TRUYỆN NGẮN-Lenghiabk05
Cơm cháy quân trường
Có lẻ hiếm ai được thưởng thức món cơm cháy quân trường nếu không phải là nam nữ quân nhân nhập ngũ. Tôi lớn lên từ quân trường có tên “Liên Trường Vỏ Khoa Trừ Bị Thủ Đức” trên đồi Tăng Nhơn Phú, chợ Nhỏ, Thủ Đức và tên gọi sau cùng là trường Bộ Binh Thủ Đức. Ba tôi là huấn luyện viên tại đây sau khi ông đã thụ huấn xong khóa 2. Năm 1962 ông đi du học ở Hoa Kỳ sáu tháng, cho đến vào khoãng năm 1972 ông thuyên chuyển về Lục Quân Công Xưởng ở Gò Vấp rồi nghỉ hưu được năm, sáu tháng trước ngày miền Nam VN rơi vào tay CS. Ông bị đày ra Bắc hơn năm năm.
Hảy cùng tôi trở về khung trời ấy vào giữa thập niên 50-60. Lúc đó tôi còn ở độ tuổi bậc tiểu học thích tìm tòi, sục sạo, mổi khi đến mùa bãi trường nếu má tôi không đưa mấy anh chị em tôi về gởi bên quê nội ở Mỷ Tho ba tháng hè thì đôi bàn chân bé nhỏ của tôi thời đó tha hồ tung tăng khắp nơi trong quân trường. Khó mà giữ tôi ngồi yên một chổ được lâu cứ xổng ra là tôi “rong chơi suốt ngày quên lãng”, mặc dù ba tôi hăm he dử lắm. Có lần tôi đang mon men tới gần phòng làm việc của ba tôi ở Khối Quân Huấn mà không biết, trời xui đất rủi vừa đúng lúc ông đi dạy từ ngoài bãi tập về bắt gặp thế là ông hốt tôi lên chiếc Lamretta hai bánh chở về nhà đét cho vài roi “ui da”. Vậy mà cũng chẵng chừa, khi thì lang thang một mình lúc thì cùng mấy đứa bạn nhỏ đồng trang lứa. Ngày xưa làm gì có computer để chơi game như bọn trẻ bây giờ mà hòng trói được chân tôi lại trong nhà. Tuy vậy, mổi khi ông đi đâu cũng đều hỏi tôi có muốn đi theo không? Dĩ nhiên là con bé chạy nhảy lăn xăn theo rồi.
Vừa vào cổng chánh của quân trường là con đường tráng bằng nhựa (dầu hắc) thẳng ra tới cổng sau. Ngay gần sát bên phải của cổng chánh có “lô cốt” cao kế đó là miếu Tiên Sư để cúng tế vào những ngày lễ lộc. Cách đó độ chừng hơn trăm thước có hai dãy nhà nối nhau cập theo con đường chính, mỗi dãy nhà có khoãng hai chục căn (không nhớ rỏ lắm) sát vách nhau, nối kết giữa hai dãy nhà là một bãi sân xi-măng rất rộng, buổi chiều người lớn hay đưa con cái ra đó cho chơi đùa, còn họ thì tán gẩu cùng nhau. Căn nhà đầu của dảy nhà đầu tiên là nơi gia đình tôi trú ngụ, vì là căn bìa nên bên hông nhà có hành lang rất rộng bề ngang bằng hai phần ba căn nhà ở cùng mái cao với dảy nhà cũng được lót gạch bông và lan can dài từ trước ra sau, thật là nơi lý tưởng cho bọn trẻ chúng tôi bày các trò chơi, còn buổi sáng sớm thì ba tôi ra đó với cái radio để tập thể dục theo chương trình của đài phát thanh. Sau lưng dảy nhà chúng tôi ở là bệnh xá. Dảy nhà thứ hai có nhà của tr/tá Vỉnh Lộc, còn dảy nhà bên kia đường thì có nhà của đ/tá Đỗ Cao Trí.
Thời đó quân trường chưa khai phá hết nhà cửa còn thưa thớt, đối diện với dảy nhà chúng tôi ở là khu rừng cây phía bên trái con đường chính. Thỉnh thoãng, sau khi ăn cơm chiều xong trời còn sáng mát, ba tôi cầm cây súng săn đi trước vào gần rừng cây, còn tôi xách chiếc lồng chạy lủn đủn theo sau. Ba tôi suỵt một tiếng bảo tôi đi nhè nhẹ, thế là tôi phải rón rén thật khó khăn. Má tôi mà làm chim rừng rô-ti thì khỏi chê được. Sau này, dân số, nhà cửa, phòng ốc từ từ bành trướng cùng với tôi lớn dần theo thời gian thì những cuộc đi săn ngắn cũng giãm dần rồi dứt hẳn lúc nào chẳng hay. Đi xuống chút nữa bên phải là khu nhà của các cố vấn Mỹ, mấy đứa con nít tụi tôi thường ghé lại ngoài sân bập bẹ vài tiếng chào “Hello” để được phát vài thỏi kẹo chocolate. Rồi đến dinh ông tướng chỉ huy trưởng quân trường, có một lần tôi mon men vào được chổ bà giúp việc đang ủi đồ tôi cứ nhìn dáo dác rồi tấm tắc nói: “Nhà rộng lớn thiệt có lầu nữa sang quá hả dì? Con cũng thích ở nhà lầu lắm đó”. Bà giúp việc phì cười: “Con gái con đứa gì mà long nhong hoài, không sợ bị đòn sao vậy?” “Dạ sợ chớ!” rồi chạy tuốt.
Qua khỏi dinh ông tướng cho tới cổng sau vòng đai của quân trường là khu vực của các sinh viên sỉ quan đang thụ huấn, tôi không có bén mãng đến khu vực này chỉ một lần. Từ chổ này là ngã tư đi về hướng đối diện dinh ông tướng là trường Truyền Tin bên trái, Khối Quân Huấn và trường Thiết Giáp (mở thêm sau này) bên phải. Xuống sâu hơn là rạp hát, hầu như cuối tuần mọi người đều kéo nhau đến đó vì chỉ có nơi đó để giải trí. Buổi trưa, có xe chạy vào các khu nhà phát loa rồi rải giấy quãng cáo cho phim mới đổi, đám con nít chạy theo cố lấy càng được nhiều tờ chương trình càng thích để đưa lại cho người lớn, có đứa để dành rất nhiều chương trình phim rồi khoe với nhau. Phim tình cảm Ấn Độ thời đó thu hút đàn bà con gái nhất, thậm chí các cô gái mặc hóa trang Ấn Độ để chụp hình trưng bày ngoài tủ kiếng của các tiệm chụp hình, Xa hơn đó là khu gia binh cho gia đình binh sỉ ở, có bán nhiều đồ ăn, buổi tối khu vực đó đông vui, nhộn nhịp, nhà tôi thỉnh thoãng đến đó mua về ăn, có món bún bò Huế tôi không ăn được nấu gì mà cay quá trời con nít làm sao ăn nổii??? Vậy mà người lớn cứ khen tấm tắc làm tôi phải nuốt nước miếng mà nhìn.
Nhớ có lần tôi ra Đà Nẵng thăm ông nhà tôi phục vụ ngoài đó. Ông đưa tôi và hai người phụ tá đến một quán Bún Bò Huế ở ngã năm (?) mà ông quảng cáo là ngon lắm. Trời lạnh, mưa phùn thành phố cao nguyên chập chùng đồi núi một cảm xúc bồi hồi tràn lên trong lòng của kẻ thích ngao du tìm tòi để được chứng kiến những điều mới lạ của quê hương. Lúc này có một tô bún nóng thì còn gì hấp dẩn hơn, vào quán giờ ăn trưa nên rất đông khách mọi người đang xì xụp với tô bún mùi nước súp thơm lừng trong quán làm dạ dày tôi cũng cồn cào hối thúc. Mấy tô bún được mang ra óng ánh vàng ngậy như màu ráng chiều cùng vài dĩa rau sống nhìn mà bắt thèm, mấy người phụ tá cho thêm ớt sa-tế vào tô. Tôi không ăn cay nên múc một muổng nước súp nếm trước. Trời đất quỉ thần ơi! Chưa kịp nuốt nước súp xuống cổ tôi đã sặc sụa ho, nước mắt nước mủi ràn rụa, hai lổ tai lùng bùng, còn lưởi tôi như bị bỏng. Mọi người ngạc nhiên ngừng ăn nhìn tôi vừa như khóc vừa mắc cở, tôi không ngờ sao mà cay quá trời vậy mà mọi người vẫn ăn bình thường thậm chí còn cho thêm tương ớt nữa. Thế là tôi đành để bụng đói trở về căn cứ ăn mì gói, mà lòng còn tiếc tô bún Bò Huế hùi hụi. Sau này, tôi học cách nấu bún Bò Huế để tự nêm nếm cho vừa mình ăn, bằng không thì đành ngồi “dòm miệng” sao? Sau lưng của Khối Quân Huấn và trường TG là những dãy nhà của hạ sỉ quan, tôi có mấy đứa bạn học chung lớp ở đó thì đố khỏi tôi không ghé qua. Thật ra phần đông quân nhân phục vụ trong quân trường thời điểm đó biết ba tôi cho nên họ cũng vui vẽ mổi khi bất chợt gặp tôi nghêu ngao đâu đó tạo cho tôi cảm giác thoải mái gần gủi thật là tự nhiên chẳng khác nào toàn bộ quân trường như là khuôn viên vườn nhà tôi và mọi người là họ hàng của tôi vậy.
Lần đó, tôi và một đứa bạn nữa lang thang đến gần nhà bếp của quân trường, gặp lúc giờ ăn trưa của SVSQ. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cơm được nấu trong mấy cái chảo đụn thật to, còn to hơn cái thau mà má tôi dùng để hứng nước tắm cho mấy anh chị em tôi. Có mấy chú lính đang phân phát đồ ăn, họ xúc cơm ra bằng cái xẻng nhà binh giống ở nhà ba tôi dùng để xúc đất. Các sinh viên kẻ đứng người ngồi lao xao ăn uống, đùa giỡn. Cơm gạo lức đỏ còn bốc khói nóng, hai đứa tôi trố mắt ra nhìn các vật dụng rất ngạc nhiên, một chú thấy hai đứa tôi đứng lóng nhóng bèn hỏi:
Ê nhỏ! Có muốn ăn cơm cháy không? Rồi quay qua cười với mấy chú khác
Dạ! Cho con một miếng đi chú. Tôi trả lời, người lính ngừng cười quay lại nhìn tụi tôi có lẻ chỉ định giỡn cho vui, không dè con nhỏ muốn ăn cơm cháy thiệt. Cơm múc ra đã hết chỉ còn vành cơm cháy dưới đáy chảo được xủi tróc lên nghe giòn rụm. Chú lính bẻ một miếng cơm cháy bự hơn bàn tay người lớn đưa cho hai đứa tôi rồi nói:
Nè! Coi chừng gảy răng đó nghe. Dạ Hai đứa tôi chia nhau miếng cháy rồi cười tủm tỉm kéo nhau đi vừa líu lo vừa nhai cơm cháy còn ấm nóng thơm phức hòa lẫn tiếng cười của mấy chú lính đang vang phía sau lưng. Cơm cháy này dày hơn cơm cháy ở nhà tôi nấu. Vì vậy, tôi phải nhai lâu hơn do đó vị ngọt của cơm ứa ra trong miệng vừa thơm vừa giòn. Thật là thú vị lần đầu tiên được ăn cơm cháy của quân trường mà đâu phải ai ở trong quân trường đều có thưởng thức qua (!). Cái hương vị của cơm cháy quân trường khác hẳn với cơm cháy nhà tôi mặc dù thỉnh thoãng nhai trúng sạn (dễ bị gảy răng thiệt chứ) mà vẫn thấy ngon lạ. Mổi khi nhớ đến món cơm cháy của quân trường ngày xưa, tôi có nấu lại cơm gạo lức để cho có cháy nhưng ăn vẫn không tìm lại được cái cảm giác thú vị như miếng cơm cháy của quân trường Bộ Binh Thủ Đức ngày nào. Có lẻ do ở tuổi thơ vô tư, hồn nhiên và đang đói (!). Ôi! Tuổi thơ xinh đẹp và dể thương chỉ còn là dấu ấn trong tiềm thức…
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường, chống giặc thù ngoài chiến trận trên khắp nẻo đường đất nước để bảo vệ Non Sông Tổ Quốc Việt Nam có khác nào vị ngọt có lẩn cát sạn của cơm cháy quân trường. Sau khi lập gia đình, tuy tôi theo chồng đi khắp bốn vùng chiến thuật nhưng các con tôi đều được chào đời tại Tăng Nhơn Phú, chợ Nhỏ, trường Bộ Binh Thủ Đức.
Nhớ năm Mậu Thân tôi đang có mang cháu đầu lòng về ở với gia đình chờ ngày sinh nở. Khi VC tấn công xung quanh vùng đó và pháo kích, ba tôi vội đưa cả nhà đến Khối Quân Huấn để tránh đạn, ở đó có đắp những hầm chất bằng bao cát. Ông cứ nơm nớp lo cho tôi. Vài tháng sau đó chị Hưởng con của bác tr/tá Hưng bạn cùng làm trong quân trường với ba tôi ghé qua thăm. Chị đang có mang sắp đến ngày sanh vừa nhìn thấy tôi chị bật khóc nức nở “Chồng chị bị tử trận trong đợt tấn công Mậu Thân rồi” tội cho đứa bé còn trong bụng mẹ chưa kịp biết mặt cha. Biết làm sao mà an ủi chị đây? Khi có chồng là trai thời loạn!!!
Cơn gió chuyển mùa đông ùa ập về như cố giủ cho sạch những chiếc lá nâu vàng bướng bỉnh còn sót lại cố bám víu một cách tiếc nuối trên cành khô rồi như tuyệt vọng trước sức mạnh không thể cưởng lại được (những chiếc lá) đành buông xuôi lơ lững theo chiều gió về một nơi xa xăm chẳng phải là cội nguồn của mình.
ON GUIGOZ HÀNH TRANG CỦA NGƯỜI TÙ CẢI TẠO
tka23
Không biết vô tình hay hữu ý mà trong hành trang lên đường của tôi có chiếc lon guigoz. Guigoz là lon sữa bột của nước Hòa Lan sản xuất. Hầu hết trước năm 1975, con cái của công chức, quân nhân và gia đình khá giả đều uống loại sữa này.
Vợ tôi để dành những cái lon không để đựng những đồ gia vị gồm bột ngọt, tiêu, đường, muối, mỡ… vì vừa nhẹ, vừa sạch và vừa kín. Khi đậy nắp lại không có con kiến nhỏ nào chui lọt.
Trong “ba – lô”(túi sách nhà binh) đi học tập cải tạo của tôi có đến hai chiếc lon guigoz. Một cái đựng bàn chải đánh răng và kem súc miệng. Còn cái kia đựng thuốc ngừa sốt rét, thuốc đau bụng và hai chai dầu gió. Đó là những việc mà vợ tôi lo xa..
Ngày 27 tháng 6 năm 1975 là ngày tôi đến trường nữ Trung Học Gia Long, đường Phan Thanh Giản, Quận 3, Sài Gòn, trình diện.Sau mấy tháng không làm việc gì nặng nhọc, khi mang ba – lô trên vai đi bộ độ mươi bước thì tôi cảm thấy người như chùng xuống.
Tôi thầm trách vợ tôi:”đã nói học tập có mười ngày, đem theo đồ gì gọn nhẹ mà sao không nghe”. Đến trường Gia Long ở hai ngày một đêm mà tôi không buồn soạn cái ba- lô, coi trong đó đựng những thứ gì. Tôi chỉ lấy chiếc lon guigoz đựng kem súc miệng và cái khăn mặt để sử dụng hàng ngày. Thật là tiện lợi khi dùng nó vì nó chứa được nhiều nước.
Ngày 29 thang 6 năm 1975,tôi đến trại tù ở Suối Máu Biên Hòa. Sau khi điểm danh và phân chia nhà ở xong, việc đầu tiên của tôi là xách chiếc lon guigoz đi tìm nước súc miệng.Đi một vòng xung quanh trại mà tôi chẳng thấy có cái lu, cái khạp, hay cái thùng phi nào chứa nước sẵn.
Chỉ có một cái giếng duy nhất để chứa nước nấu ăn. Có giếng nước mà trại lại không phát thùng múc nước. Làm sao lấy nước lên được khi độ sâu của giếng khoảng hơn mười thước. Tôi đành xách chiếc lon guigoz đi về nhà ở. Thấy ai nấy đều đem mùng ra kiếm chỗ treo lên, tôi cũng mở ba- lô lấy cái mùng “nhà binh” màu xám( loại mùng bằng vải nylon, phía trên nóc và xung quanh chân mùng có bốn sợi dây, mỗi sợi dài hơn ba thước.)
Một ý nghĩ bỗng thoáng qua trong đầu tôi là tại sao tôi không lấy bốn sợi dây này nối lại(” một cây làm chẳng nên non”), xong buộc vào lon guigoz mà lấy nước từ dưới giếng lên. Tôi liền thực hành ngay. Quả thật tôi đã lấy nước một cách dễ dàng, không những cho tôi mà còn cho những bạn tù khác.
Đến 8 giờ 30 cùng ngày, cả nhà( gồm 44 người) ngồi lại bầu một nhà trưởng và một người phụ trách nấu ăn. Quái ác, một thằng bạn thấy tôi có sáng kiến lấy được nước từ giếng sâu lên, nó liền đề cử. Thế là cả bọn dơ tay tán thành.
Khởi sự đi nấu vào lúc 9 giờ sáng mà mãi đến 2 giờ chiều mới có cơm ăn. Độc nhất, chỉ có rau muống luộc bằng nước giếng. Nước dùng để vo gạo và rửa rau, kể cả nước để vô chảo để nấu cơm và luộc rau, cũng chỉ dùng chiếc lon guigoz lấy nước từ dưới giếng lên.
Còn củi để chụm là những khúc cây cao su bằng bắp chân cưa ngắn lại độ ba gang tay còn xanh. Làm sao nhúm lửa được mà nấu? Trại tù không phát dao cũng không phát búa, sợ tụi này dùng vật bén nhọn tấn công tụi nó.
Tôi lại một phen đi đào lấy cọc sắt” ấp chiến lược” loại ngắn độ hơn gang tay để chẻ củi. Sau đó, đi lấy bao cát nylon để đốt cho cây củi cao su khô đi mới bắt cháy được. Thật là nhiêu khê!
Sau khi làm bếp xong, tôi lấy một lon guigoz nước để” tắm búng”(thắm nước cho ướt mình mẩy rồi lấy tay se se cho đất tróc ra, xong búng nó đi)
Có một hôm trời mưa to. Cả bọn mừng rỡ chạy ra tắm mưa dưới những mái tôn nhà đang ở. Bỗng nhiên mưa đứt hột một cách đột ngột. Cả bọn nhìn nhau cười ngặt nghẽo vì đầu cổ mình mẩy đứa nào đứa nấy đều dính đầy bọt xà bông, trông rất thảm hại! Chiếc lon guigoz lại lần nữa giúp cho bọn tù chúng tôi rửa sạch bọt bèo xà bông.
Có nhiều đêm tôi muốn đi ngủ sớm vì quá mệt nhọc trong công việc nhà bếp nhưng mấy thằng ban đâu có tôi nằm yên, tụi nó thay phiên nhau tới chỗ tôi nằm để mượn chiếc lon guigoz. Đã mười giờ đêm mà tôi vẫn chưa ngủ được vì lấy lon guigoz đi, thì bốn sợi dây giăng mùng cũng đi theo.
Sau hơn một tháng, vào ngày 9 tháng 7 năm 1975, chúng tôi chuyển trại bằng đường bộ từ Suối Máu xuống An Dưỡng(Biên Hòa). Dọc đường, chiếc lon guigoz lại giúp tôi đỡ cơn khát. Ở trại mới, so với trại cũ có phần thoáng mát hơn. Cũng xử dụng nước giếng nhưng trại phát cho thùng xách nước. Còn củi thì trại có đưa búa cho chẻ củi. Cho nên chiếc lon guigoz lúc này dùng việc “ca cống”(là dùng ca và lon guigoz bằng nhôm nấu ăn hoặc nấu nước uống bằng than của nhà bếp)
Ở chung trại có anh bạn tù tên là Tuấn. Anh ta có một thân hình lực sĩ đẹp nhất trại nhưng vì anh ta hay bắt chuột làm thịt ăn nên cả bọn chúng tôi kêu anh ta bằng Tuấn chuột. Một đêm trăng, tôi nằm thao thức mãi không ngủ được, một phần thì nhớ nhà, một phần thì bụng đói cồn cào.
Tôi ngồi dậy, nhìn ra ngoài trời, dưới ánh sáng của vầng trăng tròn, tôi thấy hai con chuột đang tìm cách tha cái lon guigoz của Tuấn Chuột. Một con chuột nằm ngửa, bốn cẳng của nó ôm chặt chiếc lon guigoz, còn con kia cắn đuôi con chuột nằm ngửa mà kéo đi nhưng vì miệng hang quá nhỏ nên chúng không thể nào đem cái lon guigoz vào được.
Ngoài ra chiếc lon guigoz cũng giúp tôi khỏi bị bệnh tê liệt một thời gian ngắn. Số là ở trại tù An Dưỡng, bọn quản lý trại giam đã cho chúng tôi ăn gạo ẩm(gạo cũ bị bể nát). Chỉ trong một tuần lễ là tất cả chúng tôi đều đi đứng không được mà phải bò bằng tay và hai đầu gối. Tuấn Chuột là người khỏe mạnh mà cũng bị bò.
Riêng tôi, tôi vẫn đi đứng bình thường. Bởi trong khi đi lao động gần nhà bếp trại, tôi thấy bọn chúng vo gạo trắng,tôi liền lấy lon guigoz xin một lon đầy nước cơm vo. Mãn giờ lao dộng, tôi trở về ”lán”(chỗ ngủ của tù cải tạo) để bắt đầu giờ ca cống. Tôi xin chút than nhà bếp để nấu nước cơm vo này. Nhờ có nước cơm vo( có chất vitamin B1) mà tôi không phải bị bò.
Thấy tôi đi đứng bình thường, mấy thằng bạn nói tôi có nhiều thuốc vitamin B1 nên khám ba- lô của tôi. Đến khi lục soát xong, bọn chúng mới biết tôi chỉ có mấy viên thuốc ngừa sốt rét mà vợ tôi đã cẩn thận bỏ trong hành trang của tôi. Sau đó, Ban Quản Lý trại mới mua gạo lức về nấu cho chúng tôi ăn để khỏi bị bệnh tê liệt.
Ở trong trại, tôi có ăn chung với một thằng bạn tên Hoa. Nhân ngày lễ của bọn chúng, chúng tôi mỗi thằng được trại ”ưu ái” phát cho một cục thịt heo bằng ngón tay cái. Chúng tôi đâu dám ăn liền mà bỏ vào lon guigoz rồi lọc nước muối đổ đầy vào lon nấu thịt cho ra nước mỡ để hai đứa ăn một tuần lễ vì trại trừ phần ăn bảy ngày.
Ngày 17 tháng 6 năm 1977, chúng tôi chuyển trại từ An Dưỡng đến Căn Cứ 5 Rừng Lá,thuộc Hàm Tân, Phan Thiết(trại Z30D). Thời gian ở trại này có thêm đội nữ( gồm có các chi quân nhân và các chị ở Biệt Đội Thiên Nga Cảnh Sát). Tội nghiệp! Các chị đều bị bệnh vì chế độ ăn uống ở đây quá khắc nghiệt.
Trong lúc này, tôi ở Đội Nhà Bếp. Hàng ngày, ngoài việc nấu cơm và luộc rau muống, tôi còn phải nấu một chảo nước sôi để chia cho đội nữ. Lợi dụng việc đi lại với nhà bếp, các chị đã gởi cho tôi sáu cái lon guigoz để gởi tôi nấu dùm. Đố các bạn biết trong đó đựng những gì? Xin thưa: đó là đậu xanh hột. Số là trong khi các chị đi thu hoạch đậu xanh, các chị đã giấu lại không nộp hết rồi bỏ vô lon guigoz đem xuống nhà bếp nhờ tôi nấu chín.
Có lần tên cán bộ( lúc này Công An Quản Lý) nhà bếp hỏi tôi nấu cái gì trong đó. Tôi nói là nấu nước sôi cho đội nữ. Hắn ta thắc mắc hỏi. Tại sao anh nấu một chảo nước sôi màkhông đủ chia? Tôi giải thích rằng họ cần nước đun chín để uống thuốc. Thế là thoát nạn.
Trong thời gian cải tạo, người tù như chúng tôi đều trải qua những cơn đói khát kinh hoàng. Chiếc lon guigoz đã nuôi sống chúng tôi trong những cơn hoạn nạn. Chiếc lon guigoz là vật bất ly thân, đã đi theo chúng tôi từ trại tù này đến trại tù khác. Chiếc lon guigoz là người bạn đường thân thiết của tôi.
Chiếc lon guigoz cũng là hình ảnh, là báu vật mà suốt cuộc đời của người tù cải tạo không quên đượ
Hồi đó đi Sư 9 ở Đồng Dù, Củ chi thì phải ^.^ Lúc mới vào, phải đi chích ngừa, mà bọn nó bảo là ngừa bách bệnh, thì cũng đứng xếp hàng, vạch tay áo ra đưa cánh tay ra cho nó chích (Quân y thực tập, binh nhất hơn mình 1 gạch) Tiên sư, các bác bảo thằng nào chích nhanh hơn nó, tớ ko tin, nó chụp ống chích với tần suất 3s/1 phát . Đâm, kéo, thả rất dịu dàng, tội mấy thằng mà thuốc ko vào thịt kịp, nó sưng lên bầm tím, mà tớ là trong số đó, có thằng kia rất to con, đek biết quân y nó chích sao, gãy kim, té vật ra xỉu ...
--------------------------------------------------
Rồi cái màn dậy sớm và ngủ sớm, 5h dậy. 9h lên giường
Chúng mình ở tp làm gì mà có vụ như ngủ như gà thế kia ... thế là lôi bánh kẹo, đồ ăn ra lúc mà đi phụ huynh đem cho ấy. Có nhiều ông đem cái balô ra, tôi dám cá rằng bỏ đói nó với cái ba lô ấy cả tháng cũng ko đói... chóp chép mãi rồi ngủ cũng gần 12h. Sáng sớm mấy ông sĩ quan kéo dậy lúc 4h30 (mịa. chỉ cách gấp nội vụ - chăn màn, chiếu gối đấy các bác - chúng tớ ngủ nướng mà, thế mà chúng nó kéo sạch chiếu gối ra rồi quát lên ...... Đ. mịa, quân đội đek phải ở nhà, chúng mày dậy mau... rồi chúng tớ gấp theo chúng nó và ra tập thể dục với áo thun 3 lỗ và quần dài. Lạnh bỏ mẹ, lạnh teo cả chym...
------------------------------------------------
Cái chuyện ăn uống là bi hài nhất trong cái quân đội của VN này, đến giờ ăn đánh kẻng, cả đám được mấy ông tiểu đội trưởng dắt xuống nhà ăn, xuống đến nơi, 1 tay cầm chén, 1 tay cầm đũa, nhìn ăn mày đek chịu được
nhìn vào cái bàn đồ ăn cho 10 thằng ... Cái j thế này? 1 cái nồi cơm với gạo sống, 1 cái đĩa thịt mà tỉ lệ 90/10 trong đó 9 miếng mỡ, 1 miếng thịt. Alê hấp, căng tin thẳng tiến, vào đến nơi, mua đĩa cơm sườn giá 15.000đ/1 đĩa, nhìn cái đĩa nhiều thằng hất hàm bảo: Chủ quán có cái nào sang hơn ko ? Chủ quán nhìn thằng ấy bảo: "Đek có, đek ăn thì biến" (sau này biết đúng là chỉ có 1 cai canteen trong cái trung đoàn này... hèn chi nó làm trùm, mà lính mà đòi ăn sang thì chết mịa sớm nữa - sau này mới biết - thôi thì mình cũng nuốt, chơi thêm chai nước ngọt nữa..)
-------------------------------------------
Rồi cuộc sống quân đội bắt đầu với các món ăn chơi... học từ sáng đến chiều, hôm nào về sớm thì tăng gia (chơi game nông trại các bác à)
Và tắm rửa rồi ăn chiều lúc 5h30, sau đó là sinh hoạt với đồng chí mỏ nhôm (mỏ nhôm là thế này, đồng chí ấy là cán bộ phó đại đội trưởng chính trị, trong ban cán bộ phân ra 2 loại: quân sự và chính trị, và chính trị thì nói nhiều, chính đồng chí ấy tâm sự mình bảo rằng có lúc thực tập và học ở HN thì có bài học thực tập nói liên tục 8h/1 ngày, ko ngưng nghỉ, chỉ uống nước thôi, thì mới pass được và qualified là cán bộ chính trị, cái mồm đồng chí ấy phải bằng nhôm thì mới dẻo dai được) mà đồng chí ấy nói cái gì mà tớ 18 tháng nghe mà ko hiểu gì cả
---------------------------------------------
Cái vụ tăng gia đấy, bắt đầu cuộc đời nông dân các bác ạ, trưa, sáng , chiều rảnh mà ko học là đi cuốc đất, và bắt đầu bi thảm khi 1 ngày chúng nó bảo đám tớ đi lấy phân đi bón cây cải ... tớ bảo phân ở đâu, chúng nó dắt tớ ra thẳng wc ... mà wc này là nổi , tức là ko có hầm cầu ở dưới
---------------- CHỈ ĐỊNH: bác nào đang ăn thì đi ngay ra ngoài, ko đọc tiếp ----------------------
Thế là các bác ợ, chúng tớ phải xúc cái đống mà chúng tớ thải ra hằng ngày, dầu gió được trưng dụng, khẩu trang.... but sau này tớ công nhận rằng đéo có cái thứ mùi nào mà kinh khủng bằng mùi của cái đống phân của người.... thế là tay đeo bao ny lông, ôi vãi mẹ, có thằng kia làm ăn kiểu gì nó xúc 1 phát mạnh tay văng mẹ lên thằng kia, văng vào mặt.... thằng ấy ói tới mật xanh ... tớ chỉ là thẳng đứng dòm but gió thổi vào mặt, tớ muốn xỉu.... và cái đống ấy dọn tới cái hố và ủ thành cái món lỏng lỏng màu nâu nâu vàng vàng xanh xanh để tưới lên cải này, đậu đũa này, rau này..... để chúng tớ thu hoạch sau này đem lên cái bàn ăn và măm măm.....
-----------------------
Cái vụ hốt phân bò ấy, tớ cũng đi theo chơi cho vui, các bác biết ko? ngày ấy, chúng nó cũng đểu lắm cơ, thủ thỉ với bọn mình rằng: các em lâu ngày quá, ko ra chơi, anh muốn cho mấy chú ra ngoài, ko đi bộ đâu nhé. Có xe đưa rước đàng hoàng (xe tải ....) thế là chúng tớ ham vui đi, lên xe ra khỏi cổng thật là 1 cảm giác thật tự do hạnh phúc, như chim trời tung cánh vậy..
Chạy 1 hồi rồi đến 1 cái trang trại nuôi bò... và nhìn cái thảm cảnh phân bò .... nhìn chúng nó trả giá mua phân mà chúng tớ cười ra nước mắt... " Anh giảm giá tí nhé, phân bò kì này lỏng quá, chả được nhiêu... anh giảm giá tí..." thằng kia phán phân để lâu nó thế chứ muốn rắn thì vào trong...." bọn tớ khóc ko thành tiếng, cười ko ra hơi... thế là vào xúc, (cái mùi của tụi bò này, công nhận là khá nhất trong các loại phân, với lại có nguyên tắc ngửi hoài riết ko ngửi mùi được nữa...
Thế là lúc đầu cũng nhẹ nhàng, né tránh nó văng vào người, nhưng xong rồi thì chơi tay, rồi dính cũng kệ mịa.... và khi lên xe trở về, các bác biết ko ... chúng tớ đã chơi trò chọi tuyết..... lý do là.. lúc ấy xe đầy phân rồi.. đứng lên nó nhũn xuống và có thằng té, thằng này kéo thằng kia... và thằng nào ko dính thì bi chúng tớ vo phân lại và chọi vào.... lạy hồn... có thằng dính vào miệng thì phải tớ được đại đội trưởng bảo kê nên dính 1 tẹo... nhưng về tới nơi thì chả thằng nào dám đứng gần trong 10m cả... chúng nó bảo đám tớ thối quá... Thề là tớ ko ngửi được gì.hahaha ôi cái thảm cảnh ấy nó cười ra nước mắt các bác ạ
--------------------------------------------
Cái chuyện lãnh lương hay còn gọi là lãnh trợ cấp.... lúc đầu nghe chúng tớ được hưởng mức lương căn bản của nhà nước theo hạn ngạch, mình nghe khoái lắm... coi ra cũng được 500k hơn/1ng/1tháng mà .. but lúc kí nhận tiền...nhìn có nhầm ko ??? còn 80k + và sẽ lãnh vậy lãnh luôn trừ khi được thăng quân hàm.... nhìn cái bảng nó trừ tiền.... choáng... các bác biết ko, nó trừ tiền ăn, tiền uống, tiền mùng, chăn, chiếu gối, tức là hoàn toàn chúng ta ko free !!! nothing free !!! thế là ấm ức toàn tập.... bắt đầu lâm vào cảnh thiếu nợ... và ăn thiếu canteen.... và chúng tớ bắt đầu thành con nợ của xã hội khi xin tiền và mượn tiền liên tục, ăn mày của quốc gia khi thấy bất cứ gì cũng ngon miễn là ko phải đồ ăn của lính... cứ người nhà đem đồ an lên thì share, còn ko quay qua quay lại thì của riêng thành của chung
---------------------------------------------
Toàn nam với nam ở ko mà.... cứ đến CN, gái gú nó lên thăm , các anh em nhà ta cứ tranh thủ.... lúc ấy trại lính thành camping, các bác nghĩ ban đầu nó nghiêm túc bao nhiêu thì Chủ Nhật nó messing bấy nhiêu, nào là căng võng, nào là ôm ấp, hú hí, rồi lại còn thịt quay, bánh kem, heo sữa.... tội nghiệp nhất là các đồng chí ở xa, ko có nhà lên thăm, đành chờ chiều về vui vẻ với các anh em... Đêm gác, 1 ca 2 tiếng, gái Củ chi nó mò vào tận phòng, thằng gác giả điên gặp thằng muốn lại nhiệt tình, thế là bóng đêm tội ác, mà phải con nào nó đẹp mình cũng ko nói, toàn là ma sống, mà tớ lộn con ma với con ma người 2 lần nhé. Đang đêm gác, 1 tiếng hú thất thanh khủng khiếp vang lên trong phòng, chúng tớ bật đầu dậy, thấy thằng tiểu đội trưởng nó xanh mặt: hỏi sao, bảo nó gặp con ma mặt xanh, áo trắng loàng nhoàng bước qua mặt nhìn nó, cực kì ghê.... tớ hơi ớn.... chúng nó tắt đèn ngủ tiếp, và tớ đang gác, đang phê phê thì có cái mùi... rất lạ.... đíu mịa.. đằng sau ớn lạnh.... mở mắt to và quay lại.... ối * & #* & #* & # dm MAAAA !!! ..sẵn cây ba trắc trên tay, tớ đek la tiếng nào, phang luôn, bụng bảo dạ: thôi tớ đi đây, các cậu ở lại mạnh khỏe... chết thì chết đứng đek chết nằm....móa phan nghe cái bộp... vào vai... nó chỉ ứ ứ trong miệng. lấy chân tính đạp tiếp mà nghe nó nói nhỏ: Em đây anh, em vào chiều các anh mà, tha em đi (nó tưởng tớ là vệ binh...) em cho miễn phí nhà.... ôi Dis, biến , biến ngay, nó chạy thục mạng các bác ạ...
Và 1 lần nữa sau lần đó, tớ gặp thật... mình cũng lại tưởng là con khốn nạn nào đấy mò vào phòng. Lúc ấy có cái sào đồ phơi sau nhà, ao thun trắng toát ra phơi 1 tràng dài, tớ đang đứng phịa phịa với thằng gác (thằng này trước khi phịa, cũng xem mình bị đập, đang đứng thì vổ vai sau lưng, mà nó đen thui, đúng hàm răng trắng nhách..) lúc ấy thấy sau lưng có 1 cái bóng trắng lướt qua nhanh lắm, tớ liên tưởng con mẹ kia... rồi lại cười cười nói... tí ra đứng đái... lạy chúa nó đứng trên vách tường (kể lại vẫn lạnh...) mà ko có chân...phiêu diêu và tóc phủ hết mặt.... tớ đứng hình và nó di chuyển dọc hành lanh, và tới đúng giường thằng đội trưởng bữa la thất thanh ấy và..... AAAAAAAAAAAAAAAA đíu mịa, thằng ấy nó la cả trung đoàn tưởng bảo động cấp 1, đèn bật sáng khắp nơi.... rồi lại hỏi thăm nó lại kể... tớ thấy và biết đúng rồi..... sau này hỏi thằng ấy tại sao mày gặp ma hoài thế...nó bảo là nó yếu bóng vía nhất và thường xuyên hay gặp... lúc sau thấy nó đeo bùa mới đỡ la lối om sòm....
---------------------------------------------------------
Tớ là người biết nhiều và rất rảnh vì tớ là cò sỹ quan (trợ lý liên lạc cho oai), nhiệm vụ chính của tớ là nấu ăn và viết giáo án... sáng sớm xuống bếp lấy thịt.... và tớ biết bọn nấu ăn cứ cuối tuần là ăn heo sữa non.... chúng nó chia tớ ít, bọn ấy cũng đểu... heo con ấy chúng nó đập đầu xong đem lên tiểu đoàn trưởng khai là té hố chấn thương sọ não chết... và có 1 lần... cứ tuần nào cũng ăn mà... ông điên tiết bảo cái hố nào mà cứ chết heo hoài thế..cúng đi... chúng nó lén lút bảo nhau đào 1 cái hố sâu chừng 2m (siêng thật) và để cục đá ở dưới... thế là ra kiểm tra...ông gật gù.. bảo uh, sâu thế té chấn thương sọ não cũng đúng..rồi ổng quát lên.. dm chúng mày ko biết lấp à.... cả đám dạ dạ.... but tuần sau có món mới... heo con chết đuối... giời ạ... tớ nói các bác nghe... dí con heo con là ca 1 vấn đề.... cả đám 5 thằng dí phê đít mới bắt nó được, bắt xong đem con ta ngâm nước rồi trình báo chết đuối.... cơ mà, thịt heo con chết kiểu nào cũng ngon lắm các bác ạ... dòn rụm... nhai luôn cả xương cơ mà
Cái món kế tiếp là *ồn heo.... xin thưa chính xác là cái từ các bác nghĩ trong đầu.... chế biến rất cựcứt. làm sạch lông, làm từ sáp, tách lông bằng bản chải, keo, các loại, sau đó chế nước muối, iot, và các chât tẩy rửa các loại... sau đó thái nhỏ và kho lên...rất ngon, ăn sựt sựt, ngọt ngọt, mặn mặn...nó ứa ra từ trong thịt đấy.. món *ồn heo ấy phải cả mấy tháng mới ăn 1 lần... vì chỉ có con heo nái nó mới có, và trọng lượng phải trăm ký, trải qua mấy chục lần giao hợp và sinh sản mới ngon... và khó nhất là lý do chết các bác ạ... chấn thương hay chết đuối với con đỹ heo nái này ko dễ , nó như con hà mã mà .. nên chỉ khi nào tự nhiên chết mới có món đó thôi !
--------------------------------------------------------------
Về mấy cái vụ tạo tạo phản trong army này thì nhiều cái hài đek chịu được. Làm quân lính đâu được nửa năm thì bắt đầu cái trò trốn ra ngoài uống cafe và chơi xếp hình. Có cái hào khoảng 4m, có lúc nó cạn nước tới mắt cá, có lúc nó tới ngực, kinh 1 chuyện là có khúc nó có đỉa, khúc không có, lục bình với rau muống đầy... và có đám vệ binh nữa... chúng nó như hung thần lúc ẩn, lúc hiện vậy, nhưng mà đã học lăn lê bò trườn thì ngại gì khó khăn, thế là cả đám rủ nhau trốn... chia ra 2 cánh sau đó hẹn tập trung quán cafe đối diện, thực tập đúng bài đội hình chiến thuật phân tán nhỏ lẻ đánh đặc công nhá... vừa ra tới bờ kênh, bỗng nghe bên kia có tiếng la: "Có thằng trốn, đứng lại.... "
Teo rồi, mình ko tham gia cánh kia, may quá.... bên nay đám tớ vì tiếng gọi của tự do, băng qua luôn, nước tới eo.... qua bên kia, thay quần... Thề với các bác chúng tớ cởi quần tự nhiên giữa đám dân cư, mà lúc ấy cũng đêm rồi, ko sao cả.... tớ thấy.... lúc ấy tớ thấy 1 con gì dài dài ngay bắp chuối... điếng hồn... dis mịa. "Dính đỉa rồi", tớ la ý ối, đám nó kéo lại và ngồi rút ra, máu chảy tè le cả, nhưng của con đỉa, ko phải máu của tớ... ôi cảm giác kinh hãi...
Lúc ấy tớ đang ngồi nhá.. ngước mặt dòm lên đúng tầm mắt ngay cái cái thằng kia... lúc ấy cả đám đang thay đồ mà, tớ thấy nó đứng hình...ôi mẹ... đỉa bám vào xung quanh trym nó chắc phải 4 -5 con... ôi nó phình cực lẹ.... thằng ấy ko la được tiếng nào, bọn tớ chạy tới ngồi rút ra... máu chảy tè le... nó chỉ nói 1 câu cuối cùng là: "tao có thể sinh con được nữa ko..." mà cảnh ấy nó hài và rùng rợn nhất trần đời... máu nó chảy ròng ròng... mà nó cứ khóc và ôm chym... ôi cái sự ăn chơi......
1 lần cũng thế, vượt kênh, đéo hiểu thế nào lũ vệ binh nó đứng canh bên kia, ko đứng bên này nữa, mà cũng đek bắt lúc qua nữa, mà chúng nó xuất hiện đúng lúc bọn tớ thay quần...haha thằng cu kia có kịp kéo quần đâu, bỏ chạy với cái underwear, tục ko chịu được, thế là đám vệ binh gom quần bỏ về... nó nửa khóc, nửa cười ... thế là ngồi trong bụi rậm, đợi bọn tớ ra chợ mua quần... lúc ấy mấy con bán cafe xung quanh cứ rú sung sướng như được tiền vậy...
---------------------------------------------------------------
Nói về nhậu chiến sỹ VN này ko thua quân nước nào cả, tớ ko biết nhậu nhưng làm mồi nhậu thì ko thua, (ko làm được thì sỹ quan nó la như con nó vậy). Nhưng vui cái là, khi chưa nhậu chúng tớ là đồng chí, mà nhậu vào rồi chúng tớ và sỹ quan coi nhau như con vậy... Sỹ quan nhậu xong, đứa đi ngủ, đứa thì ra sinh hoạt (mà nó nói như cái máy, nói đúng 1 đoạn tới lui, còn hơn bật băng học tiếng anh nữa) còn ko thì các bác ấy đau đầu ko ngủ được thì tập báo động (thật là 3D) cứ hoét hoét vài lần trong đêm, bắt chúng tớ ra xếp hàng rồi lại giải tán...
Còn quân lính nhậu thì thật hãi hùng, tớ nhớ 1 lần, thằng tiểu đội trưởng nó nhậu xong, lè nhè lên phòng sỹ quan (đéo mịa, thằng này bản lĩnh các bác à, nhậu xong dân tình nó trốn hết, thằng này lên kiếm sỹ quan nói chuyện...) thằng sỹ quan quân sự sau khi nghe kể lể táng bạt tay 1 phát nháng lửa... thằng lính lui ra, lầm bầm, xong tớ với thằng sỹ quan đi tắm (tắm ở quân đội là tắm công cộng với cái bồn nước tập thể) lúc ấy khoảng 6h rồi, còn tớ với thằng sỹ quan tắm, đang tán phét, tớ thấy thằng lính hồi nãy đi tới, mặt đầy sát khí, tớ lại đứng trước sỹ quan nữa, vửa thấy nó vung tay lên, đéo mịa, CLGT này? nguyên 1 con mã tấu phang thẳng vào đầu sỹ quan, tớ đứng trước, lách qua 1 bên, thằng sỹ quan lui về, 1 phat tóe lửa ngay thành bồn nước, lúc ấy tớ sợ teo các bác ạ, phi mẹ vào bồn nước (thú thật nhảy vào cũng xón ra 1 ít...) thằng sỹ quan dân lục quân mà, nó chờ chém nhát thứ 2 hụt tiếp, bay vào bẻ tay và quật ngã nó xuổng sau đó trói nó lại bằng cái áo (ôi thần tượng của đời em lúc ấy ^.^) sau đó giải vào nhà, tớ lao ngay ra ngoai mặc đồ....
Lúc sau đấy có vài anh em vào tắm... múc nước trong cái bể ấy, ngửa đầu xối vào mặt - tớ nhớ lại cái cảnh xón ra ngoài trong bồn - im lặng ko nói câu nào nữa (ngu mà nói ra, nó bắt xúc cái bồn tắm tập thể thì ngu toàn tập....) Rồi bác lính ấy bị giam đúng 1 tháng trong lao... Ôi tớ vẫn còn khâm phục anh ấy đây này... Rượu có thể làm tất cả nhở....
----------------------------------------------------------
Trong cái trại tớ có 1 cái trại tập bắn đạn thật, ngày mà chúng tớ vác súng ra ngoài thi bắn bia.. ôi cái trường tập bắn rộng mênh mông, hùng vĩ lắm.... chúng tớ nằm bắn và cách đó khoảng 500 - 800m gì đó là cái vách đất cao chừng 50 - 100m gì đó, và cái bia để trên đó... lúc mà tớ nheo mắt lại thấy cái bia trùng với cái đầu ruồi..... mịa nhắm kiểu gì nữa.... lúc ấy có thằng bạn tớ lên bắn trước, thằng này nó bị quáng gà mà, tớ bảo thôi thì bắn hú họa ko chết thằng nào là được rồi.... nó phang 1 phát PAANG , tớ thấy bốc khói trên cái cây (bia thì tuốt dưới đất...) phát thứ 2 cũng thế, phát thứ 3 thì rõ ràng thấy nòng súng nó chĩa lên trời (sau này tớ biết phát đấy làm bị thương con bò ngoài Củ chi - đền đâu mất 1t đấy -) Tớ bảo thôi rồi đại đội mình an phân thật rồi, quân ta bắn chym hay quá... tại vì đang thi đua mà....Ôi mà đíu mịa, thằng vệ binh báo bia nói : 9 - 9 -10 , và cứ thế 8 -9 - 10, 10 -10 -9, v..v.... tới phiên tớ bắn: cam đoan các bác, tớ kiểm chứng thế nào, tớ phang đủ 3 phát vào cái nhà vệ binh đấy (cách bia 100m) và..... 10 - 10 -10....ôi vãi lolz.... đại đội tớ hạng nhất huấn luyện ngắm AK các bác ạ.... (1 triệu được chi ra cho vệ binh báo bia sau này) hahahahaah
-------------------------------------------------
Về cái vụ tăng gia thì thằng anh họ em nó đi xong về nó kể nghe mà cười chảy cả nước mắt. Số là thế này: " Đến kỳ cuối tháng đội của lão ấy được giao chỉ tiêu là 1 ngày phải hốt bao nhiêu kg phân để tăng gia, ngày nào hốt ko đủ thì đêm đó ra canh mà hốt cho đủ, và ko chỉ đội lão ấy mà 3-4 đội khác trong trại cũng thế. Mà sức người thì có hạng, có ngần ấy thằng mà chỉ tiêu được giao thiếu điều gấp 3 lần số lượng các anh ấy có thể sản xuất, thế là lần đầu tiên trong đời lão anh họ em mới thấy có chuyện cướp phân, mà ở đây là cướp tại chỗ luôn ấy.
Các bác cứ tưởng tượng cái cảnh các bác đang ở trên và đang "thả hồn vào gió" thì ở dưới 3-4 bố trẻ đứng chờ lấp ló vời ngần ấy xẻng và xúc với ánh mắt đầy thèm muốn lẫn khao khát". Lão ấy còn kể cái chuyện tiểu đội lão có lần đi cướp được hơn 3 bao phân bò của bọn tiểu đội khác mà nghe y như phim 007 ấy,
-----------------------------------------------------
Chưa đi nghĩa vụ, nhưng cũng ăn tập 1 tháng QS rồi. Nói chung là sướng hơn các chú kể ở trên. Vs đa số bọn mình thì nhẹ nhàng nhưng với mấy cô cậu tiểu thư thì...
Cạnh giường mình có 1 thằng quý tử lười vô đối. Sáng dậy với nó là cực hình. 5h kẻng nó đéo dậy, hôm thì thoát hôm thì ông chỉ huy vào tận phòng cầm gậy vụt. Ăn sáng thì nó đéo ăn ở nhà ăn đâu, tàn ra ngoài làm 2 tô bún bò thôi hôm vào ông ấy điểm danh muộn lại ăn vài đạp nữa.
Hôm thì học chính trị nó buồn ngủ nên chuồn về phòng, vừa bật điện thoại nghe nhạc vừa ngủ, lúc dậy thì mất mẹ nó điện thoại rồi, mặt nó lúc đấy chuối lắm các bác ạ. Cuối buổi mới biết ông chỉ huy làm (thế mà lúc giảng bài mặt vẫn lạnh như tiền), làm cả lũ phen nháo nhác, thằng này nghi thằng nọ.
------------------------------------------------------
Đi bộ đội rất nà vui, khuyến cáo ae đi cho biết
Một lần bọn binh nhất được giao xuống phụ bếp nấu ăn bưng bê các thể loại, bọn tân binh lần đầu lóng ngóng quá chạy bở hơi tai mà vẫn không kịp cả trăm cái tàu há mồm. Cuối giờ tới lúc các cu ấy tụ tập lại ăn thì ...hết sạch, cơm khê cũng chẳng còn. Đói quá vác mỏ xuống nhà bếp lục lọi, rất kỳ diệu là vẫn còn sót lại 1 ít cơm cháy trong mấy cái nồi. Cả bọn ùa vào như heo, mà cái thứ ấy ngon thật, bẻ từng miếng ra chấm với nước tương hoặc nước xào thịt còn sót lại thì dất nà tuyệt.
Đang ngon mỏ thì chỉ huy xuống: Các anh làm gì đấy - Dạ....
Chỉ Huy: Ai cho các anh ăn cái này hả - Có biết đó là suất đặc biệt cho các chiến sĩ heo ko?
Cả bọn ngớ ra vì chỉ huy đùa chả vui gì cả, nhưng thật tệ là ông ấy đéo đùa.
Chiều lại người ta thấy có một lũ trẻ măng đi ra chuồng lợn đứng xếp hàng miệng luôn mồm đọc: Xin lỗi các đồng chí heo vì đã tranh mất phần ăn của các đồng chí, xin lỗi các đồng chí....
Chuyện này được thằng em họ kể,hôm nằm ngủ với nó! nó mới về được tầm 3 tháng,giờ đang làm công nhà mình :
Nó kể hồi còn trong quân ngũ,phải đi hành quân hết từ tỉnh này sang tỉnh khác,núi này sang núi khác ! Trên vai thì khoác gạch để rèn luyện sức khỏe ! Đi nhiều thì đau chân,thi thoảng hành quân qua thị trấn nào đấy,gặp cửa hàng tạp hóa là tranh nhau lao vào ! Để mua gì các bác biết k ... mua "U GÂU" các bác ạ !
Mấy con mẹ bán hàng tưởng mấy thằng bộ đội tổ sư đùa,vác chổi ra chửi đuổi. Sau rồi giải thích mãi rằng thì là mà,hành quân núi xa,đường đá,toàn thâm tím chân cả,nên bác nào cũng thủ trong balô 1-2 bịch "4 ten" để .. đệm chân ! Thành ra đường hành quân rải rác toàn u-gâu siêu lớn ! !
-----------------------------------------------------------
Điệp vụ cứt bò.
Sau 1 thời gian các bác bụng to ở trên phát động tháng thi đua tăng gia sản xuất trong hàng ngũ các chiến sĩ trẻ nhưng lại bắt buộc là phải tăng gia = phân người, từ đó làm cho trong toàn quân bắt đầu xuất hiện trường hợp "túng quá hóa liều" của anh em binh lính, cụ thể như 1 số tiểu đội lập trạm gác ngay tại hố của tiểu đội mình cả ngày lẫn đêm đề phòng "cướp giật" mà quên của nhiện vụ canh gác hoặc 1 số chiến sĩ cố tình trộm cơm tại nhà ăn để về ăn khuya nhằm có sức mà "sản xuất" tăng gia gây thất thoát quân lương.
Do đó các bác ở trên quyết định nới lỏng cho anh em dễ sống bằng cách giảm quota phân người cho các tiểu đội, nhưng bắt phải bù bằng phân bò nhằm đáp ứng chỉ tiêu cho tháng phát động "toàn quân tăng gia sản xuất".
Từ đấy phát sinh ra 1 thực tế còn nghiệt ngã hơn trước đây: Doanh trại có đúng 5 con bò cho lính nuôi mà bắt toàn doanh kiếm hơn 3 tấn phân, thế là lão anh em vì quá bất bình đã quát khi nghe thông báo "D.M mấy thằng hâm", kết cục là đêm đó anh được đặc cách đứng quạt muỗi cho các "đồng chí heo" .
Anh em trong trại bắt đầu lo sốt vó, "đêm quên ăn - ngày mất ngủ - tối bật dậy lạnh toát cả mồ hôi" vì deadline ngày càng gần mà bới cả cái doanh trại lên vẫn thiếu hơn cả tấn dù các chiến sĩ ta đã cố gắng sáng tạo bằng cách "cải tiến" phân người thành phân bò (cái cách cải tiến này nó hơi tởm nên em xin phép ko nêu ra ).
Thế nhưng "trong cái khó nó ló cái ngu", kế bên doanh trại quân đội là trại chăn nuôi của quân khu, đừng nói gì phân bò, phân ruồi cũng đủ đè chết cả doanh trại, thế nhưng bi kịch ở chỗ lính của 2 trại vốn đéo ưa nhau cho lắm nên 1 bịch cứt cũng đéo có chứ đừng nói gì đến cả tấn . Bị dồn đến bước đường cùng, thế là tiểu đội của thằng anh em lên kế hoạch sẽ bí mật tiếp cận và tước đoạt 3 bao phân bò bên ấy để hoành thành chỉ tiêu trên đề ra và đặt tên cho chiến dịch ấy là "Mật vụ cứt Bò".
Tối hôm ấy là đến phiên tiểu đội lão ấy trực, ngay khi đồng hồ điểm 12h đêm thì 3 thằng đang nằm trên giường đồng loạt bật dậy đi tè, lẻn ra khỏi cửa doanh trại với sự thông đồng của 2 thằng đang gác. Qua một hàng kẽm gai để tiếp cận đến tường của khu chăn nuôi, các anh áp dụng kỹ thuật mà nói nôm na là "thằng này đạp lên đầu thằng kia" để trèo qua tường rào cao hơn 2m.
Cũng hên là hôm ấy trại nuôi bò không có thằng nào canh gác. Thế là mỗi thằng 1 cái bao tải, 3 anh lao vào chuồng bò hốt lấy hốt để, chỉ 5 ph sau thì 3 bao phân, mỗi bao 50 cân đã căng tràn, lúc này bắt đầu có tiếng 1 anh xì xầm: "D.M, thế đek nào mà 3 thằng vác 3 bao tải cứt mà nhảy qua tường chắn bây giờ, đã thế vác cái bao to như cái nhà thì chui thế ch. nào qua được rào, còn lủi ra cửa chính để gác tụi nó thấy chắc cả lũ đi ăn cứt thay cơm quá". Thì ra các anh não khá nhẵn, nghĩ cách để vào nhưng đéo có tính đường rút nên mới ra cớ sự này .
Nhưng trời không tiệt đường người, may mắn cho các bố trẻ là bên phải chuồng bò là khu rừng tạp cung cấp củi cho toàn khu, nghiệt cái là phải băng ngang qua 1 cái chòi canh gần đấy thì mới lủi ra rừng được. Thế là lão anh em do kinh nghiệm xem phim chưởng 3 xu của Tàu vô cùng phong phú, quyết định áp dụng chiến thuật "Dương đông kích tây" thành phiên bản VN là "Chọi cứt bò đánh lạc hướng" nhằm thoát thân. Nghĩ là làm, mỗi anh thủ 1 quả cứt khô chọi thẳng vào mái tôn của tụi lính chăn nuôi gần đó, báo hại gác nó tưởng cái giống gì nó đập kẻng báo động toàn trại. Rồi lợi dụng tình hình rối ren, 3 anh hùng của chúng ta với 3 bao tải cứt bò phi thằng vào rừng rồi trèo đèo lội suối đánh 1 vòng lủi về trại của mình, về được đến nơi thì là gần 4h sáng, cất 3 túi cứt vào kho, các anh nằm thẳng cẳng ra ngủ bất chấp quần áo lẫn mặt mũi toàn cứt .
Chiến dịch thành công mỹ mãn và do tiểu đội anh là tiểu đội duy nhất hoàn thành chỉ tiêu nên được thưởng 5 ngày phép bất chấp lão C trưởng luôn miệng thắc mắc: "Thế chó nào mà chúng nó kiếm hơn tạ cứt từ 5 con bò chỉ trong 1 đêm nhỉ?" :-).
---------------------------------------------
Còn vụ này nữa: phải đi kiếm củi, muốn nhanh thì trèo lên cây đạp cành kiếm cho nhanh, có thằng tụt xuống thế đéo nào lại bị cành cây đâm vào súng gần lòi cả bi =) bệnh xá thì có 2 chị y tá trẻ, thế là 1 chị cầm cho 1 chị khâu
Bạn em đi Gia Định, tiểu đoàn 2 đóng ở chỗ nghĩa trang lính ngụy cũ ấy. Nó kể một chuyện mà không biết thật hay không. Một lần cả đám nhậu đêm, không mở đèn, rượu thì để trong chẩu bày giữa, mồi miếc xung quanh. Nhậu một lúc ngà ngà thì làm vỡ mất cái ca múc, kêu một thằng ra kiếm cái khác. Nó ra một lúc sau mang một cái gáo vào. cả đám nhậu tiếp rồi đi ngủ. Sáng ra, thấy giữa thau rượu đã cạn là cái ca múc nước tiểu, phân để tưới cây. Ói ra mật xanh mật vàng luôn.
Một thằng khác nữa cũng nghĩa vụ nhưng vào đặc công. Nó kể sếp của tụi nó có con nhỏ bị suyễn, nghe nói ăn mật mèo chữa được nên nhờ lính tìm mua một con lấy mật. Hôm sau lính đưa lên 1 túi mật, mang về thì lại không dùng được do đã bị vỡ. Chỉ huy nhờ tìm cái khác, lính lại đưa lên ngay, chỉ huy ngạc nhiên "mèo đâu mà sẵn vậy, cấm bắt mèo của dân đấy" "Dạ không, mèo này đi lạc vào đơn vị ạ". Chỉ huy ngạc nhiên lắm, sao chó mèo đi đâu không đi mà lạc vào đơn vị hoài.
Mãi sau theo dõi mới phát hiện, lính áp dụng bài học, lỉnh ra ngoài tóm mèo, chó rồi ném vào doanh trại, ở trong này lính danh chính ngôn thuận "này, chó mèo lạc nhé" thế là thịt. Đơn vị đóng gần một kho container, ở đó có chó berger. Thế mà lính đặc công mò qua, hạ gục chó một cách êm thấm, vác qua thả vào doanh trại sau đó... Có điều chê berger không ngon. Rồi còn có màn lính đặc công ra quán, đánh nhau với dân. Về chỉ huy phạt giam 1 tuần xong hỏi "thế thắng hay thua".Thắng thì thôi, thua thì thêm 1 tuần nữa "đặc công mà đánh nhau thua à, Phạt!."
Các bạn đi lính thường thấy thế đã cực. Trinh sát, đặc công còn kinh hơn. Bốc phân xi nhê gì, ngân mình trong phân 12g đồng hồ đến nỗi thấy phân cũng thơm thơm Không tập thì chả lẽ sau này bò vào căn cứ địch trúng hố xí bèn bịt mũi chạy! Bạn mình nói tập riết mới phát hiện so với bùn thì cứt chả là gì, cứt chỉ thối một lúc đầu chứ bùn sục vào rồi nó bốc mùi còn kinh hơn cứt.
Bữa ăn công nhân thời bão giá
Suốt ngày quần quật. Rời nhà máy là họ lại bị cuốn ngày vào vòng xoáy cơm – áo – gạo – tiền với đủ thứ chi tiêu vụn vặt. Ngày áp Tết đến gần phòng trọ mới chỉ tăng giá lên thêm 100 nghìn đồng đã làm bao người công nhân lao đao. Mới chỉ gánh một phần hệ quả của “ bão giá” như vậy, bữa ăn hàng ngày của họ như thiếu hắn món cá thịt cần thiết để bổ sung, quay vòng sức lao động…
Thăm “khách sạn” công nhân
So với các khu công nghiệp xung quanh nội thành Hà Nội thì xã Kim Chung, huyện Đông Anh vẫn được ví là “khách sạn” công nhân bởi vị trí thuận tiện về giao thông hơn cả. Với nhiều người Hà Nội, khu vực trực giao thông gần đường Bắc Thăng Long – Nội Bài ngay sát cầu Thăng Long bắc qua sống Hồng nên chỉ cần ngày nghỉ công nhân bước ra đường cái lên xe buýt đánh một giấc ngủ là có thể thênh thang dạo chơi Bờ Hồ xem cụ rùa nổi và thăm đi ăn kem Tràng Tiền Plaza… đang là lý tưởng về sự thuận tiện đi lại. Nhưng nói là thế thôi chứ ngay ước mơ giản dị được nghỉ ngơi ngaỳ cuối tuần cùng bạn bè vi vu thăm thú Thủ đô như trên đối với nhiều người công nhân vẫn chỉ là mơ ước.
Đơn cử một điều, mấy năm trước giá thuê phòng ở Kim Chung chỉ dừng lại 400 nghìn đồng/ tháng mà phòng nào phòng nấy cũng đã phải ở gom ít nhất 2 - 3 người mới đủ cưu mang nhau rồi. Trong vòng một tuần nay, mới tiệm cận Tết ngay cả những chủ phòng trọ dễ tính nhất ở Kim Chung cũng đã bảo nhau đồng loạt lên giá 500 nghìn/phòng/tháng đã khiến bữa ăn của người công nhân thiếu đi nhiều chất đạm cần thiết.
Ninh Thị Hoa, quê Đông Thọ, Sơn Dương, Tuyên Quang chia sẻ, “mới vào làm ở công ty Nisei được 7 tháng, mức lương 1,7 triệu. Ngoài ăn uống, điện, nước và tiền nhà, trước còn gửi về cho mẹ được 3- 400 nghìn đồng, nhưng nay tiền nhà "đội" lên 100 nữa, cộng thêm giá cả các mặt hàng tăng nên số tiền kiếm được chỉ đủ chi tiêu cá nhân.” Còn rất nhiều người có hoàn cảnh như cô công nhân Ninh Thị Hoa, họ đang dài cổ đợi tiền thưởng Tết, để mua mấy hộp mứt tết về quê... chứ đừng mong có những bữa ngon mỗi ngày đầy đủ cá thịt hàng ngày.
Khu nhà trọ truyền thống của công nhân giống hệt nhau vì cùng chung cảnh nghèo. Các dãy nhà lợp mái Proxi măng tuềnh toàng, trống hoác và thiếu hơi thở cuộc sống san sát nhau chật chội, bức bối… Trong những dãy nhà như thế có cảm giác nhiều buổi chiều qua chóng vánh hơn. Căn phòng của 4 nữ công nhân ở Đội 7, thôn Bầu, xã Kim Chung chẳng có gì ngoài chiếc giường 2 nằm sóng ngang và hai ông đầu rau hiện đại tuyềnh toàng hiện hữu trong chiếc bếp ga du lịch chỏng chơ trong xó.
Đương nhiên trong căn phòng rộng hơn chục m2 ấy là ngột ngạt quần áo treo khắp phòng, mùi ẩm mốc... Đã mấy ngày rồi bận làm ca, chả bàn tay con gái nào rảnh dọn phòng để vương vãi trên mặt đất những sợi mỳ tôm còng queo từ bao giờ.
Hỏi về đời sống, Mai Lan quê ở xứ chè Thái nhìn chúng tôi với ánh mắt rất lạ. Dường như có nhiều kinh nghiệm khi trả lời với cánh báo chí Lan trả lời một lèo: “Lâu rồi cũng quen mà! mới lại, bọn em có ở nhà mấy đâu chỉ có đêm về mệt quá lăn ra ngủ tới sáng lại đi làm. Thường thường bọn em muốn có thêm chút lương thì phải đi làm thêm thì cuộc sống mới tạm ổn. Nhưng cũng chẳng sung sướng gì đi cả ngày có hôm về mất hết quần áo phơi từ hôm trước, do bọn nghiện hút vào lấy. Thế là cuối tháng lại mất thêm một khoản chi ngoài kế hoạch”.
Bữa ăn của Mai Lan và các bạn ngày cuối năm được tiếng là sang nhất xóm trọ vì có thêm món cổ cánh vịt kho mặn. Món này sẽ bổ sung nhiều vitamin hơn so với vài ngọn rau muống luộc và một ít đậu rán truyền thống. Nguyễn Thanh Hương một cô bạn cùng quê Thái Nguyên tâm sự: "Thường bữa ăn của bọn em chỉ có rau đậu là chính, một tuần tằn tiện cũng cố cải thiện được 2 – 3 bữa có thêm miếng thịt ngon. Nhưng so với ở quê nhà thì bố mẹ bọn em còn khổ hơn nhiều, mình như thế là hạnh phúc rồi chỉ có tiết kiệm thì cuối tháng mới dư được một hai trăm nghìn gửi về nhà”.
Có một nghịch lý ở Kim Chung và có lẽ cũng ở nhiều khu “khách sạn” công nhân khác đó là việc năm nào cũng gần như xảy ra tình trạng, không đồng tình với việc trả chậm lương và thưởng Tết một nhóm nhỏ công nhân lại rủ nhau bãi công trong vài ngày. Năm nay cũng vây. Nhưng khác ở chổ dù ấm ức vì không đồng tình với mức giá phòng trọ lên cao nhưng chả ngươi cong nhân nào dám bỏ khu nhà trọ đi nơi khác. Bởi nếu thắc mắc thì nghỉ thuê nhà, việc này đồng nghĩa với cảnh sống màn trời chiếu đất…
Công thức bữa ăn: đậu + rau
Cái rét tê tái những ngày áp Tết Tân Mão cũng không dịu được nỗi lo trong lòng người công nhân. Chẳng cần tới lửa ấm từ những cành củi vặt nhặt nhạnh trên đường để sưởi ấm nhưng cánh xe ôm và lái taxi người công nhân cũng thấy nóng trong người khi ngày Tết cận kề.
Dường như đồng lương ít ỏi của họ đã làm nóng từ trong công xưởng, nóng đến từng xóm trọ và lan ra cả ngòai chợ hiện hữu trong những lo toan. Cảnh chợ thời bão giá nhìn với vẻ đìu hiu đến ảm đạm. Phiên chợ Bầu xã Kim Chung, huyện Đông Anh những ngày áp Tết xem ra cũng chẳng khá khẩm so với ngày thường. Hàng hóa vẫn chỉ lèo téo vài thứ kẹo bánh rẻ tiền, quần áo có bầy ra nhiều hơn, giày dép cũng được trưng ra nhiều chủng lại nhưng chất lượng thì vẫn chỉ dành cho công nhân và sinh viên.
Nói đến bữa ăn hàng ngày, Hoa ở Thái Nguyên đang ở trong dẫy nhà trọ Đội 7 của anh Vãng chỉ cười lỏn lẻn: “cả tuần đậu, rau anh chị ạ! Hiếm hoi lắm mới dám cải thiện bữa thịt.” Mới 19 tuổi đầu sức Hoa không nói ra ai cũng biết cần bổ sung protein để duy trì sức khỏe làm việc với mức thế nào.
Chiều chưa xuống sau mái proximăng, vừa tan ca về chỉ một loáng, mâm cơm công nhân được biện ra ngay trên nền nhà trọ. Một bát canh trứng nấu cà chua, một đĩa đậu kho và một bát nước mắm. Thúy cùng quê với Hoa ấp úng: "Tạm bợ mãi rồi cũng thành quen, bữa cơm của chúng em chỉ có thế. Sáng mở mắt là vội đi làm, tối xẩm mặt người mới về được đến nhà. Nhiều khi mệt quá nên bọn em chỉ ăn mỳ tôm hay bát cháo rồi đi ngủ cho..lại sức" Cô lí nhí nói thêm: "Vả lại thu nhập như bọn em nếu không chi tiêu như vậy thì chỉ riêng chuyện tồn tại ở đây đã khó rồi chứ nói gì đến chuyện gửi tiền về quê".
Đằng sau những bữa ăn công nhân thời báo giá luôn là những chuyện tỉ mẩn, vụn vặn. Như việc, đã lên giá 5.000 đồng/của su hào ranh bằng nắm đấm, 7.000 - 8.000 đồng/kg cà chua gấp đôi so với dịp hè... 1 ngày đi chợ ít nhất cũng mất 50- 60.000 đồng, cứ nghĩ đến những chuyện quẩn quanh này người công nhân đã thấy nẫu cả ruột chứ đừng nói gì đến ước mơ những mùa Tết xênh xang "áo gấm" về quê
Những người "thoi thóp" trong bão giá
Trong "bão giá", người lao động dường như bị "kẹp" hai đầu: Một đằng họ đứng trước những nguy cơ thất nghiệp, bị cắt giảm lương… đằng kia là giá cả tiêu dùng cứ tăng liên tục.
Vật lộn trong “bão”
18 giờ, khu vực Kim Nỗ (huyện Đông Anh, Hà Nội) bắt đầu nhộn nhịp khi công nhân nhiều xưởng tại khu công nghiệp Bắc Thăng Long tan ca. Đều là những lao động từ tỉnh xa, đời sống công nhân vốn đã khó khăn, cơn bão giá “càn” tới khiến họ lại càng lao đao.
Vừa vội vã chuẩn bị bữa cơm tối, chị Nguyễn Thị Sầu (22 tuổi, Tuyên Quang) vừa tâm sự: “Trước đây em làm ở công ty HOYA, lương cơ bản chỉ 1.360.000đ/tháng cộng thêm phụ cấp, làm thêm mỗi tháng cũng được 2,2 triệu mà vẫn đủ ăn, đủ tiêu rồi còn gửi về nhà mỗi tháng đến 1 triệu phụ bố mẹ ở nhà nuôi thằng em đang học lớp 12. Bây giờ, em chuyển sang làm bên công ty Panasonic mỗi tháng thu nhập cũng lên 2,7 triệu, nhưng giá cả cái gì cũng tăng nên chi tiêu phải chắt bóp lắm may ra có tháng gửi về được 500 nghìn”.
Gương mặt đầy mệt mỏi, trở về nhà sau ca chiều (từ 8 giờ – 18 giờ), chị Quan Thị Hoài (25 tuổi, quê Bắc Giang) cũng thành thật chia sẻ: “Em mới vào công ty Canon làm được hơn 2 tháng nay. Học xong cao đẳng ra trường được gần 1 năm nhưng chưa xin được việc nên em lên đây xin làm công nhân tự trang trải cuộc sống rồi chờ xin việc tiếp. 2 tháng thử việc lương cũng chỉ được gần 2 triệu. Tính tiền thuê nhà, điện nước ở vùng ngoại ô cũng không quá đắt đỏ, nhưng đợt này giá cả lên chóng mặt, thành ra chật vật lắm mới đủ ăn”.
Ở cùng chị còn có một chị cùng quê cũng chỉ mới lên khu công nghiệp làm được gần 1 tháng. “2 chị em đều mới từ quê lên cũng cần sắm nhiều thứ đồ đạc, nhưng ăn tiêu đắt quá nên phải bảo nhau đợi qua đợt thử việc, chờ lương ổn định rồi sắm từ từ” – đôi mắt đượm buồn, chị nói thêm.
Sang khu bên cạnh, cả dãy trọ 10 phòng cũng chỉ toàn công nhân nữ. Người rục rịch chuẩn bị bữa tối, người sửa soạn để đi làm ca đêm… Thấy mấy chị em ngoài bể nước nói chuyện giá cả rau thịt, nhặt vội mớ rau muống, chị Vương Thu Hà (22 tuổi, quê Thạch Thất, Hà Nội) nói với ra: “Rau muống giờ cũng lên đến 4 – 5 nghìn/bó, thịt cá lên đã đành, bây giờ ăn rau tưởng “mát ruột” mà cũng “xót ruột” quá”.
Câu chuyện bỗng chùng xuống khi chị Hiền thông báo: “Hôm qua chủ nhà mới lên nhắc, từ tháng sau bắt đầu có nước máy, bình quân đầu người tiền nước sẽ tăng từ 20 nghìn lên 60 nghìn đấy, tiền điện tăng từ 1.500 lên 2.000. Rồi không biết tiền nhà có tăng lên nữa không?”. Quanh bể nước chỉ còn nghe thấy tiếng nước máy, tiếng vò quần áo chen vào cùng tiếng rửa bát đũa.
1h sáng, trên đường Xuân Thủy, quận Cầu Giấy, chị Phạm Thị Mỹ (48 tuổi, quê Hưng Yên) vẫn cần mẫn bên chiếc xe ngô nghi ngút bốc khói. Thỉnh thoảng mới có một hai khách vào mua, chị thở dài: “Hỏi tôi bão giá thì tôi cũng chẳng rõ bão giá nó là cái gì. Nhưng cứ nói đến giá cả tăng thì thấy sợ đến chóng mặt. Để hai đứa con ở nhà cùng ông bà, hai vợ chồng cùng lên đây đi bán ngô dạo, làm vất vả đến 1 – 2h sáng mỗi ngày cũng để ra được 100 nghìn. Nhưng giá tăng quá nên tính ra tháng này hai vợ chồng mỗi ngày cũng chỉ dành được 70 nghìn”.
Đẩy chiếc xe chỉ còn lại vài bắp ngô, ít sắn luộc, chị nói vội: “Mà có phải được ăn ngon gì đâu, như đêm nay về hai vợ chồng 10 nghìn thịt, bó rau cải 3 nghìn thế là xong bữa tối. Cả gia đình trông cả vào xe ngô dạo này nên cũng phải vật lộn lắm mới mong đủ trang trải cuộc sống hai vợ chồng trên này và 4 ông bà cháu ở dưới quê”.
Gò lưng đạp chiếc xe đẩy, bóng chị mờ dần trong ánh đèn đường vàng nhợt.
Sống chung với “bão”
Mới xin vào làm ở công ty SUNCALL được hơn 1 tuần sau khi nghỉ việc ở công ty HOYA về quê được 4 tháng, chị Phạm Thị Thu Phương (23 tuổi, quê Hòa Bình) thành thật: “Giá cả lên thì ở đâu cũng lên, ở quê cũng thế nhưng lên làm công nhân ăn uống sinh hoạt có đắt đỏ thì cũng vẫn hơn ở quê. Biết cách chi tiêu, chắt bóp thì vẫn có đồng ra đồng vào”.
Nhìn qua cả khu nhà trọ của các chị em công nhân, hầu như phòng nào cũng có hộp muối lạc, ít cá tôm khô. Các chị bảo: “Làm như thế cho tiết kiệm, công nhân nhà xa, ít về nhà cũng chẳng mang đồ lên được nên phải nghĩ cách mà tự tiết kiệm chứ biết làm thế nào”.
Còn với sinh viên đi học xa nhà, phương án sống chung với “bão” là ‘tiếp tế” từ quê lên. “Trước đây, mỗi lần về quê em chỉ lấy gạo lên là đủ, bây giờ có khi lấy cả rau, mì, cá khô…mỗi đồ mang một ít. Ở nhà, giá cả cũng rẻ hơn, mang lên ăn cho đỡ xót ruột” - Đỗ Thị Thủy (ĐH Hòa Bình) bật mí.
Thủy cũng kể thêm: “Để tiết kiệm triệt để, sinh viên chúng em còn dự trữ mì tôm nữa. Đây vẫn là “chiêu” siêu tiết kiệm quen thuộc, thời bão giá nó lại càng là “độc chiêu”. Thịt, cá thì cả tuần chắc được một bữa gọi là để cải thiện. Thế mà hai tháng nay, tháng nào chúng em cũng... lạm phát”.
Ngồi bên quán nước cạnh cổng Bệnh viện Xanh – pôn, mấy bác xe ôm cũng rôm rả chuyện giá cả thị trường. “Giá cả lên vùn vụt, mớ rau con cá lên, đến cốc trà đá cũng lên. Cả ngày phơi mặt ngoài đường cũng phải tiết kiệm từ cốc nước uống” – bác Tiến (Hà Nam) nói.
Vừa dựng chiếc xe, cầm vội chén nước chè nóng, bác Vinh thở dài: “Vất vả cả năm chẳng biết có dành dụm mua được 1 chỉ vàng, cả đời chắc chẳng bao giờ được đổi đến tiền đô. Thế mà nghe vàng lên, đô lên rồi bão giá cũng không hiểu gì, chỉ thấy cuộc sống giờ lại càng thêm khó khăn, nhất là với những người lao động thu nhập thấp”.
Sinh viên “kháng chiến trường kỳ” chống bão giá
Giá cả tăng vùn vụt, với túi tiền eo hẹp, đời sống sinh viên ngày càng khó khăn vất vả... Có biết bao câu chuyện dở khóc dở cười từ bữa ăn của sinh viên thời "bão giá".
Cơm hai màu - cơm ba màu…
Sáng ra đi chợ hoặc đến bữa đặt chân vào quán cơm bụi, nhiều sinh viên không khỏi ngán ngẩm. Giữa thời "bão giá" hoành hành, chuyện thu vén sao cho mức chi tiêu không “vượt ngưỡng” khả năng tài chính của bản thân quả thực không hề đơn giản.
“Cứ đến bữa, hai đứa mình lại đùa nhau, hôm nay ăn cơm hai màu hay ba màu? Hai màu là cơm, rau, đậu. Ba màu là cơm, rau, trứng… Cũng có hôm có thịt, cá, nhưng mà… tần suất ít lắm”- Hồng Minh, SV ĐH Công đoàn cho hay.
“Mỗi tháng, bố mẹ ở quê gửi cho bảy- tám trăm ngàn, mình đi gia sư cũng được tám trăm đến một triệu. Vậy mà vẫn phải loay hoay tính toán… Cũng vì năm thứ 4 rồi, có rất nhiều khoản cần phải chi tiêu, chẳng biết cắt giảm khoản nào, đành “lạm” vào tiền ăn. Mà đồ ăn thức uống cứ tăng vùn vụt!” - Hồng Minh than thở.
Nếu như trước kia, với 20 ngàn đồng, Minh và bạn có thể thu xếp được một bữa ăn khá tươm tất, có khi lại cả hoa quả, thì bây giờ cả hanh đành chịu!
Cũng một nỗi bức xúc với thực trạng giá cả tăng chóng mặt, Thanh Hằng - ĐH Sư phạm cho biết: “Thịt cũng đã lên 8 nghìn một lạng. Ngay như trứng cũng tăng giá từ 3 đến 3 nghìn rưỡi một quả, mớ rau ngày xưa 2 nghìn, giờ cũng lên 3 nghìn. Bắp cải chỉ có 6 nghìn đồng/kg, giờ đã tăng lên 10 nghìn đồng, thậm chí có nơi còn bán 12 nghìn đồng/kg. Sắp tới mùa đông, rau xanh có khi còn đắt nữa! Cầm tiền đi chợ quanh đi quanh lại, rút cục lại mua rau, đậu, lạc...”.
Những hôm phải học cả ngày, Hằng không ăn cơm mà chỉ ăn bánh mì: “Một suất cơm bụi bây giờ thấp nhất cũng 10 nghìn. Thay vì ăn cơm, mình chỉ cần ăn một chiếc bánh mỳ 3 nghìn đồng là đủ. Hơn nữa, buổi trưa thường mình cũng không thấy... đói lắm”.
Nhịn ăn, ăn bánh mì, mì tôm để đối phó với "bão giá" dẫu biết là “hạ sách”, nhưng nhiều sinh viên vẫn phải áp dụng.
Hoàng, SV ĐH Mỏ - Địa chất cho hay: “Trước đây, chỉ cần ăn suất cơm 10.000 là đã có thể no, nhưng bây giờ mình phải ăn đến suất 20.000 mới đủ. Thường thì ăn cơm bữa trưa, còn bữa tối ăn tạm mì tôm cho đỡ đói. Lấy bữa nọ “đỡ” hộ bữa kia. Bây giờ mì tôm cũng tăng giá rồi!!!”.
“Kháng chiến trường kì”
Không ít sinh viên tếu táo gọi công cuộc chiến đấu với "bão giá" là cuộc “kháng chiến trường kì”. Bởi theo họ, giá cả chỉ có tăng. Nếu giảm thì cũng không biết bao giờ mới giảm?
Để “kháng chiến” có hiệu quả, nhiều bạn chọn giải pháp “lược tạm” hoặc đơn giản hết mức một bữa trong ngày.
“Sáng ăn xôi 5.000 thì trưa ăn bánh mì tạm. Sáng nhịn, trưa ăn cơm thì tối mì tôm… Một tuần bảy ngày, thể nào cũng có vài áp dụng chế đố ăn “luân chuyển” như thế!- Hoàng Thị Lan, SV ĐH Lao động - Xã hội bật mí.
Một bộ phận khác thì chọn cách “góp gạo thổi cơm chung” cho tiết kiệm.
“Cả phòng mình cùng nấu cơm chung. Hơi đông, bất tiện nhưng tiền ăn rẻ hơn”- Thu Hường, ĐH KHTN ở trọ tại làng sinh viên Hacinco chia sẻ.
"Kháng chiến trường kì" nên không ít chuyện dở khóc dở cười đã xảy ra. Tâm, ĐH Thương mại kể: “Mình ở với hai người bạn nữa. Nói thật, bữa cơm nào cũng quanh đi quẩn lại trứng, cá khô, đậu. Ăn đạm bạc quen, mỗi lần về nhà bố mẹ nấu ngon cho con gái ăn, chẳng hiểu sao mình lại thấy… ớn. Ăn không thấy ngon nữa. Thế nhưng mình cũng không dám hé nửa lời, sợ bố mẹ lại xót con”.
Ăn uống thất thường, thiếu chất, nhiều bạn kể về những rắc rối ngày càng nhiều về sức khỏe.
“Gần đây mình luôn trong tình trạng chán ăn, không biết đói. Có khi cả ngày chỉ ăn một cái bánh mì vào buổi tối mà cũng chẳng thấy đói gì cả. Nhưng hễ ăn gì hơi “lạ” như ăn cơm, bún, miến gì là… biết ngay!” - Ngọc Trang, ĐH Sư phạm lo lắng.
Dù biết không tốt cho sức khỏe, dù biết “giảm béo, ăn kiêng, ngại nấu…” chỉ là những "lý do trời ơi", nhưng nhiều sinh viên vẫn phải trung thành với "cuộc kháng chiến trường kì" ấy.
Những hung thần đại bàng trại giam (Kỳ I)
Trước giải phóng, để thủ tiêu những tù nhân Cộng sản, Mỹ - Ngụy nham hiểm bật đèn xanh cho bọn du thủ du thực hành hạ, đánh chết tù chính trị và cụm từ “đại bàng trại giam” hay se sẻ (phạm nhân mới nhập trại) xuất hiện, phổ biến rộng rãi từ dạo ấy.
Hình xăm để phân biệt
đại bàng trại giam
Chính thời đại nhiễu nhương đó đã tạo mầm sống và nuôi dưỡng những gã giang hồ vươn lên làm đại bàng. Nghe kể chuyện đại bàng một thời mà hãi hùng trước những cuộc chơi đầy dao búa, máu me của đám giang hồ số má lẫn du thủ du thực trước giai đoạn 1975.
Điểm danh “đại ca” khoác áo tù
Từng nếm mùi trại giam từ Bắc chí Nam, từ trước giải phóng đến sau giải phóng nên ông Tám Nô (cựu giang hồ cùng thời với trùm giang hồ Năm Cam nay mai danh ẩn tích) rất rành rẽ chuyện đại bàng trại giam, nhất là chuyện đại bàng trong các nhà tù thời chế độ cũ. Ông Tám nói thời bấy giờ, dấu hiệu để nhận biết “đại bàng” là hình xăm con thần ưng với cái mỏ và bộ móng vuốt nhọn hoắc đang tung cánh. Cũng có khi là con mãnh long hoặc mãnh hổ trong thế bừng bừng sát khí: “Sau lưng sát thủ máu lạnh Phước 8 ngón, trùm giang hồ Hải Bánh cũng có hình xăm mãnh long cùng đại bàng” – ông Tám Nô, bật mí:
Những phạm nhân từng vào tù ra trại giai đoạn trước và sau giải phóng chia sẻ, những hình xăm rồng, cọp, đại bàng của các đại ca trại giam phần lớn đều được thực hiện trong quá trình thi hành án, do chính các phạm nhân cùng sam (phòng giam) “phóng bút” với kim xăm được chế từ dây đàn bị đứt, còn mực thì lấy từ ruột bút bi”. Ông Bình (bạn tù cùng thời với ông Tám Nô) giải thích: “Không phải hễ vào mỗi lần vào trại giam là đại bàng vẫn cứ là đại bàng. Có thể ở trại này anh ta là đầu gấu nhưng khi sang trại khác thì chỉ là tép riu, se sẻ bởi giang hồ có câu rừng nào cọp đó. Nếu không có gan làm chuyện đại sự thì phải chấp nhận phận em út”.
Ông Bình năm nay 61 tuổi, là dân giang hồ ở quận 4, TP.HCM. Ông tâm tình rằng từ năm 1969 đến năm 1973, vì lối sống giang hồ bạt mạng, đâm thuê chém mướn mà ông nếm đủ mùi trại giam của chế độ Mỹ - Ngụy.
Đại bàng soán ngôi
“Thời bấy giờ trại nào cũng có đại bàng. Để đàn áp tù chính trị, tù cứng đầu, bọn cai ngục nuôi dưỡng không ít “đại bàng”, khi không ưa ai đó, chúng bật đèn xanh cho bọn đại bàng ra tay dằn mặt thảm thương người tù mà chúng cho rằng cứng đầu cứng cổ hay chỉ đơn giản là nhìn khó ưa. Nhưng khi bị sang trại khác, đại bàng khó có thể làm đại bàng nếu không đấu trận sinh tử để soán ngôi kẻ tại vị”.
Nói đến đây, ông Bình kể lại câu chuyện “đại bàng soán ngôi xảy ra vào năm 1973 tại một trại tù mà ông từng chứng kiến: “Sáu Thẹo từng là đầu gấu ở trại C.H. Nhưng khi bị chuyển sang trại R.G, gã phải làm lại từ đầu. Tôi nhớ hôm ấy quản giáo vừa đi Sáu liền bị “trưởng phòng” là tay anh chị Bảy chì gây nhiều vụ cướp hiếp bắt quì xuống để nghe “giảng bài”. Vờ làm theo, Sáu bất ngờ đấm thẳng vào mặt gã đại bàng, đánh tới tấp và soán ngôi. Trận đó, Sáu bị xử tăng án nhưng bù lại không bị xếp “mâm dưới”.
Các cựu tù giang hồ thời chế độ cũ kể, trong bối cảnh buồng giam liên tục đón phạm nhân vừa bị tòa án kết tội phải vào trại thi hành án, không ít “ma mới” thuộc dạng giang hồ tứ chiến thường ngấm ngầm ý định soán ngôi “đại bàng” đương “chức” như tay giang hồ Sáu Thẹo. Để không bị “tiếm chức”, gã đại bàng luôn thể hiện uy lực của mình bằng việc nuôi ý dằn mặt kẻ mới đến bằng những trận đòn chào sam tàn bạo.
Biết được thực trạng này, để phát hiện và kịp thời chặn đứng nạn đại bàng, cai tù ở các trại giam, nhà tạm giữ thường lui tới sam, có khi gọi từng người quay vòng xem có vết trầy xước nào không nhưng biện pháp đó cũng chẳng mang lại nhiều hiệu quả bởi “đại bàng” có những chiêu tra tấn khó phát hiện được. Mà nếu phát hiện được thì dẫu có cho vàng thằng bị đánh cũng không dám khai vì sợ bị trả thù.
Dứt lời, ông Tám Nô kể lại chuyện “no đòn” vì đại bàng trại giam khi ông bị giam chung phòng với một “đại bàng” khét tiếng tại trại tù ở Côn Đảo vào năm 1974. “Lúc cai tù đưa tôi xuống sam căn dặn “người đến trước phải quan tâm, giúp đỡ người đến sau”, trưởng buồng cùng những người khác đều dạ vâng rất ngon lành nên tôi cũng yên tâm. Cửa khép lại, cai tù vừa khuất mắt thì tôi bị một gã to con, mình mẩy xăm chằng chịt lao tới đạp vào bụng. Vừa khuỵu xuống thì bị hắn lấy chiếc gối để lên ngực rồi đấm vào đó túi bụi. Tôi khóc lóc van lạy thì nó mới tha. Chiêu dần gối này không để lại thương tích bên ngoài nhưng nội thương rất gớm. Những người đến sau đều bị chào sam như vậy hết”.
Đó được coi là những trận đòn ra mắt của tù nhân mới nhập sam, tuy nhiên nếu không khuất phục, phải phục tùng vô điều kiện những sai khiến của đại bàng thì nạn nhân có thể lãnh đòn dài dài.
Những hung thần đại bàng trại giam (Kỳ II
Những kẻ máu lạnh soán ngôi đại bàng luôn tìm ra những chiêu hành hạ cực kì ác độc để buộc những kẻ chiếu dưới phải quy phục.
Luật… mâm trên, chiếu dưới
Phần lớn đại bàng trại giam thời chế độ cũ để củng cố “quyền uy” thường đặt ra những luật lệ cai trị tàn độc. Chúng tự cho mình cái quyền của kẻ ngồi mâm trên, nghĩa là được mặc nhiên bức hiếp, bóc lột bạn tù không thương xót. Thông thường dưới trướng đại bàng sẽ là vài ba tên đàn em thân cận. Vì là người của sếp nên đám này mặc nhiên được hưởng nhiều đặc ân. Tiếng lóng trong tù gọi đám này là “mâm trên”.
Có mâm trên ắt phải có “mâm dưới, chiếu dưới” nhằm ám chỉ những kẻ yếu thế, phải quy phục dưới trường của đại bàng và đàn em của đại bàng.
An ninh - trật tự Thứ Ba, 16/05/2011
Những hung thần đại bàng trại giam (Kỳ II
Những kẻ máu lạnh soán ngôi đại bàng luôn tìm ra những chiêu hành hạ cực kì ác độc để buộc những kẻ chiếu dưới phải quy phục.
Hình săm đại bàng - số má đại ca
Luật… mâm trên, chiếu dưới
Phần lớn đại bàng trại giam thời chế độ cũ để củng cố “quyền uy” thường đặt ra những luật lệ cai trị tàn độc. Chúng tự cho mình cái quyền của kẻ ngồi mâm trên, nghĩa là được mặc nhiên bức hiếp, bóc lột bạn tù không thương xót. Thông thường dưới trướng đại bàng sẽ là vài ba tên đàn em thân cận. Vì là người của sếp nên đám này mặc nhiên được hưởng nhiều đặc ân. Tiếng lóng trong tù gọi đám này là “mâm trên”.
Có mâm trên ắt phải có “mâm dưới, chiếu dưới” nhằm ám chỉ những kẻ yếu thế, phải quy phục dưới trường của đại bàng và đàn em của đại bàng.
Lê Quân, một giang hồ khét tiếng ở khu vực Cầu Ông Lãnh, nhớ lại một thời quá vãng liên quan đến đại bàng ngồi mâm trên: “Bọn mâm trên đưa ra những điều luật máu lạnh lắm. Ví như nếu làm chúng phật ý thì phải tự xử bằng cách đập đầu xuống đất liên tục, tự lấy tay tát miệng đến khi nào tóe máu mới thôi. Hay đá chân vào tường cho sưng húp mới tha… Anh em trong phòng nhận được quà thăm nuôi phải cúng hết cho đại bàng để nó ban phát lại. Muốn làm gì cũng phải xin phép nó. Muốn ăn gì cũng phải chờ nó ăn trước. Khi đại bàng ngủ, phải hầu quạt. Khi nó mệt, phải đấm bóp. Khi nó không vui cả đám khôn hồn tìm cách pha trò… Không may lọt ổ đại bàng thì phạm nhân sợ chúng hơn sợ cán bộ quản giáo”.
Ông Quân minh chứng điều mình nói bằng vụ đại bàng Trần Võ Anh Mỹ đánh bạn tù là Lê Minh Nhật liệt tứ chi, thương tật vĩnh viễn 83%. Hồ sơ vụ án cho biết vào mỗi sáng, Mỹ bắt hai bạn tù lấy xô nước tiêu chuẩn của cả 5 phạm nhân mang tận chỗ hắn nằm để hắn rửa mặt. Mỹ bắt bạn tù kỳ chân cho hắn, còn nước thì bốn phạm nhân mới chia nhau dùng. Có hôm trời nóng Mỹ dùng nước rửa mặt buổi sáng lau người cho mát, bốn phạm nhân trong buồng phải dùng nước hắn đã dùng rồi. Tiêu chuẩn ăn sáng, Mỹ đứng ở cửa buồng nhận xong rồi thản nhiên ăn no, còn bao nhiêu thì thảy cho 4 bạn tù. Mỗi tháng, thân nhân của những phạm nhân được thăm nuôi một lần. Quà, đồ ăn của thân nhân đến thăm, phạm nhân trong buồng phải mang về giao cho Mỹ kiểm tra, hắn muốn lấy thứ gì thì lấy, đồ ăn hắn ăn trước rồi mới cho chủ của số quà đó.
Lần ấy được chị thăm nuôi gửi cho gói bánh, phạm nhân Kh. mang về buồng nộp cho Mỹ, hắn ăn còn một miếng mới cho Kh., rồi ra lệnh: “Loại này tao thích. Nhớ nhắn chị mày lần sau mua thứ này nghe Kh.”.
Lần sau, chị của Kh. không thăm mà là người khác. Hết giờ thăm nuôi, Kh. về Mỹ kiểm tra gói quà thấy không có loại bánh hắn thích nên bắt phạt Kh. quỳ úp mặt vào tường và ăn hết số bánh của Kh. Tối ngủ trong buồng nóng bức, Mỹ còn phân công bốn bạn tù thay nhau quạt cho hắn ngủ. Người nào quạt không mát, hôm sau bị phạt cúp bữa ăn và bị “kỷ luật”. Mỹ nuôi dưỡng hình thức kỷ luật bạn tù bằng ba chiêu tra tấn ác độc. Hình thức thứ nhất là “điện tường”: Bắt bạn tù ngồi cách tường 15cm rồi đá vào đầu bạn tù đập vào tường. Loại thứ hai là “bát ngực”, bắt bạn tù ngồi quay mặt ra, gáy cách tường 15 phân để hắn đá vào ngực. “Chiêu” thứ 3 là “nhiễu hỏa tốc”, bắt bạn tù nằm úp lưng lấy bao nilông đốt nhỏ vào lưng cho phỏng.
Tiếp xúc với một số cựu tù khác từng nếm mùi đại bàng, chúng tôi nghe không ít ngón đòn tra tấn “se sẻ” đầy hãi hùng của đám đại bàng ngồi mâm trên. Một cựu tù giải nghệ hiện ở khu Tôn Đản, quận 4 kể: “Mỗi khi không hài lòng, gã đại bàng liền sai đàn em đè tôi ra, bắt nằm sấp, cởi áo. Một thằng lấy muỗng cào mạnh chỗ da non đến nát cái lưng rồi tụi nó đổ muối, đổ dầu xanh vào rát như bị đem nướng trên lửa”.
Gã giang hồ một thời từng ra khám vào trại của nhà tù chế độ cũ nhớ lại “Nhưng không phải lính mới nào cũng để bị bắt nạt dễ dàng. Đã có không ít trường hợp tỏ thái độ bất phục và phải trả giá đắt. Hồi năm 1973, khi đang thụ án 19 năm vì tội giết người, để chứng tỏ mình là tay anh chị cộm cán, tên Bùi Tài, dân đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp đã trổ mòi ăn hiếp nhiều bạn tù khiến ai cũng nể sợ, riêng chỉ có phạm nhân Trần Đáng luôn tỏ thái độ chống đối.
Ngày nọ, khỏang 7 giờ sáng, trong quá trình đi lao động, nhớ lại những lần bị Đáng làm cho bẻ mặt, Tài quyết tâm trả thù. Hắn lấy một cục đá xanh gói vào áo rồi đi thẳng đến chỗ Lăng, “vỗ” mạnh vào đầu phạm nhân này gây thương tích. Với hành động hung hăng đó, gã lãnh thêm 30 tháng tù, nâng tổng mức án phạt lên 19 năm 6 tháng”.
Được biết, trận đòn “chào sam” chỉ là bài học đầu tiên của se sẻ. Trong suốt quá trình cùng ăn, cùng ở và cùng lao động - học tập, những người tù mới đến hay tù thân cô thế yếu còn phải “tiếp thu” những tinh hoa bóc lột, bức hiếp, hành hạ của hung thần trại giam. Sống dưới nanh vuốt đại bàng, không ít phạm nhân ngoài thân phận của người chịu án tù còn phải kiêm thêm kiếp…”nô lệ”.
Theo lời kể của ông Bình, khi ông bóc lịch tại trại giam Phú Hòa ở Côn Đảo vào tháng 6/1970, đại bàng Võ Hùng Sang gây nhiều vụ cưới tiệm vàng nổi tiếng máu lạnh, tự xưng là trưởng phòng B1 hành hạ bạn tù là một trong những minh chứng cho hành vi thú tính của bọn đại bàng trại giam.
“Hai ngày đầu nhập buồng, phạm nhân tên Tánh đã bị đám mâm trên do Sang cầm đầu bắt ngồi xếp bằng, chắp tay sau lưng cho chúng đấm đá rồi lấy chén ăn cơm gõ vào đầu, vào mắt cá chân của Tánh vì cái tội dám nói chuyện với phạm nhân ở buồng khác. Bận khác, thấy tánh nhìn sang mâm cơm, cho là Tánh có ý chống đối nên Sang lệnh cho đàn em lấy khăn tắm vòng qua cổ Tánh lôi đi. Các tên khác thì đấm đá và tát liên tiếp vào mặt Tánh. Bị đánh đập liên tục, hôm sau Tánh chết do suy hô hấp. Sợ các phạm nhân khai báo, đám mâm trên lôi phạm nhân tên Hồ đánh dằn mặt. Quá sợ hãi thằng Hồ tiểu ra quần nhưng chúng vẫn tiếp tục hành hạ, bắt phải liếm sạch chỗ dơ. Nhiều phạm nhân khác cũng bị chúng hành hạ với những ngón đòn tàn độc tương tự. Sự việc vỡ lỡ, đám côn đồ máu lạnh phải trả giá cho hành vi tội ác, mỗi đứa bị xử tăng án nhưng thời gian quá lâu nên tôi không nhớ rõ”.
Chuyện đàng bàng… lấy số
Đối với những tên giang hồ du thủ du thực, việc ngoi lên làm đại bàng trại giam là một giấc mơ quá xa vời. Nhưng với những đại ca giang hồ đã có số má ngoài xã hội, khi thụ án thì dù không muốn làm đại bàng cũng phải tuân theo quy luật tự nhiên của cuộc chơi dao búa. Điển hình là trường hợp đại ca một thời Lâm “chín ngón”, tức Lê Ngọc Lâm (SN 1945) – từng là cái gai trong mắt mà ông trùm Sài Gòn, Năm Cam, muốn nhổ bỏ.
Từng vào tù ra trại vì thành tích chém người không ghê tay thời trai trẻ, cuối năm 1970, Lâm chín ngón thụ án dãy nhà giam FG thuộc trại giam Chí Hoà can tội “cướp giật tài sản”. Tại đây, đại ca Lâm chín ngón đã đối mặt với không biết bao nhiêu đại ca có số má khác, từng một thời ngang dọc Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung. Đã vào tù nhưng Lâm chín ngón lại làm ăn trong lĩnh vực buôn bán ma tuý cho các phạm nhân và như thế ông trùm này đã “đá đổ chén cơm” của một đại ca khác đã và đang buôn bán mặt hàng này tại trại giam Chí Hoà, đó là đại ca giang hồ mang biệt danh Chương “khùng”.
CHUYỆN CƯỜI KHÁNG CHIẾN
TTC - Hằng năm cứ vào dịp 30 tháng tư, chú Sáu thường mời một số bạn chiến đấu cũ đến họp mặt ở nhà mình để liên hoan mừng chiến thắng. Đối với những người cựu chiến binh này, chuyện về ngày 30 tháng tư là loại đề tài bất tận và đầy hào khí - có thể ví như chuyện kể của người lính già đầu bạc từng đánh giặc Nguyên - Mông vào những năm Nguyên Phong đời Trần.
Tuy nhiên, họ cũng ưa nhắc lại những chuyện vui vui kiểu nụ cười kháng chiến - tạm gọi là chuyện cười Nguyên Phong thời chống Mỹ. Chú Sáu mở đầu: - Hôm ấy, đơn vị chúng tôi vào đến cửa ngõ thành phố thì nghe ông Dương Văn Minh đọc lời tuyên bố đầu hàng trên đài. Mọi người ôm nhau reo mừng, ai cũng muốn nhào vô các hàng quán bên đường làm một tô hủ tíu và ly trà đá cho sướng cái bụng.
Bỗng đồng chí chính ủy phổ biến một cái lệnh rất oái oăm: “Tuyệt đối cấm ăn hàng! Đến điểm tập kết sẽ tổ chức cơm nước đàng hoàng”. Nghĩ lại cũng phải. Giả sử đồng bào nô nức ra đường đón chào cách mạng mà thấy các chiến sĩ giải phóng ai nấy xì xà xì xụp húp húp chan như lũ ma đói thì còn ra thể thống gì?... Mà đâu phải ai cũng có tiền trả. Lỡ có người ăn quịt thì sao? Thôi thì cứ chờ cơm nước đàng hoàng. Bữa ăn trưa đàng hoàng đầu tiên của chúng tôi là món mì gói Hai Con Tôm trộn với sữa Foremost đun sôi. Thế mà ngon đáo để!
Chú Năm tiếp lời:
- Còn tôi làm công tác tiếp quản vùng Ngã ba Chú Ía, nơi có nhiều hang động của chị em ta. Có lần, tôi cần một cái kềm để nhổ đinh, nhưng hỏi mượn cả chục nhà chung quanh, ai cũng nói không có. Té ra, họ nghe kẻ xấu tuyên truyền rằng hễ Việt Cộng bắt được phụ nữ sơn móng tay thì cho là gái mại dâm, sẽ dùng kềm nhổ móng tay ra. Vì vậy, nhà nào cũng đem giấu cây kềm.
Cô Tư cũng có một chuyện, nếu không nói ra thì không ai biết: Dạo ấy, đơn vị của cô tiếp quản một cao ốc của sĩ quan Mỹ. 3, 4 chị em cô được bố trí ở chung một phòng sang trọng. Các cô là du kích ở nông thôn, chưa hề biết đến những tiện nghi của thành phố. Thấy trong phòng ngủ có cả phòng tắm lẫn nhà vệ sinh, các cô bình luận:
- Mình đánh dữ quá, tụi nó sợ, co lại trong phòng. Đến nỗi tiêu tiểu, tắm rửa cũng không dám ra ngoài. Nhát gan đến thế, thua là phải.
Lại có một cô lần đầu bước vào phòng tắm dành cho nữ, vừa bật đèn lên đã la hoảng, xô cửa chạy ra. Nguyên 4 phía vách tường của phòng tắm này đều lót gương phản chiếu. Cô thấy vô số cái bóng của mình xuất hiện như ma quỉ nên sợ quá. (Thế mà chê Mỹ nhát gan!). Còn chú Ba nguyên là bộ đội lái xe trên đường Trường Sơn. Có lần chú lái xe kéo một khẩu pháo 155 ly chạy ào ào trên đường phố Sài Gòn. Chú đến đâu, mọi thứ xe lớn, xe con, xe máy... ở phía trước đều hoảng hốt dạt ra hai bên, leo cả lên lề đường. Té ra, chú đang chạy ngược chiều trên đường Phan Thanh Giản (nay là đường Điện Biên Phủ).
Đến một ngã tư, chú thấy một cô gái đứng trên bục, miệng thổi còi, tay cầm dùi cui điều khiển giao thông rất vất vả. Trong những ngày này, cảnh sát công lộ Sài Gòn đang hoang mang, lóng nhóng chờ chủ trương của Ban Quân quản nên việc điều khiển giao thông trên đường phố trông cậy vào các tổ chức quần chúng và những thanh niên tích cực xung phong đảm nhận.
Chú Ba khen thầm: Gái Sài Gòn mà như cô này thì đâu có thua gì các cô Thanh niên Xung phong của ta! Đến khi cô ta quay lại hoa gậy chỉ đường cho chú, chú mới nhận ra khuôn mặt râu ria bặm trợn của một chàng trai. Quái nhỉ! Con trai gì mà tóc dài như tóc thề, quần loe, áo chẽn. Nhìn sau lưng cứ tưởng là con gái. Chú đâu có biết đó là “mốt” của một số thanh niên Sài Gòn vào thập niên 70 - con trai thì rất giống con gái, con gái lại cố làm cho giống con trai, người không tinh mắt, rất dễ bị lầm.
Chú Hai là người cao tuổi nhất, giờ mới lên tiếng:
- Có lần, tôi chạy xe đến một ngã tư. Gặp lúc đèn đỏ xe cộ dừng lại cả, nhưng cũng có vài người nôn nóng vượt qua. Tôi lên tiếng phàn nàn: “Sao khi nào cũng có những người xé rào, coi thường luật lệ?”. Một người đứng bên cạnh tôi ứng tiếng trả lời: “Họ đâu có phạm luật. Luật Giao thông mới qui định đèn xanh là dành cho thường dân. Đèn vàng dành cho ngụy quân ngụy quyền. Còn người cách mạng thì được phép vượt đèn đỏ”... Vừa khi ấy đèn xanh bật lên, thằng cha đó liền vượt qua. Tôi mỉm cười bảo y: “Sao vội thế! Nếu ta đoán không lầm thì hình như phải đợi đèn vàng mới đến lượt chú mày chứ?”.
Mọi người cùng cười khen chú Hai:
- Nói hay lắm! Chú Hai thủng thẳng nói tiếp:
- Tuy lời lẽ của thằng cha đó rất đểu cáng và có vẻ phản động, nhưng qua đó thấy nổi lên một sự thật - đó là chủ nghĩa thành phần, lý lịch - đôi khi khá nặng nề bất công, nhất là những năm đầu giải phóng. Vì thế cho nên mới lại có thêm câu chuyện sau đây: Có hai anh em ruột, kẻ Bắc người Nam. Sau ngày giải phóng, anh em gặp nhau. Người anh là cán bộ, làm giấy xác nhận gia đình cách mạng, bảo lãnh cho em trai khỏi đi học tập cải tạo. Người em cầm tờ giấy làm vốn chính trị, đi đây đi đó làm ăn. Mấy năm sau người em khấm khá, trở về thăm anh. Người anh hỏi:
- Do đâu mà chú phất lên nhanh thế?
- Thì cũng nhờ trong lý lịch của em khai có người anh là cán bộ cách mạng đấy. Ủa còn anh Hai, hình như không được...
- Được cái gì mà được, mất thì có! Cũng tại trong lý lịch của anh khai có người em... Mà thôi bỏ đi, đừng nói chuyện đó nữa!
Những câu chuyện của chú Hai có vẻ giống loại chuyện tiếu lâm của đêm trước đổi mới. Nhưng không biết đến giờ đã quá cũ chưa?
Đánh vì cái tội... nhổm mông!
Thời kháng chiến chống thực dân Pháp, ở các khu vực nông thôn giáp danh giữa "vùng tự do" với "vùng địch tạm chiếm", thi thoảng lại có trận "càn" của địch. Và hầu như trận càn nào cũng vậy, thế nào cũng xẩy ra nạn Tây đen, Tây trắng hãm hiếp chị em phụ nữ, nếu họ không may rơi vào tay chúng! Câu chuyện sau kể về một trường hợp như vậy:
Hai vợ chồng nhà nọ đang ở nhà thì gặp Tây càn, không chạy kịp. Chị vợ bị một Tây "Lê dương" vớ được; đương nhiên là chuyện gì xảy ra tất phải xảy ra! Còn anh chồng nhanh chân hơn, trốn kịp lên mái nhà. Mài nhà lợp tranh lâu ngày, đã mòn vẹt cả, lại thủng lỗ chỗ. Nên nằm ép mình trên mái, mà anh chồng vẫn quan sát thấy hết những gì xảy ra phía dưới!
Khi Tây kết thúc trận càn, rút hết về "đồn" của chúng rồi và làng xóm đã yên bình trở lại. Lúc này anh chồng mới tụt từ mái nhà xuống, túm tóc chị vợ, kéo ra giữa sân gạch, đánh cho một trận!
- Ơ! - chị vợ ngạc nhiên kêu: Tại sao ông lại đánh tôi? Tôi đã không may bị Tây nó hiếp, ông biết rõ ràng. Thế mà ông không thông cảm, an ủi tôi, lại đi đánh tôi là cớ làm sao?
Người chồng nghe vậy, lại có vẻ điên tiết hơn:
- Tao đánh mày không phải vì cái tội mày bị Tây hiếp. Mà đánh mày vì cái tội, đáng nhẽ mày phải chống cự. Mà phải rôi, mày làm sao chống cự nổi cái thằng to lớn như con trâu đực ấy nhỉ? Thôi thì cũng có thể thông cảm với mày được. Nhưng đã thế, mày phải nằm im chịu trận; cớ sao mày ... cứ nhổm nhổm... cái mông mày lên là thế nào?!. Mày đã rõ cái tội của mày chưa? Này thì nhổm! Này thì nhổm này!.Peng peng pum pum ạc ặc. có chuyện này em đọc khoảng 17 năm trước, hình như là chuyện có thật, mà quên mất địa điểm xảy ra thật sự rồi
Hồi kháng chiến 9 năm, có 1 lần bộ đội kéo đi đánh 1 đồn Pháp. Do đã thu được chiến lợi phẩm nên trận đánh này, đơn vị được phát 1 khẩu súng cối cùng với 3 viên đạn. Đây cũng là lần đầu tiên đơn vị sử dụng hỏa lực súng cối cho đánh đồn Pháp.
Đơn vị tập kết ngoài đồn. Nhìn vào đồn thấy ở giữa, chỗ nhà ở của lính, được thắp đèn đuốc sáng trưng. Anh chỉ huy ra lệnh dựng cối, nhắm thẳng vào chỗ đèn sáng mà nã đạn.
Viên đầu tiên được bắn. Đạn bay thẳng ra phía sau đồn nổ cái ầm. Chỗ đèn sáng vẫn còn nguyên. Chỉnh lại súng và ngắm bắn lại
Viên thứ 2, đạn bay sang bên phải đồn, nổ cái ầm. Lại cân chỉnh súng
Viên thứ 3, đạn bay qua bên trái đồn nổ cái ầm. Chỗ đèn sáng vẫn còn nguyên.
Đạn cối đã hết, tuy chưa tiêu diệt được mục tiêu, nhưng chỉ huy vẫn ra lệnh xung phong. Toàn đơn vị xung phong vào công đồn.
Bỗng dưng trong đồn có cờ trắng kéo lên. Quân Pháp đầu hàng. Cả đơn vị ngơ ngác không hiểu vì sao chưa bắn viên đạn nào mà địch đầu hàng sớm thế.
Sau khi hạ đồn, chỉ huy ta yêu cầu dắt chỉ huy địch lên để thẩm vấn:
- Vì sao ông lại đầu hàng chúng tôi? Chỉ huy ta đanh giọng hỏi
Chỉ huy Pháp trả lời:
- Thú thật với các ông, chúng tôi đã biết tối nay các ông sẽ tấn công nên chúng tôi nghi binh, cho toàn bộ lực lượng ra đằng sau đồn núp, chừa chỗ chính giữa để thu hút hỏa lực cả các ông. Không ngờ ngay viên đạn đầu tiên là các ông đã đánh trúng đơn vị phòng thủ của chúng tôi làm thiệt hai một số người. Tôi mới ra lệnh toàn đơn vị chạy qua bên phải đồn để né đạn, ai ngờ vừa chạy tới nơi lại ăn thêm 1 quả cối nữa, thiệt hại thêm 1 số người. Đơn vị lại chạy qua bên trái để né, lại trúng thêm quả đạn thứ 3 của các ông. Không ngờ tin tức tình báo của các ông quá nhanh nhạy và chính xác, nắm rõ từng cử động của chúng tôi, kỹ thuật bắn của các ông quá siêu đẳng, trận địa hoàn toàn do các ông làm chủ nên tôi biết có chống cự cũng vô ích, đành phải đầu hàng mà thôi.
Chỉ huy ta ngớ người, trong lòng mắc cỡ, nhưng ngoài mặt vẫn nghiêm nghị:
- Các ông quyết định thế là sáng suốt. Vì trình độ tác chiến chúng tôi đã vượt các ông rất xa nên nếu chống cự các ông cũng sẽ bị tiêu diệt mà thôi
Một cán bộ tuyên truyền đứng lên khai mạc hội nghị. Anh vốn là một người hùng biện, có đặc tính là khi nói về một vấn đề gì anh luôn nhấn mạnh, nhắc đi nhắc lại nhiều lần những từ ngữ quan trong.
Anh cán bộ tuyên truyền bước lên diễn đàn và bắt đầu bài diễn văn :
Thưa các đồng chí !
“Chúng ta có một cái liềm,…một cái liềm…”
Cử tọa đang ồn ào bỗng tròn mắt tập trung lắng nghe.
Diễn giả thấy mọi người im lặng có ý thắc mắc anh lại càng nhấn mạnh và dùng hết tay nọ đến tay kia đưa lên hạ xuống để diễn đạt:
“Chúng ta có một cái liềm …một cái liềm… to nớn..”
Cử tọa nhiều người há hốc mồm chờ đợi và ra sức tìm kiếm xem cái liềm…to lớn anh ta cầm ở tay phải hay tay trái , và không hiểu tại sao hôm nay anh ta lại nói về cái liềm… Than ôi! Tuyệt nhiên không thấy cái liềm nào…
Diễn giả tiếp tục nhấn mạnh :
“ Thưa các đồng chí, chúng ta có một cái liềm , một cái liềm ( niềm) tự hào to nớn …”
Đến đây thì tất cả cử tọa ồ lên một tiếng và thở phào nhẹ nhõm…
Trước giờ xuất quân đi chiến dịch, chỉ huy tập hợp đội ngũ lại, để phát biểu:
- Mả cha các anh... - Chỉ huy xúc động hô to
Các chiến sỉ bên dưới ngơ ngác
- Mả mẹ các anh... - Chỉ huy giọng run run
Các chiến sĩ bên dưới nhíu mày
- Mả cha, mả mẹ các anh... - Chỉ huy nắm tay lại, lên giọng
Các chiến sĩ bên dưới bắt đầu xì xào, mặt mũi đỏ gay
- Mả cha, mả mẹ các anh đang bị quân thù giày xéo. Chúng ta ra trận này quyết chiến thắng để rửa sạch nỗi căm hờn này. Quyết thắng! Quyết thắng!.... - Chỉ huy hô lớn
Các chiến sĩ bên dưới thở phào, hô theo:
- Quyết thắng!... Quyết thắng!...
Chú Chạp
Xóm Giữa có chú Chạp, người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, rất dễ thương. Bà con trong xóm không ai rõ quê chú ở đâu, chỉ biết chú đến đây từ rất lâu. Chú sống cô đơn trong một căn chòi nhỏ, làm mướn nuôi thân qua ngày
Sau này có người bảo chú Chạp đến từ Bến Tre chạy xuống đây lánh nạn khủng bố của chính quyền Diệm thời Luật 10/59. Tinh thần chú không được bình thường lắm bởi dường như chú Chạp đã trải qua một cơn sốc về gia đình làm tổn thương đến tình cảm mà chú không muốn thố lộ cùng ai.
Lối xóm rất yêu mến chú nhưng lại hay trêu chọc. Đáp lại, chú Chạp hay "xuất khẩu" bằng lời ca chứ không buồn phiền ai cả.
Chú hay "tự chế" vọng cổ để hát một mình. Những bài ca của chú thường không trọn câu mà chỉ xuống mùi là hết bài. Và bao giờ cũng bắt đầu bằng câu: "Ôi, chạnh lòng…".
Ở Xóm Giữa, có chị Ba Liên, người ở gần bên chòi chú Chạp, chồng chị đã chết vì bom Mỹ, trong nhà chỉ có hai mẹ con. Chị Ba rất thông cảm với hoàn cảnh chú Chạp nên hay giúp đỡ khi khó khăn, đau ốm, mặc dù chị là người trêu chọc nhiều nhất xóm.
Vào một ngày đầu tháng 2/1972, máy bay Mỹ bất ngờ ném bom Xóm Giữa; chòi chú Chạp và nhà chị Ba Liên bị một hố bom "còi" chia cắt, bị đất, bùn đè bẹp. Tan trận bom, mọi người trong xóm vừa hoàn hồn tụ tập lại gần hố bom xem xét.
Chú Chạp đứng cạnh căn chòi xẹp lép của mình mặt buồn hiu, bỗng chú cất giọng:
"Ôi! Chạnh lòng" - Rồi tiếp: "Cô Ba ôi! Tôi muốn qua nhà cô chơi nhưng ngặt gì cái lỗ bom... còi...".
Chú lại im lặng không ca thêm lời nào nữa.
Mặc dù đang bực bội nhưng nghe giọng chú Chạp ca, ai cũng phì cười.
Chị Ba Liên cố nén cơn tức, lên tiếng:
- Sập trời rồi! Nhà cửa tiêu tan hết không lo còn đòi sang đây, sang đó cái nỗi gì?
Chú Chạp yểu xìu:
- Còn gì nữa mà lo? Tôi ca cho đỡ buồn vậy mà. Cô Ba giận tôi sao?
Nhưng kỳ thay, vài ngày sau chú Chạp nằng nặc đòi vào du kích để lãnh súng bắn máy bay giữ xóm làng. Bà con trong xóm ngăn cản cách nào chú Chạp cũng không nghe. Thấy vậy chị Ba Liên lên tiếng:
- Thôi đi cha nội, ông cứ ở nhà cho bà con mạnh giỏi. Ông mà đi du kích chắc bọn thanh niên trong xóm tự tử chết hết. Ông cứ ở nhà ca vọng cổ còn hay hơn.
Chú Chạp đắc chí:
- Tôi ca mà ai chê tôi, cô Ba phải bắt thường tôi nghen.
Thế là chú Chạp vui vẻ trở về với công việc hằng ngày của mình.
Năm 1973, khi Hiệp định Paris được ký kết, trong đoàn người tuần hành đòi quân ngụy thi hành lệnh ngừng bắn, người ta thấy chú Chạp cũng có mặt. Tay chú giương cao ngọn cờ Mặt trận giải phóng, miệng hát to bài ca chú vừa sáng tác: "Ôi! Chạnh lòng. Nước mình từ nay độc lập - tự do - hạnh phúc. Mỹ rút về nước còn sợ máy bay gì nữa cho khổ... lòng..."./.
Trong một hội nghị, bác chủ tịch lên phát động căm thù:
- Bà con biết không, máy bay Mỹ hắn bắn phá, đốt cháy nhà, phá hết ruộng vườn, trường học, đường sá, hắn giết người, ...
Kể ra hàng loạt tội ác của giặc Mỹ, giọng ông càng lúc càng phẫn uất đến nghẹn lời, rồi ông cao giọng:
- Bà con có căm thù không?
Lòng căm thù trào dâng, trùm lên buổi mít ting. Bà con lặng đi nhưng nhận ra chưa phải hô khẩu hiệu. Thông thường, diễn giả hô: "Đả đảo giặc Mỹ!". Như phản ứng dây chuyền, bà con hô theo: "Đả đảo, đả đảo, đả đảo!". Tiếng hô ầm ầm, rung chuyển, át cả tiếng bom tọa độ ngoài xa.
Mặt ông chủ tịch chợt đanh lại, quyết liệt, ông hô to:
- Đ.M. thằng Mỹ!
Bà con lập tức hưởng ứng:
- Đ.M.! Đ.M.! Đ.M...!
Chuyện vui kháng chiến: Câu đối... xe duyên 04/03/2010
Thời chống Pháp, ở một bệnh viện dã chiến giữa rừng sâu Tuyên Quang, có một cô hộ lý tên Giang, đã xinh đẹp, lại rất nhiệt tình chăm sóc thương bệnh binh.
Mùa đông giá lạnh, cô thường vào rừng chặt nứa đan phên liếp chắn gió cho anh em. Lán rộng, người đông, Giang phải tranh thủ làm mấy tuần mới xong. Vắng cô, ai nấy nhớ nhung, cứ tìm hỏi, rồi lại tự trả lời: “Giang lên rừng lấy nứa!”...
Tới một mùa đông, bệnh viện có thêm một thương binh, tên là Chạch, vào nằm điều trị. Vết thương chưa lành hẳn mà chiều nào cậu ta cũng mò mẫm ra các vùng đồng ruộng bẫy lươn về để nhà bếp nấu ăn cải thiện chung và bồi dưỡng cho các thương binh nặng. Hình ảnh cần mẫn của anh, làm cho cả viện nhớ đến Giang, đến câu nói cửa miệng: “Giang lên rừng lấy nứa”, để rồi xuất khẩu luôn thành vế đối: “Chạch xuống ruộng mò lươn”.
