truyen ngan-lenghiabk05

Thương Hại

Ngày xửa ngày xưa, có một ông Tây chính hiệu “Phú Lãng Sa”, trong người đặc sệt dòng máu “Gô Loa”, nhãn hiệu con gà trống. Thế nhưng ông Tây này lại yêu đến chết mê chết mệt một “cô em Bắc kỳ nho nhỏ”.

     Và khi đã yêu ai như điếu đổ, người ta sẵn sàng yêu cả đường đi cùng với mọi tông chi họ hàng. Vì thế, ông Tây này cũng xơi thịt chó như điên, cũng húp canh cua rau đay chùn chụt, cũng dùng cà ghém quệt đẫy mắm tôm và bắn thuốc lào kêu ro ro như bắp nổ. Đặc biệt, ông Tây này đã hết lời ca ngợi tiếng Việt của dân ta.

     Hình như trong một bài báo, ông Tây này đã bạo phổi cả gan gọi tiếng Việt của dân ta là “mère des langues”, nghĩa là mẹ của các ngôn ngữ.

     Và rồi ông Tây này đã đưa ra lập luận của mình, gã chỉ còn nhớ mang máng, xin ghi lại nơi đây để trình làng, đồng thời có thêm mắm thêm muối tí chút cho rộng đường dư luận.

    Ngôn ngữ cổ xưa nhất phải là ngôn ngữ độc âm, tượng hình và tình cảm, giống như một đứa bé khi mới học nói, nó chỉ nói được từng tiếng một và diễn đạt những cái cụ thể, gần gũi với nó nhất.

     Dưới góc độ này thì tiếng Việt của dân ta thừa sức qua cầu. Thực vậy, như chúng ta đã thấy tiếng Việt của dân ta tự bản chất vốn đã là một ngôn ngữ độc âm, từng tiếng một và hơn thế nữa những ngôn từ thông dụng, cụ thể và gần gũi nhất đều xuất phát từ….tiếng Việt.

     Chẳng hạn như người Việt chúng ta gọi “Ba”, thì người Pháp gọi là papa hay père, còn dân Ăng lê thì gọi là father. Người Việt chúng ta gọi “Má, Mẹ” thì người Pháp gọi là maman, mère, còn dân Ăng lê thì gọi là mother, người Tàu thì gọi là mẫu…

     Riêng cái khoản tượng hình và tình cảm thì tiếng Việt của dân ta hẳn phải ăn đứt thiên hạ.

     Chẳng hạn chỉ một màu trắng mà thôi, trong tiếng Việt, đã có biết bao nhiêu mức độ đậm nhạt khác nhau như: trắng bạc, trắng bệch, trắng bong, trắng bốp, trắng dã, trắng đục, trắng hếu, trắng mét, trắng mịn, trắng mởn, trắng ngà, trắng ngần, trắng nõn, trắng phau, trắng phếu, trắng tinh, trắng tuốt…

     Trong phạm vi tình cảm cũng vậy, chỉ nguyên cái chuyện giận mà thôi cũng đã thấy nhiêu khê và rắc rối: giận bậy, giận cùn, giận dai, giận dữ, giận giỗi, giận hờn, giận lẫy, giận phừng phừng, giận run cả người, giận tím cả gan, giận bể cả phổi, giận sôi cả tim….

     Có lần gã định dịch một câu hát của Trịnh Công Sơn qua tiếng Pháp:

    - Nắng có hờn hằn lên môi em…

    Rốt cuộc, gã đành chào thua. Có thể vì khả năng tiếng “phăng xe” của gã còn yếu kém, nhưng cũng có thể vì cái nắng, cái hờn trong tiếng Việt Nam có những “gam”, những mức độ đậm đặc tuyệt vời khó mà diễn tả.

     Gã không chuyên về ngôn ngữ học, nên chẳng hiểu lý luận trên đây của ông Tây này được ban giám khảo chấm cho được mấy điểm.

     Riêng phần gã, gã hoàn toàn “ khẩu phục, tâm phục” cách ghép chữ của ông cha ta ngày trước. Gã chỉ xin đưa ra một vài thí dụ điển hình mà thôi.

     Chẳng hạn: “học hành”, đã học thì phải hành, nghĩa là phải làm, phải thực hiện thì mới ăn tiền.

    “Đạo đức” nghĩa là đạo giúp chúng ta trở nên người nhân đức, vì thế đã có đạo thì phải sống tốt lành nếu không thì chỉ bằng thừa mà thôi.

    “Nhường nhịn” đã nhường nhau thì cũng phải nhịn nhau, dù người ta có chửi cha chửi mẹ, đào mồ tổ tiên ông bà hay cho ăn những thức cao lương mỹ vị thì cũng phải cắn răng chịu vậy, bởi vì đã nhường thì phải nhịn và nhịn như vậy thì lắm lúc cũng…nhục lắm. Thế mới gọi là nhịn nhục chứ.

     Trong mục “tán hiêu tán vượn” hôm nay, gã chỉ xin bàn đến hai chữ “thương hại” mà thôi. Đây quả là hai chữ tuyệt vời và hết ý.

     Thực vậy, tình thương là một cái gì tốt đẹp như khi cha mẹ thương yêu con cái mình. Tình thương là một lý tưởng cao cả cần phải được cổ võ. Chẳng hạn trước những đồng bào gặp phải thiên tai như bão lụt, chúng ta nên biểu lộ tình thương một cách cụ thể theo kiểu: thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách, còn lá rách thì cũng cố mà đùm lấy lá…te tua.

     Thế nhưng trong đời thường lại có biết bao nhiêu kiểu thương vô cùng tai hại, mà hậu quả nhiều khi khó lường nổi.

    Trước hết trong phạm vi gia đình.

     Có những bậc cha mẹ vì thương con, sợ con phải cực, phải nhọc, phải đau nên sẵn sàng “bao cấp”, làm hết mọi việc cho nó, biến nó trở thành một thứ “cô chiêu, cậu ấm”, chỉ biết đòi hỏi, bắt người khác phục vụ, chẳng biết khuôn mình vào một kỷ luật tối thiểu nào cả, luôn ỷ lại và không bao giờ biết tự chủ lấy một ly ông cụ.

    Bên cạnh nhà gã có một cặp vợ chồng già sinh được một mụn con trai. Hai ông bà hết sức nuông chiều cậu ấm như người ta diễn tả:

    - Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa.

     Thấy bọn nhóc tập xe đạp, cậu ấm cũng đòi tập, những hai ông bà kiên quyết nhất trí không cho vì sợ cậu ấm té ngã, trầy da tróc vẩy, toạc đầu xẻ chân…Vì vậy cho tới già, cậu ấm vẫn không biết đi xe đạp và mang một nỗi mặc cảm với chúng bạn.

     Có những bậc cha mẹ vì thương con nên hết sức cưng chiều. Nó đòi gì là lập tức cho ngay, thậm chí còn thỏa mãn ngoài nhu cầu của nó. Từ chỗ có tiền, nó đâm đua đòi bè bạn học thói xì ke ma túy. Từ chỗ xì ke ma túy bước sang trộm cắp, khoảng cách rất gần, chả cần đến một cú nhảy vọt.

     Gã xin lượm lặt những mẩu tin trong báo Công An để chứng tỏ sự thật bi đát trên.

    “…Thành là con út trong gia đình nên rất được ông bố cưng chiều. Cậu quí tử này đã đàn đúm cùng lũ bạn xấu tập tành hút xách. Thương con cách mù quáng, thay vì đưa con đi cai nghiện, ông bố lại còn đưa thêm tiền để nó thỏa mãn cơn nghiện. Ngày 6.11.1997, do không chịu nổi cơn ghiền, Thành đã về nhà dí dao vào cổ ông bố, bắt ông phải đưa tiền cho hắn…

    “…Vì cha mẹ cho rằng học nhiều cũng chẳng đi đến đâu, nên đã mười mấy tuổi, Toàn vẫn còn là một “thằng bé lêu lổng”, ngỗ nghịch. Nhà gần chợ, suốt ngày Toàn lê la quán xá, học đòi ăn chơi và không biết từ bao giờ nó đã nghiện…ma túy. Nghe tin dữ ấy, cha mẹ Toàn chỉ còn biết mắng vuốt đuôi một trận te tát, sau đó đâu lại vào đấy. Cuộc mưu sinh cuốn họ vào những lo toan “cơm áo gạo tiền”. Việc Toàn nghiện hút được gia đình mặc nhiên thừa nhận như thể đó là chuyện phải đến với một thằng bé 15 tuổi. Thời gian đầu chưa kiếm được tiền, Toàn tự trích lại một phần thuốc bán được 5.000đ để dành cho cữ ngày hôm sau. Hết tiền thì mua chịu, ký nợ. Cứ như thế, từng ngày từng giờ Toàn lún sâu vào nghiện ngập, lún sâu vào việc buôn bán ma túy…

    Có những bậc cha mẹ vì thương con, nên khi con sai lỗi, đã không sửa dạy mà con dấu diếm và bênh vực những sai lỗi ấy. Chẳng hạn như trong trường hợp của Toàn trên kia. Tại tòa án, khi được hỏi thì bà mẹ của Toàn đã thản nhiên trả lời:

    - Tôi biết nó hút héroin, nhưng vì nó còn bé, đưa đi cai nghiện thì tội nghiệp…Tôi cũng biết nó bán héroin, mấy lần nó còn nhờ tôi bán giúp. Thỉnh thoảng nó cho tôi ba, bốn chục ngàn. Tôi nghĩ con cái có tiền cho thì xài, không cần hỏi lại.

     Rất nhiều chuyện cỏn con không đâu của đám con nít, nhưng chỉ vì bênh con nên đã hóa thành chuyện lớn làm mất đi bầu không khí êm ấm và cảm thông trong khu xóm: bênh con, lon xon mắng láng giềng là vậy.

    Tiếp đến trong phạm vi xã hội.

     Cũng có nhiều kiểu thương mà rất hại. Gã chỉ xin đưa ra một trường hợp cụ thể đó là nạn ăn xin.

    Tác giả Nguyễn Thị Oanh trên báo Tuổi trẻ Chủ nhật đã phân tích như sau:

    “Không nói đến người già cả, tàn tật, cô thế mà ta có nhiều cách nâng đỡ, chứ không chỉ máy móc cho tiền, người còn sức lao động sẽ ỷ lại, chai lỳ. Đó là cái hại thứ nhất.

    “Việc kiếm tiền dễ dàng khiến cho nhiều người lấy xin ăn thành một nghề. Như vậy cái hại thứ hai của cử chỉ ban phát là tạo một lớp người ăn bám.

    “Hơn thế nữa, ta còn góp phần tạo ra tội phạm là những kẻ giả dạng thầy tu, thương binh và nghiêm trọng hơn nhiều, ta góp tay vào nạn lạm dụng trẻ em để làm công cụ xin ăn. Có em bị gây thương tật, bị cho uống thuốc ngủ và nội chuyện phơi nắng suốt ngày…. cũng đã đủ nhức nhối.

    Để gợi lòng thương, dân ăn xin dám làm những chuyện thật tai hại khác. Ngoài việc lạm dụng trẻ em, còn một số mánh đã được báo Công An mô tả.

    “…Phổ biến nhất là chuyện tạo ra thương tật giả, lấy sự bi đát ghê rợn để diễn cảm hầu kích thích lòng nhân ái, từ tâm. Những “dân chơi bất cần thân thể” này chẳng sợ hoại thư, chẳng cữ bất cứ vi trùng gì, cứ “triển lãm sản phẩm” là những vết lở loét rất kinh tởm, mủ máu, ruồi nhặng bu đầy, có thế mới ép phê, mới tạo sự xót xa để rồi khổ chủ càng lòi nhiều tiền ra.

    Trong phút nói thật, có kẻ đã tiết lộ bí quyết như sau: Ban đầu chỉ là một vết cào xước bằng đá xanh tự làm lấy, tự tạo ra. Rồi một nắm tóc được ngâm lâu trong nước tiểu, rịt vào, băng thật kín lại, vết loét sẽ lan rộng sau một tuần bị bí hơi và không được rửa ráy, bôi thuốc, mà còn phải ăn hằng ngày xôi đậu phộng, bánh tét…để vết thương lồ lộ cho ruồi muỗi bu vào đẻ đái, kết quả một tháng thôi đã quá đủ để bá tánh đi chợ nhăn mặt, sẵn 200, 500 tiền thối đáng gì cho họ làm phước, tội nghiệp.

     Để cho mắt sưng lên, chảy cả mủ lẫn ghèn, trông như đui đến nơi, chúng chỉ cần nhỏ vài giọt mủ xương rồng.

    Để tạo cảm giác mạnh với một dúm ruột máu me đỏ hỏn lủng lẳng trước bụng, chúng dùng đoạn ruột heo rửa sạch bôi thuốc đỏ, đặt ở bụng, rồi dùng bao nylon ém lại, lấy giây buộc quanh bụng. Qua lớp nylon cáu bẩn thật là khó phân biệt, hơn nữa đã có mấy ai được biết ruột thật ra sao?

    Để vừa bò vừa lết, chúng nằm sấp trên chiếc xe đẩy tự tạo, một chân gập ngược ra sau, buộc cho chặt, sau đó phủ lên trên bằng lớp quần áo cũ rách…

     Qua những mánh được xử dụng trong nghề ăn xin như vậy, có lẽ nên tự hỏi xem mỗi khi bố thí, mình sẽ làm cho họ vươn lên hay ngược lại, sẽ làm cho họ ỷ lại, đẩy họ vào chỗ phụ thuộc, ăn bám và đánh mất lòng tự trọng. Thương như vậy quả là thương mà hại.

     Sau cùng trong phạm vi quốc tế.

     Cũng không thiếu những kiểu thương mà hại. Một nước giàu viện trợ cho một nước nghèo, trước mặt bàn dân thiên hạ, thì đó là một hành động biểu lộ tình thương. Thế nhưng hành động biểu lộ tình thương này không phải là không có những tác hại của nó.

     Nếu viện trợ về súng ống, đạn dược, thì họ đẩy chúng ta vào vòng chiến tranh, làm cho quê hương bị rách nát hầu nuôi sống ngành công nghệ chế tạo vũ khí của họ.

     Nếu viện trợ về tiền bạc, thì họ làm cho chúng ta bị lệ thuộc một cách êm ái. Khi muốn gây áp lực, chỉ cần cúp viện trợ, lập tức chúng ta bị xính vính và xin qui thuận vô điều kiện như một chư hầu ngoan ngoãn và dễ bảo.

    Ngoài ra những đồng tiền bất hạnh này còn tạo ra một thứ phồn vinh giả tạo, ru ngủ chúng ta trong việc phát triển kinh tế, để rồi không cần thắt lưng buộc bụng, ăn xài theo kiểu bóc ngắn cắn dài, con nhà lính tính nhà quan, nên đã lệ thuộc thì lại càng lệ thuộc hơn nữa, bằng không chẳng sớm thì muộn cũng sẽ sụp đổ về chính trị cũng như về kinh tế.

     Hôm nay dám xía vô lãnh vực chính chị chính em thì quả là bạo phổi, vì lãnh vực này gã chẳng hề có tí hiểu biết nào sốt, đúng là múa rìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm…Ví bằng có điều gì sai sót, thì gã xin…rút.

    Trở về với lãnh vực đời thường nhỏ bé, gã xin kể lại một kinh nghiệm bản thân.

     Hồi sống trên Đàlạt, gã có một bà dì. Gia đình bà dì này cũng lâm vào cảnh túng thiếu. Ông chú đi làm không đủ chi bởi vì họ có những tám đứa con.

     Nhiều lúc bà dì đã cầu viện gã giúp đỡ. Hoàn cảnh của gã lúc bấy giờ cũng chẳng khấm khá gì cho lắm, bởi còn đang trong kiếp học trò, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm. Chắt chiu vét hồ bao thì cũng chỉ được mấy chục ngàn. Mà mấy chục ngàn thì có là bao, đánh vèo một cái là đã hết. Đúng là của vào nhà khó như gió vào nhà trống.

     Nằm vắt chân lên trán để tìm kế giúp đỡ sao cho có hiệu quả. Cuối cùng sau nhiều ngày tháng tiết kiệm, nghĩ tới nghĩ lui, gã bèn mua tặng cho bà dì một chiếc máy may cũ hiệu Sinco.

     Thế rồi, cũng từ chiếc máy may này, đời sống kinh tế dần dần được khá hơn. Mấy đứa nhỏ đi học về, bèn chia phiên nhau may gia công giúp mẹ. Thời gian sau, bà dì gã tậu thêm được một chiếc máy nữa, vì cũng lắm…con gái. Kinh tế không những được bảo đảm mà còn có mòi phất lên là đàng khác.

     Viết đến đây, gã bèn nhớ tới một câu thành ngữ của người Tàu:

    - Thụ chi dĩ ngư, cần cung nhất phạn chi nhu, giáo nhân dĩ ngư, tắc chung thân thụ dụng vô cùng. Nghĩa là trao cho người ta con cá thì chỉ giúp được một bữa ăn, dạy cho người ta biết câu cá thì người ta suốt đời được hưởng dụng vô cùng.

     Chẳng hiểu câu thành ngữ này có thể trở thành một đường lối cho chúng ta trong việc giúp đỡ người khác và một chính sách trong việc viện trợ cho các nước nghèo hay không?

     Còn gã, khi trích dân câu thành ngữ này của người Tàu, liệu có đáng mặt ….cụ đồ hay “nho chùm” không đấy chứ?

Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó

Chai rượu thuốc đã cạn đến phân nửa. Tợp thêm một chén nữa, ông đại gia phất lên từ chó giọng tưng tửng: Ba cái thang thuốc Minh Mạng của Tàu ngâm rượu cũng chả nhằm nhò gì so với món mộc tồn. Viagra  chính hiệu của ta đấy”.

Một quả cóc xanh. Một đĩa mực nướng xé bông chấm tương ớt và bình rượu thuốc Minh Mạng, mấy ông tuổi hưu già hưu non, có vị làm đỏm mái tóc “đảo ngói” cho trẻ lại ngồi với nhau cả buổi vẫn chưa nhạt chuyện. Rặt là chuyện tầm phào trên trời dưới biển: sướng khổ vinh nhục ở đời.

Chuyện cốc lếu hiếu hỷ của bố mẹ con cái quan chức, người đông kìn kìn đến phúng viếng hoan hỉ là dịp công khai phong bao phong bì thể hiện tấm lòng trắc ẩn tri ân đối với cấp trên. Từ chống tham nhũng, tệ ăn hối lộ của cảnh sát đứng đường cho đến mấy thằng cò mặc áo cổ cồn chạy chức chạy quyền, mua quan bán tước gây rối xã hội. Rượu vào lời ra, đủ thứ chuyện trên đời… cuối cùng lại quay về cái cuộc sống muôn thuở của con người là không thể hoãn cái sự sung sướng lại được…

“Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó. Chết xuống âm phủ biết có hay không”. Ê a, cái giọng méo xệch chẳng ra nói chẳng ra hát của ông Hải Cẩu giàu nhất làng Đa, Hà Tây làm nghề buôn chó nhai đi nhai lại cái câu cửa miệng ấy giữa tiết trời se lạnh chớm đông cứ làm bụng dạ nôn nao nhớ tới Tú Béo, Tú Sịn, Tú nhà kính, Trần Kiểm, Trần Mục… ở phố thịt chó Quảng Bá, Nhật Tân… Nghe phảng phất đâu đây cái mùi

chả

nướng thơm lừng điếc mũi của mấy nhà hàng Núi Trúc, hay ở quán bà béo đầu Ô Chợ Dừa…

Chúa ơi! Sống ở trên đời…

thưa

với bạn đọc rằng, ông Hải Cẩu  khởi nghiệp bắt đầu từ cái dây thòng lọng với chiếc xe đạp cà tàng, kiên gan suốt mấy chục năm trời đeo bám cái nghề chó má này mà giàu nhất làng, mua được xe, tậu được nhà trong phố, bỏ tiền cho con du học, hơn đứt mấy ông quan xã, quan huyện, thậm chí cả quan tỉnh liêm chính nữa, nổi tiếng là người sành ăn loại thịt này. Gần như là nghiện, tuần nào khuyết hai bữa thịt chó, như lời đại gia tự kể, thì chân tay bủn rủn, mồm miệng nhạt thếch.

Ngày nào bận bịu không đi quán được, y rằng bà vợ lại phóng xe ra ngã ba quỷ phố Hàng Than mua về một đùm thịt chặt, mấy xiên chả và ít khoanh dồi nướng. Ở đây sạch bách thì hoá ra Ô Quan Chưởng gầm cầu ngõ Hàng Hương, Hàng Lược chứ không mua ở nơi khác, dở òm. Chả thế mà khách “mũi lõ mắt xanh”, “mũi tẹt da vàng” ngoại lai có công chuyện, ông ta đều mời lên xe ô tô đích thân ông ta cầm lái phi lên phố thịt chó vùng en Hà Nội đãi đủ bảy món.

Khách đặc biệt từ miền Nam ra hay việt kiều về nước thì rước sang  Văn Giang, Hưng Yên – chơ vơ giữa cánh đồng, độc nhất vô nhị, một quán thịt chó với thứ nước chấm bí quyết nhà nghề pha chế bằng óc chó không đâu có, chủ nhật, ngày lễ ôtô xe máy bâu kín quanh nhà. Vui chuyện ông kể, mới đầu mấy anh Tây cuối tuần đi thưởng thức món đặc sản của Việt Nam nhung vị nào cũng nhún vai, lè lưỡi, lắc đầu khước từ vì sợ khi biết đó là thịt chó.

Một lần mời họ đi ăn chả nướng xiên, xào lăn, súp chó nhưng không nói đó là thịt chó thì cả Tây già lẫn Tây trẻ đều tấm tắc khen ngon. Khi sự thân tình khoảng cách đã co gần lại, nói thật đó là thịt chó thì Tây cười xoà: “Nếu thịt chó như vậy thì manger bon (ăn tốt)”. Từ đấy, mỗi lần có dịp quay trở lại Hà Nội, những bạn bè thân quen của đại gia Hải Cẩu đều ngỏ lời được mời đi thưởng thức món cầy tơ bảy món, xếp trên cả bún thang bà Ẩm, chả cá Lã Vọng gia truyền đã có ba bốn chục năm trong nghề…

Đều đặn cứ 3 ngày một bữa thịt chó còn hơn ngậm sâm Cao Ly trồng trên núi cao hai nghìn mét, vợ khen cả ngày. Mấy cha hỏng máy “kim đồng hồ lúc nào cũng chỉ sáu rưỡi” xơi đều thịt chó vài tuần là nhúc nhích ngay… Trên đời có lắm anh mê mẩn thịt chó như bị bỏ bùa, nhưng vẫn không thể đọ được với Hải Cẩu. Lúc nào ăn cũng được. Ngày nào ăn cũng không biết chán. Càng ăn càng vào.

Nhớ cái hồi bị “gom kho”, toà tuyên phạt 3 năm tù về tội buôn lậu vì muốn giàu thật nhanh, ở trại nhắn ra cho vợ vào thăm nuôi tiếp tế gì thì tiếp tế đừng quên gửi cho ít thịt cầy. Gã chủ quán nổi tiếng ở phố thịt chó chịu ơn đại ca đã truyền cho mấy ngón nghề thui chó, làm dồi, cách ướp chả, hấp luộc… Khi mở quán lập nghiệp đua chen với đời, mỗi lần vào thăm đều mang theo cả

kýt

hịt chó làm quà.

Tinh mồm lắm, nằm trong trại ăn uống luễnh loãng tạp pí lù, lâu lâu mới được một bữa thế mà phân biệt cấm có sai đâu là chả Hàng Lược, thịt hấp Gầm Cầu, dồi nướng Ô Chợ Dừa hay Tuấn Núi Trúc. Đâu chỉ

ăn, nói đến chuyện chó má thì thiên hạ phải bái phục suy tôn lão ta là đệ nhất tinh quái về sự sành sỏi. Mỗi lần theo chân Hải Cẩu ra chợ chó Mai Động, chó nguyên con, nửa con, xả mảnh bày bán ê hề bên những con chó sống đủ loại lớn bé, to nhỏ khác nhau, nhốt trong rọ, trong cũi, buộc cổ trói chân nằm la liệt bên đường…

Đảo qua một lượt, nhìn những chú chó mắt trợn ngược ai oán, răng thì nhe ra trắng ởn như giễu cười nằm còng queo  trên các mặt ván ngang dọc vết dao chém, bóng ánh lên bởi mỡ chó kết bám lâu ngày, con nào cũng tênh tênh một màu vàng chào mời. Hệt như một nhân viên kiểm tra y tế lành nghề, Hải Cẩu bước chậm chạp ngắm chó và chỉ ra những cái khuất ẩn qua lớp da thui vàng của những kẻ làm nghề, giọng tỉnh queo: “Đây mới là chú cẩu ngon các vị nè. Thui rơm vàng ươm, lưa thưa những chấm sậm nhạt như kê bám trên mình chó”. “Con màu mận chín này đích thị là chó đánh véc -ni quá tay”. “Con da bóng mượt loang lổ màu bã trầu kia là bôi phẩm hoa hiên sau khi hơ lửa…”. Đang đi, Hải Cẩu kéo tay tôi lại, dừng chân trước một cặp chó nằm sóng đôi bày trên cái mẹt đan tre bánh tẻ, da thịt mình mẩy cứ căng mọng lên nhễ nhại như mỡ nó ở  bên trong sắp phọt bắn ra ngoài. Ông già tơ tướp râu bạc giọng Thường Tín, Hà Tây đon đả mời chào: - Cầy tơ chó béo, gia vị chế sẵn, mấy cậu mua thì lão xẻ thịt. - Chó hạ thổ. Bố có cho cũng vái cả nón. Miệng làu bàu nhưng nghe rõ lời lẽ như chửi của lão bán chó: - Chó hạ thổ. Không mua thì xéo. Chọc ngoáy thế đủ rồi. Mẹ mấy con ma.

Tưởng là đụng độ chan tương đổ mẻ vào mặt nhau đến nơi, ăn mày kẻ cắp quá rõ mánh mung của nhau nên đôi bên nháy mắt cùng cười. Thế này là thế nào, Hải Cẩu. Chả thế nào cả, đó là cách làm ăn ma giáo của mấy gã dối lừa khách hàng. Những kẻ kiếm tiền bằng bất cứ giá nào nó bất lương thế đấy. Chúng đi lượm chó chết từ trong đống rác, tìm mua chó ốm, chó gầy, chó ghẻ, chó mắt toét, chó chê cơm… đem về làm lông cạo sạch rồi đào hố hạ thổ hoặc moi cát chôi vùi qua đêm mới móc lên nổi lửa thui.

Chó kiểu này không được chọc tiết mà dí điện giết chó để giữ nguyên máu huyết bên trong, khi đào lên nước ngấm càng làm cho chó béo nở ra, da bì căng mọng… Thất đức lắm các ông ơi! Thịt xả ra ngâm tẩm tiêu mỡ riềng mẻ… xiên chả đem nướng thơm lừng tịt cả mũi, nhậu với nếp  cẩm, rượu ngâm cá ngựa, tắc kè Lao Bảo thì cố nội thằng nào biết nó là thứ thịt gì nữa.

Nói đến đây, Hải Cẩu cười toe toét. Làm ăn kiểu sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi thế này thì khủng khiếp quá. Nó vận hết vào người, ám ảnh đeo bám suốt cuộc đời. Đâu thiếu những anh mở quán thịt cầy phất nhanh như diều, giàu ngất ngưởng, nhưng cứ  tàn lụi dần, bố nghiện, con nghiện, chồng cờ bạc, vợ cờ bạc… cuối cùng lại quay trở về cái vạch xuất phát máng lợn ban đầu, như kẻ độc miệng đã nói: Của thiên trả địa, đừng đùa với tâm linh đạo đức làm người. Sớm nhận ra điều này, Hải Cẩu sắm hẳn một cái lễ hạ biển bỏ nghề, mặc dầu cái quán Hải Cẩu thịt chó lúc nào cũng chen chúc khách nổi tiếng nhất vùng Ba La Bông Đỏ… Không cầm dao giết mổ đốt rơm thui chó nữa, Hải Cẩu mở công ty xuất khẩu chó, cả chó thịt lẫn chó cảnh, chó đua…

Đó là nói cho vui, nhưng không biết bằng cách nào Hải Cẩu đã thiết lập được một đường dây đưa chó thịt từ Lào, từ Thái Lan cứ đều đều tháng tháng một xe tải hạng nặng đưa sang Việt Nam… tập kết ở đâu đó rồi chở về công ty phân chia cho các quán thịt cầy đã có thương hiệu. Một đường dây khác, chó cảnh chó quý  hiếm từ Đức, Nga, Anh, châu Phi… tiêm chủng cẩn thận ròng lên phi cơ hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Nội Bài. Rồi chó đặc chủng Phú Quốc, Đồng Rừng, nội địa nữa.

Phân loại “đẳng cấp”,  tùy theo cái thú ăn chơi của người đời mà định giá bán. Hạng bét mỗi con cũng một, hai nghìn đồng tiền Mỹ, có con ba nghìn, năm nghìn. Chó quý thì ôm vào Vũng Tàu sang tay cho mấy ông “đỏ đen” ở sân vận động trường đua chó thành phố. Cứ túc tắc, nhởn nhơ như thế mà ăn nên làm ra. Ít ai nghĩ rằng từ một anh bắt đầu khởi nghiệp bằng cái thòng lọng chó, cái xe đạp cà tàng đôi bánh mòn  vẹt lốp còn chằng buộc dây cao su thời bao cấp mà giờ giàu có, của ăn của để, cưỡi xe bốn bánh, nhà lầu ba tầng, rặt giao du với những vị có máu mặt. Cuộc rượu tàn rồi, mấy ông bạn quý đứng dậy ra về chẳng hiểu nghĩ sao ông Hải Cẩu nổi cơn cao hứng: Năm Tuất sắp qua rồi xin mời mấy thầy lên xe đi chợ chó tất niên. Mai Động, Đức Giang, Thường Tín hay Tây Mỗ, Hà Đông cũng được. Cứ ngỡ là Hải Cẩu say, mà chả say tẹo nào khi nghe “lão” nói giọng cứ tròn vo như hòn bi ve: “Nhà nước chẳng cấm ai làm giàu. Nhưng chớ có kiểu làm giàu bằng cách ăn của đút, tham ô, tham nhũng, ăn cắp của dân thì chẳng ra cái giống gì…”. 

Theo

Đỗ Quảng 

Rắc rối Tiếng Mỹ - Tiếng Việt

Tác giả:

Lê Anh Tuấn,giảng viên Đại học Cần Thơ.

Tôi tình cờ quen một anh bạn Mỹ, người Mỹ chính cống, mắt xanh mũi lõ, tên Johnson William, quê ở bang Ohio của xứ Cờ Hoa.

Johnson đã hơn 16 năm sinh sống ở Việt Nam, nghiên cứu về dân tộc học Đông Nam Á, nói tiếng Việt thông thạo, phát âm theo giọng Hà Nội khá rõ, hắn học tiếng ở Đại học ngoại ngữ Hà Nội rồi làm Master of Art về văn hóa xã hội Việt Nam ở Đại học khoa học tự nhiên Sài Gòn, rành lịch sử Việt Nam, thuộc nhiều câu thơ lục bát trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu.

Y ăn mặc xuyền xoàng, cái đầu rối bù, chân mang một đôi giày bata cũ mèm, lưng quảy một ba lô lếch thếch, sẵn sàng ăn uống nhồm nhoàm ngoài vỉa hè. Johnson có thể quanh năm suốt tháng ăn cơm với chuối thay cho bánh mì và pho-mát, xịt nước tương vào chén rồi cứ thế mà khua đũa lùa cơm vào miệng.

Đối với Johnson, thịt rùa, rắn, ếch, nhái, chuột đồng,… hắn xơi ngon lành. Bún riêu là món khoái khẩu của Johnson, hắn còn biết thèm hột vịt lộn ăn với rau răm chấm muối tiêu chanh. Ai có mời đi chén thịt cầy với mắm tôm, Johnson chẳng ngần ngại mà còn biết vỗ đùi đánh cái đét khen rượu đế mà nhắm với thịt chó ngon “thần sầu quỉ khốc”!!!

Chẳng biết Johnson khéo tán tỉnh thế nào (hoặc bị tán) mà vớ được một cô bé Hà thành tóc “đờ-mi gác-xông”, sinh viên ngành văn chương hẳn hoi. Ngày cưới, Johnson vận áo dài khăn đống, dâng trầu cau và quì lạy bàn thờ tổ tiên nhà gái thành thạo làm đám thanh niên, thiếu nữ, cả lũ con nít và mấy ông cụ ông, cụ bà trong làng suýt xoa, kinh ngạc, xúm đen xúm đỏ coi muốn sập nhà.

Chúng tôi gặp nhau trên chuyến xe lửa từ Nha Trang ra Huế. Tôi về thăm quê, còn Johnson thì sau mấy tháng nghiên cứu phong tục Tây Nguyên xuống Nha Trang rồi tiếp đi dự Festival Huế.

Đường dài, tàu chạy dằn xóc, chung quanh ồn ào, lao nhao chẳng ai ngủ được, Johnson rủ tôi xuống toa ăn uống, kêu mỗi người một ly cà phê đen, một bình trà nóng rồi trao đổi đủ thứ chuyện trên đời.

Tôi cũng khá thán phục sự hiểu biết và thành thạo văn hóa Việt Nam của Johnson khi nghe hắn thỉnh thoảng chêm vô câu chuyện mấy câu ca dao, thành ngữ tiếng Việt.

Thật thú vị khi nói chuyện với một người Mỹ bằng tiếng Việt về đề tài ngôn ngữ Việt Nam (dễ chịu hơn nhiều khi khi nó chuyện với một người Mỹ bằng… tiếng Anh).

Vậy mà Johnson vẫn lắc đầu than:

- Tiếng Việt của mấy ông rắc rối quá! Tôi học đã lâu mà vẫn còn lúng túng, nhiều lúc viết sai, nói sai lung tung cả lên. Này nhé, từ xưng hô, ăn uống, giao tiếp, … thật lắm từ khác nhau chẳng đơn giản như tiếng Mỹ của tớ, chỉ một từ you là để nói với tất cả người đối thoại, tiếng Việt thì phân biệt ông, bà, anh, chị, em, con, cháu, ngài, mày, thầy, thằng,… rành mạch.

Tiếng Mỹ thì dùng một chữ black để chỉ tất cả những vật gì, con gì có màu đen trong khi đó tiếng Việt thì khác, ngựa đen thì gọi là ngựa ô, chó đen thì kêu là chó mực, mèo đen thì gọi là mèo mun, gà đen thì là gà quạ, bò đen là bò hóng, mực đen là mực tàu, tóc đen thì hóa thành tóc nhung hoặc tóc huyền.

Đã là màu đen rồi mà người Việt còn nhấn mạnh thêm mức độ đen như đen thủi, đen thui, rồi đen tuyền, đen thắm, tím đen, đen ngắt, đen bóng, đen sì, đen đủi, đen thẳm, đen óng, đen thùi lùi, đen kịt, đen dòn…

Còn để chỉ màu ít đen hơn thì người Việt dùng chữ đen hai lần: đen đen. Kiểu này khác với các nước, khi muốn nhấn mạnh điều gì, người ta lặp lại từ đó hai lần, tiếng Việt lặp lại hai lần lại làm giảm mức độ của từ. Ngon ngon có nghĩa là chưa ngon lắm…

Tôi cười cười:

- Thì tiếng Mỹ của ông nhiều lúc cũng rắc rối kia mà. Này nhé, người Việt nói: “Hôm qua, tôi đi tiệm” thì người Mỹ lại nói “Yesterday, I went to the shop”. Tiếng Anh, đi là go, nhưng đã đi (quá khứ) thì phải viết là went.

Bản thân chữ hôm qua (yesterday) đã là quá khứ rồi thì ai cũng biết đâu cần phải đổi go thành went chi cho rối mấy người học Anh văn?

Nội chuyện học thuộc lòng 154 động từ bất qui tắt của mấy ông cũng đủ làm nhiều người trên thế giới phải thi rớt lên rớt xuống.

Người Việt nói hai con chó mà chẳng cần thêm s hoặc es thành hai con chó “sờ” (two dogs) như tiếng Mỹ.

Một đứa con nít thì nói là one child là được rồi, vậy mà thêm một đứa nữa thì bắt đầu rối, chẳng phải là two childs mà thành two children.

Một con ngỗng là one goose, hai con ngỗng thì thành two geese. Vậy mà viết một con cừu là one sheep nhưng hai con cừu thì cũng là two sheep, chẳng chịu đổi gì cả?!.

Johnson vẫn không chịu thua:

- Văn phạm của xứ ông cũng rắc rối bỏ xừ! Xem nè, thắng và thua là hai chữ phản nghĩa chứ gì? Thua và bại là hai chữ đồng nghĩa, đúng không? Vậy mà, hai câu nói: “Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán” đồng nghĩa với câu “Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán”? Không thể viết là “Ngô Quyền đánh thua quân Nam Hán”!!! Phải không nào?

Rồi còn, “áo ấm” tương đương với “áo lạnh”, “nín thinh” giống như “làm thinh” trong khi ấm và lạnh phản nghĩa nhau, nín và làm cũng là những động từ đối nhau.

Đến nhà ai, phải phân biệt “Kính thăm” và “Kính viếng”, thăm một người khi người đó còn sống, còn viếng ai thì người đó đã … qua đời!

Rồi ba hồi mấy ông dùng tiếng Hán như Quốc gia rồi đổi thành tiếng Nôm ra Nhà nước, trực thăng (có thể không cần chữ máy bay phía trước) thành máy bay lên thẳng (phải có chữ máy bay phía trước), Thủy quân lục chiến thì đổi là lính thủy đánh bộ, sao không gọi luôn là lính nước đánh đất??? Lễ động thổ thì không thể sửa lại là lễ động đất mặc dầu là thổ là đất?

Tôi tiếp tục “ăn miếng trả miếng”:

- Tiếng Mỹ cũng đâu có tránh khỏi. See và look cũng đều là động từ để cùng chỉ hành động xem, nhìn, ngắm, dòm nhưng oversee (quan sát, trông nom) lại ngược nghĩa overlook (bỏ sót, không nhìn thấy).

Wise man là người thông thái, uyên bác, vậy mà thay chữ man (đàn ông) thành woman (đàn bà) thì chữ wise woman thành bà phù thủy, bà đỡ, bà lang, bà thầy bói, bà đồng bóng!!!

Rồi chữ man và guy (anh chàng, gã) gần gần như nhau thì chữ wise guy thành một kẻ hợm hĩnh, khoác lác. Sao lại “park on driveways” (đậu xe trên đường nội bộ) nhưng “drive on parkways” (lái xe trên xa lộ)?

Johnson ôm bụng cười:

- Tên món ăn Việt Nam cũng lạ, miền Nam có bánh da lợn, tưởng làm bằng thịt lợn nhưng thực chất là bằng bột, có lẽ giống như các lớp da lợn, nhưng sao không gọi là bánh da heo theo từ miền Nam mà gọi theo chữ lợn miền Bắc?

Bánh bò cũng chắng có miếng thịt bò nào. Bánh tiêu thì không rắc tiêu mà lại rắc mè. Gọi rau má mà chẳng liên quan đến má hay mẹ gì cả. Bánh tét mà gói thật chặt, chẳng thể nào tét được. Bánh dày thì lại mỏng hơn bánh chưng.

Bánh chưng thì phải nấu thật lâu mới chín chứ không phải dùng cách chưng hơi hay chưng hấp. Nước lèo trong nồi hủ tiếu thì chẳng phải theo kiểu nước Lào (hay Lèo).

Trái sầu riêng thì ăn vô chẳng thấy sầu riêng hay sầu chung chi cả. Bưởi Năm Roi rất tuyệt nhưng sao đúng là năm roi? Trái vú sữa, cây dái ngựa thì thật là tượng hình.

Hi hi … Ngôn từ bây giờ cũng thế, cò đất, cò nhà,… thì chẳng dính dáng gì đến “con cò, cò bay lả, lả bay la …” cả.

Tôi cũng chẳng vừa:

- Thế cái món hot dog của mấy ông có liên quan gì đến con chó không? Món bánh mì kẹp thịt bò băm Hamburger của Mc Donald thì đâu có thịt heo (ham).

Trái thơm, trái khóm “pineapple” thì chẳng có gì liên quan đến pine (cây thông) và apple (trái táo) cả?

Vào phòng thí nghiệm sinh học, ông giáo sư bảo bắt một con “Guinea pig”, nghe qua tưởng đâu là con heo xứ Guinea (một quốc gia ở Tây Phi Châu, giáp với Senegal, Mali, Liberia, Sierra Leone và biển Bắc Đại Tây dương) nhưng ngờ đâu là một giống chuột tên là Guinea (ở Guinea không có giống chuột này!).

Đáng lý chữ football (bóng đá) thì phải viết là legball chứ, bởi vì người ta đá banh bằng cả cái chân (leg) chứ đâu chỉ cái ống quyển foot từ dưới đầu gối đến trên bàn chân?

Mới đây, khi dân Pháp không chịu ủng hộ Mỹ trong vụ chiến tranh Iraq thế là mấy dân biểu Mỹ giận đòi đổi tên món khoai tây chiên French fries bằng chữ American fries thì mấy ông Tây lại ôm bụng cười chế diễu rằng món French fries không phải xuất xứ từ Pháp mà từ… Mỹ và là món ăn của dân Mỹ.

Có lẽ mấy ông Mỹ tiền bối xưa, khi làm món này đặt tên là khoai tây chiên Pháp cho nó có vẻ… ngoại cho sang, giống như bây giờ một số quán ăn Việt Nam có thực đơn lẩu Thái, bún Indonesia, bánh bao Mã Lai, cá chiên viên Singapore, hủ tiếu Nam Vang,… mặc dầu nguyên liệu và cách nấu gần như 100% của Việt Nam???

Johnson gật gù:

- Ừ, cũng đúng. Nhưng lúc đầu học tiếng Việt, tôi thấy khó quá, đã lấy 24 chữ cái A, B, C của vần La tinh rồi mà bày ra thêm a, â, ă, u, ư, ơ, d, đ,… nữa. Lại thêm kèm 5 dấu sắc (””””), huyền ('), hỏi (?), ngã (~), nặng (.) và không dấu ( ) nữa. Như le, lé, lè, lẹ, lẻ, lẽ, mỗi chữ mang một nghĩa khác nhau. Rồi phải học cách bỏ dấu ở đâu trong từ cho chính xác nữa chứ. Hòa hay là hoà. Li hay là ly? Có câu thơ về dấu này cũng hay:

Chị Huyền mang nặng ngã đau,

Sao không sắc thuốc, hỏi sao cho lành?!

Trong ngôn ngữ Việt Nam, tôi thấy nhiều chữ ghép với chữ ăn mặc dầu nó chẳng ăn nhập đến chuyện bỏ thực phẩm vào miệng, nhai và nuốt xuống gì cả. Nói ăn nhậu, ăn tiệc, ăn mừng, ăn cưới, ăn giỗ,… thì có lý nhưng sao lại ăn nằm, ăn hút, ăn tiền, ăn lương, ăn cắp, ăn mày, ăn chặn, ăn quỵt, ăn diện, ăn đòn, ăn công, ăn năn, ăn hiếp, ăn khách, ăn ảnh,…

Tôi bật cười chận ngang khi Johnson tiếp tục ghép chữ với từ ăn:

- Thì như tiếng Mỹ của ông vậy thôi. Chữ to get khó dịch gì ra hồn cả. Tôi cũng có nghĩ là khi mình chưa tìm ra động từ nào thích hợp thì dùng tạm luôn chữ to get! Khi quân đội Mỹ bắt sống được Saddam Hussein ở Iraq thì tuyên bố “We got him!”, sao không dùng động từ to catch, to caught, to force, to find, to capture, to pick up, …cho rõ nghĩa? Rồi động từ to get đi kèm các giới từ in, into, on, out, up, at-able,… thành một loạt động từ mới. Các động từ to take, to put, to be,… cũng vậy.

Johnson chuyển qua phần khác:

- Chuyện mạo từ tiếng Việt cũng làm rắc rối người nước ngoài. Người Việt nói cái bàn, cái nhà, cái gường, cái nón,… nhưng không thể nói cái chó, cái mèo mà phải là con chó, con mèo, con người,…. Đồ vật là cái, động vật là con. Bây giờ nhiều cô cậu thanh niên Hà Nội thay vì nói cái xe Honda Dream thì lại dùng từ con Đờ-rim, rồi tiếp là con Su (Suzuki), con A còng (@), con Tô (Toyota), con Mẹc (Mercedes),… Vợ chồng tôi có chuyện vui thế này:

Tôi quen vợ tôi, một phần vì yêu các cô gái Việt Nam, một phần cũng để trau dồi thêm tiếng Việt. Một hôm, chúng tôi ra hồ Gươm dạo chơi, tôi khen: “Con hồ này đẹp quá!”. Vợ tôi “chỉnh” liền: “Không, anh phải nói là cái hồ này đẹp quá!”.

Vậy mà đi ngang sông Tô Lịch thấy nước đen ngòm, tôi nói: “Cái sông này bẩn quá!” thì vợ tôi “sửa” ngay: “Ậy, anh phải nói là con sông này bẩn quá chứ không nói là cái sông!”. Tôi la lên: “Ồ, sao lại thế, khi là cái, khi là con, làm sao phân biệt?”.

Vợ tôi ôn tồn giải thích: “Cái gì động đậy, nhúc nhích thì gọi là con, như con sông có nước chảy, còn cái gì nằm im như cái hồ nuớc tĩnh mịch thì phải là cái hồ. Con chó, con mèo nó chạy được nên phải là con. Cái nhà, cái bàn, cái cột đèn đâu có di chuyển được nên phải là cái. Rõ chửa?”.

Lúc đó, tôi phá lên cười vì phát hiện một điều vô cùng thú vị: “À, anh hiểu rồi! Tiếng Việt thật hay. Hèn gì cái … cái của anh nó nhúc nhích lên xuống nên phải gọi là con …, còn của … em, nó nằm im một chỗ nên phải gọi là cái, cái… Ha ha …”.

Hôm ấy, tôi bị mấy cái nhéo đau điếng, nhưng bù lại, có được một đêm hạnh phúc.

Tôi thấy tức cười vô cùng với anh bạn Mỹ này:

- Tôi cũng có chuyện hiểu lầm trong phát âm tiếng Mỹ như thế này. Trong một bữa tiệc với các sinh viên quốc tế, tôi nhận phần phục vụ nước uống.

Gặp bà giáo người Mỹ đã đứng tuổi, tôi đến chào và lịch sự nói theo kiểu cách của người Việt: “Good evening, Madam. May I have a honour to serve you? Do you like my Coke?” (Chào bà, Tôi có thể hân hạnh phục vụ quí bà. Bà có muốn món Coke (Coca Cola)?).

Bà này trợn mắt nhìn tôi, ra vẻ ngạc nhiên, rồi lắc đầu bỏ đi. Tôi băn khoăn chẳng hiểu chuyện gì? Hôm sau, tôi đánh bạo đến hỏi bà: “I am sorry, yesterday I have found your strange look when hearing my invitation. Was there a wrong?” (Xin lỗi, hôm qua tôi thấy bà nhìn tôi kỳ lạ khi nghe lời mời của tôi. Có điều gì không ổn vậy?).

Bà giáo mỉm cười độ lượng: “Yes, I had misunderstood yours. Today, I just find out that your pronunciation is not correct. You said “Coke” not sound like “Coke” but “Cock”. Cock is a male chicken but it also has a dirty meaning else. You should be careful when saying this word to a lady”.

(Vâng, tôi đã hiểu lầm anh. Hôm nay, tôi mới hiểu ra là anh phát âm không đúng. Anh nói chữ “Coke” mà không giống “Coke” mà thành “Cock”. Cock là con gà trống nhưng nó cũng có một nghĩa khác xấu. Anh phải cẩn thận khi nói từ này với một phụ nữ).

Johnson “gỡ gạc”:

- Hi hi… Anh bạn người Việt dẫn tôi đến thăm nhà, đến trước ngôi nhà của mình anh nói: “Đây là nhà tôi, mời ông vào chơi”, gặp vợ anh ta ra đón trước cửa, anh ta lại giới thiệu: “Đây là nhà tôi, mời ông vào chơi”.

Tôi hơi ngạc nhiên nhưng cũng không hỏi và bước vào nhà, nhà anh ta thật đẹp (vợ anh ta cũng vậy!). Tôi lịch sự muốn khen chủ nhà và nói: “Nhà anh và nhà anh thật đẹp”. Hai vợ chồng nhìn nhau cười.

Vì đi lâu ngoài đường, lại không có WC công cộng, nên tôi hỏi anh chủ nhà “Xin ông cho tôi vào cái chỗ đi toilet của nhà ông được không?” Hi hi … lúc đó tôi không nghĩ đến cái sự buồn cười của câu này, hôm sau nghĩ lại tôi mới thấy. Lúc ấy, vợ người bạn lại nguýt tôi: “Rõ khéo, cái nhà anh này hay nhỉ?”. Ủa, nhà tôi ở đâu đây vậy?

Tôi cười to kể tiếp:

- Lần đầu tiên sang Châu Âu cách đây 10 năm, tôi quen một cô sinh viên Hà Lan. Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh. Cô rủ tôi ra bãi biển nằm phơi nắng và nói chuyện. Hôm đó, tôi chẳng đem theo cái gì để trải xuống bãi cát để nằm cả.

Nói với cô này, thì cô mỉm cười: “Oh, never mind. You can lie down at my top” (Ồ, không sao. Anh có thể nằm trên cái top của tôi).

Tiếng Anh của tôi cũng chẳng giỏi gì nên chẳng hiểu là nằm trên top là nằm ở đâu? Tôi chỉ biết top có nghĩa là đỉnh, là ở trên. Vậy nằm ở trên là nằm đâu? Nằm trên đầu thì chắc là không đúng rồi, ai lại nằm trên đầu mà nói chuyện với phụ nữ. Chẳng lẽ nằm trên… mình cô này?

Hồi lúc trước đi Tây, tôi nghe nhiều thằng bạn nháy mắt kháo nhau rằng, phụ nữ Tây nó… Tây lắm, thích thì sẵn sàng… chiều! “Tình cho không biếu không” mà. Vậy là… lẽ nào??? Tới nơi, tôi mới bật cười và thấy mắc cỡ trong lòng khi thấy cô này cởi áo khoác ra, trải dưới bãi cát và chỉ tôi nằm trên đó.

Tối đó, về đến nhà, tôi lặng lẽ lật từ điển Anh – Việt ra xem, mới biết thêm là top còn có nghĩa là cái áo khoác ngoài của phụ nữ. Trời ơi!

Johnson vỗ vai tôi:

- Chút xíu nữa bạn là … hố to rồi. Ha ha … Năm ngoái, tôi có đến thăm miệt vườn Nam bộ, tôi có nghe một câu thế này mà lúc đó chẳng thế nào hiểu được: “Hôm qua, qua nói qua qua mà qua hổng qua. Hôm nay, qua hổng nói qua mà qua lại qua”…

Câu chuyện của chúng tôi còn dài. Chia tay với Johnson ở ga Huế. Lững thững dọc theo con đường về chợ Đông Ba, trong đầu còn vương vấn câu chuyện rắc rối tiếng Việt với Johnson, ông già chạy xích lô lẽo đẽo theo sau:

- “Ôn nớ, ôn đi về mô khôn hè?”

Tôi gật đầu, bước lên chiếc xe cũ rích, buộc miệng:

- Có tiệm sách nào gần đây nhất, bác? Tôi muốn mua một quyển Tự điển Tiếng Việt.

Tôi bất chợt nhớ ra rằng, trong tủ sách gia đình của tôi, có đủ loại tự điển các nước, nhưng chưa hề có một quyển Tự điển Tiếng Việt nào.

Miếng ăn là miếng nhục, miếng nhục là cục thịt”

(Tục ngữ sinh viên thời “bao [cao…] cấp”)

1

Tháng Giêng là một tháng đặc biệt, nhất là đối với người phương Đông.

Đời người ta thật là có nhiều chuyện kỳ lạ.

Gã là một người thật thanh tao. Cái thanh tao kết tinh của huyết thống và truyền thống, của giáo dục và dâm dục. Thật đấy. Người thanh tao thì tháng Giêng lại càng đặc biệt. Tháng của trai giới, tẩy trần, cúng lễ. Tháng của những nguyện cầu vô tận. Tháng thanh tao. Tháng đem tới ánh thiều quang trong sáng. Cái trong sáng của tháng Giêng thì có liên quan gì tới gã không?

Người Việt thường có cái kiểu cúng lễ khá đặc biệt. Trong việc sửa soạn các mâm cúng trang trọng trong các lễ trọng thì người ta thường bày biện lễ vật cho cả cát thần và hung thần. Cát thần thì tất nhiên là phải có hương hoa, các loại ngũ quả thơm tho. Hung thần thì phải luôn luôn có thịt, thường là một súc thịt to, mà phải là thịt sống.

Tôi cũng không hiểu là do các thần thích thế hay con người đã ép các thần phải thích thế. Thế thì đã là cát thần thì cứ mãi mãi phải ăn chay sao? Cứ là hung thần thì phải ăn thịt sống sao? Vậy thì cái thời chưa tìm ra lửa phải chăng tổ tiên chúng ta đều là hung thần cả? Có phải chúng ta đều là con cháu của những hung thần? Thế thì ác thật, ác quá, các cụ tổ ơi!

2

Gã là người thật thanh tao. “Nhân chi sơ tính bản thiện”, cụ Mạnh đã bảo gã thế. “Tam cương ngũ thường”, cụ Khổng dạy thế. “Muốn có CNXH phải có con người XHCN”, cụ Lê-nin nói rồi. “Kỳ sở bất dục, vật thi ư nhân”, câu này không hiểu sao mà cụ nào cũng ngôn: Khổng Khâu, Jesus Christ, Mohamed, Mahadma Gandhi, Mẹ Teresa, hình như cả “Bố Già”… Suốt nửa đời người gã sống trong ánh sáng của những hào quang trí tuệ, của nhà trường XHCN, của những tấm gương sáng khắp đông tây kim cổ và đầy rẫy quanh mình của một xứ sở “ra ngõ gặp anh hùng” [thế thì có khi chỉ có gã là thằng nhát hèn nhất chăng?]. Thế nhưng mà gã tuyệt không biết món phở là gì, phở tái thì lại càng không! Hình như hồi bé tí gã cũng đã được mẹ cho ăn phở vài lần khi ốm sốt gì đấy, nhưng khổ quá cái bộ nhớ của gã lúc đó nó lại chưa làm việc nên chẳng còn nhớ mùi vị thật của phở nó thế nào. Sau đó thì phở hình như đã bị tuyệt chủng. À, mà đôi khi ở vài cửa hàng mậu dịch quốc doanh người ta có bán phở thịt lợn. Món này thì lại chưa hề có trong thực đơn truyền thống của dân tộc. Gã có nghe “bọn xấu” (“những thanh niên lêu lổng” theo quan niệm của nhân dân và cán bộ — những người tốt) thường hay hát vè:

Khắp nhân gian có tin đồn

Mậu dịch bán phở thịt lợn ngon ghê

Cái thời trẻ của gã nó thế. Thế mà cả dân tộc này ca ngợi phở mới chết chứ. Nào ông Nguyễn Tuân. Nào bác Tú Mỡ, bác Vũ Nhọn, chú Băng Hà, cụ Thạch Xanh… Mà hễ cứ ông nào hay bàn chuyện ăn thì y như rằng ông ấy trông cứ gầy gò, dặt dẹo. Chẳng biết có phải là “gầy thầy cơm” hay là các bác cũng đếch có mà ăn đâm ra… cứ hay tưởng tượng. Ông nào tả phở nghe cũng đều hay đến buốt ruột. Nhưng mà thực sự là nó thế nào nhỉ?

Phải chăng chỉ tại vì gã không biết phở là gì?

Gã học hành cũng ác liệt lắm. Luôn luôn dẫn đầu. Xuất sắc. “Ngon lành cành đào”. Nhớ hồi đâu mới lên mười gã cũng bắt đầu để ý đến chị em, nhất là những bạn gái hơn tuổi, sao mà bọn nó trông cứ như có vẻ thơm tho hơn bọn thỏ non nhầu nhĩ khác. Nhưng mà, hay để ý đến con gái phải chăng cũng là một cái gì đấy rất là tội lỗi? Nhưng mà, cái con bé ấy, không thể không nghĩ tới nó được. Nó cũng lên mười thôi, nhưng mà, sao nó cười duyên thế không biết nữa. Da nó trắng. Môi nó đỏ. Áo trắng, quần xanh, khăn quàng đỏ. Giá mà nó mặc váy hồng thì có phải là hơn không? Váy hồng, như của búp-bê, như trong phim, như Liên Xô. Gã có nghe lỏm đám bạn bè của thằng anh trai kể chuyện “Liên Xô”. Chuyện là có hai anh chị đi xem phim, gặp cảnh đôi trai gái hôn nhau chị cứ quay mặt đi. Anh liền bảo chị: “Đấy là Liên Xô ấy mà, có gì đâu mà em không dám xem.” Khi ra về anh bình phẩm đủ mọi chuyện về bộ phim, sao mà hay thế không biết, hay không nói nên lời. Thế mà không hiểu sao mặt chị cứ buồn thiu, vừa đi vừa cúi đầu không nói câu gì. Anh gặng hỏi mãi chị cũng không nói gì. Thế rồi chị bật khóc nức nở: “Sao anh không… Liên Xô em đi?” Ừ nhỉ, sao gã lại không tìm cách mà “Liên Xô” bạn gái một cái nhỉ? Ôi nhưng như thế hình như là tội lỗi? Nhưng gã không chỉ muốn có thế. Gã cảm thấy giữa gã và bạn gái có một sức hút gì đó thật kỳ diệu. “Bọn xấu” bảo giai với gái là phải địt nhau. Hồi ấy gã không thấy ai nói đến mấy cái từ “làm tình”. Trong các tác phẩm văn học cả cổ điển lẫn đương đại gã chỉ đọc được mỗi chữ “đ” hoặc “đ…”. Gã thầm đoán đó là “đéo” hay “đụ” gì đấy theo giọng Bắc hoặc Nam mà gã hay nghe người lớn thường dùng, nhưng mà là chỉ dùng để chửi nhau thôi. Chỉ thấy “bọn xấu” nói là “địt nhau”. Chắc là thế chứ! Gã ước gì “nó” mặc váy hồng nằm lên người gã. Thế mới sướng (hồi ấy gã làm sao mà có thể được đọc Kama Sutra hay các loại “sách cấm” khác). Ấy chết, xấu hổ quá, tội lỗi quá.

Gã nhớ vài năm sau gã và một thằng bạn già ngồi bàn sau ở lớp học cứ bàn luận xem vú đứa nào nổi nhất lớp. Cuối cùng thì giải quán quân thuộc về con bé lớp trưởng. Nó lớn hơn mọi người vài tuổi mà, lại là đứa đầu tiên đeo coóc-xê ở trường cấp II này. Thằng bạn đố gã sờ vú lớp trưởng. Máu sỹ diện nổi lên gã nghĩ ra một mẹo. Gã bảo thằng bạn hai thằng cùng giả vờ cãi chửi nhau đúng lúc lớp trưởng nhìn thấy. Đúng như dự đoán, lớp trưởng lại gần hai đứa để “can thiệp”. Gã đấm luôn vào mặt thằng kia một quả (vì đã rỉ tai thằng này từ trước nên gã đấm thẳng cánh, chứ thằng này to con lắm đố ai dám trêu nó). Nhân tiện gã giả vờ lỡ đà tạt luôn sang ngực lớp trưởng vài cú “rơ-ve”. Thật là hả hê. Vừa được đấm thằng chó to như con bò chưa ai dám đánh, vừa được sờ ti lớp trưởng, vừa được ăn khao của “con bò”. Sướng lắm, nhưng rồi hắn sám hối. Hình như mọi lời răn đều đang chĩa vào cái nỗi sung sướng của gã. Và các cụ đã thắng. Gã bỗng đâu trở nên nhu mì, trầm lặng, rồi chỉ chú tâm vào học hành. Mặc cho bao nhiêu trứng cá cứ mọc lên hàng mảng lớn mưng mủ trên mặt gã. Các bạn gái chỉ dám tò mò nhìn gã từ xa.

Rồi gã đỗ đại học. Mối tình đầu xảy ra đúng như kịch bản của câu chuyện “Liên Xô” kể trên. Thế mà gã như chẳng biết gì. Gã vẫn chẳng biết “Liên Xô” là gì. Một cơn sám hối khủng khiếp? Liệu có kéo dài đến hết kiếp? Có những hôm ra bể nước ở ký túc xá sinh viên rửa mặt gã thấy vài con bé mặc quần ngủ mỏng dính đít còn vương loang lổ đỏ lòm, gã chợt nhận ra hoá ra bên gã đang có những người đàn bà. Gã chỉ biết thở dài không đâu.

Phải chăng tại gã không biết phở chân chính là gì? Đời gã cứ buồn thương thum thủm như một vết thương hơn 60 năm không lành.

Rồi gã thành thầy. Tâm huyết với nghề. Hết mình vì học trò. Những vết chân vượt khó của gã làm lây lan sức mạnh cho nhiều lớp đàn em thân yêu. Ai cũng nhớ gã, yêu gã và kính trọng gã. Có những con bé xinh đẹp như “liêu trai” còn ngồi vào lòng gã trong những buổi party cùng uống chung cốc bia như trêu ghẹo, như mời gọi. Phải chăng vì trông gã giống Đường Tăng? Vì thế mà phải gặp yêu quái?

3

Giờ đây thì chuyện ăn phở đối với gã đã thành chuyện thường ngày. Không có kiểu phở nào mà gã không biết nữa: tái, chín, tái lăn, sốt vang, áp chảo, xào, tái gầu, tái nạm, phở Cali, phở Hăm Bốn, phở thập cẩm, phở chậu kiểu Mỹ-Úc… Mà đúng là phở có thể được coi là chất gây nghiện vậy. Thực khách không bao giờ biết chán. Vài hôm lại thấy nhớ. Nhưng mà ăn nhiều phở bò ắt có ngày sâu răng.

Hình như gã bị sâu răng thật. Tức là thịt bò thịt gà rất dễ dắt vào những lỗ hà lỗ hổng ấy. Có lần sau khi đi làm về gã đã “tẩn” một bát phở bò tái ngon nhất thành phố. Về đến nhà thì chợt nhớ ra hôm đó là ngày rằm nên gã vội bày biện hoa quả đơn sơ rồi thắp hương. Bao giờ gã cũng cầu khấn các vị thần linh trước, rồi đến tổ tiên, bà cô, ông mãnh, ông bà, cha mẹ. Bỗng lần này gã thấy rùng mình hoảng hốt. Có tiếng nói của ai đó vọng lên như từ trong mồm gã: “Ha ha, miếng gầu tái này ngon tuyệt! Lễ vật thế này mới gọi là lễ vật chứ!” Gã rùng mình kinh sợ. “Mi có biết từ giờ ta là mi và mi cũng là ta không?” Gã thấy mình lên cơn sốt. Gã nhớ tới giấc mộng hồ điệp của Trang Tử, “Trang Chu hoá bướm hay là bướm hoá Trang Chu đây?” Gã thấy mình hoá thành con bò…

4

Ta mê man. Ta mơ. Hay là ta đang chìm trong “dòng ý thức”?

Ờ bò… Nhớ cái ngày đầu tiên được Đặng Thân cho xơi món “ngẩu pín” ở phố Sinh Từ. Dái dài dai, tất nhiên. Chẳng biết là món gì. Đặng Thân chỉ bảo đây là món ăn chế biến hết sức công phu làm từ thịt “hoàng ngưu” được người Tầu coi như thứ thuốc bổ âm dương đông tây kim cổ, bổ quanh đâu đấy. Người Tầu sở dĩ đều khoẻ như trâu, làm việc như chó được suốt ngày là nhờ nó. Ta nhớ cái ngày sang Nam Kinh dự hội nghị văn học trẻ, khi vào “phạn điếm” thì thấy hai chú “Chung của dật mìn” vừa mới chào nhau “Xực phàn mì?” (kiểu như “

How are you?”

của bọn Ăng-lô Xặc-xông hay “Anh có khoẻ không?” của người Việt [mệ kiếp, đã ăn cái chó gì đâu mờ bẩu khoẻ với yếu, thế mới thấy “Chung của” nó đối đãi với nhau rất thực, rất chân thực, rất phồn thực]) là đã lao vào khai vị nải chuối bự cùng hai tô cháo ú hụ. Sau đó vào bữa chính các đại trượng phu tẩn hết một con gà, mấy cân rau cải, và cả cân thịt bò với nồi cơm có nhẽ là đủ cho 10 thằng cu-li pốc-tê Nam Việt. Chúng ăn khoẻ thế thảo nào nhiều em Việt lấy chồng bên ấy khổ nhục biết mấy mà chẳng chịu về nhà, cũng có thể là nhờ món “ngẩu pín”. Nhớ ngày xưa khi Nguyễn Trãi đi tìm Lê Lợi sau bao ngày gian nan thì cũng đến được Lam Sơn chướng khí. Nguyễn được dẫn đến gặp minh chủ thì thấy một nông phu đang dang tay túm chặt cả tảng thịt, tay kia vung đao xẻo từng miếng nhớn nhai nhồm nhoàm, chỉ loáng là đã đi hết quá nửa. Trời! Minh chúa dân tộc mà ăn uống kiểu súc sinh thế này thì thử hỏi dân tộc này có cái gọi là văn hiến mấy ngàn năm không? Nguyễn suýt bật lên thành tiếng. Vận mệnh dân tộc mà rơi vào tay những thằng chỉ biết ăn uống phu phen thế này thì đường tương lai biết sẽ ra sao, rồi cái thân ta liệu có ngày có khác chăng gì con vật kia không? Nguyễn đã định lui gót thì bị/được Lê Lợi gọi giật trở lại. Giá như Nguyễn quyết dứt áo ra đi thì đã không… Giá như… Liệu ta có thể đặt niềm tin được vào cái bọn cứ lấy ăn làm đầu mà không nghĩ hay nói được câu nào tử tế không nhỉ? Cái nền văn minh ấy sẽ đi tới đâu? Chắc dễ đưa tới một cộng đồng

 Hannibal

(hay

 Taliban 

gì đấy) lắm. Ta cũng họ Lê nên thảo nào cũng thích thịt bò. Nhưng có lẽ ta thuộc dòng Lê Lai vì ta nghiện món “ngẩu pín”. Lại nhớ, hiện nay trong các cuộc nhậu tơi bời mà tất nhiên phải có món rượu mạnh được gọi là “Lê Lợi” thì dân nhậu từ tôn xuống ti vẫn phải dùng kèm thêm các loại “xô-đa” như nước khoáng, nước ngô, nước vối, nước lọc… được gọi là “Lê Lai cứu chúa”. Rõ khổ các cụ nhà Lê quá: sống khó nhọc, chết vẫn bị gọi lên làm “giảm sóc”. Không biết là ta có còn là họ hàng gì với Lê Hoàn (Đại Hành), Lê Sát, Lê Chiêu Thống, Lê Nin hay Lê gì nữa hay không? Chuyện “ngẩu pín” thực sự góp phần dinh dưỡng làm nên sức mạnh một dân tộc nào đó làm ta nhớ chuyện mấy ông chuyên gia Đông Đức (nơi đã từng có cao nhân ngôn rằng: “mong sao sáng mai thức dậy được làm người Việt Nam”) ngày xưa đã sang ta để tìm hiểu xem tại sao người Việt có nguồn dinh dưỡng nào mà cho họ sức mạnh kháng chiến bền bỉ như vậy. Và họ đã tìm ra cái nguồn dinh dưỡng bổ béo đặc biệt tro g nước tương, nước cà [pháo]. Ờ, cà…

Có lẽ cà là biểu vật mang tính dân tộc cao, thậm chí thể hiện cả bản sắc văn hoá dân tộc (cái này Bộ Văn hoá, Hội Sử học hay Hội Nhà văn VN đến nay vẫn chưa xác định được, thế mới đau. Nếu chẳng may nhận định của ta mà đúng nhỉ. Hi hi, Nobel là cái chắc! Hơ hơ, chẳng dám đâu…). Cụ thể là cà dái dê hay cà tô-mách nhập từ bên Tây về nên rất to, dài và hoành tráng, lại mang sắc mầu hấp dẫn. Nhìn chúng nó ta sẽ thấy bản sắc phương Tây cũng y hệt vậy. To, đẹp, da căng, hoành tráng. Nhưng mềm và nhũn. Cà ta (cà pháo) nhỏ, xấu, nhăn nheo, nhược tiểu. Nhưng dai và giòn. Hy vọng trong thời đại hội nhập toàn cầu hoá hiện nay sẽ có loại cà Đông Tây hoà điệu ra đời nhờ công nghệ gien. Ôi giá như mà được như thế… Ôi… giá như. Chắc rằng sẽ có một loại kết hợp được cái hoành tráng với cái tiểu xảo, cái mầu mè với cái thô mộc. Có thế xã hội mới đạt được công bằng, văn minh, dân giàu, nước mạnh. Con người sẽ được cất cánh bay lên, cực khoái. Bay lên nào! Nào gì nữa nào? “Nhất bay, nhì bơi, ba chạy, bốn bò”. Chẳng biết cụ nào nghĩ ra cái hằng đẳng thức ẩm thực này nhỉ? Nó cũng quái quỷ như câu về một bữa ăn đủ cả “hải lục không quân”. Thế là mới có “lục quân”, mới có cái “bốn bò”. Bò bò, cà bò... Nghĩ ra cái gì chạy nào… Tẩu vi thượng sách. Chạy à, chạy đi đâu? Mày có chạy đàng trời... chạy đằng trời chứ… Nhưng cứ phải bò đã. Ờ bò… ngủ đã. Trong giấc mơ màng ta thấy mình vuốt râu rồng… và ngay lập tức nó đã thành cú hích sáng tạo… Phải chăng cho một thực đơn có sự tham dự của binh chủng “không quân”?

