Truyện ngắn-Lenghiabk05
Rêu Sọ
Ngày đăng: 04/07/2012 9:21:16 SA
Không phải xanh lục, chẳng phải thanh thiên, hòa trộn cũng chẳng phải, xanh của làng đảo rất riêng, Sa gọi xanh đảo và dạy các giáo sinh gọi như vậy trong những lần anh hướng dẫn về đây vẽ thực tập. Anh thường nhắc học trò mình phải lắng, thật lắng khi căng mắt hoặc lim dim quan sát để bắt được sắc khí của cây và đá, của trời và nước.
Hình tướng muôn vật trên đảo rất rõ nét dấu vết “bàn tay” của nhiều nguồn thiên lực. Từ rặng, khe, vực, vách, thung, lũng… đều là những dịch chuyển lớn, người vẽ phải vừa nhìn thấy chi tiết mà không sa vào chi tiết mới được gọi là thâm hạng lão luyện.
Sa chưa bao giờ tự coi là họa sĩ gì cả, anh là thầy dạy vẽ cho một trường trung học sư phạm tỉnh nhà, nhưng mỗi khi minh họa hình ảnh làng đảo của mình là anh trở thành kẻ “nhập đồng”, anh biết đó là tình yêu sâu nặng, là cảm xúc mãnh liệt mà anh đã dành cho làng đảo này.
Ngay cả khi nhắm mắt lại Sa vẫn thấy mồn một quê hương trước mắt. Chính phẩm chất sâu thẳm của nước biển dưới vực kia, phẩm chất thanh sạch của bầy én trên sườn núi dựng đứng kia đã giúp anh trưởng thành từng ngày, trưởng thành trong những suy tư đằm sâu.
Vẫn biết thế giới quá rộng lớn và đầy màu sắc, thế nhưng hình ảnh rộn ràng của bầy yến đảo mỗi tàn đông luôn là một phần ký ức lạ lùng nhất trong Sa. Dập dìu và rộn ràng. Ríu rít và rộn ràng. Cả hình ảnh, cả âm thanh đều mê hoặc con người, nó như một bức họa của sự sống thanh sạch miên viễn, lại vừa như một bản giao hưởng của sự sinh sôi nảy nở bất tận.
Sự hòa trộn giữa hai điều tưởng chừng tương phản ấy kỳ thực lại diễn đạt được cái ý nghĩa nhất thể tạo nên và thăng bằng cho thế giới này. Không biết bao nhiêu lần Sa đã ngước nhìn, lắng nghe nỗi bồi hồi xúc động bên trong mình. Cho tới giờ này, Sa nghĩ rằng mình thật may mắn khi đã có sự giao cảm thật sớm, thật ấn tượng với cái đẹp ngay tại quê nhà.
Tiếng ríu rít của bầy yến đảo ở cung bậc cao chói, chúng đang rót vào tai con người những âm thanh tinh tế nhất, da diết nhất có thể mà mẹ thiên nhiên muốn tạo ra, loại âm thanh có khả năng đánh thức những gì đang thiêm thiếp trong mỗi con người. Còn một nguyên nhân khác khiến Sa rung động mỗi khi ngắm nghe cái rộn ràng cảnh vật nơi này. Đó là bãi biển, là thủy triều lên xuống rõ rệt theo dòng nước sâu chia đảo với làng cát bên trong. Khi thủy triều rút là lúc đường bãi hiện ra, cát chưa kịp khô, bước chân đỡ lún, quang gánh đỡ nặng.
Mới sinh được mươi ngày, Sa đã nằm trong chiếc thúng, một đầu đôi quang gánh của má trong những ngày bươn bả áo cơm trên đường bãi mặn thân thuộc này.
Thời mở cửa, cây cầu bê tông đã nối kết đảo với đất liền, hàng quán tràn sát mép con đường bãi ngày xưa. Làng đảo biến hình thành làng du lịch náo nhiệt chào mời. Những người bà con của Sa ở đây, cũng những thế hệ nối tiếp của người dân quê ấy nhưng không còn chân chất mộc mạc. Con người không còn thân thuộc với nhau, tất cả các loại giá trị đều bị quy về một chữ “tiền”, người ta dùng mọi thủ đoạn, kể cả đào mồ cuốc mả, để chiếm đất, lừa tình, để có thật nhiều tiền… Dường như sự phát triển nơi đây không đồng bộ, thái độ tôn sùng vật chất đã dắt con người đi theo một nẻo khác, xa lạ...
Người đàn ông có bề ngoài cổ quái, khó phân biệt tuổi tác này bâng quơ kể, cái lối nghĩ bằng chuyện, nói bằng chuyện thường gặp đâu đó xa xưa lắm rồi. Bộ xương sườn của ông nhô ra tưởng như không còn chút da thịt nào khiến tôi rùng mình không dám nhìn thêm. Ánh mắt là nơi biểu lộ sự sống còn lại của con người này. Bỏ qua hết những dúm dó, kéo dùn của mớ cơ mặt teo đến mỏng mảnh, sẽ chạm được ánh mắt chơi vơi, chơi vơi giữa ấm áp, tin yêu và sự rỗng không, thất thần.
Tôi thầm cám ơn ý tưởng đưa các nhà văn đi tham quan khu đầm nước mênh mông vốn chứa nhiều bí mật này. Chiếc ghe ba lốc len qua dải đá dựng, đi vào vùng lô nhô đá núi. Tôi cảm giác đây là vùng nguyên sơ, lâu lắm chưa có bước chân người. Tôi chợt đưa mắt về phía vách núi và phát hiện có ngôi nhà lợp bằng lá rừng hay những thứ gần giống như vậy.
Đơn độc. Cheo leo. Trên nó là lổn nhổn đá. Đá đứng, đá ngồi, đá muốn bay lên, đá đang chìm lún, đá như bầy ngựa phi nước kiệu, đá như bầy voi trong cơn động rừng... Tôi có một quyết định trong đầu, bắt đầu mường tượng đến bước chân mình sẽ bầm dập, chênh chao như thế nào trong cơn loạn thạch phải đưa vào trang viết, trong một địa hình thạch loạn phải tiếp cận, phải vượt qua.
Phía dưới ngôi nhà là vực thẳm, là nước xanh nhói mắt mèo, là đá nhô lên từ nước còn hằn dấu cháy đen từ thuở hồng hoang. Chính cái bóng dáng mờ mờ của hai con người bên trong cửa khiến tôi có ý định tách đoàn, tôi thuyết phục được người phụ trách trại viết, một nhà thơ quen thân rất hiểu tôi nhưng anh không quên dặn đi dặn lại phải cẩn thận.
Từ nơi neo ghe, tôi xốc lại ba lô bước lên tảng đá đầu tiên với sự háo hức nóng hổi trong lồng ngực, tôi lần lượt leo qua bao sườn đá hiểm trở, mọc thêm cả mắt dưới hai bàn chân mới thực hiện được lời tự hứa với lòng sẽ tiếp cận bằng được ngôi nhà cô độc bí hiểm giữa heo hút gió, giữa chênh chao gió kia.
Mồ hôi ướt đẫm áo, tôi ngập ngừng bước đến nơi có mớ lá rừng, những mảnh ni lon chằng đụp trên những cây chống giao đầu nhau. Một khung cửa trống hoác và tấm bạt tươm xơ cuộn vắt sang trái. Nó giống túp lều dã chiến hơn là một ngôi nhà.
Hai cái sọ trắng hếu cạnh nhau làm tôi chợt bước giật lùi. Tôi không biết có phải thứ giấc mơ quái đản nào đó vụt hiện không. Tôi cố xua hết những cảm giác. Họ là hai con người, chân tay co rút nhưng khuôn mặt, ánh mắt và cả cái gật đầu chào thân thiện của họ nói rằng họ đang còn sống bên nhau, chỉ với nhau giữa chốn đèo heo hút gió này. Khi đã vào nhà, tôi để ý thấy da đầu của họ trắng bợt và rất mỏng nên hình hộp sọ mới lồ lộ như thế.
- Sao hai bác lại ở đây?
- Thịnh suy khó lường… - Từ cái sọ đàn ông, một giọng nói nhát gừng.
- …
- Hôi ổ. Một số chết. Số trốn đi. Cái hố ngăn cách đã mở ra, lấp lại… khó…
- Vậy trước đây, nơi này có làng mạc à bác?
- Làng đảo. Bình thường. Từ ngày người ta giật sập cầu, rồi sóng thần đã cuốn đi tất cả. Ngôi làng bị bỏ rơi. Giờ chỉ còn… đá và chúng tôi…
Hai cái sọ cúi nghiêng xuống, mắt họ vừa có đám mây đen che phủ. Cái sọ đàn ông lại tiếp: Người ta không phải với nhau, không phải với chính mình…
- Sao thế bác?
- Chẳng phải tà thuật phù phép, cũng chẳng phải bệnh lý thông thường, đích danh là gì thì thật không ai có thể chỉ mặt đặt tên. Rêu mọc trên đá, trên cây, không ai tưởng tượng nổi rêu lại mọc trên sọ người. Không ai tưởng tượng nổi... - Cái sọ đàn ông chợt nhòe nhoẹt nước mắt.
- Là rêu gì?
Cái sọ chồm sát mặt tôi, trên da đầu có những vết nám màu chàm. Tóc đã rụng nhẵn, ngay cả chân tóc cũng không còn dấu vết.
- Đó, chú thấy cái còn lại không? Một loài rêu độc, chúng đã mọc trên đầu bọn tôi. Tôi tưởng chú có nghe thấy rồi. Người ta nói nhiều, cả báo chí cũng đăng nhiều bài viết… Cà phê chuyện, rượu chuyện, chợ chuyện… Người ta nói về chính mình, nói về xung quanh, trên trời dưới đất, từ nghiêm túc đến tào lao, nói từ ghê tởm ánh mắt đến ói mửa cửa miệng. Tất cả mọi lời cuối cùng đổ hết vào loài rêu lạ, thứ dị vật trên đầu. Dị vật trên đầu, trong đầu, của đầu… Không ai, không một ai biết phải làm gì để ngừa, không có loại vắc-xin nào, bởi nhân đã gieo thì chạy trời cũng đừng mong thoát quả, không muốn cũng phải nhận. Hoảng loạn. Mê cuồng. Đau đớn lắm. Chúng tôi đã nhận lãnh, mùa nhận lãnh tồi tệ của trần gian này! Hai hơi thở cùng lúc hắt ra thườn thượt. Tôi cũng thở hắt ra.
Cái sọ đàn ông tên Sa. Cái sọ đàn bà tên Hoài. Họ mời tôi cốc nước ngọt quý giá và một ít đọt lá đo đỏ hiếm hoi sót lại trên đảo. Tôi nhận ra cái sọ đàn ông hay nói về cảnh vật và những bức họa, ông kể chuyện rất hay, đôi lúc kể như nhập đồng, kể như để trút cho bằng hết những chất chứa trong lòng, kể như là khao khát muốn nói hết với một sứ giả là tôi câu chuyện của chính họ, nỗi đau của chính họ, của làng đảo chỉ còn đống xương đá khô trong cơn thạch loạn này.
… Làng đảo có rất nhiều xáo trộn, ầm ào ô hợp khiến Sa không thể nào chịu nổi. Những gốc cổ thụ thật đẹp trên vách núi qua đêm chợt biến mất. Những rừng cây quý bị phù phép cưa tận gốc, bứng tận rễ. Những đoạn bờ biển bị rào không cho dân bén mảng. Những vách núi đầy tổ yến đã bị lấy bằng hết, yến mẹ yến con chẳng còn một mống.
Người ta cho phát tiếng gọi bầy của yến và dùng lưới tóm sạch. Thu nhặt vô tội vạ. Đập phá vô tội vạ. Xây cất lòe loẹt vô tội vạ. Nay người này kiện mất đất, mai người kia chém hàng xóm vì những bất đồng chia chác gì đó. Tất cả cứ nháo nhào cả lên.
Hình ảnh đẹp đẽ bình yên ngàn năm của làng đảo bỗng chốc được thay bằng bức tranh tàn phá vụn vỡ, tan hoang… Mỗi thứ bảy về làng, đầu Sa lại đau ran, hai bên thái dương buốt nhói từng cơn, anh muốn bứt tóc bứt tai mà nhảy cuồng lên, la hét, chửi bới. Những cục đá lạnh mà vợ anh chườm chỉ làm Sa dịu được đi đôi chút.
Không thể chịu nổi, anh bỏ hết các ngăn chứa ở tủ lạnh ra ngoài rồi khom người bước vào. Một cảm giác hân hoan lâng lâng dâng lên, anh bắt đầu nguyền rủa ngày tháng sống ngoài cái tủ lạnh, nóng bức, điên đầu và mệt nhọc. Những làn hơi lạnh thật dễ chịu quấn quýt lấy da thịt Sa. Nhưng sự dễ chịu ấy cũng chẳng được bao lâu.
Một thời gian sau, mỗi khi bước vào tủ lạnh, Sa bắt đầu thấy tay chân mình run lập cập, rồi giần giật từng cơn, cảm giác toàn bộ xương sườn của mình là những thanh gỗ nặng trịch ai đó đã khoan, đã bắt vít lên ngực, trơ và nặng. Tóc Sa đông cứng bó thành từng cụm, anh rờ tay lên cứ tưởng chạm phải bàn chông. Hơi thở Sa bắt đầu phì phò, anh phải thở bằng miệng, từng làn hơi trăng trắng phả ra.
Anh bắt đầu cảm thấy có một cái gì đó không ổn mỗi khi chui vào tủ lạnh nhưng hễ bước ra ngoài, những chuyện thị phi đập vào mắt khiến đầu óc Sa lại bốc hỏa và không thể nào cưỡng lại được ý muốn tiếp tục chui vào đó. Cho đến khi Sa cảm thấy xương sọ của mình đang co bóp, rân rân buốt, như gai đang mọc, đang nhô lên thì Sa đã không thể biết chuyện gì đang xảy ra với mình. Tê liệt. Cơ thể tê liệt. Ý thức tê liệt.
Giống như người bước lên lan can một tòa nhà rất cao rồi bước ra ngoài, trong tích tắc, không kịp chới với sợ hãi. Nút tắt nhanh chóng bị đánh sập chấm dứt cơn nóng lạnh thế thái nhân tình. Sa lịm đi và được cứu sống nhưng rồi vĩnh viễn, làn tóc bồng rất nghệ sĩ, rất điệu nghệ ngày nào phải nhường chỗ cho đám rêu dị dạng đen - đỏ - độc.
Rêu bắt đầu lây lan với tốc độ chóng mặt. Cả làng mắc phải nhưng không ai biết nó là thứ gì, nhiều người nghĩ nó đơn giản như một thứ nấm hay chấy rận trên tóc vào những năm đầu thế kỷ trước.
Cho đến một hôm…
Chiếc váy liền thân mỏng, hai đường cong lượn từ eo xuống đùi của Hoài hiện rõ mồn một, da thịt mịn hồng lồ lộ nhìn thấy được từ xa. Sa đưa mắt hình dung hình ảnh chiếc đàn violon tuyệt mỹ, hình dung đến một chữ S mềm mượt và hình đối xứng gợi cảm… Sa bị chia trí, không thể vẽ tiếp.
Anh xếp tập giáo án, vứt cây cọ lên bảng màu, bước về phía nàng. Hai bàn tay Sa áp nhẹ vào eo thon mềm mại, cơ thể nóng rực của anh áp cạ vào nàng từ sau lưng, mê đắm cảm nhận từng phần da thịt khắp cơ thể của nàng. Những sợi lông măng mịn tơ trên gáy nàng mơn man môi Sa, chúng khẽ rung động. Sa căng người hít chứa cho đầy tràn lồng ngực làn hương đàn bà ngọt ngào thơm tho.
Rạo rực, mê đắm, hai bàn tay Sa chồm tới trước, lần lên bầu vú ấm mềm. Toàn thân Sa căng cứng trong nỗi đê mê của thân xác và cơn xúc động mụ mị của tâm hồn. Nàng tắt vòi nước, rời tay khỏi đống chén bát đầy xà bông, với lau lên chiếc khăn treo trên vách, thật khẽ khàng, thật dịu dàng, ngả đầu vào vai Sa.
Nàng rạo rực chờ đợi. Cơ thể nàng mềm lả nuông chiều theo cơn sóng nhục cảm đang tràn dâng. Nàng mềm lả trong khao khát làm vợ, khao khát được úp nhập vào người đàn ông của mình, khao khát trở thành một xương một thịt. Mềm nóng và thơm ngát. Dịu dàng và êm ái. Cơ thể đang chờ đợi của nàng đã phảng phất mùi hoa đồng cỏ nội…
Chợt dòng điện lạ chạy dọc sống lưng, Sa rùng mình, nỗi đê mê nhanh chóng biến mất, nhường chỗ cho cơn nhợn lạnh rùng rùng xâm chiếm. Anh nhận ra những thay đổi đột ngột lan đi từ tim mình. Sa định báo cho nàng nhưng không kịp, cơn lấn chiếm đã thực hiện được cái việc cần làm. Nó đã chiếm, đã choáng tâm hồn Sa, choáng lý trí Sa bằng cơn khùng điên cuồng bạo.
Bất ngờ hai bàn tay đẩy mạnh. Bất ngờ hai mắt long lên.
- Con đĩ!
Môi Sa run giật trong cơn giận dữ không biết đến từ đâu. Mày chưa ngừng làm đĩ, không ngừng làm đĩ, mày bán thân khắp làng trên xóm dưới mà không biết ngượng sao? Nàng choáng váng nhìn sững vào mặt Sa. Chưa kịp hiểu gì thì nàng đã bị tới tấp hai cú tát tai thật mạnh, máu trên má nàng muốn bung ra khỏi làn da vốn rất mịn màng, vốn là nơi không biết bao lần Sa hôn lên đó với sự cuồng nhiệt ham muốn của người chồng mê vợ rất mực.
Nổ đom đóm. Tai nàng ù đặc. Nàng sợ hãi co rúm, nước mắt giàn giụa, nhòe tràn. Nàng bịt hai tai, ép người lui dọc theo bồn rửa. Nàng gục xuống co rúm, đau đớn tâm hồn, ê ẩm thể xác.
Sa nhào tới đá mạnh. Nàng ngã dụi ra nền nhà, mặt dập vào cạnh ghế, môi sưng vều. Nàng đau điếng vừa khóc vừa van xin. Khốn nạn! Sa lại nhào tới đưa chân lên… Chợt sựng lại, rùng mình, một cơn rũ mạnh đau rát như ai đó đang lột da anh, đang banh gan ruột anh ra mà cắt, banh xương anh ra mà cưa nhùn nhầy bằng thứ lá gai sắc nhọn.
Mồ hôi tuôn túa, Sa quỵ xuống, trở về con người vốn có của mình, một thầy giáo hiền lành, tính tình mô phạm, vóc dáng mô phạm, sự mô phạm toát ra ngay cả những hành vi nhỏ nhất. Mãi lúc sau Sa mới hiểu chuyện gì đã xảy ra, anh nhào tới ôm vợ xin lỗi, cố giải thích cho vợ hay cơn bệnh kì lạ vừa nhập vào mình nhưng nàng đã lết đi tránh xa bàn tay ve vuốt của Sa với ánh mắt kinh tởm tột độ.
Nàng nhìn Sa như nhìn một quái vật. Sa luýnh quýnh đi lấy chai dầu xanh đến định xoa những vết bầm, những chỗ sưng trên mặt nàng, trên cơ thể nàng nhưng chai dầu đã bị hất tung vào tường nhà. Ngôi nhà chìm trong im lặng nặng nề. Nàng lẳng lặng xếp quần áo vào va li rồi đi ra khỏi nhà, không một lần ngoảnh lại.
Sa đứng yên nhìn bóng vợ xa dần mà không biết phải làm gì. Chợt nó quay lại. Lấn chiếm. Thay đổi. Nhờn nhợn, rùng rùng như một thứ nhập hồn ma quái. Sa quay ngoắt vào nhà. Lại đá. Lại đập. Lại hất đổ. Tiếng rủng roẻng, ầm ầm càng lúc càng vang lên mạnh hơn. Đột ngột im bặt. Căn nhà đột ngột chết lặng.
Sa giật mình tỉnh dậy khi ánh sáng đã tràn ngập trong nhà. Anh nhón bước qua đống bàn ghế gẫy đổ, qua đống sách vở, giấy vẽ rách vụn, để nguyên quần áo, anh vào buồng tắm xả nước, bất động trong làn nước làm cho cơ thể anh dễ chịu hơn. Sa đứng thật lâu, mở hết cỡ vòi sen mà vẫn chưa có được cảm giác sạch sẽ. Sa cố nhớ lại những gì vừa xảy ra.
Anh không thể hiểu nổi căn bệnh quái ác này là gì. Anh vào phòng làm việc mở máy tính, thông tin mới cập nhật từ một trang web y học cho hay: Có loại rêu cực kỳ nguy hiểm đang lây lan, hoành hành ở một làng nhỏ. Bệnh lây lan qua không khí, qua môi trường sống, thậm chí qua sóng não nếu ở gần. Triệu chứng không lường được, có thể biến con bệnh thành những cỗ máy có sức tàn phá kinh dị, có thể khiến con người trở thành kẻ vô tâm, vô cảm, câm, mù, điếc…
Những cơn điên ngắn bất chợt đến làm cho người bệnh mất kiểm soát, mất trí nhớ ngắn hạn. Người ta đang tìm mọi cách có thể để khống chế… Dù đã nghe sơ sơ những cảnh báo về loại rêu này trước đây nhưng đọc những thông tin mới nhất đã làm Sa hốt hoảng cực độ. Từ chuyện xảy ra với vợ chồng mình, anh biết cái làng mà người ta đang nói đến chính là ngôi làng biển thân yêu của anh. Sa vội vàng thay đồ rồi lao đi tìm vợ trong trạng thái thất thần.
Đói. Cái đói cồn cào đang hành hạ anh. Sa bước vào một quán ăn. Anh sững sờ trước cảnh tượng chưa từng có. Mọi người đang nháo nhào ngốn ngấu tất cả thứ gì họ vớ được. Một sức mạnh cuồng loạn nào đó đang điều khiển họ như những con rối, như những người máy.
Một người đàn ông trung niên bước ra từ quầy chế biến thức ăn, hai tay ôm chầm một con cá to còn sống, nó đang giãy giụa, ông ta vội đưa lên miệng cắn phập nhai nuốt, vừa đi vừa cắn phập nhai nuốt. Một người đàn bà mập ú phục phịch đang ngốn một cách đầy khoái cảm cả đống hoa hồng trong chiếc bình lớn, miệng há thật to, mỗi khi bà nuốt cả bó hoa cổ họng lại phồng lên, bạnh ra như con trăn nuốt được con hươu trong mùa cháy rừng.
Một cô trẻ măng tóc nhuộm vàng đang đứng ăn cái túi đựng tiền trên chiếc áo khoác đàn ông. Một gã đầu hói bụng phệ đang quỳ chân đưa miệng gặm chiếc ghế mình vừa ngồi, ông ta nhai rau ráu một cách ngon lành cái chân ghế vuông như nhai một ổ bánh mì, thỉnh thoảng lại giật một miếng da giả bọc nệm cho vào miệng như nhai một miếng rau cải ăn kèm. Những mảnh gỗ vụn rơi ra được ông ta nhặt nhạnh một cách cẩn thận tọng tém vào miệng.
Bị điều khiển bởi một ma lực nào đó, nước bọt ứa ngập trong mồm, cơn thèm thuồng đói khát dâng lên tột độ đã khiến Sa biến thành một cỗ máy ăn như những người kia trong chốc lát. Sa đột ngột nhảy phắt vào giựt bộ xương cá trên tay người đàn ông trung niên. Đưa tay xoáy một quả đấm vào giữa mặt người đang cầm một khối thịt mỡ to lớn, khối thịt mỡ văng ra đã bị bà mập ú đứng sẵn ở đó đón bắt bằng chiếc mồm dị thường toang hoác của mình. Sa tức tối gầm thét đánh dạt những kẻ gầy hơn mình rồi lại phốc sang chỗ khác. Nhai, tọng bất cứ thứ gì mà vẫn đói khát cồn cào. Sa nốc hết các loại nước có được mà vẫn chưa thỏa. Bàn chân cứ phốc đi, phốc đi…
Chẳng còn gì, cả những chiếc tủ đựng thức ăn cũng bị ngốn sạch, Sa quyết định cạp vào cột nhà. Thật ngạc nhiên cột nhà lại ngọt đến như vậy. Sa dùng đầu ụi ra từng mảng vôi vữa nhắm như nhắm lớp bơ trét ngoài béo ngậy của chiếc bánh ga- tô. Nhiều người khác làm theo, từng nhóm xúm lại bu chật quanh các cột. Hết lớp “bơ”, người ta lại ăn cả gạch xây, sắt lõi bên trong.
Những cây cột rùng mình rồi gẫy đoạn. Cứ mỗi đoạn gẫy vừa nhào ngửa là các nhóm người, các nhóm máy ăn ấy lại nhào theo giành giựt, ẩu đả lẫn nhau. Những bộ răng như làm bằng kim cương trắng hếu ấy rà xuống sát đất nhặt nhạnh nhai, lưng họ cong vồng, đầu họ chúc xuống tóc tai lết quét trên nền nhà.
Bỗng có những tiếng rắc rắc đe dọa ngay trên đầu, tất cả sựng lại im nghe. Tiếng rắc rắc tiếp tục phát ra từ bốn góc nhà. Ầm! Ầ… ầâm! Một tiếng nổ sập vang rền, bụi tung mù mịt. Ngói vỡ rớt xuống tứ tung. Những cây đòn tay, rui, mè gẫy thành những khúc giáo nhọn lao xuống, găm phập xuống, ghim cả chân người xuống nền nhà, ghim cả phổi, tim người xuống nền nhà, căn nhà chứa đầy những âm thanh xạc xạc phầm phập như đang hứng một trận mưa tên của những chiến binh khổng lồ nào đó chợt sống dậy. Những người thoát chết co rúm thành từng cụm, tiếng “mô Phật”, “lạy Chúa” râm ran, râm ran.
Sa ngồi thụp xuống một góc sát tường, dòng điện lạ vừa thoát đi, anh rùng mình dụi mắt. Những cụm người sống sót cũng cùng lúc lồm cồm bò dậy, phủi bụi, lau miệng lau mồm. Miệng người nào cũng tèm lem, tươm máu. Sa nghĩ ngay đến thứ bệnh dịch mà vì nó vợ anh đã bỏ nhà ra đi. Anh xấu hổ quay mặt vào tường móc họng ói ọc cho bằng hết những gì trong cơn cuồng loạn anh đã tọng vào bụng mình.
Một thứ nước vàng chua khoắm, tởm lợm chảy ra nhễu nhão, tất cả đã được tiêu hóa rất nhanh, nhanh một cách không giải thích được. Tiếng ọc ói rộ lên từng đợt ở các góc nhà, từ hàng trăm cái miệng háu ăn lúc nãy giờ bắt đầu chảy ra, nhễu ra hòa thành một dòng vàng nâu, sền sệt, từ đó đang tỏa ra một thứ âm khí rất lạ, lạnh toát chung quanh.
Hốc hác, mệt mỏi, Sa cố gượng hết sức tàn để ói ra những thứ cuối cùng có trong bao tử. Lúc đã biết không còn gì để ói, mật vàng mật xanh cũng đã thốc tháo, Sa đưa mắt nhìn quanh. Tất cả đang nháo nhào, loay hoay tìm lối thoát ra khỏi ngôi nhà, thoát khỏi những ánh mắt xấu hổ lịt lịt xuống đất. Bên ngoài, nhiều xe y tế đậu cạnh những tấm pa-nô trốc gẫy, nhiều nhóm người cao lớn có, nhỏ thó có, họ ăn mặc kỳ lạ, mặt mũi chụp mặt nạ ống thở dị hợm như những người nhái đang lặn trong lòng biển. Những “người nhái” này ùa đến chặn đoàn người vừa chui ra từ quán ăn. Tiếng thông báo vang vang trên loa: Ai ở yên chỗ nấy! Khu này đang bị bệnh dịch nguy hiểm. Chúng tôi sẽ mang cơm đến cho các bạn…
Đoàn người lại ngoan ngoãn chui ngược lại lỗ ngói thủng. Sa nhào ra hất ngã một “người nhái”, chạy đi, anh đang nóng ruột tìm vợ mình, nhưng hai cánh tay cứng như thép đã còng cùm được anh. Sa bị áp tải thụt lùi vào trong. Họ đậy ván, đóng đinh niêm tất cả trong ngôi huyệt mộ có tên là “quán ăn” rồi quệt lên đó một chữ thập trắng to lớn như cách người ta trừ ma quỷ ngày xưa.
Một huyệt mộ nhỏ hơn đã được đào lên bên trong ngôi nhà để chôn những người tắt thở. Những người còn lại xúm xít bùi ngùi. Ai đó đọc mấy câu kinh ăn năn tội, người người đọc theo, đầu cúi xuống, mái tóc rũ xuống. Hai tiếng “A men!” của họ nghe như không còn hy vọng.
Sa giúp họ một tay lấp đất cho huyệt mộ của những con người xấu số. Còn vài xẻng đất nữa công việc mới tạm ổn thì cả đám đông lại rùng rùng uốn éo, co giật. Đồng tử giãn nở, mắt họ trở nên trơ lạnh đột ngột. Họ bỏ đi quanh quanh trong không gian vốn chật hẹp của ngôi nhà đã sụp xuống. Họ cứ đi thật nhanh qua nhau, bụi tung mù mịt, họ lách lượn thật nhanh không hề đụng nhau và trong mắt họ như không không hề có những người chung quanh.
Khi đêm đến, họ vẫn tiếp tục đi cho đến khi một người đột ngột ngã rật xuống, hai người ngã rật xuống, ba người ngã rật xuống… Cơn chấn động bất ngờ đã quật ngã những con người quá căng thẳng và kiệt sức, quật ngã lần lượt từng người trong số đông ấy, không từ một ai.
Sa nhón chân nhẹ nhàng dỡ ngói leo lên nóc len lén thoát ra ngoài, cơn thôi thúc đi tìm vợ mình đã khiến bước chân anh thật nhanh lẹ, vượt qua được cái đói khát rã rượi của cơ thể. Đường xá vắng tanh, xơ xác, im lìm. Sa đưa chân rảo bước, trong tâm trí anh giờ chỉ có Hoài. Anh lo lắng cho nàng, không biết nàng có bị nhiễm căn bệnh quái ác nguy hiểm này không. Sa chạy, chạy, chạy nhanh dần trong đêm với hình ảnh khuôn mặt người vợ đang nhập nhòa trước mặt.
Trong căn phòng của chính mình, Hoài đã thăng bằng trở lại. Nhưng nàng không làm sao ngăn được những dòng nước mắt lã chã, ướt đẫm cả đôi môi héo hắt. Nàng nhớ chồng, thương chồng quá đỗi. Nhiều lần nàng chạy đi tìm Sa nhưng những bác sĩ ở ngoài đường đã không cho, họ giải thích khu vực ấy đã bị phong tỏa hoàn toàn.
Dù rất nhiều bác sĩ giỏi đã có mặt kịp thời nhưng tất cả vô phương cứu chữa, trừ khi người nào có sức đề kháng thật đặc biệt, loại đề kháng được sinh ra trong cơn yêu thương nồng cháy, sẽ tự hết bệnh. Hoài bất lực, nàng chỉ còn biết hy vọng.
Có tiếng gõ cửa. Hoài vội bước ra. Họ đứng sững nhìn nhau giây lâu rồi ôm chầm lấy nhau. Sa nhìn kỹ lại khuôn mặt vợ mình, anh không tin là còn gặp lại được. Những gì xảy ra thật nhanh mà cũng thật ác nghiệt đã khiến anh nghĩ tới một hậu quả xấu nhất.
Anh đặt lên mắt nàng nụ hôn ngập tràn hạnh phúc, rồi nhanh chóng môi họ quấn quýt lấy nhau, cơ thể họ quấn quýt lấy nhau. “Em còn đau… không?” Sa thì thào bên tai vợ. Hoài khẽ lắc đầu rồi lả mềm người trong vòng tay của chồng mình. Nhưng sau nụ hôn ấy, tóc họ, cả Sa và Hoài, đã rụng trút xuống nền nhà nhường chỗ cho một loài rêu độc lún phún bò lan trên da đầu, rễ ăn vào tận não, những cơn đau buốt triền miên đã co rút thân xác của hai người.
Họ ôm siết nhau, co rút vào trong nhau, đau đớn co rút, tê dại co rút trong từng đêm, từng ngày… Có lẽ nhờ vậy mà cho đến khi chiếc cầu nối làng đảo với bờ bị giật sập để chống lây lan, chỉ duy nhất Sa và Hoài còn ở lại, còn sống.
Tôi đã rời ngôi nhà duy nhất trên đá ấy, lắng tai tìm kiếm những âm thanh cao vút của loài yến đảo nhưng không hề nghe, tôi đưa mắt tìm màu xanh đảo như Sa đã nói nhưng chỉ thấy một màu nâu chết. Tôi về lại trại viết. Tóc tai bơ phờ. Kể từ đó, tôi trở thành một kẻ biếng nói.
Đêm, cứ thiêm thiếp ngủ là tôi thấy hai hộp sọ trắng hếu hiện ra và từng đám rêu độc màu chàm đang bò ra rượt đuổi con người, phủ trùm mặt đất, phủ trùm cả ác mộng chính tôi. Rêu sọ! Rêu sọ! Rêu sọ! Tôi vừa chạy vừa ôm đầu vừa hét lên, hoảng loạn, sợ hãi đến tột cùng.
Chuyện vỉa hè
Ngày đăng: 20/05/2012 2:00:00 SA
Hiệu sửa xe Quang Hồng nằm ngoài rìa thành phố, nhỏ nhưng khá ngăn nắp và đông khách. Bên cạnh là quán cà phê cùng tên mới mở.
Quang, chủ hiệu sửa xe, cắm cúi bảo dưỡng chiếc Dream cũ. Vị khách ngồi trên chiếc ghế nhựa ngoài vỉa hè, nhâm nhi ly cà phê đen, chăm chú đọc báo mạng bằng ipad.
- Hố… hố, vợ cắt chim chồng vứt cho chó ăn. – Tiếng ông khách vống lên. Thanh điệu rất kích động.
- Lại có thêm vụ nữa à? Năm nay mấy vụ rồi! - Quang góp chuyện.
- Ờ… ờ. Nhưng mà vứt cho chó nhai mới tuyệt đỉnh công phu!
Quang bóp pép thổi sạch mạt phanh trong chiếc may ơ. Tiếng máy nén khí đột ngột vang lên ầm ĩ, cắt ngang câu chuyện đang dở dang.
Ông khách khoảng hơn 40 tuổi, khoác chiếc áo vest dạ màu xanh thẫm, sơ mi trắng bên trong mở cúc để lộ viền cổ áo lót bằng vải coton đã có màu thời gian. Gấu quần kaki mầu be đã sờn, co trên mắt cá chân, lộ đôi tất thể thao màu trắng đi cùng đôi giày da đen thấp cổ không dùng dây buộc. Mái tóc đen bóng vuốt ngược chờm đến gáy, để lộ vầng trán rộng. Sau cặp kính trắng ngay ngắn trên sống mũi cao, thấp thoáng đôi mắt hoạt thị của người trải đời.
- Của bác xong rồi - Quang nói - Cả phụ tùng thay thế lẫn tiền công hết năm trăm hai. Em lấy tròn năm trăm thôi.
Ông khách cất chiếc ipad vào cặp, đồng thời khoắng tay vào trong lấy ra chiếc phong bì, rút một tờ năm trăm đưa cho Quang.
*
* *
Quang ở trong con ngõ gần cửa hàng. Ngôi nhà hai tầng nhỏ, sơn màu đất non dịu mắt với ban công luôn có hoa nở bốn mùa. Căn nhà này là quà cưới của bố mẹ dành cho cậu.
Trước đây căn nhà như cái chuồng gà. Cửa sổ ốp bằng mấy tấm tôn mục, gió thổi đập phành phành như tiếng gõ vung. Tường nhà nát đến mức lấy chân đá một phát vữa rơi cả tảng, nếu đá thêm lần nữa có khi đổ tường. Mất mấy năm hai vợ chồng tích cóp và sửa chữa dần, căn nhà mới ra hình hài như bây giờ. Công lớn là của Hồng, vợ Quang, chứ cậu vốn dễ tính, ăn ở thế nào cũng được. Tiền đấy để mua ô tô chạy cho phê đời!
Đóng cửa hàng, Quang vội vàng về nhà. Hồng đang lúi húi gì đó trong bếp. Hồng có nét giống như mẹ Quang, sôi sục chuyện sửa nhà, ham kê dọn đồ đạc đến phát mệt! Quang đến sau lưng vợ ôm nhẹ một cái rồi đưa ra một gói nhỏ:
- Mỗi ngày chỉ hấp cách thủy vài con thôi, bà dặn thế.
- Gì vậy anh?
- Đông trùng hạ thảo.
- Anh nhờ bà mua à? Bao xiền vậy?
- Ba triệu!
- Phí thế! Tiền còn vào bao nhiêu việc khác?
- Phí gì mà phí? Mua thuốc bổ cho con mà cũng tiếc? – Quang gắt.
- Trẻ con ăn để phát dục sớm à? – Hồng lầm bầm cãi lại, cất gói đông trùng hạ thảo vào tủ rồi quay ra làm cơm. Thằng Tí đạp xe huỳnh huỵch trên tầng hai, bấm còi bí bo như bán kem dạo. Quang đang bí bức nên ngửa cổ hóng lên, quát: “Nghịch vừa thôi, cẩn thận không lại lao xuống cầu thang”.
Quang vào bếp mở tủ lạnh lấy chai nước, ngửa cổ tu ừng ực. Nước mát thấm vào mạch máu làm dịu đi cảm giác bực tức. Mùi thức ăn bốc lên thơm phức. Phải công nhận là Hồng đảm đang, lăn lưng ra kiếm tiền cùng chồng mà việc nhà vẫn chu tất, lúc nào cũng cơm dẻo canh ngọt.
Quang thi đại học năm đầu trượt rồi bỏ. Tự thấy mình học không vào nên cậu chuyển sang nghề sửa xe máy. Bố mẹ Quang muốn cậu thi tiếp vào trường nào, ngành gì cũng được, miễn là có tấm bằng đại học để ông bà lo cho cậu vào một chân trong cơ quan nhà nước. Quang bảo: “Lương nhà nước không đủ sống”. Mẹ vặc: “Thế mày đã nhìn thấy người nhà nước nào chết đói chưa?”. Bố Quang thở dài: “Đường quang không đi lại quàng bụi rậm. Tên là Quang mà đầu mày nghĩ tối lắm”. Quang nhất định không nghe lời. Bố mẹ rồi cũng phải chịu.
Tựa vai vào tường, tay vẫn cầm chai nước, Quang ngắm vợ từ đằng sau. Đàn bà ba mươi có nét quyến rũ chết người, không mơn mởn tươi mới như gái mười tám đôi mươi mà đằm thắm xuyên thấu tim gan đàn ông. Hồng làm bếp, cặp tóc gọn trên đỉnh đầu, vài sợi tóc tơ lơ thơ vương trên gáy, phấp phới bay mỗi khi có gió thổi qua. Một quyết định bất chợt lóe lên trong đầu, Quang bảo vợ: “Này, có thằng chết bóng đá phải bán con Kia Morning. Hay mình mua đi”. Hồng đang lật miếng thịt rán, không quay đầu lại, nói trong tiếng mỡ xèo xèo: “Rồi cả nhà mình uống nước lã cầm hơi hả anh?” Quang bảo: “Để anh tính!”. Hồng lại nhắc: “Đợi thêm thời gian nữa đi”.
Nói vậy chứ Quang cũng chưa biết tính ra sao. Vay tiền của bố mẹ lấy vốn làm ăn thì được, chứ bảo mua xe ô tô chắc ông bà cạch mặt. Hơn nữa, từ hồi bố về hưu, thu nhập chắc cũng kém đi nhiều. Hai ông bà đều trông vào lương hưu, ma chay hiếu hỉ, bạn ốm nằm viện rồi hàng chục các khoản phát sinh khác cũng phải tính toán chi ly mới hòm hòm trong tháng, lấy đâu ra tiền mà cho vay. Cũng may là các con đều tự nuôi được gia đình, chẳng ai ăn bám bố mẹ.
Nhưng nhất quyết phải tìm mọi cách để mua chiếc xe này. Mong muốn có một chiếc xe hơi có từ rất lâu nhưng cứ lần khân mãi vì chưa lúc nào đủ tiền. Đợi thì đợi biết đến bao giờ? Không nên kìm hãm sự sung sướng lại… Nhất định là thế rồi!
*
* *
Ông bà Quyền sống trong ngôi nhà bốn tầng, kiểu nhà ống. Tầng một làm phòng khách và bếp. Buồng ngủ và gian thờ trên tầng hai. Các tầng còn lại suốt ngày khóa im ỉm vì không có ai ở. Trước đây gian thờ để trên tầng bốn, mỗi lần lên thắp hương phải đứng thở mấy chặng cho lại sức, vì vậy ông bà dọn xuống tầng hai cho đỡ mệt. Ông từng giữ đến chức phó vụ trưởng. Vụ của ông có nhiều việc, quản lý nhiều dự án cho nên cũng có điều kiện thu nhập. Giàu có đến đâu chẳng ai biết, ba đứa con đi lấy vợ lấy chồng đều được ông bà mua cho nhà riêng. Chỉ là những căn nhà nhỏ trong ngõ hẹp, cũng đủ thấy sự cố gắng lớn của ông bà.
Ông chiêu ngụm trà, chép chép miệng: “Trà của ai biếu thế?” Bà đang lúi húi dọn dẹp trong bếp vọng ra: “Tôi mua chứ ai biếu”. Về hưu hơn năm nay nhưng ông vẫn giữ tác phong như hồi đi làm. Sau bữa sáng ông đóng bộ, chắp tay sau đít đi một vòng quanh mấy dãy nhà, ra hàng báo đầu phố mua một chồng dày về nhà ngồi vào bàn uống trà đọc tin tức. Trông ông như còn đương chức. Vẫn chiếc áo vest mầu sẫm kết hợp với quần kaki sáng mầu, dùng đôi tất trắng quen thuộc cùng đôi giày đen. Một chồng báo bên trái, một ấm trà ngon phía bên phải, ông đọc hết mục rao vặt của tờ cuối cùng thì đến bữa. Sau bữa trưa ông mới thay quần áo đi nghỉ, coi như giờ sức yếu nên đi làm về sớm.
Bà Quyền dọn xong bếp ra ngồi cạnh ông. Một chân để dưới đất, chân kia co lên ghế, miệng ngậm tăm, bảo: “Mấy quyển sổ đến hạn rút tiền”. Ông Quyền mải đọc báo, chỉ ừm một tiếng. Bà Quyền lại nói tiếp: “Tôi hỏi mấy ngân hàng lãi suất có thể đi đêm được. Hôm nay tôi sẽ chuyển”. Ông Quyền ngẩng lên, bảo: “Gọi thằng Quang đến chở bà đi. Cướp giật hoành hành kinh lắm”. Bà Quyền nhệch miệng: “Cái ông này... Cướp thế nào được của tôi”.
Đang chuyện thì chuông điện thoại. Bà Quyền hối hả bốc máy: “Chị chào em. Em khỏe không? Khỏe hả… thế là mừng rồi. Giờ sức khỏe là quí nhất đấy. À nói đến sức khỏe mới lại nhớ. Chị đang có một ít đông trùng hạ thảo mang từ Trung Quốc về. Hàng xịn, giá cả hợp lý lắm. Em phải mua một ít để mà bồi dưỡng cho em và chú ấy… Yên tâm đi, bạn anh Quyền đi công tác sang đấy cầm về mà. Ở nhà thì cũng có nhưng toàn hàng rởm. Rởm thì nó tinh vi lắm mình không biết được đâu. Rởm ít là loại trùng đã bị rút hết chất bổ. Rởm nhiều thì được làm bằng bột mỳ luôn… Ừ… như thật ấy. Mai qua đi… Qua nhé, chị giữ lại cho một ít chứ không chiều người ta đến lấy hết ngay.”
Đợi cho kết thúc cuôc điện thoại, ông Quyền hỏi: “Vẫn chưa bán hết à?” Bà Quyền ré lên cười như được mùa: “Hết thì lại có, cái giống đấy thiếu gì”. Bà hớp một ngụm nước to, súc oàm oạp rồi nuốt nghe đánh hực một tiếng, bảo: “Giờ tôi đi ngân hàng đây. Tí về tôi bàn chuyện này”.
*
* *
- Chất lượng như phò! Công tơ mét lại chết rồi đây này! – Ông khách mặc vest dạ xanh tạt xe vào ven đường phàn nàn.
- Bác để em kiểm tra xem thế nào. – Quang nhanh nhảu chạy ra dắt xe cho ông khách lên hè, miệng gọi với sang bên cạnh – Hồng ơi cho anh tách cà phê – Quay sang ông khách – Bác ngồi nhâm nhi cà phê nhé, em làm loáng là xong thôi.
Ông khách thò chân kéo chiếc ghế nhựa vào vị trí mong muốn, mở cặp rút ipad ra chọc chọc. Hồng le te bưng tách cà phê ra đặt bên cạnh, cười rất tươi xã giao: “Sao anh không ngồi trong kia cho tĩnh”. Ông khách trân trân nhìn Hồng rồi chỉ tay vào cái xe máy, bảo: “Mẹ… Thạch Sanh thì ít, Lý Thông lại nhiều. Chả tin được bố con thằng nào!”
Quang không biết tên vị khách này, cũng chẳng biết nhà ở đâu, nhưng nhìn tác phong và cách ăn mặc cậu có thể đoán được phần nào vị trí xã hội. Gần chục năm bám vỉa hè kiếm sống, tiếp xúc với đủ hạng người sang hèn giúp cho cậu có những đánh giá khá lý thú qua trang phục.
Chẳng hạn đám chụp ảnh dạo phải quấn khăn rằn Nam Bộ mới thành nhiếp ảnh gia. Giới văn chương ưa mặc áo cổ tàu khuy vải cho đúng chất thâm trầm chữ nghĩa. Quan chức cấp cao rủ nhau đồng loạt thắt ca ra vát lụa màu xanh da trời. Xưa cánh quan chức hay mặc áo kí giả bốn túi, nhưng mấy năm nay đổi sang sơ mi cổ Đức, dáng áo suông, dài trùm mông nhưng nhất thiết phải có xẻ tà.
Cái kiểu mặc áo vest ngày ngày đi làm là của người cần có cái uy với cấp dưới, nhưng chưa quan trọng đến mức phải mặc comple, thường là cán bộ cấp phòng, cấp vụ. Áo vest kế thừa phom dáng lịch lãm của comple, nhưng lại sử dụng chất liệu phù hợp với các hoạt động đời thường hơn. Cánh trung niên, nhất là đám công sở nhà nước ít sử dụng áo vest sáng mầu bởi dễ ra chất chơi. Họ ngại...
Vào cuối những năm tám mươi huyền thoại nhạc Pop Michael Jackson đã thổi đến Việt Nam một luồng gió mang tên giày đen tất trắng và dư âm của nó vẫn còn đọng lại đến tận bây giờ trong một cộng đồng nhỏ sinh vào những năm năm mươi, sáu mươi. Còn vị này, cái áo lót ố vàng lộ ra nơi cổ áo tố cáo rằng anh ta chỉ là dạng a dua chứ tuyệt nhiên không có chút gì hiểu biết về văn hóa mặc. Chẳng khác gì bố Quang. Nhắc, ông bảo: “Tao quen rồi”. Quang phát cáu: “Tốt quen lâu, xấu quen nhanh là bố đấy”. Ông trợn mắt lên: “A, thằng này láo. Lại định trứng khôn hơn vịt hả?”
- Dây công tơ mét không đứt bác ạ. Nhưng sâu công tơ mét bị hỏng. Lỗi tại em, lần trước em quên không dặn bác sâu mòn quá rồi. Bác cứ ngồi chơi, em thay loáng là xong. – Quang phân trần với vị khách.
- Chú mày lấy con xe này bao nhiêu thế? – Ông khách nhìn Hồng đang vẹo lưng vặn vô lăng chiếc xe không có hệ thống trợ lực. Chiếc Kia Morning từ từ lăn bánh hòa vào dòng xe nườm nượp trên phố.
- Hơn ba trăm. Máy móc còn ngon lắm!
- Chú kiếm cũng tốt đấy chứ!?- Ông khách vừa nói, vừa quay đầu lại ngó nghiêng đánh giá lại tiềm lực của hiệu sửa xe.
- Toàn tiền đi vay. Giật của lũ bạn được hơn trăm, vay ngân hàng thêm hai trăm nữa mới rước nó về được đấy. Hai vợ chồng em phải ăn mắm mút dòi trả lãi hàng tháng - Quang phân bua.
- Bọn tao cũng khoái xe lắm nhưng vẫn phải trung thành với con Dream ghẻ này – Ông khách cười khùng khục trong cổ họng – Mua nhà còn giấu được, chứ ô tô là dễ bị soi lắm.
- Ai soi mà bác phải sợ?
- Ghế ít, đít nhiều. Tỉ thằng nó nhòm vào.
Nói xong ông khách lại cúi xuống ipad, ngón tay trỏ miết miết chọc chọc rồi cười váng lên, đập tay vào đùi đến đét một tiếng:
- Há… há. Câu nói hay nhất trong tháng: Tuy không bắt được đối tượng nhưng mà trấn áp được đối tượng… Tôi nghĩ là rất hay, có thể viết thành sách được. Ôi mẹ ơi… Tao đi chết đây!
Quang cau mặt khó chịu nhưng cũng bắt chuyện:
- Bác chăm đọc báo mạng nhỉ! Bố em chỉ đọc báo giấy. Báo điện tử cụ bảo đọc chả quen - Quang đổi hướng câu chuyện.
- Cứ dùng rồi sẽ quen hết… quen hết. Đời cả tỉ thứ chướng tai gai mắt mà còn phải quen nữa là. Mà khi đã quen rồi, thì sẽ thấy nó không chướng tai gai mắt nữa, thậm chí còn hợp lý. Hê… hê - Ông khách nói nhưng mắt vẫn chăm chú nhìn vào màn hình.
Một chiếc xe con đi ngang qua, bỗng lùi lại. Người đàn ông bước xuống từ chiếc xe, tiến lại gần vị khách đang chọc ipad.
- Ngay và luôn ở đây đi! - Vị khách nói với người đàn ông mới đến.
- Dạ. Bên em đã chuẩn bị xong hồ sơ - Người đàn ông đưa cho vị khách kẹp tài liệu đựng trong túi nhựa đục màu.
- Tài liệu, tài liệu! - Vị khách không xem kẹp giấy tờ vừa nhận, chỉ mở nắp liếc vào bên trong, ngửa lòng bàn tay ra vẫy vẫy.
- À… à… đây. Em gửi anh - Người đàn ông rút từ trong túi một chiếc phong bì khá dày trao cho vị khách.
Ông khách thản nhiên mở phong bì, thò ba ngón tay vào trong đếm rất nhanh, rồi lắc đầu: “Tài liệu chưa đủ”. Người đàn ông gãi đầu, phân trần: “Em sẽ gửi bổ sung sau được không anh?” Vị khách lắc đầu cương quyết: “Không được. Tài liệu là phải đầy đủ!”.
Người đàn ông lúc cúc chạy ra xe lấy nốt tài liệu. Xong việc, chiếc xe cũng biến mất nhanh chóng như lúc xuất hiện.
- Chú mày thấy không? Chúng nó cũng quen hết, không quen không trôi việc. Anh cũng phải quen theo. Anh mà ngượng thì chỉ có đào đất ăn. Chú mày phải quen ngay đi, thế cũng muộn rồi đấy. Cái gì hợp lý sẽ tồn tại và ngược lại, cái tồn tại là hợp lý. Chẳng ai vào bếp mà đầu không ám khói. Tao nhìn thấy ánh mắt của chú mày… xanh và non lắm! Tao kể cái này để chú mày ngẫm. Hai ba chục năm trước, bố bảo cũng không dám đưa tiền thế này. Phải nhét vàng vào bánh nướng bánh dẻo. Người nhận biết hết nhưng vẫn trong sáng coi như không. Giờ có điên mới thế! Tiền tươi thóc thật! Phong bì! Lịch sự thì kẹp thêm tờ báo! Cứ thế mà chốt hạ. Mà này, nhận cũng phải đếm đấy, bọn chúng nó không vừa đâu, nghĩ mình ngượng không đếm là ăn bớt ngay. Hơ … hơ. Chú mày thấy chối lắm phải không? Đấy là chưa quen thôi. Quen lại thấy nó dễ thương ấy mà.
- Tài liệu của bác đúng là dễ thương thật! – Quang cười trừ – Xe của bác xong rồi. Rửa sạch sẽ rồi nhé. Cái sâu công tơ mét em không lấy tiền vì lỗi tại em. Bác cứ đi, bất cứ vấn đề gì hỏng hóc quay lại đây bọn em bảo hành trong sáu tháng.
- Kinh tế thị trường! Chú mày được! – Ông khách nheo mắt gật gù.
- Lao động như bọn em kiếm được tiền của thiên hạ đâu có dễ như móc tiền trong túi mình. Phải làm để các bác còn quay lại. Cà phê bác uống ngon không? Cà phê xịn đấy, không pha hạt muồng hay ngô đậu gì đâu. Thỉnh thoảng bác nhớ tạt qua đây làm cốc cà phê ủng hộ em nhé.
- Rồi… Rồi… Tao sẽ chuyển chỗ qua đây uống cà phê sáng – Vừa nói, anh ta vừa rút một tờ từ chiếc phong bì mới nhận đưa cho Quang, hất đầu về phía tách cà phê, ý như muốn thanh toán.
- Tiền to quá, thôi để lần sau em tính luôn thể.
Ông khách gật gật rồi kéo ga vụt đi.
*
* *
Quán cà phê mới mở nên vắng hoe. Mấy cô nhân viên chạy bàn ngồi bất động nhìn ra đường. Hồng đón thằng cu Tí về. Nó ào xuống xe, vừa chạy vừa kêu: “Bố… bố bế… bố bế”. Quang rạp người xuống, giơ hai tay đón con rồi quay một vòng. Vừa quay vừa thơm vào má cu Tí: “Bố yêu Tí… yêu Tí!” Hồng xách chiếc ba lô đựng đồ đi học của con, đứng nhìn hai bố con, nụ cười miên man hạnh phúc.
Chợt chiếc điện thoại trong túi quần Quang giật từng hồi thon thót. Cậu hạ cu Tí xuống, móc điện thoại ra nghe, mặt chuyển sắc tái xám, lắp bắp không thành tiếng: “Con vào ngay… vào ngay. Bệnh viện… không hả… về nhà… nhà… rồi à?”.
Quang nói gấp với Hồng:
- Ông bị ngã gãy chân!
Hồng vội mở khóa cửa ô tô, nói: “Để em đưa anh đi”. Quang chạy ra lại quay vào dắt chiếc xe máy, bảo: “Đường đông lắm, để anh đi xe máy cho tiện. Có gì em với con vào sau cũng được”. Chợt nhớ ra, Quang chựng lại, hỏi:
- Nhà mình còn tiền không?
Hồng lập cập móc tiền đưa cho Quang:
- Có bảy triệu trả lãi cái xe. Để em khất họ vài hôm nữa. Mà anh đi cẩn thận! Đừng có vội!
*
* *
Ông Quyền nửa nằm nửa ngồi trên giường ngủ, lưng tựa vào đống chăn gối. Chiếc áo vest dạ xanh không cài khuy banh vạt sang hai bên. Ống quần phải vén lên quá đầu gối, phía dưới bó bột trắng xóa đến mắt cá. Có lẽ đau, trán ông Quyền lấm tấm mồ hôi, mặc dù trời không nóng. Quang lấy tờ báo phẩy phẩy quạt, hỏi: “Bố có đau không?” Ông nhăn mày quay đi, khẽ gật. Bà Quyền đang lễ mễ bê cái bát lên, cướp lời: “Bố mày trượt chân cầu thang. Tưởng chết!” Quang lại hỏi: “Sao không gọi cho con ngay để con đưa đi viện?” Bà Quyền nói: “Vội quá, gấp quá nên lú có nhớ gì đâu. Tiện có taxi ở đây thì đưa ông đi luôn. Giờ xong việc mới nhớ báo cho các con”. Bà đặt cái bát xuống, là bát đông trùng hạ thảo chưng cách thủy, hai con, xâm xấp nước mầu nâu nhạt, bốc lên mùi ngai ngái, thơm ngậy rất khó tả.
Ông Quyền nhắm mắt như ngủ gật, đầu hơi ngoẹo sang bên. Bà Quyền nựng: “Ông ăn cái này đi cho có sức”. Ông Quyền mở mắt rồi trệu trạo nhai, nước đùng đục đùn ra thành giọt ở khóe mép. Bà Quyền lại nựng “Nhớ húp cả chỗ nước này nhé. Toàn chất bổ đấy!”
- Khổ quá, Tết nhất đến nơi rồi - Bà Quyền mếu máo.
- Tuổi già lâu liền xương lắm. Có loại thuốc gì uống cho mau liền không để con mua? – Quang sốt sắng.
- Để mẹ mua. Con không thông thạo lại dính thuốc giả thì phí tiền- Bà vẫn sụt sùi.
Sực nhớ, Quang vội móc tiền trong túi ra. Nắm tiền rơi tóe ra sàn nhà. Quang cúi nhặt:
- Con chỉ có tạm thế này, bà cầm hộ con thuốc thang cho ông.
- Mẹ xin... Bao nhiêu thế hả con?- Bà Quyền vừa nhặt giúp vừa hỏi làm Quang lúng túng.
Hàng xóm sang thăm. Bà Quyền đon đả mời ngồi rồi lại mếu máo: “Khổ quá… khổ quá các bác ạ”. Họ đặt vào tay bà Quyền những chiếc phong bì, nói như đúc khuôn: “Em chả biết mua gì, bác gái mua giúp bọn em”. Bà Quyền quay sang người này, quay sang người kia, luôn mồm: “Em xin bác… Quí hóa quá… Các bác thật là chu đáo”.
Thấy ngột ngạt, Quang về, không quên dặn dò bà Quyền cần thuốc gì, bồi dưỡng ra sao bà cứ mua, Quang lo hết.
Suốt đường về, đầu óc Quang mụ mị, giáp Tết ai cũng cần tiền, vay mượn không phải dễ.
Hồng với cu Tí vẫn chờ cơm. Hồng hỏi: “Ông sao rồi anh?” Quang không trả lời mà hỏi lại: “Còn vay được tiền ở đâu không nhỉ?” Hồng nửa cười nửa mếu “Giờ biết vay ai? Có ô tô nó khổ thế đấy!”
Quang im lặng, không rõ câu nói của vợ theo ý nào: Vì mua ô tô nên hết tiền hay đi ô tô buộc phải cư xử như đại gia cho tương xứng? Có lẽ là cả hai, tức là khó khăn sẽ nhân đôi. Tình hình này, không khéo phải bán xe. Đấy là điều Quang không muốn nhưng chẳng còn cách nào khác. Tiền bán xe sẽ trả khoản vay của ngân hàng trước tiên. Có trả thì mới lấy được giấy tờ ra chứ. Còn lại chưa trả lũ bạn vội, cứ cho là bán lỗ thì cũng còn mấy chục triệu để lo cái chân cho ông.
Nhìn Quang căn thẳng mỏi mệt, Hồng xót xa: “Em hấp cho anh đông trùng hạ thảo. Hơi khó ăn, anh cố gắng nhé”. Bát thuốc đục nhờ nhờ mầu nước gạo. Con trùng vữa trương ra như được ninh bằng nồi hầm. Quang bảo: “Thôi em ăn đi. Dạo này em cũng vất vả. Ăn đi để có sức chiến đấu”. Hồng nhất quyết: “Em nấu cho anh mà. Em ăn để phát phì ra à”. Dùng dằng một lúc Quang quyết định “Thôi chia đôi nhé”. Hồng đưa con trùng lên miệng nhằn nhằn rồi bình luận: “Chả ra gì nhỉ, như bột ấy. Thế mà đắt kinh!” Quang giục: “Ăn nhanh lên rồi đưa cu Tí vào thăm ông”.
*
* *
Không biết có phải do biệt dược đông trùng hạ thảo, hay do sức khỏe của ông Quyền tốt mà hôm sau đã không còn biểu hiện của người đau đớn. Ngoại trừ cái chân bó bột và phải ngồi một chỗ làm ông khó chịu. Bà Quyền thỉnh thoảng đứng ngoài cửa, bồn chồn ngóng ra đầu ngõ như đợi ai. Bà cũng biết, đám nhà thầu chắc chắn sẽ không đến vì ông Quyền đã về hưu, nhưng còn cơ quan đoàn thể nơi ông Quyền công tác, họ không thể thờ ơ, vô cảm như thế được chứ!?
Quang tranh thủ lúc vắng khách, phóng xe tạt vào thăm bố. Gần tới cổng, Quang suýt va phải người đàn ông đi ngược chiều. Ông khách áo vest xanh đi giầy đen tất trắng! Quang dừng xe, kéo kính chắn gió mũ bảo hiểm lên định chào nhưng ông ta đã phóng vù đi mất. Cửa nhà không khóa, cánh cửa khép hờ. Chắc bà Quyền chạy đâu sang nhà hàng xóm. Quang đẩy cửa bước vào. Hóa ra bà có nhà, đang rôm rả nói chuyện với ông Quyền trên gác. Bước chân của Quang cứ chậm dần, nhẹ dần, rồi dừng hẳn.
- Đến giờ mới có mỗi chú Hùng đến chơi. Chú ấy mang tài liệu cho ông đấy!