Tết kháng chiến năm ấy, trên báo tường của bệnh viện, câu đối này đã có bài bình rất hay và được trình bày rất trang trọng, đồng thời một đám cưới mà chú rể và cô dâu chính là Chạch và Giang, đã được viện đứng ra tổ chức khá linh đình, vui vẻ...
Đặc sản Trường Sơn 12/05/2011 Dấu chân Thượng tướng Đinh Đức Thiện từng in gót dãy Trường Sơn, ông săn bắn vào loại… siêu.
Có người lính hỏi ông:
- Thưa tướng quân, muốn là người săn bắn có tài thì cần những điều kiện gì?
Ông cười to, vỗ vai chiến sĩ:
- Với quân nhạc thì “trống năng rèn, kèn năng thổi”. Với người đi săn thì có lúc phải “lặng lẽ trườn bò, bóp cò đúng lúc”.
Ông đã săn được nhiều con thú trong tư thế đứng, có trường hợp phải nằm, lại có lúc phải trườn bò như rắn để đến gần con mồi. Lần ấy vào Trường Sơn, ông bắn được một con trăn to, thịt xẻ ra, dễ đến trên một nong đầy. Anh em nấu thịt trăn với củ rừng. Đây là món ăn ngon tuyệt!
Chuyện vui kháng chiến: “Hắn” hay giao du với binh lính địch... 05/04/2010
Sài Gòn giải phóng, Uỷ ban quân quản quận Bình Thạnh (Sài Gòn) đang họp, thì một người ghé tai đồng chí Chủ tịch nói nhỏ:
- Trước ngày giải phóng, tôi nghe nói cái tay chủ hiệu may Minh Sơn làm mật thám cho địch, mà tôi cũng thấy hắn hay giao du may vá cho binh lính ngụy lắm đấy, hắn đứng ngoài sân kia kìa…
Đồng chí Chủ tịch Uỷ ban quân quản mỉm cười, tạm dừng họp, bước ra sân kéo chủ hiệu may Minh Sơn vào, vui vẻ nói:
- Xin giới thiệu để khỏi thắc mắc: Đây là đồng chí Nguyễn Trọng Tùng, cơ sở hậu cần của đội biệt động quận ta…
Nghe đồng chí Chủ tịch kể, nhiều người mới vỡ lẽ: Nguyễn Trọng Tùng là người chuyên may các loại quần áo cải trang chiến đấu cho các chiến sĩ biệt động. Để che mắt địch, anh cũng phải thường xuyên quan hệ, may vá quần áo cho binh lính ngụy. Riêng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn, anh cũng đã may tới 70 lá cờ đỏ sao vàng và cờ mặt trận giải phóng để phục vụ các mũi tiến quân!...
Động phòng ở đâu?
Năm 1948, ở cơ quan Liên Tỉnh uỷ Hải Kiến (tức Hải Phòng, Kiến An) có sáu đôi trai gái yêu nhau. Thời chiến, gia đình lại ở xa, để anh chị em yên tâm công tác, Bí thư Lê Quốc Thân liền đứng ra tổ chức lễ cưới tập thể cho cả sáu cặp. Cuộc vui kết thúc, song cái khó là “động phòng” ở đâu? Liên Tỉnh uỷ thời ấy làm sao có nhà hạnh phúc? Cơ quan đóng quân trong nhà dân, phong tục ở đây lại kiêng kỵ. Mọi người cố gắng lắm cũng chỉ thu xếp được cho một đôi, còn năm đôi kia “tuỳ nghi di tản”.
Thế là vợ chồng Văn và Thanh cải trang thành hai anh bộ đội, chờ đêm xuống, đi gõ cửa ngủ nhờ. Có một nhà dân vốn quý bộ đội, thấy hai chiến sĩ tới nhà mình, mừng rỡ thu dọn giường chiếu chu đáo cho các anh luôn, song cũng ngạc nhiên vì mới 4 giờ sáng, thấy hai anh đã “xin phép phải đi công tác sớm!”…
Giai thoại tướng lĩnh: Sao lại ăn gạo dẻ đỏ 21/10/2009
Một buổi sáng mùa hè năm 1956, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tới thăm Đội điều trị 1, khi ấy đang đóng quân ở Đồng Hới, Quảng Bình. Sau khi đi một vòng đến vài nơi, Đại tướng rẽ vào nhà ăn của thương, bệnh binh. Nhìn chảo cơm đang nấu dở, Đại tướng hỏi Đội trưởng Vũ Duy Kỷ:
- Sao lại cho anh em ăn gạo dẻ đỏ?
- Thưa Đại tướng, đây là gạo từ Thanh Hoá chuyển vào, cũng là loại gạo ngon nhất, được ưu tiên đấy ạ.
- Không được đâu, thương, bệnh binh phải ăn cơm gạo trắng. Chiều, cậu ra xin Tỉnh uỷ Quảng Bình thử xem. Được hay không, cho tôi biết nhé.
Đầu giờ chiều, anh Kỷ sang Tỉnh uỷ và UBND, chưa kịp nói gì, thì đồng chí Chủ tịch đã niềm nở:
- Tôi biết rồi, Đại tướng gọi điện đề nghị tỉnh giúp đỡ, tôi đã cho người đi tìm mua…
Mấy ngày sau đó, một kho lương thực của tỉnh Quảng Bình nhắn Đội điều trị ra “làm việc”… Từ đấy, thương, bệnh binh ở đây có gạo trắng ăn thường xuyên.
Thiếu tướng mượn xe đạp 04/11/2009 Ông Nguyễn Hữu Duyên, ở Công ty đầu tư phát triển khoáng sản tỉnh Hoà Bình kể:
Năm 1952, tôi làm công tác tuyền truyền của Trung đoàn 52 Tây Tiến, do anh Chu Đốc làm trung đoàn trưởng và anh Hùng Thanh là chính trị viên. Tôi đóng ở nhà bà Lý Môn, bên tuyền quốc lộ Kim Tân đi Thanh Hoá, gần núi Thọ Vực. Nhà bà là một cơ sở nuôi giấu cán bộ hoạt động bí mật, nên tướng lĩnh thường xuyên qua lại.
Một đêm, tôi thức giấc vì nhiều tiếng ồn ào, bà Lý Môn cùng con gái đang tất bật làm cơm đãi khách. Hỏi ra mới biết: Tư lệnh khu - Thiếu tướng Hoàng Sâm, trên đường công tác rẽ vào thăm trung đoàn. Nhớ lại vài lần trước, tôi được đưa đón Thiếu tướng về trung đoàn làm việc, ông là ngườì chất phác, giản dị nên cũng dễ thân quen.
Buổi sáng, Thiếu tướng chuẩn bị lên đường. Không hiểu tư trang, tài liệu, vũ khí có những gì mà ông và cậu liên lạc khiêng vác có vẻ nặng nề. Tôi liền xin được đi theo mang giúp, thì ông bảo:
- Thôi, cho tớ mượn cái xe đạp. Xong việc, tớ sẽ cử anh em mang trả lại…
Ít ngày sau, tôi được đi học nội trú ở trường Hoàng Văn Thụ. Có lẽ biết tôi không còn ở đơn vị, ông cho người mang xe đến nhà bố mẹ tôi tận Mường Chùa (Tân Lạc, Hoà Bình) để trả. Khi tôi về thăm nhà, xem xe, thì thấy là chiếc xe đạp còn rất tốt, không phải cái tồng tộc cũ kỹ của tôi. Đã vậy, Thiếu tướng còn gửi thêm một chiếc mũ nồi và một múi dù để ngụy trang.
Đâu phải vì “chuyện ấy” 04/06/2009
Giáp Tết năm 1975, đội sửa chữa thuộc tiểu đoàn 32 vận tải của Phạm Văn Lợi được lệnh rời Đồng Bầu, đến cứu mấy chiếc xe bị máy bay địch bắn hỏng ở A Lưới. Mới đi tới đường 14, thì chính xe của tiểu đoàn lại lao xuống vực, may mà chỉ có một người bị thương, còn anh em đều nhảy ra kịp. Thế nhưng xe mất, mất luôn cả lương thực thực phẩm, mọi người lâm vào cảnh đói. Đêm xuống, anh em bàn với nhau: Đi tìm xem có đơn vị hay kho tàng nào của ta ở gần, thì nhờ giúp đỡ. Theo một đường mòn, các anh luồn vào rừng sâu, gặp được ngôi nhà sàn. Lúc ấy, đã quá nửa đêm, các anh lặng lẽ trèo lên cầu thang, ngó vào thì thấy hai chiến sĩ, một nam, một nữ, đang hôn nhau thắm thiết, cô gái quay mặt ra phía đống lửa, nên nom rõ mồn một... Các anh bấm nhau rút lui, để sáng hôm sau mới xuất hiện trong bộ quân phục gọn gàng. Vừa vào tới khu nhà bếp, Phạm Văn Lợi gặp đúng cô gái đêm qua, anh ỡm ờ nửa đùa nửa thật:
- Này, chuyện tối qua “chúng tớ” giấu kín cho, song “các cậu” phải giúp “chúng tớ”, xe rơi xuống vực, cả đội đang bị đói đây:
Cô gái đỏ mặt, buông rơi cả đôi đũa cả, song lại trấn tĩnh ngay, cười bảo:
- Chúng em yêu nhau chính đáng, sợ gì. Không có “chuyện ấy”, chúng em cũng sẵn sàng giúp đỡ các anh mà...
Chuyện qua lại, mới hay đây là một kho đạn và cô gái là chiến sĩ nuôi quân. Thế là cả đội được đón một cái Tết no nê và vui vẻ...
Hành quân, bắt được quà 14/05/2009
Tham gia vào các đòn tiến công thực dân Pháp trong Đông Xuân 1953 - 1954, Sư đoàn 325 được giao nhiệm vụ chiến đấu ở vùng Hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia. Nghe tin bộ đội Việt Nam về giải phóng buôn làng, phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân dân Lào mừng lắm, nhà nhà chuẩn bị lương thực, thực phẩm và quà cáp để tặng các chiến sĩ. Song do “Bí mật quân sự” bà con không được tiếp xúc với bộ đội; các đơn vị ở đâu, đi theo đường nào, cũng không được biết, nên không làm sao trao quà tới tay anh em được. Thấy “khó quá” mọi người bảo nhau cứ mang quà ra để ở các ngả đường đi... Và thế là, suốt cuộc hành quân, các cán bộ, chiến sĩ sư 325 chốc chốc lại gặp hàng chục gùi thịt voi khô, muối trắng, đường, gạo nếp, thuốc lá... gùi nào cũng viết dòng chữ to, rõ: “Gửi các con quân tình nguyện Việt”; có nơi, lại thấy một con bò bị buộc vào gốc cây bên đường đi, trên lưng bò ghi câu” “Tặng bộ đội Việt Nam”..
Gan thỏ đế 14/05/2009
Bác Ba Tâm - cựu tù chính trị, sau ngày giải phóng miền Nam, là cán bộ lãnh đạo trường Nguyễn Bỉnh Khiêm, thị xã Vĩnh Long kể:
Vào khoảng tháng 8-1974, cơ quan Đoàn thanh niên của thị xã đóng ở xã Tịnh Hoàng, huyện Long Hồ, tổ chức đám cưới cho anh Bé Sáu (sau này trở thành cán bộ lãnh đạo của tỉnh) kết hôn cùng chị Huỳnh Mai. Thời chiến, cơ quan đoàn lại đóng cách đồn Hòa Bình chưa đầy 100m, ai nấy thống nhất với nhau: “Cưới kín”, khách có 7,8 đoàn viên cùng bộ phận, và “tuyên bố” xong, chỉ “mổ” một, hai con ngan gọi là... Thế nhưng, tuổi trẻ ham vui, chúc tụng nhau có vài chầu rượu “đế”, mà bốc đồng quên khuấy mất địch đang ở sát nách, hô nhau hát hò. Mấy vị khác cũng không kém, quơ nắp nồi xoong gõ đập inh ỏi. Mãi đến lúc mấy cô bác “hàng xóm” vào báo tin địch ở đồn bỏ đi rồi, mọi người mới chợt tỉnh, nhưng chỉ ngớ ra giây phút, lại ôm nhau cười đến vỡ bụng...
Thì ra bọn “ngụy thỏ đế” nghe tiếng nồi xoong hò hét, ngỡ quân chủ lực của ta về úp đồn, cuống cuồng tháo chạy.
Cây sắn Cách mạng
Cập nhật: Thứ tư, 20/4/2011 | 10:05:42 Sáng
Ai đã từng là lính chiến đấu trên mặt trận B3 Tây Nguyên thời đánh Mỹ ngụy chắc còn nhớ câu thơ:
Mười năm làm lính Bê Ba
Mười năm ăn sắn đi ra không đài
Nói vậy để thấy cây sắn ở Tây Nguyên từng gắn bó thế nào đối với những người lính của một thời Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Cách đây không lâu, một số cựu chiến binh nguyên là lính B3 Quân đoàn 3 chúng tôi đã làm một cuộc hành trình thăm lại chiến trường xưa Tây Nguyên. Với họ, suốt một miền đất đỏ ba-dan là cả một miền ký ức. Lúc trầm hùng một bài hát hành quân thời trai trẻ, khi rưng rưng một nén nhang trên nấm mồ đồng đội. Đứng trước Nhà Bảo tàng truyền thống Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) trên đất Gia Lai như thấy mình đang trước cõi thâm nghiêm trầm mặc. Mỗi kỷ vật là gợi thêm một kỷ niệm về một thời đạn bom, một thời hào hùng. Hình ảnh được coi là biểu tượng của lực lượng chủ lực chiến đấu trên mặt trận B3 Tây Nguyên - Đó là bức phù điêu nổi hình một vỏ đạn pháo kề sát một khóm sắn ngay lối ra vào.
Lần giở từng trang về bộ đội chủ lực mặt trận B3 Tây Nguyên giữa thập niên 70 của thế kỷ XX, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ ngụy đang vào thời kỳ cam go quyết liệt thấy tinh thần Vì miền Nam ruột thịt thật rõ nét. Một số đơn vị chủ lực của quân đội ta khi ấy được lệnh hành quân chi viện cho chiến trường miền Nam. Mặt trận B3 ra đời. Xét thấy đây là địa bàn chiến lược quan trọng nhưng xa hậu phương nên rất khó khăn trong tiếp tế hậu cần. Đảng ủy chiến trường xác định nhiệm vụ tăng gia sản xuất cũng quan trọng không kém nhiệm vụ chiến đấu. Cây sắn (mỳ) đã trở thành cây mũi nhọn trong chiến dịch khai hoang rộng khắp. Bằng khẩu hiệu hành động Biến rẫy hoang thành nương sắn. Cây sắn đi trước, chiến dịch đi sau. Từ đó bộ đội ta ngày luyện tập, đêm lợi dụng ánh trăng đào đất tra hom. Chỉ một thời gian ngắn những nương sắn tươi non đã xuất hiện từ ven các bìa rừng đến dọc đường giao liên. Sắn rậm rì không chỉ ở các thung lũng mà suốt một dải ven sông Sa Thầy. Màu xanh của sắn đã hòa cùng màu xanh áo lính trên khắp núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Cây sắn được đồng bào Tây Nguyên cũng như mỗi người lính mệnh danh cây sắn cách mạng. Chiến sĩ hậu cần Trần Bích từ rung cảm lòng mình mà ra đời bài thơ Cây sắn tiến công, có đoạn:
…Một cây sắn ta trồng,
Là một tên Mỹ gục.
Ngàn cây sắn ta vun,
Là ngàn tên ngụy tan thây.
…Cây sắn của ta giàu hơn cả tòa Bạch Ốc…
Một đồng đội quê núi rừng miền Bắc được sinh ra giữa những ngày giáp hạt chẳng có thức gì ngoài sắn. Cha mẹ liền đặt tên là Sắn như nhắc nhở con luôn nhớ về những ngày khốn khó để sau này liệu đường phấn đấu sao cho nên người. Vào bộ đội bạn cứ ngỡ chẳng phải ăn sắn, ai ngờ giữa núi rừng Tây Nguyên, ở đâu cũng thấy sắn bên mình.
Thức ăn từ sắn có thể chế biến thành một món súp, có thể là bát canh, cũng có thể một bữa ăn toàn sắn. Và còn nhiều cách khác, sắn vào ống lồ ô sắn thơm lừng bếp lửa, nhào đất ba- dan đắp lên sắn ủ giữa than hồng. Quên sao được món lá non sắn luộc và bát dưa muối vàng lại chính từ những đọt sắn non.
Một quy định bắt buộc, đó là ăn sắn kiểu gì là tùy và ăn bao nhiêu cũng không sao, nhưng khi nhổ một hốc sắn lên là phải trồng ngay 10 hom sắn mới. Nhờ vậy mà sắn luôn đồng hành suốt tháng năm cùng Tây Nguyên đánh giặc.
Trên đường hành quân sau mỗi lần dừng chân nơi binh trạm, trước tiên bộ đội ta mong tìm gặp đồng hương, rồi sau mới tìm đường vào nương sắn. Tháng Ba Tây Nguyên suốt một mùa chiến dịch, bất chợt gặp những cây sắn chẳng biết từ năm nào mà đôi bàn tay nắm vòng không kín hết. Có những khóm sắn chẳng biết đã mấy mùa dưới đất đỏ ba- dan mà củ đã gần như thành bột.
Trong trường ca của một nhà thơ Trường Sơn ngày ấy có đoạn: Hành quân/ Mắt người hấp hối/ Cơm sắn canh rừng/ Sống chết dửng dưng…
Ngưới lính Tây Nguyên một thời là như vậy, dù cái chết cận kề, dù mắt đang hấp hối, dù cơm sắn canh rừng nhưng đâu có hề chi, bởi với họ giữa chiến trường sống chết là bình thường, gian khổ là hiển nhiên.
Cuối cùng miền Nam hoàn toàn giải phóng, đât nước được thống nhất, nhưng mối hiểm nguy từ thiên tai địch họa lại rình rập ở hai đầu đất nước. Cả đất nước Tay chống trời, tay giữ đất săn gân như lời thơ Tố Hữu. Lát sắn củ khoai vẫn tiếp tục song hành cùng bữa ăn người lính.
Cuối năm 1979, những người lính Sư đoàn Đồng bằng cũng như Binh đoàn Tây Nguyên chúng tôi sau khi hoàn thành nhiệm vụ giúp bạn lật đổ chế độ diệt chủng Pônpốt - Iêng Xari đã từ xứ Chùa Tháp trở về biên giới phía Bắc. Giữa quê hương mà đâu đã hết cảnh bữa ăn gạo ít sắn nhiều, vẫn nước chấm đại dương, vẫn bát canh toàn quốc. Đôi lần vớ được những củ sắn từ nương bãi của bà con mình bỏ lại khi thì luộc, khi đưa lên bếp nướng, cũng có khi cho vào ống nứa tươi đốt giống cơm lam của người mạn ngược.
Nhờ công cuộc đổi mới của đất nước mà giờ đây lúa gạo đã đề huề. Cả một thế hệ sau những người lính khi xưa đâu biết thế nào là cơm độn. Hết giờ làm thường hỏi nhau "nay ăn gì" chứ mấy khi hỏi "nay có gì ăn" như những tháng năm bao cấp. Sắn khoai giờ cũng chỉ là thứ để thanh cảnh ăn chơi khi muốn. Đã xa rồi cái thời củi quế gạo châu. Hình ảnh sắn khoai luôn ngự trị trong mỗi bữa ăn hàng ngày suốt một thời đang dần sâu vào dĩ vãng. Vậy mà chiều nay giữa phố phường tấp nập, bất chợt những âm thanh sắn đây, sắn nào… tiếng cô hàng chào mời mang theo hương vị thơm bùi từ những khoanh sắn trắng ngà nứt nở. Bỗng giật mình nhớ lại… Bỗng lặng im thẫn thờ… Và bỗng dưng thèm…sắn…!
Chuyện chưa kể về bữa cơm chiến sĩ
Trước khi chiến dịch diễn ra là thời điểm Tết âm lịch, nhằm khích lệ tinh thần bộ đội, bữa cơm xuất hiện bánh chưng. Nhưng chiếc bánh chỉ đơn giản với gạo ngâm trộn muối, bọc ngoài bằng lá dong.
Ông Lê Văn Khuê, Đại đội 826, Tiểu đoàn 392 nhớ lại: “Sau này, mỗi lần bóc chiếc bánh chưng ngày Tết, lại nghĩ về những anh em cùng mình bóc chiếc bánh chưng không nhân, nhớ da diết cái vị thơm ngọt của lá dong, mằn mặn của miếng bánh độc có gạo và muối”.
Chiến dịch càng lúc càng quyết liệt, các món ăn vì thế cũng thay đổi theo. Canh đậu xanh được làm từ đậu nghiền vỡ vỏ, để nguyên hạt, đổ nước vào nồi đun sôi, khi chín cho thêm ít muối, mì chính. Những món canh khác như canh trám xanh, rau tàu bay, bí đỏ, rau rớn, rau mùng tơi... chỉ cần đun lên rồi cho thêm ít muối là xong. Thực vật chiếm phần lớn trong bữa ăn tại chiến trường.
Để đa dạng hóa các món ăn cho bộ đội đỡ ngán, anh nuôi đã phải nghĩ ra nhiều “mẹo” chế biến các món ăn. Riềng gọt vỏ thái mỏng, rang giòn, giã nhỏ trộn với muối. Cũng có khi được nạo, bông lên như hạt lạc đã giã, trộn với muối để anh em ăn với cơm nắm, thay cho muối vừng. Tùy điều kiện mà món ăn có lúc chắt chiu, nhưng cũng có khi “ngập răng”. Bên cạnh nguồn từ dưới xuôi mang lên, thực phẩm tại chỗ, thực phẩm nước bạn viện trợ được tận dụng tối đa. Thời gian sau chiến dịch còn có nguồn thức ăn tiếp tế từ... quân Pháp, thả dù xuống lòng chảo bị quân ta thu gọn.
Với bộ đội pháo cao xạ, thời kỳ đầu mỗi người có bát sắt. Bước vào chiến dịch, bát sắt mất dần; bát được chế từ vỏ dừa gửi từ Thanh Hóa lên. Ngoài ra còn có bát làm từ thân tre. Cây tre còn làm được nhiều thứ khác như máng đựng canh, thìa, muôi...
Thượng tá Nguyễn Hữu Đạc - Giám đốc Bảo tàng Phòng không - Không quân cho biết: “Tái hiện những vật dụng này không khó, đều rất dễ kiếm. Lo nhất là món ca la thầu (củ cải muối) thì cán bộ bảo tàng lại kiếm được ở Cao Bằng, đã qua nửa thế kỷ mà món ca la thầu vẫn giống hệt ngày xưa”. Còn rau rớn, rau tàu bay, cán bộ Bảo tàng Phòng không - Không quân đã lặn lội lên tận các tỉnh miền núi phía Bắc mang về.
Đặc sản chiến trường
Những ai là pháo thủ tại Điện Biên, không thể quên hương vị của món thịt trâu kho riềng. Ông Nguyễn Đình Vượng, cán bộ quản lý quân lương, quân trang và tiểu đoàn bộ, Đoàn 381 vốn là người Hà Nội gốc nên món ăn do ông chế biến được đồng đội đặc biệt ưa chuộng. Ông Vượng giỏi xoay xở với những thứ nguyên liệu có tại chiến trường lúc đó. Thịt trâu phải kho với gừng mới đúng kiểu nhưng anh nuôi và cán bộ hậu cần đi kiếm chỉ được củ riềng, thành ra món đặc sản... phải ra đời: “thịt trâu kho riềng”.
Thịt trâu được thái miếng vuông như bao diêm, ướp với riềng và muối khoảng 30 phút. Quá trình đun sau đó tuyệt đối không đổ nước trực tiếp vào nồi, vì theo ông Vượng, thịt trâu hay bò mà cho nước sẽ mất vị thơm đặc trưng, thậm chí có mùi hôi. Nồi thịt cho lên bếp đảo đều ngấm muối, vị riềng, sau đó đắp bao tải đã được nhúng ướt lên vung, đun nhỏ lửa. Hơi nóng bốc lên gặp nước nhỏ giọt tí tách xuống làm nồi thịt không bị cháy, lại ở mức âm ẩm vừa phải, làm cho miếng thịt nhanh nhừ, không có mùi tanh và dậy mùi thơm ngọt.
Tuy nhiên, chỉ có chiến sĩ pháo binh mới được “chén” thường xuyên món đặc sản chiến trường này, bộ binh hiếm lắm mới có. Lý do pháo binh là “em út”, là lực lượng lần đầu tiên xuất hiện trên chiến trường nên được ưu tiên. Pháo binh chiến đấu trong trận địa, có công sự bảo vệ an toàn, đến bữa anh em ngồi phía dưới, quây quần như mâm cơm, trừ chiến sĩ trực chiến ăn ngay trên mâm pháo. Với bộ binh, do điều kiện chiến đấu dưới giao thông hào, đến bữa ăn cơm thường lui về phía sau ăn. Khi ra chiến đấu mang theo người cơm nắm. Càng về sau, khi chiến dịch càng lúc càng ác liệt, cơm nắm trở thành lương thực chủ đạo.
Vay lương thực, trâu, lợn...
Trong giai đoạn chuẩn bị đánh vào tập đoàn cứ điểm, nhiều đơn vị đã được lệnh đi vay, mua lương thực, trâu, lợn tại chỗ.
Ông Đặng Hùng Mạnh, chiến sĩ Đại đội ĐKZ 57, Sư đoàn 308 nhớ lại: “Khi đồng bào Điện Biên đi sơ tán, lúa, vật nuôi, gia súc đều để ngoài cánh đồng Mường Thanh. Cứ để đó thì địch bắt và đốt hết. Tương kế tựu kế, cấp trên giao cho chúng tôi đi vay của dân, cũng là để tránh rơi vào tay giặc”.
Để vay lúa, đêm đến, một trung đội ra lấy thóc, đi theo là một tiểu đội bảo vệ. Lúa thu về tiến hành xay xát ngay. Đội phó cối đẽo chày, đào hố rồi lấy phên quây xung quanh, để dưới đáy hòn đá, dùng nan tre làm cối giã gạo.
Lợn và trâu đều là của dân thả rông ngoài cánh đồng. Để bắt lợn, anh em lấy dây sắn dây kết lại thành lưới, chọn vị trí để đón lõng. Nghệ thuật là phải làm sao bắt không để lợn kêu. Cánh đồng vốn trống trải, có tiếng lợn kêu là địch phát hiện ra, đạn và pháo bắn tới tấp.
Trâu ở Điện Biên có cả trâu trắng và trâu đen, đồng bào Thái Tây Bắc nuôi trâu rất to béo. Giữa cánh đồng, trâu hay quây thành đàn, khi một con đứng dậy là đánh động cả đàn chạy theo nên rất khó bắt. Mà trâu chạy lên rừng thì không biết đằng nào mà lần. Trong đội có nhiều anh em xuất thân từ nông dân, “nịnh” trâu rất giỏi, tiến gần đến làm quen, dắt trâu về. Bộ phận hậu cần sẽ chịu trách nhiệm thịt.
Dù đi bắt lợn hay bắt trâu, mỗi người phải nhận một hướng đi và vừa đuổi trâu, lợn, vừa phải để ý để không lạc vào khu gần đồn địch. Bên cạnh đó, khi lấy bất cứ thứ gì đều phải ghi chép và báo cáo cẩn thận để sau này thanh toán với bà con.
Lương thực cực kỳ quan trọng để nuôi quân, nhưng Bộ chỉ huy chiến dịch cũng chỉ đạo rõ, củ mài, cá sông, suối tuyệt đối không được lấy, đó là những nguồn thức ăn của đồng bào các dân tộc Điện Biên. Phải để khi lòng chảo đã sạch bóng quân thù, đồng bào trở về còn có cái ăn...
Chuyện bữa ăn trên con tàu HQ -936
QĐND -
QĐND Online - Trong chuyến hành trình tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương năm 2011 với chủ đề “Doanh nhân ra biển, sinh viên ra đảo”, tàu HQ - 936 là “người bạn” đồng hành cùng chúng tôi ra thăm, làm việc với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên quần đảo Trường Sa. Dù chỉ hơn 10 ngày hành trình trên biển nhưng đã để lại trong tôi những ấn tượng khó phai về những người lính nuôi quân phục vụ trên con tàu HQ – 936, với những bữa cơm bập bềnh giữa đại dương mênh mông, xen lẫn mặn mòi của biển cả… càng làm tăng thêm phần thi vị.
Sau hai ngày lênh đênh trên biển, tôi gặp Thượng úy Nguyễn Văn Hiếu, Trợ lý Quân nhu Đoàn M.62 khi anh đang cùng anh em nuôi quân hối hả chuẩn bị bữa ăn chiều. Là người được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo, tổ chức bảo đảm ăn uống trên tàu HQ – 936, anh cho biết: Tàu HQ – 936 đã qua hàng chục năm sử dụng nên các trang bị như: hệ thống cung cấp điện, thớt bếp nấu đã quá cũ. Trên tàu không có kho lạnh bảo quản lương thực, thực phẩm, do vậy, việc dự trữ thực phẩm gặp rất nhiều khó khăn. Thông thường, mỗi chuyến tàu phục vụ đoàn công tác chỉ có khoảng 10 nhân viên nuôi quân. Trung bình mỗi nhân viên nuôi quân phải phục vụ từ 12 - 15 người (tùy theo số lượng người của mỗi đoàn công tác). Mỗi ngày, các anh phải bảo đảm 4 bữa ăn (2 bữa ăn chính, 2 bữa ăn phụ) với tiêu chuẩn tiền ăn cao và nhiều món ăn trong một bữa. Chỉ tính riêng việc bảo đảm bữa ăn sáng hàng ngày, nhân viên nuôi quân phải thức dậy từ 3 giờ sáng mới bảo đảm được thời gian.
Xuống thăm khu nấu ăn, tôi mới thấy sự khó khăn, vất vả của anh em nuôi quân. Phòng nấu chật chội, chừng hơn chục mét vuông, hơi nóng hầm hập do nhiệt độ từ khoang máy tỏa ra. Hiếu cho biết: Những hôm trời yên, biển lặng thì nuôi quân đỡ vất vả. Còn những ngày biển động, việc nấu ăn vô cùng gian nan, vất vả, có khi còn không thể thực hiện được. Khó nhất là việc nấu cơm. Mặc dù nấu nồi điện nhưng cơm rất dễ bị sống do tàu nghiêng ngả làm lệch nồi hoặc tuột ổ cắm điện. Do vậy, mỗi nồi cơm không nên nấu quá đầy, đồng thời phải thường xuyên kiểm tra, xoay nồi vào đúng vị trí, để bảo đảm được cơm chín cho từng bữa ăn. Nhiều chuyến công tác, tàu HQ – 936 gặp sóng to, gió mạnh, nấu được cơm rồi anh em chia nhau đưa đến từng phòng khách. Có lúc, việc ăn cũng không phải dễ, anh em phải thay nhau giữ chặt mâm cơm để đồng đội ăn.... Phân công nhau người bưng cơm, người bưng canh và phải lựa thế đặt xuống để bữa ăn thuận lợi. Anh em gọi đùa, đây là phương pháp “tay giữ, tay ăn”. Khổ nhất là mấy chị em bị say sóng, ăn được chút nào lại trả hết.
Do trên tàu không có lực lượng nhân viên nuôi quân chuyên trách, nên trong mỗi chuyến hải hành thường phải sử dụng nhân viên kiêm nhiệm. Sau vài chuyến, anh em lại trở về huấn luyện, làm việc theo chuyên môn của mình được phân công. Do đó, để bảo đảm ăn uống cho chuyến tàu, nhân viên nuôi quân được lựa chọn là các quân nhân chuyên nghiệp, chịu được sóng gió biển, khỏe mạnh, có kinh nghiệm trong việc đi biển dài ngày. Trước khi tàu xuất phát, các anh được huấn luyện cơ bản về công tác nuôi quân trên tàu, sử dụng thành thạo các trang bị, bếp nấu ăn trên tàu cũng như về kỹ thật nấu món ăn chất lượng cao.
Trước mỗi chuyến biển, cơ quan hậu cần Đoàn chỉ đạo tàu chuẩn bị chu đáo mọi mặt hậu cần, tự việc lên kế hoạch mua sắm, dự trữ lương thực, thực phẩm đến xây dựng thực đơn cho từng ngày. Thực đơn cho các bữa ăn hàng ngày đi biển không nên chọn những món ăn có cách chế biến quá khó, nấu mất nhiều thời gian để giảm thời gian nấu nướng. Do điều kiện khí hậu, thời tiết và trang bị bảo quản chưa đầy đủ nên việc bảo quản rau, quả tươi trên tàu rất khó. Bất kỳ thứ rau xanh, củ quả nào được đưa lên tàu ra khơi chỉ chưa đầy một tuần là bị hỏng. Ngay cả như su hào cũng chỉ được khoảng 20 ngày là bị xốp, nên các loại rau lá xanh như: rau cải, rau mồng tơi, rau muống … chỉ dự trữ đủ ăn trong 3 ngày đầu. Số lượng rau, củ quả bảo đảm cho những ngày sau nên dự trữ: bắp cải, khoai tây, bí, mướp, súp lơ, cà trắng, dưa chuột … Kinh nghiệm nhiều năm đi biển cho thấy: Các loại rau củ, quả dự trữ trên tàu phải được lựa chọn kỹ những cây, củ, quả không bị sâu, bệnh, dập nát; nếu dự trữ bắp cải, súp lơ phải để lá xanh, rau cải phải còn cả gốc để tươi lâu ngày. Với các loại quả như bí xanh, bí đỏ mang theo tàu phải chọn quả già, không bị dập nát... Rau, củ, quả mang theo tàu phải được xếp từng lớp trên giá bảo quản. Quá trình bảo quản, hàng ngày anh em phải tiến hành đảo xáo từ trong ra ngoài và ngược lại để kiểm tra, chọn những cây rau, quả bị dập hoặc héo… đem ra sử dụng trước. Các loại thịt, cá, tôm… mang theo dự trữ trên tàu phải chọn hàng có chất lượng loại 1. Trước khi đưa thịt, cá, tôm…bảo quản trong tủ chuyên dùng phải được chia ra từng túi, mỗi túi 2 kg và được làm khớp đông (làm lạnh đông) trước 12 giờ. Với phương pháp này, thực phẩm được làm lạnh đông đồng đều và thuận tiện trong quá trình đảo xáo cũng như xuất thực phẩm hàng ngày. Trong quá trình đi trên biển, cứ 3 - 4 ngày phải đảo thực phẩm trong tủ bảo quản 1 lần để tránh hiện tượng các túi thực phẩm dính nhau do đóng đá. Ngoài việc dự trữ các loại thực phẩm, rau, củ, quả bảo đảm cho cả chuyến đi biển, trên tàu còn chuẩn bị đầy đủ các loại rau gia vị cần thiết cho các món ăn theo thực đơn. Anh Hiếu cho biết thêm, mặc dù gặp nhiều khó khăn song anh em vẫn luôn vui vẻ, lạc quan và yêu đời. Trung bình hàng năm, chỉ riêng tàu HQ - 936 của Đoàn đã thực hiện từ 3-5 chuyến đi dài ngày trên biển với hành trình hàng trăm hải lý/chuyến và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trong những ngày đến với các đảo thuộc Quần đảo Trường Sa, chúng tôi được thưởng thức các món ăn ngon không kém gì đất liền từ cá sốt cà chua, thịt lợn quay, ếch xào cà trắng, thịt kho tàu, cá rán, thịt bê xào sả ớt, tôm biển chiên, thịt gà rang đến canh cua, canh bầu nấu tôm…. Dư vị đậm đà của những bữa ăn trên con tàu HQ – 936 vẫn còn đọng lại trong tôi cho đến tận bây giờ./.
Con quỷ và ba người lính
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống. Có ba người lính bèn rủ nhau đào ngũ.
- Nếu họ bắt được chúng ta, họ sẽ treo cổ chúng ta. Vậy thì làm thế nào bây giờ ? – người thứ nhất nói.
Người thứ hai nói :
- Các anh hãy trông cánh đồng lúa bát ngát kia. Nếu chúng ta trốn trong đó thì không ai có thể tìm được chúng ta. Quân đội không được phép sục vào ruộng lúa. Ngày mai thì đơn vị mình đã chuyển quân đi nơi khác.
Thế là họ chui vào ruộng lúa, nhưng quân đội không chuyển đi đâu mà ở nguyên vị trí chung quanh đó. Ba người lính trốn trong ruộng lúa hai ngày, hai đêm. Họ đói lả như sắp chết đến nơi. Họ không dám ló ra vì sợ chết. Họ bảo nhau :
- Trốn trong ruộng lúa này không được tích sự gì cả. Chúng ta sẽ chết và thối rữa ra ở đây mất thôi.
Đúng lúc đó, có một con rồng lửa bay trên trời qua đó. Nó sà xuống gần họ và hỏi họ tại sao lại trốn ở đây. Họ trả lời :
- Chúng tôi là ba người lính, chúng tôi đào ngũ vì lương ít quá. Giờ thì chúng tôi sẽ chết đói ở đây hoặc người ta sẽ treo cổ chúng tôi nếu chúng tôi ra khỏi đây.
- Nếu các anh đồng ý phục vụ ta bảy năm - rồng nói – ta sẽ đưa các anh lên cao, bay qua cả cánh quân lớn mà không một ai chạm được vào các anh.
- Chúng tôi làm gì có quyền lựa chọn , đành bằng lòng thôi. - họ trả lời.
Rồng quắp họ vào móng đưa họ khỏi cánh quân khá xa, rồi lại để họ xuống đất. Rồng đâu phải là ai khác, nó là con quỷ. Nó đưa cho họ một cái roi nhỏ và bảo :
- Các anh hãy tự đánh vào người bằng cái roi này, ở trong người các anh sẽ tuôn ra số tiền mà các anh cần có; các anh sẽ sống sung sướng như ông hoàng tha hồ lên xe xuống ngựa. Nhưng sau bảy năm các anh sẽ thuộc về ta.
Nó đưa cho ba người lính một quyển sách và bảo ký tên vào đó. Nó lại nói thêm :
- Lúc đó, ta sẽ ra cho các anh một câu đố, nếu giải được thì các anh sẽ được tự do và thoát khỏi quyền lực của ta. - nói xong con rồng bay đi.
Ba người lính bắt đầu sử dụng cái roi. Họ có nhiều tiền, họ đi may quần áo sang trọng và đi chu du thiên hạ. Ở đâu họ cũng sống vui vẻ và xa hoa, lên xe xuống ngựa, ăn uống thỏa thích, nhưng họ không làm điều gì xấu. Thời gian trôi qua rất nhanh, và bảy năm sắp qua. Hai người lính cảm thấy tim thắt lại vì sợ hãi. Trong khi đó, người thứ ba vẫn rất lạc quan. Anh nói :
- Các cậu ạ, đừng sợ ! Tớ có phải là đồ ngu đâu ! Tớ sẽ giải được câu đố !
Họ cùng đi ra cánh đồng, ngồi xuống. Hai người kia mặt mày rầu rĩ. Lúc đó, có một bà già đi tới. Bà hỏi tại sao họ buồn thế.
- Dào ôi ! Cụ biết thì có ích gì cho cụ đâu ? Dù sao cụ cũng không giúp gì được cho chúng tôi !
- Biết đâu đấy ! - cụ trả lời – các anh hãy tin ta, hãy kể ta nghe nỗi lo lắng của các anh !
Họ kể với bà cụ là đã thành người hầu của quỷ trong bảy năm. Nó đã cung cấp cho họ tiền tiêu tha hồ, nhưng họ đã cho nó chữ ký của họ; họ sẽ thuộc hẳn về nó nếu sau bảy năm, họ không giải được một câu đố. Bà già nói :
- Nếu các anh muốn ta giúp đỡ, thì một người trong các anh phải vào rừng. Anh ta sẽ đến một tảng núi bị sập, nom như một cái nhà. Anh ta phải vào trong nhà ấy và sẽ được giúp đỡ.
Hai người lính buồn rầu nói :
- Có làm việc đó cũng không đi đến đâu cả, rồi họ ngồi ỳ ra.
Người thứ ba luôn luôn vui vẻ, đứng dậy đi vào rừng. Anh ta đi mãi cho tới khi đến cái nhà ở tảng núi sập. Trong nhà có một bà cụ ngồi như phỗng đá. Đó là người bà của con quỷ. Cụ hỏi anh ở đâu đến và muốn gì. Anh kể cụ nghe những việc đã qua. Vì anh được lòng bà cụ nên cụ thương hại anh và hứa sẽ giúp anh. Cụ nhấc hòn đá to che lối vào một cái hầm và bảo :
- Anh hãy trốn vào đấy. Anh sẽ nghe thấy mọi lời nói. Hãy bình tĩnh và đừng có bị kích thích. Khi rồng về, ta sẽ hỏi nó về câu đố. Nó sẽ nói hết với ta. Còn anh, anh hãy lắng nghe các câu nó trả lời.
Đến nửa đêm, rồng về và đòi ăn. Bà nó dọn ra bàn ăn rượu và đồ nhắm để nó vui lòng. Họ cùng nhau ăn uống. Trong khi nói chuyện, bà nó hỏi nó về các chuyện xảy ra trong ngày và nó đã chiếm được bao nhiêu linh hồn.
- Hôm nay, cháu không gặp may – nó trả lời – nhưng cháu đã bắt được ba thằng lính chắc chắn cháu sẽ chiếm được linh hồn những thằng này.
- Ba người lính à ? – bà cụ hỏi – đó là những trai tráng. Có thể chúng nó sẽ thoát khỏi tay mày.
Con quỷ nói với giọng khinh miệt :
- Chúng thuộc về cháu mà. Cháu sẽ cho chúng một câu đố mà chúng không giải được.
- Câu đố thế nào ? – bà hỏi.
- Để cháu nói bà nghe : ở biển Bắc bao la có một con mèo biển chết, nó sẽ được mang rán và cháu sẽ cho chúng ăn. Một cái xương sườn cá voi sẽ dùng làm thìa và một cái móng ngựa cũ rỗng làm cốc cho chúng uống rượu vang.
Khi con quỷ đi ngủ, người bà nhấc hòn đá lên, cho người lính ra
- Anh đã nghe thấy hết chưa ?
- Thưa cụ, rồi ạ - anh lính nói – cháu đã biết kha khá và cái đó sẽ giúp cháu.
Anh lính trèo qua cửa sổ không một tiếng động, và vội vã đi tìm các bạn. Anh kể cho họ nghe là người bà đã giăng bẫy lừa con quỷ thế nào và anh đã học được cách giải câu đố. Cả bọn đều vui vẻ, mặt mày hớn hở, cầm roi đánh vào người và tiền vung ra khắp bốn phía.
Bảy năm đã trôi qua. Con quỷ mang quyển sách đến, chỉ cho họ những chữ ký và bảo :
- Ta sẽ dẫn các anh xuống địa ngục, ở đấy các anh sẽ được ăn một bữa. Nếu các anh đoán được sẽ được ăn thịt gì rán, thì các anh sẽ được tự do và được giữ lại cả cái roi nữa.
Lúc đó, người lính thứ nhất bắt đầu nói :
-Ở biển Bắc bao la, có một con mèo biển chết. Chắc chắn nó sẽ được rán cho bọn tôi ăn.
Con quỷ nổi giận nói :
-H ừ …hừ … - và hỏi người lính thứ hai – nhưng các anh lấy gì làm thìa ?
- Một cái sườn cá voi sẽ dùng làm thìa.
Con quỷ tái mặt đi, lại làu nhàu ba lần :
- Hừ …hừ…hừ… - và bảo người lính thứ ba – anh có biết là cái gì sẽ dùng làm cốc uống rượu vang không ?
- Một cái móng ngựa cũ dùng làm cốc rượu vang cho chúng tôi.
Quỷ liền bay đi và thét to lên. Nó không còn quyền lực gì đối với ba người lính. Còn ba người lính thì giữ được cái roi, họ làm ra rất nhiều tiền tùy theo ý muốn và sống sung sướng đến hết đời.
Chưa tháo ba lô:
Trong những năm tháng chống Mỹ, bộ đội hành quân chủ yếu là đi bộ. Hành quân từ Bác vào Nam có khi mất tới 6 tháng trời. Bữa đó một đơn vị hành quân vào Nam phải qua một bến phà mà phà vừa rời bến. Bộ đội phải tản ra để chờ ở một làng gần bến phà. Có một chiến sỹ quê ở đó nhà chỉ cách mấy trăm mét liền xin phép về qua nhà và hứa sẽ có mặt khi phà sang bên này. Về tới nhà may quá chỉ có vợ ở nhà, anh lính vừa kéo tay vợ vừa nói:
- Vào đây nhanh em ơi , phà sắp sang sông rồi.
Vợ chồng quấn quýt bên nhau cho bõ những ngày xa cách. Một lúc sau vợ hỏi chồng:
- Sao anh viết thư về nói là hồi này làm việc vất vả, ăn uống kham khổ gầy đi mấy cân làm em lo quá. Vậy mà giờ em thấy anh vẫn nặng như trước mà có phần còn nặng hơn đó. Toàn nói dối em thôi.
Anh lính nhà ta ngớ ra khi nghe vợ trách nhưng sực hiểu ra điều vợ thắc mắc anh cười và nói với vợ
- Em nhìn anh này... Hiiii anh vẫn đang đeo ba lô .
Nấu canh quả vải:
Có một cô vợ bộ đội chồng đi xa quanh năm. Cô ở nhà với đứa con trai 5 tuổi.Xa chồng nhưng có con nên chị cũng cảm thấy đỡ buồn và đỡ cô đơn. Những lúc hai mẹ con ăn cơm thằng bé cứ dạng 2 chân ra lại mặc quần đùi nên chim cò cứ phơi hết cả ra. Thấy vậy mẹ trêu con :
- Kìa con, con phơi hết cả ra ngoài kìa. Mẹ lại xẻo đem nấu canh bây giờ.
Thời gian sau chồng về vào dịp mùa hè nóng bức. Khi ăn cơm cũng chỉ có hai vợ chồng và đứa connên anh cũng chỉ mặc quần áo lót cho mát. Vô tình thế nào nó lại trật ra ngoài một bên trông giồng quả vải. Cậu con trai nhìn thấy nhưng không dám nói gì. Còn vợ nhìn thấy nhắc khẽ chồng.
- Kìa Bố cu . Quả vải của Bố cu lộ ra hết rồi.
Con trai mặt tỉnh bơ buông ra một câu.
- Xẻo, đem nấu canh. À mà nấu mẹ ăn chứ con ứ ăn canh nấu bằng "Quả vải " của Bố đâu
Bộ đội có đuôi
Câu chuyện này có thật và xảy ra vào dịp sau ngày giải phóng Miền Nam được ít ngày. Sau giải phóng chúng tôi được điều về một cù lao có 3 xã ở huyện Chợ Mới tỉnh An Giang. Nơi đây bà con chưa hề được tiếp xúc với Việt cộng mà chỉ được Mỹ Nguỵ tuyên truyền là " Việt cộng 7 người đu cọng đu đủ không gãy, Việt cộng có đuôi.."
Chúng tôi về nơi đây với bà con thì đây là lần đầu tiên bà con tiếp xúc với Việt cộng bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Ban đầu họ còn bỡ ngỡ, e ngại chưa biết Việt Cộng thế nào?, có ác không?. Qua vài ngày tiếp xúc bà con nhất là chị em thấy bộ đội hiền khô mà còn dễ thương nữa.Vậy là mọi người đều quý bộ đội. Ngày ấy do điều kiện chưa ổn đinh nên chúng tôi đóng quân tại nhà dân và nấu cơm ăn theo tiểu đội. Các em gái giúp chúng tôi nhiều lắm. Toàn tranh nấu cơm và con đi chợ mua đồ ăn dùm chúng tôi. Đến bữa các em ngồi đầu nồi bới cơm cho chúng tôi. Chúng tôi mời em ăn cùng thì em nói:
- Thôi để em bới cơm cho các anh, nhìn các anh ăn ngon là em vui rồi.
Vài bữa sau lại có thêm cậu bé chừng 10 tuổi cũng quanh quẩn bên chúng tôi. vừa nói vừa cười nhưng tay thì cứ sờ vào chỗ xương cụt của mọi người. Thấy vậy ăn xong tôi lấy một loong đồ hộp cho em bé và gọi riêng ra một chỗ rồi dỗ em nói ra sao lại làm như vậy ? ngần ngừ một chút rồi em nói :
- Mấy chị biểu em sờ xem các anh bộ đội có đuôi hay không?
Hiiiiii. Biết rồi nhé. Một thoáng ý nghĩ lươt nhanh trong đầu .Tôi dặn dò cậu bé thật kỹ nên trả lời các chị thế nào khi các chị đó hỏi và rồi rủ mấy anh em ra nghe lén mấy chị em hỏi cậu bé. Thấy cậu bé ra mấy chị con gái quây quanh em nhỏ rồi hỏi ríu rít:
- Nè em, em sờ chưa?
Cậu bé
- Dạ rồi
Mấy chị:
- Bộ đội có đuôi không ?, nó như thế nào ?
Cậu bé:
- Dạ bộ đội có đuôi, đuôi vừa to, vừa cứng , vừa dài nhưng...
Mấy cô gái:
- Nhưng sao em ?
Cậu bé:
- Nhưng đuôi của các anh bộ đội mọc ở đằng trước
Ấy vậy mà sau ít ngày ở cùng bà con nhiều chị em đem lòng thương bộ đội chẳng biết vì màu xanh áo lính hay vì cái " Đuôi " nữa.
3- Bộ đội chăm chỉ , vừa khôn lại vừa giỏi:
Đây là những nhận xét mà bà con tặng cho bộ đội sau đợt hành quân dã ngoại vừa luyện tập kết hợp với làm công tác vận động quần chúng. Một đơn vị vào vùng sâu vùng xa ở Miền núi, một số thì ở nhà dân còn một số thì ở tập trung ở mấy gian nhà công cộng của xã. Nơi đây cũng là nơi nấu ăn tập thể của đại đội.
Bộ đội được khen là chịu khó là vì cứ sáng ra mấy chú bộ đội cứ tranh nhau cái chổi để quét nhà. Cái chổi rơm ngắn khi quét cứ phải khom lưng vậy mà các chú quét rất kỹ, rất lâu và lại tranh nhau quét cơ chứ. Hốm sau cô chủ nhà xinh đep mua thêmmấy cái chổi nưa để các chú khỏi tranh nhau. Vậy là các chú quét cả nhà, quét cả cổng cả ngõ., Các chú chăm chỉ thật.( Hiiiiii Chỉ có cánh lính nhà ta mới hiểu . Vì chịu khó khom lưng quét nhà chỉ vì không thể chỉnh " Đồng hồ" về sáu giờ rưỡi )
Còn danh hiệu khôn và giỏi thì do các cháu thiếu nhi quan sát khi các chú bộ đội ngủ trưa mà phát hiện ra và về khoe với Mẹ:
- Mẹ ơi các chú bộ đọi khôn và giỏi lắm. Buổi trưa nóng như vậy các chú ngủ trưa chú nào cũng bẻ một cái que chống cao cái quần đùi để gió lùa vào cho mát. Con cũng bắt chước các chú bẻ que chống quần mà bị que đâm vào thịt đau không chịu nổi. Vậy mà các chú bộ đội chịu được, vẫn ngủ ngon lành, các chú giỏi thật.
Bộ đội thèm ăn ốc:
Có anh bộ đội rất thích ăn ốc luộc. Nhất là những mẻ ốc vặn luộc cho thêm chút muối, lá chanh và có bát nước mắm có pha thêm gừng ớt để nhâm nhi chén rượu thì tuyệt vời
Nghe tin chồng sắp về chị vợ chuẩn bị một mẻ ốc thật ngon để khi về anh ăn cho đỡ thèm. Khi chồng về vợ chông và đứa con quấn quýt thật hạnh phúc. Bố ôm con vào lòng tay âu yếm vuốt tóc con và lấy quà cho con. Chị vợ thò cứ quanh quẩn hết ra nhà ngoài lại vào trong buồng. Chợt nhớ ra điều gì chi gọi con trai và nói:
- Con ơi, Bố thích ăn ốc, con đi luộc ốc để lát nữa bố nhắm rượu. Nhớ cho muối và ít lá chanh con nhé. à mà con pha luôn nước chấm , làm nhanh con .
Cậu con trai vâng lời mẹ rời lòng Bố và đi làm ngay. Thằng bé giúp Mẹ nhiều nên thạo việc .Trong khi chờ ốc chín thì pha luôn nước chấm lại còn rót cho Bố một cốc rượu bày sẵn. Xong rồi con lên nhà gọi Bố :
- Bố ơi ốc chín rồi , bố ra ăn ốc đi Bố.
Anh bộ đội chắc đang mơ màng khi nghe con gọi vẫn tưởng mình ở đơn vị. Nghe tiếng gọi giật mình và theo phản xạ tự nhiên nhảy ngay ra ngoài. Hiii trời ơi nhìn kìa... anh bộ đội không một mảnh vải che thân. Con trai Bố như vậy nói với bố:
- Ôi Bố thích ăn ốc có khác. " cái ấy "của Bố cũng thèm ốc đến chảy cả "nước dãi " ra kia kìa.
Thôi chuyện vui còn nhiều nhưng để hẹn dịp khác nhé các bạn.
Mời các bạn tám cho vui để giảm áp lực trong công việc và cuộc sống
Chúc các bạn tuần mới vui vẻ
GIỐNG TỐT
Ngày xưa các cụ nhà mình còn nghèo lắm. Cuộc sống chủ yếu là cấy lúa trồng khoai để sống. Hàng năm thường thiếu ăn đến vài tháng. Cuộc sống đã vậy nói chi đến có " Của ăn của để " như bây giờ.Vì vậy cũng chẳng có gì để lại cho con cho cháu. Con gái đi lấy chồng cũng thường là tay không chứ mong gì " Của hồi môn ". Nhà nào khá lắm thì cũng gọi là " Cấp vốn " cho con gái con lợn , con gà. Chuyện là có cô con gái mới đi lấy chồng ở làng bên. Hôm đó về thăm bố mẹ đẻ, được bố mẹ " Cấp vốn " cho một con lợn con khoảng chục ký.Giữa trưa nắng oi ả cô gái cắp thúng đựng con lợn về nhà chồng. Đồng không một bóng người, vắng vẻ đến dễ sợ. Bỗng cô gái vấp ngã làm rơi cái thúng đựng con lợn. Lợn tuột dây buộc chạy lung tung cô gái không sao đuổi được.
May quá dưới mương nước có người đàn ông đang đánh dậm. Cô gái nói to
- Bác ơi bác, giúp em với , bắt hộ em con lợn chứ không em chết mất. Cả cơ nghiệp vợ chồng em trông vào đó đấy.
Thương cô gái anh đánh dậm nhảy phắt lên bờ . Ai dè nhảy mạnh quá cái quần lót đang mặc đứt tung đũng quần nên nó trở thành cái váy cộc.Khi anh chạy " Cái váy " cứ tung lên và xoè ra trông như váy của nữ diễn viên " Vũ ba lê ". Nhưng khác là cái "của thừa " của anh ta cứ nảy lên nảy xuống như cần gạt chỉ của máy khâu. Anh ta ngượng quá định thôi nhưng lại thương cô gái mất lợn thành ra cứ cố đuổi để bắt giúp lợn. Cuối cùng thì anh cũng tóm được con lợn giúp cô gái
Nhưng đến khi trói con lợn anh một đầu gối đè vào con lợn, một chân chống xuống đất thì "của thừa " lại phơi ra trước mắt cô gái.Cô gái xấu hổ mắt nhắm lai. Thấy vậy người đàn ông một tay che cái kia một tay giữ lợn rồi nói
- Cô mở mắt ra đi mà trói lợn, tôi che "nó "lại rồi.
Cô gái mở mắt rồi lấy dây trói lợn nhưng cứ lóng ngóng mãi mà không xong. Cứ quấn dây được một vòng thì con lợn giẫy lại tuột ra. Cô lo cứ như thế này chắc lợn chết mất. Cô mạnh dạn nói:
- Thôi bác, bác bỏ tay ra để em lấy tay em che cho bác cũng được. Bác trói giúp hộ em chứ cứ thé này lợn chết mất.
Người đàn ông bỏ tay ra, Cô gái lấy tay che chỗ ấy cho người đàn ông. bàn tay mềm mại, mát rượi làm người đàn ông rừng rực trong người nên trói lợn cũng lóng ngóng. Mỗi lần con lợn giãy giụa làm cánh tay cô gái động đậy nên có khác gì cô ấy làm khó cho anh ta chứ đâu còn là che nữa.
Cuối cùng con lợn cũng được trói và cho vào thúng để cô cắp về nhà.
Xong việc cô gái cám ơn rối rít người đàn ông và nói:
- Em cám ơn bác nhiều lắm. Không có bác hôm nay chắc em mất con lợn.Ôi ước gì con lợn giống nhà em nó cũng tốt như "Con giống " nhà bác. Nó chẳng ăn uống cái gì mà sao nó lớn như thổi ấy bác nhỉ?
Người đàn ông không nói gì, chỉ đỏ mặt và chạy thẳng về chỗ để cái dậm. Cái váy cộc của anh lai theo gió tung lên.
CHUYỆN KỂ TRÊN ĐƯỜNG CÔNG TÁC
Bữa đó mấy anh em chúng tôi cùng đồng chí Chủ nhiệm Chính trị (CNCT )đi công tác ở Quân khu. Đường xa nhưng xe tốt ,đường nhẵn nên xe êm cứ như ru ngủ vậy. Vì CNCT mới được điều về cơ quan và đây cũng là lần đầu chúng tôi đi công tác cùng anh. Chưa hiểu tính tình " SẾP " thế nào nên chúng tôi giữ ý tứ,đi mấy chục cây số mà chẳng ai nói năng chuyện trò gì. Như đọc được tâm lý và suy nghĩ của chúng tôi Anh quay lại hàng ghế sau nơi mấy anh em chúng tôi ngồi và nói:
- Này , các cậu. Có câu chuyện gì vui kể đi, cười vui một chút cho đỡ buồn ngủ. Chứ đi như thế này mình ngủ đã đành nhưng lái xe mà ngủ gật thì nguy hiểm lắm.
Chúng tôi nhìn nhau , dưa dẩy nhu nhưng chẳng anh nào kể và nói
- Khoản này bọn em kém lắm " Sếp " ạ.
CNCT cười và nói:
- Tớ lạ gì cánh lính chính trị. Chắc là còn thăm dò thái độ của tớ nên các cậu giữ kẽ vậy thôi chứ gì ? Thôi vô tư đi , cứ vui là được.
Vẫn không ai chịu xung phong kể chuyện . Thấy vậy CNCT nói:
- Thôi thế này nhé. Tớ gương mẫu "xuất vốn" trước. Sau đó mỗi cậu phải kể một câu chuyện vui. Thống nhất vậy nhé;
Thấy anh vui vẻ chúng tôi đồng tình và giục :
- Nhất trí như vậy, " Sếp" kể trước đi.
CNCT cười và bắt đầu kể. Câu chuyện này chúng tôi đã được nghe nhiều. Đó chính là câu chuyện "5 xu hơn một hào " mà các cụ ngày trước vẫn kể . Chỉ khác là anh nói giá tiền theo buổi thời nay. Thế mới gọi là " Rượu cũ bình mới " như vậy cũng vui.
Chuyện kể về đôi vơi chồng nhà kia. Bữa đó vợ mua cho chồng hai ngàn tiền rượu. Anh chồng uống vừa tầm nên đêm đó anh " Động viên " vợ thât đằm thắm, chị vợ thật hài lòng và cảm thấy hạnh phúc. Chĩ nghĩ bụng: Anh ấy có rượu vào khoẻ hẳn ra. Thôi mai mình phải cho anh ấy khoẻ gấp đôi mới được.
Nghĩ như vậy hôm sau chị mua cho chồng 4 nghìn rươu và giục
- Anh uống hết đi cho khoẻ.
Ai ngờ uống say quá anh ngủ tít chẳng nhớ đến vợ. Chị vợ bực mình và nghĩ
- Quái lạ? Chẳng lẽ 2 nghìn hơn 4 nghìn. Đã thế từ nay trở đi chỉ cho uống 2 nghìn rượu thôi.
Kể xong CNCT nói
- Thế đấy các cậu. Đi xa về thăm vợ nhớ có đừng uống kiểu 4 nghìn là không xong với các bà ấy đâu.
Cả xe đều cười vui CNCT quay lai nói với Trưởng ban tuyên huấn:
- Đến lượt cậu đó, Cái anh " Chỉ nói mà không làm "
Trưởng ban tuyên huấn cười và nói :
- Vâng em kể cả nhà nghe một câu chuyện ở bể bơi. Bữa đó mấy thằng bọn em về Hà Nội. Uống chút rượu nên nóng quá. Chiều đên mấy thẳng rủ nhau ra bể bơi bơi cho mát và thư giãn. Bể bơi khá đông,già trẻ,trai gái có đủ. Dưới bể bơi nhìn lên thấy một cô gái trẻ phải nói là đẹp. Nhất là dáng người. Cô đang khởi động, uốn éo rồi còn xoạc hai chân dài ra như làm xiếc. Ai ngờ xoạc thế làm cái đũng quần tắm đứt tung ra. Cái quần thành hai mảnh gió thối cứ hất tung lên. Vì bất ngờ cô vội lấy tay che phía trước. Về chỗ để đồ bắt buộc phải đi qua chỗ dành riêng cho đàn ông tắm.Nhưng tình thế không cho cô có cách lựa chọn và cô phải đi dần về phía bể bơi dành cho đàn ông. Đến đây thấy một tấm biển hướng dẫn cô vơ vội và che vào chỗ quần rách phía trước và đi về khu để quần áo. Ai ngờ cánh đàn ông cười rộ lên. Cô nhìn xuống tấm biển cô đang che thấy dòng chữ
CHỖ NÀY DÀNH RIÊNG CHO CÁC QUÝ ÔNG
Xấu hổ quá cô lật ngược tấm biển mà cô đang che rồi đi tiếp. Ai ngờ tiếng cười của cánh đàn ông lại to hơn . Cô nhìn xuống thì trời ơi...thấy tấm biển ghi
CHỖ NÀY SÂU 1,8 MÉT.
Lần này xấu hổ đến mức bão hoà .cô lẳng tấm biển chạy về khu thay quần áo, Mặc cho 2 mảnh quần tắm tung bay theo gió.
Cả xe lại cười ngất. CNCT quay lại tôi và nói
- Đến lượt cậu đó, nhà Tổ chức.
Tôi nói.
Em kể cả nhà nghe chuyện một Bí thư chi bộ. Ở vùng sâu vùng xa ở tỉnh Nghệ An, nghe đâu giáp Lào. Ông này có con là bộ đội đóng quân ở Hà nội.Con về thăm nhà, thương Bố chẳng được đi đến đâu nên đưa Bổ ra Hà Nội cho biết và thăm Lăng Bác. Đúng dịp đơn vị tổ chức liên hoan nhân ngày 22/12. Nhà khách đơn vị có nhưng dành riêng cho mấy anh Lính có vợ lên thăm. Bọ phaỉ ngủ ở giường con trai cùng nhiều chiến sỹ. Còn con trai thì ngủ với anh em ở giường khác. Đêm đến Bọ chợt thấy người lay mình và nghe tiếng nói:
- Dậy đi gác, đây súng, đồng hồ , sổ gác đủ nhé.
Thấy vậy Bọ hỏi
- Bọ lên chơi mà cũng phải gác à?
Người lính kia nói:
- Ăn được thì gác được.
Thôi đành , Bọ dậy ôm súng, đèn pin, đồng hồ ra gác. Nhưng sau đến lượt ai, nó ngủ ở đâu ai mà biết được. Vậy là Bọ gác luôn một mạch đến sáng cho các con ngủ.
Sáng hôm sau con trai vẫn phải đi hoc.dặn Bọ
- Bọ mệt cứ ở nhà ngủ bù đi. Mai ngày nghỉ con đưa Bọ đi thăm cảnh Hà Nội.
Ở nhà buồn mà chẳng ngủ được . Bọ lang thang ra phố. Ngắm cảnh phố phường tấp nập vui mắt quá. Thấy cụm đèn xanh, đèn đỏ Bọ hỏi một anh thanh niên.
- Chú ơi chú. Đèn đỏ là chi, đèn xanh là chi ?
Biết cụ là người lần đầu ra phố anh thanh niên nói :
- Đèn xanh để quần chúng đi, còn đèn đỏ là để đảng viên đi.
Nhìn dòng người tấp nập trên đường Bọ nghĩ:
Quái lạ, Ở giữa Thủ Đô đông đúc thế này mà cấm thấy bóng dáng Đảng viên nào. Ở quê mình nhỏ vậy mà có tới mấy chục Đảng viên. Mình là bí thư chi bộ phải chấp hành nghiêm luật lệ giao thông.
Nghĩ vậy Bọ chờ đèn đỏ bật lên, dòng người dừng lại . Bọ hiên ngang qua đường. Cảnh sát chay ngay đến giữ Bọ lại và đưa vào mé đường lập biên bản. Thấy vậy Bọ nói
- Các chú mần chi rứa ? Bọ không chỉ là đảng viên mà còn là bí thư chi bộ nữa đó nhé.
Cảnh sát sau khi hỏi đầu đuôi câu chuyện liền gọi điện về đơn vị của con trai. Đơn vị cho xe ra đón Bọ về.
Cả xe lai cười. Thế đấy làm lãnh đạo mà không hiểu biết tai hại đến chừng nào.
Quay lai Trưởng ban dân vận CNCT nói .
- Đến cậu rồi đó cái anh đi sâu vào quân quàn chúng.
Trưởng ban dân vận kể :
- Trước khi về cơ quan này em ở đơn vi. Thủ trưởng đơn vị có cô con gái khá xinh đã đên tuổi lấy chồng. Phải cái là tính cháu nó hơi đỏng đảnh. Thủ trưởng cũng lo và tâm sự " Mình cũng mong có thằng nào rước nó càng sớm càng tốt. Để nó ở nhà cứ như để bom nổ chậm.Không khéo có ngày nó đưa mình vào tình thế bố vợ phải đấm thì nguy "
Từ suy nghĩ vậy anh quản con gái khá chặt. Tối đến không được ra khỏi nhà. Ai đến tìm hiểu thì cửa nhà rộng mở, chè, thuốc, thậm chí cả rượu bia sếp chiều hết. Cứ ngồi bàn , bật điện sáng tìm hiểu thoả mái. Thế rồi con gái anh cũng yêu một sỹ quan trẻ mới ra trường. Thấy vây anh mừng và quý " Chàng rể tương lai " lắm. Bữa đó anh mời sỹ quan trẻ ở lai ăn cơm chiều cùng gia đình. Bố con chúc nhau vui lắm. Thấy " Bố vợ" vui vẻ chàng sỹ quan trẻ ướm lời :
- Bố ới , Bố cho con và em Loan sang nhà ban một chút Bố nhé.
Đang tươi cười là vây mà anh nghiêm nét mặt nó với con rể tương lai :
- Không được. bao giờ anh cưới nó anh đưa nó lên trời tôi cũng không ý kiến gì. Còn bây giờ thì .... Ở NHÀ
Anh sỹ qua trẻ năn nỉ;
- Bố ơi , Bố ngại gì chứ ? Chúng con yêu nhau chân chính mà Bố.
Sếp nói :
- Ừ đúng rồi. Anh chị yêu nhau chân chính có gì phải ngại cơ chứ. Thậm chí còn hoan nghênh mới phải. Nhưng tôi ngại là ngại cái tình yêu " Chân phụ " của anh thôi.
Cả xe lại cười
LÃO GIÀ CHẾT TIỆT
Lão đi như lăn vào ngõ nhỏ nhà Tú. Nói là lăn nhưng nhìn lão chẳng ai đoán lão đã gần bảy sịch. Cái đầu trọc lốc, bóng nhãy không phải vì rụng tóc mà vì cắt thế cho model. Lần nào cũng thế, bước chân của lão chưa chạm tới cửa thì đã nghe thấy tiếng lão oang oang:
- Đù mẹ, anh với mụ Kim ly hôn rồi, ra tòa rồi Tú ạ.
- Anh Hoàn đấy à – Tú nói vọng ra- Em tưởng anh chị đã ly hôn xong mấy tháng rồi cơ mà.
- Ừ đấy, đù mẹ, thế là tòa nó giải quyết rồi. Em nhìn đây, giấy của tòa đấy. Phải chi cho mụ ấy hơn hai tỷ, nhưng chưa bán nhà được nên cứ để mụ ở riêng một tầng. Mai mốt anh bán mảnh đất bên Gia Lâm, trả cho mụ ấy đi cho khuất mắt – lão Hoàn nói như bắn súng liên thanh.
- Khiếp gì mà căng thẳng thế, mấy năm ly thân còn được, chưa gì anh đã muốn tống khứ người ta đi như thế sao? – Tú tìm cách chọc giận lão – Hay là lại muốn rước cô dâu mới về nhà?
- Khà khà, cô em chỉ được cái lúc nào cũng nói đúng. Đù mẹ, anh mới có một con hay lắm em ạ. Mới hai bảy thôi.
- Ối giời ơi, thế là lại có em khác à, anh cứ thay đổi người tình như thay áo ấy, giỏi thật đấy, gần bảy mươi mà vẫn cưa được em hai bảy, bái phục, bái phục! – Tú thực sự ngạc nhiên, thốt lên. – Nói em nghe xem nào, sao lại cưa được nó, em tò mò quá rồi đây.
- Em đếch biết gì, lấy hai mươi mới khó, chứ hai mươi bảy ở quê thì có mà thiếu giống gì? Cái ngữ ấy là ế chỏng, ế chơ rồi, anh không lấy thì có ma mới lấy nó. Ha ha. Mà sướng lắm em ạ. Anh về Bắc Giang thăm bố mẹ nó rồi, đù mẹ, bố vợ còn trẻ hơn cả con rể tương lai. Hai thằng uống rượu với nhau, bố nó bảo anh: “- Thôi, ông cũng đã nhiều tuổi, liệu mua cái nhà độ 5-7 trăm triệu ở gần đây, già rồi, ốm đau bệnh tật lúc nào không biết, ở gần chúng tôi còn dễ bề trông nom”
- He he, thế anh trả lời bố vợ thế nào? – Tú vặn vẹo.
- Thì còn thế nào nữa, mai mốt anh kiếm mảnh đất gần đấy, xây cái nhà nho nhỏ ở đấy, khi nào không đi lại được thì về đó mà ở thật chứ còn gì. Ở đây, ngày nào anh cũng phải lọ mọ một mình. À mà này – Lão già bỗng dưng chuyển giọng – Sáng nay nó nhắn tin cho anh thế này có ghê không? “Anh ơi, anh chịu khó cắm tí cơm nóng mà ăn, không có em bên cạnh anh phải giữ gìn sức khỏe nhé” Anh nhắn lại nó: Ừ, anh cảm ơn em, con bồ câu bé nhỏ của anh, anh phải sống để còn yêu em chứ?” Tú biết không? Anh nói thế mà nó tin ngay đấy. Đù mẹ, con nhỏ khờ quá, cũng tội. Thôi có lẽ anh phải cưới nó thôi, sống mãi một mình thế này chán quá rồi.
- Ôi giời, lúc nào anh đến đây anh chẳng bảo sẽ cưới… Còn con nhỏ hôm trước anh nói thì thế nào?
- Con ấy à, nó đang là sinh viên, anh nghĩ cũng không nên làm khổ nó, tương lai của nó còn dài. Anh cho nó một triệu, chở đi bệnh viện giải quyết, thế là xong. Đường ai nấy đi rồi.
- Thôi anh, cuộc sống mỗi con người đều khác nhau mà. Anh liệu mà lo ổn định đi chứ - Tự dưng Tú thấy lão thật đáng thương.
Bao nhiêu năm làm việc, lão đi công tác hết nước này tới nước khác, mang về nhà cho vợ con biết bao nhiêu tiền bạc, chỉ mỗi tội gặp gái là mắt sáng rực như đèn ma chơi trong lễ hội Halloween. Mụ Kim - vợ lão cũng thuộc dạng sư tử xuyên lục địa nhưng cũng chẳng thể làm gì lão. Nhà có con ô –sin nào là lão cũng kéo vào phòng xơi tái cả. Kim khâu mãi cũng phải oằn, mụ Kim không chịu đựng nổi đòi ra tòa. Thế là hai đứa con gái về phe mẹ, coi lão chẳng ra một thứ người gì. Còn thằng con trai, không hiểu nguyên do gì tự dưng đâm xe máy vào cột điện chết.
Chẳng biết lời Tú nói lão có thấm tí nào không nhưng thấy lão lại phe phé cười rổn rảng.
- Chuyến này anh nhất định cưới con nhỏ này. Các em phải đến đấy nhé. Mê lắm Tú ạ, mỗi sáng thức dậy đọc tin nhắn của nó, anh thấy đời trẻ lại. Chẳng còn thấy cuộc đời bon chen, âm mưu hay nổi loạn gì nữa. Thôi anh đi đây, đi chụp mấy kiểu ảnh độc chỉ có ở “made in Hoàn”. Khà khà. Dạo này không thấy bọn nó ỉa bậy ở hồ Hale nữa Tú ạ.
Tú nhìn theo lão Hoàn đi khuất khỏi ngõ, miệng lẩm bẩm: Đúng là lão già chết tiệt!
Quê mùa lũ
Thứ bảy - 23/10/2010 16:54
Mụ Huê đi rồi, còn mình lão Tá chơ vơ trước quang cảnh nhớp nháp, ngập ngụa. Cơn gió ở đâu thổi tới, làm những chiếc lá tre vàng úa bay lả tả trước mặt lão. Lão thở dài cái sượt, rồi đứng dậy chắp tay sau đít, quay vào nhà trong chẳng hề hay biết nhà bà Tuất đang nhìn theo lão với ánh mắt thương hại, miệng lầm bầm: Rõ khổ, chả biết đến bao giờ lão Tá mới sướng…
Cả một vùng đồng màu, cây đậu tương, cây lạc chết rũ, nằm ngổn ngang vì cơn mưa lịch sử lớn nhất trong vòng 30 mấy năm trở lại.
Đường làng sền sệt một thứ bùn đất nhão nhoẹt, mấy con gà mất chuồng thấy người chạy tớn tác. Nhà nào nhà nấy cố gắng thu dọn hậu quả của cơn mưa kéo dài đã khiến cho cả vùng mênh mông những nước là nước. Ôi chao, nước ở đâu mà lắm thế? Nghe đâu nhà ông Khiết mất trắng ao tôm sắp thu hoạch. Khóc dở, mếu dở. Nhà bà Tuất lanh tanh bành vì có mỗi hai thân già ở nhà, nước ngập gần tới nóc, cái hôm mưa nhiều nhất ở Hà Nội người ta đổ xô đi úp cá giữa đường ấy, ông bà Tuất được hàng xóm quắp sang uỷ ban xã ngủ nhờ. Giờ bà Tuất về, vừa dọn dẹp vừa tranh thủ đảo mắt sang nhà lão Tá.
******
Lão Tá già lắm rồi, răng rụng hết, người gầy như que củi mục, lọm khà lọm khọm. Lão thuộc dạng “Grăngđê” và cổ hủ nổi tiếng cả xã. Nhà lão không phải nghèo, có mấy đứa con đều có vai vế sống trên thành phố cả, có đứa ở Sài Gòn mỗi tháng gửi về cho lão tới mấy triệu. So với ở quê như thế lão thuộc thành phần có của ăn của để rồi. Mấy người con bao nhiêu lần bảo sửa sang lại nhà cửa cho lão mà lão không chịu, đành chấp nhận để con cháu về thăm ông bà trong cảnh méo mó, xẹo xọ.
Lão có bà vợ cũng nổi tiếng không kém lão. Bà Tá đâu như kém lão Tá vài tuổi, nhưng xem ra sức khoẻ còn “tráng” lắm. Bà Tá chưa bao giờ biết xỏ chân vào đôi dép, mặc dù con gái bà ở thành phố đã sắm dép cho bà không biết nhiều lần. Tối, đến giờ đi ngủ, bà Tá ra giếng trước nhà làm gàu nước đổ ào vào hai bàn chân cho sạch đất rồi vào giường, trước khi cho đôi chân lên giường, bà không quên xoa chân vào nhau cho đất rụng xuống nền nhà rồi mới yên tâm “kéo gỗ”. Chẳng biết có phải vì bà uống rượu như “chảo chớp” không mà bà cứ đặt lưng xuống giường là không ai gọi được.
Hôm trước, lão Tá xếp hai cái can 5 lít màu trắng ở trong buồng. Một can quất ngâm từ dạo Tết, một can là rượu trắng - lão để dành khi nào con trai lão ở thành phố về có cái để đãi bạn bè chòm xóm. Thế mà lão bắt gặp bà vợ đang ngửa cổ dốc can rượu vào mồm, tu lấy tu để. Lão ức quá hét:
- Á à, con mẹ này, giỏi! giỏi!
Bà Tá bị bắt quả tang run lập cập:
- Tôi… tôi… uống nước quất, không tin ông ngửi mà xem.
Lão Tá còn lạ gì, lão không thèm nói thêm nửa lời, lôi can rượu mà lão đã đánh dấu lên xem.
- Can rượu không ai uống mà vơi đi già nửa hả? Lão điên tiết, kéo tay mụ vợ nghiện ngập nhốt vào buồng bên kia nhà, khoá trái lại rồi bảo:
- Hừ. Cho mày ngồi đấy mà uống!
Báo hại cho bà Tá, cả ngày hôm đó nhịn suông, đói không chịu nổi phải moi gói mì tôm trong thùng mì hôm trước con dâu mua cho để hai ông bà và bác Huê ăn dần, bà cứ thế bẻ mì tôm ra mà ăn sống. Mãi cho đến tận chiều, bà Tá lên cơn thèm thuốc lào mới nghĩ ra một kế, bà ghé mắt qua khe cửa thì thào gọi mụ Huê lại:
- Tao mót đái lắm, mày lấy trộm chìa khoá mở cửa cho tao ra.
Mụ Huê tưởng thật, lật đật bước nhanh những bước của mụ khoèo đi tìm chùm chìa khoá.
Lại nói về mụ Huê, mụ năm nay gần sáu mươi tuổi, chính là con gái đầu của lão Tá. Hồi bé, mụ bị xuất huyết não nặng lắm. Cả tuần liền chữa chạy mà mụ vẫn mê man không thấy cựa quậy gì. Rồi người ta thấy mụ không thở nữa, tim ngừng đập. Vậy là đành cho mụ vào áo quan đưa ra đồng. Thế mà chẳng biết sao, khi người ta chuẩn bị khiêng áo quan đi thì nghe thấy tiếng động, rồi tiếng ú ớ trong áo quan. Mụ làm cho những người khiêng quan tài một phen hết hồn. Vậy đấy, mụ đã sống lại một cách khó hiểu. Mụ sống lại, không phải thuốc thang gì mà rất khoẻ. Chỉ phải tội, từ đó chân tay mụ khoèo, nói không rõ tiếng…
Thiên hạ đồn rằng, mụ bị như thế là số kiếp của mụ, mụ gánh tất cả bệnh tật và những điều không may mắn cho cả nhà lão Tá, có mụ nên con cái lão Tá mới thành đạt như vậy được.
Vì con người mụ như thế, nên việc chăm sóc bản thân rất khó khăn. Mụ vẫn có thể ngồi nấu cơm nhưng khi bắc nồi lên bếp phải có người bắc hộ, mụ chỉ có thể ngồi canh và cho thêm rạ vào. Hôm nọ, cái nhà anh Tráng bảo mụ: “Thà mụ chết từ hồi ấy thì có lẽ mụ cũng đỡ khổ, mà anh em cũng đỡ khổ”.
Nếu mụ may mắn có người mẹ khá hơn bà Tá thì chắc mụ cũng không đến nỗi hôi rình, bẩn thỉu như bây giờ. Phải cái, bà Tá lúc nào cũng say, không say rượu thì say thuốc lào… Lão Tá lùa đánh cho nhiều bận rồi, mà bà vẫn chứng nào tật nấy, cứ rình lão Tá không để ý là đi…
Lão Tá vác cái ghế nhựa ra ngoài vườn, lão ngồi ngay trước lối đi vào và trên tay cầm cái quạt nan. Lão thường ngồi đó để coi chừng hai mẹ con bà Tá. Vì cái tội bà Tá và mụ Huê rất hay lẻn qua lối này đi chơi. Chẳng biết lão ngồi đó lâu chưa mà lúc này lão đang ngủ gật. Cái quạt trên tay sắp rơi hẳn xuống đất. Đầu lão nghẹo hẳn sang một bên, cái miệng he hé để lộ hàm răng rụng mấy chiếc. Có một con nhặng bỗng bay vèo qua mũi lão, khiến Lão giật mình tỉnh dậy. Lão lấy cái quạt đập đập vào chân, rồi lớn tiếng:
- Con cái Huê đâu?
- Tôi… đây! - Tiếng mụ Huê ngọng nghịu.
- Tìm ngay con mụ kia về cho tao!
- Tôi… đi tìm… từ nãy, mà… bà ấy… đi đâu…
- Mày đi tìm ngay, không tìm được thì tao cho mày một trận đấy.
- V.. ơng…
Mụ Huê tấp tểnh đi, lão lại ngồi phe phẩy cái quạt, trông đến là thiểu não. Một mình lão lúc nào cũng phải để mắt tới hai mụ đàn bà không bình thường. Có lẽ không phải ai cũng chịu đựng được như lão. Lão còm nhom ngồi lọt thỏm giữa mảnh vườn tan tác sau cơn mưa lớn trông chắc khác gì bức tranh biếm vừa bi, vừa hài.
Lão Tá bỗng nhìn thấy bóng ai vừa lướt nhanh chỗ đụn rơm, vội vàng rời khỏi cái ghế đi lại phía ấy. Không ngờ, đập vào mắt lão là cảnh bà Tá đang nằm còng queo bên đụn rơm, mắt lờ đờ… Lão chẳng hiểu chuyện gì, hoảng quá, vọng sang nhà chị Vẻ ú ớ:
- Chị Vẻ ơi! Chị Vẻ! Cứu! Cứu…
Một loáng sau chị Vẻ đã có mặt, chị ấn vào huyệt nhân trung của bà Tá day day mấy cái, chị sờ chân, sờ tay bà xem còn ấm hay lạnh. Tự nhiên chị bật cười trong khi lão Tá còn chưa kịp hoàn hồn. Rồi chị lôi trong túi áo bà ba của chị ra một lọ dầu gió, xức một ít ra tay, bôi vào hai thái dương, vào mũi bà Tá. Khi toàn thân bà Tá đã sực mùi dầu gió Trường Sơn, chị Vẻ mới ới mấy thằng thanh niên hàng xóm bế thốc bà Tá vào nhà.
Lão Tá đi trước, lần tìm trong túi chiếc di động gọi điện cho con trai ở thành phố:
- Mày về xem mẹ mày làm sao?
Lão không để ý đám thanh niên với nhà chị Vẻ cứ thì thầm, cười rúc ra rúc rích. Mãi hôm sau Lão mới rõ sự tình là nhà chị Vẻ biết bà Tá say thuốc lào, sợ lão chửi nên phải bôi dầu gió đánh lừa lão.
- Lúc bà Tá nằm chỏng gọng, người bà ấy toàn mùi thuốc lào thôi, hóa ra ông cụ bảo bà ấy đi tìm bác Huê, nhưng bà ấy lại đi hút thuốc lào - Nhà chị Vẻ nói với anh con trai lão vừa hớt hải phi xe máy về.
Anh con trai hỏi han dăm ba câu, thấy mẹ có vẻ đã ổn bèn thu xếp về thành phố ngay. Sự ồn ào cũng theo anh về thành phố, ngôi nhà quê lại trở về với sự yên lặng cũ rích vốn có bấy lâu.
Sáng nay, trời hinh hỉnh khô ráo một tí. Lão Tá lại ngồi trước trước mái hiên nhà, đưa đôi mắt già nua nhìn quanh xem bà vợ cùng cô con gái già có lẻn đi chơi không… Trời đất vẫn ung ủng đầy nước. Kiểu này còn mưa nữa chứ chả bỡn đâu.
- Con cái Huê đâu? Bảo mẹ mày ra dọn cái vườn cho sạch sẽ đi tí!
- Bà ấy… đi đâu… mất rồi ấy, từ nãy tới giờ… tôi … kho ông… thấy”.
Lão gầm lên:
- Mày đi tìm ngay mụ ấy về, nhớ là đừng có đi luôn đấy.
Mụ Huê đi rồi, còn mình lão Tá chơ vơ trước quang cảnh nhớp nháp, ngập ngụa. Cơn gió ở đâu thổi tới, làm những chiếc lá tre vàng úa bay lả tả trước mặt lão. Lão thở dài cái sượt, rồi đứng dậy chắp tay sau đít, quay vào nhà trong chẳng hề hay biết nhà bà Tuất đang nhìn theo lão với ánh mắt thương hại, miệng lầm bầm: Rõ khổ, chả biết đến bao giờ lão Tá mới sướng…
Sau một thời gian dài phục vụ trong quân ngũ, một chàng lính biên phòng được nghỉ phép về thăm người yêu. Trong buổi tối đầu tiên gặp nhau, chàng lính nói: "Em yêu ,tối nay hai đứa mình đánh giáp lá cà nhé?".
Người yêu chàng ta nhỏ nhẹ đáp: "Vâng ạ! Mình đánh giáp lá cà cho đến sáng nhé! Nhưng anh không được lùa đại quân vào thành đâu đấy".
chàng lính hỏi lại: "Làm sao vậy cưng?".
"Vì em chưa muốn có lính mới", cô gái trả lời người yêu với ánh mắt ngại ngùng.
Anh lính đáp: "Được rồi. Em đừng lo. Anh vẫn sẽ đưa quân vào thành và khi nào có pháo lệnh, anh sẽ lùa quân ra ngoài biên ải!".
Đổi gác
Một anh lính nọ phải ra trận vào ngày hôm sau nên tối hôm đó, anh thủ thỉ cùng vợ: "Em à! Ngày mai anh đi rồi, gắng chiều anh một đêm nhé !!!".
Khi làm "chuyện lớn" xong, anh thầm nghĩ mình đi ra trận không biết bao lâu mới về mà vợ lại xinh đẹp, trẻ trung nên đâm ra lo lắng. Anh bèn vẽ một người lính đứng vác súng trên đùi vợ cho yên tâm.
Anh đi chẳng bao lâu thì người vợ trẻ không chịu được cảnh buồn tẻ vì thiếu chồng nên rước tình nhân về nhà. Anh tình nhân làm xong chuyện lớn, xóa đi người lính canh súng và vẽ lại một người lính khác cũng đứng vác súng.
Ngày anh chồng trở về, hí ha hí hửng gặp lại vợ mình. Tối đó, anh xem lại rồi quay sang hỏi vợ: "Em à! Người lính lúc trước anh vẽ đứng vác súng tay phải mà, sao bây giờ vác bên tay trái?"
Cô vợ lúng túng trả lời: "Thì vác tay phải mỏi quá, phải đổi sang tay trái chứ sao! Cái đó gọi là đổi gác, anh ạ".
Còn nữa nè:Quên tháo ba lô
Đơn vị hành quân ngang qua làng. Một anh lính tranh thủ lúc chờ phà tót ngay về nhà, gặp vợ ở cổng vội kéo tuột vào buồng:
- Nhanh lên bu nó, đơn vị sắp sang sông rồi!
Tới giữa cơn "mây mưa vần vũ", vợ thì thào:
- Sao bảo ở đơn vị đói ăn lắm mà em thấy mình vẫn... nặng như xưa?
- Thôi chết! Anh quên chưa tháo ba lô
Chuyện vui lính Hà Nội
Một lần tôi và thằng Tuấn có biệt danh Tuấn cao bồi vì nó hay kể chuyện phim cao bồi(Hồi đó phim này làm gì có trên rạp.Nó có bố làm bên an ninh văn hóa nên mới hay được xem} rủ nhau đi đánh cá bằng bộc phá để cải thiện cho anh em.Nó bên làm đường khác trung đoàn tôi ( làm cầu ) nên thuốc nổ dễ kiếm ,còn tôi lúc nào cũng thủ mấy cái kíp nổ ( Kíp nổ quản lý rất chặt,phát bao nhiêu kíp đếm bấy nhiêu tiếng nổ, thuốc thì dễ ăn gian ).Do tôi ở chốt nên có nhiều võ để kiếm kíp, thường xin từ nhiều nguồn. Thằng này là dân nội thị không biết bơi nên bây giờ mới có chuyện vui để kể .
Hôm đó là ngày chủ nhật, sẵn xe quá giang,hai thằng đi về chỗ đơn vị tôi đóng quân ( cách chốt tôi 6km ) chủ yếu là để tiện khi mang cá về cho gần .Nó biết một chỗ thỏa mãn yêu cầu tôi đưa ra, nó còn nói cách đó không xa có rừng dâu gia. (thằng này chưa bao giờ đánh cá,chủ yếu là ham vui ). Do lén bỏ chốt nên tôi không qua đơn vị mình ,sợ phát sinh phiên phức.Khi có cá bảo nó thò mặt gọi mấy thằng trong đơn vị thẩy cá cho bọn nó là xong .
Ai dè chỗ nó có thể lội qua được lại là bến tắm của chị em,tưởng giữa trưa chẳng có ma nào tắm, nào ngờ có gần một trung đội lính nữ (khoảng 20 cô ) đang ngâm mình đùa giỡn.Nếu không băng qua đươc chỗ này thì phải đi chừng 3km rồi bọc lại mới tới điểm.
Thấy hai thằng tôi đứng tần ngần trên đường ,mấy cô gọi giọng Quảng bình :
- Hai eng xuống tắm tiên với bọn ni cho vui
- Cho tụi anh mượn đường qua suối, tí nữa hái dâu gia về cho , tụi anh nhắm mắt,bọn em hụp xuống là xong đảm bảo không nhòm ngó gì đâu .-tôi cất lời
- Hai eng người Hà nội hả- một cô lên tiếng hỏi
- Ừ... Làm ơn. cho tụi anh qua đi- Tôi trả lời.
Chả hiểu các cô ấy nói gì với nhau, rồi cả đám cười vang.Một cô cất tiếng ngâm :
- “Hết nước rồi mới nghiêng thùng
Hết trai Hà nội mới dung các nơi “( Đây là câu thơ phổ biến cả tuyến đường ).
- Ngâm xong cô cười như nắc nẻ, giơ cao tay ngoắc ngoắc hai thằng tôi và nói:
- Hai eng cứ xuống đây, có gì tụi em bồng qua suối.
- Động tổ quỉ rồi - Bụng tôi bảo dạ. Liếc thằng Tuấn tôi hỏi : “Tính sao mày,không lẽ lội bộ tiếp “
- Cứ xuống xem tụi nó dám làm gì- Hắn trừng mắt nhìn xuống.
- Thôi đi cha, bữa trước thằng Hải con ( dân Ngọc Hà ) tưởng các em làm đường chỉ bạo mồm xà vô giỡn, bị cả chục em quay lại bấu véo đủ chỗ, thiếu điều chắp tay lạy mới được tha ( Thằng này phải nói : “ Em chắp tay xin các chị tha cho “ như yêu cầu của các cô mới đươc buông tha ).Mày ngon thì xuống , tao hổng dám(Ở miền trung nên tôi cũng hay nói theo kiểu miền trung ).
- Trai Hà nội gì mà nhát thế.- thấy hai thằng vừa trao đổi vừa nghiêng ngó, một cô trêu ghẹo
- Mấy eng chỉ dám núp bụi lau nhìn tiên tắm thôi, xuống đây các chị cho ngắm thoải mái.Cô khác cất lời khiêu khích.
- “Lũ quỉ sứ này ,dám thách heo ăn cám , thách chó ăn phân”. Chạm tự ái tôi bắt đầu động nộ, bụng nghĩ kế chơi lại.
- Đi..! - tôi kéo tay thằng Tuấn , quay trở ngược phía thượng nguồn. ( Không đi xuôi như lộ trình ).
- Đ. Mẹ ,lội bộ tiếp hả ? Sao lại đi ngược ?
-Không , để tao cho lũ này một bài học !
Biết tôi là thằng nhiều trò , vì có lần nó dại dột lấy nguyên cây thuốc nổ ( 3,8kg ) của đơn vị tôi bỏ ngay vào cốp tôi ( cốp giống như cái hòm dính dưới đầu giường có khóa thường chứa tư trang –lính nào cũng có ). May tôi phát hiện kịp , xử lý nhanh không thì nằm boong ke (nhà giam quân đội ) mấy tháng. Bữa đó thiếu điều tôi cho nó một phát đạn vì cái tôi ngu xuẩn của nó khiến tôi suýt chết oan. Thằng này cao 1.75m nặng chừng 70 kg. Được cái nó biết lỗi, sau thường hay kiếm màu cho tôi.
- Mày tính làm gì ? Đi một đoạn nó hỏi.
Tôi nói cho nó biết trò của mình, rồi dặn dò kỹ nó kế hoạch thực hiện.
Thấy tụi tôi bỏ đi các cô nói lớn với nhau cốt để tụi tôi nghe :
- Mấy eng ni chỉ dám bú tí mẹ thôi, tí các chị đây thì chẳng dám.- Nói xong các cô cười khanh khách., vang cả suối.
- Cứ cười đi mấy em, chút nữa thôi rồi biết ! - Vừa đi tôi vừa nhủ thầm
Đi vừa khuât tầm mắt , tụi tôi băng ngang xuống suối, đưa mắt ước cự ly, tôi lấy dây cháy chậm cắt môt đoạn vừa đủ thực hiện ý đồ và cắt miếng ni lông,lượm mấy cành khô nhỏ bọc lại ( làm như gói thuốc nổ đánh cá vậy ) . Sau đó tôi cắm sợi dây cháy chậm vào gói đó châm lửa,thả xuống nước, cho nó xuôi về bến tắm.
- -Đ. Mẹ… mày làm gì thế, lỡ chết người thì sao- tôi la thật lớn ,rồi vừa chạy về phía các cô ,tôi vừa khoát tay chỉ cái bọc có cái dây cháy chậm đang xì khói trôi từ từ .
Ôi chao ! cảnh tưởng thật quá đã, tất cả các cô la hét rầm trời, vọt hết lên bờ chẳng có gì trên người cả.
- Tất cả nằm xuống , nó nổ bây giờ đấy- Tôi la lớn rồi làm bộ nằm xuống. Thằng Tuấn từ phía sau vọt lên băng xuống nước, lội sang .
Tôi cũng vọt người theo, vừa chạy vừa cười ha hả.
Các cô vẫn còn nằm, có cô còn khóc hu..hu.., chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì bọn tôi đã tới bờ bên kia. Lên bờ tôi quay lại nói lớn :
- Làm gì có thuốc nổ các em. Biết dân Hà nội chưa, hôm nay được xem tiên chạy trên bờ sướng quá. Cám ơn đã cho mượn đường,.chịu khó chờ anh mang dâu gia về ,mỗi cô hai trái nhé. Nói xong tôi lăn ra cát cười cho đã.
Biết bị lừa thế là các cô chu chéo bằng tiếng Quảng. Nghe cứ như chim hót. Tất nhiên là chửi rồi.
Không thịt được
Truyện vui của Trọng Bảo
Một anh người dân tộc vùng cao bán mấy con ngựa mua được một cái xe máy Trung Quốc. Anh phóng bon bon từ bản ra chợ, từ chợ về nhà. Một hôm người ta thấy anh ngồi ủ rũ bên đường cạnh cái xe máy hỏng. Một người hỏi:
- Xe pháo của anh thế nào thế?
- Ồ! Nó... chết máy rồi!
- Sao lại chết?
- Chả biết! Có lẽ nó ốm từ hôm qua mà tao không biết! Hôm nay đột nhiên nó hụ lên một lúc rồi tắt thở im bặt không chịu đi nữa!
- Vậy làm sao bây giờ?
- Thế mới rầy rà chứ! Ngựa chết tao còn thịt mà ăn được, xe chết... đành nhịn đói thôi! Biết thế này tao cưỡi trâu còn khỏe hơn...
Phá "bom"
Trước buổi học quân sự ở một trường đại học, một cô gái bỗng ngơ ngác hỏi các bạn:
- Chúng mày ơi! Cái H. hôm nay không đi tập quân sự à?
Cô bạn thân của H. nói:
- Nó... nó đi phá "bom" rồi!
- Chết ! Chúng mình đã học đến khoa mục này đâu, sao nó liều thế!
Cô bạn thân H. bảo:
- Nhưng là... quả "bom" ở trong bụng nó đã gần một tháng rồi cơ mà, không phá thì phải nghỉ học à?
Đã vượt lâu rồi
Truyện cười của Trọng Bảo
Đơn vị tổ chức "hành quân huấn luyện dã ngoại giúp dân" ở một vùng đồng bào miền rừng núi cao. Khi một chiến sĩ trẻ đang ra sức giải thích, vận động, thuyết phục bà con dân bản bài trừ hủ tục lạc hậu, ăn ở vệ sinh, phòng bệnh, cho con em tới trường học chữ để "miền núi tiến kịp miền xuôi" thì một ông lão người dân tộc đứng bật dậy hỏi:
- Ơ! Tao cứ tưởng miền núi đã tiến kịp rồi vượt miền xuôi lâu rồi chứ?
Anh chiến sĩ còn đang ngơ ngác chưa biết trả lời ra sao thì ông lão nói tiếp:
- Ồ! Thế thì các cháu bộ đội không biết rồi! Cán bộ huyện tao nó vừa mới mua được hai cái xe ô tô đẹp lắm, xe có cả "máy ướp lạnh", nghe nói ngồi bên trong mát như ngồi trong nhà... đá ấy nhé. Mỗi cái ô tô ấy bằng cả 500 con trâu mộng của bản tao đấy. Có ô tô đẹp nên cán bộ huyện tao nó đi nhanh lắm, nó đuổi kịp rồi vượt miền xuôi lâu rồi các bộ đội ạ!
Bí mật quân sự!
Truyện vui của Trọng Bảo
Ông bố lên đơn vị huấn luyện chiến sĩ mới thăm cậu con trai vừa nhập ngũ. Đang giữa buổi tập, ông ngồi chờ ở quán nước gần cổng doanh trại. Lúc gặp con, ông hỏi chuyện:
- Đơn vị ta quân số có đông lắm không, chỉ huy là ai?
- Ấy... ấy... - Cậu con trai vội xua xua tay: - Bố là dân thường không nên hỏi những như vậy vì đây là các vấn đề thuộc bí mật quân sự. Dù là bố con cũng không thể nói lộ quân số, tên người chỉ huy đơn vị cho bố biết được!
- Thế sao bố thấy bà chủ quán ở cổng doanh trại có cả một cuốn sổ ghi danh sách đơn vị ta cơ mà? Bố thấy tên mày ghi ở đầu trang nhất đấy!
- À... à...- Cậu con trai ấp úng: - Đấy là cuốn sổ ghi... nợ của quán đấy bố ạ...
Thói quen
Truyện vui của Trọng Bảo
Chiến sĩ Quang bắn giỏi được đơn vị cho về phép thăm nhà. Quang liền diện bộ quân phục mới tinh đến ngay nhà người yêu. Bất ngờ Quang gặp ông bố cô gái vốn là cựu chiến binh đang chuẩn bị đi họp bạn chiến đấu, quân phục chỉnh tề, huân huy chương gắn đầy ngực từ trong nhà đi ra. Quang vội đứng sững lại lúng túng giơ tay chào:
- Báo... báo cáo... tôi... tôi có mặt ạ!
Ông bố cũng vội chào đáp lễ và hỏi lại:
- Đồng chí đến nhận nhiệm vụ hả! Đồng chí thuộc đơn vị nào! Tại sao không đem theo vũ khí, trang bị?
Cô gái vốn là một chiến sĩ tự vệ từ trong nhà chạy ra cười như nắc nẻ:
- Giải tán! Từng đồng chí đi làm nhiệm vụ của mình!
Tiêu diệt sạch rồi!
Truyện vui của Trọng Bảo
Ngày Tết, cô gái đưa người yêu về ra mặt bố mẹ. Về đến cổng, cô dặn:
- Anh phải cẩn thận đấy! Bố em là rất khó tính, khi cụ nói gì anh cũng phải chịu khó mà nghe nhé!
- Em cứ yên tâm! Anh là lính trinh sát, gan lỳ phải biết.
- Đừng chủ quan! Mà anh nhớ là phải nhường nhịn bố, không được cãi lại đâu nhé! Và nhớ là cố thuyết phục bố em cho chúng mình yêu nhau nhé!
- Đã bảo em cứ yên tâm mà lại...
Cô gái đưa anh lính trinh sát vào giới thiệu với bố xong dặn:
- Anh cứ ngồi nói chuyện với bố, em đi chúc Tết quanh xóm một lát rồi về đón đưa anh lên đơn vị nhé?
- Được rồi, em cứ đi đi...
Cô gái đi chúc Tết đến gần trưa mới về nhà. Vừa về đến cổng cô đã thấy anh lính đang lảo đảo đi ra. Cô vội hỏi ngay:
- Tình hình thế nào hả anh! Bố có đồng ý cho chúng mình yêu nhau không?
- Không rõ, vì chưa thấy bố nói gì... Nhưng mà em yên tâm, anh... anh... đã tiêu diệt sạch cả bố, chú và anh trai em rồi!
- Ôi trời... em đã nói anh phải hết sức kềm chế... thế mà anh lại đánh nhau với nhà em à?
- Không phải... mà là tại bố em đấy! Đang nói chuyện thì lại đem... rượu ra, gọi chú em sang, một lúc sau thì anh trai em về nữa. Cả ba xúm lại đấu rượu với anh. Nhưng anh chấp hết... anh tiêu diệt cả ba luôn... Khi bố, chú và anh trai em gục hết rồi anh vẫn không sao. Anh bảo: "Về cái khoản rượu thì bố cứ phải gọi con là "cụ" bố ạ!". Bố em cũng phải công nhận: "Đúng là về khoản uống rượu thì tôi xin được suy tôn anh là "cụ" đấy!".
Cô gái chỉ còn biết giơ tay lên trời chịu nhì anh người yêu!
Vận động vợ trước
Truyện vui của Trọng Bảo
Anh dân quân được giao nhiệm vụ phụ trách công tác hậu cần khi diễn tập. Anh liền về gọi vợ ra giúp nấu nướng. Chị vợ tong tả bế cả thằng con bé tý ra trận địa giúp chồng nấu nướng. Đang chỉ huy đơn vị chợt thấy ở khu hậu cần có tiếng trẻ con kêu khóc ầm ĩ, trung đội trưởng chạy đến quát:
- Tại sao có phụ nữ và trẻ con ở đây thế này?
- Đây là vợ và con của em ạ!
- Sao lại đưa cả vợ con lên trận địa trong lúc đang diễn tập chiến đấu thế này hả?
Anh dân quân nhanh trí:
- Báo cáo! Đây là... nhân dân đến giúp đỡ dân quân trong chiến đấu đấy ạ!
- Hả?
- Thì chính trung đội trưởng nói chiến tranh Việt Nam là chiến tranh nhân dân, trong diễn tập phải hết sức chú ý vận động nhân dân giúp đỡ lực lượng vũ trang là gì! Em cứ phải vận động vợ con mình trước rồi mới đến bà con làng xóm chứ!
Con sợ lắm
Truyện vui của Trọng Bảo
Hai vợ chồng đang ngồi nói chuyện thì chú bé hỏi xen vào:
- Điểm tựa là thế nào hả bố?
Anh chồng vốn nguyên là cựu quân nhân hào hứng giải thích:
- Điểm tựa tức là nơi ta dựa vào đấy để chiến đấu, để công tác ấy mà... Cũng như mẹ chính là "điểm tựa" của cả nhà. Nhờ có mẹ mà bố con mình có cơm ngon canh ngọt hàng ngày để bố đi làm, con đi học đấy!
- Nếu mẹ mà là "điểm tựa" thì... con sợ lắm!
- Tại sao thế? - Bà mẹ hỏi. Thằng con bảo:
- Vì hôm nọ con nghe thấy khi nói chuyện với một cô rất xinh, bố bảo mẹ chính là một... con "sư tử" hung dữ. Tựa vào mẹ... eo ôi... con sợ lắm...
Bãi chiến trường
Truyện vui của Trọng Bảo
Cô giáo kể chuyện cho các em học sinh nghe:
-... Sau cuộc chiến đấu ác liệt, hầu như không còn cái gì là nguyên vẹn cả. Bãi chiến trường ngổn ngang những đổ vỡ, sứt mẻ, gẫy vụn, ở đâu đó có những tiếng rên rỉ, kêu cứu của những người bị thương... Chiến tranh là như vậy đấy các em ạ!
Cô giáo chưa dứt lời, một cậu bé đã giơ tay xin phát biểu ý kiến:
- Thưa cô! Nếu thế thì từ lâu em đã biết... "bãi chiến trường" là như thế nào rồi. Em đã tận mắt nhiều lần nhìn thấy bãi chiến trường rồi cô ạ!
Cô giáo vô cùng ngạc nhiên:
- Em còn bé thế làm sao lại biết...
Cậu bé khẳng định:
- Những gì cô kể giống hệt như cảnh nhà em tối hôm qua, sau khi bố mẹ em cãi nhau...Học cụ
Truyện vui của Trọng Bảo
Hai chiến sĩ nuôi quân trao đổi với nhau. Một người hỏi:
- Này! Sao cậu vội vã vào làng xin về nhiều giềng, mẻ và lá mơ thế! Để làm gì vậy?
- Thì... ngày mai lớp quân y bước vào huấn luyện thực hành rồi đấy.
- Huấn luyện thực hành thì cần gì những thứ này?
- Cần lắm chứ! Ngày mai cánh học viên quân y huấn luyện thực hành môn giải phẫu học. Có những ba con chó làm "học cụ" đấy! Huấn luyện xong là họ chuyển ngay xuống nhà bếp cho chúng ta xử lý món dồi chó và rựa mận đấy! Hi hi...
Giúp làm sao được!
Truyện vui của Trọng Bảo
Ngày chủ nhật lên chơi với người yêu là chiến sĩ mới, thấy giữa trưa hè trời nắng trang trang nhưng vừa ăn cơm xong cả tiểu đội đã chia làm hai kéo nhau ra sân thi đấu bóng đá, cô gái liền hỏi:
- Sao các anh ấy không để đến chiều mát hãy đá bóng có phải đỡ nóng hơn không?
- Ấy! Em không biết chứ các tướng ấy thi đấu ngay để phân thắng bại còn xác định ai sẽ rửa bát đấy!
- Thế thì... - Cô gái sốt sắng: - Anh ra bảo các anh ấy vào nghỉ đi, để em rửa bát cho...
Anh chàng người yêu lắc đầu:
- Không được đâu! Sau khi xác định được ai rửa bát, các tướng ấy còn đấu tiếp để xem chiều nay ai gánh nước tưới rau rồi sáng mai ai đi xin bèo về nấu cám nuôi lợn... em giúp mãi làm sao được?!
Mong bác thông cảm
Truyện vui của Trọng Bảo
Lần đầu tiên đến thăm nhà người yêu, chàng trai phải đi vòng vèo qua rất nhiều ngõ hẹp mới đến được nhà cô. Ông bố cô gái rất vui vẻ tiếp chuyện chàng trai. Ông hỏi:
- Thế anh làm ở cơ quan nào?
- Dạ thưa bác! Cháu là lính của một đơn vị cứu hoả ạ!
- Nghề của anh cũng vất vả nhỉ?
Chàng trai phấn khởi vì ông bố cô gái quan tâm tới mình, anh cao hứng:
- Đúng thế bác ạ! Đơn vị chúng cháu phải luôn luôn sẵn sàng nhất là mùa khô thế này. - Nhìn lên mái nhà lợp lá cọ của ông, anh tỏ vẻ băn khoăn: - Đường vào đây nhỏ hẹp, ngoắt nghéo quá, khi nào nhà ta bị... cháy, đội cứu hoả của chúng cháu mà đến chậm mong bác cũng hết sức thông cảm cho ạ!.
Mừng hụt
Truyện vui của Trọng Bảo
Chuyện này xảy ra từ thời chống Mỹ. Ngày ấy bộ đội huấn luyện ở hậu phương vài tháng là hành quân vào miền Nam chiến đấu, thường gọi là đi B. Có người huấn luyện rất gần nhà, hành quân luyện tập qua cổng cũng ít khi được về thăm gia đình. Ở xóm kia có một anh bộ đội cũng huấn luyện ở một đơn vị đóng quân gần quê mình. Đêm đơn vị anh hành quân vào miền Nam chiến đấu đi qua ngay cổng làng. Khi đơn vị dừng chân lại giữa cánh đồng nghỉ khoảng một tiếng anh bèn năn nỉ xin được ghé qua nhà một lát. Tiểu đội trưởng thương người chiến sĩ của mình vừa cưới vợ được mấy hôm đã nhập ngũ nên đồng ý cho anh tranh thủ ghé qua nhà và căn dặn:
- Nhớ là chỉ có đúng một tiếng cả đi và về thôi đấy nhé!
- Vâng! Tiểu đội trưởng cứ yên tâm!
Nói xong anh đeo ba lô, súng đạn đi ngay. Đêm cuối tháng trời tối đen như mực. Về đến nhà, bằng môn tiềm nhập mục tiêu để trinh sát vừa học được, anh vượt rào vào nhà mà mấy con chó canh cổng cũng không phát hiện ra. Anh gõ cửa buồng vợ rồi thì thào gọi. Nhận ra chồng, chị vợ mừng quá ngồi dậy ra mở cửa và định gọi bố mẹ chồng dậy. Anh vội bịt miệng vợ thì thầm:
- Anh chỉ được ghé qua nhà gần một tiếng thôi! Gọi bố mẹ dậy bây giờ, đèn đóm thắp lên, hàng xóm kéo sang thăm hỏi thì... hỏng hết!
- Sao lại... hỏng ạ?
- Thì bố mẹ biết, làng xóm kéo sang còn... "chuyện ấy" còn làm gì được nữa.
Chị vợ tinh ý hiểu ngay liền kéo luôn anh chồng vào buồng. Mọi việc diễn ra rất nhanh. Chị vợ thở hổn hển vì bị đè nặng quá nhưng cũng thấy mừng thầm vì anh chồng khi ở nhà vốn gầy yếu, nhẹ cân mà chỉ sau ba tháng vào bộ đội chắc đã béo khoẻ, lên cân nhiều nên mới nặng đến thế...
Mọi việc xong xuôi, chị vợ mới thắp đèn gọi bố mẹ chồng dậy. Khi ánh đèn sáng choang chị mới giật mình nhìn chồng. Anh chồng vẫn gầy bé như hồi ở nhà. Thì ra lúc nãy do vội, anh đeo nguyên cả cái ba lô, bao gạo, súng đạn đến hơn bốn chục cân trên người nên khi bị... đè chị mới thấy nặng quá thế. "Đúng là mừng hụt" - Chị lẩm bẩm và tủm tỉm cười. Anh chồng liếc thấy nhưng không hiểu vợ cười vì việc gì nhưng cũng cứ cười theo... hi hi...
Suýt hiểu lầm
Truyện vui của Trọng Bảo
Đơn vị hành quân dã ngoại về làng Hạ luyện tập và làm công tác dân vận. Chiến sĩ An được phân công về ở nhà ông Huân. Ông Huân vừa trúng mùa, thu hoạch khá nên mua được một cái đạp mới. Là một lão nông vùng cao nên ông chưa biết đi xe đạp. An tận tình giúp ông tập đi xe nên ông càng quý An.
Sáng nay, ông Huân thồ một bao tải thóc đi xay xát. Mới tập đi xe đạp lại thồ nặng bánh xe đâm vào một viên gạch nên ông ngã chổng kềnh giữa đoạn đường vắng ven núi. Tuy đau nhưng ông Huân vẫn cố lồm cồm ngồi dậy. Chợt nhìn thấy chiến sĩ An đang nằm ở cạnh đường, ông mừng quá gọi:
- Chú An giúp bác với...
Thấy An vẫn nằm yên, ông lại gọi to:
- Chú An.. . chú An! Bác đau quá, giúp bác dựng cái xe lên với chứ!
An nhìn ông khẽ lắc đầu. Ông Huân đã đứng dậy được. Ông tập tễnh đi lại chỗ An đang nằm và hỏi vẻ bực:
- Chú làm sao thế! Thấy dân bị tai nạn mà không chịu cứu hả?
Lúc này, An đành nói nhỏ:
- Bác ơi! Cháu đã "chết" được gần nửa tiếng rồi...
Ông Huân trố mắt:
- Chết là chết thế nào, chú vẫn còn nói được cơ mà?
Giữa lúc đó thì có tiếng còi vang lên và tiếng hô: "Dừng tập!". Từ các bụi cây, bờ ruộng, các chiến sĩ ồn ào kéo ra. An vội chạy lại chỗ ông lão. Vừa giúp ông buộc lại bao thóc, An vừa thanh minh:
- Lúc nãy cháu đang trong tình huống bị "hy sinh", thấy bác ngã rồi lại ngồi dậy ngay được nên yên trí là bác chỉ bị thương thôi...
- À! Thì ra các chú đang tập trận, chú đã "chết" rồi mà bác lại cứ ngỡ chú không chịu giúp dân... Thế là suýt nữa thì bác hiểu lầm chú... Mà bác vô lý thật, người bị thương lại đi gọi người "chết" đến cứu...
Rèn luyện
Truyện vui của Trọng Bảo
Cô giáo nói với các em học sinh nhỏ:
- Các em cố gắng học tập, rèn luyện thật tốt sau này vào nhiều ngành nghề phục vụ xã hội...
Một em trai đứng dậy xin phát biểu:
- Bọn con trai chúng em sau này tất cả đều xung phong vào bộ đội ạ!
- Tại sao chứ! Các em còn có thể học và làm nhiều ngành nghề khác nữa chứ.
- Nhưng chúng em đã được... rèn luyện từ bây giờ rồi ạ!
Cô giáo chưa hiểu thì cậu bé nói tiếp:
- Hàng ngày chúng em tới lớp, đeo trên vai những chiếc cặp nặng trĩu, đầy ắp sách vở các loại có khác gì các chú bộ đội đeo ba lô tập hành quân dã ngoại đâu ạ!
- Còn con gái chúng em sẽ là nghề y tá ạ!
Một em gái vội nói. Cô giáo cũng chưa kịp hỏi lại thì nó giải thích:
- Đường phố rất bụi, lại hôi chúng em ra đường là lập tức phải đeo khẩu trang rất giống các y tá vào phòng mổ ạ!
Ngày mai là tết!
Tếtsắp đến, chúng tôi được lệnh chuyển từ nhà dân vào ở trong hang đá. Hang sâu hun hút có cảm giác như là thủng xuyên qua trái đất. Hang đá lạnh lẽo và ẩm ướt. Trung đội thông tin chúng tôi tìm chỗ ngủ gần thành hang phía bên phải cho đỡ rét. Ban chỉ huy tiểu đoàn ở khu nhũ đá lô nhô giữa hang. Ở đó có một khoảng trống để đặt một cái bàn nhỏ. Lúc sinh hoạt hội họp chung chúng tôi ngồi vắt vẻo trên các nhũ đá trong ánh đèn nhập nhoạng trông thằng nào thằng ấy giống như những tượng phật trong chùa. Tiểu đoàn trưởng quyết định cho kéo điện từ thị trấn Sóc Giang sang hang đá. Trung đội thông tin chúng tôi dùng hơn 1000 mét dây điện thoại rải qua cánh đồng bản Nà Nghiềng để đưa điện lưới về hang chỉ huy.
Khi ánh điện bừng lên cả hang đá như một cung điện hoa lệ. Những nhũ đá óng ánh phản quang tạo nên một khung cảnh vô cùng huyền ảo. Cái cảm giác lạnh lẽo chốn hang sâu bớt đi. Nhưng chúng tôi cũng không được hưởng thụ cái đẹp ấy bao lâu. Tình hình biên giới ngày một căng thẳng. Trinh sát ngày đêm bám chắc đường biên dõi theo từng động tĩnh của kẻ thù. Bộ phận thông tin của chúng tôi trừ số trực máy trong hang còn thì đều phải lên các điểm tựa tham gia xây dựng công sự, trận địa phòng ngự.
Chuẩn bị cho cái Tết sắp đến, bánh chưng được gói và nấu từ dưới bản đem lên. Mỗi người được chia hai cái bánh độ năm lạng gạo và một miếng thịt lợn luộc độ hai lạng. Bánh mứt kẹo có một ít để chung vui đón giao thừa. Tuy vậy mọi người vẫn háo hức chờ thời khắc giao thừa sang một năm mới. Ai cũng đặt niềm tin ở một năm mới có nhiều điều tốt lành. Thế mà trước tết đã xảy ra chạm súng giữa ta và địch ngay trên đường biên. Ba chiến sĩ của ta bị địch bắn chết. Họ chính là những người lính đầu tiên của đơn vị chúng tôi ngã xuống trước khi cuộc chiến tranh chính thức xảy ra. Thực ra là chỉ có hai chiến sĩ bị địch bắn chết tại chỗ. Một người bị thương nặng. Nhưng do chúng tôi không thể nào tiếp cận nơi xảy ra nổ súng để tìm kiếm, cấp cứu nên người chiến sĩ bị thương cố bò lết về phía sau. Anh bò mãi, bò mãi từ trên đồi xuống cánh đồng. Xuống đến thửa ruộng của bản Nà Sác thì anh nằm lại chờ phía sau lên chi viện, cấp cứu. Nhưng không ai biết anh đã bò được về phía sau, bộ phận trinh sát lại cứ tìm kiếm ở nơi xảy ra chạm súng. Anh chết do kiệt sức và mất nhiều máu quá. Đến nửa đêm, trinh sát mới tìm được cả ba thi thể đưa về thị trấn Sóc Giang để tổ chức tang lễ. Một không khí nặng nề hoang mang bao chùm trong đơn vị và trong các bản làng, thị trấn Sóc Giang. Có lúc chúng tôi vẫn nghĩ là chiến tranh không thể xảy ra vì ta và địch từng chung một phe cơ mà. Nhưng bây giờ thì điều ấy là không tưởng. Súng của kẻ thù đã nhằm thẳng vào ngực chúng ta rồi. Ba chiến sĩ còn rất trẻ đã ngã xuống trước một mùa Xuân. Dự lễ truy điệu ba người lính ấy về chúng tôi chả ai còn nghĩ đến tết nữa. Có nhiều ánh mắt âu lo. Giữa cái sống và cái chết ai chẳng lo lắng, hoang mang. Bởi vì ngày mai là tết rồi mà có ba người đã không còn nữa.
Sau khi nghe phổ biến nhiệm vụ của ngày mai, tôi bước ra ngoài cửa hang đi xuống chân núi. Đêm cuối năm giữa núi rừng âm u hoang vắng. Những mỏm đá ngọn cây đứng im lặng. Có lẽ núi rừng biên cương cũng đang dành một phút mặc niệm những người vừa ngã xuống chiều qua...
Một chiến sĩ trẻ ở trung đội vận tải vừa đi mai táng liệt sĩ về đang rửa chân tay dưới suối. Chợt nhìn thấy tôi, người lính ngậm ngùi nói:
- Có một anh vuốt mãi mà vẫn không chịu nhắm mắt anh ạ! Anh ấy là người trẻ nhất trong ba người bị bắn chết chiều hôm qua!
Thấy tôi im lặng không nói gì, cậu chiến sĩ trẻ lại rủ rỉ:
- Liệu chiến tranh có xảy ra không anh nhỉ! Em... em... sợ lắm! Em có làm sao thì mẹ em ở nhà cũng không sống nổi. Nhà em chỉ có mình em là con trai...
Tôi phải cố động viên người chiến sĩ mới:
- Đừng lo quá! Chiến tranh có xảy ra cũng không việc gì đâu...
Thực ra tôi cũng chỉ về chiến tranh qua sách vở. Ngày còn bé ở nhà tôi cũng đã từng đội mũ rơm đi học để tránh mảnh bom Mỹ. Quê tôi cũng đã từng bị máy bay Mỹ oanh tạc. Nhưng thực sự một cuộc chiến tranh mặt đối mặt với quân thù thì cả tôi và người chiến sĩ trẻ này đều chưa thể biết nó sẽ khốc liệt như thế nào.
Người chiến sĩ chào tôi rồi leo lên cửa hang. Ngoài thị trấn Sóc Giang có vài tiếng lẹt đẹt của pháo tép. Phía biên giới có tiếng uỳnh oàng của mìn phá đá làm công sự, tiếng những loạt đạn bắn vu vơ từ đất giặc sang đất ta. Những tiếng nổ chuẩn bị cho mùa Xuân và cho một cuộc chiến tranh đang cùng vang lên ở nơi biên giới này. Nghĩ đến những người vừa ngã xuống chiều qua, tôi chợt khẽ thốt lên: "Ngày mai là đến tết rồi. Thế mà có những đồng đội của chúng tôi đã không còn nữa. Thương quá các bạn ơi!".
Chuyện cây sắn quê tôi
Tản văn của Trọng Bảo
Quê tôi ngày ấy sao mà nghèo đến thế. Quanh năm đói kém. Ngày nào cũng đi làm ngoài đồng mà vẫn không đủ ăn. Lúa gặt về ngồn ngộn sân kho nhưng sau khi phơi khô, quạt sạch phần lớn gánh ra kho thóc của nhà nước để giao nộp. Nào là thuế nông nghiệp, là thóc nghĩa vụ nộp vào kho nhà nước để xay xát thành gạo cung cấp cho cán bộ cơ quan, lực lượng vũ trang. Phần còn lại ít ỏi thì hợp tác xã cân đối giữa các đội sản xuất. Đội sản xuất căn cứ công điểm của từng hộ gia đình để xác định định mức giá trị một ngày công, trên cơ sở đó chia thóc cho xã viên. Thường là mỗi một công được khoảng bảy tám lạng thóc. Năm nào được một cân là khá lắm rồi. Một vụ mỗi gia đình hai lao động chính, hai lao động phụ được khoảng 400 công. Trừ công dân công, công xã hội còn lại khoảng 350 công, nhân với 7 lạng thóc thì được hơn hai tạ thóc. Hơn hai tạ thóc cho bốn năm miệng ăn trong sáu tháng trời làm sao đủ được. Vì thế quê tôi ngày ấy đói quanh năm là thế.