5

Ta thấy mình khác lắm.

Phải chăng tại ta hay ăn phở? Hay là tại ta bị sâu răng?

Sáng ra ta vẫn đi dạy học. Nhưng đôi khi ta cười nói thật khác thường. Ta hay nhìn ngó các em. Ôi các em gái trông mới ngon làm sao? Nhất là mấy cái con bé mới vào năm thứ nhất. Mười sáu, mười bẩy gì đó. Da trắng, môi đỏ, mắt xanh trứng cuốc (ồ không, trứng sáo chứ). Ôi trứng, món mà ta rất thích. Món đủ cả thái cực, lưỡng nghi. Âm dương, ngũ hành đủ hết.

Ta khoái cái loại thịt “tiên thiên” này quá chừng. Tương lai của chúng là gà, là chim. Nói chung là giống điểu. Cái loại “tiên thiên” này mà đem đi ấp dở ta sẽ có trứng vịt lộn. Loại này rất bổ tinh. Rất tốt cho ai xuất tinh nhiều. Mà thực tế phũ phàng đã chỉ ra rằng cái giống người hiện nay bị hao tổn tinh lực kinh khủng. Chúng bị căng ra khắp các mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế; mưu đồ, ham hố, danh-lợi, chơi bời… Có thế chứ, chúng càng ham hố thì lại càng phải lễ đến ta nhiều. Toàn bọn ăn khoẻ lại càng hay nghĩ đến ta. Nhưng bọn chúng thật là đê tiện. Chúng cho ta ăn chim cầm mà trong bụng toàn cầu mong ăn cả chim sắt. Cho ta 1 đô mà trong lòng hòng có cả tỷ đô. Đã thế ta sẽ cho chúng mày ăn thật nhiều đến bội thực mà chết. Có thằng ta sẽ cho chết vì hóc. Ta sẽ cho chúng mày mấy bài ngụy biện, mỵ dân mà ăn cho khoẻ.

6

Gã đã trở thành nhân vật của báo chí lúc nào không hay. Bởi gã là tác giả của vô vàn vụ án hiếp dâm, giết người, cướp của, tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, rút ruột ngân sách, xã hội đen, băng đảng, lạm dụng chức quyền bức hại dân lành, bán nước, cướp đất, xâm hại trẻ vị thành niên... Chuyện vặt ấy mà.

Xin được điểm qua mấy cái

 title 

trên báo chí hàng ngày hàng tuần như

 Nhân dân, Quân đội, Công an, Thanh niên, Phụ nữ, Đàn ông, Pháp luật, Tôn giáo, Cộng sản, Văn nghệ, Kinh doanh, Giáo dục, Khoa học, Y tế, Năng lượng, Xây dựng, Giao thông, Văn hoá, Cựu chiến binh, Lao động, Giải trí, Thiếu niên

…:

Của tao, của mày, của thằng đéo nào vậy?

Hò hẹn bấy lâu, bữa nay chị Nga mới cho anh Ấn Độ đến chơi nhà.  Chả biết chuyện trò gì mà ra về, gã Ấn Độ thấy “mặt mày hớn hở, ngực nở đầy rôm” thế. Vừa ra khỏi cửa được mấy bước. Bỗng thằng hàng xóm xông ra chửi: “Tỉu nà ma” thằng kia, sao mày dẫm lên cỏ nhà tao.

Copy từ

http://laodochanh.multiply.com

Chàng Ấn ngạc nhiên lắm bèn gân cổ cãi: Đây là đám cỏ trước nhà cô Nga bạn tao. Cớ sao mày nhận là của mày. Đ… mẹ mày. Trông "cao to đen hôi" thế mà cái mặt ngu quá. Trước kia nó của nhà con đó, nhưng bây giờ nó là của nhà tao. Hai bên cãi cọ nhau một hồi. Thằng hàng xóm luôn mồm khẳng định đó là bãi cỏ nhà nó. Anh chàng Ấn thì khẳng khái tuyên bố… bác bỏ. Cuộc cãi vã ngày càng nóng hổi. Đôi bên lời qua tiếng lại chẳng ai chịu kém, Tình hình đã đến độ rất chi là… tình hình. Nguy cơ có thể phải thượng cẳng chân hạ cẳng tay.

Bỗng một gã tây ăn mặc lịch sự, “com lê ca vát cổ cồn” nhà gã ở phía bên kia đường, lên tiếng. Đ… mẹ chúng mày cãi nhau ỏm tỏi nãy giờ làm tao nhức cả đầu. Đây là đất lề đường, là nơi của công cộng. Thằng nào cũng nhận của tao. Thế thì ông đây cũng nhận là của ông, sợ đéo gì thằng nào. Ông cứ ngồi mẹ nó giữa bãi cỏ đây, coi thằng nào cả gan đến đây mà nhận của tao đi cho ông coi…

Thấy bị cô lập, gã hàng xóm đành dịu giọng: Ngài thấy đấy, tôi luôn chủ trương “phát triển hòa bình”. Tất cả các tranh chấp đều phải được “giải quyết bằng ngoại giao song phương”, trên quan điểm “không gây căng thẳng” tại các vùng tranh chấp.

Gã tây gật gù. Lạ đéo gì cái thằng lùn môi thâm mắt hí, chuyên nói một đằng là một nẻo. Ỷ đông hiếp yếu quen thân, lại gian tham số một quả đất kia chứ. Nghĩ thế, gã tây bình tĩnh bảo: Phải như thế mới được. Nhưng bây giờ tao đã ngồi đây rồi. Tao chưa muốn về ngay. Đây là nơi công cộng. Thách thằng nào đến đây mà dọa ông, rồi nhận vơ bãi cỏ này đấy…

Chị Nga nãy giờ đứng trong rèm nhìn ra không dám hó hé câu nào. Bỗng chị mỉm cười ra vẻ hài lòng. Đúng là phụ nữ bao giờ cũng có cái… thế mạnh. Chị chỉ vờ chạm “tí” vào tay gã Ấn một cái là nó mê mẩn như điếu đổ ngay, cứ là bênh chị chằm chặp. Lại nghĩ: Chiến thuật đu giây của mình chả bao giờ cũ. Sài mãi vẫn hiệu quả cao… Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Người xứ ta vốn khôn lỏi. Mình nhún nó một tí cho nó mát mặt. Cứ để chúng tranh chấp lẫn nhau, cãi nhau ỏm tỏi cho nó vui làng vui xóm. Ta chơi quả ăn “hai mang”, bên nào ta cũng được xơi, tội gì… He he he.

Đồng đô la vĩ đại

 Trận đánh nhau kinh trời động đất của anh em con nhà lão Trương bắt đầu từ ba giờ chiều. Trẻ con người lớn rầm rầm kéo nhau chạy về cuối thị trấn nhưng không ai dám liều mạng lại gần. Nhà ấy toàn dân dao búa, đứng gần không phải đầu cũng phải tai. Cho nên dân tình đứng túm năm tụm ba ở những chỗ khuất nẻo mà nhìn toàn cảnh, dĩ nhiên phải chuẩn bị cả chỗ rút lui an toàn.

      Bắt đầu từ mụ Qua, mụ vợ anh cả của mấy anh em con nhà lão Trương. Mụ là dân hàng thịt lâu năm. Có chửa đến tháng thứ bảy mà khỏe như vâm. Mụ vác cái bụng to nhẹ nhàng như vác túi bông, chạy đến nhà tay con thứ hai của lão Trương. Chồng mụ Qua tên là Khang, còn tay con thứ này tên là An. Khang, An. Chắc từ xưa lão Trương cũng muốn cho nhà mình có phúc phận nên đặt tên hai thằng con sinh đôi đầu lòng ý tứ ra phết... Mụ Qua đứng dạng một chân ra, đặt chân kia lên cái thềm xây bằng gạch hoa ở ngoài và bắt đầu “hát”. Dân hàng thịt lâu năm ở thị trấn này mà đã “hát” thì không có gì trên đời này sánh bằng. Đàn ông đứng nghe thì đỏ mặt tía tai, kể cả những tay “chai” nhất. Đàn bà thì đưa mắt nhìn nhau, ngượng với cánh đàn ông. Mụ Qua cho vợ lão An xơi đủ thứ nổi tiếng trên đời. Hai nàng dâu kình địch nhau từ thời mới bước chân về nhà lão Trương nên hễ có dịp là tặng nhau của quý ngay. Nhưng chưa lúc nào dân thị trấn lại thấy hai mụ hăng như hôm nay. Vợ An không phải tay vừa nhưng về mặt dao búa ắt phải thua dân hàng thịt. Mụ nép ở chái bếp gần chuồng lợn ném trả mụ chị dâu những thứ mụ Khang cho vợ chồng nhà này xơi một cách hào phóng. Thật là một bản hợp ca nhiều màu sắc. Lũ trẻ con thị trấn được dịp bồi dưỡng thêm ngôn ngữ dân dã, cứ túm nhau kêu rú lên vì thích thú.

      Khang và An chưa xuất quân vì dù sao cũng là anh em ruột, lại là hai thằng sinh đôi, chỉ khác nhau mỗi cái sẹo trên má. Sẹo không phải do lão Trương nặn mà do anh em trong tù tặng nhau. Hai gã thế thủ hai nơi. Khang ngồi ở hàng thịt chó lão Diêm què bên kia đường, mắt canh chừng cái bụng của vợ. An ngồi bên cái sập gụ gần chái bếp. Hai gã không để sót một lời nào của hai mụ vợ và máu trong người hai gã bắt đầu bốc lên, giống như được gây bằng men rượu.

      Đang lúc cao trào nhất thì cô Cẩn, em của Khang, An vừa đi chợ về. Cô dựng cái “cúp” màu đỏ bầm ngay ở ngoài đường. Dân thị trấn kính nể cô vì cô là người đàn bà đi cúp đầu tiên trong thị trấn, là người đầu tiên có cái cúp màu đỏ bầm, cái màu đáng nể. Cô mặc bộ xoa Pháp màu huyết dụ, móng tay móng chân cô bôi đỏ lòm. Trang phục của cô chính hiệu là thứ của dân bán tạp hóa trên chợ tỉnh. Cô có cửa hàng thầu đồ nhôm Liên Xô to nhất thị trấn này. To nhất, sáng trưng và đắt nhất ở phố huyện. Cô cũng là người đàn bà nổi tiếng nhất, dịu ngọt nhất mà cũng cay độc đến cỏ cũng phải lụi đi khi nghe cô chửi. Lúc này, cô không lồng lộn mà uyển chuyển bước vào cửa nhà An. Đứng giữa hai bà chị dâu và cất tiếng nói. Trong không khí hừng hực lửa căm hờn, cái giọng ngọt ngào của cô nghe lại thấy lạnh xương sống.

      - Thôi, hai chị cho em xin. Nhà em nó cũng vô phúc sẵn rồi.

      Rồi cô cao giọng:

      - Thằng Trọng đâu!

      Trọng là tên gọi trong giấy tờ và trong những dịp như thế này. Còn ngày thường, người trong nhà và dân hàng phố vẫn gọi là thằng Nghẽo. Trọng hiền lành ngớ ngẩn, bị tật bẩm sinh phải đi cà nhắc, hai tay không đưa lên quá đầu được vì thế dớt dãi không chùi, cứ tự do chảy xuống áo, Trọng đi ra, ngửa mặt lên cười. Trọng mặc sang. Bộ bò Thái có thêu chỉ vàng ở các đường khâu. Dãi của Trọng chảy ướt đầm bên ngực, phía trước túi có hình một cô đầm cởi truồng. Cô Cẩn túm lấy gáy gã em út khốn nạn, dúi đầu Trọng về phía vợ Khang rồi lại dúi về phía vợ An. 

      - Mời hai chị. Hai chị cứ róc đôi nó ra, mỗi người một nửa. Quý hóa quá. Đồ thừa thãi thế này bỗng nhiên được lên vua, ai cũng nâng niu yêu chiều. Thôi thì cứ róc đôi nó ra, chả ai kiện tụng gì vì nó sống cũng thế mà thôi. Hai chị em khỏi nhọc lòng lo cho em nó, thêm oải người ra, tội nghiệp...

      Vợ Khang giãy đành đạch, cái bụng chửa của mụ rung lên, có cảm giác thằng con trong bụng cũng máu lắm, đang tăng sức lực cho mụ. Mụ như vừa nói với em chồng vừa chửi vợ An.

      - Cô không phải chì chiết tôi. Cô biết thừa cái con mặt choắt kia rồi chứ. Nó là con của đồ chó đẻ. Con nhà chó đẻ nên tham. Tham gì mà tham thế. Nó giữ rịt thằng bé hai tháng rồi. Hai tháng, tiền đô để nó mua đầu chó về cúng ông bà tổ tiên bên nhà nó. Đến hôm nay phải cho thằng bé về bên tôi chứ. Nó lại giữ rịt lấy, quá nửa tháng rồi còn gì? Nay nhắn mai nhắn, mấy lần đến đón hẳn hoi mà nó đâu có nhả ra. Bà thì bà rạch mặt mày ra, bà tưới xăng đốt mẹ nó cả chồng mày, thằng đàn ông không biết dạy vợ, đang núp trong váy vợ kia... ăn gì mà ăn dày thế?

      Đến nước này có lẽ không ai chịu được nữa. Lão An từ trong nhà vọt ra. Con dao nhọn, loại dao biệt kích dùng thời chiến tranh, đâm một đường trúng phóc vào chỗ đứa con mụ Qua nằm. Có người sau còn nói phét là nghe tiếng đứa trẻ trong bụng khóc thét lên. Vợ Khang hực một tiếng. Cái bụng chửa đến tháng thứ bảy của mụ lăn xuống trước và mụ nằm úp mặt xuống bờ thềm. Người ta kịp giữ được Khang khi gã từ bên quán “Diêm què” phóng ra, tay cầm một thanh sắt dài một mét rưỡi. Khang chưa vội nâng vợ dậy. Khang điên dại lao theo thằng em nhưng người ta đã giữ được Khang lại. Cô Cẩn đờ cả người trước cái cảnh hãi hùng mà cô không ngờ lại trông thấy tận mắt. Máu từ dưới bụng vợ Khang chảy loang ra sân gạch. Cô Cẩn buông gáy thằng Trọng ra.

      Trọng không để ý đến cảnh huyên náo chung quanh mà ngớ ngẩn ọ ẹ cái gì trong cổ họng. Lát sau Trọng ra vại nước múc một gáo, uống rất khó nhọc. Nước cùng dãi dớt lại trút xuống một đống.

* * *

      Lão Trương già ngày xưa cũng làm một chân cán bộ thoát ly, làm việc ở tận trên tỉnh. Lão là nhân viên phòng tài vụ ở cơ quan công đoàn tỉnh. Nhưng ở thị trấn xa xôi này ai cũng cho là lão làm to lắm. Thời thị trấn chưa có điện, lão đã đeo cái đài Ôriôngtông to như cái thùng, lão đi đến đâu tiếng hát loang ra đến đấy, trẻ con chạy theo từng đoàn. Tối thứ bảy nào lão cũng đạp cái Phavôrít từ trên tỉnh về, mặt mũi mãn nguyện. Lão pha trà ngồi ngoài sân đàm đạo với các vị bô lão ở thị trấn về tình hình Đông Tây, về các thần tượng như ông Mao, ông Sít. Đố ai biết được lão sống trên tỉnh thế nào. Lão phải ngủ trên bàn làm việc. Cứ gần sáu giờ sáng là phải mò dậy thu dọn chăn chiếu cho vào tủ. Ăn cơm ba hào ở bếp tập thể, hôm nào có việc về muộn, con bé nhà ăn nó còn mắng như tát nước vào mặt. Lão giấu tất cả những cái ấy trước mặt vợ và dân thị trấn. Giấu cả chuyện có tháng phải bán cả tem phiếu thực phẩm để trả nợ, không được ăn cơm ở nhà ăn, phải nhai bánh mì với muối... Giấu cả chuyện đi khuya, về cơ quan, lão thường trực đã khóa cổng, đêm mưa dầm lão nằm dưới mái hiên bị cảm gió gần chết... Vợ con ở thị trấn khổ sở phụng sự lão. Cho tới khi đẻ đến thằng út Trọng, lão Trương bỗng chán nản, rồi lão tỉnh ra. Lão nói với mấy ông bạn trà là nghĩ cho cùng ông Sít, ông Mao mà lão thờ xưa nay cũng rứa cả thôi. Lão cần gì nữa! Và lão tỉnh. Đến khi tỉnh ra thì lão lại sống một cách tàn tệ. Hai thằng Khang, An sinh đôi vừa hai mươi tuổi, nhập ngũ được nửa năm thì giải phóng miền Nam. Lão xin cho hai thằng xuất ngũ không được thì lão xui chúng đào ngũ. Chuyến tàu khách Bắc Nam đi qua tỉnh hầu như không bao giờ vắng bóng ba bố con. Nhỏ người, nhanh thoăn thoắt, Khang, An trốn lủi tài tình, không chuyến nào thất bại. Đầu tiên là đồ lót của đàn bà con gái. Suốt bao năm, đàn bà xứ này có bao giờ mặc đồ lót bằng hàng ni lông, nên vớ được, đắt chừng nào họ cũng mua. Lão buôn tỏi khô, buôn hồi, buôn quế từ Bắc vào. Đến khi có vốn kha khá, lão huấn luyện cho lũ con buôn vàng. Lăn lóc trong đám buôn chuyến, chỉ nửa năm sau, anh em Khang, An đi đến đâu người ta lùi đến đấy. Đến bọn chó dữ thấy hai thằng con lão đi qua cũng kêu ăng ẳng và chuồn mất. Cho đến nay, trung bình mỗi thằng có ba cái tiền án. Nhưng mỗi lần bọn chúng ở tù ra lại thấy cái mặt chúng câng câng thêm. Đi ngoài đường nhỡ như có ai bị chúng đá phải thì lập tức nhún nhường xin lỗi chúng.

      Lão xây nhà cho hai thằng Khang, An. Lão chọn được con dâu xứng đáng cho hai thằng; Một đứa bán thịt, một đứa là chủ sòng. Được đứa con dâu chủ sòng này thật là đại lộc. Cả thị trấn bị hút vào sòng của nó, cho đến khi, vào cuối năm, công an huyện lần ra và túm sạch. Mất trắng mất trơn nhưng con dâu lão Trương rõ đáng mặt anh hùng. Không một giọt nước mắt khóc than, nó đi đưa cơm nuôi chồng một năm tù, bụng chửa vượt mặt. Sinh con xong nó mở hàng bia. Bao nhiêu năm rồi dân thị trấn có biết thế nào là ăn nhậu? Nó giàu lên trông thấy, nhưng có lần bố chồng đến vay nó nửa chỉ, đến khi trả nó đòi cả lãi, không bớt một trinh. Cái máu tham tiền của mấy cô con dâu đến lão Trương cũng phải gờm. Vợ Khang đến vay bố mẹ chồng hai cây gỗ lim để làm bếp. Khi bếp làm xong, nó mời lão Trương đến xem rồi ngọt ngào, tươi cười:

      - Thật may cho con quá, bố cho được mấy cây gỗ tốt chứ mua thì mất ối tiền lại không kiếm đâu ra thứ này.

      Lão bố chồng đắng ngắt trong họng mà không nói gì được. Dù sao lão cũng có mấy chục năm làm cán bộ thoát ly nên khi con dâu xử lỡm, lão vẫn còn tý chút sĩ trong người để không biết đối đáp với nó ra sao. Uất đến chết người vì nó cho rằng mình nghe nhầm, hóa ra là nó xin!

      Tiếp theo hai thằng Khang, An lão Trương đẻ liền hai cô con gái. Cô Cẩn giống tính hai thằng anh như hệt. Hình dạng bên ngoài thì khác hẳn. Sức vóc cô như trai cày, dạo chưa làm ăn được, cô không bao giờ được ăn một bữa no. Đi đứng huỳnh huỵch như thế, cô lại đồng ý lấy Lân, gã trai ốm nhom ốm nhách mới đi học ở nước ngoài về. Bên ấy Lân phạm tội buôn lậu với dân Ả rập nên bị chính phủ nước sở tại đuổi. Sứ quán Việt Nam cho Lân về nước mà không đòi  hỏi gì vì Lân có bà ngoại ngày xưa đã từng đưa cơm ra hầm bí mật cho ông gì bây giờ làm to lắm. Lân thi vào đại học đến bảy lần thì được đậu vớt và được đi Tây. Ở bên ấy mấy năm mà Lân không thể nói sõi được câu trao đổi thông thường ngoài cửa hiệu. ấy vậy mà Lân giàu lắm, Lân mang về nước bảy thùng hàng gồm hai ngàn cái bàn là, bốn ngàn cái chậu nhôm, ba cái tủ lạnh, một ngàn rưỡi cái ấm điện, một ngàn cái nồi áp suất và ty tỷ thứ linh tinh lặt vặt khác. Cái nào cũng có giá trị. Lân cõng đống hàng về thị trấn giữa thời buổi đang lưu hành bài “mười yêu” mới:

      Một yêu anh có may ô

      Hai yêu anh có cá khô ăn dần

      Ba yêu rửa mặt bằng khăn

      Bốn yêu có thuốc đánh răng hàng ngày

      Năm yêu anh có điếu cày...

      Thời đó bố vợ tương lai của Lân lẩy Kiều:

      Bắt cởi trần phải cởi trần

      Cho may ô mới được phần may ô...

      Em trai Lân đi cấp cứu, vì dùng phải thuốc đánh răng làm toàn bằng bột vôi. Còn ở cơ quan huyện, chỗ căng tin, một buổi sáng thông thường người qua lại dừng chân đọc thông báo hàng mới: “16 đồng chí nam được phân phối một quần đùi”.

Chí Phèo thời BLOG ( đọc ngay kẻo tiếc lắm đó)

Viết lúc 4:52 chiều 27/04/2011

Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ bia xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng của nhà nào? Rồi hắn chửi mạng. Thế cũng chẳng sao: Mạng lởm nhưng chẳng là ai.

Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Blog Việt. Nhưng cả làng Blog Việt ai cũng nhủ, "Chắc nó trừ mình ra!". Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Ðã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ.......kiếp!!!!!!!!!!!!!!!!

Thế thì có phí can bia hơi Hà Nội 5lít với con mực khô nướng không? Thế thì có tốn tiền hắn online không? Không biết đứa chết mẹ nào cứ tạo ra blog làm cho hắn khổ đến nông nỗi này. Aha, phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào lôi kéo hắn lên blog đong gái, lên blog post bài! Hắn nghiến răng mà chửi cái đứa đã xúi giục đi thi này thi kia! Nhưng biết đứa nào đã lôi kéo hắn lên blog! Có trời mà biết! Hắn không biết, cả làng Blog Việt cũng không ai biết...

Một anh luyện Võ Lâm Truyền Kỳ, một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn mệt  mỏi và xám ngắt trong chiếc quần Dệt Kim Đông Xuân và cái áo phông Hoàng Tấn bên bãi rác, cạnh nhà xác Văn Điển. Anh ta rước lấy và đem về "Tẩy Thủy" cho một người đàn bà góa mù. Người đàn bà góa mù này ban hắn cho một bác phó cối kiếm BỘ RỒNG XANH cày Mu, và khi bác phó cối này chết vì mải mê theo những Vũ Điệu Hiphop của AUDITION thì hắn bơ vơ, hết đi ở chỗ quán này lại đi ở chỗ quán nọ.

Năm 20 tuổi, hắn trông hàng net cho ông Bá Kiến, ăn tiên chỉ của làng. Một con người nổi tiếng với tài chém gió thành bão, thân tiềm tuyệt thế võ công Đong Gái Chân Kinh 72 Thức, đã tôn vinh hắn từ nông dân lên công dân thành thị, từ trai thôn quê lên Hot Boy Blog Việt. Cộng thêm kiến thức vô hạn về mạng, chat nhanh như chớp kèm theo một list "hàng kẹt Net" dài như sông Hoàng Hà khiến hắn đi đến đâu là già trẻ lớn bé, từ "U sơ sinh" cho đến đến "U xuống lỗ" chết mê chết mệt đến đó.

Tất nhiên, là một người trưởng thành từ vùng đất hoang dã, cộng thêm tinh thần quán triệt "Trẻ không tha, già không thương" hắn đã làm tan nát biết bao bông hoa Cứt Lợn, vùi dập biết bao bông Vạn Thọ. Với những tố chất trên, Chí Phèo đã hút hồn biết bao nhiêu cô gái trong làng Blog Việt nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. Nổi tiếng là người có tính tình ôn hòa, dịu dàng, súc vật không giết, trẻ con không la... Vì hắn sợ sẽ đánh nhầm phải con mình!!!

Tiền thì đối với hắn cứ gọi là "biển" với một tài khoản khổng lồ từ việc hắnhack Credit Card chùa trên mạng. Thiên hạ nào có hay, có người thì bảo hắn buôn ma túy cho Trịnh Xuân Thủy để tiêu xài. Mỗi người nói một cách. Chẳng biết đâu mà lần. Chỉ biết một hôm hắn mặc áo rách bị người ta đưa lên con Maybach 62S rồi biệt tăm đến bảy, tám hôm rồi một hôm, hắn lại lù lù ở đâu lần về.

Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng dân chơi! Cái đầu thì nhuộm xanh nhuộm đỏ, cái răng thì vàng khè vì rít thuốc nhiều, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc áo "Giáp Lò Rèn" (Ralph Lauren) đen với quần "Lê Vịt " (Levis) vàng. Cái ngực phanh, để lộ rõ chiếc dây chuyền mỹ kí mạ vàng 18 ga-ra mà hắn mới mua ở... chùa Hương. Trông chơi vãi!

Kể từ đó, từ "Những người khốn khổ" (Victo Hugo) hắn đã "đú theo chiều gió",cuốn vào những cuộc thi avatar bất tận, những cuộc theme design khôngcó điểm dừng, hắn như chiếc tuần dương hạm lênh đênh trên các blogkhông biết bến đỗ là đâu... Con người cục cằn, thô lỗ này còn đâu, thay vào đó là là một dân chơi chém gió thành thần, khét tiếng Blog Việt. Khoác trên người anh bây giờ là những hàng hiệu như "Đôn Chề Gắp Mà Ăn" (Dolce & Gabbana), "Ác Ma Ni Ếch Chiên" (Armani Exchange)... cùng với một dàn xe bóng bẩy như "BẾ EM VỀ" (BMW), "Xe ra gì" (Ferarri)... đã đẩy hắn lên hàng HOT Blogger tại vùng đất khét tiếng bon chen và thị phi này...

Hắn lại vào Tý Hói uống cho vơi hết nỗi buồn, uống cho "chỉ có bia mới hiểu bụng mênh mông dường nào, chỉ có bụng mới hiểu bia đi đâu về đâu". Sau khi đánh chén hết 2 đĩa chả ****, 1 bát rựa mận, 2 cái đùi **** và 5lít bia hơi, hắn liêu xiêu lẹo vẹo ngồi lên con PS. Nhưng hắn không về ngôi nhà 5 tầng giữa bãi tha ma mà đóng thẳng ra sông Hồng. Hắn định sẽ nhảy xuống tắm cho khỏi ngứa rồi lăn ngay ra vườn mà ngủ. Tội gì chui vào nhà, bức đến không còn mà thở được. Một thằng như hắn, đập đầu không chết, huống hồ là gió sương... Ðến bờ sông hắn dừng lại, vì hình như có người. Có người thật, và hắn ngây ra nhìn.

Hắn nhìn giữa hai kè đá và tựa lưng vào một gốc cột điện, một em gái nõn nà ngồi tênh hênh. Chính là một em gái, hắn biết vậy là nhờ mái tóc đen nhánh, óng mượt như tơ, như vừa dùng SunSilk Bồ Kết buông xuống vai trần và ngực... Hai bàn tay chuối mắn của em buông xuôi, cái mồm em chu lên trăng mà ngủ hay là đòi hôn. Ðôi chân trắng muốt, thẳng như vừa được duỗi, cái váy đen xộc xệch.

Bên kia, có lẽ vì em giẫy cái váy xộc xệch để lộ... chiếc quần con rõ chữ Victoria Secret ở giữa. Tất cả những cái ấy phơi ra trăng, rười rượi những trăng làm trắng những cái đó có lẽ ban ngày không trắng; trăng làm đẹp lên. Chí Phèo tự nhiên thấy ứ đầy miệng bao nhiêu là nước dãi, mà cổ thì lại khô, hắn nuốt ừng ực, hắn thấy cái gì rộn rạo ran khắp người. Bỗng nhiên hắn run run. Ồ tại sao lại như thế được? Ðáng nhẽ chính em gái mơn mởn kia phải run mới phải, cái "con nai vàng ngơ ngác" đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay trước mặt hắn này.

Buổi Sáng Biến Mất

Tác giả: Ngô Phan Lưu

Xóm Ao hiện có hai người bệnh trầm trọng. Rất nặng. Nặng đến mức, giờ đây cái chết nhẹ ngang bằng hơi thở. Đó là chú Khiêu chồng thím Xanh. Đó là bà Mển vợ lão Sùng. Cả hai đã là trái banh trong chân đội banh Nhà Thương. Đội banh ấy đã cố gắng chuyền nhau, không cho lọt vào “ gôn ” Tử Thần, nhưng đều thất bại, để trái banh bị lủng, và cũng vì đá quá, cuối cùng xẹp hơi… Ruộng rẫy, bò trâu đã bán sạch. Gia đình họ đang trên bờ vực thẳm… Chú Khiêu ung thư gan thời kỳ chót! Bà Mển ung thư phổi thời kỳ chót! Chờ chết!

Tổng quát, tình hình là như vậy, bi thảm là vậy. Đó là lý do sáng nay, Thuỳ đưa hai túi ny lông đựng cam sành và sữa hộp cho Thuấn:

– Anh đi thăm họ nhanh lên… Chần chừ sẽ không kịp thăm!

– Họ ăn được gì mà cam với sữa. Tiền tốt hơn.

– Họ ăn bằng mắt.

Thuấn nín lặng trước câu nói của vợ. Phải! Người sắp chết không ăn gì, nhưng phải có đồ ăn để thấy!

Thuấn xách hai túi cam, sữa, vội vàng ra khỏi nhà, quyết định đến chú Khiêu trước. Anh bước nhanh, tâm trạng bồng bềnh…

Vừa bước chân lên thềm nhà, Thuấn đằng hắng mấy cái… Thấy Thuấn, thím Xanh lật đật bỏ cái thúng đan dở, đứng dậy thoăn thoắt ra cửa, xìa tay đỡ cả hai túi cam và sữa, đặt lên chiếc bàn gỗ tạp xiêu vẹo nơi hiên, miệng phát tía lia như súng liên thanh khạc đạn:

– Chú mày cứ đòi chết, đòi chết, đòi chết… ăn được gì mà mua nhiều thế này, thế này… Cứ đòi chết, đòi chết… không thèm sống, không muốn sống… Cứ đòi chết…

Xổ xong tràng âm thanh khoẻ mạnh ấy, thím nhanh nhẹn chuyển hai túi quà vào đặt trên bàn thờ tổ tiên, đoạn trở lại nơi góc phòng, đan tiếp cái thúng dở dang, dường như Thuấn không có mặt ở đấy, bình thản đến lạnh lùng. Thuấn chưa kịp mở miệng nói gì được. Gặp thím là anh câm luôn!

Chú Khiêu được đặt nằm trên chiếc chõng tre sát cửa sổ không cánh, trông thật hoang vu. Da chú màu vàng pha xanh như màu trái bưởi non. Có mấy chiếc lá vàng bị gió quật bay vào đậu trên ngực chú. Anh kéo chiếc ghế đẩu vuông nhỏ, ngồi cạnh giường. Vừa nhặt mấy chiếc lá trên ngực chú quăng ra ngoài, vừa nói động viên:

– Chú lạc quan lên, coi nào! Cứ đòi chết, đòi chết… chết thật đấy! Cái chết mà bực lên nó không tha ai đâu!

Chú Khiêu nhăn nhó, miệng móm riết, nói đứt quãng:

– Sống mà đòi chết là… người ngu! Sắp chết mà đòi sống… lại càng ngu hơn! Chú không phải người ngu!

Thuấn sững sờ nhìn chăm chú chú Khiêu. Dường như đằng sau lưng câu nói của chú là một khoảng mênh mông cay đắng. Mà cũng dường như câu nói ấy không phải nói với anh, nó dường như một tảng băng trôi về hướng thím Xanh đang ngồi thản nhiên đan thúng. Khuôn mặt vàng pha xanh hốc hác, đôi mắt lõm sâu không nhìn ai cả của chú Khiêu khiến anh nao lòng. Đôi mắt nhìn vào bên trong, thấy sự tan tành một kiếp người một cách kiên cường tuyệt vọng. Nó ráo hoảnh đến se sắt! Đột ngột, chú Khiêu oằn người, mặt nhăn riết, mồm méo xệch, mắt nhắm nghiền, tay ôm bụng. Có lẽ có một cơn đau vừa dạy lên nơi bụng, từ gan… Thuấn luống cuống… Phải! Chú Khiêu nói phải! Đau đớn mà đòi sống, đúng là người ngu! Phải đòi chết cơ, như chú đã đòi! Có lẽ, cạnh những chân lý năm tháng dài hạn, còn có chân lý phút giây ngắn hạn. Mà cái chân lý phút giây ngắn hạn ấy lại có thể là chân lý vĩnh hằng! Một màn sương hiu hắt vừa rớt phủ vào Thuấn, anh thấy chú Khiêu vừa mờ đi… Ở đấy, trong cái màn sương hiu hắt ấy, sự háo hức, cái vui hơn hớn, cái kiêu hãnh, những tự xưng giá trị… không dám bước vào, bởi chúng bé mọn quá, tầm thường quá!

Biết làm sao được, Thuấn cũng lại phải an ủi, động viên chú Khiêu với một ý thức rõ, mình đang đuổi trung thực ra khỏi mình:

– Nói thế sao được, hả chú ? Cứ xem lão Phiệt đấy, cũng trầm trọng chí tử liên miên, mua hòm trước có đến ba lần, đều cất đấy chờ mọt ăn. Vậy mà nay vẫn sừng sững chén thịt chó…

Chú Khiêu quay mặt lơ đãng ra cửa sổ, nơi có tiếng hót trong veo, ríu rít của mấy chú chim sâu trong khóm lựu xơ xác. Chú lại nói, giọng yếu ớt:

– Mua hòm trước là… người khôn! Không mua hòm trước là … kẻ dại! Chú đã dại! Chết rồi, ai mua ?

Thuấn lại nín lặng. Cái nín lặng buộc anh nín lặng. Lại cũng ở tầng sâu câu nói ấy, trùng trùng cay đắng oán hờn! Thì ra, tất cả những gì không phải xương thịt trong chú Khiêu, đã tan vỡ! Ừ, phải và có thể, chân lý mà không riêng lẻ, là không chân lý nữa rồi! Làm gì có chân lý ngắn ngày, dài ngày, làm gì có vĩnh hằng, giây phút, có lẽ chỉ có chân lý riêng tư mà thôi! Lại một màn sương hiu hắt đậm đặc hơn, tiếp xuống! Câu nào anh thốt ra đều hỏng trước chú! Ngồi cạnh chú, anh thẫn thờ…

Lúc này, có chú y tá bước vào nhà. Đã tới giờ chích moọc phin giảm đau. Thuấn hỏi vu vơ, không nhìn chú ta:

– Không có ánh sáng à ?

– Tối thui! Gan trầm trọng!

Nghe thế, Thuấn quay lại, xua tay… Nhưng chú y tá đã cười:

– Chú ấy rõ rồi! Vợ con chú ấy đã nói vào tai: “ Gan ông đã nát rồi! ”.

Nghe thế, Thuấn hụt hẫng, đột ngột chơi vơi vào một vùng mênh mông im lặng. Một vùng không tên. Một vùng chết. Một vùng tê liệt… Như một phản xạ, Thuấn nhìn chăm chú vào chú Khiêu. Trên khuôn mặt gần như lần đầu, không có gì xảy ra cả. Cái chết đã là bạn thân quý của chú rồi! Và, rõ ràng chú chờ người bạn ấy. Không những chờ, mà còn quý người bạn ấy. Một người bạn im lặng âm u, không hình hài vậy mà rộng lớn vô cùng, chân thành thân thiết với bất kể ai, bất kể tuổi nào!

Chú y tá đóng xong mũi moọc phin, xách túi ra về, chẳng nói gì, cũng không chào ai… Rõ ràng là chú ấy không muốn nán lại.

Cõ lẽ đã bớt đau, chú Khiêu thều thào:

– Có ai đưa tôi chai dầu!

Thuấn vội hỏi:

– Ở đâu ? Tôi lấy cho.

Nghe thế, thím Xanh từ góc phòng, ngừng đan thúng, móc trong túi áo chai dầu lèo xanh, quăng đến cho anh. Anh không ngờ thím lại quăng, nên chụp lấy không kịp, chai dầu lèo rớt ngay trên bụng chú Khiêu. Quả là nó rơi trúng ngay vùng gan đau. Mặt chú Khiêu méo mó, xám trắng vàng xanh lẫn lộn, mắt cụp lại, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cố chịu cơn đau, không cho bật ra một tiếng rên la đau đớn nào! Thuấn hốt hoảng nhặt chai dầu xanh lên. Anh sững sờ. Chai dầu còn mới nguyên, vỏ giấy chưa bóc, loại dầu xanh Con Ó, giá thị trường khoảng bốn chục ngàn đồng. Cổ họng anh đắng nghét, khô khốc, anh nuốt nước bọt hơi đau, như vừa bị viêm họng. Một tia sáng vừa xoẹt ngang, tia sáng xuất phát từ chai dầu gió xanh: Có lẽ vì có anh, nên thím Khiêu mới quăng ra chai dầu, mà có lẽ cũng vì có anh, nên chú Khiêu mới đòi thoa dầu! Trong anh, tất cả nhà này đều rơi lả tả, vỡ tung… Làm gì có chân lý chung, riêng, ngắn hạn, dài hạn. Chúng đã thành rác rồi!

Ngay lúc này, vang tiếng chân nặng nhọc bước vào nhà. Đó là anh Nam, con trai chú Khiêu. Anh đang vác một bao lúa trên vai, mồ hôi chảy như suối. Có lẽ, anh ta đã đi vay mượn từ khá xa đem về. Trông anh rất mệt. Anh không chào Thuấn, nhưng Thuấn lại vụt đứng dậy, hỏi một câu ngớ ngẩn đến lợm giọng:

– Sao ? Bác sĩ bảo sao ?

Thuấn biết câu hỏi của mình là câu hỏi thừa thãi, chức năng của nó chỉ là biểu hiện sự luống cuống để thay lời chào vô duyên. Nếu chẳng có ai trả lời, nó sẽ rơi vào lại chính anh, để không biết ném đi chỗ nào! Anh Nam quăng bịch bao lúa xuống nền nhà, bụi lúa bay vất vưởng. Giọng anh khô khốc:

– Bảo sao à ? Như chiếc xe trành! Chế chút xăng vào, lại rống lên! Chờ ra bãi thải!

Câu trả lời anh Nam tuôn ra, mang một sức nặng lạ thường, đã ấn nhẹp Thuấn phịch lại xuống ghế đau điếng! Đó là sức nặng của một tan rã giá trị, tan rã triệt để! Anh thần người! Sao lại thế nhỉ ? Ai bắt anh ta nói câu ấy ? Ai bắt anh ta nói ? Thuấn méo mặt, như có ai đó vừa thọc vào tim…

Vẫn không nhìn ai, anh Nam cởi áo lau mồ hôi mặt, đi thẳng ra hè sau. Thuấn ngơ ngác, nhìn quanh quất căn nhà trống trơn của chú Khiêu. Trên tường nứt nẻ kia, móc một tấm lịch hình ba ông Phúc, Lộc, Thọ cứt ruồi đầy mặt, áo xống loang lổ bụi thời gian, “ lốc ” lịch vẫn còn nguyên không ai xé! Bên này, xót lại bàn thờ tổ tiên hoang lạnh, nơi có hai túi quà cam sữa của anh chễm chệ như khách quý! Đột ngột, trong một tích tắc như có một sức mạnh vô hình lôi anh, anh nhoài người về phía ấy để làm một tên tiểu nhân hèn mạt, một gã vô liêm sỉ, một thằng côn đồ táng tận lương tâm, để giật lại hai túi quà đem đi chỗ khác. Đem đi chỗ khác cho dù quăng đi cũng được, bởi thế nào, thím Xanh và anh Nam cũng sẽ ăn! Nhưng không, một tích tắc qua rồi, anh đã ngồi thẳng lại. Anh đã không làm được! Cho dù có rứt xé, anh vẫn là anh, một người tên Thuấn! Cái tên là ngôi nhà của anh, cũng là ngôi mộ của anh! Rồi cũng thật đột ngột, anh quay nhìn chú Khiêu để xem chú còn hay mất. Chú Khiêu vẫn còn… Chú đang cắn chặt hai hàm răng chú đã lún mất vào nướu, đôi mắt nẹt lửa. Trông chú như vừa run, vừa cười, vừa khóc. Tất cả những cái ấy chú đã nuốt vào bụng, và ngay nơi cái vùng gan đau nơi bụng! Chú cuộn người như cái lò xo trong sự yên lặng cực kỳ! Từ người chú, không phát ra bất kỳ một âm thanh nào, cho dù âm thanh hơi thở! Anh đang xem một đoạn phim câm cực kỳ câm lặng! Cái nghèo bọc lấy sự hoạn nạn đã bốc khói! Tại sao bốc khói ? Tại vì những thứ đẹp đẽ đã cháy rồi! Và, cũng thật đột ngột, anh cũng y như chú Khiêu, răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, môi mím lại, anh vụt đứng dậy, quăng chai dầu gió xanh lại cho thím Xanh, bước nhanh ra khỏi nhà, mang theo một lòng thương kỳ lạ đến ác độc, là thương… tại sao chú Khiêu không chết đi, để ra được khỏi nhà!

Anh loay hoay với lòng thương kỳ lạ ấy, buổi sáng đã biến mất, quên cả thăm bà Mển như chương trình.

Gốc đa làng

Theo

anninhthudo.vn

- 4 năm trước

(ANTĐ) - Xã ở gần huyện, nên phố huyện duỗi vào làng theo con đường cát mịn, xuyên qua cánh đồng bắt đầu từ bao giờ, ít người để ý. Đi tiên phong là những hàng quán rồi mọc lên nhà xây, nhà tầng.

Có lẽ sạp báo có bán đủ thứ sách cũ và mới xuất hiện sau cùng, sau cả hàng thịt có biển hiệu mộc mạc: “Thịt chó”. Trong làng có một vị khách gần như chiều nào cũng đến. Đó là lão Hỷ, 74 tuổi ta từ năm ngoái. Lão cũng là một trong khách hàng đến mở hàng ngay buổi đầu tiên và có mặt cho đến hôm nay dễ đã sáu, bảy năm.

Vào quán, lão chỉ ngồi một chỗ nhất định ở góc khuất. áng chừng tới giờ lão sắp ra, có ai ngồi vào chiếc ghế ấy thì nhà chủ xoa tay nhã nhặn: “Thưa... đây là ghế của cụ Hỷ, cụ sắp ra bây giờ đấy ạ. Xin mời...”. Thực đơn của bữa nào cũng thế: Hai chén rượu trắng, một đĩa lòng chỉ có dồi và vài miếng gan nhỏ, vừa năm nghìn đồng.

Gần đây, giá chó hơi tăng, thêm hai nghìn nữa. Lão ăn chậm, uống chậm, không bắt chuyện với ai, khi đĩa nhẵn, chén cạn, lão đứng dậy chào chủ hàng, trả tiền rồi về.

Hôm chủ nhật vừa rồi, có một cô bốn cậu học đại học, là người ở xã lân cận, cùng huyện, đi thực tập, nghe tiếng ngon của quán thịt chó này, đã tới thưởng thức.

Khi các

món ăn

và rượu bưng tới chiếc bàn to có năm người, thì một cậu có vẻ là người “chủ chi” cho bữa ăn đã nhìn thấy lão Hỷ bên chén rượu vơi và vài miếng dồi dính ở đĩa, đã cung kính đứng dậy chắp tay thưa:

- Thưa ông, năm anh em chúng con mời ông sang bàn...

Lão Hỷ mỉm cười, gật đầu và đứng dậy, cầm chén, bưng đĩa:

- Cảm ơn các cháu.

Cô gái nhanh nhẹn mang ghế cho lão. Lão nói ngay:

- Ông ngồi đây với các cháu cho vui. Chứ răng ông không nhai nổi thịt chó từ lâu rồi. Chỉ món này thôi... (tay trỏ đĩa dồi)

Cô gái lại nhanh nhảu thưa:

- Để con cắt thật nhỏ cho ông xơi ạ...

Đôi hồi câu qua câu lại giới thiệu và tự giới thiệu, lão Hỷ trỏ món chấm là mắm tôm, cười hồ hởi:

- Ông để râu, chấm món này, cả tuần vẫn còn mùi...

Cả năm chàng trai, cô gái oà lên cười thích thú. Sáu ông cháu vào chuyện thân tình, thoải mái, ân cần. Một lúc sau cậu “trưởng trò” hỏi lão Hỷ:

- Ông ơi! Hồi còn bé, cháu đến chơi nhà bạn cháu, thấy ở đâu đây có cây đa to lắm. Bạn cháu đã rủ cháu ra nhặt búp đa...

Lão Hỷ uống cạn chén rượu, nói:

- Từ chỗ này, đi lên chừng mười bước chân, là nơi cây đa ấy mọc thành... gốc đa... ở phía dưới ấy...

Cả năm cô cậu nhìn theo. Chỗ ấy giờ là một ngôi nhà tầng. Tất cả cùng ngơ ngác. Lão Hỷ ra lệnh rót rượu nhưng chưa uống. Lão cầm tay cậu “trưởng trò”:

- Cháu nhớ đúng đấy. Hồi bé, ông cùng mấy bạn hay ra gốc đa chơi. Người trong làng đi cấy, đi chợ về vẫn ngồi gốc đa mà nghỉ chân. Bọn trẻ con như ông lúc đó vào hôm trời nóng nực, còn nằm gối rễ cây đa mà ngủ trưa. Gốc đa sạch lắm. Không có sâu bọ rắn rết gì đâu.

Chim, cò làm tổ trên cành đa, không thứ sâu bọ nào còn. Gốc đa suốt ngày có người, lá rụng thì quét, rễ đa nổi gồ lên nhẵn nhụi vì người ngồi. Bọn ông lúc bé, những đêm trăng sáng rủ nhau ra gốc đa chơi. Tới khuya, bọn con gái về nhà, bọn con trai ngủ luôn ở gốc đa... Thích lắm. Ông hay ngủ ở giữa hai rễ cây đa ấy...

Một cậu hỏi:

- Thế ở nhà, bố mẹ ông không đi tìm à?

Lão Hỷ cười:

- Bố mẹ ông biết rằng ông đã ngủ ở gốc đa như bố ông đã chơi, đón trăng và ngủ lại ở gốc đa ấy. Cây đa... (giọng Lão Hỷ buồn) đã bị cưa từ cách đây mười năm để giải phóng mặt bằng, xây nhà... Và cưa luôn tuổi thơ của ông và các bạn ông.

Gốc đa ấy cũng là nơi hò hẹn của biết bao đôi trai gái yêu nhau. Nơi mà các bà mẹ tiễn con tòng quân hồi kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; nơi vợ tiễn chồng, tiễn người yêu tới gốc đa thì dừng lại...

Cây đa giờ đã không còn. Lão Hỷ uống cạn chén rượu vừa mới rót và đứng dậy. Cô gái vội nắm lấy cánh tay lão:

- Để con đưa ông về. Ông là gốc đa của làng chúng con đấy, ông ạ!

Lão Hỷ gật đầu.

.CƠM ĐẦU GHẾ

Phố lốc cốc No "Lô cốt Bắc" bây giờ là phhố Phó Đức Chính, gần cổng nhà máy điện Yên Phụ, có dãy hàng cơm. Cơm đầu ghế, cửa hàng gian ngoài bày cái chõng tre, đôi khi là tấm cánh cửa được ngả xuống, xếp gạch làm mễ. Cái chõng, cái ghế dài chơ chỏng. Người ăn cơm xúm xít, chen chúc trong nhà, ngoài hè. Gọi là cơm đầu ghế, có lẽ bởi quang cảnh vậy.

Có đến hàng chục quán cơm ở đây. Thợ nhà in Ideo, thợ nhà máy điện Yên Phụ ra ăn, buổi trưa đông túi bụi. Nhà hàng vào bưng các thứ. Cơm đựng bát đàn úp bát chiết yêu. Canh cà chua nấu mỡ xuông. Dưa muối, đậu om. Không biết có ai làm cút rượu, tôi chưa biết để ý đến rượu chè.

Toàn khách quen mọi ngày. Chỉ có đôi ba mặt lạ, những người cu li ngồi đợi đổi giờ bán lại giờ thuê xe cho nhau cạnh chân tường gần đấy, bỗng kiến bò bụng.

Hàng cơm chỉ bán cho khách ăn trưa. Mẹ com bà Hai thuê của chủ gian nhà ngoài có nửa buổi. Cơm nước bán xong lại cất dọn đâu đấy, trở về nhà tận trên Thụy.

Buổi trưa, nhà in, nhà máy điện tan tầm. Người ra ùn ùn, chen nhau đi ra đứng trước mặt lão Tây đen gác cổng. Tây đen vuốt trên mình xem có con chữ, xấp giấy, cái đinh, phao đầu, có ai xoáy của nhà máy đem ra không. Đàn ông, mà cả đàn bà cũng cứ Từ Hải chết đứng dạng háng giơ tay, cho người Tây đen khoặm mặt, lần các túi và mép áo.

Hàng nhà bà Hai đương đông , chẳng bỏ đâu hết người. Hai mẹ con tíu tít trong bếp ra, lại chạy vào. Có hôm vội, phải thêm một bà già ngồi vần nồi hai mươi cơm, giữa lửa củi đùng đùng. Những bát cơm úp mở ra bốc hơi nghi ngút thơm khắp nhà. Miếng đậu rùn, bát canh hành cà chua  lõng bõng nước. Không nhớ khi trời nóng, ngần này người chui vào cái túi thế thì sao. Chỉ biết quang năm vẫn thế.

Khách ngồi ràn rạt kín ra đến bậc cửa. Đủ cách đủ kiểu người ăn cơm hàng. Có người trả tháng trả tuần theo ky lương. Có người buông bát đứng dậy, cầm dọc hai chiếc đũa chùi lên mép rồi móc ví lấy tiền trả rồi tất tả bước đi. Bà chủ hàng cơm sinh nghi, nhìn theo và xỉa tiền đếm lại. Cũng phải cẩn thận thế thật. Lúc đông khách thật khó. Có người ăn, rồi bảo không gọi món ấy. Có người ngồi nghê nga xỉa răng, rồi thoắt cái lỉnh đi lúc nào. Lại có người chén hết hai bát cơm úp xong bảo không có tiền, cứ ơ ra. Cái lúc bối rối đông khách thế, không tĩnh tâm, không khéo mất tiệt.

Ông thợ chữ nhà in mặt béo bệu đỏ phính, đội chiếc mũ dạ thủng một lỗ. Hôm nào cũng vào treo mũ lên đúng chiếc đinh ấy ở cột trong. Ông chỉ ăn cơm với dưa và chan nước dưa, hôm nào cũng thế. Chẳng lạ, nỗi đồng lương ít ỏi, ai cũng vừa ăn như vừa đếm tiền túi. Cái điều tôi nhớ là mỗi khi ông ấy trêu bà Hai. Chốc chốc lại cất giọng lè nhè. Bà hai ơi...bà...hai...nhà tôi...ởi. Cả gian nhà cười lung lay, vách cũng răng rắc như nổ đố. Bà Hai đỏ lựng mặt, chu chéo : Phải gió cái nhà ông này! Nhưng bà không giãy nảy ra, mà vẫn te tái bưng cơm. Lại nghe the thé cái giọng ông thợ chữ : thêm tý nước dưa, con gái nào! Nhưng bà Hai đã quát con gái đi làm việc khác. Nhà anh kia ! Tính tiền à...Ấy ấy...ba xu rưỡi...à hai xu...Bởi vì nước dưa ông thợ chữ chỉ xin thêm, không tính tiền.

Mấy đứa chúng tôi ở làng xa ra học ngoài phố, buổi trưa phải ở lại. Khi ăn cơm nắm. Khi ra hàng bà Hai. Mùa hè ăn cơm nắm. Đến mùa đông, u tôi cho tiền ăn cơm hàng, được cơm sốt. Mỗi bữa độ xu rưỡi, hai xu. Nhưng dẫu có hôm u tôi cho hai xu, tôi cũng chỉ chén một xu rưỡi. Ông thợ chữ nhà in ấy ăn khỏe ăn nhiều những hai bát cơm úp, một đĩa dưa và nước dưa, cũng chỉ hết hai xu rưỡi.

Chúng tôi thường đến sớm, trước khi nhà máy điện còi ủ. Cho bà Hai khỏi vướng chân trẻ con lúc đông hàng. Câu chuyện cơm đầu ghế tưởng chẳng có gì đáng nói nữa, nếu không nhớ lại bát cơm nóng những ngày đông tháng giá và một câu chuyện buồn.

Mỗi phiên chợ giấy, u tôi lại đưa tiền trả bà Hai một thể. Cũng chẳng bao giờ quá một hào. Bỗng một lần tôi nghĩ ra được một mẹo. Không nhớ tại sao tôi nghĩ được cái mẹo ấy. Tuần này cứ tiêu tiền, tuần sau hãy trả. Như thế cũng chỉ xê xích vài hôm. Mà vẫn là trả bà Hai tiền cơm sòng phẳng, đều đặn.

Cũng chẳng tiêu pha gì đâu. Ăn quà, chuyện xa lạ, còn lâu! Nhưng mà tôi không thể đừng đọc truyện. Mỗi hôm đi học sớm hay đến giờ ra chơi, thấy đứa nào cầm quyển truyện đọc, tôi xán đến. Có khi đứng bên cạnh, ghé mắt một mảy. Phải thằng đọc háu, lật trang phăng phăng. Đành chịu, nhưng mà đọc như thế cũng được vô khối chuyện.

Từ hôm nghĩ ra cách trùng trình trả tiền cơm bà Hai, tôi có tiền đi mua sách. Có quyển sách của mình mà đọc, còn gì bằng.

Càn Long du Giang Nam, Thất kiếm thập tam hiệp...mỗi số hai xu ba xu mà dài quá, có đến mấy chục số tôi không mua. Tôi mua

Bông hoa rừng

của Trường Xuân, chỉ hơn chục số trọn bộ. Quyển này tôi thích hơn truyện

Mắt thần

Lệ Hằng phục thù...

Nhưng ngoài hiệu nhiều sách hấp dẫn thế, tôi cũng chỉ dám trả chậm vài ngày tiền cơm của bà Hai. Không dám để quá hơn.

Chẳng may, có một việc, không hiểu sao, tôi biết mà tôi lại không tính đến. Mê truyện đến mụ mẫm mất rồi. Mỗi năm, tôi chỉ được ăn cơm hàng vào mùa đông, còn mùa nắng thì cơm nắm ở nhà mang đi. Ve sầu đã kêu ra rả trên cây me tây dọc đường Cổ Ngư. Lại vào hè rồi. Cái cặp tôi phồng lên, nắm cơm. Mặt cặp về vện thâm từng đám vết nước cà muối, cua mặn.

Tôi cứ tưởng như thình lình chợt đến cái hôm ăn cơm nắm mà tôi chẳng biết trước. Chẳng biết làm thế nào, tôi quanh quẩn ngoài bãi trên bờ sông. Không lên hàng bà Hai. Cũng không dám lảng vảng thò mặt đến đầu đường xuống Ngũ Xã. May quá, xế trưa trở về Thụy, mẹ con bà Hai về đằng đường Quan Thánh, không đi qua đây. Tôi còn thiếu của bà Hai một hào ba tiền cơm.

Có đến một tháng đã qua...

Rồi chẳng biết thằng độc ác nào đã mách nhà tôi cho bà Hai biết. Một hôm chủ nhật, tôi đang ngồi trong xó cột nghiền

Tái sinh duyên

hay

Tục tái sinh duyên

chi đó. Đương mê, chợt ngẩng lên thấy bóng bà Hai đội cái nón kinh bước vào qua cổng.

Tôi đứng lên, ngây mặt ra.

Bà Hai hỏi tôi :

- Cậu Sen đấy à? Có ai nhà không?

U tôi mời bà Hai vào nhà. Bấy giờ u tôi mới biết mặt bà Hai hàng cơm tôi vẫn ăn mọi khi. Bà Hai đon đả cười nói, nhưng chắc là u tôi đương đoán ra thế nào rồi. Tôi định lảng chân ra ngõ. U tôi lừ mắt, trỏ tay xuống bếp. Tôi lủi thủi vào đấy.

Lát sau, u tôi tiễn bà Hai ra.

Tôi còn nghe tiếng u tôi :

- Cháu làm bà mất công lên tận đây, thật không phải.

- Thôi bà cũng đừng mắng mỏ cậu ấy, trẻ người non dạ mà.

Bà Hai đi khỏi đã lâu rồi. U tôi lặng lẽ xuống bếp. Tôi tưởng u tôi cầm sẵn cái "que đò", tôi sắp được ăn mấy chục cái quật vào lưng như mọi lần. Nhưng không. U tôi chỉ hỏi khe khẽ :

- Mày có biết thương u không ?

Rồi u tôi ứa nước mắt. Bỗng nhiên, tôi không sợ đòn như mọi khi nữa. Tôi vừa mủi lòng, lại vừa cảm thấy tôi đã lớn rồi.

KHỔNG V

Ă

N CU

Tục lệ xưa, mỗi làng có một ng

ườ

i mõ.

Nhưng làm mõ, ng

ườ

i ta nói cũng có l

m cách

đ

i làm mõ. Vì làng ấy, họ ấy có hèm, phải có ng

ườ

i

đ

i làm

đ

ấy t

thiên hạ thì làng n

ướ

c, họ mạc m

i m

mày m

m

t

đượ

c. Ở

mấy làng gần chùa Hương, nhiều n

gườ

i

đ

i các nơi làm mõ. Các cụ nói th

i trước, nhà bà

đ

ĩ Niêm

Yên Thái, khi các cụ m

i bỏ quê chùa Hương ra, cũng là ra làm mõ. Thế mà rồi

đ

ến con cháu giàu kếch xù, buôn gió, bán lụa, có c

a hiệu to

Hà Nội,

Sài Gòn. Bao n

gườ

i làng phải

đ

i lại, vay m

ượ

n, quỵ lụy. Nhiều bà con vùng ấy cũng ra làm

ă

n

chốn

đ

ất lành chim

đ

ậu.

Đ

ôi khi, còn ng

ườ

i gọi xếch mé là nhà

đ

ĩ Niêm hay Bơ

mõ, Niêm mõ. Nhưng chỉ dám nói sau l

э

ng vậy thôi.

Vẫn biết thế, nhưng có

đ

iều ch

ng ai mang của

đ

i làm mõ bao gi

. Chỉ thấy ng

ườ

i nghèo làm cái nghề

đ

ầy t

này rồi có ng

ườ

i tr

nên khá giả.

Tôi chỉ biết có hai

đờ

i mõ làng tôi, rồi

đ

ến cách mạng. Làng tôi gọi anh mõ là cu Nh

n, hay anh Tư

Mít - có lẽ

đ

ể tránh tiếng mõ xấu xí. Nhà anh Tư

Mít

túp lều cạnh cái cầu

đ

đ

òn

đ

ám ma

đ

ầu làng. Ngày xưa, ng

ườ

i ta kiêng

đ

ầu làng. Chỉ có ng

ườ

i tha hương

đ

ến hầu hạ làng chạ. người

ngụ cư

lép vế các cụ cho

đ

âu

đ

ấy m

i chịu cái nơi

ă

n chốn

chơ

đ

ầu làng

đ

ầu ch

như

thế. Túp lều nhà Tư

Mít t

ườ

ng

đ

ất l

p rạ tối om om. V

anh lúc naào cũng bủng beo, xanh r

t, tùm hụp kh

ă

n vuông vải thâm như

ng

ườ

i ngã n

ướ

c kinh niên. Thỉnh thỏang, sáng s

m, thấy ra bến ao làng gi

t cái váy nâu tã. C

cầm chiếc dùi gỗ

đ

ập

đ

ồm

đ

ộp. Ai trông thấy cũng phải buồn c

ườ

i bảo phong tục

d

ướ

i Nam, thùng n

ướ

c cũng

đ

ội lên

đ

ầu mà gi

t giũ thì ng

эờ

i ta

đ

ập

đ

ến rách cả áo. Vùng tôi gi

t giũ chỉ vò vỗ b

ng tay, khác kiểu thế.

Một ngày kia, có

đứa

nào thì thào :

- V

nhà Tư

Mít chết rồi.

Trẻ con ngơ

ngác ra xem. Cái th

ng

đ

i cùng trỏ trỏ. Tôi bám cánh tay nó, b

ướ

c bấm chân. Không ng

lại trông thấy ng

ườ

i chết ngay t

c kh

c. Một cái chiếu bó, buộc dây chuối,

đặ

t ngay d

ướ

i

đ

ất trong nhà cầu cạnh chân cái long

đ

ình gỗ mộc, bộ

đ

đ

òn

đ

ám ma của làng.

Đ

ầu chị Tư

Mít vẫn

đ

ội chiếc kh

ă

n vuông vải thâm bạc mọi khi. Hai bàn chân ng

ườ

i chết phù to, trông rõ mảng gót nh

t nhạt, lỗ chỗ nẻ miếng. Một

đứ

a hỏang quá, chạy. Thế là cả lũ tán lọan. Rồi có

đ

ến rất lâu, tôi không dám

đ

i qua chỗ ấy

đằ

ng cổng làng.

Đượ

c ít lâu, anh Tư

Mít bỏ

đ

i

đ

âu. Ch

ng nh

mấy n

ă

m sau, làng lại có một anh mõ khác. Anh này còn trẻ, cao l

n, da bánh mật, l

c l

ưỡ

ng ng

c n

có b

p. Ng

эờ

i l

c

đ

iền thế mà lại

đ

i làm mõ! Gian nhà vách n

a, l

p lá cẩn thận, bên kia cầu sông Tô Lịch b

c sang bãi. Anh mõ này chưa có v

. Lúc nào cũng thấy bố anh

đứ

ng d

ướ

i giọt gianh nhìn ra. Ông lão c

i trần m

c cái quần nhuộm cậy

đ

ỏ hây. Rõ ng

эờ

i vùng

đ

ồng chiêm. Khỏe mạnh, qu

c th

ướ

c. Càng không hiểu sao bố con nhà ấy tươm tất thế mà lại

đ

i làm mõ. Cái bí mật khó hiểu ấy về nhà anh mõ c

luẩn quẩn. Tôi c

ng

ng

ười

đ

i làm mõ phải gầy ốm, s

p chết

đ

ói, như

cái v

chồng anh Tư

Mít n

ă

m tr

ướ

c.

Các ông ch

c việc trong làng, ông chánh Thả, ông ký Lê, ông quỹ Ch

t hay ông lý Sùng gọi anh mõ ấy là th

ng M

ới

. Ng

эờ

i làng cũng gọi là anh cu M

i.

Nh

ng kỳ sóc vọng trong tháng, anh M

i

đ

ội mâm xôi con gà vào

đ

ình, ông t

v

a m

c

a. Khi lên quán, sang v

ă

n chỉ, vào

đ

ền. Tay anh M

i còn xách theo mảnh th

t, con dao, lá chuối và cái cút r

ượ

u

đ

em

đự

ng n

ướ

c m

m. Tiếng ch

t thịt gà cốp cốp. Ch

ng biết ch

t có khéo không, nhưng nghe rõ gọn, rõ ròn.

Đ

ôi lúc, anh b

ướ

c nhanh nhanh, m

c cái áo nâu vải ta. Ch

c có việc các cụ sai.

- Cốc cốc cốc... Chiềng làng chiềng xóm... Sáng mai có quan phủ về hiểu dụ... Các

đ

inh m

эờ

i tám tuổi tr

lên ra

đ

ình nghe quan hiểu dụ... Cốc cốc cốc. Chiềng làng chiềng xóm. Các ông tr

эх

ng phiên, khán thủ lấy cho

đ

ủ số

đ

inh

đ

i

đ

ê

đ

êm nay ra túc tr

c ngòai

đ

iếm... Chiềng làng chiềng xóm... Cốc cốc cốc...

Anh M

i hùynh hụych qua. Tho

ă

n tho

t, r

n rỏi,

đ

ươ

ng trai thế mà

đ

i gõ mõ rao chiềng làng chiềng chạ, kể cũng thế nào ấy. Có lẽ b

i vậy, chỉ nghe tiếng mõ anh M

i rao vào lúc nhọ m

t ng

ườ

i. Ng

ườ

i l

m

đ

iều, chép miệng : Làm mõ mà lại còn ng

ượ

ng!

Dẫu sao, anh M

i vẫn gánh

đ

ủ phận s

ng

ườ

i mõ. Nhà nào

đ

ộng mâm

đ

ộng bát, anh vào làm giúp. Gánh n

ướ

c, b

t l

n. Chọc tiết con chó. Thui bò.

Đ

ánh tiết canh. Nhồi lòng. Nhưng

đ

ến b

a, anh gi

ý, không ngồi

đ

óng cỗ cùng mọi ng

ườ

i. Anh bưng cái mâm cỗ phần anh, trong

đ

ủ mỗi th

một mảy. Thịt luộc, bát n

ướ

c súyt nấu cần.

Đ

ĩa dưa, liễn cơm. Anh ra ngồi một mình ngòai

đ

ầu ngõ. cạn lối ng

ườ

i ra vào. Có nhà có việc anh bận gì không vào làm giúp, nhưng

đ

ến b

a, anh M

i vẫn c

đ

ến

đứ

ng

đ

ầu ngõ. Nhà chủ trông thấy như

đ

ã biết lệ, bưng mâm ra.

