Truyện Ngắn Nhiều Tác Giả-Lenghiabk05
Ngậm ngải tìm trầm
Hôm ấy chúng tôi vào phía rừng Kim Vân gần chân núi Truồi để đo mấy khoảnh ruộng tranh mới vỡ. Ðường đi gồ ghề và hóc hiểm, lắm đoạn phải lội qua suối nước lên quá lưng quần.
Chúng tôi đi một dây dài cho có vẻ nhiều và mạnh. Thật ra đường cũng hẹp, không thể đi hàng hai được. Ði trước là người mang hòm máy rồi đến người xách mấy mo cơm nắm và thức ăn. Tôi đi giữa, phía sau tôi là hai người cầm "ra lông" và "mia". Tôi chỉ cầm bản đồ để dò đường nên phải đưa mắt nhìn quanh mãi. Vào giữa trưa, chúng tôi đến đầu địa phận làng Thanh Mỹ. Trời về tiết hạ nhưng may cũng chưa nắng gắt. Có lẽ vì nhờ hơi đá bốc lên cao và khói sương ủ xuống nặng. Trời tuy nắng nhưng thời tiết có vẻ dễ chịu. Qua khỏi đồi thông, am Sơn Thần, trước mắt chúng tôi hòn núi Truồi dựng lên sừng sững, oai nghiêm như một vị linh thần. Sườn núi từ trên cao chạy xuống từng đường trắng, rồi tỏa rộng bốn bề trông như những ngọn thác lùa đá ùn thành đồi.
Chúng tôi đang loay hoay tìm chỗ ngồi ăn trưa thì may gặp một nền nhà cũ bỏ hoang khá bằng phẳng.
Chung quanh nền nhà có mấy thanh sắt dựng lên thật cao. Bên tay trái có mấy sợi dây thép dằng qua lại giữa hai cây sắt đã dỉ cùn đầu. Cây bìm bìm tha hồ thả dây leo và đang kết thành một hàng rào lá chạm lọng khá dày. Quái lạ, một hàng rào sắt bao quanh một nền nhà đất sét! Thật là một chuyện lạ ra ngoài tưởng tượng. Hay đây là bãi chiến trường xưa...?
Tôi đang phân vân muốn biết chuyện hàng rào sắt thì một bà lão thấy chúng tôi ngồi ăn, liền đến đứng xem. Và cũng nhờ bà ta, chúng tôi mới biết câu chuyện sau đây:
"Xóm Bình Lư hồi ấy có độ trên mười nóc nhà. Xóm ấy thuộc về làng Thanh Mỹ thượng. Họ chuyên nghề vào rừng đốn củi hay đi săn. Cách sinh kế của lớp người này rất đơn giản. Rừng núi đã chu cấp cho họ gần hết vật liệu họ cần dùng. Thiếu gạo đã có ruộng rừng, họ ra công cày cấy lấy.
Ðồ ăn phần nhiều là thịt hươu nai ướp muối hay ép thật khô. Thỉnh thoảng họ mới xuống chợ bán củi để mua ít thức cần, phần nhiều là vải, muối hay diêm. Ðời họ ở xa cách thành thị, có tiền nhiều họ cũng không biết sắm thêm gì và không vượt ra khỏi cơm ngày hai bữa. Hy vọng của họ cạn và gần, và nhờ thế rất dễ được mãn nguyện. Trong xóm ấy có hai vợ chồng bác Diệm nhà nghèo nhưng ở với làng nước rất thảo. Bác gái là người làng Ngô Xá ở Quảng Trị.
Lấy nhau sáu năm bác gái sinh được một trai và một gái. Thấy trong nhà nhiều miệng ăn, muốn cho vợ con được no ấm, bác trai liền nghĩ cách vào núi tìm trầm. Nhưng tìm trầm rất khó, không phải đôi ba ngày mà tìm ra được. Có khi phải đi đến hàng tuần hàng tháng. Rồi kết quả lắm lúc cũng chẳng ra gì. Ðó là chưa nói phải vào tận trong núi xanh và vượt qua nhiều cánh rừng nguy hiểm. Muốn tránh tai họa, người đi tìm trầm phải ngậm ngải.
Theo lắm người kể chuyện, ngải là một thứ củ cây do người Mọi ở Trường Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây ngải trong lò mật ong một tháng, để giữa dòng suối chảy một trăm ngày. Ðoạn phải đặt trong tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực năm bà già trong đời giữ vẹn tiết trinh. Vẫn chưa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để lừa cho hổ ăn. Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Ðoạn phải bẫy cho được con hổ ấy, rồi giết ngay và lấy ngải ra."
Ngải lúc ấy là một cái bùa thiêng có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì không ăn không uống cũng sống được. Và thú dữ dù đi sát bên cạnh cũng không thấy mình được. Nhưng hạn trong ba tháng mười ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì người ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ thật.
Chuyện ngậm ngải tìm trầm, thổ dân ở các dải núi miền Trung cho là rất thường. Cái mỉm cười ngờ vực đối với câu chuyện họ nói về sức phi thường của ngải sẽ quyến được cái quắc mắt giận dỗi hay cái trề môi ngạo nghễ của họ ngay vì họ quá tin đến dám xem thường tất cả người nào không chịu tin như họ, nghĩa là không hiểu rõ sức uy hùng bí mật của rừng thẳm núi cao.
Bác Diệm trai vào rừng đã gần ba tháng nhưng vẫn chưa thấy ra. Bác gái ngày nào cũng nhìn vào núi Truồi để chờ tin tức. Có lẽ chỉ lần này bác trai mới vào rừng lâu nhất. Mấy lần trước bác chỉ đi trong một vài tháng là nhiều. Bác gái ngày đêm lo sợ nhưng cũng không biết làm sao được.
Bác liền đi hỏi thăm mấy nhà hàng xóm. Có người an ủi lấy cớ bác Diệm rất thông minh, thế nào bác cũng nhớ về nhà đúng kỳ hạn. Lắm người bông đùa một cách quái ác, là nói bác đã vào tận Bình Ðịnh, Quy Nhơn, rồi lấy vợ bé trong ấy rồi. Bác Diệm gái vẫn trông mong chồng và đêm nào cũng ra phía sau nhà nhìn về phía dãy Trường Sơn bát ngát. Nhưng dải núi thì cao và hùng vĩ quá, không thể đem lại sự yên lành trong tâm hồn chất phác của cô gái quê được.
Ba tháng mười ngày đã qua từ lâu. Bác Diệm gái lại càng lo sợ hơn nữa. Ðêm nào bác cũng ra đứng giữa sân thẫn thờ nhìn về dãy núi, rồi đến đêm khuya bác với trở vào nhà ngồi khóc rấm rứt.
Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi, rất nặng nề trong lòng người mong đợi. Rồi giữa một đêm trăng mờ cuối thu, Bác Diệm gái bỗng nghe tiếng rú xa xa, đứt quãng rồi kéo dài rất ảo não. Bác Diệm tung chiếu chạy ra sau nhà, tim đập mạnh và tay chân run lập cập.
Phía xa trên một đồi nhỏ, lọt trong rặng thông lơ thơ, một bóng người đang nhìn về xóm Bình Lư đã từ lâu im lìm trong đêm vắng. Tuy chưa nhận rõ là ai, linh tính đã báo cho bác biết đó là chồng bác, bác Diệm trai. Rồi không suy tính, bác đâm đầu chạy ra, lòng mừng khấp khởi. Nhưng mới chạy được một quãng ngắn, bác đã lạnh người đứng dừng lại. Một tiếng rú nghe lạnh và uất như một người câm cố thét lên để nói được tiếng của loài người.
Tuy sợ nhưng lòng bác Diệm gái thương chồng mạnh hơn. Bác gắng sức chạy đến chân đồi, cái bóng đen liền chờn vờn đi lại phía bác, hai tay thả lỏng, đầu gật gù lưng cúi lom khom. ánh trăng thu giây bụi vàng nhạt trên mớ tóc dài đen nháy của con người kỳ dị lại làm bác gái giật mình, muốn đứng lại ngay. Giữa lúc ấy bác nhận thấy một manh áo nâu đã rách tươm còn vướng trên cổ người ấy... Thôi rồi! Chồng bác đã gần hóa hổ, bác run sợ và bồi hồi... Nhưng bác cũng cố đứng nhìn và đợi. Cái bóng đen vừa tiến đến vừa rên hừ hừ, như bị ngạt trong cổ. Lúc thoáng thấy cặp mắt chồng đã tròn xoe và hoe sáng như lửa, cằm đã mọc râu dài và thưa, bác Diệm gái liền đi thụt lùi rất gấp. Nhưng bác vấp phải một cành cây nằm ngang ở phía sau. Bác thét lên một tiếng rồi ngã nhào, chết ngất.
Sáng hôm sau, lúc bừng mắt tỉnh dậy, bác Diệm gái thấy mình đang nằm trên giường nhà. Hỏi mấy người đến thăm, bác mới biết tiếng rú đêm qua, dân xóm đều nghe rõ ràng cả. Họ cũng lần ra phía đồi để xem thì gặp lúc bác nằm chết ngất trên cành cây khô. Mấy người khiêng bác về nhà. Còn những người bạo dạn thì lấy roi hèo đánh đuổi con người quái lạ kia đi. Nghe đến đấy bác Diệm gái mở lớn đôi mắt, băn khoăn hỏi:
- Dân xóm có đánh người ấy à?
Một ông lão đáp:
- Không, chỉ dọa thôi. Thật ra cũng không ai dám đến gần hắn.
Bác gái nói thầm như để một mình nghe:
- Chồng tôi đó!
Nói xong bác ứa nước mắt thở dài một cách ngao ngán.
Luôn mấy đêm sau, bác Diệm gái ra sau nhà đứng nhìn về phía mấy ngọn đồi nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng chồng đâu nữa. Bác lại trở vào nhà âm thầm nằm đợi nghe tiếng rú.
Qua tháng sau, một buổi chiều, bác xuống chợ Truồi mua gạo thì bác trai mon men vào nhà. Bác đem theo một buồng chuối hoang và mấy trái cam dại. Hai đứa con mới nhận thấy bác đã khóc vang lên. Bác lo sợ cúi gầm đầu xuống và đưa cam chuối cho chúng ăn. Chúng thấy người ấy không làm gì hại và còn cho ăn tử tế thì ngồi yên lặng ngay.
Bác Diệm trai muốn vuốt ve con, nhưng tay bác sờ đến đâu, áo quần của hai đứa nhỏ rách toang đến đấy. Thì ra móng tay bác đã sắc và nhọn lắm rồi.
Thừa lúc đứa con trai quay mặt nhìn ra sân bác Diệm liền thè lưỡi liếm đầu nó. Bác muốn tỏ vẻ yêu mến con, lòng bác còn là lòng người, nhưng chao ôi, cử chỉ của bác đã nhuộm đầy vẻ thú. Lưỡi bác đã rám và sắc hơn dao rồi. Chỉ đưa đi đưa lại mấy cái, tóc đứa con đã rụng tua tủa. Hai đứa con sợ quá, liền bỏ chạy ra sân la lớn. Cũng ngay lúc ấy bác Diệm gái đi chợ về. Thấy chồng lông đầy người và mầu lông đã hơi vàng, hai tay trước thòng gần chấm đất và nanh trắng nhe ra ngoài môi, bác Diệm gái cũng hoảng hốt la tiếp.
Nghe tiếng ồn ào, dân quanh xóm liền chạy đến và đuổi con vật nửa người nửa thú chạy bán sống bán chết vào rừng. Muốn che chở người cô quả, dân xóm Bình Lư xuống xin mấy người làm đường xe lửa ở gần ga Truồi một chục thanh sắt và mấy sải dây thép về làm một cái hàng rào vây quanh nhà bác Diệm gái. Từ đó bác Diệm trai không dám bén chân về nhà nữa.
Nhưng qua mùa xuân sau, cũng một đêm trăng mờ như bảy tháng trước, bác Diệm gái lại nghe tiếng rú kinh hồn trên đồi thông vắng. Bác liền vội vã chạy ra sau nhà. Trong bầu ánh sáng nhạt, nhuộm sương khuya, bác Diệm thấy một bóng người - không, một con vật thì đúng hơn - chụm mạnh bốn chân xuống đất, ngẩng đầu lên cao, đang đăm đăm nhìn về phía bác. Thôi thế là hết! Chồng bác đã hoàn toàn hóa hổ... Bác ôm mặt khóc rất thê thảm. Con hổ cũng rú lên một hơi dài như để đáp lại tiếng lòng của vợ. Tiếng rú nghe lạnh và buồn.
Ðoạn con vật quay mình lẳng lặng đi vào phía núi Truồi, rồi biến dần trong ánh trăng xanh nhạt.
Dãy núi Truồi từ đó đã như một bức thành kiên cố chia đôi tình nhân loại với cảnh huyền bí của sơn lâm.
CUA ĐỒNG THÁNG MƯỜI
Tạp văn
Nắng vàng nhạt, heo may lành lạnh. Đồng tháng mười vừa gặt xong, chỉ còn rạ phơi. Cứ ba đon rạ người ta dựng chụm đầu vào nhau cho mau khô, gọi là đụn, lô xô tít tắp. Lúc này đi tìm bắt cua trên đồng trống vô cùng thích thú.
Ruộng lấp xấp nước, chỗ sâu nhất cũng chỉ lưng ống chân. Cua tháng mười chắc nịch. Chúng ăn mầm vừa nhú ra trắng nõn của những hạt lúa rụng, tép và các loài thuỷ sinh dồn lại khi nước rút. Mai cua màu nâu non, hoặc xanh bóng lên ánh thép, chứ không xỉn và bám rong rêu như cua tháng một, tháng hai trong các ao đầm.
Tôi và chị Huyên chỉ việc nhấc nhẹ các đụn rạ đặt sang chỗ khác, chờ nước chân đụn lắng một chút là có thể thấy chú cua giương mắt, giương càng lên thách thức.
Sau khi no nê, những chú cua vào bờ đào hang. Hang cua quê tôi gọi là mà. Rất hiếm khi hai con cua ở cùng mà. Vì vậy mới có câu Mỗi mả mỗi ma, mỗi mà mỗi cua. Mỗi lần ra đồng bắt cua, tôi thường nhường cho chị Huyên đi trước, dọc bờ ruộng tìm mà. Thế mà bao giờ giỏ của tôi cũng nhiều cua hơn chị.
Cua đùn đất sét vàng mềm mại ra lấp cửa mà, cũng có mà đất thó đen xạm. Đất cửa mà rắn câng, khó nong rộng ra để thọc cánh tay vào, đích thị là cua nhỏ. Đất mềm, mà sâu xuống nhưng không ngoặt hướng thường là cua to. Cũng có mà ngoặt hướng, thọc hết cánh tay vào, sỏi và sạn lẫn trong đất kéo những vệt rớm máu dọc cánh tay mà không sao chạm tới chú cua lì lợm ở đáy mà. Tôi tát nước đầy mà rồi đưa cánh tay vào, rút cánh tay ra thật mạnh, thật nhanh… ì oạp… ì oạp... Nước bùn bắn tung tóe vào ngực, vào mặt. Chú cua bị nước giật ra theo.
Tôi không hiểu sao trên đồng rất ít cua rốc. Đó là những chú cua to kềnh, hai càng dài nghêu, giương lên gắp gắp rất dữ tợn. Cua rốc thường màu tro, mai cua và tám cẳng như mọc lông do mốc rong rêu. Tôi hay tóm được những chú cua rốc khi đánh dậm ở ao đầm hoặc dưới những bè rau muống thả trên kênh mương. Nói gì thì nói, cua rốc trông oai vệ, chứ không ngọt thịt. Cua đồng tháng mười mới là nhất. Bóc mai để riêng lấy gạch, cho cua vào cối đá giã nhuyễn. Thịt cua mát lạnh và dẻo như níu lấy chày. Nồi canh cua rau đay xanh, vầng gạch cua vàng ruộm, đĩa cà pháo muối giòn tan, món ăn giản dị dân dã đã trở thành nỗi nhớ của những đứa con nhà nông phiêu dạt đến một miền đất nào xa lắc.
***
Tôi thường về quê lúc chớm thu để nghe hơi may lan lan trên da thịt. Bây giờ đồng tháng mười không còn những đụn rạ phơi nữa. Giống lúa ngắn ngày lùn tịt mọc trên những chân ruộng không cần nhiều nước. Vôi và các loại hóa chất phục vụ canh nông đã hủy diệt tôm cua cá. Thậm chí, một con đỉa cũng không còn. Phiên chợ quê bây giờ bán cua theo kí đựng trong chậu nhôm bò rột rẹt. Đó là những chú cua còi đẹt bắt từ những con sông, con mương bị ô nhiễm. Tìm đâu những xóc cua hai mươi con béo vàng xếp chồng trên hai que tre ngày xưa ấy?
Tôi lang thang trên cánh đồng làng ngày càng teo lại do người ta lấy đất xây dựng nhà cửa. Tôi nhớ thằng bé đầu trần, hông đeo giỏ, mặt lấm lem bùn đất, chiếc quần đùi vá, chạy những bước tung tóe nước trên khắp cánh đồng. Chính là tôi của hơn bốn mươi năm trước. Tôi nhớ gương mặt người con gái mặc chiếc áo nâu ngắn cũn cỡn, hai bím tóc lất phất chạy phía trước tôi, cái nón mê lật ngược ra sau lưng. Chị Huyên, người bạn thời lam lũ của tôi. Nghe đâu chị đã lấy chồng về làng Lẻ, làng của xã khác, cách xã tôi mấy cánh đồng. Cái làng từ xa xưa đã buồn bã trong một câu ca, con gái quê tôi ai cũng thuộc nằm lòng.
Muốn ăn cua rốc, ốc nhồi
Lấy chồng làng Lẻ suốt đời bắt cua.
Người ta bảo rằng chị khổ lắm, ít về thăm nhà. Đã lâu lắm rồi tôi không gặp chị…
THOÁT CHẾT Ở DÒNG SÔNG MUỖI
Truyện ngắn
1. Chuyện kể rằng ngày xưa ở nước Vệ người ta thường đưa phạm nhân mắc tội tử hình đến một dòng sông Muỗi. Bất kể ai phải ở dòng sông Muỗi này một đêm thì coi như cầm chắc cái chết. Mỗi phạm nhân mắc tội tử hình, người ta cho lên ngồi trên một cái thuyền đẩy ra giữa sông, thuyền này không có mái chèo. Quả nhiên sáng hôm sau chỉ thấy nạn nhân gục xuống lòng thuyền, không còn hơi thở nữa. Người ta còn ra thêm một quy ước nếu phạm nhân không bị muỗi đối chết thì sẽ được miễn tội chết.
Vào năm ấy, phạm nhân nọ cũng mắc tội tử hình tối đêm cũng bị cho ngồi vào thuyền và đẩy ra giữa dòng sông. Sáng hôm sau quan quân ra kiểm tra chắc mẩm cũng sẽ chỉ mang cái xác không hồn về. Nhưng lạ quá, phạm nhân nọ không những không chết mà còn chẳng hề hấn gì. Quan quân hỏi:
- Tại sao ai phải tới đây cũng không còn mạng sống mà ông thì…? Ông nói mau, có cách gì?
Phạm nhân nọ trả lời:
- Tôi không có cách gì cả.
- Không thể! Chưa một ai thoát chết ở dòng sông Muỗi này. Nếu ông không nói, bọn ta sẽ giết ông lần nữa thay vì làm đúng qui ước.
Phạm nhân nọ nghĩ bụng “chả dại gì mà thi gan với bọn chẳng biết giời đất là gì này”, ông ta sợ quan quân giết mình thật bèn từ tốn trả lời:
- Tôi chỉ có một cách rất đơn giản là im lặng và không động đậy.
- Chỉ có thế thôi thì làm sao lại thoát chết được? Quan quân bắt đầu nóng mặt vì cho rằng phạm nhân nọ quanh co nói dối.
- Tôi biết bọn muỗi khi đã no nê thường nằm tại chỗ ngủ. Cho nên lúc đầu chúng bu kín người tôi, tôi cắn răng chịu đựng để chúng hút máu. Khi chúng lăn ra ngủ hết thì chúng chính là lớp lá chắn cho tôi không bị những con khác tấn công. Người khác chết là vì muỗi đốt đến đâu, anh ta tìm cách đuổi đến đó, anh ta cứ đuổi lớp này thì lớp khác đói máu lại đến…
Quan quân ồ lên: Ông này cao thủ!
2. Vừa rồi, nhà bác Quách bỏ công ra sưu tầm một cuốn sách nghệ thuật qua nhiều thời kỳ rất chi là kỳ công. Phải nói cho công bằng rằng kiến thức của bác tuy không cao siêu nhưng rõ ràng là sự nhiệt tình với nghệ thuật thì không thể phủ nhận. Tuy nhiên, cuốn sách ấy có nhiều chỗ bác trích dẫn sai be bét hết cả làm cho độc giả nổi giận. Thậm chí có vài fan chỉ trích bác ghê gớm.
Lúc đầu, nhà bác Oách hậm hực, hậm hực nghĩ bụng: “Tiên sư nhà chúng nó, tao đã phải bỏ công, bỏ của viết sách cho chúng nó đọc thế mà chúng nó còn dám lên tiếng chửi lại tao…” Ngờ đâu bọn độc giả nhiều kẻ giỏi cỡ nhất nhì ngành càng điên tiết, họ bảo nhau đã thế cho lão Oách này chết luôn, khỏi phải ngắc ngoải. Họ liên tiếp ra đòn khiến bác Oách nổi tiếng vênh vang ta đây kiến thức rộng, lại có tài hùng biện đâm ra đổ bệnh.
Bác Oách nằm liệt giường tới mấy ngày liền, chẳng thiết gì ăn uống. Tới đêm thứ bảy, bác đang nằm mê man vì kiệt sức, vì suy nghĩ và cả vì không được nạp năng lượng… thì bỗng đâu bác nằm mộng được gặp phạm nhân thoát chết trên dòng sông Muỗi bên nước Vệ. Vừa nhìn thấy nhà bác Oách, lão phạm nhân năm xưa giờ đã già lắm, tóc trắng như mây, râu dài tới ngang gối giận dữ mắng:
- Ngu thì chết, ai bảo to mồm! Biết thì thưa thớt, không biết thì dựa cột mà nghe. Ca dao nước của ngươi chẳng dạy thế mà không chịu học?
Nhà bác Oách yếu ớt cố gắng nói:
- Dạ, xin thầy bớt giận, thầy có cách gì giúp con?
- Được, nghe ta thì thoát chết. Nói rồi lão phạm nhân già ghé tai nhà bác Oách thầm thì, thầm thì hồi lâu rồi vụt biến mất.
3. Công chúng lấy làm lạ vì bọn độc giả ngỡ đang muốn xẻ thịt bác Oách bỗng nhiên cũng im thin thít.
Có một tay độc giả không thể kiềm chế nổi, bèn đến hỏi bác cho ra lẽ. Nhà bác Oách cười lớn, vỗ tay vào đùi kêu cái đét:
- Ha ha, lão phạm nhân già kia thông minh thật, nhưng ta còn thông minh hơn! Ta nghe bọn độc giả chửi thê thảm nhưng tuyệt nhiên không buồn sầu. Đứa nào ghê gớm nhất ta đến tận nhà cảm ơn. Bọn này khác gì bọn Muỗi!
Tay độc giả ngớ người chào bác Oách ra về. Vừa ra khỏi cổng, hắn vừa lẩm bẩm một cách hoảng sợ: “Hậu duệ của lão phạm nhân này nguy hiểm thật. Kết hợp giữa thông minh và ác độc thì thế giới tận diệt còn gì!”.
Người tạm trú trần gian
Phố huyện chạy tới đầu làng bỗng thắt lại, từ đây đoạn vằn vèo nham nhở, khúc thênh thang. Làng sắp lên thị trấn. Cuộc sinh sôi biến chuyển nào cũng quyến rũ và nhọc nhằn, trải bao thắt lưng buộc bụng mới thành.
Đường nâng cấp mở rộng gấp ba lần cho tương xứng tầm vóc mới. Đá hộc, đá dăm đổ chất đống. Bóng nhẫy những thùng hắc ín mượn gió đưa mùi hăng ngái vào tận cuối xóm. Hàng phi lao chặt xuống như đốn đi một thời nghèo khó. Người nhào vô, tậu thổ xây nhà mặt đường, đất ngằn ngặt cơn sốt. Mấy hộ nằm trong diện giải toả, được xã đền bù và cấp thổ mới, mặt cứ tươi lên roi rói.
Ai dè chỗ eo thắt đầu làng mắc mớ khó gỡ nổi, ảnh hưởng ghê gớm tới tiến trình đô thị hoá, chỉ vì ngự kề ven đường sừng sững lăng mộ tổ họ Lâm. Xét cả thế lẫn lực, dòng họ này mạnh nhất vùng phía Đông huyện. Nhân khẩu Lâm tộc chiếm non nửa xã. Họ Lâm giỏi làm kinh tế, giám đốc có tới mấy vị, toàn lãnh đạo những doanh nghiệp tăm tiếng khắp huyện, khắp tỉnh. Xã đánh công văn yêu cầu họ Lâm di dời lăng Mộ tổ về khu nghĩa địa, tạo điều kiện mở rộng đường sá. Nhưng họ Lâm chống đối. Cái lí đưa ra: Mộ tổ nằm giữa long mạch con cháu đương phát, không chuyển đi đâu hết. Tới hạn xã đành cưỡng chế. Đội dân quân được huy động vào địa phận lăng. Họ Lâm chẳng vừa, hơn hai trăm đinh tay gậy, tay cuốc kéo ra bao vây hăm dọa. Tộc trưởng lớn tiếng:
- Thằng nào làm bung một viên gạch của lăng sẽ xơi một nhát chém.
Trước đông đảo những kẻ chống đối, ai nấy mặt đằng sát khí, tổ dân quân đành thoái lui.
Ông Chủ tịch xã vò đầu bứt tai vì chưa chớp loé hướng giải quyết. Ông triệu tập các vị bô lão trong họ Lâm lên ủy ban để thuyết phục cũng chẳng lay chuyển nổi. Công an huyện vừa tới cơ sở, già trẻ họ Lâm tràn ra chật đường phản đối. Căng chút nữa thành to chuyện. Lần nữa xã đành hoãn binh. Hội đồng nhân dân họp bàn mãi vẫn không có phương án khả thi. Chủ tịch xã cuống cả lên với khúc đường hẹp.
*
Tạm gác chuyện đường sá, chuyển sang kể về lão Tụ.
Gốc gác chốn nao chẳng ai biết chứ quê tôi đâu phải nơi cha sinh, mẹ đẻ của lão Tụ. Cách đây hai mươi lăm năm, lão bỗng nhiên xuất hiện ở làng, lân la xin ăn góc chợ quán. Cứ như thể đất lành chim đậu, lão ở riết luôn, không đi nơi khác nữa.
Tuổi tác bao niên, chính lão Tụ chả nhớ. Gương mặt hom hem dễ đến bảy mươi. Ngày trước lão từng bước chân vào uỷ ban xin nhập hộ khẩu. Ông chủ tịch hỏi giấy tờ gì lão cũng lắc đầu. Nghĩa là chẳng có một văn bản nào minh chứng lão đang tồn tại trên đời. Ông chủ tịch đành chịu, bảo lão.
- Muốn đăng ký thường trú, bác phải trình giấy tờ di chuyển hộ khẩu, chí ít có giấy khai sinh, giấy giới thiệu để chúng tôi biết quê hương bản quán nơi nào chứ thương bác lắm! Nhưng hành pháp không tuỳ tiện được. Thôi cứ ghi tên bác vào danh sách đăng ký tạm trú vậy.
Được thế chính quyền xã tôi cũng rộng lòng với lão Tụ lắm rồi. Hồi mới “lập nghiệp” ban đêm lão phải ngủ vơ vất dưới những túp lều trống hoếch hoác ở chợ Quán. Hạ thu còn đỡ, chứ mùa đông gió bấc không tan xương nát thịt cũng bầm da. Về sau xã ưu ái cấp cho lão sáu mét vuông đất bỏ hoang để làm nhà. Đó là thổ cư độc nhất vô nhị về diện tích siêu nhỏ. Sáu mét vuông đủ trú ngụ một thân phận. Dẫu thổ rộng nữa lão Tụ cũng chẳng dựng nổi nhà to hơn. Tre đi xin dựng cột kèo. Vách nứa trát đất bên ngoài tha hồ chắn gió. Mái rạ hạ mát đông ấm. Lão yên ổn định cư…
Con trâu già nhà ông Thanh tộc trưởng họ Lâm, ốm liền mấy ngày. Cán bộ thú y điều trị vẫn không vực dậy được. Tinh mơ, con trâu chết. Ông Thanh vừa sai con đi đánh tiếng mời mấy người tới làm thịt trâu, chẳng mấy chốc đã thấy anh em láng giềng kéo đến…
Dĩ nhiên lão Tụ đã thấy mùi thịt trâu từ mấy hôm trước. Vắng mặt lão là trời sập. Lão lù lù cái dáng còng queo từ lúc nào chẳng ai để ý.
Tiệc thịt trâu đã sắp ra bát đĩa. Anh con trai út của ông Thanh gọi lão Tụ ra đống rơm. Cho lão ăn trước. Một đĩa thịt trâu thái dối, thêm mấy cọng hành một chút rượu được ấn vào tay lão Tụ. Lão cười vếch khoé miệng, rối rít cảm ơn.
Xong anh con trai út của trưởng họ vội vã đi thúc giục người đi bưng mâm lên nhà trên mời các bậc cao niên nhắm rượu.
- Ôi trời ơi ông Tụ làm sao ấy!
Con dâu ông Thanh từ đằng bếp chạy ra tru tréo. Mọi người hoảng hốt túa về phía đống rơm. Lão Tụ nằm lăn đùng ra đất, miệng há hốc, mắt trợn ngược. Lão chẳng nói được câu nào nữa. Chỉ chốc lát, chân tay cũng hết giãy giụa. Đĩa thịt trâu chỉ còn vài miếng văng ra lẫn vào rơm rạ. Ai nấy lao vào cứu chẳng kịp nữa rồi. Sờ tay vào ngực thấy tim đã ngừng đập, chạm tay vào mũi đã thấy ngừng thở. Lão Tụ chết thật rồi. Lão đi chóng vánh làm sao. Chẳng tật bệnh, không đau đớn. Lão rời bỏ trần gian khi còn chưa kịp xơi nốt đĩa thịt trâu.
Nghĩa tử là nghĩa tận. Lão Tụ một thân đơn chiếc, chẳng họ hàng thân thích, không quê hương bản quán. Lão tận số ở đây thì bà con làng này phải chung sức lo việc ma chay cho lão, vẹn toàn. Chôn cất ở nghĩa địa xã. Cũng phải làm đơn đưa lên xã ký, rồi chuyển cho ban quản lý nghĩa địa giải quyết đất đào huyệt. Mãi chiều tối mới xong thủ tục. Họ Lâm gọi thợ đến đóng quan tài. Tuy áo quan không được làm bằng gỗ tốt nhưng chắc cũng đủ ấm lòng người quá cố. Cũng kèn trống mới trọn vẹn. Chỉ duy chẳng cỗ bàn gì. Bà con xóm làng tới viếng cho hương hồn lão khỏi cô quạnh. Bảy giờ chiều làng tiễn đưa lão về nơi an nghỉ. Trời đã sậm tối, sáu trai làng nhẹ nhàng nâng quan tài lên vai. Hai ngọn đuốc chập chờn đi kề. Làng xóm lác đác theo sau. Gió phần phật thâm thâm u u. Đường ra cánh đồng lồi lõm những gồ ụ, những mạch tát nước. Cỏ may luyến bàn chân. Bỗng ngọn đuốc đi trước tắt phụt. Một anh khiêng đằng đầu kêu “oái!”, khuỵu chân sóng xoài ngã xuống đường, đám người đổ ập, chiếc quan tài nhao đầu xuống đất cái rụp. Ba bốn anh ôm chân kêu đau. Tại trời tối quá một người vấp phải hòn đá, đám khiêng theo nhau chổng kềnh mấy người đang rền rĩ than đau thì bỗng có tiếng la hét từ trong quan tài vọng ra. Anh nào anh nấy hoảng hốt, hồn bay phách tán, nhưng chẳng ai bò dậy nổi để chạy. Tiếng đập uỳnh uỵch càng mạnh rõ ra giọng lão Tụ kêu gào thảm thiết. Hồn ma lão Tụ hiện về ư? Những người bạo dạn đi sau lao tới cậy nắp quan tài. Từ cổ chí kim làng tôi chưa bao giờ xảy ra sự việc kinh dị như vậy. Lão Tụ bò dậy thật hổn hển thở, miệng ớ ú chẳng ai hiểu lão nói gì.
Sự việc lão Tụ chết rồi sống dậy thành chuyện động trời ở làng, nhiều người ở xã khác cũng kéo nhau tới xem mặt lão Tụ, thực mục sở thị…
Chưa hết lạ kỳ hôm sau dân làng xúm quanh người chết sống dậy, hau háu hóng chuyện lão ngao du chốn địa phủ. Lão kể: Miếng thịt trâu chẹn tắc cửa họng. Lão ngạt thở, lịm đi rồi thấy hai gã áo chàm xám, đầu chít khăn mỏ quạ lôi lão dậy kéo đi theo con đường lầy bùn, tối hun hút, qua cánh đồng cỏ lác, thấp thoáng những ngôi nhà cổ rêu bám mịt mùng, ngập lút trong cỏ. Qua nhiều nhà chủ nhân ra tận ngõ mời vào nhà chơi. Lão ghé thăm vài nhà. Toàn những người xa lạ, lão chưa quen biết, nhưng hỏi thăm lão rất chân tình. Người giới thiệu là bố đẻ của bác Tăng, người lại khoe ông nội của anh Tấn… Ai cũng có máu mủ ruột rà với người làng… Lão không thể vào thăm mọi nhà bởi vì hai gã công sai đã kéo lão đi. Qua cổng có mái cong lợp ngói ấm, lão được dẫn vào sân gạch rộng. Hai bên đôi hàng người áo thâm đứng nghiêm trang. Trước mặt, một người ra dáng quan lớn thời xưa ngồi trên chiếc sập chân quỳ chạm trổ công phu những rồng, những phượng. Người ngự trên sập vuốt chòm râu mềm như dải lụa, phán bảo:
- Kẻ kia lỡ bước xuống lãnh địa của ta lẽ ra ta dung nạp, cho ngươi một chốn nương thân yên ổn mãi. Nhưng vì người chưa có hộ khẩu bản địa nên ta đành tạm trả lại trần thế...
Nói đoạn, lệnh cho hai gã công sai dẫn lão ra. Vừa bước quá cổng chợt có tiếng gọi loáng thoáng:
- Ông Tụ ơi! Còn nhớ tôi chứ!
Lão quay đầu lại nhận ra ông Bàng. Ông Bàng mất đã hai năm nhưng lão chưa kịp hỏi han gì, đã bị lôi đi. Đến gần cuối đoạn đường, gặp ngôi nhà to lớn vẻ gia chủ khá giàu có. Một cụ già quắc thước dắt theo hai đứa tiểu đồng đi ra mời lão ăn quả mơ, uống bầu rượu. Lão uống ngon lành, thấm ngọt tận ruột. Hai gã công sai luôn miệng giục lão đi. Cụ già nói:
Ta muốn nhờ con một việc. Ta là tổ phụ họ Lâm. Con trở lại trần gian nhớ đem ý nguyện của ta tới con cháu ta. Nhắn chúng nó chuyển ta về nghĩa trang thôn cho ta được gần gũi xóm làng.
Lão Tụ nhận lời rồi bước thêm vài bước nữa, bỗng trượt chân rơi xuống hố tối đen thăm thẳm. Lão nôn thốc nôn tháo. Thế là tỉnh dậy. Thấy mình bị nhốt trong chiếc hộp kín như bưng. Lão hốt hoảng gào thét gọi cứu…
Khối người tin sái cổ lời lão Tụ kể. Chú Viêng túm lấy lão, hỏi “Ông có gặp mẹ cháu không?” Lão Tụ “có! Bà cụ than thở: hai thằng con tôi ngày bé thương yêu nhau lắm. Vậy mà bây giờ quay ra tranh giành cái bờ rào, cãi cọ nhau hơn thiệt đất cát, làm sao mà mở mày mở mặt được?” Chú Viêng cúi gằm mặt im thin thít.
Tuần sau tộc trưởng họ Lâm đổi hướng cho di chuyển lăng mộ tổ chẳng cần chính quyền xã tiếp tục ra tay…
Chủ tịch xã thở phào thoát được mối lo nặng nề. Nghe đâu chủ tịch gọi lão Tụ vào uỷ ban rót thưởng chén nước chè Thái thơm nức mũi ngợi khen lão hết lời. Bảo sẽ bố trí cho lão làm công việc coi xe đạp, xe máy ở cổng chợ Quán, để có thu nhập yên ổn cuộc sống, còn hứa sẽ quan tâm giải quyết hộ khẩu cho lão. Lão Tụ toe toét cười…
Tôi không được chứng kiến tận mắt lão Tụ chết sống dậy vì công tác xa quê. Ít lâu trở về người nhà thuật lại. Tôi bán tín bán nghi, nhưng gặp ai cũng nghe kể, và lại chỗ eo thắt đầu làng cũng thênh thang, khiến tôi không thể không tò mò. Người làng đã thôi buôn chuyện chết hụt của lão Tụ từ lâu. Kỳ lạ mấy, cuốn hút mấy cũng nhạt theo thời gian. Làng đã thành thị trấn Chợ Quán, đã sầm uất hơn trước nhiều. Dãy phố mới mọc lên áp sát mé chợ bán đủ thứ mặt hàng, từ vải vóc, mỹ phẩm, đến điện gia dụng. Khu hàng chòm hỏm, trước kia người bán ngồi xổm giữa la liệt rổ, thúng, nịp…
Nay đã tôn cao nền xây mái che. Lão Tụ giờ coi xe ngoài cổng chợ, tay vé, tay phấn, lão ăn vận sạch sẽ hơn, bộ quần áo cáu bẩn thay bằng áo xanh đại cán, quần gụ, trông lão nhanh nhẹn hẳn ra. Kéo lão vào quán bà Tư béo sát ngay đấy, tôi đãi lão chén rượu nếp cẩm, gọi thêm đĩa bánh rán cho lão nhờn môi dễ đưa chuyện. Nhận thức coi âm dương còn ám ảnh trong tôi, u u minh minh, cái gì càng hồ nghi càng nôn nao muốn biết cho tường. Tôi có gạn hỏi lão. Lão cười bảo:
- Mày trình độ đại học mà cũng tin chuyện hoang đường ấy à! Tao chết hụt là do tao đóng kịch và có mấy người họ Lâm động viên, giúp đỡ, bày binh bố trận nên vở kịch mới thành chứ mày tưởng. Còn chu du âm phủ là tao bịa đấy!. Thấy chính quyền loay hoay mãi chưa giải quyết nổi chuyện mồ mả họ Lâm nên tao phịa ra chuyện để họ Lâm chuyển lăng mộ tổ đi mới tránh được cuộc va chạm có nguy cơ đổ máu. Vả lại mấy khi được vẽ chuyện nói dóc chơi. Thiên hạ khối đứa tròn mắt tin lão này sát đất đấy.
Kẻ phản bội
Truyện ngắn
Rít một hơi thuốc lào, ngửa cổ nhìn đám khói đang bay lơ lửng trong gian nhà quạnh vắng, lão Tơn lơ đãng… Mình thì khốn nạn đã đành, còn có người sướng mà cũng không biết sướng…
Đấy là lão đang nghĩ về lão Hoán… Con trai làm đến Phó Chủ tịch huyện, con gái lấy chồng là cán bộ Trung ương ở tít trên Hà Nội. Cả làng cả huyện cho là nhà đại phúc. Ấy vậy mà đêm qua lão lại bỏ trốn nhà. Xóm làng cùng con cái đổ đi khắp nơi tìm suốt đêm suốt sáng mà không thấy. Nói dại hay là đâm đầu xuống sông, xuống ao mà chết thì thiệt thân. Làm bố của bậc phụ mẫu chi dân mà lại giở chứng. Thật chả ra làm sao…
Ngoài ngõ, tiếng sừng trâu lộc cộc lộc cộc gõ vào gióng chuồng giục giã. Lão Tơn đứng lên ghé sát mặt vào cái đồng hồ, vậy mà đã hơn hai giờ chiều. Cả buổi sáng trời mưa, lại bận cùng cả làng đi tìm lão Hoán nên con trâu bị bỏ đói. Thôi chả nghĩ nữa, dắt trâu đi cho nó kiếm tý cỏ tươi bỏ bụng…
Ở đời ai cũng có nỗi khổ- Lão Tơn vừa dong trâu vừa cúi mặt lẩm bẩm- Như lão thì đã đành, đánh giặc hơn chục năm, về nhà lấy vợ sinh con. Đứa con đầu sinh ra đã chẳng có được hình hài hẳn hoi, đầu to đít bé, chân tay nhỏ tý xíu, trông như củ khoai cắm mấy que tăm. Người ngoài chả ai dám đến nhà vì người ta sợ khi thấy cái hình hài quái dị thỉnh thoảng lại èo èo kêu như tiếng mèo bị bóp cổ, và nhất là hai lỗ mắt trắng dã chẳng có con ngươi của nó…Chả cần! Dứt ruột đẻ ra, con mình thì mình thương, con mình thì mình chăm chút. Năm năm giời vừa dỗ con vừa khóc, rồi con cũng bỏ mà đi. Âu cũng là sự giải thoát! May mà đứa thứ hai là con giai, cân cốt mọi bề, khỏe mạnh tốt tươi học hành chăm chỉ, hy vọng tràn trề. Thì ra trời còn thương. Ai ngờ nó đang học lớp mười hai thì tự dưng ốm một trận rồi như có ma hút hết máu thịt, người ngợm trơ khung xương khẳng khiu như cành núc nác, sần sùi da cóc, mồm miệng rộng hoác lúc nào cũng ngáp ngáp chẳng ra khóc, chẳng ra cười. Hàng chục năm giời cõng con chạy hết viện tỉnh đến viện trung ương, thuốc nam, thuốc bắc đủ cả… có bệnh thì vái tứ phương, nghe ai mách đâu có thuốc hay thì vội tìm đến. Góp nhặt cả đời, cộng với tiền trợ cấp thương binh hàng tháng tất tần tật dồn vào cứu chữa cho con. Nhưng con vẫn chẳng thể ở với mình. Vợ lão quắt queo kiệt quệ sức lực vì chăm nuôi hai đứa trẻ tật nguyền cũng bỏ lão lặng lẽ đi theo con trong buồn bã thất vọng. Hình như bà ấy muốn sang thế giới bên kia để tiếp tục chức phận của mình.
Bây giờ lão chỉ có một mình với căn nhà trống tuyềnh toàng lạnh lẽo.
Nghe ran tiếng dế giun ti ti… ti ti, lão Tơn ngẩng đầu. Đã đến nghĩa địa làng. Để trâu gặm cỏ trên bờ, lão đến chỗ mộ vợ con ở cuối ruộng. Lần nào cũng vậy, khi đến nghĩa trang là lão lại đến chỗ vợ con nằm. Dù chỉ là những nấm đất nhưng lão vẫn thấy hiển hiện sự tồn tại của người thân. Khi vợ mới mất, sau bốn chín ngày, ngày nào lão cũng có mặt ở khu mộ… sự đặc biệt ấy là chủ đề cho cả làng bàn luận. Người thì thông cảm xót xa, người thì cho là ủy mị. Lão nghe thấy hết. Dồn cả vốn liếng, lão mua một con trâu về nuôi, ngày ngày dong ra nghĩa địa. Lấy cớ là chăn trâu nhưng cái chính là để gần với vợ con, để bớt nỗi cô đơn trống trải.
Chợt có tiếng sột soạt … Lão Tơn nghiêng cổ nghe… Cả cánh đồng không một bóng người. Tiếng gió thổi vào bụi cây hay tiếng chuột chạy. Một tiếng e hèm nghẹn nghẹn như cố ghìm. Người! Chắc chắn là người. Đúng rồi, lão Hoán! Sao mà tất cả mọi người không nghĩ ra là lão Hoán ở ngoài này để mà tìm nhỉ?
- Ông Hoán đấy à! Có phải ông Hoán không?
Không trả lời. Lại nghe sột soạt. Lão Tơn xác định được tiếng sột soạt ấy từ đám cây um tùm giữa hai khu mộ xây. Lão vạch cây xăm xăm bước tới, những cái gai móc vào ống quần cào ống chân ran rát.
- Chiến đấu? Một tiếng nói dõng dạc cất lên ở bụi cây. Lão Tơn dừng lại. Giời ạ! Lại còn mật khẩu chiến dịch nữa. Đúng lão Hoán rồi. Nhưng… bây giờ mà xông đến thì lão ta cho một nhát dao chứ chẳng chơi. Biết đâu khi bỏ trốn, lão ấy chả mang theo một con dao? Và nếu không có dao thì sức lão Hoán cũng đủ quật cho mình một phát thì rồi đời. Hay là chạy về báo cho làng xóm để ra bắt lão ta về. Nhưng… từ đây về làng cũng không gần, có khi huy động được người ra đến nơi lão ấy lại biến đi chỗ khác thì có mà giời tìm. Làm thế nào nhỉ?
- Chiến đấu? Tiếng nói trong bụi cây lại cất lên, lần này có vẻ nghi ngại.
Lão Tơn nhăn trán cố nhớ. Cái chiến dịch mà lão Hoán bị bắt quy định ám hiệu nhận ra nhau là gì nhỉ? Hình như… cứ thử xem sao. Lão Tơn ngập ngừng:
- Chiến… thắng…
Ngay lập tức từ phía bụi cây nhô lên một hình hài cao gầy trong bộ quần áo ngủ kẻ sọc bê bết bùn đất, ướt lướt thướt … Đúng là lão Hoán, với cái đầu trọc đôi mắt thâm quầng và đôi môi tím tái vì lạnh. Nhìn vào đôi mắt trũng sâu ấy, lão Tơn thấy những giọt nước mắt đang ứa ra vui mừng…
- Đồng chí Hoán! Tơn đây. Đồng hương đây.
Lão Hoán ào đến ôm lấy lão Tơn ghì chặt như không muốn rời, miệng méo xệch nước mắt ròng ròng:
- Giời ơi! Tơn ơi… Vậy là tao thoát rồi… tự do rồi…
Cái ghì chặt tin cậy của lão Hoán, tiếng khóc của lão, tiếng gọi mừng vui và cả cái lạnh từ quần áo của lão ta ngấm qua áo mỏng làm cho lão Tơn rưng rưng. Dầm dạp mưa gió từ đêm qua đến giờ, sao khổ thế Hoán ơi! Lão Tơn bật khóc.
*
* *
Lão Hoán cùng tuổi với lão Tơn, đi bộ đội cùng đơn vị, đánh nhau được vài tháng thì Hoán bị phía bên kia bắt làm tù binh. Năm bảy ba được trao trả… cũng về nhà lấy vợ. Nhờ thời gian ở nhà tù mà lão không bị nhiễm chất độc da cam nên con cái lành lặn mỡ màng, học hành thành đạt. Cả làng cả xã ai cũng tấm tắc. Từ khi con trai lên Trưởng Phòng rồi lên Phó Chủ tịch thì nhà lão dập dìu khách khứa ra vào. Vợ lão Hoán trẻ ra, phây phây vì ăn uống no đủ, quần là áo lượt… nhưng lão Hoán mỗi ngày lại càng thêm teo tóp. Chả ai hiểu vì sao. Có người còn bảo cả mái hại trống. Có khi thế thật. Lúc con trai còn ở chung nhà, thỉnh thoảng làng xóm lại thấy lão Hoán rít lên: “Đồ ác ôn! Đồ ăn cướp…” rồi lẩm bẩm chửi suốt đêm. Không thấy vợ chồng anh con trai nói gì. Mọi người chắc lão này điên, chỉ có điên mới vậy!
Không thể ở chung với bố, anh con trai làm nhà ở riêng phía vườn sau. Tưởng đã yên nhưng không ngờ ông bố còn tai ách hơn. Cứ mỗi lần nghe thấy tiếng xe máy ở nhà ông con, đoán chắc là có khách thì ông bố lại ra sau nhà mình vạch chim đứng đái hướng về cửa nhà con, đái xong lại vảy vảy cái của quý của mình, miệng chửi “quân ăn cướp, thằng ác ôn, bàn nhau ăn cướp…này có giỏi thì ăn cái con c… ông đây này”
Một đêm cả làng đang ngủ say thì thấy vợ lão Hoán la hét rầm rầm. Con cái tá hỏa lao sang, làng xóm vội vàng chạy đến. Lão Hoán biến đi đâu mất còn vợ lão mặt mũi nhợt nhạt vừa lấy tay xoa cổ vừa hổn hển: “Lão ấy định giết tôi… lão ấy bóp cổ…”. Chắp nối lời kể không đầu không cuối của bà ta, mọi người cười rũ. Thì ra lúc ngủ mê hứng tình bà chặn cánh tay nần nẫn lên cổ lão, lại còn gác cái đùi như cây chuối hột lên bụng lão. Đang ngủ say bị đè bị chặn lão uớ uớ không thở được. Thôi chết rồi, thằng địch nó định thủ tiêu mình. Vậy là lấy hết sức bình sinh, lão vùng dậy chịt cổ kẻ thù định bóp cho lè lưỡi. Vợ lão la toáng lên, lão lập tức phóng ra cửa chạy luôn một mạch. Chả biết chạy đâu. Mọi người cười xong lại phải đèn đuốc đi tìm. Rồi người ta cũng tìm thấy lão đang dán mình xuống làn khoai ngứa ngay rìa làng mặt mũi người ngợm bết bê bùn đất.
Thì ra lão Hoán bị điên thật. Cô con dâu bảo để tình trạng như thế thì có ngày bà già chết oan rồi mang tiếng... vợ chồng mình phải tìm người đến ngủ hàng đêm để canh coi ông già. Dò hỏi, ướm ý mãi rồi chị ta tìm được một anh chàng ở cuối xóm, anh này vốn nghiện rượu lại đông con nên túng nheo túng nhóc. Anh ta đòi mười nghìn một đêm nhưng chị con dâu lão Hoán chỉ trả có năm nghìn. Hai người mặc cả với nhau đến vài tiếng đồng hồ. Chằng cày mãi rồi chị con dâu lão Hoán bảo thôi thì cưa đôi, mỗi bên lùi một tý: bảy nghìn rưỡi. Anh này ngồi nhẩm tính: bảy nghìn rưỡi được nửa lít rượu tẻ, đủ uống cả ngày mà lại chỉ việc đến ngủ đêm có chăn màn thơm tho, ngày vẫn việc nhà… chả thiệt tí nào. Vừa khỏe người vừa thực hiện được cái việc sinh đẻ kế hoạch nên đồng ý.
Từ đấy trở đi, làng xóm yên ắng hẳn. Ban ngày thì cổng khóa, con cái đi vắng hết, chả chửi được ai, lão Hoán chỉ lẩm bẩm trong miệng. Còn ban đêm thì cổng khóa, cửa khóa, giường cũng khóa. Khóa giường là một gã đàn ông duỗi thẳng chân tay nằm lù lù như bờ đê ở phía ngoài. Lão Hoán lục sục đi đái đêm, gã này cũng chồm dậy: Đi đâu? Đi đái! Đợi cho lão làm xong cái công việc thải loại và trở lai giường vào đúng vị trí lão thì gã mới chịu nằm xuống vị trí của gã. Lão Hoán nghĩ thì ra mình đang bị giam hãm trong ngục tù lần nữa. Khát vọng tự do bùng lên thôi thúc. Nhưng kẻ thù nham hiểm đã bố trí canh coi ba tầng cửa ngục ngày đêm để tù nhân không thể vượt ra. Lão rắp tâm có thời cơ là kiên quyết trốn về cùng đội ngũ.
Hôm qua, chập tối trời nổi dông. Đang nóng nực mà lại có cơn dông thì tuyệt quá. Gió may mát rười rượi, da thịt tê mê đến tận chân lông. Anh chàng coi nhà thuê sau khi tu hết già nửa chai rượu thì hứng tình đưa mắt nhìn vợ, chị vợ cũng đưa mắt nhìn chồng. Vậy là cả hai vợ chồng bảo lũ con sang nhà hàng xóm xem tivi, hôm nay có phim hay lắm. Lũ con sướng quá biến luôn để bố mẹ thoải mái. Xong việc ông bố mệt đứ đừ, mồm thở phì phò dứt áo lên đường đi làm nhiệm vụ. Đến nhà lão Hoán anh ta văng ra ngủ luôn, chả biết đất giời gì nữa.
Lão Hoán nằm phía trong chưa ngủ được, đã giở giời lại thêm mùi rượu nồng nặc càng khó ngủ. Dưới ánh đèn mờ mờ, thấy thằng canh coi ngủ rớt cả dãi xuống cằm, miệng ngáy phò phò thì đoán chắc thằng này say lắm rồi. Lão thử động vào người hắn. Thằng này vẫn ngáy. Lão rờ vào quần đùi của hắn, chỗ sát háng thấy cồm cộm. Đây rồi! Giấu kỹ thế… lão Hoán nghiêng người nín thở một tay căng cạp quần đùi chun của anh ta rồi tay kia thọc vào trong, từ từ đưa hai ngón lách vào túi quần đùi nhè nhẹ kẹp lấy chùm chìa khóa. Được rồi! Mồm ngậm chặt công cụ mở cửa tự do vừa lấy được, lão chống thẳng tứ chi bò ngổm qua bờ đê là tên lính canh rồi vén màn tụt khỏi giường- qua được tầng cửa ngục thứ nhất… Tiếp tục chân đất nhón móng cò, lão nghiến răng nhắm mắt mò mẫm tìm trong xâu chìa khóa cái chìa mở cửa. Khi cái khóa cửa bật ra tạch một tiếng, lão dừng lại nghe. Vẫn không động tĩnh gì. Từ từ mở cửa…Qua tầng cửa ngục thứ hai. Lại nhón móng cò vượt qua sân. Nhẹ nhàng nhảy vào vườn, men theo hàng dậu rau ngót, lão bò ra ngõ. Từ sau cánh cổng, vẫn nguyên tư thế bò lão dòm ra ngoài đường: không có ai! Ngoái lại nhìn qua vai: trong nhà im ắng! Yên tâm, lão vươn người quỳ gập gối, ngửa mặt lên, tay lập cập tra chìa mở khóa cổng- Tầng cửa ngục thứ ba… lần này có vẻ dễ dàng hơn.
Thoát rồi! Tự do rồi. Phải trốn thật xa để không bị kẻ thù bắt lại. Lão men theo rìa quốc lộ hối hả bước.
Đến ngang bãi tha ma rìa đường, chỗ này cách làng đến vài cây số, lão ngồi bệt xuống hổn hển thở. Nhìn lại thấy có ánh đèn xe máy loang loáng, lão hoảng hồn vội chạy xuống nằm lên một ngôi mộ mới, kéo những vòng hoa phủ lên người. Một lúc sau hàng chục người nhảy từ trên xe máy xuống, đúng là bọn cảnh sát dã chiến rồi. Lão Hoán nín thở nằm dán xuống đất mặc cho mùi tanh nồng xộc lên mũi. Ánh đèn loang loáng quét trên đầu. May sao lúc ấy trời bắt đầu đổ mưa… Không có gì, chắc ông ấy không đi lối này… cả bọn kéo nhau về. Lão Hoán thở phào. Vậy là thoát! Nhưng đi đâu bây giờ?
Mưa suốt đêm. Nằm ở đây không thể chịu được, lão Hoán bì bọp lội đến nấp dưới bụi cây mọc giữa hai ngôi mộ xây. Hai hàm răng va nhau lập cập, lão dầm người chịu ướt, chịu lạnh và muỗi đốt.
Mưa còn rả rích đến hết cả buổi sáng…
*
* *
Khóc một hồi rồi lão Hoán bảo đồng chí đưa tôi về cơ sở để gặp cấp trên, lão Tơn nghĩ hẵng đưa ông bạn chập mạch này về nhà mình đã rồi sẽ tính sau. Lão Hoán còn bảo phải đợi nhập nhoạng tối đã chứ đi ngay bây giờ thì lộ mất, có nhiều ác ôn chỉ điểm lắm. Xẩm tối lão Hoán lúc cúc đi sau lão Tơn. Hễ thấy có người thì lùi lại nấp sau con trâu. Về được đến nhà lão Tơn mà không bị ai hỏi han gì, lão Hoán thở phào. Lão Tơn bảo: Đây là cơ sở của ta, đồng chí tắm rửa thay quần áo rồi nghỉ ngơi. Tôi đi hái ít rau về nấu cơm. Rồi lão đưa cho lão Hoán bộ quân phục cũ. Lão Hoán đón bộ quần áo đưa lên mũi hít hít, mắt rưng rưng: vậy là tôi đã được trở về với đồng đội. Sướng quá đồng chí Tơn ơi. Nhưng sao vắng vẻ thế? Đúng là chả bao giờ ra khỏi nhà nên chẳng biết cái gì cả- lão Tơn nghĩ thầm, nhưng để bạn khỏi lo lão đành trả lời qua quýt: Các đồng chí khác đi công tác cả rồi. Thế à! Lão Hoán yên tâm.
Cầm cái rổ đi hái rau nhưng ra đến ruộng thì lão Tơn quẳng cái rổ ở đó rồi vội vàng chạy đến nhà anh Phó Chủ tịch. Lão gặp chủ nhà nói nhỏ với anh ta vài câu. Anh này gật đầu cảm ơn lia lịa. Sợ ông bạn đồng đội đang chờ nảy sinh nghi ngờ, lão lại tất tả chạy ra ruộng rau.
Phu nhân vị Phó Chủ tịch đợi lão Tơn đi khuất rồi mới hỏi chồng:
- Này! Lão ấy nói gì với anh đấy!
- Lão ấy bảo đã tìm thấy ông già. Hiện đang ở nhà lão.
- Vậy đưa ngay về chứ sao lại còn đứng đấy.
Anh chồng thủng thẳng xoa xoa cái bụng đã chớm phát phì:
- Thì cứ để ở đấy vài ngày rồi đón về cũng được. Chứ đón về ngay ông già lại phá bĩnh.
Chị vợ giãy nảy:
- Ô hay! Điên à. Cái mồm của ông già điên mà phụt ra những điều ông ấy biết thì… Mà cái lão Tơn tứ cố vô thân trên không chằng dưới không rễ ấy thì có biết sợ gì ai. Bao nhiêu năm nay đầy chuyện đã cố giấu…
Ông Phó Chủ tịch đần mặt thảng thốt: Ừ nhỉ! Thôi chết tôi rồi. Vậy nhanh lên!
Lão Tơn hái vội nắm rau rồi về ngay. Lúc ấy lão Hoán cũng vừa tắm xong đang đứng trong nhà nghênh đầu nhảy nhảy cho nước trong tai chảy ra. Lão Tơn nhìn bạn tự dưng thấy buồn cười: gần bảy mươi tuổi rồi mà cứ như hồi hăm mấy.
Chợt lão Hoán nghiêm giọng:
- Đồng chí cho tôi xin mấy tờ giấy, cho mượn cái bút…
Lão Tơn ngạc nhiên: Để làm gì?
Vẫn giọng nghiêm trọng, lão Hoán nói:
- Trước hết tôi báo cáo với cấp trên trong suốt thời gian bị giam giữ tôi vẫn giữ vững khí tiết để cấp trên kiểm tra xác minh, kẻo lại như lần trước nghi ngờ tôi đầu hàng phản bội…
Chủ nhà suýt bật cười thành tiếng. Giời ạ! Ở tù một lần nên có kinh nghiệm… Nhưng thấy vẻ mặt quá nghiêm trang của người vừa được tự do nên cố kìm. Không để ý thấy thái độ ấy, lão Hoán tiếp tục đề xuất:
- Và tôi xin được gặp cấp trên để báo cáo một số vấn đề...
Chiều lòng bạn, lão Tơn đành phải đi lấy giấy bút. Ngồi phệt ngay xuống đất để tờ giấy lên giường, lão Hoán nghiêng đầu, bặm môi, bút trên tay run run… Trên trang giấy những nét chữ vẹo vọ nguệch ngoạc: “Quân Giải phóng miền Trung Trung bộ- Kính gửi các thủ trưởng …”
Chợt ngoài sân ùa vào tiếng xe máy nổ ình ình nhức tai, k…í…t… kít… tiếng phanh gấp đến rợn người. Cả hai lão cùng ngẩng lên.
Khi nhận ra những người bước vào nhà, lão Hoán biến sắc mặt, cái bút trên tay rơi xuống. Cô con dâu lão Hoán giằng lấy tờ giấy trên tay bố chồng, không cần xem trong đó viết gì, cô ta nghiến răng xé tinh thành mẩu vụn như móng tay… Những mảnh vụn giấy được gom lại trong lòng bàn tay và hình như cô ta định đưa lên mồm chực nuốt, chợt nghĩ thế nào lại xòe tay thả nắm vụn giấy như người ta rắc tro hài cốt. Ném về phía bố chồng một cái nhếch mép cười khinh khỉnh… rồi đanh mặt quay sang anh chồng, cô ta hét: “Thấy chưa? Đã thấy chưa?...” Tất cả lặng đi đến mấy giây. Lão Hoán mắt long sòng sọc, tay phải vung lên chỉ thẳng vào mặt lão Tơn trong tiếng rít đầy uất ức:
- Đồ khốn nạn! Đồ phản bội!
Nhìn những mảnh giấy rơi lả tả dưới chân mọi người, lão Tơn rùng mình chợt hiểu…
Quả vẹt hình trái bom
Truyện ngắn
Chiều nay Quyết điên lại ra bãi, cùng thằng trẻ lạc hắn mới kiếm ở đâu mang về nuôi mấy hôm nay. Hắn tìm được một quả vẹt to, trên một cành mọc từ cái gốc còn sót lại ven sông Sò. Hắn cầm vấu có bảy cánh ở đằng chuôi, giống như bảy cánh ở đuôi một quả bom rồi buông thả tay xuống nền đất mặn, cạnh lỗ ở của mấy chú còng còng. Quả vẹt cắm phập vào đất ngập một phần ba từ chỗ mũi nhọn đến phần phình to nhất. Rồi dùng ngón tay trỏ, vừa chỉ, vừa đếm như một con cò mổ. Tính xem còn bao nhiêu gốc trên triền sông- nơi mà năm xưa người ta gọi là: rừng vẹt Kiên Trung. Đếm xong hắn cười to rồi bỏ đi.
*
Chiều mùa hè, trên một con đê hương lúa, hương vẹt ngào ngạt quyện theo chiếc xe đạp vô tư của chàng lính trẻ và cô gái quê đang độ tròn trĩnh ở tuổi dậy thì. Xe đang bon bon để lại đằng sau một loạt tiếng cười rúc rích. Bỗng! Rầm. Hồng cố tình cựa quậy, làm cả hai người ngã nhào xuống sườn đê. Hồng nũng nịu chỉ vào chỗ đau trên ngực mình. Quyết bối rối không biết phải làm gì! Hồng giãy đành đạch:
- Anh ngốc lắm!
Mặt Quyết đỏ nhừ, trong tiếng trống ngực đánh thình thịch, anh còn nghe rõ cả hơi thở gấp gáp của Hồng. Cô cào cấu giận dữ, Quyết chợt hiểu ra.
Trong phút chốc anh quên hết thảy, toàn thân nóng dần, chân tay run bắn. Thế rồi! Một cơn mưa hôn và sự lần tìm... lần tìm của bốn bàn tay như đã tê dại mọi cảm giác ngoài đời. Chỉ còn lại duy nhất một thứ khoái cảm là sự mịn màng và thô ráp. Hai người dính chặt vào nhau trong bạt ngàn tiếng sóng vỗ ầm ào xa xa. Mùi cỏ dại nồng nàn, hòa với tiếng hàng cây reo khe khẽ, tạo thành một bản nhạc như để dành riêng cho đôi bạn trẻ đang bước vào cái buổi ban đầu đầy say đắm và dịu ngọt của tình yêu.
Tưởng chừng không còn sức mạnh nào tách rời được hai nửa âm-dương đang thả hồn vào cõi hư vô. Bỗng một quả vẹt rời cành cắm xuống đất, làm mấy chú còng giật mình ngơ ngác. Sự kết hợp tự nhiên mang đầy tính nhân duyên ấy, như lời thông báo một cây vẹt mới sẽ ra đời. Chàng trai bừng tỉnh, anh vừa bước ra khỏi cơn u mê ngoài dự tính thì sự kiện quả vẹt rơi tiếp tục đưa anh vào trạng thái bần thần trên bờ cỏ hoang sơ. Anh từ từ đứng dậy thấy đầu hơi choáng váng, bãi vẹt như muốn dềnh lên tới tận mây trời đang chao đảo. Anh không ngờ ngoại cảnh đã đẩy đưa chiếc xe đạp không phanh, ngã nhào xuống sườn đê - biên giới giữa đồng và biển quê anh.
- Anh nghĩ gì thế! - Hồng hỏi.
- Ta về thôi em.
Hồng phụng phịu thổi mạnh bụi cát trên quần áo, đầu tóc bối rối như cố tình giẫm nát bờ cỏ ven đê, rồi lên xe cùng người yêu ra về khi chiều đã cập quạng.
Hôm sau Quyết trả phép. Còn Hồng không biết vì lý do gì mà cô đã lấy chồng rồi chuyển vào Đà Nẵng. Chồng cô là kỹ sư địa chất, rất giỏi nghề phân kim. Anh đã bỏ cơ quan vào hẳn bãi vàng; chuyên dùng hóa chất rút vàng từ cái sái người ta bỏ đi. Thấy bảo giàu có lắm; có tới hàng trăm cây vàng, nhưng nghe đâu mới đây vợ chồng khục khoặc thế nào, chẳng ai để ý chăm sóc cậu con trai, làm nó tủi hờn bỏ đi đâu biệt tích chưa tìm thấy.
Đến khi Quyết về quê, thoạt đầu nghe tin ấy, anh bàng hoàng cả người, trái tim muốn vỡ thành muôn mảnh. Anh không lý giải nổi nguyên cớ nào đã dẫn đến sự thay đổi mau lẹ của Hồng. Con người sôi nổi năm xưa bây giờ bỗng dưng trầm hẳn xuống. Tuy là thương binh sọ não, nhưng đối với công việc của địa phương khi cần phải đấu tranh để bảo vệ chân lý thì Quyết luôn sẵn sàng xung phong đững mũi chịu sào. Nhất là trong tình hình ở xã hiện nay, việc phá rừng vẹt để làm đầm nuôi tôm đang là vấn đề nóng bỏng. Quyết và nhiều đảng viên đã đưa ý kiến phản đối rất gay gắt ở từng chi bộ với nhiều lý do khác nhau nhưng sự giằng co vẫn đang tiếp tục.
Một hôm, đảng bộ xã triển khai phương hướng, nhiệm vụ sáu tháng đầu năm, Quyết xin ý kiến. Cả hội trường im phăng phắc chỉ còn tiếng gót giầy nện xuống nền gạch chắc nịch của Quyết đang đi lên, ai nấy nhìn nhau nín thở:
- Tôi phản đối việc cho cá nhân đấu thầu rừng vẹt để làm đầm nuôi tôm. Vì vẹt là một loại cây có tác dụng số một cho việc chắn sóng và nước mặn trong mùa mưa bão. Nó có ý nghĩa to lớn về mặt môi trường cũng như việc hoà hợp và tác động qua lại giữa thiên nhiên với con người vùng biển. Đây là nơi rất nhiều các loại chim làm tổ trú ngụ, nó có đầy đủ điều kiện để bảo tồn những loài chim quý hiếm trong bãi chim quốc gia. Như các đồng chí đã biết: cơn bão số năm, năm 1985, đoạn đê trọng yếu đã bị vỡ là do nơi đó ít sú vẹt nhất. Chỉ cần một lần nước mặn tràn vào đồng, thì ba năm sau chất đất vẫn chưa trở lại được bình thường. Vậy tại sao ta lại đang tâm phá bỏ. Con tôm mang lại cái lợi ích trước mắt, quý thì quý thật đấy nhưng nó lại phá hoại cái lợi ích lớn lao, lâu dài. Theo tôi, vấn đề này nếu không phải lợi dụng tập thể để mưu đồ lợi ích cá nhân, thì cũng là sự nhìn nhận thiển cận đến mù quáng. Tôi đề nghị không được cho đấu thầu, mà phải khẩn trương tổ chức một lực lượng để trồng vẹt vào những khoảng đất còn trống.
Không khí buổi họp sôi nổi hẳn lên, những tiếng bàn tán khi to, khi nhỏ. Đồng chí Mạnh- phó bí thư đảng bộ tuyên bố giải lao. Anh kéo riêng Quyết ra một gốc cây và nói:
- Này Quyết! Chỗ bạn bè tờ nói thật nhé: cậu be bé cái mồm thôi, kẻo hăng hái quá lại phát điên đấy. Cậu nên biết mình một tí, một cái đầu còn vết thương như cậu không đội nổi cả bầu trời đâu. Việc này đã được thống nhất từ trên xuống dưới cả rồi. Thủ quỹ đã nhận đủ số tiền đấu thầu trong năm năm, chỉ nay mai là thằng em tớ nó sẽ khoán nhân công làm mười bẩy héc-ta đầm nuôi tôm.
- Trời ơi! Thật là đau xót! Chẳng lẽ cả đảng bộ không ai nhìn nhận ra việc này hay sao???
- Thôi, thôi ông ơi. Đau với xót! Ông có biết ông đang phạm tội gì không? Tội chống lại nghị quyết của đảng bộ, đi ngược lại với lợi ích thiết thực của địa phương. Đây là sự sáng tạo phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với thời đại trong từng thời kỳ, cậu đừng có kìm hãm.
- Không! Không thể như thế được, tôi sẽ đưa việc này đi huyện, đi tỉnh...
- Được thôi! Cậu cứ đi. Nhưng này, cậu không nể mặt tớ là phó bí thư, là thằng bạn thân của cậu hay sao?
- Thằng bạn? Nếu ông còn coi tôi là một thằng bạn thì tốt nhất ông nên đổi mới suy nghĩ càng sớm càng tốt.
- Thôi im đi! Đừng có đạo đức giả. Đã thế, tôi sẽ tố cáo anh về tội vi phạm trầm trọng đạo đức của người đảng viên.
- Tôi chẳng làm gì vi phạm để anh phải tố cáo.
- Ái chà, thế vì ai mà cô Hồng bỏ làng đi. Vì cậu đấy! Cậu đã nhẫn tâm chà đạp lên sự trinh trắng của một cô gái, cậu làm hại cả đời người ta, đến mức họ phải bỏ làng đi vào bãi vàng. Chính cô ấy đã nói với tôi hôm cô ta làm thủ tục chuyển hộ khẩu.
Đầu Quyết nóng ran, trời như sụp đổ, tối rầm lại. Anh chao đảo vịn hẳn vào gốc cây.
- Nhưng mà này, tớ nói thế thôi, vẫn còn để cho cậu một lối thoát đấy. Cậu nên rút lui ý kiến bằng không thì... như cậu biết rồi đấy...
Lòng Quyết quặn đau, bao nhiêu sự tích góp tưởng đang vơi dần, nay lại bùng lên trong sự bất lực tột cùng.
Sau buổi họp ấy dư âm cũng lắng dần, đảng viên ai nấy trở vể với những công việc bận bịu. Riêng với Quyết, những tiếng gầm rít loảng xoảng, khô khốc của chiếc máy móc bùn đắp bờ làm đầm tôm, ngày ngày cứ xoáy sâu vào đầu. Nó cứ chói chói như những mảnh đạn găm vào bộ não mỗi lúc một nhiều. Đến một ngày kia tai anh tự nhiên như có tiếng ong kêu vo vo, tay anh xuất hiện những hành động kỳ quặc, cứ chỉ chỉ… đếm đếm và cái tên “Quyết điên” đã ra đời từ đó.
*
Ngày mai, làng mở hội chùa nhân dịp khánh thành ngôi nhà tổ. Khách thập phương và những người xa quê nghe tin về rất đông. Trong đó có cả Hồng, vàng bạc đeo đầy người, cặp kính đen rất ăn với khuôn mặt trắng tròn bởi lớp phấn ngoại. Chiếc túi dây dài đeo lủng lẳng hợp với bộ quần áo sang trọng trên dáng người đầm đậm. Cô diễu vào sân chùa đông nghịt người, ai cũng trầm trồ. Hình như cô đang để ý tìm ai!!! Rồi lại vội vã ra con đường 56. Lúc này không còn ai quấy rầy, Hồng mặc sức thả hồn bay về cùng kỷ niệm.
Chính con đường này năm xưa đã cùng anh ấy bốc cát trêu nhau, bây giờ đã đổ nhựa. Vẫn hàng cây ấy xưa đã từng víu ngọn chơi trốn tìm, bây giờ cao ngất trời đang reo cùng gió biển. Rồi trường học, rồi trạm xá… đến cả ngôi chùa cổ rêu phong tất cả đều đang cựa mình đổi khác.
Đang mải nghĩ, Hồng giật mình vì tiếng ai gọi:
- Hồng ơi! Về hồi nào vậy?
- Con chào bác! Con về lúc sáng.
- Đã tìm được thằng bé chưa?
- Dạ chưa, con định sáng mai vào chùa lễ phật rồi dò hỏi xem, may ra cháu nó có về quê. Biết đâu, trời phật phù hộ ai đó đang cưu mang cháu thì phúc còn to cho cháu.
- Rõ khổ! Này bác bảo: con đi ngay đi, ra ngoài đê ấy, ngày nào bác cũng thấy có một thằng bé, nó cứ đi theo cái anh chàng điên ở ngoài đó. Con thử ra xem, may ra… có phải…
Ruột gan nóng bừng, Hồng vội vàng phóng như bay về nơi ấy đang mênh mang một buổi chiều nước nổi. Mùi tanh nồng gió biển, mùi cỏ dại hoang sơ nơi đây đã hoà tan bảo kỷ niệm đậm đà tuổi trẻ. Sóng nước xôn xao lòng người lay động, những ngày ngắm biển, những tối trăng lên cứ lần lượt hiện về, lòng cô trào dâng một nỗi buồn man mác.
Quyết điên cứ cười cười, đếm đếm những gốc vẹt còn sót.
Thằng bé đang nhìn theo ngón tay cò mổ, bỗng nó nghe tiếng xe máy, nó sững lại. Chiếc xe mỗi lúc một gần hơn, nó ngớ ra rồi hét lên:
- Mẹ!
Hồng phanh khự lại. Chiếc xe Dream đổ kềnh trên mặt đê. Máy vẫn nổ xình xịch chầm chậm như cùng nhịp với ngón tay của Quyết điên mải đếm từng cây vẹt non đang mon men mọc lấn dần từng khoảng đất trống ở đầm tôm nay đã bỏ dở. Vì ông chủ của nó đã bị vỡ nợ.
Hồng gào lên trong tiếng gió:
- Con ơi! Mẹ đây! Mẹ đi tìm con đây.
Nhưng đột nhiên thằng bé chạy như điên xuống vệ đê. Nó trốn vào một gốc vẹt to có vài tán lá bên trên, người run bắn, nó nấc lên từng tiếng, năm ngón chân xòe ra bấm sâu xuống nền đất mặn. Hồng đuổi theo sau, đôi guốc cao gót bị bắt tung ra khỏi chân nằm chỏng gọng trên cỏ, cô nhào tới ôm chầm thằng bé:
- Trời ơi! Con tôi.
Thằng bé cũng gào lên:
- Con không cần! Mẹ đi đi.
Hồng ghì chặt lấy thằng bé, còn nó vẫn nhoài người về phía Quyết và càng gào to:
- Con không cần mẹ! Chỉ cần chú Quyết, chú ấy đã nuôi con.
Hồng bàng hoàng buông tay ra, thằng bé chợt nín bặt rồi gục đầu vào lòng mẹ. Hồng ngước lên đê, mắt cô nhoè đi.
Quyết đứng lồng lộng giữa mây trời hoàng hôn, trông tựa như một tượng đài hùng tráng. Chiếc áo blu-dông bộ đội đựng đầy gió biển phồng ra sau lưng như để làm đối trọng cho cánh tay đang giơ ra phía biển. Hồng giật mình nhìn xuống, ngờ ngợ cái chỗ hai mẹ con đang đứng, thì bất ngờ một quả vẹt rời cành cắm phập xuống đất trông giống như một trái bom.
Bi Ván
Ở đời có nhiều kẻ muốn được mọi người biết tiếng và làm mọi cách để được biết tiếng. Có kẻ thì ăn mặc rất chỉn chu, ra đường cố làm ra vẻ đạo mạo như cha cố. Có kẻ luôn tranh ngồi chỗ đầu, tranh được phát biểu trong những cuộc hội hè, đình đám. Cũng có kẻ luôn miệng khoe dòng họ mình có người làm quan trên tỉnh. Tay Bi làng tôi không phải hạng người như thế. Vậy mà làng trên xóm dưới, nhà nào có tang đều nhớ đến Bi Ván, coi hắn là nhân vật quan trọng. Sở dĩ hắn được gọi như vậy là vì hắn tên Bi, làm nghề đóng ván. Ván to, ván nhỏ, ván sang, ván hèn đến hắn đều có cả. Thứ đời, bản tính nhiều người thích oai. Không ít cụ trước khi về chầu ông bà ông vải còn đòi xem ván của mình là vàng tâm hay xoan vườn. Nghe đâu, có cụ mấy năm trời mỗi ngày chỉ ăn một bữa, dành dụm tiền để sắm cho được cỗ vàng tâm, bởi theo cụ nằm trong đó mát mẻ, không sợ mục nát, giòi bọ hết đường rỉa rói. Vì thế, Bi Ván cũng sẵn việc, sẵn tiền. Công bằng mà nói, Bi Ván đến với cái nghề này từ khi còn mặc quần thủng đít nên tay nghề của hắn cũng khá. Nhờ đó mà hắn gây dựng cho mình được cơ nghiệp: nhà cao cửa rộng, vợ đẹp, con khôn. Vợ Bi Ván không còn trẻ nhưng cái dáng lưng ong, nước da trắng hồng và đôi mắt lúng liếng còn vương lại thời con gái vẫn làm không ít kẻ nuốt nước miếng.
Đã có thời Bi Ván bỏ nghề, vào rừng làm lâm tặc. Quả thực xa vợ, xa con, xa cái nghề đã bao năm gắn bó, hắn đâu có muốn. Nhưng cái máu thằng đàn ông không chịu được sự coi thường của vợ. Hắn cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm khi phải nghe những lời chì chiết:
- Cái số tôi sao khổ thế này! Chồng người ta lên xe xuống ngựa, vợ con ăn sung mặc sướng, chồng mình thì suốt ngày ru rú ở nhà núp váy vợ, giời ơi là giời...
Bao cây rừng đã bị lưỡi cưa sắc lẹm của hắn hạ gục, bao cánh rừng đã bị hắn càn quét. Hắn cũng không nhớ nổi đã bao lần bị sốt rét rừng hành hạ. Ngày về, nước da của hắn xám ngoét nhưng được cái nặng túi. Hắn quyết định mở lại xưởng đóng ván- công việc mà hắn nói là để làm phúc, tích đức cho con chứ lời lãi là bao. Việc của hắn càng nhiều thì hắn càng gầy rạc. Với hắn, điều đó không quan trọng. Quan trọng là vợ hắn luôn nở nụ cười thật tươi, ban cho hắn vài lời khen khi hắn mang sấp tiền dúi vào áo ngực vợ. Vì thế, hắn càng phải cố.
Chiều nay, lồng xong cỗ ván, hắn đem đánh vec-ni thì trời đổ mưa, công việc đành ngừng lại. Xưởng mộc tịnh không một tiếng động. Cỗ ván lúc trắng bệch, lúc tối sầm theo luồng sáng của chớp. Bất giác, hắn rùng mình. Chao ôi! Đời hắn đã đóng không biết bao nhiêu ván, đã bao giờ hắn kịp nghĩ đến một ngày chính mình sẽ phải nằm trong đó đâu. Hắn đóng vội cửa. Hắn muốn về nhà. Trời mưa. Sấm sét đùng đoàng.
Quần áo ngoài giây ướt sũng. Có lẽ vợ mình đang rất sợ- hắn nghĩ vậy. Hắn quyết định mang đến cho vợ niềm vui bất ngờ. Rón rén bước, trên môi hắn nở nụ cười đắc ý. Nhà tối om. Vợ mình nấp ở xó nào nhỉ? Có tiếng thở dồn, sợ quá đây mà. Ước gì mình về sớm hơn. Nhưng thôi, mình đã về rồi. Cót két, cót két - thứ âm thanh phát ra từ chiếc giường nong mộng mà hắn chưa kịp sửa. Hắn tiến về phía giường. Đoàng, tiếng sét đinh tai kèm theo luồng sáng mạnh.
-Trời! - Hắn sững người, mồm há hốc.
Vợ hắn đang ôm cứng thằng hàng xóm như khúc gỗ. Cả hai không một mảnh vải che thân. Hắn lao ra ngoài. Tia chớp rạch ngang bầu trời. Bước chân vô thức đưa hắn về xưởng mộc. Đột nhiên, hắn muốn nằm vào chiếc ván mới đóng. Hắn từ từ kéo tấm Thiên dịch ra, nhẹ nhàng nằm vào. Quả không đáng sợ như hắn nghĩ. Đưa hai tay lên, hắn từ từ đẩy tấm Thiên trở về chỗ cũ.
Nhà văn lên phố
TRUYỆN NGẮN
Ối anh ơi là anh ơi! Anh đi đâu mà bỏ mẹ con em bơ vơ! Vợ hắn tả tơi thất thểu dọc theo bờ kênh vừa nhìn xuống dòng nước vừa quệt mắt. Dưới kênh chỉ thấy có bèo ong và bèo tây lẫn lộn. Ối anh ơi anh ơi là anh ơi... Người đàn bà rên rỉ nhưng không dám khóc to. Trăng sáng vằng vặc. Có một chỗ bèo dạt ra, thấy rõ bóng trăng in trên đáy nước. Lạ nhỉ, mọi chỗ bèo kín đặc mà đây lại không có bèo, hay là ở chỗ này... Anh ơi, anh có thiêng thì chỉ chỗ để em vớt anh lên. Người đàn bà định nhảy xuống. Nhưng nhỡ phải chỗ nước sâu... nhỡ hắn kéo mình xuống thì chết cả đôi. Nhìn quanh, thị vớ được một cành chà rào. Thị đưa cành chà rào xuống cái lỗ nước nơi không có bèo. Mắm môi mắm lợi, thị rà cái cành chà rào... Hắn cũng chẳng to lớn gì, nếu hắn mà ở dưới ấy thì chỉ cành chà rào cũng có thể kéo được hắn lên. Nhưng không thấy. Vậy hắn ở đâu? Nốc cho lắm vào rồi khướt ra. Đâm đầu vào chỗ nào rồi không biết. Bà mà vớ được thì bà cho biết tay. Thơ với chả văn rồi lúc say thì khướt khườn khượt, lúc tỉnh thì như thằng mất hồn, lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác... Ôi giời ôi! Sao kiếp tôi nó khốn nạn thế hả giời... Lấy được ông chồng có nghề nghiệp hẳn hoi, lại lắm tài vặt. Ai cũng bảo là tốt số. Tự dưng đọa ra, bỏ hết mọi sự chẳng thiết làm ăn gì. Ấy là bởi cuồng lên đi viết văn, làm thơ. Rồi thì rượu. Thơ văn phải có rượu. Rượu- thơ, thơ- rượu... Mồm leo lẻo bảo rằng như thế mới là tiên. Tiên với chả Phật! Mới hơn ba chục tuổi đầu bỗng thành thằng không tuổi, đang sáu mươi cân tọp lại còn hơn bốn chục cân, vêu vao đầu gối quá tai, gầy còn hơn cả La Hán. Cả năm may ra mới được một cái truyện ngắn đăng báo, được vài trăm nhuận bút thì lấy làm khoái chí lắm. Bỏ tiền phô tô vài chục bản đem phân phát tứ tung. Lại còn bắt vợ mua rượu mua nhắm đãi bạn. Rồi cả đám, người thì trọc lông lốc, người thì tóc tai bù xù, mặt mày tái dại ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Rượu vào lời ra ngồi nịnh nhau: Tài!... tài thật! Thánh! ... thánh thật!.. Nghe mà rực ruột. Tài cái con khỉ! Tài gì mà cả năm mới được mấy cái đồng bạc còm rồi bắt vợ bỏ tiền bù lỗ. Thánh! Thánh cái giời vật! Thánh mà để người ta chửi cho chẳng bằng con chó. Chưa xong bữa đã có người đến chửi. Người chửi là cái thằng hàng xóm. Vì viết cái gì không viết lại viết về con chó chột mắt hay sủa càn, để nó nghĩ là nói xỏ mình vì thằng này cũng bị hỏng một mắt. Thật khốn nạn! Nuôi được cái lão nhà văn để rồi lỗ chỏng chơ, thiệt đơn thiệt kép lại còn bị người ta chửi cho mất mặt. Đợt này á! Bà cấm tiệt. Cứ còn ngồi mà viết, thì bà bẻ bút.
Mọi lần, thị mặc kệ hắn tít mít tối ngày. Muốn đi đâu thì đi, đi chán thì về. Muốn viết gì thì viết. Thì ngoài viết ra, hắn có làm gì đâu. Người ta làm nhà văn để nuôi vợ nuôi con. Còn thị thì vất vả đầu cúi đít chỏng là để nuôi nhà văn và một lũ con- sản phẩm của những bốc đồng sau những bốc đồng viết lách. Quán xuyến mọi việc trong nhà, làm lụng nuôi con, đối nội đối ngoại, một tay thị đảm đương. Mà có bắt hắn phải đảm đương thì hắn cũng chịu. Chỉ được cái võ mồm, nói năng thì đến cua trong lỗ cũng phải bò ra. Cái lo nhất của người đàn bà là giữ chồng. Nhưng cái việc ấy thì thị hoàn toàn yên tâm. Người chả ra hồn người, loẻo khà loẻo khoẻo lại cả tháng giời không tắm, lúc nào cũng sặc mùi rượu. Giá có động đến thì nhũn nhùn nhùn như con chi chi thì bõ bèn gì mà lo thiên hạ nó chài. Gớm! Báu lắm đấy. Ai rước hộ đi thì may quá.
Nhưng lần này thì khác. Buổi sáng, trước khi đi làm đã thấy hắn ngồi vào bàn viết, thấy hắn thở dài thườn thượt, mặt mày ra vẻ đăm chiêu. Cũng chẳng lạ gì cái kiểu dở người ấy. Trưa về, vẫn thấy hắn ngồi nguyên như cũ, chỉ thêm cái mi mắt rưng rưng. Cũng chẳng lạ, chắc là hắn đang khóc cùng nhân vật. Tự dưng tự lành tưởng tượng ra nhân vật rồi ngồi khóc với nó. Đúng là dở hơi. Cái đáng khóc chả khóc lại đi khóc cho cái mà mình tưởng tượng. Kệ! Chẳng việc gì đến thị, thị phải đi làm. Cứ ngồi đấy mà tưởng với tượng, mà khóc với mếu thì lấy cái gì đổ vào mồm. Nhưng cả nhà ăn cơm tối xong cũng không thấy hắn ló mặt về. Tự dưng thị thấy nóng ruột. Cố ngồi đợi. Nửa đêm vẫn không thấy. Thị gài cửa rồi đi tìm. Chắc hắn lại say khướt với mấy ông trong làng. Nhà ở giữa đồng vào đến làng phải đi dọc theo bờ kênh. Đi ra khỏi nhà được mấy chục bước thì thấy cái xe đạp chổng bánh sau lên bờ còn bánh trước chìm nghỉm dưới nước. Thôi chết rồi. Say quá đây mà. Vợ hắn hoảng hồn vừa vác chà rào rà dọc kênh vừa khóc...
Rà hết cả một đoạn dài mà không thấy. Yên tâm là hắn không nằm ở dưới đáy kênh. Vậy thì hắn chẳng việc gì. Không khóc nữa! Thị lôi cái xe đạp lên té nước rửa qua loa rồi dong về nhà. Hay là đi với con nào? Cái mồm tía lia như hắn thì không biết chừng lại có con dở hơi nào mê muội cũng nên... Chả nhẽ. Chả có con nào lại ngu quá ngu quẩn đến như vậy nếu hắn không có tiền. Tiền! Thôi chết rồi. Vứt xe ở sân, thị chạy vào buồng, vội vã lục cái va li bẹp. Không thấy! Mất rồi! Có ba trăm bạc vừa bán ổ gà để đóng học cho con, hắn lấy đi mất rồi. Giời ạ! Sao số tôi nó khốn nạn thế. Khốn nạn!... Sao tôi không chết đi cho rồi. Chồng ơi là chồng! Muốn gào lên nhưng sợ lũ con thức giấc. Thị giàn giụa nước mắt.
Suốt đêm ở hiên nhà, người vợ ngồi bó gối rấm rứt khóc.
*
* *
Hắn thủ ba trăm của vợ thật. Nhưng không phải để đi với con nào. Hắn đi kiện. Kiện một tờ báo có uy tín mãi tận Trung ương. Sự thể như thế này: Hôm qua một ông bạn cầm tờ báo đến nhà hắn. Chúc mừng ông! Cái Chị Lượt của ông được Thời Cuộc chọn đăng! Nhưng sao đề tác giả là Sỹ Vượng? Hắn ớ ra. Thật á! Sỹ Vượng là cái thằng chó chết nào mà lại dám lấy bài của tao. Chắc là trùng tên truyện đấy thôi. Vậy là hai ông, người đọc báo, người soát theo bản gốc. Không sai một dấu phảy. Thế là thế nào nhỉ? Truyện này hắn đã gửi dự thi truyện ngắn và đã được đăng, lại nghe loáng thoáng được vào chung khảo. Thế mà bây giờ nó ở đây với cái tên tác giả khác. Thôi chết rồi! Chắc thằng xỏ lá này làm như vậy để vu cho mình đạo văn, hoặc chí ít cũng phạm quy vì truyện dự thi không được đăng trên các báo khác. Hắn đần mặt ngẫm ngợi. Vậy thì phải kiện!
Hắn tập hợp tất cả chứng cứ khẳng định Chị Lượt là của mình và hùng hục viết một lá đơn. Mở đầu đơn kiện hắn viết rất hùng hồn: tôi được cha mẹ và nhà trường xã hội chủ nghĩa dạy rằng: ăn cắp là tội rất xấu. Của ăn cắp mà lại khoe ra trước bàn dân thiên hạ là của mình thì đó là loại vô liêm sỉ. Và tôi cũng dạy các con tôi như thế... Đại loại nội dung lời lẽ rất kiên quyết nhưng cũng không kém phần bóng bảy văn hoa để chửi thằng ăn cắp là thằng khốn nạn. Sau đó tiếp tục chửi thằng mua đồ ăn cắp. Thằng mua đồ ăn cắp là thằng ngu: ngu vì bỏ ra đồng tiền mà lại vớ phải đồ ăn cắp và hơn nữa làm báo mà không đọc báo thì bao giờ mới khá lên được. Truyện người ta đã đăng sờ sờ dự thi mà một tờ báo ngay sát nách không biết gì. Sau khi chửi thằng khốn nạn và thằng ngu xong thì hắn yêu cầu: Thằng kia phải xin lỗi, tòa soạn phải đính chính, phải trả nhuận bút cho hắn và thanh toán mọi phí tổn đi lại. Viết xong, hắn mặc quần áo, moi trong va li số tiền vừa bán gà để làm lộ phí, tranh thủ làm vài tợp rượu và ra khỏi nhà, không đợi vợ con về. Rượu vào khí thế bừng bừng, nhưng cái xe đạp cà khổ lại giở chứng, cứ vài chục vòng lại phải xuống lắp xích. Điên tiết hắn lao cái xe xuống kênh. Cần gì! Đợt này thắng kiện ông mua cái khác. Rồi hùng hục đi bộ gần chục cây số ra bến xe.
Hăng quá nên hắn quên cả thời gian. Đến bến xe mới hơn tám giờ tối mà xe chạy Hà Nội phải năm giờ sáng hôm sau mới có. Nhà văn của chúng ta buộc lòng phải nằm ở bến xe. Một tay hắn khư khư trong túi quần để chắc chắn ba trăm không bị bay mất, một tay vỗ muỗi. Gà gật rồi cũng qua đêm...
Trong khi hắn gà gật chiến đấu với lũ muỗi ở bến xe thì vợ hắn ở nhà ngồi khóc!...
*
* *
Giấc trưa xe mới đến Hà Nội. Đói, mệt và mất ngủ. Người hắn đờ ra. Ghé một cái quán, gọi chén nước chè cho tỉnh táo. Nhẩm trong đầu xem đã tiêu hết bao nhiêu, tính xem có nên ăn cái gì không? Nếu ăn thì nhỡ ra không đủ tiền về. Nhưng không ăn thì đói quá. Sẩy nhà ra thất nghiệp. Ở nhà, vợ ép lắm hắn cũng chỉ lưng bát cơm còn toàn uống rượu. Bây giờ hắn đang thèm rượu lắm. Nhưng còn phải làm việc quan trọng. Rượu vào người ta lại bảo là thằng say. Thằng say mà vào một tòa báo cỡ cả nước thì họ tống cổ. Nhưng làm cách nào cho hết trưa. Trong khi đang mải tính toán, hắn chợt nghe chủ quán cằn nhằn chửi vợ: cái đồ đàn bà thối thây! Giờ này không mang cơm ra để ông chết đói. Hắn bắt chuyện ngay. Ông có biết đàn bà được sinh ra như thế nào không? Đàn bà là cái rẻ xương sườn của đàn ông. Các ông nghe kinh Thánh nói vậy chứ gì. Nhưng đếch phải. Tay chủ quán há hốc mồm, cả đám xe ôm đang dài cổ đợi khách cũng tròn mắt nghe hắn diễn thuyết... Để tôi nói cho mà nghe. Ngày xưa Chúa Trời sinh ra mỗi một thằng đàn ông. Tay đàn ông ấy ở một mình buồn quá bèn xin với Chúa cho thêm người nữa xuống làm bạn. Chúa đồng ý, cho một ông thánh xuống trần gian lấy của tay đàn ông kia một rẻ xương sườn đưa về cho Chúa để Chúa nặn thành đàn bà. Thì kinh Thánh cũng nói vậy mà- mấy tay hóng chuyện nói chen. Để im tôi nói cho mà nghe. Ông Thánh được cử xuống hạ giới mò hết mọi xó xỉnh mà không thấy tay đàn ông đâu. Chả là hắn ta uống rượu say khướt rồi chui vào một chỗ ngủ líp ba ga mấy ngày liền. Thánh cũng chả tìm thấy. Chợt có một tên quỷ trông thấy Thánh. Tên quỷ này trước cũng ở trên Thiên Đường nhưng vì hắn can tội hay ngồi lê lắm điều, tham tiền, cứng cổ đến mức Chúa Trời cũng không chịu nổi nên bị đày xuống trần gian. Quỷ trông thấy Thánh thì hoảng quá, tưởng rằng Thánh tìm bắt mình để đầy xuống địa ngục. Hắn bèn chui đầu vào một quả núi nhưng lại lòi đuôi ra. Thánh cũng trông thấy Quỷ, liền gọi để hỏi xem thằng Người đâu. Quỷ khiếp quá càng chui sâu. Thánh nắm lấy đuôi Quỷ, giật mạnh. Một đằng cố chui vào, một đằng cố kéo ra... thế là phựt một phát. Quỷ chui tọt vào lòng núi. Còn lại một mình Thánh với cái mẩu đuôi Quỷ. Không tìm được thằng Người, sợ bị chúa Trời phạt, Thánh bèn dùng phép nặn mẩu đuôi Quỷ thành cái xương sườn của thằng Người đưa về cho Chúa. Chúa Trời cả tin mới nặn tiếp thành đàn bà. Vậy cho nên mới có đàn bà như ngày nay. Hố hố... há há... cả bọn cười ngặt nghẽo. Lão này cũ người mà kể chuyện hay ra phết! Tay chủ quán cũng mải nghe quên cả chửi vợ. Lúc hắn đứng lên, chủ quán đã không lấy tiền nước lại còn mời thêm điếu thuốc lá. Lần đầu tiên sử dụng cái vốn moi ra từ những câu chuyện từng đọc, thấy đạt hiệu quả kinh tế rõ rệt, hắn đâm ra hứng khởi. Ô hay, thành phố cũng chỉ như vậy thôi ư? Những chuyện như vậy có đầy trong sách. Nông thôn đã đành, làm gì có sách mà đọc. Còn thành phố, liệu có mấy người đọc sách. Vậy thì chán thật. Viết để làm gì? Khốn nạn cả đời, in mấy trăm cuốn, lỗ chỏng vó mà có mấy người đọc. Chả trách mấy ông nhà văn chuyên nghiệp cũng kêu chán. Sách bán chạy là sách dạy làm quan, sách dạy làm giàu, sách dạy cách làm tình thế nào cho sướng và... sách chế độ chính sách. Hay thật. Tập hợp các văn bản của Nhà nước, mất tý công đánh máy in thành sách, bán hàng nửa triệu bạc một cuốn. Những cuốn sách ấy lại nằm ở những giá sách sang trọng của các đại gia. Chính sách thay đổi chóng mặt. Sách in chóng mặt. Còn những chiêm nghiệm ám ảnh cả một kiếp người, những nỗi niềm nhân thế... mấy ai để ý. Cho nên mấy ông nhà văn nghèo cũng phải.
Thôi thì cũng phải ăn rồi đến đâu thì đến. Hắn thất thểu vào một hàng cơm bình dân. Lúc này cũng đã hơi quá trưa. Ông chủ nhà đang uống rượu một mình. Thấy khách đến vào cái giấc đáng lẽ phải được nghỉ nên ông ta có vẻ khó chịu, mặt mũi hằm hằm. Nghe nói ở Thủ đô cứ chủ quán nào hằm hè thì quán ấy mới đắt khách. Hắn làm như không thấy điều ấy, gọi một suất cơm canh mười ngàn. Cơm đưa lên. Quen thói ở nhà lại thèm chén rượu. Chai rượu lại để ngay cạnh. Sự cám dỗ của quỷ chiến thắng sức ép của công việc đang chờ. Thôi cũng đành! Hắn rót một chén. Nhìn lên, thấy bức trướng mừng thọ, hắn đưa đà: Cụ nhà vừa được mừng thượng thọ! Chủ nhà gật đầu. Rượu vào bốc lên. Hắn bắt đầu thao thao. Vậy là nhà ta có phúc lớn. Chủ nhà nhìn hắn hoài nghi. Này nhé! Ông có biết thiên tước là gì không. Thiên tước là tước lộc của Giời, mà Giời thì rất công bằng. Ai xứng đáng mới được. Mà người xứng đáng phải là người hiền lành tử tế thì giời mới ban cho tuổi thọ. Cụ nhà ta thượng thọ là được ban thiên tước. Các cụ hiền lành để phúc cho con cháu. Tôi nhìn ông thấy dung nhan rạng rỡ lắm, làm ăn có vẻ nhuận lắm. Ông thấy có đúng không. Nhờ các cụ đấy! Ông chủ nhà khoái quá bê cả thức ăn cả rượu sang ngồi với hắn. Được thể hắn nói thao thao. Chủ nhà há hốc mồm nghe, sướng tê người, liên tục rót rượu vào chén hắn. Nhưng vì còn công việc trước mắt nên hắn uống dè dặt. Lúc hắn ra đi, chủ nhà chỉ lấy mười ngàn tiền cơm, không lấy tiền rượu, sau đó còn bắt tay giật giật rất nhiệt tình và hẹn hò lưu luyến lắm. Hắn cảm ơn và liếc chai rượu vẫn còn nhiều mà tiếc rẻ. Giá mà không phải cái vụ văn chương thổ tả này thì có phải hơn không!
*
* *
Tay bảo vệ tòa soạn báo Thời Cuộc nghi ngại nhìn một hình nhân không ra già không ra trẻ, áo quần lếch thếch, đầu tóc bù xù, loẹt quẹt đôi dép lê mòn vẹt cả mũi. Nhà văn của chúng ta xông thẳng vào tòa soạn. Này ông kia đi đâu? Đi gặp Tổng Biên tập!... Đứng lại! Xuất trình giấy tờ!... Hắn làm như không nghe thấy, vẫn xăm xăm đi vào. Tay bảo vệ hoảng hốt chạy theo ngăn lại: Văn hóa công sở để đâu. Vào cơ quan phải xin phép chứ! Hắn quay mặt lại: Sao! Phải xin phép à! Vậy ăn cắp bài, đăng bài không xin phép tác giả là văn hóa gì? Phòng Tổng Biên tập ở đâu? Thấy đối tượng chắc cũng không phải tay vừa, ít nhất cũng là cấp cùn trở lên... tay Bảo vệ dàn hòa: Thì ông cứ vào đây tý đã. Hắn vào phòng thường trực ngồi đợi. Tay bảo vệ bỏ đi vào một hành lang tối. Nhìn vào hành lang tối mờ mờ như cái lỗ lươn, tự dưng hắn ngại ngại. Người ra vào nhiều nhưng không ai để ý đến hắn. Đợi mãi chẳng thấy ai bảo sao, tay bảo vệ cũng không thấy đâu. Quái thật! Lại có cái loại văn hóa bảo khách vào phòng rồi biến mất hút con mẹ hàng lươn. Chả nhẽ cứ ngồi mãi ở đây. Thấy một cô từ trong cái lỗ hun hút đi ra, hắn vội chạy theo: Xin lỗi.. cho tôi hỏi: Phòng Tổng Biên tập ở đâu. Cô này vẫn cắm đầu đi: tầng ba! Đúng là thời đại công nghiệp. Thông tin người ta chỉ cung cấp vừa đủ, không thừa thiếu chữ nào. Nhưng thôi, hãy cứ lên tầng ba. Hắn đoán cầu thang chắc ở cuối cái lỗ hành lang hun hút. Đúng thế thật.
Tầng hai... tầng ba... Hắn đi dọc hành lang tầng ba, ngửa cổ tìm phòng Tổng Biên tập. Đây rồi. Hắn gõ cửa. Không có tiếng trả lời. Phải ba lần mới nghe thấy: đang bận, hãy chờ! Chờ đến hơn chục phút thì thấy cánh cửa mở. Một cô môi son má phấn bước ra: Xong rồi, ông vào đi... Hay thật! Chả biết xong cái gì mà thấy cô ta vừa lắc mông vừa chỉnh áo. Ông Tổng đầu hói tròn như quả bưởi đang chăm chú trên máy vi tính không ngẩng đầu lên miệng hỏi: Có việc gì? Hắn trình bày. Tổng Biên tập lơ đãng nghe rồi bảo: Ông xuống tầng hai làm việc với biên tập văn hóa văn nghệ của báo. Thế nhé!
Xuống tầng hai. Lại ngửa cổ vừa tìm vừa hỏi thăm Phòng Biên tập văn hóa văn nghệ. Rồi cũng tìm được. Tiếp hắn là một cô váy ngắn chân trần, đi bốt trắng. Hắn nhìn đôi bốt thầm nghĩ: Nắng vỡ giời, nóng chảy mỡ lại còn đi ủng. Mà sao đôi ủng này lắm lỗ xỏ dây thế. Để xỏ dây buộc ủng có khi phải mất hàng tiếng đồng hồ chứ chả chơi. Tự dưng hắn liên tưởng cô này là con cháu Tôn Ngộ Không. Ừ đúng là giống Tôn Ngộ Không thật vì mặt thì bự phấn trắng vẽ vời rất cẩn thận, còn cái tai, cái cổ thì vẫn nguyên bản nâu nâu tươi màu suy nghĩ. Cô biên tập khi đọc đơn kiện của hắn lộ rõ vẻ hốt hoảng. Sở dĩ hắn biết được điều ấy vì thấy vành tai của cô ta tía dần lên theo từng dòng chữ trong đơn mà cô ta đọc được. Nếu bị phản ứng thì hắn sẽ phản công bằng các chứng cứ đã sắp xếp theo tinh thần của công ước Bơn. Nhưng không đến mức đó. Cô ta sẽ sàng: Đúng là chúng tôi có lỗi vì quá tin vào người gửi bài. Xin khất anh sáng mai chúng tôi sẽ giải quyết vì còn phải xin ý kiến Tổng Biên tập. Hắn bảo: Tôi không đợi được đến sáng mai! Yêu cầu phải giải quyết ngay! Anh thông cảm vì chiều nay tài vụ đi vắng. Vả lại anh đi mấy trăm cây số lên đây cũng phải nghỉ ngơi tham quan Thủ đô chứ ai lại về ngay. Hắn nghĩ thầm: Tham quan cái con khỉ! Tiền đâu mà tham quan? Lại còn phải chỗ ăn, chỗ ngủ nữa chứ. Đếch làm việc kiểu cù nhầy này nữa. Ông kiện lên Bộ cho các người biết tay. Vậy là hắn hùng hục ra bến xe.
Ra bến xe lại vào quán nước lúc trưa. Chủ quán nhận ra hắn ngay, vội đon đả chào mời, cánh xe ôm cũng đến hóng chuyện. Nhưng bây giờ hắn chẳng còn bụng dạ nào để tếu táo được nữa. Làm một hơi hai cốc nước chè, hắn ra xe. Nghĩ đến đoạn đường mấy trăm cây số hắn ngán ngẩm. Tống liền hai cốc nước đâm ra mót đái, hắn phải đi giải quyết cái nhu cầu không thể trì hoãn... Thoải mái quá! Nhưng vừa bước ra khỏi nhà vệ sinh thì bị một bà béo chặn lại: Tiền? Hắn hỏi lại: Tiền gì? Tiền đi tiểu chứ tiền gì. Mắt mù không nhìn quy định à. Hắn nhìn lên cái bảng sơn xanh. Thành phố hay thật. Đi đái cũng mất tiền. Hắn đưa cho bà Vệ Sinh một ngàn. Còn thiếu! Hắn ngạc nhiên: Ơ hay bảng giá quy định một ngàn, tôi trả một ngàn sao lại còn đòi nữa? Buổi trưa anh cũng vào đây chưa trả tiền. Bây giờ phải trả cho đủ! Hắn ớ ra nhưng bụng cũng phải công nhận là bà ta nói đúng. Nhưng hắn còn cố vớt vát: Buổi trưa tôi có vào đây đâu mà đòi? Gớm nhỉ! Lại còn chối. Người ngợm như hình nhân, đầu như tổ quạ, quắt queo như thằng nghiện thế kia giá có đi đâu một năm quay lại thì chỉ mù mới không nhận ra. Trả một ngàn nữa ngay kẻo không xong với tôi đâu!... Nhìn bà Vệ Sinh đẫy đà với cây chổi lăm lăm trong tay như Bát Giới cầm đinh ba thì hắn hơi hoảng. Mất thêm một ngàn nữa. Người thành phố sòng phẳng thật! Cái hay ho mình nói ra đằng mồm, người ta sướng, người ta trả công cho mình. Cái mình thải ra đằng đuôi, người ta phải dọn thì người ta bắt mình phải trả tiền. Đúng thôi! Vậy thì tại sao mình lại không thể đòi thằng báo Thời Cuộc phải sòng phẳng? Phải làm cho ra nhẽ chứ sao lại chịu về không. Quay lại! Vậy là hắn lại hừng hực khí thế đi bộ về tòa soạn báo Thời Cuộc.
Đoạn đường từ bến xe đến tòa soạn Thời Cuộc không phải là ngắn. Hắn cứ cắm cúi đi cho đến khi thấy bóng mình in trên mặt đường mới nhận ra thành phố đã lên đèn. Một mình lạc lõng giữa ồn ào xe cộ hắn bỗng thấy sợ. Giả sử có một cái xe mất lái... mình có bị làm sao... thì vợ con không biết, không ai biết... thì cũng chỉ như một kẻ ăn mày... Vô nghĩa, vô nghĩa hết! Tự nhiên thấy thèm người. Thèm có một người để tâm tình, chia sẻ... Nhưng ai có thể tâm tình chia sẻ. Mà đêm nay mình sẽ ngủ ở đâu. Lại vạ vật vỉa hè sao? Hắn lục túi tìm tờ giấy ghi số điện thoại của bạn bè. Trần Văn X... Điện thoại: 0483... Đây rồi. Sao mình vô tâm, anh ấy mấy lần hẹn nếu có dịp lên Hà Nội thì vào nhà chơi...
Hắn vào một dịch vụ điện thoại gọi đến nhà ông X.
Người nhà nghe máy rồi bảo ông X không có ở nhà. Hắn hỏi thêm thì mới biết ông đang nằm viện. Ung thư giai đoạn cuối. Vậy là hắn đến Bệnh viện. Ông X là nhà thơ. Sở dĩ hắn biết ông vì ông là người cùng quê, trước cùng sinh hoạt trong Hội Văn nghệ tỉnh sau chuyển lên Trung ương. Cả hắn và ông cùng là đệ tử Lưu Linh, cùng thích văn chương nên thân nhau. Hắn kính trọng ông là đương nhiên vì ông có thực tài và sống rất chân tình. Còn ông quý hắn bởi hắn thật thà và thương hắn bởi hắn nghèo. Thỉnh thoảng gặp nhau hay khi ông đến nhà chơi thường dúi cho hắn mấy chục. Chẳng nhiều nhặn gì vì ông không giàu, nhưng vợ chồng hắn rất cảm động. Một miếng khi đói bằng một gói khi no. San sẻ cho nhau chút đỉnh là cho nhau niềm vui, động viên nhau tinh thần là chính để mà tồn tại. Có lẽ chỉ những nhà văn mới làm được như vậy.
Ông Nhà Thơ mừng đến rưng rưng khi được nhà văn xóm đến thăm. Khi một mình đối đầu với cái kết cục tất yếu của kiếp người thì người ta cảm thấy mọi sự chăm sóc thăm hỏi của đồng loại là thiêng liêng. Hắn cũng đọc được trong mắt ông sự cố gắng níu kéo đến tuyệt vọng. Hình như hắn đến làm ông có thêm nghị lực để hy vọng. Hắn biết điều ấy nên cố gắng làm cho ông vui và bảo rằng bệnh tật của ông chỉ là ốm xoàng, một trận cảm vặt. Tếu táo và trân trọng, hắn kể với ông cái việc phải lên thành phố. Nhà Thơ chăm chú nghe nhưng lộ vẻ mệt mỏi. Nhận thấy điều ấy, hắn hỏi ông: Anh mệt à. Bây giờ anh thèm cái gì nhất? Ông thều thào: Rượu! Nhưng chúng nó không cho uống... Mình cũng chả dám đòi... Mọi người trong nhà đang cuống lên chạy tiền thuốc cho mình mà mình lại đòi rượu nữa thì nhẫn tâm quá... Tưởng gì! Hắn hăng hái đi mua một chai rượu. Cẩn thận, hắn rót rượu vào cái chén nhỏ. Nhà Thơ run run nâng cái chén, mắt nhìn sâu vào những giọt rượu trong vắt. Ông đưa chén rượu lên ngang mặt, tận hưởng mùi thơm quyến rũ và từ từ đưa chén chạm môi. Môi ông như được men rượu làm hồng lên. Mắt ông nhắm lại. Những giọt rượu được ông giữ lại trong miệng một tý để tận hưởng vị cay nồng rồi mới nuốt. Một tiếng khà nhè nhẹ nhưng hẫng. Hắn biết khà là thói quen của những người uống rượu. Có lẽ Nhà Thơ kìm tiếng khà ấy lại vì ông không muốn nó mang đi hương vị của những giọt rượu đang đọng trong cổ họng. Tuyệt vời! Hắn ngắm Nhà thơ uống rượu mà rưng rưng. Đời hắn cũng đã uống không ít rượu. Nhưng hôm nay hắn mới tận mắt chứng kiến sự hoan lạc đến tột đỉnh của người uống rượu. Này chú! Ông nói, giọng trong hơn- Buồn cười thật đấy. Để kéo dài sự sống thêm mấy ngày, người ta bắt mình phải đoạn tuyệt với những cái gì mà mình thích. Thêm mấy ngày nhạt nhẽo vô vị ấy thì phỏng có ích gì. Còn khổ hơn cái chết. Vậy thì việc gì phải kìm hãm. Tuyệt thật! Chú cho tôi xin tý nữa. Hắn rót thêm một chén. Vẫn những động tác như vừa rồi, nhà thơ uống và khà. Lần này thì tiếng khà thoát ra thoải mái hơn. Mặt ông hồng lên. Cặp mắt linh hoạt như người không hề có bệnh. Phấn khởi vì những thay đổi đến bất ngờ ở Nhà Thơ, hắn hỏi: Anh còn nhớ câu thơ: Nếu ngày mai tôi chết... Vừa đọc được một câu hắn đã thấy mình hớ. Ai lại đi nói về cái sự chết chóc với người đang trọng bệnh. Nhưng Nhà Thơ nói ngay: Nhớ chứ! và ông đọc liền một hơi Nếu ngày mai tôi chết. Thì chẳng mong gì hơn. Âm thầm một giọt lệ, rỏ xuống những nguồn cơn.‘*’ Những nguồn cơn... Ông lẩm bẩm. Những nguồn cơn... Mày sướng nhất đấy em ạ! Tự nhiên ông thân mật xưng hô mày tao. Cái việc mà mày vừa nói chứng tỏ mày đã làm được việc mà không phải ai cũng làm được. Thứ nhất: cái thằng mà nó lấy cắp truyện của mày là người tri âm với mày rồi. Mày hỏi vì sao à? Để anh nói cho mà nghe. Trước hết là nó đã công nhận cái truyện của mày, nó thích cái truyện của mày. Thích quá, nó mới lấy cắp. Chả có ai lại đi lấy trộm cái mà mình không thích. Nó lại dám thay tên tác giả, thế tên nó vào tức là nó đã dám thừa nhận ý của mày trùng với ý của nó. Thứ hai: Thằng Thời Cuộc nó đăng truyện ấy lên là nó đã công nhận giá trị của truyện. Một cái truyện mà hai thằng báo to cùng công nhận, cùng đăng thì tuyệt quá rồi còn việc gì phải băn khoăn. Thứ ba: viết ra được nhiều người biết đến là tốt quá. Chính mày viết xong mày cũng chẳng quan tâm số phận của nó như thế nào sau khi gửi đi. Có người bảo mày mới biết cái vụ này. Đã có người đọc quan tâm đến mức ấy là hạnh phúc đấy em ạ!... Nhưng mà em tức lắm! Tức không chịu được vì nó dám thay tên tác giả! Vậy là mày lại háo danh rồi. Viết mà người ta đọc, người ta chiêm nghiệm, chia sẻ và đồng cảm với điều mình viết là được rồi. Cái tên nào thì cũng vậy thôi. Để người đọc người ta nhận thấy gì sau trang viết ấy mới là quan trọng. Viết để có cái danh thì chẳng để làm gì. Đấy mày xem. Có những người nổi danh nhà văn lớn nhưng có gì đáng để đời. Viết xong tung hô một thời rồi sau đó mấy ai nhớ đến. Mà cũng lạ. Viết văn cũng có nhà văn lớn, nhà văn bé, nhà văn chuyên nghiệp, nhà văn nghiệp dư... Chả phải cũng phân chia đẳng cấp những người viết hay sao? Không có đẳng cấp nào hết. Chỉ có tác phẩm hay và tác phẩm không hay. Nhà văn lớn mà đẻ ra cái tác phẩm dở thì dù tung hô đến mấy cũng đáng vứt vào sọt rác. Đấy là chưa kể các ông ấy còn viết để công kênh cho mình. Nói thẳng là viết vì danh để rồi văn chương nhạt hoét, khoa trương cái này cái nọ, nhân danh cái này cái nọ... Em có cảm giác là nó xỏ lá em, làm cho em bị phạm quy trong cuộc thi truyện ngắn lần này. Quên đi! Hy vọng được giải thưởng ư? Nghiệm ra rằng những tác phẩm để đời chưa bao giờ được nhận bất cứ giải thưởng nào. Vì sao? Chắc mày thừa biết. Thế thì sao lại lao tâm khổ tứ vì nó. Tác phẩm đã được đăng, đã được công chúng chấp nhận thì bây giờ nó là của công chúng, không còn là của riêng mình nữa. Cái gì còn lại là của mình, mình phải đòi. Nhuận bút chẳng hạn, đó là công sức của mình, mình phải đòi. Thế thôi! Nói một hồi, nghe chừng nhọc. Ông ngồi im như tiếc nuối, như hờn dỗi. Hắn lại rót chén rượu đưa ông, rồi với bản tính tếu táo hắn đọc: Nếu ngày mai tôi chết, thì chả mong gì hơn, đổ đầy quan tài rượu, rồi chôn đâu thì chôn! Hay! Nhà thơ vùng dậy cười ha hả... Nét cười sảng khoái sáng bừng lên trên khuôn mặt u ám.
Đêm ấy hắn ở trong bệnh viện cùng với Nhà thơ.
*
* *
Hôm sau hắn lại đến Tòa soạn báo Thời cuộc. Cô Biên tập con cháu Tôn Ngộ Không đi ủng xỏ dây dẫn hắn xuống Phòng Tài vụ nhận tiền. Cô tài vụ bảo báo mới ra chưa có nhuận bút. Hắn khùng lên: vậy thì tôi sẽ kiện. Cô Biên tập vội vàng chạy đi vay tiền đưa cho hắn. Thôi anh cầm tạm. Bài của anh, chúng em đánh giá là bài hay nhất và trả nhuận bút mức cao nhất của báo. Chúng em sẽ làm theo yêu cầu của anh. Lần sau nếu có bài anh gửi trực tiếp cho em. Mong anh hợp tác. Hắn nghĩ cũng chẳng có thể hơn và có hơn cũng chẳng làm gì. Hắn cảm ơn và cầm tiền. Thôi đành vậy!
Đã định về ngay, nhưng vẫn băn khoăn... hắn ngược vào Bệnh viện để chào Nhà Thơ. Có cảm giác đây là lần gặp sau cùng. Bàn tay Nhà Thơ nắm lấy tay hắn như không muốn rời. Hắn mở số tiền vừa nhận cùng với số mang đi còn lại, lấy riêng ba trăm để trả cho vợ và tính toán vừa đủ đi xe về đến nhà; Số còn lại hắn đưa cho Nhà Thơ: Em có mấy đồng biếu anh để anh bồi dưỡng. Anh thông cảm. Nếu có điều kiện vợ chồng em lên thăm anh sau... Nhà Thơ bật khóc. Hắn cũng khóc rồi vội vã lau nước mắt để ra về vì sợ dùng dằng thêm tý nữa thì hắn cũng khó lòng về nhà trong ngày được.
*
* *
Khoảng một tuần lễ sau, vẫn ông bạn viết hôm nào lại mang tờ Thời Cuộc đến nhà hắn. Đây, báo nó đã đính chính rồi ông ạ. Đâu! Chỗ nào! Rà mãi, rà từng dòng đến trang bảy mới thấy một cái mẩu nhỏ xíu nằm dọc ở góc cuối. Hắn phấn khởi xem xong đưa cho vợ. Vợ hắn bảo: Lãi to rồi. Hắn ngơ ngác: Lãi cái gì? Vợ hắn thản nhiên: lãi được cái Đính chính! Chuyến đi của ông lãi được mỗi cái Đính chính. Hắn lấy thước ra đo cái lãi của mình: bề ngang đúng hai phân, bề dọc năm phân... Vợ hắn còn cẩn thận hơn, thị đếm từng chữ và hùng hồn công bố: vừa hai mốt chữ (!)
Buổi chiều, đứa cháu nhà bên chạy đến bảo chú sang nghe điện thoại. Lúc về hắn ngồi khóc. Vợ hắn đi làm về thấy hắn đần mặt, mi mắt mọng nước liền hỏi: sao có việc gì mà sụt sùi? Anh X mất rồi! Vợ hắn lặng người. Lúc nào? Anh ấy mất lúc trưa nay. Chị ấy mới điện cho biết. Vậy sao ông vẫn còn ngồi đây? Hắn không nói gì. Vợ hắn vào buồng lục sục một lúc rồi cầm cái gói tiền ba trăm đưa cho hắn: Mình đi Hà Nội luôn đi! Lên trên ấy cho có anh có em. Giá mà tôi cũng đi được... Vợ hắn rơm rớm nước mắt: Thôi cứ nói với chị ấy thông cảm cho tôi. Mình đi ngay đi...
Mùa nước nổi
Ngày cập nhật: 04.11.2011 15:39 (GMT+7)
“Mùa nước nổi” là cụm từ mà dân quê tôi hay sử dụng mỗi khi nước lũ tràn đồng. Từ tháng 7 âm lịch, quê tôi, nước lại tràn khỏi bờ. Mùa nước nổi làm cho người dân long đong, vất vả. Nhưng bù lại, như một sự tạ lỗi, nước nổi cũng đem đến cho con người bao sản vật tự nhiên, cho đất đai bao phù sa màu mỡ. Và cho con người đong đầy những kỷ niệm tuổi thơ, những kỷ niệm đời người.
Mùa nước nổi, quê tôi thành biển cả mênh mông. Biển quê tôi mang màu nâu đỏ, mỗi nhà nổi lên như một ốc đảo xanh bập bềnh trên mặt nước, đẹp như tranh thủy mặc. Các hòn đảo đều thơm lừng hương ổi, hương bưởi. Đó là mùa tháng sáu, tháng bảy khi những trận mưa mùa hạ trút không ngớt xuống đất lành. Nước đổ về suối, suối chảy về sông, nước sông cuồn cuộn dồn ra biển, nước chảy không kịp lừ lừ dâng tràn ngập đôi bờ cướp đi hoa màu và sự thanh bình êm ả. Quê tôi thuộc vùng trũng Đồng Tháp Mười, không mùa lũ nào thoát nước.
Nhớ lúc còn là thằng nhỏ lỳ lợm, khoái đi câu cá, kéo lưới hơn đi học. Tôi khoái lũ về hết biết. Cứ nghĩ tới cảnh được bơi xuồng ra ruộng, đi giăng lưới, ủ lươn là khoái trong lòng. Còn cha mẹ tôi và các chú, các bác trong xóm thì ngược lại. Nghe đài báo lũ lên cấp 1, cấp 2 rồi cấp 3 cả xóm xôn xao náo động. Mọi người cuống lên lo đong gạo, mua muối dự trữ. Người già thì trầm tư theo dõi con nước dừng hay nhảy, trẻ con lại đua nhau háo hức đo nước chậm hay mau.
Nước lên nhanh chúng tôi reo hò vui sướng rủ nhau đi sắm cần câu, sắm vó. Đối với trẻ nhỏ chẳng có gì khoái bằng khi được ngồi trên giường mà cất vó và câu cá. Nước lên, khắp nơi cành cạch sửa xuồng trát ghe, heo gà kêu eng éc, quang quác ầm ĩ. Người lớn lo bồi sân, đắp bờ mặt cứ méo đi vì mệt. Bọn trẻ con thì mặt nở như hoa hớn hở đi xúc cua, vớt ốc, đâm chuột, đập rắn, đua xuồng các kiểu. Sáng sáng, tôi lại bơi xuồng ra ruộng chổng mông giăng lưới. Sao cá nhiều quá không biết. Chưa đầy một tiếng đồng hồ mà được hẳn những một rổ, nào là cá rô, cá trạch, cá sặc… Đem về mà nấu một nồi canh chua bông súng ma hay bông điên điển là ngon hết xảy.