Đói thì phải đào đất, lật cỏ mà kiếm cái gì ăn được. Quê tôi là vùng trung du, có nhiều đồi đất thấp. Ngoài thời gian lao động theo sự phân công của đội sản xuất nhiều nhà tranh thủ phạt cây cỏ vỡ hoang lấy một khoảnh đất làm nương trồng sắn. Mỗi nhà trồng độ vài ba trăm gốc sắn. Nhờ chăm sóc phân bón cẩn thận nên nhà nào cũng có thu hoạch. Sắn tươi luộc ăn. Sắn độn cơm, một hạt cơm cõng hai miếng sắn. Sắn nấu nhừ làm canh. Sắn thái lát, phơi khô để lúc giáp hạt tháng tám, ngày ba giã lọc lấy bột làm bánh ăn thay cơm. Tôi nhớ ngày ấy bố tôi thường nhào bột sắn làm bánh. Bột được nắm lại to bằng quả trứng ngỗng. Quá trình nặn bánh thì cho ngón tay chỏ vào giữa làm "nhân". Khi cái bánh được vo tròn thì rút ngón tay ra tạo thành một cái lỗ để khi hấp bánh chóng chín gọi là "bánh hỗng". Bánh sắn ăn trừ bữa ruột gan nóng cồn cào nhưng mà cũng đỡ được cơn đói.
Song cũng không phải lúc nào người dân quê tôi cũng có sắn tươi, sắn khô để ăn. Tôi nhớ một lần tôi và bố đang dọn dẹp nương sắn chuẩn bị cuốc lên đánh luống để trồng vụ mới thì ông đội trưởng đội sản xuất mò đến bảo:
- Từ năm nay gia đình ta không được trồng sắn nữa!
- Tại sao thế!
Bố tôi ngạc nhiên hỏi lại. Ônng đội trưởng giải thích:
- Trên có chủ trương công hữu tất cả các tràn nương để hợp tác xã trồng sắn cung cấp cho nhà máy tinh bột...
- Thế sao không để chúng tôi trồng. Thu hoạch được khá chúng tôi sẽ bán cho nhà máy...
- Không được cụ ơi! - Ông đội trưởng giải thích: - Chúng ta đang tiến lên chủ nghĩa xã hội, của cải, tài sản đều phải công hữu, thóc lúa, khoai sắn làm ra sau khi nộp thuế, làm nghĩa vụ với nhà nước còn lại thì sẽ chia đều cho bà con. Nếu nhà nào cũng có cái nương trồng sắn riêng tức là đã làm ăn tư hữu, là đang tiến lên tư bản chủ nghĩa đấy cụ ạ!
Ông bố tôi là người thật thà. Nghe thấy mình đang tiến lên tư bản chủ nghĩa thì hoảng. Bởi như thế là trái lại với chủ trương, đường lối đã được thường xuyên nghe phổ biến, quán triệt. Ông bảo tôi thôi dọn dẹp cái nương để cho hợp tác xã lấy làm tài sản chung. Sau khi nghe ông đội trưởng sản xuất thông báo, chả nhà nào còn dám tự đốt nương trồng sắn nữa. Tất cả các nương sắn họ đã mất công khai hoang, cải tạo đất, chăm bón đều giao cho hợp tác xã. Vẫn nương ấy, đất ấy từng nhà trồng thì sắn tốt bời bời, cây to, củ nhiều, hợp tác xã trồng thì cây chỉ to bằng cái đũa, lúc thu hoạch nhổ lên được một hai củ sắn ngắn tũn, bé tí, đem bán nhà máy không nhận đưa về chia cho bà con đến vụ trừ vào thóc. Năm cân sắn tính bằng một cân thóc. Câu nói "quy ra thóc" là có từ thời bao cấp, chính là chuyện sắn, ngô, khoai khi hợp tác xã chia cho xã viên đều được "quy ra thóc" như vậy...
Bây giờ nhớ lại chuyện ngày xưa thấy buồn cho một thời ấu trĩ. Nhiều người là xã viên hợp tác xã từng lo trồng mấy gốc sắn sẽ "tiến lên tư bản chủ nghĩa" như bố tôi, như ông đội trưởng đội sản xuất nay không còn nữa nên các cụ không biết bây giờ tiến lên tư bản chủ nghĩa không bao giờ phải đi qua những cái nương sắn ấy đâu. Riêng tôi mỗi tối phóng xe trên đường phố Hà Nội gặp một cái xe đẩy bán sắn luộc thơm phưng phức là lại bùi ngùi nhớ về cây sắn quê mình một thời nghèo khó. Và, xin bắt đầu se-ri bài trong mục "Lan man chuyện cũ" bằng chuyện về cây sắn quê tôi.
Chia cá
Tản văn của Trọng Bảo
Ngày còn bao cấp mọi tài sản đều công hữu. Hợp tác xã quản lý đất đai công cụ sản xuất, ruộng nương, ao hồ. Những cái ao, cái hồ rộng vừa là nơi chứa nước chống hạn, vừa để thả cá. Cá ở ao hợp tác xã chả cần chăm nuôi gì, nó tự ăn rong rêu hoặc "cá lớn nuốt cá bé" mà sống và lớn lên. Thường là một năm hợp tác xã tổ chức đôi ba lần đánh cá ở những cái ao chung ấy đem chia cho viên. Đó là vào những dịp ngày lễ 1-5, Quốc khánh 2-9 hay nhân dịp tổ chức đại hội xã viên.
Cá đánh lên phân bổ cho các đội sản xuất. Mỗi đội vài chục cân. Từng đội nhận đem về sân kho của đội mình tiến hành chia cá. Việc chia bôi ngày đó cũng rất tuỳ tiện. Cứ theo lệnh của ông đội trưởng đội sản xuất mà tiến hành. Cái gì dễ chia, dễ cân thì chia theo khẩu. Nhà nào nhiều khẩu thì được nhiều, ít khẩu thì được ít. Cái gì khó thì chia theo hộ, cứ bổ theo đầu hộ gia đình mà chia. Nhà ít người, nhà đông người đều bằng nhau. Cá là loại thường là chia theo hộ gia đình cho dễ. Nói vậy cũng không hẳn là dễ. Ông đội trưởng hoặc ông đội phó thường phải đích thân nhúng tay vào việc chia cá. Những con cá trôi, cá chép nhỏ thì xếp ra từng mô trước. Con to bù con nhỏ, loại ngon bù loại không ngon. Đội sản xuất của tôi có hai mốt hộ gia đình. Cá được chia làm hai mốt mô. Những con cá to thì phải chặt xẻ ra từng miếng chia vào các phần. Mô nào vớ phải cái đuôi hoặc cái đầu thì dứt khoát phải đổi con cá trôi, cá chép to hơn đặt vào đó cho công bằng.
Chia xong ngắm nghía chán thấy tương đối đều, ông đội trưởng mới gióng gọi tên đại diện từng hộ vào nhận từng mô, phần cá. Mọi người đứng xúm xít xung quanh thường nhăm nhăm trông phần nào hơn hơn một chút là bốc lấy. Nhiều khi cũng cãi vã hay nói cạnh nói khoé nhau. Ngày ấy nghèo, thiếu thốn đủ thứ, cái cảm giác phần của mình nhiều hơn phần nhà khác cũng tạo nên một tâm lý phấn chấn.
Tôi nhớ nhiều lần được bố bảo đi nhận cá. Do vần tên bố tôi gần cuối bảng chữ cái nên thường phải nhận phần cuối cùng. Có lần vớ phải cái đầu cá mè to tướng xách về, bố tôi bảo: "Nấu nồi canh dấm đầu cá càng ngon!". Bố tôi bổ đôi cái đầu cá ra làm thật sạch. Tôi cắt mấy quả chuối xanh tước vỏ thái mỏng cho vào nồi canh cá cho đỡ tanh. Nồi canh đầu cá mè nấu với tương mẻ rau xương xông toàn xương là xương nhưng cả tháng trời toàn ăn cơm rau có tý chất tanh cũng thấy ngon miệng.
Ngày ấy, các loại khác như thịt lợn, thịt bò, nước mắm, rượu mùi, muối ăn, chè bồm cũng đều chia như thế. Cái sân kho hợp tác xã từng chứng kiến bao nhiêu lần chia bôi ồn ào của thời bao cấp. Bây giờ viết lại chuyện cũ lòng lại thấy ngậm ngùi xa xót về một thời thiếu thốn, gian lao. Nhưng cái thời đói kém triền miên ấy nhưng sao mà tình làng nghĩa xóm ấp áp, yên bình đến thế!
Đưa trâu đi bình
Tản văn của Trọng Bảo
Vào hợp tác xã nông nghiệp mọi công cụ sản xuất đều là của chung. Hợp tác xã công hữu trâu bò rồi giao lại cho từng hộ gia đình chăn dắt. Đội sản xuất sẽ điều động trâu bò cho các lao động cày bừa, làm đất, trục lúa khi cần. Hàng năm, các đội sản xuất đều tổ chức "bình trâu bò". Tức là đưa trâu bò tập trung lại để đánh giá xem nó như thế nào. Béo, gầy, già, non, còn tiếp tục để cày bừa hay sẽ thải loại làm thực phẩm bán cho cán bộ có tem phiếu.
Trước mỗi lần "bình trâu" các gia đình đều lo lắng, chăm sóc cho trâu bò thật cẩn thận. Nhà nào nuôi trâu bò béo khoẻ sẽ được biểu dương. Năm nào hợp tác xã được mùa, thu hoạch khá còn được thưởng nữa. Phần thưởng là vài cân thóc, xông xênh hơn thì là một cái khăn mặt, bánh xà phòng giặt 72% của Liên Xô. Mà ngày ấy có được một cái khăn mặt bông, bánh xà phòng giặt thật là quý giá. Nhà nào mà để trâu bò gầy yếu, không đảm bảo việc cày bừa thì sẽ bị phê bình, nhắc nhở trong cuộc họp của đội sản xuất. Thậm chí còn bị trừ công điểm chăn nuôi. Tôi nhớ không nhầm thì mỗi vụ nhà nào giữ trâu bò sẽ được 50 công. Nhà nào để trâu bò ốm, chết sẽ bị phạt. Lo nhất là chăm sóc không cẩn thận khi bình, trâu bò sẽ bị điều ngay cho hộ khác nuôi. Ban bình xét gồm đại diện ban quản trị hợp tác xã, đội trưởng và thư ký đội sản xuất.
Khi còn nhỏ tôi hay theo bố mẹ đưa trâu đi bình. Trâu bò tập trung hết ra bãi cỏ ở đầu làng. Ban bình xét đi đến từng con trâu, con bò của từng nhà để đánh giá. Họ xác định luôn giá trị bằng tiền của con trâu, con bò ấy một cách nhanh chóng. Nhiều nhà nuôi trâu bò cái đẻ được bê, nghé cũng phải đưa ra bình. Nếu bê nghé đủ tuổi sẽ được bình và giao ngay cho gia đình nào chưa có trâu bò nuôi. Nhà có bê, nghé sẽ được hợp tác xã trả công chăn nuôi bằng tiền, hoặc thóc. Số tiền và thóc chả đáng kể vì những con bê, nghé này đều do bò trâu của hợp tác xã đẻ ra, hộ gia đình chỉ có công chăm sóc mà thôi. Tôi còn nhớ như in những ánh mắt tiếc nuối buồn bã của những người nông dân có con bê, con nghé mà mình đã chăm bẵm bấy lâu bị điều cho nhà khác nhận nuôi. Nếu nhà nào muốn giữ lại con bê, con nghé để nuôi thì lại phải chuyển những con trâu bò bố mẹ cho nhà khác. Điều này chẳng ai muốn vì những con trâu bò đã cày bừa thành thục rồi rất quan trọng. Chăn nuôi nó có công điểm, đến vụ thu hoạch lại có thêm xuất rơm. Khi gặt lúa về đập xong rơm thường được chia theo đầu trâu bò cày. Nhà nào nuôi trâu bò là có phần rơm chia cho. Mỗi phần rơm gánh về nhà chà đập, rũ lại cũng kiếm được vài đấu thóc lép, một vụ cũng có thêm thúng thóc. Mà ngày ấy một thúng thóc ở quê tôi quan trọng biết nhường nào. Tôi cứ nhớ chuyện mẹ tôi hay nói chị B, cô C đi xây dựng gia đình, bố mẹ đẻ cho một thúng thóc đem về nhà chồng (một thúng thóc bằng 25 ki-lô-gam).
Lại kể tiếp về việc bình trâu bò. Tôi nhớ nhất là lần con trâu của nhà tôi bị quyết định "hoá kiếp" ngay tại buổi bình trâu. Nó đã già và chậm chạp quá rồi, không cày bừa được nữa nên bị thải loại. Nó được giao ngay cho nhân viên cửa hàng thực phẩm. Tôi thẫn thờ nhìn theo con trâu đã gắn bó cùng bao năm tháng tuổi thơ của mình nơi làng quê heo hút này. Con trâu bị nhân viên cửa hàng thực phẩm lôi đi, hình như cũng hiểu ra điều gì đó. Mấy lần nó cố giằng dây thừng quay đầu lại nhìn tôi. Đôi mắt của nó ươn ướt. Bữa đó trong đội sản xuất có mấy con trâu bò bị thải loại. Bà Cần cũng có một con trâu già phải giao cho cửa hàng thực phẩm. Nét mặt của bà tái mét đi khi nghe ông đội trưởng tuyên bố thải loại con trâu nhà bà để giết làm thực phẩm. Gần như tuổi già của bà gắn bó với con trâu ấy. Bà sống có một mình. Các con bà đều ở riêng hoặc đi lấy chồng xa. Sớm tối bà chỉ có mỗi con trâu làm bạn. Bà chăm sóc nó rất cẩn thận. Tôi thường gặp bà suốt ngày lê la cắt từng nắm cỏ non ngoài đồng đem về cho trâu ăn. Con trâu của bà khi còn trẻ nó rất khoẻ, kéo cày chân ruộng đất nặng cứ băng băng. Bây giờ nó già yếu rồi nhưng bà vẫn muốn nuôi nó. Vì bà đã coi nó là người thân. Bà cũng đã già yếu lắm rồi. Con trâu này đem thịt hợp tác xã cũng sẽ không giao con trâu khác cho bà nuôi nữa. Bà Cần cứ giữ chặt sợi dây thừng xỏ mũi trâu trong tay. Rồi bà lập cập xoa xoa đầu con trâu già. Con trâu già cúi gằm đầu xuống. Nó cọ cọ má vào đôi chân đen đủi khô nẻ của bà. Hình như cả bà và con trâu đều khóc...
Lan man chuyện cũ, viết lại chuyện đưa trâu đi bình ngày xưa, tôi nhớ biết bao cái thuở trên lưng trâu đầy mơ mộng, càng không quên những người nông dân chất phác, bình dị quê tôi ngày ấy.
Năm hào, bát gạo
Ngày chiến tranh phải dựa vào cơ chế bao cấp để huy động tiềm lực kinh tế cho cuộc chiến. Nông dân làm ăn tập thể năng xuất lao động không cao nhưng vẫn phải giành phần lớn sản phẩm thu hoạch được trong trồng trọt, chăn nuôi để đóng góp nuôi bộ đội, chi viện cho tiền tuyến lớn đánh giặc cứu nước. Vì thế mà gần như quanh năm người nông dân thiếu đói. Vùng quê nghèo khổ như quê tôi lại càng thiếu đói. Lúc nào người dân quê tôi cũng chỉ mong được ăn no chứ chả ai dám mong được ăn ngon. Cả năm rau dưa qua bữa. Chỉ cần sao cho có đủ tinh bột như gạo, ngô, khoai sắn thôi. Nhưng cũng chả bao giờ đủ ăn. Cứ đến giáp hạt tháng tám, ngày ba ai cũng sợ hãi vì đói. Những khi Tết đến thì mới có chút thịt và mỡ. Nhà nhà vợ chồng con cái rán xào vài ngày tết sau đó lại ăn chay cho đến tết sang năm. Nói thế cũng chưa hẳn là hoàn toàn chính xác vì trong năm cũng có vài khi hợp tác xã chia cho dăm lạng thịt, cân cá mè những dịp ngày lễ hay khi tiến hành đại hội xã viên. Nhà nào khá giả nuôi được con gà, con vịt thì cũng có thể giết thịt để ăn những khi có giỗ, chạp.
Mỗi khi đại hội xã viên hay hội họp đoàn thể thường có liên hoan. Người thay mặt gia đình đi họp đại hội xã viên thường được thông báo mang theo "năm hào, bát gạo" để nộp cho ban tổ chức, góp lại làm một bữa liên hoan. Với 5 hào, 1 bát gạo đóng góp, hợp tác xã chi thêm cho một tý là có thể thịt một con lợn làm một bữa ăn tươi cho đại biểu dự đại hội xã viên. Cạnh nhà tôi có một gia đình ông hàng xóm quanh năm ăn độn. Nồi cơm thì chỉ thấy loáng thoáng vài hạt cơm còn toàn sắn là sắn. Khi được thông báo đem "năm hào, bát gạo" đi họp là cả nhà lo lắm. Vì một người đi họp được bát cơm ngon không độn, vài miếng thịt mỡ thì cả nhà sẽ phải một bữa ăn toàn sắn thay cơm để cho ông bố hoặc bà mẹ đem năm hào, bát gạo đi liên hoan. Một lần đến bữa ăn liên hoan, mâm cơm có đĩa thịt lợn luộc, bà mẹ đi họp chợt nhớ đến đứa con gái nhỏ đang ốm mà không có chút thực phẩm gì ăn ở nhà bèn lén gắp một miếng thịt lợn bỏ nhanh vào túi áo để đem về cho con. Ngày ấy chúng tôi đi cắm trại thiếu nhi hay sau đó lớn lên đi đại hội đoàn cũng cứ "năm hào, bát gạo" đem theo nộp để cùng liên hoan với nhau một bữa.
Bây giờ đến bữa ăn toàn thịt, có khi mâm cỗ tiệt nhiên không thấy một ngọn rau tôi lại nhớ đến thời chiến tranh và bao cấp gian khổ ấy. Câu chuyện "năm hào, bát gạo" này có lẽ chỉ có những ai từng một thời sống ở nông thôn, lao động tập thể trong hợp tác xã nông nghiệp mới biết nó là như thế nào.
Xếp hàng
Có lẽ ấn tượng sâu sắc nhất của những người đã từng sống qua thời bao cấp là chuyện xếp hàng. Có thể quên nhiều chuyện nhưng sẽ rất ít người quên được chuyện xếp hàng. Ngày ấy tất tật mọi việc đều phải xếp hàng. Đi đong gạo, mua dầu hoả, nước mắm phải xếp hàng. Mua vé tàu xe phải xếp hàng, thậm chí đi vào nhà...vệ sinh công cộng cũng phải xếp hàng. Xếp hàng có khi cả ngày, cả đêm. Để đong được vài cân gạo, ít cám chăn nuôi phải dậy rất sớm đi xếp hàng. Tôi còn nhớ ngày ấy sợ nhất là chuyện xếp hàng mua vé tàu xe. Bến xe lên tỉnh, về Hà Nội có khi cả ngày thậm chí hai ba ngày mới có một chuyến, không mua được vé thì lỡ chuyến, lỡ việc.
Chính vì chuyện xếp hàng nên dân ta mới sinh ra nhiều sáng kiến. Người ta đặt một cục gạch, một viên đá, một cái nón rách để thay mặt con người xếp hàng giữ chỗ. Cửa hàng bán gạo 8 giờ sáng mới mở cửa thì hai ba giờ sáng người ta đã kéo ra xếp hàng. Tôi còn nhớ khi vào bộ đội làm chiến sĩ quân bưu thường xuyên phải đi trên đường, chúng tôi chuyển công văn, có loại hoả tốc, hẹn giờ nếu lỡ chuyến xe thì không hoàn thành nhiệm vụ cho nên nhiều lần từ chập tối hôm trước đã phải mắc võng, hay rải chiếu "cắm chốt" luôn ở cửa bán vé bến xe, bến tàu để sáng sớm hôm sau mua được vé lên được xe tàu đem công văn đi. Vì xếp hàng nên mới có câu chuyện chen ngang. Ngày ấy mọi người đều ghét nhất là chuyện "chen ngang". Những người có thẻ thương binh thường được ưu tiên chen lên đầu hàng để mua vé tàu xe trước. Mọi người bề ngoài, vẻ mặt ai cũng thông suốt điều này. Ai cũng biết các anh thương binh có công với nước, ưu tiên là đúng, nhưng trong thâm tâm ai cũng ghét chuyện "chen ngang" như thế. Bởi cũng có người lợi dụng danh hiệu thương binh để chen ngang, mua vé bán lại cho người khác ăn chênh lệch giá. Chung quy cũng là tại thời ấy khó khăn, thiếu thốn quá.
Khổ nhất là chuyện xếp hàng từ sáng đến trưa, trời mùa hè nóng nực khi đến lượt mình mua hàng, mua vé thì lại là lúc hết hàng, hết vé hay nhân viên hết giờ làm việc. Mà nhân viên bán hàng mậu dịch quốc doanh ngày ấy thật là ghê gớm. Họ bảo hết hàng là hết. Họ bảo hết giờ là nghỉ. Thời bao cấp ấy họ chính là thượng đế chứ không phải khách hàng là thượng đế như bây giờ. Ngày ấy cứ ra đến đường là gặp ngay chuyện xếp hàng. Có những người đang đi thấy phía trước có người xếp hàng là lập tức đứng luôn vào hàng vì nghĩ chắc là đang có cái gì bán rẻ. Xếp hàng trở thành thói quen, thành phẩm chất của con người bao cấp, của chế độ tem phiếu. Nhưng nó cũng là nỗi ám ảnh, sợ hãi của dân ta ngày ấy. Bởi lẽ xếp hàng nó gần như đồng nghĩa, đồng hành với sự thiếu thốn, khó khăn.
Giữa những năm chín mươi của thế kỷ trước tôi có dịp sang đất nước Triều Tiên. Chúng tôi được bạn đưa đi mua sắm tại một cửa hàng mậu dịch quốc doanh rất lớn ở thủ đô Bình Nhưỡng. Gặp cảnh rồng rắn xếp hàng dài dằng dặc để mua hàng, tôi liền giơ máy ảnh lên định chụp một kiểu thì bị nhân viên an ninh che ống kính không cho chụp. Tôi cáu nói với cậu phiên dịch của đoàn: "Bảo nó là ở Việt Nam bọn tao ngày xưa còn xếp hàng dài hơn rất nhiều, để cho tao chụp một kiểu!". Cậu phiên dịch nhẹ nhàng khuyên tôi: "Nó không cho chụp thì thôi đừng chụp nữa anh ạ!". Tôi đành nghe theo cậu ta nhưng trong lòng vẫn bực vì nhiều lần muốn chụp cảnh dân chúng sinh hoạt ở Bình Nhưỡng đều bị ngăn cản. Ngày ấy chưa có máy ảnh kĩ thuật số, chưa có điện thoại di động hiện đại đủ tính năng quay chụp như bây giờ nên tôi phải rất khéo léo dùng máy ảnh chụp phim mới chụp được những hình ảnh của đất nước này. Khổ thế đấy! Đã nghèo nhưng lại rất sợ mọi người biết mình nghèo khổ. Bao cấp không chỉ là vấn đề vật chất mà còn là sự bao cấp cả tư tưởng và ý thức của con người ta nữa.
Lan man chuyện cũ, ghi lại chuyện xếp hàng của một thời chưa xa và hình như nó vẫn còn tồn tại đâu đó quanh ta. Bây giờ có những việc vẫn phải xếp hàng nhưng đã có sự thay đổi về bản chất rồi.
Đi xúc cá
Tản văn của Trọng Bảo
Mùa hè, khi lúa vụ chiêm đã gặt xong đồng ruộng bắt đầu chuẩn bị cấy vụ lúa hè thu cũng là mùa xúc cá. Đồng ruộng quê tôi ngày ấy sao mà lắm cua cá đến thế. Cá rô, cá chạch chỉ cần bước chân lội xuống ruộng là chạm phải, ai nhanh tay là bắt được. Những thửa ruộng ngập nước quanh năm là nơi trú ngụ của cá đồng. Khi trời mưa rào, cá rô, cá chạch ngược theo dòng nước chảy rạch lên bò lổm ngổm cả trên những đám ruộng cao chuyên để gieo mạ. Chúng đi tìm nơi đẻ trứng, sinh sản.
Buổi trưa mùa hè, trời nắng to cũng là lúc bọn trẻ chúng tôi gọi nhau đi xúc cá. Một cái giỏ đeo ở thắt lưng, cái rổ nhỏ cầm tay lũ chúng tôi í ới gọi nhau ùa ra cánh đồng đang bừa ngả. Trời càng nắng to càng lắm cá. Bọn cá chạch kéo nhau chui vào các hang hốc ở bờ ruộng để tránh nắng. Mỗi hang có vài con, thậm chí đến hàng chục con cuộn vào nhau nhung nhúc trong hang. Chúng tôi chỉ việc hứng cái rổ vào miệng hang moi cá ra rồi nhặt cho vào giỏ. Những con cá chạch vàng ươm to bằng ngón tay. Cá chạch kho tương cho thật khô ăn với cơm nguội cũng ngon. Tôi còn nhớ ngày ấy có những thằng bạn rất "sát cá". Chúng nó chỉ đảo qua mấy vòng bờ mấy đám ruộng ở cánh đồng Bén, đồng Ngõ nhất là đồng Lão là cái giỏ đã chật cứng những chú cá chạch, cá rô, cá trê. Giỏ đầy cá, lũ chúng tôi kéo nhau về làng chuẩn bị chiều mát giong trâu đi chăn.
Chúng tôi còn đi xúc cá những khi trời mưa to. Những cơn mưa rào đầu mùa là khi cá vật đẻ. Nhiều loài cá từ sông cũng vượt được vào đồng do nước dâng lên ngập. Nhiều loại cá nuôi, cá hoang chạy thoát ra cánh đồng do ao chuôm bị nước mưa làm tràn bờ. Khi trời mưa thì có đủ cách bắt cá. Người lớn thường kéo vó, đơm lờ ở những nơi nước chảy mạnh. Lũ trẻ con chúng tôi tay cầm rổ, cầm vợt, thắt lưng đeo con dao trong vỏ gỗ. Những loại như cá chuối thì phải dùng dao chém mới bắt được chúng. Mùa hè nhà nào cũng có cá đồng để ăn, để phơi khô. Cá đồng kho tương đến mềm nục cả xương. Bữa cơm quê ngày ấy thật giản đơn mà ngon.
Bây giờ thì đồng không còn một mống cá cua. Bao nhiêu loại thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, phân hoá học trải xuống cánh đồng cua cá nào mà sống nổi! Còn nhớ ngày xưa chỉ cần thò chân xuống nước là hàng chục con đỉa lớn nhỏ nghoe nguẩy bơi đến lăn xả bám vào chân hút máu. Những con trâu đi cày, đi bừa hay lội ra đám ruộng ngập nước tìm cỏ thì khi lên bờ có cả chục con đỉa đeo lủng lẳng tròn no máu. Bây giờ thì đỉa cũng không còn một con. Nghe nói đỉa chính là một vị thuốc quý, mấy trăm nghìn đồng một cân mà tìm không ra.
Đồng ruộng bây giờ mất hẳn cá cua, thật buồn và tiếc. Có lẽ lâu lắm tôi không nhìn thấy con cá rô, con cá chạch nữa rồi. Nghĩ cũng bùi ngùi khi một hôm đi trên đường phố giữa thủ đô tôi chợt nghe tiếng chào mời vào ăn bún cua, bún cá rô đồng. Làm gì có chuyện lạ ấy. Chắc chắn đó là loại cá cua nuôi công nghiệp cả thôi chứ không phải cá sinh sống tự do ngoài đồng. Nhớ về những ngày tuổi thơ ở quê đi xúc cá tôi viết tản văn này ghi lại một kỷ niệm xưa.
Mùa trám rụng
Tản văn của Trọng Bảo
Đó là giữa mùa thu. Lúc này những quả trám trên cây đã tích đủ dưỡng chất tròn căng. Quả trám trắng đã ngả màu vàng nhạt. Quả trám đen thì đã có màu đen nhưng nhức như than. Nói mùa trám rụng là với loại trám trắng. Còn trám đen muốn lấy được quả thì phải trèo lên cây mà hái.
Quê tôi ngày ấy là một vùng rừng nguyên sinh có rất nhiều cây trám mọc tự nhiên trên đồi, trong thung lũng. Những cây trám là kỷ niệm của thời tuổi thơ. Trám là loại cây gỗ mềm và thơm dễ bị sâu bọ, kiến mối đục khoét tạo nên những hang hốc trên thân cành. Các loại chim sáo đá, sáo sậu, sáo mỏ đỏ, sáo mỏ ngà thường làm tổ trong các hốc trên cây trám. Bọn trẻ chăn trâu chúng tôi thường chờ những con chim sáo non trong tổ vừa đủ lông đủ cánh, chuẩn bị tập bay là trèo lên cây trám bắt về nuôi. Chúng tôi nhốt lũ con chim sáo trong lồng. Những chú chim sáo non lớn lên cùng bọn trẻ trâu chúng tôi trở thành những con vật nuôi. Chúng bay vút lên trời cao như lũ chim tự do nhưng chỉ cần nghe tiếng huýt sáo là sà xuống đậu trên vai chủ nhân mà phần lớn là đám trẻ con chúng tôi. Nhiều con chim sáo sống lâu với người đã nói được tiếng người với những câu chào khách đơn giản.
Cây trám nhiều tổ chim sáo cùng với quả trám đã đi suốt tuổi thơ của chúng tôi. Tôi không quên những mùa trám rụng. Những quả trám trắng sau trận gió heo may rụng sáng cả gốc cây. Bọn trẻ chúng tôi tay cầm múm cọ (làm bằng một tấm lá cọ loại nhỏ như cái làn) đi từng gốc trám để tìm nhặt trám rụng. Quả trám đen ăn tươi thì vị hơi chát. Quả trám trắng ăn tươi có vị chua nhẹ nhưng ngọt. Sau khi cắn nhai miếng trám trắng, vị ngọt của nó cứ lưu mãi trong miệng. Trám trắng rụng nhặt đem về rửa sạch luộc lên tách bỏ hạt đem phơi khô dùng để kho với cá đồng ăn rất ngon. Trám đen hái về thì ỏm chín ăn rất bùi. Tôi vẫn nhớ miếng trám đen chấm tương ngọt bùi đậm đà ngày ấy. Thời khó khăn, quả trám là một loại thức ăn của vùng núi nghèo quê tôi. Sau mỗi bữa ăn có trám chấm tương anh em tôi thường tranh nhau nhặt hạt trám. Hạt trám hình thoi, dùng dao sắc chặt ngang rồi lấy gai bưởi khều nhân ra. Nhân trám trắng tinh ăn rất bùi và ngọt. Nhân hạt quả trám chỉ bằng hạt thóc nhưng với bọn trẻ quê ngày ấy là một món quà ngon.
Bây giờ thì quê tôi không còn rừng nữa. Rừng già đã bị con người tiêu diệt đến tận gốc rễ. Những khu rừng rậm sau nhà tôi ngày xưa có nhiều cây trám đen, cây trám trắng bây giờ chỉ độc một màu bạch đàn rũ rượi. Lá bạch đàn rụng xuống chết cả cỏ dại. Chả còn thấy một mống cây trám nào, mùa trám rụng cũng không còn nữa. Tôi biết ở nhiều gia đình ở chân núi Tam Đảo trong vườn vẫn còn những cây trám. Cây trám cho quả ăn, nghe nói quả dùng làm thuốc nữa. Cùng với quả, cây trám còn cho nhựa. Nhựa trám làm nhang đen. Hương nhang làm bằng nhựa trám không thơm đậm như làm bằng trầm hương nhưng cháy lâu và có mùi rất khác biệt. Thắp nén hương đen làm bằng nhựa trám lên, trong mùi hương của nó toả ra ta cảm thấy có sự ấm áp của một miền quê xưa cũ.
Lâu lắm mới về qua chợ quê vùng chân núi, chợt nhìn thấy một người bày bán bồ trám trắng tôi lại nhớ về ngày xưa chăn trâu cắt cỏ, nhớ những lần trèo cây bắt chim sáo về nuôi. Viết đoạn văn ngắn này, trong tôi cứ bâng khuâng nuối tiếc về một khoảng xanh thẳm của núi rừng quê tôi ngày ấy!
Cơm nắm mo cau
Tản văn của Trọng Bảo
Có lẽ đã có từ rất lâu ở các vùng cư dân trồng lúa nước. Đó là một cách chế biến lương thực đơn giản nhất. Nắm cơm làm lương ăn cho người đi xa. Ở quê tôi ngày trước hay làm món "cơm nắm". Cũng là bởi cái thời bao cấp xa xưa ấy, không có nhiều hàng quán như bây giờ. Một huyện cũng có một hai cái cửa hàng ăn uống, giải khát. Tại các trung tâm huyện cũng có các cửa hàng lương thực bán bánh mỳ. Nhưng những người nông dân chúng tôi làm gì có tiền để vào cửa hàng ăn uống, lấy đâu ra tem phiếu mà mua bánh mỳ. Cho nên lương ăn cho những người lỡ bữa xa nhà chủ yếu vẫn là cơm nắm. Nắm cơm ở vùng quê nghèo như quê tôi ngày ấy có khi còn độn lẫn cả ngô, cả sắn, cắt ra chấm muối ăn mà lòng cứ rưng rưng.
Tôi còn nhớ, mẹ tôi thường nhặt những cái mo cau, lột mỏng đi để gói cơm nắm. Thường là ngày mai có ai đi quá bữa như lên rừng lấy măng, chặt củi, chúng tôi đi cắm trại, huấn luyện quân sự... thì hôm trước mẹ cũng nấu thêm cơm. Cơn dùng để nắm thường nấu dẻo, nhão hơn một chút. Cơm dẻo thì nắm sẽ rền, khi cắt ra thành lát, hạt cơm nhào mịn vào nhau như miếng bánh. Kèm thêm nắm cơm là gói muối vừng, muối lạc. Nhà nào nghèo không có vừng lạc thì muối trắng rang mỡ. Cơm nắm cắt từng miếng chấm muối vừng ăn thật ngọt. Nhà nào khá lắm thì có thêm quả trứng luộc cắt đôi chia nhau. Những năm tháng chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, sáng ra bố mẹ đi làm, đi trực chiến bắn máy bay địch bằng súng bộ binh, những em bé đeo túi cứu thương, tay ôm một mo cơm nắm lên rừng vào nơi sơ tán.
Khi vào bộ đội, những ngày hành quân dã ngoại, chúng tôi được anh nuôi quân phát cho khi thì một nắm cơm, khi thì vài phong lương khô. Cơm nắm tập thể kèm theo cả một miếng thịt lợn nhưng ăn không thấy ngon bằng cơm nắm mo cau chấm muối vừng của mẹ. Mỗi lần về phép lên đơn vị thì trong cóc ba lô thường có nắm cơm nếp thơm lừng mẹ dậy sớm gói cho. Nhưng có lẽ đã quá lâu rồi tôi không được ăn miếng cơm nắm nữa. Tôi còn nhớ lần cuối ăn cơm nắm là trước một trận đánh ác liệt nơi biên giới. Hôm đó mới tang tảng sáng, anh nuôi đã đưa cơm lên trận địa. Mỗi người chúng tôi được phát một nắm cơm và một miếng thịt ướp muối. Người chiến sĩ nuôi quân đưa nắm cơm cho tôi rồi nói:
- Đây là bữa cơm cuối cùng chúng em nấu cho các anh đấy!
Tôi giật mình hỏi lại:
- Sao lại là bữa cơm cuối cùng?
Người chiến sĩ nuôi quân vừa chia cơm nắm cho mọi người vừa nói tiếp:
- Sau khi phát cơm nắm cho đơn vị xong, tổ nuôi quân chúng em sẽ được biên chế về các bộ phận trực tiếp tham gia chiến đấu!
Nghe người chiến sĩ nuôi quân nói, tôi hiểu trận chiến sắp diễn ra sẽ vô cùng ác liệt. Tất cả các bộ phận đều phải cầm súng ra chiến hào trực tiếp chặn giặc. Trong trận đánh ác liệt ngày hôm đó người chiến sĩ nuôi quân ấy cũng đã hi sinh anh dũng. Hết đạn, anh đã dùng lưỡi lê, dùng báng súng đánh trả bọn giặc tràn lên trận địa. Trước lúc hy sinh, hai bàn tay từng nắm cơm của anh còn xiết chặt cổ một tên giặc.
Bây giờ người ta không ăn cơm nắm nữa. Ra đường là đã có đủ các loại dịch vụ rồi. Mà cũng chả cần ra đường, ngồi trong văn phòng nhấc máy điện thoại lên là cơm hộp đã mang đến tận nơi. Trẻ em đi pic-nic, đi cắm trại, đi dã ngoại thì đã có bánh mỳ kẹp thịt, bánh gối, bánh bao. Rồi đủ loại mì tôm, cháo, miến, phở ăn liền. Chả ai còn phải lo nắm cơm ăn đường nữa. Nắm cơm ngàn đời của cha ông vẫn đem theo làm lương ăn đi lao động, đi đánh giặc, nắm cơm gói bằng mo cau dần dần mai một trong tâm trí của con người.
Lớp trẻ ngày nay không thể biết cơm nắm như thế nào. Họ quen với những thứ ăn nhanh cao cấp rồi. Tuy thế, nghe nói ở Hà Nội bây giờ có một cửa hàng gói cơm nắm chấm muối vừng khá đông khách. Cũng có thể nhiều người chán các thứ cao lương mỹ vị muốn tìm về những món ăn dân giã. Cũng có người muốn để nhớ về quá khứ qua một món ăn quê mùa. Riêng tôi nhớ đến nắm cơm muối vừng như luôn nhớ về đất nước một thời gian khó, đất nước trồng cây lúa nước, đất nước từ nông nghiệp đi lên để có hôm nay thoát khỏi đói nghèo, đến với hiện đại, văn minh.
Nhớ những tết xưa
Tản văn của Trọng Bảo
Tết lại sắp đến. Không khí tết đang làm cho mặt người vui vẻ, thiên nhiên sinh động, tươi tắn hơn. Năm nay thời tiết bất thường, nóng như mùa hè khiến hoa đào hoa mai nở bung hết cả. Đường phố đông nghịt kẹt xe liên tục. Ai cũng bảo là tại tết người ta đi mua sắm. Nhưng cũng chả phải. Tết bây giờ đầy đủ ai còn lo "chạy tết" như ngày xưa. Nhưng có lẽ là vì tâm lý. Tết cứ phải nhao ra đường sắm sửa cho có tết nên mới chen chúc, đông nghẹt cả đường như thế.
Còn nhớ ngày xưa thiếu thốn đủ bề, tết đến là bao lo toan. Lo có nồi bánh chưng, lo có cân giò, nồi thịt, cái áo cái quần mới cho con nên tết đến lòng người cứ thấp thỏm. Không có tiền thưởng, tiền tết như bây giờ, tết đến có được gói mứt, cân thịt, lít nước mắm, vài lít dầu hỏa là may mắn lắm rồi. Có những thứ chẳng liên quan gì đến tết người ta cũng đem ra phân phối trong dịp tết để động viên cán bộ, công nhân viên chức như cái lốp, cái săm xe đạp, vài cái xoong nồi, chậu rửa mặt... Thế mà ai gắp thăm được mua nhưng thứ ấy cũng thấy vui như tết.
Tôi nhớ những cái tết thời lính trận. Nồi bánh chưng nấu ở góc ruộng nơi biên giới. Bánh chưa chín thì có lệnh báo động lên chốt. Tiểu đội đành phải cử một người ở lại tiếp tục nấu bánh cho chín còn tất cả lao lên trận địa. Chiến tranh máu thấm gốc hoa đào. Màu máu đỏ hơn cả màu hoa đào. Có những người bạn hôm trước còn nghêu ngao ngồi hát trên bờ công sự, cùng chia nhau một miếng bánh chưng và cùng nói về tương lai vậy mà chưa hết mùa xuân đã nằm yên dưới mộ, tuổi hai mươi bạn bỏ lại chiến hào.
Những cái tết của những năm 80 sao mà khó khăn, kiệt cùng đến thế. Hàng tết được phân phối là một cân gạo nếp, dăm cân gạo tẻ. Gói mỳ chính cắt ra đổ vào cái chén uống nước đong chia mỗi người một chén. Cả năm chúng tôi vét cơm thừa, cuộng rau chăn nuôi được một con lợn. May mà nó không bị ốm, bị dịch. Tết đến chỉ huy cho mổ thịt con lợn tăng gia ấy chia cho mỗi người vài cân. Thế là cả đêm người thì gói giò mỡ, người thì luộc lên cho thị khỏi bị ôi để sáng hôm sau kịp lên xe tuyến về quê. Cả đêm bếp chụm lập loè khắp vườn chuối để xào nấu thịt. Xe tuyến chở cán bộ về tết đi các tỉnh cũng xếp xe đạp lên nóc từ chiều hôm trước. Sáng hôm sau người nào cũng lễ mễ tay xách nách mang nào gạo, nào can nước mắm, can dầu hỏa. Lên xe xếp đặt cẩn thận kẻo dầu hoả trao ra vào gạo vào thịt là mất tết... Có tết tôi đạp xe về quê. Một bên đèo hàng là can nước mắm, một bên can dầu, ba lô có vài chục củ hành tây, ba bốn cân bánh bích quy gia công, tút thuốc Sông Cầu rởm. Cô bé quản lý nhà bếp vớ được tôi là người cuối cùng rời đơn vị liền cho luôn một cái thủ lợn khá to. Thế là phấn khởi lắm rồi. Ở quê làm gì có nhiều thịt và bánh kẹo đến thế.
Bây giờ tết đầy đủ chả thiếu thứ gì. Nhưng mỗi lần tết về, nghĩ đến những cái tết ngày xưa mà cứ thấy rưng rưng trong lòng. Mong cho không bao giờ tết thiếu thốn giống cái tết ngày trước của thời bao cấp nữa, nhưng mãi ấm áp tình cảm như những tết xưa...
Chợ cọ
Tản văn của Trọng Bảo
Những năm chiến tranh cứ sáng sớm tinh mơ là cả làng đã ồn ào. Mọi người gọi nhau đi sơ tán. Đám trẻ con đứa nào phải đi học thì túi cứu thương, mũ rơm đến lớp. Đường chúng đi men theo chân núi, chân đồi, theo hào giao thông đã đào sẵn tới trường. Còn những đứa quá bé hoặc học nửa buổi vào buổi chiều thì theo mẹ, theo anh chị lên rừng sơ tán tránh máy bay Mỹ. Tuyệt đối không được tụ tập đông người nhất là đi lại nhiều trên đường quốc lộ. Ngày ấy cứ ai mặc cái áo sáng màu, hay cùng nhau đi đông quá ba người trở lên là đã có dân quân, công an nhắc nhở ngay.
Tuy vậy chợ là vẫn phải họp. Cái chợ nghèo quê tôi vốn có địa điểm họp là tại thị trấn do chiến tranh phá hoại nên phải sơ tán khắp nơi. Thời gian họp chợ cũng rút ngắn. Có khi chỉ mới tám chín giờ sáng dân quân đã công bố lệnh giải tán chợ để tránh máy bay Mỹ bất ngờ ập đến bắn phá.
Tôi nhớ nhất là thời kỳ chợ sơ tán về khu rừng cọ phía sau nhà tôi. Cái tên "Chợ cọ" có lẽ có là từ ấy. Chợ họp dưới tán rừng lá cọ sum xuê. Hàng hoá thì chủ yếu là các loại nông lâm sản. Nhiều nhất bán ở chợ quê tôi ngày ấy có lẽ là sắn. Quê tôi là vùng đất đồi chuyên trồng sắn. Sắn có sắn tươi, những gánh sắn vừa đào trên nương gánh ra chợ, cuống củ sắn vết dao còn ứa nhựa. Rồi sắn khô, bột sắn. Sắn khô là sắn đã được người ta thái thành miếng phơi khô đem ra chợ bán. Sắn khô được đong bằng đấu như lúa gạo. Sắn là lương thực chủ yếu của người nông dân quê tôi ngày ấy. Bát cơm độn sắn tìm mãi mới thấy vài hạt cơm. Có lẽ phải nói là sắn độn cơm mới đúng. Chợ cọ còn có những loại hàng khác như củi, chổi cọ, lá cọ dùng để lợp nhà. Có một thời lá cọ là loại "hàng chiến lược" nên cấm buôn bán. Lá cọ được hợp tác xã khai thác. thu mua hết để phục vụ cho các cơ quan, đơn vị bộ đội về nhận làm doanh trại. Ai mang lá cọ tươi, lá cọ chưa sử dụng ra khỏi địa phận xã là vi phạm, bị tịch thu ngay.
Những người dân ở vùng xuôi muốn mua lá cọ về lợp nhà phải vào làng xin mua lại lá cũ. Tức là các loại lá đã qua sử dụng. Vì thế dân quê tôi ngày ấy mới có thủ đoạn là quanh năm làm đơn xin hợp tác xã bán cho lá cọ để lợp lại mái nhà. Khi lá cọ trên mái nhà vừa héo đã dỡ bán cho dân dưới xuôi rồi lại làm đơn xin mua lá mới gửi hợp tác xã. Lá cọ cũ đắt hơn lá mới vì thế. Cũng vì nghèo khó và sự bó buộc nên người dân quê tôi mới có thủ đoạn như vậy. Cứ nghĩ lại ngày ấy sao mà dân ta khổ thế, bần cùng đến thế, chợ quê không có lấy một quầy hàng thịt. Thịt lợn, thịt trâu bò chỉ có bán trong của hàng thực phẩm theo tem phiếu, chủ yếu cho cán bộ. May mà ngày ấy đồng ruộng nhiều cua cá ếch nhái nên chợ còn có mà bán.
Chợ Cọ quê tôi ngày ấy cứ năm ngày họp một phiên. Bọn trẻ con chúng tôi rất thích đi chợ. Trong túi chỉ có vài hào chỉ mua được vài mét dây cước và mấy cái lưỡi câu cá, hôm nào còn thì mua gói kẹo vừng chia nhau mỗi thằng vài cái. Bây giờ thì chợ đã chuyển về trung tâm thị trấn, được xây cất cẩn thận. Nhưng tôi vẫn nhớ như in hình ảnh cái chợ họp dưới tán rừng cọ ngày xưa. Nhớ cả một lần "vỡ chợ" bởi một vụ chém chết người ngay giữa chợ do ghen tuông hay thù oán gì đấy.
Bây giờ về quê đi chợ không còn thấy những thứ hàng hóa của ngày xưa nữa mà gặp toàn hàng hoá Trung Quốc, những thứ bánh kẹo cao cấp. Ước gì chợ bây giờ vẫn có một mớ sắn Bồ Lý bở bùi, vị ngọt, hay một gánh hến sông Đáy con và những thứ đồ đan mây tre ở Sơn Đông còn bán ở chợ nhỉ? Có lẽ mình lẩn thẩn mất rồi. Đất nước phát triển bao nhiêu thứ hàng hoá hiện đại, tiện dụng, bao nhiêu của ngon, vật lạ, ai còn nhớ đến những thứ quà quê, thứ hàng hoá của những ngày bao cấp khốn khó, bần cùng ấy nữa. Biết vậy nhưng tôi vẫn cứ bâng khuâng khi nghĩ về một thời đã sống.
Soi ếch
Tản văn của Trọng Bảo
Ngày xưa quê tôi đất rộng, người thưa, ruộng đồng nhiều tôm cá, ếch nhái. Những bờ ruộng to có thể đẩy xe cải tiến, hoặc hai người gồng gánh lúa tránh nhau thoải mái. Trên bờ ruộng có những lùm cây gai sòng sọng hoặc cây duối mọc lù sù. Bờ ruộng to và rậm rạp là nơi lý tưởng cho ếch nhái đào hang ngủ đông hoặc ngồi tránh nắng mùa hè.
Thiên nhiên thật là kỳ thú. Con cua tám cẳng, hai càng nhọn sắc như thế mà con ếch vẫn có thể nuốt gọn được con cua đang còn sống ngoay ngoảy. Bố tôi thường kể chuyện con ếch ngậm con cua, con bọ hung vào miệng làm thức ăn tiêu hoá dần qua suốt mùa đông trong hang. Tôi không có điều kiện nghiên cứu tìm hiểu về việc này nhưng nhiều lần thịt ếch, lộn cái tù và (dạ dày) của nó ra thấy có con cua chưa tiêu hoá hết. Ếch thường lấp kín cửa hang để ngủ suốt mùa đông. Khi trời bắt đầu những cơn mưa rào tháng ba âm lịch thì ếch khui mà chui ra. Đó cũng là mùa soi ếch.
Đồng ruộng quê tôi ngày ấy sao mà nhiều ếch đến thế. Đêm mưa rào tiếng ếch kêu râm ran khắp cánh đồng. Bố tôi ít ngủ, sau trận mưa ông thường gọi tôi dậy đi soi ếch. Có lẽ là người kinh nghiệm của người nông dân hơn một nửa thế kỷ gắn bó với ruộng đồng, với con tôm, con cá nơi thôn giã nên khi ông gọi tôi dậy cũng là lúc ếch bắt đầu cặp đôi ôm nhau giao phối để đẻ trứng. Nghe tiếng ếch kêu, ông biết được thời khắc ấy chăng. Khi ếch đã cặp đôi, ôm nhau là lúc dễ bắt nhất. Nghe bố gọi tôi mắt nhắm, mắt mở bật dậy, đeo giỏ vớ bó đuốc châm lửa rồi chạy ra cánh đồng. Ngày xưa làng quê nghèo, không có điện soi ếch chủ yếu bằng đuốc, làm gì có đèn pin, đèn sạc ác quy như bây giờ. Nên mới có câu "Trăm bó đuốc cũng bắt được con ếch". Câu tục ngữ này đúc rút từ việc soi ếch nhưng nó lại mang ý nghĩa xã hội sâu xa. Dân gian muốn cảnh báo những kẻ xấu, phường trộm cắp tham ô hãy coi chừng, trước sau cũng bị tóm cổ, cũng bị đưa ra ánh sáng.
Lại nói về việc soi ếch. Đuốc (quê tôi gọi là đóm) dùng để soi ếch thường làm bằng cây rui. Cây rui mọc hoang trên rừng thành từng đám. Bố tôi thường chọn những cây bánh tẻ hoặc còn xanh vỏ dùng dùi đập dập rồi đem ngâm, sau vài tháng đưa lên phơi khô. Nhớ là khi phơi tránh để dính nước mưa. Vì đóm khi ngâm có khí mê-tan từ bùn ao ngấm vào nên khi khô đốt lên cháy rần rật như tẩm dầu, nếu bị mưa đóm sẽ cháy kém. Khi soi ếch ngoài ruộng trồng các loại hoa màu nước lúp xúp thì chỉ cần khua đuốc lên đầu một vòng là có thể phát hiện ra con ếch đang ngồi ở đâu. Khi ếch say nhau thường không nhảy chỉ việc nhặt cho vào bao, vào giỏ. Nhiều hôm tôi còn tóm được cả những con cá rô, cá trê, cá giếc đang rạch nằm ngửa bụng chỗ nước chảy nông. Trời càng tối càng dễ soi ếch. Hôm nào có trăng dù sau trận mưa, mây còn phủ kín bầu trời chỉ sáng mờ mờ thì đừng đi soi ếch mà tốn đuốc vì ếch không say nhau rất khó bắt. Tôi còn nhớ, ngày ấy sau mỗi trận mưa trên cánh đồng làng đèn đuốc soi ếch sáng như sao sa.
Mùa thu, sau kỳ sinh sản, ăn uống no đủ, ếch chuẩn bị ngủ đông. Lúc này ếch ít kêu, hay ngồi trên bờ ao, bờ ruộng hóng mát. Soi ếch ngồi hóng mát thì phải có đèn pin hoặc đèn soi bằng ắc quy. Đèn soi ếch có thể gắn trên trán hoặc đèn pin cầm tay. Muốn bắt được ếch ngồi hóng mát phải có vợt. Vợt bắt ếch đường kính chỉ hơn gang tay, làm bằng những miếng vó, lưới cũ, luồn vào những cái tanh lốp xe đạp uốn tròn cho dẻo. Cán vợt là những cành tre hoặc rui. Người soi ếch đi dọc bờ ruộng, bờ ao, cán vợt dài đến đâu thì đèn soi đến đó. Thấy ếch là dùng vợt chụp ngay. Không được dùng đèn soi, quét lung tung, ếch thấy động nhảy mất...
Bây giờ ếch được nuôi công nghiệp. Bắt ếch công nghiệp dễ như nhặt củ khoai, củ lạc trên ruộng. Đồng ruộng bây giờ cũng không còn ếch mà soi nữa. Mỗi lần về quê nghe tiếng ếch kêu lẻ loi trên cánh đồng, tôi lại nhớ đến nôn nao về kỷ niệm ngày xưa đi soi ếch.
Ao làng
Tản văn của Trọng Bảo
Quê tôi ngày xưa, làng thưa nhà, người còn ít. Mấy chục nóc nhà nhưng gia đình nào ngoài vườn trồng cây ăn quả cũng đều có một cái ao để thả cá. Cáo ao nằm giữa vườn cây tạo nên phong cảnh hữu tình. Bên này bờ ao chàng trai ngồi câu cá. Bên kia cô gái giặt áo, vớt bèo. Những mối tình nảy nở. Những bóng hình lứa đôi soi bóng nước ao nhà. Những cái ao ngày ấy rất rộng và trong xanh. Những trưa hè, tụi trẻ con chúng tôi thường nhảy ùm xuống ao tắm. Một đoạn cây chuối mấy thằng bám vào bì bõm tập bơi. Rồi từ cái ao làng phẳng lặng, nhỏ bé, chúng tôi biết bơi để ra hồ, ra sông, ra biển lớn đầy sóng gió. Cũng như từ sau bụi tre xanh quanh năm bình yên chúng tôi lớn lên vững bước vào đời với bao sự biến động, thử thách chông gai.
Tôi còn nhớ khi còn nhỏ rất thích đi câu cá. Chúng tôi có những chiếc cần câu trúc uốn cong rất đẹp và dẻo. Chúng tôi thường kéo nhau đi cả buổi lên rừng tìm cần câu. Quê tôi ngày ấy rừng già rậm rạp, có những cây gỗ quý như lim, de, rùa mấy người ôm không xuể. Những bụi tre, bụi trúc, rừng rui cũng nhiều, tha hồ mà chọn những cây trúc, cây rui thật suôn, thật thẳng về uốn làm cần câu. Mỗi đứa chúng tôi đều có đủ các loại cần câu. Cần câu cá trê, cá chuối phải cứng, cần câu cá rô, cá diếc phải mềm, phải dẻo, cần câu tôm càng thì chỉ là những thanh tre vót mảnh như cái tăm. Những cái ao trong làng ngày ấy rất nhiều các loại cá hoang hay cắn câu như cá trê, cá rô, cá chuối, lươn, trạch...
Câu cá ở ao cũng là cả một nghệ thuật, là sự kiên trì. Cá rô ta (thường gọi là rô đồng) ăn nhạy nhưng khó dính vào lưỡi câu. Trừ loại cá rô phi là ham mồi, có con bị giật trượt rách cả mép vẫn cứ lau nhau lao vào đớp mồi. Cả đàn xoắn xuýt quanh mồi câu, có lúc giật lên thấy lưỡi câu móc cả vào lưng cá. Cá trê thì chậm bắt mồi câu nhưng khi đã đớp mồi thì thường nóng vội kéo vút đi ngay. Ban đêm cá trê hay cắn câu hơn ban ngày. Nhưng ngồi câu đừng ngủ gật, lỏng tay cần, cá kéo mạnh lôi luôn cần câu ra giữa ao, trời thu lạnh ngại lội xuống vớt. Có đêm gặp đàn cá ham mồi tôi giật được cả vài chục con cá trê màu vàng ươm. Cá trê kho nục hoặc cá trê nướng ăn đều ngon. Câu cá chuối là cả một sự kiên trì và khôn khéo. Cá chuối đẻ trứng hoặc đang nuôi con nhỏ thường dễ câu hơn. Chí cần móc lưỡi câu vào một con trạch hay con nhái còn sống thả vào đàn cá con là sẽ giật ngay được con cá cái. Cá chuối cái ham con, bảo vệ con, thấy có con vật nào ngoe ngoảy giữa đám con của mình là sẽ lao đến đớp ngay. Khi con cá cái bị vướng lưỡi câu, con cá chuối đực vẫn tiếp tục bảo vệ đàn con đến khi chúng lớn mới thôi. Câu được cả con cá đực này không phải là dễ. Mùa thu ao cạn, nước trong veo, nhìn rõ cả con cá chuối nằm im gần bờ. Nó gần như bất động. Muốn câu được nó phải nấp thật kín, cần câu phải thò ra thật nhẹ nhàng, không để gây ra tiếng động và điều quan trọng nhất là phải thả mồi câu ở xa về phía đuôi con cá. Cá chuối rất thính. Khi thấy động ở phía sau nó sẽ quay ngoắt lại và đớp mồi. Còn nếu thả mồi ngay phía trước mặt nó thì nó lập tức phóng vút ngay ra giữa ao, mất tăm.
Mùa thu khi mướp đã ra hoa cũng là mùa câu ếch. Ếch sống ở ao thường to và béo. Mùa thu đến, sau một mùa sinh đẻ và ăn uống đầy đủ, ếch chuẩn bị vào hang ngủ đông nên thường ít vận động. Nó hay nổi lên mặt ao ngồi trên những đám bèo cái. Ra ao chỉ nhìn một lượt đám bèo là phát hiện đang có mấy con ếch đang ngồi hóng mát. Chúng tôi thường móc vào lưỡi câu những cái hoa mướp vàng đã héo vừa rụng để nhử ếch. Cũng giống như câu cá chuối, mồi câu phải thả phía sau con ếch giật giật rồi kéo nhẹ. Thấy động con ếch sẽ quay lại đớp mồi ngay. Còn nếu buông mồi đột ngột phía trước mặt thì đừng hòng ếch mắc mưu mà đớp cái mồi của bạn. Cũng chưa thấy ai lý giải vì sao ếch rất thích đớp hoa mướp màu vàng.
Quanh cái ao làng có bao nhiều kỷ niệm. Kỷ niệm đáng nhớ nhất vẫn là tắm ao và câu cá. Lớn lên ra đi tới bao phương trời tôi vẫn không quên những chuyện của ngày thơ ấu. Bây giờ về quê, đất chật, người đông, ao hồ san lấp gần hết để làm nhà, làm đường. Rồi quy trình gieo trồng canh tác mới, thuốc sâu, phân hoá học rải xuống đồng ruộng ngày càng nhiều nên gần như tiệt diệt, không còn thấy các loại cá hoang như cá rô, cá trê, cá trạch, cá chuối nữa. Có lẽ đã lâu lắm tôi không nhìn thấy các loại cá này. Đêm đêm, cũng ít nghe tiếng ếch "ồm ộp" kêu trong làng như ngày xưa.
Nhà tôi vẫn còn giữ được một khoảnh ao nho nhỏ, cũng có thả một ít cá rô phi. Một hôm về quê, tự dưng tôi thèm được câu cá quá. Nhưng không thể tìm đâu ra một cái cần câu. Rừng già đã biến mất từ lâu trên quê tôi nên chẳng còn những khóm trúc mọc hoang trên đồi mà bao giờ cũng có sẵn những cái cần câu vừa nhỏ vừa dẻo. Tôi đành chặt một nhánh tay tre làm để cần câu. Cá cắn câu, giật con cá lên với cái cần cong queo, cứng ngắc, mất cả cái thú của người đi câu...
Giờ đây, ao làng bị san lấp dần để làm khu công nghiệp, để cắt đất chia lô làm trang trại cho những người ở thành phố về. Không gian làng quê trở nên chật hẹp và ngột ngạt. Trẻ con ham ngồi internet hơn thả mồi câu bên bóng tre già. Người lớn ham bàn chuyện giá đất đai hơn chuyện be bờ tát cá. Đường làng rền rã tiếng động cơ khiến những tiềng gà trưa trở nên thảng thốt.
Làng đang biến đổi từng ngày từng giờ. Thay đổi đến độ mỗi lần người đi xa về lại thăm quê không khỏi bàng hoàng sửng sốt và chợt thấy trong mắt cay cay. Dấu vết của những chiếc ao làng còn lại là những nền đất san ủi vội vã, là những cây đốn vội, là những hàng rào dựng lên cấp tập.
Vậy đó, bây giờ và mai sau nữa, lớp trẻ con làng quê thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ mất dần khái niệm về cái ao làng, về những trò chơi, những thú vui, những chuyện ở nông thôn. Thật buồn, thật tiếc, khi cái ao làng sẽ vĩnh viễn biến mất nơi làng quê Việt Nam ngàn đời của chúng ta.
KỶ VẬT CỦA LÃO VÕ
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Sau chiến tranh lão Võ về phục viên. Mười bảy năm bộ đội mà lúc ra quân lão chỉ có mỗi một cái ba lô rách và hai bộ quần áo cũ. Những kỷ vật quý giá nhất lão đem về ngày ấy là con dao găm nhãn hiệu “made in USA”, cái hăng-gô nhãn hiệu “made in China” và một cái ca sắt tây tráng men có ghi dòng chữ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Về làng, lão cũng chẳng còn người thân. Căn nhà gỗ xoan cũng đã cũ nát, sập xệ lắm rồi. Bà mẹ chết khi lão còn đang ở mặt trận. Căn nhà không có người trông coi nên càng nhanh xuống cấp. Lũ trẻ con biến nhà lão thành nơi tụ tập để chơi đùa, đánh trận giả. Có đứa láo lếu còn phóng uế ngay giữa sân.
Lão dọn dẹp lại căn nhà hoang. Làm đơn mấy bận, lão mới được ban quản trị hợp tác xã phê duyệt bán cho hai trăm tàu lá cọ và ba trăm viên gạch để sửa nhà. Lá cọ dùng dọi lại mái nhà còn gạch để lát chỗ nền bị bong tróc. Sửa chữa xong nhà cửa lão tính chuyện làm ăn. Phục viên về quê không nghề ngỗng gì nên lão phải khá chật vật lo kiếm miếng cơm hàng ngày. Sau chiến tranh cả nước đều đói. Có bữa lão ăn toàn sắn. Những củ sắn đắng ngắt có bữa làm lão ngộ độc say lử. Mãi vẫn không thấy lão lấy vợ. Thằng Bông láo lếu nhất làng thì bô bô:
- Hình như lão Võ bị mảnh đạn bay trúng làm cụt mất cái ấy rồi nên không dám cưới vợ!
Ông Bân trưởng thôn mắng nó:
- Mày đừng có mà nói bậy!
- Thì đấy… lão ấy coi ao cá giống suốt ngày lội nước mà lúc nào cũng thấy lão đánh bộ quần áo dài, có dám mặc quần đùi, áo lót bao giờ đâu!
Khi xóa bỏ bao cấp, làng xã giàu dần lên. Người ta bắt đầu kiến thiết, xây dựng nhà cửa. Đường xá mở rộng, các công trình công cộng, dân sinh được đầu tư. Căn nhà và mảnh vườn của lão Võ nằm trúng vị trí quy hoạch xây dựng nhà truyền thống của xã. Nhà lão bị giải tỏa. Xã cấp cho lão một rẻo đất xa hút, gần khu nghĩa địa của làng. Ông Bân trưởng thôn huy động dân quân và bà con trong làng giúp lão di chuyển ra nơi ở mới. Mấy thằng thanh niên vừa khênh kèo cột vừa cợt nhả:
- Lão Võ này thế mà khôn thật! Lão chuyển nhà ra gần nơi “yên giấc ngàn thu” cho tiện sau này đỡ phải đi xa…
Nhà truyền thống xây dựng xong. Lão cũng được mời dự lễ khánh thành vì là cựu chiến binh chống Mỹ. Lão còn được mời lên đứng ở đầu hàng vì lão là người có tuổi quân lâu nhất. Lão đứng co ro phía trước khối cựu chiến binh. Lúc cắt băng khánh thành có một ông trung tướng trông rất bệ vệ cứ chăm chú nhìn lão mãi. Ông này từ tận Hà Nội về dự lễ. Pháo giấy nổ bôm bốp. Những mảnh giấy nhiều màu rơi xuống lả tả. Lão Võ đang định chuồn ngay về để xem cái ao cá đêm qua mưa to có bị sạt bờ không thì ông tướng kéo anh chủ tịch xã đến chỗ lão. Vị tướng già nắm tay lão hỏi:
- Ông không nhận ra tôi à?
- Ơ... ơ...
Lão ú ớ. Ông tướng giới thiệu với mọi người:
- Ông Võ cùng đơn vị với tôi! Ông ấy chiến đấu dũng cảm lắm. Hôm đưa tôi bị thương về tuyến sau gặp địch phục kích còn vật nhau với một thằng Mỹ, cướp được dao găm của nó, giết chết nó. Sau đó, ông ấy còn bị bom na-pan cháy hết người, may mà vẫn còn sống...
Vị tướng lật cổ cái áo bộ đội cũ của lão Võ ra. Vai lão cháy đen, nham nhở, sần sùi. Thảo nào mà chả ai nhìn thấy lão cởi trần bao giờ. Vị tướng còn thở dài khe khẽ nói: “Ông ấy còn bị nhiễm chất độc da cam rất nặng nữa...”. Ông tướng kéo lão Võ và anh chủ tịch xã cùng vào xem nhà truyền thống. Hiện vật trưng bày chỉ có vài thứ lèo tèo. Hai khẩu súng CKC cũ kỹ, mấy thanh mã tấu sét gỉ. Một đôi thùng gánh nước được ghi là của các bà mẹ trong xã gánh nước uống lên trận địa phòng không, một ít giẻ rách của các cháu thiếu nhi tặng bộ đội lau pháo. Chỉ có trên tường là la liệt các loại giấy khen, bằng khen chủ yếu là của những năm gần đây. Vị tướng già chợt hỏi lão Võ:
- Ông có còn giữ được con dao găm của thằng Mỹ không?
- Còn...
- Thế thì ông nên tặng lại cho nhà truyền thống của xã!
- Vâng... vâng...
Vị tướng cùng anh chủ tịch xã và mấy người theo lão Võ về nhà. Lão lôi từ trong gầm giường cái ba lô cũ. Lão lấy ra con dao găm “made in USA”, cái hăng-gô “made in China”, cái ca sắt tráng men “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” đặt lên bàn. Lão mở cái hăng-gô đổ ra một đống huân huy chương các loại. Lão đồng ý tặng cho nhà truyền thống của xã ba thứ kỷ vật mà lão quý nhất. Anh chủ tịch hứa là “sẽ gìn giữ thật cẩn thận những hiện vật quý này để giáo dục truyền thống thế hệ trẻ”. Thằng Bông nghe thấy thế liền bữu môi nói với bọn thanh niên:
- Lão Võ chiến tích đầy mình, đúng là một nhân chứng sống! Vậy mà chả ai thèm quan tâm, họ chỉ quan tâm đến mấy thứ hiện vật vô tri vô giác ấy thôi!
Một thằng vẻ cũng lấc cấc thì bảo :
- Hiện vật đem về cho vào tủ kính khóa lại là xong! Còn lão ấy sống nhăn răng mỗi năm chén hết cả hơn tạ gạo, rồi rau dưa, thịt cá, hút hết mấy cân thuốc lào, lại ốm đau liên tục. Lấy lão ấy làm hiện vật, nhân chứng sống thì bố ai mà chăm lo cho được...
- Ừ phải... Bọn mình đi đá bóng thôi!
Đám thanh niên ồn ào kéo nhau đi mất. Trong ngôi nhà cũ kỹ vừa mới dựng lại chỉ còn vị tướng già, lão Võ và anh chủ tịch xã.
Chuyện đời hắn
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Hắn mồ côi bố ngay từ đang còn trong trứng. Người đàn bà mẹ hắn trong một cơn cuồng si đầy nhục dục chợt thấy người đàn ông đang nằm trên bụng mình giật giật mấy cái rồi ưỡn người lên thẳng đơ. Hai bàn tay đang xoắn chặt bầu ngực nở nang của bà chợt lỏng ra rũ xuống. Bà hốt hoảng nhận thấy ông ta hình như đã ngừng thở. Bà cuống cuồng đẩy ông ta lăn xuống rãnh luống ngô. Bà vội vã kéo quần lên cho ông ta và cho mình rồi chạy về làng kêu cứu.
Cả làng đổ ra. Nhưng mà vô phương cứu chữa. Cơ thể người đàn ông đã lạnh. Đôi mắt ông ta vẫn mở, nét mặt ông có vẻ viên mãi. Mọi người xúm xít quanh người đàn ông đã chết ồn ào bàn tán. Song rất ít người tin người đàn ông kia bị cảm chết. Họ cũng không tin việc người đàn bà bất chợt đi qua bắt gặp ông ta nằm ở đây chạy về làng kêu cứu. Họ nhìn đám ngô non bị quần nát, nhìn bộ quần áo nhàu nát của người đàn bà rồi gật gù. Có ai đó nói bóng gió xa xôi:
- Chết mà sướng thế này cũng đáng để chết lắm chứ!
- Ông này bị trúng gió "phạm phòng" ấy mà!
Người đàn bà cúi gằm mặt. Ngực bà còn rưng rưng. Cái cảm giác tê mê râm ran trong người còn chưa dứt hẳn. Bà lướt nhanh xuống bụng. Bà mơ hồ cảm nhận sự phối hợp đã viên mãn. Bà cũng thảng thốt nhận ra sự hẫng hụt chới với như đang sa xuống một cái hố sâu hun hút mà càng rơi xuống không khí càng loãng, càng khó thở. Bà cảm thấy hụt hơi.
Công an và chính quyền khám xét hiện trường nơi người đàn ông là bố hắn chết, thẩm vấn người đàn bà là mẹ hắn rất lâu rồi lập biên bản. Đây không phải là một vụ án mạng bởi vì không có ai là thủ phạm cả nhưng tự dưng bà cứ thấy mình chính là sát thủ. Sự ám ảnh đó theo đuổi trong tâm trí của người đàn bà sau này là mẹ hắn.
Hơn chín tháng sau hắn ra đời. Mẹ hắn đặt cho hắn cái tên là thằng cu Lỗi. Cũng chả hiểu tại sao mẹ hắn lại đặt cho hắn cái tên ấy. Hay là tại vì hắn không có bố.
Thế là xóm Củi có một thằng không bố.
Mẹ hắn cúi gằm mặt xuống đất để làm lụng nuôi hắn. Người đàn bà khốn khổ ấy đã sống trong sự tủi hổ để cố gắng nuôi đứa con mồ côi trưởng thành. Làng quê ngày trước âm u, hủ tục còn nặng nề. Chuyện không chồng mà chửa là chuyện tày đình. Hợp tác xã vừa mới thành lập. Khí thế lao động sản xuất tập thể đang ngùn ngụt dâng cao. Việc có một xã viên chửa hoang làm cho khí thế thi đua của đội sản xuất số 1 xóm Củi, hợp tác xã Cây Cọ sụt giảm hẳn. Ông đội trưởng đội sản xuất đành bố trí cho bà mẹ hắn làm các công việc riêng lẻ để khỏi ảnh hưởng đến khí thế chung của toàn đội. Phụ nữ nông thôn ngày ấy đẻ sau mười ngày đã đi làm đồng. Nông dân làm gì có chế độ nghỉ đẻ, có tiêu chuẩn bồi dưỡng gì đâu. Chính vì thế mà mẹ hắn kém sữa. Hắn quặt quẹo ốm o, đen chùi chũi. Mẹ hắn bỏ hắn bò lê la ở góc sân kho để rũ rơm. Nhiều bữa hắn ngồi gặm củ sắn sẩn đắng nghét khóc chả ra hơi. Ấy vậy mà hắn cứ lầm lũi lớn lên chả ốm đau gì. Khi hắn to lớn lộc ngộc thì mẹ hắn đổ bệnh. Mái tóc của bà tự dưng bạc trắng. Đôi mắt mờ dần nhìn chả rõ người hay cây cối nữa.
Hắn học chưa hết cấp 2 liền bỏ đi làm thuê nuôi mẹ. Hắn học rất giỏi. Nhung hắn hiểu, là thằng con kẻ chửa hoang không có bố có học giỏi đến mấy cũng chả làm nên cơm cháo gì. Chẳng ai người ta cho hắn đi học lên trung cấp, lên đại học, bởi vì vì hắn cái thằng không cha, không được kết nạp vào đội thiếu niên tiền phong, không được gia nhập Đoàn thanh niên Lao động. Hắn cũng muốn đi làm ruộng cùng các xã viên trong đội sản xuất số 1 nhưng không ai muốn làm cùng với hắn. Họ ngại làm việc cùng thằng con hoang mất "danh dự", mang tiếng, mặc dù hắn là người rất khoẻ và chăm chỉ, chịu khó. Quê hắn có nhiều chân ruộng lầy thụt không thể cày bừa được phải cuốc. Một buổi sáng hắn có thể hùng hục cuốc xong bay cả một sào ruộng. Trong khi đó mấy chục xã viên dàn hàng ngang cả buổi vừa cuốc vừa nói chuyện, nghỉ giải lao hai ba bận có khi cả ngày cũng chỉ nổi mỗi một sào. Làm ăn tập thể "đánh trống ghi tên" để lấy công điểm là chính chứ chả ai quan tâm đến năng xuất lao động. Chán cảnh bị cô lập ở quê, hắn mò ra ga tàu hoả kiếm việc bốc vác thuê. Hoá ra có sức khoẻ, lại chịu khó hắn cũng kiếm được tiền. Hắn bốc vác hàng hoá lên xuống tàu cho những người đi buôn chuyến. Nhiều đơn vị, cơ quan có hàng hoá gửi theo tàu hoả cũng thuê hắn bốc vác lên, xuống tàu cho nhanh tránh tàu bay Mỹ bắn phá.
Một lần máy bay Mỹ bắn trúng một toa tàu vận chuyển đạn và quân trang của bộ đội đang đỗ tại ga. Hôm ấy, hắn không kiếm được việc, chẳng có ai thuê làm gì. Hắn đang ngồi hút thuốc lào vặt ở cổng nhà ga thì nghe tiếng kẻng báo động. Máy bay bọn Mỹ ầm ầm kéo đến. Tiếng pháo cao xạ bắn như quãi đạn lên trời. Tiếng bom nổ đinh tai nhức óc. Hắn lăn mấy vòng nhào luôn xuống một cái hầm cá nhân bên hà đường. Mùi bùi thối inh xộc vào mũi hắn. Mặc kệ. Cái hố cá nhân nông choèn, hắn phải cúi gập người xuống để đề phòng mảnh bom phạt ngang lưng. Khu nhà ga mịt mù khói bụi. Có nhiều tiếng kêu: "Cháy toa chở đạn rồi... cháy toa chở đạn rồi!". Rồi tiếng chân người chạy rầm rập qua chỗ hắn đang nấp. Bộ đội và dân quân tự vệ nháo nhác gọi nhau lao vào đám cháy cứu đạn dược và quân trang cho bộ đội. Đang chui dưới hầm hắn liền nhao lên lao vào trong ga. Hắn lăn xả vào đám cháy chả biết sợ là gì nữa. Hắn giúp các chiến sĩ vần những hòm đạn ra khỏi đám cháy và vác chạy ra phía ngoài cánh đồng. Hắn còn cõng một anh bộ đội bị thương chạy về trạm cấp cứu.
Sau việc này, đơn vị quân đội đã tìm hiểu và về tận quê hắn làm việc với chính quyền xã, đề nghị khen thưởng cho hắn. Ông chủ tịch xã nghe xã đội trưởng thông báo xong đầu đuôi sự việc thì há hốc mồm gạt đi:
- Khen cho thằng Lỗi á! Nó là thằng con hoang, khen thưởng cho nó thì làm mất danh dự cả xã này à?
Khi làm việc với anh cán bộ đơn vị quân đội, ông chủ tịch khăng khăng nói:
- Đề nghị đơn vị cứ cấp giấy khen cho đoàn thanh niên của xã chúng tôi là đã có thành tích giúp bộ đội trong chiến đấu là được!
- Nhưng... đây là thành tích của một người mà cậu này rất dũng cảm, giữa lúc máy bay địch đáng bắn phá vẫn dám lao vào đám cháy giúp bộ đội vác đạn chạy ra vị trí an toàn!
Ông chủ tịch xã nhăn mặt xua xua tay:
- Thì... các đồng chí cứ coi đây là chiến công, là thành tích chung của toàn thể thanh niên xã chúng tôi. Vì thế việc khen thưởng chung cho tuổi trẻ xã chúng tôi sẽ càng động viên được tinh thần, khí thế chiến đấu của đông đảo thanh niên xã nhà...
Anh cán bộ đơn vị quân đội cố thuyết phục ông chủ tịch xã là chỉ nên đề nghị tặng giấy khen cho riêng hắn. Nhưng mặc anh thuyết phục, ông chủ tịch xã vẫn dứt khoát không chấp nhận việc khen cho thằng con hoang. Ông chỉ ký tên, đóng dấu xác nhận vào bản thành tích chung của thanh niên xã. Đơn vị nọ đành quyết định tặng một cái giấy khen về thành tích chiến đấu cho đoàn thanh niên của xã theo yêu cầu của địa phương. Họ cũng xin gửi tặng phẩm cho hắn. Đó là một tấm vải dù và một bộ quân phục Tô Châu mới cứng. Anh cán bộ đơn vị quân đội nói là hôm lao vào đám cháy vác đạn quần áo của hắn bị cháy và rách hết. Ông chủ tịch giữ và đưa những tặng phẩm ấy vào phòng truyền thống của xã mà không trao cho hắn. Hắn cũng chả biết có chuyện khen thưởng này. Khi ấy hắn còn đang nằm co quắp ở nhà ga để chờ bốc vác thuê kiếm tiền nuôi mình và gửi cho mẹ hắn ốm yếu ở quê.
Đang lim dim nửa ngủ, nửa thức thì hắn nghe tiếng gọi:
- Bê cho chị mấy bao hàng lên tàu xuôi Hà Nội!
- Vâng... vâng...
Hắn đáp và co người bật ngay dậy như một con sâu đo. Dẹp cái chăn chiên cáu bẩn vào góc nhà ga, hắn theo người đàn bà ra sân ga. Tàu xuôi chưa đến nhưng đã có nhiều người đứng lố nhố trên sân. Nhà ga phòng không nên chỉ có ánh đèn lờ mờ. Đã nửa đêm, trời cuối thu hơi lành lạnh. Hắn theo người đàn bà băng sang bên kia đường ray. Sân ga khai khăn khẳn mùi nước giải. Có một bóng người ngồi xổm ngay giữa đường tàu. Tiếng nước xả xè xè xuống đất.
Người đàn bà đến chỗ hai người đang đứng cạnh mấy cái bao tải hỏi nhỏ:
- Bao nhiêu?
- Hai tạ chị ạ!
- Thế còn chè?
- Năm cân rưỡi!
- Sao ít thế?
- Dạo này hợp tác xã quản lý chặt lắm chỉ có bấy nhiêu thôi...
- Thôi thế cũng được! Đây là một nửa tiền, tối mai mang tiếp hàng ra rồi nhận nốt nhé!
- Vâng!
Tiếng đếm tiền loạt soạt. Bóng hai người giao hàng nhanh chóng lẩn mất hút vào trong làn sương đêm dày đặc. Người đàn bà bảo gã vác mấy cái bao tải ra gần đường ray số 1, nơi tàu xuôi sẽ vào ga. Gã vừa nhấc cái bao tải vừa hỏi:
- Hàng gì thế chị?
- Sắn khô và chè sao! Cẩn thận đấy, thấy bọn thuế vụ hay công an là phải vác chạy thật nhanh đấy. Chúng nó mà tóm được là lỗ vốn hiểu không!
- Vâng ạ!
Hắn lẩm bẩm. Người đàn bà đe:
- Mà chú không được đánh nhau với bọn phòng thuế như lần trước đâu nhé. Chúng nó mà nhớ mặt thì chỉ có nước chết, không buôn bán, làm ăn gì được đâu. Hiểu không?
Nghe người đàn bà dặn, hắn cười khùng khục. Hắn nhớ lại cái cảnh thằng nhân viên thuế vụ bữa trước cố giằng cái bao tải ngô gã đang vác thuê nên bị hắn quay cho một vòng ngã bắn văng xuống vũng nước thải bẩn cạnh nhà ga. (Ngày bao cấp ngăn sông, cấm chợ các loại như thóc gạo, khoai ngô, sắn, chè khô đều là hàng hoá cấm buôn bán).
Đoàn tàu xuôi lừ lừ tiến vào ga. Hắn vác mấy bao tải lên tàu. Người đàn bà rút từ trong cái gói nhét ở cạp quần ra mấy đồng bạc đưa cho hắn và dặn:
- Tối mai nhớ giờ tàu ra ga đón hàng cho chị nhé!
Hắn gật đầu rồi nhảy xuống khỏi toa tàu chở hàng. Con tàu mệt mỏi hộc lên mấy tiếng rồi trườn ra khỏi nhà ga chui mất hút vào bóng đêm mù mịt. Hắn nhảy qua bức tường đổ ra phía ngoài nhà ga. Trở về chỗ vẫn nằm ngủ trong góc nhà chờ tàu hắn làm một giấc cho đến gần sáng. Hắn tỉnh giấc khi tiếng còi báo động có máy bay địch vang lên rền rĩ. Hắn đã quen với tiếng bom, tiếng đạn pháo cao xạ. Hắn chỉ chịu rời khỏi nhà ga khi công an, kiểm soát quân sự và đám tự vệ đeo băng đỏ xua đuổi. Đó là những lúc chuẩn bị có đoàn tàu quân sự sắp vào ga hay một đơn vị quân đội hành quân đến tập kết trên sân ga để chờ lên tàu hành quân vào miền Nam chiến đấu. Hắn rất mong được mặc bộ quần áo quân phục, vác súng ra trận như những người lính kia. Nhưng một thằng con hoang, lý lịch nhọ nhem như hắn thì ai người ta cho vào quân đội chứ.
Tối hôm sau hắn vào ga chờ chuyến tàu đêm đón hàng cho người đàn bà buôn chuyến. Chị ta vừa từ Nam Định lên với gần chục cái bao tải mỳ sợi và bột mỳ. Hàng được bốc lên một chiếc xe tải nhỏ. Người đàn bà vừa leo lên xe vừa dặn:
- Chốc nữa qua chỗ chị mà lấy tiền công nhé!
- Vâng... vâng...
Hắn ậm ừ rồi bước vội về phía cuối đoàn tàu. Hình như có tiếng người gọi gánh hàng thuê. Hắn làm quần quật cho đến nửa đêm mới xong việc. Mệt nhưng mà có việc làm, có người thuê là tốt, là có tiền. Hắn khoẻ như trâu nên có mệt mỏi một tý rồi lại hồi sức ngay.
Ăn một bát phở to có "người lái" (có thịt) hẳn hoi hắn lần bước về phía nhà trọ. Nói là nhà trọ thực ra là một dãy nhà kho cũ giữa khu vườn chuối um tùm của một cơ quan đi sơ tán được ngăn ra thành từng ô cho khách chờ tàu thuê trọ qua đêm. Đám dân buôn chuyến, bọn làm thuê, bốc vác hay kéo xe cải tiến ngoài ga cũng thuê nhà tại đây. Người đàn bà vẫn thuê hắn vác hàng có tiền nên thuê hẳn một gian rộng gần phía cánh đồng để ở và chứa hàng. Gã băng lối nhỏ qua vườn chuối đi về phía ria cánh đồng. Khu vườn chuối tối thui. Lũ ếch nhái côn trùng kêu rỉ rả. Hắn đi qua vườn chuối, nghe tiếng chân của hắn lũ côn trùng liền im bặt.
Đến gần đầu khu nhà trọ hắn thấy ánh đèn le lói và nghe tiếng nước dội ào ào ngoài góc sân sau nhà. Gạt mấy tàu lá chuối khuất tầm mắt ra hắn giật nảy mình thấy người đàn bà cởi trần nồng nỗng đang tắm. Nhà tắm chỉ là mấy tấm liếp che kín phía sân còn phía vườn chuối thì chỉ che lấp lửng ngang bụng. Người đàn bà đang quay lưng về phía hắn. Chị ta thong thả dội gáo nước lên vai rồi chậm rãi kì cọ. Hắn hoảng hốt đứng im như chết sau khóm chuối tiêu um tùm. Lần đầu tiên trong đời hắn nhìn thấy một người phụ nữ khoả thân mà lại gần đến như thế. Có lẽ từ chỗ hắn đang đứng đến chỗ người đàn bà đang tắm chỉ độ ba bốn mét. Hắn không dám thở mạnh. Tim hắn đập thình thịch như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Đôi mắt hắn nhìn như hút vào bờ vai trắng mịn màng của người đàn bà. Hắn nín thở mỗi khi thấp thoáng nhìn thấy mảng ngực tròn tròn dưới cánh tay của người đàn bà.
Như vô tình, người đàn bà vặn to cái đèn bão đang treo trên vách nhà tắm và quay người lại phía vườn chuối. Chị ta giơ cao gáo nước lên để dội, miệng mỉm cười. Hắn suýt khụy xuống khi nhìn thấy cặp vú to căng tròn trắng muốt của người đàn bà ngoài ba mươi tuổi. Người đàn bà tủm tỉm cười, hai tay nâng nâng, vuốt ve mãi cặp vú nây nẩy của mình, đôi mắt nhìn bâng quơ ra phía vườn chuối tối om om. Chị ta đẩy dịch tấm liếp. Hắn nén hơi thở hổn hển khi nhìn thấy cặp đùi thon thả của chị. Hắn đang được chiêm ngưỡng một tác phẩm tuyệt vời của tạo hoá. Hắn mong cho thời gian dừng lại mãi.
Chợt có tiếng ầm ì từ phía biển. Hình như là tiếng tàu bay Mỹ. Có tiếng ai quát to: "Máy bay đấy! Tắt hết đèn đi". Những ánh đèn le lói trong khu nhà trọ vụt tắt. Người đàn bà vội vặn tắt ngọn lửa đang cháy trong chiếc đèn bão. Bóng chị ta mờ hẳn đi rồi biến mất trong bóng đêm. Hắn cố nghển đầu lên nhưng chả còn thấy gì nữa ngoài màn đêm đen bí ẩn. Nuốt ực một cái, hắn định quay về phía nhà ga thì có tiếng gọi nhỏ:
- Chú Lỗi đến rồi hả! Vào mà lấy tiền đi...
Hắn rẽ qua đám lá chuối khô sột soạt bước vào phía đầu khu nhà trọ. Người đàn bà đứng chờ hắn ngay ngoài hiên nhà. Tiếng ầm ì của máy bay địch đã lắng. Tiếng ếch nhái lại râm ran. Chị ta đẩy cánh của khép hờ rồi vặn to ngọn đèn dầu trên chiếc bàn nhỏ. Hắn theo người đàn bà bước vào gian nhà chất đầy những bao hàng. Lúc này hắn mới dám nhìn kỹ người đàn bà. Hắn chợt run lên. Chị ta chỉ mặc một bộ đồ ngủ mỏng manh, trong suốt. Qua ánh đèn hắn thấy rõ hai bầu vú của chị ta sau làn vải mỏng. Người đàn bà đưa trả tiền công bốc hàng cho hắn. Hắn cầm tiền và đứng dậy bước ra cửa. Người đàn bà theo hắn ra ngoài sân. Khu nhà trọ im lìm. Mọi người chắc đã ngủ cả rồi. Hắn ngạc nhiên thấy người đàn bà lặng lẽ đi theo hắn vào lối nhỏ qua vườn chuối. Hắn quay lại hỏi:
- Chị cũng ra ga luôn bây giờ để đón hàng hả?
Người đàn bà không trả lời hắn mà hỏi lại:
- Lúc nãy Lỗi thấy hết rồi hả?
Hắn lập bập:
- Thấy... thấy... cái gì ạ?
- Thấy... cái này này... của Miến này... (Miến là tên người đàn bà).
Chị ta vừa nói vừa nói vừa túm lấy bàn tay thô kệch của hắn áp vào ngực mình. Hắn loạng choạng suýt ngã và cảm thấy như sắp ngất đi khi bàn tay mình chạm vào một nơi mà hắn chưa bao giờ biết đến...
(hết phần 2)
Thế là hắn đã biết “mùi đời”. Mười bảy tuổi hắn trở thành đàn ông. Người đàn bà đã giúp hắn trở thành một người đàn ông, đã cho hắn nếm đầy đủ “mùi đời” là thế nào. Đêm ấy tại vườn chuối ếch nhái côn trùng bị một phen kinh hãi im lặng phắc không dám kêu gì khi người đàn bà và gã quần thảo nhau. Hai người làm gãy đổ cả một cây chuối đang đeo buồng sắp chín.
Sau cái đêm ấy hắn đâm ra nghiện. Hắn chợt hiểu hoá ra ở đời còn có một thứ nghiện hơn cả nghiện thuốc lá, thuốc lào và kể cả thuốc phiện nữa. Họ làm việc ấy thường xuyên với nhau. Người đàn bà có kinh nghiệm còn hắn lại có sức khoẻ nên mọi lần đều mỹ mãn. Nhưng rồi hắn cũng thấy thấm mệt. Hắn đã phải làm việc quần quật cả ngày bốc vác hành hoá lên xuống tàu, đến đêm lại bị người đàn bà quần thảo hút hết cả sức lực. Trong khi đó ăn uống lại thiếu thốn nên ngày mỗi ngày hắn càng hốc hác mãi đi. Nhưng thói đời là vậy, có những cái chán rồi lại thèm, khó mà dứt bỏ được.
Chiến tranh ngày càng căng thẳng. Máy bay Mỹ nhiều lần đánh phá ác liệt vào khu nhà ga. Tuy thế những chuyến tàu đêm vẫn đông. Hành khách đi tàu và cánh buôn chuyến vẫn phải đối mặt với nguy hiểm. Ngày chiến tranh có lẽ phương tiện tàu hoả là thuận lợi nhất. Người đi tàu thường chỉ đến ga trước lúc tàu qua vài phút rồi đi luôn, ít người nấn ná nơi trọng điểm ném bom này. Chỉ có bọn làm thuê như hắn là bất chấp. Máy bay Mỹ lượn lờ trên đầu hắn vẫn nằm thẳng cẳng trong nhà ga ngủ ngon lành. Chỉ khi nào bị xua đuổi hắn mới rời đi ra dãy phố vắng vẻ phía trước ga.
Một tối mùa đông giá lạnh. Hắn đang nằm ngủ ở góc nhà đợi tàu thì có một thằng chui vào. Hắn cáu kỉnh:
- Mày là thằng nào mà chui vào chỗ của tao hả?
- Cho em ngủ nhờ với! Rét quá! Em cũng là cánh làm thuê như anh…
- Mày mới đến à?
- Vâng! Em làm ở ga Hàng Cỏ, nhưng mấy hôm nay tình hình dưới đó căng quá nên em phải dạt lên đây!
- Hừ… toàn là dân khố rách áo ôm cả… - Hắn lẩm bẩm và nhích vào sát tường cho thằng này nằm cùng: - Thế mày quê ở đâu?
- Em ở Hoà Bình!
- Sao phải đi làm thuê?
- Bố mẹ em mất cả rồi! Em lang thang ở Hà Nội bán báo, đánh giày rồi đi làm thuê, thế thôi…
Nó trả lời quấy quá rồi ngáy khò khò. Sáng ra khi tiếng còi tàu hàng hú lên, hắn bừng tỉnh thì đã không thấy thằng oắt con nằm bên cạnh đâu nữa. “Chắc nó có mối làm ăn rồi!” - Hắn nghĩ. Thằng này thoắt ẩn, thoắt hiện. Có khi nó biến mất mấy ngày rồi mới lại thấy mò về. Mỗi lần đi lâu về nó đều mời hắn đi ăn. Bữa nào cũng kha khá, có thịt cá đủ gắp và cả rượu nữa. Hắn hỏi thì nó bảo có người thuê gánh và theo tàu bảo vệ hàng nên cho nhiều tiền.
Một bữa người đàn bà gọi hắn đi ngay từ chập tối. Hắn ngạc nhiên hỏi:
- Đến mười một giờ đêm tàu Lạng Sơn mới về cơ mà!
- Hôm nay Miến nghỉ…
Người đàn bà nói trống không. Hắn hiểu tức là hôm nay hắn sẽ “làm việc” khác chuyện bốc vác hàng hoá lên xuống tàu.
Người đàn bà dẫn hắn vào một quán ăn trong phố. Nhiều món ăn ngon. Có cả món “hoắc dương” gì đó mà ông chủ quán nói là rất bổ. Ăn uống xong hai người leo lên một cái gò hoang giữa cánh đồng. Người đàn bà rải tấm ni-lông ra bãi cỏ. Chị ta trút bỏ quần áo. Dưới ánh trăng trung tuần vằng vặc trông chị ta như một bức tượng sáp. Hắn chợt nhớ đến cảnh nhìn trộm hôm chị ta tắm. Đây là lần thứ hai hắn được chiêm ngưỡng tác phẩm tuyệt vời của tạo hoá một cách gần đến thế. Hắn nhớ những lần quan hệ với nhau đều lén lút, vội vã, khi thì ở vườn chuối tối om om, khi thì ở góc nhà trọ không dám thắp đèn sợ ai biết. Có lần hai người còn mặc nguyên cả quần áo làm việc ấy trên nóc toa tàu hay ở góc sân ga. Hôm nay trên khu gò hoang này họ thấy thật tự do. Mặc cho tiếng máy bay Mỹ thỉnh thoảng lại xèn xẹt trên đầu như sắp bổ nhào xuống ném bom hắn và người đàn bà vẫn đắm đuối ngắm nghía nhau, nâng niu, vuốt ve mơn trớn nhau và cuối cùng là quấn thật chặt vào nhau như hai con rắn đến chu kỳ động dục.
Hắn và người đàn bà chỉ rời nhau khi đã xâm nhập vào nhau đến tận cùng và bung toả đến tận cùng.
*
Lảo đảo đi về phía nhà ga hắn ngỡ mình như người đang hấp hối. Hắn cố ngớp ngớp đớp từng chút không khí để thở. Hình như có bao nhiêu tinh lực hắn đã trút cho người đàn bà rồi. Chân tay, xương cốt hắn rã rời. Cảm tưởng như bây giờ ai đó túm lấy hắn mà lắc nhẹ thì cả người hắn sẽ tan rữa ngay ra thành cát bụi. Mệt bã người nhưng hắn thấy rất thoả mãn.
Về đến góc nhà chờ, hắn chui luôn vào đống chăn ngủ lịm đi luôn.
Hắn chỉ giật mình tỉnh giắc khi có ai đó đá đá vào chân hắn quát:
- Dậy… dậy… dậy…
Hắn lồm cồm ngồi dậy, mắt vẫn chưa mở ra được. Hắn càu nhàu:
- Thằng nào đạp tao thế! Muốn chết à?
- A… thằng này láo quá!
Hắn mở mắt ra nhìn. Xung quanh hắn toàn là công an, tự vệ đeo băng đỏ. Người nào người ấy súng gậy lăm lăm. Một đại uý công an mặt sắt đen sì, miệng còn đang ngậm một cái tăm nghiêm khắc hất cánh tay lên:
- Đứng dậy! Bước ra phía kia!
Hắn líu ríu đứng dậy bước ra phía anh công an chỉ. Hai anh công an trẻ hơn sà ngay xuống chỗ hắn vừa nằm. Họ nắn nắn cái chăn bông cáu bẩn rất kỹ, xé tung cả cái gối bông. Chợt một anh công an reo lên:
- Thấy rồi!
Mọi người xúm đến. Hắn cũng nhớn mắt lên nhìn. Anh công an moi từ trong cái gối mây cũ kỹ ra một cái gói đen đen, tròn tròn. Cái gối ấy là của thằng oắt con vẫn ngủ cạnh hắn.
Đại uý mặt đen đưa mắt nhìn hắn hất hàm. Lập tức hai anh công an lao đến túm ngay lấy hai tay của hắn bẻ quặt ra phía sau. Tiếng còng số 8 bập “tách” một tiếng khô không khốc. Hắn thấy đau nhói ở hai cổ tay mà vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. Đại uý mặt đen trừng mắt nhìn hắn nói, giọng nghiêm khắc:
- Anh Lỗi! Anh bị bắt vì tàng trữ, buôn bán hàng quốc cấm!
Hắn sửng sốt:
- Tôi… tôi… chỉ là người làm thuê bốc vác hàng hóa kiếm cơm… chứ tôi có buôn bán cái gì đâu ạ?
- Anh còn chối cãi hả! Đây này…
Đại uý mặt đen chìa cái gói gí vào tận mặt hắn gằn giọng:
- Anh kiếm “cơm đen” thế này hả?
Hắn vẫn không hiểu. Anh công an trẻ hơn mở cái gói. Có một cục đen đen như cục nhựa đường. Đại uý mặt đen vê một mẩu bằng hạt ngô lấy que tăm đang ngậm trên miệng xiên vào rồi bật lửa đốt. Mẩu nhựa cháy phồng to, mùi thơm toả ra rất lạ. Mọi người đứng xung quanh ồn ào:
- Đúng là thuốc phiện rồi!
Nghe vậy hắn hốt hoảng:
- Cái gối đầu này không phải của tôi, nó là của cái thằng vẫn nằm cùng tôi lúc tối!
- Đồng bọn của anh đã bị bắt và khai hết rồi! Anh đừng có chối quanh mà tội thêm nặng đấy!
Đại uý mặt đen nhắc nhở. Hắn cố thanh minh nhưng tiếng của hắn chìm đi trong tiếng bàn tán ồn ào của những người đang có mặt trong nhà ga:
- Ghê thật! Dám buôn bán cả thuốc phiện…
- Phen này tử hình là cái chắc!
Có ai đó hô to:
- Quét! Quét hết những quân cặn bã này đi! Thanh niên người ta ra chiến trường đánh Mỹ mà chúng nó ở lại hậu phương làm bậy!
- Bắn ngay! Đem ra ngoài bãi bắn ngay tên này đi các đồng chí công an ạ! Loại này còn nguy hiểm hơn bọn Việt gian tay sai bán nước ở miền Nam đấy…
Hắn thấy ù cả tai. Đầu óc hắn ong ong choáng váng chả còn phân biệt được gì nữa. Một anh công an tóm gáy hắn đẩy mạnh ra phía cửa nhà chờ tàu. Hắn bước dúi dụi ra chỗ chiếc xe com-măng-ca chở phạm nhân của công an đang đậu ngoài sân ga…
Thế là hắn lâm vào vòng tù tội. Tàng trữ, buôn bán thuốc phiện là một trọng tội. Hắn cố bào chữa cho mình nhưng lời khai của thằng oắt con đã là một bằng chứng khó chối cãi. Tang chứng, nhân chứng, vật chứng rành rành. Thế là đã đủ cho hắn đi tù mọt gông rồi.
Hắn được đưa về khu cải tạo Trại Chuối dưới chân núi Tam Đảo. Ngồi trên cái xe chở phạm nhân tối bịt bùng hắn thấy trong lòng đầy sự bất mãn, chán chường. Hoá ra cuộc đời con người cũng chẳng ra làm sao. Con người có thể vươn lên đỉnh cao của sự vinh quang, cũng có thể trôi tuột xuống vũng sâu của bùn đen, phân rác. Ranh giới giữa cái thiện và cái ác thật mỏng manh. Hắn vốn là người lương thiện và vẫn luôn cố giữ mình là người lương thiện. Nhưng cuộc đời đã xô hắn xuống cái hố sâu của tội lỗi một cách bất ngờ như thế. Hắn đã cố quẫy đạp để ngóc đầu dậy, để vượt lên miệng hố nhưng không thể được. Trong bối cảnh thời chiến, khí thế ra trận tưng bừng, khẩu hiệu cách mạng hô vang từng đường làng, ngõ phố thì chỉ cần một vẩn vết, một sai phạm nhỏ cũng không thể nào chấp nhận. Thế mà hắn lại vướng vào một chuyện tày đình. Cái án mười bảy năm tù, đúng bằng tuổi đời của hắn. Càng nghĩ hắn càng thấy thật bất công và khủng khiếp. Tương lai phía trước của đời hắn là một màu nhem nhuốc, xám xịt và vô định.
Chiếc ô tô chở tù lao xuống ổ gà. Một cú xóc mạnh làm đầu hắn lao lên trần xe khiến hàm răng hắn cắn luôn vào lưỡi đau điếng. Hắn nhổ toẹt một bãi nước bọt lẫn máu tươi xuống sàn xe. “Mẹ kiếp! Cuộc đời mình đúng là chó má thật! - Hắn nghĩ: - Cuộc đời xô đẩy mình thành một thằng tù thì ông sẽ làm một thằng tù thật sự xem sao!”.
Tiếng khoá mở cửa xe loảng xoảng. Tiếng người công an dẫn giải tù nhân quát:
- Xuống xe!
Hắn nhảy xuống xe. Ánh nắng mặt trời loá chói cả mắt. Hắn giơ bàn tay lên che mặt. Định thần, hắn thấy mình đang đứng giữa một khu trại giam xung quanh những bức tường xây bằng đá hộc cao đến bốn năm mét. Phía trên tường là dây thép gai chăng dày như mạng nhện. Hắn được dẫn vào một khu nhà tù rất kiên cố. Chắc đây là nơi giam giữ những loại tù nhân nguy hiểm.
Lại là tiếng mở khoá cửa loảng xoảng. Người dẫn tù đẩy hắn vào một phòng giam khá rộng, tối lờ mờ giống như trong một cái xe chở tù khổng lồ. Tiếng khoá đóng sập cửa. Hắn còn chưa nhận rõ mặt những người tù ở trong phòng thì đã nghe một tiếng dằn giọng:
- Thằng mới đến kia! Lại ra mắt trình diện “đại ca” đi! Nhanh… lên… còn chần chừ gì hả?
Hắn nhướng mắt lên nhìn. Ngồi trên cái bệ bằng xi-măng làm giường ngủ là một thằng mặc độc cái quần đùi, đầu trọc lốc, mắt trắng dã đang gườm gườm nhìn hắn. Bảy tám thằng khác khoanh tay đứng dưới đất phía trước thành hai hàng hai bên nhác trông như các quan đang đứng hầu vị vua của mình.
Chợt nhớ đến những chuyện khủng khiếp trong tù mà hắn vẫn nghe kể, hắn nhẫn nhịn tiến đến trước mặt cái thằng đang ngồi lù lù trên bệ xi-măng cúi đầu:
- Em mới đến nhập trại! Em xin kính chào “đại ca” ạ!
- Hừm…
Thằng tù mặt choắt như mặt chuột đứng bên phải trừng mắt:
- Quỳ xuống rồi trình lễ vật ra mắt lên…!
Hắn thấy nóng mặt nhưng vẫn cố nén. Hắn ngước nhìn thằng “đại ca” và chợt giật mình thấy nó có vẻ quen quen. Hình như hắn đã gặp thằng này ở đâu rồi thì phải. Hắn cố nhớ nhưng vẫn chưa nhớ ra nó là thằng nào.
- Quỳ xuống!
Thằng mặt chuột đứng bên phải lại quát. Gã nghiến răng:
- Không quỳ, mà tôi cũng chả có lễ vật gì sất…
Thằng mặt chuột trợn mắt tiến lại gần hắn giơ cánh tay lên định đánh.
- Chúng mày dạy bảo cho nó biết “nghi lễ” ở trong này là phải thế nào đi chứ!
Thằng đại ca giờ mới lên tiếng.
A… - Hắn đã nhớ ra rồi! Thằng đại ca này chính là cái tên nhân viên quản lý thị trường ở ga dạo nào đã bị hắn quẳng xuống vũng phân. Nhưng sao nó lại ở đây, lại phải đi tù nhỉ. Ngày còn ở ga nó khét tiếng là nghiêm khắc. Nó kiểm soát tịch thu từng cân gạo, bao sắn, lần cạp quần chị em, bòn rút từng đồng tiền thuế của dân buôn bán. Hắn chứng kiến có lần một bà cụ được cô con gái là công nhân cho mấy cân bột mỳ đem về quê ăn đói lúc lên tàu bị nó kiểm tra thấy dứt khoát đòi tịch thu. Bà cụ nài nỉ van xin rồi khóc lóc, chưởi rủa, cố giữ bao bột mỳ. Nó tức giận dốc cái bao đổ luôn bột mỳ xuống đường tàu. Nghe nói nó đã được đề bạt lên chức đội trưởng cơ mà sao lại vào đây làm đại ca?
Nhận ra “người quen” hắn thấy bình tĩnh hơn. Hắn gườm gườm nhìn bọn cựu tù. Hai thằng tiến đến phía hắn. Hắn lùi lại một bước và nói:
- Cùng là kiếp thằng tù với nhau, chúng mày đừng có mà…
Hắn chưa nói hết câu thì hai thằng đã lao vào. Chúng ra đòn rất nhanh nhưng hắn cũng tránh đòn rất nhanh và phản đòn tức thì. Hai thằng không đánh nổi hắn, bốn thằng xông vào. Hắn phải vất vả chống chọi với bọn cựu tù đang say máu. Hắn bị trúng một thụi vào mặt. Nóng tiết hắn điên cuồng lăn xả đánh lại bọn cựu tù. Tiếp tục bị dính đòn, hắn càng nổi máu điên lên. Trong đầu hắn chợt loé lên một ý nghĩ: “Phải diệt ngay thằng đại ca thì mới dẹp được yên bọn này”. Hắn lựa thế vừa chống đỡ vừa xoay đổi vị trí hướng lại gần chỗ thằng đại ca ngồi.
Đang xoay sở chống đỡ đột nhiên hắn hét lên một tiếng thật to và nhảy vọt lên trên bệ xi-măng nhanh như một con báo chộp mồi. Hắn quăng người chồm lên kẹp ngay lấy cổ thằng đại ca nghiến răng:
- Chúng mày không lui ra xa tao sẽ vặn gãy cổ thằng này ngay!
Mấy thằng cựu tù vội lùi lại. Hắn nói tiếp:
- Tao đã từng ném thằng đại ca này của chúng mày xuống hố phân ở ga Phổ Yên. Hôm nay tao sẽ bẻ gãy tay thằng này để chúng mày biết thế nào là lễ độ…
Thằng đại ca rối rít van xin hắn tha mạng. Mấy thằng tù đàn em nhớn nhác. Bọn chúng cũng không ngờ cái thằng mới vào lại khoẻ, quyết liệt và hung hãn đến thế. Trông hắn chả khác nào một con thú dữ bị thương đang say máu. Một tên xuống giọng lên tiếng xin hắn tha cho “đại ca”. Hắn nới lỏng tay rồi co người đạp mạnh. Thằng đại ca “hự” một tiếng rồi lăn nhào xuống đất. Nó lồm cồm ngồi dậy mặt còn méo xệch vì đau. Ngón tay chỏ của nó đã bị vặn trật khớp. Hắn đứng trên bệ xi-măng hất hàm bảo:
- Một chọi một… Mà thôi, cho bọn chúng mày hai chọi một! Hôm nay tao - cái thằng tù suýt lĩnh án tử hình này sẽ sống mái với bọn chúng mày một trận. Thằng nào chết bỏ…
Cả bọn nhớn nhác nhìn nhau. Không thằng nào còn dám liều lĩnh lao vào đánh nhau với hắn nữa. Thằng đại ca vẻ mặt thì vẫn còn rất đau đớn vì ngón tay chỏ bị vặn lệch khớp lủng liểng. Thằng tù mặt chuột vội thì thào gì đó với mấy thằng khác. Bọn chúng gật gật đầu có vẻ đồng ý. Thằng tù mặt choắt khoanh tay:
- Chúng em biết tài nghệ của ông anh rồi! Từ hôm nay, chúng em xin suy tôn anh là “đại ca” mới của phòng giam này ạ!
Hắn buông lỏng hai nắm tay, ánh mắt vẫn cảnh giác nhìn bọn cựu tù:
- Tao không cần làm đại ca, đại kiếc gì hết. Tao chỉ cần chúng mày hiểu rằng đã vào đến đây là đời đã khốn nạn, đã mạt vận chó má lắm rồi, đừng có mà lên mặt với nhau làm gì nữa…
Nói xong, hắn nhảy xuống đất đỡ thằng đại ca ngồi lên bệ xi-măng. Hắn lựa chiều nắn lại khớp ngón tay chỏ cho thằng đại ca rồi bảo:
- Ông này vẫn là “đại ca” của chúng ta hiểu không?
- Hiểu… hiểu… - Bọn cựu tù đồng thanh đáp và lau nhau nói tiếp:
- Vậy thì anh là “nhị ca” của tụi em nhé!
- Hừ… hừ…
Hắn ậm ừ trong miệng không ra đồng ý hay từ chối. Hắn mở cái túi vẫn đeo bên người rút ra hai bao thuốc lá Tam Đảo đưa cho bọn tù. Mắt mấy thằng cựu tù sáng lên. Bọn chúng vồ ngay lấy hai bao thuốc lá cảm ơn hắn rối rít…
Hắn nằm im, nhịp thở đều đều như có vẻ đã ngủ ngon. Đêm đầu tiên ở trại tù yên tĩnh hơn ở các nhà tạm giam mà hắn đã từng trải qua. Ở các nhà tạm giam thường là có rất nhiều loại nghi can, nghi phạm chưa thành án, chưa rõ tội danh, đang ở giai đoạn điều tra. Loại có tội, loại vô tội bị bắt oan đều bị tống vào trong nhà tạm giam một thời gian theo luật để phục vụ cho việc lấy khẩu cung định tội hay giải oan vô tội. Do đó cũng có nhiều chuyện xảy ra bất ngờ. Hắn còn nhớ hôm ở trại tạm giam của công an thị xã có một thằng nghiện nặng nửa đêm lên cơn thèm thuốc sùi bọt mép, mắt trợn ngược lao đầu vào tường giãy chết đành đạch làm cả bọn bị một phen khiếp đảm. Lại có lần một thằng lưu manh bị dân bắt quả tang tẩn cho tơi tả, công an lại trần thêm cho một chập rồi tống vào nhà tạm giam. Nó nằm ngay cạnh một anh giáo viên bị bắt do “quan hệ bất chính” với vợ người khác. Bị đánh đau trúng chỗ hiểm đến đêm thằng này nghẻo luôn, sáng hôm sau mới biết. Khốn nạn anh giáo viên nằm cạnh bị công an đổ riệt cho là đã bóp cổ chết thằng lưu manh này. Thế là anh ta tội chồng thêm tội.
Bây giờ thành án vào nhà tù hẳn hoi không phải là tạm giam nữa hắn có vẻ yên tâm hơn nên có vẻ ngủ ngáy rất ngon lành.
Đêm đã khuya. Tiếng tắc kè trên núi kêu thong thả từng tiếng một như cố xua tan cái tĩnh mịch của một miền rừng âm u. Thằng đại ca “quản lý thị trường” giở mình ậm è. Hắn chưa ngủ. Thằng tù mặt chuột nằm ở góc nhà nhẹ nhàng nhỏm dậy. Nó lần tay vào một khe nứt nhỏ trên tường rút ra một mảnh thuỷ tinh dài độ hơn ngón tay. Đoạn nó nhẹ nhàng lần tới chỗ hắn - thằng tù mới đến chiều nay đang nằm. Ánh đèn điện chui qua chấn song sắt soi gian nhà tù sáng nhờ nhờ. Thằng đại ca cũng ngồi dậy lần đến. Đôi mắt ti hí của hắn chớp chớp. Thằng tù mặt choắt gật gật đầu, tay giơ mảnh kính lên. Rồi nhanh như cắt nó toài người chồm lên chỗ hắn đang nằm. Mảnh kính sắc cạnh, nhọn hoắt trên tay nó nhằm vào cái ngực trần đang phập phồng thở.
Nhưng mảnh kính trên tay thằng tù mặt chuột chưa chạm được đến ngực của hắn thì cả người nó đã bị đạp bật trở lại. Hắn vùng dậy nhanh như một con báo đang nằm phục con mồi. Một cú đấm như trời giáng khiến thằng tù mặt choắt bắn văng ra phía cửa. Tất cả bọn tù đang ngủ đều lồm cồm ngồi dậy. Thằng đại ca “quản lý thì trường” vội nhảy trở về chỗ nằm của mình. Thằng tù mặt chuột sợ co rúm người lắp bắp:
- Tha… tha… cho em… không phải em…
- Mày định giết tao thì tao sẽ cho mày chết luôn…
Hắn gầm lên và lao đến chỗ thằng tù mặt chuột. Thằng này quỳ sụp van lạy như tế sao:
- Không phải… tha… tha… cho em… là lệnh của đại… đại ca…
Giật mảnh kính trên tay thằng tù mặt chuột, hắn đưa mảnh kính lên ngang tầm mắt soi qua ánh đèn điện rọi qua khe cửa vào xem xét. Đột nhiên hắn gầm lên một tiếng tựa như tiếng thú dữ lên cơn cuồng loạn khi bị săn đuổi đến đường cùng. Bọn tù giật mình chưa kịp hiểu vì sao hắn lại gầm lên một cách dữ tợn thế thì hắn đã lao đến chỗ thằng đại ca “quản lý thị trường”. Và cũng chưa thằng tù nào kịp phản ứng thì đã thấy hắn một tay cầm mảnh kính vỡ, một tay cầm cái tai ròng máu đi ra giữa phòng giam. Trong khi ấy thì thằng đại ca “quản lý thị trường” ôm cái đầu be bét máu lăn lộn gào rống lên thảm thiết.
Ngoài cửa có tiếng chân chạy rầm rập. Quản giáo, giám thị lao đến rất đông. Đèn điện bật sáng trưng. Tiếng mở khoá xoang xoảng. Hắn vẫn đứng giữa phòng giam, tay cầm cái tai đang rỏ máu. Bọn tù trong phòng run cầm cập, mặt mũi xám ngoét. Ngay lập tức hắn bị còng tay. Thằng đại ca “quản lý thị trường” được băng bó cấp cứu. Quản giáo cũng thu hồi ngay mảnh kính và cái tai bị cắt đứt. Nhưng ngày ấy họ cũng chỉ cầm máu cho thằng đại ca thôi chứ cũng không đưa đi bệnh viện để phẫu thuật ghép lại cái tai đứt cho nó.
Sau khi lập biên bản, hắn bị tống luôn vào biệt giam. Hắn phải nhận thêm thời hạn tù vì tội hành hung, cố ý gây thương tích cho người khác. Hắn không ân hận. Hắn chỉ nghĩ nếu mình không cảnh giác thì đêm ấy đã mất mạng rồi. Cuộc đời khốn nạn đã cho hắn bài học của sự tỉnh táo và cảnh giác để không bị nạn trong nhũng tình huống bất ngờ. Hắn chỉ tiếc là chưa gặp lại cái thằng oắt con buôn bán thuốc phiện ở nhà ga. Nếu gặp nhất định hắn sẽ cắt phéng luôn cả hai cái tai của nó ném cho chó ăn. Sau này mỗi lần đi lao động chung với cả đám tù nhân cải tạo ở Trại Chuối hắn đều để ý tìm thằng oắt con ấy. Song hắn đã không tìm thấy nó. Hắn không biết trong một trận bọn Mỹ dội bom vào khu trại giam thằng oắt ấy bị thương nặng. Nó được các cán bộ, quản giáo trại giam tận tình cứu chữa, có người còn tiếp cả máu cho nó nữa. Có thể vì lý do đó mà nó cảm động, nghĩ lại. Nó đã khai báo lại chuyện buôn bán thuốc phiện. Nhất là việc đổ oan cho người thanh niên làm thuê bốc vác tên là Lỗi ở nhà ga.
Do thằng buôn thuốc phiện khai lại nên hắn được thay đổi mức án. Hắn chỉ còn phải tù việc hành hung gây thương tích trong trại giam. Nhưng hắn cũng đã ở trong tù đến hơn bảy năm rồi còn gì.
Hắn ra tù thì đất nước đã hoà bình. Hắn lần về quê rồi lại lần ra ga tàu. Mẹ hắn đã mất khi hắn đi tù được ba năm. Ở quê hắn chả còn ai thân thích. Hắn tìm ra mộ mẹ thắp mấy nén hương rồi đi. Mấy ngày vạ vật ở chỗ nhà ga cũ hắn để ý tìm nhưng cũng không gặp lại người đàn bà tên là Miến ngày nào. Bom đạn của bọn Mỹ đánh phá tan tành khu nhà ga cũ. Ở trên nền ga cũ người ta đang xây dựng lại một nhà ga mới to đẹp hơn rất nhiều.
Hắn lại tiếp tục nghề bốc vác thuê kiếm tiền nuôi thân. Hắn vốn là người lương thiện nhưng thời thế đã biến hắn thành một người bất thiện. Năm tháng trong tù hắn đã thay đổi khá nhiều. Tuy vậy bây giờ hắn không muốn mình mãi là kẻ ác. Hắn chỉ muốn kiếm tiền nuôi thân trong những ngày khốn khó sau chiến tranh này thôi.
*
Đang đếm nắm tiền vừa được trả công bốc vác thì có ai đá vào lưng hắn. Cú đá khá mạnh khiến hắn đau nhói ở mạng sườn. Hắn quay phắt lại. Có ba thằng thanh niên đứng sừng sững ngay sau lưng hắn. Thằng có cái đầu bù xù hất hàm:
- Thằng già ở đâu đến mà dám làm ăn ở địa bàn của chúng tao hả?
Gã đứng bật dậy:
- Thế chúng mày là bọn nào! Địa bàn nào là địa bàn của chúng mày?
- Khu vực nhà ga này chứ còn chỗ nào nữa hả! Chúng tao quản lý toàn bộ khu này. Ai đến làm ăn, hoạt động ở đây phải được phép của bọn tao…
- Phải xin phép chúng mày á?
- Đúng thế! Muốn làm ăn ở đây phải được phép của chúng tao và phải “nộp thuế” hàng ngày cho chúng tao.
- Thế tao đéo nộp thì sao?
Gã bắt đầu thấy nóng mặt. Thằng đầu bù trợn mắt:
- Thế thì biến khỏi chỗ này ngay!
- Tao không biến thì sao mà tao khuyên chúng mày nên biến khỏi chỗ này thì hơn…
Nói xong hắn cố nén giận ngồi xuống. Hắn không muốn gây gổ nữa đánh nhau nữa. Nhưng ba thằng thanh niên không để hắn yên. Một thằng tung trưởng phóng một cú đá thẳng vào mặt hắn. Nhanh như cắt, hắn né người vung tay chém chéo vào đùi nó một nhát thật mạnh. Thằng này ngã lăn ra đất kêu la ầm ĩ. Hai thằng còn lại lao vào. Thằng có mái tóc bù xù vung con dao chọc tiết lợn lên. Hắn tránh lưỡi dao và cũng rất nhanh tóm được cổ tay cầm dao của nó vặn mạnh. Có tiếng xương gãy răng rắc. Nó bị hắn giật tay mất đà ngã sấp xuống nền nhà.
Hắn tước được con dao của thằng đầu bù xù và đè nghiến nó xuống nền nhà ga. Tỳ lưỡi dao vào bàn tay của nó, hắn gằn giọng:
- Mày có biết tao là ai không! Trong tù tao đã cho một thằng cụt tai, một thằng mất hai ngón chân đấy. Hôm nay tao sẽ cho mày không còn một ngón tay nào để cầm đũa ăn cơm nữa…
Thằng đầu tóc bù xù sợ quá van xin rối rít. Trong đám người đang đứng chứng kiến cảnh đánh nhau có ai đó nói to: “Mấy thằng này chuyên trấn lột bà con buôn bán, làm thuê ở nhà ga đấy cứ đánh chết mẹ hết chúng nó đi!”.
Thằng đầu tóc bù xù gần như ngất đi vì đau và sợ. Cánh tay phải bị gãy của nó rũ xuống. Còn hắn thì một chân quỳ, một chân đạp lên chẹt cứng cổ thằng đầu bù xù, lưỡi dao vẫn tì trên mu bàn tay của nó. Hai thằng lưu manh kia nhân cơ hội nhốn nháo lủi mất. Hắn phanh ngựa áo. Mọi người đang xúm xít xung quanh vội lùi cả lại. Trên cái ngực trần to bè của hắn xăm hình một cái mặt hổ nhe răng trông thật gớm ghiếc. Lúc này mọi người ở ga mới biết hắn là một thằng tù vừa mới ra trại. Có ai đó hốt hoảng kêu lên:
- Bọn lưu manh chúng thanh toán lẫn nhau đấy! Bà con tránh xa ra ngay…
- Ối giời ơi là giời...
Mọi người rạt ra xa. Nhưng lại có tiếng người nói gấp gáp ngay phía sau hắn:
- Công an đang đến đấy! Chú hãy mau chạy đi!
Hắn ngoái lại và nhận ra bà cụ bán nước chè tươi rong ở ga. Hắn vội buông thằng đầu tóc bù xù bật đứng dậy. Phía ngoài cổng nhà ga có tiếng còi ủ của xe công an. Tay vẫn cầm con dao chọc tiết lợn nhọn hoắt gã lao vào trong nhà ga. Hai cô nhân viên soát vé hốt hoảng chạy rạt ra nép vào hai bên cánh cửa tránh đường cho hắn. Một chuyến tàu hàng đang chạy qua. Hắn ném con dao xuống rãnh nước rồi bám cửa đu nhảy lên một toa chở hàng. Có mấy bóng áo vàng lao vào trong sân ga tìm kiếm. Nhưng con tàu hú lên rồi tăng tốc lùi lũi chạy ra khỏi nhà ga ngược lên hướng Lạng Sơn. Hắn thoát. Công an chỉ tóm được mỗi thằng bảo kê đầu tóc bù xù bị gãy tay đang nằm trên sàn nhà ga.