đ

ôi khi có cả xó r

ượ

u. Nhà nào cũng thế.

Ă

n còn bao nhiêu cơm trút vào liễn canh m

ượ

n

đ

em về, miếng thịt thì t

ướ

c mảnh lá chuối

ngòai v

ườ

n.

Anh M

i cũng

đ

i làm m

ướ

n như

nhiều ng

ườ

i trai trẻ trong làng. Việc mõ chỉ

đượ

c

đ

ôi khi la liếm kiếm miếng ngòai

đ

ình, trong nhà thế thôi. Cho nên, anh phải

đ

i làm lấy cái

ă

n. Anh

đ

ã học

đượ

c kéo tàu,

đ

ạp lề, mọi việc

đ

àn ông trong nghề giấy. Anh làm quần quật. Anh quảy n

ướ

c

ă

n, n

ướ

c tàu seo. Mùng một tết. anh gánh cho mỗi nhà trong xóm một gánh n

ướ

c, v

a b

ướ

c vào c

a

đ

ã nói to :"M

ng nhà ta n

ă

m nay tiền của nh

э

n

ướ

c như

non, b

ng n

ă

m b

ng m

ườ

i n

ă

m ngóai".

Đ

ổ gánh n

ướ

c vào chum, vào vại rồi ra nhà chủ

đ

ư

a cho phong bao tiền m

hàng.

Anh M

i v

a vảy lên một cái mái ven

đườ

ng bên này cầu, cạnh c

a "r

ng ông Cụ".

Đ

ấy là ngôi hàng n

ướ

c chè tươi của anh M

ới

. Bây gi

không còn ai ghê. không muốn gần g

a dây dưa v

i nhà mõ.

Đ

ủ m

t các cụ ngồi hàng n

ướ

c nhà anh M

i. Hàng n

ướ

c

đ

ầu làng, mọi chuyện gần xa

đ

ều

đ

ấy ra.

Đ

êm tr

ă

ng sáng mùa hạ, ng

ườ

i ngồi tán

đ

ến khuya m

i rã

đ

ám. Có ng

ườ

i n

mấy bát, mấy bát n

ướ

c. Bố anh M

i phết vạch vôi

đ

ánh dấu lên lưng cái cột tre.

Dạo ấy, các hành lang

đ

ình, các c

a

đ

ền trong vùng

đ

ều m

l

p truyền bá quốc ng

ban

đ

êm. L

p "truyền bá" làng tôi

ngay

đ

ầu làng. Chỗ có cái cầu ngói

đ

đ

òn

đ

ám ma, trông ra quán

nướ

c anh M

i.

Tôi rủ anh M

i

đ

i học. Không biết anh ấy gi

ý t

v

i ng

ườ

i làng hay anh ngại :

_ Cậu cho cháu kiếu, cậu ạ.

Tôi kém tuổi anh M

i. Nhưng anh thưa g

i v

i tôi c

th

bậc như

thế.

Nói thế nào, anh M

i cũng ch

ng chuyển. L

p "truyền bá" ngay tr

ướ

c ngôi hàng n

ướ

c. Anh M

i cứ d

ng dưng xem ng

ườ

i ta học mỗi buổi tối.

Một hôm, anh M

i bảo tôi :

- Cậu cho cháu quyển sách i t

.

-

Đ

ã bảo mà, phải

đ

i học ch

!

- Cháu xin học lấy thôi.

Lại một hôm, thấy anh M

i ngồi, tay cầm quyển sách

đ

ọc ê a.

Tôi hỏi :

- Học ấy à?

Anh M

i

đ

áp :

- Cháu xem truyện Kiều.

Thì ra, anh M

i chỉ ngồi trông vào l

p, nghe lỏm ng

эờ

i khác học. Mà cũng biết ch

!

Kh

i nghĩa rồi, ngày nào chỗ nào cũng nhộn nhịp. Cả làng

đ

ổ ra xem b

t trói lý

Đ

ễ trước sân

đ

ình, cạnh

đ

ống giấy t

, sổ sách tịch thu

các nhà ch

c việc

đ

em ra

đ

ấy

đ

ốt cháy

đ

ùng

đ

ùng. Ủy ban giải phóng của xã ghi tên anh M

i vào sổ công dân của làng.

Tôi hỏi :

- Tên anh là gì?

- Tên cháu là Cu.

- Tên thật khai sinh,

sổ việc làng d

эớ

i quê,

đ

ầy

đ

ủ cả họ n

a.

- Thế thì tên cháu là Khổng V

ă

n Cu.

- Thật không?

- Thật cháu là Khổng V

ă

n Cu mà.

Cái tên họ lạ ho

c. Và ch

ng ra làm sao ! Cùng họ v

i

đứ

c thánh Khổng T

, lại tên là Cu !

Dạo ấy, có ng

ườ

i

đ

ã xuống chơi làng anh M

i

vùng chiêm

Đ

ồng Quan, Cống Thần trong Hà

Đ

ông. Ai về cũng bảo tên anh ấy thật là Cu, thật là Khổng V

ă

n Cu. Biết

đ

ích rồi mà c

ng

ng

, như

ng

ườ

i ta nói

đ

ùa.

thịt chó chui

Ở Sài Gòn bây giờ, chỉ một quãng phố đã gặp quán thịt chó. Với những cái tên khêu gợi "Thịt chó bảy món", "Chả chó Hà Nội", "Cày tơ". Vừa ru rê lại đùa đùa, thì có hàng chữ "Thịt chó nhậu lai rai". Có nơi viết lái chữ tên hiệu :"Qúan hạ cờ tây". Nghĩa là "Qúan hạ cầy tơ", và quán "Mộc tồn". Học đòi vằn vèo lối Trạng Qùynh : mộc là cây, ttồn là còn, cây còn là con cầy. Nhưng chỉ có thể ở Sài Gòn mới có những tên phố nhố nhăng tỉnh bơ thế.

Phố xá lọan các bảng quán thịt chó của dân nhậu tưng bừng bốn bề. Ngày trước đừng hòng ở Sài Gòn lại được chén thịt chó thỏai mái.

Ở Hà Nội, khỏi nói, thịt cầy ê hề các chợ. Người ta còn gọi đẹp đẽ là thịt hươu thềm - con hươu nuôi trước thềm nhà. Các hiệu thịt chó hàng Đồng, Tám Mái, chợ Mơ. Cái thang ọp ẹp, chèo dựng đứng lên gác thượng lương, chen chúc ngồi nhấm nháp trong khói um thơm mà thú vị đáo để. Cái lạ là vùng nào cũng khoe chỉ thịt chó nơi mình nhất thiên hạ. Ở Đông Anh, Đông Lỗ các món luộc đều bỏ vào nồi ba mươi hầm cách thủy. Canh, Diễn thì tự hào về thịt chó mộc, lấy miếng thịt luộc ngon làm đầu. Đất Kẻ Chợ hoa hòe hoa sói, chả chó nhuộm nước hòe hoa bóng như sơn dầu, lại phi hành thơm điếc mũi. Khách sành ăn vẫn cho là chẳng đấu được với thịt chó mộc thật hạt trâu vàng. Bởi vậy, xem ra ở Hà Nội, hầu như các quán thịt cầy đều người làng Canh kéo ra. Các làng Canh nổi tiếng : cam Canh, cải Canh, tỳ bà (quả bòng) ở Canh đều nhon và đẹp, chó đen chợ Canh được tiếng ngon thịt.

Nhưng ở Sài Gòn thời ấy không có quán thịt chó. Không ai ăn thịt chó. Không được ăn thịt chó. Đốc lý Pháp đặt ra luật lệ : ăn thịt chó là phạm vào phong tục riêng của xứ Nam Kỳ thuộc Pháp. Các thầy cút - lít bắt được người thịt chó thì phạt tiền. Còn có thể ngồi nhà pha. Vì đụng vào lễ giáo đất thuộc địa Pháp.

Bà con ngoài Bắc vào trong ấy làm ăn thèm thịt chó lạ lùng. Trò đời của cấm lại càng thèm là thói đời người ta. Nhất là dân bồi bếp, thợ giầy, thợ may, thợ mũ quê Bắc vốn thích loại thức ăn "quốc túy" này. Ăn chơi thôi, nhưng mê. Cấm kỵ lại như bị kích thích cho ao ước hơn. Oái oăm thế.

Người ta tìm cách vụng trộm. Kể lại chuyện một đám ăn thịt vụng giữa Sài Gòn năm ấy. Coi như câu chuyện cũ Hà Nội xảy ra ở Sài Gòn. Mấy ông lai rai bây giờ nghe chơi.

Các cô  Tạ, cô Tây, cô Hòa bạn chúng tôi ở Vinh chuyên buôn lậu. Xe lửa vào Nam ra Bắc như cái nhà lưu động của các cô. Các cô thuê nhà chứa hàng bên Thị Nghè. Có lẽ cao su, kếp, có lẽ thuốc phiện. Cũng không ai muốn nói và tôi không bao giờ dám hỏi. Chỉ tưởng các cô buôn bán kiểu ấy thì kiêng khem nhiều. Nhưng các cô khoái thịt chó tợn. Các cô chỉ tránh ăn thịt chó hôm ra tàu. Kể cả cô Tây đồng bóng, ngày thường cũng chén mạnh. Hôm nào tìm được cái rượu đế chính cống Hóc Môn thì phải biết, thế nào cũng tầm tã kỳ được thịt chó.

Một hôm, cô Hòa bên Thị Nghè sang sớm. Cô đeo cái đẫy to. Như mọi khi mang hàng đi đâu.

Chúng tôi ngụ trong một ngõ hẻm đường Ga - li - ê - ni (Trần Hưng Đạo bây giờ) sau rạp Nguyễn Văn Hảo. Chúng tôi là ba người. Chủ gian buồng, một anh thợ máy nhà dây thép. Anh ốm một trận dài quá hạn nghỉ, chủ sở đuổi. chưa tìm được việc nơi khác. Một anh làm công nhật cho một chủ xưởng củi của Tây tận bên Bến Cát. Nhưng có việc về dưới này luôn. Còn tôi, lang thang. Ở nhờ đay và nhiều khi ở cái "kho" của mấy cô bên Thị Nghè - tức là tối đâu ngủ đấy.

Cô Hòa hạ cái đẫy xuống. Cô cởi nút miệng đẫy, nhấc ra mấy chồng bát Biên Hòa. Bát để che mắt, nếu bị khám. Ở dưới, là một con chó vện nhỡ. Con chó đã bị dìm nước chết, lông ướt bê bết ra cả tờ giấy dầu bọc. Có lẽ, các cô mới bắt nó trẫm mình từ lúc sáng sớm. Như thế, không phải đập, không phải cắt tiết. Chó sặc nước không kêu được, không lộ. Mà dìm chết rồi mới làm lông cũng là một cách làm thịt chó. Chó bị hãm tiết, thịt xám, nhưng thịt đậm. Vùng tôi, làm thịt chó cũng hay thít thòng lọng dìm chó xuống ao.

Chúng tôi hoa tay múa chân, nhảy chồm xuống giường. Nhưng không dám reo tiếng nào. Rồi ra đóng cửa lại. Cứ kể, cũng cẩn thận thôi, chúng tôi đã ngả chó chén ở nhà này nhiều lần. Nếu không có láng giềng thù hằn, rình mò đi báo cò bót, chắc không ai có thể biết. Chúng tôi chẳng va chạm với ai trong ngõ. Thường anh nào cũng đi biền biệt cả ngày. Mà cũng không có hàng xóm. Một phía bãi cỏ, phía tường cao. Trước mặt bên kia có lẽ là cái chuồng xí nhà người ta. Nhà chúng tôi chỉ ở một gian con con. Có thể trước kia đây là kho chứa hàng. Ngoài đầu ngõ, cái trường học gần các rạp ở Thành Xương đã thành trại lính, có bọn lính Ấn Độ đứng canh, tay cầm chiếc côn gỗ. Làm sao chúng có thể đánh hơi thịt chó được ! Chỉ cần giữ gìn một tý khi làm rựa mận. Phải nấu vào buổi sáng hay xế trưa, lúc người ta đi làm cả. Mùi rựa mận thơm nồng nàn quá mà.

Đã trữ sẵn lọ mẻ, các cô lại đem được riềng ở ngoài Bắc vào.

Chúng tôi lặng lẽ, xúm xít, lúi húi làm. Cô Hòa thì đeo cái đẫy ra chợ Bến Thành mua bún và mắm tôm chanh, các thứ rau thơm. Đến trưa, bọn cô Tây mới kéo đến.

Chúng tôi thích ăn, ăn chơi, ăn thô cũng chẳng ai biết pha phách nhiêu khê, cầu kỳ ra sao. Vả chăng, thiếu lá húng quế. Ngày ấy, húng quế chưa thấy mấy ở các hàng rau khác hẳn bây giờ. Mùi chanh trong Nam lạ vị, lại thiếu mắm tôm Bắc. Nhưng mà cứ chén ào ào.

Bao nhiêu xương và lông chó. rác rưởi quét lại, vơ kỹ vào bọc giấy báo. Đến chiều, cả bọn kéo nhau đi ăn kem nhà hàng Thanh Thế, cạnh chợ Bến Thành. Vùng phố này mới bị máy bay Mỹ ném bom. Vỉa hè, mặt đường còn ụ lên từng đống tường đổ. Nhưng người qua lại vẫn đông nghìn nghịt.

Cô Hòa lặng lẽ buông gói xương chó xuống chỗ miệng cống khuất người ở ngoài rạp Thành Xương. Bọn lính bù nhìn Ấn Độ, Cao Ly vẫn đứng yên, trân trân nhìn ra. Mấy con chó hoang bên bãi cỏ đổ xô đến, đánh mũi vào.  

CON CHÓ LU BU

NGUYỄN THỤY LONG

LTS-

Truyện viết về một con chó, người ta quen gọi là Cún, đi lạc được người trong tù gọi là “cải tạo”, thương yêu, vuốt ve, trìu mến, trái hẳn những cán bộ hễ thấy chó là lo giết thịt. Con chó có nhân cách, không còn cẩu cách, cán bộ không bằng nó. Thể tính của nó thể hiện ngay nơi hành động, chủ nó khi bị thương, khiêng về trại, máu dỏ xuống đất, nó cúi xuống liếm máu cho chủ và khi chủ nó qua đời, nó tìm cách trốn ra bên mộ, tru tréo kêu gào. Con người không nhân cách trong cuộc sống thiết nghĩ còn thua  con vật vậy

.

(NT)

T

iếng đào bới sùng sục dưới gầm xạp nằm của lán trại. Giờ giới nghiêm. Mọi người nằm im thin thít, thỉnh mới có tiếng ho khan, tiếng thở dài của người khó ngủ, hoặc tiếng nói mê ú ớ, tiếng

“bụm”

của một ai bị xấu bụng nào đó.

Ba ngọn đèn bão treo lủng lẳng trên chóp nhà mái tranh thòng xuống soi mờ ảo trên lối đi giữa. Người bị tù gọi là phi đạo. Hai bên là sạp nằm, chứa hai đội đến 120 người. Trại gọi là cải tạo lập trên đồi, có tới mười hai lán trại. Ở trạm xá vang lên tiếng đóng đinh chí chát. Họ biết đội mộc đang đóng áo quan cho một ai mới lìa đời hồi chập tối. Xung quanh trại là hàng rào thép gai gà chui không lọt. Phía trong trại một sân đất rộng, tập họp họ đi lao động mỗi sáng mỗi trưa. Cạnh đó là hầm đá, biệt giam những ai cứng đầu. Hầm đá - một cái lô-cốt xây chìm xuống nửa lòng đất, nguyên là hầm truyền tin cũ. Một căn cứ quân sự trên đồi, mọc giữa rừng núi ngăn chặn đường xâm nhập của cộng quân Bắc Việt. Đúng nghĩa là

“tiền đồn heo hút”.

Sau biến cố 1975, trại được dùng làm chỗ giam giữ các sĩ quan, công chức miền Nam. Không có một bản án nào dành cho họ, chỉ hứa hẹn mơ hồ chừng nào học tập tốt, lao động tốt sẽ được trả về xum họp gia đình. Ngoài cổng trại có hàng chữ chạy dài

“Không có gì quí hơn độc lập tự do”

. Ngoài trại trên ngọn đồi chạy dài một dãy nhà của quản lý trại và các cán bộ. Kho lương thực cạnh bếp xa một chút là khu nhà vệ sinh lộ thiên, chia thành ngăn cho từng người ngồi, nối dài như toa xe lửa. Phân người nhầy nhụa, đỏ lòm máu tươi. Họ mắc bệnh đường ruột kinh niên chẳng qua khâu cấp phát lương thực của trại đã thiếu bảo quản vệ sinh. Xung quanh trại, diện tích canh tác ngày một mở rộng, rừng lùi về núi, máu của họ đã đổ nhiều, do rủi ro dẵm phải mìn gài quanh căn cứ còn sót lại phát nổ, cuốc nhầm. Họ mạng vong do đói rét, lao động quá sức, bệnh tật không thuốc men. Khu nghĩa địa bên kia đồi mỗi tuần mọc thêm những nấm mồ do cả trăm lý do khác nhau. Trên một mộ bia ghi tên vận động viên Trần Văn Lý, nhà vô địch chạy bộ miền Nam thập niên 1950. Anh được gửi sang tham dự Thế vận hội Helsinki ở Phần Lan năm 1952, tuy không chiếm được giải nhưng có danh. Bây giờ, anh nằm trên sườn đồi hiu hắt dưới chân núi Chứa Chan. Hôm nay Nguyễn Văn Danh bị mạng vong do cuốc trúng mìn. Những ai trúng mảnh thương tích nhẹ được nghỉ lao động, người bị nặng đem đi bệnh xá điều trị và người chết được đội mộc dùng gỗ cây rừng đóng thành những chiếc quan tài thô sơ, mộc mạc. Họ không đành bó chiếu chôn cất theo chỉ thị của các cán bộ. Tiếng búa chí chát từ trạm xá vọng tới lán cùng tiếng cào rột rột dưới gầm xạp nằm làm nhiều người mất ngủ. Có tiếng một người nói, giọng bực bội đủ nghe trong đêm khuya tĩnh mịch:

-Đứa nào đào dưới gầm giường thế, muốn trốn trại để bị ăn đạn hả?

Tiếng khác trả lời:

-Chẳng có đứa nào hết, con chó Lu Bu đào lỗ chui ra đó.

-Hình như nó có lỗ rồi mà?

-Anh không thấy nó lớn quá rồi không. Lỗ nhỏ của nó hồi bé chui không lọt nữa.

-Nó ra ngoài chi vậy?

-Anh hỏi nó đi. Mà khỏi hỏi nó ra ngoài để đại diện chúng ta đưa đám thằng Danh.

Tiếng ư hừ giọng nói vừa đủ nghe. Họ nói với nhau về con chó có tên Lu Bu như nói về một con người. Tất cả họ đều là chủ của nó. Mỗi người đều nhổ vào mõm nó một bãi nước bọt làm quen. Thằng Danh nhổ cho nó đầu tiên khi nó còn là con chó con. Danh nhặt nó ở bìa rừng từ những ngày trại mới lập nên được hơn một năm. Họ cõng Danh từ bãi lao động về, Lu Bu chạy theo liếm từng giọt máu của chủ rơi rớt. Nó tru lên khóc than cả buổi chiều. Nó bị lùa vào nhà trại. Họ sợ nó đi lang thang ngoài sân bị chết oan vì súng đạn của vệ binh ngứa ngáy tay chân muốn có bữa chén, nên nhốt cùm nó. Bây giờ nó đang tìm cách chui ra. Có người tỏ vẻ lo lắng cho nó lên tiếng:

-Ngăn nó lại, cho nó ra sân là khốn đó.

-Đừng lo, nó đủ khôn ngoan, nếu không nó đã biến thành nồi dựa mận lâu rồi.

Ngoài sân trại có tiếng lên đạn súng CKC. Tiếng hô của cán bộ võ trang:

-Ai. Đứng lại không tôi bắn!

Tiếng hô bỗng im bặt. Trong nhà trại có người bụm miệng cười:

-Tao đã nói nó thoát rồi mà. Con Lu Bu nhanh lắm. Nó rúc vào ngõ ngách nào đó có trời tìm ra được...

Bên ngoài tiếng vệ binh làu nhàu chửi:

-Tổ cha chúng bay chó với chả má. Không có cái đổ vào miệng còn bày đặt nuôi chó, rõ thật mấy thằng rởm. Thế nào cũng có lần ông vồ được mày cắt cổ đánh tiết canh, thui vàng cong đuôi cho sáng mắt chúng mày ra.

Con chó Lu Bu là niềm vui của họ và cũng gây bực bội không ít cho các cán bộ quản giáo. Miếng lòng chó chấm mắm tôm chanh, ớt, kèm miếng giềng, rau húng và lá mơ tam thể ngon tuyệt vời, hạp khẩu của các vị nghiền mộc tồn

“nhất mực, nhì vàng, tam khoang, tứ đốm”

. Nó được xếp loại thịt ngon có tiếng, lông đen thui, như câu tục ngữ mà dân ăn thịt chó coi là mẫu mực. Nó từng thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc, vậy mà vẫn trung thành quấn quít với hơn một ngàn chủ nhân.

-Khối thằng thèm.

-Khọm già kia, nói gì vậy?

-Tao nói là giết hụt con chó khối thằng thèm.

-Câm ngay, ăng ten nó báo cáo thì chết đó lão.

-Ông đéo sợ, có chết đói ông cũng không đớp thịt con chó Lu Bu có nghĩa này, nhưng ông sẵn sàng ăn gan thằng ăng ten nào đó.

-Thôi im đi khọm ơi. Ông hết thời rồi, không như hồi xưa thời ông làm thượng sĩ thường vụ khạc ra lửa, mửa ra khói nữa đâu, đừng hốch hách xằng.

Khọm già làu nhàu gì đó rồi giở mình nằm im, không thèm mở miệng nói một tiếng nào nữa.   

Lão lắng nghe mọi tiếng động phát ra từ trên trạm xá vọng về.

Không còn nghe tiếng búa đóng áo quan, có lẽ họ đã bỏ xác thằng Danh vào hòm? Có tiếng nói chuyện, tiếng chân người di chuyển, áo quan người chết đã ra khỏi trạm xá rồi chăng? Họ mang đi chôn. Lu Bu ở đâu, nó quanh quẩn đó chớ chẳng đâu xa. Tiếng ai đó bên ngoài nói:

-Hai thằng khiêng đòn cúi thấp xuống cho thằng Danh chào anh em.

Tiếng người khác, có lẽ người khiêng đòn:

-Chà sao nặng quá vậy, trong người mày còn mang theo mảnh mìn nào không Danh?

Tiếng người khác:

-Không có đâu, nó còn lưu luyến anh em nên hồn chưa xuất, nhẹ ngay bấy giờ ấy mà, tao có kinh nghiệm.

-Ừ có lý thật.

Khọm già nghe rõ từng lời đối đáp, lão tưởng tượng ra cảnh đưa xác người đi chôn trong đêm tối: Hai người làm nhiệm vụ đạo tì, xỏ đòn khiêng áo quan. Phía trước một cán bộ cầm đèn bão soi đường đất đá gập ghềnh, đằng sau một hay hai cán bộ võ trang súng lăm lăm cầm tay. Huyệt chôn đã đào sẵn ở đồi nghĩa địa, gió lạnh dứt từng cơn qua cỏ xước. Xa xa trong bóng đêm con chó Lu Bu theo bén gót người đi chôn xác chết.

Chỉ tượng ra thế thôi, khọm già cũng mủi lòng ứa nước mắt. Lão để nước mắt chảy tự do trên gối được gói lại bằng bộ đồ nhà binh cũ rách. Lão là loại lính già đụng trần nhà mới bò lên cầp sĩ quan. Đương nhiên lão phải đi học tập gọi là cải tạo vì có

“nợ máu”

với

“nhân dân”.

Không khí lán trại yên lặng đến nghẹt thở. Khọm già nghe thấy cả tiếng giọt nước mắt của mình nhỏ lên gối. Ba ngọn đèn bão vàng vọt đung đưa buồn bã. Có tiếng ai đó xụt xùi khóc:

-Mới chiều hôm qua, nó còn ngồi đánh cờ với tao. Tao nợ nó ba ván, thằng đó có nước chiếu bí làm điên cái đầu.

-Im đi nỡm. Mai mày theo nó xuống âm phủ mà trả nợ. Mẹ kiếp, tao còn xuýt nữa bị bỏ xuống hầm đá vì tội viết mộ bia cho nó đấy.

-Láo toét, viết mộ bia mà bị bỏ xuống hầm đá, cương bậy.

Hắn bị chạm nọc, hộc lên xỉ vả:

-Đồ ngu, mày không biết thằng nào trong trại này chết, anh em đều khắc mộ bia cho hết. Nhưng ngoài tấm mộ bia bằng gỗ ra, ghi tên tuổi, ngày chết còn một mảnh giấy bí mật được bỏ vào hủ chao thủy tinh chôn theo bia gỗ, phòng khi gỗ bị mục, thân nhân người chết lên thăm tìm bới được, biết rõ ràng ngày chết, lý do chết. Tao bị bắt khi đang viết, mập mờ đánh lận con đen, họ bắt tao phải viết lại cho hợp với mục đích của họ. Nghĩa là bỗng dưng tên Danh bị chết vì bạo bệnh mặc dầu ban lãnh đạo đã tận tình cứu chữa.

-Ông có sửa không?

-Sức mấy, tao mặc kệ họ muốn làm gì thì làm, tao chờ dịp khác. Cả đời tao không ăn gian nói dối. Tao chấp nhận hầm đá hay cái quái gì cũng được, miễn tao thanh thản, nghĩa tử là nghĩa tận.

-Sao ông không bị nhốt?

-Không biết. Cuối cùng thì họ cho tao về. Có lẽ mảnh giấy đã được ai đó sửa lại. Tao chắc chắn phải có câu:

Cải tạo viên Nguyễn Văn Danh đã được cách mạng tận tình cứu chữa vì lòng nhân đạo, nhưng vì căn bệnh ngặt nghèo nên không qua khỏi ...Thành thật chia buồn cùng tang quyến

.

Họ đang sầm sì thì  có người suỵt khẽ:

-Im lặng nghe coi.

Ngoài trời có tiếng chó tru. Tiếng tru mỗi lúc một ảo não thê lương. Ai đó nói:

-Con Lu Bu khóc chủ, bạn chúng ta đấy.

Khọm già mắt mở mà nhòe nhoẹt nước. Lão tưởng tượng ra ngay được hình ảnh con chó Lu Bu ngồi trên nấm mồ mới, ngửa mặt khóc than với trời. Hình ảnh này đậm nét ngay chính trong đêm tối có vành trăng lưỡi liềm mỏng như móng tay cắt bén. Một nhánh cây gai xương rồng vươn nghều ngào trong đêm cạnh nấm mồ như những ngón tay khô cố cào rách màn đêm đen cho linh hồn bạn lão về chốn hư vô. Lệ khọm già chứa chan, nhỏ trên gối áo lính bạc mầu của một đời binh nghiệp lỡ.

Nỗi buồn chẳng ở riêng ai, mà trong đầu mọi người, bạn bè, những người cùng khổ còn thức trong khu trại tù này.

Ở một lán trại khác, linh mục tuyên úy lần chuỗi hạt Mân Côi cầu nguyện đếm thời gian mãi không thôi. Một kẻ khốn cùng nữa được Chúa gọi về nước Thiên Đàng. Người tù tuyên úy thầm đọc bài kinh

“Mười bốn đang Thánh Giá”

và kinh

“Cầu Hồn”.

Lời kinh buồn như những giọt đắng rơi vào khoảng không đục đen. Tiếng cầu kinh dứt bằng câu:

“A Men!”

Hạ sỹ đểu

Đầu năm 1982, toàn sư đoàn lật cánh từ bên lộ 5 ( Congpongchnang ) sang lộ 6 ( CongpongThom - Xiêm riệp ). Phòng hậu cần F9 cử một tốp cán bộ chiến sỹ sang Stung xây dựng căn cứ mới. Địa bàn hoàn toàn mới nên nhà cửa hầu như không có gì ( không khanh trang như bên sân bay Congpongchnang ) phải dựng mới từ đầu. Tốp chúng tôi có 3 lính 1 quan. Ông thượng uý Hai Thí cầm đầu, còn lính có tôi, Hiển " cào cào " và thằng Tàm người Hải phòng. Chúng tôi được phân công hàng ngày vào rừng chặt gỗ để dựng nhà. Lúc đầu chưa có nhà thì ở tạm trong lều bạt dựng ngay trong vườn xoài của nhà dân. Địa bàn mới, xa sư đoàn nên việc cung cấp thực phẩm rất khó khăn hầu như chỉ được cung cấp muối ít cá khô và gạo. ăn uống cực kỳ gian khổ. Hàng ngày, ông hai Thí thì đi đặt bẫy gà rừng, câu cá. Tôi đi bắn chim cu gáy trong rừng. Thằng Hiển và Tàm ở " nhà " nấu cơm và đào hầm dựng chốt phòng địch tập kích.

Mới được hai ba hôm. Một buổi sáng tôi đi vào rừng săn bắn cùng ông Hai Thí, khi về cũng được mấy con chim cu, mấy con gà rừng do ông Hai Thí đặt bẫy được. Về đến nơi, chẳng thấy " nhà " đâu, chỉ thấy thằng Hiển mặt mày đen nhẻm đầy bụi khói. Hỏi ra mới biết, ở nhà chẳng có cái ăn nên thằng Hiển tìm cách cải thiện. Nhìn thấy tổ kiến đen to tướng làm tổ trên ngọn cây xoài, thằng Hiển bèn lấy giẻ tẩm dầu buộc vào cái sào để đốt và bắt tổ kiến lấy trứng kiến nấu canh. Mải ngửa cổ đốt tổ kiến nên Hiển ta không để ý tàn lửa rơi xuống cháy lém vào mái lều bạt, chỉ trong nháy mắt, chiếc lều bạt bốc cháy thành tro. Cu cậu chỉ kịp lao vào cứu súng đạn, thùng lựu đạn và mấy chiếc ba lô của anh em rồi đứng trơ mắt ếch ...nhìn. Chiều hôm ấy, lệnh của đại uý Năm Chất kỷ luật được đưa ra - Thằng Hiển phải đền lều cho đơn vị trừ vào phụ cấp hàng tháng. Còn hình thức kỷ luật sẽ chờ phòng HC ban ra sau.

Chúng tôi lại được ban doanh trại cấp lều khác. Ông Hai Thí trở về sư đoàn báo cáo tình hình xây dựng doanh trại. Ở lại chỉ còn 3 thằng lính cu cu. " Đói ăn vụng, túng làm liều ". Gà chim thì ngày một hiếm. Ba thằng bàn nhau bắn con chó của ông trưởng phum để cải thiện. Hàng ngày, con chó vẫn sang khu vườn chúng tôi đóng quân để kiếm ăn. Bữa cơm chiều ăn xong, tôi để dành một ít cá khô trong khẩu phần ăn ít ỏi làm mồi nhử. Tôi bẻ cá khô ra thành nhưng mẩu nhỏ, rắc từ chỗ chúng tôi ngồi ăn vào đến sát chiếc giường tôi vẫn nằm. Xong xuôi, tôi lên đạn khẩu K63 và nằm lên giường chờ đợi. Y như dự đoán, con chó quen mui sang ăn mấy hạt cơm thưa rơi vãi, thấy mấy mẩu khô nướng liền ăn và tiến dần vào lều tôi nằm. Mấy thằng hồi hộp và nghĩ đến viễn cảnh nồi thịt chó thơm nức mũi đang đợi. Con chó tiến sát đầu gường tôi, nó vẫn cắm cúi nhặt nhạnh những mẩu cá khô nướng thơm phức. Tôi kề khẩu súng sát trán con chó và bóp cò. Đoàng, đoàng !!! Đan mạch con chó. Tôi những tưởng rằng đầu con chó phải vỡ toác và nó sẽ chết mà không kịp kêu tiếng nào. Nào ngờ, khẩu K63 dài quá nên tôi chỉ dí sát mà không ngắm được vì ở tư thế nằm. Viên đạn chỉ xuyên phía trên sống mũi con chó, nó vùng chạy về hướng nhà ông trưởng phum và kêu ăng ẳng thảm thiết.

Chết tôi rồi !!! Phía nhà ông trưởng phum ầm lên tiếng the thé của mụ vợ trưởng phum : Chuây me công top Vn banh ngọp xì ke khnhum. Chuây me công top Vn banh ngọp xì ke khnhum.

Nhà ông trưởng phum lại là ngôi nhà rộng rãi và đẹp nên thủ trưởng Năm Chất đang ở tại đó. Quả này tôi toi là cái chắc. Hôm sau, thằng Tàm bảo tôi chuẩn bị tinh thần sang gặp ông Năm Chất. Chiều hôm sau, tôi bị gọi sang gặp ông Năm Chất và có cả ông trưởng phum ngồi dự.

Tôi liền bịa ra rằng : Tôi đang bị ốm nằm trong lều, tôi nghe có tiếng loạt soạt mấy bụi cây ở phía sau lều. Nghĩ rằng có thể địch nó bò vào tập kích, không kịp gọi đồng đội. Tôi liền vớ lấy súng và nổ súng ngay. Ai ngờ hoá ra con chó.

Sau khi phân tích một hồi, án kỷ luật được đưa ra giống như thằng Hiển " cào cào " mấy hôm trước. Đền chó cho dân và chờ kỷ luật của phòng HC đưa ra sau. Thế là chó thì không được ăn ( sau này thằng Nhuận - lính Hà nội cho tôi biết là mụ vợ bán con chó cho bọn D công binh của  sư đoàn ) mà lại phải đền 1 bộ quân phục vải Ốt pho mới lĩnh và chờ án kỷ luật.

Tôi, Hiển, Tàm đều bị gọi quay trở về Congpongchnang để đi chốt.

Một buổi tối sinh hoạt đơn vị. Đại uý Sáu Ngân ( về thay anh Việt đi học học viện hậu cần ngoài bắc ) công bố quyết định nâng quân hàm cho mấy anh em. Đến lượt tôi, ông Sáu Ngân đọc :

- Xét đức tài quân nhân...

- Xét đề nghị của đơn vị

Thủ trưởng phòng Hậu cần F9 phong quân hàm đ/c Lê Thái Thọ từ binh nhất lên hạ sỹ.

Quyết định này được thi hành kể từ ngày ký.

Đọc xong quyết định phong quân hàm cho tôi, đại uý Sau Ngân lôi ra một quyết định khác và đọc luôn:

- Xét đức tài quân nhân...

- Xét đề nghị kỷ luật của đơn vị

Thủ trưởng phòng Hậu cần F9 thi hành kỷ luật giáng quân hàm đ/c Lê Thái Thọ từ hạ sỹ xuống binh nhất.

Quyết định này được thi hành kể từ ngày ký.

Thế là tôi mang quân hàm hạ sỹ chưa đầy 5 phút. He.. he.. Hạ sỹ đểu là như vậy

Góp chuyện chó với các bác. Anh Hoạch Thái lọ sắp ra quân cũng nuôi một con chó vàng đuôi cộc. Bố ấy chăm chó kỹ lắm. Con này béo hú. Lưng nó phẳng lỳ, đặt được ba bát nước đầy mà đi không sánh ra ngoài một giọt. Anh Nhương vốn ghét cha này tội ky bo mượn đèn không cho, một hôm mát trời nổi cơn thèm thịt chó, bảo thằng Vỹ huýt sáo gọi nó xuống đại 1 chỗ thằng Căn thịt luôn. Mồi nhậu xong xuôi mạo danh đại 1 điện lên tiểu đoàn mời "lãnh đạo" và thông tin xuống đánh chén. Anh Nhương ra bộ vô can, rũ áo phong sương phành phạch khoác lên người cho lịch sự, sang gọi Hoạch đi ăn cỗ. Cả bọn xuống chén chú chén anh luý tuý. Tàn trận, Hoạch cứ ca cẩm tấm tắc rằng miẹ con chó này sao thịt nó mềm, thơm với béo thế! Lão Nhương nghe thấy thế gặng lại Hoạch :

-Ngoong hông?

-Ngon!

-Mềm hôông...?

-Mềm!

-Béo h...ô..ô...ng ?

-B...é...ooo !!!

-Biết chó ai hô...ô...ng?

-Không biết!

-Không biết tao bảo cho mà biết! Chó mày đấy! Ngon hôông?

- Không ngon nữa! ĐM chơi đ...gom!

........................................

Lý do lão Nhương đưa ra để hành quyết con chó là vì "tao đi đâu về nó không chịu mừng vẫy đuôi". Khổ, chó cộc có đuôi chó đâu mà vẫy? :'(

Nhưng mà nhè ra được thế nào nữa! Thương lắm! Thông cảm với Hoạch lắm! :'(

Về sau, khi anh Hoạch ra quân. Vì là người đầu tiên của trung đôi thông tin nên chúng tôi gom mọi thứ, tổ chức cho anh ấy một bữa liên hoan nhớ đời với rất nhiều mồi nhậu, rượu, tiếng cười cũng như nước mắt...

Con chó cộc ấy tên BaTô !

NHỮNG CHUYỆN LÀM TÔI ÁY NÁY

N

gày đầu chuyển về đồn biên phòng Chiềng Khương, đồn trưởng nói:

- Cậu ở ngoài tỉnh làm lính cậu quen rồi. Nay thử thách cậu làm anh nuôi đã. Sáu tháng sau sẽ chuyển công tác khác.

Tôi chấp hành. Từ nhỏ đến giờ đã nấu cơm ngày nào. Nay phục vụ hơn sáu chục người ăn quả không dễ. May mà có cậu chiến sỹ thông tin phụ việc (

những lúc không có điện báo chuyển đi

) nên cũng đỡ vất vả. Dần dà tôi nấu ăn khá thạo. Cơm bộ đội chỉ cần chém to, kho mặn. Nấu kiểu gì lính ta cũng chén sạch sành sanh.

Hôm đơn vị tổ chức bắn đạn thật. Ở nhà chỉ còn mình tôi. Quản lý hậu cần phân công tôi giết chó, làm liên hoan trưa. Tôi chưa giết chó bao giờ nên cũng bí. Tôi nhờ thiếu úy Thu, sĩ quan cơ yếu giúp phần cắt tiết, còn mọi việc tôi tự lo. Khi mọi việc hòm hòm, tôi lúng túng khoản dồi chó. Chợt nghĩ hồi bố tôi còn sống, ông thường nhúng ruột heo vào nước sôi. Thế là tôi đem ruột chó nhúng vào nước sôi. Ruột quắt lại, không thể dồi được. Thì ra, sở dĩ phải nhúng ruột heo vào nước sôi vì ruột già to quá, dồi tốn nhân, trông không đẹp. Ruột chó nhỏ, nhúng nước sôi thì vô phương dồi. Trưa đó, anh em chửi tôi là đồ ngu. Tôi thừa nhận mình ngu thật.

T

ết Mậu Thân 1968, đơn vị tổ chức đón tết khá lớn. Hai con bò, một heo và hơn chục con gà được khai tử. Bò được bắn về, xả thịt để trong nhà ăn. Tôi được phân công chỉ huy nấu nướng.

       Những ngày cuối đông, ở miền núi trời rất lạnh. Anh em mặc đủ áo ấm vẫn rét run cầm cập. Đêm 28 tết trực nấu bánh chưng, mọi người ngồi sưởi quanh bếp lửa. Lò bếp đốt nguyên cây gỗ to, than đỏ rừng rực. Ngồi buồn, tôi nảy ra sáng kiến xẻo thịt bò, ướp mắm kem, chiên trên chảo mỡ nóng. Thịt bò tươi, chiên vừa chín tới, thêm ly ruợu, nhậu thật khoái khẩu. Bụng cứ ấm dần lên. Bắt chước tôi, anh em cũng làm y như vậy. Hồi ấy, đang sức thanh xuân, ai cũng chén thật lực. Có tên xơi đến hai cân thịt. Quá đã !

Sáng hôm sau, đồn trưởng chuẩn bị làm món bit tết. Sờ đến đùi bò nào cũng bị xẻo hết các phần ngon. Tức quá ông chửi:

- Ăn thì ăn gọn vào một đùi. Đùi nào cũng nham nhở, làm bít tết sao được nữa. Trực ban đâu, kiểm tra xem những cậu nào trực đêm qua ?

Danh sách trực đã ghi trên bảng. Tên nào cũng khai bắt chước tôi. Sau khi chửi mắng tôi một hồi, đồn trưởng cũng cho qua.

       Sáng hôm ấy, anh em ăn sáng nhẹ, trưa cũng vậy. Ý chừng muốn dành bụng cho bữa liên hoan chiều. Buổi chiều đơn vị tập trung làm lễ tổng kết, triển khai Nghị quyết Đảng. Ngồi trong hội trường, nghe đọc các lọai diễn văn, đến gần mười sáu giờ, người nào bụng cũng tóp lại, đói meo. Cái rét căm căm càng làm cảm giác đói thêm dữ dội. Ai cũng mong kết thúc buổi lễ để nhập tiệc.

    

Mười sáu giờ, hội nghị giải lao hai mươi phút. Buổi lễ còn phần đọc báo cáo thi đua, phát động thi đua, trao phần thưởng...sau giải lao làm tiếp. Anh em ùa xuống bếp. Tên nào, tên nấy xun xoe nịnh tôi, gạ gẫm xem có gì ăn tạm không. Tôi chỉ nồi canh để trước cửa bếp và nói đùa:

       -

Thằng nào ăn được thì làm tới đi.

Tưởng nói thật, lính ào ào vào múc ăn. Canh nấu bằng nồi quân dụng lớn, ninh hai bộ xương bò, một bộ xương heo và năm cân đậu xanh. Do để ngoài cửa lâu, trời lạnh nên canh đã nguội. Mỡ bò gặp lạnh, đóng lại như sáp trong nồi, nhìn phát ngán. Vậy mà lính ta chén hết sạch. Có tên vác nguyên nửa cái xương đầu bò, trèo lên giàn mướp ngồi gặm rất say sưa. Tên nào, tên nấy cười hỉ hả.

Kẻng báo hết giờ giải lao. Buổi lễ làm tiếp đến mười bảy giờ bốn lăm mới kết thúc. Tất cả vào tiệc. Thủ trưởng rất ngạc nhiên nhìn các bàn. Thường ngày lính ăn như hổ, sao chiều nay lính ăn như mèo. Món ngon nhiều thế mà chỉ đụng đũa sơ sơ món măng chua xào lòng gà, thịt nướng bóp vừng. Cả bàn tiệc thừa mứa.

      Thì ra đang đói, chén canh xương bò lạnh, lính ta ngang bụng. Nhìn bàn tiệc, ai cũng ngán đến tận cổ.

Sau bữa đó, anh em chửi tôi xỏ lá. Tôi chống chế:

- Tại các cậu chứ đâu tại tớ. Năn nỉ mãi mới cho các cậu nồi canh. Ăn rồi lại cằn nhằn là duyên cớ gì ?

Lính ta thừa nhận tôi nói đúng.

       Tuy vậy, tôi cũng thấy áy náy trong lòng.

Mặt trận Biên giới Tây Nam (P1.4)

Đêm mấy hôm trước không ngủ được vì một món nợ to họ mãi không trả cho công ty em. Buồn tình mở máy trong đêm. Gặp bác Huuthanh cũng đang thức lúc 3h sáng, đang lọ mọ úp ảnh các dòng sông đất nước.

Hôm nay nhân dịp họ trả được cho một nửa rồi nên em lại tranh thủ viết mấy dòng lủng củng. Độ này em cứ nhiêu khê thế là do bị nhiễm một căn bệnh không biết lây từ ai. Đó là cái bệnh tra trong y văn thế giới không có. Ta hẵng tạm đặt tên là bệnh "Nhân dịp". Làm cái gì cũng phải nhân dịp nhé các bác! Nhân dịp Quốc khánh thì khánh thành cái cầu to; nhân dịp ngày Thống nhất thì tổ chức hội nghị toàn thể; nhân dịp ngày thành lập Đảng, ta tổ chức ra quân...Nhà em bị nhiễm cái bệnh đó nên nhân dịp phường tiêm phòng dại cho súc vật thì quyết định cho ăn thịt chó; nhân dịp thành lập đội thanh niên xung kích phường thì tổ chức ăn lẩu thập cẩm...vân vân và vân vân...Mỗi lần cứ có nhân dịp là bà xã lại có cho đánh chén nên em khoái nhân dịp lắm! 

Đến đâu rồi nhỉ ? À, hôm nay nhân dịp đòi được nợ nên em mới viết. Viết đôi khi cũng là cái nợ. Nhưng đôi khi cũng như người đi trả nợ. Cháo húp quanh công nợ trả dần. Tý một, tý một...Không ai dám trả nợ tiền giả cả. Tất nhiên trừ cái bọn lưu manh nó độn tiền giả vào tiền thật. Thiên hạ tưởng bở, hoặc tin mù quáng, cứ thế mang cái cọc tiền dỏm ấy ra dùng, ra tiêu thì có ngày lên đồn công an rũ tù sớm.

Của nợ thật ! Lại lan văn man rồi! Là đến cái đoạn chúng em chuyển đơn vị ra Mậu Chử, gần đường cái (QL1) hơn. Một lần, nhân dịp hội thao trung đoàn, đơn vị cho chúng em vượt cầu phao sông Đáy sang trung đoàn bộ xem bóng đá. Trận đấu Thể Công gặp Quân khu Tả ngạn. Cũng như truyện "Tinh thần thể dục" của cụ Nguyễn Công Hoan. Chúng em dậy từ lúc gà gáy, ăn cơm, điểm danh, lục suc cờ quạt khẩu hiệu để hành quân. Em chẳng nhớ gì tỷ số trận đó cả. Chỉ nhớ chúng nó hô: Bền ! Bền ! Các bác mê bóng đá, mê Thể Công có nhớ anh Thái Nguyên Bền tóc xoăn trắng trẻo đẹp giai lai Pháp đá hay không ạ? Anh ấy trước đá Thể công, sau hình như bị kỷ luật gái gú gì gì đó nên phải sang đá cho Quân khu Tả ngạn. Đó là chúng nó giải thích cho em thế! Em không biết gì chuyện đó. Nhưng biết rất rõ là hôm đó trời đổ cơn mưa lớn. Chúng em ướt như chuột lột. Về đơn vị em bị trận sốt to mấy ngày mới khỏi. "Ốm tha già thải" là chế độ quân đội ta được lính thành ngữ hóa. Ốm trong đơn vị cũ còn có vẻ có lợi chứ ở đơn vị mới này thì khỏe cũng nghỉ mà ốm cũng nghỉ. Chắc là gần đến ngày đi nên chẳng ai bắt chúng em tập tành gì nhiều nữa. Chỉ lo đảm bảo quân số đã là một thành công lớn vì độ này tụi nó bùng nhiều lắm!

Đêm cuối thu càng lúc càng lạnh. Tiếng chó sủa ong óc lúc xóm gần, lúc làng xa như có động vì lính trốn, vì quân cảnh đuổi bắt. Một số tiểu đoàn đã lục tục lên đường. Cái dự cảm lên đường hồi hộp nao lòng, bắt đầu từ những tiếng chó sủa đêm đêm. Từ những đoàn gia đình nhà lính vào thăm ngày càng nhiều. Bố mẹ em cũng vào thăm em một lần. Em gửi lại cây guitar em mang theo vào đơn vị cho bố em mang về. Cây đàn này nay vẫn còn, đang treo trên tường. Chiều hôm đó song thân ra về. Em tiễn ra đến đường cái quan. Nhớ mãi hình ảnh bố gò lưng đạp cái xe nam ngược gió ra ga Phủ Lý, đèo mẹ đằng sau tay chống cây đàn...

Bố mẹ em là viên chức nghèo nên không có tiền nhiều để cho em. Nhưng một số anh em gia đình buôn bán, "phe phẩy" (!?), hay có nghề phụ gia công... thì được cho khá nhiều. Chúng em gom tiền, mua hàng mũ trứng vịt luộc ăn với nhau. Rồi Chủ nhật đụng luôn con chó gié nhà chủ. Bác chủ nhà đứng ra gọi người làm hộ, vì bọn em có biết thịt chó bao giờ đâu? Bên bờ ruộng khô trắng vì gió bắc đầu mùa, anh ba toa rút những nắm rơm nhỏ, đốt quạt phành phạch, lật đi lật lại con chó để thui lại những chỗ còn da trắng. Chúng em lui cui vây xung quanh, nghịch đốt những cây muồng khô. Qủa muồng nổ lốp đốp trong lửa. Da chó dần vàng rộm, căng rồi nứt ra vì quá lửa. Mùi rơm đốt, mùi quả muồng cháy, mùi chó thui bên bờ ruộng quẩn quanh rặng bạch đàn...Ôi chao là chủ nhật làng quê !

Có lẽ đó là ngày Chủ nhật cuối cùng yên bình nhất. Mấy ngày hôm sau, các “tham mưu con” đoán già đoán non, phấp phỏng. Tôi thì nghĩ đơn giản là nếu được vào miền Nam thì cũng tốt. Một vùng đất mới chỉ biết qua sách vở vừa được quân ta giải phóng. Vào đó may có khi được đi Sài Gòn xem dinh Độc Lập, đi Cà Mau xem sân chim hay xuống Cần Thơ chỗ anh Phát tôi đóng quân, ăn trái cây “một bụng” ngon hết sảy như anh ấy kể…Hoàn toàn không có một khái niệm gì về cuộc chiến tranh biên giới Tây nam. Các vụ lấn chiếm lẻ tẻ của Pôn Pốt mà báo đài đưa tin không gây một ấn tượng gì. Dẹp mấy vụ đó có các sư đoàn thiện chiến hùng mạnh, cùng một đống vũ khí tối tân của Mỹ chúng ta vừa thu được. Liệu bọn nó sức mấy? Đơn vị mình vào đó có khi chỉ làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế là cùng. Ấy, hồi đó không chỉ tôi mà nhiều thằng cứ nghĩ như thế đấy!

Sáng hôm 18/11/78, cả tiểu đoàn huấn luyện báo động chiến đấu, hành quân ra thị trấn Phủ Lý. Từ Mậu Chử đến thị xã chỉ khoảng 6 km, nên đến gần trưa đã tới đó. Đến nơi thì thấy các tiểu đoàn khác trong trung đoàn huấn luyện (E104) đã tập kết đầy đủ trong sân vận động. Tiểu đoàn tôi vào nốt. Cổng sân vận động được đóng chặt lại. Trưa hôm đấy, trung đoàn ăn bánh mỳ trừ bữa. Đến khoảng 2h chiều, một đoàn văn công bắt đầu đến biểu diễn trên sân khấu. Lòng dạ đâu mà nghe hát lúc này? Một số thằng lính nghịch tinh, ngồi gần sân khấu còn ném xương khẩu mía nhai dở lên ầm ầm...

Đến 4h chiều, đơn vị hành quân ra ga Phủ lý, giữa hai hàng vệ binh lưỡi lê tuốt trần. Từ sân vận động ra ga tàu chỉ khoảng 1 km. Tôi vừa đi trong đội hình hành quân, vừa ngoái lại. Nhìn thấy con em gái với mẹ thằng Thắng Hàng Bè, gia đình thằng Lâm và một số gia đình khác đuổi theo hàng quân. Thằng Thắng học khác lớp nhưng cùng trường với tụi tôi. Họ xông vào thì vệ binh gạt ra ngay. Mấy thằng lính Hà Nội nổi khùng vặc lại. Họ quấn túm lấy nhau. Chao ôi là nước mắt...!

Thành ra bây giờ cứ xem lại đoạn đầu đặc tả cảnh tòng quân trong phim "Đàn sếu bay qua" thì cổ họng tôi nó như nghẹn lại…Một cô gái váy trắng lớ ngớ, len lỏi tìm người yêu tòng quân giữa hai hàng thiết giáp. Tiếng kèn vang vọng lên hành khúc. Và hộp bánh bích-quy sinh nhật tặng người yêu của cô đổ òa, tan vụn dưới xích xe tăng, tan vụn dưới những gót quân hành.

Đêm Giao Thừa Của Những Người Lính Mất Nước

Phạm Thành Châu

(Chuyện kể với kết thúc bi thảm nhưng sự thực đơn vị đã rút khỏi vị trí)

Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Hòa. Ở trại tù, cán bộ thường nói mấy câu “Các anh có nợ máu với cách mạng, với nhân dân. Đảng và nhà nước đưa các anh vô đây là để bảo vệ các anh khỏi bị nhân dân căm thù làm hại tánh mạng các anh. Các anh đáng tội chết nhưng đảng và nhà nước ta khoan hồng, mở cho anh một con đường sống là học tập, lao động cải tạo. Các anh phải thành khẩn khai báo tội lỗi của mình, lập công chuộc tội, chấp hành nghiêm chỉnh nội qui của trại.  Về hay không về là do bản thân anh có tiến bộ hay không. Học tập tốt, lao động tốt, yên tâm cải tạo là con đường duy nhất đúng để các anh sớm được đảng và nhà nước tha về sum họp với gia đình...” Cán bộ nào ở trại tù nào cũng nói tương tự, tù nghe suốt mấy năm đâm thuộc lòng, có thể nói nhanh hơn cán bộ. Sự thực, ban giám thị trại chỉ có nhiệm vụ giữ tù. Tù về hay ở đều do cục Quản Huấn bộ Nội Vụ chính quyền Cộng Sản qui định sẵn số năm tù cho mỗi tù nhân, (nhưng không kêu án, tù không biết, cán bộ cũng không biết, chỉ nói, tiến bộ thì được tha về). Chẳng hiểu vì sao đảng Cộng Sản Việt Nam kích động người dân miền Bắc căm thù người miền Nam tàn tệ như trong bài hát “Giải Phóng MiềnNam”: “Ôi xương tan máu rơi lòng hận thù ngất trời...” Miền Nam đang sống yên lành, đâu có động chạm gì đến miền Bắc để khiến họ căm thù kéo vào bắn giết? Trong tù, những ông bà tù (miền Nam) bị buộc phải làm “thu hoạch”, kể tội chính quyền miền Nam “phản dân hại nước, tay sai đế quốc Mỹ”, tự mình buộc tội là “có nợ máu” với nhân dân, đáng tội chết, rồi phải hả họng hát thật to “Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng...” (?!)Không làm như thế thì “đi cùm” rồi bỏ mạng. Thế mà, nhiều ông tù còn tưởng bởû, làm ăn-ten (entenna: vu cáo tù lên cán bộ để tù bị đi cùm) để “lập công chuộc tội”. Nhưng họ lầm to. Những người làm an-ten, dù có tên trong danh sách tha tù, trại tù vẫn đề nghị giữ lại vì kiếm được một con chó săn tự nguyện, làm việc đắc lực không phải dễ. Những tù nhân bình thường, khi cán bộ sai làm ăn-ten (báo cáo) cũng vâng dạ nhưng chỉ báo cáo những chuyện tào lao như anh A. gây lộn với anh B., anh C. làm ồn không cho người khác ngũ hoặc “Thấy những người khác chuyện trò tôi đến gần thì họ im lặng”. Cũng chẳng cần làm chó săn hoặc “lao động tốt, học tập tốt”, đã là tù cải tạo thì cứ yên tâm chờ đến lượt mình đi tàu suốt. Tôi từng thấy nhiều ông tù chết, được bó bằng cái chăn của ông ta, bỏ lên xe cải tiến, kéo đi trong sân, ra cổng. Hai cái chân khô đét, xanh lét thò ra khỏixe, nhịp lên nhịp xuống theo bánh xe gập ghềnh, tưởng như người chết nằm rung chân khoái trá được vĩnh viễn ra khỏi nhà tù, lên gò nằm ngủ khỏe, khỏi phải “lao động là vinh quang”.

     Thông thường, tù được thả về vào những dịp lễ, tết. Tôi ở tù vùng núi rừng tây bắc Việt Nam, được thả về trước tết âm lịch. Đi xe lửa Hà Nội - Sài Gòn, về đến ga Bình Triệu thì đúng vào 29 tháng chạp âm lịch. Tôi đi bộ từ ga Bình Triệu về đường Võ Duy Nghi, Phú Nhuận (Sài Gòn). Khi đi tù, tôi có gửi thư về nhà bên vợ, ở đường Võ Duy Nghi, là nơi vợ tôi và hai đứa con tá túc, nhưng không thấy trả lời cũng chẳng được thăm nuôi trong mấy năm đi tù. Nhờ sức trai, tôi chịu đựng được chứ mấy ông lớn tuổi mà không có thăm nuôi, đói lạnh, chết gần hết. Khi tôi đến nhà bên vợ, mới bước lên thềm, tôi đã dội ngược. Gia đình cán bộ đang ở trong đó. Như vậy, gia đình bên vợ tôi đã bị đánh tư sản, tài sản bị tịch thu, cả nhà bị đưa lên kinh tế mới. Chẳng biết vợ con tôi bây giờ ra sao? Tôi ôm gói đồ tù (gồm quần đùi, khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. Người tù, khi được thả về, tất cả áo quần, mùng màng, nồi niêu, chén đũa, lương thực thăm nuôi, thuốc men... đều để lại cho bạn tù, chỉ đem theo vật dụng đi đường) đi lang thang mà chẳng biết về đâu? Anh em ruột thịt chưa chắc đã dám chứa “tù ngụy” trong nhà vì sẽ bị công an các cấp đến hạch hỏi thường xuyên, nên tôi chẳng hi vọng gì từ tâm của bà con, bạn bè. Có lẽ phải sau tết, tôi đến hàng xóm của gia đình bên vợ hỏi thăm tin tức thì họa may.

     Tôi cứ đi lòng vòng trên  đường Võ Duy Nghi, Hai Bà Trưng, Hiền Vương với cái bụng trống rỗng, nhìn ngơ ngáo mấy chậu bông tết người ta bày bán trước nhà thờ Tân Định, chứ không dám nhìn vào mấy tiệm bánh, hủ tiếu, phở. Đói bụng nên mũi rất thính. Mùi thơm của thức ăn từ các tiệm đó làm chảy nước miếng. Khoảng mười giờ tối, đi rả chân, tôi nằm đại vào một hiên nhà người ta, trên đường Hai Bà Trưng, bên kia đường là nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng, giăng đầy mùng của dân kinh tế mới. Họ là dân Sài Gòn, sau năm 1975 bị đánh tư sản. Nhà nước Cộng Sản tịch thu tài sản, đẩy lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, nơi rừng núi hoang vu khai phá đất đai sinh sống, nhưng bịnh và đói chết dần, họ bỏ về Sài Gòn, ngủ lề đường cùng với dân bụi đời, vô gia cư, cầu bơ cầu bất. Vừa thiu thiu ngủ, tôi bỗng bị đá vào người rồi có tiếng nạt “Ông nầy. Chỗ của tụi tôi, ai cho ông nằm đây?” Tôi giật mình, lồm cồm ngồi lên, ôm gói đồ tù “Xin lỗi. Tôi tưởng không có ai”. Qua ánh đèn đường, tôi thấy hai cậu trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tướng bậm trợn, đứng chống nạnh nhìn tôi. Khi tôi bước xuống thềm, đi được mấy bước thì bị gọi giật lại “Chú!” Tôi dừng lại, yên lặng quay nhìn “Chú có phải đi tù về không?” “Phải. Mà sao?” “Chú cứ ngủ đây đi. Tụi nầy ngủ lề đường cũng được” “Sao cũng được. Cám ơn” Làm phật lòng mấy tay nầy chỉ thêm phiền nên tôi phải vâng lời, quay lại, nằm xuống hiên, gối đầu lên bọc tù, nhắm mắt để đó chứ không ngủ tiếp được. Hai tay giang hồ nầy, lẽ ra, có thể nằm phần còn lại của hiên nhà nhưng lại giăng mùng ngủ trên lề đường, gần nơi tôi nằm. Cách giăng mùng của họ cũng đơn giản. Mấy cái túi hay xách, bị gì đó chắn trên đầu và dưới chân, đình mùng cao độ hai gang tay, không chạm mặt người nằm bên trong, thật nhanh và thuận tiện. Hai cậu nằm trong mùng vừa chuyện trò vừa chửi thề rồi cười hắc hắc nghe thật ngang tàng. Tôi nằm nhìn thiên hạ qua lại. Xe gắn máy chạy vù vù, người đi bộ lê dép lẹp xẹp. Tôi không biết ngày mai đi đâu với cái túi trống trơn và cái bụng xẹp lép. Mấy năm tù đã làm cho đầu óc tôi mụ mẫm, chẳng thèm lo nghĩ. Đến đâu hay đó. Trong tù, sáng nghe kẻng báo thức, dậy ra ngồi trước cửa nhà tù để cán bộ coi tù đếm tù, lãnh mấy củ khoai mỳ hay trái bắp, ăn xong chờ kẻng để sắp hàng ra cổng, lao động. Chiều về, lại mấy củ khoai, trái bắp gì đó, ăn xong, ngồi cho cán bộ đếm tù rồi vô nhà tù nằm chờ giấc ngủ. Cán bộ khóa cửa nhà tù, bỏ đi. Khuya lại thường có bộ đội (bảo vệ) mang súng đi tuần rỏn bên ngoài các nhà tù. Tù kiệt sức sau một ngày lao động, đói và mệt rả rời nên ngủ vùi, có thao thức mà nghĩ đến gia đình cũng vô ích. Gia đình, vợ con đang lo cho người tù, sống chết ra sao? hơi sức đâu lo ngược lại cho họ. Trong tù, chẳng ai biết ngày giờ, chỉ khi nào được chén cơm trắng với chút mỡ heo hoặc miếng thịt trâu mới biết là ngày lễ lớn hoặc tết nhất. Nghỉ một ngày lao động, ăn chén cơm là biết một năm đã đi qua nhưng không bao giờ tự hỏi mình đã bao nhiêu tuổi rồi? Càng suy nghĩ càng mau chết vì mất ngủ. Nhiều ông lớn tuổi, bịnh hoạn, tối nhắm mắt để rồi sáng hôm sau không thèm mở mắt. Cứ thế mà vào cõi hư vô... Đang suy nghĩ linh tinh thì có hai ông xuất hiện, dừng lại trước hiên, nơi tôi nằm. Thấy mỗi ông một gói đồ tù trên tay, tôi biết ngay là bạn “đồng tù” nhưng làm thinh. Một ông thấy tôi nằm lỏ mắt nhìn, bèn hỏi “Anh ơi. Chỗ nầy còn trống, cho tụi tôi nằm đỡ. Được không?” “Đây đâu phải nhà của tôi. Mấy anh cứ tự nhiên” Hai ông bèn bước lên thềm, ngồi xuống, tựa lưng vào tường, duỗi chân, ẹo mình coi bộ mệt mỏi. Họ nói chuyện rù rì nhưng tôi nghe rõ và biết họ cũng từ ngoài Bắc về chung một chuyến xe lửa cuối năm với tôi. Họ đối đáp nhát gừng nhưng vẫn đậm đà tình thân. Họ kể về các trận đánh trong đó có bạn bè, người còn, người mất. Tôi cũng tốt nghiệp sĩ quan nhưng về bộ binh, nghe họ chuyện trò, tôi biết hai ông là sĩ quan dù, một ông là đại đội trưởng, ông kia là sĩ quan pháo binh tiểu đoàn dù. Hình như họ cùng tiểu đoàn nên chuyện trò rất thân mật. Trong câu chuyện, chẳng ai nhắc đến bóng hồng nào mà toàn chuyện lính tráng, đánh đấm. Tuổi trẻ miền Nam lớn lên, vừa xong trung học, buông bút là vào quân trường cầm súng, họ, đa số chưa có người yêu. Ba lô, súng đạn như người bạn đời, sinh mạng phó mặc cho viên đạn nhỏ bằng mút đũa hay mảnh pháo có khi chỉ bằng cái móng tay quyết định... Tôi may mắn, có vợ con, nhưng bây giờ cũng như không. Tôi yên lặng nghe hai ông bạn đồng tù trò chuyện và nghĩ vẩn vơ. Khi Cộng Sản miền bắc phát động chiến tranh, đánh chiếm miền Nam, hàng triệu thanh niên trai trẻ lên đường chiến đấu để chống xâm lăng, bảo vệ tự do, an lành cho đồng bào miền Nam với sự trợ giúp của nước Mỹ. Nước Mỹ giúp miền nam Việt Nam để “be bờ” Cộng Sản. Đột nhiên, từ năm 1973, viện trợ Mỹ giảm dần rồi đến con số không. Một đô la cũng không có. “Nước Mỹ không có bạn, không có thù. Chỉ có quyền lợi của nước Mỹ”. Nghe nói họ bắt tay với Trung Cộng, để miền nam Việt Nam cho Cộng Sản, đổi lấy gì đó. Thế là miền Nam bị bótay. Súng không có đạn, máy bay, xe cộ, thiết giáp, tàu bè không có xăng. Người lính Cộng Hòa cay đắng nhận chân người đồng minh, vì quyền lợi nước Mỹ mà bỏ rơi miền nam một cách lạnh lùng, tàn nhẫn, trong khi đó, cả một khối Cộng Sản quốc tế khổng lồ viện trợ tối đa cho Cộng Sản miền bắc, để họ thoải mái bắn giết quân dân miền nam. Người lính miền bắc được học tập để căm thù miền nam. Họ bắn vào trường học (Cai Lậy), giật mìn xe đò, chôn sống gần chục nghìn dân Huế, họ pháo vào người dân vô tội trên đường chạy giặc. Những con đường đầy xác chết không toàn thây của đàn bà, trẻ con. Đại lộ kinh hoàng Quảng Trị – Huế, con đường chạy giặc khủng khiếp từ cao nguyên về đồng bằng. Người lính Cộng Hòa đến đâu, dân chúng chạy theo đến đó để được bảo vệ, cứu giúp. Trong giây phút hấp hối của miền nam, người lính Cộng Hòa chỉ còn biết lăn xả vào quân thù, đem thân ra che chắn cho đồng bào chạy thoát.  Đó là dịp bằng vàng để quân đội Cộng Sản miền bắc hoan hỉ trả thù, người nào sống sót thì đưa đi tù cải tạo, không có ngày về...

     Lúc đó đã về khuya, đường phố vắng tanh, hai cậu bụi đời đã im tiếng, hình như đang nằm lắng nghe hai ông bạn tù của tôi trò chuyện. Bỗng cái mùng động đậy và hai cậu chui ra, đứng dưới thềm, trước hai ông bạn tù, người thẳng đơ, đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Một cậu nói lớn “Trung sĩ nhất Nguyễn văn..., đại đội..., trung đội..., trình diện đích thân” Cậu kia cũng đứng nghiêm xưng tên họ, cấp bậc, đơn vị nhưng lại “Trình diện ông thầy”. Thông thường, lính gọi sĩ quan cấp trên trực tiếp bằng cấp bậc hoặc các chức danh tùy ý “Ông thầy, đích thân hoặc thẩm quyền...” Thì ra các cậu đều là lính dù. Như một phản xạ, hai ông bạn tù cũng chào tay“Chào hai anh. Hai anh ngồi xuống!”. Hai cậu ngồi trên hiên nhà, chân thòng xuống lề đường. “Tụi em nằm nghe mấy ông thầy nói chuyện mới biết là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa đi tù về”. Một cậu ngậm ngùi “Từ ngày mất nước, các cấp chỉ huy đi tù, tụi em tan hàng, bơ vơ, buồn muốn chết. Tụi em nhớ đơn vị, nhớ cấp chỉ huy, nhớ súng đạn, ba lô... nhớ đủ thứ. Lúc nãy, nằm nghe hai ông thầy nói chuyện, tụi em mừng quá, tưởng như còn đang ở đơn vị”.  “Bộ mấy cậu không bị tù cải tạo sao?” “Có, nhưng ở địa phương, tụi em bị tập trung một thời gian để nghe chửi là tay sai đế quốc Mỹ, rồi bắt đi nông trường làm thủy lợi, sau đó được đưa sang Căm Bu Chia vác đạn cho bộ đội làm nghĩa vụ quốc tế, đánh nhau với Khờ Me đỏ. Tụi em bỏ trốn về Sài Gòn” Tôi ngồi lên “Mình nói chuyện có làm phiền chủ nhà không?” “Ông thầy khỏi lo. Họ ngủ trên lầu. Hai ông bà chủ nhà có con là đảng viên làm lớn, được cấp nhà tịch thu của tư sản. Tụi em ngủ ở đây, giữ gìn sạch sẽ, khỏi sợ trộm cắp nên họ để yên”. Hai cậu bụi đời thì thầm với nhau rồi cậu trung sĩ đứng lên, trịnh trọng thưa “Thưa, mấy khi thầy trò được gặp lại nhau, tụi em có ý kiến như thế nầy. Tụi em đi kiếm rượu và mồi nhắm để mấy ông thầy và tụi em lai rai đón giao thừa...” Một ông cười khan “Nghe văn chương của cậu là hiểu ý rồi đó. Tụi nầy vô sản, mấy cậu kiếm xị đế là đủ rồi, khỏi mồi miết phiền phức, tốn kém”  “Không bao nhiêu đâu. Mấy tiệm phở sắp đóng cửa, họ bán xí oách rẻ đui. Mình không lấy họ cũng đổ bỏ” “Khuya rồi, ai mà còn bán rượu nữa?”“Ông thầy khỏi lo. Tụi em là mấy con ma, chỗ nào không biết!”.