Nước lên, tôm cá cũng lên vẫy vùng trên sân, trên ngõ, trên vườn ăn cỏ. Chúng tha hồ chu du trên lãnh thổ mới thưởng thức của ngon vật lạ. Kiến kềnh, kiến càng kéo nhau lên làm tổ trên mái nhà và ngọn cây cao. Rắn, rết, chuột cũng bảo nhau kiếm nơi trú ngụ mới. Tối trèo lên giường đi ngủ. Tôi quờ phải một vật gì trơn tuồn tuột vội nhảy ùm xuống nước, hét ầm lên. Cha soi đèn pin, một chú cạp nong lặng lẽ định chuồn, cha phang cho một cây, hú vía…
Nhà bà Ba bên cạnh thấp hơn nhà tôi, nước lên chạm tới mái, phải bắc cánh cửa lên xà nhà mà ngủ. Nửa đêm chợt có tiếng kêu từ nhà bên, cha tôi chèo tam bản sang, thấy mấy mẹ con đang khóc mếu mò thằng Tèo. Cha soi đèn, thằng Tèo vẫn khò khò trong mùng. Lúc ấy vỡ nhẽ ra, cả nhà ôm bụng cười vì nghe nhầm tiếng cái bình lăn tõm xuống nước. Đêm nước nổi cả xóm ngủ không yên, nhưng với một thằng ham chơi như tôi thì đêm nước nổi thật là tuyệt.
Đêm đêm, đâu đó, văng vẳng vọng về mấy câu giọng cổ “Ghe chiếu Cà Mau đã cấm sào bên bờ kênh Ngã Bảy, sao cô gái năm xưa vẫn chưa thấy ra chào?...” (Tình anh bán chiếu - Viễn Châu). Thiệt đúng điệu miền Tây nhưng buồn thúi ruột. Tiếng ếch kêu râm ran khắp nơi, tiếng sóng vỗ rì rầm quanh nhà, thỉnh thoảng lại có tiếng lõm bõm của những trái ổi quá tầm chín rụng. Hương ổi ngọt ngào, mùi phù sa ngai ngái lành lạnh thấm đẫm trong đêm. Gió xạc xào, những cánh chim giật mình chao chát, tiếng lách cách của xuồng đi giăng câu rồi… cả tiếng vi vu của sáo diều. Đêm nước nổi mênh mang sâu lắng mà thân thương kỳ lạ. Nằm trong lòng mẹ, tôi cảm thấy mọi thứ xung quanh đối với tôi vừa gần gũi đáng yêu, vừa huyền diệu biết bao.
Mùa nước nổi, nhà nọ đi thăm nhà kia bằng xuồng, đi chợ bằng xuồng, đám ma, đám cưới cũng bằng xuồng. Chiếc xuồng là phương tiện giao thông tuyệt vời nhất. Nhà nào ít xuồng chặt thêm cây chuối đóng bè, đóng mảng để dùng đi lại. Rửa chén, vo gạo, rửa rau đi lại bì bõm trong nhà. Xoong nồi, dép guốc trôi lềnh bềnh lẫn trong rác rưởi.
Ngoài vườn, đu đủ đã quắn lá, cây cối đã nhạt màu xanh, cây lung lay và rụng gần hết lá thì nước rút. Nước rút tới đâu, phù sa đọng tới đó. Phù sa đóng hàng gang tay trên nền nhà, phủ dầy tường cột. Những cây yếu, ngắn ngày vàng vọt chết dần. Cây dài ngày có đất màu mỡ của phù sa đền đáp sau một thời gian lại hồi sức, xanh non mơn mởn. Cuộc sống mới lại bắt đầu, tuy khó khăn nhưng dần dà cũng khắc phục. Những đứa trẻ đã mệt nhoài ra vì nước, chuẩn bị tấp tểnh tới trường. Cây cối ruộng vườn có phù sa màu mỡ tiếp tục vươn lên đơm hoa kết trái ngọt ngào.
Không có nước ngập, vườn ruộng quê tôi được quay vòng mùa vụ, sản lượng thu nhập tăng gấp đôi, gấp ba. Dân vùng tôi vui sướng ấm no, hưởng một cuộc sống thanh bình. Nhưng nhờ nước nổi mà đất đai quê tôi màu mỡ hơn, những biển lúa xanh mơn mởn đang thì xuân xanh, những vườn trái cây trĩu quả. Dù sao tôi vẫn cứ nhớ, cứ yêu mùa nước nổi. Chính mùa nước nổi đã cho tôi những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm, đẹp đẽ nhất ở quê hương
Cơm nhà
Ngày cập nhật: 22.12.2010 15:39 (GMT+7)
Bước vào quán lề đường dựng bảng “bình dân”, bác ngó qua dãy thức ăn được bày biện sẵn sàng sau lớp kính, chỉ chờ thực khách chọn món sẽ gắp vào dĩa cơm, bưng ra bàn. Bác đảo qua một lượt. Hôm nay có sườn nướng, đậu hũ dồn thịt, thịt kho hột vịt, cá chiên, mực xào thơm…. Nhiều quá. Thực đơn đa dạng nhưng bụng chỉ chứa nổi một, cùng lắm là hai món thôi.
“Ăn gì bác ơi?”
“Cho bác thịt kho hột vịt…”
Bác lom khom ngồi xuống ghế, giở cái mũ lưỡi trai cũ sờn đặt lên bàn. Mái đầu bác lộ ra đầy sợi bạc, làn da xù xì sương gió, vầng trán nhăn nheo, áo quần luộm thuộm nhàu nhĩ, bộ dạng thường thấy nơi những người chồng, người cha trụ cột gia đình ngày ngày lăn xả với đời bươn chải kiếm sống thương vợ, chăm con khôn lớn.
Trưa trời trưa trật. Mấy cái bàn hầu hết đã lấp kín bởi những tấm lưng thoang thoảng mồ hôi. Xa xa người ngồi đàng kia đang ngấu nghiến cái đùi gà có lẽ là một anh xe ôm. Hai ba cậu choai choai ồn ào góc này là thợ hồ. Mấy cô kế bên xoen xoét tám chuyện chắc buôn bán đồ lặt vặt ở chợ. Và đám thanh niên rôm rả ở bàn gần đó: công nhân khu chế xuất.
“Cơm đây bác ơi!”
Con bé phụ việc nhanh nhẹn bưng dĩa cơm ra, kèm một chén canh chua. Bác với đũa, lại tìm chén ớt. Không thấy đâu, bác gọi:
“Cho bác mấy trái ớt đi cháu.”
Con bé dạ dạ chạy vào lấy ngay. Bác ngồi chờ, buồn thiu. Mấy hôm rồi vợ bác sốt cao, ra nhà thuốc mua chục viên trắng viên xanh về uống mà chẳng thấy bớt, chiều qua bác chở đi khám liền nghe ông bác sĩ phán: “Cần nhập viện!”. Vậy là hôm nay nhà còn mỗi một mình, bác đành phải tự túc khoản cơm nước.
“Ớt nè bác.”
Bác cho ớt vào dằm dằm, trộn đều với nước thịt.
Chẳng bằng bà ấy được! Tay nghề nấu nướng của bà ấy mới là số một. Bác vừa nhai cơm, vừa ngẫm nghĩ. Tuần nào trong bếp cũng sẵn một nồi thịt kho hột vịt, món “ruột” của mình. Bao giờ bà ấy cũng tinh ý…
Trong tâm tưởng, bác thấy hai vợ chồng ngồi ăn cơm: mình lấy đũa xắn đôi quả trứng, gắp một nửa vào chén cho vợ, nửa cho mình, rồi vừa và cơm vừa tấm tắc.
“Ngon tuyệt! Ngon tuyệt!”
Vợ bác cười tủm tỉm, múc nước kho rưới vào chén cho bác, lại gắp thêm miếng thịt. Bác ăn cay lắm, biết tính nên bữa cơm nào bà ấy cũng bỏ sẵn vào mâm mấy trái ớt hiểm. Dằm quả ớt nát nát vào nước thịt, cay cay mặn ngọt, ăn với cơm, sao mà… tuyệt!
Nhai mấy hạt cơm trộn trạo trong miệng, bác ngó miếng trứng vừa ăn. Lắc đầu.
Hột vịt kho của vợ bác sao mà ngon bao nhiêu tuyệt bao nhiêu, thì ở đây lại dở tệ bấy nhiêu! Bác liếc cái bảng đề chữ “bình dân” to tướng dựng đằng trước kia mất một lúc. Ừ thì cũng phải, ăn cơm “bình dân” còn đòi hỏi gì nhiều.
Dĩa cơm ngoài món chính vừa gọi còn bỏ thêm một nhúm rau muống xào. Nhưng ôi thôi rau gì lại vừa dai vừa già, ăn chỉ muốn nhả bã. Vợ bác vẫn thường trêu:
“Ông là kén cá chọn canh lắm nghen, chẳng biết ai phục vụ nổi cho ông vừa lòng!”
“Thì có bà chứ còn ai vào đây nữa!”
Thằng con trai độc nhất đi học xa, năm nao còn bé tý mà giờ đã ra dáng sinh viên năm hai. Cuối tuần nào gọi điện về cũng than:
“Cơm sinh viên “ẹ” lắm ba ơi. Con thèm cơm má…”
Nghe nó phát âm chữ “thèm” thôi, bác cầm ống gọi bên này cũng đủ hiểu lòng con trẻ, mắt đỏ hoe:
“Ráng đi con, học tốt, được nghỉ rồi về ăn thịt kho hột vịt.”
Hai cha con giống nhau, đều mê món thịt kho hột vịt má nó làm. Bác nhớ ngày ấy ba người ngồi dùng cơm, hễ thấy dĩa thịt kho là bao giờ thằng con trai cũng múc lấy múc để nước thịt chan như canh. Bác rầy:
“Mặn con!”
Cơm trắng chuyển cả thành nâu vì màu nước thịt, nó cứ xì xụp xì xụp. Có khi chẳng cần thịt trứng gì, cứ nhai không mỗi cơm với nước thịt như thế, vậy mà cu cậu ních căng tròn bụng sạch sẽ không còn hạt cơm nào vẫn đưa cho má:
“Con xin bát nữa.”
Bây giờ thì những bữa cơm chỉ còn lại hai ông bà già. Vợ bác tới bữa nhìn mâm cơm hay thở dài:
“Tội nó quá, lên đó cơm nước cứ tạm bợ, riết rồi gầy rộc hẳn đi…”
Bác vội vã trấn an:
“Trên thành phố thiếu gì món ngon, không cơm tấm thì phở, hủ tíu, bánh canh… Rồi nó cũng thích nghi được thôi.”
Nói vậy chứ giờ đây, đang trong quán “bình dân” này, bác hiểu điều mình nói nào có dễ dàng gì với con trai. Bà ấy mới vắng nhà một ngày, mình mới chỉ ăn cơm ngoài một ngày, đã không chịu được. Huống chi nó quanh năm suốt tháng…
Cái cảm giác một mình im lặng ngồi ăn bên những người xa lạ, tai phải nghe loáng thoáng mấy mẩu chuyện vụn vặt xa xôi mình chẳng hề dính líu liên quan, quả vô cùng đơn độc. Hàng ngày bác có chuyện vui chuyện buồn, tin tức trên báo trên đài gì mình đọc mình nghe được tới bữa đều vừa ăn vừa tâm tình với vợ, bà ấy lại kể bác nghe chuyện ngoài đường ngoài chợ, những điều mắt thấy tai nghe, cứ thế cùng trao đổi thông tin, rõ thêm chuyện lại hiểu nhau hơn. Ăn cơm mà mạnh ai biết người nấy, cố cho xong bữa rồi thôi, buồn lắm! Mỗi người mỗi việc, đến bữa là dịp để gặp nhau, không tranh thủ thì còn lúc nào. Bác thì nghĩ thế, vậy mà trên đài người ta vẫn khuyên: “Không nên vừa nói vừa ăn, dễ đau
bao tử.”
Có đau chút cũng được, còn hơn ở chung một nhà mà chẳng mấy khi chuyện trò cùng nhau.
“Con Mai mới bị chồng đánh nữa đó mày, tội nó ghê. Thằng chả tối ngày nhậu nhẹt say xỉn, chỉ khổ vợ khổ con…”
“Sao nó không bỏ quách cho rồi, cái hạng đàn ông hèn hạ vương chi cho mệt xác!”
Hai cô ngồi kế bên đang “bà tám”. Bác nhai cơm, chẳng hiểu sao trong đầu lại tưởng tượng ra một bữa cơm không phải của nhà mình.
Bữa cơm ấy có “cô Mai” và “ông chồng say xỉn tối ngày”, thêm một đứa con gái nhỏ xinh như thiên thần. Cô Mai bới cho chồng một chén cơm, lại gắp bỏ lên trên miếng đậu hũ chiên: “Anh ăn đi cho nóng!”. Ông chồng cười hiền hậu, khác hẳn những khi mang cơn say triền miên khuya khoắt về nhà đập cửa om sòm, la lối inh ỏi. Cắn miếng đậu hũ nóng giòn, hết ngắm vợ lại sang con gái. Tự nhiên mắt anh cay cay, chỉ bật ra được vài tiếng.
“Em ơi… tha lỗi cho anh…”
Những ông chồng say xỉn có thể thức tỉnh khi ăn một bữa cơm nhà vợ nấu hay không? Bác tin rằng có. Vì người đàn ông nào đứng trước bao nhiêu thăng trầm cuộc sống đe dọa vật ngã cũng có thể tìm niềm xoa dịu bởi bàn tay đảm đang chu tất của vợ thương yêu, thay cho chén đắng chén cay nơi những quán nhậu xô bồ ngoài kia.
Bác húp canh xong, lấy tăm trong hũ rồi kêu tính tiền.
“Mười hai nghìn bác ạ!”
Đưa tiền cho con bé, bác bước khỏi quán. Mặt trời đứng bóng chói chang. Bác tạt qua quán cháo bên kia đường.
Máng cái cặp lồng lên xe, bác chạy bon bon một lúc thì đến bệnh viện, leo cầu thang vào phòng số 41.
“Bà thấy đỡ hơn chưa, tôi đem cháo cho bà đây.”
Bác giở cặp lồng khói bốc nghi ngút, đưa cho vợ cái muỗng. Vợ bác nằm trên giường bệnh trắng muốt, kéo gối ngồi lên:
“Đỡ rồi ông ạ. Khổ thân ông quá…”
“Khổ thân bà ấy chứ. Nhà bao nhiêu việc cứ vơ hết vào để đến đổ bệnh ra. A n đi cho nóng, bà.”
“Ông ăn chưa?”
“Rồi, bà…”
“Ông ăn gì?”
“… Cơm bình dân. Thịt kho hột vịt. Rau muống xào. Canh chua.”
Bà nhìn bác lặng im, múc một muỗng cháo cho vào miệng.
Ăn nóng cho giã cảm đi ông!
Nhớ những lần trái gió trở trời bác đổ bệnh, bà ấy đều nấu một nồi cháo to. Khi cháo thịt bằm, lúc cháo trắng hột vịt muối, lại lắm lần cả cháo tim cháo cật…. Bà vốn khéo tay hay làm, món nào món nấy ăn rồi cũng khiến bác thòm thèm mong có lần sau được xơi thêm.
Muốn bệnh nữa sao ông, mà cứ thèm cháo?
Thế mà lần này đến lượt bà ấy ốm, bác lại mua cháo từ ngoài vào. Cháo ở ngoài cách nào bằng cháo bà ấy nấu cho được…
Bác rưng rưng, thốt lên khẽ khàng:
“Bà ơi, tôi thương bà lắm…”
Người vợ một đời vì chồng vì con cần mẫn tảo tần quên mất mái tóc huyền đen nhánh khi xưa dần nhường chỗ cho sợi trắng sợi bạc xâm chiếm xơ xác, làn da trắng mịn gương mặt tươi xinh thuở nào giờ đây là hai đuôi mắt hằn đầy vết dấu chân chim. Dẫu thế, trong mắt bác, cũng như bữa cơm nhà, ai hơn được bà ấy. Vợ bác là người đẹp nhất.
“Tôi cũng thương ông. Tôi phải mau khỏe để còn về làm cơm cho ông ăn nữa, khổ thân ông, cơm hàng cháo chợ nuốt chi nổi…”
* * *
“Má đã đỡ chưa ba, con lo quá!”
Giọng thằng con thảng thốt trong điện thoại.
“Đỡ rồi con, chiều bác sĩ cho về rồi. Không phải lo lắng gì, trên ấy ráng mà học tốt.”
“Dạ…”
“Ừ, vậy nghen. Đầu tháng ba gửi tiền. Ăn uống cho đàng hoàng, có sức để học!”
“Ba ơi…”
“Gì con?”
Giọng con trai bỗng chùng hẳn xuống.
Như một mối giao cảm vô hình giữa cha và con, bác biết nó sẽ nói một câu làm tim bác thắt lại, nghẹn đi tột cùng.
“Con… thèm cơm má…” .
Mùa châu chấu
Ngày cập nhật: 14.08.2009 16:04 (GMT+7)
Tôi nhớ rõ hè năm ấy, tôi được nghỉ học hôm trước thì tối hôm sau, tôi và mẹ đã ra tàu ngược Yên Bái rồi cả một năm, tôi phải chờ đợi rất lâu mới đến kì nghỉ hè. Có nghĩa là phải qua học kì I, qua Tết rồi kết thúc học kì II tôi mới được lên găp chị và bố. Tôi thích đi tàu lắm, vì nó sẽ ru tôi vào giấc ngủ lúc nào không biết và khi tỉnh dậy tôi như lạc vào những thiên chuyện cổ tích với những cảnh vật rất khác nơi thành phố tôi và mẹ sống. Đó là những mái nhà lợp bằng cọ, những ngôi nhà vách đất và những người bạn trạc tuổi tôi mặc những bộ quần áo thổ cẩm sặc sỡ những nét hoa văn, và cả những đồi cây thấy lạ mắt tôi đã tò mò hỏi mẹ và được biết đó là đồi cọ, đồi thông.
Được lên với bố và chị, tôi vui lắm. Chị hơn tôi 3 tuổi. Hồi đó vì hoàn cảnh bố mẹ không ở bên nhau nên chị em tôi một đứa theo mẹ, một đứa theo bố. Bạn bè tôi ai cũng có anh chị hoặc em để cùng chơi, chỉ có tôi là cứ lủi thủi chơi đồ hàng một mình và phải đợi thật lâu tôi mới được lên với chị. Tôi để dành quyển sổ, cục tẩy và cả con búp bê làm bằng vải nhỏ tí xíu mang lên cho chị. Còn mẹ thì mua cho cả hai chị em bộ váy hoa rực rỡ rất đẹp. Đó cũng là phần thưởng của hai chị em, chị học lớp bốn còn tôi học lớp một. Chị học rất giỏi. Tôi thấy trong vở của chị toàn điểm 9, điểm 10 đỏ chói.
Mẹ đưa tôi lên đây được vài ngày thì thì phải ra ga tầu xuôi Hà Nội. Hai chị em nhớ mẹ lắm nhưng mẹ là cô giáo phải đi học hè. Tôi có chị và bố ở bên cạnh nên cũng đỡ nhớ mẹ. ở đây mọi cái đều lạ lẫm đối với tôi. Hàng ngày khi bố tôi mặc đồng phục xanh thẫm, đội cái mũ cối và dắt chiếc xe đạp đi làm là hai chị em tôi ở nhà chơi đủ trò cho tới trưa khi bố về. Trò chơi ở đây không giống như trò chơi bọn trẻ thành phố chúng tôi thường chơi với nhau. Vườn nhà sẵn quả nên tất cả đều được chị em tôi vặt xuống đem sử dụng. Buổi trưa, sau giờ ngủ, hai chị em dậy và không còn chơi trò chơi như buổi sáng nữa. Nắng chiều nhạt dần trên các thửa ruộng. Chị đưa chiếc chai Lavie cho tôi cầm trước khi rời khỏi nhà. Chị mặc cho tôi cái áo cũ dài tay của chị, rồi đi giày, đội mũ, mặc quần kín mít không hở bàn chân cứ như phòng chống muỗi đốt. Chị bảo tôi:
- Em chưa đi ra ruộng nên phải mặc áo dài vào, mùa này là mùa lúa chín, những lá lúa ven bờ quệt vào tay về sẽ bị mẫn đỏ và ngứa, bố mà biết sẽ mắng đấy.
Tôi hỏi chị:
- Thế còn cái chai này thì sao? Có phải để đựng con rĩn vẫn thường cắn em xưng vù ở tay chân không?
Chị cốc đầu tôi một cái và bảo:
- Ngu thế! Ai mà bắt được rĩn cho vào trong đó. Cứ đi theo chị thì sẽ biết!
Thế là chị dẫn tôi đi như một đầu tầu ngắn tẹo lầm lũi đi dưới cái nắng chiều.
Ra đồng mới thấy có rất nhiều người đi bắt châu chấu, có những người bạn cũng chỉ trạc tuổi tôi nhưng chỉ mặc chiếc quần đùi và áo cộc tay chứ không “kín mít” từ trên xuống như tôi. Châu chấu ở đây nhiều lắm, đi đến đâu là thấy chúng bay rào rào trước mặt đến đó. Tôi nhìn mà thích mắt cứ liên tục cổ vũ cho chị “bắt lấy”. Chị tôi tay cầm cái cây, ở đầu có buộc túi ni lông, chị huơ đi huơ lại là tôi đã thấy có mấy chú châu chấu đâm đầu vào trong đó rồi. Chị lại bắt chúng cho vào chiếc chai Lavie tôi cầm. Tôi thấy chúng bị tóm thì thích lắm nhưng tay chẳng dám động vào chúng vì sợ cái râu và đôi chân của chúng sẽ làm sướt và chảy máu tay tôi. Hai chị em đang đi trên bờ thì bỗng “uỵch”, chị tôi trượt chân ngã làm tôi đắc chí cười ồ, thấy vậy chị bảo tôi:
- Lại còn cười à?
Tôi vội vứt cái chai Lavie xuống đất và đỡ chị dậy. Quần chị bị bùn bám vào lấm lem, chị quệt những vết bùn và bảo “lát nữa về khe suối nhỏ rửa là hết”. Tôi lo lắng:
- Bố biết được sẽ mắng chết?
- Không sao, mọi lần chị vẫn làm thế!
Tôi yên tâm tiếp tục hành trình với chị. Đang đi bỗng tôi nhìn thấy một con châu chấu khá to bị chết và đang bị đàn kiến khiêng đi.
- Chị ơi, xem này. Con châu chấu chết và những con kiến đang khuân nó đi làm đám ma này.
Chị dọa:
- Không đi nhanh là kiến nó bò lên chân đốt đấy.
Tôi tưởng tượng đàn kiến sẽ khiêng cả mình đi nên vội vàng chạy nhanh nhưng trong lòng thấy thật tội nghiệp cho con châu chấu. Tò mò tôi lại hỏi chị:
- Những con kiến đó sẽ chôn con châu chấu ở đâu?
- Nó đem về tổ làm mồi ăn dần, có phải cùng loài với nó đâu mà chúng nó chôn.
Chị giải thích rồi lại tiếp tục bước đi mải miết bắt những con châu chấu đang vèo vèo lượn qua trước mặt. Tôi chỉ biết cắm đầu đi theo chị. Chợt sực nhớ điều gì đó, chị thảng thốt bảo tôi:
- Chết rồi, muộn rồi đấy, về nhanh lên, bố đi tìm sẽ đánh đòn đấy!
Tôi nhìn trời chẳng thấy còn tia nắng nào nữa. Gió lao xao thổi trên cánh đồng thơm mùa lúa chín. Chị cầm giúp tôi chai châu chấu. Gần đầy chai Lavie to nên nó nặng hơn, những con chấu chấu ở trong chai chật chội nên cứ thi nhau đạp, vùng vẫy lên nhau. Hai chị em vội vàng đi về, con đường về xa thẳm, chị em tôi mải miết bắt châu châu mà không nghĩ mình đã đi đoạn đường xa đến thế.
Về đến nhà, hai chị em rón rén lí nhí chào bố. Cả hai đứa đều sợ và tưởng rằng bố sẽ cầm cái roi to đùng mà chờ hai đứa về cho một trận… Nhưng bố không nói gì, bố bảo chị tôi:
- Lần sau con không được dẫn em đi chơi xa như vậy.
Mừng rỡ vì không bị la, hai đứa ra sau nhà tắm rửa, thay quần áo.
Tắm giặt xong tôi ngửi thấy mùi thơm lừng. Ngó vào bếp thì thấy bố đang rang châu chấu, chiếc nồi đất đặt trên bếp, lửa cháy rất nhỏ, những con châu chấu cứ vàng dần, cánh cháy xẹm.. Tôi chạy lại bên bố:
- Bố ơi, còn một chai châu chấu nữa nè!
- Còn để dành cho gà ăn nữa.
Tôi mang chai ra sân và gọi “chít chít” những chú gà chạy về, được thưởng cho bữa ăn ngon. Những con châu chấu to bằng ngón tay cái, gà thi nhau mổ, bố tôi bảo đây là những con “châu chấu voi”, còn những con “châu chấu ma” thì có thân hình vằn vện… những con này không ăn được chỉ để cho gà ăn, chúng sẽ nhanh lớn. Rồi bố giải thích thêm, những con châu chấu có thân hình giống con cào cào nhưng con cào cào thì có cái đầu nhọn, thân và mình dài hơn. Lúc này tôi mới nhớ trong bài tiếng việt lớp một của mình cũng có in hình những con châu chấu, cào cào nhưng nhìn nó tận mắt như thế này mới thấy thích mắt, thấy rõ cả màu sắc trên thân hình của chúng…
Lát sau, bố mang đĩa châu chấu thơm lừng cho hai chị em. Nom rất giòn và ngon. Không biết bố cho thêm gia vị gì mà những con châu chấu thơm và đậm đà thế. Tôi và chị chia nhau những con châu chấu ăn một cách ngon lành, tiếng cười khúc khích giòn tan trong căn nhà nhỏ bé…
Góc phố muôn màu
Ngày cập nhật: 27.12.2011 09:15 (GMT+7)
Chú Nghiêm đang ngồi nhậu với mấy người bạn trên thềm nhà, con Hạnh “chằn” đi ngang. Nhìn nó mặc cái quần sọt ngắn như không thể ngắn hơn được và chiếc áo thun cổ khoét sâu xuống ngực như không thể khoét sâu hơn nữa, chú Nghiêm bưng ly rượu nốc cạn đánh chót một tiếng rồi vỗ đùi cái bẹp, nói khơi khơi:
- Nhìn cặp đùi nó tao muốn chảy nước miếng quá! Rót uống thêm một ly nữa coi. Con Hạnh “chằn” cũng không vừa, nó chửi phông lông: - Cái thứ già mất nết! Có muốn… thì đi kiếm gái mà chơi, nói bậy nói bạ có ngày coi chừng bị vả tét miệng hén! Chú Nghiêm giận xanh mặt, đứng bật dậy, kêu giật ngược: - Ê, con nhỏ đó đứng lại! Mầy nói ai mất nết? Con Hạnh “chằn” vẫn tỉnh bơ: - Tui nói khơi khơi vậy đó, bộ ông có ha mà ra miệng?! Chú Nghiêm hậm hực: - Đồ con nít ranh! Cái thứ…. Cái thứ… Con Hạnh “chằn” đốp lại: - Ờ, tui là con nít ranh chứ còn đỡ hơn cái thứ già mà tối ngày đi nhìn đít con nít. Chú Nghiêm tái mặt, huơ tay chụp cái chén định chọi dằn mặt con Hạnh “chằn”, nhưng chú Năm Đen kịp giữ tay chú lại. Chú Nghiêm vung tay, kêu chú Năm Đen buông ra để chú trị con Hạnh “chằn” cho nó bớt hỗn. Con Hạnh “chằn” đứng ở ngoài vênh mặt lên thách thức: - Ờ, ông ngon thì chọi tui thử coi rồi thấy cái cảnh hén! Chú Năm Đen thấy tình hình có vẻ căng thẳng nên khuyên con Hạnh “chằn” bỏ đi, hơi đâu mà trách người say. Đằng nào thì chú Nghiêm cũng đáng tuổi cha, chú của nó mà. Trước khi con Hạnh “chằn” bỏ đi, nó còn nói vói lại: “Nể chú Năm tui mới bỏ qua đó nghen, chứ cái thứ già không nên nết như ông kia, tui hổng có sợ đâu!”. Chuyện chính xác là vậy, nhưng sáng hôm sau, tại quán hủ tiếu “cóc” của dì Năm ở ngoài đầu hẻm, chị Sáu “mập” bô bô: “Hồi chiều hôm qua, ông Nghiêm bóp đít con Hạnh “chằn”. Cái ông này vợ bỏ đi lâu mà hổng lấy vợ khác, thèm hơi đàn bà quá nên phát khùng rồi. Chị em phụ nữ cẩn thận ổng nghen!”. Dì Năm bán hủ tiếu cãi lại: “Ủa, tui nghe nói ổng chỉ đòi cắn đùi con Hạnh thôi mừ”. Chị Ba bán bánh mì bên cạnh chen vô: “Đâu có, ổng đang nhậu, thấy con Hạnh đi ngang, máu bảy mươi lăm của ổng nổi lên nên sàm sỡ với con Hạnh kìa. Ai chứ con Hạnh đâu có hiền, nó chửi như tát nước. Ông già Nghiêm quê quá, đòi đánh con Hạnh”. Chị Hoa “nail” ngồi ăn hủ tiếu, hỏi: “Ổng sàm sỡ làm sao, nói chung chung vậy ai mà biết trời”. Chị Ba “bánh mì” giải thích: “Nghe nói ổng vuốt mông vuốt má con Hạnh gì đó”. Thằng Bằng ngồi uống cà phê ở quán cóc của bà Mười, đối diện với quán hủ tiếu của dì Năm. Nghe mọi người bàn tán về chuyện ba mình, nó phóng xe ra bãi xe ôm ngoài chợ để tìm chú Nghiêm. Gặp chú Nghiêm đang đậu xe ngồi đợi khách, nó nhìn chú trân trân, hỏi cộc lốc: “Ba, hồi chiều hôm qua ông sàm sỡ gì con Hạnh dạ?”. Chú Nghiêm nạt ngang: “Tao có làm gì nó đâu à!”. Thằng Bằng xẳng giọng: “Hổng làm gì sao cả khu phố đồn rần rần lên kìa”. Chú Nghiêm bực dọc: “Họ nói gì kệ họ, miễn tao hổng có thì thôi. Mầy tin tao hay tin mấy con mẹ nhiều chuyện trong xóm?”. Thằng Bằng gằn giọng: “Hổng có gì mà người ta nói được hả? Sao người ta hổng nói chú Năm Đen, hay chú Sáu Lùn sàm sỡ con Hạnh mà nói ba?”. Chú Nghiêm tức tối: “Mầy đi hỏi mấy người nhiều chuyện đó á chứ tao làm sao mà biết!”. Thằng Bằng uất ức: “Ba lớn tuổi rồi, làm sao coi được thì làm. Làm quá tui bỏ nhà đi chứ hổng dám ở đây nữa đâu”. Thằng Bằng nói xong nổ xe máy phóng đi vù vù, không cho chú Nghiêm giải thích một tiếng nào. Chú Nghiêm hẫng xuống, chênh vênh. Vợ chú không chịu được cảnh nghèo, nên bỏ đi từ ngày thằng Bằng mới ba tuổi. Một sáng ngủ thức dậy, chú Nghiêm chỉ thấy thằng Bằng nằm bên cạnh, còn vợ đâu mất tiêu. Tưởng vợ dậy sớm đi đâu đó, chú chờ mãi, chờ mãi mà không thấy về. Chú Nghiêm đi kiếm khắp nơi nhưng tin tức người vợ mà chú yêu thương vẫn bặt vô âm tín. Gần hai mươi năm rồi, chưa có ngày nào chú quên dõi mắt nhìn dáo dác vào đám đông, hay những người phụ nữ có cái dáng hao hao vợ mình. Tìm vợ mãi không được, chú đâm ra hận đàn bà. Hận một cách cực đoan. Hận vậy chứ chú luôn hy vọng một ngày nào đó vợ chú trở về. Chú mong được tha thứ cho người vợ thương yêu của mình, dù người đàn bà ấy có thân tàn ma dại đi nữa, chú cũng sẵn lòng bỏ qua mọi lỗi lầm. Chú Năm Đen kêu: “Mầy coi lấy vợ khác đi, hơi sức đâu mà chờ. Mà người đàn bà bỏ chồng, bỏ con như vợ của mầy thì không xứng đáng để mầy lao tâm, khổ trí để chờ như vậy đâu”. Chú Nghiêm ứa nước mắt: “Tui quên con vợ tui hổng được anh Năm ơi!”. Hồi vợ chú mới bỏ nhà đi, mỗi lần thằng Bằng bi bô hỏi “Mẹ đi đâu mà lâu về dữ vậy ba? Con nhớ mẹ quá hà!” là chú Nghiêm ôm nó khóc rấm rứt như con nít. Bây giờ, mỗi lần nhậu say về, chú hay đem chuyện đàn bà ra nói với thằng Bằng: “Mầy nghèo, lấy vợ thì phải biết làm cho nó mê mầy để nó hổng bỏ đi nghe hông”. Thằng Bằng nghe mãi điệp khúc ấy nên ngán ngẫm, nó nạt ngang: “Ba đừng nói ba cái chuyện ấy nữa được hôn. Tui hổng lấy vợ đâu. Thấy ba là tui ngán tới cổ rồi, hổng vợ con gì hết cho khỏe!”. * Chuyện chú Nghiêm “sàm sỡ” con Hạnh “chằn” còn chưa hết bàn tán trong khu phố thì đến chuyện thím Nhã xây nhà mới. Thím Nhã là hộ nghèo nhất nhì khu phố, vậy mà đùng một cái cất nhà, nhờ vậy mà chuyện chú Nghiêm dần đi vào quên lãng, thay vào đó là chuyện người ta đi tìm câu trả lời tiền đâu thím Nhã xây nhà? Chồng thím Nhã mới mất cách nay ba năm, bỏ lại một bầy con nheo nhóc bốn đứa. Lúc ấy, con Hồng Tươi là con gái lớn, chỉ mới mười sáu tuổi, còn thằng Tý “còi”, con út chỉ mới mười tuổi. Từ ngày chồng mất, gánh chè đậu đen của thím Nhã nặng hơn, và thím phải đi xa hơn, bán về khuya hơn. Tuy nhiên, gánh chè đậu đen của thím cũng không thể nào kham nổi cho bốn đứa con đang tuổi ăn, tuổi lớn. Cho nên con Hồng Tươi phải nghỉ học đi phụ bán cà phê kiếm tiền giúp mẹ nuôi em. Ngày con Hồng Tươi đòi nghỉ học đi phụ bán cà phê, thím Nhã không cho. Thím nói thím còn lo nổi, bất quá thím bán nhà chứ hổng để đứa nào phải bỏ dở việc học. Nhưng đó là ý của thím, còn con Hồng Tươi thì không chịu nổi cảnh nghèo túng, không chịu nổi cảnh hàng ngày mẹ gánh gánh chè nặng trĩu trên vai, đi từ trưa đến khuya lắc khuya lơ mới về. Nó cũng không chịu nổi cảnh những hôm trời mưa, chè ế, mấy chị em phải ăn chè thay cơm. Và nhìn những giọt nước mắt ứa ra từ đôi hố mắt sâu hoắm của thím Nhã, nó cũng không chịu nổi. Để cho thím Nhã an tâm, hàng ngày nó vẫn xách cặp đến trường, nhưng không vào lớp học mà đi phụ bán quán cà phê. Đến khi thím Nhã hay thì con Hồng Tươi đã nghỉ học gần nửa năm rồi. Chuyện con Hồng Tươi đi bán cà phê, son phấn lòe loẹt cũng từng là tâm điểm để mấy dì, mấy chị trong khu phố đàm luận tùm lum. Từ hồi con Hồng Tươi đi Singapore thì chuyện hàng đêm nó ăn mặc hở hang, khoe vòng một gợi cảm đi phục vụ ở quán cà phê không còn đem ra bàn tán nữa. Cái hôm con Hồng Tươi xin thím Nhã cho đi Singapore, thím hỏi qua bển làm gì? Nó nói đi qua bển thiếu gì chuyện để làm. Mấy đứa bạn nó qua bển, đứa nào về cũng xài toàn tiền đô. Tụi nó rủ Hồng Tươi đi. Mấy đứa bạn nó nói đẹp như Hồng Tươi, qua bển làm tiền nhiều lắm. Thím Nhã hỏi làm cái gì mà tiền nhiều, Hồng Tươi ấp úng nói thì phụ bán quần áo, hay bán quán… như ở bên Việt Nam vậy đó. Nghe con Hồng Tươi nói vậy thì thím Nhã tin như vậy, chứ nó qua bên đó làm gì thì ai mà biết. Nó động viên thím Nhã an tâm, rồi nói ráng làm kiếm tiền gởi về cho thím cất lại căn nhà. Nhìn mái nhà dột nát, nó chịu hổng nổi. Đùng một cái thím Nhã xây nhà mới, nghe đâu còn lên một tấm nữa, làm mọi người ngả ngửa, hỏi nhau tiền đâu thím Nhã cất nhà? Dì Ngọc gánh gánh bánh canh đi ngang quán hủ tiếu cóc của dì Năm, nghe mọi người trong khu phố ngồi ăn hủ tiếu, bàn tán chuyện thím Nhã cất nhà, dì Ngọc đặt gánh xuống: “Chắc là con Hồng Tươi đi Sinh-ga-po gởi tiền về cho bả cất nhà chứ bả mần gì có tiền mà cất!?”. Dì Năm cãi lại: “Con Hồng Tươi đi Sinh-ga-po mới hơn nửa năm làm gì có tiền gởi về cho bà Nhã cất nhà? Chắc là bả trúng số độc đắc mà giấu mọi người nè”. Chị Ba bán bánh mì nghe coi bộ không lọt lỗ tai nên chen vào: “Trúng số đâu mà trúng số, từ hồi đó tới giờ tui có thấy bả mua vé số đâu mà trúng. Chắc có ông đại gia nào thấy bả thương nên ra tay nghĩa hiệp hổng chừng”. Chị Hoa “nail” nguýt dài: “Chèn ơi, đại gia có tiền muốn lập phòng nhì thì cũng kiếm gái tơ, gái đẹp chứ ai mà lao đầu vào bà Nhã, vừa già, vừa xấu”. Chị Như uống tóc làm ra vẻ hiểu biết: “Mấy bà hổng biết gì hết, tui nghe nói, con gái có nhan sắc một chút qua bên Sinh-ga-po làm gái kiếm được nhiều tiền lắm. Tui nghe người ta nói vậy thôi chứ hổng có nói con Hồng Tươi qua bển làm gái à nghen. Tới tai bà Nhã, bả chửi thì tui không chịu trách nhiệm à!”. Mọi người ngớ người ra, vì thấy cái giả thuyết của chị Như đưa ra có vẻ hợp lý nhất, nên ai cũng gật gù. Dì Năm thở dài, nói trỏng không: “Chắc làm gái rồi chứ gì!”. Tới trưa thì cái giả thuyết con Hồng Tươi làm gái bên Singapore gởi tiền về cho mẹ cất nhà đến tay thím Nhã. Đang ngồi bán chè ngoài lề đường, thiếm Nhã trút mâm ly cái rột vào thúng, tất tả gánh về. Vừa về tới đầu hẻm, thím Nhã chửi đổng từ ngoài vào: “Con nào? Con nào dám nói con gái tao đi Sinh-ga-po làm điếm gởi tiền về cho tao cất nhà? Con nào nói ngon ra đây biết tay tao!”. Không có một tiếng trả lời. Con hẻm lặng ngắt, chỉ có tiếng thím Nhã ong óng, vang từ đầu hẻm đến cuối hẻm. Chửi mà không ai ra miệng mới tức, nên thím Nhã quăng gánh chè, ngồi bẹp ngoài đầu hẻm khóc rấm rứt: “Ông ơi, ông chết chi bỏ mẹ coi tui vậy hả ông. Mẹ góa con côi nên người ta ăn hiếp, đặt điều đặt chuyện, muốn nói gì thì nói kìa. Ông ơi là ông!”. * Chuyện con Hồng Tươi làm gì bên Singapore mà có nhiều tiền gởi về cho thím Nhã cất nhà vừa lắng xuống thì đến chuyện vợ chồng chị Diện bị đuổi khỏi phòng trọ. Chị Diện quỳ lạy cô Tư Bé, năn nỉ xin cho ở lại, vì trời tối và đang chuyển mưa, trong khi chồng bị liệt, đi đứng khó khăn, đứa con trai thì đang nóng sốt. Chị Diện cố nêu lý do: “Tư ơi, đáng lẽ con đã để dành đủ tiền đóng tiền nhà cho cô rồi, nhưng…”. Cô Tư Bé lạnh lùng: “Hổng có nhưng nhị gì hết á, nợ hai tháng tiền nhà rồi. Tui dễ dãi, mấy người cứ lấn tới riết sao chịu nổi”. Thấy vợ quỳ lạy, khóc lóc van xin, anh Hùng, chồng chị Diện ngồi trên xe lăn, lấy tay đấm vào ngực thùm thụp: “Tui là thằng đàn ông vô dụng mà! Em để tui chết đi cho rồi. Chạy chữa cho tui sống làm gì mà thân tàn ma dại, thêm gánh nặng cho vợ con vầy nè trời!”. Chị Diện ôm chồng: “Anh ơi! Anh chết rồi mẹ con em làm sao sống nổi?! Để từ từ em tính, anh tự đánh mình như vậy, em đau lắm!”. Hồi trước anh Hùng làm thợ hồ, bị trượt chân ngã từ trên giàn giáo xuống đất, gãy cột sống, vì vậy bị liệt hai chân. Từ ngày anh Hùng bị nạn, chị Diện phải bán căn nhà để lo chạy chữa cho anh. Không còn nhà, vợ chồng, con cái phải đùm túm đi ở trọ. Dì Năm bán hủ tiếu nghe chuyện lùm xùm, chạy lại xem chuyện gì. Biết chuyện, dì Năm nói chị Diện an tâm, để dì tính cho. Dì Năm đi vận động trong xóm xin người một ít. Nghe chuyện, chị Ba bán bánh mì móc túi cho một trăm ngàn, chị Hoa “nail”, chị Sáu “mập”, dì Ngọc bán bánh canh, bà Mười bán cà phê… cũng móc túi góp tiền cho chị Diện đóng tiền nhà. Chú Nghiêm mới đi chạy xe hon-da ôm về, nghe nói còn thiếu năm trăm ngàn, chú vét hết túi đưa cho dì Năm. Thấy anh Hùng ngồi đau đáu, đôi mắt tối mịt, chú Nghiêm đến an ủi: “Chú là người đàn ông hạnh phúc nhứt thế giới rồi, đừng buồn nữa hén!”. Anh Hùng chua chát: “Hoàn cảnh của con bi đát như vầy mà hạnh phúc gì hả chú? Con muốn chết đi cho xong”. Chú Nghiêm phân tích: “Chú đừng nghĩ bậy. Chú là người đàn ông hạnh phúc nhứt mà chú không biết đó. Chú nghĩ đi, chú có người vợ thương yêu chú như vậy, còn hạnh phúc nào bằng nữa?! Ráng mà sống với vợ con nghe hôn!”. Sáng hôm sau, chuyện cô Tư Bé đuổi vợ chồng chị Diện đi vì không có tiền đóng tiền nhà trở thành đề tài bàn tán xôn xao ngoài đầu hẻm. Chị Liên tối hôm qua đi bán hột vịt lộn nên không hay chuyện cô Tư Bé đuổi vợ chồng chị Diện, sáng nay ra ăn hủ tiếu ngoài quán dì Năm mới biết. Chị Liên mỉa mai: “Ủa, bà Tư Bé tối ngày đi chùa, ăn chay làm chi vậy ta? Ngộ quá hén! Tu mà coi trọng đồng tiền hơn cả tình nghĩa con người!”. Chị Sáu “mập” chen vô: “Hồi đó tới giờ lầm bả! Bả tụng kinh, lần chuỗi niệm phật. Mở miệng ra toàn là nói chuyện làm phước, gieo đức không hà. Tưởng bả là người tu hành, nhân đức thứ thiệt, ai dè… Thiệt, riết rồi cái tốt, cái xấu hổng biết đâu mà lần!”. Dì Năm bán hủ tiếu thở dài đánh sượt: “Lòng người thiệt mênh mông, khó mà đoán quá hén”. * Cái hôm thấy vợ chồng anh Hùng bị cô Tư Bé đuổi đi, tối về chú Nghiêm không sao ngủ được. Chú thấy gia đình mà không có người đàn bà thì trớt quớt, lạnh tanh. Vì vậy chú quyết tâm đi tìm vợ. Chú không hy vọng vợ chú sẽ theo chú trở về, mà chỉ muốn nghe vợ giải thích vì sao bỏ đi và còn yêu chú nữa không. Được nghe vợ giải thích một lần, dù có chết chú cũng mãn nguyện. Thằng Bằng thấy chú Nghiêm đi, cản: “Má hổng về thì thôi, ba nhọc công đi tìm làm gì? Mà ba biết má đi đâu mà tìm?”. Chú Nghiêm buồn thiu: “Nhiều khi má mầy mặc cảm không chịu về thì sao? Hồi đó mầy còn nhỏ, tao hổng nỡ bỏ mầy đi tìm bả, bây giờ mầy lớn rồi, tao đi, chừng nào gặp bả tao mới về”. Thằng Bằng hỏi: “Rủi ba đi tìm hoài mà hổng gặp thì sao?”. Chú Nghiêm lặng thinh, ánh mắt sâu thẳm. Khu phố lại có thêm đề tài mới để xầm xì. Chị Liên bán hột vịt lộn tấm tắc: “Chú Nghiêm coi hịch hạc vậy mà chung thủy quá hén! Phải thằng chồng tui cũng được như vậy!”. Dì Ngọc bán bánh canh tức tối: “Cái ông Nghiêm thiệt là lạ, vợ đã bỏ đi gần hai chục năm mà mắc gì đi tìm? Người ta hổng thương mình nữa mới bỏ đi, vậy mà chờ đợi, tìm kiếm đến bỏ phế cuộc đời. Bộ cái thành phố này hết đàn bà rồi hay sao chứ?”. Dì Ngọc rưng rưng nước mắt. Dì kéo chéo áo lên quẹt nước mắt nói khơi khơi: “Bà Năm nấu hủ tiếu, khói bay cay mắt quá hà!”. Dì Năm cãi lại: “Khói đâu mà khói. Bà này nói tào lao không hà!”. Từ lúc vợ chú Nghiêm mới đi, nhìn chú tắm rửa, đút cơm cho thằng Bằng ăn, dì Ngọc thầm ước được thay chú làm những công việc ấy. Hồi thằng Bằng còn nhỏ, mỗi sáng dì Ngọc gánh gánh bánh canh đi ngang nhà chú Nghiêm, hổng thấy nó là dì ngó dáo dác vào nhà: “Bằng ơi, ăn bánh canh hông con?”. Thằng Bằng nói ăn, dì múc tô bánh canh đầy ứ, nhưng lấy có phân nửa tiền. Chú Nghiêm ngại, dì cười xởi lởi: “Bán mối quen mừ anh!”. Thấy chú Nghiêm chờ đợi vợ trở về trong tuyệt vọng, dì đau khổ, có đêm nằm rớt nước mắt. Nhiều khi dì giận bản thân mình, mắc gì mà chờ đợi, hy vọng mông lung? Tự nhủ lòng sẽ không nghĩ về cha con thằng Bằng nữa, nhưng khi có người đàn ông nào dòm ngó đến dì thì hình ảnh chú Nghiêm thui thủi một mình chăm con lại khiến dì chạnh lòng. Dì gánh gánh bánh canh đi. Đi thật nhanh như sợ có ai trong quán hủ tiếu của dì Năm đuổi theo, săm soi vào đôi mắt của dì, hỏi ủa sao tự nhiên bà khóc ngon lành dạ?
Heo rừng
Ngày cập nhật: 22.09.2009 15:19 (GMT+7)
Tin có con heo rừng xuất hiện ở ấp An Lạc làm cho mọi người ai cũng bất ngờ. Dĩ nhiên mỗi người bất ngờ theo một cách.
Chỉ tội nghiệp cho thằng Tèo - người loan báo cái tin này, đến đâu nó cũng bị nghi ngờ, xúc xiểm: dóc tổ, láo, xạo… Chỉ đến khi mọi người chịu nghe nó kể lể đầu đuôi thì họ mới chịu tin.
- Đây nè! Chạng vạng tối hồi hôm này khi đi thăm vườn gặp nó, tui rượt nó chạy qua ba bốn liếp ổi đến mương ranh nó nhảy qua vườn của Ba Rô tui mới thôi rượt. Rõ ràng là con heo rừng lông vàng mỏ nhọn dài sọc, khoảng 30 ký, nó chạy lẹ lắm không như heo mình. Tui rọi đèn pin thấy mà.
- Phải không? Hồi hôm này mày có nhậu xỉn không?
- Nhớ lại coi, có đi vườn thiệt không hay nằm chiêm bao?
Biết mọi người chưa thấy, chưa tin thằng Tèo đánh cú chót.
- Mệt quá! Thôi bây giờ mấy ông qua vườn tui coi, biết liền.
Dấu vết của con heo rừng để lại còn đầy rẫy trong mấy liếp vườn của thằng Tèo. Những trái ổi, cóc, đu đủ ăn nửa bỏ nửa, những cây khoai mì bị ủi trốc gốc, đọt lang, rau muống bị cắn ngang… Dấu chân của nó thì nhiều chi chít. Đặc biệt là chỗ nó nhảy qua mương. Cái mương rộng chừng ba mét, nó nhảy một cái qua tuốt không ướt đến cái móng chân. Mọi người cùng xem kỹ các dấu vết. Có người còn săm soi tìm được cả lông heo nữa. Đến lúc đó họ mới tin là có con heo rừng về đây thật.
Mấy ngày sau, con heo rừng liên tiếp xuất hiện ở nhiều chỗ như vườn Bảy Nhàn, Năm Thiệp, Mười Sự… nhưng chỉ có dấu vết để lại thôi vì nó chỉ đi ăn ban đêm, ban ngày nó trốn biệt.
Và rồi ai cũng đặt câu hỏi con heo rừng ở đâu mà ra? Khu rừng gần đây nhất cũng cách ba bốn trăm cây số. Mà con heo rừng thì không biết bay. Vùng này đã không còn heo rừng. Đích thị là do ai đó làm rơi rớt con heo khi đi ngang qua đây, một chiếc xe tải, một tàu buôn chẳng hạn. Cuối cùng thì tông tích của con heo rừng cũng được tìm ra: Ở làng kế bên có người đi làm rừng ở xa mua con heo này về chuẩn bị đám giỗ cho có món lạ nhưng bị xổng chuồng đi mất cả tháng nay. Nguồn gốc con heo rừng như vậy đã rõ.
Bây giờ mọi người ai cùng nghĩ cách làm sao chiếm hữu con heo rừng. Họ có chung ý nghĩ rằng: Heo là con vật nuôi được, ăn thịt được, bán lấy tiền cũng được, rừng là của chung, của chùa ai được thì hưởng. Ghép hai từ đó lại là heo rừng, là đặc sản. Vậy là kế hoạch truy bắt con heo được vạch ra chóng vánh. Người ta tập họp nhau lại năm bảy người dẫn chó đi lùng sục tìm kiếm. Con heo rừng bị săn đuổi ráo riết. Nhưng nó quá nhanh nhẹn và khôn ranh nên không tài nào đuổi bắt được.
Qua mấy ngày chơi trò “cút bắt” ú tim với con heo rừng, quá mệt mỏi, ai nấy đều nản chí “thôi không săn đuổi nữa”. Con heo rừng cũng mất dấu luôn.
Nhưng khi có dịp trà dư tửu hậu, mọi người lại bàn tán về con heo rừng:
- Thôi đi! Tụi bây lo làm vườn đừng tụ tập rượt bắt con heo nữa. Ông Bảy - một lão nông từng trải cho ý kiến.
Nghe vậy, mọi người lao nhao nói chen vào:
- Sao vậy ông Bảy?
- Trời ơi! Con heo bạc triệu đó.
- Thịt heo rừng ngon lắm ông Bảy ơi!
- Ông hai Kiểng treo giá, ai bắt được con heo rừng còn sống giao ổng nuôi làm cảnh, ổng trả cho một triệu đó.
Đợi cho mọi người bớt lao nhao, ông Bảy nói tiếp chậm rãi.
- Tao biết rồi! Nhưng mà mấy ngày vừa qua, tụi bây rượt con heo rừng chạy khắp xã có đứa nào đụng được cái đuôi heo chưa? Chưa, phải không? Tại sao vậy? Vì ở đây khác với ở trong rừng. Trong rừng đất đai trải dài, còn ở đây tụi bây rượt một đoạn năm, bảy công đất thì gặp một vườn khác có hàng rào, con heo rừng chui qua cái một, còn tụi bây lúi húi vạch rào làm sao mà rượt. Còn nữa, chó của tụi bây là chó cơm chỉ biết giành xương rồi cắn nhau sủa toáng lên chứ làm gì biết săn bắt. Chó săn phải là giống Rạch Giá, Phú Quốc mỏ thắt, ngực nở, chân cao có móng đeo, lông sát da được tập luyện hồi còn nhỏ mới được. Chó của tụi bây là chó xù lai bậy bạ hết, gặp nước thì lạnh, gặp bùn thì lún. Còn mấy đứa bây thì nhậu nhè, bia bọt riết rồi bụng, chân mềm chạy một trăm mét đã thở ra rồi. Tao nói đúng không? Không đúng, tụi bây cứ cãi.
- Ông Bảy nói đúng, quá đúng! Mà sao ông Bảy rành quá vậy?
- Vùng này không còn heo rừng cả trăm năm rồi. Nhưng cách đây ba bốn chục năm hồi còn tuổi như tụi bây tao có đi săn chồn, nên tao biết. Ở đây, hồi đó còn nhiều chồn lắm, nó vô tới nhà bắt gà. Chồn gì cũng có: chồn mướp, chồn bông lao, chồn đèn, chồn cáo mèo, cáo cộc, dữ nhất là chồn cáo cộc…
- Có con chồn lủi không ông Bảy? Thằng Tèo nói chêm vào.
Bị cắt ngang khi đang nói, ông Bảy bực mình.
- Cái thằng hở ra là nói bậy. Riết rồi quen miệng nghen mậy. Thằng Hai kéo câu chuyện trở lại:
- Thôi kệ nó ông Bảy! Bỏ đi. Mình nói tiếp chuyện con heo rừng. Ông cho ý kiến đi, bây giờ không có chó săn giỏi, không có thợ săn thì tụi tui đặt bẫy, được không?
- Tụi bây làm bẫy gì?
- Thì bẫy kẹp, bẫy cò ke, bẫy hầm sụp có cắm chông tre… Con heo rừng sụp hầm thì kể như ăn chắc.
- Vườn tược mênh mông biết nó đi lối nào mà gài bẫy. Không khéo tụi bây gài bẫy mấy con chó trong xóm thì có. Rủi có người đi vườn sụp hầm thì sao?
Ngồi nghe ông Bảy và thằng Hai hỏi đáp song đôi một lời. Thằng Tèo ngán ngẩm:
- Sao khó quá vậy ông Bảy. Hay cứ để tự nhiên cho con heo rừng muốn đi đâu làm gì thì làm được không?
- Thì cứ để yên cho nó đi. Hồi đó có lần tao đi săn, con chồn mẹ lo bảo vệ bầy con không chạy bị chó săn cắn chết, còn lại một ổ chồn bốn con nhỏ tao đem về nhà nuôi dưỡng nhưng không có sữa bú nó chết ráo, tao thấy cũng tội nghiệp. Hay là tụi bây có bắt được con heo rừng đừng có ăn thịt mà đem bán cho ông Hai Kiểng hoặc Sở thú họ nuôi cũng được - Ông Bảy nói như khuyên tụi nhỏ.
- Nhưng trước sau gì nó cũng bị bắt ông Bảy ơi! Ông can tụi con làm gì, không phải tụi con thì cũng có người khác bắt nó mà.
Rồi bỗng nhiên con heo rừng biệt tích. Trong năm, bảy tháng trời không ai biết được con heo rừng đang ở khu vực nào. Những chỗ nó thường ăn, ở đã không còn dấu vết. Có người cho rằng nó đã biết khôn và “cao bay xa chạy”, nó đã đi xa lắm rồi. Người khác lại nghi ngờ cho rằng có ai đó bắt được con heo bí mật bán đi nơi khác rồi giấu giếm không nói ra. Nhưng tất cả chỉ là tin đồn không có bằng chứng gì. Mọi việc dần chìm vào quên lãng.
Nhưng rồi thật bất ngờ khi thằng Tèo báo tin rằng con heo rừng đã bị bắt ở xã kế bên. Con heo rừng nay đã trên 50 ký, mọc răng nanh, di chuyển thường xuyên, không cố định một chỗ nào. Trước khi bị bắt, nó chọn miếng vườn hoang cạnh nhà ông Năm Định để ở và đi lại rất bí mật không để lại dấu vết gì rõ ràng, ngay cả phân, nước tiểu của nó cũng được ngụy trang, chôn giấu kỹ lưỡng. Nhưng thật không may cho nó khi thằng Hòa con của Năm Định đi cắt dây mây phát hiện ra nó nằm ngủ trong bụi rậm. Thằng Hòa nghĩ ra cách giăng dây điện ở lối ra vào bụi rậm rồi xua đuổi con heo chạy ra. Bị vướng dây điện, con heo chết liền tại chỗ. Thằng Hòa chỉ việc gọi vài người trong xóm ra phụ giúp đem con heo về làm thịt là xong.
Thằng Hòa bắt được con heo rừng thật là đơn giản như là lấy đồ trong túi ra vậy. Con heo rừng bị bắt cũng thật bất ngờ, bất ngờ như lần đầu tiên nó xuất hiện ở cái ấp An Lạc này.
Con heo rừng lạc loài đến trú ngụ ở ấp An Lạc không còn. Mọi người bỗng cảm thấy… trống trải, hụt hẫng. Thà nó cứ lẩn quẩn đâu đó dù không thuộc về ai, để ai nấy cùng sống trong niềm hy vọng có một động vật quí hiếm đang tồn tại trong xóm nhỏ và biết đâu một ngày nào đó nó sẽ thuộc về mình. Không nói ra nhưng ai nấy đều cảm thấy buồn buồn, tiếc nuối…
Chỉ có ông Bảy là tỉnh bơ, nghe chuyện con heo bị bắt, ông nói với thằng Tèo:
- Thì mầy thấy đó, heo rừng hoang dã thì phải sống ở trong rừng, nghĩa là phải có rừng hoang cho nó sống. Heo rừng mà sống lẫn lộn với người và vườn ruộng cây trái như ở đây làm sao được. Muốn sống được ở đây thì nó phải nhờ vào sự bao dung của con người nhưng sự bao dung đó quả là rất hiếm hoi.
- Nhưng bây giờ có nhiều nơi người ta lập ra trại nuôi heo rừng đó ông Bảy.
- Thì đó cũng là một cách để duy trì giống loài của nó, nhưng không khéo rồi nó cũng sẽ trở thành heo nhà mà thôi. Như con heo bông ma-ní mầy đang nuôi ở nhà vậy mà.
Trầm ngâm một lúc lâu ông Bảy nói tiếp:
- Tao nói với mày là phải còn rừng, có rừng cho những con vật hoang dã, quí hiếm. Đó mới là thượng sách, biết không.
Trâu cổ
Ngày cập nhật: 19.11.2008 15:06 (GMT+7)
Cái lung sen rộng gần hai hec-ta xanh ngát màu lá, nở rộ những cánh bông đỏ thắm cùng các gương sen to nhỏ lay động theo cơn gió chiều. Những người đi làm đồng về tò mò ghé lại một góc lung xem quang cảnh mò củ sen. Nhóm ba thanh niên cởi trần lặn hụp rồi vất những củ sen lên bờ cho người đàn ông trung niên nhặt lấy rửa sơ cho vào bao. Họ lẳng lặng làm việc, vẻ không được tự nhiên khi có nhiều người nhìn bởi thật ra họ không phải dân địa phương. Chỉ có ông trung niên gầy gò, có hàng ria lưa thưa ra vẻ từng trải. Thỉnh thoảng trả lời những câu hỏi của người chung quanh:
À, tôi thứ tư, quê ở Trà Vinh. Tụi tôi đi tứ xứ lao động đủ việc như đào ao, đắp bờ, cắt lúa… Chậm thời vụ nên chẳng làm được bao lâu, đang bàn tính trở về nhà. Giờ rỗi mò bậy mớ củ sen kiếm chút đỉnh tiền xe thôi. Tha phương cầu thực vất vả lắm mấy chú ơi!
Nhìn nét chất phác của chú Tư, một cụ già tặc lưỡi:
- Tội nghiệp chưa! Rồi ăn ngủ ở đâu? Hay lại đàng tôi có cái chòi nhỏ cũng tạm che được gió máy. Ông bà ta có câu… Cây khô tưới nước cũng khô… Người nghèo đi tới xứ mô cũng…
Câu nói chưa dứt thì từ mé lung vang lên tiếng kêu giật giọng:
- Chú Tư ơi! Tui mò đụng cái gì tròn tròn như lu khạp gì đó ớn nổi da gà!
Nhanh như chớp, chú Tư bật dậy chen qua đám người lố nhố, lớn tiếng ra lệnh:
- Bốn đứa bây phụ nhau đem lên bờ coi ra sao… Có tao đây, sợ quái gì?
Một thanh niên cười khì, lẩm bẩm:
- Ổng đâu có sợ bởi… đứng trên bờ mà! Lỡ sẩy ra con… thuồng luồng thì ổng vọt trước!
Chần chừ một lúc, ba người khom lưng hì hục rồi cũng nâng được cái khạp sành khá nặng lên trên. Nắp trám vỡ một mảnh, bùn sình lọt vào đầy kín nên không ai biết vật gì bên trong. Cụ già người địa phương cười hiền hậu:
- Cái này coi bộ điềm lành, gỡ nắp ra là biết ngay. Có khi là… trân châu, mã não, ngọc lưu ly… chôn giấu từ xưa bị thất lạc, được vậy thì mấy cháu đổi đời!
Chú Tư sôi nổi, háo hức không kém đám người hiếu kỳ, cẩn thận lùi ra sau ba bước rồi gật đầu làm hiệu. Khạp sành được lật ngược, lẫn trong nước bùn là hai vật nặng trịch chưa rõ hình thù. Bảo mấy đứa nhỏ tránh xa, chú Tư vén tay áo hồi hộp rờ rẫm rồi cầm lên rửa sạch, đặt xuống bãi cỏ, thích chí reo lên:
- Ôi trời đất! Cặp trâu này làm bằng đồng hay sao mà nặng quá ta. Chà… không sứt mẻ, lại sắc sảo từng đường nét. Từ thuở cha sanh mẹ đẻ tới giờ tôi chưa hề thấy!
Từng người một nhốn nháo chen nhau sờ nắn, trầm trồ khen tài vị nghệ nhân nào đã có hoa tay đúc nên cặp trâu quá đỗi tinh tế. Thêm chú bé mục đồng mình trần nằm xoài trên lưng trâu, tay trái cầm dây vàm, tay phải nắm xâu tiền xu. Hai con trâu nằm quay đầu vào nhau, chiều dài khoảng một gang tay. Giữa những lời bàn tán, phỏng đoán râm ran về nguồn gốc vật lạ, cụ già lúc nãy thong thả giương kính lão săm soi kỹ cặp trâu rồi nói ra điều vừa phát hiện:
- Đây rồi! Ô vuông ở bụng trâu có khắc dòng Hán tự. Để xem… ờ… Đại… Đại Thanh… Khang Hy. Chuyện này xưa nay hiếm. Vùng này sao lại có thể…
Bốn anh mò củ sen tức tốc ngồi vây quanh cặp trâu vừa mò được, ánh mắt căng thẳng, gườm gườm như sẵn sàng liều thân bảo vệ vật quý. Chú Tư đắc chí đưa cao hai tay lên, giọng oang oang:
- Cha tôi cũng gốc nhà nho, mà nho thì phải… nghèo cho nên đời tôi không biết một chữ lận lưng. May nhờ ông bác đây tinh thông Hán học giải thích giúp mới ngộ ra biết nho cũng hơn lắm người. Ủa… ra đây là đồ cổ hả bác?
Chống gậy đứng lên, cụ già khiêm tốn nói:
- Tôi chưa dám chắc… Có điều, tôi đọc sách và suy đoán ông bà mình bao đời theo nghiệp nông nên biết đâu vùng này xưa kia có tập tục khắc, đúc hình trâu để chôn ruộng như một lễ tế linh vật cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng no ấm. Nếu thật thì hai món này nhất định của người Trung Quốc chạy loạn vô đây định cư, lập nghiệp bởi có ghi rõ niên hiệu. Thôi, tôi xin kiếu bà con về trước. Lộc trời cho ai nấy hưởng!
Mặt trời khuất dần sau lũy tre, mọi người tản mác dần theo các hướng. Có một ông nhạy miệng bàn góp một câu:
- Họa phúc do thiên! Tôi chỉ cho mấy anh lại nhà thầy ba Giáp có ghe cào biển ở xóm Lăng, ổng mê đồ xưa lắm. Tháng trước, ổng hỏi mua của tôi cái ấm trà cũ xì, sứt vòi, chỉ bằng trái quít mà dám ra giá ba trăm ngàn. Cặp trâu này phải tính bằng tiền triệu!
Nhóm bốn người chụm đầu to nhỏ rồi gom các thứ trực chỉ xóm Lăng…
Chầm chậm hớp từng ngụm trà như để dằn xuống nhịp tim đang đập mạnh, thầy ba Giáp nhè nhẹ xoa miếng vải nỉ lên lưng con trâu đúc, giọng lửng lơ:
- Mấy chú cứ định giá hai món này, nếu rẻ rẻ thì tôi mua chưng bậy chơi…
Miệng nói, mắt thầy vẫn dán vào cái xoáy lưng trâu rành rạnh cùng dấu ấn vuông kề bên. Chú Tư nhón điếu thuốc thơm châm hút, ngần ngừ:
- Nghe tiếng đồn thầy Ba là người tử tế, rộng rãi, hiểu biết nhiều… thành ra chúng tôi cũng ngại ra giá. Tính đem lên Chợ Lớn…
Ba thanh niên ngồi trước sân cột mấy bao củ sen vô đòn gánh xong, nhóng vô nghe ngóng. Thầy Ba búng nhẹ móng tay, xởi lởi:
- Nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Giá bao nhiêu đây?
- Dạ… thầy cho chừng… bốn triệu thôi!
Như bất ngờ bị con ong vò vẽ chích vào chỗ nghiệt, thầy Ba nhảy nhổm:
- Ý chu choa! Mấy người hổng sợ tôi lên tăng xông sao?
- Xin lỗi thầy! Đồ cổ thời vua Khang Hy dễ gì tìm được? Tôi bớt thầy năm trăm lấy cái tình. Tích xưa bên Tàu có ông thợ đá Biện Hòa, người nước…
- Rồi vua không tin, ổng ra… lung sen ngồi khóc chảy máu mắt chớ gì? chú muốn so sánh ngọc trong đá với… trâu trong khạp hử? Nhảm nhí! người ta là thợ đá cao cấp năm sao, chú là thợ mò củ sen… khác nhau xa lắc. Hội ý với anh em lần nữa đi!
Chú Tư rón rén ra sân một lúc, trở vô ấp úng:
- Dạ… thầy Ba thông cảm, tụi nó nể thầy nên đồng ý dứt giá ba triệu hai. Nếu như…
Ngó ra đám thanh niên dợm quảy gánh lên vai, thầy Ba thở hắt ra:
- Hai món này tinh xảo thật, nhưng chưa qua giám định chuyên môn cũng khó xét giá trị. Nếu là đồ cổ thật, mấy chú mang đi khơi khơi sẽ có rắc rối về mặt pháp luật đấy. Tôi, thầy Ba xóm Lăng bóp bụng trả ba triệu là… đụng la-phông rồi, khỏi bàn thêm!
Chú Tư lại chạy ra sân, sau cùng cả nhóm đồng ý bán cặp trâu đào được với giá ba triệu kèm năm gói thuốc lá thơm. Trời sụp tối, bọn họ vội vã rời đi còn càu nhàu, tranh cãi ra ý tiếc rẻ. Cài chặt cửa, ngồi ve vuốt đôi trâu đen kịt không chút tì vết, thầy Ba Giáp mang tâm trạng vui mừng khôn xiết của người sành chơi đồ cổ sở hữu "linh vật" từ thời Khang Hy, hỏi mấy ai có được?
Thời gian dần trôi với nhịp sống bình thường. Nhưng câu chuyện về những cặp trâu cổ "vô tình" đào được râm ran lan rộng vẫn là đề tài nóng bỏng. Thầy ba Giáp nóng ruột bỏ ra một ngày lặn lội tìm hiểu thực hư, lòng càng thêm mơ hồ nghi ngại. Trâu cổ ở đâu mà đẻ ra lắm thế? Sinh sản vô tính chắc?. Người bán không phải dân địa phương và giá cả cũng bất nhất. Ông chủ ruộng ở Xẻo Lá mua cặp trâu móc dưới lòng kinh lên, giá 3 triệu đồng. Chú Tám cây xăng ở Gò Lức kèn cựa giá một triệu tư. Rồi còn mấy người ở huyện bên cũng chi khá tiền để rước cặp trâu ưa nằm trong khạp về nhà. Điều gây băn khoăn nhất cho thầy Ba là đã nhìn tận mắt, sờ tận tay cặp "linh vật" được một anh lái heo tận Vàm Nai mua, giá chỉ ba trăm ngàn. Chúng giống nhau như cùng một khuôn đúc, vậy là sao hở trời? Tối nay định ngủ sớm, nhưng cứ trằn trọc lòng đầy ưu tư, thầy Ba dậy bật sáng đèn lóng ngóng mở khóa hộp kính nhẹ cầm con trâu lên. Nghe tiếng kẹt cửa, thầy giật mình xoay ngang và va mạnh "linh vật" vào cạnh tủ… gãy sừng. Đang bàng hoàng chết điếng trước thảm họa thì cùng lúc vợ thầy xăng xái bước vô vất nón lá đánh xoạch xuống nền gạch, thở dài ngán ngẩm:
- Ôi trời! Trâu cổ bây giờ đẻ đái tùm lum ông ơi! Thằng em út tui nuôi tôm bên Cồn Cống cũng vừa mua một cặp giá hai triệu sáu, vợ nó khóc hết nước mắt. Nghe đồn có một đại gia tỉnh bên mua với giá kỷ lục là năm triệu bạc. Thói đời, ai cũng tự phụ mình là… sư tổ về đồ cổ, lỡ mắc lừa rồi thì sợ xấu hổ nên giấu biệt cho thiên hạ… chung xuồng luôn. Ủa… ông làm giống gì lạ lùng vậy?
Thầy Ba Giáp ư ử không trả lời, ngồi bẹp cặm cụi mài miết cái sừng trâu gãy rồi bỗng dưng trợn mắt ngó lên trần nhà, miệng lắp bắp như mê sảng:
- Bà ơi! Tụi mò củ sen dựng kịch bản… nuốt của tôi ba triệu bạc. Đồ composite… nhựa composite… Đại Thanh… Khang Hy… Láo toét!
Vợ thầy hiểu ra, im lặng buồn xo. Gian nhà trầm lắng, nghe rõ tiếng ti-vi nhà hàng xóm giới thiệu chương trình phát hình buổi tối. Giọng cô phát thanh viên trong trẻo vang lên "… Tám giờ ba mươi phút chiếu phim… Tập cuối bộ phim Đài Loan… Nỗi lòng thấu trời xanh…"!
Cháo bồi
Ngày cập nhật: 08.12.2008 15:43 (GMT+7)
Những cơn mưa cuối mùa vụt đến rồi vụt đi. Cái nắng gay gay chiếu xuống cánh đồng đang mùa lúa chín. Đám thợ gặt thỉnh thoảng lại la lên: Ôi con cua! Con cua biển kìa tụi bây ơi! Tôi đang phụ hứng lúa vào bao ở máy suốt, vội chạy đến xem. Một con cua biển thật to màu xanh xám giương hai cái càng lên vừa bò ngang vừa chống trả lại thằng Tý đang cố lấy bắt nó. “Chiều nay mình có cháo bồi ăn rồi anh Hai ơi!”. Má tôi đang gặt lúa ngẩng lên mắng yêu: “Cha mày, tối ngày cứ đòi ăn cháo bồi!”. Nói vậy chớ cả nhà tôi đều thích ăn cháo bồi, nhất là do chính bàn tay má tôi nấu.
Cháo bồi có nhiều cách nấu, nhưng nấu như má tôi thì tôi thấy ngon và nhanh lắm. Nguyên liệu gồm: Gạo, cua biển, dầu ăn, tỏi, nước cốt dừa. Đầu tiên, trong lúc anh em tôi tắm giặt thì má tôi bắt ngay nồi cháo lên khi về tới nhà, rồi bà thoăn thoắt chẻ cua ra từng miếng nhỏ, lấy gạch son ra khỏi mai cua, tất cả cho vào chảo, thêm một muỗng dầu ăn, ít tỏi rồi xào cho thịt cua xăn chín lại. Đối với cặp càng cua có thể luộc trước, rồi đập vỡ ra, xé thịt thành thớ nhỏ, để cho vào nồi sau. Không nên luột cả con cua, chỉ cặp càng thôi, vì khi luộc chất ngọt sẽ ra hết, làm cháo mất ngon. Trong lúc má tôi lo nấu nướng, ba tôi bẻ trái dừa khô, rồi nạo lấy cơm dừa, vắt nước cốt để sẵn trong tô. Khi cháo nhừ, thịt cua và nước cốt dừa được cho vào nồi cháo, nước sôi trở lại là nhắc xuống ngay. Không nên nấu sôi quá lâu nước cốt dừa sẽ bồng con, vón cục cháo sẽ không béo.
Thay đồ tươm tất, chúng tôi ngồi lên bộ ván, quây quần quanh mâm cơm, mỗi người một chén cháo, lấy muỗng và …húp! Mùi thơm của gạo trắng, kết hợp với vị ngọt của thịt cua, vị bùi bùi của gạch son, béo béo của nước cốt dừa, giòn giòn của thân cua, và cả tấm lòng yêu thương của ba má tôi đã làm cho cả nhà tôi ngây ngất, ăn no cành hông rồi cái miệng vẫn còn thèm.
Chiều nay, người nhà ở quê lên, xách theo một túi cua biển làm quà. Bà xã tôi nói: “Hôm nay nấu cháo bồi ăn một bữa nha anh!”. Chẳng biết từ lúc nào khi về làm dâu nhà tôi, vợ tôi cũng đâm ra thích món cháo bồi ngày xưa. Cứ mỗi lần có cua biển là bả dành ra một con nấu cháo bồi. Thưởng thức món cháo bồi của vợ tôi nấu, tôi lại nhớ cái thời thơ ấu ở quê, sống trong vòng tay của ba má, nhớ câu nói vui của ba: “Cháo bồi là bồi bổ cho sức khỏe, mà còn bồi tình bồi nghĩa nữa, phải không má sắp nhỏ!?”. Má tôi cười bỏm bẻm: “Ăn đi, cứ nói cà rỡn hoài”. Ăn cháo bồi, tôi yêu quí cái tổ ấm của mình biết bao
Cá trắng miệt vườn
Ngày cập nhật: 27.11.2008 15:42 (GMT+7)
Khoảng tháng mười một, mười hai trở đi trời se lạnh, mùa hanh khô đến và tự nhiên, đất miệt vườn dễ đi lại rất nhiều, đó cũng là lúc bọn trẻ chúng tôi ngong ngóng về quê để dự phần vào việc tát đìa. Nhà ngoại miệt vườn, cũng chỉ có một con mương sâu nơi khuất nẻo. Mặt ao thường gợn sóng phô bày đôi chút những gì nó đang ẩn chứa trong làn nước đùng đục giữa các đám chà nhô lên lố nhố giữa lòng mương.
Ngày tát đìa, mọi người chuẩn bị sẵn, rồi khi được lệnh bắt đầu thì đám con nít đã tiên phong băng xuống mương, bất chấp có ai la ó vì cản trở công việc. Tiếp đến, những tấm ván, gàu, thùng, giỏ, nôm... cũng lăng xăng chuyển để người lớn nhanh chóng đắp bờ tát nước.
Từng gàu nước ào ạt đổ, ao cạn dần, đám chà khô đen đúa cũng lộ diện hẳn và sự hào hứng càng lúc càng tăng. Có bóng tôm cá xuất hiện lờ mờ đây đó, thình lình một con lóc phóng vọt nhảy đành đạch khiến mấy đứa nhỏ đứng gần bổ nhào, ngã sóng soài trong bùn kêu la í ới. Rõ ràng bắt cá không dễ chút nào.
Khi nước đã vừa, người lớn lập tức đi rà soát, mò mẫm thu nhặt mọi thứ tôm cá chuyển lên bờ, rồi lại tiếp tục công việc ở khúc mương kế cận.
Bấy giờ, bọn trẻ liền chiếm chỗ ngay để mặc tình quậy phá, nước bùn dậy lên và loài cá nhỏ ngộp thở cứ phải ngoi liên tục lên mặt nước trông thấy mà ham.
Trận chiến trở nên sôi nổi khi mỗi đứa xoay được phương tiện, chực sẵn xúc vào bất cứ cái đầu tép cá nào xuất hiện. Tiếng la hét chụp bắt vang dậy, chẳng mấy chốc bùn thêm đậm đặc. Cá nhỏ thì nhiều vô kể, và vì thế chiếc thùng sắt nổi lềnh bềnh liên tục nhận được vô số chiến lợi phẩm. Ai cũng tìm thấy thắng lợi với đủ loại tép cá thu hoạch to cỡ chừng… đầu mút đũa, gồm lòng tong, bóng trứng, tép rong, tép bầu…
Hì hục hết chỗ nầy sang chỗ khác, buổi tát mương của đám con nít do đó cũng sẽ kéo dài vô tận nếu như người lớn không dọa dùng đến roi mây.
Việc đánh bắt chấm dứt thì mặt mày, mình mẩy ai nấy bùn non, bùn già bê bết. Cái mùi bùn cũng lạ, nó hơi tanh tanh, ngây ngấy nhưng thân thuộc làm sao.
Sau khi tắm rửa, chúng tôi lại bắt tay chọn lọc “cá trắng”, vì trong thùng sắt lẫn lộn vô số tạp chất từ bùn đất đến mọi thứ “thập cẩm” khác. Lựa cá tép là công việc đầy khó khăn vì cần đến sự tỉ mỉ, kiên trì và mất khá lâu mới có thể hoàn thành. Xong việc đã có bà tôi tiếp tay, dùng nước sạch dội đi dội lại, bỏ tất cả những gì không vừa ý mới bắt đầu vào khâu chế biến.
Trong chốc lát, mùi thơm của nồi cá tỏa lên, nhắc nhở món ăn bà đã làm xong rất tuyệt, hương vị đậm đà kích thích bụng đói cồn cào. Tôi nhớ mãi cá trắng hồi ấy kho lá gừng nước dừa thật “hết ý”, thường thêm bánh tráng rau sống chấm mắm nêm ăn hoài không biết chán. Cá trắng át hẳn những con tôm, con cá “chính quy” bày biện trên mâm và không phải chỉ đám trẻ mới nhiệt tình ủng hộ, người lớn cũng không để lỡ dịp, bởi mỗi năm trong nhà cũng chỉ vài lần được thưởng thức mà thôi.
*
Thời gian trôi qua, những cuộc vui ngày thơ ấu lần hồi biến mất và món cá trắng miệt vườn cũng biệt tăm từ lúc nào trong cuộc sống đầy lo toan chốn thị thành, nhưng ngạc nhiên sao, một hôm tôi lại tìm ra được bóng dáng chúng ngay giữa chốn chợ búa đông người.
Chủ nhà hàng sẵn sàng cung cấp thực đơn cho khách với đầy đủ bánh tráng rau sống, chuối khế, mắm nêm.... Chẳng ngờ món ăn quê mùa ngày nào nay đã trở thành đặc sản đáng tự hào đến thế và chúng còn ngự trị trên những bộ chén dĩa sang trọng và đầu bếp cũng chẳng tiếc công bày trí thêm cho thật hấp dẫn. Cá trắng rõ ràng thỏa mãn thực khách từ vị giác đến tính hiếu kỳ, nhưng đây quyết chẳng phải là thứ mà tôi định tìm.
Cũng bởi ở nhà hàng, món ăn quá đầy đủ, cầu kỳ nhằm chiều chuộng khẩu vị thực khách thị thành trong thú vui tìm kiếm hưởng thụ, thì sao có thể so được với món ăn nhà nghèo khá mộc mạc đơn sơ mà bà tôi từng chắt chiu dành cho con cháu.
Còn nhớ, món ăn ngày ấy hỗn tạp đủ thứ cá tép vụn vặt, lẫn mồ hôi, mùi bùn, thêm mớ rau cỏ sơ sài tận dụng... Ấy vậy mà sao thật ngon, cái ngon của một thời thơ ấu luôn đọng mãi lòng mình nỗi ước ao chẳng bao giờ có thể tìm thấy được ở bất cứ nơi đâu.
Đàn bà & rắn độc
Một thời gian khá lâu trước đây, tôi với Sơn từng quen biết nhau. Ấy là lúc tôi còn làm công tác quản giáo ở trại cải tạo BL, cách nay hơn mười lăm năm rồi. Khi đó, Sơn hãy còn khá trẻ, chỉ độ chừng 19, 20 tuổi. Vậy mà đối với tôi, Sơn chính là một trong những kẻ mà người đời cần phải gọi đúng tên: phạm nhân.
Sơn bị bắt vì một lý do khá đơn giản trong đợt chiến dịch thu gom tệ nạn xã hội ở địa phương. Ở lần này, khi anh ta đang cùng các tên “đồng bọn” hút chích xì ke. Cũng giống như những đối tượng khác, Sơn bị đưa lên đây cải tạo lao động tập trung. Ba năm ngắn ngủi trôi qua, do nhận xét hành vi đạo đức của Sơn có chuyển biến tốt nên Sơn đã được trả tự do. Tiếp theo, Sơn đi đâu, về đâu tôi không thể biết được, vì những công việc bận rộn hầu như liên tục triền miên của mình. Hơn mười lăm năm đã lần lữa trôi qua. Một khoảng thời gian khá đủ cho người ta tĩnh tâm làm lại cuộc đời. Và tôi đã gặp lại anh, lần này đúng vào cái thời khắc như thế mà quả tình chúng tôi cũng thấy bất ngờ thú vị với cuộc tri ngộ ấy. Trên một dãy đất rừng của vùng giáp biên giới phía Tây, Sơn đã tỏ ra mừng rỡ khi anh nhận ra tôi trước khi tôi vừa kịp định thần để nhớ mang máng rằng tôi cũng từng biết đến anh ta ở đâu đó.
– Kìa! Chú Hai! Có phải là chú Hai Sinh đó không?
– Ồ đúng rồi! Hai Sinh đây! Còn cậu đây là…?
– Trại BL, chú Hai nhớ ra cháu chưa?
– A, tôi nhớ ra rồi! Chà, bây giờ sống ở đây sao? Giờ tôi hưu rồi, hết công tác ở BL. Chỉ đi đây đó “ngao du” thôi. Nào, hiện đang làm nghề ngỗng gì? Nhà cửa ở chỗ nào? Đã hết “chích” hay chưa vậy?
Tôi hỏi một thôi dài khiến Sơn lúng túng không biết trả lời câu nào trước câu nào sau. Khi đó, Sơn đang đi bằng một chiếc xe đạp Trung Quốc trông còn rất mới, phía sau là cái lồng bằng thứ lưới thép B40 chễm chệ trên chỗ đèo hàng. Trong lồng lúc nhúc năm, sáu con rắn. Con nào cũng to, dài thườn thượt. Sơn nói:
– Dạ! Cháu về miệt rừng này cũng hơn mười năm rồi đó chú. Sống ở đây mà lòng thanh thản, ít bị cái xấu rù quến chèo kéo như hồi còn ở dưới thành phố. Bây giờ làm nghề bắt rắn như chú thấy đó… Chú Năm nè, hay là lâu lâu gặp nhau, chú theo về chỗ cháu chơi ít hôm. Nhớ hồi trước trong trại, chú thương cháu lắm mà, nghen chú? Kỳ này, cháu sẽ đãi chú món thịt rắn với rượu rắn “đã” lắm chú ơi. Được không vậy chú Hai Sinh?
Nghe Sơn khẩn khoản quá, với lại chính ra tôi cũng định tìm về vùng này tìm hiểu đời sống, phong tục người dân tại đây để chuẩn bị bắt tay viết một quyển sách. Bỗng đâu gặp lại “cố nhân” thì còn gì hay hơn. Về hoàn cảnh của Sơn ngày trước, tôi cũng khá rõ qua nghiên cứu hồ sơ lý lịch và trực tiếp làm việc với anh. Sơn mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, mới lên tám đã phải sống cuộc sống bụi đời, lang thang vất vưởng cùng đám trẻ vô thừa nhận. Lớn thêm chút nữa thì theo tụi du côn giựt dọc, “xách giỏ” hoặc giả làm ăn mày ăn xin. Đời Sơn 19, 20 năm “sóng gió bụi trần”, tới lúc va vấp vào ma túy, xì ke thì đi vô… trại cải tạo. Hơn mười lăm năm rồi sau khi được trả tự do, tôi cũng muốn tìm hiểu xem Sơn đã tự mình chống chọi như thế nào mà bỗng dưng hôm nay gặp lại anh, tôi thấy anh thật hiền lành, lương thiện quá, trái ngược hẳn với bộ mặt rỗ chằng chịt bởi căn bệnh đậu mùa từ thuở bé còn để lại di chứng. Hẳn cũng là chuyện không nên bỏ phí?
Tôi quảy túi ba-lô đi theo Sơn về tới cổng nhà anh thì trời cũng đã xế chiều. Nhà Sơn là căn chòi mái lợp bằng tranh nhưng khá rộng rãi, kín đáo ở ven bìa rừng. Trong nhà chỉ có vài thứ đồ vật thông thường chứ không có thứ chi giá trị lớn. Tôi đang loay hoay rửa tay rửa mặt chỗ cái lu nước trước sân nhà chợt trông thấy một cô gái còn khá trẻ, khoảng 25 – 26 tuổi từ phía trảng tranh băng thật nhanh ra như con sóc. Cô ta cắp nách một chiếc rổ mê đựng dăm bảy củ khoai mì sống. Sơn nhìn ra, anh ta chợt quắc mắt:
– Lại qua bên đó nữa phải không? Nói hoài không chịu nghe! Cái thằng đó nó không có tốt đâu! Nè, mau vô nhà chuẩn bị làm thịt rắn đãi chú Hai Sinh… Cơm nước nấu xong chưa mà đi chơi lung tung thế?
Qua cách nói, tôi biết cô gái kia là vợ của Sơn, nhưng tôi chợt nhận ra vẻ mặt tuy khá xinh đẹp của cô gái nhưng có điều gì đó thất thường. Sơn hiểu cái nhìn của tôi, anh bèn ôn tồn giải thích:
– Nó tên Lan, là vợ cháu đó chú Hai Sinh. Lấy nhau tám, chín năm nay rồi mà không có mụn con nào. Cái đầu nó bị “man man” nhưng hiền lắm, mà cũng xinh gái nữa. Bình thường khó ai biết là nó khùng. Cháu gặp nó hồi năm 1999 ở chợ huyện khi đi bán rắn trên ấy. Tự nhiên thấy thương nhau nên chúng cháu kéo nhau luôn về đây sinh sống, làm vợ làm chồng…Như vậy đó chú!
Cuộc sống của dân giang hồ có khác! Sao mà đơn giản dễ dàng quá vậy? Hay là chúng đùm bọc che chở nhau khi gặp người đồng cảnh ngộ? Tôi chợt thấy tội nghiệp cho Sơn và cô gái tên Lan kia. Đang vẩn vơ nghĩ ngợi, tôi lại thấy Lan mang mâm đĩa lên. Thì ra cô gái đã làm xong món nhắm, mau tắp lự. Món rắn hổ hành bằm xào xả ớt, có cả bình toong rượu đế. Sơn nhìn vợ, lại buông lời cáu gắt:
– Xuống bếp lo cơm nước đi! Chút nữa rồi ăn sau! Đứng đây nhìn ngó cái chi? Nấu thêm một lon gạo cho chú Hai đây ăn luôn thể…
Lan gật đầu, cười ngỏn ngoẻn không hiểu đắc ý chuyện gì. Tôi bỗng để ý thấy Lan đang cố giấu giếm cái gì trên tay, ở sau lưng. Nhìn kỹ thêm hóa ra củ khoai mì nướng, chắc là cái thứ mà nó vừa mang ở đâu về khi nãy. Sơn rót rượu ra chén, dùng hai tay đưa lên ngang mày mời. Tôi hỏi:
– Ngày mai anh lại đi bắt rắn về mang ra chợ bán hả?
– Dạ! Chi vậy chú?
– Chú muốn đi theo anh một bữa. Có trở ngại gì không?
-- Trời! Trở ngại gì hả chú? Càng vui! Nhưng có điều hơi nguy hiểm, chú Hai phải cẩn thận đó. Có cả một ổ rắn chàm quạp, bữa nay cháu bị hụt, uổng ghê, quyết ngày mai phải tóm bằng được chúng nó!
x
…Tôi vạch lá rừng đi theo sau Sơn vì tính hiếu kỳ, tò mò cố hữu, chớ thâm tâm cũng rất ngán ngại khi thấy Sơn đi bắt rắn độc mà đồ nghề ngoài sợi dây thừng, cái chĩa thép sắc lẹm hình chữ V, chai thuốc rượu mà anh nói mua của một người dân tộc trên “sâu” thì chẳng có cái gì khác. Tôi bấm bụng hỏi:
– Đi kiểu này, rủi bị rắn nó mổ bất tử thì làm thế nào đây?
– Hổng sao đâu chú Hai! Miễn mình mang “giày bốt” cho cao, đừng để con rắn nhận ra thân nhiệt hay bôi “thuốc nghề” cho kỹ lúc thò tay vào hang rắn. Rắn thuộc giống mắt trơ nên mình đi ban ngày chúng có gặp cũng nhìn thấy mình mù mờ thôi. Đúng ra, phải mang theo cục da tê giác, phòng khi có chuyện thì đắp sẽ thoát chết, nhưng cháu không có thời gian tìm mua…
– Da tê giác nào? Ở đâu mà có chứ?
– Nghe nói ở trên vùng rừng Dak Lak có nhiều lắm đó chú.
Sơn lại chỉ cho tôi mấy cây nấm dại gọi là “nấm nọc rắn” mọc từng đám bên gốc cây. Anh căn dặn tôi càng cẩn trọng vì như vậy nhất định quanh đây phải có hang rắn chàm quạp. Anh nói:
– Chú biết không? Bọn rắn chàm quạp vùng này mới qua mùa luyện nọc. Lúc đó chúng chỉ nằm im, đêm về mới bò ra, chỉ nằm bất động mà phì nọc. Thứ nấm màu vàng này mọc lên từ nọc của chúng. Người đi rừng bất cẩn để cho gan bàn chân giẫm phải thứ nấm này về nhà phù mình mẩy ngay… Kìa chú xem xem…!
Sơn lại chỉ cho tôi thấy mấy vẩy mà anh đoan chắc của con rắn chàm quạp nào đó. Sơn thoăn thoắt vạch lá khô và quả nhiên dưới đám lá ấy có một cái lỗ như hang chuột cống, nhìn vào thấy đen ngòm. Sơn im lặng, không nói nữa. Anh xoa “thuốc nghề” từ vai xuống hết đầu ngón tay. Tôi ngăn lại:
– Trời! Bắt rắn chàm quạp bằng tay không vậy hay sao? Nguy hiểm quá!
– Phải vậy mới tóm được nó chứ chú Hai ơi!
Tôi nhắm nghiền mắt sợ hãi khi thấy Sơn thọc tay vào cái hang sâu hoắm ấy. Thoắt một cái, Sơn rướn người khiến tôi cũng hết cả hồn. Nhưng có lẽ không có điều gì không may xảy ra cho Sơn cả. Anh ta chợt mừng rỡ kêu lên “Dính rồi! Dính rồi!” và từ từ rút tay ra. Tôi muốn… té ngửa vì kinh hãi: bàn tay Sơn đang tóm chặt cổ con rắn chàm quạp mình đỏ như màu máu, đầu hình tam giác. Nó giãy giụa, loằng ngoằng cựa quậy. Sơn hối thúc tôi đưa cho anh chiếc giỏ đan toàn bằng dây kẽm rồi cho thả con rắn dài gần thước rưỡi vào đó. Sơn bật cười hề hề:
– Bữa nay trúng mánh đậm nghen chú Hai.
Xế trưa, tôi và Sơn quay trở về nhà anh ta. Chiến lợi phẩm là chiếc lồng rắn chàm quạp nhung nhúc bảy con. Sơn nói:
– Mình “thịt” hai con, còn lại mai mang giao cho mối lái dưới chợ huyện…
…Gần hai tháng sau, trên đường đi công tác ở Tây Nguyên trở về, tôi lại cố ý ghé thăm Sơn và cũng để tặng cho anh miếng “da tê giác” mà tôi đã cố nài nỉ mua cho bằng được của những người dân tộc Thượng khi tôi đến Dak-Lak, xem như món quà cho anh. Người mở cửa đón tôi là một người đàn ông lạ mặt nhưng thực ra không hẳn là lạ vì tôi nhớ ra là mình từng gặp anh ta ở bên trảng tranh cạnh nhà Sơn vào đúng cái hôm tôi và Sơn đi săn rắn chàm quạp trở về. Anh này trông thấy chúng tôi thì vội vàng rảo bước lẩn mặt ngay. Chính Sơn nói với tôi dường như mấy lúc sau này tay kia có tình ý chi đó với con Lan – tức vợ Sơn – và Sơn đang rắp tâm theo dõi. Người đàn ông nọ dĩ nhiên không quen biết tôi nên quay vào nhà, gọi to:
– Lan ơi, có ai tới tìm đây nè…
Con vợ của Sơn bước ra nhìn tôi cũng với ánh mắt vô hồn. Nó làm như chưa bao giờ gặp tôi và nói một lèo hệt như… học trò trả bài cho thầy giáo:
– Thằng Sơn hả? Nó chết rồi! Bị rắn chàm quạp cắn! Có Trời mới cứu nổi…
Tôi thở ra nhè nhẹ, nhìn khắp chung quanh gian nhà. Cũng không thấy bàn thờ của Sơn ở chỗ nào. Phía trên chiếc giường tre của vợ chồng Sơn lúc trước có treo lủng lẳng mấy bộ quần áo đàn ông mà tôi tin chắc không phải là của Sơn. Chẳng biết nên nói gì nữa nên tôi chỉ biết quảy chiếc balô trên lưng, đi ra khỏi ngõ…Cứ nghĩ ngợi mãi không biết giữa lòng dạ đàn bà và rắn độc, thứ nào …độc hơn?
Đời khát
Thứ năm, 29 Tháng 12 2011 16:39 1 Comments BẠN ĐỌC GỬI - Truyện
1.Chợ Hôm mọi ngày thường vắng, hôm nay nó bỗng xôn xao đến lạ. Cái tên chợ Hôm đã đủ cho người ta hiều rằng nó được vớt vát, nhặt nhạnh sau phiên chợ sáng trên thị xã, người mua bán dồn về đây đề bán nốt những gì còn lại.
Có lẽ vậy mà chợ Hôm chủ yếu dành cho những người nghèo và hôm nay chẳng phải vào dịp lễ, tết hay sau mùa thu hoạch, người ta đến đây chủ yếu để bàn tán xoay quanh…một người đàn bà, với đúng cái nghĩa đã ngả qua bên kia sườn của cuộc đời, bà Lụa. Gọi là bà nhưng bà chừng ba mươi bốn, ba mươi lăm tuổi gì đó. Với ngần tuổi ấy, nếu sống nơi phố chợ đô thành, bà Lụa vẫn được gọi bằng cô. Thế nhưng bà Lụa này đã ở góa đến chừng mười bốn năm có lẻ. Ở cái làng này, đàn bà khi có chồng người ta rất ít khi gọi tên tục mà gọi bằng tên chồng, nhưng với bà Lụa thì lại khác. Có lẽ bà ở góa khi còn quá trẻ, quá lâu, đủ lâu để người ta quên đi bà là vợ của ai. Khi còn trẻ, bà Lụa đẹp, nổi tiếng cả thôn Bình Minh. Bây giờ bà vẫn đẹp lắm, một gương mặt đẹp như ngọc, đôi môi màu mận chín, sống mũi thẳng và đôi mắt đẹp đến ai oán não nùng, nó chẳng phải màu nâu, cũng chẳng phải màu đen mà hễ ai nhìn vào chỉ muốn lặn ngụp trong ấy. Gương mặt ấy, sóng mắt ấy được mang bởi một một thân hình tròn lẳn đủ sức khiến một gã đàn ông dù cục mịch đến đâu nhìn vào cũng cảm thấy hừng hực, râm ran và giần giật từng thớ thịt. Đất lề quê thói, bà cũng theo về nhà người ta ở cái tuổi mười sáu trăng tròn. Chồng bà, một thanh niên hiền lành ít nói và yêu thương gia đình bé nhỏ của mình. Qua hai lần sinh nở, bà Lụa lại càng mặn mà hơn, đầy đặn hơn so với cái đẹp e ấp của thì con gái. Rồi cuộc đời bà bước qua một ngã rẽ, có lẽ bà cũng như tất cả những người trong cái xã Bình Minh này đều ngờ ngợ nhận ra. Hai đứa con, một đứa còn lẫm chẫm, một đứa bế ngửa chẳng biết gì. Buổi tiễn đưa chồng đi bộ đội chan đầy nước mắt. Bà Cục – mẹ chồng Lụa- ngồi trên chõng tre giã trầu, mắt nhìn chằm chằm vào khoảng trống vô hình rồi lẩm bẩm “cóc đi rồi cóc lại về”. Chỉ vỏn vẹn ba năm hạnh phúc, lòng người thì da diết mà chiến tranh thì vô tình, anh chồng hy sinh sau mấy tháng quân trường. Ngày nhận giấy báo tử của con trai, bà Cục vật vã, hóa điên dại. Sông nước bao la mà bà có mỗi một thằng con để yêu thương hy vọng, cả bao đời độc đinh, chẳng phải họ khuyếm khuyết về đường sinh nở mà những người đàn ông của họ cứ lần lượt ra đi, chỉ lướt qua đời những người đàn bà trong một khoảng thời gian rất ngắn, chóng vánh đến nỗi mọi ký ức về họ, những câu nói sở thích của họ được nhớ vanh vách. Vì sao ư, vì quá ngắn để cho người ta không thể nào quên. Nỗi đau xù sì đóng vẩy trong lòng, nước mắt đã khô cạn đặc sệt, bà Cục hóa lòa còn Lụa lặng lẽ hơn từ đó.
- Này các bà ơi, có nghe chuyện mụ Lụa nhà mình chưa? Khiếp, cứ tưởng chính chuyên son sắt thờ chồng nuôi con, ai ngờ đĩ thế
- Đĩ thế nào? Mụ mõ này nói gì nghe phát khiếp lên
- Chuyện một trăm phần trăm đấy. Mười mấy năm ở góa, bây giờ không chịu nổi, hí hí, lại đi dùng củ bột đâm vào cái lỗ trôn.
Không khí chợ nhao nhao lên
- Thật không? Sao lại thế nhỉ
- Chẳng có lẽ? Bà Lụa từ xưa tới giờ có tai tiếng bao giờ đâu. Mà làm sao bà biết?
- Chẳng lẽ bà bắt gặp à? Bà cũng quá thể, ai lại đi rình mò người ta....
Giọng bà Xoe trở nên nghiêm trọng
- Chuyện sờ sờ ra như thế, tôi mà thèm đi rình à? Thế này nhé, chiều hôm qua đi vớt rổ bèo, tự nhiên tôi thấy có một đám mấy người, khiêng võng đưa một người đàn bà tới trạm xá. Tôi lần mò đến xem thì hóa ra mụ Lụa nhà ta. Cứ tưởng bà ta bị ốm. Tôi thấy cả lão Xoe nhà tôi khiêng đi ở cuối võng, tôi hỏi “chuyện gì thế ông?” lão không nói, tối về lão kể tôi nghe hết. Nghe đâu là thèm hơi đàn ông quá không chịu được rồi làm một mình trong buồng, dùng cái củ bột non, làm gì chẳng biết mà nó bị gẫy ở bên trong, không đứng dạy được. Cuối cùng phải gọi bà mẹ chồng. Bà í chẳng biết thế nào, nên sang gọi ông nhà tôi đến đấy.
- Thật thế sao? Rõ khổ, bà ấy cũng còn trẻ mà. Sao lại đến cơ sự ấy chứ?
Nhiều giọng nói chùn xuống
- Tội nghiệp, chồng chết thì lấy chồng khác, có gì là quá đáng....
- Nhưng bà ta ở với bà mẹ chồng cũng góa chồng sớm, con thì con bé, bỏ ai nuôi, mà lị là vợ liệt sĩ nữa chứ. Trăm cái đeo bám vào người. Nhiều tiếng thở dài thườn thượt
- Nhưng quan trọng là ai rước cái ngữ gái lạ lòng ấy, chỉ có thể đi lấy chồng thiên hạ thì còn mong có cửa, chứ cái làng này, chẳng ai dại mà dính vào.
- Nghe đâu bà ấy cũng có qua lại với một ông thương binh hạng nặng ở bên Thiết Trụ. Ông này hồi xưa là tiểu đội trưởng của chồng bà ý. Mà tôi còn nghe bảo rằng, ông ý là Đảng viên cơ đấy, oai chưa?
- Cái bà này chẳng biết gì, người ta là Đảng viên lại là thương bình như thế, danh giá thế thì ai mà lại lấy bà Lụa để cả làng chê cười. Lẹo tẹo với nhau coi chừng bị mất Đảng viên ấy chứ.
- Chuyện kinh thiên động địa như thế mà các bà cứ như đùa. Cái ngữ đó phải cạo đầu bôi vôi rồi thả trôi sông.
- Tôi nghe đâu bên Trung Quốc, đàn bà mà lẳng lơ đĩ thõa là bị ngựa dày hay là tùng xẻo nữa đấy
- Các bà lo gì, giọng bà Xoe lại oang oang át hẳn những lời bình luận khác, rồi các bà xem, mấy lão ở thôn cũng không bỏ qua chuyện này đâu, sẽ bắt viết tường trình, có khi còn đọc lên loa phóng thanh ấy chứ, phen này mụ Lụa được một trận bẽ mặt nhá.
Nhiều lời bình luận, người lên án kẻ cảm thương. Chiều tắt nắng, chợ tan dần, đám người kia cũng lần lượt kéo nhau về và cũng đi theo từng nhóm một để câu chuyện li kỳ những mong được mổ xẻ phân tích cho cặn kẽ. Ông Đích vẫn ngồi cuối chợ, trong cái chòi nhỏ bán nước chè ở đầu làng. Ông nghe ngóng câu chuyện từng chi tiết một. Chẳng lẽ người đàn ông mà mấy người đàn bà kia nhắc tới lại là ông. Một đảng viên, một thương binh hạng ba trên bốn, mất một chân và vẫn mang trong người một mảnh đạn chưa thể lấy ra. Ông muốn sống một cuộc đời tàn nhưng không phế, ông vẫn lao động dù rằng khó nhọc để tăng thêm thu nhập ít ỏi từ tiền trợ cấp cho thương binh. Mỗi khi trái gió trở trời, ông lại gồng mình chịu cơn đau đớn tái buốt, ông tự cho mình là may mắn hơn nhiều đồng đội đã không may mắn được nhìn ngày đất nước độc lập. Thế nhưng ông không cùng đơn vị với chồng Lụa, là lứa đàn anh nên không thể là tiểu đội trưởng của chồng Lụa được. Ông thở phào vì ý nghĩ đó…. Hôm nay, ông lại là người ra về sau cùng của phiên chợ, trời càng tối càng lạnh, gió bắt đầu rít lên từng hồi. Khoác cái áo đại cán sờn cũ, đội chiếc nón cối trên đầu, ông muốn tránh những lời chào hỏi xã giao trên đường về nhà và cũng tránh cho người ta thấy thái độ đăm chiêu của ông.
2.
Ông Đích ngả người ra cái ổ rơm được lót một lớp lá chuối khô, cái chõng tre cũ kỹ được xếp gọn vào góc nhà trong mùa rét, có lẽ nó cũng cũ như đời ông vậy không còn đủ sức để oằn mình gánh một người đàn ông chẳng mấy nhiều da thịt, rệu rạo những khớp xương đau nhức khó chịu. Đã hơn tuần nay ông không bán nước chè tươi được. Câu chuyện ở chợ Hôm chiều ấy ám ảnh ông đến quặn lòng, thương cảm có, tức tưởi có, nó làm cổ họng ông nghèn nghẹn. Sau khi mồ côi mẹ, ông sống một mình, cuộc đời khắc khổ với gương mặt khắc khổ đã sắp đặt cho ông cái cuộc sống cô đơn này đây. Với ông, Lụa là một người đàn bà vẫn tràn đầy sức sống, khát sống đến cháy lòng. Một người đàn ông khiếm khuyết như ông, mang bệnh trong người mà Lụa lại quan tâm, lại yêu trộm nhớ thầm, lẽ nào lại thế? Hay tại cái số phận sần sùi như nhau mà Lụa có sự đồng cảm. Có những khuya trời đông rét buốt, cái lạnh cũng đủ làm con người ta tím tái, mạch máu trong người như đông lại, ngừng chảy và tê cứng mọi cảm giác. Ấy vậy mà Lụa lại đến gõ cửa, tiếng gọi thật khẽ nhưng đầy hơi nóng làm tan chảy mọi dây nhợ trói buộc ông trong cuộc sống thanh cao, liêm khiết của một Đảng viên. Nếu đến với Lụa, ông sẽ bị đối xử ra sao, Lụa sẽ sống sao với tiếng đời độc địa, rồi cuộc sống của cái thuyền chắp nối có đủ sức chở những số phận mong manh chòng chành chẳng giống ai trong sóng gió này? một bà mẹ chồng mù lòa khó tính, một ông thương binh quá bốn mươi tuổi bệnh tật quanh năm, một người đàn bà suốt ngày úp mặt xuống đất có ốm cũng không thể ốm, hai đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn, cũng quanh năm làm ruộng làm rẫy chỉ mong đủ cái ăn. Bởi vậy, sau những lời hỏi thăm xã giao những câu chuyện chẳng đầu chẳng cuối, Lụa lại bẽn lẽn ra về. Mà cũng phải, Lụa là vậy, lặng lẽ, âm thầm như lẫn vào không gian và chẳng bao giờ dám nhìn vào mắt ông. Mới độ mươi bữa nay, Lụa lại đến, tiếng gọi gấp gáp da diết khiến ông không thể im lặng. Khi ông vừa nâng thanh gỗ cửa, Lụa sà vào lòng ông khác với cái bẽn lẽn cố hữu như mọi khi, một người đàn bà tràn đầy nhựa sống, ham sống và khát sống. Sự khát sống ấy toát lên cái mùi nồng nàn mang hương phù sa bãi bồi trong mùa nước cạn. Lụa nhìn ông đắm đuối, giọng thổn thức nức nở như van xin “ông Đích…..anh Đích, em yêu anh, em cần anh….. chúng ta phải sống có nhau, vì nhau. Cả đời này em đã chết khô chết héo rồi, em thèm sống như một người đàn bà bình thường thôi…..hãy ôm em đi anh”. Lụa dụi đầu vào ngực ông, có tiếng gì đó như dồn dập, vồn vã, Lụa ngước nhìn ông ướt đẫm khao khát chờ đợi “Anh, ôm em đi, một lần thôi, đêm dài vắng lắm chẳng ai biết đâu mà anh sợ, em thèm làm đàn bà, thèm lắm, nếu chẳng may có con em sẽ nuôi con, dù cho nó có tật nguyền đi chăng nữa, anh ơi……”. Lụa nhắm mắt hờ hững, cả người cô như một thân cây hanh heo, chỉ cần một tàn lửa nhỏ là nó sẽ bùng cháy, cháy mãnh liệt, cháy đến tận cùng. Ông Đích lấy hết sức bình sinh đứng phắt dậy như bị điện giật, không thể được, liệu như thế ông có đáng là một người Đảng viên không? Liệu con ông với Lụa có nhiễm chất độc màu da cam như những đứa trẻ con người bạn chiến đấu? Quay mặt để tránh cái nhìn ngạc nhiên của Lụa, giọng ông run run “em đi về đi, em còn trẻ chưa hiểu hết đâu”. Lụa cũng đứng bật dậy, mắt nhạt nhòa “Cả làng này như thế rồi mà anh cũng khinh em sao? Sống mòn mỏi là sống trong sạch ư? Phải, em còn trẻ mà! Nhưng cuộc sống này đã làm em còm cõi, già nua rồi, em là bà Lụa, bà Lụa, anh nghe rõ chưa?”. Tiếng nấc nghẹn hòa vào đêm lạnh buốt, gió rít từng hồi sắc mỏng như lưỡi dao cứa vào lòng người. Ông Đích ngồi phịch xuống thảm rơm khô, đầu óc lơ lửng, tim như có ai bóp nghẹt, mắt nhòa với nước đắng chát.
3.
Tiếng gà gáy, tiếng í ới của người ta gọi nhau ra đồng chuẩn bị một vụ thu hoạch mùa rẫy làm cả xóm lao xao. Ông Đích choàng tỉnh dậy sau một giấc ngủ thật dài, mắt cay rát khô khốc, miệng chát đắng. Ông lồm cồm bò dậy tìm cái siêu trát đầy bồ hóng. “Phải rồi, mình phải sang nhà Lụa, nói chuyện với bà Cục mẹ chồng Lụa, để xin cô ấy về với mình” Có gì là xấu xa cơ chứ, như cây cần ánh sáng, cá cần nước để thở, đời người cần có nhau, nhất là những số phận con người nghiêng ngửa như họ.
Căn nhà vách đất ba gian vẫn im ắng như tính khí cố hữu của chủ nhà, đơn độc, cô quạnh. Trên vách đất, thỉnh thoảng có những mảng vá rất khéo còn nguyên màu bùn mới. Ống Đích ngập ngừng, dựng lạng sửa lại cái áo. Hay Lụa đã ra đồng? Tiếng võng kẽo kẹt chậm rãi như tiếng mọt ăn gỗ, gọt đẽo vào lòng người đến buồn thảm.
- Có ai ở nhà không? Cô Lụa có nhà không? Ông mạnh dạn lên tiếng
Không có tiếng trả lời, có tiếng khua dép như quờ quạng chậm chạp trên nền đất, ông bước vào sân trong, tiếng nói khẽ khàng như rụt rè vọng ra
- Ai hỏi gì em nó thế?
- Dạ, cháu đây cụ ạ. Cháu là Đích đây. Cụ ở nhà một mình à? Cô Lụa có nhà không hả cụ?
- Bác Đích đấy à, khổ, tôi mắt mũi lèm kèm, bác bỏ quá cho. Bác hỏi em nó có việc gì không? Rõ là khổ.
- Dạ, cháu sang đây là để….
- Thôi, bác đừng nói nữa, tôi biết cả rồi. Tại tôi, tại tôi - Cả người bà run run, tiếng ho khan đục và hụt hơi đến khô rát, cổ đầy những dây đan mắc chằng chịt. Bà ngừng một lúc im lặng. Ông Đích không muốn cắt ngang tiếng nấc của bà Cục mà lặng lẽ cầm lấy bàn tay bà để dòng tâm sự của bà tuôn trào. Bà thở thật sâu rồi lại hít vội vào.
- Em nó bỏ nhà đi mấy hôm nay rồi, bác xem, làng này có tha cho nó sống mà nuôi con đâu.
Bà nhắm díp mắt lại, hai giọt nước đặc quánh chậm chạp rơi ra từ hốc mắt sâu hoắm. Khổ đau vất vả một đời đã vắt kiệt sức lực của bà, nó không đủ để chảy thành dòng một cách nức nở, tức tưởi. Người ta vẫn bảo, người già khó khóc lắm, vì lấy đâu nước mắt mà khóc, lấy đâu ra hơi mà khóc. Khóc cũng làm người ta mệt, rời rã khô héo như một cành cây được ép ra nước, còn bà, một cành cây khô và lại quá heo hanh.
- Đời tôi đã khổ, nó có kém gì đâu. Ông nhà tôi chết năm tôi hai mươi mốt tuổi mới có mỗi được thằng chồng nó. Bác xem, ông ấy bị Tây nó bắn, mà vì cái gì cơ chứ, chỉ có hai hào bạc. Trong một trận càn, tôi bế con chạy theo mấy người phụ nữ lên cống, ông ấy cùng mấy người đàn ông chạy về Cao. Tôi nghe ông Tạo thợ may bảo, bốn thằng Tây đen đeo sung đen ngòm chúng nó túm được hai người trốn trong bụi tre. Chúng nó gí súng vào cố và hét lên “chiền, chiền” (tiền). Ông Tạo móc mãi trong túi được hai hào bạc đưa cho chúng nó, thế là nó tha ông ấy, còn ông nhà tôi thì bị chúng nó đạp vào đầu và bắn thủng bụng.
Bà đưa tay áo chùi chùi vào mắt, vào mồm, lặng đi một lúc lâu, bà thổn thức
- Cái hôm em nó bị bất động, tôi định sang tìm bác mà bác lại lên chợ. Tôi sang gọi ông Xoe, thế rồi cả làng ầm lên. Khổ thân nó, tôi vừa mắng nó lại vừa thương, đàn bà như nó, tuổi còn trẻ thế mà ….Cả làng này nào để cho nó yên đâu. Mấy hôm nay, ngày nào cũng có người đến tìm và bảo nó lên nhà trưởng thôn làm tường trình…
- Tường trình gì thưa cụ?
- Thì các ông ấy bảo thế chứ tôi làm gì có chữ mà biết. Nó bỏ đi luôn sau cái hôm đầu tiên đi lên nhà ông trưởng thôn. ….Bà lại lặng người đi…. Khi đi nó bảo tôi là “con lạy u, làm xấu hổ gia đình. Ở đây người ta sẽ làm nhục con đến chết, u ở nhà với con Sợi, có đám nào được thì u gả nó hộ con. Con đem thằng Len đi với con, bao giờ người ta quên chuyện cũ thì con về với u”. Nó đi thế này biết bao giờ mà gặp lại nó, người làng này bao giờ quên chuyện cũ mà mẹ con bà cháu được gặp nhau.
Bà lại lặng người đi, tiếng khóc khan đục nửa như bị chặn lại nửa như muốn vỡ òa.
- Tôi biết em nó muốn đi lại với bác- Bà nhỏ nhẹ như tâm sự- nhưng vì tôi hẹp lòng bác ạ, ngăn cản nó. Tôi bảo bác là thương binh, lo cho mình còn vất vả….mà nó thì cũng nghèo quá…..Tôi cũng thương thằng con trai của tôi, nó chết khi mới hai mươi ba tuổi. Nghĩ quá hoá quẩn, bây giờ em nó đi rồi, tôi ân hận lắm- Bà lại nghẹn ngào- Nếu hôm nay bác không sang thì tôi cũng sẽ sang tìm bác, ở tuổi này rồi, cuộc sống đếm trên đầu ngón tay…….
Gian nhà đất im lặng, cả ông Đích và bà Cục cùng ngồi đó. Mỗi người mang theo suy nghĩ của riêng mình nhưng cả hai đều nghĩ về Lụa….Có tiếng bước chân nhanh nhanh thình thịch về phía ngõ nhà bà Cục, bà thở dài
- Lại đến xem em nó về chưa để bắt lên trình diện đấy.
- Sao cụ biết họ sẽ vào ngõ nhà mình?
- Tôi mắt mũi lèm kèm, trời cho cái tai thính lắm bác ạ.
Tiếng chân gần hơn, rõ ràng là bước vào trong sân, giọng một người đàn ông liếng thoắng
- Bà Lụa có nhà thì phải lên gặp trưởng thôn ngay, đừng để tôi nhắc nhở mãi nhé.
- Em nó không có nhà, nó đi làm xa rồi
- Bà lại còn bênh con dâu bà hả? người trong hợp tác xã này không được ô uế như thế, không giáo dục tới nơi tới chốn thì sẽ ảnh hưởng tới văn hóa của xã.
Dáng ông trưởng thôn chắc nịch đã lồ lộ ở cửa ra vào
- Bà cần này tuổi rồi mà không hiểu biết chuyện đời là gì, thế bà không thương con trai bà à? Con Lụa làm như thế là làm dơ bẩn tông đường nhà bà đấy. Tôi không mạnh tay thì xem chừng sẽ có kẻ bắt chước làm theo. Đường đường là vợ liệt sĩ mà lại không sống lành mạnh gì cả. Có cả ông Đích ở đây nữa à? Tôi cũng nghe phong phanh tin đồn về ông đấy. Cũng may mà chưa có ai bắt gặp. Tôi nói để ông biết liệu sống sao cho xứng đáng là một người Đảng viên thương binh.
Ông Đích ngồi bất động, còn Bà Cục mím chặt môi. Ông trưởng thôn lia mắt một cái lườm dài thõng thượt khắp cả gian nhà lạnh ngắt, cái nhìn ấy dài, dài lắm, nó đủ dài để buộc chết một số phận, buộc chặt họ không cựa quậy được. Ông chau mày rồi quay nhanh ra ngoài hiên, tiếng bước chân có vẻ bực tức, xa dần xa dần. Bà Cục bất thần đứng dậy chao đảo, gương mặt bà dúm lại như một tờ giấy bị bóp xiết trong lòng bàn tay, bà gào thét trong tiếng nấc
- Chúng mày, chúng mày thật độc ác. Nó đã đi rồi mà vẫn chưa tha nó hay sao. Chúng mày giết chết nó đi rồi giết cả bà cháu tao đi……
4.
Chợ Hôm vào mùa lúc nào cũng xôn xao, người qua kẻ lại, tiếng rao mua tro, mua phân vang cả ngõ. Văn hóa làng là vậy, một người làm là cả làng làm theo. Mùa tết, nhà nhà trồng hoa bán tết, cả làng làm mứt táo mứt mận. Được một dạo có cái cân quả tạ, trong làng đã có hơn chục gia đình gom góp vốn vay mượn họ hàng để tậu cho được, cứ một lượt cân là được một cân cà chua hay su hào. Tiếng người chèo kéo, mặc cả thượng vàng hạ cám đều được đem ra trao đổi. Mới vài năm qua, xã Bình Minh có vẻ thay da đổi thịt ra nhiều. Gia đình nào cũng tậu được xe đạp tốt, mà xe từ bên Liên xô về đấy, họ không chuộng loại xe Hữu Nghị đâu. Có nhà còn mua được cả xe máy chạy còng cọc nghe đến giòn dã. Nhiều nhà ngói mọc lên, người ta sẵn sàng lai lưng ra để làm cái nhà to cho bằng chị bằng em trong khi bụng còn đói, có người phải đi vay mượn đến hơn nửa tiền xây nhà, có người tự làm nhà vì gắng sức lao tâm khổ trí mà chết. Và cứ thế, cuộc sống khiến con người phải gồng mình khóac một bộ cánh theo khuôn đúc, được đo ni đóng ván kềnh càng, nặng nề và khô cứng đôi khi tàn nhẫn. Cảnh làng xã thay đổi, không chỉ ở người sống mà cả cho người chết. Những khu mộ dòng họ ngày một nguy nga đua nhau mọc lên, về cả mức độ cầu kỳ lẫn giá trị về tiền.
Vợ Lãm đang ngồi cắt tỉa lại đám hàng cho phiên chợ ngày mai. Mặt nhăn nhó, hình như chị ta đang lẩm bẩm chửi ai thì phải. Rõ khổ, hai vợ chồng mới lấy nhau chưa tròn năm, đang mong có con để bế bồng. Có con thì thích rồi nhưng phải làm lụng nhiều để dành, mà cả năm nay, vợ chồng Lãm cũng làm mửa mật ra đấy chứ, cũng sẽ dư dả được vài tạ thóc nhưng lại phải đóng góp cho việc xây mộ tổ. Tiếng Lãm từ ngoài ngõ vọng vào rôm rả
- Này, mình đã chuẩn bị tiền nong sang đóng cho Bác trưởng tộc chưa? Chi nhà mình có mỗi mình tôi thôi đấy, đừng để bác ấy nhắc mà dơ mặt.
- Mình bảo sao, chưa đến hạn chót mà, ừ tôi cũng đang lo đây nhưng chưa đủ. Đợi phiên chợ ngày mai tôi bán lứa gà nữa.
- Bên họ Nguyễn họ làm dậm dịch làm tôi cũng sốt ruột. Họ Vũ nhà mình từ xưa đến giờ có kém gì họ đâu. Phải xây cho thật oách, to hơn họ để họ không xem thường mình được.
- Xem thường…..giời ạ! Cứ nghèo như mình thì người ta tất sẽ xem thường.
- Mình nói thế chứ….cứ xây mộ cho các cụ thật to, được ở nhà cao cửa rộng các cụ mát mẻ, khoan khoái thì sẽ phù hộ độ trì cho con cháu….mình lo làm gì.
- Chẳng lo gì mà nếu năm tới tôi đẻ thì….Các cụ thì được nhà cao cửa rộng mà có biết con cháu phải ở nhà tuếch toác như thế này, méo mặt để lo đóng góp hay không?
- Mình cứ lo bò trắng răng, thôi chuẩn bị ăn cơm đi. Tôi đói rồi. Mà bu đâu rồi nhỉ?
- Vẫn còn nằm trong buồng đấy, sướng nhá….già còn đú nên mới thế đấy
- Thôi, mình im đi cho tôi nhờ….
5.