Nằm giữa những bao xi-măng và đống đá dăm lổn nhổn trên toa tàu hắn nghĩ về cuộc đời của mình. Thế là hắn lại rơi vào một hoàn cảnh mới, một tình huống mới không định trước. Thời thế luôn xô đẩy số phận con người. Hắn thở dài chán nản không biết rồi đời mình sẽ đi đến đâu.
Bầu trời tối đen, mưa rơi lất phất. Con tàu chở hàng vẫn lùi lũi đi trong đêm. Tiếng bánh xe xiết vào đường ray ken két nghe ghê cả răng. Nằm ở toa hàng không mui khổ vì mưa táp nhưng không bị nhà tàu kiểm tra tống xuống đường. Hắn thấy yên tâm. Thỉnh thoảng tiếng còi tàu lại hú lên giữa chốn đồng không mông quạnh hay giữa cánh rừng hoang vắng. Hắn chợt thấy bụng đói cồn cào. Tối nay hắn chưa kịp ăn chút gì thì xảy ra chuyện xô xát với ba thằng lưu manh chuyên trấn lột, bảo kê ở khu vực nhà ga. Hắn ngồi dậy ngó ra hai bên đường. Cây cối và những ngôi nhà lập lòe ánh đèn, nhòe nhoẹt trong đêm. Hắn tính đến ga nào tàu dừng sẽ xuống mua lấy một ổ bánh mì hay cái bánh chưng ăn tạm, sáng mai tới Lạng Sơn sẽ hay.
Tàu hàng tới ga Đồng Bành thì dừng lại tránh tàu khách xuôi Hà Nội. Hắn đu thành toa nhảy xuống. Không có cuống vé để ra phía ngoài nhà ga nên hắn lảng vảng ở bên trong sân chờ tàu. Hắn mua hai cái bánh mỳ ngồi nhai ngấu nghiến. Uống một chén nước hắn lại leo lên cái toa chở hàng lúc nãy. Đến ga Lạng Sơn thì trời tang tảng sáng. Không có vé nên hắn đi dọc theo đường tàu tìm chỗ leo ra ngoài tránh cửa kiểm soát. Có mấy người cũng đang tìm cách chui ra bên ngoài ga như hắn. Thấy hắn đang nhớn nhác tìm đường một người hỏi:
- Cũng là dân đi tàu trốn vé hả! Cứ đi theo bọn này sẽ có lối ra… - Một người đàn ông mặc bộ quân phục bạc màu, lưng đeo ba-lô, vai vác một cái bao tải nói rồi reo lên: - Ơ… mà có phải là anh Lỗi đấy không?
Hắn ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao ông lại biết tên tôi?
- Em là Đang, người cùng làng với anh đây mà!
- Thằng Đang… đúng là mày rồi! Nhưng nghe nói mày đi bộ đội, vào miền Nam chiến đấu cơ mà! Sao bây giờ lại lôi thôi lếch thếch ở đây thế này?
- Em bị thương, phục viên cuối năm 1978 rồi!
- Thế mày lên trên này làm gì?
- Em lên đây làm thuê, vào rừng chặt củi bán lấy tiền nuôi vợ con ở nhà chứ còn đi đâu nữa, quê mình công điểm hợp tác cho vài lạng thóc sống thế quái nào được, anh lạ gì nữa mà lại còn hỏi…
- Mẹ kiếp! Nhưng mày là bộ đội, là thương binh có công lao với đất nước cơ mà!
- Công lao thì ăn thua gì, vài đồng phụ cấp thương binh chả đủ đút miệng chả đủ, còn vợ con nữa? Anh cứ như người ở trên trời rơi xuống ấy!
Hắn bực, suýt nữa thì buột miệng nói: “Thì tao ngồi trong tù đến ngót chục năm rồi còn gì!”. Đang cũng ngớ ra hỏi lại:
- Thế còn anh, lên tận biên giới này làm gì?
- Thì cũng đi kiếm việc làm thuê như bọn chúng mày thôi!
- Vậy thì đi theo bọn em! Em vừa nhận thuê đào hai cái giếng, san một cái nền nhà, đang thiếu nhân công.
- Tốt quá, tao cũng đang chưa biết làm việc gì đây!
- Đi thôi!
Thằng Đang nói và kéo hắn đi theo bọn thanh niên. Nó có vẻ là chỉ huy của đám làm thuê. Cả bọn cúi gập người chui qua một cái lỗ hổng ở tường rào nhà ga ra bên ngoài.
*
Bất ngờ gặp lại người làng khiến hắn chợt thấy nhớ quê đến thế.
Nhà hắn ở giữa xóm. Mẹ hắn ngày ấy được đội sản xuất giao cho nuôi một con bò đực to khoẻ và rất hung dữ. Ngoài hắn chả ai dám đến gần. Khi đội sản xuất điều hoà sức kéo cũng chẳng ai muốn nhận con bò nhà hắn. Bởi nó hung hăng không khéo gãy cày, hỏng bừa mà lại có thể xảy tai nạn nếu lỡ bị nó húc phải. Con bò đực chỉ phục tùng mỗi mình hắn. Hắn chế tạo ra một bộ yên cương buộc vào lưng bò cưỡi như cưỡi ngựa. Cuối chiều, khi đám trẻ lùa trâu bò về chuồng thì hắn cưỡi con bò mộng nhong nhong một vòng ra thị trấn rồi mới quay về làng. Hắn ngồi trên lưng bò, lưng đeo dao, tay cầm cái roi dài trông rất oách.
Đám trẻ choai choai như bọn thằng Đang rất thích hắn. Bởi lẽ hắn có tài kể chuyện. Hắn học dốt, thầy giáo kiểm tra ít khi thuộc bài. Nhưng những chuyện Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ hử, Hồng lâu mộng, Chinh đông, chinh tây... hắn đều thuộc làu làu. Chiều nào đi chăn thả trâu bò trong thung lũng đám thằng Đang cũng hong hóng chờ được nghe hắn đọc chuyện. Để được nghe chuyện, mỗi đứa phải nộp một bó cỏ thật non để cho con bò mộng của hắn ăn. Khi con bò mộng của hắn đứng ngập giữa đống cỏ, hắn mới bắt đầu kể chuyện. Giọng hắn lúc trầm, lúc bổng, lúc ngân nga. Hắn đọc làu làu từng chương, hồi trong Tam quốc diễn nghĩa mà chẳng cần mở sách. Hôm nào cũng vậy, hắn chỉ đọc đúng ba chương. Đám trẻ chăn trâu đứa nào cũng xuýt xoa, tiếc rẻ, mỗi khi hắn kết thúc buổi đọc truyện bằng câu: "Muốn biết chuyện ra sao, xem hồi sau sẽ rõ!".
Công điểm ít, thu nhập thấp nên mẹ con hắn thường xuyên bị thiếu ăn. Hắn ăn rất khoẻ, mỗi bữa phải năm sáu bát cơm đầy mới tạm no. Ngày ấy ăn uống thiếu thốn, chỉ có rau muối nên phải tăng chất gạo, chất xơ như khoai sắn chêm thêm vào dạ dày mới đỡ được những cơn đói cồn cào. Túng thì làm liều, đói đầu gối phải bò. Cũng như tất cả mọi người, hắn nghĩ ra mọi cách để ăn cắp của hợp tác xã. Đến đêm, chờ khi đám thanh niên trục lúa xong, vun thóc đánh đống giữa sân kho rồi về nhà ngủ thì hắn mới ra tay. Hắn bò vào sân kho của hợp tác xã với một chiếc bao tải to. Hắn dùng tay vun thóc nhồi đầy một bao tải rồi kéo lê chui qua bờ rào vác về nhà. Mấy lần đều trót lọt. Nhưng “đi đêm lắm ắt có ngày gặp ma”. Một đêm, hắn vừa lôi được cái bao tải thóc ướt còn lẫn cả rơm qua cái lỗ thủng hàng rào nhà kho thì bị bắt. Hai cái gậy tre đực cắm phập xuống đất kẹp chặt lấy cổ hắn. Hai ông bảo vệ đứng sừng sững hai bên. Một ông quát:
- Quân chuyên ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Lần này thì đừng hòng mà chạy thoát nhé!
- Gô cổ nó lại dẫn lên công an xã...
- Hai ông bảo vệ buông gậy để đè trói hắn lại. Khi hai cây gậy vừa nới lỏng ra thì hắn cong người bật dậy. Chỉ bằng một động tác quét chân, một ông bảo vệ đã lộn nhào xuống mương nước. Ông kia vừa sáp đến thì trúng luôn một đạp vào bụng. Hắn phá chạy. Tiếng kêu cứu thất thanh. Dân làng đổ ra. Đèn đuốc sáng rực. Mọi người nhanh chóng kéo ông đang lóp ngóp dưới mương lên. Tang vật là cái bao tải lèn đầy thóc bỏ lại được đưa vào sân kho. Mọi người nhận ra ngay chủ nhân của chiếc bao tải đay ấy. Tên mẹ hắn viết bằng sơn đen to tướng trên bao tải. Ngày ấy chiếc bao tải cũng là một loại tài sản của nông dân. Nó cũng như những cái cày, cuốc, thúng, mủng, nong, nia. Nhà nào cũng ghi tên, đánh dấu để khỏi lẫn, khỏi mất.
Thế là chả khó khăn gì, công an xã cũng tóm cổ được kẻ ăn trộm thóc. Hắn bị bắt khi đang bới sắn trên mương. May bận ấy xã chỉ cảnh cáo, hợp tác xã do đã thu hồi được bao thóc tang vật trả về kho nên chỉ phạt nhà hắn mấy chục công.
Hắn nhớ một lần có đoàn văn công tỉnh về biểu diễn ở xã. Trước giờ mở màn, ông chủ tịch xã lên diễn thuyết một thôi một hồi về tình hình chiến sự ở miền Nam, về thành tựu phát triển kinh tế xã hội của miền Bắc, kêu gọi toàn dân xã hăng hái thi đua lao động sản xuất, tòng quân giết giặc lập công và phổ biến nghị quyết công tác giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, xây dựng hậu phương lớn vững mạnh chi viện cho tiền tuyến lớn đánh giặc.
Lúc vở diễn bắt đầu thì có người chợt thoáng thấy hắn lảng vảng hai bên cánh gà. Khi vở chèo cổ đang cao trào thì đột nhiên sâu khấu ngả nghiêng, phông màn từ từ đổ ụp xuống. Dây điện đứt, chập điện tóe lửa bén vào phông màn cháy lem lém. Trên sân khấu, đám vua quan đang thiết triều bàn chính sự thảy đều hoảng hốt bỏ cả ngai vàng, vứt cả vương miện, mũ mão, ấn kiếm chạy tán loạn. Vua chẳng kịp chờ quân thần hộ giá vội nhảy vọt ra khỏi sân khấu thoát thân. Sát ngay gần sân khấu là chỗ ngồi của đại biểu lãnh đạo các ban ngành trong xã cũng nhốn nháo, mạnh ai, nấy chạy.
Sau khi sân khấu ụp đổ hoàn toàn, công an, bảo vệ mới tìm ra nguyên nhân là các dây chằng đều bị cắt đứt. Ông chủ tịch xã lúc này mới hoàn hồn lên giọng ra lệnh:
- Tóm cổ ngay thằng Lỗi. Nhất định chỉ có nó là gây ra chuyện này!
- Rõ! - Đám công an, bảo vệ bủa đi tìm hắn.
Nhưng hắn đã mất hút. Lúc người ta dựng lại được rạp, căng lại phông màn để tiếp tục biểu diễn thì tìm mãi không thấy vương miện và bảo kiếm của vua đâu. Thì ra nhân lúc nhốn nháo, hắn lao ngay lên sâu khấu chộp luôn chiếc vương miện và thanh bảo kiếm của nhà vua rồi chuồn mất.
Hôm sau, khi hắn đang cưỡi bò, đầu đội chiếc vương miện lóng lánh toàn là vàng, ngọc giả, tay múa kiếm trên khu đồi cây cho đám trẻ chăn trâu xem thì bị bắt. Người ta thu hồi vương miện và thanh bảo kiếm trả lại cho đoàn văn công. Lần này, hắn được giao cho công an huyện xử lý. Hắn bị phạt lao động công ích một tháng rồi được tha về.
Nhớ lại chuyện vui buồn ấy khiến hắn cứ nao nao nghĩ về làng, về mẹ…
Lời hẹn đêm giao thừa
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Sắp đến giao thừa, trời như bỗng ấm hơn. Núi rừng biên giới đang chuyển sang xuân. Sương rắc nhẹ trên cành cây mặt đất những hạt nước li ti, rầm rì kiên nhẫn gọi những mầm xanh. Những bản làng trên lưng chừng núi lung linh ánh đèn mong chờ, cảnh giác. Đất nước đang sang xuân, trên điểm tựa những người lính chúng tôi không ngủ.
Trong căn lán của tổ sửa chữa đường dây lên điểm tựa chỉ còn có tôi và Vinh. Những ngày cuối năm này, chiếc bánh chưng, hộp mứt xếp vào ba lô, tiểu đội hữu tuyến của chúng tôi chia nhau thường trực ở các trục đường dây, quyết tâm giữ vững liên lạc trong dịp tết. Tuy chỉ còn có hai người nhưng tôi và Vinh vẫn tíu tít sắm sửa để đón giao thừa. Trong căn lán nhỏ vẫn có một cành hoa đào rừng nho nhỏ, có mứt kẹo chờ mùa xuân đến. Và, điều quan trọng là đúng giao thừa chúng tôi sẽ có khách, mà lại là khách con gái nữa nhé. Hai cô y tá ở trường hậu cần quân khu về thực tập tại trạm quân y trung đoàn hẹn sẽ đến "xông nhà" chúng tôi đúng phút đầu tiên của năm mới. Vì vậy, chúng tội khẩn trương chuẩn bị nơi tiếp khách. Vinh thì hý hoáy ghép mấy quả pin cũ để thắp những chiếc bóng đèn pin xanh đỏ trên cành đào, tôi thì cẩn thận dán mấy tờ tranh và cái lốc lịch mới lên vách. Tờ lịch ngày cuối năm hồng lên trong ánh "điện" của Vinh. Chúng tôi rất vừa ý với căn lán của mình. Giữa lúc đó, tiếng chuông máy điện thoại bỗng reo lên gấp gáp. Vinh cầm ống nghe mặt xịu xuống buồn thiu. Tôi hỏi:
- Có chuyện gì thế?
- Mất giao thừa rồi! - Vinh lẩm bẩm: - Đường dây lên vị trí chỉ huy tiểu đoàn đứt rồi!
- Thế hả? - Tôi cũng ngẩn người ra. Đường dây lên điểm tựa, lên sở chỉ huy tiểu đoàn chúng tôi đã củng cố rất cẩn thận mấy ngày liền sao lại xảy ra tình huống này. Tôi bảo Vinh:
- Chắc là tại bị đứt ở đoạn qua "thung lũng cảnh giác" rồi. Biết làm thế nào bây giờ, hai cô bạn sắp đến chúc tết, hay là chờ giao thừa xong ta hãy đi...
Vinh lắc đầu:
- Không được! Chúng mình phải đi ngay thôi. Cậu lấy giấy ghi mấy chữ đặt trên bàn để các cô ấy biết, thông cảm.
Vừa nói, Vinh vừa khoác khẩu súng lên vai. Tôi vội xé tờ lịch ngày cuối năm lật mặt sau ghi vội mấy chữ xin lỗi hai vị nữ khách rồi để trên mặt bàn. Đoạn, tôi vơ lấy chiếc máy điện thoại và cuộn dây rồi bảo Vinh: "Nào thì đi!".
Chúng tôi bước ra ngoài cửa. Gió lạnh táp vào mặt, con đường ngược lên điểm tựa hun hút giữa sương đêm. Chúng tôi lần theo từng mối dây, lòng dạ bồn chồn vì lỡ hẹn với những người bạn gái. Chắc các bạn sẽ thông cảm nhưng sao tôi cứ thấy băn khoăn, áy náy. Cứ nghĩ đến lúc hai khuôn mặt xinh xắn của Thu và Yến buồn thiu khi thấy chúng tôi vắng nhà, tôi cứ thấy nao nao trong lòng. Mải suy nghĩ, tôi vấp luôn vào một mô đá ngã chúi xuống mặt đường, chiếc máy điện thoại văng ra xa. Vinh quay lại gắt:
- Cậu đi đứng thế hả? Đang ở trên miệng vực đấy!
- Đau quá! - Tôi xuýt xoa.
Vinh soi đèn cho tôi tìm lại cái máy điện thoại và nhắc:
- Cẩn thận, sắp đến "thung lũng cảnh giác" rồi!
Chúng tôi tiếp tục kiểm tra tuyến đường dây. Tới "thung lũng cảnh giác" gió thổi mạnh hơn. Cái tên "thung lũng cảnh giác" là do chính anh em đường dây chúng tôi đặt. Bởi vì cái thung lũng nhỏ không tên này sát với đường biên, bọn địch thường hay luồn sang cắt phá hoại đường dây. Cách đây mấy tuần tổ sửa chữa đường dây chúng tôi đã chạm súng với một toán thám báo địch. Cái tên "thung lũng cảnh giác" ra đời từ đó. Thung lũng khá xa lán chúng tôi. Có lẽ đã đến giao thừa. Có tiếng pháo hay tiếng súng nổ lẻ tẻ, xa xôi. Đêm biên giới, gió thổi cồn cào trên vách đá. Cái rét tái tê xát xiết vào da thịt. Chúng tôi vẫn lần theo đường dây lên điểm tựa. Ánh đèn pin bịt giấy bóng lờ mờ của Vinh soi từng mối nối. Thỉnh thoảng, tôi lại mắc máy vào đường dây quay thử. Đến giữa thung lũng thì phát hiện ra chỗ đứt. Vinh ra hiệu cho tôi nối dây. Đường dây đã thông, tôi cầm ống nghe, tiếng chuông máy reo rộn rã, chỉ huy tiểu đoàn báo cáo về phía sau: "Đơn vị đón giao thừa cảnh giác". Từ sở chỉ huy trung đoàn thông báo ngày mồng một tết sẽ có đoàn đại biểu và văn công từ hậu phương lên vui xuân với chiến sĩ. Tín hiệu cứ truyền đi, truyền lại ríu rít...
Tôi và Vinh thu máy trở về. Đã gần sáng. Con đường mòn hiện mờ mờ trong sương sớm. Khi chúng tôi đến lán thì ở bình minh đang bừng dậy. Dưới bản nhỏ Nà Liền nhộn nhịp. Cây nêu đã dựng, màu cờ đỏ hòa trong màu hoa đào rạng rỡ.
Bước vào lán, chúng tôi ngạc nhiên vì hộp mứt, gói kẹo đặt trên bàn mời khách vẫn còn nguyên. Tờ lịch tôi ghi vẫn cài ở góc bàn. Tôi buồn rầu nói với Vinh.
- Chắc các cô ấy lên, thấy chúng mình đi vắng nên bỏ về luôn.
- Có thể như vậy. Bây giờ chúng mình xuống chỗ các bạn ấy đi.
- Ừ, thì xuống xin lỗi các cô ấy một câu cậu ạ!
Thế là tôi và Vinh đem mứt kẹo xuống nhà quân y. Tôi còn cẩn thận cầm theo cả tờ lịch cuối năm. Xuống tới chỗ của hai cô gái, chúng tôi ngạc nhiên thấy nhà vắng người mà cửa vẫn để mở. Tôi và Vinh bước vào nhà. Trên một chiếc bàn nhỏ bày sẵn bánh kẹo, có một cành hòa đào tươi rói. Tôi cầm tờ giấy nhỏ màu hồng được chèn bằng một bao thuốc lá đặt ở giữa bàn lên xem. Cũng là một tờ lịch ngày cuối năm. Phía sau tờ lịch là những dòng chữ: "Hai anh thân mến! Vì ở dưới bản Nà Liền có ca cấp cứu đột xuất, chúng em phải xuống đó ngay nên không lên đón giao thừa với các anh như đã hẹn được. Nếu các anh xuống thăm mà không gặp, rất mong các anh thứ lỗi. Năm mới kính chúc sức khỏe các anh".
Tôi và Vinh nhìn nhau. Hóa ra lúc giao thừa tất cả chúng tôi đều phải đi làm nhiệm vụ, không giữ được lời hẹn cùng nhau vui đón năm mới. Nhưng có lời hẹn ước nào quan trọng hơn là nhiệm vụ của người chiến sĩ.
Cái chết của lão dở người
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Lão dở người vác cái bao tải rách lên vai. Hôm nay lão gặp may. Một ngôi nhà là trụ sở công ty tư nhân đang đục phá, sửa chữa. Đám thợ vứt ra hè đường một đống sắt vụn cong queo. Ông chủ công ty nhìn thấy lão đang móc tìm kiếm ở cái thùng rác bên đường liền gọi sang và hào phóng cho lão luôn đống sắt vụn. Chỗ sắt vụn đầy sét gỉ phải đến hai chục cân. Lão oằn lưng vác cái bao tải nặng ra phía bờ sông. Số sắt vụn này lão kiếm được hơn trăm ngàn là cái chắc.
Cân xong bao tải sắt vụn, lão dở người lại vào phố. Con mụ Béo chuyên thu mua đồ phế liệu chê ỏng chê eo sắt gỉ quá chỉ đưa cho lão một trăm hai mươi ngàn đồng. Thôi thế cũng tốt. Lão nghĩ. Lão sẽ vào phố chén một bát phở ngon hết hai mươi ngàn đồng. Còn một trăm ngàn lão sẽ cất kỹ dành dụm thành một khoản để đem về quê. Ở quê, lão còn một thằng cháu là con cô em gái út. Nó ốm yếu thường xuyên phải đi viện. Lão thương nó lắm. Lão ra thành phố bới rác kiếm tiền, dành dụm từng trăm gửi về giúp em gái chữa bệnh cho cháu. Hôm lão đi, thằng bé cứ túm lấy áo lão rơm rớm nước mắt:
- Bác đi Tết nhớ về với cháu nhé!
- Ừ! - Lão xoa đầu nó và dặn: - Ở nhà cu nhớ không được ra bờ ao chơi, nhỡ ngã xuống ao thì khốn đấy!
Thằng bé bị bệnh tim. Một hôm lão vừa đi bắt cua về xuống cái ao đầu ngõ rửa chân thì thấy thằng cháu đang ngớp ngớp vùng vẫy ở dưới cầu ao. Lão vứt cả giỏ cua nhào xuống ao lôi nó lên. May mà nó mới ngã xuống chỉ uống vài ngụm nước. Bệnh tim của nó nặng dần. Năm lên lớp bốn thì hay bị ngã ngất nên không tiếp tục đi học được nữa. Nghe nói muốn mổ tim phải mất hàng chục triệu đồng. Chồng cô em gái út tai nạn sập lò gạch chết sớm, nhà nghèo lấy đâu ra mấy chục triệu đồng để chữa bệnh cho con. Tiền mua thuốc hàng tháng còn chả đủ nữa là. Lão nghe người ta nói thành phố dễ kiếm tiền. Thế là lão bỏ sào ruộng lại cho cô em gái út rồi theo đám thanh niên lên thành phố. Lão sẽ kiếm tiền, thật nhiều tiền để giúp cô em út chữa bệnh cho con.
Lên đến thành phố lão ra ngay chỗ "chợ người" tìm việc. Nhưng những người tìm thuê "cửu vạn" thường chẳng bao giờ để ý đến lão. Có lẽ họ nghĩ là lão già cả chả làm nổi những việc nặng nhọc. Thế nên lão đành phải đi bới rác, nhặt nhạnh những đồ phế thải bán cho bọn thu mua sắt vụn. Nhặt những bao túi ni-lông, vỏ bia, vỏ chai, sắt vụn người ta vứt đi bán cho bọn ve chai mỗi ngày lão cũng kiếm được ngày nhiều ba chục, ngày ít hai chục, ăn uống rồi cũng để dành được chục ngàn mỗi ngày, hơn cả làm ruộng ở quê mỗi vụ được vài tạ thóc ăn chả đủ làm gì dám đem bán lấy tiền.
Bọn trẻ con, phụ nữ chuyên làm nghề nhặt rác thường tụ tập ngoài bãi sông Hồng. Họ gọi lão là lão dở người vì một chuyện xảy ra đối với lão. Hôm đó lão bới móc một cái túi rác cổng một ngôi biệt thự. Lão tìm thấy trong cái túi rác đầy vỏ hộp mỹ phẩm ấy một cái dây chuyền vàng. Lão cầm sợi dây chuyền đứng co ro chịu rét chờ bằng được bà chủ ngôi biệt thự ra đóng cổng để trả lại. Nhận lại sợi dây chuyền đến năm chỉ bà chủ nhà chả cảm ơn thì thôi còn xỉa xói, nghi lão là quân trộm cắp. Biết chuyện, đám "công nhân nhặt rác" cư trú ngoài bãi sông đều cười nhạo lão mãi. Chả ai khen lão thật thà mà họ bảo lão là đồ dở người. Từ đó cái tên lão Dở thành tên gọi của lão.
Lão Dở cũng có người con khá thành đạt. Đó là ông con trai duy nhất của lão. Vợ lão mất sớm, lão ở vậy nuôi con khôn lớn. Thằng con lão là chủ một doanh nghiệp lớn ở phía Nam. Ông con trai muốn đón lão vào Nam sinh sống nhưng lão không chịu. Lão giận con, nhất là từ khi ông con về quê đóng góp cả mấy trăm triệu đồng cho một công trình văn hoá của huyện để được tạc tên trên bia đá ghi công thế mà không dám cho thằng cháu bị bệnh nặng được lấy một đồng để chữa bệnh. Lão có ý nhắc nhưng nó làm thinh không nói gì.
Ăn xong bát phở, lão Dở tìm về chỗ mình vẫn ngủ qua đêm.
Năm nay trời sao mà rét đến thế. Các hàng quán đóng cửa nghỉ sớm. Gió lạnh thổi ù ù trên phố. Lão Dở lủi thủi đi về phía làng ven Hồ Tây. Mấy ngày nay lão không ra khu nhà trọ ngoài bãi sông nữa. Trọ ở nhà trọ bãi sông mất năm ngàn mỗi tối. Trước đây chỉ có ba ngàn một tối nhưng gần tết họ nâng giá lên năm ngàn đồng. Nói là nhà trọ thực ra chỉ có vài manh chiếu rách trải lên sạp, cả chục, cả trăm người-toàn dân cửu vạn chen chúc nhau nằm lăn lóc đầu chân lẫn lộn ngủ cho qua đêm. Mà có nhiều người chưa đến nửa đêm đã lồm cồm bò dậy đi gánh hàng thuê cho những người buôn hoa quả, rau ở các chợ đêm. Lão Dở ít ngủ và thính ngủ. Có khi đêm vừa chợp mắt được một lát đã giật mình vì tiếng lục sục gọi nhau của những người đi làm đêm. Vì thế lão chả dại gì mà mất thêm năm ngàn đồng mỗi đêm. Lão đã có một cách hay.
Lão đi về phía khu biệt thự ven hồ. Chỗ ngủ đêm của lão là cái cổng của một ngôi biệt thự rất sang trọng. Chủ ngôi biệt thự chắc là một người rất giàu có nên cái cổng xây rất hoành tráng. Mái cổng vươn chìa ra tạo thành một khoảng che mưa nắng rất rộng. Lão Dở trải manh chiếu rách ra góc cổng, cạnh gốc cây sấu sù sì. Thế là lão đã có một chỗ ngủ rất kín gió và ấm. Năm nay sao mà trời rét thế. Còn đúng hai mươi mốt ngày nữa là đến Tết. Lão Dở nhẩm tính. Trong cái bọc ni lông bẩn thỉu lão vẫn buộc chặt ở bụng đã có gần hai triệu đồng rồi. Đó là công sức mấy tháng trời nhặt nhạnh phế liệu của lão. Lão quyết định ngày mai sẽ về quê. Có gần hai triệu đồng mua thuốc cho thằng cháu cũng tốt rồi. Với lại cũng chỉ còn hai ngày nữa là đến ngày giỗ của vợ lão. Lão phải về để còn ra mộ thắp cho bà ấy nén hương.
Đang thiu thiu ngủ thì có ánh đèn ô-tô rọi thẳng vào mặt. Một chiếc xe con bóng lộn rì rì chạy vào cổng. Lão Dở lồm cồm ngồi dậy. Chiếc xe bấm còi rồi dừng lại chờ mở cổng. Kính xe hạ xuống. Lão nghe rõ tiếng một người đàn ông gắt với người từ trong nhà ra mở cổng:
- Sao lại để cho một thằng ăn xin nó nằm ngay ở cổng thế hả?
- Dạ! Thưa bác đó là một ông già nhặt rác đấy ạ!
- Đuổi cổ đi! Không khéo lại là quân trộm cắp rình mò đấy, hiểu không?
- Vâng ạ!
Kính xe lại được kéo lên. Chiếc xe từ từ lăn bánh vào trong sân. Người vừa ra mở cổng đến chỗ lão Dở đang nằm khe khẽ nói:
- Cụ ơi! Cụ chuyển sang bên kia gốc cây mà nằm ngủ chứ cụ nằm ngay ở cổng thế này ông chủ nhìn thấy lại mắng cháu!
Nghe anh ta nói, lão Dở hiểu anh ta cũng chỉ là một người giúp việc cho ở ngôi biệt thự này. Anh ta nói mấy hôm trước ông chủ đi công tác vắng nên anh để cho lão được buổi tối đến nằm ngủ ở cổng. Ông chủ về rồi anh đành phải bảo lão đi tìm chỗ khác. Nghe anh ta năn nỉ như vậy lão Dở lồm cồm đứng dậy. Lão lôi mảnh chiếu rách sang phía bên kia gốc cây sấu già. Chỗ nằm mới của lão trúng hướng gió bắc, lại không được che nên mưa phùn lất phất bay nên càng lạnh. Lão Dở quấn cái chăn chiên rách thật chặt vào người cho đỡ rét. Suốt đêm lão Dở không ngủ được vì lạnh quá. Lão lẩm bẩm mong trời bớt lạnh cho đám cửu vạn ngoài bờ sông đêm dậy đi làm đỡ rét mướt. Ngày mai lão về quê rồi còn họ thì có lẽ phải làm thuê hoặc nhặt rác cho đến gần tết mới về. Lão tính, rét thế này ngày mai nhất định sẽ mua cho thằng cháu một cái áo khoác thật ấm. Rét mướt thế này trẻ con bị bệnh tim phải mặc thật ấm. Cái áo mà họ chất đống ở vỉa hè nói là hàng SIDA ấy chỉ đến một trăm ngàn là cùng thôi.
Gần sáng khi lão Dở vừa chợp mắt thì nghe có tiếng quát tháo ầm ĩ trong ngôi biệt thự. Hình như có tiếng kêu: "Trộm... trộm...". Rồi lão lại nghe "huỵch" một cái như là tiếng người nhảy qua tường. Lão Dở mở mắt ra nhìn. Tên trộm vừa trèo qua cái cành cây bên kia cổng nhảy xuống hè đường. Nó lẩn qua phía lão nép vào gốc cây sấu quan sát rồi co giò định chạy. Lão nhỏm ngay dậy nhoài người quờ tay ôm riết được một chân của thằng trộm. Nó bị tóm chân bất ngờ nên chới với ngã lăn xuống hè đường. Cái hộp nhỏ nó đang cầm trên tay văng ra xa. Thằng trộm lồm cồm bật dậy. Nó càng cố giật chân thì lão lại càng cố ôm ghì thật chặt. Trong ngôi biệt thự có ánh đèn và tiếng chân nhiều người lao ra. Từ phía đầu phố có tiếng còi ủ của xe cảnh sát. Thằng trộm tống một quả đấm thật mạnh vào mặt lão Dở. Lão Dở đau điếng nhưng vẫn kiên quyết không buông rời chân thằng trộm. Một ánh thép loé lên. Lão Dở chới với buông chân thằng trộm gục xuống. Nhát dao của thằng lưu manh xỉa thẳng vào cổ lão Dở. Khi công an và mọi người chạy đến thì thằng trộm đã biến mất tăm vào bóng tối mịt mùng trong ngõ hẻm.
Lão Dở thấy mình chơi vơi như đang bay trên mây. Đúng là lão đang bay. Lão bay lên thật nhẹ nhàng.
Lão nghe thấy tiếng bà chủ ngôi biệt thự rú lên vui mừng vì tìm thấy cái hộp nữ trang cả chục cây vàng mà tên trộm bị lão Dỡ bất ngờ tóm chân ngã rơi văng chỗ rãnh nước bên đường. Lão lại nghe thấy tiếng ông chủ biệt thự. Vẫn cái giọng hách dịch như lúc tối mắng anh chàng giúp việc ra mở cổng. Ông ta đang nói với mấy anh công an:
- Các đồng chí kiểm tra ngay lão ăn mày này! Nhất định lão ta là đồng bọn với thằng ăn trộm đã đột nhập vào nhà tôi. Mấy ngày nay tối nào lão cũng lảng vảng ở cổng nhà tôi đấy.
Có lẽ ông chủ ngôi biệt thự là sếp lớn nên các anh công an răm rắp chấp hành mệnh lệnh. Họ nhanh chóng khám nghiệm hiện trường rồi lập biên bản. Lão Dở cũng lờ mờ nhận ra người đang cố gắng băng bó, cầm máu cho mình chính là cái anh đã ra mở cổng ngôi biệt thự lúc buổi tối hôm qua. Lão cố nói để anh ta biết quê quán của mình và số tiền lão đang giấu trong bụng. Lão muốn nhờ anh ta đem về cho thằng cháu ở quê. Nhưng tiếng của lão sao lại bé hơn cả tiếng gió, tiếng mưa thế này. Hình như chẳng ai nghe được tiếng lão nói nữa.
Lão Dở cố mở mắt ra. Nhưng lão cũng chẳng còn nhìn rõ gì nữa cả. Trước mắt lão sao mọi thứ cứ mờ ảo, méo mó, dị dạng hết đi thế nhỉ! "Thôi chết! Thế này thì làm sao ngày mai mình về quê được đây!" - Đó là ý nghĩ cuối cùng của lão.
Thời trai trẻ
Dễ đến ngót bốn mươi năm rồi gã mới về làng.
Một đời phiêu bạt quê người, làm dân ngụ cư tứ xứ trong lòng gã luôn luôn có cái cảm giác tha hương. Quê hương bây giờ quang cảnh xưa cũ không còn nữa. Nhưng khi vừa bước chân lên bến sông quê, nhìn thấy cây gạo già sù sì, mốc meo trong lòng gã chợt thấy nao nao. Đất phù sa dưới chân râm ran như nhận ra bàn chân gã đã từng qua đây hơn ba mươi năm trước. Bến sông làng nhộn nhịp hơn xưa. Đám thanh niên vác cờ trống qua sông lên thị xã cổ vũ bóng đá. Lũ con gái đã đến tuổi hay "đi đêm" bê chậu quần áo ào xuống bến. Không ai biết gã là ai. Phải đến hơn chục năm sau khi gã rời làng ra đi chúng mới sinh ra nên làm sao mà biết gã. Cũng có mấy cô cậu tò mò nhìn ông già mặt mày khô héo đang dò dẫm leo lên dốc. Chắc họ nghĩ gã là một kẻ hành khất qua đường.
Về đến đầu làng, gã dừng lại quan sát. Không thấy dấu tích ngôi miếu cổ và cây duối già ở đâu. Có lẽ chỗ cây duối và ngôi miếu chính là cái nhà văn hoá của làng bây giờ. Một con đường thẳng tắp, láng xi măng chạy xuyên qua làng. Đây chính là con đường khấp khểnh những mô đá, bụi cây chạy dọc hai xóm ngày xưa mà gã hay đi về. Làng xóm thay đổi nhiều quá, chả còn nhận ra nhà nào nữa. Gã định tìm và nhà thằng em họ nhưng không biết lối nào mà lần. Gã tần ngần rồi dừng lại đánh tiếng hỏi một bà đang hái rau muống ở đám ruộng bên đường:.
- Cụ ơi! Cho tôi hỏi nhờ một tý!
Bà già dừng tay ngẩng mặt lên.
- Ơ... ơ....
Cả gã và người đàn bà đều há mồm rồi kêu lên. Họ đều nhận ra nhau. Gã lúng lúng chào không thành tiếng. Mãi gã mới sực nhớ và hỏi:
- Cô... cô... À... bà... bà cho tôi hỏi lối vào nhà chú Tiết?
Người đàn bà cũng ấp úng mãi mới trả lời:
- Đi... đi... thẳng đến chỗ ngôi nhà hai tầng kia rẽ trái là đến.
Gã ậm ừ trong cổ "vâng... vâng..." rồi quýnh quáng bước đi. Người đàn bà cứ đứng sững mãi giữa ruộng rau nhìn theo hút lão. Từ khoé mắt nhăn nheo của bà ứa ra một giọt lệ.
*
Ông em họ gã vừa bưng mâm lên vừa bảo:
- Mời bác ăn cơm rồi nghỉ sớm cho đỡ mệt đi đường xa thế!
Gã nhìn mâm cơm đầy những thức ăn ngon. Quả là bây giờ khác ngày xưa nhiều quá. Ngày gã còn ở làng cơm độn sắn chả đủ ăn. Ngày ấy gã là thằng thanh niên to khoẻ nhất làng. Khi gánh bùn vớt từ dưới ao lên đổ ruộng mỗi gánh của gã đều từ bảy tám mươi cân trở lên. Ông thư ký đội sản xuất lần nào ghé vai nhắc nửa gánh bùn của gã để cân đều méo cả nặng méo vì nặng. Đi gánh lúa cũng vậy. Có hôm gã chất lúa nặng quá gãy cả đòn gánh phải dùng bằng đòn ống mới chịu nổi. Gã làm khoẻ nhưng ăn cũng khoẻ. Mỗi bữa gã phải ăn hết năm đến sáu lạng gạo. Ngày ấy chỉ có cơm là chủ yếu, thức ăn chả có gì. Có tinh bột lèn chặt dạ dày là tốt lắm rồi. Bây giờ nhìn mâm cơm ú ụ những món ngon, gã lại bùi ngùi nhớ ngày còn ở làng. Ông em họ giục:
- Bác ăn đi rồi nghỉ sớm...
Lão đắn đo một lúc rồi nói:
- Lúc nãy tôi gặp bà Sâm ở đầu làng... Bà ấy hiện nay thế nào chú nhỉ?
- Bà ấy sống một mình ở cuối làng.
- Thế con cháu của bà ấy làm gì?
Ông em họ trố mắt nhìn gã lộ vẻ ngạc nhiên và hơi bực tức. Nhưng rồi chợt nhớ ra là gã đã biệt tăm gần bốn chục năm nay mới về làng nên ông dịu lại. Ông bảo:
- Bà ấy làm gì có chồng mà có con cháu...
- Thế...
- Thế gì! Tại bác mà bà ấy nhỡ nhàng, khốn đốn vậy.
- Tại tôi...
Ông em họ lại lộ vẻ bức xúc:
- Thì tại cái vụ bác với bà ấy nên...
Gã đặt đôi đũa xuống mâm. Miếng thịt gà đang nhai trong miệng gã bã ra, nhạt thếch. Gã ngượng ngập nhìn ông em họ. Nét mặt gã sạm đi, nhăn nhúm. Trong đầu gã câu chuyện từ ba mươi tám năm trước chợt hiện lên.
Ngày ấy gã khoẻ như trâu. Ăn uống kham khổ, làm việc quần quật mà sinh khí trong người gã cứ rừng rực chỉ chực phì ứa ra. Sáng nào ngủ dậy gã cũng phải thay giặt cái quần lót ướt nhoe nhoét. Gã luôn luôn thấy bức bối, ham muốn. Nhìn đám con gái xắn cao quần tận bẹn, căng mông cúi người vớt, đập bèo hoa dâu là trong đầu gã lại nghĩ đến nhiều chuyện hấp dẫn.
Trong đám con gái làng ngày ấy cô Sâm tuy không đẹp nhưng có nhiều nét hấp dẫn đến mê mẩn gã. Là một thôn nữ mà cô có nước da trắng như bột lọc. Bộ ngực của cô nở nang, tròn trịa nhìn đến đau nhức cả hai mắt. Gã cứ phừng phừng như đang bị sốt mỗi khi nhìn thấy cặp đùi trần tròn trịa và trắng mịn của cô Sâm. Gã cứ hình dung về phía trên cặp đùi ấy như thế nào. Một lần gã ngồi sinh hoạt đoàn phía sau cô Sâm. Gã chả nghe được câu nào của anh bí thư chi đoàn đang phổ biến nghị quyết. Trong đầu gã chỉ nghĩ đến thân hình tròn lẳn, hấp dẫn của cô Sâm đang ngồi ở hàng ghế phía trước. Đột nhiên một trận gió mạnh thổi tắt phụt chiếc đèn trên bàn chủ toạ. Không cưỡng lại được, gã liền thò tay luồn qua nách cô. Khi bàn tay gã vừa kịp chạm vào một bầu vú to tròn căng mềm mại đầy sự hấp dẫn thì Sâm đẩy tay gã ra chuồi người đứng bật dậy. Cô biết ngay thủ phạm vừa sờ soạng mình là ai nhưng không dám kêu vì sợ và xấu hổ.
Sau lần ấy cô luôn tìm cách tránh xa gã. Nhưng gã không để cô yên. Gã luôn tìm cách để sát lại gần Sâm. Chi đoàn lao động gây quỹ mua tặng phẩm tặng đoàn viên nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Mọi người bàn lên núi chặt củi bán. Lên đến rừng thấy gã kè kè bên mình Sâm sợ lắm. Cô phải luôn đi sát đám con gái. Thế mà cũng không tránh khỏi một lần hơi châm chân khuất sau gốc cây cổ thụ cô đã bị gã bóp mạnh trên ngực. May mà ngày ấy con gái toàn đeo loại "phụ tùng" cứng như nắp ấm nhôm nếu không thì cô bị thâm tím hết ngực.
Trên đường về Sâm càng hoảng vì mình sức yếu, với gánh củi độ bốn mươi cân mà cứ bị tụt lại phía sau. Thấy gã dừng lại như có ý chờ cô tái mét mặt, tim đập thình thịch. Hai chân Sâm líu díu bước không nổi khi lên dốc. Gã dừng lại bên lối đi. Sâm lập cập đi đến. Gã nhấc luôn gánh củi trên vai cô đặt lên vai mình. Hai vai hai gánh củi mà gã cứ đi phăm phăm. Sâm cầm con dao chặt củi cứ phải chạy gằn mới kịp gã. Về đến gần làng Sâm bảo:
- Trả lại tôi gánh củi đi...
- Hừ... thêm một đoạn nữa, đến đầu làng đã...
Đến đầu làng, gã đặt gánh củi của Sâm xuống. Cô chờ gã bước đi mấy bước mới dám đến nhấc gánh củi của mình lên vai.
Sau mấy bận không thấy Sâm phản ứng quyết liệt nên gã càng lấn tới. Nhưng dù sao cũng chỉ là quờ quạng bên ngoài. Lúc thì chạm ngực, lúc xoa lưng, véo sườn Sâm. Gã càng thấy bức bối muốn biết sau lần vải quần áo những bí mật của người con gái như thế nào. Chính sự nghĩ ngợi, hình dung làm cho gã thêm nhiều buổi sáng ngủ dậy phải đi giặt quần lót. Gã quyết tâm phải đạt đến mục địch cuối cùng của mình.
Thời cơ giúp cho gã làm việc ấy là một buổi trưa trên bãi ngô vắng vẻ ven sông. Sâm mải cắt cỏ quên mất đã quá trưa. Khi cô giật mình ngẩng lên nhìn thì bãi sông đã vắng ngắt. Mọi người đã vượt qua đê về làng. Sâm cuống quýt vơ vội những đống cỏ non vừa cắt ấn vào quang gánh. Cô chưa kịp nhấc gánh cỏ lên vai thì có tiếng loạt soạt từ trong bãi ngô đang trổ cờ cao vút đầu người. Gã bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt Sâm. Cô hốt hoảng khi nhìn thấy ánh mắt thèm muốn của gã. Sâm hất gánh cỏ khỏi vai định bỏ chạy. Nhưng cô chỉ chạy được vài bước đã nằm gọn trong vòng tay to khoẻ của gã. Cô trằn người quẫy đạp vùng vẫy. Nhưng cô làm sao mà thoát khỏi vòng chắc chắn như cái đai thùng của gã. Gã đè nghiến cô xuống rãng ngô. Gã giật đứt tung hàng cúc áo ngực Sâm. Cái cooc-xê lật ra. Gã nhìn như hút hồn vào cặp vú to tròn với đôi nhũ hoa màu đỏ sẫm. Sâm van vỉ xin gã buông tha cho cô. Nhưng tiếng kêu của cô hốt hoảng, lập cập tuyệt vọng. Bàn tay của gã lần xuống phía dưới. Sợi chun quần của Sâm đứt phựt. Cả hai lăn lộn thêm một lúc nữa. Sâm bất lực nằm im khi gã đã đặt được cái muốn đặt vào vị trí. Chỉ cần gã rướn người lên một cái là cô sẽ mất tất cả. Cô bưng mặt khóc nức nở rồi đột nhiên gào lên: "Ôi mẹ ơi!".
Nghe tiếng cô gọi mẹ gã sững lại. Cả người gã co rúm như bị điện giật. Gã lật người lăn sang một bên nhỏm người dậy ngơ ngác nhìn Sâm. Sâm cũng ngồi dậy. Gã lẩm bẩm: "Sâm về đi!". Sâm lảo đảo đứng dậy. Rồi cứ thế một tay túm cạp quần, một tay giữ ngực áo, cô vừa khóc vừa chạy lên bờ đê. Có ai đó nhìn thấy cô như vậy vội kêu cứu. Rồi tiếng người hô hoán, hò hét loạn xạ trên bờ đê. Đám người cầm gậy gộc, xẻng cuốc lao xuống bãi ngô để bắt kẻ hiếp dâm.
Nhưng trong khi đám người vây bắt hung thủ này đang mải xúm xít hau háu mải nhìn tang vật là chiếc cooc-xê màu đỏ vướng trên thân cây ngô thì gã đã lặn sâu xuống đáy sông nhao sang bên kia bờ...
*
Mấy ngày liền sau đó gã không dám bén mảng về làng.
Gã lẩn trốn chui lủi ở khu vực bãi tha ma Gò Mả, nơi dân làng vẫn đồn đại là có ma nên ít người dám lai vãng, kể cả ban ngày. Buổi sáng, khi còn tối đất, gã đã rời khỏi chỗ nằm ngủ là ngôi mộ xây cất bằng xi măng chui vào bụi cây xấu hổ ven đường nghe ngóng tình hình. Đám đàn bà con gái đi chợ sớm bàn tán râm ran về câu chuyện của gã ở bãi ngô. Những tiếng cười hi hí không dứt khi họ nhắc đến chuyện nhặt được cái cooc-xê màu đỏ bị dứt đứt dây đeo của cô Sâm. Chiếc cooc-xê ấy hiện nay đang được công an xã giữ cẩn thận làm vật chứng.
Qua câu chuyện của họ, gã biết là công an đang truy tìm mình ráo riết. Chỉ cần gã ló mặt về làng là sẽ bị tóm cổ đưa đi tù ngay. Xã đang ra sức phấn đấu giữ danh hiệu 10 năm quyết thắng thế mà lại xảy ra chuyện động trời như vậy.
Vậy là gã không thể về làng được nữa rồi. Gã chui ra khỏi bụi cây xấu hổ quay trở lại khu tha ma Gò Mả.
Nằm lăn ra cái rãnh láng xi măng của ngôi mộ gã chợt thấy đói cồn cào. Ba ngày rồi gã chưa có được một bữa nào ra hồn. Bữa thì mấy củ khoai sống, bữa dăm củ sắn luộc gã thó được trong bếp nhà lão Ngạn ở cuối làng. May chiều hôm qua, có một người chết ở làng bên đưa đến chôn ở khu Gò Mả, khi những người đưa ma về hết gã đi qua chỗ ngôi mả mới vớ luôn được bát cơm, quả trứng họ đặt cúng trên nấm đất vừa đắp. Mẹ kiếp! Chắc là bát cơm và quả trứng cúng này từ hôm trước nên nguội lạnh, ám toàn mùi hương khói, gã ăn vào thấy bụng cứ lâm râm đau mãi. Gã phải tuốt một nắm búp ổi non nhai nuốt vào mới thấy cơn đau đơ đỡ.
Không ngờ chuyện trở thành nghiêm trọng đến thế. Gã lẩm bẩm: "Đã đã xơ múi được quái gì đâu ngoài việc nhìn thấy thật gần bộ ngực trần tuyệt đẹp của cô Sâm, thế mà họ truy sát mình ghê thế!".
Hôm ấy, khi cô Sâm kêu khóc và đột nhiên gọi mẹ khiến gã giật mình, bừng tỉnh. Cơn dục vọng trong người gã xẹp ngay xuống. Gã thảng thốt nhớ đến mẹ. Mẹ vốn là một người đàn bà đẹp, con nhà giàu. Mẹ gã do bị thất tiết với một anh học trò trên tỉnh nên phải lấy bố gã-một kẻ phàm phu, tục tử. Bố gã chuyên làm nghề ba toa, mổ lợn ở phố chợ. Bố gã ngày ấy cũng to khoẻ như gã bây giờ. Mẹ gã lại yếu ớt, mỏng manh, "lá ngọc cành vàng" làm sao mà đáp ứng nổi. Nhiều đêm mẹ gã phải bỏ chạy ra ngoài hè ngồi. Bố gã lao ra lôi mẹ vào buồng. Mẹ gã khóc lóc, van xin thảm thiết nhưng bố nào có tha. Khi đã lớn, hiểu mọi chuyện gã thương mẹ lắm. Gã còn nhớ nhiều bận mẹ không chịu nổi đã định dắt gã bỏ trốn. Nhưng rồi chẳng biết đi đâu, mẹ gã lại đành cắn răng chịu đựng. Cuộc đời mẹ gã là những tháng ngày lao dịch trên giường ngủ cho đến tàn lực, kiệt sức. Mẹ gã chết do mắc bệnh lao vì làm việc quá sức và chịu đựng những sự dày vò triền miên của ông chồng ba toa. Có lẽ vì thế mà khi cô Sâm bất ngờ gọi mẹ mà đã ngăn chặn được hành động cưỡng bức của gã. Nhưng mọi việc đã toé loe hết cả lên sau chuyện xảy ra trên bãi ngô. Bây giờ nghĩ lại, gã mới thấy ân hận vì hành động của mình. Gã nghĩ hay là về làng đầu thú. Nhưng gã lập tức gạt ngay ý định dại dột ấy. Vì ra đầu thú gã sẽ vào tù là cái chắc...
Cơn đói tiếp tục hành hạ gã. Gã chui ra khỏi khu Gò Mả um tùm những cây sim, cây mua và lau sậy. Cũng do đói quá và mải đào bới tìm kiếm mấy củ khoai lang, nhổ mấy khóm sắn trên bãi đất cạnh khu Gò Mả mà gã không chú ý có những tốp người đang giả vờ đi chăn vịt, đi thăm đồng lặng lẽ tiến dần về phía bãi tha ma. Họ đã phát hiện ra nơi ẩn nấp của gã. Vòng vây đã khép kín. Khi gã đang nhồm nhoàm nhai một củ khoai lang sống thì đám công an và dân quân xông đến. Gã vừa kịp nhỏm dậy thì đã bị mấy người lao vào quật ngã. Họ dùng đòn ống và gậy gộc giằn ngửa gã ra đám đất nhão nhoẹt. Gã cố sức giãy giụa kháng cự lại. Nhưng một mình gã chống lại làm sao được cả đám đông. Họ trói nghiến gã lại như trói một con lợn chuẩn bị giết thịt. Mấy người gào lên vẻ đắc chí:
- Phen này thì mày có chạy đằng trời cũng đừng hòng mà thoát!
- Hừm... hừm...
Gã gầm gừ. Miếng khoai lang sống chưa kịp nuốt nghẹn tắc trong cổ họng.
Đám người hỉ hả giong gã về làng. Theo lệnh ông công an xóm, họ quàng lên người gã cả mấy gốc sắn gã vừa nhổ trộm và dẫn gã đi bêu khắp làng. Cả làng náo nhiệt lên như có hội. Tất cả đổ xô ra xem bắt được kẻ hiếp dâm. Trẻ con reo hò rồng rắn đi theo đoàn người dẫn giải gã. Gã chẳng nhìn ai. Mặt gã lầm lầm, lì lì vẻ bất cần đời. Sau khi đi một vòng quanh làng, gã được đưa về sân kho của đội sản xuất số 1. Tại đây gã được thông báo đã bị khai trừ khỏi đoàn, buổi chiều sẽ bị dẫn lên giao cho công an huyện xử lý. Gã bị tạm giam vào gian kho vẫn dùng để chứa phân hoá học ở góc sân. Gian nhà ẩm thấp hôi hám đầy muỗi gián.
Buổi trưa, trên chỗ nhà kho chứa thóc đám dân quân và công an tổ chức ăn mừng. Hợp tác xã vừa kéo lưới đánh cá ở cái ao công hữu đã thưởng cho họ mấy cân cá mè. Đám người ăn uống ồn ào. Mãi quá trưa, ông công an xóm mới đem đến cho hắn một loa cơm và cái đầu cá toàn xương là xương. Gã được cởi trói để ăn cơm. Gã vồ lấy loa cơm và lấy và để. Gã đói đến mềm người ra rồi. Ăn hết loa cơm đầy gã vẫn thấy đói. Ông công an xóm định trói gã lại để khoá cửa nhà kho thì gã đòi đi tiểu. Ông gí nòng súng CKC vào lưng gã dẫn ra phía sau nhà kho. Ông cảnh cáo gã đừng có mà tìm cách chạy trốn thêm nặng tội. Gã lừng khừng mở khuy quần. Và, nhanh như chớp, gã né người sang bên, tay phải túm nòng súng kéo lên phía trước, tay trái quại luôn một đấm ngược về phía sau. Ông công an bị kéo lao người về phía trước. Một tiếng nổ rất đanh phát ra đồng thời với tiếng kêu rú lên đau đớn của ông công an xóm. Quả đấm như trời giáng của gã làm ông công an gãy mất mấy cái răng cửa. Ông ta xiết cò là theo phản xạ. Viên đạn CKC cày xuống mặt đất tung bụi. Ông công an vội buông khẩu súng ôm lấy cái mồm đầy máu.
Nghe tiếng súng nổ và tiếng kêu cứu, đám dân quân, công an vội vứt bát đũa lao đến. Tiếng người hô hoán ầm ĩ:
- Tù... tù... nhân... trốn mất rồi...
- Bắt... bắt lấy nó...
- Báo... báo động! Gõ kẻng báo động ngay!
Mọi người chạy ra phía sau nhà kho. Ông công an xóm vẫn ôm chặt mồm ú ớ. Ông chỉ tay ra phía bờ sông. Mọi người rầm rập đuổi theo hướng tay ông công an chỉ. Tiếng kẻng báo động nổi lên dồn dập. Bóng gã mất hút trong bãi ngô cao vút đầu người. Mọi người lao xuống bãi ngô. Nhưng họ làm sao mà nhanh bằng gã. "Tũm" một tiếng, gã đã mất hút dưới dòng nước sông đang cuồn cuộn chảy. Khi đã xuống nước rồi thì gã như biến thành con cá, đừng hòng kẻ nào bắt được gã nữa.
Từ hôm ấy, gã bắt đầu một cuộc sống tha hương. Gã lên thành phố rồi ngược lên biên giới phía bắc. Gã làm thuê, làm mướn kiếm ăn. Nhưng ngày ấy đi đến đâu cũng phải có căn cước, giấy giới thiệu, giấy chứng nhận, ở đâu cũng phải đăng ký tạm trú nên gã rất khó mà ở yên một chỗ. Gã đã phải mấy lần trốn chạy sự truy tìm của công an. Gã đã nghĩ đến chuyện vượt giới tuyến trốn vào miền Nam. Nhưng đi bằng cách nào gã nghĩ mãi không ra. Một hôm ngồi vạ vật ở một ga xép thấy một đoàn bộ đội hành quân vào miền Nam chiến đấu gã chợt nảy ra một tính toán táo bạo. Chả khó khăn gì, gã đã lấy trộm được một chiếc ba lô của đoàn chiến sĩ đang đứng ngồi la liệt trên sân ga.
Mặc bộ quần áo Tô Châu mới tinh vào gã có vẻ chững chạc như một anh bộ đội thực sự. Rồi ba lô trên vai, ngụy trang trên lưng, gã trà trộn vào đoàn quân đang tiến về phương Nam. Ai hỏi, gã đều nói là bị lạc đang đi tìm đơn vị. Các chiến sĩ trẻ vui vẻ mời gã ăn chung nắm cơm, chia cho gã vài phong lương khô 701. Họ rất thích gã bởi tính tình gã vui vẻ, cởi mở. Đặc biệt là họ mê giọng kể chuyện hấp dẫn của gã. Không cần mở sách, gã nhưng có thể đọc một cách vô cùng diễn cảm từng chương hồi của truyện Tây du ký hoặc Tam quốc diễn nghĩa. Một chiến sĩ trẻ bảo gã:
- Hay là anh đừng đi tìm đơn vị cũ nữa, xin vào đơn vị này với bọn em luôn. Đằng nào cũng chả vào Nam chiến đấu.
- Liệu như thế có được không?
- Được chứ! Xin vào miền Nam chiến đấu ai lại ngăn cản, trừ khi anh xin vào đơn vị lui trở về hậu phương thôi.
Nghe vậy, gã tưởng cứ đi theo các đơn vị quân đội dù khó khăn gian khổ nhưng nhất định sẽ vào được miền Nam. Gã không biết là quân đội có kỷ luật rất nghiêm khắc, quản lý bộ đội rất chặt chẽ. Một kẻ trà trộn như gã không thể đi theo bất cứ đơn vị nào vượt giới tuyến vào miền Nam nếu không có quân số, biên chế rõ ràng. Gã lại chẳng có bất cứ một thứ giấy tờ tuỳ thân nào. Vào đến tuyến lửa Quảng Bình, gã bị quân pháp bắt giữ. Họ đưa gã trở lại phía sau để xác minh. Dọc đường trở lại hậu phương, trong một trận máy bay địch bắn phá nhà ga anh bộ đội dẫn giải gã bị thương nặng. Gã cõng anh đến một trạm cấp cứu rồi trút bỏ quân phục trở lại làm một kẻ lang thang làm thuê nay đây, mai đó. Khi miền Nam đã hoàn toàn giải phóng thì việc gã vào Nam chả khó khăn gì nữa. Rồi cuộc đời lang bạt kiếm sống ở chốn phương Nam mấy chục năm trời đã giúp gã có một gia đình, có một cơ nghiệp. Hai thằng con gã cũng đã nên người. Nhưng gã cứ luôn canh cánh một nỗi nhớ quê hương.
Gã đã trở về làng sau gần bốn mươi năm tha hương như thế.
*
Ăn cơm xong ông em họ bảo gã:
- Bác mệt cứ ngủ trước, em đi họp thôn đây!
- Có việc gì mà phải họp cả buổi tối thế?
- Họp bàn ngày mai khai móng xây "nhà đại đoàn kết" cho bà Sâm!
- Bà ấy chưa có nhà à?
- Căn nhà của bà ấy xập xệ lắm rồi, không xây lại thì mùa mưa bão năm nay khó mà trụ được nữa. Vì còn thiếu tiền nên phải họp vận động bà con đóng góp giúp bà ấy thêm một ít nữa...
- Vậy à! Chi phí xây nhà cho bà ấy khoảng bao nhiêu?
- Dự tính xây ba gian nhà cấp bốn hết độ gần ba chục triệu.
Gã đặt vội chén nước xuống bàn quờ tay với cái túi cũ kỹ của mình để ở góc tràng kỷ. Gã mở túi rút ra một cọc tiền toàn loại năm trăm nghìn đồng đưa luôn cả cho ông em họ và bảo:
- Cho tôi xin đóng góp một chút. Tôi muốn tạ lỗi với bà ấy...
Ông em họ trố mắt nhìn gã. Thì ra gã là một tên hào phú thực sự. Gã ăn mặc lôi thôi như một kẻ hành khất là để che mắt bọn trộm cướp trấn lột khi mang một số tiền lớn đi đường. Ông em họ nghiêm nét mặt bảo:
- Bác cất ngay tiền đi! Bác tưởng bà ấy sẽ nhận số tiền này của bác à! Hừ... chuộc lỗi... Bác định chuộc lỗi thế nào! Với bấy nhiêu tiền liệu bác có chuộc nổi tội lỗi của mình đã gây ra với cuộc đời bà ấy không? Bà ấy cả đời cô quạnh, không lấy được chồng, không con cái cũng chỉ vì một lỗi lầm thời trẻ của bác đấy, hiểu không!
Gã sững sờ trước lời lẽ của ông em họ. Tay gã cầm tập tiền run run. Ông em họ đi rồi gã vẫn ngồi bần thần, ngơ ngác. Gã hiểu, sai lầm từ thời trai trẻ ấy của mình chẳng bao giờ còn có thể sửa chữa được nữa.
Hôm sau, ngôi nhà đại đoàn kết của bà Sâm được khai móng. Trong số người đến làm giúp có một ông già hì hục bê xếp gạch ở mãi ngoài góc vườn. Chả mấy người biết ông ta là ai. Buổi trưa, bà Sâm làm vài mâm cơm đạm bạc mời những người đến "làm mải" bữa khởi công. Khi mọi người gọi nhau vào mâm thì ông ta lặng lẽ đi ra phía cổng. Vừa định bước qua rãnh nước để đi tắt về nhà ông em họ thì ông ta nghe tiếng có người nói:
- Ông ở lại ăn bát cơm làm mải đã!
Gã giật mình quay lại. Gã nhìn thấy bà Sâm đang đứng sau bụi chuối bên lối đi. Dáng bà khô héo xiêu xiêu trong gió bấc...
Người bán sắn luộc
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Thấy chị xếp những củ sắn luộc vào thúng, bé Thư hỏi:
- Bây giờ mà ở Hà Nội người ta vẫn phải mua sắn để ăn ạ?
- Ăn chứ! Họ vẫn ăn thì mẹ con mình mới bán được sắn luộc để có tiền để đong gạo đấy con ạ!
- Thế họ cũng bị đói ạ?
- Không! Họ không đói mà họ mua làm quà, ăn cho lạ miệng, bảo là thứ đặc sản đấy con ạ!
- Con ứ thích ăn sắn!
- Bé Thư vừa ngồi xuống bên chị, vừa thủ thỉ dặn mẹ:
- Chiều về mẹ mua cho con một cái bánh mỳ nhé!
Chị ôm lấy con gái, cọ cọ má mình lên hai má bầu bĩnh của nó, lòng trào lên một tình cảm khó tả như những lúc phải xa con, dù chỉ là một ngày. Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật nên chị không thể chăm lo cho con bé tốt hơn. Những lúc đưa con đi học, thấy con bé không có cặp sách mới, không có quần áo đẹp bằng các bạn, chị cứ thấy tủi thân. Bé Thư tuy mới học lớp một nhưng nó rất thương mẹ. Nó học được ở mẹ tính tự lập, chịu đựng. Nó ít đòi hỏi vòi vĩnh mẹ những điều không thể. Mẹ đi vắng, nó tha thẩn chơi quanh quẩn ngoài cổng để trông nhà. Buổi trưa, nó tự lấy nồi cơm nguội mẹ để phần trong chạn ra ăn rồi đi học. Giờ ra chơi, các bạn cùng lớp kéo nhau ra ngoài cổng trường ăn quà thì nó loanh quanh ở gốc bàng sân trường, ngửa cổ lên mong sao có một quả bàng chín bỗng nhiên rơi xuống như quả thị vàng trong chuyện Tấm Cám.
Với gánh sắn luộc trên vai, chị xuôi theo đò dọc ra thành phố. Bác lái đò biết chị nghèo nên thường cho khất tiền đò, lúc về mới lấy. Nhiều lần thấy chị ế hàng vì bị công an đuổi không cho bán rong trên phố, bác cũng không hỏi tiền đò của chị. Thuyền cập bến. Chị cất gánh nhanh nhẹn bước lên bờ. Bác lái đò nói to với đám ngưòi đi chợ:
- Chiều nay năm giờ, đò ngược nhá!
Chị mở thúng, xếp những khúc sắn luộc lên mẹt, trùm tấm ni-lông trong suốt cho khỏi bụi rồi quẩy gánh vào phố. Những đường phố nào chị đã từng qua, chỗ nào người ta hay mua sắn luộc của chị, chị đều nhớ hết. Chị nhớ có một cái phố rất dài người ta bán toàn đồ chơi cho trẻ em. Một hôm, quẩy gánh sắn luộc đi qua, nhớ đến bé Thư ngồi nặn đồ chơi bằng đất sét ở nhà, chị đánh bạo hỏi một cô bán hàng:
- Con búp bê kia bao nhiêu tiền hả cô?
Cô chủ hiệu đang chăm chú tô son móng tay trợn mắt lên:
- Bằng cả ba, bốn cái nương sắn nhà bà đấy! Định mua hả?
- Không... tôi... tôi...chỉ...
Chị ấp úng. Cô chủ hiệu cau có:
- Mua không mua, mới sáng sớm ra đã ám! Thôi biến đi để người ta còn đốt vía...
Chị lầm lũi cất gánh bước đi, quên cả rao hàng. Từ đấy, chị chả bao giờ bán sắn luộc ở cái phố ấy nữa. Không phải chị ngại chạm mặt cô bán hàng đồ chơi trẻ em đanh đá. Mà vì, mỗi lần đi qua cái phố bán đồ chơi - thiên đường của trẻ em ấy - chị lại nghĩ tới bé Thư. Biết đến bao giờ chị mới có đủ tiền để mua cho nó một con búp bê tóc vàng nho nhỏ.
Bé Thư không phải là con đẻ của chị. Một hôm, chị đi chợ sớm. Đến bến sông ngồi chờ đò. Chị chợt nghe có tiếng ọ ẹ rồi có tiếng trẻ con khóc trong bãi ngô. Lúc đầu nghĩ đến chuyện ma, chị hơi hoảng vì trời còn rất tối. Nhưng khi nghe rõ ràng là tiếng trẻ con khóc, chị bỏ gánh hàng chạy vào bãi ngô tìm kiếm. Đúng là có một đứa trẻ đang nằm ở rãnh ngô. Nó vừa mới đẻ, cuống nhau còn dính lồi thồi. Không tã, không chăn, người tím tái lại. Người mẹ lỡ làng nào đó đã đang tâm bỏ rơi đứa con rứt ruột đẻ ra. Chị rút vội tấm khăn đang quàng trên cổ ra bọc lấy nó rồi ôm chạy về làng, bỏ cả gánh sắn luộc ngoài bến sông. Chị chạy một mạch vào trạm y tế xã. Cô y tá khám rồi tắm rửa, cắt rốn cho nó. Đó là một bé gái. Chị đặt tên nó là Thư.
Bé Thư lớn lên cùng chị trong đói nghèo. Trong mạch máu cơ thể nó có dòng sữa của biết bao người mẹ ở làng này. Chị không quên những lần ôm con đi chờ bú trực, những lúc nó ốm đau, sài đẹn. Chưa một lần sinh nở nhưng chị đã hiểu thế nào là nỗi nhọc nhằn vất vả của người mẹ. Song chị cũng có niềm hạnh phúc của người phụ nữ được làm mẹ. Điều mà tưởng như sẽ không bao giờ đến với chị nữa. Chất độc da cam những năm tháng chiến tranh ở Trường Sơn đã cướp đi của chị cái quyền đó. Bé Thư trở thành niềm vui, chỗ dựa tinh thần của chị. Nó sao mà giống chị ở cái tính tình hiền lành, ít nói và tảo tần đến thế. Có lần ai đó ngứa miệng bảo nó là đứa con rơi, không phải là con chị, nó sợ quá, khóc mãi. Biết chuyện, chị kéo nó vào lòng bảo: "Bé Thư đúng là con của mẹ! Bé Thư ở với mẹ mãi mãi nhé!". Con bé gật đầu, nín khóc.
Một bữa chị ốm phải nằm ở nhà. Con bé đi học về, tưởng chị ngủ, nó rón rén bước vào nhà. Nó khe khẽ đặt bàn tay bé xíu lên trán chị. Đấy là cách "khám bệnh" mà nó học được khi thấy người lớn thường sờ trán trẻ con và nói: "Nóng quá, ốm rồi!". Rồi nó len lén trèo lên giường nằm sát vào chị, nó áp chặt má mình vào má chị. Chị hỏi:
- Con làm gì thế?
- Con làm thế cho cái nóng nó truyền sang con để mẹ hết sốt, khỏi ốm còn đi chợ ạ!
Chị ứa nước mắt, ôm ghì lấy con. Thì ra mỗi lần nó bị sốt, chị vẫn hay áp má vào người nó nói: "Cái nóng truyền hết sang mẹ, cho bé Thư khỏi ốm còn đi học nào!". Bây giờ nó lại làm như thế với chị...
Mải nghĩ, chợt có tiếng gọi:
- Này sắn luộc!
Chị hiểu người mua gọi mình. Bởi ở thành phố bây giờ người ta gọi tên những người bán hàng rong theo những thứ hàng mà họ bán. Ví dụ: "Chị rau muống", "Thằng cà chua", "Anh su hào", hoặc chỉ cần réo cộc lốc: "rau muống", "cà chua", "su hào", người bán khắc hiểu. Nếu ai không hiểu hoặc tự ái thì chả bán được hàng.
Chị đặt gánh sắn luộc trước cửa một căn nhà cao tầng khá sang trọng. Bà chủ nhà mặc váy ngắn, trắng phốp pháp, chống nẹ đứng chờ. Cô con gái môi tô son đỏ chót, tóc nhuộm vàng hoe, quần lửng xẻ lua tua cũng sà đến. Hai mẹ con họ vừa chọn vừa chê bai sắn không ngon. Họ đảo tung cả thúng sắn luộc lên. Người đàn bà gọi với vào phía trong nhà:
- Ông có ăn sắn luộc không?
- Bố thì tiệc tùng, bia bọt suốt ngày, đặc sản, đặc siếc đủ loại, thiết gì đến sắn luộc!
Cô con gái vừa ăn, vừa dẩu mỏ nói. Ông bố vừa đi ra vừa bảo:
- Mẹ con mày biết gì! Tao ngày xưa chiến đấu ở Trường Sơn, ăn sắn luộc thay cơm cả tháng ấy chứ!
Nghe nói vậy, chị ngẩng lên nhìn, cái nón tuột ra sau lưng. Một người đàn ông bụng phệ, mặc quần soóc trắng, trán bóng nhẫy đi ra. Ông ta và chị nhìn nhau và hình như đều đã chợt nhận ra nhau. Người đàn ông ngập ngừng hỏi:
- Vân! Có phải là cô Vân đấy không?
Chị không đáp. Đứng bật dậy, kéo cái nón đội lên đầu, chị nhấc gánh hàng lên vai quay đi. Tiếng người đàn bà eo éo: "Ơ! Này tiền, không lấy à?". Tiếng cô con gái the thé: "Gặp lại anh em chung một chiến hào ngày xưa hả bố?". Tiếng người đàn bà: "Chiến hào, chiến hiếc gì, khéo là bồ bịch của bố mày thì có...".
Chị không muốn nhìn mặt con người ấy thêm nữa. Mặc dù trong chị có lẽ con người ấy không dễ quên. Đó là những năm tháng ở trạm giao liên trên đường Trường Sơn. Trong một chuyến đi công tác, chị gặp một người mặc quân phục nằm gục bên bờ suối, trong túi không có giấy tờ gì. Chị đưa anh ta về trạm. Trạm giao liên chỉ còn một mình chị ở nhà. Chị đã chăm sóc cho anh. Anh ta bị đói nhiều ngày nên lả đi chứ chẳng bị thương, đau ốm gì. Anh ta tỉnh dần và nói bị lạc đơn vị. Chị tin và cho anh ở lại trạm chờ hỏi đường về đơn vị.
Thời gian ấy địch đánh phá ác liệt, lại đang mùa mưa lũ nên tiếp tế khó khăn. Còn một ít gạo, chị dành nấu cháo, nấu cơm cho anh bộ đội lạc đơn vị. Rồi hết gạo, hai người cùng ăn sắn, ăn rau rừng trừ bữa. Hàng ngày chị lên nương đào sắn, kiếm rau, ra suối bắt con tôm, con ốc. Chị chăm chút cho anh ta với cả tấm lòng yêu thương đồng chí, đồng đội. Giữa hai người bắt đầu có một điều gì là lạ hơn cả tình bạn, tình đồng đội xen vào.
Song có điều là khi đã khỏe hẳn nhưng không thấy anh ta nhắc chuyện đi tìm đơn vị. Một lần, chị bắt gặp ánh mắt của anh ta thấp thoáng sau bụi cây nhìn trộm chị tắm ở suối. Trong một đêm mưa gió, đang phiên gác, anh ta mò vào chỗ chị nằm. Chị đã phải chống trả quyết liệt lắm mới bảo vệ được mình. Nhưng sáng ra thì anh ta biến mất cùng khẩu AK của chị mà anh ta vẫn dùng để gác đêm. Anh ta còn không quên mang nốt cả bao gạo cuối cùng và chút muối còn lại của trạm. Té ra anh ta là một kẻ bỏ ngũ. Mất súng, chị bị kỷ luật. Rồi việc chị cho một kẻ đào ngũ ở trạm cả tháng trời để nó lấy mất vũ khí, lương thực đã đặt dấu hỏi nghi vấn cho cấp trên. Chị phải thuyên chuyển về tuyến sau và bị loại ngũ. Chị trở về làng sống cùng bà mẹ già yếu. Nhưng những lời đồn đại độc ác về chị đã bay về làng nhanh hơn. Mọi người xa lánh. Chị sống lầm lũi, tần tảo xới đất, lật cỏ kiếm ăn, không có một tiêu chuẩn, chế độ gì.
Chiến tranh kết thúc. Chị thèm thuồng nhìn những người lính tham gia giải phóng Sài Gòn trở về với chiếc khung xe đạp xách ở tay, con búp bê gài trên nắp ba lô. Bất ngờ gặp lại con người đã làm hại cuộc đời mình, cứ ngỡ với những uất ức chứa chất bao lâu, chị sẽ mắng cho hắn một trận. Nhưng chị lại bỏ đi. Cũng không hiểu vì sao lúc ấy khi nhìn thấy khuôn mặt him híp, cái bụng to phệ như phụ nữ đến tháng đẻ của hắn, chị chả thấy căm thù nữa mà chỉ thấy ghê ghê và buồn nôn. Chắc bây giờ hắn là cán bộ to, hay ông chủ lớn mới bệ vệ như thế, nhà cửa mới to đẹp như thế. Hắn mà còn dám mở miệng nhắc tới củ sắn ở Trường Sơn cơ à...
- Cô ơi! Bán cho chúng cháu khúc sắn!
Hai cô bé trạc tuổi bé Thư lưng đeo cặp sách đứng bên hè đường. Chị đặt gánh, chọn hai khúc sắn đưa cho hai cô bé. Bọn trẻ đã tan học buổi sáng. Cũng đã trưa rồi. Gánh sắn luộc trên vai chị đã nhẹ. Chị tạt vào quán cơm bình dân mua hai nghìn, được một loa cơm, miếng đậu và gắp rau. Thế là xuất cơm trưa của chị sang hơn cả xuất cơm trưa của bé Thư ở nhà đấy - chị nghĩ. Nhất định chiều nay lúc về qua chợ ngoài đê, chị phải mua cho bé Thư hẳn một khoanh giò lụa năm nghìn đồng. Con bé hôm nọ đi dự sinh nhật bạn về cứ kể mãi chuyện được ăn một miếng giò bằng nửa bao diêm, khiến chị thấy thương nó quá.
Ngang chiều, chị qua phố Hòe Nhai, nơi bà cụ Xuân vẫn ngồi bán nước chè chén. Bà cụ Xuân với chị chả phải họ hàng thân thích gì. Một lần, chị gánh hàng qua chỗ bà cụ ngồi bán nước thì có tiếng gọi:
- Ê! Sắn luộc!
Chị dừng lại. Có hai cô cậu đang ngồi uống nước gọi. Chị đưa hai khúc sắn cho họ. Thằng con trai ăn mấy miếng đã vứt khúc sắn ra đường trợn trạo:
- Sắn đắng thế mà cũng dám luộc đem bán hả? Mang về cho lợn nó ăn.
Đứa con gái đang ăn rất ngon lành thấy thế cũng làm bộ nhăn mặt nhả miếng sắn ra nhổ phì phì. Chị im lặng không nói gì nhưng bà cụ hàng nước lên tiếng:
- Các cháu không được nói thế! Ăn thử một miếng không ngon thì thôi, không mua, chớ ném đi, phí phạm.
Hai đứa im lặng đứng dậy định bỏ đi, bà cụ lại nhắc:
- Các cháu phải trả tiền sắn chứ!
Thằng con trai rút túi ra một tờ năm mươi nghìn đồng. Chị lúng túng, cả gánh sắn của chị cũng chẳng bán nổi một nửa số tiền ấy, lấy đâu mà trả lại. Chị bảo hai khúc sắn chẳng đáng là bao. Nhưng bà cụ đứng dậy nói: "Để tôi trả lại cho!". Đoạn, bà lần túi đếm và hỏi mượn thêm bà bán xổ số đủ bốn chín nghìn trả lại cho thằng con trai. Hai đứa rồ máy phóng xe đi. Bà cụ đặt vào tay chị tờ một nghìn và nói: "Mồ hôi, nước mắt của mình một đồng cũng quý con ạ!".
Từ đó chị quen bà cụ. Mỗi lần gánh sắn đi qua, chị lại vào uống một chén trà đá chế thêm nước sôi cho lạt, đưa cho bà cụ một khúc sắn rồi mới đi tiếp.
Chiều nay đến chỗ gốc bàng, không thấy bóng dáng bà cụ đâu. Chị hỏi thăm, bà bán xổ số nói:
- Khổ quá! Sáng nay, bà cụ xách phích nước sang đường, bị một thằng phóng xe lạng lách quệt phải xô ngã, vỡ cả phích nước, phải vào viện cấp cứu rồi.
- Thế bà cụ bây giờ ra sao rồi ạ?
- Chị lo lắng hỏi lại.
- Hình như bị gãy tay.
- Bà cụ nằm ở viện nào ạ! Cháu đến thăm cụ ấy xem thế nào!
- Bà cụ đang nằm ở nhà thương Phủ Doãn! Chị gửi lại quang gánh, mua một hộp sữa, tong tả đi ngay.
Bà cụ nằm ở bệnh viện phải đến nửa ngày, nhờ người gọi điện khắp lượt mà chưa thấy con, cháu đứa nào đến. Các con bà đều làm ăn phát đạt cả, nhưng chúng tị nhau, đùn đẩy, chả ai muốn nuôi bà. Chúng thực hiện chế độ luân phiên. Bà trở thành người đi ở từng tháng cho ba đứa con. Giận quá, bà đi bán nước tự nuôi mình, chẳng phải phụ thuộc đứa nào. Một mình bà ăn uống hết mấy, bát cơm là đủ, chỉ ngại lúc ốm đau, tai nạn thế này. Thấy chị vào phòng cấp cứu, hỏi thăm, ông bác sĩ sẵng giọng:
- Con cái gì mà mẹ cấp cứu, gọi cả ngày bây giờ mới đến thế! Mau ra nộp viện phí và đưa cụ đi chụp điện ngay đi!
Nghe vậy, bà cụ mở mắt cố nhỏm dậy:
- Ấy! Chị ấy không phải là con tôi đâu, chỉ là người quen thôi.
Chị ở lại bệnh viện chăm sóc cho bà cụ. Khi đám con cái của bà cụ đến, chị mới ra về.
Chị về đến nhà đã gần chín giờ tối. Bé Thư đứng cổng ngóng mãi thấy trời tối lâu rồi mà chị vẫn chưa về sợ quá oà khóc. Bà hàng xóm nghe thấy sang đưa về dỗ mãi nó mới nín và ăn lưng bát cơm rồi đi ngủ. Nhìn con bé cuộn chăn nằm co quắp, nước mắt còn chảy thành vệt trên má, chị thấy thương con quá. Chị cảm ơn bà hàng xóm rồi bế nó về.
Bé Thư chợt choàng tỉnh, nhận ra mẹ, nó ôm chặt lấy cổ chị thổn thức. Chị phải dỗ dành một lúc, nó mới nín. Chị thắp đèn, đặt nồi nấu cơm. Bé Thư chợt hỏi:
- Mẹ có mua bánh mỳ cho con không?
- Thôi chết! Mẹ quên mất rồi! Mai nhất định mẹ sẽ nhớ.
Con bé phụng phịu có vẻ dỗi. Chị bảo:
- Hôm nay bà bị ốm. Mẹ vào bệnh viện thăm bà nên về muộn quên mất.
- Có phải là bà vẫn gửi quà cho con không?
Chị gật đầu. Thì ra con bé vẫn nhớ bà cụ Xuân thỉnh thoảng vẫn gửi cho nó khi thì gói kẹo bi xanh đỏ, khi thì quả chuối, quả hồng xiêm.
Nấu chín cơm, chị ra đầu ngõ mua một quả trứng về luộc cho bé Thư. Thấy chủ quán vừa vớt bánh chưng để làm hàng ngày mai, chị mua luôn cho nó cái bánh loại một nghìn. Con bé ôm cái bánh nói để dành mai mới ăn.
Hôm sau, lúc đã qua sông xếp những khúc sắn luộc lên mẹt để vào phố, chị chợt nhìn thấy cái bánh chưng bé xíu để góc thúng sắn. Cầm mảnh giấy gài ở cái bánh lên xem, chị nhận ra dòng chữ nắn nót của bé Thư: "Con nhờ mẹ gửi biếu bà, kính chúc bà mau khỏi ốm".
Chị xúc động nhìn xuống bến. Sông Hồng cuồn cuộn chảy về xuôi.
Mỹ nhân xóm trại
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Một cô gái xuống xe đò hỏi đường về xóm Trại.
Lão Tộ đang be bờ tát bắt cá ở rãnh mương ven đường há hốc mồm kinh ngạc. Chưa bao giờ thấy có một người con gái đẹp đến thế vào cái xóm ven rừng này. Lão hơi gượng gập khoác cái áo bộ đội cũ lên che cái thân hình đen đúa trơ xương sườn của mình. Cô gái hỏi nhà bà Nhâm. Bà Nhâm chính là hàng xóm của lão. Bà này mới về ở xóm trại được độ hơn hai năm, là cư dân mới nhất xóm.
Lão Tộ cố nghiêng nghiêng người để khỏi lộ cái quần đùi rộng thùng thình và đôi chân đen đúa của mình.
- Cô cứ đi đến chân dốc kia thì rẽ trái, rồi lại rẽ trái thêm một lần nữa là vào cổng nhà bà Nhâm!
- Vâng! Em cảm ơn bác ạ!
- Ôi chết! - Lão Tộ giật mình. Cô bé này sao lại xưng em với lão. Lão thấy hơi ngường ngượng. Mặt lão nóng bừng đỏ lên. May mà mặt mũi lão lấm đầy bùn đất nên cô bé không nhận ra. Một con cá chuối giẫy đành đạch lao qua háng lão làm bùn bắn lên tung toé. Lão Tộ vội khép chân và cúi xuống bắt cá. Cô gái chào lão rồi xách túi đi về phía xóm Trại. Dáng cô thật mềm mại và yểu điệu. Ngẩng đầu lên nhìn trộm những cái dây đeo hằn lên trên tấm lưng thon thả của cô gái lão Tộ lén nuối ực một cái.
Lão Tộ xách giỏ cá về nhà. Đến cái quán nước đầu xóm thì lão đã rõ lai lịch của cô gái. Cô gái đó tên là Hương, cháu nội của bà Nhâm. Cô gái này đi học đại học ở nước ngoài rồi học tiếp mãi lên, bảo vệ xong luận án tiến sĩ bây giờ mới về nước làm việc. Cô đã lặn lội lên tận nơi xóm núi heo hút này tìm bà nội.
Có lẽ đây là lần thứ hai bà Nhâm có khách từ xa đến thăm. Lần trước khi bà mới về đây ở cũng có một ông từ Hà nội đánh xe ô tô lên. Lúc ấy lối vào xóm trại còn chưa được mở rộng. Xe ô tô phải để ở mãi ngoài con đường liên xã. Ông cán bộ xách giày lội ruộng vào nhà bà Nhâm. Đó là ông con nuôi của bà. Ông ta ở nhà bà nửa ngày. Đến bữa trưa bà phải nhờ người đem cơm ra cho anh lái xe ngoài đường. Anh này không dám vào nhà bà Nhâm ăn cơm vì sợ bọn trẻ con nghịch cào xước sơn chiếc xe du lịch bóng lộn. Ông con nuôi lên là để thuyết phục bà Nhâm quay về thủ đô nhưng bà không chịu. Khi ông ta đi rồi thì mọi chuyện mới vỡ ra.
Bà Nhâm vốn là công nhân quét rác ở Hà Nội. Trong chiến tranh bà vác đạn lên trận địa cho bộ đội cao xạ bắn máy bay Mỹ. Trong một trận máy bay địch đánh phá bà bị trúng mảnh bom. Vết thương ấy khiến bà mất chức năng sinh nở nên không lấy được chồng. Một đêm đi làm vệ sinh đường phố, bà nhặt được một thằng bé sơ sinh bị bỏ rơi ở trong đống rác ngay bên miệng một cái cống thoát nước. Ôm thằng bé về nhà bà thấy niềm vui cứ dâng lên râm ran trong người. Có lẽ đây là số trời thương hại đã bù lại cho bà thiên chức làm mẹ. Tuy vậy bà nuôi thằng bé thật vất vả. Thời bao cấp lại chiến tranh cái gì cũng thiếu. Bà ôm thằng bé đi xin sữa. Nhà bà ở gần bệnh viện sản khoa nên bà thường bế nó vào lân la xin bú nhờ các bà đẻ. Bà chắt chiu từng lon sữa mậu dịch phân phối để nuôi thằng bé nên người. Những lúc nó ốm đau sài đẹn bà lo lắng đến mất ngủ. Bà cố lo cho nó đi học bằng chúng bằng bạn. Cứ tưởng hiểu rõ thân phận mình nó sẽ hiếu thuận với bà hơn. Nhưng ngược lại.
Khi làm đến chức vụ cao ở một bộ nọ, đứa trẻ bị bỏ rơi-ông con nuôi của bà Nhâm lại cảm thấy rất xấu hổ vì bà mẹ nuôi của mình là một người quét rác. Bà làm nghề quét rác từ khi còn trẻ. Cho đến lúc ốm yếu nghỉ chế độ bà cũng chỉ có duy nhất có mỗi một nghề quét rác. Ông ta thường rất ngại mỗi khi có khách khứa đến chơi bà hay kể chuyện ngày xưa đi quét rác nhặt được gói tiền đem nộp công an trả lại cho người mất được biểu dương trên loa truyền thanh của phường mấy lần. Bà cũng hay nói chuyện đã nhặt được ông nằm co quắp khóc không thành tiếng trong đống rác thải bên cái cống thoát nước thải như thế nào. Mấy lần ông con nuôi đã cáu bẳn với bà ngay cả khi khách khứa còn đang ngồi đầy nhà. Ông luôn khó chịu với bà từ xuất thân cho đến tính thật thà tai hại của bà. Có lẽ vì thế mà dần dần cái hố ngăn cách ông và bà càng ngày càng một lớn.
Một lần do bực với bà ông buột miệng nói: "Xét cho cùng tôi với bà cũng chả có quan hệ máu mủ gì!". Bà Nhâm giận quá liền bỏ về xóm Trại là nơi năm xưa đã đưa con về sơ tán khi máy bay B52 của Mỹ rải thảm vào Hà Nội tháng 12 năm 1972. Bà được ông trưởng thôn cho ở nhờ gian nhà kho cũ. Bà con xóm Trại giúp cây que, ít gạch làm cho bà một căn nhà nhỏ chỗ gò đất cuối xóm. Ông cán bộ đánh xe về năn nỉ bà trở về thành phố nhưng bà không chịu. Cô con gái ông từ nước ngoài trở về rất giận bố vì chuyện để bà nội bỏ lên xóm Trại. Cô vội vã bắt xe lên tìm bà nội.
Lão Tộ xách xâu cá rô, cá trê sang nhà bà Nhâm. Thỉnh thoảng bắt được nhiều cá lão vẫn đem sang biếu bà vài con. Ở cái xóm trại này ai cũng bảo lão là một con rái cá. Nhà lão lúc nào cũng có cá đồng để ăn, để bán. Bà Nhâm và cô cháu gái đang bổ những quả trám trắng để phơi. Hai bà cháu vừa làm vừa nói chuyện ríu rít. Nhìn xâu cá của lão Tộ, bà Nhâm thích quá bảo:
- Thế là chiều nay bà cháu tôi có bữa cá đồng kho trám ngon đây! Hay là ông ở lại ăn cơm cùng hai bà cháu tôi nhé!
Lão Tộ vội chối:
- Hôm nay nhà tôi có giỗ! - Lão ta nói dối.
Cô cháu gái bà Nhâm lấy nước mời lão. Lão như bị điện giật khi bất chợt nhìn thấy một khoảng ngực trần tròn căng khi cô cúi xuống rót nước cho lão. Ra về đến nhà rồi mà trong ánh mắt lão vẫn còn đọng lại hình ảnh bầu ngực tròn căng của cô gái. Mẹ kiếp, lão nghĩ cả đời mình chưa thấy cô nào có bộ ngực đẹp mê hồn như thế. Mà cả đời lão sinh ra và lớn lên cho đến lúc hai ba thứ tóc trên đầu chỉ loanh quanh ở cái xóm núi này thì làm gì mà nhìn đâu thấy chứ. Con gái xóm Trại chưa biết lớn đã biết lấy chồng. Lúc có con thì vú dài loằng ngoằng như quả mướp, ở chỗ đông người cũng cứ tự nhiên lôi ra cho con bú, trông thấy đã chán. Vợ lão cũng vậy. Lúc trẻ thì giấu giấu diếm diếm. Ngủ với nhau thì đèn tắt om om. Lúc về già thì phơi ra ma chả buồn nhìn.
Mải nghĩ, suýt nữa lão Tộ giộng cái chày giã cua vào mu bàn chân. Từ trong bếp mụ vợ lão riết gióng nói vọng ra:
- Ông làm gì mà giã lâu thế! Có nhanh nhanh lên không, hai thằng trời đánh nó sắp về rồi đấy.
- Xong đây rồi... - Lão Tộ lẩm bẩm. Lão vét nắm cua đã giã nhỏ vào bát loa đem xuống bếp cho mụ vợ lọc lấy nước cốt nấu canh. Hai thằng con lão đang đi chặt cây trên rừng, chúng nó về đến nhà là phải có cơm ăn ngay. Chúng nó đang tuổi ăn, tuổi làm khoẻ. Thằng con lớn vừa suỵt soạt húp canh cua vừa hỏi:
- Nhà bà Nhâm có cô nào đẹp thế mẹ nhỉ?
- Hỏi bố mày ấy! Bố mày sang nhà bà ấy mãi không về được đấy...
Lão Tộ nổi cáu:
- Bà câm mồm đi!
- Chắc là dân Hà Nội chính gốc bố nhỉ?
- Tao không biết!
- Bố còn mang cá sang biếu cô ấy mà lại không biết...
- Mày cũng câm đi mà ăn cho xong còn dọn!
Thằng con lớn cười ngặt nghẽo. Nó và vội bát cơm rồi vớ cái ấm siêu đựng nước sôi để nguội ngửa cổ tu một hơi. Khi lão Tộ ăn xong thì hai anh em nó đã biến mất. Hai anh em nó chắc là lại sà vào cái quán trò chơi điện tử vừa mới mở ở đầu xóm.
Lão Tộ vừa ngả người xuống cái chõng ở thềm thì có tiếng kêu cứu thảm thiết ở giữa xóm. Lão vội nhỏm dậy. Lại vợ chồng thằng Lãm đánh nhau. Hai vợ chồng thằng này dăm ngày ba trận choảng nhau kêu gào đến vỡ xóm. Lão Tộ định nằm xuống nhưng thấy không yên. Lão vớ cái đèn sạc chạy ra cổng. Đường làng nhốn nháo. Ánh đèn soi loang loáng. Lão Tộ nhao đến chỗ đám đông. Vợ thằng Lãm đầu be bét máu đang được mấy người xúm lại băng bó. Còn thằng Lãm hung hăng thì đang giãy giụa cố thoát khỏi đôi tay khoá chặt của một cô gái. Đó chính là cô bé Hương, cháu nội bà Nhâm. Cái thằng côn đồ từng gây gổ khắp xóm thế mà chịu bị khoá tay vì một cô gái. Hắn đang hò hét đuổi theo chém vợ thì bị cô gái chặn lại. Nhìn cô bé mặc quần lửng, áo hai dây trắng như bột lọc hắn coi thường xông tới. Hắn đâu có biết cô vốn là một vận động viên võ thuật từng đoạt giải nhì thi đấu võ thuật học sinh sinh viên toàn quốc.
Anh công an xã giờ mới đến. Anh rút cái còng bập vào cổ tay nó khoá tách một cái. Thằng Lãm bị dẫn về trụ sở xã để xử lý. Chắc lại bắt làm kiểm điểm, cảnh cáo rồi tha cho nó về như mọi bữa. Nhưng lần này nó có thêm bài học là biết thế nào là một cú đá móc hàm của một nữ võ sĩ. Hai tay vẫn chốt chặt trong còng, quai hàm hắn còn đau êm ẩm vì cú đá của cô bé nhưng không hiểu sao hắn lại không thấy tức mà lại thấy thinh thích. Hắn nhớ lúc cô gái áp sát hắn để tước con dao quắm. Bộ ngực cô chà sát vào tay hắn. Hình như buổi tối cô mới tắm xong không mang mặc các loại phụ tùng của phụ nữ. Hắn nhớ như in cái cảm giác sau lần áo mỏng là sự tròn trịa nây nẩy của người con gái đẹp.
Lão Tộ không đi theo đám người dẫn giải thằng Lãm lên trụ sở uỷ ban xã. Lão quay về nhà ngủ sớm để ngày mai lên rừng. Có mối quen từ thành phố về đặt mua lão mấy chục cân phong lan rừng.
Lão Tộ khoác cái ba lô cũ xách dao đi vào rừng. Mùa hè vào đến rừng là thấy mát mẻ sảng khoái hẳn lên. Rừng già rậm rạp là một cái máy điều hoà nhiệt độ khổng lồ vừa mát rượi lại vừa có không khí trong lành.
Cũng như những lần trước, muốn tìm và lấy được phong lan lão phải đi vào tận trong rừng già mới có.
Vừa đi, lão vừa chú ý quan sát phát hiện những nhánh lan rừng mọc trong khe đá hay trên các hốc cành cây. Phong lan thường không chịu được nắng chiếu vào trực tiếp mà cũng không ưa mưa dầm. Chúng chỉ mọc trong vùng ánh sáng khuếch tán và ẩm độ vừa phải. Hiểu rõ những đặc tính ấy của phong lan nên lão Tộ thường đi dọc theo những con suối hoặc theo đường thông thủy, tức là nơi giao nhau của hai chân ngọn đồi. Phải tinh mắt và có kinh nghiệm thì mới nhìn thấy được phong lan. Khi thì phong lan đeo vắt vẻo ở tận ngọn cây cao, khi thì mọc um tùm chỉ ngang tầm tay, kiễng chân lên với là lấy được. Mùa đông nhiều loại phong lan rụng lá hoặc chuyển sang chế độ ngủ thì chúng chỉ còn là những đoạn thân giả hành nằm bám lăn lóc trên thân cây, vách đá. Nhiều khi lúc đi vào rừng tìm mãi không thấy, lúc quay về lại gặp được phong lan. Có lần lão Tộ nhìn thấy một bụi lan thủy tiên rất to, chừng phải đến ba bốn chục cọng nhưng nó mọc trên thân cây to khá cao, xung quanh cây không có dây leo nên không thể nào trèo lên lấy bụi lan được. Lão phải lộn đi, lộn lại mấy lần tìm nối một cây sào thật dài mới ngoặc được bụi phong lan. Loại lan thuỷ tiên mà đang có nụ bán rất được giá.
Lấy được một gùi phong lan nặng, lão Tộ quay về xóm. Lão men theo con suối đang chảy ào ào. Đêm hôm qua đầu nguồn có mưa to. Tuy thế nước chảy từ trong rừng già ra vẫn trong mát. Dòng nước đập vào những gộp đá giữa suối tung bọt trắng xoá.
Đang lụi hụi đi thì lão Tộ chợt nghe lẫn trong tiếng nước chảy có tiếng hát. Đoạn này đã gần đến xóm núi rồi. Lão đứng lại trân trân ngó ra phía bãi bồi ngoài bờ suối. Người lão chợt nảy dựng lên như bị điện giật. Trên doi cát nhỏ trắng phau ven suối cô cháu gái bà Nhâm đang vừa khe khẽ hát vừa cởi quần áo. Có lẽ cô bé này định xuống suối tắm. Lão Tộ tưởng như sắp tắc thở khi nhìn thấy cơ thể ngọc ngà của cô gái dần dần hiện ra. Lần đầu tiên trong đời lão được nhìn thấy một người con gái đẹp khoả thân như thế này. Lão thấy tim mình đập loạn. Lão lâng lâng thấy mình đang bay lên trời. Hình như trong lão có cái gì đang cựa quậy. Ánh mắt tinh tường của lão dán chặt lên từng chi tiết đường nét cơ thể tuyệt vời của người con gái. Lão cấu mạnh má mình một cái xem có phải là thật hay mơ. Đau quá. Đúng là thật rồi, không phải mơ.
Một giọt mồ hôi lăn xuống mắt, lão giơ tay dụi. Lúc mở mắt ra thì lão Tộ không còn trông thấy cô gái đâu nữa. Cô bé đã phóng xuống dòng suối đang cuồn cuộn chảy. Thôi chết rồi, nguy hiểm quá. Chỗ cô gái nhảy xuống tắm rất gần một xoáy nước sâu và mạnh. Dòng suối chảy đến đây bị một mỏm đá nhô ra chắn ngang. Giữa mỏm đá ấy có một cái hang nhỏ thông qua xuống phía dưới. Khi suối cạn, cái hang ấy khô có thể khom người chui qua được. Hang có độ dốc nên khi lũ dâng cao, nước bị hút qua hang thành một dòng chảy rất mạnh như một chiếc cống ngầm. Đã có người đi bè đến đây ngã xuống suối bị hút vào đó quăng quật đập vào thành hang lởm chởm trôi qua xuống phía dưới rách nát hết người.
Lão Tộ vội chạy nhô ra bờ suối quát:
- Lên... lên... ngay đi!
Nhưng hình như cô bé Hương không nghe thấy. Cô sải tay bơi gần đến chỗ xoáy nước. Cô bị cái xoáy nước hút mạnh quay tròn. Lão Tộ ném vội gùi phong lan lao xuống nước. Khi cô gái đang vùng vẫy cố thoát khỏi lực hút của dòng nước thì lão Tộ kịp bơi đến. Lão quào tay ôm tóm được cô gái. Cả hai bị dòng nước mạnh ép vào vách đá. Lão Tộ thấy đôi chân mình bị hút mạnh vào miệng hang. Lão một tay vẫn ôm chặt cô gái, một tay quờ tóm được cành cây mọc trên sườn mỏm núi xà xuống. Người cô gái mềm mại, trơn tuột không có chỗ nào để giữ chặt được cả. Lão Tộ phải cố gắng lắm mới không để cô bé bị hút vào miệng hang đá ngầm. Lão biết mình đã nắm vào chỗ không nên nắm trên người cô gái. Khi đã đạp mạnh chân vào được một mô đá thì lão Tộ có lực rướn người lên để thoát ra khỏi lực hút của xoáy nước. Lão và cô gái bám chặt vào vách đá. Hai người cố trằn mình để thắng sức mạnh của dòng nước. Họ tuồi được ra phía đầu mỏm đá, nơi dòng suối chảy quặt xuôi, tránh xa dần cái hang đá lởm chởm như miệng một con cá sấu đang hút nước òng ọc.
Lão Tộ và cô gái bơi lên chỗ bãi cát. Họ đã kiệt sức vì chống chọi với dòng nước xiết và vì vừa thoát khỏi cái chết gần như trong gang tấc. Cả hai cùng bò lên bờ nằm vật ra bãi cát thở dốc. Trên người cô gái còn in hằn dấu ngón tay của lão Tộ.
Chợt nhận ra mình đang khoả thân, cô gái vội nhỏm dậy một tay ôm lấy ngực, một tay bưng che chỗ kín. Lão Tộ cũng ngồi bật dậy nhớn nhác nhìn quanh. Rừng già vắng vẻ. Chỉ có tiếng suối chảy ào ào không dứt. Cô gái đã tìm được quần áo. Cô lặng lẽ đứng ngay sau lưng lão mặc quần áo. Lão Tộ cố giả bộ nghển mặt ngó nghiêng tìm cái gùi hoa phong lan của mình. May gùi phong lan không bị nước lũ cuốn đi. Lão gỡ một giò phong lan đang nở hoa rất đẹp đưa cho cô bé.
Cô bé cúi đầu vừa mân mê cái đuôi tóc ướt vừa khẽ nói:
- Em cảm ơn bác!
- Không... không... có gì...tôi...tôi...
Lão Tộ như bị hụt hơi nói không lên lời. Lão vẫn sợ. Suýt nữa lão và cô bé này bị dòng nước hút vào cái hang ngầm rồi. Lão thu thu bàn tay phải của mình lại giấu vào cạnh sườn như sợ cô bé nhìn thấy bàn tay thô nhám, đen đủi của mình. Chính cái bàn tay này lúc nãy dưới suối đã túm chặt một bên ngực của cô bé khi cố giữ cho cô khỏi bị hút vào cái hang ngầm cuồn cuộn nước lũ.
Cô cháu nội bà Nhâm ở chơi xóm Trại cả tuần. Cô lân la đi khắp các nhà trong xóm núi. Gặp ông trưởng xóm cô góp ý nên sửa sang lại nhà mẫu giáo và mua thêm một ít đồ chơi cho các cháu. Ông trưởng thôn kêu không có tiền. Cô gái rút máy điện thoại di động ra gọi. Một chiếc xe tắc-xi rẽ vào xóm Trại. Cô cùng một chị nhân viên nhà mẫu giáo lên xe. Buổi chiều họ trở về cùng một chiếc xe tải nhỏ chở theo một đống đồ chơi và những bộ bàn ghế nho nhỏ xinh xinh. Ông trưởng thôn áng chừng phải mất đến gần hai chục triệu mới mua được bấy nhiêu thứ. Cô hứa khi về đến cơ quan sẽ tìm cách vận động tài trợ cho xóm Trại xây lại cái nhà mẫu giáo khang trang hơn.
Ông trưởng thôn huy động cả xóm ra dọn dẹp, tu sửa lớp mẫu giáo. Mọi người ủng hộ, đóng góp vật liệu để xây trát lại những chỗ tường bị lở lói, quét vôi ve sáng trưng, phạt cây dọn cỏ xung quanh nhà. Cô bé Hương mặc quần lửng áo ngắn tay cùng vui vẻ làm với mọi người. Thằng Lãm bị xã phạt lao động công ích một tháng bị tội đánh vợ. Nó cởi trần trùng trục xúc đất khơi con mương thoát nước sau lớp học theo sự chỉ huy của cô Hương. Ai cũng ngạc nhiên vì thằng này hôm nay lại chịu khó làm không biết mệt. Nó vốn là một thằng lười biếng.
Nhà bà Nhâm thành nơi cho đám thanh niên kéo đến hò hát. Xóm Trại quanh năm im lìm tự dưng sôi động hẳn lên. Nói chính xác hơn là trước đó thỉnh thoảng xóm Trại cũng sôi động. Đó là mỗi lần thằng Lãm đánh vợ hay bà Mứt mất gà. Thằng Lãm đánh vợ thường ầm ĩ như sắp có đám đâm chém, giết người. Nó đuổi vợ chạy khắp xóm. Nhưng thằng này chỉ được cái hùng hổ thế thôi. Hôm trước ném vợ chảy máu đầu bị công an xã giam một tối trong nhà kho làm mồi cho muỗi rừng đốt cũng thấy hãi. Còn bà Mứt mỗi lần bị thằng trộm nào đó tóm mất con gà hay bê mất ổ trứng thì chắc chắn bà ấy phải chưởi rủa, mắng nhiếc cả tuần. Nửa đêm dân xóm đang ngủ yên cũng giật cả mình tỉnh giấc khi nghe tiếng bà Mứt réo chưởi kẻ trộm. Bà này ngẫu hứng, thích chưởi lúc nào là chưởi. Ông trưởng thôn bực lắm. Cô bé Hương nảy ra một sáng kiến bèn góp ý cho ông trưởng thôn:
- Khi nào bà ấy chưởi bác cứ cho ghi âm lại!
- Để làm bằng chứng kiểm điểm bà ấy trước dân xóm à?
- Không! Khi nào bà ấy vui vẻ, bác đem sang mở lại cho bà ấy nghe.
Bà Mứt ngượng đến đỏ cả mặt khi nghe lại chính lời chưởi rủa ngoa ngoắt của mình. Từ ấy bà bớt làm náo động cả xóm mỗi khi bị mất gà.
Một buổi tối, lão Tộ chợt tóm được thằng Lãm đang lò dò ở gần cổng nhà bà Nhâm. Lão quát:
- Mày làm gì mà lần mò ở đây hả! Đi ăn cắp phải không?
- Lão đừng có mà nói bậy!
- Thế cái gì mày đang cầm trong tay kia? - Lão Tộ soi đèn rồi kêu lên: - A... sắn hả! Mày nhổ trộm sắn này ở đâu, khai ra ngay?
- Lão im đi! Sắn nhà tôi đấy. Nhà tôi có khối việc gì phải đi nhổ trộm?
- Thế mày mang đi đâu hả?
- Thì... mang sang biếu bà Nhâm... - Thằng Lãm chống chế rồi hỏi: - Thế còn Lão cũng đang xách cái gì thế! Lại thó được của nhà ai phải không?
- Câm mồm! Thứ này nhà nào có mà thó! Tao lấy ở trong rừng đấy!
Lão Tộ chìa ra một giò quế lan hương có mấy chùm hoa đang nở. Mùi hương thơm của loài hoa phong lan nở vào đầu mùa Thu cứ ngan ngát trong đêm một cách quyến rũ. Thằng Lãm cười cười:
- Thế đêm hôm lão đem phong lan đi đâu hả?
- Tao... tao... đem... đem...
- Chắc là lão đem biếu bà Nhâm chứ gì! Bà ấy già rồi mà có thấy bà ấy chơi hoa phong lan bao giờ đâu nhỉ? - Thằng Lãm nói móc.
- Thế chắc bà ấy thèm ăn sắn của mày hả?
Lão Tộ vặn lại. Lão và thằng Lãm gầm gừ nhau một lúc. Rồi cả hai cùng cười phá lên. Ngày mai cô cháu gái bà Nhâm xuôi về Hà Nội. Họ đến chơi để tiễn chân cô ấy.
Lão Tộ và thằng Lãm cùng đi vào. Nhà bà Nhâm đã đông chật người. Toàn là dân xóm Trại. Các cháu lớp mẫu giáo đang múa hát ngoài sân. Cô bé Hương có vẻ rất xúc động khi nhận những món quà của lão Tộ và của thằng Lãm.
Bà Nhâm mời lão Tộ và thằng Lãm vào trong nhà ngồi uống nước với đám người đến trước. Mấy người này đang bàn tán việc cô Hương hứa sẽ luôn về thăm xóm Trại.
Chuyện nhà ông Duy
Truyện ngắn của Trọng Bảo
1- Ông Duy nằm thẳng đuột giữa giường. Hai tay ông đặt trên bụng. Đôi mắt ông trân trân nhìn lên trần nhà. Căn nhà âm u mờ mờ tối kể từ khi mụ vợ ông nảy ra cái sáng kiến làm một cái cánh cửa cuốn ngăn nửa gian phía ngoài để làm nơi bán cà phê, giải khát.
Khi còn đương chức, ông đi cả ngày từ mờ đất tới khuya mới mò về, ăn xong là ngủ, mụ vợ mặc sức sử dụng căn nhà để buôn bán hay làm gì cũng chẳng sao. Từ ngày ông về nghỉ hưu, luẩn quẩn ở nhà thì mới sinh chuyện. Có thằng con trai bằng tuổi con út ông vừa vào đến cửa đã ôm chầm lấy đứa con gái vừa hất hàm trịch thượng:
- Ông chủ! Cho một cà phê đen, một cam vắt! Nhanh lên!
Ông bưng ly cà phê ra đã thấy đứa con gái ngồi trong lòng thằng con trai. Thằng con trai vừa luồn tay vào trong áo con bé vừa hất hàm bảo ông:
- Để đấy! Nhìn gì mà nhìn?
Sau vụ ấy, ông liền dẹp tuốt tuột những cái bàn con con kê ngổn ngang khắp các xó xỉnh trong nhà được ngăn cách bằng những tấm bình phong mỏng mảnh cho những đôi trai gái vừa uống cà phê, nước ngọt vừa ôm nhau. Mụ vợ ông gầm lên. Đang làm ăn, buôn bán thuận lợi thì tự dưng ông chồng giở quẻ. Hai vợ chồng ông cãi nhau một trận ầm ĩ cả phố. Đất trời cứ tưởng chẳng bao giờ chịu nhau. Nhưng mưa gió sấm chớp mãi cũng có lúc phải trời quang mây tạnh. Một đêm, mụ vợ thẽ thọt bảo:
- Thôi thì ông nghỉ hưu, đã có chút lương bổng nhà nước còn tôi thì phải buôn bán, kiếm sống. Tôi sẽ cho sửa lại căn nhà, ngoài mặt tiền lấy chỗ bán hàng, còn phía trong là vương quốc riêng của ông...
Ông Duy im lặng. Mụ vợ gọi cánh thợ nề, thợ sắt đến cưa đục, đập phá, xây chát chỉ nửa buổi là xong. Một cái cửa cuốn bằng tôn chỉ cần bấm nút điện xoẹt một tiếng là đã hạ xuống ngăn đôi gian nhà ra làm hai nửa riêng biệt, hai thế giới khác nhau. Phía ngoài là giang sơn của mụ vợ được ngăn ra thành từng ô nhỏ suốt ngày rúc rích, lào thào, hổn hển. Phía bên trong cái cửa cuốn là khoảng không gian tĩnh lặng của ông. Ông Duy suốt ngày hết đọc báo lại xem tivi. Mụ vợ dặn: "Không có việc gì thì đừng có mà ra ra vào vào, khách khứa của tôi thấy ông đạo mạo sợ chạm hải quan, phòng thuế tản mất thì hết mối làm ăn của tôi!". Mụ vợ không dặn ông cũng biết tỏng. Mụ ấy bán cà phê chỉ làm bình phong. "Chuyên ngành" chính của mụ ấy là đổi tiền, buôn đô la, ngoại tệ, buôn bán tiền lẻ, trao đi, đổi lại kiếm phần chênh lệch. Cũng chỉ là loại buôn bán, đổi chác kiểu cò con, cải thiện mâm cơm chứ cũng chẳng mong làm giàu.
2- Còn nhớ ngày xưa, hai vợ chồng ông đều cùng công tác ở cửa hàng bách hóa quốc doanh thị trấn huyện. Ông là cán bộ phụ trách cung tiêu, chuyên đi nhận hàng ở tổng kho, hoặc đưa hàng xuống các hợp tác xã mua bán cấp xã. Bà là nhân viên đứng quầy chuyên bán hàng cung cấp cho cán bộ có phiếu ưu tiên. Bán hàng ngày ấy vừa nhàn vừa oai, khối người phải quỵ luỵ. Nhìn cảnh các cán bộ, nhân viên ăn lương nhà nước hẳn hoi, tay cầm một nắm tem phiếu, sổ gạo đứng xếp hàng dài chờ đến lượt mua hàng bà thích lắm. Bà thường tưởng tượng mình là một người chỉ huy, thống lĩnh ba quân, ban phát ân huệ cho hạ cấp. Đang bán hàng thấy khát, bà bỏ đi tìm nước đến hàng chục phút mà chẳng ai dám kêu ca. Khách hàng có oán thán thì nuốt vào bụng, miệng vẫn phải ngọt nhạt: "Chị làm ơn, bán cho em tiêu chuẩn gạo thịt tháng này!". Đất nước lúc khó khăn phải phân phối thu nhập bằng tiêu chuẩn tem phiếu. Trong cái cơ chế bao cấp ấy khó khó khăn cho người này lại có lợi cho người khác. Đó chính là những người được giao "cầm cân, nảy mực" như vợ chồng ông. Chỉ cần cân non một tý, đong vơi một tẹo, kéo căng một chút khi cân đong đo đếm thì đã có đủ gạo thịt muối mắm cả nhà ăn suốt tháng, thừa vải may quần áo mặc cả năm...
Chuyển sang cơ chế thị trường, những cái cửa hàng mậu dịch quốc danh, hợp tác xã mua bán tem phiếu ấy thoi thóp được một thời gian rồi chết hẳn. Ông được chuyển lên phòng thương nghiệp huyện, phấn đấu mãi cũng vào được cái chân trưởng ban hành chính, rồi chủ tịch công đoàn, cán bộ lèng đèng nhưng có chỗ cắp ô đi về. Bà vợ ông làm tạp dịch một thời gian thì về hưởng trợ cấp một lần.
3- Là một người ưa hoạt động phải nghỉ công tác ông thấy hụt hẫng, chơi vơi. Nhưng mọi sự đều phải quen dần. Con người bao giờ cũng phải tự thích nghi với điều kiện sống. Ông vẫn thường tự nhủ như vậy. Tuy nhiên ông không thể làm quen được với việc suốt ngày ngồi ru rú trong căn nhà tối mù mù, âm âm u u thế này. Ngôi nhà ống của ông chiều rộng chỉ có hơn hai mét, chiều dài lại những hai mươi mét, không cửa sổ, thủng hai đầu đuồn đuột như một đoạn cống hộp. Từ khi mụ vợ ngăn phía trước làm nơi bán hàng, chắn luôn nguồn ánh sáng chiếu vào. Một hồm nằm ngó lên trần nhà ông chợt thốt lên: "Nhà với cửa, giống hệt như một cái quan tài!". Bà vợ ông giật nảy mình cáu cẳn: "Ngày mùng một ông nói năng thế sui cả tháng đấy!".
Ông không thèm cãi lại mụ vợ. Ông đang bần thần với sự "khám phá" mới của mình. Từ ấy cái cảm giác đang nằm trong quan tài luôn luôn ám ảnh ông.
Ông Duy vốn là người không được khoẻ mạnh cho lắm. Hồi còn nhỏ ông là người hay ốm yếu. Bà mẹ sau khi sinh ra ông bị hậu sản lại ít thuốc thang, chả có gì bồi bổ vào cơ thể nên mất sữa. Ông nhớ như in mỗi lần bị ốm, bà mẹ lại cõng ông ra trạm xá xã. Bà y tá sờ trán thấy nóng thì bảo sốt, thấy lạnh thì bảo cảm. Thi thoảng lắm bà y tá mới dí cái ống nghe cũ kỹ, chằng dây thép cho khỏi rơi khỏi tai vào ngực ông để nghe ngóng cho có vẻ khám bệnh rồi kê đơn. Vài viên thuốc cảm, quá lắm là một lọ pênêxilin bột và vài ống nước cất. Ông tiêm vài mũi thấy đơ đỡ. Hôm sau bà mẹ đi gặt, ông tự đến trạm xá để tiêm. Bà y tá già mắt mũi kèm nhèm, kim tiêm cùn xuyên mãi mới được khiến ông đau chảy cả nước mắt. Ngày hôm sau nữa qua chỗ hồ nước ông ném luôn mấy ống nước cất vào bụi gai sòng sọng, trút bỏ chút bột pênêxilin giữ lại cái lọ để đựng mực đi học.
Cũng do thể trạng yếu ớt nên ông rất hay bị mộng mị, ác mộng. Ông thường mơ thấy mình nằm chênh vênh trên miệng một cái hố sâu thăm thẳm, chỉ chực lăn xuống. Cũng do gầy yếu nên cả làng đều gọi ông là "thằng Còm".
Ấy thế mà khi ông làm trưởng ban cung tiêu khối kẻ xúm xít xung quanh, nịnh nọt để mong ông tuồn cho các loại hàng hoá thiết yếu như lốp xe đạp, mì chính, mắm tôm khô, cao cấp hơn nữa là đôi pin đèn con thỏ, cái phích đựng nước nóng Trung Quốc...
Bây giờ nghỉ hưu, trở thành "người vô dụng" như ông vẫn tự nghĩ thì ông lại thấy mình như đang rơi vào tình trạng của thời thơ ấu. Cũng kể từ khi khám phá ra mình nằm trong căn nhà ống dài thượt giống như đang nằm trong cái quan tài khổng lồ thì ông lại hay bị ác mộng. Bà vợ ông cất công lên tận phố Thuốc Bắc cắt cho ông vài thang thuốc bổ, loại sắc lên thơm ngào ngạt, loại thì ngâm trong hũ rượu, toàn vị quý hiếm nhưng ông vẫn không thấy khoẻ hơn. Có đêm ông mê sảng hú lên dữ dội khiến bà vợ cũng hoảng hồn, chết khiếp.
4- Công an ập vào quán cà phê nhà ông Duy. Bà vợ ông há hốc mồm ú ớ, mặt cắt không còn giọt máu. Bà vội vơ nắm tiền lẻ đang bày trên bàn nhét vào túi. Đó là các loại tiền lẻ bà vẫn bán cho những người đi lễ chùa đặt lễ, làm công đức. Xong xuôi bà giơ hai tay ra như sẵn sàng tra vào còng số 8 của công an.
Nhưng ba bốn anh công an và cả một đôi nam nữ trẻ - chắc chắn là công an mật - đang chúi đầu vào nhau ở cái bàn phía gần cửa lại lao nhanh về phía góc quán, nơi có hai người nam và một phụ nữ đang ngồi. Cả ba bị túm tay quặt ngược ra phía sau lưng. Một tên định thò tay vào bụng liền bị quật ngã sóng soài ra nền nhà. Khẩu súng ngắn hắn giấu trong người văng ra. Những chiếc còng số 8 bập tanh tách nghe rất gọn và chính xác. Đại diện chính quyền phường và tổ dân phố cũng đã đến. Mấy chiếc cặp xách và túi của ba người này được đặt lên bàn và mở ra. Thì ra đây chính là một đường dây chuyên buôn bán ma tuý. Quán cà phê nhà ông Duy chính là nơi giao dịch "hàng trắng" của bọn chúng.
Ông Duy đang nằm xem tivi trong "chiếc quan tài khổng lồ" thì được công an mời ra để cùng bà vợ làm người chúng kiến và ký vào biên bản bắt quả tang buôn bán chất ma tuý. Ông Duy tái mét mặt khi nhìn những bánh hêrôin trắng hếu và những tập tiền bày trên bàn.
Cả hai ông bà lập cập ký tên vào biên bản.
Sau khi ba tên tội phạm bị dẫn giải đi rồi, anh công an khu vực còn ở lại. Anh mời vợ chồng ông Duy ngồi xuống và nghiêm khắc cảnh cáo:
- Ông bà cần chú ý! Quán cà phê này còn là nơi bọn môi giới mại dâm thường xuyên đến để gọi gái cho khách đấy...
- Ôi giời... - Ông Duy giơ hai tay lên trời. Mồ hôi ròng ròng trên má. Trong ánh sáng nhập nhoà của ánh điện khuôn mặt ông xám ngoét, méo mó. Bà vợ ông Duy thì thu lu hai tay giữ túi tiền. May mà chuyện buôn bán tiền lẻ, đổi ngoại tệ của bà không bị công an nhắc đến.
5- Mấy ngày liền quán cà phê nhà ông Duy không bán nhưng vẫn đông người vào ra. Đám thanh niên hiếu kỳ kéo đến đứng giữa nhà ông chỉ chỏ bảo nhau:
- Kia là chỗ tên trùm ma tuý ngồi đấy!
- Ghê thật! Súng của nó đầy ăm ắp đạn, may mà công an tước ngay được chứ không thì...
- Chắc là bọn chúng cũng phải "bồi dưỡng" rất đậm cho ông chủ quán nên mới ung dung hoạt động như thế...
- Chắc chắn rồi. Chả thế mà nó đóng đô ở đây mãi mới phát hiện được đấy!
Ông Duy quát:
- Cút... chúng mày... cút... cút ngay!
Một thằng cười hềnh hệch:
- Vâng... thì chúng cháu xin... c... u...ú...t...
Ra đến mãi ngoài ngõ có thằng còn réo vọng vào: "Ai... cà... phê... ôm... ma... tuý... đơ... ".
Ông Duy bực lắm nhưng không làm sao được. Ông và bà vợ cãi nhau một trận om sòm cả ngõ phố. Bữa tối bà vợ ông giận không thèm nấu nướng gì nữa. Ông Duy cũng không muốn ăn. Đầu ông đau như búa bổ. Hai thái dương ông giần giật như sắp vỡ tung ra. Ông nằm thẳng đuột trên giường ngáp ngáp hụt hơi như một con cá bị đưa lên khỏi mặt nước. Ông cố nhắm mắt nhưng mãi không ngủ được. Gần sáng thì cái đầu mới hơi dịu đi một lát.
Ông Duy lại mơ thấy mình đang nằm chệnh vênh trên miệng một cái hố sâu hoắm đen ngòm chỉ chực rơi xuống. Ông cố gượng lại nhưng không được. Hình như có ai đang cố đẩy ông lăn xuống hố. Ông kêu cứu ầm ĩ nhưng tiếng ông cứ tắc nghẹn trong cổ họng. Rồi ông thấy mình chới với rơi xuống cái hố sâu hun hút mãi không thấy đáy... Ông hét lên và ngồi bật dậy. Mồ hôi ông túa ra đầm đìa. Ông thấy cổ họng mình khô cháy như đang có lửa trong đó. Ông thở dốc. Đầu ông vẫn ong ong. Ông chống tay đứng dậy lần xuống bếp tìm nước uống. Ông như người bị mộng du.