- Ừm. Cái thằng này ngày xưa tôi rất ghét vì cái mồm ăn nói bạt mạng, bô lô ba loa, chả kiêng khem gì. Tưởng nó thù tôi lắm hóa ra lại tử tế biết điều.
- Ông thấy không? Về hưu rồi thì chỉ có cách đánh vào tình cảm như thế này mới ra được. Nhưng cũng chẳng ăn thua gì so ngày xưa, nhà mình mà có đám, cứ là mỏi tay.
- Người ngoài thì không sao nhưng tôi thấy ngại với mấy đứa nhà mình quá.
- Đứa nào biết mà phải ngại? Tôi tính rồi, số tiền mấy đứa biếu ông, Tết này mừng tuổi lại bọn nhóc nhà chúng nó là xong. Lại còn được tiếng thơm thảo. Mà ông thấy không? Cái thằng Quang, làm ăn khấm khá mua được cả xe ô tô mà bố ốm mang về được có bảy triệu. Không bằng người dưng!
- Giờ này chắc chẳng ai đến thăm đâu. Bà tháo hộ tôi cái bột ra một lát cho đỡ ngứa. Mấy hôm rồi không được ra đường, tôi đi lại trong phòng cho giãn gân cốt vậy.
Quang lặng lẽ quay ra, phải vịn vào tường mới không ngã. Dọc đường về chỉ thấy loang loáng, loang loáng.
Thằng Tí đã đi học về đang chạy sang hiệu sửa xe tìm bố. Quang xồ tới ôm ghì thằng bé vào lòng, thơm tới tấp lên mái tóc óng như tơ. Quang không dám nhìn thẳng vào mặt Hồng, nói: “Không phải vay tiền nữa đâu em ạ”. Hồng bảo: “Vâng”.
Đêm ấy Quang âm thầm đổ gói đông trùng hạ thảo vào bồn xí, giật nước mấy lần. Ngồi ôm mặt, nước mắt chảy qua kẽ tay.
*
* *
Sau Tết một thời gian vị khách mặc vest xanh lại đến uống cà phê. Ông ta vẫn ngồi chỗ đấy, đọc báo bằng ipad và nhâm nhi ly cà phê Hồng pha. Ông ta ngồi rất lâu mà không nói gì.
Quang ngồi xuống bên cạnh, chủ động bắt chuyện:
- Hôm nay không có tin tức gì hả anh?
- Ha… chú mày đấy hả? Ăn Tết vui không? Hố… hố. Tin giật gân thì không thiếu. Đây này, phó trưởng ban phòng chống tham nhũng in chức danh lên thiệp cưới, hay vụ hoa hậu bị tố cướp chồng đều đang nóng bỏng rẫy tay. Nó nóng được bởi thiên hạ vẫn bán tín bán nghi nên còn phản ứng. Đến lúc cảm xúc chết lâm sàng như tao thì thông tin gì sẽ giật gân nhỉ?
- Loài người bị hủy diệt chăng?- Quang đùa.
- Á à, Đây… đây… Có tin hot đây này. Cháu bé học sinh lớp 8 trả lại một trăm hai mươi triệu tiền nhặt được. Hơ… Hơ… Chú mày có tin không? Có khi là bịa nhể… nhể?!
- Em tin chứ, anh Hùng ạ!
- Thật à? Ớ, sao chú mày biết tên tao?
Có tiếng đám thợ phụ ơi ới gọi. Quang bảo: “Anh cứ ngồi chơi nhé.”
Ngoài đường vẫn thấy bán hoa đào. Chắc tại rét lâu nên đào nở muộn
.
Mùa biển động
Ngày đăng: 29/04/2012 5:00:00 SA
Đang mùa động biển, Cửa Hạ chìm trong sương. Sương trùm sụp, ngụt đặc suốt đêm đến sáng. Biển chỉ le lói ánh xanh vào lúc chính ngọ. Mùa động biển năm nay, sương ken vách, sương dựng cột khắp Cửa Hạ. Ngôi nhà le lói một quầng sáng vàng ệch. Bàn tay thô tháp trầy trật từng đường đan trên mảng lưới bị san hô xé rách, nham nhở.
Thương một đời, nhớ một đời, đợi một đời
Rồi mưa, rồi gió, rồi rời, rồi xa…
Tiếng hát Ba Xị bị sương mù bịt chặt, dội ngược lại. Anh nuốt khan trong ngực. Bóng Ba Xị đổ vệt ngắn lên vùng sáng vàng quạch rồi mất hút trong biển sương. Những mắt lưới trương lên, cứa vào đôi tay đau rát.
Chị Miền nằm trong căn buồng chật. Ngọn đèn hạt đỗ đỏ quạch. Qua làn sương, chị nghe giọng hát nhừa nhựa của Ba Xị, nghe tiếng ghìm nén thở dài của chồng, nghe cả sự lặng im rợn ngợp của hai người đàn ông bên đống lưới rối. Nước mắt chị trào ra, chảy xuống gối. Chị đưa tay quấn mái tóc dài quanh cổ, siết chặt. Giá chị có thể chết được, giá cái đêm từ túp lều canh dưa của o Lài chị đi luôn xuống biển…
Chị đưa tay siết chặt mái tóc dài quanh cổ lần nữa… lần nữa, rồi buông, bất lực.
Anh đứng lặng giữa mù sương. Hết nhìn ra phía biển, lại nhìn vào căn buồng đỏ đèn hạt đỗ, lòng nghẹn ứ. Anh bước đi. Sương đặc trắng, vón cục trong lòng bàn tay. Tới Ghềnh Đá, vịn vào mỏm sát bờ, anh men ra tảng thấp nhất. Đụng phải đôi bàn tay Ba Xị, anh giật mình. Biển mù sương, không sóng. Còn ngụm rượu mô không chú Ba? Giọng anh dày sương. Đừng đi. Giọng Ba Xị nhỏ và ướt, không chú ý tới câu anh vừa hỏi.
Đừng đi… Ba Xị đang sợ anh phá tục làng, ra khơi giữa mùa động biển? Ba Xị đang sợ người già, con trẻ Cửa Hạ nguyền rủa anh? Ba Xị đang lo cho tính mệnh mỏng manh của anh giữa biển sương khổng lồ kia? Hay Ba Xị đã biết thêm chuyện gì?
Mờ sáng, anh đẩy con thuyền với một đống lưới rối ra khơi.
*
* *
Buổi trưa Cửa Hạ tan mù. Biển như vừa tắm gội, xanh biếc, cứ như những ngày qua Cửa Hạ chưa hề biết đến mù sương. Người dân Cửa Hạ ào ra bãi. Người già đứng bắt tay sau lưng, nhìn tít biển xa, rung chòm râu dài thở phào nhẹ nhõm. Đàn ông Cửa Hạ mặc độc quần đùi, đi vòng quanh thuyền, nhìn kỹ từng vệt sơn vẽ trên thân rồi vội vã leo lên thuyền. Tiếng máy giòn giã. Lũ trẻ chạy nhung nhăng trên bãi cát trắng mịn. Đàn bà Cửa Hạ xắn quần đến bẹn, tất tưởi đội muối ra bến cá chuẩn bị cho những ngày đi lộng.
Phía Ghềnh Đá, o Lài xắm xắn đi vào Cửa Hạ. Nắng bắt đầu hâm nóng cát. Cả một trảng rộng mênh mông nối từ làng Thượng sang làng chài Cửa Hạ sáng như dát bạc. Con đường vào nhà chị Miền miên man cát chảy. Rặng phi lao khẳng khiu quây quanh ngôi nhà ẩm rêu của chị. Chị nằm lặng trên giường. Đôi vai sũng xuống. Mắt chăm chắm vào bức tường ẩm ướt. Nghe tiếng người vào nhà, chị cũng chẳng buồn quay mặt ra.
O Lài lặng lẽ xuống bếp, nhấc từ tay nải ra mấy thang thuốc bắc treo lên cột. O với trên chạn, lôi xuống cái nồi đất cũ, bóc một thang đổ vào cùng chín bát nước đầy rồi bắc lên bếp. Mấy ngày mù sương, củi ướt, khó khăn lắm mới nhen được lửa. Khói làm nước mắt, nước mũi o trào ra giàn giụa. Mùi thuốc bắc thơm ngào ngạt.
O Lài mang bát thuốc lên nhà. O lay vai chị Miền. Hai người đàn bà nhìn nhau, im lịm. Chị Miền bật khóc tức tưởi. Bát thuốc bắc nguội ngắt. “Miền! Chị lạy em, chị xin em…”. Chị Miền cầm lấy đôi tay o nắm chặt. “Tui uống”. Chị nhắm mắt, dốc ngược bát thuốc vào miệng. Mấy giọt nước trong rịn ra nơi đuôi mắt chị.
Quá nửa đêm, biển nổi gió u u. Sóng đánh vào Ghềnh Đá dữ dội. O Lài kéo tấm chăn mỏng trùm lên vai chị Miền. O nằm lặng yên, hai tay ôm lấy ngực chong chong nhìn đôi thạch sùng trên tường nhà. Con thạch sùng cái màu vàng sáng chừng như có mang, bụng kềnh lên, nằm thưỡn thẹo, uốn éo đuôi trước mặt con thạch sùng đực màu nâu đất…
Sang ngày thứ năm, chị Miền đi lại được, đôi gò má chị bắt đầu ửng hồng, o Lài giấu gương mặt hốc hác sau mê nón, quảy tay nải không tất tả về làng Thượng. Băng qua truông cát mịn vào nhà mà chân o vấp mãi, hết ngã dúi phía trước lại ngã dụi phía sau. Có đoạn vấp sâu trong cát, o nằm nguyên một lúc, nếm cát mặn đắng trong miệng rồi lại đứng lên cắm đầu bước tiếp.
*
* *
O Lài về rồi, căn buồng chị Miền trống hơ hoác. Chị nhớ chồng, nhớ đêm đầu tiên ào vào vòng tay chồng sau mười năm đằng đẵng. Chị ào ập hôn lên từng đường nét vẹn nguyên trên gương mặt anh. Những giọt nước mắt hạnh phúc tưới đẫm lên tóc anh. Chị tháo tung cúc áo anh, cắn thoả thuê lên vầng ngực căng đầy của anh, cuống cuồng trườn lên người anh, quẫy mình và rơi vào khoảng không vô tận. Chới với. Anh nằm chơ vơ như khúc gỗ sau trận lũ cuốn mắc cạn trên bãi cát.
Chị ngó trân trân vào khoảng trống tối đen của chồng. Khoảng trống ấy rộng ra mãi, rộng ra mãi. Chị cảm giác có bàn tay quái ác nào vừa thò vào đánh cắp phần thân thể của chồng chị. Chị tưởng như chỉ mấy phút trước đây thôi nó đang là của chị, của riêng chị. Chị cắn chặt răng. Môi chị tứa máu. Có tiếng bật thét bay ra từ lồng ngực căng phồng của anh khiến chị rờn rợn. Chị nghe như không phải là tiếng thét của anh mà là tiếng thét của con thú hoang bị trúng tên ngay giữa đại ngàn của mình. Tiếng thét xé màn đêm, xé toang lồng ngực héo khô của chị. Đêm nặng như thỏi chì khổng lồ chìm dần xuống biển sâu.
Chị Miền trở mình. Bên ngoài, phi lao vặn mình. Mưa trút ràn rạt lên mái ngói. Cơn lạnh lướt trên cơ thể chị. Chị trở dậy, mở tung cửa, thắp một nén hương cầu bình an cho chồng. Gió đem mưa tạt thốc vào bàn thờ, chị Miền ngồi bó gối, lặng nhìn ngôi nhà trống hoác. Nén hương cháy ngùn ngụt. Chị nghẹn lòng nhớ lại lúc o Lài quỳ gối cầu xin chị trong túp lều canh dưa bên biển. O Lài xin chị cho chồng o một đứa con.
Lúc đầu, chị còn tỉnh táo dùng lý lẽ khuyên. Đến lúc o Lài cúi gục, tuyệt vọng ôm lấy đôi chân chị thì chị bàng hoàng thật sự. O Lài kể. Một bữa cùng đi họp cựu chiến binh trên huyện về với nhau, anh Sơn hỏi o có muốn chồng có đứa con không? O im lặng. Lúc xe ngoặt qua khúc quanh xuống dốc o mới quay lại nói. “Muốn!”. Anh Sơn bảo. “Vợ em cũng đang muốn có một đứa con”. O Lài vỡ oà ra. Suốt chặng đường đạp xe từ huyện về nhà, cả o và anh Sơn chẳng còn nói thêm với nhau lời nào… Chị Miền lặng lẽ khép cửa. Cơn mưa ào qua rồi tạnh ráo, gió trở về hiu hiu. Biển trở về với tiếng ì ầm, ì ầm đêm quen thuộc.
Thương một đời, nhớ một đời, đợi một đời
Rồi mưa, rồi gió, rồi rời, rồi xa
Tiếng hát Ba Xị vọng từ biển vào, cứa sâu lòng chị. Chị nhớ lại lúc Ba Xị mách, rằng ngoài H người ta thụ tinh nhân tạo, chị mừng quýnh. Chị giục anh bán thuyền, chị đôn đáo vay mượn tiền khắp các nhà ở Cửa Hạ. Đêm trước khi đi, chị đã gắt chồng khi thấy anh lưỡng lự, bàn lùi. Chị khóc. Sáng ra, hai vợ chồng khăn gói đi H.
Ra đến H phải sống tạm bợ trong căn nhà trọ sáu mét vuông bẩn thỉu nhưng chị vui. Chị sốt sắng lo dọn cái nhà tạm bé xíu ấy cứ như nó là nhà của mình, cứ như lần đầu tiên chị về nhà chồng, cứ như chị dọn nhà để sắp đón con chào đời. Có gì ấm áp, non tơ hàng ngày tưới lên người chị, đọng lại niềm vui sướng khôn xiết trong đôi mắt chị, trên gò má chị, nơi nụ cười của chị. Người chị đẫy ra, tươi xinh, xanh mởn.
Chị Miền buông tiếng thở dài nguội ngắt. Chị ngó lên hai bát hương trên bàn thờ. Một bát cúng gia tiên, một bát của đứa con chị. Mùi hương trầm bay thoảng. Có tiếng hú dài từ dãy núi Riền vọng lại. Đêm chìm sâu. Chị Miền ngồi bó gối, mặc ký ức như nước chảy xiết trong lòng. Ngày đó, mấy người bạn cũ cùng đơn vị của anh về chơi. Lúc chị đau sắp sinh, cả mấy người bạn anh đưa chị đến bệnh viện. Chờ suốt một đêm, đến gần sáng hôm sau, chị trở dạ. Cơn đau xé toạc người làm hai, chị cắn hàm răng bật máu. Chị đau đớn nhưng hạnh phúc. Chị đã chờ đợi hơn mười năm mới có khoảnh khắc này…
Người chị bỗng nhẹ hẫng, hụt hơi.
Đứa bé trôi tuột ra dưới chân váy.
Chị chỉ kịp nghe tiếng khàn đục, tắc nghẽn trong cổ họng chồng cùng với tiếng đổ gục người anh xuống sàn xi măng lạnh.
Dưới sàn nhà, một hình hài dài ngoẵng, trên khuôn mặt vuông nổi rõ ba cái lỗ tròn vạnh, hình tam giác…
Chị Miền rúm người, cố xua đi gương mặt hốc hác, thất thần của chồng. Nhiều đêm trăng, một mình anh lên sườn núi Riền, ngồi lặng bên mộ con đến sáng. Một thời gian dài chị không nghe được tiếng nói của chồng, không nghe được tiếng biển. Chị sợ ánh sáng ban ngày, sợ cả những đêm trăng. Lòng chị đau xiết nhưng chưa bao giờ chị nghĩ đến chuyện có con với một người đàn ông khác. Vậy mà… lần này, lòng chị rưng rưng. Chị ôm lấy mặt mình, bật khóc…
Ngoài kia, Cửa Hạ rạng đông. Gió sớm mát lành. Biển xanh trôi, cát ánh bạc dịu dàng.
*
* *
Quá trưa, nắng xiên chéo qua núi Riền, đổ xuống làng Thượng tất cả cái nóng nực, oi bức. Cát nóng rẫy dưới chân người. Từng vạt dưa hấu phơi mình héo rũ. Gió thổi cát nóng rát vào mâm cơm chiều nhà o Lài. Mâm cơm chiều ú hụ thức ăn. Cá thu, cá chim, thịt lợn, thịt bò, giá đỗ, canh cua… O lúi húi chuẩn bị cho chồng từ lúc quá ngọ.
Chồng o ngồi chống đũa, lặng nhìn sâu vào mắt o. O Lài tránh cái nhìn của chồng. O buông đũa, đứng dậy chuẩn bị mọi thứ. Kim khâu, chiếc khăn lau mềm, túi hoa quả tươi… Chồng o thở dài rồi ra mé hồi đứng một mình. Phía biển, những ngôi sao chiều bắt đầu lấp lánh. Những ngôi sao xanh tinh khôi. Mỗi ngôi sao như một thân phận người. Anh bất giác mỉm cười chua xót.
Trên trời xa kia, đâu là ngôi sao xanh của vợ anh, đâu là ngôi sao xanh của anh? Những ngôi sao rụng xuống mà vĩnh viễn không có một ngôi sao con nối lại trên vòm trời. Những ngôi sao rụng tắt xuống biển, chìm hút xuống đáy sâu khôn cùng của biển, biến mất vào mênh mông thăm thẳm đại dương. Nhiều đêm ngoài khơi xa, anh một mình lặng nhìn cái ánh chớp xanh kia lao xuống biển, vụt tắt, lòng nặng trĩu. Trong khoảnh khắc ấy, đôi mắt hấp háy, những giọt nước mắt trắng đục vón cục lại nơi đuôi mắt mẹ ông trước khi chết lại hiện về, cứa lòng anh xót đắng.
Trăng bắt đầu nhô trên biển xa. Ánh vàng yếu ớt tìm xuống sóng biển. Tiếng lạch cạch khóa cửa của o Lài làm dứt mạch nghĩ của anh. O Lài tay xách túi vải lầm lũi đi ra ngõ. Đôi bàn tay o lạnh ngắt kéo tay chồng. Trên truông cát mênh mông, bóng vợ chồng o lúc ngã dúi chồng lên nhau, lúc tách làm đôi theo từng bước chân trệu trạo lùi sâu trong cát nóng.
Qua Ghềnh Đá, đến trước cánh cổng nhà chị Miền, o Lài dúi túi đồ vào tay chồng rồi quầy quả quay bước. Ngọn đèn hạt đỗ từ căn buồng ấm áp của chị Miền đang thiêu đốt sau gáy o, rát buốt. O bước như chạy ra khỏi cổng, ngược trở lại truông cát, bước thấp, bước cao.
Đến Ghềnh Đá, o ngồi bệt xuống cát. Trăng đã lên cao. Ghềnh Đá rười rượi tắm sóng trăng. Biển sánh mịn như một tấm nhung trải dài dưới không gian trăng đến mênh mông vô tận. Thoáng chốc, trời đổi gió kéo mây đen nặng trĩu phía núi Riền. Biển tối thẫm. O mải miết nhìn. Vang động tiếng ì ầm, ì ầm, ì ầm. Hết nhìn ra phía biển tối thui o lại nhìn về ngôi nhà chị Miền.
Bóng đèn hạt đỗ vàng quạch mãi không tắt. Chẳng lẽ… chẳng lẽ… lại nháo nhào vào nhau đến mức không kịp tắt đèn. Chẳng lẽ… chồng o, người đàn ông đã chờ đợi o suốt mười năm… Chẳng lẽ… Lòng o thắt lại. Tiếng ì ầm của biển dội gắt vào ngực. O lật vạt áo, lấy tay sờ xuống cái bụng chưa một lần được mang bầu của mình. Nó phẳng phiu, lép kẹp, chằng chịt sẹo. Nước mắt o nhỏ xuống đôi bầu ngực căng tức.
Biển đêm vẫn ì ầm giễu cợt. Bóng chồng o vừa đi ra khỏi cổng. “Rứa là xong rồi…”. O nhổm người, định chạy nhanh về nhà trước chồng. Nhưng càng cố chạy, o càng ngã sấp, ngã dúi. Chồng o chạy đuổi phía sau cũng ngã sấp, ngã dúi… truông cát nối từ Cửa Hạ sang làng Thượng như rộng ra mãi, rộng mãi theo bước chân sùi sụt của vợ chồng o.
*
* *
Tấm lưới rối tung vẫn khô nguyên trong khoang thuyền.
Suốt mười đêm, đêm nào anh cũng uống rượu. Anh neo thuyền vào Ghềnh Thông và uống. Anh thấy rượu còn mặn đắng hơn cả nước biển ngoài khơi. Anh uống mãi không say. Uống mà không quên được. Uống mà cứ phải tỉnh, phải nhớ. Anh nhớ những đêm vợ thức suốt đêm đan lưới. Đầu đêm đan, nửa đêm về sáng lại gỡ tháo ra. Cuộn dây cước xoắn lên dưới gương mặt rối trí của vợ. Nhất là những đêm trước kì kinh nguyệt. Những đêm ấy, anh biết chị còn tránh cả nhìn chồng. Đi ra đi vào, bấp vào nhau, cũng đủ cho người vợ anh nóng rực. Nhiều đêm, vầng ngực chị phát sốt…
Anh tu ngược chai rượu, mắt nhìn xa xăm về phía Ghềnh Đá. Vượt qua Ghềnh Đá là dãy núi Riền. Núi Riền vạch một đường đen thẫm, đầy đe dọa giữa biển đêm mênh mông. Ngôi mộ con anh đang nằm lạnh lẽo trên sườn núi. Con anh, đứa con tội nghiệp của anh, giọt máu của tổ tông anh, sao phải chịu cái nghiệt phận ấy… Anh nghiến chặt răng.
Tiếng thủy tinh bật lên, vỡ tung chát chúa rồi chìm nghỉm, mất hút vào tiếng ì ầm của biển đêm vô tận. Khuôn mặt người bác sĩ ở H đang nhìn xoáy vào anh. Anh lạnh cóng, người run lên bần bật. Sóng đập vào triền đá, làm tung lên những cột nước trắng xóa. Nước bắn vào mặt. Mặn chát. Đắng đót. Anh nghiến chặt răng. Nước mắt òa ra.
Chiều đó, anh lang thang khắp H. Cô đơn. Phiêu bạt. Gục ngã. Bảy mươi phần trăm, ba mươi phần trăm, anh lẩm nhẩm như một gã khùng suốt đêm trong căn phòng trọ ẩm mốc. Ba mươi phần trăm, ba mươi phần trăm hy vọng. Tờ mờ sáng, anh đã đứng đợi trước cửa phòng khám. Người bác sĩ già lặng im.
Đó là một sự đánh cược nguy hiểm. Ông nói. Không, anh hét lên. Sống phải có hy vọng chứ? Ba mươi phần trăm đã quá nhiều để hy vọng. Mẹ kiếp! Ở chiến trường người ta chỉ có vài phần hy vọng. Vài phần trăm hy vọng đó giúp chúng tôi niềm tin mà chiến đấu, vài phần trăm hy vọng đó đã đưa chúng tôi trở về. Ông không hiểu sao! Tôi hiểu. Ông bác sĩ già điềm tĩnh. Nhưng đây là vấn đề khoa học. Khoa học, khoa học. Anh hét lên, hằn học. Tóm lại, anh dằn giọng, có con là quyền của tất cả mọi người. Trong đó có tôi.
Ông bác sĩ nhìn anh, cái nhìn câm lặng… Anh gục đầu vào đống lưới rối. Ký ức như ngàn mũi kim châm nát lòng anh. Những ngày từ H trở về Cửa Hạ, anh cố giấu mình, đôi khi còn lừa mị cả mình để sống. Vợ anh tràn trề hy vọng bao nhiêu, anh lại phấp phỏng, lo âu, sợ hãi bấy nhiêu. Cũng có lúc anh tràn trề hy vọng. Nhưng khoảnh khắc hy vọng ấy thường bị nhấn chìm bởi những cơn mơ đêm khủng khiếp. Anh luôn mơ thấy ba con thủy quái nhe hàm răng trắng như sứa, cướp lấy con anh, lôi tuột con anh xuống đáy biển sâu. Anh bị núi Riền chôn chân, chỉ còn đôi bàn tay chới với về phía con…
Những cơn mơ ấy làm người anh co giật, ướt đầm. Tỉnh dậy, anh lặng lẽ ra Ghềnh Đá, ngồi lặng câm đến sáng... Anh lấy tay vuốt ngược mặt, rồi nhìn ngược lên trời. Anh chỉ muốn tru lên một tiếng dài. Tru lên như một con sói hoang trúng đạn. Để trả hết những nỗi đau của vợ chồng anh xuống biển cả. Nhiều lần, anh đã thấy chị loã lồ vùng vẫy giữa biển đêm.
Những con sóng vuốt ve dọc thân thể chị. Dịu dàng rồi ào ập. Ngực chị căng tràn theo từng cơn sóng dội lên, dội lên mãi, căng nhức đến đỉnh điểm. Gương mặt chị sáng bừng dưới ánh trăng. Chị quẫy đôi chân trần săn chắc giữa những đợt sóng trắng xóa. Phía dưới cơ thể chị căng nhức, căng nhức rồi tràn ra. Sóng đẩy chị lên đến đỉnh trăng. Khoáng đạt, dịu dàng và ấm nóng. Chị đang làm tình với biển. Vợ anh làm tình với biển ngay trước mặt chồng. Chị cười, tiếng cười trong trẻo, ấm áp bật ra lan xa vào sóng, trộn vào khúc hát biển đêm. Rì rầm, rì rầm, rì rầm… Anh buốt nhức nhìn bầu ngực trần của chị cười lấp loá dưới những đốm sáng lân tinh…
Anh gục xuống sàn thuyền. Bỗng dưng, anh nhớ Ba Xị da diết, nhớ tiếng hát rầu rầu, nhớ dáng người còm nhom, xiêu vẹo trong bóng đêm của Ba Xị. Anh thèm được hát, anh thèm được nghêu ngao như Ba Xị, nhưng giọng anh vừa cất lên đã khản đặc. Âm thanh rủ nhau chìm dần, tắc nghẽn trong cổ họng. Thương một đời, nhớ một đời, đợi một đời. Rồi mưa, rồi gió, rồi rời, rồi xa…
*
* *
Bên ban thờ nghi ngút khói hương, o Lài vịn cột nhà ngó đăm đăm vào từng đôi mắt của người đã khuất. Đôi mắt mẹ chồng u ám, mờ mịt. O còn nhớ, đến lúc chết, đôi mắt bà vẫn nhìn o trân trân không chịu khép. Đôi mắt bố chồng xa thẳm, nghiêm nghị. Đôi mắt của năm người anh trai chồng na ná giống nhau. Những đôi mắt đen, thông minh, tươi tắn, hồn nhiên. Những đôi mắt ẩn dấu niềm khát khao được trở về Cửa Hạ.
Nhưng, những đôi mắt ấy giờ nằm đâu nơi đâu nơi chiến trường, cả o và chồng o đều không biết. Rời khỏi ban thờ, o Lài mặc lên người bộ quần áo thanh niên xung phong cũ, o mở chiếc hộp nhỏ lấy hết thảy huy chương đeo lên ngực rồi nách túi hoa quả tươi, kim chỉ, khăn tay mềm, kéo vạt áo chồng o vượt truông cát sang làng chài Cửa Hạ.
Trăng hạ huyền luồn qua đám mây xám nặng trên bầu trời, soi những bước chân trầy trật, cực nhọc của vợ chồng o vượt truông cát. Càng đến gần nhà chị Miền, bước chân o càng trĩu nặng. Ngoài kia, biển vẫn rì rầm, rì rầm. Bước chân lùi sâu trong cát, trong tiếng rì rầm bất tận của biển đêm. Cơn đau ở ngực o dậy lên. Có ngàn mũi kim châm đang xiết néo lên khắp cơ thể buốt nhói.
Trong khoảnh khắc, o thấy mình đang lội giữa bùn lầy đầm Dơi. Trên vai thùng đạn 12 ly 7 lạnh ngắt. Rễ sen cứng như thép chông vầy nát đôi chân. Máu chân o trộn bùn. Mùi tanh xộc lên. Sau màn pháo sáng cháy rực trên đầu, đạn xối xả bắn xuống đầm Dơi. Hảo trúng ngay loạt đạn đầu tiên. Thùng đạn trên vai Hảo đổ bật ra sau, ngay trước mặt o. Bùn dềnh cao. Máu Hảo phun vọt lên dưới làn pháo sáng. Máu Hảo chạm vào môi o. Mặn ấm. Nước mắt o trào ra, trộn hoà vào máu Hảo…
Chồng o đứng trân trân nhìn vợ. Sực tỉnh. Mặt o méo rút lại. O cảm thấy máu Hảo vẫn còn ấm nóng quanh vành môi mình. “Vào đi!” o nói khẽ. Trút nốt mọi thứ mang theo vào tay chồng, o quay ngược lại truông cát, bước những bước mộng du…
Đêm ấy, cũng trăng hạ huyền như đêm nay, o đã kéo lê xác Hảo giữa bùn. Thùng đạn đẩy lưng gập xuống đầm Dơi, có lúc mặt o và mặt Hảo chạm sát vào nhau, nước mắt chảy rát bỏng trên mặt Hảo. Qua đến bờ bên kia, o gục xuống giữa mái tóc dài quết bùn đen của Hảo. Những đốm pháo sáng cuối cùng lịm tắt.
O Lài nằm im trong đêm đầm Dơi. Đêm dài bất tận. Đêm mất mát tận cùng. Đêm cô đơn tận cùng. Đêm o cảm nhận rõ rệt móng vuốt sắc nhọn của con quái vật chiến tranh. Đêm trái tim o lịm tắt. Đêm o thấy mọi thứ chao đảo, mịt mờ như chính đêm nay, giữa Ghềnh Đá Cửa Hạ này.
*
* *
Ngọn đèn dầu trong căn buồng chị Miền cháy hiu hiu, ấm áp. Gió trườn qua cửa sổ, lay bóng chị trên vách. Chị Miền đang ngồi dựa lưng vào tường, ngắm đôi thạch sùng trên trần nhà. Con thạch sùng màu nâu đất và con thạch sùng nhỏ màu vàng sáng đang quấn quít. Hễ con thạch sùng màu vàng sáng chạy một bước, con thạch sùng màu nâu đất lại vội vàng chạy theo, đôi khi, chúng chạy song song, vừa chạy vừa ngắm nhìn nhau…
Nhìn cảnh đó, chị mỉm cười, lòng thoáng ấm lại… Hai đêm trước, người đàn ông đó đã ở đây, ngay trong căn buồng của chị, hai người lặng nhìn nhau suốt đêm, lúc lạnh lẽo, khi mờ nhạt, cho đến khi chị mệt gục xuống thiếp đi. Người đàn ông ấy đắp chăn lên người chị, đôi bàn tay thô rám của ông níu chặt mép chăn và chạm khẽ vào một bên vai nghiêng xuống của chị. Rụt rè, run rẩy, quyết liệt.
Khi người đàn ông ấy ra về, nơi vai chị vẫn hằn nguyên một vệt nóng, chị không dám trở mình. Giờ đây, trong mơ hồ, vệt nóng ấy lan thành một đám cháy nhỏ, từ bả vai, đám cháy ấy chạy dần xuống ngực trái, sang ngực phải, chạy xuống khoang bụng và mải miết theo những mạch máu nhỏ li ti chảy về mười đầu ngón chân.
Đêm nay… Chị không dám nghĩ tiếp… Những tháng ngày chồng chị ở chiến trường, Cửa Hạ toàn đàn bà con gái, lưới cuộn vùi nơi góc nhà từ năm này qua năm khác. Lưới chết cứng, chết khô. Cả làng Thượng lẫn Cửa Hạ chỉ có chồng o Lài đi biển. Ngày đó, chị đã chứng kiến bao nhiêu người đàn bà Làng Thượng, bao nhiêu người đàn bà Cửa Hạ đứng ngắm trộm vồng ngực vạm vỡ của chồng o Lài mỗi lần người đàn ông ấy từ khơi về... Nghĩ đến chồng, chị thấy xấu hổ, thoáng ghê sợ con người mình. Chị bưng mặt, muốn bật khóc mà không thể khóc.
Chị nghe như có tiếng bước chân đang lại gần căn buồng. Một luồng điện xuyên qua người, chị run lên. Bên ngoài, gió rì rào. Gió lọt qua ô cửa sổ, thổi tắt mảnh sáng cuối cùng. Căn buồng chìm trong bóng tối, trong sự im lặng kéo dài. Chị cảm giác người đàn ông ấy, lặng lẽ ngồi xuống giường. Ngực chị căng rẫy trong đôi bàn tay chắc khoẻ. Mạch nước ngầm tươi mát, ẩn sâu dưới từng tế bào cơ thể chị cùng lúc ào ập chảy…
Chị đang ở giữa biển đêm. Những con sóng đang tràn lên, dịu dàng trên cơ thể chị. Rồi phút chốc, những cơn sóng cuốn chị bay lên, bay lên cao mãi. Mái tóc chị đẫm nước. Nụ cười chị như ánh trăng, chảy miên man giữa sóng đêm vô tận…
Chồng o Lài đứng sững giữa hai cánh cửa, chớp sáng từ biển vào, soi rõ tấm thân người đàn bà căng rẫy đang ưỡn lên giữa đôi gối trắng. Anh đứng chôn chân, hai cánh tay thõng xuống. Một tiếng sét xé tan màn đêm. Chị Miền sực tỉnh. Chị xuôi đôi chân dài xuống chiếu. Chớp sáng đổ bóng người đàn ông đang đứng sững ở cửa một vệt dài lên người chị. Lặng lẽ nằm quay mặt vào tường, bờ vai trần chìa ra một khoảng trắng mịn khẽ rung lên, chị khóc.
Ngoài Ghềnh Đá, mưa chạy dần từ biển vào. Tiếng rì rầm gấp gáp. O Lài nhìn về phía ngôi nhà chị Miền. Miệng o khô khốc. Người o nóng rẫy, mê man. Mưa táp vào đôi môi khô ráp của o. O nhìn trong đêm, xuyên ra biển, xuyên ra màn mưa. Con thuyền của anh cũng đang đỏ mắt tiến vào bờ. Ngọn đèn bão treo trên khoang thuyền hắt xuống biển đêm thứ ánh sáng chênh chao. Đâu đó rất sâu, rất sâu, dưới đáy thẳm đại dương một ngôi sao xanh vụt bay lên bầu trời trinh khiết.
Làng cuồng mê Phan Trang Hy Hắn đưa bàn tay đơ như khúc gỗ, bọn thuộc hạ cúi xuống, cầm tay hắn hôn lấy hôn để. Một tên tuổi đã già, đang cúi khom, đưa sát lỗ tai vào miệng hắn nghe hắn thầm thì điều gì đó, mắt mở to, cái đầu gật gật tuân phục. Hắn có thân hình ngắn so với kích cỡ. Kể cả kích cỡ của chức vụ! Thông thường, kẻ chỉ huy, kẻ lãnh đạo, kẻ bề trên phải có chút gì đó về dáng vẻ phù hợp với tính cách và cương vị. Hắn thì không. Nhưng hắn vẫn cứ làm lãnh đạo như là một chuyện đương nhiên, một chuyện đã rồi, một chuyện không thể khác. Có thể một ngày nào đó quả đất quay ngược lại, múi giờ trên từng khu vực của từng quốc gia có thay đổi, nhưng với hắn, chuyện làm lãnh đạo như là chân lý, là lẽ phải, bởi thuộc hạ của hắn luôn ca tụng dòng giống hắn là anh minh, là kẻ vạch lối chỉ đường, là người lãnh đạo tài ba. Vì gia đình quyền thế và giàu có, vì cha hắn chỉ tin một mình hắn có thể nối dõi cái giống uy quyền ở cái làng cuồng mê này, nên hắn được cha cho thụ giáo một vị tổ sư quyền lực. Cha hắn thường căn dặn hắn: - Con phải biết dòng giống nhà mình là vĩ đại nhất làng. Con phải lo học, lo tu dưỡng đạo đức, phải học tập và làm theo những điều ông cố con dạy thì mới có thể làm chủ làng được. - Con biết rồi! Cha cứ nói mãi, con nghe mệt lắm. - Con không nghe lời cha thì cha để ngôi vị này cho anh em con đó. Nghe cha hắn nói thế, hắn chỉ cười thầm. Hắn không biết tâm tính của cha hắn mới là lạ. Cha hắn nói thế, chứ không phải là thế. Thường thì cha hắn nói một đường làm một nẻo mà có ai dám có ý kiến can ngăn, có ai dám chống lại đâu. May cho hắn, hắn là bản sao của cha hắn và cha hắn là bản sao của ông nội hắn. Hắn rút ra bài học là khi nắm quyền bính dù có nói đường làm nẻo, nói nẻo làm đường cũng thế. Chẳng có ai dám chống lại kẻ độc quyền đâu. Cha hắn đưa mắt nhìn hắn rồi ra lệnh: - Gì thì gì cũng phải học những điều của ông nội con để lại. Hắn nghe thế không còn dám cười thầm. Phải lo học thì ngôi vị mới về tay hắn. Đó là điều kiện ắt có và đủ để hắn nối ngôi. Cha hắn lại căn dặn thêm: - Con cũng cần phải có thêm bằng cấp này bằng cấp nọ, có thế dân làng mới tin con là kẻ có học. Nhớ lấy! Hắn chỉ gật đầu. Hắn nhớ lại, dù chỉ mang máng, hồi hắn lên năm thì phải. Hắn ngồi bập bênh trên con ngựa gỗ, thế mà sau này, khi hắn chuẩn bị kế vị ngôi lãnh đạo thì những tay có chút chữ nghĩa dưới trướng cha hắn viết sách ca tụng hắn là thiên tài có tướng làm lãnh tụ, dù lứa tuổi mẫu giáo vẫn cưỡi được ngựa. Chưa hết, bọn họ còn ca tụng hắn có tấm lòng yêu thương loài vật khi hắn ra tay cứu đàn ruồi bị xịt thuốc. Những đứa trẻ cùng tuổi hắn, là con của những kẻ dưới quyền cha hắn, nên chúng đương nhiên là những kẻ dưới quyền hắn. Do thế, dù bọn trẻ có thể hiện sự thông minh, thể hiện những tính tốt bẩm sinh với hắn thì cha mẹ chúng cũng giả ngu, giả dại, cũng quỳ gối xin lỗi cha hắn và cũng xin lỗi hắn. Có thế gia đình họ mới tạm yên thân. Cái tính tham quyền dẫn đến độc quyền có từ đời ông nội hắn thấm vào tận máu thịt của hắn. Khi cha hắn bị đột tử, hắn được đám thuộc hạ trung thành với cha hắn củng cố địa vị cho hắn. Và hắn được tiếp tục làm chủ làng như ông nội hắn đã từng làm. Nói tới ông nội hắn cũng là nói đến lãnh tụ tham lam, tự đại, độc quyền. Ông nội hắn cũng đã từng được ca tụng là tiền hiền của cái xứ sở cuồng mê này. Tới cha hắn cũng được ngợi ca là thánh sống. Cả dòng giống nhà hắn là dòng giống có truyền thống kiên định lập trường với chủ thuyết vĩ đại của cái chủ nghĩa thần thánh bách chiến bách thắng. Và vì cái chủ thuyết thần thánh ấy nên từ ông nội hắn đến hắn phải tuân thủ cái luật định là không thèm giao du, không thèm làm ăn với dân làng khác. Đặc biệt là cấm trai gái trong làng lấy trai gái làng khác nhằm duy trì cơ chế sẵn có từ thời tu huýt tu đế, từ cái thời của tổ tiên nhà hắn là vượn người. Là chủ làng, hắn có quyền vui chơi tùy thích. Dù cái mặt hắn như kẻ bị đao, nhưng hắn vẫn có quyền nhơn nhơn cười như đười ươi, vẫn là lãnh đạo thần thánh của làng hắn. Tuyệt đại đa số dân làng bị mê hoặc bởi lời hứa từ ông nội hắn khi cướp được quyền từ những địa chủ, nên đến giờ dân làng vẫn coi hắn là kẻ lãnh tụ anh minh. Hắn thể hiện tài lãnh đạo như một cầu thủ chuyên nghiệp, chỉ có việc sút bóng vào khung thành trên chấm phạt đền, trong khi kẻ bắt bóng vì muốn lấy lòng hắn đã cố tìm cách đưa tay đẩy bóng vào khung thành lỡ khi hắn sút bóng hỏng. Và cả dân làng chỉ có việc vỗ tay ca ngợi. Những câu thơ sấm làm chấn động dân làng. Nào là hắn sinh ra là do thiên cơ, nào là hắn chính là chân mệnh đế vương. Dẫu bản thân dòng họ nhà hắn không tin vào quỷ thần, không tin vào tâm linh, không tin Trời Phật, nhưng cái quyền uy của chủ thuyết vô thần lại đẻ ra bao huyền thoại nhằm mê hoặc dân chúng, lại tung hê hắn trở thành kẻ kế vị lỗi lạc anh minh. Biết bao chuyện, biết bao sự việc lạ kì gắn cho hắn. Nào là hoa xoan đột ngột nở vào mùa hè, nào là cầu vồng luôn xuất hiện trên làng hắn ở dù trời không có gió, không có mưa, không có sự khúc xạ của ánh mặt trời… Cả dân làng bị mê hoặc bởi sự ngự trị của nỗi sợ hãi, bởi chính sách ngu dân, nên dân chúng chỉ nghĩ chính dòng họ nhà hắn ban cho họ quyền được sống ở đời. Có được chiếc áo mới, có được chút bánh mì, có được chút mắm, nghe được bài ca dao, dân ca, uống được nước ao làng, nghỉ Tết… cũng nhờ sự lãnh đạo của dòng giống nhà hắn. Từ ngày làng hắn đưa ra cái lệ duy trì bảo vệ thành trì nòi giống sẵn có, làng hắn bị cô lập. Tất cả các làng khác không thèm chơi, không thèm làm bạn với làng hắn. Chính điều đó càng củng cố thêm quyền lực của nhà hắn. Dân làng hắn đâu có biết những gì ở ngoài lũy tre làng, dân làng hắn chỉ còn sờ soạng, bấu vúi nhau trong những màn múa hát ngợi ca lãnh tụ vĩ đại anh minh. Đến ngày giỗ ông nội, hắn bắt dân làng hắn hát hò. Dân chúng cứ hát hò múa may trên khắp đường làng. Cờ hoa rợp khắp nơi. Tới con heo, con trâu cũng được cho mặc những chiếc áo đẹp nhất mừng ngày giỗ. Dân làng mừng vui ngày ông nội hắn chết. Không còn cảnh khóc lóc ai oán, bi thương. Chỉ có nụ cười ngô ngây của từng người mừng vui vì được ăn giỗ. Làng hắn bị cô lập, thực ra, các làng khác cô lập không phải vì dân làng hắn mà vì cách cai trị của hắn. Mối quan hệ giữa trai gái trong làng cũng chỉ bó hẹp trong phạm vi làng. Dân làng hắn bị nhồi sọ, bị tẩy não nên nhiều kẻ cứ cho người làng khác là đồ dẫy chết, là đồ bẩn thỉu, là những con chó sủa bậy, là những con hổ giấy, là con rồng chết tiệt… Từ đó, trai đến tuổi lấy vợ, gái đến tuổi lấy chồng chẳng biết lấy được ai ngoài những người trong làng. Dân làng hắn thuần chủng, không bị pha tạp. Nhưng khốn cho sự thuần chủng ấy sẽ dẫn dân làng đến chỗ đồng huyết khi nào chẳng hay. Và rồi thế hệ tương lai của dân làng hắn sẽ đột biến. Vẫn là dáng vẻ con người, nhưng tâm tính biến đổi. Tham lam, ích kỉ, thèm tiền, dối trá, lộng ngôn, … Đủ thứ dơ bẩn trên thế gian này được dân làng hắn biến thành thức ăn, thức uống hằng ngày. Trong tâm tưởng của dân làng, hắn vẫn là kẻ vĩ đại, anh minh. Hắn chính là thần, là thánh đem cuộc sống đến cho dân làng. Cái lệnh cấm trai gái lấy trai gái làng khác đưa ra có từ thời ông nội hắn xem ra trái với qui luật tiến bộ, văn minh nên có kẻ lên tiếng phản bác. Thường là các bậc nhân sĩ, kẻ có học, đôi khi cũng có kẻ bất mãn dòng họ nhà hắn. Mà dòng họ nhà hắn làm chủ làng thì phải thể hiện quyền bính có một không hai để trừng trị kẻ bất mãn. Theo hắn bất cứ ai phản bác hắn, phản bội qui định của ông nội hắn đối với làng là đều là có tội. Những kẻ phản bác đưa ra các luận cứ, luận chứng khoa học là nếu dân làng duy trì nòi giống cái kiểu như thế sẽ đi đến chỗ đồng huyết, loạn luân, sẽ đi đến chỗ suy yếu giống nòi. Hắn cười trấn an trong một cuộc diễn thuyết ở đình làng rằng: “Như chúng ta đều biết, tổ tiên loài người là vượn người. Mà vượn người chỉ cần sức mạnh của con đầu đàn là bảo vệ được cả đàn. Chúng ta cũng thế. Chúng ta chỉ phải mạnh về quân sự thì có thể bảo vệ được làng, và từ đó cướp lấy của cải vật chất của các làng khác về làm giàu cho làng mình. Chúng ta phải thống trị làng khác bằng sức mạnh. Kẻ nào trong làng không muốn mạnh thì kẻ ấy là phản bội, ta phải quét và tiêu diệt sạch bọn ấy. Tất cả phải làm trong sạch nội bộ làng ta. Dân làng ta là anh hùng. Làng ta là làng vĩ đại. Làng ta hùng mạnh nhất thế gian này”. Nghe vậy, dân làng vỗ tay đoành đoạch tự sướng. - Chủ làng nói hay thật! - Chủ làng sáng suốt, anh minh! - Chủ làng quả là tuổi trẻ tài cao, chí lớn!... Trong khi đó, trong một căn nhà ở ven làng, có tiếng rì rầm bàn luận: “Con nghĩ kĩ rồi. Nếu sống ở làng này trước sau gì cũng chịu cảnh đồng huyết, chịu cảnh loạn luân. Khi học môn sinh vật lớp 9 con được biết như vậy. Nhưng trốn khỏi làng đâu có dễ”. “Biết là thế. Nhưng không lẽ ta cứ ở lại làng để rồi con cháu ta phải chịu cảnh loạn luân về sau. Phải tìm cách thoát khỏi cái kiếp sống nửa người nửa thú này. Có thế mới xứng là con người”. “Thế thì ta đi đâu?”. “Đi đâu cũng được. Bố tin là có chỗ dung thân cho chúng ta”. Họ bàn cách trốn thoát khỏi làng, trốn thoát viễn cảnh đồng huyết, loạn luân. Họ trốn thoát cái hàng rào của làng, trốn thoát sự cai trị của chủ làng. Đêm ấy, sau khi thắp hương vái lạy tổ tiên, ông bà, họ châm lửa đốt nhà họ. Trong khi dân làng chữa cháy, họ trốn khỏi làng. Thế nhưng, không may cho họ. Bọn quân canh giữ làng đã bắt họ lại. Họ bị đánh đập. Sau đó, họ bị thiêu sống. Họ chết vì không muốn đồng huyết, không muốn loạn luân. Họ chết khi chưa tìm được đất sống. Chỉ có đất chết dành cho họ. Không biết cớ sao cái chết của họ lan truyền trên mạng internet. Các làng khác đều biết. Riêng dân làng cuồng mê vẫn mù tịt. Dân làng này tin hai cha con nhà nọ đã chết trong trận cháy, thân xác đã biến thành tro. Ngày hôm sau, trên loa phóng thanh của làng, con mõ đã đanh thép lên giọng dạy cho bọn hổ giấy, bọn đà điểu, diều hâu, sư tử, … là sẽ trừng trị đích đáng bọn chúng. Bọn chúng đã phao tin chống lại chính quyền làng cuồng mê này thì bọn chúng là kẻ thù không đội trời chung với làng. Dân làng bu quanh chiếc loa phóng thanh. Tiếng chiêng nổi lên. Tiếng hò hét giết kẻ địch vô hình: - Quyết giết hết kẻ thù không đội trời chung! - Giết! Giết! Vài ngày sau nữa, bọn trẻ con đang tìm trong đám tro xem có còn thứ gì làm được đồ chơi, xem có thứ gì có thể ăn được. Mấy bà già còm xương đang lượm những cây gỗ cháy còn sót. Họ giành giựt nhau. Còn bọn lính, bọn thanh niên đang bươi tìm bức ảnh chủ làng. Chúng chỉ thấy những tro, chỉ thấy màu đen dưới đất. Một vài đứa, đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, rồi nhìn trời. Bầu trời trước mắt chúng như hóa đen. Chiếc loa phóng thanh vẫn phát lời lên án kẻ thù vô hình. Làng cuồng mê vẫn còn đó những lời từ loa phóng thanh. Cảnh đồng huyết. Cảnh loạn luân. Cảnh trốn khỏi làng… Vẫn còn…/. Ngôi Nhà Ma Ở Nguyễn Trung Dũng Đường số 5 phố tôi ở, ngôi nhà đó có ma. Không ai tin nhưng sẽ tin nếu đến thuê ở. Nhìn mặt ngoài, với hai tầng lầu cao, với hai tháp kiến trúc theo kiểu cổ, với chiều dài của nó, ngôi nhà được coi là rộng và đẹp. Nhưng nhà có ma, nhiều người thấy giá thuê rẻ thì ham, ở chỉ ở được vài tháng thì ham bỗng thành ngán. Ông cụ người Mễ nhà ở đối diện có lần kể, nhiều năm trước đây, ngôi nhà này có người treo cổ. Chết đến bẩy ngày, xác đã rữa, thịt đã thối, người phát thư vô tình mới phát hiện. Chẳng mấy ai bước lên bực thềm nhà này, trừ ra ông phát thư đến phát thư mỗi bữa. Ông lái xe đến đỗ ở góc đường, đẩy cái xe đẩy với những xấp thư, đi từ đầu phố đến cuối phố, hai bên có nhà để phát. Nếu là khu chung cư, thùng thư là thùng thư công cộng để ở ngoài đường. Nếu là tư gia, thùng thư vuông vức chỉ là cái hộp, hộp gắn ở vách. Ông đã đến bỏ thư cho thùng thư của căn nhà bà già, thấy đã một tuần, thư đầy ắp vẫn không được lấy. Chẳng có nơi nào ông phát thư thấy thư đầy áp như thế, ngoại trừ thùng thư ở nhà bà cụ chủ ngôi nhà. Mới, ông nghĩ và cho rằng, chủ vắng nhà đi chơi xa hay rời chỗ ở. Và, một bữa, bước lên thềm, bỏ thư vô hộp, mũi ông bắt thấy có mùi hôi. Nói là hôi chưa đúng lắm, mùi đó là mùi thum thủm khăm khẳm của thịt thối rữa, của da vữa nát. Mùi xúc vật, chuột bọ chết đã sinh dòi. Báo cảnh sát, cảnh sát đến đạp cửa xông vào, cảnh sát phát hiện ra kẻ treo cổ. Kẻ treo cổ là một bà già thì vô lý. Một bà già ngồi xe lăn không thể tự mình đứng lên trên một cái ghế, tự mình đút đầu vào cái thòng lọng, và tự mình điều khiển đôi chân tật nguyền để đẩy ngã cái ghế dưới chân. Vụ án được đi đến kết luận: thủ phạm là một người nào đó đã đột nhập căn nhà, cướp vàng bạc, tiền của, rồi treo cổ bà cụ để đánh lạc hướng điều tra của cảnh sát theo sự tính toán của gã. Nhưng tính thế là tính sai, nên không bao lâu vụ án giết người xẩy ra, kẻ gây tội ác đã bị bắt và bị tù. Đấy là chuyện của quá khứ. Quá khứ là quá khứ không còn mấy ai bận tâm và nhớ. Còn hiện tại, ngôi nhà vẫn là ngôi nhà tọa lạc ở đó trên đường số 5. Có người đến thuê ở. Có người mới dọn đến thuê ở nếu chủ cũ rời đi. Dọn đến, rời đi, tính ra trong năm có đến ba bốn vụ. Họ đến thì xe chở khối đồ đạc bằng xe vận tải loại trung, và rồi, họ đi cũng vẫn cái xe vận tải loại trung 6 bánh đó di chuyển đồ đạc. Và đi, họ chẳng nói với bất cứ ai lý do đi. Duy có ông Mễ già sớm tối ngồi ở hiên nhà, uống cà phê, đọc báo, ngó ra đường, thì ông biết tại sao họ “move” đi nơi khác. Đã có một gia đình đến ở dẫn theo một con chó to như con bê. Chó lông đen tuyền, mặt mũi nom dữ như sư tử. Ma sợ chó mực tức chó lông đen như con chó của ông chủ nhà mới. Nhưng con ma xem ra không sợ chó mà ma còn phá khiến con chó cứ sủa suốt đêm. Mùa mưa, trời tối sớm. Cây lớn trồng trước nhà cành lá võng rủ, gió đùa quạt như chổi cua quét ván sàn nhà, rồi còn cả tiếng hụ nấc như chim cú kêu. Buổi tối mùa hạ, khi ánh sáng của vầng trăng chiếu xuống tàng lá rậm rạp, có người nói nhìn thấy hình người mặc áo trắng. Người mặc áo trắng đu từ cành cây này sang cành cây kia như một con bạch hầu. Điều đó thực hư ra sao không rõ, nhưng đường số 5, ngôi nhà đó là nhà có ma. Ở Winchester, cũng có ngôi nhà ma. Ngôi nhà đã lâu đời, phòng ốc cả trăm phòng, bỏ không bỏ hoang và được dùng vào việc thu tiền bán vé cho ai muốn coi. Coi thì coi nơi âm u cùng cốc vào ban ngày, còn ban đêm, cho không vé cũng ít người dám vào coi. Mà đêm xuống, bóng tối là lúc ma quỉ hiện, lúc cõi dương nhường cho cõi âm, những hồn ma bóng quế mới về trần thế. Ở ngôi nhà ma đường số 5 cũng vậy, ngày thì bình thường, đêm thì không bình thường. Hết rung giường, nhấc đệm, lắc sàn, cào vách, rớt đổ đồ đạc, thêm vào đó lại còn tiếng cót két, tiếng cọt kẹt, tiếng leng keng, tiếng loảng xoảng của đủ thứ tiếng lúc thấy lúc không. Ma quậy phá vì ma không chịu để cho người lạ đến ở. Mà quậy phá theo cách đó làm người ở khủng hoảng tinh thần, sợ đến nước phải dọn đi. Người cuối cùng đến ở phải dọn đi, ngôi nhà từ đó lại bỏ trống. Bỏ trống dễ có nửa năm, người ở phố đường số 5 không thấy ai đến thuê. Cứ tối tối, nhà các dẫy trong khu phố sáng ánh sáng đèn, duy ngôi nhà ma cửa sổ trên gác lầu, phòng bên dưới, đèn đóm không một ngọn. Chẳng mấy ai rảnh để bận tâm nhắc đến nơi ở đó sau một ngày đi làm về, lo sửa soạn cơm nước, nghỉ ngơi, giải trí, và đợi tới giờ đi ngủ. Trưa thứ bẩy bữa đó, ông già người Mễ theo thói quen vẫn ra ngồi ở hàng hiên nhà. Ngồi với chai bia, uống bia và đọc báo. Đúng lúc ông buông tờ báo để cầm ly bia lên uống, mắt ngó sang nhà dẫy phố bên kia, ông thấy chiếc U Haull - loại xe cho thuê để chở hàng trờ tới. Xe đến trước ngôi nhà ma thì đỗ lại. Đồ đạc được chuyển xuống vỉa hè, xuống đường. Đồ đạc gồm giường, nệm, tủ, bàn, khung tranh vẽ. Khung tranh có tranh đã vẽ, có khung chưa vẽ tranh. Đoán, ông đoán chủ mới là một tay họa sĩ. Họa sĩ mới lắm khung đến thế. Còn không, dọn nhà, mang khung tranh nhiều đến thế làm gì. Điều ông đoán không sai. Ông mới tới thuê căn nhà là một tay cầm cọ. Một người to lớn vạm vỡ, râu xồm, tóc xù, vẽ tranh là nghề của ông ta. Đến sẩm tối, đồ đạc từ thùng xe bốc xuống vệ đường, choán hết lối đi với đống khung gỗ đã được giải tỏa. Đồ đạc đã được đưa hết vào nhà khi bóng tối tối hẳn, nhà phố đã lên đèn. Đêm, ở trong căn nhà âm u nằm dưới cây du già cũng có đèn sáng. Đèn ở trên lầu, dưới nhà và ở cả mặt tiền. Đèn sáng chứng tỏ ngôi nhà đã có người ở. Đêm đầu, ông họa sĩ ngủ ngon. Ngủ đẫy giấc sau một ngày vất vả khuôn vác, khiêng mang đồ đạc. Ngủ ngon nên buổi sáng mặt trời ngó vào cửa sổ, chói mắt ông mới dậy. Đêm thứ hai, nửa khuya thức, ông nghe thấy đủ thứ tiếng động ở trên lầu, ở dưới nhà, ở dưới hầm. Tiếng động kéo dài suốt đêm cho mãi đến sáng mới ngưng. Đêm thứ ba, ông ngồi dưới ánh sáng của ngọn đèn, trước mặt là khung đặt trên cái giá gỗ có ba chân, vẽ. Ông có thói quen làm việc vào lúc khuya khoắt thay vì ban ngày. Giờ mọi người đều ngủ, nhưng đối với ông, giờ thiên hạ ngủ lại là giờ ông thức. Ông thức với cây cọ, sơn và khung vải bố. Từ những đường đi của cây cọ đó, ông phóng những đường phóng để vẽ một hàng cây với cành khô khẳng, với những con dơi quạ treo thân lủng lẳng, với một bầu trời mầu vàng úa ở phía sau. Những con dơi quạ chân bám dính cành, cánh như hai vạt áo chùng khép thân, mầu đen nhọ chảo. Đến nửa khuya, bức tranh ông vẽ đã hình thành theo đầu óc ông thể hiện. Ông buông cọ, châm thuốc hút, ngồi ngắm nghía bức tranh. Lúc ngó về góc tối của căn phòng, ông nhìn thấy một bà già ngồi trên cái xe lăn, mặt với hai má hóp, đầu với tóc trắng xóa, miệng móm vì răng không còn, cứ chăm chắm nhìn ông. Ông để rơi ly rượu rớt xuống sàn, cái ly bể và bà cụ ngồi trên xe lăn biến mất. Đêm hôm sau, bức tranh tựa đề “ Dơi Treo Thân Ngủ” của ông đã hoàn chỉnh. Nhưng cũng vào nửa khuya đêm đó, ông đang vẽ tiếp một bức mới thì tai ông nghe tiếng vù vù của những cái cánh vỗ. Cánh của vô số những con chim hay con dơi đập cùng một lúc mới tạo ra tiếng động ào ào như sóng của biển khơi lúc biển động. Ông là người có tính liều lĩnh, với những hiện tượng quái dị xẩy ra như thế, ông đã không sợ mà còn cười. Cười thách thức, mỉa mai và khinh khi. Nhiều đêm sau đó ông vẫn ngồi mải mê với sơn cọ. Vẫn vẽ và vẫn miệt mài với đường phết vung vãi sơn trên khung vải bố. Vẫn thản nhiên lì lợm với bóng tối đêm khuya khoắt và sự tĩnh mịch đến ghê rợn khi nhà phố đã ngủ yên. Đêm nay, ông hình thành bức họa vẽ bức “ Quạ”. Những con quạ đứng trên ngọn cây khô nghển cao cổ gào. Những con quạ mầu đen như mầu của những con dơi. Mầu đem u ám ông thường sử dụng trên mỗi bức tranh. Ngay cả những bức vẽ buổi sáng của một ngày hửng nắng, ông cũng cố ý đem mầu đen đó vào để bôi phết một khoảng trời nắng chưa liếm tới. Mà ở đó là một khu rừng với cây cối còn ngủ. ở đó có những ngôi nhà chưa thức, ở đó ruộng rẫy chưa tan hơi sương. Bức “Quạ” với quạ đen ông vẽ qua đêm, lúc vẽ ông nhác thấy ở góc căn phòng tối, chỗ bà cụ già ngồi trên chiếc xe lăn, thay vì thấy bà cụ già ngồi trên chiếc xe lăn như bữa trước, ông lại thấy bà cụ bị treo cổ. Lủng lẳng với cái thân thể suông đuột, chân và tay suông đuột, đầu nghẻo và mắt trợn, lưỡi thè, bà cụ nhìn ông vẽ. Với một người khác chắc không đủ bình tĩnh và can đảm đứng vẽ tiếp, nhưng ông là người dư thừa sự bình tĩnh và can đảm nên cọ vẫn đi, sơn vẫn chấm, việc vẫn làm. Rồi gần sáng, bức họa được coi là xong. Lúc gục xuống ngủ, ông nghe tiếng đập cánh của nhiều cái cánh chim, tiếng quạ kêu la quang quác, có lúc như gào, ở quanh khu nhà. Lúc tỉnh, ông nhìn lên bức tranh, cây cối còn đó, nhưng những con quạ đen bay đâu cả. Đêm từ nền vải vẽ dơi biến mất. Ngày từ nền vải vẽ quạ bay đi. Đó là điều khó hiểu mà ông họa sĩ không sao hiểu được. Bầu trời chiều bữa đó kéo mây đen. Rồi mưa. Mưa to bởi lượng nước mây ngậm quá nhiều, nước đổ xuống nhiều và nặng. Đập lên mái. Vỗ trên cây. Ném như đá sỏi mặt đường phố. Tạt vào kính cửa sổ. Mưa to. Giữa cơn mưa nghe sấm rền sét nổ. Sét đánh xuống ngôi nhà. Cây cổ thụ trước nhà sét chém. Cành gẫy. Lửa bốc cháy. Cháy bùng như ngọn đuốc. Cháy vì dây điện chạm. Lửa từ dây điện chạm cứ thế theo đường chuyền dẫn liếm vào mái hiên nhà. Mái hiên gỗ ván cháy. Nóc mái cháy. Sàn nhà cháy. Đồ đạc cháy. Mọi cái đều phát hỏa nên cháy dựng như một hỏa diệm sơn phụt chất nhám thạch. Chẳng thể ngăn chặn được với thần lửa điên lên khi ông giận dữ vào lúc đó. Dù xe cứu hỏa cấp thời kéo đến, dù những người lính cứu hỏa tận tình phận sự, dù nước từ trời đổ xuống đang khi mưa, dù vòi phun tới tấp phun từ những chiếc xe chữa lửa đỗ kín con đường, đến sáng, ngôi nhà rụi. Nó không thể còn gọi là ngôi nhà với những vật liệu đổ nát, bừa bãi, hỗn độn và chồng chất không còn ra hình thù gì. Vụ hỏa hoạn đã thiêu rụi ngôi nhà còn ông họa sĩ râu rậm và những bức họa của ông thì sao. Với những tro than của đồ đạc, ông biến ra tro than như những đồ đạc theo lời người lính cứu hỏa nói. Còn hai bức “ Dơi” và “ Quạ”. Đã cháy lớn đến cỡ đó, họa may những con Quạ và con Dơi biết bay thì còn sống, nhưng vải bố căng trên khung gỗ vẽ chắc chắn đều ra tro. Đất ở ngôi nhà cháy sau khi thu dọn đã để trống. Có một hàng rào sắt ngăn mục đích cấm người xâm nhập. Đất ở ngôi nhà cháy để lâu không xây cất thì cỏ dại mọc. Cỏ thi nhau mọc, mọc rậm rạp và ngọn cao ngỏng./. Dọn Chết Nguyễn Trung Dũng [Dựa theo Rẻo Đất Cuối Đời của Phùng Quán] Khách kéo ghế ngồi xuống, miệng nhẩm tính tiền túi mang theo để liệu chừng gọi món ăn. Mang theo trong người không nhiều nhặn, chi phí chưa thể biết phải chi phí những gì vào lần đi này, khách cẩn thận như thế cũng là đúng. Mà vào quán, không nhiều thì ít cũng phải gọi hai ba đĩa món ăn cho phải phép, chẳng lẽ vào lại chỉ vào suông. Vả lại, khách còn có bạn. Ngồi đối diện chuyện trò, có uống có ăn chuyện trò nó mới cởi mở đậm tình đậm nghĩa. Bởi thế, tính nhẩm số bạc rồi, khách vào quán cùng người dẫn đường, kêu một đĩa thịt luộc, một xị rượu dư rót cho hai ly. Bạn cũng chẳng là bạn, gặp để hỏi đường, hỏi người mình cần kiếm, nên tình cờ quen là quen vậy. Chứ khách chẳng rõ mô rõ tê gì về người bạn đó, dù chỉ là một tí lý lịch gốc gác ngọn nguồn.. Nhưng người bạn tự giới thiệu có làm thơ thì nghĩ là nhà thơ ở bản huyện. Mà đang lúc lạc đường, tìm gặp người cần gặp, nghe người bạn mới nói biết cái ông mình đang tìm, khách thấy được thế là đủ rồi. Đủ và chẳng đòi hỏi gì nhiều cho thêm vướng mắc. Gắp lát thịt thái mỏng lùa thẳng vô miệng, người bạn sơ giao nhai nhồm nhoàm vừa lúng búng nói: “Cái quán này chuyên bán thịt chó. Quán mở ra dễ cũng cả vài năm nay. Nấu khéo, giá rẻ, nổi tiếng ở cái thị xã hẻo lánh này. Chẳng cần quảng cáo, khách ở đẩu ở đâu cũng biết tìm đến ăn. Đấy, bác nhìn coi sáu bẩy ông ngồi ở góc đằng kia, toàn là cán bộ luống tuổi về hưu, rảnh rang đến nhậu rượu thịt. Họ không nói thì thôi, chứ đã nói thì nói ra toàn những chuyện trên trời dưới đất cả. Cái ông Đang nào đó bác cần gặp, lát nữa ta qua bàn hỏi họ chắc cũng có ông biết về cái ông đó. Kìa, sao không thấy bác đụng đũa. Ăn đi. Ăn miếng thịt chó ở cái quán này một lần, hợp khẩu vị rồi thì lần sau lại nhớ mà tới nữa đấy”. “Anh cứ dùng tự nhiên. Đừng quan tâm đến tôi. Nãy giờ bỏ miệng một hai miếng cũng đủ rồi, thịt luộc mền, thẳng thớ, ăn ngon lắm”. Sự thực, đi đường xa, bụng xuống cũng thấy đói, nhưng đảo mắt nhìn đĩa thịt loe ngoe gọi là, khách ngại ăn không đủ cho hai người, nên cứ nhởn nhơ nhường cho bạn. Hết nhẵn thịt, đĩa sạch trơn, thanh toán tiền cho bữa nhậu đại khái qua loa, xoàng xĩnh, hai người đứng dậy đi lại cái bàn có mấy ông cán bộ đang ngồi. Khách gật đầu chào lên tiếng: “Thưa mấy ông anh, trong các ông anh ngồi ở đây, có vị nào biết ông Đang xin phép cho tôi hỏi”. Một trong sáu ông, ông đầu đội mũ nồi đen nhướng cặp mắt kính lên nhìn người lạ. Tưởng là cái ông đầu đội mũ nồi đen đó nghe hỏi thì nói, nhưng lại là ông đầu bạc miệng móm ngẩng lên nhìn khách rồi thủng thẳng bảo: “Ông nói cái lão Đang dở hơi cám hấp đấy có phải không. Gặp cái lão đó làm gì. Đã tham gia cách mạng lại đi làm báo viết lách chống Đảng chống Nhà Nước, bị cho đi cải tạo 15 năm tù. Tù ở Hà Giang mãn hạn mới được tha ra. Ông muốn tìm gặp cái lão đó cũng chẳng khó. Từ đây cứ thẳng một lèo vào tới cuối xóm, hỏi ai cũng biết căn nhà của lão Đang mà chỉ cho”. Khách chỉ cần hỏi và biết như thế là đủ rồi. Sau câu cám ơn xã giao đúng phép, khách rời quán. Chớm Đông. Thời tiết se se lạnh. Khách nhận thấy bầu trời bủng mầu chì. Mầu chì xám sịt. Thế nhưng mưa thì không. Ắt hẳn xám sịt như thế là mây đang ngậm nước. Ngậm mãi tất có nước. Bấy giờ sẽ đổ mưa. Khách đi theo con đường ngõ hẹp. Cứ con đường ngõ hẹp đó mà vào sâu xóm. Tưởng gần như lời ông già cán bộ chỉ vẽ lại hóa ra không phải là gần. Bởi đi miết miết rồi, khách đụng một cái quán nhỏ ở bên đường, nhà của ông Đang cần đến vẫn bằn bặt không thấy. Thèm rượu, khách tạt vào quán gọi một ly uống cho ấm bụng. Quả uống vào, men bốc, chống cái lạnh, làm ấm áp ruột gan. Chủ quán ngồi gần lân la tò mò hỏi chuyện. Biết khách muốn tìm ông Đang thì vui vẻ nói: “Ai chứ ông Đang thì cứ uống đi rồi tôi chỉ cho chỗ. Kia kìa. Ông nhìn qua cửa sổ có thấy mấy cái nhà ở dẫy kia không. Nhà tập thể của các cô giáo đó. Mái bốc khói là căn bếp nấu nướng. Ông Đang ông ấy ngụ ở đó cứ đến là gặp “. Khách nhẩn nha tợp nốt chỗ rượu còn sót lại ở ly. Định cáo từ để đi thì chủ quán đã nhanh nhẩu kể rằng: “Cái ông ấy về già lạ lắm. Lạ là lạ thế này. Tuần trước, ông ấy đạp cái xe đạp cà khổ ghé vào đây. Lại đèo theo xe cái giỏ đan tre buộc nút kỹ lắm. Hỏi đựng cái gì mà phải buộc kỹ thế. Ông đáp bắt được con rắn. Rắn dữ và lạ. Tính đen xả thịt ăn nghĩ lại tiếc. Bữa nay chở lên huyện bán lấy vài ngàn mua mấy lạng mỡ lá. Thằng mua rắn coi rắn xong bảo, con này không có trong bộ Tam xà. Rắn là rắn thường nên từ chối không mua. Đã không bán được rắn, uổng công đạp xe, lại mỡ lá không có, bực cả mình. Đấy. Cái ông ấy tính tình bây giờ già đâm ra lẩm cẩm. Chỉ vì một con rắn không ra rắn, cất công đạp từ nhà lên phố huyện xa lơ xa lắc, cuối cùng chỉ nhận được một lời chê thế có khùng không”. Khách nghe thì cười. Lại rời quán đi thêm một đỗi nữa theo đường chủ quán dặn, khách đụng một cái ao cá. Có một cô gái đứng phơi phóng quần áo ở dây phơi ngẩng lên nhìn người lạ, hỏi bâng quơ một tiếng: “Ông tìm ai?”