Chợ Hôm nó đã không còn là cái chợ họp về chiều hôm nữa, đông đúc hơn đầy màu sắc hơn. Chỉ có ông Đích vẫn ngồi đó, luôn tay rót nước chè tươi cho khách bộ hành. Đã hai năm nay ông vẫn chờ đợi, mà chờ cái gì thì ông cũng không biết nữa. Nhiều lúc ông lại ước, giá mà bây giờ Lụa ngồi trước mặt ông? Chuyện gì sẽ xảy ra vào cái đêm đông rét cắt da cắt thịt ấy, nếu hai con người ấy hai số phận ấy đổ ụp vào nhau nức nở vỡ òa? Chắc chắn Lụa sẽ không đến trạm xá và sẽ không ra đi biền biệt như thế. Ông nghe được mùi phù sa nồng nàn theo gió mùa Đông Bắc tràn về như cái mùi của Lụa, cái mùi của một người đàn bà ở quá, cái khát khao được sống, sống rất thật như cây cần ánh sáng như cá cần nước. Cái lạnh vừa rét mướt vừa ấm áp mơn man suy nghĩ của ông. Phải rồi, sau gần hai năm, người ta đã quên Lụa, quên câu chuyện của buổi chiều ấy, quên số phận chòng chành như quang gánh không cân, chẳng biết bao giờ cô trở lại như lời cô đã hứa…..để cùng ông hàn huyên, nói những câu chẳng đầu chẳng cuối, dậm dịch, đứt quãng… Người ta đã ra đi mà nỗi đau, nỗi ân hận vẫn còn nguyên vẹn ở đâu đây.
- Các bà có biết tin gì chưa?
- Có chuyện gì nữa à? Mụ mõ này có nhiều tin giật gân ra phết
- Chuyện hay lắm, của bà Lẫm, ối dào, ngủ với giai bị con dâu bắt được. Rõ là dơ mặt.
- Có con dâu bà ấy đang bán su hào bắp cải đằng kia, nói khẽ chứ.
- Ối dào ơi, không phải khẽ gì cả, chính con dâu bà ý tố cáo mà, còn gọi cả làng đến làm chứng đấy - Vừa nói bà Xoe vừa nhướn cổ về phía một người bán su hào - Vợ Lãm này, mày thử nói cho các bà ý biết có phải mẹ chồng mày tòm tem với cái ông Thưởng, sống ở cuối làng, chuyên đi mua tro của thiên hạ không? Ống này ấy, năm rồi đã phải đóng tiền phí cho “Hội Bảo Thọ” của làng rồi đấy nhé, năm nay sẽ được gia nhập vì đủ năm mươi tuổi. Lên ông lên bà cả rồi mà vẫn còn dơ không chịu được.
- Bà hỏi bu cháu à? ối giời ạ, hôm trước cháu với nhà cháu về đằng ngoại ăn giỗ, đi nửa đường thì cháu nhớ ra nà quên dúm đậu xanh mà u cháu dặn, thế là cháu quay lại, trời ạ, trời cũng chưa tối mà bà ấy làm to quá, rên rỉ ầm ầm lên cháu mới vào xem. Thật chẳng còn thể thống gì. Thế mà lúc lào cũng dặn cháu, lấy chồng là phải theo chồng. Cháu làm toáng lên rồi túm cả quần áo của hai người lại để cả làng xem cho dơ. Từ nay còn dám há mồm dạy bảo cháu không?
- Mày thật quá thể, con dâu cũng phải giữ sĩ diện cho mẹ chồng chứ, bà ấy mới có bốn mươi mà lị. Thế chồng mày bảo sao?
- Giữ sĩ diện……bà ấy không bắt căn bắt vặn cháu từng tí một à? Chồng cháu im như thóc, mỗi lần cháu nói đến là chỉ bảo “thôi mình im đi cho tôi nhờ”
- Thảo nào, từ hôm nọ tới giờ cấm thấy mặt bà Lẫm ra khỏi cửa.
- Tôi con nghe nói là, thằng Tèo con ông Teo bắt gặp quả tang hai người ở chỗ cái giếng khô ấy vào cái tối mà nó đi soi, ông Thưởng hứa phải sửa xe đạp cho nó không được lấy tiền, còn bà Lẫm thì thúi cho nó mấy đồng nữa cơ đấy.
- Chỗ đấy rắn rít như thế mà họ không sợ à?
- Thì vắng vẻ như thế mới ít người qua lại
- Mà cũng có khi vì vợ chồng mày nữa đấy, ai lại vợ chồng son, chẳng ý tứ gì cả, bà ấy cũng còn sức khỏe mà,…... Nhìn vợ chồng mày cứ hùng hục rên rỉ, bà ấy làm sao mà chịu được.
- Khiếp các bà nói hay nhỉ? Chắc cứ thấy người ta đeo vàng thì y như rằng mình phải ăn cắp hay sao? Phải biết vắt nước dãi mà bước đi chứ.
- Thế trưởng thôn biết chưa?
- Sao lại không biết! Nghe đâu lần trước họp bắt ồng í viết tường trình đấy, sau đó đọc cho cả hội các cụ nghe. Tôi nghe thấy họ bảo là ông í viết không thành khẩn lên đã bắt viết lại rồi.
- Rõ khổ, chỉ vì ham hố một tí mà phải chịu xấu thế, rồi có khi ông ấy lại bỏ làng mà đi như bà Lụa cũng nên.
Ông Đích vẫn ngồi đó, im lặng. Thì ra người ta vẫn chưa quên Lụa như ông nghĩ. Lại một người đàn bà khác, cũng ở quá. Họ đang ở cái lứa tuổi chưa già như trái còn xanh nhưng được hái sớm để ép chín. Bởi vậy, nhựa sống vẫn căng tràn lúc nào cũng tưng tức, căng phồng như sắp nứt ra. Nhưng bà Lẫm may mắn hơn Lụa, bà chẳng phải là vợ liệt sĩ, người mà họ sẽ nắm để “giáo dục ” là ông Thưởng, một người đã làm đơn xin gia nhập hội bảo thọ rồi. “Ừ, phải giáo dục chứ, nếu không cái làng này loạn mất à?” “Loạn là loại cái gì? Chẳng lẽ vào hội bảo thọ sẽ không được phép yêu đương lấy vợ sao?” “lấy vợ cũng được nhưng phải báo cáo đoàn thể, sống phải có tôn ti trật tự chứ” “Mà đã gia nhập hội các cụ rồi thì yêu đương làm gì nữa, như thế là dơ lắm”.
6.
Cả nhà Văn hoá xã có đến mấy chục người, toàn hàng các cụ, họ đến đây đều được mời cả đấy. Mà người ta muốn gì từ cái buổi họp hôm nay nhỉ? để thăm hỏi cơ nguyên, an ủi những người trót dại hay chỉ vì tò mò? Mỗi người một tâm trạng nhưng tất cả đều háo hức. Chỉ một mình ông Thưởng ngồi ở góc phòng im lặng, cúi mặt xuống.
- Hôm nay chúng ta có buổi họp này là do Hội Bảo Thọ của chúng ta đã có một cụ là cụ Thưởng có lối sống không trong sạch lành mạnh. Sau đây là đơn tường trình lần thứ hai của cụ. Lần thứ nhất, cụ khai là chỉ quan hệ với bà Lẫm có một lần, nhưng thực sự theo chứng tôi điều tra thì cụ Thưởng đã không trung thực. Lần này, cụ khai là có quan hệ nam nữ với bà Lẫm hai lần. Đó là những lần cả làng đều biết. Chúng tôi cũng đã họp sơ bộ và đi đến thống nhất, không tán thành bản tường trình lần hai vì “một lần bắt được chín lần không”. Chắc chắn cụ Thưởng và bà Lẫm phải có quan hệ nam nữ trên hai lần. Xin mời ý kiến của các cụ.
- Tôi hoàn toàn đồng ý với cụ, chúng ta đều vào hội các cụ rồi, sống phải làm gương cho con cháu chứ. Chúng ta phải răn đe để lần sau không còn ai dám tái phạm.
- Cho tôi xin hỏi, như thế khi vào hội bảo thọ sẽ không được quyền lấy ai nữa hay sao?
- Cái cụ này rõ là chẳng hiểu vấn đề, lấy vợ hay lấy chồng thì phải xin ý kiến của hội và phải được chấp nhận. Nhưng đây không phải là lấy mà là quan hệ nam nữ bất chính, trái pháp luật.
- Nếu muốn lấy vợ thì đừng vào hội các cụ nữa.
…….
Cả phòng xôn xao, người đề nghị nhắc nhở, người thì yêu cầu phạt tiền, cụ trưởng hội vỗ tay ba cái thật to
- Thôi chúng ta đã có nhiều ý kiến rồi, bây giờ tôi xin mời cụ Thưởng phát biểu cảm nghĩ của cụ về việc làm khuất tất của mình. Cụ nói thế nào đó mà để cho đám trẻ nó biết xấu mà tránh.
…..
- Kìa, cụ phát biểu đi chứ, cụ có quyền bào chữa cho mình để mọi người cân nhắc.
Cả phòng tự nhiên im phăng phắc, không một tiếng động, người ta nghe rõ cả tiếng thở rưng rức, nghèn nghẹn của ông Thưởng, đôi mắt đỏ ngàu, một màu đỏ đến lạ lùng khiến người ta lạnh gáy, đỏ hơn máu, gương mặt ông đanh lại cương cứng, răng nghiến vào nhau kèn kẹt nghe đến rợn người
- Hay là cụ thấy điều lệ của hội quá khó, cụ không muốn gia nhập hội các cụ nữa phải không?
Ông Thưởng đứng bật dậy, như nước vỡ đê. Mọi ánh mắt tò mò xen lẫn ngạc nhiên dồn về góc phòng. Tiếng ông rít qua kẽ răng
- Chúng mày, chúng mày không có quyền sỉ nhục tao. Phải, tao không muốn làm các cụ, tao là người, là con người…
Vợ đĩ
Chủ nhật, 25 Tháng 9 2011 14:27 0 Comments BẠN ĐỌC GỬI - Truyện
Hắn với tay lấy cái điếu cày, hít một hơi thật sâu, cái điếu phả ra tiếng kêu sòng sọc, sòng sọc rồi ngân dài theo riếng rít của hắn. Hắn ho sụ sụ, dạo này hắn thấy sức khỏe không ổn.
Có khả năng một bộ phận nào đó trong bộ máy nuôi dưỡng cái hình hài xác xơ, tiều tụy của hắn đang gặp trục trặc. Thi thoảng còn thấy đau chỗ này, chỗ kia nhưng thây kệ, hẵn cũng ngấp nghé ngũ tuần, cái tuổi mà với hắn thì dẫu có làm sao cũng chẳng mấy quan trọng. Chết là hết. Nhưng nếu hắn mà chết thì ai trông nom thằng con hắn, nó mới học lớp tám..
Cái thằng mất dạy, cứng đầu. Ngày bé nó đâu có thế. Nó ngoan, thông minh lại học giỏi. Vậy mà giờ nó học ở đâu cái trò ăn trộm ăn cắp, nó học theo hắn đánh lô đề, học chúng bạn chơi game, điện tử. Đã bao lần hắn phải vác xe đi tìm, cái roi mây trên tay hắn vụt tới tấp trên da thịt nó, vụt nhiều đến nỗi oằn hẳn sang một bên. Hắn cột cả cái dây thừng vào cổ tay nó rồi buộc vào đuôi xe đạp kéo nó chạy bộ dọc đường về. Vậy mà thằng con hắn chẳng kêu ca nửa lời. Đúng là lì lợm như con mụ vợ hắn..
- Mày không thương bố mày hả con? Mày không thương bố thì cũng phải thương lấy cái thân mày chứ...Rồi mày tính đi ăn trộm ăn cướp cả đời hả con?
- Ăn trộm ăn cướp cũng được, không còn ăn cướp được nữa thì tôi sẽ lấy một người vợ làm gái điếm như ông....
- Thằng mất dạy...láo...tao giết mày..
Hắn gằn giọng, máu trong người hắn sôi sùng sục, đầu nóng như cái chảo nung...hắn vụt tới tấp cho hả cơn giận. Mặt hắn nhăn nhúm lại, hắn cố kìm lại cơn đau, không cố thì chắc hắn khuỵu chân rồi khóc ròng trước mặt thằng bé.
Máu ở chân thằng bé tóe ra. Hắn xót, xót thằng con hắn, xót cho cả hắn. Cuộc đời hắn sao trần trụi, loang lổ những vết là vết. Hắn hận đời, hận hắn, hận cái kiếp nghèo, hận cả mụ vợ hắn đã ngoại tình, đã làm đĩ còn bày đặt tình người, còn gửi tiền về chăm lo cho bố con hắn, còn xây nhà cho bố con hắn ở...
Mụ vợ hắn đẹp lắm. Ngày hai người còn đang tìm hiểu đã bị gia đình hai bên phản đối. Vì nhà hắn nghèo nhưng gia giáo, nhà vợ hắn thì không nề nếp, mấy đời làm đĩ nhưng gia đình vợ lại chê hắn già, hơn vợ hắn đến một giáp. Nhưng hắn vẫn quyết tâm lấy vì hắn thấy vợ hắn chẳng đến nỗi nào, đâu phải gia đình làm đĩ thì mặc nhiên vợ hắn cũng phải làm đĩ.
- Anh sẽ không hối hận khi lấy em chứ?
- Còn em? Em có hối hận khi lấy anh không? vừa già vừa nghèo...
- Hi..em không hối hận. Nghèo mà có tình..già mà có sức khỏe thì em không sợ nghèo
- Là em nói đấy nhé
Lúc mới lấy nhau, vợ chồng hắn hạnh phúc lắm. Cơm rau với đậu phụ thôi mà sao vẫn thấy ấm cúng, vui vẻ. Hắn làm ở bên văn hóa xã. Nhưng rồi vì tính hắn thẳng, không chịu được cái bất công, chèn ép, không chịu lụy ai nên người ta cho hắn "về vườn" sớm. Còn chẳng được ăn lương. Cầm tháng lương cuối cùng về cùng vài đồng trợ cấp, hắn trở thành thằng thất nghiệp từ đấy. Làm bạn với mấy sào ruộng, được mùa không sao, mất mùa là cả nhà hắn lao đao. Rồi vợ hắn lại sinh con. Bao nhiêu việc phải lo.
Hắn loay hoay không biết phải làm gì, không biết phải đối phó với cái đói, cái nghèo ra sao. Hắn tính đến chuyện đi nước ngoài làm ăn. Vốn thì vay ngân hàng. Nhưng đi khám sức khỏe người ta lại kêu hắn thấp, gầy quá không đủ điều kiện để sang đó làm. Hắn lại về vườn. Vợ nhìn hắn xót xa.
Hắn lại quyết định lên miền ngược một chuyến. Hắn có người bà con trên đấy. Nếu thuận lợi thì hắn sẽ dẫn cả vợ con lên. Nhưng lên rồi hắn lại phải trở về vì hắn không thích nghi được với chốn rừng thiêng, nước độc, không bệnh xá, trường học cũng xa xôi..
Khi trở về, hắn thấy mọi người bàn tán, nhìn hắn bằng ánh mắt tò mò, thương hại. Hắn cũng tò mò. Có câu nói với theo:
- Đúng là cái số sinh ra làm đĩ thì sớm muộn gì cũng làm đĩ..
Hắn nóng mặt. Chạy thẳng về nhà. Thấy vợ hắn đang ngồi ôm con, mặt mày thâm tím, mắt còn đỏ hoe, đỏ như máu trong người hắn đang dâng ngập lòng. Hắn cố kìm nhưng giọng hắn đanh lại.:
- Có chuyện gì...chuyện gì đã xảy ra..
-....
- hắn rúm ró. Khóc không thành tiếng. Tiếng nói lí nhí cố bật ra nơi cổ họng
- Em xin lỗi..xin lỗi anh...nhưng con đói...nhà không còn đồng tiền nào....
- Cô...Cô...ra khỏi nhà tôi...Cút...cút ngay...
Hắn đau, mắt hắn long lên sòng sọc. Vợ hắn chạy tới quỳ dưới chân hắn...
- Anh ơi..đừng...đừng đuổi em..anh thương em..tha cho em....nhà mình hết sạch gạo,sạch tiền rồi anh à...
Hắn khựng lại. Miệng hắn đắng ngắt. Đau đớn, xót xa. Cái đau của thằng đàn ông không lo được cho vợ con có nổi một bữa cơm đạm bạc. Hắn hất tay vợ ra, đẩy cô vào góc tường. Rồi im lặng mang chai rượu ra ngoài hiên ngồi. Rít từng hồi thuốc lào...sòng sọc...rồi lại ho sụ sụ...
Sau lần ấy. Mặt hắn chai lì, chẳng nói chẳng rằng. Hắn mặc cho vợ hắn muốn làm gì thì làm. Nhưng cô cũng chỉ quanh quẩn ở nhà. Dáng vẻ lầm lũi, sợ sệt..Hắn không mảy may nhìn cô.
Một khoảng thời gian sau thì vợ hắn quyết định đi xuất khẩu lao động. Cô hỏi ý kiến hắn, hắn buông câu: Tùy cô..
Rồi cô đi Đài Loan. Để lại thằng con cho hắn nuôi. Nhà mang ra thế chấp để vay ngân hàng. Cô sang đó được 3 tháng thì bắt đầu gửi tiền về. Hắn lấy số tiền đó một phần trả nợ, một phần nuôi thằng con trai ăn học. Cô sang đó không phải lao động mà theo môi giới, cô lấy một người chồng Đài Loan.
Thằng bé học giỏi, ngoan ngoãn, nghe lời. Cho đến khi nó học hết cấp I. Nghe đâu đánh nhau với bạn, rồi mẹ thằng đó chạy ra quát nó:
- Cái thằng mất dạy. Mẹ mày đi làm đĩ nên không dạy nổi mày. Tiền làm đĩ nên mới nuôi ra một thằng vô giáo dục..Mày đánh con bà thế này à..
Thằng bé non nớt. Nhận mấy cái bạt tai, đau điếng, nó khóc, nhưng mắt nó tròn vo. Nó chưa hiểu gì về mẹ nó. Hỏi bố thì bị quát mắng nên nó chưa bao giờ dám hỏi gì thêm. Trong cái đầu non nớt của nó cũng không định nghĩa được "Đĩ" là gì..làm đĩ là làm gì..nhưng nó cũng hình dung chắc phải xấu xa lắm thì bà ta mới xỉ vả nó như vậy.. Nó tìm hiểu, nó hỏi mấy anh lớn tuổi hơn nó nhận được câu trả lời gọn lỏn:
- Làm đĩ là ăn nằm với người đàn ông khác không phải bố mày, làm tình rồi tiền trao tay..cháo múc...
Cả bọn cười lớn. Tiếng cười kinh bỉ. Thế là nó hiểu. Nó chán trường. Nó hiểu nó đang tiêu đồng tiền từ việc mẹ nó ngủ với người khác mà có. Nó sinh hư, nó ghê tởm, nó không thèm động đến một đồng tiền nào. Không có tiền thì nó đi ăn trộm, ăn cắp..
* * *
Hắn bị ung thư phổi giai đoạn cuối. Bác sĩ nói sẽ rất khó qua khỏi. Phải xạ trị thì mới mong kéo dài thời gian.
Biết tin, hắn cười nhạt...nhạt thếch...thế là hết một đời. Nhưng còn thằng con. Hắn sẽ không nhắm được mắt nếu nó hư hỏng, hắn sẽ không yên lòng khi nó còn hận mẹ nó.
Hắn bấm số gọi cho vợ:
- Cô về đi. Tôi bị ung thư rồi. Chẳng sống được bao lâu nữa đâu. Nhưng còn thằng bé. Dù cô có thế nào thì cô cũng là mẹ nó. Tiền cô gửi về tôi gửi tiết kiệm hết đấy, tôi không động đến. Cô thu xếp cho ổn thỏa rồi về..
Nói rồi hắn tắt máy. Tối về hắn gọi thằng con vào phòng. Thằng bé vác cái mặt lạnh tanh vào:
- Tuấn...bố bị ung thư rồi...
Thẳng bé mắt tròn xoe, ngẩng mặt lên nhìn hắn
- Mày không phải ngạc nhiên. Tao hút thuốc nhiều thì ung thư là chuyện đương nhiên rồi. Chắc mai, ngày kia là tao chết thôi. Mày không phải lo ai đuổi đánh mày nữa. Trôm cắp thoải mái..
Hắn vừa nói vừa nhếch mép cười nhạt...đau xót..Thằng bé vẫn nhìn hắn trân trân
- Tao nói vậy thôi. Mày không phải nói gì cả. Nghe tao nói này. Mẹ mày không có lỗi. Lỗi là lỗi ở cái thằng đàn ông như tao, bất tài, vô dụng, không nuôi nổi mẹ con mày. Để mẹ mày phải sang ấy làm vợ người ta. Làm điếm xứ người. Mày thấy xót không? Mày thấy thằng đàn ông như tao có đáng khinh không?
- ...
- Thế nên người mày hận là tao chứ không phải mẹ mày...Tao gọi mẹ mày về rồi. Mẹ mày mà thu xếp về được thì mày thay tao chăm sóc mẹ mày...thay thằng đàn ông thối nát như tao lo cho gia đình này...mày hiểu chưa?
Thằng bé nhìn hắn rồi khóc, nước mắt lưng tròng. Nó chưa hiểu hết những lời bố nó nói. Nhưng nó thấy trái tim nó yếu mềm, chưa bao giờ yếu mềm hơn thế. Nó khóc dài, nấc nghẹn:
- Bố...bố không được chết...Con xin lỗi...
- Mày thì có lỗi gì...tao mới là người có lỗi. Trước khi chết tao chỉ có một điều mong muốn duy nhất là mong mẹ con mày tha lỗi cho tao. Mày cố gắng học hành để sau này báo đáp lại mẹ mày. Tao bất lực rồi. Tao chẳng làm được gì nữa...Mày giúp được tao chăm sóc mẹ máy là tao cũng yên lòng, thanh thản mà ra đi...
- Bố..Bố không được chết....
Thằng bé cứ thế khóc. Nước mắt nó tuôn ra không ngớt. Lòng hắn cũng nghẹn lại. hắn chẳng kìm được nữa. Hắn cũng khóc:
- Con ơi...Bố xin lỗi...
Nói câu xin lỗi với thằng con mà giọng hắn lạc hẳn đi. Hắn khóc, hắn thấy cuộc đời hắn chỉ như một con chó không hơn không kém. Chó chui gầm chạn, còn hắn, hắn chui rúc vào váy vợ, con vợ làm đĩ xứ người. Chỉ vì hắn vô dụng mà kéo theo cả gia đình phải chịu cái nhìn khinh miệt, dè bỉu của người đời. Người ta gọi vợ hắn là con đĩ, gọi hắn là thằng chồng hèn, thằng cam chịu, thằng đổi chác vợ mình lấy mấy đồng tiền dơ bẩn, gọi thằng con hắn là đứa mất dạy, vô giáo dục. Rồi bên nội, bên ngoại đều khinh gia đình hắn, chẳng ai thèm ròm ngó.
Hắn xót xa, quàng tay ôm chặt thằng con vào lòng. Thằng bé đáng thương, phải chi không sinh ra trong gia đình này thì tương lai của nó dù có không sáng lạn cũng phải nhìn thấy một vài tia hy vọng dù là mong manh. Nhưng không, nó chưa kịp đưa tay chạm vào cái vệt sáng le lói, mong manh ấy thì ngọn nến hy vọng kia đã vụt tắt trong tâm hồn còn non dại của nó. Hắn thấy mình bắt lực. Hắn đã từng bất lực trước cái nghèo, giờ hắn lại bất lực với chính hắn, bất lực với cả thằng con trai độc nhất này. Hắn chết đi rồi thì thằng con hắn sẽ ra sao? Nếu mẹ của nó không về được thì cuộc đời thằng bé sẽ thế nào? Nhìn thằng bé khóc, nước mắt nước mũi nó chảy dài, ướt đẫm cả ngực áo của hắn, xót xa, cay đắng, phũ phàng quá....
Hắn như muốn phát điên, hắn muốn lấy cái roi mây kia quất tới tấp vào da thịt, vào cái thân hình chẳng làm nên trò chống gì của hắn. Hắn muốn lấy cả sợi dây thừng cột tay mình lại, buộc vào cái xe bò cho nó kéo hắn lê lết, bê bết như cái vũng nước ao tù kia
- Tao ghét mày...tao ghét mày..
Thằng bé vùng chạy ra chộp lấy cái điếu cày. Nó đập liên hồi vào cây bàng còn trơ gốc. Nước trong ống điếu bắn tung tóe ra khắp sân, bắn cả vào người nó ướt đẫm, cái mùi chua loét, khai khắm, hôi hám, mùi ghê tởm, bệnh hoạn. Hắn cười lớn. Đúng, mùi ghê tởm, bệnh hoạn. Nhưng lại dậy lên sự thèm sống trong hắn. Hắn cười ngờ nghệch, cười mà nước mắt chảy thành dòng trên khuôn mặt chằng chịt nếp nhăn của hắn. Bản năng sinh tồn trong hắn trỗi dây. Hắn khát sống...hắn khát thấy thằng con hắn trưởng thành, nên người...
Thằng bé mới 14 tuổi, từng học giỏi, thông minh. Vậy mà chỉ sau hai năm, trái tim nó đã loang lổ những vết hằn sâu của lòng thù hận. Nó hận mẹ, hơi ấm từ vòng tay mẹ còn chưa cảm nhận hết. Vậy mà những gì người ta nói về mẹ thì nó cảm nhận rõ rệt, hằn sâu trong tâm trí. Nó bắt đầu sợ ánh mắt mọi người, lạc lõng, lẻ loi giữa chúng bạn. Rồi nó thu mình lại, bỏ học, bỏ cả tuổi thơ trong sáng. Làm bạn với đêm, làm bạn với tiếng rít thuốc của bố..
Kí ức của nó là những đêm dài thu lu ngồi trong bóng tối, khóc không thành tiếng. Những trận đòn làm chân nó tê cứng. Cố gắng nín thinh, chai lì rồi đêm về lại vỡ òa, nhức nhối..
Kí ức của nó là những đêm đi ăn trộm cùng thằng Tây. Không dám trèo tường theo thằng đó vào nhà người ta. Tiếng gió rít, tiếng mèo gào làm nó rùng mình, hoảng loạn, sợ hãi. Là những lần trái tim nó run sợ, đứng như trời trồng trước ánh đèn pin của dân phòng. Nó bị bắt còn thằng Tây thì lặn mất tăm...
Nó thèm học, thèm được như chúng bạn. Nhưng nó xấu hổ, tủi thân. Chỉ biết gồng mình tìm cho mình một vỏ bọc, kiếm cho mình vẻ mặt lì lợm đối mặt với đời.
Đêm nay, nước mắt nó lại chảy dài. Nó thương bố, cảm giác sắp mất đi người thân yêu làm nó hoảng loạn, sợ hãi. Rồi nó sẽ phải bám víu vào ai? Bố nói tha lỗi cho mẹ. Nó còn hận mẹ nhưng nó vẫn thèm có mẹ ở bên. Như lúc này đây...nó sợ bố nó chết...sợ mẹ không về....
- Reng..reng..
Tiếng chuông điện thoại làm nó giật mình. Là của mẹ. Giờ này, mẹ vẫn hay gọi về. Nó thì không bao giờ bắt máy. Nhưng nó vẫn thường lắng nghe bố mẹ nó nói chuyện
- Alo...
- ừ, tôi biết rồi. Tôi sẽ chữa bệnh...
- Cô sao không về? Tôi chết thì sao? Tôi chết thì thằng Tuấn sẽ sao?
- Thôi, tùy cô...
Giọng bố trầm lắng, gay gắt rồi lại thờ ơ. Vậy là nó hiểu. Mẹ không về. Ánh mắt nó đầy căm hờn. Mẹ không về. Tại sao? Tại sao? Mẹ không thương bố, không thương nó thật sao? Mẹ cần tiền, cần cuộc sống đầy đủ như vậy sao?
- Con không cần..không cần bố lo cho con..không cần mẹ...con sẽ tìm thuốc chữa bệnh cho bố..bố phải sống...bố phải sống....
Nói rồi nó chạy vụt đi. Nó tủi thân, khóc tức tưởi. Nhưng nó sẽ tìm mọi cách, tìm mọi phương thuốc chữa bệnh cho bố. Bố phải sống. Nhất đinh nó phải làm được.
* * *
Bệnh viện đông nghẹt người. Hàng ngày vẫn có hai người đến đây thăm khám. Một già, một trẻ. Thằng bé với ánh mắt ráo hoảnh, làm quen hết người này đến người kia hỏi về các phương thuốc chữa bệnh ung thư. Có người mách nó chuyển sang đông y. Nó làm theo...
Nó lên tàu, vào Nam ra Bắc. Một thằng bé con vậy mà cứng rắn, mạnh mẽ hơn những gì mọi người tưởng tượng. Bố nó cũng phải ngạc nhiên. Đưa nó quyển sổ tiết kiệm, để nó toàn quyền quyết định. Ông cũng đang hy vọng, dù là mong manh....một hy vọng sống nhỏ nhoi....
Thằng bé chuyển bố nó sang chữa bệnh bằng đông y. Một năm có lẻ. Sức khỏe có vẻ khá hơn. Cũng không hẳn, có thể là vì ngọn lửa tình thân đang bùng cháy trong cả hai con người..một già, một trẻ...
Nhìn thấy sức khỏe của bố đang tiến triển. Nó vui mừng, có thể đây là phương thuốc phù hợp với bố. Nó tính sẽ đi học lại...
Lâu rồi nó không nghe thấy tin tức của mẹ. Sau lần mẹ gửi một khoản tiền lớn về cách đây một năm thì không thấy mẹ nó liên lạc nữa. Nó càng hận. Nó thề khi nó lớn lên, nó sẽ trả lại bà tất cả số tiền mà nó đã nhận. Bà không xứng đáng là mẹ nó, bà không thương nó...
Reng..reng...
- Alo..nó bắt máy
- Xin lỗi...đây là nhà của anh Huân, chồng cô Xuân phải không?
- ..dạ...đúng...ai đấy ạ?
- Tôi gọi đến từ bệnh viện. Chúng tôi thành thật chia buồn...Cô ấy đã chết trước khi kịp đưa đến đây...Cô ấy có để lại bức thư kèm số điện thoại của gia đình...
- Bệnh viện nào..ở đâu hả chú?
Nghe vị bác sĩ nói. Giọng nó bình thản. Trong lòng nhói mạnh, tê tái nhưng nó vẫn dửng dưng. Mẹ từ lâu đã không còn tồn tại trong nó nữa...
Giấu bố, nó nhảy chuyến tàu vào Nam. Nó kêu người ta bố nó đã mất, nhà không còn ai thân thích, rồi xin được hỏa táng mẹ, mang cốt về quê chôn cất....
Vẫn giấu bố. Một mình nó chôn mẹ. Không một giọt nước mắt. Nó cũng không quan tâm mẹ tại sao lại chết. Nó vẫn hận. Với nó bây giờ, bố là quan trọng nhất. Mẹ nó chết hay sống thì cũng vậy thôi. Bọc đồ của mẹ, nó vất vào góc tủ...
* * *
Năm năm, rồi bảy năm...Bố nó vẫn khỏe. Chẳng biết có phải trời thương tình nên đã không cướp đi người thân cuối cùng của nó không. Nhưng nó vẫn thầm cảm ơn. Công sức nó bỏ ra đã không vô ích...
Cầm tấm bằng Đại học trong tay. Nó trở thành bác sĩ. Nó quyết đinh lấy vợ. Một cô giáo làng..
Con trai nó giờ đã lên bốn tuổi. Bố nó cũng không còn khỏe nữa. Nhưng nó thấy ánh mắt ông thanh thản. Cũng không thấy ông nhắc gì đến mẹ. Chắc ông cũng không muốn nhìn lại quá khứ đau thương ấy...
- Bin Bin...con làm gì thế..
Nó ngoảnh mặt lại theo tiếng vợ nó nhắc nhở thằng con. Thằng Bin đang lục lọi cái hộc tủ cũ trong nhà kho. Là cái bọc đồ của mẹ nó để lại. Trên tay thằng con nó là một bức ảnh chụp lén hình nó kèm một bức thư:
" Tuấn à. Mẹ xin lỗi. Mẹ không xứng đáng là mẹ của con, là vợ của bố con. Mẹ chưa làm trọn đạo nghĩa, làm trọn thiên chức của một người đàn bà. Nhưng Mẹ chỉ muốn giải thích một điều. Mẹ chưa bao giờ làm Đĩ. Mẹ đã bán sữa của mình cho ông cụ hàng xóm để lấy tiền mua gạo. Mẹ đã sang Đài Loan lấy chồng theo môi giới nhưng rồi bỏ trốn. Tiền mẹ gửi về là tiền mẹ rửa bát thuê, làm osin, làm công nhân mà ra. Con biết không, tất cả đều là tiền sạch. Tha lỗi cho mẹ. Mẹ về Việt Nam ngay khi hay tin bố con bệnh. Nhưng con à, mẹ bị lao lực. Mẹ không đủ sức khỏe để lo và chăm sóc cho hai bố con con. Mẹ cũng không muốn mẹ về rồi lây bệnh sang mọi người. Mẹ xin lỗi. Nhưng con ơi...cả cuộc đời này, người mẹ yêu thương nhất là con, và bố của con. Con phải thành người....để mẹ được mỉm cười nơi chín suối. Và nhớ rằng, cái nếp của gia đình cũng vô cùng quan trọng. Con phải nuôi dưỡng ngay từ lúc ban đầu..Mẹ đã không được may mắn sinh ra trong một gia đình tử tế nên việc gì mẹ làm cũng để lại hoài nghi trong ánh mắt mọi người. Mẹ đã trở thành người mẹ không tốt, thành người mẹ tồi tệ với chính đứa con của mình, với chính người chồng của mình, là nỗi xấu hổ của hai bố con. Tha lỗi cho mẹ....
Mẹ xin con, hãy tha lỗi cho mẹ....
Mẹ yêu con, yêu bố của con !!!"
Ngồi phịch xuống ghế. Mắt nó trân trân nhìn lên trần nhà. Rồi nó chạy, chạy thục mang ra nơi mà nó đã chôn cất mẹ..Nơi cỏ mọc hoang san bằng cả nấm mộ ngày xưa nó đã đắp. Không một nén hương, không một tấm bia ghi tên. Nó oằn mình, nấc nghẹn....
_Mẹ ơiiiiiiiiiiiiiiiii....................
Một đời con mãi ngang tàng
Mẹ thì hiền hậu hai hàng lệ tuôn
một đời con mãi đi buôn
Mà không lãi nổi nỗi buồn mẹ vơi !!!
Thằng mô
Chủ nhật, 04 Tháng 12 2011 20:40 TRUYỆN - Truyện ngắn Nguyễn Đình Phi
Hắn say thật rồi! Nốc như thế gì mà không say! Hết bia lại rượu Tây, hết rượu Tây lại rượu đế. Mắt hắn lờ đờ, giọng thì lè nhè, tay khờ khoạng, chân đi không vững. Cái caravat hắn đã kéo rộng ra để dễ thở và để rượu trôi xuống dạ dày nhanh hơn.
Hắn nhìn chằm chằm vào ly rượu, làm cho cái mặt hơi chúi xuống một tý, mắt nhìn về phía trước, cái lòng đen của con ngươi bị mi mắt trên che hết một phần, phần còn lại nằm trong cái lòng trắng vằn lên mấy tia máu đo đỏ, trông hắn dữ hơn mọi ngày. Cái giọng méo mó cất lên, ngắt quãng:
- “Bạn hiền” đâu… đâu… hết rồi, sao còn ít… ít thế này?
Thế là hắn điểm danh:
- Thằng Ba củ kiệu đâu?
- Dạ! Có em.
- Thằng Hùng cóc?
- Có đệ tử!
- Còn thằng Long?
- Dạ! Em đây! - Thưa thủ trưởng
Hắn điểm danh từng người một, hắn muốn cho mọi người biết hắn có tình nghĩa với anh em, hắn không bỏ ai thì đừng ai bỏ hắn. Bạn của hắn có mười người, đếm chỉ được chín, còn thiếu một. Bỗng hắn chửi: “Đ.má! Còn thằng nữa trốn đâu rồi?”
Mọi người cười ầm lên, có tiếng nói xen vào: “Còn một người nữa là sư huynh đấy!”. Hắn nghĩ ra, hắn cười lại thấy hiền, vì được bạn bè tôn trọng mình qua cách xưng hô, hắn tỏ vẻ hài lòng. Hắn đứng lên, đến vỗ vào vai tôi:
- Giới thiệu với anh em. Đây là anh Tư cùng làng, anh làm vệ sỹ cho Mô từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường. Nay nhờ anh Tư, nên Mô đã được đề bạt làm phó giám đốc, anh đang bảo vệ cho công ty và làm vệ sỹ cho Mô nữa.
Nói xong, hắn nhìn mọi người, rồi nhìn tôi: “ Em giao nhiệm vụ cho anh, thằng nào bỏ về, anh cứ bắn bỏ”.
Hắn cầm ly rượu giơ lên:
- Em với anh có duyên đấy. Đây là ly rượu tình, rượu nghĩa, mời anh 50%.
Quả thật, khi nghe giọng nói bất nhã, tôi đã định đứng lên cho hắn quả đấm vào mồm, để chừa cái thói láo toét. Nhưng lại nghĩ: “Giờ nó là lãnh đạo một công ty, đang giữ túi cơm, manh áo và cuộc sống của gia đình mình. Thôi! Nhịn cho xong. Vả lại, giờ nó đang xỉn, không chấp nữa!
Hắn cầm chai rượu, rót đầy ly mang đến mời từng đứa bạn của hắn, hắn nói về những kỷ niệm, mà hắn cho là đáng ghi nhớ, nghe rất tình nghĩa, thuỷ chung, họ đều là những người bạn tri kỷ. Mặc cho hắn nói, họ có mất gì đâu, những bữa xả láng như thế này, là do hắn bao. Hắn lại khề khà:
- Thưa chiến hữu! Nay là ngày sinh thứ ba mươi của Mô, anh em hãy vui hết mình! xong tăng này, mình sẽ đi tăng hai, tăng ba. Nếu anh em muốn! Còn bây giờ! Xin mời! Không say, không về!
Mọi người reo hò tán thưởng.
Rồi hắn vừa hát, vừa bắt nhịp bài: “Em ơi! Chiều nay, một trăm phần trăm. Em ơi! Chiều nay, một trăm phần trăm…”
Thấy vậy, người thì lấy đũa, người lấy thìa, lấy chén bát làm nhạc cụ đệm. Bỗng thấy hắn ho, hình như hắn muốn ói, bụng hắn như cuộn lên, những thứ mà hắn đã nuốt vào bao tử như đang trào ra miệng, làm hắn phải phồng má giữ không cho nó phụt ra mâm, hắn phải lấy tay bịt mồm, rồi hắn cũng kịp nuốt nó vào. Tôi thấy nước mắt hắn chảy ra. Không phải hắn cảm động vì “bạn hiền” hưởng ứng, tung hô, mà do cơ má, cơ mồm đã ép vào tuyến nước mắt, làm cho nước chảy ra vài giọt.
Thấy mọi người đã say, tôi đứng lên nói:
- Xin mạn phép Mô và các bạn. Cuộc vui nào cũng có lúc tàn, anh em đều mệt, ta có thể dừng tiệc rượu lại đây, hẹn dịp khác. Xin ý kiến mọi người!
Mô ngước mắt lên nhìn tôi, tỏ vẻ không hài lòng:
- Không được! Bữa nay, tôi chủ xị, tôi chưa cho phép ai về. Thằng nào về thì hãy bước qua xác Mô!
Hắn nói mạnh, dứt khoát, cương quyết. Hắn với lấy chai rượu rót đầy vào cái cốc to, rồi giơ lên:
- Thưa “bạn hiền!” Mình vui, sướng có nhau, cốc rượu này mình sẽ chia đều cho cả bàn, mỗi người một miếng, Anh Tư uống trước, vì anh còn phải lái xe nên anh nhấm môi cũng được. Còn lại phải chia đều.
Thế là cốc rượu được chuyển đi theo vòng tròn, ai uống ít thì phải uống thêm cho công bằng.
Bỗng thấy tiếng chuông điện thoại reo. Hắn có vẻ khó chịu. Ai lại cắt ngang cuộc vui của hắn? Hắn bấm máy, nói giọng hách dịch:
- Ai đấy! Gọi gì?
Hắn nghe chăm chú, nhìn thấy cái mặt ngây ra, dại đi, giọng chùng xuống: “Rồi!... Rồi! Rồi…”.
Nghe xong, hắn nhìn mọi người:
- “Sư tử Hà Đông” gọi về… hừ, hừ…, nó nói gì nhỉ? À! Nó bảo có việc của công ty.
Như vậy, hắn cũng biết sợ. Hắn đứng dậy, hai bàn tay thì nắm lại với nhau rồi giơ lên giống như võ sinh chào sư phụ trong phim kiếm hiệp:
- Xin cáo lỗi anh em, Mô có việc khẩn phải về. Tiệc rượu dừng lại đây, xin hẹn lần sau. Thôi! Chào!
Hai bàn tay lại xoè ra, lòng bàn tay hướng về mọi người như muốn nhắc: “Hãy trật tự”. Rồi hắn đọc hai câu thơ:
Chén vui nhớ bữa hôm nay
Chén mừng xin đợi ngày này sang năm.
Mọi người lại vỗ tay tán thưởng. Họ lố nhố đứng lên, như chào hắn. Có người nói như nịnh: “Thơ hay, hay quá, thủ trưởng lại biết làm thơ nữa. Vận dụng đúng vào hoàn cảnh hôm nay! Chúng em tạm biệt thủ trưởng!
Tôi dìu hắn ra xe. Xe nổ máy đi được một quãng, hình như hơi xăng, làm cho Mô khó chịu, Mô ậc ậc lên mấy tiếng, chẳng kịp mở kiếng xe, thế là hắn nôn thốc nôn tháo đầy ra ghế, ra sàn xe. Rượu lẫn trong thức ăn, một cái mùi nồng nặc, chua chua, nồng nồng… thật khó chịu, nhưng xe đang chạy, không dừng lại được. Hắn lại oẹ, hắn ộc ra mấy lần nữa, rồi hắn khạc, hắn nhổ. Kệ hắn, cứ để cho hắn ói ra xe nhà hắn. Hắn từ từ đưa tay lên vuốt dớt dãi chùi xuống nệm xe, rồi nằm ngả lưng xuống ghế, hắn ngủ.
Lúc này tôi mới có dịp nghĩ về cuộc đời hắn.
Mô với tôi cùng làng, hắn học sau tôi hai lớp, hắn rất hiền, phải nói là quá hiền, hay bị bạn bè bắt nạt, cả cái thằng ít hơn hai, ba tuổi nó chọc ghẹo mà Mô cũng không có phản ứng gì. Một hôm, tôi sang nhà Mô chơi, mẹ Mô mừng lắm, bà vào nhà, lấy khoai cho tôi ăn, tôi vừa cắn miếng khoai, chưa kịp nuốt thì đã nghe bà nói như năn nỉ:
- Thằng Mô nhà cô còn khờ dại, cô nhờ cháu rủ nó đi học, lúc về hãy cho nó đi cùng để bọn trẻ không đánh em, có quà cô sẽ cho cháu…
Vì tôi đang ăn, nên chỉ gật đầu đồng ý. Tôi cũng hiểu rằng, nếu tôi bảo vệ được Mô, tôi sẽ được ăn khoai, được bà cho quả chuối, có thể được nắm xôi khi bà đi đám giỗ về.
Tôi lên cấp 3, không đi học cùng Mô nữa. Thế là hắn nghỉ học.
Học hết phổ thông, tôi vào bộ đội. Xong nghĩa vụ, tôi được xuất ngũ, đi học lớp vệ sỹ rồi về làm ở một công ty.
Còn Mô, nay đã là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, to cao lực lưỡng, trắng trẻo, đẹp trai, mái tóc rẽ ngôi bổ đôi, trông rất đĩnh đạc.
Mô nhìn tôi mặc quần áo vệ sỹ thấy oai, nên bảo mẹ sang nhờ tôi xin cho đi làm ở công ty. Mẹ Mô nói với tôi như phân trần: “Nó lớn xác nhưng không có khôn, ngu ngu ngơ ngơ, lại muốn đi làm chỗ cháu, nhờ cháu chỉ bảo, xem nó có khôn ra được tý nào không? Cháu hãy giúp nó nhé!”
Mô làm xong hồ sơ, tôi đưa nó đến công ty, khi về nhà, nó khoe với mẹ: “Chỗ anh Tư có rất nhiều tivi, mỗi người một cái, đánh được cả chữ vào trong ấy!”
Sau đó tôi giới thiệu Mô đi học lớp vệ sỹ, ra trường hắn về làm cùng công ty với tôi.
Một hôm, gặp được bà chủ tịch hội đồng quản trị, tôi giới thiệu với bà về Mô, bà có vẻ thích hắn, bà đưa về làm bảo vệ văn phòng.
Mấy tháng sau, Mô nói chuyện với tôi:
- Bà chủ rất tốt, thỉnh thoảng bà sai em về nhà lấy mấy thứ cho bà, nhà bà giàu, một lần chỉ có mình em coi nhà, thấy một sấp tiền rơi ở gầm ghế, lần khác lại thấy chiếc nhẫn vàng rơi ở giường, em nhặt được đều trả lại bà. Bà có cô con gái, đang học đại học năm thứ hai, nhưng nay bỏ học rồi, nó hay rủ em vào phòng riêng chơi, nước hoa thơm phức, phòng nó cũng có vi tính, nhưng cái máy này hiện đại hơn máy ở công ty, chiếu được cả phim nữa. Thích thật.
Tôi nói đùa: “Hay là nó thích mày đấy”
- Không dám! Nhà nó giàu, lại có học, còn em thì nghèo, lại ít chữ, chẳng hợp đâu!
Mấy ngày hôm sau, tôi gặp bà Loan, bà có ý muốn hỏi Mô cho con gái bà.
Tôi dè dặt: “Sợ con bà nó không chịu…” Tôi chưa kịp nói hết câu, bà đã nói luôn:
- Tôi thấy nó ngoan, khoẻ mạnh, hiền lành và thật thà, nhà tôi không có con trai, muốn có người về trông coi. Cái Phượng, con gái tôi nó sướng quen rồi, đi học đại học không chịu được khổ, nên về nhà, tôi muốn chúng nó lấy nhau, sau này còn thay tôi lo liệu việc công ty. Vậy nhờ anh giúp nhé!
Bà Loan khen nó thật thà. Tôi chợt nhớ tới mấy lần nó nhặt được tiền và vàng... Bà là người nhanh nhẹn, tháo vát. Là người lãnh đạo có khác. Dám nghĩ, dám làm, gặp thời cơ, thấy được là bà quyết luôn.
Thằng Mô nghiễm nhiên trở thành ông chủ kế cận sau này.
Khi Mô là con rể, bà cũng thấy nó có nhiều yếu kém, nhất là giao tiếp. Bà nhờ tôi dạy hắn từ cách nói năng, tư thế đi lại, cách uống rượu, uống bia, mời chào lượt đi, lượt về... Tôi nói gì hắn cũng nghe. Mấy năm đầu, mỗi lần đi giao tiếp, Mô nói với mẹ vợ cho tôi đi cùng để giúp Mô. Vài năm gần đây không thấy Mô rủ tôi đi nữa.
Mẹ vợ cho hắn học lái xe, rồi hắn cũng biết lái xe đưa vợ đi chơi và đưa bà đến công ty.
Bà đã cho Mô làm phó Giám đốc phụ trách đời sống. Giờ hắn oai lắm, đi làm mặc quần tây, bỏ áo trong thùng, thắt caravat, giầy đen bóng lộn. Thấy hắn, họ chào, hắn gật đầu. Sau này, chỉ có việc gật đầu khi được người ta chào mà hắn cũng quên, không để ý đến họ, hay là hắn đang mải nghĩ công việc. Tôi đã chứng kiến trong một bữa tiệc, hắn cầm ly bia đến chào bàn, miệng thì cứ nói chuyện với người quen, tay thì cầm ly để cho họ cụng, chứ không nhìn xem ai chạm cốc với mình.
Còn khi bắt tay. Gặp người cấp trên, cái lưng, cái đầu hơi cúi xuống một tý, đưa hai bàn tay lên phía trước đón lấy tay họ ra vẻ cung kính. Còn đối với người khác, hắn giơ một tay ra để cho người ta nắm lấy tay hắn, họ vừa cầm tay, hắn đã gỡ ra và đưa tay đến cho người khác bắt, hắn cũng chẳng cần nhìn người nắm tay mình là ai. Thật là mất lịch sự, ngạo mạn, thiếu sự tôn trọng. Có thể Mô thấy vị trí của mình giờ là người lãnh đạo, có khối người còn phải quỵ luỵ hắn, hay là phép lịch sự này hắn chưa được học. Tự nhiên tôi thấy mình còn trách nhiệm dạy bảo hắn. Tôi mỉm cười khi nghe thấy hắn chê mấy đứa sinh viên mới ra trường làm việc không hiệu quả.
Sao lại vậy? Năng lực làm việc của hắn thì tự hắn phải biết chứ ! Hắn đã bị ông giám đốc cảnh cáo mấy lần về về gian lận khi mua sắm, ông giao cho hắn những công việc rất nhẹ nhàng, lại còn cử người giúp và làm thay cho hắn. Vì sự sống còn của công ty, nếu hắn không cố gắng, không làm được việc thì phải có ý kiến với bà Loan.
Ấy thế mà hắn còn huyênh hoang, dạy đời, tự cho mình là là người hiểu biết, và luôn tỏ ra là người có quyền lực.
Mô từ một đứa hiền lành, nhu mỳ, thật thà, chất phát. Ấy vậy mà qua mấy năm đựơc va chạm với công việc, giao tiếp trong xã hội. Mô đã thành con người khác...
Đang mải nghĩ, thì đã về đến nhà, vợ Mô chạy ra mở cửa xe, thấy hắn đang nằm ngửa trên ghế, đầu nghẹo về một bên, cái mồm há một chút, rớt rãi đang chảy ra bên mép. Nó vừa thò đầu vào để gọi chồng, lại nhìn thấy những thứ mà Mô ói mửa, trông thật là bẩn thỉu và kinh tởm, bị cái mùi vị khó chịu ấy sộc vào mũi. Nó vội rút đầu lại, văng ra mấy câu:
- Rõ đồ khốn!
Xóm Nghĩa Trang
Trời tối khuya nhọ nhem không rõ mặt người hay mặt ma. Xóm nghĩa trang chập chờn đốm sáng lơ lửng không trung tựa hồn ma lang thang ăn mày kiếm tìm bữa cúng. Một tuần rồi gió bấc cuối năm đêm đêm rủ nhau kéo tới thổi buốt thịt da cư dân nghĩa trang. Gió rít qua khe cửa nghe tựa tiếng mèo đực hưng phấn đè bẹp. Gió rú mời gọi chó hoang vươn cổ hú gọi đêm trăng dĩ vãng. Chuột cống ghẻ hòm chân thọt, bọ cạp hai đuôi cong cong, rắn hổ mắt chột mắt lé rủ nhau chui ra khỏi hang động; cả ba xếp hàng nhảy múa nguyền rủa gió bấc. Đêm về tô đậm hàng cây cau ngọn vươn cao ngất lòa xòa sợi tóc rối loạn tâm thần. Ơ! ơ, chiều chiều trên bến Vân Lâu… Tóc rối xoắn tít chải gỡ không ra. Tiếng cười điên loạn! Tiếng hú lanh lảnh! Tiếng khóc đứt nghẹn! Tiếng xe tăng T54! Gió bấc cuối năm, dạo hết một vòng, tưởng đã bỏ đi; nhưng không, gió quay lại chu miệng thổi tung bần bật hàng cau. Gió bấc thổi lay nhẹ bước chân giao liên; mìn claymore nổ tung, xương cốt và hàm răng thôn nữ bị bi sắt đập nứt nẻ, vỡ vụn, hóa cát! Cát lăn lăn cuộn tròn, bay vút lên cao, hăm hở lao xuống, bôi trắng! Hết gió bấc lại mưa rào. Mưa, hạt to trái ớt đỏ cắm thẳng tựa viên đạn đồng M16, đập vỡ tung mái ngói. Gió bấc, mưa rào, thay nhau, hợp quần đe dọa cư dân xóm nghĩa trang nằm giữa lòng phố, cách Cổ Thành Quảng Trị mười cây số.
Năm 72 trận chiến nổ tung, khói đạn mù trời. Bên kia xe tăng T54, súng AK Tiệp Khắc, dao găm. Bên này phi cơ B-52, súng tiểu liên M16, lựu đạn. Hai bên lạnh lùng dàn trận. Cả hai mắt trợn, kìm nén tiếng thở nhìn nhau đợi chờ. Cờ phất xuống, tiếng hô xung phong, xe tăng hộc tới nổ tung dây xích, ngớ ngẩn chòi chòi bánh sắt. Súng AK giơ lên, súng M16 nhắm tới, cả hai nổ ròn, đạn bay đục thủng nón cối và mũ sắt. Máu từ vầng trán thông minh giữa hai chân mày rậm đen hình lưỡi kiếm bắn lên tỏa rộng như pháo hoa ngày hội. Dao găm đâm sát cận chiến. Mũi khế xoay xoay! Trái tim hai mươi dư thừa máu đỏ mở banh hoen hoét đập phập phồng. Đôi mắt căng cứng mở to, tay rút chốt lựu đạn, thẩy vào lô cốt…
Tàn cuộc chiến, người ta khiêng xác giao liên, bộ đội, cộng hòa, mang đi chôn ở xóm nghĩa trang. Xóm hoang vắng gần hai trăm năm rồi, từ thời lủng lỗ thành quách lính triều buông giáo đầu hàng. Kéo dài thêm mấy triều đại bắc nam, xóm nghĩa trang vẫn nằm đó, hoang phế rêu xanh, màng nhện bám phủ.
Trời tối đậm đen xóm nghĩa trang, nhưng cô Ba Thôn tay xóc xóc mái tóc bóng sợi mềm đen, miệng ngậm kẹp ba lá, xăm xăm bước. Gót chân con gái nhỏ thó, khăn rằn ri quấn quanh cổ bay phất phới trong làn gió bấc lạnh căm căm. Cô Ba Thôn đi mà như lướt chạy, thoáng nhìn tưởng ma. Cô nhìn về phía Cổ Thành bơ vơ những mảng tường thành chạy dài, xếp gò chất đống ngổn ngang. Đêm đêm cô Ba mang lẳng cơm tới cho người tình. Cơm này em nấu bằng gạo tám thơm, cá cơm kho cứng, lửa than riu riu uốn cong thân cá khoe mầu vàng. Em đói khát ăn mắm ăn muối mặc lòng, nhưng tình lang ơi, anh không thể trống vắng hạt cơm trong bụng! Chân bước tới, cô hát nho nhỏ trong đầu lời ca, “Anh đi chiến dịch xa vời, nòng súng nhân đạo cứu người lầm than”. Cô lầm than, cô bước chân xăm xăm xuyên ngang thân cây, vun vút xé rách màn đêm gõ cửa từng căn nhà,
— Dậy, dậy đi…
Xóm nghĩa trang, tiếng càu nhàu gắt gỏng đồng loạt nổi lên rào rào tựa tiếng ruồi trâu tới mùa nhân giống, từng đàn rồi từng đàn đông như muỗi từ những hố phân tanh hôi ào ào lao tới bu đen xóm; ruồi trâu, cánh liền cánh, vòi sắc như kim đâm sâu, đâm chặt, đâm kín hóa ra cuồng phong bão tố đổi mầu ruộng mạ đang xanh xanh mầu lúa non,
— Về mà lấy chồng đi cô Ba ơi, khổ quá! Bà nội này chỉ có lấy chồng, thằng chồng gãi gãi, may ra mới hết ngứa…
— Mần chi mà ồn ào như họp tổ dân phổ không bằng bà nội. Hết thời bao cấp rồi má ơi…
Mặc cho bên trong xôn xao lời nói xách mé, cô Ba Thôn cương quyết đi tới dộng cửa từng căn nhà một,
— Nè, nè! Gõ cửa mà không ngồi dậy, tui cầm đá cục ném vỡ kiếng cho mà coi!
— Bà thần ơi, tui gọi bà là má…
Quầng lên đảo xuống mười mấy vòng như vậy, cô Ba Thôn lôi đủ ra khu nhà làng xóm nghĩa trang gần trăm mạng. Cô Ba lẩm bẩm,
— Cái xóm chi mà lì như quỷ sứ!
Cô Ba Thôn vuốt vuốt bộ ngực cao cao, đợi chờ huyết áp chầm chậm hạ xuống, tiếng thở thôi gấp gáp. Nhìn mọi người xếp hàng ngồi ngay ngắn tựa lính trận chuẩn bị xung phong, cô Ba Thôn vuốt lại tà áo bà ba trắng toát. Dù sao cũng là đầu tàu, đại diện nhà nước. Cô Ba Thôn nhìn ghế chủ tọa trống vắng. Cô đằng hằng, ngồi xuống, cất tiếng, giọng oang oang dội vang như tiếng loa phường trên cột điện,
— Ta nói trời cũng đã khuya, nhưng tui vẫn phải cất công đi tới từng nhà, mời mọi người đi họp…
Bên dưới cư dân xóm nghĩa trang xếp lớp cá mòi mở miệng ngão ngão tựa cá đang mạnh sân sẩn gặp luồng nước độc, chết hết, chết tanh banh, chết nổi lềnh bềnh bốc mùi y như xác giao liên, xác bộ đội, xác cộng hòa xếp lớp chất chồng Cổ Thành ngày nào. Tiếng ruồi trâu cự nự, chửi thề, nối tiếp theo sau tiếng ngáp dài,
— Thôi má ơi, dài dòng văn tự quá, muốn nói gì thì cứ nói đại đi. Đói quá!… Con bà nó, cả tháng trời chẳng có ai cúng thí cho đĩa xôi.
Đêm cuối năm thanh vắng với gió bấc hú gào, tóc rối tâm thần hàng cây cau ồn ào tiếng hô xung phong tiến chiếm, nhưng vẫn không cản ngăn được lời càm ràm ruồi trâu chạy lọt, đâm thủng lỗ chỗ thân xác thôn nữ giao liên. Cô Ba Thôn cộ mắt nhìn tuồng như Trương Phi trên cầu Trường Bản trợn mắt thách thức Tào Tháo,
— Hả, chú Tư Chồn! Chú ăn nói cho cẩn thận! Chú tưởng chú ngon lắm sao? Nè, tui nói cho mà biết…
Thấy tình hình có mòi căng thẳng, vỡ tung, một hai người nhào vào vuốt giận,
— Thôi, thôi, cô Ba! Bỏ qua đi, đừng có nóng…
— Rồi, rồi, chú Tư ổng im rồi đó cô Ba. Cô Ba nói đi.
Được lời như đường phèn rót vào cổ họng ngọt mát tấm lòng, cô Ba Thôn nguội lại, miệng nhai miếng trầu đỏ tươi, nước cốt trầu đỏ loe chảy tứa lứa ra hai bên khóe miệng, nhìn cứ như máu đỏ lưu niên mãn huyết. Cô Ba Thôn nhổ đánh bẹt xuống mặt đất. Cô mở miệng tính nói, nhưng nhận ra nước bã trầu sao đỏ tươi như máu. Cô sụ mặt chù u nhớ thân thể con gái lỗ chỗ đạn bi; máu sữa đang êm ả uốn khúc cuộn vòng dưới chân đê thân thể băng trinh; bi sắt mìn claymore văng ra, dòng máu đỏ bục bục lỗ chỗ thân xác như nước lũ đục thủng bờ đê. Cô ôm mặt muốn khóc! Nhưng nhớ vị thế tổ trưởng dân phố, cô lấy lại bình tĩnh, mặt lạnh băng băng như tượng sáp bày bán ngoài chợ ngày rằm. Cô nói suông đuột, thẳng luôn một lèo,
— Ta nói thằng Hai Sứt con bác Bảy Vịt Lộn đánh lộn với thằng Năm Què con chú Tám Cam Sành. Chuyện chẳng có gì. Nhưng từ bữa hổm, hai bên gặp nhau, mặt nặng như chì. Bà con thôn xóm cả ngàn năm nay rồi…
Cô Ba Thôn chưa dứt lời, bác Bảy Vịt Lộn bật miệng chửi thề,
— Bà con thôn xóm cái con khỉ khô! Con bà nó! Mùa nào cũng vậy, có được hàng cây cau kết trái treo lủng lẳng nhìn mát con mắt. Thế mà mắt trước mắt sau là cau mất đằng cau, lá mất đằng lá!
Chú Tám Cam Sành chĩa súng cối B40 lên vai, bắn ngay,
— Cha nội… Vậy chứ còn mớ quần jean thì sao? Tảng sáng phơi lên, tầm trưa biến mất, xế chiều ghé chợ trời, lại thấy nằm chình ình ở đó một đống, nguyên con.
Chú Tám Cam Sành nhìn lên cô Ba Thôn,
— Ông thần nước mặn… May ra có Diêm Vương dợt được ổng…
Bác Bảy Vịt Lộn không vừa, bật lưỡi lê đâm tới, xoáy xoáy mũi nhọn trái khế,
— Còn ông, chuyên môn hái trộm trái cây vườn hàng xóm, gặp bữa đụng mìn claymore, nổ tét cái bụng cho chừa!
Bác Bảy Vịt Lộn đứng thẳng lên,
— Mà tui nói cho cô Ba nghe, tui là tui nực gà lắm rồi đó. Đợi tui qưởn qưởn, mấy bữa nữa tui nói với Thành Hoàng cho dời sang cái nghĩa trang kế đi, nó hơi dơ một chút nhưng không phải làm hàng xóm cái thằng cha này. Mất bao nhiêu tiền cho ổng, tui cũng chịu.
Cô Ba Thôn nhìn mọi người,
— Đó, bà con trong tổ thấy tui nói có đúng không. Xóm mình đang ngon lành giờ tự nhiên hai thằng cha nội ghé hòm mang chôn ké vào, giờ ngày nào cũng ồn như đánh giặc. Tối nay chuyện giải quyết không xong, tui viết đơn mang trình lên Thành Hoàng tống cổ hai cha nội này đi chỗ khác.
Ở bên dưới, Tư Chồn ghé vào tai người hàng xóm, giọng nói nhỏ rưng ứt,
— Con mẻ làm tàng, đã không biết chữ còn bày đặt đòi viết đơn.
Người hàng xóm thắc mắc,
— Sao ông biết cô Ba không biết chữ?
Tám Chồn nóng nảy,
— Thì tui hàng xóm, kế ngay bên nhà. Chuyện gì của con mẻ mà tui không rành…
Tư Chồn nhỏ giọng lại,
— Ta nói hồi đó con mẻ làm giao liên, mang cơm thăm nuôi bộ đội, xăm xăm bước tới Cổ Thành, đạp dính mìn claymore, gục tại chỗ! Chết giờ linh hóa ra bà chằng, tính nết dở dở ương ương, có ai ưa! Sống ở đây bao lâu rồi mà có được đi đầu thai đâu.
Người hàng xóm, miệng lưỡi ra chiều gạy mọt thấy rõ,
— Ủa, tưởng ai chết trước đi đầu thai trước chứ.
— Có mà. Tiền là tiên là Phật… Ai mà chẳng mê tiền. Thành Hoàng cũng vậy mà thôi! Ông nghe Bảy Vịt Lộn nói rồi đó.
Người hàng xóm vẫn lơ lửng miệng lưỡi,
— Nói cái gì, tôi nghe không rõ.
Tư Chồn chép miệng,
— Thì, hồi đó Bảy Vịt Lộn với Tám Cam Sành bỏ đi vượt biên. Ai ngờ đụng công an biên phòng, bắn chìm tàu, xác trôi ngược về lại bờ, dân làng hốt xác bốn cha con mang vô đây chôn.
Tư Chồn thì thào,
— Nhưng ông đừng có tưởng, thằng cha Bảy Vịt Lộn với Tám Cam Sành lận trong người nhiều vàng lắm đó, dân vượt biên mà! Hai người làm bộ đóng kịch, người trồng cau bán, người buôn chợ trời. Để coi! Mắt trước mắt sau lại thăng bây giờ… Ngó thấy vàng, Thành Hoàng cũng sáng mắt!
Tư Chồn chỉ ngón tay,
— Thấy cha nội đang ngồi hút thuốc lào ở bển không?
Người hàng xóm nhìn theo,
— Đâu, đâu?
Tư Chồn nhăn mặt,
— Ngó theo ngón tay tui đây nè. Đó, đó, thấy chưa?
Người hàng xóm nhíu cặp chân mày đậm đen hình lưỡi kiếm,
— Ông muốn nói cái người mặc áo bộ đội, chân đi dép dâu, có đúng không?
Tư Chồn cự nự,
— Thì cha nội đó chứ còn ai…
Tư Chồn dừng ngang,
— Ủa! Hai người, sao nhìn giống nhau y chang ? Ông cũng bộ đội hả?
Người hàng xóm hỏi tới,
— Bộ đội. Rồi thì sao?
Tư Chồn ú ớ, nhìn cổ áo người đối diện, nghĩ sao, bỏ lửng, quay lại chuyện cũ,
— Cái xóm nghĩa trang này, mai mốt người ta giải tỏa hết. Mình mất cha nó nhà cửa. May ra chỉ còn cha nội bộ đội đó còn nguyên cái mả cắm dùi.
Người hàng xóm trợn mắt,
— Ông làm ở cục tình báo hay sao mà rành chuyện dữ vậy?
Tư Chồn lừ lừ ánh mắt thăm dò,
— Tía nội… Tía chết từ thời mùa hè đỏ lửa mà sao chậm lụt quá vậy. Tía cứ ghé vào Thành Hoàng đi, nhét vô tay ổng mấy tờ giấy nhìn thẳng nhìn nghiêng thì chuyện chi mà hổng rành.
Nhìn người đối diện mặc binh phục Thủy Quân Lục Chiến, cổ đeo hai hoa mai vàng, Tư Chồn lơ lửng,
— Chậm lụt như Trung Úy, hèn chi mất nước di tản là phải…
Ông Trung Úy không nói chi, nhưng bỏ đi thẳng một nước tới ngôi mộ nơi có người bộ đội đang ngồi họp tổ dân phố. Thấy ông Trung Úy, người bộ đội đứng dậy, lễ phép cúi chào,
— Em chào bác! Bác tới chơi. Bác để em vào trong bếp đun nước sôi pha ấm trà.
Nhìn cô Ba Thôn đang say sưa diễn thuyết, ông Trung Úy quay sang người bộ đội,
— Chào chú! Thôi, nước nôi gì. Tư Chồn mới nói với tôi là nghĩa trang chuẩn bị giải tỏa, có đúng không chú?
Nghe lọt câu chuyện, người bộ đội chép miệng,
— Thấy bác bất ngờ ghé vào, em lại tưởng có chuyện chi.
Bộ đội chính quy thì thào vào tai ông Trung Úy,
— Tư Chồn nói đúng đó. Cách đây hai tuần, em họp chi bộ đảng. Họ đã quyết định giải tỏa nghĩa địa làm khu công viên…
Ông Trung Úy đổi đề tài,
— Lâu rồi, chú có viết thư về cho chú thím bên nhà hay không?
Người bộ đội trầm trầm nét mặt, đôi chân mày đen rậm hình lưỡi kiếm nhíu lại,
— Vâng, cũng có… Dạo này em thấy chú thím cũng yếu lắm rồi.
Người bộ đội hỏi ngược lại,
— Còn thầy mẹ thì sao? Vẫn ở bang Cali, phải không bác?
Ngước nhìn trời cao cuối năm không một ánh sao, người bộ đội ngậm ngùi than thở,
— Giá hồi đó thầy mẹ gắng, bồng em ra Hải Phòng, bác với em đã không bao giờ gặp nhau ở đây!
Ông Trung Úy vỗ vai người em nứt ra từ một trứng. Năm 54, tình thế chẳng đặng đừng, bị bố mẹ gửi tạm tại nhà vợ chồng người em trai nhờ trông nom hộ mấy ngày. Ai ngờ, kẹt đường Hà Nội Hải Phòng, dính cứng luôn ngoài Bắc.
— Thôi, chuyện cũ rồi, bỏ qua đi. Có ôm nhau, vật lộn hai ba vòng dưới chân lô cốt, giơ súng bắn thẳng vào mặt nhau mới nhận được mặt anh em. Đến là khổ…
Sau ngày tái chiếm Cổ Thành, trong khi đi nhặt xác, người ta ngạc nhiên nhận ra xác Trung Úy lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến và xác bộ đội chính quy nằm cạnh bên nhau, hai thân xác tươi nguyên như người đang mê ngủ. Ngạc nhiên hơn nữa khi nhận ra hai khuôn mặt của hai giới tuyến hai binh phục mà sao giống nhau như đúc, cũng đôi chân mày rậm hình lưỡi kiếm, tóc đen quăn quăn có lọn, mặt xương xương vẽ rõ nét dòng dõi quan văn.
Người bộ đội hớn hở,
— Chuyện, họ nhà ta bề gì đi nữa cũng làm quan trong triều tới mấy đời rồi. Làng mình là có tới mấy ông Bảng Nhãn, Thám Hoa hẳn hoi…
Ông Trung Úy cản lại,
— Thôi, thôi, chuyện cũ như trái đất rồi, chú đừng nhắc nữa. Nói chuyện bây giờ đây nè.
— Sao không nhắc chuyện cũ, nhắc để mà nhớ, để mà học, để mà đề phòng… Bác thì cái tánh tiểu tư sản, học tập mấy đời rồi mà vẫn cứ thế…
Nghe ông em bộ đội sư đoàn 325 lên lớp, ông Trung Úy lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến lấy tay che miệng ngáp ngáp, nhìn lên cô Ba. Ở trên cô Ba Thôn vẫn đang nói liến thoắng, tuồng như ngày mai bị bắt đi đầu thai không còn cơ hội làm tổ trưởng dân phố.
Hồi đó ông Trung Úy chính là người đã từng nhận được lệnh thi hành bản án tử tới cô giao liên tiểu đội đặc công nằm vùng. Nhận được bản báo cáo cô Ba Thôn thường xuyên liên lạc, cung cấp thuốc tây cho việt cộng, tình báo địa phương sai Trung Úy nhiều lần ghé vào nhà cô Ba Thôn mua thuốc lá con mèo uống cà phê cứt chồn xem xét tình hình. Ba Thôn con gái mười bẩy, nây nẩy thịt da, má phấn hồng hồng nhìn duyên dáng. Ba Thôn đẹp, cười hàm răng trắng bóc đều tăm tắp. Ông Trung Úy buông lời trêu hoa ghẹo nguyệt, nhưng Ba Thôn chỉ cười mím chi, không ra mặt phản đối mà cũng không hưởng ứng đồng tình. Có lần bám sát theo đuôi, vào sâu tới tận trong rừng già, Trung Úy bắt gặp người đẹp Ba Thôn đầu quấn khăn rằn ri đang ngồi tình tứ với người lính bộ đội dưới gốc cây. Đêm hôm đó, trăng soi mờ mờ trên cao. Cơ hội tới. Trung Úy đã giơ súng lên rồi, nhưng lại buông xuống, không nỡ… Hèn chi ông bộ đội chính quy hay mắng ông anh Trung Úy tính tình tiểu tư sản, không phân biệt được tình cảm cá nhân với quyền lợi giai cấp. Chuyện tưởng không ai biết, thế mà cũng lộ! Viên Trung Úy bị cấp trên khiển trách, ký giấy đầy lên mặt trận Cổ Thành giây phút dầu sôi lửa bỏng. Người tình sư đoàn 308 của cô giao liên ai ngờ cũng tham gia mặt trận. Lậm tình, Ba Thôn xăm xăm đi tới, liều lĩnh vạch đường thăm nuôi. Người yêu chưa thấy, thấy ngay mìn claymore cài ở chân thành, bi sắt đục lủng lỗ chỗ thân xác cô thôn nữ.
Ở xóm nghĩa trang viên Trung Úy và cô Ba Thôn gặp lại nhau… Hồn ma gặp lại hồn ma cười tươi hàm răng hạt ngọc trắng bóc, thế là nghĩa trang hoang vu bày lại quán cà phê năm nào. Duyên tưởng chưa bao giờ bén rễ, giờ nảy mầm.
Yêu nhau mê đắm, cả hai lắc đầu từ chối chén cháo lú. Kiếp trước trật dây tơ hồng, kiếp này dẫn nhau tới gốc cây, xin ông tơ sợi dây mới nối buộc. Có làm người hay làm ma cũng thế, gặp nhau bén mối duyên nồng, tới đây xin ở lại đây.
Cư dân nghĩa trang thầm thì nói nhỏ,
— Lạ héng! Trung Úy thời còn sống, mặt mũi hầm hầm như thù cha chưa trả! Giờ chết đi, nhìn hớn hở như mới cưới được vợ.
Nghe được tiếng xì xào, Trung Úy một thời đại học Văn Khoa không nói chi, chỉ lẩm bẩm trong miệng chữ nghĩa vu vơ,
— Bởi ngọc mầu trắng ý thêm tứ. Áo bà ba bay chữ thêm từ…
Người xóm nghĩa trang ngớ ngẩn nhìn nhau,
— Ông Trung Úy nói cái chi mà in tuồng như thầy pháp đọc bùa niệm chú không bằng!
Ở trên cô Ba Thôn liếc nhìn quan sát, con mắt tinh anh trinh sát một thời giao liên. Tình yêu nhận ra chân dung tình yêu đang ngước nhìn mình say đắm. Cô Ba Thôn mắc cở. Cái mặt nhìn thế mà lì. Đuổi không đi, cự không rời, sấn sổ lấn tới, vuốt tóc, đòi hôn, ôm vai, kề sát hưng phấn cuộc tình nghĩa trang. Cô Ba nhận thấy đắm say nào cũng giống nhau, cũng mê man như người uống rượu say nồng. Bên tình nhân, cô Ba thấy đời sống đầy đủ ý nghĩa, cuộc đời không còn trống vắng, nhưng tràn đầy, dư thừa. Sống trong nghĩa trang hoang vắng, nhưng bởi đậm đà mê mệt tình yêu, cô Ba thấy mình sống lầu son gác tía. Sáng tối ướp mật thơm nồng. Tình ơi là tình!
Tiếng pháo nổ xa xa đì đùng đánh thức cô Ba Thôn ra khỏi cơn mê. Cô Ba đằng hắng ra hiệu. Mọi người cũng tự nhiên tỉnh giấc, không mê nữa. Người người rùng mình, lắc lắc đầu. Lại một lần nữa, hơn hai trăm con mắt ma cùng mở lớn, mở to nhìn người tổ trưởng dân phố.
Cô Ba Thôn vuốt lại tà áo bà ba, cất tiếng nói,
— Ta nói giận nhau lắm ngày tết cũng huề. Trước thềm năm mới, tui đề nghị bước sang năm mới, chỉ nói chuyện mới. Được không bà con?
Bên dưới lặng im tưởng chừng giây phút Cổ Thành yên hẳn tiếng súng, lính Cọp Biển Thủy Quân Lục Chiến kéo cờ chiến thắng bên bờ tường phía tây. Mọi người mở to mắt nhìn cô Ba, rồi nhìn nhau. Trong thinh lặng tự nhiên nổi lên rào rào tiếng ruồi trâu,
— Cô Ba! Cô Ba nói chuyện chơi…!
Mọi người quay lại nhìn, vẫn là Tư Chồn. Không hẹn cùng gặp, bốn phương quay về một góc chửi thề,
— Ê, ê, cha nội! Câm cha nó cái miệng lại được không! Tống thằng cha nội này sang chỗ khác chơi cho tui nhờ!
— Cô Ba nói hay đó! Tui chịu cô Ba nhất câu này. Vỗ tay bà con!
Chỉ đợi có thế, tràng pháo Giao Thừa châm ngòi, cháy đỏ, xì xì, rồi nổ tung ngay trên hàng cây cau của bác Bảy Vịt Lộn. Tạch, tạch, đùng! Pháo nổ vui tai, rộn ràng. Tạch, tạch, đùng! Tràng pháo dài gần cả trăm năm. Lâu lắm rồi, xóm nghĩa trang giờ mới có giây phút tưng bừng náo nhiệt. Ơi pháo đỏ! Ơi cau xanh! Ơi hồn ma! Cư dân nghĩa trang đồng loạt đứng dậy tay bắt mặt mừng. Lời chúc Tết rộn ràng chân thành.
— Năm mới em chúc bác vạn sự như ý!
— Chúc cô Ba sang năm mới, nhiều may mắn. Nhớ cho tụi tui ăn cái đầu heo đó nghen.
Nhiều hạt nước mắt đổ xuống lăn dài nhìn bác Bẩy Vịt Lộn ôm hôn chú Tám Cam Sành.
Từ trên cao, lồng lộng gió bấc cuộn bay sương đêm mờ ảo, hóa ra nhang khói huyền diệu, mang vong linh tổ tiên ông bà về lại trần gian chứng giám giây phút.
Gió bấc thổi nhưng nghe sao ấm áp hương vị đầu xuân.
Mưa rào vẫn rơi từng hạt nhưng hóa mưa xuân xanh xanh mầm non lên chùa hái lộc.
Hàng cây cau tóc rối lòa xòa bay bay trong gió hóa ra cây nêu.
Đêm đen đậm đặc nhưng thơm tho tinh khiết giây phút đầu mùa.
Pháo đỏ nổ vang tưng bừng hân hoan, tạch tạch đùng!
Xóm nghĩa trang, giây phút Giao Thừa ngàn năm linh thiêng, lật sang trang sử mới.
Đồng đất quê cha
Đưa con về lại tuổi thơ
Tìm con dế gáy trong bờ cỏ non
Nào, bố con ta cùng tháo giày ra! Anh nói với cậu trai mười tuổi khi hai bố con vừa đặt chân xuống bờ cỏ triền đê cỏ ướt sau một trận mưa dài. Cậu trai sau phút ngại ngần đã dắt thanh “kiếm báu” vào lưng, một tay xách giầy, một tay xếch quần nhảy xon xon theo những lối mòn nhẵn thín mát lạnh mà người đi bộ đã tạo ra trên mặt đê mềm mại, miệng la ánh ỏi. Anh khoác ba lô đi sau nheo mắt nhìn theo, lòng vui sướng rộn ràng. Đúng là nòi dân ruộng trũng đồng chiêm, nhìn thấy đất là xoắn ngay lại. Thế mà hôm nọ bố đã thầm thất vọng về con. Hôm ấy bố đang đọc báo bỗng nghe con reo to: Trâu vàng! Trâu vàng bố ơi! Tưởng con đang xem một bộ phim hoạt hình, bố vội buông tờ báo chạy ra và giật mình. Trên màn hình tivi không một bóng trâu, chỉ có một đàn bò đang thung thăng gặm cỏ. Bố phì cười kêu lên: Ôi giời ơi! Cứ suốt ngày Đôrêmon Đôrêmi, Bảy viên ngọc rồng với lại Thuỷ thủ mặt trăng… Rồi thì súng kiếm kiiiaaa bùm chéo, lướt website chơi game thành thần mà không phân biệt được đâu là trâu đâu là bò. Thế này thì gay. Gay quá! Bằng tuổi con bố đã biết giúp bà nhổ mạ, trồng khoai. Bố đã lội dọc ngang tất cả các bờ ruộng, các gò bãi làng Bùi để bắt cua tát cá. Cả cánh đồng như biển rộng rập rờn sóng xanh là bãi chăn trâu thả diều của bố. Cánh đồng nuôi lớn tuổi thơ của bố bằng những con tôm cua ốc ếch tinh khiết nhất. Còn con…ăn toàn rau muống nhiễm chì, thịt lợn tăng trọng với thịt gà công nhiệp nên sắp trở thành con gà tồ chính hiệu mất rồi…Nghe anh nói một thôi một hồi, thằng bé ngơ ngác chẳng hiểu gì. Nhìn nét mặt ngây thơ thành thực của con, anh đâm chột dạ. Cũng tại mình…
Con hãy nhìn kia! Anh chỉ xuống cánh đồng lúa đang hoe chín. Ngày xưa bố toàn ngồi trên lưng trâu đọc sách. Đọc chán thì câu. Cứ ngồi trên lưng trâu mà thả cần. Sau mỗi buổi đi trâu là được đầy một giỏ cá rô béo mẫm. Thằng bé reo lên: Ôi, thích quá!
Thấy con bắt đầu say mê với đồng đất quê cha, anh hào hứng kể: Ngày xưa cua cá ở cánh đồng này nhiều vô kể. Nắng tháng sáu đổ lửa xuống cánh đồng vừa bừa ngấu, bố chỉ cần bới một cái vũng đặt vừa một cái rổ vào đó rồi cắm cành lá xung quanh cho mát. Chỉ khoảng tiếng sau là cá chạch cá trê đã ào vào đầy rổ. Thật thế ạ? Thật chứ sao không. Những con chạch to bằng chuôi liềm, bụng vàng hươm, mang về đến nhà rồi còn kêu “nhéc nhéc”. Bà rửa sạch, cắt bỏ đầu đuôi, ướp tương muối và nghệ giã nhuyễn, chan mẻ rồi xếp vào oi đất, ủ trong bếp trấu qua đêm. Sáng ra, mở vung oi, một cột khói hình nấm màu vàng toả dựng, thơm ngao ngát. Cá chạch om nghệ mà ăn với cơm gạo mới thì thôi rồi. Bố đã đánh đến bảy tám bát cơm, bụng căng như trống đại mà vẫn muốn đưa bát tiếp… Mắt thằng bé sáng lên bỡ ngỡ: Ngon thế sao bố chẳng làm cho con ăn bao giờ? Anh ậm ờ bối rối tìm lời nói lảng. Ngày mới lấy nhau, anh đã nhiều lần nấu những món dân dã quê mùa với mong muốn được vợ cùng chia sẻ. Nhưng rồi…Anh và chị sinh ra lớn lên ở hai vùng văn hoá, việc giản đơn nhất là có thể cùng ăn một món, thế nhưng những món ăn anh cố gắng nấu đúng cách thức dậy lên phong vị quê nhà bị chị nhìn bằng ánh mắt nghi ngại. Chị khảnh khót khẩy đũa nhấm nhấm một chút cốt làm vui lòng anh, để rốt cuộc chỉ còn một mình anh ngồi “ăn kí ức”…
Bố con mình đi tắt qua cánh đồng cho gần nhé. Thằng bé có vẻ đã mỏi chân, nghe nói thế thì đồng tình ngay mà không biết đã bị bố cố ý dẫn vào cuộc. Nó vác kiếm hùng dũng tiên phong. Bóng cu cậu hoà vào sóng lúa nhấp nhô. Chỉ khi đến một đoạn bờ bị đứt đoạn làm nơi dẫn nước, thằng bé mới chịu dừng lại đợi anh. À, con biết không, chỗ này gọi là “trổ”. Trổ bờ ra ấy mà. Những cái “trổ” như thế này ngày xưa bố thường chọn để đắp “khăm”. Cá rô rất từ các đìa rất thích theo chỗ “trổ” lên chơi đồng vào những đêm trăng, gần sáng mới về. Đợi đúng giờ cá sắp về thì đắp “khăm” chặn lối. Cá tức mình sẽ nhảy vọt qua và rơi vào lòng “khăm” hàng đàn như sao sa. Có những cái “khăm” cá nhiều đầy ắp, bố xúc cả buổi chưa hết…A, thế thì bố con mình đắp “khăm” đi! Thằng bé đột ngột đề nghị khiến anh bật cười. Đắp “khăm” giờ này để bắt nắng hả con! Việc đắp khăm là phải bí mật, bất ngờ. Bí mật với cả cá và người. Con nhìn kìa, rất nhiều người trên đồng đang nhìn bố con ta đấy! Nào! Anh ghé lưng cõng con nhảy qua “trổ”, đi tiếp.
Con thấy chưa, cánh đồng quê mình có nhiều chuyện hay lắm! Để bố kể chuyện bắt cua nhé. Ngày xưa ấy a, cua nhiều lắm, bò cứ gọi là lổm ngổm khắp nơi. Vào mùa bừa ải, cua nhao la liệt. Bố xách một cái thùng tô lô đi quơ một lúc là đầy ặc. Mà chỉ chọn những con cua cái chắc nịch thôi. Nồi canh cua mùa hè nhà ta ngày ấy đặc khệt toàn gạch, mỡ màng. Gắp một quả cà pháo muối nén trắng phau đưa lên cắn. Rốp! Hạt cà bắn phé. Và miếng cơm chan với canh nhai chầm chậm mà lắng nghe. Vị mặn mòi của cà, vị ngọt ngậy của canh cua cùng vị bùi thơm gạo mới hoà tan trong miệng…Chà chà! Con không thể tưởng tượng được nó ngon thế nào đâu! Thằng cu hong hóng nhìn miệng anh rồi bất ngờ nuốt nước miếng đánh ực. Chắc nó đang nhớ lại những bữa cơm thị thành có món canh cua xay sẵn mua ở chợ vừa hoi vừa nhạt mà không bao giờ anh hưởng ứng. Con cũng biết bắt cá bắt cua như bố cho coi! Thằng bé bất ngờ tuyên bố. Anh nhìn con lòng trào dâng một cảm xúc khó tả. Tưởng đâu được đúc ở chốn phố phường thì máu con phai hơi đồng áng. Được rồi, bố sẽ bắt đầu dạy con những bài học đồng quê. Những bài học đã tạo nên tính cách bố, cái tính cách mà dù đi hết trong Nam ngoài Bắc xuống biển lên rừng vẫn không hề mất dấu gốc gác quê mùa…
*
Ngay hôm sau anh đã nhờ đứa cháu con anh cả đưa con đi câu cá rô đồng. Anh đã chuẩn bị mồi câu từ đêm trước. Thính gạo nếp thơm phức trộn với mẻ chua giã nhuyễn thành một thứ bánh dẻo hấp dẫn. Vê những viên nhỏ xinh như hạt cườm đính vào lưỡi câu thả xuống nước, chỉ nháy mắt cá đã bắt mồi. Rạng đông là lúc cá rô đi ăn hàng đàn. Chọn đúng chỗ thả câu thì giật mỏi tay chưa hết cá... Anh không hy vọng con mình có thể câu được nhiều. Anh chỉ muốn thằng con vốn chưa bao giờ nhìn thấy mặt trời mọc được sống trong khung cảnh bình minh ruộng đồng. Nó sẽ được hít thở căng lồng ngực thứ không khí mát lành quện hương lúa chín. Nó sẽ được nhìn những tấm lưới nhện giăng sương long lanh trên đầu ngọn cỏ. Nó sẽ được nghe những âm thanh dạt dào cất lên từ muôn ngàn tiếng vỗ cánh của cào cào châu chấu. Thằng bé vốn quen với tiếng chim lồng sẽ được nghe tiếng hót của những chú chim chiền chiện mảnh như những sợi chỉ âm thanh trong suốt khâu cánh đồng vàng liền với trời xanh. Và thằng bé vốn quen vợt cá trong bể kính hôm nay sẽ được hưởng cảm giác hồi hộp đến nghẹt thở khi thấy chiếc phao câu động đậy mơ màng, sẽ sung sướng đến ngất ngây khi giật được con cá đầu tiên, và sẽ giống như anh ngày xưa, để nguyên con cá dính câu tũng toẵng chạy hộc tốc về nhà khoe khoang…
Và kìa, hai anh em chúng đã về lúc mặt trời lên quá đỉnh tre. Mẹ anh chạy ra ngõ suýt xoa: Chết nắng mất thôi! Khiếp quá, tóc tai quần áo lấm lem như trâu đằm thế này. Thế nào, cháu bà câu được nhiều không? Bà đã chuẩn bị nồi kho cá rồi đây. Thằng cháu con anh cả giơ xâu cá có mấy con rô bé bằng lá chanh lên ngượng nghịu: Đồng bây giờ ít cá lắm bà ạ, câu chả được. Mẹ anh nhìn hai đứa cháu mặt mày tiu nghỉu sau chuyến câu thất bại nói đùa: Các anh chỉ có câu cá trên đĩa là giỏi! Thằng cu con anh nghe thế dường như tự ái. Nó quả quyết:
Cháu thề với bà là cả cánh đồng chỉ còn đúng ba con rô don này thôi!
Mẹ anh cười rung cả mái đầu bạc rút khăn tay chấm mắt: Ừ ừ, bà quên. Con bố Thiện rất giỏi. Tại đồng hết cá chứ đâu phải cháu bà không biết câu, nhỉ. Thôi, từ mai cháu bà ra ao nhà mà câu. Bác cả mày thả nhiều cá lắm…
*
Đêm, hai cha con nằm gác chân trên phản gỗ trong ngôi nhà cổ ngay cạnh bờ ao. Tiếng chão chuộc rền vang vọng dội. Thằng bé nằm sấp nhìn qua cửa sổ, nơi bờ tre có rất nhiều đom đóm chớp. Cu cậu đã bị cái mông lung sâu thẳm của bờ ao hút hồn. Con ạ. Cái ao nhà mình ấy mà, có nhiều chuyện lạ lắm! Anh bắt đầu hồi tưởng về thuở chưa xa. Ngày anh là một chú bé mặc quần thủng suốt ngày lang thang nơi bờ ao. Đã nhiều lần chú bé đầu húi cua trọc lóc mải mê theo một cánh chuồn đã giật bắn mình vì giẫm phải con bắp cày. Con bắp cày cũng giật mình lao ùm xuống nước bỏ mặc chú bé đứng ngẩn ngơ tim đập loạn…
Con bắp cày là con gì? Nó có “siêu” không hở bố? À à…nó là một loài rắn nước chỉ sống ở những ao tù lâu năm có nhiều cây cối rậm rạm quanh bờ. Nó to bằng cái bắp cày nhưng hiền lắm, chả cắn người bao giờ, chỉ ăn toàn ếch nhái. Con chưa biết đấy thôi, chỉ quanh cái ao nhà ta đã khối chuyện li kì. Để bố kể con nghe chuyện này nữa nhé.
Ngày xưa ông nội làm nghề nuôi lợn nái. Cái ao nhà mình ông nội thả đặc bèo tây làm thức ăn cho lợn. Bèo tốt um tùm, vào mùa nở hoa tím biếc. Ông nội thường đứng trên bờ dùng sào vớt bèo để lộ ra mặt nước thẫm đen. Bố thấy sờ sợ như thể đáy ao sâu lắm, sâu tới âm ti. Thế rồi một đêm, bố và ông nội đang nằm trên chiếc phản này thì bỗng nhiên giật thót mình bởi nghe tiếng lợn mẹ hộc lên hoảng hốt. Tiếp đến là tiếng lợn con chạy quần náo loạn và kết thúc bằng một tiếng “oéc” tắc nghẹn. Bố và ông nội châm đèn chạy ra thì thấy lũ lợn sợ hãi rúm ró một góc. Nền chuồng vương một thứ nhớt tanh rềnh. Ông nội giơ cao đèn đếm đi đếm lại thì thấy mất một chú lợn con…Thế rồi đêm sau, đêm sau nữa sự việc lại tiếp diễn. Bầy lợn con mới hơn tuần tuổi mũm mĩm trắng hồng đẹp như tranh vẽ chỉ qua mấy đêm sợ hãi đã trở thành xác xơ tơi tả, thương lắm! Đêm thứ tư, ông nội sai bố cầm gậy đứng rình ngay chuồng lợn. Khoảng canh ba, đêm trăng suông thanh vắng, nghe rõ tiếng muỗi lượn ong ong. Ngoài ao tiếng cuốc vọng vào khảm khắc. Đúng lúc bố buồn ngủ díu mắt thì ông nội bấm khẽ vào tay bố. Bố căng mắt nhìn và sợ líu lưỡi khi thấy từ bờ ao một con vật đen sì to bằng thân cau bò uốn éo tiến về phía chuồng…
Quái vật hả bố? Thằng bé hỏi giật và phản xạ nhanh như chớp quơ tay với chiếc kiếm nhựa vẫn đặt nơi đầu phản.
Từ từ bố kể cho nghe. Bố toan co giò bỏ chạy nhưng chợt thấy ông nội nâng thúng tro bên cạnh bằng hai tay lên cao quá đỉnh đầu chờ đợi nên cũng lấy hết dũng khí giơ gậy lên…
Thằng bé ngồi nhổm dậy, giơ cao thanh “kiếm báu” như sẵn sàng xung trận.
…Con quái vật còn cách chuồng lợn chục thước thì dừng lại nghe ngóng. Lợn mẹ đã đánh hơi thấy mùi bất an liền rít lên khe khẽ trong cổ họng. Con quái vật thấy thế bỗng vằng mình một cái rất mạnh rồi lao vào. Chỉ chờ có thế, ông nội đổ ụp thúng tro lên mình nó rồi quát to: Đập chết nó đi! Con vật giãy giụa kinh hồn làm tro bay mù mịt. Bố mắt nhắm mắt mở giơ gậy quật tứ tung nhưng chẳng trúng phát nào. Thế mà con vật chết mới lạ? Đèn được thắp lên. Bố rủn hết người khi nhìn thấy đó là một con lươn già như thể đã thành tinh. Hai mắt nó ti hí bắt ánh đèn lạnh buốt. Cái đầu to như chiếc phích có ba sọc trắng vẫn ngúc ngoắc liên hồi. Thúng tro tuốt hết nhớt nên dù chưa chết nó cũng chịu không thể bò đi được…
Thằng bé buông kiếm bải hoải nằm sát vào người anh. Nó có vẻ sợ nhưng lại giả vờ ngủ. Rồi ngủ thật. Hơi thở nó ngắn và nóng, có mùi nắng quện hương bùn đất. Anh miên man trong mớ kí ức bồng bềnh. Thôi ngày nay tạm thế đã. Anh sẽ “tập huấn” dần dần kiến thức đồng quê cho con, dù rằng thời gian một tháng thì cũng chỉ coi như “tráng men tí tẹo”.
Sáng sau thằng bé nhót dậy từ rất sớm. Mấy anh em nó rủ nhau vác kiếm ra bờ ao sục sạo rồi trở về với mái đầu và quần áo ướt đẫm sương mai. Nhìn thấy túm hoa vàng chói chang màu nắng trên tay con, anh hỏi: Con biết đó là hoa gì không? Hoa mướp con ạ. Giàn mướp nhà mình mấy chục năm rồi luôn rợp một góc ao. Có một chuyện liên quan đến cái giàn mướp này đấy.
Ngày bố bằng tuổi con, ao nhà mình có một con vật rất dữ tợn. Tiếng quẫy nước của nó ùm ùm khiến mặt ao nổi sóng cồn. Mỗi một tiếng táp mồi đánh “oẳm” là một con ngan hay con vịt to biến mất chỉ còn lại vài cọng lông nổi lều phều. Ông nội đã mấy năm liền tát ao, mà không tìm thấy bóng dáng nó đâu. Nhưng hễ chỉ cần tháo nước vào đầy là tiếng quẫy sóng lại dội rợn người. Ai cũng bảo đó là con ma. Ông nội dứt khoát không tin, nên năm đó ông phơi ao khô tới ba ngày. Ông nội và bác cả dùng sào xăm khắp đáy bùn. Còn bố đẽo một thanh kiếm tre sục sạo quanh bờ truy tìm. Và chính bố đã phát hiện ra “con ma” to như một gộc củi đen trũi nằm gác trên giàn mướp, mặc kiến bu đầy. Nó là con cá quả nặng năm cân hai, tinh ranh đến mức hễ động là vọt lên giàn mướp nằm chờ...
Thằng bé nghe anh kể thì sáng mắt khen bố “siêu” ghê! Rồi nó huơ thanh “kiếm báu” bằng nhựa cất giọng hiệp khách măng non: Kiii….aaa! Con cũng sẽ truy tìm ra quái vật ao sâu và chiến đấu với nó mang lại bình yên cho xóm làng! Tèn tén ten ten…Nó làm thế phi nước kiệu nhằm bờ ao thẳng tiến. Khá lắm! Anh không còn nhận ra bóng dáng cậu nhóc cớm nắng hằng đêm đi toa lét vẫn nhờ bố bật đèn...
Gần hết kì hè mà thằng bé chưa có dấu hiệu chán quê. Nó yêu cái ao đến nỗi anh cảm động rưng rưng. Nó bám riết khu ao không rời. Khoảnh ao đã trở thành thế giới huyền bí mặc sức cho trí óc tuổi thơ bay bổng trong các trò chơi tự nghĩ. Lúc anh quyết định lập nghiệp xứ người, bố anh đã định bán cái ao này để gửi tiền vào cho anh làm nhà. Dường như anh đã dự cảm được điều bất ổn nên đã viết thư về kiên quyết giữ ao lại. Con yên tâm, anh nói với con, bố sẽ về ở trên bờ ao này. Bố sẽ trồng một vườn cây ăn quả đủ loại cam táo vải hồng…Bố sẽ thả một ao cá đủ rô trê trắm chép…Con cứ học cho giỏi rồi ra bay nhảy với đời, khi nào mệt mỏi con hãy về đây ngồi dưới tán cây đêm trăng câu cá với bố…Thằng bé chưa đủ lớn để nghe những lời sâu sắc. Nó hồn nhiên khoe: Con nhìn thấy ao nhà ta có nhiều con cá to bằng này này…Nó xoè hai bàn tay nhỏ nhắn ghép vào với nhau rồi cất giọng chắc chắn: Hôm nay con sẽ câu lấy một con về cho bà nấu khế, bố nhé! Anh mỉm cười hấp háy mắt, gật đầu. Cu cậu sung sướng giắt “kiếm báu”, vác cần câu ra ao đến quá trưa mới trở về, mồ hôi mồ kê nhễ nhại mà chả được cái gì. Chả bù cho bố ngày xưa, chỉ cần đi một loáng là đã…câu trộm được con cá trắm 5 cân của ao hợp tác! Thôi, chả mong được ăn chất tươi của con, để bố phóng xe vào chợ.
Khi về anh nói vọng từ ngõ: Bố sẽ chiêu đãi cả nhà một bữa đặc sản đồng quê. Con biết không, thời nay ăn thịt cá là lạc hậu lắm rồi, phải ăn lươn cua ốc ếch mới là dân sành điệu. Thằng cu hí hửng chạy lại nhìn xâu ếch trên tay anh tò mò hỏi lại: Đây là con gì hở bố? Giời ơi là giời! Bố mua cho con bao nhiêu cuốn sách có đủ những con vật đồng quê vậy mà sao con không biết con này? Thằng bé bặm môi nhìn chằm chằm một hồi vào con ếch rồi reo táng: Con này con câu được đây mà! Anh nhìn con cười cười: Ấy chết, con có nằm mơ không đấy? Thằng cu quả quyết: Đúng là hôm qua con câu được con này thật mà. Con đâu có định câu nó. Con nhử nhử vào đám hoa lục bình, nó ở đâu nhảy đến tranh mồi với cá. Con giật lên. Nó giãy dữ quá nên con phải hạ một đường “kiếm báu” nó mới chịu qui hàng. Đấy bố xem, vẫn còn vết đây này. Anh ngờ ngợ soi kĩ. Đúng thật, con ếch có một vết chém xước ngang lưng. Nhưng anh lại át đi: Gớm, cậu mà câu được con ếch nặng 6 lạng này thì tôi đã không phải mất 50 ngàn mua nó. Bị bố coi thường, thằng cu dậm chân ấm ức, giọng đã nghe hơi nước mắt: Con thề với bố là chính con câu được con này! Ha ha, cậu vui tính quá đấy! Cậu câu được thì tại sao nó lại nằm trong sọt của bà hàng cá chợ phiên? Thằng cu bị căn vặn thì đỏ mặt tía tai, ấp úng mãi mới giải trình được sự việc: Con câu được…Con đã trói nó bằng một sợi rơm vàng ươm…Anh bật cười trước câu nói đầy văn vẻ của thằng cu và hỏi tiếp, rồi sao nữa?. Thằng cu gãi đầu bẽn lẽn: Rồi… con định mang nó về khoe với bố. Nhưng con gặp một chú…Chú ấy bảo ô thằng con nhà Thiện này, mày mang con cóc về làm gì thế? Vứt đi, kẻo nó phun nhựa mù mắt thì mày chết! Đưa đây, đưa đây tao vứt hộ…
Đến nước này thì anh chỉ còn biết xoa đầu con nói trong tiếng cười mà nghe mắt hâng hâng: Ôi con trai của bố! May mà con mới chỉ bị lừa lấy mất con ếch. Con mà cứ lờ ngờ như thế thì cũng sẽ bị người ta lừa lấy mất đời con trai là cái chắc con ơi!...
Người ở phố
Hai nhà đối diện nhau, chếch khoảng 15 độ. Tính theo đường chim bay chỉ cách nhau khoảng hơn hai mươi mét. Tuy là hàng xóm nhưng suốt ngày đi làm biền biệt nên các ông chủ của hai nhà chẳng bao giờ gặp nhau chứ chưa nói đến việc hàn huyên, trò chuyện. Tuy vậy, vì đều là nhà tầng nên tối tối ở trên tầng hai, nếu đá mắt sang bên kia đường, họ đều có thể nhìn thấy những cái bóng mờ mờ ảo ảo của nhau trong những gian phòng cũng mờ mờ ảo ảo.
Phía đường bên này, chủ nhà là ông bác sĩ trưởng khoa của bệnh viện thành phố. Phía đường bên kia, chủ nhà là một người làm nghề tự do. Năm thì mười họa họ cũng có những giây phút hạ cố nhìn sang nhau. Ông làm nghề tự do thường được ngắm ông bác sĩ cắm cúi trên cái bàn chất đầy sách vở. Còn ông bác sĩ, thỉnh thoảng cũng được... chiêm ngưỡng ông làm nghề tự do ưỡn tảng ngực trần to phạp trên bộ salông kê ngay cửa sổ.
Đêm đêm họ chỉ "gặp nhau" theo kiểu như vậy, nhưng nếu chạm mặt ngoài phố chắc họ không nhận ra nhau. Thấm thoát ngày đi tháng lại, đã hai mươi năm họ sống trong cái nhịp điệu như thế rồi.
Tuy chưa hiểu gì về nhau nhưng ông bác sĩ vẫn được nghe những lời đồn đại về ông làm nghề tự do nhà đối diện. Rằng, lão ta suốt ngày lang thang ngoài phố, nhận bất cứ việc gì người đời thuê mướn. Lúc thì phu hồ, khi thì khuân vác ngoài chợ. Nghe đâu lão có thể uống bay cả lít rượu cùng với cái chân giò cân rưỡi. Ông bác sĩ vốn là người nhu mì, có truyền thống gia phong nền nếp, gia đình ba đời trí thức nên nghe những lời đồn đại trên thì ý nghĩ đầu tiên là thấy cần phải cảnh giác cao độ với ông hàng xóm phàm phu tục tử.
Cũng sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra nếu như không bắt đầu từ cái lần ấy...
Một buổi sáng, ông bác sĩ đang ngồi trong phòng trực của trưởng khoa thì có một người đàn ông cao to lừng lững, vẻ hơi thô lỗ bước vào, dúi nhẹ vào tay ông một chiếc phong bì khá dầy cùng với lời cầu khẩn thiết xin ông quan tâm đến bệnh nhân là mẹ của ông ta. Tất nhiên ông bác sĩ đã phản ứng một cách gay gắt. Không phải ông ngần ngại chuyện gì mà vì xưa nay ông chúa ghét thói nhận tiền đút lót của bệnh nhân. Hôm ấy, người kia cứ nằn nì mãi, ông bác sĩ đã phải dọa gọi bảo vệ bệnh viện đến giải quyết.
Mấy hôm sau, ông bác sĩ được trực khoa báo cáo người bệnh nọ đã không qua khỏi. Lúc ấy ông thấy hơi áy náy, không hiểu có phải vì khó chịu trước hành vi đút lót của người đàn ông nọ mà ông đã thiếu quan tâm đến bệnh nhân?
Nhưng cũng chỉ áy náy vậy thôi, chứ ở cái khoa có hàng chục người nhập viện mỗi ngày này, trưởng khoa làm sao để mắt hết được.
Không ngờ bà già xấu số ấy lại chính là mẹ ông hàng xóm làm nghề tự do nhà đối diện.
Ông bác sĩ rất buồn. Hoàn toàn vô tình, nhưng không ngờ ông đã gây nên một mối oán thù với người cùng phố. Nếu hôm ấy biết người bệnh là bà cụ người hàng xóm thì biết đâu mọi chuyện sẽ khác.
Sau đó ít lâu, một đêm đi trực về đến đầu ngõ, ông bác sĩ thấy một đám người xôn xao, ồn ĩ. Trong ánh trăng mờ mờ ông nhìn thấy mấy thanh niên đang dìu một người đàn ông máu me ướt đẫm chiếc áo ngoài ra xe taxi. Tĩnh tâm nhìn kỹ, ông bác sĩ nhận ra người đàn ông ấy chính là người hàng xóm làm nghề tự do nhà đối diện. Ông bác sĩ lắc đầu quầy quậy, ra chiều ngán ngẩm, lẩm bẩm: "Người như ông ta có cái kết cục như thế cũng không có gì làm lạ!".
Ông bác sĩ bước vào ngõ thì bà láng giềng túm lấy, vẻ hớt hải:
- Trời ơi! Sao bây giờ bác mới về? Hôm nay không có bác Biền thì cậu Hoàng con trai bác nguy rồi!
Ông hoảng hốt:
- Sao! Thằng Hoàng nhà tôi làm sao? Mà bác Biền nào hả bà?
- Bác Biền nhà đối diện với nhà bác chứ còn bác nào nữa! Gớm! Thằng Hoàng nhà bác bị bọn nghiện chặn đường cướp xe máy. May mà bác Biền chạy đến kịp, cứu thoát. Bác ấy bị bọn nghiện đâm thủng bụng.
Người đàn ông chao đảo không đứng vững.
Bà láng giềng đôn đáo nhắc nhở:
- Thôi! Bác về chuẩn bị rồi vào bệnh viện xem bệnh tình bác Biền ra sao!
*
Không hiểu có phải vì cái ơn trời bể kia mà đêm nay, ngồi trong bệnh viện, trước mặt ông hàng xóm làm nghề tự do, ông bác sĩ mới nhận ra đó là một người hiền lành như đất?
Ông hàng xóm làm nghề tự do khẽ cười một cách vô tư:
- Ơn huệ gì đâu bác! Hàng xóm giúp nhau là chuyện thường tình. Bác không biết em đấy thôi, chứ em thì sao không biết bác với cậu Hoàng. Em còn biết tính cậu ta là vua sợ chuột nữa cơ. Hình như cái tính ấy là do di truyền từ bác thì phải.
Ông bác sĩ có ý ngượng:
- Vâng! Khổ thế! Ai cũng có cái gót chân Asin như vậy. Nhưng mà thôi! À... mà... cái hôm cụ bà vào viện, tôi có lỗi với bác quá. Xin bác xá tội cho!
Ông làm nghề tự do xua xua tay:
- Thôi! Chuyện đã rồi, bác nhắc lại làm gì cho thêm tủi. Hôm ấy, cũng vì ngại mà em không dám nói em là hàng xóm với bác. Quả thật thấy bác không nhận tiền, em cũng buồn lắm, nhưng nghĩ cho cùng thì bác làm vậy là đúng.
Ông bác sĩ, giọng buồn bã:
- Vậy mà bác chẳng chấp, vẫn liều mình vì con trai tôi. Bác đúng là bậc đại trượng phu.
Ông làm nghề tự do cười khơ khớ:
- Bác chớ nói vậy làm em xấu hổ. Chuyện vặt! Chuyện vặt mà bác...
Trước khi chào ra về, ông bác sĩ gật gù, nói một câu đầy vẻ chữ nghĩa:
- Quả là thất thố quá! Nhà tôi với nhà bác cách nhau có hai mươi mét đường chim bay mà mất đến hai mươi năm mới "bay" được đến với nhau.
Ông làm nghề tự do vỗ đùi đánh đét một cái, ra chiều tán thưởng câu triết lí sâu sắc của người hàng xóm:
Chí phải! Bác nói chí phải! Vớ vẩn thật! Đúng là chỉ có người ở phố thì mới thế! Thôi! Hẹn bác khi nào em khỏe lại mời bác sang nhà đánh một trận cuốc lủi với chân giò luộc!
Gió ngược mùa
Ngôi nhà ngói ba gian hai chái của lão Bạng nằm ở đầu làng Diễn như cái thùng hút gió. Thênh thang. Thông thống. Ba gian nhà ngập tràn ba gian nắng. Thứ nắng đầu xuân hiền hòa mà khiêu khích. Lão Bạng đang bắt lại tấm lưới then mỏng chuẩn bị ra lạch Quèn thả cá. Một đầu lưới ngoắc vào bờ rào, đầu còn lại nằm gọn trong đôi bàn tay gọng kìm, gân guốc của lão. Tấm lưới trông như tấm mành cước mỏng mầu trắng. Cứ rung nhè nhẹ mỗi khi có cơn gió thổi qua hay những động tác giật đều đều của lão nhằm giũ sạch tấm lưới. Không biết bao nhiêu là nắng mai dính đầy mắt lưới.
Lão Bạng mới ngoài lục tuần, dáng hình gân guốc, cân đối, làn da rám nắng, cháy đỏ do đi biển nhiều. Ðôi mắt ti hí của vị thuyền trưởng một thời. Ðôi tay dài và khuềnh ra hơn bình thường vì phải chèo thuyền nhiều. Hơn sáu chục tuổi nhưng sức vóc lão chẳng thua bất cứ tráng niên nào trong làng. Căn nhà ba gian hai chái có vẻ cũ kỹ này là gia sản từ thời ông nội lão để lại. Tuổi của căn nhà không hề thua tuổi lão. Nó được xây từ trước cách mạng. Ông nội lão là một tá điền có của nả và thế lực ở phủ Diễn xưa.
Thời kỳ cải cách, ngôi nhà bị tịch biên làm kho chứa lương thực của hợp tác. Ít nhiều dấu vết thời kỳ đó vẫn còn để lại cho đến ngày nay. Bố lão, một anh hùng trong chiến dịch Ðiện Biên trở về và mọi người dần hiểu ra cơ ngơi ông nội lão làm nên là do bàn tay lao động chính đáng chứ không phải bóc lột nông dân như các địa chủ khác và được trả lại. Gia đình ông nội lão lại trở về sống trong căn nhà đó như xưa.
Bốn trụ lim lớn chống giữ ngôi nhà. Với ba vày gụ được đẽo gọt mài nhẵn vuông vức. Tất cả rui mè đều làm từ gỗ táu cho dù thời gian trôi qua bao nhiêu cũng không sợ mối mọt. Ngói cong hình vảy rồng được chính lò nung nhà ông nội đốt trong ba ngày bốn đêm bằng thứ đất sét chắc nịch lấy từ đồng Bát. Mưa nắng chỉ làm cho nó thêm vững chãi hơn, láng bóng hơn. Cả cuộc đời lão sinh ra, trưởng thành và gây dựng cơ nghiệp chính tại ngôi nhà này. Ông nội, cha mẹ rồi vợ con lão lần lượt ra đi để lại lão một mình cùng căn nhà theo năm tháng.
Vợ lão về ngôi nhà này năm mười chín tuổi, lúc đó cha mẹ lão đương khỏe mạnh. Thời trai trẻ lão là một thủy thủ lừng danh ở phủ Diễn. Lão theo con tàu viễn dương đi khắp trời Tây bể Bắc. Mỗi năm ở nhà được mấy ngày. Lão như con thuyền rong ruổi, căn nhà là nơi cập bến. Cách đây hơn ba mươi năm, một cơn bão lớn bất ngờ lướt qua làng Diễn cuốn theo tất cả ra biển khơi theo hành trình chết chóc của nó. Hàng trăm sinh mạng làng Diễn trở thành bọt nước trong đó có cha mẹ và vợ lão. Ðau đớn hơn khi ấy vợ lão đang có mang ba tháng. Hai tháng sau lão trở về hay tin thì không còn cái gì nữa rồi. Căn nhà vẫn sừng sững vẹn nguyên như thách thức biển cả, bão bùng, giông tố, nhưng những người thân thiết nhất của lão không còn một ai!
Lão lại tiếp tục lênh đênh với những chuyến đi dài để quên đi tất cả mất mát. Gửi niềm vui, hy vọng vào những bến bờ mới. Một khi tuổi đã già, đôi mắt, đôi tay không còn được tinh nhanh nữa mới quay trở về với ngôi nhà quen thuộc sống nốt phần đời còn lại.
Chưa đầy ba mươi tuổi lão mất vợ. Hơn ba mươi năm nữa lão bỏ lại trùng khơi. Loáng cái cuộc đời con người đã hết. Thời gian như cơn gió ngược mùa. Hơn sáu mươi tuổi, lão đã già không còn mơ ước một gia đình vui vầy, yên ấm có vợ có con. Lão chấp nhận sống cuộc đời đơn độc điền viên của tuổi già.
Một ngày của lão tái diễn như bao ngày khác. Sáng, lão ra lạch Quèn thả lưới kiếm cá. Trưa qua chợ bán đổi lấy gạo thóc, mắm muối. Chiều về vun xới mấy luống rau, luống đậu. Tối đến nằm trên chiếc chõng tre bật cái đài pin nghe chương trình đọc truyện đêm khuya. Con chó vàng sún răng làm bầu bạn với lão bao năm. Ngày thường cũng như ngày lễ, tết lão cùng con chó cũng một mâm, một chai, hai bát, hai chén gật gù sớm tối.
Lạch Quèn, ranh giới giữa làng Quỳnh với làng Diễn quanh năm nước xanh ngăn ngắt. Mùa xuân nước trong tới mức có thể nhìn thấy đáy cát vàng vàng với những đàn cá căng, cá ngạnh bơi ve vẩy núp dưới từng đám rong. Mùa này cũng là mùa sinh sôi nảy nở của các loài cá cho nên việc đánh bắt trở nên dễ dàng hơn.
Non tháng nay, tự dưng lão thấy xuất hiện một cái ghe nhỏ không biết từ đâu tới. Trong ghe có một đôi vợ chồng chừng ngang tuổi nhau, tầm ngoài năm mươi. Tay chồng dáng điệu, râu tóc như lão ăn mày cổng chợ. Mụ vợ tàn tạ, rách rưới nhưng nét mặt vẫn lưu giữ đôi chút duyên dáng quê mùa. Hẳn đấy là vợ chồng thuyền chài ở tỉnh Thanh ngược sông Bùng xuống. Không nhà cửa, ruộng vườn. Cái ghe là căn nhà, là cái giường, là cái tổ trú ngụ của đôi vợ chồng ấy.
Lão Bạng bơi cái bè được kết từ những thân mét ra đoạn đầu cửa lạch, nơi giao điểm của cửa sông Bùng và biển. Ở đây nước chảy mạnh và xiết, nhiều vũng xoáy, phải có thâm niên trong nghề sông nước mới dám bơi ra. Việc này đối với lão khỏi cần bàn. Có trói chân tay lão ném xuống đó cũng không việc gì. Chỗ đấy cá rất nhiều, tập trung thành từng đàn kiếm ăn, đẻ trứng.
Lão vặn người một trăm tám mươi độ và tấm lưới cước được ném tung ra xa, xong chỉ việc ngồi trên bè hút thuốc lào chờ kéo lưới. Lão thường có thói quen nằm ngả lưng trên bè sau mỗi khi quăng lưới ngắm bầu trời bao la xanh thăm thẳm. Có lần lão ngủ quên, con bè theo sóng dạt cách lạch Quèn hàng chục cây số. Ðến khi sóng lớn táp vào mắt cay xè lão mới sực tỉnh và ngược chèo trở về.
Ở cái lạch Quèn này bấy nhiêu năm lão Bạng cứu sống không biết bao nhiêu người làng Quỳnh và làng Diễn. Ấy vậy mà năm nào cũng có người chết đuối do sẩy chân bị sóng ngầm cuốn ra biển. Người dân còn bảo nhau rằng: "Năm nào thần biển cũng đòi người. Năm nào có người được thần biển đòi đi thì năm đó mới trời yên bể lặng. Ngư phủ được mùa".
Năm nay chưa có ai được vời đi, nhưng từ nay đến hết năm còn dài. Mới bắt đầu mùa xuân mà. Lão Bạng thì không tin vào những điều cuồng tín đó. Nhưng vốn những người đi biển thường rất mê tín. Trước mỗi chuyến biển dài ngày họ đều mang xôi gà ra lạch Quèn cúng bái, hương khói nghi ngút.
Lão đang nằm mơ màng phả những hơi khói thuốc bàng bạc vào nền trời xanh ngắt thì tiếng chiếc lon sữa kêu lên leng keng. Cái này do lão phát minh ra. Cái lon sữa đã dùng hết được lão buộc vào một đầu phao lưới, khi cá dính nhiều dìm phao, tấm lưới rung lên sẽ phát ra những âm thanh vui nhộn báo hiệu cho lão đến giờ gỡ lưới. Lão nhẹ nhàng bắt khéo léo từng mắt lưới một, tấm mành đính dày nào là cá căng, cá đối, cá ngạnh, cá chuồn... lấp lánh chăng ngang cửa biển khi mặt trời ló ngang con sào.
Cái giỏ cá đầy ú ụ, lão quay chèo vào bờ cho kịp buổi chợ làng. Nguyên tắc lão đặt ra là mỗi bữa chỉ quăng lưới một lần và bắt đủ số cá cần bắt. Then lưới lão đan chỉ bắt những loài cá trưởng thành còn những cá con đều lọt lưới.
*
* *
Mấy đêm gần đây làng Diễn bị đánh thức bởi những tiếng động lạ, nghe như tiếng mìn nổ. Lão nghĩ có thể là tiếng mìn nơi công trường khai thác đá phía bên kia lèn Voi do những cơn gió tây ngược mùa đem lại. Con chó già sún răng cứ sủa váng lên mỗi khi nghe tiếng động lạ ấy.
Rồi mùa xuân êm đềm riu rắt cũng trôi qua như dòng sông Bùng cứ mỗi ngày tịnh lờ trôi ra biển lớn. Cuộc sống của lão vẫn tiếp diễn như thế. Mùa hè kéo theo những con nắng rát bỏng về với rẻo đất cháy khát miền trung.
Vợ chồng nhà chài dường như có ý định an cư lạc nghiệp ở lạch Quèn luôn. Suốt từ mùa xuân tới giờ vẫn ở đấy, vẫn một con thuyền như tổ chim sẽ làm chỗ chui ra chui vào. Trước đây cũng có mấy cái thuyền chài vùng khác tới đây nhưng cũng chỉ được dăm bữa nửa tháng là đi nơi khác. Tuy cá lạch Quèn cũng dễ đánh bắt nhưng chỉ là cá nhỏ may ra đủ cơm gạo mắm muối qua ngày chứ không thể làm giàu được.
Càng ngày lão lại càng nghe nhiều tiếng động lạ mà rõ ràng phát ra rất gần từ phía lạch Quèn chứ không phải nghe âm âm u u như dạo trước nữa. Gió nồm từ biển vào đã tắt theo cùng mùa xuân nên âm thanh tiếng nổ nghe càng rõ hơn, rõ ràng là từ phía lạch Quèn vọng lại. Lão quyết định tìm hiểu nguyên nhân phát ra tiếng động lạ này.
Một buổi sáng lão rời nhà sớm hơn mọi khi. Lão đi tay không. Hôm nay lão không bắt cá. Con chó già tung tẩy chạy theo. Ði đến nửa đường tiếng nổ lạ lại phát ra, nghe càng rõ hơn. Lão hộc tốc chạy về phía con lạch. Trời tưng tửng sáng. Hừng đông nhô lên đỏ ối. Mặt trời như chiếc rỗ sò ủ lửa.
Giữa con lạch vợ chồng gã chài lạ mặt đang hối hả lấy vợt vớt cá. Gã chồng vớt luôn tay, vừa vớt vừa quát tháo giục giã mụ vợ. Một khoảng rộng hàng chục cái nia lớn cá chết trắng nổi bụng lềnh phềnh, mùi thuốc nổ còn khen khét trong gió. Tự dưng máu trong người lão rừng rực bốc lên. Con chó già cũng như bất bình sủa oăng oẳng về phía con thuyền lạ.
Ngay lập tức lão Bạng lao xuống nước bơi về phía con thuyền. Phát hiện có người bơi đến, gã chài chồng rút vợt đẩy mụ vợ vào khoang nổ máy chạy biến. Lão Bạng vớt số cá còn lại rồi bơi trở vào bờ. Lão văng tục một thôi một hồi. Vợ chồng nhà kia dám nổ mìn hủy diệt cá lạch Quèn cũng như hủy diệt bát cơm của lão. Tử tế thả lưới, quăng vó thì ai làm gì, bây giờ giở trò dã man này thì lão quyết không để yên. Phải tóm cổ đôi vợ chồng kia giao cho công an hoặc đuổi biến khỏi xứ nếu còn lai vãng.
Mấy hôm sau, lão núp trong lùm dứa dại trên bờ phục bắt quả tang bọn chúng đánh mìn một lần nữa. Trưa giữa tháng sáu nắng như rang cốm. Mới ăn cơm xong lão đã vắt vai chiếc áo cánh đi ra con lạch. Lão nằm phục chỗ quen thuộc. Ðôi làn gió nồm biển mùa xuân còn sót lại phả vào nhè nhẹ, mang theo vị mặn mòi của biển cả. Vài chén rượu thuốc đã ngấm làm lão ngủ lúc nào không hay. Con chó già cũng vùi trong cát ngủ cạnh lão.
Giật mình bởi tiếng động lớn, lão choàng tỉnh. Con chó bị đánh thức bất ngờ sủa váng lên. Lão nheo mắt nhìn ra lạch Quèn. Một làn khói đen xám bay vẩn lên. Gã chài lạ kia lại đốt mìn đánh cá. Nắng lăn tăn trên mặt biển như sóng làm lão phải nheo mắt lại mà nhìn. Một cảnh tượng lạ lùng đập vào mắt lão.
Con thuyền nan loang lỗ vết cháy tròng trành trong vũng nước xoáy nơi cửa biển. Có tiếng kêu cứu, nghe ra là tiếng đàn bà. Lão lao nhanh xuống nước như một con rái cá. Lão chỉ kịp túm tóc mụ đàn bà, vừa bơi vừa lôi vào bờ. Mấy lần mụ cứ ôm chặt bụng lão mà nếu lão bơi kém thì đã chết chìm cùng mụ rồi. Con thuyền nan từ từ biến mất.
Sau một hồi sơ cứu, lão phải dốc ngược mụ lên để nước ộc ra qua cái miệng thâm sì lấm bết bùn cát. Nửa giờ sau mụ tỉnh mà chưa hết bàng hoàng. Vẻ sợ hãi, mụ ngồi tựa vào một gốc phi lao nhìn lão len lét. Mụ ngơ ngác nhìn chung quanh như tìm kiếm ai.
Mụ hỏi, giọng khô đắng:
- Chồng tui đâu?
- Chồng nào?
- Lão cùng trên thuyền với tui? Mà ông là ai ? Sao tui lại ở đây?
Ðoạn khép lại hai vạt áo sũng nước, khuôn ngực già nua lép kẹp lại.
Lão Bạng khẽ liếc nhìn mụ:
- Thì ra là chồng mụ cũng trên thuyền à! Chắc giờ này lão ngủ với con thuyền dưới ấy rồi.
Nghe lão Bạng nói xong, khuôn mặt mụ hơi biến sắc như sắp khóc nhưng mụ không khóc. Mụ đứng dậy đi ra mép lạch nhìn về phía cửa biển ngan ngát sóng ngan ngát nắng. Một giọt nước lăn dài xuống gò má xạm đen bết cát như tiễn biệt người chồng xấu số của mụ.
