Truyen ngan-Lenghiabk05
Tranh blog – Kẻ tự vẫn Trường đại học nằm trên đỉnh đồi. Mộ của hắn nằm cô quạnh dưới hàng dương liễu. Ngày bạn bè tiễn hắn ra đây, cả triền đồi còn ngút ngàn màu xanh. Chiều chiều trên cánh đồng xa, có đàn cò trắng bay đi bay về. Hắn không sợ cô quạnh. Hắn chỉ sợ sự ồn ào, khi màu xanh quanh chỗ hắn nằm cứ mất dần đi. Quán nhậu, quán net, quán ôm, quán cá, quán đề… thi nhau mọc lên lố nhố. Thửa ruộng cuối cùng rồi cũng bị san bằng. Cây dương cuối cùng rồi cũng bị đốn bỏ. Người ta đổ beton lên chỗ hắn nằm. Quán karaoke ôm phía trên rèm che kín mít, nhạc xập xình, đèn nhí nháy, ngày cũng như đêm. Hắn nằm ngay dưới dàn karaoke, không cách chi ngủ được. Mấy thằng vô quán karaoke ôm thường là mấy thằng không biết hát. Chữ nhảy hai ba hồi, tay chân bắt nhịp loạn xạ mà vẫn không vô đúng nhịp. Vừa hát vừa rượt theo chữ, té lên té xuống mấy bận mà cứ ham té. Mấy con nhỏ bán quán ôm cũng không phải là ca sĩ. Có một con tóc dài, giọng khoẻ hung, nhưng hắn ghét con nớ. Gặp ai nó cũng ôm, cũng kể lể, em là sinh viên, vì hoàn cảnh khó khăn phải ráng làm thêm, để kiếm tiền đóng học phí. Hắn chán nghe tiếng nhạc xập xình, tiếng hát lập lờ, tiếng tâm sự ỉ eo. Hắn bò ra khỏi tấm áo quan mục rữa, đi lang thang trên đồi. Mấy thằng sinh viên đàn em của hắn, bây chừ là giảng viên đại học. Thằng nhỏ sinh viên ngày mô ném nắm đất xuống huyệt cho hắn, hiện là trưởng phòng đào tạo. Buổi sáng tụi nó lên giảng đường dạy đạo đức, cho sinh viên ăn cơm cao su, ăn mì dây thun. Buổi chiều tụi nó ra ngồi quán uống bia, ôm gái. Sinh viên quán bên này, thầy giáo quán bên kia. Thỉnh thoảng thầy trò cũng xuề xoà ngồi chung một bàn nhậu, là để tâm sự chuyện thi cử. Những bàn nhậu thức ăn ê hề. Những đứa bạn cũ cố phình bụng ra nuốt. Mấy con nhỏ sinh viên dỏm ỏn ẻn rót thêm bia cho thầy. Mặt thầy phệ. Bụng thầy phệ. Một thầy xơ gan. Một thầy ngộ độc thực phẩm. Một thầy ngộ độc rượu. Phải đi xa như hắn, xa thật xa rồi, quay lại nhìn mới thấy xót thương. Ăn. Ăn. Ăn. Ăn nữa. Ăn mãi. Để trả thù những ngày đói khổ. Bây chừ không ai nhắc đến cái đói. Bây chừ cái đói không còn nằm trong bao tử. Cái đói chui vô nằm trong não, vô cảm mà ám ảnh không nguôi. Câu chuyện bắt đầu vào một ngày mùa mưa, năm đói. Hắn hoá điên. Chỉ có người điên mới nhận diện được nhau trong thế giới người điên. Khi điên rồi hắn mới biết, những đứa sinh viên đồng khoá đã điên trước hắn rất lâu. Người điên thường sợ sự thật, sợ hình ảnh của chính mình trong gương và ghét tắm rửa. Những thằng điên tìm đến nhau, tụ tập thành nhóm, chúng mang một khuôn mặt, một nụ cười, một giọng nói. Chúng nói rất nhiều, nói rất to, vừa nói vừa vuốt đuôi nhau. Chúng rất sợ bị phát hiện mang bệnh điên, cứ phải giấu giấu giếm giếm, sơ hở lung tung. Hắn điên trễ nhưng điên nặng hơn bất cứ đứa nào. Và hắn quyết định, điên không giống ai, điên công khai. Hắn bỏ học đi lang thang suốt đêm trên đồi, sục vô từng góc giảng đường tối tăm, leo lên những bờ sân thượng chênh vênh. Đám nữ sinh đi học ban đêm thấy hắn đều bỏ chạy. Hắn cười sằng sặc, đuổi theo. Răng mà chạy. Chạy đi mô chừ. Đừng chạy, mình hiền lắm mà. Đừng chạy. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Buổi sáng, hắn bò về cư xá, ngủ vùi trong góc nhà đầy rác, thoi thóp giữa cơn đói. Hai lá bao tử ép dính vô nhau. Một đàn kiến đang tìm cách chui qua. Tụi nó bò nhột nhạt, thỉnh thoảng cắn lên thành bao tử một phát đau điếng. Hắn ôm bụng quặn thắt. Mồ hôi tướp ra. Còn hơn hai tiếng đồng hồ nữa thì tới giờ ăn cơm trưa. Lại nhắm mắt thiếp đi. Con chuột mẹ làm tổ trong chiếc giày vải của hắn, đẻ sáu con. Hắn cắt mũi giày, làm cửa cho mẹ con chút chít chui ra chui vô. Sinh viên còn đói, chuột lấy chi mà nuôi con. Hắn chép miệng, răng mà tội nghiệp, cho tụi bây luôn chiếc giày. Mấy con chuột chút chít. Hắn cười sung sướng, lại thiếp đi trong cơn đói tràn ngập tình yêu thương. Còn hai tiếng đồng hồ nữa thì tới giờ ăn cơm trưa. Mấy đứa điên vỗ tay reo hò ầm ĩ ngoài cửa sổ. Mấy con chuột thức giấc. Hắn thức giấc, chửi tán loạn rồi lại cười sằng sặc, đuổi theo mấy thằng điên, đuổi theo đoàn múa lân lên hội trường. Vui, vui hè. Hắn thập thò dựa cửa ngó vô, con tim bỗng nghẹn ngào xúc động. Cha mạ ơi, trong nớ, đại hội đoàn trường. Người điên cũng có lúc tỉnh, chớ sao. Một cán bộ đoàn ưu tú như hắn, lẽ nào nhìn cái sân khấu kia mà không tỉnh lại. Hai lá cờ đỏ thắm. Một tấm hình. Một bình bông cúc. Một tấm bảng viết tên các ứng cử viên. Chỗ của hắn là ở trên nớ, sau cái bục gỗ có bình hoa cẩm chướng, có cái micro màu đen. Hắn phải lên sân khấu, đứng đúng vô chỗ của mình. Hắn đã từng nhiều lần leo lên sân khấu, đứng ngay sau micro, hăng say ca ngợi những điều đẹp đẽ tuyệt vời. Hắn trong bộ dạng còm ròm, xanh xao, áo quần bèo nhèo, râu tóc luộm thuộm. Có răng mô. Lý tưởng cao đẹp toả sáng ở trong tim mà. Hắn cần không hàm hồ gào thét như những diễn giả khác. Để làm chi. Một cán bộ đoàn xuất sắc như hắn luôn biết cách truyền đi ngọn lửa. Hắn vừa lên tới nơi liền cất giọng nói, mạnh mẽ và tự tin. Phải đi ngay vô vấn đề trước khi một thằng ngu nào khác nhảy ra cắt ngang. “ Kính thưa các đồng chí lãnh đạo đảng bộ, kính thưa ban giám hiệu trường, kính thưa đại diện các ban ngành đoàn thể, kính thưa ban chấp hành đoàn thanh niên đương nhiệm, cùng các bạn sinh viên đoàn viên thân mến. Lần cuối cùng các bạn ăn hủ tiếu mì là khi mô? Còn ai nhớ được hương vị của nó không? Mì trứng? Hành phi? Nước lèo tôm khô? Bây chừ là mười một giờ trưa. Còn một tiếng đồng hồ nữa, cửa nhà ăn tập thể sẽ mở. Bữa ăn trưa của sinh viên có thứ chi? Cơm gia súc, canh đại dương, nước mắm toàn quốc. Ăn vô no cồn cào, đói rã rượi, chất lượng học tập giảm sút. Còn một tiếng đồng hồ nữa mới tới giờ ăn. Các bạn cứ bình tĩnh, ngồi im ở đây. Đúng một tiếng đồng hồ nữa thì đi ăn cơm. Tôi mạn phép xin chút thì giờ quý báu còn lại này để báo cáo trước đại hội đoàn trường một phương án.” Chống đói để nâng cao chất lượng học tập . Hắn cười hiền lành. Người điên thường có nụ cười trong sáng, thánh thiện. Có thực mới vực được đạo. Với một lực lượng trí thức ưu tú, một đội ngũ những nhà khoa học xuất xắc, một tầng lớp lãnh đạo sáng suốt, trường đại học của chúng ta có thể đạt được những thành tích chống đói mà không nơi nào trên thế giới đạt được. Đơn cử một biện pháp nhỏ, phân khoa Cao Su có thể kết hợp với phân khoa Hoá Thực Phẩm nghiên cứu ra một loại cơm cao su. Cơm cao su dĩ nhiên phải trắng rời như cơm không cao su. Cơm cao su phải mềm dẻo thơm ngon như cơm không cao su. Nhưng cái đặc biệt là, loại cơm cao su này ngày hôm trước ăn vô bụng, ngày hôm sau thải ra còn nguyên xi. Sinh viên chỉ cần mỗi buổi sáng đem theo lon hứng lại phần cơm đó, rửa sạch, buổi trưa, buổi chiều hấp lại ăn tiếp. Mỗi sinh viên vô trường được phát hai lon cơm cao su. Nhai đi nhai lại, rửa tới rửa lui, sau năm năm thì tốt nghiệp đại học. Bụng lúc nào cũng đầy, tinh thần lúc nào cũng khoai khoan khoái. Rứa là an tâm, chuyên chú học tập. Dĩ nhiên là hương liệu chế tạo cơm cao su phải có độ bền tối ưu, để đảm bảo độ ngon miệng. Hắn cười hiền lành thánh thiện, chậm rãi thuyết trình về các loại hương liệu. Hương cơm gà quay, hương cơm tấm bì, hương cơm cà ri… Hương cơm gà quay phải sực mùi ngũ vị hương, mùi xì dầu. Hương cơm tấm bì phải đượm mùi thính bì, mùi mỡ hành… Không! Không! Phải có đủ cả mùi nước mắm tỏi ớt, mùi đồ chua dưa kiệu, mùi thịt sườn ram... Hắn chép miệng nhai ngon lành. Cái mùi vừa béo mỡ, vừa đằm thính, vừa thấu chua cay… Tươm ra trên từng muỗng cơm. Ăn vô bụng rồi ợ lên ba tiếng. Ọt. Ọt. Ọt. Cái mùi vẫn còn nguyên rứa, quyện trên đầu lưỡi, xốc lên vòm mũi. Vừa nói hắn vừa nuốt nước miếng. Tóp tép. Tóp tép. Đôi mắt hắn sáng rực. Cặp mắt người điên thường rất sáng, tưởng như cả nguồn sức sống cạn kiệt dồn hết vô đôi mắt. Hắn nói say sưa, giọng khàn đi. Thỉnh thoảng hắn dừng lại, đưa ngón tay trỏ quẹt quẹt ngang đầu mũi. Hít hà. Hít hà. Hà hà. Đẩy bớt mùi cơm gà để hửi mùi cơm sườn. Ăn vô cũng mùi nớ, thải ra cũng mùi nớ, bất biến. Hà hà, bất biến. Không đổi. Hắn nhặt mớ giẻ lau ở góc cánh gà, định nhổ phẹt phẹt phẹt…mấy bãi nước miếng lên túm vải rách. Nhưng cổ họng hắn khô quắt. Khẹt khẹt. Hắn chạy tới bên bình bông cúc, túm chùm bông liệng ra góc sân khấu. Chùm bông vàng rực rơi tả tơi. Răng mà phí của – bình bông ni đáng giá hai tô hủ tiếu – nhưng hủ tiếu là hủ tiếu, hoa là hoa – ăn được và không ăn được. Hắn bưng bình bông lên uống ừng ực. Nước cắm bông thúi lum lủm nhưng mát lạnh – nước mát như nước giếng nông trường – mình đưa sinh viên xung phong về nông trường cuốc đất với thanh niên xung phong – vừa ăn khoai mì, vừa cuốc đất, vừa hát hò – sướng ngất – lý tưởng chói ngời – bụng vẫn đói – có răng mô – ta đốt lửa cho đồi hoang ấm mãi – hẹn người lên tìm lại dấu chân xưa. Phẹt phẹt phẹt. Hắn cầm mớ giẻ lau tẩm nước miếng, lau lên tấm bảng ghi danh sách ứng cử viên ban chấp hành đoàn trường nhiệm kỳ mới. Tấm bảng nằm chễm chệ giữa sân khấu. Nước miếng của hắn kéo ngang kéo dọc qua những cái tên ứng cử viên được viết hoa nắn nót. Đám nước miếng nhầy nhụa kéo qua những cái tên mà đám sinh viên ghét cay ghét đắng. Mấy cái bao tử bỗng giãn ra khoái trá. Ừa, bôi đi, bôi hết mấy cái tên chết tiệt vô tích sự đó đi. Sự hả hê lồ lộ ra trên những bản mặt. Cả đám ứng cử viên trang trọng ngồi phía bên kia, cũng có khối đứa đang sung sướng, hí hửng nhìn tên đối thủ của mình bị nước miếng chà quẹt. Niềm sung sướng ti tiện hèn mạt khi có người khác làm giùm cho mình cái điều mình muốn. Dù là một thằng điên. Hắn khoái trá nhận ra điều đó. Người điên thường khôn ranh. Hắn lau chậm rãi, kéo dài khoái cảm cho mọi người, dù là thứ khoái cảm giả tạo. Những thằng đau khổ vì tên mình bị lau cũng vẫn sung sướng nhìn tên mấy thằng khác bị quẹt nước miếng. Nước miếng dây dưa trên bảng đen thành những vệt trắng vằn vện. Hắn viết chồng lên mặt bảng lem nhem một đám công thức hóa học có những nối carbon nhằng nhịt và những nhánh hydro lòng thòng – để loè đám cán bộ giảng viên miền Bắc cờ lo, hy đờ rô. Nếu chế tạo thành công món cơm cao su, chúng ta có thể nghiên cứu thêm món phở dây thun, hủ tiếu dây thun, bánh canh dây thun, mì dây thun… Dĩ nhiên màu sắc, độ đàn hồi của từng loại sợi phải tương ứng với đặc tính từng loại bột. Bột gạo – bột mì – bột năng. Bột năng làm từ khoai mì – dưới chân đồi khoai mì xanh ngắt – dân quanh vùng cũng đói vàng mắt – sinh viên mò xuống đào trộm khoai mì bị đánh què chân – khoai mì xay, chắt thành bột năng – bã khoai mì nấu cháo cho heo ăn – heo chê – sinh viên xin bã khoai mì về nấu cháo – không mập được như heo – đêm nằm mơ thấy toàn ma quỷ – xanh xao rã rượi. Hắn thôi nói về những món cao lương mỹ vị, hắn đổi giọng, nói về cái đói của sinh viên. Hắn nói về những buổi trưa nắng ở giảng đường đói cồn cào gan ruột. Về những giờ học trôi qua rã rượi, những giáo trình học nhai đi nhai lại dai nhách như mì dây thun. Về những đêm chong đèn biết sinh lực mình đang tàn dần, thoi thóp như ngọn bấc cạn dầu… Hắn nói bằng chất giọng hư hao của một thằng nhịn đói đã nhiều ngày. Thỉnh thoảng hắn ngừng lại, chăm chú nhìn những cái ngón tay đóng ghét đen đủi, để khán giả ngậm ngùi tự nhận ra, may quá, dù đói rụng rún, đôi bàn tay của mình vẫn còn đủ cả mười ngón. Cả hội trường lặng im xốn xang. Đã gần mười hai giờ trưa, ai cũng đói rụng rún. Những cái bụng vừa được ăn no lại trống rỗng. Cảm giác bị lừa bịp, hoang mang mê muội, đói no lẫn lộn. Tiếng cái bụng rỗng sôi rồn rột trên sân khấu. Rồn rột. Rồn rột, chui qua lỗ tai. Rồn rột, chui vô bụng mình. Rồn rột kêu réo ở trong nớ. Có đứa mô đưa tay lên xoa cái bụng lép kẹp. Hắn xoa bụng hắn. Bàn tay dơ hầy đặt lên lớp vải áo đen đúa bèo nhèo. Đám sinh viên nhìn hắn xót xa thương cảm. Hắn thấy mừng vì mặc bộ đồ cũ lên sân khấu. Ban lãnh đạo nhìn hắn khinh bỉ, miệt thị. Hắn thấy buồn vì không mặc đồ mới lên sân khấu. Hắn thều thào hết hơn một giờ đồng hồ. Đứa mô chịu đựng nổi thì đờ đẫn ngồi nghe. Đứa mô không chịu đựng nổi thì đã ngủ khò khò. Đó là nghệ thuật. Ban lãnh đạo trường ngoẹo đầu ngủ sau mấy bình bông cẩm chướng. Ai cũng đói, ai cũng mệt. Mười hai giờ ba mươi. Thầy hiệu phó bỗng giật mình, tỉnh ngủ. Thầy ngơ ngác nhìn quanh, lơ mơ hiểu được tính chất đểu cáng của sự việc. Thầy nhìn đồng hồ, giận dữ phát hiện ra mình ngủ quá lâu. Thằng ốm đói vẫn thều thào ghê rợn trên sân khấu. Bụng thầy rồn rột kêu réo. Đâu phải sinh viên mới biết đói. Lãnh đạo mà không ăn thì cũng đói. Thầy la lên, mấy đứa cán bộ đoàn đâu, lôi cái thằng bầy hầy này xuống sân khấu. Hắn cười sằng sặc, mấy thằng cán bộ đoàn đều là đàn em của hắn. Một phần lý tưởng trong đầu tụi nó là do hắn cấy vô. Hắn không thèm chống cự, cứ lả người ra để mấy đứa đàn em dìu đi. Đi ngang qua hàng ghế sinh viên năm thứ nhất, cặp mắt ranh mãnh của hắn bỗng hé mở và hắn bắt gặp nó. Một thằng nhỏ, bản mặt hiền khô bấm ra sữa. Tấm huy hiệu đoàn cài ngay ngắn trên ngực áo. Hắn hứng chí cười, đôi môi hắn nhấp nháy nhắn nhủ. “Mì dây thun, hà hà, mì dây thun. Chỉ nhai đi nhai lại, rửa tới rửa lui, sau năm năm là thành kỹ sư. ” Thằng nhỏ co rúm người lại. Mấy đứa sinh viên khác cũng co rúm người lại, ruột gan thắt lại, bụng đói cồn cào. Hắn biết, hiệu ứng một giờ diễn thuyết của hắn để lại sẽ rất quái gở. Cái cảm giác được ăn đầy bụng mà không no. Cảm giác sung sướng mà không khoái cảm. Cảm giác cồn cào, xót xa không nằm trong thể xác mà hành hạ đay nghiến tinh thần. Cảm giác trống rỗng ngu muội bất lực hèn hạ. Cảm giác thèm khát mà ghê tởm. Mấy đứa con gái quẹt mồ hôi trán. Những đứa con gái suốt những kỳ đại hội đoàn, chỉ ngồi đệt mặt chờ người ta xỏ mũi dắt đi. Bọn con trai lơ láo nhìn nhau. Những đứa con trai suốt mấy năm đại học đầu óc chỉ tằn mằn chuyện gạo mắm. Cả hội trường hối hả kéo ra nhà ăn. Hắn ngồi trước phần ăn, cười sằng sặc. Một dúm cơm gạo mốc vàng lẫn hạt cỏ hạt sạn. Một chén lưng canh đại dương, lõng bõng mênh mang nước biển. Một muỗng nước mắm toàn quốc, chỉ toàn là nước. Hắn cười sằng sặc, bọn sinh viên tụi bây cứ ngồi nhìn những thứ ni mà nghĩ tới cao lương mỹ vị. Hai tuần sau, một buổi tối, hắn leo lên sân thượng giảng đường. Hắn đứng thật lâu ở đoạn thoát nước cho mái nhà. Chỗ này mùa mưa rêu đóng trơn tuột. Bám lên thành xi măng, đu qua máng xối là tới một khoảng sân rộng. Cảm giác hụt hẫng chơi vơi, chực té lộn cổ xuống bao giờ cũng căng thẳng thắt tim. Hắn sẽ giả bộ quên bám lên thành xi măng, sẽ lảo đảo, sẽ “á” lên kinh hãi. Hắn sẽ vội vàng đưa hai tay chụp lấy thành xi măng, sẽ giả bộ trịnh trọng lắc đầu như tự trách mình bất cẩn. Tim hắn sẽ thắt lại cảm giác mạo hiểm mơ hồ, bên dưới sâu chênh vênh. Hắn đứng trên mái nhà, ngước đầu lên, vũ trụ đầy sao. A ha, chào 61, đỉnh cao muôn trượng. Hắn cúi nhìn xuống, cánh đồng tối đen đom đóm lập lòe. Hắn cười sung sướng, quê mình kìa, đất cày lên sỏi đá, quê mình ở dưới đó thôi. Sảy chân là rớt về quê. Hắn định sảy chân thật. Người chết vì lý tưởng có quá nhiều, những bài ca tụng cứ dài dằng dặc ra mãi. Hắn muốn khác họ, muốn đảo ngược mệnh đề. Hắn sẽ chết vì không lý tưởng. Chân hắn đứng mấp mé thành máng xối trơn trợt. Khoảng không bên dưới sâu thẳm, tối tăm. Hắn bước về phía trước, chợt nhận ra hai bàn chân để trần đen đúa. Bậy quá – mình quên nói với con chuột – còn một chiếc giày giấu sau kẹt cửa – chao ôi – không còn dịp nữa rồi – bậy quá. Thân hình hắn chúi về phía trước. Hắn dang tay ra, cười sằng sặc. Cảm giác trượt từ đỉnh cao lý tưởng vào vực sâu không lý tưởng thật là tuyệt diệu. Chỉ tiếc là nó quá ngắn ngủi, cảm giác bồng bềnh chưa kịp tận hưởng, cơn chấn động dội ngược từ phía sau làm hắn kinh hãi. Hồn hắn vọt ngược lên không trung. Thân xác nằm bất động bên dưới. Dòng máu rỉ ra lặng lẽ. Hắn tò mò quay lại nhìn thân xác mình, nó nằm đó, hiền lành như đất cát. Hắn sảy chân vào ban đêm, nằm chết thẳng cẳng trước sân trường. Hai tay dang rộng, mắt nhìn thẳng lên trời, đôi môi mỉm cười. Cả trường náo động, sinh viên nườm nượp kéo lên xem. Gia đình hắn ở quê nghèo tơ xơ mướp, đành gửi xác con lại trường. Ban giám hiệu muốn đưa hắn ra chôn sau đồi, nhưng không ban ngành đoàn thể nào chịu bỏ tiền sắm áo quan. Mấy thằng sinh viên cùng lớp kéo lên giảng đường, tụi nó chẻ bộ bàn học ra đóng áo cho bạn. Hắn ngồi bên cạnh, nhìn bạn bè gõ búa, nhớ từng kỷ niệm nhỏ nhặt chia sẻ với nhau. Những ngày mưa nắng ở nông trường – thằng mô té ở cầu cá – những buổi chiều gánh phân đi qua cánh đồng lầy lội – thằng mô tuột dép tìm hoài không ra – những cánh đồng mía ngập mặn – những đêm đốt lửa trên đồng nghe câu hò vọng cổ – mấy con đỉa no tròn bám ở bắp chân – mấy thằng bạn nghèo nước mắt mồ hôi nhễ nhại, gõ từng nhát búa lên tấm áo quan – vì mình mà bạn bè cực khổ – vì mình mà thế hệ đàn em mất một bộ bàn học – mình bỏ cuộc rồi – không đi tiếp nữa đâu. Hắn đưa tay lên chùi nước mắt, bỗng ngỡ ngàng nhận ra, mình đã hết điên từ bao giờ. Chết là hết. Cơn điên ngắn ngủi đi qua đời hắn và chấm dứt bằng cái chết. Cả trường lũ lượt đi đưa. Bạn quen và bạn không quen. Những cục đất tống tiễn ném xuống huyệt, như dội vô tim hắn. Mấy đứa con gái xô vô nhau mà khóc. Mấy đứa con gái ban đêm lên thư viện học hay bị hắn đuổi chạy. Tội nghiệp – khóc cái chi – chẳng lẽ mình chết rồi cuộc đời ni bớt vui – khóc cái chi – choáng váng – ngậm ngùi – dằn vặt – cảm thông – đau thương – tự vấn – ai mà biết tụi con gái nghĩ gì – nhưng thôi, mấy đứa về đi – đừng nghĩ gì nữa. Đừng nghĩ gì nữa. Hắn nằm đó giữa lòng đất, hai bàn tay thong dong đặt lên cái bụng lép kẹp. Hắn chờ bạn bè lấp huyệt để thanh thản yên giấc. Chết vì lý tưởng hay chết vì không lý tưởng – tất cả đều về hư vô. Hắn mở mắt nhìn lần cuối khoảng trời trong xanh, định bụng sẽ phiêu diêu chìm vào giấc thiên thu. Giữa lúc đó, hắn lại nhìn thấy nó, thằng sinh viên năm thứ nhất đang lò mò ra đứng bên bờ huyệt. Bàn tay nó đưa ra trước, run lẩy bẩy. Nắm đất nằm yên trong tay nó, không rơi xuống. Hắn ngóc đầu nhìn nó, con tim bỗng quặn đau. Chết rồi răng vẫn còn đau – hư vô là cái chi chi. Thằng nhỏ kia là hình ảnh của hắn những ngày đầu náo nức bước chân vào trường đại học. Có bao nhiêu thằng như vậy. Có bao nhiêu những đứa trẻ tuổi tâm hồn trong sáng tràn đầy niềm tin yêu như vậy. Tấm huy hiệu đoàn cài thẳng thớm trên ngực áo. Hắn thở dài, ném nó xuống đi, mày ném nó xuống cho tao, còn chờ chi nữa. Thằng nhỏ nhìn xuống lòng huyệt đôi mắt mở to hoang mang. Hắn lại gắt, mày thả nắm đất xuống cho tao, còn giữ làm chi nữa. Chỉ là cát bụi – nắm đất này không ném lại đây, phải mang theo suốt cuộc đời, làm răng mà sống nổi – phải biết bỏ lại để mà đi tiếp – đừng bỏ cuộc. Thằng nhỏ vẫn giữ chặt nắm đất trong bàn tay tướp mồ hôi. Mấy đứa sinh viên khác chen tới, đẩy nó qua một bên. Hắn nạt lớn, phải biết bỏ lại để mà đi tiếp, nghe chưa. Nó giấu bàn tay ra sau lưng, cúi đầu len lét lùi lại. Hắn giận dữ bò ra khỏi huyệt, tới bên cạnh nó, thổi cơn gió lạnh chạy dọc qua sống lưng thằng nhỏ. Hắn thì thào ghê rợn. “ Mì dây thun, hà hà, mì dây thun. Đừng nghĩ gì hết. Thì sẽ thấy ngon.” Thằng nhỏ kinh hãi quẳng nắm đất xuống huyệt. Nó quay đầu bỏ chạy. Hắn đứng đó, ước gì mình còn điên để có thể cười sằng sặc. Sinh viên là phóng thể Ăn. Ăn. Ăn. Mặc dù tôi ghét Khánh cay đắng nhưng vẫn nhận lời đi ăn hủ tiếu mì với gã. Khánh là loại sinh viên quý tộc, thuộc về một thế giới khác. Trưởng giả, no đủ, vô lo và kệch cỡm. Mùi hủ tiếu mì theo làn hơi nước bốc lên từ nồi nước lèo riu riu lửa, toả một làn sương mỏng đong đưa trên miệng nồi, toả đi lan man qua cánh mũi phập phồng, toả ra, toả ra… thơm kỳ lạ. Tôi mở rộng hai cánh mũi cho hương hủ tiếu tràn vào, bàn chân tôi ngọ ngoạy liên hồi dưới gầm bàn, cái mông xương xẩu dán chặt trên mặt ghế đẩu ọp ẹp long chân, hai con mắt đeo cứng lên gánh hàng của dì Tư. Khánh với Pháp phì phèo thuốc thơm, châm hết điếu này tới điếu khác, họ hào phóng đẩy nguyên gói thuốc lá qua bên tôi, nhưng tôi kiên quyết từ chối. Tôi không muốn hút thuốc chỉ muốn ăn mì, hơn nữa thuốc lá là thứ xa xỉ vô bổ mà tôi cần phải xa lánh. Tôi mơ màng nghĩ tới tô mì nóng, cánh mũi tôi phập phồng không cách chi giữ yên được, đành để mặc tâm hồn mình ngây ngất đong đưa trong làn hương êm dịu mà từ nhiều tháng qua tôi cứ phải chạy trốn nó. Trong suy nghĩ của tôi hình ảnh tô mì hiện ra rõ mồn một với hai lát thịt đùi mỏng có viền một vành mỡ trắng, mấy khúc hẹ xanh, hành ngò, vài cánh hành tím phi vàng ươm, bên dưới nhúm sợi mì vàng dai mịn là mấy cọng giá trắng. Hôm nào dì Tư chơi sang thì sẽ có thêm hai con tôm khô nở mềm. Dì Tư làm chi lâu dữ tề. Trụng mì xong rồi thì bỏ thịt, chan nước lèo. Tôi không ưa Khánh nhưng cố tế nhị giấu đi ác cảm của mình. Chẳng phải vì ghen, chẳng phải vì ganh tị cũng chẳng hiểu vì răng. Khánh đeo đuổi Bắc ráo riết, thả bọn đàn em ra dò la tin tức nên biết là tôi chơi thân với Bắc, biết tôi là đứa từng cõng Bắc ra trạm xá cấp cứu. Tôi rút bàn tay lạnh đang kẹp giữa hai bắp đùi, lọng cọng cầm cái muỗng lên. Miếng nước lèo đầu tiên chui qua cuống họng ấm áp lạ lùng, tôi nuốt ừng ực, nhai ngấu nghiến, tô mì không kỳ vĩ như tôi vẫn hình dung, nó chỉ là một thứ hỗn tạp dễ biến đi mất tích trước khi tôi kịp suy nghĩ xem nó ngon ngọt thơm tho đậm đà tới cỡ nào. Tôi húp lia húp lịa, chẳng còn quan tâm gì tới hai thằng bên cạnh, cái phần cao lương mỹ vị trong tô chỉ là một thoáng hư vô, một thoáng dại khờ. Răng rứa hè. Răng nhanh như rứa. Nhanh lạ lùng, nhanh tới độ chẳng biết bây chừ nó nằm đâu. Tôi thẫn thờ nhìn cái tô không cảm thấy luyến tiếc vô hạn và tự trách mình vội vã đến độ ngu ngốc. Một ít tiêu đen lợn cợn ở đáy, một chút váng mỡ bám bên thành, một khoanh hành lá mỏng dính vướng trên vành muỗng, đó là những thứ di vật còn sót lại. Khánh kêu thêm cho ba đứa lượt mì thứ hai. Bọn họ mới vừa đi thực tập từ Cao Nguyên về, người ngợm còn phủ đầy đất cát, bụi đỏ, tóc tai bù xù dài quá cổ áo. Khánh chậm rãi châm thêm điếu thuốc, nhìn dì Tư cười. “Tụi con đói rã ruột. Ba tháng ở rừng ăn cơm hẩm muối khô nhớ dì Tư kinh khủng.” Dì Tư chùi tay lên vạt áo rách cười xoà. “Bây giờ còn nói vậy chứ ra trường rồi là quên dì tuốt luốt.” “Thỉnh thoảng tụi con về thăm gánh hủ tiếu mì của dì.” Mặc kệ cái thằng ba hoa phét lác, tôi chỉ quan tâm tới tô mì, lần này rút kinh nghiệm nên ăn thật chậm tô mì thứ hai. Cả Khánh và Pháp cũng vậy, cũng thong dong ăn hút. Từ đây đến chiều vẫn còn dư thời gian để tụi nó tắm rửa sạch sẽ, thắng bộ tử tế rồi nhởn nhơ ra quán nước đầu đường chờ Bắc tan trường. Tôi căm ghét tọng nguyên miếng thịt đùi vào miệng, miếng thịt này dì Tư tốt bụng xắt hơi nhẹ tay, nó dày mềm và nhiều mỡ. Mỡ béo ứa tận chân răng, bám lên vòm họng, tan ra trên lưỡi. Thay vì nuốt vội vàng, tôi thận trọng nhai đi nhai lại. Khánh hỏi tôi. “Mấy giờ lớp Giang tan học.