     Buổi “tiệc đón giao thừa” gồm hai xị đế và thau xí oách (xương bò, xương gà) với một cái li nhỏ để trên một tờ báo được trải ra. Người nầy “vô” xong một li thì rót cho người kế tiếp, cứ thế xoay vòng. Nhờ hơi men, những câu nói nhát gừng đã thành rôm rả. Những người lăn lộn chiến trường thường lầm lì, ít nói, chỉ khi có tiếng súng nổ mới kích động được họ xông lên phía trước. Chính họ, những người trực tiếp chỉ huy trung đội, đại đội, dẫn dắt đồng đội tiến, thoái mới là người quyết định chiến trường. Giờ đây, chiến trường đã im tiếng súng, họ là kẻ chiến bại, là kẻ mất nước, bị đối phương khinh miệt, tù đày, hành hạ để trả thù. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đã biến mất, chỉ còn lại những con người sống ngoài lề xã hội, vất vưởng, bơ vơ.  

     Buổi “tiệc” cuối năm càng về khuya càng thân mật, thỉnh thoảng có tiếng cười. Ngoài đường đã vắng bóng người. Những con đường như ngủ say dưới ánh đèn vàng vọt. Đột nhiên, trong đêm vắng, vài tiếng pháo nổ lẻ tẻ, vang đến từ chợ Tân Định. Rồi như cùng hẹn trước, tiếng pháo đồng loạt nổ vang khắp nơi. Giờ giao thừa. Mọi người đón mừng chúa Xuân bằng những tràng pháo và lễ vật trên bàn thờ, trước cửa nhà. Bọn lính tráng chúng tôi trước đây không bao giờ quan tâm đến năm mới, năm cũ vì thường xuyên hành quân nơi rừng sâu, núi thẩm, họa hoằn đi ngang qua một xóm làng xơ xác nào đó, nhìn đồng bào nghèo khổ vì chiến tranh, thấy họ chẳng có gì để đón xuân mà ngậm ngùi, nay bỗng nhiên nghe tiếng pháo mà tưởng như đang đánh nhau, nhất là mùi thuốc súng mà người ta lấy thuốc đạn ra làm thuốc pháo. Suốt dọc hai bên đường Hiền Vương, đường Hai Bà Trưng tiếng pháo nổ liên tục chen lẫn với tiếng pháo tống, pháo đại mỗi lúc một gần. Chúng tôi tưởng như mình đang bị bao vây bởi kẻ thù với những họng súng đang hướng về chúng tôi mà khạc đạn, tưởng chừng những trái đại bác, súng cối, hỏa tiễn đang trút lên đầu chúng tôi. Từ trên lầu, nơi chúng tôi đang ngồi, người chủ nhà thòng xuống một dây pháo dài, nổ rang, những viên pháo đại rơi xuống đất, nổ chát chúa, xác pháo bắn vào chúng tôi, khói pháo mịt mù, nồng nặc muốn ngộp thở. Hai cậu cựu binh như bị đồng nhập, tay nắm lại, cằm bạnh ra, mắt trừng trừng nhìn hai ông cựu sĩ quan. Một cậu chồm tới, thét lên trong tiếng nổ hỗn loạn “Thẩm quyền! Ban lệnh đi thẩm quyền. Chả lẽ nằm đây chịu chết sao?”. Tôi quay nhìn. Hai ông cựu sĩ quan dù lắc đầu, nước mắt họ ứa ra, trào xuống gò má xương xẩu như những giòng nước, long lanh ánh chớp của pháo nổ.Bỗng, một ông kêu lên, giọng điềm tỉnh “418, đây 314, xin tác xạ, hết” Ông ngồi bên cạnh, trả lời “314, đây 418, xin tác xạ, hết” Thế rồi cuộc trao đổi truyền tin diễn ra “Lệ Hằng, phải 1.5, lên 2.3 một khói nổ chạm. Bắn khi sẵn sàng, hết” “Lệ Hằng, phải 1.5 lên 2.3, một khói, hết” “Hướng 800, gần lại 100. Một khói, hết” “Hướng 800, gần lại 100, một khói, hết” “Hỏa tập cận phòng. Năm tràng, bắn hiệu quả, hết” “Năm tràng, bắn hiệu quả, hết” ... Giọng hai ông bạn tù của tôi vẫn mạch lạc, điều động nhịp nhàng pháo binh yểm trợ như trong một trận chiến sắp nổ ra. Tôi hình dung một đại đội dù đóng quân trên một ngọn đồi, là một vị trí then chốt chận đường di chuyển của địch quân. Đương nhiên là địch tìm mọi cách nhổ cái vị trí ác hiểm đó nên thường xuyên tấn công biển người, tràn ngập. Hai ông cựu sĩ quan dù như đang kể lại một một kỷ niệm chiến đấu nào đó đã xảy ra và hai cậu cựu binh cũng là những người đã từng tham dự nhiều trận đánh đẫm máu...

     Cuộc trao đổi truyền tin trong tiếng pháo giao thừa vẫn tiếp tục. Hỏa tập như càng lúc càng kéo gần vị trí đóng quân trong khi tiếng pháo vẫn chát chúa, khi xa, khi gần. Rồi tiếng pháo cũng lơi dần. Người chủ nhà trên lầu đã đốt hết dây pháo, nhưng ông ta lại gắn thêm một dây pháo nữa, lần nầy ông ta chập ba bốn phong pháo vào với nhau nên pháo nổ càng dữ dội, và như cao hứng, những căn nhà kế bên cũng đem pháo ra đốt tiếp.Tiếng nổ càng dồn dập, khói càng mịt mù. Ông bạn tù lại cao giọng “Các hỏa tập cũ đều kéo vào 50, sẵn sàng bắn, vị trí sắp bị tràn ngập, hết” “Hỏa tập cũ kéo vào 50, bắn, hết” ... Cuộc trao đổi trở nên căng thẳng, gấp rúc khiến tôi tưởng tượng đến trận chiến đang đến hồi quyết định, đối phương đang mở cuộc tấn công biển người. Hai cậu bụi đời ngồi chết sửng, thỉnh thoảng cựa quậy như không chịu đựng được các bắp thịt và thần kinh đang căng lên hết mức. Vẫn giọng bình tỉnh “418, đây 314, địch tràn ngập vị trí. Hỏa tập tối đa, nổ chụp ngay trên đầu tôi, hết” “Xin 314 nhắc lại, hết” “418, đây 314, địch tràn ngập vị trí, hỏa tập tối đa ngay trên đầu tôi, hết” Giọng ông pháo binh khàn khàn “Bắn trên đầu bạn ư?”  “418, đây 314. Có bao nhiêu ông phang hết lên đầu tôi. Đó là lời cuối cùng” “314, đây 418, xin xác nhận lại. Nghe tôi không? Xin 314 trả lời... Vâng, hỏa tập tối đa trên đầu bạn. Vĩnh biệt 314”...

     Tiếng pháo giao thừa đã dứt. Cả thành phố yên lặng như đang mặc niệm tử sĩ. Vẳng lại từ xa vài tiếng nổ  lẻ tẻ, rời rạc rồi lịm dần, tưởng chừng như chiến trường đã bị kéo trôi đi xa, chỉ còn lại cảnh bình địa hoang tàn.

Phạm Thành Châu

ôi xin được tiếp tục kể về chuyện ăn uống của lính trong thời kỳ đó ở đơn vị tôi:

Khi nhắc đến vấn đề này, chúng ta sẽ có rất nhiều kỷ niệm liên quan đến cơm cháy, bát B52, lính đi cứu, lệnh "cắt cơm" ...và nhiều chuyện khác nữa... Tôi biết nó không mới đối với các bác ở các đơn vị khác trong toàn quân tại thời điểm đó và tôi cũng đã đọc được những dòng tương tự trên chủ đề của lính F 302...tuy nhiên vẫn xin phép các bác được hồi tưởng và nếu như có tình tiết nào giông giống thì cũng xin lượng thứ cho, tôi xin thề trước cờ rằng không có tình tiết nào là copy cả...

Nhắc đến cơm cháy của lính, đến giờ này tôi vẫn còn thèm ( mặc dù răng cọ đã sệu sạo, không cho phép nhai tất cả mọi thứ như hồi trai trẻ...). Những mảng cơm cháy thành chảo vàng rộm, dòn tan...đặc biệt được róc khi cơm còn được ủ trên bếp cho chín, một nhát sẻng lướt vào thành chảo, một miếng cơm cháy lộ ra, phải chi thời đó có hải sản để tạo thành món cơm cháy hải sản - đặc sản tại các nhà hàng hiện nay - thì tuyệt. Nhưng thời đó, chỉ cần cơm cháy thôi cũng đã thèm nhỏ rãi rồi. Tất nhiên tôi đang nói đến đặc ân của B nhọ đít chúng tôi (cánh lính hay mắng là ăn trên ngồi chốc mà...) còn lính tráng thì làm gì có đặc ân đó. Ngày đó, cơm chia trên mâm cũng chỉ đủ 2 lưng chén cho mỗi chú là hết, lính đói nhìn đống cơm cháy để trong chảo sao không phát thèm, nhưng khổ nỗi cơm cháy theo lệnh trên để giành cho các chú ỉn, tổ chăn nuôi của bác Nhẫn già lính 78 Hải Phòng phải căng quân ( thực tế có 2 người ) để bảo vệ cơm cháy. Nhiều lúc cơm cháy quá nhiều ( do than cháy không đượm hoặc củi ướt nên phải đốt nhiều cho cơm chín, B anh nuôi bị tiểu đoàn chửi sối sả vì đã góp phần cắt giảm khẩu phần lính và những lúc đó cơm cháy thành chảo phải được chia thêm lên mâm, ngoại trừ cơm cháy đít chảo thường lắm sạn sẽ được để dành cho những chú ỉn. Nhiều lúc cả chỗ khẩu phần cho các chú ỉn lính ta cũng không tha, nên bác Nhẫn cũng không loại trừ biện pháp đổ nước gạo vào cơm cháy...

Còn chuyện liên quan đến bát B 52, chắc các chú lính trẻ bây giờ không thể biết sự tích của nó...chẳng là khi nói đến B 52 chúng ta thường liên tưởng đến một cái gì đó rất vĩ đại, to lớn, pháo đài bay mà, vậy là chiếc bát sắt của Trung Quốc trang bị cho lính ta trong KCCM được gán tên B52 vì độ khủng của nó...tôi đoán dung lượng của nó chắc cũng gấp rưỡi loại bát sắt của ta trang bị cho lính thời đó. Các chú lính sở hữu loại bát B52 này ngồi chung mâm nào, lính tráng mâm đó vãi linh hồn...các chú đánh thật nhanh chén đầu, sau đó lèn chén thứ hai, vậy là đủ tiêu chuẩn 2 chén...các chú khác chỉ còn cách lắc đầu thất vọng. Vậy là bắt đầu có các cuộc bài xích bát B52 ngấm ngầm trong lính ta, tất cả các bát B52 trên giá bát đều lần lượt biến mất, hoặc đập móp mép... ;D ;D ;D  Đối với lính ngày đó, công tác dân vận có thể nói luôn luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng không kém nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Tôi nói như vậy với cả 2 ý nghĩa vừa đen vừa bóng...quân với dân như cá với nước mà, hầu như ai cũng có một hậu phương nho nhỏ nơi đóng quân... phải công nhận dân mình tốt và rất yêu thương bộ đội, tình thương đó có lẽ bắt nguồn từ lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc và không ai, không gia đình nào không phải gánh chịu những mất mát về người thân nơi chiến trận hoặc đang sống trong cảnh nhớ con, em đang chắc tay súng nơi xa nào đó trên Tổ quốc ta...và có lẽ như vậy nên sử cảm thông yêu thương dành cho bộ đội luôn hiện diện trong họ một cách chân thành.

Những ngày chủ nhật hiếm hoi xả trại vô cùng ý nghĩa với anh em chúng tôi, tôi nhớ 2 tuần 1 lần chúng tôi được "tự do" 1 lần và đó là dịp mà tất cả mọi người đều muốn tỏa vào trong dân. Trong những ngày đó, không khí gia đình là cái mà chúng tôi cảm nhận sâu sắc nhất, những tiếng gọi bố mẹ, xưng con...không hề cảm thấy khách sáo, chúng tôi sống với họ cũng hết lòng, trải lòng mình rất chân thành và chúng tôi cũng cảm nhận được tình cảm mà họ dành cho chúng tôi. Cũng giống như bao gia đình khác thời chiến, trai tráng lên đường nhập ngũ...đàn ông trong làng ngoài những bậc cao niên, trung niên còn lại chỉ toàn lũ choai choai đang đi học và cánh đàn bà, con gái nghiễm nhiên trở thành lực lượng lao động chính trong gia đình..., mỗi dịp về thăm là một lần chúng tôi cố gắng giúp họ thật nhiều. Đối với những ngày chủ nhật tự do đó, lính tráng gọi đùa với nhau là ngày đi cứu...dân, cứu mình, lẫn cứu đồng đội. Những anh lính sui sẻo phải ở nhà trực đơn vị được "hưởng lợi" từ những bữa trưa no nê vì được thêm khẩu phần ăn của những chú đi cứu...

Còn chuyện "lệnh cắt cơm" cũng một phần gắn liền với các chú vì lý do nào đó không trở về đơn vị đúng giờ ăn...Thông thường, khi các chú có dịp ra ngoài đều nhờ bạn bè lấy dùm phần ăn cho mình (phòng hờ bất trắc mà...) và anh em đều ngầm hiểu với nhau nếu sau 12 giờ trưa hoặc 6 giờ chiều mà các chú đó không về kịp thì đều bị ... cắt cơm. Do đó có nhiều chú lính ta khi nhìn đồng hồ thấy gần đến giờ bị cắt cơm mà đang trên đường về là mặc dù bụng đói, mắt hoa cũng phải cố ba chân bốn cẳng phóng về thật nhanh để không bị cắt cơm, những lúc đó nếu may mắn chưa bị cắt cơm thì dẫu ăn song khẩu phần thì cũng như muối bỏ bể vì phần cơm lấy về thường ít và do phải chạy hộc tốc nên năng lương bị mất bù lại không đủ... ;D ;D ;D ;D Chắc không ít bác trên diễn đàn đã nếm cảm giác này không í

mình kể cho mấy đh nghe chuyện vịt trời nhé!( có 2 câu chuyện liên quan đến vịt)

  ngày đó mình và yên(hột dịt) cuốc bộ từ khe lang ra thị trấn nhận bưu phẩm,ô bà cụ ở nhà cũng không khá giả gì chỉ gởi cho hũ mắm ruốc vài cái khăn mấy cái quần đùi, còn cu yên thì cũng kô có gì nhiều, trên đường về đơn vị thấy một bầy vịt xiêm(ngan)đang nhởn nhơ kiếm mồi thế là nhoáng một cái ( còn nhanh hơn chớp)một chú vịt to ơi là to nằm gọn trong bụng của yên(hột dịt) ( mình thì bắt còn yên thì có nv dấu vào trong áo)về tới đơn vị cả một đám bu lại hỏi ở đâu ra vậy mình và yên đều thống nhất là vịt của các cụ gởi ra bằng đường bưu điện vậy mà các chú lính nhà ta tin xái cổ và được một bữa cải thiện ra trò.

 còn câu chuyện thứ hai , lần ấy trên đường khai thác về lương thực thì đã cạn, bụng thì đói meo thấy mấy o tắm (cởi trần) mà mình ,sơn(chợ), thiệu(dấm) cũng không thèm để ý, đi được một đoạn bỗng ô sơn(chợ) kêu giật giọng " vịt,vịt ,vịt rừng kìa" thế là bác thiệu nhà ta lặn một hơi và túm được chân một chú và dìm ngay xuống nước không kịp kêu tiếng nào,còn mình có nhiêm vụ lên bờ xin bà con mớ hành,( vì không thấy ai nên làm cho một ôm hành lá), bác sơn thì có nv nấu nướng, bữa đó là một bữa ăn thịt vịt ngon nhất trên đời, ba thằng ăn no kễnh bụng nhưng vẫn không hết ,một hồi sau gặp phong (tồ)cũng được hưởng xái.

" có dịp nào phải ra tạ lỗi với bà con ở ngoài đó ... nói đúng ra là đói quá, chắc bà con cũng thông cảm và tha thứ cho đám lính trẻ "

Sẵn dịp nhắc đến quán Lâm Ti Bé Tí, mình xin kể một kỷ niệm nhỏ mà đau đến tận bây giờ...Trong lý lịch quân nhân của mình vẫn còn dòng chữ nhận xét của chính trị viên D, : "thường hay lui tới hàng quán người Hoa..." . Ngày ấy những người Việt gốc Hoa không chạy qua bên kia biên giới mà vẫn ở lại Việt Nam tuy không bị coi là "kẻ thù" nhưng lại luôn bị để ý dè chừng.

Gần đơn vị tôi có một gia đình người Việt gốc Hoa, ông bà cụ ngoài việc làm nông, làm nương rẫy còn mở một quán nước tại nhà...quán cũng như mọi quán khác thời đó: nghèo nàn về chủng loại hàng hóa chỉ bán có nước chè, thuốc lá con gà, chuối, lạc rang, rượu trắng...và quán nước này do 4 người con gái của ông bà cụ là các cô Lâm, Ti, Bé, Tí thay nhau chăm coi công việc bán hàng. Vì là quán nước ngay sát đơn vị nên lính tráng nhà ta lui tới khá nhiều, nhưng khổ nỗi vì khổ chủ là người gốc Hoa nên được không chỉ vệ binh D mà cả vệ binh E chăm sóc rất đặc biệt, chú nào bị tóm bởi vệ binh E thì cầm chắc nằm conet mấy ngày.

Nhưng không hiểu tại sao lính ta vẫn thích lui tới quán này mặc dù luôn phải đối mặt với nguy hiểm và các cô chủ không hề sinh đẹp (chỉ hiền thôi). Ngồi trong quán nhưng các chú lính ta phải dự tính rất nhiều phương án đào tẩu nếu vệ binh ập vào, đa phần là vượt qua hàng rào khoai mì là về đến C11 rồi và coi như thoát. Nhưng một lần, khi chúng tôi đang ngồi quán, các cô chủ có nhiệm vụ canh phòng vệ binh cả cửa trước lẫn hàng rào, khi có động cả hai đầu đều báo nguy hiểm, vậy là trong lúc bối rối chưa biết làm sao tụi tôi được bà chị lớn tên Lâm kéo vào trong phòng ngủ của các cô để trốn...vệ binh kiểm soát, tìm kiếm không thấy rút về, chúng tôi thoát nạn...hú hồn.   :o :o :o

chuyện về sắn nướng ở khe lang!

 hồi đó buổi trưa là mấy ô lính như phong(tồ),nghé,sơn(chợ)hải (hảo) thiệu(vấm)lâm lùn, tháo một số vách nứa và lên đồi trộm sắn ( có lần gặp mấy bác giữ rẫy hỏi : mấy chú bộ đội đi xin sắn hả? kô biết phong(tồ) hay cu thiệu nói : đi nhổ chứ xin cái gì? đúng là botay.com). khi củi lửa,mồi đã sãn sàng chúng tớ tiến về bờ suối chỗ vắng,nước sâu, xếp mấy hòn đá lại và sắp khoai mì lênvà nổi lửa, trời thì nắng nóng nên khi nướng xong cho vào chậu dùng để chia cơm rồi 1,2,3 tất cả 100% nhảy xuống suối vừa tắm mát lại vừa thưởng thức khoai mì nướng, vì ngâm mình dưới suối nên ăn hoài không biết no( chắc bác nào cũng đc ăn khoai mì luộc hoặc nướng, khoai ở vùng đó ăn vừa dẻo lại vừa thơm:hay là tại đói quá nên thấy ngon). khi gần đến giờ phải về đv thì hỡi ơi bụng ô nào ô ấy như là bụng cóc mà bụng to nhất vẫn là bụng của ô phong(tồ).có hôm no quá phải è ạch mãi mới về đến đơn vị, nếu có dịp ra con suối đó thế nào cũng vớt được mấy cái chậu,vì ăn xong là nhấn chìm để phi tang, bởi vậy nhà bếp cứ thiếu thau,chậu liên tục.. Vụ vịt cũng có và vụ sắn nướng cũng có thường trực, vụ sắn nướng là chỉ có ông Lâm là nhát nhất thôi, không dám nhổ mà chỉ giỏi ăn thôi. Trên đời này có ai sướng như tụi mình đâu: vừa ngâm nước, vừa ăn sắn nướng

Hôm trước, thanhh63 có kể chuyện về lính nhà ta trần truồng, mình xin nhắc một kỷ niệm nhỏ: Sơn (Chợ) nhà ta là một tay phá ngầm, nếu nói theo từ bây giờ là "Ông Trùm giấu mặt" hồi đó Sơn "chợ" là chuyên gia đứng đằng sau để điều khiển, một trong những người bị điều khiển là Dấm, lâu lâu có cả mình nữa...Có thời kỳ, Đại đội lệnh xuống các tiểu đội phải có mỗi  A khoảng 10 cục đá ong để xây nhà vệ sinh, việc này Anh Sơn nhà ta xung phong chịu trách nhiệm, thế là tối hôm đó, anh Sơn chỉ huy tụi mình: Tất cả ở truồng và theo lệnh của Sơn, khoảng 6 thằng lính nhà ta trần truồng như nhộng bước hàng một mò mẫm theo sau anh Sơn, tụi tôi đi cặp theo bờ suối (Từ Khe Lang chảy ra) đi  ra sau quả đồi mà anh em mình đào công sự tập luyện (các bạn có nhớ không) qua đó một đoạn thì có một đống đá ong của dân khai thác đã được chẻ sẵn, và mỗi anh vác một cục (Tất nhiên Sơn nhà ta không vác - vì là chỉ huy mà) đêm đó chúng tôi phải vận chuyển 2 lần. Sáng hôm sau Tiểu đội trưởng Dũng hoan nghênh nhiệt liệt anh em ;D ;D ;D (anh Dũng biết là đi ăn trộm)

Còn chuyện này bây giờ mình mới kể (xin thề là từ hồi đó tới giờ chưa kể cho bất cứ ai): các bạn có nhớ đầu hồi nhà Trung đội có làm một nhà để đi tiểu và để anh em buổi chiều ra đứng trong đó để xức lác và xức ghẻ không? Hôm đó mình được phân công trực ở Trung đội (không phải đi ra thao trường) mình tranh thủ ra ngoài chỗ đó để xức lác, khi xức lác xong mình bước về phía nhà Trung đội (sát vách phòng anh Khởi) mình thấy một ông mang quân hàm Thương tá, khoảng trên 40 - 50 tuổi, ông ấy đến hỏi mình một vài câu sau đó tiến sát lại mình và... mò.. của quý của mình, mình sợ vô cùng luôn, người đổ mồ hôi mà không dám la lên, được một lúc, Ông ấy không nói không rằng bỏ đi.. đến bây giờ ký ức mình vẫn nhớ như in chuyện đóó nhớ vụ ô đức nói kô ăn đc thịt chó kô? ô nói có bùa ngải gì đó nên không ăn đc thịt chó, hôm đó ô đi chợ gánh rau hay gì đó , ở nhà mấy bố làm thịt chó rồi lấy thịt chó làm nhân cho vào bánh xe lịch sử về tới ô ăn liền một hơi 2 cái rồi tấm tắc khen ngon( có pha cả thịt heo) qua một đêm mới dám nói cho ô ấy biết vì thấy không bị hành bị tỏi gì cả, kể từ đó chó hay trâu gì ô đều quất láng.

Mình nhớ ông Đức, thanh niên ấy mất 1 cái răng cửa, đeo một cái nanh chó hay nanh gì đó ở cổ, anh ấy luôn nói để trừ bùa ngải và ổng còn nói ổng theo đạo gì đó phải kiêng thịt cầy, nếu ăn sẽ bị thánh vật... vậy mà lần đó ổng chén ngon lành thịt chó anh em cố tình để ý xin ổng có biểu hiện gì không, chờ mãi chẳng thấy mới nói cho ổng hay, ổng liền giả bộ ông bụng nôn ọe mà không ọe được gì, chắc ổng không muốn ói vì tiếc, ông Chóng cười ngặt nghẽo vì vụ này ổng cũng là 1 trong những thằng đầu têu mà...Nhưng tay này có ngón đàn bolero và giọng hát các bài nhạc vàng và cải lương khá ướt nên hay được anh em đề giới thiệu hát trong các buổi sinh hoạt B ( giọng hát cạnh tranh với bác Sồ nhà mình). Không biết giờ này ông ấy ra sao, kể từ 2.83 khi mình về Hiệp Hòa học trường Sĩ quan dự bị của QĐ rồi ra quân không hề gặp lại ông ấy.

Sex với lính tráng cánh Bắc Kontum

TÔ HOÀNG

NVTPHCM- Các bạn trẻ bây giờ sướng thật! Ảnh khoả thân, tạp chí

Playboy

, phim con heo hiện tại đã là “đồ bỏ”. Không cấm đoán, không kiêng cữ cũng chẳng cô cậu nào thèm đoái hòai để mắt tới. Tuổi 14, 15 “đầu mày cuối mắt” đã trở thành chuyện bình thường. Mê nhau tí tị là đã có thể ôm choàng lấy nhau, ve vuốt, hôn hít cả ở chỗ vắng người lẫn nơi thanh thiên bạch nhật. Nẩy sinh nhu cầu muốn “nghiến” nhau, cô cậu sẵn sàng kéo nhau về nhà riêng lúc cha mẹ bận sấp ngửa làm ăn nơi lòng đường, hè phố hoặc bận giao tiếp, tiệc tùng săn đón những hợp đồng béo bở. Còn nếu cha mẹ ở nhà thì tìm tới khách sạn, nhà hàng. Vào cửa không ai hỏi chứng minh thư, giấy hôn thú. Ở bên nhau một giờ, có giá một giờ; hai, ba giờ có giá hai, ba giờ… Rẻ hều! Ve vuốt, hôn hít, va chạm, quần thảo nhau - những cử chỉ, hành động như thế bây giờ thiên hạ gọi bằng chữ SEX. Mấy năm trở lại đây báo chí còn mở ra những cuộc tranh luận quanh đề tài bạn trẻ có nên sống thử, có nên SEX nông và SEX sâu trước hôn nhân hay không? Xem ra thiên hạ công khai ủng hộ họat động tình dục trước hôn nhân. Chỉ có điều cần truyền giảng cho các cô các cậu hiểu thế nào là an tòan, là vệ sinh trong chuyện SEX mà thôi.

Thương quá, tội nghiệp quá các dồng đội chết trẻ của tôi ơi! Ngày xưa ấy nào như bây giờ ?

Ba, bốn chục năm trước chúng ta có biết tới từ SEX là gì đâu! SEX với chả SIẾC! Nghe vừa không sướng tai, vừa không cụ hình, cụ tượng chút nào. Cái hoạt động âu yếm, ve vuốt, hôn hít, chung đụng anh ả kia chả biết thằng cha tinh ma, quỷ quái nào ở mặt trận cánh Bắc Kontum chúng tôi gọi tên bằng hai tiếng LÍCH CHÍCH. Cả về phương diện âm học lẫn phương diện hình tượng đều mê ly. Lích chích gợi lên hình ảnh con chim trống xun xoe, lăng xăng bên con chim mái dụ khị ả bằng tiếng kêu… Lích chích. Khi con chim mái đã chịu nằm ép xuống để con chim trống trèo lên lưng, Lích chích là tiếng riu riu, siu siu trong rên rỉ, sung sướng vào thời khắc con chim mái bỗng ưỡn cái đít dậy để chú chim trống ngóc đầu lên, rịn cái đít xuống. Lích chích cũng có thể là tiếng vằng ra trong bóng tối ở góc bếp, dưới chân giường bạn nằm của đôi chuột nhắt đang tán tỉnh nhau hoặc lúc đã hân hoan, mãn nguyện thực hiện được chuyện “động trời”. Để phòng ngừa máy bay trực thăng Mỹ, Ngụy sạt thấp,  thả bọn biệt kích, ở Bắc Kontum có những trạm quan sát đặt tít giữa tàng cây trên những ngọn cổ thụ cao chót vót. Lên xuống bằng chiếc thang bện giây rừng. Nước uống, thức ăn tiếp tế từ hậu cứ được kéo lên cũng bằng giây rừng. Bọn lính trinh sát sống ở các trạm quan sát này quả là sướng hơn tiên. Được ở trên cao, hưởng ngọn gió trong sạch, mát lành, được phóng tầm mắt ra ngút ngát, chúng nói thánh nói tướng như trạng. Chúng kể, voi khi hợp cẩn cũng phát ra âm thanh… Lích chích… Lích chích. Lẽ dĩ nhiên lúc phát dục chàng voi đực không rủ rê mấy nàng voi cái bằng mấy tiếng Lích chích. Trước tiên chúng rống lên vang động cả mấy cánh rừng. Nàng voi cái nào bị mê hoặc bởi tiếng rống oai hùng, đầy nam tính ấy liền bị chú voi đực đưa đến một ngọn đồi. Bảo voi cái đứng đợi ở đó, chàng voi đực lần xuống sườn đồi tìm cho ra một gốc cây cổ thụ thật chắc, thật khỏe. Tìm được rồi, voi đực dẫn voi cái tới đó. Và như một bản năng trời phú, thấy gốc cây, nàng voi cái liền quỳ gối xuống, trán tỳ vào gốc cây kia như tìm ra một điểm tựa, mông chổng về phía đỉnh đồi chờ đợi. Từ trên cao, voi đực ầm ầm lao dốc. Phập!! Chốt ngập sâu vào mộng trong lần đầu, lần thứ hai – đôi voi ấy thật diễm phúc! Có khi, sức mạnh cuốn bão giông kia đánh bật cái gốc cổ thụ. Cả chàng, cả nàng đều lăn như hai trái bóng xuống tít chân đồi. Thế là phải hì hụi, hổn hển leo ngược dốc làm lại, làm lại. Bọn trinh sát trên ngọn cây kể rằng, khi mộng mẹo của đôi voi tình nhân đã khớp khao đâu đấy, suối bỗng ngưng chẩy, thác bỗng ngừng reo, ắng lặng tuyệt đối bỗng ngự trị. Và tít từ khoảng đồi dưới thung sâu kia, lẫn trong cơn gió thoảng, bọn trinh sát nghe rõ đôi voi rên lên… Lích chích… Lích chích! 

 Sử sách, các công trình tổng kết chiến tranh, phim ảnh quay thực, đóng giả... đọc cả, xem cả rồi, nhưng chưa thấy đâu nêu ra hai cái khổ, hai loại thử thách thuộc loại “đặc thù” của lính tráng phía Bắc Kontum: Đó là CÁI ĐÓI và NHỮNG CƠN THÈM ĐÀN BÀ. 1,5 lạng gạo chia làm ba bữa, thiếu đâu đã có măng rừng, rau môn thục bù vào - cái đói thì đã rõ. Nhưng cung cách vắng bóng chị em, vắng bóng những mớ tóc dài, những bờ vai tròn lẳn thì không một mặt trận nào có thể so sánh được với Cánh Bắc Kon tum thuở đó. Có thể đếm được mấy rúm con gái ở nơi này. Đó là các cô y tá, chị nuôi, cấp dưỡng.. .bỗng một ngày kia được tập trung về để ai đó dạy cho một vài bài hát, một vài động tác múa và trở thành nữ diễn viên trong một đoàn văn nghệ không chuyên. Đó còn là các cô hộ lý, ý tá, y sỹ phục vụ tại Viện Quân y 211. Con gái xấu đẹp cũng đều quý hiếm như mật gấu, mì chính cánh! Nhưng để có cơ hội năm thỉnh bẩy thoảng được xem các em văn nghệ nghiệp dư biểu diễn đã khó; có cơ hội tới được Viện quân y 211 càng khó hơn. Bởi muốn được ngắm nghía mấy em y sỹ, hộ lý kia đứt khoát phải có một cẳng chân hoại tử cần cưa, phải có một bên xương quai hàm đã vỡ nát vì mảnh bom, mảnh pháo cần đục bỏ. Không một nơi nào khác bói ra đàn bà, con gái nữa. Hàng vạn lính đấy, đủ các quân binh chủng hợp thành đấy, ráo rạo đều là đực rựa. Toàn đực đến nỗi xẩy ra nhiều chuyện tức cười. Hai thằng lính không đồng hương, đồng khói, không quen biết nhau trước ngày nhập ngũ. Vào tới nơi đây bỗng thành bạn thân. Không có tấm ảnh của người yêu thời ngồi chung ghế trường cấp 3, cũng không có hình ảnh một người con gái nào hai đứa cùng quen, thằng A bực bội vì không thể  diễn tả để thằng B hình dung ra người yêu của mình mảnh mai ra sao, cao chừng nào, ánh mắt, hàm răng tuyệt vời cỡ nào… Cực chẳng đã, bèn lấy lão anh nuôi của đơn vị làm vật trung gian so sánh với câu bẳn gắt : “nhưng nàng của tao không hôi nách, không trọc lóc, không phẳng lỳ trước, sau như gã anh nuôi đâu nhé!”.  Thiếu chị em, thành thử có cái cớ nào, có cơ hội nào liên tưởng được bóng dáng của phái yếu lính ta như vớ được vàng. Đêm đưa cỗ pháo 130 ly nặng cả chục tấn thép vào công sự, vừa mệt phờ phạc, vừa buồn ngủ, bỗng tỉnh như sáo, bỗng nhộn nhạo hẳn lên khi xúm vào đẩy hai cái càng pháo ra xa nhau, đua nhau réo vang theo lời hô của khẩu đội trưởng: “Dạng càng! Dạng càng!”. Tiếp tới là thao tác dùng búa ghìm hai càng pháo xuống lại la hét vui sướng như động rồ: “Đóng cọc! Đóng cọc!”. Cơ may hiếm hoi lắm nếu ở mỗi khẩu đội, mỗi tiểu đội bỗng được bổ xung một bác, một chú lính tái ngũ ở tuổi tam tuần, tứ tuần - tức ở cái tuổi đã biết thế nào là dạng càng, đóng cọc. Giữa đêm đông rét mướt, lính trẻ chuẩn bị sẵn chừng chục bi đông nước suối lạnh ngăn ngắt, bắt lính già tường thuật lại đã ăn nằm với vợ lần đầu như thế nào. Oai oái phân trần rằng tao lấy vợ tảo hôn; rằng buồng vợ chồng tao ở ngay cạnh buồng cha mẹ, giường tre cọt kẹt một chút là nghe tiếng tằng hắng của hai cụ liền; rằng thuở xưa đàn bà mặc quần thắt giải dút, đâu luồn giây thun như thời nay, tao loay hoay gỡ được cái giải dút buộc rối thì gà đã te te gáy sáng rồi; rằng đêm ấy đâu dám thắp đèn nên mô tê có thấy gì đâu… Không khai thật à, không chịu diễn tả tỉ mỉ, cụ thể sao? Chịu được một hay hai, hay ba bi đông nước suối tưới lên mình đây? Thế là đành khai tuốt tuột!Nhớ có một lần 4 chiếc Zin Khơ chở gạo từ Binh trạm 47 trên tuyến đường Trường Sơn vào giúp mặt trận cứu đói số thương binh tồn đọng. Tin đâu lan truyền rất nhanh, lái xe là 4 chiến sỹ gái. Xôn xao, nhộn nhạo cả lên yêu cầu của lính được cho ra đường thồ xem mặt chị em. Đại đội không giải quyết nổi yêu cầu của lính, đành chuyển lên Tiểu đoàn. Tiểu đoàn chuyển lên tận Trung đoàn. Vị Chính ủy Trung đoàn khá tâm lý chiến sỹ liền cử người ra thương lượng với đoàn xe cho bốc gạo ở một khúc cua hai bên có thành ta-nuy cao. Lính ta phải đứng trên bờ ta-nuy nhìn xuống mà chiêm ngưỡng bốn cô gái. Vị Chính ủy còn ra lệnh tỷ mỉ mỗi đơn vị chỉ được cử một phần tư quân số thay nhau ra ngắm chị em để bảo đảm sẵn sàng chiến đấu và mỗi chiến sỹ cũng chỉ được ngắm đúng nửa tiếng thôi, rồi về để người khác đi. Nghe đâu vì chuyện đó, Phòng Chính trị mặt trận đã gọi Chính ủy lên bắt làm kiểm điểm.

 Nhiều vị Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn trưởng khác cũng thương lính và thích cùng lính tán chuyện Lích chích…Lích chích. Nghĩ cũng tội. Mang cấp bậc, chức vụ cao thôi, mới trong ngoài bốn mươi cả. Thế mà vào đây, phải xa bà vợ ngoài Bắc, quên lãng chuyện Lích chích cả chục năm ròng. Có một vị Trung đoàn trưởng pháo binh, nghe đâu dân tú tài thời Tây, đi đài quan sát phía trước, đêm pháo bắn rát quá, không ngủ được, bèn gọi tốp trinh sát pháo tới, chiêu đãi trà Nam Vang, thuốc lá Cotab sợi thả ga. Sau đó lấy bàn đạc và bút tác nghiệp ra, Trung đoàn trưởng vẽ những đường đồ thị Parabon giải thích cho lính trẻ hiểu hưng phấn của đàn ông khác đàn bà như thế nào. Hưng phấn đàn bà lên chầm chậm, ở anh đàn ông vọt lên nhanh, phải quay ma-ni-ven từ từ thôi, làm sao cho đỉnh điểm hai đường Parabon trùng nhau, cô vợ mới đạt tuyệt đỉnh khoái cảm, mới nhẹ nhàng bước vào giấc điệp mơ màng. Đám trinh sát vỗ tay sung sướng, la rầm rầm, thủ trưởng có ba cô con gái, hãy nhắn các cô, chờ ngày chiến thắng, nếu còn sống trở về, chúng con nhất định sẽ trở thành những đứa con rể lý tưởng của bố. Chuyện buổi tối vui ở đài quan sát ấy không hiểu sao đến tai cấp trên. Vị Trung đoàn trưởng Pháo cũng phải viết bản kiểm điểm gửi lên Phòng Chính trị Mặt trận.  

Những đêm mùa mưa đói mòn đói mỏi, không ngủ được, thức dậy gầy lửa, đặt cóng nước lên bếp, nghe nước sôi lóc bóc, lóc bóc cơn đói càng vật vã tợn. Vào những lúc như thế, chỉ kể chuyện về các món bánh đa, bánh dúc, bún riêu cua, bún ốc… ở quê nhà; chẳng thằng nào hơi sức đâu nhắc tới chuyện Lích chích… Lích chích. Còn những bữa được no cơm, hoặc săn bắn được con thú gì có miếng thịt tươi bỏ miệng… y như rằng chuyện Lích chích…Lích chích bung nở như vắt nhú sau mưa. Nhiều thằng tài bịa đặt. Nhiều đứa kể rất có duyên. Có nút thắt, nút mở, có kịch tính, có khoảng dừng như trong âm nhạc đàng hoàng. Trợn tròn mắt, thót tim, khô đắng cả cổ họng ra mà nghe. Để đêm đó lăn qua lăn lại trên sạp lồ ô. Để sáng sớm hôm sau, thằng nọ lấm lét nhìn thằng kia - mười thằng thì cả mười - tháo màn mang xuống suối giặt. Chả thế mà ở mặt trận chúng tôi lan truyền câu nói sau: “Lính tráng cánh ta đái vào gốc tre, gốc tre cũng mang bầu!”. Khiếp chưa !

 Phòng Chính trị Mặt trận chỗ Đại tá Hà dĩ nhiên là đã chú tâm tới chuyện Lích chích…Lích chích. Nhỡ quá tưởng tượng, quá thèm muốn Lích chích, lính đảo ngũ, trốn lẩn về Bắc thì sao? Số chiến sỹ “B quay” mấy tháng mùa mưa năm nay tăng vọt lên. Lý do gì đây? Không chừng vì thèm Lích chích? Tai hại nhỡn tiền của Lích chích là ở chỗ, bị ám ảnh về chuyện này để rồi đêm đêm vòi phun nước của bọn trẻ cứ phun bừa bải, tứ tung sao? Để sáng hôm sau cậu nào cậu nấy mặt mày xanh rớt, đi đứng run rẩy, giọng nói trở nên yếu ớt, thều thào. Hỏi còn tìm đâu ra sức mà vác gạo, khênh pháo vượt qua các đỉnh Chư Mon ray, Ngọc Tinh tong, Ngọc Biêng… còn sức đâu mà đánh lên tuyến phòng thủ vỏ cứng của địch? Thế là biện pháp, lệnh lạp chống đối, ngăn ngừa Lích chích được nghĩ ra khá kỹ lưỡng, khá công phu và nhiều trường hợp cũng khá  … quái đản.

Bộ phim tài liệu “

Một ngày Hà Nội

” do Xưởng phim quân đội quay, đã được Tổng Cục Chính trị duyệt kỹ. Trong phim có cảnh một nữ tự vệ trẻ Hà Nội kéo khẩu súng trung liên lên gác thượng khu Cao-Xà-Lá(1)

nhắm bắn máy bay Mỹ. Cô gái xinh tươi kia có cặp “Gờ-La-Vu” kích cỡ hơi bất bình thường. Đã thế, anh quay phim còn quỳ xuống, ngước ống kính lên quay nhằm ca ngợi khí phách hiên ngang của người Hà nội thời chống Mỹ. Lính tráng xem đoạn phim này sẽ ra sao đây? Duyệt phim, Phòng Chính trị quyết định cắt bỏ ngay cảnh này. Tại sao khi Đội văn nghệ Mặt trận diễn vở múa hát “ Tiếng chày trên sóc Bom Bo” cứ đến khúc các em gái Tây nguyên nhún nhẩy đâm chày tay vào cối gạo, lính tráng đang xem bỗng đứt phắt dạy vung tay khuỳnh chân gào lên: “… Người Bombo sẵn có

cối chày to

”? Lệnh: xà rông của nữ diễn viên phải may rộng hơn, không được bó sát người. Khi làm động tác giã gạo chày tay phải giảm năm mươi phần trăm động tác đẩy mông ra phía sau, ưỡn “của ấy” về phía trước.

 Mùa hạ năm 1970, lần đầu tiên lính Bắc Kontum chiếm được thị trấn Tân Cảnh. Chị em gái điếm Sài gòn không kịp chạy về Pleiku. Nghe đâu số chị em mắc bệnh lậu, bệnh giang mai không được quan hệ với đàn ông là ngứa ngáy, khó chịu lắm, bệnh nặng lên liền. Lính ta từ trong rừng ùa ra, ào ngay vào dám chị em quần chẽn phô bắp chân trần căng tròn; áo pul để hở cả lỗ rốn rất sâu, mảng bụng trắng hêu hếu. Sau một hai tuần, Ban quân y báo cáo ở các đơn vị đã xuất hiện căn bệnh xưa nay chưa từng có:

vỡ ống khói.

Phòng Chính trị phối hợp với Viện 211 thiết lập ngay một Nhà hát … Phẫu thuật. Lính tráng đặt tên vậy quả không ngoa! Một căn hầm rộng được công binh thiết kế gấp, từ dưới cao dần lên, vây bọc bốn phía  là những hàng bậc đất, có lát những khúc lồ ô chẻ đôi, úp sấp mặt làm ghế ngồi cho khán giả. Phía dưới cùng là bàn mổ, chiếu sáng bằng mấy bóng điện đi-na-mô xe đạp. Mỗi trung đội được cử một chiến sỹ tới Nhà hát. Quang cảnh chiều hôm ấy hệt giống những sân khấu thời Hy-La cổ đại - đám lính Hà nội nói thế. Đèn sáng được chừng mươi phút, một tốp người áo trắng khênh một chú lính trẻ đặt lên bàn mổ. “Con mồi” còn chưa biết chuyện gì sẽ xẩy tới, vẫn nhoẻn cười tứ phía chào người xem. Lột truồng. Làm sạch lông lá. Mân mê cho “ thằng bé “ngỏng cứng lên. Và cứ thế, không mê, không tê, dao phẫu thuật bén ngọt bổ của quý ra làm 4 phần, như ta chẻ một cọng rau muống. Càng kêu thét, càng gào khóc càng gây ấn tượng mạnh. Tiếp tới là những panh-sô đẫm thuốc sát trùng I-ốt ngoáy rửa nhiều lần. Tiếp tới là khâu sống lại. Lính tráng có mặt chiều hôm đó tím tái, mồ hôi ướt dọc sống lưng, về tới đơn vị kể lại điều mắt thấy tai nghe giọng còn run run và từ nay xin

good bye

đám chị em quần chẽn, áo pul nhé !…

 Nhưng không phải lúc nào những biện pháp, những lệnh lạp chống Lích chích cũng hiệu quả. Chuyện dưới đây xẩy ra vào những ngày sau Tết âm lịch năm 1972, trước khi đại quân nổ súng đánh chiếm thành phố Kontum. Sáng hôm ấy, một chiếc máy bay L.19 lượn nhiều vòng trên những cánh rừng các đơn vị đang ém quân, phụt ra phía đuôi những đàn bươm bướm trắng lóa. Lại truyền đơn bốn gã Việt cộng trèo không gẫy cây đu đủ đây mà!! Lại những lời chiêu hồi gợi lính ta nhớ miền Bắc với câu thơ đại loại “

những nàng thiếu

nữ khăn to hó. Môi quết trầu thơm, mắt ngóng ai?

’ chứ gì! Ngồi ru rú ở Sài gòn, mấy cha nội tâm lý chiến ăn đồ Mỹ, hưởng lương Mỹ  cho béo mầm mà sao quan liêu, thiếu thực tế miền Bắc, ngu cách chi là ngu ! Ô, nhưng vừa nhặt sấp truyền đơn lên tay, lính tráng đã trố mắt sững sờ: cả một sấp ảnh mầu thật đẹp, thật rực rỡ chụp các cô gái Mỹ trần truồng phô đùi, phô ngực, phô mông… mà sau này chúng tôi mới hay tên gọi là tạp chí “Playboy”. Truyền tay nhau xem, kháo nhau xem. Xem dấu diếm. Xem kín hở. Lưỡi bỗng khô, miệng bỗng đắng, khí huyết trong người bỗng chạy rần rần… rần rần. Quả là hy hữu tâm lý Mỹ mới chơi một quả “độc” như thế này. Dĩ nhiên là xem xong, ngay tối ấy các

vòi phun nước

hoạt động ráo riết. Chỉ qua một, hai đêm dáng lính đi lại đã có phần khật khừ, liêu xiêu.  Sang ngày thứ ba, chuông điện thoại bắt đầu réo vang. Mặt trận gọi xuống các Sư đoàn. Các Sư gọi xuống các Trung đoàn. Từ các Trung đoàn lệnh truyền gấp xuống các Tiểu đoàn, các Đại đội, các Trung đội : Cho thu gom gấp và ném vào lửa hết. Chập ấy tôi đã là phóng viên tờ báo “

Quân Giải phóng

” của Cánh Bắc Kontum và đúng chiều hôm thu gom để thiêu hủy tạp chí Mỹ, tôi đang đi theo một đại đội chủ công sẽ đánh chiếm cứ điểm vỏ cứng ở Kleng, mở lối cho các cánh quân phía Tây vượt sông Poko, đánh chiếm thành phố Kontum. Đống lửa được đốt lên dưới một căn hầm dã chiến. Những gương mặt lính thân quen lắc đầu cười, miễn cưỡng móc trong ngực, từ  chiếc bòng đeo phía sau lưng  ra những cuốn “Playboy” ném vào ngọn lửa. Lưỡi lửa lem lém cháy dần những mớ tóc vàng, những cánh tay, những eo lưng nuột nà trên thân hình đầy hấp dẫn của các cô gái Mỹ. Khi ông chính trị viên vừa đi sang kiểm tra ở trung đội khác, nhanh như chớp, không ai bảo ai, các chàng lính dấu kín những bi đông, những can nhựa, những ống lồ ô đựng  nước từ bao giờ liền lao vội tới, xối nước dập lửa, mau tay giành lại những mảnh “Playboy” đang cháy. Tối hôm sau đại đội cường tập đánh căn cứ Kleng, cả hy sinh lẫn bị thương chiếm già nửa quân số. Tôi đã được các phóng viên đàn anh tập cho thói quen, sau mỗi trận đánh nhất thiết phải đi theo nhóm kiểm nghiệm tư trang của người hy sinh để gói bọc, đánh số gửi về cho cha mẹ anh em. Làm thế để mình nhớ lại tên tuổi, gương mặt của từng chiến hữu đã ngã xuống; để ngòi bút không lạnh giá, vô cảm dù chỉ viết một bài tường thuật trận đánh dăm ba trăm chữ. Những chiếc ba lô lính được đưa từ trên giá tre nứa xuống, được mở nắp ra. Tài sản của người lính để lại nào có gì đâu: bộ quân phục mới xỏ tay hai, ba lần; một cuộn dây quai dép dự phòng, một thanh gỗ thơm để vót thành đôi đũa ăn, tệp thư của người thân từ quê Bắc gửi vào, hay cuốn sổ chép bài hát. Tất tật chỉ có thế! Và kẹp giữa những tệp thư, những  cuốn sổ chép bài hát là hình ảnh một bờ vai, một cặp đùi hoặc một bờ mông của nhũng cô gái Mỹ bị lửa ăn nham nhở…

 Dịp Tết Dương lịch năm 2001 - cũng cách nay đã gần 10 năm, tôi tình cờ ngồi với một nhóm những trí thức Việt kiều từ Mỹ mới về nước tại một quán cà phê gần chợ Bến thành. Câu chuyện trao đổi xoay về chủ đề quen thuộc: nguyên nhân gì khiến Mỹ và chính quyền Sài Gòn thua và Việt cộng thắng vào mùa xuân năm 1975. Cuộc trao qua đổi lại khá vui vẻ, thẳng thắn, chân thành. Gần cuối buổi, bỗng một câu hỏi tình cờ bật ra : Các cán bộ, binh sĩ Quân giải phóng sống ở rừng, xa vợ con suốt 7, 8 năm đã giải quyết nhu cầu sinh lý (tức chuyện Lích Chích đây mà!) ra sao, phía bên ấy có gái điếm không? Tôi khăng khăng bảo vệ điều đã là chứng nhân, đã trải qua. Nếu tin vào lời ông Việt cộng này nói, nếu điều đó là sự thật, dễ thường các ông là người gỗ, các ông vô cảm hoặc là những tín đồ theo đạo khổ hạnh? Lại cũng đả có lời dị nghị phía bên các ông cho lính trẻ uống thuốc diệt dục trước khi họ vào chiến trường.v.v. Tôi không gắng gỏi thanh minh, không muốn biện giải làm gì. Buồn quá! Buồn muốn trào nước mắt quá ! Chả lẽ các đồng đội chết trẻ của tôi lại chịu oan uổng thế sao? Anh em tội tình gì mà chịu thiệt đơn thiệt kép đến như vậy? Tôi chỉ còn biết báu víu vào câu chuyện về   trường hợp Mỹ thả truyền đơn “Playboy” năm nào để kể cho các bạn Việt kiều nghe. Câu chuyện vừa ngưng, bàn cà phê bỗng im phắc. Có một chị Việt kiều vẫy tay gọi nhân viên nhà hàng tới yêu cầu giảm nhẹ tiếng nhạc, vặn bớt ánh sáng đèn…

Khi rời quán cà phê cũng không ai nói thêm lời nào. Lúc đi ngang qua tôi, từng bạn Việt kiều nắm lấy bàn tay tôi lắc lắc…

Chào các bạn, trước tiên xin cám ơn sự nhiệt tình chào đón của các bạn. Hiện tại nơi thành phố mình ở các chiến hữu cùng D rất đông, còn ở huyện diên Khánh thì chủ yếu là lính ở D2 .Hàng năm ,đến ngày hội ngộ lính 77 ở 812 thì cũng có mời tất cả các anh em trong Tỉnh ,nhưng ở các huyện thì thường về không nhiều ,Diên Khánh thì mình nhớ có Toàn cà ở công binh rất vui tính ,bọn mình hay chọc "làm nghề nào ăn nghề đó,làm Công binh chắc ăn mìn nhiều lắm" nhưng cũng tội thỉnh thoảng vẫn cho đồng hương ít thuốc nổ để đi đánh cá ,còn ngoài ra thì mình cung quen với Kinh ở D2 ,còn Phúc đen 12,7 thì mình không nhớ,nhưng ở đây C 12,7 có nhiều anh em,mình sẽ nhắn tìm cho bạn .Bây giờ mình xin chuyển sang mục Hồng ngọc,trước đây thì hình như là QĐ3 hoặc 1 đơn vị biên phòng nào đó đã ở đây nên họ đã vơ hết rồi ,đầu tiên là họ nhặt những viên đã chế tác xong ,sau khi hết rồi thì họ mới nhặt đến đá chưa chế tác,còn về thị trường thì ,theo cánh vận tải là người hay về Battambang nhận hàng thì đá xanh là có giá nhất ,rồi đến đá đỏ và cuối cùng là đá trắng (khác với VN mình ,đá đỏ là nhất) nhưng sau này,khi đã nhặt hết đá đã khai thác rồi,không còn gì nữa thì có lẽ lúc đó xanh ,đỏ gì họ cũng mua ráo .Mình là người đến sau,người đến trước đã nhặt hết rồi,vả lại cũng phải có số được của mới thấy được ,như ở C mình,hôm nọ cuốc đất trồng rau,có 4,5 anh cùng cuốc ,nhưng rồi có anh hô lên ,tao được chỉ vàng ,thì ra anh chàng Hiệp người quảng nam,lính 78 đã nhặt được chiếc nhẫn vàng,vậy đó nên mình cũng cố gắng ,sau mỗi trận mưa banh mắt nhìn xuống đất,may ra có gặp tí gì ,nhưng số không được thì chịu .Ở Pailin mình chỉ có mỗi cái tài là bắt chuột ,làm bẫy theo kiểu dân K,bắt hàng đống chuột để ăn dần ,chứ nhà nước chỉ cấp gạo và muối .Được cái là chuột K khá béo,con bằng cổ tay,rán lên cũng được lưng bát mỡ ,thôi thì mỡ ,để thắp đèn ,để chế hộp quẹt ,ăn chuột nhiều đến nỗi toàn thân bay mùi chuột,aó quần cũng mùi chuột

Món thịt chuột rừng lính gốc QK5 ai cũng biết , hì mình thưởng thức món ấy từ lúc ở khu 20 nhà Puốc Sát rồi , năm ấy vào mùa mưa 79 cỡ khoảng tháng 8 dương lịch gì đó , mình vừa trải qua một trận sốt xuất huyết thập tử nhất sinh xong , giống như bác nói hồi ấy mấy thằng bị sốt lại hay ra suối tắm lắm , hi cái giống thuốc của Mỹ uống vô nó theo mồ hôi ra quần áo ngửi kinh lắm người cứ nhơm nhớp dinh dính thế nào , lính mà chỉ có mấy bộ đồ lại vào mùa mưa không giặt thì ai giặt cho , anh em bận công tác ai lo được cho ai , áo quần giặt xong trời thì mưa dầm hic sao trong biên giới mưa lắm thế rả rích cả ngày , quần áo giặt xong ngáng hai cái chạc bắc cây ngang qua rồi hơ cho chóng khô , quần áo vá chằng vá đụp dày như mo cau hic hơi rao ráo là mặc rồi nó ám mùi khói thế nào rất khó chịu vì nó lẫn với mùi mồ hôi .. không xà phòng chỉ nhúng nước vò đặt lên đá lấy chân mà dậm .

Mình bị sốt cũng hay mò xuống suối tắm giặt , nước chảy qua đá rợp bóng cây rừng lạnh buốt tới xương .. hì lúc ấy chỉ có xương nào còn thịt , may hôm ấy có ông Nhạ y sỹ trung đoàn thấy kêu y tá đơn vị mình chuyển gấp lên bệnh xá , máu đỏ đã tứa ra da hì lão y tá khi đơn vị chuyển nhiệm vụ được tập huấn non một tháng nên rất gà .

Kể lại món thịt chuột .. kỳ ấy mình đi cõng gạo , khu 20 nhà tiếp nối đường 56 nhưng bị đứt quãng bởi con suối to chưa có cầu treo như f 339 sau thế quân cho mình , đơn vị mình chỉ bắc tạm cầu treo chô người qua ... vì bắc cầu mà một lính CB của E mình trôi mất xác , từ khu 20 nhà vô tới khu 3 nhà là cả một ngày đường , 20kg gạo trong ba lô kèm một ruột tượng gạo cho 7 ngày đường , võng tăng súng đạn nước phải đến 35kg ... mùa mưa khu này chỉ sợ vắt .. chúng no rồi nhả lấy bao nhiêu máu của chú đội VN , nhưng bù lại theo dòng nước mưa có những chú cua đá bò lổm ngổm .. máu đổ cho rừng thì lấy nó bồi bổ lại .

Đến khu 3 nhà của C5 anh em tập trung balo gạo lại phân tán ra vài người trú chung với căn nhà hầm của lính chốt tại đây , mình có vài đồng hương tại C5 này .. hi thằng Tân kêu minh về lán nó ở , căn nhà hầm nó được dựng dưới một gốc cây xiên , hồi ấy trong rừng đào hầm sợ nhất rễ cây vì dao rựa cùn trơ chặt hoài không đứt .

Tối nay mày ở với tao .. rồi tao đãi mày món mặn của D2 , bữa cơm đơn vị mang ra chỉ nước gạo rang loáng thoáng vài váng dầu , cũng có cá hộp ấy nhưng mặc bồ đồ lặn chưa chắc vớt được một miếng bằng đầu móng tay , chỉ có mùi tanh tanh cho dễ nuốt để lừa cái mũi cái lưỡi của chú đội .

Mày nói món mặn đâu sao tao không thấy .

Mày phải chờ tới tối khi hi .. im ắng nó mới ra , cơn ngủ làm zíp mắt lại mình đang lơ mơ thì nghe tiến Xoạch .

Có có rồi đó Sơn .. để tao làm cho mầy thưởng thức , tôi hé mắt nhìn cha mẹ ơi con chuột rừng hơn đầu ngón cái tý ti .

Thằng tân hí hoáy chặt đầu lột da dưới ánh ngọn đèn dầu leo lắt , vài hạt muối sát vô miếng thịt đỏ hỏn  hì hì mình sợ quá vội nói tao no rồi bây giờ buồn ngủ quá mầy ăn đi .

Sau ấy mình có vô khu này phối hợp hơn nửa tháng và có thưởng thức món mối áp chảo lần đầu , còn khi ở Tà Sanh - Sam Lốp thực phẩm ít khan hơn heo rừng rất nhiều lấy KP2 đặt chúng đôi khi hốt cả đàn , nhưng nơi này dế cơm rất nhiều hì và rất ngon .

Hi! Mình định nằm ở Pailin uống cà phê,hút Samit nhưng bạn quyenkh và bạn captain lại lôi mình về đường 5 với papria rồi .Đầu năm 79 khi đặt chân đến Battambang là bị cuốn ngay vào chiến dịch mùa khô năm đó ,cứ ngày đi ,đêm nghỉ ,hết địa danh này ,đến địa danh khác .Càn quét để giải phóng dân, cứ bộ đội VN đi tới ,thì dân K đi lui ,dân thì gồng,gánh ,bồng bế nhau ,thỉnh thoảng có 1 vài chiếc xe bò bánh niềng sắt to đùng, làm mình nhớ cảnh quê VN vào những năm thập niên 60 (vì sau này hầu như chuyển sang bánh hơi oto để khỏi hỏng đường) ,và cũng trong những đoàn người hồi hương ấy,mình cảm thấy thích thú khi nhìn thấy sự sáng tạo của họ .Họ có con bò ,họ lấy 2 cái cây rừng ,buộc những thanh ngang làm nơi để đồ ,hoặc người già ,em bé ngồi trên đó ,rồi 1 đầu cây buộc vào con bò, đầu còn lại thả rê dưới mặt đường,kéo đi ;Thế là họ cũng có 1 chiếc xe bò ,trông thật ngộ nghĩnh .Cuộc hồi hương của dân K nghèo nàn là vậy, mà xem ra họ còn giàu hơn b.đ. VN ,ấy là họ vẫn còn có thuốc lá để phì phèo và luôn có đủ nước uống ;Do vậy mà mình nghĩ phải học tiếng K từ đây và chỉ cần học 2 tiếng :xin nước uống và xin thuốc hút ,và nó đã giúp mình rất nhiều .Kết thúc cuộc trường chinh truy quét ,đơn vị mình bắt đầu thực hiện nhiệm vụ chốt ,như bạn quyenkh có nói 812 có biệt danh là trung đoàn chốt .Nhưng để không mang tiếng như E96 của F mình ,thì anh em ngày nào cũng lội rừng ,ăn cơm vắt ,đi tuần cách nơi đóng quân ít nhất cũng phải được 2km .Đầu tiên là chốt ở đường 5 ,đây là thời kỳ huy hoàng nhất trong đời lính chốt ,vì đây là vùng đồng bằng ,có dân cư ;Mà đồng bằng ,nên việc kiếm con cá,cọng rau cũng dễ,thỉnh thoảng cũng cũng xin được tí thuốc rê ,lúc bấy giờ ,vì mới được hồi cư nên dân K còn nghèo lắm ,nên thỉnh thoảng có người đến đơn vị xin gạo về nấu cháo cho con ( nhưng cho 1 lon không chịu ,đòi 4 lon mới đủ nấu cháo ). Dân là vậy ,nhưng b.đ. ta cũng chẳng hiền ,nên có câu thơ " Từ từ chân bước xuống mương .Tay ôm cái đụt ,mà lòng thương đồng bào " ; Có vậy mới có cá mà ăn chứ .Trở lại cái việc học tiếng Khmer ,rất may là bấy giờ ở đó có một bà già là Việt kiều ,nên anh em cứ bám vào ,vừa tán gẫu cho vui ,vừa học tiếng ,chẳng biết thế nào mà các anh em đóng quân trước đó gọi bà là " bà già lựu đạn " và cứ thế các ae trong đơn vị mình cũng noi theo mà gọi ,nhưng bà vẫn vui vẻ như thường, có lẽ sau cuộc tang thương thì việc gặp lại người cùng quê hương là điều vui nhất ,quý nhất không gì bằng, vậy là đã biết chút ít đễ nói chuyện với dân rồi ,nhưng mà thanh niên trai trẻ thì phải phong lưu ,phải biết tiếng lóng ,tiếng dung tục để còn đối phó bọn thanh niên láu cá nữa chứ ,nhưng chẳng lẽ lại hỏi bà già ,vậy là lôi lũ nhóc chừng 11,12 tuổi ra chỗ vắng rồi ra hiệu mà hỏi chúng ,vậy là chúng vừa cười nắc nẻ ,vừa nói thật thà .Vậy là từ nay đã có thể ,luôn miệng nói tục chưởi thề như ai ( chứ nếu không biết cách học, đi học ở mấy thằng thanh niên là nó lừa chết bỏ ,mình nhớ có lần ,1 bọn trai gái K đi ngoài đường thấy bđ ta nên muốn khoe là đã biết tiếng Việt ;Một cô liền buông lời :"Anh ơi ,cho em đ. 1 cái " khiến bọn mình cười bò ,nhưng họ thấy vậy lấy làm sung sướng nên cứ tiếp tục . Kể ra đời lính cũng thật là vui ,ngoại chuyên môn chính là đi bộ ,(vì thế mới gọi là bộ binh ) mình còn được tham gia đủ loại hình hành quân .Khi từ Bokeo đi Lomphát thì được bám nóc T54 ,vừa đi vừa đánh (đúng là liều mạng ) 1 ngày mà tiến công giải phóng hơn 30 cây số ;Rồi sau đó lại cơ động bằng máy bay,chỉ tội là chiếc C130 cũ kỹ quá ,nhìn ra cửa sổ mờ đục chẳng thấy gì ,chỉ có ngại nhất là lần làm thủy quân lục chiến bất đắc dĩ ,đó là chuyến đi PapPria để truy quét ,toàn là vùng sông nước (hình như gần biển hồ thì phải ) mà mình lại chẳng biết bơi ,lúc ấy là mùa nước nổi ,nước ngập cả ngọn cây, nên xa xa mới có 1 cây nhô cao khỏi mặt nước .Hôm ấy, cái cậu Hiệp Quảng Nam mà mình đã kể ,mượn xuồng của dân đi hái rau muống 1 mình ,nhưng vừa trên đường về thì tự nhiên ghe thủng đáy ,thế là chỉ trong chớp mắt đã ghe đã chìm nghỉm ,may sao anh ta còn kịp chụp lấy cái cây bằng cổ chân gần đó ,thế là ôm cái cây,ngâm mình trong nước chờ thời ,may thay khoảng 3,4 giờ sau đó thì có ghe của dân đi đánh cá ngang qua ,thấy vậy vớt về ,lúc ấy người cho mượn ghe mới nhớ ra là ghe mình bị thủng lỗ to nên lấy áo nhét vào rồi trét lại bàng đất sét ,ngỡ là bđ biết bơi nên không dặn trước . Ở đấy ,nhìn cá thì thấy mà mê (nhưng không bắt được vì không có lưởi câu ),dân ở đó sống bằng ngề chài lưới,họ dùng lưới bắt những con cá rô to gần bằng bàn tay để làm câu cắm ,1 cần có 2 lưỡi câu ,móc vào đầu cs 1,còn 1 móc vào đuôi ,thế là con cá cứ bơi trên mặt nước ,vậy là những chú cá tràu bông (t-ray t-loc-bong) thấy gai mắt táp 1 phát nuốt gọn ,có con táp mạnh đến nỗi lưỡi câu thì vào bụng,còn con cá mồi thì văng ngược lên đầu cần câu cắm ,chắc các bạn cũng có thể hình dung ra con cá lóc ấy to cũng phải bằng bắp chân ,có lần mình thấy họ trút" lợp " trong lợp là 1 con cá úc có chiều dài khoảng 1,5 m ,nhìn thấy mà sướng mắt .Cá nhiều là thế nhưng lính vẫn đói cá ,vì chẳng có lưỡi câu ,mà cũng chẳng có ghe để đi câu,chỉ thỉnh thoảng 1 chú cá tràu cở bằng cổ chân lượn lờ sát bờ thì đòm 1 phát cho đỡ ghiền ,chả bỏ ;Vậy là bài ca cũ hát lại ,nhưng thay lời ,lần này là chân bước xuống sông ,nhưng thay vì bưng cái lợp thì bây giờ là trút ống trúm . (mong các bạn đừng mách lại ,dân biết ,họ chưởi chết). Tại hồ nước Pin-buôi bên phía dầu bờ đập "núi Dài" là F bộ 309, thì chỗ nước sâu nhất là cống xả chỗ có chốt Vệ binh F gác thường xuyên, nên hầu như chẳng ai dám đánh thuốc nổ, thả lựu đạn hay bắn cá! Nhưng đầu bờ đập phía D23 Bệnh xá và Tiểu đoàn tăng đóng cũng có một cống xả, dân Campuchia giăng lưới, giăng câu, đặt trúm . . . nên bộ đội mình cũng không được "săn bắt cá" gần cống xả! Năm 87 C tui có ra Tiểu đoàn tăng để kiểm tra địa hình phục vụ tác chiến pháo binh (do bản đồ chụp quá lâu nên các vật chuẩn như ngọn đồi cua suối bị sai lệch, cần kiểm tra hiệu chỉnh cho chính xác so với các mục tiêu cần bảo vệ của pháo) Tui nằm "ở nhà" không phải lặn lội theo anh em, lo cơm nước cải thiện linh tinh, chiều về thì tổng hợp số liệu rồi tính toán quy hội kiểm tra cho anh Hổ C trưởng xem kết quả . . .  vì tui vừa qua đợt sốt rét! Vài hôm sau mấy anh em Tiểu đoàn tăng rủ đi bắn cá cải thiện, tui hỏi ý anh Hổ C trưởng thì anh cho luôn anh Hải quê Quận 4 tham gia luôn cho vững bụng! Sáng chừng 4h thì 2 anh Tăng Thiết giáp đến "giật gò" kêu đi. Tui hỏi: "Sao đi sớm vậy!" Hai anh nầy nói lại: "Thôi đi lẹ ông ngố! Ra ngoài tụi tui giải thích cho nghe!" Tui và anh Hải xách súng AK và cột thêm một băng đạn trong khăn cà-ma quấn ngang lưng (60 viên/người). Ra khỏi doanh trại thì hai anh lính tăng mới giải thích: " Đi sớm mới

"mượn"

được xuồng của dân, chứ đi trễ chút thì họ lấy xuồng đi mất lấy đâu mình đi". Đến bờ đập, theo hướng dẫn của hai anh lính Tăng, tụi tui mò dưới nước lên một cái xuồng. Hai anh em lắc cho nước ra rồi leo lên tui tát nước tiếp cho khô, trong lúc anh Hải cố chèo nhanh cho kịp hai anh lính tăng. Chèo cách bờ đập chừng 1,5km thì tụi tui chia "địa bàn" để bắn cá, chỗ nầy nước sâu chừng ngang ngực, rải rác chừng 150m đến 300m có các gò mối cao mà nước ngập còn ló chỏm. Tui chọn một cái cây chết khô trèo lên mà ngồi trên chạc cây cao cách mặt nước chừng 15m, anh Hải cũng chọn một gò mối cách tui chừng 150m nhưng trèo lên cái cây còn xanh. Chừng hút xong điếu thuốc thì trời sáng rõ, nhìn xuống mặt nước trong veo, tui căng mắt ra quan sát thấy mấy chú cá lóc bông lội tung tăng, tui chờ con cá bơi chậm lại chuẩn bị ngóp bóng thì rê súng nhằm vào cái đầu mà bắn, do vậy con nào cũng toác đầu mà chết phơi bụng. cá lớn cỡ bắp chân mới bắn chứ cá nhỏ thịt chưa ngon nên không bắn phí đạn! Cá lóc bông chỗ nầy lớn cỡ bắp tay mà còn đi thành đàn, mấy con "đại ca" cỡ bắp chân trở lên mới đi một mình. Cá lóc đen thì nấp trong mấy lùm cỏ lâu lâu mới rón rén chui ra ngóp bóng, nên rình phải tinh mắt mới "hạ" được nó. Khoảng 9h thì mấy anh lính tăng bắn báo hiệu "thu quân", hai anh em mới lội xuống nhặt cá bỏ lên xuồng chèo về. Hai đứa tui săn được gần 50kg cá, phải chặt cây làm đòn mà khiêng về sau khi nhận nước cho chìm cái xuồng chỗ cũ để"trả lại" cho dân! Anh Hải càu nhàu: " Sao mầy ngốc vậy, bắn cá chỉ cần bắn cách con cá vài phân (cm) thì con cá nó tức sức ép chết rồi, mầy bắn cá nát đầu mất ngon"

Toán công tác đùm theo cơm chiều mới về. Hai anh em tui nấu cơm nước xong chừng 15h45' thì anh Hổ và toán công tác quay về ai nấy trầm trồ kết quả cải thiện của anh Hải và tui. Anh Hổ cho đi bắn cá hai ngày nữa để xẻ khô mà mang về đơn vị sau chuyến công tác!