Mụ nói nhỏ, giọng trầm như tiếng sóng:
- Hắn đốt mìn. Dây mìn cháy... Nắng gắt quá lóa mắt. Hắn tưởng ngòi tịt... Bật diêm đốt tiếp và...
Khuôn mặt già nua biến dạng, mếu máo rồi im bặt.
Ba hôm sau, lão Bạng cùng mụ bơi bè ra và tìm thấy xác gã chài thân thể xây xát vì mìn và cá rỉa. Lão chôn cái xác kia trên bãi cát ngay cạnh con lạch. Thần biển lại vời thêm một con người theo bọt nước. Mụ vợ trầm ngâm, không khóc, tay rắc lên nấm mộ mấy nắm cát. Cát bụi trắng tinh.
Lão Bạng vắt áo toan bước quay về hỏi:
- Mụ còn nhà cửa gì không?
- Trước thì có nay thì không. Hắn gá cờ bạc hết rồi.
- Thế giờ mụ định thế nào?
- Không biết!
- Hay mụ về ở với tao?
Hai bóng người im lặng in trên vệt cát dài dưới chân đê đi về phía làng Diễn. Bờ biển trắng tinh, bãi cát dài vô tận. Con chó ngoe nguẩy, qua dăm gốc phi lao lại dơ ngoác chân sau lên để đánh dấu lãnh địa của mình. Làn gió nồm tươi mát mùa xuân còn sót lại từ biển thổi vào một cách mạnh mẽ xua tan cái nóng bức ngày hè. Phía sau, lạch Quèn chở nước sông Bùng lặng tờ chảy ra biển lớn.
Cơm nhà, cơm người
Cũng làm như họ, cũng thức khuya dậy sớm mà chẳng hiểu sao năm nào cũng thiếu ăn. Ngày ba tháng tám, trong thùng lúa không còn một hạt. Rồi những chuyện xui xẻo này chưa qua, tự nhiên những chuyện khác lại kéo về...
Mẹ và chị dâu - đàn bà không nói làm gì. Nhưng cha và anh trai mỗi ngày cũng chỉ kiếm được hơn kém ba chục ngàn, có ngày thì không được đồng nào. Số tiền ít ỏi ấy may nhờ những ngày nông nhàn. Còn vào ngày mùa, cả nhà đều phải tất bật cho kịp với người làng. Cũng làm như họ, cũng thức khuya dậy sớm mà chẳng hiểu sao năm nào cũng thiếu ăn. Ngày ba tháng tám, trong thùng lúa không còn một hạt. Rồi những chuyện xui xẻo này chưa qua, tự nhiên những chuyện khác lại kéo về. Mẹ buộc lòng phải đi vay lãi để xoay xỏa công việc. Nhà đã đói lại càng khó khăn. Anh trai nghỉ học từ hồi lớp 2 cũng vì lẽ đó.
Em trai sau những chắt bóp, miệt mài của cả nhà cuối cùng cũng mang được tấm bằng đại học loại khá ra xin việc. Em trai làm việc trên thị xã. Lương ban đầu ba cọc ba đồng, chỉ vừa vặn cho việc ăn ở hàng tháng. Em trai chưa có xe máy, đi làm bằng chiếc xe đạp cọc cạch. Cuối tháng cũng bằng chiếc xe ấy đạp về nhà. Mẹ nhìn em trai lúc nào về, chẳng kể mùa đông hay mùa hè, áo cũng ướt đằm mà lòng xa xót. Em trai ao ước có một chiếc xe máy để tiện việc đi lại. Hơn nữa, nhìn mọi người trong cơ quan ai cũng có xe máy, em trai cảm thấy tủi. Mẹ biết điều đó nhưng cũng chỉ biết khóc thút thít mà chẳng biết làm gì hơn.
Cha sức khỏe ngày một yếu. Hồi đi làm ngói cho hợp tác xã, không may bị máy dập mất bàn tay trái, chỉ còn lại ngón út yếu ớt và chênh vênh. Sau lần sang hàng xóm giúp cho lúa vào máy tuốt, bị một hạt lúa bắn vào mắt. Từ đó, con mắt trái của cha vĩnh viễn không còn nữa. Người ta gọi cha là “tàn nhưng không phế”. Cha vẫn đi cày, đi phun thuốc sâu cho những người đến thuê. Mỗi lần đi về, có tiền cha chỉ đưa cho mẹ một ít, còn lại cha mang đổi rượu. Hầu như ngày nào cha cũng say. Tuổi thơ của hai anh em bị những cơn say của cha ám ảnh. Em trai lớn lên, lúc nào cũng cảm thấy mặc cảm vì chuyện này. Vì thế mà em trai ít đàn đúm với bạn bè hơn. Nhưng người khổ nhất vẫn là mẹ. Mẹ đã chịu đựng cha rất nhiều. Nhiều lúc em trai nghĩ, hay sức phản kháng của mẹ đã triệt tiêu. Mẹ cứ cun cút như vậy, em trai thấy thương làm sao!
Người hàng xóm sang chơi, kể chuyện người nhà trong Vũng Tàu đang cần một người để chăm sóc cho ông bố bị liệt nửa người, phải nằm bất động trên giường. Ông ấy có con nhưng chúng còn mải kiếm tiền nên phải thuê người giúp. Mấy hôm liền, mẹ cứ băn khoăn về chuyện này. Hôm em trai về, có cả nhà đông đủ, chẳng biết mẹ đùa hay thật mà bảo: “Hay mẹ đi nha?”. Lúc ấy ai cũng chỉ cười mà không nói gì. Đột nhiên em trai vừa cười vừa bảo: “Hay mẹ thử đi một lần coi răng?”. Mẹ nói: “Tau đi, ở nhà lúa má ai lo?”. “Có anh trai với chị dâu rồi còn gì!”. Em trai làm phép tính cho mẹ. Một tháng kiếm được 2 triệu; một năm làm ruộng quần quật chưa chắc đã bằng được số tiền ấy. Mẹ chỉ cần đi dăm tháng là có đủ tiền trả nợ. Em trai vừa tính toán vừa mơ màng. Nhìn vào đôi mắt của em trai, chắc chỉ mẹ mới biết được em trai đang nghĩ gì…
Lúc ấy, cha và chị dâu không nói gì. Anh trai thì “Tùy mẹ!”. Có chuyện gì, anh trai cũng chỉ cộc lốc như vậy, hiếm khi anh trai nói một câu nào đó thật dài. Việc học đứt đoạn, anh trai về nhà một buổi chăn trâu còn một buổi kiếm cá. Cứ thế mà lớn lên, người săn chắc, da ngăm đen. Nhà nghèo, khi anh trai lấy được vợ, mẹ thở phào nhẹ nhõm. Mẹ cũng thương anh trai, lúc nào cũng bảo anh “Số trâu bạc, khổ không để mô cho hết!”.
Hôm sau, đang ăn cơm, mẹ lại bảo: “Ừ thôi, để mẹ đi một lần coi răng. Mẹ cũng chưa biết Vũng Tàu nằm chỗ mô…”. Như hôm trước, cha và chị dâu cùng im lặng. Em trai chỉ mong mẹ đồng ý nhưng đừng cố cam chịu kiểu như mẹ đã từng làm như từ trước tới giờ. Nghĩ đến việc để mẹ đi chăm sóc một người nằm liệt giường mà em trai áy náy. Nhưng hoàn cảnh… Biết làm sao được…
Lúc đó, anh trai đặt bát cơm xuống rồi nói: “Mẹ nỏ phải đi mô hết. Ở nhà mọi người rau cháo có nhau”. Ngừng một lát, anh trai nói tiếp: “Mẹ đã nuôi chúng con lớn như ri, chừ mẹ già rồi chúng con nỏ chăm sóc cho mẹ được thì thôi, lại để mẹ đi chăm sóc cho một người dưng”.
Nói rồi, anh trai đứng dậy đi ra ngoài. Mẹ ngồi lặng, bát cơm vẫn còn nguyên trên tay, hai khoé mắt nhoè đi. Em trai ngồi ngơ ngác. Bỗng thấy cay cay nơi sống mũi. Lần đầu tiên, em trai nghe được anh trai nói những câu dài như vậy…
Sáng hôm sau, em trai chào cha mẹ và anh chị rồi dắt xe ra, lóc cóc đạp lên thị xã cho kịp buổi làm việc chiều nay. Mẹ chạy mãi ra đầu ngõ, đứng như thế nhìn em trai đạp xe, càng lúc càng nhỏ dần…/.
Người đàn bà trong hẻm nhỏ
Tổ dân phố vẫn đăng ký xây dựng tổ văn hóa mặc dù cuộc tranh luận về chị 3A vẫn liên tục diễn ra, lúc công khai, lúc bí mật. Nghe nói, số người tin chị là người có văn hóa ngày một nhiều hơn…
Nhà 3A ở gần đầu hẻm. Một ngôi nhà cũ kỹ, nhếch nhác từ bên ngoài cho tới bên trong. Đây là ngôi nhà duy nhất trong hẻm không được tôn tạo, sửa chữa từ nhiều năm nay. Không những thế, chủ nhà lại là người lười biếng quét dọn và hầu như không chú ý đến trang trí nội thất. Nếu chủ nhà là một người đàn ông sống độc thân, người ta có thể hiểu và thông cảm được.
Nhưng chủ nhà lại là một phụ nữ tuổi “bốn” có dư, cái tuổi lẽ ra phải chín chắn, cẩn trọng và tỉ mỉ. Một người đàn bà tràn trề sinh lực, xum xuê tươi tốt, như cây mít, cây xoài ở miệt vườn Mỹ Tho, Tiền Giang... vóc dáng không cao, không thấp, đầy đặn nhưng không nặng nề, cái gì cũng to, trừ bụng và miệng.
Cái duyên của chị phô diễn màu sắc, hương vị, kích cỡ của loại cá chép chiên xù. Đa số đàn ông thích. Đa số đàn bà không ưa, bảo chị vô duyên lắm, chưa thấy người đã thấy tiếng. Hơi tí là cười, cười như ngựa hí.
Có người thiện tâm muốn giáo dục, giúp đỡ chị nên nhắc nhở đàn bà phải thế này, thế nọ. Chị cười khanh khách, cặp vú to tròn hơi xệ rung lật bật như mắc chứng kinh giật. “Đúng quá rồi còn gì! Tôi thuộc loại ruột thẳng của loài ngựa, không cười như ngựa thì cười như thứ gì. Lúc nào tôi cũng thấy đói, đói mọi thứ, cười cho đỡ đói mà”.
Không hiểu sao chị hay nói về những cái xấu của mình một cách hồn nhiên. Ngay cả chuyện muốn lấy chồng là điều phụ nữ thường kín đáo, ý tứ, chị bô bô nói ra với tất cả những từ ngữ sống sượng, thô bạo nhất. Nào là thèm chồng, khát chồng, mót chồng... Chị rêu rao khắp nơi rằng, mình tìm chồng theo cách quảng cáo dầu gội đầu trên ti vi, chứ không làm theo kiểu tìm bạn trăm năm trên báo chí.
Sự khác người này càng khiến cho mọi phụ nữ trong hẻm khó chịu, bực tức. Và như người xưa thường nói “không ưa thì dưa có dòi”. Riêng đối với giới phụ nữ, đã không ưa thì nước uống tăng lực loại tê giác húc cũng có dòi chứ đừng nói đến dưa. Các bà, các chị đua nhau nói xấu chị. Lại có người nói chị là loại phụ nữ sát phu, chuyên gây họa cho đàn ông, cấm chồng hoặc con trai đến gần chị.
Chị đã trải qua ba đời chồng. Mỗi đời để lại một đứa con. Đứa gái lớn nhất đã 17 tuổi. Đứa trai nhỏ nhất đã lên 6. Hồi lấy chồng đầu tiên, chị ở trên Gò Vấp, làm y tá ở bệnh viện. Do đời sống kinh tế khó khăn, chồng chị đi lao động ở Đức rồi định cư, lấy vợ đẻ con bên đó, không về nữa.
Người chồng thứ hai là một nhân vật đặc trưng của con người làm ăn phát đạt nhanh thời kỳ bắt đầu mở cửa, làm ăn theo kinh tế thị trường. Đang là một quản đốc phân xưởng, ông ta rời bỏ xí nghiệp ra dân làm ăn, thành lập một công ty vật liệu xây dựng. Đã giàu sang rồi, ắt phải đổi mới gia đình. Và ông ta đã ly dị bà vợ già, kết hôn hợp pháp với chị.
Căn nhà đang ở là nhà của ông ta mua để xây dựng tổ ấm mới. Ở với chị được hai năm, chưa kịp nhìn thấy mặt đứa con gái, ông đã chết đột ngột vì bệnh nhồi máu cơ tim. Người chồng thứ ba là một gã đàng điếm lưu manh tính người thì ít, tính thú vật thì nhiều, được bao bọc bên ngoài lớp vỏ trí thức thời thượng, biết nói tiếng Anh, mặc đồ xịn, thắt cà vạt và đeo đồng hồ mạ vàng.
Gã làm môi giới du lịch và vì những đồng đô la, gã môi giới luôn cả vợ mình cho một khách du lịch nước ngoài. Phát hiện ra âm mưu và thủ đoạn đê tiện ấy, không cần kêu công an, chị lôi cổ gã từ trong khách sạn ra đường đánh một trận nhừ tử. Tên lưu manh này có nhiều thủ đoạn, nhưng tố chất đàn ông rất ít nên hầu như không biết chống đỡ ra sao, chỉ biết ôm đầu chịu đòn.
Chị nói với những người qua đường: “Đây là con chó dại, mọi người nhìn kỹ mặt nó, chớ để nó cắn!”. Sau đó, chị lôi gã tới các cơ quan công quyền yêu cầu bắt gã đi cải tạo và hủy bỏ mọi mối quan hệ với gã.
Có người khuyên chị: “Chuyện xấu xa nhơ bẩn ấy không nên làm ầm ĩ”. Chị làm dữ, hét ầm lên: “Nếu được lên ti vi, tôi còn nói nhiều nữa. Cái chuyện bẩn thỉu nhơ nhớp như vậy cần được loan báo rộng rãi cho mọi người được biết để phòng tránh”. Chị lồng lộn như người điên suốt mấy tháng trời.
Chị làm đủ thứ nghề để kiếm sống, thiên hạ có 100 thứ nghề lao động giản đơn, chị làm tới 70-80 nghề. Từ phụ hồ, người giúp việc nhà, chạy bàn ăn, y tá, hộ lý, nhặt phế liệu, chạy xe Honda ôm, bán hàng rong... Hiện tại chị làm một lúc ba việc trong một ngày.
Sáng sớm, từ lúc 5 giờ đến 10 giờ chị đến một quán ăn nổi tiếng phụ giúp người ta làm bếp và chạy bàn. Từ 10 giờ rưỡi đến 5 giờ chiều chị làm lao công tạp vụ cho một khách sạn ở gần đó. Từ 6 giờ chiều cho tới 9 giờ tối chị đến phụ giúp một phòng mạch tư, làm công việc y tá. Mỗi tháng chị bán máu một lần. Phường có ý định đưa chị vào diện nghèo để hỗ trợ, chị kiên quyết từ chối.
Trong số những người ghét chị, bà tổ trưởng dân phố là người ghét nhất. Tất cả những gì xấu xa, tội lỗi xảy ra ở trong hẻm bà đều đổ lên đầu chị 3A. Ví như vụ rác năm ngoái. Khoảng cuối chiều gần tối, khi mọi người đi làm về thấy rác rưởi tràn lan, những vỏ cơm hộp, bịch ni lông nước đá, nước ngọt, cơm thừa, khăn giấy, giẻ rách vứt tùm lum trước cửa nhà. Bà tổ trưởng nổi máu nóng, réo gọi chị 3A bắt phải dọn dẹp ngay lập tức.
Bà bảo chị là thứ người mất vệ sinh nên các loại rác thải bừa bãi trong hẻm là từ chị mà ra. “Trời không rơi xuống, đất không mọc lên, thì chỉ có từ nhà chị tuồn ra mà thôi!”. Bà tổ trưởng nạt nộ. Súng đại bác phát nổ còn thua. Chị đang chuẩn bị làm ở phòng mạch tư, xí xóa, phân bua: “Ở đâu ra em không biết, nhất quyết không phải từ nhà em. Xin cho em đi làm, còn như bắt em dọn, em nhận, nhưng phải để tối về em mới dọn được!”.
Chị mềm mỏng. Bà tổ trưởng với sự giúp sức của hai bà khác càng lấn tới. Sự bình tĩnh cũng có giới hạn. Đến lượt chị 3A nổi cơn thịnh nộ. Chị có sức khỏe hơn ba người kia, tiếng nói của chị vang rền hơn, dữ dằn hơn: “Đừng có ép người quá! Chưa chắc các người đã sạch sẽ hơn tôi đâu”.
Chắc chắn xô xát, đánh lộn sẽ xảy ra nếu không có người nói ra sự thật: “Các chị nghi oan cho người ta rồi! Rác này không phải từ nhà chị ấy ra. Đây là rác thải của đội công nhân vệ sinh công cộng ăn trưa trong hẻm để lại, rồi bọn chó mèo giành giật làm vương vãi tùm lum!”.
Bà tổ trưởng, một công chức cấp quận nghỉ hưu, đẫy đà phốp pháp vẫn khăng khăng bảo: - Loại đàn bà dâm tặc ăn luôn miệng nói luôn mồm ấy nhất định phải có nhiều rác thải. Bà còn lôi ra bằng chứng hai bao cao su đã qua sử dụng do bà nhặt được ở đầu hẻm, kết tội: - Của nhà chị ta thải ra đấy.
Lời nói của bà tổ trưởng nhanh chóng được chuyển đến tai chị 3A. Có hai loại người buôn chuyện này. Loại thứ nhất là quý bà nhận ra sự cực đoan vô lối của bà tổ trưởng, muốn gần gũi chị 3A để giúp đỡ. Loại thứ hai muốn mượn tay chị 3A để trừng trị bà tổ trưởng. Lạ thay, khi tiếp nhận thông tin từ hai loại người trên, chị 3A không hề nổi trận lôi đình hoặc cảm kích tri ân.
Vẫn cười hi hí, bảo: “Dâm tặc à, chỉ đúng một phần thôi. Tôi có dâm nhưng không tặc. Còn như hai cái bao cao su ở đầu hẻm, không phải của tôi. Không tin các vị cứ tra khảo xem nó khai ra của ai”. Rồi không khảo mà ra, chị bô bô tâm sự với các bà cùng hẻm về chuyện riêng tư của mình. Mới đây thôi, chị oang oác kể về mối tình thứ tám trong hai năm qua.
“Gã quen tôi ở nhà bác sĩ. Chắc cũng thuộc loại đại gia quen ăn nhà hàng và loại gái bia ôm. Da thịt bèo nhèo. Bụng phưỡn ra to đùng như đàn bà mang thai đến tháng thứ 6. Thoạt tiên, gã đối xử rất tử tế với tôi. Gã bị bệnh thấp khớp, mỗi lần tiêm xong, gã boa cho tôi một trăm ngàn. Tôi nhận chứ! Dại gì không nhận. Mình phải nuôi ba đứa con. Số tiền ấy đối với gã chỉ là cái lông chân rụng thôi.
Rồi gã đến nhà tôi, khen tôi đẹp người, đẹp nết. Tôi phì cười nói ngay: Ông anh khen quá lời, khen người tôi đẹp có thể nghe thủng lỗ tai, khen nết tôi đẹp là nói xỏ xiên, khác chi khen thầy chùa có bộ tóc đẹp. Gã lại bảo, gã muốn sống chung với tôi, vì gã thích những người đàn bà nồng nhiệt. Gã nghĩ rằng tôi là thứ đa dâm.
Tôi bảo gã: được thôi, vì tôi cũng đang cần có một thứ người gọi là chồng. Nhưng tôi có điều kiện. Anh phải ly dị vợ, rồi mang giấy ly hôn và giấy chứng nhận đã xét nghiệm máu không có HIV cùng 100 cây vàng đến đây, tôi gọi anh là chồng, anh gọi tôi là vợ. Sau lần ấy, gã biến mất, không thấy đến chích thuốc nữa”.
Cuối năm ngoái, tổ dân phố họp bàn đăng ký tổ dân phố văn hóa. Thuận hết. Chỉ vướng mỗi chị 3A. Bà tổ trưởng lo lắng bảo: Chị ta giống như bom nổ chậm. Nhiều người bảo, cơ bản chị ta là tốt, còn có thể giáo dục được. Một ông tiến sĩ già được cử tới làm công tác tư tưởng để chị 3A sống cho đúng với thuần phong mỹ tục.
Ông tiến sĩ thông kim bác cổ là thế vẫn không thuyết phục được chị 3A làm bản cam kết sống có văn hóa. Trước sau gì chị đều cười cười, nói nói, véo von như hát dân ca: - Nhà cháu không trộm cắp, cờ bạc đĩ điếm, không lừa gạt ai. Nhà cháu sống cũng lễ độ, biết kính trên, nhường dưới, con cái học hành tử tế, năm nào cũng có bằng khen. Nhà cháu đang chọn chồng, nhiều đàn ông đến xem mắt đâu có gì lạ. Nhà cháu sống vậy là có văn hóa rồi, khỏi cần làm cam kết nữa…
Cũng có lần chị buồn bã nói: - Các người nghĩ chuyện ăn nằm với nhau dễ dãi như vậy ư? Muốn đến mấy cũng phải có thời gian, điều kiện chứ. Các người thử nghĩ xem, tôi có nhiều thời gian, điều kiện để làm việc ấy lắm sao?
Người ta thấy ở đuôi mắt chị ngấn nước.
Tổ dân phố vẫn đăng ký xây dựng tổ văn hóa mặc dù cuộc tranh luận về chị 3A vẫn liên tục diễn ra, lúc công khai, lúc bí mật. Nghe nói, số người tin chị là người có văn hóa ngày một nhiều hơn…
Mùa gặt với cua đồng
Mới đó mà đã lại vào mùa gặt, đứng giữa cánh đồng quê, hít thở mùi bùn đất, hương lúa chín mà lòng lại dâng lên một cảm giác vui, buồn lẫn lộn. Mùa gặt cũng là mùa lũ cua đồng trong bờ bò ra mương, ra ruộng.
Chúng nghe động nước, tìm đường chạy núp. Đi gặt, mẹ bảo đem theo cái giỏ đựng cua, đựng cá. Loanh quanh một chỗ có hồi cũng bắt được hơn chục chú cua đồng. Gặt tới đâu, bắt tới đó. Nhiều con đôi càng to hơn ngón tay cái. Rủi mà bị kẹp là chỉ còn cách kêu trời.
Chỉ có điều trời sinh loài cua chỉ biết bò ngang chứ không quay sau được. Thấy chúng, chỉ cần nhẹ nhàng vòng tay ra sau, ấn chặt vào hai bên lưng rồi nhấc lên. Lúc này, dù chúng có cố huơ đôi càng to khỏe thế nào cũng bất lực chịu chui đầu vào giỏ. Loài cua đồng lủi dưới nước rất nhanh. Chúng mà chui vào gốc rạ, bờ cỏ hoặc hang thì nhất định không chịu bò ra.
Xong buổi gặt thì giỏ cua cũng gần đầy. Vậy là thêm một niềm vui. Mẹ nói trưa nay sẽ làm món cua rang. Cua đồng phải rang trong nồi đất mới ngon, mới giữ được cái vị của đồng, của đất chứ không lẫn với mùi nhôm, mùi sắt khi rang trong các loại nồi khác. Rang trên lửa liu riu khoảng gần 15 phút là nồi cua có thể ăn được. Toàn thân chúng đổi từ màu nâu sang màu đỏ, gắp ra đĩa, nhìn trông thật hấp dẫn. Không gì ngon bằng càng cua rang ăn trong lúc nóng, trong lúc bùn đất vẫn còn lấm lem trên người. Mẹ nhìn tôi, cười. Vẫn nụ cười yêu thương đi theo suốt tuổi thơ tôi cho đến tận bây giờ.
Muốn bắt được nhiều thì đi soi. Đêm, anh em tôi rủ nhau đi soi cua. Khoảng chạng vạng là chúng đã kéo nhau ra các mương nước, vũng nước để đi ăn hoặc ra các lối bờ ruộng để đào hang. Bởi thế, soi khoảng nửa tiếng là có khi được cả vài ký cua. Chủ yếu là vui, là thoải mái khi cầm trên tay từng chú cua đang cố sức vung ngoe, vung càng tìm đường thoát. Và được hòa mình trên cánh đồng quê đêm, bước trên những bờ ruộng nhỏ trong lòng dần ấm lại.
Nghe tin khoảng chừng vài năm nữa, quê tôi sẽ thuộc diện giải tỏa để làm khu công nghiệp. Mùa gặt năm nay còn được bắt cua, còn được ăn cua đồng rang của mẹ chứ không biết vài năm nữa thì... Tất nhiên, vẫn có thể mua ngoài chợ hoặc qua những vùng quê khác bắt về rồi rang. Nhưng với tôi, không gì thay thế được những con cua ở quê nhà. Đôi khi chỉ là vài con cua đồng rang thôi mà sao thấy thiêng liêng và vô giá lắm!
Nguyễn Thành Giang
Muối mặn tình cha
Ngoài trời mưa như trút nước. Tiếng mưa lộp bộp trước hiên nhà như đắng chát lòng tôi. Mỗi khi mưa đến là tôi lại lo về cánh đồng muối quê nhà. Ở nơi đó có bao nhiêu người quanh năm khổ hạnh vì nghề muối. Và cũng ở nơi đó, có người cha tóc bạc quanh năm còm cõi trên ruộng muối để nuôi bầy con nhỏ.
Đổi lấy những hạt muối trắng là bờ vai bị nắng đốt cháy đen sạm theo năm tháng. Nhưng điều đó làm cha vui hơn vì càng nắng, quê tôi càng bội thu những mùa muối. Vất vả hơn, mỗi khi mưa xuống là cha cùng bà con nơi đây phải tát từng gàu nước. Và phải chứng kiến từng hạt muối tan dần trong mưa, như làm rơi từng giọt nước mắt của cha và cả những người làm muối nơi đây.
Vẫn nhớ, khi còn bé thơ, vào mỗi buổi chiều tôi thường mon men chạy theo cha ra cánh đồng muối. Từng đống muối cao vút gom lại như những nóc nhà lớn. Tôi như bị ngợp bên những ngôi nhà muối trắng ấy. Nhìn những hạt muối sạch sẽ, trắng tinh tươm, tôi lại vui mừng biết bao. Vì từ những đống muối ấy mà tôi sẽ có áo mới đến trường, sẽ được cha mua thêm nhiều sách vở... Thời thơ ấu, cùng những mùa muối cuộc sống của chúng tôi cứ thế trôi qua êm ả.
Còn năm nay, hết mưa lại nắng. Những thửa muối được vun lên, trong chốc lát lại tan chảy thành những ruộng nước. Dường như chính sự thử thách của thiên nhiên đã rèn luyện lòng kiên nhẫn, chịu khó của những con người nơi đây. Khó khăn, vất vả cứ theo một cái vòng lẩn quẩn của nghề làm muối...
Năm nay muối lại mất mùa, thu hoạch chẳng bao nhiêu khiến nhiều người rơi vào vòng túng bẫn. Thay vì những nét mặt tự hào của ngày mùa, là những nụ cười chua chát và cái lắc đầu thất vọng. Để từ đó cụm từ "mùa muối đắng” được truyền nhau từ đầu đến cuối thôn...
Sống ở quê người, nhìn những giọt mưa cứ nhảy múa trước hiên càng làm tôi thấy nhớ và thương cha nhiều hơn. Chắc giờ này cánh đồng muối đang ngập chìm trong biển nước. Và cha đang thở dài bên khói thuốc chiều nao. Héo hon vì nghề muối, vất vả vì đàn con làm tóc cha thêm bạc. Những mùa muối thất thu, rồi bội thu. Những đứa con lớn lên rồi phải xa nhà. Chỉ còn hình bóng cha lặng lẽ mãi mãi ra vào trên ruộng muối.
Muối cần cho sự sống, như tình cha cần cho đàn con. Từ những hạt muối thấm đẫm mồ hôi của cha đã đưa tôi vào cánh cửa đại học. Từ sự dạy dỗ, chăm sóc của cha đã giúp tôi nên người. Và những hạt muối trắng li ti tưởng chừng chẳng có tí sức mạnh nào đã giúp tôi thành công, trở thành một người có ích cho xã hội, đem những con chữ rắc trên nhiều miền quê.
Hôm nay, những cơn mưa lại về. Những cơn mưa đắng chát lòng tôi, khiến tôi nhớ về ruộng muối quê nhà, khiến tôi nghẹn ngào thương cha bởi tôi biết, những hạt muối ngày mai sẽ mặn hơn vì quyện lẫn mồ hôi của cha trong đó.
Ngọt bùi xôi sắn tuổi thơ
Sắn quê tôi trồng nhiều, dường như nhà nào cũng có ít nhất vài luống trồng ngoài doi đất dưới bờ sông, thế nhưng không phải ai cũng làm được món xôi sắn dẻo thơm như của bà hay mẹ. Cũng vì thế, món quà buổi sáng của mẹ bao giờ cũng hết nhẵn khi mặt trời mới kịp lên đỉnh ngọn tre đầu làng. Gánh xôi sắn ấy nuôi mấy anh em tôi qua những năm tuổi thơ nghèo vẫn được đi học, quần áo được mặc ấm hơn trong những ngày mùa đông giá rét.
Làng tôi trải dài, men theo dòng sông Cầu thơ mộng. Chẳng vì thế mà các vị cao nhân ngày xưa vẫn gọi mảnh đất ấy như một đám mây vờn quanh tấm lụa đào mềm mại, phong cảnh lại rất đỗi sơn thủy hữu tình. Những doi đất ven bờ sông được phù sa bồi đắp là nơi thuận lợi để trồng được những thửa sắn thân khẳng khiu cho những “em bé sắn” mập mạp tròn lẳn dưới gốc. Đã từ lâu, sắn là loài cây nông nghiệp đi sâu vào tiềm thức của người dân quê tôi.
Sắn quê tôi trồng nhiều, dường như nhà nào cũng có ít nhất vài luống trồng ngoài doi đất dưới bờ sông, thế nhưng không phải ai cũng làm được món xôi sắn dẻo thơm như của bà hay mẹ. Cũng vì thế, món quà buổi sáng của mẹ bao giờ cũng hết nhẵn khi mặt trời mới kịp lên đỉnh ngọn tre đầu làng. Gánh xôi sắn ấy nuôi mấy anh em tôi qua những năm tuổi thơ nghèo vẫn được đi học, quần áo được mặc ấm hơn trong những ngày mùa đông giá rét. Từ những củ sắn mới mang ngoài ruộng về còn lấm đất được mẹ chọn kĩ rồi rửa sạch, bóc hết lớp áo ngoài rồi bóc cả lớp áo dầy kế tiếp, đến khi nào lõi sắn trắng ngần phía trong cùng mới thôi. Củ sắn được chọn cũng phải là những củ ngắn, tròn lẳn và không bị sâu bệnh. Sắn rửa sạch rồi mang luộc trước cho nguội, để khi đồ với xôi sẽ không bị lẫn vào xôi. Dừa mẹ đem nạo thành từng sợi nhỏ để khi trộn với gạo và sắn sẽ dễ làm hơn. Gạo nếp đã ngâm sẵn, cho vào chiếc hông gỗ hằng ngày vẫn đồ xôi, trộn hỗn hợp gạo, dừa và sắn đã được xắt thành từng miếng nhỏ sau đó bắc lên bếp đồ. Gạo nếp của vụ mùa hạt tròn mẩy, khi đồ lên tạo ra độ kết dính với sắn và dừa, cho thêm chút dầu ăn hay mỡ để xôi được óng ả, khi ăn thì béo và bùi. Khi đồ xôi, mẹ không nên để lửa quá lớn, dễ làm xôi không chín đều, có chín được thì xôi cũng không được ngon. Xôi sắn khi ăn có thể cho thêm hành khô.
Những củ sắn quen thuộc ấy gắn bó với chúng tôi trong suốt thời ấu thơ của mình. Từ củ sắn lùi trong buổi chiều nào chăn trâu cắt cỏ cho đến câu chuyện no đói trong lời kể của bà, thế nhưng món xôi sắn dẻo thơm vẫn mãi đi vào trong kí ức về những mùa đông ấm áp của tuổi thơ.
Nhớ mùa rươi
Tiết trời se lạnh, trong làn mưa bụi nhạt nhoà nơi xa xứ bao giờ cũng đem đến cho người ta một nỗi hoài cảm nhớ nhớ, thương thương về miền quê hương xứ sở. Trong bộn bề thương nhớ ấy, tôi nhớ ôi là nhớ mùa rươi...
Năm nảo năm nao, bà tôi vẫn nhắc: “Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm”, trời chuyển mây vần vũ, lất phất mưa phùn, người dân quê tôi gọi ấy là mưa mở lỗ rươi. Con rươi, loài sinh vật nhỏ bé vùng nước lợ chỉ quê tôi mới có, nơi bốn dòng sông mênh mang: sông Gùa, Văn Úc, sông Thái Bình, sông Mía bao quanh.
Khi cả bãi triều ngập trong làn nước phù sa màu nâu nhạt, những sinh vật nhỏ bé thoạt nhìn hình thù kỳ dị, thân mềm có nhiều chân như loài rết ùn ùn ngoi lên mặt nước tạo thành những ngọn sóng nhỏ lăn tăn trông giống màu cầu vồng bảy sắc. Mùa rươi, mùa gió lạnh về, mưa lui bui càng sắt se giá lạnh không ngăn được người dân quê tôi, từng đoàn, từng đoàn rủ nhau đi vớt rươi ngoài bãi. Nào lưới, nào vợt, nào rổ rá, mỗi người mỗi thứ đồ nghề. Mỗi người tự chọn cho mình chỗ đứng thích hợp để có thể vớt được nhiều rươi. Ấy là cách bắt truyền thống của người dân quê, còn với những người chuyên nghề vớt rươi đem ra chợ bán, để bắt được rươi nhiều, họ khơi bờ ruộng cho nước chảy, giăng mành mành rộng theo hình phễu rồi đơm đó, lũ rươi cứ thế chảy vào. Chẳng vớt được bao nhiêu, nhưng đám trẻ con chúng tôi cũng bắt chiếc làm đồ nghề, xắn quần ào xuống bãi. Háo hức và vui nhộn. Ai cũng say sưa với công việc của mình, miệng vẫn chuyện trò rôm rả làm sôi động cả bầu không khí, như quên đi cái giá lạnh ngày đông.
Người dân quê tôi ai cũng háo hức chờ đến mùa rươi, bởi rươi là một đặc sản theo mùa chứ không phải lúc nào cũng có. Dù không là cao lương mỹ vị gì, nhưng rươi đem về làm món chả rươi, nấu nồi canh rươi thơm ngào ngạt cả nhà quây quần mâm cơm chiều sum họp. Rươi vớt về, thả vào chậu nước, rửa nhẹ tránh làm vỡ ruột rươi, nhặt sạch mùn rác rồi để cho ráo nước. Lại đổ rươi nhè nhẹ vào âu, rắc thêm chút muối và mấy thanh vỏ quýt, rồi đều tay đánh nhuyễn bột rươi. Thịt ba chỉ ngon băm nhỏ, trứng gà, hành hoa, thì là, lá lốt, lá gừng thái chỉ, nêm chút mì chính, hạt tiêu, nhanh tay xúc từng thìa bột rươi dẻo quẹo thả vào chảo mỡ xèo xèo trên bếp lửa, chẳng phải đợi lâu đã có đĩa chả rươi vàng ruộm, thơm lừng. Chả ấy ăn không đã thấy ngon ngon, bùi bùi, ngậy ngậy, thơm độc đáo. Xắt miếng nhỏ, cùng với bún, rau thơm quấn lá nem, chấm nước mắm cá cơm pha chút chanh, tỏi, ớt, hồ tiêu.., nhấp chút rượu nồng thì đậm đà chẳng thể nào quên. Thưởng thức đôi chiếc chả, lại xuýt xoa húp bát canh rươi. Măng tươi thái nhỏ, gấc hái trên giàn, rau thơm, gia vị vườn sẵn có. Một chút kỳ công, bếp củi than hồng, nêm nếm cho vừa miệng, lát sau mẹ đã bưng lên nồi canh rươi thơm phức. Canh rươi phải ăn lúc nóng, ấp bát canh rươi nóng hổi trong lòng bàn tay, sóng sánh sắc vàng của rươi, măng, sắc hồng của gấc, điểm xuyết vài ba lát ớt chỉ thiên, hít hà mùi thơm, cảm nhận vị ngọt, bùi, ngậy, tê tê cay cay nơi vị giác làm ta nhớ mãi.
Mấy mùa rươi, chắc chúng bạn ở quê vẫn rủ nhau ra bãi. Xa cách quê người, gió lạnh, đông về, ta lại cồn cào chạnh nhớ mùa rươi!
Về miền quê ngoại
Ai không có một miền quê trong tuổi thơ đầy nắng gió, ai không có một lần được nhớ mãi cảm giác về miền quê ngoại với những kỷ niệm ấu thơ tuyệt vời, người đó thật thiệt thòi.
Về miền quê ngoại, cậu mợ đối với tôi như một người con trong gia đình, chú dì vẫn nhắc kỷ niệm ngày mẹ tôi còn chưa đi đến cõi vĩnh hằng, nghe vừa mừng vừa tủi, một chút hờn ghen với các em của tôi được sống trong cảnh sum vầy. Các em của tôi, đứa nào cũng lớn phổng phao nhưng đặc biệt, đứa nào cũng ngoan và nghe lời tôi biết mấy.
Buổi trưa có đứa nào chịu ngủ, lôi nhau ra bờ ao bới giun câu cá. Khổ thân mấy đứa phải bới cho tôi bao nhiêu mồi mà rổ cá vẫn rỗng không, thương tôi, chẳng đứa nào dám kêu ca mà vẫn khích lệ tôi thêm cố gắng. Những câu nói ngây thơ nhưng lại là động lực để tôi luôn biết vươn lên trong cuộc sống sau này. Tiếng cười giòn tan xua đi cái nắng oi nồng của tiết trời tháng bảy. Mãi tới buổi chiều mới có một bữa cá rán ngon lành, mặc dù vẫn bị dì mắng yêu vì lo cho con cháu.
Về miền quê ngoại, là được về với khu vườn nào đó ta đã đọc trong những câu chuyện cổ tích. Khu vườn bao quanh bởi những hàng mía thân thẳng dài mà đều tăm tắp, phía trong được trồng những thứ quả ngọt lịm nơi đầu lưỡi hay chua chua mát mát vị tuổi thơ. Giàn mướp nhật che bóng mát cho chiếc sân gạch phủ rêu trơn tuội vào những ngày mưa, những quả mướp còn non đung đưa theo gió như những chiếc lưỡi vằn lè ra thách thức. Đi ra cổng lại có thêm một giàn chanh leo, dưới mắt lá để lộ ra những quả căng tròn vàng ruộm, cho ta có thêm một ly nước giải khát trong buổi trưa hè. Cây đu đủ dường như kiêu hãnh vì thân cây đứng thẳng, chẳng cần nhờ tới chiếc giàn nào vẫn dâng tặng những quả đu đủ thơm lừng, ngọt lịm. Cũng có khi nhà có khách, dì chọn những quả còn xanh vào nhà dì cháu cùng làm món nộm vừa ngon, bổ, rẻ và …đủ nữa.
Ngay sau nhà, ngoại có trồng thêm một vườn rau ăn, ngoại bảo rau mua ngoài chợ chỉ sợ người ta phun thuốc sâu, tự trồng lấy là an toàn nhất. Ngoại còn dạy cách chăm bón sao cho rau không bị sâu bệnh. Ở thành phố, tấc đất tấc vàng lấy đâu ra đất mà trồng rau, nghĩ thế nhưng tôi luôn chăm chú nghe từng chút một cho ngoại khỏi phật lòng. Tuổi già thường có thú truyền lại kinh nghiệm cho con cháu.
Ngoại vẫn bỏm bẻm nhai trầu kể chuyện ngày xưa, ngoại hiền từ chân chất như bà tiên cổ tích, đã ở cái tuổi bát thập nhưng ngoại còn ham làm vì thương con, thương cháu vất vả. Tuổi già sức yếu đêm ngủ được là bao, ngoại đọc cho tôi nghe vần thơ về những ngày còn binh đao khói lửa, chiến tranh đã qua mà nỗi đau còn như mới hôm nào. Cậu út ú ớ không thành câu, giữa đêm bật dậy hát bài con cò bé bé, ngoại dậy cho bao nhiêu lần còn chưa thuộc hết. Ngày tôi rời quê, ngoại chỉ dặn đi đường cẩn thận nhưng tôi biết ngoại thương tôi biết chừng nào...
Mới thế mà đã lại xa quê. Không hẹn ngày về, chẳng hẹn ngày đi, những triền đồi sim tím bỗng trở nên ngăn ngắt, buồn biết mấy. Bước lên xe tự bao giờ mà những hình ảnh quê ngoại cứ trở lại trong tâm trí. Trước khi đi mấy đứa em ríu rít làm tôi không bước nổi chân, cậu mợ, chú dì đứng ngoài hiên tiễn cháu mà rơm rớm nước mắt. Tôi lặng thầm ôm kỉ niệm vào lòng, tự hứa sẽ quay về vào một mùa hè gần nhất.
Hương sấu ngâm mùa hè
Năm nào cũng vậy, khi tiếng ve gọi hè về cũng là lúc sấu ngâm xuất hiện gần gũi và thân quen. Cốc nước nhỏ mà lại chất chứa nhiều hương vị ngọt ngào, có lẽ vì thế mà nước sấu ngâm lại được mọi người yêu thích.
Là loại quả đặc trưng cho những ngày hè bởi vị chua thanh dịu, thơm mát có trong từng quả sấu ngâm. Từng chùm sấu sai trĩu lấp ló sau tán lá che mát cả một khoảng sân, góc phố hay những con đường trước ánh nắng hè chói chang.
Với nhiều người dân miền Bắc sự xuất hiện những lọ sấu ngâm vào những ngày hè được xem như loại nước giải nhiệt không thể thiếu. Những chùm sấu nhỏ, màu xanh và hơi xù xì đã tạo ra không ít món ăn. Nhưng chắc chắn sấu ngâm vẫn luôn chiếm một vị trí nhất định trong lòng thực khách
Giữa trưa hè nóng nực thưởng thức từng ngụm nước sấu khiến ta cảm giác hơi lạnh từ đá, vị mát mùi thơm của sấu lan tỏa trong từng ngụm nước. Nhưng sẽ ngon hơn khi được thưởng những quả sấu ngâm trong cốc nước lạnh, dường như mùi vị, nét đặc trưng trong sấu ngâm đã hấp dẫn biết bao người sành thưởng thức. Vị ngọt của đường kết hợp chua thanh nhẹ của sấu và một chút thơm của gừng tạo nên những quả sấu ngâm giòn tan, dịu mát mãi đầu lưỡi.
Không phải là thứ nước uống cầu kì, tốn tiền. Sấu ngâm mang nét dân dã, giản dị như chính hồn quê, vị quê. Thứ nước có màu vàng nhạt, quả sấu vàng óng nằm trong những lọ thủy tinh đẹp mắt khiến ai cũng cảm thấy gần gũi và thích thú với loại nước này.
Vào mùa gặt bình nước sấu ngâm ướp đá luôn theo chân những người nông dân đi khắp các cánh đồng. Vị thanh mát trong cốc nước sấu sau mỗi giờ giải lao như làm dịu mát ánh nắng chói chang, giảm đi sự mệt mỏi trên mỗi khuôn mặt.
Quán nước ven đường trong những ngày hè lại càng không thể vắng mặt những lọ sấu ngâm. Chỉ với 2.000 nghìn đồng, cốc nước sấu ngâm đã trở thành sự lựa chọn của nhiều người. Cô cậu học sinh, sinh viên nào thường mua những túi nước sấu ngâm và thưởng thức trên mỗi giảng đường, lớp học… để đến hôm nay thành hoài niệm gắn liền với hương vị sấu ngày hè.
Có mùi vị đặc biệt đến thế nhưng lại đơn giản trong cách chế biến. Chỉ cần một chút tỉ mỉ, khéo léo ai cũng có thể tự tay chế biến một lọ sấu ngâm vàng thơm cho mình và gia đình. Những quả sấu đậm vỏ, cứng được gọt vỏ rồi dùng dao tách phần thịt sấu ra khỏi hột và ngâm vào nước vôi loãng hay phèn để tạo độ giòn cho sấu. Ngâm sấu với đường sao cho vừa đủ để tạo vị ngọt thanh, có lẽ nước sấu ngon một phần bởi mùi thơm của những nhánh gừng giã dập. Chỉ thế thôi cũng đủ làm kẻ xa hương nào đó phải bâng khuâng thương nhớ…
Nhớ lắm bầu ơi!
Lấy chồng, lập nghiệp ở thành phố, tôi thường kể với chồng, con về món bầu khô của mẹ ở một vùng quê xa. Mỗi lần nhắc, tôi lại nhớ dáng mẹ ngồi cắt bầu dưới mái hiên bị thời gian, bão gió xô nghiêng mà rơm rớm nước mắt. Không biết quê mình giờ có còn ai phơi bầu khô?
Trong vườn nhà tôi, giàn bầu, bí là thứ không bao giờ thiếu. Những buổi trưa mùa hè, chỉ có ngồi dưới giàn bầu mới có thể quên đi cái không khí oi ả.
Đến mùa bầu mùa bí, trái nhiều vô kể. Mẹ tôi thường hái đem ra chợ bán, trái nào ngon mẹ gởi lên thị xã cho dì tôi. Ở thị xã, người ta cũng có bán nhưng mẹ vẫn gởi lên vì dì bảo thích ăn bầu quê mình!
Mẹ có cách giữ bầu được rất lâu. Vào những hôm trời nắng đượm vàng, mẹ cắt quả bầu thành từng miếng mỏng (mẹ bảo càng mỏng càng giòn, ngon), rồi đem phơi. Mẹ thường phơi bầu trên những cái mẹt lớn bằng tre. Để cho đỡ bụi, mẹ bỏ những cái mẹt ấy lên mái nhà. Có hôm không đủ mẹt để phơi mẹ phơi cả trên mái tôn. Bầu phơi “được nắng” khi ăn mới giòn, trắng chứ không bị thâm đen.
Bầu khô, mẹ cho vào bao ni lông rồi đem treo trên giàn bếp. Thi thoảng hôm nào thiếu thức ăn, mẹ lấy ra vài nắm bầu khô, cho vào nước ấm, rửa sạch, để ráo nước, sau đó đem kho với thịt heo hoặc xào với tỏi. Bầu khô thường được để dành dùng vào những ngày rét cắt da cắt thịt hay những ngày mưa dầm, chợ búa khan thức ăn.
Tuổi thơ tôi gắn với món bầu khô kho thịt vào những ngày mùa Đông của mẹ. Tôi còn nhớ cái năm lụt kinh hoàng đi qua quê tôi, một trận lụt to nhất và lâu nhất. Cả nhà phải leo lên trên gác xép (mà dân nông thôn gọi là cái tra) ngồi. Mẹ cầm theo nồi nấu cơm, gạo và gói bầu khô. Trước khi mì tôm và hàng hoá cứu trợ đến được với nhà tôi, chúng tôi đã cầm cự ngày hai bữa bầu khô kho với mỡ heo hay xào với tỏi. Nước ngập phía dưới, đói và lạnh, nên nồi cơm nửa sống nửa chín vì thiếu lửa mà chị em chúng tôi vẫn ăn ngon lành.
Những năm sinh viên xa nhà, quanh năm ăn cơm bụi. Thi thoảng trở về quê lại được mẹ kho bầu khô “chiêu đãi”, cái món dân dã quê nhà ấy sao mà ngon lạ thường.
Lấy chồng, lập nghiệp ở thành phố, tôi thường kể với chồng, con về món bầu khô của mẹ ở một vùng quê xa. Mỗi lần nhắc, tôi lại nhớ dáng mẹ ngồi cắt bầu dưới mái hiên bị thời gian, bão gió xô nghiêng mà rơm rớm nước mắt. Không biết quê mình giờ có còn ai phơi bầu khô?
Nhớ cơm mắm tép
Mỗi khi gió lạnh tràn về báo hiệu một mùa Đông sắp đến, trong tôi lại rộn lên những cảm xúc khó tả. Xa rồi cái thủa đi cất vó tôm, vó tép, ấy vậy mà kí ức một thời rong ruổi bên những con mương đầu làng vẫn còn in đậm trong tôi.
Còn nhớ những mùa mưa, cả đám trẻ con xóm bãi kéo nhau ra những con mương, đồng làng thả vó tép. Những cái vó nhỏ xíu, khung được làm bằng thanh tre buộc khéo léo với một tấm vải màn, đơn giản vậy nhưng là công dụng hữu hiệu để bắt tôm, tép. Mẹ tôi cẩn thận hơn, bà đem từng cái vó ra khâu bốn xung quanh cho chắc chắn. Công tác chuẩn bị cũng khá công phu. Mồi nhử tôm, tép là cám được rang chín, cùng với một ít lá cúc tần để dậy mùi hơn. Xong đâu đấy, mấy chị em háo hức đứa vác gậy, đứa mang vó, đứa cầm rổ rá hành quân đi cất vó.
Sau những trận mưa rào cuối hè là chúng tôi cất được nhiều tép nhất. Những con mương nước lặng, đùng đục là nơi được chọn. Có hôm trở trời, tôm tép còn nổi lờ lờ mặt nước, chỉ cần chịu khó một chút là đã có ngay mớ tép tươi. Hôm nào được nhiều tép là cả bọn nhảy lên sung sướng về khoe chiến công với mẹ. Từ mớ tép chúng tôi đem về, mẹ cẩn thận nhặt từng cọng rong, hạt sạn lẫn vào trong đó. Mẹ bảo cái giống mắm tép phải làm sạch, chỉ hơi lẫn một tý là hỏng, mắm mà ngả màu thâm xỉn là coi như công toi. Mẹ cẩn thận đãi đi đãi lại cho đến khi rổ tép trắng hồng mới cho vào cối đá giã, như thế mắm mới nhuyễn. Công đoạn rang thính cũng công phu. Lửa không to mà cũng không được quá nhỏ và nhất là phải đảo đều tay. Những hạt gạo vàng rộm trong chảo nở đều như những bông cau, khi chín tới đem ra giã. Xong đâu đấy, cứ một lớp tép mẹ lại bỏ vào một lớp thính cho vào hũ rồi đem nút chặt bằng lá chuối khô để sát cạnh bếp.
Nhờ có lửa than, hơi nóng mà mắm nhanh chín ngấu. Suốt cả tháng trời cứ háo hức chờ lúc mẹ mở nút lá chuối. Khi ấy, ba gian nhà sẽ sực nức mùi vị ngọt ngào, thơm lạ thơm lùng. Những buổi chiều đi học về, đói quá chạy ù vào bếp lấy bát cơm nguội ăn với mắm của mẹ làm thì tuyệt hảo. Mùa đông, khi cơm vừa chín tới để nguyên trên bếp. Dọn mâm cơm ra chỉ có bát canh nóng, tay mẹ xới lưng cơm khói còn nghi ngút rồi rưới đều từng thìa mắm tươi hồng, đặc sánh thì ăn chẳng biết no.
Khi những cơn gió lạnh tràn về tôi lại thấy nhớ quá dáng mẹ bên bếp lửa bập bùng. Của ngon vật lạ, mâm cao cỗ đầy không làm tôi quên được món mắm tép của me, nhắc tôi nhớ về tuổi thơ và hương vị quê nhà.
Mùa đông và canh lá lốt
Cứ mỗi lần trời bắt đầu se lạnh, báo hiệu mùa đông về, tôi lại nhớ ngoại. Nhớ nhất những lúc đi học gặp mưa, về nhà thế nào ngoại cũng nấu món canh lá lốt để giải cảm.
Ngoại thường chọn những con tôm còn sống búng tưng tưng, làm sạch vỏ, giã nhỏ ướp gia vị. Ngoại đặt nồi lên bếp, phi thơm tỏi với dầu ăn, cho tôm vào xào chín, đổ nước chờ sôi rồi cho lá lốt đã rửa sạch, thái nhỏ vào. Ngoại không quên cho thêm ít gừng tươi giã dập, ít lá rau quế hoặc lá ngải cứu để tạo mùi thơm. Mỗi khi tôi bị cảm hàn chỉ cần ăn chén cơm với tô canh lá lốt nóng hổi ngoại nấu thì dường như cái cảm giác nặng nề, mệt mỏi trong cơ thể bỗng tan biến đi. Ngoại tôi giảng giải: “thứ cây lá lốt này cả rễ, thân, lá, đều là vị thuốc quý người dân quê dùng nấu lấy nước uống chữa đau xương, thấp khớp, đổ mồ hôi tay, chân, chữa cảm hàn... lại còn có thể chế biến được nhiều món ăn ngon”. Cũng thật lạ, món canh ngoại nấu mới thưởng thức lần đầu thấy vị hơi đăng đắng, quen rồi dăm ba bữa không ăn lại thấy thèm thèm cái hương vị đặc biệt ấy. Vì tôi thích món canh lá lốt, nên ngoại chừa luôn một góc vườn nhỏ để trồng.
Cả cuộc đời ngoại hy sinh vì chồng con. Ông tôi mất khi ngoại còn rất trẻ, một mình ngoại chèo chống nuôi 4 người con trưởng thành, dựng vợ gả chồng, đến khi chỉ còn lại một mình ngoại trong căn nhà hiu quạnh. Năm tôi mười tuổi, sau một lần làm ăn thất bại, cả nhà tôi phải dắt díu về sống cùng ngoại. Tuổi thơ tôi sống trong sự chỉ bảo dịu dàng mà nghiêm khắc của ngoại. Nhà nghèo không đủ áo ấm, những đêm đông lạnh, ngoại lom khom đi lấy củi nhóm bếp - những cành củi ngoại tranh thủ lượm lặt lúc rảnh rỗi, bên bếp lửa đỏ hồng ngoại hơ tay, hơ ngực và hơ đầu cho từng đứa, vậy mà cũng qua hết mùa đông.
Thấm thoắt đã mấy năm kể từ ngày ngoại mất. Chiều nay trong cái lạnh tê tái của mùa đông, tôi thầm ước gì lại được nhìn thấy bóng ngoại lụi cụi ngồi lặt từng chiếc lá lốt, được thưởng thức món canh ấm lòng của ngoại
Quà ngon Kharkov
Gần hai chục năm đã trôi qua, cuộc sống của những người Việt trên đất Ucraina có biết bao thăng trầm, đổi thay, nhưng những món quà ngon cuả Kharkov thì vẫn mãi đi cùng dòng chảy thời gian...
Hơn chục năm về trước những người Việt ở Kiev đã thật ngỡ ngàng khi nhìn thấy những đĩa bánh chưng, những khúc giò lụa được cắt theo đúng kiểu Việt Nam bày ngay ngắn xen kẽ với các món sơn hào hải vị của Ucraina tại một khách sạn sang trọng trong buổi tiệc đón năm mới do Đại sứ quán Việt Nam tổ chức.
Không ngỡ ngàng sao được khi lần đầu tiên được nhìn thấy và được thưởng thức những món ăn mang đậm chất cổ truyền ngày Tết Việt Nam trong cái lạnh băng giá bên ngoài giữa đất trời Châu Âu.
Ngày ấy bánh chưng còn hiếm đỗ xanh lắm nên có khi phải pha thêm đỗ vàng của Ucraina vào, và giò thì gói bằng nilon và giấy báo, nhưng hương vị của chúng vẫn đủ để mọi người nôn nao chờ đợi mau đến cái Tết tiếp theo để được thưởng thức vì đó là món quà của Kharkov chỉ làm để ủng hộ cho tiệc đón năm mới mà thôi.
Cho đến bây giờ thì không ít các gia đình người Việt đã từng sống ở các thành phố khác nhau tại Ucraina trong các dịp lễ Tết, đám cưới, giỗ chạp đều không thể thiếu được đĩa giò chả. Người sành ăn là phải chọn cho được giò chả từ Kharkov mang thương hiệu Vân Cảnh, mà cũng phải thôi vì so với một số người hoặc từ Việt Nam mới sang hoặc học nghề từ chính anh chị truyền lại dù có hơn về công tác quảng cáo hay áp dụng cả những công nghệ mới thì vẫn không thể nào vượt được giò chả cuả anh chị Cảnh – Vân, những người đã có bề dày kinh nghiệm từ việc chọn thịt cho đến cách cho mắm muối. Quả thật nếu đã được ăn thì bạn sẽ dễ dàng so sánh và sẽ thấy khứu giác và vị giác được đánh thức khi ăn những miếng giò nạc mà khi ta cắn vào miệng miếng giò có màu hồng nhạt loáng theo vết cắt sắc mịn của dao là một chút thôi rất ít nước rỉ ra theo những bóng khí bị cắt, không ướt dao mà chỉ đủ làm cho miếng giò trông thật ngon lành mà không khô cứng, sực nức mùi thơm của nước mắm ngon, cảm nhận tới tận chân răng độ giòn của giò được làm từ thịt lợn tươi quết nhuyễn. Sau này nhà anh chị Cảnh Vân còn làm thêm những chiếc bánh dày trắng phau dẻo quánh, bọc trong là miếng chả quế thơm tho hay miếng giò lụa tươi mới, bảo đảm bạn sẽ có cảm giác như vừa được ăn chiếc bánh dày giò của bà hàng giò chả gần chợ Hôm – Đức Viên Hà Nội nếu bạn đã từng ăn.
Trong các dịp Trung Thu – dù có đầy hoa quả, những gói bánh kẹo nhiều mầu sắc của cả “Tây” và Việt Nam, nhưng hẳn vẫn sẽ thấy thiêu thiếu nếu không nhắc tới bánh nướng, bánh dẻo của nhà Hạnh-Khanh. Cũng chẳng biết bánh Kinh Đô “xịn” bây giờ ngon tới cỡ nào vì có đưa sang được cũng chỉ làm quà biếu còn thì chỉ được nghe qua đài báo, chứ ở đất Ucraina này thân quen phải kể đến bánh nướng, bánh dẻo nhà Hạnh-Khanh với “thâm niên” hơn chục năm gắn bó với cộng đồng. Cũng chỉ là những mẫu mã cổ điển và công thức cơ bản của Xí nghiệp bánh kẹo Hà Nội, thế nhưng phải mất bao công sức tìm tòi, thử nghiệm với điều kiện thời tiết của trời Âu, bao lần phải vứt bỏ vì những “sáng tạo” không phù hợp của người đã một thời làm công nhân trong Xí nghiệp bánh kẹo Hà Nội. Cho đến hôm nay cứ mỗi dịp Trung Thu trăng tròn là những chiếc bánh nướng bánh dẻo thơm phức lại được đóng gói, tuy không ghi tên nhưng ở hầu hết các thành phố lớn đều biết là của Hạnh-Khanh, được bày ngay ngắn trên quầy hàng tại Kharkov và được đóng gói gửi đi các thành phố khác. Để rồi những chiếc bánh thơm thảo ấy lại được thành kính đặt lên ban thờ thắp hương hay cùng các loại bánh kẹo hoa quả khác làm nên một mâm cỗ hoàn hảo cho trẻ em đón tết Trung Thu.
Đến Kharkov, ra chợ Barabashova, mà không ăn bát phở mùa đông hay xuất bún chả ngày hè của nhà Khải-Nguyệt thì vẫn còn chưa đủ dù bạn đã đi trong khu chợ bạt ngàn hàng hoá, ngắm thỏa thuê và mua những gì bạn thích. Có người đã nói: “Ngày nghỉ đi ra chợ chơi không ăn được bát phở hay xuất bún của nhà Khải Nguyệt thì cũng phí công ra chợ!”. Ấy là người ta cứ nói thế chứ quả thật ở Kharkov thì ai cũng đều biết tiếng rồi, không những thế mà cả những người đi lấy hàng từ các thành phố khác đến cũng đâm mê. Xuống xe bụng đói cồn cào sau một đêm dài, mùi hương quyến rũ của nồi nước phở tỏa lan trong không gian lạnh giá của tuyết trắng như níu bước chân. Cũng chỉ định ăn bát phở lót dạ cho ấm bụng ngày đông để đi lấy hàng, vậy mà đi mãi quá trưa vẫn không thấy đói chỉ vì bát phở quá đầy đặn với những sợi bánh phở trắng tinh, những miếng thịt bò tái màu hồng nhạt và nước dùng đậm đà vị ngọt từ xương ninh kỹ thơm mùi hồi quế... mà chẳng cần cho thêm mì chính cũng ngọt lắm rồi.
Người Kharkov thì khỏi phải nói, rất nhiều người đã đâm nghiện phở nhà anh chị Khải-Nguyệt. Ngày thường hay "ốptôm" cũng đều có thói quen lên nhà hàng ăn bát phở rồi xuống chợ đi làm. Thứ bảy – chủ nhật, có nhà dẫn cả con cái hay bạn bè ra chợ ăn phở. Nhiều người có bạn bè người quen ở các thành phố khác hay ở các nước khác sang cũng cố gắng thu xếp thời gian ra quán Khải-Nguyệt thưởng thức chút hương vị quê nhà, rồi ốm đau, nằm viện bát phở nhà Khải-Nguyệt cũng đã góp phần nâng cao thể lực giúp bệnh mau lành . Có được bát phở ngon để làm ra nó́ chủ quán đã phải cẩn thận lựa chọn từ những khúc xương để hầm, những miếng thịt phải tươi rói và tất nhiên bánh phở cũng vậy phải có độ dẻo và dai của gạo ngon làm thành. Tất cả cùng hoà vào bản hợp ca với màu sắc của hành mùi xanh mướt với chanh vàng và ớt đỏ với mùi vị không thể lẫn được của phở, làm nên một thương hiệu phở Khải-Nguyệt . Lẽ thường là khách nhớ nhà hàng chứ nhà hàng sao nhớ nổi khách, thế nhưng với quán Khải-Nguyệt thì khác. Ngày xưa quán mới mở sập xệ trong một chiếc conteiner, chỉ có một hàng bàn thấp tè và những chiếc ghế đẩu bé như quán phở vỉa hè Hà Nội vậy mà vẫn đông khách dù có phải xếp hàng, chờ đợi. Chợ rộng lắm nhưng anh chị vẫn nhớ người này hay ăn giờ nào, hay ngồi ở đâu cho tới khi lên càfê Hương Việt - Quán càfê to nhất chợ Barabashova với những bàn ghế sạch tinh tươm thì vẫn thế, khách mới đi vào tới cửa còn xa mà anh chị đã chuẩn bị. Có người thì chị nhắc, có người thì anh nhớ, đại loại như làm bát ít bánh thôi, thêm thịt, ít nước hoặc nhiều bánh, nhiều nước, thêm béo...gần như với những thực khách ở Kharkov anh chị nắm được sở thích của từng người.
Còn nói đến bún chả thì chẳng những ta mà cả tây cũng mê nữa. Có những người gần như ngày nào cũng ghé ăn, có người còn thuộc lịch bán của quán theo mùa . Bạn đừng ngạc nhiên thấy một ông “tây” vào hỏi: “chắc tuần sau là có bún chả rồi phải không?”- rất đúng với dự định của nhà hàng. Chắc là mong chờ lắm và cứ như họ biết đã đến mùa của các loại rau thơm Việt Nam - Kinh giới, tiá tô...đã có thể hái lứa đầu từ vườn của những nhà trồng rau để thêm vào với xà lách, rau mùi có sẵn tạo nên một điã rau với đầy đủ hương vị, những sợi bún tròn trịa trắng tinh cùng những miếng thịt được tẩm ướp kỹ càng, được quạt nướng trên than hồng nhỏ những giọt mỡ để bay mờ những làn khói toả lan cái mùi không thể lẫn được cuả chả nướng. Gia vị không thể thiếu cuả xuất bún chả là bát nước chấm pha thật khéo với chua, cay mặn ngọt. Bên màu đỏ tươi thật bắt mắt cuả những lát ớt là những miếng su hào trắng giòn tan khi nhai trong miệng. Tất cả mỗi thứ một chút tạo nên sự ngon miệng khiến người ta xuýt xoa truyền tụng.
Ai đã tới nhà anh chị hẳn sẽ ngạc nhiên vì sự sạch sẽ, gọn gàng chẳng có dấu vẻ gì của một nhà làm hàng, mà cái sự gọn gàng sạch sẽ ấy có ở mọi nơi. Nhà hàng của anh chị dù ở địa điểm nào thì cũng vẫn sạch sẽ, lau ly – Nó chính là điều anh chị luôn giữ gìn để cùng các món ăn do tự tay mình chế biến trở thành một tên tuổi, một thương hiệu thân thuộc và được nhiều người biết đến.
Gần hai chục năm đã trôi qua. Cuộc sống của những người Việt trên đất Ucraina có biết bao thăng trầm, đổi thay, nhưng những món quà ngon cuả Kharkov thì vẫn mãi đi cùng dòng chảy thời gian, những thương hiệu đã được xây dựng và có tiếng tăm . Mong cho những người làm ra những món quà ngon Kharkov sẽ ngày càng quảng bá rộng hơn những món quà mang hương vị đặc trưng cuả Việt Nam và làm cho nó trường tồn vững chắc cùng với thương hiệu cuả mình
MÓN NGON TỪ SÙNG ĐẤT - 09/09/2010
Hàng năm, khi những cơn mưa cuối mùa và những trận lụt đã dứt, thì một số người dân quê tôi đi theo các triền nà (bãi, biền ven suối) bên suối Lỗ Đông để đào tìm con sùng đất. Sùng đất là một ấu trùng của một loại côn trùng nào đó chưa ai biết rõ, chỉ biết nó có thân bằng ngón tay út người lớn, màu trắng ngà, trắng xanh hoặc vàng. Đầu màu cánh kiến bằng kitin cứng, có hai cái răng màu đen nằm ngang. Chúng thường sống ở các bãi bồi ven sông hoặc tại các vùng đất pha cát và nhiều lá mục, hoặc ven các sườn đồi, nơi có đất ẩm thấp.
Người ta nhìn cây, cỏ trên mặt đất nơi có sùng đất ở héo úa hoặc chết là vì sùng đất ăn, cắn đứt rễ của cây cỏ hoặc nơi nào có heo rừng ủi thì nơi đó có sùng đất bởi vì mũi heo rừng rất thính và heo rừng rất khoái ăn sùng đất. Đào được sùng đất, nếu không biết xử lý ngay thì bị mất chất. Khi đào được nó, phải nhanh chóng dùng tay phải nắm đầu, tay trái dùng móng tay xé khúc cuối da đuôi ra và dùng tay phải rảy mạnh, phần ruột đen sẽ văng ra ngoài, phần còn lại trong lớp vỏ mềm là chất dịch như sữa đặc, tương tự chất dịch trong con nhộng. Kết thúc buổi đào, mang sùng đất xuống suối rữa rạch.
Hằng năm khi đến vụ đông xuân, bà con nông dân, cày đất nà tỉa đậu, chúng tôi mang giỏ lẽo đẽo đi theo sau đường cày để nhặt sùng đất về nấu ăn. Các bác nông dân quê tôi cho biết: sùng đất sẽ cắn, ăn rễ hoa màu như đậu, bắp... nên bắt chúng, vừa bảo vệ hoa màu sau này, vừa có tí mồi đặc biệt để bồi dưỡng và nhâm nhi vào buổi chiều với các nhà nông.
Rang sùng đất không cần dầu ăn, người ta bắc soong lên bếp cho nóng, cho sùng đã rửa sạch để ráo vào khuấy đều, mỡ từ thân sùng đất tươm ra, đủ để rang chín... Không gì hấp dẫn hơn vào ngày đông rét mướt, hương thơm sùng đất lan tỏa bên bếp lửa hồng ấm áp, người già, trẻ con quây quần thưởng thức...
Sùng đất um với đọt cây thiên niên kiện là món ăn hấp dẫn của người dân quê tôi. Song loại đặc sản này chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn trong năm và sau mùa mưa lụt, nên rất hiếm và ít người có dịp thưởng thức. Hiện nay, một số người trồng trong vườn nhà vài bụi thiên niên kiện vừa để làm cảnh, vừa để um, xào... sùng đất, thưởng thức hương vị thơm ngon của món ăn đậm đà truyền thống bao đời này.
Hương vị quê nhà: Lươn xào chuối
Quê tôi là vùng kinh tế mới ở Tây nguyên, nơi có dòng sông Krông Ana chảy qua. Krông Ana tiếng Ê Đê có nghĩa là sông mẹ.
> Hương vị quê nhà
Dòng sông hiền hòa bao dung ban cho người dân nhiều thức ăn đậm đà hương vị quê hương. Quen thuộc và ngon phải kể đến món lươn xào chuối.
Dòng sông Krông Ana cung cấp nước cho nhiều bàu, láng - nơi có nhiều tảng sình nổi. Cỏ mọc lên bò trên mặt nước qua nhiều năm tạo thành một lớp dày có thể đi lại trên đó. Dưới lớp sình nổi là nơi ở của lươn.
Người làm nghề bắt lươn khoét lỗ nhỏ cắm ống trúm có bỏ ít mồi giun xuống nước qua hôm sau rút lên là có lươn vào ống. Lươn đồng thịt dai thơm ngon hơn lươn nuôi. Lươn có màu da đen hoặc vàng tùy vùng nước phèn hay nước đục.
Người dân quê cho rằng các loài sống ở nước thân không vảy khi nấu thành món ăn đều rất mát, bổ. Món ăn từ lươn cũng vậy nên được nhiều người ưa chuộng. Lươn bắt về dùng tro vuốt dọc thân để sạch nhớt. Sau đó rửa sạch dùng kéo hoặc dao nhọn làm sạch ruột chặt ra từng khúc nhỏ ướp gia vị cho thật thấm.
Chuối trái non gọt bỏ lớp vỏ móng xắt từng khúc nhỏ. Nếu được chuối rừng non, hạt chuối chưa cứng càng tốt. Chuối rừng có vị chát vừa đắng nhẹ xào với lươn có vị rất ngon. Lươn ướp xong cho vào chảo dầu nóng xào chín rồi cho chuối vào. Vị thơm, béo của lươn sẽ thấm vào chuối làm cho nó có vị chát, bùi của chuối vừa mang vị ngon của thịt lươn. Trong thịt lươn cũng có hương vị của chuối non rất ấn tượng khi ăn.
Món lươn xào chuối thường ăn kèm với rau húng thơm và dưa leo chấm nước mắm ớt tỏi. Mỗi lát thịt lươn hoặc chuối đều mang đậm hương vị quê nhà. Thịt lươn dai, chuối xào bùi bùi cộng với cái giòn của dưa như mang cả vị ngon của sông nước và vườn nhà vào tận đầu lưỡi người ăn.
Cánh đàn ông quê tôi thích nhâm nhi ly rượu gạo với lươn xào chuối vào buổi chiều tối gọi là "giải" mỏi sau một ngày lao động. Món ăn đậm đà hương vị quê hương đã đi vào đời sống ẩm thực, vì vậy trong nỗi nhớ quê của những đứa con đồng quê xa nhà đâu đấy vẫn cứ thoảng hương vị thơm ngon của món lươn xào chuối.
Hít hà với “ốc mắt ngọc” Cồn Cỏ
Thịt ốc dai giòn chấm với nước mắm gừng sẽ thật hoản hảo khiến người thưởng thức phải hít hà mãi không thôi.
Không giống như các loại ốc khác sống ở vùng nước ngọt, ốc mắt ngọc thường có nhiều ở trong những khe đá, sát mép bờ biển. Nó có hình dáng cũng chẳng mấy dễ chịu gì bởi “bộ giáp” sần sùi, cứng như đá cuội.
Ốc Cồn Cỏ có thể làm được nhiều món ngon, trong đó có xào hoặc luộc cùng với gia vị sả, gừng và ớt. Trong đó, món luộc được ưa chuộng hơn cả.
Theo những nhà hàng nổi tiếng, món ốc mắt ngọc luộc cực kỳ đơn giản. Chỉ cần nấu một nồi nước, cho lần lượt ốc, sả, ớt tươi, gừng giã nhuyễn, một ít riềng vào rồi đậy kín nắp. Đến lúc nước sôi sùng sục thì cho vào thêm một ít lá chanh và một ít ớt màu để món ăn thêm phần hấp dẫn. Ốc cho vào nồi, đun chừng 10 phút, mùi thơm đã bốc ra, thơm lừng đầy kích thích!
Khâu pha nước chấm cũng không có gì khó khăn. Bạn chỉ cần giập nát một chút gừng, cho vào nước mắm nguyên chất, thêm chút chanh, ớt là cũng có thể dùng được.
Chế biến thì dễ, nhưng ăn được món ốc mắt ngọc luộc mới thực sự công phú. Người ta phải thật khéo léo gõ vào thân ốc cho phần vỏ rơi ra, để lộ con ốc béo ngậy ở phía trong. Thịt ốc dai giòn chấm với nước mắm gừng thật sẽ thật hoản hảo khiến người thưởng thức phải hít hà mãi không thôi. Chẳng thế mà người ta bảo, đến Cồn Cỏ mà không thưởng thức món ốc này lộc thì coi như đã phí hoài mất phần nửa chuyến đi
Rau sắn nấu cá của người Mường
Đối với người Mường, vại rau sắn muối được coi như vại dưa của người Việt. Đó còn là món rau đặc sản để họ mang đãi khách quý.
Người Mường sống ở số vùng núi ở Phú Thọ, Hòa Bình, Thanh Hóa thường đi lấy lá sắn về muối lên làm nguyên liệu một số món ăn rất ngon: rau sắn nấu cá, rau sắn hầm chân giò và rau sắn nấu thịt ba chỉ.
Chợ sáng trên vùng núi Thạch Thành – Thanh Hóa (một kiểu đi chợ tự phát với hình thức: nhà ai thừa cái gì sẽ mang đi bán cái ấy để đổi lấy những loại hàng hàng hóa khác), bà con dân tộc Mường bán nhiều rau sắn muối. Loại rau sắn muối này nặng mùi hơn mùi dưa khú nhưng khi nấu lên kèm cá hoặc thịt thì ăn lại “có lý”.
Rau sắn muối là loại rau quen thuộc của đồng bào dân tộc Mường. Mùa sắn đến thì con gái là thời kỳ cây dồn hết sức sống của mình vào những chiếc lá mỡ màng. Đó là lúc người dân đi hái những chiếc lá non, lá búp về muối rau.
Lá sắn non hái về được vò thật kỹ, rửa bằng nước suối trước rồi sau đó rửa lại bằng nước mưa. Lá đã hết nhựa, người ta để lá vào một cái vò, mỗi lượt lá là cho một lượt muối vừa phải (cũng có nơi không cho muối), rồi người ta đổ nước mưa sâm sấp với rau và đậy lại chờ rau “chín”.
Rau sắn nấu cá có vị thật lạ, có cảm giác quyến rũ hơn cá nấu dưa ở miền xuôi. Rau được lấy ra khỏi vại, rửa lại bằng nước sạch cho đỡ mặn và đỡ mùi hăng; cá để một lớp dưới nồi, đặt lượt rau sắn dầy, mỏng tùy ý định lên trên lượt cá để nấu. Món rau sắn cá được đun trên bếp củi của đồng bào dân tộc rất đượm: mùi khói bếp, mùi gợi vị chua, mùi thơm thịt cá, … quện lại với nhau. Món này không cần cho thêm thứ rau gia vị gì ăn vẫn rất ngon.
Nhìn bát rau sắn nấu cá ban đầu người sành ăn sẽ thấy phải cau mặt vì món này nhìn không chút gì là hoa mỹ. Nhưng khi ăn thực khách sẽ bị chinh phục bởi mùi, vị ngon, lạ. Đó cũng là một đặc trưng giản dị của món ăn lạ chỉ có trên vùng núi cao này.
Ai đó đã ăn rau sắn nấu cá (chứ không phải cá nấu rau sắn) sẽ giữ mãi ấn tượng. Ấn tượng đó như một người con trai miền xuôi có ấn tượng với một cô gái vùng cao tóc dài, mang vẻ đẹp không son phấn, lao động vất va cả ngày mà vẫn đẹp lạ lùng.
Hành trình món ăn lạ
07-07-2010 14:43:05
Để có món ăn lạ tất yếu phải có nguyên liệu đặc biệt. Nguyên liệu càng đặc biệt quý hiếm bao nhiêu thì việc nuôi trồng, đánh bắt, vận chuyển cũng sẽ khó khăn hơn.
Và giá trị thành phẩm cuối cùng sẽ cao là điều đương nhiên.
Của ngon quý hiếm
Không kể đến những món liệt vào hàng bát trân như vi cá, bào ngư mà giá trị của nó phải tính bằng vàng ròng, những loại thuỷ hải sản có giá trị cao hiện nay như tôm hùm, tôm tích, cá mặt quỷ, cá mú, cá bớp, cá tầm cho đến cá nhám, chình biển... ngày trước chẳng mấy ai đoái hoài thì bây giờ cũng thuộc diện có đẳng cấp.
Theo chị Hương, chủ một quán ốc đường Nguyễn Thượng Hiền, hiện nay hải sản của các công ty xuất khẩu lẫn chợ đầu mối khá dồi dào. Hàng loại 1 đúng quy cách thì xuất khẩu, hàng không đúng tiêu chuẩn thì bán ra cho các hộ kinh doanh bán lẻ. Chiều chiều khách ghiền hải sản đến phố nghêu sò bình dân chỗ nào cũng thấy bày cả mâm lớn.
Nghêu sò không thiếu nhưng để ý thì con lớn nhỏ không đều nhau. Nhưng không sao, tất cả đều tươi rói, khách mê hải sản khó lòng nói không với mùi chem chép, ốc móng tay nướng mỡ hành thơm điếc mũi. Hải sản cốt yếu là phải tươi, phần chế biến không quá khó chỉ cần nướng, hấp, luộc là đủ và cần nước chấm ngon là không lo thiếu khách.
Mua tận gốc
Ông Thiều Quang, người Cam Ranh, phụ trách nhà hàng hải sản Sao Biển cho biết: những nhà hàng hải sản luôn phải lấy mối từ các nhà cung cấp lớn ở địa phương. Tuy nhiên, để bảo đảm nguồn hàng lúc trái gió trở trời, giữ giá cạnh tranh và nhất là những hàng độc như cá mặt quỷ, ốc gai, ốc giác, chình biển, cá nhám… ông Quang phải đầu tư vài ba vuông đìa ở quê.
Dân địa phương từ trẻ con, người lớn, dân đi biển hễ có con cá mặt quỷ, vài con ghẹ, câu được con cá chình hay bắt được con ốc gai, ốc giác mang đến, thứ nào cũng mua cho xuống đìa để dành. Mua nguyên liệu cách này vừa giữ tình cảm với bà con vừa lo được nguồn nguyên liệu hiếm mà giá cả phù hợp vì mua tận gốc.
Do phải qua nhiều khâu từ cơ sở thu mua gốc ở địa phương, đến nhà cung cấp đầu mối ở thành phố, rồi đến đại lý sau cùng mới tới nhà hàng và người tiêu dùng nên giá thuỷ hải sản phải tăng cao.
Một ký tôm hùm, cá mặt quỷ giá gốc trung bình khoảng 500.000 – 700.000 đồng/kg, tuỳ mùa; do đó, giá bán thành phẩm lên đến cả 800.000 đến 1 triệu đồng/kg là việc bình thường. Cá mú, giá trung bình 200.000 – 250.000 đồng/kg lên đến bàn tiệc phải 280.000 – 350.000 đồng/kg.
Rủi ro của hàng lạ
Nhưng sự rủi ro cho hàng “độc” cũng rất cao, nhất là khâu vận chuyển và bảo quản; về đến nơi hồ nuôi không đạt chuẩn rất dễ làm cá, tôm chết – coi như thua đậm. Theo ông Võ Văn Quang Nhật, giám đốc kinh doanh của công ty Marine Farms Asa Vietnam chuyên nuôi cá bớp tại Nha Trang: người tiêu dùng thích nhất hải sản còn sống vì nó giữ được hương vị tươi mới của món ăn.
Để phục vụ cho nhu cầu này, công ty phải chuẩn bị thật tốt khâu vận chuyển cũng như lưu trữ mới dám đưa hàng tươi sống ra thị trường. Vì hao hụt do khâu này cao sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến giá thành sản phẩm.
Ông Nguyễn Bá Phượng, phó giám đốc công ty Tầm Long Đa Mi cho biết, cá tầm nuôi ở Việt Nam đã có những thích nghi nhất định với môi trường. Nhưng khi vận chuyển từ Lâm Đồng về Sài Gòn, đoạn đường không xa nhưng vẫn phải sục oxy vào bồn liên tục cũng như phải giữ nước lạnh trung bình từ 16 – 20oC, đây chỉ là một trong những điều kiện bắt buộc để giúp cá không bị ảnh hưởng khi di chuyển.
Ngặt một điều, khi đã chọn thuỷ hải sản cao cấp, người ăn có tiền nhất quyết chỉ chọn cá tôm bơi lội tung tăng trong hồ mới chịu. Chưa kể dân làm ăn, khi có lễ lạt, đãi đằng phải nhậu cá mú đỏ lấy hên mới ưng. Hay muốn bổ khoẻ phải xơi con chình biển cho mạnh gân cốt, thể hiện bản lãnh đàn ông. Cần giảm cholesterol giữ eo thì đã có món cá tầm… Nhưng khách gọi nhằm lúc hết cá, nhà hàng phải chạy trối chết đến các đơn vị bạn chia lại cho dù bị chém đẹp, không còn lời cũng phải cắn răng lấy hàng vì sợ mất mối khách sộp.
Chế biến thuỷ hải sản cũng cần phải cân nhắc, tuân theo yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Nếu gặp món nào cũng làm tươi sống tuốt, không khéo hoá hại. Thuỷ hải sản ăn sống hoặc nấu nướng vừa tái không chín kỹ là những món ăn rất dễ lây nhiễm ký sinh trùng có hại.
Thơm ngon khô cá dảnh miền Tây
Cá dảnh tuy có nhiều xương nhưng thịt cá béo, ngọt, thơm, ngon nên được các bà nội trợ miền Tây ưa chuộng trong việc chế biến các món ăn
Cá dảnh là loài cá nước ngọt có nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long trong mùa nước nổi. Khi vào vụ (tháng 9 – 10 âm lịch) cư dân nơi đây dùng lưới, đăng, vó…. để đánh bắt.
Cá dảnh dạng hình thoi, dẹp, đầu nhọn hơn cá mè vinh, vảy nhỏ màu bạc lấp lánh. Đuôi, vây, kỳ phơn phớt hồng. Cá dảnh tuy có nhiều xương nhưng thịt cá béo, ngọt, thơm, ngon nên được các bà nội trợ miền Tây ưa chuộng trong việc chế biến các món ăn như: chiên tươi, kho tương, kho ngót... và đáng nhớ hơn cả là khô cá dảnh.
Trước hết, cá dảnh mua ở chợ hay đánh bắt về lựa cá còn tươi. Dùng dao sắc đánh sạch vảy, cắt đầu, đuôi, vây, kỳ, mổ bụng lấy hết nội tạng cá, rửa sạch. Tách 2 miếng thịt phi lê cá ra, lóc bỏ xương hom (nếu để nguyên xương cũng được) ngâm vào nước muối, xả nước lạnh vài lần cho sạch, để ráo. Sau đó, ướp gia vị (muối + bột ngọt + tiêu) cho vừa khẩu vị chờ ngấm khoảng 15 phút. Cuối cùng, cho thịt cá ra rổ phơi khô dưới nắng tốt trong 1 ngày là xong. Lưu ý: món khô cá dảnh có thể cho vào hộp nhựa để vào ngăn trữ lạnh ăn dần không hư.
Thật thú vị trong những ngày khó kiếm thức ăn. Chỉ cần lấy vài miếng khô cá dảnh trong tủ ra cho vào chảo mỡ (dầu) chiên vàng là có được bữa cơm ngay tức thì. Gắp một miếng khô cá dảnh cho vào miệng nhai một cách chậm rãi. Vị béo, ngọt, thơm, giòn tan của thịt cá dảnh thấm vào đầu lưỡi, lan tỏa xuống cổ họng. Và miếng cơm nóng có chan nước canh rau tập tàng vào nữa, thật ngon và “bắt cơm”!
Thơm lạ món dây mỏ quạ
Trong số nhiều loại rau “cây nhà lá vườn” ở Cần Thơ như cải trời, cù nèo, rau nhút, lá cách... có đọt và bông của một loài rau rất lạ đó là dây mỏ quạ.
Mỏ quạ là loại dây leo, mọc hoang trong tự nhiên ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dây mỏ quạ thường mọc vào đầu mùa mưa (tháng 4 – 9 âm lịch), lá màu xanh, có hình dáng quả tim. Mỏ quạ ra hoa vào khoảng tháng 9 âm lịch. Hoa mỏ quạ có từng chùm màu trắng tương tự như hoa thiên lý nhưng khác màu. Hoa có mùi thơm thoang thoảng đặc trưng. Trái có màu xanh (tương tự như trái gòn non), khi lớn cỡ đầu ngón chân cái, phía đuôi trái uốn cong lên trông như mỏ quạ, và người Khơ-me Nam bộ gọi loại dây này với cái tên ưng à co (có nghĩa là mỏ quạ).
Trái mỏ quạ già (khoảng tháng 3 năm sau) tự nứt vỏ, hạt mỏ quạ dẹp, màu đen trông tựa con bò chét chó, được kết dính bởi những chùm lông tơ màu trắng bay bồng bềnh theo gió để tự sinh sôi nảy nở...
Dây mỏ quạ sống rất khiêm tốn trong thiên nhiên như thế, nhưng mấy ai biết đọt và lá non, hoa và trái non của dây mỏ quạ là một món ngon dân dã, độc đáo, mà các bà nội trợ nơi đây rất ưa chuộng để chế biến món ăn như: đọt mỏ quạ nấu canh tép (hoặc thịt), trái non luộc chấm nước cá kho (hay thịt kho)…. Riêng, hoa mỏ quạ xào xào thịt bò hay nhúng lẫu là khỏi chê.
Chế biến món bông mỏ quạ xào thịt bò rất dễ và nhanh. Chỉ cần mua khoảng 200 gram thịt bò phi lê về rửa sạch, xắt miếng mỏng. Ướp thịt bò với gia vị (nước tương + bột ngọt + đường ) cho vừa khẩu vị. Hoa mỏ quạ (khoảng 200 gram) nhặt cuống, rửa sạch, để ráo. Hành tây lột vỏ, rửa sạch, xắt miếng. Trước hết, bắc chảo lên bếp phi mỡ (dầu) cho thơm, đổ thịt bò đã ướp gia vị xào chín, múc ra dĩa. Tiếp đến, cho hành tây xắt miếng cùng hoa mỏ quạ vào chảo xào vừa chín tới (đừng để lâu, hoa mỏ quạ chín quá, mất ngon). Cuối cùng, cho thịt bò (đã xào) vào trộn đều, nhắc xuống. Nhớ cho vào vài cọng rau cần, một ít tiêu xay và múc ra dĩa là xong. Món này dùng với nước tương ớt “rất bắt”.
Những ngày cuối tuần cùng những người bạn thân vào quán vắng nơi ngoại thành để thưởng thức món hoa mỏ quạ xào thịt bò. Gắp một miếng thịt bò cặp cùng hoa mỏ quạ chấm vào chén nước tương đưa lên miệng nhai một cách từ tốn. Vị ngọt của thịt bò, hòa lẫn vị giòn, ngọt, và mùi thơm đặc trưng của hoa mỏ quạ len vào trong miệng. Hớp một cốc bia lạnh vào nữa, thật vô cùng sảng khoái và nhớ về quê hương miền Tây da diết.
Ngon, hiếm món cua da Bắc Giang
Nếu có dịp về với đất Yên Dũng (Bắc Giang) vào cữ gió heo may về, thế nào bạn cũng sẽ được chiêu đãi một trong những món ngon và hiếm được chế biến từ cua da.
Có một loài cua sống trong các ghềnh đá ở đoạn sông Cầu chảy qua địa phận một số xã ven sông huyện Yên Dũng (Bắc Giang) như Đồng Việt, Đồng Phúc, Thắng Cương mà dân trong vùng quen gọi là “cua da”. Loài cua này rất đặc biệt ở chỗ chỉ thấy vào mùa lạnh, càng lạnh càng "ra" nhiều và chỉ xuất hiện trong thời gian khoảng hai tháng (tháng 10 và tháng 11 âm lịch) hằng năm.
Đây là một loài cua sông cỡ bằng con ghẹ, về hình thức cơ bản trông giống loài cua đồng, nhưng chân dài hơn, mình to gấp ba, bốn lần cua đồng và mang một số đặc điểm khác biệt với họ nhà cua. Đó là hai càng của giống cua này có hai lớp lông như rêu bám vào, yếm cua cũng có lớp diềm rêu điệu đà. Chính cái lớp lông rêu này đã khiến nhiều người băn khoăn về tên gọi của nó: “cua ra, cua da hay là cua gia?”.
Có người nói phải gọi là “cua ra” vì gắn với câu tục ngữ “Tháng chín cua ra, tháng ba cua vào”. Có người lại nói phải gọi là “cua da” vì loài cua này có một lớp da trên càng. Có người lại bảo phải gọi là “cua gia”, vì đơn giản tên gọi ấy nghe có vẻ hay hơn, hợp lý hơn. Cho đến bây giờ, khi đã để tâm tìm hiểu, tôi vẫn không biết tên gọi đích thực của loài cua này và theo như phân tích, tôi tạm gọi theo quan điểm thứ hai, “cua da”.
Anh Phạm Văn Trường (42 tuổi, xóm Cựu Trên, xã Đồng Phúc, Yên Dũng), người có thâm niên trong nghề thu gom và bán cua da cho các nhà hàng đặc sản trong huyện, thành phố và một số tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội, cho hay: “Khoảng 10 năm về trước, người đi chài lưới rất ghét loại cua này vì nó rất tanh. Nhưng từ khi người dân biết ăn cua bằng cách hấp bia, có xả, gừng nhâm nhi cùng thứ rượu nếp thơm nồng nút bằng lá chuối; biết giã ra nấu riêu ăn với bún có kèm rau sống cùng một chút hoa chuối thì nó trở thành đặc sản”.
Cũng theo anh Trường, thị trường cua da ngày càng sôi động, những năm trước cua da có giá30.000- 40.000 đồng rồi tới 100.000 đồng, và đến nay đã là 160.000 đồng/kg. Thu nhập từ cua đã giúp một số hộ dân nơi đây giảm nghèo, có cuộc sống ấm no. Tuy nhiên, do giá trị tăng cao nên nhiều người đi săn lùng cua da, do vậy lượng cua ngày càng hiếm. Đặc biệt, nó chỉ có ở một số khúc sông thuộc địa phận vài xã vùng hạ Yên Dũng, và xuất hiện trong vòng hai, ba tháng rét cuối năm nên giá trị của cua da ngày càng tăng do xuất phát từ yếu tố “hiếm” mà thành “quý” chăng?
Theo kinh nghiệm của người dân làng chài nơi đây, cua da có thể được chế biến thành nhiều món như: cua hấp bia, cua rang muối, cua chiên, cua giã nấu canh… Nhưng ăn cua da ngon nhất và đơn giản nhất là đem hấp bia.
Bỏ cua vào thùng, xả nước và xóc mạnh cho sạch. Mỗi con cua to nặng 100g-200g, xếp vào nồi, rắc thêm chút bột canh, bỏ thêm xả, gừng, rót bia xâm xấp mình cua, đặt lên bếp. Để lửa thật nhỏ, đun li ti cho đến khi bia sôi lăn tăn thì bật lửa to cho sôi bồng lên là bắc ra. Lửa nhỏ để giữ cho càng và chân không bị rụng, đồng thời để gia vị ngấm, khử mùi tanh.
Khi cua chín có màu vàng cam rất hấp dẫn. Thịt cua ngọt, lớp vỏ ở chân và càng cua khá mềm, khi ăn không cần dùng đến kẹp như cua hay ghẹ biển. Ăn cua da chấm bột canh pha mù tạt kèm nửa quả chanh vắt vào thì không gì thú vị bằng.
Thật cảm ơn cho người đưa món cua này vào thành món đặc sản. Nó không chỉ giúp người dân nơi đây tăng thêm thu nhập, mà còn góp phần đưa vùng đất này có thêm một món đặc sản “của hiếm cua da”.
Thực đơn lạ: cá mó
Một trong những loài cá biển tươi ngon, có màu sắc khá bắt mắt mà cả gia đình tôi đều ưa thích là cá mó.
Cá mó có quanh năm, thịt nhiều, vị ngọt, béo và khá đơn giản trong cách chế biến. Biết các con luôn thích ăn cá món nên mẹ tôi thường chọn mua những con cá mó tươi ngon nhất mang về chế biến thành nhiều món ngon đãi cả nhà.
Không cầu kỳ trong cách chế biến nhưng món canh chua cá mó mẹ nấu thật không thể chê vào đâu được. Mẹ luôn đi chợ từ sáng sớm, chọn mua những chú cá mó tươi ngon mang về bỏ mang, bỏ ruột, rửa sạch, để ráo rồi ướp một ít muối, nước mắm, hành hương, ớt khoảng mười lăm phút. Mẹ phi thơm dầu phụng với hành băm rồi cho cà chua cắt lát vào đảo đều nhằm tạo màu cho món canh, tiếp tục cho cá vào rim cho đến khi cá chín, cho khế, chuối chát, giá sống vào, thêm nước sôi đợi đến khi nồi canh sôi lại thì tắt bếp, thêm ít hành lá cắt nhỏ và tiêu bột là có ngay một nồi canh chua nóng hổi, ngào ngạt hương thơm. Chỉ cần ngửi hương thơm thôi cũng đủ biết ngon rồi.
Cũng giống như những loại cá biển khác, cá mó kho nghệ tươi khá thơm và ngon miệng. Sau khi làm sạch cá và để ráo, mẹ ướp gia vị cho cá thấm. Đặc biệt, mẹ ướp vài củ nghệ tươi giã nhỏ và một ít sa tế. Khi kho, chỉ cần để lửa liu riu, thêm một ít nước sôi rồi kho cho đến khi nồi cá kho cạn nước, những chú cá ánh lên màu vàng tươi của nghệ và tỏa hương thơm ngát là món cá kho hoàn thành. Cá mó kho ăn với cơm nóng rất ngon và lạ miệng bởi thịt cá trắng nõn, thơm, và rất béo. Đặc biệt màu vàng tươi và hương thơm dịu nhẹ của nghệ giúp món cá kho vừa đẹp mắt, vừa đậm đà và ý vị.
Món cá mó nướng giằm nước mắm gừng do mẹ “đạo diễn” cũng ngon không kém. Cá mó làm sạch ướp chút muối, ớt, sả băm, mì chính, dàu phộng rồi nướng lá lốt trên bếp than hồng đến khi lớp vảy ngoài chín vàng, giòn rộm, tỏa hương thơm ngát là khâu nướng cá đã hoàn thành. Thịt cá trắng, thơm, quyện hương thơm của lá lốt, với vị cay nhẹ của gừng già, sả, đậm đà của nước mắm thật quyến rũ. Hôm nào được mẹ đãi món này là mấy chị em tôi cạo cho đến “cháy” nồi cơm.
Ngoài ra cá mó chiên giòn chấm nước mắm chanh tỏi ớt cũng là món được nhiều người yêu thích. Vị béo của cá quyện với hương thơm của dầu phụng và nước mắm chanh tỏi ớt dùng kèm với cơm nóng tưởng chừng như khá giản dị nhưng lại ngon đến không ngờ.
Ngày nay, cá mó còn có mặt trong thực đơn của các nhà hàng như lẩu cá mó, cá mó chiên giòn sốt rau cần, cá mó sốt cay. Nhưng có ai biết rằng, chỉ cần chế biến đơn giản thôi, cá mó cũng đã ngon lắm rồi và không biết tự bao giờ đã trở thành nỗi nhớ quê hương của biết bao người con xa quê. Để rồi có những đêm dài khó ngủ, tôi lại trằn trọc, nhớ quay quắt và chỉ muốn về nhà ngay để được thưởng thức một bữa cơm gia đình giản dị, đơn sơ với tô canh chua cá mó mẹ nấu và đĩa rau luộc nơi quê nhà.
Miễn chê với món ăn từ cây cù nèo
Dân miền Tây quê tôi thường “tếu” bằng câu ca: “Cù nèo mà lại muối chua/Ăn với cá rán chẳng thua món nào”
Chẳng biết có phải là “ngoa ngữ” không, nhưng sau khi khám phá, mọi người đều đồng ý đó là sự thật!
Cù nèo (còn gọi là Kèo nèo) là loại cây hoang dại mọc khắp đồng bằng sông Cửu Long, hơi giống với cây lục bình (bèo Nhật Bản), nhưng sống bám cố định vào bùn đất chứ không trôi giạt như lục bình. Theo y học dân gian, cây cù nèo là vị thuốc chữa trị các chứng đau lưng, nhức mỏi, mát gan, lợi tiểu…; còn theo các bà nội trợ miệt vườn cù nèo là thức ăn không thể thiếu trong các bữa cơm đạm bạc.
Tùy theo cách chế biến, cây cù nèo góp phần làm “thăng hoa” hương vị các món ăn.
Trước hết là đọt cù nèo xào mỡ, bóp giấm. Cù nèo hái về, chọn lấy phần non (nõn) cắt khúc vừa đũa gắp, rửa sạch, để ráo. Phi mỡ tỏi cho thơm (nhiều tỏi càng ngon!) rồi đổ cù nèo vào. Dùng xạng đảo đều cho đến khi cù nèo vừa chín tới. Kế đến, nêm gia vị (đường + muối + bột ngọt) cho vừa khẩu vị, nhắc xuống (nhớ đừng để cù nèo mềm quá mất ngon!). Cuối cùng, múc cù nèo ra dĩa và rắc lên một ít hành lá xắt nhuyễn là xong.
Với cù nèo bóp giấm, người ta cắt cù nèo thành khúc ngắn vừa đũa gắp cho vào dĩa, và làm một chén giấm đường (hoặc nước cốt chanh) vừa khẩu vị rưới vào, dùng tay bóp nhẹ cho ngấm. Tất cả 2 món trên chấm với nước mắm tỏi ớt (hoặc với nước cá, nước thịt kho)…, ăn cùng với cơm nóng rất ngon.
Cầu kỳ hơn là món canh chua cù nèo cá thát lát. Nguyên liệu gồm: thịt cá thát lát nạo sẵn (200gram), thơm - dứa (1/2 trái), gia vị (ngò gai, hành, ớt…). Trước hết, cho thịt cá thát lát + đầu hành lá + ớt (xắt nhuyễn) + gia vị (muối, bột ngọt) + dầu ăn (1 muỗng cà phê) vào chén. Dùng muỗng tán nhiều lần để hỗn hợp được trộn đều và dai, vò viên tròn, dẹp vừa miếng gắp.
Kế đến, cho nước lạnh vào nồi nấu sôi, và cho me chín vào vợt lược nhúng vào nồi cho thịt me hòa tan (bỏ hạt), và cho dứa xắt miếng vào. Nêm nếm gia vị (muối + đường + bột ngọt + nước mắm) cho vừa ăn, và cho cá thát lát vào nấu chín. Sau cùng, cho cù nèo vào, nhắc xuống, múc ra tô (đừng để cù nèo mềm mất ngon), rắc vài nhúm ngò gai xắt nhuyễn dọn lên bàn cùng chén nước mắm nguyên chất trong đó có giầm ớt hiểm chín. Món nầy ăn nóng với bún (hoặc cơm) rất tuyệt!...
Bạn cũng không thể không nếm thử món cù nèo xào tép. Món này làm như sau: Tép được cắt đầu, râu, làm sạch. Cù nèo lấy phần non, xắt khúc vừa đũa gắp, rửa sạch để ráo. Bắc chảo lên bếp phi mỡ (dầu) thơm rồi đổ tép vào. Nêm nếm gia vi (muối + đường + bột ngọt) cho vừa ăn, xào chín. Sau đó, đổ cù nèo xào vừa chín tới. Nêm gia vị lần cuối, múc ra dĩa.
Để cho món ăn đậm đà hương vị và có màu sắc bắt mắt, bạn có thể thêm vào ngò rí, một ít tiêu xay, và làm chén nước mằm chanh, tỏi ớt. Món nầy ăn với cơm nóng cũng ngon khó tả.
Dù đi xa nơi phương trời góc biển nào, mỗi khi mùa lũ tràn về lòng tôi lại nhớ về quê nhà da diết. Và nhớ nhất đám cù nèo xanh biếc dưới mương đong đưa theo gió, trong đó điểm xuyết những cánh hoa màu vàng nhạt. Chính nơi ấy - ngày xưa - má cùng tôi thường ra hái cù nèo về chế biến món ăn. Cái vị ngọt, mềm, nhân nhẩn và mùi thơm “đặc trưng” của cù nèo như vương vấn mãi trong tôi, khiến tôi không thể nào quên được món ăn dân dã nơi vùng quê thân thương nầy.
Ngon lành rau muống giòn đất Đồ Sơn
Rau muống rất bình thường ở bất kỳ nơi nào. Nhưng ở Đồ Sơn, rau muống là một trong những loại rau đặc sản được du khách tìm đến thưởng thức nhiều nhất.
Đồ Sơn được hình thành từ vùng đất cửa biển, ngập sình lầy. Ở nơi đất trồng chua mặn quanh năm, hầu như không một loại cây hoặc rau nào có thể phát triển tốt. Cây rau muống được trồng ở Đồ Sơn từ xa xưa nhưng cũng không bao giờ xanh tốt. Thân cây còi cọc và không cao.
Rau muống ở Đồ Sơn có vị ngọt, chát và đặc biệt rất giòn. Điều đặc biệt hơn nữa, tại vùng đất Đồ Sơn chỉ có hai nơi có thể trồng được rau muống giòn: khu Cầu Tre và ruộng chua mặn Đầm Nghè. Cũng vì lý do đó mà rau muống Đồ Sơn không có nhiều để bán. Địa chỉ có thể mua được rau muống Đồ Sơn là chợ Cầu Vồng và tại một số nhà hàng khu vực Đồ Sơn.
Rau muống Đồ Sơn có thể chế biến được rất nhiều món ăn, nhưng ngon nhất là om với ghẹ và xào thịt trâu chọi.
Ghẹ om rau muống là một món ăn khá độc đáo tại Đồ Sơn. Tại các nhà hàng, ghẹ om rau muống đã được các đầu bếp chế biến thành một món đặc sản mà ít nơi nào có được.
Nét đặc thù tại Đồ Sơn là một vùng đất mạnh về phát triển nghề cá, những chuyến tàu đi biển thường mang theo về những con ghẹ tươi. Ghẹ chọn về để làm món ghẹ om rau muống là những con mập, càng to, dày mình.
Nguồn nước để nấu được canh ghẹ om rau muống được nấu bằng nguồn nước lấy từ Suối Rồng. Con suối này có mạch ngầm trong dãy Cửu Long Sơn chảy ra quanh năm gần phía đình Ngọc Xuyên. Nước ở đây chỉ chảy với mức độ vừa phải chứ không ào ạt như nơi khác. Chính vì thế người dân Đồ Sơn thường hay quan niệm sử dụng nguồn nước từ núi Mẹ sẽ mang lại điều may mắn và tốt cho sức khoẻ
Ghẹ ngon, rau muống đặc trưng có độ giòn cao lại được nấu bằng nước lấy từ Suối Rồng đã làm nên một nồi canh ghẹ om rau muống ngon lành khiến bất cứ ai cũng muốn thưởng thức. Nồi ghẹ om bốc khói thơm lừng, nhìn vào trong nồi những miếng ghẹ trắng tinh béo ngậy quyện vào với những ngọn rau muống xanh mướt thật thích thú.
Thịt trâu chọi Đồ Sơn là một trong những món ăn khó kiếm. Một năm du khách chỉ có 3 lần được thưởng thức món ăn tuyệt vời này. Cứ sau mỗi dịp chọi trâu, hầu hết du khách lại về các nhà hàng ở Đồ Sơn để được thưởng thức món thịt trâu luộc chấm tương gừng, thịt trâu xào khế và thịt trâu xào rau muống Đồ Sơn.
Thịt trâu chọi xào với rau muống được trồng ở Đồ Sơn thì không có gì sánh bằng. Mang đĩa thịt trâu xào với rau muống Đồ Sơn lên bàn tiệc, bạn sẽ cảm nhận được hương vị độc đáo của đất Đồ Sơn. Gắp một miếng thịt trâu chọi được xào với với rau muống kèm thêm mùi thơm của tỏi, của rau ngổ đưa lên miệng, vị ngọt ngào lan toả trên môi sẽ khiến bạn thích thú. Ăn món này, bạn sẽ thấy vị thơm ngon của thịt trâu và độ dai, giòn đặc trưng của rau muống Đồ Sơn.
Cua đá suối - nồng nàn hương vị rừng
Khác với các loại cua sống ở biển, ở đầm và ở đồng ruộng, con cua đá thường sống trong các hốc đá trên suối ở miền núi.
Thịt cua đá thơm, chắc; chế biến được nhiều món ngon lạ, nhất là “phối” nó với gia vị của rừng.
Trong những tháng này, chúng tôi thường rủ rê nhau lên vùng rừng núi thôn Xuân Trung (xã An Xuân, Tuy An, Phú Yên) thăm thú; giăng cá, tắm suối, ăn rau rừng… Và đáng nhớ nhất là bắt cua đá. Theo dân bản địa thì hiện cua đá có nhiều nhất ở vùng này.
Cua đá mang sắc đỏ nâu, sống trong hốc đá dưới những con suối lớn, nhỏ; trong vườn chuối, nương rẫy... Chúng ăn côn trùng, lá rừng và sinh sản nhiều. Cua đá thường bằng nắm tay, con lớn có khi bằng cái chén với hai càng to khoẻ
Để bắt cua đá không khó tí nào. Thường sau nhiều ngày nắng, trời làm giông rồi đổ mưa, khi đó cua đá từ trong hang hốc bò ra uống nước dầm mưa. Nếu trời không mưa thì dùng cơm nguội trộn với đậu phộng giã nhỏ, đem rải theo các hũng nước. Nước suối chảy, trôi mồi vào các hang đá, chỉ khoảng mười phút, các chú cua lớn, nhỏ bò ra gắp mồi.
Tha hồ chọn con mập mà bắt. Cua đá rừng chế biến nhiều món hấp dẫn nhưng theo anh bạn tôi, “loại cua này, mình nên làm những món có chút rừng rú mới ngon”. Thế là, trưa hôm đó, chúng tôi được thưởng thức những món cua đá chưa bao giờ được thưởng thức.
Cua nướng giã muối ớt làm đơn giản nhất. Chọn những con vừa nắm tay, nướng trên lửa than cho chín vàng, chọn phần thịt phía bụng đem giã nhuyễn với muối hột, ít bột ngọt, lá ngò tàu mọc ngoài bờ suối và ớt sim rừng. Chén muối cua này ăn với cơm nắm hay cơm nóng đều thơm lạ – ngon đến lớp cơm cháy cũng hết ráo.
Canh cua đá cũng là món độc đáo, nấu canh nên chọn những con cỡ vừa, loại này mềm, mau ngọt nước. Sau khi rửa sạch thân ngoài, bóc gạch vỏ, không rửa nước lã, có thể giã cho con cua giập sơ. Canh cua đá phải nấu với rau săn rừng mới nồng nàn. Rau này cũng mọc quanh bờ suối, chọn lá non, canh sôi thả săn rừng vào chừng năm phút – rau còn xanh bắc xuống mới ngon.
Cua đá rang muối, cua đá hấp sả, cua đá nấu bún riêu, cháo… món nào cũng đặng, nhưng tuyệt sắc phải là muối cua đá và canh săn rừng.
Sành ăn như người Việt
Khách du lịch đến Việt Nam đánh giá: người Việt sành ăn và rất sáng tạo trong ăn uống.
> Là lạ bánh xèo ốc gạo Cần Thơ
Sau đây là một vài minh chứng cho việc đó, để bạn giới thiệu ẩm thực Việt biết cách tự hào.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh, nhà ngoại giao nổi tiếng của Việt Nam, kể một câu chuyện trong cuộc đời làm ngoại giao của mình: Năm đó tôi tiếp đoàn khách của Bỉ. Tôi đã dẫn họ đi thăm thú và tìm hiểu văn hóa Việt Nam. Khi họ ra về đã nói với tôi: Bà đã làm ngoại giao hiệu quả. Khái niệm ngoại giao hiệu quả của bà rất đúng với cả hoạt động du lịch.
Giới thiệu nét đẹp văn hóa, nhất là văn hóa ẩm thực là sứ mệnh của những người làm du lịch. Đến mỗi vùng miền, người ta có thể nhớ một chút ấn tượng về cảnh đẹp, về những dịch vụ. Nhưng họ sẽ nhớ cả đời mùi vị những món ăn bản địa mà họ đã được thưởng thức.
Người Việt rất sáng tạo trong ẩm thực. Điều kiện tự nhiên của các vùng miền rất phong phú nên thực phẩm đa dạng, trong đó có những thực phẩm, cây rau gia vị không xuất phát từ Việt Nam nhưng lại “bén duyên” mảnh đất này như thể nó sinh ra phải ở trên vùng đất ấy. Ví như cây rau mùi, cà rốt, su hào, súp lơ, bắp cải, đậu Hà Lan…
Ẩm thực Việt rất hài hòa và cởi mở với nhiều phong cách nhưng lại rất thuần Việt. Ăn món ăn Việt có cảm giác ấm cúng và thân thiện. Đó không phải là một cảm giác trên lý thuyết, chúng ta có những dẫn chứng cụ thể từ chính những món ăn được coi là quốc hồn, quốc túy của dân tộc.
Bát bóng đãi khách, đặc sản của người Tràng An
Trong những mâm cỗ truyền thống của người Tràng An xưa, người Hà Nội nay, không thể thiếu được bát bóng bì. Đó là một trong những món ăn đặc trưng của người Hà Nội.
Nguyên liệu của canh bóng gồm bóng bì (bì lợn khô), tim lợn, xương ống, tôm, nấm (mộc nhĩ và nấm hương), cà rốt, xu hào, bông cải, đậu Hà Lan, trứng gà (hoặc trứng cút). Gia vị có: Muối, tiêu, đường, hành lá, mùi, gừng, chút rượu trắng.
Như vậy, nguyên liệu và gia vị của món ăn có rất nhiều loại xuất phát không phải nguyên liệu từ Việt Nam như cà rốt, xu hào, bông cải, đậu Hà Lan, mùi. Nhưng món ăn vẫn là món đặc trưng và cổ truyền của người Việt. Đó là nhờ sự sáng tạo của những người đầu bếp Việt Nam. Người Pháp khi sang Việt Nam đã từng nhận xét: chỉ với một cái chảo, một cái xoong mà người Việt có thể nấu ra bao nhiêu món.
Bì lợn là thứ mà người phương Tây bỏ đi khi chế biến thực phẩm. Nhưng bì lợn khô làm canh đãi khách của người Hà Nội với sự kết hợp nguyên liệu, gia vị độc đáo, nó trở thành món ăn sang trọng mà chính người phương Tây vốn khoa học trong ăn uống phải mê.
Phở Việt, món ăn được xếp hạng món ăn ngon nhất thế giới
Trước thời kỳ Pháp sang xâm lược Việt Nam, người Bắc Kỳ không ăn thịt bò nhiều, có chăng chỉ ở những mâm cỗ hiếm hoi. Ở xứ này, có chăn trâu, bò nhưng dùng để làm nông nghiệp. Và trâu thân thiện với cách nghĩ, cách nhìn của người Việt hơn vì được nuôi nhiều hơn. Nếu có thịt thì người ta ăn thịt trâu và quen với việc đó.
Nghĩa là món phở Việt sẽ ra đời ít nhất từ giữa thế kỷ 19. Và không lâu sau đó, nó được công nhận là món không thể không ăn khi đến Việt Nam.
Phở là sự kết hợp tinh túy của rất nhiều trường phái ẩm thực nổi tiếng trên thế giới. Chính vì thế mà nó thân thiện với tất cả mọi người. Nước phở nấu theo kiểu của Trung Hoa, coi trọng tính ngọt sâu và bổ dưỡng của nước xương ninh. Gia vị đặc trưng của người Việt. Bánh phở theo kiểu mì, bánh của cả người Việt và người Hoa. Thịt thì lại theo kiểu ăn của phương Tây: trần thịt bò và cho vào bát. Cũng có nhiều loại phở, ngon nhất và phổ biến nhất là phở bò và phở gà.
Những tinh túy, ngon, ngọt, thơm, người Việt đã biết kết hợp lại với nhau tạo thành món ăn được xếp hạng ngon nhất thế giới.
Dưa góp, món bình dân của người Việt tạo sự ngạc nhiên cho khách du lịch
Người phương Tây ăn những đồ chiên thường đi kèm với mayonais vừa béo, vừa ngán. Người Trung Hoa ăn đồ chiên cũng với những đồ… khó tiêu. Nhưng người Việt biết cách ăn, biết cách điều hòa các món ăn nên đã ăn đồ chiên với các loại dưa góp vừa kích thích ăn ngon miệng, vùa giúp tiêu hóa tốt.
Ban đầu, món dưa của người Việt chỉ dừng lại ở một vài loại rau, quả để lên men. Người Việt rất thích muối các loại quả để chua: cà muối, sung muối… Sau này giao thoa văn hóa, những loại rau, củ quả vào Việt Nam, chúng ta muối rất nhiều loại rau… có thể muối: rau cần muối, bắp cải muối, xu hào muối, dưa chuột muối…
Món dưa góp là loại dễ ăn, mà khách trong nước, nước ngoài đều thích ăn. Nguyên liệu, tùy theo những loại có sẵn mà mọi người có thể chọn: đu đủ xanh, xu hào, dưa chuột, cà rốt, hành tây… Những nguyên liệu này hầu hết được thái mỏng, theo hình hoa hay những hình đẹp theo con mắt sáng tạo của người chế biến.
Những nguyên liệu này sau khi được bóp mềm với muối sẽ được ướp với các loại gia vị: tỏi, ớt, mùi. Sau đó người ta pha nước sôi để nguội với nước chanh (giấm), đường, muối, nước mắm. Đợi cho các loại gia vị ngấm nguyên liệu thì có đĩa dưa góp chua chua, giòn giòn, thanh mát.
Cá dứa hầm sả - món ngon điển hình loại cá da trơn
| In |
Người đưa bài: theo vnexpress
26/12/2011
Cá dứa tuy giống cá ba sa, tra, hú, lăng... nhưng sau khi chế biến, mỗi loại đều có hương vị khác nhau, mùi đặc trưng. Riêng cá dứa, món hấp dẫn là hầm sả.
Là một loại cá da trơn, cá dứa có tên khoa học là Pangasius Kunyit. Chúng thích nghi ở vùng nước mặn và lợ. Thịt cá dứa săn chắc, nhiều nạc và thơm ngon hơn các loại cá da trơn khác.
Món ngon nhất của cá dứa là hầm sả. Bí quyết là chọn cho được những con cá tươi roi rói, đem về mổ bụng, làm sạch, ướp sơ với tỏi, ớt và nước mắm hòn (nguyên chất) rồi cho vào một nồi lớn, dưới đáy nồi xếp một lớp sả cắt khúc và đập giập ra. Khi hầm giữ cho lửa riu riu để hương sả đủ thời gian thấm vào thịt cá.
Cá hầm sả ăn lúc còn nóng mới tuyệt. Vừa mở nấp nồi, chúng ta nghe thoang thoảng một mùi thơm thật quyến rũ. Đó là mùi hương sả vừa êm dịu, nhẹ nhàng, vừa tinh khiết, lan tỏa giúp kích thích tiêu hóa và tăng cảm giác thèm ăn. Ưu điểm của cá dứa là thịt màu trắng bông. Thịt lại vừa dai vừa mềm, vừa thơm vừa beo béo, vị ngọt tự nhiên. Gắp một miếng cá chấm vào chén nước mắm ớt cay cay rồi nhai chầm chậm mới cảm nhận hết hương vị đậm đà của loài cá quý hiếm này. Món có thể ăn kèm với rau thơm, xà lách, cải bẹ xanh…
Muốn hấp dẫn hơn nữa, đòi hỏi phải có thêm bún, bánh tráng, rau sống, dưa leo, khế chua… và một chén nước chấm được chăm chút thật tinh tế, tỉ mỉ. Còn gì thú vị bằng tự tay mình gỡ cá cho vào bánh tráng rồi cuốn lại, chấm nước mắm, dịch vị tiết ra trước khi thưởng thức. Vị ngọt của cá hòa quyện cùng hương sả và các vị cay, chua, nồng của rau củ nhất định sẽ làm cho đầu lưỡi mình lâng lâng khó tả.
Ngoài hầm sả, nhiều người còn dùng cá dứa để nấu canh chua, kho mắm và chiên tươi, bảo đảm tuyệt hảo, ăn vài lần sẽ ghiền.
Bống kho sông Trà
| In |
Người đưa bài: Theo SGTT
19/11/2011
Thiên nhiên không ưu đãi, nên người miền Trung chịu thương chịu khó để có cái ăn. Qua thời gian, các món ăn trong những bữa cơm đạm bạc đó lại có những món đã trở thành đặc sản mà khiến người dân vùng miền khác phải ngưỡng mộ.
Có bốn đặc sản ở Quảng Ngãi được kết vần thành điệu: “chim mía Xuân Phổ, kẹo gương Thu Xà, cá bống sông Trà, mạch nha Mộ Đức”. So với các đặc sản kia thì xem ra món cá bống sông Trà kho tiêu được nhiều người thích nhất bởi nó không kén người ăn.
Cá bống sông Trà chính hiệu
Ở sông Trà cũng có nhiều cá bống nhưng để có món cá bống kho tiêu hảo hạng, nhất thiết phải là con cá bống cát sống ở giữa sông. Khoảng tháng tư, tháng năm âm lịch, cá bống nhiều nhất. Lúc này cá nhiều trứng, mập nung núc. Bà Tình, chủ quán cơm Cây Gòn trên đường Bà Triệu (Quảng Ngãi) cho biết, trứng cá bống trôi từ đầu nguồn trên núi xuống đến khúc giữa sông thì nở thành cá. Cá bống sống ở giữa đoạn từ cầu xe lửa trên núi chảy thẳng ra biển. Nước sông Trà trong, con cá bống lủi dưới cát trắng nên thịt dai, thơm, mình thon cỡ ngón tay út. Đó là cá bống sông Trà chính hiệu.
Ngay cả bà Tình với hơn 20 năm trong nghề kho cá bống bán cũng không biết con cá bống sông Trà nổi tiếng từ bao giờ. “Ngày xưa, chỉ cần ra sông dùng vợt vớt một lần được cả tô cá. Nhưng từ khi làm cái cầu nước cạn, cá bống ở sông Trà đang ít đi”, bà Tình tiếc nuối.
“Anh đi anh nhớ quê nhà…”
Món canh chua cá bống ngon, nhưng kho tiêu vẫn là ngon nhất. Muốn kho tiêu thật ngon thì con cá phải còn sống. Cho cá vào rổ xát với muối cho sạch vảy. Như món cá kho tiêu khác, cũng ướp cá với chút đường, nước mắm, muối, tiêu, bột ngọt… cho thấm trước khi kho. Nghe đơn giản nhưng phải biết cách kho nếu không cá nát hết. Nhưng để cho ra món cá kho đặc sản đúng hương vị xứ Quảng thì phải dùng các đặc sản xứ Quảng như nước mắm Kỳ Tân, đường trắng An Thới, tỏi Lý Sơn, tiêu rừng vừa thơm vừa cay. Có lẽ vì vậy mà tại Sài Gòn chỉ bán món cá bống sông Trà đã được kho sẵn.
Con cá bống được kho quéo lại, thịt săn chắc, không cứng, không mềm. Và kho cá ngon nhất vẫn là kho bằng cái trách đất, sanh đất, niêu đất… bất cứ thứ gì bằng đất nung để các hương vị được chất thổ dẫn truyền, quyện vào nhau tạo ra một hương thơm quyến rũ.
Thêm vài trái ớt hiểm để nồi cá thêm bắt mắt, kho cá nhà sau hương thơm đã lan ra ngoài ngõ ngào ngạt. Món cá bống kho tiêu ăn với cơm trắng, thêm dĩa rau muống luộc chấm với nước cá kho – đơn giản vậy mà hết… ý. Hoặc chỉ cá bống kho tiêu ăn với cháo trắng, toát mồ hôi cũng đã rồi. Ăn phải con cá bống có đùm trứng vàng thì lại thêm vị béo bùi thật tuyệt.
Bà Tình cho biết, cá bống kho tiêu giữ được cả tháng, kho xong dưới mười ngày ăn rất ngon. Ban đầu quán Cây Gòn kho cá bống bán kèm cơm, thực khách khen ngon mua về nhiều dần dần quán cơm phát triển thành cơ sở như bây giờ. Mỗi lần quán kho 30 sanh, một sanh hơn một ký cá. Kho năm ba bữa, đợi cá khô rồi cho vào hũ bán đi khắp nơi, cả xuất sang nước ngoài.
Có vậy nên người Quảng Ngãi cải biên: “Anh đi anh nhớ quê nhà. Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu”.
Phèo hai da
| In |
Người đưa bài: Theo SGTT
11/09/2011
SGTT.VN - Một trong những đặc quyền của người giết mổ là giữ lại phần ngon nhất của các chú trư để lai rai. Thế nhưng, sự săn lùng của dân sành ăn đã khiến đặc quyền này bị chia sẻ.
Ông Hải – chủ nhà hàng làng nướng Nam Bộ kể, trong một lần lai rai với bạn bè, ông được giới thiệu về món phèo hai da. Món phèo này được các ông “đao phủ” heo để dành và chỉ đãi cho những ai được coi là “chiến hữu”. Mất một năm trời cất công tìm kiếm, ăn thử quả đúng như lời đồn, ông Hải cũng tìm được mối cung cấp “hàng độc” này.
Phèo thường chỉ có một bên màng dính với một bên ống ruột, phèo hai da lại có hai màng dính hai bên ống ruột. Theo thông tin mà ông Hải thu thập được thì heo nuôi bằng cám trong điều kiện bình thường, từ tám tháng trở lên, trong khoảng 600 – 700 con mới có một con có đoạn phèo hai da dài từ 15 – 20cm. Tỷ lệ heo có bộ lòng bị “đột biến” là… hên xui. Ông Hùng, làm nghề mổ heo ở quận Tân Phú nói: “Lâu thiệt lâu mới thấy một con heo có phèo hai da. Phèo này ngon lắm, bên ngoài giòn, bên trong mềm”.