“ “Khoảng bốn giờ.“ Hôm nay lớp tôi có ba tiết Thổ Nhưỡng, thầy đứng lớp là kỹ sư trẻ, hơn bọn tôi năm bảy lớp chi đó vừa ra trường được vài năm. Thầy dạy đàn em khoá sau theo kiểu biết chi nói nấy, kể con cà con kê mấy giai thoại ở nông trường mía, vài tháng kinh nghiệm ở đồng bằng sông Cửu Long, chêm thêm vài đoạn tấu hài châm biếm phái nữ. Chẳng biết hồi đó thầy yêu đương học hành ra răng, bây chừ lại cứ hay bêu rếu phụ nữ và dị ứng kinh khủng với chuyện nữ sinh ngủ gật ở giảng đường. Trưa nắng xốc bụi, dãy nhà mái tôn thấp lè tè nóng ngốt nằm chơ vơ trên đồi trống, một đám nửa người nửa ngợm vừa mệt vừa buồn ngủ vừa đói. Em nào lỡ ngủ gục là bị thầy lôi ra làm trò hề cho cả lớp, cười cho đã rồi thì nhục mạ không thương tiếc. Hôm nay trời nắng đỏ mắt, tôi tự biết thân mình không kham nổi không khí tra tấn của thầy nên đành trốn học. Khánh nhìn tôi cười, tôi cũng gượng gạo cười đáp lễ, một chút cảm thông bất ngờ sau khi ăn tô mì thứ hai không làm tôi ngạc nhiên. Khánh không hỏi làm răng tôi trốn học, gã chỉ rút cho tôi điếu thuốc rồi tận tình châm lửa. Tôi tham lam rít một hơi dài cảm thấy dây thần kinh mình giãn dần ra, khoan khoái lạ lùng. Thằng người rừng này nhất định theo đuổi Bắc, gã có đủ tất cả, chỉ còn thiếu loại gái nhà lành để thêm gia vị cho cuộc đời phóng đãng. Tôi không ưa loại chuyện tình bốc hốt, không ưa hai thằng hoang đàng đang ngồi chung bàn. Đây chỉ là một trò đùa quái ác của bọn dư tiền, một cuộc vui vớt vát trước khi ra trường. Tôi buồn rầu trút hết dĩa ớt bằm vào tô hủ tiếu thứ ba, dân miền Trung sợ chi ớt. Hơi cay xộc lên suýt nữa thì tôi sặc ho. Khánh thong thả phì khói ra mũi, thong thả lắng nghe Pháp Sư thao thao kể chuyện ở lâm trường. Thằng Sỏi đi lùi lũi từ giảng đường về, chắc nó không chịu nổi ba tiết tra tấn, phải trốn ra sớm. Thằng Sỏi siêng học, mê học, nhưng ốm yếu còi cọc thiếu sức chịu đựng. Nó là đứa bị cái đói đe doạ thảm khốc nhất phòng. Quê nó ở Đông Hà, ba mạ nó chắc không cần suy nghĩ chi nhiều khi đặt tên con là Sỏi. Làng nó, làng tôi, làng thằng Lũ, nếu người ta không chọn những cái tên văn hoa mỹ miều đặt cho con thì cũng có sẵn mấy cái tên dễ kêu mà cũng dễ hiểu. Đá, Cát, Nắng, Hạn, Bom, Mìn… Nghèo, Đói. Thằng Sỏi đói quanh năm, da nó xanh mướt như mướp khía, triệu chứng suy dinh dưỡng lòi ra trên hai bàn tay, phòi ra trên làn da bủng thành đám mụn nhọt ghẻ lở. Vào lớp học là nó ngồi chui rúc trong góc sau, nép giữa bầy con trai. Nó không bao giờ dám ngồi kế bên con gái, sợ phải khoe bàn tay cẩn xà cừ. Thằng Sỏi đi băng qua sân bóng chuyền, hai tay đút túi quần, mấy cuốn tập cong mép kẹp cứng ở nách. Cái dáng còm cõi co rút của nó tương phản thảm hại với cái kiểu bất cần đời xỏ tay túi quần. Nó cúi gằm đầu nên không thấy tôi. Chiếc bóng mỏng manh xiêu vẹo biến vào cửa cư xá. Mãi về sau này, mỗi khi nhớ đến thằng Sỏi, hình dáng vật vờ bên đường nắng của nó lại hiện ra trong vùng ký ức buồn bã. Tôi với Thung quỳ bên nấm mồ Sỏi trong niềm đau thương uất hận nung sôi nước mắt. Những nỗi uất hận của đám sinh viên nghèo cùng cực không biết gửi đi đâu, không biết giải thích làm sao đành thả theo cơn gió thổi qua ngọn đồi Thủ Đức ghẻ lở tật nguyền. Gió khô ngốt đưa hương hồn thằng Sỏi về lại miền quê hương Đông Hà liên miên nắng đỏ. Nắng soi nghiêng nghiêng qua quán lá thưa, vài đốm sáng đọng trên mặt bàn sứt sẹo. Tôi úp bàn tay che lên đốm sáng lại thấy nó hiện ra trên mu bàn tay mình. Tôi nghĩ tới thằng Sỏi đang nằm ngủ chèo queo trong phòng. Kỳ lạ. Tôi cố nghĩ về nó, nghĩ về cái đói cồn cào khốc liệt mà những thằng sinh viên nghèo phải gánh chịu. Tôi cố nghĩ nhưng rồi bất lực. Kỳ lạ? Tại sao khi no nê, khi đầy bụng người ta không thể tư duy mạch lạc về sự tồn tại khốc liệt của cái đói? Tại sao khi vừa thoát khỏi sự hành hạ tàn nhẫn đó, người ta có thể quên ngay đi không còn cảm xúc? Có phải vì vậy mà kẻ no đủ không bao giờ hiểu được kẻ đói khát? Pháp nói vu vơ. “Tao còn lấy thêm dữ liệu bên Đức Trọng nữa là xong. Bắt đầu viết luận án tốt nghiệp.” Khánh nhả thuốc, giọng hắn kéo dài ra, dường như là bâng khuâng. “Nhanh quá. Không ngờ năm năm đại học qua cái vèo.” Họ luyến tiếc những ngày vui. Pháp cười sằng sặc, lại ba hoa nhắc mấy kỷ niệm quậy phá ở giảng đường, ở cư xá nữ. Bọn trưởng giả – tôi căm ghét nghĩ. Trời nắng như điên loạn, hơi nóng từ lò hủ tiếu nung hầm hập bên mé trái. Tôi ăn xong tô mì thứ tám, no cành hông. Mùi nước lèo ngầy ngậy dâng lên nhộn nhạo, bụng tôi căng cứng ấm ách khó chịu vô cùng. Mắt tôi ríu lại trong cơn buồn ngủ đang sồng sộc kéo tới. Dòng nước ao tù chua đọng bốc hơi dưới nắng nóng. Hình ảnh anh Tranh xanh xao tả tơi từ nơi nào trong miền ký ức bỗng lại hiện ra. Từ sau cái chết của anh, đây là lần đầu tiên tôi được ăn lại món mì. “Mì dây thun, hà hà, mì dây thun. Chỉ nhai đi nhai lại, rửa tới rửa lui, sau năm năm là thành kỹ sư.“ Bao tử tôi quặn thắt như có ai bóp chặt, chất lỏng hăng loét trào lên cuống họng. “Mì dây thun.“ Tôi lao ra bãi rác mửa thốc mửa tháo những thứ vừa nuốt vào bụng. Một đống mì vàng, một phần gãy bét, một phần còn nguyên do bị tôi nuốt trọng. Miệng tôi khô khốc chua đắng. Con chó cò chờ sẵn bên hiên vội vàng nhào tới đớp tờm tợp, cái đuôi xà mâu rụng lông của nó quẹt qua mũi tôi. Cơn buồn nôn tưởng chấm dứt lại ào ào kéo tới, tôi bò ra đất mửa cả mật xanh lẫn mật vàng. Khánh nắm vai tôi lôi ngược vào quán. Pháp nhấc hai chân tôi lên, nói. “Tụi mình đưa nó lên cư xá. Thằng này chắc say nắng.“ Tôi lảo đảo bám vai Khánh gượng đứng dậy, cười ngượng ngùng. “Có chi mô, không sao đâu. Tôi ăn no quá, lại cứ bị ám ảnh bởi chuyện mì dây thun.” Khánh dìu tôi ngồi lên cái ghế ọp ẹp khi nãy. Tôi lao đao gục đầu lên mặt bàn thấp, dường như là có dễ chịu hơn một chút, dường như là không còn gì. Không no, không đói. Nhưng lại rơi vào một vùng buồn chán và tủi nhục. Khánh gọi với qua quán chị Phụng cạnh bên. Gã kêu hai ly cà phê đá và một ly cà phê sữa đá loại đặc biệt cho tôi. Gã chậm rãi hỏi. “Chuyện mì dây thun của thằng Tranh phải không?” Tôi ngẩng lên, uể oải gật đầu. Khánh nhìn Pháp chăm chăm. Pháp cũng thận trọng nhìn lại. Giữa hai thằng này có một điều gì căng thẳng khó chịu lắm. Nắng vàng quánh bên đường, trời vẫn không trở gió nóng oi oi. Dì Tư hạ lửa nồi hủ tiếu, cầm cái nón lá rách quạt phe phẩy. Tôi nhấp ngụm cà phê sữa đá béo ngọt, thơm mát, sảng khoái cả người. Cơn buồn ngủ tan biến đi dần dà. Khánh hỏi tôi khoẻ chưa, rồi gã bắt đầu kể. “Hôm thằng Tranh chết, bọn mình đang ở lâm trường Đức Trọng.” Khánh nhấp ngụm cà phê, bâng khuâng rít một hơi thuốc. “Thằng Lân về trường báo cáo số liệu đúng ngay đêm thằng Tranh tự tử, tận mắt chứng kiến cái xác thằng Tranh nắm sóng soài trên sân giảng đường. Ngày hôm sau nó trở lại lâm trường, vừa bước vô tới lán thực tập là oà lên khóc. Cả lớp đều sốc. Đêm đó, giữa bọn mình nổ ra một cuộc tranh cãi gay gắt. Lần đầu tiên bọn mình ngồi lại với nhau để mổ xẻ phân tích vấn đề, tranh luận, mắng chửi nhau té tát và cùng đau đớn.” Pháp ngồi bên đột ngôt cười khẩy, gã cay cú cắt ngang. “Mày nên nói rõ, lần đầu tiên những cái đầu đặc như hột mít, chai như vỏ bánh xe, chịu khó suy nghĩ tranh luận, thôi nghĩ đến bài bạc, bia rượu và gái điếm. Lần đầu tiên thanh niên có cuộc tranh luận đích thực mà không chạy theo phong trào, không bị cán bộ đoàn định hướng.” Khánh nhún vai, gã lại kể. “Ừ, lần đầu tiên. Chắc Giang cũng biết ít nhiều về thằng Tranh, nó là một đứa thông minh siêu đẳng. Vùng đất gian khổ cày lên sỏi đá miền Trung cứ sản sinh ra những kỳ nhân. Người tài thì ôm nhiều mơ ước. Mơ ước bình dị của thằng Tranh khi mới bước chân vào trường là sẽ đem kiến thức trở về xây dựng miền quê hương nghèo đói của nó. Năm học thứ nhất thằng Tranh đạt điểm xuất xắc tất cả các môn. Năm thứ hai nó trở thành cán bộ ưu tú cấp thành đoàn. Nó đi nhiều nơi, tham dự hội thảo sinh viên ở các trường đại học, ra Hà Nội dự đại hội đoàn thanh niên toàn quốc, lên tới những nông lâm trường biên giới, sục vào tận rừng U Minh xây dựng phong trào khuyến nông cấp cơ sở. Khi đấy bọn mình không nghe nó nói chuyện về quê nữa. Nó hướng tới những hoài bão, những mục tiêu tầm vóc to lớn, nói năng như một nhà lãnh đạo thực sự. Mà thằng Tranh lại có khiếu ăn nói, những lời nó nói xuất phát từ trong tim trong máu, mang đầy nhiệt huyết dễ gây xúc động lòng người. Nhưng, thời gian đấy, cũng là lúc nó bắt đầu thấy được nhiều điều, biết được nhiều chuyện và hiểu được nhiều thứ.” Pháp lại chen vào, giọng gã xúc động lạ lùng. “Và cũng bắt đầu nhận ra sự thật thối tha được tô màu loè loẹt.” Khánh gật đầu rồi kể tiếp. “Suốt thời gian đấy, nó hầu như không ở trường, không lên lớp ngày nào, chỉ học qua giáo trình và tập vở bạn bè. Vậy mà kỳ lạ, nó vẫn đạt điểm tối ưu trong kỳ thi cuối năm. Đến cuối năm thứ ba, nó trở về trường, đột ngột ngưng các hoạt động của thành đoàn. Chiều chiều, nó đạp xe thơ thẩn về Sài Gòn. Cuối tuần nó ngủ lại đâu đấy trong mấy ký túc xá thành phố. Bạn bè đoán non đoán già là nó dính vào chuyện yêu đương. Hoá ra, thời gian đấy nó lén lút liên hệ với các cán bộ đoàn thanh niên của những trường đại học trên địa bàn thành phố, ngấm ngầm vận động bãi khoá. Nó kêu gọi sinh viên đấu tranh chống tham nhũng, chống ăn chận kinh phí trong hệ thống giáo dục và trường đại học. Nó cô đơn âm thầm theo đuổi mục tiêu đến cả bạn bè cùng lớp, cùng phòng không hề hay biết. Tư tưởng chống đối có kế hoạch của nó làm đám cán bộ đoàn ở các trường đại học khác sợ hãi. Người ta tránh né nó, xua đuổi nó như một thứ dịch bệnh nguy hiểm. Nhưng lại đồng loã bao che cho nó. Bởi vì đấy là một thằng thực sự có hoài bão lý tưởng mãnh liệt, điều ấy chỉ làm cho người ta thương hại chứ không thể nào ghét bỏ.” Pháp chen vào một câu. “Nói kiểu khác, những thằng hèn nhát thương hại thằng lý tưởng.” Khánh không để ý, cứ thản nhiên kể tiếp. “Mãi đến khi nó chết, một số chuyện tày trời của nó mới dần được rò rỉ ra trong đám thân hữu. Năm học cuối cùng, bạn bè chuẩn bị làm đề án tốt nghiệp thì nó bỏ ngang. Đi lang thang ngơ ngẩn trên đồi, cô độc, câm nín. Một thằng quá lý tưởng như nó, khi hiểu ra cái thế giới đẹp đẽ mà mình tìm tới không hề tồn tại, nó đâm ra mất phương hướng.” Pháp cay cú lắc đầu. “Không đúng. Mày đừng làm sai lạc vấn đề, đừng đổ tội cho niềm tin. Niềm tin không có tội. Thằng Tranh đã bị người ta bịt mắt dẫn đi trên một con đường lý tưởng. Người ta kể cho nó nghe về những thứ phổ quát trừu tượng đẹp đẽ mà con mắt đui mù của nó không hề nhìn thấy, chỉ toàn là nghe và tưởng tượng thêm ra. Tới khi nó vấp phải cục đá nhỏ trên đường thì nó hoảng hốt, mò mẫm, hoang mang, nó ngỡ cả con đường phía trước, cả thế giới xung quanh đều là đá, đều đầy chướng ngại vật nguy hiểm khôn lường. Nó lại không đủ sức, hay đủ can đảm để tự tháo bỏ tấm khăn bịt mắt. Bước một bước nữa, nó lại vấp ngã. Tấm khăn bịt mắt tuột ra. Nó lạc vào một thế giới xa lạ, tồi tệ, thối nát và đầy dối trá. Tại sao? Tại sao không bảo cho nó biết, cuộc sống còn có vô vàn những con đường khác nhau, có thể xấu hay tốt, có thể êm đềm hay chông gai. Nhưng những con đường đó luôn mở ra, dẫn người ta đi về nhiều hướng. Và, chúng ta được quyền mở mắt để chọn lựa. Mỗi đứa được quyền chọn cho mình một con đường.” Khánh nhún vai cười nhạo. “Và như thế, tao với mày sẽ tiếp tục cãi nhau đến sáng.” Pháp trợn mắt la lên. “Tại sao không? Tao có thể cãi nhau, đánh nhau với mày vì quan điểm mỗi đứa khác nhau. Nhưng ngày nào tụi mình vẫn còn chút liêm sỉ để dám nói cho nhau nghe những lời tâm huyết, những suy nghĩ thật lòng, thì giữa tao với mày vẫn còn một thứ, là tình bạn.” Khánh lại châm thuốc thủng thỉnh nói tiếp. “Ừ, thì là bạn. Để cho bạn mày nói xong rồi tới phiên mày, muốn nói gì thì nói. Chuyện thằng Tranh làm cả đám bạn bè đều đau đớn, đâu phải riêng tao hay mày. Ngày hôm sau cả lớp LN38 kéo về trường để đưa đám thằng Tranh. Mình định mua cho nó bộ áo quan tử tế, nhưng Pháp và bạn bè cản lại. Tụi nó muốn thằng Tranh nằm giữa bộ bàn học do chính tay bạn bè đóng, do từng đứa bạn tỉ mỉ gõ từng cây đinh. Nó xứng đáng được an táng như vậy. Đưa đám nó xong, buổi tối, bọn mình kéo về khoa đốt lửa ngồi với nhau, bồi hồi kể cho nhau nghe những kỷ niệm về thằng Tranh. Cứ tưởng như nó sẽ về, xà xuống bên bếp lửa để cùng bạn bè tán dóc. Hoá ra, lớp mình có quá nhiều kỷ niệm với nó. Suốt ba năm học đầu, lớp Nông Học 38 và Lâm Nghiệp 38 thường xuyên lên chung giảng đường. Nó lại ở cùng phòng với mình và Pháp, tình cảm gắn bó như anh em. Dạo đấy, phòng mình là căn phòng duy nhất trong cư xá tiến lên được chủ nghĩa cộng sản. Bọn mình góp gạo ăn chung, không phân biệt giàu nghèo, nói cho đúng bài bản, “góp theo năng lực ăn theo nhu cầu”. Thằng Tranh được giao nhiệm vụ nấu cơm sáng cho phòng. Nó là một thằng nguyên tắc cứng ngắc. Thời khoá biểu của nó có ghi ăn sáng lúc sáu giờ. Hôm nào dậy sớm học bài, đói rã ruột, nó vẫn đợi đúng sáu giờ mới nhấc đũa, mặc kệ bọn mình ngồi bên khua chén khua đũa ầm ĩ. Mình vẫn còn nhớ, cái dáng nó ngồi ôm tập học cạnh nồi cơm, nhất định không nhìn ai, chỉ thỉnh thoảng liếc nhìn đồng hồ. Mình với Pháp vừa ăn vừa chế nhạo nó như một thằng hề, từ tính ngăn nắp, kỷ luật, vệ sinh… tới kiểu sống lẩm cẩm. Nhưng nó là một thằng không biết đùa, không có óc khôi hài. Trêu ghẹo nó rất chán. Những kẻ không có óc khôi hài khi tuyệt vọng lại rất nguy hiểm, dễ tìm đến cái chết.” Pháp búng mẩu thuốc hút dở ra đường. Gã khó chịu ngắt lời. “Mày quan sát sự việc trên một phương diện rồi quy nạp những khả năng khác về một trục đối chiếu. Làm sao mình có thể khẳng định nguyên nhân cái chết của thằng Tranh? Có thể nó bị bịt mắt nên đui mù mà trượt ngã. Có thể nó tự tử để khỏi phải kéo lê cuộc đời nhu nhược rồi chết ngẫu nhiên. Có thể nó định làm cuộc thí nghiệm khôi hài. Từ đỉnh lý tưởng khôi hài trượt sang cái hố hiện thực khôi hài để hiểu cái cảm giác lơ lửng khôi hài mà những kẻ khôi hài đã cấy vào đầu nó. Và cái chết của thằng Tranh đối với xã hội khôi hài này chỉ đáng là một câu chuyện khôi hài.” Khánh cười ha hả. “Ê, Pháp sư. Mày là thằng bạn khôi hài lố bịch nhất. Chơi với mày, tao không sợ tốn tiền phúng điếu. Những thằng khôi hài như mày không bao giờ chết lãng.” “Đúng vậy. Tao rất sợ chết, tao còn phải sống để làm ra tiền. Tao chỉ muốn tranh luận với mày chứ không có ý định gạt bỏ giả thuyết của bất cứ ai. Chúng ta được giáo dục nhìn nhận sự việc thuần tuý một chiều, và một chiều có định hướng. Dì Tư cho con mượn cái nón.” Dì Tư từ nãy giờ ngủ gà ngủ gật bỗng giật mình, phe phẩy cái nón đuổi ruồi. Pháp với tay sang cầm cái nón lá cũ mốc của dì Tư. Gã nói. “Giải thích đơn giản với Giang như vầy. Cái nón lá này có nhiều góc nhìn. Nhìn ngang sẽ gần như hình tam giác. Nhìn từ trên xuống là những vòng tròn từ nhỏ to dần ra. Nhìn mặt trong này, đó là những vòng tròn từ to đi vào nhỏ. Nhìn nghiêng là một hình nón. Hình ảnh nó trong mắt mình là một hình khối to lớn, nhưng thực chất được cấu thành từ những yếu tố mỏng manh…” “Quân sư quạt mo! Thầy bói mù sờ voi! Thằng lý sự cùn!” Khánh phì cười. “Mày có thể nhìn đủ kiểu, đủ hướng để khai triển tính cách vật thể. Mày có thể tước cái nón lá của dì Tư ra thành những sợi lá chằm để ba hoa, cái nón này thực chất là những đường thẳng. Những thằng kiến thức rách rưới chấp vá, như tao và mày, càng cố lý luận càng làm sai lệch vấn đề. Cứ nghĩ đơn giản, nếu bây giờ trời mưa thì đối với tao, với mày, với Giang, với dì Tư… cái nón lá chỉ có thể là hình nón. Đó là cốt lõi của vấn đề. Tại sao mày cứ chạy lung tung cho mưa ướt? Con nói đúng không dì Tư?” Dì Tư lo lắng giật lại cái nón. “Mấy cậu nói gì thì nói, không được xé cái nón của dì ra.” Tôi bật cười. Khánh vui vẻ hỏi. “Giang nghe tụi mình cãi nhau có chán không? Mình cứ bị thằng Pháp dụ dỗ tranh luận những chuyện đâu đâu thành ra quen miệng mất.” Pháp cũng cười xoà. “Ờ. Tao như Robinson sống trên hoang đảo, dạy dỗ được một thằng mọi chuyên ăn chơi đàng điếm như mày để trò chuyện là đỡ cô đơn lắm rồi. Tao với thằng mọi mò tới ranh giới của nhận thức. Chấp nhận ở lại bên này, mình sẽ là những vĩ nhân bộ lạc. Bước qua bên kia, mình là thằng khôn ranh, khôn vặt. Đi thêm một bước, mình là kẻ bị bộ lạc xua đuổi, ném đá. Đôi lúc tao nghĩ, trong xã hội có định hướng này, lý giải hay đi tìm sự thật đều là chuyện hoang tưởng.” Khánh nói. “Có lẽ vậy thôi, cũng như những điều bọn mình tranh luận ở đây chỉ là một mớ kiến thức vụn vặt, không hệ thống và thậm chí là… có thể sai be bét. Sinh viên chỉ được định hướng tư tưởng chứ không hề được dạy dỗ cách tiếp cận vấn đề và tìm cách lý giải chúng. Mình không nên tra tấn Giang nữa. Đám sinh viên thường chỉ cãi nhau những chuyện ăn ở, bếp núc.” Tôi buột miệng nói. “Có lần Duyên cũng than như rứa. Sinh viên chỉ đủ sức quanh quẩn với những chuyện nhỏ nhặt, ăn uống, yêu đương, đối phó với thi cử. Duyên nói, sinh viên là loài phóng thể.” Khánh nhướng mắt nhìn tôi ngạc nhiên. Gã này thường có vẻ ít ngạc nhiên vì bất cứ chuyện gì. “Duyên nào? Duyên ca sĩ à?” Tôi gật đầu. “Ừ, Duyên ca sĩ.” Tôi không hỏi tại sao gã biết Duyên. Cả trường này đều biết tiếng Duyên. “Cô bé nói vậy à? Có bảo phóng thể là gì không?” “Không. Tôi cũng không biết phóng thể là chi. Duyên hay nói lung tung, còn tôi lại không thích hỏi.” Pháp bỗng cười ré lên, như một thằng điên. Suốt cả buổi, lần đầu tiên mới thấy gã cười sung sướng như rứa. Mãi sau này tôi hiểu ra, mới có thể gọi đúng tình trạng của gã. Đó là là một thằng cuồng chữ, một thằng đói tri thức bỗng vớ được thứ khoái khẩu. Gã cười khanh khách, đập cả tay lên bàn, lên vai Khánh. “Ê, Khánh! Hoá ra cô em ca sĩ kia chỉ giả bộ khù khờ, đánh lừa hai thằng khù khờ. Sinh viên tụi mình là loài phóng thể. Thật ngộ nghĩnh” Tôi tò mò nhìn Pháp, cũng không hiểu, tại sao gã khoái chí với định nghĩa kỳ dị đó, cũng không hiểu, tại sao hai thằng mọi rừng này đang theo đuổi Bắc lại khoái chí nhắc tới Duyên. Nhưng tôi đoán, trong khi tôi vật vã tìm cách thoát ra khỏi cái đói thể xác, thì những thằng trẻ tuổi đồng trang lứa, những thằng không bị cái đói và sự thiếu thốn vật chất hành hạ, lại rơi vào một sự đói khát khác. Bọn họ đói kiến thức. Bọn họ và Duyên, những con mọt sách tật nguyền, gặm nuốt tham lam tất cả những thứ giấy vụn