Sáng sớm bà vợ ông dậy xuống bếp thấy ông năm sóng xoài trên nền nhà bếp. Bà hốt hoảng lay không thấy ông trả lời mới gào lên gọi cấp cứu. Mọi người trong ngõ lao đến giúp bà đưa ông đi bệnh viện. May cũng còn kịp. Ông bị cảm nặng cấm khẩu mất mấy ngày. Đến ngày thứ tư ông mới ú ớ nói được vài câu ngọng líu ngọng lô chả hiểu nói cái gì.
6- Sau bận ấy cái quán cà phê nhà ông dẹp hẳn. Bà vợ ông chuyển sang buôn bán, đổi tiền lẻ lưu động ngoài chợ. Ông thì vẫn vơ vẩn ở nhà hết xem ti vi lại nằm đọc sách. Bức ngăn giữa nhà đã được phá bỏ. Căn nhà rộng, thoáng hơn. Nhưng ông vẫn không làm sao thoát khỏi cái cảm giác mình đang nằm trong quan tài. Chỉ hơi khác là chiếc quan tài bây giờ dài hơn mà thôi. Con người là thế. Khi cái ấn tượng nào đã hằn sâu vào tâm thức người ta thì muốn thoát khỏi nó không phải là dễ.
Một buổi trưa bà vợ ông Duy đáo qua nhà. Lúc ngồi ngoài chợ đột nhiên bà thấy nóng ruột, linh cảm thấy có chuyện không hay. Về đến nhà bà thấy cánh cửa khép hờ. Ngó trước, ngó sau không thấy chồng đâu, bà hoảng hồn nghĩ ngay đến chuyện kẻ trộm thừa cơ ông chồng ra ngoài lỏn vào trộm đồ. Bà vội kiểm tra đồ đạc, tủ két. Chả mất thứ gì. Bà thở phào nhẹ nhõm ngồi xuống ghế. Làm một hơi hết cốc nước bà mới nhớ tới ông chồng. Bà gọi không thấy ông trả lời. Thằng bé hàng xóm chạy sang bảo:
- Ông đeo ba lô hành quân đi rồi bà ạ!
- Hành quân là thế nào hả cháu?
- Cháu không biết ạ! Chỉ thấy ông dặn cháu nói lại với bà là ông ấy lên đường theo đoàn đi tìm đồng đội bà ạ! Bà không phải lo cho ông ấy đâu.
Nghe thằng bé nói vậy bà lẩm bẩm: "Ông này giở chứng gì không biết?". Chờ đến tối vẫn không thấy ông về, bà hoảng sợ thực sự. Bà vội thông báo cho con gái lấy chồng ở Hải Phòng về ngay. Hai mẹ con chờ đến sáng hôm sau vẫn không thấy ông xuất hiện. Họ gọi điện đến những địa chỉ ông có thể đến nhưng họ đều trả lời không thấy ông. Đang lúc hai mẹ con định gặp công an để trình báo mất tích thì anh hiệu trưởng trường cấp 2 từ quê gọi điện lên báo tin ông đang ở trường. Ngày mai ông sẽ đi theo đoàn học sinh cũ vào miền Nam tìm hài cốt một bạn học đã hy sinh trong những năm chống Mỹ. Bà thở phào yên tâm nhưng lại bực: "Cái ông này định đi mà không nói trước để mình chuẩn bị cho ít tiền tiêu dọc đường! Đúng là đồ lẩm cẩm...".
Câu chuyện của ông Duy chỉ có thế. Sau chuyến đi miền Nam đưa hài cốt của bạn học về quê hương ông tuyên bố sẽ trở về quê cũ, nơi ngày xưa ông bà từng công tác cùng nhau ở cái của hàng mậu dịch quốc doanh thị trấn ngày nào. Nhưng bà thì lại không thể rời được cái nhà ống. Nhưng ông kiên quyết rời khỏi căn nhà ống giống hệt một cái quan tài khổng lồ ấy để về quê. Dân quê nhiều người bảo ông là đồ hâm, người ta chạy ra thành phố chả được, ông lại từ thành phố chạy về quê ở. "Ông này có lẽ bị thần kinh!". Nghe họ nói thế ông chỉ mỉm cười im lặng. Ông bước ra vườn. Ông khoan khoái vươn vai hít thật sâu mùi hoa bưởi đang lan toả khắp khu vườn nho nhỏ.
Gã đốt than
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Gã vốn xuất thân từ một gia đình ba đời làm nghề đốt than.
Quê gã ngày xưa là một miền rừng núi nhiều cây cối. Những cây gỗ lim, gỗ de, gỗ rùa mấy người ôm không xuể. Thời Pháp thuộc khi làm con đường tàu hoả lên Lao Cai người ta về quê gã khai thác gỗ làm tà vẹt. Họ chỉ lấy những đoạn gỗ thẳng còn bìa ván và cành cây vứt ngổn ngang. Ông nội và bố gã cưa cắt những đoạn cành cây ấy rồi đốt lấy than bán cho các lò rèn chuyên làm nông cụ, giáo mác ở chợ. Nghe nói ông nội gã từng được cụ Đề Thám ban khen, tặng cho một cái áo lụa vì có công cung cấp than cho các lò rèn vũ khí khi nghĩa quân Yên Thế về lập căn cứ tại khu vực núi Tam Đảo đánh Pháp.
Bố gã ngày ấy thường ăn ngủ luôn trên rừng bên cạnh lò than. Đốt than cũng không phải là việc đơn giản. Gỗ dùng để đốt than phải là thứ gỗ tốt, rắn, khi cháy thành than rồi vẫn còn chứa một hàm lượng các-bon cao để tiếp tục cho nhiệt lượng khi dùng đốt nung sắt thép. Lò đốt than chính là một cái hố vuông đào sâu độ một mét. Những cành cây cưa cắt ngắn được xếp xuống hố chụm khít vào nhau vồng lên khỏi mặt đất. Sau khi nổi lửa đốt than là phải luôn luôn canh chừng. Lúc những khúc gỗ vừa cháy hết phải tưới nước và lấp lò lại ngay. Đốt lò rồi mà lỡ mà ngủ quên than cháy tàn thành tro hết. Bố gã kể lại có một lần những khúc gỗ vừa cháy hết ông định rẩy nước để lấp lò thì nghe có tiếng động lạ và mùi hôi hám xộc tới. Ông ngó ra xung quanh. Trong ánh lửa nhập nhoạng ông nhìn thấy một con hổ to lớn đang lởn vởn xung quanh, đôi mắt sáng rực của nó trừng trừng nhìn mình. Ông sợ hãi lùi lại ngồi sát vào lò than. Lửa bỏng rát cả lưng nhưng ông không dám lấp lò. Vì nếu để lửa tàn thì ông cũng mất mạng ngay. Con hổ không dám lao vào ông vì nó còn sợ đống lửa cháy rần rật. Nó ngồi phục đến sáng bạch mới chịu bỏ đi. Lần ấy ông mất đứt một lò than to sau mấy ngày cắt cành cây, đào hố, đốt lò.
Gã mới mười tuổi đã theo bố lên rừng đốt than. Có phải vì thế nên gã có nước da đen nhẻm như than hay không. Gã giúp bố khuân những khúc gỗ xếp xuống lò, chặt lá tươi để ủ lên khi lấp đất om than. Lớn hơn một chút gã có thể ngồi kéo cưa cắt cành cây với bố. Gã lớn lên trong rừng. Học hành bữa đực bữa cái. Khi thành một thằng thanh niên to lộc ngộc gã bỏ học suốt ngày hì hục bên cái lò than.
Lúc gã một mình tự đảm nhiệm được việc đốt lò than thì bố gã đã già yếu. Ông không làm được những việc nặng nhọc nữa. Một đời làm nghề đốt than, cái vất vả, khói than đã làm cho ông xuống sức nhanh. Nhiều bữa lên rừng ông chỉ ngồi thở dốc nhìn con làm. Tuy vậy làm nghề đốt than cũng có lúc nhàn. Đó là khi lò đã lấp kín chờ than nguội. Những lúc ấy, ông lại lôi từ cái bao tải rách ra một cuốn sách để đọc. Ông rất thích đọc truyện kiếm hiệp, truyện cổ tích. Mấy cuốn sách truyện của Trung Quốc đóng bìa cứng ông đã mua được trên phố bằng tiền bán than. Những cuốn sách ấy đã theo ông bao năm trên rừng, làm bạn với ông khi nằm canh chờ lấy than. Những trang sách nhọ nhem màu than củi. Ông đọc mấy cuốn truyện Tàu gần như thuộc làu. Ông thích nhất là chuyện "Ngu công rời núi".
Có lẽ vì mê câu chuyện cổ tích này của Tàu nên ông đặt tên cho bốn đứa con là: "Ngu-Công-Rời-Núi". Gã là con cả nên tên là Ngu. Lớn lên chỉ có mình gã nối nghiệp đốt than của ông nội và của bố. Thằng Công em kế gã vào bộ đội, con Rời đi làm công nhân đào đất vá đường. Thằng Núi là em út gã đang học trường cao đẳng sư phạm tỉnh. Thằng em út được học hành đến nơi đến chốn cũng là nhờ những gánh than của bố và anh nó. Gã là thằng thua thiệt nhất nhà. Nhưng gã không ganh tỵ với các em. Gã nghĩ mình là anh cả thì phải chịu hy sinh, thiệt thòi. Có lẽ đời gã sẽ vĩnh viễn là một thằng đốt than.
Một hôm trên đường vào rừng chuẩn bị cho một lò than mới gã bắt gặp một lão ăn mày đang ngồi ở ven đường. Nhìn thấy gã lão chìa tay ra xin. Gã dừng lại lục trong cái bao tải đen đúa tìm đưa cho lão nắm cơm gói trong mo cau. Lão ăn mày cầm nắm cơm chăm chú nhìn gã rồi bảo:
- Cậu có số làm quan sao lại đi đốt than?
- Cháu học hành lởm khởm quan với tước gì hả ông?
- Không cứ! Ở đời ăn thua nhau là ở cái số thiên định. Kẻ có muốn cũng chả được, người không muốn vẫn cứ thành... Duy có điều là cậu phải cố mà tránh chuyện "cáo chết ba năm quay đầu về núi đấy!".
- Nghĩa là thế nào ạ?
Lão ăn mày không trả lời. Trước khi bỏ đi lão chỉ nói thêm:
- Đời cậu sắp có hai việc lớn đấy!
Nói xong lão đeo bị, cầm nắm cơm, chống gậy đi luôn. Gã há hốc mồm nhìn theo lão ăn mày chả hiểu ra làm sao. Lão ăn mày đi khuất gã mới rẽ vào lối cửa rừng. Vào đến chỗ đốt lò than hôm trước, gã bới đất nhặt những cục than đã nguội xếp vào bao. Đây là số than hoa đốt bằng thân cây trảu của nhà hàng ăn uống ngoài phố chợ đặt riêng dùng chuyên để quạt nướng thịt. Gã đã phải đi khắp cánh rừng mới có đủ số gỗ trảu cho lò than này. Trời hình như sắp mưa. Gã vun nhanh đống than để đưa vào cái chòi lá cọ để khỏi bị ướt. Than củi mà bị mưa ướt thường cháy rất kém, khách hàng hay chê.
Vừa đóng xong bốn bao than thì trời mây đen vần vũ. Cũng vừa may có khách đến lấy than. Đó là bà chủ nhà hàng ăn uống và hai người gánh thuê. Bà chủ vừa xem chất lượng than vừa liếc gã. Gã nhìn người đàn bà. Có lẽ chị ta phải hơn gã đến cả chục tuổi. Sao lại có người trắng đến thế. Dân phố có khác! Chị ta đứng cạnh đống than nên nước da đã trắng lại càng thêm trắng. Gã lướt nhìn xuống tay chân mình. Không khác gì cái cột nhà cháy dở, đen nhem nhẻm như than. Nhận xong hai gánh than gỗ trảu, liếc nhìn cơ thể cường tráng của gã đốt than người đàn bà nói với hai người gánh thuê:
- Gánh ngay về đi kẻo mưa hỏng hết than. Tôi thanh toán cho chủ lò rồi về sau!
- Vâng... vâng...
Hai người gánh thuê đáp và vội vã cất gánh lên vai rảo bước ra phía cửa rừng. Nhìn theo hút hai người đi khuất, người đàn bà mới bảo:
- Chị thanh toán tiền than cho chú em nhé!
Gã theo chị ta vào lều để nhận tiền. Chị ta ngồi xuống cái sạp nứa. Gã đứng co ro bên cạnh. Bắt đầu có những hạt mưa lộp độp rơi xuống. Gió hơi lành lạnh. Người đàn bà bảo gã ngồi xuống bên cạnh và vén vạt áo rút gói tiền từ trong bụng ra. Gã giật thót mình khi nhìn thấy một mảng bụng trắng phau của chị ta. Người đàn bà đếm tiền. Gió thổi thông thốc vào lều. Vạt áo của chị ta cứ bay hất ngược lên. Người đàn bà đặt cuộn tiền vào tay gã. Tay chị ta nắm chặt tay gã. Một bàn tay trắng trẻo. Một bàn tay đen thui, đúng như dân gian vẫn nói: "Làm nghề đốt than cu cũng đen thui thủi". Gã lúng túng rụt tay lại rồi lập cập nhét cuộn tiền xuống dưới tấm chiếu manh.
Trời sầm sập đổ mưa xuống. Núi rừng trắng xóa một màu mưa. Căn lều nhỏ nước dột tứ tung. Gã và người đàn bà loay hoay tránh những dòng nước từ trên mái lều chảy xuống. Nhưng cái lều quá nhỏ tránh làm sao được những hạt mưa tạt vào. Cuối cùng để tránh ướt, hai người đành ngồi sát vào nhau ở gốc lều. Gã nhìn trộm chị ta. Nước mưa ướt cái áo mỏng làm hiện rõ mọi đường nét trên cơ thể người đàn bà. Nhìn cặp vú to đầy đặn của chị ta nây nẩy vểnh lên khiến gã thấy như người đang ngây ngất sốt. Chưa bao giờ gã ngồi gần và nhìn thấy một người phụ nữ như thế cả. Gã thở hổn hển, hụt hơi ngớp ngớp như một con cá bị quăng lên cạn. Người đàn bà nhìn xoáy vào mắt gã. Là một người có kinh nghiệm chị ta hiểu đã đến lúc rồi. Gã giật bắn người lên khi đột nhiên chị ta túm chặt lấy tay gã kéo lùa vào trong ngực áo của mình. Gã còn đang hốt hoảng lúng túng thì chị ta lại lôi bàn tay ấy ấn sâu xuống phía dưới. Lần đầu tiên trong đời gã chỉ trong có một phút đã tiếp cận và cảm nhận được hai điều kỳ diệu trên cơ thể của người đàn bà. Gã thấy mình chới với, tim đập loạn xạ. Gã thở hổn hển tựa thể trời mưa làm không khí loãng ra. Gã thấy như một người sắp bị chìm xuống nước. Mọi việc diễn ra rất nhanh. Tất cả đều do người phụ nữ chủ động. Gã như mê man đi vì toàn những điều lần đầu mới biết. Gã đê mê không hiểu mình đang trôi bồng bềnh về đâu. Chỉ đến khi gã thấy người co rút lại, toàn thân như nổ tung toé ra thì gã mới hiểu điều gì đang xảy ra.
Tạnh mưa, người đàn bà mới ra khỏi rừng. Trước khi đi, chị ta còn dặn: "Tuần sau chú nhớ đốt cho chị một tạ than gỗ trảu nữa nhé! Chị sẽ vào tận nơi để nhận... hồi này khách thích ăn thịt nướng nên tốn than lắm...".
Gã mê mẩn nhìn theo chị ta. Sau này gã mới biết bố chị ta ham giàu gả chị cho một thằng quanh năm ốm yếu hom hem nhưng giàu nhất ngoài phố chợ.
Cơn mưa rừng tạnh hẳn, không khí mát mẻ hơn. Gã thấy hơi mệt nhưng trong lòng lại sảng khoái vô cùng. Gã hùng hục chặt cành cây chuẩn bị cho một lò than mới. Đến khi chợt thấy đoi đói gã mới nhớ là chưa ăn trưa. Nắm cơm đã cho lão ăn mày lúc ban sáng. Gã tìm mấy củ sắn ở góc lều lùi vào đống lửa vừa nhen.
Tối mịt gã mới về đến nhà. Từ ngoài sân gã đã nghe thấy tiếng nói chuyện hể hả trong nhà. Nhà gã đang có khách. Gã vừa định đi luôn xuống bếp xem cơm nước thế nào thì bố gã gọi giật lại:
- Thằng Ngu vào đây tao bảo!
Gã bước vào nhà. Một ông khách vẻ bệ vệ đang ngồi đối diện nói chuyện với bố gã. Gã chào ông khách. Bố gã nói:
- Nó là thằng Ngu đấy bác ạ!
- Sao lại là thằng Ngu?
- À quên! Chưa nói với bác, tôi có bốn đứa con, ba trai, một gái. Tôi đặt tên theo đầu đề câu chuyện cổ tích của Trung Quốc là "Ngu công rời núi". Con Rời thoát ly đi làm công nhân đổi tên là Tuyết Lan, làm khổ tôi một lần lên thăm nó hỏi mãi chả ai biết con Rời là ai. Thằng này ở nhà theo bố làm nghề đốt than nên vẫn gọi là thằng Ngu.
- Nó theo tôi cũng phải đổi tên khác! À... đúng rồi, chỉ cần thêm một dấu ngã là xong. Tên là Ngũ hay lắm.
- Vâng! Bác cho thằng Ngu nó đi theo hầu bác chứ làm nghề đốt than như ông và bố nó thì muôn đời cũng chả khá lên được đâu.
- Ông cứ chuẩn bị đi, tuần sau tôi sẽ cho người về đón nó đi.
- Vâng, trăm sự nhờ bác! Có cái gì mà phải chuẩn bị đâu ạ! Bác gọi là thằng Ngu nó đi luôn!
Gã nghe mà không hiểu. Suốt bữa cơm hôm ấy gã ngồi tiếp thức ăn, chạy đi mua thêm rượu cho hai người. Nghe họ chuyện trò gã mới dần dần hiểu rõ ngọn ngành. Thì ra là chuyện từ thời kháng chiến chống Pháp. Hôm ấy mẹ gã đi chợ bán than bố gã đưa gã theo lên rừng. Khi đó gã mới lẫm chẫm biết đi. Vừa vào đến nơi gã ngáp ngủ. Ông đặt gã nằm ngủ trên manh chiếu rách trong lều rồi chuẩn bị nhóm lửa đốt lò than. Đang hì hục làm thì nghe có tiếng súng nổ ngoài bìa rừng. Một lúc sau lại nghe có tiếng người kêu rên đâu đây gần chỗ lò than. Bố gã vội bỏ lò than tìm đến chỗ có tiếng người kêu. Nhận ra đó là một anh cán bộ bị thương đang cố lết đi. Anh bị bọn địch phục kích bắn bị thương. Anh chạy thoát được vào rừng. Không thể đưa anh lên chỗ lò than sợ bọn địch ập đến, ông vội cõng anh chạy vào tận một khe sâu trong núi. Ông băng bó cho anh và để anh ở đó. Khi ông quay lại chỗ lò than tìm con thì gã đã thức giấc. Không thấy bố đâu, gã chui ra khỏi lều vừa đi tìm bố vừa khóc. Bố gã tìm mãi mới thấy gã ở gần bờ suối. May mà gã không ngã xuống nước và không gặp thú dữ. Anh cán bộ được bố gã chăm sóc tiếp tế khỏi vết thương tìm đường trở về đơn vị. Bây giờ anh đã là một ông cán bộ đầu ngành của tỉnh. Nhớ lại chuyện ngày xưa, ông tìm hỏi mãi mới lần ra nhà người đốt than đã cứu mạng mình trong chiển tranh. Biết gia cảnh người đốt than, ông ta muốn đưa gã đi theo làm cán bộ. Có lẽ cuộc đời gã thay đổi từ ngày ấy.
Trước khi theo ông ta lên tỉnh gã còn cố đốt một lò than gỗ trảu nữa cho người đàn bà ở phố chợ. Mãi sau này gã mới hiểu thì ra "hai việc lớn" mà lão ăn mày nói với gã chính là việc "biết mùi đàn bà và mùi của quyền lực".
Lên đến tỉnh gã được ông cán bộ coi bố gã là ân sư bố trí cho một công việc khá phù hợp. Đó là làm việc ở ban tuyên truyền. Nghề của gã là chuyên "đóng đinh leo thang". Nghĩa là chuyên đi treo dán khẩu hiệu hô hào cổ động cho các phong trào hành động cách mạng của tỉnh.
Gã thích nhất là những kỳ đại hội của các ban ngành. Ban ngành nào cũng cần đến bộ phận của gã giúp việc tô vẽ, cắt dán khẩu hiệu, trang trí hội trường, xây dựng kịch bản các chương trình giao lưu ca nhạc. Tiệc tùng, thù lao bồi dưỡng đều đều. Gã ghét nhất là mùa mưa, khẩu hiệu vừa treo lên rất hoành tráng gặp mưa ướt hết. Nguy nhất là nó bị rơi mất nét, mất dấu chữ không dán kịp thành trò cười cho người qua đường lại còn bị lãnh đạo quở trách.
Làm được vài năm trông gã có vẻ ra dáng cán bộ. Mặt mũi đỡ đen đủi hơn. Mỗi lần gã về quê không ai còn nhận ra gã đốt than nữa. Cũng trong vài năm ấy, gã kịp hoàn thiện được các loại bằng cấp cần thiết. Gã lại còn lăm le vào hội văn học nghệ thuật của tỉnh nữa. Chả gì gã cũng đã in được một tập thơ mỏng với số lượng hai trăm bản rồi còn gì. Nhờ sự trợ giúp của "ân công" là ông cán bộ coi bố gã là "ân sư" ấy, gã đánh bật được ông trưởng ban tuyên truyền để kế luôn chức vụ của ông ta. Mọi việc rất đơn giản. Hôm ấy cơ quan gã tổ chức một hội nghị quan trọng. Gã khôn khéo nói có giỗ xin nghỉ về quê. Ông trưởng ban phải trực tiếp làm công việc trang trí hội trường. Chả biết ông ta treo bảng chữ thế nào mà giữa lúc hội nghị làm lễ chào cờ đang hát vang "lanh-téc-na-xi-o-na-lơ" thì cái bảng chữ bất ngờ tuột dây lao rầm ngay xuống. Điện chập toé lửa loằng ngoằng. Khói um. Khét lẹt. Cả hội trường nhốn nháo. Ông thủ trưởng đang đứng chủ lễ chào cờ hoảng quá co giò lao ngay ra khỏi hội trường. Mấy vị đại biểu cấp trên cũng nhanh chóng nhảy qua bàn xô đổ vỡ cả lọ hoa để thoát ra ngoài. Anh trưởng ban tổ chức đứng gần bị cái bảng chữ văng trúng sứt đầu máu chảy be bét.
Sau buổi hôm ấy ông trưởng ban tuyên truyền bị kỷ luật và phải nghỉ hưu non. Cho đến lúc vai túi đeo, tay xách gói về quê ông này vẫn không hiểu tại sao cái bảng chữ lại bị đứt dây giữa lúc quan trọng ấy. Ông đâu có biết là do gã tối hôm trước khi nối các mối dây thép chuẩn bị cho ông ta hôm sau treo bảng chữ đã giở tiểu sảo hại ông. Lẽ ra sau khi soắn chặt mối nối thì phải bẻ quặt hai đầu dây thép lại dùng kìm bóp chặt để khi treo cái bảng chữ nặng không bị tuột thì gã lại chỉ vặn các mối nối xoắn thẳng, hai đầu dây không bẻ quặt lại. Bảng chữ nặng treo lâu kéo mối dây thép dần dần ruỗi thẳng ra và nó rơi xuống là tất nhiên. Nó rơi trước lúc khai mạc hội nghị thì chỉ mất công treo lại. Điều không may là nó rơi đúng lúc đang chào cờ làm mất hết không khí thiêng liêng. Mà nó rơi trong khi đang họp cũng chết.
Thế là chỉ với một mối dây xoắn hờ mà gã đã loại được ông trưởng ban. Dĩ nhiên gã là người kế tục. Việc này "ân công" đã định trước. Chức trưởng ban tuy chỉ là điếu đóm nhưng gã thấy cũng rất oai. Chả gì gã cũng được ngồi ngang hàng với các ban ngành khác giao ban hội ý hàng tuần. Gã đặt đóng một cuốn sổ thật đẹp, để ghi chép những lời huấn thị, phân công công việc của cấp trên đem về phổ biến quán triệt cho nhân viên trong ban. Khi ông cán bộ đầu ngành được bầu giữ chức chủ tịch tỉnh gã tiếp tục được ông nâng đỡ. Sau mấy lần loại dần các cán bộ không ăn cánh, gã được bổ nhiệm chức đứng đầu ngành văn hoá tỉnh. Cái chức giám đốc sở thật oai phong và lắm màu mỡ. Nhiều người bắt đầu đến cầu cạnh, dấm dút đút lót cho gã. Những cặp mắt bắt đầu nhìn gã vẻ nể trọng, nịnh nọt.
Ngồi trên cái ghế có bánh xe quay tròn được gã vẫn bàng hoàng không tin là từ một thằng đốt than hôm nào lại có lúc chễm chệ trên cái ghế đầy quyền lực và nhiều bổng lộc như thế này. Lời tiên đoán của lão ăn mày dạo trước quả không sai. Nhưng gã không tin ở thiên định. Gã chỉ biết ơn sâu sắc ông chủ tịch tỉnh. Chính vì thế gã ra sức trợ giúp, hầu hạ ông ta. Đấy mới là định số của gã. Không có ông ta thì đời gã mãi mãi vẫn chỉ là một thằng đốt than đen nhem nhẻm mà thôi.
Chức quyền sinh ra bổng lộc. Có tiền mua tiên cũng được. Gã bắt đầu hưởng thụ. Bổng lộc, hưởng thụ cứ tự nhiên có người mang đến cống nạp. Gã là thủ trưởng cơ quan nhưng ai cũng hiểu gã còn là thân tín của vị quan đầu tỉnh. Ai có việc mà biết "qua cầu" của gã hoá ra lại dễ dàng. Gã là cầu nối quan trọng để tiếp cận ông chủ tịch tỉnh.
Ông chủ tịch luôn coi gã là đệ tử số một. Ông ta nghiệm ra một điều là mọi thủ đoạn để chống lại nhau, loại bỏ nhau không có thủ đoạn nào ghê gớm, thâm hiểm hơn thủ đoạn dùng văn hoá làm phương tiện. Văn hoá bao giờ cũng là nền tảng của sự phát triển, là báo hiệu của sự suy tàn. Ai biết lợi dụng nó sẽ tạo nên sức mạnh lớn lao. Một cái đơn tố cáo nặc danh, theo luật là không được xem xét. Nếu thanh tra có dựa vào đó để lần ra khuyết điểm thì đưa về xử lý nội bộ, rồi "phê bình nghiêm khắc" là xong. Nhưng một tác phẩm văn nghệ đăng báo, nhân vật hao hao giống đối thủ đang cạnh tranh chức vụ với mình thì lại có tác dụng hơn hẳn hàng chục cái đơn thư nặc danh hoặc kể cả đơn không nặc danh. Chuyện ám vào ai thì khó mà gột rửa hết tiếng ong ve xì xào. Chuyện văn nghệ biết thực hư thế nào. Rõ ràng là hư cấu nhưng nhiều người vẫn tin là thật. Nhà văn hư cấu thì cũng phải dựa trên hiện thực chú! Dân gian vẫn bảo "không có lửa làm sao có khói". Chuyện bán tín bán nghi biết đâu mà giải thích. Uy tín người hao hao giống nhân vật trong truyện tự dưng giảm dần, đúng kỳ đại hội mà kém phiếu hoặc trượt vỏ chuối thì coi như xong.
Gã nhớ hồi năm ngoái khi vị "ân công" còn đang là phó chủ tịch tỉnh kiêm giám đốc sở. Một hôm ông ta gọi gã đến bảo:
- Có hai người là ứng viên chức chủ tịch. Giúp tao loại bỏ đối thủ nhé!
- Em sẽ cố gắng... nhưng không biết sẽ làm thế nào ạ?
- Mày có quen tay nào viết lách gì không?
- Để viết đơn thư tố cáo ạ?
- Không! Viết truyện... Viết một truyện ngắn hoặc tiểu phẩm!
- Viết truyện để làm gì ạ?
- Để đăng báo chứ còn làm gì nữa?
Gã ngơ ngác không hiểu. Vị "ân công" thì thào:
- Viết một truyện ngắn nội dung sát sàn sạt hoàn cảnh, quê quán, tính cách của vị phó kia, phịa thêm vài tình tiết như gái gú, ăn của đút, hống hách, nhất là cái chuyện đối xử nhạt nhẽo với bố mẹ, vợ con, láng giềng, anh em cơ quan...
- Vâng! Em quen một tay nhà văn cấp huyện. Tay này chuyên viết diễn văn và điếu văn thuê. Em sẽ đặt nó viết ngay một truyện theo đúng ý kiến chỉ đạo của anh.
- Nhớ là phải tìm thằng nào gioi giỏi một chút để văn vẻ có tính nghệ thuật và sâu sắc. Ứng trước cho nó vài triệu nhuận bút để nó hăng hái. Nhớ khi nó viết xong đưa tao xem lại rồi hẵng gửi cho tờ báo Văn nghệ của tỉnh đăng.
- Nhưng liệu toà báo họ có đăng cho không ạ?
- Việc ấy mày không phải lo. Nhớ là khi báo đã ra có in truyện ngắn ấy thì mua thêm lấy vài trăm tờ đưa bộ phận phát hành gửi cho tất cả các ban ngành, các huyện trong tỉnh nhé!
Quả nhiên "đòn văn nghệ" này thật hiểm. Tờ báo văn nghệ được truyền tay nhau đọc đến nhàu nát. Nhiều người còn phôtôcopy ra để cho nhiều người được đọc. Chuyện thực hư chả ai rõ, nó cứ rầm rì lan truyền khắp tỉnh. Nghi án văn chương không có ai thẩm tra kết luận. Nhưng khi bầu cử thì ông phó kia mất phiếu. Vị "ân công" của gã đương nhiên nhậm chức với tín nhiệm cao. Sau chuyện này gã cũng mát mặt. Mấy triệu đồng "ân công" đưa làm nhuận bút ứng trước gã chỉ chi cho thằng viết thuê có tám trăm. Như thế cũng đã gấp bốn lần nhuận bút rồi mà nhuận bút của báo nó vẫn có. Không những thế thằng viết thuê còn sướng lâng lâng cả tháng trời vì tác phẩm của mình được đăng báo cả tỉnh đều biết. Cầm nắm tiền bớt lại trong tay gã lẩm bẩm: "Mẹ kiếp! Bằng cả mấy cái lò than ở quê". Gã vẫn có thói quen hay so sánh. Sau này lên giám đốc sở, mỗi lần ai biếu quà, đưa tiền gã đều so sánh với giá trị của cái lò than. Có lần nhận một cái phong bì mở ra gã ngẩn người khi quy đổi ra nó bằng cả hai trăm cái lò than của bố con gã ngày xưa. Gã cũng thấy xót khi một lần bao một em út qua đêm trong chuyến đi công cán mất mẹ nó gần hai chục lò than mà lại không sướng bằng cái buổi chiều mưa trong lều với con mẹ chủ quán cơm phố chợ dạo nào. Tự dưng gã thấy nhớ chị ta quá. Nhất định hôm nào về quê gã sẽ ghé quán ăn phố chợ một lần.
Làm quan muốn ăn thường sinh thủ đoạn. Gã thường vỗ vai các cán bộ trong cơ quan bảo:
- Vị trí trưởng phòng A đang khuyết, tớ muốn đề bạt cậu nhưng thật tiếc là cậu "chưa đủ độ" để đảm nhiệm!
- Vâng! Em sẽ cố gắng... mong anh lưu tâm giúp đỡ ạ!
Anh cán bộ được vỗ vai ấy hiểu. Thủ trưởng nói vậy không phải là anh chưa đủ trình độ để đảm nhiệm chức vụ mà là chưa đủ "đô" (đô-la) đưa cho sếp. Hai vợ chồng anh liền mua gói bánh choopie đến thăm thủ trưởng thế là ổn. Bởi trong gói bánh ấy có đủ số "đô" cần thiết.
Vị "ân công" của gã được điều về trung ương nhận trọng trách mới. Ông bảo: "Chờ tao yên vị sẽ tìm cách kéo chú mày lên sau!". Gã yên tâm chờ. Nhưng tình thế lại không đợi. Vây cánh đối lập với vị chủ tịch cũ bắt đầu nổi lên. Tân chủ tịch cũng không ưa gì cựu đồng chức nên bắt đầu sàng lọc cán bộ. Gã lâm vào cảnh bơ vơ không người che chở. Gã thu mình nhẫn nhịn. Nhưng ai cho gã thu mình. Những người đã từng bị gã trù úm, dằn mặt, bòn rút bắt đầu nổi lên dương dương tự đắc. Họ lần lần moi ra những khuất tất của gã. Đầu tiên là cái "dự án sưu tầm và bảo tồn vốn dân ca cổ vùng trung du". Mấy trăm triệu đồng khai khống để sưu tầm, bảo tồn, nâng cấp. Những nghệ sĩ dân gian ông kèo, bà cột vẫn ký vào giấy biên nhận tiền ở các vùng quê xa xôi đều là giả mạo. Gã bị tố cáo, vạch mặt chỉ tên. Gã vội nhao lên trung ương tìm vị "ân công". Nhưng nước xa không cứu được lửa gần. Vị "ân công" bảo gã:
- Chú mày liệu mà che chắn! Dù có tình huống nào xảy ra cũng phải nhớ là không được để ảnh hưởng, liên quan đến tao đấy!
Gã hiểu. Thế là vị "ân công" đã phủi tay. Thực ra vị "ân công" cũng khó mà làm gì được hơn khi lực quyền chưa đủ. Trên đường từ thủ đô về tỉnh qua chỗ cửa rừng ngày xưa vẫn vào núi đốt than gã bảo lái xe dừng lại. Cây đa đầu lối mòn chỗ lão ăn mày ngày xưa ngồi vẫn còn. Gã chợt nhớ tới lời dặn của lão. Có lẽ gã không tránh khỏi chuyện "cáo chết..." mà lão ăn mày đã đoán định ngày ấy chăng! Gã bảo anh lái xe đánh xe về cơ quan trước còn mình đi bộ về hướng phố chợ.
Phải một lúc chị chủ quán mới nhận ra gã. Gã không còn lầm than, đen đúa, bẩn thỉu như bữa nằm bên cái lò than giữa rừng dạo nào. Gã ăn mặc bảnh bao, com lê đắt tiền thẳng nếp nhưng cái mặt đen sạm của một thằng đốt than thì không thể lẫn. Chị nhà hàng bưng các món ăn ra cho gã. Gã vừa ăn vừa liếc nhìn người đàn bà. Chị ta vẫn đẹp, da dẻ trắng trẻo như hồi nào. Gã nuốt ực một cái khi nhớ đến cái buổi chiều mưa trong rừng xa xôi ấy. Chị chủ nhà hàng rót rượu cho gã. Cái liếc mắt đưa đẩy. Gã thấy người rạo rực lâng lâng sau vài chén rượu ngâm "ngọc dương" hạ thổ vừa mới đào lên. Một chiếc xe tăc-xi ghé vào hông nhà hàng phố núi. Chiếc xe chở gã chạy lòng vòng qua khu du lịch sinh thái rồi phóng vút lên hướng thị xã ghé vào một nhà nghỉ ven đô. Không cần hỏi han gì anh chàng lễ tân đã dẫn gã lên phòng 303. Gã hé cửa bước vào rồi bấm chốt. Gã tiến đến chiếc giường giữa phòng. Khi gã lật tấm chăn mỏng lên, vị nữ nhà hàng phố chợ đã khoả thân nằm ruỗi thẳng chân chờ đợi. Ngoài hai điểm đen là mái tóc và... thì nước da của chị còn trắng hơn cả tấm ga trải gường...
Giữa lúc đang cao trào thì cửa phòng bật mở. Có mấy bóng người lao vào. Gã hốt hoảng co rúm người lại. Chị chủ nhà hàng phố núi hét lên khiếp đảm. Mặt mũi chị ta tái mét nhợt nhạt vì khiếp sợ.
Bọn người vừa đạp cửa xông vào áp sát ngay cái giường ngủ. Gã cố định thần nhận ra ông phó giám đốc sở cùng hai anh công an tỉnh, ông tổ trưởng dân phố. Một người dáng vẻ gầy gò bước vào sau cùng đứng như chôn chân ở giữa phòng. Đó là anh chồng ốm yếu của người đàn bà đang nằm trên giường với gã. Gã vô cùng kinh ngạc vì nhà nghỉ này cách tỉnh lỵ những hơn hai chục cây số làm sao mà họ tập trung được đầy đủ và ập đến nhanh thế. Sau này gã mới biết kẻ "chỉ điểm" chính là tay lái xe cho mình. Tên này đã phản chủ từ lâu. Ông phó giám đốc sở đã gặp và hé cho thằng lái xe biết ông chủ của nó đang lâm vào thế thất sủng không thể cứu vãn nổi. Ông ta khuyên nó nên "khôn thì phù thịnh, dại thì phù suy". Thói đời là vậy. Có một loại người rất giống loài cá mương. Loại cá mương chuyên ăn nổi lau nhau, thấy chỗ nào có mồi là nhao nhao xô đến, thoáng thấy động là lao đi như tên bắn. Gã đã quá chủ quan nên không biết tên lái xe đã thay lòng, đổi dạ. Mà gã đâu có ngờ rằng cái thằng thất nghiệp lái công nông chở than thuê được gã đưa từ rừng sâu về cho công ăn việc làm lại làm phản. Thì ra ngay sau khi gã bảo nó lái xe về tỉnh trước nó đã lập tức thông báo cho ông phó giám đốc sở. Theo lệnh của ông phó giám đốc, tên lái xe đã bám theo gã mà gã không biết.
Đám người ồn ào phấn khích vì bắt quả tang:
- Rõ ràng "trai trên gái dưới", "chày đang lèn cối" nhé... nhé...!
- Đi đêm lắm có ngày gặp ma mà... Lập biên bản ngay!
Đám người do ông phó giám đốc sở chỉ đạo nhanh chóng lập biên bản bắt quả tang gã có quan hệ bất chính với vợ người khác. Hình như họ đã chuẩn bị sẵn cái biên bản quả tang này rồi nên đưa ra rất nhanh. Gã và người đàn bà chỉ được mặc quần áo sau khi đã ký vào biên bản. Cầm chắc tờ biên bản ông phó giám đốc bước ra cửa đi ngay. Hai anh công an cũng chuồn theo rất nhanh. Trong phòng chỉ còn lại gã, người đàn bà và chồng của chị ta. Ba người nhìn nhau im lặng. Người đàn bà lặng lẽ đứng dậy bước ra cửa. Người đàn ông ốm yếu thất thểu đi theo vợ. Mặt mũi người đàn ông chưa hết tái vì tức giận nhưng hắn cũng hiểu thân phận của mình suy nhược, không đáp ứng được người vợ luôn hừng hực sức sống. Đã biết vợ mình đi "ăn thêm" từ lâu nhưng "mục sở thị" thì đến giờ hắn mới thấy.
Gã là người cuối cùng rời nhà nghỉ. Đôi chân gã bước hẫng tụt xuống cầu thang. Anh chàng lễ tân Nhà nghỉ Hương rừng lấm lét nhìn gã. Anh ta cảm thấy có lỗi khi không kịp báo động cho gã biết có sự cố để tháo thân. Một anh công an áp sát quầy lễ tân rất nhanh không cho anh bấm số máy điện thoại. Là nhân viên nhà nghỉ anh ta hiểu. Những đôi dắt nhau đến thuê phòng theo giờ như thế này chủ yếu là bồ bịch, ngoại tình. Nhà nghỉ nơi góc khuất, ngoại vi sống được cũng chính là nhờ những đôi "ông nọ-bà kia" như thế này. Anh rụt rè hỏi:
- Cháu gọi tắc-xi cho bác nhé?
- Không cần... - Gã lắc đầu.
Gã bước thập thõm theo con đường rải sỏi ven rừng dẫn vào thị xã. Đã quá chiều. Có một cơn mưa giông đang cuồn cuộn phía chân trời.
*
Buổi họp kiểm điểm gã vẫn theo đúng tiến trình, thủ tục sẵn có từ thời bao cấp. Bầu chủ toạ chủ trì, thư ký ghi chép cẩn thận. Ông phó giám đốc kiêm bí thư chi bộ cơ quan tự giới thiệu mình là chủ tọa. Sau đó là biểu quyết một lần cả chủ tọa và thư ký. Việc bầu bán lâu nay vẫn cứ hình thức thế thôi. Nhưng nếu không làm thì là vi phạm nguyên tắc và chương trình sinh hoạt sẽ không có giá trị pháp lý.
Nội dung chính của buổi sinh hoạt bắt đầu. Sau mấy câu tóm tắt của ông chủ tọa là đến phần gã đọc bản tự kiểm điểm. Gã đứng lên nhìn bao quát phòng họp. Toàn những khuôn mặt quen thuộc. Toàn những kẻ chấp hành. Thế mà hôm nay sao trông khác quá. Hay là tại hôm nay gã khác những bữa trước nên nhìn cấp dưới thấy họ khác hôm qua. Có lẽ thế. Hôm trước những khuôn mặt kia ngong ngóng chờ nghe huấn thị của gã. Hôm nay vẫn những khuôn mặt ấy nhưng phừng phừng một khí thế phê, tự phê rất cao. Họ đang chờ để góp ý kiến mổ xẻ, phân tích khuyết điểm, sai lầm của gã, trên tinh thần xây dựng, giúp gã tiến bộ, nhưng ý định thì hoàn toàn ngược lại. Gã chợt hiểu khi gió đã đổi chiều thì sẽ có nhiều kẻ đổi mặt. Tự dưng gã muốn hét một tiếng thật to như ngày nào còn đốt than giữa rừng hét lên vang dội để tạo khí thế chặt cây, đào hố và xua đuổi bọn thú dữ đang lởn vởn rình rập xung quanh.
Gã đọc bản kiểm điểm ấp úng mặc dù đây là văn bản lần đầu tiên do gã tự viết lấy để đọc. Gã quen đọc rất hùng hồn, xuôi chảy văn bản người khác chuẩn bị cho. Nay đọc văn của chính mình lại thấy gượng gạo, lủng củng, đứt đoạn. Sau khi gã đọc bản tự kiểm điểm, hội nghị bắt đầu thảo luận. Nhiều ý kiến tham gia phân tích sai lầm, khuyết điểm của gã. Họ nhấn mạnh vào khía cạnh tư cách đạo đức và tính gương mẫu của người lãnh đạo. Chả cần nghĩ lâu gã cũng biết đều là các nội dung do ông phó giám đốc "bồi dưỡng" trước cho họ.
Đến phần xác định hình thức kỷ luật, ông chủ tọa đưa mắt nhìn những người đã được "bồi dưỡng" trước. Ông khẽ hất hàm. Mấy cánh tay ngập ngừng giơ lên. Ông chủ tọa chưa kịp chỉ định thì gã đã đứng bật dậy. Chẳng chờ cho phép, gã nói luôn:
- Tôi xin nhận hình thức cảnh cáo về đảng, xin được thôi chức về chính quyền!
Mọi người ồn ào. Có tiếng lao xao: "Thế thì nặng quá!". Riêng ông chủ tọa thì im lặng. Nét mặt ông ta rãn ra vẻ thoả mãn. Có lẽ như thế thì tình hình tốt hơn rất nhiều điều ông ta mong muốn. Ông ta đứng dậy kết luận:
- Buổi sinh hoạt hôm nay là nghiêm túc, dân chủ, thẳng thắn, mọi người đều nêu cao ý thức phê và tự phê thẳng thắn, trên tinh thần xây dựng, tình đồng chí chân tình. Đồng chí Ngũ cũng đã nhận rõ tính nghiêm trọng khuyết điểm của mình. Chúng ta tin rằng nhất định đồng chí ấy sẽ sửa chữa tiến bộ...
Nghe ông ta nói vậy gã nghĩ: "Mẹ kiếp! Tiến bộ cái con khỉ gì nữa mà tiến với chả bộ...". Ông chủ tọa lấy biểu quyết hình thức kỷ luật như gã đã tự nhận.
Mọi người giơ tay.
Cả hội trường là một rừng tay.
- Đếm!
- Không đủ 100%?
- Giơ lại!
- Đếm lại đi!
- Vẫn không đủ 100%!
Sao lạ thế? Mặc dù mọi người đã nhìn thấy chính gã cũng giơ tay tự biểu quyết hình thức kỷ luật cho mình như đã nhận cơ mà. Ông chủ tọa hỏi:
- Vậy thì còn ai có ý kiến khác?
Duy nhất một cánh tay giơ lên. Ông chủ tọa dõng dạc:
- Mời đồng chí cho ý kiến!
Một anh ở cuối hội trường đứng dậy. Gã nhận ra anh phó phòng trưng bày triển lãm. Anh này là người có tài nên không chịu nhún nhường ai, hay đấu tranh với những sai trái của cán bộ trong cơ quan. Mấy lần gã trị anh này vì cái tội tự kiêu, tự đại, hay soi mói vào việc của người khác.
Anh phó phòng vừa nói giọng đã gay gắt:
- Tôi không nhất trí! Tôi không biểu quyết! Tôi kịch liệt phản đối các hình thức kỷ luật như vậy!
Nghe anh ta nói vậy gã nghĩ: "Chắc là thằng này muốn mình phải chịu hình thức kỷ luật cao hơn đây! Nó còn thù mình nhiều chuyện nên nhân cơ hội tốt này phản kích lại". Anh phó phòng nói tiếp, giọng vẫn gay gắt:
- Khuyết điểm của đồng chí Ngũ là rất nghiêm trọng...
- Đúng... đúng...! Vậy theo đồng chí kiến nghị hình thức kỷ luật phải cao hơn hả? - Ông chủ tọa cắt lời anh ta. Với ánh mắt giả nhân và làm ra vẻ thông cảm, ông ta hạ giọng dịu dàng: - Nhưng, theo tôi vì sự tiến bộ và tương lai của đồng chí đồng đội nên chỉ cần như thế thôi...
Anh phó phòng giọng vẫn căng thẳng:
- Tôi không đồng ý với các hình thức kỷ luật mà hội nghị vừa biểu quyết. Như thế là... là... - Anh ta như bị tắc nghẹn trong cổ họng: - Là... là... chúng ta đã cạn tàu ráo máng với đồng chí, anh em... ở đây lại là cấp trên của mình.
Mọi người ồ lên xôn xao. Gã ngạc nhiên nhìn anh phó phòng. Ông chủ tọa cau mày. Ông vỗ bàn lộp bộp một thôi để ổn định trật tự. Anh phó phòng nói tiếp:
- Ngoài vụ việc vừa rồi giám đốc cũng còn có những sai phạm trong quản lý tài chính, sử dụng cán bộ. Nhưng tôi được biết đồng chí đã có một số biện pháp khắc phục hậu quả. Trong khi đó một số người lại lợi dụng tình hình ấy để bới móc, thư từ, kiện cáo, nặc danh có, giả danh có rồi chính danh cũng có nhằm nhanh chóng hạ bệ giám đốc. Buồn nhất là có kẻ cơ hội từng được giám đốc giúp đỡ, đề bạt nay lại quay lưng lại với chính người từng cưu mang giúp đỡ mình. Sai lầm thì phải kỷ luật là điều tất nhiên. Nhưng đừng lợi dụng sai lầm của người khác để chà đạp lấn lướt bước lên. Đó không phải là động cơ, là hành động chân chính. Thử hỏi sự việc bắt quả tang ở Nhà nghỉ Hương rừng diễn ra như thế nào! Ai đã theo dõi, rình rập mà nhanh chóng, gọn gàng đến như thế?
Phòng họp lặng phắc. Có tiếng con muỗi vo ve bay qua. Trong hội trường rất nhiều người cúi gằm mặt xuống. Gã cũng cúi mặt xuống không dám nhìn thẳng mặt anh phó phòng. Gã không thấy tiếc là có thể mình sẽ tuột hết chức vụ, bổng lộc mà chỉ tiếc là bấy lâu nay mình vẫn nhìn nhầm người, thương nhầm người và dùng nhầm người. Gã đã dùng quá nhiều kẻ giống lũ cá mương, trù dập những người như anh phó phòng. Gã cũng chợt hiểu ra một điều là không phải lúc nào thủ đoạn và tiền bạc cũng là tất cả, cái nhân cách của con người mới là quyết định. Điều chợt hiểu ra là muộn màng nhưng gã thấy không thừa...
*
Đang mê mải khua bàn phím viết cho xong truyện ngắn Gã đốt than thì tiếng chuông điện thoại vang lên.
Cú điện thoại của một anh bạn cùng chiến trường cũ khá dài. Nghe xong, tôi quay về bàn máy định viết tiếp đoạn gã đốt than từ nhiệm về quê. Nhưng mãi không gõ được một chữ nào thêm. Mạch chuyện về gã đốt than bỗng trở nên rời rạc. Câu chuyện qua điện thoại của anh bạn về quãng đời lưu lạc của một người con gái khiến trong đầu tôi cứ nghĩ về một truyện ngắn mới.
Hồi lâu, tôi đành nhấn nút Turn off Computer và tự an ủi chuyện gã đốt than dừng lại ở đây cũng được rồi.
MUA ĐƯỢC CẢ À!
Truyện cực ngắn của Trọng Bảo
Ông Bường là một người thật thà. Ông có tài tổ chức làm kinh tế. Ông có công đưa nghề thủ công đan lát xuất khẩu về làng làm thay đổi cả một vùng quê nghèo khó. Tính ông xuề xoà, hay thương người. Ông hay giúp đỡ bà con láng giềng nên tín nhiệm rất cao. Mọi người tin tưởng muốn đề nghị ông đảm nhiệm chức trưởng thôn để dẫn dắt bà con làm ăn.
Mọi việc cứ ngỡ là hiển nhiên. Ai cũng bảo: "Ông Bường làm trưởng thôn là rất xứng đáng!". "Xứng đáng quá đi chứ. Ông ấy là "cứu tinh" của làng ta đấy!". Chả ai không nghĩ thế. Ấy vậy mà đến lúc đưa tên ông vào danh sách bầu trưởng thôn thì lại rất khó khăn. Lãnh đạo xã chỉ đạo: "Ông này tính tình dễ dãi, thiếu kiên quyết, không thể làm trưởng thôn được!". Đồng chí phụ trách đoàn thể thì nhận xét: "Ông này thiếu tính thuyết phục quần chúng. Lẽ ra hô hào mọi người thi đua tự mình vươn lên làm giàu thì lại đem vốn ra trợ giúp họ. Như thế là không khuyến khích được tính sáng tạo, tự lực tự cường của quần chúng!". Bà chủ tịch hội nông dân lại cho rằng: "Ông này thiếu quan điểm "tam nông", tự dưng rước cái nghề đan lát mây tre về khiến cho nông dân mê mẩn ham làm giàu, không chịu chăm lo ruộng đồng...". v v và v v...
Thế là ông Bường không qua được vòng "hiệp thương" để lọt vào danh sách bầu trưởng thôn. Hôm bỏ phiếu, có nhiều bà con vẫn cứ ghi tên ông vào phiếu bầu. Theo luật như vậy là phiếu không hợp lệ. Mà đã không hợp lệ thì phiếu phải loại bỏ ngay. Trong khi đó thằng Cuông - một tên chuyên cầm đồ, cho vay nặng lãi khi bà con bị hoạn nạn, thiên tai mất mùa thì lại trúng cử chức trưởng thôn. Nó tổ chức một bữa khao linh đình các ngành các cấp.
Trong bữa rượu, tự dưng có một thằng ngứa miệng lên mặt dạy bảo nó:
- Anh cần cố gắng phấn đấu, tạo thêm uy tín không thì khó làm việc lắm...
- Uy tín con mẹ gì! - Thằng Cuông đang say nên nổi khùng: - Tao đếch cần uy tín... tao chỉ cần nhiều tiền... có thật nhiều tiền thì cái chức trưởng thôn đã là gì... cả những cái chức ở trên... trên... trên... cao hơn nữa tao cũng mua được tất... Đấy chỉ có mấy triệu mà tao đã thành trưởng thôn... thế thì chỉ cần mấy chục triệu tao sẽ là trưởng xã... mấy trăm triệu tao sẽ là trưởng huyện... mấy nghìn triệu tao sẽ là trưởng tỉnh... ha... ha... ha... uống... uống... uống...
Lãnh đạo các ban ngành tái mặt. Một số lặng lẽ rút êm.
Chuyện "mua được tất" của thằng Cuông ầm ĩ cả làng. Mấy người đem chuyện kể lại cho ông Bường nghe. Ông mắng:
- Mua rau, mua thịt chứ ai mua quan, mua chức... đừng nghe thằng say nó nói bậy!
Mọi người cười ầm lên:
- Ôi... bác thật thà quá bác ơi, cái gì bây giờ chả mua được!
Ông Bường ngẩn người ra một lúc rồi hỏi lại:
- Thế thì... mua được tất cả à!?
Lão Cống
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Lão Cống bị lôi xềnh xệch ra khỏi nhà. Mặt mũi lão tái xanh tái xám. Quần áo lão dính đầy tro trấu. Lão đang nấu cơm thì xảy ra chuyện. Đám đông xúm quanh lão xỉa xói. Một thằng thanh niên một tay chẹt cổ, một tay bẻ quặt tay lão ra sau lưng. Một thằng khác lôi từ đống sắt vụn sau nhà lão ra một cái nồi ngoác miệng gào lên:
- Đúng là cái nồi nấu cám lợn nhà tao đây rồi!
- Phen này bắt quả tang lão chứa chấp đồ trộm cắp, đừng hòng cãi nhé!
Bọn thanh niên và mấy bà sồn sồn tiếp tục lục soát nhà lão Cống. Họ lôi ra từ góc bếp, xó nhà ra những cái xoong gãy quai, ấm nhôm cụt vòi, chậu thau thủng đáy và nhận là của nhà mình... Đó là những thứ mà bọn trẻ con lấy trộm ở nhà mình, hoặc nhà hàng xóm đem bán cho lão Cống lấy vài ngàn chơi games, chọc bi-a. Nhà lão Cống ở gần chợ. Lão sống một mình, vợ con chả ai thấy bao giờ. Lão chuyên nhặt nhạnh, thu gom những đồ phế thải, sắt vụn bán kiếm sống qua ngày. Đám trẻ con trong xóm ham chơi trò chơi điện tử không từ một cái gì bán được là không lấy.
Nhiều nhà trong xóm lúc thì mất cái nồi, lúc thì mất cái kiềng gãy, khi thì mất cái chốt cổng bằng sắt nên bực lắm. Ông công an xóm cùng đám thanh niên theo dõi quyết bắt quả tang bọn trộm vặt và người tiêu thụ. Vì thế mà trưa nay họ bám theo được chân một thằng bé đang thu lu ôm cái nồi gang lủi vào nhà lão Cống. Đó là cái nồi nhà bà Thặng đang đựng cám lợn ở bếp. Thằng oắt con đã lẻn vào bếp đổ cám đi rồi ôm cái nồi chui qua rào đem bán cho lão Cống.
Thường là rất ít khi lão Cống có tiền thanh toán ngay những thứ mua được. Lão ghi vào sổ khi có người đến thu mua sắt vụn mới có tiền trả cho bọn trẻ con. Chính vì thế mà đám người trong xóm đã thu được cả cuốn sổ ghi nợ của lão Cống. Lão cứng họng không thể chối cãi. Một thằng hét lên:
- Trói cổ lão này dẫn lên công an xã giải quyết!
- Đúng... đúng...
Nhiều người hưởng ứng. Mặc lão Cống van xin thằng thanh niên đang chẹt cổ lão rút ngay cái thắt lưng ra. Giữa lúc đó thì ông công an xóm chạy đến ngăn lại. Ông này có vẻ hiểu luật nên bảo bọn thanh niên:
- Chưa có lệnh bắt và khám nhà không được trói người! Phạm luật đấy!
- Nhưng mà bắt quả tang...
- Thôi không cần trói cũng được! Lão này có mà chạy đằng trời.
Một thằng vớ được đoạn dây thừng trên bờ rào buộc vào quai cái nồi cám lợn rồi đeo luôn lên lưng lão Cống làm tang vật. Đoạn hai thằng hai bên chẹt cổ, túm tay đẩy lão Cống ra đường. Lão Cống tập tễnh bước đi. Quần áo lão tơi tả. Cám lợn còn dính trong cái nồi phè ra be bét trên lưng áo lão.
Lão Cống bị dẫn vào trụ sở uỷ ban xã. Đang buổi trưa nên trụ sở vắng người. Có người chạy đi tìm anh chủ tịch và trưởng công an xã. Nắng gắt. Đám người bắt trộm nháo nhác tản vào tránh nắng ở các gốc cây. Lão Cống đứng giữa sân, mồ hôi và nước mắt của lão chảy dài nhem nhuốc trên má.
Có tiếng xe máy rú ngoài cổng. Anh chủ tịch xã lướt xe vào sân. Vẫn còn ngồi trên yên xe máy, anh chủ tịch đã cáu cẳn:
- Có chuyện gì mà náo loạn cả trụ sở ủy ban xã thế hả?
Mọi người nhao nhao nói. Mỗi người một câu. Anh chủ tịch đã hiểu hết mọi chuyện. Anh ta chỉ tay vào mặt lão Cống gằn giọng:
- Ông già rồi mà còn làm bậy, tiếp tay cho bọn trộm cắp!
Lão Cống cúi gằm mặt. Không nhìn anh chủ tịch nhưng lão chợt nhớ cái bận bố anh ta chết không ai dám đến gần vì sợ lây bệnh. Bởi vì trước khi chết mũi bố anh ta to ra và đỏ sần sùi như vỏ quả gấc chín. Dân làng nghi ngờ đó là biểu hiện của bệnh hủi. Ngày ấy quan niệm về bệnh hủi thật ghê gớm khiến ai cũng khiếp sợ. Chính lão Cống đã một tay tắm rửa, khâm liệm cho bố anh chủ tịch khi chẳng ai dám làm.
Anh chủ tịch gọi anh trưởng công an xã giục nhanh chóng lập biên bản xử phạt hành chính rồi cho lão Cống về ngay. Chiều nay xã có khách đặc biệt. Mặt mũi lão Cống thêm nhợt nhạt khi nghe anh công an đọc biên bản ghi khoản tiền phạt là hai trăm nghìn đồng. Lão hốt hoảng vì có bán cả nhà đi cũng chả nổi hai trăm nghìn đồng.
Lão Cống được tha về. Lão bước thập thõm ra khỏi trụ sở uỷ ban xã. Có tiếng ai đó nói vóng theo:
- Nể lão già cả không thì tù mục xương đấy!
Lão Cống đi như người mất hồn. Rồi lão cũng về đến được nhà. Lão chui vào căn nhà như tụp lều của mình rồi khép cánh cửa gỗ mọt lại. Lão ngồi thu lu trên cái chõng tre mãi vẫn chưa hết sợ. Chợt lão thấy đói. Cũng đã hơn một giờ chiều rồi. Chuyến xe ca duy nhất xuôi Hà Nội chạy qua chợ bấm còi toe toe gọi khách buôn chuyến. Lão Cống nhấc cái nồi cơm bị đám người khám nhà lật đổ nghiêng trên bếp. Cơm bị đổ gần hết xuống đống tro, trong nồi còn dính một ít. Lão thò tay vét nhúm cơm dính ở đáy nồi đưa lên miệng nhai trệu trạo. Cơm chưa kịp chín, hạt gạo còn lõi ăn như có bột sống trong miệng.
Có tiếng "cạch" ở cửa nách. Lão Cống giật mình ngoái lại. Thằng Giản lách người bước vào. Tay nó cầm gói mì tôm và mấy củ khoai lang. Nó bảo:
- Ông đừng ăn chỗ cơm sống ấy. Ông ăn tạm củ khoai rồi cháu đun nước pha cho bát mỳ tôm.
Thằng Giản là con một cô thanh niên xung phong bị nhiễm chất độc da cam. Bố mẹ nó mất, nó lang thang bới rác, rửa bát thuê ngoài chợ. Một tối lão Cống gặp nó sốt cao nằm mê man trong quán bán thịt lợn liền cõng nó về nhà tìm lá hạ sốt đắp cho nó. Từ đó nó ở với lão. Hai ông cháu sống dựa vào nhau, có gì ăn nấy, củ khoai, củ sắn xong bữa. Có lẽ đối với lão Cống và thằng Giản sướng nhất là thời kỳ có dịch cúm gia cầm. Những đàn vịt bán chẳng ai mua, tiền đền bù tiêu huỷ chẳng bõ nên người nuôi xua cả đàn ra bỏ ngoài cánh đồng. Đàn vịt bỏ hoang ngoài đồng thành nguồn thực phẩm dồi dào của lão Cống và thằng Giản. Thằng Giản chỉ cần nhoáng một cái đã chộp vặn cổ hai con vịt xách về nhà. Ngày nào hai ông cháu cũng chén thịt vịt. Ăn đến chán thì thôi. Lão Cống còn làm cả ruốc thịt vịt để tích chữ ăn dần nữa.
Thằng Giản ở với lão Cống khoảng hơn hai năm thì được xã đưa lên nuôi dưỡng ở trại trẻ mồ côi của tỉnh vì nó là con cựu thanh niên xung phong. Thằng Giản ở trường được ăn uống no đủ, lại được đi học chữ, học nghề nữa. Nó sáng sủa bảnh bao khác hẳn những ngày ở với lão Cống. Tuy thế nó vẫn không quên lão Cống, người đã cưu mang nó lúc hoạn nạn. Hôm nào được nghỉ học là nó bắt xe khách về thăm lão. Hôm nay nó vừa về đến gần nhà thì lão Cống xảy ra chuyện. Nó lặng lẽ đi theo đám người dẫn lão Cống lên trụ sở uỷ ban xã. Khi lão Cống được tha nó liền nhao về trước chạy ra chợ tìm cái gì cho lão ăn. Nó mua được mấy củ khoai luộc và gói mỳ tôm.
Lão Cống đang ăn khoai thì lại có tiếng xe máy và cả tiếng ô tô dừng ngoài cửa nhà. Thằng Giản mở cửa rồi lùi lại, giọng có vẻ hốt hoảng:
- Công an xã lại đến ông ạ!
Lão Cống há hốc mồm ra vì sợ. Mồm lão còn ngậm đầy khoai lang lẫn cả vỏ. Đói quá, lão không kịp bóc vỏ khoai. Anh chủ tịch xã bước vào nhìn quanh rồi quay ra nói:
- Mời bà vào đây ạ!
Lúc này lão Cống và thằng Giản mới nhìn thấy một bà đang mở cửa chiếc xe du lịch bóng lộn bước xuống. Bà này mặc một bộ đầm, vẻ rất quý phái, sang trọng. Bà ta chui vào căn nhà ẩm thấp, tăm tối. Anh chủ tịch lấy tay phủi phủi cái chõng tre rồi trải tờ báo ra bảo bà khách:
- Mời bà ngồi ạ!
Lúc này bà khách mới nhìn rõ mọi thứ trong nhà. Bà chăm chú nhìn lão Cống. Lão Cống vẫn há to miệng. Mồm lão vẫn còn ngậm đầy khoai lang và vỏ. Bà khách kêu lên:
- Anh ơi! Sao anh khổ thế anh ơi!
Lão Cống ngơ ngác. Bà khách buông cái túi rồi túm lấy tay lão Cống nức lên:
- Anh không nhận ra em à... Em là Bích Ngân, con cụ chánh Tiên đây mà...
- Ơ... ơ...
Lão Cống lờ mờ nhớ ra một điều gì đó trong quá khứ sâu thẳm của cuộc đời mình. Lão cố nuối miếng khoai trong miệng rồi nhìn kỹ bà khách lạ. "Đúng là bà... là cô ấy rồi" - Lão nghĩ.
Hơn năm mươi năm trước lão làm thuê cho nhà ông chánh Tiên. Cô con út của ông chánh hồi ấy mới mười sáu tuổi. Một lần cô bé leo lên cành ổi chìa ra ao hái quả chẳng may té ngã xuống nước. Lúc ấy lão đang rửa cày bên kia bờ nhìn thấy vội lao xuống bơi sang cứu. Sau lần bị uống căng bụng nước ao suýt chết, cô út nhà ông chánh có cảm tình và hay quan tâm đến lão khi ấy cũng là một thanh niên khá đẹp trai. Nhưng lão Cống hiểu rõ thân phận mình chả dám chòi cao. Lão luôn coi cô út nhà ông chánh là cô chủ nhỏ. Năm 1954, cô út Bích Ngân theo gia đình di cư vào Nam rồi qua Pháp. Bây giờ thì cô đã là một bà chủ lớn. Về thăm quê bà xin hiến tặng xã một trạm y tế với những trang thiết bị hiện đại trị giá cả tỷ đồng. Bà hỏi thăm về một anh tá điền tên là Cống. Anh chủ tịch xã đưa bà đến thăm lão.
Bà Bích Ngân đi rồi, lão Cống vẫn còn ngơ ngác. Bát mỳ tôm thằng Giản pha cho trương phềnh trên chõng. Lão không ngờ lại có một cuộc hội ngộ sau quá nhiều năm như vậy.
*
Chiều tối lại thấy anh chủ tịch xã phóng xe máy đến nhà lão Cống. Lần này thái độ của anh ta khác hẳn. Anh ta chào lão Cống thật lễ phép. Anh ta mời lão ngồi lên chõng để cùng bàn công việc. Lão Cống ngạc nhiên nhưng cũng ngồi xuống mép chõng. Anh chủ tịch đặt một cái gói giữa chõng rồi nói:
- Đây là bộ quần áo bà Bích Ngân gửi biếu ông... - Anh ta rút từ trong túi ra tờ giấy bạc hai trăm nghìn đưa cho lão Cống và nói thêm: - Bà ấy còn để lại ít tiền dặn chúng cháu hàng tháng trích đưa ông hai trăm nghìn chi tiêu.
Lão Cống không cầm tiền. Anh chủ tịch đặt tờ hai trăm nghìn đồng trên gói quần áo. Lão Cống nhìn tờ giấy bạc. Như chợt nhớ ra, lão cầm cả hai tay tờ hai trăm nghìn đồng đưa cho anh chủ tịch:
- Tôi... tôi... xin nộp phạt hành chính cho xã...
Anh chủ tịch xã vội xua tay:
- Xin ông bỏ qua cho chúng cháu chuyện trưa nay! Ông không phải nộp phạt gì nữa đâu, xã đã huỷ bỏ tờ biên bản ấy rồi ông ạ!
Đoạn anh mở cặp lấy ra mấy tờ giấy rồi nói tiếp:
- Ông ạ! Bà Bích Ngân sau nhiều năm trở lại quê hương đã quyết định đầu tư cho xã ta xây dựng một trạm y tế với nhiều trang thiết bị hiện đại...
- Thế thì quý hóa quá!
- Vâng! Đúng thế ông ạ. Nhưng bà ấy yêu cầu xã phải xây cho ông một căn nhà trị giá hai mươi triệu đồng thì bà ấy mới chuyển tiền về đầu tư xây trạm y tế...
Lão Cống vội xua tay:
- Không cần đâu, nếu bà ấy cho tiền thì xã cứ dành cả mà xây trạm y tế...
- Không được ông ơi! Bà ấy nói nếu không xây nhà cho ông thì bà ấy cũng không đầu tư cho xã ta.
Lão Cống im lặng. Anh chủ tịch xã lấy cây bút trong cặp ra:
- Bây giờ xin ông ký vào bản hợp đồng này để xã chuyển cho bà ấy, để bà ấy yên tâm đầu tư cho xã.
- Sao tôi lại phải ký?
- Bà ấy nói có chữ ký của ông là sẽ nhận nhà của xã xây cho thì mới chuyển tiền về quê ạ!
Lão Cống cầm cây bút. Chợt nảy ra một ý nghĩ, lão hỏi lại:
- Xã sẽ xây nhà cho tôi thật chứ?
- Vâng đúng thế ạ!
- Nếu thế thì tôi xin có một yêu cầu thế này!
- Vâng, xin ông cứ nói!
- Tôi đề nghị xã cấp cho tôi một miếng đất để xây nhà chứ không xây ở chỗ này vì gần chợ lại nằm trong quy hoạch giải toả mở đường nay mai.
- Vâng ông muốn xin đất làm nhà ở khu nào ạ?
- Tôi xin xã cấp cho tôi mảnh đất chỗ hố bom đầu làng Thượng. Đề nghị xã san lấp và xây cho tôi căn nhà mới ở đấy.
Anh chủ tịch xã nuốt ực một cái và nghĩ: "Lão già này cứ tưởng là khù khờ mà khôn ranh đáo để. Chỗ hố bom ấy xã đã định khi san ủi làm trạm y tế sẽ cho đổ đất thừa ra lấp xây các ki-ốt cho thuê bán hàng, làm quán cà phê... Thế mà...". Anh chủ tịch ngần ngừ:
- Hay là xã cấp cho ông một miếng đất trong khu xóm Trại, vừa rộng lại vừa yên tĩnh...
- Thế thì thôi vậy... tôi không làm nhà nữa!
Anh chủ tịch lại nuốt ực một cái. Cái yết hầu của anh ta nhô ra như có cái gì đang bị vướng trong cổ họng. Anh thấy khó chịu. Nhưng nhớ đến số tiền cả tỷ đồng mà bà Bích Ngân hứa sẽ đầu tư, anh ta đành chịu lui:
- Thôi thế cũng được ông ạ! Bây giờ ông ký vào giấy này để xã chuyển cho bà Bích Ngân.
Lão Cống phủi quần đứng dậy nói:
- Bao giờ xã cấp sổ đỏ và san lấp xong cái hố bom, giác móng làm nhà cho tôi thì tôi mới ký!
Anh chủ tịch xã cố năn nỉ nhưng không làm lão Cống lay chuyển. Anh chủ tịch đành đứng dậy ra về. Vừa phóng xe đi, anh ta vừa nguyền rủa: "Đúng là một lão già chết tiệt...".
*
Căn nhà của lão Cống ở đầu làng Thượng xây xong trước khi trạm y tế xã hoàn tất. Theo kế hoạch, bà Bích Ngân sẽ về nước đem theo một số trang thiết bị khám chữa bệnh và thuốc men cho trạm y tế và dự lễ cắt băng khánh thành.
Băng cờ khẩu hiệu đỏ rực con đường từ trụ sở uỷ ban xã đến trạm y tế. Các cấp, các ngành đã tề tựu đầy đủ. Chiếc xe chở bà Bích Ngân và con gái út từ từ dừng lại. Bà Bích Ngân dẫn con gái út theo anh chủ tịch đi về phía nhà lão Cống. Lần này bà về nước đem theo cả cô con gái út vì nó giống hệt bà thời còn trẻ. Bà muốn để lão Cống thấy lại hình ảnh của mình ngày nào.
Từ xa nhìn ngôi nhà mới xây của lão Cống ngay đầu làng quét ve hồng trông thật đẹp. Quả là một địa thế đắc địa. Bà Bích Ngân rất hài lòng. Cô con gái giơ máy ảnh bấm tanh tách. Bà Bích Ngân thấy vui vẻ. Bà bàn với anh chủ tịch kế hoạch đầu tư thêm để mở rộng con đường trung tâm xã.
Đến gần ngôi nhà lão Cống bà Bích Ngân rất ngạc nhiên. Không thấy lão Cống ra đón như bà nghĩ. Từ trong nhà một lũ trẻ con mặc quần áo mới ùa ra líu lo chào khách. Bà Bích Ngân bước vào nhà nhìn quanh. Trên tường nhà dán đầy nhưng hình chim, thú. Bà quay sang nhìn anh chủ tịch như muốn hỏi. Lúc này anh chủ tịch mới rút ra một phong bì dày đưa cho bà. Bà Bích Ngân mở ra xem. Có là một cuốn sổ đỏ ghi quyền sở hữu nhà đất của lão Cống, một tấm ảnh chụp lão đang đứng giữa đám trẻ con lớp mẫu giáo và một mảnh giấy ghi dòng chữ: "Tôi tên là Nguyễn Văn Cống, tôi xin hiến tặng toàn bộ căn nhà và khu đất này làm lớp mẫu giáo cho làng Thượng. Ký tên...". Bà Bích Ngân thảng thốt hỏi:
- Thế ông ấy vẫn ở căn nhà cũ à?
Anh chủ tịch đáp:
- Ông ấy đi rồi bà ạ!
- Đi đâu?
- Chúng cháu cũng không rõ! Nghe nói thằng bé vẫn ở với ông ấy đã học được nghề và xin được việc làm ở một tỉnh phía Nam về đón ông ấy đi rồi...
Bà Bích Ngân thấy hơi hẫng hụt. Bà cầm cái ảnh lên xem và chợt nhận ra trong ảnh lão Cống mặc bộ quần áo lụa bà tặng lần trước về nước.
Làng Cả lên đời
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Làng Cả đột nhiên vui như hội. Dân làng nô nức. Nhìn ai cũng thấy nụ cười thường trực trên môi. Họ vừa được biết là sẽ có một dự án công nghiệp rất lớn sẽ mở ra ở đây. Cánh đồng làng Cả rộng thẳng cánh cò bay hai vụ lúa chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành một khu công nghiệp, khu chế xuất lớn nhất tỉnh. Ông Nháo trưởng thôn hể hả thông báo tại buổi họp toàn thôn:
- Theo như các nhà đầu tư đã cam kết thì tất cả những người còn độ tuổi lao động của làng Cả sẽ đều được bố trí công ăn, việc làm trong khu công nghiệp, khu chế xuất.
Bà Chòe tai nghễnh ngãng, nghe tiếng được, tiếng mất. Bà lo lắng hỏi:
- Dư... mà như tôi một chữ bẻ đôi chả biết, lại hơn bảy chục tuổi rồi vẫn phải lao động, sống nhờ vào hơn sào lúa, mất ruộng thì làm được việc gì trong cái "khu cay nghiệt, khu chết tất" ấy?
Mọi người cười ồ lên. Ông trưởng thôn vội chữa lại:
- Khu công nghiệp, khu chế xuất! Không phải là "khu cay nghiệt, khu chết tất"... - Ông khoát tay: - Bà sẽ được biên chế vào bộ phận vệ sinh môi trường chuyên cắt cỏ, chăm sóc vườn hoa, cây cảnh.
Bà Chòe có vẻ yên tâm ngồi xuống. Đến lượt lão Cốc đứng dậy thắc mắc:
- Tôi cả đời chỉ biết mỗi nghề... đánh dậm! Bây giờ mất ruộng, không còn chỗ kiếm con tôm, con cua, vào khu công nghiệp thì biết làm việc gì để sống?
Ông trưởng thôn lúng túng:
- Đánh dậm thì... giống ngành công nghiệp gì nhỉ... À...à, phải rồi, nghề đánh dậm rất giống công việc đãi quặng. Vào khu công nghiệp ông sẽ ở bộ phận chuyên đãi quặng, luyện kim...
Mụ Lường mở quán nước ở gốc đa đầu làng. Mụ chuyên ghi số đề và bán thơ đề cho cả làng và các làng bên cạnh đứng dậy xin phát biểu ý kiến. Mụ gãi đầu, gãi tai ấp úng:
- Nghề của em thì bác đã biết rồi! Tới đây vào khu công nghiệp thì em biết làm gì ạ?
- Thì... thì... đúng rồi, mụ sẽ vào bộ phận makétting, chuyên dự báo tình hình sản xuất, dự báo giá cả, thị trường. Nhiều lần thơ số đề của mụ dự đoán số đầu, số đít cũng đúng đáo để còn gì!
Mọi người lại cười ồ lên. Nhiều cánh tay nhao nhao giơ cao xin phát biểu, nêu ý kiến thắc mắc. Ý kiến, thắc mắc nào của bà con cũng đều được ông trưởng thôn giải đáp thỏa đáng cả. Ai làm nghề gì ông cũng nghĩ ra một việc tương tự trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Mọi người đều thấy thỏa mãn, hể hả. Cũng chính nhờ vậy mà khi có quyết định thu hồi ruộng, cả làng đều vui vẻ nhận tiền đền bù, giao đất cho ban dự án đúng thời gian quy định. Cũng nhờ số tiền đền bù đất rất cao mà cả làng tự dưng giàu sụ lên. Nhà nhà mua sắm xe máy đắt tiền, xây nhà cao tầng nguy nga hoành tráng. Làng Cả bây giờ giống như một góc phố Hà Nội. Mà Hà Nội có chỗ cũng chả bằng. Vì làng Cả đất thổ cư rộng, nhiều nhà xây như những biệt thự giữa vườn cây xanh trông rất đẹp. Làng Cả lên đời thật rồi!
Trong khi đó thì việc san lấp cánh đồng, xây lắp các tổ hợp công nghệ trong khu công nghiệp, khu chế xuất cũng được các chủ dự án tiến hành rất nhanh. Cánh đồng rộng mênh mông ngày nào bây giờ đã lô nhô những nhà máy mới mọc lên. Người làng Cả ngàn đời chân đất, mắt toét đột nhiên cũng thấy mình sang trọng hẳn lên. Họ luôn tự hào về khu công nghiệp quê mình...
Đúng như đã cam kết, đại diện chủ dự án tổ chức điều tra lao động trong làng để bố trí cho họ vào làm việc tại khu công nghiệp, khu chế xuất. Ai cũng háo hức mong chờ. Bởi chỉ nay mai thôi họ sẽ cởi bỏ bộ áo nâu quê mùa để mặc bộ quần áo xanh, áo trắng của người công nhân của thế kỷ 21.
*
Buổi họp giữa đại diện khu công nghiệp, khu chế xuất với bà con làng Cả được tổ chức không lâu sau cuộc họp do ông trưởng thôn chủ trì bàn việc giao đất hôm nào. Ông đại diện dự án cầm một bản danh sách dài dằng dặc bắt đầu đọc tên những người được nhận vào làm việc tại khu công nghiệp, khu chế xuất. Ông ta xướng to:
- Các ông bà Mai Thị Chòe, Trần Công Cốc, Lâm Quang Củ, Đào Văn Sắn, Nguyễn Thị Khoai, Vũ Trọng Ngô, Lê Thị Mía... tuổi đã trên bảy mươi sẽ vào làm việc tại khu vực sản xuất số 1, lương 1000 đô-la một tháng. Sau một năm sẽ tăng lên 1500 đô-la một tháng...
Mọi người ào lên nhốn nháo hỏi nhau:
- 1000 đô quy đổi ra tiền Việt bằng bao nhiêu nhỉ?
- Theo tỷ giá bây giờ là gần 18 triệu đồng...
- Ôi trời ơi...
Có nhiều tiếng rú lên mừng rỡ. Ông đại diện dự án đọc tiếp:
- Các ông bà Hoàng Trung Nháo, Hoàng Trung Nhác, Chu Văn Núi, Nguyễn Bờ Sông, Phạm Thị Ao, Hà Quang Ruộng, Đồng Tiến Chuôm... tuổi dưới bảy mươi sẽ làm việc ở khu vực sản xuất số 2, lương khởi điểm là... 1500 đô-la một tháng. Sau một năm sẽ nâng lên 2000 đô-la.
- Ôi...ôi... - Trưởng thôn Hoàng Trung Nháo giơ cả hai tay lên trời sau khi đã lẩm nhẩm quy đổi 1500 đô-la ra tiền Việt. Cuộc họp ồn ào như chợ vỡ. Ai cũng mừng vì sẽ có tiền lương cao ngất sau khi vào làm trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Bà Chòe thấy lo lắng quá. Nhà cửa còn tuềnh toàng, khi lĩnh lương hơn chục triệu đồng về bà biết cất vào đâu cho an toàn bây giờ. Bà đứng dậy rụt rè nói:
- Báo cáo bác đại tiện khu công... công...
Một người giật giật tay bà khẽ nhắc: "Đấy là ông đại diện chứ không phải là "ông đại tiện"! Mà ông ấy ở khu công nghiệp chứ không phải ở "khu công công" của thái giám đâu bà ơi!".
Ông đại diện đề nghị mọi người yên lặng và mời bà Chòe phát biểu ý kiến. Bà Chòe thấy tự tin, mạnh dạn hơn. Bà hỏi:
- Tôi xin được hỏi ở khu sản xuất số 1, chúng tôi sẽ làm công việc gì ạ?
- À! Cụ thể thế này! - Ông đại diện khu công nghiệp giải thích: - Ở khu vực sản xuất số 1, công việc của các bác là điều hành hệ thống máy vi tính lập trình các phần mềm, hoặc sử dụng máy móc công nghệ cao sản xuất các loại vi mạch và con chíp điện tử...
Bà Chòe giẫy nảy lên hốt hoảng:
- Chết... chết! Sao mà chúng tôi làm được các công việc ấy?
- Không sao! Chúng tôi sẽ tổ chức các lớp học cấp tốc để đào tạo tay nghề và ngoại ngữ cho các vị đáp ứng yêu cầu cao ở các khu vực sản xuất trong khu chế xuất...
Mấy người nữa nhao nhao lên hỏi:
- Thế còn ở khu vực sản xuất số 2?
- Khu vực này đòi hỏi trình độ cao hơn... - Ông đại diện ngừng lời đưa mắt nhìn mọi người một lượt rồi nói tiếp: - Đây là khu vực chuyên vận hành các lò phản ứng hạt nhân nguyên tử, các máy phóng xạ, máy gia tốc cao...
Mọi người sững sờ trố mắt, há hốc miệng kinh hãi. Ông đại diện vẫn tỉnh như không nói tiếp:
- Bây giờ đề nghị mọi người ký vào bản hợp đồng lao động!
Dân làng Cả nhìn nhau. Chả ai dám cầm bút ký vào bản hợp đồng lao động. Họ sợ nếu không đảm nhiệm được những công việc như ông đại diện nói sẽ bị phạt vì vi phạm hợp đồng lao động. Ông đại diện khu công nghiệp, khu chế xuất sau khi mời mãi chẳng ai chịu ký hợp đồng lao động liền ôn tồn bảo:
- Đấy nhé! Chúng tôi đã làm đúng cam kết, tạo điều kiện sắp xếp công việc cho tất cả mọi người sau khi giao ruộng đất cho ban dự án. Việc mọi người không chịu ký hợp đồng lao động là lỗi tại bà con chứ không phải tại chúng tôi.
Nói xong ông ta thu tất cả các bản cam kết hợp đồng lao động nhét vào cặp và chào mọi người ra về. Cuộc họp cũng giải tán.
*
Một buổi sáng cuối năm. Mụ Lường vừa mở cửa quán thì gặp ông trưởng thôn Hoàng Trung Nháo và một tốp trung niên, thanh niên đang dắt xe đạp thồ ra khỏi cổng làng. Mụ đon đả hỏi:
- Trưởng thôn và mọi người đi đâu đấy ạ?
- Thì... còn đi đâu được nữa! Mất mẹ nó hết ruộng rồi, vào làm ở trong khu công nghiệp, khu chế xuất thì không có trình độ, chẳng có tay nghề. Chúng tôi lên Hà Nội làm cửu vạn, làm thuê kiếm tiền đây!
- Thế ạ! - Mụ Lường cười tít mắt: - Hi... hi... hi... ơn trời, riêng nhà em thì lại may quá bác ạ. Cái "nghề" số đề của em không ngờ từ khi có khu công nghiệp, khu chế xuất lại ăn nên, làm ra hơn. Đám công nhân nhiều tiền thoải mái ghi đề, tiền đặt cũng lớn, không đánh cò con như các bác làng ta đâu!
Ông trưởng thôn giơ tay cảnh cáo mụ Lường:
- Mụ liệu hồn đấy! Tôi mới nghe công an xóm báo cáo là quán của mụ vừa mới có thêm cái khoản cà phê vườn, bia ôm phải không?
- Dạ! Thì em cũng chỉ... phục vụ tận tình nhu cầu của anh em công nhân trong khu công nghiệp thôi ạ!
- Mụ cẩn thận đấy! Đừng có rước tệ nạn về làng là không xong với tôi đâu!
Mụ Lường hơi lùi lại. Chờ ông trưởng thôn và đám người làm thuê đạp xe đi được một đoạn mụ mới dám nói với theo:
- Các bác cứ lên Hà Nội làm thuê kiếm nhiều tiền về đây em xin phục vụ thật chu đáo! Cây nhà lá vườn vừa rẻ, vừa an toàn hơn các bác ạ!
Chuyến xe lên biên giới
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Tôi vốn là một chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong những năm chống Mỹ. Sau ngày miền Nam giải phóng, tôi được chuyển ngành về công ty vận tải của tỉnh. Tình hình biên giới đang căng thẳng. Đoàn xe vận tải của công ty được lệnh chuẩn bị chi viện cho tuyến trước.
Một hôm, công ty chúng tôi nhận nhiệm vụ vận chuyển một số hàng quốc phòng lên tuyến trước. Tôi được giao lái xe chở xi măng cho một đơn vị quân đội. Lại lái xe ra mặt trận, nhưng lần này không có pháo sáng, không có B52 ném bom rải thảm chặn đường nên tôi chẳng có gì phải lo lắng cả. Nói cho đúng hơn, tôi cũng lo. Song, cái lo của tôi là lo kết hợp "làm ăn" trong chuyến đi lên vùng cao lần này.
Nhận xong 4 tấn xi măng, tôi lái xe ra đường. Ngồi bên cạnh tôi lúc này là một chiến sĩ đeo quân hàm binh nhất còn trẻ măng, làm nhiệm vụ áp tải hàng. Câu ta tên là Thứ, mới nhập ngũ được sáu bảy tháng. Có lẽ, Thứ chỉ bằng tuổi em út tôi là cùng.
Đến thị xã Bắc Cạn, tôi bảo Thứ:
- Ta sẽ nghỉ ngơi ăn uống tại đây. Cậu muốn mua bán gì thì mua!
Thứ cười rồi lấy từ trong ba lô ra một nắm cơm bảo tôi:
- Mời anh ăn cơm!
Tôi nhìn nắm cơm lắc đầu:
- Ăn làm quái gì thứ này cho lạnh bụng! Ta cùng vào quán làm một chầu cho đã cậu ạ!
- Em làm gì có tiền hả anh? Có ít tiền em mua hạt rau giống cả rồi!
Tôi nháy mắt bảo Thứ:
- Tiền trong tay cậu hàng ngàn, hàng vạn đấy, muốn tiêu bao nhiêu chả được...
Thấy Thứ chưa hiểu, tôi hạ giọng thì thào:
- Này! Chỉ cần hắt vài bao xi măng xuống bán là thừa tiền vào quán. Về đến đơn vị bảo rơi vãi dọc đường, ai biết. Nếu cần, tớ chứng nhận cho ...
Thứ tròn mắt nhìn tôi rồi nói:
- Ấy, sao lại làm thế hả anh! Xi măng để xây dựng công sự chiến đấu, hầm trú ẩn quý lắm đấy. Trên ấy, còn nhiều hầm hào phải đắp bằng đất, làm bằng gỗ anh ạ.
Nghe Thứ nói, tôi nghĩ bụng: "Chà, cậu này thật thà quá, miếng ăn kề đến miệng mà không biết!". Tôi rủ Thứ vào quán Thứ không đi. Mặc Thứ với nắm cơm khô cứng và gói muối vừng tôi phóng vào chợ. Sau khi ăn uống no say, tôi rút ví đưa trả bà chủ quán ba tờ giấy bạc 20 đồng. Quay ra tôi thấy Thứ đang lúi húi trên thùng xe. Tôi gọi:
- Thế nào! Bắt đầu xuất kích được chưa?
Thứ nói vẻ lo lắng:
- Cái bạt che rách miếng to quá anh ạ. Trời lại muốn mưa, xi măng ướt mất.
Tôi càu nhàu:
- Kệ nó, đi thôi! - Mặc tôi giục. Thứ cố kéo lại tấm vải bạt, kiểm tra dây chằng cẩn thận rồi mới nhảy xuống chui vào buồng lái. Tôi rồ máy, phóng xe ra khỏi thị xã. Tới chân đèo Giàng, tôi cho xe đi chậm lại. Bên đường, hơn chục người, phần lớn là các bà buôn, quang gánh cồng kềnh đang giơ nón vẫy vẫy. Tôi dừng xe thò cổ ra hỏi:
- Đi Cao Bằng hả? Mỗi người "ba chịch"... lên đi!
Những người đi buôn vội bám vào thành xe leo lên. Thứ vội hỏi tôi:
- Anh cho họ đi nhờ hả?
Tôi gật đầu:
- Ờ... ờ... thì cho họ đi, kiếm ít, dọc đường mua thuốc hút cậu ạ!
- Không được anh ạ! - Thứ nói vẻ kiên quyết: - Họ ngồi lên đạp rách hết vỏ bao, hỏng xi măng mất. Anh bảo họ xuống ngay đi.
Nghe Thứ nói, tôi thấy nóng mặt. Hừ! Nói dễ nghe nhỉ, cứ làm như xe của mình không bằng. Tôi hất hàm:
- Xe của tôi, cho ai đi là quyền của tôi. Cậu là cái quái gì mà...
Thứ cắt lời tôi vẻ gay gắt:
- Nhưng xe đang làm nhiệm vụ chở hàng quân sự, anh không được làm thế.
- A! Gớm nhỉ! Cậu là cấp trên của tôi đấy hả?
Tôi quắc mắt nhìn Thứ. Thứ cũng nhìn tôi với ánh mắt như vậy, khiến tôi lúng túng phải quay đi. Thứ mở cửa nhảy xuống đường. Số người đi Cao Bằng đã lên hết trên thùng xe đang tranh nhau chỗ ngồi. Thứ nói:
- Đây là xe chở hàng quân sự, không chở người! Yêu cầu bà con xuống ngay!
Thấy mọi người chùng chình. Thứ nói tiếp:
- Nếu không! Tôi sẽ đưa tất cả vào đồn công an...
Nghe Thứ nói vậy, những bà đi buôn tái mặt. Họ vội nhảy hết xuống xe. Chờ họ xuống hết, kiểm tra lại tấm bạt che, Thứ mới bảo tôi, giọng dịu đi:
- Ta đi thôi anh!
Tôi đóng sầm cánh cửa ca bin rồi cho xe rú ga vọt đi, trong lòng đầy bực tức. Có lẽ trong đời lái xe đầy là lần đầu tiên tôi phải hành động theo ý của người đi cùng. "Được rồi, đã thế thì biết tay nhau, tôi chưa chịu đâu!" - Tôi nghĩ. Từ đó trở đi, chúng tôi không nói chuyện với nhau nữa. Thứ ngồi cạnh tôi, mắt nhìn thẳng ra con đường trước mặt. Chắc cậu ta ghét tôi lắm. Tới thị xã Cao Bằng, mặc Thứ coi xe, tôi đi ăn uống, hơn một tiếng sau mới ra. Chẳng nói chẳng rằng, tôi nhảy lên xe mở máy. Qua khỏi thị xã, tôi đỗ xịch xe lại nói:
- Xe hỏng máy rồi!
Thứ vội nhảy xuống theo dõi tôi chữa xe. Tôi mở nắp máy lên vờ xoay xoay, vặn vặn. Thứ cũng trèo lên ngó vào nhưng chắc là cậu ta chẳng biết quái gì về máy móc cả. Thứ bảo tôi:
- Cố gắng chữa càng nhanh càng tốt anh ạ! Trời sắp mưa rồi.
- Hỏng hệ thống điện rồi! - Tôi nói.
Thứ càng lo lắng, hết nhìn trời lại nhìn tôi chữa xe. Tôi đắc ý nhìn Thứ. Nhưng cuối cùng, sau gần giờ đồng hồ, tôi cũng "chữa" được máy. Không phải vì tôi nhượng bộ Thứ mà tôi cũng muốn giao hàng cho xong trong hôm nay, thoát khỏi cậu binh nhất ẩm ương này để quay về làm một chuyến bù lại lượt lên. Trời gần tối, mưa lất phất, gió lành lạnh. Thứ không ngồi ở buồng lái nữa mà đeo súng trèo lên trên thùng. Chắc cậu ta sợ trời tối có kẻ nào nhảy lên ném xi măng xuống đường. Được! Muốn rét thì cứ việc...
Con đường ngược biên giới rút ngắn dần. Đang cho xe chạy bon bon, bụng tôi bỗng đau quặn lên. Tôi giảm tốc độ, một tay cầm lái, một tay ôm chặt bụng. Tưởng cơn đau sẽ qua đi ngay. Nhưng không, xe càng chạy bụng tôi càng đau dữ dội hơn. Mồi hôi vã ra, không thể lái được nữa, tôi đạp phanh cho xe sững lại. Thấy xe chạy ngoằn nghèo và dừng lại đột ngột, Thứ từ trên thùng xe vội nhảy xuống. Thấy tôi ôm bụng quằn quại trong buồng lái, Thứ vội đỡ tôi nằm xuống ghế, cuống quýt tìm lọ dầu xoa cho tôi. Cơn đau càng tăng, tôi biết đó là hậu quả của nem chua ăn lúc trưa ở thị xã gây nên. Thấy tôi không đỡ, Thứ vội nhảy xuống xe rọi đèn pin ra xung quanh tìm nhà dân. Xung quanh toàn là rừng núi. Nhưng Thứ bỗng chạy ngược lên vạt nương ngô cạnh đường. Thứ đã phát hiện ở đó có cái chòi canh ngô. Lát sau, Thứ cùng một ông già chạy xuống. Ông già tay cầm khẩu kíp, vẻ mặt chất phác. Thứ nói với ông:
- Cháu nhờ ông coi xe giúp để đưa anh lái xe vào trạm xá ông ạ!
- Ờ... ờ... nhanh lên cháu ạ! Đau nhiều nguy hiểm lắm đấy.
Ông già nói rồi chỉ đường cho Thứ đến trạm xá xã. Thứ vội ghé vai cõng tôi đi. Đau quá, không còn cách nào khác, tôi đành nén đau ôm lấy cổ Thứ. Thứ chập choạng cõng tôi đi trong gió rét. Người Thứ ướt đẫm nước mưa. Thì ra lúc ở trên thùng xe, Thứ đã giành miếng vải nhựa của mình che chỗ bạt phủ xi măng bị rách. Trong cơn đau tôi bỗng thấy hối hận. Tôi đã làm nhiều điều để Thứ vất vả quá. Giờ đây, Thứ lại đang cuống lên lo cho tôi. Người Thứ nhỏ bé mà phải cõng tôi nặng gần gấp rưỡi. Lúc qua suối, Thứ phải cố gắng lắm mới khỏi bị trượt ngã. Tới trạm xá xã, tôi được cấp cứu, tiêm thuốc, tẩy ruột. Tôi đã bớt đau. Thứ nhờ chị y tá chăm sóc tôi rồi quay lại chỗ xe đỗ để bảo vệ hàng.
Sáng hôm sau, tôi vừa tỉnh dậy thì thấy Thứ đeo súng đứng cạnh giường. Đôi mắt Thứ quầng thâm. Thứ bảo tôi:
- Anh cứ yên tâm nghỉ cho đỡ mệt. Em đã nhờ dân quân địa phương canh gác xe và hàng cho rồi. Bây giờ, em đi bộ lên đơn vị báo cho các chỉ huy cử người xuống lái xe hoặc dỡ hàng xuống chuyển bộ lên anh ạ! Tôi sửng sốt hỏi:
- Còn gần 40 cây số, cậu đi thế nào được?
- Em đi đến chập tối là tới nơi thôi!
- Không! Chờ mình với...
Tôi nói và nhỏm dậy. Tuy còn mệt nhưng đã hết đau. Tôi không thể để Thứ đi bộ một mình. Tôi sẽ lái được xe. Bất chấp Thứ và cô y tá can ngăn, tôi kiên quyết đi. Thứ dìu tôi ra xe. Tuy còn mệt, tôi vẫn lái được xe đến nơi giao hàng. Cả đơn vị đang chờ Thứ về. Các chiến sĩ trẻ ùa ra vây quanh tôi và Thứ bắt tay, hỏi chuyện hậu phương. Cười, nói, rồi họ tranh nhau gói thuốc lá cuộn của Thứ đưa cho. Đại đội trưởng thì nâng niu gói hạt rau giống Thứ đem về. Thứ không quên gọi y tá đơn vị đến khám bệnh và cấp thêm thuốc cho tôi. Nhìn các chiến sĩ trẻ áo rách vá vai hăm hở vác xi măng lên đỉnh núi làm công sự, tội chợt ngẫm lại mình và cảm thấy ngượng ngùng. Thế đấy! Trước đây mình cũng là anh chiến sĩ lái xe trong quân đội nhưng từ khi rời đội ngũ đến nay tôi hình như không còn xứng đáng với quá khứ của mình nữa. Tôi đã sống lo vun vén cho cuộc sống riêng tư của mình mà quên mất có những người đồng đội vẫn gian lao nơi biên ải. Chuyến xe lên biên giới lần này không có pháo sáng, không có máy bay địch ném bom chặn đường, nhưng suýt nữa thì tôi đã gục ngã, Tôi thầm cảm ơn Thứ. Lúc tạm biệt, tôi xiết chặt tay Thứ, nói:
- Cậu bỏ qua cho mình những chuyện ở dọc đường nhé.
Thứ vội nói:
- Hì... có gì đâu mà anh phải bận tâm thế... - Thứ cười hiền lành: - À, anh chờ em một lát nhé.
Nói đoạn, Thứ lục túi cóc ba lô đưa cho tôi hai con chim nhỏ bằng gỗ được đẽo gọt rất đẹp và nói:
- Em nhờ anh đem về làm quà cho các cháu!
Tôi cảm động cầm món quà nhỏ của Thứ và đứng nhìn theo mãi cho đến khi cậu ta cùng đồng đội khuất hẳn trên con đường ngược lên điểm tựa.
Đá dựng
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Ông lão ngồi bên bếp lửa. Tay phải ông quặp chặt con dao quắm vuốt dài trên thanh tre đực già. Những cây chông nhọn sắc từ bàn tay ông lão sau khi hơ qua lửa cho cứng được xếp cẩn thận cạnh bếp.
Trời mới sang thu nhưng ở miền núi thường rét sớm. Sương mù tạt qua cửa sổ bay vào trong nhà lành lạnh. Ông lão chỉ mặc độc cái quần cộc nhuộm chàm, người ông đen bóng tựa cái cột nhà.
Ánh lửa bập bùng. Trên vách nứa in hình ông lão sù sì, gân guốc với cây chông trên tay nhọn hoắt, rung rung. Tiếng dao vuốt trên thanh tre sàn sạt. Trong đêm vắng, âm thanh ấy tạo nên những cảm giác nhòn nhọn, gai gai...
Dân bản Nà Lùng quen gọi ông lão là Đăm. Tên thật của ông không ai còn nhớ. Đăm - tiếng Tày có nghĩa là đen. Đã từ lâu rồi dân bản quen thấy ông quanh năm chỉ mặc độc một chiếc quần cộc chàm, đầu không mũ, không nón nên người ông đen nhẻm. Mùa đông lạnh giá, ông mới khoác thêm cái chăn sui rách lua tua. Ông đi cày thuê, đẵn gỗ thuê, kiếm từng bát gạo về nuôi vợ, nuôi con. Nhưng vợ ông chết từ khi thằng con độc nhất chưa đầy mười tuổi. Ông ở vậy nuôi con cho đến khi cách mạng thành công. Lớn lên, anh con trai ông theo du kích rồi vào bộ đội. Anh đi hết chiến dịch biên giới lại xuôi đồng bằng. Anh bị thương nặng, điều trị tận dưới xuôi. Mấy năm sau hoà bình, ông xuống tận nơi điều dưỡng đón con về. Ông lấy vợ cho anh. Được vài năm vết thương tái phát, anh mất khi đang là phó chủ nhiệm hợp tác xã. Ông phải khuyên giải mãi, cô con dâu mới chịu đi bước nữa. Đứa cháu gái ở với ông. Thế là bao nhiêu vụ ngô làm hạt trên nương, bao mùa lúa chín dưới đồng, ông lão vẫn cô độc nuôi con, nay lại nuôi cháu. Nhưng đời ông không còn phải cuốc mướn, cày thuê nữa. Ông đã có cơm ăn, áo mặc. Ông sống trọn lòng với dân, với bản. Ai dựng nhà mới, ông cũng vác rìu đến đẽo gỗ, chặt cây. Ai đau ốm, ông lên rừng tìm giúp cái lá thuốc...
Đó là câu chuyện tôi đã được nghe kể về ông khi đến bản Nà Lùng này.
Đêm đã về khuya. Tôi vẫn ngồi bên bếp lửa với ông lão để sửa lại mấy cái vòng nguỵ trang cho tiểu đội, ngày mai đơn vị bước vào huấn luyện chiến thuật. Toàn, Chung, Sấn - mấy đứa ở cùng nhà với tôi đều đã ngủ ngon. Đứa nào đó còn tóp tép miệng như trẻ con.
Chợt có tiếng kẹt cửa nhè nhẹ, tiếng chân bước nhón khẽ trên sàn nhà. Tôi quay lại nhận ra cô Hoa, cháu ông lão. Chắc cô vừa đi tuần tra về. Tôi biết cô từ chiều, khi chủ nhiệm Thèn giao cho cô và mấy người bạn nữa giúp bộ đội nhặt rau, nấu cơm khi đơn vị vừa hành quân đến bản. Hoa mới mười tám tuổi, là một cô gái xinh đẹp. Khẩu súng vẫn khoác trên vai, cô đến bên ông lão ngồi xuống. Hai ông cháu thì thào với nhau bằng tiếng dân tộc. Tôi không rõ cô gái nói gì, chỉ thấy ông lão ngước nhìn về phía mấy chiến sĩ đang nằm ngủ, rồi ông rút bớt củi trong bếp ra. Ánh lửa chập chờn yếu đi. Đêm càng về khuya, chỉ còn tiếng dao của ông lão vẫn miết dài trên thanh tre tạo nên những âm thanh nhòn nhọn, gai gai.
*
Tình hình biên giới ngày càng trở nên căng thẳng.
Kẻ thù sau bao ngày giấu mặt nay đã hiện nguyên hình. Nhân dân biên giới với sức mạnh ý chí của mình đang ngày đêm đương đầu với chúng nó. Cả bản Nà Lùng, cả xã Sóc Hà, cả huyện Hà Quảng trẻ già, gái trai kéo nhau đi rào biên giới. Từ mãi trên đỉnh núi cao người Mèo, người Dao, người Mán kéo nhau xuống đẵn cây, chặt nứa làm cọc. Từ Hoà An, Mỏ Sắt, người Tày, người Kinh cùng nhau lên đào hào, đắp luỹ chặn giặc. Những đoàn xe nối đuôi nhau chở chông từ Hà Bắc, Bắc Thái ngược lên. Những mũi chông tre, những bàn chông sắt chất cao. Hẳn rằng hậu phương đã bớt những cây tre dựng nhà, chống bão, bớt những thanh sắt làm lưỡi cày, lưỡi cuốc để vót thành chông, để rèn thành chông gửi lên biên giới. Và, chúng tôi, những người lính đã có mặt cùng nhân dân tuyến trước sẵn sàng chặn đứng kẻ thù giữ yên bờ cõi.
*
Từ trên nhà đại đội về, tôi rảo bước thật nhanh, trong bụng tức sôi lên về việc mấy tướng ở tiểu đội tôi vừa nghịch làm hỏng cái máy bơm nước của bản. Chúng nó đi tắm ở ngoài đập nước, thấy cái bơm chạy bằng sức đẩy của chính dòng chảy nên tò mò hỏi nhau:
- Máy bơm sao không thấy có máy nổ và dây cua-roa vẫn chạy được nhỉ?
- Đây là loại máy bơm theo kiểu động cơ vĩnh cửu! - Một thằng giải thích.
- Bịa! Làm quái gì có động cơ vĩnh cửu!
Thế là hai đứa cãi nhau một chập. Cãi nhau chán, hai đứa táy máy nghịch làm cái máy bơm nước bị tắc luôn. Ông chủ nhiệm và đại đội trưởng Vinh phải kỳ cạch cả buổi trưa mới chữa được cái máy bơm bị hỏng. Cũng may, hồi ở nhà anh Vinh là công nhân phụ trách trạm bơm của hợp tác xã nếu không thì... Càng nghĩ tôi càng bực.
Về đến gần nhà, tôi đã nghe thấy sàn nhà rung lên ầm ầm. Mấy thằng lại vật nhau. Thế này thì quá lắm, ở nhà dân mà chúng nó cứ làm như đóng quân ở giữa trời ấy! Tôi nhảy lên sàn nhà định quát: "Làm gì mà ầm ầm lên thế!". Nhưng tôi bỗng giật mình sững lại. Không phải mấy tướng trong tiểu đội vật nhau mà chính là ông lão Đăm cởi trần đang đứng giữa nhà đang múa mấy động tác võ thuật. Thằng Toàn, thằng Chung, thằng Sấn đang ngồi há miệng nhìn ông lão.
Ông lão tiếp tục ra những thế võ, đỡ, gạt uyển chuyển. Bắp tay, bắp chân ông nổi lên cuồn cuộn. Sàn nhà rung lên ầm ầm. Nhìn ông tôi chợt nghĩ ông như một cây gỗ nghiến già trải qua nhiều mưa gió nay không có bão táp nào vặn gãy được nữa. Thấy tôi vào, ông cười khà khà và dừng lại. Ông ngồi xuống bếp lửa vớ lấy chiếc điếu cày. Thằng Toàn nhanh chóng tìm đóm cho ông. Nó xoắn xuýt gạ ông dạy võ cho nó. Thằng Chung chế giễu:
- Mười sáu động tác võ thể dục còn chưa thuộc. Tập cứ như là múa rối còn muốn tập võ dân tộc cơ à?
Toàn cãi lại:
- Thế không tập võ đánh nhau hết đạn mày bỏ chạy tuốt hả?
- Chạy là thế nào, tao đánh đến cùng chứ!
- Mày đánh bằng gì! Lấy vỏ đạn ném chúng nó à?
- Nói chung bằng mọi thứ nhưng chắc chắn tao không bao giờ bỏ chay!
Mặc cho hai đứa cãi nhau về chuyện tập võ, tôi giúp ông lão tẽ ngô. Ông bắc cái chảo lên bếp. Những hạt ngô nếp nở bung ra như những bông hoa nhài trắng muốt. Giữa lúc đó cô Hoa từ đâu ào về, khẩu súng vẫn khoác trên vai. Hôm nay, trung đội dân quân của bản tổ chức bắn đạn thật. Cô kêu lên:
- A lúi! Chủ nhật mà các anh bộ đội không đi thị trấn chơi chợ à?
- Muốn đi lắm chứ nhưng bộ đội không biết hát lượn thì đi chợ không gọi được bạn thì buồn lắm.
Cô Hoa cười khúc khích rồi cất súng và ngồi xuống bên bếp lửa. Đôi mắt cô long lanh khi báo tin cho chúng tôi cô bắn đạt loại giỏi.
Buổi tối hôm đó, thằng Toàn kể lại cho tôi nghe câu chuyện nó mới nghe được: Cách đây gần một năm, vào một buổi sáng khi dân bản Nà Sác ở gần cửa khẩu thức dậy thì đã thấy cột mốc biên giới từ giữa cánh đồng bỗng nhiên lù lù chạy đến đứng ở ngay đầu bản. Bọn lấn chiếm lợi dụng đêm qua trời mưa gió đã rời cột mốc vào sâu đất ta hơn 300 mét. Dân bản nhìn nhau: "Nó định chiếm cả cánh đồng của ta à?". Người bản Nà Lùng chưa kịp ăn bữa sáng nghe tin cũng vội kéo nhau lên. Một toán dân binh đêm qua làm cái nhiệm vụ mở rộng bờ cõi vẫn còn lố nhố ở đó. Thấy dân ta kéo đến, chúng khua cao lá cờ của chúng ý muốn nói đây là lãnh thổ nước chúng. Một tên côn đồ có bộ mặt hung hãn đứng cạnh cột mốc gườm gườm nhìn mọi người. Mấy người dân bản Nà Sác xông vào định đào cột mốc lên đưa về chỗ cũ, nó xô ngã và giật xẻng cuốc trên tay họ vứt đi. Giữa lúc đó thì ông lão Đăm từ phía sau rẽ mọi người tiến lên.
Tên giặc nhìn ông lão chăm chú. Nó không hiểu một ông lão nhỏ bé, đen đúa thế kia sẽ làm gì được nó. Dẫu vậy cũng phải đề phòng, nó xuống tấn. Trong lúc dân hai bản đang lo lắng cho ông lão thì nghe "hự" một tiếng. Sau đó là tiếng người rú lên. Những người đứng phía sau xôn xao:
- Ông Đăm bị nó đánh chết rồi! - Một người nào đó thốt lên. Còn những người đứng phía trước thì ồ lên khoái chí. Tên giặc bị một cú đấm bất ngờ như trời giáng vào giữa mặt. Nó bật ngã ngửa. Máu mũi, máu miệng nó trào ra. Dân các bản hò reo vung cuốc xẻng lên. Những tên lấn chiếm hoảng hốt tháo chạy. Cái cột mốc biên giới được đưa về đúng vị trí cũ. Tên giặc bị ngất cũng được khênh đặt về phía bên kia cột mốc.
- Chỗ của nó phái giữ là ở đó! - Ông lão nói.
Kể đến đây, thằng Toàn bỗng lặng đi một lát rồi nó kết luận: "Người biên giới là phải như thế!".
Tôi nằm thao thức mãi với câu chuyện của Toàn kể lại. Đêm lành lạnh. Trăng nhô lên. Ánh trăng lọt qua khe liếp rơi trên sàn nhà những giọt sáng long lanh.
Buổi sáng một ngày tháng hai mùa xuân năm ấy. Trời còn rét lắm. Hoa đào còn chưa kịp nở.
Từng loạt pháo của giặc bắn sang rơi xuống bản làng biên giới của chúng ta. Phía bản Nà Lùng, những cột lửa dựng lên đỏ rực. Những tiếng nổ dội vào vách đá, âm truyền hú lên vang dài man rợ. Bản nhỏ ngập chìm trong lửa cháy. Chúng tôi ghìm súng, cắn môi đến bật máu. Hình ảnh những người dân biên cương thật thà chất phác, hết lòng thương yêu bộ đội đang quằn quại trong lửa đạn cứ hiện lên trong tâm trí tôi khi đứng trong chiến hào chờ lệnh nổ súng.
Tảng sáng, trận đánh bắt đầu. Điểm chốt của đơn vị tôi là một mỏm đồi xoải ra giữa cánh đồng, chặn ngang đường tiến quân của địch nên ngay từ đầu đã xảy ra những trận đánh ác liệt.
Đánh đến ngày thứ năm, Toàn bị gãy cánh tay phải, trung đội trưởng Ngọc, tiểu đội trưởng Đam hy sinh, nhưng chúng tôi vẫn kiên quyết giữ vững trận địa. Thằng Chung mấy hôm trước nằm cùng hầm với tôi còn thầm thì kể chuyện nó đi bộ đội phải giấu bố mẹ cái giấy gọi vào đại học như thế nào. Giờ đây nó đã vĩnh viễn nằm lại với mảnh đất nơi biên cương xa xôi này. Cái thằng chăm chỉ như con gái ấy. Mà khối cô còn phải thua nó về tài khâu vá, thêu thùa... Nghĩ vậy, tôi bất giác sờ tay lên vai áo. Miếng vá của nó bỗng nặng trĩu trên vai tôi. Trước lúc hy sinh, nó còn bật lên tiếng gọi: "Mẹ ơi!".
Chập tối, chúng tôi nhận được lệnh rút khỏi chốt sau khi đã bàn giao trận địa cho đơn vị bạn. Anh Vinh đón chúng tôi ở khu vực trường cấp 2. Chúng tôi rút về cái hang đá nơi đặt vị trí chỉ huy tiểu đoàn. Về tới nơi, anh em bị thương nặng được cáng đi ngay. Số bị thương nhẹ còn có thể tự đi được, tiểu đoàn trưởng giao cho tôi dẫn xuống khu vực bản Nà Lùng chờ đưa về phía sau. Tôi không muốn đi cứ khăng khăng xin ở lại, anh Vinh vỗ vai bảo:
- Cậu thông thạo đường dẫn anh em về dưới đó, chờ bộ phận tải thương họ lên bàn giao rồi lại quay lên.
Thế là tôi đành phải chấp hành. Đường về Nà Lùng pháo địch bắn dày đặc suốt đêm, chúng tôi đi khá vất vả. Nhìn anh em thương binh bám lấy nhau bò qua bãi đá tai mèo vượt quãng đường tắt tránh pháo mà tôi lo quá, chỉ sợ anh em không đi kịp trước khi trời sáng thì dễ bị địch phát hiện. Đến đầu bản Nà Lùng người dẫn tổ dân quân ra đón thương binh lại chính là cô Hoa. Cô cùng anh chị em dân quân dìu thương binh vào gầm ngôi nhà sàn sát chân núi. Khi chúng tôi đang ăn cháo thì ông lão Đăm từ ngoài rừng về, người ông ướt đẫm sương núi, tay ôm một bọc lá. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Ông vẫn chưa đi sơ tán ạ?
Ông lão lắc đầu:
- Bộ đội mày bảo tao đi đâu hả? Đất của mình đây mình phải ở chứ. Chúng mày ở tận dưới xuôi còn lên đây giữ đất, chúng tao ở đây lại bỏ đi à?
Đoạn ông đặt bọc lá ngồi xuống bảo:
- Tao đi hái cái lá về đắp cho thương binh đây. Bộ đội phải cố gắng ăn khoẻ nữa thì mới có sức đấy!
Tôi giúp ông nhặt từng cái lá. Ông chọn từng loại đem rửa sạch rồi cho vào cái cối đá bắt đầu giã. Nhờ những thứ thuốc lá cây của ông nên anh em thương binh nhiều người thấy đỡ đau hơn. Ngang chiều, khi chúng tôi đang làm công tác chuẩn bị để tối nay đưa thương binh đi tiếp về phía sau thì cô Hoa từ phía đầu bản chạy về. Mặt cô gái hơi tái đi, giọng hổn hển:
- Ông ơi, các anh bộ đội ơi! Bọn giặc đã... đến đầu bản rồi!
Ông lão đứng phắt dậy, trợn mắt:
- Thật không Hoa?
- Thật mà! Chúng nó đông lắm, thằng Phùng, thợ chữa đồng hồ ở thị trấn dẫn đường. Cháu nhìn rõ mặt nó lắm!
- A... a...a... - Ông lão kêu lên. Thấy ông có vẻ cuống, tôi chụp khẩu AK bật dậy. Nhưng ông lão nói như quát:
- Ra ngườm(1) đá sau nhà mau lên!
Ông giục Hoa dìu thương binh đi ngay. Anh em thương binh đã ngồi hết cả dậy. Theo phản xạ của người lính, ai cũng hiểu tình hình rất gấp. Phía đầu bản có tiếng lựu đạn nổ, rồi tiếng súng ran lên, đạn chiu chíu bay vào trong bản.
Ông lão vừa cõng vừa dìu hai đồng chí thương binh nặng nhất. Một đồng chí thương binh băng kín mặt được Toàn dắt chạy theo. Tôi kéo quy lát lên đạn. Hoa cũng tháo súng ra khỏi vai. Cô vừa chạy theo tôi, vừa nói:
- Dân quân lên chốt với bộ đội, chỉ còn bốn đứa chúng em đang nấu cơm nắm thì thấy một đoàn người đi lên, mới đầu tưởng bộ đội mình, chúng lại gần mới rõ. Em cho một đứa chạy lên báo để các anh trên chốt biết. Hai đứa chạy vào trong thung lũng, báo cho dân bản. Em gài xong một quả lựu đạn thì chạy về đây...
Tiếng đạn cối oành oành dội vào vách núi chói tai. Bộ binh địch đang bắn xối xả vào bản. Cũng may, ông lão và anh em thương binh đã chạy tới gần chân núi um tùm những dây leo.
Tôi và Hoa đang len lỏi qua những mỏm đá thì thấy ông lão đi ngược lại. Ông hối hả nói với cháu gái một câu gì đó bằng tiếng dân tộc. Hình như hai ông cháu giành nhau làm một việc gì đó. Rồi cô gái quả quyết xách súng quay lại. Tôi cũng vội quay phắt lại định chạy theo thì bàn tay cứng như kìm của ông lão đã chụp lấy vai tôi:
- Bộ đội! Mày định đi đâu?
- Cháu quay lại với cô Hoa chặn bọn chúng!
- Không được! Lên hang đi...
Ông vừa nói, vừa dứt khoát kéo tôi lên hang đá.
Hang thực ra là một hốc đá khuất sau những đám dây leo um tùm. Ông lão kê mấy mảnh ván và lót rơm dạ nằm. Góc hang để ít đồ đạc và một bồ lúa nhỏ. Tôi vừa chạy tới cửa hang thì thằng Toàn chạy ra, miệng nó méo đi:
- Cô Hoa nguy mất! Cô ấy chạy ra cánh đồng để đánh lạc hướng bọn địch đấy, thằng Lợi nghe thấy tiếng hai ông cháu nói với nhau như vậy.
Thằng Lợi là người Tày nên tôi tin ngay. Tôi quay ra ngoài cửa hang. Ông lão đang đứng sau hòn đá to nhìn xuống bản. Bọn địch đã vào đến giữa bản, thằng nào thằng ấy súng lăm lăm trên tay. Nhưng, chúng không vấp phải sự đánh trả nào khác ngoài một quả lựu đạn gài làm hai thằng toi mạng và một tên bị thương đang kêu la ầm rĩ. Một thằng mặc quần áo trắng mốc có vẻ là chỉ huy. Đứng cạnh nó là một tên thấp bé. Tên này đang chỉ tay về phía chân núi, nơi chúng tôi đang ẩn nấp. Ông lão nghiến răng: "Thằng Phùng!".
Tôi từng nghe bà con thị trấn kể: Cách đây hơn chục năm, có đôi vợ chồng người Hoa ăn mặc rách rưới chạy qua biên giới. Họ nói bị đấu tố do cuộc cách mạng văn hóa gì đó nên phải trốn sang Việt Nam nương nhờ sinh sống. Dân thị trấn đã giúp họ làm một căn nhà nhỏ. Người chồng là thợ sửa chữa đồng hồ. Anh ta tên là Phùng. Rồi sau nhiều năm làm ăn, buôn bán, đôi vợ chồng ấy xây dựng một ngôi nhà to hơn cả cửa hàng bách hoa thị trấn. Năm ngoái, họ kéo nhau chạy về nước...
Bây giờ, thằng Phùng dẫn quân trở lại chém giết những người đã từng che chở, đùm bọc gia đình nó. Nó biết lối vượt qua núi nên đưa đường quân định tập kích vào phía sau chốt của ta. Bị vướng lựu đạn chúng điên cuồng xông vào đốt phá bản. Theo hướng tay tên chỉ điểm, bọn giặc bắt đầu tràn vào các ngôi nhà sát chân núi. Tiếng đập phá loảng xoảng, tiếng tre nứa từ những ngôi nhà bị đốt cháy nổ lốp bốp. Tôi lo lắng cho tính mạng của các thương binh và khu kho đạn, kho lương thực của đơn vị ở phía sau bản. Chúng tôi gom tất cả số lựu đạn của anh em thương binh lại. Kiểm tra còn hơn ba băng đạn và gần chục quả lựu đạn. Nếu cần, chúng tôi sẽ quyết tử.
Ông lão vẫn đứng cạnh tôi. Mắt ông chăm chú nhìn ra phía cánh đồng trước bản. Từ phía ấy, tiếng súng AK bỗng vang lên từng loạt. Bọn giặc trong bản nhốn nháo. Rồi, theo lệnh của chỉ huy, chúng hò hét ùa cả ra cánh đồng. Bụng tôi như lửa đốt. Bọn chúng đông như vậy nên ai cũng rất lo lắng cho cô Hoa. Thấy những tên giặc chới với ngã gục ngay bãi cỏ trước bản, tôi đoán cô gái đã ra tới bờ suối.
Nhìn tên chỉ huy mặc áo trắng mốc đang đứng trên mỏm đá quay lưng về phía chúng tôi đang hò hét xua bọn lính ào ra phía cánh đồng, bất giác tôi nâng khẩu súng kê lên tảng đá trước mặt. Ông lão chộp lấy tay tôi gằn giọng:
- Không... được... bắn!
Tiếng súng chìm dần trong sương loãng cuối chiều. Ông lão vẫn đứng lặng yên. Nghe hướng súng nổ, tôi bỗng giật mình. Cô gái đang dẫn địch về phĩa bãi mìn. Tôi thấy tim mình thắt lại. Thời gian vẫn chậm chạp trôi đi. Có tiếng nổ lục bục ở cuối cánh đồng.
Trời tối dần. Tôi dặn Toàn giúp ông lão chăm sóc thương binh rồi xách súng nhảy qua lèn đá lần xuống bản. Tôi vượt qua một bãi trống lổm ngổm những mô đá như những dáng người đang đứng sát nhau trong đội ngũ. Đi làm gì tôi cũng chưa rõ. Tôi cứ đi như người vô thức. Hình ảnh ông lão và cô cháu gái rồi cả hình ảnh những tên giặc hung hãn cứ hiện lên trong đầu tôi.
Tới gần ngôi nhà chân núi, trong chớp lửa loàng nhoàng của một quả pháo bắn vào vách đá, tôi thoáng thấy một bóng người nhỏ bé đang lảo đảo tiến lại.
- Hoa! - Tôi kêu lên. Cô gái một vai khoác súng, một cánh tay bị thương thõng xuống được buộc tạm bằng một chiếc khăn. Tôi vội khoác súng qua vai đỡ cô. Nhận ra tôi, cô gái khẽ reo lên:
- Chúng nó vướng mìn chết nhiều lắm anh ạ!
- Thế hả! Để tôi băng lại vết thương cho!
- Ông và các anh thương binh hiện sao rồi anh?