Không chỉ khác lạ về hình dáng, phèo hai da được kháo rằng, ngon hơn hẳn phèo thường do ống ruột dày, béo và giòn hơn. Phèo hai da xào cải chua, xào thơm, nướng riềng mẻ… món nào cũng ngon. Nhưng để tận hưởng hết cái đặc sắc, vị tự nhiên của nguyên liệu chỉ nên chế biến đơn giản là luộc phèo chấm mắm cáy. Hoặc món phèo hai da lăn qua bột năng, chiên lửa riu riu, uống hết chai bia, phèo vẫn còn giòn.
Dơi sen.. món khìa, món cháo
| In |
Người đưa bài: TranAi
13/06/2008
Dơi sen là loại có cánh, đầu như đầu chuột, có lông màu đen, nhỏ hơn dơi quạ, lớn hơn dơi muỗi nên người ta còn gọi là “chuột bay”. Chúng sống thành bầy đàn, ăn trái cây vườn. Khoảng chập tối, người ta chuẩn bị dơi mồi, lưới vợt, giỏ đựng để đi săn bắt chúng
Nếu không có dơi mồi, người ta phải biết cách thổi để dẫn dụ chúng bằng cách dùng lá mì kẹp trong hai bàn tay thổi tạo tiếng dơi kêu. Dụ được dơi đến thì chỉ cần dùng vợt để bắt. Mùa bắt được dơi sen nhiều nhất là lúc trái cây chín rộ. Lúc này dơi mập mạp, thịt thơm ngon.
Dơi sen luộc hoặc khìa là món ăn đơn giản. Nhưng với những loại nạc ít xương mềm thì người ta hay bằm rồi xào xúc bánh tráng. Sau khi lột da, làm sạch, chặt đầu, người ta bằm cả thịt và xương dơi. Bắc chảo nóng phi hành tỏi, cho thịt dơi bằm vào xào.
Dơi sen nướng chao cũng là món “độc” của các bà nội trợ. Khi làm, chặt bỏ hai cánh và đầu. Lấy hai cục xạ trắng cứng dưới nách liệng bỏ, lột bỏ da và bộ lòng, ướp dơi với nước tương, chao đỏ, rượu, dầu mè, dầu hào, bột ngọt, tiêu và mè cho thấm. Sau đó cho dơi lên bếp lửa than, nướng vàng đều. Vừa nướng vừa thoa mỡ cho dơi không bị khô. Dơi chín, từng miếng thịt dơi vàng rộm, giòn, thơm. Ngoài ra, người Nam bộ có “thói quen” ưa ăn món xào lăn, nên dơi sen xào lăn cũng trở thành món ăn được cho là hấp dẫn khẩu vị.
Món cháo dơi sen lại được nhiều người ưa thích vì nó vừa làm no bụng một cách dễ chịu vừa giải nhiệt và bổ dưỡng. Nhưng muốn có món cháo ngon thì dơi phải lột da bằm nhỏ (có nơi để nguyên con), xào gia vị cho đậm đà rồi cho vào nồi cháo gạo lúa mùa nấu nhừ với đậu xanh, gừng, nấm rơm, hành lá cùng một ít gia vị cần thiết. Cháo dơi sen ăn với giá sống, rau đắng đồng, nặn chút chanh tươi, chấm muối tiêu chanh ớt hoặc nước mắm trong. Món này bổ dưỡng giúp người già ăn ngon, ngủ tốt; trẻ con ăn sẽ hết chứng bụng ỏng, da xanh.
Máu dơi lại dành cho dân nhậu, người ta trích dưới cánh dơi cho máu chảy vào ly. Phải cần rất nhiều dơi mới có thể cho được một ly nhỏ máu dơi. Cho máu dơi vào chai rượu cao độ, lắc đều. Sau đó cho chai rượu vào nước nấu sôi để ấm nhằm giúp huyết dơi không bị kết tủa xuống đáy. Nhậu các món thịt dơi với rượu huyết dơi sẽ cho bạn cảm giác lâng lâng.
Ốc vòi voi, món ăn bổ dưỡng.
| In |
Người đưa bài: dongsong
22/04/2008
Ốc vòi voi, có nơi gọi là con thụt thò, là một loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ sống trong nước mặn. Trong môi trường tự nhiên, ốc vòi voi sống rải rác trên các trương cát ngầm và thềm cát có san hô ở vùng biển ấm.
Chúng có thể thích nghi với môi trường nước trong với độ mặn ổn định, có thủy triều lên xuống hay ở các vùng bãi bùn cửa sông nước lợ. Ở nước ta, những nơi có nhiều ốc vòi voi là Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hòa
Ốc vòi voi sinh sản dưới cát vào mùa xuân, sinh trưởng nhanh trong điều kiện môi trường tự nhiên hay môi trường nuôi tốt. Loại ốc này có giá trị dinh dưỡng cao. Các nghiên cứu cho rằng thịt của chúng có khoảng 16 loại acid amin. Ngày trước, ốc vòi voi chỉ có trong môi trường tự nhiên, là một đặc sản quý hiếm. Hiện nay, nó đã được nuôi thành thương phẩm và ngành nuôi ốc vòi voi đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho ngư dân.
Nuôi ốc vòi voi không tác động xấu đến nguồn nước, ít bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, công chăm sóc không đáng kể, do đó một hộ gia đình có thể nuôi cả chục ngàn con. Sau khi sinh nở, ốc vòi voi trải qua nhiều lần biến thái, thành giống cấp 1 (lớn cỡ 4-5mm). Từ giống cấp 1, sau một tháng ốc sẽ lên giống cấp 2, có chiều dài vỏ 2-3cm. Với hai hình thức nuôi là nuôi treo (dùng lồng hoặc giàn treo cố định) và nuôi đáy (nuôi trên bãi tự nhiên hoặc bãi có cải tạo) trong thời gian 12-15 tháng là có thể thu hoạch được. Trong suốt quá trình nuôi không phải chăm sóc hay cho ăn vì ốc tự ăn động vật phù du tự nhiên trong nước biển.
Hiện nay, tại các nhà hàng, món đơn giản nhất chế biến từ ốc vòi voi là nướng. Trước kia, món này rất đắt (có khi lên đến vài trăm ngàn đồng một ký), nhà hàng tính tiền theo con (con khoảng 50g có giá 20-30 ngàn đồng). Từ khi ngư dân nuôi thành công, giá thành ốc vòi voi giảm đáng kể. Ở các nhà hàng tại Khánh Hòa, ốc vòi voi sống có giá 95.000 đồng/kg.
Ốc vòi voi khi còn sống có hình dạng không hấp dẫn do có lớp “da” màu xám đen bọc lớp thịt bên trong. Khi bơi trong nước, mình chúng có thể thò ra khỏi vỏ dài đến cả tấc. Chế biến ốc vòi voi là một công việc khá phức tạp. Phải rửa nhẹ nhàng con ốc bằng nước ấm, sau đó tách hai vỏ của chúng ra, lấy ruột nằm bên hông mảnh vỏ (thao tác phải thật cẩn thận để ruột không bị bể). Dùng nước nóng hơn để tuột lớp da bên ngoài sao cho lộ ra phần thân trắng nõn mới đem rửa lại bằng nước lạnh.
Do có giá trị dinh dưỡng cao (nhiều người cho rằng loại ốc này là lựa chọn số 1 với nam giới khi tìm ăn các món ăn “tráng dương bổ thận”) nên hầu như các món ăn được chế biến từ ốc vòi voi khi bày biện đều được trưng bày hai mảnh vỏ trên đĩa. Nếu là món nướng thì sau khi lấy thịt của chúng ra, người ta để trên một mảnh vỏ và nướng trên than hồng, sau đó mới để mỡ hành lên trên. Có người vì muốn tận hưởng vị ngọt đặc biệt của ốc nên chỉ ăn thịt ốc nướng. Các phẩm chất dai dai, giòn giòn lại mềm và ngọt của ốc vòi voi không có loại ốc nào bằng. Món ốc nướng vì vậy chỉ cần chấm với muối ớt chanh là đủ.
Bên cạnh món nướng còn có món hấp. Cũng có thể lấy thịt ốc trộn với gừng xắt sợi, thêm chút rượu, chút dầu mè, gia vị như nước tương, muối, tiêu rồi hấp khoảng năm phút. Trong thời gian hấp ốc, đầu bếp xào giá và hành lá. Trên đĩa, món hấp được trình bày như sau: đặt hai mảnh vỏ con ốc (để làm bằng chứng!) vào chính giữa đĩa, cho giá và hành đã xào vào xung quanh, sau đó cho ốc chín lên hai mảnh vỏ ốc, rắc chút tiêu và đặt rau ngò lên trên cùng.
Ngoài ra, ốc vòi voi còn chế biến bằng cách làm gỏi, chiên với nấm, nấu xúp hay nấu cháo cũng rất ngon.
Người nước ngoài lại thích ăn ốc vòi voi theo dạng sashimi chấm với mù tạt. Các món ăn từ ốc vòi voi khi được bưng ra bàn cũng có đủ hai mảnh vỏ để làm “bằng chứng” không khác gì ở xứ ta!
Về Cồn Tè ăn cá thuốc bắc
Sau khi cây cầu Tam Giang nối hai bờ phá Tam Giang được đưa vào sử dụng vào cuối năm 2010, đã đánh thức tiềm năng du lịch của khu vực đầm phá Tam Giang.
Từ trung tâm TP Huế đi theo quốc lộ 49 về hướng Thuận An, đến cầu Diên Trường (xã Phú Tân, huyện Phú Vang) rẽ trái, đi thêm chừng 5 km nữa là đến Cồn Tè. Cồn Tè nằm cuối xã Hương Phong, nhìn ra cửa Thuận An. Tại đây, vào mùa hè, ngồi trên những căn nhà chồ bốn bề lộng gió, thưởng thức các món cá tươi rói mới bắt lên từ phá Tam Giang, mọi cảm giác mệt mỏi chừng như tan biến.
Theo các ngư dân có kinh nghiệm, sở dĩ hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có nhiều cá ngon là do nguồn nước luôn được luân lưu, môi sinh trong sạch. Mặt khác, đây cũng là vùng duy nhất trong phá Tam Giang còn lại loài rong hẹ (còn gọi rong cỏ kiệu) là thức ăn số một và cũng là nơi sinh cư lý tưởng của các loài cá con như cá mú, cá hồng, cá dìa, cá kình và cá nâu.
Báo cáo khoa học về đa dạng sinh học các loài cỏ biển thuộc hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai của Viện Hải dương học Hải Phòng đã được Hội đồng khoa học Sở Khoa học - Công nghệ Thừa Thiên - Huế nghiệm thu năm 2005, cho biết: “Cây rong hẹ còn có tên là rong cỏ kiệu, một loài cỏ biển quý trong thảm thực vật hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Loài rong này khi sinh trưởng sẽ tạo nên một thảm thực vật hệ đáy của vùng đầm phá và trở thành nơi sinh cư lý tưởng cho các loài cá con, trong đó có các loài cá mú, cá hồng, cá nâu...”.
Các loài cá nâu, cá kình, cá dìa... ở phá Tam Giang rất ngon và có giá trị dinh dưỡng cao. Người Huế thường gọi chúng là những “con cá thuốc bắc”, bởi thịt cá có chức năng như một liều thuốc an thần nhẹ, chống mất ngủ và giảm tress rất hiệu quả. Đặc biệt, các món cá kình, cá nâu, cá dìa hấp mồng tơi ở đây vẫn được lưu truyền là loại thuốc trị chứng mất ngủ hiệu quả.
Các loại cá trên cũng đặc biệt ngon, bổ khi được nấu cháo. Khi những hạt gạo đã bắt đầu nở búp trong nồi, nước cháo sôi sùng sục, những chú cá ong, cá dìa, cá nâu tươi nguyên còn giãy đành đạch, được tẩm qua gia vị thả ào vào soong. Hương thơm bốc lên ngào ngạt. Húp bát cháo cá tươi quyện trong vị cay nồng của hành hương, mồ hôi trong người toát ra, mọi độc tố tồn đọng trong cơ thể dường như được tống khứ. Toàn thân nhẹ hẫng một cảm giác sảng khoái lâng lâng...
Món ngon từ... củ mì và "đá"
Người dân Quảng Ngãi quê tôi thường nói như thế với món bún mì trộn hàu. Bún mì được chế biến từ củ mì. Hàu được lấy từ những gành đá ven bờ biển.
Chợ quê không bao giờ thiếu loại bún có mức giá khá rẻ này. Chỉ cần 14.000 đồng là có ngay một ký bún mì loại ngon, cỡ 4 người ăn có khi không hết.
Có thể nói nghề “săn” hàu vừa đơn giản vừa gian nan. Đơn giản vì hàu cứ trơ gan cùng đá, lúc khởi sinh chỗ nào thì “cả đời” cứ chỗ ấy mà bám, chẳng hề xê dịch một ly. Mỗi gành đá như một “mỏ” hàu lộ thiên. Nên muốn ăn hàu cứ ra gành mà lấy. Người nạy hàu chỉ cần một que sắt, một búa nhỏ, đục bỏ lớp “áo giáp” thô cứng là có thể lấy được con hàu. Còn gian nan là vì người đi cạy hàu phải lặn lội nơi đầu gành cuối bãi, đội nắng đội mưa cả ngày trời mới có được vài ký hàu để chạy chợ và cải thiện bữa ăn.
Bún mì phải “đi” với con hàu nước mặn mới đậm đà ý vị. Là nói cho hết ý thôi, chứ vào mùa mưa dầm gió dãi, nghe mùi bún mì trộn với ruốc khô hoặc cà chua xanh cũng đủ thèm rồi.
Bún mì ngâm nước khoảng 2-3 phút (đừng để lâu hơn cọng bún sẽ quá mềm, mất ngon). Dùng kéo cắt bún thành từng đoạn ngắn hơn gang tay người lớn, để ráo. Đổ dầu vào chảo nóng, phi với tỏi. Nghe dậy mùi thơm là cho hàu vào, gia vị tùy thích, đảo vài vòng rồi bắc chảo xuống để nguội. Trút bún mì vào chảo, rưới một lượng mắm ớt tỏi sao cho vừa ăn và trộn đều. Cuối cùng, cho rau răm nguyên lá và hành ngò đã xắt nhỏ, đảo lần nữa. Món ngon từ... củ mì và đá hiện ra.
Bún mì trắng sữa, con hàu trắng ngà, rau răm xanh đục, hành, ngò xanh tươi. Bấy nhiêu màu sắc ấy rủ rê con mắt “ăn” trước. Rồi mới đến cái răng, cái lưỡi ăn sau. Người ta nói nhai kỹ no lâu. Còn bún mì - hàu nhai kỹ ngon lâu. Bún mì vừa dẻo vừa dai nên càng nhai càng ngọt, còn hàu thì khỏi nói, răng vừa bập xuống, vị bùi béo đã dậy lên, “tổ hợp” rau răm - hành - ngò gợi mùi hương mộc mạc vườn nhà.
Sẽ rộn rã âm thanh hơn nếu ăn món này với bánh tráng mì giòn. Và đương nhiên, sẽ “giòn” hơn nếu cùng bạn bè nhâm nhi món này với vài ly rượu gạo. Câu chuyện về hương vị quê nhà lại râm ran. Anh bạn kể: “Con gái tui về thăm quê, xe cách nhà cả trăm cây số, nó đã điện về nhắc mẹ món bún mì trộn với hàu nước mặn”.
Mối chúa - đệ nhất "sung dược".
Ve sữa non, mối chúa, bổ củi… đã và đang trở thành món ăn thời thượng của nhiều người dân địa phương và du khách khi đến vùng Bảy Núi - An Giang với niềm tin sẽ “tăng cường bản lĩnh đàn ông”.
Từ lâu, khu vực bán côn trùng ở chợ biên giới Tịnh Biên, huyện Tịnh Biên - An Giang đã trở thành địa chỉ quen thuộc của nhiều người dân địa phương và du khách vì được xem là nơi cung cấp “sung dược” giúp tăng “bản lĩnh” của cánh đàn ông. Để đáp ứng nhu cầu của quý ông và không ít quý bà, nhiều loài như ve sầu, bổ củi, mối chúa… ở vùng Bảy Núi đã và đang bị săn lùng theo kiểu tận diệt.
Ve sữa non cực thịnh
Những cơn mưa đầu mùa trút xuống vùng Bảy Núi đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loài côn trùng sinh sôi, phát triển. Không biết nghe ngóng ở đâu, vài người bạn của tôi ở TPHCM đã tìm xuống An Giang và nằng nặc đòi tôi dẫn đến các đại lý côn trùng ở chợ biên giới Tịnh Biên. “Nghe nói ở đó có nhiều hàng “độc”, công dụng hết sức tuyệt vời”- một người bạn tôi háo hức. Tôi vốn ngán những loài côn trùng kia nhưng vì chiều ý bạn nên đành dẫn họ đi.
Tôi gọi điện thoại báo trước cho một người quen là anh N.C.L, chủ một “đại lý” côn trùng thuộc loại lớn ở khu chợ biên giới Tịnh Biên. L. đón chúng tôi ở thị trấn Nhà Bàn, huyện Tịnh Biên. Trên đoạn đường gần chục cây số từ Nhà Bàn ra chợ biên giới, tiếng ve sầu kêu vang dội. L. bảo mùa mưa đến, loài ve sầu bắt đầu lột xác réo gọi mùa hè.
Khi còn nhỏ, ve chưa mọc cánh, mình tròn múp, căng đầy sữa và ẩn náu trong hang dưới lòng đất. “Ve sữa non là đặc sản đang cực thịnh ở vùng Bảy Núi đó. Con nào con nấy tròn bóng, bụng đầy sữa non, mềm và ngọt, làm món chiên giòn hay chiên bột đều hết ý, “uy lực” tăng gấp đôi, gấp ba lần bình thường” - L. “ru” khách.
Chiếc ô tô vừa đỗ trước căn nhà tường ở khúc cua 15 thuộc thị trấn Tịnh Biên, anh L. đã hối thúc người trong nhà chuẩn bị đồ nghề đi lùng ve sữa. Từ trong nhà, một thanh niên tên Duy xách vội cây cuốc và chiếc thùng đựng nước đá ra khu vườn phía sau nhà. Vừa bước vào khu vườn, chúng tôi đã nghe tiếng ve kêu inh ỏi. Duy không đến nơi có tiếng ve kêu mà tìm những gốc cây xoài, mít có bóng râm mát mẻ. “Nơi đất tơi xốp, mềm thì ve mới đào hang ẩn náu” - Duy giải thích.
Duy dùng cuốc dọn đám lá khô quanh gốc cây xoài, để lộ ra những cái hang tròn cỡ ngón tay cái rồi bổ mạnh vài nhát, bứng đất lên. Lẫn trong lớp đất xốp mềm ấy là vài chú ve mập ú, tròn múp. L. thành thục tóm lấy những chú ve non bỏ vào thùng nước đá để ướp lạnh. “Con ve này ở hang cạn là loại sắp trưởng thành nên mập hơn những con ở hang sâu.
Sau khi được nở từ ấu trùng, ve sữa sẽ đào hang ở trong lòng đất độ một tuần rồi dần dần trồi lên mặt đất. Bởi vậy, muốn tìm ve sữa thì phải xới tung lòng đất lên mới bắt được”- anh giải thích.
Nhìn mặt đất chi chít những hang ve, L. bảo phen này trúng đậm. Anh liên tục nhặt ve sữa cho vào thùng nước đá. Dường như đã quá quen thuộc với việc này, cứ 3 nhát cuốc là Duy lại lôi lên một chú ve non tròn múp.
Hơn một giờ sau, chiếc thùng đựng nước đá nặng trịch, bên trong có cả trăm con ve sữa. “Bây nhiêu đây dư sức chiên giòn, chiên bột lai rai bứt cả thùng bia. Nếu chịu khó đào xới xung quanh những gốc cây mát mẻ, có đất xốp mềm thì còn bắt được nhiều hơn nữa. Dạo này mới vào mùa nên quán xá đặt hàng ve sữa dữ lắm, có bao nhiêu họ mua hết ráo. Rồi mấy cậu xem, chén xong sẽ thấy trong người “phơi phới” ngay cho coi” - L. hào hứng.
Mối chúa: “Đệ nhất sung dược”!
Trong lúc nhóm bạn tôi đang thích thú xơi ve sữa non chiên bột, anh L. lôi ra một chiếc hũ đựng những con vật trông như con sâu to bằng ngón tay cái, toàn thân trắng múp.
Anh cho biết đó là mối chúa - “đệ nhất sung dược” trong các loài côn trùng ở vùng Bảy Núi. “Mối chúa là “thần dược” bổ dưỡng nhất của quý ông đó. Chỉ cần xơi một con mối chúa đã có thể cải thiện “chuyện ấy” ngay tức khắc” - L. quả quyết.
Theo các đại lý côn trùng ở chợ biên giới Tịnh Biên, mối chúa loại trung bình (nhỏ hơn ngón tay) dùng ngâm rượu giá 40.000 đồng/con, loại nhỏ hơn từ 15.000 đến 20.000 đồng.
Một hũ rượu ngâm 10 con mối chúa ở đây được rao bán với giá 400.000 đồng. L. cho biết anh chuyên gom hàng từ cánh thợ săn côn trùng khắp vùng Bảy Núi. “Bổ nhất là ăn mối chúa sống, “chuyện ấy” có thể nói là muốn gì được đó” - L. quả quyết.
Tại vùng Bảy Núi, ông Tư Cương ở khu núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ sơn) là một thợ săn côn trùng chuyên nghiệp với hơn 10 năm trong nghề. Ông Cương biết rõ nơi nào trong ngọn núi này có tổ mối. “Mối thường làm tổ ở chân và triền núi, ít khi trên đỉnh cao vì xa nguồn nước. Những nơi có mạch nước mát mẻ, đất xốp mềm là sẽ có tổ mối. Mỗi tổ mối có hàng ngàn con nhỏ li ti làm các nhiệm vụ kiếm mồi, xây tổ, chăm sóc, bảo vệ và cung phụng một con mối chúa. “Vua mối” chỉ có mỗi nhiệm vụ là sinh sản để duy trì nòi giống”- ông Cương tỏ ra am hiểu.
Dẫn chúng tôi men theo vạt rừng còn xanh dưới chân núi Dài Năm Giếng, ông Cương chỉ một gò mối: “Chắc chắn là có mối chúa to tướng trong đó”- ông Cương khẳng định rồi vung len đào thoăn thoắt. Khi đã chọc thủng được gò mối, ông Cương lôi ra chiếc tổ dành riêng cho mối chúa rồi dùng len chẻ đôi khối đất. Bên trong, một con mối chúa to bằng ngón tay cái đang ngọ nguậy.
Chuyến đi săn mối chúa của ông Cương còn có 3 người khách lạ. Ông Cương cho biết họ đặt hàng ông lùng mối chúa để “ăn tươi, nuốt sống” vì muốn tẩm bổ, cường dương. Từ khi xuất phát, 3 vị khách lạ đều không nói một lời, chỉ đến khi nhìn con mối chúa to tướng thì họ mới reo lên khoái trá. Ông Sơn, trạc 40 tuổi, một trong 3 người khách, thản nhiên há miệng bỏ mối chúa vào và “ực” một cái đã nuốt gọn nó vào bụng. Dừng một lát dường như để cảm nhận tác dụng của “sung dược”, ông Sơn móc bóp lấy ngay 100.000 đồng đưa cho ông Cương rồi tiếp tục cuộc săn lùng…
Mạnh như… bổ củi!
Thấy xe chúng tôi chạy chầm chậm trước sân chợ biên giới Tịnh Biên, cánh bạn hàng buôn bán côn trùng liền nhao nhao sấn đến chào mời. Một thanh niên chìa ra chiếc túi lưới đựng cả ngàn con bổ củi đang búng mình tanh tách bên trong, miệng dẻo quẹo: “Thấy sức mạnh của con bổ củi chưa? Loài côn trùng này mạnh ác lắm, là “sung dược” bổ dưỡng, làm tăng uy lực của đàn ông tức thì”.
Thấy chúng tôi chần chừ, anh ta tiếp tục “nổ” bằng một câu chuyện khẳng định công dụng của loài côn trùng này. “Có bà khách sồn sồn ở Long Xuyên ghé chợ tìm loại rượu nào có tác dụng cường dương, hồi phục sinh lực để về tẩm bổ cho chồng. Lần đó gặp tôi, tôi đưa bình rượu thuốc ngâm 50 con bổ củi, bà ta còn mua thêm 50 con rang sẵn về ngâm chung. Mấy tháng sau ghé lại chợ, bà ấy đã gom toàn bộ số bổ củi của những người bán ở đây về để chia cho phụ nữ cả xóm. Bà ta khoe đám phụ nữ gần nhà khi nghe bà tiết lộ đã nhao nhao nhờ mua giúp bổ củi về ngâm rượu để dành cho chồng dùng”.
Săn bò cạp, mối chúa ở núi Thất Sơn
Bò cạp chiên giòn, bò cạp nướng… đang là món ăn khoái khẩu của dân nhậu. Chưa hết, bò cạp còn dùng để ngâm rượu trị đau khớp, nhức mỏi. Mối chúa, tắc kè cũng được xem là thuốc quý “tăng cường sinh lực”. Tất cả đang trở thành đặc sản cuốn hút hàng trăm người dân vùng núi Thất Sơn (An Giang) vào cuộc săn lùng...
Pha đèn đi... bắt bò cạp, mối chúa.
Phải hẹn năm lần bảy lượt, chúng tôi mới gặp được “thợ cả” Bùi Văn Đằng, người chuyên bắt bò cạp ở núi Thất Sơn. Từ Tịnh Biên, vượt qua con đường ngoằn ngoèo nhiều đồi dốc mất cả giờ đồng hồ mới đến được nhà ông ở chân núi Phú Cường. Biết chúng tôi tìm đến vì chuyện bò cạp, ông vui vẻ mời trà nước, rồi chuẩn bị đồ nghề chờ đến tối để lên đường săn… bò cạp.
Bò cạp được bắt cho vào thau.
Trời sụp tối, núi rừng Thất Sơn hùng vĩ vắng lặng- lạnh ngắt. Xa xa phía Đông núi Phú Cường, lác đác vài ngọn đèn dầu, không gian yên vắng chỉ có tiếng ve sầu rỉ rả buồn não ruột. Trời càng tối, gió thổi càng mạnh, sương mù xuống lạnh cả người. Ông Đằng bảo chúng tôi mặc áo ấm vào để xuất phát. Đồ nghề mang theo hết sức đơn giản: 1 bình ắc-quy loại nhỏ đeo sau lưng, bóng đèn soi mang trên đầu, tay cầm chĩa 3 mũi… Chỉ cần nhìn qua đã biết ngay ông là tay “săn” chuyên nghiệp. Tôi và anh Tư Nguyên (cháu ông Đằng) theo sau cầm thùng đựng… bò cạp.
Hơn 19 giờ, chúng tôi khởi hành. Ông Đằng đi trước, pha đèn dẫn đường ra phía sau núi rồi vòng qua những bờ đê cao. Ông bảo, thông thường bò cạp sống ở chân núi theo kẹt đá hoặc bờ đê, bờ ruộng cao ráo. “Thói quen của bò cạp là chỉ ra khỏi hang vào ban đêm để tìm thức ăn. Muốn bắt được bò cạp, phải chờ lúc này” vừa dứt lời đã thấy ông Đằng dừng lại, lấy chĩa 3 mũi chặn ngay miệng hang, một cục đen xì rút lui vào hang nhưng bị kẹt lại. Và lập tức bị ông tóm cổ.
“Đúng là con bò cạp to đùng, mập ú. Con này ít nhất cũng đủ tiền mua lít rượu!”, ông Đằng khoái chí khoe. Con bò cạp chạy nháo nhào xung quanh thùng, 2 càng quơ quơ, còn cái đuôi như cây kim nhọn cong lên trông dữ tợn.
Tư Nguyên giải thích thêm: “Bò cạp lạ kỳ lắm, ban đêm nó rất nhanh và dữ, nhưng ban ngày thì nằm một chỗ ít cắn ai. Muốn bắt bò cạp, anh cứ đè đuôi xuống thì không bị cắn”. Đi tiếp vài bước, gặp đàn bò cạp 3 con ra khỏi hang đi ăn đêm, ông Đằng nhanh tay giữ miệng hang không cho chúng vào. Tư Nguyên đẩy tôi lại kêu bắt bò cạp một lần cho biết. Tôi phân vân nhưng cũng cố thử một phen. Hai tay run run chộp xuống thì bị bò cạp chích vào ngón tay cái đau điếng. Một con nằm cạnh quơ càng kẹp thêm vào tay rướm máu. Cố bắt bò cạp bỏ vào thùng xong, ngón tay tôi đã nhức buốt. Thấy tôi lo lắng, ông Đằng trấn an: “Chịu nhức khoảng 10 phút sẽ hết, không có hại gì đâu. Hồi mới vào nghề, ai mà chẳng bị bò cạp chích đầy tay, nhưng lâu ngày rồi quen không sợ nữa”.
Băng qua cánh đồng An Nông, chúng tôi sang khu vực núi Cấm. Ông Đằng thay đổi ý định từ việc săn theo triền núi sang bờ cao cạnh những đám rẫy khoai mì. Theo ông Đằng, thời gian gần đây nhiều người bắt liên tục làm bò cạp nhát, do đó phải chuyển hướng khác mới mong tìm được nhiều. Quả là chuyên gia săn bò cạp nên ông đoán được đường đi- nước bước của chúng. Chỉ pha đèn đi qua 3 bờ ruộng ông đã bắt được gần 40 con bò cạp. Nhiều nơi bò cạp xuất hiện dày đặc, bắt mê tay.
Càng về khuya, chuyến đi săn càng hứng thú và tôi trở thành người “xung phong” bắt bò cạp lúc nào chẳng hay. Khoảng 1 giờ khuya, thùng đựng bò cạp đã nặng, ánh sáng từ bình ắc-quy yếu dần do cạn điện. Đôi chân tôi cũng nặng nề hơn bởi di chuyển liên tục nhiều giờ liền, hết triền núi sang bờ đê khó đi và không ít lần bị té… Về đến nhà, ông Đằng đếm thử được hơn 100 con bò cạp. Một đêm săn như vậy là rất khả quan. Đi săn bò cạp quả là vất vả nhưng cũng là một cái thú của người dân vùng núi Thất Sơn.
Theo nhiều người dân địa phương, nghề săn bò cạp mới xuất hiện khoảng hai năm nay, mà ông Đằng là một trong những người đầu tiên làm nghề này. Ông Đằng nhớ lại: “Cách nay 2 năm, có một người ở Châu Đốc vào tận đây đặt 1.000 con bò cạp ngâm rượu với giá 1,5 triệu đồng. Nhiều hộ đời sống khó khăn nên nghe xong liền sắm đồ nghề làm ngay. Hôm giao bò cạp cho khách mới biết bò cạp ngâm rượu trị đau khớp, đau lưng và làm món ăn… Vài ngày sau, cả chục người đến hỏi bò cạp, rồi những thương lái ở chợ biên giới Tịnh Biên cũng vào đặt bò cạp. Vậy là hàng trăm người trong vùng lân cận kéo nhau đi săn bò cạp luôn đến bây giờ”. Trung bình, mỗi người săn bò cạp thu được 70.000đ - 100.000đ/đêm; đêm nào “trúng” được 150.000đ.
Ngoài bò cạp, nhiều hộ còn đi đào mối chúa để bán. Theo anh Nguyễn Tấn Giang, xã An Nông: “Để đào được mối chúa khó khăn vô cùng, chưa kể bị mối càng “giữ cửa” cắn chảy máu. Trước tiên, phải tìm những gò mối cao ven chân núi, sau đó dùng xà beng đào sâu vào giữa gò mối; đến khi nào thấy cục đất cứng như cái đĩa nằm rời trong hang, có mặt ngoài láng o chính là nơi mối chúa ở. Bình quân mỗi ổ mối chỉ có duy nhất một con mối chúa, khi bắt xong phải bỏ ngay mối chúa vào bình rượu gốc để ngâm, nếu không mối bị chảy sữa và hư”.
*
Chợ bò cạp biên giới
Rượu mối chúa và bò cạp bày bán rất nhiều ở chợ biên giới Tịnh Biên
Sáng hôm sau, chúng tôi tìm ra chợ biên giới Tịnh Biên. Tại đây có khoảng 20 hộ chuyên kinh doanh bò cạp, mối chúa, tắc kè bông, tắc kè cánh, bìm bịp… Giá bò cạp nhỏ từ 1.500đ - 2.000đ/con; bò cạp lớn 2.500đ - 3.000đ/con; mối chúa 15.000đ - 20.000đ/con; tắc kè 15.000đ/con…
Chị Lê Thị Minh Châu, bán bò cạp được gần 2 năm cho biết: “Khách hàng chủ yếu là dân du lịch từ TP Hồ Chí Minh và các tỉnh khác tới. Mỗi khi có xe lớn ghé, họ giành nhau mua - bán không kịp. Hôm nào đắt cũng được 1 – 1,5 triệu đồng, còn trung bình cũng bán được khoảng 300 ngàn – 500 ngàn đồng/ngày, sống khỏe re”.
Còn bà Phạm Thị Kim Em hớn hở khoe: “Mới tuần rồi, bán cho vị khách ở Sài Gòn 2 hũ mối chúa được 1,4 triệu đồng. Họ còn đặt thêm, hẹn tháng sau xuống lấy…”.
Hiện tại, ngoài người dân ở Tri Tôn và Tịnh Biên, nhiều người Campuchia sống dọc biên giới giáp với Việt Nam cũng tham gia bắt bò cạp và mối chúa từ nước họ mang qua bán. Từ đó, tạo nên phong trào săn côn trùng sôi động. Chợ bò cạp tự phát ở biên giới Tịnh Biên cũng hoạt động suốt ngày không nghỉ. Nhiều quán nhậu ở các nơi xa gần cũng đặt mua bò cạp để làm món nướng hoặc chiên xù. Món này béo ngậy được dân nhậu rất mê…
Nghề săn bò cạp đang góp phần đáng kể tạo công ăn việc làm cho người dân vùng núi An Giang. Theo chính quyền địa phương, việc đào các ổ mối quanh triền núi và săn bò cạp không ảnh hưởng hay xáo trộn đất đai nên không cấm đoán bà con làm để tăng thu nhập. Tuy nhiên, chuyện bò cạp, mối chúa… trị được một số bệnh hay tăng cường sinh lực… chưa có sách khoa học nào khẳng định. Mặc dù, thực tế đã có một số người sử dụng có kết quả, nhưng về liều lượng, cách ngâm, pha chế, sử dụng… chưa ai biết, tất cả chỉ làm qua sự truyền miệng.
Theo Hội Đông y tỉnh An Giang, việc dùng mối chúa chỉ nghe trong kinh nghiệm dân gian. Riêng về bò cạp thì Đông y đã có nghiên cứu và trên thế giới nhiều người vẫn ăn bò cạp. Nhưng không phải vì thế mà ta lạm dụng quá mức hoặc ai cũng có thể dùng được. Do đó, khi sử dụng bò cạp thì nên hỏi ý kiến của thầy thuốc để tránh những việc đáng tiếc xảy ra.
Thịt Chó Quảng Bá
VŨ HỮU TRÁC
Hồi bé, nhớ lần cơn gió bấc đầu thu lành lạnh se se tràn về, bỗng dưng bố tôi gọi mẹ lại bảo. Thì ra là đi mời hai ông chú ở nhà bên sang nhà uống nước chè, nhân tiện bố phân công mẹ ra mua cái gì về để cùng anh em hội ngộ. Hai ông chú em ruột bố ở cách nhau một cái ngõ và cái ao. Nhưng tôi đã đoán ra được việc ấy là gì rồi, tất nhiên là phải từ nguyên do chuẩn bị cho việc hệ trọng là sắp cúng giỗ các cụ. Khoái quá, nhưng cũng từ lúc mẹ đi ra đầu đường chỗ hàng thịt chó thì tôi không khỏi sốt ruột như có lửa đốt bên trong, chẳng là nhà tôi ở ngay thị trấn Vân đình vốn nổi tiếng về môn ẩm thực, rất giỏi nấu các món ăn về thịt chó, vịt cỏ, hay món bánh cuốn mỏng tang, ăn với chả nướng.
Thấy loáng mẹ về, cắp theo cái một rổ to phủ trên bằng tàu lá chuối tươi, chao ôi tôi và ông anh trai cứ trố mắt. Những thứ ao ước bao lần đi học về, lúc đói mềm, muốn đi thật nhanh về nhà còn lục cơm nguội. Ấy thế mà cứ phải chạy nín thở qua cái hàng thịt chó, vì mùi chả chó nướng than hồng cứ phả vào mũi, làm nước dãi cứ chảy tong tong, xấu hổ thật.
Nhìn thấy mẹ mở ra, lần lượt bày lên mâm nào là những đĩa thịt hấp dẻo thái mỏng tang mà to như nửa bàn tay, nào là chả nướng dính chút mỡ vàng óng dính quanh miếng chả và lan cả ra đĩa, bên trên rắc riềng rang giã nhỏ thơm lừng, Có cả đĩa dồi nướng cũng vàng rộm. Nào là bát đầy nhựa mận ninh mềm nâu nâu sột sệt, cả bát nước xương hầm ninh măng củ, chua chua thái dọc, ngon ơi là ngon. Thế là hai anh em cứ rối rít lên chạy vòng quanh chờ mẹ sai bảo. Đứa lấy cái bát đôi đũa, cái đĩa để chanh ớt tươi, lấy cái bát con để pha mắm tôm với chút đường trắng, vắt chanh đánh ngầu bọt thơm lừng. Đứa đưa cái cái đĩa dựng những củ xả với rau lá mơ, rau húng hay những miếng riềng ngâm chua thái mỏng.
Mãi đến khi được phép bố cho ngồi ăn cạnh mẹ để canh chừng, chúng tôi mới rụt rè thỉnh thoảng gắp một miếng, cố gắng nhai kỹ, ra điều như đứa trẻ ngoan không ăn uống xô bồ. Tất nhiên là tôi luôn nhằm từ xa để chờ khi đến lượt mẹ liếc mắt ra hiệu. Tôi chĩa thẳng đôi đũa đến đúng mục tiêu nhanh một cách bất ngờ, gắp miếng to và ngon nhất vội vàng bỏ luôn vào mồm nhai nhồm nhoàm, quên cả mẹ đáng lườm, vì lẽ ra phải gắp vào bát cái đã.
Ấy là nói vậy chứ nếu được thả ra chắc chẳng ai ngoan được mãi. Chẳng thế mà cái thằng Đậu bạn cùng lớp tôi nhà con một, ông bố là nông dân, đương nhiên chân lấm tay bùn, thật thà chất phác đến mức mọi cái đều đơn giản, nhưng rất quí con có khi còn hơn cả vợ. Có lần bố nó vừa đi cày về, quần đang còn xắn móng lợn, nó cứ bám quanh, đòi bố cho mua thịt chó. Nó đòi cho đên lúc bố nó phải nhượng bộ mới thôi. Nó hớn hở khi thấy bố nó gật gật cái đầu. Nó làm mẹ cuống lên chạy vội đi ra đầu đường để mua. Trong lúc ấy, nó sốt ruột chờ, chắp hai tay sau đít đi quanh sân vừa đi vừa nhắc mẹ, sao mãi không thấy về? Khi mẹ nó mang về, ôi chao mẹ nó thấy nó ăn mà cứ đứng nhìn. Bố nó cũng vậy thấy nó ăn hùng hục, húp sùm sụp bố nó phải nhắc nhở vì sợ nó nghẹn. Mẹ nó khoái đến mức như chính mẹ nó cũng đang được ăn như nó.
Mẹ tôi thì khác, chuyện nhịn miệng đãi khách đã thành lệ, mà đây lại là toàn các chú trong nhà nên mẹ cấm dám ăn lấy một miếng. Ông chú tuy mải chén nhưng vẫn để ý thấy mẹ tôi như thế nên gắp cho mẹ tôi một miếng dồi chó, vừa khen ngon vừa nói:
- Sống ở trên đời mà ăn miếng dồi chó. Chết xuống âm phủ biết có hay không? Ngon thật đấy, chị phải ăn đi chứ!
Mẹ quay sang gắp lại vào bát cho tôi rồi bảo :
- Dồi chó đúng kiểu đấy chú ạ. Chị không ăn thịt chó, chú cứ tự nhiên đi.
Quê tôi nó vậy, có người ăn được thịt chó, nhưng lại không ăn được mắm tôm, mà cũng có người thích bún ăn với mắm tôm lại không ăn được thịt chó. Đằng này đã là thịt chó thì phải ăn với mắm tôm, thế nên tốt nhất là đừng đụng đến khi ở chỗ đông người, hay phải ăn giấu, ăn giếm. Thảo nào có lần tôi nghe lén được chuyện của bố tôi rủ mẹ đi xuống tận Đanh Xuyên có người bạn mời ăn thịt chó. Khi về, mẹ bảo thịt chó Đinh Xuyên không ngon bằng Vân đình, nấu thì không đúng kiểu của nó.
Người Hà Nội nay cũng thế. Hà Nội ăn thịt chó từ lâu đời rồi, nhưng thứ đó vẫn được coi là món phàm tục. Nhà gia giáo, bà đoan hậu và cô thanh lịch, dẫu có thích thì chỗ đông người cũng phải giả đò khi ngửi thấy mùi thịt chó mắm tôm, là phải tỏ ra kinh. Người ta cũng không phải thành kiến gì, nhưng cũng không dùng thịt chó để cúng trong các dịp lễ tết. Các khách sạn hạng sang không có được món khoái khẩu này thì cũng phải thôi. Lần đi Hàn quốc, thấy dân họ ăn thịt chó ghê thật, nuôi chó nhiều như nuôi lợn nhưng cũng không thấy món ấy có khách sạn nào cả. người Seoul nấu nhừ thịt chó tất cả, đóng trong hộp giấy, cầm trên tay vừa đi vừa ăn dọc đường. Vào chợ thấy có cả cô bụng bầu đang nghén, nhìn thấy gì cũng lợm giọng cứ oẹ oẹ, ấy thế mà vì vốn quen ăn món đặc sản, chén thịt chó thì thôi rồi.
Nhưng Hà Nội khách có mê món này họ cũng không ào vào quầy hàng những ngày đầu tháng nếu không phải dân mắc nghiện khoái khẩu, Người ta ăn thịt chó còn để giải đen về cuối tháng hay đề phòng vướng vào vận đen nếu đang là đầu tháng. Kể cũng lạ, có một loại thịt thú là thịt chó có lông đen thì hay bị kiêng hơn cả. Không biết có phải vì như thịt mèo đen chữa được bệnh dại, hay cao ngựa trắng quý hiếm bởi bổ xương cốt không kém cao hổ cốt, chứ chó đen thì biết làm sao khi đã bày ra mâm mà kiêng cho được. Không biết có phải các cụ bà mẹ chồng ngày xưa, nói móc con trai nên kiêng thứ chó đen, bởi là anh chồng nào chẳng thích, mà cô nào chẳng có cái chỗ có tóc đen đen loăn xoăn.
Ngưòi ta chọn ăn thịt chó vào hôm nào mát trời vì thịt chó nhiều đạm nên nóng trong, còn nếu có là dở hơi khi cứ tì tì chén cái thứ mà chỉ sau một lúc là cứ hừng hực như có đốt lửa bên trong bụng, nếu vào giữa trưa hè thì thì chỉ có mà cởi trần nằm đất mới ngủ đi một tý được.
Món này được cái giá cả lại tầm tầm nên cứ gần cuối tháng và từ giữa tháng đến cuối tháng âm lịch thì có đến năm bảy loại đàn ông, tám chín loại đàn bà kéo đến nhà hàng ùn ùn. Anh nào nhà giầu, bị thừa đạm (gut) thì thật thiệt thòi. Thịt chó nhiều đạm nên ăn vào nóng người lại uốn với rượu mới đã. Trước đây có cái rượu Làng Vân, rượu Kim Sơn đất Ninh Bình, rượu đặc sản một số địa phương có chỗ đứng chắc chắn trên thị trường thịt chó như rượu Mẫu Sơn, rượu San Lùng, rượu Hòa Bình dành cho những anh chịu chơi. Nhưng nhất là và phải kể đến rượu nếp cái hoa vàng và rượu nhẹ như nếp cái trắng đục cho những ai không thích bị sốc. Ăn thật lực, uống rượu khoẻ đến lúc về nếu không gọi tắc xi mà đi xe máy thì phải hú gọi đủ ba hồn bảy vía mới về được đến nhà.
Khi lựa chọn nhà hàng thịt chó phải chọn nhà hàng đông khách để mà vào, bởi nhất thiết dân nhậu tơi bời thường là những kẻ sành ăn chỉ tụ tập chỗ nhà hàng ngon. Mà cũng không phải cần có cô bán hàng mặc áo cổ thật rộng để chỉ khẽ rung rinh một tý là mỗi lần cúi xuống thái thái múc múc là cứ núng na núng nính khoe cái nõn nà, hay mỗi lần đưa cặp mắt đẹp lúng liếng, chao qua chao lại trước mắt, mà đông khách đâu. Mấy lại ai cũng mải sấp mặt vào bát bún chan có thêm nhựa mận húp húp và và, thời gian đâu mà liếc mắt xéo sang chỗ ngực hay xéo vào chỗ cặp mông đồ sộ cong phồng ấy được. Mà cho dù như thế có thấy ngon hơn, thì cái trò đời đang nhai nhồm nhoàm, cũng ngon đã đời rồi, thì có cho đớp sựt một cái phải mông lúc ấy, thì cũng vẫn không bằng.
Có một anh bạn Hà Nội ở gần Quảng Bá, có vợ người Sài gòn mà ngoan lại chiều chồng hết ý, mỗi cái thích thịt chó. Thi thoảng cứ thấy len lén ra nhà hàng xách về, trông mặt hơn hớn, cứ tươi như hoa.
Thì ra có tay giả chết bắt quạ. Vợ đêm đông lạnh, ngực đang căng tức nóng ran nằm cạnh cứ như cạnh bếp lò sưởỉ, nhưng lại ôm được anh chồng giả vờ bất lực, để được cưng chiều. Vợ biết ý cứ cho ăn thứ thịt chó vào là biết tay nhau ngay, không thể làm bộ dê làm giả chó được. Cứ chiều nào cũng xơi thịt chó có khi lại còn bị bắt bí lại, thì còn phải vét túi mua quà tặng thì vợ mới cho. Ngoài việc tăng cường sức khoẻ còn đặt niềm tin ở đầy đàn con cháu dặt loại đàn ông, để nối dõi tông đường. Thảo nào thứ làm mịn màng căng ngực của các mợ hoá ra cũng do có phần của thịt chó cả. Chẳng thế mà anh bạn ấy ăn một lúc hết hai bát tô bún đầy nhựa mận thịt chó trong sự thán phục của mọi người.
Có một thời Hà Nội bỗng nhiên ngập tràn thịt chó, dù Bắc hay Nam, trên rừng hay dưới biển gì, hễ về Hà nội là cứ phải thử một lần cho biết thịt chó Hà nội, Trong thành phố cũng có nhiều nhà hàng treo biển lớn “Thịt chó Việt Trì”, “Thịt chó Bắc Giang” “Thịt chó Vân đình”, nhưng phải đến khu bãi đê Sông Hồng, Quảng Bá mới thấy hết sự phong phú món khoái khẩu này.
Cứ đến hẹn, hay khi trong túi rủng rỉnh tý tiền là lại hè nhau ra Quảng Bá làm một trận “cầy tơ 7 món”. Tức nhất là lúc trong lúc hết giờ làm về bụng lép lại đúng phải cái anh háu đói cứ bắt ngồi ngửi món ăn này ở quán cầy tơ, chờ bạn đi xe bị tắc đường thì tức không chịu được.
Thế là trong lúc chờ cả lũ thi nhau kể về làm món đùi hầm, món nhựa mận, món hấp dẻo da. Rồi thì cái thứ thịt chó là cứ chọn nhà hàng nào kinh nghiệm lâu năm mà vào. Rồi thì ai có lần ra chợ bán chó đã thịt thường chọn con nào non mà ngon nhiều nạc, mềm tới, nhưng tất nhiên kiểu gì cũng không thể như nhà hàng bởi chỉ có nhà hàng mới có thể làm được, đó là phải biết pha lẫn phần thịt non với thịt già theo tỷ lệ nhất định. Non thì mềm ngọt nhưng dễ nhạt, già thì dai nhưng đậm đà phải ninh lâu, ninh trước.
Cách khôn ngoan nhất là cứ im lặng, mà dỏng tai nghe mấy ông kể chuyện ăn thịt chó chỗ này chỗ nọ mà chờ đợi một bữa ra trò. May quá ông bạn chậm chân đã đến, cũng là vừa lúc. Nhà hàng lần lượt bê mâm ra là hết chuyện ngay.
Đúng vậy ăn vào miệng mới thấy, non cả không làm được nhựa mận mà để hấp, thực ra là luộc chín gần như cả con để khỏi nhạt. Thịt luộc xong cho vào nướng lại qua than hồng cho khô đến khi bắt mầu da nâu hơi sậm, da căng mềm và thật sự dẻo mới đưa ra phân miếng bỏ xương để thái nghiêng dao thật mỏng để giữ được bản thật to. người thích đùi sau, kẻ thích chỗ sụn nầm ức, nhưng thật ra thú vị hơn cả lại là chỗ cổ vừa mềm vừa không mỡ, không dai mà lại ngọt hơn cả.
Thứ thịt chó để nấu nhựa mận, nướng chả là phải có mắm tôm và có riềng, mẻ. đừng có nói hãm mà chê mắm tôm nhé. Thịt chó nhựa mận mà không biết ngâm tẩm thì ôi thôi không khác gì thịt mông mỡ lợn luộc, hay cùng lắm là chân giò nấu “giả cầy”. Các thứ đầu vị ngâm tẩm phải đủ mới hết được mọi nhẽ. Riềng củ bánh tẻ hay già rửa sạch có thêm ít nghệ củ đủ để có màu vàng cho thịt, phải xay hay thái rồi giã nhỏ vắt nhiều lần trong vải và nước để ra hết nước riềng đậm, màu phải thật vàng cho vào thịt tẩm trước. Đến lượt mẻ, lấy phần dưới đáy là chỗ con mẻ đã chuyển hoá xong thức ăn từ cơm hay bún thành thứ mẻ chua đặc biệt khác hẳn với tất cả các loại chất chua khác của dấm hay quả chua. Nghiền nhẹ trên rổ lọc không cố gạn hạt còn sống sao cho thật mịn chảy xuống bát mới đem dùng cho tiếp lượng đủ vừa để món ăn không bị chua. Cho lẫn vào với thịt trộn đều cùng lúc với mắm tôm đỏ, sao cho đủ gần đạt đến độ mặn cần thiết để sau này cho thêm chỉ một ít muối gia vị nữa là vừa. Cho thêm một ít rượu trắng để tăng độ ngấm và mềm thịt. Ngay lúc này khi đã đủ riềng mẻ mắm tôm đã thấy được mùi đặc trưng của món khoái khẩu này. Ninh kỹ với lượng nước luôn ở dạng sền sệt không cho nhiều một lúc chừng gần một giờ.
Khi gần tắt lửa đun cho một ít tiết vào đun nhanh sao cho nhựa mận phải có mầu nâu nâu như màu nhựa cây mận. Ai đã trồng chơi tết mận nhất là khi thân cây to bằng bắp tay thì biết, mùa xuân về hoa mận nở trắng cùng với hao đầo dỏ hồng hoa mai vàng rực mỗi dịp xuân về ai sơ ý để cây bị xước vỏ ngoài nhất là ở gốc nhựa đùn ra khô đi có mầu nâu nâu như thế.
Thịt chó nướng than, than phải rực hồng. Thịt phải lựa chỗ nạc vai hay chỗ sườn đã cạo bên trong để rút dẻ xương, xẻ miếng nhỏ dễ chín xiên từng xiên nhỏ trên que sắt. Tẩm uớp như tẩm ướp nấu nhựa mận nhưng khác là cho thêm chút ít đường khí nướng trên lửa có mùi vị đặc trưng do cháy và hơi có vị ngọt. Nhà hàng bây giờ thay màu vàng của nghệ bằng dầu hạt điều nên miễn chê, không chỉ ngày xưa thèm rõ rãi mà bây giờ mới chỉ nghĩ đến cũng thế.
Cái món dồi chó mới hết mọi nhẽ. Phải tìm đúng nhà hàng hay phải đặt trước. Dồi chó phải bằng lá cúc tần còn gọi là lá Từ bi hay Đài bi là lá thứ cây hay bị dây tơ hồng ký sinh mọc trên lá, có khi làm chết rụi cả một vùng. Lá cúc tần đăng đắng ngọt ngọt, thêm một ít lá Đinh lăng cây lâu năm loại đã có rễ quý như nhân sâm, thêm lá mơ lông, một ít lá hành xanh tất cả thái nhỏ trộn với ít thịt mỡ vụn và tiết. Cho thêm hỗn hợp gạo nếp ngâm mềm, đậu xanh, lạc, rang thật thơm giã dập khi nhồi nó mới đúng phép được gọi là dồi chó. Cái đoạn nấu nướng cũng thế, khá cầu kỳ, luộc chín xong lại phải nướng lại cho thật khô trên than hồng, Có người lại còn cho vào chảo dầu hạt điều rán đến vàng ròn vỏ cũng có người không, nhưng không ai có thể bỏ không thử, không ai có thể tim thấy ở đâu cho dù đi khắp chân trời góc bể hay xuông âm ty địa ngục cũng không thể có món dồi như thế.
Ông bạn chậm chân đến sau cứ xin lỗi hoài, vì hắn ta là một Kiến trúc sư người Pháp rất lịch sự tên là Patrick, đang cùng làm với tôi cho công ty Systra về thiết kế cho Hà Nội tuyến đường sắt thí điểm đầu tiên trên đường 32 đi Sơn Tây. Cái đoạn đi trên không ở Nhổn thì dễ, còn đoạn đi ngầm từ Kim Mã vào đến ga Hàng cỏ thì làm hắn đau đầu, nên tôi rủ đi giải tỏa cái đen. Tất nhiên là không cho hắn biết là ăn thịt chó, mà bảo là thịt dê, hắn cũng tinh ý lắm nên thắc mắc :
- Thịt dê không có mỡ dưới da.
- Đây là dê nhà nuôi nên béo hơn dê núi hôm trước.
Thấy hắn lóng ngóng chưa biết xoay sở thế nào, tôi ra hiệu gắp thế này chấm vào đây rồi bỏ vào miệng. Được cái hắn nhanh trí học theo được ngay, nhưng tôi kêu :
- Patrick dừng lại ! – Tôi vội vã lấy tay bịt mũi hắn khi miếng thịt chó sắp đến miệng, nhưng hắn đã đút tọt vào bên trong. Tôi thả tay ra.
- Ngon không?
- Ngon, ngon. Ngon lắm. – Hăn ngẫm nghĩ – Sao lại bịt mũi tôi?
- Thôi được rồi, không bịt nữa.
Vài hôm sau hắn nháy mắt bí mật kéo tôi vào phòng làm việc của hắn, chỉ vào màn hình máy tính. Tôi thấy hình có một con chó thui vàng rộm to đùng chiếm lĩnh toàn bộ màn hình. Thì ra hôm sau hắn lại mò ra chỗ nhà hàng thịt chó làm trận căng bụng. Lúc về hắn phát hiện ra đấy là còn có cả nguyên một con chó thui vàng bằng rơm mới mang đến. Hắn chụp ảnh bằng điện thoại rồi đưa vào làm hình nền cho máy tính.
Thấy hắn khoái trá, cười to :
- Ông nói dối tôi, nó là thịt chó, ăn với mắm tôm, ngon ngon !
- Thế có muốn định cư ở Viết Nam không?
- Yes, yes ! Thịt chó Quảng Bá ngon ngon.
Con Mèo Tuổi Thơ
VŨ HỮU TRÁC
Tuổi thơ ở trong căn nhà nhỏ cuối ngõ chợ Khâm thiên, nơi sinh ra tôi và đã từng lớn lên cho đến lúc năm tuổi, đầy ắp kỷ niệm của một thời nghịch ngợm và có những con vật thân thiết. Nơi đó có chuyện không thể quên được là con mèo của tôi bắt được.
Căn nhà nhỏ bé đó là chỗ chứa hàng rau, hoa quả của mẹ tôi. Chỗ ở chật cứng chỉ đủ cho tôi, anh trai tôi và bà bác chị gái của bố tôi, để trông nom chúng tôi. Anh tôi hơn tôi ba tuổi nhưng lại sinh ra ở quê cách chổ đó có đến năm chục cây số. Khi tôi bắt đầu nghịch ngợm, bà bác không đủ sức để mắt đến mọi thứ nảy nòi từ tôi thì bố mẹ đưa anh tôi lên ở cùng, vừa đi học vừa giúp bác tôi trong việc bỏ mối hàng và để quản trị tôi, nhất là sợ tôi ngã ao.
Cách căn nhà một khoảng ngắn là những ao rau muống, nổi trên mặt ao thành từng bè. Cứ hàng tuần người ta đi thuyền con ra cắt hết lá non và ngọn. Mặt ao chỉ thấy xơ xác trong đám rễ những lá già to bản xanh lắc hay vàng khé. Trong đám rễ rau muống có lẫn những cây bèo lớn nhỏ, có rất nhiều những con cá rô cờ sặc sỡ hấp dẫn tôi đến mức, nhiều lần tôi trốn anh và bà bác đi câu một mình.
Bố mẹ tôi ở quê, mẹ cứ một tuần đôi lần, mang hàng nông sản từ quê lên Hà nội buôn bán. Mỗi lần mẹ về là tôi thấy như nỗi nhớ mẹ vơi đi đến nửa, vì có món bánh mì Tây và còn được chén ngon hơn nhiều. Bố tôi ít lên, nhưng mỗi lần ông về nhà thường đứng nhìn tôi từ đầu xuống chân, rất lâu.
Bà bác tôi, chỉ cho chúng tôi ăn thường xuyên một món với cơm là dưa cải hay cà muối. Mặc dù bà muối dưa rất ngon còn đem bán cho hàng xóm, nhưng tôi ăn mãi, nên chán phè. Nhiều lần tôi chỉ ăn nước dưa chua trộn cơm, còn anh tôi vẫn chén dưa đều, vì vậy đi câu cá cờ còn là thôi thúc riêng của tôi. Tôi đòi theo anh trai đi câu. Anh tôi hay câu được những con rô to tướng. Con cá rô mắc câu chạy lạng lạng dưới mặt nước một hồi làm cong cả chiếc cần tre nhỏ. Khi giật lên mặt nước, nó xoè hết cả vây lưng, vây bụng sắc nhọn. Tôi cầm bắt nó rất khó, dễ bị vây đâm vào tay chỉ to hơn một ít nhưng tôi vẫn tranh làm việc đó vì thích lắm. Còn tôi thì chỉ câu được những con cá rô cờ vằn vằn những đoạn xanh, đoạn đỏ. Cá cờ cắn câu bãm lắm, hay cắn chặt mồi y như cá rô nên câu rất dễ. Tôi câu cũng khá, nó lại bé giật không cần mạnh tay là có thể văng lên bờ, nếu có bị tuột khỏi lưỡi câu cũng vẫn vồ bắt được.
Chiều nào được anh cho đi câu, tôi cũng câu được một gần một bát ăn cơm đem về. Bà bác hớn hở đem nấu với dưa chua cho tôi ăn đỡ chán. Tôi thường giả vờ no bụng mà không ai biết, tôi giấu bớt cá kho dưa đem cho con mèo của tôi.
Lần tôi bắt được con mèo con, đúng là tôi trốn anh tôi đi câu một mình nên sợ tội không dám khai ra, đem dấu đi, buộc vào gốc cây sung ở sân nhỏ đằng sau sát góc bờ ao. Mãi sau lộ chuyện vì bố tôi về phát hiện ra nó đang tự học bắt chuột trong chỗ gốc cây làm sợi dây buộc cổ nó căng ra, mặc dù nó đã không kêu vì được tôi huấn luyện bằng đôi lần bạt tai nó.
Ông cầm nó trong tay, ngắm nghía nó hồi lâu rồi tự nhiên ông gọi tôi lại và hỏi
- Con lấy đâu ra con mèo này?
Tôi hoảng lên lập bập:
- Con bắt được nó khi nó còn bằng này này – Tôi giơ bàn tay be bé xoè ra. Con thấy nó đói lả đi nên cho nó ăn thử cá sống bố ạ.
- À thì ra là đi câu trộm cá, phải không?
Cái con mèo này tự nhiên làm lộ chuyện của tôi, chưa biết nói sao thì bất ngờ tôi nghe bố bảo:
- Đây là giống mèo hiếm lắm. Nó hơi giống mèo Xiêm của Thái lan. Khi nó lớn con sẽ thấy chân nó trắng chứ không đen như mèo Xiêm. Bây giờ bộ lông nó đã rõ màu đen dọc sống lưng và rất đều từ trên vàng da cam xuống đến trắng tinh dưới bụng, như người ta tô vẽ từ đậm đến nhạt rất đều từ trên xuống dưới, thêm cái đuôi cái đầu màu đen và mõm trắng mà môi đỏ hồng làm nó đẹp đến mức, xưa kia chỉ có ở trong cung đình.
Thế là coi như bố đã bỏ qua chuyện đi câu trộm. Tôi mừng rơn cả người, mà chẳng để ý gì mấy đến chuyện nó đẹp hay xấu, bởi với tôi mèo nào thì cũng thế thôi. May quá lúc ấy anh tôi đi đâu về, bố nói với anh tôi:
- Nghe bố dặn đây. Con mèo này rất khôn. Con không được để mất nó, đừng cho nó ăn mặn nhé.
- Sao thế bố?
- Ăn mặn thì mèo không bắt chuột mà nhà mình có nó trông đồ trong nhà cũng tốt con ạ.
- Thế sao có người bảo, có con mèo lười chỉ ngủ, lại có con hay ăn vụng mà không bắt được chuột.
- Từ hàng ngàn đời nay, mèo là con vật được thuần dưỡng và nuôi trong nhà. Với một số gia đình, nó là con thú săn mồi, con người cần nuôi mèo để trị bắt lũ chuột ranh ma hay đục khoét, trộm cắp. Ai đã từng ở quê mới hiểu hết điều này, nếu không có loài mèo thì khó có thể trông giữ bảo quản lương thực ngoài ruộng hay trong bồ, mới hiểu được nỗi bực bội khi lũ chuột luôn gặm nhấm thóc lúa, ngô khoai, phá phách cắn quần, cắn áo mà không trị được.
Thấy bố đang vui vẻ, tôi nhảy ngay vào lòng ngồi và đòi bằng được con mèo, thực ra đấy là lần đầu tôi ôm nó âu yếm đến vậy. Bố tôi hướng dẫn anh tôi tỷ mỷ những điều nuôi dạy nó, nhưng tôi không hiểu được hết.
Sau này khi lớn lên về quê đi học, nhìn thấy con mèo đang trèo cây tìm bắt chuột hay chú chó nằm úp bụng góc sân trông giữ nhà, thấy có cây cau góc sân, những hình ảnh an bình và quen thuộc. Điều đó thực sự làm ấm lòng ngưòi chủ nuôi, vốn vất vả nhiều lo toan, làm tôi cứ nhớ con mèo, nhớ câu ca dao mẹ vẫn hát :
Con mèo mà trèo cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm, mua muối giỗ cha con mèo.
Con mèo gắn bó tình nghĩa, con mèo cũng đã vào ca dao, thành ngữ với nhiều sắc thái, cung bậc khác nhau. Người ta xem con mèo như là người bạn nhỏ đáng quý và được nghĩ theo một cách từ một chút thảo lòng của con người, cám ơn công lao con mèo, nhất là tại các gia đình ở thôn quê.
Cũng như câu chuyện vui trong tranh Đông hồ vẽ đám cưới chuột, rước trạng chuột. chưa kể mèo và chuột là một cặp phạm trù tương phản hai mặt của một sự vật đối kháng nhưng dựa vào sinh tồn, mà cần thiết có nhau. Hay chuyện về lũ chuột bàn nhau về ý rất hay của ông chuột Nghè Cống nghĩ ra, là cách treo chuông vào cổ mèo hay ngủ ngày, để báo động cho họ nhà chuột lẩn tránh được mèo. Nhưng đến khi sai người đi làm việc đó quả thật phải ép buộc chuột Nhắt là loại thứ dân không đáng một miếng cho mèo, bắt phải đi đeo nhạc cho mèo. Các bậc chức sắc to lớn trong làng ai lại đi làm cái việc ấy. Cuối cùng lại giao cho chuột Chù là thứ cùng đinh trong làng, là thứ hôi mù đến mèo cũng phải tránh. Rốt cuộc chẳng ai dám đến gần mèo để làm việc ấy, cho thấy rõ cái uy của mèo.
Con mèo lại nhỏ nhắn xinh đẹp mà duyên dáng, ăn uống nhỏ nhẹ. Mèo có bộ lông mềm mại, pha nhiều màu từ vàng, trắng, đen, lông từng vùng như tam thể, hay nhị thể trắng vàng, mõm đen mũi màu rêu vằn đen ghi như mèo mướp hay đen tuyền lại thêm cái đuôi và bốn chân thật trắng tinh. Có gia đình nuôi con vật cảnh là mèo để làm sang. Mèo có lối sống của người bạn nhỏ, liên quan đến đặc điểm, tính cách vừa khéo léo nhưng cũng rất dũng mãnh. Dù nuôi với mục đích gì thì mèo cũng là con vật gần gũi, gắn bó, thậm chí là buồn vui cùng với chủ. Điều đó đến giờ vẫn càng làm tăng tôi rất nhớ con mèo của tôi khi bị mất nó và người bạn của nó.
Câu chuyện lần mất mèo ở nhà ngõ chợ. Khi đó tôi đã dành cho nó bao lời tốt đẹp cầu mong nó trở về, nhưng không được. Nó bỏ tôi, không biết bây giờ nó ở đâu?
Ở cái ngõ nhỏ nhiều ngóc ngách liền sát những căn nhà sống đời người, chạy sâu từ phố Khâm Thiên vào dài hun hút. Cái ngõ nhỏ bé ngoằn ngoèo che khuất dòng người xe cộ, bày bán các loại hàng thức ăn rau quả, lôm nhôm ướt át đầy rác và bụi bậm trưa hè trong ký ức tôi, lại có một người bạn nhỏ thân tình không thể quên được là con mèo đơn côi.
Nó bị bỏ rơi đói lả, những bước đi chập chờn như cái bóng bên ao nước ruộng rau muống. Nó thò tay xuống nước vớt một cái gì hay là bắt cá không biết. Nó không đủ sức để bắt, nhưng bản năng sống và cái bụng đói thúc đẩy nó đến bên mép nước.
Tôi cũng rất sợ nước mà lần ấy trốn nhà đi câu một mình, nên chỉ dám đến gần bờ chỗ nước nông, nên mãi mới câu được vài con cá con. Tôi tránh những người đi câu khác một đoạn để họ không dọa tôi, bắt tôi phải về vì không được đi câu một mình.
Chợt tôi thấy nó ngã ùm xuống nước, một tý nó ngoi cái đầu ướt lướt nước lên. Tự nhiên nó nhìn tôi kêu “ngao” một tiếng, rồi lại chìm xuống, tôi cũng không biết làm gì hơn, vô vọng vì không biết bơi. Tôi thò chiếc cần câu xuống chỗ nó. Nó không biết bám, có lẽ nó còn quá nhỏ hay quá ốm yếu. Rất may nó còn giẫy giẫy được mấy cái. Tôi không kịp nghĩ gì, lấy cái cần giật một cái như khi cá cắn câu như một việc tôi chỉ biết đến thế. Cái lưỡi câu bé tẹo vừa mồm con cá cờ móc vào một đám cây bèo tây nhỏ. Tôi rối rít quấn nhanh mấy vòng cái dây câu quanh người lẫn cả đám bèo, thế mà đủ chỗ cho nó bám và thở được một tí khi vừa kịp nhoi lên lần nữa. Tôi dong cần câu thật nhẹ để nó bám vào cái dây câu mỏng mảnh quấn vòng xung quanh và đám bèo bé tý ấy. Tôi từ từ kéo nó lại gần bờ và thật là lần đầu tiên tôi mới biết mình dũng cảm đến vậy. Tôi bước một chân đến sát bờ, dưới mép nước lần theo sợi dây. Tôi cố nín thở kéo nó vào rồi thò tay xuống. Giờ thì nó bấu được vào tay tôi nhưng không chắc lắm, chỉ có cái móng sắc của nó làm tay tôi đau nhoi nhói. Bất ngờ tôi ngã bệt xuống rồi tụt rất nhanh đến nỗi ra xa bờ mà tôi không kịp biết làm gì. Tôi hoảng lên dìm nó xuống và kêu “Ối, ối, ối!”. Những người đi câu bên cạnh thấy vậy vội kéo tôi lên bờ. Tuy tôi vẫn chưa bị ngập nước hết người, nhưng cũng được một phen hú vía. Tôi lại kêu “Cứu, cứu!”, “Con mèo, con mèo!”. Họ tưởng là con mèo ốm ấy là của tôi nên trả lại tôi và tôi có nó từ đó. Chuyện đó tôi dấu nhẹm anh tôi.
Con mèo bẩn và gầy khi nó bị ngập nước trông nó như nắm rẻ bẩn rách rưới, nâu nâu. Tôi mang về nhà, nó run run trong tay tôi, rồi tự nhiên nó đưa tay ra bám chặt hơn. Nhưng lần này không nhoi nhói nữa, nó đã biết ý, rụt lại cái móng. Về đến nhà, tôi vội lấy mấy con cá vừa câu được cho nó ăn. Nó ăn nhỏ nhẻ ít một rồi không động vào nữa.
Bố tôi về, lần này ông mang cho tôi một con chuột trắng lưng vàng, để trong một cái lồng sắt có vành tròn như cái hộp mứt to tròn, dựng đứng mà quay được. khi thấy chú chuột chạy bên trong, trên những thanh ngang của vành tròn. Nhìn không chán chú chuột bạch càng chạy cái lồng quay càng nhanh. Chú chỉ có mà mỏi chân, mà không sao trèo lên cao được, làm tôi thích thú vô cùng. Tôi hỏi bố :
- Bố ơi, con chuột gì mà lại trắng tinh thế này hở bố, mà sao nó không có đuôi?
- Con ạ, nó là con chuột bạch, người ta nuôi chuột bạch cũng là để đuổi chuột đen. Khi nhà có chuột bạch mặc dù nó chậm chạp thì chuột đen không đến không phá phách nữa, chúng nó kị nhau. Nó có đuôi nhưng khi mới sinh ra, nhưng người nuôi đã cắt bỏ đuôi của chúng.
- Để làm gì hở bố, cắt đuôi chắc nó đau lắm?
- Cắt bỏ đuôi mà không làm nó đau bằng cách lấy dây chun quấn quanh chỗ gốc đuôi khi nó mới đẻ, chỉ hai hôm là nó rụng đi. Cắt đuôi sẽ làm cho nó đẹp va sạch hơn. Nó hay nghịch ngợm nếu có đuôi nó sẽ làm bẩn nhà, có khi còn làm đổ vỡ đồ đạc.
- Bố bố, sao mèo lười lắm à bố? – Anh trai tôi xen vào hỏi bố.
- Thực ra người ta nói “lười như mèo” hay “rửa mặt như mèo” thì mới chỉ thấy nó hay ngủ ngày thậm chí lúc nào cũng thấy ngủ như một kẻ lười biếng, đến mặt rửa cũng qua loa, nhưng thực ra mèo còn cần chuột để làm thức ăn mà chuột hay ăn đêm, nên để bắt chuột mắt của mèo thích hợp với việc để nhìn trong bóng đêm hơn là nhìn dưới ánh sáng ban ngày. Ai cũng thấy mèo mắt rất sáng, rực ánh xanh khi đi đêm là vì mèo cần có một chất giống như chất Ngưu hoàng là sỏi mật của trâu, nó lấy từ những thứ ấy từ trong mình họ nhà chuột, là loài không có túi mật. Muốn mèo chăm bắt chuột thì phải cho ăn nhạt, vì vậy mèo lười mắt không xanh bằng. Có câu “có ăn nhạt mới thương đến mèo”. Mèo cũng thích ăn cá nhưng đừng cho ăn sống bởi mèo dễ đau bụng, bỏ cơm.
- Bố ơi, nhà ta con mèo lớn lắm rồi – Tôi khoe, khi chợt nhớ đến lần đầu cho con mèo ăn cá sống – Nó đẹp lắm lông nó mịn và rất đều từ trên xuống bụng bố ạ. Con vẫn cho nó ăn thêm cá kho. Từ nay con sẽ cho ăn nhiều cơm hơn để khỏi mặn, cho nó bắt chuột bố ạ. Nhưng bố ơi ngỡ nó lại bắt phải con chuột bạch thì làm sao?
- Con để ý đến con chuột, không được để nó ra khỏi lồng nhé – Bố tôi dặn.
Nhưng những điều tưởng như dễ dàng ấy lại không phải lúc nào tôi cũng làm được. Một hôm đang ngủ buổi trưa, bà bác tôi kêu ầm lên:
- Mèo mèo! – Rồi lấy cái quạt nan vụt lấy vụt để vào con mèo.
Con mèo của tôi bỏ chạy nhưng chỉ chạy ra một đoạn rồi đứng lại, nhìn con chuột. Con chuột lại hình như không biết sợ, nó từ từ đi lại trong nhà. Nó vừa được con mèo cạy cửa lồng thả nó ra. Nó đang tìm hiểu khoảng không gian mới lạ bằng những bước chân không vội vàng. Cái đuôi cộc làm cái lưng của nó cụp hẳn xuống trong như con thỏ con trắng thật đẹp.
Tôi dậm chân doạ con mèo, làm nó chạy biến ra sân. Tôi ôm con chuột như cụm bông vào lòng kiểm tra xem nó có bị mèo cắn hay không, nhưng không thấy gì. Bất ngờ con chuột phóng nhanh ra khỏi tay tôi chạy ra sân. Tôi đuổi theo và một cuộc trình diễn làm tôi thót tim.
Con mèo ôm lấy con chuột bằng hai tay nhìn thẳng vào mặt nó. Tôi đã định quát lên để doạ con mèo, nhưng có vẻ như không cần. Con mèo có những động tác rất nhẹ nhàng như đùa rỡn với con chuột, trong khi con chuột vẫn bình thản đi đi lại lại bên cạnh mỗi lần được con mèo thả ra mà không hề sợ sệt. Hình như vì nó bị cầm tù lâu ngày nên với nó khoái cái cảm giác ấy thật khoan khoái. Tôi đứng lặng một lúc, nhìn con mèo ôm con chuột vào lòng rồi nó nằm vật ngửa lên, hai tay vỗ vỗ vào lưng con chuột. Con chuột lúc đầu chắc rất sợ, nhưng khi thấy thế nó ngoan ngoãn không giẫy đạp, im lặng mặc cho con mèo vần nó. Tôi biết con mèo vẫn để ý đến tôi và nó biết, nó có thể sẽ nhận được cái gì sẽ đau hơn nhiều, không như cái bạt tai nó lần trước.
Chiều về, tôi không đùa với lũ mèo chuột nữa nhưng cũng bớt lo sợ con mèo sẽ cắn chết con chuột. Tôi đem con chuột nhốt vào lồng rồi quên đi câu chuyện ấy.
Bắng đi mấy hôm, một sáng tôi ngủ dậy chạy ra sau nhà. Bất ngờ tôi thấy được một việc mà suốt đời ai không quan tâm đến súc vật, không thể thấy được. Trong góc nhà, con mèo đang nằm nghiêng về một phía ngủ, sát bên cạnh con chuột bạch cũng chúi đầu ngủ một cách say sưa. Thì ra con mèo tinh khôn tìm cách mở lồng cho con chuột ra ngoài. Tôi lại gần và vỗ nhẹ vào lưng con mèo khen ngợi nó. Từ đó, khi tôi có mặt ở nhà tôi thả con chuột tự do đi lại trong nhà không nhốt vào lồng nữa.
Một lần tôi cùng anh trai đi ra bờ ao rau muống xem họ tát ao. Hàng năm cứ gần tết là người ta tát ao bắt cá. Người ở đâu đổ về đông nghịt chờ mua bán cá. Có cả những người sắn quần áo chờ sẵn để đi hôi cá. Anh tôi cũng chuẩn bị tham gia việc đó nhưng chỉ cho phép tôi đứng trên bờ. Con mèo vẫn lẽo đẽo theo tôi chắc nó cũng thích cái trò này, hay nó buồn phải chơi một mình vì tôi đã nhốt con chuột vào lồng. Khi anh tôi cùng với những người hôi cá, ào xuống cái ao toàn bùn loãng bắt những con cá còn sót. Tôi đi dọc bờ ao, gần anh để khi anh bắt được con nào là quảng lên bờ cho tôi bỏ vào cái túi vải cầm theo.
Bỗng tôi thấy con mèo nhảy một cái xuống bùn mép ao hai chân trước nó ngập sâu trong bùn. Nó quay mặt về phía tôi kêu “Meo. Meo!” tôi chạy đến tìm cách kéo nó lên, nhưng nó lại “Meo!” một tiếng nữa hai chân nó ấn sâu xuống bùn làm ngập cả một phần bụng nó. Một cái đuôi con cá chuối bên cạnh nhô lên trên mặt bùn quẫy quẫy. Tôi kêu tướng lên “ Anh ơi, lại đây!”. Khi anh đến được gần con mèo thì gần như cả phần sau người nó đã ngập hết trong thứ bùn loãng.
- Được rồi, được rồi mày bỏ ra. Tao tóm được cá đây rồi!
Lần ấy nó được ưu tiên, sau khi tắm rửa bằng xà phòng sạch tinh, được chén hẳn cái đầu con cá chuối to. Nó ăn có vẻ khoái lắm, bởi nó chỉ thích ăn cá, xương xiếc cũng không coi ra gì, chén hết. Con chuột chỉ có phần cơm được chan nước cá nấu canh dưa chua vì nó thích cơm hơn, không thích cá lắm.
Thế rồi những ngày sau, thấy con mèo luôn đi kèm với con chuột, tôi bỏ cho con chuột tự do bởi tôi tin có con mèo trông nom nó, không biết rằng mình quá chủ quan.
Đến một hôm, cả nhà náo loạn vì tôi khóc ầm ỹ lên, khi cả một ngày trời không thấy cả hai con vật thân thiết của tôi đâu. Anh tôi vỗ về, bà bác tôi an ủi, nhưng không làm tôi im được cứ ti tỉ khóc. Mãi đến khi anh tôi hứa là sẽ tìm bằng được hai đứa ấy về, tôi mới chịu đi ngủ trong nức nở lúc đêm đã muộn. Anh tôi bỏ công đi tìm nó mãi mấy ngày không được. Tôi bỏ cơm làm bà bác không khuyên nhủ được tôi phải báo cho bố tôi về.
Ông vừa bước vào nhà bỏ cái mũ ra đã gọi :
- Đâu cu con đâu rồi?
Tôi hơi hoảng, nhưng vẫn nằm bẹp ăn vạ trên giường, không chịu ăn cơm. Bà bác nhanh chóng bê bát cơm đã nguội đến bên khuyên bảo:
- Ăn đi cháu, rồi bố sẽ tìm cho cháu mà.
Đúng lúc ấy, tôi nhìn thấy cả hai con vật thân yêu của tôi đang ở góc nhà. Tôi chạy ra ôm lấy cả hai đứa, mặt rạng rỡ lên :
- Con cám ơn bố!
Bà bác lấy khăn lau mặt còn đầy nước mắt cho tôi. Không thấy bố nói gì, ông nhẹ nhàng đến bên tôi hỏi:
- Chúng nó bỏ nhà đi à?
- Vâng ạ, con tưởng chúng nó không về nữa.
- Mình yêu quý nó thì nó yêu quý mình con ạ. Có đi đâu, nếu không gặp nạn thì rồi nó vẫn về con ạ.
Nói rồi ông nhìn tôi từ đầu xuóng chân như xem có gì khác nữa không rồi đi ra sau nhà. Còn tôi thì ôm cả hai đứa cứ nhẩy cẫng lên. Riêng con mèo mỗi lần tôi động mạnh vào nó nó lại “meo” lên một tiếng.
Buổi trưa anh đi học về cả nhà cùng ăn cơm. Anh tôi hỏi:
- Bố giỏi thật đấy, con tìm chúng nó mấy hôm nay mà không thấy . Bố tìm thấy chúng nó ở đâu ạ?
- Không phải bố tìm thấy mà chúng nó tự về đấy, đúng vào lúc bố vừa về thôi!
Tôi ngạc nhiên tròn xoe mắt cứ tưởng bố bắt được chúng ở đâu đem về cho tôi. Tôi bế con mèo đến đưa cho bố.
- Bố xem nó đẹp không?
Bố tôi xem con mèo một lát, khi ông cầm vào nó, thấy nó “meo” lên, một chân trước thì nóng rực mà sưng to hơn bình thường. Ông bảo :
- Nó bị trẹo một chân trước con ạ.
- Ôi sao vậy, làm sao bây giờ, bố? – Tôi lo sợ hỏi.
- Không sao bố sẽ bó chân cho nó, nhưng phải hạn chế nó đi lại ít ra là ba ngày.
- Bố có biết tại sao không? – Anh tôi hỏi.
- Bố chỉ đoán thôi. Giống mèo này đặc biệt hiếm vì nó không lai tạp với giống khác, nhưng chắc là con mèo cái này quý con chuột như con của nó nên nó bỏ công đi tìm theo. Cũng có thể ai đó đã bắt được con chuột đem về nuôi, nên nó đã cướp được đem về.
- Ái chà! –Anh tôi kêu lên.
- Con không biết thế giới xưa kia, trước khi nhường lại cho loài người, họ nhà mèo nắm quyền thống trị cả thế giới động vật do đặc điểm thông minh nhanh nhẹn và rất khéo léo của chúng. Con người đã lợi dụng những sự hữu ích ấy thuần hoá mèo rừng thành mèo nhà để trông giữ đồ đạc, nên mèo nhà còn có tài bắt trộm. Con mèo này chắc là ôm con chuột nhảy từ trên cao xuống một chân nên bị trẹo chân. Bình thường nó nhảy xuống rất chính xác. Bởi ngay cả trong trạng thái rơi, mèo đã gần như tự lấy lại thăng băng lập tức nhờ có xoay người sang tư thế thích hợp và còn bởi đôi chân trước mèo giống như có đệm lò xo nên khi tiếp đất rất êm. – Ông xoa đầu con mèo – Nhưng lần này nó nhảy xuống chỉ có một chân trước. Bố thấy nó rất là tài.
Bố tôi lấy ra một đoạn vải xé ra thàng băng rồi bảo anh tôi và tôi giữ con mèo :
- Các con giữ chắc, không nó đau sẽ cào bố đấy.
Ông cầm cái chân đau kéo mạnh một cái. Con mèo run lên kêu rõ to “meo, meo” mấy tiếng. Nó ruớn người lên định cào vào tay bố tôi nhưng bị anh tôi tóm chặt lại. Một lát bố băng bó xong, quay ra dặn tôi:
- Con luôn ở bên nó đề phòng nó cắn băng. Nếu nó cắn con cứ đánh nhẹ vào mặt nó là nó biết, nó sẽ thôi.
- Vâng ạ.
Sau ba ngày tôi cắt băng cho nó. Nó nhìn tôi, nhìn cả vào cái chân hiện ra dần dần dưới lớp băng vải. Nó đứng dậy đi đi lại lại rồi nhún nhảy như thử xem cái chân đã ổn chưa. Nhìn nó tôi cứ sướng tê cả người, con con chuột cũng chạy lại, ngước cái mõm lên hít hít nó, hít hít cả chỗ cái chân đau.
Căn nhà tôi bẵng đi những ngày anh tôi trở về quê, rồi anh không ra Hà Nội nữa. Bố tôi có ý định đưa tôi về quê để đi học. Nếu về quê, tôi sẽ đem theo hai đứa chúng nó.
Bỗng nhiên một hôm không thấy cả hai đứa chúng nó đâu. Lần này tôi không còn nhỏ để khóc nhưng tôi cứ cố chờ. Rồi tôi phải về quê, thỉnh thoảng mới được lên Hà Nội. Câu đầu tiên lần nào cũng thế, bao giờ tôi cũng hỏi bác gái tôi:
- Bác ơi, con mèo với con chuột của cháu đâu rồi? Nó không về được nữa à?
Bây giờ không biết chúng đang ở đâu?
- Mèo ơi, chuột ơi sao không về nhà hả? - Rồi òa lên – Tao nhớ chúng mày lắm đấy!
Đầu năm mèo , kể chuyện ăn thịt chó ở Bình Nhưỡng
Đón chúng tôi tại sân bay quốc tế Bình Nhưỡng là Trưởng ban Đối ngoại của Hội, một người thoạt nhìn đã thấy lịch lãm nhưng lại rất cởi mở. Riêng với tôi, người có chút "năng khiếu" về ẩm thực còn thấy ở ông một chút gì đó đồng điệu, cảm nhận này của tôi được khẳng định trong bữa ăn tối mà ông tiếp đoàn nhà báo Việt Nam chúng tôi tại khách sạn 5 sao Pyongyang. Cũng chính sự đồng điệu đó cùng thái độ thoải mái của ông Trưởng ban mà tôi mạnh dạn vượt qua khuôn khổ của phép ngoại giao, bổ sung vào danh sách những điểm tương đồng mà hai bên đã đưa ra sau dăm lần nâng cốc với những lời chúc tốt đẹp, dù sự bổ sung đó khiến vị trưởng đoàn vô cùng đáng kính của chúng tôi, nhà báo Lê Quốc Trung, Phó chủ tịch thường trực Hội nhà báo Việt Nam thoáng cau mày. Rất may, ý kiến của tôi không chỉ được hai thành viên còn lại trong đoàn là nhà báo Trần Đăng Tuấn, Phó TGĐ Đài truyền hình Việt Nam và nhà báo Vũ Duy Hưng phó trưởng ban quốc tế TTXVN (bây giờ thì các chức danh trên đều phải thêm chữ "nguyên" rồi) ủng hộ mà còn được ông Trưởng ban và các bạn đồng nghiệp Triều Tiên hồ hởi tán thưởng. Cả cái cau mày của bác Trung và sự cẩn trọng khi vượt rào của tôi đều có lý, vì cái sự bổ sung của tôi có vẻ không được nghiêm túc cho lắm, ấy là cả hai dân tộc đều ưa món thịt chó! Tất nhiên, sự bổ sung đó trở thành lý do của một lần nâng cốc mới. Thậm chí mọi người còn nhắc đến việc ông chủ quán thịt chó nổi tiếng Hà Nội ở Cống Chéo Hàng Lược được mời sang nước bạn làm chuyên gia nấu món Mộc tồn.Thừa thắng, tôi, đúng hơn là cái " tâm hồn ăn uống" của tôi đề nghị, nếu có thể, cho chúng tôi thưởng thức một bữa thịt chó theo kiểu nước bạn. Lần này thì đúng là tôi đã làm trưởng đoàn bực mình thật sự. Có lẽ chỉ vì nể mặt các bạn Triều Tiên mà ông không mắng cho cái thằng tham ăn là tôi một trận.
Tưởng chỉ là câu chuyện nói cho vui trong lúc thù tạc, vậy mà chúng tôi đã rất thú vị được thưởng thức món Mộc tồn ngay giữa thủ đô Bình Nhưỡng, tất nhiên là nấu theo kiểu Triều Tiên. Cũng cần phải nói là ngoài cách chế biến khác, quan niệm về cách ăn thịt chó của bạn cũng khác ta. Ở Việt Nam, món Mộc tồn thường được dùng vào những ngày mát mẻ, đặc biệt là những ngày mùa Đông, mưa phùn gió bấc, những ngày cuối tháng Âm lịch… Những ngày ấy, có dịp về một làng quê nào đó vào cuối năm, thường gặp cảnh ba bốn ông đang xúm quanh một đám thui chó. Ngọn lửa rơm lem lém liếm đều thân hình một chú cẩu xấu số, hay may mắn vì được hoá kiếp, khéo léo nhuộm nó thành một màu vàng ươm. Cái màu vàng hấp dẫn đó cùng mùi khói rơm nếp đằm quện hứa hẹn một bữa tuý luý càn khôn khiến khách không thể rời chân. Ở Triều Tiên thì khác, dân nước bạn chọn những ngày, những tháng nóng trong năm để xài món khoái khẩu này. Ngay cả khi đoàn chúng tôi đến nước bạn đã là cuối tháng Chín, đầu tháng Mười thì các quán thịt chó ở Bình Nhưỡng cũng vẫn chưa mở cửa. Để thoả mãn mong ước của tôi, Hội Nhà báo bạn phải tổ chức bữa ăn tại nhà hàng của Hội. Khỏi nói bữa Mộc tồn ấy thú vị thế nào. Cũng hấp, cũng nướng, cũng xáo…, nhưng là theo phong cách ẩm thực của bạn, nghĩa là món nào cũng như có chút vị thuốc và đều rất đầy đặn. Đặc biệt là món xáo nấu rất ngon, nhưng không ăn với bún như ở ta mà là với… cơm! Gia vị đi kèm kém hẳn, không được phong phú như ở ta, chỉ có hành sống, ớt xanh nguyên quả, dưa chuột chẻ và đặc biệt là món Kim chi. Lá mơ lông, mắm tôm riềng mẻ lại càng tuyệt đối vắng mặt. Dù sao thì chúng tôi cũng thưởng thức một cách nhiệt tình và bữa Mộc tồn hôm ấy đã là một kỷ niệm đẹp của chuyến thăm nước bạn. Riêng tôi, có một mong muốn, nếu có dịp tôi sẽ mời ông Trưởng ban và các bạn Triều Tiên xơi một bữa Mộc tồn chính hiệu Việt Nam trong cái lạnh cuối đông Hà Nội. Chia sẻ mong muốn này với bác Trung và anh em trong đoàn, tôi được mọi người tán thưởng. May thế, vậy là Trưởng đoàn đã đại xá cho tôi cái tội vượt qua khuôn khổ ngoại giao.
Mình xin kể câu chuyện này, chuyện thật 100%. Người ở Vn ăn thịt chó đã đành, người Vn qua nướcc ngoài sống rồi mà cũng đòi ăn thịt chó. Chuyện là ông thầy giáo người tây trong lớp mình một hôm ngồi nói chuyện với mình sau giờ học,chuyện xảy ra với ông ta đã hơn 3 năm rồi vậy mà khi kể chuyện lại với mình giọng nói của ông ta vẫn còn giận giữ lắm.
Chuyện là ông ta có quen một người Vn,ông ta coi như là người đỡ đầu cho người Vn khi người Vn đó mới qua di cư, cho nên 2 người rất thân thiện với nhau. Một hôm người Vn đến chơi, thấy con cún loại Golden Retriever chạy ra chào mừng, thì người Vn xoa đầu con cún và nói " ôi con cún này mập quá, BBQ chắc ngon lắm đây!". ( BBQ nghĩa là làm thịt nướng, mùa hè ở đây cuối tuần người ta hay mời bạn bè ra sau vườn nhà làm thịt nường ăn chơi với nhau, hầu như 100% người Canadian đều thích giải trí kiểu này vì nhà nào cũng có sân vườn rộng phía sau, nếu ko thích giải trí ở nhà thì người ta ta kéo nhau ra Park, mỗi Park ở đây đều có bàn ghế dài dành cho gd làm BBQ, vui chơi sau những tháng mùa đông kéo dài lạnh lẽo.)
Ông thầy giáo nghe vậy rất tức giận và từ đó trở đi ko qua lại với người Vn nữa. Có thể người Vn đó nói đùa nhưng đối với người tây thì câu nói đó rất nghiêm trọng vì những con cún, những con mèo là người bạn vô cùng thân thiết. Nhất là những người già người ta coi cún, mèo còn hơn đứa con hay người thân của người ta.
Ông thầy hỏi mình dân Vn nghèo quá ko có đủ thức ăn nên phải ăn thịt chó luôn phải ko? Mình trả lời là chỉ do một số người thôi. Ông thầy lại hỏi những người đó là người mọi, người thiểu số? Mình trả lời uh cho qua chuyện, nhưng khi nghe ông thầy hỏi như vậy mình cảm thấy thật đau lòng vì mình cũng là người Vn mà. Người ta nghĩ chắc tại nghèo quá đói quá hay là người mọi ko hiểu biết nên mới lôi những con cún đáng yêu và trung thành ra làm thịt. Như trong cái link mình nghe nói 1 ngày mà bán mấy tấn thịt chó, ko hiểu có bao nhiêu người ở Vn thuộc dạng là người mọi nữa.
Mình thật sự mong những em cún ở Vn được Xh coi trọng, được quan tâm như ở chỗ mình, khi người dân ko có ý thức thì chính phủ phải đưa ra những luật pháp để bảo vệ animal nhất là những em cún. Con người có nhiều loại thức ăn tại sao ko ăn mà phải đưa những em cún ra làm thức ăn của mình?
Hãy nói đến sự văn minh một chút, các bạn thấy ở những đất nước có nền văn hóa văn minh như Châu âu, Bắc Mỹ có ai lấy em cún làm đồ ăn ko? Phải chăng ở Vn, China hay một số nước Châu á khác còn quá nhiều sự lạc hậu và ích kỷ?
Lại chuyện thịt chó
Chuyện này cũng do nhà báo Mai Sông Bé kể.
Hồi học ở Trường Tuyên huấn TW2 (nay là Học viện chính trị khu vực 2 – Quận 9), khu tập thể lớp anh ở sát hàng rào của nhà trường, giáp khu vực của nhà dân. Anh B (sau này làm cũng làm cán bộ báo chí một tỉnh miền Tây Nam bộ) từng nhử được một con chó làm thịt cho anh em cùng ăn và đem chôn lông, xương vào cái miếng đất của nhà dân bên cạnh đó. Đây là đất vườn của một phụ nữ có chồng đi cải tạo thời đó nên bà ta rất “dị ứng” với đám sinh viên trường Đảng.
Vụ thịt chó do anh B khởi xướng thành công tốt đẹp. Bí mật được giữ kín. Nhưng món chó thì ngon nên đến chủ nhật tuần sau, anh em thòm thèm: nếu giờ này nhử được một con chó nữa thì tuyệt. Lúc đó, anh B. đã đi về phép. Người chủ xị vụ bắt chó lần sau là anh N (sau này cũng làm cán bộ báo chí ở một tỉnh miền Tây). Con chó anh bắt được làm thịt rất bí mật và hủy tang chứng cẩn thận hơn, lông xương mang ra tận ngoài sông để vứt. Có điều, đó là con chó cưng của bà hàng xóm có chồng đi cải tạo kế bên. Mất chó, bà này chửi rủa om sòm.
Và sau đó không lâu, bà tình cờ phát hiện cái hố chôn lông xương chó sát ranh vườn bà. Bà liền xông vào trường méc Ban Giám hiệu, mời đại diện nhà trường đến chứng kiến khu vực có “bằng chứng” trộm chó!Lúc đó là những ngày đầu thống nhất. Nhà trường đề cao tinh thần kỷ luật và đạo đức XHCN. Câu chuyện này quả thực là một cú sốc đối với Ban Giám hiệu. Một cuộc họp tức tốc diễn ra. Tất cả im phăng phắc. Nhà trường yêu cầu sinh viên tự giác nhận khuyết điểm. Bấy giờ anh N ngồi im như thóc. Còn anh B – người thực sự không tham gia phi vụ bắt chó bà hàng xóm đang kiện – nhưng vì không biết nên đành đứng lên nhận tội.Anh B bị buộc thôi học. Nghe nói, khóa đó có 2 người bị buộc thôi học (sau này vẫn làm báo). Trong đó, có một người là nhà văn, nhưng anh nhà văn thì không bị kỷ luật vì… chó như anh B.
ĐÊM QUÊ
VŨ HỮU TRÁC
Nhiêu chợt tỉnh dậy thấy người bứt dứt, cô vươn hai tay rồi tự nhiên ôm choàng lấy mình. Nhiêu dúm người lại hoảng hốt, có cái gì làm cô nôn nao bồn chồn. Cô lo sợ nhìn xung quanh. Căn nhà tối trống trải mờ mờ, vắng lặng. Ngoài trời trăng đang sáng hoang vu. Những giải trăng mong manh lọt qua những khe hở giữa hai cánh cửa lọt vào nhà, rớt xuống nền động đậy thứ ánh sáng mơ hồ.
Đã hơn tháng nay từ ngày bố mất, cứ đêm lại thế, Nhiêu hay bất chợt tỉnh dậy giữa nửa đêm, bàng hoàng trong cô quạnh. Người cô đôi lúc cứ nóng hầm hập như lên cơn sốt, Nhiêu ngồi dậy, lấy tay vén màn bước xuống. Cô không bật đèn, lần mò đến trước bàn thờ rút một thẻ hương rồi dờ dẫm tìm cái bật lửa. Ánh lửa loé lên bập bùng soi rõ khuôn mặt đã chớm những nếp nhăn nơi đuôi mắt. Cắm ba nén vào bát hương. Nhiêu chắp tay vái lạy, mùi hương ngát ngát. Nhiêu cũng không biết cầu xin bố điều gì, Ông mất đi khi đã già yếu, lại hay ốm đau, cũng là giải bớt nỗi u uẩn trong cô. Cô thương ông không muốn để khi ông còn sống lại biết được, chỉ vì chăm lo cho ông mấy năm trời mà Nhiêu vẫn một mình. Cô lặng lẽ mở cửa, trăng sao bên ngoài mênh mông đến thế, quạnh quẽ mà lạnh vắng đến thế.
Cô mở cửa bước ra rồi ngồi xuống chỗ bậc cửa xây bằng gạch trước nhà. Bóng cây cau in dài trên đất, đổ trên giàn mướp đang đưa đẩy ít quả tròn trịa. Cái miệng giếng hì hà, hì hụp những cơn huýt theo sợi gió vừa lướt qua, khẽ như một gã trai rón rén đến sau lưng bất ngờ ôm siết lấy thân hình làm cô rùng mình. Rồi cô lại tự nhận ra chính là đôi tay của mình đang bối rối trong cô đơn. Cô ngửa cổ lên. Vầng trăng gần cuối tháng không tròn, không khuyết đang cố bừng tỏ hết cái ánh sáng rực rỡ trên cao trong vắng vẻ, xa xôi.
Nhiêu từ từ đi ra giếng. Bóng cau rập rờn với cơn gió muộn lướt qua. Dàn cây dưa chuột trĩu nặng, quả bằng nửa cái cổ tay dài dài. Cô bứt một quả định ăn cho mát, nhưng nghĩ sao lại bỏ vào túi áo chỗ vạt trước. Cái cần tre kéo nước ngóc xiên lên, lủng lẳng chiếc gầu bù đài bên miệng giếng. Nhiêu nhận ra mình muốn tắm.
- Khiếp, cái mồm sặc mùi rượu, ghê chết lên được. – Cái giọng vùng Hạ gần hai năm lấy chồng vẫn không trộn lẫn của cô Lan.
- Tôi mê nhất mẹ mày.
- Be bé cái mồm không con nó khóc.
- Thật đấy, tiên sư thằng nào nói điêu!
Trời trong veo, gió cuộn đôi cơn rời rợi, lúc lại oi oi thế nào. Tiếng đôi vợ chồng hàng xóm rơi ra trong gió, âu yếm. Nhiêu nghếch đầu lên nhìn quanh. Tất cả vắng lặng, một màu trắng bệch trùm lên mọi vật. Cái chum dưới gốc cau lượn những đường cong, mịn như hông người đàn bà trong chiếc quần đen, lúc lúc lại hắt ra vùng sáng trăng trắng. Cây gáo sát bờ ao loè xoè tán lá, đu đưa cành lá ngó nghiêng.
Nhiêu vô tình nghiêng tai về một phía, phía ấy là nhà cô Lan. Nhiêu thấy mặt mình nóng bừng lên, Có tiếng ai đó ru con à ơi trong ngái ngủ. Vô ý quá…..Ừ, mà cũng tại đêm khuya thanh vắng nên mới nghe thấy rõ như thế chứ!
Nhiêu nhìn quanh, chỉ có một mình trong đêm. Bàn tay vô tình xoa xoa bầu ngực rung rung như nũng nịu của cô, gió chạm vào hàng khuy áo mở phanh, lất phất. Nhiêu cúi xuống, cô chợt nhận ra ánh trăng đang đổ lên ngực mình lấp loá, trắng mịn. Một khoảng tròn nơi hai đầu vú xẫm hơn, hồng lên. Bàn tay Nhiêu lóng ngóng đặt vào chỗ cạp quần…
Tiếng dế chốc chốc nổi lên, rồi lại chìm xuống u u, lúc xa lúc gần. Nhiêu lại nhìn quanh, tất cả thanh vắng lặng lẽ, cả làng đang chìm trong giấc ngủ mê mệt sau một ngày vật lộn với đủ thứ chuyện đời. Có tiếng trẻ con ngay đấy ré lên ngằn ngặt. Chết thật chắc cái ông chồng cô Lan, người đâu mà nặng như cùm ấy, chắc lại đè phải nó. Biết đến bao giờ trong nhà mình mới có tiếng trẻ khóc lên, chập chờn một lát rồi lại chìm đi vào giấc ngủ?. Hơn ba mươi tuổi rồi, còn trẻ gì ở cái làng quê này, coi như quá lứa, nói đúng là ế rồi!
—-0—-
Gã định nói thêm điều gì chợt nhận ra có ai nắm bắp tay mình. Gã ngoảnh lại.
Thằng lớn gật gật cái đầu nói một thứ tiếng say lơ mơ lẫn trong tiếng ngọng ngọng không dấu của làng Hạ. Khuôn mặt hắn dài như cái lưỡi cày. Hắn liếc tìm miếng thịt chó cuối cùng, nhưng chỉ thấy đám xương xẩu như đang động đậy trước gió trên chiếc lá chuối rải ra bên hàng rào. Tay hắn cầm cái cổ chai đưa lên, vừa tu ừng ực cho đến cạn, vừa hấp háy đôi mắt nhỏ xíu như dính vào nhau. Hắn hích hích cái vai rồi cầm chặt lấy một bên, vít tay gã đứng dậy. Hai kẻ chuệnh choạng rời khỏi chỗ ngồi bên hàng rứa dại đầy gai. Trăng nhếnh nháng trắng xóa, phủ lên hai bóng người đen xì, xộc xệch trên đường.
Tíếng chó sủa ran ran theo bước hai kẻ ngật ngưỡng. Gã cứ cúi đầu lần theo bước hắn. Hàng rào dứa gai trong đêm đang toả ra một cái mùi cứt bò, lờ lợ khai khai. Mảnh trăng nhấp nhoá chỗ thằng lớn làm cái lưỡi cày ưỡn lên lồi lõm.
- Nhưng mà mày có thấy mông to không? Cả mông, rộng háng, không bán cũng mua! Hơn một vài tuổi hả. Chú mày còn trẻ cũng không bằng cái đít nó!
Gã quay người hẳn lại, đứng đối diện với thằng lớn. Nó mở phanh áo ra chờ cơn gió cho bớt cái đang sực sực bên trong.
- Chú mày còn muốn đòi con gà thấy chú đi qua cũng tự nguyện giơ cổ cho chú cắt tíết à?, Lúc ấy chú có định lấy sao trên trời, ăn giời ăn bể gì cũng có đứa hầu chú. Thôi, tao chỉ cho chú con đường, còn đi đứng thế nào tuỳ chú. Buồn ngủ bỏ cha, đến ngõ nhà tao rồi, tao về với con đĩ mẹ nó đang chờ.
Gã ngẩn ngơ giữa vùng sáng tràn ngập. Gã bỗng bật cười ứ ư, thì ra nó hát. Hư hư…hừ hừ, hay thật đấy. Mẹ nó, Chà chà. Gã liếm mép, ngửa cổ, nó thấy vầng trăng méo xệch, nhăn nhó nhìn nó. Ánh sáng nhàn nhạt đẩy người nó nghiêng nghiêng xuống. Cái bóng đen đen ngoằng ngoẵng gật gù trên đất. Bây giờ mà được một ngụm nước thì tốt quá.
Có tiếng xuỵt xoạt của thằng người đầy hơi rượu, đòi hả cơn khát.
Có tíếng gầu thả xuống giếng nước. Gã ngơ ngác nhìn, sững người lại. Gã nhận ra cái thành giếng rời rợi ánh trăng, một bóng trắng lấp loáng bên cạnh sau hàng rào. Gã xuýt kêu lên quên mất phải xem nó là cái gì. Nó cái nuốt khan một cái. Thân thể người con gái đang được ánh trăng phủ lên khiến nó sáng đẹp đến mê man. Gã liếm cặp môi khô lần nữa, rồi cúi thấp xuống như con mèo rình chuột. Gã lom khom tíến về phía bờ rào rồi truờn xuống đất như con rắn.
Nhiêu không biết gì, cô vẫn đang vuốt ve cơ thể ướt lướt nước giếng mát lạnh ngoài trời.
Bất ngờ có hai cánh tay ai choàng lấy ôm chặt lấy ngang ngực. Cô giật mình, định kêu thật to, thì mồm cô bị bịt kín bằng cái tay có mùi thịt chó. Một giọng run rẩy, thì thầm :
- Tôi đây, tôi đây mà!
- Sao lại thế này ?.
Nhiêu cố vùng vẫy, vớ chiếc áo quấn tạm quanh người, cố thoát ra khỏi đôi tay cứng nhắc của gã trai đang thở hổn hển.
- Tôi yêu Nhiêu. Yêu thật mà! – Lần đầu tiên cổ cô gái bị làn môi nhớt nhát nóng hổi trượt lên. Cô muốn lả đi thều thào, nó ấn cô mặt ngửa lên :
- Buông ra, buông ra, không tôi kêu lên đây này.- Nhiêu cố gỡ tay nó ra khỏi mồm,
Nước dính nhoè giữa hai người, hai cái ngực nóng rực trơn nhớt, đôi môi bỏng rát bị trùm lên không thấy có mùi rượu nữa. Tiếng Nhiêu chìm đi:
- Để tôi bảo.
- Bảo cái gì, tôi đang cần chết đây này.
- Người ta nhìn thấy kìa.
Nhiêu chỉ còn nhận ra ánh trăng bỗng tan ra, loé vụt như những con đom đóm vừa bay lên từ ao bèo. Miệng cô lắp bắp, lẫn lộn. “Không ,không kìa, sao lại thế này?”. Đôi môi bị đốt nóng hơn bằng đôi môi mằn mặn, lại thấy sặc sụa mùi rượu và lẫn tiếng hít hà, mê đắm.
Có cái vật gì cứng cứng tròn tròn, vướng vướng chỗ ấy. Gã tái mặt thò tay xuống dưới. Đột nhiên, hai mắt gã trắng dã lên, đôi tay gã mất hết sức lực, gã rời hẳn ra. Mọi thứ trong người gã xẹp xuống, còn ruột gan, đầu óc gã lộn tùng phèo hêt cả lên.
Người con gái chưa nói dứt lời. Thằng con trai đã chạy vọt ra ngõ. Gã chạy một mạch đến đầu đình, đứng lại thở dốc lên. Đúng, trần đời chưa từng thấy, đúng là chưa từng thấy! Gã nhìn xuống cái ao đình đang lấp lánh vài mảnh vụn trắng nhợt nhạt, nó vò đầu vò tai khốn khổ, đoạn gã từ từ quay lưng lại bước về nhà. Cái bóng đen đen lẩn theo bước chân gã chập choạng.
—-0—
Chuyện xẩy ra trong đêm, mà vừa mới sáng ra người ta đã thì thầm trong lúc đi chợ, kẻ choang choác kể ra trong lúc say chập tối. Bọn thằng con trai thì cườì hơ hớ. “Chúng mày công nhận không, chắc là vớ được cái của nợ rồi”. Cánh ông già thì “Úi dào, Chả còn ra thể thống gì nữa, làng này toàn đứa thối mồm”, “Cái thằng mặt lưỡi cày kia, mày rình rập để định cày vào cái… cái gì? Người ta sao thì mặc kệ người ta “. Cánh có vợ tranh nhau “Này, nghe chuyện thì chỉ biết cười hô hố, có biết mô tê làm sao không?”
Gã đi qua nhưng vẫn chưa tỉnh cơn mê nó lẩm bẩm : “Một nửa đàn bà, một nửa đàn ông!”.
- Ai ăn được mắm tôm thì khen ngon, ai không ăn được thì bịt mũi!.
- Đồ ngu, Cái Nhiêu nó có chim!
SƯ BỐ ÔNG TÍCH SỰ
VŨ HỮU TRÁC
Đèn đường sáng lúc nào không biết. Bữa nhậu vỉa hè chưa xỉn thật, chưa dứt được.
Mấy bạn tôi quay sang chuyện tao đàn, văn đàn, hào hứng hớn lên
- Văn ngắn, văn dài kỳ qua, có chỗ nào thừa, chỗ nào thiếu không?
- Ồ thừa thì cứ vặt ra, ấn vào thiếu thế là tròn!
- Cái vị này, cái gì cũng vặt ra được thì đã tốt, cái thiếu cho vào vừa thì có nói đến sáng mai!
- Có đấy, in ra đây rồi, đọc nghe nhé, tội cái Báo điện tử của Hội kỳ này lắm vi rút quá, méo hết cả con chữ, hỏng hết cả máy tính.
- Được rồi, tối thế đọc được đến đâu thì đọc, sai cũng được.
- Dừng nhậu. Nghe đây!
Không nhớ ai đọc, hôm sau tỉnh rượu, nhớ mang máng hình như có Kao Sơn và Nguyễn Thanh Hiện thay nhau đọc ở Vănvn.Net thì phải.
Làng Cù. Có người nói Cù là tên con vật thời hồng hoang, đương yên ngủ, bỗng trở mình cù quậy ầm ỹ vùng đất này, Có người nói là Cù dzậy. Có người gọi là Làng ông Cù. Có người cho là kiểu gọi một trận động đất đã từng xảy ra ở đây. Cắt nghĩa sao cũng được, nhưng tên làng Cù, vẫn dễ xếp vào tên làng hạng bét.
Làng có hai ngọn núi nhỏ và thấp ở phía đông. Tựa hồ lúc tạo núi, ông trời để rơi vãi ở đây hai cục đất đá thừa mứa mà thành. Đứng ở làng ta mà nhìn ra, cứ phập phà phập phồng. Người làng gọi ngọn đứng trước là hòn Trồi, ngọn đứng sau thấp hơn là hòn Sụt. Nhưng đứng ở phía bên kia sau núi thì hoá ra ngược lại. Những người làng bên kia lại gọi hòn Sụt là hòn Trồi, gọi hòn Trồi là hòn Sụt, cãi nhau không có bên nào thua.
Ta tìm đọc nát hết các sách cổ tự, tân thư mà chẳng thấy có sách nào nói đến đất đai sông núi quê ta. Đúng thế, làm sao thế gian này lại có đủ sách vở để chứa cả những thứ như thế !
Cái làng quê của ta yêu qúi, mà cái gì cũng bét, tên hạng bét, đất đai hạng bét, núi sông hạng bét, nhưng lại nổi lên một người sáng láng, một áng văn chương soáng loáng đệ nhất. Về “Sự tích núi Phấp phỏng” của ông có tên là “Ông Sự tích” mà làng đặt cho ông, làm hồng sớm cuộc sống nơi đây. Người vô cảm cho đó là áng văn chương cũng hạng bét vì chỉ mang lại cho người ta cái cảm tưởng chẳng thể nào bình yên. Kẻ đa cảm cho rằng ông “Sự tích” cũng cố ý đi tìm cái nghĩa lý cho cuộc đời ở ngay trên làng quê mình. Cũng may, ở trong làng lại còn có ông.
Ông Sự tích viết :
“…Những người đi trước muốn ký thác lòng mình cho núi chăng?
Tại sao lại là chim Nửa đêm? Chim chờ ai mà đứt ruột kêu thành tiếng?
Sao lại là hoa Lưu huyết ngắn ngủi nở trong tức khắc rồi tàn?
Nửa khuya nghe tiếng loài chim lạ kêu, thì ắt sáng hôm sau tất có hoa lưu huyết sẽ nở! Ta nay nghe nhắc đến những thứ ấy thì cứ thấy nôn nao, tựa hồ như mình là kẻ mới lên năm, mà không biết vốn dĩ ta đã thuộc về sự tích quê ta có loài chim, loài hoa của núi.
Một sớm tinh mơ, ta gần muốn hụt hơi cố theo kịp bước cha. Phải lên núi cao, xem cho kịp hoa Lưu huyết nở. Hoa chỉ nở vào sớm tinh sương, hoa nở xòe ra những cánh màu máu, mà mong manh đẹp đến lạ thường, Tất nhiên là sáng hôm ấy, khi lên đến đỉnh núi ta chỉ thấy, cha cầm trong tay những cánh hoa đã tàn. Cha giảng giải cho ta nghe, rằng cha cũng chỉ là nghe sự tích nói thế, chứ xưa nay chưa có ai trông thấy hoa Lưu huyết nở đẹp đến thế nào! Ta hỏi cớ sao lại không ai trông thấy? Cha bảo, khi ta đã thành người lớn tất sẽ hiểu…”
Người làng hỏi - Thế còn chim Nửa đêm, chưa ai rõ mặt, rõ tiếng oan khuất của loài chim ấy? Tại sao lại kêu mà không hót lên?
Đấy là cách dịch tiếng kêu của chim ra tiếng người nức nở. Chỉ nghe tiếng kêu của chim vào khoảng giữa đêm, nên gọi là chim Nửa đêm vậy thôi. Nhưng sáng hôm sau, thế nào cũng có người trong làng lên núi để tìm xem hoa Lưu huyết nở. Mà quả là có con chim lúc nửa đêm kêu nghe tiếng buồn thật. Còn làm sao khuya khoắt lại nghe tiếng chim kêu mà dám chắc sáng hôm sau có hoa lưu huyết nở, thì không thấy có mối liên quan nhân quả nào giữa hai thứ ấy, dường như chỉ là diễn tả mỗi một sự vật mà thôi…”
Ông Sự tích cười “Ta cắt nghĩa ở đó cho người đời, thì nó cũng cũ như chim Nửa đêm với hoa Lưu huyết vậy !".
Ông định dừng ở đó.
Lại hỏi, thế còn cái hòn Trồi hòn Sụt ? Sao không cho biết hết cái nghĩa sâu xa?
Ông Sự tích lại phải trưng ra. “Sự tích đã nói thế. Phía bên kia núi là cõi chết. Mỗi lần vùng đất ở bên ấy xua quân sang đánh cướp, đám đàn ông bên này chống trả suốt đêm, thây người chết chồng lên nhau trên núi, nhưng sáng sau bị mang đi không còn lấy một. Đám trai cõi sống bị bắt đi, để không còn nòi, còn giống. Đã bắt đi là không có ngày về. Những người ở lại, lên núi trông chờ trong nỗi phấp phỏng, phập phồng.
Sự tích nối tiếp các cuộc xâm lăng và các cuộc trai làng ra đi đến hết, chỉ còn kẻ ở phấp phỏng trông chờ. Có người con gái lên núi chờ người yêu của mình suốt bao nhiêu năm liền, chờ cho đến đêm đó thì khóc đứt ruột mà chết. Máu nàng ứa ra thấm vào đất, mọc lên loài hoa Lưu huyết, còn hồn trinh trắng của nàng thì hóa thành chim Nửa đêm, khắc khoải kêu thương”.
Hòn Trồi, hòn Sụt phải gọi đúng tên gọi của nó là núi “Phập phồng”. - Ông Sự tích bảo!
Làng bên, đúng là không thể phân đúng sai, thắng bại với họ được, lại có cái tên rất gợi - Làng Khoái. Trong làng Khoái có thôn Lạc, án ngữ ngay trước làng, có ngọn núi Cạc thẳng lên và chiếc ao Lồ lồ lộ. Có người bảo đó là tên hai “cái ấy” của đàn ông và đàn bà gọi chệch đi cho đỡ tục. Cũng chả biết do tại cái thế đất ngự núi Cạc, ao Lồ cạnh nhau đắc địa, hay tại vì cái mạch nước ao làng, mà đàn bà con gái làng này từ xưa đến giờ vẫn lắm người mắc chứng không chồng cũng đẻ, mắn hơn hẳn làng bên. Cắt nghĩa sao cũng được. Cá dưới ao Lồ toàn là do hoa bèo sinh ra, mà cứ vào ao ta là ta được. Tên làng Khoái cũng dễ xếp vào tên làng hạng bét.
Ngay dưới chân núi Cạc, có một ngôi miếu gọi là miếu Bà Mụ. Tục truyền, miếu ấy thờ bà đỡ dễ tính của làng. Đàn bà con gái trong làng, có hay không có chồng, cứ đến kỳ sinh nở dù là con so hay con dạ, nếu đã đến xin Mụ thì cứ đẻ ngay ở đầu nhà cũng được, đều mẹ tròn con vuông. Chuyện sinh đẻ dễ đến vậy, nên vào những ngày nắng đẹp, trong làng đâu đâu cũng thấy tã lót của lũ trẻ con phơi trắng xoá như chốn cung mê vậy!
Cái vùng làng quê cạnh làng ta cũng thế thôi, có lẽ cái gì cũng bét, tên làng đã là hạng bét, tên núi, tên ao càng hạng bét nốt, nhưng lại nổi lên một người sáng láng, một tấm lòng loáng thoáng cao cả.
Về núi Cạc, ao Lồ chỉ có ông tên là “Tích sự” mà người làng đặt cho ông, cứ thẳng thắn gọi cái tên cúng cơm của nó mà chẳng sao. Người vô cảm cho đó là chân thật, nhưng cũng hạng bét vì nó thô thiển, chỉ cho người ta cái cảm giác đê mê, mất chất. Kẻ đa cảm cho rằng ông “Tích sự” cũng có ý tốt, cố dựng lên cái nghĩa lý cho sự tồn vong ở ngay trên làng quê mình. Cũng may, ở trong làng lại còn có ông.
“ Mẹ kiếp. Tao mà được làm giời thì tao mưa luôn tù tì cho mấy tháng liền, để xem có phơi tã lót được không, để cho nó có thối inh lên không?” - Ông trưởng thôn kêu lên bằng một câu nửa nạc nửa mỡ, như đùa vậy. Ông mới lên trưởng thôn được vài năm, người vâm váp, chân tay lành lặn. Ông tỏ vẻ bức xúc - “Mẹ khỉ đã Khoái, lại còn Lạc nữa, Cạc thì đứng ngỏng lên chỗ Lồ, sướng đến thế thì nhịn sao nổi. Cứ sòn sòn thành lệ từ xưa rồi. Con gái làng này thì quá nửa chẳng chửa hoang, cũng ăn cơm trước kẻng. Mà các cụ mình ngày xưa cũng lạ, trên đời này thiếu gì cái tên đẹp mà chả lấy, lại đi lấy cái thứ người ta dùng để “ấy nhau” mà để đặt tên”.
Một bà sồn sồn bạo mồm trong thôn thì bỗ bã, cấu vai ông trưởng thôn :
- Có chửa hoang, cũng chả chửa với cái nhà ông đâu mà ông sợ hão!
Ông trưởng thôn nghĩ mà tức như bò đá!
Hàng năm cứ đến dịp lũ trẻ sắp cắp sách đến trường, ông lại phải đến từng nhà, cứ phải hỏi con mẹ nó tên nó là gì, để còn làm cái giấy nó cho đi học thì cũng bằng thừa. Các bà, các cô lẩn như trạch. Bọn trẻ, ham chơi cũng chẳng dễ tìm, mà hầu như chả đứa nào có tên. Mẹ chúng có gọi chúng thì chỉ toàn, “Cu anh đâu?, Cu em đâu?, Cái nhớn, Cái bé đâu cả rồi?”... Chúng cũng chỉ gọi “bu ơi”, ít khi thấy gọi “thầy ơi”!
Một cô gãi đầu, gãi tai chán rồi, cuối cùng tặc lưỡi - Thôi thì bác muốn đặt cho cháu cái tên thế nào thì bác đặt - Ông trưởng thôn ngẫm nghĩ, tên thì còn nhiều, ghép vần có khó gì, cứ gọi là còn khối!. Ông tặc lưỡi, bút cầm lăm lăm trong tay, nhưng lại còn rắc rồi cái họ hàng. Có tên phải có họ chứ! Hỏi thì cũng chỉ trước sau như một :
– Họ cha cháu, nhà cháu tối dạ nên quên mất. Mấy lại, hôm ấy cũng còn chẳng nhìn tỏ mặt được nữa là, hay là bác cho cháu nó cái họ của bác, cho cháu nó mở mày mở mặt như chúng bạn, như bạn?” - Thật dở mếu dở cười.
Cô khác thấy ông trưởng thôn nín lặng :
- Em thấy bác yêu quí cháu, mà cháu nó cũng quấn quít bác, hay là bác cho cháu cái họ của bác nhé!
Có cô không biết chuyện của ông, nửa đùa nửa thật :
- Hôm nào mát giời, mời bác đến em chơi. Bác chả phải giữ ý, cũng chả khách khí làm gì, em đãi người ngoài còn được huống hồ là bác - Ông giật mình trợn con mắt, chợt nhớ - Thì em nói là cái chuyện ấy …ấy… Ấy là… bác đã cho cháu nhà em cái tên thì em cũng coi bác như bố cháu.
Lần này thì ông từ tốn cảm ơn.
Ông chỉ vậy chứ nào có gì, ông nhìn lên đỉnh núi trước nhà. Trăng mới đang lên non mởn. Ông ngạc nhiên thấy ở nơi chân ngọn núi Cạc, chỗ tối nhất miếu Bà Mụ, có ánh trăng trăng trắng, giẫy giẫy của cái bóng nước hắt lên từ mặt ao Lồ. Đêm ấy trăng mọc trên làng Khoái, sáng đẹp lạ thường.
Được cái ông trưởng thôn nói thế thôi, chứ ông nào có gì. Ông nhân nhượng cho chúng cái họ của ông. Hơn nữa, chả cho cái họ của ông, cho bừa họ người khác, nó kiện cho bỏ mẹ.
Thế là cả làng, đến quá nửa lũ trẻ mang họ bố của ông. Mỗi lần đi học về lũ chúng chào ông, chào bố váng loạn cả làng!
Cả làng, những người lơn lớn gần như ai cũng biết, hồi trước ông bị chó cắn, làm mất hết hẳn của ông cái “bộ ấm chén” nên chịu không lấy được vợ, đành ở vậy, nhưng ai cũng tin yêu ông. Người làng gọi ông là ông “Tích sự”.
Ta đi chơi núi Trồi, núi Sụt vào sớm một ngày thu, là ta có ý để cho hứng thú tìm tòi. Biết là chẳng thể trông thấy hoa Lưu huyết nở, song vẫn cứ mong ngóng bồn chồn. Thì đang leo lên cái “Phấp phỏng”, làm sao mà chẳng “Phập phồng”? Lên tới đỉnh hòn Trồi, mặt trời đã lên cao. Nơi đỉnh hòn Trồi có lắm loài hoa dại đang tàn. Nhưng bấy giờ ta chẳng còn chú ý, có tìm Lưu huyết cũng không còn được.