rơi rớt bên dòng tư tưởng chính thống. Bụng họ đầy căng, thừa mứa nhưng không cách chi tiêu hóa được. Họ thiếu chất xúc tác để hóa giải được những thứ đồ ăn hỗn tạp đó. Cái cảm giác được ăn đầy bụng mà không no. Cảm giác sung sướng mà không khoái cảm. Cảm giác cồn cào, xót xa không nằm trong thể xác mà hành hạ đay nghiến tinh thần. Cảm giác sợ hãi lạc lõng đó đẩy họ tìm đến với nhau, cảm thông, khắc khoải, đau đớn mà không thể có nhau. Khánh hỏi Pháp. “Mày có biết loài phóng thể là gì không?” Pháp lắc đầu. “Không.” “Không biết sao mày cười?” “Tao cười sự không biết của tao. Tao cười sự ngu dốt bất lực của tao. Mà tao đoán, Duyên cũng chỉ là một con vẹt, đọc sao thì nói vậy chứ không hiểu hết ý nghĩa. Cô ấy cũng như tụi mình long đong đi tìm nhưng sẽ không bao giờ tiếp cận.” “Đi tìm cái gì? Tiếp cận cái gì?” “Tao cũng không biết.” “Không biết sao mày nói?” “Tao nói về cái sự không biết.” Hai thằng ngớ ngẩn nhìn nhau. Tôi chán nản nhìn ra con chó nằm ngoài hiên quán. Con chó phễnh bụng vì ăn quá no, nó uể oải cựa mình. Trưa nắng ngoắc ngoải. Khánh và Pháp uống sang chầu cà phê thứ hai, lại lải nhải tranh luận. Tôi được mời tô mì gói, bù cho phần bị mửa ra lúc nãy. Hình như hai thằng cuồng chữ đang cố gắng tìm hiểu một thứ triết học nào đó. Nó không giống như loại triết mà nhà trường và xã hội vẫn tìm cách cưỡng bức, nhồi nhét vào đầu tụi tôi. Hai đứa nó đang lăn lộn ngụp lặn trong những ý niệm, những phạm trù hoàn toàn xa lạ. Tôi không rõ, họ nói chi. Tôi cũng không thể hiểu nổi. Có thể họ cũng không hiểu hết những điều họ nói. Buổi trưa hắt hơi nóng xuống mái lá. Tôi ngồi ăn mì rồi nghe họ nói, rồi để mặc họ kéo tôi đi. Một thế giới nào khác đang từ từ mở ra, lúc nào không hay. Những con đường mênh mang dẫn mình đi xa lắc. Đi không cần định hướng. Đi không bị buộc phải quay về chỗ đã định. Pháp nói, vì tôi hiện diện mà những con đường kia hiện hữu. Thật vậy sao? Kỳ lạ quá. Tôi phá lên cười. Khánh cũng nhìn tôi cười. Nếu họ nói những điều này trước đây vài giờ thì tôi sẽ căm ghét họ. Bởi khi ấy tôi đói, tinh thần chỉ đủ sức vật lộn với cái cảm giác trống không của bao tử. Bây giờ no đủ, tôi bỗng giống họ, thèm khát một cái chi khác hơn những đòi hỏi quen thuộc của dạ dày. Và mãi sau này, khi được sống những ngày no đủ, tôi lại hiểu thêm rằng, còn có những thứ ham muốn khác nữa để con người ta vừa thoát khỏi cái đói này đã hối hả chìm vào cái đói khác. Bản tính con người là sự thiếu thốn. Chỉ đáng thương, cái mà người ta vội vã tìm đến khi bắt đầu no bụng không phải là tri thức, không phải là tư tưởng. Mà là những thứ xô bồ, đơn giản, những thứ có thể mau chóng lấp đầy dục vọng và sự hụt hẫng. Buổi chiều hôm ấy, một buổi chiều chìm đuối trong miền xao xuyến. Nó pha lẫn giữa niềm phấn khích cảm nhận những cái mới lạ và nỗi lo sợ cố hữu. Một sự bất an trần truồng vô vọng trói chặt lấy cảm thức, lo âu chia xé tâm hồn. Tôi run sợ lùi lại, những điều này đã vượt ra ngoài dòng tư tưởng chính thống độc đoán, sẽ bị chụp mũ, sẽ bị buộc tội là phản động, sẽ bị đánh đập tơi tả. Tôi lùi lại, lùi lại, cả người co rúm không phương tự vệ. Khánh mồi thuốc cho tôi, từ tốn hỏi. “Giang nghĩ sao? Khi người ta luôn ca ngợi khái niệm tập thể, kiên quyết bài trừ và lên án cái tôi?” Tôi sợ sệt nhìn Khánh không dám nói gì, chỉ chậm chạp rít một hơi thuốc. Ngụm cà phê ngọt ngào, thơm tho mát rượi chui dần qua cổ họng. Mấy hột đậu phọng da cá béo ngậy nghiền nát giữa hai hàm răng. Cảm giác no đủ thật là sung sướng và thư giãn. Cứ như không còn bị ràng buộc bởi cái đói cái khổ thì đâm ra hết muốn kiềm chế. Tôi buột miệng nói. “Mình nghĩ là, ừ, cũng có lúc mình nghĩ…” Vậy là tôi tâm sự, tôi kể lể với những kẻ xa lạ vừa cho tôi hưởng thụ khoái cảm vật chất. Những điều nằm im trong tiềm thức bị cơn hưng phấn kích thích đang dập dềnh chuyển động. Tôi hào hứng tuôn ra nỗi lòng mà không hề ý thức rằng, tôi cũng đang khao khát được tự do suy nghĩ, khao khát được thoải mái bày tỏ quan điểm riêng của mình. Và ngu xuẩn hơn được ung dung phơi bày bộ mặt thật của mình ra. Tôi càng nói càng khoái trá. Khoái trá nhận ra một con người khác mang một trắc diện khác đang vùng vẫy trong cái bể cạn, tù đọng. Tôi nói lung tung, nói huyên thuyên, nói ba hoa. Tôi nói tràn lan về mỹ từ tập thể luôn được vinh danh, về cái tôi luôn bị chụp mũ ném đá. Tôi nói cả về sự sợ hãi của mình. Sợ hãi làm tê liệt mọi ý muốn, đẩy con người ta vào thế thụ động. Tôi lớn lên trong sợ hãi và được giáo dục để biết sợ hãi, để luôn phải cẩn thận với những điều mình nói, để buộc mình vào giới hạn được cho phép. Như con chó cò kia, nó chỉ được quanh quẩn nơi bãi rác mà không dám mon men vào quán. Người ta đánh đập nó tàn tệ để nó ý thức được thân phận và vị trí của mình. Nó ngoan ngoãn chờ bên hè để nhận lấy những thứ thừa mứa mà người ta nôn mửa ra cho nó. Tôi nói về thằng Sỏi, về cái sự thật đang mưng mủ, đang xì ra từng ngày trên đôi bàn tay mà nó cố giấu giếm. Tôi nói về định kiến của mình lâu nay chỉ giới hạn ở chỗ, đói là nhục và ghẻ là bẩn. Người ta cố giấu giếm căn bệnh suy dinh dưỡng như một sự thật bị cáo buộc là bẩn thỉu. Người ta căm ghét ghê sợ sự thật đó, chạy trốn nó và tự trở thành những kẻ bị săn đuổi. Khánh với Pháp lẳng lặng nghe tôi nói. Có thể họ chẳng đồng ý tí nào với suy nghĩ của tôi, có thể họ thấy quan điểm của tôi đầy mâu thuẫn, phi lý hay tầm thường, nhưng họ vẫn để cho tôi nói. Cuộc sống là vậy, có vô khối những suy nghĩ khác nhau. Đó là điều kỳ diệu, lần đầu tiên trong đời tôi bỗng hiểu được. Mỗi người có quyền được suy nghĩ và chọn cho mình một con đường. Cả ba đứa không hề ý thức được buổi chiều trôi qua nhanh. Khi tụi sinh viên tan học xôn xao kéo nhau về, nắng chiều đã ngả dần ra sau hàng dương. Chị Mẫn đi cùng anh Bốn, cách xa đúng một mét để người ta đừng dị nghị về mối tình trong sạch đạo đức cách mạng của họ. Thằng Thung, thằng Lũ vừa đi vừa ngoác miệng ra ngáp, ngáp cho đã, ngáp để trả thù ba tiết học tra tấn. Duyên đi cặp kè với chị Sầu, như đôi đũa so le mà không chịu rời nhau. Bắc tách ra khỏi đám đông một khoảng cách, cúi đầu lủi thủi đi một mình. Khánh xô ghế đứng lên, gã xông ra đường đón Bắc. Tôi nhìn cái dáng cao lớn ngang tàng đứng chắn giữa đường, chợt nhận ra rằng, gã giống một tên cướp rừng, gọi văn hoa là lâm tặc. Bộ đồ dơ hầy vằn vện lem luốc, râu tóc bù xù. Áo sứt nút để phanh cả một khoảng ngực trần vạm vỡ đen trũi. Cuộc tranh luận bất thường làm gã lỡ dịp tân trang, tu chỉnh nhan sắc. Bắc không nhìn gã, cô nhỏ tránh qua bên kia lề cỏ, băng băng đạp gai mắc cỡ mà đi. Khánh lại không đuổi theo Bắc, gã đứng giữa đường nhìn Duyên cười ngẩn ngơ. Pháp ngồi lặng lẽ quan sát con chó cò. Gã rút điếu thuốc cuối cùng trong bao, không đốt, chỉ xe mãi giữa hai lòng bàn tay. Con chó lười nhác nằm giữa đống rác, nó đang bội thực vì ăn phải những thứ nôn mửa. Pháp nói. “Lẽ ra diễn đàn tranh luận này nên dành một góc cho con chó cò, một cơ hội cho nó nói về cái thân phận chó má của nó. Nhưng phần phát biểu của con gà trống cụt đã gây quá nhiều ngộ nhận, nên con chó đâm chán. Giữa người và chó khó có thể hiểu được nhau.” Hồn xưa lưu lạc 18/11/2013 .Truyện ngắn dự thi của TỐNG NGỌC HÂN Về đến sân, thấy vợ đang gội đầu, mặt hắn xây xẩm. Dòng thác rượu trong bụng hắn thốc ngược, phun ra bằng sạch. Cái mùi chết tiệt! Hắn chửi cái chậu gỗ. Cái chậu gỗ vốn của bà nội hắn. Nó là một khúc gỗ vuông vức rộng chừng hơn hai gang tay mỗi bề, được khoét bỏ phần lõi. Mỗi khi đổ nước nóng vào, mùi tinh dầu gỗ thoang thoảng tỏa ra, thơm hắc. Ông nội hắn bảo có người bạn bên Tây Côn Lĩnh tặng. Hắn chả biết Tây Côn Lĩnh là nơi nào, cũng chả biết gỗ Ngọc Am là gỗ gì. Hắn chưa gặp thứ gỗ nào thơm như thế. Nghe nói đi nương xa, bà nội còn bỏ vào lù cở đem theo rửa mặt cho sảng khoái, tươi tỉnh mặt mày. Khi mẹ về làm dâu, biết mẹ cũng mê cái chậu ấy, bà nội đã cho mẹ. Sau này, cả hai chị dâu đều không thèm nhòm ngó đến cái chậu gỗ, vì nó đã quá cũ. Họ bảo, rửa mặt bằng chậu ấy khó ngủ lắm. Thế mà vợ hắn lại thích, nên mẹ đã cho nó. Nó rửa mặt thì ít mà đổ đầy nước vào chậu, soi làm gương thì nhiều. Cái chậu lên rêu ở đáy. Một hôm, tự nó kể, như phân bua với hắn rằng nó thích cái chậu gỗ ấy là vì trước kia có một người trai Mông bên Hoàng Su Phì thích nó. Thằng ấy tặng nó một cái lược gỗ, mùi rất thơm, giống hệt mùi cái chậu này. Nhưng khi gái Mông đi làm dâu thì những kỉ vật của người cũ phải để lại nhà mẹ. Từ đó hắn nuôi ấm ức trong lòng. Đã thế, đi thì thôi, về đến nhà là mắt nó nhìn cắm xuống mu bàn chân, rầu rầu. Hỏi mãi nó mới nói. Bao giờ trả hết cái nợ thì nó mới ngẩng mặt lên. Hắn từng nhụt chí khi nghĩ đến nợ. Cả kiếp này chắc gì hắn đã trả hết nợ? Nợ đám ma ông nội phủ lên nợ cưới hai anh trai. Nợ cưới hắn trùm lên nợ đám ma bà nội. Còn ba thằng em trai đang nhong nhong vác khèn đi suốt tháng giêng kia, đứa nào cũng đòi kéo vợ về. Nhưng sợ nhất là món nợ vay ngân hàng mua nương thảo quả mà hai vụ vừa rồi liên tiếp mất mùa, lại bị bọn buôn ép giá. Chỉ còn một phiên chợ nữa là đến hạn cuối cùng phải trả hết… Nhà cũng chẳng có đứa em gái nào để gả cho thiên hạ mà hòng gỡ gạc. Hắn có ít ruộng. Những thang ruộng hẹp như vạt áo, uốn lượn trên lưng núi, con trâu đi một đường bừa còn khúm núm. Đã vậy còn phải đi rất xa mới đến. Nghe nói người Dao làm giàu bằng cây thảo quả thì nhấp nhổm không yên. Hắn liều chết vay ngân hàng cả trăm triệu để mua bằng được một nương thảo quả tận Nậm Sài, cách nhà những hai ngày đường. Nhiều thằng chồng khác, khi đi nương thường vùi tay vào nách cho ấm, để mặc vợ cõng một thồ nặng lỉnh kỉnh nồi niêu, gạo muối. Chiều vợ, hắn cõng tất. Phải bỏ ra bao nhiêu tiền của mới đem được nó về. Không chiều nó thì chiều ai? Thực lòng hắn rất thương vợ. Hình như vợ hắn không nhận ra cái thương ấy. Mùi hương từ cái chậu rửa mặt đã mang hồn nó sang vùng đất khác rồi thì phải. Anh cả hắn lên làm cán bộ xã, bấm bụng gương mẫu, chống xâm hại gỗ rừng bằng cách hạn chế dùng đồ gỗ. Thế là nghiễm nhiên vợ chồng hắn được thừa hưởng tất cả những thứ đồ cũ để lại từ đời cụ kị. Hắn thấy vợ vui. Nó vui là được. Vợ là người dưng, cưới về nhà mình thì biến thành máu thịt của mình, còn quý, còn thương hơn cả anh, cả em trai ấy chứ. Hắn tự dặn lòng như vậy. Nhưng một lần, đang lúc mặn nồng, ngửi thấy mùi gỗ thơm phảng phất trên tóc vợ, hắn sôi máu. Đàn ông trong bản, mà không, đàn ông của cả vùng núi này không biết uống gì vào người mà ai cũng ghen vợ điên cuồng. Ghen hừng hực, cơn ghen như lửa nóng có thể rèn dao, có thể nung chảy mọi thứ kim khí. Đang đêm, hắn vớ cái chậu gỗ quẳng xuống suối. May mà con suối mùa đông hiếm nước nên cái chậu gỗ không bị cuốn đi, chỉ bị sứt miệng. Vợ hắn không khóc. Nó nhìn hắn như nhìn bắp ngô treo trên gác bếp, như thể trong nhà này chỉ có con gà, con lợn mới cần đến hắn. Tại chợ, biết hắn buồn, thằng bạn vốn hay la cà hè phố dẫn hắn đến trước mặt một ông khách. Sau vài chén tống rượu đốt cháy ruột gan, ông ta bảo sẽ mua hết những thứ sắp mục nát, nứt nẻ, cũ kĩ nhà hắn, giúp hắn giải quyết nợ nần. Hắn thấy người căng lên, run rẩy, quằn quại như con rắn chuẩn bị lột xác. Còn ông ta, mặt sắt lại như phiến đá kê bếp sưởi. * Hắn biết vợ từ cái hội chơi núi năm ấy ở nhà ông bác họ giàu có bên Sín Chải. Người Mông gọi đó là hội Gầu Tào. Tháng Giêng năm ấy ngắn củn như cái chuôi dao. Chẳng mấy, tiết xuân mong manh bò xuống phần lưỡi dao. Những cơn gió tháng hai sắc đến rùng rợn. Dù chẳng chém, chẳng đốn mà khối kẻ phải điêu đứng. Nhiều mái nhà lợp gỗ ván đã cũ, bị gió tốc ngược lên rồi hất sạch xuống suối, dễ như lúc gió sàm sỡ nghịch áo đàn bà đang ngược dốc. Hôm ấy đang bung biêng, thấy đoàn người xếp hàng dài cõng ngói về bản trắng lóa như kiến cõng trứng chạy bão, hắn đến xem. Nhận ra người quen trong hội chơi núi, hắn hỏi han. Khi biết nhà người ta gặp nạn, hắn sốt sắng dành lấy thồ ngói từ lưng một đứa con gái xinh đẹp đang cắm cúi bước như thể không quen biết. Sau này, nhà lợp xong, gió núi Ô Quy Hồ cũng thôi gầm gào chòng ghẹo, hắn chăm đến chơi và không quên mang theo cây khèn tìm bạn. Mẹ đứa gái đang chăm chú vẽ sáp ngoài hiên, liếc cây khèn của hắn, vu vơ: Nó lớn nhất nhà, biết đủ mọi việc rồi! Biết đủ mọi việc có nghĩa là biết đi nương đi ruộng, biết nhuộm vải, trồng lanh, xe sợi, biết thêu thùa, khâu vá. Biết đủ việc còn là biết chuyện con gái lớn phải đi lấy chồng, không thể ở nhà với bố mẹ và các em mãi được. Biết bố sẽ gả cho người trai nào đó bố ưng, để rồi ăn chung ngủ chung, rồi đẻ một đàn con. Con gái về, dựng thồ củi nơi cửa, lặng lẽ vào nhà. Hắn thoáng nhìn. Tóc nó dài óng mượt, da trắng hồng, mắt to, đen buồn buồn, đôi môi tươi đỏ. Lựa lúc nó đi ra ngoài núi vắng, hắn theo sau, khẽ hỏi: “Mình có muốn theo ta về cùng một nhà không?”. Nó nhìn cây khèn quý của hắn, ửng má, rồi gật đầu. Thế là nên duyên. Hắn tổ chức kéo vợ. Tận hôm kéo vợ, hắn mới được chạm tay vào da thịt nó. Bàn tay con gái mềm và ấm thật. Tóc nó sổ tung ra chấp chới. Nó khóc như mưa. Bốn cánh tay lực lưỡng không lôi được nó. Chân nó như chôn sâu xuống lòng đất Sín Chải, và cỏ cây như nắm chặt bàn tay nó, giữ lại. Cuối cùng, hắn phải ôm lấy vòng eo thon nhỏ của nó mà nhấc bổng lên, vác mà chạy… Nói sao cho hết nỗi mừng vui của thằng trai khi chuẩn bị đưa vợ về chung sống. Đi đâu, làm gì, bữa ăn, giấc ngủ, hắn cũng nghĩ đến đám cưới và nghĩ đến cô vợ trẻ xinh đẹp nức tiếng cả vùng Mường Hoa này. Trái ngược với hắn, bô hắn đau đầu và ốm cả tuần vì khoản thách cưới quá cao của nhà gái. Anh cán bộ nhà hắn vắt óc không ra được kế gì. Phong tục người Mông thế rồi, nước chảy ở lòng suối phải khác nước chảy trong thân cây. Ông nội hắn, bố hắn, các anh trai hắn cưới vợ thế nào thì hắn cũng thế thôi. Không có tiền thì bà con sẽ giúp, giúp rồi trả. Đời người chẳng có món nợ nào để phấn đấu, kể cũng buồn. Với lại những món nợ trong họ hàng còn là sợi dây thân tình siết con người chặt vào nhau, để sống có trách nhiệm và tình nghĩa với nhau hơn. Vì thế, một con trâu to, hai con lợn đực, một lồng gà năm, sáu con, hai mươi đồng bạc trắng, hai chục lít rượu và hai mươi cân gạo nếp. Có đáng gì đâu. Và hai ngày làm cỗ khao cả làng, cả họ hàng gần xa. Có đáng gì đâu. Đổi về một đứa con gái người ta mang nặng đẻ đau và nuôi dưỡng cả mười sáu năm trời. Đêm đầu tiên nó nằm sấp, hai đùi khép chặt, người không nhúc nhích, tựa như cây gỗ nằm lụi dưới bùn bị năm tháng phủ lên. Màu chàm mới loang ra trên khoảng đùi trắng nõn bởi dòng mồ hôi nóng bỏng. Hắn hì hục mãi mới vần ngửa được cây gỗ lem nhem ấy lên… Đêm thứ hai. Nó nằm nghiêng vào trong, úp mặt vào vách. Hai bàn tay khoanh lại, kẹp giữa hai cái đùi săn chắc. Hắn sau một hồi tỉ tê, ngọt ngào không thể lay chuyển thì lại phải như đêm trước. Hắn phải cậy đến sức để chiếm đoạt đứa đàn bà đã thành vợ mình… Đêm thứ ba, thứ tư, và những đêm sau, nó nằm ngửa sẵn, mắt mở to, nhìn thẳng lên mái nhà, hai tay chấp vào để sau gáy. Nó khóc dai hơn mưa vùng này. Mưa có tiếng, nó khóc không có tiếng. Chỉ có hắn và cái gối biết nó khóc. Nó càng khóc, cái tình trong hắn càng điên loạn. Con Si nhà bên cạnh, chồng chết qua một năm, được thả về và lấy anh Tây mắt xanh, quê tít đẩu đâu làm chồng. Nghe nói anh này cầu hôn nó ở tận đỉnh Phan Xi Păng đấy. Gớm thật. Bề dài, con Si đúng bằng nửa anh chồng Tây, nhưng bề ngang nom cũng xứng. Con Si hai con, mình lẳn như củ khoai. Chồng mới của Si không giấu ánh mắt nhìn vợ như thằng đói nhìn củ khoai nướng nóng bỏng, thơm lừng. Thế nên trong khi khối kẻ ghen tị với hắn thì hắn lại ghen tị với thằng chồng mới của con Si. Chúng như đôi chim cu, cứ quấn quýt nhau không rời. Con Si thỉnh thoảng đưa tay véo cái mũi nhọn hoắt của chồng. Chồng thi thoảng lại để tay lên mông vợ, rất tình tứ. Chúng còn véo nhau, cấu chí nhau, cắn vào người nhau nữa cơ. Hắn cày xong mấy mảnh ruộng, mặt trời cũng lên đỏ núi rồi, chưa thấy vợ chồng con Si dậy. Ngoài hè bếp nhà nó, lổng chổng những vỏ gói mì tôm, những lon rỗng xanh đỏ. Chúng nó chỉ thò ra cửa, ngó qua mặt trời một cái, rồi lại chui thụt vào, chốt chặt cửa, rúc rích… Trước, hắn cứ tưởng chỉ có cơm gạo nương, mèn mén mới cho đàn ông cái sức yêu vợ mới cưới ba hôm liền không cần ngủ, không cần biết đến ai xung quanh. Thế mà bây giờ… Đã mấy ngày mấy đêm mà chúng chỉ mì tôm, nước lon. Hắn chua chát. Đến lúc loài người không cần cái cối xay ngô và mèn mén nữa rồi. Tại sao con Si mê mụ được thằng Tây to khỏe như trâu đực thế? Có phải vì con Si lên phố bán hàng không? Hắn gợi ý cho vợ lên phố bán hàng, may ra học hỏi được tí hư hỏng, lẳng lơ như con Si. Vợ hắn tím mặt. Nó giận đến nỗi không buồn nhóm lửa, làm cơm. Và khi lên giường thì… hắn lại phải vần như vần súc gỗ. Con Si không đẹp, không chăm chỉ bằng vợ hắn. Chỉ thế thôi, còn cái gì cũng hơn. Ngọt ngào hơn, mềm mại hơn. Năm mặt con rồi hắn mới biết, đàn bà đẹp như bông hoa chỉ có sắc. Mà hắn lại thích bông hoa thơm, chỉ có hoa thơm mới khiến người ta ngây ngất, choáng váng. Vợ hắn ít nói hẳn từ hôm bắt gặp ánh mắt hắn bám trộm vào bắp chân trần không cuốn xà cạp của con Si như hai con vắt xanh. Nếu không có vài câu quát con, người lạ đến nhà tưởng nó câm. Nhìn nó giả câm, lòng hắn cay cú. Hắn nghĩ tới Si. Con Si như bông hoa thuốc phiện. Bông hoa có tội, cái tội quyến rũ, hấp dẫn… Thế nào cũng có lần, cái bông hoa ấy nhàu nát dưới tay hắn. Hắn ao ước một cách hằn học. * Một cuộc ngã giá nhanh chóng. Người nâng lên, kẻ hạ xuống. Cuối cùng ông khách hất hàm, tay chỉ ra bên trái nhà: - Ba mươi bảy triệu, cả bờ rào đá. Hắn ngây người ngạc nhiên. Rồi hắn gật, như sợ cái rào đá cũ nhà bên cạnh nghe thấy. Thiếu gì rào đá cũ. Nháy mắt, cái cầu thang bằng gỗ trắc đen bóng rời khỏi căn gác. Hai thằng thanh niên hất cái thang lên vai. Bên kia suối, con xe tải đã nằm chình ình đợi ở đấy từ bao giờ. Chúng trở lại. Đến lượt cái máng ngô. Bốn thằng khiêng, nặng há mồm. Cái cối xay ngô bằng đá đục còn mắc cám trong họng. Chúng không khiêng mà vần ra suối. Thương nhất cái chõ còn bấu ít mèn mén vàng. Đến hai cái cối giã gạo. Cái cổ chày còn xanh màu mồ hôi của vợ hắn. Rồi cái thùng đập lúa mới ở ruộng về, bốn chân còn dính bùn. Cả cái thùng gỗ chứa nước, dắt dẻo mấy cái mộc nhĩ mọc bên hông. Thùng tắm của vợ hắn. Người ta đang gỡ ra từng mảnh… Rồi thìa gỗ, mâm gỗ, ghế gỗ. Lũ con hắn cứ tròn xoe mắt. Mắc dao, lẹm lúa, cọc néo, lù cở, mí cở. Thồ ngựa phủ dầy mạng nhện và bồ hóng vì lâu lắm rồi nhà hắn không còn ngựa. Máng ăn của lợn, gà. Con lợn nái thủng thẳng lê bầu vú chạy theo máng. Gà vịt nhớn nhác dạt ra. Đến lượt nhị, sáo và những cái cốc đựng rượu đen nhẻm bằng ống hóp. Cả miếng ván khắc những hình hoa văn cổ để in lên vải chàm. Và cuối cùng, chiếc sừng trâu đựng rượu bóng nhoáng buộc bảy lần vải đỏ. - Tằng đu đá! (Hết sạch!) Hắn chua chát, gọn lỏn, kết thúc cuộc mua bán. Vợ hắn vùng vằng đi vào bếp. Nó túm quai cái chảo gang sứt miệng, đít nhọ nhem, đem ra, giơ trước mặt ông khách, giọng giận dữ. - Zúa chi zúa? (Lấy nữa không?) Hắn cười nhạt, giật cái chảo gang trên tay vợ, liệng vào đống rơm trong góc bếp. Vợ hắn bỏ ra sân, nó múc nước đổ đầy cái chậu gỗ và ngồi thụp xuống. Ông khách liếc thấy vợ hắn đang úp mặt vào chậu gỗ thì quát: - Cái chậu lù lù thế này mà chúng mày không thấy à? Vợ hắn ngơ ngác ngẩng mặt, đưa tay áo quệt nước mắt. Một thằng chạy đến, vớ lấy cái chậu, hất toẹt nước ra đất, định mang đi. Hắn nhào ra, giật cái chậu gỗ từ tay thằng kia và ôm chặt vào lòng. Nước mũi hắn rỉ ra. Ông khách rút tờ hai trăm nghìn đỏ nhờ nhờ dúi vào tay vợ hắn, cười khì khì. - Rửa mặt vào chậu này cho phí cái xinh đẹp đi à? Những ngón tay của vợ hắn khẽ động đậy, chúng từ từ bóp chặt lấy tờ tiền như bóp đầu một con rắn độc. Hắn ngoan ngoãn thò cái chậu gỗ ra. Nhận đủ tiền, hắn cho vào cái túi chàm vẫn đeo khư khư dưới nách. Thằng đệ tử to nhất bọn, liếc cái chuồng trâu nhà hắn, giọng mơi mơi. Hay là chơi nốt đi. Còn gì để mất đâu. Cái chậu rửa mặt của ba đời đàn bà làm dâu họ Giàng hắn còn bán được thì sá gì cái chuồng trâu mồ côi. Trận rét đậm, rét hại vừa rồi giết hết đàn trâu nhà hắn. Chứ còn trâu, chỉ ba con là xong cái nợ ngân hàng rồi. Con trâu với người Mông là linh vật. Dẫu chúng chết rồi nhưng hồn vía chúng còn. Bán chuồng rồi thì hồn vía chúng về đâu? Về đâu thì về. Bán mới trả hết nợ. Hắn thách. Mười lăm triệu đấy, chơi không? Ông khách nhếch mép cười một cái. Hai thằng dỡ chuồng trâu, hai thằng dỡ bờ rào đá. Cứ gấp gáp, khẩn trương như sợ hắn đổi ý. Chuồng trâu nhà hắn với những cái văng, cái