. “Ông cụ Đang”. “À. Ông Đang. Ông Đang ở kia. Mé ao đó. Chẳng hiểu ông cụ kỳ cọ cái gì mà ngày nào cũng thấy ông ra cái cầu ao ngồi kỳ cọ”. Khách nhắm hướng ngón trỏ của cô gái nhìn về phía đó. Khách nhận ra trên tấm ván gỗ chìa ra mặt ao, có một người đang ngồi lúi húi kỳ cọ mấy viên gạch thẻ. Nắm rơm cầm ở tay, vục nước vốc lên gạch, mải mê ông già cứ chà mấy cục đất nung hình chữ nhật mà chẳng hề hay biết có khách lạ đứng đằng sau chăm chú nhìn mình. Không dám làm rộn người khác đang lúc bận việc, khách cứ đứng yên lặng mà chờ. Đứng thời khách quan sát thấy cái mũ cối méo mó đội trên đầu ông già Đang, vải sợi đã buột, mầu xanh cứt ngựa đã bạc phếch bạc phác, cái áo bông chống lạnh cũ mèn, rách nát bươm bả, lỗ chỗ lỗ. Rồi cả cái quần lao động ông mặc cũng đã đổi sang mầu cháo lòng, cái đôi giép cao su quai tréo ông sỏ bàn chân như sỏ vào cái đai thùng sắt rỉ. Khách chợt đem so sánh cái thời ông mặc áo quần Tây, cổ đeo cà-vạt, đi khắp Trung Nam Bắc đăng đàn diễn thuyết nom bảnh bao, nom kẻng hết chỗ nói. Thời đó khởi đầu mở Mặt Trận Bình Dân, uy danh ông lớn lắm. Bây giờ, cái hào quang đó đã tắt rồi. Dưới mắt khách, người xa xưa thuở đó hiện thân chỉ là một ông già ốm yếu, còm cõi, xơ xác, tiều tụy, ngồi trên cái cầu ao lẩn thẩn kỳ cọ dăm ba viên gạch thẻ. Bắt lạnh, cổ ngứa, khách không chặn được cái ho. Ho làm ông Đang giật mình ngoái vội đầu nhìn lại: “Ủa. Chú Quán”. “Vâng. Thưa anh. Anh khỏe”. Không đáp câu hỏi của khách hỏi, ông cụ Đang đứng bật dậy, đưa tay kéo khách đi về phía mấy ngôi nhà. Vừa mừng vừa vồn vã nói: “Vào đây. Chú vào đây đã”. Vào đây là vào cái chái bếp gần căn hộ độc thân của mấy cô giáo dậy ở trường làng. Căn bếp đó ngang rộng chừng năm mét vuông. Vừa chật lại vừa hẹp, chứa đầy những đồ đạc lỉnh kỉnh. Trên cái sào ngang sát mái, khách đếm có đủ cả chục cái khăn mặt đã thủng lỗ, đã rách bươm như sơ mướp. Cái áo “may ô” lỗ chỗ những lỗ, như mắt lưới đan thưa, treo lủng là lủng lẳng cạnh cái quần lao động vá chằng vá đụp và đầy những vết bẩn ố đen như nước thuốc lào. Mắt đụng nhằm sâu chuỗi lục lạc đeo ở cái cạp quần, khách ngạc nhiên chăm chú nhìn đến độ mắt quên cả chớp. Đoán được cái ý nghĩ thắc mắc trong đầu người khách, chủ nhà cười mà giải thích: “Chú không hiểu công dụng của nó đâu. Này nhá, tôi bắt chước cái cách của người miền núi, bò trâu treo mõ, cạp quần tôi đeo chùm lục lạc, đi đâu lúc đêm tối, lục lạc phát ra kêu, người chạy xe đi đường biết có người phía trước mà tránh. Nếu không họ ủi vào mình thì có khi té ngã, có khi xây xát, có khi gẫy chân lọi xương không biết đâu mà nói trước được. Làm một chùm lục lạc chẳng mất công tốn kém gì cả. Vỏ hộp dầu sao vàng đục một lỗ thủng, bỏ cục sỏi vào, luồn bằng một sợi giây thép nhỏ, hơn chục cái sâu vào nhau như chuỗi tràng hạt là xong rồi. Chú cần có một cái để đeo phòng hờ lúc đi đây đi đó về khuya”. Khách vẫn ngồi im. Lại nhìn hết xó này tới xó góc khác, mắt khách dừng lại ở cái tủ mọt hai cánh gỗ có khóa, khóa khoen móc sắt. Nóc tủ xếp một chồng nón cối, cái nọ đặt trên cái kia, đếm chừng một chục. Vải bọc nón đã te tua, mầu bạc phếch cả. Nón cũ mà còn giữ, để làm cái gì sao không đem rục, khách ngại hỏi nên không dám hỏi. Diện tích cái chái bếp ông ở, khách thấy quá hẹp. Kê cái giường thì cái giường đặt lưng xuống nằm, được đầu thì dư chân và ngược lại. Lại chẳng thể gọi nó là cái giường, vì cái giường đó chỉ là một tấm ván kê trên bốn cái chân bằng gạch. Gạch xếp lên theo chiều cao đủ tầm cao để đặt ván lên lấy chỗ đặt lưng. Đến cái mềm bông ông đắp, lớp vải bọc ngoài đã sờn rách tơi tả, gòn lót bên trong lòi cả ruột, ngửi thấy lợm mùi hôi của mốc. Thấy mắt khách cứ lom lom nhìn khắp đồ vật, ông già Đang vừa cười vừa chỉ cái bàn nói: “Chú nhìn cái này. Nó là cái bàn đấy nhé. Nhưng cái bàn lại chỉ có hai chân. Hai chân như một con vật đi bằng hai chân. Đi bằng hai chân thì đúng là người. Chú để ý coi, chân kia tôi treo nó bằng giây lạt buộc. Lúc viết lách, lúc ăn uống, thì nó đúng là cái bàn. Lúc bình thường nom nó giống một thằng người đứng trên hai chân. Cứ coi nó là người để mình đỡ cô đơn cũng chẳng sao cả. Ờ, còn những viên gạch chú thấy tôi chất đống ở góc kia. Gạch thẻ nung rất già. Cứng như sành sứ. Tốt vô cùng. Gạch đó tôi đi lượm đem về, mang ra ao hồ kỳ cọ rửa sạch, dùng vào được khối việc”. Lại cười, khách nhìn bó dép cao su bó thành từng bó, để dưới gầm cái bàn có chân hai cẳng. Cạnh đó còn có hai cái vại. Vại có nắp đựng gì không hay biết. Đến cả những cái bản lề cửa hoen rỉ, mẩu sắt vụn, cái đinh ốc, nùi dây thép đã han và đóng muội, khách thắc mắc ông cụ cất giữ làm gì mà không vứt đi. Thắc mắc lại cũng không dám hỏi. Đã đến giờ nấu ăn. Ở khu nhà bếp tập thể bốc lên mùi thịt nướng cháy, mùi hành phi, mùi canh rau cải thơm lừng. Đang ngồi tiếp khách, ông Đang bỗng hếch hếch mặt, hít hít vài cái rồi gật gù bảo: “Ở cạnh cái nơi nấu nướng này, ngửi mùi thức ăn bay qua cũng thấy đủ no cái bụng. Được ăn uống vào dạ dày cũng tốt, mà hít thở hương vị thức ăn bụng không no nhưng cảm được cái ngon. Tôi đọc sách, biết ông Tô Đông Pha ngày bị biếm ra Đam Châu, thực phẩm tích trữ nhẵn sạch, tiếp tế chậm kỳ, đói lắm. Ngồi bó cẳng trước cửa thềm nhà, thấy ếch nhái, thấy rắn dưới ruộng há miệng đớp đớp ánh nắng bèn bắt chước. Bắt chước rồi bụng hết đói. Hóa ra loài ếch nhái, rắn rết cũng hay nhỉ. Tôi không dập theo cách ông Tô, nhưng ngửi mùi thức ăn sào nấu cũng no một bụng”. Ông nói thế nhưng biết đã tới bữa rồi, có khách xa tới chẳng lẽ để khách ngồi chuyện trò bụng rỗng. Đứng dậy, đoán là ông cụ đi dọn thức ăn, khách vội nói: “Để em ra chợ”. “Chợ búa gì. Nhà sẵn cả. Mẻ mới chế này. Cơm có nữa. Lại còn rượu cam loại xuất khẩu để tôi đem ra đãi chú”. “Rượu xuất khẩu thì thượng hảo hạng rồi. Rượu đó anh mua hay ai cho”. “Cho cả. Mắc tới thắt gan, tiền đâu mà mua hả chú”. Lại lọ mọ kiếm cái chìa khóa, ông già Đang lúi húi tra vào ổ. Vặn nhẹ một vòng, cái cần bật. Cánh cửa tủ mở, mắt khách quét một đường vô trong. Tưởng đựng gì quí giá, khách nhìn chỉ thấy rặt là áo quần cũ, báo chí lưu, giấy tờ nhầu nát, vài cuốn sách gờ mép cong queo. Ngăn dưới thì lỉnh kỉnh chai lọ, vỏ hộp, lon bia và bao thuốc lá rỗng điếu. Khoắng tìm một lúc, bàn tay ông vớ trúng cái cổ chai như vớ được cổ vịt thì lôi ra. Lôi ra vừa cầm vừa cười nói riễu: “Mày có trốn ông cũng bắt được. Trốn cũng không thoát nổi đâu nhe. Coi này, rượu cam nguyên chất chưa khui chú nhé”. Lúc rót ra ly, uống rồi khách mới khà một tiếng khen ngợi. Oâng Đang nhìn khách cười hỉ hả hài lòng. Nhân lúc vui say, khách tò mò buột miệng: “Anh bây giờ lại có thú sưu tập cả bao thuốc lá nên cất giữ đầy cả tủ nữa à”. “Sưu với tập gì chú. Hàng “đối lưu” của tôi đấy mà”. “Đối lưu”. “Ờ, đối lưu là trao đổi qua lại. Kinh tế mà chú. Nói rõ ra để chú hiểu là như thế này, lấy được thứ mình muốn thì mình thay vì đem tiền mua lại đem bao thuốc đổi. Tôi đổi theo định giá một con cóc, con nhái, con ếch hay con rắn qui ra là mấy bao thuốc, thuận rồi thì đổi, không thì thôi. Ở cái xóm ngõ này, khách hàng của tôi có đến năm sáu chú lỏi. Có cóc nhái, rắn rết, chúng bắt được đem tới “đối lưu”. Ngày nào có hàng, ngày đó tôi có chất đạm. Lỡ nhiều ăn không hết, thì đem ra chế biến làm mắm, làm chả để dành. Bữa nay đãi chú món chả chiên toàn là thịt cóc nhái, chú ăn thấy ngon không?”. Khách đang nhai nghe thế thì bắt lợm họng. Nhưng đã lỡ, nhả ra bất nhã, nuốt vào, khách thấy ghê ghê cả miệng .Quơ vội cái ly còn lưng cốc rượu, khách uống sạch để tảy cái mùi tanh tanh do vị giác vừa bắt thấy. Đúng lúc chủ khách buông đũa bát, có tiếng trẻ nhỏ léo nhéo ở bên ngoài. Một đứa nói vọng vào: “Ông Đang ơi. Tụi cháu đến đây này”. “Vào đi. Có món gì đổi không hả”. “Có con rắn hổ cụ Đang ạ”. “Tính bao nhiêu đây”. “Ba bao thuốc”. “Hơi đắt đấy nhé. Rắn này chỉ đáng một bao thôi”. “Một bao thì tụi cháu không đổi. Bắt được nó bắt khó lắm. Hai bao đi ông Đang”. “Bữa nay tụi bay làm khó dễ tao. Ừ, tao chịu hai bao”. Chủ nhà lại kéo cái chuỗi lục lạc đeo ở cạp quần, kiếm cái chìa khóa mở khóa tủ. Cần hai cái bao thuốc nên ông cụ chỉ lấy ra hai thôi. Thằng bé đưa con rắn nhận hai cái bao thuốc lá xăm soi đưa cao lên coi. Một cái nó ưng, cái kia nó không chịu trả lại cằn nhằn: “Ông đổi cho cháu cái này. Nó rách mép”. “Mày lại khó. Rách mép chút síu có làm sao đâu”. “Nhưng đưa người ta người ta không chịu. Lại thiếu tờ giấy vàng lót bụng nữa ông”. Ông Đang cầm lấy coi lại, đúng là thiếu cái giấy lót thiếc mỏng mầu thếp vàng. Lại cái chìa khóa tra vào cái khóa tủ, ông quẳng cái bao xấu vào trong, lấy ra một cái khác. Lại lật qua lật lại coi kỹ trong ngoài một lượt, lần này thằng bé mới chịu. Chúng bỏ đi. Bữa ăn xong. Đủng đỉnh, hai người đi dạo quanh nhà. Đến chỗ bụi tre già, ông Đang trỏ tay xuống chỗ đất được đào, ngang dài như hình một cái huyệt, sâu có cả thước, nói như đùa: “Làm sẵn chỗ này để ngộ chết có nơi đặt lưng. Ở cái tuổi tôi, đi lúc nào mà hay trước được. Như ngọn đèn lụn bấc, cạn dầu, thoi thóp rồi thì tắt. Đào cái hố nó ở cận nhà, lúc yếu quá còn cố sức bò ra nằm xuống, chẳng muốn làm phiền ai. Sống không ai nhơ,ù chết cứ lẳng lặng mà chết hóa ra hay”. Ông nói xong thì nhếch môi cười. Cái cười dính chặt trong óc não khách trên đường rời nơi thôn xóm quạnh quẽ. Cái cười không đúng là cái cười mà đó là nỗi u uất cay đắng pha lẫn hận thù từ đáy cõi lòng người bạn già đã tiết ra. Chất đắng của mật. Chất đắng của nỗi buồn. Đi giữa cánh đồng quạnh hiu buồn bã, khách mới nhận ra đi như thế quả là cô đơn. Bấy giờ khách mới vỡ lẽ mà hiểu được cái sâu chuỗi hộp dầu cù là của ông Đang, hóa ra cũng hữu dụng thật./. Chôn Đứng Khuất Đẩu Cụ Bát đã chết hồi đêm. Bát không phải tên cụ, Bát chỉ là bậc thứ tám trong cái thang phẩm hàm chín bậc của triều đình. Thường, người ta chỉ mua cái cửu phẩm là đã đủ vẻ vang với làng nước rồi. Phải thực sự giàu có và háo danh như cụ thì mới không tiếc tiền để sở hữu một cái bát phẩm với thẻ ngà lóng lánh như Bắc đẩu bội tinh. Ngày nhận cái món hàng đắt giá của triều đình, cụ đã cho hát bội ba ngày ba đêm để ăn mừng. Sau đó để tự thưởng cho mình, cụ tục huyền với một chị đàn bà, trẻ đến nỗi còn nhỏ hơn cậu út những hai tuổi. Khác với các ông anh cứ bám vào cái chức lý trưởng chánh tổng quê mùa, cậu đã xong cái hậu bổ, chỉ chờ ít lâu là ra cái chức tri huyện. Những ngày cuối cùng của cha, luôn có mặt cậu. Như thế, cũng đã đủ trọn hiếu. Cậu ra dấu cho lão bộc thức canh cái xác ông cụ, sau khi đã đặt một con dao phay lên ngực để ngừa mèo đen nhảy qua làm cụ sống dậy. Cụ đã sống dậy đến những hai lần rồi, nhưng không phải vì mèo đen. Lần thứ nhất, cụ đang nằm thẳng cẳng, sau hai ngày đêm chờ tẩm liệm, bỗng kéo chăn ngồi dậy, bình thản nhìn cái đĩa dầu chong trên đầu, bát cơm in và đĩa trứng luộc. Trong khi cả nhà sợ hết hồn, xô nhau chạy trốn, thì cụ không nói không rằng, lấy trứng chấm muối ngồi ăn với cơm, rồi lại nằm xuống ngủ ngon lành. Sau đó cụ tiếp tục sống, khỏe mạnh như một người bình thường. Chẳng ai dám hỏi cụ đã xuống chầu Diêm vương, sao lại được trở về. Chỉ có cô vợ trẻ là hơi ớn lạnh mỗi khi gần cụ. Cô có cảm giác như mình đang ngủ với ma. Những lúc đó cô ứa nước mắt, thầm giận cha mẹ và thương cho cái nhan sắc hơ hớ xuân tươi của mình. Đã lấy phải một ông chồng già, mà lại là một ông chồng già mắc dịch, cứ chết đi sống lại mãi vì hãy còn tiếc cô vợ trẻ. Lần thứ hai, kinh hoàng hơn. Trong khi người ta đang đóng những chiếc đinh cuối cùng lên nắp ván thiên, thì nghe tiếng dộng chân rầm rầm trong quan tài. Đành phải khui ra xem sao. Thì cụ liền ngồi bật dậy, hất tung mọi thứ trên người, bước ra khỏi hòm, mắng con mắng cháu một trận tơi bời. Sau đó, cụ lại sống khỏe, sống dai cho đến tận hồi đêm. Chỉ có cô vợ trẻ là buồn vì chưa tin cụ chết thật. “Lần này chết thiệt rồi đó”, cậu út nói với cô. “Ở đó mà thiệt. Cứ cái kiểu này thì chính tôi chết thiệt chứ không phải cha anh”. “Thiệt mà, thầy Hào y bảo mạch tắt rồi. Cẩn thận hơn, ổng còn lấy máu ở đầu ngón tay. Lạnh ngắt, chẳng có một giọt máu nào. Vạch tròng mắt ra xem thì thấy mắt trắng dã cứng đờ, thế không chết thiệt thì là gì!” Nhưng cô vẫn sợ và vẫn khóc (dĩ nhiên không phải khóc chồng) Cụ được đặt nằm ở gian giữa, là gian đường bệ nhất của một ngôi nhà lá mái dài rộng đến những năm gian hai chái, đầy những hoành phi câu đối chữ đẹp như rồng bay và những bộ liễn cẩn xa cừ óng ánh. Các cửa đều đóng kín nên căn nhà trở nên âm u và càng ớn lạnh hơn khi chủ nhân nằm đó không phải ngủ mà là chết. Đêm đã khuya. Ông lão bộc, trời cho chỉ được thấy chứ không thể nghe, chẳng thể biết được những gì cậu út đang rì rầm dỗ dành bà chủ nhỏ trong buồng. Cái gian buồng mà mới hồi trưa đây, cụ Bát đã sờ tay lên cái bụng mát lạnh không một nếp nhăn của cô, hỏi: “thiệt à? Có mang thiệt à? Thế là lão bạng sanh châu, đại hỷ, đại hỷ!”. Cụ cúi xuống hôn đánh chụt vào giữa rốn để ăn mừng trong khi cô khó chịu vì những sợi râu lột nhột. Nhớ lại những điều đó cô cảm thấy rợn người. Lão chưa chết thiệt thì lần này mình sẽ ra sao? Đem điều ấy hỏi cậu út thì cậu bảo: “Thì sống”. “Đâu phải chuyện sống”. “Chuyện gì khác, tính sau. Giờ thì hãy ngủ đi”. Định cúi xuống làm một cử chỉ gì đó, nhưng chợt nghĩ tới ông cụ, cậu liền đứng lên đi ra khỏi buồng. Sáng hôm sau ông cả, lúc này đang là chánh tổng, từ làng bên, thong thả cưỡi ngựa đến. Con ngựa tía chợt hếch cái miệng đang ngậm hàm thiếc, hí lên một tiếng chói tai khi ông cột nó vào một cây cọc đã cắm sẵn. Ông vỗ vỗ vào cái mặt dài để bảo nó câm cái miệng lại. Xong, ông cẩn thận bước lên thềm. Tiếng hí của con ngựa làm cho cậu út thức dậy nhưng ông lão bộc câm vẫn ngồi gục đầu trên hai cánh tay. Cậu phải đứng lên đi mở cửa. “Chết thiệt rồi à?”, ông cả hỏi. “Dạ, thưa anh cả, chết thiệt rồi. Cả đêm không thấy động tĩnh gì”. “Mới có một đêm mà ăn thua gì. Lần này không chừng cả tháng cũng chưa chắc là chết thiệt. Thôi cứ để cụ nằm đó. Phải kiếm người khác thay lão già này. Trông lão ngủ ngồi kìa, tội nghiệp quá”. “Dạ”. Ông cả ghé đến cái xác đang đặt nằm trước gian thờ ông bà tổ tiên. Ông đứng một lúc lâu, nhìn tờ giấy đang đắp trên mặt. Tờ giấy nằm lặng im, như một lớp váng mỡ trên nồi thịt kho. Lần này ông cũng nghĩ là chết thiệt. Quá tam ba bận rồi. Thế cũng xong, chỉ tiếc là không nghe được cụ trăn trối điều gì. Lúc sống, một đôi lần cụ bảo, khi nào ta chết, chắc cũng còn lâu, thì xây một cái tháp như tháp tổ chùa Thiên Bình, dựng cái hòm có ta trong đó. “Chôn đứng à?” “Thì đứng chớ sao!”. “Các hòa thượng hỏa táng xong mới đưa tro vào tháp, cha đứng mãi như thế, không sợ con cháu nhà mình mạt sao?” “Sao mạt được. Không nằm trong lòng đất, không lửng lơ trên ngọn cây, chôn đứng như thế thì một ngàn năm sau cũng chẳng ai dám động đến. Mà mồ mả không ai động đến, nếu không vượng thì thôi sao lại mạt?” “Con nghe nói chừng nào xương thịt kết đất thì con cháu mới ăn nên làm ra”. “Nhà mình như thế này là tột đỉnh xưa nay chưa từng có. Bộ muốn làm vua nữa sao?” “Ấy là con nói thế thôi, nếu thực ý cha muốn vậy, thì tụi con cũng phải nghe theo.” “Ừ, ta muốn đứng như vậy đó.” Ông lật tờ giấy, nhìn mặt ông cụ. Một khuôn mặt mới đó hồng hào mà chỉ sau một đêm đã teo tóp, nhăn nhúm như thể ông cụ đã sống hơn trăm tuổi. Thế này, thì đúng là không thể nào sống lại được. Ông bước qua chái bên, bảo chú út cẩn thận với lũ mèo đen, còn mình thì đi ra đồng, xem lại chỗ đất mà thầy địa lý đã chọn. Đó là một cái gò cao mới tạo, nằm giữa mênh mông ruộng nhà. Vị trí có thể nói là tuyệt đẹp, khi đứng trên gò nhìn những sóng lúa chập chờn bao quanh, trước mặt là núi An Tượng như một con voi khổng lồ, sau lưng là núi Mò O cao chót vót, bên trái là đầm Thị Nại xanh biếc, bên phải là tháp Cánh Tiên vàng rực. Nơi đây ngày trước là vũng trâu nằm, nhưng thầy địa lý bảo đó là nơi địa long và thiên long gặp nhau. Nên chi, tất cả giàu sang, quyền quý đều hội tụ ở đây. Cả đời thầy mới tìm được chỗ này, đó cũng là nhờ phúc đức của nhà cụ. Có điều phúc nhiều hay ít, thì thầy chịu, mệnh trời không sao biết trước được. Ông cả vẫn nhớ như in những điều ấy. Ông thấy cha mình muốn chôn đứng ở đây, chắc là vẫn muốn được nhìn quang cảnh hùng vĩ và cái khối tài sản bát ngát không thể mang theo được của mình. Ông liền quay về nhà, gọi thợ ngày đêm chở đá đến để xây tháp. Như thường lệ, các bà con gái đã bắt đầu tỉ tê khóc lóc. Có điều các bà chỉ khóc ở nhà ngang, nhà bếp, khóc trong sân, ngoài vườn chứ không ai dám đến gục đầu mà khóc bên ông cụ. Người nào, tuy ai cũng bù lu bù loa, nhưng vẫn rất tỉnh táo để có thể bỏ chạy nhanh nhất khi ông cụ cắc cớ một lần nữa lại ngồi dậy. Cụ đã sống lại đến những hai lần, không chừng không thành ma thì giờ đây sẽ thành quỷ nhập tràng. Cùng lúc ấy, các bà con dâu, những người ăn cánh với nhau chụm đầu thì thầm, rằng hãy coi chừng cái con phù thủy trẻ ranh kia. Ông cụ chôn xong bữa nay thì bữa mai phải tống khứ nó đi ngay. “Nhưng mà nghe đâu chú út nhà mình quyến luyến nó lắm kia mà. Dễ gì mà tống cổ nó ra khỏi nhà cho được”. “Lại nghe nó đã có mang, thế ông cụ nhà mình cũng ngon đấy chứ”. “Ngon gì mà ngon, thế là cứt lộn đầu rồi. Ai chẳng biết cái bụng đó là của chú út nhà mình”. “Nó đúng là hồ ly tinh”. “Thôi, đừng nhắc chuyện đó nữa, thối quá. Nghĩ thương cho vong hồn của bà cụ”. Đến ngày thứ năm, khi cái xác ông cụ trong không khí oi nồng đã chương lên như một cái bong bóng cá, thì người ta mới quyết định phát tang. Một cái hòm gỗ sao thơm phức, chè khô và khăn áo, vải liệm được đưa tới. Người ta nấu nước thơm rửa xác, lại lau sạch bằng rượu Bầu Đá. Các thầy liệm mặc áo, đội khăn, mang tất, trước khi dùng dây vải cột hai chân và hai tay. Theo lệ thì chỉ cột lơi lơi cho khỏi xục xịch, nhưng với cụ, để ngừa một lần nữa lại có thể ngồi dậy, người ta cẩn thận buột chặt thêm nhiều bận. Cái hòm được đổ thủy để hàn kín các kẽ dù nhỏ nhất. Rồi lụa mỡ gà óng ánh được lót như dát vàng trước khi trịnh trọng đặt xác cụ vào. Sau đó người ta đổ đầy chè tàu, loại chè thơm ngon nhất để hút chất ẩm. Nắp ván thiên được đặt lên. Những cây đinh lạnh lùng được đóng xuống. Ngoài tiếng búa gõ rất chắc và đanh xoáy vào màn nhĩ, người ta còn hồi hộp ngóng chờ những tiếng động bí ẩn từ trong hòm. Một cái đinh, hai cái đinh, rồi đến cái đinh thứ mười mà vẫn không nghe tiếng gì khác, người ta mới thở phào, ra hiệu cho thầy lễ. Con cháu mặc áo đại tang, tùy theo thứ bậc, quỳ thành nhiều hàng sau lưng ông cả. Ông đội mũ rơm, trên có đặt mấy cái sớ viết bằng chữ Hán. Thầy xướng “bái”, rồi xướng “hưng” đến cả trăm lần, làm đám con cháu mệt phờ vì đứng lên quỳ xuống. Mùi hôi cọng với hương trầm đặc quánh như có thể sờ nếm được, khiến mọi người gần như ngạt thở. Nhiều người muốn nôn, nhất là bà quả phụ trẻ. Dù hết sức nín nhịn nhưng cuối cùng bà cũng phải gục mặt xuống chiếu mà nôn thốc nôn tháo. Mãi đến giữa ngọ thì lễ thành phục mới xong. Giờ là lúc những người khóc mướn thay con cháu ngồi thành hai hàng để đón chào khách viếng. Trống kèn được dịp nổi lên ỉ eo để nâng đỡ tiếng khóc nỉ non của bọn họ. Suốt ngày đêm, ngoài tiếng kèn lê thê kể lể còn có tiếng tum, tiếng cắc nghe như tiếng nấc. Một đám ma to hơn cả hội hè khiến bọn trẻ con được dịp hò hét phụ họa. Nhưng để tránh ngày trùng, ngày sát chủ, chọn cho được ngày đại cát và nhất là đợi cái tháp vĩ đại kia xây xong, người ta vẫn phải quàn xác cụ lâu đến cả tháng. Mùi thối, cho dù được đổ thủy, ướp trà vẫn cứ xông ra nghẹt mũi. Các đinh đã bắt đầu nhóm lên, nước tràn qua kẽ, nhỏ từng giọt xuống những cái chậu kê sẵn. Con cháu trong nhà không một ai dám tới quỳ lạy, cả những khách viếng cũng đứng ngoài sân. Chỉ có những người khóc mướn được nâng giá mỗi ngày đến một tạ thóc, mới cố chịu đựng mà gào lên như cha chết. Vậy mà, cái nắp ván thiên một hôm lại bật ra nhảy dựng lên, kêu đánh rầm khi rơi xuống nền gạch. Mọi người ù té chạy. Ban lễ nhạc cũng bỏ cả trống kèn mà kiếm chỗ trốn núp. Mùi hôi như một bầy dơi đen bay tỏa khắp nhà. Cái bụng của cụ phồng lên hất đổ cả xác trà lúc này đã no tròn như những con nhộng. Nhưng cụ không ngồi dậy. Thật hú hồn. Mặc dù bị xì xầm là mang tội bất hiếu, nhưng để cái nắp ván thiên khỏi bật ra lần nữa, ông cả vẫn phải bảo thợ rèn, đánh những cái đai bằng thép để nịt lại. Rồi cũng đến ngày di quan. Hòm được đặt trong nhà táng lộng lẫy, có tua ngũ sắc, có hạt minh châu, có hình bát tiên. Lão chấp kích, râu tóc bạc trắng vẫn còn đủ sức, để hết nhảy sang trái lại nhảy qua phải, hết ra trước lại lộn ra sau, hai cái thanh gỗ nâu bóng luôn gõ cắc cắc để điều khiển đám dân phu. Khi thì nâng cao lên khỏi đầu, khi thì khom lưng xuống sát đất, sao cho dù lên dốc hay xuống dốc, qua cống hay qua mương vẫn giữ được thăng bằng, ly rượu đặt ở trên nắp ván thiên không được đổ đi một giọt. Để tiện việc di quan, người ta cắt hết lúa trên ruộng, san phẳng những bờ thửa, tạo thành một con đường thẳng tắp dài đến cả mấy cây số, rộng đến những năm thước. Linh cửu của cụ Bát được cả trăm dân phu và tá điền thay nhau khiêng, hì hục è ạch lội qua những đám ruộng bùn, trông như một bầy kiến đen đang đưa con mồi về hang. Trong khi đó, những kẻ khóc mướn, cứ hết lượt này đến lượt khác, chạy đến trước đầu nhà táng, nằm lăn lộn trên bùn, đấm ngực bứt tóc, vật vã đau đớn, để cản đường những kẻ tàn nhẫn kia sao cứ cố tình đem chôn ông cụ. Dĩ nhiên mùi hôi thối vẫn không vì thế mà bớt đi. Có điều là nhờ ngang qua cánh đồng đang mùa lúa trỗ, nên cả một đám đông dân làng kéo theo sau (để xem chứ không phải đưa tiễn) vẫn không đến nỗi vì mùi xác chết mà phải khạc nhổ. Sau cùng, thì cái hòm gỗ quý của cụ Bát cũng được dựng đứng một cách uy nghiêm trong lòng một cái tháp được xây bằng đá núi thiên thu, chính giữa có tạc cái hình thẻ bài bát phẩm được thếp vàng óng ánh. Từ đây, dưới ánh mặt trời mọc và lặn, cái bóng đen thẫm đồ sộ của nó ngã xuống cánh đồng như một bóng núi. Dân trong vùng mỗi khi đi ngang qua đều không dám ngước nhìn. Mãi mãi như thế, dù dưới trời quang mây tạnh hay trong gió rét căm căm, nó vẫn đứng sừng sững. Cho dù một trăm năm. Cho dù một ngàn năm. Ai cũng tin như thế. Nhưng chưa đến một năm, trong một trận mưa giông mù mịt, cái tháp đã bị sét đánh vỡ toang. Cụ Bát không đứng dậy bước đi như Tôn Hành Giả khi ra khỏi Ngũ Hành Sơn, mà ngã nhào xuống thành một đống bầy nhầy, những thịt và xương thối hoắc. Sau này, trong câu chuyện kể, bao giờ người ta cũng hạ một câu: “nó nổ cái bùm, nghe thật sướng tai!”./. Tình dưa AT - Trời chập choạng, những luống hoa vạn thọ dưới tay tôi hình như đã bớt thẳng hàng. Vậy mà con Út Đẹt bên rào còn nhón chân qua bảo: Bé Lùn! Bé Lùn nói nghe nè! - Gì? - Tôi dừng tay nhìn lên - Thằng Sơn Tinh nói nghỉ chơi với mày rồi! Từ nay mày đừng đòi đóng vai công chúa Mỵ Nương nữa nghe! Nó chỉ cho tao đóng thôi! - Xạo! Hồi nào tới giờ tao vẫn đóng mà! - Nhưng bây giờ nó hổng cho mày đóng nữa. Ai biểu mày hổng nhận trái dưa hấu nó cho, làm nó “quê một cục”. Trái dưa đó nó cực công mang từ rẫy về. Mỗi người cắt dưa chỉ được chủ tặng một trái, nó cho mày, sao không nhận? - Vì tao sợ… mẹ la. - Bởi vậy nó nghỉ chơi với mày rồi! Chơi với tao thôi. Tuổi thơ tôi, lứa tuổi mười ba, mười bốn ngày đó vui không sao tả xiết. Trong xóm đứa nào cũng mang những cái tên “nghe là biết người” do cha mẹ đặt. Hoặc không thì đứa nào có tên giông giống nhân vật trong tuồng hát là đều bị ghép thêm tên ngay. Thiết thì thêm “Mộc Chân” (nhân vật của tuồng Mắt em là bể oan cừu); Sơn thì thêm “tinh” (sự tích Sơn Tinh - Thủy Tinh); Hội thì thêm “Đồng Thăng” (tuồng Đời cô Lựu); Minh thì thêm “Khố Chuối” (tuồng Bên cầu dệt lụa). Sau những buổi đi học (thường là con gái còn được đi học chứ con trai 14 tuổi đã phải ra đồng phụ giúp cha mẹ) thì nhóm lại chơi đủ thứ trò. Nào là hát tuồng, chọi lon, trốn tìm. Lúc ấy điện chưa về nông thôn nên trò trốn tìm cực kỳ hồi hộp. Còn hát tuồng mỗi đứa phải mang đến góp một cây đèn dầu rồi phân vai ra mà hát. Tuồng thì nghe từ máy cát-xét nhà cô Loan thợ may. Từ sáng tới chiều chồng cổ đều bắt máy um sùm cả làng trên xóm dưới, nào những Gánh cỏ sông Hàn, Đêm lạnh chùa hoang, Người phu khiêng kiệu cưới, Mắt em là bể oan cừu, Sở Vân… nghe riết rồi đứa nào cũng có thể lên được hai ba câu vọng cổ, chỉ có điều lúc xuống giọng là “đứt dây cái tựt”. Có hai cô bé là tôi và Út Đẹt thì oẳn tù tì để vào vai công chúa Mị Nương (đứa nào thua đóng vai tì nữ), còn vai Sơn Tinh - Thủy Tinh thì thằng Sơn và thằng Thiết đóng, nhưng cũng oẳn tù tì, ai thắng thì đóng vai Sơn Tinh. Mà ai cũng ham vai tốt cho mình hết vì công chúa sẽ được mặc áo choàng bằng the (là chiếc khăn đội đầu của bà ngoại Út Đẹt), đầu đội vòng hoa kết từ hoa tigôn hồng tươi. Còn Sơn Tinh cầm kiếm dài, chuôi kiếm lủng lẳng túm vải vụn đủ màu xin từ tiệm may cô Loan. Đầu Sơn Tinh đội mão bằng lá mít kết vàng ươm! Nói chung là rất đẹp. Nhưng không hiểu sao cứ ba lần hát tuồng thì tôi và thằng Sơn đều oẳn tù tì thắng thằng Thiết và Út Đẹt hết hai lần. oOo Nhà tôi có ít đất, ba mẹ quanh năm ngoài lúc buôn bán ở chợ thì trồng thêm hoa vạn thọ. Tôi mười hai tuổi đã biết chu kỳ sinh trưởng của hoa vạn thọ là hai tháng rưỡi. Nào những hoa vạn thọ thường, vạn thọ cúc, vạn thọ Pháp… đều biết cả. Muốn đợt hoa sau nhiều hoa cái để bán được tiền thì khi tách hoa khô gieo giống chỉ lấy những hoa to, hoa nở đầu tiên trong liếp mà để riêng. Sơn mồ côi cha. Mẹ Sơn là người phụ nữ có vóc nhỏ nhắn nhưng cực siêng. Việc gì dì ấy cũng làm được. Từ giãy cỏ, chặt mì, bẻ bắp, cắt dưa, róc lá mía… Với dì ấy, mỗi ngày còng lưng đủ mua hai lít gạo và mớ cá nuôi bầy con trai ba đứa no lòng là đủ lắm rồi. Anh của Sơn 17 tuổi, thằng em út lên 8, Sơn 14. Anh của Sơn nghe đâu mắc chứng bệnh gì đó nếu ra nắng là bị xỉu. Anh chỉ ở trong nhà đọc sách. Anh có cả rương truyện “Thằng Bờm” làm chúng tôi mê tít thò lò. Nhưng chỉ được phép ghé mắt nhìn chứ không bao giờ mượn được vì anh bảo “Mấy cưng nhỏ lắm, coi rồi giành nhau rách sách của anh. Chừng nào lớn thì anh cho mượn”. Lớn á? Ai thèm đọc truyện tranh nữa. Vậy nên tôi không hay sang nhà Sơn dù cách nhau có một phần đất trống. - Sơn Tinh, sao mày ngồi đây, tối thui rồi? Sơn ngồi thu lu tại gốc dừa ngoài cổng nhà tôi tự bao giờ. Tôi tung tăng tay nắm nhang cháy đỏ, tay cầm khúc khoai mì hâm hấp nóng, đi mua trà cho ba. Chả là nhà có khách đột xuất mà hết trà. Nắm nhang này làm “đuốc” cho đỡ sợ ma ấy mà. - Hồi chiều tao giãy cỏ sau nhà, giãy nhanh quá, đứt mấy dây mướp của má, tao sợ má uýnh… - Dì Ba chưa về à? - Chưa. Hổng biết sao bữa nay má tao về trễ vậy. Mà tao ngồi đây là để chờ mày… - Chờ tao làm chi? - Má tao về chửi vụ dây mướp thì mày nói giùm tại mày lùa con heo bị đứt nhen? - Nhưng heo nhà tao đâu có sổng chuồng? - Thì… cứ nói đại vậy. Bả thương mày nên hổng la. Rồi từ từ tao trồng lại. Chứ bả biết là tao giãy chết nó chắc bả đánh nát lưng! - Ừ! Nhưng… tao sợ nói láo mai mốt chết bị quỷ sứ cắt lưỡi quá! - Chừng đó… mày kêu quỷ sứ cắt lưỡi tao là lưỡi mày còn y hà! Sơn nhỏ con mà còn đen nhẻm, trời chập choạng muỗi như vãi trấu. Vậy mà chỉ mặc một chiếc quần đùi, đi chân không, cái lưng còn vương đầy bụi đất. Tội nghiệp Sơn quá nên tôi nhận lời chứ kỳ thật tôi vẫn còn ghét anh Sơn vì không cho mượn truyện tranh. Giúi vào tay Sơn khúc khoai mì, tôi bước nhanh về quán tạp hóa ông Ba Bắc. Hôm ấy dì Ba không đánh đòn Sơn được vì dì đi róc lá mía bị rắn cắn phải nằm viện. Ba anh em Sơn tự nấu cơm nuôi nhau. Ngày sau mẹ bảo tôi mang cho anh em Sơn nồi canh đu đủ to sầm. Cây đu đủ đầy trái nhưng con heo sổng chuồng ra ủi bật gốc, trái rơi trái rụng. Sơn giúi vào tay tôi những ba quyển truyện Thằng Bờm và quả dưa hấu to sầm: “Về cho em mày ăn với. Truyện đọc nhớ đừng rách. Tao chôm của ổng cho mày mượn đó”. Mười lăm tuổi. Tôi thấy hình như mình đã nhìn thằng bạn hàng xóm bằng ánh mắt lạ lẫm lắm. Nhỏ Út Đẹt thì cứ “đẹt ngắt” như trẻ lên tám dù bạn bè trang lứa đã nhưng nhức nơi ngực áo. Nó cứ xun xoe khen chiếc áo lót mẹ may cho tôi rồi bảo: “Kêu mẹ mày may cho tao một cái với nghen bé Lùn!”. Đấy là chiếc áo lót đầu tiên của mình, do mẹ may từ vải katê, có chấm hoa cà tim tím. Nhà cứ thông thốc từ trên xuống dưới, nhà tắm cũng chẳng có vì trước giờ cứ con nít thì cởi truồng ra tắm, người lớn thì chờ tối mới xối nhanh vài ca nước lên cả bộ quần áo là xong. Tôi loay hoay mãi mới tìm được chỗ mặc thử chiếc áo lót đầy háo hức. Đó là ngoài góc nhà sau, nơi cự củi. Chiếc áo lót là một miếng vải băng ngang ngực, có sáu chiếc nút bóp gài lộc cộc vào nhau, bề cao chừng 15cm. Xiết cứng và nhức ngực không thể tả. Gài không hết nút, cũng không cởi ra kịp, trên cánh tay còn vướng cái áo dài tay như hai cái cánh gà rũ xuống, tôi chạy ào vào bếp gọi mẹ giúp thì chạm “cốp” phải một cái đầu. - Tối thui, ăn mặc gì kỳ vậy bà nội? Là thằng Sơn “tinh”. Nhưng không phải là người hùng dời núi bốc thành nữa mà bây giờ là tinh ranh, tinh quái. - Mày rình ăn trộm nhà tao à? - Tôi hét lên. - Trộm… cái quần! - Nó nổi cáu - Con rắn bự bằng bắp chân từ bên nhà tao đập chạy qua đây. Xém bắt được thì đụng đầu mày… - Rắn? - Tôi ngã sấp còn kịp nghe nhiều tiếng kêu ồn ào. oOo Mười bảy tuổi. Thằng Sơn làm “đầu công” đi chặt mì, hái dưa, róc lá mía. Mỗi buổi đi làm về nó đều mang cho tôi nhiều quà. Ấy là những bó mía mót cứng còng (mía đường mà) ốm ròm như cây trúc. Ấy là những quả dưa hấu to đùng nhưng nứt một bên vì “Gói trong mấy lớp áo, bỏ ngoài nắng cả ngày, sao không nứt?”. Tôi học hết lớp 10 thì sang nhà cô Loan học may, bởi nhà đông con quá, ba mẹ không lo xuể. Sơn mỗi chiều đi làm về đều “thảy” quà trước nhà cô Loan, tự tôi biết thứ ấy dành cho mình và mang vô. Nhưng dạo này mẹ không cho nhận quà của Sơn nữa. “Mình có làm ơn làm nghĩa gì cho người ta mà cứ nhận quà bánh hoài, không nên đâu con”. Tôi bảo, bạn bè mà, đó của Sơn đi làm mang về chứ có mua bán gì mà mẹ lo tốn tiền? Mẹ lại nói, con gái con trai lớn cồ rồi, không thể gọi nhau là mày tao, là bạn bè bá vai, bá cổ được. Tôi thì nhớ về tuồng hát Sơn Tinh - Thủy Tinh, cảnh Sơn trong vai Sơn Tinh đánh với Thiết vai Thủy Tinh - vừa đánh kiếm sao cho kêu bộp bộp (kiếm bằng tre mà) cho khán giả khoái chí, vừa dang tay che cho Mỵ Nương khỏi trúng kiếm của Thủy Tinh mà thấy thương Sơn quá đỗi. Sao mẹ lại cấm chúng tôi thân thiện như hồi nào? Mẹ Sơn mất do lao động quá sức. Anh của Sơn nương náu vào một ngôi chùa. Nhà còn hai anh em nuôi nhau. Tôi theo người dì lên thị trấn làm nghề may “để có tương lai hơn”- mẹ bảo vậy. Hai mươi tuổi - Sơn đã là ông chủ rẫy dưa to sầm. Đất mướn thôi, nhưng mình làm chủ lấy mình và xen canh được. Hết trồng dưa thì trồng hành, trong hành có rau dền cơm, rau đắng mọc chung, chịu khó tưới để nhổ hành rồi bán rau cũng khá tiền. Dưa Sơn trồng toàn giống Hắc mỹ nhân, da xanh đen nhưng ruột đỏ ngọt tan trên đầu lưỡi. Dịp nào dưa chín, lên thị trấn mua sắm gì đó cho mùa màng Sơn đều mang lên cho tiệm may dì tôi vài trái. “Của cây nhà lá vườn còn tươi nguyên, ăn thoải mái! Chứ hổng phải lén giấu rồi ủ nắng đến nứt nẻ như ngày nào đâu nghen bà”. Sơn bảo tôi. Tôi cười híp mắt. Vỏ dưa ăn xong chà lên mặt nghe mát rượi một mối tình. Vụ dưa này Sơn đầu tư rất nhiều, mang cả giấy đỏ thế chấp - là thế chấp cho bọn cho vay nóng vay nguội chứ không phải cho ngân hàng. Bởi vụ dưa tết rất “trúng” nên bây giờ Sơn ỷ y. Vậy mà dưa bây giờ bán đầy đường, xanh tươi mát mặt, đỏ bầm gan ruột nhưng chỉ bốn - năm ngàn một ký. Ấy là phải tự mang từ ruộng ra bán chứ sang cho thương lái chỉ có hai ngàn. Lỗ tận xương tủy. Chủ nợ réo từng ngày, hăm dọa không trả đúng hẹn sẽ “xiết đất, xiết nhà”. Thằng em mười bốn tuổi của Sơn đạp xe cọc cạch lên thị trấn hỏi tôi có cách nào giúp đỡ. Sơn sợ chủ nợ nên bỏ nhà đi mất rồi. Rẫy dưa đỏ bầm chua loét mùi rạn vỡ. Buổi họp lớp TTCT - Buổi họp lớp đã có chừng mười lăm người đến. Như vậy mới là một phần ba. Thủy bước vào cái bàn cạnh cửa sổ, liếc nhìn đồng hồ. Cô đi muộn bốn mươi lăm phút, vậy mà bữa nhậu vẫn chưa bắt đầu. Không biết sẽ về sớm kiểu gì đây. Mẹ cái bọn này! Sao giờ cao su thế nhỉ?” - Hùng lớp trưởng lầu bầu. Thủy hơi ngượng, vơ nắm lạc rang để vờ như bận rộn nhấm. Lan vồ lấy Thủy. Thủy chột dạ, sẵn đề phòng câu hỏi chuyện chồng con như thường lệ. “Thủy! Dạo này có gặp Châu không?”. Tất nhiên là không rồi. Thủy còn chẳng thiết gặp ai nữa là Châu. “Mày biết chuyện chồng nó chưa?”. Tất nhiên là Thủy biết chồng Châu rất, rất giàu. Cùng học kiến trúc trên hai khóa, nhưng chồng Châu kinh doanh bất động sản. Chứ làm thiết kế tư vấn nhì nhằng như Châu, lấy đâu ra tiền sắm xe với ăn diện thế. Châu tay vẽ cũng à uôm, thời đi học chưa đến nỗi gạ tình lấy điểm, nhưng mà xinh đẹp kiểu ngây thơ vô số tội, đố thầy nào dám quát. Hơn nữa, bố Châu là quan chức ở Bộ Xây dựng. Nói cho nhanh, Châu là con cá vàng của khóa. Hoa khôi thì không chắc, Thủy nghĩ vậy. “Chồng nó bị bắt tuần trước!”. Thủy làm mặt ngạc nhiên, nhưng bụng cũng không thảng thốt lắm, thậm chí còn thấy dễ chịu hẳn. Điều Thủy ngạc nhiên là hóa ra sau ngần ấy năm, cô vẫn không ưa Châu. Hay là cách Lan nói cứ như báo tin vui không bằng. Thủy khẽ nhếch mép. “Ờ thì bong bóng vỡ, trùm bất động sản...”. Thủy gật gù, ngắm nhìn các bạn. Phần đông mập ra, nhiều cậu bạn đã hói và mắt ai nấy đã đùng đục như nhìn không vào đâu. Lan phát tướng hẳn ra, ăn mặc khá cầu kỳ, váy quây không ly màu tím, khoác ngoài áo rời voan mỏng màu đen, tóc màu hung hung. Trông cô như một chị gái văn phòng bất kỳ tranh thủ giữa giờ làm chạy đến bữa nhậu. Nét đặc biệt duy nhất có vẻ “thiết kế” là màu son đỏ chói trông khá táo bạo. Hoàng cũng chưa đến. Thật ra Hoàng chính là lý do duy nhất khiến Thủy rút cục đến buổi họp lớp. Thủy đã gọi điện hỏi Hùng, ướm hỏi xem những ai đến, rồi làm như vô tình nhắc đến Hoàng. Hoàng về Việt Nam rồi. Thủy vẫn lăn tăn khi nhớ hồi sang Pháp đã hứa sẽ đi thăm Hoàng nhưng rồi Thủy lại thôi. Lúc ấy Thủy đã dành ra hai ngày rảnh trong lịch trình. Thật ra Thủy sợ. Sợ gặp lại cảm giác cũ. Sợ cái sự khẩn khoản van nài của Hoàng. Sợ mình mềm yếu. Lục tục thêm được hơn chục người, có vẻ như đã khá đông so với mong muốn của Hùng lớp trưởng. Hùng vui vẻ ra mặt, bõ công gọi điện nhắn tin, thậm chí dọa dẫm anh em. Hùng vốn đi nghĩa vụ quân sự về rồi thi đại học, anh hơn tuổi phần lớn cả lớp. Anh khoát tay: “Thôi chúng ta nâng cốc mừng một giáp mới họp lớp nào!”. Không khí nhao nhao lên chén chú chén anh nhưng vẫn lễnh loãng thế nào. Có cậu nào nhắc đến Châu với Hùng. Được đà, Lan nhanh nhảu thông báo tin sốt dẻo. Cả phòng rào rào bình luận. Hùng rút điện thoại, chau mày bấm số rồi gọi. Anh đưa tay lên miệng ra hiệu im lặng. “Châu hả? Sao giờ này còn chưa đến? Đang có người muốn gặp Châu này. Ai hả...”. Hùng nhìn quanh rồi dừng lại ở Thủy. “Ừ, có Hương, Lan, Thủy... À, Thủy! Châu gặp Thủy này!”. Thủy sững sờ rồi nhăn mặt, xua xua tay, rít lên: “Không!”. Hùng định đưa điện thoại cho Thủy nhưng đúng lúc ấy điện thoại của cô reo. Thủy đắc thắng giơ lên chứng minh. Hùng trả lời điện thoại xong, báo cho mọi người: “Châu lát nữa đến”. Mọi người ăn cầm chừng đi thấy rõ. Cánh con trai lôi máy ảnh, iPad ra xem ảnh, đọc tin, tranh thủ check mail. Hương với Lan lại tiếp tục màn ai có vợ, ai chưa... Thủy nhíu mày nghĩ cách rút lui, biết mình cũng là một đối tượng để bị tra vấn về chuyện gia đình. Nhưng hôm nay Châu đã thành chủ đề lấn át tất cả, nên chuyện chưa chịu lấy ai của Thủy thành không đáng kể. Nhưng chứng kiến Châu ra sao sau sự cố kia cũng hay. Và tại sao vừa nãy lại muốn gặp Thủy. Châu đến. Trái với hình dung của cả lớp, cô có vẻ thoải mái, tươi tắn nữa là đằng khác. Mái tóc ngắn làm cô trẻ hơn tuổi. Sự thoải mái của Châu khiến cả lớp như khựng lại khi cả bầu câu hỏi định bung ra. Hương rụt rè ướm lời gỡ bí cho cả lớp: “Hôm nọ tớ có đọc tin. Bây giờ nhà ấy thế nào?”. Châu gật đầu cảm kích: “Ừ, thì đang nói chuyện với luật sư”. Thủy để ý thấy Châu như căng mình lên trước những ánh mắt dò xét. Châu vẫn có cái vẻ kiêu hãnh con nhà. Lan nhìn thẳng vào Châu: “Bố cậu không tác động được gì à?”. Châu mím môi, rồi cười nhẹ: “Việc ai làm người nấy chịu chứ”. Lan vẫn không tha: “Thế mà bọn phóng viên chọc thối viết là bố cậu đứng tên cả mấy lô biệt thự luôn. Láo thế chứ”. Hùng lừ mắt lườm Lan. Hương khẽ quay sang Lan, mắng: “Khóa phéc-mơ-tuya mồm ngay”. Thủy để ý thấy mắt Châu rơm rớm, môi giật giật. Hùng vội lên tiếng: “Nào, anh em làm tăng hai đi chứ nhỉ!”. Trong tiếng ồn ào và kẻ đứng người ngồi lố nhố, dáng Châu quay ngang quay ngửa cụng ly trông thật thiếu hẳn sự tự nhiên lúc đầu. Hai cặp mắt giao nhau, Châu mỉm cười: “Thủy!”. Thủy nhớ cái dáng đó, cái dáng lúng túng nữ tính chết người nơi Châu ngày xưa Thủy từng ghét cay ghét đắng. Con trai cả khóa, khóa trên khóa dưới đều dập dìu ở quanh Châu. Cũng có lúc có Hoàng. Thủy ghen. Thủy hay làm mình làm mẩy với Hoàng, có lẽ Hoàng cũng biết tỏng nhưng Hoàng cứ mặc Thủy lồng lộn. Trong đám con trai ấy, Hoàng nổi bật vì vẻ lãng tử nhưng không theo lối nhàu nhĩ bê tha của con trai kiến trúc. Hoàng thờ ơ với xung quanh, điểm số thấp cũng chẳng lấy làm buồn, khác với Thủy. Thủy tham vọng quá. Cô hay so bì về kết quả học tập, về sự may mắn, thậm chí đến cuộc sống hôn nhân như mơ của Châu sau này. Châu kéo Thủy ra bancông: “Lâu lắm mới gặp Thủy! Cứ mãi một mình thế à!”. Thủy miễn cưỡng trả lời. “Ừ, mình hơi ngán gánh nặng gia đình... Mình mà vững vàng như Châu thì...”