- Đang trên hang, an toàn cả...
Bất giác, tôi và Hoa đều giật mình quay lại. Ông lão đang đứng trên một mỏm đá phía sau chúng tôi. Hình như ông đang mỉm cười. Bóng ông sừng sững như tạc vào vách núi đá dựng thành chiến lũy trùng trùng nơi biên ải...
Chim lợn kêu ngang trời
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Trời bắt đầu trở lạnh. Đã cuối mùa thu. Sương muối rơi lộp bộp trên mái nhà lợp bằng lá cọ. Bà Chiều vừa thiu thiu ngủ bỗng giật mình nghe tiếng kêu của con chim lợn đi ăn đêm. Tiếng nó "eng éc" nghe lạnh cả người. Nó bắt đầu kêu từ khu nghĩa địa bên kia cánh đồng. Bay ngang qua làng Trung tiếng nó có vẻ thảm thiết hơn. Người ta bảo khi nó kêu là lúc đã ăn no rồi đang bay về tổ.
Nhưng chim lợn kêu nhiều thường là có người sắp lìa cõi trần.
Tiếng chim lợn kêu ngang trời như gọi hồn người chết thăng thiên. "Chết thôi! Ông Túc đang ốm. Con chim hôm nay sao mà kêu ghê thế... hay là...". Bà Chiều trở mình. Bà ngồi dậy quờ chân tìm dép. Không bật điện, bà lập cập vặn to ngọn đèn dầu hạt đỗ đặt trên bàn thờ. Bà vừa rút một nén hương chưa kịp châm thì nghe thấy tiếng người ồn ào rộ lên ở phía cuối làng. Bà thở dài: "Thôi ông ra đi cho mát mẻ!". Giọt nước mắt ứa ra trên gò má nhăn nheo của bà.
Bà Chiều lay thằng cháu ngoại đang nằm ngủ ở giường bên cạnh. Nó cáu cẳn:
- Bà làm gì thế! Cháu vừa mới ngủ được một lát bà đã gọi...
- Mày đưa bà xuống nhà ông Túc ngay.
- Đang đêm bà xuống nhà lão ấy làm gì?
- Hình như... ông... ấy...
- Lão ấy đang ốm nặng... đã nghẻo rồi hả bà...
- Vả vào cái mồm mày! Ăn với nói... dậy đi!
Thằng cháu uể oải ngồi dậy. Nó bật điện tìm cây đèn sạc. Bà Chiều cũng đã tìm được cây gậy.
Thằng cháu soi đèn đưa bà ngoại đến cổng nhà lão Túc. Trong nhà đèn điện sáng choang, tiếng người ồn ào. Đúng là ông ấy đã đi rồi. Thằng cháu thính tai đã nghe rõ mọi chuyện. Nó bảo bà:
- Lão ấy nghẻo... À...à... ông Túc chết rồi bà ạ! Bà vào nhà ông ấy nhé. Cháu về ngủ tiếp đây. Mai cháu sẽ đi đào huyệt...
Nói xong nó để bà đi vào nhà lão Túc rồi quay về ngủ tiếp.
Bà Chiều che mắt cho khỏi chói ánh điện bước vào sân. Một phụ nữ nhìn thấy chạy ra dắt tay bà vào nhà. Lão Túc đang được mấy người mặc cho bộ quần áo mới để khâm liệm. Cái quan tài lão chuẩn bị sẵn sơn đỏ loè loẹt đã được kê ra gian giữa.
Bà Chiều nhìn mặt lão Túc lần cuối trước khi người ta gấp tấm vải xô lại để buộc dây bó kín thi thể. Trong đầu bà chuyện về lão Túc như chợt hiện về từng đoạn, từng đoạn rất rành mạch.
Đó là những ngày tiền khởi nghĩa. Thanh niên, phụ nữ làng Trung hào hứng, phấn khởi nghe lời kêu gọi của cán bộ Việt Minh chặt tre làm gậy gộc, cắm dao vào cán gỗ làm giáo sẵn sàng vùng lên giành chính quyền. Lão Túc hồi ấy là những người hăng hái nhất. Lão Túc là dân bần cố nông, làm thuê, cuốc mướn. Được giác ngộ, lão càng thêm nhiệt tình hoạt động. Lão là người đã vác mã tấu đi sát anh cán bộ Việt Minh dẫn đầu đoàn người biểu tình xông vào toà công sứ Pháp ở trên tỉnh cướp chính quyền. Trong kháng chiến, lão là đội viên đội công an xung phong của xã chuyên diệt tề, trừ gian. Một mình lão ban ngày ban mặt áp sát tên Việt gian chỉ điểm giữa chợ xỉa vào sườn nó một dao khiến nó ngã xuống giữa đám lính dõng hoảng loạn.
Cải cách ruộng đất nổ ra, lão Túc được chọn làm hạt nhân cốt cán để đấu tố, phát hiện địa chủ. Chả là từ bé, lão đã đi ở chăn trâu cho nhà ông Biên. Ông Biên có mấy mẫu ruộng, hai con trâu, một ngôi nhà gỗ xoan. Khi đội bồi dưỡng cho lão Túc chuẩn bị đấu tố, mà người sẽ đấu là ông Biên, lão ngạc nhiên hỏi lại:
- Tôi đi ở cho ông Biên thật nhưng ông ấy đâu có "bóc lột" gì tôi. Ông ấy cho tôi ăn, có gì ăn nấy. Ông ấy cho tôi quần áo. Ông ấy mặc áo nâu, tôi cũng mặc áo nâu. Mùa màng, ông ấy cũng đi cày, đi gặt... tại sao ông ấy lại là địa chủ, bóc lột được?
Ông đội trưởng đội cải cách hỏi:
- Thế ông ấy có trả công xứng đáng cho ông không?
- Trả công gì ạ! Tôi đói, ông ấy cho ăn, tôi rét, ông ấy cho mặc. Tôi vào du kích, công an kháng chiến ông ấy gửi gạo tiếp tế...
Ông đội giải thích một thôi một hồi về việc ông bị bóc "lột giá trị thặng dư" như thế nào nhưng lão Túc cố căng tai ra nghe mà không hiểu. Ông đội nghiêm khắc nhắc nhở lão Túc về vai trò của người công an viên cách mạng, lưu ý thêm việc lão chuẩn bị được kết nạp, chuẩn bị được giao giữ chức vụ quan trọng. Lão Túc thấy hoang mang quá. Lão hứa sẽ phát huy tính tiền phong gương mẫu của người công an xung kích, quyết tâm vạch tội ác dã man của bọn địa chủ...
Hôm tổ chức đấu tố bọn địa chủ, cả làng kéo nhau ra sân đình. Ông Biên và mấy người bị trói quặt cánh khỉ ở các cột tre đóng trên bãi cỏ. Đám đông người xúm xít xung quanh ra sức kêu gào, rỉa rói kể tội họ bóc lột, cưỡng hiếp, làm tay sai cho đế quốc thực dân, quốc dân đảng... Lão Túc được mời lên bục phát biểu. Giọng lão run run, vẻ bức xúc, phẫn uất. Nhưng lão lại không kể tội, đấu tố ông Biên như đã được đội "bồi dưỡng" trước. Mà ông nói về việc ông Biên đã nhặt được lão nằm đói lả ở ngoài bờ đê thế nào, cho ăn, uống thế nào. Khi lão bị bệnh một sống, chín chết ông Biên nửa đêm cõng lão đi tìm thầy lang để cứu chữa. Rồi lão nói rõ thêm về chuyện bà Thêm tố cáo ông Biên "cướp" cái vại muối dưa của nhà bà ấy thế nào.
- Chiều ba mươi tết... - Giọng lão Túc bức bối: - Bà ấy đem cái vại đến khóc lóc, nói nhà không có nổi một đấu gạo nếp gói bánh cho con. Ông Biên đã bảo tôi xúc cho bà ấy hai đấu gạo nếp, cho thêm nửa cân thịt. Ông ấy không nhận nhưng bà ấy cứ để cái vại ở sân đùm gạo mang về. Thế mà bây giờ bà ấy lại xưng xưng nói ông Biên cướp cái vại muối dưa của nhà bà ấy... thật là chuyện "gắp lửa bỏ tay người", lấy oán báo ân...
Cả đám người đang say đấu tố sôi lên. Ông đội trưởng đội cải cách thét: "Quân phản động! Đồ... đồ... ôm đít bọn địa chủ phong kiến bóc lột...". Ông ta ra lệnh không cho lão Túc nói thêm, tri hô du kích xông vào lôi lão xuống khỏi bục. Lão Túc bị xô đẩy ngã dúi dụi xuống đất. Mồm lão ngậm đầy cát bụi. Lão lồm cồm bò dậy. Trước khi bị lôi dẫn đi lão còn cố ngoái lại nhìn ông Biên. Lão thấy ông ấy khóc, nước mắt chảy dài trên gò má hốc hác nhem nhuốc.
Người ta xử bắn ông Biên cùng một địa chủ khác. Hồi ấy bà Chiều mới mười sáu tuổi. Bà cũng có mặt ở buổi đấu tố ấy. Từ lâu, bà thầm mến anh thanh niên Túc khoẻ mạnh, đẹp giai, tốt tính hay giúp đỡ người khác.
Đám ma ông Biên chỉ có vài người thân. Người ta sợ liên lụy với thành phần bọn địa chủ, ác bá nên ngại. Bà vợ ông dắt thằng con trai bốn tuổi lặng lẽ đi sau quan tài. Lão Túc một mình đứng ra lo việc tang lễ của ông Biên, từ việc tắm rửa, băng bó vết thương do đạn bắn rồi khâm liệm cho ông. Rồi cũng một mình lão hì hụi đắp tròn nấm mộ cho ông Biên. Người vợ và thằng con ông Biên tả tơi, rách nát đứng nhìn. Đó là một buổi chiều mùa Đông năm 1953. Sau bốn chín ngày, bà vợ ông Biên dắt thằng con nhỏ bỏ làng đi biệt tăm. Bà đưa con di cư vào Nam sinh sống.
Sau đó có sửa sai, người ta phục hồi lại thành phần trung nông cho ông Biên. Rồi nhiều năm nữa qua đi ông Biên còn được tặng thưởng huân chương vì có công giúp cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa và trong kháng chiến chống Pháp. Sau đám tang ông Biên, lão Túc cũng đi mất. Lão lên mạn ngược làm thợ xẻ gỗ tà vẹt đường tàu. Đến khi phong trào thành lập hợp tác xã nông nghiệp mở rộng ở miền Bắc thì lão mới lò dò mò về làng. Chả thấy lão có vợ con gì. Lão có hai sào ruộng của ông cha để lại ở cánh đồng Ngòi. Lão làm đơn xin vào hợp tác xã nông nghiệp nhưng mãi chả thấy ban quản trị chấp thuận. Thành thử khi cả làng đã vào hợp tác xã, lao động tập thể, ngày ngày ra đồng, nghỉ giải lao, về nhà đều theo tiếng kẻng thì lão Túc vẫn là hộ làm ăn cá thể. Thửa ruộng tư hữu của lão nằm giữa cánh đồng hợp tác như một chướng ngại vật gây khó khăn cho việc cày bừa bằng máy, cấy chăng dây thẳng hàng.
Thửa ruộng nằm giữa cánh đồng hợp tác cũng gây nhiều phiền hà cho lão Túc. Lão không thể dẫn nước qua ruộng của hợp tác xã về ruộng của mình. Ông đội trưởng đội sản xuất làng Trung cảnh cáo: "Ruộng hợp tác xã đã đổ phân bón lót, ông không được lấy nước lấy hết chất của phân bón của tập thể đấy!". Cũng may do ruộng trũng, nước ngấm qua bờ nên hai sào ruộng của lão Túc cũng đủ nước cấy. Trời hạn hán thì thật khốn khổ. Khi đội sản xuất tổ chức tát nước lên đồng đông vui như hội, tiếng hát, tiếng hò rộn ràng, cờ đỏ tung bay khắp cánh đồng thì lão Túc lủi thủi một mình gánh nước từ ao ra đổ xuống ruộng cứu lúa.
Bà Chiều nhớ lại thời trẻ, gặp lại lão Túc từ mạn ngược trở về ở ngoài đầu làng hai người đã nói chuyện với nhau rất lâu. Bà thương lão Túc. Nhưng mối tình của họ không thành. Ông bố bà gầm lên như hổ dữ khi biết hai người có tình ý với nhau:
- Con kia! Mày là người hay là thứ gì mà dính vào cái thằng "tư nhân, tư hữu" ấy hả... mà mày đã hai nhăm hai sáu, ế thừa rồi đấy. Dính vào nó thì ai người ta còn nhìn ngó đến mày nữa hả? Bà cãi:
- Nhưng anh ấy là người tốt! Anh ấy...
"Bốp" một cái tát đau điếng khiến bà loạng choạng. Ông bố kiên quyết ngăn cấm nên bà và lão Túc cũng không thể thành duyên. Bà vẫn cố giúp lão, khi thì gánh nước, khi thì cấy, làm cỏ lúa. Ông đội trưởng đội sản xuất làng Trung rất bực vì năng xuất lúa ở thủa ruộng của lão Túc cao hơn hẳn những chân ruộng của hợp tác xã ở chung quanh. Nhất định lão này đục lỗ ngầm rút hết tinh chất phân đạm từ ruộng của hợp tác xã vào ruộng tư hữu của mình rồi. Ông cho công an xóm thường xuyên theo dõi.
Để yên tâm hơn, ông đội trưởng còn cho đắp một bờ vùng bờ thửa xung quanh ruộng nhà lão Túc thật chắc chắn. Ông mấy lần gặp bà Chiều đe: "Cô không được giúp đỡ, tiếp tay cho phần tử tư nhân, tư hữu, nhất là không được phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất cho nó nhé!". Chả là hồi ấy bà Chiều là thành viên của đội kỹ thuật của hợp tác xã. Bà được đi dự một lớp tập huấn kỹ thuật nông nghiệp trên huyện.
Thế nhưng việc thửa ruộng tư hữu của lão Túc năng xuất lúa và hoa màu vẫn cao hơn ruộng của hợp tác xã đã thành vấn đề nghiêm trọng. Hợp tác xã nông nghiệp, làm ăn tập thể, khí thế sôi nổi, phấn khởi, lúa cấy chăng dây thẳng hàng, phân chuồng, phân hoá học bón đúng định kỳ, bèo hoa dâu vùi xuống gốc lúa thêm chất đạm sinh học thế mà năng xuất cứ thấp. Thế là thế nào. Ông đội trưởng trực tiếp gặp lão Túc. Lão Túc e ngại mỗi khi có cán bộ đến gặp. Lão pha nước mời ông đội trưởng. Ông đội trưởng không uống. Có lẽ ông sợ uống nước của phần tử tư hữu chăng. Ông è è hắng giọng rồi chậm chạp nói:
- Ông Túc này! Hiện nay miền Bắc ta đang thẳng tiến lên chủ nghĩa xã hội, ra sức chi viện cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam...
- Vâng...
- Vậy nên khí thế thi đua lao động rất mạnh mẽ...
- Vâng...
- Mọi người đều đồng lòng nhất trí...
- Vâng...
- Mỗi người làm việc bằng hai đồng lòng vì miền Nam ruột thịt...
- Vâng...
- Vậy mà ông lại không ủng hộ...
- Vâng... - Lão Túc chợt giật nảy mình ấp úng chữa lại: - À... không... không... tôi vẫn... vẫn ủng hộ... ủng hộ đấy chứ...
- Ủng hộ... mà tại sao ông vẫn làm như thế?
- Tôi có làm gì đâu ạ?
- Thì ruộng lúa của ông năng xuất chả gấp đôi của hợp tác xã là gì?
Lão Túc không hiểu. Ông đội trưởng giải thích:
- Ruộng lúa của ông năng xuất gấp hai ruộng hợp tác xã. Làm ăn tập thể có tổ chức, có kỷ luật, có khí thế động viên sôi nổi mà lại không bằng cá nhân tư hữu thì còn ra làm sao nữa...
- Vâng...
- Vậy nên... ông cần xem lại. Như thế có phải là ảnh hưởng đến khí thế thi đua của tập thể xã viên đang ra sức phấn đấu để tiến lên chủ nghĩa xã hội, chi viện cho miền Nam không?
- Vâng...
- Ông nên xem lại cách làm ăn của mình, chống lại tập thể là không được đâu.
Lão Túc chột dạ khi nghe vậy. Khi ông đội trưởng ra về lão vẫn ngồi thừ ra ở cái chõng tre kê giữa nhà.
Thấy ruộng lúa của lão Túc để cỏ rậm bà Chiều sốt ruột. Lão này có tiếng là chăm chỉ cơ mà. Bà vừa lội xuống định giúp lão vơ cỏ thì nghe tiếng lão phía sau lưng:
- Thôi... cô lên ngay đi đừng làm nữa, mà từ bây giờ cứ mặc kệ tôi...
Ô hay! Hôm ông Túc làm sao thế này. Hay là ông ấy biết chuyện mình sắp đi lấy chồng. Ông bố bà đã nhận trầu cau, gả bà cho một anh tính hơi dở dở nhà ở giữa làng. Bà cầm nắm cỏ bước lên bờ rồi cúi mặt đi về làng.
Từ khi về nhà chồng, bà không còn dám đến giúp đỡ lão Túc cấy lúa, làm cỏ, sàng sảy như trước nữa. Nhưng bà vẫn theo dõi cuộc sống của lão, thương cảm cho cuộc đời của lão. Là hộ tư nhân, lão Túc không có chế độ bao cấp gì. Lão không có sổ mua muối, mua dầu hoả, diêm, không có phiếu vải, phiếu thịt. Tất cả lão phải mua ngoài chợ đen mà không phải chợ đen lúc nào cũng có. Đã có lần bà phải dấu chồng con đem cho lão nửa cần muối, lưng chai dầu hoả. Có một chuyện bà còn nhớ mãi đó là chiều ba mươi tết năm Hợi. Bà đang gói bánh thì nghe tiếng trẻ con gọi nhau í ới: "Ra xem kẻ thịt trộm lợn bị bắt...". Bà vội đậy rá gạo nếp lại chạy ra kho của đội sản xuất. Lão Túc đang bị dân quân dẫn giải vào sân kho.
Lão mặc bộ quần áo nâu bạc phếch, trên vai vác một con lợn độ ba mươi cân đang cạo lông dở nham nhở. Tiết lợn chảy đỏ loè lưng áo vá của lão. Hai anh dân quân cầm súng CKC đi kèm hai bên. Lão Túc bị đưa vào giữa sân kho rộng mênh mông. Đây có lẽ là lần đầu tiên lão bước chân vào cái sân kho của hợp tác xã. Trẻ con người lớn xúm đông xem cảnh bắt giữ tên "thịt lợn trộm". Con lợn lão đang vác trên vai là lợn do lão nuôi. Thời bao cấp, nuôi được con lợn cũng không được phép thịt ăn, cũng không được tự đem bán ra ngoài chợ mà phải bán cho cửa hàng thực phẩm quốc doanh hoặc do hợp tác xã thu mua dành cung cấp cho các cơ quan, cán bộ, bộ đội và những người có phiếu mua thịt. Người nuôi có lợn bán được hợp tác xã ghi vào sổ, cuối năm sẽ căn cứ vào số thịt hơi đã bán cho nhà nước để phân phối lại, ghép vài nhà cho thịt chung một con lợn để ăn tết. Nhà nào tự ý giết lợn là vi phạm luật, là "thịt lợn trộm". Lợn nuôi được muốn bán phải báo hợp tác xã và chờ đợi nhân viên cửa hàng thực phẩm quốc danh về thu mua cho.
Lão Túc đang thịt con lợn giò của mình nuôi được ở sau nhà thì bị dân quân ập vào bắt quả tang. Con lợn cạo lông dở của lão bị tịch thu chuyển ngay cho cửa hàng thực phẩm quốc doanh. Tết năm ấy lão chỉ có thịt của một con vịt.
Từ khi thực hiện khoán mười, sang cơ chế thị trường tự dưng lão Túc lại không còn là thành phần chậm tiến nữa. Mấy sào ruộng nhà lão năng xuất càng cao hơn vì lão có vốn đầu tư. Rồi lão lại nhận thầu thêm mấy mẫu đầm lầy gần nhà vét bùn nuôi trồng thuỷ sản, làm trang trại. Nghe nói lão có người cháu ở miền Nam gửi tiền về đầu tư thêm. Lão Túc giàu nhưng sống rất tiết kiệm. Lão không có gia đình, vợ con gì. Lão thường xuyên đóng góp xây dựng các công trình phúc lợi của thôn, của xã và giúp đỡ bà con trong làng. Lão cũng dành tiền xây cho ông Biên một ngôi mộ nhỏ, ốp đá hoa cương cẩn thận.
*
Đám ma lão Túc không có tiếng khóc. Mấy đứa cháu họ đầu đội khăn tang nhưng mắt thì ráo hoảnh. Đám thợ chuyên khóc mướn của phưòng bát âm thỉnh thoảng lại rú lên: "Ới ông ơi..." giọng ẽo ợt nửa như hát chèo, nửa giống ca cải lương, nghe vui hơn là buồn.
Chuẩn bị đưa ma thì có một chiếc xe tắc-xi lao nhanh vào cổng nhà lão Túc. Mọi người đổ xô ra nhìn. Cửa xe bật mở. Một ông mặc bộ com-lê thẳng nếp màu đen, tuổi độ sáu mươi tuổi bước xuống xe. Ông chào mọi người rồi bước vào nhà. Ông se sẽ gạt cái chiếu trải trước quan tài lão Túc sang một bên. Chiếu trải là để cho người làng đến viếng đứng vái hoặc quỳ lạy còn con cháu tang chủ vào viếng thì phải quỳ xuống đất hoặc nền nhà. Ông cúi gập người quỳ xuống nền nhà vái lạy. Đoạn, ông đứng dậy cầm cái mũ tết bằng bẹ chuối khô để trên nắp quan tài đội lên đầu mình, khoác cái áo xô ra bên ngoài bộ com-lê, cầm cây gậy đứng ra phía đầu quan tài cúi đầu chịu tang.
Mọi người ồn ào. Có ai đó nói vống ra phía ngoài cửa: "Chắc ông này là con vơ, cháu váo ở đâu về chịu tang để đòi chia tài sản của lão Túc đây...". Bà Chiều len vào nhà nhìn kỹ rồi khẽ thốt lên: "Ôi! Anh cu Thuyên con ông Biên...".
Đó chính là ông Thuyên, con "địa chủ" Biên bị xử tử năm nào. Ông là giám đốc một doanh nghiệp lớn ở miền Nam. Ông vẫn chuyển tiền về giúp lão Túc nhận thầu nuôi thả cá, làm trang trại. Ông vừa xuống máy bay thuê tắc-xi về thẳng làng Trung để kịp đưa lão Túc ra đồng...
NƯỚC LŨ
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Đơn vị hành quân đến vị trí đóng quân mới. Trung đội thông tin của chúng tôi nhận nhiệm vụ triển khai hơn 4 ki-lô-mét đường dây hữu tuyến từ vị trí chỉ huy tiểu đoàn lên đài quan sát. Sau khi giao nhiệm vụ, tiểu đoàn trưởng còn căn dặn thêm chúng tôi:
- Từ đây lên đài quan sát địa hình phức tạp, các đồng chí cố gắng nhé. Đúng 12 giờ trưa là phải thông liên lạc nhé. Tình hình khẩn trương, tổ trinh sát phải báo cáo liên tục tình hình địch để kịp thời xử lý.
Nhận lệnh xong, trung đội trưởng Giang phân công:
- Tiểu đội hữu tuyến chia làm hai bộ phận. Bộ phận do tôi sẽ trực tiếp phụ trách sẽ rải dây từ vị trí chỉ huy tiểu đoàn lên. Bộ phận do đồng chí Hảo phụ trách mang theo dây, máy, đi nhờ ô tô đơn vị lên thị trấn lấy gạo sau đó triển khai đường dây từ đài quan sát về. Chúng ta sẽ gặp nhau ở cây đa giữa cánh đồng trước 12 giờ trưa nay.
Tôi nghĩ: "Mỗi bộ phận có hơn 2 ki-lô-mét đường dây, rải một loáng là xong chứ mấy, lo lắng làm gì cho mệt!". Đoạn, tôi gọi mấy chiến sĩ vác theo mấy cuộn dây và máy lên đường. Ra đến đường cũng vừa gặp ô tô của đơn vị đi lấy gạo, chúng tôi xếp dây máy và nhảy lên xe. Dọc đường xe hỏng, mãi hơn 8 giờ mới tới thị trấn. Còn sớm chán. Thị trấn biên giới giữa phiên chợ đông nghịt người. Tiếng nhạc ngựa leng keng. Màu áo quần của người Mông, người Dao rực rỡ, hàng quán nhộn nhịp. Mấy chiến sĩ mới quê ở dưới xuôi lần đầu tiên lên biên giới, chưa đến thị trấn này lần nào nên cứ mải mê nhìn. Thấy vậy, tôi bảo:
- Bây giờ còn sớm, các cậu cứ để dây máy ở gốc đa, cử một người ở lại coi rồi đi chợ, vào thị trấn chơi một lát cũng được. Đúng 9 giờ, chúng ta bắt đầu triển khai công việc.
Anh em chiến sĩ phấn khởi đi luôn. Tôi nghe loáng thoáng tiếng họ nói với nhau:
- Anh Hảo tâm lý thật. không như anh Giang "hắc sì dầu" lúc nào cũng đầy nguyên tắc. Hôm trước, tớ đi sửa dây với ông ấy về muộn qua cửa hàng ăn đói mềm cả người, nói mãi ông ấy vào làm bát phở nhưng ông ấy dứt khoát không chịu...
Anh em đi rồi, đút cái kìm vào túi, tôi cũng lững thững đi vào thị trấn. Đang mải mê nhìn cảnh người qua lại tấp nập bỗng nghe tiếng con gái gọi:
- Anh Hảo!
Tôi giật mình quay lại nhận ra Hường, cô bạn học cùng thời phổ thông, nhập ngũ sau tôi gần hai năm hiện làm văn thư trên trung đoàn. Hường đang đứng cạnh gốc cây bàng ven đường, tay xách một cái túi căng phồng, hai má đỏ ửng nhìn tôi tinh nghịch:
- Ngắm cô nào mà mải mê thế anh Hảo?
- Ngắm ai đâu mà... Hường đi đâu trông vẻ vất vả thế?
- Đi chợ như anh đấy! Nhưng chẳng có ai mà ngắm đâu!
Hường liếc tôi và tủm tỉm cười. Tôi lúng túng. Đứng trước con gái, cái "tài" ba hoa hùng biện của tôi thường không phát huy được tác dụng. Một chốc Hường mới nói:
- Em vừa đi phép lên. ở nhà vui lắm anh ạ, gặp bao nhiêu là bạn bè, chúng nó cứ bảo em đi bộ đội trông khỏe ra. Bọn con gái gửi lời hỏi thăm anh đấy. Nhà anh nuôi được một con lợn to lắm. Mẹ anh nói với em để dành con lợn ấy, cuối năm anh về phép sẽ...
Hường bật cười khúc khích. Cô kể chưa hết chuyện này đã nhảy sang chuyện khác khiến tôi muốn hỏi thêm mấy câu về gia đình, bạn bè cũng không được. Nhìn đồng hồ, tôi giật mình, đã hơn 9 giờ. Thấy tôi nhìn đồng hồ, Hường hỏi:
- Anh Hảo hẹn ai thế?
- Có ai đâu mà hẹn, đang đi làm nhiệm vụ đấy chứ!
- Nhiệm vụ gì mà lại đi người không giữa chợ thế này?
- Thật đấy! Hường về nhé, hôm nào tôi lên thăm, hỏi chuyện quê hương.
- Anh bận thì cứ đi đi, mặc em...
Hường làm ra vẻ giận dỗi. Dùng dằng một lúc tôi mới đi được. Phóng về tới gốc đa đầu thị trấn, thấy mấy chiến sĩ đang đứng chờ, tôi giục:
- Đi thôi, gần trưa rồi, phải nhanh nhanh lên mới kịp.
- Nhưng thằng Vinh vào chợ đến bây giờ vẫn chưa thấy ra ạ!
Một chiến sĩ nói, tôi bực mình gắt:
- Đã dặn đúng 9 giờ phải có mặt đầy đủ để bắt đầu công việc cơ mà?
- Thằng Vinh ở lại coi dụng cụ, dây máy thấy anh chưa về, nó lại chạy vào chợ một lát.
Tôi nuốt ực một cái, không thể nói được gì thêm vì đã tự ý cho chiến sĩ đi chợ và chính mình cũng ra chậm gần một tiếng cơ mà. Đành phải chờ vậy. Gần 15 phút nữa vẫn không thấy Vinh ra. Tôi sốt ruột, hết nhìn đồng hồ lại nhìn trời. Lúc sáng trời còn quang đãng như thế mà bây giờ mây đen đang ùn ùn kéo đến. Gió hơi lành lạnh, báo hiệu một cơn mưa rào dữ dội. Khi Vinh từ trong chợ chạy ra, ôm một mũ đầy vừa lê vừa táo tay còn cầm thêm mấy gióng mía. Tôi quát:
- Nhanh lên! Trời mưa đến nơi bây giờ.
Biết lỗi, Vinh vội nhét mấy thứ vào túi và vớ lấy súng và cuộn dây của mình. Chúng tôi chạy ngược về phía đài quan sát. Đến chân mỏm núi đặt đài quan sát, tôi cử hai chiến sĩ rải dây ngược lên đỉnh núi, tôi và hai chiến sĩ còn lại triển khai đường dây về phía gốc cây đa giữa cánh đồng. Hơn 10 giờ rồi, có lẽ bộ phận phía sau đã rải xong đoạn dây đang chờ để thông liên lạc, phải nhanh mới kịp. Nhưng chúng tôi càng cuống thì dây rợ lại càng rối tinh lên. Giữa lúc đó thì cơn mưa ập xuống như trút nước.
Những cơn mưa ở miền núi chẳng khác nào như trời bị thủng vậy. Nước réo ầm ầm. Lũ lên nhanh. Con suối lúc sáng chúng tôi đi ô tô còn chạy qua ngầm đá được bây giờ nước ngập mênh mông. Đường dây rải đến bờ suối, tôi đứng vuốt nước mưa trên mặt lo lắng nhìn những thân cây to bị nhổ bật cả rễ đang lao nhanh giữa dòng. Không có chỗ nào còn lội qua được cả, chờ đến khi nước lũ rút thì quá giờ quy định mất. Tôi bảo các chiến sĩ:
- Bằng mọi cách chúng ta phải triển khai được đường dây qua suối. Tôi sẽ buộc một đầu dây vào người bơi qua suối, đến bờ bên kia buộc vào gốc cây, anh em chí kéo căng lên mới khỏi bị cành cây trôi vướng vào làm đứt dây.
- Nước lũ chảy xiết, khi anh bơi qua cây cối trôi lao vào đứt dây, nguy hiểm lắm.
- Cứ chập hai ba dây vào cho khỏi đứt. Nguy hiểm cũng phải bơi sang...
Giữa lúc tôi đang cởi quần áo dài và buộc một đầu dây vào người thì một ông già người dân tộc vác cuốc, đội nón lá, khoác áo tơi đi tới. Ông hỏi chúng tôi:
- Các cháu định bơi qua suối à? Không được đâu vớ! Nước ở đây chảy xiết lắm, nó lôi các cháu xuống vực mất.
- Ông ơi thế có cách nào vượt qua suối được không ạ?
- Phải có mảng mới qua được.
Tôi thất vọng. ở giữa nơi đồng trắng nước như thế này, một cành cây để nống dây còn khó kiếm, lấy đây ra vầu, nứa để ghép mảng. Nhưng ông già đã bảo:
- Các cháu chờ một lát, ông vào lùm cây kia, có cái mảng của bà con của bà con vẫn dùng qua suối chặt củi chắc vẫn còn buộc ở đó.
Tôi mừng quá vội cử Vinh đi cùng ông lấy mảng về. Chỉ một lát sau, ông già đã đẩy cái mảng tới trước mặt chúng tôi. Ông bảo:
- Hai cháu qua trước, mảng không chở được nhiều người đâu vớ!
Tôi xách cuộn dây bước xuống mảng và nói với ông:
- Cám ơn ông! Ông cho chúng cháu mượn mảng tự chống lấy cũng được ạ.
- Hầy! Không được đâu! Nước xiết, các cháu chưa quen, cả người lẫn mảng bị nước nó đưa xuống vực mất!
Thấy thái độ cương quyết của ông, tôi và Vinh đành mang theo dây máy lên mảng. Chiếc mảng từ từ lao ra giữa suối. Dòng nước hung hãn chồm lên như muốn nhấn chìm chiếc mảng nứa bé nhỏ. Nhưng ông già khá nhanh nhẹn. Ông chống mảng tránh những thân cây đang bị nước cuốn trôi giữa dòng suối. Có lúc chiếc mảng bị láng hẳn xuống phía vực sâu, sợi dây trong tay tôi căng ra. Nhưng rồi chúng tôi cũng sang tới bờ. Tôi bảo Vinh khẩn trương rải dây xuống phía cây đa. Ông già lại chống mảng quay sang đón các chiến sĩ còn ở bên kia. Tôi càng lo lắng, hối hận. Tự trách mình dễ dãi cho anh em vào chơi chợ nên mới bị lũ bất ngờ và lâm tình huống nguy hiểm thế này. Nhìn mái tóc, chòm râu gần bạc trắng và cánh tay khẳng khiu của ông già dân tộc đang căng lên chống chọi với dòng nước xiết tôi thấy cay cay trong khoé mắt.
Ba chiến sĩ còn lại được ông đưa sang an toàn cả người lẫn máy móc, súng đạn. Trước khi ông trèo mảng quay lại bên kia bờ, tôi nắm lấy cánh tay của ông xúc động nói:
- Chúng cháu cảm ơn ông lắm!
- Ô! Không phải cảm ơn mà. Ông biết các cháu vất vả lắm. Thằng cháu ông nó cũng ở "điện thoại" như các cháu. Nó nói, cái máy này gọi được xa lắm. Có gọi được xa, bảo nhau được nhiều, được nhanh mới đánh thắng được bọn giặc phải không các cháu?
- Đúng thế ông ạ!
- Thôi các cháu làm tiếp đi! Khi nào nghỉ, sang nhà ông chơi nhá. Nhà ông ở bản Nà Sao chỗ những bụi tre kia kìa.
Nói đoạn, ông chỉ tay sang bên kia bờ suối chỗ lũy tre um tùm có mấy ngôi nhà sàn. Tôi nắm chặt tay ông:
- Vâng ạ! Nhất định chúng cháu sẽ đến.
Chờ ông sang đến bên kia bờ suối an toàn rồi tôi mới chạy theo các chiến sĩ đang triển khai đường dây ở giữa cánh đồng. Vừa chạy, tôi vừa suy nghĩ về câu nói mộc mạc mà sâu sắc của ông già dân tộc. Đó chính là một bài học cho tôi.
Chúng tôi rải đường dây đến gần gốc đa thì gặp trung đội trưởng Giang dẫn một chiến sĩ chạy lên. Anh nói:
- Chúng mình lo quá, chỉ sợ lũ lớn các cậu không qua được suối. Ở nhà, khi các cậu vừa đi khỏi thì đường dây xuống "xê" 8 bị đứt, hai người phải đi chữa, mình và hai đồng chí vừa mới kéo đường dây đến gốc đa xong đang chờ các cậu.
Hai đầu dây được nối với nhau, trời cũng vừa tạnh mưa. Tiếng chuông máy điện thoại reo lên ròn rã. Tiếng tiểu đoàn trưởng phấn khởi vang trong ống nghe:
- Khá lắm! Trời mưa to thế mà các cậu vẫn hoàn thành nhiệm vụ trước gần một tiếng. Chỉ huy tiểu đoàn biểu dương tinh thần cố gắng của các đồng chi nhé...
Trung đội trưởng Giang bảo tôi:
- Tổ của cậu về nghỉ ăn cơm đi! Để chúng mình củng cố đường dây cho.
- Không! Để chúng tôi làm. Tối về tôi sẽ báo cáo với anh chuyện này. Hôm nay lẽ ra chúng tôi còn có thể hoàn thành nhiệm vụ sớm hơn rất nhiều anh ạ.
Tấm vải liệm
Truyện ngắn của Trọng Bảo
1- Tôi và Nam cùng nhập ngũ, lại là người cùng làng. Nam kém tôi một tuổi. Nếu xét về họ hàng xa bắn "ba tầm súng đại bác" thì Nam còn phải gọi tôi là anh họ. Nhưng vì cùng lớn lên chung ngõ, học với nhau từ lớp một cho đến hết cấp ba nên chúng tôi cứ mày tao quen rồi. Khi cùng học phổ thông, Nam học môn toán rất giỏi. Nhiều lần nếu không có nó cho nhìn bài thì chỉ còn nước nộp giấy trắng.
Tôi chỉ bực tính tình Nam nhút nhát, hay sợ ma. Ngày xưa ở làng quê không có điện. Đêm đến quanh năm ánh đèn dầu lù mù. Buổi tối ngồi học chúng tôi cũng chỉ có ánh sáng của những cái đèn dầu nhỏ như hạt đỗ. Tối nào học nhóm nếu tôi đi qua cổng không gọi thì Nam không dám đi vì con đường sang xóm bên với các bạn cùng nhóm phải đi qua một bãi tha ma chi chít mả cũ, mả mới có những con đom đóm to bằng hạt ngô bay chập chờn xanh lét.
Vào bộ đội tôi và thằng Nam vẫn ở cùng tiểu đội. Sau thời gian huấn luyện chiến sĩ mới, nhờ năng nổ, xông xáo, xung phong nhận các nhiệm vụ nên tôi được bổ nhiệm giữ chức vụ tiểu đội phó. Còn thằng Nam đã là quân nhân rồi mà mãi cũng không bớt được cái tính nhút nhát. Những ca gác đêm một mình một vị trí, hay đi chuyển công văn khẩn qua cánh rừng hoang vắng là nó rất ngại. Nhiều lần tôi phải đổi phiên gác cho nó, tránh bớt những thời điểm đêm khuya thanh vắng hay các vị trí đứng gác gần bãi tha ma hoặc chỗ ngôi miếu cổ cạnh doanh trại.
Thằng Nam vẫn có ước mơ làm sinh viên đại học. Đi bộ đội nó còn đem theo đến nửa ba lô sách giáo khoa lớp 10 để ôn tập. Nó bảo tôi: "Khi nào ra quân nhất định sẽ thi vào đại học. Em sẽ học ngành nông nghiệp để tìm ra một giống lúa mới có năng xuất thật cao phù hợp với vùng đất phèn chua, lầy thụt quê mình". Tôi bảo: "Mày chỉ viển vông, chiến tranh đến nơi rồi còn học hành gì nữa! Vứt mẹ mấy cuốn sách đi mà đeo thêm vài cân gạo...". Thằng Nam im lặng không tranh cãi với tôi nữa.
Tình hình biên giới căng thẳng, chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Mọi sự chuẩn bị cho cuộc chiến đều rất khẩn trương. Để phòng tình huống xấu xảy ra trong chiến đấu, mỗi người chúng tôi đều có một mã số riêng thêu trên nắp túi áo bên trái và in vào mảnh giấy nhỏ bằng ba đầu ngón tay ép plastic để trong túi quần, túi áo. Một hôm nhận quân trang chiến đấu gồm các loại tăng, võng, bi đông về, tiểu đội trưởng Quân tập trung cả tiểu đội lại cấp phát cho mọi người. Còn một cuộn vải cuối cùng anh bảo:
- Đây là hai tấm vải dùng để khâm liệm liệt sĩ! Tiểu đội giao cho đồng chí Nam và đồng chí Tuấn mỗi người giữ một cái.
Nghe vậy cả tiểu đội đều lặng đi. Thằng Nam mặt cắt không còn giọt máu. Tôi cũng hơi thảng thốt nhưng định thần được ngay. Chiến tranh là như vậy. Khi nó chưa nổ ra thì công tác chuẩn bị phải thật chu đáo, tỷ mỷ đến mức tối đa để người chiến sĩ khi vào trận có thể chiến đấu tốt nhất.
Nghe tiểu đội trưởng giao nhiệm vụ, thằng Nam chối đây đẩy:
- Em không... không giữ cái đấy đâu...
Nhìn mặt nó tái dại, đôi mắt hoảng hốt và như sắp phát khóc tôi thấy thương nó quá. Anh em khác trong tiểu đội cũng ngại phải giữ tấm vải liệm nên tìm cách lảng đi. Tôi bảo:
- Thôi được! Không ai muốn giữ tấm vải này thì để tôi giữ cả cho.
Tôi nhận vì tôi là tiểu đội phó phải có trách nhiệm về công tác hậu cần của cả tiểu đội. Tôi trải hai tấm vải liệm ra để gấp lại cho gọn. Đó là những tấm vải mỏng gần giống cái vỏ chăn đơn nhưng người ta chỉ may kín hai cạnh, để hở hai cạnh. Tấm vải có đính sẵn ba giải dây vải ở giữa và hai đầu. Khi dùng khâm liệm liệt sĩ chỉ cần gấp lại và dùng ba giải dây đó để bó buộc.
Tôi nhét hai tấm vải liệm vào ba lô đeo về nhà ở.
Tôi mang cái ba lô về nhà ở, thằng Nam vội ôm chăn chiếu chuyển ra một góc nhà sàn nằm. Lâu nay nó vẫn nằm cạnh tôi. Cũng từ ấy không bao giờ nó lục ba lô của tôi tìm lương khô hay lấy kem đánh răng nữa.
2- Chiến tranh nổ ra. Những trận đánh vô cùng ác liệt. Quân địch bị tiêu diệt nhiều sinh lực nhưng đơn vị chúng tôi cũng bị nhiều tổn thất. Sau một tuần bị bao vây trong thị trấn Sóc Giàng, tiểu đoàn chúng tôi gần cạn hết đạn dược, lương thực, quân số bị tiêu hao. Đến ngày thứ tám, chúng tôi được lệnh chuẩn bị rút lui lên núi. Tiểu đội trưởng Quân căn dặn từng người:
- Nhớ là cố gắng đem hết súng đạn, lương thực. Cái gì không cần thiết thì bỏ lại vì khi vượt vòng vây chúng ta sẽ phải vượt qua suối và leo lên một vách núi dựng đứng rất khó đi và nguy hiểm.
Chúng tôi khẩn trương chuẩn bị. Quần áo ngoài bộ đang mặc trên người thì thêm một bộ để thay đổi, chỉ đem theo tăng võng, chăn màn vứt bớt, hai cái khăn mặt, hai đôi tất vừa mới phát cũng vứt một, giữ một cho đỡ nặng. Giấy tờ, nhật ký, sổ sách ghi chép chúng tôi đốt hết để đề phòng khi phá vây bị bắt lọt vào tay bọn địch. Trong túi quần, túi áo, trong ba lô chỉ còn có những mảnh giấy ghi mã số riêng của từng người.
Trong đêm tối, sau những đợt pháo địch bắn cầm canh, từng tốp nhỏ, chúng tôi tụt khỏi hang đá trên sườn ngọn núi giữa thị trấn băng qua cánh đồng lên dãy núi trùng điệp nơi mà bọn địch chưa chiếm được. Tôi được giao giao nhiệm vụ chỉ huy bộ phận đi cuối cùng khoá đuôi đơn vị, sẵn sàng lập thành một chốt đánh chặn địch truy kích cho đơn vị rút lui an toàn. Tôi bảo anh em trong tiểu đội:
- Nhớ bám sát nhau! Lúc qua bản Nà Liền phải hết sức nhẹ nhàng tránh gây tiếng động chó sủa, bọn địch phát hiện.
Tôi kéo tay thằng Nam khẽ dặn:
- Đi sát ngay sau tao nhé!
- Vâng! A... n...h... cứ... yên... tâm.
- Sao mày có vẻ run lập cập thế?
- Em thấy hơi sợ...
- Không việc gì đâu, đừng lo.
Tôi động viên thằng Nam. Suốt tuần vừa rồi nó là chiến sỹ thông tin 2W chưa trực tiếp đánh trận nào.
Đúng như chỉ huy tiểu đoàn đã tính toán. Đơn vị chúng tôi bí mật vượt qua vòng vây của địch một cách an toàn. Chúng tôi phải mất gần như suốt đêm mới vượt qua được vách núi cheo leo, đá tai mèo sắc như dao để lên lũng Mật. Trời sáng rõ. Sương mù tan. Nhìn xuống dưới cánh đồng thấy rõ cả xe tăng và bộ binh địch đang lúc nhúc hành quân. Thỉnh thoảng tiếng pháo lại nổ chói tai vì bắn vào vách đá và gây nên những vọng âm mãi mới tan làm màng nhĩ tai u u rất khó chịu.
Chúng tôi được lệnh dừng lại nghỉ. Trời rét lắm lại ở núi đá nên càng thêm lạnh buốt. Tôi vội cùng anh em tìm những khe đá hơi bằng phẳng rải tăng võng ra để nằm tranh thủ ngủ để tối đến còn hành quân tiếp hoặc xuống bản tìm kiếm lương thực. Chợt thấy thằng Nam ngồi co ro ở một góc khe đá tôi hỏi:
- Mày tìm chỗ phẳng nằm mà ngủ một lát đi chứ! Tối nay còn đi lấy gạo đấy.
- Lúc vượt qua suối vì đỡ anh thương binh trượt ngã, cái ba lô của em bị trôi mất rồi.
- Thế thì nằm vào đây với tao cho khỏi rét mà ngủ.
Thằng Nam vừa chui vào nằm xuống cạnh tôi đã bật ngay dậy hốt hoảng:
- Anh... anh... đắp bằng tấm vải liệm à?
Thì ra nó vừa nằm xuống thì cái dây buộc của tấm vải liệm loằng ngoằng vướng ngay vào cổ. Tôi phì cười:
- Nó chỉ là một tấm vải thôi, việc gì mà sợ! Nằm xuống đi cho ấm!
- Thôi... thôi... anh ngủ đi... em chịu thôi...
Tôi cáu vì cái tính nhút nhát của nó:
- Thế thì mặc xác mày!
Nói vậy nhưng tôi cũng không ngủ được. Tôi ngồi dậy lột cái võng đang rải ném cho nó. Đoạn tôi chui hẳn vào trong tấm vải liệm, nửa rải, nửa đắp rồi ngủ thiếp đi vì mệt.
3- Đơn vị chúng tôi cứ ban ngày thì ẩn nấp trong các thung lũng, khe đá, buổi tối thì chuyển quân sang vị trí khác tránh sự truy kích của bọn địch và tổ chức cho các bộ phận đột nhập xuống bản tìm lương thực. Nhiều hôm chạm địch không lấy được lương thực mà còn tổn thất thêm lực lượng. Quân số của đơn vị cứ vơi dần sau những chặng hành quân gian khổ trên vách đá núi cao đói rét và bị địch đuổi đánh. Một số anh em lực lượng thanh niên xung phong bị thất lạc chạy lên núi cũng nhập luôn vào đội hình đơn vị chúng tôi.
Sau trận đơn vị bị lực lượng tinh nhuệ của địch tập kích vào đội hình trú quân thì cả hai tấm vải liệm của tiểu đội tôi đều được sử dụng hết. Cũng từ sau hôm ấy thằng Nam mới dám nằm gần tôi. Hai đứa đắp chung một cái võng mỏng manh. Lúc tạnh thì tăng rải làm chiếu, võng làm chăn cho ấm. Lúc mưa thì rải võng làm chiếu, tăng làm chăn đắp cho khỏi ướt. Mùa Xuân năm ấy sao mà mưa rét đến thế. Cái rét, cái đói hành hạ chúng tôi ngày càng khốn khổ. Rồi cả cái võng hai đứa đắp chung ấy cũng không còn. Chúng tôi không nỡ để một cô thanh niên xung phong nằm xuống không có cái gì bó buộc.
Một buổi sáng còn sương muối còn mù mịt thì tiểu đội trưởng Quân gọi tôi:
- Tuấn ơi đi ngay!
- Đi đâu!
- Đi xuống bản Nà Sác! Bộ phận của thằng Nam tối hôm qua xuống bản lấy lương thực đến giờ vẫn chưa thấy về! Có chuyện không hay rồi.
Tôi vội vàng xách súng cùng tiểu đội trưởng Quân và một chiến sĩ trinh sát tiểu đoàn tụt xuống dốc núi. Chúng tôi tìm được chiến sĩ Lai nằm gục ở chân dốc. Cái ba lô gạo đeo trên lưng thấm máu. Lai bị thương nhẹ vào đùi nhưng vì đói quá nên lả đi không leo lên núi được. Lai thều thào cho chúng tôi biết hai người vào bản lấy được gạo, ngô quay ra thì gặp địch. Nam đã quay chặn địch và bảo Lai rút lui. Nam đã dũng cảm chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Nam bị bọn địch bắn chết bên bờ suối.
Mãi đến tối chúng tôi mới tiếp cận được chỗ Nam hy sinh. Chúng tôi đưa Nam qua suối, rửa mặt cho Nam. Chúng tôi lang thang dùng dây võng buộc chặt Nam vào người cõng nó lên núi.
Chúng tôi dùng xẻng bộ binh đào một cái rãnh trong khe đá đặt Nam xuống. Không còn một tấm vải liệm nào, tôi rút cái khăn mặt duy nhất của mình trong ba lô ra phủ lên mặt cho Nam.
4- Ba mươi năm qua rồi, Nam đã được đưa về quê hương. Hài cốt của nó được gói trong tấm lụa đặt trong hộp gỗ sạ hương phủ quân kỳ và mai táng trong nghĩa trang liệt sĩ. Nhưng câu chuyện về Nam và tấm vải liệm bây giờ tôi mới viết.
Đối diện
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Ông vung mạnh tay. Nhưng bàn tay ông chưa kịp giáng vào mặt thằng con một cái tát nẩy lửa thì chợt sững lại. Rồi cánh tay ấy từ từ hạ xuống như một tàu lá chuối non bị dí vào than đỏ. Trong đầu ông những lời của thằng con bỗng như một tiếng sét khiến ông bừng tỉnh. Ông thảng thốt nhận ra và đối diện một sự thật phũ phàng. Một sự thật mà bấy lâu nay ông vẫn thường tự phủ nhận, chối đẩy, không muốn nghĩ đến. Hoặc ông nghĩ nó là của người khác. Không ai nói với ông về sự thật ấy... Thế mà hôm nay, thằng con ông vẫn cưng chiều nhất đã nói làm ông choáng váng, sững sờ.
Thằng con ông hình như cũng hối hận vì những lời vừa nói ra. Nó bối rối nhìn ông đang ngồi sụp xuống sa-lông, hụt hẫng như một thân cây bị đốn ngã. Hồi lâu, nó lặng lẽ lui vào phòng riêng, để ông ở lại với những suy nghĩ của mình.
*
Có lẽ ông bắt đầu nhầm lẫn ngay từ khi được đề bạt làm đại đội trưởng với quân hàm trung úy lúc còn rất trẻ. Về nhận công tác ở một đơn vị có bề dày thành tích lại trẻ, đẹp trai, năng động nên tương lai của ông thật là tươi sáng. Đại đội thông tin của ông dạo ấy đa phần là con gái. Những cô gái trẻ măng vừa tốt nghiệp phổ thông là xung phong vào bộ đội. Cuộc chiến để giải phóng miền Nam đang ở vào giai đoạn kết thúc. Trong những cô gái ở đại đội nổi lên một người rất đẹp và duyên dáng. Ngày ấy chưa ai tổ chức thi hoa hậu, nếu có thì nhất định nàng đoạt vương miện. Ngay lúc đầu gặp nàng, ông đã sững sờ, mê mẩn. Nàng thật đáng yêu. Tính tình, giọng nói, tiếng cười của nàng khiến ông như bị hút mất hồn. Không hiểu từ lúc nào, ông đã yêu nàng. Một tình yêu hoàn toàn đơn phương nhưng đầy tự tin. Ông tin ở mình vừa tài hoa, vừa đẹp trai, lại là người chỉ huy trực tiếp của nàng. Ông luôn ưu ái, nâng niu, giúp đỡ nàng, dành cho nàng những món quà nhỏ, từ bánh xà-phòng thơm đến múi dù. Ông tin là nàng sẽ rất sung sướng nếu được ông ngỏ lời.
Nhưng niềm tin của ông vụt trở nên mong manh khi thấy nàng cứ ríu rít cười nói với anh chuẩn úy - đài trưởng 15 oát vừa mới bổ sung về đơn vị. Ông tìm mọi cách ngăn cản quan hệ giữa hai người. Nhưng rồi một đêm trăng sáng, một chiến sĩ đã báo cho ông biết: Ngọc - tên nàng và Thuấn - tên anh đài trưởng 15 oát đưa nhau lên đồi sim từ chập tối. Nỗi tức giận, sự lo về việc quản lý kỷ luật đơn vị (hồi ấy quan hệ tình yêu nam nữ bị coi là bất chính, là vi phạm kỷ luật quân đội) xen lẫn sự thất vọng, ghen tức, ông vớ vội khẩu súng ngắn lao lên đồi...
Dưới ánh trăng, ông đau đớn nhìn thấy hai người đang nằm bên nhau. Bàn tay của anh đài trưởng còn luồn trong ngực áo của nàng. Còn bàn tay nàng thì đang nắm chặt một nhành hoa sim tím. Hai người vừa thiếp đi sau những phút ái ân và dồn toàn bộ sức lực cho nhau. Trên môi họ còn đọng nụ cười sung sướng, thoả mãn. Đôi uyên ương đang chìm trong miên man chợt giật bắn người khi nghe một tiếng thét vang. Họ nhoáng nhoàng ngồi dậy trong ánh đèn pin sáng rực. Anh đài trưởng rút vội tay ra khỏi ngực cô bạn. Còn nàng thì lập cập cài lại khuy áo. Rồi, họ bước líu ríu bên nhau trước mũi súng của đại đội trưởng và bị dẫn giải về doanh trại như những kẻ phạm tội. Mà hồi ấy mà như vậy thì đúng là phạm tội. Sau đó là những cuộc kiểm thảo triền miên, hết chi đoàn lại đến tổ đài, trung đội, đại đội. Ngọc gầy rộc đi. Đôi mắt rất đẹp của nàng thâm quầng vì những đêm ngồi viết tường trình và kiểm thảo. Còn anh chàng đài trưởng 15 oát thì bơ phờ, ngơ ngác.
Ông chủ trì hoặc tham dự tất cả các buổi sinh hoạt kiểm điểm hai người. Ông kiên quyết đề nghị lên trên xét hình thức kỷ luật loại ngũ cả hai. Việc sẽ phải trở về quê hương trong lúc cả nước đang hướng ra tiền tuyến không khác gì những kẻ đào ngũ khiến cả hai đều hốt hoảng. Họ không ngờ việc làm của họ lại nghiêm trọng đến thế. Nàng khóc đến cạn nước mắt. Trong khi chờ trên quyết định hình thức kỷ luật nàng bị đưa xuống bộ phận nuôi quân chuyên chăn lợn. Còn anh đài trường thì bị thuyên chuyển sang đội xây dựng gồm chủ yếu là những phần tử "bê quay" đang cải tạo lao động. Rồi đơn vị hành quân vào miền Nam chiến đấu. Tất cả bị cuốn vào cái khí thế rừng rực của một mùa Xuân đại thắng, không ai còn biết số phận của đôi uyên ương ấy ra sao nữa. Riêng ông thì không bao giờ quên được họ. Bởi vì, đối với ông, ông luôn coi đó là thất bại đầu tiên của đời mình. Ông không hiểu vì sao với đầy đủ ưu thế mà lại không thể chinh phục được nàng. Ông đã làm mọi cách để gần gũi, nhưng nàng vẫn như một bông hoa không bao giờ ông hái được.
Bông hoa ấy lại thuộc về một anh đài trưởng xấu trai, kém thua ông mọi mặt. Điều ấy khiến cho ông càng thêm bức bối, đố kỵ. Nó cứ ám ảnh ông mãi. Cũng từ đó ông luôn cảm thấy mình bị thua thiệt trên đường đời. Sau chiến tranh, những người cùng lớp sĩ quan lục quân đều được phong cấp, phong chức nhưng ông bao giờ cũng kém họ một hai bậc. Họ là tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi sư đoàn trưởng thì ông cứ chỉ là tiểu đoàn phó, trung đoàn phó và sư đoàn phó. Ông đau khổ mỗi khi gặp đồng môn, đồng ngũ, đồng hương thấy họ luôn hơn hẳn mình. Mỗi lần gặp lại bạn cũ là thứ trưởng, vụ trưởng, tổng giám đốc, giám đốc, đi xe đời mới bóng lộn, tiêu tiền như nước là ông cứ nhoi nhói trong tim.
Ông đâm hay ra so sánh. Sự so sánh bao giờ cũng khập khiễng - có một nhà hiền triết đã bảo như thế. So sánh bao giờ cho cùng, nếu so với những người đã ngã xuống hoặc những người về phục viên theo đít con trâu ngoài ruộng thì ta còn hơn chán. Anh em cùng cơ quan vẫn nói thế. Nhưng ông thì ông không chịu. Ông nghĩ mình cũng vào Nam ra Bắc, đánh đông, dẹp tây, huân chương đỏ ngực, sống lại mô phạm, gương mẫu, luôn luôn ghi số O trong mục "kỷ luật" mỗi lần làm nhận xét cán bộ hay tự kiểm điểm đảng viên, hơn hẳn những kẻ bao giờ cũng "gái gủng" hay tranh cãi lại cấp trên. Thế mà, họ cứ thăng tiến ầm ầm còn ông thì không. Ông càng đâm ra oán trách tổ chức, cho rằng tổ chức không đánh giá đúng tài năng của mình. Sự ngộ nhận là người có tài mà không được sử dụng khiến ông ngày càng ấm ức. Ông đâm ra lầm lũi, khó hiểu. Khi còn ở đơn vị hết giờ làm việc chỉ thấy ông quanh quẩn với mấy chậu cây cảnh và vài ba hòn non bộ. Được điều lên cơ quan, sự ngộ nhận ấy trong ông càng nặng hơn. Lúc nào ông cũng nghĩ mình giỏi hơn người khác, việc gì cũng làm được, cái gì cũng có thể tham gia ý kiến được... Nhưng mãi ông cũng chỉ là một "chân" trợ lý bình thường nên sự bức bối càng không được giải toả.
Bạn bè, anh em cùng cơ quan có người biết sự ngộ nhận ấy nhưng nể, không ai muốn nói cho ông biết. Kể cũng khó, chả lại lại bảo thẳng là ông chỉ là cán bộ bình thường như bao người khác thôi, chả tài giỏi siêu nhân gì thì không ổn. Đành để ông "tự hiểu" vậy. Khốn nỗi, ông lại chẳng chịu hiểu cho...
Một hôm, ông được đơn vị cũ mời về kỷ niệm ngày truyền thống. Ông đăng ký xe và cho cả thằng con đang học dự khóa đại học quân sự cùng đi để nó kịp lên trường. Lúc thấy chiếc xe "đít vuông" phủ bạt bạc phếch đến đón, ông đã toan không đi nữa. Nhưng thấy thằng con vô tư khoác ba lô chui vào xe thì ông mới bỏ ý định quay về.
Chiếc xe cũ kỹ lọc khọc mãi mới nổ được máy. Ông phủi bụi rồi vừa ngồi xuống ghế vừa hỏi người lái xe:
- Cả đội xe của cậu không còn chiếc nào khá hơn à?
- Dạ còn nhưng phải trực để đưa thủ trưởng Sơn đi việc cần hơn...
Cái thật thà của chiến sĩ lái xe làm ông càng bực. "Thủ trưởng Sơn" mà cậu lái xe nói vốn là chiến sĩ của ông bây giờ cùng cơ quan nhưng lại là trưởng phòng. Nó có "việc cần hơn" nên được ưu tiên xe tốt hơn. Ông im lặng nuốt ực một cái, thấy đăng đắng trong miệng. Đường rẽ vào đơn vị cũ rất khó đi. Trời hanh khô. Bụi mù mịt. Xóc nẩy người. Đang bò một cách khó nhọc thì chiếc xe chợt "khự" lên một tiếng rồi lịm đi, nằm chềnh ềnh giữa đường. Người lái xe nhanh nhẹn nhảy xuống mở nắp máy xem xét rồi lôi hòm đồ nghề ra. Ông cũng chui ra khỏi xe cho đỡ nóng. Đứng xem lái xe sửa chữa một lúc, ông hất hàm hỏi:
- Liệu có chữa được không?
- Dạ em sẽ cố gắng nhưng hơi lâu ạ!
Ông lẩm bẩm: "Xe với pháo!". Giữa lúc đó thì có tiếng còi "phin... phin..." ở phía sau. Một chiếc Toyota bóng lộn dừng lại vì xe của ông choán hết đường. Ông vừa quay lại nhìn thì cửa chiếc xe du lịch bật mở. Một người mặc com-lê thẳng nếp lao ra mừng rỡ gọi to:
- Thủ trưởng Tới! Chào thủ trưởng Tới...
Ông ngỡ ngàng chưa kịp nhận ra là ai thì người đó đã ào đến nắm lấy tay ông hoan hỉ:
- Em là Thuấn đây! Thuấn "đài trưởng 15 oát" ở đại đội thông tin... Lâu quá! Hơn hai mươi năm rồi mới gặp lại thủ trưởng...
Không kịp nhận thấy cái giật nảy mình của ông, Thuấn quay về phía xe của mình gọi to:
- Ra cả đây! Gặp người quen cũ.. ra cả đi...
Một cô bé chui ra khỏi xe. Ông giật mình nhận thấy một bản sao có phần hoàn mỹ hơn của Ngọc. Ngọc bước ra sau con gái và cũng vui mừng khi nhận ra người quen cùng đơn vị cũ. Nàng vẫn rất đẹp. Qua câu chuyện lộn xộn vì quá vui mừng của họ, ông hiểu sau cái "đận" ấy, họ đều ra quân rồi cưới nhau và tham gia công tác ở địa phương. Bền bỉ vươn lên. Bây giờ Thuấn là bí thư huyện uỷ một huyện khá giàu. Ngọc là cán bộ phụ nữ huyện. Con gái lớn của họ đang học đại học. Hôm nay, cả hai vợ chồng cùng được mời về dự kỷ niệm ngày truyền thống trung đoàn cũ. Họ cho cả cô con gái đi theo. Hai vợ chồng Ngọc càng nói chuyện vui vẻ, vô tư bao nhiêu thì ông lại càng gượng gập bấy nhiêu.
May mà nhờ anh lái xe của Thuấn giúp sửa chữa nên chiếc xe của ông cũng nổ máy lại được. Thuấn cứ khẩn khoản mời ông lên xe của mình ngồi cùng để nói chuyện nhưng ông khéo léo từ chối nói là phải tạt vào nhà người quen, chưa về đơn vị cũ ngay. Khi gọi cậu con trai lên xe, ông giật mình khi thấy nó đang cười nói với cô con gái của Ngọc ở phía sau xe. Đường hẹp nên chiếc xe của ông cứ phải lọc cọc chạy trước. Suốt đoạn đường dài ông cảm thấy như có lửa táp ở phía sau gáy. Gặp ngã ba, ông bảo lái xe rẽ luôn để cho xe Thuấn vượt lên.
Suốt hai ngày ở trung đoàn cũ, ông được mọi người trân trọng, chỗ này mời kể chuyện truyền thống, chỗ kia kéo lên bàn danh dự, quay phim, chụp ảnh đủ cả. Nhưng lúc nào ông cũng cứ như người đang ngây ngấy sốt. Ông cố tránh chạm mặt nhiều lần vợ chồng Ngọc. Hết mấy ngày lễ hội kỷ niệm đơn vị cũ, ông lặng lẽ ra về không chia tay với họ.
*
Sau chuyến về trung đoàn cũ ấy ông bỗng trở nên ít nói. Mọi công việc được giao ông đều hoàn thành. Cấp trên cử ông vào ban nghiên cứu đề tài khoa học. Có tin ông sẽ được đề bạt vào chức vụ lãnh đạo. Lại có tin ông sắp về hưu nay mai. Rồi quy hoạch cán bộ đến năm 2010, tên ông người thì bảo có, người lại bảo không, chẳng biết đâu mà lần. Ông cũng đã hiểu ra nhiều điều, bớt so sánh và an phận hơn.
Mọi chuyện tưởng đã yên thì đùng một cái thằng con ông dẫn một đứa con gái về xin cưới. Đó lại chính là cô con gái cưng của Thuấn và Ngọc. Thì ra hai cô cậu đã "bén" nhau ngay từ hôm theo bố mẹ đi dự truyền thống đơn vị cũ. Mặc cho bà vợ ông mê tít cô gái vừa xinh xắn, vừa ngoan ngoãn, ông kiên quyết phản đối. Ông không nói rõ lý do tại sao. Mà có lý do gì nữa thì cậu con trai ông cũng không bao giờ từ bỏ một cô gái đẹp tựa tiên sa như thế.
Cuộc chiến trong gia đình ông bùng nổ. Một mình ông đối diện với vợ và các con. Cô con gái út của ông đang học lớp 9 cũng rất thích có một chị dâu đẹp và giỏi giang như vậy. Trước sự dứt khoát của ông, trong khi Ngà - tên cô gái sợ hãi, lo lắng thì thằng con ông lại tỏ ra bình tĩnh. Nó đã có được cái bản lĩnh của người lính sau ba năm quân ngũ và trong trường đại học quân sự. Nó lặng lẽ tìm hiểu nguyên nhân vì sao bố mình lại từ chối một cô con dâu như thế. Và nó quyết định đối diện với ông trong một cuộc nói chuyện thật khó khăn. Nó ngập ngừng nói trước:
- Con biết vì sao bố không cho con lấy Ngà rồi! Ngày trước, bố và bố mẹ cô ấy đã có chuyện...
- Im ngay!
Ông chặn họng nó. Nó không chịu:
- Bố để cho con nói... - Nó kiên quyết: - Con biết bố cả đời phấn đấu vươn lên nhưng nhiều việc không được như ý. Bố vẫn nghĩ mình có tài nhưng không đắc dụng. Bố luôn so sánh, kèn cựa với người khác nên bố sống khắc khổ. Nhưng theo con nghĩ, nỗi khổ của bố chính là sự ngộ nhận về mình...
- Câm ngay!
Ông quát và vung tay lên. Nhưng ông không dám tát thằng con vì nó đã nói đúng cái sự thật mà chưa ai nói với ông một cách thẳng thắn như thế...
Độc hành
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Gã vừa đi vừa lẩm bẩm: "Ta là một kẻ độc hành... ta chính là một kẻ độc hành... ta...". Đôi chân gã líu díu. Mấy chén rượu ngô của con mẹ ở cái quán cóc đầu dốc vào nông trường làm gã hơi chếnh choáng. Gã không say. Đối với gã vài chén rượu không thể say. Chỉ vì gã đang đói. Từ tối hôm qua đến trưa nay gã chưa có hột cơm nào vào bụng. Lại sợ không kịp gặp được con bé Duyên, tâm trạng thấp thỏm nên gã mới như thế.
Gã định dừng lại nghỉ một lát nhưng lại thôi. Gã phải đi ngay mới kịp. Đôi chân gã hình như có thêm chút sức lực. Con đường nhỏ xẻ qua vùng đất bằng phẳng nhất của nông trường thẳng như kẻ chỉ. Màu đất đỏ au đến nhức mắt. Đang giữa trưa mùa hè nóng bỏng, không một bóng người, bóng xe. Gã là kẻ độc hành. Một mình gã lầm lũi bước trên đường. Cái lưng hơi gù khiến mặt gã luôn úp xuống mặt đất.
Ba mươi năm rồi gã mới lại đi trên con đường này. Gã chợt sửng sốt nhận ra một quãng thời gian dài đến kinh khủng ấy. Gã cũng thật không ngờ mình lại có thể tồn tại đến tận bây giờ. Đường đời thăm thẳm... hình như gã đọc được câu này ở đâu rồi thì phải.
Con đường thăm thẳm của đời gã bắt đầu từ ba mươi năm trước. Ngày ấy gã là một chàng trai trẻ hăm hở, khoẻ mạnh, một bí thư chi đoàn năng nổ, xông xáo. Đất nước hoà bình, đơn vị gã chuyển sang làm kinh tế. Họ hạ trại giữa rừng khai khẩn đất đai hoang hóa làm nông trường trồng cây công nghiệp. Nhiều công nhân được tuyển thêm, phần đông là nữ. Những cô gái tuổi mười tám, đôi mươi, căng tràn sức trẻ. Họ sống giữa rừng bao khó khăn thiếu thốn nhưng suốt ngày ca hát ồn ào. Nhưng chính cuộc sống cách biệt giữa rừng, nam nữ đều ứ tràn nhựa sống ấy không tránh khỏi những mối quan hệ mà ngày ấy vẫn gọi là "bất chính". Hết buổi phát cây, cuốc đất, con gái, con trai cùng ào xuống suối tắm cách nhau chỉ một gộp đá, chả quần chả áo gì, màu đen, màu trắng loang loáng trong làn nước trong xanh. Buổi tối sinh hoạt, đèn đóm nhập nhoạng, nam nữ tay chạm tay, ngực chạm ngực thật khó ngăn cản, chế ngự được cái ham muốn vốn là bản năng của con người.
Cái chi đoàn do gã làm bí thư mấy lần phải biểu quyết khai trừ những đoàn viên hủ hoá, vi phạm đạo đức, phẩm chất. Nhưng rồi thì chính gã cũng bị vướng vào cái vòng luẩn quẩn ái tình ấy. Chỉ khốn nạn là gã chả được xơ múi gì mà tự dưng bị cái họa "người ăn ốc, kẻ đổ vỏ". Đấy là chuyện của gã với cô Nhân. Cô Nhân đẹp nhất đám con gái nông trường. Nước da cô trắng hồng. Ông phó giám đốc phụ trách công tác quần chúng "thanh-phụ-công" (thanh niên, phụ nữ, công đoàn) đã có vợ con ở quê hay trưng dụng cô lên phụ giúp việc ghi chép sổ sách. Cô đỡ được một buổi phải trằn mặt phơi nắng cuốc đất, đào gốc cây ngoài thung lũng đầy gió nóng. Rồi việc giúp ghi chép sổ sách, phục vụ nước nôi ban giám đốc của cô Nhân thường xuyên hơn.
Thế rồi một hôm cô Nhân thấy tháng chậm và hay nôn oẹ. Cô vội tìm ông phó giám đốc báo tin. Ông ta mặt mũi tái nhợt đi vì sợ. Chuyện đời vẫn vậy, lúc vui vẻ thì thích thế nhưng khi hậu quả xảy ra thì lại sợ đến thế. Ông ta thừ người đi một lúc, tim đập loạn xạ. Nhưng vốn bản tính ti tiện ông ta nghĩ ngay ra một kế hoạch đổ vấy cho người khác để khỏi ảnh hưởng đến con đường công danh và cái ghế giám đốc đang đến rất gần. Cô Nhân nghe lời ngon ngọt, hứa sẽ cho đi học trung cấp kế toán đã đồng ý với phương án do ông vạch ra.
Tối hôm đó nông trường có buổi chiếu phim. Gã tranh thủ cái loa của đội chiếu bóng mấy phút phổ biến cho chi đoàn tình hình thời sự. Gã nói về âm mưu của bọn phản động quốc tế đối với nước ta. Gã hô hào đoàn viên thanh niên vừa phải hăng hái lao động sản xuất xây dựng các công trình xã hội chủ nghĩa vừa phải sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới lãnh thổ. Trước khi ngừng lời gã còn hát một bài hát ca ngợi tuổi trẻ được đám thanh niên vỗ tay ầm ầm tung hô tán thưởng. Khi phim vừa chiếu được hai cuốn thì có một ai đó gọi báo tin cho gã biết cô Nhân ốm nặng cần đưa đi viện. Gã vội vàng bỏ buổi xem phim đi về phía khu nhà tập thể. Gã là bí thư chi đoàn, đoàn viên bị ốm gã phải có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc.
Khu tập thể vắng ngắt. Mọi người đều kéo nhau đi xem vì cả tháng mới có một buổi chiếu bóng. Gã đến ngay phòng cô Nhân. Trong nhà đèn còn sáng. Nghe tiếng gã gõ cửa, cô Nhân ra mở. Gã rụt rè bước vào phòng. Cô Nhân đang mặc độc một cái áo lót trắng. Cặp vú của cô hiện rõ mồn một, cong vênh lên sau lần vải mỏng tang. Gã lúng túng đỏ mặt. Gã phải ý tứ nhìn tránh đi chỗ khác. Gã vừa kịp hỏi han vài câu về bệnh tình của Nhân thì cái bóng điện đỏ nòng nọc như mắt cú mèo vụt tắt. Gã hốt hoảng bật dậy định chạy ra ngoài. Cô Nhân rú lên: "Ma... ma..." và nhào đến ôm chặt lấy gã. Cặp vú nóng hổi nây nẩy của cô áp chặt vào cánh tay gã. Gã đang lúng túng gỡ cánh tay cô gái ra thì có tiếng hô "Bắt... bắt... lấy... nó...". Tiếng đạp cửa. Nhiều ánh đèn pin quét thẳng vào phòng. Cô Nhân vẫn ôm chặt gã. Điện bật sáng. Gã sửng sốt nhận ra ông phó giám đốc "thanh-phụ-công" cùng mấy anh bảo vệ, có cả bà cán bộ phụ nữ và ông đại diện công đoàn ập vào phòng. Lúc này gã cũng mới nhận ra cô Nhân đã lột cái áo lót ra từ lúc nào. Cả nửa phần trên thân thể cô trắng mịn như thạch cao. Cô Nhân vội buông gã bưng lấy ngực. Hai bàn tay nhỏ không che hết bộ ngực đã nở to.
Chả phải nói thêm cũng biết điều gì sẽ xảy ra. Đám người ấy lập tức lập biên bản bắt quả tang gã và cô Nhân hủ hóa, quan hệ bất chính. Gã không chịu ký. Cô Nhân thì ký ngay. Cũng chả cần thiết. Gã không ký vào biên bản cũng chẳng sao vì đã bắt quả tang, có sự chứng kiến của đủ các thành phần rồi. Các cuộc kiểm điểm gã bắt đầu liên miên hàng tối. Cuộc đời gã bước sang trang mới từ ấy. Người ta thải hồi gã khỏi cái nông trường xã hội chủ nghĩa mà gã từng nghĩ mình sẽ tâm huyết, gắn bó. Gã quyết định trở về quê mặc dù bố gã biết tin đã nhắn lên: "Đừng có vác mặt về làng, nhục lắm con ơi!". Bố mẹ gã đều là nhà giáo, cả đời gõ đầu trẻ dạy luân lý đạo đức. Hai ông bà không chịu nổi nỗi nhục lớn thế này.
Gã đeo cái ba lô lộn ra ga. Ga xép ít tàu dừng lại đón khách. Ngồi chờ tàu gã ngủ gà ngủ gật. Đã bao đêm gã mất ngủ vì sự việc vừa qua. Khi gã vừa chợp mắt thì bỗng có tiếng ai đó gào lên thất thanh: "Kẻ cắp... kẻ cắp... nó lấy hết tiền của tôi rồi... ối trời ơi là trời...". Gã bật dậy. Cái ba lô gã gối đầu lên để ngủ cũng đã biến mất. Đầu gã đang gối lên một cục gạch cứng ngắc. Gã hốt hoảng vì mất đồ. Thực ra gã cũng chẳng có gì đáng giá nhưng cái tâm trạng bị mất cắp cứ làm cho gã bàng hoàng, thảng thốt. Gã vội lao theo những người đuổi bắt kẻ trộm. Phía bên ngoài nhà ga ánh đèn nhập nhoạng. Gã áp sát một cái bóng đen đang lủi nhanh vào khu vườn tối. Chợt có ai quét mạnh ngang ống chân. Người gã lao chúi về phía trước chới với rồi ngã sấp xuống.
- Định chạy hả! Quân chuyên nghề trộm đạo này ghê thật...
- Không... không... phải... tôi... không phải...
- Không phải à! Ăn cắp còn già mồm hả?
Gã bị khoá tay và lôi đứng dậy. Mọi người xúm quanh. Gã nhận ra người đã đốn ngã và khoá tay gã là một anh công an. "Bắt... bắt được trộm rồi..." - Tiếng nhiều người lao xao. Có một thanh niên lao đến tống vào ngực gã một thụi làm gã lảo đảo. Anh công an phải huýt còi ré lên liên hồi mới ngăn được đám người đang bị kích động. Có ai còn cố ném một cục gạch vào bụng gã đau điếng. Gã được dẫn vào trạm công an nhà ga.
Gã ra sức thanh minh nhưng không ai chịu tin. Họ khẳng định gã chính là đồng bọn của lũ lưu manh chuyên trộm cắp tại ga. Anh công an yêu cầu gã xuất trình giấy tờ. Nhưng tất cả giấy tờ gã để trong cái ba lô bị mất cắp. Công an kiểm tra người gã chỉ thu được một bản tự kiểm điểm tại nông trường. Tờ giấy gã vô tình nhét vào túi áo ngực cái hôm họp chi đoàn xét kỷ luật gã. Vì thế họ càng nghi ngờ. Gã bị tạm giữ để người ta thẩm tra nhân thân. Việc điều tra chỉ thêm bất lợi cho gã. Gã bị tạm giam mấy tháng. Nhưng rồi không có thêm bằng chứng gì ngoài những thông tin thu thập được ở nông trường nơi gã vừa bị đuổi việc nên người ta đành thả gã. Gã lại ra ga. Nhưng gã chả biết sẽ đi đâu. Không có tiền gã vật vờ ở nhà ga mấy hôm. May có một kíp thợ chuyên đào giếng thuê cần người gã liền đi theo họ. Từ thợ đào giếng gã chuyển sang làm dân đào đãi vàng. Gã lăn lộn ở các mỏ vàng nơi rừng sâu núi thẳm. Gã bị bóc lột sức lực đến cạn kiệt, bị bọn chủ bưởng, bọn bảo kê ăn chặn cướp từng nhúm cám vàng chắt chiu để giành mong làm lại cuộc đời. Con giun xéo mãi phải quằn, bị dồn đến chân tường gã đâm ra liều. Từ hôm gã đâm trọng thương thằng thủ lĩnh bảo kê mỏ vàng thì bọn tay chân lau nhau của nó khiếp sợ. Bọn chúng quay ra suy tôn gã làm đại ca. Gã gom tiền vàng cho bọn tay chân đưa thằng cầm đầu bị trọng thương về tận quê chạy chữa.
Từ ấy gã càng ngày càng nổi tiếng. Nhưng cũng từ đó gã càng cô độc hơn, không tin bất cứ ai. Khi thức tai gã luôn lắng từng tiếng động. Lúc ngủ gã cũng chỉ dám nhắm một mắt, dao kiếm gối đầu giường. Các ông chủ hầm khai thác vàng nem nép. Gã sẵn sàng dẫn quân đi đâm thuê, chém mướn khắp vùng. Công an truy quét. Bị bắt gã đi tù. Ra tù gã lại tập hợp bọn tay chân, lại đánh chém, lại bảo kê mỏ vàng. bảo vệ bọn buôn lậu gùi hàng qua biên giới. Sau lần dẫn quân tập kích vào trạm kiểm soát biên phòng, cướp hàng buôn lậu, đánh trọng thương một chiến sĩ thì gã và đồng bọn bị truy lùng ráo riết. Gã bị bắt khi đang tìm cách vượt biên. Khám xét trong người gã công an còn thu được cả mấy tép hêrôin nữa. Thế là gã lại vào tù. Ba lần vào tù gã quen với cảnh gông cùm lắm rồi. Cái án bảy năm tù đối với gã chẳng dài, chẳng ngắn. Cuộc đời gã ở ngoài xã hội lăn lộn giang hồ cũng dài lê thê mà ở trong tù cũng vậy. Bố mẹ gã đều đã chết. Quê hương, cái vùng quê đồng chiêm chũng quanh năm ngập nước Ninh Bình đối với gã chỉ còn trong trí nhớ lờ mờ. Mấy chục năm rồi gã không về quê. Cả những khi kiếm được tiền gã cũng không muốn về quê. Cái buổi lễ lên đường tưng bừng gã được lên phát biểu giữa một biển người hứa sẽ phát huy truyền thống anh hùng của quê hương ra sức phấn đấu lập nhiều thành tích làm rạng danh non sông đất nước vẫn còn ám ảnh gã. Gã tính toán nếu không được ân xá, đặc xá thì khi ra tù gã sẽ tròn ba nhăm năm xa quê, kể từ buổi giơ cánh tay tuổi trẻ lên xin thề trước biển người ngày ấy.
Gã chợt nhớ tới cánh tay tuổi trẻ của mình ngày ấy sao mà căng đầy sức sống. Bất giác gã vén tay áo lên nhìn. Cánh tay của gã bây giờ chằng chịt những hình xăm cổ quái, dày vết sẹo và dấu kim tiêm. Da thịt trên cánh tay gã đã nhăn nhúm. Bàn tay phải của gã sau lần bị một nhát chém thấu xương cứ mỗi khi trái gió trở trời lại đau nhức. Lưng gã cũng càng ngày càng gù xuống sau bữa bị sập hầm vàng, đất đá đè lên người. May mà gã thoát chết. Gã chợt thấy buồn. Hoá ra mấy chục năm đường đời gã vẫn chỉ là một kẻ cô đơn, độc hành.
Một buổi sáng chủ nhật gã đang cùng đám phạm nhân vun xới mấy luống hoa ở sân trại thì anh giám thị gọi:
- Phạm nhân Trần Văn Thủy ra có người nhà lên thăm nuôi!
Gã giật mình ngẩng đầu lên rồi lại cúi xuống nhổ cỏ. Người giám thị phải gọi lại một lần nữa. Gã ngạc nhiên lập cập đứng dậy. Gã làm gì còn ai là người thân nữa đâu. Gã theo người giám thị ra nhà khách. Gã ngơ ngác lần đầu tiên bước vào căn phòng giành cho phạm nhân và người nhà tiếp xúc trò chuyện khi đến thăm nuôi. Có mấy đôi vợ chồng, bố con đang ngồi nói chuyện, mấy người đang ngồi chờ. Gã không trông thấy ai là người quen cả.
Người giám thị dẫn gã đến trước mặt một cô gái rồi bảo:
- Hai bố con anh chỉ có có một tiếng thôi nhé!
Gã ngỡ ngàng. Còn người con gái thì chăm chú nhìn gã rồi kêu lên nghẹn ngào:
- Bố ơi! Đúng là bố rồi...
Gã càng ngạc nhiên. Ú ớ một lúc gã mới hỏi lại được một câu:
- Sao... sao cháu lại gọi ta là bố...?
- Con là Duyên... con của bố đây mà...
Gã toát mồ hôi và càng không hiểu đầu đuôi ra sao. Trong đầu gã nhớ nhanh những mối quan hệ với những người đàn bà trong đời. Nhưng chưa có trường hợp nào có thể có con cả. Cô gái cũng lập cập, nước mắt giàn giụa. Lúng túng mãi cô mới mở được cái túi lôi ra đủ các loại bánh kẹo và mấy hộp bia vừa khóc vừa bảo: "Bố ăn đi... bố ăn đi...". Gã cố trấn tĩnh. Cô gái cũng đã bình tĩnh lại. Cô nói:
- Đã bao nhiêu năm nay con đi tìm bố... không ngờ đời bố lại khổ thế...
Cô bé kể lại chuyện của cô và của mẹ mình. Nghe kể gã mới hiểu ngọn ngành. Thì ra sau khi gã bị đuổi khỏi nông trường hơn nửa năm thì cô Nhân sinh con. Cô đặt tên con là Duyên. Chiến tranh biên giới nổ ra cả cô Nhân và ông phó giám đốc "thanh-phụ-công" cùng rất nhiều người nữa bị giặc bắn chết. Nông trường bị đốt phá. Bé Duyên được ông bà ngoại đưa về quê nuôi. Lớn lên cô bé xin làm công nhân nông trường của mẹ ngày trước. Nó quyết tìm hiểu rõ gốc gác của mình. Có người còn nhớ lại chuyện hai mươi năm trước đã kể cho cô bé nghe. Duyên tìm lại hồ sơ của cơ quan. Cơ quan nông trường bộ bị đốt phá, các loại tài liệu, giấy tờ bị cháy, bị mất rất nhiều. Người ta chỉ còn tìm thấy cái biên bản bắt quả tang, cái quyết định kỷ luật, một tấm ảnh chụp chung chi đoàn của mẹ... Thế là cô bé quyết đi tìm gã vì nghĩ đó chính là bố đẻ ra mình. Cuộc hành trình đi tìm cha của cô bé thật li kỳ và khó khăn. Nhưng nó đã bị lệch hướng, sai ngay từ đầu.
Biết có sự nhầm lẫn nhưng gã thấy thật khó giải thích rõ ràng. Mà biết giải thích thế nào bây giờ. Ngày ấy người ta đã đổ riệt cho gã rồi. Gã từng cãi mãi mà chẳng ai thèm nghe. Bây giờ nhân chứng, vật chứng đều không còn, quá khứ đã mù mờ. Trong khi đó cô gái thì rạng rỡ trong niềm vui gặp được bố. Không quan tâm nhiều lắm chuyện bố đang là phạm nhân phải ngồi tù, nó nắm tay gã bảo: "Hàng tháng con sẽ đến thăm bố. Từ nông trường đến đây cũng không xa lắm bố ạ...". Con bé giữ đúng lời hứa. Nó thường xuyên đến thăm gã. Lần nào gã cũng định phải nói thật rõ ràng cho nó biết mọi chuyện nhưng cứ nhìn thấy nét mặt vui vẻ của con bé là gã lại không nói được. Mà có nói thì chắc gì nó đã tin.
Kể từ khi gặp con bé, gã bắt đầu có sự thay đổi. Gã chấp hành nội quy của trại tốt hơn, làm việc chăm chỉ, cải tạo tốt hơn. Gã cũng không hiểu từ lúc nào mình lại dễ xúc động và mềm yếu hẳn đi. Hàng tháng gã tự dưng bồn chồn hay ngong ngóng con bé lên thăm.
Một hôm cái Duyên đến thăm gã. Nhìn nét mặt nó có vẻ buồn gã thấy lo lo. Gã chưa kịp hỏi thì con bé đã oà khóc. Gã hoảng hốt nghĩ hay là nó đã biết hết mọi chuyện rồi. Gã tự trách mình là tại sao không nói rõ ràng mọi chuyện ngay từ đầu. Cái Duyên chùi nước mắt bảo:
- Bố ơi! Thế là con không còn đến thăm bố được nữa rồi...
- Sao thế?
Gã buột miệng vẻ hốt hoảng. Con bé ngập ngừng mãi mới nói tiếp:
- Con... con... vừa được cử đi học thêm ở nước ngoài. Con sắp phải đi rồi bố ạ!
Gã cố nén thở phào nhẹ nhõm. Gã hỏi:
- Bao giờ con đi?
- Khoảng hơn hai tháng nữa bố ạ! Con phải chuẩn bị các tài liệu cần thiết để sang bên đó còn làm luận án. Nhưng con sẽ cố bố trí để lên thăm bố một lần nữa...
- Không phải lên thăm nữa đâu. Tập trung vào việc chuẩn bị đi học cho chu đáo con ạ! - Gã bảo.
Cái Duyên không đến thăm gã như đã hứa. Chắc nó quá bận. Hôm gã nhận được thư của nó cũng là hôm gã được đặc xá. Gã vội vàng bắt xe về cái nông trường ngày xưa từng làm việc. Gã mong gặp ngay cái Duyên. Gã dự định sẽ nói hết mọi chuyện cho nó biết, cho dù nó có tin hay không. Gã về đến nông trường thì đã quá trưa. Ở đây chả ai biết gã nữa. Lớp cán bộ, công nhân bây giờ mới cả. Hỏi thăm gã mới biết cái Duyên đã về Hà Nội để ngày mai lên máy bay. Mọi người khuyên gã nên về ngay Hà Nội còn kịp ra sân bay tiễn con. Thế là đang giữa trưa nắng gã đã cuốc bộ dọc con đường đất đỏ ra ga kịp chuyến tàu chợ xuôi lúc chập tối.
Gã cắm cúi rảo bước. Vừa đi gã vừa lẩm bẩm: "Ta là kẻ độc hành... ta mãi là kẻ độc hành...". Chợt có một cơn gió thổi ào ào qua thung lũng nông trường. Không gian bớt hẳn sự oi nóng. Con đường độc đạo phía trước mặt gã hình như ngắn lại đôi chút.
Bây giờ mới kể
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Ngày ấy, tôi ở đơn vị truyền đạt. Chúng tôi thường xuyên phải cơ động trên tuyến đường từ Đại Từ, Thái Nguyên đi Văn Chấn (Yên Bái) là nơi đơn vị đang lao động xây dựng doanh trại. Thời ấy phải đi công tác trên đường là một sự khổ nạn vì tàu xe rất khó khăn. Chuyện hành khách nằm chờ vạ vật hàng ngày trời ở bến xe, bến tàu vì không mua được vé là chuyện bình thường. Mua được vé cũng chưa chắc có xe. Tuy vậy có vé xe trong tay cũng yên tâm hơn. Để mua được cái vé xe khách thì là cả một cực hình. Xếp hàng chen lấn, xô đẩy nhau từ nửa đêm gà gáy đến sáng, đứng tê chân mỏi gối chờ cả buổi, chỉ hy vọng mua được một cái vé.
Một lần, tôi và Cù Xuân Thà được lệnh chuyển công văn, thư báo từ Thái Nguyên lên Yên Bái. Đêm mới có tàu xuôi nên chúng tôi đi ô tô khách về Hà Nội để mua hạt rau giống đem lên đơn vị. Chúng tôi bám xe đi lấy gạo của đơn vị từ Đại Từ xuống bến xe Thái Nguyên. Tới bến xe, Thà bảo:
- Mày vào xếp hàng mua vé, tao ra chợ Đồng Quang mua lấy vài lạng chè Thái chính hiệu mỗi thằng một ít, sau khi chuyển xong công văn tạt qua nhà làm quà...
Nói xong Thà đi ngay. Tôi vào bến xe xếp hàng. Bến còn thưa khách. Cửa bán vé chưa mở nhưng mọi người vẫn cứ phải đứng xếp hàng chờ sẵn từ mờ đất. Thấy chỗ đứng cũng chỉ cách vài người là đến cửa bán vé tôi rất yên tâm. Nhưng một lát sau, các em sinh viên từ các trường trung cấp, cao đẳng Thái Nguyên ùa ra. Em nào cũng xinh đẹp. Các em cứ cười cười, nói nói chen vào giữa hàng. Một lúc sau tôi đã bị đẩy ra đến giữa sân. Trời lại bắt đầu lất phất mưa.
Thà đi mua chè về. Tay nó cầm hai gói nhỏ, mỗi gói độ hai lạng. Chúng tôi làm gì có tiền mà mua nhiều. Với lại thời ấy mà đem theo đến khoảng một cân chè là sẽ bị phòng thuế, công an bắt ngay vì cho là buôn lậu. Nhìn thấy tôi đứng mãi giữa sân bến xe, Thà cáu:
- Lúc nãy mày xếp hàng gần sát cửa bán vé cơ mà?
- Nhưng... các cô ấy cứ chen vào! Mà toàn là con gái... ai lại đi tranh giành với họ...
- À! Tao hiểu rồi! Mày là chúa sĩ diện hão. Mày xếp cuối hàng thế này thì đến nơi là hết vé. Không đi được chuyến này thì lại đến sáng mai mới lại có chuyến tiếp theo... Lỡ chuyến công văn thì ăn kỷ luật cả hai thằng đấy...
Thà thừ người một lát rồi chợt gật gù bảo:
- Mày ra quán mua cho tao đầy bi-đông nước sôi vào đây!
- Mày định thử chè à?
- Thử gì mà thử...
Thà lẩm bẩm và đưa cho tôi cái bi-đông loại "dái dê". Đây là loại bi-đông thon thon như một quả nhót bên ngoài bọc nỉ để ủ cho nước luôn ấm. Tôi mua mấy hào nước sôi đổ đầy bi-đông đem về. Thà rút dao găm cắt bỏ một miếng nỉ ở đáy cái bi-đông. Đoạn nó đeo cái bi-đông vào người quay ra phía trước bụng, choàng một cái áo bông lù sù lên người và bảo:
- Mày coi đồ để tao xếp hàng cho!
Nói đoạn nó đứng vào cuối hàng. Tôi nghĩ khéo bệnh sốt rét của thằng này sắp tái phát nên nó phải đeo bi-đông nước nóng vào người cho khỏi lạnh. Nhưng chỉ một lúc sau đã thấy một em sinh viên nhường cho nó lên phía trước. Rồi lại một em nữa, một em nữa... Cứ thế chỉ một lát sau nó đã tiến sát đến gần cửa bán vé của nhà xe. Tôi chưa hiểu tại sao thì chợt nghe tiếng một bà sồn sồn, có vẻ là dân buôn bán kêu lên:
- Ơ...ơ... cái anh này! Sao cái gì... của anh lại nóng hôi hổi dí vào... tôi như thế hả?
Lúc này tôi chợt hiểu. Thì ra nó cắt miếng nỉ cái bi-đông cho hở ra. Khi đứng xếp hàng sau các em sinh viên, nó áp cái bi-đông nóng vào mông, vào sườn, vào lưng các em. Các em thấy nóng hôi hổi cứ nghĩ là... cái kia nên xấu hổ mà không dám kêu và cứ phải nhường cho nó lên xếp hàng phía trước. Thế nên nó nhanh chóng áp sát cửa bán vé và mua được vé xe.
Tôi được một bữa cười đến vỡ bụng vì cái mưu kế "bi-đông dái dê" của nó. Chuyện này sau hơn ba mươi năm, bây giờ tôi mới kể lại. Tên người có thể thay đổi nhưng chuyện thì không thay đổi. Thà ơi! Các chiến hữu năm xưa ơi, nếu ai đọc được chuyện này, điện hoặc nhắn tin về cho tao nhé. He he...
Chiến thuật Tết
Truyện cực ngắn của Trọng Bảo
Đi một chuyến công tác "tránh rét" ở phía Nam ra đã gần Tết, xuống sân bay, bà Tòe vội gọi tắc-xi chạy ngay về nhà. Dọc đường, bà hình dung ra cảnh trong nhà đã đầy ăm ắp đồ mừng Tết. Mọi thứ từ cao lương mỹ vị cho đến cây quất, cành đào đều có người mang đến hoặc do ông chồng đi cơ sở xách về. Năm nay, ông lại làm to hơn có mà ăn cả năm chả hết...
Thế nhưng về đến nhà, bà sửng sốt thấy nhà cửa vắng ngắt, buồng trong, phòng ngoài vẫn còn rỗng tuếch chưa có gì cả. Bà cất tiếng gọi cái Tóe, thằng Tọe mãi mà không thấy đứa nào. Một lúc sau mới thấy con Toe đi học lớp năm về, bà gắt:
- Bố mày đi đâu! Hai sáu, hai bảy Tết rồi mà chưa sắm sửa gì à?
- Bố đi bệnh viện mấy hôm nay rồi!
- Bố mày ốm đau thế nào! Hôm qua gọi điện cho mẹ còn nói oang oang cơ mà?
Con Toe lắc đầu bảo không biết khiến bà Tòe càng bực. Bà tức tốc phóng xe máy đến bệnh viện. Vừa đến cổng bệnh viện thì thấy ông Tòe đang ung dung xách cặp đi ra, bà rên rỉ:
- Năm nay thì mất... mất Tết thật rồi! Năm ngoái gần Tết, bận tối mắt tối mũi mà ông vẫn còn "tích cực" đi kiểm tra, chúc Tết cơ sở, gạo nếp, đỗ xanh, gà qué, đặc sản các địa phương đem về đầy nhà. Năm nay gần Tết, ông lại còn giở chứng, giở quẻ ốm đau đi viện...
Ông Tòe im lặng không nói gì làm bà càng tức. Về đến nhà, sau khi đóng cổng cẩn thận, ông gọi bà vào buồng mở cặp dốc ngược xuống và bảo:
- Bà xem đây!
Một đống "phong bì" rơi ra. Bà vội vồ lấy mở ra. Toàn loại tiền 500 ngàn đồng, cả đô-la nữa. Bà Tòe lập cập hỏi, líu cả giọng:
- Ở... ở... đâu mà nhiều thế?
- Thì tôi "ốm" phải đi bệnh viện, các cơ quan, các ngành họ đến thăm, nhân thể mừng Tết luôn. Ở bệnh viện nên người ta đưa bằng "phong bì" cho tiện và kín đáo...
- Quả là ông tính toán khôn thật!
Ông Tòe vênh mặt lên đắc chí:
- Chả không à! Tết năm ngoái họ xách quà cáp ra vào tấp nập, rồi mình phải đi cơ sở xách về vừa cồng kềnh, mệt xác vừa bị hàng xóm soi mói. Năm nay, thay đổi "chiến thuật" một tí vừa gọn nhẹ mà lại chẳng ai biết.
Bà Tòe vừa đếm tiền vừa xuýt xoa vô cùng khâm phục ông chồng. Số tiền này còn giá trị gấp mấy chục lần số đồ mừng Tết năm ngoái. Bây giờ bà có mua cả chợ cũng được, "chiến thuật Tết" của ông ấy giỏi thật... giỏi thật... hi... hi...
Đáy vực
Truyện ngắn của Trọng Bảo
1- Chuyện ma đi đò
Con sông Đáy chảy đến đầu làng Vực thì bị bẻ gập lại. Dòng nước xiết đâm thẳng vào một mỏm đá bật trở lại một đoạn rồi mới có lối chảy về xuôi. Nơi dòng sông bị gấp lại tạo nên một vùng xoáy nước lớn, sôi sùng sục như một cái chảo khổng lồ khi mùa lũ lớn. Những người đi bè từ thượng nguồn về đến đây thường phải chèo chống rất vất vả mới thoát khỏi cảnh bị quay vòng mấy bận trong xoáy nước này. Ngày học cấp 2, chúng tôi thường ra sông tắm. Mùa hè, bọn con gái thả những cánh hoa phượng xuống chỗ xoáy nước. Những cánh hoa phượng loang ra như vệt máu quay tròn.
Một hôm mới sáng ra, những người đi chợ sớm hốt hoảng nhìn thấy thi thể một cô gái lập lờ trong vùng nước xoáy. Cô gái không mặc gì trên người. Một mảnh khăn buộc ngang bụng rách tả tơi. Ngực cô nham nhở những vết xước. Dân làng Vực đưa cô gái lên bờ. Các bà các chị vừa khóc vừa tắm rửa, mặc quần áo cho cô. Cô gái còn rất trẻ. Cặp vú như hai ngọn măng mới nhú. Cô bị cưỡng hiếp rồi bị đẩy xuống sông. Công an huyện chưa cho chôn cất ngay vì còn khám nghiệm tử thi và chờ tìm thân nhân. Nhưng chờ đến hơn một ngày, không thấy ai đến nhận xác, dân làng Vực mới được phép chôn cất. Đám ma cô gái chết trôi sông rất đông. Cánh con gái lớp tôi tết cho cô một vòng hoa bằng những chùm phượng vĩ đỏ như máu.
Từ đó, chúng tôi không dám ra tắm ở chỗ dòng sông gẫy khúc ấy nữa.
Bà Thường làm nghề chèo đò chở khách sang ngang ở bến sông Làng Vực. Anh Thưởng, người con trai duy nhất của bà đi bộ đội. Một mình bà với một niêu cơm nhỏ trong túp lều rách trên bến sông. Những buổi chợ phiên, người qua đò đông, nhiều bữa bà chả kịp nấu cơm. Bà gò lưng ghì chặt mái chèo lựa cho con thuyền vượt qua vùng nước xoáy. Đêm đêm nghe tiếng gọi "Đò ơi!", thì dù mưa gió, giá rét bà cũng lập cập khoác chiếc áo tơi, cởi dây chèo thuyền sang sông đón khách. Bà bảo: "Mình lỡ một giấc ngủ không sao nhưng để khách lỡ một độ đường thì cực lắm!".
Từ hôm có cô gái chết trôi về vùng nước xoáy ở bến sông làng Vực thì rất ít có khách qua sông vào lúc đêm khuya. Người ta đồn rằng nhiều đêm nghe tiếng gọi đò bên kia sông, bà Thường chèo thuyền sang đều gặp khách là một cô gái mặc quần áo trắng tinh đứng đợi. Nhưng lần nào đò đến giữa sông thì cô ấy cũng biến mất. Có người làm nghề chài lưới trên sông thì bảo nhiều lần nhìn thấy bóng một người con gái ngồi trên chỗ xoáy Vực, đôi mắt cô đỏ rực như lửa.
Chuyện ma ở bến sông mỗi người nói một phách và ngày càng thêu dệt thêm nhiều tình tiết ly kỳ khiến bọn trẻ con chúng tôi sợ hãi. Lớn lên, tôi mới hiểu đó toàn chuyện người lớn phịa ra để dọa lũ trẻ không xuống bến tắm khi lũ lớn dễ chết đuối. Nhưng có những chuyện thì tôi không hiểu nổi, đó là từ sau khi cô gái chết trôi về bến sông làng Vực thì hầu như năm nào chỗ nước xoáy ấy cũng có người bị chết đuối. Mà người chết toàn là đàn ông mới lạ. Có những thi thể từ đâu trôi về. Ở vùng thượng nguồn khi có người bị lũ cuốn trôi, người nhà thường đem hương nhang, có khi cả quan tài đến xoáy Vực chờ sẵn. Thể nào xác thân nhân họ cũng sẽ dạt về đây.
Lão Phụ làm nghề quét chợ thì bảo cô gái bị chết dạo nọ được vua Thủy Tề nhận làm con nuôi và cho phép bắt chín mươi chín người làm quân hầu. Nhớ lại nỗi oan ức, cô giết toàn đàn ông rồi kéo xác về nơi bến sông làng Vực. Anh Hừng bị thọt chân nên không phải đi bộ đội. Anh là tay sát cá và bơi lặn giỏi. Trên cạn, anh đi lại khó khăn nhưng khi xuống nước thì như một con rái cá. Anh chả tin câu chuyện ma quỷ của lão quét chợ. Ngày nắng cũng như ngày mưa, anh Hừng đều lặn xuống chỗ xoáy nước bắt cá. Chẳng cần lưới vó gì, chỉ tay không lặn xuống, ngoi lên hai tay anh cầm hai con cá chép lấp loáng vây đỏ, hai nách kẹp hai con, mồm ngậm một con. Cả thảy là năm con. Mỗi con độ bảy tám lạng đến một cân. Anh đem lên chợ bán. Chúng tôi thắc mắc hỏi anh giỏi bắt cá thế sao không lặn liền mấy hơi bắt lấy vài chục cân lên chợ mà bán. Anh cười hì hì: "Dưới đáy vực cá nhiều lắm nhưng bắt làm gì nhiều, chỉ đủ tiền đong gạo thôi". Tôi hỏi: "Anh có gặp ma không?". Anh trợn mắt dọa: "Có chứ! Mắt nó đỏ rực. Nó chỉ con cá nào, anh mới dám bắt con đó"...
- Ha... ha... ha... - Nghe tiếng cười sau lưng, chúng tôi giật mình quay lại nhận ra đó là anh Thú. Anh Thú là con ông đồ Hạo. Ông đồ Hạo là người khá giả. Ông nuôi anh ăn học đầy đủ, nhưng anh tính tình hung bạo, không chịu nghe lời bố. Khi nhỏ anh ấy thường trốn học đi chơi. Lớn lên, anh bỏ nhà đi biệt tăm. Nghe nói anh đi đào đãi vàng, tham gia nhiều vụ đâm thuê, chém mướn, bảo kê cho bọn buôn lậu. Anh bị bắt đi tù. Lúc ra tù, người anh xăm trổ đầy những hình thù quái dị. Cả làng đều sợ anh. Nghe chúng tôi kháo chuyện ma ở xoáy Vực, anh phá lên cười và chìa ra một cái gói vuông vuông bảo:
- Chúng mày biết cái gì đây không?
- Không biết ạ!
- Thuốc nổ đã gắn kíp rồi đấy!
- Ôi trời... - Chúng tôi hốt hoảng chạy rạt về một góc. Anh Thú cười sằng sặc bảo:
- Theo tao ra xoáy Vực mà lấy cá.
Lũ chúng tôi tuy sợ hãi nhưng vẫn rẹo rọ đi theo, cách anh khá xa. Đến xoáy Vực, anh Thú đứng trên mỏm đá. Rít một hơi cho điếu thuốc đỏ rực rồi anh dí vào dây cháy chậm. Khói xì xì ra mấy giây anh mới thả quả bộc phá xuống vực. Một tiếng nổ trầm đục, nước tung lên tận ngọn tre. Sóng chưa kịp lặng cá đã nổi lên trắng mặt nước. Bọn cá mương, cá trôi chết ngay nổi như phao. Lũ cá chép, cá bống thì còn cố quẫy quẫy rồi lờ đờ rạt vào bờ. Trẻ con, người lớn ào xuống, tranh cướp cá náo loạn cả khúc sông.
Anh Thú ngồi trên bờ hút nốt điếu thuốc. Những người vớt cá bắt đầu lên bờ vì rét. Khi đi qua chỗ anh Thú, họ đều khép nép và để lại cho anh một con cá to nhất. Khi anh Thú vừa túm cái bao tải đựng đầy cá lại thì có tiếng người gào lên:
- Cá... cá... có một con cá to quá. Nó bị thương rồi!
Mọi người đổ xô lại. Giữa xoáy Vực, một con cá to gần bằng thân người đang nổi lên lập lờ, đuôi ngoe nguẩy. Nhiều người ào xuống nước lao đến ôm lấy con cá. Con cá quẫy mạnh, cố lặn xuống. Nhưng nó bị sức ép quá mạnh của quả bộc phá nên đã choáng váng, kiệt sức. Con cá được đưa lên bờ. Nó nằm dài trên bãi cát trắng nhởn. Đôi mắt mở trừng trừng, đỏ rực. Nhìn con cá, bất giác tôi chợt thấy nó tựa như cô gái trẻ bị chết trôi dạo trước. Theo lệnh của anh Thú, người ta xẻ thịt con cá. Máu nó chảy đỏ cả bến sông.
Khi tôi nhập ngũ thì nghe tin anh Thú lại ném một quả mìn nữa xuống xoáy Vực. Quả mìn anh vừa buông khỏi tay đã phát nổ. Anh bị cụt cả hai tay và mù một mắt. Giờ thì anh ngồi lê la ăn xin ở chợ.
Anh Thưởng về phục viên. Mấy lần về quê qua đò anh đều nhận ra tôi. Mặc dù ngày anh đi bộ đội tôi còn rất nhỏ. Anh Thưởng về làng đã lâu nhưng chả thấy nói đến chuyện vợ con gì. Ngày còn ở nhà anh yêu một người con gái. Hai người đã thề non, hẹn biển, trao kỷ vật cho nhau. Anh vào Nam chiến đấu trong ba lô còn giữ cái vỏ gối do người yêu thêu tặng có bốn chữ "mãi mãi yêu anh" và hai con chim bồ câu ngậm mỏ vào nhau. Nhưng trong khi anh cố tìm cách viết thư gửi về thì ở nhà người thêu gối đã đi lấy chồng. Ngày chiến thắng anh trở về bến sông đã chẳng còn người đứng đợi. Anh Thưởng được xã bố trí làm một chân bảo vệ. Từ ngày anh làm bảo vệ, tình hình an ninh trong làng, ngoài xóm yên hẳn, ít xảy ra các vụ ăn cắp vặt, hoa màu ngoài ruộng không bị mất trộm như trước. Cũng có người hỏi chuyện vợ con nhưng anh chỉ cười trừ. Mẹ chết, anh trả cái chức tổ trưởng bảo vệ về bến sông với con đò của bà để lại.
Khi người ta bắc một chiếc cầu cách xoáy Vực hơn chục cây số về phía hạ lưu thì khách qua đò thưa hẳn. Bây giờ có xe máy, người ta qua cầu có xa hơn cả chục cây số nhưng tiện hơn. Cũng kể từ khi mua được chiếc xe máy tôi chả bao giờ qua bến đò nữa nên chẳng mấy khi gặp anh Thưởng.
Bẵng đi mấy năm. Một trưa tôi đang ăn cơm thì nghe tiếng trẻ con léo nhéo gọi cổng. Thằng con tôi ra mở cổng rồi dẫn vào một lũ trẻ con đến bốn năm đứa. Nó lấy ra một ôm báo cũ chia cho mỗi đứa mấy tờ. Thì ra lũ trẻ con xin báo về bọc sách vở chuẩn bị năm học mới. Chia đến đứa con gái bé nhất, thằng con tôi hỏi:
- Cái Sương năm nay lên lớp một hả?
- Vâng ạ. - Con bé ngoan ngoãn đáp.
- Cho mày thêm hai tờ nữa.
- Em cảm ơn anh...
Tôi hỏi:
- Con bé ấy là con nhà ai vậy?
- Nó là con anh Thưởng lái đò. - Vợ tôi đáp: - À! Mà anh ấy dặn anh về rỗi rãi ra nhà anh ấy chơi.
- Có nghe nói anh ấy lấy vợ bao giờ đâu nhỉ?
- Con nuôi đấy!
- Anh ấy xin ở đâu được đứa con gái xinh xắn thế nhỉ?
- Xin gì! Người ta bỏ lại cho mà nuôi đấy!
Vợ tôi kể, một buổi sáng mùa đông rét như cắt thịt da, sương mù giăng kín mặt sông, chẳng rõ mặt người. Có một người đàn bà gọi đò. Chị ta chùm khăn kín mặt tay xách cái làn to bước xuống thuyền. Anh Thưởng xoa xoa hai bàn tay cho đỡ cóng rồi lịch kịch đẩy con thuyền rời bến. Sương mù càng dày đặc. Người lái đò và khách chỉ nhìn thấy nhau lờ mờ. Sang đến bến bên kia, người đàn bà vội vã đi ngay, hẹn chiều về trả tiền đò cả thể. Anh Thưởng quay mũi thuyền. Trời trở gió, thuyền bị xô mạnh chòng chành. Chợt anh nghe tiếng trẻ con khóc. Tiếng khóc hình như rất gần. Vụt nghĩ đến chuyện ma đi đò mẹ vẫn kể, anh cũng thấy hơi run. Nhưng vốn là một chiến sĩ trinh sát, anh trấn tĩnh và nhận ra tiếng khóc ở ngay mũi thuyền. Anh bỏ tay chèo lần tới phát hiện ra cái làn của người khách lúc nãy để lại. Anh bật lửa. Trong làn có một đứa trẻ con đang quẫy đạp. Thấy ánh lửa, nó nín ngay, hai tay huơ huơ lên như muốn với lấy anh. Đôi mắt nó sáng như hai viên ngọc. Anh thọc tay vào làn và chạm vào một bình sữa còn nóng ấm. Thì ra người mẹ này đã có ý định bỏ lại đứa con của mình.
Anh Thưởng bế đứa bé lên bến suốt ngày ngóng đợi. Nhưng người đàn bà không quay lại. Anh Thưởng đành nuôi đứa bé. May cô em gái họ cũng mới sinh cho nó bú ké. Con bé lớn lên cùng anh trên con thuyền rách. Bao nhiêu người khách là phụ nữ nuôi con mọn qua đò đã cho nó bú nhờ. Anh đặt tên nó là Sương vì nhặt được nó trong một buổi sớm sương mù dày đặc.
Anh Thưởng rất yêu quý bé Sương. Hai bố con quấn quýt bên nhau. Năm bé Sương hai tuổi đột nhiên anh nhận được một lá thư từ nước ngoài gửi về. Thư của một người đàn bà mà với anh chẳng xa lạ gì. Đó chính là người đã tặng anh cái vỏ gối thêu chữ có hai con chim bồ câu ngậm mỏ nhau. Đọc thư, anh mới biết bé Sương là con chị ta. Chị ta đã chủ định để nó lại trên thuyền cho anh để khỏi vướng khi làm thủ tục xuất cảnh theo một người đàn ông ra nước ngoài định cư. Chị ta tỏ ra hối hận, xin anh tha thứ đã phụ tình còn để lại thêm một gánh nặng cho anh. Chị ta hứa sẽ gửi tiền về chu cấp cho bé Sương. Đọc thư, mặt anh tái đi vì giận dữ. Đúng là đồ vô sỉ. Anh đã viết cho chị ta một bức thư yêu cầu nếu còn lương tâm thì hãy để cho bé Sương được yên. Anh sẽ nuôi nó lớn khôn mà không cần những đồng tiền của chị ta...
Những câu chuyện xung quanh bến sông làng Vực còn rất nhiều. Chuyện vui, chuyện buồn đều có cả. Viết đến đây tôi định khép lại chuyện thì lại có thêm một sự kiện nữa xảy ra ở xoáy Vực.
Gã làm thuê
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Gã ngồi tựa vào gốc cây xà cừ nhìn đường phố. Đang giờ người ta đi làm, đường phố đông nghẹt người. Mà sao bây giờ họ lắm tiền nhiều của thế, xe máy ô tô ken vào nhau nghẽn tắc cả đường. Toàn là loại xe sang trọng. Ô tô xịn, xe máy cũng toàn loại xịn và đắt tiền. Nghe nói những cái xe máy bọn choai choai đang cưỡi kia, có cái đến cả trăm triệu đồng, đời gã có nằm mơ cũng chả bao giờ dám mơ tới.
Gã chỉ ước gì mua được một các xe đạp tốt cho con gái đi học. Gia tài đáng giá nhất nhà gã chính là chiếc xe đạp sét gỉ gã đang dựa ở gốc cây này. Cái xe mà khi còn ở quê, buổi sáng con gái dùng đi học, buổi chiều gã dùng đi thồ gạch. Bánh xe được gia cố thêm mấy thanh sắt làm nan hoa để khi chở nặng khỏi bị gãy vành. Khi lên thành phố làm thuê, gã đem theo cái xe đạp để chuyên chở đất thải, con gái gã phải đi bộ tới lớp. Từ nhà tới chỗ nó học cũng phải gần bốn cây số...
Gã chợt thấy đói cồn cào. Từ hôm qua đến giờ gã chưa có gì cho vào cái bụng lép kẹp. Tối hôm qua lẽ ra thì gã đã có một bữa ngon lành. Bởi mấy ngày vừa rồi gã "may mắn" được một ông thuê phá dỡ hai gian nhà cấp bốn. Đây là mấy gian nhà ông này làm cho mẹ ở. Khi bà cụ mất, ông ta liền phá đi. Gã được ông ta thuê đến thuê phá dỡ, giải phóng mặt bằng lấy để làm nơi treo phong lan và bày cây cảnh. Gã biết, ông này là một cán bộ. Làm quan to nên ông đón mẹ từ quê lên phụng dưỡng. Bà mẹ già mắt mờ, chân chậm, lại vốn dĩ là nông dân tần tảo vất vả cả đời nên về già ốm yếu, bệnh tật. Bà cụ sinh hạ được mỗi ông ta là con duy nhất. Chồng chết, cụ ở vậy nuôi con, lần hồi sới đất lật cỏ kiếm từng xu từng hào cho ông ăn học nên người, làm quan chức to nhất vùng. Dân làng thấy ông đánh ô tô về đón mẹ lên thành phố, ai cũng trầm trồ khen ông có hiếu. Bà hàng xóm cứ nức nở mãi: "Thế mới đáng là con cái chứ! Đúng là đẻ con khôn mát... rười rượi, chả bù mấy thằng giặc nhà tôi phá gia chi tử...". Ông bán sạch nhà cửa, ruộng vườn rồi đưa mẹ ra đi trong sự thán phục của cả làng.
Lên Hà Nội, bà cụ vẫn quen lối sống tùy tiện thoải mái như ở quê. Bà cụ nhai trầu bỏm bẻm suốt ngày. Nước cốt trầu vương vãi trên salon, và nền phòng khách được lát bằng gỗ quý khiến vợ ông rất khó chịu. Bà vợ ông càng bực bội mặt nặng, mày nhẹ mỗi khi ăn uống cụ làm rơi vung vãi cơm, đổ cả canh ra bàn ăn, ông cán bộ nọ cũng nhiều phen phát bực vì bà cụ làm cho phát ngượng do mấy lần có khách hỏi thăm, cụ cứ rỉ rả kể lại mãi chuyện quê, chuyện ngày xửa ngày xưa nuôi con vất vả, chuyện ông biếng học hay chơi bời lêu lổng. Có lần ông đã quát mẹ khi khách vừa mới ra khỏi cửa khiến bà cụ tủi thân cứ sụt sịt mãi. Còn bà con dâu và thằng cháu đích tôn thì thường xuyên trì triết, hạch sách mỗi khi cụ làm đổ nước hay rớt bã trầu ra sàn nhà. Bà cụ buồn lắm. Suốt ngày lầm lì như cái bóng trong căn biệt thự sang trọng. Khi con cháu đi vắng, bà muốn mở tivi nghe dân ca cho đỡ buồn. Nhưng con dâu sợ bà làm hỏng tivi nên đã rút mất phích điện. Giá như còn ở quê, cụ sẽ sang nhà bà hàng xóm cùng nhau giã trầu hay tuốt rơm nếp để tết chổi. Còn ở đây giữa chốn nhà cao cửa rộng nhưng cổng khóa, then cài, cụ như bị giam lỏng. Bà cụ muốn trở về quê nhưng đâu còn nhà cửa mà về.
Một lần cụ bảo: "Hay cho mẹ về quê, ở đây mẹ thấy không hợp!". Ông con trai gạt đi: "Mẹ về quê thì ở vào đâu, nhà đã bán mất rồi!". Còn bà con dâu nói mát: "Sướng lại chả muốn!". Thằng cháu đích tôn thì lấc cấc: "Cụ về quê lấy ai khuya sớm phụng dưỡng tuổi già!". Mặc dù từ ngày đón mẹ ra ở cùng bao nhiêu phiền nhiễu nhưng con trai, con dâu chẳng bao giờ muốn cho mẹ về quê. Với họ không phải vì đã trót bán mất ngôi nhà của tổ tiên để lại. Chỉ cần vài ba chục triệu là họ thừa sức mua đất và làm cho mẹ căn nhà khác ở quê. Nhưng họ còn mặt mũi nào. Đã được tíếng là hiếu thuận thì phải giữ chứ với lại còn uy tín của ông, của bà trước cơ quan nữa. Thời buổi này cái ghế của ông không ít kẻ nhòm ngó, sơ sảy một tý, sụt giảm uy tín một chút là hỏng ngay. Hơn nữa để bà cụ ở Hà Nội cũng có thêm một nguồn thu đáng kể. Ấy là mỗi khi tổ chức mừng thọ cho cụ, dịp tết nhất và cả những khi cụ trái gió trở trời ốm đau anh em trong cơ quan, những người được ông bà nâng đỡ sẽ đến chúc mừng, hay thăm hỏi và đều có quà cáp. Quà thì đâu chỉ có cân đường, hộp sữa, nải chuối hay chục trứng gà như ở quê mà là phong bì dày cộp trong để toàn tiền mệnh giá lớn hoặc đô la.
Khi thấy để mẹ ở nhà trên gây nhiều phiền phức, ông bàn với vợ làm hai gian nhà cấp bốn ra góc vườn đưa bà xuống đấy ở. Bà vợ ông sốt sắng đồng ý ngay. Thế là bà cụ chỉ còn được lên nhà trên mỗi khi mừng thọ hoặc ngày tết và lúc nào đau ốm để cho mọi người trong cơ quan con trai con dâu đến chúc mừng, hoặc thăm hỏi. Những người đến thăm hỏi, chúc mừng bà cụ chẳng qua chỉ là cái cớ.
Bà cụ đã trút hơi thở cuối cùng vào một đêm mưa gió trong ngôi nhà cấp bốn ẩm thấp nơi góc vườn. Ngay trong đêm, thi hài cụ đã được di chuyển đến quàn trong phòng lạnh của một nhà tang lễ lớn nhất thành phố, tại đây cụ được tổ chức tang lễ thật trọng thể. Có rất nhiều đoàn đến viếng. Người làng trong đoàn của địa phương lên dự lễ tang ai cũng nể phục. Vòng hoa nhiều vô kể, không thể đếm nổi. Chẳng có kèn trống như ở quê. Không có các vị sư sãi, các vãi già đến đọc kinh, chèo đò để người chết được siêu thoát được sang Tây Thiên với phật. Quan tài cụ được xe tang đưa thẳng ra đài hóa thân hoàn vũ. ấn nhẹ công tắc điện một cái là thành mây khói, chút tro cốt còn lại được cho vào lọ. Thế là xong. Việc này chắc khi con sống bà cụ đã từng nghĩ đến. Cụ sợ lắm. Cụ rất muốn về quê có chết thì về với ông bà ông vải gặp lại mấy bà bạn cùng tuổi đã đi trước nhưng ông con thì không chịu.
Sau đám tang, ông con trai nghĩ ngay đến số tiền phúng viếng, nhẩm tính sơ sơ cũng đủ mua một cái xe ô tô mới tương đối xịn. Và việc ông phải làm đầu tiên là cho phá ngay căn nhà cấp bốn góc vườn. Gã làm thuê được gọi đến. Biết sự tích của căn nhà, gã cũng thấy bùi ngùi.
*
Gã làm thuê bắt đầu phá dỡ dần từng phần căn nhà cấp bốn. Gã cố để lại một góc để ở tạm mấy hôm. Vì buổi tối gã mới có thể thu dọn đống vôi vữa, gạch vụn rồi dùng xe đạp thồ chở ra đổ trộm ngoài bờ đê. Ban ngày mà chuyên chở những thứ này thì sẽ bị công an tóm ngay, với lại muốn đổ trộm những thứ phế thải ra bất cứ chỗ nào cũng đều phải đợi khi đêm đến. Ông chủ nhà dặn gã làm ăn phải cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến ông ta. Gã vâng vâng dạ dạ để ông ta yên tâm. Sau khi phá nốt góc căn nhà cấp bốn, nơi mấy đêm vừa rồi gã chừa lại lấy chỗ ngả lưng sau những chuyến chở phế thải đi đổ ngoài bờ đê, gã rụt rè lên phòng khách ngôi căn biệt thự gặp ông chủ. Nhìn nền gạch hoa và gỗ bóng loáng gã cứ xoa mãi hai bàn chân mà không dám bước vào. Ông chủ nhà hất hàm hỏi:
- Đã xong xuôi cả chưa?