cột vuông vức bằng pơ mu bóng như sừng, đẹp nhất vùng. Ruột hắn, ai dứt ra từng khúc. Ông khách vẫn thèm thuồng nhìn cây khèn đại bóng nhoáng treo trên cột. Cây khèn buộc chùm vải đỏ to đã chuyển màu, đen đúa. Hắn vằn mắt. Ngay từ đầu hắn đã nói là không bán báu vật ấy. Có chết cũng không bán. Tiếng xe nổ giòn giã, khói phụt đen ngỏm cả con dốc đá dài chênh vênh. Khói nhuộm đen cả những chùm mây trắng nõn đang dùng dằng dắt nhau lên núi Rồng. Trời đã quá trưa. Vợ hắn có tiền trong tay, đi mua ngay mì tôm về nấu đầy một chảo cho trẻ con ăn tạm. Hắn lệnh khệnh lên đường. Sao có thể nuốt trôi thứ gì lúc này. Tối mịt hắn về, khoe đã trả hết nợ ngân hàng rồi. Hắn lôi trong bao tải ra mấy cái chậu, cái xô nhựa lớn nhỏ, đủ các màu, vài cái thìa kim loại, mấy cái ghế đỏ, chục bát sứ, cái nồi nhôm hắn bảo để thay cái chõ đồ mèn mén. Bọn trẻ con thấy hay hay, xúm vào xem. Vợ hắn dửng dưng. Đêm không có bờ rào đá che chắn, gió thốc từ thung lũng lên, lùa vào căn nhà trống trải, lạnh không ngủ được. Hắn như con bù nhìn sau vụ gặt, chơ vơ trên thang ruộng. Cả đêm hắn thức, nghe hồn vía đàn trâu gõ móng lộp cộp vì rét trên nền chuồng cũ. Con gà mới gáy dạo, hắn đã vọt lên rừng. Cầu thang này, thùng chứa nước này, chõ, máng cối, cở này… Hằng trăm thứ cần thiết mà hắn chỉ còn một cái búa, một con dao và hai cánh tay rã rời như đi mượn của ai chứ không phải mọc ra từ cơ thể hắn. Hắn gục xuống một cái gốc cây mục. Chiều tối, người ta thấy hắn lững thững về người không. * Hắn hăm hở ngược dốc. Đi theo lời kể của con Si, rằng đồ đạc của hắn người ta vứt lổng chổng ở một nơi gọi là Bảo tàng Gia đình, qua mấy con dốc dài loằng ngoằng là đến. Hắn phải đến xem bảo tàng là cái gì. Hắn bất ngờ, những đồ vật cũ kĩ mà hắn đã bán lấy tiền, được bày trong một khu nhà gỗ rộng và đẹp quá. Hắn mân mê sờ vào cái máng ngô vừa xa có mấy ngày mà nhớ đến quay quắt. Hắn úp mặt vào chỗ lõm của cột thang, nơi còn ấm hơi bàn chân những đứa con. Hắn ngây người nhìn những cái thìa gỗ mòn vẹt và cái bát gỗ hình vuông mà cả năm đứa con hắn vẫn dùng để đựng cơm hoặc mèn mén ăn chung. Hắn đực mặt trước cái chậu gỗ vợ thường dùng soi gương, rửa mặt. Hắn ngắm nghía cái thùng tắm ghép bằng mười bốn mảnh ván thông mà vợ hắn chỉ bì bõm ngâm mình vào dịp gần tết, ngày thường hắn dùng để chứa nước mưa uống dần. Đây đúng là cái sừng trâu rượu nhà hắn. Cái sừng đã cùng bố, các anh và hắn đi mấy mươi đám cưới… Và kia, chuồng trâu nhà hắn được kì cọ sạch từng cái văng, dựng ngay ngắn bên bờ suối. Chuồng trâu mái cỏ, trong đó treo hai cái võng, hai khách du lịch người nước ngoài đang nằm ngửa, đong đưa trò chuyện. Cái thùng đập lúa ầng ậng thóc nếp vàng óng còn lẫn cả ít rơm tươi. Trong cối có ngô. Trong mắc có dao, những con dao có cái chuôi gỗ mòn, nhẵn thín. Trong bát có ít mèn mén khô tơi tả để bên cạnh cái lọ ớt tiện bằng ống hóp, dùng nhiều đã đen bóng như sừng. Hắn say sưa ngắm cho bõ cái nhớ, bõ cái dằn vặt. Càng ngắm càng thấy lòng tê tái, đau đớn. * Ruột gan chìm nghỉm trong rượu đắng, tiếng nói cũng đắng theo. - Nợ xong rồi, cười lên tao xem! Lần này rượu cho hắn cái can đảm quát vợ. Vợ hắn ngước lên. Trong mắt nó có hờn giận, có thờ ơ, trống trải và bao điều khó hiểu tích nén suốt nhiều năm. Nhưng lại không có thứ mà hắn trông đợi. Mày có cười không! Tiếng quát của hắn như sấm nổ khiến thằng con trai giật mình buông tay khỏi bốn chiếc ghế nhựa chồng làm thang cho thằng em leo lên gác. Chồng ghế đứt ra làm ba khúc, thằng bé lên bốn ngã xuống, lịm đi. Hắn hốt hoảng bế con lên, người nó mềm như miếng giẻ giấp nước. Máu từ miệng, từ mũi, từ tai thằng bé trào ra đỏ cả ngực hắn. Thầy cúng được rước về. Cả một đêm dài thầy không tìm thấy hồn của con trai hắn. Phải làm ma cho thằng bé thật to thì thằng bé mới thanh thản được. Tiền không còn một xu. Cái chân vừa rút khỏi bẫy nợ, giờ lại bị bủa vây như cá mắc trong chài. Tục lệ như lão thợ săn kì cựu, sừng sỏ. Hắn như con thú bị thương, cùng đường. Chợt nhớ đến ông khách và cái bảo tàng, hắn nuốt nước mắt gỡ chiếc khèn đại ra khỏi cây cột. Cây khèn đã cho bố hắn rồi đến hắn bao nhiêu cái giẻ sườn trâu khi được trọng vọng mời đi thổi đám ma khắp các bản gần làng xa. Chính hồn hắn, hồn vợ con hắn, hồn ba đời nhà hắn đều trú ngụ êm ái, thân thiết trong cây khèn ấy. Giờ mà bán đi… Thấy hắn cầm năm triệu trong tay mà như cầm một bắp ngô thì ông chủ bảo tàng chợt hiểu. Làm đám nhiều tiền lắm, chỗ ấy chẳng thấm gì. Ông hào phóng cho hắn vay thêm ba chục triệu với một điều kiện hắn phải làm không công cho bảo tàng một năm trời. Hắn như kẻ chết đuối vớ được cọc, thò tay vào điểm chỉ. Sau đám ma con, hắn trắng tay. Gia tài còn lại trong nhà bây giờ chỉ là cái can nhựa hắn mới mua về. Nhưng rượu đựng trong can nhựa đã biến hắn thành kẻ cáu bẳn, lười làm. Hắn uống vào là muốn rời cuốc, buông dao, muốn lìa nương, xa ruộng, muốn chửi vợ đánh con. Một hôm hắn về nhà. Nhà trống hoác. Hắn bắc tay lên miệng hú gọi. Tiếng gọi của hắn chui vào rừng và không trở ra. Hắn hoang mang, vợ con hắn có thể đi đâu? Hay là…? Thôi đúng rồi. Mẹ con nó không chịu được thằng chồng, thằng cha như hắn, đã đem nhau lên phố bán hàng rong cho Tây như con Si và bao đứa đàn bà, con gái bản này rồi. Hắn đấm tay vào cột. Nhục quá là nhục... * Ba năm trước, tại Bảo tàng Gia đình ở bản du lịch nổi tiếng, khách tham quan không lạ gì với cảnh một gã Mông trạc ba mươi, quần áo nhầu nhĩ, người nồng nặc hơi rượu, úp mặt vào cái máng cối ngô ngủ ngáy khò khò, mặc khách du lịch quay phim chụp ảnh. Một hôm, có anh thượng đế trẻ thấy cái chậu gỗ thơm tho có chứa nước, bèn tút giày ra, cởi tất, thò hai chân vào đó ngâm, mắt lim dim khoái chí. Hắn đang say gần đấy, nhìn thấy, sửng cồ quát. Mày vứt ngay cái chân ra! Thượng đế cười khẩy, bàn chân vỗ nước bùm bũm. Hắn nhảy lại, vung tay, thoi một quả vào thẳng mặt anh ta. Cái chậu rửa mặt của vợ tao, ai cho mày đút chân vào? Thượng đế nhổ ra đất một miếng máu, vội vàng rút chân ra. Chủ nhà tím mặt, dìu anh ta lên gác và an ủi: - Cái thằng điên ấy mà! Khổ quá, đông khách, nó lẻn vào lúc nào tôi đâu có biết. Hắn bị xua ra khỏi cổng như người ta xua một con chó hay cắn trộm. “Về đi, hôm nay nghỉ sớm, mai lên sớm. Mai ở ngoài chuồng trâu thôi”. Từ lâu, hắn đã thay trâu làm bạn với cái chuồng mồ côi rồi. Việc gì phải dặn. Nếu ở sân nhà, hắn cho nó nằm tại chỗ luôn. Hắn đã từng hận cái mùi gỗ nhưng lại nhiều lần ước, giá mình là cái chậu gỗ rửa mặt của vợ. Từ ngày xa vợ vắng con, hồn hắn đi theo những đồ vật đến bảo tàng, đọa đày thân xác say xỉn lấy tiền trả nợ. Hết nợ rồi hắn cũng chả thiết về nữa. Có lần con gái hắn đến, nước mắt ròng ròng, ôm lấy chân bố gào khóc. Hắn tỉnh rượu. Nhận ra con, hắn xấu hổ, giả say như chết. Say nhiều, cái tình trong hắn lả đi, chết giấc. Ngay cả nỗi thèm khát cháy bỏng ngày nào, là được yêu con Si một lần, cũng biến đâu mất. * Khách du lịch đến Bảo tàng Gia đình năm nay vô cùng thú vị khi bắt gặp một anh chàng nhân viên người Mông mặc đồ chàm mới óng ánh, nhu mì, lúc ngồi xay ngô, khi nấu rượu, nướng thịt. Anh chàng này nói tiếng Anh trôi chảy. Theo yêu cầu của khách, anh ta còn múa khèn, thổi sáo và đi cà kheo. Anh ta giảng giải về những vật dụng gắn bó máu thịt trong gia đình người Mông, nhỏ như cái thìa gỗ và lớn như cái thùng đập lúa. Cũng giống như người, những con vật, đồ vật, hoa màu thân thiết với người Mông đều có hồn vía. Anh ta say sưa nói… Và khi anh ta ôm lấy cây khèn Mông thì không một kẻ nào có thể cưỡng lại thứ âm thanh kì ảo đầy ma lực ấy. Chim ngừng hót, suối ngừng chảy, mây ngừng trôi. Khách cứ rầm rập đổ về bảo tàng. Hắn đấy. Ngày nối ngày, rượu vào, hắn bồng bềnh sống bên cạnh những đồ đạc còn nồng nực mùi mồ hôi của bao thế hệ người trong gia đình hắn. Lúc tỉnh táo, hắn lại dằn vặt. Có lẽ nào tổ tiên lại trừng phạt hắn? Đành rằng hắn là kẻ có tội. Nhưng những thứ đồ dùng cũ ấy, nếu để trong căn nhà gỗ tối tăm, lụp xụp của hắn thì đã hỏng và mục nát rồi. Ở đây, chúng được bảo quản, trông nom và mỗi năm cả triệu con người trên thế giới biết đến. Biết chúng thuộc về một cộng đồng dân tộc nhỏ bé nhưng tài hoa, có đời sống tinh thần trường tồn, bất diệt. Tại sao lại trừng phạt hắn? Hắn bán tiếng khèn thì đã sao nào? Hắn bán đồ vật chứ đâu có bán hồn vía tiên tổ? Càng dằn vặt, nghĩ ngợi, người hắn càng mụ mị, ngu ngơ. Gã Do Thái bằng tuổi hắn, mê mẩn Bảo tàng Gia đình Mông, mê mẩn tiếng khèn Mông, năm nào cũng lên núi thăm hắn một lần và ở lại vài tháng. Chính gã dạy hắn thông thạo tiếng Anh, một chút tiếng Pháp và những mánh lới dẫn dụ khách. Còn hắn dạy gã kia tiếng Mông và cách chơi các loại nhạc cụ có trong bảo tàng. Hắn bảo, nhạc cụ người Mông, cái khèn quý nhất vì nó được dùng để gọi bạn tâm tình, gọi hồn gọi vía, dẫn dắt con người đi gặp tổ tiên, gặp gỡ thần linh. Nhờ hắn, gã Do Thái sưu tầm được khá nhiều đồ dùng cũ, quý giá của các tộc người sống dưới chân núi Hoàng Liên. Một trưa, hai người nằm võng chuồng trâu, gã Do Thái động viên hắn: “Kẻ nào không sống cho chính bản thân mình thì đều là sống giả. Nhưng sống thật mà không cống hiến gì thì sống giả còn hơn”. Nói xong, gã rời võng, đưa tay với cây khèn cũ treo trên cột chuồng trâu, vừa nhảy vừa thổi như kẻ động kinh, chẳng rõ điệu gì. Trời đất! Ai dạy mày thế? Khèn Mông đâu phải cái điếu ục. Đến như hắn, học khèn từ trong bụng mẹ mà còn chưa thuộc hết nữa là. Ấy thế mà gã Do Thái cứ say sưa khèn như Dở mủ gọi hồn người chết trong lễ “khai kế”. Hắn như bị xúc phạm, mặt đỏ phừng phừng, giằng lấy cây khèn. Hồn hắn, tự hắn tìm lấy, không mượn nó. Tiếng khèn dịu dàng, điêu luyện, bay bổng, ngân xa. Cho hắn gặp lại vợ mình thủa còn thiếu nữ. Cho hắn chạm tay vào cái khung cửi mục nát bên cạnh bó lanh đang rên rỉ vì bị mối đùn lên, bọc kín như một cái mả trong góc bếp. Cho hắn gặp ông nội, bà nội và những người đã khuất trong họ Giàng trên giàn “ninh đăng” còn cố nghiêng người, nhìn hắn trách móc. Cho hắn gặp đàn trâu run lẩy bẩy, hướng những đôi mắt xanh lét và những cặp sừng cong, nhọn về phía hắn van nài. Nước mắt hắn lăn trên thân khèn… Gã Do Thái đọc cho hắn nghe cái hợp đồng quái dị. Bảo tàng giờ đã vào tay gã. Lưu diễn là gì? America ở tận đâu? Tại sao họ lại muốn mang cái bảo tàng đi? Tại sao họ muốn mang hắn và tiếng khèn đi? Hắn ngơ ngẩn nhìn ông bạn mà hắn ngỡ đã rất thân như nhìn món đồ quý giá cuối cùng bị tiền mang đi trong cuộc bán mua năm nào… - Thưa nghệ nhân Giàng A Sùng, giới kinh doanh chúng tôi có thể định giá tất cả các báu vật. Tiếng khèn của ngài sẽ đem đến cho ngài của cải và sự nổi tiếng chứ không phải là những cơn say rẻ mạt trong cái góc chuồng trâu kia và những hào bạc lẻ. Gã Do Thái đi nước cờ cuối cùng sau gần ba năm bày binh bố trận. Hắn rơi khỏi võng từ lúc nào, bẹp rúm dưới góc chuồng trâu như bó cỏ héo. Khuya, sương sa lạnh buốt, hắn ngóc cổ, vịn vào những cái văng chuồng trâu và tiếng khèn mơ hồ đâu đây, từ từ đứng dậy. Bàn tay vốn rất sợ việc kí tá, lóng ngóng trên đầu. Những đốt ngón tay thô kềnh, móng tay đen sì chậm chạp rúc vào mái tóc chớm bạc như những tội đồ tìm nơi ẩn náu T.N.H 'Vùng sâu vùng xa' - Truyện ngắn của Ma Văn Kháng 01/12/2013 03:20 - Nào chị Liêu, nghỉ tay một tí đi. Để em đào tiếp cho! Dứt lời, chưa để chị Liêu bíu bờ hố leo lên, Phin đã chống tay, tụt xuống. Cái hố đào tìm củ mài đã sâu tới ngang bụng và rộng bằng miệng cái chảo gang cỡ đại. Ngồi trên miệng hố, mặt chị Liêu đỏ rần rần. Khom lưng, Phin nín hơi, lao lưỡi thuổng. Cái củ mài này mày còn trốn ở tận đâu, dưới chín tầng đất sâu? Mày còn làm hao tổn bao nhiêu sức lực nữa của hai chị em Phin, hả củ mài? Người khôn của khó. Miếng ăn trên rừng trốn lẩn ở dưới đất càng lúc càng khó kiếm khó tìm. Năm ngoái cũng gặp lúc hạn hán như thế này, ông Pảo thầy mo đi đào củ mài. Đào mãi! Đuổi theo cái dây củ mài sâu tới bụng, tới ngực, rồi ngoắt ngoéo, hun hút, như đường tới âm ti địa ngục mà vẫn chưa bắt được. Đào mãi, tới lúc mệt lả, ông Pảo ngồi trong hố sâu thiếp đi một giấc, thì chợt tỉnh vì nghe thấy tiếng người rì rầm ở ngay dưới chân mình. Húi, thì ra đã đào qua chín lớp địa tầng, tới cõi giới bên âm và gặp các cụ tổ ở dưới đó. Ông Pảo bảo: Rõ là tôi nghe thấy tiếng các cụ tổ hát. Hát rất to. Hát rằng: Kính thưa cùng khách lạ phương xa. Gốc rượu ở đâu đến, men rượu ở đâu ra... Thì ra các cụ hát bài đố khách trong đám cưới người Tày ta. Rõ là như thế. Vì sau đó còn nghe thấy khách hát đối đáp lại. Đối đáp rành rẽ, rằng thì là gốc rượu men rượu xưa vốn ở bên xứ Thái, rằng thì là từ đời vua Thần nông, đã có thứ rượu thơm mùi hoa mộc, hoa ngâu... Ông Pảo nói, ai mà không tin! Ông Pảo là bậc đại trí, đại minh ở Phiềng La này. Phiềng La ở cao lưng trời, nơi đất không ba thước bằng, năm không ba ngày nắng. Phiềng La ba chục nóc nhà dân Tày họ Nông là đám cư dân chưa đăng ký tạm trú. Hôm qua là hôm nay. Hôm nay cũng là ngày mai. Ngày nào cũng như ngày nào. Bao nhiêu năm nay ở Phiềng La vẫn là thế. Là ốm đau thì đều nhờ vào tay ông Pảo. Ông Pảo là thầy cúng kiêm cả thầy thuốc. Ông là bộ óc của Phiềng La. Miệng ông Pảo là miệng người già có thuốc. Năm qua trời ra tai. Suốt ba tháng mùa đông trời rét đậm rét hại. Sang xuân, tới hè, suốt sáu tháng liền không một hạt mưa. Mương máng khô rang. Nương đồi không còn một thứ cây nào mọc nổi. Ông Pảo bảo: Ông trời coi người như cỏ rác. Nhưng đất phải chịu ông thôi. Vậy là lại cúng gà cúng lợn. Vậy là khắp thôn chỗ nào cũng cắm cờ giấy trắng cầu xin. Và tất cả lại dắt díu nhau lên rừng, kiếm củ mài. - Em Phin à. Nghỉ tay đi cho chị thay. - Em chưa mệt mà. Ngẩng dậy, Phin đưa tay quệt mồ hôi trán. Chị Liêu đưa cho Phin ống nước. Phin lắc đầu. Cái hố đã sâu đến ngực Phin. Lại đang gặp phải lớp đất gan gà. Lưỡi thuổng lao xuống, bật lên, ê cả tay. Nhưng Phin vẫn phải cố. Đất có chín tầng. Cái củ mài mày còn lẩn trốn ở tận đẩu tận đâu cũng phải tìm bằng được! Miếng ăn ở dưới đất, không đổ mồ hôi sao có được! - Phin ơi! - Chị Liêu, có chuyện gì thế? - Em có nghe thấy tiếng con gì nó vừa kêu không? Phin buông tay thuổng, thở dồn một hồi, nín lặng rồi tự dưng bíu vào bờ hố, leo lên. Chiều đang buông. Núi đồi xanh xao trơ trống. Vòm trời thấp tè, nặng như đá tảng. Tiếng con bìm bịp vừa rộ lên điểm nhịp. Kịp kịp kịp kịp... Thì vẫn là con bìm bịp có bộ lông đuôi dài lê thê, làm tổ ở các bụi giàng giàng, sắn dây quen thuộc. Thì vẫn là tiếng kêu nhịp đôi dồn dập như thường khi mà lúc này nghe sao thấy như than van rền rĩ. Và đất trời sao bỗng trở nên hoang vắng thế. Hoang vắng quá! Hoang vắng cả trên cặp mắt hai mí, trên gương mặt tròn đẹp như mặt trăng rằm của chị Liêu. Chị Liêu hai mươi. Phin mười tám. Hai chị em là hai cái mặt trăng rằm ở Phiềng La. Bất giác, Phin đưa tay lên sờ mặt mình. Chẳng lẽ, hai con mắt Phin cũng bơ vơ và gương mặt Phin cũng xa vắng như mắt, như mặt chị Liêu. Như quang cảnh núi đồi quạnh quẽ xung quanh hai chị em ư? Xung quanh hai chị em lúc này đang là mùa thu. Vạt cây bồ đề rụng lá, giương những cành trơ tua tủa trên nền trời. Phất phơ đây đó vài ba khóm cờ lau trắng bạc. Chân núi uốn lượn những đường nét phô ra, khép lại như họa tiết của một cây bút tài hoa nhưng mông quạnh, hắt hiu. Hắt hiu quá, buồn tẻ quá cả bóng hình cây sa mộc đơn côi nổi những mấu mắt xù xì khắc khổ bên bờ con suối cạn dòng. - Kịp kịp... Kịp kịp... Tiếng con bìm bịp nhịp đôi lại vừa rộ lên chìm nổi giữa khoảng đất trời trống không, trong cảm giác đơn côi đang tan hòa vào khung cảnh núi đồi quạnh hiu lúc chiều tà. - Phin à. Phin có nhớ tết vừa rồi không? - Chị Liêu! Phin bỗng kêu to và giật tay chị gái. Mặt chị Liêu ngơ ngơ như đang trong cõi hoang mê. Sao bỗng dưng chị Liêu lại nói đến cái tết? Bất giác, Phin đưa mắt nhìn quanh rồi cũng giống như chị Liêu, sao tự dưng thấy trống trải quá. Trời mùa thu sập tối rất nhanh. Hai chị em nhìn nhau, rồi không ai bảo ai, cả hai vội thu dọn cuốc thuổng, bỏ dây củ mài đó, vội vã trở về làng. *** Chính là vào lúc vội vã thu dọn để trở về làng vì trời đã quá tối và cảm giác thức tỉnh xa lạ, hai chị em Liêu và Phin bỗng nhận ra có hai người đàn ông từ một búi lau gần đó đi ra. Hai người đàn ông cùng trạc bốn mươi tuổi, đều cao lớn và giống nhau ở làn da mặt tối màu, mái tóc đen như quạ, vẻ dãi dầu từng trải thấm nhiễm trên cả làn vải xám của bộ áo quần dầy dặn, có rất nhiều túi to túi nhỏ. Khác nhau chăng là một người như đeo một bộ râu quai nón. Còn người kia thì bộ ria vểnh gia thêm một nét lãng tử trên khuôn mặt dài linh lợi. Cùng đội mũ vải rộng vành, cùng đi ủng da màu đỏ gạch, mỗi người sau lưng đeo một chiếc ba lô to kềnh, trên vai lại còn một bao vải bạt nặng. Đến đúng cái hố củ mài của hai chị em Liêu, Phin, hai người liền dừng lại và tụt hai cái bao vải căng phồng trên vai xuống. - Chào hai cô em. Người râu quai nón nói. Người đeo bộ ria vểnh bỏ mũ quạt, nheo mắt: - Chào hai bông hoa rừng. Phin chống cái thuổng xuống đất. Chị Liêu kéo cái bao dao ra trước bụng. - Thoong cân du tạn hờ ma? Chị Liêu hất hàm. Phin cất tiếng dõng dạc: - Hai người từ đâu đến? Các ông là ai? Không ngờ, cả hai người đàn ông cùng toét miệng cười. Người ria vểnh dừng tay quạt, thở thào thào, chúm môi đầy vẻ tự tin: - Chào thoong noọng! Chào hai em. Các anh là cán bộ địa chất. - Địa chất? - Ừ, cau là cán bộ địa chất? Có biết địa chất không? Đi tìm apatít, tìm sắt, tìm đồng ở dưới đất ấy mà. - Mí chắc! Chị Liêu lắc đầu. Người ria vểnh cầm mũ vải hất gió vào mặt, cười cười: - Mí chắc là không biết. Đúng không? Phin hạ giọng: - Cũng biết nói tiếng Tày à. Thoong noọng là hai em. Cau là tôi đấy. Người ria vểnh lại cười và nhìn cái ống nước trên vai Phin: - Biết tí thôi! Có nước hay lẩu đấy? - Nước thôi. Không phải lẩu, không phải rượu. Có uống không? Người râu quai nón tiến lên một bước, chìa tay: - Cám ơn. Kin lẩu thì còn gì bằng! - Không phải kin lẩu. Kin lẩu là uống rượu. Người ria vểnh nhe răng: - Phải rồi! Đây là kin nặm! - Ừ. Kin nặm! Biết tiếng Tày đấy. - Biết chứ. Người địa chất ở rừng núi, sống với bà con dân tộc, biết nhiều thứ tiếng đấy. Kin mí kin, nòn mì nòn, háy ca lăng! Ăn không ăn, ngủ không ngủ, khóc cái gì! Có phải phụ nữ Tày hay mắng con thế không? Đó, còn biết hát đám cưới Tày nữa cơ. Cả bốn người cùng cất tiếng cười. Xa cách đã được san lấp. Người râu quai nón ngó xuống hố củ mài: - Đào đất tìm cái gì đó, hai cô? - Củ mài! Có biết củ mài không? - Biết chứ! Củ mài để ghế cơm ăn phải không? Sâu nhỉ! Để các anh đào giúp một tay không lấy công nhé! Người ria vểnh sốt sắng. Phin lắc đầu, hồn hậu: - Không đào nữa. Sắp tối rồi. Các anh có về làng cùng không? Người râu quai nón xốc cái bao vải bạt lên vai, thở đánh phào: - Quý hóa quá! Được quý nhân phù trợ rồi. Không thì đêm nay các anh ngủ rừng mất. Về làng đi. Còn xa không, hai em? *** Đường là đường mòn. Lại gập ghềnh rắn lượn. Có chỗ đặt bàn chân trước rồi lại phải nhìn trước nhìn sau tìm chỗ để nhấc bàn chân sau. Ngựa đi còn không nổi. Nơi này được gọi là vùng sâu vùng xa Phiềng La. Muốn lên vùng sâu vùng xa này, từ huyện lỵ, từ tỉnh lộ số 34, phải đi bộ hai ngày đường. Phải lội qua mười con suối lớn. Phải leo qua mười ngọn núi cao. Vùng sâu vùng xa này là cái ngõ hẻm bị lãng quên, là cái hạt bị con chim tha đánh rơi xuống đất rồi cái hạt tự nẩy mầm mọc thành cây. Báo chí, không. Thông tin, không. Điện đài, không. Thời gian ở đây mang tính ảo, là sự thoáng qua của những kỳ hóa thân mỗi đời người và chẳng có gì để nói với thời gian cả, nên con người ở đây vô tư trong lành như nước suối nơi đầu nguồn. Ở đây, cửa không có khóa đồng khóa sắt. Ở đây, cánh cửa không có then cài. Ở đây, không có trộm cắp, không có lừa đảo. Ở đây, con người chưa vong thân, xa lạ với dối trá, điêu toa. Ở đây, con người tự làm ra cái ăn cái mặc và quyết định tự chế tạo luôn ra con người mình. Con người ở đây là chính mình chứ không phải người khác. Nhưng chính vì là mình nên con người ở đây nhận ra sự đơn côi trong địa vực bị chia cắt hiu quạnh đến triệt để và do vậy luôn luôn nuôi dưỡng xu thế hướng ngoại, tức khát thèm đi tìm kiếm mối giao lưu với người khác ngoài mình. Thành ra người ở đây rất quý chuộng người từ nơi khác đến. Hai người đàn ông đi rừng được Phin và Liêu đưa về nhà, do vậy dĩ nhiên là được bố đẻ của hai chị em đón tiếp thật thân tình. Và tất nhiên là ông Pảo bậc đại trí đại minh được mời đến. Ông Pảo đến lúc bữa ăn mới bắt đầu. Một bữa ăn thật lạ. Vì tất cả là từ cái túi đeo bên sườn của hai người đàn ông nọ lấy ra. Một cái bánh mì gối cắt thành lát cùng những khoanh giò, thỏi xúc xích và những