. Bỗng Châu nức lên, nhưng cô nén ngay lại. Như một cái vòi nước lâu ngày bị gỉ sét bỗng thông van, cô kể một chập cho Thủy nghe. Thủy hoang mang, không biết có đúng là mình đang rơi vào hội chứng con tin đồng cảm với kẻ bắt cóc, mà cô như bị Châu bắt cóc và chinh phục bằng sự thương cảm mà cô thấy nghèn nghẹn trong họng không. Chẳng lẽ hóa ra Châu mềm yếu hơn cô tưởng rất nhiều. Chia tay nhau, mọi người vội vàng tản ra lấy xe. Châu nháy máy cho Thủy để lưu số. Châu ra hiệu đưa tay lên tai nhắc Thủy nhớ gọi điện. Thủy phóng xe một quãng thì có tin nhắn. Hoàng nhắn đi uống cà phê. *** “Sao Hoàng không tới?”. “Chán chứ còn sao. Chừng ấy chuyện. Rượu vào lời ra lảm nhảm”. “Bây giờ Hoàng định làm ở Việt Nam hay đi học tiếp?”. “Chưa biết. Thủy đừng hỏi những câu giống mọi người”. Thủy suýt buột mồm nói “Hôm nay gặp Châu” nhưng rồi thôi. Nghe vậy giống một con mẹ buôn chuyện. “À... năm ngoái Thủy xem phim Hoàng đóng. Ngộ nhỉ”. Giọng Hoàng có vẻ sinh động hơn lên. “Ừ. Một cô em gái học điện ảnh bên đấy mà. Phim ngắn tủn, mình gọi là bình hoa di động”. “Vợ Hoàng có nói gì không?”. “Thích. Khen chồng ăn hình”. Hoàng nhả khói thuốc, nhìn Thủy vẻ châm chọc. Thủy bật cười, nghĩ anh chàng lại giở cái võ sát gái ra rồi. Hoàng rủ Thủy xuống khu Linh Đàm. Nhân viên nhà khách đã quen với các cặp rủ nhau vào đấy nên chẳng hỏi han gì, chỉ hỏi bao tiếng, lấy tiền, đưa chìa khóa. Đi sau Hoàng, Thủy liếc thấy nhân viên trông xe lấy bạt che kín biển đuôi hai xe máy. Trong lúc chờ Hoàng tắm trước, đầu óc Thủy cứ phân tán vì nghĩ về Châu. “Châu nói thật với Thủy là ba năm nay rồi chồng Châu không ngủ cùng giường đêm nào”. “Ngoài thợ làm đầu với con mình ra, mấy năm nay rồi không ai sờ vào người mình hết”. “À thế còn Hoàng... dạo này Hoàng còn liên lạc với Thủy không? Buồn cười nhỉ, Châu mê Hoàng nhưng cũng biết chuyện hai người. Sao hồi ấy Châu lại nông nổi thế!”. Thủy lơ đãng nhìn lên bức tranh phong cảnh thô kệch trên tường. Tiếng nước vòi sen trong phòng tắm đã tắt. Thủy bỗng không còn thấy nôn nao, cái nôn nao đầu ngày... Hoàng đi ra khỏi phòng tắm, trên người mặc cái quần sịp. Thủy bắt gặp cái bụng đã phình thành ngấn của Hoàng, cô vội quay đi bước thật nhanh vào nhà tắm. Cô đóng cửa phòng tắm lại, bên ngoài tiếng Hoàng hát khê nồng rồi tiếng tivi chuyển kênh vài lần. Tiếng léo nhéo của tivi làm đầu óc Thủy nhãng đi rồi cô đắm mình trong làn nước vòi sen. Có tiếng điện thoại reo làm Thủy giật mình. Điện thoại của cô. Cô định mặc kệ nhưng nó lại tiếp tục reo. Không hiểu Hoàng làm gì mà không gọi cô nhỉ? Thủy vội lau qua người rồi vơ đại cái áo choàng phòng tắm lên người, chạy ra ngoài. Hoàng đang ngủ say, ngáy nhè nhẹ, tay vẫn cầm cái điều khiển tivi. Thủy cầm điện thoại lên. Số lạ. “Chị Thủy hay Thùy phải không?” - một giọng nam khê khê. “Vâng?” - Thủy liếc nhìn Hoàng, anh vẫn ngáy ngủ, bụng phập phồng. “Chúng tôi ở đội cảnh sát số 2. Chị Trần Thu Châu, người điều khiển chiếc xe LX màu trắng đã bị tai nạn. Chị là số điện thoại gần đây nhất chị Châu gọi đi”. *** Thủy chỉ kịp lay Hoàng dậy, rồi cả hai hối hả mặc quần áo, đi đến nơi đang giữ xác Châu. Ngồi trên xe sau lưng Hoàng, Thủy gọi cho Hùng, Lan, nhờ báo cho gia đình. Lan kêu gào ầm ĩ làm Thủy rối bời, rồi khó chịu. Cô cũng lấy làm lạ là mình vẫn bình tĩnh. Người trông nhà xác là một người đàn ông trung niên mặt mũi cau có, mặc bộ quần áo kaki nhàu nhĩ. Ông ta mở cửa ra, hơi lạnh từ trong phòng ập vào làm Thủy váng vất. Cô khẽ bóp tay Hoàng. Anh đặt bàn tay lên nắm lấy tay Thủy. Châu được đặt nằm trên khay inox. Người công an cho biết Châu bị đập đầu xuống đường, mảnh vỡ của kính cắm vào thái dương. Thủy nhìn thấy một bên mắt Châu bị lồi con ngươi ra. Làn da trắng đã thâm xám lại. Thủy cúi mặt xuống, bước ra ngoài. Một lát sau đám bạn kéo đến. Vừa mới gặp nhau ban sáng, giờ lại gặp nhau trong hoàn cảnh này, cả hội rơi vào trạng thái nặng nề mà không biết nên bày tỏ thái độ gì. Trái với hình dung của Thủy, Lan tỏ ra rất bình tĩnh và thạo việc. “Phải tìm người phẫu thuật mặt cho Châu”. Đám con trai ngớ ra. “Tưởng trang điểm là được rồi?”. Lan rít lên: “Các ông vào mà xem! Để thế mà được à! Khi còn sống nó xinh đẹp thế nào...”. Đám con trai sượng sùng cúi xuống, rút thuốc lá ra châm. Mấy người phụ nữ gật đầu đồng tình với ý kiến của Lan. “Nhưng tìm đâu ra bây giờ? Việt Đức hay Xanh Pôn có chỉnh hình không nhỉ?”. Lan chạy ra hỏi người trông nhà xác. Ở bệnh viện này không có dịch vụ ấy. Trời Hà Nội về chiều nóng nực bụi bặm. Cả hội xông vào những cái nhà xác lạnh lẽo nhưng không có kết quả. Thủy không hiểu Lan bằng cách nào có sức mạnh ý chí đến mức vẫn không bỏ cuộc. Nhìn dáng Lan đi xăm xăm trong những khu vườn bệnh viện nhập nhoạng, gót giày loang loáng hất tung vạt váy hoa trong ánh đèn cao áp, tim Thủy như đầy lên một cơn nghẹn. Khi trời đã sẩm tối, cả hội thất thểu ngồi trong sân một bệnh viện. Đám con trai có vẻ đã chán nản nhưng không dám lên tiếng. Đám con gái vẫn tìm mọi cách huy động những số điện thoại quen biết để liên lạc xem có manh mối nào. Thủy mệt rã rời, muốn giải tán vụ này. Chừng như cảm nhận đấy cũng là ý chung, Hùng lên tiếng: “Thôi, có lẽ không được việc gì đâu Lan ạ”. “Không! Để nó chết như thế thì tao ân hận cả đời!”. Hoàng nhếch mép, bỏ đi. Thủy định chạy theo nhưng thấy không đủ can đảm nên vẫn ở lại. ... Cuối cùng đám ma Châu vẫn diễn ra bình thường mà không thay đổi gì nơi khuôn mặt Châu. Lúc đi vòng qua quan tài, Thủy không dám nhìn vào nắp kính áo quan của Châu. Cô cũng không đi đưa Châu ra nghĩa trang. Lan nói người trang điểm đã nối tóc cho Châu và che bớt một bên mắt. Thủy cũng không gặp lại Hoàng. Lan báo cho cô biết tin Hoàng đã ly dị và đã quay lại nước ngoài. Sắp một năm trôi qua, nhưng Thủy biết mình sẽ không bao giờ đi họp lớp nữa. Y không là y TTCT - Nghe lời vợ, y bỏ thuốc. Khổ lắm, mười lăm năm với thú vui hút thuốc, cái thú riêng cho đàn ông, bây giờ cắt đứt đâu dễ dàng gì. Bỏ rồi hút hút rồi bỏ, bầm giập. Y so sánh đàn bà cầm điếu thuốc thấy nghịch mắt chứ không oai, không “trí tuệ” như đàn ông. Hút thuốc được coi tăng phần nam tính (có trời biết), vì thế nam sinh nào cũng tập tành hút thuốc. Thời đi học y tập hút, sặc khói thuốc mắt nổ đom đóm. Ngày đầu bỏ thuốc, y sợ nhất cà phê sáng hay lúc rỗi nhìn dòng sông lững lờ chảy ngang nơi làm việc mà trên tay không có điếu thuốc, khác nào ra trận với hai tay không. Chẳng phải vợ lo chi sức khỏe của y, nàng lo cho nàng và nhóc trai năm tuổi. “Nhà như cái hộp, anh hút thuốc mẹ con tôi lãnh đủ” - nàng nói. Nỗi lo chính đáng quá đi chứ. Nhưng nàng làm như chỉ nàng và con mới là người còn y không phải người, là đất cục. Bạn y chế nhạo: “Đất cục sinh được con”. Báo hại từ ngày bỏ thuốc, giấc mơ nào y cũng thấy mình hút thuốc khói bay thơm lừng. Hút lén lút, hút tội nghiệp và rất phê, phê hơn hút thiệt. Đang cơn phê máu dâng tràn khí phách: “Thà bỏ vợ chứ không bỏ thuốc”. Vợ nằm bên nghe tiếng được tiếng mất, dựng đầu y dậy lúc nửa đêm. Tiếp đến bỏ nhậu. Nói thiệt, nhậu là lạc thú riêng cho đàn ông, nhậu để nổ. Đàn bà nổ không cần nhậu (không mất tiền), đó là ưu điểm số một của chị em. Ý vợ không bắt bỏ hẳn nhậu mà nên uống ít và đừng để tốn tiền. “Lương anh mấy đồng, thua lương tôi xa lắc còn đèo bòng ăn nhậu” - vợ cằn nhằn. Nàng làm sao hiểu được rượu nó luôn làm chủ con người, đã uống nó nó bắt uống tới bến. Dân chơi sợ mưa rơi, mặt mũi nào uống ké bạn bè hoài, thôi dẹp luôn cho thanh cao. Mấy thằng ăn nhậu là con Ngọc Hoàng, ông vừa mất đứt đứa con, đành vậy. Còn nữa, thần rượu Bacchus có hàng tỉ đệ tử trên hành tinh này, không biết ngài có để ý đến y vừa mới “phản sư”? Mỗi chiều từ cơ quan chạy thẳng về nhà, len trong dòng người xe tấp nập, điện thoại réo liên hồi rủ nhậu: “Alô, làm chút mát mát đi”, “Alô, tụi tao chờ mày ở quán kè sông”..., y phải nặn ra đủ kế để chối từ. Cũng may tạng người y chỉ ghiền cái khung cảnh rượu bia chứ không ghiền theo cơ chế nghiện của thân xác. Ngày ngày nghe phường trên xóm dưới dzô dzô, nói thiệt thèm nhậu quá trời nhưng y làm phách bảo vợ: “Mấy cha đó tục tằn, uống thì uống chứ cứ dzô dzô nghe nó vô học thế nào em nhỉ!”. Chủ nhựt, y lấy cuốn sách mới mua ra đọc. Đọc sách làm sang trọng riêng cho đàn ông. Đàn bà đọc sách, có chứ không phải không, thậm chí có nhiều nhưng không thể đọc sách với tâm thế làm le như đàn ông rằng ta đây trí thức, rằng ta đây ham học hỏi. Từ đó mà suy, đàn bà dẫu có làm thơ, viết văn cũng chỉ tạo ra những văn bản yếu ớt, thiếu tự tin và có tính nội bộ phái nữ. Vợ lật bìa sách xem, thấy giá hai trăm ngàn đồng, mắc quá, hít hà: “Anh đọc trên mạng chưa đủ sao còn mua sách chi nữa, mấy trăm ngàn chứ ít đâu, thôi dẹp đi”. Trời ơi, đến đọc sách cũng phải từ bỏ thì coi như xong! Năm ngoái về nhà mới, y hăm hở mua cái giá sách thiệt to định sưu tập, nay bỏ dở dang. Mấy quyển sách cũ thân phụ để lại xếp một góc nhỏ trên giá, thấy thảm. Không gian trang trọng của giá sách trống hoác, có thể leo vô nằm ngủ được. Đàn ông sức khỏe phơi phới không hút thuốc, không uống rượu, không đọc sách thì chơi với ai, tán dóc với ai? Ngậm ngùi. Từng thú vui rời xa, rời xa, y lấy gì làm đối trọng cho nỗi buồn xộc tới hằng ngày bây giờ? Y lùng bùng hát câu: thôi rồi ta đã xa nhau/ kể từ khi vợ cấm vợ nhằn. Xa thuốc, xa nhậu, xa sách. Y hờn mát bảo vợ: “Chắc rồi đến lúc xa em luôn”. Nàng cười đắc thắng, cứ việc. Ôi y thương vợ con nhiều lắm, vợ chắc mẩm điều này. Cứ điệu này riết y không còn là y nữa. Vợ chồng y làm việc hai nơi, hoạn lộ của y và nàng đi về hai hướng. Nàng thăng chức lên lương, ngày càng “hiện đại” và đẹp ra. Y tụt dần đụng đáy, thất nghiệp. Thời đại phụ nữ lên ngôi mà lỵ, ai cũng bảo thế. Thì đó, số học sinh bỏ học ở trường phổ thông con trai chiếm 70% còn bậc đại học mười đứa bỏ học hết chín là nam. Giảng viên vô lớp ngó xuống thấy toàn tóc dài, tưởng mất cân bằng giới tính, coi lại do nam sinh rơi rụng trên bước đường học vấn khô khan khó gặm. Kiểu dạy và học bây giờ phù hợp với phụ nữ! Tri thức quyết định tất cả mà, thế giới này đến lúc về tay phụ nữ mất thôi. Một cảnh báo nổi da gà! Với phụ nữ tốt nghiệp đại học trở lên họ chẳng cần đòi hỏi nữ quyền. Họ học được gì ở bậc đại học hay cái bằng làm họ tự tin? Đàn ông sống chung với họ, nam quyền rón rén được đặt ra. Ngày đầu tiên thất nghiệp, vợ an ủi vỗ về sông có khúc người có lúc anh à và ra ngay quyết định: “Thôi, từ nay anh đưa đón con đi học, khỏi mất tiền cho anh Tư xe ôm”. Không sao, y đưa con đến trường rồi ra quán thong dong uống cà phê nghe nhạc, nghe chim hót, tán gẫu với những thằng cùng mất việc chẳng phải vội vàng cũng thú. Y nhớ lại chuyện mất việc, căn nguyên do bỏ nhậu. Không nhậu nên không đề phòng kẻ chơi xấu, không nhậu nên không sâu sát mặt tối cơ quan. Hôm bị vợ bắt “tại trận” ở quán cà phê, nàng nói: “Khỏi mất tiền xe ôm nhưng tốn tiền cà phê, bằng huề”. Vợ ra chỉ thị uống cà phê sáng tại nhà. Sau ít lâu không còn mống bạn bè nào liên lạc với y qua điện thoại nữa. Cắt đứt chuông reo tình bằng hữu từ đây. Nàng thừa thắng xông lên, ôm y từ phía sau, vui vẻ nói: “Nấu ăn đâu có khó gì, em dễ tính lắm ăn sao cũng được, nay anh nấu cơm để chị Năm nghỉ. Dù sao anh chỉ ở nhà, có thể tra Google để biết cách chế biến thức ăn. À, anh kèm con học luôn, khỏi tốn tiền học thêm anh nhé”. Số phận cả thôi, hồi nhỏ y trai cả, phía sau là đàn em đông đúc nên nấu cơm, chỉ em học y vốn quen tay. Rõ ràng số phận đôi lúc được quyết định bởi hoàn cảnh, bởi lý lịch chứ không hẳn bởi tính cách. Khổ nỗi vợ nói cái gì y cũng thấy có lý. Nàng thuyết phục y bằng nhục cảm của một cơ thể đẹp gần như toàn bích của nàng. Y mơ hồ lo sợ nàng xử sự tương tự như vậy ở công sở. Tiếp tục, chị Sáu giúp việc bán thời gian giặt giũ lau dọn, vợ cho nghỉ luôn để y đảm nhiệm. Nàng bẹo má y, âu yếm: “Có gì đâu anh, anh chỉ bỏ đồ vô máy giặt, bấm nút. Còn lau nhà em có thể phụ anh”. Tiền nào sức lao động nấy, lương càng tăng vợ càng mệt nhoài khi về đến nhà, còn mang cả việc cơ quan về nữa, nỡ lòng nào bắt nàng phụ việc. Ba tháng sau khi thất nghiệp, vừa hết lương trợ cấp, y chính thức thành “bà nội trợ”. Phải vai đóng tuồng thôi con ạ, mẹ y đã dạy vậy. Y đi chợ và làm thân với cô nội trợ chính hiệu, xinh đẹp, mắt ướt rượt hút hồn ở cùng khu phố. Y thoáng ý nghĩ thôi thì mất thú vui này ta bày thú vui khác, vợ coi mà liệu hồn. Nghĩ thế thôi, chứ sau gặp cô ấy thường xuyên, y không đủ tự tin bản lĩnh đàn ông của mình nữa. Nhiều người vì hoàn cảnh đành đánh mất mình, làm cái bóng của sếp, làm nô lệ cho người tình hay đang phiêu bạt xứ người chẳng hạn, trong cơn quẫn bách họ hét lên vô vọng: “Tôi là ai?” và la cả bằng tiếng Anh: “Who am I?” nữa cho nó thống thiết, cho nó mang tính toàn cầu. Trí nhớ còn, tư duy còn chứ đâu phải chấn thương sọ não mà hét toáng lên “tôi là ai” nghe đau đớn, bi kịch vô cùng. Y cũng thế, đã tự hỏi nhiều lần “tôi là ai” trong cái gia đình này? Là chồng hay vợ? Theo y, “khái niệm chồng vợ” không phụ thuộc giới tính, nó phụ thuộc quyền lực và tiền bạc. Có ông nhạc sĩ cũng từng la: Tôi là ai, là ai, là ai? Mà yêu quá đời này đấy thôi. Lạ ở chỗ ông nhạc sĩ ngạc nhiên mình là ai sao lại quá yêu đời? Ông giễu nhại sự đời hay chỉ dấu tích cực cho tâm sinh lý? Ông vô ưu như cây cỏ hay ông mắc chứng tâm thần phân liệt? Đến thời điểm này, y thực sự trọng thị những tay đàn ông còn dám khẳng định: “Tôi luôn là tôi chứ không là ai khác”. Đó là những anh hùng, ít ra trong mắt y thời nay. Không giải phẫu chuyển đổi giới tính, không bất ngờ kiểu hồn Trương Ba da hàng thịt, y chỉ từ từ không là y. Y thèm ngọt, thứ y ghét nhứt lúc còn ăn nhậu. Râu, lông không thấy rụng mà sao cứ thưa dần. Hai má y căng bóng, chân thon lại, ngực vun tròn. Đặc biệt thằng con y nó ôm y nói: “Người ba thơm phức à”. Màu kỹ trị trong gia đình y nghiêng về đàn bà, thật đáng xấu hổ. Y dự đoán vài năm tới chính ngày 8 tháng 3 hay ngày 8 tháng 8 (hai cái còng số tám) sẽ là ngày quốc tế đàn ông, 364 ngày còn lại là của đàn bà. Một hoán vị thời thế. Một hoán vị khó cản ngăn. Bụt dạy: Người là nương tựa của chính mình, còn ai khác có thể làm nơi nương tựa. Y không là y, y nương vào ai? Bất hạnh ở chỗ y biết rõ quá trình biến đổi nhưng vô phương cứu vãn. Ban ngày nghĩ sao đêm mơ vậy, y mơ thấy mình biến thành vợ còn vợ biến thành y. Vợ ngồi vắt chân hút thuốc, đọc sách ở phòng khách với mái tóc cắt ngắn như ca sĩ Mỹ Linh, trông oai, đẹp và sang trọng lạ thường, bảo: “Đi pha cho tôi ly cà phê”. Nàng lệnh nhưng mặt vẫn cắm vô trang sách. Y đi nhanh xuống bếp, vùng vằng kiểu của người lép vế: “Được, làm đàn ông chỉ tổ chết sớm thôi, cứ làm đi rồi trắng mắt ra”. Sự chịu đựng, sự che giấu nào cũng tới hạn. Hôm có người đàn bà đến cổng nhà hỏi: - Vợ anh đâu? - Là tôi đây - y vô thức trả lời. - Tôi hỏi vợ anh kia. - Thì tôi đây, tôi chính là vợ tôi - y hét. Người đàn bà trố mắt sợ sệt bỏ đi. Chắc bà ta nghĩ y mát. Mát thiệt rồi nhưng có sao đâu. Y tỉnh khô quay vô nhà, ẻo lả làm điệu bộ, hát: Đừng tuyệt vọng tôi ơi đừng tuyệt vọng, em là tôi và tôi cũng là em... Có vẻ như chỉ y mới thực sự hiểu câu hát này của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Lão Khởi Cập nhật lúc 09:34, Thứ Ba, 26/08/2008 (GMT+7) . Truyện ngắn của Nguyễn Văn Mấy hộ đấu chung khu đồng Cây Đa để mở trang trại phát triển kinh tế, đã mượn lão Khởi lên trông nom. Đồng vẫn còn cấy lúa, đang bị vịt các nơi đến phá. Lão Khởi tuy đã ngoài sáu mươi nhưng vẫn còn khỏe. Vợ chết đã lâu, ở một mình. Ba đứa con, đứa lấy chồng, đứa đi lập nghiệp xa, ít chú ý đến lão. Từ lâu chúng vẫn nghĩ bố chưa yếu lắm. Mùa cấy vài sào ruộng là đủ gạo ăn. Còn đồng dưa, đồng mắm thì trông vào tài vặt của bố kiếm cũng đủ. Thời trai trẻ, lão Khởi rất khỏe và chăm làm. Ngày hợp tác xã mới thành lập có vài ba chục hộ, ban quản trị ba người, đều là chân đảng viên kỳ cựu và liêm chính, chưa ai nghĩ đến tham ô, lợi dụng. Mọi người thực hiện đầy đủ khẩu hiệu “hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ” thì lão Khởi cũng được bầu là cá nhân xuất sắc. Hợp tác xã dần lên to, việc quản lý vượt quá trình độ cán bộ, ban quản trị xuất hiện một số người đánh mất phẩm chất đảng viên, bòn rút của công làm của riêng. Việc làm ăn chung cũng đánh mất đi nền nếp cần cù, cẩn thận của cha ông để lại. Người “làm thật thì ăn cháo, kẻ làm láo thì ăn cơm”, khiến nhiều xã viên nản lòng, trong đó có lão Khởi. Lão sinh lười, gọi lấy thóc chia, lão ra; gọi đi làm, lão cáo ốm. Mức ăn có thấp nhưng nhàn. Rỗi rãi, khi lão câu ếch, đơm đó, lúc thả rọ lươn. Hợp tác xã lập khu nuôi cá, thì lão đến câu trộm. Lão rất tài, chả mấy ngày không có cá ăn! Khi hợp tác xã tổ chức nhà ăn tập thể, lão xin vào làm trong đội quân “dao thớt”. Lão xào nấu ngon, được khách khen. Một số vị chức sắc địa phương khi nhà có công to việc lớn đều gọi lão đến phục vụ. Sang thời kỳ đổi mới, địa phương xóa bỏ lối làm ăn cũ, thì ao cá, trại lợn, vườn cây và cả cái nhà ăn tập thể cũng xóa bỏ. Lão Khởi chuyển nghề. Nhà ai có nái lợn, ổ chó đẻ, con bê giống, lò gạch vừa ra… muốn bán được giá, lão nhận “chỉ trỏ” kiếm tiền “hoa hồng”. Gần đây, xã bên cạnh có một số người nuôi vịt thả đồng. Đàn vịt đẻ. Đàn vịt thịt. Vịt nào cũng cần nhiều mồi, nhất là mồi tanh. Họ lén lút lùa vịt sang các đồng xa, trong đó có cánh Cây Đa kiếm mồi. Quy ước chăn nuôi đề ra chặt chẽ, một số nơi thực hiện nghiêm chỉnh. Còn không ít nơi làm láo, báo cáo hay, nên dịch bệnh mới lan tràn. Trông coi đồng ruộng là việc của đội bảo vệ. Song thù lao có hạn, đồng lại rộng và xa, anh em không coi xuể. Hỏng lúa bắt đền thì mang tiếng quá khắc nghiệt mà bỏ qua lại thiệt thòi! Vì thế mấy nhà có ruộng đến nhờ lão Khởi trông coi. Thấy thái độ họ có vẻ cần thiết đến mình, lão phát giá 40 nghìn đồng một công. Giờ mượn người đâu dễ! Vả lại, công cấy còn 5 – 6 chục nghìn một sào, huống hồ công coi đồng, nhất là coi vịt trong lúc dịch “hắt năm” (H5N1) đang hoành hành. Sơ suất một chút là toi mạng. Thấy người thuê phải “chịu trận”, lão Khởi nhẩm tính “lương” mình kém gì lương hưu đại úy! Nhận việc, sáng bảnh mắt, lão đã có mặt trên đồng. Lão đội nón lá, mặc sơ mi xanh và chiếc quần lửng để dễ bề hoạt động. Tay cầm một chiếc roi tre thật dài, mắt lão liếc ngang, liếc dọc như một chiến sĩ trinh sát theo dõi địch tình. Nhìn tận phía xa, chẳng thấy bóng một đàn vịt nào, lão nghĩ mình khéo “thất nghiệp”. Kia rồi, mấy “thằng lỏi con” dắt trâu đến. Chưa có vịt thì “trị” trâu vậy. Thấy bọn trẻ chăn trâu tới gần, lão vụt chiếc roi tre veo véo vào không khí: - “Chúng mày” đứa nào đưa trâu sang cánh đồng này, tao chặt chân! Có đứa hỏi: - Sao ông cấm chúng tôi? - Ai ông cũng cấm tuốt! Mắt lão quắc lên – ông nhận bảo vệ cánh đồng này. Trâu “chúng mày” sang, trước là ăn hại lúa, sau dẫm nát bờ, nên cấm, nghe chửa? Nhìn cái roi vẫn vụt veo véo, bọn trẻ lôi trâu sang cánh đồng khác. Ngồi mãi chồn chân, hôm sau lão nảy ra sáng kiến: mang theo cái võng dù mắc vào trạc cây nằm. Nằm đu võng, lão ngẫm số lão thế mà sướng. Từ hôm nhận coi đồng, lão chẳng phải đầu tắt mặt tối gì, mà ngày xơi ngon mấy chục nghìn. Suy ra thì anh cấy ruộng cũng khổ. Chả biết rồi làm gia trại, trang trại sẽ giàu có thế nào, chứ giờ làm ra được tấn thóc mệt sức lắm. Còn anh nuôi vịt cũng chẳng nhàn nhã gì. Nón mê, quần đùi, suốt ngày đánh vật với đàn vịt. Da thì đen cháy, chân thì nứt toác. Mua vịt cũng phải mua trộm. Rồi về chăn trộm. Nhưng sao che mắt được các công thú y và chính quyền địa phương. Thế là lại phải đút lót để đàn vịt được công nhận là tiêm chích phòng bệnh rồi. Gian dối hết. Một đàn dăm ba trăm con vịt, mỗi con bằng nắm tay, ai bắt được lên mà tiêm cho hết? Cứ như lão đi làm thuê lại sướng. Ngày ba bữa cơm rượu. Tối đánh một giấc tới sáng bạch. Không phải nói phét giường “mô đét” sao êm bằng võng mắc chạc cây, còn máy điều hòa nhiệt độ sao thoáng mát bằng anh gió nồm nam giữa đồng? Lão Khởi nhún nhảy trên võng rồi khoái chí hát: “cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn. Hai đứa ở…” (bài lão học mót được của cựu chiến binh trong cuộc họp). Tiếng lão ồm ồm như gõ ống bơ gỉ, nhưng đầy hứng khởi. Mặt trời chếch qua đầu, lão bỗng thấy thấp thoáng bóng người ở lũy tre làng bên, chiếc gậy dài tua rua chốc chốc lại huơ lên. A, quân chăn vịt! Mẹ mày, sang đây! Bố chờ hết nước hết cái, hôm nay thì biết đời mày “quân hắt năm” ạ. Lão lủng bủng như rên. Cái gậy tua rua đã sang đến con mương giáp ranh cánh đồng. Đàn vịt rào rào lội xuống nước. Bì bõm, bì bõm! Lão Khởi rút chân khỏi võng, rê dần xuống đất. Vịt càng đến gần, trống ngực lão càng đập rộn. Thì ra, lão hồi hộp. Ai mà không hồi hộp cơ chứ. Nhưng cứ bình tâm Khởi ạ. Việc đếch gì phải run? Lão tự trấn an như vậy. Cái gậy tre lăm lăm trong tay, chỉ chờ cự ly “kẻ thù” rút ngắn là lão vùng lên “chiến đấu”. Kể ra không nên đánh chết vịt của người ta. Ai cũng của đau con xót! Nhưng đây là loại bất trị. Chúng đã bao lần sang phá đồng rồi. Giải thích mãi không chuyển, mới phải dùng biện pháp “quân sự”. Mặt khác, đang lúc dịch bệnh lan tràn mà họ vẫn ngang nhiên nuôi vịt chạy đồng để gieo rắc mầm bệnh thì không “xử nhẹ” được. Phải kiên quyết mà làm. Tiếng chân lội, tiếng lách mỏ vào những gốc lúa của đàn vịt nghe rúc rích, khiến lão sôi gan. Lão nín thở. Rón rén xê dịch. Đàn vịt đã “trêu ngươi” ngay trước mắt. Lão xổm người rồi đánh loáng, bổ vào đàn vịt vụt lia lịa. Vừa vụt, lão vừa gầm lên: “Này phá lúa, này phá lúa”! đánh chết giống “hắt năm” đi! Bị đòn bất ngờ, đàn vịt tản loạn. Tiếng gào của người, tiếng kêu của vịt vang về tận làng. Lão Khởi hăng máu. Đuổi, hét, vụt tơi tới. Đến khi đàn vịt lội té xuống mương, chuồn về bên kia cánh đồng mới thôi. Người chăn vịt lúng túng đi sau, khi thấy lão nhảy bổ lên vụt như điên thì hãi mất mật, chạy như ma đuổi. Lão toan dướn theo tóm lấy “tên chủ vịt, trói lại đem nộp xã, nhưng anh ta chân dài lại khỏe, lão không đuổi kịp. Như vậy là chiến công cũng “vang dội” rồi, tha cho nó. Khi “kẻ địch” rút chạy hết, lão Khởi thu dọn chiến trường. Tám con vịt đẻ tử thương. Mấy con ngắc ngoải, con nào cũng béo múp, bầu trứng xô xệ. Lão nghĩ đến một bữa nhậu, xào măng tươi, vịt luộc chấm nước mắm tỏi thì nửa lít “cuốc lủi” vẫn còn ít. Nhưng lão chợt thấy mấy con vịt máu me đầy mình, tanh tưởi nồng nặc, thì lại ớn sống lưng. Biết rằng miếng ăn là quý, nhưng cao lương mĩ vị “quá khẩu cũng thành tàn”, huống hồ miếng thịt vịt? Thôi cứ thu mấy xác vịt chết này về trình xã, để xã đưa giấy sang xã bạn bắt họ phải kiên quyết thực hiện lệnh cấp trên cấm nuôi vịt chạy đồng trong lúc dịch bệnh hoành hành này…! Tình ớt Thời gian thất nghiệp, rất vô tình, anh luôn gặp phải những cơn mộng mị đến nghẹt thở. Đêm nay cũng vậy, đang ngủ đột nhiên anh bật khóc nức nở. Chị thức giấc rồi bật đèn, trông thấy anh đang úp mặt vào tường. Anh khóc ngon lành như một đứa trẻ. Chị ngồi xuống cạnh anh, ôm lấy bờ vai đang rung lên từng chặp theo tiếng khóc: “Anh! Có chuyện gì thế?”. Lập tức, anh nắm lấy bàn tay chị, giọng ướt mèm: “Em không được rời xa anh, phải bên anh mãi mãi”. Rồi như bình tĩnh hơn, anh thủ thỉ: “Anh vừa nằm mơ, thấy mình đi làm về và không còn thấy em ở nhà…”. Chị nghe xong liền ôm anh thật chặt, dỗ dành bằng chất giọng ngọt mềm: “Em vẫn ở đây với anh mà, có đi đâu đâu!”. Ấy vậy mà chị đã không giữ được lời hứa của mình. Khi đó, anh và chị kết hôn vừa tròn 3 năm. Hôm đó là chủ nhật. Vừa kết thúc bữa ăn sáng xong thì chị bảo: “Anh à! Em rất thích ăn ớt, anh đi kiếm vài cây về trồng trong nhà giúp em đi”. Thường, anh vẫn đáp ứng mọi yêu cầu của chị nhưng vẫn bảo: “Ngoài chợ có thiếu đâu. Em trồng làm gì cho mệt!”. Chị bảo: “Không. Em thích ăn ớt do tự tay mình trồng kia”. Anh vui vẻ lên đường. Có lần ra công viên, tình cờ anh trông thấy ở góc công viên có một cây ớt với những quả ớt đỏ chi chít, mới nhìn không khác gì những bóng đèn nháy được mắc lên cây đào hay cây mai mỗi dịp Tết đến. Anh liền chạy xe tới công viên. Và quả nhiên, ở đó đang có những cây ớt con mọc lên. Anh chọn hai cây mập mạp nhất, cho vào một túi ni lông rồi quay xe về. Anh háo hức tìm chị khoe chiến lợi phẩm. Phòng khách chị không ngồi. Phòng bếp cũng không có chị. Chỉ còn phòng ngủ. Anh rón rén mở cửa phòng ngủ nhưng phòng vắng tanh. Quái, không biết chị đi đâu? Anh liền quay ra, đợi trưa chị về. Nhưng khi anh vừa ra phòng khách, liền trông thấy trên chiếc bàn uống nước có tờ giấy gấp tư được đặt dưới một chiếc cốc thủy tinh. Anh vội vàng cầm tờ giấy lên xem. “Chào anh! Em đi lần này không biết khi nào gặp lại”. Anh thấy bủn rủn chân tay. Giấc mơ ngày nào trở thành hiện thực. Lúc này, anh muốn khóc mà không sao khóc được. Hai mắt ráo hoảnh chăm chắm nhìn vào tờ giấy. Chỉ có ngực trái là đau thắt. Sực nhớ ra hai cây ớt, anh liền đi tới góc nhà cầm túi ni- lông lên, dự tính sẽ đập nát tất cả. Nhưng rồi anh khựng lại. Chị bảo “không biết khi nào gặp lại” chứ đâu phải sẽ không bao giờ gặp lại. Anh mà đập hai cây ớt này đi, mai mốt chị về lấy ớt đâu cho chị ăn. Nấu cá đồng mà không có ớt, tanh lắm! Anh hớn hở xuống bếp, cầm con dao đi ra trước nhà, lựa nơi có nhiều ánh sáng rồi bắt đầu dùng dao xới đất. Xới đất xong anh lại vào nhà lấy một ít kali để bón lót. Mấy ngày sau, chẳng hiểu sao cây bên trái lại héo rũ rồi chết. Anh dồn công sức vào cây ớt còn lại. Đó là một cây ớt chỉ thiên, vì lần đó ra công viên, anh thấy quả của nó quay lên trời. Anh thầm mừng trong bụng. Chị thích ớt phải cay thì ớt chỉ thiên là lựa chọn số một! Nghe người ta mách nước, anh còn đi xin phân gà mục về bón cho cây vì như vậy, quả ớt sẽ càng cay hơn. Thỉnh thoảng, anh cũng tỉa bớt cành lá cho đỡ rậm. Hai tháng sau, cây ớt cho ra những bông hoa trắng li ti. Anh ngắm nhìn hoa không chán mắt, hồi hộp đợi chờ ngày cây ra quả. Đến tháng thứ ba thì những quả ớt bắt đầu chín đỏ. Từng quả ớt đâm thẳng lên trời, láng mướt. Anh sung sướng vừa ngắm nhìn những quả ớt đỏ rực vừa chờ đợi. Sự chờ đợi kéo dài từ mùa ớt này sang mùa ớt khác. Được mấy năm thì cây ớt mẹ khô quắt và chết. Khi đó đã có một lớp cây con kịp nhú lên do những trái ớt không người hái rụng xuống. Anh chọn một cây con mập mạp nhất để làm giống, còn lại thì cắt bỏ. Và cứ vậy, cây con này lớn lên, cho trái rồi thành cây mẹ... Một buổi sáng, có người đàn bà sang nhà chơi. Vừa bước vào cổng, trông thấy cây ớt chỉ thiên ở góc nhà, chị đã xuýt xoa: "Chà, nhà anh có cây ớt sai quá! Lát cho tui mấy quả về kho cá nha anh!". Lúc đó, anh vội vàng chạy lại, miệng liến thoắng: "Không được. Không được. Để đó, mai mốt vợ tôi về, vợ tôi ăn. Vợ tôi thích ăn ớt lắm!". Người hàng xóm liền quay gót ra về. Không thèm nhìn anh đang hí ha hí hửng bên cây ớt... Lại một buổi sáng, sau rất nhiều buổi sáng mà người đàn bà sang chơi, có thằng bé con chừng 6 tuổi, thập thò ngoài cổng. Từ mấy năm nay, ông và nó - một già một trẻ nhưng cả hai vẫn là đôi bạn thân với nhau. Bởi vậy, khi nghe thằng bé cất giọng: "Ông ơi. Mở cửa cho cháu với", ông nhanh chóng ra mở cổng. Thằng bé đi vào, trông thấy cây ớt trĩu quả, quả nào quả nấy đỏ rực, thích thú lại gần. "Hôm nay cây ớt có nhiều quả chín quá ông ạ! Tẹo nữa, ông cho cháu xin mấy quả, cháu mang về cho bố, ông nhé!". Ông lão vội vã chạy tới, hai tay vòng lấy cây ớt. "Không được. Không được. Để đó mai mốt về, bà ấy còn có ớt mà ăn". Thằng bé thấy ông lạ quá, sợ hãi chạy về nhà. Sau lưng, ông lão vẫn chăm chắm nhìn cây ớt một cách say sưa... Đã cuối mùa ớt. Chỉ còn hai trái ớt cuối cùng sót lại trên cây. Bần thần, ông lão đưa một trái lên miệng cắn thử. Lập tức, vị cay xộc lên tận óc khiến ông ho sặc sụa. Mồ hôi vã ra, ướt đằm cả khuôn mặt. Nước mắt cũng theo đó mà chảy tràn trên hai khóe mắt. Ông cứ gập người xuống và ho, cho đến lúc kiệt sức và nằm gục xuống đất. Trước lúc nhắm mắt, ông trông thấy một quả ớt đỏ đã chín khô quắt, nhẹ nhàng rụng xuống... Chị Xoan Cập nhật lúc 11:13, Thứ Tư, 21/03/2012 (GMT+7) Làng tôi kể cũng hay, nói là “họ” thì có lẽ cả làng đều có họ. Dân làng quây quần dưới lũy tre xanh, đời trước chỉ sợ đời sau xa nhau. Nhưng họ vẫn chia ra nhiều chi, nghĩa là khác tên đệm. Đối với con gái thì khó phân biệt hơn, ai cũng “thị” cả. Có người bảo, thằng cu Bưởi (tức là tôi) phải gọi con Xoan là chị. Nhưng người khác lại nói, có mà con Xoan phải gọi nó bằng anh. Cũng chẳng hiểu sao, lớn lên tôi đã thấy mình gọi chị là “chị”. Chị có vẻ già dặn, nhỉnh hơn tôi vài tuổi… Rõ thật là, sao tự dưng hôm nay tôi lại kể lể những chuyện ấy ra đây(?). Xa quê từ những năm chống Pháp, lâu lâu tôi mới về làng, thường là vào dịp tết. Mỗi lần về lại chứng kiến những đổi thay của quê hương. Đường sá mở rộng, nhà mái bằng mọc lên, lấp kín cả những mảnh đất hoang, nơi mấy chục năm trước bọn trẻ chúng tôi thường bắt chim, đào dế… Cùng với những biến đổi của thời cuộc, dân làng trải qua bao nỗi thăng trầm. Người cũ cứ vợi dần, hoặc đã qua đời, hoặc đang tha hương như tôi. Vẫn mảnh đất ấy mà cảnh lạ, người mới khiến tôi bùi ngùi. Trước cái nhìn của lũ trẻ hôm nay, tôi trở thành người dưng. Làng giờ đây đâu còn là của tôi, cho dù tôi mãi mãi thuộc về nó. Ước gì làng vẫn như xưa. Chỉ những người cùng lứa là không quên nhau. Những đứa áo vá, quần đùi dải rút lồm ngồm bò trên thềm đình nắn nót viết chữ i tờ. Lâu lắm rồi tôi không gặp chị. Chị đi đâu mà nhiều năm qua cũng vắng lặng như tôi? Trở về làng, chị đã là một người điên, một người điên trăm phần trăm nhưng vẫn còn nhớ quê mà về làng. Lòng bồn chồn nghe tin chị về. Ngày ấy chị đẹp lắm, đẹp mà dễ gần. Hàm răng hạt lựu, khi chị hé môi cười thì hình như chị đã thuộc về người nói chuyện. Có lần tôi gặp chị gánh lúa đến cổng làng. Hai bên lúa lù lù che lấp người, đè nặng lên bờ vai thon nhỏ. Chị đi như chạy, bụng chân loáng nước. Nghe tiếng tôi gọi, chị dừng lại: “Bưởi đấy phải không?”. Tôi giục chị đặt gánh xuống. Chị cười: “Gánh lúa ai lại nghỉ”. Nhưng chiều tôi, chị nghe theo. Chị ngả nón có quai tết hoa màu tím, chao xuống giếng vục nước. Rồi úp mặt trong chiếc nón lá trắng phau uốn cong đi vì nước mát, chị uống một hơi thật dài, giơ cùi tay quệt những giọt nước rớt cằm ngẩng lên cười. Nước rớt cả vào ngực áo. Chưa bao giờ tôi thấy chị cười tươi như thế. Ngày chị đi lấy chồng thật buồn, nhà trai đã đốt pháo ở cổng ngõ mà nhà gái còn nháo nhác tìm cô dâu. Tôi tìm thấy chị trong cái miếu hoang lâu nay không ai thờ cúng. Bờ tường và lối đi rêu phủ những thảm dày, dẫm lên như bị cù buồn dưới lòng bàn chân. Trong miếu đứa nào bậy bạ viết mấy chữ: “Con Xoan thằng Bưởi” bằng than bếp trên cái bậc đặt bát nhang chẳng bao giờ thấy hương khói. Đã có lần tôi và chị trú mưa tại đây, phát hiện ra dòng chữ, chị đỏ mặt dùng tay xóa mãi không được. Một chú nhện từ nóc nhà nhảy dù xuống mái tóc chị, rồi nhảy sang vai tôi, kéo theo một sợi tơ trắng mỏng như không. Chị bảo đó là cái điềm. “Chị về đi cả nhà đang chờ”. Tôi cho biết họ đi tìm chị khắp nơi, cả giếng làng, ao đình… Chị chộp lấy cánh tay tôi: “Em có thương chị không?”. Tôi sợ, nghẹn ngào nắm lấy bàn tay chị. Bàn tay mềm mại. Việc đồng áng nặng nhọc hình như cũng biết né tránh làn da, mái tóc chị, mái tóc đen mượt phảng phất mùi da thịt. Mười năm sau, một lần về làng, tôi lại nhà thăm chị, chị lẩn vào buồng tránh mặt tôi. Tôi ngồi ở nhà ngoài, trên chiếc chõng tre có cái điếu cày, ống đóm và một ngọn đèn dầu leo lét hạt đậu. “Chị Xoan! Chị Xoan ơi, chị Xoan!”. Im lặng rõ cả tiếng mọt trên nóc nhà. Bỗng nghe òa tiếng khóc nức nở. Tôi chạy xộc vào, vừa bước qua ngưỡng cửa, một chân còn ở bên ngoài thì chị hớt hải lao ra: “Bưởi ơi, em có cười chị không?!”. Chị lau nước mắt. Cười. Tròng mắt hình như hơi lồi, ánh một vệt sáng trắng dài dại. Phải chăng chị đã có dấu hiệu thần kinh từ ngày ấy. Tội chưa, còn đâu mái tóc mềm xõa ngang vai, chị chít khăn vuông đen kín đầu như một bà già. Vào một đêm không trăng sao giữa mùa thu hoạch mía, khi làng xóm chập chờn đi vào giấc ngủ, người ta bỗng nghe tiếng kêu hoang dại từ sân kéo mía của hợp tác. Mấy nhà lân cận đổ xô đến thì thấy chị nằm vật bên trục ép mía, đầu không tóc đỏ lòm. Mớ tóc dài cuốn quanh trục gỗ nhãn, rối trong đống bã mía thấm máu. Đây không phải lần đầu con trâu kéo của hợp tác xã giở chứng. Chồng chị bắt nó làm việc liên tục suốt từ chiều, không cho một nắm cỏ, một ngụm nước. Đến lượt Xoan ra thay chồng, bao nhiêu bực tức nó dồn vào cặp sừng, húc dúi chị vào trục ép đang quay, giữa lúc chị bần thần nghĩ ngợi. Chị hay tư lự trong lúc làm việc, không hồn nhiên như ngày chửa lấy chồng. Người ta cáng Xoan lên bệnh viện tỉnh ngay trong đêm, và chị được cứu sống. Nhưng cũng từ đó chị bị chồng bỏ lửng, phải về ở nhà với mẹ đẻ. Những lần về quê sau, tôi không gặp chị nữa. Nghe nói có đoàn thanh niên xung phong đến ở nhờ nhà vài ngày, hôm họ lên đường chị theo đi. Sắp gặp lại chị rồi… Dù chẳng bình thường như xưa, nhưng tôi tin chị không thể nào quên tôi được. Chị vắng nhà đã mấy hôm nay. Chị sống một mình trong căn nhà cũ của bố mẹ mất đi để lại. Ba gian nhà lạnh tanh không một thứ đồ đạc. Những cành lá có buộc giẻ đỏ cắm la liệt trong nhà và dọc lối đi ra vườn. Trên chiếc chõng tre ọp ẹp tôi ngồi một mình. Cô hàng xóm bên kia lũy tre vừa băm bèo vừa trả lời từng câu hỏi của tôi chứ không sang. Cô kể rằng đám cưới nào trong làng cũng thấy Xoan ôm bó hoa tươi đến và hát tặng mấy bài quan họ. Tôi vớ chiếc điếu cày, tong tóc, lâng lâng nhả khói. Chị về! Đầu chít khăn mỏ quạ, mặt nhòe trong khói, chân bước nhẹ bẫng, bay trong mây. Chiếc ba lô con cóc trên lưng gài cành lá ngụy trang, cùng những tua rua vải đỏ, vải đen bay lòa xòa. Tôi đã rõ mặt chị. Chị cười. Hàm răng hạt lựu hiền hòa. Mắt chị sợ quá chị ơi! Một dòng điện buốt lạnh chạy dọc sống lưng. Tôi không dám nhìn vào mắt chị. “Bưởi ơi!”. Chị chộp tay tôi lắc mạnh. “Còn nhớ chị không?”. Chị ôm chặt lấy tôi, hôn lên khắp mặt. Hoảng quá, bủn rủn cả người, tôi nhắm mắt lại, chỉ để lọt vào tai giọng nói thân quen, ngọt ngào. Giọng chị đúng như ngày xưa, khiến tôi định thần được. Tôi nghe chị hát: “Bèo dạt mây à trô… ôi… i”. - Trời ơi… chị! - Tôi ứa nước mắt. “Chị đây, Bưởi ơi!...”. Chị càng xiết chặt tôi hơn: “Còn nhớ chị không?”. Rồi chị tan đi trong khói thuốc lào, để lại mình tôi trên chiếc chõng tre ọp ẹp… - Chẳng biết đến bao giờ thì chị ấy mới về? - Tôi hỏi gióng. - Cháu cũng chịu. Vô chừng, hôm thì sớm, hôm thì muộn, có khi không về cũng nên. - Thế ai nuôi chị ấy? - Bà ấy được trợ cấp. Rồi bạn bè, ở nhà nào thì làm cho người ta. Bà ấy gánh khỏe lắm, thanh niên như bọn cháu không địch được đâu. Sau đó tôi biết thêm, trong những năm ở thanh niên xung phong, chị sống vô tư, yêu đời, chẳng ai lạc quan bằng chị. Hòa bình chị đi thăm nhà các bạn cũ cùng đơn vị, sống như người trong gia đình. Bạn này đi lấy chồng, chị lại tìm đến nhà bạn khác và khi cô bạn cuối cùng về nhà chồng thì chị phát điên, về làng sống một mình. Mặt trời đỏ ối sau rặng tre cuối làng. Rặng tre lưa thưa vắng bóng những cánh cò thuở nào. Chúng đi đâu mà lâu nay cũng không về? Nhớ quá, những bước chân trâu ập ịch lúc về đồng, mùi khói bếp rạ và nụ cười không bao giờ tắt của chị trên đường làng. Ánh sáng điện, mùi xăng, tiếng xe máy hòa trộn trong tiếng nhạc xa lạ của hàng trăm, hàng ngàn ra-đi-ô, cát-xét, ti-vi mở cùng một lúc. Chân bước trên đường làng đang được trải nhựa, lòng chợt nhận ra đất quê mình không giống đâu, loại đất cát pha, mưa xuống là sạch, tạnh mưa lại ráo ngay, không dính lấm. Con đường lưu giữ những dấu chân điểm chỉ của dân làng, của tôi và của chị. Giờ này chị ở đâu? Bỗng nghe xôn xao tiếng trẻ nhỏ. Hòn đá từ tay nào ném vào đầu chị như cô hàng xóm vừa kể. Giá như chúng biết được chị Xoan ngày xưa nhỉ. Chị Xoan mà mỗi trưa hè vẫn ngả nón vục nước giếng làng, chị Xoan của những đêm trăng suông quan họ, chị Xoan trong những bài vè trêu chọc của trai làng mà nụ cười làm rạng rỡ cả giấc mơ của họ và của tôi… Tôi đứng chờ những người trên xe buýt bước xuống, chợt bắt gặp một ánh mắt rất lạ. Một bà già gầy đét, nhăn nheo, móm mém đang nhìn tôi. Tôi nhìn lại bà. Người dưới đẩy lên, người trên xô xuống. Đứng trên xe, tôi vẫn thấy bà nhìn lên. Chết thật, hay là chị? Xe lăn bánh… xa rồi. Sao tôi không lên tiếng gọi? Đầu chít khăn mỏ quạ, một vết sẹo lõm giữa trán vì đá ném của trẻ con. Phải, người điên nếu không nói, nhiều lúc cũng chẳng khác người thường. Ờ nhỉ, thì ra “chị” đã là “bà” rồi, tôi thử nhẩm lại tuổi. Đúng, chị phải già hơn cả mẹ chị ngày xưa ấy chứ. Chị đấy! Rất có thể… Nhưng mà không, không phải đâu. Người kéo xe ba gác i cũng bảo cái phố nhỏ của chúng tôi tuy chẳng mấy giầu sang nhưng là một khu dân cư thành đạt. Người ta nói vậy là có lí lắm. Cái phố của chúng tôi tuy không có ngôi biệt thự sang trọng nào, lại nằm khuất tận lô bốn lô năm gì đó nhưng đứng về mặt tiếng tăm thì không thể “đùa” được. Ở đó có đến năm ông đại tá về hưu, bốn vị tiến sĩ, hai giáo sư, hai nghệ sĩ ưu tú, một nhà giáo nhân dân. Chưa kể đến có một số người tuy chỉ là công nhân trong công xưởng nhưng thời công tác họ đã được cả Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Nhà tôi nằm cuối phố. So với các vị vừa điểm tên ở trên, tôi chỉ là một kẻ vô danh, lại thuộc hàng hậu sinh. Nhưng vì là phóng viên của tờ báo tỉnh nên tôi luôn ngầm tự giao phó cho mình một nhiệm vụ là sẽ dần dần giới thiệu các tên tuổi ở cái phố nhỏ của tôi lên đài, lên báo với tư cách người tốt việc tốt. Trong công tác báo chí, tôi thường phản đối quan niệm của nhiều đồng nghiệp cứ hay tìm đề tài ở đâu đâu chứ không bao giờ chịu để mắt tới những người xung quanh. Quan niệm sai lầm ấy luôn dẫn đến sự viển vông và bỏ sót những điểm sáng ở chính nơi mình đang sinh sống, cũng có nghĩa sẽ làm mất đi hơi thở của đời thường. Bởi vậy, nên chỉ trong vòng mấy năm qua mà tôi đã viết được đến năm, sáu bài thuộc thể tài “người tốt, việc tốt” về những người cùng phố. Khi thì là một vị đại tá đã từng chỉ huy xuất chúng trong những trận chiến lẫy lừng, khi thì là một nghệ sĩ tài ba với hàng ngàn hàng vạn phan hâm mộ, lúc thì là một ông tiến sĩ với những đề tài nghiên cứu nổi danh... Tất cả những bài viết của tôi đều được tổng biên tập khen ngợi và động viên khích lệ. Nhưng điều làm tôi thích thú nhất là chỉ trong một thời gian ngắn, cái phố nhỏ của tôi đã nổi tiếng khắp thành phố, trở thành những tấm gương điển hình để mọi người phấn đấu, học tập. Đấy là chuyện về những người thành đạt. Nhưng cái phố nhỏ của tôi, cũng giống như nhiều ngõ phố khác, không thiếu gì những người lâm vào hoàn cảnh khó khăn đáng để mọi người quan tâm giúp đỡ. Cái phố của tôi cũng có vài trường hợp như vậy. Tiêu biểu nhất là gia đình anh Quê. Anh Quê lưng gù gập, người nhỏ thó. Vợ anh Quê thọt chân, lại thường xuyên đau yếu. Đã vậy, hai đứa con trai của anh lại đang tuổi ăn tuổi lớn. Vợ chồng anh Quê quanh năm ngày tháng đánh vật với chiếc xe ba gác ở ngoài chợ ga để kiếm sống. Gà chưa gáy đã đi, nhọ mặt người chưa về. Anh Quê nhận chở thuê đủ các loại hàng họ mà chừng như vẫn thiếu ăn ấy là tôi thường nghe vợ tôi kể lại thế chứ thực ra với chức phận phóng viên suốt ngày, suốt đêm úp mặt vào các sự kiện, tin tức trong và ngoài tỉnh, tôi làm sao có thể biết được tỉ mỉ mọi chuyện diễn ra ở cái phố nhỏ này. Tôi dặn vợ khi có điều kiện cũng nên góp phần giúp đỡ gia đình anh chị ấy chút đỉnh. * * * Có lẽ vì ngày hôm nay người ta quá thiên về viết các loại bài chống tiêu cực, bỏ quên mất một nhiệm vụ quan trọng của báo chí là tôn vinh những gương người tốt việc tốt nên nhiều lần tổng biên tập đã gợi ý tôi cần tiếp tục viết những bài thuộc thể tài này. Ông còn nói nên viết thêm về chính những nhân vật ở cái phố nơi tôi đang cư trú vì ông biết ở đấy có thể còn có những tấm gương đáng khai thác. Dù rất muốn làm theo ý tổng biên tập nhưng tôi cũng phải báo cáo với ông rằng tôi đã tìm hiểu và chọn lọc rất kĩ để viết ra một loạt bài như vừa qua và sự thực trong cái phố nhỏ của tôi không còn gì để viết thêm nữa. Tổng biên tập có vẻ hơi tiếc nhưng cũng cho là phải. Lại nói về chuyện anh Quê, một lần vợ tôi bảo: - Này, cái nhà anh Quê ấy thế mà “sĩ” ra trò đấy nhé. Tôi ngạc nhiên: - Sĩ thế nào hả em? - Hôm họp tổ dân phố, mọi người có ý kêu gọi một đợt gom góp để từ thiện cho những gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn trong khối phố. Ai cũng nhất trí đưa gia đình anh Quê vào diện cần được giúp đỡ, thế mà anh ấy nhất định cảm ơn và khăng khăng từ chối, nói rằng vợ chồng anh tuy chật vật, vất vả nhưng vẫn kiếm đủ tiền để nuôi con ăn học. Tôi cười bảo với vợ, như vậy có khi không phải là sĩ diện mà lại là tính tự trọng. Vợ tôi gật gù xem chừng cũng tin lời tôi. * * * Tờ báo tỉnh vẫn cố gắng duy trì chuyên mục “người tốt, việc tốt” đều đều. Nhưng theo báo cáo hàng tháng, hàng quí của ban biên tập thì hầu như trăm phần trăm các gương người tốt việc tốt được đăng báo đều là những người nếu không là giáo sư tiến sĩ, nhà giáo ưu tú hoặc thủ trưởng cơ quan này nọ thì cũng là những người với những thành tích xã hội chất chồng như núi. Dĩ nhiên là vậy rồi. Đã được viết thành sách, thành báo thì sao lại có thể là những người bình thường được. Vậy mà bỗng một hôm vợ tôi bảo: - Này, có khi anh viết một bài gương người tốt việc tốt ca ngợi vợ chồng anh Quê được đấy. Tôi phì cười, giảng giải: - Anh Quê có thể có nhiều cố gắng thật đấy nhưng viết về anh ấy theo dạng người tốt, việc tốt sao được hả em. Anh ta đâu có thành tích gì nổi trội. Cùng lắm cũng chỉ có thể đưa vào diện người nghèo vượt khó mà thôi. Vợ tôi khẽ thở dài: - Vâng! Em cũng biết vậy, nhưng thỉnh thoảng nhìn thấy anh Quê mồ hôi mướt mát, cong người đẩy chiếc xe ba gác mà thấy thương quá. Tôi cười: - Lòng thương cảm và gương người tốt, việc tốt là hai khái niệm khác nhau đấy cô giáo dạy văn ạ. Bẵng đi một thời gian. Vợ tôi lại bảo: - Anh ạ! Vậy mà cả hai đứa con nhà anh Quê đã thi đỗ vào đại học đấy, lại là Đại học quốc gia ở Hà Nội hẳn hoi. Tôi reo lên vì vui lây. Vợ chồng anh quả là những người đáng khâm phục. Xã hội bây giờ có những gia đình giầu sang ngất trời, tiền của như nước mà con cái có ra gì đâu, thậm chí còn sa vào nghiện hút, phá gia chi tử. Tôi bảo vợ đừng quên việc sang chúc mừng gia đình anh. * * * Nhưng rồi cái may không đến với gia đình anh Quê mãi. Hôm tôi đi công tác miền núi về, lời đầu tiên vợ tôi thông báo là một tin buồn đứt ruột: Vợ chồng anh Quê đã chết vì một tai nạn giao thông khi anh chị đang chở hàng trên đường. Tôi sững người. Buồn thay, có lẽ nào thượng đế lại vô tâm giáng đòn xuống đầu những người thiệt thòi khốn khổ do chính thượng đế sinh ra. Tuy không họ hàng thân thích với vợ chồng anh Quê nhưng vợ chồng tôi buồn mất cả tuần liền. Việc duy nhất tôi có thể làm để giúp anh Quê trong lúc này là bàn với ông tổ trưởng dân phố và Hội Khuyến học nên tìm cách tạo ra một suất tiền để trợ cấp cho mấy đứa con của vợ chồng anh Quê ăn học ngoài Hà Nội. Nhưng mà rồi ít ngày sau, vợ tôi nói với tôi bằng vẻ mặt vừa buồn buồn vừa nghiêm trọng: - Trước khi hai đứa con anh Quê lên Hà Nội học, ông tổ trưởng dân phố nói với chúng là đã có được một nguồn kinh phí cấp cho mỗi đứa năm trăm nghìn đồng hàng tháng để giúp chúng học hành tấn tới. Anh có biết chúng trả lời ông tổ dân phố thế nào không? Tôi nóng ruột: - Trả lời ra sao? - Chúng bảo, chúng cháu vô cùng cảm kích trước tấm lòng cao cả của các bác trong ngõ phố, nhưng xin các bác dành số tiền ấy cho những bạn còn khó khăn hơn. Những ngày đầu ra học ở Hà nội, biết hoàn cảnh gia đình vất vả, chúng cháu đã tìm được việc làm thêm nên chi tiêu cũng tạm đủ ạ. Tôi sửng sốt: - Thật thế hả em? - Vâng! Chúng còn bảo, xin các cô, các bác hãy tin vào chúng nó. Chúng không bao giờ làm ô danh cái mảnh đất vốn vô cùng đầm ấm và nhiều tiếng thơm như cái phố nhỏ của mình. Nghe vợ nói, tôi ngồi lặng người đi. Trời ơi! Anh Quê! Người cùng ngõ phố mà tôi chẳng hiểu gì về anh cả. Hóa ra vợ chồng anh đâu chỉ là những con người biết vượt lên gian khổ. Họ đã dâng hiến cho đời những đứa con, những công dân tròn đầy cả về tâm hồn lẫn thể xác. Điều họ làm không phải các bậc cha mẹ nào cũng làm nổi, kể cả những người tài danh, tên