Còn phía dân Campuchia họ biết chỗ nên họ giăng câu, giăng lưới đặt lọp có được cá lăn, cá leo cá sác có nhiều con hơn 8kg nhìn thấy ham!

mấy con cá lóc bông tụi tui bắn lúc đầu thì nó nổi, chừng vài phút sau thì nó chìm dần, nhưng nó vẫn nằm ngữa đưa cái bụng trắng hếu lên trên. Do vậy tụi tui bắn cho đến khi nắng gắt cá đi nấp nắng hết thì mới xuống nhặt một lượt rồi đi về! Cả mấy con cá lóc cũng vậy tuy chìm vẫn ngữa bụng lên. Chỗ nầy nước trong lắm nên dễ thấy "sản phẩm" của mình mà nhặt không sót con nào.

- Hôm sau rút kinh nghiệm, tui bắn theo hướng dẫn của anh Hải nên không bị "nát mồi" nữa. Xong chuyến công tác quay về đơn vị thì cả C ăn cá liên tục 3 ngày (vừa cá khô vừa cá ướp muối), vì mùa khô rau cải hầu như chẳng còn gì ngoài mớ lá dang và lá "móng bò" tạo vị chua để nấu canh chua! Cả C bị "tào tháo rượt" do ăn cá nhiều mà thiếu chất xanh! Thuốc tiêu chảy của C hết sạch, Anh y tá qua E xin thêm, nhưng ai nấy vừa uống hết thuốc lại xách quần chạy tiếp! Lúc nầy anh Trịnh C phó mới sực nhớ ra một phương thuốc của người dân tộc ít người: Dùng dao chặt sát gốc mấy cây chuối rừng rồi lấy muỗng khoét lõm ở giữa, chờ nước mủ rịn ra múc chia nhau uống. Vậy mà cả C dứt đợt tiêu chảy

Thời gian lúc đó C tui cũng tăng gia dữ lắm, vừa hết mùa mưa là trong nhà mỗi tiểu đội có được cũng vài tạ bí đỏ và bí xanh (tụi tui trồng theo dân miền ngoài: bí đao để già vỏ mốc trắng chết dây mới thu hoạch để lâu ăn dần, chứ không như trong miền nam quê tui hái bí xanh còn non ăn). Nhưng không bao giờ dùng được lâu! Vì anh em đồng hương các đơn vị bộ binh phải rày đây mai đó không có điều kiện tăng gia, mùa khô được tặng một trái bí đúng là một món quà quý. Anh em tụi tui không keo kiệt mà "diếm" ăn hết . . . mà cho lần hồi chẳng mấy chốc trở nên "vô sản" như ai

- Chào bác BS-812, mấy hôm rồi tui thấy bác trở lại diễn đàn viết bài, tui cũng thấy rất vui. Nhưng ban ngày "đi cày" bị đuối nên chưa kịp hưởng ứng. Trước đó có gửi bài ở trang 1 topic nầy nhưng không hiểu tay quờ quạng nhằm cái phím nào của máy tính mà bài nó mất tích luôn! Tối khuya quá con mắt cứ sụp xuống nên tắt máy đi ngủ! Khi nào có dịp gặp bác Quân Khí Viên thì uống dùm tui vài ve, có dịp tui sẽ trả nợ vậy

Món nợ không thể trả - Truyện ký của LÊ ÐỨC ÐỒNG

Cuối tháng hai năm 1975, chúng tôi được đưa về đơn vị chiến đấu sau những tháng ngày vượt Trường Sơn, qua đất bạn Cam-pu-chia và đến tận chiến trường miền sông nước Nam Bộ.

Trong đoàn cán bộ ra đón nhận lính mới, có anh Tư Việt (họ tên đầy đủ là Trần Văn Việt) khoảng chừng 24, 25 tuổi với mái tóc húi cua và nước da ngăm đen. Ðơn vị giới thiệu anh Tư là C phó (tức Ðại đội phó) đại đội 2, tiểu đoàn 307, Trung đoàn U Minh. 'Chà, đại đội phó mà trẻ dữ ta - chắc tay này 'oánh' giặc ngon dữ lắm!'. Lũ chúng tôi trầm trồ trước những con người bằng xương bằng thịt mà lâu nay mới chỉ biết qua những trang sách viết về người chiến sĩ miền nam anh hùng. Tôi đem những suy nghĩ ấy tâm sự khi cùng anh Tư tắm ở bờ sông. Anh cười hiền lành để lộ hàm răng sún mất hai cái: 'Cũng thường thôi'. Anh kể quê anh ở tận miệt Cái Nước (Cà Mau) mà theo anh xứ ấy 'muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lên như bánh canh' mới nghe mà hãi. Hai anh em nhanh chóng cởi đồ ra để lội. Trời ơi, mình mẩy anh Tư toàn sẹo là sẹo. Cái to cái nhỏ, cái ngắn cái dài, cái đỏ cái đen nằm ẩn dưới da lưng, da bụng. 'Miểng M79 đó, ớn hông?' - anh Tư nói rồi cười ha hả trong lúc tôi còn ngó chăm chăm vào những vết sẹo đen sẹo đỏ trên khắp mình anh.

Bữa ăn nào anh cũng dành phần cá nhiều cho tôi, bởi theo anh Tư, tôi là lính mới, là liên lạc mới của đại đội nên được 'ưu tiên'. Chúng tôi sống trong dân; cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân. Chỉ một thời gian ngắn, tôi đâm nghiền món mắm sặt sống. Ðó là những con mắm sặt chỉ to bằng hai ngón tay, ăn kèm với rau răm, chuối chát, khế chua, bông lục bình, cù nèo và có thêm ly đế nữa thì nhứt xứ! Mắm sặt ăn giữa chốn đồng quê thơm nức mũi. Anh Tư nhìn tôi ăn ngon lành rồi nói vui 'mày ăn mắm sống được là mày làm dân Nam Bộ đặng rồi đó!'.

Ðơn vị chúng tôi được lệnh hành quân chiến đấu, có nhiệm vụ đánh cắt lộ Bốn (Quốc lộ 1 bây giờ) thuộc khu vực xã Tân Lược (huyện Bình Minh, Vĩnh Long) chặn đường rút lui của quân giặc từ Sài Gòn đổ về vùng bốn chiến thuật (mà trung tâm là Cần Thơ). Mấy đêm nằm im ngoài bờ bao, chúng tôi phải luộc chuối ăn thay cơm. Từng bầy trực thăng bay lên đáp xuống phía Cần Thơ như chuồn chuồn gặp bão. Lại hành quân cả đêm cho kịp giờ tác chiến. Trực thăng soi đèn sáng như ban ngày. Anh Tư bình tĩnh, động viên mọi người nằm im, ngụy trang cho kỹ. Ai nấy đều tỏ ra căng thẳng, có người còn đòi bắn máy bay... Chợt Anh Tư cất lên câu dân ca Nam Bộ cải biên làm ai nấy không nín được cười: 'Chiều chiều ra đứng tây lầu tây... Tây lầu tây, thấy cô tang tình đang tắm... tắm heo, tắm heo trong chuồng... ừ ứ ư ứ ừ... ứ ư ự... ứ ừ...'.

Ðơn vị tôi áp sát mục tiêu lộ Bốn cũng vừa lúc nhận được tin Tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Chúng tôi vào tiếp quản khu quân sự Bình Minh, tổng hành dinh của sư đoàn 21 khét tiếng của quân ngụy Sài Gòn và hỗ trợ địa phương giữ gìn an ninh trật tự. Ðất nước hòa bình. Niềm vui khôn tả. Bầu trời xanh rợp cánh chim bồ câu trong nắng sớm. Anh Tư xin phép đơn vị về thăm ba má tận Cà Mau. Cả nhà giục anh cưới vợ nhưng anh chỉ cười 'gấp gì cho mệt'.

Ðầu năm 1976, đơn vị chúng tôi hành quân về vùng An Giang tham gia truy quét tàn quân, vận động quần chúng, xây dựng cơ sở. Mùa gió chướng tràn về. Nước sông trong xanh, phù sa lắng lại vì đã qua mùa nước nổi. Ðêm đêm, anh dẫn chúng tôi đi soi ếch, bắt cá. Soi đèn dọc bờ sông, chỉ cần có con dao nhỏ là được gần giỏ cá đầy. Cá vùng An Giang nhiều, chúng tôi thích nhứt là cá éc, một loài cá vảy đen thịt trắng và thơm ngon đến lạ.

Chấp hành nhiệm vụ cấp trên, đơn vị chúng tôi lại hồ hởi hành quân về đồng Cờ Ðỏ (thuộc huyện Thốt Nốt, Cần Thơ) làm ruộng. Ðồng Cờ Ðỏ mênh mông và chỉ có gió trời là dư dả. Ngoài những giờ luyện tập, anh Tư trổ tài đào chuột đồng. Mang theo hai chú chó, chúng tôi theo chân anh Tư đi săn chuột dọc bờ ruộng. Mùa này lúa đã cắt xong, chỉ còn trơ gốc rạ. Chuột mùa này mập tròn vì chúng đã no nê giữa lúa đồng bát ngát. Hơn nửa buổi đã gần đầy bao chuột trông thật hấp dẫn. Món đầu tiên ngon nhứt trong đời lính là món thịt chuột xào lá cách mà anh Tư 'chiêu đãi' chúng tôi. Mùi thơm béo ngậy của thịt chuột đồng, mùi lá cách thơm nồng quyện cùng với ớt hiểm xanh tưởng chừng không cao lương mỹ vị nào sánh được! Thiệt tình món thịt chuột xào lá cách thuở ấy, tôi nhớ mãi đến bây giờ.

Vui nhứt là những chiều trên những thửa ruộng vừa gặt xong, anh Tư cùng anh em trong đại đội chia làm hai đội đá banh suốt chiều, bất phân thắng bại trong tiếng reo hò cổ vũ rần trời...

Cuối tháng tư năm 1977, đơn vị chúng tôi được lệnh hành quân cấp tốc trở về An Giang. Bọn Pôn-pốt ngang nhiên tiến công, chiếm đất trên toàn tuyến biên giới tây nam; gây ra nhiều tội ác đối với đồng bào vùng biên. Lửa cháy dọc miền biên giới và cháy bỏng căm hờn trong lòng người chiến sĩ. Một tấc đất của cha ông để lại quyết không cho kẻ thù nào xâm lấn. Lời hịch ngàn xưa như vẫn còn vang vọng 'Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm / Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời' (Nam quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt). Toàn đơn vị sẵn sàng ở mức cao nhất cho từng trận đánh. Anh Tư đi đến từng người, tâm tình, động viên, không quên nhắc nhở mọi người xem lại vũ khí, thắt lại dây giày, cơ số đạn...

Năm giờ sáng ngày 7-5-1977, lệnh vượt sông ban ra. Từng tốp chiến sĩ nhanh nhẹn lao xuống bờ sông, dùng xuồng, bè chuối nhanh chóng áp sát địch. Bọn lính Pôn-pốt phát hiện và bắn như vãi đạn. Bờ sông cao nên đạn bay lượt sượt phía trên đầu. Phía bên phải, đơn vị bạn đã chiếm được hào giao thông. Bọn Pôn-pốt chạy dạt qua phía chúng tôi đang chờ sẵn. Từng loạt đạn đanh gọn cắt đứt đội hình địch. Anh Tư nhổm người lên quan sát và hướng dẫn từng chiến sĩ chiếm từng góc hào. 'Xung phong!'. Anh Tư truyền lệnh dứt khoát và cùng các chiến sĩ lao về phía trước. Chúng tôi dàn hàng ngang, xông lên chiếm công sự, hỗ trợ anh Tư và đồng đội đang truy kích bọn lính đang co cụm chống trả. Bỗng 'Oành!' - một trái cối 81 đã nổ ngay trước mặt chúng tôi chừng năm, sáu thước. Anh Tư và cậu Trung liên lạc hy sinh. Tôi bò lên gào to 'Anh Tư! Anh Tư! Trung ơi ! Trung ơi ! Có việc gì không?' nhưng chỉ nhận được sự bất động của hai người lính. Súng nổ bốn bề, khói bay mù mịt và đơn vị chúng tôi đã chiếm được trận địa, giành lại mảnh đất nơi biên cương của Tổ quốc...

Tháng bảy năm 1977, đơn vị cho phép tôi đi ôn thi vào đại học ở Trường quân chính Ðồng Tâm (Mỹ Tho). Vì lý do ở đơn vị chiến đấu nên tuy tập trung trễ nhưng tôi vẫn được nhà trường tạo điều kiện ôn thi. Do có sự chuẩn bị từ trước, nên tôi đậu vào ngành Văn, khoa Sư phạm, Ðại học Cần Thơ. Tôi lại làm hồ sơ, chụp hình theo quy định của trường để nhập học.

Thiệt tình mà nói, trong túi tôi lúc ấy không còn một đồng. Mọi phụ cấp đã xài hết nên tình thế vô cùng gian nan là làm sao có tiền chụp hình cho kịp. Tôi lục lại trong ba-lô xem có cái gì có thể bán được. Ngoài mấy cuốn sách, có một gói giấy nhỏ rơi xuống. Tôi mở ra xem, trời ơi, chiếc đồng hồ lên dây thiều mỏng mảnh. Chiếc đồng hồ của anh Tư nhờ tôi đi sửa cái kim giây, tôi chưa kịp đưa lại anh... Tôi mang chiếc đồng hồ đi cầm, nói rõ sự tình và chủ tiệm đồng ý khi trao tôi hai mươi đồng bạc.

Có số tiền nhỏ nhoi này, tôi đi chụp hình, làm thủ tục nhập học đúng thời gian.

Anh Tư ơi, em có lỗi với anh thiệt nhiều! Chiếc đồng hồ nhỏ thôi mà cứ oằn nặng trong lòng em mãi. Do đường sá xa xôi, xe cộ hồi ấy đi lại cực khó nên em không trở lại chợ Mỹ Tho chuộc lại chiếc đồng hồ. Có lẽ hồn thiêng của anh đã tiếp giúp em trong lúc khốn khó!

Bỗng hiện lên trong sương chiều bảng lảng là bóng hình anh Tư Việt, vẫn với cái đầu húi cua ngắn, vẫn với nước da ngăm đen và cái miệng cười hiền lành để lộ hai chiếc răng sún đang tắm dưới bờ sông ken dày đám dừa nước.

Lời nguyền của dòng sông

hành hoàng làng tôi làm nghề bị gậy.

Cứ ra giêng, con cháu trong làng bất kể giàu nghèo đều đi xin ăn khắp xứ trong khoảng một tháng trời, đó cũng là cách nhớ ơn ông tổ.

Năm nào tôi cũng về quê.

Ở đây, tôi được sống lại những năm tháng ấu thơ, và hít thở không khí trong lành, lá phổi khử sạch mùi xú uế chốn thành thị rác rưởi.

Cha tôi bảo: Nghề chữ của con không bằng nghề ăn mày.

Mẹ nói: Khi đi khất thực mới hiểu được lòng nhân. (Đó là lý của người quê, ngay các bậc thánh chữ cũng khó giải thích).

Quê tôi có sông Lương, dòng sông thật hiền chảy lờ đờ như người mới ngủ dậy. Không hiểu từ đời nào, làng hai bên bờ thù nhau truyền kiếp. Làng Vĩnh (tên làng tôi), và làng Quảng ( tên làng bên), từ trẻ con tới người lớn luôn xảy ra các cuộc xung đột (cứ như thời Trịnh Nguyễn phân tranh).

Làng tôi có gia đình may mắn, và có những gia đình bất hạnh, những người ăn nên làm ra, đỗ đạt ông nghè, ông tổng, đem lại sự vinh hiển cho cả làng. Cũng có kẻ cả đời “bán mặt cho đất, bán mông cho trời”, lam lũ.

Chuyện này thôi không kể nữa, bởi lẽ, chẳng riêng chuyện cộng đồng làng xã, mà nhìn ra bên ngoài đều có chuyện bi hải của mỗi số phận ( phần này xin nhường chỗ cho các nhà xã hội học, mấy ông thày xem tử vi, bói chân gà, xem quẻ, rút xăm).

. Bà Bần – Cái Thoan

Làng sẽ là một địa danh trừu tượng, nếu không có những con người cụ thể.

Bà Bần, không phải là dân ngụ cư. Chồng đi lính thợ sang Pháp, một nách ba con, mười hai đứa cháu. Cái Thoan, cháu bà, bạn với tôi từ thuở còn cởi truồng tắm chung chưa biết ngượng là gì.

Theo mấy người đa sự trong làng, bà Bần bị thần sông phạt, khi trẻ bà tắm sông trong lúc có kinh, những giọt máu tanh tưởi ở cửa mình nhỏ xuống đúng lúc thần sông mở tiệc. Bẽ mặt với khách, các khanh hầu, chư tướng và thần dân nơi thủy cung, thần sông buông ra một lời nguyền: “Sẽ trừng phạt cả dòng họ bà, chỉ mình bà được sống để khóc người thân. Sự trừng phạt này thật khủng khiếp (phải có đầy quyền uy mới thực hiện nổi). Chưa hả giận, thần sông còn đem lại sự thâm thù cho hai làng bên sông (như tôi đã nói ở trên).

Ba đứa con bà Bần (và cả con dâu) đều lần lượt chết đuối trên dòng sông Lương hiền lành, nước chảy lờ đờ như người mới ngủ dậy. Tối nào bà Bần cũng ra bờ sông khấn vái xin thần sông rút lại sự trừng phạt. Trong đêm tối, bà xõa tóc, những đốm hương đỏ bỏng như mắt chó sói, nhập nhòe, ma quái, huyền bí.

ôi và cái Thoan hay thả trâu ngoài đồng, ngoài bãi, đầu nó khét nắng và chấy thì nhiều vô kể. Chọi cỏ gà, khi thua nó ra điều kiện: Phải bắt hai mươi con chấy, bắt được con nào tôi đều cắn tách một cái, máu của những con chấy hay máu của cái Thoan đều ngọt, ngon, hơi mằn mặn một chút.

Mẹ tôi nhìn cái Thoan chép miệng: Tội nghiệp! Bé thế đã mồ côi để bác chữa chấy cho cháu.

Hôm sau, mẹ lấy hạt na giã ra trộn với rượu ủ lên đầu nó, trùm khăn kín lại:

Cháu để một ngày, một đêm mới được cởi…

(Tài thật, đầu nó chẳng còn con chấy nào, kể cả trứng).

Và cũng từ đấy, khi chơi chọi cỏ gà, nó ra một điều kiện khác. Nếu tôi thua, nó bắt tụt quần để búng vào chim, thua nhiều, có lần chim sưng tấy. Tôi tức lắm, cố tìm cách trả thù, khi nào thắng (thường rất hiếm), tôi kéo quần cái Thoan véo và bẹn chỗ đùi non, khiến con bé thét lên đau đớn. Tôi hả hê như viên tướng thắng trận, sung sướng gào như một kẻ khốn cùng trúng sổ xố độc đắc.

Tôi hay kể chuyện đời xưa cho nó nghe (đa số là bịa). Các câu chuyện thường kết thúc giống nhau, ví dụ như: “Cô con gái nghèo khổ lấy được hoàng tử con vua, nàng đem vàng bạc phân phát cho người nghèo”, hoặc: “Con hổ gầm lên một tiếng, rồi chạy thẳng vào rừng”. Nghe kể xong, cái Thoan nói: Ngày xưa có tiên, có phật, cầu được, ước thấy, bây giờ tớ cầu khấn mãi mà chẳng được gì.

Học hết cấp hai, tôi lên huyện học, Thoan ở nhà không học nữa. Thỉnh thoảng về quê gặp lại, hai đứa không còn được tự nhiên như trước.

Có lần tôi rủ Thoan lên xã xem biểu diễn văn nghệ. Thoan mặc áo trắng, quần lụa đen, bím tóc dài buộc khăn mùi xoa Trung Quốc. Thoan rang ngô mang theo, bắt tôi ăn, Thoan nói: Ngô làng mình ngọt vì có nước sông Lương.

Xem chèo, tới đoạn một chị dân quân cả nhà bị chết vì bom Mỹ, dùng súng bộ binh bắn rơi máy bay phản lực. Tên phi công nhảy dù, đứng hát chèo (theo điệu sắp qua cầu) giữa sân khấu:

Tên tôi là phi công Mỹ

Là Mỹ i…i…i lái thần sấm con ma

Bị bắn rụng bắn rơi i…i…i

Tôi xin mọi người tha tội cho tôi…

Thoan bảo: Xem ra, chèo nhà mình hay thật, phi công Mỹ cũng biết hát.

Kết thúc vở chèo, chị dân quân nén đau thương trói tên phi công trao cho tỉnh đội.

Thoan nói: Người Việt Nam rộng lượng với kẻ ngoại tộc, nhưng hẹp hòi với đồng tộc. Làng Vĩnh nhà mình, và làng Quảng tới giờ vẫn thù nhau.

Tôi hầu như không chú ý xung quanh, chỉ mải nhau ngô, lục cục như cọp nhai sỏi…

Thoan chết khi tròn mười tám tuổi.

Mẹ kể: trâu nhà Thoan đứt dây nhảy xuống sông. Thoan bơi theo, vượt qua địa phận Cồn Nổi (Ranh giới chia đôi dòng sông với làng Vĩnh và làng Quảng). Lũ trẻ làng Quảng thi nhau ném, chắc một viên đá nào đấy trúng đầu Thoan.

Dòng sông Lương cuốn Thoan đi, phải ba ngày mới tìm được xác.

Bà Bần khóc ngất bên xác cháu…

Dòng sông vẫn chưa xóa lời nguyền.

Đêm ấy, không trăng. Tôi lang thang dọc bờ sông dưới ánh sáng mập mờ của ngàn con đom đóm. Tôi nhìn mặt sông và tưởng tượng đó là một lão già gớm ghiếp, hể hả cười độc ác. Gió từ mặt nước hắt lên lạnh buốt nổi da gà.

Như kẻ mộng du, tôi lấy bùn trát vào mặt. Mờ sáng, trở về nhà, mẹ hỏi: “Con đi đâu suốt đêm mà mặt mày đờ đẫn thế kia?”.

Tôi trả lời: “Con đi tìm cái đã mất, ngọt ngào chẳng có đâu mẹ ạ!”.

Cha bảo: “Kẻ đê tiện thì được sự ngọt ngào, bậc quân tử thì suốt đời ăn cứt”. Cứ như lão Quắn mà hay, chẳng màng tới thế sự.

2/ Lão Quắn.

Lão Quắn là dân ngụ cư. Gốc gác, lai lịch của lão chẳng ai biết.

Có người bảo: “Ngày xưa lão từng làm quan, lên xe, xuống ngựa, kẻ hầu người hạ”. Cũng có lý, lão hiểu biết chữ nghĩa thánh hiền, thông làu kinh sử, biết cả tiếng Tây.

Lại có người nói: “Lão là một tên tướng cướp khét tiếng, mai danh ẩn tích, gác kiếm giang hồ”, xem ra cũng đúng.

Tôi từng thấy lão tay không đánh gục cả đám trai làng Quảng có vũ khí. Đó là lần đầu tiên lão ra tay vì đám trai làng Quảng vượt sông sang trộm khoai hợp tác và đánh anh dân quân chảy máu đầu.

Lão Quắn sống một mình, nuôi thân bẳng nghề câu cá, trồng rau. Nhà lão nằm cuối xóm, sát chân núi Chúa, âm u lạnh lẽo như miếu cô hồn.

Lão hay nhờ tôi đổ cháo vào lá đa cúng vong linh chết vất vưởng, không người thân thích, đầu đường xó chợ, vào rằm tháng bảy.

Lão thủ thỉ: “Có hồn đấy! Tôi vẫn hay nói chuyện với họ, chẳng phải giữ gìn ý tứ gì cả, người chết chẳng hại ai bào giờ, ho biết hết mọi việc tốt xấu của người đang sống”.

Lão khuyên tôi: “Người đời xưa học vì mình, có nghĩa để tu thân giúp đời. Người đời nay học cốt mua danh, ít kẻ thực tài, cậu nên học theo lối người xưa”.

Tôi hỏi: “Thế nào là giúp đời, và thế nào là không giúp đời?”.

Lão bảo: “Nếu vua là bậc đấng minh quân, hoc rồi nên ra làm quan. Nếu vua là bậc vô ân thì nên ở ẩn. Thiên hạ tốt mà mình nghèo thì đáng xấu, thiên hạ hắc ám mà mình phú quý thì nhục!”.

Tôi nhe răng: “Quan nổi tiếng khắp cõi cần gì đến vua”.

Lão bảo: “Làm quan mà nổi tiếng có thể là giả dối, ra bộ nhân từ, song xét ra là mưu lược kẻ “Đào tường khoét vách” “.

Tôi nói: “Khó phân biệt lắm, cháu thấy các ông quan đều oai”.

Lão cười: ” Tự mình biết, cứt trong ruột sẽ lòi ra, khó dấu”

Tôi hỏi lão: “Bác ngày xưa đã từng làm quan phải không, hay làm tướng cướp?”.

Lão lại cười (hiền như nghé): “Quan với tướng cướp nào có khác nhau, có khác thì ở chỗ phương tiện và cái tên gọi mà thôi”.

Tôi bảo: “Làm tướng cướp oai hơn nhiều, xênh xang một cõi”.

Lão gắt: “Bậy! Khối kẻ tự giết mình, hảo hán chốn Lương Sơn thì thiên hạ vẫn cho là giặc cỏ”.

Lão hay làm thịt chuột cho tôi ăn, cầu kỳ, công phu cả buổi. Chuột lão bắt về là chuột đồng, béo núc. Nhìn lão đun nước làm lông, sốt cả ruột. Nước đun không quá sôi, tăm sủi lăn tăn, lão nói: “Con chuột ngon nhất là bộ da, nước nóng sẽ làm hỏng, không được nôn nóng. Nhúng chuột vào, làm sạch lông, nhớ cắt bốn quả hoi, không thì hôi, chó cũng không dám ăn. Chuột vớt ra phải xát muối, bỏ đầu, ruột, gan, chân. Đun nước lần nữa, bỏ ra trần, nước trong vớt chuột ra, để cho ráo, sau mới luộc, thái lá chanh, chấm với mắm, tỏi, ớt, còn món nướng và rang nữa, tôi sẽ lần lượt cho cậu thưởng thức.

Có thịt chuột, có rượu, lão khề khà gõ đũa và hát, lời bài hát nghe như khóc, nhưng quá ngang tàng:

Hát xong, lão nổi hứng nhảy ra sân múa võ.

Chập chờn, chân lão cày trên đất tạo ra những đường rãnh, loang loáng chỉ nghe tiếng gió khi lão đi quyền. Hết bộ xà, tới hầu quyền, môn phải của lão khó tìm được căn nguyên. Chắp vá, đểu, đòn độc, rõ phường lục lâm thảo khấu. Lão xỉa tay vào cây chuối hột, xoay chân tung cước vỡ cái chum Bát Tràng, húc đầu làm sạt cả bức tường đất.

Lão hỏi tôi: “Có thích học võ không?”.

Tôi trả lời: “Người cháu nhỏ, chẳng dám”.

Lão bảo: “Người nhỏ có sao đâu, nhu thắng cương, dây lụa trói được voi”.

Tôi nói: “Phải dùng đến võ là hèn”.

Lão bảo: ” Đúng vậy, hữu dũng thường vô mưu, cố mà học chữ”.

Lão Quắn tự tìm đến cái chết, hay cái chết tìm đến lão, khó biết.

Bố tôi kể: “Sông Lương năm ấy dâng nước (hơn năm mươi năm mới có một lần). Lão Quắn uống rượu say, chết đuối ngay ở nhà mình.

Lời nguyền của dòng sông không tha cho kẻ ngụ cư.

Tết và cái sự thèm ăn của Gấu

Ngày còn bé, mỗi khi Tết về là Gấu lại háo hức chờ đợi, đếm từng ngày để mong đến ngày mùng một. Ngày đó còn trẻ con chỉ mong đến Tết là được nhận tiền mừng tuổi, là được xúng xính trong những bộ váy mới, là được rong chơi mà không phải lo chuyện bài vở. Và còn quan trọng hơn nữa là được ăn thật nhiều đồ ăn ngon. Bây giờ khi đi học ở xa, cũng vẫn nhớ về Tết với những điều giản dị đó nhưng với một cung bậc cảm xúc khác lạ. Đôi lúc học bài và chợt nghĩ ngẩn ngơ: ”Sắp đến Tết rồi đấy!”. Và trong đầu nó lại mường tượng ra thật nhiều thứ thật thú vị. Còn một tháng nữa… Còn 20 ngày nữa…Còn một tuần nữa… Và Têt sắp đến rồi đấy. Trong đầu của con Gấu háu ăn đang bày la liệt những món ăn mà mẹ này, bố này, bác này, bá này, em trai này… đang chuẩn bị đợi nó về. Bước lên chiếc ô tô để về với gia đình, nó chẳng nghĩ được gì ngoài những thứ đó.

Nó thầm xuýt xoa khi nghĩ đến món thịt kho đông – món tủ của bố, “Món này mà ăn với cơm nóng thì tuyệt cú mèo!”. Nó nhớ đến hình ảnh của bố khi mà nó còn bé, bố luôn cưng chiều nó nhất, lúc nào nó cũng là con gái rượu. Và mỗi khi Tết về là nó lại mè nheo :”Năm nay bố lại gói bánh chưng nhỏ cho con nhé!” mặc dù lần nào cũng được nghe câu mắng yêu của mẹ :”Bé lắm đấy mà đòi”.

Nó chảy cả nước miếng khi nghĩ đến món dưa chua của mẹ. Dưa này mà ăn kèm với thịt mỡ thì còn gì bằng. Nó lại nghĩ đến những lúc phụ mẹ bóc hành chảy cả nước mắt nước mũi. Nhưng nó thích, bởi nó là con Gấu ngoan mà.

Còn nữa chứ,quên sao được món nem mà Tết về là bác nó lại dành hẳn cho nó một bát tô vì thương cháu gái đi học xa chẳng mấy khi được động đũa. Nào thính nào thịt nào tỏi… thơm lừng. Nó thích được đi dọc vườn tìm lá mơ lá sung bánh tẻ cho bác vì mỗi khi như thế là nó lại được trả công bằng việc nếm thử.

Còn cả chiếc đuôi lợn mà em trai để giành cho nó từ sáng. Nó thèm cái cảm giác cùng em trai ăn chung một cái đuôi lợn “ Về đi chị em thèm lắm rồi đấy”… Ngày còn bé nó lúc nào cũng phải ăn phần nhỏ, nó ấm ức, nhưng bây giờ nó sẽ được ăn phần nhiều nhưng sống mũi nó cay cay. Em trai nó cũng đã lớn rồi đấy

Ôi nhớ sao bá nó - dáng gầy gầy, khắc khổ. Mỗi lần mẹ nó sang thăm là lại hỏi: “ Bao giờ con Gấu về?”. Bá à, con nhớ lắm những chiếc kẹo chiếc bánh bác cất tận đáy thùng phi, mỗi lần con sang là bác lại dấu dấu diếm diếm cho con. Con thèm lắm, hình như đã lâu lắm rồi con không được ăn.

Chỉ còn 3 tiếng nữa thôi là nó sẽ nhào vào vòng tay gia đình. Lúc này đây nó đang háo hức chờ đợi những món ăn mà cả một năm nay nó chưa được nếm. Và đó là hạnh phúc của cái Tết sắp về!

Hoa gạo rụng

Có một bà già nghèo nhỏ thó sống trong một căn nhà nhỏ bên cạnh một cây gạo già. Cây gạo già nhưng vẫn trổ hoa vào tháng ba. Tháng ba bà già nhỏ thó đứng dưới gốc cây để xem hoa gạo rụng. Hoa gạo ở đầu cành lặng lẽ bứng khỏi cành, rơi cái núm hoa xuống trước, năm cánh hoa xoay tròn trong không khí như cái chong chóng. Cách rụng hoa kiểu chong chóng, cánh hoa không bị giập nát khi tiếp đất. Bà già nhỏ thó nhặt bông hoa đó mang vào nhà. Còn nếu hoa rụng bộp xuống đất đó là khi có gió lay hoặc những cánh hoa úp xuống. Khi đó những cánh hoa đỏ bị bầm giập. Bà già nhỏ thó nhặt hoa gạo lên thương tiếc rồi lại vứt xuống đất.

Bà già nghèo nhỏ thó có một nỗi niềm riêng mà không bao giờ bà nói cho ai biết. Chỉ có những bông hoa gạo nở vào tháng ba mới biết điều đó. Và một bông hoa gạo đã kể cho tôi nghe khi tôi đi qua nhà bà vào tháng ba, tôi đã đứng lặng dưới gốc để chờ một bông hoa gạo rụng.

Xưa bà già nghèo sống trong một gia đình nghèo. Gia đình nghèo sống trong một cộng đồng nghèo. Nghèo là đói. Cái đói triền miên. Nhưng cái đói thanh sạch. Không biết từ bao giờ mà từ cộng đồng đến gia đình và từng cá nhân biết chịu đựng cái đói. Điều này nhìn vào là biết ngay, nhà không cần cửa, vườn không cần rào.

Trong gia đình bà già nghèo có một cái chum rất to. Ở trong đó có những thứ ăn được. Lũ trẻ bụng lúc nào cũng đói meo nhưng không bao giờ bén mảng đến gần cái chum. Chỉ có mẹ là người duy nhất trong nhà được mở chum để lấy gạo nấu ăn, hoặc một loại thức ăn nào đó. Một lần mẹ lấy từ trong chum ra một thứ gọi là mì sợi. Mẹ bắc chảo rồi cho mì sợi vào rang. Mẹ cho thêm ít mỡ và một ít đường. Một món ăn tuyệt vời. Nó ngon hơn tất thảy mọi thứ ngon nhất ở trên đời này. Chỉ đơn giản là bọn trẻ con khi ấy chưa bao giờ được ăn thứ gì ngon hơn.

Mấy ngày sau bố mẹ đi làm chỉ có ba chị em ở nhà. Bà già nghèo nhỏ thó là chị cả, lên mười tuổi, gầy đen như que củi nhưng mầm lớn đang cựa quậy để trỗi dậy. Cái món ăn tuyệt vời của mẹ làm cho ba chị em cứ nhòm ngó vào cái chum. Không thể dừng được nữa, ba chị em quyết định mở chum để lấy một ít mì sợi, đường và mỡ. Chị cả gầy đen bảo với hai thằng em:

- Chúng mày ra ngõ đứng canh mẹ. Mẹ mà bắt gặp chị em mình ăn vụng thế này mẹ sẽ rất đau khổ. Nếu mẹ về chúng mày hô hoa gạo rụng thì tao sẽ giấu chảo mì vào đống rạ.

Hai thằng em ra ngõ canh mẹ. Chị cả gầy đen nổi lửa rang mì. Chảo mì đã bốc mùi thơm lựng, chỉ cần cho ít đường nữa là xong. Bỗng nhiên một tiếng hô ở ngõ dội vào bếp: hoa gạo rụng.

Chị cả gầy đen cuống quýt bắc chảo mì giấu vào đống rạ. Vì sợ quá mà quên dùng lót tay nên hai bàn tay đỏ ửng lên vì bị bỏng chảo nóng. Chị cả gầy đen đau rát ở hai tay nên thu hai tay vào trong áo, áp vào bụng thấy đỡ đau. Chị cả gầy đen chạy ra cổng. Hai thằng em đang cười nhăn nhở. Chúng bảo chúng dọa chị đấy. Chị cả khóc nức lên, giơ hai bàn tay đỏ ửng cho hai thằng em xem.

Nhưng có một cái chị cả không cho hai thằng em nghịch ngợm xem được đó là các mầm lớn trong chị cả đã thui rồi. Cái lúc ba từ “hoa gạo rụng” lọt vào tai chị cả thì một sự sợ hãi tột cùng ập đến. Chị cả rùng mình và cảm nhận được một sự lìa đứt vô hình trong cơ thể. Như cái lúc bông hoa gạo lìa cành chỉ có mình chị cả nhìn thấy, mà có giải thích thế nào hai thằng em cũng không cảm nhận được.

Từ đó chị cả không lớn lên được nữa. Bố mẹ đã mang chị cả đi đến nhiều bệnh viện để khám và chữa. Không có một thuốc nào làm chị cả lớn lên được tí nào.

Hai đứa em lớn lên đi khỏi làng. Chúng thành đạt trên đường đời chúng chọn. Chị cả ở lại căn nhà nhỏ của cha mẹ nghèo. Chị cả thành một bà già nghèo nhỏ thó. Hai đứa em thi thoảng về thăm. Chúng nói chuyện với nhau rằng bây giờ người ta no đủ trong sự dối trá và suy đồi. Chúng bảo với bà già nghèo nhỏ thó rằng chị thật hạnh phúc, tháng ba chị được xem hoa gạo rụng và chị vẫn thích món mì rang đường, chị không phải bon chen.

THIÊN ĐƯỜNG ĐỎ

T

ối ngày 28.6.1975 tôi bị di chuyển cùng chung với chồng từ Trường Trung Học Nguyễn Bá Tòng tại Sài Gòn đến Trại Suối máu được khoảng 1 tuần lại bị chuyển đến trại Thành Ông Năm, Hóc Môn do đoàn 500 cộng sản quản lý.

Trại chia làm hai khu: Nữ Sĩ Quan (SQ) Quân đội, và Nữ SQ/ CSQG. Chúng tôi bị chia thành từng B và phải chen lấn lẫn nhau trong một diện tích chỉ đủ để nằm nghiêng. Lúc nầy tôi mang thai cháu đầu lòng gần 7 tháng. Đây là thời gian thai nhi phát triển, nên thai phụ cần được nghĩ ngơi, thoãi mái, tránh bị những áp lực và thai phụ cần phải được thực phẫm dinh duỡng vừa tinh khiết vừa đầy đủ. Nhưng với tôi thì hoàn toàn trái ngược. Ngoài môi truờng sống quá thiếu vệ sinh, lại phải ngồi nghe học tập, thảo luận, đấu tố. Thể chất mệt mõi, tâm trí lúc nào cũng lo sợ cho bản thân, cho gia đình, và cho chồng. Thai nhi càng lúc càng phát triển nên tôi thèm ăn lắm, nhưng bụng thì lúc nào cũng đói, dinh dưỡng chẳng có, áp lực càng lúc càng nặng và rồi hai chân tôi bị qụy, chỗ kín bị ra máu, không đuợc chữa trị hoặc thuốc men. Tôi đuối sức! Trước tình trạng sức khỏe tồi tệ và mạng sống của tôi bị đe dọa, ngày 12.8.75 Cộng sản (CS) thả tôi về với lý do:

"tạm hoãn quản huấn vì sắp đẻ"

(nguyên văn)

Về đến nhà thì ba mẹ và các em nhỏ của tôi đã bị lùa ra khỏi Sài gòn theo chương trình gọi là hồi hương lập nghiệp tại Sa-Đéc. Sức khỏe quá yếu, không đi được tôi đành ở lại căn nhà củ (bấy giờ thì gia đình thím tôi đang ở). Đến đầu tháng 9.75 đau chuyển bụng, tôi đến bảo sanh viện Từ Dũ. Sau khi sinh cháu bé, tôi mệt lắm, nhưng gắng gượng xem mặt cháu, biết cháu là gái, thấy khuôn mặt con hao hao giống bố, lòng mình dâng nỗi nhớ chồng và dào dạt thương con, tôi ôm con vào lòng và ngất đi vì bị băng huyết. Tĩnh dậy tôi trở về tâm trạng củ, May mắn cho tôi là CS chưa kịp đưa người của chúng vào nên nhân viên và bác sĩ vẫn còn tấm lòng nhân ái và phong cách Miền Nam và nhờ đó tôi thoát khỏi luỡi hái tử thần. Vì lý lịch, nên tôi bị tống ra khỏi bịnh viện sau 4 ngày mặc dầu tôi còn yếu và cháu bé gầy guộc chỉ được 2kg. Tôi lại phải bé cháu tìm đường về Sa Đéc.

Khi chiếc tàu đò đậu trước cửa nhà, lòng tôi càng thêm não nề. Đây là khu hoang địa, xưa kia là khu oanh kích tự do và không có dân cư, vì thế vùng nầy có rất nhiều hố bom. Thấy gia đình lam lũ, tôi vô cùng xót sa, vì vậy tôi ráng sức phụ giúp gia đình và tôi lại thêm lần nữa ngã qụy. Đúng vào thời gian nầy, khi cháu được hơn một tháng thì mẹ con tôi bị bắt trở lại trại giam.

Sáng hôm ấy ,đang cho con bú, tôi nghe tiếng ghe máy và tiếng người, rồi tiếng chân dồn dập nhảy lên bờ. chạy phía nhà tôi. Sống trong vùng cộng sản kiễm soát tâm trạng tôi luôn luôn hồi hộp lo sợ. Đang còn hoang mang thì tôi đã thấy họ bao quanh nhà tôi, những mũi súng chĩa thẳng vào mẹ con tôi. Tôi nghe đạn lên nòng và tiếng ra lịnh của tên chỉ huy:

- Các đồng chí vào vị trí sẳn sàng tác chiến.

Sau đó tiếng quát ra lịnh:

- Chị Lê Thị Xuân, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh, không được chống đối, chấp hành lệnh quản chế, thì sẽ đuợc cách mạng khoan hồng !

Tiếp theo là hai tên có võ trang tiến sát vào giường mẹ con tôi. Tôi biết là tôi đã bị bắt. Tôi không sợ, nhưng tôi thương con quá, phần không muốn phải xa con, phần sợ con phải chịu cảnh lao tù. Tôi thật sự lúng túng vì cả nhà tôi đang làm ngoài ruộng. Tôi ngỏ ý chờ người nhà tôi về...Nhưng chúng nhất định không cho. Bị thúc hối quá cấp bách; tôi chỉ viết vội là đã bị bắt lại cho gia đình biết, rồi gom nhanh ít tả lót, ít quần áo, vật dụng cho hai mẹ con và theo chúng xuống xuồng máy giữa hai hàng súng “dàn chào bảo vệ” của chúng. Sau nầy tôi biết tên hung tợn chỉ huy cuộc vây bắt hai mẹ con tôi tên là Hiếu. Tôi đã có lần gặp hắn tại sài gòn trong nhà người cùng quê với mẹ tôi. Người nầy là SQ Quân Lực VNCH che chở cho hắn trốn quân dịch, lúc ấy hắn làm phụ thợ hồ. Trước ngày tôi định cư tại Mỹ thì hắn là Phó chủ tịch Nông nghiệp huyện Thạnh Hưng, tỉnh Đồng tháp và dĩ nhiên là rất hống hách, ngang tàng và giàu có.

Bọn chúng chở hai mẹ con tôi về trại giam Đám Lát thuộc huyện Lấp Vò, Tỉnh Đồng Tháp. Trại giam nằm trên gò đất, chung quanh có nhiều hàng rào giây kẽm gai bao bọc, chúng cẩn thận gài mìn và chất nổ đề phòng sự trốn trại của tù. Trại nầy giam đủ thứ thành phần từ SQ chế độ củ, tôn giáo, đảng phái chính trị…đến thường phạm. Vì có con nhỏ nên chúng cho mẹ con tôi ở riêng một góc xó nhà bếp. Vách nhà làm bằng đất sình trộn với trấu, nên hôi hám và nhiều bụi dơ; gió mang theo hơi nóng làm rát da. Tôi mượn nhà bếp hai tấm bao bố gạo làm chiếu và mền đắp cho con, còn mình thì nằm hẳn trên đất. Mỗi buổi chiều mẹ con tôi được nữ quản giáo dẫn xuống một cái đìa nhỏ để tắm giặt. Vì cái đìa nhỏ nầy khi nước triều cường mới có chút ít nước từ sông cái tràn vào, do vậy mà những chất dơ bẩn không kịp thóat ra, vì thế nước có màu đen của dơ, màu váng của phèn; mùi hôi thối luôn luôn phản phất, đó cũng là mần mống bịnh hoạn.

Thức ăn không đủ nuôi cơ thể thì làm sao có sữa để nuôi con! Vì thế, các bạn tù đồng ý cho tôi mỗi ngày được lưng chén nước cơm có lẫn dăm hạt gạo đang sôi để phụ cùng với giòng sữa hiếm hoi nuôi con. Phải sống trong hoàn cảnh tù đày dưới chế độ cộng sản mới hiểu thế nào là đói, mới hiểu giá trị miếng ăn và mới hiểu đó là sự hy sinh, là tấm lòng nhân ái mà Xã hội Quốc Gia đã giáo dục cho họ.Tôi biết ơn các bạn tù, cơn đói không lúc ngưng dày vò, trí óc chỉ ước mơ đến chưyện ăn, như mơ được một chén cơm lưng, thẻ đường, hột muối, giọt mỡ. Ôi miếng ăn sao “vĩ đại” đến thế!

Ngoài cái đói triền miên hành hạ, tôi lại phải đối phó với muỗi. Khi bóng đen tràn tới cũng là lúc từng đàn muỗi xuất hiện. Chiếc mùng củ lúc mang theo, bây giờ cũng rách mục như số phận làm người trong xã hội “thiên đường”cộng sản.

Tôi ngậm ngùi thương con, tôi lo cho sự an nguy của chồng, tôi lo cuộc sống lao đao vất vả của gia đình, thấy nhớ ba mẹ và các em thơ dại của tôi, tôi tội nghiệp cho bà mẹ chồng hiền lành và nỗi bất hạnh triền miên đè lên số phận bà. Dường như giọt lệ lúc nào cũng lưng lưng trong khóe mắt, thế nhưng miệng tôi thì lúc nào cũng phải nói những điều trái ngược. Tôi cảm thấy danh dự xúc phạm.

Do thiếu thốn vật chất, tinh thần hoang mang lo sợ cho tương lai mờ mịt tối tăm, và thương nhớ người thân - tôi mõi mòn và dần dần kiệt sức, con tôi thì còm cõi, yếu ốm và những bệnh do thiếu dinh dưỡng, do môi trường dơ bẩn cùng một lúc “hiệp đồng” tấn công trên cơ thể èo uột của tôi và của cháu. Lúc nầy thì con tôi tóc bết dính và lầy lụa mũ máu vì bị sài lở, toàn thân cháu nổi lên những mụn nhọt nhỏ li ti như muỗi đốt, móng tay như bị long và sứt rớt ra. Tôi lo qúa, có lần tôi đành gạt nước mắt chịu nhục, hạ mình xin thuốc cho cháu; nhưng bọn người lòng thú ấy dững dưng, lạnh lùng và dường như trong ánh mắt chúng có đôi chút hả hê của lòng thù hận. Ôi đồng bào tôi đấy, ôi phẫm cách và lòng khoan hồng “cách mạng!” Sự tàn nhẫn kinh khiếp ấy của giống “người” cộng sản làm ý chí tôi bỗng dưng phát triển mãnh liệt. Tôi hối hận về sự cầu cứu ấy và tự nhủ lòng sẽ không bao giờ cầu xin chúng, tôi dấu nỗi uất hận, không để lộ niềm đau. Dù chưa biết phải làm gì, nhưng tôi thấy tinh thần của lý sinh tồn và lòng tự trọng trong tôi vững vàng lắm!

Sắp đến ngày 2 tháng 9, ngày “quốc khánh” của chúng, một phái đoàn không biết từ đâu và cấp nào đến thanh tra. Một người trong bọn họ thoáng dừng lại trước mẹ con tôi, chúng phải bịt mũi vì mùi hôi từ chúng tôi. Có lẻ nhờ thế mà hôm sau, ngày 30.8.76 mẹ con tôi được chúng thả ra về với ba năm quản chế.

Về đến nhà, toàn cả gia đình tôi sống héo hắc, cùng cực vất vả, thiếu thốn, tôi đã hiểu tại sao gần năm qua tôi không có thư từ tin tức gia đình và tôi lại khóc, lòng tự trọng thúc đẩy tôi lao hết sức mình cho gia đình, cho đứa con muôn ngàn yêu dấu. Cậu em trai kế tôi, có gia đình, còn ở Sài gòn cho tôi hay rằng người mẹ chồng hiền lành của tôi đã chết! Tôi thương và mừng cho bà đã thóat được cái thiên đường man rợ của lũ “vượn người cộng sản” Tôi nguyện cầu cho bà sớm đuợc về cõi Phật như lòng bà hằng mong ước. Tôi xót xa cho chồng và mẹ chồng trong cuộc chia tay vĩnh viễn không được gặp nhau, không đuợc có mảnh khăn trắng ghi nhớ công ơn của mẹ hiền, không được cầm tay đứa con trai út mà bà nuôi nhiều kỳ vọng. Bỗng dưng tôi thở dài ngao ngán cho kiếp nhân sinh trong chế độ cộng sản.

Gần sáu năm sau kể từ ngày tôi đuợc thả ra lần thứ hai thì chồng tôi mới đuợc thả về. Giây phút đầu tiên gặp lại nhau, tôi quá đỗi bất ngờ và cũng quá xúc động. Toàn thân tôi điếng lặng. Tôi không nhúc nhích, cử động gì được, nhưng giọt lệ cứ trào ra, lăn dài xuống đôi gò má thanh xuân nhưng đã sớm tàn phai vì thống thiết đau buồn, thương nhớ.

Nhìn cảnh nhà sa sút nghèo khổ và cũng vì có lần quá cơ cực tôi có ý định cùng với chồng con quyên sinh, nên ngay hôm sau ngày sum vầy chồng tôi bắt tay ngay vào cuộc sinh tồn. Dù cường quyền địa phuơng ngăn cản, luôn tìm cách tạo bất an, gây phiền nhiễu, khó khăn, anh vẫn quyết chí phấn đấu từ làm thuê, vác mướn, bán dạo…gia đình tôi lần hồi bước dần ra cảnh bần hàn. Nhưng tai họa lại ập đến! Bởi lao nhọc, thiếu thốn và di hại trong lao tù, chồng tôi ngã bịnh nặng. Bác sĩ cho biết một lá phổi anh bị khô nước, màng phổi bị dày dính nên kéo và làm trái tim bị lệch và thòng xuống, có dấu hiệu bị sạn thận, xơ gan. Bao nhiêu tiền bạc do công lao và tiện tặn dành dụm được đành phải bỏ hết ra để giành mạng sống của anh. Khi đồng bạc cuối cùng ra đi thì may thay, tôi gặp đuợc người chị cả của chồng tôi, hai chị em thất lạc từ thuở anh chưa chào đời. Nhờ chị, chúng tôi thoát nạn. Cũng kể từ đó, đời sống tinh thần và vật chất của chúng tôi được an ủi, khuyến khích và nâng đở. Chị trở thành người mẹ thứ hai của chồng tôi.

Bây giờ nhớ lại và kinh rợn chuỗi ngày sống dưới ách bạn tàn khắc nghiệt cộng sản, lòng bùi ngùi thương cảm cho những người còn trong nanh vuốt man rợ cộng sản. Xin thành kính nghiêng mình trước những bậc anh hùng đã ngã xuống vì muốn cứu nỗi bất hạnh của quê huơng, xin được khóc những giòng lệ cho những oan khuất tội tình của đồng bào tôi bị bàn tay máu của cộng sản áp bức khống chế.

Xin cúi đầu tưởng niệm hằng triệu chiến sĩ Quốc Gia, con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đã không tiếc máu xương vì sự an tòan và phát triển cho quê hương. Xin tưởng niệm 58 ngàn con yêu của Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ vĩnh viễn nằm xuống trong cuộc chiến đấu cho công lý và tự do trên quê huơng tôi.

Xin cám ơn lòng hào hiệp của nhân dân và chính phủ Hoa kỳ đã cứu vớt và đưa chúng từ nơi tối tăm bi thãm, nơi tầng cuối cùng của địa ngục trần gian đến vùng đất hứa, nơi tuyệt đối tôn trọng nhân phẫm con người.

Xin cám ơn những ân nhân, vì tình nhân ái, vì nghĩa Đồng Bào mà điển hình là bà Khúc Minh Thơ và hội Gia Đình Cựu Tù nhân Chính Trị đã không bỏ rơi chúng tôi, đã không quản ngại gian khó tốn kém cả tiền của lẫn thời gian và sức lực, đã ra sức đánh động cho Thế giới và nhất là Hoa kỳ biết nỗi thống hận ngút ngàn mà cộng sản trả thù bằng cách làm khô máu lên cuộc đời những chiến sĩ Quốc gia từng một thời dũng lược, nay đành thúc thủ.

Học theo Quý vị, chúng tôi nhất định không bỏ quên những người đang cần đến chúng tôi. Chúng tôi giữ gìn đạo lý và văn hóa Việt, chúng tôi nuôi dưỡng giáo dục các thế hệ tiếp nối về lòng nhân bản để trở thành công dân hữu dụng cho xã hội và cho sự tồn vong của Dân tộc. Thiết nghĩ dó là lời cảm ơn chân thành và thiết thực nhất.

Việt Nam là Dân tộc biết mang ơn và biết cách đền ơn. Đó là lời cuối cùng của giòng tâm sự hôm nay của chúng tôi.

Ó NGƯỜI VẪN KHÔNG QUÊN

Thế rồi thời gian qua đi. Tôi bị vào xà lim vì dính líu với Nguyễn Huỳnh Danh Vũ trong vụ đánh trật tự Quý Đen. Trước khi đưa hai chân vào cùm tên trực trại bắt tôi cởi hết quần áo chỉ để lại một bộ đồ tù mỏng dính. Rồi mỗi bữa 2 muỗng cơm, 2 muỗng nước. Tôi đã phải chịu đựng những ngày lạnh cắt da trên bệ đá, bị đói, khát đến mờ mắt, mê man. Anh em bên ngoài thì bị xiết chặt kỷ luật đến nghẹt thở; nhất cử, nhất động đều có ăng ten báo cáo; ban ngày lao động, tối về phải họp hành, bới móc, kiểm điểm lẫn nhau. Tôi ra khỏi xà lim đợt một người chỉ còn da bọc xương (theo đúng nghĩa đen), bước đi không nổi, phải bò. Người quen nhìn tôi ái ngại rồi bỏ đi, không dám nói chuyện vì sợ liên lụy. Tôi ăn khẩu phần kém- được lưng chén cơm và tí nước mắm thối; có miếng bánh bột thì bị cắt mất 1 góc tư- thành khẩu súng lục. Vũ Văn Ánh ăn khẩu phần khá; mỗi bữa ăn đến bỏ vào chén của tôi cái góc tư miếng bánh bột (cắt của người kém cho người khá) và cười nói :

“ráp cho khẩu súng lục của chú mày băng đạn”

Vài ngày sau, anh Ánh, trong một buổi lên hội trường với ban giám thị và hội đồng cán bộ, đã xung phong lên phát biểu. Anh đã dùng thân thể tôi làm đề tài, làm bằng chứng để- rất hùng hồn và cảm động-

1/ Vạch trần những lời giả nhân, giả nghĩa của tên Giám Thị

2/ Lên án chính sách kỷ luật dã man, tàn ác của trại.

Vũ Văn Ánh đã khôn ngoan viện dẫn lời hứa cho tự do phát biểu, viện dẫn chính sách khoan hồng của trại, lạng lách tài tình để không bị vào xà lim lần ấy, nhưng tên tuổi chắc chắn đã được ghi vào sổ đen; và tôi có lẽ cũng bị “văng miểng”.

Trong bối cảnh ấy việc thực hiện show nhạc “phản cách mạng” biểu lộ tinh thần bất khuất, quật khởi với tôi đã đi vào quên lãng. Nhưng có một người vẫn hậm hực, nhất định không quên: Vũ Mạnh Dũng.

LẠI ĐI VÀO QUÊN LÃNG

Khoảng 2 tháng sau bắp hột không biết ở đâu chở về cho chúng tôi ăn, thay thế khẩu phần bánh bột. Tạng người tôi chắc hợp với bắp nên từ bộ xương cách trí cứ từ từ phì lên trông rất dị hợm. Một số bạn nói tôi giống Trư Bát Giới. Còn Nguyễn Đại Thuật đặt cho tôi cái tên rất Tây : Zoọc- Xia. Khi bắp hết, món độn được thay thế bằng khoai mì H34 thì sức khỏe của tôi đã phần nào được hồi phục. Dũng được thăm nuôi, đem đến cho tôi một gói bột bích chi, mấy tán đường và một chén xôi thịt gà. Dũng cười cười hỏi tôi nửa đùa, nửa thật

“ Bây giờ nếu gặp dịp thì còn dám chơi không?”

Tôi nhìn Dũng hát khẽ một câu nhạc của Trần Thiện Thanh

“Anh chưa chết đâu em”

Không ngờ câu nhạc định mệnh ấy sau này là sợi dây cột chặt tôi với Dũng.

Lúc này, mỗi khi lên hội trường ban văn nghệ của trại (có Rene’ Hanh và Toàn rỗ) ngoài những bản nhạc truyền thống cách mạng thường hợp ca một bài tự biên được cán bộ giáo dục rất thích (tôi ghi lại đại khái đoạn đầu- theo trí nhớ)

Cơm cân

TP - Các cụ xưa có câu “no bụng đói con mắt”. Tôi không chắc có phải là tình trạng của người ta bây giờ không? Tôi chắc là còn nguyên nhân sâu xa. Đó là do cái thời đa số bị đói triền miên ngày này qua tháng khác vì thế dẫu có no rồi vẫn sợ bị đói. Cái đói ăn vào tiềm thức.

Thực ra tôi cũng không chắc lắm. Vì tôi đã từng quan sát rất kỹ nết ăn của một số người. Họ có cách ăn thế này, nếu ăn mà phải bỏ tiền ra mua thì họ ăn rất ít còn nếu ăn không phải bỏ tiền ra mua thì họ ăn rất nhiều.

Đặc biệt là khi ăn tự chọn. Họ lấy rất nhiều đồ ăn, chất đầy một đĩa lớn rồi họ không thể ăn hết được đành phải đổ đi. Tôi đã nghe rất nhiều người phàn nàn rằng trong những bữa tiệc chiêu đãi thì đĩa ăn của người Việt thường thừa nhiều thức ăn nhất.

Đặc biệt là với những người đi du lịch nước ngoài thì những bữa ăn tự chọn có đoàn người Việt thì thức ăn trong khay thường hết rất nhanh, còn thức ăn thừa thì lại còn rất nhiều. Mà thức ăn thừa đó sẽ bị đổ đi, người khác không ăn được nữa.

Điều này rất gây khó chịu cho người bản xứ. Họ không quen với cách ứng xử với thức ăn như vậy. Thậm chí có những nơi, mặc dù họ rất muốn phát triển du lịch nhưng họ vẫn phải để một tấm bảng viết và chỉ để khi thấy có mặt của đoàn người Việt: chỉ lấy thức ăn vừa đủ, bằng tiếng ta hẳn hoi. Vậy mà những đĩa thức ăn vẫn bị bỏ dở.

Vào chuyện. Có một ông khách ưu tú (cũng đồng nghĩa là không nghèo) của ta được mời sang thăm nước ngoài theo cách nhân dân và nước này cùng làm. Có nghĩa là nước họ không được bao từ A đến Z. Nhà ở thì được trả tiền, đi lại thì được trả tiền, còn ăn thì khách ưu tú phải tự bỏ tiền.

Vậy là có chuyện. Ông khách phải bóp mồm bóp miệng. Có nghĩa là ông phải ăn rất ít. Ừ thì ăn ít cũng rất tốt, đỡ phải mỡ trong máu.

Rồi một hôm ông được đưa đến một nơi rất sang trọng tham quan. Sau đó đưa đến nơi ăn uống. Ở chỗ ăn uống bày rất nhiều khay thức ăn tự chọn. Ông khách ưu tú sáng mắt. Sáng mắt không phải vì nhiều loại thức ăn. Sáng mắt vì chắc mẩm sẽ được ăn mà không phải trả tiền.

Mấy hôm bị bóp mồm bóp miệng rồi, giờ được ăn thoải mái. Thế là hai tay hai đĩa, mải mê gắp xúc vào đĩa. Rồi chọn chỗ để ngồi ăn. Nhưng... Phải cân đã. Cân toàn bộ thức ăn lên rồi tính tiền. Chết chết chết 118 USD. Trời ạ, có hai đĩa ăn mà mất hơn hai triệu VND.

Làm thế nào đây hở giời. Nuốt sao nổi hở giời. Rồi giời cũng sai mắt đến cứu. Có một cháu sinh viên nhìn thấy mặt chú tái quá mới nhắc nhỏ vào tai: chú trả bớt lại thức ăn đi, chuối, trứng, bánh tráng miệng... còn cơm với thức ăn trộn với nhau thì không trả được. Cuối cùng cũng còn hơn 20 USD.

Nuốt miếng cơm vào miệng mà như nuốt rơm. Ông khách ưu tú ngồi nghĩ ngợi, ở đất nước ông cũng có cơm cân, nhưng là “ăn cơm cân mặc áo số”. Nhưng ở nước Mỹ mà cũng có cơm cân. Cơm cân ở nước ông là đi kèm với áo số, không biết cảm giác của người mặc áo số khi nuốt cơm cân thế nào. Chứ còn ông đang cố nuốt cho hết chỗ cơm cân. Chết chết chết những 20 đô đấy. Cháu sinh viên đã ăn cơm xong qua chỗ ông khách ưu tú hỏi:

- Chú ăn có ngon không ạ?

Ông nhủng nhẳng trả lời:

- Không mất tiền thì ăn cũng ngon đấy.

- Chú không biết nên lấy nhiều quá, tiền mình bỏ ra nên bỏ lại cũng được chú ạ - Cháu sinh viên vô tư nói với ông khách.

Ông khách ưu tú hơi nổi nóng:

- Bỏ là bỏ thế nào, đã mất tiền thì phải ăn hết chứ.

Cháu sinh viên vội vã đứng lên.

Có lẽ chính vì vụ cơm cân này mà khi ông khách ưu tú trở về đất nước mình ông đã không đừng được mà phải thổ lộ với tay lái ta xi, mới chưa học xong lớp 7:

- Này tớ vừa trở về từ nước ngoài đấy, tưởng nước họ thế nào, hóa ra vơ vẩn. Vơ vẩn lắm chả bằng nước mình.

Tái bút:

Tôi xin tặng câu chuyện này cho những nhà hàng có khách du lịch. Hãy để một cái cân cạnh bàn ăn tự chọn thì sẽ không phải để cái bảng viết dòng chữ: chỉ lấy thức ăn vừa đủ.

Bạn

Tôi Và Lon Guigoz Cơm

Thứ năm, 27 Tháng 1 2011 17:06Viết bởi 

Trần Thanh Quí

Thời gian có thể làm con người ta quên đi nhiều thứ nhưng có những câu chuyện tuy đã qua nhiều năm mà thỉnh thoảng dòng tư tưởng của mình vẫn êm đềm trôi về, ở đó có người bạn gái và lon Guigoz cơm của những năm nghèo khó 78,79.

Ngày đó mình dân ngoài Trung vô Sài Gòn học nên ở nhà trọ. Tuy là con gái nhưng mình chẳng mặn mà gì với chuyện cơm nước (bây giờ mới dám nói!) nên mình biết thân biết phận buổi sáng ăn bánh mì hay miếng xôi, trưa ăn cơm trong cantine trường và chiều về nộp gạo ăn ở quán cơm sinh viên gần đó... và thời bao cấp chúng tôi đi học được lãnh học bổng với lại mua nhu yếu phẩm hằng tháng theo tiêu chuẩn công nhân viên chức.

Bạn dân Sài Gòn, mình quen bạn từ những ngày đầu mới vô trường. Năm thứ 1, thứ 2 hai đứa thường hay gặp nhau nói chuyện qua lại những khi chúng tôi đến trường sớm mà cửa giảng đường chưa mở hay ở những phút nghỉ giữa hai tiết học hay ở giấc trưa. Đến năm thứ 3 thì chúng tôi thật sự khắng khít thân nhau một phần vì hai đứa tôi được chia chung một tổ nên mọi sinh hoạt chúng tôi luôn có bên nhau.

Ngày đó sinh viên trường tôi lịch trình trong tuần gần như kín hết, sáng học và chiều đi thực tập. Đến buổi ăn trưa chúng tôi chia làm 3 nhóm: nhóm thứ 1 nhà ở gần trường mấy bạn đạp xe về nhà ăn trưa, nhóm 2 nhà ở xa thì các bạn bới xách lon Guigoz cơm từ nhà đến trường lên hành lang lầu 1,2,3 (phân chia khu vực nam nữ rõ ràng!) kiếm chỗ trải miếng plastic để ngồi ăn trưa sau đó ngã lưng để 2 giờ trưa còn đi học tiếp, nhóm 3 là dân "vô gia đình" ăn trưa ở trong cantine trường rồi lên hành lang kiếm chỗ đặt lưng như nhóm 2. Bạn nhà ở không xa trường nhưng bạn thích mang cơm theo ăn và nghỉ trưa trong trường còn mình thuộc nhóm "vô gia đình" phải nộp gạo để mua phiếu ăn ở cantine trường.

Ăn và nghỉ trưa trong trường vui lắm bạn ơi! Qua đó bạn bè có nhiều thì giờ tâm tình, chơi thân lâu ngày biết tính ý từng đứa một... ăn xong có đứa ngủ, có đứa siêng ôm sách học, có đứa soạn đồ ra đan hay móc gì đó theo phong trào còn không thì nói chuyện như bắp rang, nào chuyện lớp trên lớp dưới, nào chuyện khoa mình khoa bạn... toàn chuyện xe cán chó, chó cán xe nên những buổi trưa cứ vậy mà thêm đậm đà hương vị.

Bạn thương mình vì phải ăn cơm độn mì và bo bo ở cantine trường, sợ nuốt không vô nên đã đề nghị nén chặt lon cơm để hai đứa cùng ăn chung. Vậy là từ đó cứ mỗi buổi trưa sau giờ học sáng là hai đứa lên lầu 1 kiếm chỗ... hằng ngày hai đứa tôi ăn chung với nhau lon cơm chiên trứng với tôm khô vậy mà lúc nào mình cũng thấy ngon miệng và không bao giờ thắc mắc tại sao luôn là cơm chiên!? Để khỏi áy náy, ăn xong mình rủ bạn khi thì đi uống nước, ăn chè trước cổng trường khi thì ăn miếng bánh ngọt hay kem Foremost (tiền thân của Vinamilk) tráng miệng trong cantine trường.

Bước sang năm thứ 4 mình đi vượt biên, bạn học ra trường và lập gia đình năm 83. Mãi đến năm 91 gia đình bạn mới có giấy xuất cảnh sang Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình. Những năm 80,90 hai đứa tôi có liên lạc thư từ nhưng rời rạc... Mùa Đông 2001 mình có dịp sang Cali chơi, lúc đó gia đình bạn ở Sacramento, thủ phủ của Cali, nên mình có lên miền Bắc Cali để thăm bạn.

Bây giờ thì phương tiện truyền thông quá dễ dàng, hai đứa tôi thường xuyên chuyển cho nhau những tin tức và hình ảnh có liên quan đến bạn cũ trường xưa... hay đơn giản hơn là hôm nào đó ngẩu hứng mình phone nói chuyện với bạn.

Như vậy đó, tình bạn của tụi tôi được hình thành từ những ngày gian khó và gắn liền với lon Guigoz cơm... cho nên mỗi khi tình cờ nhìn thấy lon Guigoz ở đâu đó hay khi có dịp ăn lại món cơm chiên trứng với tôm khô mình lại thấy nhớ bạn da diết, nhớ vô cùng những ngày 18,20 tuổi... đó là những tháng ngày đi học xa nhà bắt đầu làm quen với đời sống tự lập và phải nói rằng mình rất hạnh phúc khi mình có bạn!!!

Chỉ là cái lon thôi mà!

Tôi rửa sạch chiếc lon, và óc tôi bỗng nảy ra một ý: chiếc lon Guigoz là một trong những chi tiết ngẫu nhiên gắn liền với Saigon, có phải thế không nhỉ?

Lúc tôi được sinh ra, mẹ nuôi tôi bằng sữa Guigoz. Vậy là tôi có được gần mười năm “gắn bó” với hiệu sữa nổi tiếng nhất miền Nam thuở đó. Lon sữa đầu tiên, khi tôi lọt lòng mẹ. Lon sữa sau cùng, vào một ngày Saigon rét đậm bất thường cuối năm 1975. Vẫn Guigoz.

Guigoz là sản phẩm của hãng Nestlé, mà hãng này, như ta biết, có rất nhiều nhánh sản phẩm từ sữa. Không chỉ Guigoz. Thế mà riêng Guigoz có mặt cùng với Saigon, với bối cảnh đô thị này những ngày trước và sau giải phóng. Chỉ riêng Guigoz được vinh dự ấy. Vì sao vậy?

Nếu chúng ta cùng chơi trò nhắm mắt đoán hiệu chỉ bằng cách nếm thử bột sữa, bạn sẽ không phân biệt được Guigoz với SMA, Snow, Med-Johnson đâu. Tuy Guigoz có khác các hiệu sữa Mỹ và Nhật ở chỗ không vón cục, nhai bột sữa khô không dính răng và không bết lại trong khoang miệng, nhưng bấy nhiêu phẩm chất đâu có đủ làm nên một huyền thoại. Phép lạ nằm ở đâu?

Ở cái lon đựng.

Đồ hộp đương thời không cái nào có vỏ hộp giống Guigoz, và chính Guigoz bây giờ cũng khác. Khái niệm “lon Guigoz”, bạn nhớ không, là một thứ không giống ai cả. Lon đúc bằng nhôm trắng, có những đường lượn sóng ở thân để không trơn tay, nắp nhôm đúc liền với thân và được “khằn” bằng một vòng nhôm mềm. Hồi tôi còn bé, bà ngoại mua sữa về là tôi giành việc mở lon. Cầm vào một chỗ hơi tòe ra trên vòng nắp, xé đều tay đủ một vòng là được. Nắp nhôm ăn khít với lon hình trụ, mà ăn bên trong chứ không chờm ra ngoài như các nắp nhựa mềm hiện giờ. Guigoz có hai loại, loại trắng cho bé sơ sinh và loại vàng cho trẻ đã thôi nôi. Đó là loại sữa dễ pha nhất, không vón cục nên không phải nghiền trong nước lạnh trước rồi mới châm nước sôi như nhiều hiệu sữa khác. Đó là loại sữa thơm nhất. Đó là loại sữa vừa miệng thằng-bé-tôi nhất. Ồ tôi suýt lạc đề: Guigoz dính dáng với Saigon như thế nào?

Chiếc lon nhôm độc nhất vô nhị của Guigoz đã là vật tái dụng được ưa chuộng nhất trong những năm dân mình còn nghèo khó. Lon không đựng sữa nữa (dĩ nhiên, đào đâu ra sữa), mà đựng đường chảy (đường mía sơ chế), đựng bột đậu, đựng muối mè, đựng thức ăn dỡ theo của công nhân viên chức – mẹ tôi, cô giáo, hè nào đi học chính trị cũng thủ hai lon Guigoz, một đựng cơm còn cái kia đựng đậu phụ kho hay rau xào. Lon Guigoz biến thành nồi nấu trà, thành bình cà phê. Lon Guigoz để đi mua nước đá lẻ. Lon Guigoz để đong gạo. Lon Guigoz để múc nước ăn. Lon Guigoz đục lỗ xỏ xâu làm vật trang trí cho nhà thơ Bùi Giáng.

Cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20, ở Saigon người người lon Guigoz. Guigoz phổ cập hơn cả Honda Dream mười năm sau.

Lon Guigoz, đọc là “ghi gô”, người Saigon gọi tắt thành gô. Đưa gô cơm đây. Nhớ cất gô lúc về nhé.

Tôi nhớ ra rồi, chiếc gô tìm thấy chiều nay là của bà ngoại tôi. Lúc đau yếu sắp mất, bà vẫn để chiếc lon cạnh giường, trong đó bà cất mấy đồng tiền lẻ, vài sợi dây thun, diêm quẹt, cây đinh mũ, mảnh vải lau. 1996, từ đó đến giờ mười bốn năm rồi. Bây giờ, không ai còn cần đến gô. Đã có các containers nhựa trong, nắp bật, bán đầy siêu thị. Gô đã gần như… tuyệt chủng. Vậy nên trông thấy lại một chiếc gô méo mó ở xó bếp, thấy bồi hồi và cả một chút giống như ân hận nữa. Hồi xưa, chúng ta đã từng quý nó thế nào. Bà ngoại tôi từng quý nó thế nào…

Chiếc Lon "Gô"(Tap Ghi Huy Phương).

Tôi đã lang thang trên "net" chiều nay nhưng không thể nào tìm ra hình ảnh của người chiếc lon "gô", người bạn ngày nào của tôi. Bao bì của các món hàng sản xuất mỗi ngày mỗi tân tiến, mới lạ, đẹp đẽ và gọn nhẹ. Bây giờ người ta dựng sữa bột trong những bao bằng giấy dày hoặc bằng thứ kim loại mỏng, không như bằng chiếc hộp nhôm không rỉ sét, dày dặn như cái thời xa xưa đó. Người vẽ kiểu của chiếc lon "gô" ngày nào chắc cũng đã ra người thiên cổ, không còn để cái đám tù tập trung trong các trại tù cộng sản sau này gặp gỡ để nói một lời cám ơn về một thứ đồ dùng, một bao bì mà sau khi dùng sản phẩm, có thể vứt bỏ, nó lại được dùng như một vật tiện dụng và hữu ích qua nhiều năm tháng.

Loại sữa Guigoz của Hòa Lan được nhập cảng vào Việt Nam nhiều nhất là sau khi người Pháp trở lại Việt Nam vào khoảng năm 1956. Vào thời ấy lon sữa bột Guigoz không lấy gì làm đắt. Một công chức trung bình ở miền Nam cũng có thể nuôi con bằng loại sữa bột này. Có hai loại sữa Guigoz, loại trắng cho trẻ sơ sinh, và loại màu vàng cho tuổi từ một năm trở đi. Loại sữa bột này phổ biến đến nỗi hầu như gia đình trung lưu nào cũng nuôi con bằng sữa Guigoz, và những chiếc lon nhôm, dày dặn, với dung tích 0.75 lít, có chiều cao 18cm, đường kính 8cm, không rỉ sét này thường được các bà nội trợ cất giữ để đựng thực phẩm ở trong bếp, trừ muối, nó có thể đựng đường, ớt, tiêu hành hay các thức ăn khô.

Tuy chiếc lon Guigoz tiện dụng nhưng thật ra nó không có giá trị gì, nó có thể ra nằm ngoài đống rác. Từ năm 1965 trở về sau, miền Nam đã nhập cảng nhiều loại sữa bột khác dành cho trẻ em, nhưng chiếc lon sữa Guigoz vẫn còn tồn tại trong hầu hết gia đình vì nó bền, chắc, khó móp méo hay hư hỏng. Thế mà chiếc lon Guigoz đó lại trở thành người bạn thân thiết từ Mùa Hè năm 1975 khi tôi phải giã từ quân đội, bỏ lại vợ con và thành phố yêu đấu để trình diện đi tù, làm cái công việc của một người lính thất trận.

Thoạt đầu chiếc lon chỉ mang theo mớ thức ăn khô dùng tạm cho vài ngày, nhưng về sau khi thức ăn đã hết, chiếc lon kia đã đổi chức năng để từ đây gánh vác một phần tháng ngày gian khổ cho tôi. Về sau khi thấy tôi không còn hy vọng gì quay trở lại với gia đình trong một thời gian ngắn, chiếc lon sữa Guigoz kia đã không rời tôi nửa bước như một người bạn tri kỷ có thể chia ngọt xẻ bùi với nhau, khi với một nắm rau bên vệ đường, khi với một con nhái bén, có khi với một mẫu sắn thừa sau ngày thu hoạch còn sót lại trong đám đất bị cày xới. Có khi chiếc lon ấy trở thành một bình trà với những đọt chè xanh, đậm đà hơn một tuần Thiết Quan Âm thời phong lưu hay mở ra một ngụm cà phê sảng khoái đánh lừa khứu giác với những hạt bo bo cùng với mấy hạt ngô rang cháy. Nó cũng trở thành người bạn mỗi sáng với những công việc vệ sinh thường nhật bên "lán" tù, và cũng tội nghiệp cho chúng tôi trong một miền Bắc không có thừa lấy một manh giấy báo hay một mẫu giẻ rách, nó đã theo những người tù mỗi lần vì nhu cầu phải đi thăm... "lăng Bác". Ngày xưa chiếc lon kia mang một cái tên ngoại quốc khá đẹp từ xứ Hòa Lan có nhiều nhà máy xay gió, những cánh đồng cỏ bất tận và những đàn bò bình yên, đến miền Nam với hình dáng tròn trịa, mới mẻ, nay nó mang một cái tên xấu xí trần tục trong một xã hội đói nghèo, lạc hậu. Nó là "gô", là "cống" hay có người gọi nó là "hăng gô"(?) những cái tên rất khó bề giải thích. Nó dần dần trở thành đen điu, xấu xí, hèn mọn, móp méo qua những lần bị nung nóng trên bếp lửa của trại tù hay trên đám cỏ khô giữa cánh rừng bạt ngàn hay bên dòng suối nhỏ trong những buổi trưa, để thêm một chút "cải thiện" với nắm rau "tàu bay" hay một mẫu khoai mài. Những ngày có thăm nuôi, nó cũng chắt chiu nắm mì gói hay chút ruốc thịt mang cho "sang cả" thêm cho bữa ăn khốn khổ của người tù. Những lúc chẳng có gì, một gô nước lã cũng đầy bụng. Chiếc lon gô ngày nay đã đen điu hình dáng nhưng chưa bao giờ chịu để mình bẩn thỉu, nó đã nhiêu lần được kỳ cọ như chủ nhân đã kỳ cọ cái thân thể gầy còm khốn khổ của người tù dưới suối sau một ngày kiệt sức, vắt mồ hôi. Đêm về, chiếc lon kia cũng lặng lẽ ở trên đầu nằm cùng với mớ chăn chiếu lẫn lộn với những mảnh nhung y sờn rách, bạc màu, để sáng mai thức dậy trong tiếng kẻng tù gắt gỏng. Chưa có một vật dụng nào thiết thân với người tù như cái lon "gô" đen điu ấy. Bộ áo quần tù có thể thay đổi, đôi dép có thể mòn vẹt, nhưng chiếc lon "gô" đã bền bỉ với thể chất cũng như tấm lòng với người tù qua những đoạn đường gian khổ, những ngày lên nương xuống rẫy, những sáng Mùa Đông giá buốt cũng như những trưa Hè đổ lửa. Nó gần gũi, khắng khít không rời người tù đi đâu nửa bước. Thế mà... Như những ông già H.O. trên đất Mỹ, tôi thường đẩy xe cho vợ đi chợ mua thức ăn. Những hàng hóa, thực phẩm bày biện trong những ngôi chợ to lớn, chỉ gây ngạc nhiên cho tôi lúc đầu tiên mới đặt chân đến Mỹ cách đây hàng chục năm, bây giờ trở nên quen thuộc và thường tình đến nhàm chán. Những kệ hàng bán đầy khoai lang đủ loại hay những đống khoai mì đầy ắp, nhưng mớ cải xanh, những bó rau muống tươi tắn, những củ su hào mập mạp... không hề nhắc nhở hay cho tôi một suy nghĩ nào về những tháng ngày tù tội, thiếu thốn mà những củ khoai, những nắm rau xanh đó như một nỗi mơ ước thèm thuồng thường nhật của một người tù.

Nhưng có một buổi nọ, khi đẩy chiếc xe đi chợ đến bên hàng bày bán khoai mì, không hiểu sao lần này tôi dừng lại, cổ họng như nghẹn ngào, những giọt nước mắt như muốn trào ra. Trong một thoáng tôi bỗng nhớ lại hình ảnh của nồi sắn luộc không bóc vỏ với những mẫu sắn rơi vãi nhuộm một màu tím sẫm, hình ảnh của người bạn tù say sắn, té từ chỗ ngủ ở tầng trên xuống nền gạch và những tiếng la cầu cứu trong đêm. Những củ sắn nằm trên kệ hàng ở đây, là một món ăn chơi của những người no đủ, không hề có một giá trị gì với đời sống của một con người bình thường này trên mảnh đất giàu có như nước Mỹ. Chúng ta thật đã nhàm chán với những bữa tiệc tùng sang trọng, mỗi tuần không dám ăn tới ba quả trứng gà, bắt đầu thấy sợ thịt, không bao giờ đụng đến bơ, sữa hay phó mát. Phần tôi, đã nhiều lần đi qua những ngôi chợ khác nhau mà lòng thấy dửng dưng trước những món thực phẩm tầm thường như nhìn một vật xa lạ chưa lần nào gặp gỡ hay gắn bó trong cuộc đời mình. Phải chăng những vật hèn mọn này, những củ khoai lang, những miếng sắn luộc này đã từng ám ảnh chúng ta trong giấc ngủ ngày nào? Và tôi nhớ ra một điều, khi được ra khỏi nhà tù, tôi đã quên hẳn và vất bỏ ở xó xỉnh nào đó cái lon "gô" đen đúa, người bạn thân thiết của những tháng ngày tù tội của tôi. Tôi đã đi một vòng khá xa, từ Bắc vào Nam, từ Tây sang Đông, qua bao nhiêu cánh rừng, qua bao nhiêu eo biển, bỏ lại sau lưng quê hương và quá khứ của tôi.

Đôi khi tôi cũng đã quên tôi, nói gì đến những vật tầm thường hèn mọn như thế!

Phila Tô : “Trước Sau Như Một”!

Trại Vĩnh Quang A có 14 đội tù, mỗi đội phụ trách một ngành nghề khác nhau, nông nghiệp, mộc, rèn, xây cất v.v.. mà nghề nào cũng ói máu, xì hơi ra đằng sau, duy chỉ có đội 9 trồng trà là có vẻ tà tà hơn cả. Sáng sáng tù theo cán bộ trai hoặc gái rủ nhau “trèo lên đồi đá, đá cho leo” để hái búp trà, búp non nhất để về sấy khô thành trà tàu (?), 4 kg lá búp, mà là búp số 1 hay 2 thì mới sấy được 1kg trà “móc câu”, thứ này thuộc loại quý hiếm, chỉ trại trưởng mới có quyền uống và dùng để biếu thủ trưởng lon to hơn. Nhưng trong “quá trình*” chế biến thì tù ta cũng “xà-xẻo” một nhúm cho vào “gô” (lon guigoz), đổ nước sôi uống trước, bụng đói mà uống thứ trà quặu này thì bật ngửa, đã đ.. chịu được.

Đồi trà và chỗ sấy trà nằm sát đường nên các “bò vàng” (công an coi tù mặc đồ bàng) đi ngang thường tạt vào “tham quan” nhưng thực ra là muốn làm quan tham … nhũng xin một nhúm, vì thế họ mới kiếm câu chuyện làm quà làm quen với mấy anh tù có nhiệm vụ sấy trà, mà lệnh trại trưởng là không được cho “cán bộ” nào hết. Thỉnh thoảng có vài “bò vàng” gái tạt ngang, cũng kiếm chuyện an ủi tù, khuyên cố gắng “nao động tốt, chính sách khoan hồng nhân đạo của nhà lước ta trước sau như một”!.

Nghe mãi nhức đầu, anh Trọng-Nha Trang hóm hỉnh, thâm nho, hay cướp lời cán bộ gái. Khi cán bộ gái (CBG) vừa nói tới chính sách khoan hồng nhà nước .. thì Trọng cướp lời.

_CBG: …Chính sách khoan hồng nhà nước..

_Trọng-NT nói ngay: Thưa … cán bộ trước sau như một

_ CBG: Anh nói đúng, học hành mau tiến bộ, chính sách nhà nước..

Nhưng Trọng-Nha Trang thì lại cứ luôn miệng cướp lời:

_Cán bộ trước sau như một”.

Có tên “cần câu” nào đó tâu với cán bộ cái rằng Thọ-Già nó đểu, nó bôi bác chính sách của đảng, nó dám so sánh cái ngực và lưng phằng lì của cán bộ gái với chính sách khoan hồng của nhà nước. Lời bàn của tên mao-tôn-cương này khiến cán bộ gái đỏ mặt. Chỉ vì hiểu sai “trước sau như một” mà Thọ-NT bị cùm.

Cùm là phải, thà phản đối chính sách của đảng thì OK, chứ chê ngực phụ nữ lép xẹp thì chỉ có nước chết, chê bác thì được, chê cái ấy của phụ nữ là tiêu đời. Tại trại 8 Hoàng Liên Sơn, đội trưởng Minh Khố Chuối (quần rách lòi cu hắn lấy là chuối che đi) ca tụng “bác Hồ là vĩ nhân” của nhân loại, ăng-ten mao-tôn-cương với quản giáo Môn rằng đội trưởng Minh nói bác Hồ là cái đuôi của nhân loại, vĩ là cái đuôi, nhất thủ nhì vĩ mà lị. Minh bị cùm. Bọn ăng-ten này trước sau như một, dù chúng có làm thầy năm, sáu gì đi nữa thì ăng-ten vẫn là ăng-ten.

Đội 12 của đội trưởng Ngo-Lùn có bố Ánh-Già* khéo tay may vá trạm trổ nên được quản giáo cho ngồi một chỗ để “nao động nhẹ”. Lao động nhẹ thì đói trong khi lao động nặng cũng đói nhưng nhờ xông pha vào rừng vào suối, “bới đất cuốc cỏ mà nhét cho đầy bụng đói” (lời cụ Phan), lao động “hăng say” phá hoại tài sản của trại như ND Võ Văn Đ..thì tuyệt. Hăn bẻ 200 trái bắp sai tôi nhét vào hang đá rồi lấp cửa hang để ăn dần, no. Nhưng bố Ánh Già thì đọi, quản giáo Mô chôm ở đâu được miếng da trâu đã phơi khô lâu ngày để làm mặt trống rồi giao cho bố Ánh-Già bào gọt rồi làm cho hắn cái ví mà người miến Nam gọi là bóp. Vì ngồi một chỗ nên đói, bố già Ánh cho những miếng da thừa vào lon gô hầm rồi nuốt, bố làm gì có răng mà nhai, có răng cũng không nhai nổi da trâu phơi khô hằng mấy năm trời. Đội trưởng Ngo thấy được bèn hỏi đểu:

_ Ngon không? Bổ không?

Bố Ánh-Già là cha mấy thằng đểu nên nhẹ nhàng sỏ là kềnh thưa với đội trưởng:

_ “Trước sau như một”.

Hoan hô bố Ánh-Già, đem chất phế thải mà so sánh với chính sách khoan hồng của đảng thì đúng quá rồi. Khi được tha, bố về ở gần chỗ tôi, đường Tô Hiến Thành Q10. Nhưng không biết bây giờ bố ở đâu, có đi tỵ nạn không? Tôi học được ở bố nhiều điều.

Đội 4 trại 8 Hoàng Liên Sơn, lao động giỏi có bố già* to khỏe là Đạt “đi.m”, anh là Bắc Kỳ di cư nên không “đu.m” mà “đi.m”. To khỏe nên khẩu phần tù chỉ đủ xỉa răng, anh lại nhanh chân lẹ tay nên cũng “bới đất cuốc cỏ cho đầy bụng đói..”. Sau một đêm mưa to, gió bão, sáng hôm sau lên rừng “kéo cưa lừa xẻ, anh nào khỏe thì về ăn cơm trưa, anh nào thua thì về bú mẹ”, Đạt không thua, nhưng không có cơm ăn nên anh ăn “tai gỗ”, mộc là gỗ, nhĩ là tai tức là mộc nhĩ hay nấm tai mèo, thứ này ẩn mình trong gỗ mục, trời mưa là nở rộ. Cái thứ này mà bà xã trộn với thịt heo xay, thêm ít miến để làm chả giò thì số một, ăn sựt sựt dòn-dòn, tưởng ngon, mà ngon thật, tuy chẳng có mùi vị bổ béo gì. Già Đạt ém mộc nhĩ vào lon gô, đổ nước, thêm ti nước muối (VC không phát muối hột) đem đun sôi rổi ngồi thưởng thức mà NM (anh em) tù xung quanh không biết anh ăn thứ gì, tôi hỏi anh trả lời ỡm ờ có vẻ bí mật như sợ đồng tù khám phá ra nguồn cung cấp thực phẩm của anh:

_ Tao ăn chả giò.

Tối đó về anh no căng bụng, ôm bụng kêu rên, nằm bên cạnh, tôi định báo đội trưởng để hắn kêu to cho bò vàng nghe “có người đau cần cấp cứu” như những lần trước có “sự cố”, nhưng già Đạt cản lại bảo đừng, tụi nó biết được thêm rắc rối, biết tỏng tôi hỏi:

_Á à, hồi sáng anh “cải thiện” ăn sắn non của trại phải không?

_ Không không, không phải, nói khẽ thôi, tao ăn mộc nhĩ.

_ Thế là khổ rồi, nó nở sình lên làm anh no rồi bây giờ lo, lo mà đi ỉa đi.

Sáng sớm hôm sau, thấy anh tươi tỉnh, tôi hỏi “sao” thì anh mỉm cười bẽn lẽn:

_ “Trước sau như một”.

_ Anh đểu vừa thôi chứ.

(* tôi gọi các anh là bố già, nhưng thực ra vào thời điểm đi tù ấy, 1979-80, các anh chỉ ở độ tuổi 50, còn chúng tôi 35).

Đội 12 Vĩnh Quang A, có bạn tù rất trẻ tên An, thiếu úy, hình như mới tốt nghiệp khóa.. thì phải, không hiều lý do nào mà nai vàng ngơ ngác này lại nhập chung với toán “ tá ác ôn” rồi ra Bắc. Ngày mùa gặt lúa mà VC gọi là thu hoạch, An đói bụng quá trong khi gặt lúa thì An nhai trộm thóc cho đỡ đói lòng, tuổi trẻ mà, sợ chi, ngoài là thóc trong là gạo, chỉ khác nhau một lớp vỏ trấu, cũng như vỏ khoai, nhai đại nuốt đại cho no bụng. Đêm đó An chổng mông kêu bác, “bác ôi ..bác.. không ra đau quá bác ôi”! Đội phó là Phan Trừng** đến săn sóc đàn em, khám bệnh, hỏi bệnh tình của An xong rồi anh đi tìm cái móc, bắt An chổng mông rồi anh móc, sau một hồi An thoải mái, nhìn đám thóc do đội phó Phan Trưng vừa móc ra hộ, An cười bẽn lẽn như bà già sồn sồn mới về nhà chồng:

_ Trước sau như một.

Già Ánh, già Đạt đã đểu, trẻ như An lại sỏ lá kềnh, dám so sánh chính sách khoan hồng nhân đạo của nhà nước trước sau như một của đảng với phế thải của tù thì không thể tha thứ được. Theo “quá trình phân tích đánh giá”

về phầm chất của công ty TNHH-Phan thì “thành phẩm” của phân ngoại là số 1, tức hốt ở các tòa đại sứ, còn sản phẩm ở các trại giam thì vất đi.

(** Đội phó Phan Trừng gốc tr/tá KQ, rất tận tụy với NM tù, anh hiện định cư tại Nam CA, Little Saigon, nếu anh có đọc đoạn này thì làm chứng cho tôi là tôi thật thà kể lại chứ không có ý xỏ xiên chuyện trước sau như một).

Báo VNExpress online trong nước XHCN vừa đăng tin một “ông” trung tá công an dùng dùi cui đánh gẫy cổ một người dân chết ngắc tại giữa thủ đô. Đầu đuôi tóm tắt là thế này, người dân tên Hùng đi xe honda ôm không đội mũ an toàn, trung tá công an chặn lại phạt anh lái xe rồi hai bên cãi nhau, Hùng thấy CA làm quá nên can ngăn, nào ngờ tên CA quay dùi cui đập Hùng té xuống đất lại còn gọi thêm đồng bọn đến đấm đá và còng Hùng kéo về đồn điều tra. Tại đồn Hùng bị đau đớn xin đi nhà thương nhưng CA không cho, gia đình cha mẹ vợ con đến đồn năn nỉ CA cho Hùng đi bệnh viện nhưng cũng không được chấp thuận. Cho tới khi thấy Hùng sắp chết, chúng mới cho chở Hùng đi bệnh viện để xoa tay “ta vô tội”, nhưng khi đến BV thì Hùng chết ngắc, pháp y kết luận Hùng chết vì gãy cổ.

Dư luận quần chúng thủ đô phẫn uất về thái độ “vô cảm” này. Người dân XHCN gọi là vô cảm, nhưng danh từ thông thường của xã hội loài người thì gọi trường hợp này là vô nhân đạo, dã man, không còn tính người. Đó là chuyện tháng 10/2011 taị Hà Nội.

Ngày 22 tháng 2 năm 1976 lúc 1 giờ trưa tại trại tù Suối Máu Biên Hòa xẩy ra một vụ chui hàng rào kẽm gai, bỏ lớp “học tập cải tạo” vì lý do chính sách khoan hồng của VC trước sau không như một, bảo mang tiền và quần áo đi học 1 tháng, mà đến 10 lần 1 tháng vẫn lơ đi và có chiều đi lên 100, 200 tháng. Bực mình vì thái độ lươn lẹo của VC, Thiếu tá Phạm Văn Tư K19 VB, giã từ trại giam Sưối Máu chui rào kẽm gai ra về. Chẳng may áo anh bị vướng vào kẽm gai, lùng nhùng mãi chưa thoát được nên bị lộ và cây thượng liên trên chòi canh xả đạn xuống tấm bia người trong vòng kẽm gai. Thực ra thì không cần bắn chết mà bắt sống để xử tội “lăng trì”. Khi chúng kéo anh Phạm Văn Tư ra khỏi hàng rào thì thân Tư nát như tương, nhưng kỳ diệu thay là anh vẫn còn thở, còn sống, thấy vậy tên thiếu úy Hải VC rút K54 ra tặng thêm cho Tư bốn phát vào tứ chi cho thêm thịt nát xương tan!

Tư vẫn không chết, chúng kéo xác Tư còn thoi thóp thở vứt trên nền đất của căn nhà tôn bỏ hoang. Tới 6 giờ chiều, tức 5 tiếng sau, cai tù vào bảo anh em cùng phòng mang hết đồ đạc của Tư sang cho anh. Anh em tù kín đáo cử anh bác sĩ Lãng Uyên mang đồ đạc đi với mục đích là nhờ BS Uyên xem xét bệnh tình của Tư ra sao. Khi xong việc trở về BS Uyên cho biết:

_

Anh Tư không được băng bó gì cả, máu ra quá nhiều, não bị động mạnh, vì anh Tư đang nôn mửa, chỉ có thể chịu đựng được vài tiếng nữa thôi”!

Sáng hôm sau, 23/2/76, mấy vệ binh vào lán dẫn 6 anh tù đi chôn cất anh Tư! Anh Tư ra đi trên nền đất lạnh, xung quanh là côn trùng cùng kiến lửa bu quanh!

Trước…, 2/1976, anh Tư bị bắn trọng thương, bỏ đó cho chết, cho kiến bu.

Sau.., 10/2011, anh Hùng bị đánh gẫy cổ, còng tay, không cho đi BV rồi chết.

_ “Trước sau như một”.

Tàn ác dã man như nhau, bản chất đó trước sau như một.

Người lính VNCH thì không có cái khoan hồng trước sau như một mà trước khác sau khác. Người viết xin nêu ra một thí dụ cụ thể trong ngàn vạn trường hợp tương tự

Tháng 10 năm 1968, Tiểu Đoàn Trâu Điên quần thảo với 1 trung đoàn VC trong mật khu Bời Lời suốt cả đêm tới sáng. Thông thường đụng nhau, dù nặng hay nhẹ thì các chú chém vè trước khi trời sáng, nhưng trận này thì khi mặt trời mọc rồi mà vẫn còn súng nổ. Sáng banh mắt, một tên VC núp bên hố bom B52 với CKC có ống nhắm, hắn bắn chết HS1 Thà, nguời mang máy cho tôi, rồi bắn thêm Hạ Sĩ Tha đi luôn, Tha là cao bồi của ĐDP Tr/ Úy Thạnh Lâm, nhưng rối hắn cũng bị anh em phát giác bắn lật nhào xuống hố bom.

Anh em kéo xác hắn lên thì nó chỉ bị thương nhẹ vào cánh tay, trong trường hợp nóng hổi này, đệ tử ruột mang máy vừa bị hắn bắn chết thì cho hắn một tràng M16 vừa nhẹ nhàng vừa đỡ tức, chiến tranh mà, đối diện kẻ thù ai bắn chậm thì chết. Nhưng ở đây đã nắm được địch trong tay, chưa nói đến quy luật chiến tranh, mà bản tính con người VN không thể sát hại địch đã bị bắt hay đầu hàng nên tôi cho gọi y tá đại đội đến băng bó cho nó. Thấy nó ướt sũng, run cầm cập, tuy cái đầu tôi không chủ ý nhưng rồi cái tay lại tự động rút Ruby Queen, quẹt zippo cho hắn hút, không đành cho nó một viên “bỏ hút”.

Nhưng tr/úy ĐĐP của tôi thì nóng mặt, Tha là cao bồi ruột, người lo café, cơm sấy nước suối vừa bị tử thương vì nó nên Thạnh co chân đạp cho nó một phát té ngửa, bất ngờ bác sĩ tiểu đoàn là Qu.. đang đi kiểm soát thương binh cả hai phía, trông thấy Thạnh đá tù binh, Qu la:

_ Tại sao tr/uy đánh tù binh?

_ CCCC, nó vừa bắn chết lính tôi, anh biết đéo gì.

_ Nhưng nó đã bị bắt, là tù binh.

Thấy đđp của mình và bác sĩ tiểu đoàn to tiếng chỉ vì một tên tù binh nên tôi phải cản ra. Cả hai anh đều đúng về tình và lý, tình người và lý luật chiến trường, lòng nhân đạo, khác hẳn với “khoan đỏ nhân đạo trước sau như một” của thú dữ.

Ngày 3 tháng 11 năm 2011, công an Hà Nội đóng kịch giả dạng côn đồ du đãng vào dánh đập tu sĩ và phá hoại nhà thờ giáo xứ Thái Hà ngay trung tâm thủ đô Hà Nội. Bỏ qua một bên về việc mượn đất, cướp đất dẫn đến tranh chấp ai trái ai phải. Chỉ biết đây là một vụ kiện thưa của người dân với nhà cầm quyền, hai vế chênh lệch rõ ràng, luật pháp trong tay, quyền lực trong tay, quân đội và công an Nhân Dân trong tay, nếu muốn thì cứ thẳng tay trừng trị “bọn dân ngoan cố”, như Gadhafi, như Taliban đem xe tăng cà nông bắn sập đền đài tượng thờ, mặc xác Liên Hiệp Quốc của ông Ky-Mun khuyến cáo, cần gì phải đóng kịch cởi bỏ quần áo quân đội và CA nhân dân để mặc đồ côn đồ, uống rượu say, giả điên để hành hung và đập phá một cơ sơ tôn giáo? Giả say để mai mốt nếu dân có kiện ra tòa thì chánh án nhân dân tối cao phán rằng vì say rượu, mất binh tĩnh nên không có tội. tha tù, xử ný nội bộ thôi, cho làm kiểm điểm là đúng luật XHCN rồi. Một màn kịch “dân chủ” quá ư là tồi.

Ngày 22 tháng 2 năm 1976 tại trại tù Suối máu Biên Hòa, cùng vượt ngục với Phạm Văn Tư có Trần Văn Bé K19VB. Tư bị kẹt trong hàng rào, bị bắn, chưa chết nhưng “được” để cho kiến cắn chết. Bé trốn thoát nhưng sau đó bị bắt lại.

Ngày 10 tháng 4 năm 1976, VC thiết lập tòa án để xử Trần Văn Bé và anh Thịnh (Thủ Đức, trốn trại tại Hóc Môn). Tòa án là Niệm Phật Đường trước 1975, nay chúng phá bỏ tượng Phật, treo hình HCM để làm tòa án. Chánh án là tr/tá trung đoàn trưởng QK7/ Đoàn 775 Nguyễn Văn Bản, hai công tố là thượng úy Nguyễn Tử Mùi va Hà Minh Thuyết thuộc quân huấn và quân pháp QK7. đ/úy Lê Văn Giác, đại diện viện kiểm soát QK7. Thư ký tòa là tr/úy quân pháp Nguyễn Văn Thành, luật sư không có, khán giả là bạn tù của Bé và Thịnh.

Chánh án Bản tuyên bố khai mạc phiên tòa xử Bé với lời lẽ nhân đạo như sau:

_

Anh có điều gì cứ trình bày, cứ khai thật, khai hết, để đảng và nhà nước sẽ xử khoan hồng

tha cho anh về với vợ con.

Lời tuyên bố của chánh án được thư ký ghi ngay vào biên bản, Bé chưa kịp nói gì thì hai viên công tố đã dọc ngay bản luận tội “can tội trốn trại cải tạo mục đích phản cách mạng ..vv” và trăm thứ tội khác. Sau hơn 3 tiếng đồng hồ kết tội, cuối cùng chánh án Bản đứng dậy nhìn một vòng các ‘cử tọa” dõng dạc đọc bản án do “nhân dân” quyết định:

“ Căn cứ vào chính sách khoan hồng nhân đạo

trước sau như một

“Căn cứ vào điều 2 chương 1 luật số 03/SL.. ngày 15/3/76 của chính phủ …

“Căn cứ vào…

“Căn cứ vào…

“ Tòa án Quân Sự Quân Khu 7 quyết định xử phạt:

Trần Văn Bé ….. tử hình.*

(* tất cả diễn tiến thủ tục pháp lý xử án công khai và công minh đã được thư ký tòa ghi vào biên bản và mấy năm sau, biên bản này mới được trao cho bà quả phụ Trần Văn Bé)

Đồng hồ chỉ 10 giờ 10 phút ngày 10 tháng 4 năm 1976, bọn vệ binh chạy lại tử tù Trần Văn Bé, bịt mặt, bịt miệng còng chân tay, lôi ra cột đã đóng sẵn, lấy dây thừng quấn anh vào với cột, đội hành quyết đã sẵn sàng.. nhiều tràng AK nổ, đầu Trần Văn Bé gục xuống, một phát súng K54 “ân huệ” vào tai tử tội. Đồng hồ chỉ 10 giờ 30 sáng ngày 10 tháng 4 năm 1976

Vệ binh cắt dây thừng cột tử tội, bỏ xác vào hòm đã đóng sẵn, và chôn vào huyệt đã đào sẵn ngay trong vòng rào “tòa án”.

“Trước ngày xử án, hội đồng xét xử đã nhân đạo lo cho tử tội được chôn cất tử tế bằng cách cho đóng sẵn 2 quan tài và đem để ngay bên cạnh “tòa án? Một hòm cho Bé vào buổi sáng, một hòm cho Thịnh xử vào buổi chiều cùng ngày.”

“Trước ngày xử án một ngày, ban chỉ huy trại tù đã lo mồ mả cho tử tội sẵn sàng đàng hoàng bằng cách ra lệnh cho bạn tù đào 2 lỗ chôn người ngay bên cạnh tòa án.”

Trước khi xử phạm nhân thì án đã được quyết định sẵn, và đây cũng là những thủ tục mà bản án dành cho những người trong nước đòi dân chủ tự do hiện nay và sau này cùa nhà nước XHCNVN:“Trước sau như một”.

Nhà nước XHCNVN diễn một màn hài kịch triệt hạ đối với giáo xứ Thái Hà quá tệ.

Nhà nước XHCNVN diễn một màn hài kịch giết Trần Văn Bé quá tệ.

“Trước sau như một” … quá tệ và tàn ác.

Ác cho đến nỗi ông trời còn phải kêu lên: “ Trời ơi là trời”

Ngay sau khi Th/tá Trần Văn Bé vừa gục đầu xuống vì những tràng AK thì trời đất bỗng nổi cơn gió bụi, mây đen từ đâu kéo tới bao phủ bầu trời nơi “tòa án” và cũng là nơi anh Bé bị bắn, phủ toàn vùng trại tù Suối Máu Biên Hòa,, gió lốc từ đâu bay tới cuộn bốc tất cả cát bụi sỏi đá bay lên mù mịt, cát đá rơi xuống mái tôn trại tù nghe lộp bộp, rơi vào những thau cơm sắp sẵn để phát cho tù vào buổi trưa. Không phải cơn mưa bình thường, mà là những hạt nước thật to rơi lộp bộp lên mái tôn trại tù.

Tất cả sự kiện này xảy ra trong vòng 5 tới 10 phút rồi tan đi như tiễn đưa linh hồn người chiến sĩ Trần Văn Bé.

Tùy vào niềm tin của mỗi người mà có suy tư về hiện tượng này khác nhau, nhưng cùng chung ý nghĩ trời cũng phải phẫn uất, phải khóc vì sự giả dối và tàn bạo này của CSVN.

Đọc giả nào không có mặt tại nơi và thời điểm chính phủ XHCNVN xử án Trần Văn Bé thì có thể nghi ngờ sự kiện kể trên, nhưng hơn 4 ngàn cựu sĩ quan VNCH bị nhốt tại trại tù Suối Máu tháng 4/1976 đều chứng kiến hiện tượng lạ lùng này. Những Cọp Biển là nhân chứng cho hiện tượng lạ lùng này thì còn đây, là những TQLC:

Trần Vệ, (người bị bắt đi dự phiên tòa), Đoàn Trọng Cảo, Nguyễn Đức Ân, Trần Ngọc Toàn, Đinh Xuân Lãm, Trần Kim Hoàng, Lê Văn Cưu, Lê Văn Huyền, Phan Công Tôn, Huỳnh Văn Phú, Trần Văn Hợp, Trần Xuân Bàng, Tô Văn Cấp, Trần Văn Duật, Doãn Thiện Niệm, Quách Ngọc Lâm, Lâm Tải Thạnh v.v..

Lâm Tài Thạnh, TĐT/TĐ.9 TQLC ghi lại như sau:

Tôi Cựu MX Lâm Tài Thạnh cựu tù Long Giao, Suối Máu xác nhận sự hiện tượng "kỳ bí" ở trại tù Suối Máu Tháng 4 Năm 1976 là gió lốc và mây đen tự nhiên kéo đến sau khi cựu Thiếu Tá Trần Văn Bé bị xử bắn. Thời điểm nầy tôi còn nhớ sau khi xảy ra hiện tượng đó thì cựu Thiếu Tá Đoàn văn Lý, tức Lý Lùn trường

Sinh Ngữ QD và Ủy Ban Liên Hợp QS 4 Bên mời các cha tuyên úy Công Giáo trong đội chúng tôi là cha Trần Ngọc Minh (SĐ.5),cha Ngô Đình Thỏa, cha Quế để làm lễ cầu nguyện cho Anh Bé, nhưng sau đó chúng tôi bị ăng-ten báo cáo nên bị gọi lên ban chỉ huy làm việc (điều tra) và giảm khẩu phần ăn hết một tuần”.

Chuyện “trước sau như một” của nhà nước XHCN thì là “chuyện thường ngày ở huyện”, nhưng cái không bình thường là những tên gốc là tỵ nạn CS, trốn CS vượt biển vượt biên, HO v.v.. van lạy thề thốt không là CS, không làm tay sai cho CS để được vào đất Mỹ sống cuộc đời ăn nhờ ở đậu, cố ăn gian nói dối để được làm công dân Mỹ. Khi đã là công dân Mỹ rồi thì lại phản nước Mỹ quay lại làm tay sai cho VC quậy phá cồng đồng người việt tỵ nạn CS. VC quăng cho khúc xương, cái vé máy bay, cho vài ngàn đô là hí hửng quay về XHCN ngồi chung bàn, ăn chung đũa với tướng CA truyền thông báo chí VC để nhận chì thị.

THĂM TRẠI TÙ

Nam Hà

,vào đầu thập niên 80, trong một ngày trời quang mây tạnh...Như thường nhật, các tù nhân thức dậy, hấp tấp làm vệ sinh cá nhân, người thì lo công việc luân phiên nhau làm, như lãnh nước uống, ăn sáng trước giờ lao động. Xong xuôi, ra sân xếp hàng ngồi chồm hổm theo từng đội, chờ đến phiên gọi mà đứng lên xuất trại. Tù hình sự mà đi làm thì chỉ xách đít không, chẳng có gì để mang theo. Còn tù ta thì lỉnh kỉnh lắm thứ: nào là để sẵn gạo trong lon Guigoz để nhờ anh lo nấu nước cho đội bắt lên thang nóng sau khi kéo lửa ra khỏi lò, nào là mì gói, chè cháo... Do đó, tù ta đi lao động không khác nào Mỹ đi đánh trận, phải có "hot meal". Nói thì nói vậy thôi, chứ không phải ai cũng sung túc như vậy. Ngồi ngoài sân chờ đi lao động cũng là lúc trao đổi tin tức giữa các đội, các buồng. Đặc biệt ngày hôm nay, có một số anh nhờ thăm nuôi đầy đủ nên người trông như lực sĩ, họ được chiếu cố cho ở nhà giúp cán bộ trại công tác. Số còn lại cũng như thường, tới giờ là gọi xuất trại.

Điều lạ là sau khi xuất trại thì không xuống hiện trường lao động bình thường. Ví dụ, các đội đập đá họ không ra phía núi đá, đội làm rau không xuống vườn rau, và các đội đấp đường cũng không ra công trường của họ, mà tất cả đều được dẫn vào hướng Tây Nam của trại, hướng mà chưa khi nào từ Trại A của Nam Hà tôi được đến. Không cần lãnh dụng cụ lao động, cứ thế mà đi thẳng theo sự hướng dẫn của cán bộ quản giáo và bảo vệ. Ai cũng thắc mắc vì sao? Nhưng không ai đoán được chuyện gì xảy ra. Rồi đến nơi, cho các đội dừng lại nghỉ ngơi, lấy thuốc lào ra hút, tuyệt đối không được rời hiện trường. Người nào có mang theo áo mưa, hay một tấm nylon có thể trải ra tha hồ nằm nghỉ. Có người quen lao động, ngồi không yên, mượn dao đốn củi phá phách xung quanh vùng, vì có nhà dân lân cận. Gọi là nhà chứ cũng chỉ là một cái chòi nhỏ xiu vẹo, mái lợp tranh tơi tả. Khổ nhất là chúng tôi đã gây khó khăn cho họ, vì họ không có quần áo để mặc ra ngoài, thường chỉ dùng lá che thân, còn những thứ mà họ mặc để đi ra ngoài cũng đã rách nát. Thậm chí quần áo cho tù mặc, họ cũng muốn mua lắm, nhưng không có tiền. Một cô con gái độ chừng 11 tuổi, ốm o lòi xương tứ phía, được hỏi mới biết là cô đã 25 tuổi rồi, chăn trâu cho hợp tác xã. Thế là chúng tôi la cà hỏi han, tìm hiểu nhân tình, và đó là điều mà trại rất nghiêm cấm, nhưng hôm nay mọi người khỏi lao động, khỏi đạt chỉ tiêu, nên mạnh ai nấy tìm lấy thú vui của mình, cán bộ cũng lơ là...Các tù hình sự có dịp tiếp xúc với các ông, gọi "ông" khi có thuốc lào mời mọc, gọi "thằng" khi bảo không hút thuốc. Thuốc hút một điếu, còn một điếu nhét lỗ tai để dành, rồi còn xin mót sấy thuốc, cố la cà để kiếm thêm ngụm trà ngon, một điếu thuốc rê...Nhưng ngay lúc chúng tới gần mà không để ý thì bị mất cắp đủ thứ, cái gì chúng cũng không tha. Đến giờ ăn trưa, mỗi đội cho người về lấy cơm gánh thẳng ra bãi dùng tại chỗ. Chính những người này khi trở ra cho biết, trong trại đang tổ chức tiếp "phái đoàn tham quan nước ngoài".

À ra thế! Chỉ biết một tin nhỏ như vậy thì mặc sức anh em bàn tán xôn xao. Ngày về đã gần kề? Đã thấy ánh sáng cuối đường hầm! Có thể đi Mỹ? Toàn là giả thuyết, nhưng đó là niềm tin và hy vọng của người tù cần được nuôi dưỡng để sinh tồn. Trong khi chính sách của trại là chia để trị, tìm cách ly gián cấp trên và cấp dưới để chúng ta mất hẳn sự lãnh đạo, thì chúng ta lại cần những tin tức cho ta niềm hy vọng và đem lại sự đoàn kết, tôn ti trật tự trong tổ chức chúng ta. Vì thế, một tin giựt gân như vậy làm chúng tôi bàn tán sôi nổi trong các đội, và khi hô về, chúng tôi thấy tiếc thời gian không còn nữa để bàn tiếp, nhưng ai cũng nôn về tới trại để có nhiều tin tức hơn nữa.

Tin tức đầu tiên là do các anh ở nhà làm vệ sinh buồng, tốt nhất là những người có biết Pháp ngữ hoặc Anh ngữ, có thể tiếp xúc trực tiếp với nhân viên trong phái đoàn. Phe ta thì may mắn được anh Q. mập, anh giúp đỡ hướng dẫn một nhóm các bà mặc váy vào tham buồng. Anh bảo, cái buồng mình ở, cả hai tầng nhập lại thường từ 75 đến 100 tù, thì nay, gói ghém lại, mỗi buồng chỉ còn 25 tù mà thôi. Ở tầng dưới sạp trán xi măng. Xếp mỗi bên còn 12 chiếc chiếu cách nhau rộng thênh thang. Số chiếu và vật dụng cá nhân của số còn lại đều được mang chất xếp bên trên, giống như một kho dự trữ. Khi một bà hỏi trong buồng này có bao nhiêu tù, thì cán bộ hướng dẫn trả lời thường là 25 người mỗi buồng. Khi bà ta dợm bước lên thang để xem ở tầng trên, thì cán bộ hướng dẫn, không cần biết lịch sự là gì, bèn nắm váy kéo bà lại, lamø cho anh Q. mập của chúng ta không nín cười được. Có lẽ anh Q. cũng đã giúp cán bộ trại giải thích cho phái đoàn bằng Pháp ngữ, nên sau khi thăm buồng của anh, bà ta muốn chụp với anh một tấm ảnh và được cán bộ cho phép. Luôn tiện, anh xin bà làm ơn trao tấm ảnh chụp chung với bà cho bà xã của anh đang là một công chức trong một cơ quan nguyên tử của Pháp. Và bà ta hứa sẽ giúp đỡ đến nơi đến chốn. Bà ta còn hỏi có biết dân biểu Huỳnh Văn Cao có ở trại này không?và tình trạng sức khỏe của ông ra sao? Bà hỏi rất nhiều người về ông Huỳnh Văn Cao, nhưng không ai dám tiết lộ điều gì trước các cán bộ trại. Nhưng rồi, dường như họ cũng cho gặp dân biểu Huỳnh Văn Cao với điều kiện được hầu chuyện riêng, không cần có mặt của cán bộ trại. Đó là một thắng lợi lớn của phái đoàn nước ngoài, dường như từ các nước cộng sản Đông Âu, trong đó có đại diện của đảng Cộng Sản Pháp.

Qua đến các anh tù khỏe mạnh được chọn ở nhà. Họ đống vai hai đội bóng tròn, chơi mãi, chơi miết đến khi không còn chơi được nữa thì đi tấm rửa vui vẻ. Sau đó thay quần áo tù sạch sẽ và lành lẽ, vào ngồi ăn cơm trưa đã dọn sẵn, đầy đủ thịt cá, cơm trắng canh sốt. Nhưng nghe đâu chỉ dọn sẵn đó thôi, những đấu thủ bóng chuyền chẳng hề được rớ đến.

Sau kỳ thăm viếng trại tù của phái đoàn ngoại quốc, đâu lại vào đấy, sinh hoạt trở lại bình thường. Nhưng vài tháng sau lại có một phái đoàn khác, không biết từ đâu đến. Phái đoàn nào cũng tìm gặp cho được Tướng Huỳnh Văn Cao, cựu dân biểu quốc hội VNCH.

Những thay đổi thật khó mà xác nhận được vì đâu, và đã có thay đổi gì không?

Tôi nghĩ có một thay đổi làm cho chúng tôi không ngờ, mà chắc ai đã trải qua những giây phút kinh hoàng của nhà tù Nam Hà thì cũng đồng ý một điểm là, chỉ có tù mọt gong, không thể có ngày về. Các bạn tù còn nhớ, có lúc người ta gọi một "phái đoàn 13 con ma" có mặt ở Nam Hà. Đó là một nhóm người được tuyển chọn đặc biệt làm mũi nhọn, tiên phuông dọn đường để đưa tất cả tù vào một nơi không có ngày về. Phái đoàn này gồm một số tướng lãnh, những tướng lãnh có thể nói là được Cộng Sản đánh giá rất nguy hại cho xã hội xã hội chủ nghĩa, như là các tướng KQ mà lại không chịu đi, như là những Tướng trẻ còn đầy máu nóng bên Lục Quân. Và còn các cấp Đại Tá chuyên viên về xây dựng, về địa dư là những chuyên viên cần cho một đầu cầu xây dựng khu vực mà tất cả tù cải tạo xuất thân từ chế độ cũ sẽ gửi thân xác đến suốt cuộc đời. Đó là một vùng Tây tỉnh Thanh Hóa, nơi chỉ có sỏi đá mà ta sẽ phải biến thành cơm. Gia đình nào muốn theo định cư cùng với tù thì họ sẽ được hoan nghênh, nhưng một khi đã gia nhập vào xã hội này rồi thì coi như từ bỏ xã hội bên ngoài mà bọn Cộng Sản cầm quyền chỉ muốn trồng lên một số người rặc giống "xã hội chủ nghĩa". Công thức này không có gì mới mẻ, vì đã áp dụng ở Nga. Chính quyền Suharto , sau khi lật đổ Sukarno, cũng dẹp luôn bọn Cộng Sản theo Tàu ở Nam Dương, và họ cũng đem tất cả tù và gia đình ra một hòn đảo, từ đó không thấy họ trở về với đại chúng nữa.

Trở lại vấn đề của chúng ta, tôi thiết nghĩ, nếu không có những cuộc viếng thăm trại tù của các phái đoàn tham quan nước ngoài thì chẳng khi nào có sự trao đổi với Mỹ để cho nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được vào Liên Hiệp Quốc, để chúng ta được "Cờ Hoa" rước về định cư ở đây.

Sở dĩ ngày nay, tôi viết lại bài này, là vì cộng đồng Việt Nam chúng ta hết lòng tranh đấu cho Nhân Quyền, cho Tư Do Tín Ngưỡng, mà không điều động được các tổ chức như Hội Ân Xá Quốc Tế để về viếng thăm cho bằng được những người như Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Hòa Thượng Thích Quảng Độ...và bao nhiêu người khác nữa. Và sau mỗi cuộc thăm viếng phải có ngay những điều kiện trao đổi, bằng không, tranh đấu theo kiểu chửi bới, bêu xấu, thì đối với những mặt dầy như CSVN sẽ không có kết quả.

Cựu Tù

Thức dậy ở Đà Nẵng

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG

Ba mươi lăm năm qua kể từ ngày Đà nẵng giải phóng, ít nhất tôi đã có 10 ngàn buổi sáng thức dậy ở thành phố bên sông Hàn. Nói ít nhất là để trừ ra những bận đi công tác ra khỏi thành phố. Thức dậy bên sông Hàn mỗi buổi sáng, vì vậy, cũng là thức dậy bên bờ sóng của biển Đông và đón nhận những tia mặt trời, những ngọn gió, cả những cơn mưa đầu tiên của ngày và gởi vào đó những buồn vui của cuộc sống.

Những buổi sáng hai ba mươi năm trước, tôi đã đạp chiếc xe cà tàng đến lò bún với hai chiếc thùng có trộn sẳn cám sắn, bột cá. Bứt vội vài cành lá bên đường bỏ lên trên mặt hai thùng nước hỗn hợp ấy để khỏi tạt đổ trên đường về nhà. Vài con heo Móng Cái ỏng ẹo trong chuồng không chịu lớn. Muốn mua được heo giống Đại Bạch, phải thân quen với chủ nhiệm hợp tác xã ở quê...Lại vác cuốc ra lề đường, cuốc vội chỗ đất đá lẫn lộn, dâm vội mấy vồng khoai lang...Trên đường đi làm, đằng sau bóc-ba-ga xe đạp, bên cạnh cái lon guigoz đựng bữa cơm trưa ghế đầy sắn lát và vài con cá mặn, là cái bao nhựa mang theo đến gởi trước ở cửa hàng lương thực, cái can nhựa mua vài lít dầu lửa phân phối...Lại có buổi sáng cuối tuần, mang cái phiếu ưu tiên mua sách đến xếp hàng ở hiệu sách, mong sao đến lượt mình còn mua được một tác phẩm mới in mà mình yêu quí. Vào hiệu ăn quốc doanh, uống được ly cà phê sữa phải mua kèm hai cái bánh bao còn lẩn vài con mọt! Ở cơ quan, chị cấp dưỡng viết ngoằn nghoèo trên tấm bảng thông báo đợt bán hàng phân phối: mỗi người nam mua được hai cái lưỡi lam, một quần xà lõn, ba gói thuốc Vàm Cỏ mỗi tháng; hai người mua được chiếc lốp Sao vàng. Muốn mua xích líp xe đạp, phải đăng ký và ưu tiên cho lãnh đạo trước. Những buổi sáng dậy thật sớm, lăn lộn ở chợ trời Tăng Bạt Hổ, Ông Ích Khiêm...tìm mua mấy ổ bi, hai cái pê-đanh, khung sườn xe đạp...Tích góp lắm mới lắp được chiếc xe đạp cho vợ đi làm. Và có những buổi sáng phải bỏ việc cơ quan, đạp xe đến nhà máy xay lúa để duyệt mua một bao trấu về làm chất đốt. Nhà có việc cần điện thoại đường dài, sáng phải dậy sớm đến Bưu điện trung tâm đăng ký số cần gọi và...chờ. Có hôm gọi được cuộc điền đàm phải đến 9 giờ tối!

Vài hồi ức như vậy để thấy rằng chúng ta có những buổi sáng của một thời bao cấp gian nan sau chiến tranh.Và chúng ta đã đi qua một cách không dễ dàng.

Bây giờ, buổi sáng ở Đà Nẵng vẫn còn những anh, những chị đi xe ôm, làm công nhân vệ sinh, buôn bán nhỏ phải dậy sớm hơn nhiều người khác. Nhưng họ đã có điện thoại di động, có xe máy hơn trăm phân khối, có cà phê sáng và bữa điểm tâm đầy đủ dinh dưỡng. Buổi sáng ở bãi biển Mỹ Khê, T20, Phạm Văn Đồng, Bắc Mỹ An là hàng ngàn người đi tắm biển, tập thể dục sớm. Có người đi xe máy và nhiều gia đình đi ô tô. Trên các đường Bạch Đằng, khu Đảo xanh, công viên 29.3, công viên Bắc Tượng đài và cả các lề đường lát gạch bằng phẳng, những dòng người đi bộ, tập dưỡng sinh với những bộ quần áo thể thao loại xịn. Cả thành phố có hàng trăm sân tennis, sân cầu lông cho vài vạn người yêu thích các môn thể thao này. Buổi sáng vượt sông Hàn không còn những chuyến phà ngang phụt khói đen sì và chậm chạp; thay vào đó là năm, sáu chiếc cầu lớn, hiện đại...Một bờ biển hơn 15 cây số với hàng vạn căn nhà ổ chuột từ Thanh Bồ, Đức Lợi năm xưa đến Nam Ô, Thủy Tú đã biến mất. Những rào kẽm gai dọc bờ “Biển Đỏ” Xuân Thiều nay cũng không còn dấu vết. Đi trên con đường nay có tên Nguyễn Tất Thành, có lúc tôi nghĩ nó chẳng khác gì con đường dọc vịnh Victoria ở Hồng Kông!

Một buổi sáng tháng Ba, 35 năm sau ngày giải phóng, tôi bất ngờ chạy xe theo sau dòng người trên con đường Nguyễn Văn Linh nối dài đến bờ sông Hàn vừa láng nhựa. Con đường sẽ nối tiếp bằng chiếc cầu Rồng qua Hà Thân trong nay mai. Thành phố bỗng trở nên vừa lạ vừa thú vị với những đổi thay chóng vánh. Một tuần trước đó, tôi có việc lên xã miền núi Hòa Liên, con đường Âu Cơ rẽ về phía Tây ở chợ Hòa Khánh là một kỳ công cách đây 10 năm, nay hoàn toàn xa lạ. Thay vào đó là những đại lộ 4 làn xe ngang dọc. Cả những bãi cát ở khu Thanh Vinh dường như đã mất biệt trong những khu công nghiệp nhộn nhịp hàng ngàn công nhân trẻ ra vào thay ca...Người ta bảo không gian đô thị Đà Nẵng đã tăng lên gấp 4, 5 lần so với trước, nhưng theo tôi, với dân số chỉ mới gấp 2 lần cách đây 30 năm, không gian tăng lên đó chính là chỗ cho những cơ sở công nghiệp, dịch vụ và các công trình công cộng, nó làm giàu thêm của cải và điều kiện sống của con người!

Tôi có bạn là hai nhà dân tộc học từ Trung tâm Quốc gia khoa học Pháp mới về thăm quê nhân dịp kỷ niệm 35 năm hòa bình, anh Nguyễn Tùng và chị Nelly Borowlski. Tôi chở họ vượt cầu Thuận Phước sang Sơn Trà và đánh một vòng ven biển từ Thọ Quang đến Furama rồi về lại trung tâm qua ngã cầu Tuyên Sơn. Chị Nelly thích thú với một bờ biển xanh và những con đường rộng mở, thoáng đãng, đầy cây xanh mà như chị bảo, cả Sài Gòn hay Hà Nội cũng khó có. Sáng hôm sau, vợ chồng họ đi xe đạp đi biển, chị lại ngạc nhiên với một hoạt cảnh buổi sáng nhộn nhịp mà trong lành do hàng ngàn người Đà Nẵng và du khách tạo ra bên mép sóng. Anh chị bạn tôi có một nhà nghỉ nhỏ bên bờ Địa Trung Hải, nhưng ở đó biển lạnh và không đẹp như Đà Nẵng. Anh Tùng bảo, tuy còn một vài khiếm khuyết về môi trường và chất lượng xây dựng, nhưng quả đây là một thành phố xứng đáng để sống!

Tôi có hơn một vạn buổi sáng thức dậy ở Đà Nẵng để có thể nói rằng, từ chỗ nhiều năm rất khó khăn sau chiến tranh, thành phố này đã và đang thay đổi mỗi ngày. Yêu một thành phố ta từng sống trong gian nan và càng yêu nó hơn trong sự chuyển mình- dù không khỏi những khiếm khuyết- là một tình yêu tạo nên của cả trái tim và lý trí. Trái tim nóng hổi và lý trí tinh khôi trong mỗi buổi sáng Đà Nẵng!

năm tháng khó quên

Đói. Cái cảm giác quái ác đó đeo đẳng Phúc triền miên, nhất là vào lúc màn đêm buông xuống. Đến lúc này, khi vừa tỉnh giấc, cơn đói trở thành một cực hình khủng khiếp.

Căn nhà kho cũ trong doanh trại của Sư đoàn 25 Bộ binh ở Trảng Lớn, Tây Ninh, vẫn tắm trăng chờ sáng. Phúc tự hỏi trong số hơn 50 con người đang nằm nơi đây có ai đủ nghị lực để dửng dưng trước Thần Đói đang nạo, đang thắt, đang bóp những cái bao tử lép kẹp mà chỉ cách đây mới nửa năm nếu không đầy những của ngon vật lạ thì cũng chẳng bao giờ thiếu những hột cơm trắng ngần.

Nghĩ đến cơm, Phúc giật mình quơ tay lên đầu tìm chiếc lon Guigoz như phản xạ tự nhiên của một con thú trước sự đe doạ, dành dựt và chiếm đoạt của đồng loại. Mấy muỗng cơm vàng hẩm mùi mốc quả thật là nguồn sinh lực để anh bắt đầu một ngày mới. Vỏ nhôm lạnh của lon đã truyền sang Phúc một niềm vui mà anh xót xa nhận ra đó không phải là cảm giác sung sướng của con người. Đó chỉ là cảm giác mang đầy thú tính.

Tiếng sôi bụng trong căn nhà kho cũ đang lặng lẽ chờ giờ báo thức. Phúc không biết đó là tiếng ruột cào của hai người bạn nằm bên hay của chính bụng mình. Chỉ lát nữa thôi, tiếng kẻng của các tiểu đoàn thi nhau đánh át những âm thanh gào thét âm ỉ của Thần Đói. Và rồi, những thân xác mang bao tử rỗng tuếch sẽ lục tục ngồi dậy để lại bắt đầu một ngày ‘lao động vinh quang’ và chấm dứt bằng những giờ phút vật lộn với Thần Đói trên giường chờ giấc ngủ.

Hơn 30 năm làm người, đến lúc này Phúc mới tìm ra được một triết lý rất tầm thường nhưng cũng rất thực tế. Cực hình tra tấn, chửi bới nhục mạ xem ra chỉ là những biện pháp hời hợt. Vết thương nào rồi cũng lên da non, lời nặng nhẹ rồi cũng tan vào quên lãng. Thế nhưng, một bao tử lép kẹp sẽ đánh gục một thân thể lực lưỡng đồng thời hủy diệt chất xám của bộ óc.

Như vậy có nghĩa là tước đoạt quyền làm người, đồng hoá giống Homo Sapiens với thú vật. Tiến trình thú-vật-hoá con người diễn biến thầm lặng nhưng lại rất lớp lang. Nó nhuần nhuyễn đến độ người ta đánh mất nhân tính một cách dễ dàng để sống theo bản năng thú vật hồn nhiên.

Những tháng đầu tiên tập trung về đây, khi cơ thể bắt đầu cảm thấy thiếu chất thịt, người ta nghĩ ngay đến chuột: chuột nhắt, chuột chù, chuột cống… Loài gậm nhấm bốn chân bẩn thỉu nhất nhưng cũng là nguồn cung cấp lipid dễ kiếm nhất. Hàng chục người hò reo, đuổi theo một con chuột. Chuột cống vốn dĩ bẩn thỉu lại trở thành sự thèm khát của mọi người. Những bộ óc thông thái giờ đây được tận dụng triệt để trong việc sáng chế những kiểu bẫy chuột… hiện đại nhất. Những giọng nói uy quyền ngày nào nay được cất lên để tranh dành miếng ăn quá tầm thường nhưng lại quá quan trọng đối với bao tử.

Khi chuột bị diệt chủng thì số phận các sinh vật khác lần lượt được tính đến. Cứ như thế, nguồn cung cấp thịt từ loài bốn chân xuống đến loài có cánh và thậm chí còn xuống đến loài bò sát. Cứ như thế, con người từ vị thế thượng đẳng đứng bằng hai chân dần dà lom khom thành khỉ, vượn. Đến một lúc nào đó, người ta bất chợt nhận ra những kẻ đồng cảnh ngộ với mình hành động theo bản năng sinh tồn của súc vật trước khi phát hiện chính thân phận mình cũng chẳng khác gì đồng loại xung quanh.