quả dưa chuột muối chua. Lại có cả chai rượu Tây nút sắt. Toàn những thứ ông Pảo chưa thấy, chưa được ăn qua bao giờ. Và không hiểu có phải cũng là vì thế mà ông Pảo hào hứng hơn bao giờ. Nhìn hai người khách từ phương xa tới, ông Pảo nghĩ rằng đang ở trong một bữa tiệc đám cưới và thế là bậc tổ phụ thông thái và cát tường liền cất tiếng hát: Ơ này hai người khách lạ đường xa nghe ta hỏi nhé Gốc rượu ở đâu đến Men rượu ở đâu ra. Rồi ông cười ngất khi nghe người ria vểnh hát đối đáp bằng tiếng Tày thật trơn tru. Hát rằng: Kính thưa các ẹ, các pò, các y, các noọng Gốc rượu ở nước Thái và các xứ khác Men rượu ở mãi đất nước Nùng Đời xưa vua Thần nông truyền lệnh Phải tìm được thứ men có mùi hoa mộc Có mùi hoa hồi hoa sói... Tới đây thì chủ khách đã chẳng còn phân ngôi. Cuộc vui cứ thế nối tiếp cho đến khi kết thúc bữa ăn, hai người khách đứng dậy, người ria vểnh móc từ trong ba lô ra một xấp tiền toàn giấy bạc mệnh giá 20.000 đồng mới cứng, đoạn vòng tay, nhìn chị em Phin, Liêu, nhìn ông Pảo, nói rất ngọt ngào: - Anh em chúng tôi vô cùng biết ơn sự đón tiếp thịnh tình của bà con. Công việc thăm dò apatít vùng này đã xong, giờ chúng tôi đem tài liệu về xuôi để làm nốt. Không biết nói gì hơn, gọi là chút lòng chân thành... - A lúi! Không để người nọ nói hết, Phin đã đứng dậy kêu to. Người nọ cười cười: - Đây là lòng cám ơn chân thành, thoong noọng thay mặt bà con nhận đi, cho các anh vui. - Không dám lấy tiền đâu! Lòng tốt chỉ đổi lấy lòng tốt thôi. Phin xua xua tay, lui ra xa. Lửa bếp bùng lên một ngọn xanh lơ. Người ria vểnh nhìn quanh, thấy ông Pảo và các pò đều lắc lắc đầu, liền tiến đến đặt xấp tiền lên rìa ngai thờ gắn ở vách nhà, hạ giọng: - Mong các ẹ, các pò, các y, các noọng thông cảm. Đây là tấm lòng của chúng tôi. Người râu quai nón từ nãy vẫn xòe hai bàn tay dày nặng trên ngọn lửa bếp, lúc này liền đứng dậy cùng người ria vểnh nhìn ông Pảo: - Sống ở đời, người này phải dựa cậy vào người kia. Chúng tôi còn cần nhiều sự giúp đỡ của bà con đấy, cụ ạ. Ông Pảo gật gật đầu, hất hất bàn tay. - Ây dà, sao lại đứng thừng lững cả thế! Ngồi xuống đi. Gì chứ giúp đỡ người địa chất làm việc nhà nước thì núi cao, suối sâu chúng tôi cũng không nề hà đâu. Người ria vểnh nuốt nước bọt: - Nhưng mà bà con không nhận tiền chúng tôi biếu tặng thì chúng tôi không dám nhờ vả đâu. - Ây dà! Gà mái ấp lấy con mình. Con tim mở cho đồng loại thôi mà! Sao lại người đưa chai rượu, kẻ trả chân giò thế! - Không phải là đầu môi chót lưỡi đâu. Vì thật tình thấy hai em gái xinh tươi, thấy bà con chân tình tiếp đón, chúng tôi rất cảm động. Người râu quai nón nói, ông Pảo xua tay: - Thôi, chuyện gì đã qua thì như nước suối cho chảy qua đi. Bây giờ hai cán bộ địa chất còn cần chúng tôi giúp đỡ những gì nữa nào? Im lặng như bất chợt. Người râu quai nón đánh tia mắt lầm lì ranh mãnh về phía người ria vểnh, vẻ thận trọng và khôn ngoan. Rồi tặc tặc lưỡi, ề à: - Quả thật, nói ra thì rất ngượng mồm. Vì chúng tôi, hai người trai tráng khỏe mạnh thế này, chẳng lẽ lại cứ đi nhờ cậy mãi bà con. Ông Pảo chống tay đứng dậy, sảng khoái: - Ôi dà, vòng vo quanh núi làm gì nữa. Nói thế là chúng tôi hiểu đến chín phần rồi. Từ đây ra đường tỉnh lộ, hai ngày đường lại toàn đường hươu nai cầy cáo đi được thôi. Mà hai cán bộ mang vác từng ấy thứ đồ đoàn thì đi sao nổi. Có đúng không? *** Sáng tinh mơ hôm sau, bỏ việc đuổi theo dây củ mài đào dở hôm qua, Phin và Liêu vui vẻ lên đường, theo hai người đàn ông xưng danh là cán bộ địa chất, vừa là dẫn đường vừa là mang vác giúp. Hai chị em vừa là hai cá thể vừa là đại diện cho tấm lòng bà con ba chục gia đình người Tày ở Phiềng La hẻo lánh, những con người thấu hiểu đến tận cùng nỗi cô đơn vì bị chia cách, luôn sống trong nỗi luyến nhớ và khát khao được chia sẻ với người khác. Hai chị em Phin và Liêu đi hết ngày đầu tiên. Ở nhà, bố đẻ hai chị em nói: Tối nay chắc cả đoàn ngủ lại ở Bản Qua. Bản Qua có người họ Nông, chắc là tìm được nơi ăn nghỉ. Ngày thứ hai qua, ở nhà, ông Pảo nói: Chắc là đoàn sẽ tá túc ở bản Na Lin. Ở đấy có ông trưởng bản họ Vi, người rất tốt bụng. Hai chị em Phin và Liêu đi cùng hai người đàn ông được một ngày, người Phiềng La đếm một ngày. Được hai ngày, đếm hai ngày. Tới ngày thứ tư, thì cả bản bắt đầu đợi chờ. Nhưng đêm thứ tư qua đi, bố Phìn và Liêu mang bộ mặt lo âu sang nhà ông Pảo. Ông Pảo nói: Tôi cũng đang thấy nóng lòng đây. Nhưng thôi cứ chờ. Chờ! Ừ, thì còn biết làm gì hơn là chờ. Chờ! Chờ! Chờ! Năm ngày qua. Bảy ngày qua. Rồi mười ngày qua. Đã tới lúc lòng bố hai chị em Phìn và Liêu như có lửa cháy. Đã tới lúc ông Pảo vò đầu bứt tóc, luôn miệng kêu than: “Thế là thế nào?”. Rồi giết con gà, lấy đôi chân nó ra bói. Và tới ngày thứ mười thì may mắn. Trời, Phật còn rủ lòng thương, có người đi lên núi đào củ mài, từ trên cao đã nhìn thấy bóng hai chị em Phin và Liêu nhỏ như hai cái chấm màu chàm từ xa. Và mọi người trong bản lập tức cùng chạy tới, vây quanh. Hai chị em Liêu và Phin đã trở về sau hơn mười ngày xa vắng. Cả hai mặt mày nhợt nhạt, thất sắc vì mệt nhọc, và hình như còn buồn bã, vì thất vọng, vì xấu hổ. Bố Phìn và Liêu mặt tái xanh, nhìn hai con, xót xa và run rẩy: - Hai người đàn ông có xúc phạm các con không? Thấy cả hai đều lắc đầu, pò liền nắm vai chị Liêu, lắc mạnh, hai con mắt lác xệch hai nơi: - Nói bằng thật đi các con! Chị Liêu sụt sịt: - Con nói thật đấy. Hai người ấy còn đưa chúng con đi chợ huyện. Họ mua cho con và em Phin áo lông, giày vải đế cao để mặc tết! - Thế áo ấy, giày ấy đâu cả rồi! Tới đây thì không nhịn được nữa, Phin níu tay cha, khóc òa: - Chúng con bị lừa rồi. Chúng con vứt xuống suối tất cả rồi. Trong những cái bao vải bạt và ba lô của họ toàn tờ giấy bạc giả. Các chú công an đã bắt họ, nhưng thả chúng con. Các chú nói, chúng con không có tội. Trời! Ông Pảo ôm đầu, loạng choạng. Nào ai có thể ngờ. Người được dân Phiềng La mở rộng con tim yêu thương lại hóa ra là kẻ lừa đảo. Danh xưng hóa ra một trò bịp bợm, một cái cạm bẫy. Lòng tốt đã bị phản bội. Sự vô tư thuần khiết đã không được bảo toàn. Và chao ôi, như thế cũng tức là niềm tin tưởng đã đồng nghĩa với sự nhẹ dạ cả tin, dại khờ. Người khóc vì xót đau là Phin. Nắm tay bậc đại trí đại minh, rưng rưng Phin nói trong tiếng khóc: - Bác Pảo ơi! Chúng con chỉ bị các chú công an giữ lại để làm chứng thôi. Chúng con được các chú tha tội. Các chú bảo, cái giá của sự sống là kinh nghiệm từng trải với sự thật. Sự trong sáng của các em là nơi đầu nguồn của nhân cách, đừng nên vì sự lợi dụng của kẻ xấu mà tủi hổ. Không! Phin, chẳng ai giải tỏa được cơn nhiễu tâm của tất cả mọi người, của bậc đại trí đại minh! Ông Pảo ôm mặt, mếu máo: “Hầy! Kỳ đã chết giả mà ta tưởng nó chết thật. Thật là chưa quên cái dại đã già mất rồi. Nhưng mà các con các cháu hãy nhớ làm lòng đi, đừng để cái chất phác hóa thành khù khờ, dại dột để mọi người cười chê. Lòng tốt không được đánh đồng với sự khờ khạo, xuẩn ngốc, các con cháu à!”. Kẻ ngụ cư đến sớm 17/11/2013 03:00 Sau khi chạy bộ vài vòng quanh công viên, Triều đứng lại ở dưới gốc cây me tây, ngửa cổ, cố xác định vị trí căn hộ của mình. Anh đếm thứ tự từ dưới lên, một, hai, mười bảy, mười tám... rồi từ phải qua trái theo kiểu nhảy cóc, hai, bốn, bảy... Phải đếm đi đếm lại như thế vài lần, rồi như cách chú tâm tìm trên nền ảnh ảo có cấu trúc là những ô vuông đồng dạng, cố xác lập trong đầu một điểm ngắm nhập nhòe. Về sau, Triều đã nghĩ ra cách khác, để việc nhận diện căn hộ diễn ra nhanh hơn. Trước khi chạy bộ, anh treo lên cửa sổ một món đồ gì đó thật nổi bật, có khi là cái nắp xoong màu đen buộc dây lủng lẳng, có khi là một bó hoa khô móc vào then cửa thòng xuống bên dưới, cũng có khi là một chiếc khăn tắm màu đỏ buộc vào chấn song cao nhất, đòng đưa, đòng đưa. Quả tình, tình hình có khá hơn rất nhiều. Chỉ cần đưa mắt nhìn lên, không phải đếm thứ tự theo tầng, dãy, vẫn có thể định vị được ngay căn phòng của mình trong block nhà. Triều tự đặt tên là: Trò Chơi Điểm Nhấn. Trò Chơi Điểm Nhấn bắt đầu vào hồi thú vị của nó khi chính anh kiêm luôn các vai trò: kẻ đề ra luật chơi, giám sát luật chơi và trải nghiệm cuộc chơi. Một trò chơi đầy bí mật, không ai có thể can dự vào và dĩ nhiên, không ai hiểu những nguyên tắc nghiêm ngặt cũng như thứ khoái cảm lạ lùng mà nó đem lại. Vấn đề là làm sao để có thể nghĩ ra mỗi ngày một món đồ mắc lên cửa sổ, đánh dấu lãnh địa ngụ cư, hôm sau nhất thiết phải khác hôm trước. Khu chung cư vẫn chỉ lác đác ba căn sáng đèn, hai căn sát nhau ở tầng bốn và một căn nằm dãy trái, tầng hai mươi hai. Căn của Triều nằm dãy giữa, tầng mười chín. Nghĩa là, khoảng cách giữa các điểm sáng đèn khá xa nhau trên một tòa khối vuông vắn, im lìm, đen ngòm dựng lên trong đêm tối. Có hôm đi làm về khuya, lúc băng qua quãng đường hai bên lòa xòa lau sậy, gió thổi tanh ngấy mùi bùn và rền tiếng à uôm ếch nhái, Triều chợt rùng mình, kéo ga chạy như ma đuổi. Một thứ gì đó gần như nỗi sợ vô cớ đột nhiên sục vào tâm trí. Nhưng rồi anh kịp trấn tĩnh khi đến đoạn gốc me tây, cũng chính tâm trí ném ra câu hỏi: chẳng phải là mày đã rất muốn trốn về đây sao? Chẳng phải là mày đã rất ngán phố phường chen chúc sao? Kết quả, lý trí luôn can dự đúng lúc. Triều lại dựng chân chống xe dưới gốc me tây, và đốt thuốc, ngửa cổ lên, thở khói vào khoảng không, tự hỏi, có nên đi gõ cửa những căn phòng sáng đèn để làm quen với chòm xóm không nhỉ? Dù gì, thì cùng với anh, họ là những dân cư sớm nhất của tòa nhà này. Và với một điểm chung có thể tìm thấy - “chúng ta là những cư dân chuyển về đây sớm nhất” - đã có thể là cái cớ để bắt quen, đi lại với nhau. Biết đâu có những mối quan hệ thú vị nảy sinh với hàng xóm mới. Và việc chuẩn bị cho những cuộc gặp gỡ làm quen tưởng đơn giản nhưng hóa ra thật mất thì giờ. Chiều hôm đó, Triều phải là ủi gọn gàng hai cái áo thun trắng, chọn trong năm cái quần jeans một chiếc khá nhất, nghĩa là không rách gối, quá bụi bờ, cũng không thuộc dạng đại lễ mới cáu, tạo cảm giác nghiêm trọng. Triều đóng thùng và thấy hợp cho một cuộc làm quen. Anh chải tóc lật ngôi sang trái, hơi phá cách, không vuốt gel, để hơi xồm tự nhiên. Nhờ vậy, mà anh phát hiện ra tóc mình lúc này cũng đã có lốm đốm sợi bạc. Anh xịt nước hoa Bvgari vào hai nách và vùng lông rậm dưới bụng. Tất cả không quá đậm, chỉ đủ để nhả ra thứ mùi thơm thoang thoảng. Và sẽ hoàn chỉnh phong cách tự nhiên trẻ trung nếu mang thêm đôi giày lười hiệu Bata. Triều đi lui đi tới trước gương rồi quyết định dùng máy cạo râu để tém vài đường, không bó sát chân râu, dễ tạo cảm giác tỉa tót chuẩn bị thái quá. Anh lái máy cạo râu rè rè trên cằm, dưới mép. Vạt râu hơi cẩu thả bấy lâu, trong chốc lát được tỉa còn li ti. Vụn râu bắn ra vạt áo, anh phủi nhẹ rồi thổi thổi kỹ lưỡng. Mọi thứ đã rất ổn. Triều lấy mảnh giấy ghi sơ đồ của hai căn phòng sáng đèn dưới cùng, ở tầng số 4 và khóa cửa đi ra thang máy. Anh nhìn mình trong gương một lần cuối, chỉnh lại cổ áo trước khi cửa thang máy mở ra. Nền thang máy êm ro lún xuống nhanh rồi bật mở. Lạ thay. Tầng số bốn. Đúng tầng số bốn. Rõ ràng là vị trí hai căn hộ sáng đèn nằm gần chỗ thang máy, sao lại tối om thế này? Triều bước ra dãy hành lang hun hút giữa các dãy phòng lạnh lẽo. Anh đi đến hết hàng sảnh, rút mảnh giấy ra ghé sát một bóng sáng lòe nhòe bên ngoài chiếu vào và dò lại sơ đồ lần nữa. Chẳng lẽ mình vẽ sai vị trí? Không thể nào. Mình đã đếm rất kỹ, mất đến ba mươi phút để vẽ bản sơ đồ này. Hay là người ở hai căn hộ có việc đã đi vắng? Điều này thì rất có thể xảy ra. Nhưng mà bây giờ cũng đã sắp tới lúc đóng cửa tòa nhà, sao họ chưa trở về. Có thể nào hai nhà này là chỗ quen biết thân tình, họ cùng nhau đi du lịch đâu đó và không nghĩ tới việc một hàng xóm ở tầng mười chín tìm đến làm quen? Rất nhiều giả thiết được đặt ra. Triều đi đi lại lại. Và rồi mọi giả thiết cũng chỉ để ủi an trước một thực tế câm lặng, không đưa ra được câu trả lời nào đủ độ thỏa mãn. Anh chỉ nghe tiếng bước chân mình vang vọng trong thứ bóng tối giữa muôn trùng vây bủa bởi những căn phòng im ỉm khóa, không một dấu vết nào của con người. Triều thui thủi đi về chỗ thang máy. Anh lật trang tiếp theo, một bức sơ đồ khác được vẽ ngoằn ngoèo, đánh dấu vị trí của căn phòng sáng đèn trên tầng thứ hai mươi hai. Thang máy đưa Triều vọt lên. Cú nhấc bổng của bàn tay vạn lực vô hình. Thái dương bên phải của Triều hơi nhói đau như một cơn rối loạn tiền đình. Triều hít thở sâu và bước ra bên ngoài. Một cảm giác ngột ngạt và lạnh lẽo như thể vừa trở lại chính nơi hành lang cũ tầng bốn. Sự lặp lại thực tế tương tự khiến anh thấy gai người. Anh rón rén bước đi tìm vị trí căn phòng thường ngày sáng đèn. Nhưng chỉ gặp những cánh cửa đóng kín. Anh nhận ra ở phía xa, cuối dãy hành lang có một bóng đen lù lù thúc thủ. Anh thoạt nghĩ, đó có thể là một sinh vật đang chuyển động, hay cùng lắm là một bóng ma thụ động ngồi hù dọa kẻ yếu bóng vía. Là gì đi nữa, Triều chỉ mong ít ra nó cho thấy dấu vết con người từng ở đây. Không, không phải. Một chậu kiểng công cộng. Triều đi vòng quanh cái chậu cây lá dứa dại cao bằng đầu mình, lá tõe ra um tùm tứ phía. Anh thử bấm vào một phiến lá và ngửi. Cứng. Mùi bụi sộc vào mũi suýt làm Triều hắt hơi. Phép thử cho ra kết quả ngoài mong đợi: một bụi cây bằng nhựa. Triều bật cười ha ha ha trong bóng tối. Tiếng cười của Triều vọng dội xuống bên dưới, phát tán ra ngàn tàn âm quái rợn, như tiếng một vị phù thủy lên cơn tẩu hỏa nhập ma trong hang động hoang dã. Còn biết tìm gì ở đây? - Triều nghĩ. Rồi anh trở lại thang máy. Cánh cửa cầu thang với luồng sáng dịu nhẹ nuốt anh vào bên trong và tuột xuống dưới tầng G. Cú tuột xuống tưởng như đi vào không cùng của cõi địa ngục. Anh nghĩ bụng, mình sẽ gặp để hỏi thăm thằng cha bảo vệ tòa nhà cho rõ lý do mà hai căn hộ ở tầng tư và một căn ở tầng hai mươi hai hôm qua còn sáng đèn sao nay đã tối ngòm. Cửa cầu thang lại mở, Triều bước ra giữa một bãi xe trống trải, những hàng cột bê tông thô ráp, khổng lồ được đánh số thẳng tắp. Vẫn ánh đèn lờ mờ, không gian vắng lặng quen thuộc. Triều kêu lên: “Anh bảo vệ ơi, có đó không?”. Chợt từ góc chếch bên phải, có tiếng kéo cửa ót ét, một bóng đen gầy nhom khẳng khiu bước đến gần Triều: “Đây. Có chuyện gì đó?”. “Không, tôi chỉ muốn hỏi - Triều ngập ngừng - chỉ là... chuyện hai cái phòng tầng bốn, có người đến ở rồi phải không?”. “Để chi?”. “Thì tui vừa ghé trển, chẳng thấy ai”. “Thôi đi, có gì để mai giải quyết. Tui không phải là bảo vệ tòa nhà này. Tui chỉ trực tạm một đêm. Tui không nắm. Mà có chuyện gì gấp không?”. “Thì đứng dưới nhìn lên tui thấy mở đèn nhưng sao vào tối om à”. Triều tỏ ra cho y thấy vẻ hết sức ngạc nhiên, thậm chí, bất thường. “Phòng ai nấy ở, anh định gõ cửa chi?”. Giọng gã ta trầm nhưng lạnh tanh. “Thì ghé làm quen á mà”. “Rảnh quá đi - bản mặt gã nhăn nhúm, vẫn nhá lên cái cười mỉa mai - về ngủ đi cha nội. Đêm hôm còn lò mò chi không biết”. “Ờ...”. Triều gật đầu rồi lại nhấn thang máy. Anh thấy mình dâng lên rất nhanh. Lần này, trận nhói lan đều, ong ong cả hai vùng thái dương như thể có một bàn tay sắt khổng lồ đang thò xuống, bóp chặt hai bên vùng đầu. Anh vò mảnh giấy vẽ sơ đồ rồi rệu rã mở khóa bước vào căn phòng của mình và nằm đổ trên giường. Mục tiêu tối nay hoàn toàn thất bại. Cảm giác chán chường đến sớm trong anh, choán lấy hết mọi ý nghĩ của anh. Như một cảm giác tự sụp đổ, rã rời xảy ra thật nhanh chóng. Triều nằm sấp trên nệm và có thấy toàn thân mình đang bay hẫng lên, rồi chuồi qua những cửa sổ, cửa chính, những dãy hành lang vắng lặng như một chiếc máy bay do thám không người lái đang khám phá một công trình đồ sộ bị bỏ hoang sau đợt nhiễm xạ hạt nhân. Triều cứ thế bay lên mãi, mắt dõi tìm những cửa sổ sáng đèn, nhưng chỉ có thể thấy mỗi căn phòng Trò Chơi Điểm Nhấn có buộc chiếc quần jeans bay phơ phất. “Vậy không lẽ những căn phòng sáng đèn kia không có thật? Hàng xóm, rất có thể chỉ là ảo giác của kẻ quen thói viễn mơ? Thực ra lâu nay, trong block này, chỉ có mình, và có thể, tay bảo vệ vô trách nhiệm kia nữa, là hai sinh vật duy nhất tồn tại?” - Triều nghĩ - “Kể cả Trò Chơi Điểm Nhấn, hóa ra chỉ là một hành động biểu hiện bệnh hoạn, chẳng khác nào việc đánh dấu lộ trình của một kẻ tâm thần đi lạc trong bãi tha ma, mãi không tìm thấy lối ra, giữa những nấm mồ đồng hình đồng dạng bủa vây. Và cũng rất có thể, ánh sáng phát ra từ hai căn sát nhau ở tầng bốn và một căn tầng hai mươi hai kia chỉ là ảo ảnh. Hoặc, tệ hại hơn, là một trò đùa ác của tay bảo vệ. Có khả năng trong lúc buồn bã, hắn đã lẻn lên đó để bật đèn một số phòng ngẫu nhiên rồi bước ra khoảng sân, chỗ ghế đá dưới gốc me tây ngồi ngắm cho vui mắt, đồng thời cũng đánh lừa được một số con mắt qua đường nghĩ rằng, tòa nhà trông vắng vẻ thế mà dần dần đã có người dọn đến ngụ cư. Trò Chơi Ánh Sáng này, xét về bản chất cũng giống Trò Chơi Điểm Nhấn của chính anh bày đặt ra trong những ngày qua. Chỉ khác, một bên thì xác định lãnh địa cư ngụ, một bên thì cố tạo ra những dấu hiệu sinh sống của con người cho tòa nhà. Những tưởng tượng của anh xem ra có lý, vì trên thực tế, ban ngày, bên dưới tòa nhà có một văn phòng có chừng bốn nhân viên giao dịch địa ốc làm việc còn khi đêm về, chỉ có anh và thằng cha bảo vệ ở đây. Một thằng cha bảo vệ mặt mày thường trực cau có như người mắc chứng trĩ ngoại mãn tính, luôn mang trong hậu môn một bầu tâm sự ray rứt nổi cộm và ngứa ngáy. Từ hồi Triều dọn về đây, đều đặn, mỗi ngày hai người gặp nhau chừng ba lần ở hầm xe. Đối mặt, rồi lặng im, đi. Chẳng ai nói với ai tiếng nào. Nhưng đủ để cả hai đều nhìn ra sự tồn tại của người kia trong tòa nhà. Có ai ngờ hắn lại là người vui tính và nghịch ngợm đến vậy. Trò Chơi Ánh Sáng này, giả như chẳng may mà chủ dự án đi ngang qua, đang lúc đầu óc ông ta nhức ong ong như búa bổ theo nhịp điệp đóng băng ngày càng tăng của bất động sản, giữa giai đoạn toàn bộ khách hàng đã rút vốn, hủy hợp đồng vì độ trễ sâu của tiến độ thi công, và đương lúc trong hình dung của ông ta đây sẽ là một khối bê tông đen lù lù dựng lên trong đêm không phép thần nào hô biến được, thì bỗng nhiên xuất hiện mấy ô cửa toát ra thứ ánh sáng ấm cúng lạ thường. Ông ta sẽ đứng nhìn một lúc xem điều gì xảy ra. Phải chăng có sự phát sinh giao dịch nào của cấp dưới nằm ngoài sự kiểm soát của mình? Phải chăng có sự trục trặc nào trong việc đấu nối hệ thống đèn ở những căn hộ trên vừa phát sinh? Và ông ta sẽ móc mobile điện khắp nơi cho nhân viên kinh doanh, trưởng phòng giao dịch rồi trưởng khu quản lý để hỏi cho ra chuyện vì sao mới chỉ có một khách hàng chuyển về ở mà có đến bốn căn hộ sáng đèn. Điều gì đang xảy ra thế kia, ở cái cửa sổ của vị khách vừa chuyển về ở nửa tháng nay, tại sao lại có kẻ đang thắt cổ tự tử, tử thi treo lủng lẳng? Nhân viên kinh doanh sẽ gọi trưởng phòng, sau đó trưởng phòng gọi ngược cho ban quản lý tòa nhà, tiếp đến ban quản lý tòa nhà lại gọi cho đội bảo vệ. Chằng chịt các cuộc gọi diễn ra trong vòng mười lăm phút. Và cuối cùng, bảo vệ xác định một tin lãng nhách được thể hiện theo đúng văn phong báo cáo “một là hai là”: - Một là, trên cửa sổ căn hộ có thằng cha khách bị gay đến ở, cái vật treo lủng lẳng, em xác định rồi, không phải tử thi. Đó, chính xác là một con gấu bông to bằng hình người thật, có lẽ là loại gấu bông mà hắn dùng thay cho gối ngủ. Hắn treo cổ con gấu bông thòng ra ngoài cửa để khi chạy thể dục bên dưới, nhìn lên thì dễ xác định vị trí căn hộ của mình trong tổng thể tòa nhà, vừa để cho vui con mắt. Mà sếp ơi, hôm nay hắn mới treo con gấu bông, không chừng ngày mai, ngày kia, sếp trở lại sẽ thấy hắn treo thứ khác, một cái su chiêng đỏ mới mua ở shop hay một dải ruy băng tím sến rện không chừng... Những đứa vừa lại cái vừa tâm thần vừa gay như hắn thì xài hoài không hết chiêu trò. - Hai là, vấn đề đèn sáng ở ba căn phòng còn lại, em xin báo cáo, thưa sếp tối cao rộng lượng và bao dung. Đó là lỗi tại em. Trước khi kỷ luật hạ lương em, xin sếp hãy đặt mình vào vị trí hèn mọn của em để rũ lòng thông cảm. Em cũng chẳng nghịch ngợm gì đâu, cũng không có ý làm hại đến danh dự và uy tín của cái tòa nhà này. Sếp hãy nghĩ xem, làm một thằng bảo vệ, em chỉ mong cho cái chỗ mình làm được sáng sủa, sinh động, có sức sống. Em không thể nằm giữ một tòa nhà chọc trời đen ngòm bên một đầm lầy đêm hôm cóc nhái kêu như oan hồn. Em bật đèn lên như một màn giải trí lương thiện. Ánh đèn ấm áp từ những căn phòng lác đác cũng làm em thấy gắn bó với tòa nhà và chu toàn công việc của mình. Hai vấn đề được trình bày đâu vào đó. Ông chủ dự án đầu tư trầm ngâm một lúc rồi biến mất như bụt. Để lại tiếng cóc nhái, ễnh ương, giun dế kêu râm ran trong màn đêm u tịch. Sau khi trình bày xong “một là hai là”, tay bảo vệ không dám tiếp tục Trò Chơi Ánh Sáng nữa. Và hắn cảm thấy đau bụng. Cũng rất có thể khi trình bày qua điện thoại, do hồi hộp quá mức, hắn đã nuốt không khí đầy căng bụng. Trước khi xin về nhà giải quyết cơn đau bụng khiến ruột gan nhốn nháo, hắn đã kịp nhờ đội trưởng đội bảo vệ điều tạm một nhân viên khác đến thay trực một đêm. Đèn ở căn hộ tầng hai mươi hai và hai căn sát nhau ở tầng bốn đã được tắt. Và đúng lúc đó, vị khách sớm nhất của khu nhà đang chuẩn bị áo quần sạch sẻ để đi tìm hàng xóm. *** Triều nằm trên nệm, tự dựng lên một kịch bản khá logic, sắp đặt các tình tiết để giải thích cho việc ba căn hộ kia vì sao không sáng đèn, không có dấu vết người ở, và càng khớp với tình tiết đêm nay đã xuất hiện một tên bảo vệ xa lạ không phải tên mang bộ mặt trĩ ngoại mãn tính bấy lâu anh vẫn thấy thoáng qua. Anh hiểu rằng, đó chỉ là một giả thiết trong vô vàn giả thiết có thể là sự thật. Trí tưởng tượng sẽ còn phải được huy động rất nhiều. Sài Gòn, tháng 11.2013 Dăm phía đời, gác lại... Phương nói về lão tình nhân già người Úc của mình gần hết một buổi tối. Phương nói nó đòi cưới, cả lũ lao nhao phản đối: “Cưới chi?”, “Bà điên chưa?”, “Cứ vầy đi. Cho khỏe”… Phương nhón một miếng bò khô nhai nhóp nhép và nói nhẩn nha: Nó là thằng được nhất trong mấy thằng bồ tao cặp, sau khi ba tụi nhỏ mất. Cặp gần mười năm rồi. Quen. Các con tao cũng quý nhưng nói thật với tụi bay. Tao ưa vầy. Nhà ai nấy ở. Muốn tới nhau thì điện báo. Muốn đi du lịch cùng nhau thì thu xếp. Được thì OK. Mà không thì tao không thể. Là xong. Tao cũng đưa nó về Việt Nam mấy lần rồi. Có về đây rồi đi Huế, Sapa… Nó nói đồ ăn Việt Nam nấu ở Việt Nam ngon quá trời. Còn đồ ăn Việt Nam nấu ở Úc không ngon. Tụi bay biết sao không? Vì tao nấu. Ờ, ờ tao nấu đồ ăn dở nhưng cái miệng tao hay lắm. Tao ăn đâu ra đó. Ăn đâu biết đó. Như cái thứ bò khô đây… - Sao? Bò khô sao? Xinh đang nằm ườn người gác chân qua đùi Ý, vội chồm ngay dậy, vụt miệng hỏi tức thì: - Mày làm gì mà… dữ vậy? Bộ bò khô mày làm hả? - Không phải tao. Nhưng sao chứ! - Ngọt quá! Ngọt kiểu này dân nam ăn vừa miệng mình, dân trung mặn mòi mới ngon. - Mày tức cười quá! Thà kho cá, kho thịt, đây mồi để nhắm bia rượu. Cũng phải lạt bớt đi. Cũng phải ngon ngót. Đúng là. Đúng là… - Là gì? - Là cái thứ không biết nấu ăn. - Ừ! Tui không biết nấu ăn tui bồ Tây cho khỏe. Còn mấy người nấu khéo sao không có chồng? Sao ế? - Á! Cái con đây. Hỗn xược. Không có cái vụ ế đâu nghen Chẳng qua là không thèm có chồng thôi. Linh, búng tay tanh tách: “Đúng boong. Tao nói phụ nữ mình khổ chết luôn. Bởi dòm mấy bà chị ruột, chị dâu cái tao quyết… ở vậy luôn”. Cả lũ vừa nghe Linh nói, vội nhao nhao lên phản đối: “Chứ không phải do mày có tật búng tay?”