tuổi. Đêm hôm ấy, bỏ dở một bài phóng sự khá quan trọng, tôi quyết thực hiện bằng xong bài viết về vợ chồng anh Quê. Lần đầu tiên tôi viết thể tài “người tốt, việc tốt” mà vừa đánh vi tính vừa rơi nước mắt. Cũng là lần đầu tiên tổng biên tập quyết định cho đăng bài về thể tài này trên trang nhất. Hôm báo ra, không phô trương ầm ĩ, tôi lặng lẽ mang một tờ lên sân thượng đốt theo kiểu hóa vàng. Một làn khói nhè nhẹ, âm thầm bay lên trời cao. Buổi sáng lúc sáu giờ Cập nhật lúc 16:14, Thứ Tư, 29/02/2012 (GMT+7) Buổi sáng lúc sáu giờ, chị đi ngang qua quán cô Mỹ, chiếc xe đầy ắp những rau, cá, thịt của chị nặng thêm khi chị nhận một giỏ chục gói bún riêu mà con gái cô Mỹ đưa ra tận xe, nó nói: - Cô ơi, hôm nay mẹ con nói cô dặn 10 gói, nhưng mà… Chị ngạc nhiên: - Sao hả con? Kim Đan ngần ngừ một chút rồi trả lời: - Trong này là 11 tô nhưng mẹ con chỉ lấy tiền 10 tô thôi! - Sao vậy? - Một tô mẹ con nói để cô ăn, sáng nay cô đổi món ăn sáng đi nghen cô! Vậy là chị hiểu và thầm cảm động. Thức dậy lúc 3 giờ, chị ra chợ bán sỉ buổi sáng, tìm mua cá, rau, thịt hoặc những vật dụng mấy người quen gởi, rồi chị tất tả chất lên xe máy chạy vào mấy xã vùng sâu để bán hàng, chị đã kịp ăn gì đâu? Mà chị cũng không dám ăn sáng “sang” như vậy, dù quán cô Mỹ đặt tên là quán bún riêu bình dân! Chị lấy mối bún riêu quán cô Mỹ bán thêm cũng bởi chữ bình dân ấy chứ chị chưa hề nếm thử bún riêu cô Mỹ nấu hương vị thế nào? Nhưng chị biết bún riêu cô Mỹ ngon khi nhìn những khuôn mặt giãn ra của những người ăn, không ngon mới lạ, chị nghĩ, giữa rừng được một tô bún đem đến tận nơi thì còn gì bằng? Bao giờ chị cũng lấy 10 gói bún, cô Mỹ cẩn thận múc nước nhưng có miếng giò heo với cục riêu tôm trong một bịch ni lông, rau và chanh ớt trong một bịch khác, bún tươi trong một bịch khác nữa rồi cột chung lại với nhau. Chị chở thức ăn tươi sống và từng ấy phần bún vào những vùng không có chợ dọc theo con đường xuyên qua những cánh rừng xen lẫn với những rẫy cà phê, những vườn hồng, thỉnh thoảng vài ngôi nhà thấp thoáng trong không gian xanh thăm thẳm. Đường khó đi lắm, nhất là vào mùa mưa, nhưng dưới sự điều khiển của chị, chiếc xe ngoan ngoãn chạy êm ru. Chị thuộc từng ổ gà, từng khúc quanh, dưới bóng cây kia là trạm dừng chân của chị, chị thở phào như vứt một gánh nặng ra khỏi vai. Chị bắt đầu một ngày làm việc như vậy để kiếm lấy một ít tiền lời. Buổi sáng lúc sáu giờ, đứa con gái học lớp 7 của chị cũng bắt đầu đến trường. Em đi trong nắng ban mai, miệng lẩm bẩm những môn học thầy bắt phải thuộc lòng. Thỉnh thoảng em dừng lại, lấy cuốn tập để chắc rằng mình nhớ đúng bài rồi lại đi tiếp. Em đến trường sớm, đó là thói quen em học được từ người mẹ. Em mua một ổ bánh mì không nhân, lặng lẽ ăn dưới gốc cây tùng già và uống nước trong một cái chai em mang theo từ nhà. Buổi sáng, chị đặt trên bàn học của con hai tờ giấy bạc, một tờ màu đỏ, một tờ màu xanh (đôi khi là 3 tờ màu xanh), đứa con gái nhỏ của chị không biết mẹ gởi gắm điều gì trong hai màu xanh và đỏ như vậy? Chị chưa bao giờ giải thích với em và em cũng không gặng hỏi mẹ điều đó, em chỉ biết rằng đó là tiền ăn sáng của em. Ăn sáng xong em xem lại bài vở, khi biết chắc là mình đã không sai sót điều gì, em im lặng lắng nghe con chim chào mào lửa hót. Em vui khi tưởng tượng mình sẽ được thấy Nha Trang, em chưa biết biển mà. Mười lăm năm trước… Buổi sáng lúc sáu giờ, cô hạnh phúc đi bên anh bước vào cổng bến xe phía Nam, cô và anh leo lên một chiếc xe khách để đi đến một nơi mà cô cho rằng đó là chốn thiên đường. Nơi ấy có hoa, có thông, có sương mù, có những con đường quanh co lặng lẽ… tóm lại đó là cảnh đẹp như cảnh thần tiên. Bên cô lại có anh, anh sẽ thủ thỉ vào tai cô những lời mật ngọt, anh dìu cô đi men theo những sườn đồi rồi bất chợt anh dừng lại ôm chặt lấy cô, môi anh tìm môi cô… Cô mụ mị với viễn cảnh hạnh phúc đang ru cô vào một cuộc phiêu lưu nơi chốn thiên đường. Cô quên rất nhanh sự giận hờn của mẹ, ánh mắt xa xăm buồn của ba và nhiều dấu hỏi của mấy bà dì, ông chú… Cô đang có anh và với cô như vậy là quá đủ, cô sung sướng với hạnh phúc của mình. Mười năm trước… Buổi sáng lúc sáu giờ, cô thức giấc, bên cạnh cô là một khoảng không rộng đến nao lòng. Phải một lúc lâu cô mới nhớ ra cô đang ngủ một mình trong căn phòng vắng đã nhiều đêm, không có anh. Cô lại nhớ đến lời hứa của anh trong những ngày ngập tràn hạnh phúc: - Anh sẽ đưa em đi dạo trên đường Cộng Hòa, em phải biết đó là con đường tình nhất Đà Lạt! Cô lại nhớ đến con gái, con bé 4 tuổi mà giống mẹ như lột. 4 tuổi cô đi lạc dọc theo bờ biển, báo hại cả nhà tìm muốn đứt hơi, cô nhớ cô chạy theo một vỏ giấy kẹo Chewing gum doublemint! Cô lại nhớ lúc cô mười sáu tuổi, anh hàng xóm cạnh nhà lén vứt vào nhà cô một bài thơ tình. Cô quên mất bài thơ ấy, nhưng nội dung là cảm xúc của anh khi bất chợt nhìn thấy cô chải mái tóc dài đen mượt khi anh vô tình đi ngang qua nhà cô. Rồi một bài nữa, một bài nữa… Cô lại nhớ đến ánh mắt đau đớn của anh hàng xóm khi anh đưa cô về nhà, hai người bịn rịn chia tay nhau cạnh cái hàng rào dâm bụt. Năm năm trước… Buổi sáng lúc sáu giờ, chị dựng xe dưới một gốc thông già. Chị cởi chiếc khẩu trang màu đen to đùng khi biết chắc rằng mình không quen ai ở cái xóm nhỏ này. Một người đàn ông từ xa đi lại, ông nhìn chị chằm chằm hỏi: - Cô làm gì ở đây? Chị hơi ớn, một khuôn mặt lạ, hơi dữ, nhưng chị vẫn trả lời: - Dạ, cháu bán hàng! - Cô bán hàng gì? Lại một câu hỏi nữa, nhưng ánh mắt người đàn ông lúc này nhìn vào chiếc thùng cột trên xe. Chị giở thùng mời: - Chú mua giùm cháu chục đậu đi? Người đàn ông nhìn cô, mắt ông dịu lại: - Cô chỉ bán thứ này thôi thì không được, người trong này thiếu đủ thứ, cô phải đem cá khô, chút thịt, chút rau, muối, mắm vào… cô nhớ chưa? Sau này nghĩ lại, ông Thống chính là quý nhân của chị, nhờ ông mà chị được bà con trong này coi như người nhà. Những chuyến làm ăn của chị suôn sẻ, cũng có lúc chị bị nợ nhưng chị biết đến vụ cà phê, người mua chịu sẽ trả chị thôi. Chị quên thật nhanh cảm giác hụt hẫng khi cầm tờ quyết định nghỉ việc với mấy trăm ngàn trợ cấp một lần. Ban đầu chị giận ông giám đốc biết bao nhưng sau này khi bình tâm trở lại chị nghĩ biết đâu nhờ đó mà cuộc sống mẹ con chị dễ chịu hơn? Tôi biết chị trong một buổi họp phụ huynh cuối năm học, chị đến họp muộn vào lúc cuối giờ, tôi tiếp riêng chị và bất chợt chị kể với tôi chuyện đời mình. Thầy biết không, chị kể tiếp với tôi, tui đi miết trên con đường ngang qua nhà thầy không biết bao nhiêu lần nhưng tui chỉ nghĩ đến một con đường thôi, con đường mà ảnh hứa hoài hứa hủy sẽ đưa tôi đi chơi, không biết nó “tình” đến cỡ nào? Tôi hỏi con đường nào hả chị, chị nói đường Cộng Hòa. Cộng Hòa, Cộng Hòa… phải rồi, người ta đổi tên lâu rồi chị, bây giờ đường tên là Lý Tự Trọng, chị ơi, tôi thấy đường đó cũng bình thường thôi, chắc trước kia đường Cộng Hòa tĩnh lặng đẹp lắm, còn bây giờ thì… nếu đến chị sẽ thất vọng cho coi? - Chắc tui sẽ không bao giờ đi trên con đường đó đâu, một mình đi làm gì hả thầy? Vì mê Đà Lạt, tui lại gặp ảnh người Đà Lạt nữa, nên tui bỏ cả cha mẹ lên đây, vậy mà… Tôi hỏi ảnh đâu hả chị, chắc là ông ấy chết rồi, tôi nghĩ, chị với ông ấy có một mối tình đẹp lắm, bây giờ chị vò võ một mình nuôi con, tội nghiệp chị! - Tụi tui ly thân nhau nhiều năm rồi, ảnh nghiện rượu thầy à, mà thôi giờ thì tui chỉ sống vì con nhỏ, thầy biết không con nhỏ có hiếu lắm, cháu nhịn ăn sáng để dành tiền cho mẹ mua vé xe về thăm ông bà ngoại. Nó đâu biết khi tui ra đi, tui nói với ba mẹ chừng nào con về, vợ chồng con sẽ lái xe hơi để các cháu thăm ông bà ngoại, con không đụng đến gia tài của ba mẹ đâu, ba mẹ cứ để cho anh Hai… Vậy mà ảnh chỉ lo uống rượu, căn nhà gỗ mục nát cũng không xây nổi đừng nói gì nhà với xe hơi, một lời hứa ảnh sẽ đưa tui đi dạo ở con đường thầy nói đó, ảnh cũng làm không được nữa là… Mà dù sao tui cũng ở Đà Lạt rồi, ở đâu cũng có người này người nọ phải không thầy? Tôi không thấy trong mắt chị niềm khắc khoải nào, mắt chị trong veo, một con mắt của người miền biển. Tôi không biết trả lời chị thế nào, bởi chuyện tình của chị không đẹp như tôi nghĩ, tôi bần thần vì chuyện chị kể, lòng cứ khắc khoải hoài. Buổi sáng lúc sáu giờ, tôi đến bến xe Phương Trang mua 2 vé đi Nha Trang ngày mai. Tôi sẽ đưa vợ tôi đi chơi biển, tôi sẽ dìu nàng dọc theo đường Trần Phú để nghe biển hát, tôi đã hứa bao nhiêu lần với nàng rồi. Buổi sáng lúc sáu giờ, ngày mai… Ông Ngỗ đổi đời Cập nhật lúc 15:54, Thứ Tư, 02/11/2011 (GMT+7) Ông Thung đang lúi húi cuốc cỏ vườn thì bỗng “độp”, quả banh bằng lá chuối khô của thằng Ngỗ rơi đúng vào lưng kèm theo tiếng cười hí hí của nó. Ông ngẩng đầu: Lại thằng Ngỗ. Ông dứ dứ cán cuốc về phía nó: Mày liệu hồn, nghe chưa? Ông mà tóm được thì nhừ đòn đấy con ạ! Nói xong ông lại cúi xuống cuốc đất như không có chuyện gì xảy ra. Ông vốn tính mau quên. Ngỗ tên cha mẹ đặt cho là Ngân. Ngân, tên hay đấy chứ! Ngân là bạc. Bạc có màu trắng bạc lấp lánh như dải ngân hà trên trời. Ngỗ mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Bà con thân thuộc chẳng còn ai. Mới mươi tuổi đầu nó phải sống tự lập: mò cua, bắt ốc, mót lúa khoai, chăn trâu bò, rửa chén bát… việc gì vừa sức nó cũng làm, miễn là có mấy chén cơm bỏ bụng. Tối nó mò về ngôi nhà rách cha mẹ để lại để ngủ. Tuổi nhỏ lại mồ côi, cuộc sống cơ cực nên nó thường bị kẻ khác bắt nạt, nhất là đám trẻ con trong làng. Thường bị hành hạ nên nó uất lắm, nó nghĩ cách chống trả, với bọn trẻ cùng lứa thì nó đánh lại, và lần nào nó cũng thắng. Phải lao động sớm để kiếm sống nên người nó rắn chắc chứ không mảnh mai như các cậu ấm, cô chiêu. Vì thân đơn, thế cô nên Ngỗ hay bị bắt nạt. Với người lớn, nó lẩm bẩm chửi thề: - Đồ ăn hiếp trẻ con. Có lần nó bị tát tai đau quá, người kia vừa dừng tay, nó chạy ra xa chừng năm bảy bước, vạch quần cầm “cái tý” dứ dứ về phía người nọ: Sợ cái con… này, này… Chửi xong nó kéo quần lên, ba chân bốn cẳng chạy thục mạng để tránh lại bị tóm, bị đánh lần nữa. Cuộc sống luôn bị vùi dập, chà đạp, khinh khi nên ý thức phản kháng trong người nó ngày càng tăng. Nó không còn biết sợ sệt đòn roi là gì, kể cả thần linh. Đồ cúng lễ ở miếu mạo nó lấy chén sạch. Một hôm có cụ già mang xôi gà ra miếu cúng. Cụ vừa quay lưng là Ngỗ bê luôn đồ cúng lễ ra bụi cây gần đó, ung dung thưởng thức cái hương vị ngon ngọt mà cả đời nó chưa biết là gì. Với “thành tích” ấy, dân làng gán cho nó cái tên Ngỗ: Ngỗ ngược, xấc láo. Gọi riết thành quen. Năm 18 đôi mươi, Ngỗ theo người lớn trong làng lên rừng làm nghề sơn tràng. Nó chưa hiểu sơn tràng là gì, cực khổ ra sao. Nó chỉ cần thoát khỏi cái làng nó đang sống, vì ở làng, nó chẳng được đối xử như một con người. Nó chỉ là hạng thứ dân cùng đinh khố rách. Hành trang để nó đến với nghề sơn tràng cũng rất đơn giản: một bộ quần áo khâu lại từ quần áo cũ của mẹ nó, một chiếc nón rách, một cây rựa quéo sắc ngọt với một ruột nghé gạo quàng vai. Thế là nó nhập bọn. Rừng! Lần đầu tiên nó đến với rừng, với những con suối đầu nguồn, cái gì với nó cũng lạ lẫm, ngỡ ngàng. Nhưng nó là đứa trẻ sáng dạ, nên nó nhanh chóng học và biết được các cây củ thuốc nam, cách chữa chạy khi bị rắn độc cắn, biết phát hiện đàn ong mật, cách lấy mật, cách chặt cây vầu, cây bương sao cho gọn, cách cưa xẻ gỗ lậu trong rừng… Năm ba tháng Ngỗ lại được sai về làng để mua mắm muối, dầu đèn, thuốc rê để hút. Người làm nghề sơn tràng rất ghiền thuốc. Mua sắm xong Ngỗ lại mang lên rừng. Lần ấy Ngỗ về đến đầu làng thì thấy đám đông dân làng đang chạy vô chạy ra nhà ông Thung với vẻ lo lắng, hốt hoảng. Hàng xóm cho biết: Cô Nhung, con gái đầu của ông Thung đi làm rẫy vừa bị rắn hổ mang cắn nơi cẳng chân, máu đang rỉ ra. Nếu không chạy chữa kịp, nọc độc ngấm vào máu thì nguy mất. Nghe thế, Ngỗ không do dự chạy ào vào nhà ông Thung, gạt mọi người đang xúm quanh, đến chỗ cô gái, mạnh dạn vén ống quần cô ta lên xem vết rắn cắn mà mặt cứ tỉnh bơ như không có chuyện gì xảy ra, như việc đương nhiên nó phải làm. Lúc đầu cô gái ngượng đỏ mặt, gạt phăng tay Ngỗ. Chàng Ngỗ bỗng nổi cáu: - Muốn chết hả? Để tôi chữa cho. Nếu chậm, nọc độc ngấm vô thì có mà trời cứu. Nói xong, Ngỗ thản nhiên dùng hai bàn tay vuốt từ bẹn cô gái vuốt xuống, nặn hết máu ứ ra, xong, lấy từ túi áo ngực một củ giống củ gừng nhưng có màu đen xỉn, cắn một miếng nhai dập dịt lên chỗ rắn cắn và bẻ một miếng nhỏ bằng đốt tay đưa cho cô gái bảo nhai kỹ nuốt ngay. Xong, Ngỗ kéo ống quần cô gái xuống, đứng dậy xoa tay nói với mọi người: - May còn kịp, không sao đâu. Nọc độc sẽ tan, không việc gì, đừng lo. Bài thuốc này do các bác sơn tràng truyền cho tôi đấy. Thôi! Tôi đi đây. Ngỗ bước ra khỏi nhà ông Thung trước sự ngơ ngác của mọi người. Sau này, nhiều đêm trong rừng, Ngỗ thao thức, trăn trở, cái cảm giác lần đầu được tiếp xúc với da thịt một cô gái tuổi đôi mươi cứ lâng lâng dâng lên trong lòng. Ngỗ cứ mơ màng, mơ màng cho đến lúc ngủ thiếp đi. Cuối năm, trong một lần về làng để lo gạo nước, mắm muối cho toán sơn tràng thì đụng phải quân cảnh ngụy vây bắt lính. Vào lính được hơn năm, nhân một cuộc hành quân đi càn nó bỏ trốn, bị quân cảnh bắt lại tống vào quân lao cải huấn. Nhờ có thân hình rắn chắc, đẹp mã, chịu khó lao động lại thật thà, nên Ngỗ được tên Đại úy, trại trưởng quân lao tin tưởng và thương. Hắn đưa Ngỗ cùng mấy tên đào binh khác về chăm sóc trại chăn nuôi trong khuôn viên nhà. Đã nhiều lần Ngỗ bắt gặp ánh mắt của mụ Đại úy nhìn Ngỗ chằm chằm. Có lần mụ vờ xem công việc, đến gần Ngỗ, ỡm ờ: - Anh Ngỗ này! Anh có cần tôi giúp gì không? Lần đầu tiên Ngỗ nghe mụ gọi mình bằng anh. - Thưa bà Đại úy. Tôi đâu dám phiền ạ! - Không có bà Đại úy nào cả. Ở đây chỉ có tôi và anh, hiểu chưa? Mụ liếc Ngỗ sắc lẻm. Cái liếc ấy như đe: Không chiều, không biết nghe lời là chết, lại như ngầm bảo: mấy ai được diễm phúc. Tối hôm ấy chàng Ngỗ nghĩ lung lắm. Nếu tiếp tục ở lại nhà tên Đại úy này có thể tránh được đạn lạc, tên bay nơi chiến trận, nhưng thể nào rồi cũng chết, không chết vì đòn ghen của lão Đại úy thì cũng chết trên tay mụ đàn bà này. “Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách”, Ngỗ quyết trốn chạy, nhưng chưa tìm được cơ hội. Hôm ấy, mụ Đại úy cho gọi Ngỗ vào phòng khách: - Anh Ngỗ này! Mụ gọi thân mật – Anh không có tiền cắt tóc à? Mụ muốn “tân trang người tình”, tân trang con mồi. Mụ thường gọi Ngỗ bằng anh khi chỉ có hai người, còn khi có nhiều người hay trước mặt chồng, mụ lại gọi thằng kia, thằng nọ. - Dạ thưa! Dạ…! - Đây! Anh cầm ít tiền này đi cắt tóc ở hiệu cắt tóc trước nhà, sau đó đến khu phố X số nhà Y bảo họ chở thức ăn gia súc. Đây là tiền mua thức ăn gia súc. Anh nhớ theo xe áp tải về. - Dạ vâng! Tôi đi được chưa? - Anh nghe đây! Nhớ, sau này tôi cho gọi, phải đến ngay. Đừng có làm tôi bực mình. Anh đi được rồi. Nhận được tiền và được sai đi mua thức ăn gia súc, Ngỗ mừng lắm. Ngỗ sẽ có cơ hội “vù”. Mụ Đại úy lại nghĩ: bước đầu hãy làm cho anh ta bớt e ngại, sợ sệt. Anh ta như cá mắc câu, như “kiến bò miệng chén”. Lúc nào “đùa bỡn” với anh ta mà chằng được, vội gì. - Dạ! tôi đi. Ra khỏi tiệm cắt tóc được khoảng vài cây số, Ngỗ liền tìm chỗ vắng, cởi bỏ quần áo đào binh, mặc thường phục vào, thuê xe ôm lặn sâu lên vùng Tà In, Đức Trọng, Lâm Đồng, nơi bọn ngụy quân, ngụy quyền thời ấy ít dám mò đến. Ở Tà In, Ngỗ phát rương, phát rẫy sống với đồng bào dân tộc, dấu biệt gốc tích. Mãi đến cuối năm 1974, Ngỗ nghe phong thanh cuộc chiến sắp đến hồi kết thúc. Ngỗ thu xếp hành trang chạy lên Đà Lạt tìm cách về quê để tìm Nhung, con gái ông Thung. Để kiếm sống, Ngỗ lại làm thuê cuốc mướn cho một chủ vườn trồng rau hoa, và, Ngỗ cũng lại được ông chủ tin cậy, cô con gái đem lòng yêu thương. Ở tuổi xấp xỉ 40, cái chí “tang bồng hồ thỉ” đã nhạt, nên Ngỗ quyết neo thuyền bến mới. Sau giải phóng năm 1975, Ngỗ định cư hẳn ở Đà Lạt. Ngỗ thuê nhà ở riêng. Vợ chạy chợ kiếm sống. Nhờ 25 năm đổi mới, vợ chồng Ngỗ làm ăn khấm khá dần lên. Ông Tùng từ quê vào thăm cháu ở Đà Lạt tình cờ gặp Ngỗ. - Xin lỗi! Ông có phải là ông Vũ Tùng không ạ? - Vâng! Tôi là Vũ Tùng ở xã X huyện Y, còn ông có phải là…? - Tôi là Ngỗ, thằng Ngỗ ngày xưa ở cùng quê với ông đây mà. - Ồ! Hóa ra ông là ông… Ngỗ đấy à? Thế là đã hơn 45 năm, chúng ta mới lại gặp nhau. Thật quý hóa quá. Từ đó câu chuyện của hai người xoay quanh chuyện làng xóm quê nhà. Trước khi tạm biệt, ông Ngỗ tha thiết - Ông còn ở lại chơi lâu, hôm nào mời ông ghé nhà tôi chơi. Nhà tôi ở đường Phan Đình Phùng, cũng gần đây thôi. - Được! Được! Thế nào tôi cũng đến chơi. Đến để cùng ông tâm sự và xem giờ ông sống ra sao để còn về khoe với bà con ở quê chứ. Ông Ngỗ tiếp ông Tùng ở phòng khách ngôi nhà xây hai tầng khang trang, bắt mắt. Trang trí nội thất toàn thứ đắt tiền. Ông đưa ông Tùng đi khắp nhà vừa để giới thiệu vừa để khoe sự giàu sang. Trở lại phòng khách, ông Ngỗ kể: - Tôi lập gia đình cuối năm 1974 đến nay (1996) đã có sáu con, bốn đứa đã vào đại học, hai cháu đã đỗ cử nhân luật, hai cháu nhỏ đang học cấp III. Ông tính như tôi, thằng Ngỗ ngày xưa có nằm mơ cũng không thể có bốn con vào đại học, đỗ đạt thành tài lại có cả một cơ ngơi thế này, mà không riêng gia đình tôi, nhiều gia đình khác cũng làm ăn phát đạt lắm. Xưa! ở quê ta có đốt cháy hết dãy núi Bìn-nin cũng không thể tìm thấy một cô tú, cậu tú nói gì đến cử nhân, tiến sĩ. - Với nụ cười rạng rỡ, ông Ngỗ tiếp tục: - Lâm Đồng đã xóa xong nạn mù chữ, đã phổ cập tiểu học. Không như thời tôi và ông muốn đi học mà không có tiền đành chịu dốt nát. Còn phố xá nhà cửa thì Đà Lạt giờ khác xưa nhiều lắm. Nhà cao tầng mọc lên san sát, chứ không vắng vẻ, đìu hiu như những năm trước. Bệnh phong, bệnh hủi cũng được chữa chạy tận gốc. Được công nhận là tỉnh không còn bệnh phong. Đồng bào dân tộc ở vùng sâu vùng xa giờ đã có nước sạch để dùng, có điện để thắp sáng. Ngay như tại K’Long - Hiệp Thạnh - Đức Trọng giờ cũng thành một thị trấn đông vui của đồng bào dân tộc, chứ không vắng vẻ như xưa. Đời sống văn hóa và dân trí được nâng lên rõ rệt, chỉ trừ một số xã quá heo hút còn gặp khó khăn mà thôi. Cây cà phê, cây chè và cây hoa đang phát triển tốt. Tỉnh đã hình thành nhiều khu công nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư tại tỉnh ngày càng nhiều. Du lịch - dịch vụ ngày càng phát triển. Sắp tới đây, đầu năm 2012 sẽ có lễ hội hoa thu hút nhiều du khách đến thăm Đà Lạt - miền đất hứa. Hy vọng tình hình kinh tế còn phát triển nhanh hơn nữa. Ông Ngỗ ngừng lời mời thuốc lá và nhìn ông thăm dò: - Hay ông chuyển vào đây sinh sống, tối lửa tắt đèn có nhau. - Vâng! Thì chuyến đi này… tôi cũng đang tính… Đất lành chim đậu. Đồng bào các nơi còn đến Đà Lạt - Lâm Đồng để lập nghiệp thì tôi có vào chắc cũng làm ăn sinh sống được, phải không? - Ồ! Ông cứ vào! Ông nên vào. Bến hiền thuyền đậu. Ta lại nương nhau. Trên đường về ông Tùng cứ ngẫm nghĩ: - Đúng! Đất lành chim đậu. Bến hiền thuyền đậu. Thằng Ngỗ… ông Ngỗ đã đổi đời rồi. Bây giờ ông ta nên lấy lại cái tên Ngân cha sinh mẹ đẻ đặt cho mới phải. Khi nào gặp lại mình sẽ bảo với ông ta như thế Bữa cơm của bố ừ ngày mẹ bị bệnh, con bé vất vả hơn, hay thức đêm, sáng đến tối hết chạy từ nhà ra chợ thay mẹ bán hàng, lại chạy từ chợ đến trường cho kịp giờ. Mới năm đầu đại học mà nó già đi trông thấy. Mẹ bán rau ngoài chợ nên những ngày ế ẩm tha hồ ăn rau. Từ ngày mẹ bệnh, rau cũng ít. Số tiền vốn mẹ đưa, con bé chia một nửa đi cất hàng về bán, một nửa mua thuốc cho mẹ. Mẹ dè xẻn bẻ từng viên làm đôi chia hai lần uống, nhưng thuốc trong hộp vẫn vơi dần rồi hết. Mẹ không nói nhưng qua làm sao được mắt con bé. Có lần nó thấy mẹ mang hộp không ra ngửi, cố hít lấy cái mùi hăng hắc còn sót của thuốc… Con bé lại chia năm xẻ bảy số vốn còn lại. Cứ như thế, cơm trong nồi vơi hụt dần, nhão hơn rồi chuyển thành cháo. Rau cũng không còn đủ ăn nói gì đến chuyện mang bán. Cái hộp cũng đã bay hết mùi thuốc, chuyển sang mùi ẩm mốc. Bệnh của mẹ nặng hơn. Ba ngày hôm nay, con bé chỉ uống nước cháo. Gạo trong thùng gần hết. Nó ngồi bần thần và chợt nghĩ đến bố. Nhà chỉ có hai mẹ con, mẹ thường nói “Bố đi bán mình từ lâu rồi”. Mãi sau con bé mới biết người đàn bà trẻ đẹp dạo trước tìm đến tận nơi bắt nó phải về nhà ông bà nội ăn giỗ là vì bà ấy muốn cả họ nội biết mặt con riêng của chồng xấu đến mức nào. Đó cũng là lần đầu tiên con bé thấy mặt bố, người vừa lùn vừa béo mà ai cũng tíu tít gọi là đại gia. Bố trẻ hơn mẹ hai tuổi. Mẹ từ quê ra thành phố học, bố trốn ông bà nội ra ở chung với mẹ. Mẹ sinh con rồi bố mới đi lấy vợ. Nó chẳng biết quê ngoại ở đâu vì mẹ không bao giờ nói. Lớn lên chỉ biết có mẹ và hàng rau xanh ngăn ngắt. Mẹ bán rau cừ lắm. Đủ tiền mua chung cư hạng rẻ và nuôi nó lên đại học. Nhưng cũng từ đó, vốn vơi dần như chiếc bánh mỳ bị ai đó tham ăn véo lấy một miếng thật to rồi thỉnh thoảng véo tiếp một miếng. Giờ thì hai mẹ con sắp nguy. Đến cháo cũng không có để ăn nữa. Sáng nay bên giáo vụ thông báo nếu không nộp tiền học phí trước ngày mai thì chắc chắn phải hoãn thi và bảo lưu kết quả. Con bé không muốn chút nào. Cũng sáng nay sinh nhật cái Vân tổ chức trong lớp, lúc dọn dẹp vỏ bánh kẹo, con bé phát hiện một lon trà bí đao và một chiếc bánh Custas còn nguyên chưa bóc. Nó mừng lắm, mở khóa ba lô thả vào nhưng lóng ngóng làm tuột lon trà bí đao xuống nền gạch, lăn mấy vòng. May lúc ấy mỗi cái Vân nhìn thấy, không nói gì mà còn ra hiệu cho con bé xòe tay đưa cho ba cái kẹo. Mẹ ăn bánh Custas, nó uống trà bí đao, còn ba cái kẹo định để dành lúc nào thật đói. Trà bí đao ngon ngọt thật nhưng đang đói uống vào thì cào cấu gan ruột. Con bé đã ngậm hết cả ba cái kẹo mà chẳng bõ bèn gì. Nó cố gắng nhắm mắt hy vọng sẽ quên đi cơn đói, nhưng càng đói càng khó ngủ. Cuối cùng cũng thiếp đi được một giấc, lúc tỉnh dậy thì trời đã sáng. May quá, hình như không còn thấy đói nữa. Con bé đứng lên đi được vài bước thì mắt tối sầm lại, chân tay mềm oặt, bước liêu xiêu… *** Nhà bố cách đó không xa lắm, nhưng đường phố đông đúc, lòng vòng, tìm mãi mới đến nơi. Thằng em cùng cha khác mẹ mà con bé mới gặp đúng một lần ở nhà nội thấy chị đến thì vui sướng, ôm quay mấy vòng nói “em nhớ chị”. Thằng em lấy xe đạp chở chị đi lòng vòng mấy con phố rồi tạt vào cửa hàng bán mỹ phẩm của mẹ, vừa cầm một thỏi son vừa giải thích đây là loại son đắt tiền nhất trong cửa hàng quệt lên môi con bé. “Để em trang điểm cho chị nhé!”. Con bé nhăn mặt, suýt nữa thì ọe. Thằng em cười sằng sặc: “Em tặng mấy đứa con gái loại rẻ tiền, mùi còn ghê hơn thế này, có đứa nào chê đâu!”. Nó thả thỏi son vào túi con bé, mặc cho chị nó chối đây đẩy. Hai chị em tiếp tục đạp xe đi qua mấy con phố. Đến cửa hàng bán xe máy của bố, thằng em dừng lại, dắt chị gái đi vào. Đủ loại xe, nó giảng một thôi một hồi, con bé nghe xong chẳng nhớ được gì. Lại đạp xe đi thêm mấy con phố nữa, thằng bé nói liến thoắng, còn nó thì sắp lả đi vì đói. “Nhà nhiều xe máy thế sao em không lấy dùng mà lại đi xe đạp?”. “Đi xe đạp để được nói chuyện với chị lâu hơn”. Thằng bé dựng xe, kéo chị gái vào cửa hàng vàng bạc trước cửa nhà, lăng xăng chạy chọn hết mẫu dây đeo này đến mẫu dây đeo khác, và cầm một sợi dây nhỏ xíu lấp lánh ánh vàng đeo vào cổ con bé. “Em tặng chị đấy”. “Em đùa à?”. “Thật. Em tặng chị”. Một cặp mắt phụ nữ chòng chọc nhìn con bé. “Chết rồi. Mẹ!”. Thằng bé hoảng hốt giật vội sợi dây trên cổ chị gái, trả về vị trí cũ. Bố hôm nay cũng về. Bố cũng đã nhận ra con gái, vui vẻ hỏi han. Con bé tíu tít nói với ông rất nhiều chuyện. Giờ nó mới nhận thấy bố cũng rất đáng yêu chứ không như nó nghĩ trước kia. Cơm vẫn chưa được dọn nhưng bà mẹ thằng bé đã chạy ra mấy lần: “Con bé đã về chưa?”, “Con bé có ăn cơm không?”, “Vẫn chưa về à? Bảo nó về đi để cả nhà còn ăn cơm”. Cuối cùng, một bữa cơm thịnh soạn cũng được dọn ra. Con bé rất đói bụng nhưng cũng cố gắng làm hết thủ tục trước khi ăn của một gia đình giàu có. “Những món ăn này mà mang về cho mẹ…”. Con bé đang nói thế thì người đàn bà ném “xoảng” đôi đũa xuống: “Hôm nay con bé này đến cửa hàng vàng bạc, tự nhiên mất một sợi dây chuyền hai chỉ”. Con bé luống cuống, mặt cắt không còn hạt máu. Quên cả đói, nó buông đũa đứng dậy, chạy vụt ra ngoài, tới cửa phòng ăn cố bước chậm hơn, chờ một tiếng gọi quay lại. Thằng em đứng dậy toan chạy theo thì bị tiếng bố chặn ngang: - Kệ cho nó đi. *** Con bé ngồi ngây hàng giờ đồng hồ, cầm thỏi son thằng em tặng, vẽ loằng ngoằng lên tường thành những hình thù kì quái, nghĩ về cuộc tình tuyệt đẹp của bố mẹ nó ngày nào. lá bần Chú Phi quả quyết sẽ trị dứt sâu răng cho chị Tứ. Tôi chả tin. Hàm răng của tôi bị siết đến lợi, có bao giờ chú chữa chạy cho đâu. Mỗi lần tôi bị đau răng, bà nội chỉ đắp một nắm lá hẹ giã lấy lệ. Chị Tứ có hàm răng khấp khểnh, cái miệng khi không cười cũng thật thiếu vẻ nghiêm túc, có chữa sâu răng cũng không đẹp nổi. Trong ba chị em nhà ấy, chị Mười là người ít tuổi nhất, nhưng lại già quắt và lôi thôi nhất. Chân đi hai hàng, thích mặc quần áo màu mè. Bà nội tôi hay gọi là con đồng bóng. Chị Tứ thì thôi rồi. Miệng chị nói uốn éo dẻo quẹo, da mặt mốc meo mới nhìn dễ hình dung ba năm chưa đụng nước. Tóc nhuộm nham nhở như cái đuôi bò. Tóm lại, chẳng bói ra một điểm gì dễ thương. Chị Năm đẹp nhất. Chị có da có thịt nhưng eo lưng lại nhỏ, da mịn, mặt xinh và tươi tắn. Chị trẻ và gây được cảm tình hơn hai người kia. Từ hôm ba chị em Tứ, Năm, Mười chuyển đến ngôi nhà sát rào nhà tôi, tôi để ý chỉ thấy chị Tứ với chị Mười đi làm. Chị Năm ở nhà trồng rau, nội trợ. Chị Năm chỉ trồng những loại rau ngắn ngày như rau cải, rau muống khô, xà lách, rau dền cơm. Bà nội gọi trộm chị Tứ, chị Mười là “hai con điếm”. “Trước sau gì chị Năm của mày với hai con điếm cũng sẽ cuốn xéo thôi” - bà nói với tôi. Chị Năm không phải là “của tôi”, dĩ nhiên thế, dù tôi hay thơ thẩn sang chơi với chị. Nhà chị cái gì cũng nhỏ, nhưng sạch sẽ, dễ chịu. * Cùng lớp với tôi có thằng Lực, mẹ nó làm gái, ai cũng biết, trừ thằng con. Thằng Lực lúc nào cũng tự hào mẹ nó đẹp nên nhiều người theo. Đặc điểm nhận dạng của mẹ thằng Lực là hay mặc áo mỏng để lộ màu cooc-xê sặc sỡ. Nhà thằng Lực rất bẩn, rác la liệt từ cửa đến tận chân giường. Nhà chứa mà. Thời gian đâu mà chăm nom nhà cửa. Mà nếu có thì cũng ngủ nghê, mua sắm, sơn sửa tóc tai, móng vuốt. Nhà chị em chị Tứ, may có chị Năm nên khá ngăn nắp. Nói là làm, chú Phi đi bẻ cây lá bần, hí húi đun nấu, cô lại thành một bát nước sánh như nước chè đặc, bưng sang nhà bên. Tôi lẽo đẽo theo chú, chứng kiến tận mắt những con sâu răng bé xíu xiu từ miệng chị Tứ rơi xuống bát nước lá bần bốc khói. Hà hơi chán, đến lúc bát nước nguội tiệt, chị mời chú Phi ở lại ăn cơm chiều. Tôi chẳng được ở lại, bởi bà nội riết róng gọi về. Ăn cơm ở nhà xong, tôi tót sang nhà bên liền. Trong bếp, chị Năm vẫn đang xào nấu thơm phức. Chị Mười đi đâu về mệt, nằm như dán lên giường, thỉnh thoảng hơi mở mắt hóng chú Phi với chị Tứ nói chuyện. Chú Phi với chị Tứ đang nói chuyện gì thú lắm, trông thấy tôi, mặt chú hơi cau lại. Tôi nhanh chân chạy vào bếp. Chị Năm nấu nhiều món ngon và lạ miệng. Nhưng đến giờ cơm, trong khi chị Tứ, chị Mười và tôi là đứa đã dùng cơm ở nhà gắp hăng say nhất, chị Năm và chú Phi hầu như chỉ chống đũa. Sao mà tôi thấy hai người đó giống nhau thế, từ vẻ mặt hồng hào vui vẻ cho đến cái dáng người tròn trịa, làn da nâu nâu mát mẻ. Ăn cơm xong chị Tứ diện quần áo đẹp đi chơi ngay. Chị Mười thì như bị chuốc thuốc mê, lăn ra ngủ không biết gì trời đất. Thằng Lực mang sách sang để tôi kèm học thêm, gọi ơi ới bên nhà. Tôi với thằng Lực làm xong bài tập về nhà vẫn chưa thấy chú Phi về. Tôi và nó ngoắc tay nhau rồi vòng ra sau hè nhà ba chị em chị Năm. Trong nhà tối om, chỉ có tiếng ngáy của chị Mười bay qua khe gỗ. Tôi với thằng Lực định bỏ về thì đèn bỗng bật sáng. Chị Tứ với một người đàn bà bá cổ nhau loạng choạng đi vào nhà. “Lại say nữa rồi! Thương chị Năm với chứ, tối nào cũng phải dọn chiến trường” - chị Mười thức dậy, cằn nhằn. Người đàn bà đi cùng chị Tứ ngồi ngửa ra ghế, lè nhè: “Thì may có người như Năm mình mới dám về đây chứ. Năm, Năm đâu rồi?”. Thằng Lực giật thột “Mẹ tao chứ ai?”. Nó định chạy vào nhưng tôi kịp ngăn lại. “Mẹ mày với chị Tứ đi khách về đấy. Hay ho gì mà vào”. “Đi khách?”, mắt thằng Lực tròn xoe. “Tao còn lạ gì, nhà này mỗi chị Năm ngoan thôi. Còn lại, toàn gái đứng đường đấy!”. Về đến nhà tôi, thằng Lực gục đầu xuống bàn khóc tu tu. * Sáng ngủ dậy, tôi chưa kịp hỏi thì bà nội tôi đã ngồi bệt xuống, bù lu bù loa. “Trời cao đất dày ơi! Nó đòi rước gái nhà chứa về làm vợ. Thế này thì tao chết quách đi cho chúng mày muốn làm gì thì làm”. Chú Phi tỉ tê, bà không thèm đếm xỉa. Khóc lóc, rủa xả chán chê, bà xuống bếp xúc một bát muối to, đi rải một vòng quanh đất vườn, sát rào nhà chị em chị Năm. Quá nửa buổi, chị Tứ xồng xộc sang nhà tôi: “Sáng nay tôi đang cơn thèm ngủ nhá, không thì tôi cho bà biết tay. Nói cho bà biết, thằng Phi được con Năm nhà tôi để ý là phúc bốn đời cụ tổ nhà bà. Nhưng không phải dễ đâu. Có chuyện gì cũng phải qua tay con này. Từ giờ bà tắt ngay cái loa rè, còn làm rác tai tôi thì liệu cái thần hồn đấy”. Chị Năm chạy sang, nước mắt lưng tròng, kéo chị Tứ về không được, nước mắt càng rơi tợn. Chú Phi đứng bên ngưỡng cửa im lìm như cái cây chết khô. Cuối tháng, chú Phi hết phép, trở lại đơn vị, không thấy chị Tứ mời sang ăn cơm chia tay như đã hứa. Chú đi được mấy ngày thì bà nội bị giời leo, tấy đỏ, phồng rộp da ở cổ, lưng và cả mặt. Vốn đã lắm lời, bị đau, bà càng rên rỉ nhiều. Vài liều thuốc Tây không giúp bà khỏi bệnh, các nốt đỏ càng lan nhanh. Một đêm, tỉnh dậy, tôi thấy bà ngồi tựa lưng vào tường, ri rỉ khóc. Mở chốt cửa định đi gọi cô y tá xóm, tôi khựng lại bởi thấy chị Năm đang vội vã chạy sang. “Bà bị làm sao mà kêu khóc vậy, em?”. Từ hôm đó, hễ chị Tứ với chị Mười đi khỏi là chị Năm lại tất tưởi chạy sang, ép nước lá lược vàng xoa lên vết giời leo của bà nội. Chị còn sắc ấm thuốc Nam cho bà uống cả ngày. Một hôm, bà nội chừng đã sắp khỏi bệnh và thôi rên rỉ, chị kéo tôi về bên nhà chị, hái quả chay cho tôi ăn rồi ngậm ngùi: “Em có biết vì sao chị trồng toàn những loại rau nhanh được ăn không. Vì chị Mười với chị Tứ chuyển nhà như cơm bữa, trồng rau dài ngày thì chẳng được ăn. Chị lại sắp phải xa em rồi”. Tôi thắc mắc: “Chị đẹp nhất nhà, chị được quyết đi hay ở chứ”. “Đâu có phải chị em ruột đâu em” - chị Năm thở dài. Tôi về mách lại với bà nội. * Mới đi được hơn tháng, chú Phi đã lại được về nghỉ. Chú bảo đi tham dự hội thao, đạt giải cao nên được thưởng phép. Vừa nói được dăm câu ba điều với bà nội, chú đã vội rảo sang nhà chị Năm. Bà nội nháy, tôi chạy vội theo. Chị Mười, chị Tứ, chị Năm đã sắp sẵn đồ đạc, chuẩn bị chuyển đi. Chú Phi trình bày: “Mẹ em chịu rồi. Chị Tứ đồng ý cho em với Năm đi”. “Tao không đồng ý” - chị Tứ làm căng. Chị Mười chẹp chẹp trong miệng: “Đồng ý hay không cũng phải có lễ lạt, thưa gửi cho đàng hoàng chứ”. Chưa dứt lời thì bà nội đã xuất hiện ngay cửa: “Tôi sang có nhời xin cho thằng Phi với cô Năm được đi lại, xa hơn nữa là được kết duyên vợ chồng”. Chị Tứ đảo mắt một vòng: “Con Năm, con Mười với tôi tuy không chung cha mẹ nhưng thương nhau hơn cả chị em ruột. Tôi với con Mười làm gì thì làm, nhưng con Năm là người đàng hoàng. Nó đã mồ côi, bảo nó này nọ thì phải tội. Chị em tôi như cây lá bần mọc hoang, nhưng cũng có tự trọng, cũng có ích chứ”. Rồi chị Tứ tươi tỉnh: “Bà đã nói vậy thì tôi khuyên con Năm ở lại đây. Còn tôi với con Mười thì vừa xin được hai chân nấu bếp ở khách sạn trên thành phố, phải đi gấp kẻo mất cơ hội”. Rồi chị Tứ quay sang nhéo tai tôi: “Đừng thấy chị Năm hay nấu ăn mà tưởng bọn chị đoảng bếp núc nhé. Mẹ thằng Lực đợt này cũng đi làm ăn lương thiện với bọn chị. Hai đứa ở nhà lo mà kèm cặp nhau học hành cho tiến bộ nhé”. * Ra tết, đám cưới chị Năm với chú Phi. Bố mẹ tôi dù đã ly hôn cũng sắp xếp công việc về dự. Buổi chiều, chị Năm cứ ngóng mắt ra ngoài ngõ. Người ta nói ngày cưới mà không có chị em gái tiễn về nhà chồng, tủi lắm. TÔM NÚI Truyện ngắn của Lê Công A nh tên là Lương, còn gọi là Lương trung uý. Xuất ngũ về đi học với cấp bậc này. Ra trường vào Đà Lạt, chiến trường xưa công tác. Vẫn ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân. Gần đây anh có người yêu sắp cưới. "Chà! Mèo mù vớ được cá rán. Cô Sinh đúng là bông hoa rừng". Nhiều người mừng cho anh. "Sinh ơi! Em đúng là người mà anh khao khát. Tuổi trẻ của anh lang bạt khắp nơi. Lên đây anh mang cả một dự định xây đắp tương lai. Anh là một nhà khoa học. Em là một nữ công nhân. Chúng mình sẽ có con cái. Một đứa thôi cũng được. Anh chỉ mong em gánh vác được cuộc sống để anh yên tâm đi vào kho tàng kiến thức của nhân loại làm giàu cho tri thức của nước mình. Anh viết những lời này không phải là khách sáo mà là thực lòng đấy. Anh yêu em! Có phải Lương bị "mát" không. Lứa đại học những năm ấy nhiều người như vậy. Họ có ước mơ cao cả. Những thằng Viên, thằng Huy, thằng Hoá, thằng Nam đều bị thiên hạ cho là điên ráo. Lương cho rằng con đường khoa học là con đường gập ghềnh đầy chông gai. Muốn lên tới đỉnh cao đòi hỏi phải có ý chí và nghị lực phi thường. Anh tự nhủ phải quên hết mọi vụn vặt của đời sống để đầu óc dành cho khoa học. Và thế là người ta cho anh bị mát và chẳng hiểu sao có lần họ định bắt anh đi nhà thương điên Châu Quỳ. Chiến tranh chấm dứt, còn sống trở về là may rồi, Lương chỉ ước mong đủ sống để làm khoa học. Kể ra cứ sống độc thân thì chẳng đến nỗi thiếu thốn. Con người khéo tích cóp như Lương, tháng tiết kiệm chút xíu mua được vài cuốn sách. Năm có vài chục cuốn. Đọc sách nghiên cứu cũng thú vị chán. Thế nhưng phàm là con người Á Đông thì thích có vợ. "Anh không lấy vợ cũng hư mất đời" mà. Anh cưới Sinh cũng đã vào tuổi tứ tuần rồi. Hoàn cảnh của Lương, bố mẹ đủ cả nhưng nhà đông em cũng chẳng giúp gì được cho anh mà ngược lại anh phải dành tiền giúp em ăn học. Sinh cũng chẳng khá hơn. Bố đi bộ đội, mẹ ở nhà chẳng may bệnh mất sớm. Bố về lấy vợ hai đẻ thêm một bầy con. Sinh cưới chồng, bố nói hồi môn cho giàn su su cỡ chỉ vàng, nhưng sau khó khăn quá bố xin lại con rể. Tiền mừng gom lại được bốn chục ngàn, mẹ chồng bảo chung vốn mua lợn nuôi mà kiếm chút tiền khi sinh nở. Được hai tháng lợn ốm chết, mất cả vốn lẫn lời. Vợ chồng ra riêng, kéo nhau về khu tập thể cơ quan ở. Nhà mười hai mét vuông, một chiếc giường đôi, một chiếc xe đạp, chấm hết. Hai vợ chồng cũng đã bàn chờ một vài năm tích cóp chút đỉnh rồi hãy sinh con. Nào ngờ nhà chật thành ra mắn đẻ. Sinh đã có bầu. "Em hãy tin vào đôi tay và nghị lực của anh. Chiến tranh anh đã thắng. Đại học anh cũng vào được thì đói khổ sá chi". Lương an ủi vợ. Lương nói là làm. Ngoài tám tiếng ở cơ quan, anh cuốc đất trồng khoai lang. Những đám đất ngon trong khu tập thể, công nhân đã làm hết. Lương phải vỡ hoang đám đất cỏ săng gần cống thoát nước, nơi hơi thối chẳng ma nào dòm. Ở quê, trồng lang cày úp trước để lên luống vừa cao ráo lại vừa chết cỏ. Bỏ phân xong, xới đất hai bên luống vun cao, vừa lấp phân vừa được đất tơi xốp cho ngọn lang mau bén rể. Bây giờ vũ khí ê ke và cây bút của người kỹ sư không áp dụng được, mà chỉ có cái cuốc cùn và đôi tay trí thức. Lương xợt một lượt cả đám cho cỏ chết rồi đánh thành từng luống thô trước. Dùng xô và tấm bìa Lương ra đồi Cù nhặt phân ngựa. "Năng nhặt chặt bị" chỉ ba buổi là được một thước. Bứt lá cúc quỳ, ngũ sắc, Lương trộn đều với phân ngựa, cho thêm ít nước tiểu tích cóp từ vại sành. Bỏ lên luống, đắp đất lên khắc nó hoai. Ra chợ mua mấy bó lang người ta bán cho lợn, về lựa trồng. Tất cả được mười luống. Cây không phụ người. Đám lang xanh tốt mơn mỡn. Nhìn những đọt lang nõn nà mà muốn hái vào luộc lên chấm mắn ớt và với cơm nhai rau ráu vừa ngon vừa trị được bệnh táo. Biết hái đọt sớm, lang sẽ chậm ra củ, Lương thôi. Lương nhẹ nhàng bắt từng ngọn lang muốn bò xuống dưới "voọc" cho nằm gọn gàng trên luống. Lương nắm chắc mười luống khoai cũng phải được vài tạ. Thu hoạch bán cho dân làm khoai dẻo ở chợ Đà Lạt chắc đủ tiền mua thức ăn cho vợ con. Giàu có gì, chỉ cứu cánh thôi. Một buổi chiều đi làm về bỗng cả đám lang biến mất. Nếu ngày trước chắc người ta cho là thần thoại vì sáng ra Lương còn thăm nó, còn sung sướng trong bụng thấy nó ngày một um tùm mà chiều đã biến thành hồ nước. Hỏi ra thì được biết ông Ngạn người có chức quyền cho máy ủi đào hồ để nuôi cá cho tập thể. Chẳng cần biết đám lang của ai, cũng chẳng đền bù, ông phá tất. Ông cho rào hết sức cẩn thận và hai năm sau đã biết thành đất của cá nhân ông. Lương đã phát đơn kiện nhưng chẳng ăn thua. "Hỡi đứa con sắp sửa ra đời của ta. Ta không phải là kẻ hèn. Ta thông cảm cho hoàn cảnh của đất nước. Để vươn tới đỉnh cao của khoa học thì ắt ta phải không chùn bước. Cứu cánh, cứu cánh và cứu cánh! Ta quyết sẽ lo đủ cái ăn, cái mặc cho con khỏi suy dinh dưỡng, bên cạnh đảm bảo đủ điều kiện cho ta dùi mài đèn sách!". Tháng Tám, vợ đẻ. Đúng là chẳng biết chạy đâu ra tiền. Đi vay đi xin nhục lắm. Đứng trên ban công nhà tập thể nhìn ra phía hồ Xuân Hương chợt Lương nhớ ra: Tôm núi! Hồi đi bộ đội ở Trường Sơn, có lần đơn vị bị địch vây, không tiếp tế được, Lương lấy vải màn làm vó cất cá. Không ngờ được bao nhiêu là tôm. Đà Lạt lạnh thế này liệu có tôm không nhỉ? Thì phải thử đã. Tất cả đều phải thử. Lương đi mua lồ ô, chẻ, vót thành cọng vó; mua vải màn làm lưới vó, kết lại thành chín cái. Nam bảy, nữ chín, vợ đẻ con gái thì phải làm chín cái. Vợ đẻ nằm ở bệnh viện, ở nhà Lương đóng cửa làm không ai hay biết gì. Phải đợi chập tối mới vác vó đi thả. Thứ nhất là "tôm chập choạng, cá rạng đông", thứ hai là để đỡ người trong cơ quan thấy họ lại đặt cho cái biệt danh Lương "vó tôm" thì mang tiếng. Đúng bảy giờ tối, khi vưà đưa cơm nước cho vợ về, Lương vác vó ra phía bắc hồ Xuân Hương. Quần xắn móng lợn, trông Lương giống hệt ông nông dân. Thì hầu hết trí thức ta đều từ nông dân mà ra. Lương cười an ủi. Vấn điếu thuốc lào làm một hơi cho đỡ lạnh, Lương rải hết chín cái vó trên một quãng dài chừng bốn lăm bước. Xong rồi, anh trải ni long bên gốc thông ngồi chờ. Độ chừng tàn hai điếu thuốc, Lương cất mẻ vó thứ nhất. Lương đưa cần kéo vó lên, hồi hộp. Thấy vó nặng tay chắc không tôm cũng cá. Nào ngờ toàn rác. Mẻ vó thứ nhất "mo". Các mẻ tiếp theo chỉ được vài con cá lòng tong, thi thoảng có con giếc bằng ngón tay. Vẫn kiên trì, Lương tiếp tục thả vó rồi ngồi bó gối nhìn mặt hồ lặng sóng đen ngòm trong bóng đêm. Đêm Đà Lạt vắng. Đường vòng quanh hồ không có điện, càng hay, kẻo người ta lại nghĩ mình điên. Rồi trăng lên. Trăng non tháng tám mọc từ núi Lang Bian như mĩm cười khiêu khích. Xuỵt! Có người. Một đôi trai gái đến ngay gốc thông cạnh cái vó thứ chín của Lương làm tình. Ai nhường ai, thì cũng phải để cho người ta trò chuyện chút đỉnh. Coi như mình mất một mẽ vó. Và Lương biến thành kẻ đi theo dõi người ta yêu nhau. Thật là một "mẻ vó đậm". Đợi người ta hết "hiệp một", Lương mới đứng dậy đi cất vó. Cặp tình nhân bấy giờ mới chịu đi chỗ khác. Mẻ vó của Lương cũng chỉ vài con cá lòng tong. Phải về thôi. Chắc vùng này chẳng có tôm... Lương chẳng nói gì với vợ. Tiền lương dành dụm mua thức ăn cho "bà đẻ" đã hết. Có lẽ mình phải tìm mgột nghề cứu cánh khác. Nhân ông dượng đến thăm, Lương hỏi ông xem Đà Lạt có nghề gì làm tạm một tháng mà có tiền không. Ông bảo, có nghề này chưa ai làm nhưng làm chắc có tiền. Lương như mở cờ. "Nghề gì?" Ông bảo: "Nghề đỡ bà bầu lên cầu thang chợ". Rồi ông bật cười còn Lương thì chua chát. Một hôm gỡ vó ra phơi thì thấy một con tép diu khô mắc trong vải màn. "Có tôm!" Lương suýt kêu lên. Thế là anh lại lấy gạo ra rang cháy giã làm thính và xách vó đi. Lần này anh lên hồ Than Thở. Trời đổ mưa. Cơn mưa cuối thu như rắc hạt xuống mặt hồ làm sủi bông bóng đều như bắp nổ. Lương rải vó dọc mép hồ, vấn thuốc lào ngồi hút đợi. Bắt đầu cất được rồi đây. Chiếc vó vừa cất lên khỏi mặt nước, tiếng lách tách rộn lên. Có tôm rồi! Lương mừng quá, đổ tôm vào chiếc rổ rồi cất tiếp. Hôm ấy anh cất được một ký tôm. Sáng hôm ấy những người đi chợ sớm hết sức ngạc nhiên trước một món hàng lạ. Tôm núi tươi rói nhảy lách tách trên chiếc rổ nhựa. Người bán cũng lạ. Người ta bâu vào để hỏi nguồn góc của các chú tôm hơn là để mua vì biết nếu trả giá cao cũng không đến lượt mình. Lương thật thà kể hết câu chuyện từ hoàn cảnh đến việc nảy sinh cất vó tôm và những lần thất bại. Khách hàng trả sỉ hết mớ tôm, đem chia nhau. Lương cầm tiền vào chợ xách về một cá giò lợn hai ký. Bữa cơm hôm ấy vợ ăn nhiều, anh cảm thấy rất hạnh Tối hôm sau Lương mang vó tôm đi thì đã thấy có vài người đang cất tôm ở hồ Xuân Hương. Cũng chả sao. Đà Lạt hồ bao la. Lương vẫn có một góc để thả vó. Cứ thế hôm sau cất được nhiều tôm hơn hôm trước và người vợ đẻ béo tròn béo quay, Lương cảm thấy rất tự hào. Đến ngày thứ năm thì tất cả các hồ ở Đà Lạt đều giăng đầy vó tôm. Lương không vì thế mà buồn. Anh lặng lẽ vác vó đi xa hơn. Niềm vui cứ quấn quýt đôi chân. Có hôm Lương đi một hai ngày mới về. Có ngày cũng đổi được cả chục ký gạo. Với việc làm này của chồng vợ Lương càng yêu anh hơn. Cô thể hiện ra bằng những lời nói nhẹ nhàng, ngọt như mía lùi hoặc những cử chỉ rất dịu dàng. Cô bảo đầy tháng cô sẽ gửi con đi làm để anh khỏi đi cất vó tôm nhếch nhá. Cô muốn anh phải là anh kỹ sư ngồi bàn giấy sang trọng, lúc nào cũng cổ cồn trắng cơ. Vợ muốn chồng sang là lẽ thường tình của người Việt. - "Kỹ sư mà cũng đi cất vó tôm?!" - Một người nói phía sau khi Lương mang bộ vó đi. Đúng, Lương đã đi cất vó tôm. Sau này cả nước biết Đà Lạt rộ lên một thời cất tôm núi. Lương là người nghĩ ra việc này sớm nhất. Là người lớn lên ở miền xuôi, cất vó tôm ở ruộng lúa là thường rồi. Đi lính, đôi lúc cũng phải bắt cá, bắt tôm cải thiện. Bây giờ hoà bình, đã học hết đại học, lại lên núi làm khoa học, ai lại đi cất vó tôm, người quê biết chắc họ cười chết. Thế nhưng ai biết được đó là cứu cánh của anh. Đôi khi cậu cũng tự hào với cái lý lịch bần nông mà cha cậu đã tự khai sau khi đấu lại ông nội. Cái lý lịch giúp cậu hoà đồng được với những người nghèo suốt bao nhiêu năm. Cậu đi bộ đội và đạt được cái vinh quang ít người trong làng đạt được là cái hàm trung uý. Cậu về đi học đại học lại là mơ ước của nhiều người ở quê. Thế rồi nghe cậu vào làm việc ở một Viện khoa học trên thành phố hoa thì thiên hạ lại càng khâm phục. Ba tháng trôi qua. Con gái Lương vẫn còn yếu mà vợ không đủ sữa. Bây giờ thì tất cả các hồ xa gần Đà Lạt người ta đã cất không còn sót một con tép diu. Lương giở bản đồ xem có còn hồ nào người ta chưa tới không? A, còn hồ Chiến Thắng. Hồ này nằm giữa những đám sình, cỏ săng cỏ lác. Những người công tử bột không thể lội ra xa mà cất vó được. Lương thì quen rồi. Hồi ở bộ đội Anh còn nằm trên đám sình lầy cả ngày trốn máy bay địch, chờ tối mới lên bờ. Mình nên làm một mẻ vó ở đây nữa rồi kết thúc công việc cất vó tôm. Mình chỉ cần kiếm tiền bồi dưỡng cho vợ con đợt này nữa là vợ đủ sức đi làm được rồi. Lúc đó mình sẽ yên tâm ngồi trong phòng thí nghiệm cả ngày cả đêm để mà nghiên cứu khoa học. Buổi sáng hôm đó Lương dậy sớm hơn mọi ngày. Phải đi cất sớm dể bảy giờ rưỡi còn về đi làm. Lương vác vó tôm đi lòng tràn đầy niềm vui. Không khí Đà Lạt trong lành cứ mơn man lấy da thịt anh. Anh vừa đi vừa huýt gió theo giai điệu bài hát "Trước ngày hội bắn". Quả thì lội qua đám sình cũng ớn. Nhưng người ta sợ hơn là dẫm phải mìn. Khu hồ này hồi chiến tranh là bãi mìn bảo vệ cho Trường Võ Bị của quân địch. Sau giải phóng, bãi mìn đã được tháo gỡ. Lâu nay người ta vẫn đi lại bình thường. Với Lương hồi là lính đặc công, anh đã từng cắt rào gỡ mìn tiến đánh những căn cứ quan trọng như dồi Dã Chiến, trường sĩ quan chính trị... Với kỹ thuật và phương tiện dò mìn hiện nay Lương tin mìn đã được tháo gỡ tuyệt đối. Chiến tranh anh đã đi qua cả bãi