Người làng hỏi, ta đi chơi núi Trồi núi Sụt rồi phải không? Có nhìn thấy bông hoa Lưu huyết nào không? Có nhìn thấy con chim Nửa đêm nào không? Ta đáp là đã nhìn thấy y như trong lòng ta đã thấy. Người làng hỏi, đã thấy thế nào? Ta đáp là đã nhìn thấy một nỗi khát khao. Lại hỏi, khát khao thế nào? Ta lại đáp, như chim Nửa đêm đã kêu thì phải kêu cho đến đứt ruột, như hoa Lưu huyết đã nở thì phải thắm đỏ một màu máu loang. Lại hỏi, như thế là nghĩa làm sao? Đáp, như thế thì gọi là Mù… “mù mờ” !
Rồi vẫn còn y nguyên cái niềm phấp phỏng, ta lại trèo sang đứng ở nơi đỉnh hòn Sụt, tiếp ngóng trời nhìn đất mà ngẫm nghĩ. Thì ra phập phồng, trồi sụt, thì có khác khoái lạc, cạc lồ thật !
Bây giờ không chỉ thế, trai tráng làng Cù, bỏ đi vì sợ tiếng chim Nửa đêm cú mèo kêu gieo rắc tai hoạ. Cứ đêm khuya nào nó hót rùng rợn lên, thì đêm ấy lại có người ra đi không về. Trai làng bỏ quê vì chẳng kẻ nào muốn làm vật hy sinh. Làng Cù bây giờ không còn cù quậy như trước, làng Khoái cũng ít hẳn cái thứ tã lót, vì đã dùng tã giấy cho khỏi phải giặt mất công. Quê ta, chỉ những người già còn lại mới hiểu được hết cái màu tang tóc, chảy máu trong lòng. Từ đấy nghiêm cấm mấy ông cứ Cù Khoái bừa, về những chuyện bí hiểm quê ta.
Bạn nhậu tôi nói:
- Cuộc phiêu lưu lớn nhất của con người là muốn giảng giải lại cái nghĩa lý của quá khứ, bởi con người là luôn đợi chờ một cái khác với cái hiện hữu, luôn mong mỏi được cập sang một bến bờ mới và luôn cóp nhặt cái quý giá chỉ từ một cái nhìn thoáng đẫm mặc cảm. Có điều Làng Khoái Lạc, có Cạc Lồ nó liền hơn, còn làng Cù quậy, Phấp phỏng nó khó hình dung lắm!
Chợt một bạn vỗ đùi cái đét, tôi run tay đổ cả chén rượu vào bát mỳ tôm.
- Biết rồi! Phải thành thật xin lỗi các bạn, “Phập phồng” lắm “Khoái lạc” lắm, “Cạc Lồ” lắm “Trồi Sụt” lắm không nói hết được! Tôi biết hai cái làng ấy. Cái xứ sở chết chóc đằng đông núi là làng Khoái Lạc nhìn từ phía ngược! Đám quân âm binh xâm lăng bắt bớ đám đàn ông mang lên núi đánh nhau đến chết, còn ai là lôi đi không về, chính là lũ đàn bà, con gái làng Khoái bịt mặt. Hóa ra một màu trắng tã lót giăng đầy khắp làng, tác giả của nó lại là trai làng Cù quậy đấy!
- Ờ…ờ ! Nhưng suy ra cho cùng, thì nó còn hợp được cái món “Âm dương”. Nghe đâu hai làng định nhập nhằng với nhau làm một, để lấy tên là làng “Chính chuyên” nhưng thất bại! Cũng không phải vì không bên nào chịu bên nào về cái tên làng hạng bét ấy, mà thực ra, nó cái hỏng mất cái “Ngũ hành”. Thiếu thì không được, thừa cũng không được. Càng không được gọi là ông “Sự tích” hay ông “Tích sự” vì mỗi làng chỉ cần có một ông “Chập mạch” là đủ, chẳng có làng nào không có, không cần cả. Đằng này nhập lại đâm thừa ra, hỏng bét!
- Nếu không có hai ông ấy thì, hai làng hay một làng thì cũng chỉ là làng bét tỹ, Làng chẳng ra làng, chó có ma nào biết!
Lại cái đét xuống ngay cái ghế tôi ngồi, buộc tôi ngồi bệt xuống đất
- Các cụ ta giỏi, giỏi thật! Cù quậy có lý thật! Cứ tưởng nó cù lần, cù quậy. Cái sự tích đúng là sự tích hạng bét! Trai làng đi không về, là tại hoạ cho làng Cù, lại cứ cù lần…khân, quậy mó, lại là khoái lạc cho cả làng Khoái, thế có hay không? Thế có sướng không ! – Tiên sư cái ông “Sự tích”, Sư bố cái ông “Tích sự”!
ÔNG DŨNG
VŨ HỮU TRÁC
Cứ sáng rõ sớm hôm nào cũng vậy, ông Dũng dậy tập thể dục chỗ sân gạch trước cái vườn nhà mình. Ông vừa tập từng động tác, vừa hô đếm rành rọt cho có nhịp. Làn gió sớm mai tràn hơi ẩm không khí làm ông nhớ thói quen từ một thời người lính.
Ông bảo với bà khi chỉ có hai người : " Bà biết khi hôm tôi xuất ngũ. Có thằng đại tá như tôi, nó bảo tôi thế nào, bà có biết không?" Bà lắc đầu. Nó bảo là nó đứa bị thiệt thòi, bởi vì lấy vợ là con gái nông thôn có ba thứ không, một là không đánh răng, hai không tập thể dục…"
Bà chờ ông nói tiếp nhưng ông đã đi ra phía bờ ao. Mấy hôm sau bà mới gạn hỏi, bắt ông nói tiếp cái thứ ba. Ông nhìn chăm chăm vào bà rồi nói khẽ "…là không rửa đít! Chỉ chùi". Bà bật cười hỏi lại " Thế ông trả lời ra làm sao?". Tôi bảo : "Cậu cũng lắm kinh nghiệm gớm nhỉ! Thế thì con gái thành phố thì nó rửa suốt ngày à? Tớ cóc cần". Rồi ông lại bảo "Nói thế thôi, bà cũng nên tập thể dục đi cho nó khoẻ người". Từ đấy bà luôn theo ông tập thê dục đều và thực sự bà thấy khoẻ ra.
Bà có gương mặt vẫn giữ được những nét đẹp thời con gái, phúc hậu, hiền lành. Tính tình điềm đạm của bà giúp bà có được thiện cảm của cư dân xóm giềng. Hôm đón ông về có cả những lãnh đạo của huyện, có cả đoàn khách những người đàn ông, phụ nữ luống tuổi, mặc quân phục màu xanh đi vào ngõ như hòa vào giữa rặng cau đang độ lên xanh. Họ đến thăm bà, trong sự thán phục của bà con xóm giềng, thật oách, thật sự làm bà tự hào về ông lắm.
Ở cái xóm này từ trước, bà vẫn sống lặng lẽ với bốn đứa con, một trai là thằng con trưởng và ba đứa con gái. Chúng đã trưởng thành cả, đến khi ông nghỉ hưu về, thì vừa lúc xây dựng gia đình vừa cho đứa con út ra ở riêng, vợ chồng lại cứ như cặp tân hôn.
Ông đi lại chỗ cái khung treo trên chỗ cửa vào buồng. Ông lặng ngắm từng đứa trong ảnh, chăm chú lâu lâu vào thằng Trưởng. Càng lớn nó càng giống ông. Tiếc là gần như cả cuộc đời ông không có điều kiện dạy dỗ được nó. Nó lớn nên như một cái cây ngang tàng mọc thẳng lên, xuyên thủng qua cả vòm lá che chở của mẹ nó.
- Bố cho gọi con ạ? - Thằng Trưởng chạy vào sân trông tất bật, quần áo lấm bùn.
- Tôi bảo mẹ anh nhắn anh lên, nhưng không phải là việc gấp lúc này. Anh uống nước đi đã, để tối nay nói câu chuyện cũng được.
- Bố ạ, con đang bận lắm, có chuyện gì bố nói luôn được không?
- Nó đang nuôi những thứ ba ba, tôm cá, trồng cỏ nuôi bò sữa gì đấy. Nó là kỹ sư nông nghiệp mà không theo một cơ quan nào cả, tự mình đứng ra thầu đất thầu ao. Nghề nông ông không lạ, vất vả thì vẫn chịu được, nhưng nó làm thế thì phí đời. Ông bảo :
- Thôi được. Tôi có chuyện này định hỏi anh từ lâu rồi. Tôi muốn biết, anh chưa vào đảng là làm sao?
- Con không tự hỏi mình điều đó bao giờ, con cứ nghĩ là người tốt, chịu khó làm ăn nuôi vợ nuôi con là được.
- Anh có nghĩ anh là con tôi không? Người ngoài đảng là không có lý tưởng. Anh bằng lòng với cái thứ anh có, tuy không sao, nhưng hèn lắm. Đứng ra chỗ đầu sóng ngọn gió cho nó cứng cáp cái thân anh lên. Có cái mà người ngoài đảng sẽ không có được, trước trách nhiệm của mình với mọi ngưòi. Anh đem cái kiến thức kỹ sư của anh đi nuôi trồng cái cho riêng anh thì tốt sao?
- Bố ạ - Cậu con cả cười hị hị, nó biết được cái tính của bố nó - Con giúp khối người thành công trong việc nuôi trồng đấy. Con còn được nhiều người ở cái làng này ca ngợi đấy bố! - Im lặng một lát anh con trưởng lại tiếp
- Chuyện ấy không có gì quan trọng. Có thể bố cho con là không đúng, nhưng bố cứ để con nói. Thực tế là nhà quê vẫn con trâu đi trước cái cầy kéo người nông dân. Con có thể ngủ ngoài cái lều trông cá cả đêm, không có chăn ấm đệm êm. Con có thể có tiền mua xe ôtô tải để vận chuyển. Nhưng không thể mua ôtô đẹp chỉ để đi chơi bằng xe đời mới. Con chấp nhận uống rượu quê vì tiếc tiền không dám uống thường xuyên rượu ngoại được. Đảng viên bố ạ, không phải người tốt nào cũng vào đảng cả. Mấy lại vợ con nó yếu, nên con ở nhà cho hợp cảnh.
Nói rồi nó đi ngay ra sân, tránh sự tranh luận mà nó biết trước sẽ xảy ra căng thẳng với ông.
Ông buồn thật sự, nó không có chí tiến thủ lại chỉ nhìn vào toàn những thứ tiêu cực. Nhưng ông quyết không chịu. Ông sẽ rèn nó bằng được.
Ông bạn đại tá quê ở miền trong, cùng ông Dũng nghỉ hưu về, hôm ra cùng họp cựu chiến binh sư đoàn, rẽ đến nhà thăm ông. Lũ trẻ hàng xóm thấy người lạ xúm lại, đi theo. Thấy ông ấy đeo một đống huân chương trước ngực trông ghê quá, chúng không biết chào thế nào, cứ giương mắt lên nhìn.
Ông đại tá kéo ông Dũng ra nói nhỏ:
- Cậu phải giáo dục con cháu thế nào chứ, tôi thấy không ổn, ra chẳng đứa nào chào tôi cả, rồi lẳng lặng chuồn mất. Bọn trẻ bây giờ là dễ hư hỏng lắm!
Thực ra, lúc đó chưa có đứa nào là con cháu của ông, nhưng rõ là chúng cũng như con cháu ông.
Bà thấy hai ông gắn bó với nhau lắm. Ông Dũng như hăng hái kể lại những chuyện ngày còn trong quân ngũ, ông là người vững vàng trong thử lửa với súng đạn trên chiến trường, những vết thương thành sẹo nham nhở trên người, vẫn nhắc nhở ông bằng cơn đau mỗi khi trái gió, trở trời. Dịp được hàn huyên thế này chắc cũng đáng để nhớ lâu. Ông Dũng phàn nàn về cái ông thực sự đang lúng túng, ngày trước ông không mấy thua ai, bây giờ khi nghỉ hưu, sức thuyết phục thì kém hẳn :
- Ở ngay cái chính cái làng của mình, chính chỗ quê hương mình, mà tớ thấy mình chẳng đâu vào đâu. Bây giờ về nghỉ, đừng nói là ăn nhập, khi đã không còn quyền lực, không có vị trí trong lãnh đạo địa phương, thì sức thuyết phục kém hẳn cậu ạ. Đến con mình nói cũng không xong!
Bà Hoà chạy xuống nhà thằng Trưởng ở cuối làng, rồi lại ra chỗ ao, tìm gặp thằng con trưởng, trình bày với nó về chuyện có ông khách bạn bố đến chơi, muốn nó về với hai ông một chút để nói chuyện.
Nó thấy bà có vẻ phấn khởi lắm, nó bảo:
- Bà cầm con ba ba này về để hai ông dùng bữa. Bố con vui lắm, thế là tốt rồi. Ba ba con nuôi được, con to nhất cũng chỉ mới hơn một cân, nhưng hai ông dùng thì vừa khéo. Bây giờ con đang bận quá không về được, bà cứ bảo hai ông thông cảm!
Cái thằng rất lạ, cứ gọi bà là "bà", còn nó gọi ông là "bố con". Từ bé, mặc dù rất ít khi được gặp bố nhưng nó vẫn kinh sợ ông.
Những câu chuyện còn nguyên cái rừng rực lửa, tiếng tre nứa nổ lốp đốp của trận cháy rừng vì bom napan. Những chặng đường hành quân, những đêm nằm vùng vỗ đùi muỗi đốt, lẫn trong tiếng "cắc, bọp" của súng A.ka điểm xạ chống ngụy tái chiếm vùng cài răng lược, được hai ông đúc kết từ suốt những quãng dài của cuộc hành quân bất tận ấy.
- Cháu chào hai ông ạ!
Chợt một thanh niên cao cao ăn mặc có vẻ xuềnh xoàng, cặp mắt sáng trên khuôn mặt có dạn dĩ dưới hàng lông mày khá rậm, đi vào sân. Thế cũng hởi lòng, nó có khác hơn lũ trẻ ranh. Ông nhìn và nhận ra là thằng bán ngan, vẫn thường mổ vịt cho vợ nó ở chợ.
- Bà nhờ cháu vào mổ ba ba làm cơm, để hai ông dùng ạ!
Ông thấy khoan khoái hẳn, nó có ý tứ lại còn biết mổ cả ba ba nữa. Bà mà đã nhờ, chắc phải là tay khá về khoản bếp nước rồi. Ông bảo :
- Cháu ngồi đây làm chén trà đã. Định nấu kiểu gì?
- Dạ ba ba om chuối đậu có ít thịt ba chỉ nữa thì miễn chê ông ạ. Cháu sẽ làm cả món ba ba hồng xíu nữa để hai ông thưởng thức.
- Ai dè quê mình cũng lắm anh tài. Ông chỉ biết chén thôi cháu ạ. - Ông hào hứng khen nó.
Ông lại kể về điều băn khoăn không ngủ được. Ông lao vào sinh hoạt hội cựu chiến binh, sinh hoạt với hội người cao tuổi, ham muốn đóng góp những kinh nghiệm của mình bóc ra từ bốn mươi năm trong quân ngũ, Cái đồng đất quê bạc màu này cứ nghèo khổ mãi, làm ông trăn trở.
- Nhưng hình như nó như nước đổ lá khoai họ bỏ ngoài tai tất, ông ạ.
Ở cái làng quê ông trước kia nghèo kiệt, sắn khoai che hết hạt cơm trong nồi. Bây giờ tuy có khá hơn nhưng vẫn còn nhà còn dưới mức hộ nghèo, con cái còn nhiều đứa thất học.
- Cái chữ là thứ truyền tải kiến thức thuận tiện, đầy đủ hơn lời nói rất nhiều. Không biết đủ cái chữ đến hết phổ thông thì làm được trò trống gì!
Bế tắc, ông rút về vận động những người cao tuổi tham gia sinh hoạt câu lạc bộ Thơ.
- Cái trò thơ ca, nói thế chứ cũng là thứ truyền tải kiến thức, cũng không hẳn đã tẻ. Những thứ có trong người mình, nó vẫn cứ sùng sục lên, bắt phải cho nó tuôn ra. Thôi thì ngấm vào đâu thì ngấm, chứa vào đâu cũng được, cốt sao không phải để sau lại đem xuống âm ti là được.
- Ờ, cái thứ thơ ca cũng là một vũ khí chứ sao - Ông bạn thêm vào - Ở chỗ tớ cũng thế, Mỗi buổi sinh hoạt câu lạc bộ thơ, ông nào ông ấy cứ cho thơ mình hay, cứ đòi in ra bằng được để gửi được đến tận tay độc giả, mà tiền thì không được bao cấp. Vận động tài trợ, quyên góp mãi in được một tập thơ "cụ" thì xếp để trong nhà văn hoá thôn, đến trẻ con cũng không đọc.
- Các cụ từ nhơ nhỡ về hưu, đến già móm hết mồm hết hồn vía mà bình thơ, thì thà rằng cứ mang thơ người khác ra đọc còn hơn. Mấy bố có dính líu chút ít lãnh đạo thì toàn thơ tổng kết đánh giá, các ông đã tham gia phong trào văn hoá, bị nhiễm thói thị dân này nọ thì toàn thơ dạy đời. Mấy ông giáo toán viết rõ lắm, nhưng toàn là thơ lục bát. Thơ các cụ nào có ra vần, chả có hình ảnh, không có mầu sắc, ánh sáng hay âm thanh. Đọc thơ mà cứ như húp cháo loãng ấy!
Hai ông thật sự hào hứng say sưa, cười nhâm nhi bên chén nước trà.
Bà lấy cớ có việc phải ra chợ. Xưa nay bà vốn vậy, nhường nhịn chồng con đãi khách thành thói quen, không cùng ngồi ăn với chồng khi có khách bao giờ.
- Cháu mời hai ông ạ! - Thằng bán ngan bê một cái mâm to lên đặt xuống giữa hai ông.
- Cháu ở lại cùng ăn với ông cho vui.
- Dạ, cháu xin phép cháu còn có chút việc ạ. Đây là cái mật ba ba tốt lắm, cháu cho vào rượu để hai ông uống cho khoẻ ạ!
Nó xoè bàn tay trong có cái mật to bằng cái đầu ngón tay út cho ông nhìn, rồi lấy dao rạch một đường dốc nó vào cái cốc có sẵn rượu. Màu rượu trắng biến hẳn sang sắc xanh lá cây.
- Cảm ơn cháu. Đúng là thanh niên thời nay, nhanh nhẹn được việc lắm - Ông khen thật lòng.
- Dạ, cháu trước còn là bí thư thanh niên của xã ta đấy ạ!
Nó về không quên chào hai ông lần nữa rồi ra về.
Ông bạn đại tá lại nói về chuyện một thằng đã từng là lính nhà báo, đã có ba mươi năm tuổi đảng tự mình làm đơn xin ra khỏi Đảng. Nó viết đơn là, xuất phát từ nhận thức của nó khi nó được vào Đảng trước kia chỉ là bằng tình cảm, bây giờ nó chuyển sang nhận thức được bằng lý trí thì nó xin ra. Nó cho rằng, đó cũng trùng với quá trình chuyển hoá của chính Đảng, từ ý chí vì dân, vì nước sang chỉ vì sự tồn tại của Đảng.
Câu nói quất vào da thịt ông. Ông bảo :
- Thằng cứt!
Ông thế mà ông vẫn nghe đài địch mới chết chứ, trước kia ông là đối tượng được nghe nên thành quen. Nhưng mà ông đâu có mất lập trường, cái đó là chỉ cho những thằng còn thò lò mũi. Ông còn biết cả chuyện tranh chấp ở Trường Sa, Hoàng Sa, chuyện khai thác Bô xít nhôm ở Tây nguyên.
Ông bạn lại nói tiếp. Nó còn viết:
- Nỗi đau ly tán khoét sâu trong lòng dân tộc, lại lộ ra mỗi khi lãnh đạo nước ta đến Mỹ, đều có những đoàn người của cộng đồng người Việt ở Mỹ rầm rộ biểu tình chống đối.
Ông nghĩ : "Nó định như thằng Phạm Nhan, theo mấy thằng Nguyên Mông học được cái thứ tà ma. Nó dẫn giặc về đánh cả dân của mẹ đẻ ra nó. Nó tưởng không có loại kiếm nào chặt đứt cái cổ họng của nó sao?"
- Còn cái chuyện Dân tộc là gì?
Ông đau lòng lắm, nói ra không hết được. Ông biết cả cái chuyện con mẹ "tiến sỹ" sử học tự xưng không có bằng, chê dân ta quên mất rằng tổ tiên mình là người Trung Quốc từ cái bàn chân lai Giao chỉ lên đến đầu. Đúng là thứ trí sỹ giấy, nhận thức như thế về lịch sử không đáng lấy một xu.
- Ờ ờ ! mà nếu có đóng góp ý kiến với Văn kiện Đại hội Đảng thì sao? - Ông lại thấy có tiếng trong cái ào ạt đang bốc lửa trong đầu - Tất nhiên rồi, nạn tham những hoành hoành ăn rỗng thủng mọi công sở lớn bé. Nếu đã là đảng viên thì chắc chắn là phải vì dân. Bất luận trường hợp nào nếu như có tham những vì cái bụng thối của nó thì chắc chắn là không vì dân. Phải chống đến cùng, phải cho ra nhẽ cho khỏi tổ chức dù nó là ai, không có thì mang tiếng.
* 0 *
Tự nhiên thấy bà hớt hơ hớt hải chạy về, đứng lặng ngó hai ông đang chúc nhau mừng nhân cái ngày gặp lại ở cái làng quê này. Chai rượu cạn hết cả.
Mặt bà cứ tái dần. Mãi đến tối bà mới bảo :
- Chết thật ông có thấy trong người thế nào không?
Ông nhìn bà, gặng hỏi :
- Sao có chuyện gì à?
Bà kéo ông ra một chỗ nói nhỏ:
- Cái thằng chết tiệt ấy nó đổi cái mật ba ba của nhà ta bằng cái mật vịt của con vợ nó. Tôi chợt nghe lỏm được chính thằng chồng nó nói với con vợ nó ngoài chợ!
Ông bạn bên cạnh đã ngả người ra ngủ trên ghế lúc nào không hay.
- Chết. Nó có là người hay là ma? Bà đừng nói gì nữa, phải trông chừng thằng đại tá nó mà làm sao thì tôi với bà cùng chết cả đấy!
Bà hốt hoảng run hết cả như người lên cơn co dật.
Ông loáng thoáng thấy sợ một cái gì không rõ. May mà chỉ ậm ạch cái bụng.
Nửa đêm ông tỉnh giấc nhẹ nhàng, ra khỏi giường để tránh làm mất giấc ngủ của bà. Ông che ngọn đèn cho đỡ hắt sáng ra, lấy một cái cốc to đổ một ít rượu quê. lấy giấy bút. Ông từ từ nhâm nhi chút rượu suông và làm thơ.
Ai còn đợi ta miền sông thẳm
Úp mặt sông vàng chạm nước non
Đường mây trôi mải trời thôi bạc
Mặt đất bằng ngang lặng nỗi lòng.
Con thuyền lạc mũi trong cô vọng
Nguồn ván rời thuyền vỡ mênh mang.
Bể cảnh cạn khô hoang mục vữa.
Trăng mờ sao tán chốn dừng chân.
Trăng ngoài trời vẫn sáng lắm. Ánh trăng hắt qua cửa sổ thành những dài mờ lay động trên mặt bàn. Những gì hào hùng từ đâu cứ ập về. Một chút như luyến tiếc, còn cả những tiếng nổ, một chút như níu gọi cả những day dứt thầm lặng. Chất men nâng ông lên dần, nâng cái chất chứa lên. Trời đêm sáng mờ, rộng mà trong, hắt lên mái tóc đã pha sương. Trận tiền như còn đấy, vẫn rừng rực đang lửa cháy ngày nào.
Chiều về nhạt nắng, ông đạp xe dong ruổi qua những con đường bao quanh làng. Cánh đồng yên ả với những người dân cần mẫn bên khoảng lúa đã lên xanh, ngọn bắt đầu trổ đòng đòng. Xa xa những con trâu quẩn quanh với lũ trẻ như ông lúc bé, lưng trâu hắt lên cái bòng đen mờ giữa ngút ngát màu xanh lúa con gái đang thì, trải rộng ra đến tận lũy tre làng bên một màu xám nhạt trong chiều mưa giăng nhẹ.
Đến một gò đất cao cách khá xa làng, ông dừng lại rẽ xuống. Một thời tuổi thơ chăn trâu, nhiều đứa bạn không dám vào chỗ rậm rạp này . Chúng nó sợ ma cô hồn, sợ những con rắn hổ trâu khủng khiếp. Bao quanh khu mộ ở đấy, những bụi cây dứa dại tốt bời bời, thân to như cẳng tay người lớn, không nơi nào có. Những chiếc lá mép đầy gai, nhọn hoắt vươn đứng lên giữa trời chiều tối đen đen như những thanh kiếm của đám quân âm binh. Góc gò phía đông là nơi chôn những đứa trẻ, góc nhỏ đằng bắc chôn kẻ vô thừa nhận. Ở cái làng này, sao lắm kẻ vô thừa nhận ở đâu không biết cứ tìm về đây rồi chết nhờ, ăn vạ cái làng đã nghèo kiệt này.
Bước chân ông không tiếng động trên lớp cỏ ướt nơi mà làng đã dành riêng cho những thân phận bất hạnh.
Ngọn miếu chênh vênh trên gò đất, nằm một bên góc gò cô đơn buồn. Tiếng gió chiều hu hú trong lùm cây nghe là lạ. Cái miếu nhỏ bên dưới nằm cách gốc cây si, bị cành lá rậm rạp che gần như tất cả. Mái ngói mục ít viên rơi xuống vào trong cỏ đất thành một vùng nâu nâu lẫn trong đám cỏ. Cây si, giờ càng xù xì, thả những chùm rễ xoắn xuýt vào nhau như những búi rắn hổ trâu cố tình che khuất vùng cái mái miếu nhỏ bé bên dưói. Bao quanh trong cỏ lau rậm rạp khu mộ kẻ vô thừa nhận như hoang mang với mươi nấm mồ rải rác lan ra phôi phai phận đời. Cửa miếu không che đậy trong rách nát ở phía đằng sau, quay lưng lại con đường nhỏ dẫn vào. Gò đất bất động ẩm thấp trong đám cỏ dại rậm rạp ngang đầu gối.
Chợt ánh mắt ông quét phải một đôi giày con gái còn rất mới trong miếu. Dù đã biết chắc chắn là như thế, thì bất cứ ai cũng sẽ như ông, vẫn há hốc miệng ra, trước bức tượng trắng gần như khỏa thân, chỉ choàng thay mặc áo bằng một cái váy như cái ống lấm tấm xanh, có hai dải mỏng mảnh đeo qua vai. Cô gái trẻ gục nghiêng đầu, tựa lưng vào vách miếu bên trong, bên cạnh một cái túi nhỏ căng lên, ánh màu bạch kim. Ngôi miếu cổ nhẫn nại chỉ còn sót lại vài hòn ngấm nước mưa như thầm thì che chở, ngước lên bên dưới những đám lá rụng phủ lên chỗ mái ngói mục nát, để lộ những lỗ thủng xộc xệch méo mó như tròng mắt nhìn ra, sâu hoắm.
Ông hoàn toàn không ý thức được phải làm gì, trước kẻ đang như mê mệt ngủ, ông lùi ra xa tìm chiếc xe đạp mà vẫn chưa nhận ra được điều gì ở sự khác lạ vừa thấy. Cảm giác đột ngột cứ rờn rợn từ những chỗ lỗ hổng hở cửa cho gió trên cánh mái miếu làm ông thấy chạnh lòng. Cơn mưa đang nhè nhẹ rỉ rả, vào tận bên trong lòng miếu, réo tiếng u u vào tai ông.
Lúc ra đến đường, chợt ông dừng lại nhận ra, cơn mưa nhẹ giăng, ông lấy khăn lau mồ hôi trán đang toát ra. Linh tính mách bảo ông sẽ có chuyện gì quan trọng đây. Ông quen với những tình huống chết người nhưng là ầm ầm tiếng nổ lẫn trong lửa cháy, còn đây thì không. Ông ngồi hẳn xuống ven đường thở rốc, cần phải nghỉ một lát đã. Ông nghĩ đến cái chết sẽ đến và mang người con gái ấy đi mất.
Ông chợt nghĩ đến cái bãi đất hoang khuất nẻo chôn người chết này, thường hay có những cơn gió quẩn. Đôi khi từ trên không những ngày nắng, gió đột ngột nhào xuống xoáy vào các mộ cô hồn, bốc rốc lên những mảnh lá úa lẫn trong đám bụi mờ. Cơn gió giận dữ nạt nộ cái bất động âm thầm của đám mồ, muốn xoá đi những thứ nhớp nháp lè tè, đen đúa ấy.
Ông nhớ khi còn là trẻ con, ông từng nghe những câu chuyện về cái miếu Cô hồn này có những con rắn rất hung dữ. Ông tưởng ra, chỗ bệ thờ bằng gạch bên trong có chiếc bát hương sứt mẻ, không bao giờ có hương khói ấy, thỉnh thoảng sột soạt những con chuột. Con rắn đang hung hãn lướt qua theo trên mặt bệ thờ. Thân con rắn to bằng cái điếu cày, cái đầu vuông như cái mai cua, cổ đỏ rực cả gang tay lẫn dần vào mầu thẩm đen ánh kéo đến tận mút đuôi. Có thể nó là hiện thân của cô hồn độc địa.
Màn đêm kéo đến trong cơn mưa bụi đứt đoạn, tan biến trong thứ ánh sáng thoi thóp lẫn vào. Lạ thật giờ này chỗ cái con người ấy vẫn không thấy có gì khác Các bụi cây quanh bãi tha ma co lại bí ẩn, vật vờ. Ngoài trời bóng tối bắt đầu xua đuổi vài đợt ánh sáng cuối cùng khỏi đường ranh giới giữa mặt đất với chân trời. Trong cái chia ly nhạt nhẽo, thầm lặng, tiếng dế, toát ra từ những chân cỏ dưới những ngôi mộ thấp rền rĩ, buồn nản. Ông đến chỗ ở phía sau lưng quay ngược ra trước cái bờ mép ruộng dẫn vào chỗ rễ si thả xuống thành một vùng tối tăm, nếu bất cứ ai nếu không phải là ông thì phải đến rùng mình. Đứa con gái kia dám ra những chỗ như thế thì cũng ghê thật, lạ lùng thật.
Ông như nín thở đưa tay lên trước mặt như muốn ngăn cản cái gì. Không được, phải cứu lấy vì đó là mạng người! Không lúc nào đất trời kỳ lạ hơn bằng lúc này, chỉ cần con người tỉnh dậy cựa quậy là sẽ được lập tức bị hồn ma nuốt chửng mà rất từ từ.
Đêm kéo đến quá nhanh cái lạnh phủ lên người ông làm run rẩy đến tận đầu ngón tay. Ông đứng lại chỗ thấp đằng sau miếu dưới cây si. Bóng đêm nơi giống nơi rừng sâu nước độc tuy không làm ông nhụt ý chí được Không được, ông phải kiểm tra lại. Bộ quân phục cũ lẫn nhoà vào trong tán lá đêm. Ông dò dẫm đến bên cái miếu.
Chợt ông chỗ cuối con đường dẫn vào chỗ những mả cô hồn, ông nghe thấy tiếng người :
- Anh đừng! Anh đừng làm thế.
- Em không thể như thế được.
- Anh chưa biết làm thế nào để em hiểu. Anh phải đưa em về Hoà Bình ngay bây giờ Anh không thể để em thế này - Rõ là tiếng thằng Trưởng không lẫn vào đâu được!
- Đừng anh, đừng bắt em về Mai Châu làm gì nữa. Em không về chỗ mẹ nữa đâu. Mẹ khổ vì em nhiều rồi.
Ông cứ lắng tai nghe cái thứ rì rà rì rầm. Thằng Trưởng con ông đang ở đây với đứa con gái như con ma mãnh cô hồn hiện lên ở chỗ bên trong ngôi miếu.
"Đúng là thằng vứt đi !" - Ông nghĩ. Cần phải suy nghĩ đã.
Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trường xương máu của ông, không sao giải thích nổi. Chuyện này là cái gì thì ông thừa đoán ra, nhưng thằng Trưởng còn là con ruột của ông, gì thì gì cũng không để người khác biết được.
Ông lẳng lặng ra về, trong lòng đầy những bóng đêm.
Hôm sau vào lúc tập thể dục, ông lại lấy xe đạp vội lên chỗ tha ma miếu Cô hồn. Ông nhẹ nhàng nhưng bất ngờ đến nhìn vào bên trong lòng cái miếu đổ nát như chưa một lần đến chốn ấy. Chỉ những chỗ ngồi nhẵn, có rải tờ báo nhăn nhúm dưới nền miếu, minh chứng không rõ ràng những việc mà ông sẽ bắt phải bại lộ. "Chà chà, những đứa này hư hỏng thật, chẳng còn ra gì !".
Ông về nhà bảo với bà :
- Gớm thật, bây giờ lại giai gái nữa. Bà phải nhớ cho tôi một điều, không thể để thằng Trưởng như thế được. Bà cũng phải theo dõi nó cho tôi, tôi sẽ có cách. Đừng để đến khi thiên hạ nguởi ta chửi vào mặt cho mới mở mắt ra được. Tôi nói cho bà biết, tôi sẽ tìm ra bằng được cái tổ con chuồn chuồn. Bà chuẩn bị cho tôi cái ba lô cóc đựng ít quần áo. Tôi phải đi vài ngày. Nếu thằng Trưởng có hỏi cứ bảo tôi lên trên tỉnh có việc. Bà nhớ đấy !
Không ngờ câu chuyện đưa ông đi thật xa.
ĐÊM QUÊ
VŨ HỮU TRÁC
Bọn chúng nó hẹn gặp lại nhau ở khách sạn Hướng Dương. Đương trông đầy đặn hơn cả trong bộ com lê mới, nó là kiều bào về nước dự họp ở trung tâm hội nghị quốc gia. Đi theo tôi là thằng Nghĩa hoạ sỹ, trùm áo măng tô san dài và thằng Đậu sứt, em rể ở quê mới lên ban chiều, quần áo có vẻ lem nhem hơn, đứa nào đứa nấy trông già cả rồi, đứa tóc bạc, đứa nhăn má, nhăn trán, mà vẫn mày tao chi tớ. Chỉ còn tiếng nói vẫn oang oang như thời trai trẻ.
Thằng Đương rút chai rượu tây thứ thiệt, đặt lên bàn.
Cô phục vụ váy hồng ngắn rất xinh, cặp mắt màu cánh chả, môi màu hoa bằng lăng chúm chím, đến bên nhẹ nhàng:
- Các anh không dùng rượu nhà em ạ?
Thằng Nghĩa là dân nhà quê nhưng lên ở Hà Nội mãi đến giờ, tỏ ra hiểu biết, nói bừa :
- Bọn anh trẻ cả, mới về nước nên vẫn thích uống thứ quen. Em tính bao nhiêu?
- Chỗ em, sếp là rất chiều khách, nên vẫn cho dùng rượu mang theo. Dạ, chúng em chỉ tính hai mươi phần trăm thôi ạ! Một chai này ở chỗ em dùng cho khách, chỉ tính là một triệu hai trăm ngàn thôi ạ !
Cả bốn đứa nhìn nhau, rượu của mình, mà một chai mất toi hai trăm bốn mươi ngàn phục vụ, đấy là còn tính rẻ!
Thằng hoạ sỹ nhìn sang cười cười, mới từ từ rút trong áo khoác ở hai bên nách ra hai chai rượu nâu nâu, chẳng biết là ngâm cái gì, khoe :
- Rượu Việt, rượu Việt hay lắm! Ngâm cái thứ cần ngâm đây. Bổ các thứ lắm đây, bổ cả đuôi đây!
Cô bé nhân viên chịu, không nói được gì. Có tính cũng chẳng là bao, lẳng lặng đi vào trong.
- Thôi được, để cái thứ này mai về nhà thằng Đậu chơi uống tiếp.
Cái thứ rượu ngâm hăng hắc lạ kỳ của thằng hoạ sỹ mà uống vào dễ như không, mà say đến cả chấy, người thì cứ hục hực giật. Nó bảo có đủ cả hổ cốt, ngựa bạch gì đấy, nhưng kệ, có giật đùng đùng lên thì cũng hết date cả rồi, có lẽ chỉ trừ cái thằng Đậu sứt, trông vẫn còn vâm váp lắm.
Cái thằng hoạ sỹ lại chạy ra xe ôtô rút tiếp một cái gói giấy bèn bẹt vuông cạnh gần mét. Mọi người háo hức ngừng nhậu, chờ xem. Nó lôi ra, giơ lên, thì ra hai bức tranh có đề chữ “Tặng Đương” có cả chữ ký nó to như con rết đỏ ngoằn ngoèo, rất rõ ràng.
Thằng Đương cúi xuống, nhìn chằm chắm vào bức tranh. Nó vẫn phục tài vẽ thằng Nghĩa từ bé, nhất là lần vẽ cái đống rơm xù với con trâu đứng bên cạnh nhai rơm. Con trâu chắc là trâu dái vì có cặp sừng to cong vút, thì nó không quên. Nhưng lần này, bức tranh làm nó giật mình, màu sắc không thể chê được. Nó đăm chiêu như chìm vào ký ức.
Vài con đò bên bờ sông sóng chao trong bức tranh in những cái bóng vỡ ra trên mặt nước, có màu gì giống con sông Đáy ở quê. Những đứa trẻ nô đùa trong gợn sóng lòng sông bàng bạc, như lạc trong sương mù làm nó nhớ những lần hồi cả lũ còn tắm truồng. Chỗ bến đò quê có mấy cái quán nước, mái cong cũng lượn như sóng trong mây, lại có vẻ như bồng bềnh ấy, ôi cái tấm phên nứa đan vắt lên làm mái, chỉ che được nắng không thể che mưa, giống như cái lều bán hàng của mẹ nó chỗ bến đợi đò. Cái cột bằng thân tre xiêu vẹo, làm nó như thấy cả đoạn thân còn sần sùi mấu mắt, có chỗ bóng lên vì tay người cầm nắm.
Lại một bức tranh nữa. Bỗng nó cúi đầu xuống, một lúc khi ngẩng lên mắt nó còn rơm rớm. Tranh vẽ cận cảnh dưới chỗ cây cà pháo hoa nở tim tím cạnh những quả tròn tròn, vài quả ớt chỉ thiên đỏ thắm be bé, của cây cao hơn bên cạnh, chổng ngược đuôi lên trời, làm ký ức nó không nguôi mỗi khi xa nhà :
- Cái thứ này mà mang sang Tiệp khắc, hay Pháp bán rẻ không dưới hai ngàn đô Mỹ. Nó định nói thêm ở Zechslovak mà bán cho Việt kiều ấy, nhưng nó thấy không cần nên dừng lại. Nó hiểu lòng thằng Nghĩa.
Rời khách sạn Hướng Dương. Thằng Đương hẹn :
- Tao có cái thứ này tặng chúng mày, nhưng sẽ trao ở hôm gặp nhau ở nhà thằng Đậu.
- Hay lắm. chúng mày về câu cá trong hồ của tao. Được con nào chén con ấy nhé! - Thằng Đậu hớn lên.
Thằng Đậu nó là em rể tôi, nhưng thỉnh thoáng vẫn quen mồm như thế, nghe rồi cũng không sao.
Hoá ra thứ để tặng của thằng Đương, là chuyện kể về ma quê.
…Bọn con trai bốn đứa lúc nào cũng xoắn lấy nhau. Cái nóng cũng không làm chúng để ý. Gió chỉ làm cho nắng đỡ rát hơn một tý. Chiều về đã muộn, trời vẫn đỏ rực. Con gà mẹ xã cánh thở như cố hết sức để đẩy cái nóng hực bên trong ra, che chở đàn con thỉnh thoảng lại chạy tản ra xung quanh.
Bọn chúng toàn những đứa nhanh nhẹn. Mỗi đứa chỉ có độc một cái quần cộc, người ngợm đùi vế đen mẫm, còn tóc thì cứ hoe hoe, chẳng ra đen ra đỏ. Chúng rủ nhau đi bắt cá trê. Cá trê chỗ ao làng tuy nhỏ một tý nhưng dễ bắt vì bàn tay chúng còn bé. Lão Tường chột mắt người như bộ xương, cứ hay rình theo chúng. Lão thấy bọn nó bắt được cá trê thì thích lắm, lão bảo : “Cá trê à, nướng mà nhắm rượu thì nhất !” Lần nào bắt được nhiều, chúng đều biếu lão Tường mấy con.
Cái giống cá trê đào hang mà bắt như lúc sáng, thì còn to hơn nhiều. Lúc ở đống Miễu thấy có một rãnh nước nhỏ, đen đen rỉ ra ở một lỗ bé chỗ một gò đất gần bờ ao, chúng hăm hở đào thành một cái hố. Thì ra là một cái hang bên trong chỉ to bằng cái bắp đùi, có một chút nước lờ lờ, không ngờ có đến gần hai chục con cá trê to hơn cổ tay da vàng ươm, béo mẫm.
Cái giống cá trê có ngạnh độc lắm. Thằng Điển bắt nó phải lần lần chộp từ phía đầu xuống, tỳ đầu nó vào lòng bàn tay, hai ngón tay móc giữ chặt hai cái ngạnh hai bên nhấc hẳn lên. Nếu mà để nó quẫy một cái, cái ngạnh sơi cho là đi đời, cứ gọi là bàn tay sưng vù lên, đau hàng tháng. Mấy đứa dành nhau, nhưng thằng Điển giao cho thằng Đậu mang cải giỏ nặng những con cá trê vàng.
Về đến đầu đình làng, chợt thằng Đương nói:
- Tao không thích ăn cá trê đâu.
- Thì ai bắt mày ăn, càng tốt! - Thằng Đậu nhấn mạnh bằng cái đá bụi mù vào đít quần cho thằng Đương.
- Cá trê ma đấy, chúng mày không biết chứ chỗ ấy là cái mả ma.
Không đứa nào nói một lời. Thằng Điển nghĩ, giá mà còn lão Tường cứ cho lão mấy con, lão chấp hết, ma mãnh gì chén tuốt. Lũ chúng chợt nhớ, thấy lởn vởn trong đầu về cái chết của lão Tường. Lão không còn đi theo, cũng không thể đến chơi hay còn biếu cá trê cho lão được nữa.
- Cứ để đó cho tao. đứa nào nữa rút lui thì càng tốt - Thằng Đậu chẳng sợ, nó không tin chỗ ấy là cả mả ma.
Lão Tường bị chết đuối hôm qua, người lão trương phình dưới ao. Cái ao ấy ngày trước có một bà già cũng chết đuối ở đó, nên gọi là ao Bà già. Cái lưng lão lẫn trong đống rẻ rách nổi lên trên mặt ao, chỗ đen chỗ trắng nhợt, xôm xốp. Mặt lão Tường về già đầy nếp nhăn, lúc lôi được lên bờ, thấy cá rỉa bét cả mặt ai cũng phải rùng mình, không dám nhìn. Cái sẹo to tướng do bị trâu húc thủng má lúc còn bé, nhăn nhúm nhe cả răng. Lại thêm con mắt chột, lúc nào cũng trợn ngược trằng xoá một bên, ban đêm ai nhìn thấy cũng sợ hết hồn. Thày bói bảo lão vào chết giờ ấy, thiêng lắm, hồn ma sẽ hiện lên lúc nửa đêm nay. Ma lão còn lẩn quẩn ở gò đống Miễu còn lâu, thỉnh thoảng nó lại về gõ cửa nhà người quen cũ nữa.
Phía chân trời, những đám mây chiều đen kịt lượn lờ, cứ trêu tức sự thèm cơn khát nước của con người. Đám cây lau, bờ ruối lá xoăn lại, khô quắt đang chờ mưa.
Lũ con trai vẫn cứ đầm mình dưới ao làng. Đứa con gái ngồi tránh nắng dưới tán rặng tre, mắt nó dõi theo cái đám ma nhà lão Tường, chỉ một dúm người đi đưa đám đang xúm lại chỗ ngôi mộ mới.
Thằng Điển lớn hơn cả, trèo lên bờ trước tiên, cái quần cụt trễ tụt xuống. Nó vội lấy tay giữ chặt mép bên cạp :
- Về về. không lại bị ăn đòn bố bây giờ.
- Ứ có quần, Ứ lên !
Lũ trẻ nhìn nhau, lại nhìn nhanh về phía cái Làn. Nó vẫn quay mặt về chỗ đám ma. Cái Làn nghe mẹ nói với bố nó, là đám nhà ấy bộ áo quan bằng gỗ gạo mua bằng tiền người nhà đi vay của nhà ông Hai Lạng, rồi chưa biết đến bao giờ mới trả. Nhà lão Tường nghèo lắm, căn nhà lão trống huơ trống hoác. Lão không có người thân thích gần nên ở một mình, say rượu chết đuối dưới ao Bà già đã ba hôm mới nổi lưng lên, trông ghê lắm.
Thằng Đậu, thằng Đương chạy ào lên đứng chắn thành bức tường che cho thằng Nghĩa đang mặc quần ở phía sau. Chúng nó đâu biết, lúc cả bốn nhảy xuống tắm thì cái Làn lại ra ngồi dưới rặng tre. Cái Làn là em gái thằng Điển, Nó còn bé, ít tuổi hơn thàng Điển tới ba, bốn tuổi nhưng chăm lắm, suốt ngày lo chuyện con gà, con lợn giúp mẹ. Buổi sáng hết học về, cứ hì hụi dưới bếp, mặt mày đẫm mồ hôi. Thằng Điển không nỡ đuổi em đi chỗ khác. Tự nhiên nó gọi :
- Cái Làn lại đây!
Làn quay lại, đi về phía ấy để xem anh nó bảo gì.
- Tối nay tao và thằng Đậu, thằng Nghĩa và thằng Đương sẽ ra xem cái mả mới. Mày có dám đi với chúng tao không?
- Không! Em sợ lắm. Sao ban ngày không đi lại để đêm mới đi?
Nó cũng tò mò lắm, rất muốn đến tận nơi để xem mả ma lão Tường như thế nào, nhưng mẹ nó cấm không cho ra.
- Mày không biết là bố đang ở đấy, ra mà ăn đòn à.
- Chập tối tao nhờ mày một việc. Tao cấm mày nói với mẹ nghe không?
Chúng lại rủ nhau rình lũ diều hâu. Diều hâu to như con gà trống choai, nhưng sải cánh thì dài hơn nhiều. Giống ấy mà đắp đất bùn nướng cháy bằng rơm thì hết chê. Bửa cái đống đất nung dính chặt với lông và da con vật ra, ôi cha thịt ngọt mà thơm lừng luôn, mới ngửi mùi là đã thèm rõ rãi tong tong.
Mấy đứa ghê nhất là cái mỏ loài chim này, không chỉ rỉa một nhát trúng đâu là bay đấy một miếng thịt bằng ngón tay cái, mà nó sơi một cái vào mắt là lôi luôn ra một đống to ra, để khỏi phải nhìn. Chưa nói cái vuốt ở kheo chân chỉ loáng một cái móc ngang, như miếng đá của một võ sỹ là móc chặt được bất cứ cài gì nó cần, còn bộ móng chân thì thôi khỏi nói, bất cứ con gà, con chuột lớn hay con chó con nào, nếu mà nó đã xiên vào, bấu chặt thì có chạy đằng trời.
Thằng Điển, được coi như thằng có phép thuật và giỏi tránh đòn, tài bắt diều hâu. Nó hoá phép một cái chỉ trong vài tích tắc ấy thế là tóm được ngay một con phải to bằng cái mũ. Cái giống diều hâu, khi vồ nó phải có cái quần đùi, hay cái bao bố. Nó bảo vậy. Mấy lần nó bắt thằng Nghĩa phải đưa quần đùi đang mặc, cho nó vồ diều hâu. Thằng Nghĩa tức lắm nhưng chịu tài nó đành phải nghe theo. Mỗi khi bắt được một con to, thằng Nghĩa khoái quá là nhảy cỡn lên, may mà không có ai nhìn thấy.
Hai con diều hâu bay tít trên cao, nó lượn từng vòng tròn như vô hại với bất cứ thứ gì bên dưới. Lũ chuột đồng to nhiều lần chứng kiến những cú lao rạp mình từ trên không ấy xuống cái “xẹt” vồ ngay bên cạnh, nhanh như chớp làm biến mất một con chuột còn đang mải rung cái râu, lơ ngơ đứng ngoài lỗ ổ.
Lần này cũng vậy, thằng Điển chuẩn bị cả lưng chậu thau đồng nước ớt cay xè, đem lên giữa cái gò cao có nhiều chuột ở đống Miễu, chôn ngập đến tận vành chậu. rồi lấy cỏ phủ lên, chỉ chừa lại một ít ở vành chậu hai phía. Nó cẩn thận gác hai cái đũa tròn trơn nhẵn ngang qua chỗ hai bên thành chậu đối diện ấy. Nó còn cẩn thận luộc chín hai quả trứng vịt, gác vào giữa hai cái đũa mà không để bị rơi xuống nước ớt. Nếu chẳng may con diền hâu nó giẫy đạp không làm vỡ phí mất quả trứng. Nó bảo:
- Cẩn thận cái đầu đầy nước ớt của nó sẽ vẩy. Phải ti hí không mà bắn vào mắt, có mà mù luôn.
Nó chia đôi chúng thành hai nhóm, nấp vào chỗ khe giữa hai cái mộ. Thằng Nghĩa, nấp cùng một chỗ với thằng Đậu, nó là thằng cứ hay nhấp nhổm, nói không được. Thằng Đậu tức lắm bảo:
- Mày có yên đi không, cái đít thì trắng hếu ra. - Nó lấy tay ấn mạnh vào mông, dí đít thằng Nghĩa xuống đất, phủ cỏ lên.
Hai con diều hâu gần như cùng một lúc lao xuống từ trên cao tít, nhanh đến nỗi mắt không kịp nhìn thấy. Chúng giành nhau quả trứng.
- Ùm …ùm!
- Bụp bụp…bụp bụp! - Hai con lao lên rồi lại rơi ngay xuống vẫy cánh loạn xạ.
Thằng Điển lao ra từ chỗ nấp. tay nó huơ huơ cái quần đùi của thằng Nghĩa.
- Tiến lên! - Nó hô to, ra lệnh.
Thằng Đậu được phân công nhảy ra vồ một con bằng cái bao tải rách nhặt được chỗ đống Miễu. Thằng Nghĩa chạy lại, loay hoay một tý rồi xông vào tóm được hai cái chân, thằng Đậu thì vồ được cái cánh. Con diều hâu to hơn con gà mái mẹ đập một cánh thật mạnh mát lạnh cả lưng, nhưng không sao thoát được hai thằng đang đè nghiến nó xuống. Thằng Đậu hô :
- Coi chừng cái dái mày, dí vào mỏ nó kìa!
Khi nó biết là con diều hâu bị hai tay tóm chắc hai chân và cái đầu, không còn thể thoát được nữa, Thằng Đậu cười hấc hấc lên, hai tay giơ con diều hâu lên cao, hai cánh to cứ quạt phành phạch, rồi nó gào tướng lên, khoe cái mồm có cái răng cửa bị sứt :
- A…a…ha ! Ha…ha !
Thằng Điển đang đè được một con, đúng lúc nó vặc vặc cái đầu có cặp mắt nháy nháy đầy ớt. Bất ngờ thằng Điển bị con chim tặng cho một cú đạp làm nó phải nghiêng mặt tránh. Cú đạp mạnh nhưng với của cả hai chân vào ngực làm thằng Điển đau quá, thả tay ra. Thằng Đương, nhảy đến tiếp sức, vớ ngay được cái quần đùi văng ra, đè lên, giữ rịt bên mép ấn xuống. Thằng Điển vừa hết bàng hoàng, nhảy lên hét:
- Giữ chân, mày giữ chân. Tao tóm được đầu nó đây rồi !
Lại tin đồn bụi tre ma bậy bạ của bọn lớp dưới. Nhớ lần gặp ma tre, cả lũ sợ nôn ra mật xanh mật vàng. Vụ ấy thằng Đương phục thằng Đậu lắm.
Hôm ấy tan học về, trời đột ngột làm ra một cơn bão to ghê gớm. Cây cối, luỹ tre đổ rạp xuống đường. Bọn trẻ bị thày giáo cấm không cho ra khỏi lớp để chờ người nhà đến đón. Nhưng cả bốn thằng chẳng có ai đón, mà mãi đến tối mịt, ngớt mưa, thày giáo mới cho về. Ai dè lúc đến chỗ rặng tre đầu làng đã tối mò. Đèn đóm không có, chỉ những tia chớp xa nhấp nhoáng sáng trong những bóng hàng tre cây rã rượi lả ra, rũ xuông tận mặt đường. Bóng hàng tre dài lắm, cứ nhập nhoạng đen đen, đi mãi không hết. Những cơn gió còn sót thi thoảng ào một cái làm đám cành tre rậm rịt tên đầu đổ ào nước xuống người. Đứa nào đứa ấy ướt lướt thướt. Vào đến đoạn giữa, một cây tre cành lá ùm tùm đổ chắn ngang đường, vặn vẹo gục cái đầu tã tượi qua tận mép ao bên kia đường. Ghê quá, cả lũ nhìn nhau. Phải đi qua cái thân tre to bằng bắp tay người lớn đang lắc lư như ma kia thì làm thế nào?. Ê ê, tự nhiên cây tre từ từ đứng dậy.
Cót két…ừ…ừ…kẹt, kẹt.
Thằng Đương hốt hoảng, nói đứt hơi :
- Ma…ma tre !
Cây tre đứng nghiêng lên, gục cái đoạn đầu cành lá ướt sũng, ngó nhìn chúng. Thằng Nghĩa ngã phệt xuống mặt đất đầy bùn nước, mặt nhợt ra. Cây tre nó lại rung rung cái thân xoà nghiêng những cánh tay lòng thòng những nước, chới với.
Thằng Điển thấy lạnh hết cả sống lưng. Nó mà chạy thì cả lũ sẽ chạy đè lên nhau ngay. Nó còn là vai trò thủ lĩnh, không thể làm thế được. Nó nhắm mắt lao vụt qua dưới thân cây tre, chỉ cách mặt đất vừa một đứa đứng khom.
- Ầm !
Cây tre đổ ập xuống, cả lũ nhớn nhác, mặt xanh như tàu lá, không biết làm gì, may quá thằng Điển lao ra khỏi chỗ cây tre vừa kịp.
Thằng Đậu là thằng to gan nhất. Nó nhìn quanh, thế mà nó hình như kẻ ngủ mê, từ từ tiến về phía cây tre. Trong bóng sáng qua tán lá le lói, ánh mắt hoảng sợ của thằng Nghĩa thực sự xanh lè, hãi hùng nhìn theo, nhưng nó hoàn toàn không còn thấy cái gì.
Bỗng nhiên cây tre lại từ từ cót két…cót két, đứng lên lần nữa. Tiếng thằng Đương kêu líu cả lưỡi:
- Chạy đi ! chạy …đi !
Thằng Đậu đã bước một chân lên thân cây tre, không lùi được nữa. Nó cuống lên túm chặt thân cây bằng cả hai tay, giáng cả cái mông xuống, cái vạt áo văng lên che kín mặt nó.
- Két…két…
- Phựt!
- Hà, hà…hà!
Không còn một đứa nào còn tý máu mặt. Cây tre vặn mình dằn mạnh xuống đất. Thằng Đương, thằng Nghĩa cuống cuồng phóng vọt về phía ngược lại.
- Hé… hé.
- Giỏi…giỏi !
Thằng Điển quay nhanh sang chỗ có tiếng người. Mấy bóng lố nhố áo mưa đen đen, xanh xanh trong chỗ bụi cây tre :
- Được lắm, mấy chú em lớp bốn. May mà dây kéo bị đứt! Bọn anh đã cho bao nhiêu thằng chết khiếp, về hôm nay không ăn được cơm. Thằng ranh này khá đấy. Không sợ à?
- Sợ… không sợ! - Thắng Đậu giọng run run, nó nói cứng. Thực ra nó đang sờ tay xuống dái, xem có còn hai cái hột be bé không. Chúng nó chẳng bảo, sợ quá thì thọt dái lên cổ à. Mất dái thì chết. Mãi khi thấy được hai quả cà pháo, nó mới yên tâm thở hắt ra, phì phò như trâu sắp chết.
Thằng Điển đứng ngây như phỗng, tự nhiên nó nôn ra thứ gì xanh xanh, vàng vàng không biết có phải là mật không. Thì ra mấy ông lớp bảy làm bẫy doạ trẻ con chúng nó. Cái Làn nghe anh nó kể lại cũng sợ chết khiếp.
Bây giờ cái lũ chúng phóng đi rất nhanh vừa đi vừa chạy, thói quen mà. Chẳng thấy lúc nào hai chân cùng dính đất.
Tiếng thằng Nghĩa cứ hổn hển, dồn dập :
- Tao không ra chỗ người chết ban đêm đâu! Bố tao biết bố tao nện chết đấy! - Nó tưởng tượng ra cái mặt lão Tường lỗ chỗ toàn những hố mất thịt sâu hoắm lộ cả cái hàm răng ra bên má và cả con mắt chột một bên trắng dã cứ nhìn nó.
Thằng Đậu không nói gì vừa chạy mắt nó vừa nhìn lại chỗ ấy. Nó là thằng ít nói nhưng lại rất tò mò.
Thằng Đương vừa thở vừa nói :
- Ra chỗ người chết tao ghê lắm. Mặt ma lão Tường toàn hố cá ăn với xương hốc mắt lõm vào thế này này. Mẹ tao bảo, ma tươi đứa nào đến gần là nó túm cổ giữ chặt không chạy được. Tay nó dài lắm, cả cái lưỡi xanh lè, thè dài ra như thế này này! - Tay nó chợt đưa lên mặt đụng phải cái lưỡi đang cô thò ra khỏi mồm, rồi dừng lại rùng mình. - Nó mà liếm một cái thì đi đời!
Thằng Điển giơ tay ngăn chúng, tất cả dừng lại. Nó nói có vẻ cứng vì dù sao nó muốn tỏ ra vai trò của nó:
- Có bốn cái que đã đánh dấu, nghe chưa? Nhìn cho kỹ đây, nó chỉ dài có một gang tay người lớn, tao chặt ở bụi cây găng. Tối tao sẽ bảo con Làn mang những cái que này ra mộ mới lão Tường, giấu trên góc mộ ở bốn xung quanh. Nhiệm vụ mỗi đứa là đúng nửa đêm phải mang về bằng được một chiếc. Tập trung ở đầu đình nghe rõ chưa?
- Mẹ tao biết thì chết!
- Bố tao nện chết tao!
- Miễn chúng mày. Cứ giả vờ ngủ, đến gần nữa đêm rồi chuồn ra. Đứa nào mang về trước, chờ bằng được đứa sau ở đấy. Nhớ không?
Đêm ấy thật là khủng khiếp với từng đứa, dò dẫm trong cái đêm không trăng mờ mờ trên đống Miễu, không một bóng người. Mỗi lần nhớ lại, lạnh toát cả sống lưng.
Nửa đêm, người về đích đầu tiên là thằng Đậu. Lúc nó ra mả lão Tường, rõ ràng nó thấy một cái gì cong cong như cây gậy đen đen dài dài ngọ nguậy, thập thò ở bên cạnh cái mả mới, có một ít cỏ mới đắp của lão Tường. Nó đứng như trời trồng. Con rắn trườn qua sát cạnh chân nó, may mà con rắn bỏ đi không phóng cho nó một nhát răng. Nó hoảng lên, đã định chạy những nghĩ sao nó vội vàng lao vào góc mộ, chỗ có cái tấm gỗ cắm thay cái bia,cuống quít sờ soạng. Một cái gì cứng cứng chạm vào tay nó. Nó biết chắc là cái que rồi vì cái Làn đã ưu tiên ghé vào tai nó bảo cho riêng nó biết được bí mật trước mà. Vớ được nó rồi. Tự nhiên nó lạy lão Tường mấy lạy.
Phụp. Phụp…phụp !
- Ối…ối !
Cái mả lão Tường tỉnh giấc, phụp lên mấy cái. Luồng lửa xanh vụt lên cao một đoạn rồi mở rộng quấn quít, bay vòng ra. Lại phụp, phụp. Nó co cẳng, tung người cố chạy, chân nọ cứ đá vào chân kia đau điếng.
Thằng về sau cùng là thằng Nghĩa. Nó nói không ra hơi. Mặt nó trắng nhợt trong đêm trông như ma. Nó cứ tự động viên mình, cố ra đến chỗ cái mả mới, nếu không sẽ bị chúng nó coi còn chẳng ra gì. Suýt nữa thì nó lăn đùng ra. Thứ ánh sáng lân tinh bọc lấy nó. Nó rối rít :
- Cháu lạy lão Tường, cháu lạy lão Tường. Lão đừng bắt cháu, mai cháu…cháu sẽ bắt cá trê để mang cúng lão, để lão nhắm rượu!
Cái que dài gang tay được thằng Điển dánh dấu bằng hai cái khía chéo nhau, được từng đứa cất giữ cận thận như một bằng chứng ghi nhận sự dũng cảm tuyệt vời của chúng nó, chắc chắn là không sợ ma tí nào. Những đứa dám mò ra chỗ mả lão Tường lúc nửa đêm ngoài bãi tha ma, không một bóng người mới biết là có sợ hay không! Chỉ có cái Làn được phân công đi cắm que từ lúc chập tối là không có.
Cái Làn là con gái mới lớn, hiền lành, mà càng lúc lớn mười ba mười bốn, lại càng xinh mới chết chứ. Biết đâu ma nó hay để ý, mẹ nó bảo vậy. Mẹ Làn dặn :
- Con gái con lứa, lớn rồi đừng có ra những chỗ tối khuất. Làng ta là lắm ma lắm. Số con thày bói bảo có Đào hoa với Hồng loan, xinh đấy nhưng dễ bị ma bắt đấy.
Hôm cả lũ vắng nhà. Mẹ Làn bị đau răng, mặt bên trái sưng lên, đỏ ửng, ăn uống khó khăn. Mẹ bảo Làn:
- Con đi tìm xem có cây bàng nào còn lá, lấy cho mẹ ít búp về đập dập ra ngâm rượu. Người ta bảo, ngậm búp bàng ngâm với rượu sẽ khỏi đau răng đấy.
Nó là con gái nhưng giỏi leo trèo không kém bọn con trai. Anh Điển chạy đâu mất, nên bất đắc dĩ mẹ mới nhờ nó. Nó có ngờ đâu. Mùa thu, cây bàng rụng lá rơi hết, cành bàng chỉ còn là những đoạn thân khẳng khiu, như toàn giơ những cánh tay đen đúa lên trên trời. Chỉ những cây thật to mới còn một ít lá, đỏ loè, tít cao trên ngọn. Cái Lan nhớ đến cây bàng thật to chỗ miếu Ba Cô, chắc bây giờ chỉ cây ấy nó mới còn có búp. Nó thấy ghê ghê, nhưng nỗi thương mẹ đau răng, làm nó quên hết. Nghe đồn miếu ấy thiêng lắm. Mọi người làng ai cũng tư rằm mùng một, đem đồ lễ vật lên cầu cúng, xin Ba Cô cái gì đều rất linh nghiệm.
Nó như con thạch thùng, bám vào những cái mấu to tướng ở thân cây bàng cổ thụ to bằng mấy người ôm sau miếu Ba Cô, leo lên. Những cái mắt như những con mắt của lão Tường lồi ra, trắng nhởn hăm doạ nó, Nó cố trèo lên tít tận gần ngọn. Từ trên cao nhìn xuống. Đúng là chưa bao giờ nó thấy ghê thế, nóng hết cả mặt. Cái miếu bên dưới như thẫm đen lại, mà hình như có con mắt ai vẫn đang nhìn theo nó.
Nó rùng mình, không dám trèo ra những cành nhỏ hơn. Nó dấn dứ mấy cái kiểm tra, đặt chân lên một đoạn cành to gần bằng cổ tay vì nó sợ gẫy. Tay nó với với một cành khác ở bên, nhưng chưa tới được. Đúng là chỉ có cây bàng này, ngọn mới còn búp. Nó nín thở bước lên thêm một bước, túm được một cành bên trên kéo xuống, run hết đến cả người, cả tay và nhất là hai chân. May quá không việc gì. Nó hái một lúc được cả một nắm năm sáu cái búp, rồi cho vào cái túi áo ở vạt trước, rồi tìm cách lần xuống dưới.
Bỗng nhiên nó hoa hết cả mắt, nó không còn thấy gì. Trước mặt nó có cái gì trăng trắng che cả mắt, lại lùng nhùng, mờ mờ xanh đỏ. Có sợi gì như tơ nhện mỏng bay vật vờ chéo qua dính vào mặt làm nó không còn thấy gì được. Nó bỏ một tay đưa lên dụi mắt.
Chỉ một loáng sau, nó thấy nóng ran hết một bên mặt. Chợt nó nghĩ phải rất từ từ mới tụt xuống được, nếu không sẽ ngã gẫy xương. Nó lần mò tìm những mấu u lên sần sùi ở cái gốc như người bướu cổ, làm chỗ tỳ để trèo dần xuồng. Không nhớ làm sao mà nó xuống được đến đất, mà chỉ bị rát một bên mặt. Đúng là nó gặp may, Nó vừa chạy vừa dụi, vừa lau nước mắt đang cứ dàn dụa chảy ra.
Chỉ về kịp đến nhà, khi nó vừa bước chân vào sân, mẹ nó hớt hơ, hớt hải chạy ra, nhìn nó rồi kêu váng lên :
- Con Làn, làm sao thế này?
Một bên mặt của nó như phải bỏng, sưng vác lên to bằng nửa quả bưởi đỏ mòng mọng, chính nó cũng không ngờ sao mà nhanh đến thế. Nó không còn nhìn rõ mẹ, chỉ nghe tiếng mẹ hốt hoảng :
- Mày lại lên chỗ cây bàng ở miếu Ba Cô phải không? Khổ rồi con ơi! Ai bảo con dại dột thế. Chết tôi rồi, tôi làm khổ con tôi rồi!
Các loại thuốc chữa trị, không hề làm cái mặt nó bớt sưng. Người Làn nóng như cái nồi nước sôi. Nó nằm bẹp trên giường hai ngày. Mẹ Làn vội sắm lễ, đội một mâm sôi có đĩa thịt, lên miếu Ba Cô xin tạ tội cho con. Lúc từ miếu Ba Cô về, mẹ nó gọi nó dậy, lấy ra một bát nước thánh bắt nó cúi đầu dí mắt vào. Chả biết thế nào mà mẹ nó cứ vái lạy cả nó. Thế mà linh nghiệm. Chỉ một lát mặt nó bớt sưng hẳn đến chiều là khỏi tiệt.
Chúng nó phải đi học cấp ba ở trường huyện phải trọ học cách nhà gần chục cây số, mỗi tuần chỉ được về nhà một tý để lấy gạo, nhưng lần này thằng Điển về trước đã ba ngày.
Chúng nó tranh thủ hẹn gặp nhau ở chỗ cổng đình. Thằng Điển xuất hiện lù lù, mặt mũi méo xệch nước mắt ngắn nước mắt dài :
- Con Làn nhà tao nó chết rồi! - Thằng Điển nấc cụt - Nó lớn lên xinh thế, ngoan là thế mà chết mất rồi - Thằng Điển lại nấc rõ to, thông báo một tin giật bắn mình.
Cả thằng Đậu, thằng Nghĩa thằng Đương hôt hoảng trước cái tin dữ, không thể tin được. Tiếng thằng Đậu :
- Mày nói sao? Em Làn chết à?
- Thật không ? Chết là chết thật đem chôn như lão Tường ấy à? -thằng Đương hỏi chen vào.
- Ừ - Thằng Điển nghẹn ngào, gạt nước mắt - Nó đang ở trên giường giữa nhà ngoài, nhưng chưa chôn.
Chẳng biết gì nữa, lũ chúng nó vứt tất mũ áo, lao xe đạp phóng như bay chạy về phía nhà thằng Điển. Thằng Đậu ngồi sau xe còn ngoái cổ nói với lại:
- Mày mà bịa chuyện, thì mày chết với tao!
Câu chuyện tưởng như đùa, loáng thoáng nghe được ở Làn. Buổi trưa nắng gắt lắm, Làn đi làm ở đồng về, đến gốc cây đa cụt ngọn, đã thấy ở đó chỗ gốc cây, có một bà cụ già, đang uống một cốc nước đục như nước gạo cho đỡ con khát. Làng quê đấy, lúc vội hay khi trưa nắng không kịp có nước uống, người ta cứ uống bừa thứ nước ruộng đục lờ. Cầm bên mép cái nón vục xuống ruộng, gạt gạt cho hết váng rêu vàng vàng, múc một ít nước uống ực, ực là xong, mà vẫn vậy chẳng sao. Nhìn bà lão uống nước, Làn thấy cơn khát tự nhiên dữ dội hẳn lên.
Bà cụ rót từ trong cái ấm đen xì đưa cho Làn một cốc nước đục trăng trắng bảo :
- Cháu uống đi!
Trưa hè nắng khát khô cả cổ, cơn khát làm Làn đầm đìa mồ hôi, đỏ hết cả mặt, càng làm cho Lan nhớ nước. Làn dừng lại, bảo với bà :
- Nước có mùi thuốc sâu bà ạ. Uống làm sao được?
- Cứ uống đi không sao cả đâu! Bà cũng uống mà.
Bà già lại tự rót cho mình một cốc thứ nước cũng trắng như màu nước vo gạo trong ấm, uống tiếp ừng ực.
Làn uống hết cốc, thấy ghê ghê trong cổ. Lan lại đang vội về, sợ mẹ ngóng.
- Cháu chào bà. Cháu cảm ơn bà.
Thằng Điển không nhớ được gì nữa trong mấy ngày qua bỏ học trên trường huyện về trông em. Nó cứ vừa sụt sịt, vừa rên rẩm bên giường của Làn ở bệnh xá xã :
- Mày ngu đến thế à? Mày đã đi phun thuốc sâu rồi thì mày phải biết chứ, sao lại cứ uống thuốc sâu là làm sao? Mà cái bà ấy ở đâu, mày có biết mặt không?
- Em không nhớ, thấy mặt đen đen mà nhăn nheo lắm, bà ấy hình như không phải là người làng ta. Bà ấy xong là đi luôn, em cũng vội về nên không nhớ.
Người Lan nóng hầm hập như cái lò than. Cô y sĩ nói:
- Em nó lạ lắm, hễ gặp bác sỹ là nó khoẻ như không. Đưa lên bệnh viện huyện là lại trả về. Bác sỹ bảo không có việc gì. Hễ về đến đây lại cứ sốt đùng đùng lên!
Lan ngồi dậy, nói với anh nó :
- Anh cho em về, đằng nào em cũng chết, chết ở nhà còn hơn!
- Cái con dở người này, sao mày nói thế? Muốn về thì tao cho về không được gở mồm ! - Thằng Điển lo sợ đến trào nước mắt vì câu nói gở của em nó.
Về đến nhà Lan bảo :
- Anh Điển gọi bố mẹ lại đây. Em bảo.
Mẹ nó mang được bát cháo vừa nấu từ bếp lên. Làn bảo :
- Bố mẹ ạ, con sắp chết rồi, chẳng ai uống thuốc sâu mà sống được cả.
Mẹ thằng Điển đánh rơi cả cái cát cháo xuống nền nhà, vỡ oác ra.
Thế là Làn lên giường nằm thẳng người chết luôn, để lại không biết bao nhiêu nỗi tiếc thương cho người nhà và những kẻ như bọn thằng Đậu, thằng Đương, thằng Nghĩa.
Chúng nó quyết định ở lại không về trường, mắt đứa nào đứa ấy đỏ hoe hoe. Chúng nó cố giấu đi cái đau không nói ra được, bởi cả ba thằng đều mê tít cái Lan từ lâu rồi. Thằng Đậu trông cứng cỏi mà lại khóc ngay từ đầu.
Đêm căn nhà có ma lạnh hẳn, chí có chúng nó trông nhà. Cả nhà đều vắng vì phải đi chuận bị hậu sự và tìm báo cho mọi người họ hàng gần xa. Ba đứa ngồi tựa vào nhau, lặng im ở cái chiếu trải ra giữa nhà. Chúng không nhớ cả cái đói cứ thỉnh thoảng réo gào, òng ọc trong bụng. Mười một giờ đêm vẫn chưa có ai về.
Có tiếng “ngoao… ngoao” rờn rợn. Thằng Nghĩa nhát nhất, trợn con mắt lên nhưng không giám kêu, chỉ nhìn sang chỗ thằng Đậu cầu cứu.
- Ngoao…ngoao…!
Bắt đầu là một con mèo đen như đống mực đen nhão, nhảy từ trên trần nhà xuống cái “búp”. Nó có vẻ ung dung như không lạ ai, đi vòng quanh cái màn trắng đang bỏ chùng trên giường, bên trong có Lan đang nằm cứng.
- Ngoao… ngoao, Ngoào…ngoào!
Con thứ hai đi từ cửa vào, trắng toát lạnh đến ghê người.
Tất cả giật mình, cả ba không biết làm gì. Thằng Đậu vụt chồm lên:
- Chúng mày đâu! đừng để mèo nhảy qua người Làn, có trùng đấy!
Thế là cả ba lao ra, kiếm được bất cứ thứ gì là vung lên thứ ấy. Hai con mèo rất nhanh nhảy vòng sang bên giường Làn. Thằng Đậu vớ được cái chổi có cán dài vụt lia lịa. Thằng Đương nhảy ngay đến bên cạnh giường giơ quạt tre đan vụt lấy vụt để. Thằng Nghĩa chui vào trong buồng tìm kiếm cái gì, nó đang run hết cả chân tay. “Ngoao…ngoào” lại có thêm đến hai ba con trắng, đen, tam thể nữa ở đâu xông vào. Tiếng thằng Đậu hét toáng lên:
- Đóng cửa, đóng cửa ngay, thằng Nghĩa! – Giọng vỡ tiếng của nó hộc ra, khàn đặc.
Thằng Đương run thật sự, chỉ thấy mắt nó nhấp nháy, trắng dã. Nó vừa thấy một con mèo mướp từ cửa, chạy vụt qua chân nó :
- Ở đâu ra mà lắm thế. Mèo gì mà to ghê thế!
Đến lượt thằng Nghĩa :
- Đóng cửa rồi mà sao chúng vẫn vào được. Khiếp quá. Đậu ơi!
- Đậu đỗ gì, đánh đi…!
Chỉ một lát cả ba ông tướng mệt nhoài, chẳng còn nhìn thấy trời đâu, đất đâu.
Có tiếng động nhè nhẹ, rồi sột soạt trong giường bỏ màn. Cả ba dừng lại nhìn nhau sợ hãi. Thằng Nghĩa lập cập lùi ra cửa, tìm cách mở cái then cài. Cánh cửa bật mở. Lũ mèo nhao ra trước, một loáng hết veo không còn con nào, không còn ngao ngao.
Chợt tất cả chết lặng, quên tất. Làn đang ngồi dậy trong màn. từ từ xoay người thò một chân trắng toát xuống đất, cái đầu hiện rõ lên, mái tóc xoã, ngúc ngoắc, dài ra trong cái màn trằng lay lay.
- Ê hê…hê!
Thằng Nghĩa ngã lăn mấy vòng ra đất, tay chỉ lên về chỗ cái giường.
- Ô, Ô…ô!
- Ối…ối! Ối…
Ba thằng không kịp thở chạy té thẳng ra ngõ, mặt trắng như giấy học trò. Chúng vấp hẳn vào mấy người đang đi từ ngõ vào. Bố mẹ Làn và thằng Điển vừa may về kịp.
Chạy đến đầu làng chỗ gốc cây đa, cả ba chạy chậm rồi dừng hẳn. Mãi một lúc ngớt hồng hộc thằng Đậu hỏi :
- Mày thấy thứ gì?
- Tao thấy Làn…ma Làn!
- Thôi im lặng. Tin hay không cũng không được nói gì, nhớ không? - Thằng Đậu thay thế vai trò thủ lĩnh, nhắc nhở.
Tự nhiên thằng Đương chạy vọt xuống dưới ruộng. Thằng Nghĩa ngơ ngác rồi ù té chạy sang biến thật nhanh sang trái, về nhà. Chỉ còn lại mình thằng Đậu.
Thằng Đậu nó thương con Làn lắm, nó tiếc con Làn đến đau hết cả lòng. Nó không thấy sợ Làn, Bước chân lại đưa nó về phía nhà thằng Điển.
Thằng Điển kiểm tra cẩn thận lại cái màn xong, rồi ra sân dọn cơm cho cả nhà ăm tạm, vì từ chiều chưa ai được miếng gì vào bụng. Ngồi giữa sân có trăng sáng, ăn không cần đèn đóm gì cũng được. Bố mẹ nó, không còn bụng dạ gì nghĩ đến cơm với nước hay đèn với trăng.
Bóng thằng Đậu lù lù đi vào sân. Con chó oẳng lên một tiếng chạy lùi, chui tọt ngay vào gầm giường sủa ra ầm ĩ. Con chó rất khôn không sủa nhầm người quen bao giờ. Thằng Điển nhảy lên hiên lôi cái chổi có cái cán dài, dứ dứ. Thật may mà nó nhận ra thằng Đậu đang ủ rũ như tàu lá héo.
- Đậu hả, Đậu?
- Ờ ờ - Miệng thằng Đậu có thứ gì như rớt dãi chảy ra dòng dòng chảy cả xuống cằm, cả chỗ mắt nữa, mặt nó méo mó hẳn đi trong ánh sáng trăng trắng.
- Mày sao thế ?
Thằng Đậu gạt tay không nói.
- Được rồi, mày ngồi đây ăn luôn bát cơm cho chắc dạ. Chắc mày đói lắm rồi.
Vừa ăn Thằng Điển vừa nghĩ, đầu óc nó để đâu. Bỗng có tiếng “Bốp, bốp chát” tiếng vỡ như ai ném lên ngói mái. Thằng Đậu nhảy thốc, dựng đứng người lên, viên đá to bằng quả trứng ngỗng lăn từ trên mái xuống ngay gần nó. Mái nhà để lộ ra hai khoảng trống đen đen. Thằng Điển giật mình, nhưng nó nghĩ đến thằng điên nào dám làm bậy. Tự nhiên nó hét toáng lên:
- Mẹ cha mày, có giỏi thì ném mẹ nó vào nồi canh nhà tao đây này!
Lại một cái “Bốp” trúng vào giữa cái nồi canh méo hẳn, làm đỏ ụp xuống, canh bắn tung toé ra xung quanh. Mẹ thằng Điển bật khóc, chắp tay lạy lấy lạy để vào chỗ lỗ thủng trên mái:
- Con xin các ngài, con xin các ngài, không ai dám xúc phạm các ngài - Thằng Điển há hốc mồm.
Mẹ thằng Điển chạy vội đến bên nó bịt mồm nó bằng cả hai tay :
- Con ơi, mẹ xin con!
Thằng Điển quay ra thằng Đậu :
- Mày không biết đấy. - Thằng Điển chỉ tay ra góc sân.
Những củ đậu bay, to như viên đá cuội chỗ góc sân nhấp nhoáng sáng. Một đống những hòn đá cuội to bằng nắm tay đen, trắng đủ cả, mấy hôm nay mẹ Làn gom lại thành một đống. Mẹ thằng Điển thêm vào :
- Ở cái làng này đến cát sỏi còn không có, lấy đâu ra đống những hòn đá cuội to đến thế!
Tiếng bố thằng Điển trong nhà hốt hoảng:
- Ai đâu? Con Làn…
- Ai đâu? Con Làn nó dậy được rồi đây này!
Thằng Đậu bỏ bát cơm, ù té chạy biến vào giữa làng.
Tin Làn bị ma làm đồn khắp làng. Cái làng bằng cái bát úp nên tin chạy từ đầu làng đồn đến cuối làng, không cần hết buổi tổi. Cả làng nháo nhác như mất của. Đèn dầu che bóng cho khỏi sáng hắt ra đường, sợ gây chú ý của ma. Thằng Đậu vẫn không tin rằng Làn, dù gì thì gì cũng nể mặt nó.
Lũ con trai đã thành thanh niên học cấp ba trường huyện, nháo nhác tìm nhau. Thằng Đương lên tiếng trước :
- Tối hôm qua, tao chết khiếp, chạy không thở được về nhà. Nghe tin cái Làn nó sống lại, tao cứ nghĩ nó là ma. Nó chết lâu rồi người lạnh cứng mà còn sống lại được à? Người ta chỉ ngừng thở ba bốn phút là đi đời. Đây cả nhà nó, cả y tá chịu hẳn cả ngày trời rồi. Chắc chắn là ma Làn rồi.
Thằng Đậu trợn mắt :
- Mày làm sao mà biết nó lạnh cứng rồi, hay mày sờ nó rồi?
- Thằng này, bố láo toét. Thì thằng Điển anh nó bảo tao chứ! - Thằng Đương gân cổ lên cãi.
- Bố tao bảo ngày trước hồi đói năm bốn năm. chết như rạ còn có người, đem chôn ngửa lên. Lúc đào mả lên lại thấy nằm sấp xuống. Khoa học giải thích là lúc đó người ta sống lại được, không sao ra được chỗ chôn, giẫy dụa lật sấp tất lại đấy.
Thằng Điển lại lù lù đi đến, tay cầm mấy cái roi trăng trắng:
- Chúng mày đấy à? Tội con Làn nhà tao bị ma làm, mẹ tao đi xem thày bảo thế. Bố tao bắt tao đi chặt roi dâu về tẩm với nước đái đàn bà, vụt cho con ma một trận, để trục con ma cho nó ra khỏi con Làn nhà tao.
- Ác thế! - Thằng Đậu nghe không bỏ sót một chữ nào - Liệu con ma nó có chạy ra không, nó có bỏ cái Làn ra không? Đánh thì đau lắm đấy!
Thằng Đương lại gần, nó sốt ruột lắm. Nó hỏi :
- Sao Làn nó lại sống lại thật à ?
- Thôi thôi, ghê chết được!
- Tao về đây, bố tao đang chờ.
Chúng rủ nhau cùng đi rình xem hư thực thế nào. Chuyện ma mãnh không bằng tò mò. Chúng động viên nhau thì chẳng gì cũng đã có cái chiến công dám ra mộ lão Tường ban đêm là gì! Làn thì chúng nó đều thương tiếc, Làn nó còn là người hiền lành, xinh xắn mà chắc đều quí chúng nó, nên không sợ. Nếu Làn sống lại thật, thì chắc chắn không chỉ có nhà thằng Điển mừng như thế đâu.
- Thằng Đương đâu?
- Thằng Đương chỗ kia, đi đái.
- Đái gì, có đái ra quần rồi hả?
Thằng Đậu đi trước, định nhắc nhở đội hình. Một lát nó quay lại, chúng nó chuồn sạch, chẳng còn một mống nào.
Có tiếng roi vun vút. Tiếng mẹ Làn kêu lên :
- Mày chết này! Mày có ra không thì tao đánh chết này!
- Úi đau quá! Ối mẹ !
- Mẹ con gì mày, tao đánh chết này!
Mẹ Làn được bố phân công đánh roi. Cứ mỗi tiếng “chết này” theo hướng dẫn của thày số, là một cái “đét” ghê người. Trong đêm tối mờ đỏ từ ngọn đèn dầu hạt đỗ và nén hương đang cháy trên bàn bày ra giữa sân hắt lên, có hai bóng người quấn quanh nhau. Bóng lớn cầm cái roi trăng trắng bằng thân cây dâu tuốt vỏ, vụt lấy vụt để. Bóng nhỏ trắng toát trong mảnh vải màn khai sực mùi nước đái, oằn mình dưới làn roi. Có tiếng nức nở của người đàn ông trong nhà. Thằng Đậu chạy ào vào sân. Không thấy thằng Điển đâu. Mẹ Làn giật mình, nhân cơ hội đó ngừng roi, lao ra, lôi cái đứa con gái bị lột truồng quấn trong mảnh vải màn trắng ướt đẫm, đang đầm đìa nước mắt, người mẹ kéo Làn chạy qua mặt thằng Đậu vào trong nhà.
- Con ơi, Đau quá con ơi! - Bây giờ là tiếng của mẹ Làn.
- Ai? - Bố Làn quát lên.
- Cháu, cháu!
Nó tá hoả khi thấy bố Làn quỳ sụp xuống trước mặt nó, vái lấy vái để nó :
- Chúng mày cứu bác với, chúng mày cứu con bác với!
Nó chẳng hiểu gì.
- Dạ?! - Nó “dạ” như hỏi lại.
- Đứa nào lấy con Làn, bác cho không!
Tự nhiên nó giơ tay như đứa học trò xin thày giáo phát biểu :
- Cháu, cháu !
Rồi nó chợt nhận ra điều gì. Nó chạy vụt ra ngõ.
Lũ thằng con trai, thằng Điển đi trước, tay cầm một bó bùi nhùi tết bằng rơm to bằng cổ tay làm đuốc. Nó rê rê cái bùi nhùi bập bùng lửa soi lên chỗ rãnh nước, rồi lại ra xung quanh.
Gần sáng rồi Thằng Đậu vẫn chưa về. mọi người sốt ruột, Cả nhà nhà nó, nhà thằng Đương, thằng Nghĩa ngồi đứng không yên, đổ xô đi tìm, đem đuốc đi lóm đóm soi ngoài đồng. Người ta hẹn nhau khi nào tìm thấy thằng Đậu thì quơ quơ ngọn đuốc lên thành hình vòng tròn, làm hiệu cho mọi người biết.
Cả ba chúng nó tìm. Khổ nỗi, cái bóng đen đen chỗ cây bàng đến to thế kia mà, cành lá xoà ra um tùm tối đen cả một vùng trông ghê lắm. Lại thêm lũy tre sau chỗ miếu Ba cô bị cành bàng ngả ra, che cả lên trên, thành một vùng tối tăm, rợn rợn. Thằng Điển nó vẫn tiến lên đi trước, nghĩ thương thằng Đậu quá, không hiểu sao sau lúc ấy, nó chạy đi đâu, mà cả đêm không về.
Bỗng thằng Nghĩa thì thào :
- Hay là ma đem nó đi giấu rồi. - Thằng Điển ngẩn cả người. Thằng nghĩa vội lẩn vào giữa nói ra. Nó là thằng khôn như rận.
- Dấu chân nó. Đây dấu chân đích thị nó - Tiếng thằng Đương.
- Đâu, đâu?
- Đây…đây.
- Thế thì nó chỉ quanh quẩn đâu đây thôi. Thằng Điển nhấp nháy đôi mắt như thằng hấp háy.
- Thằng Đậu! - Tiếng thằng Đương hét lên, tay chỉ loạn xạ lên trời xuống đất không rõ hướng nào. Thằng Điển phải đưa thằng Nghĩa cầm thay nó bó đuốc, buông tay ôm chặt lấy thằng Đương. Thằng Đương lặng dần, nó ấn mặt vào vai thằng Điển. Một lát, nó ngẩng lên chỉ tay vào chỗ tối tối ngay cạnh bờ tre, rồi lại giấu mặt vào vai thằng Điển. Trong nhập nhoạng ánh đuốc, giữa bụi tre có hai con mắt sáng long lanh. Có tiếng động cựa, có tiếng như người thở thì thào trên đầu. Thằng Điển dành lại cây đuốc khua khua tiến lên rọi vào.
Cả ba vụt chạy ra chỗ trống cách chỗ miếu Ba Cô, chỗ quả tim trong ngực chúng đập loạn, đang nhói lên vì sợ. Thằng Điển khua cái đuốc lên thành mấy vòng tròn liền.
Chỉ một lát, tiếng chân chạy, tiềng người lao xao. Mọi người dồn hết cả về chỗ miếu Ba Cô. Ánh sáng nhiều hơn, nhìn rõ hơn. Thấp thoáng giữa trong bụi tre dày chỉ nhìn rõ cái đầu thằng Đậu có con mắt dài dại trên cao, giữa những thân tre to tướng bằng bắp tay người lớn bao quanh nó.
Đám đàn bà la hoảng lên. Cánh đàn ông ai nấy túm chặt tay nhau.
Bố thằng Điển hình như không còn biết sao, ông hú lên mấy tiếng :
- Hú hà…Hú hà…hú hà… - Rồi kêu :
- Ai cứu nó ra chứ!
Mọi người như tỉnh ra, mấy người đàn ông lớn hè nhau uốn bẻ thân tre, nhưng không sao để lôi nó ra được, tre cứng lắm.
- Về nhà… Thằng Điển đâu, về nhà lấy dao chặt, chặt!
Mãi một lúc sau khi mọi người chặt gần hết một bên nửa bụi tre, mới lôi ra được thằng Đậu đứng im trên cao ngang vai người, ra ngoài. Mặt mũi và người nó đầy những vết cào rớm máu, rớt rãi tanh tanh nhiểu ra khắp mặt mũi, chân tay nó run lên thành từng đợt. Thằng Đương cõng nó chạy một mạch về nhà của nó. Không ai hiểu làm sao nó to thế mà lại lọt được vào giữa bụi tre bị ken dày bằng những thân khít vào nhau.
Thằng Đậu ốm mấy ngày. Nó không nói được, chỉ ú lên như người bị câm. Bố mẹ nó khiếp quá, gặng hỏi nhưng cũng không biết được thêm điều gì. Nó chỉ lắc hay gật.
- Mẹ đâu?
- Mẹ đây, mẹ đây! Ôi con khỏi được rồi à?
- Đau đầu lắm !
Mẹ nó cuống lên chạy đi mua thuốc. Xưa nay nó là đứa khoẻ mạnh, thuốc nhà nó không sẵn. Nhưng mua rồi nó không uống. Nó là nhà con một, bố nó còn không dám đụng. Mẹ nó nài nỉ:
- Uống thuốc đi con, uống đi cho nó khỏi ốm.
- Con đói!
Mẹ nó mừng hớn hở, chạy vội xuống bếp, một lát bê lên nồi cơm nguội với mấy khúc cá kho sẵn. Mẹ nó ngồi nhìn nó ăn mà yên dạ.
Xưa nay nó là thằng vẫn ăn khoẻ nhưng có ý tứ, nhưng lần này thì khác. Nó ăn mà mắt nó cứ dán vào bát cơm, không cả nhìn ai. Nó sà xuống nồi cơm, vục lấy vục để cái bát, làm nó va cả vào thành cái nồi đồng tưởng đến vỡ bát. Một loáng hết sạch cơm, như người đãng trí, nó quay sang ăn vã tiếp cá kho.
Hôm sau, thằng Đậu bỏ học. Lúc hết giờ về, lũ chúng nó kéo đến nhà thằng Đậu, Nó đang ngồi trên chiếc chiếu trải ra góc nhà. Trước mặt nó là bố nó, đang chăm chú nhìn nó ăn hùng hục. Cái giống cá kho ở quê thì lạ gì, kho cho thật khô và thật mặn đắng. Nó chăm chú sơi một đĩa đày tú hụ cá trê kho mà không để ý gì đến cái mặn chát hay để ý đến lũ chúng nó xung quanh. Nó như người khác hẳn, chỉ thực sự quan tâm đến cái thèm ăn một cách điên rồ.
Sự thể đã thế, mỗi ngày càng trở lên bí ẩn, kinh hoàng đối với mẹ nó. Nó thèm cá trê đến mức, mẹ nó kho bao nhiêu cũng hết veo. Nó thèm thịt gà, thèm ăn đủ thứ. Nó có thể chén nhoáng một cái là hết ngay một con gà luộc hay cái chân giò lợn to đùng.
- Ờ ờ ,cũng lạ thật. Nó ăn như ma đói. - Thằng Điển nói nhỏ, đủ hai thằng bên nghe.
- Thì ma đói lão Tường nhập vào nó mà lị !
- Ăn như thế mà tiêu nổi, thì cũng kinh dị thật. Ăn như thể không phải để sống, mà ăn để chết ấy!
- Con ma đói lão Tường ăn chứ nó được gì đâu. Mày không thấy, người nó gầy rộc đi trông thấy đấy à?
Mẹ thằng Đậu bóp mồm bóp miệmg. Có bao nhiêu tiền, bỏ ra mua những thứ nó đòi. Còn nó cứ ăn xong lại ngồi lỳ ra một chỗ góc nhà chờ, rồi lại đòi thứ khác ngay.
Mẹ nó tỉ tê :
- Con lên chỗ miếu Ba cô phải không ? - Nó gật
- Lên làm gì lúc đó. - Nó lắc.
Mẹ nó rủ mẹ thằng Điển, tự mình đội một mâm sôi với con gà lên cúng Ba Cô. Lúc về mẹ nó mang theo bát nước thánh trong suốt, có một ít tàn hương đọng trong đáy bát, bắt nó uống bằng hết. Một lúc tự nhiên nó nôn thốc ra toàn là bòn bọt.
Thoáng thấy nó đấy, tự nhiên lại không thấy đâu nữa. Bố mẹ nó cứ hỏi:
- Mấy thằng không biết nó đi đâu hả? Chúng mày đừng giấu bác.
- Không ạ!...Không ạ?
Thằng Điển sốt ruột nhất, xin phép bố thằng Đậu về trước. Hai chúng nó lán lại chờ thằng Đậu về.
Thằng Đậu đang ngẩn tò te chỗ góc giường cái Làn ốm. Tự nhiên nó nhăn răng cười hé hé. Nó bảo cái Làn :
- Em phải cố ăn nhiều cho chóng khỏi nhé.
- Ối à ! - Thằng Điển nghe thấy thế, kêu lên.
Rồi thằng Đậu lại vụt chạy biến. Đến nhà tự nhiên nó ghé tai mẹ nó:
- Mẹ đừng nói với ai là con gặp ma nhé. - Mẹ nó ngẩn ra.
- Ma thế nào?
- Hôm ấy con thấy cái Làn bị đánh đau quá nên chạy lên miếu Ba Cô định bắt chim cho em Làn ăn đỡ. Con chỉ nhớ trèo lên cái cành bàng lả ra sát chỗ bụi tre gai bị che khuất, có tổ chim to. Đêm khuya lũ chim lớn mới về ngủ. Con bỏ cả hai tay vồ được hai con to lắm nhưng ngã đau quá. Chắc là ma Ba Cô giấu con vào trong bụi tre, may mà mọi người lôi được con về.
Mẹ nó vốn dĩ là cô giáo làng, lờ mờ hiểu ra điều gì :
- Con ơi nhà ta là nhà con một, con muốn làm gì thì cũng phải nói với bố nhé…
Lần này sau chuyến thằng Đương từ nước ngoài về dự họp, chúng nó lại kéo nhau về quê. Nhà thằng Đậu ở cuối ngõ nhỏ, ô tô không vào được. Chúng nó đi bộ, ào ào xông vào. Thằng Đậu chạy ra cổng, quần sắn móng lợn, chào:
- Chúng mày vào đi!
- Này chào với đón kiểu gì thế.
- Anh vào đi.
- Thôi cũng được. Nó chào tao là anh cũng được! - Thằng Đương nhận vơ.
- Cứ vào đi, chó thịt hết rồi.
- Tao không ăn thịt chó, rông bỏ mẹ. Sao hôm trước mày bảo về quê ra câu cá hồ, được con nào chén tuốt con ấy.
- À, là tao bảo chó chết hết rồi, không cắn được đâu mà sợ. Tao đang gây, không có chó không coi nổi hồ cá to thế đâu.
- Đấy nó lại dám nói anh vợ nó là gì nhỉ? - Thằng Đương trành choẹ nhắc nhở nó. - Tao nói thật lòng, mày không được vơ đũa cả nắm. Thằng Điển mày phải gọi bằng anh cho nó đúng tôn ti trật tự.
- Dạ, em xin lỗi. - Nghe giọng nó, tôi biết là nó xin lỗi thật.
- Thôi được tao gọi tất bằng bác thay cho bảy đứa con tao. Thế được chưa?
- Thằng này ăn dày nhất, Đẻ gì mà những bảy đứa. Mà mấy đứa con trai giông cái mặt mày lúc bế thế!
- Cái Làn đi đâu, từ lúc về đến giờ sao không thấy? Cái thằng ma này, mày giấu nó đâu rồi phải không?
- Dạ thưa các bác nói chung. Nhà em nó đi chợ để chuẩn bị đón tiếp các bác ạ! - Nó cười - Tại bà già tao sợ con một lắm rồi, bà bắt đẻ bằng hết trứng - Rồi nó nói luôn một mạch ù cả tai - Tao ở quê không đi xa về gần được như chúng mày vì tao yêu vợ, qúi con, yêu cái đất cha mẹ sinh ra mình. Mỗi năm nuôi trồng của tao, dư không dưới một tỷ, nhưng nuôi bảy đứa cũng chỉ còn chút ít. Cứ như chúng mày chỉ một hai đứa thì cái gì, chứ cái ô tô của chúng mày, tao mua luôn một lúc hai chiếc đi mỗi chân một chiếc cho nhanh.
- Mày có cần câu không?
- Dạ có cần câu, nhưng các bác thông cảm, nhà cháu chỉ có cái loại cần câu bằng trúc dân dã thôn nhà, chứ không xài cái đồ hiện đại, ấn ra thụt vào đâu ạ!
Chúng nó rất thích đi câu nên nước nôi qua loa, rồi kéo nhau ra bờ hồ nuôi cá chỗ nhà sàn bằng tre. Mỗi đứa tìm lấy một hai cái cần câu mắc mồi thả xuống.
Cả bọn ngẩn ngơ, có cái gì đang tràn về dâng dâng như bọt nước trong nối cơm nếp đang sôi. cơn gió mát lướt qua cứ vòng quanh, vòng quanh. Nắng sớm làm dịu mát cả đến những ngôi nhà lúp xúp trong luỹ tre xanh đang óng lên màu vàng mật, đung đưa tán lá ven bờ. Ở dưới mặt nước lặng lờ, con cá nào đang rình mồi, con trê nào mò mẫm. Cái phao bị gió thổi dung đưa nhưng cũng không đủ sức làm chúng nó tập trung như hồi còn bé. Tất cả như hiện lại tuổi thơ đen nhẻm chỉ có cái quần đùi đầu tóc hoe đỏ, lúc nào cũng nhảy cẫng chân sáo.
Thằng Đậu không câu, nó kiếm một chổ góc trong nhà sàn bằng tre, một lát nằm khểnh lên, gác hai chân chữ ngũ ngắm lũ bạn bè.
Tự nhiên có tiếng kêu to:
- Á a. chết rồi! Cáí …cái gì? Đậu, Đậu? - Thằng Đương luống cuống với cái cần tre to hơn ngón tay cái.
- Chết tao rồi ! - Thằng Đậu lao ra.
- Chết cái gì? - Mấy thằng ngơ ngác.
Thằng Đậu chạy vội vào trong, tìm cái gì.
Có cái gì loằng ngoằng dưới mặt nước, đầu nó đội một cái mũ có cả cái dải đuôi dài ra đăng sau như mái tóc con gái xanh sẫm.
- Mày thấy cái gì?
- Ma, ma ! - tiếng thằng Nghĩa hoạ sỹ tắc lại.
Một lát, thằng Đậu chạy ra tay nó cầm cái rọ cá trê. Thằng Đương không hiểu gì cố giữ cái cần trúc, dưới nước càng ùng ục lên tợn.
Thằng Đậu nhanh tay giật bỏ cái đít và cả cái hom ba lớp ở giữa cái rọ bắt cá trê. Cái rọ chỉ còn như cái ống. Thằng Đậu kêu to :
- Đưa tao! - Thằng Đậu vẫn là chỗ tin cậy từ trước. Thằng Đương ấn vội vào tay thằng Đậu cái cần câu cứ đùng đùng, giật giật.
Nó từ từ lồng cái đuôi cần câu vào từ phía đầu to, dốc ngược lên.
Cái thân rọ chạy dọc theo cài cần tre rồi tụt xuống theo cái sợi cước mỏng mảnh. Một lát thấy biến mất dưới mặt nước hồ.
- Thôi được, không sao! - Thằng Đậu lên tiếng trước - Thằng Đương vớ được con trắm đen, to nhất của tao rồi. Tao ương đã ba năm nay, nhưng như thế mới đáng để thịt cho cuộc gặp nhau này.
Thằng Đậu cứ dong mãi con cá cho đến khi nó mệt hẳn, tụt vào trong cái rọ không rẫy được mấy, mới từ từ kéo lại gần. Tất cả háo hức chờ xem nó to đến thế nào.
- Cha cha! Tuyệt tuyệt quá. hết con chê!
- Từ từ. Cái dây cước này mảnh quá không chừng nó giẫy đứt toi. Thằng Nghĩa đâu lấy …lấy tao cái rổ!
Thằng Đậu chuyển cái cần câu cho tôi. Nó nói :
- Anh giữ chắc cho em, đừng để nó cắm đầu là nó lao ra đấy!
Con cá được nó hớt lên từ từ bằng cái rổ, rồi thằng Đậu hất thật mạnh con cá to tướng, văng lên bờ, quẫy mạnh cái đoạn đuôi còn thò ra khỏi cái rọ gần một nửa, đầu nó đội theo cả một đám rong.
Bữa nhậu tràn ứ cái thứ quý hiếm đối với thằng Đương. Vừa ăn, nó vừa liếc nhìn sang cái Làn. Có cái gì trước kia, những nét ngày xưa vẫn phảng phất, hàm răng trắng như hạt gạo nếp vẫn đều tăm tắp. Nó bảo:
- Nếu tao không nghĩ đến việc thằng Đậu nhảy vào giữa đám tre gai vì tội đi bắt chim cu cho em Làn, thì hồi đó chưa chắc thằng nào ăn đứt thằng nào, Điển nhỉ?
- Đúng là một lũ ma quê! - Nó cười ầm lên.
Nó từ từ lôi trong cái cặp mang theo, rút cái bản thảo này, đưa cho mọi người :
- Cái thứ này mà ở Zechslovak, cũng vô giá, nhưng không bán chỉ cho không Việt kiều, ai cũng thích hơn tất cả. Tao mang về biếu chúng mày mấy cuốn nháp xem cho vui.
Rồì quay sang tôi, nó bảo :
- Mày viết nốt phần mở và kết nhé ! Lũ ma quê này chỉ có mày mới làm cho chúng nó vừa ý được!
CHÓ TÂY
VŨ HỮU TRÁC
Nó đi lại trong vùng lãnh địa của nó, không ai đi ngang qua mà nó không nhìn bằng cặp mắt giận dữ, kể cả những kẻ to lớn.
Nó ghét cái giống cóc bé chậm chạp lưng đầy mụn, nhưng nó không dại trêu chọc lũ cóc nữa. Hồi còn bé ở nhà cô chủ trong làng quê cách đây xa lắm, có lần nó lấy chân đè lên dọa một con chỗ luống rau của bà, dại dột dí cái mũi bé vào lưng con cóc mà bị đạp một cái, kèm theo một dòng nhựa bắn ra, trúng vào cái lỗ mũi dèn dẹt làm nó sụt sịt mấy hôm.
Tên nó là Hăngry-Kiên. Người không biết thì cứ gọi nó là “chó tây” bởi nó là chó của ông tây. Còn cô chủ gọi nó là Kiến theo kiểu ở quê, bởi nó là giống chó Kiến bé nhỏ. Ông tây biết tiếng ta ít lắm nên cứ gọi nó là Ki-en. Hai cái tên tây, ta nó đều hiểu cả.
Ngạc nhiên, nó nhận ra nơi này, đêm nay yên tĩnh quá. Ngoài trời trăng sáng lên sau cơn mưa chiều. Con đường xuống phố thật tệ, cơn mưa làm thành những hố trũng lầy lội, đầy nước. Mặt đường đôi chỗ lấp lánh một thứ ánh trắng vỡ vụn.
Nó nhớ hồi mới đến, nó vừa bé vừa đen đủi, tất nhiên là thuộc loại chân đất mắt toét. Căn nhà đã có từ trước một cô chó tây lông vàng, hai tai to lớn của cô chó tây cứ dựng đứng lên. Tai to tưởng là tinh tường, nhưng chủ gọi, cô ta cứ quay đầu mãi mà còn chưa biết là gọi ở chỗ nào, vì cô ấy bị điếc mất một bên tai. Cái mõm đen to lớn của cô chó tây là nỗi kinh hoàng của nó. Cô “gừ” một cái, nó cuống lên, bốn chân khịu dúm vào nhau, nằm ngửa lên chịu trận, cái đuôi thì quẫy quẫy ra điều xin lỗi. Nó nịnh cô béc giê để làm cô vui lòng, tha không tặng cho nó một cú ngoạm ra trò vào cổ. Thành ra nó khôn dần.
Cô béc giê có cái tật xấu ngày cũng như đêm, lạ cũng như quen bất kể là ai, cứ oang oang. Cái phong cách dứt khoát, thẳng thừng lúc nào cũng ầm ỹ lên. Cái xứ xở chỉ có một trong hai từ trả lời cho một câu hỏi là “có” hoặc “không”, cô không biết khi nào nên khe khẽ, tế nhị, không thể hiểu rằng giữa “có” và “không” còn có một khoảng mênh mông không dễ gì lý giải được. Tuy còn bé nhưng nó đã làm cho ông tây thấy, cái thứ vốn dĩ của xứ xở xa lạ này lại hay lắm, nhỏ nhắn, xinh xinh mà hơn hẳn cái thứ to xác tồ tồ, chẳng biết gì. Cô ta chỉ được cái tiếng to, mũi to, mồm to, cái gì cũng to.
Cô chó tây có cái tính tham ăn không thể chịu được, đã không biết nhường nhịn ai, lại hay ăn vụng. Ăn thì rõ nhiều, mà ăn phải ngon có thịt, cá. Hôm nào không kịp mua thức ăn như những ngày gần đây, là bỏ bễ mọi việc để phản đối. Còn nó ăn với rau muống luộc, hay cơm không cũng được, nó vẫn nhanh nhẹn và đầy trách nhiệm.
Nhiều lần nó nghịch ngợm theo kiểu bản xứ, hứng lên trêu chọc con mèo lười ngủ suốt ngày trên ghế. Nó đứng trên hai chân chạy vòng quanh phòng khách. Con mèo ngạc nhiên lắm, cứ tưởng rằng chỉ có người mới làm thế được. Có lần nó bò thấp sát bụng xuống nền, đến gần chú mèo đang chập chờn ngủ, nó hù lên dọa một cái, làm chú mèo giật nảy người, nhảy tót lên nóc tủ. Nó biết chú mèo trắng béo bụng cũng có nguồn gốc như cô béc giê, nó không thèm chấp, chỉ dọa cho kinh. Chú mèo xù lông lên, mãi một lúc, khi nhận ra nó, mới từ từ xẹp xuống rồi lặng im, bỏ đi.
Ông tây thích nó, bởi mỗi sáng nó luôn chạy theo ông tây tập thể dục. Bao giờ nó cũng theo sát ông khi ông chạy vòng quanh cái khu có cây cối vườn hoa bên ngoài tường rào sắt có những tấm tôn đục lỗ, che kín căn nhà. Rồi vật đối sao rời, nó hiểu ra rằng nó đã khôn lớn và hơn thế phải biết kìm nén những thứ ham muốn ngông cuồng, hay chạy nhảy lung tung vốn dĩ của loài chó.
Ông tây chạy có phần nặng nề, thở gấp gáp trước nó một đoạn ngắn. Người ông to tròn từ trên xuống, chỗ giữa phình ra còn chỗ hai chân thì bé dần lại. Ông không trẻ như cô chủ, nhưng được cái ông tây ham thích những thứ mới lạ như nó.
Có lần khi đang chạy theo ông, hếch cái mũi lên, chợt nó thấy cái mùi gì lạ lắm trong không khí sớm mai. Ngay chỗ ông đứng nghỉ, bên lớp cây thấp lấm tấm hoa trắng, bao bọc xung quanh đám cây lưỡi hổ vằn vện xanh xanh, có một cái gì đang động đậy.
Nó trườn xuống y như một kẻ đã lão luyện theo truyền thống chó Kiến. Nó nhanh chóng hiểu ra rằng, sẽ có nguy cơ rắc rối từ cái đám trơn trơn, tròn tròn bóng nhẫy mà đen xì gần dưới gốc bụi cây lưỡi hổ. Ông tây vẫn thản nhiên bước về phía ấy, đứng sát bên cây lưỡi hổ vừa gỡ ra cái giầy hỏng sau một đoạn tập chạy, vứt xuống đất. Ông bất ngờ quẳng cái giầy đúng vào cái đám đen xì.
Nó không kịp hiểu nguy hiểm đến mức nào, vừa lao vào vừa “gừ gừ”, nó nhe cặp răng nanh đã nhọn và rắn chắc ra, doạ kẻ lạ mặt. Đúng là điếc không sợ sấm. Con vật dài ngoằng, cuốn lại thành một đám to tướng. Con rắn hổ mang ngóc cái đầu dương hai con mắt bé xanh lét về phía nó, bành rõ to cái cổ dẹt như cổ gà sống bị vặt hết lông phía dưới, xù ra hai bên, nhìn nó trợn trừng. Con rắn lao người lên phía trước, phóng ra một tia nước nhớt ghê sợ. Nó nghiêng cái đầu, nọc độc rắn trúng vào cái tai bên trái. Nó kịp sủa lên mấy tiếng báo động, rồi lại lao vào lần nữa.
Nó tin tưởng ở ông tây, vốn dĩ như dòng dõi nó tin ở con chó đầu đàn. Cái đầu đang gật gù của con rắn, đột nhiên bổ xuống bằng sức mạnh như lò xo của cả đoạn thân đang uốn cuộn lại. Nó không hiểu gì và cũng không biết sợ cái thứ nó chưa từng biết. Cú tạt nhanh như luồng gió của cái đầu có những chiếc răng dài cong nhọn hướng ra phía trước, làm nó giật mình ngã ngửa ra sau. Rất nhanh nó bật lên, chồm dậy. Bản năng định hướng cho nó. Nó dúi mạnh cái mõm răng trắng về phía con rắn, bập xuống như tia chớp, đúng tầm ngoạm trúng vào chỗ cái cổ bành ra của con rắn từ phía sau. Ông tây sững người lại, rồi cuống quít cầm chiếc giầy đập đập loạn xạ, chẳng cái nào trúng được vào cái đoạn dài lại loằng ngoằng phía sau. Cái đuôi con rắn quật ngang quật dọc định cuốn lấy bụng nó, càng làm nó hăng tiết lên cắn thật chặt cái cổ, vặc mạnh. Một lát sau nó thấy con vật đờ ra lặng dần, không quậy nữa.
Chuyện nó cứu được ông tây, nó nhận được rất nhiều lời khen và những ánh mắt ngưỡng mộ của mọi người. Con rắn độc có cái cổ gẫy gập ấy, được ông chủ mang về nhà để mọi người tận mắt chứng kiến cái chiến công của nó. Chỗ một bên tai tít vào tận trong bị sưng vù lên, được cả nhà chăm sóc, nựng nó suốt cả tuần. Cô chủ âu yếm, tự hào về nó lắm vì nó còn là người nhà cũ của cô. Nó càng đắc ý và càng trung thành với ông và cô chủ, nó được đổi chỗ ở từ gầm cầu thang trong nhà ra tự do ngoài sân ban đêm. Chỉ riêng cô chó to và con méo béo thì chẳng hiểu được gì.
Cũng bởi được ăn uống đầy đủ nên nó chóng lớn, sức vóc hơn hẳn kẻ cùng loài, ít người nghĩ nó là giống bé mà khôn ngoan của nước sở tại, nên cứ gọi là “chó tây đen”. Nó trở thành một chàng thanh niên cường tráng lúc nào không biết. Hai cái tai dài ra đen bóng, trông lại rất thật tình, thỉnh thoảng nhấc nhấc lên đe dọa. Hai tai cụp lại mềm mại, có thể che sương đêm khi nằm ngoài trời, nhưng tinh tường không tưởng được. Bộ lông sẫm óng ánh đen tuyền trước cái nắng gió miền nhiệt đới thì không mấy ai có được. Chân nó không dài bằng cô chó tây nhưng có huyền đề cả bốn, lại mai hoa tứ túc trắng tinh từ trên đầu gối xuống dưới. Trước trán, một vùng cũng trắng như mặt trăng đêm đầu tháng, làm cho nó có phần mềm mại hơn chút ít như kiếu con gái làm duyên. Nó tự hào về dòng giống nơi sinh ra nó.
Nó cứ đi lại trong cái vùng lãnh địa của nó. Đêm nay trăng sáng lạ lùng. Bất cứ kẻ nào đi qua trước cổng nó đều nhìn bằng con mắt giận dữ. Nhưng thực ra nó không có ý gì. Nó bây giờ to lớn, khoẻ mạnh ra dáng một chàng trai thực sự. Bộ lông ánh lên đến xanh mượt, thẫm đen dưới ánh trăng. Đôi mắt to long lanh, rực sáng tràn trề sức lực thì chứa đầy cái nhìn mạnh mẽ, dứt khoát. Còn cái chân trắng muốt, đến cả con mèo vừa chạy qua còn phải ghé mắt nhìn.
Nó biết cô béc giê để mắt đến nó, cô ta đến bên, nằm xuống gần bên cạnh nó. Nói thế, chứ ở lâu rồi thì cũng thành quen. Nó đứng dậy, dạo một vòng quanh sân, cái chân có móng huyền đề thỉnh thoảng gõ vào nhau lách cách như tiếng nhạc đeo. Nó biết bây giờ nó được yêu quí hơn cô chó tây, cô ấy đang muốn lấy lòng nó. Cô ấy đứng dậy, nặng nề đi theo rồi vòng quanh nó.
Cô hít hít trong gió, cái thứ mà nó cho là mùi từ người nó vừa mới được tắm rửa thơm tho, đang bộc lộ cái nguyên sơ vốn dĩ từ thời hồng hoang. Cô ta dúi cái đầu âu yếm bên chỗ cổ đeo cái nhạc có hình chiếc chìa khoá nhà của nó, biểu tượng sự tin cậy và trọng trách mà cô ta không thể có được.
Cái mùi hôi lâu ngày lười không tắm, không dùng đến xà phòng làm cô sực nức cái thứ rẻ tiền vốn sẵn dư thừa từ làn da lông lá, lồm xồm. Màu sắc cũng kém, chỗ trắng chỗ vàng. Trước kia, nó cứ tưởng bộ áo đẹp đẽ đến thế là chỉ có thơm tho rười rượi, nhất là khi còn trẻ. Hàng lông mi ngắn mà vàng nhạt như bạch tạng, nếu là người thì đã phải bôi đen đi, bây giờ trắng không ra trắng, vàng chẳng ra vàng, như thứ mắt vẽ của thằng bù nhìn coi dưa, trông ngứa cả mũi. Có chỗ sợi lông loăn xoăn, màu cứ nhợt nhạt bờn bợt như râu ngô, trước nó cứ ước làm sao được sờ chân vào cái màu lạ lùng ấy là chắc nó nhớ đời! Nó cố tỏ ra một chút âu yếm với cô chó lớn tuổi, để cô khỏi tủi thân.
Nhưng rồi nó nhìn thấy cái gì rớt xuống khoảng sân động đậy. Nó lao đến cái bóng rất nhanh, nhưng kịp dừng đột ngột bằng hai chân choãi ra về phía trước trong tư thế nhe nanh, sẵn sàng có thể cho kẻ lạ mặt một cú vồ xé chết người.
Nơi giữa khe cánh cổng mở hé, một bóng trắng thoáng qua bên ngoài, gần giống con mèo lười, nhưng lớn hơn và chắc chắn không phải là giống mèo. Nó “gừ” lên một tiếng vốn dĩ để đe doạ, nhưng thực ra nó không có ý gì. Nó nhận ra một màu trắng đầy đặn tinh khiết thoát ra, Cái đuôi lay động như bông xù, vẫy vẫy sáng trong ánh trăng trắng ngời ngời. Cái bóng nhanh nhẹn cúi xuống, ngẩng lên như tìm kiếm, hiền lành nghếch cái mũi bé, như đã nhận ra nó. Một khoảng không gian tĩnh lặng như dành riêng cho sự ra mắt, để không còn cái nhìn giận dữ nhường chỗ cho cái đuôi đen ánh, quẫy quẫy thân thiện sau cánh cổng.
Nó không muốn làm cái bóng kia sợ bỏ đi. Nó đưa chân trước có cái móng huyền đề xoè ra, gãi gãi lên cánh cổng có phần khoe mẽ. Nó đang nhìn ai qua khe hở với tiếng rít có phần thân mật.
Chợt nó nghe tiếng ồm ồm, ông ổng của cô béc giê. Nó quay sang như muốn xoa dịu cái không khí căng thẳng đột ngột ấy. Nhưng cô ta càng cố tình làm rinh om lên.
- Thôi đủ rồi - Nó nghĩ. Nó chạy quanh cô ta có ý dọa hay sẵn sàng cho một cú đớp vào cổ để im đi, nhưng nó thôi khi thấy cô béc giê cũng không dám nhặng xị lên nữa. Cô ta biết nó không thích cái trò ầm ỹ ấy, nên bỏ đi vào chỗ gầm cầu thang ngoài trời.
Cái bóng trắng nhỏ chạy đi, dọc theo tường rào sắt bọc tôn như tìm kiếm cái gì. Nó chỉ phóng nhẹ một cái rất nhanh đuổi theo, kịp song hành với cô chó bông từ bên ngoài. Cả hai cùng chạy, cùng hít thở, thỉnh thoảng cùng nhảy lên nhìn nhau qua tường rào. Cứ hết đoạn tường rào lại quay ngược về, mà không làm sao thò một chân sang chào được. Nó chợt nhớ chỗ cái cống nước chảy. Nó rít lên rồi chạy về chỗ cuối tường rào, cô chó chạy theo bên ngoài cứ như cục bông tròn, ưng ý chạy theo bằng vẫy vẫy cái đuôi thật đẹp.
Nó ra hiệu cho cô chó bông và tự mình cố đào thêm cho rộng cái lỗ thoát nước từ phía bên trong. Bên ngoài cái bóng trắng lặng im một lát, rồi cũng cắm cúi đào vào.
Phải một lúc khá lâu moi khá nhiều đất thành một cái hố, nó thò đầu ra kêu lên một tiếng.
- Lại đây! - Nó muốn nói là nó không thể đào rộng thêm được, dù đã cố gắng vì gặp phải chỗ cứng quá. Nó đành thụt đầu lại.
Hấp, cô chó bông chui tọt qua được cái lỗ ấy, làm nó chưa kịp định thần đã quấn lấy nó, ôm cả hai chân vào cổ vật nhau với nó, cắn lên má nó. Nó chạy một đoạn đến chỗ bụi cây dạ hương đang toả hương dịu thơm trong đêm. Cô chó bông ngoan mà xinh, đúng là đồng hương thật.
Ánh trăng đổ bóng một vùng đen đen lù xù trên mặt đất giống như lần ấy, làm nó nhớ mãi những lần cô ấy cố chui qua cái lỗ cống.
Thực ra bây giờ, ngay cả chuyện nó vẫn nhớ không nguôi về cô chó trắng, cũng bị nó bỏ qua. Nó đang để ý đến một cái bóng đen khác đang ngồi trên bậc cửa trong đêm trăng suông mờ mờ. Nó biết đó là cô chủ nhưng chưa dám lại gần. Nó vốn là kẻ tế nhị không nên làm phiền hay nhố nhăng lúc người ta đang buồn.
Căn nhà trong đêm vắng trống trải, lặng lẽ ở khu ngoại ô thành phố mới, con đường dài vào nhà chưa làm được, lộ ra màu đất nâu đỏ. Những hố trũng đầy nước làm mặt đường cũng lấp lánh một thứ sáng bềnh bệch.
Ông chủ chọn thuê căn nhà biệt thự ở đây cho yên tĩnh, tránh những ánh mắt không thân thiện, mà cũng để ông đỡ tốn kém hơn. Những hôm trời mưa, những hố trũng như con đường đất ở làng quê đầy nước, lấp lánh một thứ nhếnh nháng. Gọi là biệt thự nhưng người ta cho thuê khi chưa hoàn thiện, chưa có hàng xóm. Ông tây phải tự sửa sang lại từ một cái nhà rêu mốc như nhà hoang, nhiều năm tường vách còn chưa trát. So với biệt thự thành phố thì có phần khiêm tốn và bẩn hơn.
Gần đây cô người giúp việc bỏ về, nhà cửa không người dọn dẹp, nhếch nhác. Cây cối không người chăm, mọc lan ra rãnh nước, đường đi làm chỗ cho những con cóc đáng ghét ẩn nấp mà nó không sao đuổi đi được. Nó lại còn phải trông em bé khi cô chủ vắng nhà chốc lát. Nó đứng lên bám hai chân vào mép cái nôi, để đùa với cô bé. Nó thò cả cái đầu vào lắc lư dỗ dành để cô bé không khóc. Nhưng có lần nó đã cố làm mọi thứ mà cô bé cứ khóc, Nó biết cô bé tè ra trong nôi, bẩn quá, nó không biết phải làm thế nào.
Nó đoán cô chủ đang nhớ quê. Cũng vào một đêm như đêm nay, cái làng bé nhỏ như cái bát úp, nép mình dưới những dặng tre rì rào le lói ánh đèn dầu. Trong một căn nhà tranh nghèo có người ông tóc chớm bạc có cái nhìn trìu mến, ngồi hút thuốc lào vặt và một người bà lầm lũi, gầy gò thường ngày cặm cụi bên những luống rau. Nhớ cả mùi đất hăng hăng ở vườn của bà, nhớ cả những lũy tre ven bờ đê chiều rợp những cánh diều, bay cao trong gió lộng. Nhưng nó biết cô nhớ nhất là bà vì bà hay đau ốm, mà nhà lại nghèo.
Cô nhớ lại chuyện cô và ông tây cãi nhau.
- Tôi hỏi cô, là cô có lấy tiền của tôi cho mẹ cô không?
- Nhưng mà mẹ em đang bị ốm nặng, em không biết làm thế nào.
- Tôi hỏi lại cô, chỉ cần cô nói “có” hay “không”, đừng nhiều lời!
- Em “có”!
- Tôi không có trách nhiệm phải làm việc ấy. Cô nhiều lần vi phạm những nguyên tắc sống của tôi. Tôi không thể chấp nhận mãi được.
Nó là chó nên không hiểu, thế nào là trách nhiệm. Ông tây bỏ về nước đã mấy tháng nay. Nhà không có tiền mua thức ăn. Nó có thể ăn ít đi, nó ăn rau muống luộc nhiều hơn, nhường một phần cho cô béc giê khi thấy cô còn đói. Bây giờ nghĩ lại lần tấn công con rắn để cứu ông, biết đâu nó có thể bị chết đem chôn. Cái bản năng đúng không phải là trách nhiệm. Nó từ từ tiến đến bên nằm xuống dưới chân, ghếch cái mõm vào chân cô, nó muốn an ủi cô. Nó cũng không biết phải làm thế nào.