. Nghĩ cũng kỳ cho cái cặp đây. Bồ bịch cả mấy năm vậy mà đến khi Linh ra mắt phía chồng, chỉ mấy phát búng tay của nó, cuộc tình đành nát tan. Chuyện này được mấy đứa sống ở nước ngoài lâu như tụi Thương, Phương, Hoài… phản ứng quá chừng. Nhưng Mỹ, Canada, Úc… đâu phải là Việt Nam. Giả bộ con Mùi, con Xinh, con Linh… có chồng hoặc còn chồng coi? Sao dám gác lại công chuyện làm ăn, những vướng bận gia đình, để lê la suốt ngày với tụi bạn ở xa về rồi đùm túm sống bụi bặm vầy? Mới nói vậy mà lũ nó táp vô sát miệng: Bụi, bụi. Không dám bụi đâu. Ăn ở sang vầy mà bụi? Đúng là mấy cái mỏ hàu. Hàu còn hấp được, nướng được mà không nấu miếng cháo húp giải nhiệt, nhẹ bụng chứ cái thứ hàu… mỏ này, phải chi có con dao thiệt bén, lẻo quách đi là rồi. Vừa nghĩ, Xinh vừa cười khi hình dung tới mấy con mụ ở đây với những cái mặt không có mỏ. Lại là những cái mỏ rất ham nói, ham ăn, ham chửi nữa chứ! *** Khuya, cả bọn mới chịu rời bãi biển với người nhớp nháp hơi muối. Mùi phủi áo xống, chặc lưỡi: “Chắc tao phải tắm lại. Rin rít. Khó chịu”. Tôi mồi hoài điếu thuốc không được vì gió nhiều, liếm môi: “Lạt miệng. Khó chịu”. Mấy đứa níu nhau ngồi bệt xuống bậc thềm phía sau của khách sạn, cùng hướng về phía tôi và cùng hỏi: “Chứ mày hút chi dữ?”. Không trả lời, tôi ngó ra biển thẳm đen, đặc quánh và mênh mông, thở dài. Sao mỗi khi về với biển tôi lại hay thở dài? Nhiều năm tha phương với đủ thứ phải đương đầu, đối phó đã kịp để tôi tự trang bị cho mình một cái vỏ bọc khinh bạc, lạnh lùng. Và tôi thấy an toàn. Rất là an toàn khi co mình ẩn núp trong đó. Vậy mà mỗi khi ra tới biển, đứng phơi mình trước biển. Biển, ở cả bên kia lẫn bên này là tuột luốt. Làm như cái ma mãnh lạnh bạc bị gió biển đánh cho tới tấp. Làm như cái bụi bặm phong trần bị sóng biển đập cho vỡ tan. Rồi những câu nói bặm trợn hung hãn bị biển cuốn trôi. Ra khơi xa và mất hút. Và tôi còn lại là tôi. Và tôi trơ trụi là tôi: gầy mảnh, yếu đuối. Rất hay muốn khóc và rất hay thở dài. Tôi đến Mỹ không gia đình. Và tôi ở Mỹ không bạn bè, chồng con. Đã trên ba chục năm. Chỉ có công việc, những gã bạn trai người Việt hoặc không phải người Việt. Và nỗi cô đơn thường xuyên, rộng rinh, hun hút. Và tôi làm đầy cho mình. Làm cân bằng mình bằng thuốc lá. Tôi hút đủ loại. Không tùy thuộc sức khỏe nhưng dựa vô tâm trạng, sở thích. Hồi buồn nhiều, hút mấy thứ dịu nhẹ chẳng thấy gì nhưng hồi vui, rít mấy loại đậm đặc lại ớn. Thật ra, đó cũng chỉ là cảm giác bởi những căng thẳng này đi qua thì lại có những căng thẳng khác ập tới. Sự mệt mỏi cũ vừa khép lại thì có ngay những mệt mỏi mới mở ra. Nỗi cô đơn đây vừa kết thúc thì liền có ngay nỗi cô đơn đó, khởi đầu. Cuộc sống của tôi, khoảng năm nay có đỡ buồn nản hơn, khi chung sống với Kurt, một người Mỹ tốt bụng và sinh hoạt trở lại với gia đình phật tử Việt Nam. Ở với nhau cho lòng đỡ hụt hẫng và tới chùa cho cái tâm nó nhẹ. Vậy thôi! Với bạn tình, tôi đâu mong gì chuyện dài lâu. Vẫn là ý nghĩ có nhau cho đời bớt trống trải. Ban ngày cắm đầu cắm cổ làm, chiều về lục đục nấu nướng với nhau. Món Mỹ, món Việt đề huề. Tiếng Việt pha tiếng Mỹ. Tiếng Mỹ đệm thêm tiếng Việt. Lủng củng leng keng. Căn bếp rộng loảng xoảng tiếng dao thớt, xoong nồi. Ồm ồm giọng đàn ông nói, khanh khách tiếng đàn bà cười. Mùi thức ăn tây, mùi thức ăn ta bốc khói ngào ngạt. Nghe bụng đói và thấy thêm ý nghĩa những bữa ăn có đôi. Khuya khuya, khỏi cảnh ngôi nhà như rộng thêm mà mình như bé lại. Rúc sâu người nơi sô pha, ly cognac trên tay cầm và những rưng rức nơi trái tim. Có hai người, rượu, thường uống ít hơn. Đêm nằm lỡ mớ ngủ, quơ tay đạp chân, biết có một người chung giường cũng đỡ quạnh. Rồi cuối tuần lại theo nhau tới lớp dạy tiếng Việt ở bên chùa. Đứa làm học trò đứa làm giáo viên. Tức cười chết được. Tôi dạy mười mấy đứa nhỏ tuổi khoảng tám, chín và một đứa già tuổi đúng sáu lăm. Đứa già người Mỹ mà học tiếng Việt còn giỏi hơn con nít Việt học tiếng Việt, mới thật kỳ. Rảnh, đi câu. Kép già của tôi sát cá bắt ghê và làm cá giỏi bắt sợ. Con cá thật to mà Kurt vật ra xẻ, cắt gọn ơ rồi bỏ túi, xếp thùng lạnh (luôn để sẵn trong xe). Chừng về, phân phát cho mấy người quen. Gã này rất được. Chuyện thảo ăn như đã kể ở trên. Rồi chuyện được chọn làm ông già Noel trong mùa Giáng sinh. Trời ơi! Cái bụng Kurt đã bự đã tròn lại thêm tròn, thêm bự khi mặc áo tròng quần, mang râu đội mũ kiểu đó. Nhưng trên tất cả, là chuyện biết ăn mắm. Chỉ nước mắm trong thôi nhưng như vậy, là siêu lắm rồi. Và bậy hết sức! Bậy, có mỗi một chuyện là làm cá quăng mất cái đầu với lại bộ ruột. Uổng quá! Khi tôi kể lại chuyện này, tụi sống bên đó không ý kiến gì nhưng mấy đứa bên này lại la lối ì xèo. Mùi: - Vậy thì bỏ nó quách. - Sao bỏ, mày? - Con cá có cái đầu. Ngon vậy bỏ. Có cái đầu cá còn không thông suốt, vậy là đầu mày, đầu nó trục trặc rồi. - Chứ thông suốt cái con khỉ gì khi tao người Việt tâm hồn Việt cái đầu Việt, còn nó Mỹ rặc ri. - Vậy thì sống chung chi? - Nói như mày, thành chi cứ một mình… Câu nói chợt rơi vào im lặng. Biết mình lỡ lời, tôi rít thuốc liên tục. Ở đây, ngay nơi bậc thềm sau của khách sạn này. Với đám bạn đứa ngồi, đứa đứng của tôi. Đứa nào lại không… một mình, theo một nghĩa nào đó. Có bảy đứa thì bốn đứa ở Việt Nam, đã độc thân đúng nghĩa. Không có kép già, kép trẻ nào cùng sống chung. Không mảnh tình vắt vai để mà hò hẹn, cho nhộn nhạo cuộc đời. Linh, cứ cho là do những cái búng tay và tính tự ái đi. Mùi, cứ cho nhà quá nghèo, cha mẹ yếu đau, em đông phải gồng gánh lo toan đi. Còn Xinh? Còn bao nhiêu đứa nữa? Rồi mấy đứa đã kết hôn với đám cưới rình rang hoặc chỉ là vài nghi thức cho có, khi bắt đầu cuộc sống lứa đôi nhưng rồi đó: như Tình như Nhài. Đã bao năm, một mình, bươn chải chăm nuôi hết con rồi tới cháu. Quăng quật với việc mưu sinh và tất bật với tổ ấm của mình, mải miết. Và tội tình sao! Lại là những tổ ấm những mái nhà thiếu bặt hẳn người chồng. Là một người, có thể đẹp hoặc xấu, có thể khỏe hoặc yếu, có thể tốt hoặc tệ cho mình tránh được tiếng… có chồng. *** Tôi gặp may khi rủ rê được mấy đứa bên kia cùng về. May thêm, khi lôi kéo thêm cả mớ bạn bên này. Nói là cả mớ để hiểu là phỉnh dụ đông nhưng dồn tụ lại chỉ có bấy nhiêu. Xinh chọn một nơi sát biển với mấy phòng liền kề, rất rộng. Tuy vậy, những lúc không phải ra ngoài cả bọn cũng chỉ quây quần xúm xít lại với nhau. Đã thành cữ, trên dưới mười giờ đêm, Nhài tách rời đám bạn kiếm một chỗ riêng và gọi điện chuyện trò với ai đó, rất lâu. Bị tụi tôi chọc là tám với lão nào? Mặt tròn mắt méo ra sao? Bụng to hay là bụng lép? Nhài tức quá nói tao nói chuyện với thằng Bin chứ bồ bịch khỉ gì! Gia cảnh Nhài, tụi tôi đâu có lạ! Bin là con đầu của Hương và bà nhỏ này quậy hết cấp số. Trong lớp, Nhài lên xe hoa sớm nhất. Lấy chồng, vẫn áo dài guốc gỗ cắp sách tới trường. Có bầu vẫn vác bụng, điệu đàng, tới lớp mới ớn chứ! Nói ráng để thi đậu, kiếm cái bằng tú tài trả chữ hiếu cho ba má tao rồi… đẻ con vẫn còn kịp. Nhài đậu ưu và không mắc con nhỏ, chắc kiếm được một suất du học. Đầy tháng con, Nhài nói với đám bạn: “Tao mê học ngang ngửa mê yêu. Để trả nợ chữ tình xong, tao học tiếp cũng không muộn”. Không lẽ vì muốn, mau mau, trả cho hết nợ yêu mà ba năm liên tiếp, Nhài đều sinh con? Cánh cửa đại học khép chặt với bà mẹ trẻ, sau giải phóng. Bởi chồng Nhài là sĩ quan quân đội cộng hòa nên bị đưa đi cải tạo ngay và Nhài, một nách ba đứa lít nhít như trứng gà, trứng vịt. Hồi còn đến trường, cái sự học giỏi của Nhài không khiến bọn tôi lạ! Nhưng bản lĩnh, sự chịu đựng với những bươn chải của Nhài trong suốt những năm tháng ấy, luôn, khiến chúng tôi ngạc nhiên. Và cảm phục. Nhài lúc nào cũng vất vả, nhọc nhoài… Cả khi không tiền lẫn khi có tiền. Cả khi chồng ở xa cho đến lúc về gần và rồi lại đi xa. Cả khi các con còn rất nhỏ cho đến giờ, chúng nó đã là những ông bố, bà mẹ. Nhài chỉ biết lo toan và làm lụng, tính toán và xốc vác. Những thứ như nghỉ ngơi, thư giãn, chơi bời… là hết sức xa lạ với Nhài. Tôi bảo: “Mày quăng bỏ hết đi”. Nhài: “Không thể. Nhưng gác lại dăm bảy hôm thì được”. Ừ, thì gác lại những ngày đã từng sống, những việc đã từng làm, những thứ đã từng loay hoay và khốn đốn. Ừ, thì gác lại một phần đời mình đã xuôi ngược đã lăn trở, một góc trời mình đã tìm đến và lưu lại. Ở bên này hoặc bên kia. Ở phía này hoặc phía khác. Như tôi như Xinh như Ly… để có được sự sum vầy này trong rất nhiều gắng gỏi. Là thế! Những ý nghĩ của Nhài cùng với sự ủng hộ hết mình của cu Bin, khi bỏ mấy bộ quần áo, ít thuốc men, vài vật dụng cá nhân vào túi xách và nói nhẹ bâng: “Rồi. Tụi bay đâu, tao đó”. Những trĩu nặng nhọc nhoài nơi thân xác, những dằn vặt day dứt ở tinh thần là ở phía đời ấy. Một phía đời với bao khổ lụy đắng đót mà ngẫm ra, cũng từ những bất hạnh do Hương gây ra. Giống mẹ, con bé rất đẹp và yêu sớm nhưng những mối tình nó đã trải qua đều là bi kịch đối với Nhài. Giả như, Hương ăn ở với một tay đàn ông đã có gia đình, thế là, cô vợ tìm đến đánh Hương và đánh luôn cả Nhài vì “không biết dạy con”. Rồi Hương lôi về một gã dở hơi nào đấy và thằng này đốt nhà của Nhài trong một lần ghen tuông… Cứ thế! Tai họa từ con gái ập lên cuộc sống Nhài hết đợt này tiếp đến đợt khác. Và kết lại, hậu quả những cuộc yêu của Hương là ba đứa cháu ngoại, Nhài đã dưỡng nuôi từ lúc lọt lòng. Chẳng biết ba tụi nó là ai, chẳng biết tông tích ở những xứ sở nào. “Thì nó cứ đi đã rồi ôm bụng về, hỏi làm thinh. Rồi tao nuôi đẻ nuôi cháu chứ quẳng đi đâu được chứ! Tới đứa sau chót đây, tao điên máu nói bác sĩ thắt ống dẫn trứng cho nó, giùm tôi”. Giọng Nhài rời rạc buồn buồn suốt cả một đoạn kể dài nhưng khác hẳn ở hai từ cuối. Chỉ hai chữ “giùm tôi” mà đau đớn xót xáy bắt quắt người. Là uất nghẹn tới sát mặt đất và là thương là yêu tới tít tận trời cao. Chồng và hai con trai của Nhài sang Mỹ theo diện H.O trên chục năm rồi, Nhài cứ lần lữa hẹn tới hẹn lui sẽ qua sau. Rồi thằng lớn lấy vợ, có con. Rồi thằng sau làm đám cưới và cái thằng bự nhất là thằng chồng, có sao nói vậy, cũng đã chính thức kết hôn cách đây mấy tháng. Trước khi tới tòa thị chính thành phố làm các thủ tục pháp lý với người phụ nữ, đã chung sống với mình ba năm. Chồng của Nhài có đến nhà tôi, uống cả chai Jack Daniel với Kurt và say mèm và khóc… Ông ấy nói muốn Nhài sống cùng để được chăm lo miếng ăn, giấc ngủ cho vợ. “Để đền bù cho cô ấy cả một đời đã hy sinh cho tôi, các con và lũ cháu”. *** Kurt cho tôi biết, hôm qua, mấy đứa con của ông ấy có đến thăm và ở lại chơi cả ngày. Tụi nhỏ nhắc tôi nhiều và mê món Việt bố làm. Tôi gặng lại: “Không phải là bánh phồng tôm chiên chứ?”. Kurt cười rất to, trả lời bằng thứ tiếng Việt rất chuẩn mà cô giáo đã dạy: “Chuyện nhỏ. Nhằm nhò gì!”. Kurt nói rất nhớ tôi, giàn mướp hồi tôi đi chỉ mới ra hoa, nay đã có trái. Bữa trước, tuyết phủ ngập cổng và tôi có tin nổi không? Chính Kurt và ông bạn Mike đã dọn sạch trơn. Mike rất thích món bò kho gừng của chúng tôi. Nghĩ bụng, chừng về sẽ làm để cho ông ấy cùng với mấy món quà quê. Cuộc điện với Kurt làm tôi trằn trọc suốt đêm. Trong những cơn ngủ chập chờn, hiển hiện trong tôi cả một trời hoa mướp. Những nụ chói sáng và vàng tươi. Lạ thật! Bởi đã quyết lòng “thôi thì gác lại…” vậy mà trái tim mình vẫn đập rộn những nhịp vui, khi dõi theo một sắc màu lấp lánh, một bóng nắng lung linh nơi khu vườn nhà cùng với một người đàn ông có tên là Kurt. Quanh quẩn mương vườn 13/10/2013 03:45 Quê tôi xứ dừa. Mở cửa ra là thấy dừa. Dừa ngay trong sân nhà, ngoài bờ ao, trên lối đi hàng xóm. Nhưng dừa nhiều bạt ngàn là ở trong những khu vườn nối tiếp nhau như không có ranh giới để phân định chủ vườn. Thật ra mọi khu vườn dù lớn hàng chục mẫu hay chỉ năm ba công, một mẫu hoặc hai, ba mẫu đều có bờ ranh chạy dọc tới con rạch chảy qua làng. Trong mỗi khu vườn đều có rất nhiều con mương xẻ ngang những bờ dừa để dẫn nước từ rạch vào mương rồi thoát ra theo thủy triều lên xuống. Trong những con mương ấy có biết bao thú vui cho một đứa trẻ con thôn quê để sống qua những ngày tháng khôn lớn dần và biết bao kỷ niệm, ấn tượng của một thời thơ ấu đã ăn sâu vào tiềm thức không thể nào quên được. Xưa tôi và đám bạn cùng trang lứa thường quanh quẩn ở mương vườn. Nước từ rạch bò vào gọi là nước lớn, vào mùa nước lợ thì câu cua biển. Nước lớn đầy một chút thì câu cá bống dừa, bống các, lòng tong. Nước lớn đầy gọi là nước đứng thì tắm mương, ôm bập dừa nước tập lội, quậy cả bùn khiến đứa nào tắm xong dưới mương lên bờ hai bên mép cũng đều có râu, nhìn nhau cười hết sức ngây ngô. Khi nước ròng sát trong mương lại càng nhiều thú vui hơn, dùng ná thun bắn đạn bùn rình bắn cá bống sao, tìm những chỗ trũng nước đọng cỡ bằng cái nia be bờ tát bắt tôm tép, các loại cá nhỏ. Nhưng tôi mê nhất vẫn là câu cá ốc mít trong những vũng nước đọng của chân mương vườn. Thịt cá ốc mít ăn rất ngon, nhất là cá ốc mít mái đang mang trứng, làm món gì cũng ngon, ăn vừa béo vừa bùi. Cá ốc mít trong mương vườn nhiều vô thiên lủng, cứ nghĩ câu cả đời cũng không hết. Thế nhưng bây giờ về quê, thèm món cá ốc mít kho tiêu, chiên xù, nấu ngót hay hấp cuốn bánh tráng rau sống chấm nước mắm tỏi ớt, tôi rảo hết các mương vườn cả buổi để câu nhưng chẳng được mấy con. Thấy tôi cầm nhánh tre khô, buộc sợi nhợ gai có chú trùn đất loe ngoe đi lơ ngơ trong vườn dừa, cô bạn học thuở nhỏ giờ đã lên chức… bà nội bà ngoại đang tét lá dừa nheo nheo mắt cười hỏi ông về đây đi câu con gì vậy? Tôi bảo câu cá ốc mít kho tiêu, mấy chục năm rồi ăn thịt cá ướp tẩm hóa chất độc hại ngoài chợ trên thành phố, giờ thèm ăn cá ốc mít kho tiêu. Cô bạn nhỏ ngày xưa cười ngả nghiêng nói ông này lạc hậu tình hình quá, giống cá ốc mít ngày xưa tôi và ông câu về hấp cuốn bánh tráng rau sống ăn trong nhà chòi trên mương vườn giờ tiệt chủng rồi. Biết tại sao không? Thấy tôi ngớ ra, cô giải thích luôn, tại giờ xứ này người ta đua nhau nuôi tôm thẻ chân trắng, xử lý hóa chất khử nước trong ao nuôi, xả chất thải ra gây ô nhiễm cả mương vườn nên cá ốc mít nào sống nổi. Một bản tin - Truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên 13/10/2013 03:20 1 Email mà Khang gửi cho vợ vào thứ hai tuần này cắt dán nguyên văn một bản tin trên online. Nội dung như sau: Kinh hoàng vụ giết chồng rồi luộc xác Một phụ nữ ở Trung Quốc đã giết chết chồng rồi luộc xác anh này để che đậy chứng cứ. Người phụ nữ đã bỏ thuốc mê rồi trói ông chồng (chồng thứ hai) trong căn nhà ở thành phố Lục An (tỉnh An Huy), và đánh đập, bỏ đói ông trong suốt ba ngày hồi tháng 6, khiến ông chồng thiệt mạng, theo trang tin Anhui News (Trung Quốc) ngày 1.9. Kinh hoàng hơn, sau đó, người phụ nữ cưa xác ông chồng, luộc trong nồi áp suất, nhằm che giấu chứng cứ phạm tội. Cảnh sát không công bố chi tiết người phụ nữ đã làm gì với phần thi thể bị luộc của ông chồng. Người phụ nữ do bị ám ảnh sau khi giết chồng nên đã sụt 6,3 kg, cuối cùng ra đầu thú. Người phụ nữ khai nhận với cảnh sát rằng bà và đứa con gái thường xuyên bị người chồng đánh đập nên mới ra tay giết chồng. Trang tin China.org.cn của Trung Quốc dẫn kết quả khảo sát công bố hồi tháng 1 cho biết hơn phân nửa trên tổng số 2.000 người đàn ông Trung Quốc (tham gia khảo sát) thừa nhận họ đã đánh đập, hành hung vợ hoặc bạn gái. Hạnh, vợ Khang nhận được email vào lúc 10 giờ. Khi đó cô ở công ty, đang soạn bản hợp đồng cho dự án mới. Nhìn thấy email chồng với phần subject (chủ đề) là một câu hỏi có vẻ nghiêm trọng: “Một ngày nào đó liệu em có làm thế với anh không?”, cô đã tranh thủ đọc. Và đó là bản tin khiến cô bị choáng ba phút. Hoàng, đồng nghiệp, ngồi bên cạnh nhìn thấy mặt mũi Hạnh tím ngơ tím ngắt, quở: “Em có sao không?”. Không thấy Hạnh trả lời, anh lại hỏi thêm: “Có sao không cô Hạnh, nếu mệt thì nên nghỉ một lúc để tôi phụ soạn bản hợp đồng cho?”. Nhưng Hạnh vẫn không trả lời. Môi cô chuyển sang bợt bạt. Khuôn mặt đổi sắc tái nhợt. Và mắt nhìn đờ đẫn ra phía khung cửa sổ. Ba phút trôi qua. Việc đầu tiên mà cô định làm ngay, đó là lấy điện thoại gọi cho Khang. Và câu đầu tiên cô sẽ hỏi đó là: “Anh nghĩ sao lại hỏi em câu đó?”