***

5g30: những tiếng kẻng báo thức đồng loạt nổi lên từ khắp các tiểu đoàn. Hàng ngàn con người từ thế giới mộng mị riêng tư của bóng tối trở lại với thực tế phũ phàng của một ngày cải tạo. Nửa giờ sau, kẻng dõng dạc bắt đầu buổi lao động sáng. 1 giờ trưa, kẻng lạnh lùng đòi lại phần lao động buổi chiều. Cuối cùng, đúng 9g tối, kẻng bắt đầu bằng những tiếng khoan thai và kết thúc bằng những hồi chát chúa từ thanh kim loại gõ lên vành sắt bánh xe cũ. Đèn đóm tắt phụt. Những con-thú-người rã rời sau một ngày quần quật, ngả lưng để hưởng những giây phút thực-sự-làm-người, thả hồn về một nơi nào đó, miễn không phải là đây.

Muốn làm người phải giàu nghị lực. Một thứ nghị lực không to tát như Kinh Kha sang Tần. Vấn đề đơn giản là làm sao át được tiếng gào thét của những chiếc bao tử đang ngày càng teo tóp lại.

***

Hồi kẻng báo thức đã nổi lên nhưng vẫn không cắt được luồng tư tưởng đang dồn dập đến với Phúc. Tự nhiên sáng nay anh thấy mình uể oải một cách khác thường. Không phải vì đói. Cơn đói cố hữu sáng nào cũng đánh thức anh dậy trước kẻng. Có lẽ câu chuyện đêm qua đã khiến anh trằn trọc quá khuya.

Kỳ nằm bên khều chân sang Phúc.

- Dậy thể dục đi.

- Sáng nay xù.

Kỷ luật của trại cải tạo tuy khắc nghiệt nhưng thật tình cũng có cái hay của nó. Đúng 5g30 tất cả mọi người – từ quản giáo, vệ binh cho đến người cải tạo – đều phải ra sân tập thể dục buổi sáng. Bài thể dục tuy được tập riêng nhưng nội dung giống nhau chỉ khác ở câu khẩu hiệu khi chạy đều tại chỗ và trước khi kết thúc. Trên ‘khung’ tiểu đoàn bao giờ cũng là ‘Rèn luyện thân thể – Bảo vệ tổ quốc’ trong khi người cải tạo, không có quyền bảo vệ tổ quốc, nên đổi thành ‘Rèn luyện thân thể – Học tập tốt’.

Ba chữ ‘Học tập tốt’ chi phối toàn bộ cuộc sống của những người cải tạo. Quản giáo mỗi khi ‘lên lớp’ đều luôn mồm nhấn mạnh: ‘Học tập tốt các anh sẽ được về xum họp với gia đình’. Trong các buổi thảo luận ở tổ có sự hiện diện của cán bộ, châm ngôn ‘Học tập tốt’ thường được người cải tạo lập đi lập lại trên đầu môi chóp lưỡi. Có điều, chiêu bài ‘Học tập tốt’ ngày càng trở nên lỗi thời khi thời gian cải tạo kéo dài từ đơn vị tháng sang đơn vị năm mà vẫn chẳng thấy ai về. ‘Học tập tốt’ cũng ăn mòn không biết bao nhiêu giấy bút qua các ‘bản thu hoạch’ của từng cá nhân người tù.

Chữ ‘tù’ bị cấm ngặt trong trại. Cán bộ quản giáo đã biết bao lần khẳng địmh: ‘Đây không phải là trại tù như của Mỹ-Ngụy ngày xưa. Nhà nước lúc nào cũng trước sau như một, đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại. Cách mạng đã khoan hồng, tạo điều kiện tập trung các anh về đây để học tập cải tạo bản thân, thật thà khai báo và thành khẩn nhận rõ tội lỗi của mình. Học tập tốt các anh sẽ được về xum họp với gia đình ngay’.

Mãi đến sau này Phúc mới hiểu: cách mạng vốn rất giỏi… chơi chữ. Về hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố chứ không phải là ‘Học tập tốt’, trong đó phải kể đến tình hình ngoài xã hội và lý lịch của bản thân từng người. Những người học tập cải tạo là tù nhân không bao giờ được tuyên án và ngày về của họ được hứa hẹn qua ba chữ ‘Học tập tốt’ như một củ cà rốt được nhử trước một con thỏ. Thế cho nên cứ ‘yên tâm học tập’, khi nào được về là đã tốt chứ không phải là… tốt thì được về!

***

Kỳ đã dọn dẹp xong chăn màn và chuẩn bị ra sân tập thể dục.

- ‘Rêm’ mình hả?

- Lười.

Phúc còn muốn nói nhiều hơn thế. Kỳ tụt xuống đất, trước khi ra sân còn dặn với:

- Này, nếu không bịnh thì ráng mà dậy. Nằm lì là ‘sụn’ ngay đó.

Là một bác sĩ quân y, Kỳ thường có những ‘méo mó nghề nghiệp’ dù trong hoàn cảnh không có đến một viên thuốc trong tay. Ngoài Kỳ, trong đội còn có thêm một bác sĩ, một dược sĩ và một trợ y. Lực lượng y tế xem ra quá cao đối với mật độ hơn 50 người trong đội. Có lẽ trên thế giới không một xã hội nào có tỷ lệ chăm sóc sức khỏe cao đến như thế. Tuy nhiên, đây chỉ là một con số thống kê rất kêu nhưng hoàn toàn rỗng tuếch. Dù thuộc ngành nghề gì, một khi đã bước vào đây mọi người đều cùng chung thân phận. Một bác sĩ không ống nghe, không kim chích, không thuốc men cũng chỉ là một anh tù không hơn không kém.

Đã có lần Kỳ phải lặn lội lên trạm xá tiểu đoàn để khai bệnh. Anh bộ đội non choẹt phụ trách trạm xá hất hàm hỏi:

- Làm sao mà lên đây?

Có lẽ, nếu không sợ vi phạm chính sách, anh bộ đội sẽ quạt thẳng vào mặt – Bọn mày lắm chuyện, nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột. Tao vượt Trường Sơn mà như bọn mày thì chẳng bao giờ vào được đến đây.

- Tôi bị kiết.

Bác sĩ Kỳ đảo mắt nhìn tủ thuốc nghèo nàn của trạm xá – lạy trời có được vài viên Direxiode hay Stovarsol…

- Sao anh biết là bị kiết?

Câu hỏi bất ngờ khiến bác sĩ Kỳ hoàn toàn lúng túng. Chính sự lúng túng này khiến anh bộ đội trạm xá tin tưởng là mình đã bắt trúng mạch ‘lười lao động’ của anh chàng cải tạo.

- Chỉ vớ vẩn. Toàn kiếm cớ khai bệnh để trốn lao động. Về!

Kỳ thất thểu về đội. Sáng hôm đó anh ra hố tiêu soèn soẹt. Sau cùng, mệt quá nên phải rút ngắn quãng đường bằng cách ‘đóng chốt’ ở điểm giữa hố tiêu và nhà ngủ để có thể lết ra hố tiêu cho gần. Cũng may hôm đó Phong 81 lên cơn sốt nên được giao công tác ‘anh nuôi’, cũng đang ‘mót’ mà cứ phải chờ mãi nên xông vào hố tiêu. Kỳ ngồi gục trên hố tiêu giữa đám nhặng xanh thi nhau vo ve như chỗ không người. Phong vội vàng dìu Kỳ lên trạm xá. Anh bộ đội phủ đầu:

- Hết giờ khai bệnh rồi.

- Không phải. Tôi không khai bệnh nhưng bác sỹ Kỳ bị xỉu trên hố tiêu nên tôi dìu lên đây.

Quen miệng gọi ‘bác sĩ Kỳ’ nên Phong 81 đã khiến anh quân y chột dạ vì ‘mặc cảm nghề nghiệp’. Gịong anh có vẻ nhẹ nhàng hơn:

- Bị gì?

- Kiết từ hai hôm nay rồi.

Phong 81 đâm cáu nên trả lời cộc lốc. Máu ‘biệt kích 81’ trong người Phong sôi lên cộng thêm cơn sốt hầm hập trong người khiến anh muốn hét lên. Anh bộ đội ‘thật thà khai báo’:

- Trên này không có thuốc kiết.

Anh quân y tiến về phía Kỳ. Sau khi đã cẩn thận giữ một khoảng ‘cách ly’ an toàn, anh khám bệnh bằng mắt. Thấy con bệnh khá đuối, anh dịu giọng, cho toa:

- Về trại uống nước muối, ăn cháo. Kiếm thêm lá ổi khắc phục.

Không nói thêm một câu nào, Phong 81 chán nản dìu Kỳ về trại. Quả thật, toa thuốc nước muối, lá ổi cộng thêm với sức đề kháng còn sót lại của một thân thể lực lưỡng và hình như cả cái ‘uy’ bác sĩ đã giúp Kỳ ‘khắc phục’ được chứng kiết.

Từ đó, châm ngôn ‘đói ăn rau, đau khắc phục’ trở thành phổ biến trong đội và anh y tá ‘mát tay’ có thêm biệt danh ‘bác sĩ khắc phục’. Sau này, khi trại cho phép gia đình gửi lương khô, thuốc men vào tiếp tế, nguồn thuốc chữa bệnh bên ngoài dồn dập đổ vào nên bộ chỉ huy trại quyết định trưng dụng ‘tù bác sĩ’ được lên trạm xá làm việc để ‘trợ giúp’ y tá vốn không quen với các loại thuốc ‘rắc rối’ của tư bản. Anh ‘bác sĩ khắc phục’ đã trở thành ‘người học trò ngoan’ của bác sỹ Kỳ…

***

‘Rèn luyện thân thể – Học tập tốt’. Khẩu hiệu vừa hô xong, mọi người ùa vào phòng để chuẩn bị cho một ngày lao động mới. Phúc mang lon Guigoz ra sau nhà, họp mặt với ‘nhóm cơm’ của anh. Ở trại cải tạo, cơm trưa và chiều được lãnh từ nhà bếp về theo từng thau. Cứ 5 người một thau nên tự nhiên trong đội hình thành những carré cơm.

Ngày mới vào trại, chia thau cơm thành 5 phần bằng nhau là cả một bài toán hóc búa trong tình trạng đói kém, thiếu ăn. Năm người chung thau cơm phải lần lượt thay phiên nhau ‘cầm cân nảy mực’ trước 4 cặp mắt sáng như đèn pha của những người trong nhóm.

Thoạt đầu, người ta dùng bát để đong. Chỉ sau một thời gian ngắn, cách chia này đã bị ‘phá sản’ khi các ‘ý đồ đen tối’ xuất hiện. Chỉ cần xúc nhẹ hay mạnh tay, chỉ cần ‘chiếu cố’ những chỗ cơm rời hay đóng cục là có thể tạo ngay được sự chênh lệch về chất lượng và số lượng cho mỗi phần chia. Tuy nhiên, cũng vì còn lại một chút thể diện, cộng thêm một chút tình người, nên các bao tử lép kẹp không bao giờ nói thẳng ra những nhận xét tinh vi nhưng cũng rất bần tiện đó.

Cách chia thứ hai được đưa ra thử nghiệm. Thau cơm lãnh về được người đến phiên chia nén chặt xuống như một ổ bánh. Anh ta ngắm nghía tìm tâm của thau để cắm sâu một chiếc đũa làm chuẩn. Từ đó, anh vạch ra 5 đường bán kính để chia thành 5 phần bằng nhau. Giá chia làm 4 thì chỉ cần vạch 2 đường kính thẳng góc nhưng một khi chia làm 5 là cả một vấn đề. Nó đòi hỏi sự chính xác và khéo léo. Cần nhớ, một khi công trình chia cơm hoàn tất, người chia sẽ nhận phần cuối cùng. Nếu vụng tay, chia không đều, phần nhỏ nhất sẽ được ‘nhường’ cho tác giả. Đã biết bao người hễ đến khi chia cơm đành phải chịu thiệt thòi vì tính ‘vụng chia’ của mình.

Cũng đã có nhiều kẻ ‘no’ trong sự chia chác. Bạn cứ hí hửng với phần cơm trông thật to nhưng nó chỉ to về hình thức vì thực chất bên trong là những hạt cơm rời rạc. Hắn đứng ra chia, dĩ nhiên phần nhỏ nhất thuộc về hắn nhưng đó lại là khối cơm có chất lượng vì đã được nén thật chặt. Những hạt cơm rất tầm thường ngoài đời nhưng một khi đã vào trại cải tạo nó mang lại buồn-vui mà chỉ thế-giới-cải-tạo mới có.

Thau cơm của ‘tổ hợp’ bác sĩ Kỳ – thầy giáo Phúc – Phong 81 – Chương ‘chuồn chuồn’ và Cương ‘cận’ đã thực hiện thành công một cuộc ‘các mạng chia cơm’. Họ đã gắn bó với nhau trong sự nhường nhịn ‘vĩ đại’ đến độ át được bản năng tầm thường của con thú đói vốn đang ngự trị trong hầu hết những người cải tạo. Họ là nhóm đầu tiên trong đội không cảm thấy buồn-vui trong giây phút chia cơm ‘thiêng liêng’.

Buổi trưa, thau cơm lãnh về được đặt trên một cái bàn ‘dã chiến’ ghép bằng những mảnh gỗ thùng đạn cũ. Đây là công trình ‘khéo tay hay làm’ của Cương ‘cận’, gốc công binh. Năm người tự động và tự giác xới cơm vào bát của mình. Trong bữa cơm trưa họ được xới 2 lần: một bát và một lưng. Bữa chiều, khẩu phần rút xuống còn hai lưng vì trước đó đã được xúc vài muỗng vào lon Guigoz cho từng người, để dành cho bữa ăn sáng ngày hôm sau. Và cũng để đối phó với cơn đói triền miên, bữa cơm chiều được dời thành bữa cơm tối để khi đi ngủ bao tử có việc làm.

***

Sau câu chuyện đêm qua, sáng nay Phong 81 có vẻ ưu tư, khác hẳn với bản tính ồn ào, ngổ ngáo hàng ngày của một Đại đội phó biệt kích 81. Chuyện của Phong như một quả bom nổ bất ngờ đối với những người cùng nhóm. Tối hôm qua, bên ca ‘trà’ được chế biến từ cây chùm bao phơi khô, xắt nhỏ, sao vàng, Phong thì thầm:

- Sáng nay đi công tác dọn dẹp kho pháo binh tớ lượm được một tấm bản đồ.

- Bản đồ gì? – Chương ‘chuồn chuồn’, ‘giặc lái’ trực thăng U1H, lên tiếng hỏi.

- Bản đồ vùng này. Chắc là của đám pháo binh sư đoàn 25. Tớ đã giấu kỹ… Các cậu chắc đã đoán ý tớ muốn gì rồi…

- Thì cậu cứ nói thẳng ra đi – Phúc gợi ý.

- Thoát… Cứ như thế này mãi thì thà chết sướng hơn… Tớ đã tính từ lâu rồi, có thêm tấm bản đồ nữa là có thể thực hiện kế hoạch.

- À ra thế – Cương ‘cận’, thiếu úy công binh trẻ nhất nhóm, láu táu tiếp lời – Bây giờ tôi mới hiểu tại sao ông nhịn ăn sáng. Phơi cơm khô chứ gì?

- Giờ thì chắc cậu cũng hiểu luôn tại sao tớ thường xuyên tình nguyện công tác bửa củi cho nhà bếp. Tớ đã ‘thó’ được một ít muối cục rồi – Phong quay sang Kỳ, từ đầu đến giờ vẫn yên lặng – Vấn đề đặt ra là có dám hay không…

Như bị nợ một câu trả lời từ ánh mắt của Phong, Kỳ chậm rãi:

- Dù đã linh cảm trước, ý định của cậu vẫn làm tớ bất ngờ. Trước tiên, không phải là không tin tưởng nơi cậu. Trong bọn mình, cậu là người thừa khả năng và kinh nghiệm để ‘mưu sinh thoát hiểm’. Tớ chỉ thắc mắc, một khi thoát khỏi nơi này, bọn mình sẽ làm gì khi chưa biết rõ tình hình bên ngoài ra sao. Không lý cứ luẩn quẩn mãi trong rừng hay lại mò về Sài Gòn để bị ‘hốt’ một cách lãng xẹt? – Trong thâm tâm Kỳ muốn nói: Tôi thiếu trong người dòng máu biệt kích của anh, tôi chỉ dũng cảm chống lại tử thần khi đứng sau lưng bệnh nhân. Nếu bắt phải đối mặt thì rõ ràng tôi sợ chết hơn ai hết.

- Không phải. Tôi không tính đến chuyện về Sài Gòn. Anh nên nhớ, tôi đã từng hành quân ở vùng này. Tây Ninh gần Campuchia hơn Sài Gòn. Không lý nào bỏ đường gần để chọn đường xa? Không lý nào từ một cái hộp nhỏ lại chui vào một cái hộp lớn? Tôi sẽ sang Campuchia. Từ Trảng Lớn đến Xa Mát, Thiện Ngôn rồi lần sang Campuchia mấy hồi. Vấn đề là làm sao mò được đến Thái Lan.

- Thế cậu đã có kế hoạch cụ thể nào chưa? – Chương ‘chuồn chuồn’ lên tiếng.

- Đại khái là có 3 giai đoạn. Tạm gọi là Bravo 1: thoát khỏi Trảng Lớn, Bravo 2: xâm nhập Campuchia và Bravo 3: mò sang Thái Lan.

- Nghe cứ như hành quân biệt kích – Cương ‘cận’ phụ hoạ.

- Không phải. Đây chỉ là phần thực hành của môn ‘mưu sinh thoát hiểm’ mà các cậu đều học qua ở quân trường. Hiện giờ tớ chỉ có kế hoạch cụ thể cho Bravo 1, còn 2 giai đoạn sau sẽ tùy cơ ứng biến. Cái khó của Bravo 1 là làm sao di chuyển từ đây đến phi trường L19 cũ. Qua những lần công tác gỡ vỉ sắt phi đạo tớ đã điều nghiên khá kỹ. Đoạn đường từ trại tới đây khoảng 1 cây số nhưng phải vượt qua trạm vệ binh của đến 3 tiểu đoàn đóng suốt dọc đường. Đáng gờm nhất là những toán tuần tiễu của trung đoàn, mình không nắm được quy luật về giờ giấc.

- Chuyện này gay đấy Phong à – bác sĩ Kỳ dè dặt – Đó mới là quyết định thành bại. Hai nữa là không thể kéo đi ào ào cả bọn, phải chia thành toán nhỏ, gọn nhẹ. Hiện giờ tớ chỉ nghĩ được đến đó, cần thêm thời gian để cân nhắc.

- Đúng – lâu lắm rồi mới được nghe chữ ‘đúng’ thay vì ‘không phải’ cố hữu của Phong – Đây là vấn đề sinh tử. Mỗi người cần suy nghĩ chín chắn trước khi quyết định có nên tham gia hay không. Thôi, khuya rồi, mình nên giải tán kẻo gặp toán tuần tiễu là rắc rối đấy.

Phong uể oải cất ca nước xuống gầm bàn. Anh nghĩ, tôi linh cảm mình sẽ ‘solo’ trong chuyến ‘nhảy toán’ này. Thật tình trong suốt thời gian mặc áo lính biệt kích, chưa lần nào tôi phải ‘solo’. Nhảy ‘solo’ là một hình phạt quen thuộc của Lực lượng đặc biệt dành cho những tay ba gai, quan cũng như lính: uống rượu say phá phách, đánh lộn, nổ súng bậy bạ…

Anh chỉ có 5 phút chuẩn bị cho chuyến nhảy solo. Trước khi lên trực thăng, anh nhận một bản đồ của vùng được thả và rồi… Go!!!. Lần mò từ rừng về được với đơn vị là đã thi hành xong án phạt. Gian khổ nhưng đó cũng là một bài tập chiến thuật giúp người lính thêm kinh nghiệm ‘mưu sinh thoát hiểm’.

***

Phần ăn sáng của 4 người, trừ Phong, đã được hâm lại trong chiếc lò dã chiến làm bằng vỏ đạn 105 ly. Dĩ nhiên, đây là công trình của thiếu úy công binh Cương có biệt danh ‘Cương cận’ vì lúc nào cũng kè kè cặp kính cận. Cương ‘cận’ đã phải mất một ngày loay hoay đục ngang thân vỏ đạn làm cửa lò để châm củi. Phía trên thân vỏ đạn anh soi 4 lỗ để luồn 2 sợi kẽm gai làm giá nâng lon Guigoz nằm lọt thỏm trong lò.

Sự khéo tay của Cương đã lan truyền lên đến cán bộ tiểu đoàn. Một hôm cán bộ quản giáo xuống tận nơi gặp Cương, mang theo ít gỗ thùng đạn với lời nhờ vả:

- Anh đóng hộ tôi cái để dê non nhé.

Cương hì hục đóng cái chuồng khá đẹp để anh quản giáo nuôi dê. Lúc giao chuồng anh cán bộ lộ vẻ bất mãn:

- Anh đóng thế này thì làm sao tôi để dê non?

- Thì tôi đã đóng cho anh cái chuồng có cả cánh cửa rất tiện cho anh nhốt dê con…

- Giời ạ! Tôi nhờ anh đóng cái thùng để cất máy truyền hình dê non chứ cái chuồng này dùng thế quái nào được.

Tới lúc này Cương mới kịp hiểu ra anh quản giáo mới tậu được cái TV đen trắng ‘second hand’ hiệu Denon nên muốn có cái hộp chứa TV cho đẹp. Ai dám bảo là dân ‘ngụy’ miền Nam hiểu hết những gì người miền Bắc xã hội chủ nghĩa nói!

May mắn cho những người cải tạo khi được đưa về đây, căn cứ Trảng Lớn thuộc Sư đoàn 25 Bộ binh thời trước. Trong số những vật phế thải nằm vương vãi khắp nơi ở căn cứ, người cải tạo tận dụng triệt để những thứ họ có thể săn nhặt được: thùng đạn trung liên, đại liên bằng sắt được dùng như chiếc vali Samsonite để cất giữ những ‘báu vật’ như đường thẻ, thuốc rê, kim chỉ…

Bao cát đắp công sự phòng thủ được tận thu, giặt sạch và may lại thành những tấm chăn đắp hoặc, nếu khéo tay hơn, được biến chế thành những chiếc nón rộng vành rất hữu dụng trong việc che nắng, che mưa những khi lao động ngoài trời. Thậm chí có những anh thợ may ‘bất đắc dĩ’ đã dùng bao cát làm vải để may áo sơ mi ‘mousseline’ rất phong phanh và thoáng mát trong những ngày nóng nực.

Bao cát còn được tháo ra từng sợi, xe lại thành giây thừng để múc nước giếng. Gàu múc nước được ‘gò’ từ những tấm tôn, người ta còn ‘gò’ nồi nấu ăn, ca uống nước. Thậm chí có những anh khéo tay còn làm được cả đàn guitar để tối tối lén tổ chức văn nghệ bỏ túi, hát nhạc vàng.

Cũng có những nhóm mê truyện Kim Dung quây quần bên người kể chuyện để nghe lại “Cô gái Đồ Long”, “Lục mạch thần kiếm’, “Lộc đỉnh ký”… Người kể chuyện có bộ óc thật phi thường, anh nhớ vanh vách theo thứ tự, lớp lang từng bộ truyện. Anh có biệt tài kể chuyện như đọc trong sách ra.

Còn rất nhiều đạn dược chưa nổ nằm vương vãi khắp nơi. Người cải tạo đã cưa đạn M79 để làm những vật trang sức và cất kỹ những món quà đó trong samsonite để chờ ngày ra trại mang về làm kỷ niệm cho người tình, vợ con hoặc anh chị em. Thế nhưng, cũng có người đã phải trả giá quá đắt khi đạn nổ.

Có những lúc trại cải tạo trong giờ nghỉ biến thành xưởng thợ. Nơi đây, người ta mài dũa những thanh nhôm săn nhặt từ xác máy bay ở phi trường L19. Thành phẩm là những chiếc lược, chiếc vòng, chiếc trâm cài tóc được ‘xủi’ hoa văn cách điệu mà chỉ những ‘nghệ nhân cải tạo’ mới có đủ kiên nhẫn, óc sáng tạo và thời gian để hoàn thành.

Anh không có hoa tay để làm những kỷ vật thì có người khác sẽ chế tác giúp anh và dịch vụ của họ được trả bằng những miếng đường thẻ, đơn vị tiền tệ duy nhất trong thế giới cải tạo. Thỉnh thoảng trại vẫn tổ chức các chuyến mua hàng ở chợ Long Hoa, Tây Ninh, do cán bộ trại phụ trách. Đường luôn luôn chiếm ngôi vị hàng đầu trong danh sách mua hàng. Trong điều kiện sống thiếu chất ngọt, những miếng đường thô màu vàng được sơ chế từ mía trở thành nguồn dinh dưỡng quý giá, chẳng khác gì những cây vàng được coi là thước đo sự sung túc của người dân lúc Sài Gòn sụp đổ.

Thời gian đầu khi mới đến Trảng Lớn đã có không ít tai nạn nổ mìn, đạn trong công tác dọn dẹp chỗ ở của người cải tạo. Bi thảm nhất là trường hợp của một người đã dẫm phải mìn chiếu sáng. Anh ta vẫn sống bình thường, đầy đủ chân tay, chỉ khác một điều là thịt da bị chất lân tinh ăn mòn từng ngày. Hoá chất lan rộng cả bề mặt lẫn bề sâu mà không có một loại thuốc nào ngăn chặn được vết loang của nó.

Nạn nhân không thể mặc quần áo vì sự ma xát gây nên những cơn đau buốt thấu xương. Trên người anh ta chỉ còn mảnh bao cát làm khố để che chỗ cần che. Ấy thế mà trong những lúc đau buốt anh ta sẵn sàng cởi bỏ nốt phần được che đậy.

Được miễn mọi công tác, con-người-lân-tinh ấy hàng ngày chỉ còn mỗi việc xua đuổi đám ruồi nhặng lúc nào cũng bu quanh chất nước vàng rỉ ra từ những vết loang của hoá chất. Anh ta vẫn sống, một-cuộc-sống-chờ-chết, một cái chết đến rất chậm nhưng cũng rất chắc.

***

Khi 5 người quây quần bên chiếc bàn ọp ẹp, Cương ‘cận’ là người đầu tiên lên tiếng:

- Hôm nay tớ đãi Phong bữa ăn sáng. Kể từ giờ phút này ‘người hùng’ phải được bồi dưỡng chu đáo…

- Không phải – Phong ngắt lời Chương với một vẻ khó chịu – Tớ chỉ là đứa bạo mồm, dám nói thẳng những suy nghĩ của mình. Còn vụ ăn sáng thì nhịn lâu đã quen rồi, có tẩm bổ lúc này cũng quá muộn. Phải thế không bác sĩ Kỳ?

- Đúng đấy. Bao tử nó không nể nang bất cứ thứ gì, trừ nghị lực. Những thằng ‘cố đấm ăn xôi’ bao giờ cái bụng cũng to hơn bộ óc.

Trong khi 4 người nhấm nháp những hột cơm để dành từ hôm qua, Phong loay hoay nấu nước chùm bao. Sáng nào cũng vậy, anh đã tế nhị nhận phần nấu nước để các bạn ăn tự nhiên hơn. Bận rộn bên lon nước cũng là cách giúp anh thêm nghị lực để trấn áp những tiếng gào thét của cơn đói triền miên, quái ác.

Phong đã từng đói trong những lần kẹt trong rừng, không đến được điểm bốc của trực thăng. Anh đã từng đói trên ‘đại lộ kinh hoàng’ ngoài Quảng Trị năm 1972. Đói giữa đống thịt người rữa nát vì gió cát. Ở đó, những mảng tay, chân không còn quân phục để phân biệt bạn-thù, quan-lính. Phong đã đói trong cái no thịt người chết. Hai bên vẫn tử thủ, vẫn nhìn thấy nhau lấp ló trong giao thông hào qua ống nhòm và vẫn ‘thăm hỏi’ nhau bằng các loạt bom, pháo. Bom đạn thừa thãi nhưng những thứ cần cho bao tử lại thiếu. Suy cho cùng, đó chỉ là những cơn đói thoáng qua thêm phần dầy dạn cho cuộc đời cầm súng. Nhưng bây giờ thì khác…

- Phong này – Phúc đã nuốt xong hạt cơm cuối cùng – Tớ đã trằn trọc cả đêm vì câu chuyện cậu nói tối qua. Tớ đã nghĩ kỹ rồi, bây giờ phải nói thẳng mà không sợ mang tiếng hèn… Tớ không đủ can đảm để theo cậu. Đơn giản chỉ vì gánh nặng gia đình, trách nhiệm với 4 đứa con còn nhỏ. Dù ngày ra trại có mịt mờ, dù phải ở đây đến bao lâu đi nữa tớ vẫn là chỗ dựa cho vợ để đứng vững nuôi con.

- Mình cũng phần nào đoán trước được ý định của Phúc – Kỳ lên tiếng – Bây giờ tớ cũng phải dứt khoát, đi hay ở. Phàm thì người ta lao vào nguy hiểm khi không còn cách giải quyết nào tốt hơn. Tớ nói thế không phải là để lao vào đấy. Tớ chỉ muốn biện minh rằng cho đến lúc này, ở vào trường hợp của tớ, chưa cần phải liều… Mỗi người trong bọn mình đều có hoàn cảnh riêng để dựa vào đó mà quyết định. Tớ không trốn vì tin tưởng rằng bất cứ chế độ nào cũng cần đến bác sĩ, cho dù sự cần thiết chỉ là giai đoạn. Chính trong giai đoạn này, ngành y tế đang thiếu nhân lực một cách trầm trọng vì số bác sĩ bỏ miền Nam ra đi quá đông. Những người có trách nhiệm nhìn rõ điều này hơn ai hết. Không có lòng thù hận nào mù quáng đến độ cứ bỏ phí những người chữa được bệnh, nhốt họ trong lao tù, trong khi ngoài xã hội có biết bao người bệnh khắc khoải chờ thầy thuốc. Không phải chỉ riêng ngành y, những ngành chuyên môn kỹ thuật khác cũng như vậy. Những người nắm vận mệnh đất nước chắc chắn phải hiểu rằng việc đào tạo các chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng và phát triển đất nước không phải là việc đơn giản một sớm một chiều. Nếu tha thiết đến tương lai, hạnh phúc của dân tộc, họ phải tạm quên xu hướng chính trị đối lập trong giai đoạn này. Năm mười năm sau, khi đã đào tạo được những con người mới của chế độ thì hãy xét đến lý lịch chính trị của trí thức miền Nam cũng chưa muộn.

- Khó tin lắm – Chương ‘chuồn chuồn’ ngắt lời – Bọn nó toàn là Tào Tháo cả một lũ. Lúc nào nhìn vào mặt bọn mình chúng chỉ thấy chữ ‘ngụy’ to tổ bố!

- Có thể đúng một phần – Kỳ tiếp lời – Tuy nhiên, những tay có chức có quyền càng nhỏ bao nhiêu thì thấy chữ ‘ngụy’ càng lớn bấy nhiêu. Những tay ở trên cao bắt buộc phải nhìn vấn đề một cách khác. Chính nhờ lý luận như vậy, nói các cậu đừng cười, tớ vẫn tin ‘ngụy’ có chuyên môn kỹ thuật sẽ được về trước. Riêng Phong, nghề của cậu là ‘bóp cò’, thuộc thành phần ‘có nợ máu với nhân dân’, cậu phải tìm cách giải quyết khác. Đó là sự hợp lý trong tính toán. Khổ nỗi về mặt tình cảm, tớ chỉ muốn cậu đừng phiêu lưu… hay ít ra cũng từ từ, chờ xem sao đã.

Nước chùm bao trong lon Guigoz sôi sùng sục, Phong rút củi ra khỏi lò và di mạnh xuống đất để dập lửa. Phong tự hỏi, ngọn lửa trong lòng mình có dễ tắt như những que củi này không?

Cộc đời Phong lúc nào cũng rực lửa. Lửa bom đạn, lửa hận thù trộn lẫn lửa đam mê. Chúng khởi đầu từ ngọn lửa bất mãn lần đầu tiên nhen nhúm trong đầu chú bé Phong chỉ biết nhìn đời qua cái thế giới thu hẹp của gia đình. Lúc nào Phong cũng lầm lì, trong lòng ôm ấp một ngọn lửa cô đơn. Hai ông anh lớn đều có thế giới riêng của họ trong khi cô em gái còn quá nhỏ để hiểu được các anh.

Ông bố có cuộc sống sôi nổi ngoài xã hội bao nhiêu thì lại nghiêm nghị trong gia đình bấy nhiêu. Ông là con người có 2 cuộc sống chính trị-gia đình tương phản nhau: một thượng nghị sĩ sôi nổi trên sân khấu chính trị và một người cha lầm lì trong gia đình.

Phong thiếu vắng mẹ từ năm 1954. Qua ký ức tuổi thơ, Phong nhớ về mẹ rất mơ hồ nhưng càng lớn hình ảnh mẹ lại càng da diết, dù chỉ sống bên mẹ chưa đầy 5 năm. Mẹ lúc nào cũng cặm cụi bên chiếc bàn viết nhỏ – bà gọi đó là án thư – đặt ngay trên tấm phản. Án thư và phản lúc nào cũng theo nhau như hình với bóng. Án thư để viết và phản luôn sẵn sàng chờ bà ngả lưng khi mỏi mệt hoặc cần suy nghĩ. Mẹ viết hăng say, chú bé Phong còn quá nhỏ để biết mẹ viết gì nhưng thi thoảng được ngồi bên mẹ chú thấy những tờ giấy chi chít chữ cùng những chỗ dập, xoá.

Năm 1954 gia đình Phong phải đối mặt với vấn đề vào Nam hay ở lại Hà Nội. Bốn anh em cũng được hỏi ý kiến: muốn theo bố vào Nam hay ở lại Hà Nội với Mẹ. Đến lượt Phong, chú bé đỏ mặt tía tai vì giận dữ: “Ông chẳng theo đứa nào hết!!!”. Lần đầu tiên xưng ông với tất cả mọi người trong gia đình đã nói lên sự bất mãn trong ý nghĩ của Phong. Rốt cuộc, mẹ ở lại Hà Nội, 5 bố con Phong di cư vào Sài Gòn. “Mẹ thích viết ở ngoài đó hơn là vào trong Nam”, chú bé Phong được bố trả lời cho câu hỏi đầu tiên và cũng là cuối cùng giữa hai bố con về mẹ.

Năm 1957, anh lớn của Phong sang Pháp du học. Vừa bắt liên lạc với mẹ ở Hà Nội được ít lâu thì có tin bà bị án 15 năm cải tạo lao động vì tham gia nhóm phản động Nhân văn giai phẩm. Đựợc tin, Phong lồng lộn, uất ức, căm thù. Đủ 18 tuổi, Phong tình nguyện vào Thủ Đức và khi ra trường, anh chọn Lực lượng Đặc biệt, một trong những binh chủng dữ dằn nhất.

Uy tín và thế lực của bố thừa sức vận động để Phong được hoãn dịch hay ít ra cũng về Tổng tham mưu làm ‘lính kiểng’. Thế nhưng, tính ương ngạnh, lầm lì khiến anh nói thẳng với bố: “Con đã đủ lớn để tự quyết định cuộc đời mình”. Từ đó, cuộc đời Phong rừng rực lửa… lửa cô đơn âm ỷ trong lòng… lửa tàn khốc hừng hực trong cuộc chiến.

***

Có tiếng Cương ‘cận’ tham gia câu chuyện:

- Suy luận theo bác sĩ Kỳ thì tôi cũng có phần nào hy vọng về sớm. Công binh cũng là một ngành kỹ thuật, may ra được ‘chiếu cố’ cho về xây dựng đất nước… Nói cho vui vậy thôi chứ thật tình về hay ở đối với tôi không quan trọng. Vợ con thì chưa có, còn mỗi bà mẹ già lại ở tận Cà Mâu nên lắm lúc tôi thấy ở trại cải tạo lại đâm ra thú. Ở đây bận rộn cả ngày, hết chế cái này lại sửa cái nọ, cơm nước lại có nhà nước lo. Tự nhiên tôi thấy mình sống có ý nghĩa trong những công việc vặt vãnh không đâu. Lao động là cha đẻ của nguồn vui. Ai nói câu đó hả thầy Phúc?

- Voltaire. Mà sao hôm nay cậu lại đâm ra triết lý thế?

- Thôi, tạm gác chuyện triết lý – Chương ‘chuồn chuồn’ trở lại vấn đề – Trong bọn mình như thế là còn mỗi tớ chưa có ý kiến. Tớ quyết định theo Phong… Tớ không đủ tiêu chuẩn để về xây dựng đất nước. Cho dù có được về chăng nữa cũng không chịu được cảnh ‘hàng thần lơ láo’. Tớ cũng chẳng nặng gánh gia đình như Phúc, cũng chẳng tìm được nguồn vui ở đây như Cương… Đã trót mang tiếng là dân ‘bay nhảy’ thì con chuồn chuồn này không lý nào lại chịu gãy cánh trong trại cải tạo.

***

Chương ‘chuồn chuồn’ không gãy cánh nhưng Phong 81 đã ra đi. Chuyến ‘nhảy toán’ của Phong thật đột ngột. Sáng hôm đó, cả đội phát giác sự vắng mặt của Phong khi sửa soạn phân công tác lao động. Bốn người trong nhóm biết sớm hơn những người trong đội khi quây quần quanh chiếc bàn gỗ ọp ẹp. Họ nhìn Chương bằng ánh mắt dò hỏi, không ai dám lên tiếng trước. Sau một lúc yên lặng đầy căng thẳng, Chương thì thầm:

- Phong ‘dọt’ đêm qua rồi. Theo kế hoạch, tụi này xuất phát vào nửa đêm. Phong luồn qua được hàng rào kẽm gai tiểu đoàn rồi băng qua đường an toàn. Mình chuẩn bị theo chân thì bất ngờ toán vệ binh tuần tra của trung đoàn xuất hiện. Mình chờ khoảng 3 phút rồi làm tín hiệu mà chẳng nghe Phong đáp lại. Có lẽ Phong đã thấy vệ binh nên phải tránh xa mặt đường. Cuối cùng mình quyết định không vượt hàng rào. Không liên lạc được với Phong, quả thật mình không đủ can đảm thực hiện ý định nữa. Chỉ trong 3 phút mọi chuyện đã thay đổi ngoài dự tính…

Ba phút. Âm thanh của hai chữ đó vang lên trong lòng Chương. Trách thời gian ư? Tôi đã đổ hết lên đầu thời gian trong khi Phong sẽ cám ơn nó: nếu chậm đi vài phút chắc chắn anh đã bị phát hiện khi băng qua đường. Tôi chỉ là thằng hèn.

Thời gian sẽ không tha thứ cho những gì tôi không làm. Sự can đảm không thể nào bị mạo trang. Nó là một đức tính không thể nào giả dối đánh lừa được người khác. Lòng can đảm của Phong gia tăng khi anh dám làm và sự hèn nhát của tôi nổi bật khi tôi do dự. Có đúng là 3 phút? Hay đó chỉ là con số được tôi bám víu để biện minh cho sự hèn nhát của mình?

Tôi đã từng bay những chuyến rescue. Trực thăng dưới bàn tay điều khiển của tôi như một hòn đá rơi xuống mặt đất giữa lưới đạn tua tủa từ dưới đan lên. Tôi lao vào lưới đạn để cứu một thằng bạn phi công cùng phi đoàn bị gãy cánh hay cứu những người lính không quen tên bị thương nằm lại trên chiến trường. Sinh mạng của họ được quyết định bằng những bước chân lặng lẽ, vô tình của thời gian. Can đảm? Anh hùng? Nhân đạo? Tôi đã sống và thoả mãn trong đám ngôn từ thiêng liêng đó.

Ấy thế mà đêm qua… người anh hùng ngày nào nằm run bên hàng rào kẽm gai, lo những bước chân dép lốp cao su bất ngờ dừng lại. Tôi đã phản bội chính mình và quan trọng hơn cả, phản bội lòng tin của người bạn vẫn hằng đặt nơi tôi.

Chiến tranh đã dậy cho Phong một tinh thần đồng đội. Chính anh đã nhịn phần ăn sáng của mình để phơi cơm và chia đều cho tôi trước khi xuất phát. Chính anh đã dành đi bước đầu để dẫn đường trong cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm. Và cũng chính tôi, chỉ trong vài phút ‘tham sống, sợ chết’ đã bỏ rơi đồng đội. Tôi chỉ là một thằng hèn, không hơn không kém.

***

Hai hôm sau, đội nhận được lệnh đi công tác đột xuất vào buổi chiều. Tiểu đoàn phân công đích danh Phúc, Kỳ, Chương, Cương mang theo cuốc xẻng. Hôm trước họ phải viết lý lịch, làm kiểm điểm báo cáo sự việc có liên quan đến việc trốn trại của Phong. Nội dung công tác buổi chiều không được phổ biến trên tiểu đoàn. Vệ binh dẫn họ và một số người học tập từ các tiểu đoàn khác đến phi trường L19 cũ.

Bãi đất trống trên phi đạo đã có mặt những người cải tạo thuộc 4 tiểu đoàn. Họ được tập họp thành đội, cách biệt hẳn nhau để tránh tiếp xúc. Những người cải tạo được gọi đi chiều nay lòng đầy thắc mắc. Đã có người lạc quan, nghĩ đến chuyện được về. Chỉ 4 người mang cuốc xẻng linh cảm được một điều mà họ không dám nói ra. Tại sao lại cuốc xẻng?

Phi trường L19 là đất hứa của Phong trong kế hoạch Bravo 1. Nơi đây, gió chiều thoang thoảng đang lùa dần hơi nóng cháy da của đất Tây Ninh. Ngọn núi Bà Đen ngả sang màu xám trên nền ráng trời vàng nhạt.

- Toán công tác đâu?

Bốn người mang cuốc xẻng bước ra khỏi hàng giữa sự ngạc nhiên của đám người cải tạo đang xầm xì bàn tán. Một cán bộ trung đoàn đưa cho họ khúc cây dài khoảng 2 thước. Chương vác cây lên vai, lục tục theo sau là Phúc, Kỳ và Cương. Đi khoảng 50 mét họ được lệnh dừng lại. Công tác của họ là đào một lỗ sâu khoảng 30 phân rồi chôn cọc.

Cả 4 người không hẹn mà cùng thoáng rùng mình. Linh cảm của họ đã thành sự thật mất rồi. Bốn người lặng lẽ đào lỗ. Họ làm việc như một cái máy trước những cặp mắt chăm chú theo dõi của cán bộ và vệ binh. Những người cải tạo chứng kiến việc đào lỗ chôn cọc với một tâm trạng hoang mang vô tả. Họ không thể nào đoán trước được chuyện gì sắp xảy ra tại đây.

Bốn người vây quanh một cái lỗ nhỏ trở thành quá đông. Trong khi chờ các bạn xúc đất, Chương đứng dựa cán cuốc, tay chống nạnh trong tư thế nghỉ ngơi bất cần. Mắt anh nhìn thẳng vào cán bộ và vệ binh. Phi trường bỗng rộng hẳn ra trong bầu không khí căng thẳng, lặng lẽ của một buổi chiều sắp hết.

Từ xa thấp thoáng một đám vệ binh đang tiến dần đến khu tập họp. Chương nhận ra Phong ngay. Giữa đám vệ binh cầm AK, Phong nổi bật với dáng đi loạng choạng, ngả nghiêng, vùng vẫy. Có tiếng người gào thét từ xa vọng lại. Đám vệ binh dừng bước vây quanh Phong. Khi họ tiến đến gần hơn, Chương nhận ra một miếng giẻ vừa được buộc ngang mồm Phong.

- Anh kia, lấp đất nhanh lên, nhìn gì?

Ba người hì hục nện đất quanh chân cọc. Chương vẫn đứng sững nhìn Phong đang tiến đến mỗi lúc một gần. Mắt họ đã gặp nhau. Phong vùng vẫy giữa hai vệ binh, cặp mắt rực lửa. Những âm thanh bị miếng vải bịt miệng chặn lại chỉ còn là những tiếng ú ớ không thành lời. Khi đến gần cọc, tay Phong đã bị vệ binh khoá chặt.

- Về chỗ.

Bốn người bạn cùng thau cơm nhìn Phong lần cuối trước khi rời cây cọc xử bắn người bạn vừa được chính tay họ dựng lên. Ánh mắt đỏ ngầu của Phong vẫn hướng về phía họ. Chương vẫn bắt gặp tia nhìn đó khi anh là người duy nhất trong bọn ngoái cổ lại nhìn trên đoạn đường về chỗ.

Trong cái yên lặng chết chóc của một buổi chiều tắt nắng, giọng cán bộ trung đoàn vang lên:

Lệnh tử hình.

Đảng ủy và Bộ chỉ huy trung đoàn quyết định xử bắn tên Nguyễn Thế Phong, trung úy ngụy quân, sinh năm 1947 tại Hà Nội.

Tên Phong là thành phần nguy hiểm đã bỏ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 để theo chân thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chống phá cách mạng. Hắn là một tên sĩ quan biệt kích gây nhiều nợ máu với nhân dân, đã ngoan cố không chịu học tập cải tạo, âm mưu trốn trại và có ý đồ dùng lựu đạn chống lại lực lượng vũ trang quân đội nhân dân.

Xét mức độ trầm trọng của hành động phản cách mạng, Đảng ủy và Bộ chỉ huy trung đoàn quyết định thi hành bản án tử hình tại chỗ để làm gương cho những tên ngoan cố khác không an tâm cải tạo và có ý đồ chống đối cách mạng…

Những người cải tạo được các tiểu đoàn chỉ định đến phi trường L19 chiều nay bỗng giật mình hiểu được lý do tại sao họ có mặt tại đây. Họ hiểu buổi xử bắn hôm nay là một lời cảnh cáo bằng máu chứ không còn bằng ngôn từ…

Phong bị dẫn đến cây cọc, hai cánh tay bị trói quặt sau lưng và buộc chặt vào đó bằng sợi dây xe từ những sợi bao cát, công trình của những người cải tạo. Phong vẫn vẫy vùng trong tuyệt vọng. Không như bất cứ một tử tội nào trong giờ hành quyết, cặp mắt anh vẫn trừng trừng nhìn vào đám vệ binh xếp hàng ngang trước mặt đang chờ lệnh nhả đạn.

Bản án vừa đọc xong, người cán bộ ra lệnh cho vệ binh chuẩn bị vào thế bắn quỳ. Sáu họng súng AK hướng về phía Phong.

- Bắn!

Loạt đạn vang dội giữa khoảng mênh mông của phi trường L19.

Phong đã từng nói: “Ra đến đây là an toàn, cầm chắc được sự sống”. Nhưng cũng chính nơi đây, thân thể anh nẩy lên, giãy dụa trong loạt đạn bắn cách đó chưa đầy 10 mét. Đầu anh vẫn lay động nhưng không còn sức vùng vẫy như trước đó vài giây.

Người cán bộ trung đoàn tiến đến bên tử tội. Khẩu K54 được rút ra khỏi bao, mũi súng hất đầu Phong sang phía bên kia để nhận ‘phát ân huệ’ cuối cùng.

- Các đội về trại. Toán công tác ở lại làm việc.

Họ là 4 người cải tạo duy nhất được đến gần xác tử tội. Thân xác đó giờ đây không còn đứng vững trên đôi chân, nó được treo trên hai cánh tay trói quặt vào cọc. Phải khó khăn lắm Chương mới tháo được sợi dây trói bị căng lên vì sức trì của thân thể.

Khi dây được được gỡ, ba người vội vàng đỡ lấy đống thịt mềm nhũn chực đổ nhào xuống đất. Máu loang khắp chiếc áo kaki lính ngụy do trại phát. Máu vẫn rỉ ra từ những lỗ đạn AK. Một viên đạn ‘lạc’ xuyên qua miệng Phong làm đứt miếng giẻ bịt miệng. Tài thiện xạ của một anh vệ binh nào đó đã vô tình trả lại cho Phong ‘quyền tự do ngôn luận’ đúng vào lúc Tử thần vung lưỡi hái.

Theo thói quen nghề nghiệp, bác sĩ Kỳ kín đáo cầm cổ tay Phong để tìm mạch. Yên lặng. Tất cả đều yên lặng trong không khí lạnh lùng của Thần chết. Phúc đứng lên, nhìn thẳng vào mắt người cán bộ. Anh trịnh trọng cất lời:

- Xin phép cho chúng tôi được vuốt mắt người chết.

Câu nói chân thành và thái độ thẳng thắn đó có lẽ đã thuyết phục được người cán bộ. Sau cái nhíu mày, anh ta lặng lẽ gật đầu. Cặp mắt người chết vẫn đỏ ngầu, trợn trừng nhìn về phía trước. Phải ba lần vuốt xuống hai mí mắt mới chịu khép kín để xoá mọi hình ảnh của thế giới hữu hình.

Kỳ được vệ binh đưa một cái cáng xếp, loại băng ca vẫn thường được dùng trong các quân y viện. Kẹp trong cáng là tấm chăn bằng vải lính ‘ngụy’ của Phong mà các bạn cùng thau cơm đã cẩn thận xếp vào túi khi tiểu đoàn ra lệnh nộp toàn bộ đồ dùng cá nhân của Phong còn để lại.

Bạn bè nộp chăn với hy vọng ngộ nhỡ Phong không thoát, tấm chăn sẽ giữ ấm cho anh được phần nào giữa cái lạnh sắt thép của Connex, một khối vuông bọc sắt, mỗi chiều 2 mét được trại dùng làm xà lim kỷ luật.

Chăn của Phong cũng giống như bất cứ tấm đắp nào của người cải tạo. Đó là tài sản nhà nước duy nhất mà trại cấp phát để chống lại hơi lạnh toả ra hằng đêm từ núi Bà Đen. Theo thông báo của Ủy ban Quân quản Thành phố, đi học tập chỉ 10 ngày, nên ít ai nghĩ đến việc mang theo chăn đắp trong những đêm đông.

Trại phát tấm đắp cắt ra từ những xúc vải kaki rằn ri của lính dù ngày trước còn để lại trong kho quân nhu căn cứ Trảng Lớn. Mỗi người cải tạo được phát một mảnh chiều ngang 1m2, chiều dài 2m và đó cũng là tấm vải liệm đồng thời là quan tài cho Phong.

Tấm đắp được trải lên mặt băng ca loang lổ những vết máu của biết bao người đã từng nằm trên đó. Bốn người bạn cùng nhấc bổng thân xác mềm nhũn của Phong, máu nhỏ giọt từ những lỗ đạn AK trổ ra phía lưng. Máu bắt đầu thấm loang tấm vải liệm. Phải khéo léo lắm họ mới không để Phong bị hở đầu, hở chân trên suốt đoạn đường cuối cùng đi vào lòng đất.

Chiếc băng ca được cả 4 người cải tạo cùng khiêng. Thật ra thì chỉ cần 2 người nhưng ‘nghĩa tử là nghĩa tận’ nên ai cũng muốn chung tay đưa bạn đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Nghĩa trang của trại nằm sát hàng rào căn cứ. Nơi đây đã có hơn 10 nấm mộ của những người cải tạo đã đầu hàng Thần Đói, Thần Bệnh Tật và Thần Tai Nạn. Giờ đây, Phong là thân chủ đầu tiên của Thần Bạo Lực.

Sau khi được cán bộ chỉ định nơi đào huyệt, những người cải tạo lặng lẽ làm việc. Họ cuốc, họ xúc đất với một ý thức trách nhiệm và kỷ luật lao động chưa từng thấy trong đời cải tạo. Trước các xác chờ chôn chắc hẳn có hai luồng tư tưởng. Cán bộ và vệ binh chắc chỉ mong cho chóng xong còn về ăn cơm. Người cải tạo chắc cố chôn cất bạn cho chu đáo. Còn người chết không hiểu đang ‘nghĩ’ gì? Chỉ chắc chắn một điều là bạo lực đã tước đoạt quyền làm người của anh.

- Thôi, được rồi.

Nếu không có lệnh dừng, những người cải tạo vẫn cố đào huyệt sâu hơn nữa. Đối với người chết, một nấm mộ nông sâu chẳng có nghĩa gì, nhưng với người sống, đó là cách biểu lộ những tình cảm riêng tư đối với người đã ra đi không nhang, không khói.

Cuối cùng, xác Phong đã nằm yên trong lòng đất. Chương đánh dấu mộ bia bằng cách cắm một cành cây khô giữa cái nhíu mày của người cán bộ. Trong ánh sáng mờ nhạt của một ngày sắp tàn, đám vệ binh dẫn 4 người cải tạo lần lũi về đội.

Một Thời Để Thương Yêu

Ă

n chén cơm sáng vừa xong thì từ đầu cổng trại đã vang lên tiếng còi thật to, thật khỏe của gã sĩ quan quản trại có dáng người đẫm thấp rắn chắc của một nông dân chất phác- làm lay động khu rừng buổi sớm còn mờ sương. Đã thành lệ, khi tiếng còi của ông vang lên giữa núi đồi yên vắng này như tiếng thét dõng dạc đầy uy quyền, thì tất cả đều biết rằng sẽ có chuyện gì quan trọng sắp xảy ra- và họ đều khẩn trương tập hop ngay-không ai được chễnh mảng. Kha đã vào hàng- im lặng- và nghĩ tới các tin đồn buổi chiều hôm qua được rỉ tai nhau rằng sắp dời trại đi nơi khác. Kha có thoáng nghe, nhưng không hề để ý, hay bàn tán rầm rì với gương mặt đầy lo lắng như những anh em khác. Có lẽ, vì không biết chuyên gì nữa để “ bàn tán” với nhau-nên họ thường ngồi tụ lại vài ba người, bàn tin này-tán chuyện kia, nhưng mọi chuỵện không vượt ra ngoài khu trại đang bị giam hãm. Với Kha, biết thêm tin tức gì lúc này, cũng có vẻ như một sự lố bịch, hài hước, hay vô ích! Ở đây-hay dời đi chốn nào - cũng vậy thôi. Cũng núi rừng vây hãm…

Đúng như tin đồn-gã sĩ quan trưởng trại đứng trước đám tù binh - ra lệnh: “Hôm nay chúng ta dời khỏi khu trại tập trung này, để biên chế đến các trại quản lý của quân khu- để bắt đầu bước vào học tập cải tạo... Tôi cho anh em 15 phút về lán thu xếp đồ đạc, tập họp lại khi nghe tiếng còi!“.

Mọi người chạy ùa trở về lán, vội vàng thu xếp những vật dụng lỉnh kỉnh vào xách tay, hay ba lô-hay trong bao bố chứa gạo xin được từ nhà bếp. Đa số bị dồn bắt từ các mặt trận Tây Nguyên, Duyên hải Trung phần được đưa về đây, ngoài bộ quân phục trên mình, không ai có gì. Qua mấy tháng tập trung, có người được người thân biết tin lui tới thăm nuôi mang cho những chiếc lon Guigoz, lon sữa, hay bình đoong, cà mèn nhôm, chiếc mùng, vài bộ áo quần civil; nhưng phần đông gia đình của những anh em gốc gác miền Nam, hay phía bắc-không ai biết dược tin tức, nên không tìm đến thăm được. Họ tự chế ra những vật dụng cho mình bằng những thứ gì nhật được trên đường đi khuân vác gạo, thực phẫm, hay ở những đống rác dọc đường.

Trong những chuyến đi chuyễn gạo, vác mì, hay làm nương gần đường liên huyện-họ đã tìm xin được những chiếc lon thiết cũ sét, những bao ny lông gói hàng, hay những cái chén đất nung về kì cọ chế biến để sử dụng hằng ngày như một vật bất ly thân. Kha thuộc nhóm người nhập trại tập trung sau cùng nên những vật dụng cá nhân đã được Khánh chuẩn bị chu đáo.

Hôm nhìn Khánh loay hoay với những thứ lỉnh kỉnh mỗi lúc một nhiều-Kha cười: “Em làm như đi là đi biệt sao mà bắt anh mang nhiều thứ vậy? Chỉ vài tuần là anh sẽ về thôi mà-cán bộ tiếp nhận ở phường đã nói vậy rồi! “.- Khánh lặng yên-vẫn cứ điềm nhiên làm theo ý mình. Khi đã cột xong dây buột ba lô căng phồng-nàng nhìn Kha đăm đắm: “Anh chịu khó mang theo đi! Lên ở trên núi rồi, khi cần thì anh biết tìm ở đâu?“. Và, quả vậy - khi mới nhập vào trại chưa được một tháng - Kha cảm thấy, những món Khánh bỏ vào ba lô, không có món nào thừa-ngay cả chai dầu Miên mà anh cứ nằng nặc đòi bỏ lại cho nàng, ngay cả hộp dựng kim chỉ, những hạt nút rời mà Kha nói đùa là “Em muốn anh trở thành thợ may hay sao?“ . Lên trại, chiếc ba lô của anh treo ở đầu lán nơi góc sạp nằm ngủ là “địa chỉ” của cả lán mỗi khi họ có việc cần. Từ chiếc hộp dao cạo râu, ống nhựa đựng kim chỉ, cho đến những vỉ thuốc kháng sinh trị bá chứng...

Theo hàng 1, cả trại lũ lươt, thầm lặng, với túi xách lỉnh kỉnh mang xách luộm thuộm vượt qua khu rừng đèo dốc khe suối, tiến ra con lộ dẫn xuống huyện lỵ Minh Xuân. Dọc con dường, đã có 9 chiếc xe hàng nối đuôi nhau nằm chờ từ lúc nào. Theo lệnh của gã sĩ quan quản lý, từng nhóm lên xe-ngồi yên vị trí, để được kiễm diện lần cuối. Ngồi yên trên xe, điều Kha nhận ra đầu tiên là

“không khí"

. Không khí ở đây-cách xa khu rừng chỉ vài cây số, nhưng nghe

“rất lạ”

! Nó hình như nhẹ hơn, tươi, và mát mẻ hơn! Kha hít thở, thoải mái như chưa từng được hít thở, cho dầu anh chỉ mới được nhập trại tập trung non 3 tháng. Cái cảm giác này, khác lúc vào nhập trại-chỉ mới qua một ngày thôi-Kha đã cảm thấy da bụng mình dày lên. Da mặt cũng dày và nằng nặng. Toàn thân như được bao trùm cả một màn dày không khí u trầm, nặng nề! Cùng lúc, Kha cũng cảm thấy bước chân mình cũng không nhẹ nhàng như xưa nữa. Những anh em bị dồn về đây ngay từ ngày đầu, đã hơn 6 tháng - nên trông họ xanh mướt, da như bị căng phù, và đã có người đã nằm lại vì những cơn sốt ác tính quật ngã dễ dàng. Ba tháng đầu, ngày nào cũng vậy-sáng ra, là có lệnh

“công tác đột xuất”

. Khi thì đi chôn 1 người. Có ngày đến 2 người. Chỉ bó túm người chết trong mãnh chiếu, áo quần của họ-rồi đào lấp sơ sài quanh sườn núi. Có một trường hợp- Kha nghe người bạn cùng lán nằm gần kề kể lại-khi người mẹ trẻ tuổi, dáng rất trí thức, từ trong Nam nghe tin con đang bị tập trung lặn lội ra thăm, thì được anh dẫn ra chỉ cho nấm mộ sỏi đá. Bà lặng người đi giây lâu, không khóc - nói như thầm thì với mình:

“Vậy là một giọt máu của mẹ đã đi vào hư vô!“

- rồi bà điềm nhiên xuống làng mua cổ quan, thuê người bốc mộ con-cũng lặng lẽ, không một giọt nước mắt!

Đoàn xe đã chạy xuống huyện lỵ Minh Xuân. Những đôi mắt hai bên dãy phố bàng hoàng nhìn theo. Những đôi mắt trong xe ngậm ngùi nhìn xuống. Xe chạy. Rẽ qua quộc lộ, thẳng hướng vè thị xã. Có người hiểu rõ vị trí địa lý của tình, đã xầm xì đoán ra nơi họ sẽ đến là một miền rừng núi của huyện lỵ Minh Sơn nằm dọc liên tình lộ với Darkto.

Khi xe chạy ngang qua đoạn đường dọc thị xã, Kha bỗng nhận ra Khánh đang chạy chiếc Yamaha xanh đuổi theo chiếc xe của anh. Vì khúc dường này đông người, xe cộ qua lại tù vùng quê lên thị xã băng ngang, nên xe chạy chậm hơn. Kha nhoài người ra vẫy tay gọi Khánh. Khánh nhận biết, gắng cho xe chạy áp sát vào xe của Kha: “Anh sẽ di về đâu?“ - “Không biết!”- “Em sẽ theo xe cho đến nơi anh dừng lại!”-“Không được đâu! Em về đi!”-“ Không! Mặc em!”…

Chiếc xe Yamaha mầu xanh của Khánh đã bị che khuất sau đoàn xe nhưng mắt Kha vẫn cứ ngoái hướng xuôi theo đoàn xe dài nối đuôi nhau đang rầm rập chạy thổi bụi bốc lên mù mịt hai bên đường... Con đường dẫn lên huyện lỵ Minh Sơn đã bị bó phế từ nhiều năm trong chiến traanh nên trông gồ ghề, lở lói, thấp trũng nhiều chỗ như những vết thương trên thân thể gầy còm khô kiệt. Có lẽ tài xế có lệnh không được giảm vận tốc để đến địa điểm dúng giờ quy định nên vẫn cứ rú ga lao tới khiến cả bọn trên xe lắc lư bị nhồi lên dằn xuống ê ẩm cả người. Riêng Kha-anh vẫn đăm đăm nhìn ra ngoài cửa xe với nỗi thương cảm quặn thắt …

Khi đoàn xe vừa dừng nơi bãi đất trống cạnh bìa rừng là diểm tập kết để xe trở về lại thị xã, còn người thỉ được nghỉ ngơi đôi chút trước khi nhận cơm vắt ăn trưa để sau đó theo dường mòn vào trại đã được thông báo còn cách xa 5 cây số. thì xe Khánh chạy ào đến. Trông người và xe bạc thếch vì nắng và bui, nhưng trên gương mặt đắm đuối kiếm tìm kia - trong ánh mắt lạc loài thương cảm nọ, vẫn ngời lên một tình yêu thương da diết, son sắc không nguôi. Kha vội chạy đến “báo cáo” cùng người du kích đang ngồi canh gác dưới gốc cây đầu đường mòn để được gặp người thân. Sau một lúc giải bày, nài nỉ - Kha cũng được phép đến gặp Khánh đang tần ngần đứng chờ bên một tản đá cao nắng gắt. Kha kéo Khánh đến một bui cây to, bóng mát đủ để che cho cả hai ngồi . Khánh nhìn Kha không chớp - nàng nhìn, im lặng- như muốn thu hút hình ảnh Kha vào tận trong tâm khảm mình--giọng ướt sũng: “Anh có được khỏe không?“- Kha cầm lấy bàn tay Khánh-cúi nhìn, như thể để tìm kiếm một điều gì đã vuột mất: “Hai hôm rồi anh không được khỏe! Hình như bị sốt…” - “Mấy viên Fancida em gói theo cho anh, anh đã uống chưa?“ – “Chưa!”-“Sao anh không uống ngay đi?“ "Anh đã cho người bạn rồi!“ - “Lúc nào trại thông báo cho thân nhân được thăm nuôi, em sẽ mang lên cho anh nhé?” - “Vậy cũng được!”.

Kha giở vắt cơm ra, lấy chiếc muỗng cắt làm đôi-trao cho Khánh một nửa. Nàng lắt đầu: “Anh ăn đi! Em không đói!”- Nàng chợt cười: “Em muốn được nhìn anh ăn!“ Khánh nhớ đến hai ổ bánh mì mua vội dọc đường, và mấy bì lương khô-vội chạy đến xe-mang đến đặt trên tờ giáy báo trải trước mặt Kha: “Anh ăn đi!”. Kha cầm một chiếc bánh lép xẹp- kéo tay Khánh, ấn vào: “ Trưa rồi, dọc đường không có gì ăn đâu, em ăn với anh nhé?“. Khánh nhìn đứng lên mặt Kha với tia nhìn dịu dàng: “Anh ăn với em đi!”.

Tiếng còi bỗng vang lên-khu rừng lay dộng, tiếng gã sĩ quan áp tải ra lệnh tập hợp như thét-mọi người đã chui ra từ các bờ đá, lùm cây- đang sắp thành hàng mà Khánh vẫn còn nắm chặt lấy tay Kha .Nàng không muốn rời. Mọi người ngạc nhiên nhìn sững về phía hai người. Kha vội vàng đưa bàn tay Khánh lên môi-anh đã hôn lên bàn tay ấy thật lâu cho dầu đoàn người đã bắt đầu dược lệnh di chuyễn…

Sau gần hai tháng ổn định lán trại, và các sinh hoạt thường ngày để bước vào học tập-trại đã thông báo cho phép thân nhân đến thăm nuôi, nửa tháng một lần. Khánh đã kịp đến thăm Kha trong buổi sáng chủ nhật đầu tiên. Nhìn thấy Kha xanh mướt, phờ phạc-và có vẻ như lơ đễnh-Khánh xốn xang, gặn hỏi. Kha nhếch cười : “Anh đang bị những cơn sốt hành hạ!”. Khánh cầm lấy bàn tay khô gầy của Kha- giọng lo lắng, phân vân :“ Trong gói quà vừa gởi cho anh-em đã có mua thêm thuốc sốt rét, thuốc bổ các loại, anh nhớ uống thường xuyên nhé?“.

-Rất may là bác sĩ Hải cùng lán của anh được biên chế làm trường trạm y tế, anh ấy săn sóc anh rất chu đáo, nhưng ngặt nỗi…- Kha bỏ lửng câu nói, thẩn thờ nhìn Khánh.

-Là… thế nào? Khánh bồn chồn.

-Không đủ diều kiện, em à! Kha buông thỏng, thở dài.

Anh móc từ túi áo ra một tấm giấy, mở ra nhìn, rồi chợt hỏi: “Em xem mấy loại thuốc Hải ghi trong toa này, em có thể mua được không? “

Khánh rút tờ giấy từ tay Kha-liếc nhìn giây lâu-“Không mua ở đây được, em sẽ vào Nha trang hay Saigon mà, anh!”. “Em có đủ tiền để mua hết toa thuốc này không?“ -Khánh không trả lời câu hỏi của Kha- đôi mắt nàng chợt sáng lên - “Em sẽ xin giấy giới thiệu của địa phương, đến xin phép trại được ở lại săn sóc cho anh. Làm được gì cho anh, em cũng sẽ làm cho dù phải chết!” . .Khánh thì thầm trong tia nhìn đắm đuối : “Đời em chỉ có anh thôi! Mất anh, em còn sống làm gì nữa trên cõi dời này?“

-Không được đâu, Khánh à! Kha đăm đăm nhìn Khánh-Em ở lại không tiện mà, vã lại còn bé Tâm… Anh lo lắm!

-Em đã gởi bé Tâm cho ông bà ngoại từ lâu rồi!- nàng bỗng cười-con bé thích ở với ông bà hơn nhà mình…

Sau hơn một giờ quy định cho thăm nuôi đã hết mà Kha vẫn chưa thuyết phục được Khánh từ bỏ ý định lên ở lại trại để chăm sóc cho anh. Trong đầu anh ẩn hiện bao chuyện khó khổ, phiền lụy mà Khánh không thể chịu đựng nổi khi phải chung sống ở đây với núi rừng khắc nghiệt…

Nhưng Khánh đã xin lên ở lại bên Kha khi nhận dược tin của bác sĩ Hải cho biết Kha đã nằm mê man gần một tuần lễ nay, đang chống chọi từng ngày với những cơn sốt ác tính ngày càng nặng và sự suy kiệt trầm trọng.. Hải cho biết, anh đã cố gắng hết sức để cứu sống Kha, nhưng Kha vẫn nằm im, bất động-đến nỗi, lưng anh đang bắt đầu bị thâm lỡ. Trong bức thư ngắn nhờ người thăm nuôi chuyễn giúp-Hải viết: “(…)

Trong những cơn sốt cao, Kha rất tỉnh táo gọi tên “Khánh ơi!...”- sau đó mê sảng nhắc kể lại mọi chuyên, nói cười sang sảng như đang chuyện trò với người mình yêu vậy-anh rất đau lòng nhưng không thể làm gì được!".