Bên ngoài trăng cuối tháng mờ mờ, bóng cô không rõ, đổ xuống khoảng sân nhàn nhạt. Một con cóc từ vạt cây đen đen nhảy ra. Nó lập tức vụt lao dậy, cắn chặt cái nỗi ấm ức vào lưng mang con cóc đến cuối vườn định vật mấy cái cho kinh, nhưng nghĩ sao nó lại thả ra. Con cóc vội nhảy biến vào một khoảng tối vào dưới bụi cây ngâu thấp.
Có tiếng rít khe khẽ bên ngoài. Một bóng trắng. Tự nhiên nó lao đến chỗ cái cống thoát nước, lấy hết sức đào. Lần này nó cào tung lên cả những tảng xi măng đến cùn cả móng ở hai chân trước. Nó biết cô Bông trắng không thể chui qua cái lỗ được vì cái bụng to quá. Cái lỗ rộng ra, nó thò hẳn đầu ra ngoài, rồi cố vươn mình cho nhỏ lại, vụt qua cái lỗ hẹp.
Hai đứa cứ quấn vào nhau, chạy trên đường về chỗ của cô Bông trắng. Nó muốn được làm tròn trách nhiệm của nó.
Câu hát tìm nhau
Tác giả: Quế Hương
, ,
Tôi gặp lão lần đầu trong quán thịt chó của bà Tư béo, nơi tôi đến bỏ rượu gạo hàng chiều sau giờ đi làm. Lão xuất hiện với bộ dạng một người lỡ đường, tay bị, tay mũ cối, gương mặt rỗ hoa lấm tấm bụi đường và mồ hôi. Tưởng lão là người ăn xin, bà Tư đuổi như đuổi tà:
- Ði ra! Ðể người ta bán, đừng có hãm tài.
- Thưa bà, tôi không xin. Tôi tận Hà Bắc vào đây tìm người quen. Bà cho tôi hỏi... bà có biết người này.
Lão chìa ra mảnh giấy bọc ép nylon như thẻ căn cước, ghi dòng chữ: Hai Xuân, người Bắc Ninh, có chồng tên Tuất. Sau 1975 có người gặp sinh sống ở Ðà Nẵng.
- Mơ hồ thế có trời biết! Không đường, không số nhà... Già rồi lẩm cẩm. Con cháu sáng suốt không sai đi tìm. Thôi đi chỗ khác. Ðây cũng là dân ngụ cư thôi! Không biết!
Bà chủ quay ngoắt, dềnh ngang bộ mông núng nính đi vào bếp. Lão lẩm bẩm:
- Cả tuần nay... hỏi ai cũng trả lời chừng đó!
Thương hại lão, tôi gợi chuyện:
- Thế bà Xuân người như thế nào?
- Cô ấy người dong dỏng. Trắng tươi. Hát hay. Xinh đẹp.
Bàn thịt chó bên cạnh lập tức nhao lên:
- Ồ! Cháu lão hả? Bao nhiêu tuổi? Ðể tụi này tìm giúp coi có “xơ múi” chi không?
- Cô ấy thua tui một tuổi.
Cái quán ven đường bỗng òa vỡ tiếng cười. Tiếng đập bàn, la ó, huýt gió, hô hố… náo loạn.
- Thế thì “cố” chứ “cô” gì! Làm tụi này tưởng bở bố ạ! Cỡ ấy ra nghĩa địa tìm dễ hơn.
- Mà cố Xuân là gì của lão? – Gã để râu xồm xoàm vừa nhai vừa hỏi.
- Xưa cô ấy là bạn hát quan họ của tôi.
- Lão vượt đường dài ở tuổi này để tìm một bạn hát xưa già khú đế à?
- Vâng.
- Trời ơi... là trời... ở mô rớt xuống ông ngố đa tình như ri hở trời! – Gã giọng Huế cùng bàn cúi gập người rên giữa một tràng cười. Còn lão điềm tĩnh, kiên định hỏi tiếp:
- Mua bản đồ thành phố ở đâu mấy chú?
- Thôi lão ơi, có khát tợp ít ngụm rồi mua vé về nhà nằm nghỉ. Kiếp sau yêu cho dài ngày rộng tháng.
Rồi để thưởng câu nói mà gã tự cho là ý vị ấy, gã để râu ngửa mặt lên trời, ném điệu nghệ một miếng dồi chó vào miệng, nhai nghiến ngấu, tợp một ngụm rượu, khà một tiếng khoái trá.
- Ngoài tôi, chỉ có món xào và rựa mận là để bát đĩa. Còn các món khác đựng trong lá tất... Ăn bốc mới đúng điệu. – Ðột ngột lão góp ý.
- Coi bộ cũng là dân nghiện mộc tồn.
- Phải thật thoải mái, không cần giữ ý tứ. Bữa ăn phải đượm mùi hoang sơ của những người lục lâm tứ chiếng.
- Mở đầu được đấy! Mần ly rượu nói tiếp đi!
Câu chuyện xoay quanh chó: cách chọn chó, nấu chó, ăn chó… Lão sành đến nỗi những cái mặt đỏ gay, những cái miệng bóng nhẫy đều quay về phía lão hóng chuyện. Cái mông núng nính của bà Tư cũng yên vị trên chiếc ghế dựa hồi nào. Bà chủ đang há hốc miệng nghe lão bày cách chế biến từ bảy món cầy cơ bản thành mười món hoặc hơn nữa. Lạ là lão sành món “hương nhục” đến thế lại từ chối động đũa vào đĩa chó bà Tư đích thân bưng đến đặt trước mặt lão để mong thụ giáo. Lão giải thích hễ lão cầm đũa là phải ăn no mới thôi. Cái thứ này hễ ăn là say, ăn mãi... ăn thì phải đúng điệu với bạn tri ân để say còn khóc cười cho hả...
- Khách của tui đủ giới, ở khắp thành phố này – bà chủ lên tiếng – Dò tìm một cố Xuân nói giọng Bắc, vấn khăn, cao dong dỏng, biết hát quan họ không phải là khó. Tui sẽ nhờ anh em... sẽ để lão ăn thịt chó thỏa thuê không lấy tiền... với điều kiện lão giúp tôi tiếp khí sắc cho quán. Dãy này bốn quán... phải có ngón nghề đặc biệt mới kéo khách về mình...
Quán thịt cầy của bà Tư béo từ độ có lão bỗng đông khách hẳn. Thịt bao giờ cũng lớn bùi, bé mềm, cả tơ cả cứng cho đủ vị cuộc đời. Lá sen, lá dong riềng, lá chuối được thay đĩa men. Quán có đến mười hai món “hương nhục”, thơm điếc mũi. Buổi tối quán tắt đèn điện thắp đèn cầy ăn thịt cầy... âm âm u u thế mà gọi mời đáo để. Những câu chuyện về đời, về chó của lão dưới ánh nến bao giờ cũng khiến khách ăn cảm thấy bữa rượu thịt đậm đà. Bữa nào lão không tới, họ lại ăn uể oải đòi lão có mặt. Bọn họ gọi lão là “lão Tầm Xuân”. Cái quán ven đường rôm rả hẳn lên khi ông lão mặt rỗ hoa, ăn mặc nhếch nhác bước vào. Họ hát ong ỏng đón lão: “Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay. Già rồi tiếc vẫn chưa nguôi. Xắn quần anh lội suối, khòm lưng anh vượt đèo...”. Có hôm, men rượu không giải được nỗi sầu vô vị, họ lại đem lão ra giải buồn. Họ đổi những tin “dỏm” về cố Xuân bằng những câu chuyện của lão hoặc một cú tẩm quất sướng ê người. Nếu quán vắng khách, họ nằm ườn ngay trên nền quán, ưỡn tấm thân trẻ trung rã rời cho lão tẩm. Xương bật giòn tan, còn bọn họ lè lưỡi: “Hồi trẻ, lão phải vật trâu!”
- Hồi trẻ, tôi giật đến hai giải thi vật – Hứng chí lão khoe.
- Thế mà không vật nổi cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay xinh đẹp.
Cả bọn cười ồ còn lão bỗng tiu nghỉu. Lão ngừng đấm hỏi:
- Lần này “dỏm” không đó?
- Dỏm 50%. 50% có thể thật. Ðứa nào nói dối 100% hộc bia ra ngay.
Chân dung cố Xuân thay đổ xoành xoạch. Khi thì cố Xuân ở tận bên làng biển An Hải, mù vì khóc lão. Khi thì ở trên Hòa Khánh, điếc đặc. Khi thì ở tận Hòa Cường, suốt ngày ho sù sụ...
Có lúc bọn trẻ kéo vào quán một bà già nghễnh ngãng, ré lên: “Lão Tầm Xuân ơi, cố Xuân đây nè!”. Bà già chửi te tua còn bọn chúng cười hô hố: Chỉ có lão không nói một lời. Tôi có cảm tưởng có cái gì nặng hơn chiếc lá khô vỡ tan tành trong lòng lão. Ôi lão Tầm Xuân! Lão tìm trong cuộc đời nước chảy mây trôi như một hình bóng của ký ức thì tìm sao đặng? Những cuộc “gặp” ấy để lại trong lòng lão dư vị cay đắng. Lão ngồi uống rượu suông, mắt mờ đục như có khói và lão hát. Dĩ nhiên không phải để cho chúng tôi nghe! Lão hát hay lắm. Hay đến nỗi có lần tôi phải chở vợ đến nghe. Nàng đứng ở ngưỡng cửa nghe lão hát bài ruột: “Khi tương phùng, khi tương ngộ. Xuôi lên bộ, văng vẳng tơ tình. Chiêm bao lần chẵn năm canh. Bao lần anh ngồi tựa trăng thanh. Thương nhớ sâu oanh. Lẻ loi chim nhạn. Bạn tình ơi! Em biết đến bao giờ gặp mặt sánh đôi. Suốt năm họa là. Duyên bén ngãn, văng vẳng tơ tình. Trước không phải, sau đền duyên ba sinh”. Khó tưởng tượng một giọng hát say đắm ngọt ngào dường kia lại thoát ra từ một lồng ngực hom hem phô những giẻ sườn. Vợ tôi bảo không phải lão hát mà tình yêu lão hát. Nàng có đôi chút học vấn để nhận xét: đằng sau vẻ ngù ngờ, xấu xí, già nua kia là một trái tim thực có một cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp trên đời. Cô Xuân ấy không bao giờ già, không bao giờ xấu, không bao giờ chết trong lão!
Sau lần nghe lão hát và những câu chuyện tôi kể về lão, vợ tôi bỗng trở nên “ái mộ” lão. Nàng bảo tôi chở lão đến nhà chơi rồi lão trở thành khách quen thuộc của cả nhà. Họ cũng bị lão “mê hoặc” như cả quán cầy tơ của bà béo. Lũ con tôi quý lão vô cùng. Lão bày chúng hát nghêu ngao những bài quan họ. “Sớm đi chơi hội, tối về quay tơ. Dải yếm phất phơ. Miếng trầu, mồi mốc. Miếng ăn, miếng buộc. Miếng gối đầu giường. Muốn tìm người thương. Tìm đâu cho thấy?”... Lão cho chúng những đồ chơi thật ngộ – những con vật bằng lá dừa biết ngúc ngắc, con gà trống bằng đất sét lòe loẹt xanh đỏ tím vàng kẹp chiếc kèn lá có thể cất tiếng gáy... Bếp nhà ấm áp khi có lão. Lão nếm rượu chính xác như đo, hàn giúp cái xoong, cái nồi rất khéo. Lão mơ màng kể cho chúng tôi nghe những ngày hội Lim, những liền anh áo the khăn xếp, liền chị thắt lưng hoa lý, yếm đào con nhạn, mắt lá răm lúng liếng hát thâu đêm. Tôi ngồi nghe lão tả những làn điệu quan họ đắm say miên man dìu dặt và yêu cầu lão hát nhưng thường lão lắc đầu. Lão bảo hát quan họ phải có đôi, có bạn, có chỗ. Ký ức lão còn giữ nguyên vẹn những ngày hội quê lão: Hội làng, Hội Xuân, Hội mùa... Trai thi mạnh, gái thi mềm. Thi hoa, thi vật, kéo co, hát chèo, nấu cơm, đánh đu, cờ người...
- Lão gặp cố Xuân ở những ngày hội đó à?
- Vâng. Ðó cũng là ngày hội quan họ, cả vùng như ngấm men say, phát cuồng vì hội lễ. Năm ấy anh cu Rỗ là tôi tròn 18 tuổi, được cử vào bọn quan họ làng để luyện giọng thi hát với bọn quan họ làng bên kia sông. Nhà tôi ba đời hát quan họ. Tôi luyện trên dưới 200 giọng, thế mà khi hát đôi với cô ấy tôi run. Tâm hồn tôi lơ lửng không đặt hết vào lời. Cô ấy là tiên quan họ. Ngày xưa cô Tấm cũng đẹp thế là cùng! Giọng hát sóng sánh. Mắt đen lóng lánh. Môi cắn chỉ đỏ thắm. Cần cổ như cuống hoa huệ... Tôi say, say lời hát, say cô ấy, quên cả ngón ruột phải tung ra vào phút chót để thắng dứt điểm. Cuộc thi kéo dài đến ba ngày. Tiếng trống dứt mới giật mình ngơ ngẩn. Dĩ nhiên tôi thua...
- Ða tình thế sao không lấy?
- Lệ quan họ những đôi trai gái đã kết bạn quan họ không lấy nhau. Tình yêu có nảy sinh thì cũng gửi thương gửi nhớ qua lời hát. Kết nghĩa quan họ như kết nghĩa anh em, được cha mẹ hai bên, dân hai làng chấp nhận. Tình bạn ấy chân thành, thủy chung, thắm thiết không chỉ đời mình mà có khi còn đến đời sau. Làng tôi có nhiều cặp quan họ khi đầu bạc răng long, tình yêu trong câu hát xưa vẫn không tàn. Có dịp gặp nhau trên chiếu quan họ, họ lại sống lại thời xuân sắc. Anh em kết nghĩa quan họ gặp nhau “xuân thu nhị kỳ”, đến thăm nhau, ăn uống, vui chơi, ca hát với nhau. Mỗi bên có chuyện vui buồn đều tổ chức đi lại thăm viếng. Tôi nhận ra một điều: người ta có thể cho nhau niềm hạnh phúc to lớn biết dường nào và chẳng lần nào giống lần nào... Rồi cô ấy cũng phải đi lấy chồng. Bọn quan họ chúng tôi đến chia vui. Tôi đau lòng hát miên man...
Mắt lão bỗng mơ màng xa vắng. Rồi một giọng hát trẻ trung đằm thắm da diết cất lên: “Ăn quả nhãn lồng. Ước sao người ấy tôi bồng trên tay...”. Không phải lão Tầm Xuân tóc bạc da mồi hát mà anh cu Rỗ tóc đen như mun, da mầu đồng, có giọng hát Trương Chi hát! Cô ấy hiểu lòng tôi, chú ạ! – Lão lại ngưng hát, kể: Tôi hát bài “Khi tương phùng, khi tương ngộ” ngang nửa bài thì cô ấy xen ngang, hát tiếp: “Bạn tình ơi! Em biết đến bao giờ họp mặt sánh đôi... Trước không phải, sau đền duyên ba sinh”. Chúng tôi cắt câu quan họ làm đôi, mỗi đứa giữ một nửa. Hẹn kiếp sau chắp lại.
Sau đó là chiến tranh... nạn đói... Câu quan họ tan tác trăm phương. Tôi vào Vệ quốc quân, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, khi hòa bình lập lại, tôi về làng thì nghe cô ấy đã theo chồng... nghe nói vào Nam.
Rồi tuổi già đến. Già buồn lắm chú ạ! Cô đơn và bất lực. Chết không đáng sợ bằng tuổi già. Sống đến đó, người ta mới nếm tận cùng chén đắng cay của đời. Tôi sợ hình ảnh ông hàng xóm ngày nắng được bế cả người lẫn chăn ra hong nắng. Nắng rực rỡ đọng thành từng vũng quanh ông ấy, còn ông ấy nhăn nhúm trong cái chăn rách... Tôi có cảm tưởng ông được đem phơi cho chết vi trùng. Có bà, được mua cho một cỗ hậu sự thật tốt. Lâu không chết, áo quan bị mọt đục. Ngày nắng con cháu đem ra phơi, trở qua lật lại rửa ráy càu nhàu... Luật đời chú ạ! Già thì lụi tàn, phải chết. Sống lâu thành nợ của mọi người ngay con cái cũng chán... Một lần tôi ốm, trận ấy ốm thương hàn, thập tử nhất sinh. Trong những cơn mê, tôi cứ nghe một giọng hát lảnh lót níu tôi lại trần thế: “Người về bỏ bạn sao đành. Người về em vẫn đinh ninh tấm lòng...”. Giọng cô ấy! Chỉ có cô ấy mới có cái giọng la đà sát ngọn cỏ, cao vút chạm mây xanh, thầm thì luồn lách trong da trong thịt. Tôi tỉnh lại đang mơ màng thì nghe giọng dâu con thở than gần hết ngày tốt mà cha chưa chịu đi. Tôi mở mắt, chúng nó lại ríu rít hỏi han, làm ra vẻ vui mừng... Sau lần ốm ấy, tôi nghĩ đến chuyện đi tìm cô ấy. Chính cô ấy níu tôi lại cuộc đời này. Tôi phải đi tìm nửa câu quan họ cắt đôi. Trẻ không lấy nhau được, già ở bên nhau, hát với nhau cho đỡ côi cút. Trước sau vẫn là bạn có gì sai trái đâu?
Lão im bặt. Ðôi mắt già nua chìm trong cõi vắng. Thời gian với lão chỉ là lớp bụi mờ. Gió thổi, bụi bay, dĩ vãng lại hiện ra nguyên vẹn trước mắt lão. Ðêm ấy, lão hát miên man bên bếp lửa tàn. Một mình hát, một mình nghe, một mình mở hội đồi Lim, lúng liếng, đắm say, chân tình lai láng.
Thế mà sau một tuần đi công tác xa về, con tôi đã mếu máo níu áo ngoài cửa đòi tôi đi tìm lão Tầm Xuân. Thì ra lão đã bỏ đi... Tự nguyện theo lão là con chó mập ú của bà Tư cầy. Dường như chán gặm xương đồng loại, nó bỏ theo lão Tầm Xuân.
Tôi cũng vô tình quên lão nếu không có lần gặp lại ở Hàng Xanh, Sài Gòn cách đó hai năm.
Ðó là một buổi trưa nắng chang chang. Con hẻm em gái tôi ở vang lên tiếng rao lạc lõng: “Ai hàn xoong hàn nồi, mài dao mài kéo không...? – Tiếp liền sau một giọng hát cất lên: ”Khi tương phùng khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình... thương nhớ sầu oanh, lẻ loi chim nhạn. Bạn tình ơi...”. “Ôi!”. Lão. Lão chứ còn ai nữa. Không kịp xỏ dép, tôi chạy nhào ra hẻm gọi ơi ới: “Lão mài dao... lão Tầm Xuân”. Lão quay phắt lại rồi ôm chầm lấy tôi mừng rỡ. Mới hai năm mà lão già thêm nhiều. Lão đã thực sự già thêm nhiều. Lão đã thực sự già! Gương mặt chằng chịt nếp nhăn lỗ chỗ nốt rỗ như tấm gỗ mọt. Ðôi mắt mờ đục, giọng hát khào khào. Lão mang lỉnh kỉnh dụng cụ hàm mài. Câu quan họ lầm lũi lạc theo, lạc lõng trong thành phố hoa lệ. Con chó vàng của bà Tư cầy lẽo đẽo theo bên. Chỉ khác là nó không còn mập ú nữa, nó xơ xác gầy nhom như chủ.
Chúng tôi tấp vào quán nước bên đường. ở đó tôi được biết vì sao lão bỏ đi đột ngột. Bà chủ quán thịt cầy cùng dãy với bà Tư béo bảo có gặp một bà người Bắc đi xin ở Gia Ðịnh biết hát quan họ và y hệt cô Xuân của lão. Thế là họ đi!... Quán bà Tư mất hấp lực, đâu lại vào đấy. Tôi nghĩ thế nhưng không nói ra, sợ lão buồn. Tôi định bụng khuyên lão trở về quê. Không ngờ lão cũng nói:
- May gặp nhau lần cuối... Tuần sau tôi về chú ạ. Tiền tàu xe đủ rồi... Tôi về để mười ba tháng Giêng tới dự hội Lim lần cuối. Hội Lim giờ đâu như xưa nữa... Nhưng tôi vẫn nghe tiếng trống vào hội giục giã lòng tôi. Tôi yếu rồi! Tôi đã nghe đất gọi. Quê gọi. Ðành hẹn kiếp sau vậy...
Tôi nhìn lão, còn lão nhìn dòng xe cộ nườm nượp đến chóng mặt. Chiều tà dần trong đôi mắt màu hoàng hôn.
- Lâu ngày gặp lại, tui với lão mần đích đáng một bữa thịt chó đi! Ở đây có Bồng Lai quán nghe nói khá lắm, ăn hoài không đã miệng. Tui mời lão.
- Cảm ơn chú! Nhưng năm rồi tôi không đụng thứ đó. Tôi sẽ không đụng cho đến ngày cuối đời...
Lão cúi xuống vỗ về vào lưng con vàng. Con chó ngước đôi mắt nặng trĩu yêu thương nhìn lão rồi không dằn lòng nổi, nó đứng trên hai chân sau, vừa kêu ư ử hài lòng vừa liếm khắp người lão.
- Chú thấy đấy! Cứ tưởng tượng nó thành những đĩa dồi, đĩa luộc, đĩa xào, xáo... là tôi lợm giọng rồi... Không có nó tôi không sống nổi ở đây đến hai năm... Nó sưởi ấm tôi, kéo tôi đứng dậy, nó bị đánh què cẳng vì ăn cắp của người ta để cho tôi ăn những ngày tôi ốm... Nó từng sung sướng... theo tôi nó mới cực thế này... Nó...
Lão nghẹn ngào, mắt hấp háy. Giọt lệ tuổi già chắt mãi mới thành dành cho kẻ đồng hành bốn chân!
Khoảng mươi hôm sau, con dao chặt thịt bị mẻ, em tôi nhắc:
- Không thấy lão mài dao kéo vào xóm... cái lão thật lạ, không lo kiếm khách chỉ lo hát... Có đồng nào mua đồ ăn lại chia đôi cho chó một nửa. Con chó cũng đáo để, không bao giờ ăn trước chủ dù có đặt trước miệng... Người già cũng lạ! Trại dưỡng lão em làm có một bà già... nhập trại ba năm không nói một lời, tưởng câm, khi gần chết hóa ra biết hát. Cái giọng cái điệu, cái lời na ná như lão mài dao.
- Ðâu? Bà ấy ở đâu? – Tôi chụp tay nó.
- Ở trong, sắp chết rồi. Mà anh hỏi làm gì?
Tôi kéo áo nó, bắt nó chở đi rồi tôi sẽ giải thích. Dọc đường tôi kể vắn tắt chuyện lão Tầm Xuân đi tìm nửa câu quan họ. Tôi linh cảm đó là cố Xuân.
- Ba năm trước, một người đàn ông sang trọng, gương mặt tràn trề nhân ái dẫn bà ấy vào trại. Ông ta bảo với Ban quản đốc ông ta thấy bà già cơ nhỡ, ngủ trước hiên nhà nên thương xót dẫn giúp vào đây. Ba năm ở đây, bà ấy sống lặng lẽ như bóng không hề nói, nằm quay mặt vào vách. Nhưng cách đây một tháng, dường như không nén được nỗi đau đớn, bà ta khóc rống lên: “Hắn là con tôi, cái thằng dẫn tôi vào đây chính là con tôi”. Mấy hôm nay bà ta hát... không ăn, không uống... chỉ phều phào hát... – Em tôi kể.
Bây giờ nằm trước mặt tôi, trên chiếc chiếu tỏa mùi khai thối trải trên nền gạch loang lổ là bà cụ tóc trắng như bông vấn vành khăn nhung đã sờn, mỏng như giấy, mặt vàng, hơi thở dốc...
“Dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp...”
Hình hài ấy không còn nét nào giống lão Tầm Xuân tả. Thời gian cho, thời gian lấy hay tôi đã lầm? Tôi định lui ra nhưng chiếc lá khô ấy bỗng khẽ khàng động đậy. Rồi từ lồng ngực thoi thóp hơi tàn, phều phào những tiếng, lời rời rạc. “Bạn tình ơi! Duyên bén ngãi, trước không phải... sau đền... duyên... ba sinh”.
- Ðúng rồi! Cố Xuân đây rồi! – Tôi reo to giữa những gương mặt già nua ngơ ngác – Lão Tầm Xuân ơi! Nửa câu quan họ đây rồi.
Lão tìm ba năm, nay biết tìm lão ở đâu.
Bà cụ mấp máy môi hát, âm sắc yếu dần... yếu dần... Nhanh trí, tôi nắm lấy bàn tay còn xương với da ấy và tôi lập lại lời hát của lão Tầm Xuân: “Khi tương phùng, khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình...” Giọng hát vụng về thô ráp như đọc của tôi cất lên, và lạ lùng thay, nó tựa những giọt nước cành dương diệu kỳ... Mí mắt bà lão động đậy, ngực phập phồng rồi giọng hát yếu ớt cứ rõ dần hòa với cái giọng vịt đực ồ ồ của tôi. Những bà già trên nền nhà lập tức ngồi dậy. Họ không hiểu nhưng họ vỗ tay như những đứa trẻ. Họ reo, họ hò, họ hát ru... Những đôi mắt mờ mờ đục chất ngất nỗi buồn và bất hạnh bỗng háo hức như mắt trẻ con. Một bà lão lục đục trong hai ba lần áo một cái gói nhỏ mở hai ba lớp nylon bày một nhúm thịt chà bông, chần chừ ngắm rồi nhón tay bốc hai sợi thịt đem tới đút vào miệng tôi một sợi, miệng cố Xuân, bị lời hát đẩy ra, còn trong miệng tôi, trào thành nước mắt!
Tôi lập tức đạp xe đi quanh vùng Gia Ðịnh tìm lão Tầm Xuân nhưng bóng lão bặt tăm... Hình như lão đã về quê rồi. Em gái tôi góp ý nhắn lão trên tivi. Mẩu tin kỳ quái được nhắc lại hai hôm: “Lão Tầm Xuân! Ðã tìm ra nửa câu quan họ. Ðến gấp trại dưỡng lão số 3, đường... Mau lên kẻo không kịp”.
Không kịp thật. Cố Xuân hắt ra hơi thở cuối cùng, lão vẫn bặt tăm. Chiếc xe tang của trại đưa cố đến lò thiêu. Không một vành khăn, không dòng nước mắt.
Có lẽ giờ này lão Tầm Xuân đang lê bước trở về. Nửa câu quan họ lầm lũi theo lão... Chơi vơi... Chơi vơi...
Năm Chó Nói Chuyện Văn Hóa ... Thịt Chó
ĐÔNG-TÂY KHÔNG BAO GIỜ GẶP NHAU TRÊN VẤN ĐỀ CHÓ MÁ !
Người ta thường nói :" Đông -Tây không bao giờ gặp nhau." Đúng vậy ! Đông là Đông. Tây là Tây.
Nhất là trên phương diện chó má, đông -tây laị càng không bao giờ có thể gặp nhau đựợc !
Nay , nhân dịp đầu xuân , lại là xuân con chó nữa, nên tôi mạn phép hải ngoại chư quân tử , lạm bàn đôi chút về sự đối xử khác biệt giữa người phương Tây và người phương Đông với giống chó.
CON CHÓ TRONG MẮT NGƯỜI Á ĐÔNG
Chẳng cần gì phải nói đến vùng viễn Đông xa xôi, chỉ ngay vùng Cận đông, dân Ả Rập cũng đã nhìn giống chó và đối xử với giống chó khác hẳn người Tây phương rồi ! Dân Ả Rập, đa số theo đạo Hồi, đều rất ghét và kỵ giống chó. Bởi thế, trong nhà người theo đạo Hồi chẳng mấy khi nuôi chó. Người dân Ả Rập cho giống chó là loài súc vật dơ bẩn, vô luân, chẳng khác gì loài heo. Người theo đạo Hồi còn tỏ ra rất sợ bị chó cắn. Chẳng phải vì sợ lây bịnh chó dại hay bị đưa đi nhà thương thuốc chó, để chích hằng chục mũi thuốc ngừa bịnh chó dại, mà chỉ vì sợ mai sau, khi đã chết đi sẽ không được lên thiên đàng gặp đấng tiên tri Mohammed !
Xa hơn nữa về phía Á-Đông, các giống dân có nền văn hóa " cầm đũa " như: Tàu, Nhật, Triều Tiên, Việt Nam...đối với giống chó có phần phức tạp hơn. Họ không tỏ ra thù ghét giống chó và tẩy chay loài chó như người Ả Rập, nhưng họ cũng không nâng niu, cưng qúy giống chó qúa đáng như người Tây Phương. Người Á Đông đã vạch một lằn ranh phân biệt rõ rệt giữa giống chó và giống người. Chó là chó, người là người. Tiêu biểu nhất là người Việt Nam, đối với giống chó rất đa diện. Một mặt vẫn nhìn nhận loài chó là giống súc vật có đức tính trung thành qúy báu hơn cả con người. Con chó không bao giờ phản chủ. Trong khi đại đa số con người đều có dạ phản trắc bất lương đối với chủ, đối với bạn bè và lắm khi đối ngay cả với thân nhân quyến thuộc. Con phản cha mẹ, vợ phản chồng, cắm sừng chồng, là chuyện thường tình vẫn diễn ra hằng ngày trên thế gian này, nhất là trong xã hội Cộng Sản vô luân. Đức tính trung thành của loài chó đã được thừa nhận ngay trong ca dao và tục ngữ của dân tộc Việt Nam, như câu:
- " Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo !"
Làm kiếp cho,ù may mắn được rơi vào cửa nhà giàu, thì có cơm thừa canh cặn . Ăn uống no đủ. Thỉnh thoảng còn được khúc xương tha hồ mà gặm! Chẳng may, làm kiếp chó , mà lại lọt vào cửa nhà nghèo, thì chỉ có đói meo, đi lục đống rác kiếm miếng ăn, hoặc ngồi chồm hổm, thè lưỡi dài ra, để chực món phân nóng hổi của đứa bé con chủ nhà vừa thải ra. Đói khổ đến như thế mà lắm khi còn bị đánh đá tưng bừng. Thậm chí nhiều khi còn bị chủ nhà cho vào nồi rựa mận, để làm món nhậu mừng Giáng Sinh. Tuy vậy, nhưng giống chó vẫn một lòng trung thành với chủ, không bỏ chủ.
Bên Nhật Bản, người ta còn tạc tượng và lập đền thờ một con chó trung thành với chủ cho đến chết, tại một sân ga. Hằng ngày con chó này đưa chân ông chủ ra ga xe lửa đi làm, rồi chiều chiều ra ga đón chủ lúc trở về. Nhưng một hôm, ông chủ đi làm rồi không bao giờ còn trở lại nhà nữa. Trong khi đó, con chó vẫn chiều chiều ra sân ga, ngóng đợi mỏi mòn ngay cả trong mùa đông giá lạnh cho đến chết. Câu chuyện thương tâm của con chó đã khiến người ta lập đền thờ nó, để đề cao
tấm lòng trung nghĩa hiếm có trong đời !
Ở Việït Nam, tuy vấn đề ăn thịt chó chưa được coi như một dạng văn hoá dân tộc, nhưng cũng đã rất phổ cập trong giới đồng bào TCG di cư khắp nước. Chính tôi đã có một anh bạn thân , hiện giờ còn đang sống ở Santa Ana, Cali. , từ 1965 đến 1975, đã từng làm tổng thơ ký Hội Đồng Đô thành, rồi dân biểu QH liên tiếp nhiều nhiệm kỳ, thành phần đảng viên cốt cán đảng Dân Chủ cuả Ng. Văn Thiệu, cũng thuộc loại vua thịt cầy. Nhiều hôm đi họp, anh ta khoe với tôi, trong chiếc cặp to tổ nái cuả anh chẳng chưá cái gì khác hơn là một cái...đùi chó đã thui sẵn , vàng ươm!
Đã có lần tôi được biết một chuyện ăn thịt chó vô cùng dã man và rất thương tâm. Tôi xin kể lại hầu bạn đọc, nhất là để tặng những bạn thích ăn thịt chó :
- Chuyện này đã xảy ra trong khu xóm mới, nơi người ta thường hạ cờ Tây vào dịp lễ Giáng Sinh, để ăn mừng Chúa Hài Đồng ra đời. Tôi có một ông bạn, thuộc hạng " vua thịt cầy ", tuần nào nhà ông cũng ăn thịt cầy. Ông biết tôi là thằng Bắc Kỳ mất gia phả, nghĩa là không biết ăn thịt chó, nên thường xa gần khuyến dụ, và đôi khi còn tuyên truyền rủ rê, mời mọc. Ông đem cả những câu " châm ngôn "của giùơi ăn thịt chó ra khích lệ tôi. Nào là: " Sống ở trên đời, ăn miếng thịt chó, chết xuống âm phủ cũng cam..." Tôi còn nhớ mãi câu ông khoe :" Ăn thịt chó, có miếng thịt bị giắt răng , ba ngày sau mới cậy ra được, đưa lên mũi ngửi vẫn còn thấy mùi thơm !"
Giáng Sinh năm đó , ông đem con chó vàng nhà ông nuôi béo đã mấy năm rồi ra làm thịt. Ông định tổ chức một bữa " rề quây dông " ( réveillon ) ngon lành và thịnh soạn. Ở Việt Nam, giống chó đã được phân hạng ngon, dở theo trật tự như sau : nhất mực, nhì vàng, tam khoang, tứ vện !
Chiều hôm 23, tháng 12. ông đem con chó ra bờ rào sau nhà, cột cổ vào một cái cọc. Trong khi đó ông đã thủ sẵn 1 cái búa tài xồi, chuyên dùng để đập đầu chó . Ông là tay làm thịt chó thiện nghệ, và nấu các món thịt chó cũng thuộc loại nhà nghề. Nhiều người ăn thịt chó của ông đã phải khen nức nở.
Hôm ấy không hiểu ông bị tổ trác hay sao, mà vác búa khện con chó không chết. Tuy b?t thình lình bị ông chủ thân yêu, vác buá khện cho 1 cú ngay giữa đỉnh đầu, nó kêu rống lên ăng ẳng, một cách vô cùng đau đớn, rồi vùng chạy mất dạng. Ông vua thịt cầy đã bỏ cả buổi chiều và cả chập tối hôm ấy để lùng sục khắp làng trên xóm dưới, cố tìm cho ra con cho,ù để làm thịt. Nhưng, hoaì công, tìm mãi không thấy, ông đành bỏ cuộc, nhưng trong lòng vẫn hậm hực mãi không nguôi.
Đến mãi tới chiều hôm 25 ,sau lễ Giáng Sinh, ông mới thấy con chó vàng ngon lành của ông rón rén, run rẩy bò về. Nó đến trước cửa nằm phục xuống, đôi mắt uớt đẫm , ngước nhìn ông như van xin tạ lỗi, đã chót làm cho ông hụt ăn một bữa thịt cầy thịnh soạn vào đêm Giáng sinh, mừng Chúa ra đời !
Cả nhà ai cũng khen con chó khôn đáo để, mà lại trung thành với chủ nữa. Nhưng khen thì khen, cảm động thì cảm động. Con chó lỡ đã sinh làm kiếp chó ở Việt Nam, khu Xóm Mới rồi, thì cũng không làm sao thoát được cái nồi rựa mận !
Dù trung thành và không ngoan đến thế, giống chó vẫn bị người VN chê là: Ngu như chó !
Người ta còn tỏ ra khinh khi và hất hủi giống chó đến cùng cực. Hễ có ai làm điều gì sằng bậy, bẩn thỉu, loạn luân, thì người ta lại đem ví với con chó mà nhiếc mắng thậm tệ, như những câu:" Đồ chó má !". Đối với những hành vi lang chạ, ngoại tình, thông dâm bất chính, người ta gọi là: cẩu dâm!
Tô Hoài
Mùa hè nóng nực, dùng thịt chó trên nhà sàn bờ đê, đã sướng. Nhưng mùa đông rét run cầm cập, chui vào bụng cây rơm sơi món mộc tồn, cạn dăm chén nước trắng, rồi lăn ra ngủ giữa gió gào, hẳn còn sướng hơn.
Vũ Bằng nổi tiếng thạo thịt chó, đã "tùy bút" thịt chó. Nhưng Tô Hoài xem ra cũng rất thạo, bằng vào những lời "ký" chắc nịch dưới đây.
Thế ra có thứ giả cầy làm bằng thịt cầy!
Ðem cầy nấu giả cầy, thành ra món giả cầy cầy, hay là món giả cầy giả!
Sao ông Tô không giảng luôn về quê quán của món giả cầy thật (tức giả cầy lợn) nhỉ. Có phải người Nam Ðịnh ta đã sáng kiến chăng, mà về tỉnh Nam đi đâu cũng thấy...
(Thu Tứ)
Lại thịt chó
Ở Cầu Khâu (...) thịt chó đến suốt sáng. Ai quen qua lại đường này mà chẳng biết tiếng thịt chó Cầu Khâu. Cửa hàng mùa đông là những cây rơm rỗng ruột, khách ăn chui vào bụng cây rơm, gió hú bốn phía. Trong cây rơm, thôi thì thịt luộc, sáo chó, rượu ty, rượu ngang. No say rồi nằm lăn ngủ cho đến sáng bạch mới thò cổ trông ra (tr. 283)
Bàn về thịt chó không bao giờ có thể dứt, tưởng như thế (...) Chỉ có thể thỏa thuận với nhau rằng thịt chó là một món ăn chơi (tr. 619)
Không phải chó nào cũng đem mổ thịt được. Chó béc-giê cao cẳng, chó Nhật, chó cảnh bé bỏng như nắm bông, thịt tanh. Chỉ có giống chó đâu cũng có ở nước ta, những con vàng, con vện, con đốm, con khoang, con mực thấp cun cún, chân trước chân sau không dài, không ngắn ngủn hoẳn mà tỏi chân sau vè chân nổi bắp tròn trành trạnh. Thịt chó ấy mới đậm (tr. 621)
năm chiêu cổ điển (...) 1. Thịt và lòng gan luộc. 2. Chả. 3. Rựa mận. 4. Giả cầy 5. Sáo chó. (tr. 622)
tiết canh chó (...) những trang cự phách xừng xỏ mới xơi được. Ít ai đưa vào thực đơn món tiết canh chó. (tr. 622)
Thịt chó luộc ngon nhất phải kể lối nấu cách thủy: thịt chó hấp (tr. 622)
Rựa mận được chuộng nhất. Chẳng thế rựa mận đã biến ra cả món riêng, món phở. Dọc đường miền trung du, nhiều hàng quán bán phở rựa mận, bún rựa mận. Rựa mận, một món nửa sào nửa hầm. Miếng thịt rựa mận đúng cung cách nhất phải là miếng thịt gồm ba thành phần thịt, mỡ, bì. Cái bì tôn hẳn đặc tính rựa mận. Rựa mận thiếu bì kém vị và trơ trẽn như bò thui ăn tái chấm tương gừng mà không có da. Miếng rựa mận nổi màu nâu bóng nhẫy giữa bát nước mỡ tiết ra quánh đặc (tr. 623)
Không có thịt chó, thèm thịt chó, bèn nấu chân giò lợn cũng pha riềng mẻ, gọi là "giả cầy". Miếng thịt bóp riềng mẻ, nấu lửng như om, với đậu phụ. Xô bồ hơn, thêm chuối xanh. Thịt dai nấu kèm mấy miếng đu đủ, răng móm cũng nhai được (...) Ðã đành là giả, nhưng đến lúc làm món bằng thịt chó hẳn hoi, vẫn giữ cái tên "giả cầy" (tr. 624)
Món sáo chó cũng ví tương tự món "thắng cố" của người Mông trên núi cao. Trong con chó, những phần xương xẩu đầu thừa đuôi thẹo được dồn hết vào một nồi - một thứ nước suýt chó. Món này cũng được thành tục ngữ: ngon như sáo chó. Có nghĩa là việc ấy dễ ợt, làm "ngon như sáo chó ấy mà" (...) Sau cùng, gọi bát sáo. Nhà hàng bưng lên cái liễn sáo nghi ngút khói, thơm hành răm, trong liễn thả hai cái chân sau con chó. (tr. 624)
Các món rựa mận, giả cầy và sáo, người cầu kỳ thích ăn "hai lửa", nấu hai lần, thịt chó hai lửa có cái đậm đà khác thường. (tr. 625)
Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó.
Chết xuống âm phủ biết có hay không?
Câu ca trên như khúc đồng dao, không biết nó xuất hiện từ bao giờ? Nó nói về món dồi chó rất khoái khẩu ăn mãi mà không chán, một món được chế biến khi làm thịt một con chó để làm cỗ ở quê tôi!
Dồi chó có hình thức giống xúc xích của người Tây và lạp xưởng của người Tàu, nhưng vật liệu để nhồi vào bên trong ruột non thì khác nhau. Xúc xích của người Tây là thịt bò xay, lạp xưởng của người Tàu là thịt lợn băm trộn lẫn một số gia vị đặc trưng. Còn dồi chó của Ta lại kết hợp rất khéo các loại rau, lá thơm, ngũ cốc và lớp mỡ màng tang bám suốt chiều dài ruột non của con chó để làm cái "sườn" cho các loại vật liệu khác "ăn theo".
Có lẽ cái cảm giác chung của các tửu đồ, các tay anh chị bợm nhậu đến các bậc văn nhân khi gắp một khẩu dồi thái vừa tầm (một đốt ngón tay), thấm đẫm trong bát nớc chấm riêng của thịt chó rồi đưa lên miệng nhai dập dạp, chiêu một hụm rượu quê vừa được rót ra vẫn còn lớp bọt nhỏ như vảy cá trôi bám xung quanh miệng chén, không biết cái nào đưa cái nào đi. Rượu? Hay dồi chó?
Muốn có một đĩa dồi chó chuẩn mực, đúng hương vị phải bắt đầu từ chế biến. Sau khi lộn trái bộ lòng, làm thật sạch, sát muối rửa kỹ, ta có đợc vỏ của khúc dồi. Nhân để làm dồi phải có đủ: lạc rang ủ nóng, xuầy vỏ, giã nhỏ, đậu xanh đãi vỏ đồ chín, giã mịn, mỡ màng tang băm nhỏ, búp dâu non thái như thuốc lào, một chút hành răm vừa phải, thái nhỏ, một ít tiết đọng, một thìa hạt tiêu, một chút bột ngọt... trộn đều.
Nhồi xong cho vào luộc hoặc hấp trên chốc nồi sáo xương, khi luộc phải lấy cái que tre vót nhọn chọc vào thành ruột để dồi chín đều. Chừng ba mơi phút đun nhỏ lửa, vớt ra quấn khúc dồi đã chín vào một ống tre hoặc nứa tơi (đường kính bằng cổ chân), nướng đoạn dồi trên than hoa đỏ rực, sao cho vỏ thì vàng rộm, mà không cháy, dồi không bị nứt, còn lớp mỡ bóng loáng phải chảy đều khắp cả khúc dồi.
Dồi nóng, dao cùn thái ra là vỡ ngay. Dồi phải được thái khẩu vừa bằng đốt ngón tay, nhát dao hướng vào tâm cong của khúc dồi. Khi bày lên đĩa, đặt các miếng dồi theo các đường tròn đồng tâm, đến lúc ấy ta mới có được một đĩa dồi chó hợp cách nhất.
Nớc chấm dồi không nên dùng mắm tôm, bột gia vị mà nó có một thứ nước chấm riêng cũng đợc chế biến từ lục phủ ngũ tạng của con chó. Cuống họng, phổi, tụy, thận, thực quản, đoạn ruột già được làm thật sạch... tất cả đợc thái chỉ xào với khế chua, lúc chín tới thì cho mẻ lọc đặc vào đảo đều, đun tiếp, bắc ra thì cho thêm vài lát ớt thái nhỏ, một môi tiết được hãm không đông trộn một ít rượu trắng, vài cái lá chanh tước sống, lấy tay vặt thành các mảnh bằng móng tay trỏ, bỏ vào nồi nước chấm vừa bắc khỏi bếp đang bốc khói thơm nức. Người làng Vân Đình gọi món nước chấm này là món lòng chuột, từ xa các cụ ở làng tôi đã gọi như thế rồi, nên con cháu bây giờ cứ theo thế mà gọi.
Khi ăn, khẩu dồi được thấm đẫm trong nước sền sệt của bát lòng chuột có màu mận chín, gắp kèm vài lát của lục phủ ngũ tạng còn bốc khói, thêm một nhánh húng chó, một nhánh mùi già, chiêu một hớp rợu... tất cả chúng quện với nhau tạo cho thực khách một cảm giác khó quên lắm.
Các sản vật của nền văn minh lúa nước đã cử đại diện của mình tham gia để cấu thành miếng dồi chó hấp dẫn thực khách, một món ăn đặc trưng của văn hoá ẩm thực Đông phương thuần khiết.
Vừa ăn, vừa ngẫm, rồi lại cứ tiếc rằng khi xuống âm phủ liệu có còn thứ đó nữa không. Sao các thứ khác người ta không nhắc, mà chỉ nhắc đến món dồi chó dân dã này nhỉ?
Bạn đã đến Ứng Hòa chưa? Nếu chưa mời bạn hãy một lần đến nơi đó. Một vùng đất quê chiêm miên man lúa. Bạn hãy rong thuyền theo dòng sông Đáy tận hưởng yên tĩnh, trầm mạc của làng quê cổ kính ven sông. Bạn hãy về xứ miền Đông của huyện, nơi hội tụ những kỳ tích về người anh hùng làng Gióng ở thời Hùng Vương thứ VI cưỡi ngựa sắt rong ruổi đuổi giặc Ân. Chiến tích của ông Gióng vẫn còn kia, một làng Cháy, những búi tre đằng ngà trong các xóm thôn, tương truyền là do ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vương phun lửa vào đám giặc mà lưu dấu tích đến tận hôm nay.
Đã đến với ứng Hòa, bạn chớ quên thưởng thức những đặc sản của vùng quê này. Có rất nhiều đặc sản, nhưng ai đó kỹ càng, sành ăn thì không thể không biết tới những món thịt chó.
Đố bạn tìm thấy ở nơi nào có mẹo chế biến thịt chó chỉ một nồi như thịt chó Đông Lỗ của Ứng Hòa.
Nhiều quán ăn ở trong Nam ngoài Bắc treo biển quảng cáo rõ to: thịt cho đông lỗ, nhưng bạn phải về tận nơi ấy, tường tận nhìn người Đông Lỗ chọn chó, làm thịt chó, cách chế biến thịt cho để bạn thưởng thức mới cảm nhận hết sự khéo tay hay mắt của người ở đây.
Đông Lỗ là tên xưa của một tổng, gồm 12 xã, thôn: “Thôn Ngọc Đường, thôn Xuyến Lưu, thôn Nhân Trai, thôn Tiêu Thiêu, thôn Mạnh Tân thuộc xã Đông Lỗ; thôn Đào Xá, thôn Viên Đình thuộc xã Vân Kiều, Tu Lễ, Kim Giang, thôn Mãn Đường, thôn Kim Bồng thuộc xã Ngọc Đường, Cung Thuế”. (Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, H.KHXH, 1981). Tổng rộng là vậy nhưng nguồn gốc phát sinh của thịt chó lại từ thôn Viên Đình. Viên Đình vốn là một làng Việt cổ nằm trên thế đất con rồng đang cuộn khúc, tên thôn là Kẻ Kẹo.
Thiên nhiên chẳng ưu đãi gì cho cái làng Kẹo của tổng Đông Lỗ ấy. Xưa, đất quanh làng ngập úng, năm chỉ cấy được vụ chiêm. Phải năm mưa sớm, hạt nổi chim ăn, hạt chìm cá rỉa. Người làng tơ lưới, nơm, lờ đuổi theo bóng chim, tăm cá kiếm miếng cơm. Đói khổ buộc trai làng Kẹo xuôi ngược khắp nơi tìm kế sinh nhai. “Cái khó ló cái khôn”, cha ông làng Kẹo tìm cho các thế hệ trai làng một nghề độc đáo: Nghề thợ mộc. Trước năm 1945, đã mấy khi trai làng Kẹo ở nhà. Già trẻ khăn gói đi kiếm cơm thiên hạ lấy tiền nuôi bố mẹ, vợ con, chỉ đến kỳ hội làng, giỗ tết mới kéo nhau về. Thuở ấy, người con trai nào không được các phó cả mời đi làm, nghĩa là vụng nghề, thuộc hạng hèn yếu, bị gái làng chê bai nên rất khó được con cái nhà tử tế yêu để lấy về làm vợ.
Có thể nói Viên Đình của Đông Lỗ là đất thợ, nhưng là thợ xuất ngoại. ở làng, trừ dịp tết, thường chỉ có người già yếu, đàn bà và con trẻ. Vì lẽ đó, con gái Viên Đình nổi tiếng đảm đang, tháo vát rất hiếu hiền với bố mẹ. Phụ nữ Viên Đình đánh trâu ra đồng cày bừa sớm tối, đánh gianh chặn gió lợp nhà. Mọi công việc cưới xin, ma chay, giỗ tết, các bà lo toan từ làm cỗ đến giao đãi khách, các ông giỏi giang ở ngoài thiên hạ về nhà chỉ là loại trai đưa gianh cho vợ, lúc tiệc tùng thì vào ngồi hưởng vui vậy thôi.
Điều đó cũng là lẽ phải. Các đức ông chồng đi suốt tháng, suốt ngày vất vả kiếm tiền, lúc về đưa bọc tiền cho vợ, đằng đẵng mấy tháng trời vợ chồng mới gặp mặt nhau, các bà “tâm lý lắm” không nỡ để các ông chồng phải lo lắng, bận bịu công việc ở nhà.
Những trai làng Viên Đình theo nghề mộc, làm thuê cho thiên hạ. Đã làm thuê, có khi người chủ mướn công, cũng có khi người ta khoán gọn công việc. Đi làm, lại là làm thiên hạ, tất khác đi chơi, phải chí thú mà làm ăn. Tính mục đích đặt ra rõ ràng như vậy nên mọi sự từ ăn uống, ngủ nghỉ, đến công cụ hành nghề, người thợ Viên Đình đều phải kỹ lưỡng để đạt tới cái sự tiện lợi, tiết kiệm thời gian công sức, tiết kiệm giá thành mà vẫn đảm bảo chất lượng, thẩm mỹ mới là tài tính.
Hàng năm có những tốp thợ người Viên Đình tổng Đông Lỗ ngược nước sông Hồng, sông Đà lên thực thi nghệ làng ở vùng Tày - Thái. Trên ấy sẵn việc để làm hơn vùng khác, kỹ nghệ cũng không đòi hỏi cầu kỳ, thợ đồ mướp là làm được, làm luân phiên nhà này sang nhà kia, có điều kiện truyền nghề cho trai làng mới theo nghiệp của làng. Thức ăn của vùng Tày - Thái cũng không phải sẵn nhưng có một thứ mà tôi được biết là rất sẵn, ấy là thịt chó. Các nhóm Tày - Thái, nhất là phụ nữ và trẻ em kiêng không ăn thịt chó, khi ấy gia đình nào cũng muốn nuôi chó để giữ nhà, dọn vệ sinh, đi săn và chia sẻ tình cảm. Thịt chó là nguồn thực phẩm rất sẵn đối với những thợ mộc sống ở vùng Tày - Thái, họ có thể xin chó của gia đình trong vùng để hóa kiếp cho chó mà không phải trả tiền cho chủ nhà.
ở vùng Tày - Thái thịt chó không được ăn trong nhà, phải ăn ở các lán trại, phụ nữ Tày - Thái nhất quyết không chịu để mùi thịt chó dính vào bát đũa, xoong, nồi, đồ ăn thức uống của gia đình.
Nguồn thức ăn thì có sẵn nhưng tập tục ràng buộc quá khắt khe buộc những tốp thợ mộc người Viên Đình ở tổng Đông Lỗ tìm đến một giải pháp tối ưu ở vùng Tày- Thái là chế biến kiểu thịt cho một nồi, ăn khô và ăn theo lối bốc tay thay cơm.
Từ nguồn gốc phát sinh ban đầu như trên, hàng năm vào dịp sắp tết nguyên đán diễn ra sự hội nhập đông vui của các trai làng làm thợ ở các nơi về. Biết bao hương thơm sắc lạ ở khắp mọi miền cũng nhân dịp này được người làng khoe diễn. Theo con đường đó, thói quen thịt chó một nồi đã được một tốp thợ nào đó của làng truyền đạt kinh nghiệm, nhanh chóng được các tốp thợ khác học hỏi, coi đó là phát minh sáng chế của làng mình, của cả tổng Đông Lỗ. Mẹo chế biến thịt chó một nồi khi đã tiếp thụ vào làng Viên Đình thì được người làng tìm tòi, nâng cao kỹ thuật nấu nướng, để món ăn đạt đến mĩ mãn.
Đặc sản thịt chó một nồi được coi là ngon phải đồng bộ từ khâu đầu đến khâu cuối. Đầu tiên là chọn chó. Kinh nghiệm cho hay chó vàng độ 8 - 9 tháng tuổi (có nhu cầu đực cái), dân gian quen gọi là cầy tơ, ở độ tuổi đó, thịt chó không bị già quá ăn dai, không non quá ăn nhão, người Viên Đình có quy định cứ 1kg chó tương ứng với một người ăn, để ăn thật no, thật chán, thật sướng mới thôi, ăn theo phong cách của người thợ không đãi bôi, giữ gìn.
Bắt chó trói giật cánh khuỷu, treo ngược, cắt một miếng con da cổ, chọn tìm hai tia máu, cắt đứt một nhát lấy tiết. Tiết chó bỏ muối một lần tương ứng độ nhạt mặn của cả nồi thịt chó. Cắt tiết xong cho chó nằm quỳ để thui chó. Rơm thui là rơm nếp quýt, đốt hai sườn đến lưng, sau cùng là bụng. Lại dùng rơm nếp tuốt sạch lông rồi thui lần hai, chớm vàng mặt da, ngấm mùi hương thơm nếp quýt, thui đâu được đấy.
Rửa sạch chó tách phần xương, chặt xương theo lối cứ hai rẻ sườn thành một miếng. Số thịt thái vuông con trì. Thịt xương lẫn lộn cho vào bóp mắm tôm đồng, riềng giã nhỏ và tiết, khác mọi nơi thịt chó một nồi không cho mẻ và bí quyết để thịt chó ngon phải bóp mật chó lẫn vào với xương thịt.
Bóp trộn xong cho thịt và xương vào nồi (xưa là nồi đất) không cho nước đặt lên bếp đun, vừa đun vừa đảo khoảng 10 phút thì cho bộ lòng chó đã nhồi đậu xanh rang với bạc nhạc chó, riềng, tiết, là mơ tam thể, lá ổi, lá ớt, có thêm lá bầu đất - một loại rau thường để nấu canh. Hấp kèm vài củ riềng già ăn ghém. Xong, phủ lớp là chuối bánh tẻ cho riềm lá vào trong miệng nồi để không bị thoát hơi ra ngoài. Tiếp tục đun nhỏ chừng 25 phút. Kinh nghiệm xưa, thời gian đun từ lúc đậy vung đến lúc bắc ra tương ứng mọt tuần thắp cây nhang. Cách đun này hơi bốc lên gặp lá chuối lại chuyển hơi xuống cứ thế xoay vòng đến chín thịt mới thôi.
Thịt chín là khi xem cái cùi xương ở đùi chó thịt bị ngót một đốt tay, hoặc nhắc miếng xương ra rút được xương rẻ sườn.
Thịt chó Đông Lỗ nhất thiết phải đun hai lửa. Lần thứ nhất đun nhỏ lửa đến khi chín thì mở vung. Lần thứ hai cho ngọn lửa cháy to bùng hơi nước lên, tác dụng bật mùi hôi thoát ra.
Lòng chó mang khỏi nồi quấn vào que xoay tròn nướng cho vàng rộp trên ngọn lửa rơm nếp quýt.
Như vậy, thịt chó Đông Lỗ chỉ gồm 3 món: Thịt om, xương chặt rẻ quạt, lòng nướng. Nước chấm chính là thứ nước lấy ra từ nồi.
Khi xưa, người Đông Lỗ có thói quen ăn bốc, cho là ăn kiểu thế mới thật là ngon. Uống rượu ăn bốc xương và lòng trước, thịt ăn sau điểm lá mơ tam thể và lá củ riềng già đã hấp chín, tạo ra cảm giác thơm thơm hương nếp quýt và sự cay nóng của chất riềng già với sự béo bùi của miếng thịt cùng mùi thơm đậm đà của mắm tôm đồng.
Ưu điểm của thịt chó một nồi là thịt ăn đậm, không hôi mùi mỡ, người ta có thể ăn no, không biết chán, càng ăn càng ngon. Thịt chó một nồi còn tác dụng để được lâu, thức ăn dự trữ cho những ngày sau. Kinh nghiệm cho hay, để thịt đến hôm sau ăn, đun thêm lửa lần nữa sẽ cảm nhận miếng thị bùi, béo, thơm đậm hơn nhiều.
Thịt chó một nồi trở thành đặc sản dùng phổ biến trong sinh hoạt văn hóa của người Viên Đình. Trừ đám cưới, còn các kỳ tiết, hội lễ, kỵ giỗ, người làng vẫn thường làm món này được khách xa gần rất mến chuộng. Xem thế đủ biết, thịt chó một nồi ở Đông Lỗ phản ánh tri thức và phong cách ăn - một nét văn hóa của người thợ thủ công gắn với nông nghiệp ở đất Ứng Hòa.
Ngoài Đông Lỗ, Ứng Hòa còn một trung tâm thịt chó nữa, nổi tiếng không kém, ấy là thịt chó Vân Đình. Vẫn Đình xưa thuộc xã Đoàn Xá, nay thuộc xã Tân Phương. Vân Đình tên nôm là Kẻ Đình. Kẻ Đình nằm trong khu vực thủ phủ Ứng xưa, nay là huyện lỵ Ứng Hòa có nghề làm gốm. Gốm Vân Đình một thời nổi tiếng ở các phủ xứ Đoài và xứ Sơn Nam, chủ yếu sản xuất các mặt hàng tiêu dùng. Những người thợ gốm làng Đình cặm cụi bới đất, nhào nặn đất để kiếm miếng cơm, chắc chắn đời sống không thể sung túc, ráo mồ hôi là hết tiền. Họ là tầng lớp thứ ba dưới thời phong kiến (sĩ - nông - công - thương). Họ vừa là người sản xuất đồ gốm, vừa mang đồ gốm đi bán. Đồng tiền họ kiếm được quả là khó khăn. Nên trong sự ăn, người thợ gốm Vân Đình không thể hào phóng. Hợp với túi tiền mà ngon, đó là vấn đề đặt ra cho họ. Một số cụ mà tôi tiếp kiến đều trả lời tôi rằng, ngày xưa thịt chó ít người ăn, giá thành một ki lô rẻ hơn nhiều so với thịt gà, thịt lợn; do vậy đã từ lâu lắm những người thợ gốm làng Đình không ngần ngại dùng thịt chó trong các sinh hoạt cộng đồng làng xóm. Cứ làm thành quen rồi thành tục được cả Kẻ Đình chấp thuận. Có điều, Kẻ Đình - làng gốm, lại ở xen phố xá, nơi có gia quyến các nhà chức sắc, nơi tụ tập thương nhân và nơi dân các xã trong phủ kéo về trao đổi hàng hóa và tiêu sài ăn chơi. Yếu tố: phố xã - thị dân xâm nhập vào yếu tố thợ, chi phối tâm lý tiêu dùng và tập tục làng quê. Trong cái sự ăn cũng vậy, người Vân Đình tìm đến thứ ăn ngon mà rẻ nhưng chuộng lạ, thích cầu kỳ vốn là thị hiếu của tầng lớp thị dân. Sau này làng Đình không chỉ có một nghề gốm, thêm nhiều nghề khác. Tập tục ăn thịt chó trong các kỳ tiệc đã là tài sản, tập tục của làng. Từ đó mẹo chế biến thịt cho ở Vân Đình thiên về khuynh hướng tỉa tót, cầu kỳ. Kiểu thịt chó Vân Đình là thịt chó chế biến nhiều món. Khác với Đông Lỗ, các món cho vào một nồi, ở Vân Đình thịt chó làm sạch sẽ được tái chế ở nhiều nổi, ra nhiều món. Sơ bộ thống kê có tới 12 món: 6 món: thịt luộc, xáo rựa mận, xương, lòng, chả nướng, đùi nhừ vốn đã quen thuộc với mọi người. Nhưng còn 6 món: giả chuột, giả trâu, giả chim, giả dê, giả bò, gan nướng lá na quả thực là ít nơi làm.
Tuy gọi là món thịt chó dã quen thuộc nhưng ở Vân Đình khâu nấu nướng rất được xem trọng. Ví như món thịt luộc, người Vân Đình thịt chó thường mổ moi, nửa thân phần dưới đem luộc, khoang bụng dưới nhồi đầy riềng và các thứ gia vị. Luộc thịt chó cách thuỷ để chín bằng hơi nước chứ không phải luộc ngâm trong nước. Chính vì làm như thế nên thịt chó luộc ăn cảm giác khô, được ướp thêm gia vị, ăn đậm mà không bị ngấy mỡ.
Phần nửa mình trên con chó, người Vân Đình tách lấy hai màng thịt bụng ngậm sụn chặt vuông, bóp riềng mẻ, xiên từng cặp nướng trên lửa rơm nếp. Ăn loại chả nướng này vừa thơm, vừa giòn rất đặc vị đưa cay với những anh chàng nghiện rượu. Còn loại chả khác thú vị không kém, ấy là thịt chó băm nhỏ trộn vừa phải gia vị riềng, quấn mỡ chó vòng quanh đem nướng lửa rơm nếp, nướng đến khi nào cháy tan hết lớp mỡ bọc ngấm vào chả là được. Đây là loại chả ăn đến no không biết chán.
Món ăn cổ truyền cầu ký nhất là món gan chó nướng lá na. Gan chó thái miếng quấn lá na nướng bằng lửa rơm nếp khi bốc mùi thơm ngậy của lá na và mỡ chó là được. Lá na vốn rất đắng và hôi. Thế mà nhờ mỡ quấn chặt lá na vào gan đã tạo ra một mùi thơm rất lạ. Ăn miếng gan cảm nhận thơm cay, cứng giòn ở ngoài, lại có vị béo bùi, dẻo bột ở trong, không hề có mùi hôi của thịt chó, lá na, thật là một món ăn cao sang.
Món giả chuột, người Vân Đình lấy phổi chó, lòng chó và những miếng thịt thừa băm nhỏ lẫn với ớt xanh, bóp tiết cho riềng, mẻ, khế vào đun sôi tới khi se nước cho lá chanh thái sợi chỉ, các miếng thịt chó băm nhỏ gặp chất chua của mẻ sắt lại, ăn đậm và dai tựa món thịt chuột thoang thoảng lá chanh, cay cay vị ớt.
Món giả trâu: thịt chó nạc thái vuông, nấu với rau cần, nếu không phải mùa rau cần thì thay bằng lá dâu.
Món giả chim: thịt chín nướng cháy, băm nhỏ, cho rau răm, hành hẹ vào đun khô, nhờ có mùi rau răm và thịt nướng ta ngỡ như thịt chim.
Món giả dê: thịt nạc chó thái mỏng, nướng chín, cho vào đĩa trộn đậu tương rang giã nhỏ, rắc lượt vừng rang lên trên chấm với tương gừng.
Món giả bò: thịt chó nạc thái mỏng, ướp tỏi với nước mắm cho vào xào hành tây, cần tây, ăn nóng.
Một nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng rất độc đáo có lẽ đến nay chúng tôi chỉ mới thấy ở Vân Đình là hầu hết các đám cưới của trai gái trong thôn đều làm cố cưới chế biến từ thịt chó. Đám cưới dù có các món khác như giò, chả, ninh, nem song thiếu thịt chó thì dân làng vẫn coi cỗ cưới nhà đó kém sang và kém ngon. Tục này đã truyền từ nhiều đời.
Cỗ cưới ở làng Vân Đình, thịt chó không cốt ăn lấy no bởi mâm cỗ nhiều món, mỗi món lại không nhiều, người ăn thiên về thưởng thức tài nghệ chế biến món ăn của nhà chủ xem cái sự làm giả các món ăn đã đạt đến trình độ như thật chưa. Đó cũng là một nét độc đáo của sự ăn thịt chí ở giới thợ thủ công gắn với phố xá thị dân.
Sẽ là khiếm khuyết nếu cho rằng kiểu thịt chó Vân Đình hay hơn kiểu thịt chó Đông Lỗ hoặc ngược lại. Mỗi loại đều mang một sắc thái văn hóa của một vùng nghề, vùng đất nên chúng đều có giá trị tự thân cùng tồn tại, cùng được mọi người mến chuộng.
Có điều, hai phong cách khá trái ngược nhau ấy xuất hiện ở một huyện, vì thế cái này là đối tượng của cái kia, đều bắt đầu từ những bàn tay biết làm lụng và tính cả sự ăn uống để hướng tới cái đẹp của nết ăn, nết ở, tạo ra một bản sắc văn hóa Ứng Hòa thật khó lẫn với vùng quê khác
Mâm thịt chó thiếu mắm tôm khiến các thực khách... đều bực
"Chớm rét thế này mà thịt chó không bán chạy là... giời phạt bọn này rồi. Tình trạng này mà cứ kéo dài thì đến phải bỏ nghề thôi!" - nhiều chủ quán thịt chó nổi tiếng ở Hà Nội than vãn. Theo các chủ quán, phần đông thực khách đã bỏ quán vì... thiếu mắm tôm
Đã gần 12g nhưng nhà hàng thịt chó Trần Mục nổi tiếng ở phường Nhật Tân, quận Tây Hồ (Hà Nội) mới chỉ có vẻn vẹn...một mâm khách gồm bốn người đàn ông đang thù tạc giữa một nhà hàng lộng gió thênh thênh. Mấy nhân viên nhà hàng đang đánh bài tú lơ khơ thấy tôi dừng xe trước cửa hàng vội vàng chạy ra, tranh nhau giành dắt xe. "Thịt chó có mắm tôm đấy chứ?" - tôi hỏi. "Dạ, chú hỏi thế có bằng đánh đố, nhà cháu không bán món ấy hơn một tuần nay rồi!".
Nội thành vắng vẻ, ngoại thành... vô tư!
Chỉ tay về phía các gian hàng vắng vẻ, bà Nguyễn Thị Sìu, chủ quán Trần Mục, thở dài: "Bác xem, vào những ngày cuối tháng âm lịch như thế này, giá như không có dịch thì chúng tôi... đuổi cũng không hết khách. Tháng trước, thời tiết còn nóng bức mà mỗi ngày quán tôi phải mổ hàng chục con, nay một con cũng còn dư”.
Tương tự như quán Trần Mục, quán thịt chó nhà sàn 251 Thụy Khuê vốn là nơi tụ tập của các công chức Hà Nội sành ăn cầy tơ bảy món cũng lâm vào cảnh bi đát không kém. Bà chủ quán Nguyễn Thị Hoa ngồi đánh phỏm để giết thời gian cùng các nhân viên nhà hàng, giọng ủ ê: "Họ (chỉ các nhân viên quản lý thị trường và kiểm dịch) đến tịch thu hết mắm tôm. Nếu phát hiện một bát mắm tôm trong quán thì nhà hàng chúng tôi bị phạt 500.000 - 1 triệu đồng, lãi vào đâu mà bù vào đấy. Thôi, đành chấm với thứ khác vậy anh ạ!". Theo chị Hoa, các món nhà hàng vẫn đủ cả nhưng món rựa mận thì đành chào thua, vì món này không có mắm tôm thì còn thua cả... thịt lợn giả cầy!
Trong khi đó, tại TP Việt Trì (tỉnh Phú Thọ), nơi được coi là "cội nguồn" của món cầy tơ nức tiếng trung du đất Bắc, thịt chó vẫn được bày bán vô tư và thực khách vẫn ùn ùn kéo đến những nhà hàng có thương hiệu như A Hoàn, Đồng Quê, Thanh Bình... Thịt chó ở đây vẫn được chấm mắm tôm, có điều mắm tôm được "chưng" (đun sôi) kỹ.
Bình, nhân viên pha chế thịt chó nhà hàng Thanh Bình, liến thoắng: "Cứ ăn chín, uống sôi là được, các bác ạ! Vi khuẩn nào mà sống được ở 100OC đâu!"(!). Tại thị xã Phúc Yên (Vĩnh Phúc), cách Hà Nội 42km, các quán thịt chó ở đây vẫn đông khách. Đáng chú ý là phần lớn người ta đến mua thịt chó đã chế biến sẵn rồi mang về nhà. Anh Hòa, một chủ quán, cho hay: "Họ mua về vẫn chấm mắm tôm đấy! Chắc là mắm... dự trữ. Dù sao cũng "an ủi" được người nghiện thịt chó lúc chớm rét này".
Nước gì cũng... chấm!
Bà Nguyễn Thị Sìu cho biết không được đáp ứng món nước chấm "cổ truyền" thì thực khách yêu cầu chấm thịt chó với... đủ loại gia vị. Người thì tương ớt, người thì tương bần, kẻ lại thích dùng nước mắm, bột canh, muối ớt... Thôi thì đủ loại. "Tôi đã dặn sẵn nhân viên bồi bàn, cứ có khách vào là pha đủ loại nước chấm, ai thích gì thì... bưng ra!".
Mâm thịt chó bốn người ngồi trong quán Trần Mục thù tạc đến chai rượu nếp cái hoa vàng thứ hai thì một anh trong mâm bỗng gào lên: "Thịt chó mà thiếu mắm tôm thì còn gì gọi là thịt chó! Chấm nước gì cũng nhạt thếch thế này! Bà chủ đâu? Cho thêm một lọ mù tạt nữa đây, pha vào tương, mắm, ớt rồi trộn đều lên xem... nước ấy có chấm được không nào?".
"Khổ thế đấy, thôi thì chiều khách" - bà Sìu mỉm cười thiểu não nhìn tôi và nói rồi phất tay bảo nhân viên pha chế chiều theo ý khách. Bà Sìu cho biết nếu bây giờ ai phát minh hoặc sáng chế được món nước chấm nào thay thế mà... ngon như món mắm tôm để kéo thực khách lại với món "mộc tồn" thì gia đình bà sẽ coi là "thực khách danh dự" và được ăn miễn phí thịt chó suốt đời
Lãng phí quá! Ai đời nào xương chó lại đi nấu măng? Tại sao họ không xay hay băm nhỏ và gói lại làm mọc ? Hay các nơi khác người ta không biết đến món này ?
Nhớ quá những ngày còn ở quê được ăn mọc thịt chó ! Hồi xưa ở quê, làm thịt chó thường là có một ngày trọng đại nào đó như: Làm xong nhà, có người thân đi xa về, liên hoan cho con đi đại học, đi bộ đội,...Có khi mấy năm chẳng được ăn thịt chó vì cơm không đủ để ăn no lấy đâu ra thịt chó. Hồi học cấp II, có dịp Hè được hàng xóm đưa cho một bát thịt chó dại nhờ dân làng đánh chết, ăn xong mà lòng ước ao biết có khi nào được ăn một bữa thịt chó chán chê !?
Còn nhớ dịp nhà tui làm xong nhà và có làm thịt chó - theo như mẹ tui nói là " để đưa công thợ ", hôm bắt trói con mực làm tui khóc vì tội nó quá.
Khi ăn, món được tui chờ đợi nhất đó là món mọc. Có người cho dồi chó là ngon nhất trong số 7 hay 9 hoặc 12 món gì đó. Với tui, món mọc mới là tinh túy nhất của món thịt cầy. Để làm món này, phải có là bù đỏ hoặc lá mùng ( loại có chấm đỏ ở giữ lá ) để gói. Ngon nhất là có xương sườn non hay xương sống băm nhỏ. Ướp gia vị các thứ như ướp thịt và cũng nấu chung với thịt. Khi nấu nên để gói mọc trên nồi để hơi bốc lên ngấm hết vào mọc.
Lạ ở chỗ khi ăn mọc, ăn cái lá gói bên ngoài lại ngon hơn xương bên trong. Ở quê ta, không biết bây giờ khi làm thịt chó, người ta có còn làm món mọc nữa không nhỉ, hay lại học theo trong Nam, ngoài Bắc dùng xương nấu lẩu, ăn nhạt thếch chẳng ra hương vị gì. Theo tui, ngoài món mọc, thịt chó ngon nhất vẫn là nấu theo kiểu " tất cả bỏ vô một nồi".
Hồi còn ở Sài Gòn, tui cũng hay đi ăn thịt cầy, các địa điểm tui thường lui tới như: Thị Nghè, Cống Quỳnh ( cạnh toàn soạn báo Thanh Niên, Q1), cổng sân bay Tân Sơn Nhất,... mấy đứa bạn cứ kêu món lẩu (xương nấu với măng), thực sự tui không duyệt được. Lòng nhớ và luyến tiếc món mọc ở quê hương khi ăn món lẩu cầy tả pí lù này. Không biết có phải ăn thịt cầy ở quê ngon vì ngày xưa quá đói hay tại vì nấu hợp khẩu vị - với tôi, có lẽ cả hai.
Nhớ quá món mọc thịt chó ở quê nhà. Khi ăn mọc có tí bánh mướt chợ Dùng nữa thì tuyệt.
Ước mong một ngày trở lại quê hương ăn món mọc, nhất là ăn trong tiết trời lạnh cuối năm như thế này trong một quán thịt cầy nhìn có vẻ hơi " bẩn bẩn" một chút.
Tình yêu và thịt chó!
Tình yêu và thịt chó có liên quan gì không, nếu ai nói không thì nên coi thử cái nào!
Đầu tiên là vấn đề thịt chó. Theo tui, thế gian này chỉ nên chia thành 2 loại người cho nó đơn giản: loại người thứ nhất là loại không xơi được thịt chó, còn lại gom vào loại ghiền thịt chó. Nhân gian có câu: “Sống ở trên đời không ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?” để khẳng định rằng thịt chó không phải ngon mà là rất ngon, ăn vào là ghiền ngay, đại loại thế.
Tui dân miền Trung, sống trong “không gian ẩm thực” thịt chó, biết xơi thịt chó trước khi chập chững tập đi, cũng có một vài kỷ niệm về món khoái khẩu đó. Tui nhớ lúc tầm tầm mười hai mười ba tuổi gì đó, ham chơi để đầu trần dang nắng nên bị dính cảm mạo nằm liệt giường cả tuần. Nguyên một tuần chỉ ăn được cháo trắng nấu loãng ớn tận cổ nên tui thèm ăn thịt kinh khủng. Rồi một hôm thầy thuốc lên tái khám và phán là hết bệnh rồi, ba tui đi đâu mang về một tô thịt chó rựa mận đầy ứ ự. Ôi chao ôi, tui ôm tô thịt chó và nhai rau ráu, đã thiệt, ngon hơn tất cả mọi thứ cao lương mĩ vị trên đời. Ai nói trẻ em không được ăn thịt chó!
Ở quê tui, hầu như ai cũng ghiền thịt chó, O dượng tui cứ tới gần tết âm lịch là gọi điện: “Phong ơi, mai dượng thịt con chó, hắn cắn gà dữ quá. Mi về mau kẻo hết!”. Khi tui phóng xe qua nhà O dượng thì mọi thứ đã bày ra sẵn rồi, nào là dĩa phay kẹp lá mơ, dĩa dồi cắt lát, dĩa hoong sả ớt, tô măng xáo vàng rươm… lai rai với chai rượu ngâm củ mạch môn vườn nhà trồng. Mỗi người nhấp đôi ba li hột mít, nói cười rôm rả, chút lạnh giá còn vương vãi cuối cùng của mùa đông dường như đã không còn…
Nhưng! Tui bây giờ không còn ăn thịt chó nữa, chính xác là từ khi nhà tui cưu mang cu Nâu và bé Ngáo thì tui bỏ thịt chó, có ai mời mọc cũng lắc đầu. Cứ tưởng tượng ra hình ảnh 2 con vật đáng yêu của mình bỗng dưng bị biến thành dĩa mồi cho dân nhậu xì xụp, tui ức lắm, nên phải bỏ, quyết tâm không xơi thịt chó nữa để làm gương!
Ờ, viết nãy giờ, tạm xong cái vụ cai thịt chó. Thế còn tình yêu thì sao, can chi tới thịt chó? Là như vầy nè, để tui kể sơ sơ: ẻm của tui tuy sợ chuột nhưng cũng xơi được thịt chó, lâu lâu ẻm nhắn tin cho tui: “Anh nè, nhà em đang ăn thịt chó”, tui nhắn lại: “Ôi, anh cai thịt chó rồi em ơi”, ẻm gửi tiếp tin nhắn nữa: “Thế thì em cũng không ăn thịt chó nữa đâu, hứa đó”, tui đáp: “Ồ dê!”
Đúng rồi, sẽ vui và sẽ hạnh phúc hơn nếu như cả hai người đều không ăn thịt chó. Chắc chắn trăm phần trăm đó!
Mấy bữa rày dân ghiền thịt chó ớn ba cái vụ mắm tôm bị “Tào Tháo rượt” (chạy vô bệnh viện tá lả) nên tính tới chuyện ăn thịt chó mà… không cần mắm.
Đã có nhiều kế sách được đưa ra bảo đảm vừa xơi cầy ngon lành được, mà vẫn không ảnh hưởng gì tới cái đường ruột. Nhờ đó mà các quán cầy tơ ở Sài Gòn vẫn nhộn nhịp đông khách.
Thế vai
Tại quán H ở đường Hồng Hà (Quận Tân Bình. TP.HCM), sau khi đem ra một dĩa đùi luộc béo ngậy, chủ quán vẫn cho chén mắm tôm như thường lệ, nhưng lại có kèm thêm 3 - 4 dĩa muối ớt đỏ lựng. Cô tiếp viên đon đả mời khách bằng giọng Bắc đặc ruột: “Nếu các anh không dùng mắm thì chúng em có muối ớt thế chỗ đấy ạ! Ngoài ra, còn có muối tiêu, cơm mẻ, tương, chao cũng chấm được, đảm bảo không mất mùi… chó anh ạ!”. Vì sợ phải vô bệnh viện truyền dịch, nên chúng tôi đều để chén mắm ở ngoài rìa. Thế là cuộc nhậu vẫn bắt đầu rôm rả vô tư với các món chấm thế vai, và vẫn ngon lành như chưa từng bị thiếu mắm.
Được chừng 2 tuần rượu thì anh bạn quê gốc Hưng Yên… hết chịu nổi. Anh hầm hừ: “Thịt chó mà không mắm thì còn quái gì thịt chó!”. Anh bèn lôi chén mắm ở góc bàn ra, xin thêm chanh rồi nặn thật nhiều vào mắm. Anh lý luận: “Chanh có tác dụng sát trùng, pha tỉ lệ mắm ít hơn - chanh nhiều hơn sẽ tẩy được mấy con vi khuẩn gây bệnh chảy. Ngoài ra, cũng nên tăng cường ăn lượng lá mơ, củ riềng vào để làm ấm bụng. Chúng cũng là vị thuốc Đông y chữa bệnh đường ruột khá hay đấy!”. Nói dứt lời, anh cũng vừa pha xong chén mắm chanh. Sau khi khuấy một hồi cho nổi bọt trắng thấy thèm, anh gắp một miếng chó luộc chấm một cái thật nặng tay, rồi bỏ vô miệng nhai ngồm ngoàm. Anh vừa hít hà vừa vỗ đùi cái đét: “Thế mới là… chó chứ!”.
Trong khi đó, quán T.Đ. ở Thị Nghè đã rước hẳn một ông thợ chuyên làm nước chấm ở miền Tây lên để chế biến các loại cơm mẻ, cẩm tương… theo kiểu dân Nam bộ ăn thịt chó trước đây. Và quán cũng thêm vào thực đơn món “hầm hon”, thế vào món “rựa mận” mà xưa nay dân ghiền cầy vẫn thường dùng. Tất nhiên, món “hon” của Nam bộ không có ướp củ riềng và càng không có món “độc” mắm tôm. Nước chấm cũng thay bằng tương xay trộn đậu phộng và nước cốt dừa béo ngậy. Chủ quán hể hả quảng cáo bằng bài ca “Thôi thế từ nay hết… (tiêu) chảy (cấp) rồi…” cùng sự hưởng ứng nhiệt tình của khách khứa. Anh Trần Văn Sáu, một “cầy viên” quê ở Trà Vinh bỗng cất giọng bồi hồi: “Có cả chục năm rồi không ăn được món “hon” quê nhà. Thiệt lòng cũng cám ơn thằng dịch tiêu chảy cấp, nhờ nó mà mình được “về lại mái nhà xưa”.
Cùng bắt nhịp nhu cầu thực khách, các quán cầy truyền thống ở đường Bạch Đằng (gần sân bay) cũng bắt đầu đưa thêm vào những thức chấm thay thế như cơm mẻ, muối ớt, tương xay… khá hấp dẫn. Thậm chí có quán còn treo cả tấm bảng “Nơi đây không có mắm tôm… ngoại nhập” (ý nói xài mắm trong này, không phải “ngoài kia” đem vô).
Đem cầy về nhà
Từ lâu, một số gia đình có truyền thống khoái cầy, nhưng dị ứng với hàng quán ồn ào, không đảm bảo vệ sinh, đã đem món cầy về nhà tự nấu. Lúc đầu, người ta phải tới các quán cầy chia lại thịt với giá trời ơi mà có lúc tìm không ra hàng. Nhưng càng về sau, dân làm cầy như bắt nhịp được nhu cầu tiêu dùng nên đã mở quầy bán cầy cũng khá bắt mắt không kém gì thịt bò. Mỗi buổi sáng, nếu muốn mua thịt cầy “hơi”, bạn chỉ cần chạy xe tới chợ Xóm Mới, trên đường Lê Đức Thọ (P.15, Gò Vấp) sẽ thấy các sạp thịt cầy vàng ươm. Còn buổi chiều thì cứ tới chợ Căn Cứ (gần ngã năm Chuồng Chó, P.17, Gò Vấp) cũng có “hàng” tươi rói. Giá cả hết sức mềm, từ 45.000 - 50.000 đồng/kg. Đặc biệt người bán còn “tư vấn” thêm cho khách cách nấu các món từ hấp, nướng, dồi, xào lăn cho tới xáo măng, rựa mận. Thậm chí bạn muốn hỏi cách nấu món cháo đậu xanh… chó, chủ hàng cũng giải thích tường tận. Ngoài ra, các món rau kèm như lá mơ, sả, củ riềng… cũng được chủ hàng khuyến mãi vô tư. Nếu muốn mua gia vị, thì đây, ngay kế bên đã có người bán đủ món tương, chao, ngũ vị hương, và đặc biệt không thể thiếu là món mắm tôm. Bà Vũ Thị Lang, quê ở Thanh Hóa, chuyên bán gia vị nấu chó ở đường Lê Đức Thọ tỏ vẻ rất am hiểu thời sự: “Từ khi có dịch tiêu chảy cấp, tôi vẫn chuẩn bị món mắm tôm đem ra bán, nhưng phòng hờ khách không ăn, tôi làm thêm cơm mẻ, tương xay… bán kèm. Thực ra cũng oan cho mắm bị vạ lây do “con sâu làm rầu nồi canh” thôi, chứ mắm Sài Gòn đâu phải tất tần tật đem từ ngoài kia vào. Vả lại cũng chưa có ai trong này bị vào viện vì mắm tôm cả. Chẳng mắm thì tương, có gì đâu!”.
Ngộ một điều là không chỉ có các ông đi mua thịt chó đâu nghen. Các bà nội trợ thời nay đã bắt đầu đưa món chó vào thực đơn hàng ngày, chủ yếu là món nướng, hấp, chiên muối ớt hoặc khìa nước dừa, hầm đu đủ. Chị Trần Ngọc Bích ở Phường 9 (Phú Nhuận) cho biết: “Đem chó về nhà nấu là 1 trong “10 lý do vui” để kéo mấy ông chồng không phải lê la các quán nhậu. Thêm nữa, cầy là món bổ dưỡng, tụi nhỏ cũng rất thích, nên làm cho cả nhà cùng ăn luôn. Được cái, tôi nấu theo kiểu miền Tây, thay vì trước đây nấu “heo giả cầy” thì mình nấu cầy “rặt” luôn, chết chóc gì!”. Rồi chị bật cười sảng khoái: “Nói nhỏ anh nghe chớ mấy bà bạn tụi tôi trước đây lâu lâu cũng kéo ra quán cầy làm vài ve rôm rả lắm! Bây giờ thì kéo về nhà luôn cho tiện. Dĩ nhiên, không cần mắm tôm đâu, vì nấu theo kiểu miền Tây mà…”.
HẠ CỜ TÂY
(L.T.)
I . Thú Hạ Cờ Tây
Năm Khỉ nói chuyện Hạ Cờ Tây có vẻ không hợp khẩu vị, thay vì bàn chuyện ăn óc khỉ nhân sâm, cao khỉ, uống sỏi mật, huyết linh, đặc biệt món môi đười ươi, một trong bát trân chỉ hàng vua chúa, quan quyền và hạng thượng lưu mới đủ khả năng thưởng thức gồm : “gan rồng, gan phụng, thịt chim dủ di lộn, đuôi cá lý ngư, môi đười ươi, thỏ hàng nàm, mí mắt heo con và bàn tay gấu .” Ðặc biệt tại Mỹ, nói chuyện ăn thịt chó là điều cấm kỵ ! Với hoạt động tích cực của các Hội Bảo Vệ súc vật, có tay ghiền thịt chó bị bỏ tù vài năm vì tội ăn thịt chó cũng đã xảy ra . Năm trước, khi Hàn quốc và Nhật bản đăng cai bóng đá thế giới, một trong những đề tài nổi cộm là tình trạng ăn thịt chó phổ biến tại Hàn quốc . Thịt chó tại Hàn quốc được bán trong những đại tửu lầu như một món ăn sang trọng, khác kiểu thịt chó bình dân ở Ngã Ba Ông Tạ, Hố Nai … Tuy vậy, đọc hết bài, quý độc giả sẽ thấy “Hạ Cờ Tây” trong năm Giáp Thân không trái cẳng ngỗng mà còn rất hợp thời sự .
1 . Hạ Cờ Tây Tại Việt Nam :
Thời kỳ phục vụ tại căn cứ 20 Chiến Thuật Không Quân/ Phan Rang, tôi “đỡ đầu” một nhóm trong đám phi công Phi Ðoàn Ó Ðen Hạ Cờ Tây mỗi tuần trung bình hai lần . Gọi là “đỡ đầu” vì trong nhóm tôi là chủ Câu lạc bộ Sĩ quan, tạm xem có máu mặt hơn anh em, nên mỗi lần đi Hạ Cờ Tây, tôi đều phụ trách trả tiền và khấu trừ dần vào tiền bay của các bạn . Thỉnh thoảng tôi đứng chủ xị đải bạn bè và lắm khi tôi chủ động bắt chó để ăn miễn phí . Ðặc trưng của thời ăn thịt chó nầy là ngoài đám đực rựa, còn có sự tham dự của các nữ đệ tử thư ký, chiêu đải viên Câu lạc bộ . Tôi dụ khị các cô đi ăn thử vài lần, và cuối cùng các cô cũng ghiền thịt chó không thua gì Sếp mình . Tuy thịt chó là món vừa ngon - mùi vị đặc biệt hơn các thứ sơn hào hải vị khác theo quan niệm ẩm thực bản thân - vừa rẻ tiền . Tuy ở địa vị “tư bản”, nhưng nhậu nhiều cũng “hao”, vì vậy ban đêm đi chơi về, tôi vẫn thường trực trong tư thế sẵn sàng chiến đấu . Bất cứ gặp cô, chú chó nào, dù “nhất mực, nhì khoang, tam vàng, tứ đốm,” tôi đều trổ tài lạng lách, dùng xe Pick up của Câu lạc bộ cán chó để ăn chùa, vì kiếm được một chú chó, chủ tiệm cho cả đám ăn free thịt chó thỏa mái, chỉ tính tiền bia, thuốc lá. Sinh nghề tử nghiệp . Có mấy lần rượt chó, tôi suýt húc cột đèn hoặc đâm sầm vào cây cối, hàng rào dọc đường . Cho tới một lần, đang thưởng thức món cầy nướng thống khoái, bỗng một con chó ghẻ lỡ xuất hiện, tiến đến gần bàn kiếm xương rơi vãi . Thân hình con chó xác xơ lông, đầy những mãng da lác và lỡ lói đến kinh tởm . Tôi mất hứng ăn thịt chó một thời gian . ( Người ta bảo “ chó không ăn thịt chó” là một điều sai lầm .) Ăn thịt chó có nữ đệ tử cùng ăn, cùng nhậu vui hơn ăn thịt chó cùng đám toàn đực rựa . Các nữ đệ tử vừa trẻ trung, vừa xinh đẹp lại đươc huấn luyện đúng tiêu chuẩn, nên vừa ăn nhậu, vừa đuà giỡn “chăm phần chăm” với các cô không gì thú vị bằng .
“Sống ở đời ăn miếng dồi chó, chết về âm phủ biết có hay không ?” Một bợm chó nào đã chó hứng được câu thơ chó hay để đời ! Thời kỳ “Không Tặc” (1992), ở tù khám Chí hòa, tuần nào anh Trương Minh Dũng ( cùng khóa tướng Ngô Quang Trưởng, đồng tác giả với Châu Kỳ bản nhạc “Túy ca” được giới dân nhậu hải ngoại thời nay chịu hơn cả bài thơ Hồ Trường thuở trước ) cũng đem thịt chó vào ngày thứ Sáu ( ngày thăm nuôi của khu Tử hình ) trong số quà thăm nuôi . Ngoài thịt chó anh còn ngụy trang bia trong các loại ca lớn đựng nước giải khát, để vừa nói dốc, vừa nhậu . Một số tù “nước ngoài” được thăm nuôi đặc biệt tại phòng khách trại, thay vì gặp thân nhân ở khu thăm nuôi nhìn nhau qua lưới B40, để Giám thị hoặc chuyên viên An ninh Bộ tiện theo dõi . Cán bộ Trại chắc biết vụ bịa bọt nhưng làm lơ để mong “Không Tặc” có tí cay cay, yêu đời đỡ “quậy”.Khôi hài nhất là cả thời kỳ tôi tuyệt thực ( 48 ngày ), anh vẫn kè kè ca bia bự, gạ gẫm tôi uống . Là người sống theo nguyên tắc, tôi dứt khoát từ chối, thà nhịn thèm .
Thời trại Ba Sao, Nam Hà, sếp Lấn ( Trưởng Trại ) biết tôi ghiền thịt chó vì hay nhờ bà Sâm, Ðại úy cán bộ phụ trách căng tin, mua thịt chó, nên mỗi dịp ăn mừng chiến thắng (đá bóng, voleil, hoặc nhận cờ Thi đua Bộ …) Trại thường chiêu đãi cán bộ thịt cầy, vừa hợp khẩu vị, vừa tiết kiệm ngân sách vì Trại nuôi nhiều chó, sếp Trại cho Sơn, đệ tử hình sự phụ trách phục vụ “tù cậu” Kiên giang lễ mễ bưng cả khay thịt chó vào cho chúng tôi bồi dưỡng . Khu tôi có 4 người, 3 tay từ Mỹ về, và một đại gia người Singapore buôn lậu vàng, nhưng 2 tay không ăn, anh Tư thì ăn đại khái, mình tôi hẩu xực, còn thừa cho đệ tử . Dân Huế ăn thịt chó là điều hi hữu vì thời nhỏ ở Huế, tôi ít thấy ai nhậu “mộc tồn”. ( Mộc tồn tức cầy còn, tức con cầy ).
2 . Hạ Cờ Tây Ở Nước Ngoài :
Ở Mỹ khó khăn như vậy mà tôi cũng nhậu thịt chó được mấy lần . Các bạn biết tôi ghiền thịt chó nên mỗi lần nghe có mối thịt chó, họ gạ gẫm xin một bịch dù không thích ăn, cất ngăn đá để dành chiêu đãi Hàn sĩ . Có mấy lần được ăn thịt tươi, vì vùng Versailles có quá nhiều chó, và mấy cha, mấy thầy cả cũng ghiền, nên bắt chó nhà thờ bỏ bao bố và chuyển kín cho anh T. Hải quân, chuyên viên thịt chó, để làm cho các cha nhậu . Vụ nầy không kéo dài, vì tuy mấy cha trẻ chịu chơi, chịu thịt chó, nhưng sợ “bể” mang tiếng nên chỉ thời gian ngắn, hậm hực nhìn chó quấy rầy, nhỏ giải, mà đành chịu thèm. Anh T. cùng băng nhậu, nếu có thịt tươi thì gọi điện thoại triệu đòi trình diện khẩn cấp .
Thời tị nạn (1981-82), tôi bị nhốt tại Aranyaphathet, tỉnh địa đầu của Thái Lan, tiếp giáp Campuchia, tôi cũng có dịp ăn thịt chó . Dân Thái phần đông kiêng thịt chó, chỉ trừ một thiểu số ở miền Bắc, nhưng với sự ngã giá hời : Một con chó đổi toàn bộ gà Hồng Thập Tự Quốc Tế cung cấp cho tù tị nạn mỗi ngày, sếp mập nhà bếp cũng có lần ráng lượm chó bị xe cán đem vào trao đổi . Vì không ăn thịt chó, Thái Lan nhà nào cũng đầy chó, và chó bị xe cán chẳng thiếu gì . Một lần có con chó bẹc giê hàng xóm chạy lạc vào sân nhà tù, tôi đóng cửa kịp thời, bố trí phe ta rượt chó . Khi chó bị dồn vào phòng trực tại cổng, tôi một mình “tử chiến” và hạ được con cầy thật hấp dẫn . Các sếp tù Aran không chịu được mùi thịt chó, chê “mễn” ( hôi ), nên mỗi lần chúng tôi Hạ Cờ Tây, son chảo nấu thịt chó họ chìu rửa muốn mòn luôn và không bén mãng đến phòng giam tù VN đến mấy ngày .
II . Thiếu Cung Nô Bộc
Vơi Sếp Râu Kẽm, tôi chưa được hân hạnh làm “đệ tử ruột” như một số KQ khác, nhất là những người từng một thời cùng Sếp lên Khánh Dương khai phá đồn điền lập nghiệp . Tuy vậy, tôi cũng có khá nhiều kỹ niệm về Sếp .
Kỹ niệm đầu tiên là thời ở tù “cải tạo” Trại Lam Sơn . Nghe tin đồn Tướng Kỳ về Rừng Lá chiêu binh mãi mã, tôi bàn kế hoạch với Kiên trốn trại vì Kiên nhà ở Ban Mê Thuột và từng chỉ huy một toán pháo binh đóng tại đèo Phượng Hoàng và bị kỹ luật nhốt thùng Conex, riêng tôi gần nửa năm . Ðến khi qua Mỹ mới biết thời đó Sếp đang bận làm chủ Tiệm Liquor tại Cali ! Tuy tin đồn Sếp về Rừng Lá la do “tù nói tôi nghe”, chẳng ăn nhằm gì đến Sếp, nhưng tôi vẫn có cảm giác bị Sếp “lường gạt” về tinh thần . Vì nghe Sếp từng tuyên bố “Bắc Tiến”, “Tử Thủ” ai cũng tưởng Sếp là người hào kiệt, vì thế người tung tin mới dùng tên Sếp để làm nức lòng chiến sĩ trong tù, và tôi mới vượt Trại đi Ban Mê Thuột . Như vậy Sếp không “trực tiếp” gạt vụ Rừng Lá, nhưng Sếp đã “gián tiếp” gạt chúng tôi qua lời tuyên bố “BắcTiến, Tử Thủ” để chúng tôi đặt nhầm niềm tin vào Sếp .
Tôi còn được biết khá nhiều chuyện “thâm cung bí sử” về Sếp, nhất là bà Sếp mới, vì thời New Orleans, Sếp thường qua chơi và mở nhà máy chế biến tôm đông lạnh . Những lần đầu Sếp đến New Orleans, từ phi trường đến khách sạn, Sếp được đội xe Harley Cảnh sát Mỹ hộ tống rất hách . Nhờ Sếp được nhiều sếp Mỹ địa phương nghe tiếng và người tổ chức có một chân nhỏ trong phòng Thị Trưởng New Orleans . Tôi có làm bài thơ tặng Sếp đăng trong cuốn Ó Ðen, nhưng giờ đã quên, chỉ nhớ đại khái là có thân hữu đọc xong, bảo : Tôi “ca” Sếp hơi “xấu!”
“Chiêu quái” để có “cầy tơ bảy món” tại Nga
20-11-2011 | 22:12
(Nguoiduatin.vn) - Người Nga yêu chó, họ rất ghét ai đó giết mổ chó, do vậy để "ru lòng" đỡ nhớ món thịt chó Nhật Tân, nhiều người Việt đã nghĩ ra không ít quái chiêu để có món cầy tơ khoái khẩu.
Bất cập chuyện nuôi dạy những đứa trẻ Việt tại Nga
Giữa mưa tuyết thèm... thịt chó
Theo chân mấy đầu bếp uy tín người Việt đến một thành phố nằm bên bờ sông Uran, cách Matxcova khoảng hơn 1000 cây số, (nơi có khoảng 600 người Việt Nam sinh sống) ra ngoại ô tìm cầy tơ 7 món, nghe họ trò chuyện mới thấy được nét ăn, nét ở của người Việt ở đây cũng thật lắm chuyện lạ đời.
Người lái xe đưa chúng tôi đi là Nguyễn Thành Vinh (chủ trang trại - tên nhân vật được đổi), một người Việt sống lâu năm ở thành phố này. Anh nói với tôi, trước kia anh cũng có mấy quầy bán hàng ở trong chợ, buôn bán rất tốt. Thế nhưng, cái duyên với nghề nông nó bám lấy anh. Câu chuyện chăn nuôi, trồng trọt cũng bắt đầu từ thú vui ẩm thực của chính bản thân anh và bà con người Việt nơi anh đang sống.
Anh Vinh cho biết, ở Nga chợ thực phẩm thường bán trong nhà với những thức ăn như thịt, cá đã được bảo quản trong ngăn lạnh, rất ít khi có đồ tươi sống. Hơn nữa, là xứ tuyết, cho nên rau xanh cực kì khan hiếm, những thứ rau miền nhiệt đới quen thuộc với người Việt thì rất ít, muốn mua được những thứ này lại phải lên tận Matxcova, do người Việt chuyển sang bán, rất đắt và bất tiện.
Ngoài ra, thịt chó là món đại kị của người Nga, ngoài việc không bao giờ ăn, họ còn rất ghét và cực lực lên án những ai ăn thịt chó. Đây là vấn đề khó khăn với những thói quen sinh hoạt của người Việt Nam, với sở thích khoái ăn thịt chó, tiết canh, lòng lợn, dê tái... Họ rất cần tới những vật nuôi còn sống, không phải đồ đông lạnh. Là một fan hâm mộ cầy tơ, trong đầu anh Vinh lóe lên một ý tưởng tự cung, tự cấp phục vụ cộng đồng. Nghĩ là làm, anh bỏ nghề buôn bán, mua đất, làm nhà, quây vườn, xây chuồng để chăn nuôi và trồng trọt.
Xe chở chúng tôi chạy trên con đường liên huyện rộng và bằng phẳng hướng ra ngoại ô. Đi khoảng 30 km, chúng tôi rẽ xuống con đường nhỏ lầy lội, bùn đất để vào khu chăn nuôi của anh Vinh với đủ gà, vịt, ngỗng, lợn, dê... mỗi loại vài chục đến hàng trăm con được nhốt từng khu riêng biệt. Chúng tôi quan tâm đặc biệt tới việc nuôi chó. Hiện tại, anh Vinh có 5 chuồng chó với nhiều độ tuổi khác nhau.
Theo anh, ăn thịt chó nguyên tắc đầu tiên ai cũng biết là phải lựa được chó ngon, mà chó ngon phải đạt mấy tiêu chí như: Giống chó nhỏ, chắc thịt như chó ở Việt Nam. Và theo kinh nghiệm dân gian màu sắc của nó cũng rất quan trọng: "Nhất bạch, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm", riêng hắc khuyển thì không nên ăn. Chính vì vậy anh phải mất công đi tìm tại rất nhiều khu chợ động vật ở Nga, để mua chó có đầy đủ những tiêu chuẩn trên về nuôi và gây giống.
Cầu kỳ tiệc rượu “thịt chó chui”
Tôi được biết, Thuận là chủ bữa tiệc thịt chó hôm nay. Thuận vừa bay từ Việt Nam sang hôm qua, nên phải tranh thủ làm cỗ chiêu đãi bạn bè ngay, nếu không sẽ hỏng hết rau và gia vị. Không có điều kiện mời đông người, nhưng bữa cỗ cũng khoảng 80 khách, và anh dự định mua khoảng 4 con chó, với giá khoảng 50 USD/ 1 con.
Thuận cho biết: "Từ ngày có anh Vinh mở trại chăn nuôi thì thực phẩm tươi sống không còn là điều đáng ngại nữa. Nhưng gia vị để kèm theo mới là điều đáng quan tâm nhất. Bởi vì anh Vinh chỉ trồng rau vào mùa hè, chưa có điều kiện làm nhà kính để trồng rau mùa đông. Chính vì vậy, mỗi khi có người từ Việt Nam sang, thì món quà quý giá nhất là rau tươi và gia vị quê nhà".
Qua Thuận, tôi mới hay cuộc hành trình của những thứ gia vị anh mang sang thật vất vả. Nhà Thuận ở Huế, anh phải ra Hà Nội trước hai ngày với mục đích, để đóng gói rau trước giờ bay cho tươi, chứ mang từ Huế ra thẳng sân bay trong thời tiết nóng nực thì sẽ bị hỏng hết. Bốn giờ sáng trước giờ bay một ngày, nửa đêm anh cùng bạn đã ra chợ đầu mối Đồng Xa (Hà Nội) tìm mua gia vị. Chợ sớm bạt ngàn rau, củ các loại, thứ gì cũng muốn mang cho bạn bè thưởng thức, thế nhưng đành phải lựa chọn những thứ cần thiết nhất.
Ưu tiên hàng đầu là riềng, sả, lá mơ, mắm tôm và rau thơm các loại, rồi ớt, chanh... ngoài ra còn mua thêm rau ngót, mồng tơi, lá lốt, tía tô, xoài, ổi làm quà. Rau buổi sáng thường ướt, mang đi xa trong điều kiện nóng sẽ dễ thối, ủng. Vì vậy, anh mang về nhà bạn tìm nơi thoáng, mát phơi cho ráo nước, sáng sớm hôm sau, trước giờ bay 1 tiếng mới gói cẩn thận bằng giấy báo, cho vào vali. Với giọng nói đầy phấn khích, Thuận sôi nổi: "Anh biết không, 9 tiếng trên máy bay, em cứ hồi hộp lo lắng, phần thì lo rau để lâu trong vali bị hỏng, nhưng lo nhất là đến cửa hải quan Nga, không biết họ có vứt vào thùng rác hay không, may mắn lần này em lại gặp được cô hải quan dễ tính, thế là trót lọt".
Thuận còn phải chờ ở sân bay 10 tiếng đồng hồ mới đến giờ bay về thành phố nơi anh đang sống, còn bị phạt cước phí do thừa cân, vì máy bay nội địa cho gửi miễn phí ít hơn từ Việt Nam sang. Cả một hành trình vất vả, lo lắng, nhưng rất may, sang đến nơi, tuy rau hơi héo, nhưng bỏ giấy báo, gói lại cẩn thận rồi cất trong tủ lạnh chờ đến ngày hôm sau dùng vẫn còn tốt.
Khu chăn nuôi của anh Vinh vẫn còn hoang sơ và đang xây dựng. Những nhà có điều kiện trong thành phố mua đất, xây nhà để làm nơi nghỉ ngơi cuối tuần với mảnh vườn trồng trọt giải khuây. Còn anh Vinh thì biến nó thành khu chăn nuôi, điều thú vị là mỗi nhà thường cách xa nhau và có tường bao cho nên ít bị nhòm ngó. Rất nhanh nhẹn, nhóm đầu bếp mỗi người một việc, nhóm lò, đặt nước, chọn bốn chú khuyển ngon nhất, giải quyết nhanh, gọn, không tiếng động, đống lửa rơm lúa mì đã được đốt lên. Trong vòng một tiếng những chú khuyển tội nghiệp đã được thui vàng ươm và được gói cẩn thận trong từng túi ni lông để xếp lên xe, đưa vào thành phố chế biến.
Buổi chiều, khi những người đi bán hàng ở chợ về, cũng là lúc nhóm đầu bếp hoàn thành nhiệm vụ. Mười lăm mâm cỗ đã được hoàn tất với đầy đủ các món rựa mận, chả, hấp, xương hầm su hào, dồi chó thơm mùi cúc tần, lá ổi, gan nướng lá na, chân hầm măng. Trên mỗi mâm cỗ còn có húng chó, sả tươi, riềng tươi, lá mơ khiến người ta liên tưởng đến quán cầy tơ ở Nhật Tân.
Ngoài trời tuyết bắt đầu rơi nặng hạt, không gian chìm trong màu trắng của tuyết. Bên trong kí túc xá, anh Thuận đi hết năm phòng mời bạn bè nếm thử hương vị quê hương. Nơi xứ Bạch Dương, được tận hưởng thú rung đùi ăn món cầy tơ đậm đà bản sắc dân tộc đã giúp những người Việt xa xứ cảm thấy yêu thương, gắn bó với nhau như ruột thịt và giúp cho họ luôn cảm thấy gần gũi nhau hơn. Dẫu cho, ăn được miếng dồi chó vượt cả ngàn cây số, gặp quá nhiều khó khăn mới thấy: Giữ chút hồn Việt thật gian nan.
Bác Ba Phi : Ở xứ cá mà phải ăn tôm
Anh Động
Khi bác Ba dắt thằng Đậu vô nhà, bác gái nhìn hết muốn ra. Một ông già với một thằng nhỏ mình mẩy ướt loi ngoi, dáng đi lỏng thỏng như hai cái bóng ma. Ông gia thì bèo cám dính đầy râu, mặt mũi phờ phạc, mệt thở móp môi. Thằng nhỏ thì trầy xể mặt mày không còn thấy miếng da mẹ đẻ. Sau đó hai người dắt nhau đi tắm rửa, thay quần áo.
Nằm ngửa trên chiếc ghế trường kỷ thở dốc một hồi, bác Ba rủ thằng Đậu xách dao ra vườn chặt dừa tươi uống cho đỡ đói, trong lúc chờ bác gái thổi cơm.
Đi đến đầu xông nhà, bác Ba bảo thằng Đậu vác cây câu liêm theo để ngoéo dừa khô về xài. Vườn dừa bác Ba phải nói là nổi tiếng ở xứ Kinh Ngang nầy. Mỗi cái mương bề ngang sáu thước quăng đất lên thành cái bờ mười thước, trồng hai hàng dừa song song, hàng ngũ thẳng băng tựa sợi chỉ giăng. Bác có độ mười mẫu tây vườn trồng rặt ba loại cây dừa, xoài và cau. Vườn của bác Ba Phi tuy nhiều, cây cối trái sai oằn suốt năm, nhưng không thu hoạch được bao nhiêu. Bác làm vườn chủ yếu là để nuôi cá với làm cảnh chơi cho đẹp mắt.
Sau khi ông cháu bác Ba Phi móc dừa tươi uống nước rồi, họ chuyển qua móc dừa khô. Hai ông cháu đến một cây dừa cạnh đầu liếp có một quầy trái rám vỏ, sai oằn, trái lớn bằng chiếc nón sắt của tụi lính sư đoàn Hăm Mốt ngụy. Bác Ba cầm câu liêm, thằng Đậu cầm dao đứng hờm sẵn, chờ dừa rơi xuống lượm lấy, thẹo da cột lại từng cặp.
Bác Ba bảo:
- Dừa khô rớt là chụp liền, đừng để lăn xuống mương, bị cá lóc táp ăn hết.
Thằng Đậu lấy làm lạ:
- Xưa nay dừa "ăn" cá chớ cá gì ăn dừa, hở ông ?
- Không tin để rồi coi...
Bác Ba thọc móc vào cổ quày dừa, cố sức già giật quyết liệt. Những trái dừa khô rơi túa sua. Có một trái dừa bắn vèo qua đầu thằng Đậu, rơi xuống mương. Bỗng nhiên, Đậu nghe một tiếng "hực" rung rinh đất, tựa ai bỏ lựu đạn nổ ngầm trong lòng nước. Đậu nhìn kỹ xem, nó vụt la lên:
- Trông kìa, ông nội !
Nhìn theo tay thằng Đậu chỉ, bác Ba thấy dưới mương một vùng nước trào lên những cuộn vỏ dừa khô nát như bị ai vò. A ! - Thằng Đậu kêu lên vì nó đã hiểu rồi. Có một con trâu nước ở ngầm dưới đáy đớp dừa khô ăn, phun vỏ lên như vậy. Đậu hô:
- Ông nội đưa câu liêm con móc lỗ mũi trâu nước lôi lên trị tội.
- Trâu chó gì đâu, cá lóc đó mà !
Thằng Đậu cứ trơ mắt ra nhìn.
Bác Ba bảo tiếp:
- Mầy lấy một trái dừa khô ném tiếp xuống mương nữa xem !
Thằng Đâụu làm y lời ông nội. Bỗng từ dưới nước có một con cá lóc trừng lên táp một cái bốp, rồi thản nhiên nằm lờ đờ trên nước mà nhai ăn, trông giòn rụm tựa người nhai cốm. Thằng Đậu rụt vai, le lưỡi, lắc đầu, đưa tay bụm háng.
- Có tin chưa ? Ông đã nói dừa của mình trồng để cho cá lóc ăn mà. Và ông thường nhắc mầy lội tắm đừng ở truồng, là vậy.
Nghe ông nội nói, thằng Đậu trực nhớ:
- Hèn gì lâu nay bà nội nấu cháo cá lóc khỏi vắt nước cốt dừa mà cháo cũng béo ngậy - Suy nghĩ một chút, Đậu tiếp: - Để con nhử cá lóc trừng lên, ông nội dùng câu liêm móc mang một con đem về nấu cháo tẩm bổ chơi !
Nói xong, thằng Đậu lượm một trái dừa khô, cầm tay. Bác Ba Phi hờm sẵn cây câu liêm, đứng chờ. Đậu ném trái dừa xuống mương. Trái dừa chưa rớt xuống tới mặt nước tức thì có một con các lóc kềnh từ dưới thót lên táp nghe một cái "bốp". Lúc con cá còn phơi mình trên mặt nước rung đuôi, vươn vi nhai dừa một cách khoái trá, thì bác Ba nhanh tay xọc câu liêm móc mang nó.
- Chết mầy chưa ?
Bác Ba thét lên. Thằng Đậu nhảy tới tiếp ông nội kéo câu liêm dính cá lên. Con cá giãy đùng đùng làm nước văng trắng dã. Hai ông cháu bác Ba hè hụi mãi mà lôi không nổi con cá lóc lên bờ. Ngược lại con cá cứ lôi họ té sấp vào nhau. Bác Ba đứng trước, hai tay nắm chặt cán câu liêm, thằng Đậu phía sau, câu ngang eo ếch ông nội, ghị lại:
- Hai, ba. Nào... Dô ta !
- Hè, hai, ba... Nào ! Dô ta !
Hai ông cháu kéo con cá lóc tựa mấy anh bộ đội kéo pháo lên chiến trường Điện Biên Phủ. Bỗng con cá lóc quẫy đuôi một cái, phóng lên rồi cắm đầu xuống. Cái móc câu liêm bị hoác đơ. Ông cháu bác Ba Phi bị mất thăng bằng, té ngửa. Toàn thân bác Ba dằn lên bụng thằng Đậu một cái quá mạng ! Thằng Đậu lăn qua, ôm bụng rên rỉ:
- Ông nội chống cùi chỏ vô be sườn đau quá. Hư... hư...
Thấy cháu nội xếu mếu, bác Ba phủi bụi và xoa chỗ đau cho nó:
- Người thợ rừng U Minh phải có gan mật. Một khi rủi có bị heo nọc chảng đánh lòi ruột, người ta bứt lá môn gói lại, nhét vô lưng quần, lội về.
Thằng Đậu thấy ông nội cưng càng nhõng nhẽo:
- Con lớn lên hổng thèm làm thợ rừng đâu !
Nhưng rồi nó thấy bộ mặt của ông nội khốn khổ, vụt bật cười. Bác Ba cũng cười xòa theo. Bác vuốt đầu thằng Đậu ra vẻ âu yếm:
- Vô nhà lấy miệng chài ra, chài bậy mớ cá rô mề nấu canh chua!
Thằng Đậu chạy vô nhà vác miệng chài ra. Bác Ba bảo:
- Qua phía vườn xoài chài cá rô, cá rô cánh đó ăn rặt là xoài rụng, thịt chúng nấu canh chua khỏi dạo me.
Nghe nói thứ cá rô ăn xoài, thằng Đậu túm miệng chảy nước dãi.
- Ớn cá rô đó quá ! Ra vườn cau chài cá bổi vô chiên ăn còn sướng hơn.
Bác Ba lắc đầu:
- Cá bổi ngoài đó ăn toàn cau rụng, thịt chát ngầm.
Thằng Đậu ngơ ngác, hỏi lại:
- Sao bà nội cũng ăn trầu tối ngày mà thịt không chát ?
- Sao mầy biết không chát ?
- Con nghe bà nội kêu hoài nên biết.
- Bà nội kêu làm sao ?
Thằng Đậu ngó chừng ông nội, không chịu nói. Bác Ba hỏi dồn:
- Bà nội mầy kêu làm sao mà mầy biết thịt bả không chát ?
- Bà nội kêu: "Ui da ! Râu ông đâm mặt tui quá chừng".
Bác Ba Phi xấu hổ, táng cho thằng cháu nội một bạt tai:
- Mồ tổ cha mầy !
Thằng Đậu cười hắc hắc, nhảy lùi, trật chân té ùm xuống mương. Nó nổi lên thở cái khì, vẫn còn cười. Đầu nó dính đầy bèo cám và bã sình.
Bác Ba vác miệng chài lên vai, bảo:
- Sẵn mình ướt, mầy chui xuống đập mò bắt mớ tôm, nướng trui nhậu ! - Rồi bác lầm bầm một mình - Cá lóc ăn béo thì bắt không được, cá rô ăn chua lại chê ê răng, cá bổi lại ăn chát ngầm như cau tầm vung. Khổ...
Thằng Đậu còn lặn ngụp dưới mương, nghe ông nội cằn nhằn tưởng là ông giận mình, liền trèo lên, bảo:
- Ông nội vô nhà lấy giỏ, con ra búng đập mò tôm ngay đây.
Bác Ba xách giỏ ra tới mặt đập thì thằng đậu đã nhảy ùm xuống nước. Bác ném cái bội xúc cá cho nó, bảo:
- Đội trùm lên đầu kẻo mò động ổ tôm, tôm búng đui mắt.
Thằng Đậu chê cái bội kình càng. Bác Ba lột chiếc khăn choàng tắm tiều đang bịt khấc trên đầu, vò viên ném xuống cho cháu:
- Không đội thì trùm khăn, kẻo nguy hiểm !
Thằng Đậu đội khăn choàng hầu, trùm hai mép phủ mặt, chỉ chừa một kẽ hở để nhìn.
Bắt đầu mò. Thằng Đậu khom người xuống búng đập, hai tay huơ vào ổ tôm. Bất thần từ dưới nước những con tôm càng động ổ hè nhau búng lên một cái rầm. Thằng Đậu bật ngửa kêu "ối" một tiếng thảm thiết !
Bác Ba vội nhảy xuống búng đập đỡ thằng cháu nội dậy. Cái đầu của thằng Đậu như một đống chà. Những con tôm càng ghim vô mắc gai ngoài chiếc khăn ngo ngoe lởm chởm trông tựa một cây san hô di động. Bác Ba è ạch bồng thằng Đậu lên bờ. Thằng Đậu cố phá ông nội chơi. Nó làm bộ ngất xỉu cho bác Ba ẵm lên bờ nặng nhọc, chớ có thương tích gì ! Cũng may có trùm chiếc khăn bảo hiểm, không thì cái mặt của nó rỗ nát như té úp vô thùng đinh rồi. Bác Ba lột chiếc khăn của thằng Đậu ném ra đất một cái "sào". Thằng Đậu xô ông nội ra, ôm bụng nằm lăn, cười hắc hắc.
Sau đó hai ông cháu bác Ba lượm chiếc khăn, gỡ tôm bỏ vô giỏ, được hơn hai ký lô.
Bác Ba Phi : Bỗng dưng cây rừng chạy về phía sau
Anh Động
Sau khi bầy chó áp tải bè kỳ đà đi rồi, ông cháu bác Ba Phi trèo lên một mô đất ngồi nghỉ mệt, bác Ba mở gói thuốc bánh giồng ra quấn hút. Thằng Đậu thì cứ nghí ngố bàn luận về việc bắt kỳ đà chui trong bộng cây vừa rồi. Dường như niềm lý thú trong lòng nó chưa vơi.
Thằng Đậu hỏi ông nội:
- Sao ông biết được nhược điểm cái giống kỳ đà như vậy ?
Đó là hiện tượng tự nhiên mà dân gian truyền lại, bác Ba cũng không biết sao để giải thích cặn kẽ cho thằng Đậu hiểu được. thằng Đậu thì tin tưởng tuyệt đối cái bí quyết gia truyền trị kỳ đà của ông nội rồi, nhưng nó chợt nhớ lại trận thất đảm vì con nọc chảng hồi trưa, liền hỏi:
- Ông có thứ thuốc gì trị heo nọc chảng ?
Đã ngon trớn cao hứng, bác Ba ra chiều khinh dễ, nhún vai:
- Cọp gấm ông còn có thuốc trị được, nói chi heo rừng...
Thằng Đậu thấy ông nội ấp úng, nó cười:
- Heo rừng thì... cũng dễ bị gãy cán mác như chơi, hở nội ?
Bác Ba Phi bị thằng cháu nội chiếu bí, nổi giận trợn mắt, quát:
- Cái thằng cha mầy !
Thằng Đậu cười nhắm mắt, ngã lăn sấp tuột người xuống khỏi mô đất. Đậu giật mình vớ lấy cây tràm bên cạnh để nương mình lại. Chẳng ngờ tay nó vừa nắm cây tràm, thân cây bỗng vụt một cái chạy lùi về phía sau như sợ hãi. Thằng Đậu không biết tại sao lại có chuyện lạ lùng như thế, nó trừng mắt nhìn kỹ một hồi. Nhưng rồi nó bật ngửa ra, ôm cứng ông nội, thét lên:
Tại sao cả rừng cây chạy lùi về phía sau như vậy ?
Nghe cháu nội bảo chuyện ma quái như vậy, bác Ba tức mình ném điếu thuốc đang hút dở dang, móc túi lấy cây kiếng đeo lên mắt xem lại. Úy cha ! Rõ rằng là cây hai bên rừng đang chạy liệt liệt về phía sau, chuyện gì mà trông khủng khiếp quá ! Bác Ba chụp vội khúc lưỡi mác, thằng Đậu cũng chụp khúc cán dáo, cả hai sửng sốt như trời trồng. Chút sau hồn vía từ từ tỉnh lại, bác Ba thét lớn:
- Chúng ta đang ngồi trên mu một con càng đước, và nó đang chạy trối chết vào rừng xanh.
Thế là vô kế khả thi, hai ông cháu đành hạ khúc cán dáo và lưỡi mác xuống, ngồi khoanh tay để chịu trận. Con càng đước cứ chạy, không biết nó có hay rằng trên lưng mình đang có hai người ngồi trò chuyện chăng ? Hết lúc hốt hoảng sang hồi hứng thú, thằng Đậu vỗ tay nhe răng cười:
- Y như là ông cháu mình ngồi trên muôi chiếc xe đưa đò vậy.
Bác Ba gật đầu:
- Nhưng xe không người lái và động cơ xe bằng thịt.
- Loại xe này buồn buồn chặt ra một miếng xào dừa nhậu chơi, đã lắm hé ông nội !
Nhưng nghĩ một chút, thằng Đậu chợt nhớ ra một chuyện quan trọng:
- Không khéo "chiếc xe" của mình chạy luôn ra chợ Cà Mau, bị cò phạt cái tội hai thằng lơ ngồi trên mui, đó ông.
Bác Ba cũng bâng khuâng thở dài:
- Ông không có mang tiền theo lấy gì mà nộp phạt đây ?
Hai ông cháu còn toan tính, chợt nhìn phía trước thấy có một thân cây ngã nằm chắn ngang. Thằng Đậu la hoảng lên:
- Cây của ai bắc ngang, nó sẽ gạt ông cháu mình rớt xuống mui xe.
Bác Ba hô lớn:
- Cầm vũ khí, chuẩn bị sang xe !
Thằng Đậu cầm cán dáo, bác Ba xách lưỡi mác, trực sẵn. Đợi con càng đước chạy tới vừa chui qua dưới dạ "cây cầu", hai ông cháu liền thót lên, bám lấy một cách gọn hơ.
Đã thoát nạn, hai ông cháu thở ra một cái khì và vươn vai kêu "ứ hự".
Lỡ rồi, hai ông cháu ngồi trên "cây cầu" nghỉ một chút, rồi sẽ tính chuyện tìm đường về. Bác Ba mở gói thuốc bánh giồng ra vấn hút. Gió thổi quật làn khói thuốc hiu hiu vào mặt, bác Ba búng tàn thuốc xuống thân cây. Nhưng bất chợt "cây cầu" vụt nảy lên, cựa quậy. Hai ông cháu bác Ba lấy làm lạ, không hiểu tại sao ? Bác Ba giật mình ngã ngửa, chõi hai tay ra sau, vinh hàm râu lên. Thằng Đậu lính quýnh, đỡ ông nội dậy. Nó la bài hải:
- Chắc là cây cầu dây thun, nó biết chạy. Ông nội phải ngồi cho vững.
Bác Ba ngồi yên móc túi lấy cây kiếng đeo lên mắt quan sát rồi thì thầm với thằng Đậu:
- Con kỳ đà ! Một con kỳ đà ông ngoại.
Thằng Đậu sợ xanh mặt, nói nhỏ sợ con kỳ đà nghe:
- Nó có biết ông cháu mình mới tàn sát con cháu nhà nó không ?
Bác Ba gạt đi:
- Phải biết, ông nội mầy cũng tráng miệng cho nó rồi.
Con kỳ đà cứ chạy ào ào qua trảng dớn, nó không biết gì đến chuyện bàn bạc của ông cháu bác Ba. Đến gần mé rừng rậm, con kỳ đà chạy chậm lại, dường như ngán tuôn vào lùm bụi. Thấy vậy bác Ba nói với thằng Đậu:
- Xem mòi chiếc tàu liên vận này nóng máy rồi, để ông lên ga cho nó vọt.