. Nhưng khi cầm điện thoại lên, mở danh bạ vào Chồng Yêu, thì cô lại ngập ngừng. Rất có thể đây là một trò đùa của Khang. Cũng rất có thể đó là một cách chia sẻ thông tin theo cách của anh, trong một lúc không suy tính kỹ hiệu ứng mà bản tin mang lại. Hạnh nghĩ. Hạnh sợ sự căng thẳng của mình khiến mọi việc thêm rắc rối. Cô đặt mobile xuống bàn. Rồi lại nhấc nó lên. Rồi lại mở danh bạ. Mục số của Chồng Yêu nhập nhòe trước mắt. Cuối cùng, cô quyết định bấm nút tắt nguồn để không bận tâm đến nó nữa. Trong khi đó, Hoàng vội vàng chạy ra bên ngoài rót một ly nước mát đặt bên cạnh Hạnh: “Cô Hạnh uống đi cho tỉnh người”. Hạnh nhìn nụ cười hiền lành chu đáo trên khuôn mặt người đàn ông trung niên độc thân duy nhất trong phòng (thực ra thì mới ly dị vợ chừng ba năm nay), người phụ nữ nhạy cảm trong cô bất giác cảm nhận có một điều gì đó khác thường mà từ bấy lâu cô không mảy may chú ý. “Cám ơn anh Hoàng” - cô gật đầu. “Mệt cứ nói tôi phụ cho. Đừng ráng mà bệnh. Mấy cái hợp đồng thời khó khăn ngày càng rầy rà, đủ thứ điều khoản tính toán được thua, ràng buộc nọ kia nhức cả óc” - Hoàng nói. “Dạ, không sao đâu. Ổn mà anh” - Hạnh nói cho qua chuyện nhưng thực ra thâm tâm cô thấy dễ chịu hơn bởi sự ân cần quan tâm của đồng nghiệp. Trưa. Hoàng mời Hạnh ăn cơm ở quán văn phòng gần công ty. Hạnh nhận lời. Cô muốn cái mẩu tin giật gân rùng rợn sáng nay Khang gửi không còn bám riết ám ảnh tâm trí mình. Cô muốn câu hỏi của Khang sẽ bị vùi xuống dưới những cảm xúc khác trong ngày. Hoàng gọi cơm cá lóc kho tộ. Còn Hạnh, gọi thịt bò xào chua ngọt. Ở một góc quán tương đối riêng tư, họ ăn và nói chuyện công việc. Tháng chạp đang trôi ngoài cửa sổ. 2 Ở công ty, Khang là người trầm tính. Anh ít cởi mở với các đồng nghiệp. Như một công chức mẫn cán, anh đến cơ quan sớm hơn giờ quy định năm phút và đóng máy tính để rời cơ quan lúc mười sáu giờ ba mươi bốn phút, sớm hơn thời gian quy định một phút. Ba năm nay đều như thế. Sự đúng giờ, tuân thủ kỷ luật của anh được bà sếp lấy ra làm biểu dương nhiều lần trong các cuộc họp. Và anh là một chiếc đồng hồ chính xác đến từng giây, để các đồng nghiệp khác trong phòng noi vào đó mà biết chuyện giờ giấc nội quy. Trên bàn làm việc của Khang có một danh sách những đường link giải trí, từ âm nhạc, phim ảnh trực tuyến, diễn đàn xe máy cổ... nhưng anh thường vào nhất vẫn là trang Tâm sự trên VnExpress. Anh cài trang này làm trang chủ. Update liên tục. Vừa ân ái với tôi xong, em “à ơi” với người khác, Bạn gái nói dối vẫn còn trinh trắng, Người yêu đẹp trai lợi dụng tôi trong 5 năm sống thử, Chồng lén cưới thêm vợ khi tôi đang mang bầu, Chồng liên tục quan hệ với các chị nhiều hơn tuổi, Trái tim em đóng băng sau ngày anh ra đi, Em là con mồi tự nguyện... Những bài viết về các bí mật gia đình, yêu đương nhăng nhít đôi khi rất nhảm nhưng nó thành công, ít ra gợi sự tò mò với Khang. Rất ít trong số đó thực sự hữu ích. Nhưng phải thừa nhận là chúng có tính giải trí cao. Chúng đem lại niềm vui thầm kín cho anh như sự lợi hại của kẻ lắm điều đối với người mê hóng chuyện. Mỗi buổi thì anh chỉ đứng lên rời máy tính hai lần để uống nước và để vươn mình, quơ quơ tay cho người đỡ ù lì. 3 Cuộc hôn nhân của họ nói chung là hạnh phúc khi đều đặn hằng tuần, anh chồng vẫn gửi cho cô vợ một đường link hay, thường là các câu chuyện nghệ thuật sống, kỹ năng sống để đạt hạnh phúc. Và đáp lại, chị vợ luôn reply (phản hồi) ngay sau vài phút, rằng: “Hay quá anh yêu. Cám ơn anh. Hôn anh”. 4 Ở phòng thụ tinh nhân tạo, bác sĩ, một phụ nữ cao ráo và có khuôn mặt nhân từ trong sáng như ma sơ hỏi anh có cần đến phim không, anh ngường ngượng đáp: “Dạ để em thử”. Bà bác sĩ đưa một cái lọ rồi kêu anh nằm sẵn lên giường. Đoạn phim của Maria Ozawa kích động mạnh đến mức, chỉ mất ba phút, anh đã gọi bác sĩ lấy mẫu. Vào giờ phút đó, anh ngồi thẫn thờ nghĩ về những con tinh trùng đã được đưa vào ống nghiệm và sẽ cấy vào tử cung vợ. Chúng có khác gì so với những con bị gạt ra khỏi ống nghiệm và chết khô trên chiếc quần sịp như một vệt nhớt đang khô từ từ. Điều gì khiến chúng may mắn được thụ tinh? Có ai dám chắc rằng những con được đưa vào ống nghiệm có phẩm chất tốt hơn những con bị chết khô kia? Hay là chúng đồng dạng cả và chẳng mảy may có tí chút cá nhân nào vượt trội hay kém cỏi và với chúng, để sống hay để chết đều mang tính đại diện, đồng dạng. Bác sĩ lay lay vai anh và đặt vào tay anh một hộp sữa tươi. “Trông anh rất xanh xao và bần thần” - bà quở, rồi chuyển sang liệu pháp tâm lý: “Cố gắng lên. Trong chuyện này vừa lao tâm vừa lao lực. Và nhất là phải kiên nhẫn. Nhiều người vào ra coi hết cả tủ phim của tui mấy năm trời mà vẫn không có kết quả, nhưng họ không bỏ cuộc”. Nhưng anh là người may mắn. Lũ tinh trùng sống sót trong ống nghiệm đã làm một cuộc phiêu lưu thành công. 5 Năm đó, vợ anh có thai. Nhưng lúc ông bố tương lai chưa kịp khóc vì sung sướng thì bác sĩ nói khẽ vào tai anh: “Nếu để như vầy thì có bốn em bé cùng chào đời một lúc”. “Là sao bác sĩ?” - anh lồng lên. “Bình tĩnh. Phải rất bình tĩnh. Vì anh là người quyết định, chứ không phải vợ anh. Nếu anh quá dao động tinh thần, thì sẽ ảnh hưởng đến cô ấy, và tất nhiên, sẽ ảnh hưởng đến cái thai”. Đến đây, người Khang chùng xuống như một quả bóng xì hơi. Giọng chuyển sang khẩn thiết: “Vậy phải làm sao bác sĩ?”. Vừa nói, anh vừa vươn cái nhìn đầy kêu cứu đến bà bác sĩ như một tín đồ tuyệt vọng vươn đôi mắt lên vị bồ tát nhân từ. “Nếu anh đồng ý, chúng ta sẽ phải đi bước tiếp theo, đó là loại bỏ bớt số phôi được thụ tinh thành công trong tử cung người mẹ. Đó là điều nên làm, vì thể trạng chị nhà rất yếu”. Anh nói: “Loại bỏ bằng cách nào?”. Khuôn mặt nửa ma sơ nửa bồ tát cúi xuống anh: “Bắn chết và đưa ra ngoài một cách an toàn”. “Nhưng nó có ảnh hưởng những đứa còn lại không? Và làm sao để vợ không biết chuyện đó?” - Khang bàng hoàng. Và bây giờ, một bí mật được thiết lập trong phi vụ giết phôi trong tử cung người mẹ. “Không. Đảm bảo cô ấy sẽ không hề hay biết gì trong việc loại bớt những đứa trẻ bên trong tử cung mình. Chúng tôi có cách nói để cô ấy vẫn nghĩ rằng, đó chỉ là một quá trình chọc hút kiểm tra độ bám của phôi. Trước giờ, chúng tôi vẫn làm vậy với các cặp vô sinh được thụ tinh nhân tạo không kiểm soát được mức độ thành công”. Giọng bà bác sĩ lạnh lùng. “Vợ anh cũng không phải cá biệt phải chọn lựa - bà nói thêm - Chúng tôi sẽ chọn để lại cái phôi khỏe mạnh. Còn lại thì, nên xử lý trước khi chúng quá lớn. Chúng tôi đã tư vấn hết trách nhiệm, anh cứ suy nghĩ giúp cho, rốt cuộc thì anh muốn để lại bao nhiêu em bé?”. “Dạ, hai” - Khang nói mà không để kéo dài thêm giây phút nào. Vì anh biết, mỗi giây phút để nghĩ về vấn đề này sẽ là một thiên niên kỷ sống trong địa ngục của sự giày vò. Máu. Máu ướt thấm qua quần lót rồi xuyên qua lớp vải đầm bầu, dính sủi lênh láng trên yên xe. Vợ Khang bấu vào vai anh như sắp tuột xuống xe: “Dừng lại anh”. Khang phanh gấp. Hạnh ôm bụng nằm xuống gốc cây ở vỉa hè. Rất nhiều người đi đường hiếu kỳ dừng tấp xe vô lề đưa mắt ngó. Khang hốt hoảng, mặt trắng bệch: “Sao vậy em? Có sao không em?”. Nhân trung Hạnh xanh xám: “Gọi taxi đi anh”. “Động thai rồi. Rất khó để giữ. Tôi đã nói rồi. Phải nằm treo chân lên một thời gian cho ổn đã rồi hãy ra ngoài”. Nữ bác sĩ nói. Khang lau khô nước mắt trên khuôn mặt vợ trước khi cô được chuyển sang phòng hồi sức cấp cứu. Bên ngoài, mưa bụi lấm tấm. Nhiều người đi lại vội vã trong mưa như một đoạn phim tua nhanh trên chiếc màn hình lớn có gam màu xanh lá của khung cửa kiếng bệnh viện. Giờ phút anh chờ một tiếng khóc vỡ ra còn chưa đến. Anh hy vọng đó là ngày hạnh phúc, chấm dứt quãng thời gian sống trong day dứt, rằng, chính mình, chứ không ai khác, đã gián tiếp giết chết hai cái phôi người do chính mình tạo ra. Một vụ án mạng để lại hai nấm mồ trong bụng Hạnh. Anh không thấy ở đó sự cựa quậy của hai sự sống mới sẽ chào đời, mà chỉ thấy sự vùng vẫy tuyệt vọng trong nấm mồ của hai thi thể đang lớn dần lên, chống lại anh, đe dọa anh. Chúng muốn xé toạc lớp da bụng của người mẹ vô tâm để vạch mặt kẻ sát nhân – người cha tàn nhẫn của chúng đang khoác bộ mặt hạnh phúc và dằn vặt. Chúng sẽ gào khóc và nói với anh rằng, tại sao cha không chọn chúng con trong khi chính cha đã tạo ra chúng con. Và anh làm sao giải thích cho chúng hiểu rằng, những gì anh làm là vì chất lượng sống của anh em chúng và sự an nguy của tính mạng mẹ chúng. Chúng sẽ tiếp tục truy vấn anh đến tận cùng, vậy thì cha tạo ra chúng con để làm gì? Không lẽ chỉ là một sơ suất thiếu kiểm soát sau một cuộc kích thích thủ dâm và trao phó mọi thứ cho y học? Anh sẽ ôm đầu, bứt tóc và van xin chúng đừng hỏi cha nữa, cha làm sao có thể trả lời được chuyện này, cũng như không bao giờ trả lời thấu đáo việc những tinh trùng chết khô trên chiếc quần sịp với những con bỏ mạng trên đường tiến đến tử cung. Cha không kiểm soát được vào cuộc sống tự nhiên do chính cha tạo ra. Đó là một cuộc vận động bí ẩn. Nhưng cha đã đồng ý cho họ bắn chết chúng con khi mầm sống chúng con đang được hình thành. Chúng sẽ nói như thế để đẩy anh vào chân tường. Và bây giờ thì anh sẽ khóc. Như một bị cáo đuối lý trước tòa, anh sẽ chỉ biết ngồi chờ bản án. Bản án ấy âm thầm được tuyên qua sự lớn lên của cái nấm mồ trên bụng vợ anh, chúng quấy phá cái cơ thể xanh xao phù thũng nặng nề của cô ta. Nhiều lần vợ anh hỏi vì sao anh khóc. Anh nói, là vì anh không kiềm chế được hạnh phúc. 6 “Cám ơn anh yêu”. Cô gõ. Và nhấn Send. 7 Khang chuyển sang luyện truyện chưởng. Đó là giải pháp để đốt cháy thời gian và xóa đi những ý nghĩ trầm trọng trong đầu. Khang thích các nhân vật chỉ biết hành động và cuộc sống có sẵn các khuôn mẫu giá trị đúng sai cụ thể, vừa tiện cho kẻ tiểu nhân lại vừa đỡ mất thì giờ mệt óc cho bọn quân tử. Vợ thấy chồng rảnh rỗi, suốt ngày ôm sách luyện chưởng, đã ném chuyện bài vở của hai đứa nhỏ cho Khang. Đó, anh lo cho tụi nó học luôn đi. Tụi nó theo anh chứ đâu có theo em. Cứ như cái nhà này là thế giới của ba thằng đàn ông, không có phụ nữ cũng chẳng sao. Này nhé, thử mà coi, vắng anh cái là nhao nhao cả lên. Đúng là cha nào con đó. Khanh biết vợ mắng yêu và mục đích cuối cùng là đùn đẩy phần trách nhiệm cho mình. Anh cười ngờ nghệch như Quách Tĩnh. Thôi được. Nhưng tụi nó ngủ, em phải để cho anh được yên. Anh cần có thế giới của anh. Khanh giao kèo. OK. Thì anh muốn làm gì cứ làm. Vợ anh nói dỗi. Trong khi đó, hai đứa con trai ngồi vào bàn, đánh nhau khóc chí chóe. Vậy đó. Bọn nó cùng sống sót trong cuộc chọn lọc sinh tồn để cùng bước vào đời sống này. Vậy mà hở chút là giành giật, gây gổ, đánh đấm nhau suốt. Cái nhà từ hồi có hai đứa nó, chẳng bao giờ được yên. Khanh sẽ gấp cuốn Anh hùng xạ điêu lại. Ngồi vào bàn với chúng. Và làm trọng tài cho màn tranh luận có nguy cơ dẫn tới cuộc đụng độ xô xát u đầu mẻ trán. Một đứa nói chúng ta được loài cá khổng lồ đẻ ra, còn đứa kia nhất quyết không chịu, bảo không, chúng ta được đẻ ra từ siêu nhân. Khanh đóng vai nhà khoa học tiến hóa. Anh phân xử công bằng để hai đứa yên tâm đi vào nội dung bài tập chữ cái: các con đều đúng và cũng đều sai. Các con được sinh ra từ loài cá – siêu - nhân. Một khái niệm mới khiến bọn trẻ há hốc mồm chờ diễn giải. Và bất ngờ, Khang hiện thực hóa rất trực quan sinh động: loài cá siêu nhân đó, ở đây nè các con: anh mở điện thoại và tìm cái hình chụp bụng bầu của vợ. Đó, hai đứa thấy chưa. Cái bụng con cá siêu nhân đây. Thiệt là dữ dằn. Bây giờ thì học bài. Viết đi, a, chữ a có là cái bụng tròn mọc ra cái tay vẫy vẫy. Đó, đúng rồi. 8 Mọi chuyện sẽ chẳng có gì trầm trọng lắm nếu đúng cái ngày đó, Khang không vào quán cơm văn phòng gần cơ quan Hạnh. Khang nhìn thấy Hoàng gắp thức ăn cho Hạnh. Họ nói chuyện cởi mở và thân thiết. Hạnh vẫn vậy, cô có thói quen khi nói chuyện thì miệng liền tay, tay liền chân, đôi khi cô như thể không kìm được cái cảm xúc biểu đạt quá trớn. Lần này thì cô vỗ vai Hoàng, đá chân Hoàng và cầm muỗng nĩa gí vào mặt Hoàng. Khang đứng như trời trồng một lúc. Rồi ngồi vào góc quán, gọi cơm. Khang lấy điện thoại trong túi quần, nhí nhoáy nhắn tin rủ Huyền, cô đồng nghiệp vừa ly dị chồng đi ăn. Năm phút sau, Huyền đến. Anh chủ động ngồi sát Huyền cố tình để cho vợ mình ngó thấy. Ban đầu Huyền thẹn thùng, có chút e dè. Càng về sau, cô càng tự nhiên để cho Khang tiến đến sát mình. Họ ngồi trên cùng một chiếc ghế sofa và gắp cơm, rau, múc canh cho nhau. 9 Họ không nói với nhau về bữa cơm mà họ bắt gặp chồng, vợ mình đang ngồi cùng đồng nghiệp. Họ nhã nhặn chào nhau khi bắt gặp. Hoàng bắt tay Khang. Còn Huyền bắt tay Hạnh. Tất cả đều tỏ ra vui vẻ và thoải mái. Nếu có gặp chuyện đó hàng chục lần nữa trong đời, người này biết rằng người kia sẽ không phản ứng gì thái quá. Và cả hai cũng biết rằng, mình sẽ chẳng đủ xốc nổi để làm gì thái quá. Trong email, Khang cắt dán bản tin về vụ án người vợ giết chồng thật man rợ. “Cám ơn anh yêu” - Hạnh quyết định trả lời vắn gọn như thế và không đi vào nội dung câu hỏi trên subject - “Một ngày nào đó liệu em có làm thế với anh không?”. Cho nó nhẹ lòng. Nhà có giàn bông giấy PNCN - 1. Gã cứ ngồi miết ở cái quán cà phê ấy, ba ngày nay. Ngồi từ sáu giờ sáng đến sáu giờ chiều, và chỉ ngồi đúng một chỗ, ở cái bàn bên trong cửa sổ nhìn ra. Cô chủ quán bữa đầu không để ý. Từ hồi mở quán tới giờ, cô chứng kiến nhiều chuyện lạ đời lắm, nên gã không phải trường hợp ngoại lệ. Nhưng sang đến ngày thứ ba thì buộc lòng cô phải quan tâm tới gã. Một, vì gã là khách mới. Hai là vì thái độ lạ lùng của gã khiến mấy em tiếp viên cứ thậm thụt bình phẩm sau lưng. Bao giờ vô quán, gã cũng kêu một ly cà phê đen, gói thuốc con mèo. Hôm nào gã cũng để lại cái bao rỗng trên mặt bàn, nhưng nếu chú ý thì thấy gã không hút nhiều đến thế. Gã thỉnh thoảng lại đốt thuốc, kéo một hơi dài rồi… vứt ra ngoài cửa sổ. Cứ thế, gã ngồi ngóng ra đường, chính xác là ngó qua nhà đối diện. Ngôi nhà gạch, xây kiểu đơn sơ như những căn nhà cấp 4 thường thấy, ẩn hiện sau giàn bông giấy điểm xuyết những chùm bông trắng tím trông mộc mạc, vui mắt. Ngôi nhà luôn khép cổng. Buổi sáng, tầm sáu giờ rưỡi, có hai người mở cổng, đi ra ngoài một lượt. Người phụ nữ khoảng gần bốn mươi tuổi, ăn mặc đẹp nhưng giản dị, đi chiếc xe gắn máy cũ màu xanh. Cô gái nhỏ khoảng mười lăm mười sáu tuổi, đi chiếc xe đạp màu hồng. Chừng mười giờ rưỡi thì người phụ nữ trở về. Sau đó, lối mười một giờ rưỡi, khi cô gái nhỏ đi học về, cánh cổng ấy mở ra lần nữa. Thỉnh thoảng, nghe vọng từ trong nhà ra một tràng cười giòn tan của cô gái. Sáu giờ chiều, đèn trong nhà bật sáng, cũng là lúc cánh cửa bên trong khép hẳn lại. Suốt ba ngày, nhìn cảnh trật tự im ắng của căn nhà, gã thở dài. Hôm nay là ngày thứ tư. Cô chủ quán cũng thở hắt ra trước cái kiểu ngồi đồng và cái kiểu thở dài của gã. Chắc chắn là ông khách này có vấn đề. Nhưng thực tế là gã đang để hết tâm trí theo dõi chủ nhân của ngôi nhà đó. Thứ mà gã mong nhìn thấy là một người đàn ông tự tay khép mở cánh cổng ngõ sáng chiều kia. Gã mong nhìn thấy cái cảnh chồng trước vợ sau trên một chiếc xe, có thêm đứa nhỏ lăng xăng cười nói, chứ không phải cái cảnh tượng tuy êm đềm nhưng lại có vẻ nhạt nhẽo như vậy. Cô chủ quán hết dằn được cơn tò mò. Trưa nay, quán vắng khách, cô mang thêm cho gã ly cà phê đá “khuyến mãi”, làm quen. Sau những câu chào hỏi xã giao có tính chất thăm dò chất lượng phục vụ, cô chủ quán vào đề: - Hình như anh không phải người ở đây? - Sao cô biết? - Người ở đây ít ai ngồi quán kiểu như anh. Buồn, họ đi nhậu. - Nói vậy là ý gì? Tôi buồn vui thây kệ tôi. Hay là không muốn cho ngồi nữa, tôi đi kiếm quán khác? Cô chủ quán vội vàng cải chính: - Dạ… dạ… em xin lỗi anh! Tại em thấy anh buồn nên mới hỏi thăm chút thôi mà! Nét mặt gã bỗng sưng lên. Dường như có cái ngấn nước đọng trong hốc mắt, chưa kịp rớt đã khô. . Buổi sáng một ngày cuối thu, bất thần gã gặp lại người xưa ở quán cà phê Thềm Xưa. Vẫn mắt sáng môi tươi, như ngày nào từng làm khối người ngơ ngẩn. Vẫn phong cách cực kỳ lịch thiệp, tưởng không còn ai có thể lịch thiệp hơn. Nàng ngồi một mình ở quán cà phê thuộc hàng sang trọng ấm cúng nhất nhì cái tỉnh lỵ be bé này. Nàng vẫn còn thói quen ngồi bên cửa sổ. Áo len mỏng màu kem sữa. Cặp kính trắng. Tóc thẳng và đen búi trễ tràng hờ hững sau gáy. Trong hơi sương nhè nhẹ của buổi sớm mai, trông góc bàn có nàng ngồi tựa như một bức tranh lụa. Gã tưởng như mình ngạt thở khi trông thấy nàng trong khung cảnh đó. Phong thái ung dung, nàng khuấy nhẹ chiếc muỗng nhỏ vào tách cà phê. Trông cái dáng vẻ ấy, ắt hẳn nàng không phải chờ đợi ai. Gã không dám đến gần, sợ mình nhầm. Gã quên rằng nàng đang ngồi bên cửa sổ, và đã nhìn thấy gã từ khi gã cho chiếc xe đen trũi của mình trườn vào sân. Chắc chắn là nàng. Nhưng xem ra gương mặt của nàng vẫn cứ lặng như nước hồ thu. Gã đành thân chinh qua chào hỏi. Gương mặt “hồ thu” thoáng lay động khi gã đến bên cạnh, nhưng cũng chỉ lay động một chút rồi thôi. Câu chuyện của cố nhân tưởng sẽ mặn mà nhưng chết nỗi cứ nhàn nhạt như nước trà châm thêm, chẳng có chút gì ấn tượng! Dường như, nàng đang né tránh gã… Gã bỗng thấy mình vô duyên tợn. Tuy nhiên, chỉ trong mươi phút, gã đã biết được một số thông tin quan trọng về nàng. Rằng nàng đã có chồng, có con. Chồng nàng là một ngươi tử tế, biết lo cho vợ cho con. Nàng vẫn đi dạy, về nhà dịch thêm sách báo, cuộc sống nói chung khá tốt. Có nghĩa, từ lâu nàng đã loại gã ra khỏi những suy nghĩ, tình cảm riêng tư rồi! Cũng đã mười lăm năm không gặp rồi mà! Vậy mà, người ta đã từng yêu nhau đến ba năm mười một tháng hai mươi ngày cơ đấy! Nhưng xét cho cùng, gã trách nàng cũng phải. Gã cũng cố sống cố chết kiếm tiền để mong xây cho nàng cái tổ ấm nho nhỏ rồi rước nàng về chung sống, chứ không ư? Nhưng ở cái tỉnh lẻ này, đồng lương giáo viên ngoại ngữ của nàng cùng với thu nhập của một phóng viên tàng tàng như gã, giỏi lắm là đủ sống qua ngày chứ trông chi khá hơn ai. Đồng tiền có ma lực lớn hơn nàng tưởng, hơn gã tưởng. Không biết từ bao giờ, gã uốn cong ngòi bút của mình để kiếm tiền. Ai thuê viết gì, gã cũng nghe. Nàng nhiều lần nhắc gã: “Đừng làm vậy. Em rất cần tiền nhưng không muốn thấy anh sống khác với mình!”. Gã chỉ cười nhạt. Đùng một phát, một trong những đại gia thường ưu ái dành “tình cảm” và bổng lộc cho gã ra tòa với tội “lợi dụng tín nhiệm…” rút ruột công trình. Đại gia thuộc loại có số má, gã không khỏi liên lụy, bị kêu án 10 năm tù. Nhận nhiều trả nhiều, chuyện thường tình, nhưng đáng buồn là nàng, gã chỉ ngó thấy mặt nàng lần cuối cùng lúc ở tòa, sau đó mất dạng! Bà chị gã than vãn, tiếc vì vuột mất cô em dâu hiền dịu, xinh đẹp và… hợp với bà! Bà trách, người trông phúc hậu mà không tình nghĩa gì ráo. Còn gã, tự an ủi: thôi, coi như không làm hỏng đời người khác! Được đặc xá trước thời hạn, trở về nhà, gã bỏ luôn nghề viết, chuyển sang kinh doanh. Thứ gì buôn bán được gã buôn tất, từ quần áo sida đến cò nhà đất. Sẵn có những mối quan hệ khá tốt trước đây cộng với đầu óc của một phóng viên kinh tế, gã vực mình dậy không khó lắm. Gã chỉ băn khoăn một điều: trong thời gian gã ở tù, không biết có người nào đó đã thường xuyên lên thăm gã mỗi tháng một lần, nhưng chỉ gửi quà, gửi chút ít tiền tiêu vặt thôi. Tiền không nói, nhưng quà thì toàn thứ gã thích. Không ai nói cho gã biết người đó là ai. 3. Cuối cùng thì gã cũng tìm được ngôi nhà của “người ơn”. Cái nhà có giàn bông giấy trắng tím đơn giản đến nao lòng người đó. Ngay ngày đầu tiên đến, tự nhiên gã muốn ngồi quán cà phê, cốt để lấy tinh thần trước khi vào gặp chủ nhân. Thế rồi, gã giật mình khi nhận ra, người phụ nữ vừa khép cổng rào kia chính là… nàng! Gã không biết người đưa tin có cung cấp nhầm địa chỉ không, nên phải hỏi lại cho chắc ăn. Vì, phải rất khó khăn gã mới tìm được câu trả lời cho thắc mắc từng ấy thời gian chưa được giải tỏa. Cô chủ quán lắm lời, sau khi cạy họng gã lấy mấy lời tỉ tê hỏi han về căn nhà trước mặt, đã sốt sắng kể bằng giọng hào hứng đặc trưng của người buôn chuyện: cái nhà đó mới cất cách đây hai năm mấy. Cô chủ nhà là cô giáo dạy trường cấp II gần nhà đây… Hình như cổ chỉ dạy buổi sáng. Ở một mình nên cổ nhận một đứa cháu kêu bằng dì ruột về nuôi, hai dì cháu hủ hỉ cho vui… Nhà đó tử tế lắm, ở không mích lòng ai hết. Ờ, mà anh quen sao với cô giáo? Hay là anh tới luôn đó hỏi thăm chớ hỏi vòng vòng làm chi? Gã bỗng nổi điên với chính mình! Ừ, mà sao gã có thể ngốc tới như vậy chứ? Ngày xưa, nàng vẫn thích chơi trò ú tim với gã, vẫn thích làm cho người khác bất ngờ, mà sao có thể chứa đựng những suy nghĩ không hay, những toan tính không vui về nàng, để nuôi mộng tưởng về một bóng hình ở đâu, xa vời vợi… Gã chớp mắt, kêu tính tiền cà phê. Gã móc trong túi ra một tờ bạc, đưa mà không chờ thối lại. Đi. Gã phải đi liền, sợ không còn kịp. Chỉ có một đoạn đường vậy thôi mà đã mất mười mấy năm dư… Chiếc mũ rơm PNCN - Một ngày giữa thu, tiếng trống cắc tùng múa lân ngoài sân đình làng Hạ theo gió lan vui khắp xóm. Trong căn nhà tranh tuềnh toàng, cậu bé Năm một mình nằm trên chiếc chõng tre, mải mê ngó nghiêng cây đèn kéo quân ngộ nghĩnh treo trước mặt. Bên ngoài, mặt trời vừa nhô khỏi ngọn tre, mẹ Năm đã bỏ việc đồng áng, quần ống xăn, ống xả chạy vội về nhà, kéo con vào lòng khóc mếu máo: “Con ơi, cha con mất rồi!”. Cái tin đó không hề làm Năm mảy may xúc động, bởi người cha trong cậu có đâu mà sống với chết! Vết thương lòng đã xảy ra với Năm lúc tập tễnh cắp sách đến trường. Nhìn tụi bạn được cha cồng kềnh, xoa đầu mỗi khi được điểm giỏi mà Năm khát khao cháy cả lòng. Khát khao đó đã thúc giục Năm bạo dạn về nhà hỏi mẹ cha đâu thì lại bị mẹ cho một cái tát nổ đom đóm. Cái bạt tai đó khiến nỗi hoài nghi về người cha trong Năm càng mãnh liệt. Một hôm, đang ngồi mơ màng trong lớp thì cô giáo làng, cũng là thím của Năm, dịu dàng tới bảo: “Con có muốn gặp mặt cha không?”. Ngỡ bà tiên hiện ra trước mặt, mắt Năm rơm rớm… Cô giáo lau nước mắt cho Năm rồi nói: “Thím nghe cha con mới du học về. Hiện đang ở nhà bà nội. Chắc vài ngày nữa ông sẽ ra với vợ con ở ngoài Trung. Thím cho con nghỉ buổi học để về gặp cha nghen!”