- Thưa bác chỉ còn một xe đất thải cuối cùng tối nay cháu sẽ chở đi và xin phép bác đi luôn ạ!
- Vậy thanh toán tiền công hả?
- Vâng! Nhưng cháu cũng có việc xin báo với bác...
Gã vừa nói vừa móc trong túi cái quần bộ đội cũ ra một gói ni lông được chằng buộc bằng những cái dây chun rất kỹ đưa cho ông chủ nhà.
- Cái gì đây?
- Dạ! Cháu tìm thấy nó khi phá chỗ góc nhà lúc chiều. Chắc là của bà cụ cất giấu. Là tiền và vàng ạ...
- V... à... n... g... h...ả...?
Ông ta gần như giật phắt cái gói từ tay gã nhanh như một con chim cắt chộp mồi. Chẳng nề hà cái gói ni lông đầy bụi bẩn và dính nước cốt trầu đen xỉn. Ông lập cập mở ra. Trong gói có một đôi hoa tai, một cái nhẫn vàng và một cuộn toàn tiền lẻ độ vài trăm nghìn đồng. Nhưng lại có hai tờ một trăm đô la cuộn bên ngoài. Đây chắc là của người nào đó mừng tuổi bà cụ hôm tết mà ông không biết để thu hồi. Ông hất hàm hỏi gã làm thuê:
- Chỉ có thế này thôi à?
- Vâng ạ!
- Có đúng thế không?
Gã làm thuê thấy mình bị xúc phạm. Gã khinh bỉ nhìn ông chủ nhà. Gã đã quá thật thà đem trả lại toàn bộ số tài sản tìm thấy thế mà không được một lời cảm ơn lại còn bị nghi ngờ. Gã định bỏ đi nhưng ông chủ nhà gọi giật lại:
- Thằng kia đứng lại, tại sao mày không trả lời tao?
Nghe tiếng ồn ào ngoài phòng khách bà chủ nhà và thằng con chạy ra. Biết chuyện bà chủ chu chéo:
- Thôi chết tôi rồi! Cho bà ấy ăn mặc đầy đủ thế mà bà ấy còn lén lút cất giấu tiền của. Mà thằng kia, mày còn giấu giếm cái gì ở đâu không hả... Mấy đêm vừa rồi mày chở bao nhiêu chuyến đi rồi. Nó đem cái gì ra ngoài ông có biết không... Ông phải gọi công an đến khám xét, tra hỏi thằng này ngay cho tôi...
- Bà im đi, để tôi hỏi nó, gọi công an có mà...
Thằng con cầm cái nhẫn vàng của bà nội giơ lên lật đi lật lại xem xét rồi nói nhỏ với bố:
- Thằng này để con xử lý mới được!
*
Lẽ ra gã đã đi khỏi cái nhà này ngay sau khi bị ông chủ nhà xúc phạm nghi ngờ gã bớt giấu tiền vàng tìm thấy khi phá dỡ căn nhà cấp bốn. Nhưng vì chưa được thanh toán tiền công nên gã chưa đi được. Khi gã đang đang chuẩn bị ăn cơm thì thằng con ông chủ dẫn theo một thằng nữa mặt mũi vẻ hung hãn ra chỗ góc vườn. Hai thằng đạp đổ nồi canh đầu cá đang nấu. Thằng con ông chủ dí dao vào cổ gã làm thuê, giọng sực mùi rượu:
- Mày giấu tiền... vàng... nhà... tao... ở... đâu...!
Gã nhìn hai thằng côn đồ với vẻ mặt coi thường. Chỉ cần một cái vung tay của gã thì hai thằng oắt con này chết sặc gạch, không kịp ngáp. Nhưng gã không thèm chấp lũ vô lương. Gã bảo:
- Không có tiền vàng nào hết! Có bao nhiêu đã đưa ông chủ cả rồi.
- Vẫn còn! Khôn hồn thì nôn ngay ra!
- Đưa hết rồi!
- Hết... rồi... à...
Mũi dao trong tay thằng con ông chủ nhích thêm một tý. Máu từ cổ gã rơi xuống ngực áo. Đã thế thì... Bằng một động tác quét chân và vung tay của gã, hai thằng côn đồ đã văng ra xa mấy mét. Chúng lồm cồm bò dậy vung dao định xông vào. Mẹ kiếp! Bọn này muốn chết thật rồi. Gã chợt nhớ lại bữa hai tên lính ngụy cũng từng cầm dao găm lao vào gã như thế này trong một trận đánh khi gã còn là lính của một đơn vị đặc công. Bọn khốn này chắc cũng muốn số phận giống như hai tên lính ngụy ngày nào đây. Hai bàn tay gân guốc của gã vo lại thành hai nắm đấm. Giữa lúc ấy thì ông chủ nhà xuất hiện vội vã ngăn lại. Thực ra ông ta đã theo dõi vụ việc "xin tý tiết" của thằng con ngay từ đầu. Thấy tình hình không ổn, ông bảo: "Thôi để nó đi đi...". Gã làm thuê ném cái nhìn khinh miệt vào cái bản mặt phì phị của ông chủ nhà. Gã nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất, hất trả lại bao vôi vữa phế thải rồi dắt chiếc xe đạp ra khỏi ngôi biệt thự.
Trở về chỗ "chợ người" đầu đường Hoàng Quốc Việt, gã ngồi dựa gốc cây xà cừ ngủ gà ngủ gật bởi mấy ngày đêm mệt mỏi phá nhà, chuyển phế liệu.
Khi gã đang mắt nhắm, mắt mở nhìn dòng người nườm mượp trên phố thì có tiếng gọi: "Ê! Phụ hồ có đi không?". Sao lại không! Gã nghĩ, đã là kiếp làm thuê còn kén chọn gì nữa. Gã vội đạp xe theo mấy đứa cùng bọn chuyên đi bán sức ở thành phố. Cả bọn hì hục gánh cát, bê xi măng, trộn hồ, xách vữa leo lên giàn giáo. Lên lên xuống xuống, chân gã bủn rủn, bụng đói cồn cào. Đầu óc gã trống rỗng. Lúc vác bao xi măng leo lên tầng, gã cứ lâng lâng như đi trên mây. Rồi gã thấy mình chơi vơi như bay vào khoảng không vô định...
Gã tỉnh lại và giật mình thấy đang nằm trong bệnh viện. Một cánh tay gã cuốn băng, nẹp cứng treo lên cổ. Gã hốt hoảng nhỏm dậy ngơ ngác nhìn quanh. Cô y tá bảo gã bị ngã giàn giáo được mấy người cùng làm đưa vào viện. May gã chỉ bị gãy tay. Gã bị ngất là do đói quá.
Gã chán nản nằm xuống giường. Thế là ky cóp được mấy trăm nghìn đồng cũng chả đủ nộp viện phí. Mấy ngày vừa rồi làm việc cật lực mà chẳng được đồng tiền công nào lại bị bố con ông cán bộ nọ vu cho là ăn cắp. Gã chợt nghĩ: "Biết trước bố con nó bất lương thế thì đừng trả lại số tiền vàng ấy còn hơn". Nhưng rồi gã lại gạt ngay cái ý nghĩ ấy bởi vì những thứ của cải không phải của mình có chết đói gã cũng chẳng màng. Gã phải nhắn anh bạn cửu vạn cùng làng đến vay thêm để thanh toán viện phí. Tay gãy thế này có lẽ gã đành trở về quê ăn bám vợ thôi. Nghĩ đến vợ, gã lại thấy bồn chồn trong lòng. Vợ gã biết xoay xở thế nào đây. Vợ gã vốn là người ốm yếu chẳng làm được việc gì nặng. Tính gã gia trưởng, không vừa ý là quát tháo, bạt tai vợ con ngay. Gã làm hùng hục suốt ngày như trâu húc mả thế mà nghèo vẫn cứ nghèo. Đi làm thì thôi về đến nhà nhìn căn nhà trống huếch, trống hoác, mẹ ốm nằm một giường, vợ ốm ngồi một góc là gã lại muốn phát điên lên. Vợ gã là một người đàn bà luôn hết lòng vì chồng con. Suốt đời thị cam chịu. Chưa bao giờ gã thấy thị kêu ca, phàn nàn dù có thiếu thốn, đói khổ, kể cả những khi biết chuyện gã kiếm được tiền, ngán cảnh vợ ốm yếu mò lên tận thị xã chơi gái. Đến bữa ăn, có miếng nào ngon thị cũng dành cả cho mẹ và chồng con.
Có lẽ cả đời gã sẽ chẳng bao giờ quên chuyện một lần sau bữa ăn ngon miệng, gã xuống bếp tìm cái bật lửa để châm điếu thuốc. Gã bất chợt bắt gặp vợ gã đang lén gặm lại cái xương gà của con bé gặm dở lúc nãy. Làm thịt một con gà giò, thị gắp miếng thì cho mẹ, miếng thì cho chồng, miếng cho con. Còn thị suốt bữa chỉ gắp toàn rau cho mình. Sau bận ấy, gã thấy thương vợ hơn, đỡ mắng chửi quát tháo mỗi khi bực dọc. Gã định ra Hà Nội làm thuê chuyến này cố ky cóp để mua cho con gái cái xe đạp đi học, mua cho vợ bộ quần áo. Mấy năm nay gã thấy thị chưa có một bộ quần áo nào cho ra hồn. Thế mà bây giờ mọi dự định của gã đều tan thành mây khói.
Gã tập tễnh dùng một tay dắt chiếc xe đạp lọc cọc ra ga để lấy vé về quê. Trời lất phất mưa. Đã cuối mùa thu. Một cơn gió lạnh bất ngờ thổi tràn trên phố.
Thị trường nông thôn
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Công ty tiếp thị do Trần Hoắng làm giám đốc thành lập đã được ngót một năm trời nhưng hoạt động khá ậm ạch, doanh thu luôn luôn là đồ thị chúc xuống, có nguy cơ đạt chỉ số âm.
Trước tình hình đó, giám đốc Trần Hoắng quyết định triệu tập ban lãnh đạo công ty tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn. Việc xác định mục tiêu, phương hướng phát triển công ty trở nên cấp bách. Tại cuộc họp, một người nêu ý kiến:
- Nước ta dù đã "đô thị hóa" nhưng vẫn còn hơn 80% dân số làm nông nghiệp, sống ở nông thôn. Phải phát triển thị trường nông thôn mới hy vọng kéo các doanh nghiệp đến với công ty tiếp thị của ta.
- Đúng! - Một người khác khẳng định thêm: - Dân số nước ta có đến 70 triệu người là nông dân. Chỉ cần mỗi người mỗi ngày ăn một chiếc... kẹo cao su thôi là ta có tiêu thụ được 70 triệu chiếc. Một tháng, có thể bán tới 2,1 tỷ chiếc kẹo cao su... Doanh thu thật là khổng lồ! Hơn thế nữa, nông dân ăn kẹo cao su sẽ thôi ăn trầu. Tôi tính phải có đến 20 triệu nông dân thường xuyên ăn trầu. Số ấy chuyển sang nhai kẹo cao su thì một năm sẽ tiết kiệm được ít nhất là 2 triệu tấn... vôi chuyển sang cho ngành xây dựng, mặt khác còn đỡ được hàng trăm héc-ta đất trồng cau và trầu không, lợi ít kinh tế không phải là nhỏ!
- Tôi còn tính thế này! - Người thứ ba lên tiếng: - 70 triệu nông dân, chỉ cần mỗi người mỗi ngày uống một chai nước khoáng loại 0,5 lít thôi thì một tháng cũng tiêu thụ được trên 2 tỷ chai, một năm là 24 tỷ chai nước khoáng... Có lẽ ta nên khuyến khích đầu tư xây dựng thêm hàng chục nhà máy nước khoáng nữa mới đủ cung cấp cho nông dân.
Bà trưởng phòng maketing thì nêu ý kiến:
- Còn bao nhiêu loại hàng hóa nữa mà nông dân rất cần như bột giặt, kem đánh răng "bảo vệ răng những hai lần"... à! Mà nhất là kem dưỡng da. ở nông thôn, bà con lao động phơi nắng suốt ngày mà có kem dưỡng da thì tốt quá. Nếu phát triển được thị trường tiêu thụ loại hàng này thì doanh thu cũng không nhỏ đâu nhé!
Ông phó giám đốc từ nãy đến giờ ngồi im lặng nghe giờ mới lên tiếng:
- Tôi vốn xuất thân từ nông thôn nên tôi hiểu rõ nông dân hơn. Tôi có ý kiến thế này, để thị trường nông thôn có thể thu hút được các doanh nghiệp cần phải có cách nhìn và giải pháp toàn diện hơn. Nhiều năm nay nông nghiệp được mùa, trang trại phát triển, bà con nông dân thu nhập cao, tiền nhiều. Do đó phải đưa các loại xe máy về bán cho họ. Ngoài các mặt hàng có giá trị lớn như xe máy, ti vi, những loại hàng hóa khác cũng phải quan tâm. Ví dụ như thời trang. Bà con nông dân bây giờ không ai còn mặc áo nâu, quần thâm đi cấy nữa. Họ có thể mặc... áo tắm. Đúng! Mặc áo tắm, váy ngắn đi làm đồng vừa thuận tiện, vừa làm đẹp, sinh động hơn phong cảnh làng quê hữu tình...
Mọi người cười ồ cả lên. Giám đốc Trần Hoắng kết luận:
- Được rồi! Ý kiến của mọi người đều rất đáng quan tâm, thị trường nông thôn thật là rộng lớn và tiềm tàng. Tuy nhiên để khơi thác được, chúng ta cần phải đi thực tế xem sao. Tôi quyết định thế này: Ngày mai ta sẽ tổ chức một chuyến về nông thôn, mang theo nhiều loại hàng hóa để chào hàng, thăm dò thị trường, thị hiếu của nông dân.
Thế là hôm sau, công ty tiếp thị nọ tổ chức một chuyến về nông thôn. Đoàn xe của họ đến một xã vùng sâu, vùng xa. Gặp một bác nông dân đi làm về đang ngồi nghỉ ở gốc đa đầu làng, họ dừng lại hỏi:
- Một ngày công lao động của bác trị giá bao nhiêu ạ?
- À! Có lẽ chỉ được bằng một chai nước... lã mà các bác đang uống đấy thôi. Mà sao ở nước ta lại vô lý thế nhỉ! Nửa lít nước lã đóng chai, uống nhạt thênh thếch, không bằng nước giếng nhà tôi mà bán lại đắt hơn cả một lít xăng thế? Hay là họ bán vỏ chai! Mà có lẽ thế, thứ vỏ chai nhựa này đựng rượu "cuốc lủi" thì hết ý, rơi cũng không vỡ. Đang uống xảy ra ẩu đả đập nhau bằng chai cũng không ai bị thương...
- Thế bà con có thích kẹo cao su Simgum không ạ?
- Thích chứ! Nhưng mà sao ngốc thế! Thiếu gì loại thuốc đánh răng "bảo vệ răng lợi những hai lần, thơm tho suốt cả ngày", thế mà một cô gái xinh đẹp phải cuống cuồng tìm kẹo cao su ăn cho thơm miệng mới nói chuyện được với bạn trai. Hay là cô ấy bị bệnh...
Thấy câu chuyện quá lan man, giám đốc Trần Hoắng liền bảo đưa ra các thứ rượu ngoại, xe máy, tủ lạnh, quần áo thời trang để thăm dò. Bác nông dân cầm chai rượu ngoại bé tý hỏi giá rồi lắc đầu bảo:
- Tiền mua một chai rượu này nếu dùng mua loại rượu "cuốc lủi" thì có lẽ cả làng uống suốt tuần mới hết. Các bác đem về thành phố mà bán cho những kẻ tham nhũng, buôn lậu, tiền nhiều. Còn xe máy à! Giá bằng những ba bốn chục con trâu thế này thì bà con ta cứ cưỡi... trâu thôi. Cưỡi trâu tuy có đi chậm nhưng lại an toàn, không xảy ra tai nạn giao thông. Ồ! Điện thoại di động tốt quá. Giá mà có nó gọi nhau đi uống rượu thì thật là hay. Thế nông dân chúng tôi có được trang bị điện thoại di động miễn phí không?
Giám đốc Trần Hoắng sốt ruột:
- Thế ở nông thôn hàng ngày các bác hay mua cái gì nhất?
- Mua hả! Điều này phải hỏi mấy bà kia xem. Ngày nào mà các bà ấy chả đi chợ! Còn tôi mỗi ngày chỉ mua có mỗi một chai "cuốc lủi" thôi... Mà sao các bác không đem cái loại "ô ô kê kê" gì mà dùng nó sẽ trở thành nhà vô địch, khỏe hơn cả lực sĩ về nông thôn mà bán!
Giám đốc Trần Hoắng chán quá. Ông vẫy các nhân viên lên xe đi thẳng...
Thằng Xót
Tôi đang cặm cụi đẽo mấy quả lựu đạn gỗ ở đầu nhà thì nghe tiếng chị chủ nhà quát thằng con:
- Từ rày, tao cấm mày nhận quà của người lạ cho nghe chưa? Ngày mai phải đem ngay cái áo trả cho bà ấy...
- Nhưng! Đó là bà...
- Không bà...bà gì hết! Dắt trâu ra ruộng ngay!
Rồi im lặng hẳn. Một lát có tiếng chân nhè nhẹ phía sau. Tôi quay lại. Thằng Xót mặt còn bị xị đi lại. Tôi hỏi:
- Có chuyện gì mà mẹ mắng thế?
- Vì cháu đã nhận cái áo bà cho.
- À! Tại chưa được mẹ cho phép đã nhận đồ người khác cho chứ gì?
- Nhưng đó là bà nội cháu cơ mà!
Tôi ngạc nhiên:
- Chắc lại tự ý vòi vĩnh bà chứ gì?
- Không phải! Bà tự cho đấy chứ. Nhiều lần bà cho quà, mẹ biết đều mắng hết.
Tôi càng không hiểu. Thằng Xót ngồi xuống cạnh tôi cầm quả lựu đạn gỗ lên xem. Nó đã mười lăm, mười sáu tuổi rồi, phổng phao, lộc ngộc. Một lát nó bảo:
- Lớn lên, cháu cũng đi bộ đội như bố cháu và chú.
- Ừ...
- Bố cháu hy sinh tay vẫn cầm súng đứng giữa chiến hào, lựu đạn còn đeo bên hông đấy nhé...
- Ừ... - Tôi vừa chăm chú gọt quả lựu đạn vừa đáp. Chợt tôi giật mình:
- Nhưng bố cháu lúc nãy còn xách giúp chú cái ba lô vào nhà cơ mà?
- Đấy là bố dượng cháu. Bố dượng cháu tốt lắm. Bố dượng coi cháu như con đẻ, nuôi cháu lớn lên và cho đi học đến bây giờ. Còn bố đẻ cháu hy sinh rồi.
- Thì ra vậy! Chú vừa mới đến nên không biết...
Tôi định hỏi thằng Xót về bố đẻ của nó thì chị chủ nhà gọi giục nó đưa trâu ra ruộng bừa cấy. Nắng đã bớt gắt. Cánh đồng trước làng đã có người xuống cấy. Tôi thu dọn và đem mấy quả lựu đạn gỗ vào nhà.
Cả nhà đi vắng hết. Tôi tranh thủ quét dọn nhà cửa, sân vườn vì ngày mai bắt đầu bước vào huấn luyện chiến thuật không có nhiều thời gian.
Đang lúi húi khơi cái rãnh thoát nước ở cổng thì có tiếng người gọi:
- Chú bộ đội ơi!
Tôi ngẩng lên. Một bà cụ dáng vẻ mệt mỏi vì đi nắng đang đứng ngoài cổng. Tôi hỏi:
- Bà gọi cháu ạ!
Bà cụ gật đầu:
- Chú có thấy thắng Xót ở nhà không?
- Cháu nó vừa đưa trâu ra ruộng rồi ạ! Mời bà vào trong nhà cho đỡ nắng.
- Thôi! Chú cứ kệ tôi. Tôi ngồi ngoài này đợi cũng được.
Tôi băn khoăn, cố mời, nhưng bà cụ nhất định không vào. Bà cụ lại hỏi:
- Thế... chú ở trọ ở đây à?
- Vâng ạ! Chúng cháu lên ở nhà bà con xóm ta để tập quân sự ạ!
Chợt nhớ ra câu chuyện lúc nãy thằng Xót kể. Tôi rất muốn hỏi chuyện bà cụ nhưng không dám. Bà cụ vẫn ngồi ngoài cổng bỏm bẻm nhai trầu nhưng trông vẻ buồn. Bỗng bà lập cập vẻ lúng túng rồi chào tôi:
- Chào chú! Tôi về nhé.
Bà vội vàng đi luôn. Cây gậy lọc cọc khua trên đường sỏi. Một lúc sau, chị chủ nhà quảy quang gánh về. Thì ra bà cụ vội đi ngay vì muốn tránh mặt chị. Chị cứ bảo tôi cứ nghỉ lấy sức mà đi tập. Nhìn vẻ khắc khổ, lam lũ của chị, không ai nghĩ chị chỉ mới ba bảy, ba tám tuổi.
Mùa hè mưa nắng thất thường. Đại đội chúng tôi đang tập trên Núi Dạm thì một cơn nưa ập xuống. Nước xối xả, khiến tất cả chúng tôi đều ướt như chuột lột. Đại đội trưởng tuyên bố:
- Các trung đội cho bộ đội về doanh trại, bảo quản, lau chùi vũ khí trang bị, tự ôn tập phần lý thuyết. Ngày mai trời tạnh ta sẽ tập bù.
Chúng tôi lục tục kéo về làng. Đến đầu xóm trung đội trưởng hạ lệnh giải tán. Tôi vội chạy ngay về nhà ở. Tới đầu ngõ, tôi túm được thằng Xót từ trong nhà khoác áo mưa phóng ra. Tôi hỏi:
- Mưa gió thế này cháu còn đi đâu đấy?
- Cháu...cháu... đem áo mưa cho bà nội. Nếu... nếu mẹ cháu về, chú bảo cháu chưa về nhé.
Nó lập cập vì lạnh. Tôi thả cho nó chạy đi. Nó phóng thẳng ra phía con đường sang làng Thượng. Tôi cũng vội chạy vào nhà.
Mãi tối mịt, thằng Xót mới về. Nó trả lời qua quýt những câu hỏi của mẹ rồi khẽ kéo tay tôi ra hè thì thào:
- Cháu lo bà bị cảm lạnh ốm mất chú ạ!
- Bà bị mưa ướt à?
- Bà đi đến giữa đồng thì trời ập mưa. Lúc cháu chạy đến bà đã bị ướt hết rồi. Cháu dìu bà về nhà rồi nhờ bác Ngân đến xoa dầu cho bà rồi.
- Thế bà đi ra đồng làm gì? Mà sao cháu biết bà ở đấy?
- Bà cháu đi tìm cháu đấy. Ngày nào bà chả sang tìm cháu. Nhà bà cháu bên làng Thượng nên phải đi qua cánh đồng...
Câu chuyện chẳng đến đầu, đến đũa của thằng Xót khiến tôi càng khó hiểu. Tôi cứ mong có dịp thuận tiện để hỏi chuyện anh chị chủ nhà. Nhưng thấy anh chị bận bịu suốt ngày nên cũng đành thôi.
Hôm sau, tôi bắt gặp thằng Xót giữa chợ. Nó đang bán một giỏ cua đầy và mấy xâu cá đồng. Thấy tôi, nó tỏ ra lúng túng. Rồi nó rụt rè đề nghị:
- Chú đừng nói với mẹ cháu là cháu đi bán cua cá ở chợ nhé.
- Tại sao thế?
- Vì... cháu bán để lấy tiền mua cho bà hộp sữa. Bà bị ốm rồi chú ạ.
- Thế à?
- Hôm qua, bà bị mưa ướt nên cảm ốm chẳng ăn được gì chú ạ.
Chợt nhớ ra, nó hỏi:
- Chú đi chơi chợ à?
- Chú đi khênh rau cho tiếp phẩm! - Tôi đáp và lục túi đưa cho nó mấy đồng. Nó xua xua tay:
- Cháu bán cá được một ít còn lại bố cháu cho thêm, đủ mua cho bà cân đường và hộp sữa rồi.
Tôi ngạc nhiên:
- Thế bố cháu cũng biết à?
- Vâng! Mà số cua, cá này cả nhà cháu và bố cùng bắt suốt buổi đấy chứ.
*
Rít một hơi thuốc lào, nhấp chén nước chè vẻ ngon lành xong, anh Thực kể:
- Tôi, Luyến - vợ tôi và Hoàng cùng học với nhau từ khi còn bé tý. Đến năm cấp 3 thì giặc Mỹ leo thang ném bom miền Bắc rất ác liệt. Cầu Bắc Giang, cầu Đáp Cầu thường xuyên bị chúng đánh phá. Chúng tôi phải sơ tán lên mãi vùng Mỏ Thổ, Bắc Giang học nhờ các trường bạn. Vợ tôi ngày ấy là “hoa khôi” và là bí thư chi đoàn của lớp đấy nhé. Cả tôi và Hoàng đều thầm yêu cô ấy. Tôi rất tự tin vì tôi đẹp trai và học giỏi hơn Hoàng. Nhưng rồi tôi đau khổ nhận ra cô ấy chỉ yêu Hoàng và coi tôi như người bạn thân. Chúng tôi vẫn gắn bó với nhau, giúp đỡ lẫn nhau nhưng giữa tôi với hai người dần dần xuất hiện một khoảng cách. Tôi học sút đi nhiều.
Tốt nghiệp cấp 3, chúng tôi cùng đi thi đại học nhưng chỉ có Hoàng là đủ điểm vào đại học bách khoa. Bố Hoàng lúc ấy đang là chủ tịch xã, mẹ là chủ tịch hội phụ nữ. Hoàng rất muốn đi học đại học, nhưng bố mẹ cậu ấy đều động viên đi bộ đội. Tôi cũng viết đơn xin nhập ngũ. Hoàng được gọi vào bộ đội trước. Tôi vào dân quân. Nhờ thành tích tiếp đạn, tải thương cho bộ đội cao xạ nên được giới thiệu, bồi dưỡng để chuẩn bị kết nạp Đảng và bổ nhiệm làm trung đội trưởng dân quân.
Hoàng được về phép gần một tháng rồi vào miền Nam chiến đấu.Giữa lúc ấy thì xảy ra một chuyện. Luyến có thai, cái bụng đã sang tháng thứ tư, thứ năm của cô dù có bó buộc thế nào cũng không thể giấu mọi người được nữa. Ngày ấy chuyện này là “động trời, sụp đất”. Chi đoàn rồi trung đội dân quân tổ chức kiểm điểm, truy xét. Luyến bị dồn ép ghê quá. Rồi một hôm đích thân ông chủ tịch xã - bố của Hoàng - đến chỉ đạo việc kiểm điểm Luyến. Rồi cả bà chủ tịch hội phụ nữ xã cũng đến. Tôi không thế nhớ hết những gì họ đã nói nào là “đồ trụy lạc”, “loại vô giáo dục”, “kẻ dâm loạn” và cả “quân phản động, phá hoại” nữa.
Sau này, tôi mới biết Luyến đã đến gặp bố mẹ Hoàng thú nhận việc lỡ có thai với cậu ấy và đã bị họ xua đuổi, cho là “đổ vạ” cho nhà họ. Và cũng mãi sau này tôi mới biết tại sao họ lại đối xử tàn tệ với Luyến như vậy. Vì ông bố Hoàng đang nằm trong quy hoạch phát triển lên làm phó chủ tịch huyện. Ông sợ vì chuyện này có thể làm đổ vỡ tất cả.
Luyến bị dồn đến chân tường. Một đêm, sau giờ trực chiến, tôi tranh thủ qua nhà lấy thêm ít gạo, muối. Lúc đi tắt qua quả đồi sau làng nơi con sông Cầu bẻ góc chảy xiết, dưới ánh trăng mờ tôi chợt phát hiện ra một bóng người đang dấn dần ra giữa sông. Linh cảm được điều không hay, tôi quát to:
- Luyến! Không được làm thế!
Vứt vội bao gạo và khẩu súng trên bờ, tôi lao xuống dòng nước. Vật lộn, giằng co mãi, tôi mới lôi được Luyến lên bờ. Luyến vật vã xin tôi để cô được chết bởi vì cô không còn muốn sống nữa. Tôi bảo: “Hãy nghĩ đến đứa con, nó có tội tình gì đâu!”. Nghe vậy, Luyến ngồi lặng im hồi lâu rồi mới chịu theo tôi trở về làng.
Hôm sau, khi ông chủ tịch xã chủ trì cuộc họp cuối cùng để xác định kỷ luật của Luyến. Không hề chủ định trước, giữa lúc căng thẳng nhất thì không hiểu vì sao, có lẽ vì thấy Luyến bị truy bức khổ quá, tôi bỗng bật dậy:
- Tôi xin nhận! Tôi chính là bố của đứa trẻ.
Tất cả mọi người đều vô cùng sửng sốt. Những người không hiểu tôi đã đành, Luyến cũng ngẩng đầu lên nhìn tôi sửng sốt. Thế là chả phải bàn cãi gì nữa, Luyến và tôi đều bị khai trừ khỏi Đoàn, đuổi khỏi trung đội dân quân. Quyết định chuẩn y kết nạp tôi vào Đảng đã ký cũng bị hủy bỏ. Đơn xin nhập ngũ của tôi bị trả lại...
- Sau đó anh và chị Luyến lấy nhau chứ ạ?
- Không! Luyến sinh con rồi lầm lũi nuôi con. Cô ấy khổ lắm. Mang tiếng chửa hoang, bố mẹ cũng còn xua đuổi chửi bới. Mẹ tôi cũng ốm liệt giường cả tháng vì buồn. Bố tôi là nhà giáo, cụ hiểu tôi nhưng cũng khó xử khi đứng trên bục giảng giáo dục dạy dỗ các em sống đẹp, sống có lý tưởng cách mạng, mà con mình lại như thế. Cụ xin nghỉ mất sức rồi đi làm ruộng. Luyến sinh con. Bố mẹ cô ấy dựng cho một ngôi nhà tre nhỏ ven làng. Tuy vất vả nhưng cô ấy vẫn cố gắng vượt qua, không nhận sự giúp đỡ của ai. Báo tử của Hoàng sau hơn một năm, cô ấy mới nhận lời lấy tôi. Trong một trận chỉ huy dân quân chuyển đạn cho bộ đội đánh trả máy bay địch ở cầu Bắc Giang, bố Hoàng đã hy sinh. Nhà Hoàng chỉ có cậu ấy là con trai, em gái thì lấy chồng xa ở mãi Vĩnh Phúc.
Anh Thực kể tiếp:
- Luyến đặt tên đứa con của mình với Hoàng là thằng Xót, có nghĩa là đau xót, đắng cay. Thằng Xót lớn lên chỉ biết có tôi là bố và mẹ Luyến. Tôi định khi nào nó đã trưởng thành mới nói cho nó biết mọi chuyện. Nhưng khi người ta xây dựng, tôn tạo lại khu di tích thành cổ Quảng Trị thì tìm được hài cốt của Hoàng. Hoàng hy sinh và bị vùi lấp trong tư thế đang cầm súng chiến đấu. Trong túi áo của Hoàng có một bức thư cậu ấy viết cho bố mẹ để trong bao ni lông tuy nét chữ đã mờ nhưng vẫn đọc được. Cậu ấy nói về chuyện đã yêu và có quan hệ với Luyến, dặn bố mẹ nhận Luyến là con dâu, nếu cô ấy có thai thì đứa con ấy là của mình...
- Sao anh ấy không nói ngay khi về phép?
- Vì lúc ấy hai người chưa chắc chắn lắm.
Anh Thực ngậm ngùi:
- Bà mẹ Hoàng nhận được hài cốt của con và lá thư đã ngất đi. Bà cụ ân hận và rất mong muốn nhận lại cháu nhưng Luyến nhất định không chịu. Cô ấy không thể nào quên được những gì đã xảy ra. Thằng Xót càng lớn càng giống Hoàng. Lúc đầu nghe mẹ, xa lánh bà nhưng dần dần mình khuyên nhủ, nó cũng hiểu ra. Bố con mình phải “bí mật” giúp đỡ bà cụ. Chuyện qua lâu rồi còn để bụng làm gì. Đằng nào bà cụ chả là mẹ của Hoàng, bạn nối khố với mình từ thời còn cởi truồng cơ mà. Bà cụ bây giờ tuổi cao, chỉ còn một mình. Chỉ mong Luyến bỏ qua mọi chuyện, bố con mình sẽ đến đón cụ về ở chung hoặc không thì cũng công khai giúp đỡ cụ. Khổ! Ngày nào bà cụ cũng đi bộ hơn cây số sang tìm thằng Xót…
Tôi cũng thấy xót xa trước câu chuyện anh Thực kể. Anh Thực chợt hỏi tôi:
- Này! Cậu sắp tốt nghiệp rồi phải không?
- Vâng ạ! Em đang học năm thứ tư rồi.
- Sắp thành “chính trị viên đại đội” rồi còn gì! Nhưng... thời gian ở đây cậu phải giúp mình với nhé!
- Giúp việc gì ạ?
- Thì giúp thuyết phục dần dần để bà xã mình hiểu ra...
- Vâng... em sẽ cố gắng! -Tôi gật đầu đáp.
*
Mấy năm sau, tôi mới lại có dịp đi qua vùng núi Dạm. Anh chị Thực đi làm đồng chưa về. Thằng Xót bây giờ đã là một thanh niên vạm vỡ. Nó nhận ra tôi ngay. Vừa đưa tôi vào nhà, nó vừa bảo:
- Cháu đã thi đỗ vào Trường sĩ quan Thông tin rồi đấy nhé!
- Thế thì tốt quá!
Thằng Xót mở tung cánh cửa. Căn nhà cấp bốn mới xây còn sáng màu vôi. Tôi giật mình khi thấy ảnh bà cụ đã gặp ở cổng ngày nào và ảnh một người chiến sĩ còn rất trẻ lồng trong tấm bằng “Tổ quốc ghi công” đặt trên bàn thờ.
Thằng Xót ngậm ngùi:
- Bà cháu mất hơn một năm rồi chú ạ!.
Trang trại ma gà
Ông chủ tịch xã vừa gập cuốn sổ lại vừa bảo tôi:
- Mời nhà báo đi thăm một hộ làm kinh tế trang trại giỏi để “mục sở thị” nhé! Dọc đường có còn gì hỏi, tôi sẽ nói thêm.
Tôi đồng ý. Ông chủ tịch xã dẫn tôi vượt qua một dốc núi cao sang bên kia dãy núi Hồng. Chiếc xe U-oát gầm gừ bò lên dốc. Xe chung chiêng như đi trên dây.
Qua khỏi đoạn cua gập ghềnh đến một thung lũng tương đối bằng phẳng. Đầy khắp trong thung là những cây vải thiều vừa tròn tán. Cành cây trĩu những trùm quả bắt đầu sẫm vỏ. Những luống chè thẳng tắp, vườn cam quýt xanh tươi. Một ngôi nhà hai tầng thấp thoáng giữa tán cây.Ông chủ trang trại chắc đã được xã báo trước nên chờ đón chúng tôi tận ngoài đường. Ông lởi sởi bắt tay từng người. Tôi đưa mấy ảnh lên chụp. Qua ống kính máy ảnh tôi chợt nhận ra một nét mặt quen quen. Tôi buông máy ảnh bắt tay ông và "ồ" lên một tiếng.
Cả hai chúng tôi đều đã nhận ra nhau.
*
Hắn học trên tôi ba lớp. Khi tôi vào lớp một thì hắn đang học lớp bốn. Mỗi lớp hắn học đúp một lần. Thành thử đến năm học cuối cấp 1, hắn đã có tên trong danh sách gọi khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Mười bảy tuổi, hắn cao to lộc ngộc. Cái đầu hắn luôn cắt trọc lốc nên chúng tôi thường gọi hắn là “sư phụ”. Hắn học dốt lại ngổ ngáo, ngỗ nghịch nhất trường. Các thầy cô giáo cũng ngại hắn, nhất là các nữ giáo sinh về thực tập ở trường. Những năm sáu mươi của thế kỷ trước ở miền rừng núi như quê tôi học sinh to lớn hơn cả thầy cô giáo là chuyện bình thường. Nhiều anh đã có vợ con rồi mà vẫn đang học cấp hai.
Hắn thường hay bắt nạt chúng tôi. Có cái gì ăn chúng tôi đều phải cống nạp cho hắn. Đứa nào lơ lơ cố ý giấu giếm là coi chừng bị hắn vặn tưởng đứt tai. Bọn con gái nhiều đứa khóc hết nước mắt vì thường xuyên bị hắn bôi bẩn lên áo. Có đứa con gái bị hắn cắt xoẹt mất nửa chiếc đuôi sam gào tưởng vỡ cả trường. Thầy Thức, hiệu trưởng cấp một hồi ấy nghiêm lắm. Nhiều lần hắn bị thầy phạt đứng nắng dưới chân cột cờ giữa sân trường. Nhưng hắn vẫn cứ tính nào, tật nấy.
Nhà hắn ở giữa xóm. Bố mẹ hắn nghèo lắm. Ngày xưa họ đi ở cho địa chủ. Nhà hắn chính là mấy gian bếp của tên địa chủ mà hồi cải cách ruộng đất được chia. Bố hắn được hợp tác xã giao cho nuôi một con bò đực to khoẻ và rất hung dữ. Ngoài hắn chả ai dám đến gần. Khi đội sản xuất điều hoà sức kéo cũng chẳng ai muốn nhận con bò nhà hắn. Bởi nó hung hăng không khéo hỏng cày, gẫy bừa mà lại có thể xảy tai nạn nếu lỡ bị nó húc phải. Con bò đực chỉ phục tùng mỗi mình hắn. Hắn chế tạo ra một bộ yên cương buộc vào lưng con bò cưỡi như cưỡi ngựa giong đi chăn thả trên đồi. Mỗi khi thấy hắn bỏ áo trong quần, chân mang ủng, đầu đội mũ lá tuột vành, lưng đeo một cái lưỡi lê, bụng cài một khẩu súng ngắn tự tạo có thể bắn đạn chì ai cũng ngại. Cuối chiều, khi chúng tôi lùa trâu bò về chuồng thì hắn cưỡi con bò mộng nhong nhong một vòng ra thị trấn rồi mới quay về làng. Hắn ngồi trên lưng bò, cầm cái roi dài, cợt nhả, trêu ghẹo đám con gái một cách thô tục. ít người phản ứng lại. Người ta không muốn giây với hắn.
Đám choai choai chúng tôi sợ nhưng vẫn thích hắn. Bởi lẽ hắn có tài kể chuyện. Hắn học dốt, thầy giáo kiểm tra ít khi thuộc bài. Nhưng những chuyện Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ hử, Hồng lâu mộng, Chinh đông chinh tây hắn đều thuộc làu làu. Chiều nào đi chăn thả trâu bò trong thung lũng chúng tôi cũng hong hóng chờ được nghe hắn đọc chuyện. Để được nghe chuyện, mỗi đứa chúng tôi phải nộp một bó cỏ thật non để cho con bò mộng của hắn ăn. Khi con bò mộng của hắn đứng ngập giữa đống cỏ, hắn mới bắt đầu kể chuyện. Giọng hắn lúc trầm, lúc bổng, lúc ngân nga. Hắn đọc cho chúng tôi nghe từng chương, hồi trong Tam quốc diễn nghĩa mà chẳng cần mở sách. Hôm nào cũng vậy, hắn chỉ đọc đúng ba chương. Chúng tôi đứa nào cũng xuýt xoa, tiếc rẻ, mỗi khi hắn kết thúc bằng câu "Muốn biết chuyện ra sao, xem hồi sau sẽ rõ!".
Học hết lớp sáu thì hắn bỏ học.
Hắn khoẻ nhưng bản tính lười biếng. Công điểm ít, thu nhập thấp nên nhà hắn thường bị thiếu ăn. Hắn ăn rất khoẻ, mỗi bữa phải năm sáu bát cơm đầy mới tạm no. Ngày ấy ăn uống thiếu thốn, chỉ có rau muối nên phải tăng chất gạo, chất xơ như khoai sắn chêm vào dạ dày mới đỡ được những cơn đói cồn cào. Túng thì làm liều, đói đầu gối phải bò. Hắn nghĩ ra mọi cách để ăn trộm của hợp tác xã. Đêm đêm, chờ khi đám thanh niên trục lúa xong, vun thóc đánh đống giữa sâu kho rồi về nhà ngủ thì hắn mới ra tay. Hắn bò vào sân kho của hợp tác xã với một chiếc bao tải to. Hắn dùng tay vun thóc nhồi đầy một bao tải rồi kéo lê chui qua bờ rào vác về nhà. Mấy lần đều trót lọt. Nhưng “đi đêm lắm ắt có ngày gặp ma”. Một đêm, hắn vừa lôi được cái bao tải thóc ướt còn lẫn cả rơm qua cái lỗ thủng hàng rào nhà kho thì bị bắt. Hai cái gậy tre đực cắm phập xuống đất kẹp chặt lấy cổ hắn. Hai ông bảo vệ đứng sừng sững hai bên. Một ông quát:
- Quân chuyên ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Lần này thì đừng hòng mà chạy thoát nhé!
- Gông cổ nó lại dẫn lên công an xã...
Hai ông bảo vệ buông gậy để đè trói hắn lại. Khi hai cây gậy vừa nới lỏng ra thì hắn cong người bật dậy. Chỉ bằng một động tác quét chân, một ông bảo vệ đã lộn nhào xuống mương nước. Ông kia vừa sáp đến thì trúng luôn một nhát dao vào bụng. Hắn phá chạy. Tiếng kêu cứu thất thanh. Dân làng đổ ra. Đèn đuốc sáng rực. Mọi người nhanh chóng đưa người bị thương đi cấp cứu, kéo ông đang lóp ngóp dưới mương lên. Tang vật là cái bao tải lèn đầy thóc bỏ lại được đưa vào sân kho. Mọi người nhận ra ngay chủ nhân của chiếc bao tải đay ấy. Tên bố hắn viết bằng mực đen to tướng trên bao tải. Ngày ấy chiếc bao tải cũng là một loại tài sản của nông dân. Nó cũng như những cái cày, cuốc, thúng, mủng, nong, nia. Nhà nào cũng ghi tên, đánh dấu để khỏi lẫn, khỏi mất.
Thế là chả khó khăn gì, công an cũng tóm cổ được kẻ trộm thóc, chém người. Hắn bị bắt khi đang bới sắn trên mương. Bị trói ghì cánh khỉ dẫn giải lên nộp cho công an huyện vẻ mặt hắn vẫn nhơn nhơn.
Hắn bị xử tù hơn hai năm. Ra tù hắn trở về quê. Vẫn cái đầu trọc lốc, đôi môi thâm xịt. Chỉ có khác là trên ngực và lưng hắn có thêm những hình xăm kỳ quái rồng, phượng, mạt hổ, đầu lâu với hai khúc xương ống vắt chéo trông gớm chết. Chẳng biết trong tù hắn cải tạo, tu dưỡng để hoàn lương thế nào nhưng ra tù thì vẫn tính nào, tật nấy. Trong xã, ngoài làng thỉnh thoảng lại xảy ra những vụ trộm cắp. Mọi người đều nghi ngờ cho hắn. Có lần, hắn còn nói oang oang giữa sân kho rằng: “Tôi thề không bao giờ ăn trộm của dân làng!”. Đúng là chưa bao giờ hắn trộm cắp của dân làng. "Đánh đĩ mười phương, cũng để một phương...". - Hắn vẫn bảo thế.
Chính quyền xã liệt hắn vào đối tượng cần quản lý đặc biệt. Những ngày lễ tết, hay bầu cử, hoặc đại hội đảng bộ xã hắn đều phải ôm chăn chiếu lên ngủ tập trung ở trụ sở uỷ ban để công an quản lý. Nhưng quản lý được hắn không phải dễ. Tính hắn ngông nghênh, mấy ông công an, bảo vệ thôn, mỗi vụ “lương” là tạ rưỡi thóc khô thường rất ngại hắn.
Một hôm, trời đã chạng vạng, hắn vừa ra khỏi nhà thì phát hiện có bóng người bám theo sau. Đó là ông bảo vệ thôn đảm nhận việc theo dõi hắn. Hắn giả bộ đi chơi, vừa đi vừa huýt sáo. Đến đoạn đường cây cối um tùm thì hắn mất hút. Khi ông bảo vệ đang dớn dác ngó trước, nhìn sau thì bị hắn áp sát. Con dao chọc tiết lợn lạnh toát kề cạnh sườn. Giọng hắn rít lên:
- Liệu hồn! Muốn sống với vợ con thì hãy tránh xa thằng này nhé!
- Tôi... tôi... ôi... - Ông bảo vệ lập cập, ú ớ.
- B…i…ế…n … đ…i...
Ông bảo vệ ném cây gậy quýnh quáng bỏ chạy.
Đêm ấy xảy ra một vụ trộm ở làng bên. Hắn mò vào tận buồng nhà ông chủ nhiệm hợp tác xã khoắng được một bao tải lạc nhân và mấy bộ quần áo mới. Tối hôm sau, bà kế toán bị mất một chiếc xe đạp thống nhất nữ. Mọi nghi ngờ đều đổ dồn lên đầu hắn những không bắt được quả tang, đành chịu. Sau này hắn khai nhận mới biết thì những thứ đồ đạc, của cải đã bị hắn tiêu tán hết.
Tôi nhớ một lần có đoàn văn công tỉnh về biểu diễn ở xã. Trước giờ mở màn, ông trưởng công an xã lên thuyết trình một thôi một hồi về công tác giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống tội phạm, xây dựng hậu phương lớn vững mạnh chi viện cho tiền tuyến lớn đánh giặc.
Lúc vở diễn bắt đầu tôi chợt thoáng nhìn thấy hắn lảng vảng hai bên cánh gà. Khi vở chèo cổ đang cao trào thì đột nhiên sâu khấu ngả nghiêng, phông màn từ từ đổ ụp xuống. Dây điện đứt, chập điện tóe lửa bén vào phông màn cháy lem lém. Trên sân khấu, đám vua quan đang thiết triều bàn chính sự thảy đều hoảng hốt bỏ cả ngai vàng, vứt cả vương miện, mũ mão, ấn kiếm chạy tán loạn. Vua chẳng kịp chờ quân thần hộ giá vội nhảy vọt ra khỏi sân khấu thoát thân. Sát ngay gần sân khấu là chỗ ngồi của đại biểu lãnh đạo các ban ngành trong xã cũng nhốn nháo, mạnh ai, nấy chạy.
Sau khi sân khấu ụp đổ hoàn toàn, công an, bảo vệ mới tìm ra nguyên nhân là các dây chằng đều bị cắt đứt. Ông chủ tịch xã lúc này mới hoàn hồn lên giọng ra lệnh:
- Bắt ngay tên Thiện. Nhất định chỉ có nó là gây ra chuyện này!
- Rõ! - Đám công an, bảo vệ bủa đi tìm hắn.
Nhưng hắn đã mất hút. Lúc người ta dựng lại được rạp, căng lại phông màn để tiếp tục biểu diễn thì tìm mãi không thấy vương miện và bảo kiếm của vua đâu. Thì ra nhân lúc nhốn nháo, hắn lao lên sâu khấu chộp luôn chiếc vương miện và thanh bảo kiếm của vua rồi chuồn mất.
Hôm sau, khi hắn đang cưỡi bò, đầu đội chiếc vương miện lóng lánh toàn là vàng, ngọc giả, tay múa kiếm trên khu đồi cây cho chúng tôi xem thì bị bắt. Người ta thu hồi vương miện và bảo kiếm trả lại cho đoàn văn công. Hắn được giao cho công an huyện xử lý. Hắn bị phạt lao động công ích một tháng rồi được tha về.
Khi tôi đi bộ đội thì nghe tin hắn lại phải đi cải tạo vì tội lừa đảo, trộm cắp. Rồi hắn bị tăng thêm thời gian ngồi tù vì tội trốn trại, đập trọng thương con chó béc-giê của công an.
Khi hắn ra tù lần thứ hai thì bố hắn đã già yếu lắm rồi. Hắn có vẻ cải tà quy chính, chí thú làm ăn, bớt ngổ ngáo rất nhiều. ông Lương - bố hắn là người hiền lành. Cả đời ông nghèo khổ, làm thuê cuốc mướn, làm đầy tớ cho địa chủ, chả xung khắc, mâu thuẫn với ai. Ông đặt tên cho hắn liền vần với tên ông, mong hắn lớn lên là người lương thiện. Nhưng cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Hắn ngỗ nghịch, trộm cắp làm ông buồn lắm. Có lẽ cũng vì thế ông rất ngại tiếp xúc, giao du với mọi người trong thôn, ngoài xóm. Đi họp đội sản xuất, ông ngồi ru rú ở góc thềm. Đám cỗ bàn ông thường ngồi ở chiếu cạnh. Một bữa ông đi thăm đồng gặp mưa, bị cảm hàn ốm nặng, lay lắt mấy tháng trời rồi mất.
Đám ma bố hắn giữa một buổi chiều đông u ám. Những người đi đưa ma rúm ró trong gió lạnh. Thế mà hắn vẫn phong phanh một manh áo cũ, đầu đội cái mũ bện bằng dọc lá chuối khô, tay cầm gậy tre đưa bố ra đồng.
Khi nấm mộ bố hắn đã đắp xong, ông trưởng thôn nhắc hắn có lời với dân làng. Hắn liền lôi một chiếc cát-xét từ trong cái bao tải thằng cháu đang ôm ra và ấn phím. Tiếng máy lẹt xẹt rồi một giọng nói thều thào đứt quãng vang lên. Mọi người đều kinh hãi nhận ra là tiếng của ông Lương, bố hắn. Ông nói: “Tôi xin lạy tạ, cảm ơn các cấp, các ngành, các anh em, họ hàng gần xa, bà con hàng xóm láng giềng đã đến thăm hỏi, phúng viếng, tiễn đưa tôi về nơi an nghỉ cuối cùng. Nay, tôi đã mồ yên mả đẹp, ngon giấc ngàn thu. Kính mời bà con làng xóm, đại biểu các cấp, các ngành về nhà tôi xơi chén rượu nhạt phân ưu với gia đình tôi...”.
Thì ra, hắn đã cho ghi âm lại tiếng bố hắn từ khi ông còn sống. Nghe tiếng người đã chết thều thào, đứt quãng trong tiếng gió bấc ào ào như vọng về từ cõi âm phủ khiến mọi người đều thấy lạnh cả xương sống. Chả ai còn dám về nhà hắn ăn cỗ đám ma trừ đám thanh niên đi lấy huyệt lúc đầu buổi chiều.
*
Chiến tranh biên giới xảy ra. Tôi ít về nhà nên chả có dịp nào gặp hắn. Nghe nói sau đó hắn lại bị tập trung cải tạo thêm mấy năm nữa vì cái tội trộm cắp, ngỗ ngược, phá phách. Lần cuối cùng tôi gặp hắn cũng phải cách đây hơn chục năm. Hôm ấy, tôi khoác ba lô ra ga để lấy vé tàu ngược lên Lạng Sơn. Qua gốc đa chỗ bến sông thì có tiếng gọi:
- Ông nhà báo! Vào đây làm chén nước chè đã.
Tôi ngó vào trong quán nhận ra nét mặt quen thuộc của hắn. Hắn đang cởi trần, tay cầm cái điếu cày. Tôi gỡ ba lô khỏi vai ngồi xuống ghế. Vừa đỡ chén nước chè, tôi vừa nhìn hắn. Mặt hắn thâm xịt, lằng nhằng những vết sẹo. Hắn gầy đi nhiều so với thời còn trai trẻ. Cái mặt hổ xăm trên ngực vì thế trở nên dúm dó một cách thảm hại.
Tôi hỏi hắn:
- Sao anh lại biết tôi là nhà báo?
- Thì trong tù, vớ được tờ báo gói đồ cũ, đọc thấy có đăng bài ông viết về quê ta...
- Bây giờ anh định sống thế nào? - Tôi hỏi thăm dò.
- Đi Lạng Sơn, làm cửu vạn!
- A! Thế thì ta cùng đi! - Tôi bảo.
Hắn lắc đầu:
- Ông cứ đi trước đi... đi với tôi không tiện đâu.
Tôi biết hắn ngại nên thôi không rủ đi cùng nữa.
*
Không ngờ, bây giờ thì hắn chính là ông chủ trang trại Ma gà. Thung lũng này trước kia có một gia đình bị nghi là ma gà nhập phải dạt vào đây dựng nhà để ở. Ngày ấy người nào bị nghi là ma gà coi như là đã chết. Chẳng ai dám đến gần. Con cái họ sinh ra cũng chẳng lấy được chồng, chẳng tìm nổi vợ. Hắn dạt về đây sau lần bị công an, biên phòng truy đuổi làm mất gánh hàng điện tử Trung Quốc trị giá gần chục triệu đồng của một trùm buôn lậu. Người con gái cùng là dân cửu vạn đã đưa hắn về thung lũng này. Chị xinh đẹp nhưng không lấy được chồng bởi vì là con một người bị nghi là ma gà. Hai người thành vợ chồng, dựng nhà, vỡ đất ở cái thung lũng mà người ta vẫn sợ có ma. Được chính quyền giúp đỡ chút vốn, giống, vợ chống hắn dần dần ổn định cuộc sống. Cái thung lũng màu mỡ cũng dần dần được cải biến. Lúa ngô được mùa liền mấy vụ. Rồi cây ăn quả bén rễ lên xanh. Bây giờ thì thu từ kinh tế trang trại của hắn hàng năm cả trăm triệu đồng.
Nhắc lại những lúc hàn vi, vào tù, ra tội, ông Thiện vẻ bùi ngùi. Ông mời tôi buổi tối nghỉ lại để trò chuyện, ôn cố tri tân. Tôi hứa nhất định sẽ về lại trang trại Ma gà lần nữa.
Hai vợ chồng ông Thiện tiễn chúng tôi ra tận đầu dốc núi. Họ chuyển vào xe của chúng tôi mấy cái túi đựng những chùm vải thiều chín vừa mới bẻ.
Trên đường về, ông chủ tịch xã bảo: “Tuần sau sẽ khởi công xây dựng nhà thư viện của xã. Phần lớn kinh phí là do ông chủ trang trại này ủng hộ đấy. Ông ấy còn hứa sẽ góp vào thư viện thêm một nghìn cuốn sách nữa!”.
Nghe ông chủ tịch xã nói, tôi chợt nhớ hắn ngày ấy- ông Thiện hôm nay vẫn là một người luôn thích đọc sách.
Dị nhân
Truyện ngắn của Trọng Bảo
Tên thật của gã là Đồng Thụy Nhân. Hồi còn đi học gã rất mê văn chương, tập tạnh làm thơ, viết truyện, lấy bút danh là Thy Nhân cho có vẻ văn sỹ. Chẳng biết có truyện ngắn, bài thơ nào của gã được đăng ở đâu không. Thỉnh thoảng vẫn thấy gã lôi một cuốn sách chép tay ra đọc có vẻ ngẫm ngợi lắm. Cũng chả biết cái biệt danh Dị Nhân gắn vào đời gã tự bao giờ. Có lẽ là do hình thù kỳ dị của gã. Chân phải đi hơi tập tễnh, cánh tay trái gã sù sì những vết bỏng. Và đặc biệt một vết sẹo dài trên má phải kéo miệng gã méo hẳn đi. Rồi cả cái thị trấn ngoại thành này người ta đều biết gã, đều gọi gã là “Dị nhân”. Song cũng chẳng ai biết gốc gác quê quán gã ở đâu. Chỉ biết gã đến đây để làm thuê cho mấy nhà hàng, gánh nước, rửa bát hay vận chuyển phế liệu xây dựng, đánh vôi, phụ hồ cho đám công nhân xây dựng. Có lẽ tên gã được người ta gắn thêm cho chữ “dị” để phân biệt với một ông Nhân nào đó là giám đốc doanh nghiệp và ông Nhân chủ tịch thị trấn.
Gã không tự ái, cũng chẳng buồn tranh cãi với những người cứ suốt ngày réo gọi: “Này! Dị Nhân khởi đầu ngày mới làm một chén nút lá chuối cho khí thế!”, hay: “ối! Ngài Dị Nhân, dị dạng gì ơi, chuyển ngay cho tôi mấy thùng hàng ra chợ!” hoặc là: “Tối nay, ông Dị Nhân ngủ trông coi cửa hàng cho cẩn thận nhé!”. Mọi người đối với gã chẳng ra trọng, chẳng ra khinh, chẳng ra ông, chẳng ra thằng. Tuy thế, vẻ kỳ dị của gã nhiều khi cũng được việc. Cái thị trấn ngoài thành có vẻ heo hút này ngày càng phát triển nhiều nhà nghỉ, nhà hàng. Ngày thứ bảy, chủ nhật nhiều ông đưa bồ bịch vút lên đây cho an toàn, vợ con đừng hòng truy xét. Bọn trộm cắp gây án ở nội thành kiếm được tiền cũng rạt ra vùng ngoại ô này ăn uống, xả hơi. Các nhà hàng, quán xá nhờ đó làm ăn được, song cũng lắm phen lao đao bởi các đối tượng phức tạp. Bọn sâu rượu nhậu nhẹt thâu đêm, say xỉn phá phách. Chủ quán thường phải nhờ cậy đến gã. Cái mặt sẹo, cánh tay sù sì cháy sém của gã khiến nhiều kẻ giang hồ cũng phải gườm. Chúng kháo nhau: “Gã này từng là một tay giang hồ hảo hán khét tiếng đấy!”. Tuy vậy, gã lại có vẻ hiền lành. Chả bao giờ thấy gã gây gổ với ai. Duy chỉ có một lần tại nhà hàng thịt chó Tư Béo, một tên ăn quỵt lại còn giở thói côn đồ đập phá. Chẳng may cho nó lúc ấy gã đang chẻ củi thuê phía sau nhà. Bà chủ quán chạy ra cầu cứu. Gã ném con dao chẻ củi xông ra. Chỉ bằng một miếng võ, gã đã khoá ngay tay tên côn đồ. Khi công an đến khám xét thu được trong người nó khẩu súng ngắn đã lên đạn. Cả nhà hàng hú vía. Thì ra đó là một tên tội phạm nguy hiểm. Sau bận ấy dân thị trấn có vẻ nể sợ gã. Họ vẫn gọi gã là Dị Nhân, nhưng giọng có vẻ thân mật hơn, bớt hẳn vẻ gắt gỏng, coi thường.
Cái phố núi ngoại thành ngày càng phình ra. Dân nội đô đổ xô lên mua đất. Dân bản địa bỗng đổi đời. Có nhà ba đời nghèo kiết xác, lộn đủ hai túi quần, bốn túi áo chả có nổi một trăm ngàn đồng bạc nay bỗng nhiên giàu sụ lên nhờ bán đất. Một góc đồi cây cằn cỗi mà bạc tỷ. Dân mua đất chủ yếu là những người phất lên do cơ chế thị trường, kinh doanh phát đạt hoặc loại người chuyên kiếm chác, bớt xén công quỹ. Họ mua đất làm trang trại, xây nhà, cuối tuần đưa vợ con lên tọa hưởng, tha hồ hít thở không khí trong lành phố núi. Dân thị trấn vừa là chủ, vừa là tớ. Người có đồi, có rừng trở thành chủ đất, hét ra tiền. Kẻ không có đất thì làm thuê, trồng hoa, cắt cỏ, trông coi trang trại, nhà nghỉ cho những ông chủ ở nội thành.
Trong số người lên “khai hoang” ấy có một ông chủ còn trẻ tuổi. Anh ta mua cả một khoảnh đồi cây, hồ cá rộng để xây dựng một khu trang trại du lịch sinh thái. Ô tô chở vật liệu ùn ùn kéo về. Xi măng, gạch ngói, sắt thép, đá hộc chất ngổn ngang. Chậu cảnh, bon sai kê đặt khắp nơi. Bọn trộm cắp ngứa mắt nhìn đống của để ngay trong tầm tay. Chúng chả ngu gì mà không hành động. Anh chủ trang trại phải lập tức nghĩ đến việc thuê người bảo vệ. Người ta khuyên anh nên tìm gã Dị Nhân. Quả không uổng. Từ ngày gã làm bảo vệ cho khu trang trại du lịch sinh thái Bồng Lai thì không kẻ nào còn dám mò đến trộm cắp. Đám trẻ chăn trâu thường hay lảng vảng nhặt vỏ bao xi măng, thó đoạn sắt vụn hay miếng ván cốp-pa cũng tỏ ra ngoan ngoãn vâng lời gã răm rắp. Mỗi khi nhìn thấy gã đầu tóc bù xù, miệng méo xệch, vận bộ quần áo bộ đội cũ, thắt một cái thắt lưng to bản đeo lủng lẳng một cái lưỡi lê và cái điếu cày nhỏ bằng nhôm có đứa đã vãi cả ra quần. Gã không đánh, không dọa nhưng bọn trẻ cứ sợ. Chẳng riêng gì trẻ con, người lớn bất ngờ gặp gã cũng giật mình tái mặt. Chuyện xảy ra hồi khu trang trại du lịch Bồng Lai mới mở cửa. Khi ấy, khách đến tham quan còn rất ít. Có một đôi trai gái kéo nhau lẻn ra một góc đồi vắng. Khi họ đang say sưa mê đắm thì gã tình cờ đi qua. Đôi trai gái thất kinh khi chợt nhìn thấy gã. Họ rú lên vì tưởng cướp xuất hiện. Cả hai ôm quần áo nồng nỗng từ trên đồi phóng xuống, miệng gào lên ầm ĩ: “Cướp! Cướp!” khiến cả khu trang trại náo loạn. Khi mọi việc vỡ lẽ đám công nhân xây dựng, nhân viên phục vụ tại khu du lịch được một trận cười đến vỡ bụng. Cả tuần liền đám con trai gặp gã đều cười cười nháy mắt: “Lần sau có “phim” hay thế bác nhớ gọi tụi cháu với nhé!” hoặc: “Xem một mình đau tức, ăn một mình cực thân đấy bác ạ!”. Đám con gái gặp gã thì lại cười ré lên. Chắc họ nhớ lại cảnh cô gái vú vê thỗn thện, miệng la thất thanh chạy như điên từ trên đỉnh đồi xuống.
Những ngày đầu khu trang trại du lịch sinh thái Bồng Lai đang hình thành sự hiện diện của gã Dị Nhân là “điềm lành”. Bọn trộm cắp, đám trẻ chăn trâu đỡ dòm dỏ, phá phách. Nhưng khi khu du lịch sinh thái đã xây xong tường bao, có đông người đến tham quan thì gã tự dưng trở thành “điềm gở”. Cái bản mặt sứt sẹo, méo mó của gã khiến du khách thấy ghê ghê, ngài ngại. Sự cố đôi trai gái tưởng gã là kẻ cướp đã khiến chủ khu trang trại phải suy nghĩ. Anh ta cho rằng đã đến lúc phải loại gã ra khỏi “biên chế” những người làm việc tại trang trại nhưng chưa có lý do xác đáng. Đến một bữa gã mải đào hố trồng cây trên đồi để mấy con bò thả rông vào phá mất luống hoa gần cổng thì sự hiện diện của gã ở trang trại đã được định đoạt. Gã được anh chủ mời lên nhận tháng lương cuối cùng và quyết định thôi việc. Gã chẳng buồn, chẳng vui. Có phải là biên chế ăn lương nhà nước đâu mà tiếc. Cuộc đời một kẻ làm thuê mấy khi ấm chỗ. Gã gói ghém vài thứ đồ đạc linh tinh vào tấm võng bạt cũ khoác lên vai. Thế là xong xuôi. Gã quyết định rời bỏ cái thị trấn này để đi làm ăn xa hơn.
*
Nhét mấy tờ giấy bạc vào cái bao da, gã lững thững men theo bờ hồ nước đi ra phía cổng khu trang trại. Con đường rải đất đồi được lu lèn nhẵn thín. Gã co chân đá cái vỏ lon bia lăn lọc cọc suốt dọc đường. Nhìn theo chiếc vỏ lon bia bắn văng xuống phía hồ nước gã chợt giật mình. Một chiếc cặp sách học sinh màu hồng và đôi dép trẻ con lăn lóc trên bờ cỏ ngay sát mép nước. Gã sực nhớ lúc nãy trên đường vào để nhận lương và quyết định thôi việc còn gặp cu Tít con anh chủ trang trại ở cổng. Nó đang học lớp một. Thằng bé vừa nhìn thấy gã đã reo lên: “Ông Vĩ Nhân ơi! - chỉ riêng thằng bé không gọi gã là Dị Nhân - hôm nay cô giáo cháu ốm, cháu được nghỉ học. Lát nữa ông đưa cháu đi đổ dế nhé!”. Gã chột dạ. Không khéo thằng bé mải bắt chuồn chuồn, vồ châu chấu bị té ngã xuống hồ. Gã ngó nghiêng. Bờ hồ được xả đứng thành. Có vết đất trượt dài xuống nước. Gã vứt ngay cái gói đang khoác trên vai xuống bãi cỏ. Gã luống cuống cởi vội cái thắt lưng to bản lủng lẳng con dao lê và cái điếu cày bằng nhôm ném trên bờ. Chỉ kịp kêu ú ớ kêu: “Có người chết đuối!” rồi gã lao xuống nước. Buổi sáng, nước hồ còn rất lạnh. Gã lặn sâu xuống đáy hồ, hai tay quờ quạng kiếm tìm. Không thấy gì cả. Gã ngoi lên lấy hơi gào thêm vài tiếng kêu cứu rồi lại lặn xuống. Gã đạp chân, khua tay sùng sục như điên dưới đáy hồ đầy rong rêu đến hụt cả hơi.
Lúc sắp phải ngoi lên để thở thì gã chợt quơ được chân thằng bé. Gã cuống cuồng ôm lấy nó, chân đạp mạnh xuống đáy hồ ngoi vút lên mặt nước. Đã có mấy người chạy đến. Họ xúm lại kéo gã lên bờ. Gã xốc hai chân thằng bé lên vai chạy quanh một vòng cho nó nôn ộc nước ra. Nghe có người bảo nhau chạy về gọi chủ trang trại, gã quát:
- Không được cho bố mẹ nó ra đây! Mà bảo họ cấm được kêu khóc!
Gã biết những người bị ngạt nước, ngã cây nếu bố mẹ hoặc người có cùng huyết thống mà đến kêu khóc, thất khiếu sẽ ứa máu ra thì vô phương cứu chữa.
Gã đặt thằng bé xuống bãi cỏ. Nó bị ngạt lâu và uống nhiêu nước nên nhợt nhạt rũ ra như cọng rau héo. Gã tiến hành hô hấp nhân tạo, xoa ngực, ghé miệng hút đờm rãi cho thằng bé. Nhưng mọi cố gắng của gã hồi lâu vẫn không có kết quả. Trong đám người xúm quanh đứng nhìn gã cấp cứu ai đó thở dài: “Không ổn, hỏng mất rồi!”. Gã quát: “Đốt ngay một ít rơm lấy than nhanh lên!”. Có một cách cứu chữa người bị chết đuối mà gã đọc được trên báo. Trong khi mấy người cuống quýt đốt bó rơm rồi gạt ra cho nhanh nguội thì gã tiếp tục xoa bóp chân tay, hô hấp nhân tạo và dùng miệng hút đờm dãi cho thằng bé. Nó vẫn nằm yên không nhúc nhích. Khi đống than rơm đã nguội, gã đặt thằng bé lên. Gã xoa phủ một lớp than rơm còn ấm lên khắp người nó. Than rơm háo sẽ hút bớt nước qua lỗ chân lông người bị chết đuối. Gã vừa làm vừa quát tháo ra lệnh cho đám người vây quanh hỗ trợ việc cấp cứu. Thấy thằng bé cứ nằm im lặng, thẳng đuột, có người bảo: “Thôi bác ạ!”. Gã gầm lên: “Thôi là thôi thế nào! Tiếp tục xoa bóp cho thằng bé nhanh lên!”.
Đầu tóc rũ rượi, mặt mày gã Dị Nhân méo xệch, dúm dó. Gã cứ cuống quýt hết ấn ngực thằng bé hô hấp nhân tạo, lại tiếp tục ghé miệng hút đờm dãi, hà hơi, thổi ngạt cho nó. Gã vật vã lồng lộn tựa như một con sư tử già trúng thương bên đứa con bị tử nạn.
Mọi sự cố gắng của gã dường như vô vọng.
Đám người đứng chôn chân giữa bãi cỏ bất lực lắc đầu nhìn gã. Họ đã không còn hy vọng. Không gian khu trang trại như ngưng lại. Những tiếng thở dài lặng lẽ. Gã áp tai vào ngực thằng bé hồi lâu. Đột nhiên, gã hộc lên một tiếng thật to khiến mấy người giật mình. Hình như gã nghe thấy có tiếng đập nhỏ nhoi rời rạc trong lồng ngực cu Tít. Quả đúng vậy. Sự cố gắng của gã không uổng. Chân tay, mặt mũi thằng bé đã hơi hồng trở lại. Ngón tay nó khẽ động đậy. Đôi môi bợt bạt của nó hơi mấp máy. Rồi thằng bé từ từ mở mắt. Mọi người ồn ào vui mừng. Gã quát:
- Đưa ngay nó sang bệnh viện cấp cứu!
Mấy người lập cập ôm thằng bé chạy đi.
Thằng bé đưa đi rồi, bố mẹ nó mới được đến. Một cô nhân viên định đưa cái cặp sách và đôi dép của thằng bé cho mẹ nó, gã lập tức giật ngay lại. Gã bảo:
- Bố mẹ không được đụng vào đồ của con! Mà cấm kêu khóc rõ chưa?
Gã vẫn còn chưa hết lo lắng.
Đám đông ồn ào bàn tán, mọi người đều thán phục gã Dị Nhân. Một chiếc xe du lịch biển số đỏ rẽ vào trang trại. Bước xuống xe là một vị tướng. Đó là ông nội thằng Tít. Ông đang còn mặc bộ đại lễ phục màu trắng bạc, huân huy chương đeo đầy ngực. Vị tướng chắc đã từng trải qua nhiều trận mạc thế mà lúc này nét mặt vẫn thất sắc. Ông đang dự một buổi gặp mặt bạn chiến đấu ở trạm khách của Bộ Quốc phòng thì nhận được điện thằng cháu đích tôn bị tai nạn. Ông vội vã gọi xe sang ngay khu trang trại sinh thái của anh con trai.
Mọi người nhao nhao kể lại cho ông tướng nghe chuyện cấp cứu thằng Tít. Ông hỏi:
- Thế ông Nhân! Ông ấy đâu rồi?
Lúc này tất cả mới nhớn nhác nhìn quanh. Gã Dị Nhân đi đâu rồi nhỉ! Một cậu thanh niên nhanh nhảu:
- Cháu vừa thấy bác ấy còn tìm kiếm cái gì ở đây cơ mà? - Ông ấy đã lên ô tô khách đi rồi...
- Ai đó nói thêm.
- Cháu tìm thấy cái này ở trong bụi hoa nhài!
Một người đưa cho ông tướng cái thắt lưng da to bản lủng lẳng con dao lê và chiếc điếu cày bằng nhôm. Đó là những thứ của gã Dị Nhân. Lúc nãy gã đã ném nó trên bờ để lao xuống nước cứu thằng Tít. Gã không tìm thấy nó trước khi bỏ đi. Cầm cái thắt lưng da, ông tướng chợt giật mình khi nhìn thấy chiếc điếu cày nhỏ bằng nhôm. Ông vội dùng vạt áo lau lau chỗ ống điếu két gỉ. Một dòng chữ hiện lên: “QT-1972 Đ.T.N”.
- Trời ơi anh Nhân! Ông ấy chính là Đồng Thụy Nhân... Ông tướng thốt lên. Cậu thanh niên rụt rè:
- Mọi người vẫn gọi bác ấy là Dị Nhân…
- Ông ấy tên là Đồng Thụy Nhân...- Ông tướng xúc động nhắc lại. Ông chỉ vào dòng chữ khắc trên chiếc điếu cày nói:
- Chiếc điếu cày này làm bằng ống pháo sáng. Dòng chữ khắc trên chiếc điếu chính là “Quảng Trị - 1972- Đồng Thụy Nhân”.
Ông tướng chưa hết xúc động. Ông bảo:
- Ông ấy là bạn cùng tiểu đội trinh sát với tôi chiến đấu ở thành cổ Quảng Trị năm bảy hai! Khi tôi bị thương chính ông ấy đã cõng tôi vượt qua bom đạn, hoả lực của địch để chuyển về tuyến sau cấp cứu. Sau này nghe tin ông ấy bị thương nặng, lúc chuyển thương lại bị trúng bom mất tích cứ ngỡ là đã chết, không ngờ ông ấy vẫn còn sống. Mừng quá!
Ông tướng lập cập mở cái bao da mong tìm được địa chỉ của bạn. Nghe ông giải thích mọi người mới biết cái túi da vuông vuông ấy chính là bao đựng kẹp tiếp đạn của súng CKC. Trong cái bao da chỉ có một gói thuốc lào và mấy tờ giấy bạc. Có một tờ bạc một trăm nghìn đồng mới tinh được lồng trong túi ni-lông dán kín. Cậu thanh niên tìm thấy cái thắt lưng da lúc nãy giải thích:
- Đây là một trăm nghìn đồng bác ấy được công an thị trấn thưởng kèm theo giấy khen do có thành tích dũng cảm bắt một tên cướp có vũ khí. Bác ấy nói để dành làm phần thưởng đầu năm học mới cho thằng cháu nội học giỏi. Còn hai trăm nghìn đồng này là lương tháng này, sáng nay bác ấy vừa mới lĩnh xong.
Ông tướng ngạc nhiên:
- Lương... lương... lương của các cháu ở đây chỉ có hai trăm nghìn đồng một tháng thôi à?
- Dạ! Không phải ạ! Lương của chúng cháu là ba trăm nghìn một tháng, được nuôi cơm bữa trưa. Tháng nào làm tốt công việc còn được thưởng thêm hai trăm nghìn đồng nữa bác ạ.
- Thế sao ông Nhân chỉ có hai trăm nghìn đồng?
Mọi người im lặng. Anh con trai ông giờ mới lên tiếng:
- Ông ấy để trâu bò vào trang trại phá mất mấy luống hoa nên tháng này bị trừ lương, cắt tiền thưởng...
- Trừ lương... có ba trăm nghìn đồng mà còn trừ...
Ông tướng lẩm bẩm. Ông thất vọng nhìn anh con trai. Khi biết ông Nhân còn bị buộc thôi việc thì ông càng buồn hơn. Ông lặng lẽ ra xe. Anh lái xe nổ máy đưa ông sang bệnh viện thăm thằng cháu nội. Cu Tít đã bình phục. Nó đang đòi mẹ cho về để cùng ông Vĩ Nhân đi bắt dế!
Ông tướng ở chơi với cháu đến cuối chiều thì bảo anh lái xe:
- Nào ta đi. Sắp tối rồi!
Anh lái xe định cho xe rẽ về hướng trung tâm thành phố thì ông bảo:
- Lên đường cao tốc! Ta qua Bắc Ninh.
- Thủ trưởng định đi đâu ạ?
- Ta về quê ông Nhân!
- Nhưng bác ấy có về quê đâu! Lúc nãy mấy cậu ở trang trại nói bác ấy đã đi xe ngược Thái Nguyên để lên vùng Bắc Cạn đào đãi vàng cơ mà.
- Ta sang Bắc Ninh tìm nhà ông ấy!
- Thủ trưởng có địa chỉ bác ấy rồi ạ?
- Chưa! Chỉ còn nhớ mang máng! Hình như quê ông ấy ở Quế Võ, Bắc Ninh...
- Thế thì tìm làm sao được ạ?
- Ta cứ về Bắc Ninh, tối nay nghỉ ở thị đội, mai đi Quế Võ, đến hội cựu chiến binh huyện hỏi thăm, may đâu họ có danh sách, địa chỉ...
Chiếc ô tô lên đến đường cao tốc Nội Bài - Phả Lại thì trời đã tối hẳn. Những ngôi sao lấp lánh phía chân trời xa thẳm. Ông tướng thò tay vào túi áo. Những ngón tay của ông như phải bỏng khi chợt chạm vào tờ giấy bạc của người bạn chiến đấu năm xưa...
Điều đó không cấm
Cô gái xinh đẹp vừa cởi đồ và sắp bước xuống hồ để tắm. Không biết từ đâu hiện ra một anh lính:
- Thưa cô, ở hồ này cấm tắm!
- Sao anh không thông báo lúc tôi cởi quần áo? - cô gái tức giận.
- Anh em trong đại đội ngăn cản tôi, vả lại điều đó thì... không cấm!
CHUYỆN ADZỀN Ở LÍNH
1. Hồi mới vào lính, Adzền - tuy là người dân tộc nhưng lại có tính sợ ma, cầu tiêu chỉ cách doanh trại 50m nhưng trời tối không dám ra, nên tiện thể luôn ngay sau doanh trại.
Sớm mai chỉ huy hỏi nhưng không chú nào nhận, thế là chỉ huy đành xử theo "kiểu lính":
- tất cả một hàng ngang tập hợp, từ "hiện trường" ra tận cầu tiêu, chuyền tay nhau cả đống ấy.
Hô hô, thương thay cho những chú đứng đầu hàng.. còn mấy chú đứng cuối thì cũng chả có việc gì mà làm.
Vụ đó làm Adzền nhớ mãi.
2. Đại đội Adzền tổ chức hành quân dã ngoại. Buổi tối đơn vị cắm trại bên ngoài một ngôi làng, sát với bìa rừng. Đêm Adzền ta thấy đau bụng, nhưng nhớ lần ở đơn vị phải để anh em bị phạt vì mình nên lần này cậu đi cách xa nơi đơn vị cắm trại một quãng rồi chui vào một lùm cây ngồi... Nhưng khổ nỗi cu cậu bị táo nên cố gắng tập trung lắm nhưng vẫn chưa cho ra được sản phẩm. Đúng lúc đó thì phía bên kia lùm cây có tiếng một đôi nam nữ đang than thở:
Tiếng cô gái:
- Em mà không lấy được anh thì em chết!
Tiếng chàng trai:
- Anh mà không lấy được em thì anh cũng chết!
Bực mình Adzền nói to:
- Tao mà không ị được thì tao cũng chết!
3. Adzền nhận được thư nhà nhưng khi mở ra thì bên trong chỉ vỏn vẹn một trang giấy trắng. Ạnh bạn thắc mắc:
- Chuyện gì thế nhỉ?
- Đơn giản thôi - Adzền giải thích - Trước khi nhập ngũ tôi và vợ tôi cãi nhau một trận to. Từ đó đến nay chúng tôi không bao giờ nói chuyện với nhau nữa.
4. Vì muốn được miễn đi nghĩa vụ quân sự để ở nhà với vợ, Adzền trình bày với bác sỹ quân y là mình bị đau lưng rất nặng. Để được xác nhận căn bệnh, Adzền gửi cho ông ta một phong bì 500 nghìn. Kết quả khám tuyển Adzền vẫn trúng tuyển với sức khoẻ hạng A1, anh ta ngạc nhiên phản đối:
- Chắc bác sĩ quên là tôi đã mắc bệnh đau lưng?
Bác sĩ lắc đầu nói:
- Nhớ chứ, nhưng để được miễn phải đau gấp đôi cơ!
5. Hồi còn đi học Adzền rất thích đọc sách về lịch sử, trong đó cậu thích nhất là bài viết về gương chiến đấu dũng cảm của Anh hùng liệt sỹ Phan Đình Giót. Một hôm đến giờ học môn lịch sử, cô giáo hỏi:
- Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã chiến đấu rất anh hùng, trong đó nổi lên nhiều tấm gương tiêu biểu, ai có thể kể cho cô và các bạn nghe về một trong nhưng tấm gương tiêu biểu đó?
Thấy trúng tủ của mình Adzền liền giơ tay xung phong:
- Anh Phan Đình Giót ấy, trước khi lấy thân mình lấp lỗ châu mai cho đồng đội tiến lên anh đã *** vào đầu giặc. Hành động đó chứng tỏ anh là người rất anh hùng, coi thường quân giặc...
Cô giáo:
- Adzền, dừng lại! Em lấy chi tiết lịch sử đó ở đâu vậy?
Adzền: Thưa cô, ở trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 5 ạ.
Adzền giở sách ra cho cô giáo xem, trong sách viết "Anh Phan Đình Giót trước khi lấy thân mình lấp lỗ châu mai đã dí tiểu liên vào đầu giặc", nhưng chẳng may do in mờ nên Adzền đã đọc và hiểu nhầm là "đi tiểu liền vào đầu giặc" .
6. Kết thúc đợt bắn đạn thật, Đại đội của Adzền báo cáo lên Tiểu đoàn như sau:
- 1 đồng chí bắn trúng tim.
- 4 đồng chí bắn bị thương.
- 94 đồng chí bắn cảnh cáo, bắt sống.
Kết luận: 100% đạt yêu cầu.
Mục đích sống
Người lính trẻ đến bác sĩ khám định kì, sau khi lấy một lọat loại test phức tạp, bác sĩ nói sức khỏe của anh lính khá ổn. Hơi lo lắng về kết quả này, anh lính ngập ngừng hỏi:
“ Bác sĩ nghĩ tôi có sống được tới năm 80 tuổi không? “
Bác sĩ hỏi:
“ Anh có hút thuốc hay uống bia rượu không?”
“ Không, tôi chẳng thuốc thang rượu chè bao giờ.”
“Anh có hay ăn đồ rán, đồ hun khói và đồ nướng không?”
“ Không bác sĩ ạ, tôi nghe nói những đồ ấy rất không tốt cho sức khỏe.”
“Thế anh có hay đứng ngoài nắng lâu, như là chơi golf không?”
“Cũng không”
“Thế anh có hay cà phê cà pháo, tán tỉnh phụ nữ đôi chút không?”
“ Không, tôi chưa bao giờ làm những điều này cả.”
Bác sĩ nhìn anh lính trẻ ngạc nhiên.
“ Vậy anh sống đến 80 tuổi để làm gì ?”
NÓI THẲNG NHƯNG VẪN XA
Trong quân y viện, anh thương binh bị bó bột cả hai chân hai tay khẩn khoản nhờ cô y tá:
- Trời ơi, ngứa..."ấy" quá, cô gãi giùm tôi!
- Ôi tội nghiệp, anh ngứa ở đâu?
- Chỗ ...không tiện nói.
- Anh cứ nói thẳng ra, đừng ngại.
- Vâng, ở giữa...hai ngón chân cái.
BẮT PHẢI "MẠCH GỖ"
Một thương binh đi khám bệnh, bác sỹ sờ lên cổ tay anh ta và xem đồng hồ. Sau một phút theo dõi, ông này phán:
- Tốt, mạch đập bình thường.
- Nhưng...thưa bác sỹ, đó là cánh tay giả của tôi đấy.
VẪN LÀ BỆNH CŨ THÔI
Bác sỹ khám cho một thương binh, mãi không luận ra được căn bệnh liền hỏi anh ta:
- Những triệu chứng này có từ khi anh bị thương đúng không?
- Vâng, thưa bác sỹ.
- Phải rồi, bệnh của anh là do vết thương cũ tái phát.
Năm ngàn Ki-lô-ôm tức là năm tấn
Cán bộ trung đoàn saovang đang làm việc, cán bộ tiểu đoàn triumf bước vào.
-Báo cáo thủ trưởng, vừa rồi tiểu đoàn tôi phát hiện một điện trở năm nghìn ki-lô-ôm bị cháy mà không có cái thay thế. Đề nghị đồng chí cho xe lên ban kỹ thuật sư đoàn lĩnh ạ.
-Được, đồng chí về chuẩn bị lên đường làm nhiệm vụ. Tôi sẽ cho điều xe ngay.
Triumf đi ra. Saovang gọi điện cho ban xe:
-A lô! Ban xe đấy hả? Điều một chiếc xe lên ngay ban kỹ thuật sư đoàn để lĩnh cái điện trở năm nghìn ki-lô-ôm nhé. Nhớ là đến những năm nghìn ki-lô-omm tức là năm tấn đấy. Phải cho xe zin mới chở được. Nghe chưa?
Anh chàng láu cá
Ptlinh dẫn đơn vị pháo phản lực đi diễn tập bắn đạn thật. Do lâu ngày không chạy ra đường, chú lính lái chiếc xe Ural 6x6 đi đầu chở dàn pháo cachiusa 40 nòng mát ga, không dừng kịp khi đèn đỏ sáng và đâm phải một xe khác. Anh chàng nhảy khỏi xe và tiến tới chiếc xe kia.
Trong xe có một người đàn ông ở độ tuổi trung niên. Ông ta hét lên khi nhìn thấy anh:
- Anh làm gì thế? Suýt nữa anh giết chết tôi đấy, có biết không?
- Vâng, tôi xin lỗi.
Chú lái xe quay về xe mượn của Ptlinh bi đông rượu quốc lủi rồi đưa cho ông:
- Uống một chút rồi ông sẽ thấy đỡ hơn.
Người đàn ông kia nhấp một hớp, rồi lại hét lên:
- Tí nữa thì anh giết tôi đấy !
Chú lính lại đưa cho ông ta cái bi đông và lần này thì ông uống khá nhiều. Khi bi đông rượu vơi quá nửa, ông ta mỉm cười:
- Cám ơn, giờ tôi thấy khá hơn rồi. Nhưng sao anh không uống nhỉ?
- Ồ, tôi chẳng muốn uống giọt nào hết, chúng tôi đang hành quân. Không biết khi nào thì cảnh sát mới mang máy kiểm tra nồng độ cồn tới nhỉ?
'Ấy'... đi xem nào
Một đồng chí là Tư lệnh của một đơn vị cỡ lớn rất mực quý vợ, coi là hậu phương lớn vô cũng vững chắc, bạn bè mời đi chơi, dù nài ép thế nào, anh cũng về nhà trước nửa đêm. Một hôm, vì quá vui, anh say mềm, không thể về nhà như thường lệ và phải ngủ lại nhà một đồng chí cấp dưới.
Sáng hôm sau, khi vừa về tới nhà người vú già đã đứng đón sẵn và buồn bã báo tin: "Thưa cậu, mợ nhà bị ốm, từ sáng tới giờ chưa ăn uống gì. Con hỏi mợ có ăn cháo thì để con nấu nhưng mợ nhất quyết không ăn. Giờ mợ đang nằm trong buồng".
Anh hốt hoảng lao vào buồng, vừa đi vào vừa lẩm bẩm : "Mình thật là vô tình quá, vợ ở nhà đau ốm mà không hay. Không biết ốm đau ra làm sao? Lần này thì chả có nước chanh mà uống nữa rồi!!!".
Thấy vợ nằm quay mặt trở ra, trông có vẻ thiểu não, anh liền ngồi xuống giường, vừa hỏi vừa để tay lên trán vợ: "Mình ốm làm sao? Anh vì bị mấy thằng ở Quân khu ép uống say quá, không về được, mình tha lỗi cho anh nhé. Mình đã ăn uống gì chưa? Để anh bảo người đi mua bánh cho mình"
Chị vợ không nói năng gì cả , anh lại hỏi: "Hay là mình ăn cháo gà nhé?"
Chị vợ bèn gắt ầm lên: "Để yên cho người ta nằm".
Rồi quay ngay mặt trở vào trong.
Anh tức quá, đứng ngay lên định nói: "Ông lại nện cho một trận bây giờ".
Nhưng vốn nể sợ, không dám dùng chữ "Nện" nên anh liền quát: "Ông lại "ấy" cho một cái bây giờ".
Chị vợ nghe thấy thế liền quay ngoắt ngay lại cong cớn: "A! Có giỏi thì "ấy" đi xem nào?"
Người đẹp quá giang
Một chú trung úy chuyên nghiệp dừng chiếc đại xa Kraz 6x6 trước một phụ nữ xinh đẹp xin đi nhờ xe tay xách chiếc can nhựa khá nặng.
- Bia đấy à? - Anh ta tò mò hỏi.
- Không.
- Rượu vang đỏ?
- Không.
- Vậy chất lỏng trong can là thứ gì?
- Xăng.
- Cô mang nó theo làm gì? Thời buổi này cây xăng mọc nhan nhản khắp nơi...
- Tôi thường vẫy xe đi nhờ và thừa biết giới tài xế đường dài các anh, nhất là mấy anh sĩ quan khi chạy tới một cánh rừng vắng, thế nào cũng giở cái điệp khúc muôn thuở: “Xe hết xăng rồi!”.
Chuyện vui đi chợ Sài Gòn 30.4
Trưa ngày 30.4.1975, đơn vị tôi tiến vào Sài Gòn theo cánh quân đông bắc. Tôi lúc đó làm bản tin của Sư đoàn 7, Quân đoàn 4, đóng ở số nhà 11, hẻm Cây Điệp, đường Nguyễn Đình Chiểu. Ngay chiều hôm đó, chúng tôi đã rủ nhau "lẻn" cơ quan đi dạo chợ vì nghề "làm báo" được "tự do" đi lại hơn.
Đường phố Sài Gòn giờ phút này vẫn yên ắng như chưa từng qua một cuộc chiến đấu ác liệt mấy ngày trước đó. Chúng tôi thấy trên đường có rất nhiều quán quảng cáo " A, đây rồi! Cầy tơ bảy món", nên ngay đêm 30.4, mấy anh dân Bắc Kỳ thèm cầy tơ, bèn rủ nhau đi kiếm. Khoảng chín giờ đêm, sinh hoạt đơn vị xong, tôi và anh Lạc ra phố. Đang là giờ thiết quân luật, nên khi nghe chúng tôi gõ cửa: "Quân giải phóng đây", thì chủ nhà mặt mày xanh lét vì sợ!
Nhưng nghe chúng tôi hỏi có thịt cầy bán không thì ông tròn xoe mắt ngạc nhiên, rồi mỉm cười xởi lởi. Không hiểu sao mấy hôm chiến sự căng thẳng thế mà quán này vẫn có thịt cầy. Ông gọi con gái dậy, vào bếp, rồi bưng ra, gói cho bộ đội. Không biết giá bao nhiêu, chúng tôi trả 500 đồng tiền chế độ cũ, ông bảo: "Biếu các anh giải phóng!". Anh Lạc liền rút 10 đồng biếu ông! Chủ quán cầm tờ tiền run run ấp vào ngực, rồi cảm ơn. Chúng tôi ra khỏi cửa còn nghe tiếng cô gái nói với bố: "Việt cộng dễ thương quá ba heng!".
Sáng ngày 1.5.1975 và những ngày sau đó, chúng tôi lại " trốn" đi chợ Bến Thành, Chợ Lớn. Lúc này các chợ ở Sài Gòn, bà con tiểu thương vẫn buôn bán bình thường như không có chiến tranh xảy ra. Các cửa tiệm quần áo may sẵn, vải, len, dạ... vẫn mở cửa. Các xe nước mía, nước sinh tố, các xe bánh mì... rôm rả tiếng chào mời. Bán chạy nhất lúc ấy là cờ đỏ sao vàng đủ loại to nhỏ và tấm biển mica nền đỏ chữ vàng " Không có gì quý hơn độc lập tự do". Người ta đổ nhau đi mua. Cờ đỏ sao vàng để treo ở cổng nhà và lập bàn thờ tổ quốc có ảnh Bác Hồ, còn tấm biển "Không có gì quý hơn độc lập tự do" để gắn lên tường. Sau này tôi mới biết là các loại cờ, biển ấy là do làng Thổ Tang (Phú Thọ) sản xuất và chở vào Nam theo ngay sau đoàn quân giải phóng!
Bán đầy các vỉa hè Sài Gòn trong những ngày đầu giải phóng còn có các thứ đồ dùng của lính Mỹ như bật lửa Zippô, các loại dụng cụ ăn uống bằng inox như dao, nĩa, thìa, khay đựng thức ăn lính, kể cả bình tông, ca uống nước, balô, quạt điện, bàn là, dao cạo râu...
Loại hàng bán chạy thứ ba là hàng "lưu niệm" bán cho bộ đội về Bắc như: Khung xe đạp, rađiô Nhật, đồng hồ Nhật, búpbê nhựa, áo len, khăn voan v.v...Trên các bến xe, hình ảnh người bộ đội balô căng phồng, trên buộc một chiếc khung xe đạp và treo vắt vẻo con búpbê có đôi mắt chớp lung linh đã trở thành hình ảnh đặc trưng, quen thuộc!
Các loại khăn len búp bê, áo complê, áo len... thời đó ở chợ Bến Thành, chợ Lớn... mua một chiếc được biếu một chiếc. Tất len (vớ) chỉ 5 đồng một đôi, lại được biếu thêm đôi nữa. Phụ cấp lính giải phóng của chúng tôi những ngày ấy có thể mua được chiếc đồng hồ Orient "3 cửa sổ". Chị tôi ở Mai Động (Hưng Yên), gửi vào cho tôi mấy tờ 10 đồng tiền Cụ Hồ. Tờ mười đồng đó có thể đổi được 10.000 tiền chế độ cũ.
Bộ đội giải phóng đa phần là thanh niên học cấp 2 cấp 3 làng quê miền Bắc. Họ lớn lên ở nông thôn, vào chiến trường lại ở rừng núi, nên vào Sài Gòn, anh em rất bỡ ngỡ. Có chuyện vui mà mỗi lần nhớ lại tôi lại cười một mình. Cậu y tá tên Thành, người Thái Bình ở trung đoàn bộ được điều đi giúp tôi là "nhà báo" đi nhận giấy in về in bản tin. Chúng tôi gọi một chiếc xe lam. Hồi đó, đang quân quản, nên bộ đội gọi xe nào xe đó vui vẻ phục vụ, sau đó chủ xe được cấp một giấy chứng nhận: "Đã phục vụ quân giải phóng" việc này việc kia, do Sư trưởng Nam Phong ký.
Khi ra đường thấy chiếc xíchlô máy chở nước đá cây lóng lánh bảy sắc cầu vồng trong nắng Sài Gòn, Thành níu vai tôi la toáng lên: "Anh Khôi ơi! Kim cương! Kim cương nhiều chưa kìa!". Tôi nín cười mắng cậu ta: "Đồ ngốc, đó là nước đá, họ làm đông nước thành đá!". Nhưng khi hiểu ra, chính cậu ta lại là người sáng kiến lấy giấy báo ủ để nước đá lâu tan. Anh Diên người Tày, quê Lạng Sơn là anh nuôi đơn vị tôi. Ngay buổi sáng 1.5.1975 đi chợ mua chục con cá lóc. Anh về đếm mãi vẫn cứ 12 con, bèn lật đật ra chợ tìm cho được bà bán cá trả lại hai con vì "tội người ta", "buôn bán kiểu này thì lời cái gì".
Khi anh tìm được bà bán cá, bà cười toáng lên:" Chú giải phóng ơi, "một chục" ở đây là 12, có khi còn là 14 chứ không phải mười nghen!". Anh về kho nấu bữa tối, còn hai con cá để lại ngày mai, anh cho vào chỗ bệ cầu vì thấy ở đó có nước! Sáng mai anh đi bắt cá để nấu cháo thì cá không còn nữa. Anh đi báo cáo thủ trưởng, tưởng có người làm mồi nhậu ban đêm. Đến nơi ai cũng ôm bụng cười vì cá thì mất, mà cầu thì tắc, phải nhờ ông thợ hàng xóm sang thông hộ.
30 năm rồi, những chiến sĩ giải phóng bạn bè cùng tôi lớ ngớ đi chợ Sài Gòn ngày 30.4 đó, có người bây giờ đã thành những doanh nhân phát đạt. Lại có người trở thành nhà văn có tiếng như Phùng Khắc Bắc (đã mất), Lê Huy Khanh, Nguyễn Quốc Trung... (Nhà thơ Ngô Minh)
Không quen hạ cánh cùng máy bay
Máy bay đang hạ cánh, một hành khách tỏ vẻ bồn chồn, cô tiếp viên hỏi:
- Ngài cảm thấy mệt ư?
- À, tôi chịu được... có lẽ do chưa quen.
- Chắc đây là lần đầu tiên ngài đi máy bay?
- Vâng... à không, đây là lần đầu tiên tôi hạ cánh cùng máy bay, tôi là lính dù.
Nhiều kinh nghiệm dân sự hơn
Hồi trước, lúc còn là thiếu tá, Sao Vàng cố thuyết phục một hạ sĩ gia hạn nghĩa vụ thêm vài năm:
- Cậu thử nghĩ xem, thế là hai năm kinh nghiệm quân sự đi tong.
- Thế ngài nghĩ sao với 18 năm kinh nghiệm dân sự của tôi?
Nhảy dù
Đếm đến 3 thì mở dù... Nếu dù không mở được đổi dù khác.
* Một anh lính dù được tuyển vì anh to lớn khỏe mạnh, nhưng anh ta có tật nói cà lăm. Một bữa thực tập nhảy dù, đích thân trung đoàn phó Sao Vàng nói:
- Các anh cứ làm theo lời tôi dặn, khi nào nhảy ra cứ đếm từ một đến ba, rồi bấm nút cho dù mở ra.
Mọi người lên máy bay. Đến phiên anh cà lăm, người ta thấy anh rơi thẳng băng xuống đất mà dù không mở. Cũng may là anh ta rơi ngay vào cái cành cây nên bị móc treo toòng teng. Huấn luyện viên chạy đến xem thì nghe anh ta đang lơ lửng mà miệng còn đang... đếm:
- B... B... a... a... ba...
* Binh sĩ đang được trung tá Sao Vàng kiểm tra huấn luyện. Một anh lính hỏi:
- Thưa trung tá, nếu như dù không mở khi tôi nhảy ra khỏi máy bay thì sao ạ?
Sao Vàng trả lời :
- Thì khi xuống đất anh chỉ việc mang dù về đổi lấy cái khác.
Tài ngụy trang
Sư trưởng Dongadoan gọi Chiangshan lên để khiển trách: "Vì sao trong đợt hội thao vừa rồi, đồng chí lại làm lộ trận địa mai phục của quân ta. Không những thế còn mắng nhiếc, sỉ nhục, thậm chí suýt hành hung hai đồng đội Ptlinh và Trasenvietnam?".
- Thưa chỉ huy, thực hiện nhiệm vụ được giao, em đã ngụy trang thành cái gốc cây. Đôi "đồng đội" ấy dẫn nhau đến ngồi dưới gốc cây. Đầu tiên, họ nói chuyện anh anh em em, chim xa tổ lá xa cành, rồi thề non hẹn biển...bàn nhau tung hoả mù với anh em cùng đơn vị để cá độ. Mặc dù phải nghe toàn điều lừa đảo nhưng em vẫn một mực nín nhịn, quyết không làm lộ trận địa của ta. Sau đó đến màn ôm ấp, vuốt ve, hôn hít, rồi đòi hỏi này nọ... Mặc dù bản thân cũng rất bị kích động, em vẫn quyết không làm lộ trận địa.
- Những điều đó chẳng liên quan gì đến việc đồng chí để lộ trận địa mai phục của quân ta.
- Đúng thế, thưa chỉ huy. Nhưng đến lúc anh Ptlinh dở con dao nhíp ra và định khắc tên chị Trasenvietnam vào... mông em thì em không thể chịu đựng thêm được nữa...
Thói quen
Một vị tướng 4 sao hồi hưu tái ngộ với người cần vụ đã từng theo ông nhiều năm, nay cũng đã về vườn. Sau mục thăm hỏi, vị tướng đề nghị người cần vụ cũ đến làm việc tiếp cho mình:
- Công việc của cậu vẫn giống như khi còn ở sư đoàn thôi, không có gì thay đổi cả.
Người lính cũ nhận lời. Bắt đầu ngày làm việc đầu tiên, đúng 8 giờ, anh lính già vào phòng ông tướng, mở toang cửa sổ, lay gọi thủ trưởng dậy. Sau đó thản nhiên vòng qua phía bên kia giường, vỗ mạnh vào mông bà tướng và nói:
- Sáng rồi cưng, dậy sửa soạn rồi rút lẹ đi, hôm khác lại tới
Tự vệ
Một chàng trai trẻ bị điều đi lính, hỏi vị sĩ quan quân đội:
- Tại sao họ lại bắt tôi phải đánh nhau với một người ở đất nước khác, một người mà ngay cả mặt anh ta tôi cũng không biết nữa?
Vị sĩ quan nghe xong liền giải thích:
- Họ không buộc anh phải đánh nhau với những người khác... Họ cũng không yêu cầu anh đánh nhau với những người khác. Chỉ đơn giản là họ cho anh mặc quân phục, đưa anh đến một chỗ khác và đặt vào tay anh một khẩu súng. Sau đó họ đưa anh đến chiến trường đối mặt với kẻ thù, người đó cũng có một khẩu súng... rồi họ để anh tự quyết định. Anh có thể không giết họ cơ mà....
Chân chính, chân phụ
Một anh bộ đội đóng quân ở làng quê và phải lòng yêu một cô gái người làng ấy. Vốn là lính và là người đàng hoàng, đứng đắn nên anh đến nhà người yêu bao giờ cũng chào hỏi gia đình, nếu có muốn đi chơi bao giờ cũng xin phép. Khổ một nỗi, ông già của người yêu rất kh ó tính, dẫu biết anh là người tốt nhưng ông vẫn xét nét, ngăn chặn.
Một bận, anh tới chơi, cô gái ở trong bếp, còn ông bố thì đang bực tức việc gì. Anh chào, ông già đáp "vâng". Anh ta lân la cưa cẩm:
- Dạ thưa bác, hôm nay bác có khoẻ không ạ?
- Cảm ơn! Sức khoẻ của tôi đang ở trong bếp kia kìa, anh vào đó mà hỏi.
Tưởng ông già đùa, anh lại nói tiếp:
- Dạ, thưa bác... cháu xin phép bác cho cháu đưa em sang đơn vị để xem văn nghệ có được không ạ?
- Không văn nghệ, văn gừng gì hết. Tôi còn lạ gì cái vở của các anh, lấy lý do này lý do kia. Ai biết anh đưa nó đi xem hay là anh đưa ra bụi ra bờ nào đó để nhỡ nó ễnh cái bụng lên thì chết tôi à...
Anh bộ đội nghe vậy thanh minh:
- Dạ, sao lại dám vậy ạ! Thưa bác, chúng cháu phải giữ cho nhau, vì cháu yêu một tình yêu chân chính chứ ạ.
Ông già cười và mỉa mai:
- Tôi biết anh là chân chính rồi, mà tôi có sợ cái chân chính của anh đâu. Tôi chỉ sợ cái chân phụ... của anh thôi. Cái chân chính thì anh giữ được, còn chân phụ... anh làm sao giữ nổi?
Nước sâu đến đâu?
Ba anh lính được lệnh đưa 3 cô xung kích về chiến khu. Đến giữa đường, 3 chàng bắt 3 cô phải đi chậm lại không được theo sau họ. Ba nàng tò mò và lo lắng lắm liền bí mật bám theo.
Hoá ra đó là 1 con suối, 3 anh lính phải cởi đồ để lên đầu rồi lội qua con suối sâu đến tận ngực. Ba cô nàng cười khúc khích rồi cũng bắt chước làm theo khi 3 chàng đi khuất. Tuyệt thay, khi 3 cô xung kích ra đến giữa dòng rồi mà nước vẫn chỉ đến đầu gối thôi!!!
Chiến công
Trong cuộc chiến tranh ARập và Do Thái, một người lính Do Thái được nghỉ phép 30 ngày và được thưởng huân chương vì chiến công bắt sống xe tăng địch.
Một phóng viên đến phổng vấn anh ta.
PV: Anh có thể cho tôi biết cách nào anh có thể làm điều thần kỳ như thế?
Anh lính: Dễ thôi. Tôi đang lái xe tăng ra trận, bỗng tôi thấy 1 chiếc xe tăng ARập. Tôi thò đầu ra, vẫy nó lại, rồi bảo với tên lính lái xe tăng kia: Này cậu, có muốn 30 ngày nghỉ phép ko?. Tên lính kia gật đầu.
PV: Tiếp theo thế nào?
Anh lính: Đơn giản, chúng tôi đổi xe tăng cho nhau và lái về.
Nhầm
2 anh thương binh nằm cạnh nhau
TB1: Này, sao nhìn cậu bị thương ghê thế?
TB2: À, cũng chỉ tại lão chỉ huy. Trong giờ thực hành ném lựu đạn. Lão ta dặn: rút chốt và ném thật xa. Tớ làm y như thế...
TB1: Thế sao cậu bị thương?
TB2: Nhưng lão ta đâu có dặn ném cái nào? Cái chốt hay quả lựu đạn.
Kết quả bất ngờ
Một anh lính đang đóng quân, nhận thư vợ, vừa mới sinh con. Trong đó có đoạn viết: "Anh ơi, em sinh con ko có sữa nên phải bú nhờ một phụ nữ da đen, nên da con bây giờ cũng đen anh ạ...".
Ngạc nhiên, anh ta viết thư về hỏi mẹ, thuật lại những điều vợ viết. Mẹ anh liền gửi cho anh 1 lá thư: "Con ơi, lúc mẹ sinh con, mẹ cũng ko có sữa, nên phải cho con uống sữa bò, vậy mà mãi đến bây giờ, con mới mọc sừng cơ à."
Lính và chuyện 'ấy'
Sau một thời gian dài phục vụ trong quân ngũ, một anh lính được nghỉ phép về thăm người yêu. Trong buổi tối đầu tiên gặp nhau, anh lính nói: "Em yêu ,tối nay hai đứa mình đánh giáp lá cà nhé?".
Người yêu anh nhỏ nhẹ đáp: "Vâng ạ! Mình đánh giáp lá cà cho đến sáng nhé! Nhưng anh không được lùa đại quân vào thành đâu đấy".
Anh lính hỏi lại: "Làm sao vậy cưng?".
"Vì em chưa muốn có lính mới", cô gái trả lời người yêu với ánh mắt ngại ngùng.
Anh lính đáp: "Được rồi. Em đừng lo. Anh sẽ đưa quân vào thành và khi nào có pháo lệnh, anh sẽ lùa quân ra ngoài quan ải!".
Đổi gác
Một anh lính nọ phải ra trận vào ngày hôm sau nên tối hôm đó, anh thủ thỉ cùng vợ: "Em à! Ngày mai anh đi rồi, gắng chiều anh một đêm nhé !!!".
Khi làm "chuyện lớn" xong, anh thầm nghĩ mình đi ra trận không biết bao lâu mới về mà vợ lại xinh đẹp, trẻ trung nên đâm ra lo lắng. Anh bèn vẽ một người lính đứng vác súng trên đùi vợ cho yên tâm.
Anh đi chẳng bao lâu thì người vợ trẻ không chịu được cảnh buồn tẻ vì thiếu chồng nên rước tình nhân về nhà. Anh tình nhân làm xong chuyện lớn, xóa đi người lính canh súng và vẽ lại một người lính khác cũng đứng vác súng.
Ngày anh chồng trở về, hí ha hí hửng gặp lại vợ mình. Tối đó, anh xem lại rồi quay sang hỏi vợ: "Em à! Người lính lúc trước anh vẽ đứng vác súng tay phải mà, sao bây giờ vác bên tay trái?"
Cô vợ lúng túng trả lời: "Thì vác tay phải mỏi quá, phải đổi sang tay trái chứ sao! Cái đó gọi là đổi gác, anh ạ".
An toàn tuyệt đối
Tại một vùng bị bệnh dịch tả hoành hành, một sĩ quan thuộc ngành y tế của quân đội đến thăm trại lính và hỏi một hạ sĩ:
- Các bạn xử lý thế nào để nước có thể uống được?
- Đầu tiên chúng tôi lọc nước.
- Tốt! Rồi sau đó?
- Chúng tôi đun sôi.
- Khá lắm. Kế đó các bạn làm gì?
- Để tránh mọi nguy cơ, chúng tôi uống bia
Đã ngứa mắt từ trước
Đám tân binh đang hành quân, một cậu lính kêu to:
- Thưa trung sĩ, xin phép dừng chỉnh đốn trang phục! Đôi giày dự phòng sau balô cứ đá vào mông tôi.
- Chính tôi cũng đang muốn làm việc ấy với cậu đấy!
Quên tháo ba lô
Đơn vị hành quân ngang qua làng. Một anh lính tranh thủ lúc chờ phà tót ngay về nhà, gặp vợ ở cổng vội kéo tuột vào buồng:
- Nhanh lên bu nó, đơn vị sắp sang sông rồi!
Tới giữa cơn "vần vũ", vợ thì thào:
- Sao bảo ở đơn vị đói ăn lắm mà em thấy mình vẫn... nặng như xưa?
- Thôi chết! Anh quên chưa tháo ba lô
Dũng cảm không phải là liều lĩnh mù quáng
Bên hồ cá sấu, ba viên sĩ quan đang tranh cãi xem lính của ai dũng cảm hơn. Vị thứ nhất ra lệnh cho người lính của mình:
- Hãy bơi qua cái hồ này!
Anh lính ái ngại tuân lệnh và bơi thật nhanh qua hồ, thoát hiểm.
Chẳng mảy may ấn tượng, sĩ quan thứ hai hét lên với cấp dưới của mình:
- Nhảy xuống hồ và trụ lại đó 10 phút!
Mặt dù rất sợ nhưng anh lính cũng miễn cưỡng làm theo lệnh trên. Sau 10 phút đánh nhau với đàn cá sấu, anh ta may mắn lên được bờ.
Viên sĩ quan thứ ba lên tiếng với người lính của mình:
- Hãy nhảy xuống đi và chứng minh là anh dũng cảm hơn họ!
Người lính này tiến lên dằn từng tiếng vào mặt đám sĩ quan:
- Tôi có thể xuống hồ và giết sạch lũ cá sấu, nhưng đó là một mệnh lệnh ngu ngốc, một sự hy sinh vô nghĩa. Tôi - không - xuống!
Vị sĩ quan thứ ba mỉm cười trước sự ngạc nhiên của hai người kia:
- Tôi cho rằng anh ta mới thực sự là dũng cảm!
TRIẾT LÝ TÌNH YÊU
Chuyện vui . Nguyễn Xuân Diệu
Tôi vốn hay hát, mà hát rất hay. Bài hát tôi sướng nhất có câu mở đầu nghe càng sướng: "Tình yêu có từ nơi đâu" Nghe nôn nao cả lòng! Ngặt nỗi, trung uý An bạn thân của tôi, nghe tôi ca, cứ cười mãi: "Hơn 30 cái xuân xanh trên đầu, chưa có mảnh tình vắt vai mà khi nào cũng "tình yêu có từ nơi đâu" Dở! Lời ca tôi tắt nửa chừng. Nói có trời, quả là tôi cũng chưa biết tình yêu có từ nơi đâu thật. Thì đã yêu đâu mà biết!
Cũng lạ, chẳng hiểu sao cánh lính đại đội thường hay luận tình yêu quá thể. Cứ tụm năm, tụm ba lại "buôn dưa lê" là chúng triết lý vặt, như thể các hắn rành tình yêu lắm. Đứa thì ba hoa: "Tình yêu ư? Nó bắt đầu từ đôi mắt!", thằng lại tuyên ngôn: "Rõ rồi! Tình yêu phải bắt đầu từ trái tim!". Có "tên" tuyên bố xanh rờn: "Tình yêu bắt đầu từ cái... miệng biết nói lời tán tỉnh" Khiếp! Cứ như chúng là những bậc sư phụ cả. Biết tôi vụng về cái sự yêu đương, sau những lời tán dóc đó. An nhìn tôi, nói kháy: "Còn cậu, trung uý? Nói nghe coi, tình yêu bắt đầu từ cái gì?". "Tôi tắc tị, liền cáu sườn giơ nắm tay củ gừng lên: Tớ ấy à? Tình yêu của tớ bắt đầu từ quả đấm! Hãy đợi đấy" Nghe tôi phán thế, biết tôi giỏi võ, sợ bị lãnh trọn quả phật phủ thì đi đời, An lủi mất. Cái triết lý "quả đấm" của tôi xôn xao làng nước. Bằng chứng là tết Đinh Hợi, tôi được nghỉ phép. Đại đội trưởng của tôi, một đại uý cực hóm, gọi tôi lên nhà chỉ huy. Hết so vai, lại nháy mắt, anh bảo:
- Đợt phép này, nhiệm vụ của cậu là phải kiếm được một đám. Dưng mà, cậu phải vứt cái nguyên tắc "tình yêu bắt đầu từ quả đám" ấy đi. Thứ nhất: nếu kiên trì nguyên tắc ấy, chẳng ma nào thèm ngó đến cậu. Thứ hai: phe ta lại phải gánh thêm hàng chục ngày 8-3 nữa để chống lại nạn bạo lực... tình yêu! Hoa những ngày đó đắt như vàng, chỉ làm tội ba anh lính trẻ. Cậu biết đấy, lính tráng phụ cấp có bao nhiêu mà mua nổi vàng để tặng em!
Tôi dạ ran, cột cặp số ra về. Sau mấy ngày nghỉ phép Tết, dù đã nỗ lực phi thường, "hành trang trái tim" tôi vẫn cứ zia-rê. Ngày tôi trả phép, mưa xuân chi cứ như cầm chĩnh mà trút. Gần tới đơn vị, tôi phải đi qua một quãng đường vắng, chung quanh toàn bãi tha ma. Nơi đây lâu nay quân trấn lột vẫn thường ẩn náu, lẻn ra cướp của khách qua đường. Đến đoạn này đã đến 8 giờ tối. Trời cứ mưa. Chớp lòe lên, những ngôi mộ thoắt biến, thoắt hiện như những hình ma chập chờn, trông kinh quá. Cảnh giác, tôi cho xe chạy từ từ để quan sát chung quanh. Bỗng phía trước, trong ánh đèn xe, dưới làn mưa lòa nhòa, có một bóng người vừa dắt xe máy vừa nhớn nhác nhìn ngược, ngó xuôi. Dáng vẻ này đúng là quân trấn lột rồi! Không là cướp tại sao lại dắt xe nhớn nha nhớn nhác vậy! Có thể khi bị cướp, người bị hại đã kịp vứt chìa khóa xe, nên tên này không nổ máy được. Đồ chừng thế, vốn là một trung uý đặc công, tôi phác ngay ra phương án tấn công tên cướp. So sánh lực lượng: tôi một hắn một, hết đời rồi con ơi, có cao thủ như Võ Lâm Đại Hiệp trong phim tàu, con mới có cơ thoát khỏi tay ta! Đinh ninh như thế, tôi tăng tốc độ cho chiếc "Âm vang sông Hồng" của mình chạy vụt qua cái bóng người mặc áo mưa đang đẩy xe, rồi đột ngột phanh kít lại. Nhảy xuống xe, tôi vào thế "trung tấn" hô rất đanh thép:
- Người kia đứng ngay lại! Đưa tay lên trời! Hàng sống, chống chết!
Cái bóng mặc áo mưa buông xe máy làm nó đổ rầm xuống mặt đường, ù té chạy. "Không cho chúng nó thoát! Tôi co cẳng nhảy hai bước, tung một cú đấm trời giáng vào phía sau cái bóng áo mưa. Hự! Hắn hự một cái rồi đổ sập xuống nền đường. Một giọng con gái thất thanh:
- Ơi làng! Cướp... cướp...! Cứu! Cứu!...
Thì ra là nữ quái! Nữ quái cũng cứ tóm! Sợ gì mà không tóm! Tôi lao đến khóa chặt tay hắn ra sau lưng, gằn giọng:
- Vừa ăn cướp vừa la làng phỏng? Biết điều đến dựng xe dậy, đi theo tôi! Tôi nhắc lại: Chớ có bỏ chạy! Tôi là đặc công đây! Nếu chạy, chớ trách tôi không khách khí!
Tên nữ quái, lủi thủi đến dựng xe lên. Tôi cứ để máy xe nổ, quét đèn pha sáng chói dắt đi bênh cạnh. Tôi biết phía trước, non cây số, có nhà ông trưởng thôn, tôi và cánh lính vẫn thường đến uống nước chè xanh.
Thấy tôi đang đội đêm mưa gió đi cùng một cô gái đến, ông trưởng thôn cười nụ, xách ra một chai "cuốc lủi" hăng hái rót rượu ra mời. Tôi phẩy tay:
- Khỏi rượu chè gì sất, bác ơi! Tôi mang đến cho bác một tên cướp đây!
- Không... không... cướp! Tại... tại... nó chết... chết...! Nữ quái níu lưỡi.
- Ai chết? Cô nói ai chết? Vứt xác người ta ở đâu? - Tôi trợn mắt, quát.
- Không... không phải... người chết! Tại... cái xe này nó chết máy!
- Ra thế! Vốn thông minh, tôi hiểu ra - Vậy là tôi nhầm, cô chẳng phải là kẻ cướp. Tối rồi! Nhưng cô đi đâu mà đang đêm dám qua đoạn đường đó?
- Chiều nay bố em bị tai nạn giao thông - Cô gái sụt sịt em phải đưa lên bệnh viện tỉnh cấp cứu. Chỉ mới chụp X quang và mua ít thuốc men, tiền mang theo đã hết nhẵn. Em phải về lấy tiền để sáng mai họ mổ cho bố em!
Rồi cô gái móc túi xách đeo bên hông ra đủ các loại giấy tờ trao cho ông trưởng thôn. Dương mục kỉnh lên săm soi nhìn mãi, ông phán:
- Chính thị! Coi bộ dạng cô này rõ là không phải kẻ cướp. Bi giờ cô về đâu?
Nghe cô gái nói địa chỉ nhà mình, ông trưởng thôn há hốc mồm, giãy nảy:
Nguy tai! Nguy tai! Từ đây đến đó còn gần 20 cây số nữa, toàn đường núi non vắng vẻ. Đêm hôm khuya khoắt, cô đi một mình sợ chúng thịt mất!
- Thưa bác, thịt thì thịt, cháu cũng phải về lấy tiền. Sáng mai không có tiền, bệnh viện họ chẳng mổ cho bố cháu đâu!
Nghe thế, "máu lính" nổi lên, tôi đấm tay vào không khí, quả quyết:
- Tôi sẽ sửa xe cho cô rồi đưa cô về. Tính mạng con người là quan trọng. Yên tâm đi! Đường sá vắng vẻ chẳng là cái đinh rỉ gì! Tôi là lính... lính mà cô...
Bốn tuần sau, vào sáng chủ nhật, trung uý An lật đật chạy vào báo có cô nào xưng là cô giáo, người đâu mà sắc nước, hương trời, đến gặp tôi. Tôi phấp phỏng đi ra. Thấy tôi. Hạnh - (mãi sau này tôi mới biết tên) hớn hở nói rằng, hôm đó nhờ tôi đưa về mà nàng lấy được tiền, bố nàng được mổ kịp thời, nay đã bình phục. Hôm nay đến để cám ơn và... bắt đền tôi. Theo nàng, chẳng biết tay tôi là thứ tay gì mà chỉ thụi một quả, chỗ bị thụi nổi u lên. Dù nàng đã bóp hết mấy "xê xê" mật gấu, mật khỉ, cái u vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt"! Ngó quanh chẳng có ai, nàng cười rúc rích: "Không tin anh sờ thử coi!" rồi cầm bàn tay tôi đặt vô chỗ cái u. Quả là nó to thật, cứ như quả cam thờ, lại cứng nưng nức, nóng hôi hổi, tôi thấy như sờ phải "quả" thanh hồng. Lạy trời! Cái bàn tay tôi từ khi chạm vô cái u của nàng suốt tuần ấy, nó cũng nóng ran lên. Rồi không hiểu từ bao giờ, cái nóng nơi bàn tay ngấm thẳng vô tim tôi, làm nó cứ rừng rực như có "ngọn lửa cao nguyên" bập bùng cháy mãi. Nhất là những chiều thứ bảy tôi chờ nàng đến và những lúc tiễn em về...
Thấy nét mặt tôi chẳng bình thường, trung uý An ngửa mặt lên trời, than:
- Tình hình này là yêu rồi! Ôi, tình yêu! Nó bắt đầu từ đâu mà kỳ vậy hở trời?
- Nó bắt đầu từ bàn tay, mà không, từ quả đấm đấy! Tôi nắm tay củ gừng giơ lên, vênh mặt - Nó đơn giản đâu chỉ là triết lý tình yêu, đúng không?
Áp sát... hậu phương
“Ngày nghỉ, ngày lễ trai gái dắt nhau đi chơi, còn chúng ta phải canh phải gác (...). Có yêu anh thì em ơi thông cảm”. Những câu thơ con cóc như thế được viết trong nhật ký, thư gửi người yêu của một chàng bộ đội phần nào nói lên tình cảnh yêu của người lính.
Bộ đội vốn có đủ các tính cách: có anh giỏi đàn giỏi hát, biết nhiều chuyện tiếu lâm thì lời tỏ tình đôi khi là câu nói ví von hài hước; có “trường phái” đọc điều lệnh dõng dạc...
Nhưng suốt ngày luyện tập, tăng gia sản xuất, vui chơi nghỉ ngơi theo giờ giấc, thời gian ra ngoài doanh trại hạn chế nên các chàng lính gặp nhiều khó khăn trong việc tìm “đối tượng”. Tình yêu vốn phải “tác chiến” theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, chứ “đánh du kích” hoài thì ngày “áp sát đồn địch” chắc còn lâu. Chính vì vậy, anh Lê Quốc Việt, chính trị viên đại đội 11 của đơn vị H88, đoàn B02 (Đồng Nai), cho biết: “Bộ đội lúc cưới vợ phải nói trước “quan điểm” để sau này tránh xảy ra “xung đột”. Phải làm trước “công tác tư tưởng” cho người ta hiểu được hoàn cảnh công việc của mình...”.
Như bao quân nhân khác, con đường tìm vợ của anh Việt gặp khá nhiều thử thách. Nhiệm vụ công tác cứ cuốn anh theo từng ngày, đến khi sực nhớ ra mình đã bước vào tuổi “băm” mới loay hoay đi cưới vợ. “Lúc tôi phát thiệp mời anh em ai cũng tưởng mình đùa vì nhanh quá. Từ lúc người yêu gật đầu đến ngày cưới chỉ mười ngày”.