Khánh đã ở bên Kha để săn sóc cho anh đến hơn một tuần, Kha mới mở mắt tỉnh táo nhận ra. Anh chỉ nhìn, rồi khép đôi mắt lại-nhưng những hạt nước mắt sau đó ứa ra long lanh như những giọt máu. Khánh đã mang lên trại không những đầy đủ những gì Hải dặn, mà còn chuẩn bị thêm rất nhiều vật dụng để săn sóc vết thương bị lở ở lưng của Kha, chăn màn thay đổi, áo quần , và cả những cục xà phòng Dove quý hiếm còn lại để dành tắm cho bé Tâm mỗi ngày.

Khi Hải đã chuyền xong đến bình serum thứ 3, Kha có thể tự ngồi dậy, không cần Khánh nâng đỡ như mọi ngày nữa. Anh ngồi dựa lưng lên vách nang tre nhìn bâng quơ ra sân trại, quang cảnh núi rừng, với đôi mắt ngỡ ngàng, xa lạ-và đượm buồn. Khánh không dấu được niềm vui đang nẩy mầm xanh lại trong tâm hồn mình-luôn cười nói mơ ước về một ngày mai Kha được trở về…Kha lằng nghe, mà lòng vẫn nao nao buồn: “Anh cám ơn em ,Khánh ạ!”-“Anh lại nói nhảm gì vậy?“ – Nàng cười: ”Bác sĩ Hải đã cam đoan với em là anh đã qua khỏi hẳn rồi-đâu còn mê sản nữa ?” – “Cám ơn em đã yêu thương anh đến vậy!” - “Trong tình yêu, làm gì có sự hàm ơn hả anh?” - Khánh nhìn thoáng lên dải nắng chiều vàng vợt trên vạt sân cỏ giữa trại-giọng mơ hồ: “ Cuộc đời này, rút lại-chỉ còn tình yêu thương thôi anh ạ!”-Nàng mỉm cười: “ Chúng ta đã sống cho nhau như vậy, mà anh? “.

Khánh đã hết hạn được phép ở lại trại...

Buổi sáng cuối cùng nàng đã cùng Kha đi dạo quanh lán khi mọi người đã được phân công từng toán đi công tác ngoài nương rẫy, hay đốn cây, chặt tre trong rừng – Kha nói: “ Em gắng săn sóc bé Tâm em nhé? “

-Vắng anh, bé Tâm là số một mà!-Khánh cười dòn-ngước lên nhìn Kha-nhưng anh cũng phải bảo trọng nhé?

-Tất nhiên rồi-Kha quay lại nhìn đứng lên gương mặt xanh xao sau bao ngày không ngủ của Khánh-anh không thể làm khổ em thêm nữa!

-Anh đừng nghĩ vậy-nàng lườm Kha âu yếm-em rất hạnh phúc được ở bên anh mà…

Trở lại nhà được một tuần thì Khánh cảm thấy người bị sốt-cơn sốt váng vất kèm theo cơn nhức đầu. Theo dõi, nàng thấy cơn sốt cao điểm vào đầu giờ buổi chiều kéo dài khoảng hai giờ. Khánh nghĩ, có lẽ cơ thể bị suy nhược vì những đêm khó ngủ ở chốn rừng núi xa lạ, cọng với nỗi lo buồn thấp thỏm theo từng cơn sốt mê sảng của Kha-nên nhờ y tá chuyền cho bình đạm. trộn với vài loại thuốc bổ. Nhưng cơn sốt quái ác không lùi bước, mà ngày mỗi đến-liên tục, và kéo dài nặng nề hơn.

Ngày Khánh được cha chở đến bệnh viện thì nàng đã bị mê sảng-cười nói lảm nhảm như một người mất trí. Nàng gầy đét, và xanh xao như người bị bệnh lâu ngày. Bệnh viện không có thuốc đăc trị dành cho bệnh nhân thường dân bị sốt ác tính nên ngoài những viên thuốc giảm nhiệt, hạ sốt thông thường-là vài loại vitamine mới được sản xuất từ các cơ sở quốc doanh.

Khánh vẫn nằm im-bất động, hai mắt nhắm nghiền-hơi thở thoi thóp, nặng nhọc.

Chỉ có người cha đã trên sáu mươi ngày đêm ngồi bên giường Khánh với chiếc quạt giấy phe phẩy.

Sau đúng ba ngày kể từ lúc nhập viện-trong một cơn sốt cao kèm theo co giật-Khánh đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc nửa đêm. Đó là ngày Mồng 4 tháng 6 năm 1977…

Rượu ngâm hà nà và tử hà xa

Thành ra ruợu hà nàm thú vật trên nguyên tắc là một thứ ruợu bổ, nhưng không ai dám nói những hàm chất tươi sống của nó có bị tiêu hủy vì ngâm rượu không? Theo sách Trung quốc Trà Tửu từ điển, rượu ngâm hà nàm nai gọi là Lộc thai tửu.

Chuyện lấy hà nàm (bào thai) loài thú không phải là chuyện lạ ở miền, nhất là những vùng săn bắn hay bẫy được thịt rừng.  Hà nàm thông thường là hà nàm nai.  Người ta ác khẩu đồn rằng các cán bộ cao cấp thích  tẩm bổ bằng “ hà nàm người”. Điều này thì tôi có nghe nhưng không  rõ, chứ những lá nhau người ( sách thuốc gọi là “tử hà xa” vì hình tròn như lá sen) thì với tư cách là một bác sĩ sản phụ khoa, tôi xác nhận là có.

Mỗi phiên trực nhà thương ở Bệnh viện Quảng đông vào hai năm 1978 – 1980, tôi được thủ trưởng Nam giao cho những lon Guigoz và dặn lấy những lá nhau con so tốt cất cho anh ấy để ngâm rượu và để “hữu nghị” với những cửa hàng ăn uống mà đổi lấy đường, bột ngọt và thịt cá. Lá nhau chứa kích thích tố Chrionic Gonadotrophin nên có một dạo dân ta có phong trào uống xia rô nhau và cấy nhau theo phương pháp Filatov của Nga. Trong thời gian tôi làm bác sĩ khoa sản, tôi được biết nhà thương Quảng Đông phân loại nhau người  như sau: loại A là nhau con so, loại B là nhau con thứ 2 mà mẹ khỏe mạnh, nhau lấy ra trọn vẹn ( hai loại A và B được đem chế xia rô), còn loại C là nhau con rạ thì đem làm thực phẩm nuôi heo. Chuyện lấy những thai nhi chết để nuôi heo thì không có như tin đồn.

Trước đây ở Liên xô, người ta nói rằng bác sĩ Bogomoletz đã dùng hà nàm người để làm thuốc cho chủ tịch Staline. Hư thực thế nào tôi không rõ, chứ điều sau thì tôi xác nhận là có thực: ở bệnh viện Quảng Đông thì máu của các sản phụ khi người ta sổ nhau được hứng rồi giao cho những ao cá bác Hồ để nuôi cá làm cá sanh đẻ nhiều, điều này cũng lô- gíc vì máu này chứa nhiều chất : ngoài kích thích tố chorionic gonado trophin., máu đẻ còn chứa những chất hữu cơ như hồng huyết tố, chất sắt v.v… Thành ra ruợu hà nàm thú vật trên nguyên tắc là một thứ ruợu bổ, nhưng không ai dám nói những hàm chất tươi sống của nó có bị tiêu hủy vì  ngâm rượu không? Theo sách Trung quốc Trà Tửu từ điển, rượu ngâm hà nàm nai gọi là Lộc thai tửu.

Về bộ phận sinh dục của thú vật, dân nhậu miền Nam còn  có rượu ngâm  hòn dái dê ( Ngọc dương tửu)! Ngoài ra, tiệm thuốc bắc bán rất đắt món Hải cẩu thận ( gồm dương vật và ngọc hoàn của hải cẩu _ Callorhinus ursinus) trị chứng hư lao, liệt sinh lý, yếu bại lưng gối. Món Đông trùng hạ thảo ( Cordyceps) cũng là một dược liệu quí trị liệt dương, di tinh , đau lưng gối bán rất mắc

Cai Tù Việt Cộng- phần 2

hật ra với chỉ tiêu này không ai 1 mình có thể tự hoàn tất. Muốn khỏi bị cắt phần ăn ít lắm 2 người phải cùng làm đổi công cho nhau mới nổi. Tính ra từ mờ sáng xách dao vào rừng, leo lên triền núi hạ xong 1 thân cột, mặt trời cũng vừa đứng bóng.

Sau đó 2 người lần lượt khiêng từng chỉ tiêu về đến trại, trời vừa sụp tối. Công việc làm đó mỗi ngày 1 người tù chỉ được ăn vài mẫu sắn có khi thối chảy nhựa vàng khè quá nửa. Thức ăn duy nhất là muối. Cai tù bắt bếp tù hoà muối hột tan trong nước rồi mỗi phần ăn múc cho 2 thìa. 

Đây là 1 trong những biện pháp ngừa trốn trại mà chúng nghĩ rằng có hiệu quả vì tù không thể tích trữ muối mang đi. Sau vài tháng liên tục đốn gỗ, nhiều người chịu không nổi đã nằm liệt dù phải nhịn ăn. Nhân tiện bọn cai tù lấy những người hết khả năng đi rừng để thành lập đội rau xanh.

Hôm thành lập đội, thằng quản giáo nói như xỉa xói vào mặt mọi người: “Các anh là những người được trại chiếu cố giao cho công tác tăng gia. Vậy các anh phải thi đua lập thành tích để chứng tỏ thiện chí học tập cải tạo. Triệt để từ bỏ ngay cái lối ăn kỹ làm dối. Nếu không đạt chỉ tiêu sẽ được cho ra lao động ngoài ngay lập tức. Các anh liệu đấy.”

Đội rau xanh gồm 25 người chia ra 3 tổ. Các tổ luân phiên làm các công việc gánh phân, cuốc đất trồng cây và tưới.Muốn có phân, toán công tác hàng ngày phải vét cho bằng hết các hầm cầu nổi của toàn trại rồi mang đổ vào hố ủ phân giữa vườn rau.

Nước thì từng cặp xuống tận suối ngoài hàng rào trại khiêng lên. Riêng đất ngày nào cũng phải cuốc xới nếu không sẽ cứng lại rất nhanh. Tuy được trại “chiếu cố” cho trồng rau như một việc nhẹ, nhưng nhờ vậy mà nhiều người cũng đã mắc bệnh kiết ly. và ho ra máu rồi chết nhanh đến không ngờ.

Khoảng 2 tháng một lần, cai tù bắt thu hoạch rau trồng. Xu hào, cải củ, phần củ mang lên nộp vào kho thực phẩm nhà bếp của bọn cai tù; phần lá được phép cung cấp cho bếp tù. Đậu đũa, bắp cải là thứ chỉ riêng nhà bếp cai tù mới được xử dụng. Tuyệt đối cấm tù đụng tới.

Khoai lang khi sắp đào củ, đọt nọn hái mang lên nhà bếp cai tù; lá già cho tù xử dụng. Nói chung tất cả sản phẩm của đội rau xanh làm ra là để cung cấp cho cai tù gồm quản giáo, vệ binh và bộ chỉ huy trại. Để bù vào đó, thỉnh thoảng trại cũng cho đội rau xanh vào rừng hái vài bồ rau tày bay, thứ rau dại, ăn nhiều chừng nào mất máu chừng đó, để bếp tù có đủ rau xanh ăn.

Sau vài lần thu hoạch, sản phẩm của đội rau xanh càng ngày phẩm chất càng kém đi. Thằng quản giáo trước còn tập họp đội lại kết tội phá hoại nhưng sau khi theo dõi thấy các tổ vẫn làm công việc đều đặn nó đến tận chỗ tìm hiểu được nguyên nhân chính làm giảm năng xuất là phân bón không đủ tốt.

Đội rau xanh được lệnh tập họp, cứ 2 người một đòn không và 1 thùng đựng phân để đi công tác xa. Trước khi đi thằng quản giáo kiểm điểm: “Hôm nay đội ta nghỉ làm việc ở nhà 1 buổi để đi ra ngoài mua phân bắc. Các anh đã chuẩn bị tốt đòn và thùng chưa?” Anh đội trưởng tù báo cáo đã chuẩn bị xong sẵn thắc mắc hỏi luôn :

- Sao mình không dùng phân trại mà lại phải ra ngoài mua?

- Phân của các anh không có đạm!

Khi mới ra Bắc, tù được nghỉ ngày Chủ nhật. Sau thấy để tù ở không 1 ngày như vậy uổng phí quá, thằng trưởng trại ra lệnh: “Để các anh có dịp phát huy thêm tinh thần lao động XHCN, kể từ nay mỗi sáng Chủ nhật, tất cả các anh phải đi rừng lấy cho trại mỗi người 1 bó củi năm mươi cân.”

Thế là Chủ nhật cũng như 6 ngày thường, tù tha hồ được lao động. Lao động chẳng những đạt mức XHCN mà còn có cơ tới thẳng luôn mức Cộng sản Chủ Nghĩa nữa. Nhờ lao động như vậy nên không người nào mặt còn hột máu. Họ bây giờ bước đi trong sân trại, chân không còn để lại rõ dấu.

Những hình hài tiều tụy kia đã nhẹ đến mức gần bay lên được tới Thiên Đường đỏ rồi. Đói quá phong trào “cải thiện” (chữ Việt cộng dùng để chỉ việc kiếm thêm đồ ăn ngoài khẩu phần được cấp) ngấm ngầm hoạt động.

Số là mỗi người tù đều mang theo ít nhất một cái lon Guigoz để đựng nước uống hoặc đồ ăn từ khi bắt đầu đi tù trong Nam. Nay ra ngoài Bắc, vật tùy thân này bổng dưng trở thành cái nồi cá nhân lưu động vô cùng hữu dụng. Thôi thì cóc, nhái, rắn, chuột, quả găng, củ mài, bất cứ thứ gì kiếm được trên đường đi lao động hàng ngày đều được cho vào nồi lén nấu chín lên ăn để khỏi phải gục ngã sớm vì những điều kiện “thuận lợi”!

Chẳng bao lâu việc làm này bị bọn vệ binh dẫn đội đi rừng hàng ngày phát giác. Người không may đầu tiên dang luộc sắn bên bờ suối bị thằng vệ binh theo tới nơi bắt quả tang. Nó dí súng vào lưng người tù quát :

- Thằng này, mày đang làm cái gì đây?

Người tù chưa kịp trả lời thì 1 báng súng như trời giáng đã nện xuống lưng. Người tù gục ngã, mồm hộc máu. Thằng vệ binh cười nham hiểm, nhìn người tù quằn quại hồi lâu nó quát tiếp :

- Đứng dậy. Một tay cầm ống bơ gô, 1 tay cầm mấy củ sắn này giơ khỏi đầu đi về trại. Mà cả gan dám ăn cắp sắn của nhân dân để cải thiện hả?

Người tù ngoái cổ lại :

- Tôi không ăn cắp. Tôi đào được bụi sắn hoang này ở trong rừng.

- Mày còn ngoan cố hả?

Một cái đạp tiếp theo của thằng vệ binh làm người tù bổ nhào. Anh loạng choạng lấy lại thăng bằng, giơ cao tang vật lảo đảo bước đi về phía trại. Thằng vệ binh vẫn dí sát mũi súng vào lưng người tù. Máu ở miệng người tù tiếp tục nhểu đầy ngực áo.

Đêm hôm đó cả trại được lệnh tập họp bất ngờ giữa lúc mọi người đang co quấp trong tấm mền mỏng không bao giờ đủ để chống lại cái lạnh tê cóng khắc nghiệt của mùa đông. Một cái bàn được kê giữa sân, hai bên có hai bó đuốc nứa.

Các đội tù tập họp vừa xong thì thằng trại trưởng, 1 tay cầm cái lon Guigoz tang vật, 1 tay cầm thanh mã tấu xuất hiện. Giữa ánh sáng chập chờn trong đêm tối, nó lù lù tiến đến sát bàn như con quỷ đội mồ. Trước mặt cả ngàn người tù đang run vì lạnh con quỷ nghiến răng, trợn mắt, gào lên :

- Kể từ giờ phút này, không một người nào còn được phép giữ ống bơ gô. Cố tình vi phạm sẽ biết tay. Cho các anh biết tôi căm thù, căm thù cái ống bơ gô này vô cùng. Mở mát ra mà coi đây!

Vừa nói tay trái nó vừa đập mạnh cái lon Guigoz xuống mặt bàn, tay phải vung mã tấu lên chặt đứt làm hai. Dưới ánh lửa bập bùng khi mờ khi tỏ hình ảnh co quỉ đỏ ghê khiếp, quái dị giơ thanh mã tấu lên cao khỏi đầu rồi chém xuống một cách đầy căm phẫn, man rợ khiến mọi người rợn tóc gáy.

Chặt xong mối thù, thằng trại trưởng ra lệnh tịch thu toàn bộ lon Guigoz ra để trước mặt. Cũ có, mới có. Người một lon, người hai lon lần lượt đều bị vệ binh và quản giáo tước đoạt nhét đầy vào bao bố xách theo.

Từ đấy để có cái đựng nước uống, mỗi người tù phải cắt lấy một ống nứa thay thế cho lon Guigoz. Ít lâu sau, bọn cai tù công khai xử dụng những lon Guigoz còn tốt của tù. Tuyệt nhiên không thấy bọn chúng bày tỏ một dấu hiệu căm thù nào đối với vật vô tri nhưng hữu dụng này.

Ở Hoàng Liên Sơn được 2 năm, bọn cai tù phát động chiến dịch đi tiền phương. Thoạt đầu qua những lời quảng cáo úp mở của chúng, mọi người còn lờ mờ về danh từ tiền phương hoặc chỉ hiểu đây là một hình thức chuyển trại. Gần tới ngày biên chế cai tù, từng đội giải thích :

_ Trại đã quyết định lựa chọn những đội tiến bộ để đi công tác ở tiền phương. Các đội đi tiền phương là những đội đã có thành tích lao động rất đáng được biểu dương. Những đội không được đi là những đội quá trình lao động chưa tích cực, năng xuất kém. Ngày mai các anh sẽ biết đội mình có được chiếu cố hay không. Tuy nhiên dù đi tiền phương hay lãnh trách nhiệm mới hay ở lại tiếp tục công tác trại, các anh đều phải chứng tỏ quyết tâm phấn đấu hơn nữa để đạt và vượt mọi chỉ tiêu giao phó.

Đến đấy, mọi người đã thấy khá rõ những gì sẽ đến trong những ngày sắp tới : một số anh em lại sắp sửa có thêm nhiều “điều kiện thuận lợi” mới.

Ba phần tư số đội trong các trại bị đưa đi tiền phương. Tiền phương không gì khác hơn là những vùng miền cực Bắc Việt Nam, giáp ranh biên giới Trung Hoa.

Sau khi các đội “tốt” được chiếu cố, các đội “kém” còn lại được dồn chung vào các trại giam gần nhau. Thời gian nặng nề trôi. Kẻ đi tiền phương với người ở lại tưởng đâu không có ngày tái ngộ. Nhưng xây dựng đâu chưa thấy, năm sau khi Trung Hoa đỏ bắt đầu dạy cho Việt cộng bài học thứ nhất thì tất cả số tù bị đưa lên vùng biên giới lại lục tục kéo về nơi xuất phát.

Trại nào cũng tiếp nhận một số người về từ cõi chết. Không một ai đi tiền phương về mà còn lại được vóc dáng cũ, mặc dù cái vóc dáng trước đó cũng đã thảm lắm rồi. Đoàn tù di chuyển vào cổng trại không khác nào những bóng ma chơi vơi trên mặt đất. Bộ đồ tù của họ đã trở thành quá rộng. Từ bộ đồ nhem nhuốc lùng thùng đó, người ta đang có cảm tưởng đang ló ra một cái đầu lâu biết nói.

Anh em quen biết chạy lại hỏi thăm nhau được biết khi Tàu cộng bắt đầu tấn công Việt cộng thì các trại được lệnh di chuyển ngay. Họ đi bộ ròng rã từ miền biên giới Hoa Việt trở ngược lại các trại giam cũ.

Tất cả đồ đoàn mang theo từ từ rơi dần trên đường về vì không ai còn đủ sức mang nổi bất cứ thứ gì ngoài tấm thân của mình. Mớ đồ tù tối thiểu đã trở thành quá nặng đối với những kẻ đang mất sức đến rụng rời. Dù sao họ cũng còn may mắn hơn non nửa số anh em đã vùi thây trước đó chưa đầy một năm. Tù bị đưa đi tiền phương chết như ra.

Có trại tù chết nhiều và nhanh đến độ cai tù phải phát minh ra một sáng kiến chôn tù rất đúng với danh xưng “đỉnh cao trí tuệ loài người” của Việt cộng. Chúng tính toán nghĩ cách đóng ra một cỗ quan tài rời, gồm 2 phần.

Phần thứ nhất là miếng ván đáy mà xác chết nằm trên đó. Phần thứ hai là cái nắp gồm những miếng ván ba dài hai ngắn. Mỗi lần hạ huyệt xong, cái nắp lại được kéo lên mang về dùng lại cho lần chôn kế tiếp. Nhờ sáng kiến mang đầy tính Đảng này, trại đã tiết kiệm cho nhà nước hàng trăm ngàn đồng về khoản tiền đóng hòm chôn tù.

Việc chuyển tù từ tiền phương về không ngừng lại ở địa phận các trại cũ. Chỉ một thời giăn ngắn sau đó, những thằng cai tù muốn ra vẻ ta đây đã cho tù biết sớm : Các anh sắp được bàn giao cho bộ Nội vụ. Cẩn thận đấy. Bên đó họ không d dãi như bên Bộ quốc phòng này đâu.

Theo thói quen dưới chế độ cộng sản Việt Nam, bọn bộ đội rất ghét lũ Công an. Có lẽ chúng ganh tức nhau về phương vị. Bọn cối xanh một thời sinh Bắc tử Nam toi mạng mấy trăm nghìn thằng, trong khi đó bọn cối vàng chuyên môn tà tà ở hậu phương lớn là miền Bắc để chỉ có nhiệm vụ canh chừng cái địa ngục nhân dân này.

Chính vì vậy bọn bộ đội thường gọi tụi công an chuyên mặc đồng phục kaki vàng là mấy con “bò vàng”. Trước mặt tù bọn bộ đội cũng muốn rỏ ra rằng chúng tử tế nhân đạo hơn mấy thằng công an chuyên nghiệp coi tù. Sự thật bọn chúng đều là cá mè một lứa. Tất cả lũ ngợm này có cùng bản chất, thứ bản chất man rợ làm nên những thằng cai tù Việt cộng dù nó là bộ đội hay công an.

Cuối năm 1980 tất cả tù đều được giao cho Công an quản trị. Phân nửa số trại tù ở Hoàng Liên Sơn chuyển tù về Thanh Hóa. Khi tiếp nhận tù các biện pháp dằn mặt của bọn công an ở Thanh Hóa đã chứng tỏ ngay sự không khác biệt giữa cai tù cối xanh hay cối vàng.

Mỗi sáng, sau một đêm nhốt kín, các đội tù phải ra sân tập họp điểm danh. Một hôm có người tù bệnh ra không nổi cố ngóc đầu dậy nhờ anh buồng trưởng báo cáo bệnh với quản giáo rồi gục xuống thiếp đi. Nhưng thằng cai tù lại muốn ra oai. Nó vào tận chỗ nằm của người bệnh ra lệnh :

- Anh kia đứng dậy ra điểm danh. Ai cho phép anh ở lại buồng?

- Tôi bịnh quá ngồi dậy không nổi nữa, đã nhờ anh buồng trưởng xin phép cán bộ.

- Mày nhất định không ra hả?

- Tôi dậy không nổi chứ không phải…

Người bệnh chưa kịp nói hết câu, thằng quản giáo tay cầm sẵn cái khóa cửa đã đập thẳng vào mặt người tù. Máu me phun ra lênh láng. Cả đội đứng ngoài sân nhớn nhác khi nghe tiếng người tù bị hành hạ kêu rên thảm thiết. Ngay khi đó hai thằng vệ binh vác súng chĩa lưỡi lê chạy vào tăng cường.

Sau khi đập vỡ mặt người tù, thằng quản giáo chưa hả giận. Đợi lúc cả đội đã ra ngoài bãi, nó dặn hai thằng vệ binh ở lại quan sát cho kỹ để nó trở về buồng giam tính chuyện. Thằng khát máu này rũ thêm ba thằng quản giáo khác đội cùng về với nó để lôi người tù bệnh ra một chỗ khuất trong trại bề hội đồng tiếp.

Khi đội trở về buồng sau giờ lao động, tất cả mọi người sững sờ, thất kinh trước tấm thân như một đống thịt mềm nhũn của người tù vừa bị bốn thằng cai ngục làm thịt.

Cứ vài ngày trong trại lại có người bị bọn cai tù kết án chống đối, phản động. Bản án được đọc cho cả trại nghe trước khi xuất trại lao tác. Sau đó người tù bị đưa đi cùm. Dĩ nhiên, trước đó là một trận đòn mềm xương.

Khi bị cùm, hai chân người tù phải xỏ vào hai lỗ cùm mà phần trên được đè xuống bằng một thanh sắt tròn. Thanh sắt này xuyên ra bức tường phía sau ngục. Phần ló được uốn thành vòng tròn để người bị cùm không thể tìm cách rút vào hòng gỡ cùm, đồng thời cũng là phần để thằng gác ngục kiểm soát.

Cách kiểm soát của thằng này vô cùng dã man. Thỉnh thoảng nó giơ chân đạp mạnh xuống vòng sắt rồi nghe xem người tù bị thanh sắt nghiến xuống hai cổ chân có kêu rú lên không. Trường hợp có người vì trận đòn khai vị, ngất đi từ trước không kêu nổi nữa, lập tức thằng vệ binh múc nước cống tạt qua khe hở thông hơi của buồng cùm.

Bị nước cống đổ xuống đầu, nnười tù tỉnh lại kêu ú ớ. Đó là cách và dấu hiệu để thằng vệ binh xác nhận được rằng tù còn trong ngục.

Tình hình biên giới Hoa Việt càng ngày càng nặng nề. Không khí chuẩn bị học bài học do người anh em láng giềng XHCN giảng dạy đã lan tới Thanh Hóa. Trong khi lao đông chung quanh trại có lần tù đã chứng kiến cảnh những tên công an biên phòng thất tán đơn vị lẻ tẻ vào trại tù xin tá túc tại Bộ chỉ huy. Bọn cai tù cũng không cần giấu diếm. Chúng nói thẳng vào mặt tù :

- Các anh đừng mơ tưởng quân Trung quốc sẽ đến giải phóng các anh. Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ giải quyết các anh trước một bước!

Giải quyết trước một bước là gì thật lòng, không người tù nào lại muốn tin rằng mình đã hiểu đúng nghĩa của thuật ngữ này. Nhưng khi các đội nhất loạt phải chuyển công tác đang làm sang việc đào ao thì mọi người bắt buộc hiểu.

Cai tù từng đội giải thích :

- Hôm nay trại ta phát động công tác đào ao nuôi cá. Các đội cho người đến kho lãnh cuốc xẻng rồi ra nhận phần đất của mình. Đây là một yêu cầu khẩn trương. Các anh cố gắng hoàn thành nhanh chừng nào tốt chừng nấy. Theo quy định, ao phải sâu 4 mét. Chỉ tiêu cho mỗi người là ba mét khối đất một ngày. Anh nào không đạt năng suất, trại sẽ cho thi hành kỷ luật ngay. Trong khi lao động cấm không được bàn tán, phao tin đồn nhảm.

Lúc bắt đầu xắn đất đội trưởng tù hỏi quản giáo về độ dốc bờ ao lấy cỡ nào thì được giải thích qua loa :

- Không cần tà ly lắm, min sao đất trên không đổ xuống là được rồi.

Chưa đầy một tuần l, chung quanh trại đã có cả chục cái ao sâu bốn thước với vách gần như thẳng đứng. Đây chính là những cái hố vĩ đại dự trù dùng vào việc chôn người tập thể. Ngày chấm dứt công tác đào ao, đoàn tù chẳng ai buồn nói với ai, nhưng những ánh mắt cùng ném vào lòng huyệt một cái nhìn lo âu. Không biết hôm nào đây chính những kẻ đào ao sẽ bị bọn cai tù bắn chết hàng loạt rồi vùi thây trong đó trước khi bọn chúng tháo chạy khỏi sự tràn ngập của quân Trung quốc.

Có lẽ tình thế chiến tranh với Trung cộng đã không cho phép Việt cộng giam giữ tù quá đông tại miền Bắc. Tù được chia đợt chuyển ngược vào trong Nam. Cai tù lại tuyên truyền :

- Anh nào vào Nam chuyến này coi như được tha một nửa rồi đấy.

Trên thực tế hầu hết họ vẫn tiếp tục ở tù triền miên trong các nhà tù do Việt cộng dựng lên ở miền Nam. Trong số đó nổi tiếng nhốt đông là nhà tù vĩ đại Xuân Lộc gồm ba trại A, B, và C. A là trại chính, B và C là hai trại phụ. Bọn cai tù đặc trách việc tra tấn tập trung ở trại A, nơi có khu kiên giam, chổ giam kín vô hạn định. Khu này là chỗ giết người chung cho ba trại. Tất cả những người bị kỷ luật của hai trại kia đều được dồn vào đây.

Màn đón tiếp sơ khởi những người mới vào kỷ luật trại A là một trận đòn tứ phương đón đả. Bốn thằng cai tù đứng bốn góc sân. Người tù tay còng bị đẩy vào giữạ Một thằng khởi động ra đòn. Người tù ngã về phía nào thì thằng tù phía đó đấm đá, lên gối tiếp.

Cứ thế bao giờ nạn nhân gục xuống bất động trên vũng máu đang hộc ra từ miệng giữa một khuôn mặt đã mất hẳn hình thù thì chúng lôi vào cùm lại. Người tù vẫn trong tư thế tay còng, chân cùm, mê man bất tỉnh cho tới ngày hôm sau.

Sáng ra bọn cai tù vào, nếu thấy chết chúng cho đem chôn sau trại; còn sống chúng lôi ra tra tấn tiếp. Lần này thì chỉ một thằng làm việc thôi vì người tù đã như cái xác không hồn. Hung thần giai đoạn này tại trại Xuân Lộc là thằng cai tù Tư Ca Rô. Mỗi khi sắp ra tay nó đều hỏi:

- Mày có biết ở đây ai là Tư Ca Rô không?

Người tù chưa kịp trả lời thì đã bị nó đá tới tấp vào mạng sườn cho đến khi khuỵu xuống. Sau đó nó bắt người tù quỳ gối ngước mặt lên nhìn thẳng vào mặt nó. Khuôn mặt bầm tím xưng húp không mở được mắt vừa nhướng lên là thằng Tư Ca Rô giơ thẳng chân đá liên tiếp vào miệng người tù.

Khi những chiếc răng gãy văng ra cùng với bụm máu đỏ tươi tung tóe trên nền xi măng, thằng Tư Ca Rô mới ngừng lại chỉ vào ngực nó :

- Tư Ca Rô là tao đây mày biết chưa. Từ nay chắc mày không thể quên được Tư Ca Rô. Còn sống mà ra nhớ nói cho bạn bè mày biết ai là Tư Ca Rô nghe chưa.

Tới ngày hôm nay trên khắp đất nước Việt Nam, bọn Việt cộng chưa dẹp bỏ bất cứ một nhà tù nào do chúng dựng lên từ trước cũng như sau năm 1975. Những nhà tù này hiện vẫn đang được thực thi đúng mức chính sách học tập cải tạo của Đảng cộng sản Việt Nam bởi những thằng cai tù Việt cộng đại loại như Tư Ca Rô của nhà tù Xuân Lộc.

Đi chợ

(HNPĐ) Dễ có hơn mười ngày tôi không vượt sông kể từ hôm nước lớn lần rồi, và kinh nghiệm cho tôi biết, nước dâng ngập bờ tre, thì chỉ khoảng tuần sau thì sẻ có măng, như vậy nếu sang được bờ bên kia lúc này tôi sẻ kiếm được khá, nếu gặp may có thể gấp đôi mọi lần. Ngay sát bờ sông số bụi tre không nhiều, tuy tin là “nhất ẩm nhất trác giai do tiền định”, nhưng cũng phải nhanh tay kẻo dân đi cấy có người ra tay trước - Thời xã nghĩa miếng ăn quí như vàng lá, dân còn đói thì lấy đâu ra cho tù.

Dịp may đã đến, hôm nay cuối tuần quản giáo giao cho đội trưởng đo chỉ tiêu trọn ngày, cuốc vồng lang mỗi người một trăm thước, và vì có chủ đích sẽ vượt sông “đi chợ”, cho ngày mai chủ nhật cải thiện. Tôi cố làm dứt ba phần tư chỉ tiêu trong nội buổi sáng, chiều đến chỉ khoảng hơn tiếng là tôi xong, gởi cuốc nhờ bạn cất tôi bươn chạy về hướng bờ sông tới chổ dấu liềm, bới lên dắt vào lưng, rồi phóng mình xuống dòng nước, thả trôi về bên kia bờ.

Giáp sát biên giới Lào, nên thoảng vùng này vẫn thường nhận những cơn gió lào nóng rát mặt thổi qua, nhưng hôm nay mây thật thấp, bước từ dưới nước lên nghe lành lạnh, trời đã trở gió. Đúng như tôi nghĩ, chỉ mới khoảng non nửa giờ, tôi đã có gần hai chục mục măng non khá ngon, thấy măng lú lên khỏi mặt đất thì ham thật, nhưng liệu bề không còn đủ thời gian đành thôi không dám xắn nữa, vả tham quá gặp nước lớn sẽ khó bơi về - Phải quay trở lại bờ sông thôi, lại còn phải lột vỏ măng.

Nhìn sang bờ bên kia sông phía nhà lô, anh em có người vẫn còn đang cuốc, hôm nay trời đột nhiên âm u cùng gió thổi mạnh, tôi về trại này được hơn năm nên biết những lúc như thế là trời sắp mưa. Thời tiết ở đây vẫn thường thế, hễ mà nước dâng cao thì thường kèm theo gió mạnh về chiều, và lần này trời lại đầy mây xám chắc chắn sẽ có mưa.

Trở lại bờ sông, bụi tre bên đường mòn khi nãy cách mép nước cả thước, nay nước lấp xấp phủ kín cả lối đi, con nước đang lên, một người dân tộc ngồi xổm bên bụi tre tự bao giờ, cái điếu cày cầm tay. Nhìn mặt sông trong cơn gió như tạo thêm sóng, tôi lột chiếc nón vải tự may xuống, moi từ trong nón ra gói thuốc lào nhỏ vê lấy một bi, rồi như thể mời thuốc, tôi cười và chìa gói thuốc về phía anh.

Anh gật gật đầu nhận gói thuốc, đồng thời trao tôi chiếc điếu - Ở vùng này chúng tôi vẫn thường gặp những anh em người dân tộc, họ ít nói giọng hơi nặng và khó nghe, bề ngoài là như thế nhưng thật ra họ thân thiện hơn ta nghĩ - Lấy từ túi áo ra một mẩu đóm dỡ cùng cái quẹt nhôm, đốt đóm cho tôi, và chờ tôi nhả khói xong anh hỏi -Anh là sĩ quan Ngụy?.

Trong cái vội, vừa lột măng vừa nhìn trời, tôi chỉ ừ hử trả lời anh - Thấy thế với con dao quắm anh phụ lột măng với tôi, xong vạt nhẹ vào thân cây tre tách lấy một sợi lạt, anh xâu những mục măng lại với nhau. Mây xám thật thấp, trời đang chuyển mưa, từng cơn gió mạnh thổi thốc tới, giờ là lúc phải vượt sông trở về bờ bên kia càng sớm càng tốt, nhìn trời tôi vội chào anh, và đưa cho anh chổ thuốc lào còn lại như thể cám ơn anh.

Lúc tôi tới được bờ bên này sông, cũng vừa lúc mưa bắt đầu lớn - Vài mục măng dại mươi con cua đồng, tuy không là cái gì lớn lao nhưng trong cảnh tù tội thì nó đôi phần giúp chúng tôi vượt qua cái đói triền miên. Thời gian này tôi ăn chung với anh Ba, tù chúng tôi thường kết bạn ăn chung, khi thì chỉ hai người tù nghèo với nhau, khá hơn thì năm ba người dư giả có thăm nuôi. Sự kết hợp này mang mỗi một ước mong là xóa bớt đi cái nỗi lẽ loi, ăn chung sinh hoạt chung, chia sẻ nhau tuy chỉ là con ốc ngọn rau, kiếm được ngoài bờ mương con suối, nhưng khiến ta vơi bớt đi những phiền muộn luôn đeo nặng đời tù.

Hơn ai hết tù chúng tôi nghiệm, cái cô đơn và nỗi buồn khiến tinh thần xuống rất nhanh, và ý chí suy sụp đưa đến cái chết của thể xác không mấy xa, vả mấy ai không cần bạn, trên đường đời càng gian nan khốn khó bao nhiêu, càng cần bạn đồng hành bấy nhiều. Anh Ba trước đây là một chi khu phó một quận của tỉnh Long An, tuy anh không gặp khó như tôi, nhưng anh cũng không phải tù giàu, anh thương tôi như em, và có ý mong chia sẻ cùng tôi, chuyện này thật khó nghĩ, tôi thì không có gì, còn anh thỉnh thoảng có quà, tuy không nhiều nhưng cũng gọi là có.

Từ khi ăn chung cùng anh, tôi ra sức cải thiện thêm đôi chút để gọi là có phần góp, hôm thì măng dại, bữa thì cua đồng, cũng có lúc rau dịu rau sam, nói chung là gặp gì tôi quơ nấy. Một lần tôi đem về hơn hai mươi con dế cơm, loại dế to bắng ngón tay, mà tôi có được do lũ choai choai xóm Giếng, trả công tôi đã hát nhạc vàng cho chúng nghe - Đào được một con dế biết bao là công sức, mà chi ra một lúc từng ấy, chứng tỏ chúng mê nhạc vàng đến là dường nào.

Chúng chuyền tay nhau cái nón vải của tôi, từng con dế đã bẻ chân, được chúng cẩn thận đặt vào lòng nón, hôm đó chúng còn hào sảng “bồi dưỡng” cho tôi thêm dăm con. Và cũng từ đó trong mắt chúng, tôi là một cái gì chúng mến chúng muốn gần, chúng mong được làm “bạn” với tôi, còn tôi cũng biết lũ trẻ thích tôi hát, nên thường hát “chùa” đãi chúng những bản tình ca miền Nam mỗi khi có dịp. Thật xúc động có lần bị ốm, vắng không đi làm ít hôm chúng vào tận nhà lô tìm, lần đó tên quản giáo hăm nhờ chủ tịch xã, kỷ luật chúng về tội quan hệ với tù.

Anh Ba lớn hơn tôi mươi tuổi, anh tỏ ra khá ái ngại khi thấy tôi bươn trải để kiếm thêm cái ăn, nhất là bơi vượt sông Hiếu để bắt cua đồng, những hôm nước lớn chảy mạnh, khiến tôi phải đi ngược lên phía trên thật xa, rồi theo dòng nước bơi chéo về bờ bên đây, cua hay măng tôi cột quanh bụng như ngày nào lính mình mang dây TAB cùng đạn dược khi hành quân. Anh thường nói kiếm cái ăn quanh bên này thôi, đừng vượt sông nguy hiểm lắm, chuyện nguy hiểm tôi biết, bơi qua sông tôi cũng có muốn đâu, nhưng chỉ còn có cái cải thiện ở bờ sông bên kia, bên này anh em trong đội “đi chợ” hằng ngày nên mọi thứ cạn kiệt, chỉ còn lại mỗi cỏ mà thôi.

Ngoài ra do anh em cũng ngại vượt sông, nên tôi chỉ cần qua được bên ấy là có cái ăn, chuyện ngại vượt sông của mọi người, nó cũng có lý do của nó, theo qui định của đội, chúng tôi chỉ được phép đi tìm cái cải thiện, khi đã hoàn tất chỉ tiêu lao động được giao mà thôi, mà lúc đó thì sức đã cạn, thời gian còn lại quá ít, không đủ thì giờ để mà vượt sông. Riêng tôi có lần vì quá vội, cái khăn bao cát cùng bịch cua cột không chặt, ra giửa dòng nước xoáy mạnh cuốn mất, đúng là mất cả chì lẫn chài, mất cua về tay không thì không tiếc, mà chỉ tiếc vì mất cái khăn.

Anh em tù chúng tôi trong nhà tù cộng sản, có hai vật gắn liền với việc sinh hoạt, đó là cái lon guigoz và cái khăn bao cát, chúng tôi quí chúng lắm, lon guigoz thì đựng nước uống cùng nấu nướng cải thiện linh tinh. Còn khăn bao cát, tức là bao cát ngày xưa lính ta đắp công sự chiến đấu, nay tù mình lấy làm khăn, cái tốt của nó ở chổ sáng sớm quấn cổ rất ấm, trưa về làm khăn tắm rửa vừa bền mà lại vừa mau khô. Thoạt đầu những năm 78 -79 những chiếc khăn bao cát này cùng cái lon guigoz chúng đến với tù theo những gói bưu kiện 3kg thân nhân gởi theo bưu điện mà tù được nhận mỗi năm đôi lần – Anh nào không quà cáp thăm nuôi thì cũng có thể tậu cho mình dễ dàng qua đổi chác linh tinh, với vài ba xuất ăn trại là có thể có mà dùng.

Hàng tuần vào ngày chủ nhât, theo qui định trại, cho phép anh em tù nào có đồ ăn thăm nuôi, được phép nấu nướng thức ăn nhà để cải thiện thêm. Bải nấu là khoảng sân trống sát bở tường ngăn hai khu. Xã hội nào cũng có sự cách biệt, và trong tập thể anh em tù miền nam, cũng có kẻ nghèo người giàu, nghèo giàu đây nghĩa là gia đình thăm nuôi nhiều hay ít, có hay không. Vào thời diểm năm 79-80 tuy trại CT-3 này, là vẫn còn khá xa xôi cho chuyện đi thăm nuôi từ miền nam, nhưng dầu sao nó vẫn gần hơn Lào Cai Yên Báy nhiều, nên cũng có một số gia đình anh em còn khá giả, tiếp tế đôi ba tháng một lần cho người thân. Và cũng bắt đầu từ đây, có vài trường hợp anh em cá biệt, không còn phải đụng đến khẩu phần ăn do trại nữa, mà kín đáo nhường xuất ăn của mình cho một anh bạn tù nghèo nào đó.

Trở lại chuyên nấu nướng linh tinh ngày chủ nhật trong trại, anh Ba lợi dụng sự cho phép này, với những mục măng hay cua còng tôi mang về, anh nấu cho hai đứa thêm miếng ăn trong tuần, những gì anh nấu tôi ăn rất ngon. Thấy tôi luôn khen không biết vì ngon thật hay vì quá đói, mà sau này trong những gói quà, anh luôn xin nhà chủ yếu là gửi mắm ruốc xào cùng gia vị, không ngoài mục đích để hai anh em cải thiện thêm những thứ linh tinh kiếm được.

Trong giây phút này bổng nhớ đến anh vô cùng, đời tù lưu lạc hết trại này qua trại khác, anh em hợp rồi tan, không biết anh bây giờ ở đâu còn hay mất - Trong tôi hình ảnh của anh luôn là hình ảnh đẹp, một người đàn anh đáng kính, không phải tôi mến anh vì tình thương anh dành cho tôi, mà vì con người thật của anh, tư cách của anh. Tôi không phủ nhận sự thật, là trong hàng ngũ của mình, có ít anh em yếu đuối đã làm những chuyện tác tệ, hoặc tư cách không được sáng lắm, đã làm tập thể không vui. Nhưng phải nói hầu hết anh em vào tù tay đã phải bốc phân bẫn, nhưng quyết không để danh dự và tư cách bị lấm dơ.

Cả một thế hệ, số phận anh em chúng tôi luôn mang cái kết buồn, ngày nào còn khoác áo lính, đã buồn không ít khi chia tay hay đau lòng lúc có đứa nằm xuống. Thuở đó đời lính rày đây mai đó, lại thêm luôn quay cuồng trong lửa đan, thì chuyện chết chóc chia tay là bắt buộc – Đến khi phải kiếp thân tù cũng chẳng khác gì, gặp lúc biên chế hay dời trại cũng thế, anh em lại mỗi đứa lưu lạc một phương.

CÁNH CHIM VƯỚNG BÃO

Gian nan cuộc sống làm nhiều khi tôi như kẻ dại khờ, chẳng buồn nói, chẳng buồn bon chen với đời. Cứ nhủ lòng gói ém dĩ vãng buồn đau vào tận đáy lòng để những lúc vô vọng cùng cực tâm sự với giòng kỷ niệm không thể nhạt nhòa này.

         Mãi đến khi tôi được đọc hai bài viết của những người con Tuy Hòa viết về Nguyễn Hữu Ninh, tim tôi nhói lại, nghe chừng như vừa bị đâm vỡ khối ký ức chôn chặt lâu nay. Nhớ Ninh quá, nhớ bạn bè quá nên chẳng cầm được lòng, gởi gắm đôi giòng nhớ về một thời vừa khó khổ, vừa đầy ắp nghĩa tình.

          Chúng tôi, bảy anh em theo thứ tự lớn nhỏ: Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn văn Lai, Nguyễn Thiện Tường, Nguyễn Hữu Ninh, Đặng Châu Long, Ngô Ngọc Út, Nguyễn Đình Chiến gặp gỡ và thân thiết với nhau trong không gian chật hẹp A30  từ năm 1979,80.  Không chung đội, nhưng mỗi chiều, chúng tôi lại cùng quay quần trên góc nhà, bên lon guigoz trà nấu vội, tâm sự trò chuyện cho qua thời gian vô định đó.

          Chúng tôi gọi Ninh bằng biệt danh Anh Tư Đồ, vì Ninh thứ tư trong nhóm và bộ dạng thì như anh….Trương Chi : Đen đúa, mắt hom hem vì bị hư một mắt trong chiến tranh, giọng nói rề rà như cụ đồ, Ninh cũng lại từng theo học Hán Nôm ở Đại Học Văn Khoa.

          Năm 1981, ngoại trừ Chiến bên đội Xây, Út bên Cấp Dưỡng, số còn lại đều ở đội Củi, chuyên chặt củi cho Cấp dưỡng trại. Chúng tôi hàng đêm về ngủ ở Sơn Thành, trong khu kinh tế mới của dân Phường 6 Tuy Hòa, sáng lại ra núi Mái nhà đốn cây, ra củi.

          Nhóm chúng tôi thường để Ninh làm gì thì làm, vì Ninh yếu thể chất và cũng vì quí trọng một người bạn tài hoa trong âm nhạc. Trưa ngủ trong rừng, chúng tôi có một giang sơn riêng và đó là thời gian êm đềm nhất của chúng tôi. Ngày nào bẫy được sóc, chim, chuột thì bữa ăn rôm rã hơn, còn không cũng…chẳng sao.

          Trưa nằm đong đưa trên võng, mỗi khi nghe tiếng hát Ninh cất lên chúng tôi đều im lặng, lắng lòng chừng như được đón một luồng gió nhỏ hiếm hoi trong không gian oi bức này. Ninh thường hát những bài ca do Ninh sáng tác trong thời gian đó, hoặc những bài trong liên khúc học trò,Giao thừa khúc, Mừng năm Mới của Phan Ni Tấn, khi thì Nguyệt ca, Hoa ngõ Hạnh…. Bao giờ cũng vậy, khi Ninh hát hình như Ninh sống trong một thế giới khác, mắt lim dim như vào chốn vô thường. Mà sao lạ, giọng thổ khàn nhựa của Ninh như chất chứa hết những khổ đau của cuộc đời, phả ra tiếng kêu đau thương làm mọi người phải bồi hồi như nghe tiếng lòng của chính mình. Chỉ lúc nào vui lắm, Ninh mới hát bài Trách Phận. Có lẽ trong lòng Ninh bấy giờ không còn muốn trách phận nữa rồi.

           Ninh viết nhạc cũng nhanh, miễn là có hứng thú và không gian yên tĩnh là được.Nhớ lại vào cuối năm 1980, khi còn ở Đội 5, vào Giáng sinh, Ninh vừa cuốc đất bên tôi, vừa hát đi hát lại bài

Noel Noel

của Ninh vừa sáng tác, sau đó, cả đội đều thuộc và hát được bài này.  Khi tôi đọc về nghi án bài

Trách phận

, tôi cảm thấy ngạc nhiên vì Ninh dư sức ký âm bài ca mình, đâu cần nhờ đến người thứ hai, để bây giờ lên youtube chỉ thấy tác giả là người khác, hoàn toàn chẳng có tên Ninh. Gia tài âm nhạc của Ninh nào phải một bài đó mà hàng mấy mươi bài. Nhưng xem khía cạnh bản tính của Ninh thì tôi tin rằng bài Trách phận Ninh sáng tác ra để thỏa mãn mình, để mình hát …chứ không do một động lực danh tiếng hay kinh tế nào khác, bởi thế nên Ninh cần gì trưng ra công chúng một bản ký âm nào.

           Có cùng sống với Ninh mới hiểu và thông cảm lối sống của Ninh: lè phè, không bao giờ lớn tiếng, ít để ý những kiến thức mình không cần đến (có lần chúng tôi bẫy được chú heo rừng con còn sọc dưa, thế mà Ninh dám tuyên bố đó là heo hà nàm (!)) , Ninh nói ít như dành giọng để hát, vì khi có ai cầm cây đàn thì Ninh như …mèo thấy mỡ, phải cầm đàn và hát trước cho bằng được. Ninh là người theo chủ nghĩa bất vi, đừng ai nhờ làm điều gì nếu không muốn sốt ruột, trừ phi chính Ninh muốn làm điều đó.

           Mỗi buổi sáng vào rừng, thường thì Mai Xuân Thi (một em tuổi khoảng 16) hoặc anh Tường, anh Lai đi thăm bẫy. Chẳng ai nhờ đến tôi và Ninh vì cả hai không có số sát thú, có đi thì cả nhóm cũng đói meo thôi. A, có một lần. lần đó vào đầu năm 1981, hôm đó Ninh hẹn với bà xã vào rừng mang theo đồ thăm nuôi nên cả nhóm giao Ninh thăm bẫy luôn. Ninh thăm bẫy cả trăm mét mà chẳng thấy bẫy nào có cả,  Ninh mới thầm vái ông thần rừng cho có con mồi kha khá để về làm tiệc cho cả nhóm, chuẩn bị tiễn anh Hùng, Lai, Tường được về nhà. Đi hết dây bẫy , không có, thất vọng quay ngược về , bỗng Ninh nghe tiếng kêu cạnh đường bẫy, dò theo tiếng, Ninh “

cứu

” được con cheo đang vướng trong đám dây rừng, ngộ chưa.! Hai ba ngày sau, anh Tường lại vừa chặt củi vừa ước, tôi làm cách anh khoảng 10m bổng nghe một tiếng đụi thiệt to cạnh mình, nhìn kỹ thấy một chú khỉ mập mới té từ cao xuống. Tôi nói với anh Tường “Có rồi”, anh chạy qua ngó mới tin là thật. Lại một chuyện ngộ của hai thằng không sát thú !

            Ninh thật đúng là tay vô sản đệ nhất. Thăm nuôi vào, mang lỉnh kỉnh giỏ nọ túi kia, vào nhà là bắt đầu chia chác..đến chiều lại đi xin quấn một điếu thuốc rê. Đúng là Ninh đã đạt đến trình độ….

thỏng tay vào chợ

rồi. Nói vậy cũng đủ biết danh tiếng Ninh trong trại thế nào.

Cần là có, có khỏi cần. Sắc sắc không không, sắc cũng được mà cùn cũng xong

.

            Tháng 10-1981, chúng tôi ra trại, lao vào cuộc sống đầy khó khăn. Lâu lâu được tin nhau, khi thì Chiến đánh xe ngựa, khi thì đãi vàng, khi ở rẫy Dục Mỹ, khi vào Vũng Rô, lúc lại đi buôn, trăm thứ bà dằn. Ninh thì tàng hơn, xách đàn lang thang ca hát say sưa quên cõi ô trọc, có khi theo Chiến vào Vũng rô, Dục Mỹ. Năm 2000 Chiến về Nhatrang, Ninh theo vào coi đìa tôm, nhưng có lẽ không đúng nghề nên ít khi tôm cua thấy được mặt ông chủ. Giai đọan này Ninh hay hát bản Đường xưa lối cũ của Hoàng Thi Thơ, Đóa hoa vô thường của Trịnh Công Sơn. Mấy đứa con của Chiến : Gạo, Cám, Quỳnh, Dao cũng được Ninh cho thọ giáo mấy bài ruột này.

             Có lần Ninh lò mò lên tôi giấc 10 giờ khuya. Nghe Chiến báo, tôi chờ mãi, chờ mãi. Sáng sớm hôm sau thấy Ninh vào nhà, hỏi ra mới biết tối qua , mới đến đầu ngõ, cách nhà tôi khoảng 50 mét, thì ra say quá ngủ bên thềm người chị bà con của tôi.

             Sau chuyến coi đìa về lại nhà, sức khỏe Ninh yếu dần. Đến tháng 10-2003, gia đình tôi,gia đình Út và gia đình Chiến đáp tàu hỏa về thăm Ninh. Trông Ninh tiều tụy quá, chúng tôi không cầm được nước mắt. Chị Ninh cho chúng tôi hay mấy ngày nay Ninh đã lục tất cả những giấy tờ có liên quan đến cuộc đời mình mang ra đốt. Có lẽ Ninh đã dọn sạch những vướng phiền cỏi trần tạm bợ này để chuẩn bị cho chuyến đi định mệnh rồi.

             Đang nằm mê mệt trên chiếc giường sắt kê gần cửa sổ nhà trên, Ninh bỗng tươi tắn hẳn khi chúng tôi bước vào, Ninh ngồi dậy gọn khô, bảo bà xã đi mua bia về mở tiệc. Chị Ninh ngần ngừ dù chưa bao giờ thấy Ninh tươi tỉnh như hôm nay, nhưng sức khỏe của Ninh thì chị rõ hơn cả, chị bảo có lẽ gặp lại chúng tôi bất ngờ như trong mơ nên Ninh mừng như vậy. Thấy bà xã chần chờ không đi Ninh giục bằng giọng hơi gắt gỏng. Chúng tôi buồn nẫu ruột, hội ý nhau thôi cứ chiều cho Ninh được thỏa dạ lúc còn vui.

              Ngày hôm ấy, chúng tôi, nhà văn Y Nguyên, Phan Tấn Ích đùa vui, ca hát cùng nước mắt, Ninh cứ giành đàn –như lệ thường- ca hát như chưa từng có bệnh với thần thái tươi tỉnh chưa từng có. Lại những bài Đường xưa lối cũ, Đóa hoa vô thường… Những cuộc phân ly – hội ngộ trong các bài ca sao hôm nay như thêm nhiều nước mắt. Tôi buồn rầu nhớ một lời ca Ninh thường hát :

Nghe con dế gáy, sao em thương cái góc nhà. Ngoài kia, có người nào vừa mới thở dài, bây giờ đã hoàng hôn hay chỉ mới sớm mai .

Thôi thì cứ vui như chúng ta chưa từng vui vậy.

              Theo chúng tôi ra sân chụp ảnh còn có chị Ninh, bốn con của Ninh: Vy Vũ Huy, Út, Ninh dường như muốn nói với chúng tôi điều gì. Tôi quan sát vẻ chấp chới của Ninh mà tội nghiệp. Thôi thì coi như Ninh đã nói rồi, tụi mình hiểu nhau quá mà, chẳng trước thì sau, anh em chúng ta bày tiệc nối tiếp cuộc vui nơi chốn khác vậy.

              Gần đến giờ tàu chạy, chúng tôi chia tay nhau mà không dám tỏ vẻ buồn, dù linh cảm đây là lần gặp cuối.

              Một tháng sau, tôi đang ở Sài Gòn, nghe Chiến báo hung tin : Ninh đã ra đi lúc 9g00 sáng ngày Chúa Nhật 02-11-2003, nhằm ngày 09-10 năm Quý Mùi. Tôi vội cùng bà xã về nhà Chiến,gọi Út và thuê một chiếc xe ra Hòa Hiệp chia tay Ninh lần cuối. Chuyến xe này cũng nhờ tài trợ của anh bạn Cam Viết Luận bên Mỹ chuyển về khi Luận hay tin Ninh mất.

              Dọc đường đi, Chiến và tôi cùng làm một câu đối, ghé nhà sách nhỏ bên đường mua một tờ Croquis và một cây bút dầu đen để khi đến nhà Ninh viết treo lên cho Ninh ở phảng phất nơi nào đó chia sẻ nỗi niềm:

SINH BẤT PHÙNG THỜI, VƯỚNG NGHIỆP ĐAO BINH LỠ THẦY LỠ THỢ, MƯỢN CHÉN RƯỢU TIÊU SẦU RÓT SAY SƯA ĐỂ QUÊN TRỜI QUÊN ĐẤT.

ĐÒ CHƯA THẤY BẾN, PHẢI KIẾP PHONG TRẦN TRÁCH THÂN TRÁCH PHẬN, GIEO TƠ ĐÀN HÉO HẮT CHẲNG PHÔI PHAI NỖI NHỚ BẠN NHỚ ĐỜI

              Đến Hòa Hiệp thì Ninh đã được an táng, chúng tôi cùng gia đình Ninh đi bộ ra mộ mới đắp của Ninh. Bạn bè thắp cho Ninh tuần nhang, tưới cho Ninh một chai rượu mạnh mua vội bên đường và đốt câu đối cho Ninh thay lời từ biệt.

Rau muống

hượng đế thử thách dân tộc Việt nam, bắt người Việt phải gồng mình đánh trả ngoại xâm hàng ngàn năm, ăn đói mặc rét, thiếu thốn đủ điều. Chúng ta đã vượt qua tất cả. Về tinh thần là nhờ chúng ta có khí chất kiên cường cộng với sự lãnh đạo tài tình của các vị anh hùng dân tộc, về vật chất, kỳ lạ thay, chúng ta nhờ rất nhiều vào... rau muống!

Năm 1975 ngay sau Giải phóng, tôi có mặt ở Sài gòn. Tôi đến thăm bà cô họ, người tôi chưa hề biết mặt, nói đúng hơn là tôi không nhớ mặt vì khi rời Huế tôi mới sáu tuổi.

Cô mời tôi bữa cơm gia đình, thịt lợn kho dừa và canh chua cá thát lác. Nhìn tôi ăn rất ngon miệng, cô hỏi:

- Nghe nói ngoài Hà nội ăn toàn rau muống?

Tôi thành thật thưa rằng không phải hoàn toàn là rau muống, nhưng món phổ biến và thông dụng nhất chính là rau muống. Cô tôi kêu lên với vẻ coi thường:

- Trời, trong này rau muống chỉ cho heo ăn!

Bây giờ chúng ta có thể cười vui khi thấy ngay giữa thành phố Hồ Chí Minh, nhà hàng nào cũng có món rau muống xào tỏi. Rau muống ở phía Nam không ngon bằng rau muống Hà nội, không thể so với rau muống bè trên sông Tô Lịch hay trong các vườn rau ngoại thành. Điều này cũng dễ giải thích như đối với việc trái xoài trong Nam ngon hơn hẳn trái xoài ngoài Bắc. Nếu ngại nói thế là có tính chất phân biệt vùng miền thì ta sẽ lấy vị dụ quả nhãn ở Hưng Yên ngon hơn nhãn ở các tỉnh khác ngay ở phía Bắc cũng được.

Rau muống là một thứ rau đặc biệt. Nó có thể mọc trên cạn và cả dưới nước. Khác với su hào, bắp cải và những thứ rau quả khác, rau muống hầu như không cần có sự chăm sóc nào ngoài việc tưới, nó mọc dễ như cỏ và ta có thể ăn rau muống ngày này sang tháng khác mà không bị ngán như su hào, bắp cải, rau lang, súp lơ v.v.

Chắc chắn trong rau muống có cái chất gì đó rất tốt cho cơ thể. Những ai bị thương đang lên da non chớ có ăn rau muống. Nếu ăn, thịt ở vết thương sẽ xùi ra.

Bắc Qua là chợ đầu mối, rau củ quả từ đây tỏa đi các chợ Hà nội. Từ hai ba giờ sáng chợ đã nhộn nhịp. Người bán buôn mang hàng về đổ, kẻ "bán hàng đầu cuối" ra đó mua lại rồi gánh đi bán rong hoặc bán ở các chợ cóc.

Là người Huế, mẹ tôi cố gắng không bắt chồng con phải đi chợ. Duy có một lần mẹ ốm, cha tôi xung phong đi chợ. Mẹ dặn mua thịt và một mớ rau muống. Cha tôi cho tem phiếu và tiền vào một túi áo, túi kia để cặp kính lão. Sợ mất tiền và phiếu mua thịt, cha tôi cho tay vào túi, giữ khư khư mấy thứ tài sản đó. Khi đến lượt mình được mua, cha bỏ tay ra khỏi túi, lấy kính ra đeo. Tên kẻ cắp chỉ chờ có thế, trong chớp mắt hắn đã biểu diễn xong tiết mục xiếc hoàn hảo. Đeo kính xong, cha tôi sờ túi thì đã không còn tiền và tem phiếu đâu nữa, ngơ ngác tìm hồi lâu rồi đành phải bước ra khỏi hàng mà ông đã đứng xếp cả tiếng đồng hồ, vì những người xếp hàng phía sau đang la ó không mua thì đứng đấy làm gì. Ông thất vọng ra về. Tuy vậy ông vẫn còn gặp may, một người quen cho mượn tiền và bày cho ông mua một bó rau muống.

Trưa hôm đó, nhà tôi ăn cơm với món thức ăn duy nhất là rau muống luộc chấm nước mắm.

x

x  x

Nước mắm thời đó mua về không ăn được ngay mà phải nấu sôi thật lâu, gạt hết bọt bẩn phía trên cho nó khỏi hỏng. Bếp ăn tập thể cũng có cái gọi là nước chấm, song đó không phải là nước mắm, nó là một thứ nước gì đó có màu như nước mắm, người ta cho vào đó thật nhiều muối và ớt.

Đơn vị bộ đội nào cũng tổ chức trồng rau. Sinh viên nội trú cũng vậy, các khu nhà tập thể cũng thế, hở miếng đất nho nhỏ nào là có người trồng ngay rau muống ở đó. Mục đích ban đầu chỉ là trồng rau "tăng gia", nhưng sau này nhiều người trúng quả đậm, biến mảnh đất trồng rau bên cạnh nhà thành "đất thổ cư", xây nhà hoặc bán đi, hoàn toàn đúng với ý nghĩa của từ "tăng gia".

Hàng ngày đi làm, trong cặp lồng cơm của cán bộ công nhân viên món chủ đạo là rau muống. Có người bị ngã xe đạp, cặp lồng cơm văng tung toé, mấy quả cà muối lăn lóc, đám rau muống luộc thì quện vào nhau nằm trên đất cát.

Cơ quan tôi có anh lái xe ở nhà tập thể. Anh này sợ tốn dầu hoả, không bao giờ luộc rau muống mà đem hấp trên cơm. Đến bữa ăn anh ta xách bát đi một vòng hàng xóm xin tý nước luộc rau!

Chiều chiều đi làm về, các nữ cán bộ công nhân viên có mớ rau muống trong giỏ hàng hay buộc trên cái đèo hàng. Rau muống là thứ mà kẻ cắp ở Hà nội không bám theo xe của người đi đường, dùng dao sắc cắt dây buộc và nẫng nhẹ như những thứ hàng hoá khác.

Chả cần có con mắt quan sát thật đặc biệt, người ta nhận biết ngay được khu vực nào đang bị mất nước. Trên mỗi xe đạp, thay vào vị trí bó rau muống là một nửa hoặc cả quả bí xanh. Bí xanh không đòi hỏi phải rửa, chỉ cần gọt vỏ, thái nhỏ là có thể nấu canh ăn được rồi.

Rau muống có thể luộc chấm nước mắm dầm sấu. Chớ có chấm nước mắm chanh tỏi, sẽ không ngon bằng với nước mắm dầm sấu. Chấm tương gừng hoặc mắm cáy cũng ngon. Còn có thể nấu canh với tôm nõn, hoặc chẻ ra làm món rau sống. Trước kia tôi thấy Quán Bánh tôm Hò Tây trên đường Thanh Niên hay bày rau muống chẻ ăn với bánh tôm. Vị hơi chát của rau muống sống làm giảm bớt độ béo của dầu rán. Gần đây người ta cho mấy thứ rau linh tinh thay vào, chắc không phải là bởi vì lo người ăn bị dịch tả mà chỉ để đỡ mất công ngồi chẻ rau muống.

Chúng tôi đã từng ăn rau muống sống độn thêm cho dạ dày đỡ trống. Đến giờ ăn cơm tập thể, hai người trực nhật, một nam một nữ thì càng vui, mang một cái chậu thau to tướng ra hái rau, đương nhiên là hái ở khoảnh rau của bộ phận mình tăng gia, mở vòi nước xối ào ào rửa rồi mang vào nhà ăn. Chưa thấy ai dùng thuốc tím hoặc nước muối để rửa rau. Cũng chưa thấy ai đau bụng. Cả bốn năm mâm cùng bốc rau muống "nguyên bản" chấm "nước mắm" (cái thứ nước chấm tôi đã nói ở trên) và ăn cho có cảm giác no.

Nhiệm vụ của mọi người là khi rửa ráy, thậm chí cả giặt, phải đổ nước dùng rồi vào đám rau muống của bộ phận mình. Rau lên rất nhanh, bất chấp ngày nào cũng bị hái.

x

x  x

Khoảng năm 1980 Chính quyền thành phố Hà nội ra quy định bắt tất cả các tư thương phải niêm yết giá. Là người ít đi chợ, không biết giá cả sinh hoạt và là người luôn tin tưởng tuyệt đối vào trên, "trên" ở đây là tất cả các cơ quan đoàn thể dân chính đảng, ông rất phấn khởi:

- Từ nay sẽ hết buôn gian bán lận! Đi chợ sẽ không còn phải mặc cả nữa.

Tôi là người khắc khẩu với cha mình. Tôi bảo anh nào quy định thế là dốt. Ông cụ cáu:

- Anh bảo ai dốt? Thế nào là dốt? Lãnh đạo Thành phố mà dốt?

Tôi bảo Nhà nước chỉ quản lý được giá cả những mặt hàng do Nhà nước sản xuất theo kế hoạch, giá đó gọi là giá cố định, do Nhà nước quy định. Ví dụ như giá điện, giá xăng dầu, xi măng sắt thép v.v. Còn những mặt hàng dân doanh, giá cả đương nhiên phải biến động theo những thay đổi của thị trường, của vật tư, nguyên nhiên liệu và nhiều yêú tố khác nữa. Giá những mặt hàng này là giá thoả thuận, thuận mua vừa bán, khó bắt tư thương niêm yết giá. Chả nhẽ sáng trưa chiều tối niêm yết bốn giá khác nhau?

Ông cụ không thèm tranh luận tiếp với tôi, kết luận gọn ghẽ:

- Anh chưa phải đảng viên có khác, anh thiếu lòng tin vào trên!

Hôm sau là ngày chủ nhật, ông xung phong đi chợ.

Mẹ tôi rút kinh nghiệm, không giao tem phiếu cho ông nữa, chỉ nhờ ông mua cho mớ rau muống và năm quả sấu.

Gần một giờ sau ông mới trở về, tay không, mặt hầm hầm tức giận. Mẹ tôi hỏi sao không mua được rau muống, ông lầu bầu:

- Bọn bán rau toàn một lũ phản động, chả có con mẹ nào niêm yết giá!

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: