốn đi, sống lại với nghề mỗ heo của tổ tông. Cách đây không lâu, ông đánh chết một tên ác bá, lại bị quan phủ truy nã, nên trốn đến đây. Vừa đến huyện thành Trác, nghe người ta nói Trương Phi thường làm những việc hiếp đáp, nên ông liền nổi bất bình, muốn dạy Trương Phi một mẻ.
Tam sư truyền thấy Trương Phi đau đến mồ hôi ướt đàm cả áo, mới vỗ lên vai Trương Phi một cái, khiến chiếc dao trong tay Trương Phi phải văng ra.
Tam sư truyền nói:
- Trương Phi, ta nghe đồn mi cũng từ cảnh khổ xuất thân, nhưng vì sao tính khí quá hung hăng không thua chi quan phủ, chuyên áp bức dân lành vậy?
Gương mặt Trương Phi đỏ rần như huyết heo, "cốp" một cái ông đã dập đầu quì xuống:
- Sư truyền, tôi rất phục ông! Không phải phục ông thắng tôi, mà là lời nói của ông đã thuyết phục tôi. Nếu tôi còn hà hiếp bá tánh nữa thì tôi không phải là người. Ví bằng thầy tin, tôi xin được làm đồ đệ của thầy!
Từ đó về sau, Trương Phi theo người bán thịt này, ban ngày học nghề mổ heo, ban đêm học võ nghệ.
Lời tục thường nói, theo người tốt học cái tốt, theo chim én học cách bay liệng. Từ đấy, Trương Phi học theo thầy, giúp người nghèo yếu thế cô, can thiệp những việc bất bình.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top