“Đánh nhanh thắng nhanh” xong, nhiệm vụ của anh Việt càng nặng nề hơn khi phải “phân bố lực lượng” để hoàn thành tốt công việc của người lính và trách nhiệm với gia đình. Mặc dù nửa tháng mới về nhà một lần nhưng anh nhận được sự thông cảm từ vợ, một giáo viên. Trong cách nói chuyện dí dỏm của anh, đâu đó đọng lại nhiều suy tư của người lính: “Lấy vợ là ổn định hậu phương, hậu phương có vững chắc thì tiền tuyến mới yên tâm chiến đấu. Cũng may là bà xã ở nhà thông cảm cho mình”.
Chuyện tình xoài, ổi, ốc
“Nhiều đứa bạn tôi yêu cô nào, cả hai “tình trong như đã mặt ngoài còn e” thì gọi đồng đội đến “ứng cứu”. Cả đám cứ đem xoài, ổi đến nhà cô gái dọn ra ngồi ăn. Trong lúc chuyện trò vui vẻ có người chỉ tay nói anh này yêu em, em có yêu ảnh không. Chỉ chờ cái gật đầu thế là thành đôi thành cặp” - đại úy Vũ Đức Trung thuộc tiểu đoàn 6, đơn vị H88 cho biết.
Sống trong quân ngũ hàng chục năm, anh Trung đã chứng kiến không biết bao nhiêu mối tình lạ lùng của đồng đội. Ngay chuyện cưới vợ của anh Trung cũng có nhiều thú vị đặc trưng của đời lính. Hơn mười năm trước, sau khi tốt nghiệp Trường Sĩ quan lục quân 2, anh Trung về nhận công tác tại đơn vị H88.
Những buổi ra ngoài học tiếng Anh, anh quen chị Lê Thị Hương lúc đó đang là học sinh lớp 12, luôn miệng gọi anh bằng chú. Khi chị tốt nghiệp xong cấp 3, theo học trung cấp kế toán thì cái từ “chú” vẫn còn là “giới tuyến” ngăn cách hai người. Một buổi đi chơi, anh Trung dí dỏm: “Gọi chú hết mấy mùa mưa rồi, em phải gọi bằng anh đi chứ”. Thế là họ yêu nhau.
“Khó khăn lớn nhất của quân nhân là giờ giấc phải theo quy định, gặp được người yêu khó lắm. Những ngày lễ, các đôi trai gái đưa nhau đi chơi còn mấy anh em lính phải thay nhau trực. Nếu bạn gái không thông cảm và sẻ chia thì dễ chia tay nhau lắm” - anh Trung tâm sự. Tròn mười năm yêu nhau, anh Trung và chị Hương mới tiến đến hôn nhân. Đối với chị Hương, việc chồng sống trong doanh trại nhiều hơn ở nhà cũng có “cái hay riêng”: xa nhau, tháng gặp đôi ba lần làm tình cảm hai người mặn nồng hơn.
Thiếu tá L.X.H. công tác ở một đơn vị quân đội khác tại Đồng Nai thổ lộ: “Tuổi thanh niên trai tráng, nhất là bộ đội, luôn khát khao tình cảm yêu thương. Có anh bày tỏ ý tứ bằng cách bắt ốc, luộc rồi đem đến nhà bạn gái ngồi ăn! Vậy đấy nhưng tình cảm phát sinh rất sâu đậm, bởi nó chân thật”.
Cách chống đạn tốt nhất
2 lính Mỹ được phát áo chống đạn trước khi ra trận ngồi nói chuyện với nhau.
-Tớ không tin vào những chiếc áo này vì tớ biết chắc là chúng không chống được đạn.
-Đúng đấy, tớ biết cách tốt nhất để bảo vệ đầu mình là bằng tay.
-Thế cậu nghĩ là giơ cái áo này lên che đầu à?
-Không, tớ nói thế có nghĩa là chỉ cần giơ hai tay không lên thôi.
-Tớ hiểu!
Lính gác bắt.........rượu
Một bóng đen lại gần anh lính gác.
-Ai đó - Anh lính quát.
-Tôi là bạn của anh...Tôi đang cầm chai rượu.
-Người bạn, cho đi qua; còn chai rượu, đứng lại!
Tuyển quân theo khả năng
Ở trạm tuyển quân:
-Anh làm nghề gì?
-Thợ máy ạ.
-Tốt, anh vào binh chủng xe tăng.
-Còn anh?
-Tôi là luật sư.
-Anh sẽ làm thư ký.
-Còn anh?
-Tôi, tôi ôi nói lă...ắp.
- Anh vào đơn vị súng liên thanh.
Tập bắn kiểu .......chí phèo
Chí Phèo gia nhập quân đội lúc 18 tuổi, nhưng dù huấn luyện thế nào, cậu ta cũng không thể bắn súng trúng đích. Một hôm, trong một buổi tập, Chí phèo nhắm mục tiêu bắn 9 lần, nhưng đều không trúng. Viên sĩ quan thất vọng nói:
- Chí Phèo, anh thật là vô vọng! Thôi đừng bắn phí viên đạn cuối cùng nữa. Đi ra sau tường kia và dùng viên đạn đó mà tự bắn vào mình.
Chí Phèo xấu hổ quá. Anh đi ra sau tường. Một vài giây sau, viên sĩ quan và các tay lính trẻ nghe thấy một tiếng súng.
- Trời ơi, thằng đần độn ấy tự bắn vào mình thật à?, Viên sĩ quan thốt lên.
Ông lo lắng chạy ra phía sau tường, nhưng không như ông nghĩ, Chí Phèo chẳng làm sao cả.
- Xin lỗi, tôi lại bắn trượt - Chí phèo sợ sệt nói.
Người Lính Già Nua
Đang trẻ trung, tuổi sung mãn thế mà bị một cô gái trẻ chê là già nua, xấu xí thì có tức không cơ chứ. Mà chẳng phải cô ý chê vẻ ngoài của mình mà lại chê… của mình.
Đang đi dạo trong công viên, ngắm trời đất, hoa cỏ. Đang chìm đắm trong bài hát về tình yêu lãng mạn, bỗng một cô gái đến và nói thỏ thẻ vào tai anh chàng này:
- Thưa anh! Anh có biết rằng tivi của anh đang bật không? Không hiểu ý của cô gái, nhưng khi tình cờ nhìn xuống thì anh ta thấy khoá quần của mình đang mở toang hoác. Ngượng lắm! Anh ta quyết định trêu lại cô gái kia một phen.
Tiến lại gần cô gái, anh ta liền nói:
- Tivi của tôi đang chiếu cảnh chiến tranh, cô có thấy trong trại lính có một anh lính đang đứng rất nghiêm trong đó không?
Cô gái nhanh trí đáp:
- Chắc là bây giờ anh ta mới đứng nghiêm, chứ lúc nãy tôi thấy anh ta đứng ủ rũ, khuôn mặt thì nhăn nhó, thương tích đầy mình. Nói chung là trông rất già nua. - !!!!!
ĐỤNG GIẶC
Hai anh cựu cờ bờ là Tám Đ và Năm P kể lại. Đêm 29/4/1975, chiến sự ì đùng khắp nơi. Bốn chiến sĩ của C26 được phân công đi trinh sát đồn Chợ Mì. Mới vượt qua ấp N, ra tới giữa đồng thì đụng giặc. Lúc đầu cứ tưởng quân nhà, còn hỏi mật khẩu: Tiến hả? Tiến hả? (mật khẩu là tiến lên). Bên kia không thấy đáp lại “ Lên đây” mà nó lên đạn cái rốp. Tám Đ nhanh tay quất nửa băng AK về phía đối phương, thấy chúng kêu toáng lên, bỏ chạy. Đó là mấy tên dân vệ, chúng chạy về kêu thêm bốn tên địa phương quân nữa, quay lại tìm mấy anh em “tính sổ”. Cả nhóm nằm sát xuống bờ ruộng, bắn lật hết sáu tên lính, còn hai tên bỏ chạy.
Lò dò về sát chân núi Phụng, Năm P giơ tay ra hiệu cho cả nhóm dừng lại. Bên kia có tiền loạt soạt rồi một nhóm người nữa hiện ra. Năm P hỏi khẽ: Ai đó? Tiến phải không?. Bên kia giọng ngái ngủ: Ờ! Tao đây!. Tám Đ mở khóa sung lách cách. Bên kia chợt la lên: “Đù má! Phải thằng Năm hông? Tao Sáu X nè”. Té ra là C phó Sáu X, anh quên mật khẩu, nhưng nhận ra giọng Năm P. Xém chết.
Chuyện thứ hai
TRUY KÍCH ĐẾN CÙNG
Đó là thời gian sau 30/4 một vài tháng. Đơn vị được cử đi truy lung bọn tàn quân ngụy trên núi Bà. Đêm ấy sang trăng, tổ của Năm P, Tám Đ và hai anh em nữa đi tuần. Tới gần ruộng bắp, bỗng họ nghe tiếng người thì thầm bàn tán. Tàn quân rồi. Năm P ra hiệu cho cả tổ khép vòng vây lại. Họ rón rén bò thấp, đi khom, tiếp cận mục tiêu. Đúng là có một nhóm chừng chục người đang ngồi quây quần, thì thầm nói chuyện. Năm P đứng hẳn dậy, dong súng hô: “Tất cả ngồi im. Giơ tay lên! Hàng thì sống. Chống thì chết”. Bọn kia hoảng hốt vùng dậy chạy tán loạn. Tám Đ kéo một loạt AK, không biết có diệt được tên nào không. Năm P hét lên: “Truy kích đến cùng. Thắng nào chạy tiêu diệt”. Cả nhóm khép vòng vây vào ruộng khoai lang, họ đã nhìn thấy nhóm tàn quân nằm chổng mông dọc các vồng khoai. “Đứng hết dậy. Không tao bắn à”. Nghe giọng hô đanh thép của Tám Đ, nhóm người bật khóc lu bù, mà sao nghe toàn tiếng con nít. Tới gần thì đứng là con nít thiệt, trai, gái cả thẩy bảy đứa. “Trơi! Tụi bay làm gì ở đây?”. “Dạ! tụi con đang kể chuyện …ma. Thấy mấy chú tới, tưởng ma thiệt nên sợ quá tụi con bỏ chạy”. Tám Đ vò đầu vò tai. Hú hồn. Không dính đạn đứa nào.
Hôm sau ba bốn ông nông dân ấp K.Đ đem mấy con gà luộc và can rượu vô đơn vị, mời bộ đội nhậu. Cám ơn mấy chú bộ đội đêm qua bắn chỉ thiên, không mấy đứa con tụi tôi chết hết rồi còn đâu.
BI HÀI CHUYỆN NHÀ CAO TẦNG
Cuối năm 1978, đơn vị cho một số cán bộ, chiến sĩ về học bổ sung kiến thức ở Vũng Tàu. Năm Ph. Và Sáu X mừng lắm. Mình dân nông thôn, hồi nào tới giờ chưa ra đến thị xã chứ đừng nói được ở thành phố. Nhìn ngôi nhà 6 tầng của nhà trường, Năm Ph lo lắng vì hai anh em được ở trên tầng 4.
- Nhà cao vầy, lúc muốn đi ị làm sao anh Sáu? Mà biết hố xí chỗ nào mà đi.
Sáu X gãi đầu, rồi tỏ vẻ hiểu biết.
- Chắc mỗi phòng họ đều có hố xí mầy ơi.
- Ông nói chơi hả! Hố xí phòng trên rồi làm sao cho nó thoát đi đâu?
- Thì nó có cái thùng chứa, khi nào tầng dưới xả thì chảy xuống. Cứ như vậy rồi cũng xuống đất chớ gì
Năm Ph nằm lòng chuyện đó. Để chắc ăn, anh lén xem cô Ba Th sử dụng phòng vệ sinh thế nào. Con nhỏ nầy nhà ngoài thị xã, nó rành hơn mấy anh em trong quê. Rồi bữa đó chờ cho Ba Th tắm giặt xong, Nam Ph.mới ôm đồ lò dò bước vô. Thấy có cái vòi nước và chiếc thau nhôm, Năm Ph hiểu rằng chỉ việc mở vòi cho nước chảy ra thau, rồi dùng. Tự tin nắm chắc chiếc vòi ở giữa vặn mạnh. Ào một phát, nước ở đâu từ trên trần xối xả lên đầu. chết mẹ! Đụng nhằm cái vòi hố xí rồi! Năm Ph than thầm và nhào vội ra cửa. Anh lấy tay vuốt tóc, đưa lên mũi ngửi. Ủa! Nước phân mà đâu có thúi gì hè.
Anh thấy Sáu X đi qua thì kêu lên:
- Anh Sáu! Lại mà coi nè! Đụng giặc rồi.
Cô Ba Th thấy tiếng kêu thì chạy ra, thấy cái vòi hoa sen trong phòng tắm đang xả nước thì la lớn:
- Ông nội tắm xong thì khóa vòi nước lại chớ, sao xả bừa bãi vậy.
Hai ông anh mắc cỡ quá. Nín khe không dám nói gì.
Sáng hôm sau, tổ trưởng phát cho mỗi người một gói mì tôm, nói tự túc nấu nước mà chế. Ba Th đun ấm nước bằng bếp dây mai-so điện. Nước sôi rồi, mấy cô chế mì ăn. Nam Ph và Sáu X thấy vậy cũng bắt chước, múc nước vô ấm nhôm rồi đặt lên bếp ngồi chờ. Chờ hoài nước không sôi, Năm Ph thò tay rờ vô ấm thấy vẫn còn nóng, lại yên tâm ôm gói mì chờ. Hai người chờ riết, nước vẫn không sôi, Sáu X cũng lấy tay rờ thì thấy lạnh ngắt. ủa! Kỳ vậy cà? Năm Ph bảo hổng sao đâu, thứ bếp điện tới hồi nó nóng lên là sôi liền hà. Chờ hoài, tới lúc mấy cô trên lầu xuống đi chợ, vẫn thấy hai anh em ngồi ôm ấm nước.
- Trời đất! nãy giờ chưa ăn sáng xong hả hai?
- Bây đun nước sao mau vậy. tụi tao chờ nãy giờ nó hổng sôi.
Ba Th nhìn qua bếp điện, cười rũ. Hai ông ngáo ơi. Chưa cắm chuôi điện vô ổ làm sao nó sôi.
Cô cắm ổ điện, dây mai-so đỏ dần rồi sáng rực. hai an hem mồm chữ O. Bây giỏi thiệt đó Ba.
Anh Lính Vác Súng
Một anh lính nọ, ngày mai đi ra trận. Tối hôm đó, anh thủ thỉ cùng vợ: Em à! Ngày mai anh đi rồi, em chiều anh tí đi em iêu!!!
Sau khi làm "chuyện lớn" xong, anh thầm nghĩ mình đi ra trận không biết bao lâu mới về, nghĩ đến vợ trẻ của mình ở nhà cũng thấy lo lo, sợ có người dòm ngó. Anh bèn vẽ một người lính đứng vác xúng trên đùi vợ cho yên tâm.
Anh đi chẵng bao lâu thì người vợ trẻ không chịu được cảnh buồn tẻ vì thiếu chồng, nên rước tình nhân về nhà. Anh tình nhân làm xong chuyện lớn, xóa thằng lính đi thằng lính canh xúng và vẽ lại một thằng lính khác cũng đứng vác xúng.
Ngày anh chồng trở về, hí ha hí hửng gặp lại vợ mình. Tối đó, anh xem lại vợ mình, thì thấy anh lính vẫn còn đó.
Anh quay sang hỏi vợ:
Em à! Thằng lính lúc trước anh vẽ nó đứng vác súng tay phải mà, sao bây giờ nó vác bên tay trái?
Cô vợ lúng túng trả lời:
Thì vác tay phải mỏi quá, phải đổi sang tay trái chứ sao!
Bộ đèn xe Lada
Chuyện này xảy ra đã lâu lắm rồi, từ những năm cuối thập niên 198x cơ. Khi đó đã xóa bỏ cơ chế bao cấp được vài năm, nhưng tính chất của cơ chế thị trường thì mới chỉ chập chững, chưa "bạo tàn" như bây giờ. Phe xã hội chủ nghĩa vẫn còn đang đứng vững chắc và những công chức đi công tác nước ngoài dù chỉ ngắn đôi ba tuần cũng có cơ hội kiếm tiền cải thiện đáng kể cho kinh tế gia đình. Nhặt nhạnh vay mượn chút tiền mua ít đồ xa xỉ trong nước như đồng hồ điện tử, áo phông hay thậm chí là mũ lưới… đem theo chuyến công tác. Đến mấy nước XHCN Đông Âu thì nhờ bán, rồi tìm mua bên đó đủ thứ linh tinh, về nhà bán lại lần nữa thì số tiền chênh lệch kiếm được có khi cũng bằng đến cả năm lương làm ở nhà. Thế cho nên ngày đó người ta ham đi nước ngoài, sau chuyến công tác nhớ về cảnh vật bên nước bạn thì ít mà nhớ về tên chợ hay loại hàng hóa ăn khách bên đó thì nhiều.
Tuy thế, ở đâu và thời nào thì cũng có những người láu cá hơn sống xen kẽ với những người cần cù chân chỉ hạt bột. Cùng điều kiện na ná như nhau, có người kiếm về tiền triệu, nhưng cũng có người mong thấy trăm nghìn cũng chỉ như trong mơ.
Năm đó cơ quan tôi được Bộ duyệt cho mua một chiếc xe ô-tô hiệu Lada của Liên-xô để trang bị cho tiêu chuẩn của Thủ trưởng cơ quan. Ngày đó xe Lada đã là trang bị hạng sang theo tiêu chuẩn của cán bộ hàng Thứ trưởng. Loại thủ trưởng Cục, Vụ, Viện thì chưa có tiêu chuẩn, chỉ có ở đơn vị nào năng động có tiền tự có, chạy chọt một tí với Vụ Kế hoạch của Bộ thì xin được phiếu mua xe thôi. Cơ quan tôi bỏ ra số tiền tương đương 5.000 đô la, kèm thêm 2 cái Tivi đen trắng 14 inch hiệu Samsung (cũng là của hiếm ngày đó) để lót tay và lặn lội vào tận kho Hà Đông thì cũng chọn mua được một cái xe Lada màu sữa đẹp long lanh. Thủ trưởng tôi có xe ô-tô đưa đón hàng ngày nên lúc nào nhân dung cũng tươi tỉnh, phong thái chững chạc, phong độ được nâng lên mấy tầng cao mới. Nhân viên chúng tôi cũng vui lây, hãnh diện ra mặt vì cơ quan mình cũng được xếp vào hàng danh giá, tức là loại cơ quan mà thủ trưởng có xe ô-tô riêng.
Chuyện kể minh họa cho điều đã dạo đầu ở phần trên xảy ra sau đó chừng 5 tháng. Chẳng hiểu bảo vệ cơ quan gác sách ban đêm thế nào mà vào một đêm tối trời, bọn đạo chích bất chấp cả một trạm trực "Tuần tra nhân dân" của khu phố nằm chỉ cách cổng cơ quan tôi hơn chục mét, trèo qua hàng rào sắt chui vào cơ quan tháo trộm nguyên vẹn cả bộ đèn trước của chiếc xe Lada, biểu tượng danh giá của cơ quan tôi. Hai anh bảo vệ gác đêm cũng chỉ giật mình biết được sự việc khi sáng ra cậu lái xe đến lấy ô-tô đi đón thủ trưởng. Mất đèn nhưng xe vẫn chạy được, chả còn cách nào khác nên vẫn phải đem cái xe "thương tật" ấy đi đón Sếp. Sếp đến cơ quan, mặt nặng như hai cân sắt, ánh mắt lóe lên hình viên đạn trước mắt mọi người. Cả cơ quan không ai dám nói gì, thậm chí thở cũng phải khe khẽ. Nhiều người liên đới, nhưng rồi dù cho có lập biên bản, có họp kiểm điểm, có chửi mắng dọa bắt đền, cắt lương, thậm chí sa thải bảo vệ thì cái xe ô-tô Lada cũng không thể lành lặn ngay được. Khi đó xe máy còn rất hiếm, xe buyt cũng chẳng có bao nhiêu, không nhẽ lại đi làm bằng xe đạp, thế là Sếp tôi vẫn đành phải hàng ngày đi về bằng cái xe ô-tô mất đèn ấy. Có điều ông không thể sĩ diện đến thăm các cơ quan bạn nhiều như trước hoặc không dám đi đêm tối vì sợ bị cảnh sát giao thông phạt do tội không có đèn.
Đấy là nói chuyện giải pháp tình thế về sau, chứ lúc ấy Sếp lệnh cho cơ quan bằng mọi giá phải trả lại ngay diện mạo ban đầu cho chiếc xe. Ông Đan, trưởng phòng quản trị cơ quan tôi cũng là một tay tháo vát. Ông liên hệ ngay với mấy thằng thân quen dân ngõ đê Thanh Lương chuyên đánh hàng lậu, rồi cùng chúng nó lùng ngay ra chợ Giời. Cái lý đơn giản là bọn trộm cắp chỉ có đưa của ăn cắp ra chợ Giời tiêu thụ cho nhanh, vì chỉ có nơi ấy mới có gan tàng trữ và tiêu thụ loại hàng như thế. Nhưng lần này ông Đan lại không gặp may dù suy đoán của ông có tính quy luật. Lão Tiến "béo", trùm buôn hàng phụ tùng ô-tô ở chợ Giời, nhận lời với ông Đan nhưng chờ cả tuần cũng không thấy có người đến gạ bán đèn xe Lada. Lão cho cả đàn em tỏa ra săn lùng nhưng không có kết quả. Về sau lão giải thích với ông Đan là chắc có thằng chủ xe Lada nào đó đâm xe bị vỡ đèn nên đã đặt hàng trực tiếp với bọn đạo chích rồi, chứ không phải bộ đèn xe Lada cơ quan tôi bị mất do bọn lượn lờ ăn may nào đó đâu. Không hoàn thành nhiệm vụ mà ban đầu tưởng như đơn giản, ông Đan lại nhờ lão Tiến "béo" tìm giúp xem cơ quan nào đó có cái Lada gặp nạn mà còn dư bộ đèn xe không. Lão Tiến "béo' cười ngất, bảo ông Đan là "Xe đâm thì cái bộ đèn tan trước chứ làm sao xe nát mà đèn lại còn được". Bí thật.
Ông Đan về kể chuyện với anh em trong cơ quan, cốt để xả bớt stress chứ chúng tôi cũng chỉ là loại cán bộ quèn thì giúp được gì. Ông ấy bảo là mỗi xe Lada chỉ có một bộ đèn, Liên-xô họ không xuất phụ tùng sơcua nên cũng không nhờ đâu được. Chả nhẽ lại móc đường dây nhờ bọn đạo chích kiếm cho bộ đèn ở xe Lada của cơ quan nào đó. Ôi, nếu như thế thì hóa ra lại thành cái vòng luẩn quẩn để nuôi bọn trộm cắp à. Cuối cùng ông Đan đành như kẻ chết đuối tìm cọc, nhờ lão Tiến "béo" chợ Giời bằng cách nào đó phục kích tìm hàng giúp hay đặt mua ở Liên-xô cũng được. Ông Đan sẽ chờ.
Trong khi không khí trong cơ quan vẫn còn nặng nề, còn chúng tôi có vẻ đã dần quen với hình ảnh chiếc xe Lada mù mắt của Sếp, thì cơ quan tôi được cử một đoàn cán bộ đi công tác Tiệp-Khắc hai tuần. Ngày đó đi công tác nước ngoài bằng tiền nhà nước theo nội dung "tham quan, khảo sát" thì thế nào trong đoàn cũng phải "cõng" một ông của một Vụ nào đó trên Bộ. Chuyến công tác nước ngoài này của cơ quan tôi cũng không là ngoại lệ, tất nhiên cũng "kèm" một ông trên Vụ Kế hoạch, "hoa thơm mỗi người ngửi một tí" mà. Đây là cơ hội để ông Đan trưởng phòng Quản trị khắc phục lỗi lầm về công tác quản lý tài sản, nên ông đã phải gửi gắm ai đó trong đoàn mua cho bộ đèn xe Lada, nếu đoàn có về qua Liên-xô. Nhờ là nhờ thôi chứ chưa chắc chắn.
Chuyện bắt đầu vui sau khi đoàn công tác sang Tiệp Khắc được một tuần. Vốn lúc đi chả ai dám nhận lời ông Đan cho cái tình huống nước đôi đó, vì sang Tiệp thì phải lo mua hàng Tiệp đem về bán chứ nếu dành tiền lại nhỡ khi về không qua Liên-xô thì mấy đồng Cua-ron đem về nhà làm kỷ niệm à? Không ngờ trong lần dạo quanh thị trường ở cái chủ nhật đầu tiên ấy bên nước bạn, các vị trong đoàn phát hiện ra trong cửa hàng phụ tùng ô-tô của họ có bán bộ đèn xe Lada. Hóa ra các nước Đông Âu buôn bán với nhau, họ nhập hàng thoải mái để phục vụ dân chứ không chắc lép nhập khẩu đồng bộ một-một như mấy ông làm thương mại bên ta. Chuyện đáng nói hơn nữa là đáng lẽ năm ông trong đoàn công tác nên trao đổi thống nhất với nhau để mua một bộ đèn xe thôi, còn lại dành tiền mua cái khác như cốc chén pha lê hay vải vóc chẳng hạn; đằng này ông nào cũng chỉ biết tính nhẩm trong đầu của riêng mình. Mua một bộ đèn xe Lada đem về lúc đó tính ra có giá trị hơn nhiều so với mua loại hàng khác. Vậy là không ai bảo ai nhưng ông nào cũng âm thầm lén ra cửa hàng mua về và đóng gói thật chặt một bộ đèn xe Lada trong đám hành lý của mình. Lại còn đinh ninh là chỉ có mình khôn mua về thứ hàng đó chứ người khác chắc không mua mới hay chứ.
Máy bay của đoàn hạ cánh trên sân bay Nội Bài vào một chiều thứ bảy. Tối hôm đó năm cán bộ trong đoàn công tác, ông nào cũng có mặt ở nhà hoan hỉ kể chuyện đi nước ngoài trong bữa cơm cho vợ con.
Anh Tình, trưởng phòng Kế hoạch cơ quan tôi không hổ danh là kẻ nhạy bén số một của cơ quan. Anh ta có thâm niên đi công tác nước ngoài cũng kha khá nên đã ngờ ngợ nhận ra trong đám hành lý của các thành viên trong đoàn có gì đó giống nhau. Thế là ngay tối hôm ấy, dù còn mỏi mệt sau chuyến đi, anh Tình đã đến chơi nhà ông Đan. Thăm hỏi và tặng chút quà chỉ là cái cớ, cái chính là thỏa thuận để qua ông Đan mua cái bộ đèn xe Lada cho cơ quan. Tất nhiên ông Đan nhận lời ngay, lại còn nồng nhiệt cảm ơn và duyệt cho anh Tình giá bộ đèn Lada ngang với cái giá đặt hàng cao nhất ở chỗ lão Tiến "béo" chợ Giời. Để cho ăn chắc, anh Tình sốt sắng lên kế hoạch giúp ông Đan thuê thợ đến lắp ngay bộ đèn xe Lada vào sáng hôm sau, chủ nhật để cho sáng thứ hai Sếp được trọn niềm vui khi ngồi lên chiếc xe ô-tô lại đẹp như lúc mới mua. Lý do chính đáng quá còn gì.
Sáng thứ hai, người vui nhất tất nhiên là Sếp. Vui hân hoan là ông Đan, còn người có niềm vui âm ỉ trong lòng là anh Tình. Bây giờ mới sang phần hài hước. Cũng ngay trong sáng hôm đó, có ba người trong cơ quan, chính là ba ông trong đoàn công tác, đã lần lượt tìm gặp và vui vẻ với nét mặt đầy bí hiểm gặp ông Đan để đưa ra đề nghị bán bộ đèn xe Lada cho cơ quan, giúp ông Đan thoát khỏi một nỗi lo đầy trách nhiệm kéo dài đã nhiều ngày qua. Tưởng rằng người vui "bất ngờ" phải là ông Đan, không dè chính cả ba vị cán bộ đó đều lần lượt ngẩn người, mặt thộn ra dài có nhẽ gần bằng cái bơm khi nghe ông Đan thông báo xe Lada của cơ quan đã được lắp xong đèn từ sáng hôm qua rồi. Càng thẹn thùng hơn nữa khi biết tin bộ đèn xe Lada đó do chính anh Tình trong đoàn mang về. Tình huống này do ông Đan kể lại sau đó chúng tôi mới được biết. Hiển nhiên là óc tưởng tưởng của chúng tôi cũng đủ hình dung ra vẻ mặt các vị ấy nó như thế nào.
Có lẽ cực điểm hơn của chuyện hài này là lúc ông Kích, vị cán bộ cùng đoàn công tác Tiệp Khắc ở trên Vụ kế hoạch gọi điện cho ông Đan vào đầu giờ chiều để dạm bán bộ đèn xe Lada với thái độ rất bề trên. Tất nhiên sau đó thì ai cũng đoán ra tình huống thế nào qua lời kể không kém phần dí dỏm của ông Đan.
Số phận cuối cùng của bốn bộ đèn xe Lada khá lận đận. Bán cho ai bây giờ để được giá khi mà chẳng có chủ nhân nào quen buôn bán chợ Giời. Lại nhờ qua ông Đan, nhưng bây giờ bán đi cũng không dễ. Lão Tiến "béo" ngoài chợ Giời khi nghe thủng câu chuyện cũng không nén được phì cười. Đúng là chuyện "cải thiện" của mấy bố công chức nhà nước, ai lại thế bao giờ. Lão Tiến "béo" cũng không sốt sắng mua, vì theo ý lão, số đèn này trong điều kiện xã hội Việt Nam khi đó có lẽ phải bán đến Tết Công-gô mới hết.
Chờ mãi mong mỏi có nhiều cơ quan có xe Lada gặp nạn vỡ đèn xe để bán mà không được, sáu tháng sau, cả bốn cán bộ trong đoàn công tác nước ngoài năm đó của cơ quan tôi đành phải lần lượt bán hết cho lão Tiến "béo" chợ Giời những bộ đèn xe ô-tô Lada cất công đem từ trời Tây về đó với cái giá còn thấp hơn khi mua tại chính quốc, mà còn phải mang ơn lão Tiến./.
Chuyện dài đời lính ( 1 )
Chiến tranh đã qua lâu lắc rồi. Chuyện đời lính tôi kể đây hoàn toàn không dính tới chính trị hay chính nghĩa gì cả; chỉ là những mẫu ký ức của một thời đã qua, vui có, buồn có, bây giờ nhắc lại cho vui thôi. Vả lại mấy hôm nay sa đà vào những ký ức tình yêu, nói thật, người nó cứ nhũn ra. Hồi tưởng lại những mối tình đã qua có vui đấy, nhung tận bên trong nó vẫn cứ là những nỗi đau , những mất mát, những lầm lỡ. Thú thật viết xong một bài thơ tình, người nó cứ như bả ra, mặt mày thì cứ như thằng tâm thần, ngơ ngơ ngác ngác. Cho nên phải chuyển hệ, qua tông võ biền, để nhắc nhở đến cái chí làm trai, để thấy mình cũng oai ra phết. Nói chung là một liệu pháp tâm lý, vừa để thay dổi không khí, vừa để cân bằng trạng thái tâm lý. Nào, ta bắt đầu đi lính thôi.
Câu chuyện đời lính của tôi có thể bắt đầu từ cái entry “ Những cuộc chia ly không màu 2”. Hãy trở lại trước đó ít hôm đi. Tôi vác cái túi đồ đạc lên Trung tâm 2 Tuyển mộ nhập ngũ, và được ghi danh vào tài nghuyên sĩ quan, nằm đợi gom đủ quân số cho một khoá là lên đường. Sáng hôm đó một huấn luyện viên tập trung chúng tôi lại và thông báo nội qui. Ông ta cho biết là dạo này Vi xi thường pháo kích vào trung tâm, và trấn an chúng tôi là không sao đâu, có hầm trú ẩn lộ thiên rất kiên cố, có thể chịu được cả hỏa tiễn 112 ly cơ, chứ mấy quả cối 82 ly là đồ bỏ. Sau đó ngài dẫn chúng tôi đi tham quan hầm trú ản. Xem ra thì cũng khá kiên cố đấy, nhưng bước vào trong thằng nào cũng bịt mũi chạy ra. Hỏi gì thì chúng bảo “Mìn đầy!” Ra thế! Thì ra có những anh em làm biếng chay ra nhà vệ sinh, hơi xa,bèn vào hầm thả bom cho gần. Chả là hầm trú ẩn nằm sát bên “sam” ( chambre: phòng) của chúng tôi. Thế cũng xong một buổi sáng.
Đến bữa trưa lãnh cơm ông nào ông nấy tha hồ mà trệu trạo. Thì cơm lính mà. Ở nhà ăn ngon rồi vào đây làm sao nuốt cho trôi. Chỉ tổ béo mấy anh ở câu lạc bô. Sau giờ ăn , anh em ta lũ lượt kéo nhau ra câu lạc bộ …ăn cơm. Buổi chiều cũng bổn cũ soạn lại. Giờ rảnh thì nằm ngủ hoặc ra clb uống cà phê, nhậu…
Huấn luyện viên nói y như kinh, tối hôm đó Vi xi pháo kích. Bốn quả. Hai quả đầu, chúng tôi chạy túa ra khỏi sam. Chỉ có vài vài thằng không sợ “mìn” thì chạy vào hầm, còn đa số chạy loăng quăng ngoài sân. Đúng là đi lính mà vẫn còn cái máu quí tộc : thà chết chú không chịu đ ạp c…Thế là dính tiếp hai quả sau. Công nhận lính mới dễ chết thiệt, chẳng có kinh nghiệm gì. Bốn em được “tổ quốc ghi công” ngay ngày hôm sau dù chưa hề mặc áo lính, bị thương gần hai chục. Còn tôi hả. Dĩ nhiên là không sao rồi. Nếu không thì giờ này làm gì còn để ngồi đây mà bốc phét. Tôi ngủ ở giường tầng trên, nghe nổ cái đùng bèn phóng ra khỏi giường định chạy, quên béng mình đang ở cách mặt đất khoảng 2 mét. Rớt một cái đụi, đau thấu trời xanh lơ chạy hết nổi. May nhờ có “nghề”, tôi lăn vào dưới giường, không phải để tránh đạn, mà để khỏi bị anh em dẫm bẹp. Hôm sau vào bệnh xá, thấy cái số bị thương không phải vì trúng đạn mà vì từ trên trời rơi xuống như tôi đông kể gì. Đêm sau cũng pháo kích nhưng tổ quốc chẳng ghi công thêm được em nào nữa cả. Kinh nghiệm rồi mà. Kinh nghiệm được trả bằng máu của đồng đội. Hôm sau tôi hãi quá, phải nhờ ông già nói với chỉ huy trung tâm cho sáng lên trình diện rồi về. Tôi ở TT chỉ vỏn vẹn có hai ngày.
Rồi cái ngày tôi phải lên đường cũng đến. Mấy thằng có kinh nghiệm ( do đàn anh truyền lại) rủ nhau lượm đá chất lên xe GMC. Thì để khi đến Ngã Sáu chọi vào cái thằng cha cảnh sát đứng gác ở đó chớ chi. Là thanh niên thằng nào chả đôi lần bị cảnh sát thổi. Bây gìơ ta là lính rồi, cảnh sát chẳng làm gì được ta nữa, chọi cho bỏ ghét. Nhưng cái anh chàng cs gác ở đó cũng quen với những tân binh đi nhập ngũ rồi, nhác thấy bóng đoàn xe GMC chúng tôi là anh ta biến. Thế là công cốc. Cũng may toàn là dân sĩ quan tương lai cả, không chọi được cảnh sát thì thôi chứ bọn nó không có trò giận cá chém thớt, chọi lung tung. Còn tôi thì quí vị đã biết rồi: Tôi khóc tu tu ra đến tận phi trường.
Sau khoảng một tiếng đồng hồ lắc lư trên cái con C130, chúng tôi vào đến Sài gòn và được đưa đến Trung tâm Huấn luyện Quang trung. Tôi được phân vào Tiểu đoàn 1 Gia long, đại đội 1, trung đội 1, tiểu đội 1 thuộc Liên đoàn khóa sinh A. Toàn là A với 1 cả. Đời lính xem chừng khá đây. Tôi được phát cho 1 cặp thẻ bài ghi số quân và nhóm máu mà chúng tôi bị buộc phải luôn đeo ở cổ. Nói chuyện cái số quân. Đời thằng lính có cái số quân là không tài nào quên. Tôi là thằng rất lơ mơ với những con số, ngay cả số điện thoại của tôi mà tôi cũng không nhớ. Thì có khi nào tôi gọi … cho tôi đâu mà bảo nhớ. Nhưng cái số quân của tôi thì không thể nào quên. Tại sao lại như thế ta sẽ nói sau.
Thế là tôi trở thành một anh lính. “Cấp bậc” của tôi lúc đó là: Khoá sinh dự bị sinh viên sĩ quan trừ bị . Nghe cứ như liên thanh nổ lốp bốp. Hết cả hồn. Số quân tôi là 70426864. Số bù. Hôm sau chúng tôi học bài đầu tiên: Sử dụng M16. Ôi ! có cả một bài thơ về cách sử dụng và bảo quản “Em 16”. Mẹ khỉ, sau này khi ra chiến đấu mới thấy đúng là khó chiều chuộng cái “em” này. Lơ mơ không chăm sóc o bế em kỹ lưỡng là em đình công ngay. Chả bù với cái thằng AK, vất dưới bùn lượm lên cũng chơi được. Súng ống gì như tiểu thư con nhà giàu. Động tí là “em chả”. Mẹ! Đang cơn lửa đạn giữa trận tiền mà em giở chứng thì bằng em giết anh .Mà chả cứ gì em 16, sau này lăn lộn nhiều với những em 18, 20, 30,40…tôi mới nghiệm ra: cứ em là rách vịệc, là nó hành ta rách như cái giẻ lau nhà. Khổ ở chỗ là biết vậy nhưng cứ thấy em là lại lấy trớn nhào vô. Vêu đầu mẻ trán cũng cứ nhào vô. Đúnglà cái số trời đày.
Em ỏng ẹo là thế nên chúng tôi phải học kỹ cái món lau chùi tắm rửa cho em. Một hai tuần là khám súng một lần. Có chuyện buồn cười thế này: Có một thằng trong trung đội tôi, chắc là có bà con gì với vợ thằng Đậu hay sao ấy, suốt ngày cứ lau lau chùi chùi em bé của nó, nó còn chế ra một cái bộ gá, kẹp cây súng vào rồi dùng giấy nhám mịn chà xát tối ngày trông sốt cả ruột. Lúc nào cũng cứ xoèn xoẹt, xoèn xoẹt. Cái cơ bẩm đen sì là thế mà nó chà làm sao đến trắng ra. Đến hôm khám súng, đa số chúng tôi đều bị phạt. Bố khỉ! Lau cho sạch cỡ nào đi nữa mà cái anh khám súng ảnh lấy một cái giẻ trắng miết vào cái đít súng thì thằng nào chả chết. Bảo người ta lau súng chứ có phải là lau… đít súng đâu? Đến lượt cái thằng bà con của vợ thằng Đậu , hắn nhìn chúng tôi cười khinh khỉnh. Anh chàng khám súng cầm cái cơ bẩm trắng sáng lên, lấy thước kẹp đo. Và thế là hắn bị khép tội “phá hoại vũ khí”. Thì cái cơ bẩm nó cần phải khít khìn khịt mới bắn chính xác, thằng con làm nó ốm đi một tí thì có mà đem đi bắn gà. Nó bị phạt một đêm dã chiến, tụi tôi thằng thì 20 thằng thì 30 cái hít đất. Sau trận ấy thằng con tởn. Cho chừa cái tội xí xớn. Buồn buồn tôi chọc nó: “Không lau súng nữa mày?” Nó lầm bầm chửi: “Lau cái con c…Ông đ… thèm vào”. Bọn tôi lăn ra cười
Mười bẩy tuổi tòng quân, huấn luyện ở trại lính trên Cẩm Thủy. Năm 1967 thì vào Nam, thời điểm đó chưa có chế độ đi lính nghĩa vụ nên nhiều người trong quân ngũ đằng đẵng cả chục năm. Bản thân ông bác sau ngày giải phóng mới phục viên ( lính Mỹ thời gian quân dịch ở VN chỉ có một năm, đấy chính là hạn chế của quân đội Mỹ, khi mà một người lính đã quen với việc chiến đấu ở VN thì cũng là lúc anh ta phải về nước, lính Mỹ chỉ có 10 lần kinh nghiệm của một năm chứ ko có 10 năm kinh nghiệm chiến trường như bộ đội Bắc Việt ).
Lính tráng thời ấy xưng hô mày tao, thoải mái như bên TL ấy, ko phải đồng chí đồng chiếc gì cả đâu. Nghe những người trong cuộc kể chuyện hấp dẫn hơn nhiều so với việc đọc sách về chiên tranh, mình biết những điều mà sách vở ko bao giờ đề cập. Chẳng hạn cuộc kháng chiến chống Mỹ mô tả hào hùng , người người lớp lớp nô nức vào Nam là vậy nhưng thực tế số người đào ngũ, tự hủy hoại cơ thể, trốn trở ra miền Bắc sống chui lủi cũng ko phải là ít.
Lính tân binh, tham gia trận đầu, đặc biệt là những người yếu bóng vía thường bị hội chứng IRQ ( ỉa ra quần ) tức là việc ỉa Từ Vi Phạm ko còn tự chủ nữa. Ham sống sợ chết là bản tính hoang dã của con người. Có phải ai sinh ra cũng gan dạ như anh hùng Lê Mã Lương quê ta đâu phỏng ạ. Trận đầu có tới nửa đại đội cáo ốm, chính trị viên phải an ủi " Thôi thì thằng tân binh nào cũng vậy, chúng mày ăn uống nghỉ ngơi năm ngày rồi ra tuyến lửa, sống chết thế nào có số cả".
Sau khi tham gia nhiều trận đánh tất cả mọi thứ cũng quen dần,lính tráng ko còn sợ chết thậm chí là coi thường cái chết.
Tư lệnh mặt trận Nam Trung Bộ là tướng Chu Huy Mân nổi tiếng với câu nói "Đổi 3 lính Việt lấy một lính Mỹ cũng đánh". Thời Mỹ Ngụy Nam Trung Bộ là địa bàn đóng quân chủ yếu của lính Nam Hàn. Sự thật quân ta ngán đụng độ với bọn Nam Hàn hơn là lính Mỹ. Chúng đa số xuất thân từ tầng lớp người lao động nghèo bên Hàn Quốc, chiến đấu rất gan dạ và mưu trí. Có lần sau khi dùng phi pháo bắn cấp tập, cày nát một quả đồi nơi đặt sở chỉ huy sư đoàn, quân Hàn vây chặt, mỗi lính có một bao tải cát đặt phía trước, lăn lê bò toài đến đâu đẩy bao cát tới đó . Bộ đội ta từ điểm cao bắn xuống xối xả nhưng ko ngăn việc vòng vây ngày càng xiết chặt. Tướng Chu Huy Mân ra lệnh bằng mọi giá phải cứu một thiếu tướng và hai đại tá bị kẹt lại trên đồi. Đội cảm tử phải mở đường máu, đưa vào trong hai khẩu phun lửa của Nga mới giải thoát sĩ quan ta. Trận đó quân ta thương vong khá lớn.
Năm 1972 sư đoàn lệnh hành quân ra lò lửa Quảng Trị, nửa đường thì có lệnh quay trở về. Bác bảo chuyến ấy mà ra đến cái cối xay thịt Quảng Trị với những Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang, Dốc Sỏi ko chết thì cũng tàn phế cả đời.
Một trận khác trên đài quan sát ông bác đếm 100 lính Hàn vào một khu rừng gần nơi đóng quân của bộ đội ta, lúc chúng hành quân ra cũng đếm 100. Vậy mà đêm hôm đó trại lính quân ta bị tập kích bất ngờ. Té ra là bọn Nam Hàn một cõng một, rồi trùm áo mưa ngụy trang, đánh lạc hướng. Quân ta vì ko đề cao cảnh giác nên bị đánh úp (thuật ngữ nhà binh:úp sọt ). Sau một số trận đụng độ với quân Hàn, chúng ta mới rút ra nhiều kinh nghiệm đối phó với cách đánh ma quỷ của quân đội Nam Hàn.
Theo như lời kể của mẹ em thì 9 năm đi bộ đội của mẹ đầy gian lao và vất vả nhưng nó cũng là quãng thời gian suốt đời mẹ không bao giờ quên, bởi đó là cả tuổi thanh xuân của mẹ.Nhà ông ngoại có 8 đứa con, gia đình làm mũ thôi nhưng theo các cụ chính quyền thời đó thì đó chính là tư sản vì vậy gia đình bắt buộc phải có 1 người đi bộ đội để chứng tỏ lòng trung thành với ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Người được chọn là bà dì mình nhưng người lên đường nhập ngũ lại là mẹ dù ngày đó mẹ đang đi học.Bước vào quáng đời bộ đội mẹ bảo sợ nhất là cái cảnh đi bộ mấy trăm cây số mối ngày đã thế còn phải vác trên lưng gấn 40 kg vật dụng cá nhân và vũ khí, phải chăng vì thế nên bây giờ mỗi lần trở trời lưng mẹ lại đau ê ẩm.Lần đầu tiên được phát cho cây súng trường mẹ đã rủ theo mấy cô cùng đơn vị vào rừng bắn thử xem nó thế nào.Súng nổ còn mấy cô ôm nhau khóc nức nở vì sợ tội nghiệp mẹ
Đơn vị đóng quân trên tận Đắc lắc vì thế khoái nhất là vào rừng đi kiếm rau và trái cây , có lần cả đơn vị phát hiện ra một rừng toàn cam, quýt, mít dừa , đang khấp khởi mừng vì tưởng trúng mánh thì mới biết đó là rừng trồng của dân đành ngậm ngùi hành quân tiếp, các cô thì bị các bác cùng đơn vị dọa xanh cả mắt là bị các anh dân tộc bắt cóc về làm vợ, làm cô nào cô nấy cứ mỗi lần thấy trai dân tộc từ xa là ba chân bốn cẳng chạy trối chết
Đến lần các bác cùng đơn vị chộp được mấy con gà rừng giao cho mẹ nhiệm vụ làm thịt , mẹ mình hồi ở nhà hình như chưa được ông ngoại huấn luyện cho vụ này thì phăi nhưng xấu hổ không dám nói cứ ngồi nhớ lại xem ông làm thế nào, đến lúc dọn lên thấy mỗi con gà không chân không cánh không đầu ,không nội tạng còn đỏ chót vì chưa cắt tiết :banghead: (sao giống con đến thế)
Sau mấy năm được huấn luyện trong quân ngũ mẹ được cho về thăm nhà , tàu vừa đến ga là mẹ nhảy xuống , cứ thế chạy một mạch về nhà, lúc đó là 5 giờ sáng .Đến trước cửa nhà thì không dám gọi , cứ nghẹn ngào đứng đó mãi , làm dì út lúc ra mở cửa hết cả hồn.Bây giờ kể lại mà mẹ vẫn cười đau cả bụng vì nhớ lại cái cảnh lúc đó.Mở cửa xong, nhìn thấy mẹ , bà ấy đóng sập cửa lại luôn, chạy vào nhà la ầm lên:mẹ ơi chị về.Bà ngoại lật đật chạy ra nhìn thấy con gái cứ thế mà đứng khóc, xúc động thật
CHuyện yêu đương của mẹ thời đó cũng đầy thú vị , viết thế này chắc ba ba mình không phát hiện ra.Hồi đó có một chú ở cùng tiểu đoàn dể ý mẹ , một hôm lấy hết can đảm chú mới đánh liều sang đơn vị mẹ, nhờ một cô chạy vào gọi mẹ ra, nhưng có được yên đâu.Đơn vị có bao nhiêu cô Phuong mẹ kêu ra gặp chú ấy hết nhưng lần nào chú ấy cũng bảo không phải cô này mà, rõ tội.Chuyện không thành nhưng bây giờ trong nhà chú vẫn treo bức ảnh của mẹ dù vợ chú có nói gì đi nữa , chung tình thật. :quadinh:
Lính Ba Gai.
Posted on April 14, 2011 by admin
Thạch Đầu Đà
Lính Ba Gai Năm Bảy Ngày Rồi …
Đó là một câu hát trong bản nhạc “Dù Hoa Lạc Lối” mà chúng ta thường nghe ca sĩ Hùng Cường hát trên đài phát thanh hoặc vô tuyến truyền hình tại miền Nam trước 30-4-1975.
Qua bản nhạc này chúng ta có thể hình dung một anh chàng lính Dù ba gai đáp lạc bãi trên cung hoàng của Thượng Đế. Anh chàng lính Dù trẻ tuổi này được Thượng Đế tiếp đón long trọng với hai hàng giáp sĩ tuốt gươm ngời sáng. Chúng ta có thể thấy được cái ba gai của người lính Dù trè tuổi đẹp trai thật dề thương, với một chút liều lỉnh: “Xách ba- lô anh gõ cửa trời …” Một chút nghịch ngợm phá phách với các cung nữ để các cô phải ngẩn ngơ nhìn khi anh chàng lang thang đi kiếm quán café.
Những năm tháng vật lộn với nợ công danh, nợ cơm áo ở đất Mỹ này khiến tôi bồi hồi mỗi khi nhớ lại dĩ vảng làm lính của tôi. Nó không được tròn trịa gương mẫu lắm vì tôi thuộc dạng ba gai và tôi phân vân tự hỏi cái ba gai của mình có được dể thương như anh chàng lính Dù trong bản nhạc không?
Khoảng cuối năm 1971 mãn khóa Dù 239 tôi được về Pháo Binh Dù. Không biết tâm trạng của quí vị ra sao khi trình diện đơn vị đầu tiên chớ tôi mặc dầu với bản tánh ngông nghênh của tuổi trẻ vẫn hồi hộp lo âu chen lẫn thích thú. Lo âu vì không biết cấp chỉ huy và bạn đồng đội như thế nào, thích thú vì mình từ đây là chàng lính Dù thưc thụ. Cái cảm giác nó cũng như cô dâu về nhà chồng lo ngại sẽ phải ăn ở thế nào bên chồng và họ sẽ ra sao với mình nhưng vẫn sung sướng vì được sống với chồng, người mình yêu thương.
Toán tôi có tám tân binh về Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Dù. Sau khi trình diện ban một ba đứa: tôi, Tâm, và Thanh về Pháo Đội C. Rảo bước từ văn phòng Tiểu Đoàn đến văn phòng Pháo Đội C ba đứa chúng tôi đi thật rụt rè qua các văn phòng của ban hai, ban ba, và Pháo Đội A1, B1 v. v. Nhửng ma củ chiếu tướng chúng tôi thật kỷ. Có tiếng la đâu đó:
- Ê ! Em mới tụi bây ơi !
- Móc mắt chà giấy nhám tụi nó.
Trong ba đứa thì tôi là thẳng run nhứt vì cái đầu trọc mà không đội nón. Cái nón đỏ “chỉa” được từ thằng bạn cùng khóa Dù quá rộng chưa kịp sửa lại mà đầu lại nhỏ nên tôi xếp đôi lại giắt trên cầu vai cho oai. ( Tôi bắt chước Hùng Cường trên Tivi)
Về đến được văn phòng Pháo Đội C tôi thở ra nhẹ nhõm. Tưởng được yên thân không ngờ lúc trình diện thượng sĩ Ổn, thường vụ Pháo Đội tôi đã bị bố ngay tức khắc.
- Chú là lính Nhảy Dù hay Biệt Động Quân?
- Dạ em là Nhảy Dù
- Thế đã học Dù chưa sao không thấy bằng Dù.
Vì bản tánh lười biếng tôi chưa may bằng Dù trên nắp túi áo. Tôi ấp úng trả lời
Ông thường vụ:
- Dạ em mãn khóa Dù 239 mà chưa kịp may bằng Dù vào áo.
- Còn nón không đội lại giắt trên vai. Bộ muốn đưa cái đầu trọc ra dọa tôi hả?
- Dạ tại nón rộng quá em đội không vừa.
- Đội nón lên rồi ra sân làm 20 cái nhảy xổm, 20 cái hít đất tội lè phè. Rớt nón thì tăng gấp đôi.
Thế là tôi chụp cái nón đỏ lên như đội cái nồi ra trước sân văn phòng nhảy xổm
rồi hít đất. Thật khổ sở vì vừa thi hành lịnh phạt vừa phải giử cho nón khỏi rớt, lại thêm những tia chiếu tướng từ các ma củ của Pháo Đội từ các cửa sổ phòng ngũ:
-Ê ! Tụi bây thằng này ngon.
- Đ. M! Pháo đội mình thêm một thượng tọa.
Thi hành xong lịnh phạt trong ngày đầu tiên về đơn vị. Thượng sĩ Ổn cho tan hàng với câu nhắn nhủ:
- Mấy thằng thượng tọa ba gai này phải trị ngay lúc đầu mới được.
Sở dĩ tôi bị trọc đầu là khi đang học Dù ở Khối Bổ Sung khóa Dù 236 được tuần
lễ thứ nhì tôi và mấy đứa bạn trổ nóc tôn chuồn đi chơi 14 ngày (15 ngày sẽ bị báo cáo đảo ngũ). Về trình diện Đại úy Bé hoặc Đại úy Tư (tôi không nhớ rõ) Khối Bổ Sung lãnh roi điện, 14 ngày 14 cái, rồi tụi tôi bị cạo đẩu nhốt Connex 14 ngày. Cái mông đứa nào cũng đau buốt không nằm ngữa được phải ngủ nằm sấp. Ra khỏi Connex tôi lại bị đưa về khóa Dù 239 do Hạ sĩ Hùng coi. Ông này nổi tiếng hắc ám, đi đâu cũng kè kè cây roi điện trên vai xưng là “Quỷ Kiếm Hôi”thay vì “Quỷ Kiếm Sầu.” Cái nghiệp dĩ ba gai đã phát triển ngay từ trong quân trường.
Những ngày Tiểu Đoàn dưỡng quân tại Sàigòn thật nhàn nhã. Ban ngày tập dịch lấy lệ, hoặc đi an ninh bãi nhảy Ấp Đồn. Tối đến nếu trực thì gác hai tiếng còn thì không thì la cà nhậu nhẹt, cà phê cà pháo ngoài chợ Sư Đoàn, hoặc chuồn ra phố rong chơi. Là lính nhí, 17 tuổi lại là “đơ dem cùi bắp” nếu không bị cái tánh ba gai thì có lẽ còn lâu mới nhận được người cậu họ Thiếu tá Tiểu Đoàn Phó Nguyễn Văn Thông. Một ngày cận Tết sau khi tan hàng khoảng 6 giờ chiều tôi thuộc toán trực, gác từ 11 đêm đến 1 giờ sáng. Còn gần 5 tiếng mới tới phiên gác, trong túi lại có tí tiền còm của bà “Bô” mới cho, tôi rủ thêm vài tay lang thang ra chợ Sư Đoàn lai rai. Trở về Tiểu Đoàn lúc 10:30 tôi vào câu lạc bộ uống ly đá chanh cho tỉnh táo để đi gác. Đang uống nữa chừng Trung sĩ hạ sĩ quan trực đốc canh kêu tôi ra ngoài hỏi chuyện:
- Mày đi đâu mà tao kiếm không có?
- Dạ em ra chợ Sư Đoàn chơi vì em gác từ 11 tới 1.
- Chơi cái con c. Thằng gác ca 9 tới 11 vắng mặt tao kiếm mày để đôn lên cũng không có.
Rồi “Ngài Trung sĩ” cho một “Bốt Đờ Sô” vô bụng của tôi. Chao ôi, bao nhiêu cốc, chùm ruột, rượu đế tuôn ra hết. Lời qua tiếng lại “Ngài” đem tôi lên An Ninh Tiểu Đoàn giao cho Hạ sĩ quan trực để nhốt với tội danh ba gai, bỏ gác, lại cự cấp chỉ huy.
Vào Connex gặp ông thần nước mặn Thanh “Cà Lăm” đang bị nhốt vì tội dù vắng mặt bất hợp pháp. Sáng hôm sau nó được ra vì đã đủ 14 ngày. Tôi nhắn nó về gặp bà “Bô” cho chút tiền vì nhà nó ở Bình Thới gần nhà tôi ở xứ Thăng Long cạnh trường đua Phú Thọ. Nằm Connex thật khổ sở vì chỉ có được mỗi cái quần đùi, quần áo giày, nón đều bị giử ở ban an ninh. Đêm thì lạnh, ngày thì nóng. Đến sáng ngày thứ ba Hạ sĩ quan an ninh trực mỡ cửa đưa quần áo:
- Mặc đồ, mang giày đàng hoàng lên trình diện Thiếu tá Tiểu Đoàn Phó!
- Thôi chết rồi. Kỳ này lãnh đạn nặng.
Tôi nhủ thầm, rồi theo viên an ninh lên văn phòng Tiểu Đoàn Phó trong bụng đánh lô-tô
- Binh nhì Dương Ngọc Thạch số quân 73/… Pháo Đội C trình diện Thiếu
tá.
Tôi đứng nghiêm tay ở thế chào kính, mắt không dám nhìn “Ông Mặt Trời”. Hơn một phút, mà thời gian như “ngừng yên lắng đọng”. Chắc có lẽ “Ổng” đang quan sát kỷ lưởng:
- Mi không nhớ tau à! Biết ai đây không?
- Dạ không!
- Tau là cậu mi. Cậu Thông em của mạ mi.
Tôi thở ra nhẹ nhõm như cất được gánh nặng ngàn cân. Rồi cậu cho biết má tôi hôm qua tìm được số điện thoại, liên lạc với Ổng và không ngờ tôi lại lạc về tiểu đoàn của cậu tôi. Thì ra “Bà Via” xót ruột vì nghe Thanh Cà Lăm tả oán nên cố kiếm ông cậu tôi.
Từ ngày đó tôi cứ tám giờ sáng có mặt tại văn phòng Thiếu tá Thông đọc sách, hoặc kiếm chuyện làm vớ va vớ vỉn. Trưa theo xe “jeep” của Ông về ăn trưa, nghĩ ngơi, hai giờ theo ông cậu vô ngồi tiếp đến sáu giờ tan sở. Buổi chiều tôi ra nhà bà chị họ ngoài chợ Sư Đoàn ăn cơm. Tối đến phải về văn phòng ông cậu ngũ. Không được chuồn vì có anh tài lọt của Ông theo dõi. Tôi cảm thấy bực bội bó chân bó cẵng mà lại không dám chuồn vì sợ mang tiếng cho cậu mình. Vào khoảng giữa tuần thứ hai, buổi sáng tôi đang luyện chưởng “Tiếu Ngạo Giang Hồ” tại văn phòng thì một giọng Bắc Kỳ vang lên:
- Thằng sư con nào đây.
Tôi ngẫng nhìn thấy một ông đeo lon Thiếu tá, bãng tên Lạc. Tôi nhủ thầm bỏ mẹ rồi chắc Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng Bùi Đức Lạc. Ông cậu tôi đỡ lời:
- Thằng ni là thằng cháu mà tôi có trình với Thiếu tá hôm trước.
- Coi ban nào đó được đưa nó về, ban ba, truyền tin, quân xa…
- Dạ được để tui coi.
Thế là tôi được hân hạnh biết ông “Đại Bàng” của Tiểu Đoàn. Được độ hơn ba tuần Tiểu Đoàn chuẩn bị hành quân ngoài vùng hai, trận Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972. Ông cậu cho tôi về lại Pháo Đội theo ý thích của tôi. Tôi không thể là người lính ngành gương mẫu được.
Tôi không biết những chàng ba gai ở Pháo Đội khác. Riêng Pháo Đội C thì Thanh “Cà Lăm cũng là thuộc hạng cao thủ, cũng là một ông “Thượng Tọa” như tôi. Bình thường cà lăm còn nghe được, đến khi sỉn thì không biết chàng nói gì. Tối hôm trước ngày đi hành quân ở Komtum chúng tôi gồm có Linh truyền tin, Thanh cà lăm, Ngọc cầu thủ, tôi và một tay hình như là Đạt (bị mất tích ở Tân Cảnh theo toán liên lạc trận mùa hè 1972) chuồn ra phố. Sau một màn sương sương, Linh dẫn chúng tôi về nhà ông anh rễ, Thiếu tá Đoàn Phương Hải ở Trương Minh Giảng đỡ nhẹ một chai “Johnnie Walker” rồi kéo nhau về nhà Đạt nhậu tiếp. Tửu thì phải có sắc, đã rồi chúng tôi kéo xuống kiếm chị em ở Ngã Ba Chú Ía, gần Bệnh Viện Cộng Hòa. Tôi còn nhớ thiếu tiền Ngọc cầu thủ phải cầm cái đồng hồ Sheiko. Chúng tôi không thấy Thanh Cà Lăm đâu. Đi lục tất cả phòng cũng không thấy. Hỏi bà chủ động thì được biết chàng đã đi về một mình. Chúng tôi lo lắm vì Thanh Cà Lăm coi bộ rất sỉn khi đến động, nhưng chả biết làm sao hơn đành kéo nhau về Tiểu Đoàn để mai đi hành quân.
Sáng hôm sau chúng tôi đang ngồi đợi phi cơ ở Tân Sơn Nhứt thì Thanh Cà Lăm lếch thếch đến. Chúng tôi xúm lại hỏi thì được biết chàng say quá bỏ em út, (gái chơi), quên luôn anh em, lang thang kiếm xe ôm về Tiểu Đoàn một mình. Gặp xe Quân Cảnh không biết nói năng ra sao, hay vì cà lăm không nói được, hay cự nự mấy tay Q.C. Thay vì đưa về quân vụ thị trấn Lê Văn Duyệt, anh chàng được Q.C chở vô nhà xác bệnh viện Cộng Hòa nhốt. Thanh Cà Lăm ngủ như chết không biết trời trăng mây nước. Đến sáng giật mình tỉnh giầc mới kinh hoảng vì chung quanh là những xác chết trùm khăn trắng. Chàng đập cửa la làng may có gác dan mỡ cửa. Ba chân bốn cẳng đón xe lam về cho kịp hành quân. Chúng tôi ôm bụng cuời trong tiếng chưởi thề của chàng:
- Đụ đụ đụ … má! Tao chặt chặt chặt… tui bây bây bây hết nghe nghe nghe.. chưa.!
Vì là lính nên tôi chỉ biết chuyện ba gai của lính trong pháo đội, tuy nhiên tôi may mắn được quen một sĩ quan “Cao Thủ Ba Gai” có hạng thuộc Tiểu Đoàn 11 Dù: Đại úy Đinh Viết Trinh tự Trinh Điên (cấp bực sau cùng). Vào khoảng đầu năm 1971 tôi đi thăm một người bạn tại Tiểu Đoàn Vương Mộng Hồng ở Quang Trung. Nguyên cả một Tiều Đoàn Khóa Sinh đang tập hợp tại sân cờ trình diện Tiểu Đoàn Trưởng thì một Thiếu úy cán bộ Đại Đội bận áo “Saut Huyết” lái Honda Dame thắng cái kít tại sân cờ, trong túi áo “Saut” mỗi bên hai chai “33” trình diện Tiểu Đoàn Trưởng. Một hình ảnh sĩ quan Dù trẽ tuổi ngang tàng đập mạnh vào mắt tôi, một cao thủ của phái “Ba Gai.” Sau này tôi lại hân hạnh gặp lại anh Trinh trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa tại Komtum. Bị bắt làm tù binh lúc đồi Charlie tan hàng, thừa cơ lúc địch vô ý Thiếu úy Trinh đã vượt thoát về đến Pháo Đội C1 tại căn cứ Mạnh Mẽ. Lúc đó tôi và mấy người bạn đang tắm ở dưới suối thì ba người lính đồ bông tả tơi từ trong rừng chạy ra vừa hô to:
- Nhảy Dù, Nhảy Dù đây, 11 Dù đây.
Một trong ba là anh Trinh. Tụi tôi vội vàng đưa cả toán về Pháo Đội C1 trên đồi. Hình ảnh oai hùng ngang tàng của Thiếu úy Trinh càng đậm nét. Đến khi gặp lại anh Trinh tại Mỹ vào khoảng năm 1990 tôi thật ngỡ ngàng, xót xa. Một trung niên tàn phế , ngón tay cụt, chân cụt phải chống gậy. Được biết anh bị tàn phế trong trận chiến đẫm máu tại Đồi Thượng Đức 1062. Xin cho một cái chào bái phục.
Cũng qua những bữa nhậu sau ngày định cư tại nước Mỹ tôi lại được hân hạnh biết một sĩ quan “Ba Gai” cao thủ khác: Thiếu úy Nguyễn Văn Định tự Định Móm thuộc Pháo Binh Dù. Anh Định xuất thân từ Võ Bị Đà Lạt nhưng rớt ra trung sĩ thay vì thiếu úy, rồi được phục cấp, lại rớt, cuối cùng tan hàng năm 1975 với cấp bậc thiếu úy. Nội cái chuyện lon lá cũng biết anh Định là tay thượng thừa của môn phái “Ba Gai”. Một hôm trong bửa nhậu tôi hỏi:
- Anh Định! Anh rớt Võ Bị, từ thiếu úy xuống trung sĩ, còn em rớt Đồng Đế từ trung sĩ xuống binh nhì thì có bằng anh không?
- Không cần so sánh. Bây giờ tính như vầy: từ thiếu úy xuống chuẩn úy, rồi thượng sĩ nhất… tới trung sĩ là tổng cộng năm cấp. Còn mày xuống bao nhiêu cấp.
- Để em tính: từ trung sĩ xuống hạ sĩ nhất, rồi hạ sĩ nhất xuống hạ sĩ, binh nhất tới binh nhì tổng cộng là bốn cấp. Thôi thua anh.
Có lẽ là chuyện lon lá lên quan xuống lính quá nhiều lần làm Thiêú úy Định nổi tiếng “Ba gai” ở Pháo Binh Dù cũng như ở các Tiểu Đoàn Tác Chiến (vì anh chuyên đi Đề Lô). Tuy nhiên trong những mẫu chuyện của anh tôi thích nhất là chuyện anh bị phạt trong quân trường Võ Bị, câu chuyện mà anh kể trong cái “Hào khí ngất trời” của những người lính Dù khi uống rượu.
- Hồi học ở Võ Bị mùa Đông lạnh lắm mày biết không? Một lần tao bị cán bộ phạt ở truồng chỉ đội nón sắt với đeo cái lưỡi lê lúc lắc chạy dã chiến vào đêm. Bạn đồng khóa thằng nào cũng cười ngất. May là ban đêm mấy con nhỏ bán Câu Lạc Bộ đã về hết chớ không chắc chết tao.
Theo lời anh thì anh chỉ thấy một cái lưởi lê lúc lắc chứ quý vị cứ hình dung thì sẽ thấy một sinh viên sĩ quan đang chạy ở truồng trên đầu một cái nón sắt, ở dưới hai cây lưỡi lê, một sắt, một thịt đang lúc lắc.
Những cao thủ “Ba Gai” quí vị cũng thấy xuất hiện đâu đó trong văn chương của Nhảy Dù. Đây là câu chuyện cùa Ba Người Lính Nhảy Dù Say Rượu rất phổ biến trong bàn nhậu của binh chủng Dù:
- Ê! Oánh bài cào mà chín nút là chắc ăn phải không mày?
- Đúng! Nhưng vẫn thua ba tây con ạ.
Người Lính Nhảy Dù thứ ba chen vào:
- Hai thằng bây bậy hết. Ba tây vẫn còn thua ba lính Nhảy Dù say ruợu.
- Nửa rồi! Ông thần nước mặn uống vô là nói dóc.
- Đây nè! Ba lính Nhảy Dù say rượu thì sức mấy nó chung tiền. Nó hốt tiền đi nhậu tiếp. Lúc đó tụi nó chỉ có thua cọp.
Giai thoại này hình như lâu lắm rồi từ nhà văn Nhảy Dù Nguyên Vủ thì phải.
Còn nhiều nhiều lắm huyền thoại và nhân vật của môn phái “Ba Gai” mà tôi không nhớ hết. Gần đây có nhân vật Tốt, một Binh Bớp Muôn Năm trong “Tốt Đen” của Phan Hội Yên là một điền hình. Từ Binh bớp Tốt lên tới Hạ sĩ nhất Tốt rồi lại Binh bớp, cứ xoay vòng hai lần thăng thưởng, một lần lột lon trong một năm đến nỗi Trung đội trưởng không “up-date” kịp cấp bậc thực của đương sự theo lời kể của tác giả.
Cao thủ Tốt đã chào đón Chuẩn úy Trung Đội Trưởng mới của mình bằng một màn bào láng băng Chín Cầu Muối chỉ vì tay anh chị này dám chơi Phiếu, lính cùng trung đội. Chả cần lệnh lạc với hơn một nữa trung đội, Nhảy Dù Tốt đến tận khu Chợ Cũ dập toe-tưa băng này và Chín Cầu Muối phải thề sẽ không bao giờ đụng đến Nhảy Dù. Đổi lại phe ta: Trung đội trưởng bị tám củ và Hạ sĩ Tốt bị cạo đầu nhốt chuồng cọp. Trong cái “Ba Gai” này ta thấy loáng thoáng cái thực của tình đồng đội.
Vì cái tôi ba gai và không muốn cái nhìn của mình bị thiên kiến tôi làm một màn phỏng vấn “nóng” và “gọn” bằng điện thoại với hai xếp củ của mình.
- Hello! Anh Lạc! Em Thạch đây.
- Sao dạo này sao rồi?
- Nợ cơm áo nó vật quá. Đang mùa lễ Thanksgiving, Christmas, NewYear tiệm bận lắm. Em hỏi anh cái này được không?
- Ừ được.
Tôi vội chớp thời cơ:
- Hồi anh làm Tiểu Đoàn Trưởng anh có kỷ niệm gì về mấy anh chàng ba gai không?
- Có vài thằng mà lâu lắm anh không nhớ tên. Có một thằng chuyên môn dù, phạt mấy cũng không sợ. Sau anh bắt an ninh Tiểu Đoàn dẫn đến nhà cô bồ của nó bắt qùy trước cửa. Thế là nó không dám chuồn nữa và sau này rất đoàng hoàng.
- Chiêu của anh ghê thật. Gặp em thì cũng không dám tái phạm. Nhưng trên cương vị cấp chỉ huy anh nghĩ thế nào về mấy trự ba gai.
- Anh đối với tụi nó đứa nào anh cũng xem như em út.
Để biết thêm ý kiến về lính ba gai từ các cấp chỉ huy, tôi gọi anh Nguyễn Cẩn Ngọc, Pháo Đội Trưởng củ của tôi:
- Chào anh Ngọc em Thạch đây.
- Anh nge chú đây. Có gì không Thạch.
- Em mới gọi anh Lạc về câu chuyện Lính Ba Gai, em hỏi anh vài câu được không?
- Chú cứ hỏi.
- Anh là cấp chỉ huy, xuất thân là tu xuất, nổi tiếng là “rắc lô”. Anh nghỉ thế nào về mấy chàng lính ba gai? Anh có ác cảm không?
- Không chú à. Là cấp chỉ huy anh phải hành xử để giử quân kỷ. Đối với anh anh thưong chúng nó như những người em trong gia đình,vì chính những người lính là những người gần gủi như trong gia đình và đôi khi họ còn bảo vệ mạng sống của mình. Phần đông là trẻ tuổi ham vui. Thế thôi. Huynh đệ chi binh mà em.
Lời bàn từ Hậu Hắc King
Phải anh Ngọc ạ. Những người lính đó gần gủi như trong gia đình và đôi khi họ còn bảo vệ mạng sống của mình. Nhảy Dù Tốt của Phan Hội Yên hứng trọn một trái B40 để cứu người Trung đội trưởng của mình:
“Tôi cố lết đến bên hắn, trong ánh sáng nhá nhem của ngày sắp tắt, hằn xuống
dấu vết cơn đau còn đọng lại trên nét mặt khắc khổ chịu đựng… Vết thương
đổi mạng mà chắc chắn, nếu không có họng súng của Tốt, tôi đã lãnh đủ
mấy băng AK nát bấy mặt mày. Lại thêm tôi, một người nữa chịu ơn cứu mạng.”
Nhìn từ một góc độ nào đó, những người Lính ba gai là những người không tham lắm chuyện lon lá, là những con ngựa chứng khó ép vào kỷ luật thép của Quân Đội. Có thực chăng ngựa chứng là ngựa hay theo châm ngôn? Phần đông những người Lính ba gai dám nhận lãnh các nhiệm vụ nguy hiểm, cam go. Mặn tình bằng hửu, đồng đội và đôi khi dám xã thân cho bạn hửu hoặc cấp chỉ huy. Những nguời Lính ba gai này phải chăng họ là những nét chấm phá tô điểm thêm cho bức tranh hoành tráng của Quân Đội.
Xin quí vị hảy xem đoạn văn ngắn này như những câu chuyện mua vui trong bàn nhậu của Lính Dù.
Quân trường Thủ Đức: Tuần huấn nhục
Cả chục chiếc xe nhà binh GMC chở 800 Tân Khóa Sinh vừa xấn vào sân cỏ rộng lớn Vũ Đình Trường thì cả bầy Huynh Trưởng đã nhào tới sủa ỏm tỏi:
- Chào mừng Đàn Em đến Thủ Đức!
Toàn tiếng la chứ không có tiếng nói:
- Đàn em nầy quờ quạng yếu đuối quá!
- Hít đất ! Vào thế !
- Vào thế !
- 20 cái đi ông !
Bên kia thì :
- Ông nầy nghe ông ! Nhảy xổm vào thế !
- Vào thế !
Đàn anh quánh thế phủ đầu đàn em khiếp đảm.
Cứ :
-Ông nầy nghe ông !
Là có :
- Vào thế !
Ỏm tỏi cả Vũ Đình Trường rộng lớn ! Không con chim nào dám lởn vởn lanh quanh!
Bỗng tiếng thét rùng rợn :
- Bên trái làm chuẩn, bốn hàng ngang, mười hàng dọc! Nhìn trước! Thẳng!
Đám đàn em lụi cụi đứng dậy quẩy bọc xắc-ma-ren, túi vải lớn đựng quần áo và vật dụng gia tài lên vai dớn dác lăng xăng xếp hàng.
Đám huynh trưởng lại hè nhau hét:
- Ông nầy xếp hàng vào đây!
- Ông kia xếp hàng sau lưng!
- Đàn em còn quờ quạng lắm!
- Ba mươi giây coi ông!
- Nghiêm!
- Thao diễn .....Nghỉ!
- Nghiêm!
Nghiêm! Thao diễn! Nghỉ!
Cứ nghiêm nghỉ như vậy, mà xẹt xẹt ba mươi giây đám huynh trưởng đã chia 800 khóa sinh làm thành 4 khối hình chữ nhật, tức là 4 Đại Đội hay một Tiểu Đoàn và là một khóa học huấn luyện thành Sĩ Quan cấp bậc nhí nhất trong hàng ngũ sĩ quan: Chuẩn Úy. Và vẫn thường hay có chữ Sữa theo sau chữ Chuẩn Úy vì tuổi lính còn non choẹt.
- Đàn em chuẩn bị?
- Sẵn sàng!
- Ba lô?
- Lên!
- Đằng trước, chạy đều. Bước!
- Một! Một! Một Hai Ba Bốn! Một!
Tiếng đếm Một của đàn anh rơi vào chân bên trái của đàn em nhịp xuống.
Sân Vũ Đình Trường sân cát , đường vòng quanh hình bầu dục dài được trải nhựa.
Tiếng rầm rập của giầy bốt đàn em đang nện xuống theo nhịp chạy quân hành.
- Đây khúc ca vang trong quân trường đầy hào hùng!
Vai ghé vai ta thi tài trong tình quân ngũ.
Đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm.
Một hai ba bốn. Một hai ba bốn.
Đám đàn em vừa khệ nệ cái xắc-ma-ren vừa thở phì phò vừa chạy vừa ca.
Con đường vòng quanh thật dài. Con đường tương lai binh nghiệp nhắm chừng còn dài hơn gấp bội !
Rầm rập! Rầm rập! Một Hai Ba Bốn! Một Hai Ba Bốn!
Thở! Thở! Nóng! Nóng!
Mồ hôi chảy!
Vòng thứ nhất, tuổi trẻ còn gân!
Vòng thứ hai, tiếng ca nhỏ lại.
- Đàn em quờ quạng! Đàn em đàn bà! Ca to như huynh trưởng nè!
Năm, mười ông, hai ba chục ông huynh trưởng vừa hét vừa la.
Thủ Đức chỉ có dăm câu đầu môi thuộc lòng:
- Quờ quạng!
- Ba mươi giây!
- Hét to như huynh trưởng nè ông!
- Làm cho huynh trưởng coi!
- Ông hổng có tự tin hả ông?
- Ông nầy nghe ông! - Cứ nghe: Ông nầy nghe ông, là biết có chuyện!
Vòng thứ ba, đàn em bá thở đàn em té lụi đụi. Có ông té thiệt, có ông té vờ. Tui cũng vờ mà té. Hổng té trước cũng té sau. Nằm đó thở, hí hí mắt coi tình hình có êm dịu?
Đám huynh trưởng, vài người chạy trước đoàn quân, hai ba gã chạy song song, vài gã chạy sau lưng. Hễ có đàn em nào té cái đụi là có huynh trưởng tới liền nạt nộ:
- Đàn em giả bộ hả? Đứng lên coi! Đàn em yếu đuối! Đứng lên!
Có thằng đàn em bẽn lẽn cười cười đứng lên chạy tiếp.
Có thằng đàn em phì phò sôi nước bọt trợn con mắt.
Huynh trưởng ngó ngó thấy còn sống thì huynh trưởng tiếp tục chạy theo đoàn quân.
Đoàn quân theo số vòng sân tăng lên, số đàn em rơi rụng cũng tăng theo.
- Đứng lại! Đứng!
- Nghiêm!
- Thao diễn.....Nghỉ!
Lại tiếng thét:
- Đàn em đó nghe! Đàn em yếu đuối! Huynh trưởng nè! Huynh trưởng chạy 80 vòng cũng chưa mệt!
Đàn anh cũng xạo dữ!
- Tan hàng!
- Cố gắng!
Đám đàn em tản ra nằm dài hai bên đường nhựa, phì phèo thở. Chưa đủ ba mươi giây thì có tiếng thét :
- Đại đội! Tập hợp!
- Bên trái làm chuẩn! Nhìn trước! Thẳng!
Huynh Trưởng đưa một đại đội hai trăm thằng đàn em về doanh trại, mở đầu cho Tuần Huấn Nhục.
Đó chỉ mới là Chào Sân.
Sân Đại Đội 34, sân đất hình chữ nhật, bốn Trung Đội xếp thành hàng chữ U, có cái đáy ngang dài gấp đôi hai cái nét xổ xuống, mỗi Trung Đội vậy là có 50 cái đầu húi cua đang ngơ ngác ngỡ ngàng chờ cơn giông đến.
Cơn giông đến ngay tức khắc :
- Trung Đội Một ! Nghe lệnh tôi ! Bên trái làm chuẩn !
Ông đứng bên tay trái của đoàn quân được một huynh trưởng đẩy vào một vị trí cố định bèn đưa thẳng cánh tay trái lên, để mấy con gà tử mị còn lại nhìn theo điểm chuẩn ấy mà xếp hàng.
-Bốn hàng ngang, mười hai hàng dọc. Nhìn trước ! Thẳng !
Bây giờ nhơn qua nhơn lại là mới có 48 chàng tuổi trẻ đẹp trai, còn dư hai em ! Hổng lẽ Quân Đội gửi về lại với cha mẹ ? Hông ! Huynh Trưởng Thủ Đức chơi nhét hai em đó vào sau lưng hai hàng cuối. Tuổi trẻ nào cũng có chỗ đứng để phụng sự tổ quốc.
- Bên trái ! Quay !
Đàn em quính quíu, đàn em xoay trái. Có đàn em quíu hơn nữa, đàn em xoay qua......phải !
Huynh trưởng nhào tới nạt nộ liền :
- Đàn em quờ quạng hả ? Đàn em không biết phải trái hả ? Bước ra đây coi ông ! Huynh Trưởng muốn đàn em đưa tay phải lên rồi la lớn : Đây là tay phải ! Rồi đưa tay trái lên : Đây là tay trái ! Hai chục lần đi ông !!
- Tuân lệnh ! Đây là tay phải của tôi ! Đây là tay trái của tôi ! Đây là tay phải của tôi ! Đây là .....Đây là.....!!
Tự nhiên trong buổi chiều vàng hanh nắng dưới bóng râm của tàn cây bã đậu, có chàng tuổi trẻ vung tay thề nguyện phải trái với quê hương.
- Trung Đội Hai ! Nghe lệnh tôi !
- Trung Đội Ba ! Nghe lệnh tôi !
- Trung Đội Bốn ! Nghe lệnh tôi !
Xẹt xẹt ! Ba mươi giây, 6 Huynh Trưởng hướng dẫn đã xấp xếp Đại Đội thành hình chữ U đối diện nhau, nhìn về cùng một hướng! Hướng kỷ luật !
Trên bục gỗ cao có ông Huynh Trưởng quân phục chỉnh tề ủi hồ bóng loáng, uy nghi thẳng người thế nghiêm, hai tay thả dọc bên hông, hai ngón tay cái duỗi thẳng theo hàng chỉ của ống quần, trong khi bốn ngón tay kia nắm lại.
Huynh Trưởng đôi giày láng cón, lấy tay quơ quơ thấy được phản xạ lung linh. Năm Huynh Trưởng kia cũng cùng một nhân dáng uy nghi nể vì.
Huynh Trưởng trên bục thót bụng, ưỡn ngực thét lớn, người rung rinh :
- Đại Đội ! Theo lệnh tôi ! Hàng sau bước lùi hai bước ! Bước !
Vậy thì đoàn quân đã được mở rộng khoảng cách, để :
- Hít đất vào thế !
- Vào thế !
-Một ! Xuống
- Lên !
- Hai ! Xuống
Hai trăm con người rạp trên sân cát, nhấp nhổm cái mông, học bài Nạn Chung !
Chiều tàn tàn, chiều chưa tối.
Huynh Trưởng dẫn đàn em đi ăn nhà hàng.
- Rầm Rập ! Rầm Rập !
- Một Hai ! Một Hai Ba Bốn !
Tuần Huấn Nhục, đàn em không biết đi ! Đàn em phải chạy đều khi di chuyển trong doanh trại.
Doanh trại rộng rãi và đẹp đẽ, nhiều hàng cây bã đậu mọc đều thẳng tắp hai bên những con đường trải nhựa sạch sẽ, có vô số khóm hoa tươi sắc màu như an ủi cho đời binh nghiệp bớt khô cằn hơn.
Huynh Trưởng hướng dẫn là Đại Huynh Trưởng.
Còn Siêu Huynh Trưởng thì sắp sửa rời trường đi nhận đơn vị nên mặt ông nào ông nấy như cái bánh bao, đầy vẻ suy tư lo âu.
Nhất là những ông chọn đơn vị tác chiến thì thư tình, di chúc viết tá lả phòng ngừa cho những trường hợp tệ nhất !
Còn đâu những tuần về phép, mặc đồ vàng, giầy láng bóng, dây biểu chương vắt vai, đưa em vào quán nước kể chuyện tình thơ !
Siêu Huynh Trưởng đi đứng phất phơ, chẳng buồn phạt ai !
Đại Huynh Trưởng thì như con diều đang lên, thả nút chặn khắp nẻo đường doanh trại khi chiều về, chận các khóa đàn em đang thả rong xuống Khu Gia Binh uống cà phê cà pháo để kiểm soát quân phục và quân phong hay để phạt chơi chơi vậy hà !
Phân biệt nhau là màu bảng tên trên áo và màu khăn Tiểu Đoàn.
Di chuyển trong doanh trại không được đi một mình. Phải nhập bọn hai người trở lên. Người đi trước có nhiệm vụ đếm nhịp và chào kính khóa đàn anh hay sĩ quan cơ hữu. Trên hai người thì phải có người đi ngoài hàng làm nhiệm vụ đó .
Tới Nhà Ăn.
- Đại Đội theo lệnh tôi ! Nón ?
Tất cả đồng thanh thét to :
- Xuống !
Cúi xuống cho đều, đặt nón sắt ngay trước mũi bàn chân mình. Cúi xuống không đều hả ? :
- Nón ?
- Lên !
Cúi xuống, cúi xuống cho đều hả ? Đứng lên, đứng lên cho đồng hả ? Cũng vẫn là Cúi Xuống Đứng Lên chục bận. Huynh Trưởng biểu : Làm vậy ăn cơm ngon hơn !
- Một hàng dọc ! Đằng trước ! Bước !
Lên bậc tam cấp phải chào nhà hàng một cái, tỏ lòng cám ơn Nhà Bếp công khó lửa củi.
Công em chụm củi nấu khoai
Khơi thêm lửa bếp tro tàn bay xa
Mắt em ướt thấm vành mi
Vì tro tàn ấy hay là vắng anh ?
Một hàng dọc đi vào. Im lặng tuyệt đối ! Im lặng tuyệt đối ! Không hả ? Cả bọn lãnh đủ. Lại Nạn Chung !
Nhiều dãy bàn dài, thức ăn dọn sẵn. Những băng ghế ngắn vừa đủ bốn người, đặt dưới gầm bàn.
Mọi người vào hết, vẫn còn hướng mặt về cuối phòng. Đứng đó ! Thế nghiêm ! Đợi !
- Đại Đội theo lệnh tôi ! Tiếng thét của ông Huynh Trưởng như tiếng gầm sấm sét, ông nào cũng có buồng phổi to !
- Hàng bên trái làm chuẩn ! 1,3,5,7 ! Hàng lẽ ! Bên phải ! Quay !
- Hàng chẳn ! Bên trái ! Quay !
Xẹt ! Xẹt ! Huynh Trưởng đã hóa phép cho đàn em đối diện nhau qua mâm thực phẩm. Đàn em sáng giờ đói bụng muốn xỉu. Bị chạy Một Hai Ba Bốn, bị bò lết, bị nhẩy xổm, bị nhảy dựng, bị vào thế tối tăm mặt mũi. Nay, trước mặt, món đồ xào lòng heo nức nở, món canh mướp ngọt lịm vô ngần, mùi tiêu sọ xay nhuyễn bức lên rụng mũi. Vậy mà ! Huynh Trưởng vẫn chơi cái tình vờ :
- Ghế chuẩn bị ?
- Ghế sẵn sàng !
- Ghế ?
- Ra !
Bốn chú đàn em mặt mày bơ phờ, thò ra mỗi người hai cánh tay, tổng cộng là 8 nhẹ nhàng khiêng cái băng ghế ra. Không một tiếng động nha ! Không một cái kẹt nha ! Mà một hàng ghế đó phải thẳng thớm nha ! Một cái rẹt của tiếng ghế hả ? Thì :
- Ghế chuẩn bị ?
- Ghế sẵn sàng !
- Ghế ?
- Vô !
Lại khởi sự từ đầu ! Hai trăm đàn em khốn khổ nín thở làm hài lòng Huynh Trưởng. Để :
- Chân trái bước tới một bước ! Bước !
Hai trăm cái chân trái đồng loạt bước qua băng ghế. Không một tiếng động à nha ! Tiếng động hả ???
- Chân phải bước tới một bước ! Bước !
Vậy là hai chân đã lọt được vào giữa cái ghế và cái bàn có buổi cơm hấp dẫn đang mời mọc. Đừng đàn em nào quờ quạng làm rầm rầm ngheo ! Phải trở lại từ đầu thì gõ hoài từ đây đến sáng cũng chưa hết chuyện ăn cơm !
- Ngồi ?
- Xuống !
- Đứng ?
- Lên !
Lại còn cái lấp lửng giễu cợt đứng lên ngồi xuống dăm ba lần, để chắc chắn đàn em phục tùng Huynh Trưởng, phục tùng kỷ luật nhà binh !
- Mời đàn em dùng cơm !
Hai trăm con người hớn hở đồng thanh hét to :
- Mời Huynh Trưởng dùng cơm !
Bữa cơm đầu ! Bữa cơm trần ai !
Như nhiều bữa cơm đời, trệu trạo không trôi !
Gọi là tuần huấn nhục, chứ thật sự nó kéo dài gần cả tháng. Không ngày nào giống ngày nào, vì hôm nay có thể bị hít đất thì ngày mai có thể bị nhảy xổm. Chỉ có điều giống nhau là : Ngày nào cũng bị phạt từ sáng sớm đến tối mịt. Có nhiều đàn em bị phạt ô vờ tham - over time- nữa, gọi là dã chiến.
Huynh Trưởng suốt thời gian đó, chỉ trao tặng đàn em chữ : Phạt !
Đàn em suốt thời gian đó, chỉ nghiền ngẫm mỗi một chữ : Chịu !
Hoét ! Hoét ! Hoét !
Tiếng tu huýt hoét lên õm tỏi, trời chưa sáng, sương còn e lệ chưa tan.
Huynh Trưởng đã hùng hổ rần rộ xông vào 4 phòng ngũ của 4 Trung Đội đánh thức đàn em dậy :
- Tập hợp ! Tập hợp !
- Hoét Hoét ! Hoét Hoét !
Giấc ngũ không mộng mơ, giấc ngũ vùi vì mệt mỏi của ngày hôm qua hao tổn thể lực bị mấy cái họng oang oang của Huynh Trưởng dựng đầu dậy.
Đàn em hoảng hồn, đàn em mất vía, đàn em mắt nhắm mắt mở chạy ra tập hợp.
Cũng giọng thét vang uy quyền :
- Đại Đội ! Theo lệnh tôi ! Đằng trước chạy đều ! Bước !
Cũng con đường trãi nhựa bao quanh Vũ Đình Trường, con đường chạy bộ tập thể dục buổi sáng của tất cả Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức ngay từ ngày đầu tiên mới vô mãi cho đến ngày cuối cùng mãn khóa.
Con đường thật phẳng thật đẹp thật mát, con đường đó chỉ đến ngày mãn khóa mới trở thành con đường tình tự, đôi tình nhân tay nắm, bước bên nhau lần cuối giã từ.
Con đường mà thân quyến các Tân Chuẩn Úy trầm trồ khen ngợi, chứ không biết rằng bao nhiêu mồ hôi đã đổ xuống trong bao nhiêu tháng ngày để con đường láng bóng hơn.
Còn thì, con đường đó là con đường sửa soạn cho thanh niên tuổi trẻ chập chững bước vào trách nhiệm, phụ gánh gồng Tổ Quốc cùng đàn anh.
Rầm Rập ! Rầm Rập !
Một Hai Ba Bốn !
Quân trường đổ mồ hôi.
Một !
Chiến trường bớt đổ máu
Cố lên ! Cố lên !
Dù nhọc nhằn !
Đem mồ hôi pha máu hồng, viết thành sử xanh
Một Hai Ba Bốn ! Một Hai Ba Bốn !
Từng Đại Đội, từng Đại Đội tiếp nối nhau đếm nhịp chạy đều, giọng quân ca trầm hùng trong buổi sáng tinh mơ nghe vòng vọng như sóng thủy triều cuồn cuộn ngân nga.
Bao nhiêu con chim mê ngủ bổng giật mình thức giấc, kêu quát một tiếng ngạc nhiên rồi vỗ cánh bay mất.
Hai vòng Vũ Đình Trường đối với tuổi trẻ bây giờ dể dàng như giấc hiu hiu. Mồ hôi ra tí xíu !
Đoàn quân về lại sân Đại Đội.
Vẫn như thường lệ, Huynh Trưởng hướng dẫn không biết nói, chỉ biết hét:
- Đàn em đó!
Ngưng chút để thở :
- Đàn em có 30 phút làm vệ sinh cá nhân và ăn sáng. Tan hàng !
- Cố gắng !
Đàn em túa ra thật lẹ, cố gắng cho thật nhanh vì đàn em biết sau 30 phút tự do phù du nầy, thì Cơn Bão Sẽ Đến.
Cơn bão đến, cơn bão thịnh nộ dử dằn !
Cơn bão quát :
- Nghiêm !
Âm " iêm" vang vọng xa xa.....treo trong không khí, lọt vào lổ nhĩ, đàn em cứng mình ưởn ngực không dám phì phò thở.
- Ông nầy nghe ông !
Âm " ông " kéo dài gần bằng âm " iêm ", đàn em mất vía, đàn em muốn nhắm mắt lại để đừng thấy tai họa giáng xuống đầu mình.
- Ông bước ra đây, trình diện Huynh Trưởng coi ông !
- Tân Khóa Sinh Tám Mõ Lết, số quân 123456 trình diện Huynh Trưởng. Chờ lệnh !
- Ông nói nhỏ quá ông! Ông đang ngâm thơ hả ? Ông lại trình diện gốc bã đậu 20 lần coi ông ! Ông hét cho lá đổ coi ông !
Năm, sáu đàn em đang xúm quanh cây bã đậu trợn mắt hét to, mong cho lá đổ.
Lá bã đậu xanh mun, cuối xuống nhìn đàn em, ái ngại !
- Huynh Trưởng kêu đứng nghiêm, mà ông nhúc nhích hả ông ? Trùm poncho đi ông !
Đàn em ba lô, nón sắt, trùm nguyên cái ponso, vác súng leo lên mô đất cao, cùng với năm bảy ông đứng sẳn, tay bắt súng chào, làm tượng đá chơi vơi giữa trời trưa chiếu nóng.
Anh một đời đứng nghiêm
Canh em giấc ngũ
Anh một đời yên lặng
Ngắm mi em cong
Anh một đời lở dở
Nhìn bước em đi
Anh còn ở lại
Tượng đời bơ vơ.
-Ông hít đất kiểu gì kỳ vậy ông ? Đàn em ma giáo hả ? Đàn em đưa súng lên trời, chạy 20 vòng sân Đại Đội : Tui không ma giáo nữa đi ông !
Đàn em tham gia vào bảy, tám ông đang sòng sọc hai tay cầm khẩu súng đưa lên khỏi đầu, chạy vòng vòng sân Đại Đội : Tui không ma giáo nữa ! Tui không ma giáo nữa ! Nếu ma giáo được, tui xin chơi liền !
-Đàn em biết chào tay hông ông ? Chào như Huynh Trưởng nè !
Người đứng thẳng, ngực ưởn ra, bụng thót lại. Tay phải duỗi thẳng về bên phải, tạo góc 90 độ ở nách. Gấp khúc tay từ khuỷu đến bàn vào ngay đuôi chân mày, ngón cái xếp lại, bốn ngón kia thẳng ra.
- Sao mu đàn em cong cong vậy ông ? Đàn em là thục nữ hả ? Đàn em lại đập tay vô cây bã đậu cho nó thẳng ra đi ông : Tui không phải là thục nữ đi ông !
Thân cây bã đậu nhiều mục gai lổm chổm, nhưng với thời gian, một khoảng bóng loáng hiện ra, không một mục gai nào mọc lên nổi. Ít nhất những khóa đàn anh đã dọn dẹp được giùm một số nhăn nhó của cuộc đời.
-Bốp ! Tui không phải là thục nữ !
-Bẹp ! Tui không phải là thục nữ !
-Thụt ! Tui thì yêu thục nữ !
- Đàn em hổng biết đếm hả ông ? Đàn em cầm que diêm này đo hết sân Đại Đội cho Huynh Trưởng coi coi ông !
Đàn em nhập bọn với bảy tám ông khác đang lết lết tẩn mẩn đo sân cát Đại Đội bằng que diêm quẹt.
- Tân Khóa Sinh Lê Dử Dội, số quân....trình diện Huynh Trưởng. Xin nói !
- Nói đi ông !
- Thưa Huynh Trưởng, đàn em đo được mười ngàn lẻ sáu que diêm.
- Đàn em đo quờ quạng ! Hồi đó Huynh Trưởng đo, đâu phải mười ngàn lẻ sáu đâu ông ? Đo lại đi ông !
Thiệt tình ! Đến bây giờ, tui cũng vẫn còn tin là mười ngàn lẻ sáu, nhưng ai biết được ai đo thật ai đo vờ !
Vậy thì trên sân cát Đại Đội, cảnh tượng thật um xùm kẻ khóc người la, kẻ phân trần với gốc bã đậu về giới tính của mình, người chạy vòng quanh hứa hẹn, ông thì trầm ngâm đứng lặng giữa trời, còn đa số là đang đứng nghiêm chết lặng đợi mở hàng học bài Chịu Chung.
Có nhiều lần bị quần thê thảm, tui liếc con mắt lén nhìn Huynh Trưởng : " Tao nhớ mặt mầy rồi ! Mai mốt gặp ở đâu, tao quánh mầy thấy tía ở đó ! " Như đến phiên tui được chọn làm Huynh Trưởng hướng dẫn khóa đàn em, tui cũng thấy nhiều cái liếc mắt hăm dọa như thế !
Nhưng
Huynh Trưởng vẫn uy nghi đứng đó, thẳng người hai tay thả dọc bên hông, bàn tay nắm lại, hai ngón cái duỗi ra theo đường chỉ ống quần.
Nón nhựa Huynh Trưởng sáng bóng, khoảng cách từ chóp mũi đến vành nón là 3 ngón tay trỏ, giửa và áp út khép lại, nên mặt Huynh Trưởng phải kênh lên để thấy đường, tạo ra dáng phong nghiêm chi lạ.
Huynh Trưởng vẫn gầm lên :
- Đại Đội theo lệnh tôi ! Nghiêm !
Huynh Trưởng muốn quê hương và đất nước chỉnh tề theo thế Nghiêm cùng Huynh Trưởng. Nhưng rủi thay.....!!!
Huynh Trưởng hôm nay kẻ mất người còn .
Huynh Trưởng đi vào lòng đất mẹ như bài tập quân hành ngày xưa.
Huynh Trưởng chạy xong con đường Vũ Đình Trường đầy bóng mát lẫn khổ đau bằng những bước nhiệt thành của tuổi trẻ.
Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng !
Huynh Trưởng còn ở lại. Huynh Trưởng bùi ngùi !
Chuyện Tình Khoai Lang
Tình yêu là gì?
Ai cũng hiểu, ai cũng biết. Thế nhưng không có một định nghĩa nào được cho là đúng khi giải thích về tình yêu cả. Lý do là, mỗi người hiểu tình yêu theo một nghĩa khác nhau.
Tình yêu, ai cũng có một lần nghe qua, ai cũng đã có ít ra một lần yêu (thử hay thật cũng được), thế nhưng, khi nào thì được phép yêu? Khi nào thì nên... chấm dứt? Không ai dám trả lời cả! Người lính chiến quanh năm với bưng biền, tròn ba tuổi lính, chưa hề có bạn tâm tình, cũng không thể kết luận rằng anh ta không biết gì về tình yêu. Ngay cả ông lão đầu tóc còn vài cọng không đủ làm thuốc, răng cỏ theo nhau rụng xuống cầu hết trơn rồi, cũng không dám nói là mình có đủ kinh nghiệm về tình yêu. Tôi cũng như bạn vậy, cũng đã nghe nói về tình yêu, cũng đã làm thử một lần. Chỉ có một điều đặc biệt là tôi đã đuợc nghe kể lại một chuyện tình thời hậu chiến. Chuyện tình này có thật, rất là cảm động, đã được nhiều anh em biết tới. Theo đúng như những kết luận về chuyện tình thời cổ tích, hai vai chính tới nay vẫn còn sống, vẫn thương yêu nhau, gia đình thật là đầm ấm.
Chuyện tình yêu này thật là đẹp, thật là đáng ghi nhớ, hay hơn tất cả những chuyện tình yêu trên thế giới. Love Story của Mỹ cũng thua xa! Một câu chuyện tình yêu kéo dài cả ba năm trời, trong đó hai vai chính, một nam một nữ không hề quen biết nhau, không hề tiếp xúc với nhau, nhưng kết cục lại lấy được nhau thật là ngọt ngào. Câu chuyện tình yêu này đã được đặt tên là... Chuyện Tình Khoai Lang, theo lời kể của một chịến hữu Nhẩy Dù của tôi, như sau:
***
Ngày đó, vào khoảng năm 1977, tôi đang bị bọn VC bắt đi tù vì tội có ông Tổng Thống đầu hàng. Cả bọn tôi, đa số là các Sĩ Quan trẻ (cấp bậc từ Thiếu Úy tới Đại Úy) được tập trung ở trại Suối Máu, sau đổi qua Trảng Bom (Biên Hòa). Bọn VC độc ác bắt chúng tôi làm việc cật lực nhưng không cho ăn uống tử tế, thuốc men hoàn toàn không có . Ai sống được thì sống, ai về chầu ông bà ông vải thì cứ việc đi. Phương cách giết người này thật là độc ác, giết nguời mà không cần gươm súng. Mỗi ngày đi lao động bên ngoài, anh em cố gắng kiếm được thêm cái gì thì ráng mà kiếm để sống cho qua ngày. Có người lượm được cái trứng chim, bắt được con thằn lằn, rắn mối...cũng đã cho rằng mình có số sung sướng lắm rồi. Dân làng thì ở ngoài xa, thỉnh thoảng mới gặp một vài người. Bọn VC quái ác không cho dân tiếp xúc với anh em chúng tôi và cũng cấm tuyệt anh em chúng tôi không được lân la tới khu dân chúng. Đói, đói lắm, đói thê thảm, đói lả người ra! Nhưng anh em còn trẻ, sức chịu đựng cao, tinh thần càng cao hơn, nên ráng sống đợi một ngày mai tươi sáng.
Bọn VC khoe với chúng tôi: ' Đảng ta đã . . . Đại Thắng Lợi'
Thì chúng tôi lại vui mừng nhìn nhau, nói trong ý nghĩ: 'Anh em ta . . . Đợi Thắng Lại!'
Ruộng mía, khoai lang, khoai mì của đồng bào ở chung quanh rất nhiều, nhưng chúng tôi không đụng tới, vì đó là của dân, mồ hôi nước mắt của họ. Họ cũng đói như chúng tôi vậy, đâu thể nào lấy của dân được. Ngày xưa, chúng tôi bảo vệ họ, ngày nay không làm gì được nữa nhưng không vì đói mà mất tư cách. Đồng bào biết chúng tôi đang bị đầy đọa, họ cũng thương cảm lắm, họ cũng đã tìm đủ mọi cách mà giúp đỡ chúng tôi. Bọn VC cũng biết như vậy, cho nên mỗi lần phải đưa chúng tôi di chuyển ngang khu dân cư, bọn chúng đi kè kè sát bên, không cho ai tiếp xúc với ai. Muốn mua thêm ít đường, ít muối cũng khó lòng mà làm được!
Thế nhưng trời cao còn có mắt mà, không sao! Miễn được thấy dân là lòng người lính thấy ấm lại rồi! Buổi sáng hôm đó, chúng tôi đang trên đường đi lao động. Từ xa, chúng tôi đã thấy khu dân cư ở đằng trước, và thấy bóng dáng những trẻ em, những cô gái đang tung lúa, thẩy khoai lang ra trước nhà để phơi. Khi tới gần khoảng chừng chục thước, chúng tôi thấy một bóng dáng phụ nữ cầm thúng thẩy khoai lang ra ngoài đường đi, chỗ chúng tôi đang bước thấp bước cao. Chúng tôi tuyệt đối không đụng tới tài sản của dân, dù là mấy củ khoai lang nhỏ bé, nên vẫn cứ thế mà bước đều. Mấy hôm sau, khi đi ngang qua xóm nhà này, chúng tôi lại thấy bóng dáng người phụ nữ này. Cô cũng dáng điệu như cũ, cầm thúng khoai lang thẩy ra đường đi. Lần này cô nói bâng quơ:
- Má à, mấy đám khoai lang hư này, mình đâu có bán cho ai được! Thôi, dục bỏ, nha Má!
Cô vừa nói vừa thẩy khoai lang ra chỗ chúng tôi.
Cô đứng ở xa nói tới, chúng tôi cũng không đi gần nên chỉ nghe cô nói như vậy thôi. Nói là cô gái thì cũng là nói vậy thôi, chứ không thấy rõ hình dáng, nói chi tới mặt mày.
Mấy hôm sau nữa, chúng tôi lại có dịp đi lao động ngang qua khu dân cư này. Chúng tôi lại thấy cô gái hôm trước. Cô vẫn đứng xa xa, nhưng lần này cô cố tình cầm khoai lang thẩy vào chúng tôi rồi bỏ đi, dáng vẻ rất là bình thường.
Tối về khu trại, chúng tôi bàn tán về cô gái, về những củ khoai lang mà cô thẩy ra ngoài. Chúng tôi cùng đồng ý là thái độ của cô rất lạ: Không có ai phơi khoai lang ở chỗ đường đi đó, mà cũng không có ai dục khoai lang trên đường đi như vậy cả.
Một người bạn - tên Phúc - đã nói với tôi:
- Tao nghĩ rằng cô gái này muốn cho mình những củ khoai lang đó. Chứ nếu cô muốn dục đi, thì thiếu gì chỗ dục. Hơn nữa, khoai lang dù là hư, không cho người ăn được thì để cho heo ăn, dễ gì mà dục bỏ!
Lần sau nữa, khi đi ngang khu nhà dân đó, chúng tôi lại thấy cô. Lần này chúng tôi không thấy cô thẩy khoai lang ra nữa, mà đứng yên ở phía xa xa chỉ trỏ chỗ này, chỗ kia, ý như muốn chỉ cho chúng tôi những củ khoai lang mà cô đã thẩy ra trước đó.
Tối về, chúng tôi lại có dịp bàn tán. Phúc nói với tôi:
- Tao có nhìn thấy mấy củ khoai lang ngay trên đường mình đi. Tao thấy khoai lang kỳ này cũ rồi, không tươi như bữa trước nữa. Tao nghĩ rằng, cô thẩy ra cho tụi mình lượm, nhưng không ai lấy, nên cô lại thâu lại để dành, bữa nay thẩy ra nữa. Chắc chắn là cô cho tụi mình đó, tụi mày đồng ý không?
Tất cả cùng có ý nghĩ đó! Chắc là cô còn có lòng thương những người lính sa cơ đói khổ, mà tặng những củ khoai lang ăn lót lòng. Củ khoai lang nhỏ nhoi không đáng là bao, nhưng tấm lòng của cô thật đáng quý! Chẳng có ai ở không mà chờ anh em chúng tôi đi gần tới mới thẩy khoai lang ra. Cũng chẳng có ai có nhiều khoai lang để mà thẩy chơi như vậy. Chắc chắn là khi chúng tôi đi khỏi, cô lại thâu lại những củ khoai đó mà để dành thẩy lại cho chúng tôi vào ngày hôm sau. Anh em chúng tôi cùng đồng ý là kỳ tới, nếu có đi ngang khu nhà dân, nếu cô còn có lòng hảo tâm mà thẩy khoai lang ra, chúng tôi sẽ chia nhau lượm.
Dịp may đã tới, chúng tôi lại có dịp đi ngang khu nhà dân cũ, và lại thấy bóng dáng cô từ xa. Cô lại thẩy khoai lang ra rồi bỏ đi. Chúng tôi đã bàn với nhau trước rồi, nên chia ra làm nhiều toán nhỏ: Toán đi trước bao chung quanh đám quản giáo để chúng khỏi nhìn thấy phía sau, toán thì đi chậm chậm lượm thật lẹ những củ khoai lang bỏ vào giỏ xách thật nhanh. Lính mà! Chúng tôi thanh toán chiến trường khoai lang lẹ lắm, không thua gì những lúc thanh toán bọn quỷ đỏ trên chiến trường trước đây.
Buổi trưa hôm đó, chúng tôi lại chia ra nhiều toán để dắt bọn quản giáo đi ra xa, trên đầu gió, để đám còn lại lo nướng khoai . Đói lòng ăn được củ khoai lang. Ôi, sung sướng nào hơn!
Đám này ăn xong thì lại ra canh bọn VC để đám kia trở lại ăn những củ khoai lang tình nghĩa đó. Lần sau đi ngang khu nhà dân, đến phiên Phúc lo lượm những củ khoai lang của cô gái hảo tâm. Buổi trưa, Phúc nói nhỏ với tôi:
- Đúng như tao dự đoán, mày ạ! Kỳ này cô ta cho mình toàn là khoai mới, bự và ngon hơn khoai bữa trước nhiều lắm! Chắc cô đã núp đâu đó, thấy mình đã lượm hết khoai kỳ trước nên mới đưa khoai lang mới ra đó!
Nhờ những củ khoai lang đó mà anh em chúng tôi có thêm sức khỏe. Nhờ ở cảm tình mà người dân đã dành cho chúng tôi qua củ khoai lang mà chúng tôi thêm được sức mạnh để chịu đựng cực khổ, chờ đợi ngày mai trời lại sáng. Chúng tôi ăn những củ khoai lang đó của cô gái tốt bụng, nhưng chỉ nhìn thấy dáng của cô từ phía xa xa mà thôi, chứ chưa bao giờ được nhìn thấy mặt cô cả. Cũng chỉ duy nhất có một lần được nghe giọng nói của cô mà thôi.
Thời gian cứ thế trôi qua, chúng tôi vẫn sống, vẫn hiên ngang với đời.
Rồi ngày mai đã tới, ngày tôi và Phúc được bọn VC trả về nguyên quán. Chúng nói là chúng tôi đã... học tập tốt. Nhưng đối với chúng tôi, với riêng tôi và Phúc, chúng tôi vẫn vậy. Muôn đời chúng tôi vẫn là người lính VNCH và càng căm thù bọn Việt Cộng hơn bao giờ hết. Tôi được gia đình lo liệu sẵn, một thời gian ngắn sau khi về lại nhà, tôi đã may mắn vượt biên trót lọt và qua định cư ở Melbourne xứ Úc Đại Lợi.
Tôi cũng có nghe bạn bè nói, Phúc cũng đã vượt biên và hiện ở Sydney, cùng xứ Úc với tôi.
Một ngày đẹp trời vào năm 1990, vợ chồng tôi có dịp đi Sydney và đã ghé thăm Phúc.
Bạn bè ngày xưa gập nhau mừng mừng tủi tủi, nói chuyện huyên thuyên - Chuyện xưa còn đó, nhưng bạn bè nay đâu? Thằng nào còn sống? Thằng nào chết trong trại tù? Thằng nào vượt trại? Thằng nào vượt biên? Đi đâu?
Cuối cùng mới tới chuyện đời sống hiện tại.
Mày lấy vợ hồi nào? Lấy từ hồi ở VN hay qua đây mới lấy? Bao nhiêu đứa con rồi? Đứa lớn bao nhiêu? Đứa nhỏ mấy tuổi. Chúng tôi nói như chưa bao giờ được nói.
Phúc kể, đã lấy vợ từ hồi ở VN, hai vợ chồng cùng vượt biên qua đây. Vợ của Phúc chỉ cười cười khi nghe chồng giới thiệu là tôi ở cùng trại tù với anh từ năm 1977.
Một lúc sau, vợ Phúc bưng ra một đĩa mà Phúc nói rằng rất đặc biệt: Khoai lang Dương Ngọc!
- Ăn đi mày, ăn để nhớ lại cái thời bị tù đầy, bị bọn VC vo tròn bóp méo!
Tôi sáng mắt lên, vồ lấy củ khoai lang, ăn không kịp bóc. Tại sao lại phải bóc vỏ? Vỏ khoai cũng là khoai vậy! Tại sao lại vứt bỏ đi?
Bao nhiêu kỷ niệm xưa quay trở lại. Tôi cũng đã kể chuyện khoai lang cho vợ tôi nghe nên tất cả đều cùng nhau góp lại chuyện xưa. Tôi vừa ăn vừa ngậm ngùi:
- Không biết cô gái đã cho mình những củ khoai lang đó, bây giờ ra sao? Có ai biết cô đó là ai không? Cô ta còn ở đó hay đã trôi nổi đi phương trời biền biệt nào rồi?
Phúc trầm ngâm một lúc rồi trả lời tôi:
- Cô gái cứu sống mình bằng những củ khoai lang... đang ở trước mặt mày đó! Tao cưới cổ rồi!
Thật là không ngờ! Vợ chồng tôi ngạc nhiên tới há hốc miệng, rớt cả củ khoai lang ra ngoài:
- Mày... mày nói cái gì? Cô này đây... vợ mày đây... là... là cô gái cho tụi mình khoai lang ở Trảng Bom? Mày... nói chơi hay... nói dỡn vậy? Thiệt không? Làm sao mà mày kiếm ra cổ ? Mà... phải thiệt là cổ không? Làm sao mày biết là cổ mà dám nói là cổ ? Dám lấy cổ?
Vợ Phúc (Dung) mỉm cười giải thích cho chúng tôi:
- Em đâu có gueng, đâu có biết ảnh là ai đâu! Tự dưng ảnh tới kiếm em rồi... hỏi cứ (cưới) em đó chớ!
Phúc giải thích rõ ràng hơn:
- Khi còn ở trong trại tù, mình đã nói chuyện với nhau thật nhiều về cô gái đó, tao thầm cám ơn cô đã còn nghĩ đến những người lính VNCH đang mắc nạn. Tao đã nghĩ trong đầu rằng, nếu có dịp trở về, thế nào cũng đi tìm cô gái đó mà cảm ơn. Nếu cô ta còn độc thân, tao sẽ cưới cô ta làm vợ. Mặc dù chỉ với một hành động nhỏ nhoi tặng những củ khoai lang cho chúng ta, nhưng cô đã chứng minh được rằng, cô là người chống lại bọn VC, cô là người đã còn nhớ đến người lính VNCH xưa. 'Miếng khi đói bằng gói khi no' mà! Mình đang sa cơ mà còn có người dám nghĩ tới mình, thì làm sao mà không cảm động cho được? Đến khi được thả về, tao trở ra Phan Thiết ở với cha mẹ anh em một tuần, thì nói với ba má là tao kiếm đường làm ăn. Tao quay trở lại Biên Hòa, đi vào khu Trảng Bom, nói với Tổ Trưởng vùng đó là tao ở Biên Hòa, muốn về làm rẫy, mua đất trồng khoai lang. Ông này dẫn tao đi giới thiệu với những gia đình đang trồng khoai lang, có dư đất muốn bán. Nhà nào tao cũng vào làm quen để hỏi mua đất, hỏi kỹ thuật trồng khoai, nhưng mục đích chính là kiếm cho ra cô gái đó. Tao cũng như mày, như những anh em trong trại, đâu có ai biết mặt mũi cô ra làm sao? Ngay cả dáng người cũng không nhìn được, nên khó kiếm hết sức. Nhưng tao còn nhớ được giọng nói của cô ta khi nói: 'Má à, khoai lang của mình hư hết rồi, không bán được đâu, dục đi nha Má!' T ao nhớ có nhiêu đó thôi. Rồi duyên số cũng giúp cho tao kiếm ra bả. Buổi chiều hôm đó, khi tao đã hết hy vọng kiểm cổ rồi, đang trên đường đi tới nhà Tổ Trưởng chào từ giã. Chợt tao đi ngang qua một căn nhà ở cuối xóm, thấy một cô gái đang gom khoai lang bỏ vô thúng. Tao ngừng lại hỏi bâng quơ:
- Cô lựa khoai lang đem bán hả?
Cô này không quay lại, vừa tiếp tục lựa khoai, vừa trả lời:
- Tui lựa khoai lang dư đặng mai đem thẩy cho mấy người lính 'học tập cải tạo'.
Tao thấy coi bộ trúng mối rồi, bèn hỏi tới:
- Khoai lang trồng cực khổ mới có. Bộ cô có bà con đang học tập trong đó hay sao mà lại cho họ khoai lang?
- Tui đâu có gueng ai ở trỏng đâu! Bị tui thấy họ tội nghiệp thì tui giúp đở chúc ít dzậy mà! Hồi xưa, mấy người này đi lính để giữ cho làng xóm được yên, khỏi bị bọn VC phá đám giết hại người ta. Nay những người này bị bắt ở tù, mình phải nhớ ơn họ, phải giúp họ chớ! Hổng giúp được nhiều thì có mấy củ khoai lang cũng giúp họ chút đỉnh dzậy mà!
Mới nghe bả nói là tao nhớ lại liền. Đúng y là giọng nói 'Má à, đám khoai lang này hư rồi . . .' mà tao nhớ không bao giờ quên. Tao lại còn kỹ càng hỏi cho ra lẽ tại sao bả lại giúp mấy đám tù cải tạo như mình? Nghe bả trả lời ngon lành như vậy là tao chịu quá đi, nhất định giá nào cũng phải làm quen, nếu được, sẽ cưới bả làm vợ. Lính mà! Dễ lắm! Giản dị lắm: 'Hễ ai thương lính là lính thương lại liền'.
Tao lại đang trong tình trạng độc thân... 'Tròn năm năm lính, chưa hề có bạn tâm tình'. Tới luôn! Tao đi tới đi lui nhiều lần làm quen với bả, với gia đình bả, nói là xin học làm rẫy. Khi biết rõ gia đình bả, và biết bả còn đang độc thân, chưa có đám nào, tao mới trở về Phan Thiết kể lại chuyện của bả cho ông bà già tao nghe và nói ý định muốn cưới cô gái quê, nhưng có lòng thương lính đó. Ba má tao đồng ý tao muốn lấy ai thì lấy, miễn là hai vợ chồng hạp với nhau là được rồi. Nhưng mà cô đó có lấy tao hay không thì lại là chuyện khác nữa. Tao trở lại nhà Dung phụ làm rẫy tiếp. Trong một bữa nghỉ trưa ở ngoài ruộng, chỉ có một mình tao với bả, tao mới nói rõ tao là ai? Đã cảm cái tấm lòng của bả và muốn được cưới bả làm vợ. Bả rất ngạc nhiên mà nói với tao, y như bả vừa mới nói với mày vậy: - Tui đâu có gueng biếc gì anh đâu? Tui cho mấy anh khoai lang là cho nguyên đám đó chớ đâu phải cho một mình anh! Bị tui nhớ hồi xưa mấy anh đã đi lính giữ làng xóm tụi tui, chứ tui đâu có biết anh ở trỏng đâu? Mà anh . . . cứ (cưới) tui làm chi?
Làm chi thì tao không biết làm chi, nhưng tao nói tao cảm tấm lòng của bả mà cưới bả, vậy thôi. Tao nói:
- Ít ra thì anh với em cũng còn giống nhau ở một điểm là 'THƯƠNG LÍNH'.
Nói ba điều bẩy chuyện một hồi, bả cũng không biết nói sao nữa, kêu tao muốn gì thì về nói chuyện với ba má cổ, chứ cổ... hổng biết. Vậy là chịu rồi! Tao mừng quá, cả hai đưa nhau về gập ông già bà già của bả, tao lại kể rõ lai lịch của tao ra và xin đưa cha mẹ tới xin cưới Dung. Hai ông bà ngạc nhiên hết sức, cuối cùng nói là:
- Nếu vậy đúng là duyên số rồi. Con Dung nhà tui nó đâu có gueng biếc gì ông đâu. Nó xin tui ít phai lang, nói là để cho mấy ông bị tù cải tạo, tội nghiệp mấy ổng quá. Ai dè có ông ở trỏng, ông thương nó, ông được dzìa rồi thì ráng lội bộ đi cùng khắp chốn kiếm cho ra nó đặng xin 'cứ' nó! Đó là do Ông Tơ Bà Nguyệt cột đó, chứ hổng có ai bầy ra được đâu!
Tụi tao định ngày, đưa cha mẹ tao tới làm đám hỏi, xong rồi mới mời ổng bả và Dung về nhà tao chơi. Tới Phan Thiết, thấy nhà cửa của ba má tao thì ổng bả và Dung hoảng hồn, vì nhà tao hồi đó cha mẹ cũng còn nhà cửa, cơ sở làm ăn khá lắm! Dung đã nghéo tao ra sân mà nói:
- Nhà anh giào như zậy, mà anh cứ tui là gái guê làm chi? Thôi, thả tui zìa Trảng Bom tui làm rẫy sướng hơn!
Tao phải nói khó với bả:
- Mấy thứ đó là của cha mẹ anh, chứ anh... 'Trên Răng Dưới . . . Dế ', đâu có cái gì nữa đâu! Có cái mạng cùi cũng nhờ em cho mấy củ khoai lang mới còn sống tới ngày nay. Mà em đừng có lo, mình còn đủ chân đủ tay, mình tự làm mà nuôi thân, chịu không?'
- Anh nói dzậy thì tui chịu!
Chịu hay không chịu thì cũng trễ rồi! Lính đã nói là Lính làm:
- Em có ý kiến nhiêu đó là đủ rồi, mọi thứ còn lại để anh lo, đừng có lộn xộn gì hết nữa!
Rồi tụi tao làm đám cưới. Cưới xong, tao lo đường vượt biên. Ông bà già vợ thẩy một mớ khoai lang lên tàu, vậy là tụi tao dông. May mắn cho tụi tao, trời yên bể lặng. Sau bốn ngày lênh đênh trên biển, tàu tụi tao cặp được tới Bidong. Tao chọn đi Úc cho nó lẹ và an toàn. Khoảng hai tháng sau tụi tao tới Sydney, gởi điện tín cấp tốc về cho ông bà già tao hay. Hai ổng bả mừng quá, lập tức mướn xe chạy tới Trảng Bom cho ba má Dung hay. Ba Má Dung cũng mừng quá, xá trời xá đất cám ơn lia chia. Ba của Dung cười lớn:
- Dzậy là thằng rể tui khỏi sợ bị Diệc cộng bắt cải tạo nữa rồi ha!
Má của Dung hỏi thêm:
- Ở bển có đất cho tụi nó trồng khoai lang hông dzậy, anh chị sui?
Tụi tao ở bên đây thì cũng giống như tụi bay vậy, ra sức làm mà lo cho gia đình, con cái, lo cho cha mẹ bên Việt Nam. Tụi tao có hai con rồi. Bây giờ bả hết dám hỏi:
- Anh ' cứ ' tui làm chi, nữa rồi.
Tụi tao lo làm nuôi con ná thở, đâu còn thì giờ mà hỏi nữa! Hỏi nữa tao để ........ đẻ nữa!
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top