mìn không sao, giờ đi qua bãi mìn đã tháo gỡ, có gì phải sợ. Vừa suy nghĩ vừa đi, Lương đã rãi xong chín cái vó tôm. - Phậch, phậch...tách, tách.. Cất chiếc vó đầu tiên, Lương không thể tin ở mắt mình nữa. Chao ơi. Tôm nhiều chưa từng thấy. Những con tôm gần bằng ngón tay cái đen sì, nhảy tứ tung. Lương đổ vào rổ rồi lấy lá môn đậy lại. Cất hết chín cái vó mà Lương thấy khoẻ re. Mới mẻ vó đầu đã đầy rổ tôm. Trời giúp mình rồi. Hồ tôm này có thể làm giàu chứ chẳng chơi. Chợt có tiếng gọi từ trên bờ. - Anh gì ơi có tôm không? - Nhiều lắm, tha hồ mà cất! - Nhưng tôi sợ mìn lắm!... Lương biết nhiều người muốn tìm hồ mới để cất vó tôm nhưng lại sợ mìn. Lần này mình lại là người đi tiên phong. Thấy số tôm cất đã nhiều và trời cũng đã sáng hẳn. Lương cuốn vó để ra về. Anh nghĩ chắc vợ anh cũng sẽ mừng và anh sẽ để vợ mang ra chợ bán. Về tắm rửa một cái để đi làm cho kịp. Sáng nay phải hoàn thành bản thuyết minh đề tài chữa bệnh ung thư bằng dòng nơtron làm chậm. Đề tài khó, kiến thức chưa đủ nhưng Lương nghĩ tập trung thời gian và trí tuệ là làm được. Theo anh chỉ cần một phần thông minh còn chín phần cần cù là thành công. Cuốn xong vó, lên bờ Lương không đi bằng lối cũ mà đi tắt cho nhanh. Còn vài mét nữa là lên đường nhựa, tha hồ mà rãi bước. Bỗng một tiếng nổ xé tan màn trời bình yên. Người đàn ông trên bờ nằm rạp xuống, khi tỉnh dậy ông thấy dân chúng đã đông đặc hai bên hồ. Hồ chiến Thắng cách nhà Sinh ở gần hai cây số. Nghe tiếng nổ, Sinh linh tính đến một điều chẳng lành. Khi người ta xôn xao có một người cất vó tôm chết trên hồ Chiến Thắng, Sinh đã xỉu xuống bên cạnh đứa con đang ngon giấc. Tỉnh dậy, Sinh nhờ người dìu Sinh đến bên xác chồng. Lương chết không toàn thây. Một phần xương thịt của anh đã nằm lại trên hồ Chiến Thắng. Phía sau những mùa tôm Anh ở lại một mình, tôi mang con Lành theo chớ để nó sống ở đây thì suốt đời rồi cũng khổ như tôi. Người ta xây nhà, sắm xe ào ào, ai như anh, mùa tôm nào cũng quặt quẹo có vài ba đồng bạc. Tôi ngán cái trại này lắm rồi”. Mặc đứa nhỏ đang khóc ngằn ngặt, Nương vẫn mang con đi. Tôi chẳng đuổi theo cũng không giữ lại, bởi tôi muốn để em tự chọn cuộc sống của mình. Ba năm kể từ khi là vợ chồng, em chưa được sung sướng ngày nào. Mùa qua mùa, em cùng tôi rải vôi, sa phong (*), canh giờ cho tôm ăn vào mỗi sáng, mỗi khuya; rồi cùng thao thức, lo âu với những lứa tôm mới thả… Nhưng đã mấy vụ tôm đi qua mà chúng tôi vẫn không dư dả được bao nhiêu. Vẫn là căn nhà nhỏ trống hoác với chiếc giường hồi mới cưới, cái ti vi màu 14 inch và lèo tèo vài cái nồi nhôm trong bếp. Hồi mới ủi hồ, lứa tôm đầu tiên cũng dư được vài chục triệu, vợ chồng vui vẻ để dành làm vốn để mua thêm đồ nghề, thức ăn cho tôm dự trữ đầy trong nhà. Vụ thứ hai, mới thả được bảy ngày, tôm chết nổi thành từng đám đỏ lèo bèo trên mặt nước. Từ đó về sau, tôm lứa nào không bệnh chết thì cho ăn mãi cũng vẫn không lớn được, đành bán tháo vớt vát cho được ít đồng vốn. Tình cảm vợ chồng cứ lên xuống theo từng vụ tôm. Rồi, càng ngày càng giống bát nước đã trót đổ đi, cố hốt mãi cũng không đầy lại được. Từ ngày dân trong thôn rộ lên phong trào ủi đất làm hồ nuôi tôm, nhiều gia đình phất lên trông thấy. Cùng công chăm bẵm như nhau, nhưng con tằm mỗi nhà lại cho tơ khác nhau. Có nhà trúng từ vài chục đến vài trăm triệu đồng nhưng cũng có nhà tôm bị chết yểu hoặc bị bệnh đốm trắng, vàng mang… chết hàng loạt. Nhiều người phải bán đất đai, nhà cửa lấy tiền trả tiền giống và hàng trăm khoản nợ không tên khác rồi cuối cùng bỏ xứ lên thành phố làm thuê. Con tôm vùng này đúng là ác thiệt. Không chỉ ăn bột, cá vụn, nó đã ăn mất bao nhiêu tài sản của người dân nơi đây, giờ lại tính ăn luôn vợ con tôi. Nhưng mà ông Trình ở bến đò, nhà có hai xe tay ga, cùng với ngôi nhà to vật vã xây sau khi trúng tiếp mấy vụ, cũng vừa bị tôm ăn mất vợ đó thôi. Ông suốt ngày dầm mình dưới hồ, làm sao hay được vợ mình cuỗm hết tiền vàng bỏ trốn với thằng coi trại thuê. Nghĩ đến đây, nước mắt tôi bỗng rơi độp giữa trưa hè nắng gắt. Bốn bề không một ngọn nồm. Tôi ngước lên, nhìn theo dáng Nương tất tả trên con đường bê tông duy nhất trong thôn. 2 Hai vụ liên tiếp lỗ hơn bốn chục triệu nên vợ chồng con Hồng đành bỏ con tôm, lên thành phố xin vào làm công nhân đã mấy tháng nay. Hai vợ chồng thuê căn phòng trọ hẹp trú ở tạm qua ngày. Mấy ngày đầu, thằng Định ngán tận óc cái điệp khúc của vợ: “Anh, đồ ăn ở đây mắc dễ sợ. Có mấy con cá nhỏ xíu mà mười mấy ngàn. Ở quê mình thì giỏi lắm năm ngàn là cùng”. Rồi lại: “Em hết thở nổi rồi. Nóng quá là nóng. Khổ chi khổ dữ ri trời. Dưới quê mùa này mát rượi ngủ đã luôn”. Đôi khi con Hồng cũng xuýt xoa: “Sống ở thành phố cũng sướng thiệt. Tối bước ra đường là đèn điện sáng choang chớ đâu như ở quê mình”. Rồi cười hì hì: “Tháng ni anh làm tăng ca được thêm bốn trăm. Mai em mua thịt về ăn khao anh hỉ”. Con Hồng vừa học xong khóa may công nghiệp ở trung tâm dạy nghề. Định đang nhăm nhe xin cho vợ vô làm ở xí nghiệp may gần nhà. “Không ham làm giàu từ con tôm nữa. Anh sợ rồi”. Định nói khi đang chở vợ lên nhà ông giám đốc Tần của hãng. Cũng có quen biết sơ sơ nên không chỉ định xin cho vợ làm công nhân, Định còn mua hai ký cua gần bốn trăm ngàn đem theo tặng ông Tần để xin cho vợ làm tổ trưởng. Con Hồng nói với chồng sau khi chọn được mấy con cua to nhất đang bò lổm ngổm trong cái thau nhôm: “Rứa là mình chỉ còn hai trăm ngàn. Cuối tháng anh qua chị Hai mượn ít tiền về đong gạo hỉ”. Nhà ông Tần là một biệt thự hai tầng sang trọng trong một con hẻm yên tĩnh. Hai vợ chồng được mời vào nhà. Hỏi thăm mới biết ông Tần ở một mình. Vợ con ông đang ở bên nhà ngoại trong Sài Gòn, mỗi tháng ông vào thăm một lần. Thăm hỏi đôi ba câu xong, hai vợ chồng mới mang mấy con cua ra tặng nhưng ông Tần nhất định không lấy, ông nói nhà không có ai nấu nướng. Thằng Định nghĩ bụng: “Sao ổng không nhận cho rồi. Hễ nhận là coi như sẽ chịu giúp vợ chồng mình. Đằng này…”. Tốn tiền mà chẳng được việc, hai vợ chồng bàn nhau ngày mai đem cua ra chợ bán. Con Hồng hí hửng: “Chắc không chỉ lấy lại vốn mà còn có khi còn lời đó anh. Mình chạy về quê mua tận nơi, chắc bán ở thành phố sẽ được giá lắm”. Vậy mà hai vợ chồng đi mấy chợ cũng không có ai chịu mua cho. Vợ chồng cứ nơm nớp lo để lâu, mấy con cua bị rụng càng thì chỉ có nước đem về ăn. Con Hồng nài nỉ mấy bà hàng cá mua mãi không được, đánh liều rao bán trong chợ siêu thị “Cua sông tươi rói, vừa bắt sáng nay. Giá rẻ mấy chị ơi”. Dù bị ép giá nhưng cuối cùng cũng bán được cua khiến vợ chồng con Hồng mừng rơn. Thôi thì cũng lấy lại được ít tiền, chỉ lỗ chín mươi ngàn cộng với tiền xăng chạy xe máy về quê chiều qua. 3 Gặp hai vợ chồng con Hồng ở đám giỗ xóm trên, nó nhìn tôi vẻ thương hại rồi nói nhỏ: “Em gặp chị Nương trên phố. Bữa ni chỉ đẹp lắm. Chỉ bồ ông giám đốc chỗ em… Còn phần anh, anh coi thử có ai hợp tính, hiền lành thì rủ về sống chung cho có người bầu bạn”. Hồng còn cho biết bé Lành con tôi rất mau lớn và đã đi học mầm non, cả chuyện vợ chồng nó đến giờ vẫn chưa trả hết nợ… Tôi ậm ừ cho qua chuyện nhưng vẫn thấy đau quặn trong lòng. Tôi nhớ con gái quá. Hồi Nương mới bỏ đi, đêm nào tôi cũng thức giấc vì cảm giác bất lực không giữ được con cứ quần đi quần lại trong đầu. Sự day dứt và nỗi nhớ con làm tôi trở nên điên dại mỗi khi đêm xuống. Trong cái trại nhỏ heo hút, không ai biết tôi đã trải qua những tháng ngày như vậy. Giờ nghe nói về con, tôi thấy an lòng hơn đôi chút. Nhìn lại mình, thấy vẫn trắng tay, tôi tự thấy Nương đã sáng suốt chọn con đường đúng. 4 Đã ba năm kể từ buổi trưa ấy. Trời hôm nay cũng đứng gió, cũng oi bức như cái ngày Nương bồng con bỏ đi. Tôi lên phố tìm mẹ con Nương suốt mấy ngày nhưng không ai hay biết tin tức gì của Nương. Lần hỏi những chỗ quen biết, mọi người đều bảo Nương đã bỏ xứ vô Sài Gòn. Tôi định về gặp lại vợ chồng con Hồng ở bến xe trung tâm. Nghe đâu con Hồng đã nghỉ làm, bởi xí nghiệp may giải thể. Hai vợ chồng dắt díu ra đây mở quán nước qua ngày. Con nhỏ ngày xưa hiền lành là thế nhưng mới sống ở thành phố mấy năm mà đã trở nên khá đanh đá. Mời nước người ta không mua, nó gườm gườm, giả vờ té ịch vào người họ. Thằng chồng cũng ra dáng dân bến xe bặm trợn. Nó đón đầu khách, mời họ lên mấy cái xe dù để kiếm tiền cò. Chỉ có một điều không thay đổi, là hai vợ chồng vẫn thương yêu nhau rất nhiều. Nhìn cách tụi hắn nhường nhịn nhau từng miếng ăn là biết. Buổi trưa, hai đứa chỉ mua một hộp cơm và ba nghìn cơm trắng ăn thêm rồi chia nhau. Con Hồng - sau khi húp chút nước canh lõng bõng mà chồng để dành cho - thao thao kể: “Đến cuối năm ni thì bọn em trả hết nợ vay làm tôm. Kinh quá anh ơi, lãi mẹ đẻ lãi con. Tụi em mà không dính nợ thì giờ cũng mua được miếng đất rồi. Dang nắng dang mưa ở đây, mỗi tháng kiếm được cũng đỡ đỡ. Nhưng vợ chồng em phải tiết kiệm để trả nợ và nuôi con nhỏ”. Nó lại hỏi tôi sao chưa chịu cưới vợ. “Bây giờ anh giàu rồi, thiếu gì gái tơ. Bà Nương giờ mà biết anh giàu rứa chắc tiếc lắm. Em công nhận là tiền quan trọng thiệt, nhưng trên đời này tình cảm vẫn là nhất. Anh thấy đó, anh được trời phật phù hộ cho lại thứ khác, chớ anh đâu có mất hết”. Tôi bảo: “Ngày xưa anh đã sai khi không cố giữ chị Nương lại”. Nói xong, tôi chạy đi mua mấy lon sữa để gởi về cho con nó. *** 5Giờ thì tôi đã có thể mua nhà, mua xe cho Nương. Tôi đã làm giàu được trên những hồ tôm quê mình. Nhưng tiền bạc không khiến tôi vui nổi mỗi khi nhớ lại cảnh vợ chồng í ới nhắc nhau cho tôm ăn, nhớ món canh cá diếc nấu rau răm ngọt ngào của Nương, nhớ những khi ú òa chơi đùa với con… Cái trại nhỏ giờ được san lấp, thay bằng ngôi nhà mới đầy đủ tiện nghi. Đôi lúc ngẫm nghĩ, tôi cũng định bán hết nhà cửa đất đai, hồ trại, bỏ xứ đi nơi khác sống để đỡ phải thấy phải nhớ những kỷ niệm ngày cũ. Nhưng rồi không sao làm nổi, tôi đành ở lại. Ở lại để hy vọng mẹ con Nương quay về. Để được tha thứ cho em, được bồng con trong tay và mua cho nó những áo đầm, những búp bê đẹp mà chắc con Lành rất thích. Cứ thế, tôi cứ quay vòng vòng trong cái mạng nhện chờ đợi, nhớ mong, để nó ngày càng thít chặt lấy mình nhiều hơn nữa... *** Mỗi ngày, lúc trời sập tối, khi bộ quần áo bạc màu phèn được thay ra cũng là lúc người đàn ông bắc ghế ra trước sân ngồi ngóng suốt ra đường lộ. Ông ngồi đó cho đến khi trời tối hẳn không thể nhìn thấy mặt người mới chịu trở vô nhà. Cứ vài ba hôm, ông lại bày thêm chai rượu với mấy con khô. Và khi men đã thấm, ở khóe mắt ông rỉ ra vài giọt nước. Ông càng cố chùi, nó càng trào ra nhiều hơn. Đó là tiếng khóc khô, bởi nó không phát ra một âm thanh nào. Mặc bao sự đời và cảnh khóc cười của con người, dưới những lòng hồ trong veo, hàng vạn con tôm vẫn đang búng mình tận hưởng sự no nê của bữa ăn chiều và cả cái không khí dìu dịu của một ngày đang chuyển sang đêm xứ Quảng. Tô canh mỳ tôm. Đã hơn 9 giờ tối, đó là 1 đêm mùa khô gió nhiều, gió cuốn bụi tốc vào người đi đường, ông lão lao công ở góc cầu quay người che lại cái bếp nhỏ vừa mới nhúm lửa được của mình. đưa tay quệt mồ hôi trên khuôn mặt khắc khổ nhiều cảm xúc, ông bỏ vào đó 1 gói mỳ tôm. Ông ngồi xuống, nhìn lại cái chòi của mình, cũng nhanh thật, mới đó mà đã hơn 3 năm rồi ông gắn liền với cái gầm cầu này, làm nghề công nhân thu dọn rác, đây là ‘bữa sáng’ của ông trước lúc chuẩn bị cho công việc. Với ông, cuối đời cô độc của mình vẫn còn thong dong chán, cũng đã có nhiều ‘đứa’ đến ở với ông đấy chứ, đó là vài con chó hoang, loang lổ, đen nhẻm và mệt mỏi, chúng đến ông 1 thời gian cũng bỏ đi, ông biết đấy vì chúng không chịu được cái đói, mà ông cũng mừng, có lẽ đấy sẽ là điều tốt biết đâu chúng tìm được nơi nào tốt hơn thì sao… Chợt trên đường xuất hiện 1 bóng người đi bộ, đèn đường leo lét soi vào mặt gã vàng vọt, xanh xao. Nét mặt gã thất thần, tiếng còi xe tải bên đường gã đi cũng không làm gã để tâm, bước chân gã chậm chạp như lê về 1 nơi xa lắm. Bộ đồ gã mặc cũ kĩ và lấm đầy bụi đất nhưng điểm đặc biệt là chiếc áo khoác gã đang mặc, chỉ cần nhìn qua là biết đó là hàng tốt, 1 gã lang thang lấy đâu ra 1 cái áo đắt tiền kia chứ ? Có người bên vệ đường nhìn gã với cái nhìn sắc lẻm, hắn đưa mắt nhìn tên đứng cạnh, tên này nói gì đó rồi hắn không thèm nhìn gã nữa, cứ như thế gã lại đi tiếp như 1 toa tàu không có điểm dừng. Bước chân của gã bất chợt dừng lại, là do mũi của gã ngửi thấy 1 mùi thơm của đồ ăn, giây phút này gã để cho bản thân mình bị dẫn dắt theo bởi cái mùi ma thuật đó, gã dừng lại trước căng chòi dưới gầm cầu, tai gã lúc này đã nghe rõ tiếng sùng sục của nồi canh đang sôi trên bếp, bụng gã cồn cào khó tả, nước miếng gã đã ứa ra. Lúc này gã như con sói đang đứng trước miếng thịt cô bé quàng khăn đỏ thơm tho nhưng chân gã thì như chôn chặt, chỉ có đôi mắt là không thể che dấu được dục vọng. - Đến đây con trai, đừng sợ ! Ông lão lên tiếng từ trong chòi, ông đã có tuổi nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Gã sượng sùng, tính quay bước đi mà sao chân lại chậm chạp bước vào, gã ngồi đó, ngay cửa chòi rồi đưa mắt nhìn ông. - Để tôi lấy cho cậu ít nước nhé, hay cậu cần gì nào ? Tay gã trong vô thức đưa lên và hướng về phía nồi canh, ông cười rồi đứng dậy, múc lấy 1 tô trao về cho gã. - Cẩn thận coi chừng phỏng đấy – ông nói. Nhưng lúc này gã con thú săn đứng trước miếng mồi, chỉ kịp thổi vài cái lấy lệ rồi húp vài hơi là hết sạch, gã thở 1 hơi lớn, mắt gã nhắm nghiền trong phút chốt rồi mở ra. - Đây là canh gì mà ngon quá vậy ? – gã cất tiếng, giọng thều thào như hơi thở. - Nó ngon vì cậu đói quá thôi, mà cậu có vẻ như chưa từng ăn canh mỳ tôm với mồng tơi bao giờ nhỉ ? – ông cười nhẹ nói. Gã ngẩn ra trong giây lát, đưa mắt nhìn lên trần rồi chậm rãi nói ‘Phải’. Gã đưa lại tô cho ông, đầu cúi xuống tỏ vẻ hàm ơn. Ông thấy gã ngồi đó, vừa mới ăn xong tô canh nóng mà gã không đổ 1 giọt mồ hôi mà trái lại lại có vẻ đang co người vì lạnh. - Cậu bị nghiện, đúng không ? Gã giật mình, đúng là không thể che dấu được với cái hình dạng hiện nay của mình. Gã sợ, sợ ông lại xua đuổi gã như tất cả những người trước đây đã làm. Gã nhìn ông 1 cách lén lút như nhìn những con người vô cảm kia, rồi cũng sẽ bị ném vào người với bất cứ thứ gì họ cầm trên tay hay nhẹ nhất là những lời đối xử phân biệt để xua đi 1 thứ cặn bã, 1 mầm bệnh di động. Đôi lúc gã muốn chết ngay tức khắc mà người ta cũng có cho đâu “Có chết thì đi chỗ khác mà chết”, gã biết và chấp nhận chuyện đó, như lúc này đây nó lại sắp xảy ra lần nữa. - Phải – Gã bình thản thừa nhận, đôi mắt mệt mỏi quay về phía cửa. - Tôi thấy cậu chắc là rất mệt mỏi mà có vẻ như cũng chẳng có nơi nào để đi, hay là tối nay cậu cứ ngủ ở đây rồi mai tính tiếp. Câu nói của ông làm ánh mắt thâm quần sau những làn khói thuốc của gã ánh lên 1 ánh sáng, ánh sáng của lòng cảm ơn và hy vọng… - Ông không sợ tôi sao ? - Tôi còn gì nữa để mà sợ, mà tôi chắc trước khi là thế này, cậu cũng từng là 1 người tốt, đúng không ? “Trước đây” ư ? – Gã bật cười nghe giống như tiếng ho – Ông có muốn biết trước kia tôi thế nào không ? - Nếu như cậu muốn kể. Vậy là gã có dịp trút lòng mình, đã lâu rồi gã không còn có dịp nói chuyện với ai, mà người ta cũng đã loại bỏ cái quyền cơ bản này của gã từ lâu rồi mà. Rồi gã kể, kể rằng gã đã từng là công tử, sung sướng đến mức không không phải động đến 1 móng tay ngay từ bé, cha gã là 1 quan chức cấp cao trong ngành, với nhiều phi vụ lớn mà chỉ cần 1 vụ được phanh phui thì cũng đủ ngồi gỡ lịch dài hạn, mẹ gã có 2 căn liền kề ngay chợ bán tạp phẩm, công việc bận đến nỗi gần như ngày nào gã cũng ăn cơm 1 mình mà đến lúc được ăn chung thì cũng chỉ được dăm phút vì biết bao cuộc gọi của cả 2 người làm gián đoạn. Gã lớn lên với đồng tiền chu cấp luôn đầy đủ trong túi, gã tập làm quen với những trò vui thâu đêm suốt sáng để quên đi cái cảm giác cô đơn, lạc lõng khi phải ở 1 mình. Trong 1 cuộc chơi chếch choáng men rượu, chẳng cần nói khích gã đã đồng ý ngay lập tức cuộc đua xe trong đêm, khi đặt chân ở vạch xuất phát tiếng reo hò của những kẻ tham gia làm máu trong người gã thêm phấn khích, tiếng rú ầm ĩ cả tai trên đại lộ Đông – Tây, hàng chục chiếc xe bóng lộn siết ga lao đi xé tan màn đêm. Không khó để gã vượt lên dẫn đầu, dẫu sao thì bao nhiêu tiền đổ vào chiếc xe không hẳn là phí. Gã hả hê nhìn lại đám chiến hữu đang ngửi khói phía sau rồi phá ra cười lớn, khi quay lại thì gã không thể nhớ chuyện gì đã xảy ra, gã chỉ nhớ là chiếc xe bay bổng trong không trung rồi đáp xuống đất theo cách tệ hại nhất, nó đâm thẳng vào trụ xi măng gần đó, chiếc xe cả trăm triệu phút chốc bốc cháy ngùn ngụt. Về phần gã, quả là kì diệu khi gã không hề bị tổn thương ở phần đầu nhưng chỉ trong tíc tắc để gã kịp nhận ra cơn đau khủng khiếp đến từ cái chân trái bị gãy lìa và phần xương gãy đang đâm vào thịt, giây phút này gã chỉ ước sao mình ngất đi để không phải chịu đựng nỗi đau thể xác, bọn chiến hữu nhanh chóng đến kiềm chặt gã rồi 1 tên đưa cho gã hít 1 loại bột mà nó kiến gã nhanh chóng đỡ hơn trong chốt lát. Sau lần đó gã không chết nhưng bỗng đâm nghiện cái thứ bột kì diệu hít vào đêm đó, gã thử lần 2, lần 3… dù rằng biết đó là ma túy nhưng gã thèm cái cảm giác mà không có bất kỳ thứ gì khác mang lại được. Đến 1 ngày gã giật mình nhận ra hệ quả mà nó mang lại, thân xác gã tàn tạ, tiền bạc thì đã tiêu đến đồng cuối cùng, trong 1 lần bị công an bắt, người ta truy lần ra cha gã có dính líu tới hàng loạt vụ hối lộ phi pháp cùng số tiền trốn thuế rất lớn của người mẹ. Số phận của họ nằm dưới tay luật pháp còn gã thì được đưa vào trường cai nghiện, có thể là quá muộn khi cố cứu chữa thân thể mà bệnh tật đã lan đến tận tủy. Gã leo tường ra khỏi đó, để đi lang thang vô tận và giờ thì đang ngồi đây kể lại câu chuyện này. “Chiếc áo này là thứ duy nhất còn lại mà 1 người rất đặc biệt đã tặng cho tôi để nhắc nhớ đến tôi đã từng là ai”. Gã mỉn cười có lẽ vì đã mãn nguyện khi kể xong câu chuyện đời mình. “Cám ơn ông, nhưng giờ con phải đi, khi xuống đến địa ngục, con chắn chắn sẽ nói những điều tốt đẹp nhất về ông”. Giây phút này gã không cần lòng thương hại hay những lời nói cảm thông, gã đã biết mục đích cho chuyến đi của mình và giờ là lúc lên đường. Ông vẫn ngồi đó lặng im, nhìn theo cái dáng người nhỏ bé trong chiếc áo quá khổ, bước chân chậm rãi nhưng chắc chắn, bóng người xa khuấn rồi nhỏ dần, nhỏ dần theo làn khói bụi cuộc đời. Có lẽ ông sẽ nhớ đến chàng trai này mà cũng có thể lãng quên theo năm tháng, đồng hồ báo hiệu ông đã đến giờ đi làm … ô bún tôm…có đường Trưa hôm qua, cả nhà tôi ăn bún tôm … cũng chả có gì hay ho và đặc biệt đâu nhỉ … nhưng có lẽ, những chuyện tưởng như bình dị ấy lại hàm chứa những thứ thật sự lớn lao … Vì thế, tôi xin kể ra đây như một khúc dạo đầu khập khiễng về một góc nhỏ trong cuộc sống của tôi … nơi căn bếp và Má tôi …!!! ố là mãi tới gần 2h trưa, khi cả nhà ăn xong hết trơn, tôi mới lê thân xuống bếp kiếm “miếng ăn” … tôi hay thế lắm, có lúc thèm ngủ tôi còn bỏ cả bữa cơ … lúc này đói quá, cái bụng không ngừng phản đối, vậy là đành ráng chút tàn hơi mà mò xuống bếp !!! “Hôm nay ăn gì dzạ mày!?” … con em sẵng miệng đáp “Ăn bún tôm … tự nấu đi” … Tôi ậm ờ “Ừ … để tao tự xử !!!” Anh em tôi là thế, cái khoảng cách hai năm tuổi khiến chúng tôi thật sự thân thiết, mà nói theo cách dân dã là “không cần giữ kẽ”. Thế rồi, từ tít tận ngoài sân, Má tôi bỏ dở cả công việc đang làm, đùng đùng chạy vô ” ngủ gì mà quá trời vậy, ăn uống kiểu này không bị đau bao tử cũng uổng …” Mấy câu trách này, tôi đã nghe đến thuộc nằm lòng, và mỗi lần như thế tôi hay vừa lẩm bẩm theo Má vừa gật gù ra vẻ nghe lời, cố chường ra cái vẻ mặt “nai” nhất mà tôi có. Má tiếp, đã hạ giọng ít nhiều “ăn bún tôm đó … biết nấu chưa con !?” … Mà tình thiệt là có gì khó đâu : nấu nước sôi, trụng tôm thịt cho chin, rồi bỏ bún vô tô… Thế là đã xong một tô bún tôm chính hiệu miền Trung. Từ hồi cấp 2, tôi đã quá quen với món ăn này mà… Thế nhưng, không chờ tôi trả lời, Má đã thuyết giảng nguyên một bài về món bún tôm, cũng chi tiết không kém gì tiết mục nấu ăn trên truyền hình : ” blah blah … blah … ” Má làm tôi liên tưởng ngay đến mấy nhà sư thuyết pháp trong chùa, chỉ khác là tôi có cảm giác giọng Má ấm áp và truyền cảm hơn. Miệng Má thì luôn câu : ” Tự nấu đi nha … tao bận với ba mày bên kia … làm không kịp tay nè ” , ừ công việc của Má vốn dĩ rất nhiều, vừa phụ ba buôn bán vừa quán xuyến mọi việc trong gia đình và quản lý cả một đám con nheo nhóc, riêng việc chăm một đứa hiếu động như tôi thì xét ra đã cực ghê lắm rồi. Vậy mà miệng nói tay làm, từ bắt nồi rồi đợi nước sôi, cho đến trụng tôm, bỏ bún … nói chung là tất tần tật đều là do Má tôi làm !!! Thế là, chưa kịp động đến một ngón tay, tôi đã “tự” làm cho mình một tô bún thơm lừng “bằng tay của Má”…! Rồi Má còn dặn : “lạt thì nêm thêm muối nha, đừng nêm mắm nó hăng khó ăn lắm …” Má xa dần trong mắt tôi, lỉnh nhanh sang nhà bên để phụ ba buôn bán … Ngồi ăn tô bún, húp đến giọt cuối cùng, tôi thấy ngọt lịm ! Tôi còn tranh thủ nêm thêm tí đường, để thêm chút nhớ về Má… Má tôi tên Ngọt…! Bất giác, lòng tôi chợt dậy lên chút ký ức ngày xưa … Có lần tôi hư, không nghe lời, Má xúi ba đánh tôi … rồi sót con … rồi can … rồi xoa dầu … rồi “thương” tôi hơn … Má hay dỗ tôi sau đó bằng những mấy món ăn mà tôi thích. Những lần tôi bệnh, lần nào Má cũng lo lắng, lăng xăng lo cho tôi từng chút … Cháo Má nấu cũng ngọt hệt như món này vậy. Có lần Má bệnh nhập viện, Má ôm em tôi vào lòng mà khóc : ” con tôi còn bé quá … tội cho nó !” Má sợ phải bỏ mấy đứa con mà đi … Nghe kể lại, bất giác tôi khẽ cười : “Má đúng là làm con bất ngờ … Má của con … nào giờ Má con mình có bao giờ âu yếm nhau như thế đâu !” May mắn lần ấy, Má không sao cả … Rồi còn, còn nhiều lắm những lần mà tiếng la mắng cúa Má tan vào tiếng cười, những lần mà Má í ới, hét vang từ tầng trệt đến tận lầu 2 : xuống ăn cơm nha Thủ …!!! Ký ức về Má tràn ngập trong tôi, ngọt và thanh như cái tên của Má… Má tôi là thế … tảo tần, cam khổ ! Má đã là thế trong suốt hơn hai chục năm nuôi tôi ăn học … Mau miệng, mau tay và rắn miệng mềm lòng … Tô bún tôm Má nấu, cũng bún, cũng tôm như mọi tô bún tôm khác, ấy thế mà trong ấy, tôi thấy nhiều hơn rất nhiều những thứ chả nơi nào có … vị Ngọt !!! Con tôm lót đĩa Chuyện lâu rồi, xưa nhưng mà chưa đến nỗi thiệt là xưa! Thuở mà ngoài chợ con tôm tươi còn đắc giá. Vì người ta chưa phát minh ra những máy tạo bọt khí Oxy hay dòng chảy nên khi đánh bắt tôm lên không bao lâu thì nó ngộp mà ngủm củ tỏi ấy mà, cũng chưa có những vuông nuôi tôm như ngày nay nên “Đắt như tôm tươi” là hiển nhiên. Câu thành ngữ ấy nghĩa bóng không có ý là dân ta ngày xưa quá giàu nên giành nhau mua tôm tươi về ăn như cô bé học trò nào đó đã bình luận. Có gia đình nọ rất sung túc, đêm kia đãi tiệc mời bạn hữu mấy bàn, mỗi bàn đều có đĩa tôm nướng, con nào con nấy to bằng trái chuối xiêm (bị đẹt), thơm lừng. Tất nhiên vì quá đắc nên số lượng cũng có hạn thôi. Ở bàn ngoài, một anh (hỏng phải tui) ăn chưa đã, nên thòm thèm cái con còn lại (người ta thường nói là lót đĩa – thói quen ngày xưa mừ). Gắp thì xấu hổ, bỏ thì tiếc Ực! Món ngon mà đi lót đĩa, đúng phí. Dân ta cũng hay có thói quen ngại nên đưa đẩy nhau. Biết tâm lý ấy, anh ta gắp con tôm ấy vào chén anh bạn kề bên. Anh bạn, bỏ ngay vô chén anh ta. Thế là anh ta tự nhiên mà xơi vì đã mời oy mà anh không dùng chứ bộ. (Xưa thôi, chứ nay nhiều người kinh nghiệm rồi, áp dụng cách thức này coi chừng mất chì lẫn chài). Giờ nói đến bàn kế bên, cũng có một anh (chắc chắn hỏng phải tui!) chăm chăm đĩa tôm, mấy khi gặp bữa ngon miệng nên cứ ăn ăn là. Bạn bè bàn tiệc đến ngại và… bực. Đến con cuối, anh ta gắp vào chén anh bạn kề bên. Anh này rất ngại vì nếu ăn có thể vô tình cùng bị mọi người xếp vào với anh nọ cho thành nhóm 2 người. Anh để trở lại chén anh ấy mà rằng: “Thôi, anh ăn nốt cho chúng khỏi lạc đàn!” Ở giữa nhà khách là bạn bè than thuộc với chủ nhà, đĩa tôm ngon hơn, to hơn nên hấp dẫn hơn khách và cũng giữ “thể diện” hơn. Mọi người ăn uống từ tốn, giao tiếp với nhau là chính. Dẫu lâu nhưng cuối cùng cũng đến lúc còn lại con tôm lót đĩa chứ. Cái ông nhà đèn thời ấy cúp điện cũng có báo trước đâu, mà thời ấy đã cúp thì rất lâu chứ không nhấp nháy như bây giờ. Phụt, tắt đèn tôi thui. Dân tình chưa kịp nhốn nháo đã nghe tiếng la thất thanh vọng từ bàn ở nhà khách. Người ta lật đật đốt đèn. Một cảnh hãi hùng bày ra trước mắt: Chín cái đũa xôm lên một bàn tay trên cái đĩa tôm! Bàn ấy có mười người và tui là người đốt đèn (sau khi buông chiếc đũa) đó nghe… he he he. (Tổng hợp từ các chuyện cười dân gian nhắc tới con tôm). Chuyện bên rạch Cái Tôm Mỗi chiều, thím Hai thường qua nhà tôi ngồi bắt chí cho mấy đứa nhỏ. Thím có một sở thích kỳ dị là bắt những con chí thả xuống nền ximăng cho chúng ngo ngoe bò một hồi rồi dùng móng tay cái đè lên từng con, từng con kêu bụp bụp. Tụi nhỏ con thím khoái chí cười khé lên trong khi tôi sợ hãi lánh đi nơi khác. Con Chấm, con của thím, lớn hơn tôi hai tuổi, rất thích đọc truyện với tôi nhưng nó không tự hiểu được câu chuyện mà phải nhờ tôi giải thích. Mỗi khi má nó bắt chí cho em nó, biết tôi không thích nên con Chấm thường rủ tôi đọc truyện. Đôi khi, trong lúc chúng tôi chụm đầu đọc sách, chí từ đầu nó bò sang đầu tôi và mẹ tôi phải cực khổ mua thuốc về diệt chí cho tôi. Lúc đó tôi ngạc nhiên hỏi mẹ tại sao thím Hai không mua thuốc về trị cho tụi nhỏ mà cứ ngồi bắt chí mỗi chiều làm chi cho cực vậy. Mẹ tôi bặm môi nói con nít biết gì mà nhiều chuyện. Mãi sau này tôi mới hiểu, thím nghèo quá, tiền mua một bịch thuốc trị chí gần bằng ba lít gạo - một ngày ăn của tụi nhỏ. 2. Rạch Cái Tôm nằm giữa hai xã Hòa An và Tân Thuận Đông. Mỗi khi nước ròng thì con rạch cũng là nơi chúng tôi tụ họp bắt hến, xúc tép hoặc tát cá. Con rạch Cái Tôm đổ ra ngoài sông Tiền nhờ một con kênh nhỏ. Trường học nằm bên bờ sông Tiền, mỗi ngày chúng tôi men theo con kênh nhỏ để tới trường. Sông Tiền từng làm chúng tôi tranh cãi hàng tuần. Thằng Láy nói đó là sông Cái, con Chấm nói đó là sông Cửu Long, thằng Minh nói đó là sông Mêkông, tôi thì nói đó là sông Tiền. Đứa nào cũng có cái lý của mình. Tôi là đứa cãi hăng nhất bởi vì bữa nọ cô Thanh có nhờ tôi đọc thơ của chú Lói, đầu thơ chú viết “Sông Tiền đêm trăng” rõ ràng. Chú Lói đã học lớp 12, hổng lẽ chú viết sai? Mà cũng khổ, tôi đã hứa với cô Thanh là sẽ không kể cho ai biết chuyện chú Lói viết thơ cho cô, thành ra tôi không có cách gì làm cho tụi nó tin tôi. Tới khi hỏi bà tôi thì bà cười: đứa nào cũng đúng hết. Cao Lãnh là nơi trồng thuốc rê ngon nổi tiếng, ở xóm rạch Cái Tôm nhà nào cũng trồng thuốc rê. Hết mùa thuốc, người ta chỉ bán thuốc cái, thuốc chồi, còn thuốc kèo thì ai cũng cố giữ lại. Có thuốc kèo trong nhà như có con gái đẹp, bà nội tôi thường nói như vậy. Mà đúng như vậy thật, có thuốc kèo ngon trong nhà vừa mừng vừa lo, lúc được giá thì mấy người lái thuốc cứ tới lui nườm nượp, chủ nhà tha hồ làm giá, tới lúc nó mất giá thì ai cũng than vắn thở dài vì tiếc. Tuổi thơ tôi trôi dần cùng những ngày đi vét lá chưn khô - lá thuốc khô ở tầng thấp nhất của cây thuốc lá. Người ta thường cho con nít vét lá chưn khô để bán lấy tiền ăn bánh khi tới trường. Những đêm xắt thuốc thật sự thu hút tụi nhóc con chúng tôi. Bao nhiêu là câu đố tục giảng thanh rồi thanh giảng tục. Bao nhiêu câu chuyện đời xưa được kể, và bao nhiêu câu chuyện tình đã nảy sinh từ những đêm xắt thuốc mà tôi còn quá nhỏ để biết những chuyện đó. Mẹ tôi vốn không phải dân xứ này nên cũng không đậm đà mấy với những đêm xắt thuốc, mẹ chỉ phụ bà nội những công việc trong bếp và mẹ còn sợ bị làm thợ phơi bất đắc dĩ những lúc thiếu người. Mẹ là cô giáo chứ không phải là nông dân như phần lớn các cô, thím ở đây.Tôi thỉnh thoảng lén mẹ chạy ra tập làm thợ phơi với mấy cô, mấy chị. Mẹ tôi khó chịu về chuyện này lắm, mẹ sợ tôi mê làm thợ phơi hơn làm cô giáo. 3. Tháng ngày trôi qua nhanh chóng, tôi ra nhà ngoại ở để học lớp sáu ngoài thị xã, cuối tuần mới về thăm nhà một lần. Rồi tôi lên cấp ba, vào lớp chuyên toán. Đây là một sự kiện to tát ở quê tôi vì suốt cả con đường gần chục cây số có mỗi mình tôi được học lớp chuyên. Tôi học như điên để theo kịp mấy đứa bạn ngoài đó. Tôi không còn thời gian đi “dan thuốc” - rải những cây thuốc con lên liếp cho người lớn trồng, “măng thuốc” - vô chưn cây thuốc, hoặc lẩy chồi... Tôi ít ca vọng cổ hơn và bắt đầu tập tành vài bài tân nhạc, đặc biệt hơn là tôi còn biết mấy bài hát tiếng Anh do ông ngoại dạy. Thỉnh thoảng tôi về nhà và dạy cho tụi nhỏ vài câu tiếng Anh giả cầy khiến chúng mê tít. Thuốc rê ngày càng mất giá, người ta không còn trồng thuốc rê nữa, tôi cũng không thường về quê để coi người ta xắt thuốc như trước, tôi xa dần tụi nhỏ trong xóm, và tôi cũng quên mất là thím Hai đã không còn qua nhà tôi bắt chí cho tụi nhỏ nữa. Tôi đi học đại học. 4. Đám cưới con Chấm, nó viết cho tôi mấy hàng “chị ráng về ăn đám cưới em, hổng có vui đâu, nhưng mà em muốn chị về”. Hổng vui thì cưới làm gì, chú rể có phải là thằng Đơ con chú Bảy Tre không hổng biết. Tôi vội vã về. Hóa ra chú rể là một thằng cha lạ hoắc ở ngoài chợ Cao Lãnh, già hơn con Chấm chừng mười mấy tuổi. Tôi chưng hửng, còn thằng Đơ? Nó rưng rưng nước mắt, thôi chị ơi, người ta cũng nghèo như mình mà chảnh lắm. Em sẽ giàu, giàu nhanh nữa cho họ biết. Trời ơi, chỉ vậy thôi mà nó dám quyết định một chuyện quan trọng cả đời, quá muộn rồi làm sao tôi can nó? Con Chấm cho tôi coi những đồ sính lễ của nhà trai. Nhiều quá, vòng vàng đỏ ối, áo quần toàn bằng vải xoa xít bóng. Tôi yên lặng không nói gì thêm, còn nói gì khi nó đã quyết định xong hết rồi, còn đâu mối tình quê chân chất ngày xưa đó? Tôi ra sau hè nhìn rẫy thuốc lá mà lòng buồn rười rượi, nơi tụi nó hẹn hò mỗi ngày vẫn còn đây. Tôi nhớ như in cái lần thằng Đơ ngân nga: Thuốc rê Cao Lãnh thơm nồng, con gái Cao Lãnh má hồng thấy thương, rồi con Chấm mắc cỡ không lẩy chồi mà bẻ trụi cả cây thuốc lá, rồi tôi và mấy đứa nhóc nữa đứng núp sau hàng thuốc cười hí hí... Rồi những đêm xắt thuốc vui nhộn, con Chấm làm thợ phơi còn thằng Đơ làm thợ xắt, ai ai cũng khen hai đứa nó xứng đôi. Mỗi đêm xắt thuốc, sau khi ăn cơm khuya xong, mọi người lại nghe hai đứa nó hát bài Hoa tím bằng lăng trước khi trở lại làm việc. Con Chấm thường sửa lời bài hát, thay vì hát con rạch Cái Thia chảy dìa Tắc Cậu, nó lại hát con rạch Cái Tôm chảy xuôi dìa Tân Thuận. Mà giờ này tụi nó có đang nhớ những kỷ niệm đó không? Tối. Con Chấm lạy xuất giá. Nó khóc như mưa. Người ta hay nói khóc như con gái sắp về nhà chồng. Nó khóc vì thương cha mẹ già và đàn em thơ dại hay là nó đang khóc cho mối tình đầu dang dở của mình? Như những đám cưới nhà quê khác, hàng xóm cùng tới hát giúp vui. Mà kìa, thằng Đơ đang đóng vai anh chàng Áo Vũ Cơ Hàn, nó hát, lời hát nghe buồn da diết Loan cô nương ơi, trả áo em là trả luôn tình đầu tiên, đường đôi ngả ly tan, tình mộng vẫn vương mang, đang xúc động âm thầm, rồi em đi lấy chồng, ta ngậm ngùi trông theo áo ai, xác pháo rơi đỏ trên đường đi... Ông Ba Trái đang ngồi đờn say mê, ông không biết có nhiều người đang đau lòng. Tôi đi vô buồng con Chấm. Mắt nó đỏ hoe. Tôi hối nó đi ngủ sớm để khuya còn đi chải tóc. Thím Hai đang ngồi đếm tiền với chú Hai sau bếp. Con Nốt ngồi mơ màng bên bếp lửa, nó nghĩ gì? Thằng Út Mót cười hăng hắc, nó vui vì nhà đông người và nó được ăn thịt đã đời. 5. Tới cô Thanh lấy chồng, cô không biết viết thơ nên biểu thằng Láy viết cho tôi: “Cô đi lấy chồng, mày có rảnh về chơi, cô cho đưa dâu lên thành phố”. Tôi suýt nhảy dựng. Trời, còn chú Lói? Vậy là rã đám thêm một cặp nữa. Tôi không về được vì bận thi học kỳ. Hè về, tụi nhóc kể lại cô Thanh khóc còn nhiều hơn chị Chấm. Chú Lói không về ăn cưới cô Thanh, chú ở luôn trên Xuân Lộc. Nghe nói chú mua đất lập nghiệp ở trển luôn. Cô Thanh mua cho ông bà Ba cái truyền hình hai mươi bốn inh, cái truyền hình bự nhứt xóm. Cô không muốn thấy tụi em, cháu của cô chiều chiều qua nhà hàng xóm giành chỗ với mấy đứa nhỏ trong xóm. Tôi không biết mặt chồng cô nhưng nghe nói dượng bị thọt một chân, trắng hơn cô Thanh mà buôn bán giỏi lắm. 6. Tôi tốt nghiệp ra trường, cũng muốn ra đi làm giàu nơi đất lạ. Có một việc làm tốt ở thành phố và tôi đã phỏng vấn xong. Tôi định về nhà chơi vài bữa rồi đi. Tối hôm đó tôi qua nhà thím Hai chơi với tụi nhỏ. Ông Ba Trái đang ngồi đờn bên nhà, ông hát điệu Lưu thủy hành vân, giọng ông sao mà buồn da diết, y như thằng Đơ hát hồi đám cưới con Chấm. Sương trắng nhuộm rừng phong vấn vương, đưa tiễn em lên đường, Nam Sơn đây chốn chia tay phản hồi gia trung, hoa lá bay rơi rụng theo dòng... Tôi đâu có chia tay ai để về nhà, tôi sắp xa nhà kia mà, vậy mà sao tôi buồn quá. Tôi ra chợ thăm con Chấm. Nó mập ú ù u, có ba đứa con rồi. Nó để chồng coi tiệm, còn nó dẫn tôi về nhà. Chồng nó coi bộ cũng hiền. Nó khoe tôi hàng chục đôi bông tai đủ kiểu. Tôi mới nhớ hồi xưa nó ngồi hàng giờ ngắm nghía những đôi bông của chị Lộc bên nhà bác Tư. Bây giờ mọi việc dường như tạm ổn với nó. Những ước mơ thời con gái giờ đã thực hiện xong, nó cười một nụ cười mãn nguyện. Chuyện thằng Đơ giờ coi như không có và chưa bao giờ xảy ra trong ký ức của nó. Người ta có thể quên quá khứ mau vậy sao? Tôi lặng nhìn nó yên ấm hạnh phúc mà không báo cho nó biết là thằng Đơ vừa bị tai nạn lao động ngoài công trường xây dựng. 7. Bao đứa trẻ ngày xưa giờ thành người lớn và đi tới xứ người lập nghiệp. Ai nghèo, ai giàu, ai nên danh nên phận? Tôi không biết, có điều là sao tôi nghe trong lòng nhớ tiếc. Xóm rạch giờ mọc lên nhiều nhiều ngôi nhà mới. Nhà thím Hai mới xây khang trang, lót gạch Đồng Tâm láng coóng. Thím Hai cũng không còn qua nhà tôi bắt chí cho tụi nhỏ. Thím Hai cười móm mém “giờ có thuốc trị chí Oshin rồi con ơi!”. Những thợ phơi, thợ xắt ngày xưa rồi cũng chìm sâu vào quên lãng trong ký ức của nhiều người. Thuốc rê Cao Lãnh giờ chắc chỉ còn trong nỗi nhớ của vài người trong số chúng tôi. Rồi đây tôi cũng sẽ hòa vào dòng người nhộn nhịp nơi thành phố, có ngày nào đó chợt nhớ về quê cũ, tôi sẽ lại nhớ mùi thuốc lá chưn hăng hăng trong những sáng tinh sương ngoài rẫy thuốc. Lãng du - Truyện ngắn của Hân Như Cái chòi nhỏ mọc choi loi giữa đầm tôm vẫn còn sáng điện. Đã hơn 2h sáng và cuộc nhậu vẫn chưa tàn. Hai gã đang ngồi khật khưỡng bên chai rượu đã vơi quá nửa, cách đó không xa cũng đã có một vỏ chai rỗng không nằm lăn lông lốc. Trên bếp củi lửa đỏ rực, con cá lóc còn tươi nguyên nằm oằn mình trong lửa nóng. Nó giẫy giẫy trên xiên một lúc rồi mới chết hẳn. - Uống nữa đi đại ca.- Tuân lè nhè nói với hắn- Uống cho quên đời đi, rồi từ mai ở lại đây nuôi tôm với em, tối đến anh em mình lại nhậu. Đời như thế còn gì vui hơn… Hắn lắc lắc cái đầu bù xù rậm rạp do lâu ngày không cắt tỉa và cười một cách ngạo nghễ. -Đầm tôm và mấy chai rượu của chú không giữ nổi chân anh đâu. -Anh lại đi nữa sao? Đây là chót mũi Cà Mau rồi. -Ừ, hết đất liền còn biển. Còn đường thì anh còn đi. Hắn đứng dậy, chân nam đá chân chiêu, hắn loạng choạng bước ra phía cửa chòi. Hắn rùng mình một cái và bừng tỉnh. Mẹ kiếp, hắn cứ tưởng hắn đã say chứ. Thế ra đời hắn vẫn là muốn cái gì mà chẳng bao giờ được như ý cả. Tỉnh rồi thì phải đi thôi, đôi chân lại thôi thúc hắn rồi. Nơi này cũng chẳng còn gì thú vị để níu kéo hắn nữa. Hắn ngồi phịch xuống nền sân lạnh. Đêm phương Nam làm hắn nhớ những ngày cuối thu miền Bắc. Trời cũng lành lạnh như thế này. Hắn lại nghĩ đến cô ấy, chỉ là nghĩ thôi, chứ không phải là nhớ. Từ cái lần cuối hắn đau vì một ai đó, hắn đã chẳng còn cảm giác nhớ nhung ấy nữa rồi. Hắn chỉ là, chợt nghĩ đến cô ấy, như bất chợt nghĩ về mùa thu miền Bắc, nơi hắn đã ra đi. Hắn đã bỏ lại sau lưng những con người yêu thương hắn, bỏ lại sau lưng cả thành phố phồn hoa, bỏ lại cả cô ấy. Và hắn đi. Đi như một cuộc chạy trốn. Mỗi lần hắn mệt nhoài với những lo toan, hắn lại muốn đi thật xa, đi thật lâu. Hắn sẽ đến những nơi không ai biết hắn, và hắn mải mê một cách thích thú với những trải nghiệm mới mẻ. Hắn quên hết quá khứ hắn là ai, làm gì và ở đâu, quên cả những nỗi lo, và những nỗi đau nữa. Hắn biết, cô ấy yêu hắn, lặng thầm nhưng da diết. Và đôi khi, hắn thích tìm đến cô ấy như một nơi bình yên cho tâm hồn mình. Hắn thích cái cách cô ấy chỉ cười và lặng yên khi bên hắn. Có điều là, hắn chẳng muốn ai khổ vì hắn và những toan tính trong đầu hắn. Bản thân hắn, vì hiểu tận cùng nỗi đau nên hắn không muốn làm một ai đau cả. Lần này hắn lại trốn đi, để tìm lại cân bằng cho những chông chênh trong đầu hắn. Cô ấy sẽ không tìm thấy hắn, và sẽ thôi không nghĩ đến hắn nữa. Và cô ấy, nên tìm một chốn bình yên cho mình, hơn là trông mong ở hắn, một kẻ chỉ thích làm những điều bản thân mình muốn, không cần phải nghĩ cho ai hết.. Hắn quay trở vào trong chòi. Con cá lóc đã cháy khét lẹt, còn Tuân- người hắn mới kết bạn không lâu thì đã lăn ra ngủ từ lúc nào. Xưa nay có ai cù cưa với hắn được quá hai chai đâu. Hắn khẽ cười khi nhìn Tuân. Tuân cũng vì chán cảnh sống bon chen nơi thành thị mà về tận đất Mũi này lập đầm nuôi tôm. Cô gái mà Tuân từng yêu đã bỏ Tuân để chạy theo những xa hoa phù phiếm ngoài kia. Tuân bằng lòng với cuộc sống ở đây, yên phận và tuần hoàn theo vòng đời của những con tôm dưới đầm kia. Còn hắn thì không, hắn không phải là kẻ có thể ở lâu một chỗ được. Trời chưa sang hắn đã xách ba lô lên vai, đi ra khỏi đầm tôm. Sẽ có ngày hắn quay trở lại nơi đây, và hắn hy vọng khi đó Tuân đã tìm ra được mục đích sống thật sự, chứ không phải sống như trốn tránh thế này. Hắn bắt xe đò về Sài Gòn. Ngồi trên chuyến xe buổi sớm cùng với hắn, ngay kế bên là một đôi trai gái. Chỉ cần liếc mắt là hắn biết họ yêu nhau. Cô gái nũng nịu tựa đầu vào chàng trai và ngủ một cách ngon lành. Hắn co mình vào chiếc áo gió vì tự nhiên hắn cảm thấy lạnh, có lẽ do rượu. Hắn thèm được đốt một điếu thuốc biết bao. Người hắn lạnh? Hay lòng hắn lạnh? Chết tiệt thật! Hắn chợt nhớ cái nắm tay thật ấm của cô ấy lần đầu cô ấy run run siết nhẹ lấy tay hắn. Hắn nhớ giọng nói của cô ấy, cách cô ấy lo lắng cho hắn, cách cô ấy chăm sóc hắn nữa- còn hơn cả một cô tình nhân nhỏ. Hắn-nhớ-cô. Đột nhiên hắn nhớ cô ấy đến nôn nao cả người. * Hắn dừng chân trước một quán Internet, ngập ngừng thật lâu rồi mới bước vào. Đăng nhập Yahoo Messenger, gần 200 tin nhắn offline cho ba tháng mất tích. Hắn kéo thanh dọc nhìn thật nhanh, không có một dòng tin nào của cô ấy. Hắn hơi thất vọng. Hắn lang thang ghé qua blog của cô ấy. Nó vẫn như thế. Hắn đọc entry mới nhất của cô, ngắn thôi, nó giống vài dòng rời rạc thì đúng hơn. “Tháng 10.... Ở đâu đó... ...có những người mong chờ ngày sinh nhật của mình... ...có những bà mẹ đếm từng ngày mong đợi đứa con yêu đến với thế gian này... ...và có ai đó mong đợi một sự trở về của người yêu nơi xa... Tháng 10... Chúc em gái sinh nhật vui vẻ... Tháng 10... Chào đón sự ra đời của những đứa cháu yêu... Tháng 10... Anh có về không anh?” Hắn khẽ cười vu vơ. Có cái gì đó thật vui. Comment của Gió: “Lần đi trốn tiếp theo của anh, em sẽ đi cùng anh chứ, nhóc?” Hương Vị miền Nam:Tôm rang, tôm rim: món ngon trong ký ức Tôi có "cảm tình" với con tôm và mê món tôm rang (rồi tôm rim sau nầy) từ hồi còn bé chớ đâu phải "ăn theo nói theo" như người đời, thấy con tôm thuộc dòng họ sơn hào hải vị sang giàu bèn "bắt quàng làm họ" ! Tôi biết ăn món tôm rang từ khi được mẹ tập cho ăn "cơm nhai với tôm rang". Rồi từ đó hình ảnh con tôm với các món ăn đã đeo theo tôi mãi tới bây giờ như người tình, nên bao phen rồi xa quê, xa đồng ruộng, xa con tôm nhưng lòng mãi tơ tưởng món tôm rang tôm rim là vậy! - Tôm kể đầu, rau kể mớ. - Vắt đầu cá, vá đầu tôm. Tục ngữ Thấy tục ngữ người xưa mình nói về tôm bèn lọ mọ tìm tự điển, tìm sách thấy nói rằng tôm là loài đông vật sống dưới nước, thân giáp, mình dài có nhiều đốt, nhiều chơn, nhiều râu. Tôm xứ mình có nhiều loại như tôm bạc, tôm bạc lò, tôm đất là loại mà ta thường ăn; tôm càng, tôm hùm đắt tiền thuộc sơn hào hải vị, người giàu mới dám ăn; còn tôm tít, tôm chông xưa là loại tôm không ai thèm ăn, dùng để phơi làm phân và chỉ dành cho mấy tay bợm nhậu thiếu mồi mà thôi! Tôm tích ở miền Trung kêu là tôm bàn chải, vì nó giống như cái bàn chải thiệt, sống ở vùng ngập mặn có bùn sạch, thân dài dẹp, đầu to nhìn như con sâu róm, xấu xí, búng trúng tay rất đau. Luộc, hấp, nướng làm món nhậu dã chiến ăn cũng tạm tạm!. Thịt có nhiều sớ, nhai dai dai. Vào Tháng Chín, Tháng Mười tôm rất mập, đầu tôm cho nhiều gạch son như gạch cua, nướng chín chắm muối tiêu ăn cũng ngon. Không ai dùng tôm tít để rang hay rim bao giờ. Tôm chông là loai tôm không được nông dân ưa chuộng, đầu to có gai nhọn như chông nên gọi là tôm chông, mình tròn giống con tôm càng nhưng nhỏ hơn.Tôm chông đầu bự đít teo, ít thịt. Tôm chông nhìn mất cảm tình, vừa xấu vừa không ngon! Kẹt lắm mới có người lột vỏ nấu canh ăn đỡ vào mùa nước kém mà thôi! Tôm sú trước đây ít nghe ai nói, nay được nuôi cung cấp cho nhà hàng làm món tôm hấp với bia, chắm với sauce mayonnaise, với mustard. Thú thật với bạn, thấy con tôm sú nuôi mập tròn như mấy người bịnh béo phì, phát ớn, phát sợ vậy mà "Việt kiều" mê mệt mới lạ! Có lẻ cái gu bây giờ người ta khoái mập, nên ăn tôm sú là cái mốt. Tôm hùm, tôm càng đúng là loại thuộc bộ sưu tập "sơn hào hải vị", bởi đó là những món ăn quý, đắt tiền, mang tánh chất y lý (?)nên ngày xưa chỉ dành cho nhà giàu. Nay lắm bà lắm cô ở Little Saigon thèm mà không dám rớ! Tội nghiệp... Tôm hùm có nơi kêu là tôm kẹt, to bằng cùm tay trở lên, loại sống ở biển nước mặn nên vỏ sần sùi, rất cứng, thịt dai.Tôm hùm hấp ăn với sauce mayonnaise, nhậu với rượu wine trắng kiểu Tây; còn tôm hùm còn sống bơi lội trong hồ, thái nhỏ, chắm mustard, uống rượu saké, kiểu ăn sushi có mùi vị lạ, hấp dẫn.Tôm hùm ăn thua tôm càng. Con tôm càng nhỏ hơn tôm hùm, sống ở nước ngọt, vỏ mỏng màu hơi xanh, thịt mềm và ngọt. Tôm càng kho tàu xưa bày bán hai bên bến bắc Mỹ Thuận, trên đường xuôi ngược Miền Tây, là món ngon độc đáo của người miền Nam. Tôm kho tàu cùng với hình ảnh nhộn nhịp ngày đêm trên bến dưới tàu... đã làm biết bao người phải mê mệt! Mấy lão nông rành điệu thì hảo món tôm càng nướng chắm muối tiêu chanh. Con tôm nướng vừa chín tới, lột đầu lột vỏ, cầm phần đuôi chấm muối tiêu, đưa nguyên con tôm vào miệng, làm một ngụm rượu đế thì tuyệt cú mèo! Tôm bạc rang muối món ăn kinh điển của người nông dân miền Nam. Tôm bạc như tên gọi bởi có màu trắng bạc, thân dẹp vỏ mỏng, thịt mềm. Tôm làm được nhiều món để ăn cơm cũng như ăn chơi ăn nhậu. Khoảng sau Tháng Tám ta, lúa sớm lúa mùa phủ xanh mặt đồng, mặt ruộng là mùa của tôm bạc. Lúc đó con tôm bạc rủ nhau chạy ra sông ra rạch nhiều vô kể. Tôm bạc loại sống nước ngọt vừa mềm mà có vi ngọt. Còn tôm bạc biển thì có mùi khai khai, thương lái muối nước đá đem bán cho dân Sài Gòn Chơ Lớn, chớ dân ở ruộng xưa không chịu ăn! Tôm bạc nước ngọt để nguyên con đem rang với muối là món ăn của những người khai hoang mở đất Nam Kỳ. Bắc cái chảo bằng đất lên bếp hồi lâu đợi chảo thiệt nóng cho muối vào; tôm bạc rửa sơ để cho ráo nước, trúc vào chảo, hồi lâu nước tôm chảy ra hòa với muối thành dung dịch sệt sệt ôm lấy con tôm. Dùng đũa đảo cho đều hoặc bưng chảo xốc cho tôm ăn muối. Lúc nầy lửa để riu riu cho muối ăn từ từ. Thấy gần cạn hết nước, tôm vừa chín, nhắc chảo tôm xuống. Tôm bạc trắng rang muối kiểu nầy nói văn chương là kiểu kinh điển. Con tôm trắng tinh, mùi thơm rất "hoang dại", vị mặn rất ư là "chơn phương" ruộng rẫy như kiểu ăn của con người bán khai, thời kỳ mới tìm ra lửa ra muối vậy. Râu tôm màu đỏ tươi dính vào nhau từng chùm rất lạ mắt. Ăn tôm rang muối kiểu nầy bạn phải ra tay mới đúng kiểu đúng điệu. Nắm đầu con tôm mà bỏ vô miệng cắn. Mới nhai thấy mặn, nhai một chập mới nghe ngọt, nghe mùi thơm khen khét. Vỏ tôm làm cho bạn có thêm cái cảm giác giòn giòn như tôm nướng, rất thú vị. Tôm rang muối ăn ên với cơm nóng ngon đáo để, ăn xong nốc hết tô nước mưa mới đã khát. Tôm rang cũng có thể ăn với canh rau, canh bầu canh bí, và nếu được ăn với canh chua thì còn gì bằng. Tôm rang muối ăn với cơm nếp là kiểu ăn chỉ có dân miền Tây mới biết. Hồi thời Tây, sáng sớm nào mẹ tôi cũng nấu cơm nếp ăn với tôm rang muối. "Cho no dai mà chạy giặc", mẹ tôi nói như vậy. Sau nầy không còn chạy giặc nữa nhưng ở nhà cũng hay bày nấu cơm nếp ăn với tôm rang muối trừ cơm. Cơm nếp trộn dừa ăn với tôm rang muối là món "cao cấp" hơn nhưng vẫn là món ăn của người nhà quê vì người ở chợ ở thành mấy ai biết ăn? Tôm rang muối ăn lâu ngày thành quen, nhập tâm nên nhắc lại như rạo rực bắt thèm, bắt nhớ là vậy. Tôm rang muối, với kiểu rang hao hao giống như cá lóc rang muối, là món ăn của người khẩn hoang Nam bộ, phù hợp với thổ ngơi, sản vật và điều kiện sống tai chỗ. Nơi khác không có. Ngày nay văn minh rồi mà người mình vẫn tìm ăn cá lóc rang muối kiểu ngày xưa. Thế mới lạ! Tôm rim phải chăng từ tôm rang muối đã được "cải lương"? Rim là đun lửa nhỏ riu riu cho lâu để thức ăn khô và chất ngọt/mặn ngắm dần váo bên trong từ từ. Tôm rang muối dùng tôm bạc, trong khi tôm rim phải là con tôm đất. Tôm đất là loại tôm nước lợ, mình tròn có con to bằng ngón tay cái. Vỏ màu đất phèn có khoan trắng. Tôm sất sống rất dai, rộng cả tuần nơi có nước chảy mà con tôm vẫn còn sống. Người Sài Gòn rim tôm với mỡ hoặc dầu. Còn người miệt vườn có kiểu rim tôm với nước cốt dừa, phong cách độc đáo vô cùng và không nơi nào có. Tôm đất cắt đầu đuôi và chân, rửa sạch cho vào rổ chờ ráo nước. Trúc tôm vào thau, ướp với muối (không ai ướp nước mắm), đường, gia vị. Để một chập cho tôm thắm đều. Bắc chảo lên bếp sau khi khử dầu với tỏi mới cho tôm vô mà xào. Trộn đều, nhìn con tôm trở màu đỡ tươi, và có mùi thơm mới cho nước cốt dừa vào ngập tôm là vừa đủ. Giữ lửa riu riu cho nước cốt dừa chín từ từ đến khi sền sệt phải bớt lửa cho nước thấm hết vào con tôm. Tôm rim nước cốt dừa có màu vàng sậm, trong bóng và lóng lánh. Mỗi con tôm được bọc bởi lớp nước dừa sệt sệt ươn ướt. Vỏ con tôm trong suốt, thấy lớp dầu óng ánh bên trong khiến bạn muốn ăn ngay. Tôm rim nhai nghe giòn giòn, vị vừa ngọt vừa mặn lại béo béo bởi cái dư vị nước cốt dừa mới chín tới, chưa kịp hóa dầu, làm cho người ăn có cảm giác độc đáo vì trong đời chưa gặp bao giờ. Xem ra tôm rim là món tôm rang được cách tân, đổi mới theo yêu cầu của người muốn ăn ngon. Tôm rim như vậy là món ăn của người văn minh, trong khi tôm rang muối tới nay vẫn là món ăn ngày xưa, món ăn kinh điển. Gọi tôm rim là tôm rang muối cải cách, cải lương là vậy. *** Không biết tại vì thuở nhỏ được mẹ tập cho ăn "cơm nhai với tôm rang" nên mình thích, mình khen tôm rang muối, tôm rim hay tại vì tôm rang muối tôm rim ngon thiệt? Cũng có thể tại cả hai. Miếng "cơm nhai với tôm rang" đầu đời không sao tìm lại được! Thế cớ sao món tôm rang muối, tôm rim ngày nào nay cũng không tìm lại được ở xứ tạm dung nầy ?! Bởi món tôm rang, tôm rim với tôi với bạn, với những ai đã từng ăn khi còn ở quê nhà giờ đây đã trở thành cái gì thuộc về huyền thoại rồi ! Nên mới nói tôm rang, tôm rim là món ngon chỉ còn trong ký ức là vậy... CHAI NƯỚC MẮM BÙI THANH MINH Một tin quan trọng chưa từng có từ trước đến nay ở trường trung học xã Thái Bình.Tin này do anh cán bộ văn phòng Uỷ ban xã Thái Bình phóng chiếc cúp đời 81 đến tận trường thông báo cho hiệu trưởng Trương. Chiếc cúp màu ốc bươu đã mất hút khỏi cổng trường từ lâu, mà hiệu trưởng Trương vẫn ngồi trước bàn, hai tay khoanh trên mặt bàn hình chữ O, mắt tựa như mơ hồ cùng hồn vía trên thiên đường, thầy ngây ngất bởi cái tin đặc biệt. Hơn 30 năm, kể từ ngày có cái trường này, từ ngày các thầy cô còn ăn gạo sổ, thầy cô lấy “chăn nuôi làm nghề chính”, và bây giờ là phải dạy thêm, học thêm để cố giữ cho cái dáng lịch lãm của người thầy khi đến lớp…chưa bao giờ, chưa có một lần ông chủ tịch xã dẫn đầu một đoàn đại biểu đến thăm. Từ trước tới nay, trường như một đơn vị của Nhà nước đứng chân nhờ trên đất của xã mà thôi. Việc ai người nấy làm, không bên nào can thiệp đến bên nào. Từ ngày thầy Trương được bổ về làm hiệu trưởng, thầy đặt ra nhiệm vụ là phải khai thông mối quan hệ với chính quyền địa phương, nhằm tạo ra sự giúp đỡ của lãnh đạo địa phương với sự nghiệp giáo dục của trường. Vậy mà đã hơn một chục mùa hoa phượng rụng đỏ trên sân trường, cái nhiệm vụ trọng đại mà hiệu trưởng Trương coi như sứ mệnh lịch sử của thầy vẫn không làm sao thực hiện nổi. Người thì bảo mấy đời chủ tịch trước ít học hành, chủ yếu trưởng thành từ các phong trào “cải tiến hợp tác xã”, “trừ sâu diệt chuột”, “thả bèo hoa dâu”…nên coi việc học hành chẳng là cái đinh gì cả. Đời chủ tịch này, đâu có bảy năm mài đít trên ghế trường, nhưng ông lại không được thầy cô yêu mến, bạn bè kính trọng lắm, bởi ông học thì ít mà bỏ đi đánh đáo, đánh khăng và đánh nhau thì nhiều…Nên bây giờ ông cũng coi sự giáo dục không lấy gì làm quan trọng. Năng suất lúa kém, ông sẽ bị huyện chì chiết. An ninh không bảo đảm để xảy ra án, ông sẽ bị kiểm điểm… Nhưng học sinh học giỏi, học kém, đỗ ít, đỗ nhiều…xưa nay chẳng có quan hệ gì đến cái ghế chủ tịch. Vì vậy ông không quan tâm đến nó cũng là điều dễ hiểu. Vậy mà hôm nay bỗng dưng…vận trường có lẽ đã đến. Sứ mệnh lịch sử giao cho hiệu trưởng Trương có lẽ sắp được hoàn thành. Nhà trường sẽ có cơ hội phát triển vứng mạnh. Hiệu trưởng Trương cho gọi hiệu phó Tần, cô An chủ tịch Công đoàn trường về ngay văn phòng hội ý. Hiệu phó Tần, cô An phát hiện ra trên gương mặt hiệu trưởng Trương có dấu hiệu không bình thường cho lắm. Mắt thầy chớp chớp liên tục, da mặt thầy rừng rựng như người đang xúc động cực độ. Đặt hai chén trà trước mặt hai người thuộc cấp, một chén cho mình, chiêu một ngụm, môi hiệu trưởng Trương mấp máy: -Tôi mời các đồng chí lên hội ý đột xuất vì có một việc hệ trọng… Tôi vừa được đồng chí văn phòng Uỷ ban nhân dân xã thông báo, ngày mai ngày truyền thống các nhà giáo, đồng chí Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã cùng một số cán bộ lãnh đạo xã sẽ đến thăm, chúc mừng thầy trò trường ta. Cũng nhân ngày truyền thống nhà giáo, đồng chí chủ tịch đã quyết định cho giáo viên, cán bộ trường mỗi người một chai nước mắm loại một. Thưa các đồng chí, đây là một sự kiện quan trọng đối với trường ta. Nó như một mốc son lịch sử, đánh dấu thời kỳ mối quan hệ giữa nhà trường với địa phương. Tôi đề nghị, chúng ta thông báo tin mừng này cho toàn thể giáo viên, học sinh toàn trường biết và tổ chức đón tiếp thật long trọng. Nhân cơ hội này ta thúc đẩy mạnh việc “bình thường hoá quan hệ” với chính quyền địa phương, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng trường vững mạnh. Cả ba người không ai nhìn ai, không ai nhúc nhích, mắt đều nhìn xuống cuốn sổ trước mặt và lặng đi mất vài phút, dường như họ ngợp vì cái tin nóng hổi này và chờ cho thần kinh tiêu hoá hết lượng thông tin quý báu mà hiệu trưởng Trương vừa phát ra. Hiệu phó Tần như chợt tỉnh sau cơn say, thầy nhóm nhém như vừa nuốt xong miếng ngon, phát biểu: -Tôi có ý kiến thế này các đồng chí xem có được không? Ta nên làm vài mâm cơm gọi là, để hiếu khách. Nói thực…có chút men, chén tạc chén thù hai bên mới cởi lòng cởi dạ cho nhau. Vạn sự khởi đầu nan, dần dần mình sẽ khai thác sự ủng hộ của họ với trường. - Phải đấy, hiệu trưởng Trương - Cô An thêm vào - Em nghĩ đây là dịp tốt để mình tranh thủ họ…Mà không làm thì thôi, làm thì phải ra cỗ, chừ làm nhè lèm nhèm…bôi bác chết. Hiệu trưởng Trương cầm bút gạc gạc trên giấy, tính tính, tính toán rồi ngẩng lên dí cái cán bút vào trán nói: -Tôi tính thế này…Ngoài việc ta tập trung giáo viên đón tiếp xã giao thật long trọng. Sau đó ta sẽ làm mâm cơm tiếp đãi. Tôi nghĩ, không làm không được đâu. Họ thông báo 10 giờ chủ tịch mới đến, làm việc xong là trưa, chả lẽ để họ ra về, mang tiếng chết. Vì vậy tôi mới dự trù như sau: Số người ăn khoảng bảy người. Địa phương có chủ tịch, phó chủ tịch, trưởng ban văn hóa, văn phòng, vị chi là bốn. Phía ta chỉ đại diện tiếp gồm có hiệu trưởng, hiệu phó, chủ tịch công đoàn. Ta làm một mâm cho gọn. Đồng chí An lo cho khâu hậu cần cơm nước, hiệu phó Tần giúp việc tổ chức đón khách. Tôi trực tiếp quán triệt cho đội ngũ giáo viên. Tất cả theo phương châm: chu đáo, lịch sự và tỏ ra hiếu khách. ♣♣♣ Đúng 10 giờ ngày truyền thống nhà giáo, ông bảo vệ trường từ ngoài cổng hộc tốc chạy vào văn phòng thông báo: - Hò…họ, họ đang đến! Hiệu trưởng Trương nhấp nhổm, nhướng cặp mày phát lệnh: -Tất cả, ai vào việc đó. Cán bộ, giáo viên đã tề chỉnh ngồi chờ từ 9 giờ bỗng nhốn nháo đứng cả dậy. Bộ phận phụ trách hậu cần lỉnh xuống bếp xem lại cơm nước. Các cô giáo tranh thủ soi khuôn mặt xinh đẹp của mình vào chiếc gương con con, rồi nhanh chóng cất gương vào cặp sách, đứng dậy ra cửa. Các thầy giáo rít vội hơi thuốc cuối cùng rồi mới chịu dụi tàn. Phải chu đáo, lịch sự hiếu khách mà. Đoàn khách phóng xe vè vè qua cổng trường và đỗ xịch trước sân. Chủ tịch xuống xe, thong thả tiến vào. Ông đứng ở sân ôn tồn bắt tay mọi người. Hiệu trưởng Trương cảm ơn rồi mời khách vào văn phòng làm việc. Chủ tịch ngồi ở chiếc ghế chủ lễ đặt ở đầu chiếc bàn dài trọn gian. Các quan chức cùng đi chia nhau ngồi hai bên hàng ghế dọc. Thầy, cô nhón nhén ngồi vào vị trí của mình. Một cô giáo xinh đẹp mặc áo dài trắng bước vào, hai tay cô bưng từng chén trà bốc khói cung kính đặt nhẹ nhàng trước mặt chủ tịch và các quan khách. Chủ tịch đặt chiếc ca táp lên mặt bàn, gật gật đầu vẻ rất vừa lòng. Ông trò chuyện vui vẻ thân mật với mọi người. Ông hỏi học sinh năm nay vào cấp ba được bao nhiêu cháu? Hiện tượng học sinh bỏ học đã chấm dứt chưa? Đời sống của giáo viên thế nào? Rồi ông phát biểu đại ý sự nghiệp giáo dục là quốc sách hàng đầu, bất cứ ai quan tâm đến tương lai đất nước đều phải coi trọng giáo dục. Quan tâm đến giáo dục là quan tâm đến chính con cháu mình, chứ không đi đâu mà thiệt. Đất nước còn nghèo, xã còn nghèo nên mọi người phải triệt để tiết kiệm mới có tiền để đầu tư xây dựng trường ra trường, lớp ra lớp được…Cuối cùng ông công bố món quà của xã gửi các thầy cô nhân ngày truyền thống nhà giáo. Món quà tuy nhỏ bé nhưng nó thể hiện sự quan tâm của chính quyền địa phương đến sự nghiệp giáo dục… Hiệu trưởng Trương và các thầy cô nghe mà hởi lòng, hởi dạ. Hiệu phó Tần ngồi nghe thỉnh thoảng lại gật vẻ rất hài lòng. Cô An tay cầm bút nhăm nhắm ghi lời vàng, ý ngọc của chủ tịch. Nhiều người miệng há ra như con chim non chờ nuốt lấy những miếng mồi ngon của chim mẹ. Vậy mà, từ lâu cứ nghe mong manh ông chủ tịch thế này, thế khác. Nay mục kích- sở thị, tai nghe, mắt thấy mới hay. Thế là dân được nhờ, trường được nhờ rồi. Hiệu trưởng Trương cảm động đáp lễ. Cuối cùng thầy mời chủ tịch và đoàn khách ở lại dự bữa cơm thân mật với thầy cô cho thân tình đoàn kết. Hơn nữa, cũng đã trưa rồi. Chủ tịch gấp sách đút vào cặp, miệng cười cười: -Thôi được, các thầy cô đã có lòng thì chúng tôi có dạ vậy. Lúc ấy, anh cán bộ văn phòng ghé vào tai hiệu phó Tần hỏi: -Các anh cho uống gì vậy? -À... rượu, rượu nếp chính hiệu ạ. -Không được, chủ tịch không uống được rượu đâu. Hiệu phó Tần sửng sốt: -Thôi chết! Vậy uống gì bây giờ? -Các anh cho mỗi người vài cái “póc póc” cho an toàn, đơn giản. Ngoài quán đầy, anh cứ cho bê cả két về, uống hết bao nhiêu, còn trả lại lo gì. Được nửa bữa, két bia Halida 24 cái póc póc hết. Hơi men đang bốc, chủ tịch nói nửa đùa, nửa thật: -Nhà trường không có tiền mua thêm được két bia à? Thì đây, lấy tiền của tôi… Hiệu trưởng Trương vội đỡ lời: - Ấy chết, ai lại thế…Anh cứ yên trí, một phút có ngay. Ăn xong, theo lệ phải có món hoa quả tráng miệng mới lịch sự. Hiệu trưởng Trương vẫy cô An đến nói nhỏ: -Cô bảo các em nó mua mớ quýt ngon ngon nhé. Nghe tiếng “quýt”, anh phó chủ tịch góp chuyện: -Ấy, lại nói đến quýt… Hôm nọ tôi với chủ tịch xuống thăm xí nghiệp chế biến hoa quả. Phải công nhận ở đấy các lão chơi đẹp hết cỡ. Thời buổi này, cán bộ phải năng động, thoáng như thế mới được việc phải không anh? Anh cán bộ văn phòng lại ghé vào tai hiệu phó Tần tiết lộ: -Họ kéo ra nhà hàng đánh chén một bữa thả phanh, lại mỗi người một phong bì dày cộp. Y rằng, đúng như dự đoán, chỉ lát sau anh cán bộ văn phòng thấy hiệu phó Tần lại đặt miệng vào tai hiệu trưởng Trương. Mặt hiệu trưởng Trương hơi tai tái, rồi hai người trao đổi với nhau bằng bút giấy. Rồi hiệu phó Tần đi ra, lát sau thầy vào tay cầm cuốn sổ đặt trước mặt hiệu trưởng Trương. Liếc nhìn cuốn sổ thấy kênh ở giữa, chủ tịch biết thời điểm cáo từ đã đến, liền đứng dậy vui vẻ cảm ơn để ra về. Đáp lễ xong, hiệu trưởng Trương mở đôi cuốn sổ, bốn cái phong bì viền xanh đỏ, mà hiệu phó Tần đã ghi sẵn những con số khác nhau nhỏ xíu ở góc trái, phía trên. Hiệu trưởng lần lượt cầm phong bì đưa cho từng vị khách, miệng cười cười: - Có chút quà, gọi là…gửi các đồng chí. - Cám ơn. - Xin cám ơn. - Các anh cứ vẽ chuyện. - Vâng, cám ơn. Về nhé. Hẹn gặp lại. Vậy mà hiệu trưởng Trương cứ lo lo phải nói khéo, nói mãi may ra họ mới nhận. Thì ra cái lo của thầy bị thừa. Rõ ràng hiệu trưởng Trương vừa tươi cười bắt tay khách, mà khách đi rồi, thầy bước vào phòng bước chân như hụt hẫng. Mặt thầy thẫn thờ, trong lòng cảm thấy hoang mang như người vừa bị mất trộm. Chuyện chỉ có vậy thôi.Sau đó kế toán tính toán và báo cáo hiệu trưởng Trương. Số tiền chi hôm nay cụ thể là: Mâm cơm hết hai trăm nhân dân tệ; Một két rưỡi bia Hailida hết ba trăm sáu mươi nhân dân tệ; trái cây tráng miệng hai ki lô gam hết mười hai nhân dân tệ; Tiền quà biếu khách gồm chủ tịch một trăm nhân dân tệ, phó chủ tịch bảy mươi nhân dân tệ, còn lại trưởng ban văn hoá, văn phòng mỗi người năm mươi nhân dân tệ. Tổng chi là tám trăm bốn mươi hai nhân dân tệ. Phần thu là số quà Uỷ ban tặng thầy cô giáo mỗi người một chai nước mắm loại một, nhân với 28 người, nhân với năm nhân dân tệ một chai. Tổng thu là một trăm bốn mươi nhân dân tệ. Nghe xong, hiệu trưởng Trương lại tái mặt một lần nữa. Chao ôi! Chỉ nhoáy một cái mà số tiền chắt chiu mấy năm trời, ăn chả dám ăn, tiêu chả dám tiêu, chỉ chăm chắm chờ nâng cấp một số phòng học đã đi tong. Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống. Hiệu trưởng Trương bóp đầu, bóp trán vẻ bức xúc lắm. Mồ hôi thầy túa ra như người lên cơn sốt. Thầy lại chống cái cán bút vào trán mắt nhìn chằm chằm xuống cuốn sổ, buồn rầu nói với cô kế toán: -Đành vậy… Ta hoãn việc mua ngói để sửa lớp 8A…Nếu trời mưa như năm ngoái, thì tạm thời tổ chức học ba ca vậy, cô nhỉ. Bây giờ, ở Trường phổ thông Trung học xã Thái Bình người ta bày ra nhiều chuyện xung quanh chai nứơc mắm và mâm cỗ làm bằng ngói nghe vui lắm. Chỉ có một điều cả trường từ thầy đến trò đều sợ đến ngày truyền thống nhà giáo. Vì đến ngày đó lỡ chủ tịch lại đến thăm và tặng quà thì có ngày trường phải tổ chức học đến bốn ca mất. Hương mắm còng Ngày họp lớp mình nói sao thèm hương mắm còng quê nhà. Nhỏ bạn học cười ngặt nghẽo, mắm làm gì có hương, rõ là bệnh nghề nghiệp nặng lắm đa! cả nhóm cùng cười giả lả, mình trầm ngâm. Nhớ thiệt mà không phải nhớ cải lương đâu. Những năm đầu mới giải phóng mình là đứa trẻ lên năm lên sáu nhưng cũng biết thế nào là không khí độc lập tự do hạnh phúc. Ngày ấy quả là vui như hội. Cả nhà mình bỏ Sài Gòn về quê nên mình nhớ vanh vách các hương vị quê nhà. Nói như thi sĩ Xuân Diệu “Cái thuở ban đầu”…thì “dễ mấy ai quên” dù đó có là ngàn năm sau đi nữa. Mình nhớ da diết hương mắm còng quê nghèo. Món mắm dân dã dễ làm dễ có mà sao khó quên dù đi đâu làm gì ăn bao cao lương mỹ vị. Mắm còng thì phải làm từ con còng. Còng thuộc họ hàng nhà cua cũng có tám cẳng hai càng bò ngang. Còng sống ở vùng nước mặn và nước lợ. Thịt chắc hay ốp tùy theo con trăng. Hình như khi trời có trăng thịt còng ốp hơn vì chuẩn bị lột vỏ để lớn. Còng sống ở ruộng ven triền sông rạch. Không phải còng nào làm mắm cũng ngon. Còng có nhiều loại. Còng Lửa dáng to mu ( mai) của nó vàng như lửa chạy nhanh và dữ. Gặp còng Lửa thì phải thủ thế nếu không còng quắp một miếng là chảy máu và rát cả buổi. Còng Ta con nào non nấy ú quay màu vàng lợt hơn còng Lửa và cũng hiền hơn họ hàng mình chút đỉnh. Anh còng Voi không to như tên mà có cái to khác rất ấn tượng đó là Càng. Cái càng to kềnh chỉ mọc một bên bên còn lại nhỏ xíu. Còng Voi chạy cũng giỏi dù mang vác cái càng nặng nề nghiêng triền .Còng Voi nhiều màu sắc và có hai loại hình dạng lớn và nhỏ. Mấy con còng voi dạng nhỏ thường màu sắc đa dạng hơn và bắt mắt hơn.. Bọn trẻ tụi mình thường bắt còng Voi dạng nhỏ chơi nhà chòi. Xắn một cục đất vuông bằng cái thúng giạ để gần gốc rơm sau hè làm tổ cho còng rồi mạnh ai nấy bắt còng càng nhiều càng tốt nhưng phải còng voi nhiều màu mới được. Xong xuôi đồng loạt thả còng xuống và tìm chỗ nấp không dám động tĩnh. Còng nhè nhẹ túa ra làm hang. khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ là cục đất thành tòa lâu đài còng với đủ mài sắc lấp lánh. Mình suýt xoa mơ màng. Ước gì nữa mình lớn mình có tòa lâu đài như vậy. Thằng bạn cùng xóm mắt chớp chớp cười có vẻ gian gian. Nắng xiên dài sau lũy tre già sau hè ngoại cũng là lúc ai về nhà nấy. Còng cũng chuẩn bị vô nhà ngủ bỏ lại cục đất lổ chổ những hang là hang. Thật là thiếu sót nếu không nhắc đến còng Quều. Gọi là còng Quều vì nó vốn quều quào dài sọc chậm rì rì. Thịt còng Quều không thơm bằng còng Ta còng Lửa nhưng có nhiều thịt và săn hơn khi làm mắm. Còng Quều có nhiều hơn vì chịu khó sinh sản và cần cù kiếm ăn. Đâu dâu cũng có còng Quều nên trên thị trường đa số mắm được làm từ thịt còng Quều. Mắm còng Quều không đỏ bằng còng Ta còng Lửa nhưng làm mắm từ còng Quều ngợi hơn. Ngoại nói vậy mỗi khi cả nhà quay quần ngồi làm mắm còng. Ngoại mình làm mắm có tiếng vùng này. Mắm Bà Hai Quá xóm Trường Bình. Bắt còng về mang ra sông rửa thật sạch sau đó làm miệng làm yếm nặn đất để cho thật ráo nước rồi bỏ vào cối giã thật nhuyễn. Trong lúc giã nhớ bỏ thêm muối và cơm nếp hoặc cơm nguội. Khi giã nhuyễn vắt từ vắt gọn trong lòng bàn tay. Nước còng đen đen hơi sền sệt hăng hăng len lỏi chảy theo từng kẽ ngón tay rơi xuống nắp lu. Vắt đến khi xác còng còn lại bã, trắng nhách mới thôi. Nhớ đừng bỏ xác còng nếu không mắm bị lỏng. Xác còng phơi khô giã nhuyễn như bột trộn vô mắm cho mắm mau đặc. Mắm đặc là mắm ngon mắm chín. Vào khoảng tháng mười một tháng chạp xóm mình nhà nhà đều phơi mắm như nhà nhà đều phơi lúa vậy. Đi ngang qua sân nhà ai mà không thấy có phơi mắm thì y như nhà ấy mất điểm vì ..lười, hoặc giả khi ngang mà thấy mắm sình bốc mùi thì bảo rằng nhà ấy cô gái chưa khéo tay và để bụng không ưng nếu đang lựa con dâu. Phơi mắm như phơi lúa nếp phải canh chừng thình thoảng quậy lên cho mắm chín đều. Sau ba cái nắng to là mắm chín cho vô hũ ăn dần mãn năm đến mùa gặt lúa năm sau làm mắm mới. Mắm làm trái mùa không ngon. Ấy vậy mà nhà ai còn hũ mắm cũ là được khen nức nở vì khéo ăn. Mắm càng cũ ăn càng dịu càng béo càng ngon ăn càng ghiền. Mắm còng thường để ăn sống. Ăn với món nào cũng ngon. Mắm còng ăn với canh chua bông so đũa no căng bụng vẫn còn thèm. Mắm còng ăn với bánh tráng thịt luộc rau sống thì khỏi chê. Mắm còng kho với thịt ba rọi ăn cơm gạo nàng thơm coi chừng bể bụng chớ chẳng chơi. Ngày bé bọn mình đi học về là ù chạy ra nhà sau bới tộ cơm nguội múc non muỗng mắm còng vừa ăn vừa ngẫm vừa nghe hương lúa mới lâng lâng về. Anh thợ cày thèm ăn đậu bắp hấp cơm chấm nước mắm còng pha loãng. Cô thợ cấy thèm rau lang luộc với cá kèo kho mắm còng. Có một điều lạ là mắm còng không tanh lâu như những loại mắm khác chỉ có điều răng hơi bị đen khi dùng. Giữa đồng không mông quạnh thì bàn chải đâu mà đánh răng. Không hề gì vì đã có cơi trầu của ngoại chỉ cần lấy vỏ cau tươi làm sát nha là răng miệng lại thơm sạch như xưa. Ngoài ra ngoại mình còn có loại mắm còng làm chua là đặc sản. Người làm được mắm còng chua là người có đẳng cấp trong nghề làm mắm. Mắm còng chua được làm từ còng lột vỏ, mềm nhũn. Còng lột rất hiếm nên có được hũ mắm chua quả là một kỳ công. Bí quyết làm mắm còng chua nay đã thất truyền vì người cùng thời ngoại nay đã ra người thiên cổ. Mắm còng chua chỉ còn trong tâm tưởng mỗi khi nghĩ về cảnh cũ người xưa. Mấy năm nay đất ở quê ngoại được quy hoạch làm khu công nghiệp. Nhà nhà bỗng dưng giàu xổi nên thôi không bắt còng làm mắm vì mất công và sợ dơ. Những buổi chớm xuân không còn cảnh người người rủ nhau đi bắt còng làm mắm nữa. Lúa không còn chín vàng đồng để cho cò trắng làm duyên mỗi chiều tà. Thay vào đó là ruộng đồng khô cháy nức nẻ vì thiếu nước thiếu bàn tay chăm sóc vun trồng. Lúa không về sân tắm nắng và mắm cũng thôi không còn dịp để mà khoe hương với gió nữa rồi. Muốn lựa dâu người ta phải cất công vào xí nghiệp nhà máy mà tìm. Những món ăn dân dã nhưng đầm thắm mặn mà từ mắm còng cũng mai một dần. Trong hơi gió tháng chạp bỗng nghe hương mắm vọng về xao xác tim người tha hương xa xứ. Về họp lớp lần này mình muốn được ăn lại món mắm còng quê. Đi qua mấy quán ăn quán nào cũng trố mắt lắc đầu nguầy nguậy nhìn bọn mình trân trối như người từ hành tinh khác đến. Bỗng chao chát lòng nhớ loaị mắm tên Còng đen đen sền sền beo béo thơm mùi hương lúa mới. Thương nhớ quá hương mắm còng ơi! ruyện ngắn: Con cá trứng Bùi Văn Thành Lâu quá, hôm nay, chiều thứ bảy, vừa ăn cơm xong, tôi đến nhà anh Hai tôi chơi. Thực ra thì đến thăm chị dâu và mẹ tôi rồi hỏi thăm việc học hành các cháu ra sao, nhất là thằng cháu trai thi đại học như thế nào. Đã 18 giờ hơn mà anh tôi đi chơi chưa về, chắc là có độ gì rồi. Tôi đoán là như vậy. Vì vừa mới hôm qua, trong cuộc nhậu, có một cô hẹn với anh tôi. - Sao chị không ăn cơm đi ? -Chờ anh mày về ăn thể. Chị tôi ít khi ăn cơm trước anh tôi chỉ trừ trường hợp anh về quá khuya. Tôi điện, thì anh tôi bảo nói dùm chị tôi ăn trước đi, anh bận khách, về sau. Tôi đành phải thưa lại với chị tôi như vậy, vẫn biết rằng, chị sẽ không vừa lòng. - Anh mày lạ thế, không ăn thì điện về nhà một tiếng cho biết chừng. - Thôi ! Cả nhà ăn cơm đi. Em ngồi đây chơi một ít rồi về. Chị lấy lồng bàn chụp mâm ra và với giọng vội vã, chị mời tôi ăn cùng lời kể lể…. Sáng nay, vào siêu thị cùng với mấy chị em trong tổ Hoá, ai cũng bảo cá trứng ngon lắm, nhất là làm món nướng, vừa thơm, vừa bổ… Vì đắt quá, 1000 đồng một con nên chị mua 10 con về để cả nhà ăn thử. Hơn nữa, mẹ gần 80 tuổi rồi mà chưa biết món cá đặc sản này. Em ăn cơm rồi thì ăn cá với bánh tráng cho vui. Mẹ tôi cũng giục tôi ngồi vào bàn. Còn cháu Hiền thì cầm đũa đang chờ, miệng chắp chắp, không dám gắp, chờ thử món cá lạ lẫm này. Tôi đành phải nói dối với chị và mẹ là vợ tôi mới hôm qua cũng mua chục con như chị rồi. Tôi thấy chị tôi gắp riêng ra một chén để cho anh tôi 3 con, rồi đậy lại gọn gàng. Rồi chị gắp cho mẹ, đứa con, xong mới đến lượt mình. - Ngon. Ngon thật em ạ. Em ăn thử một con đi, Chị tôi nài nỉ. - Cảm ơn chị. Em no quá. Thực ra, nếu tôi ăn dù một con thì mẹ hoặc Chị chỉ được một con thôi vì cháu tôi đã ăn đến ba con rồi. Mới chiều hôm qua, thằng bạn ở Thành phố Hồ Chí Minh về, rồi tình cờ tôi gặp anh tôi trong quán nhậu với một cô bạn gái nhỏ hơn anh tôi chừng hai mươi tuổi. Hỏi thăm thì được biết là cô bạn ở miền Nam. Trên bàn có dĩa cá trứng gần 20 con cùng với rau thơm, một vài lát cà và một đĩa cá mú hấp. Toàn là những đặc sản cả. Biết tôi là em ruột của anh, nên cô gái gắp bỏ vào chén tôi những ba con. Lần đầu tiên ăn loại cá này đúng là ngon thật. Thủ tục chào hỏi xong, tôi đi vào phía bàn trong ngồi với bạn. Năm phút sau, tôi bưng ly bia đến mời anh tôi thì chỉ thấy trên bàn đĩa cá trứng còn nguyên và nửa con cá mú hấp. Hỏi thì hai người đã đi... Đêm hôm đó, tôi không ngủ được. Trong đầu tôi nảy sinh nhiều ý nghĩ. Một là, nói với chị tôi về việc này nhưng lại thấy không ổn. Hai là, nói trực tiếp với anh tôi nhưng lại cũng không dám. Hơn nữa, anh tôi có thua gì tôi đâu, trình độ cũng hơn, địa vị cũng hơn, Phó Trưởng phòng mà, cả uy tín nữa. Trong những đám tiệc thì ảnh nói cả tôi và nhiều người há mồm ra nghe…. Thì ra, lâu nay, tôi nghi oan nhiều cho chị dâu tôi, cho rằng, chị không biết giữ tiền, tiêu xài hoang phí. Bởi vì lương anh gấp đôi lương tôi, lương chị cũng hơn lương vợ tôi, con thì hai đứa, hai bên đều khỏe mạnh như nhau. Còn mẹ thì đã hưởng chế độ chính sách mỗi tháng 850.000 đồng, mà già thì ăn sao hết. Vậy mà, cơ sở vật chất gia đình tôi hơn anh nhiều thứ. Nhà tôi cao và lớn hơn, đầy đủ các tiện nghi, xe cũng đẹp và nhiều hơn, ăn uống đầy đủ hơn, …Gia đình anh cũng cái nhà cấp bốn mà cha mẹ để lại, không sắm sửa gì nhiều, ngay cả tủ lạnh mà thế kỉ 21 rồi vẫn chưa có, vẫn ti vi trắng đen….Hay là anh chị tôi để của chìm? Một hôm, tôi đang đi dán băng rôn chuẩn bị cho ngày môi trường thế giới vì tôi làm văn hóa thông tin thì tin đồn anh tôi tai nạn xe. Tôi và con tôi chạy đến bệnh viện thì chị tôi và con anh tôi cũng vừa đến. Anh nằm bất tỉnh, ra máu nhiều.Té ra, đến giờ mới biết chị không có tiền. Hai đứa con anh nhìn thì cũng biết chúng thiếu máu, bác sĩ nào dám lấy máu vì chúng gầy quá đi. Thế là, phải lấy máu của tôi và con tôi. Cơn nguy kịch đã qua. Mặc dù chấn thương sọ não nhẹ nhưng tuổi chưa già chắc sẽ hồi phục được nhưng không biết, nó có liệt bên nào không, hay mất sợi nói nào không, chứ chết thì không rồi. Ba mươi ngày sau, anh dần dần tỉnh lại, nhận biết được người thân, nghe được tiếng nói, và biết huơ tay làm dấu. Không một cô gái nào đến thăm anh, kể cả cô gái mà anh chở hôm bị tai nạn ấy, cô gái chỉ trầy sướt nhẹ thôi. Và biệt tích. Thấy tôi, anh rơm rớm nước mắt, cầm tay tôi thật chặt, mặc dù không nói được câu nào. Tôi biết anh muốn nói gì…Nên tôi động viên, anh yên tâm, nghỉ ngơi đi để mau chóng bình phục. Vì tai nạn có uống rượu bia nên không được bảo hiểm, gần 20 triệu tiền chụp xiti và máu, thuốc ngoài, mẹ tôi cho một nửa, còn tôi một ít và chị tôi phải chạy vạy thêm. Nhưng mấy tháng nay, tội nhất là chị dâu tôi, không đêm nào chị ngủ được. Chúng tôi năn nỉ phụ giúp nhưng chị không cho. Khổ nhất là ban đêm, anh mê man, lăn ra mép gường mà giường thì không có vật cản nên chị sợ anh té mà thức suốt. Rồi nhất là khâu vệ sinh. Anh có bệnh đại tràng mãn tính nên rất khổ việc ăn uống. Và phải tập luyện…. Thấy chị mệt, tôi và con tôi đến chăm sóc anh để phụ giúp chị một số đêm. Nhưng tôi làm chưa quen nên anh tôi đau hơn chị làm. Đoạn, tôi thấy anh nắm tay chị tôi, nước mắt ứa ra, nhìn đăm đăm về chị như thầm cảm ơn, như một lời tạ lỗi. Những ngày qua, nếu không có em chắc anh không còn trên cõi đời này. Trong suy nghĩ miên man, anh ngộ ra, vợ là điểm tựa của cuộc đời mình, là bến đợi của con thuyền sau bao năm rong ruổi, là niềm tin, là sự cổ vũ lớn lao, là… Nhưng giờ cũng chưa muộn…… Chuyện bà lão hơn 60 năm chỉ ăn cơm với cá khô hấ Hơn 60 năm nay, người dân buôn bán ở mấy chợ quê đã quen với sự có mặt của bà lão hành khất gầy gò, ốm yếu. Ngày ngày, bà lang thang trong các chợ để kiếm tiền đong gạo, tối đến lại lủi thủi trong căn nhà lụp xụp mà mấy chục năm nay chưa bao giờ thấy sáng đèn. Bữa cơm nào cũng vậy, món duy nhất chỉ là cá khô hấp… Hơn nửa đời hành khất để mưu sinh Căn nhà nhỏ của bà Nguyễn Thị Mấu, 79 tuổi, người xã Đông Phương, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng nằm chung ngõ với nhà của ông Nguyễn Văn Thanh. Cánh cửa gần như lúc nào cũng đóng, bởi nếu bà Mấu không đi ra các chợ thì có nghĩa là bà bị mệt và nằm ngủ ở trong nhà. Cạnh nhà có một gian bếp nhỏ, rộng chừng hơn 1 mét vuông nhưng hơn chục năm nay bà không đụng đến. Vì ở một mình và bị mù nên khi ở trong nhà bà thường khóa trái cửa lại, chỉ người quen gọi, bà mới mở cửa, người lạ mà vào gõ cửa, bà nghe tiếng không quen là lại hét lên. Người già trong làng kể, họ thấy hồi bà Mấu 18, 19 tuổi, đã bắt đầu lang thang hành khất ở các chợ quê quanh vùng. Chợ Đình, chợ Đình Ranh, chợ Hương, chợ Huyện, chợ Đa Phúc… là những phiên chợ bà hay đi nhất. Giờ giấc họp chợ cũng như từng ngóc ngách của những phiên chợ với bà đã quá quen thuộc. Khi còn trẻ, cứ có đoàn các bà các cô nào đi chợ là bà lại ra ngõ bám gót theo sau để đi cùng, đến lúc về lại nhờ người ta dắt. Chợ xa nhất cách nhà bà 4km, chợ gần thì tầm 500m. Khi đã có tuổi, sức khỏe yếu đi thì bà nhờ đám học sinh đi đường đèo bằng xe đạp, đến gần chợ thì cho bà xuống. Nhiều người dân đi chợ hay bán hàng ở những chợ trên đã quen với sự có mặt của bà, thậm chí họ còn nắm được lịch hôm nào bà sẽ xuất hiện. Người ta chẳng lấy làm phiền vì bà Mấu đi xin chẳng ảnh hưởng đến ai, ai cho thì bà lấy chứ không đeo bám khiến người ta khó chịu. Bà lên lịch đến các chợ khác nhau để tránh có mặt quá nhiều ở một chợ khiến người chán mặt. Ở những phiên chợ quê, mỗi ngày đi hành khất, bà xin được 4 – 5 nghìn đồng, phiên chợ huyện ở xa hơn thì có lần xin được vài chục nghìn thế nhưng bà không lấy thế làm ham. Ai cho tiền, người ta cũng bảo bà là cho bao nhiêu, đến lúc bà ngồi xếp lại cẩn thận rồi đi mua gạo, mua cá chủ hàng còn ngạc nhiên hỏi “sao bà mù mà xếp đồng nào ra đồng nấy tài thế?”. Chúng tôi đến chợ Đình Ranh vào phiên thường nhật, một người bán hàng cho biết, hôm nay, bà cụ Mấu sẽ ra đây, thế nhưng đợi cả buổi chúng tôi không thấy bà đâu. Vào trong nhà thì thấy cửa đóng im ỉm. Hỏi đám trẻ đang chơi trong sân nhà ông Thanh, hàng xóm của bà Mấu mới biết, bữa nay, bà Mấu ốm không đi chợ được. Đám trẻ dẫn chúng tôi đến gọi cửa, giọng bà Mấu vọng ra hỏi ai một cách cảnh giác. Vào trong căn nhà trống huơ trống hoác của người đàn bà mù hành khất có thể cảm nhận thấy thế giới của sự buồn tủi, cô đơn. Điều khiến chúng tôi cảm thấy thương tâm nhất đó là bữa ăn của bà Mấu. Ngày trước khi chưa được mua giúp nồi cơm điện bà vẫn lủi thủi, mò mẫm trong căn bếp rơm, bếp rạ để nấu ăn. Bà được người ta mua cho chiếc nồi cơm điện hơn chục năm nay, công việc nấu ăn đỡ vất vả hơn xưa nhiều. Mỗi bữa, bà cắm một ít cơm, khi nghe thấy tiếng cơm nhảy nút thì bà lại bỏ vào nồi vài con cá khô để ăn. Rau, thịt với bà là món xa xỉ ít khi bà dám nghĩ đến. Nhiều hôm nhà ông Thanh hàng xóm chung ngõ với bà nấu ăn mang cho bà ít rau thịt nhưng bà thấy rất khó ăn. Vậy là bà lại trung thành với món ăn quen thuộc. Thân hình gầy gò của bà là kết quả của việc ăn uống không đủ chất, lại thường xuyên bỏ bữa. Trong câu chuyện cuộc đời bà, bà kể có những hôm không xin được gì phải nhịn ăn hoặc phải ăn cháo loãng. Chuyện một ngày ăn có một bữa là điều bình thường, những lúc như vậy bà thường ngủ cho quên đi cái đói và nhờ người gọi dậy khi chợ bắt đầu họp. Bà Mấu chuẩn bị cho bữa cơm mà "thực đơn" đã quen thuộc từ hơn 60 năm nay: cơm trắng - cá khô hấp Trong quãng đời hành khất của bà Mấu, vì đôi mắt không nhìn thấy gì nên cũng có nhiều lần bà bị tai nạn. Một số lần bị xây xát chân tay, lần nặng nhất là khi đi chợ huyện bà bị xe máy quệt phải. Lần ấy bà nằm viện mất nửa tháng, các cháu và hàng xóm từ đấy trở đi khuyên can không cho bà đi xin ở các chợ xa. “Còn nước mắt mà khóc nữa đâu” Cuộc đời của bà Mấu gắn liền với những phiên chợ, ở đó có những người dưng không phải bà con thân thích nhưng họ lại là người giúp bà tồn tại. Sống một mình trong căn nhà rộng hơn chục mét vuông, không đồ đạc quý giá. Tài sản giá trị nhất là chiếc nồi cơm điện đã ngót nghét hai chục năm. Chiếc bóng đèn người ta lắp giúp bà khi xây nhà bị màng nhện bám kín vì chẳng bao giờ nó được sử dụng. Sinh ra vốn là một thiếu nữ bình thường, bà Mấu là con thứ hai trong gia đình có ba chị em. Năm bà lên 16 tuổi, bố bà không may qua đời. Ở cái tuổi ăn chưa no, lo chưa tới ấy, bà đã phải lao động để giúp mẹ ốm yếu nuôi em. Năm 18 tuổi, cái tuổi vừa đẹp để dựng vợ gả chồng ở các vùng quê, bà Mấu cũng được nhiều chàng trai để ý. Mẹ bà cũng mong muốn cho con gái có được tấm chồng để thoát khỏi cảnh khó khăn, cơ cực. Thế nhưng, cuộc đời lại trớ trêu, năm ấy đôi mắt của bà không biết sao lại đau sưng húp. Không ai trong nhà nghĩ rằng bệnh đau mắt lúc ấy quá nghiêm trọng, thế nên chỉ cho bà đi tra thuốc của người ở xã bên. Khổ một nỗi, khi đi chữa mắt, ông thầy lang kia lại tra nhầm thuốc khiến đồng tử mắt của bà bị đánh tan. Đôi mắt của bà mù vĩnh viễn, bất hạnh ập xuống đầu bà từ đó. Chị gái và em trai bà lần lượt lập gia đình và có cuộc sống riêng, gia cảnh ai cũng khó khăn cả. Bà Mấu sống với người mẹ già yếu, năm 19 tuổi, bà bắt đầu mưu sinh trong những phiên chợ quê để nuôi mẹ. Bà sống bằng sự thương cảm của người đời. Năm 20 tuổi, bà nghe nhiều người khuyên nên kiếm lấy một mụn con để sau này nó đỡ đần lúc đau ốm sau này. Ở hoàn cảnh của bà, nhà nghèo lại bị mù lòa như vậy không dám nghĩ đến chuyện chồng con. Hơn nữa ai lại muốn lấy một người như bà vì cuộc sống ở thời điểm ấy vốn đã rất khó khăn, người ta lo làm lo ăn còn chẳng đủ thế nên không dám đèo bòng. Biết rằng lấy chồng cho con là không thể, thế nên mẹ và chị bà đã tạo ra cho một cuộc “gặp gỡ” với một người đàn ông mà chẳng bao giờ bà biết đấy là ai. Kết quả của cuộc “gặp gỡ” đó là một đứa bé kháu khỉnh ra đời. Hạnh phúc nhỏ nhoi đó giúp bà có thêm nghị lực và niềm tin vào cuộc đời, đứa bé như một niềm an ủi cho những bất hạnh bà gặp phải. Cuộc đời bà Mấu là một chuỗi những bất hạnh liên miên, hạnh phúc chẳng bao giờ sống chung với người đàn bà này quá lâu. Hơn một năm sau khi sinh con, đứa bé bị viêm amidan, nhà bà không có điều kiện chạy chữa nên đứa bé qua đời. Bà Mấu khóc hết nước mắt: “Đến con tôi nó cũng chê tôi mù lòa mà bỏ tôi đi”. Năm 1960, người mẹ già cũng là chỗ dựa tinh thần duy nhất còn lại của bà qua đời. Bà sống lủi thủi một mình ở mảnh đất cha mẹ để lại. Sau này, bà cũng bán mảnh đất đi, mua một mảnh đất nhỏ hơn, số tiền dư bà để dành ăn dần. Rồi chị gái và em trai của bà cũng vì những lý do khác nhau mà lần lượt qua đời cách đây hai ba chục năm. Những người thân thiết, ruột thịt cũng lần lượt bỏ bà lại một thân một mình trên thế gian. Đôi mắt đục như màu sương khói trải qua ngần ấy những biến cố của cuộc đời đã chẳng thể nhỏ thêm một giọt nước mắt nào nữa. “Cuộc đời tôi khổ lắm cô ạ, bố chết sớm, mẹ chết sớm, bản thân lại bệnh tật đau đớn, đến đứa con “xin” được nó cũng bỏ tôi đi… Mỗi lần như thế là nước mắt cứ chảy không sao ngừng được. Đến bây giờ chả còn nước mắt để mà khóc nữa”, bà Mấu kể chuyện đời mình, giọng như lạc vào miền đau khổ xa xưa. Truyện ngắn: Hoài TCN - Con người trong thế giới hiện đại phải trang bị đến nhiều phương tiện cồng kềnh. Việc đầu tiên là không khí để thở. Điều hòa ở phòng bật 16/24, ở cơ quan thì 8/24. Chui vào xe buýt đi làm cũng là chui vào một cái máy lạnh, một bể kính. Không lẽ con người bây giờ lại giống con cá cảnh như vậy hay sao? Mà đúng vậy, mắt ai cũng lồi dần ra như mắt cá vàng vì ngày không dưới tám tiếng ngồi trước màn hình vi tính. Đeo kính cận cũng đã trở thành mốt rồi. Thời đại thay đổi nhanh thật. Ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy con người ra đường phải trang bị nào kính, điện thoại di động, nào máy tính cá nhân, nào xe máy… Mới dạo Hoài học cấp II, các chú ở cơ quan má thường đùa nhau: “Một yêu anh có may ô. Hai yêu anh có cá khô ăn dần...”. Sau đó là đến câu cửa miệng để đùa nhau về chuyện người Việt Nam ở nước ngoài đi mua hàng đóng thùng gửi về nước: “Vai mang áp suất, chân đi bàn là”. Ngày cô học ở trường, đứa bạn cùng lớp đã có câu tuyên bố nổi tiếng là chồng tương lai của nó phải đi ít nhất là xe Dream Thái trở lên. Thế rồi nhu cầu của con người cứ tiến vùn vụt, không biết rồi sẽ dừng lại ở chỗ nào. Mới ngày nào việc có một chiếc xe máy để đi là một niềm mơ ước, là cái mốc để đánh giá sự giàu có ăn nên làm ra, sau đó nó là một điều mà gần như không có nó xã hội không chấp nhận. Rồi đến một dạo đàn ông có chiếc bụng bệ vệ được coi là biểu tượng của sự thành đạt. Nhưng bây giờ thì đến mấy anh bảo vệ cơ quan cô cũng vác những chiếc bụng “bầu”. Và gần đây là điện thoại di động. Bạn Hoài, có những người dùng điện thoại di động chỉ như một cái mốt vì thời nay không có không được. Rồi lại tính ra rằng điện thoại di động vừa tiện, vừa rẻ hơn điện thoại cố định. Ngồi trong phòng họp, chỗ này vang lên một giai điệu Sonate ánh trăng điện tử, và lập tức thấy một chuyên viên đứng lên, tay ôm máy kề tai vừa thì thầm alô vừa đi ra ngoài. Một lát sau, tiếng nhạc du dương của bản Hồ thiên nga lại phát ra từ cuối phòng, một tin nhắn ở đâu đó mới được gửi đến. Sao mà bây giờ con người ta cần đến nhau thế nhỉ. Những lượng thông tin trao đổi trong một giờ đã là hàng vạn, hàng tỉ đơn vị. Hình như bây giờ người ta cần thông tin, sống bằng thông tin. Đơn cử một việc: chị An sống cùng phòng với Hoài một tháng tiền ăn hết 600.000, son phấn không dùng, thời trang cũng không chuộng, một năm may sắm có dăm ba bộ quần áo, nhưng tiền điện thoại thì trung bình 500.000 một tháng, có tháng 900.000, có tháng lên tới hơn 1 triệu đồng, bằng nửa tháng lương của Hoài. Điều này được lý giải là lương chị cao, chị đi làm xa nhà, rồi chị độc thân ở tuổi ngoài băm nên có nhiều điều phải giải tỏa tâm sự với bạn bè. Cũng có thể hiểu được. Nhưng ngay như những người nhà ngay kề công ty, vợ con hay chồng con đề huề mà vẫn cứ thấy nhậu điện thoại với những ải những ai đến hàng tiếng đồng hồ. Nói chuyện điện thoại hôm nay rồi lại ngày mai, và ngày kia cũng sẽ lại nói. Đã thành một nhu cầu tiện lợi được giãi bày, được tán phét, được bày tỏ bản thân. Nói và nói. Nhưng mà nói thì cũng phải có người nghe, cũng phải nói cùng, chứ có ai nói chuyện điện thoại một mình bao giờ không? Thế tức là một cô bé xinh đẹp đang nhậu điện thoại hàng chục phút trong buồng điện thoại tự động kia thì cũng phải có một chàng trai, hoặc một cô bạn gái đang tốn hàng chục phút để say sưa nghe, trả lời, hỏi thăm, khuyên giải, đáp lại. Thế mới biết cái nhu cầu được giải tỏa của con người mới lớn làm sao, bức xúc làm sao: được nói và nghe người ta nói. Như vậy có thể hiểu được là con người ta ngày càng xích gần nhau, hiểu nhau hơn, thương yêu nhau hơn, mở lòng với nhau hơn. Cứ tính trong một giờ bây giờ có bao nhiêu người tâm tình với nhau xem thì sẽ thấy rằng thế giới bây giờ thật là tươi đẹp. Mà quả thật là tươi đẹp. Miễn là không có chiến tranh, không có tai nạn giao thông, không có ngộ độc thực phẩm, không có H5N1... Những lần kể chuyện chiến tranh, ba Hoài đều kết thúc bằng câu ba nhờ có phước lành sao đó nên đi chiến trường ngần ấy năm, đủ thứ bom đạn, cả chất độc da cam... mà vẫn trở về, đẻ sáu đứa con đều nguyên lành đẹp đẽ. Khúc đầu sinh chị hai, đến khúc sau sinh chị ba, đến ngày sinh được anh tư, đứa con trai đầu lòng, ba mừng đến không bước nổi một bước, mãi mới chạy đi được. Thế nhưng bản thân ba thì bệnh tật đầy người, má đã hàng chục năm nay không dám rời ba một bước. Có bữa nhổ cỏ ngay sau vườn một chập chạy lên đã thấy ông nằm quay lơ ở sân từ lúc nào. Rối loạn tiền đình, rồi vết đạn bên hông phải, rồi tim mạch. Ông giờ như sống bằng thuốc, một tháng nội tiền thuốc các loại của ông đã hết vài trăm ngàn. Chị em Hoài thường giấu ông mỗi khi trong nhà có những chuyện không vừa ý: ví như việc thằng út đánh lộn với người ta mẻ đầu phải khâu mấy mũi, việc Hoài phải vào thành phố làm tiểu phẫu khối u ở tay, việc má phải đi cắt thuốc đau dạ dày... Mà nhà ai chẳng có những chuyện như thế - Hoài nghĩ. Hoài luôn luôn bằng lòng với mọi chuyện, chẳng mơ ước cao xa gì. Công việc của cô giúp trang trải chi tiêu trong nhà, mua thuốc cho ba, giúp anh tư học xa, đôi khi cho thằng út đôi chút. Thế là tốt lắm rồi. Có nằm mơ trước kia Hoài cũng không nghĩ được là mình lại đi làm ở một công ty sang trọng thế này. Sáng dậy vào lúc sáu giờ, tắm gội, sửa soạn mặc quần áo rồi xuống nhà ăn ăn sáng. Ăn sáng xong là 6g45, lên xe buýt của công ty đi làm. Giờ làm bắt đầu tính từ lúc ôtô buýt cho mọi người xuống trước cổng công ty để quẹt thẻ, một hình thức kiểm soát giờ làm việc thật hiện đại và tiện lợi. Khi công ty bắt đầu lắp máy kiểm tra bằng thẻ từ, Minh ở phòng máy tính bảo cô: “Chỉ có yếu tố con người là khó lường nhất. Đến cả bản thân mình nhiều khi tớ còn chẳng hiểu nổi. Tớ chỉ tin có máy móc mà thôi”. Hoài đã cười bảo Minh rằng anh đúng là mắc bệnh nghề nghiệp. Nhưng mà đúng vậy thật. Con bạn thân của Hoài đã qua tới ba mối tình mà còn cô độc. Có lần nó bảo Hoài rằng nhìn cái mặt nó là người ta đã muốn lừa rồi. Máy móc thì lại là chuyện khác. Nếu được vận hành và bảo dưỡng đúng, máy móc sẽ chẳng bao giờ phản người. Thật ra, đôi khi Hoài cũng kín đáo quẹt thẻ hộ An những khi chị ấy về thăm nhà đến muộn hoặc có việc phải về sớm. Chị em gái với nhau mà. Vả lại việc đó cũng chỉ dăm ba tháng mới có một lần nên chẳng có gì nghiêm trọng lắm, Hoài nghĩ. Chị An hơn Hoài đến 11 tuổi. Khác với các bà muộn chồng thường khó tính càu cạu, chị An rất vui vẻ, dễ chịu, lại hay cười nữa. Công việc của chị là soạn và dịch các văn bản giao dịch của công ty với các đối tác nước ngoài. Chị rất vất vả vì công việc khó, khối lượng lại nhiều. Có bữa ăn trưa, chị cứ chống đũa mãi mà không ăn được vì mệt đã đành, nhiều khi vì tức nữa, chị nói vậy. Tức, vì nhiều văn bản dùng câu tiếng Việt sai, nhiều câu tối nghĩa, chị đánh vật không sao dịch nổi... Cũng có khi vừa ăn, chị vừa thì thào kể cho cô nghe những câu trong văn bản dùng sai từ, tức cười và vô nghĩa, để hai chị em lại cười rúc rích với nhau. Nhưng tính tình chị đôi khi lạ lắm. Chị có thể bỏ cả buổi trưa để nói chuyện bằng điện thoại với bạn gái tận thành phố về một bài báo hay mới đọc được. Chị ngạc nhiên đến phẫn uất khi nghe một cậu nhân viên trẻ trong cơ quan trả lời khách nước ngoài một cách hàm hồ rằng chúng tôi (tức Việt Nam) không có điệu múa dân tộc. Ngay cả việc tình cờ biết được là Hoài chưa bao giờ đọc cuốn Không gia đình cũng làm chị ngạc nhiên. Lập tức chủ nhật tuần đó chị rủ Hoài đi hiệu sách và mua tặng cô cuốn sách đó. Nể chị An, Hoài có đọc nhưng không vào lắm, vì cô toàn đọc lúc đã lơ mơ buồn ngủ rồi. Cô thích đọc tập san Hạnh phúc gia đình hơn. Loại tập san này văn phòng đặt hằng quí, Hoài mang về để một chồng ở kệ tủ, chỉ có chị An là chẳng bao giờ ngó đến chúng, lại còn tự chế giễu mình rằng vì không chịu đọc Hạnh phúc gia đình nên chị mới muộn chồng. Công việc của Hoài là vào sổ công văn đến, công văn đi, đặt vé máy bay cho cán bộ công nhân viên công ty, thăm nom lễ hiếu hỷ, lo thủ tục cho các sếp đi công tác trong nước và nước ngoài, các đoàn khách ra vào công ty, các đối tác đến làm việc và đủ các việc linh tinh khác ở văn phòng. Thế nhưng bản thân cô thì chưa một lần đi máy bay. Những người cùng công ty Hoài rất lịch sự, sau mỗi chuyến công tác về xuống chỗ cô trả cuống vé để thanh toán đều mang theo một món quà gì đó, có khi mua tại nơi họ đến, có khi là mua ở sân bay khi về nước. Thế là chẳng bao lâu mặt bàn làm việc của cô đã lốc nhốc nào con Merlion của Singapore, nào dây đeo chìa khóa của Mỹ, nào quạt giấy Nhật Bản, mô hình tháp Effeil... Nhưng Hoài thích nhất con matrioska do sếp tặng sau một chuyến đi công tác ở Nga. Cô gái xinh đẹp choàng chiếc khăn san lộng lẫy đứng lặng nhìn cô bằng đôi mắt nâu tinh nghịch. Người thợ thủ công nào vẽ nên cô gái này hẳn rất khéo tay và nghịch ngợm. Không hiểu sao cô cứ muốn nghĩ đấy là một cậu bé hiếu động có mái tóc vàng óng với đôi mắt xanh ranh mãnh, vừa vẽ vừa nguẩy tay cười ha ha. Hôm nay thay vì chống đũa, hoặc kể chuyện vui trong bữa ăn, chị An cho Hoài xem một tấm bưu thiếp của ông khách người Mỹ tặng. Em xem, thật tuyệt vời! Vì hay tiếp xúc với người nước ngoài nên ngôn ngữ của chị cũng hơi giống họ. Trong trường hợp này, Hoài nghĩ, chỉ cần dùng câu “Em thấy hay không?” là đủ. Nhưng cái giọng đầy xúc động của chị An làm Hoài thấy mình nên thận trọng khi mở tấm thiệp ra xem. Một màn đêm trong trẻo đầy sao, bình nguyên xanh thẳm lùi lại sau con đường đất lầy lội gập ghềnh. Trên con đường ấy đi đơn độc một chiếc xe trâu. Đúng hơn là một đám rước đèn ông sao. Cậu bé ngồi trên mình trâu cầm một chiếc đèn ông sao. Trên chiếc xe hai bánh thô sơ được con trâu có cặp sừng rất rộng kéo đi có một người đàn bà bế một đứa bé không rõ mặt cũng cầm một chiếc đèn ông sao, hai đứa bé lớn hơn đứng cạnh trong xe, tất cả đều đội nón, mặt quay về hướng trực diện của bức tranh. Cả người, cả nón, cả đèn ông sao đều như được dát bạc bởi ánh trăng. Thật buồn và thật đẹp. Bức tranh được một họa sĩ nước ngoài vẽ vào năm 1942. Lời đề từ của tấm thiệp thì rõ ràng là mới đây: For the well-being of the world’s children – Vì hạnh phúc của trẻ em trên toàn thế giới. Chị An than rằng lâu lắm rồi, không biết từ bao giờ nữa, chị không được đi dưới ánh trăng. Và tối ấy chị tắt máy điều hòa, gác điện thoại, mở tung cửa sổ phòng và lên giường ngủ sớm. Không quen ngủ sớm mà lại không có máy điều hòa nên Hoài trằn trọc mãi. Phải rồi, chị An thì thèm được đi dưới trăng, còn Hoài thì bỗng nhớ lại ngày còn bé buổi tối có trăng hay chân trần chạy trên những bờ ruộng đẫm sương vợt châu chấu về rang. Vào khoảng đầu tháng tám âm lịch, lúa chuẩn bị lên đòng là hay có nhiều con châu chấu non. Có những buổi tối Hoài và thằng út vợt được hơn lưng giỏ. Vậy mà nhà đông, rang lên cũng chỉ ăn một bữa là hết. Bây giờ thì vĩnh viễn không có cảnh ấy nữa rồi. Những lần về thăm nhà, buổi tối Hoài một là ngồi ở nhà, hai là phóng xe máy xuống phố thị chơi, chứ ai mà dám ra đến bờ ruộng, dây kẽm bẫy chuột giăng đầy. Đã không ít người bị điện giật chết oan. Châu chấu thì cũng chẳng còn nhiều vì thuốc trừ sâu, vả lại bây giờ đời sống cao, ai mà còn ăn châu chấu rang nữa. Nói ra thiên hạ cười chết. Hoài bật chiếc đèn xinh xắn gắn bên tường và lấy trên kệ sách xuống một tập san Phụ nữ số mới nhất. Những cô gái xinh đẹp đang nhìn Hoài từ bìa tập san trông xa lạ như thể họ không phải là người Việt Nam. Hoài cầm tập san trên tay mà không thể mở nổi một trang, trong đầu bỗng lung bung lời hẹn của bạn trai hẹn đi biển xa cuối tuần. Mà hôm nay thì mới là thứ ba. Thôi đi ngủ mai còn dậy sớm. Hoài nhìn sang giường bên. Trong bóng tối mờ mờ, cái dáng nằm của chị An thật thoải mái, một tay dang rộng tận mép giường, tay kia ôm hờ chiếc gối. Thân hình chị ẩn hiện sau chiếc váy ngủ bằng vải lanh mỏng lồ lộ vẻ thanh tân, non trẻ như một cô bé gái, và quen thuộc tới mức không hiểu sao cô muốn ôm ghì lấy chị. Cả gương mặt chị trong giấc ngủ cũng vậy. Nó có vẻ gì yếu ớt, ngây thơ khiến người ta phải ngạc nhiên là sao một cô gái đã ngoài 30 tuổi rồi còn có dáng vẻ như vậy. Hoài nhổm dậy nhìn chị thật kỹ và nhớ lại má có lần bảo cô rằng những người ngủ hay dang thẳng hai tay là người sướng. Nhưng thật ra thế nào là sướng, thế nào là khổ, Hoài cũng không biết nữa. Với cô thì mọi chuyện đều đơn giản, nhưng chị An thì luôn có những tiếp nhận rất lạ, thành ra Hoài không dám chắc là trong thâm tâm chị thấy mình sướng hay khổ. Nhưng mà thôi, nghĩ rành rọt về điều đó làm gì. Bỗng dưng Hoài muốn lấy một sợi tóc cù vào chiếc cổ thanh tú trắng mờ đang phập phồng theo hơi thở nhẹ kia để được nghe tiếng cười trong trẻo, giòn giã của chị. Cuối cùng giấc ngủ cũng đến dần, mệt mỏi mà ngọt ngào đến kỳ lạ. Cô mơ thấy một ngày thật ít công văn đến và đi, các sếp không cáu gắt, chim hót trên cây ngọc lan ngoài ô cửa của văn phòng, nắng thì chạy dài trong sân trụ sở công ty. Cô thấy chị Hoài duyên dáng trong bộ áo dài màu đỏ sẫm, tươi cười bước ra từ phòng làm việc của tổ phiên dịch. Cô tin chắc là ngày hôm nay với chị cũng được yên ổn, không có bản dịch nào gấp gáp, không có ai gây chuyện với tổ phiên dịch và không có những câu chữ “khủng khiếp” nào trong những văn bản giấy tờ làm chị phải chau đôi mày của mình lại. Mùa khô" - Truyện ngắn của Vĩnh Quyền âu dần chúng trở thành máu thịt bên trong không cắt bỏ được. Và cũng không ai đành cắt bỏ dù suy cho cùng, chẳng tiện ích gì khi sống trong dòng sống luôn tuôn chảy tới một ngày mai đã được lập trình sẵn bởi ai đó. Với Tony Nguyễn, nói "chẳng tiện ích gì" là có phần giận dỗi. Bởi ký ức loại ấy thường hành hạ con người mỗi khi có dịp. Và cũng không hiếm lúc nó hành hạ một cách ngọt ngào đến trào cả nước mắt. Mời các bạn nghe toàn bộ tác phẩm: Lúc này chẳng hạn. Nước mắt đã xuất hiện ở khóe mắt phải. Mắt trái Tony Nguyễn ngày nào cũng chảy nước vài lần khi tháo ra đặt vào con mắt giả. Anh không gọi đó là nước mắt. Nó không tiết ra từ nỗi vui buồn sướng đau. Con mắt trái của Tony Nguyễn đã bật ra khỏi mặt, văng chết đâu đó trên đường tháo chạy khỏi Quảng Trị khói lửa năm 1972. Nước mắt đang chảy qua khóe mắt phải lúc này là một hỗn hợp của ngậm ngùi lẫn thanh thản. Nước mắt là loại từ không đếm được. Nhưng lúc này anh đang muốn nó tích cóp lại thành dòng. Chảy cho tới mép môi hé chờ. Cho tới khi nhấm nháp được vị mặn tinh khiết từ con mắt còn lại của anh tiết ra bởi nỗi bồi hồi quê xứ. Nhưng, như phát xuất từ con suối kiệt giữa cao điểm mùa hạn, nước mắt bốc hơi nhanh đến nỗi anh không biết rõ có thực là mình đã trào nước mắt hay không. Nhưng Tony Nguyễn tin rằng đã chảy nước mắt. Thanh thản dễ chịu như sau cơn mưa rào. Trong cả đoàn xe bốn chiếc sơn trắng của tổ chức MIA, kể cả hai chiếc màu ô-liu của nhóm sĩ quan Việt Nam làm nhiệm vụ dẫn đường đến vùng núi đồi Khe Sanh nắng rát gió Lào để tìm hài cốt lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, thì chỉ có mỗi mình Tony Nguyễn nhận được cơn mưa rào mát dịu mà chính anh đã tạo ra. Cái mát của cơn mưa rào từ bên trong con người khác lắm so với cái mát của hệ thống điều hòa không khí. "Mười hai cây số nữa", một đồng nghiệp người Mỹ, chuyên viên giám định xương, nói với Tony Nguyễn sau khi anh ta bất chợt nhìn thấy một cột mốc ven đường. *** Lần thứ mười trong mười năm liên tục kể từ mùa khô 1975, Nhung đi tàu lửa từ một thị trấn ven biển Thái Bình vào Quảng Trị. Chuyến đi nào túi xách của cô cũng có bó nhang thơm. Nó là thứ được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất trong tất cả hành trang. Một tháng trước khi lên đường, Nhung đạp xe gần hai mươi cây số từ phố biển nhà chồng về làng lúa nhà mẹ rồi lên hùa Gỗ gần đấy. Chùa có cơ sở sản xuất nhang nổi tiếng. Thời trung học, Nhung từng lên chùa làm nhang vào mùa hè để kiếm tiền mua cặp mới, áo mới. Hai bàn tay cô đến giờ xe nhang vẫn rất nhuyễn. Nhung sớm biết tay mình thuộc loại đẹp. Mu bàn tay con nhà nông dày dặn mà không thô, các ngón thon dài, trắng hồng. Năm Nhung lớp chín, có lần thầy giáo định dùng thước kẻ đánh vào tay đám học trò vẽ bậy lên bảng đen trong giờ ra chơi. Nhung là đứa đầu tiên run rẩy chìa hai tay ra chịu phạt. Thầy giáo nhìn hai bàn tay cô học trò bằng cặp mắt của nhà khảo cổ phát hiện di sản vô giá dưới lòng đất. Cả bọn được tha bổng mà không hiểu rõ nguồn cơn. Từ đó cho đến năm Nhung tốt nghiệp trung học, thầy giáo không ngừng nhìn lén bàn tay cô học trò. Mùa hè năm 1970, trước khi trở về phố biển thăm mẹ và lên đường vào Nam đánh Mỹ, thầy giáo ra câu hỏi cuối cùng cho cô học trò cũ: "Em có đồng ý cho tôi sở hữu đôi bàn tay em không?". Từ mùa khô 1975, Nhung lên chùa Gỗ tự xe nhang lên đường vào Khe Sanh tìm mộ chồng. Những thẻ nhang thẳng đều và thơm ngát ngay cả khi chưa bắt lửa. Mười mùa khô rồi, những thẻ nhang phương Bắc vẫn chưa tìm được chủ. Nhung đành cắm hú họa tứ phương trên khắp chiến trường xưa đầy cỏ lau hoang hóa để trao gởi tấm lòng thành của mình trong mỗi chuyến đi. Hồi còi dài buồn xa dần sân ga Quảng Trị vắng ngắt. Con tàu tiếp tục chuyến hành phương Nam. Nhưng Nhung không cảm thấy đơn độc khi đặt chân xuống sân ga Quảng Trị. Ba mùa khô rồi cô luôn có bạn đồng hành. Giờ này có lẽ Phấn đang chờ cô ở một quán cóc ven Đường 9, nơi họ tình cờ gặp nhau trên đường tìm mộ chồng và cùng tá túc trong những ngày ở lại đây. Chồng Phấn, thiếu úy binh chủng thiết giáp quân đội Sài Gòn, cũng tử trận ở chiến trường Khe Sanh. Hai hôm trước, từ Sài Gòn, Phấn gọi điện hẹn Nhung cùng đi Quảng Trị. Năm nay, Nhung xe hai suất nhang. Một suất sẽ dành cho chồng của Phấn. *** Tony Nguyễn đi bộ hơn hai cây số đường đất mới ra tới đường 9. Lâu lắm rồi anh mới đi bộ một quãng đường dài như thế. Nhưng anh thật sự muốn thoát khỏi ca-bin xe chuyên dụng với những mẩu xương đủ loại, những máy móc thiết bị hiện đại lạnh lùng phát tín hiệu xanh xanh đỏ đỏ, liên tục nhả ra từng băng giấy dài ghi những thông số giải đáp cho các câu hỏi: Xương Mỹ? Xương Việt? Xương súc vật?... Tony Nguyễn thèm được thoát đi một mình trên mảnh đất này. Một mình hít thở khí trời. Nếu viên sĩ quan Việt Nam tốt bụng đưa anh đi bằng xe U-oát hay lại đi cùng các đồng nghiệp trong phái đoàn MIA thì chẳng còn ý nghĩa gì, chẳng làm thế nào để được riêng tư. Mà nỗi riêng của anh lúc này thì không thể sẻ chia cho cả hai phía. Tự nhiên con mắt giả bên trái cộm xốn. Anh đoán là do vừa từ ca-bin xe có điều hòa không khí bước ngay vào cái nắng oi bức khô rát. Mặt trời đã khuất sau rặng núi cao phía tây nhưng mồ hôi vẫn túa ra ướt đẫm chiếc T-shirt. Tony Nguyễn nhận ra mình đang đứng trên Đường 9 nổi tiếng trong chiến tranh Việt Nam. Thật lâu vẫn không có chiếc xe thồ nào qua lại để anh nhảy về thị xã Đông Hà hay ngược lên thị trấn Khe Sanh hớp cốc bia lạnh. Anh đành hài lòng với cái quán nhỏ bên kia đường. Ba người đàn bà trong quán ngỡ ngàng nhìn người đàn ông cao lớn, cân đối như một vận động viên bơi lội xuất hiện từ rừng dầu rái và bước thẳng vào quán. Bà chủ quán khoảng năm mươi tuổi bước ra tiếp khách, nói giọng Quảng Trị. Hai người còn lại trẻ hơn nhiều, khoảng ba mươi và có thể nói là rất còn duyên. Họ có vẻ thân thiết lắm dù người giọng Nam, kẻ giọng Bắc. Tony Nguyễn không đoán được mối quan hệ giữa ba người đàn bà nói giọng ba miền ngồi bên nhau trong cái quán lợp tôn thấp bé dưới tán cây đa khổng lồ. Anh cũng hiểu được sự ngạc nhiên của ba người đàn bà. Bản thân anh cũng vậy. Cái quán này mọc lên ở đây không dành cho loại khách như anh. Dẫu sao thì vẫn có bia ướp trong thùng nước đá. Lại là bia sản xuất tại địa phương. Điều mà anh vẫn thích mỗi khi có dịp đến một nơi xa lạ. Cả ba người đàn bà chộn rộn vào ra giúp nhau phục vụ ông khách hiếm hoi. Xong, họ lại kéo nhau lui cả vào chiếc chõng tre phía sau kệ hàng tạp hóa thưa trống cách đấy mấy mét, nhường cho Tony Nguyễn chiếc bàn nhựa dưới mái hiên nhìn ra đường. Không gian quán như được chia đôi. Bia không được thơm lại có vị chua đáng ngờ. Nhưng cá khô nướng than rừng thì tuyệt. Tony Nguyễn cảm thấy hạnh phúc đến bất ngờ. Anh không thể tin là mình sẽ có một buổi chiều thế này ở ven Đường 9. Càng không ngờ sẽ có một đôi tay đẹp đến thế quạt than nướng cá cho mình uống bia. Đôi tay của người đàn bà giọng Bắc. Câu chuyện của họ ở phía sau kệ hàng nghe rõ dần, có đầu có đuôi hơn. Người đàn bà giọng Bắc buồn rầu cho biết có thể đây là chuyến đi tìm mộ chồng lần cuối. Chính quyền và ban quân sự địa phương đã giúp hết mức nhưng vẫn chưa có một kết quả nào. Cô đã mệt mỏi và không còn hy vọng. Tình cảnh người đàn bà giọng Nam còn khó hơn. Chẳng có tổ chức nào ở đây lưu trữ thông tin về quân nhân chế độ Sài Gòn tử trận trước 1975. Và sau chuyến này, không biết đến bao giờ cô mới có thể trở lại Khe Sanh. Người chồng sau đang lo thủ tục đưa cô sang Mỹ định cư. Cô bỗng đổi chuyện, bảo người đàn bà giọng Bắc nên tính đến chuyện lấy chồng. "Già rồi, ai thèm", người kia đáp với tiếng cười gượng nhẹ nghe đến tội. Giọng Sài Gòn kêu lên: "Còn ngon lành vầy mà, em cũng mê nữa là!". "Quỷ sứ, bỏ tay ra!". Có tiếng xô đẩy cùng những tiếng cười rúc rích rất đàn bà. "Này, có đàn ông ở ngoài kìa... Thôi, sắp tối rồi, tao xuống nấu cơm cho tụi bây đây". Bà chủ quán xuống bếp một lúc bỗng chạy trở lên, giọng cao bất thường. "Tụi bây ơi! Tụi bây!". Hai người đàn bà trẻ nhao nhao lên hỏi chuyện gì, giọng Bắc hòa giọng Nam. "Báo! Báo này!", bà chủ quán như hụt hơi. Bên ngoài, Tony Nguyễn rất bồn chồn. Anh lắng nghe và cố hình dung chuyện xảy ra sau kệ hàng tạp hóa. Trên tay bà chủ quán là mẩu giấy báo cũ gói hàng. Hình như bà đọc thấy ở đó điều gì quan trọng. "Tao đọc rồi, báo nói ở Quảng Nam có nhà ngoại cảm gì đó, đã tìm được nhiều hài cốt thất lạc trong chiến tranh...". Bà dúi mẩu báo cũ vào tay một người đàn bà trẻ, tay kia với bật công tắc điện dù ánh ngày chưa thật sự bỏ đi. Bóng điện tròn phát ra thứ ánh sáng vàng đục không yên tĩnh. Hai người đàn bà trẻ chụm đầu vào nhau. Cùng đọc. Thời gian im lặng của họ dài hơn nhiều so với thời gian đọc bản tin trên báo. "Tụi bây nghĩ răng?", giọng bà chủ quán giãn ra, trầm xuống. Im lặng. Rồi một tiếng nấc bật ra. Rồi tắt nghẽn. Không thể phân biệt tiếng nấc ngắn ấy giọng Nam hay giọng Bắc. "Còn nước còn tát, Phấn nhỉ?", cuối cùng giọng Bắc lên tiếng. "Dạ", giọng Nam lí nhí đáp. "Thôi... bọn em đi thắp nhang đây". "Ừ, xong về ăn cơm, nhớ đừng đi sâu vào rừng. Bom mìn chưa gỡ hết đâu", giọng bà chủ đã lấy lại độ cao. Tony Nguyễn nhìn mông lung ra ngoài. Bên ngoài, mùa khô hiện hữu trong ánh phản quang của khoảnh khắc bàn giao giữa ngày và đêm. Nhiệt độ đã giảm. Mặt đường nhựa lặng lẽ nhả hơi nóng trắng. Phía sau cánh rừng dầu rái bên kia đường, bóng tối đã đông đặc thành khối đen. Nhưng vẫn còn trông thấy rõ màu lá những hàng cây đứng sát vệ đường. Và không có chiếc lá nào xao động làm bằng chứng cho gió. Hai người đàn bà lướt sát qua Tony Nguyễn, bước ra Đường 9 với hai bó nhang đang cháy. Mùi khói nhang nồng át mùi hương đàn bà. Nhìn theo những đóm nhang đỏ lập lòe xa dần, Tony Nguyễn lại như đang trông thấy những ánh chớp đỏ xanh phát ra từ hệ thống thiết bị hiện đại trong cabin chuyên dụng của phái đoàn MIA. Hình như nước mắt lại ứa ra từ con mắt bên phải của anh. Lần thứ hai trong một ngày hiếm có. Cá rô khô Những năm cuối đời, do sức yếu và hoàn cảnh chiến tranh không thể về bên ngoại được, bố tôi buồn lắm. Chiều chiều, khi uống rượu, người thường kể rất nhiều về quê mẹ tôi. Chuyện gần, chuyện xa, bao giờ cũng kết thúc bằng câu: “Bây giờ mà được nắm cá rô khô của bà ngoại đem rang lên uống rượu và ăn cơm thì còn gì bằng?”. Tôi hiểu nỗi nhớ ấy của cha tôi. Quê ngoại tôi ở làng Yên, một làng quê hẻo lánh thuộc huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Đất đồng mùa, nơi gặp gỡ của hai con sông (sông Cà Lồ đổ vào sông Cầu ở cửa Tam Giang) sao mà lắm tôm, cá, cua, ếch đến thế, nhất là cá rô. Tháng ba mưa rào, cá rô lách đầy ngõ, khắp vườn, tha hồ nhặt! Tháng tám đi đánh rọ cứ là hàng thúng, con nào con nấy béo vàng. Làng rất xa chợ, bán không có người mua. Nhà nhà thường xây cái bể chứa, thả ếch, thả cá vào đấy, ăn dần. Nhà bà ngoại tôi thì khác. Ếch ăn xổi đã đành, cua bà làm mắm. Riêng cá rô, bà phơi khô. Bà bảo thế là giữ cái màu ngon, màu thơm của nó quanh năm. Cách chế biến cá khô của bà tôi rất cẩn thận và độc đáo. Trước hết, bà nghe ngóng thời tiết xem có nắng bền hay không rồi gọi các dì, các mợ, con gái... đến làm cá. Đầu tiên phải đánh vảy từng con, mổ lấy hết ruột gan ra rồi phân loại to, nhỡ, nhỏ vào từng cái rổ. Bọn trẻ chúng tôi thì đi lấy mảnh sành, vỏ hến bỏ vào để người lớn mang ra ao xóc cho sạch nhớt rồi mang về để cho ráo nước. Bà tôi lo việc pha nước tương trong. Đây chính là khâu kỹ thuật và cũng là bí quyết chỉ riêng bà mới làm được, sao cho không mặn quá, không nhạt quá, không nhiều quá hay ít quá với từng mẻ luộc cá. Tất cả chỉ nhờ vào con mắt ước lượng và cách nếm. Khâu đun nước, bà cũng không thể rời con mắt. Ngày ấy, nhà bà chủ yếu là đun rơm. Hai tay ba bếp, bà nhìn tăm nước sôi mà điều chỉnh lửa, nhìn da con cá biết là phải dừng đúng lúc. Non - con cá sượng; già - con cá nứt, đều không đạt yêu cầu. Cá vớt ra, bà rải đều trên những cái nong thưa mà ông tôi đan từ trước đã được cọ rửa thật sạch. Nắng lên, bà cho bắc thang phơi lên ngọn đống rơm và trên nóc nhà lợp rạ, rồi phủ lên lượt vải màn để tránh ruồi nhặng. Vất nhất và cũng khó nhất là khâu trở cá, sớm, muộn cá đều bị dính nong, trợt da mất đẹp, mất ngon. Khi con cá vừa se mình đến độ là bà bảo bắc thang lên, hạ từng nong xuống, khẽ dùng đôi đũa trở đều từng con, rồi lại phơi lên. Cứ thế, mỗi ngày bà đảo cá một lần. Phơi dăm sáu nắng cho đến lúc con cá khô cong, thơm phức thì để nguội mới cất vào chum. Chum đựng cá, phía dưới lót lá chuối tiêu khô, phía trên cũng vậy, vài lớp. Bà bảo: “Cái anh lá chuối khô này là ủ cả được cái nắng vào trong đấy”. Năm nào bà tôi cũng làm được ba chum như thế. Mỗi chum một loại to nhỏ. Cách chế biến tuy đơn giản nhưng những ngày làm cá, phơi cá cứ như là ngày có cỗ. Cả nhà được huy động vào việc làm ếch, làm cá, ăn uống no say và đợi chờ sai bảo, cười nói râm ran, đi lại tấp nập... ách chế biến cá rô này, sau cả làng đều biết nhưng không ai khéo được như bà tôi. Có lẽ là do bà tinh tế và do món tương của bà khó có nhà nào sánh được độ ngọt. Bà tôi không biết chữ mà sao tài thế? Từng con cá của bà cứ nhẹ bấc, thơm phức, sáng màu. Khi ăn, đem rang lên cho hơi vàng và đủ độ nóng, đặt vào đầu lưỡi là tan vụn ra như bánh quy mới ra lò, nhưng mà đậm, mà ngọt, cái “màu” đậm ngọt của cá rô đồng và nước tương trong thật nhuần nhị, thấm dần vào đầu lưỡi, gây dư vị miên man như gọi miếng cơm thơm, gọi tớp rượu nồng. Lúc tôi còn nhỏ, bà thường đe: “Một bát cơm, một con cá thôi nhé! Ăn mặn khát nước chết đấy!”. Nhưng dù bà cố ý xới bát cơm cho tôi thật ít và cho con cá thật to, tôi vẫn cứ chìa bát xin thêm cá. Những lúc ấy, bà lần nào cũng rộng lượng tiếp cho con nữa với câu mắng yêu: “Cái con mẹ mày! Trai kẻ Đình, con nhà Tú cử mà cứ ma thèm ma nhạt, ma đói ma khát nó nhập vào!”. Nhưng tôi chẳng khát nước tí nào! Cá của bà, giá cứ cho tự do, tôi có thể bốc chén như ăn lạc rang cả ngày không chán. Mỗi lần mẹ tôi về quê ngoại, bao giờ bà cũng gói cho vài đấu cá để “bố con nó ăn dần!”. Bà tôi qua đời đã từ lâu. Mỗi khi cái rét đầu đông tới, vắng món cá rô khô của bà, cha con tôi lại nhớ, cho dù bữa rượu của cha tôi nào có thiếu thốn gì! Nay cha tôi cũng ra người thiên cổ và tôi cũng đã vào cái tuổi của người, tôi càng hiểu nỗi nhớ ấy. Cá rô khô chỉ là điểm đầu của nỗi nhớ, nỗi nhớ một miền quê đôn hậu, nỗi nhớ bà và người mẹ hiền tài đảm, làm nên hương vị giữa quê nghèo. Bà ơi! Bà của cháu chính là hồn quê ngoại, là gốc văn hóa kiệm cần, sáng tạo, tài hoa! Đồng khô nước ròng Bây giờ tôi đã ở trước hiên nhà Khon, còn sau lưng là một quãng đường xa, hai khúc sông hẹp nhưng sâu và đầy bùn cùng những ngày dằng dặc từ tháng tư cho tới tháng mười. Suốt những ngày dằng dặc đó tôi chẳng làm được chuyện gì, còn Khon thì làm đủ thứ, đã kịp đi tới tận góc trời nào mà ở đó không có tôi. Tôi tưởng tượng Khon không có trong nhà. Nhưng sẽ tìm thấy cô ở rẫy mía, nhỏ và cô độc như dấu chân con cò ma để lại trên bờ cỏ lác tháng chín. Những bờ cỏ vàng rực xen kẽ giữa những cánh đồng nước sáng loáng của tháng chín. Tôi sẽ mất một lúc để thuyết phục Khon là không cần uống nước, cho nên không cần phải vô nhà. Rồi để khỏi nhụt chí tôi sẽ tuôn liền một mạch. Tôi sẽ nói nhanh nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần để giữ nguyên cơn hào hứng đã chuẩn bị trước. Tôi sẽ kể về những ngày dằng dặc đã qua và khéo léo tiết lộ là tôi đang chờ đợi điều gì. Khon sẽ nghe nhưng đầu cúi gằm. Hồi tháng tư tôi đã có một cơn ác mộng đúng y như vậy. Nó cứ nối tiếp nhau nhiều đêm tới nỗi cả người tôi đau nhức mỗi lúc có chuyện phải dầm mưa. Những cơn mưa đầu mùa tháng tư rất dữ, bất kể ngày hay đêm. Tháng tư là quãng cuộc đời của đất và của quỉ sứ. Đồng khô nẻ từ tháng giêng uống mưa như quỉ sứ uống bóng đêm, uống như không bao giờ hết khát, làm hoảng sợ những con trâu đã bắt đầu quen với cỏ khô. Tôi với những con trâu cùng uống một ít rượu thốt nốt trước khi cắm lưỡi cày xuống cánh đồng sâm sấp nước. Dưới bầu trời màu tro cứ gầm thét, những lát cày lật lên liên tục nỗi nhớ. Tôi nhớ Khon. Đôi má màu đất tươi non của cô gái Khơme lai Tiều làm tôi ngơ ngẩn từ tháng giêng. Những đêm đi xem dù kê của tháng giêng tôi đã chẳng làm được gì cho đáng mặt nam nhi mặc dù đã uống bao nhiêu nước. Tôi chịu được âm sắc chói lói của Khon, một sự pha trộn giữa người cha và người mẹ. Và tôi cũng chịu được một cái dạ dày anh ách nước mặc dù tôi thích rượu thốt nốt hơn. Vậy mà tôi chẳng có gì ngoài những cơn ác mộng. - Tôi không làm gì được cho anh đâu. - Đâu có cần làm gì. Trong cơn mơ tôi đã vò nát một nắm lá mía. Hai đứa mình chỉ cần thời gian. - Tôi đâu có làm được thời gian. - Tôi làm được. Cho nên tôi sẽ không hối thúc em. Kiểu nói chuyện giữa tôi với Khon trong lúc mơ rất kỳ quặc. Tôi nói bằng tiếng Việt, còn Khon trả lời bằng tiếng Khơme, bằng một thứ âm sắc chói lói. - Có muốn hối cũng không được. Bây giờ anh vô nhà đi, ba tôi trong đó. Anh uống nước nhiều lắm mà. Ở đây anh không làm được gì đâu, tôi không thích anh. - Tại sao vậy? - Tôi choáng váng tới nỗi không nhận ra được sự ngớ ngẩn của mình nữa. Khon lừ lừ nhìn tôi. Và cô nói bằng tiếng Việt, bằng một cách mà khi giật mình ngồi dậy tôi thấy đau thắt ở cổ. - Có thể nói được là tại sao người ta không thích à? Khi mà nắng tháng giêng vừa đủ khô lối cộ trâu kéo lúa đồng xa, đó là lúc người ta mời đoàn dù kê về sân chùa, hát trong những ngày có lễ cầu phúc. Tôi biết Khon lần đầu tiên cũng trong một đêm hát dù kê. Trên một khoảng ruộng khô đã được dọn sạch gốc rạ, trong khi chờ đoàn kịch hát tới người ta chiên bánh cóng, nướng bánh tráng trên lửa rơm và gọt những cây mía màu tím. Rượu thốt nốt đựng đầy trong những thùng nhựa và người ta bán nước giải khát chung với thịt xào, cá kèo khô. Trong ánh sáng của đèn dầu và lửa rơm, sân khấu được dựng lên bởi những tấm ván xếp trên những cái thùng sắt to người ta lấy để chứa dầu trong những khi hỏa táng. Phía sau sân khấu, vượt lên trên hàng trâm bầu cao lớn và già cỗi bao giờ cũng có một mái chùa chóp nhọn màu xanh ẩm ướt. Trong những ngôi chùa đẹp đẽ đó bao giờ cũng có những lớp học dành cho trẻ con. Thỉnh thoảng tôi cũng thay ông thầy người Khơme trong những lớp học đó, khi ông ta còn lo kéo cho xong những bó lúa cuối cùng về sân đập. Tôi thích dạy đánh vần tiếng Việt cho lũ trẻ con Khơme mặc dù tháng giêng còn bao nhiêu việc đang chờ. Tôi thích chọc phá những đứa nhỏ nhanh nhẹn, da mốc thếch vì phèn và chân tay lúc nào cũng lấm lem mực. Nhưng rồi chỉ vài tháng sau tôi đã không còn lui tới ngôi chùa đó nữa. Chỉ vài tháng sau thôi, người ta đã đem Khon vào chùa, như vẫn đem những con cá đã chết cho các sư sãi. Ở đó Khon lặng lẽ cháy thành tro bụi. Từ chỗ tôi ở tới được đám hát dù kê phải đi qua hai khúc sông hẹp nhưng sâu và đầy bùn, một cánh đồng có chỗ đất còn mềm, tua tủa gốc rạ. Tôi bỏ quần áo vào một cái túi bằng cỏ lác, tròng qua cổ và lội sông với cái quần đùi. Khon đứng sau một cái bàn cao bằng gỗ, sau đống ly chén, hộp sắt và những chai xirô xanh đỏ. Chòi nước của cô chỉ bán trong những ngày có dù kê, lẻ loi ngọn đèn dầu và không có vách ngăn. Khon pha cà phê bằng một thứ nước sông đã chớm có vị mặn của đồng khô. Bột đậu nành thì không thể nuốt nổi vì rang quá lửa. Tôi ngồi ngây ngô trên cái túi cỏ nhìn Khon pha chế những thứ nước rùng rợn đó cho mấy thằng nhỏ đi xăng đan cao gót. Gần nửa đêm, khi trên sân khấu diễn tới đoạn gã cường hào cướp công của bạn mình là một anh tiều phu để đem xác con ác thú về lấy công với vua, tôi đã uống hết ấm trà thứ tư và đã mất hết cảm giác êm ái với cái túi cỏ. Đó là lúc Khon nhìn thấy tôi. - Anh ở xã về hả ? - Sao em biết ? Ánh lửa rơm nhảy múa làm sáng lên một nửa vầng trán màu đất non. Khon giống như miếng củ cải muối, giòn và hơi hăng hăng. Hèn gì mấy thằng nhỏ đi xăng đan cố uống cho hết những thứ cô pha chế. - Đua ghe năm ngoái anh giữ lái phải không? - Trời ơi đúng rồi! - tôi hỉ hả kéo miệng tới tận mang tai - Sao lúc đó tôi không thấy em vậy? Em biết không, trước đó tôi có biết chèo ghe đâu. Phải tập dữ lắm, tiếc là không gặp may. Nhưng mà thua đâu phải tại tôi, đúng không? Trên sân khấu, lão vua già đang rú lên mừng rỡ trước cái xác mềm oặt của con rắn có chín đầu bằng vải nhồi rơm mà gã cường hào đem đến. - Không phải tại anh - Khon lắc lư hai vai, cô nói tiếng Việt chậm hơn mức bình thường - Nhưng người khác cầm lái chưa chắc bị đâm vô trụ cầu. Không còn cơ hội nữa vì bên cạnh Khon thình lình xuất hiện một tên khổng lồ với mái tóc đen bóng và gương mặt của ác vương Nayan. Quá nửa đêm, con nước ròng đã đứng và căn chòi của trạm khuyến nông đang chờ tôi. Có bao nhiêu việc của tháng giêng chờ tôi. Lúa chất cao giữa sân phơi bạc màu không khác gì những ụ rơm chờ đem đi đốt đất nẻ, sau khi đã chất cao như vậy trong những ngôi nhà bằng lá dừa nước. Trong tổ thu gom lúa nợ của xã, tôi kéo chiếc tam bản đi hết cánh đồng này tới cánh đồng khác. Lúa trả thay cho phân bón, thuốc trừ sâu mượn từ năm ngoái, và lúa để đổi lấy tiền đi xem dù kê tháng giêng được tôi chất khẳm chiếc tam bản vào lúc nửa đêm, rồi lên đường khi con nước lớn đã đầy sông vào rạng sáng. Hôm sau từ trạm trung chuyển trở về, chiếc ghe gắn đuôi tôm vẫn tiếp tục nhảy điệu lăm thon qua những cánh đồng nước sáng loáng. Còn đám lục bình trên sông thì nức nở vì rượu thốt nốt tôi tưới đẫm đêm qua. Chưa hết tháng giêng tôi đã hai lần tới chơi nhà Khon, một lần khi ghe lúa đã chìm nghỉm trong hoàng hôn và một lần trở về dưới bình minh. Một ngôi nhà nửa gỗ nửa lá dừa có một ông già Tiều suốt ngày ngồi uống trà với đường thẻ. Tôi đem theo một ít cá sặt còn thơm nức mùi bùn và ung dung uống rượu thốt nốt của ác vương Nayan trong lúc chờ Khon về. Tôi kể chuyện đồng gò đã thiếu nước khi lúa mới trổ đòng trong khi ông già Tiều rên rẩm chuyện lúa đồng sâu lá nhiều hơn bông. Tôi nói về đức hạnh của mình còn ông già im lặng cuốn thuốc lá. Ông già đang gửi hồn về quê cũ. Mùa thu năm ngoái những người bà con từ kiếp trước của ông đột ngột tới thăm, đem theo mấy giỏ củ cải muối và những câu chuyện có mùi vị xa lạ từ quê nhà. Những người bà con mặc áo thắt nút vải đó kể là quê hương thì to rộng bạt ngàn, nhưng khi rời chân tới xứ người thì chẳng khác gì phận con cúm núm, chỉ dám mở miệng lúc hoàng hôn. Ông già Tiều buồn mất mấy ngày trong lúc ăn cháo với củ cải muối. Tôi không biết quê cũ của ông già ở chân trời nào. Tôi chỉ mong gặp Khon. Cả hai lần tôi tới đều không gặp Khon. Sau đó tôi tìm thấy cô trong rẫy mía, khăn rằn trùm kín mặt. Tôi nói với Khon là sau chuyến lúa này tôi sẽ mua một vài thứ ở thị xã rồi dẫn trạm trưởng của tôi tới chơi nhà cô, nói chuyện đàng hoàng. - Đừng có làm mấy cái chuyện lãng xẹt đó nữa. - Sao lại lãng? Tôi muốn ở với em. Tôi có thể xin được đất làm nhà cho hai đứa mình. Mà tôi cũng có thể dẫn em về thị xã. Đó là lần duy nhất Khon nhìn thẳng vào tôi. Cái khăn rằn chỉ chừa khoảng trống từ chân mày tới sống mũi. Ở đó có một đôi mắt màu nâu sẫm đang quắc lên. - Bịnh tật từ miệng vô đó, nói ít thôi. - Tại sao tôi không được nói nhiều? - Bất thình lình tôi nổi khùng mà không biết tại sao - Tôi tới tìm em, cong xương sườn xương sống ngồi chờ mà em nói với tôi như vậy sao ? Rồi tôi đùng đùng bỏ về. Bây giờ tôi đã ở trước hiên nhà Khon, bỏ lại sau lưng những cơn nước ròng nửa đêm tháng tư. Còn mấy vũng nước trước sân, vài cọng rơm, một cây chùm ruột thấp lũn chũn mà dưới gốc của nó còn rơi rớt những hạt lúa xanh. Chắc nhà Khon đã gặt xong lúa sớm và đã lấy chỗ này làm sân đập. Những bó lúa rất to, nhiều lá và nặng trĩu nước mùa thu. Chắc từ dưới sông về đây Khon cũng đem theo trong mình bao nhiêu nước, có khi là bùn non và rễ lục bình nữa. Những thứ khác sẽ thành tro bụi theo Khon, chỉ có nước thì không. Nước sông tháng tư vẫn còn lợ như nước mắt. Lúc nãy trên đường đi tôi có ngâm nga một hồi dưới khúc sông thứ hai, nơi người ta tìm thấy Khon. Từ khúc sông này về nhà cô chỉ còn một bãi đồng ngắn sâm sấp nước. Từ chỗ tôi đang ngâm mình theo con nước ròng chẳng bao lâu Khon sẽ trôi xuống căn chòi của trạm khuyến nông, nơi tôi đang ca hát với mấy cái càng cua nướng lửa rơm. Đêm trăng con nước rút càng xiết, có thể cuốn trôi cả một cánh đồng. Vậy mà có một đêm tháng tư trong khi tôi đang thả vó đón con nước ròng, vừa ngửa mặt thả men thốt nốt vào ánh trăng thì Khon với cái chân bị vọp bẻ đang lặn ngụp chới với trong đám lục bình. Chỉ có những con cá sặt, những con tôm sắt mới biết tại sao cô đi gỡ lưới một mình tới giờ đó chưa về. Hết thảy đều trôi xuống với tôi, cá sặt, tôm sắt và đám lục bình, và cả dòng sông đều trôi xuống với tôi, trừ Khon. Anh trai của Khon trong nhà bước ra. Ác vương Nayan ngồi xuống bậc cửa, vừa hút thuốc vừa đuổi bầy bù mắt bu quanh chân. - Làm được mấy công ruộng? - Hai. - Trúng không? Tôi cứ nghĩ lẩn thẩn về mấy con cá sặt, con tôm sắt. Khi nào tên khổng lồ ngưng hút thuốc, hiên nhà tĩnh lặng lại thơm nức mùi rơm non mùa thu ai đó đang nấu cơm. Tiếng rúc nặng nề của con chim cu ngoài đồng vọng lại. Khi nào nghĩ ngợi mông lung, tôi lại thấy trong lòng bải hoải và lo không biết thời gian có mắc kẹt đâu đó không. Tôi xạo Khon, vì nếu làm ra được thời gian tôi đã không bị mất cô một cách khó hiểu như vậy. Nếu biết không có thời gian, tôi sẽ không nổi khùng bất tử, không bỏ về một cách dễ dàng như vậy. Và nếu làm ra được thời gian, tôi sẽ làm ra lại tháng tư rồi đứng chờ cô ở khúc sông thứ hai. Tháng tư là mùa thả lưới, cất vó. Những trận mưa đầu mùa thôi thúc lũ cá đồng lên ruộng tìm chỗ đẻ trứng. Nước sông mát rượi đang đứng ròng là lúc tôi bắt đầu thả vó trước căn chòi của trạm khuyến nông. Không lớn lên ở đây nhưng tôi vẫn làm được đủ chuyện, kể cả đóng một cái vó to bằng nửa cái trạm. Tôm cá nhiều và tôi thích uống rượu thốt nốt của mấy gã nông dân thứ thiệt đem tới vào lúc hoàng hôn. Khi nước sông còn đầy, chúng tôi vừa cột vó vừa nướng cá bằng những khúc tre nhỏ. Một anh chàng cứ lải nhải chuyện đồng gò chưa có nước trong khi đồng sâu nhiều cỏ dừa không có chỗ gieo mạ. Tôi ngồi nghe họ ca tụng những nàng thôn nữ mắt nâu xen kẽ trong những lời nguyền rủa kẻ thù vì đã để vịt ăn lỗ chỗ đám mạ mới gieo. Đôi khi vó của tôi đón được những con cua vỏ xanh như mái chùa Khơme. Những lúc như vậy, khi niềm hân hoan đã dâng lên dào dạt, nước mắm me và rượu thốt nốt thấm tới tim, chúng tôi nấc lên dưới trăng những bài tình ca boléro. Giữa khoảng không màu vàng chanh thinh lặng, khi bầu trời đã dừng những cơn gầm thét tháng tư, chỉ có cây tràm tróc lở, cây so đũa cô độc và cây bần già nua run rẩy mới biết được làm sao mà chúng tôi có thể hát nhiều như vậy. Anh chàng hay lải nhải có một cây đàn cò làm bằng gáo dừa. Sau khi nhúng nó vào rượu thốt nốt, anh ta bắt nó cất lên một đoạn nhạc gì đó rất kỳ quái, lúc thì như tiếng thở thổn thức của dừa nước trộn trong tiếng ngắc ngứ của gàu dai tát nước, ò ma đi tìm nhái bầu trên bờ ruộng. Nửa đêm một mình đi gỡ lục bình tắc trên miệng vó, tôi vẫn còn nghe tiếng đàn cò theo con nước trôi đi, càng lúc càng xa. Khi tiếng cồng từ chùa ngân nga quanh những cành trâm bầu, tôi đã ở rất sâu trong giấc mộng của mình, giấc mộng nối tiếp đêm qua. Tôi lại gặp Khon sau một ngày xa cách, trong lúc xác phàm đã mềm nhũn giữa lòng chiếc tam bản và một chân đang lơ lửng giữa trời nước. - Em nghe tôi chút đi. Tôi xòe bàn tay đầy phấn mía về phía Khon - Còn rất nhiều thời gian để em biết tôi mà. Dọn đồng xong tôi sẽ về nhà, nếu em muốn tôi có thể dẫn em theo. Em phải nhớ là tôi ở đâu cũng được, miễn là với em. - Ở đâu cũng được? - Khon lắc lư hai vai như đêm ở lễ cầu phúc, khi cô muốn khiêu khích tôi - Ở đâu là chuyện của anh, không phải của tôi. - Em đừng nói vậy, tôi làm gì không phải với em đâu? Khon nín lặng. Tôi không chịu thôi. Giữa đồng nước sâm sấp tháng tư, linh hồn vật vưỡng của tôi cứ ngửa cổ lên trời. Tôi nói là tôi muốn ở bên cạnh Khon, và tôi cũng không có gì khác với bất cứ một gã nông dân nào ở đây. Lưỡi cày do tôi tự tay làm lấy cũng lật đất về bên trái như những người kia, và tôi cũng mài rất kỹ trước khi đem ra đồng vì tôi cũng thương con trâu như những người kia. Và tôi với cô cũng giống nhau nhiều thứ, người nào cười cũng to và khóc cũng nhỏ. - Mấy cái rẫy mía bỏ hết rồi, tao tính trồng thử đậu trắng - tên khổng lồ lại lên tiếng sau một đợt im lặng hút thuốc - Cỏ quá trời dọn không nổi. Tôi lại nghe thấy tiếng cu rúc ngoài đồng vọng lại. Khi đã no lúa, tiếng rúc của nó nghe rất gợi tình. - Tại sao Khon ghét tôi dữ vậy? - Nó nói với mày vậy hả? - Chưa nói - tôi lắc đầu. Tên khổng lồ săm soi cái hộp quẹt, chắc sắp sửa hút thuốc nữa. - Nó đâu có ghét mày, nó chỉ không muốn làm con cúm núm. Tôi tưởng ác vương Nayan nghĩ quẩn qua chuyện khác. - Nhưng tôi có nói sẽ đi chỗ khác ở đâu. - Mày sẽ đi. Mày giỏi hơn những đứa ở đây cho nên mày sẽ đi - tên khổng lồ thở hắt một cái, chắc để đuổi con bù mắt đang bu trên mũi - Ở đây là được rồi, đi chỗ ở khác phận đâu có hơn gì con cúm núm. Chỉ có cây tràm tróc lở, cây so đũa cô độc và cây bần già nua run rẩy mới biết được tôi đã tiếc những ngày tháng tư tới chừng nào. Đúng là thời gian bị mắc kẹt ở đâu đó giữa tháng tư tới tháng mười, giữa đồng khô ngày ngày thảng thốt chia tay với con nước ròng. Tôi chẳng làm được chuyện gì từ tháng tư cho tới tháng mười còn Khon thì làm đủ thứ. Nấu mấy ấm nước, quấn khăn rằn lên người mà đánh lá mía, thả mấy lần lưới mà vẫn còn đủ thời gian nói mấy lời cay đắng với tôi trước khi bỏ đi biền biệt. Có Chồng Vậy là ả có chồng. Chồng - ấy là cái mà từ thuở hai mươi ả không bao giờ mong có. Một đôi giày cao gót kiểu mới đua chị đua em; một thỏi son có thể kín đáo quẹt lên môi cho môi hồng lên mà mọi người không biết... Ả có thể mong có những thứ ấy, thiết tha mong trong một ngày xa xôi nghèo khó nào đấy. Nhưng chồng, muốn có chồng, tuyệt nhiên không! Ấy là vì ả biết mình. Gái ngoại thành, từ bé đã phải cấy phải gặt phải gánh phải gồng, người cứ bè bè. Nhớn nhao một chút, thoát ly đi làm ở xí nghiệp dệt khăn mặt khăn tay, cũng suốt ngày đi. Có ai đó đã tính rằng một công nhân đứng máy dệt như ả mỗi ngày đi hết một đoạn đường ba mươi hai km. Đi thế, bắp chân to ra, bàn chân cũng to ra. Tướng người ấy giá đi với một gương mặt tròn tròn, ưng ửng hồng từng lúc thì có khi còn được coi là có dáng phúc hậu. Đằng này... Những ai ai mỏng mày hay hạt, chứ còn ả, mặt đã mỏng, lại choắt như hai ngón tay úp chéo. Cái vệt duy nhất đầy đặn trên mặt ả là cái mũi. Sao mà nó to! Khi còn trẻ, mười tám đôi mươi, ả cũng có lúc mong thầm cho mình có duyên có phận. Ừ! Biết đâu! Biết đâu! Nồi méo vung méo xoay quanh cũng vừa. Nhưng chẳng thấy ai là đàn ông trêu ả, trừ mấy ông làm công đoàn ở xưởng. Mà họ đùa thế nào chứ: "Cô Hoài bao giờ báo cáo với tổ chức để công đoàn đứng ra đấy? Ấy, đám cưới của cô thì chắc là đông lắm!". Một thằng thợ đi qua ngứa mồm: "Chứ lại chả đông! Con em lúc đó khéo cũng có con rồi. Thế nào em cũng bảo nó đưa con đến mừng bà trẻ". Ả tủi lắm. Nhưng vẫn cười: "Ừ! Khi nào chị có phúc có phận, chị mời hết cả ngũ đại đồng đường nhà em". Vào xí nghiệp từ hồi mười tám, nhoáng cái nhìn quanh đã chẳng còn mấy người để ả gọi anh xưng em. Ả biến thành "chị ấy", "bà ấy" nơi cửa miệng thiên hạ lúc nào không biết. "Bà ấy tính cũng quái như người". "Người đâu xấu người, xấu nết, xấu đến cả c...". Người ta cứ nửa đùa nửa thật nửa thương nửa ghét ả như thế. Nào ả có làm gì ai! Một thân một mình ở giữa một khu tập thể quanh năm suốt tháng ồn ào tiếng mẹ trẻ réo con, tiếng chồng đay vợ ban ngày, tiếng rúc rích ban đêm sát liếp, ả đâm thù ghét cái hạnh phúc thực ra rất lem nhem mà thiên hạ bày trước mắt. Ả thành người đi sớm về muộn; thành chiến sĩ thi đua năm này qua năm khác. Người ta đâm ngại ả. Cái sự chăm chỉ quá đáng của ả, cả cái mác chiến sĩ thi đua kia nữa làm cho người ta mất thoải mái lúc tranh thủ uống ấm chè hay hóng hớt nhau trong giờ làm việc. Nói vậy chứ cái mác chiến sĩ thi đua đã giúp ả một cú quyết định. Ấy là vào lúc xí nghiệp lấy danh sách đi hợp tác lao động quốc tế. Đi Đức hẳn hoi. Ả lên gặp giám đốc, nài: "Anh ưu tiên em vào danh sách đợt này". Ông giám đốc - người đã có thâm niên hai mươi năm ngồi ở nhà máy trên cái ghế này, người vẫn bị phó giám đốc dè bỉu một cách có vẻ đầy thiện ý: "Hơ. Ông ấy trông đúng là trẻ thật, chứ tuổi thì... chỉ hơn sáu mươi chứ sáu mươi thì làm gì đến" - cười: "Cô là nòng cốt ở xí nghiệp này, phải phấn đấu trở thành cán bộ kế cận chúng tôi chứ. Để cô đi thế nào được". "Em chữ nghĩa bổ túc ban đêm chẳng có là bao. Mà em tính đã làm cán bộ kế cận thì chỉ kế cận anh thôi. Nhưng làm sao thay được người như anh". Thêm đôi lần quà cáp nhỏ to với bà vợ ông giám đốc lúc đó đang là phụ trách nhà ăn, thế rồi ả lên đường. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Ả nghiệm ra các cụ thật chí lý. Người ta mất hết của cải, liều thân chôn mình trong hàm cá trên đường vượt biển. Ả chỉ một bước là đã thoát sang bên kia, sang hẳn Tây Đức. Cũng là dòng đời đẩy đưa. Bức tường Berlin sụp đổ, đầu tiên là bọn ả đi xem, nhân thể mua về bên Đông những là gạo là nước mắm là bánh phở - những thứ người Việt đi hợp tác lao động quốc tế phải chịu thèm chịu nhạt. Rồi thì sang tị nạn, "xem nó ra sao", "ngồi không trong trại lĩnh tiền tiêu vặt còn hơn lương cu li ở Đông Đức trước chả hơn à". Và khi có chế độ mới cho tỵ nạn vốn xuất thân thợ khách thì ả xin nhận lại Pass, ra khỏi trại đi làm. Những ngày làm thợ ở Đông Đức, những ngày tỵ nạn bên Tây, ả đã dự bao nhiêu là đám cưới của anh chị em người Việt. Có những đôi đúng là đũa lệch, chồng trai tơ vợ nạ dòng, chồng thành phố vợ nhà quê một cục ăn cơm mắm môi cầm đũa và suỵt soạt. Ả chẳng mong ước gì, nhưng có lúc cũng lạ lùng thấy mình chờ một câu đùa nhạt của chị em: "Đến bao giờ bọn em được giúp chị Hoài đây?" rồi, "Ông ấy... ông ấy cứ hỏi thăm chị mãi"... Rồi thì vẫn thế. Ả vẫn một mình trong cái Wohnung hai phòng sau mỗi buổi từ hãng trở về. Một thân một mình, phải tự lực tất tần tật. Phải có ô tô. Thì ả đã có ô tô. Thỉnh thoảng đến nhà mấy đứa cùng chạy từ Đông Đức sang, nhìn chúng nó hú hí với chồng con và nghe những câu đùa nhạt như sữa dành cho người ăn kiêng, lại muốn về nhà bật ti vi cho có tiếng người... Ả vẫn như xưa, chẳng ai để ý, chẳng ai muốn giúp đỡ dù ả đúng là đàn bà. *** Nhưng bây giờ ả đã trở thành cần thiết cho một người. Chồng ả. Một tấm chồng ra chồng. Có bằng bác sĩ ở nhà. Cái ấy là đồ trang sức tuyệt vời cho mấy anh đàn ông tỵ nạn đang phải rửa bát trong quán Tàu. Chàng trước đã vợ con và chẳng thể nào lo nổi cho vợ con bằng đồng lương bác sĩ bệnh viện huyện. Chàng quyết làm kinh tế. Nước Đức thống nhất là vùng kinh tế mới tuyệt vời. Đời phải có lúc hèn. Thì đã hèn rồi. Không sợ. Đời phải có lúc liều. Thì đã liều rồi. Vợ chồng chàng bàn nhau, vợ chàng đem con về bên ông bà ngoại, cái nhà cấp 4 của hai vợ chồng thì bán lấy tiền chạy cho chàng. Chàng dặn vợ: "Về ông bà có thể lâu lâu rồi các cậu các dì xì xèo, hai mẹ con gắng chịu. Vài ba năm anh về rồi đổi đời. Đổi đời. Mình sẽ xây nhà ba tầng. Để hẳn tầng một anh mở phòng khám. Phục vụ tận tình, trang thiết bị đàng hoàng, giá rẻ, chẳng hút hết bệnh nhân từ bệnh viện huyện ấy à. Vào đó nào có ít tiền đâu mà bị hạch cho lên bờ xuống ruộng. Mình có làm thế thì mới để được phúc lộc cho con...". Cái sự toan tính của người đang hy vọng thật dễ nghe. Nhưng cả người ở lẫn người đi đều không biết rằng sự làm giàu ăn vào cái số. Tốt số hơn bố giàu. Chàng sang Đức, về định cư ở một làng heo hút, ra ga phải mất nửa tiếng chạy bộ, còn đi bus thì một chuyến một ngày. Hai năm trời, chàng chưa hòa vốn vé máy bay cộng tiền cho dịch vụ đưa người. Chàng không thể ngồi tính toán lẩn thẩn như anh bạn cùng phòng: "Thế này còn hơn chán vạn ở nhà. Ăn uống tiết kiệm, mỗi tháng cũng để dư ra được trăm rưởi mác. Hòm hèm cũng là một triệu ở nhà. Bằng vợ tớ nuôi lợn thành công cả năm giời". Trong trí chàng, còn nguyên vẹn hình ảnh căn nhà ba tầng chưa xây mà tầng dưới sẽ là phòng khám. Ả gặp chàng vào dịp ấy. Sau đó thì ả biết là chàng lúc đó đã sắp phải lên máy bay hồi hương lúc nào không biết. Sau đó thì một cô em họ của chàng thầm thì: "Hay là chị giúp anh ấy. Khổ! Hồi đi, thật anh ấy cũng chỉ nghĩ đi cứu vợ cứu con. Nay tiền vào không thấy mới chỉ thấy tiền ra. Mà về thì sợ. Gì thì gì cũng là thằng trí thức vượt biên, khéo về đã chẳng lo gì được cho vợ cho con mà vợ con còn bị lụy". Cái sự "giúp" ấy ả nghe hiểu ngay. Nghĩa là làm đăng ký kết hôn với nhau và chàng sẽ được ở lại. Ấy là một dịch vụ đang sôi nổi trong cộng đồng người Việt, giá dao động từ mười bảy đến hai mươi nghìn mác. Cô em họ của chàng lại thầm thì: "Anh ấy ở ngần ấy năm không có việc làm, cũng chẳng móc đâu ra tiền. Nếu chị có lòng, bọn em sẽ dồn tiền giúp anh ấy theo giá chị định. Rồi khi có Pass anh ấy được chuyển vùng, được đi làm thì cũng chả mấy nỗi... Mười bảy ngàn được không chị?". Ả không nhận đồng nào của chàng. Thành thử cuộc hôn nhân giữa ả và chàng đâm ra làm cho cả hai bối rối. Nó chẳng ra thật chẳng ra giả. Nó thiếu cái sòng phẳng cần có trong mọi dịch vụ, nó thừa cái lương tâm thời buổi này chẳng ai tin. Mà ả thì thật lòng. Ả nghĩ tới cái tương lai gần của một gia đình sắp sum họp: Chồng bác sĩ mất việc; vợ giáo viên cấp hai kiêm bán xôi sáng; Thỉnh thoảng công an tới gọi chồng lên đồn hỏi về những việc đã làm khi ở lại nước ngoài trái phép; người vợ và đứa con sẽ nhớn nhác; người chồng thì buông xuôi... Ả nhận lời kết hôn với chàng. Biết là một trò chơi. Vậy mà lúc đứng trước nhân viên của Phòng đăng ký kết hôn ả bất chợt bồi hồi... Rồi ả mơ màng. Dù thế thì cũng rấr ít khi ả dám nghĩ về đêm đó. Chàng xách vali về Wohnung của ả. Ả đã tính với chàng như thế. "Anh cứ ở tạm nhà em. Vùng này dễ kiếm việc, có Pass rồi thì xông đi làm ngay. Rồi anh kiếm chỗ ở khác sau. Làm sao cuối năm có một khoản gửi về cho chị ấy nuôi cháu. Rồi cũng phải có một khoản khác để chị ấy mua lấy một căn nhà, bằng cái nhà cũ đã bán đi cũng được. Chứ lấy chồng rồi mà lại mang con về nhà cha mẹ đẻ khi các em đã nhớn thì cũng rách việc lắm". Chàng nhìn ả biết ơn. Hôm đó đi làm về, ả không đi loăng quăng cửa hàng cửa họ mà về làm cơm ngay. Cơm cá kho, rau muống luộc qua rồi xào tỏi, nước vắt chanh. Ả ăn ngon như chưa bao giờ ngon thế. Đêm đó, ả trở thành đàn bà. Đàn bà khi ả ba bảy tuổi... ... Chàng không dám nhìn thẳng ả từ đêm đó. Đôi lúc ả có cảm giác ánh mắt chàng lướt qua mình. Ả không hiểu nổi chàng nhờm tởm ả vì ả quá xấu? Hay chàng nhờm tởm chính bản thân chàng? Chàng ân hận? Nhưng "chuyện đó" thỉnh thoảng vẫn tái diễn. Và không hiểu sao, lòng ả muốn thế mà ả không thấy diệu kỳ như lần đầu. Lần đầu tiên, ả muốn rống lên như một con bò cái. Lần sau, những lần sau nữa, ả như một bó rạ. Chàng vần ả như một bó rạ, ghì siết ả như một gã nhà quê ghì buộc một bó rạ. Một hôm, ả đi làm về đã thấy chàng cơm nước xong xuôi. Chàng ngồi bên bàn chờ ả. Dọn xong bát đũa, chàng nói ngay, bứt rứt, bình tĩnh, về sự chàng sẽ ra đi. "Tôi biết ơn Hoài vô cùng. Hoài đã cứu cả tôi lẫn vợ con tôi. Xin Hoài đừng hận tôi. Tôi đã xin làm tả chạp, ăn ở luôn tại quán. Nếu kiếm ra, tôi xin gửi dần Hoài số tiền lo giấy tờ mà trước Hoài đã có lòng...". Ả há mồm. Muốn nói. Rằng chàng tính thế là tính vội. Rằng chàng có thể ở rốn thêm mấy ngày. Rằng có Pass chàng có thể kiếm việc ở hãng, chẳng nhàn gì nhưng cũng không đến nỗi đầu tắt mặt tối như làm quán. Nhưng ả không nói được. Ả cứ há mồm ra. Chắc lúc đó trông ả đã xấu càng thêm xấu. Và chắc là nhìn đần độn lắm. Chồng ả không về nữa. Đôi lúc ả nghĩ tới vợ con chàng. Không ân hận. Chỉ thấy thương người đàn bà kia và thương thân hơn. Chị ta và ả đều đã từng được cưới. Tính ra ả cũng được tới hơn mười lần gần gũi. Nhưng từ hôm kia, ả hốt hoảng vì cảm giác mình sắp có kinh. Thiên hạ sao vô tâm. Gặp ả, có người hỏi: "Thế nào, tiền cưới chồng đã đủ mở quầy ăn nhanh chưa?"
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top