Nói xong, bác Ba dùng đóm điếu thuốc châm vào lớp da lưng con kỳ đà. Bị lửa nóng, con kỳ đà vọt tới ào ào bất kể cây cối. Thằng Đậu thấy vậy khoái chí bảo ông nội:
- Đưa điếu thuốc đây con "lên ga" nó chạy nữa, ông nội !
Đậu cầm điếu thuốc cháy ngấm châm liên tục vào lớp da lưng con kỳ đà, làm con vật nhảy cỡn lên, thiếu điều quăng ông cháu nó xuống đất. Đậu càng khoái càng châm thêm và cười ngặc nghẹo. Nó châm miết đầu đóm điếu thuốc vào da lưng con kỳ đà, kêu xèo xèo và cháy ngún bốc khói lên. Bị nóng quá, con kỳ đà lồng lên quất đuôi lia lịa để chữa lửa. Ông cháu bác Ba thiếu chút nữa bị kỳ đà đập ngã. Họ mọp sát xuống né tránh. Đuôi con kỳ đà cứ đập hoài mặc dù nó đang thẳng đà chạy tới, cây cối hai bên quật đổ ào ào, sậy đế đổ có nùi. Thấy nguy hiểm tánh mạng đến nơi, bác Ba thét lớn:
- Bỏ tàu, nhảy xuống !
Tức thì hai ông cháu phóng một cái gọn hơ xuống đất. "Hú hồn hú vía về ăn cơm với cá". Bác Ba van vái lầm bầm trong miệng, trong lúc hai tay hai chân vẫn còn run lẩy bẩy. Khi hai ông cháu định thần nhìn kỹ thì họ trông thấy con kỳ đà lớn tựa chiếc xuồng cui còn tiếp tục chạy ào ào vào rừng sâu. Ông nhìn cháu, cháu nhìn ông, cả hai cứ ngẩn ngơ, lè lưỡi, lắc đầu.
Thằng Đậu băn khoăn nắm tay ông nội, hỏi:
- Lạc mất bầy chó với bè kỳ đà rồi, bây giờ làm sao đây, ông nội.
Bác Ba tuy rối trí nhưng cố làm tỉnh, ngẩng lên nghe ngóng một hồi rồi bảo:
- Cây rừng chạy bỏ mình thì mình cũng phải chạy bỏ lại chúng. Tiếng chim kêu vang vang kia, chỗ đó chắc chắn có trảng trống, ta đi thẳng đến, bỏ cây rừng lại phía sau.
Bác Ba Phi : Cặp trâu không sừng
Rõ ràng là thằng Đậu nói có lý. Bây giờ nó khỏi cần phải nghiên cứu cách cất chòi biết đi như bên nước Mông Cổ, từ nay về sau cứ nhằm trên mu con rùa mà cất thì không thua họ điểm nào cả. Hai ông cháu bác Ba cứ ở trên "túp chòi quay" ấy mà canh chừng đám mạ đến hơn một tuần lễ, mới tính chuyện cày đất để vào vụ mùa.
Nhiệm vụ của thằng Đậu là đến canh tư thức dậy cột đôi trâu vào ách rồi leo lên lưng một con nào đó nằm ngủ, còn về sau, phần dắt đôi trâu ra ruộng, đánh trâu kéo cày là của ông nội nó.
Một đêm, khi chùm sao cày gác lửng qua phía đầu rừng, bác Ba kêu thằng Đậu dậy mở niệt dắt trâu ra gác ách. Cái tuổi ham ăn ham ngủ, thằng Đậu sật sừ cầm đèn xuống chuồng trâu. Cây đèn cóc bị gió thổi tắt, nó phải mò mẫm làm việc âm thầm trong bóng tối. Đêm tối sệt ngửa bàn tay không thấy, thằng Đậu cứ đi lạc từ chuồng trâu qua chuồng heo, rồi từ chuồng heo trở về chuồng trâu đến mấy quận. Cuối cùng nó mở được cửa chuồng và gác ách một cặp trâu.
Nãy giờ làm việc gác ách trâu trong bóng tối thật là khó khăn vô cùng ! Bầy trâu trong chuồng không biết can cớ gì mà sút hết dây niệt, chạy lung tung hoài. Cả dây mũi của chúng cũng đứt đâu mất. Để khắc phục, thằng Đậu cứ cột quang lên đầu mỗi con một sợi dây vàm. Cho nên khi nắm được hai sợi dây vàm trâu từ tay thằng Đậu, bác Ba không nghi ngờ gì, cứ dắt đưa ra ruộng. Trên đường đi, bác Ba dắt trâu, thằng Đậu đi theo sau. Hai ông cháu lầm lũi đi dưới bầu trời đêm tối như mực.
Bữa nay ông cháu bác Ba Phi đánh trâu cày vạt đất cỏ chỉ. Thằng Đậu cầm dây vàm đi trước dẫn đường, bác Ba Phi lái cây chuôi phía sau, cày kiểu phá lỏi. Hai ông cháu thả một vạt vòng nông rộng độ nửa mẫu tây. Cặp trâu xem mòi sung sức lạ ! Bác Ba nghĩ: "Chắc hôm qua thằng Đậu cho trâu ăn đầy cỏ, nên con nào cũng óc nóc cái hông. Thằng nhỏ trông lù khù vậy chớ làm việc gì cũng tới nơi tới chốn". Bác Ba vừa đánh trâu cày vừa khen thầm cháu nội. Những đường cày đất vỡ lật ngược trong đêm, mùi đất mới tỏa ra một thứ hương thơm làn lạt. Bác Ba Phi cứ lầm lũi đi theo hai con trâu của mình, và bác tin rằng phía trước đang có đứa cháu nội dắt mũi. Bác lái chuôi đẩy vạch đất thành những luống thẳng tắp.
Có gì thú vị hơn người thợ cày điều khiển cặp trâu, kéo cày vào buổi trời sắp sáng. Tiếng rừng U Minh thức giấc cựa mình rì rầm. Khí trời đêm man mác lạnh, gay gay niềm cảm khoái. Con chim mỏ nhác đâu đó giật mình vỗ cánh bay vụt âm thầm,vài chiếc sao rụng tua tủa những vệt sáng trắng rồi tắt phụt trên nền trời yên ả. Cảnh vắng lặng, hữu tình. Bác Ba Phi thủ thỉ ngâm mấy câu ca dao bằng một giọng trầm ấm:
"Trâu ơi, ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta..."
Gà trong xóm đã gáy rộ hiệp ba. Đằng đông có mấy vệt mây đòn xóc hiện lên đen ngòm trên bầu trời ửng nhạt. Cặp trâu của bác Ba bây giờ mỗi lúc một sút sức. Chúng đi ột ệt, bước ngắn bước dài, không còn hăng hái kéo cày như lúc mới ra đồng. Bác Ba cũng không biết tại sao ? Lúc ấy có một vật gì đánh rơi, văng xuống ruộng. Bác Ba giật sợi dây vàm, trâu hô:
- Pháo, Chim ! Dô...
Bác Ba huơ qua vài bận tìm gặp chiếc giàn thun của thằng Đậu. Có lẽ hồi chiều nầy thằng nhỏ đi nẹt chim đâu đó rối máng lên cần cổ, mang đi cày luôn. Bác Ba lượm chiếc nạng giàn thun bỏ vào túi áo, và bác gọi thằng Đậu. Qua ánh sáng hừng đông lờ mờ, bác Ba thấy nó đang nằm úp trên lưng một con trâu mà ngủ khò. Thấy thương nó quá, bác để cho nó nằm ngủ yên.
Tay trái bác Ba cầm cái chuôi cày, tay phải vung roi quất đánh đét vào mông một con trâu, hô:
- Ví vô Pháo !
Con trâu Pháo lồng lên, kéo chênh đầu ách bước tới ột ệt, đuôi nó nguấy nguấy. Qua ánh sáng bình minh, bác Ba thấy hai cái đuôi của cặp trâu sao cụt ngủn ? Chúng có mòi lười biếng không muốn bước. Bác Ba lại vung roi quất vào mông con trâu này, và hô:
- Thá ra, Chim !
Con trâu Chim cũng lồng lên một cái ột ệt, lại nguấy cái đuôi cụt ngủn. Hai con trâu vùng lên, bước tới chậm chạp. Chúng đã đuối sức dữ rồi. Tại sao hơi thở của chúng phát ra hồng hộc, chứ không phải phì phò như những cặp trâu thường ngày ?
Trời mỗi lúc một sáng, bác Ba Phi cứ vung roi quất vào mông trâu thúc chúng kéo cày. Bác quất vào con bên này, con trâu vọt lên kêu một tiếng "éc". Bác quất vào mông con bên kia, con trâu cũng vùng lên kêu "éc, éc". Bác Ba Phi quăng roi sững sờ đến mấy phút, và bật ngửa ra... Thôi rồi, thằng Đậu hồi hôm lợi dụng trời tối mà chơi trội ông nội nó ! Đậu gác ách vào cặp heo cho bác đánh ra ruộg cày, nó thì leo lên lưng heo nằm ngủ ngon lành.
Bác Ba Phi tức mình mở dây nài, dây ống cho cặp heo, thả chúng ra. Nhìn lại con heo vừa được thả ve vẩy hai tai, ngoắc đuôi ủi đất tìm thức ăn, bác Ba nổi dịch tống cho mỗi con một đá. Con heo đực đang chở thằng Đậu trên lưng nhảy lồng lên quăng thằng nhỏ té sải tay xuống ruộng. Hai con heo vừa tốc chạy vừa la éc éc. Thằng Đậu chưa rõ ất giáp gì, cứ dụi mắt ngơ ngác nhìn ông nội. Bác Ba chưa hết giận, trừng mắt quát:
- Ai bảo mầy gác ách cặp trâu không sừng làm lỡ dở buổi cày rồi?
Thằng Đậu thấy ông nội nổi giận, nó không biết chuyện gì vừa xảy ra, ba chân bốn cẳng phóng theo cặp heo chạy tuốt về nhà
Bác Ba Phi : Chiếc ghe có những cột buồm ký lạ
Bây giờ chẳng lẽ về không, bác Ba Phi ném đầu con nai vào bụi, thế rồi hai ông cháu dắt con chó Đuổi đi sâu vào rừng xanh thêm một chập nữa. Con Đuổi dẫn đầu, ông nội cầm cây mác rừng đi kế, thằng Đậu cân mũi dáo theo sau. Đến một trảng dớn trống, ngọn bằng, từng cọng suôn óng ken nhau như đám mạ trải rộng mút tầm mắt, làm cho thằng Đậu mê ly. Từng cơn gió lùa qua, trảng dớn mịn màng gợn sóng trông vui như chúng đang vẫy gọi, đón chào và cười đùa với đoàn khách lạ. Bỗng con Đuổi đánh hơi được một sự nguy hiểm nào đó, nó lẩn quẩn quanh chân bác Ba, kêu ư ử. Con Đuổi cứ cụp đuôi và xếp tai ra chiều lo âu. Bác Ba là người từng trải, không thể không quan tâm đến hiện tượng này. Bác bảo thằng Đậu đứng lại. Sau một hồi suy nghĩ, bác Ba nhất định chọn một chỗ để nấu cơm ăn. Vì trời đã trưa rồi, hai ông cháu cảm thấy đói bụng.
Thằng Đậu ngồi bên cạnh, con Đuổi ngồi bên chân bác Ba Phi đang sửa soạn nấu cơm. Bác Ba lột chiếc khăn choàng tắm đang bịt khấc trên đầu, trải ra, để gạo vào, quấn chiếc khăn lại thành một cục. Thằng Đậu thấy vậy lấy làm lạ, hỏi:
- Túm gạo vô khăn chi vậy ông nội ?
- Chiếc khăn thay cho cái nồi nấu cơm.
- Nhưng ông nội nấu cơm bằng chiếc nồi vải, lửa cháy mất còn gì?
Mặc cho thằng Đậu hoài nghi, bác Ba cứ lặng thinh. Bác dạy con cháu bằng thực tiễn: cái gì chúng thấy lạ, muốn học thì cứ theo dõi mà học, nhất định không dạy lý luận suông. Bởi vậy thằng Đậu cứ ngồi nhìn. Bác Ba dùng mũi mác cắm sâu vào lớp đất mùn, rọc thành một vòng tròn rồi khoét lấy một khối lớn đất bằng cái tĩn đựng nước mắm, bỏ ra ngoài. Bác tiếp tục moi đất tạo thành một cái hố tí hon có chiều sâu độ một gộc tay. Chốc sau, nước rừng đỏ au từ bốn phía rịn vào cái hố nhỏ của bác và không lâu, nước lên đầy lòng hố. Sau đó bác Ba cho túm gạo xuống để ngập nước thiêm thiếp mặt khăn, rồi bệt bùn tô lên dày độ một lóng tay. Cái giếng nhỏ mới đây đã trở thành cái mồ chôn bọc gạo.
- Bây giờ ông cháu mình đi bẻ nhánh cây khô chất lên trên cái "nấm mồ gạo" này, nổi lửa đốt một hồi sẽ có cơm ăn.
Bác Ba phủi phủi tay cho lớp đất mùn rơi đi. Thằng Đậu mới ngớ người ra, và hiểu cái cách nấu cơm thời thượng cổ của ông nội nó. Đậu vỗ tay khen:
- Ông nội tài tình hết cỡ !
Được cháu nội khen, bác Ba mỉm cười sung sướng:
- Ở cái miệt này, trong đời sống hàng ngày con người phải luôn moi đầu óc ra tạo mọi điều kiện thích nghi để đối phó với thiên nhiên, với thiếu thốn.
Ông cháu bác Ba Phi bỏ củi khô xếp đống. Chốc sau thằng Đậu gộp lại mọt bó ôm về để chỗ cái mả chôn túm gạo. Sau đó bác Ba trở vô nổi lửa lên nấu cơm. Thằng Đậu còn phải ở lại bẻ thêm củi.
Thấy chỗ gốc cây trâm có nhiều nhánh khô gãy rụng, thằng Đậu rề lại lượm. Đang lom khom, bỗng Đậu nghe có tiếng động trên tán cây. Giật mình nhìn lên. Đậu thấy một con trúc lớn, vảy đen ô đang moi ổ kiến mà ăn. Tế là nhà ngươi nộp mạng cho ông rồi ! Thằng Đậu nghĩ thầm, cầm một que củi rón rén đến gần phang mạnh vào con trúc, hô lớn:
- Chết mầy chưa ?
Tức thì một cục tròn vo bằng trái dừa khô từ trên ngọn cây trâm rơi xuống cái đụi trước mắt thằng Đậu. Đậu nhảy lại ôm gọn con trúc vào lòng. Ở rừng U Minh này loại trúc thường hay đi bươi phá tổ kiến, nó giương vảy cho kiến bám vào thật nhiều rồi xếp lại, chạy đo tìm bàu nước lạn xuống xòe vảy ra, khi kiến nổi lên mặt nước thì trúc nổi lên theo, vớt kiến mà ăn.
Thằng Đậu ôm con trúc chạy về khoe với ông nội:
- Tại sao người ta nói hai cái rế nhắc nồi phá được bùa giải tỏa của con trúc, hở nội ?
- Có bùa phép gì đâu. Khi con trúc cuốn tròn, người ta bó vào hai cái rế ốp lại vừa khít, trúc làm sao bật đầu ra được mà tìm cách trốn chạy ? Mặc dù bốn chân trúc có nhiều móng bén, nhưng khi toàn thân bị co tròn, trúc thò chân ra cào cấu lọt theo lỗ mặt rế, chỉ bươi vào khơi khơi không có điểm tựa. Thế là trúc đành chịu chết vậy.
- Vậy sao người ta nhốt trúc trong cái lu, úp trên bộ ván gõ, trúc cũng dùng bùa giải tỏa mà chui ra được.
- Đầu trúc nhỏ, mỏ trúc nhọn, vảy trúc đóng xuôi và trơn. Bình thường trông như thân trúc tròn, chứ khi trúc chui ra chỗ hẹp thì dẹp lép. Khi đầu trúc dùi ra được, với bốn chân có móng sắc cứ bấu chắc lôi thân mình tới, trúc sẽ lọt ra ngoài. Bởi người ta thường nói "đầu xuôi đuôi lọt" là chỗ đó.
Thằng Đậu không chất vấn ông nội nữa, ném con trúc xuống trước mặt bác Ba, rồi chạy đi:
- Cho ông nội "trái dừa khô" đó !
Bác Ba cười khà khà !
Vậy là có mồi nhậu rồi.
Thằng Đậu đi bẻ thêm củi khô. Con Đuổi có vẻ mệt vì trải qua một buổi vất vả, cứ nằm lì đưa mỏ hửi hửi con trúc.
Bác Ba dùng một lá chuối nước khung lại thành hình chiếc gàu, cắt cổ con trúc cho huyết chảy vào đó. Bác Ba bẻ nhánh trâm làm đũa, đánh cho huyết sủi bọt, gạt bỏ một số huyết đông thành những sợi chỉ. Đoạn bác móc túi lấy một bọc giấy kiếng có đựng mấy viên thuốc "men pha rượu". Bác dùng một viên bỏ vào tô huyết trúc, khuấy sơ qua, chén huyết bốc hơi nghi ngút, tỏa mùi thơm ngát, bác Ba bưng huyết uống hết nửa tô, dành phần còn lại cho thằng Đậu. Thứ huyết trúc uống bổ phải nói: Chí cường lực tăng ! Xây xẩm mặt mày, vàng da thiếu máu uống vô là hồng hào tươi trẻ. Sau đó bác Ba xô xác con trúc vào ngọn lửa thui cho thật đều rồi tuột bỏ lớp áo giáp của nó. Chỉ trong một loáng, bác mổ rửa sạch sẽ, chặt thân con trúc ra làm tư, dùng nhánh trâm xiên ngang, khơi than, kê lên bếp nướng.
Trong lúc bác Ba Phi lui cui làm thì ngoài trảng dớn, thằng Đậu vác một ôm củi chạy vào, gọi thất thanh:
- Ông nội, ra xem này !
Chạy chưa tới, thằng Đậu quăng ôm củi bừa xuống bên ông nội, mặt mày nó xanh mét cắt không còn chút máu. Đậu nắm tay ông nội lôi ra trảng, vừa thở hào hển vừa bảo:
- Ông nội xem kìa ! Có một thân cây ngả nằm dưới dớn lớn bằng chiếc ghe ngo, còn mấy nhánh chà ló lên, con định bẻ vô chụm nhưng bẻ hoài không gãy.
Bác Ba còn phải quay lại trở mấy miếng thịt trúc trên lửa cho chín đều. Bác thủng thẳng bảo:
- Thì vậy có gì lạ đâu ?
- Lạ ở chỗ thân cây có một lớp vỏ mềm mại, trơn chuồi mà lại dai nhách.
Bác Ba nghe mà tức cười. Nhưng bác cũng chiều ý cháu, theo nó ra trảng để xem thử. Bác Ba ngẫm nghĩ và bảo thầm:
- Hay là loại ghe Ô, ghe Sa thời giặc Xiêm La đánh thua Nguyễn Huệ chúng bỏ lại, có thể họ bọc một lớp nhung hóa chất gì đó nên chưa mục, bởi vậy thằng Đậu bảo vừa mềm vừa trơn và vừa dai chớ gì.
Con Đuổi chạy theo bên chân hai ông cháu, nhưng dọc đường nó vụt kêu lên ăng ẳng rồi cúp đuôi, xếp tai nằm mẹp không đi nữa. Lấy làm lạ, bác Ba đến nâng bổng bốn chân nó dậy, con Đuổi mới chịu đi tiếp. Nhưng nó cứ luấn quấn bên chân hai ông cháu bác Ba và bộ tướng rất cóm róm. Cách vài mươi thước tới chỗ thân cây đổ, con Đuổi nhất định nằm lại và rên la thảm thiết. Bác Ba nổi giận bỏ con Đuổi lại, dắt thằng Đậu đi tới. Bác lầm bầm mắng con chó là đồ "bể rừng". Con Đuối thấy chủ cứ đi tới, nó lăn ra giữa đường, kêu la dường như là bảo chủ phải dừng lại ngay. Thấy con chó làm kiểu kỳ lạ, bác Ba sinh nghi, bảo thằng Đậu trở lại chỗ nấu cơm lấy vũ khí ra. Bác tin rằng ngoài trảng dớn cao chưa qua đầu thì chẳng có gì phải nguy hiểm. Có lẽ con Đuổi gần ngày sanh con, tinh thần hay hoảng loạn, và vừa rồi nó mới bị rắn hổ mây nuốt nên ê ẩm cả người. Mặc cho con Đuổi kêu vang, bác Ba lượm cây mác xốc tới, thằng Đậu cầm mũi dáo theo sau. Đến gần mục tiêu, thằng Đậu ra dấu cho ông nội dừng lại. Đậu chỉ thân cây để cho ông nội xem. Bác Ba mọp người, móc túi lấy cây kiếng đeo lên mắt, nhìn. Thân cây ngả nằm khuất dưới lớp lá dớn khô, chỉ có mấy nhánh trùi trũi nhô lên lấp ló. Bác Ba men tới thêm mấy bước nữa. Chợt bác đứng lại, phì cười:
- Mấy cái chà gạc nai !
Thằng Đậu chưa thật tin, chạy lại rờ xem. Quả thật, bốn cặp chà gạc nai từ trong thân cây chỉa lên. Lạy trời ! Thân cây thì làm sao trổ ra chà gạc nai được ? Tức mình, thằng Đậu đâm một dáo vào thân cây. Bất thần Đậu bật ngửa ra lăn tròn mấy vòng tới bên chân ông nội, hước hơi lên mấy cái gần như sắp chết giấc. Bác Ba vội ôm đứa cháu trấn tĩnh nó:
- Bình tĩnh, có ông nội đây !
Mặc cho ông nội động viên, thằng Đậu cũng cứ la ú ớ, vì nó khiếp đảm quá mà thất thần á khẩu. Một lúc thật lâu mới hổn hển, thét lên:
- Con rắn hổ mây nằm kia kìa !
Bác Ba không tin, bảo:
- Loài rắn hổ mây không bao giờ nằm đầu sát mặt đất, kể cả lúc chúng ngủ cũng dựng đứng nửa thân lên.
Sợ cháu không tin, bác Ba dắt nó đến bên mấy bộ chà gạc nai bảo xem kỹ lại để chứng minh lời mình nói là sự thật. Bây giờ thằng Đậu mới có dịp xem kỹ hơn. Quả là một con trăn gió nằm chình ình khuất dưới lớp lá dớn, thân hình to bằng một cây cổ thụ. Vậy mà nãy giờ cứ ngỡ một thân cây đổ ! Con trăn gió đã nuốt một lượt bốn con nai vào bụng, gạc nai đâm thủng lưng xuyên ra ngoài lởm chởm. Nghe có tiếng động, con trăn từ từ bỏ đi, trông nó như một chiếc ghe có những cột buồm kỳ lạ.
Bác Ba Phi : Chưa vào rừng mà con chó đã lâm trận
Vào mùa nước. Đêm. Rừng U Minh muỗi nhiều như vãi trấu, huơ tay qua đụng muỗi rào rào, hốt lại nắm một cái được mấy con. Ở đây quả là "muỗi kêu như sáo thổi", nhưng đỉa thì tuyệt đối không có một con nào, chỉ có "cá lội lền như bánh canh" mà thôi. Đất U Minh toàn là phân mùn đen như than bởi vì chứa những lá mục lâu đời, phân bện lên trong rễ choại thành một lớp trấp dày đến mấy thước, xốp và êm như một tấm nệm muốt khổng lồ. Nước U Minh đỏ thẫm ngọt ngào, bụm lòng bàn tay cho nước vào miệng hớp uống nghe mát lạnh. Nước rừng uống không sôi bụng, pha trà không bị bán mùi vị.
Đêm U Minh lặng trang. Chỉ có tiếng muỗi kêu ong ong và tiếng cá đồng ăn móng lác đác. Thỉnh thoảng đâu đó vài tiếng đại bác nổ xa xa làm cho lũ cá đồng giật mình quẫy rộ lên đồng loạt làm xôn xao không gian. Kế tiếp là tiếng kêu của lũ chim cúm núm hoảng hốt.
Mặc dù trời đêm tối như bưng, nhưng ông cháu bác Ba Phi cứ ngồi bên chiếc cà-ràng nhóm bếp lửa cháy nhá nhem do những cục đất táng và những thanh củi lụt bốc lên. Thỉnh thoảng bác Ba huơ khăn đập muỗi lạch xạch. Thằng Đậu ngồi sát bên bếp lửa un, cào than nướng những con cá khô sặc bổi bằng bàn tay. Mùi khô nướng, tươm mỡ thơm lừng. Thằng Đậu trao những con khô nướng cho ông nội để ông ngồi nhấm nháp chung trà, phần nó với con chó Đuổi còn mấy con cá lóc nướng trui, chấm nước mắm ăn với tô cơm nguội. Trước lúc đi săn phải bỏ bụng người ba hột và cho chó vài chén. Thằng Đậu thường làm như vậy. Con Đuổi ngồi bên.thằng Đậu trông con chó có chửa gần ngày sanh với cái bụng lớn mà phát mệt. Nhà chỉ có một mình con Đuổi, đi săn phải đem nó theo. Mặc dù nó có chửa nhưng vẫn còn sõi, không kém những con chó tơ.
Lúc chân trời phía đông vừa hửng đỏ, có nhiều vệt mây đen đâm ngang, họ xuống xuồng. Bữa nay ông cháu bác Ba Phi đi săn bằng chiếc xuồng be tám cho gọn nhẹ. Bác Ba đứng cầm cây sào nạng chống sau lái. Thằng Đậu ngồi trước mũi dùng cây dầm nhỏ bơi phụ. Con Đuổi ngồi chồm hổm trên tấm lô mũi xuồng, mỏ luôn nghếnh lên và hướng về phía trước. Xuồng của ông cháu bác Ba đi ngược chiều nước. Nước cứ sủi bọt hai bên mép mũi xuồng trông tựa những ngọn lửa. Bác Ba để cây mác cán dài tựa cây thanh long đao ở cạnh chân. Thằng Đậu đầu đội chiếc nón vải rách chỏm thòi tóc ra ngoài một chùm. Cây dáo nhỏ xíu của nó cũng để kế bên đùi.
Mặt trời nhô lên vàng rực phía sông Đốc. Ông cháu bác Ba quay lưng về phía ánh nắng sớm mà chống xuồng ào ào. Xuồng đi qua kinh Đá Bạc và hướng mũi thẳng lên vùng rừng Dương Hòa. Xuồng qua hết xóm Cựa Gà, Xào Lưới, còn một ngôi nhà cuối cùng là của bác Hai Móm, người bạn thân thiết của bác Ba.
Thấy hai ông cháu bác Ba đi săn, bác Hai Móm chạy ra sân vẫy tay gọi:
- Ghé lại uống nước chút sẽ đi !
Hôm nay là ngày kỵ cơm của bác Hai gái, là bạn thân đi luôn lảng lắm ! Dân miệt rừng, nhất cận lân nhì cận thân. Bác Ba bảo thằng Đậu móc mũi xuồng bê vào. Thằng Đậu cùng con chó Đuổi nhảy phóc lên bờ. Bác Ba lên sau, nắm mũi xuồng kéo tuột cho nó gác nửa thân lên sân, kẻo để nước trôi. Hai ông cháu bác Ba cùng con Đuổi vào nhà. Thằng Đậu chạy xuống bếp chơi với lũ cháu ngoại, cháu nội của bác Hai Móm. Con Đuổi lấn quấn bên bàn hai ông già ở nhà trên.
Sau khi uống cạn chung trà, bác Hai Móm bảo bọn trẻ đem bánh ra mời khách lót bụng. Một dĩa bánh ít đầy vun, hai đòn bánh tét bự cỡ cườm chân với mấy cái bánh phồng nướng phồng mặt quỉ. Bác Hai Móm lấy một cái bánh ít trao tạn tay bác Ba, vồn vã:
- Ăn thử đi anh ! Nếu cò hương, dẻo ghê.
Hôm nọ vợ chồng thằng Tư quết bánh phồng nếp dính mắc đầu chày vào cối, đổ cả thùng nước rồi mới lấy nằm xeo gần hụt hơi mới gỡ ra được. Ăn thử coi !
Bác Ba còn chần chừ thì bác Hai lột một cái bánh ít, ăn trước. Bác Hai Móm đưa cái bánh vào miệng cắn lại, rồi cứ ngậm luôn, không thèm nói năng gì. Bác Ba thấy vậy bật cười, hỏi:
- Ra sao mà anh cứ ngậm nghe hoài vậy ?
Bác Hai ra dấu chỉ trỏ ngầm bảo bác Ba cứ ăn là khắc biết. Bác Ba chiều ý chủ nhà, lột bánh. Nhưng bột bánh dẻo quá cứ dình nhèo nhẹo vào đầu ngón tay. Bác Ba bực mình rẩy mạnh một cái, chiếc bánh văng lên dính vào cây xiên nhà.
Nãy giờ con chó Đuổi cứ đứng lông nhông chờ chủ liệng xương, thấy thế nó ngỡ là một miếng mồi béo bở, a thần phu nhảy lên táp cái bánh. Chẳng ngờ bánh dẻo quá, dính cứng hai hàm răng con chó, làm nó không há miệng ra được. Con Đuổi kêu ư ư và vùng vẫy quyết liệt. Nhìn con chó Đuổi bị treo tòn ten trên cây xiên nhà, bác Hai Móm vụt bật cười. Chiếc bánh ít trong miệng bác bay vèo ra mang theo hai hàm răng giả trúng đánh bốp vào chiếc tủ thờ kê giữa nhà. Con Đuổi trên xiên liếc thấy ngỡ là một mảnh xương to, liền quăng mình nhào theo chụp bắt. Nhờ vậy mà nó sứt khỏi chiếc bánh ít, rơi nguyên con xuống đất.
Bác Ba Phi : Kho lương thực của két và chiếc tàu bằng xương
Mấy chục bà con giúp bác Ba Phi đến mấy ngày mới "bó" xong mười công lúa sa-mo ngập nước. Sau đó mươi hôm, lúa ló đọt lên khỏi nước. Tuy trải qua một cuộc sống ngầm trong lòng nước, lúa vẫn xanh um.
Một thời gian nữa, lúa bắt đầu trổ. Và chỉ trong vài ngày, mười công lúa sớm của bác Ba trổ rộ như mâm xôi, mặc dù từng bụi của nó vẫn còn bi bó siết trong vòng dây tranh.
Một bữa, bác Ba ra thăm ruộng về bảo với thằng Đậu rằng mười công lúa sa-mo đã vàng mơ hết rồi. Lúa trúng vô kể: bông dài, trái nẹo, ngọn xây đụn trông tựa lúa quây trong đệm. Như thế phải vào miếng ruộng cất một cái chòi để chuẩn bị kêu thợ gặt vào thu hoạch.
Sáng ngày, bác Ba bảo thằng Đậu:
- Vác búa đi cùng ông nội ra miếng ruộng đốn cây cất một cái chòi !
Độ này ngơi mưa, nước đồng cũng giựt cạn, ông cháu bác Ba kẻ vác búa, người xách liềm hái lội bộ ra miếng lúa sa-mo. Họ định vừa đốn cây dựng chòi, vừa cắt tranh lợp mái luôn. Trên đường đi, hai ông cháu lý quốc với nhau:
- Mười công lúa sớm nầy chắc thu hoạch được hai trăm giạ.
- Có nghĩa là bốn tấn một héc-ta hở ông nội ?
- Không phải. Đằng này là công tầm ba thước: tầm ta, còn tính theo héc-ta tầm hai thước sáu ba ba: tầm tây.
- Thằng Tây vô cướp nước mình nó cũng vác tầm theo nữa hở ông nội ?
- Cái thằng này tối dạ như đêm ba mươi. Tầm tây là tầm điền, tầm ta là tầm cấy, biết chưa ?
Câu chuyện hai ông cháu vụt nín ngang, họ bàng hoàng trước quang cảnh thay đổi kỳ lạ ! Mười công lúa chín mới hôm qua còn trông vàng rực, tại sao bữa nay lại đổi màu xanh lục và cứ xạo xự như đang có một cơn dông ?
Bác Ba chỉ tay bảo thằng Đậu:
- Mắt tỏ, mày xem !Xưa nay lúa xanh chín tới hóa vàng, đằng này lúa vàng lại hóa màu xanh ?
Tuy bảo cháu, nhưng bác Ba cũng móc túi lấy cây kiếng soi ra đeo lên mắt để xem. Thằng Đậu vụt thét lớn:
- Chết rồi ông nội ơi ! Bầy kéc đang bu ăn, đậu lợp kín đám ruộng của mình !
không ai bảo ai, hai ông cháu chạy ào tới, thét to:
- Chúng mày đâu phải địa chủ, lúa mới vàng mơ lại kéo tới thu tô?
Đàn kéc trạc hà sa số nhảy nhót xôn xao. Những con kéc lớn bằng bắp tay, mỏ đỏ, ức vàng, mình xanh lá cây non cứ tranh nhau cắn đứt từng bông lúa, kêu réo om sòm. Ông cháu bác Ba đuổi xua quyết liệt. Bầy kéc hè nhau mỗi con cắn một chùm bông lúa bay lên một cái rần. Chúng đảo xây quần mấy vòng rồi hướng thẳng vào rừng U Minh mà bay. Nóng của quá, ông cháu bác Ba kẻ xách búa, người cầm liềm đuổi theo. Chạy ngang qua đám ruộng, bác Ba càng chua xót hơn ! Lúa còn trơ những rạ là rạ. Ô hô, một chục công lúa sớm trúng như bồn đã đi đới nhà ma, chẳng còn sót lại một bông. Bác Ba uất ức, chỉ liềm hái lên trời thét lớn:
- Ông thề đuổi theo tận hang ổ chúng mầy !
Thằng Đậu cũng vung búa lên thét theo:
- Con cũng thề...
Hô được mấy tiếng, thằng Đậu trượt chân té ngửa. Nó bị ông nội chạy bỏ mấy chục thước. Lồm cồm ngồi dậy, thằng Đậu cố sức đuổi theo. Bầy kéc bay ào ào xanh trời. Ông cháu bác Ba đuổi theo xồn xộn trắng nước. Chân người đuổi không kịp cánh chim bay. Chỉ một lúc ông cháu bác Ba mệt lử khử, chân hươu đá chân nai, mũi thở phì phò như kép bễ. Bầy kéc bỏ rơi hai ông cháu mỗi lúc một xa dần. Đường hàng không của kéc rộng rãi mênh mông bốn bề lộng gió mặc sức mà tung bay, khốn nỗi tuyến đường bộ của ông cháu bác Ba quanh co lùm bụi, lung đầm lầy lội. Rốt cuộc, một lúc sau đàn kéc đi mất dạng, bỏ hai ông cháu bác Ba phía sau, theo dấu những chiếc lông rơi mà lần mò định hướng.
Cũng không khó khắn cho lắm, ông cháu bác Ba vào tới rừng U Minh. Nơi đây là một khoảnh rừng cổ thụ. Những cây tràm gốc lớn cỡ ôm, những cây tràm "ông ngoại" cành đeo đầy hoa phong lan nhiều màu sắc. Những cây buồi thẳng đuột, thân tựa chiếc bồ đập lúa nhô cao thượng tầng, đứng lưa thưa rải rác. Khoảnh rừng nầy chân rừng trống, có nhiều lá mục chồng chất lên nhau thành một lớp mùn dầy đen đậm. Cạnh bìa rừng có một con đầm rộng, nước đỏ thẫm, chỗ đuôi con đầm là nối tiếp ngọn lung Xẻo Lá. Lung chạy thẳng ngang hậu đất của bác Ba.
Bấy giờ ông cháu bác Ba mới nhận ra, nếu có chiếc xuồng thì cứ bơi theo con lung này về nhà một cách thoải mái.
Ông cháu bác Ba đi luẩn quẩn trong khu rừng cổ thụ một lúc để tìm dấu vết bầy kéc, nhưng tuyệt đối chẳng thấy gì. Bác Ba thua buồn ngồi tựa lưng vào một thân cây buồi lớn như cái miếu Thổ Thần, mở gói thuốc bánh giồng ra vấn hút. Còn thằng Đậu thì chạy tung tăng, tìm gỡ những buồng hoa phong lan trắng muốt, tím rịm có mùi thơm ngào ngạt. Từng chùm hoa buông thả theo những cành cây lòng thòng đủ màu sắc, thấy mà ham ! Hết gỡ hoa phong lan, Đậu lại tìm bứt những lá "U Minh" màu xanh lục có nhiều cánh li ti uốn éo xếp lại thành hình chiếc quạt hoa quì. Thằng Đậu mê mải theo những món đồ chơi vô cùng thú vị của rừng, nó không đếm xỉa gì tới ông nội đang ngồi hút thuốc dựa gốc cây buồi kia.
- Sửa soạn long bưng lội tắt về nhà, Đậu à !
Nghe tiếng ông nội gọi, thằng Đậu vội chạy đến. Nó chợt thấy ông liền dừng lại kêu thảng thốt:
- Thánh thần ơi ! Sao đầu tóc của ông nội bạc phếu hết trơn vậy ? Ông nội ngồi chơi mà lại thay chiếc áo trắng làm chi nữa ?
Bác Ba ngơ ngác trước câu hỏi lạ lùng của thằng cháu. Bác chậm rãi đưa tay sờ lên mái tóc rồi hạ xuống nhìn, lại sờ lên vai áo, hạ xuống nhìn. Lòng bàn tay bác dính đầy một lớp bột trắng như phấn. Lấy làm lạ, bác đưa lên mũi ngửi. Bác Ba vụt châu mày, nôn ọe và phun nước miếng phì phèo.
- Mồ tổ cha, cứt chim !
Thằng Đậu ngửa cổ lên cười hăng hắc:
- Lại một lần nữa chim lấy đầu ông nội làm cầu tiêu.
Nhưng đang cười bò lết, thằng Đậu vụt nín bặt, và trỏ tay lên ngọn cây buồi:
- Không phải chim. Kéc, kéc kìa !
Bác Ba nhìn lên. Quả thật là một đàn kéc đông đến hàng hà sa số ! Kéc đậu tầng tầng, lớp lớp trên một thân cây buồi chết khô đứng trơ trọi tự bao giờ. Kéc có sắc lông xanh tựa lá cây và chúng cứ đậu một cách im lìm, làm cho ông cháu bác Ba Phi trông qua ngỡ là một thân cây còn xum xuê những lá tươi, cành rậm.
Nổi giận lôi đình cho bầy kéc vô phép, bác Ba Phi chụp chiếc búa bổ mấy nhát vào thân cây buồi chết khô, quát lớn:
- Ông phải đào mả cha chúng bây vì cái tội hỗn láo nầy !
Bầy kéc vụt bay lên một cái rần, la dậy trời đất rồi hướng về phía rừng xanh, đi thẳng, bỏ lại một thân cây buồi chết khô đến bây giờ mới hiện nguyên hình. Những nhát búa bửa của bác Ba dội ra một thứ âm thanh lạ lùng. Nếu cây buồi đặc ruột thì tiếng kêu "cạch, cạch", còn cây buồi bộng ruột thì kêu "cum, cum" như tiếng mõ, đằng nầy... Bác Ba lưỡng lự, trở đay búa nện vào thân cây mấy nhát nữa. Rõ ràng là tiếng dội nghe bình bịch như nện vào một bồ chứa đầy lúa. Bác Ba tức mình quá, trở lưỡi búa lại chém mấy nhát thật mạnh vào thân cây. Lại một chuyện bất ngờ không thể tưởng tượng nổi: Lúa hột từ trong thân cây buồi tuôn ra như suối chảy. Ông cháu bác Ba quýnh hồn đứng chết trân một hồi lâu mới hốt lúa lên xem. Hột lúa trọng ong, rõ ràng là giống lúa sa-mo mùa sớm còn tươi rói. Bác Ba liền hiểu ra, vươn vai thở khì, dẫn giải cho thằng Đậu:
- Đây là cái kho lương thực của chim kéc. Thân cây buồi khô bộng ruột, bên trên có những lỗ rỗng. Kéc tha hết đám lúa mười công của mình về vựa vào đây.
Nghe ông nội nói, thằng Đậu nổi nóng:
- Mẹ kiếp tụi kéc ! Hồi làm mùa cứ thả phể trên mây xanh, khi thu hoạch lại kéo cả lũ đến huy động lương thực của người ta, phải khui vựa lúa của chúng mà lấy lại cho người sản xuất.
Ông cháu bác Ba bàn cách lội về mướn xuồng vô lòi kho lúa của bầy kéc. Thằng Đậu đưa ý kiến:
- Ông nội về chống ghe vô, con ở đây giữ, kẻo heo rừng kéo tới ăn lúa hết. Vừa cướp lại trên tay thầy pháp lại cúng vào tay thầy chùa ức lắm.
Bác Ba phân tích tình hình với cháu:
- Lúa hột còn nằm trong bọng cây, ta lấy bổi nhét lỗ ví lúa lại rồi cùng về chống ghe.
Thằng Đậu mừng rỡ, nhưng nó lại nhắc ông nội:
- Nhưng mà ông nội phải đi tắm cái đã, kẻo thúi lắm !
Bác Ba cười gượng, rồi bẽn lẽn lội xuống con đầm trước mặt, khoát nước tắm. Bác gội đầu và xoa râu cho trôi đi những lớp cứt kéc đang tô đầy trên người. Nước đầm sâu đến cổ, màu đỏ thẫm và mát lạnh. Nước ngọt ngào làm sao ! Càng tắm bác Ba càng thấy mát mẻ dễ chịu. Bác nghe tâm hồn sảng khoái, thân thể nhẹ nhàng, khỏe khoắn vô cùng. Như quên hết tuổi già đã qua lục tuần, bác Ba cảm giác đang sống lại thời thanh niên tráng kiện. Bác tung mình quẫy nước nhào lộn mấy vòng cho thỏa thích. Nhưng sau một cái lộn mèo cuối cùng, bỗng đầu bác Ba chạm vào một vật cứng và lớn tựa bộ ngựa nằm dưới lòng nước. Mặc dù đầu bị ê ẩm, bác Ba cũng dò bàn chân sờ thử vào vật kia. Vật đó có mô hình khum khum như nấm mả, thân lớn gấp ba chiếc giường ngủ nhập lại. Không lẽ giữa đầm lầy trong rừng lại nổi cù lao ? Bác Ba sờ kỹ mép bìa của cái mô, hồi lâu bác mới thở ra cái khì và xác nhận đó là gì. Bác đưa tay ngoắc thằng Đậu.
Thấy ông nội gọi, thằng Đậu vội nhảy ùm xuống đầm. Sau khi nghe lời ông, lặn một hơi dài xuống nước sờ thử theo mép rìa của cái mô, thằng Đậu nổi lên la lớn:
- Con càng đước quá mạng, ông nội ơi ! Rìa mu có răng cưa mà.
Bởi vì là một cái mu con rùa thì không đời nào mép rìa trước và phía sau có hình răng cưa lồi lõm, thằng Đậu đã thừa biết điều này. Bác Ba phì cười, đáp lại lời cháu:
- Quả thật là con càng đước, nhưng nó đã rũ xương rồi,còn có cái bọng không.
Sau khi nghiên cứu kỹ, ông cháu bác Ba Phi quyết định lên bờ đốn cây, chặt dây mây cột, trục cái mu con càng đước rũ xác này lên, có việc rất cần thiết. Thế rồi họ xốc cắm những cây đòn xeo, đòn trục gát nạng qua và một sợi dây mây dốc đánh thật lớn. Xong đâu đó, hai ông cháu cầm những cây nằm đẽo dẹp xoe vòng theo rìa chiếc mu con càng đước phần lấp trong bùn. Rồi kẻ dưới nước, người trên bờ hè hụi xeo, trục. Quay gần suốt một tiếng đồng hồ cái mu con càng đước mới bật lên, rồi dùng búa bửa bỏ phần cái yếm bên dưới. Hai ông cháu bác Ba trổ nghề "đóng tàu" dã chiến đến mệt phở hơi tai. Thằng Đậu múc nước chùi rửa sạch sẽ lòng tàu, rồi hai ông cháu bắt đầu hạ thủy. Hai người nhìn cái mu con càng đước lật ngửa trên nước mà cười ngất, thật là nó lớn không thua chiếc phum của đám quận Nhung.
Ông cháu bác Ba dùng cái yếm con càng đước làm bàn khiêng. Họ bổ rộng lỗ hổng "kho lương thực" của lũ kéc cho lúa chảy ra rào rào. Cứ như thế, hết khiêng này đến khiêng khác, hai ông cháu chuyển sạch kho lúa của kéc xuống tàu.
"Tàu" cứ đi bon bon về hướng hậu đất. Thấy chỉ trong vòng một ngày mà gặp bao nhiêu là chuyện lạ nhất trần đời, thằng Đậu ngồi trước mũi vít đốc, cười nói huyên thiên:
- Bọn ngụy chở lính bằng tàu sắt, chủ đò chở khách bằng tàu cây, còn ông cháu mình thì chở lúa bằng tàu... xương, hén ông nội ?
Bác Ba Phi : Lính bộ đánh thủy
Đám biệt kích về tới quận, kêu réo om sòm:
- Quận trưởng ơi ! Tụi tui bị Ba Phi vỗ mặt.
- Quận trưởng ơi ! Tụi tui bị Ba Phi hốt giò.
Đứa thì đưa cái mặt bự, đứa lại nhảy cò cò cặp chân đau. Quận Nhung tức mình chạy ra, đứng chống hai tay vào háng, thét:
- Đứa nào đại diện cho tốp biệt kích này, báo cáo tình hình tao nghe !
Bởi vì mười mấy tên biệt kích đều bị ong vò vẽ đốt mặt mày sưng vù như nhau, làm quận Nhung không thể tìm ra tên chỉ huy. Tất cả đều tiến lên, đưa tay: "Tôi". Tên nào cũng muốn khoe cái mặt "bự" của mình với quận trưởng để lập công. Quận Nhung bực tức:
- Đại diện là một thằng thôi chớ !
- Thưa quận trưởng, tất cả chúng tôi đều "đại diện" cả đây mà.
Quận Nhung đuổi tụi lính biệt kích bại trận ra. Hắn tập hợp một đại đội bộ binh, giao cho nhiệm vụ:
- Chúng bây bao vây đánh úp vào Lung Tràm, bắt ông cháu Ba Phi cho tao.
Trong xóm Lung Tràm, bác Ba Phi bảo thằng Đậu:
- Thằng quận Nhung không chịu thua ông cháu mình đâu, phải chuẩn bị chống càn một trận nữa.
- Vậy mình làm chiến thuật "càn quét" chơi với chúng, hở ông nội?
Hai ông cháu bác Ba xách búa ra đốn mấy trăm cây tre, nào tầm vông, nào mạnh tông, tre xiêm đem đóng cọc làm "bẫy quét" đặt khắp các ngả đường. Đặt chung quanh khu vườn của họ xong, hai người vác đi đặt dài theo hai bên bờ con Rạch Lùm, hai bên bờ con kinh Công Nghiệp.
- Bọn lính bị đánh đau nhất định phải chạy về chi khu bằng hai con đường này thôi.
- Trước hết mình chống càn, sau đó mình đánh tỉa, hén ông nội ?
Ông cháu bác Ba đặt bẫy xong, trở về núp phía sau bụi tre để theo dõi tình hình địch. Bác Ba móc túi lấy cây kiếng già đeo lên mắt mà quan sát.
Đại đội bảo an của quận Nhung đang ào ạt kéo tắt đường đồng, từ phía chi khu Rạch Ráng đổ vào. Tên nào cũng lăm lăm khẩu súng trên tay. Tên đi trước nhắc chừng chừng những tên đi sau:
- Chú ý trên các cành cây, hễ thấy chỗ nào có ong vò vẽ thì phải tránh cho xa.
Khi tới mé vườn, bọn lính bộ binh chia ra thành nhiều mũi, hè nhau tiến vô:
- Xung phong !
- Xung phong, bắt sống ông cháu Ba Phi đem về cho ong vò vẽ đốt sưng mặt lại trả thù !
Bác Ba Phi ngồi sau bụi tre ung dung hút thuốc, gật gù cười:
- Chút nữa cho tụi mầy nhảy tăng-gô chớ trả thù.
Thằng Đậu phụ họa thêm:
- Trước hết chúng nhảy nai, sau đó khụy xuống làm bò, hén ông nội ?
Bọn bộ binh ngoài kia hô hào tiến vô. Đợi chúng vào đúng tầm, bác Ba Phi đưa tay gỡ cây kiếng ra, bỏ túi, và hô:
- Giật dây ! Nè !
Tức thì đằng kia một cần bẫy bật ra, quét vào giò bọn giặc. Ba bốn tên đi đầu nhảy cẫng lên kêu: "Ôi trời ơi !". Rồi ngã quỵ xuống, bò bốn cẳng, tháo đầu trở ra. Đám giặc còn lại nhốn nháo chạy sà đùa, chúng đạp phải những máy bẫy. Từng cần bẫy bằng tre tầm vông quét ra một cái, có ba tên giặc ngã quỵ. Lính bộ binh của quận Nhung la khóc rùm trời, ngã té làng khang như đốn củi. Cuối cùng là những cần bẫy bằng tre mạnh tông. Mỗi cần bật lên cái vút là có đến năm tên giặc nhảy nai, rồi quỵ xuống làm bò.
Bọn giặc cứ bò lết theo bờ Rạch Lùm và kinh Công Nghiệp mà quay trở về Rạch Ráng. Nhưng trận địa "bẫy quét" của ông cháu bác Ba Phi đâu có tha. Nhữngcần bẫy đặt dọc theo hai bên bờ bật lên liên tiếp. Từng đòn trí mạng cứ quất bôm bốp vào những "con bò" bại trận kia.
Bác Ba cùng thằng Đậu xung phong ra:
- Phải cho bọn chúng què chân thành con bánh ít hết, nghe ông nội ?
- Nhất định phen nầy ông đổi phiên hiệu binh chủng của chúng từ lính bộ trở thành lính thủy.
- Có nghĩa là… làm sao, hở ông nội ?
Hai ông cháu bác Ba Phi đuổi theo bọn giặc dài ra bờ kinh.
- Đậu, coi đây ! Lính bộ thành lính thủy là như vầy nè !
Nói xong, bác Ba giật dây bẫy một cái là có đến bốn năm tên lính bảo an bị bẫy quét quăng xuống sông. Chân cẳng đều bị bại liệt hết, trèo lên không nổi, bọn giặc buộc phải long kinh lội về. Những tên còn sót lại trên bờ, lần lượt bị những cần bẫy đặt hai bên đường quét cho nhào tuốt xuống sông. Cả đại đội giặc thi nhau lội hì hụp tựa một bầy cá nược, hướng về phía chi khu Rạch Ráng.
Thằng Đậu trông thấy khoái chí, đi dài dài trên bờ vỗ tay ca bài: "Tiếng đàn Ta Lư" của nhạc sĩ Huy Thục.
- Tính, tính, tính, tang, tang, tình ơ trông kìa ! Hai, ba, bốn chục tên lính bộ đánh thủy ngụy kia… Anh bộ đội giải phóng quân ơi ! Hờ ơi!".
Bác Ba Phi : Lũ cá trê không công mà được hưởng
Hai ông cháu bác Ba đã vào sâu trong rừng xanh, không còn đường nước để chống xuồng đi nữa, đành phải đậu xuồng, dắt con chó Đuổi đi bộ.
Lớp phân mùn được rễ choại bện lên thành trấp dày và cao ráo, bước đi phập phình tựa nhún trên nệm muốt. Đường đi phải vượt qua những đám dớn cao tận cổ, mọc dầy đặc. Qua hết trảng dớn thì lọt vào vùng gộp choại. Choại mọc chằng chịt thành lùm quanh những cây tràm, cây buồi, cây trâm lớn, có độ cao đến trên mười mét. Mặc dù gian nan nhưng thằng Đậu không nản chí. Ông nội bảo là vùng này thế nào cũng gặp nai. Đậu mơ ước gặp những con nai chà đầu có hai chùm gạc tựa tay san hô, bốn chân cao như bò, mình vàng óng, vừa chạy vừa kêu "bét, bét", mũi thở phì phò. Đậu sẽ chạy chận, cân mũi dáo "tra dáo đầu" để ông nội tặng chiếc đầu nai giữ đúng luật giang hồ của những phường săn. Vào những ngày tết, Đậu sẽ dùng chiếc xương đầu nai, đem ra thay cho đầu lân cùng bạn bè nhảy múa. Ơi, tự hào biết mấy. Đó là niềm kiêu hãnh của một thợ rừng tương lai.
Trước mắt Đậu cứ mơ màng thấy một con nai chà, mình vàng óng từ đâu bất thần xuất hiện, làm cho đôi tay thỉnh thoảng cân cân cây dáo lên với tư thế sẵn sàng lao vào kẻ địch. Bỗng phía trước con Đuổi khịt mũi mấy cái. Con chó đánh hơi thấy mùi nai rồi. Thằng Đậu sửa bộ đi, cân dáo đưa mũi về phía trước. Nhưng phía ấy là tấm lưng rộng của ông nội nó đang chắn ngang, sợ có chuyện gì ông lùi lại bất tử mũi dáo sẽ lụi vào lưng. Nghĩ vậy, nó quay mũi dáo về hướng khác.
Con Đuổi đã tốc rượt "mồi". Thằng Đậu nôn nao trong bụng, hối ông nội chạy rút theo con chó. Nhưng nội quay lại thì thào:
- Mầy núp ở đây, để ông nội lội vượt qua bên kia chận đầu. Chắc con nai chà này bự lắm.
Bác Ba Phi đi rồi, còn một mình thằng Đậu ngồi núp trong lùm choại mà run cầm cập. Tại sao lúc đi bên ông nội thì thấy vững trân, bây giờ ngồi một mình nghe lạnh lưng quá ? Biết đâu không gặp nai mà gặp heo nọc chảng thì sao ? Thứ heo nọc tách bầy này hung hăng không nể nang cả cọp nữa kìa. Lưng nó cao tới trán người lớn, lông gáy xừng lên tựa lông nhím, mỏ dài, tạp bộp bộp đổ bọt mép. Nọc chảng đi tới đâu là mài nanh vào nhau ken két tới đó, da nó dày tựa da voi, không có dáo mác nào đâm cho thủng. Nghĩ đến đây máu trong người thằng Đậu dồn nóng cả mặt, lỗ tai nó lùng bùng, đôi mắt hoa lên, mình mẩy nghe nhẹ re. Đậu cầm cây dáo lên, cặp thật chặt vào hông, nhưng nó run quá, dáo trên tay cứ gục gặc chúi xuống hoài. Cái ý nghĩ "tra dáo đầu" và dùng đầu nai thay cho đầu lân để múa vui vào dịp tết nguyên đán của thằng Đậu đã tan đi đâu mất.
Ngồi một lúc, thằng Đậu bỗng nghe ông nội nó la, tiếng con Đuổi sủa vơi vơi từ xa. Lại có tiếng nai kêu bét bét nữa ! Không biết sức mạnh từ đâu kéo về, thằng Đậu nghe mặt mình nóng ran, trong bụng hầm hơi hừng hực.
Đậu đứng dậy cân mũi dáo thủ thế chờ xáp chiến cho biết vàng đá. Tay chân thằng Đậu ngứa ngáy, thằng Đậu thử dượt một đường dáo gia truyền. Nó lui lại ba bước, cầm phân đôi cán dáo, chân sau hơi rùn xuống rồi bất thần vọt tới đâm vào thân cây mớp trước mặt. "Sát". Thằng Đậu thét lên một tiếng, cú đâm vừa thẳng đà, thì nó lẹ làng nghiêng mình bật đầu ra, chọt giò lái về phía đối thủ. Rồi nhanh như chớp, thằng Đậu ngả mình ôm gọn cây dáo vào lòng lăn một vòng và thọc ngược mũi dáo lại phía sau một lần nữa. Thế trước gọi là thế "Liên hoàn dáo", thế này gọi là "Hồi mã dáo".
Đang dượt võ lăng xăng, bỗng thằng Đậu nghe tiếng ông nội nó thét:
- Con nai chạy đâm đầu lại hướng mày đó, Đậu !
Vừa nghe tiếng ông nội kêu thì thằng Đậu cũng vừa phát hiện được tiếng chạy ào ào của con nai đang lướt tới. Vọt ra khỏi lùm choại, thằng Đậu trông thấy ngay một con nai chà mình mẩy vàng óng như một con bò mộng từ đằng kia chạy đâm sầm lại. Con nai nhảy sải sải, cổ nghển lên, mỏ đưa thẳng về phía trước, hai chùm gạc xuôi về phía sau cho khỏi cản trở dây nhợ, lùm bụi. Vèo một cái,thằng Đậu vừa nheo mắt chưa kịp thủ thế, thì con nai đã lướt ngang qua mặt nó tựa một luồng trốt xoáy. Đậu hoảng hốt nhắm mắt lại, đâm bừa mũi dáo theo hơi gió vừa quật qua. Mũi dáo của nó cắm bập, có lẽ nhằm vào đùi con nai. Chưa kịp mở mắt Đậu thét lên:
- Trúng rồi !
Nhưng khi nhìn kỹ thằng Đậu thấy mũi dáo của mình cắm vào một thân cây mớp trước mặt. Con nai chà đã chạy khỏi hàng công đất. Bác Ba cùng con đuổi ào tới. thằng Đậu mắc cỡ bẽn lẽn, gỡ mũi dáo, đuổi theo ông nội.
Vừa chạy vừa thở hào hển, bác Ba Phi quay lại nói với Đậu:
- Ông nội đã khấc nhượng con nai này hết một chân rồi. Lúc nãy mầy thấy nó chạy có co một chân sau lên đó không ?
- Có, có ! Con thấy máu đỏ theo đường nữa.
Thằng Đậu nhanh nhẩu trả lời để chứng tỏ rằng mình rất bình tĩnh lúc con nai chạy ngang để lấy oai với ông nội. Trót nói ẩu, thằng Đậu đặt chuyện nói dóc thêm:
- Con nai vừa chồm tới, từ trong lùm con vọt ra, tra một dáo tận mạng vào đùi nó. Con nai chạy bại bại đó, ông nội có thấy không ?
- Thấy ! - Nếu trả lời không thấy thì hóa ra mình đuổi xa lơ phía sau con nai ? Bác Ba buộc phải nói dóc thêm - Cháu nội của ông giỏi lắm ! Bắt được nai về ông sẽ thưởng cho mầy cái đầu.
- Cái đầu nai phải là phần thưởng của ông nội mới đúng chớ, vì ông nội đã khấc nhượng trước mà.
Thằng Đậu biết mánh của ông nội, nó nói vậy để hốt giò ông chơi. Nó nói vừa dứt đã thấy ông nội sượng bộ ngay. Ông ậm à:
- Ừ há ! Thôi thì... thưởng cho ai cũng được thôi.
Bác Ba rất khó xử trong trường hợp này. Nếu nhận lời lãnh cái đầu nai thì trái với luật phường săn, vì mình chẳng có công "tra dáo đầu", còn không nhận hóa ra mình thừa nhận rằng cú khấc nhượng nai chỉ là nói gạt cháu nội hay sao ? Thật là bác Ba đang đứng giữa hai chuyện nói dóc, rướn tới càng dóc, thụt lui thì lộ dóc. Riêng thằng Đậu đã là huyết thống trong nhà, nghe cái kiểu nói của ông nội, nó suýt bật cười. Nó hiểu cái vết "khấc nhượng" nai của ông nội cũng không "sâu" gì hơn nhát đâm mũi dáo vào đùi của nai bao nhiêu. Thằng Đậu khen thầm ông trời khéo sanh ra hai ông cháu nó thật là ăn ý với nhau.
Ông cháu bác Ba Phi và con Đuổi cứ rượt nà theo con nai chà. Đuổi một hồi con nai bị sa xuống cái bàu rộng. Hai ông cháu cả mừng, suỵt con Đuổi áp đến bao vây. Cái bàu hình bầu dục đựng đầy nước sóng sánh, rộng độ nửa mẫu tây. Bác Ba ở bên này cầm mác rừng, thằng Đậu ở mé kia, cứ xách dáo chạy đón đầu con nai mỗi khi nó muốn trèo lên bờ.
Con Đuổi hăng hái nhất, nó đuổi theo khít nút, sủa gâu gâu tác động tinh thần con nai lội dưới bàu, làm nai lính quýnh cứ lội qua bên này rồi tạt lại bên kia. Hễ nai dâm đầu về phía bờ tay phải thì con Đuổi phối hợp với bác Ba tràn tới chặn đầu, nai tạt qua bờ phía tay trái, cũng con Đuổi với thằng Đậu cân dáo, "gâu gâu". Nai lại dạt ra. Nai cứ lội lẩn quẩn không biết đường nào thoát được lên bờ. Ông cháu bác Ba nhất định không để cho con nai chạy vuột.
- Nó lội ngay qua đó ! Tra một dáo đi con !
Tức thì thằng Đậu chạy tới vung dáo làm con nai hoảng hồn quay lại, lội qua bờ phía phải. Thấy thế thằng Đậu lại la lên:
- Nó lội ngay qua đó ! Dứt một mác đi ông nội !
Hai ông cháu cứ chạy vòng vòng mà đón, mà hô hào. Con nai chà hết lội qua bên nầy lại bung qua phía bên kia, nhưng không thể thoát vòng vây của ông cháu bác Ba Phi và con Đuổi. Tuy bác Ba mệt phờ râu, thằng Đậu thở bằng lỗ tai, con Đuổi thè lưỡi, nhưng họ quyết chí không bỏ cuộc.
Con nai chà lội trầm mình dưới bàu nước lâu quá, sức lực mỗi lúc một đuối. Ban đầu lưng con nai còn nổi trên mặt nước, miết rồi nó chỉ còn ngước được cái đầu lên, toàn thân chìm nghỉm trong lòng nước. Bấy giờ dường như con nai không còn biết sợ ông cháu bác Ba với con Đuổi là gì. Nó ung dung lắc lắc cái đầu, rung rung hai gạc, nhúc nhích hai tai, giật giật cái mỏ nhích nhè nhẹ tới tựa đang tắm mát chứ không cần đếm xỉa đến những đối thủ đang săn đuổi mình. Rồi nai cũng bất kể là ngay trước mặt có bác Ba Phi cầm cây mác rừng lưỡi sáng dới, nó từ từ đâm đầu "trôi" vào bờ sát chân ông đang đứng. Bác Ba đinh ninh là con nai đã đuối sức quá rồi định phải chịu phép, nên cũng chẳng cần đâm chém nó làm chi. Bác chờ khi cái đầu con nai chà ngúc ngắc rề sát lại, liền với tay nắm lấy hai gạc kéo xểnh lên.
- Ối, trời đất ơi !
Bác Ba Phi kêu lên một tiếng kinh ngạc, bật ngửa ra. Thằng Đậu chạy tới, nó cũng ném dáo, kêu "ứ hự" bằng đường mũi rồi buông mình ngồi xuống trấp choại đầy vẻ bất nhẫn. Con nai chỉ còn là một đùm ruột dính lòng thòng theo cái đầu, còn toàn bộ thịt thà, xương xóc của nó nãy giờ bị lũ cá trê dưới bàu bu vào rỉa sạch trọi. Sở dĩ ông cháu bác Ba vẫn thấy chiếc đầu con nai cứ động đậy là vì bầy cá trê bám vào phía dưới, chúng vừa rỉa thịt nai vừa đầy tới. Bác Ba lôi chiếc đầu và chùm ruột con nai lên, kéo lên theo hàng chục ký lô cá trê, con nào con nấy ú nu, vàng nghệ.
Bác Ba Phi : Phải gọi là rắn nai mới đúng
Con nọc chảng thấy một mình đương cự với mấy thế hệ loài người và loài chó, liệu sức không kham, liền hộc lên một tiếng vang dội, chịu thua, bỏ chạy mất dạng vào rừng.
Mặt trời đã xế dài. Chuyến đi rừng này ngoài những thu hoạch bao nhiêu là sự vất vả và khủng khiếp, ông cháu bác Ba Phi chưa được môt lợi lộc gì. Hai ông cháu thua buồn gọi bầy chó ra về. Hồi đi chỉ có một con Đuổi, khi về thêm cả bầy nào là con Đốm, con Phèn, con Mực và con Cò một lũ, làm cho thằng Đậu khoái chí quên hết mệt nhọc lao lý. Cứ nhắm hướng đậu xuồng hồi sáng, ông cháu bác Ba dẫn đàn chó lội miết.
Hai ông cháu bác Ba dắt bầy chó lội lẩn quẩn một hồi, bỗng con Đuổi kêu lên một tiếng, triển khai bầy con căng ra hai bên sẵn sàng nghinh chiến. Bác Ba cùng thằng Đậu cũng vội lui lại, kẻ vung cán dáo, người chống khúc lưỡi mác, thủ thế. Bầy chó đánh hơi thấy được sự nguy hiểm đang rình rập đâu đây.
Con Đuổi ngước mũi về phía trước hít hít mấy cái rồi lui lại, cụp đuôi, cụp tai, kêu ư ử như rên. Đây là một hiện tượng nhất định phải có biến cố. Bác Ba Phi ngồi xuống ôm con Đuổi vào lòng, vỗ về:
- Tội nghiệp quá ! Mây về "nằm lửa" cứng cáp mới được.
Con chó được chủ âu yếm, nó rúc gọn vào lòng ông và cứ đưa mắt lấm lét nhìn về phía trước. Và bác Ba thấy mòi không kham, bảo thằng Đậu lùi lại vài mươi mét, rồi hai ông cháu cùng bầy chó chui vào một bụi rậm ngồi rình xem động tịnh. Bác Ba ra dấu không cho bầy chó đánh tiếng. Chúng nó riu ríu nghe lời, cứ nằm im thin thít. Thằng Đậu bắt chước ông nội, nó cũng cầm khúc dáo lườm lườm về trước mặt, nhưng lưng nó thúc sát vào ông mà run cầm cập.
Chốc sau hai ông cháu bỗng nghe khu rừng choại trước mặt có tiếng động ào ào như một con trốt lớn đang tới. Rồi xen vào đó là tiếng rắn thổi hơi phì phèo, tiếng nai kêu bét bét, tiếng rung động cây cối mỗi lúc một quyết liệt. Bầy chó nằm ép sát bên chân ông cháu bác Ba không dám rên rỉ một tiếng nhỏ. Thằng Đậu thì bủn rủn tay chân buông xuôi khúc cán dáo, ôm cứng eo ếch ông nội nằm chịu trận. Ngược lại, bác Ba bình tĩnh lạ thường ! Bác ngồi chân quì chân xổm trong tư thế sẵn sàng nghinh chiến để bảo vệ kẻ thân yêu của mình.
Nhưng sau đó, những thứ tiếng động chỗ ấy lắng im, rồi một cái đầu con rồng từ từ ló lên khỏi đọt choại. Bác Ba khều thằng Đậu chỉ cho nó xem. Thằng Đậu thầm thì hỏi:
- Sừng rồng cũng giống hệt sừng nai, hả ông ? Nhưng con rồng này sao không có râu ?
- Ừ, cũng lạ, để thủng thỉnh coi…
Hai ông cháu cứ ngồi im trong bụi theo dõi. Con quái vật đằng kia trong gộp choại từ từ bò ra trảng dớn, đầu ngẩng cao đến mười thước, thân lớn hở ôm, da lưng đen móc, hai bên thành bụng có hàng vảy ửng hồng màu hạt mây chín. Thằng Đậu lại thì thầm:
- Rồng sao không có chân, hở ông ? Nhưng tại sao lại có sừng ?
Bác Ba thừa nhận sự quan sát và nhận xét của thằng Đậu rất tinh tế:
- Ừ, tạm gọi là "rắn rồng" vậy.
Nhưng thằng Đậu nhất định không chịu:
- Không ! Nếu rắn rồng thì mình phải có chân, mỏ phải có râu. Con này nên gọi là "rắn nai" mới chính xác.
Con rắn rồng hoặc con rắn nai gì đó bò mỗi lúc một xa. Bác Ba Phi phì cười xoa đầu thằng cháu, nói:
- Ừ, thì con rắn nai. Con rắn hổ mây nuốt trọng một con nai chà, đầu nai còn ló ra ngoài miệng rắn.
Bác Ba Phi : Quyết bắt cho được kẻ trộm
Đêm ấy bác Ba Phi đậu chiếc ghe chở đầy rùa trong khẩu đìa bèo bên cạnh nhà. Sáng ra kiểm tra lại thấy số rùa trong ghe vơi đi rất nhiều. Thế nầy là thế nào ? Không lẽ có kẻ trộm ? Ở xứ nầy ai không phải là bà con cật ruột thì cũng là bạn bè chí cột với nhau, từ trước tới giờ chưa một nhà nào bị vi sơ một trái ớt, một trái cà, bữa nay bị mất cắp là vô lý ! Nhưng tại sao rùa trong ghe không có cánh lại bay biến đi mất ? Vòng bao lưới thành ghe còn y nguyên, với độ cao và dày như vậy rùa không thể trèo ra hoặc chui lọt được. Bác Ba chấp tay sau đít đi tới đi lui suy nghĩ mãi. Bác hút đến mấy điếu thuốc mà vẫn không đoán nổi lý do tại sao. Nhất định phải rình xem tận mắt coi rùa bị mất bằng con đường nào.
Chiều hôm ấy, hai ông cháu bác Ba Phi giả vờ dắt nhau xuống xuồng bơi ra sông Đốc, có công chuyện. Đến vàm Rạch Lùm, bác Ba cùng thằng Đậu neo xuồng lại, đợi hết canh một ông cháu bơi đáo trở về. Rón rén đậu xuồng đằng bến nhà dì Sáu, bác Ba cầm cây mác rừng cán dài, thằng Đậu cắp cây dáo nhỏ, hai ông cháu bí mật phục kích sau bụi tre xiêm trên bờ đìa, cạnh chiếc ghe chứa rùa. Măc dù muỗi bu như trấu vãi, nhưng hai ông cháu bác Ba Phi cứ kên mình nằm êm ru, chờ đợi...
Đêm mỗi lúc một khuya. Con gà tàu lai cúm núm của bác ở ngoài chuồng đã đập cánh gáy "Ò ó o... cúm núm" đến mấy lượt, vậy mà hai ông cháu bác Ba vẫn chưa thấy bóng dáng tên trộm nào léo hánh. Thằng Đậu mấy lần than buồn ngủ, nhưng bác Ba động viên cháu ráng chịu. Thằng nhỏ cũng nghe lời, kiên trì cắp dáo nằm bên ông nội, thỉnh thoảng nó khoa khăn đuổi muỗi.
Gần đến canh năm, hai ông cháu bác Ba Phi chợt thấy mặt nước đìa chỗ gốc cây mù u, phía bên kia bờ khi không lại chao động một vùng. Bèo tai tượng chập chờn chao đảo cuộn quận lên thành một vực xoáy. Rồi từ dưới nước có vật gì đen thui lớn bằng cái khạp da bò từ từ lừng lên. Một lúc nó trồi lên khỏi mặt nước một thêm cao. Cố xem kỹ, bác Ba nhận ra đó là một con người dị dạng. Con người kia dang hai cánh tay ngắn ngủn vẹt bèo cho trống thêm ra. Rõ ràng là kẻ trộm ! Nó từ đâu tới ? Nó tuột xuống đìa hồi nào mà lặn luồn vào đây ? Thằng Đậu khẽ bấm vào tay ông nội ngầm ý hỏi, nó được ông ra hiệu lại bảo rằng cứ yên tâm. Hai ông cháu bác Ba Phi kẻ gườm dáo, người cầm mác chuẩn bị xáp lá cà với tên trộm có cái đầu và đôi tay kỳ dị kia.
Tên trộm chẳng hay biết gì, nó cứ dang hai cánh tay ngắn ngủn vẹt bèo và rẽ nước lội tới bên chiếc ghe chở rùa, đến nơi, nó với tay nắm mũi ghe đu mình lên. Chiếc ghe nhún xuống một cái, đầu mũi khẳm đừ. Tên trộm đã ngồi gọn trên sạp mũi ghe. Chợt nhìn thấy toàn thân tên trộm, thằng Đậu suýt nữa bật ngửa ra chết giấc. Trời ơi ! Một người có nước da đen như quần lãnh, thân hình mập múp tựa cái lu. Cặp đùi nó gân guốc, nhưng sao hai tay nó lại ngắn ngủn, dáng vóc lùn tịt ? Khiếp đảm nhất là cái đầu, làm sao mà nó dẹt lét lại và có hai con mắt thồ lộ to bằng trái cau đóng thượng trên óc o ?
Nghe cháu nội run lẩy bẩy bên mình, bác Ba làm tỉnh sờ vào nó và động viên:
- Kẻ trộm có tài hóa trang, đừng sợ cháu ạ.
Thằng Đậu thều thào:
- Một thằng lùn dị dạng, ông nội ơi ?
- Một thằng gù da đen có cái đầu dẹp vậy thôi.
Tên trộm bây giờ vẫn còn ngồi êm chưa thấy động đậy gì. Hai ông cháu bác Ba Phi chắc mẻm tính mạng hắn đã nằm gọn trong tầm tay của mình rồi. Họ cứ gườm sẵn vũ khí chờ đợi. Chốc sau, họ thấy tên trộm từ từ chồm tới, vói tay qua lớp lưới bao thành ghe, bắt ra một con rùa lớn bằng chiếc dĩa bàn. Cái bụng của tên trộm phề phệ quá cỡ, phía dưới có mang một tạp-dề trắng phóc. Bác Ba nghĩ thầm: "Người đầu bếp mới đeo tạp dề, có đâu kẻ trộm cũng lại đeo, nghĩa là làm sao ?". Nhưng bác Ba lại chợt hiểu ra: lớp hóa trang bằng lọ nghẹ của nó bị cỏ cào trôi mất phần phía dưới bụng.
Trong lúc ấy tên trộm đưa con rùa vô miệng. Cái miệng của nó rộng đến mép tai, táp một cái "bụp" rồi nhai ràu rạu. Rồi cứ thế, hắn thò tay vào lưới bắt từng con rùa ra ngồi nhai ngon lành. Nó nhai rùa nghe giòn tan tựa người ta nhai cà pháo muối chua vậy. Tên trộm ăn một hơi đến năm bảy con rùa mà chưa thấy hắn đã thèm.
Nãy giờ nằm theo dõi kỹ lưỡng, bác Ba Phi hiểu chắc chắn tên trộm này là ai rồi ! Ức quá, bác Ba cùng thằng Đậu cầm vũ khí đứng bật dậy, thét:
- Ếch !
Quả đúng là con ếch lớn ngoại cỡ.
Con ếch bà nghe tiếng động liền nhảy ùm xuống đìa. Lặn tuốt về phía gốc cây mù u. Bác Ba Phi thở phào. Lâu nay bác biết chỗ gốc cây mù u kia có một cái hang ếch ăn ngầm, nhưng đâu có ngờ con ếch này lại tự tung tự tác quá vậy?
Sáng hôm sau, bác Ba cùng thằng Đậu tìm cách bắt cho được con ếch bà ăn trộm rùa hồi hôm. Bác bảo thằng Đậu tháo cái quai thùng đựng dầu lửa, là một que sắt lớn bằng chiếc đũa ăn cơm, dài độ một gang tay. Bác Ba dùng búa, kềm, đục, giũa chặt ngạnh, mài, uốn que sắt thành một lưỡi câu thật bén. Bác dùng sáu sợi dây chì gộp lại nhưng không se săn, tóm vào lưỡi làm nhợ câu. Theo kinh nghiệm, nhợ câu hoặc nhợ bẫy cứ để nhiều tao bung xòe như vậy, khi mắc một con vật lớn dù nó có giãy vùng thế nào cũng không thể cóc dây mà đứt đi được. Chúng có cắn thì từng sợi nhợ nhỏ bị lọt vào kẻ răng.
Làm xong, bác Ba bảo thằng Đậu ra chuồng bắt một con vịt xiêm lông vừa đâm ra ràng, cột vô lưỡi câu, thả xuống đìa.
Đến canh năm đêm sau, bác Ba cùng thằng Đậu ra ngồi rình tại bụi tre xiêm để chờ xem ếch ăn câu. Trời vừa hừng đông thì hai ông cháu thấy bèo tai tượng chỗ gốc cây mù u động đậy. Hai ông cháu bấm tay ra hiệu. Con ếch bà từ dưới nước trừng lên, nó cũng làm những động tác y như đêm trước. Trời tang tảng sáng, thằng Đậu thấy rõ hơn cái đầu của một con ếch lớn. Bữa nay chẳng những nó không thấy sợ sệt, ngược lại còn nghe khoái trong bụng vô cùng. Nó cứ nhìn chăm chăm vào cặp mắt ếch trợn lên thồ lộ đang dáo dác tìm mồi.
Côn ếch bà thấy con vịt xiêm đang đủng đỉnh rỉa rỉa giữa đìa, liền vung hai tay vẹt bèo, lội tới. Đến gần con vịt, ếch bà dừng lại, khỏa bèo, hớp nước súc miệng sào sạo rồi phun ra cái "phèo". Làm mấy động tác vệ sinh cá nhân xong, ếch bà chồm tới trững mồi. Ánh mắt ếch bà trợn lên đen ngời tỏ vẻ vui thích, đầu nghiêng qua nghiêng lại, thè lưỡi liếm mép soàn soạt. Rồi ếch bà với tay bưng con vịt xiêm đưa lên mũi ngửi. Bỗng, ếch sa sầm tỏ vẻ không hài lòng về miếng mồi chưa được vừa miệng. Ếch lại cầm con vịt lên, rẽ đôi cánh ra xem. Nhìn cánh vịt mới đâm lông ống bum búp, ếch thua buồn lắt đầu, bỏ con vịt xuống lặn một hơi vào cái hang ngầm ở chỗ gốc mù u.
Bác Ba Phi cùng thằng Đậu ngồi núp sau bụi tre xiêm nhìn theo, sau khi ếch bỏ đi, bác Ba đứng lên thở ra, bảo với thằng Đậu:
- Ếch chê con vịt xiêm này còn hôi lông, không chịu ăn.
Ông cháu vô chuồng bắt một con vịt mái ta chân vàng, mỏ vàng, lông trắng phau. Con vịt này đang lứa đẻ mập múp, đít sà kéo lết. Họ đem ra đổi vào chỗ con vịt xiêm bị ếch chê.
Sáng hôm sau nữa, cũng vào lúc trời vừa hừng đông, con ếch từ dưới hang ngầm trong gốc cây mù u lội ra, đội bèo nổi lên. Ông cháu bác Ba Phi cũng núp sẵn sau bụi tre xiêm rình xem. Con ếch trừng lên nháy nháy đôi mắt tỏ vẻ hân hoan trước buổi sáng, rồi đưa hai tay ngắn ngủn lên vươn vai, ngáp dài một cách sảng khoái. Miệng ếch rộng tựa miệng can lân múa địa, xương hàm bạnh ra như hai cái cong xuồng. Mặt nước đìa chao động. Con vịt ta lông trắng bị cột vào lưỡi câu đang ung dung rỉa bèo nhởn nhơ, chợt thấy ếch bà, nó nhẹ vỗ cánh rũ nước, ngóng cổ lên nhìn, ngoáp chiếc mỏ vàng óng kêu cạp cạp. Ếch bà thấy con mồi béo ngậy liền vẹt bèo lội băng băng tới. Những động tác dầu tiên, ếch cũng làm vệ sinh cá nhân. Ếch vốc nước súc miệng xì xoạp, phun ra cái phèo. Sau đó nhìn con mồi một cách chăm chỉ, tỏ vẻ hài lòng. Mắt ếch ngời lên long lanh, gật đầu liền mấy cái, thè lưỡi liếm mép, rồi nhích lại bợ con vịt đưa lên. Con vịt hoảng hốt giãy giụa, đâp cánh kêu quàng quạc. Gặp đúng con mồi vừa miệng, ếch bà chép chép môi, nước dãi tứa ra, liền há họng táp bập một cái, nhai ngấu ngốn. Nhưng sau đó dường như ếch phát hiện có vật gì không bình thường lẫn trong miếng ăn. Ngậm miệng lại, nghiêng đâu, ếch nheo mắt kiểm nghiệm.
Bác Ba Phi với thằng Đậu núp sau bụi tre xiêm, thấy thời cơ đã đến, ông cháu vụt đứng dậy một lượt, nạt lớn:
- Ếch !
Và ông cháu bác Ba kẻ cắp dáo, người cầm mác xông ra. Con ếch chợt thấy hai ông cháu bác Ba Phi hùng hổ, hoảng hốt nhào ngang, cắm đầu lặn thoát thân. Chẳng ngờ bị lưỡi câu trong họng xốc ngập vào hàm ếch, giật lại. Ếch bật đầu lên, nhảy dựng một cái và cắm xuống lặn tiếp. Lần này lưỡi câu đã xốc ngập ngạnh vào xương hàm ếch, buộc nó bật trở lại. Thế là ếch đã bị mắc câu, nổi phình lên mặt đìa, giãy giụa, chòi đạp làm nước văng trắng dã. Ếch cố lôi chạy về phía gốc cây mù u nhưng bị sợi dây câu ghịt lại. Sáu sợi dây chì rẽ ra căng thẳng tựa sáu sợi dây đàn lục huyền cầm. Hết phương vùng vẫy. Ếch bà căng thẳng sáu sơi nhợ câu, hai tay cào cào những sợi dây cố bứt cho đứt. Sáu sợi dây chì có sợi thẳng sợi dùng, trường độ khác nhau, bật lên những âm thanh cao thấp tạo thành một bản nhạc hấp dẫn vô cùng.
Mặt trời mỗi lúc một lên. Chim rừng đã dậy, cất tiếng líu lo chào mừng buổi sáng. Nhạc chim hòa cùng "nhạc ếch" nghe rộn rã làm sao ! Nhạc ếch có những bè trầm là đà trên mặt đìa, thỉnh thoảng xen tiếng ồm ộp tựa điệu trống.
Bác Ba Phi ngồi tựa lưng vào bụi tre xiêm mà nghe lòng rộn ràng kỳ lạ. Tâm hồn bác Ba như tỉnh như say theo tiếng nhạc ếch du dương mùi mẫn. Tức cảnh sinh tình, bác Ba cứ mơ màng lim dim, cầm que củi gõ vào gốc tre ca bài "Dạ cổ hoài lang" hòa theo nhạc ếch:
- "Từ, (là từ) phu tướng, bảo kiếm sắc phan lên đàng..."
Bác Ba Phi : Trời sanh xương sống heo rừng ngay đơ như cán cuốc
Sẵn đường ông cháu mình tạt qua thăm rẫy khoai, Đậu ạ !
Tuy đội thúng thịt nai nặng trịch, thằng Đậu vẫn đi theo ông nội. Hai ông cháu đi quẹo về hướng Lung Tràm. Ở đó bác Ba có cuốc mười công rẫy vừa khoai lang, vừa khoai môn, xuống giống hơn tháng nay, khoai lên rất tốt.
Ông cháu bác Ba lội qua một con lung lầy rồi đến một vùng đất trấp mới khai phá. Đất mùn xốp, đen như than dày một lớp, chân bước cứ phập phều tựa đi trên tấm nệm muốt.
Đến mấy bụi khoai môn trồng ở đầu rẫy, thằng Đậu giật mình ngơ ngẩn. Nó để thúng thịt nai xuống, ngồi lại xem. Đậu cứ mê mẩn, nhìn những bụi khoai môn. Lá môn xanh lặc lìa có núm đỏ chính giữa, lá nào lá nấy ngắt thả ngửa xuống sông, cầm sào nhảy xuống chống qua được.
- Tổ mẹ ba con heo rừng...
Bác Ba Phi kêu lớn ở đằng kia làm thằng Đậu giật mình. Nó đội thúng thịt lưỡi nai nhảy phóng qua con mương óng, chạy rút đến ông nội. Theo tay bác Ba chỉ, thằng Đậu thấy đám rẫy khoai lang bị heo rừng ăn lâm nhâm đều khắp. Khoai mới xuống củ mắc mớ chi lũ heo cũng đến ủi phá ? Thằng Đậu nổi dóa, nó bảo ông nội:
- Mình cho bầy heo nầy không còn lưỡi để kêu như lũ nai kia đi, ông nội!
Bác Ba không phải ngây thơ như thằng cháu nội. Loài heo rừng không phải dùng lưỡi để cuốn thức ăn vào miệng như nai, chúng có đặc điểm khác. Heo rừng tìm thức ăn bằng cách đánh hơi đường mũi, dùng mỏ ủi bươi lên. Có khi con heo ủi đất tìm thức ăn, thân lút ngập, chỉ còn có cái đuôi ló lên. Bác Ba sắp đặt kế hoạch trong bụng, trừng trị lũ heo rừng này nhưng chưa nói ra với thằng Đậu...
Chiều hôm ấy nhà bác Ba Phi mở tiệc linh đình. Bác Ba mời bà con lối xóm đến nhậu chơi một bữa thịt lưỡi nai. Thói thường ở đời hễ rượu vào thì lời ra. Vào tiệc nhâm nhi mấy cốc, khách "dậy giặc" với nhau:
- Ông ba Phi chơi cái kiểu này thật là tàn ác, người ta có cái lưỡi để uốn éo chữa mình, lại thiến đi.
- Cuộc đời chỉ có cái lưỡi là đồ ăn hại nhất. Lưỡi hay khoác lác, lưỡi hay xu nịnh, lưỡi hay nạt nộ, lưỡi hay hăm dọa, lưỡi hay xuyên tạc sự thật. Chẳng thà cắt mẹ nó làm mồi nhậu sướng hơn.
- Đừng nói giỡn các cha. Có cái lưỡi nói dóc như ông chủ nhà đây cũng nổi tiếng cả nước, nào thua một nghệ sĩ lớn.
Cả đám vỗ tay cười rộ lên, làm bác Ba đỏ mặt. Bị chạm nọc, bác Ba thét lên giữa bàn tiệc:
- Đồ tốn rau, hao nước mắm ! Các người khỏi dạy đời.
Nói xong bác Ba bỏ đi xuống nhà bếp. Thấy bác gái còn thái thịt lưỡi nai xào lá cách, vắt nước cốt dừa để rội thêm cho khách nhậu, bác Ba hầm hầm bưng chảo thịt hắt xuống mương. Hai quai chảo bị lửa hun nóng quá làm những đầu ngón tay bác Ba sắp bỏng, bác vội bóp vào hai bên trái tai mình cho đỡ. Nào ngờ lọ nghẹ dính trên đầu ngón tay, bệt vào mặt bác nhiều kẻ sọc tèm lem. Cả nhà bác Ba, ai cũng bò lăn ra cười. Thấy mọi người cứ cười một cách vô duyên. Bác Ba Phi càng nổi dóa, quát:
- Thà đổ xuống mương nuôi cá có ích hơn để tụi bây ăn nhậu rồi ngạo đời.
Nhưng người ta vẫn không giận và cứ cười. Có người lại vỗ tay reo lên:
- Hoan hô ! Gánh hát chưa tới mà thằng hề đã tới.
Bác Ba Phi lớ ngớ không hiểu chuyện gì. Một người cất tiếng nói sang chuyện khác:
- Nói dóc mà được nổi tiếng không phải ai muốn nói cũng được. Đừng tự ái bỏ cuộc mà làm hư bột hư đường cái sự nghiệp lớn của mình, bác Ba ơi !
Bác Ba Phi chưng hửng, vụt bật cười theo:
- Ừ, ờ... vậy sao ?
Lúc ấy thằng Đậu cầm một tấm gương soi mặt, chạy tới đưa cho ông nội:
- Ông nội nhìn vô kiếng coi ai ở trỏng !
Bác Ba soi gương thấy mặt mày mình dính đầy lọ nghẹ, liền ném gương, cười chảy nước mắt.
Rửa mặt xong, ra giữa đám nhậu bác Ba Phi tuyên bố;
- Ngày mai mời bà con ăn tiếp thịt heo rừng giúp tôi với nghe ! Chia tiền mặt cũng được, chia lúa mùa cũng được. Tôi còn phải ra sông Đốc kêu lái vô chở đi tiêu thụ bớt.
Nghe bác Ba nói, khách khứa dòm nhau chưa ai tin là sự thật.
Khách về, bác Ba Phi lấy cây mác cán dài có ba khâu yếm ra ngồi mài cho tới tối. Vừa mài bác vừa đưa ngón tay trỏ lên cào cào qua mép lưỡi mác để thăm chừng độ bén. Chốc chốc bác vén ống quần lên, đưa lưỡi mác cạo một cái đứt ngọt một cuộn lông chân. Nhưng dường như cũng chưa đạt yêu cầu, bác Ba cứ mài cho đến khi để một sợi tóc nằm ngang trên lưỡi mác, thổi nhẹ là sợi tóc đứt làm hai, mới chịu thôi. Bác lấy giẻ lau khô lưỡi mác, rồi dùng dầu dừa thoa sương qua một lớp chống sét.
Đầu canh năm bác Ba Phi thức dậy, đâm một chén củ tỏi khuấy loãng rưới đều vào quần áo và xoa vào nách, vào cổ. Xong đâu đó bác bảo thằng Đậu cũng làm như vậy. Giống heo rừng thính mũi lắm, chỉ có xoa nước tỏi chúng mới không đánh được hơi người. Làm xong, bác Ba Phi cầm cây mác cán dài, thằng Đậu cắp cây giáo nhỏ xíu, hai ông cháu lội băng băng ra hướng đám rẫy khoai.
Đến nơi, hai ông cháu bác Ba tìm chỗ kín ngồi núp, để lắng nghe động tịnh. Hôm nay sao bốn bề lặng trang ? Có lẽ hồi sáng bác chỉ hăm he có mấy tiếng mà Thần Vòng báo động cho lũ heo trốn hết ? Bác Ba Phi không bao giờ tin dị đoan. Ở miệt rừng nầy, mười người thợ rừng đều tin chuyện hoang đường ấy hết tám. Họ bảo rằng heo rừng có cô hồn phò trợ nên chúng có linh tính lạ thường ! Thí dụ như trên một con đường heo tới lui nhẵn đất, bất ngờ có ai đến đặt bẫy hoặc ngồi rình để bắn, tức thì Thần Vòng báo cho chúng dạt ngay, đổ đường khác mà đi. Có người còn bảo vạn săn nào vào buổi xuất hành đầu năm, không có cúng tế Thần Vòng thì suốt mùa đừng mong bắt được một con heo. Thần Vòng là vong hồn của bà Thị Cư, một người con gái đã từng chinh phục cọp rừng ở U Minh này ! Nhưng chẳng may một lần Cư sơ suất bị một thần hổ giết chết, hồn thiên hóa thành một vị thần chăn giữ các bầy heo rừng trong một xứ. Những vạn săn không cúng vái bà, giăng giò, đánh bẫy tới đâu đều nghe bà cất tiếng kêu lảnh lót để ven heo của mình đi dạt nơi khác mà tránh nguy hiểm...
Mặc cho muỗi rừng U Minh bu cắn phải vuốt, bác Ba Phi cùng thằng Đậu kiên trì ngồi đợi. Bác không tin Thần Vòng và cũng không bao giờ chịu cho là giống heo rừng có linh tính. Chẳng qua chúng có cái bản năng đặc biệt là sáng hơi và thính tai thôi. Nếu hôm nay thất bại bác sẽ ăn sao, nói sao với những người đã ghi tên vào sổ mua thịt heo rừng của bác hôm qua ? Lại càng khó nói hơn là bác đã kêu hàng chục "chú ị" mổ heo hàng xáo ngoài chợ sông Đốc vào, buổi sáng này cân ba mươi con heo đứng. Bác Ba Phi đã chắc ăn như ghịt, không lẽ thời vận "bẻ chĩa" bác hay sao ? Cứ bình tĩnh chờ xem !
Thằng Đậu ngồi sau lưng ông nội, cứ ngủ gà ngủ gật. Cuối cùng nó ngằm ngoẻo xuống đám cỏ, ngáy đều đều. Bác Ba thấy thương cháu quá, lột chiếc áo vắt bên vai, đắp thêm cho nó ấm và đỡ muỗi cắn. Chiếc sao mai đã lên hơn một con sào. Chân trời phía đông hơi ửng hồng báo hiệu đêm sắp hết. Từng vệt mây đâm ngang lộ ra tựa những cây đòn xóc đen nằm dài. Bây giờ thì không còn chờ đợi được nữa, quả quyết là bầy heo rừng đã đánh hơi người nên chém vè lại, hoãn cuộc đào bới này rồi. Nghĩ vậy, bác Ba mọp người xuống nhìn ngang qua mặt rẫy khoai một lần chót để xuống mối chắc chắn qua một đêm mất công toi. Rảo mắt qua một lượt thật kỹ, bác Ba chợt giật mình ! Qua ánh sáng mập mờ của buổi bình minh, bác thấy ở vạt rẫy khoai tại sao đêm nay mọc lên nhiều gốc củi lụt lô nhô, lớn có, nhỏ có ? Những chiếc gốc nhỏ cỡ đầu chày giã gạo, những gốc lớn cỡ một ôm. Đám rẫy trước khi vỡ đất đã cạy dọn sạch sẽ đến một nhánh chà cũng không còn, tại sao đêm nay ai khiêng củi đến để đặc gật thế nầy ? Bác Ba ức lắm, để thằng Đậu nằm lại bác cầm cây mác dài, mon men lại xem thử. Đi được mười mét, bác Ba vội dừng lại. Mỗi gốc củi lụt sao lại có gắn một cọng bông lau làm dấu ? Những cọng bông tín hiệu cứ lất phất trước mặt bác Ba trong ánh sáng tản mạn của một đêm sắp tàn. Bác Ba Phi rón rén bước nhẹ đếm một gốc củi gần nhất, đưa tay sờ thử cọng bông lau. Trời đất ! Cọng bông lau biết nguẩy qua nguẩy lại. Bác Ba chụp lại thử xem. Cọng bông lau cắm trên gốc củi lụt như bực bội giựt lia lịa. Và bác Ba nghe bên dưới gốc củi có tiếng ịt ịt phát ra tựa có heo kêu. Bác Ba nắm giật mạnh, cọng bông lau vùng vắng và giật mạnh. Bác Ba Phi đã hiểu ra đây là cái gì rồi ! Máu trong cơ thể tràn lên một cái rần muốn đứng tim, bác phải đưa tay bợ ngực. Bác Ba nói thầm:
- Tổ cha lũ heo ! Ủi chi ủi lút nửa con xuống đất.
Nói xong, bác Ba kê lưỡi mác cứa một nhát phớt qua giữa lưng con heo. Và cứ thế, như một con kỳ đà, bác Ba nhẹ nhàng đi tới một con heo khác, cứa phớt lưỡi mác vào lưng một cái. Lưỡi mác bác Ba bén như nước, từng nhát cứa qua ngọt sớt lớp da lưng heo, không một con nào hay biết gì.
Bác Ba cứ cứa đứt da lưng hết tất cả những con heo rừng ủi rẫy khoai, rồi bò trở lại bên thằng Đậu. Bác thấy nó còn nằm chò co, ngủ ngáy khò khò, bác nắm chân nó giật giật, gọi dậy. Thằng Đậu say ngủ, giật mình chới với. Trong giấc mơ nó thấy đang tả xung hữu đột với một bầy heo rừng, nên nó lấy cây dáo chĩa ngay vào ngực bác Ba, thét lớn:
- Heo rừng !
Tiếng thét của thằng Đậu vừa bật ra, bầy heo rừng đang ủi phá đám rẫy chợt giật mình lồng lên và kêu "Hồ... ộc ! Hồ... ộc" vang dội cả một vùng. Tiếp theo đó là tiếng "cụp, cụp, cụp..." nghe đều cả một đám rẫy.
Còn đằng này, bị thằng Đậu phản ứng bất ngờ, bác Ba giật mình vung mác lên đỡ lấy mũi dáo của nó. Bác nói hổn hển:
- Ông nội đây ! Ông đã cứa đứt da lưng gần trăm con heo.
Thằng Đậu nghe ông nội báo mừng quá, nó nắm tay ông lôi lả đến chỗ bầy heo. Ơi là trời ! Heo rừng lớp lớn, lớp nhỏ không biết tại sao gãy cúp xương sống hết thảy, nằm làng khang trên mặt rẫy tựa cùi đòn. Đứng xem một chút, thằng Đậu ném dáo chống nạnh, lắc đầu thở ra:
- Ông nội làm thế này thì chỉ có môn đem ghe chài vô mà chở.
Bác Ba cười bảo:
- Yên chí ! Hai ông cháu mình nắm đuôi lôi chúng bỏ xuống mương ống.
Thằng Đậu lại cằn nhằn:
- Có bỏ thì bỏ mẹ ở đây, còn lôi lả đi đâu cho mệt ?
- Cái thằng đại ngốc. Mình làm theo kiểu dân Bến Tre thọc dừa khô vậy. Lôi chúng bỏ xuống mương ống, ra tháo nước đập, rút ống bọng, nước xổ ra, chừng đó heo sẽ trôi đùn về tận nhà, mặc sức mà lôi lên.
Nghe ông nội nói phải, thằng Đậu cùng ông lôi những con heo rừng, vòng theo những mương khoai kéo ra mương ống.
Vừa làm thằng Đậu vừa hỏi ông nội:
- Tại sao mỗi con heo ông nội chỉ cứa có một nhát dao vào lớp da lưng vậy ?
Bác Ba giải thích:
- Trời sanh giống heo rừng xương sống ngay đơ như cán cuốc. Muốn bắt chúng khỏi phải tốn nhiều sức, ta chỉ cần nhá một nhát dao vừa đứt lớp da lưng, rồi nạt lên một tiếng cho chúng giật mình, nhảy dựng lên, cụp đốt xương sống, nằm tại trận.
Bác Ba Phi : Vì thù vặt mà chúa sơn lâm thành khổ sai
Chiếc tàu "xương" của ông cháu bác Ba chở mấy chục giạ lúa về tới tận hậu đất, chỗ bờ đìa cuối con lung, bác Ba Phi bảo thằng Đậu:
- Mầy về nhà lấy đệm, thúng ra. Sẵn có bờ đìa cao ráo xúc lúa lên đây phơi luôn.
Sau đó ông cháu bác Ba Phi trải đệm trên bờ đìa, dùng thúng xúc hết lúa hột dưới mu con càng đước lên mới dắt nhau về nhà.
Sáng hôm sau, một mình bác Ba chống xuồng ra bờ đìa để trải đệm, cào lúa ra phơi. Bác xúc từng thúng lúa đổ ra cán thật đều cho hứng lấy ánh nắng. Đang làm, bác Ba nghe bụng hơi nôn, rề lại đầu đìa tìm chỗ "làm vệ sinh". Bác ngồi quay lưng về phía mé rừng, phía có một lùm ráng cao. Hai chân ngồi đạp trên hai đầu gốc cây, gió thổi lòn hiu hiu mát rượi, thật là một chỗ "đi cầu" lý tưởng, bác Ba nghe lòng khoan khoái, vuốt râu, thầm thào ngâm mấy câu thơ "tráng sĩ hề". Trong lúc hứng thú, bỗng có một mùi khen khét theo gió phất qua làm bác Ba giật mình ! Bác biết ngay là mùi gì rồi. Nghe gáy bắt đầu rờn rợn, ốc nổi rần sống lưng. Bác Ba cứ liếc chừng vào lùm ráng, nghĩ thầm: "Ông Ba Mươi lảng vảng đâu đây". Bác lắng nghe từ trong lùm rậm có tiếng động. Bác nực cười, lại nghĩ: "Chọc đến ông, ông cho mầy đi rửa tay cho biết xấu". Một tay nắm lưng quần, bác Ba cứ liếc nhìn không rời chỗ lùm ráng. Chỉ vài tích tắc, tức thì một cái bóng vằn vện tựa bức vải gấm từ phía ấy bay vèo đến, chụp phủ lên người bác Ba. Đã có chuẩn bị sẵn, bác Ba xách quần trịch ngang. Bàn tay trái con cọp chụp phải bãi phân còn nóng hổi của bác Ba. Bị dơ tay, cọp phải đưa lên trời chịu trận. Thấy thế, bác Ba cả cười, điểm tay vào cọp:
- Một lần cho bỏ tật rình rập sau lưng nghe !
Con cọp gấm vừa ức vừa xấu hổ nhăn mặt, khịt mũi gầm lên một tiếng như đe dọa sẽ còn gặp nhau, rồi tốc chạy. Cọp chạy bằng một chân trước với hai chân sau, một chân dính phân phải đưa lên trời để khỏi bị thúi. Nhưng cọp chạy về hướng xuôi gió, mùi hôi thúi cứ bay quận theo hoài. Cuối cùng cọp nhảy lững cững băng hai giò sau, cái tay còn lại đưa lên bụm mũi.
Cọp gấm chạy xa, bác Ba Phi đứng một mình suy nghĩ rồi cảm thấy sợ ngầm. Giống cọp hay thù vặt lắm ! Nhất định nó sẽ tìm cách trả thù. Nghĩ vậy, đầu óc bác Ba luôn ray rứt, suốt buổi phơi lúa bác không yên tâm. Bác moi óc tìm cách làm cho cọp tản thần một phen mà bỏ luôn cái thói thù vặt.
Qua câu chuyện truyền thuyết về Thị Cư đánh cọp ở ngã ba Tàu... làm cho bác Ba Phi thấm thía một bài học về quan điểm đối địch dứt khoát với kẻ thù. Bác lại nhớ về chuyện ông Tánh và con chó cò đánh cọp tại đường Thét Lãi...
Đó là một bài học thứ hai cho bác Ba Phi về cách đánh cọp, phải biết hợp đồng và đoàn kết, sống chết không bỏ nhau. Bác Ba lại nhớ thêm một chuyện ông Phò ở Cái Bác... và đây là một bài học thứ ba mà bác Ba Phi kết luận là "đánh rắn thì phải đánh cho giập đầu, đánh cọp thì phải đánh cho biết mặt". Qua một loạt rút kinh nghiệm qua chuyện đời xưa, bác Ba cảm thấy yên tâm. Ông cha làm được thì mình làm được. Đã lỡ gây sự với cọp thì phải quyết một trận ăn thua cho tới nơi tới chốn, đừng để chúng dễ ngươi mà xấu hổ lương tâm với những người tiền bối.
Đêm ấy bác Ba nằm trằn trọc đến canh ba vẫn chưa ngủ được. Bác cứ nghiên cứu mãi xem có cách nào đánh con cọp gấm này một trận cho nhớ tới già. Con tắc kè trên đầu xông nhà cứ kêu từng hồi như ngầm hỏi thăm bác tính ra mưu chước gì chưa. Nhưng đến khoảng cuối canh ba, bác Ba vụt bật dậy vỗ đùi đánh đét và à lên một tiếng lớn. Ngủ mùng gần bên, thằng Đậu giật mình choàng dậy, hỏi dồn:
- Quạ bắt gà, gắp khô ban đêm, hả ông nội ?
- Quạ diều gì đâu, ông nội ngáp mà. Dậy nhóm cho ông nội bếp lửa, mau đi.
Thằng Đậu say ke sật sừ, đi làm nhưng nó cứ mắt nhắm mắt mở, cằn nhằn:
- Nửa đêm lại vỗ tay la "quạ" rồi cười. Có thèm trà thì kêu dậy nấu cho mà uống, la lối giật mình...
Thằng Đậu múc ấm nước định bắc lên bếp lửa, nhưng dừng lại hỏi:
- Nước trong bình thủy nguội hết rồi sao, nội ?
Bác Ba thấy thằng cháu định bắc ấm nước lên bếp, vội cản:
- Nước uống còn thiếu gì. Để bếp lửa đó cho ông.
Bác Ba lại đầu bếp bê cái nồi dầu chai lớn, è ạch bắc lên bếp lửa. Bác chụm lửa cho nồi dầu chai sôi ành ạch, phì bọt xì khói xanh, rồi với lên gác lấy cây giàn xay lúa xuống. Thằng Đậu lạ lùng khi thấy ông nội dùng cây nằm vít dầu chai phệt vào cán giàn xay, nó vọt miệng hỏi:
- Ông nội chơi vậy, rồi làm sao ngày mai mình nắm tay vào cán giàn xay mà xay lúa ?
- Ấy, mình không xay được thì có kẻ khác xay thế.
Chỉ nói vậy, bác Ba lại làm thinh, thằng Đậu càng ức, hỏi tiếp:
- Ai xay cũng vậy, càn giàn xay tô đầy dầu chai, nắm vào đó có nước mà điên, tay mắc cứng, xay luôn tới chiều không buông ra được.
Bác Ba vẫn giữ bí mật:
- Bởi vậy ông phải bắt kẻ khổ sai xay lúa bằng cây giàn xay cán có tô dầu chai.
Và bức màn bí mật ấy bác Ba Phi cứ giữ kín với thằng Đậu cho đến lúc trời sáng. Khi hai người dọn nia, nong, thúng, sàng, đệm, cối xay xuống xuồng, bác Ba Phi cũng cứ giữ bí mật. Bác bắt thằng Đậu khiêng chiếc giàn xay kỳ quặc kia để nằm ngang trên xuồng và kê kỹ đừng để cho dầu chai dính vào các thứ khác. Thằng Đậu dùng dằng thắc mắc. Đến vậy mà bác Ba vẫn giữ kín miệng như bưng.
Ra đến bờ đìa, ông cháu bác Ba trải đệm, đốn cây xốc nạng, khiêng cối xay lên, cột dây treo giàn và xúc lúa đổ vào cối, bắt đầu xay. Bây giờ bác Ba mới dặn thằng Đậu một câu rất tối nghĩa:
- Dù có gặp trường hợp nào, tỉ như sập trời mầy cũng phải đứng xúc lúa đổ vô cối, đừng bỏ chạy nghe Đậu !
Nói xong, bác Ba đứng vào chỗ xay lúa. Bác dùng hai lá môn bao cán giàn xay cho dầu chai khỏi dính tay rồi bắt đầu quay cối rào rào. Thằng Đậu xúc thúng lúa đứng hờm mé, thấy cối giựt lúa xuống thì châm thêm. Xay được mấy cối, hai ông cháu bỗng nghe có tiếng động sột soạt trong lùm ráng sau lưng. Thằng Đậu chưa biết gì cứ đứng ngớ người ra nhìn ông nội bằng cặp mắt lo lắng. Bác Ba nhìn cháu nội, cười để trấn an nó. Lúc ấy bác Ba càng đẩy giàn xay cho cối quay nhanh thêm. Chiếc cối quay, mắt bác Ba cứ liếc chừng vào lùm ráng sau lưng. Trong lúc chiếc giàn xay đẩy tới thụt lui thắng khói trong tay bác Ba thì từ trong lùm ráng dội lên một tiếng "à uôm" vang dậy. Một thân con cọp vằn vện bay vèo đến, chụp phủ lên người bác Ba Phi. Đã chuẩn bị đón tiếp đối phương suốt đêm, bác Ba không một phút chậm trễ, tràn người ngang thụp xuống ngồi dưới dạ cán chiếc giàn xay. Con cọp gấm hung hăng chụp hụt bác Ba, hai tay vớ phải cán giàn xay, không tài nào gỡ ra nổi. Cọp gấm tức tối lồng lộn, gầm rú om sòm. Bác Ba luồn lại sau lưng cọp, bung cho nó một đá vào đít. Trớn tay cối quay vòng kéo chiếc giàn xay chồm tới, thụt lui, con cọp bị lôi theo chồm tới, ghị lui. Kế tiếp bị một đá của bác Ba làm thốn đít, cọp càng chồm tới, ghị lui dữ tợn hơn. Thế là theo đà quay của cối lôi con cọp cứ chồm tới - ghị lui, chồm tới - ghị lui... Hai tay cọp dính cứng dầu chai ở cán giàn xay không tài nào gỡ ra được.
Bác Ba Phi chuyển giao công việc xay lúa cho cọp gấm xong, nhìn lại thấy thằng Đậu đứng chết trân, hồn vía nó đã bay lên mây từ hồi nào, cứ bưng thúng lúa đổ vãi nửa trong nửa ngoài. Bác Ba tươi cười bước đến vỗ vai Đậu động viên:
- Bình tĩnh lại, có ông nội đây !
Bây giờ thằng Đậu mới tỉnh hồn, gượng cười, trao thúng lại cho ông nội. Từ đó ông cháu bác Ba cứ thay phiên nhau xúc lúa đổ vô cối cho cọp xay.
Con cọp gấm xay lúa một hồi thấm mệt, đẩy kéo vòng quay hơi chậm lại. Thấy vậy bác Ba bảo thằng Đậu:
- Châm nhiên liệu thêm cho cái máy xay xát của mình, Đậu !
Thằng Đậu đi bắt một con ong vò vẽ đem lại cho nó chích vào trứng dái con cọp gấm. Con cọp bị ong đốt, lồng lên, chồm tới -giật lui nhanh hơn trước. Cứ như thế, khi thấy cọp hơi uể oải, thằng Đậu cho ong vò vẽ đốt vào dái nó một cái, và cười om lên:
- Tao châm thêm nhiên liệu nè !
Bác Ba Phi đương xúc lúa đổ vào cối cho con cọp xay đến hết hai chục giạ, nhưng nó vẫn còn hăng, cứ đứng quay vù vù cái cối không thôi.
Thấy bắt cọp làm khổ sai bao nhiêu đó cũng đủ rồi, bác Ba nắm mỏ giàn xay dở lên, đẩy lách sang một bên. Con cọp bị lỡ đà, đẩy chiếc giàn xay phóng tuốt xuống lung. Nhờ thấm nước, tay con cọp được tróc mớ dầu chai dính ở cán giàn xay. Cọp lội lõm bõm qua bên kia lung, vừa đi vào rừng vừa thở hổn hển.
Bác Ba Phi cùng thằng Đậu vỗ tay cười, kêu với theo:
- Một lần cho tởn tới già, bỏ thói thù vặt với ông cháu Ba Phi nghe chưa
Bác Ba Phi : Đi quanh về tắt
Ông cháu bác Ba Phi lái chiếc "xuồng bí đao" lướt sóng băng băng trong đêm, cứ hướng mũi vàm cửa sông Đốc mà thẳng tiến. Bếp lửa "lò sưởi" ở giữa mỗi lúc một cháy cao, ông cháu nghe ấm áp vô cùng. Xuồng đang đi ào ào, bỗng nghe một tiếng bụp nhỏ, rồi nước biển tự nhiên tràn vào. Thằng Đậu ngồi trước mũi, chưa hay cớ sự. Bác Ba thấy chuyện lạ vội giương mắt sau tròng kiếng nhìn kỹ. Cha mẹ ơi ! Chiếc xuồng bí đao bị bếp lửa đốt chín một khúc, rã ra nó sắp vỡ tan rồi.
Bác Ba quát:
- Tàu chìm, nhảy !
Hai ông cháu phóng ùm xuống biển. Chiếc xuồng bí đao rả ra làm hai đoạn. Thằng Đậu hoảng hốt, kêu:
- Ông cháu mình làm mồi cho cá rồi, nội ơi !
Bác Ba bình tĩnh bảo:
- Mỗi người ôm vào một đoạn chiếc xuồng mà nương theo sóng về cửa sông Đốc !
Thế là ông ôm khúc dài, cháu ôm khúc cụt của chiếc xuồng bí đao, một chân đạp nước thay cho chèo, một chân cặp lái, thẳng tiến. Mặt biển sóng gợn lăn tăn, gió thổi hiu hiu, hai người cứ trôi bập bềnh. Để chống cơn buồn ngủ, bác Ba ngáp dài một cái rồi cất tiếng ca một bản vọng cổ thật du dương:
"Đêm khuya cô tịch dưới ánh trăng... ơ... ơ, hơ.. mờ".
Thằng Đậu cũng bắt chước ông nội, nhưng nó ca tân nhạc, bài Chiến thắng Hòn Khoai:
"Lái con thuyền vượt qua trùng dương này ! Sớm lên đường...".
Hai ông cháu mải lo ca hát nghêu ngao, chợt nhìn lên thấy trên biển có một vật gì đen sì chắn ngang trước mặt.
- Tới bờ rồi hả ông nội ?
- Không ! Chắc ông cháu mình xiêu ra tới Hòn Khoai rồi.
Trong đêm thằng Đậu tỏ mắt hơn, nó nhìn kỹ rồi bảo:
- Lạc tới chợ Nhà Bè rồi ông nội ơi !
Bác Ba căng mắt nhìn:
- Không phải ! Những nhà lính cất trên bè hạm đội nổi của Mỹ.
Thằng Đậu run cầm cập, lái xuồng cặp sát ông nội, hỏi:
- Mình phải khai là thi hành nghĩa vụ quân dịch mới lội ra nghe lịnh nhập ngũ.
Trong lúc bác Ba còn chưa biết phải tính sao, thì hai ông cháu đã tấp vào cái bè hạm đội nổi của Mỹ đóng tại cửa sông Đốc. Túng thế phải tùng quyền. Bác Ba rờ rẫm từng phao bè, tìm được chỗ thấp, lôi cháu nội leo lên. Hai người vận dụng phương pháp đặc công lén đi xem xét hết bè này tới bè khác. Khu hạm đội nầy lớn tựa một thị trấn. Có chỗ bọn lính còn xúm lại ăn nhậu la hét om sòm, có chỗ chúng tổ chức khiêu vũ nhảy nhót ạch đụi. Bác Ba dẫn thằng Đậu mò tới cái phao thật lớn. Chỗ này bọn giặc đã ngủ êm re. Thằng Đậu thì thào:
- Tụi nó đốn dừa làm chi mà đem về dựng đứng đặc gật vậy ông?
Bác Ba sửa lại cây kiếng trên mắt:
- Đó là "câu lạc bộ của những ống khói tàu".
Bác Ba biết mình nói không có lý nên xem kỹ hơn, chợt bác kêu lên:
- Mẹ kiếp, trận địa pháo của hạm đội đó.
Hai người yên tâm mò tới. Họ thấy từng nòng pháo một đều chĩa xiên về một phía, biết đó là hướng bờ biển, bác Ba thì thào:
- Xuống nước, lội về phía này để dễ vô bờ.
Thằng Đậu buồn ngủ quá, đề nghị:
- Nằm mẹ dưới chân pháo ngủ một giấc rồi sẽ tính, ông nội !
Bác Ba chiều cháu. Hai ông cháu ôm nhau nằm ngủ dưới một khẩu pháo lớn nhất trong cụm. Nhưng mới mơ màng bị gió biển thổi lạnh quá, bác Ba bảo:
- Ông cháu mình chui vô nòng cây pháo mà nằm ngủ cho ấm !
Vì mệt mỏi từ đầu hôm tới giờ, khi hai ông cháu bác Ba Phi chui được vào nòng pháo, ôm nhau nằm co đánh một giấc thẳng nghỉnh. Giấc mộng còn say sưa, họ bỗng nghe bên ngoài có tiếng chấn động mạnh, rồi tiếng nạp đạn vào pháo đánh rốp làm hai người co rúm toàn thân. Thằng Đậu kêu lên như rên:
- Tụi Mỹ thụt một cái hai ông cháu nhừ ra như chả cá rồi, ông ơi!
Bác Ba an ủi thằng cháu:
- Yên chí ! Ông cháu mình sẽ quá giang chiếc phi thuyền này đi về đất liền cho mau.
Nói xong bác Ba mò mò vặn tháo lấy ngòi nổ của đầu đạn pháo, rồi bảo thằng Đậu ôm chặt vào eo ếch bác, bác thì ôm chặt vào cái đầu viên đạn pháo này.
Bên ngoài, tụi pháo binh hạm đội nổi Mỹ hô hét giọng xì xồ xì xào, rồi một tên thét lớn như nạt. Tức thì bác Ba nghe một tiếng "ầm" chấn động phía dưới đít mình, rồi đầu đạn pháo vọt lên không trung mang theo hai ông cháu cùng bay đi. Có lẽ đầu đạn pháo bay nhanh quá ma sát vào không khí nên bác Ba nghe cái khối sắt nóng ran.
Đầu đạn pháo của hạm đội nổi Mỹ mang hai ông cháu bác Ba Phi bay đi đến trời hừng đông, mãn tầm rơi xuống một vùng đất ruộng nào đó một cái binh, làm hai người nằm mất thở lâu lơ. Khi tỉnh lại, bác Ba Phi sửa lại cây kiếng trên mắt, quan sát cẩn thận. Rõ là miếng ruộng của nhà bác. Thằng Đậu cũng đã tỉnh nhưng nó còn hơi rêm mình. Bác Ba cũng nghe đau mình, với tay đấm đấm vào sau eo ếch. Chợt bác chạm phải khúc sợi dây niệt trâu hôm qua bị đứt còn lại. Sẵn dịp, bác cột vào cái đầu đạn đại bác, hai ông cháu kéo thẳng về công trường của huyện đội nộp luôn để lãnh giấy khen.
Bác Ba Phi: Những con dơi lửa ra quân
Anh Động
Chi đội xe tăng của quận Nhung cứ chạy khơi khơi trên đầu cọc đúng ba ngày ba đêm mới rớt xuống mà bò về trình diện. Quận Nhung nổi giận:
- Ra quân trận nào cũng thua. Hải - lục - không quân đều bại. Tao phải chơi thứ độc với ông cháu Ba Phi mới nghe.
Tên tham mưu ló đầu ra nói thêm:
- Xin thầy Mỹ B.52 bừa xuống Lung Tràm, ông cháu Ba Phi mới trồi đầu ra được.
Quận Nhung chạy lại bàn chụp điện thoại quay reng reng:
- A lô ! Xin quan thầy cho 9 phi đội máy bay B.52 tới bừa thúi đất vùng Khánh Bình này đi !
Bên đầu dây kia thầy Mỹ trả lời:
- B.52 bữa nay mắc bận chở mắm ruốc ở vùng sông Đốc. Hoãn lại ba ngày sau mới cho tới.
Ông cháu bác Ba Phi trong Lung Tràm được tin ba ngày nữa có máy bay B.52 Mỹ tới bừa vào xóm, họ lo lắng vô cùng.
- Ai biểu ông nội đánh giặc kiểu Ba Phi làm cho bà con mình phải chịu họa lây.
- Không làm kiểu Ba Phi thì làm sao thế gian này có tiếng cười ? Đã lỡ đời ông sinh ra là Ba Phi rồi, bây giờ phải cố nghĩ cách Ba Phi mà đối phó.
Suy nghĩ một lúc bác Ba bảo thằng Đậu:
- Mầy xách cái rộng đi ra đầu xông nhà với ông nội !
Thằng Đậu mang cái rộng cá thật đầy, có nắp đậy. Bác Ba Phi tay cầm cây vợt câu tôm, họ ra đầu xông nhà, chỗ có mé lá lợp xiên xuống xồm xoàm. Bác Ba nhè nhẹ đưa cán vợt dở thử tua lá lên xem. Những chùm con dơi bắt muỗi đeo đầy chỗ tua lá.
Thằng Đậu cầm khúc cây thọc cho dơi bay ra. Bác Ba cầm cái vợt câu tôm hứng bắt. Hai ông cháu bắt sạch đến mấy trăm con dơi bắt muỗi núp trong mái nhà.
- Lấy giẻ, chai dầu, ống quẹt, ra, Đậu !
- Nướng dơi ăn hả nội ?
- Dơi này ăn như cọp ăn bù mắt, nhằm nhò gì. Ông nội mở xưởng chế tạo vũ khí "tên lửa tầm ngắn".
- Chi vậy ông nội ?
- Tiên hạ thủ vi cương ! Phải ra tay trước, đốt mẹ cái chi khu Rạch Ráng cho cha con thằng quận Nhung bỏ chạy, kẻo ba ngày nữa nó đem B.52 tới.
Thằng Đậu lấy dụng cụ ra. Hai ông cháu xé giẻ vo tròn thành một cục, dùng một khúc dây chì nhỏ cột cục giẻ rồi cột vào đuôi con dơi. Họ làm thử hai con để thí nghiệm. Làm xong, họ nhúng dầu cho ướt cục giẻ rồi quẹt lửa đốt. Bác Ba cầm hai con dơi bắt muỗi tung lên cao:
- Cho tên lửa vượt đại châu nè !
Thằng Đậu vỗ tay cười ngặt nghẹo:
- Giống bà Cố xẹt quá trời !
Một con dơi bay xẹt qua đầu hai người, kéo cái đuôi lửa bay thẳng lên ngọn cây dừa gần đó, đáp vào chỗ có buồng dừa. Lửa bắt cháy ngọn dừa phừng phừng. Ông cháu bác Ba vỗ tay cười khoái chí. Con dơi thứ hai mang lửa đảo mấy vòng rồi quay về chỗ cũ, đáp vào mái nhà. Mái nhà đang khô như rơm, bốc cháy. Ngọn lửa bốc lên rần rần. Ông cháu bác Ba hoảng hồn chụp lấy sào đập vào nhà để chữa lửa. Lửa càng bốc, họ càng đập dữ. Đập đến ngã đổ đồ đạc trong nhà và đến chừng lửa tắt, cái nhà bị sập hết phân nửa. Bác Ba Phi cười khà khà:
- Cuộc thí nghiệm này thành công rồi !
- Phải thất bại thì nhà mình cháy bằng mặt đất, hả ông nội ?
Hôm sau, ông cháu bác Ba Phi mang rộng rơi đã buộc đuôi sẵn, ra gần chi khu Rạch Ráng. Họ quyết lòng cho những con dơi lửa ra quân.
Trong chi khu, tên quận Nhung đứng chống hai tay vào háng động viên:
- Lính tráng gì mà sợ Ba Phi ? Để tới ngày hẹn với thầy Mỹ cho B.52 vô bừa, ông cháu nó chết là chi khu chúng ta vững như bàn thạch.
- Tụi tui sợ chi khu này có ngày cháy bằng mặt đất, vì tay ông Ba Phi quá quận trưởng ơi !
Ngoài kia ông cháu bác Ba Phi bắt những con dơi ra, quẹt lửa đốt vào cục giẻ nhúng dầu, thả cho bay lên trời.
- Chi khu nầy bỏ chạy, bà con tao mới khỏi bị B.52 bừa.
- Mình đánh cho quận Nhung một trận hỏa công, mẹ con nó chạy vắt giò lên cổ chơi, hén ông nội !
Những con dơi mang lửa bay đỏ trời trên vùng chi khu Rạch Ráng. Quận Nhung hoảng hốt kêu lên:
- Tại sao máy bay B.52 lại rãi thảm xuống ngay chi khu vậy kìa ?
Tên tham mưu chạy vòng vòng la lối:
- Tại quận trưởng tàn ác quá trời, cả trăm bà Chúa Xứ xúm lại bắn chúng ta đó.
- Những con dơi bay mỏi cánh, đáp vào các dẫy trại nhà lá của lính. Lửa bốc cháy lên rực trời. Từ nhà lá lan qua dãy nhà tường. Cả chi khu Rạch Ráng trở thành một dãy núi lửa. Mẹ con quận Nhung bỏ chạy loạn xà ngầu, mạnh ai nấy nhảy ùm xuống sông Đốc, lội qua bên kia, chạy tắt đường đồng về thị xã Cà Mau.
Ông cháu bác Ba Phi nhìn theo vỗ tay cười ngất:
- Cho tụi bây biết thế nào là hỏa lực của ông cháu Ba Phi
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top