. Năm lao vút ra khỏi lớp mà quên cả cặp. Cậu chạy tới khu vườn lớn nhất làng, có cánh cổng thường ngày đóng im ỉm. Đó là nhà của bà nội mình, Năm nghe người ta nói thế. Đi hết con ngõ chè tàu sâu hun hút, qua một cái sân gạch rộng, Năm chen vào giữa đám đông đang kiễng chân nhìn vào bên trong nhà qua khung cửa sổ. Thì ra mọi người đang chăm chú nhìn những món đồ chơi tân kỳ chạy bằng pin trên bộ ngựa gõ, do một người đàn ông lạ, trắng trẻo trong bộ đồ sang trọng điều khiển. Tất cả họ trầm trồ với ánh mắt thèm thuồng. Bỗng một nông dân phát hiện ra Năm, anh ta liền kéo Năm vào đứng trước mặt người đàn ông lạ đó, rồi nói: “Cha mi đây, chào cha đi” và quay qua nói với người ấy: “Hắn là con của cậu đó, cho hắn con khỉ này nghen”. Vừa nói, anh ta vừa ấn món đồ chơi vào tay Năm. Năm ôm con khỉ biết đánh trống vào lòng mà quá ngỡ ngàng. Nhưng, người đàn ông trắng trẻo đã gỡ tay Năm ra khỏi món đồ chơi, và nói: “Không được, tất cả đã có chủ. Con khỉ này của thằng Ba”! Nói rồi ông ta móc ví lấy một tờ giấy bạc, lạnh lùng nhét vội vào túi áo Năm mà không hề nhìn mặt, không hề hỏi han nửa lời. Tủi phận, Năm tách khỏi đám đông chạy thục mạng về nhà lăn đùng ra khóc. Tối về, biết chuyện Năm tùy tiện đi gặp cha, mẹ liền “an ủi” bằng một trận đòn thừa sống thiếu chết. Đánh con xong, mẹ nó ôm mặt khóc nức. Kể từ đó, nỗi hoài mong về người cha trong Năm lịm tắt. Cậu ngạc nhiên là vì sao người lớn lại khó hiểu đến vậy? Khi cha còn sống, mẹ thù hằn. Ai hỏi tới thì giận dữ như bị chọc vào vết thương đang mưng mủ. Vậy mà nay ông mất, mẹ lại đau khổ. Mẹ Năm nước mắt ràn rụa bảo con: “Mau đứng dậy, theo mẹ ra ngoài làng thắp cho ba nén nhang đi con…”. Đám tang cha Năm được quàn tại nhà tang lễ ở rìa làng, nơi lệ làng dành cho những người không may bị chết đột ngột giữa đường hoặc bị bệnh truyền nhiễm từ nơi khác đưa về. Nhìn xe cộ để bên ngoài và các điếu phẩm bày la liệt từ trong nhà tang lễ ra tận ngoài sân, thì đây là cái đám tang to nhất làng từ trước tới nay. Trong nhà tang lễ, bên chiếc quan tài được trang trí khá cầu kỳ, vợ của người quá cố tuổi ngoài 30, áo tang khăn sô đứng buồn ủ rũ. Phía sau lưng chị ta là cậu con trai tuổi độ lên bảy, tám, là anh cả của mấy đứa em đang đứng, ngồi lít nhít hơn nhau nửa cái đầu. Bỗng tiếng râm ran trò chuyện, tiếng kèn trống và cả tiếng khóc trong nhà quàn trở nên yên ắng. Tất cả họ đang để mắt tới một phụ nữ dáng lam lũ, đầu choàng chiếc khăn nâu vụng về cố giấu hai mắt đỏ hoe, lộ khuôn mặt rám nắng vẫn còn lưu nét một thời xuân sắc. Tay chị cầm một bó nhang, tay kia dắt cậu bé chừng 10 tuổi, đen đúa, tóc vàng hoe. Hai mẹ con họ thẳng bước từ ngoài cổng vào nhà tang lễ. Một người làng bên tới phúng điếu, thấy lạ hỏi cụ già ngồi bên cạnh: “Chị ta là ai vậy thưa cụ?”. Được thể, cụ già “tuôn” một mạch: “Con nớ thì người trong làng ni ai cũng biết. Đời hắn khổ ải lắm. Lấy chồng lúc chưa đủ tuổi làm giấy kết hôn. Hơn 10 năm làm dâu đầu tắt mặt tối, đến nỗi cha mẹ ruột ở ngay trong làng đau ốm mà bà mẹ chồng cũng không cho về thăm. Trong khi hắn làm lụng vất vả, thì thằng chồng lên tỉnh ăn học, đỗ đạt xong là lấy vợ khác liền và ở trên nớ luôn. Đáng trách là chính bà mẹ chồng đứng ra cưới vợ hai cho con trai mà lại giấu biệt người con dâu đang ở với mình đến tận mười năm trời!”. Nghỉ một chút để lấy hơi, cụ già lại nói tiếp: “Giỏi thiệt! Mụ làm rứa là để bòn sức lao động của chị này. Nghiệt ngã hơn là dù thằng chồng có vợ mới nhưng thỉnh thoảng vẫn về “ăn cơm nguội”. Ngày nọ, chị ta khấp khởi khoe với mẹ chồng là mình đã có bầu. Ai ngờ cả mẹ chồng lẫn chồng lại vu oan cho chị ta chửa hoang rồi đuổi ra khỏi nhà. Không giấy kết hôn, chị ta đành ngậm nỗi đắng cay về nhà cha mẹ ruột sinh nở”. Lúc này, người phụ nữ ấy đã dẫn cậu con trai đến đứng trước mặt một bà cụ dáng dấp sang trọng, vẻ mặt buồn xo, đang ngồi trên chiếc ghế mây đặt chếch bên trái quan tài. Chị ta quỳ xuống mà rằng: “Thưa mẹ, người ta nói một ngày cũng nên tình nên nghĩa, huống chi con có hơn mười năm làm dâu mẹ. Phận con mỏng nên bị gãy gánh giữa đường, tuy nhiên cũng sinh cho mẹ được một đứa cháu. Nay con đến xin mẹ cho cháu thắp một nén nhang dâng cha nó để tỏ lòng máu mủ. Dạ thưa, đây là lần thứ hai trong đời cháu được đứng cạnh cha mình đó mẹ!”. Bà cụ đưa mắt nhìn thằng bé, cũng là lần đầu tiên bà để tâm tới đứa cháu vô thừa nhận này. Khuôn mặt nó hoang dại, thiếu sự chăm bẵm nhưng đường nét sáng sủa, rõ là dòng giống nhà này không lẫn vào đâu được. Rồi đưa mắt nhìn vào chiếc mũ rơm và chiếc gậy tre đang để trên chiếc khay đặt bên trái bàn hương con mình. Bà lại nhìn cậu bé con của người dâu thứ hai đang đứng bên linh cữu cha ra chiều đăm chiêu suy nghĩ… Chiếc mũ rơm đang để trên chiếc khay ấy, với người ngoài thì không ai để tâm, nhưng với người trong cuộc thì nó lại là một vật chứng khẳng định đứa cháu nào là đích tôn trong gia tộc bề thế, giàu có này. Đồng nghĩa người mẹ của nó cũng có một vị trí tương xứng trong dòng tộc. Quả là khó cho sự lựa chọn của bà, bởi cái nghịch cảnh chính do mình tạo nên. Thật ra, lúc tang gia cử hành lễ thọ tang, bà (tức là bà nội mấy cháu) đã toan đội chiếc mũ rơm ấy lên đầu cậu con trai người vợ thứ hai của con mình. Nhưng đã bị ông trưởng tộc nhà chồng ngăn lại. Bà giận dữ nói ông không được can thiệp sâu vào gia đình mình, thì ông nhẹ nhàng nói: “Họ mạc là căn cứ vào huyết thống, xưa nay chúng tôi chỉ biết thuận theo lẽ trời, đứa sinh trước là anh là ả, đó là đạo lý chứ không lý lẽ, giấy tờ gì sất. Chị không công nhận thằng Năm nhưng chúng tôi thì có, lẽ nào chúng tôi lại quên cái ngày đám cưới của cha mẹ nó. Khi đó chị có mời bà con họ mạc tới ăn trầu kia mà”. Mấy lời cuối, ông gằn từng tiếng một: “Nếu chị làm khác đi thì e không có ai gánh đám đâu nhé”. Lời cảnh báo của ông tộc trưởng xem ra hiệu nghiệm. Sau một hồi đắn đo, bà cụ bảo con trai thứ: “Cho cháu thọ tang cha nó đi con, nó là đích tôn nhà này đó”. Quyết định đó đã làm người vợ thứ hai chết lặng người, muốn gào lên nhưng chợt nghĩ làm như vậy sẽ tệ hại hơn. Cố nuốt nỗi bực tức vào lòng, chị ta hậm hực đứng nhìn Năm được dẫn tới trước linh cữu cha để người chú mặc áo tang và đội mũ rơm lên đầu. Theo hướng dẫn của người chú, Năm quỳ xuống dâng hương bái lạy cha mình trong tiếng nhạc tế nhất tề xướng lên. Tiếng kèn, tiếng nhị nghe não nề, cộng với cái cảm giác di ảnh người chết cứ “trìu mến” nhìn trân trân vào mình, Năm bỗng khóc rống lên. Lúc này, tiếng nhạc điếu “khấp phụ” nghe ai oán, hòa cùng tiếng con trẻ khóc cha càng khiến người chứng kiến không thể nào cầm được nước mắt. Mẹ Năm quá bất ngờ về hành động của con mình, chị không ngờ tâm hồn trẻ con dễ rung động đến vậy. Quan sát con, chị lại phát hiện thêm cái bất ngờ nữa. Đó là khi nhìn xuống chân con, cậu ta… đã tè ra một vũng! May là cái quần tang khá rộng nên không ai nhận ra, chị nhanh trí đánh rơi chiếc khăn đội đầu xuống vũng “nước” ấy, rồi giẫm lên tìm cách lau sạch. Lo lắng, chị ghé sát tai con hỏi: “Sao vậy con?”. Và chưng hửng khi nghe Năm trả lời: “Mẹ ơi, con sợ… ma lắm!”. Đến lượt mẹ Năm thắp nhang cho chồng, cố giữ cho đôi mắt ráo hoảnh, cũng không chít khăn tang, chỉ vái lạy chồng bình thường như bao người phúng điếu khác. Hành lễ xong, chị quay sang thưa với mẹ chồng: “Con xin lạy sống mẹ một lạy, cũng là cái lạy sau cùng nếu mai này mẹ có “quy tiên” con xin phép không có mặt”. Không đợi bà cụ phản ứng, chị liền quỳ xuống thực hiện lời nói mình. Với chị thì giờ đây lòng như gió đã đổi chiều - một chút lửa tình với chồng bấy lâu lưu giữ trong tim nay đã tắt, thì còn màng chi một ngôi thứ cho con, nơi mà tình thương không là nền tảng. Nhẹ nhàng cởi chiếc mũ rơm trên đầu con mình ra, đem đội vào đầu cậu con trai của người vợ thứ hai. Hôn lên trán cháu ấy một cái, xong chị cáo biệt tất cả tang gia và dẫn con ra về trước sự ngỡ ngàng của dân làng. Bữa cơm với bà Đanh PNCN - Bà Đanh đi ngang xóm. Cái đội tóc bà dài quá lưng. Những dề tóc dính bết nhau, như bị ai đó lấy kẹo cao su hay nhựa cây kết chúng lại. Không còn hình dáng những sợi tóc. Cả mái đầu như một đám rễ lục bình kẹo nẹo, xơ cứng. - Tóc vậy sao mà chải được hả nội? - Không chải được. Hèn gì rối một nùi. Trên đó mấy cọng rác, mấy lá tre, cả cái xác một con kiến cánh. Tôi có cảm giác nếu có hột càng cua rớt xuống đó, gặp lúc ẩm ỉ, nó cũng sẽ lên cây, thậm chí rất tươi tốt. Bà đội trên đầu đống rác đó đã mấy mươi năm. Tôi rùng mình. Bất giác tôi đưa tay lên vuốt tóc mình. Cứ sợ sau cơn bàng hoàng đó tóc đang dài ra rồi đanh lại… Mấy bữa bệnh, ba ngày không gội đầu, tôi đã gãi tứa máu. Bà Đanh vẫn coi như trên đầu mình không có gì. Bà đi đâu cũng làm mọi người xúm nhìn. Họ càng nhìn càng lắc đầu, không thể hiểu nổi sao mà sống được với bộ dạng như vậy. Bà Đanh lại tự hào với những gì mình đang có. Bà muốn ai cũng phải để mắt tới mình, chú ý mình nên bà làm toàn những chuyện gây náo động. Bà có một cái túi vải. Chắc lượm ở đâu đó. Nhìn tưởng nó được may bằng đất. Đó là gia tài duy nhất của bà. Trong đó có cái gì người ta không biết vì không ai dám động tay mở coi. Một bữa chắc vì mục quá nó sút đáy. Những cái bọc ni long nát bấy tuôn ra. Một miểng sành. Một nùi lưới. Nửa cái nón vải. Còn thua rác. Bà lại quý cái túi lắm. Nhưng mà kiểu quý cũng khác người. Thay vì ôm nó trong mình, bà buộc sợi dây, kéo dài theo đường. Phía sau cái túi, bà nối thêm cái nón lá rách. Bà khệnh khạng đằng trước. Đoàn lòng thòng đó bị lôi tuồn tuột phía sau. Cái âm thanh sàn sạt của nón lá, của túi vải lết trên đường làm mọi người ngoảnh nhìn. Ai cũng nhăn mặt. Bà nổi tiếng nhất xứ. Đi dài theo con đường liên xã này, có khi nhiều khúc đường dài khác nữa, nếu hỏi “biết bà khùng Đanh không” chắc chắn sẽ nhận được câu trả lời “Ớn’’. Nếu đứa nào ở dơ mẹ sẽ rầy “mày bầy hầy như bà Đanh”. Nhiều người thấy bà đi ngang kêu cho tiền, cho cơm ăn, cười với bà, chọc ghẹo cho bà nói câu gì đó. Ai cho gì bà cũng ăn. Bà sợ đói, ham sống. Tôi tự nghĩ, nếu tôi phải là bà dù chỉ một ngày, tôi sẽ nhịn đói mà chết. Sống làm chi cực thân mà cũng không đem lại lợi lộc gì cho cuộc sống. Thà làm con kiến, con sâu còn nghĩa lý hơn. Bữa nào đang ăn cơm, bà đi ngang tôi ăn không vô. Chỉ cầu mong bà đi qua khỏi nhà tôi càng mau càng tốt. Nhưng, nội tôi lại kêu bà vào nhà. Nội lấy cho bà cái chén đôi đũa. Tôi bưng chén cơm đi qua nhà chú Bảy kế bên ngồi ăn. Bụng rất tức nội. Nội không để ý thái độ tôi. Nội ngồi ăn với bà Đanh như ngồi ăn với tôi. Chỉ khác là tôi cầm đũa còn bà Đanh thì xài năm ngón. Bà bốc từng nắm cơm nhét vô miệng. Cơm rớt như rải mạ. Nội lượm cơm để vô chén cho bà. Được cái bà không bốc lung tung qua chén nội. Tôi để ý thấy bà ăn cái chén nào, xong, lấy cái bọc trùm tay cầm cái chén đem ra hè quăng vô bụi tre. Đi một đỗi, tôi còn quay lại kiếm cục đá đập bể chén. Nội tôi tiếc của lắm. Nếu ra đây gặp nó còn nguyên thế nào nội cũng lượm đem về xài. Biểu tôi ăn với cái chén này thà tôi nhịn đói. Nội gặp tôi lúc tôi từ ngoài hè vô. - Con ghê bà lắm hả? - Chớ bà dơ dáy quá. Mà sao bà Đanh không cắt tóc bỏ cho khỏe. Để chi lùm xùm như đống rác. Ruồi nhặng, ghẻ chóc. Để vậy hoài mang bệnh chết cho coi. - Nhưng bà ấy có chết đâu. Nội nghe nói tóc mấy người đanh không cắt được. Cắt, sẽ sinh bệnh. Là nghe nói vậy thôi chớ thực giả ra sao cũng không ai biết rõ. Không ai dám thử cắt bỏ giùm họ vì sợ làm họ đau. Họ đâu có biết gì. Họ chỉ biết sống, tìm cái gì ăn để sống. Thấy tội lắm. - Nhìn kinh khiếp quá. Đâu phải một ngày một bữa. Đội trên đầu vậy ngày này qua ngày khác. Nó theo họ tới già luôn. Họ lại không ở yên một chỗ, lang thang khắp xứ. - Để mọi người đều nhìn thấy bà, để mọi người quý những gì mình đang có. Để con quý cái tóc cái tai cái mắt mũi bình thường của mình… Người, có ai muốn mình ngu đần khùng khịu đâu. Những kiếp sống đó giống như trời ban. Tội lắm. - Con cũng đâu có ghét bà đâu. Nhưng đáng lẽ nội cho bà mớ cơm rồi để bà đi chỗ khác ăn. Không có mình bà vẫn ăn ngon lành được mà. Con thấy có bữa bà để bọc cơm trong giỏ, kéo dưới đất. Tới khi giở ra, cơm ám bụi đen rụi bà vẫn ăn tỉnh bơ có sao đâu. - Nội sợ đưa cơm cho bà, bà lại đổ nó vô cái giỏ rồi kéo đi như con nói. Để bà ăn kiểu vậy tội chết. - Nhưng mà con không thích ăn với một người dơ như vậy. - Hồi đó nội bằng con còn kén ăn hơn con. Rồi năm nội 11 tuổi, giặc giã tràn vô xóm. Người chết nằm sắp lớp. Nội thất lạc người thân. Tụi giặc đảo tới đảo lui kiếm người giết. Nội phải trốn. Lúc đói quá nội lượm được cái gì ăn cái đó. Có khi là những trái xoài non, những chùm me nước rụng, hột đổ lào thào dính đầy đất. Nhưng mấy thứ đó càng ăn càng xót ruột. Nội gặp một nải chuối chín. Nó nằm bên một thây ma. Không đúng. Là người chết đè một bên nó. Có lẽ ông ta đang cầm nó thì bị giết. Xác người sình ương, mùi hôi thúi xộc lên muốn ngột. Nội đã bỏ chạy. Nhưng cuối cùng nội vẫn phải bò trở lại. Nước vàng từ thây người chảy lên trái chuối. Đã lột bỏ lớp vỏ vẫn còn mùi, giống như mùi thấm vô ruột… Tôi thấy tay chân mình như đang rụng. Nội sống tới ngày nay đã trải qua nhiều biến cố. Hèn gì một hột tấm rớt nội cũng lượm. Chút nước mắm dính ngón tay nội cũng đưa lên miệng. Có nhiều lần cơm nguội bị thiu nhớt lầy nội cũng vo lại, hấp nóng rồi ăn. Tôi ăn không nổi. Nội không ép tôi nhưng chính bà thì không bỏ bất cứ món ăn nào. Dù những món đó do sơ ý của tôi đã lỡ bị mèo chó liếm qua, ruồi nhặng địch tửa... Tôi đi ra hè lượm lại từng miểng vụn của cái chén. Từng mảnh vỡ nằm gọn trong tay tôi. Lúc này bà Đanh hiện ra trong đầu tôi rõ ràng nhất. Mái tóc với những chùm dài xơ cứng, một gương mặt vô tư… Bà thật hiền, thật tội nghiệp. Tôi rất muốn làm gì đó giúp đỡ bà. Nếu bà trở lại, tôi có thể ngồi ăn cơm chung với bà một cách ngon lành như nội được không? Hình như không thể. Gớm ghiếc người khác là bệnh của những đứa trẻ như tôi. Nó đâu từng phải ăn những trái chuối có tẩm mùi xác chết. Tôi lớn lên, lăn lộn khá nhiều. Đói khát cũng có. Dù chưa phải ăn chuối tẩm mùi xác chết nhưng cũng không ít bữa ăn với mùi ôi thối của phân súc vật, của không khí bị ô nhiễm. Càng ăn những bữa cơm như thế tôi lại càng sợ phải chung chén chung mâm với những người quá lôi thôi, hôi hám. Nào có phải mình là người sạch sẽ gì. Một bữa tôi nghe ông già kể chuyện. Trong một chuyến xe đi từ Năng Gù về Long Xuyên ông gặp một ông cùi. Ông cùi đó lên xe mọi người cự nự vì không ai muốn ngồi chung. Người ta nói thà hùn tiền trả cho ông chủ xe thêm một ghế hơn là ngồi chung với ông cùi. Người lơ xe gom tiền đưa cho ông cùi. Ông cùi nói tôi không cần tiền, tôi cần về nhà. Một cô gái xinh đẹp đẩy ông cùi bước lên, cô ngồi cạnh ông, che cho những người khác. Vậy là xe chuyển bánh. Những người nghe câu chuyện nói “thà cho tiền chớ không dám ngồi chung như vậy”. Ông già nói chỉ có Bồ Tát mới dám ngồi. Làm Bồ Tát là vậy thôi, dễ mà khó. Bữa cơm của nội với bà Đanh hiện ra trong tôi như hồi nội còn sống. Tôi không hề ngờ người bên cạnh mình cũng có thể là Bồ Tát. Tái sinh PNCN - Sáng thứ Bảy, nắng và gió lững lờ trôi qua cửa. Người đàn bà gối đầu lên cánh tay người đàn ông đang ngủ say, chị khoan khoái nhấm nháp cảm giác chậm rãi thư thả của ngày cuối tuần trên chiếc “gối” đặc biệt. Người đàn ông vô thức trở người, thu cánh tay về đặt trên bụng. Người đàn bà hẫng hụt nhìn vết lõm trên đệm do cánh tay của người đàn ông để lại. Chị ngả đầu lên vết lõm và cảm giác mình mất dần trọng lượng. Đầu chị bị dốc hẳn xuống, phần cơ thể còn lại nổi lên tựa như đang dập dềnh trên nước. Người đàn bà không thích thú với cảm giác chơi vơi ấy, chị nhấc đầu lên dựa hẳn vào ngực của người đàn ông. Chị nghe thấy nhịp tim của người đàn ông đập ồn ào. Còn hơi thở của anh phả nhè nhẹ lên tóc chị. Người đàn bà nằm yên lặng rất lâu trên vòm ngực thân quen, và chị bắt đầu đếm những chiếc xương sườn của người đàn ông. Mình là chiếc thứ bảy, vậy những chiếc trước và sau đấy là ai? Người đàn bà bắt đầu phân vân khi ngón tay của chị chạm lên những chiếc xương sườn đang nhấp nhô theo từng hơi thở của người đàn ông. Mình thích số ba hơn, nhưng kệ đi, đó là số mệnh rồi! Người đàn bà lại lẩm bẩm một mình, tự thỏa mãn với vị trí trang trọng mà Chúa đã quy ước đối với cuộc đời người đàn ông. Người đàn bà nán lại một lúc lâu trên ngực của người đàn ông, rồi khi nghe thấy tiếng trẻ con quấy khóc ở phòng bên, chị vội vàng bật dậy. Sau tiếng khóc chào buổi sáng của những đứa trẻ, giây phút nghỉ ngơi cuối tuần của người đàn bà đã kết thúc. Chị lật đật rời khỏi những chiếc xương sườn để trở về với thiên chức của một bà mẹ. Người đàn ông vẫn ngủ say. Lồng ngực anh ta phập phồng lên xuống đều đặn. Người đàn bà ngoái lại nhìn tiếc nuối rồi khép nhẹ cánh cửa đi ra. Những đứa trẻ đều đang ở tuổi bế ẵm. Người đàn bà mất dần kiên nhẫn khi phải dỗ dành chúng trong bữa ăn đầu tiên của ngày. Người đàn ông ra khỏi phòng ngủ trong lúc người đàn bà vừa bế đứa bé nhất vừa đuổi theo đứa lớn nhất để mớm thìa cháo đã nguội. Người đàn bà nhìn người đàn ông cầu cứu. Anh ta đứng từ trên cầu thang. Áo phông cổ tim, quần bò và giày thể thao sạch bóng. Người đàn ông nhún vai từ chối ánh mắt của người đàn bà. Anh ta đến gần những đứa trẻ, búng nhẹ lên đôi má phúng phính của đứa bé nhất, rồi tiến ra cửa. Thay vì hỏi: “Anh đi đâu”, người đàn bà lại hỏi: “Bao giờ anh về?”. Người đàn ông ghếch cặp kính đen lên, trả lời một câu hết sức quen thuộc: “Tối anh về”, rồi phóng vù xe qua cửa như những gã thanh niên trẻ tuổi bốc đồng. Người đàn bà trở về với thìa cháo trên tay, mái tóc của chị đã xổ ra gần hết. Mặc cho đứa bé không ngừng vo tròn những sợi tóc thành một cái tổ chim, người đàn bà muốn những đứa trẻ hoàn thành bữa ăn sáng hơn là sự gọn gàng của mình trong tình cảnh này. Đêm muộn. Cả ba đứa trẻ đều đã đi ngủ. Người đàn bà vội vàng bước vào phòng tắm để làm cho bản thân hoàn toàn sạch sẽ trước khi người đàn ông trở về. Đêm rất muộn. Người đàn bà nhắm mắt nằm yên. Chị thả đầu óc trôi theo cảm giác ngọt ngào, hạnh phúc khi ở bên người đàn ông. Phía trái chiếc giường, nơi dành cho người đàn ông, vẫn đang trống. Người đàn bà tự ru mình bằng ảo tưởng và những xúc cảm cũ kỹ của quá khứ. Người đàn bà chập chờn rơi vào cơn mơ… Chẳng hiểu làm cách nào mà người đàn bà biến thành một chiếc xương sườn thật. Lồng ngực chật hẹp và tối tăm làm chị ngột ngạt nhưng nó lại cũng cho chị cảm giác an toàn. Một bàn tay nào đấy đang cố dứt chị ra. Người đàn bà hoảng hốt né tránh. Thế rồi chị bị dứt ra ngoài. Những chiếc xương sườn cười nhạo chị. Còn người đàn bà hét toáng lên và khóc nức nở vì đau đớn. Bàn tay quẳng chị ra xa. Những ngón tay thon dài búng búng lên sự run rẩy của chị. Người đàn bà quỳ sụp trước ngón tay cầu xin. Ngón tay chỉ về vị trí thứ 32 trong lồng ngực. Người đàn bà gật đầu đi vào hướng đó. Những chiếc xương sườn khác lại cười rộ lên, nhưng người đàn bà không để tâm đến điều đó, miễn không phải rời khỏi lồng ngực an toàn này thì vị trí thứ mấy có gì quan trọng đâu… Sáng Chủ nhật. Người đàn bà thức dậy trên chiếc giường vừa được lấp đầy khoảng trống. Người đàn ông đã trở về. Anh ta thả người lên giường rồi ngay lập tức ngủ say. Như một thói quen, người đàn bà kéo thẳng cánh tay của người đàn ông để được gối đầu lên đấy. Nắng và gió bắt đầu co kéo nhau trên tấm rèm cửa. Người đàn bà lắng nghe hơi thở đều đặn của người đàn ông. Chị nhớ lại giấc mơ đêm qua: “Thật kinh khủng và gớm ghiếc! Có lẽ mình nên chấm dứt trò chơi trên ngực anh, nó đã ám ảnh giấc ngủ của mình”. Người đàn bà không muốn nghĩ đến những cảnh tượng rùng rợn kia, nhưng lòng lại không nguôi băn khoăn vì những điều được chứng kiến trong giấc mơ. “Vị trí thứ bảy là của mình. Số mệnh đã sắp đặt như vậy, chẳng có lý nào mình dễ dàng bị thay thế. Anh ta sẽ không là gì nếu không có mình!”. Người đàn bà tìm cách trấn an nỗi lo sợ. Và trong lúc đó, điện thoại của người đàn ông nhấp nháy báo có tin nhắn. Người đàn bà vươn tay mở điện thoại của người đàn ông. Vài giây sau, chị đau đớn tắt điện thoại. “Có lẽ mình đã sai. Số mệnh là điều dễ dàng thay đổi nhất. Nhưng mình không thể… không thể… rời xa anh ta”. Người đàn bà vô thức lẩm nhẩm nhắc đi nhắc lại câu nói cuối cùng. Rồi chị cắn chặt lên bàn tay đang run run nắm lại. Chị không hề chủ ý là mình sẽ khóc, rất nhiều lần người đàn bà không khóc khi mở điện thoại của người đàn ông, nhưng những giọt nước mắt luôn tự ý bật ra ngoài. Chao chan và không có điểm dừng. Người đàn bà nhấc đầu ra khỏi cánh tay người đàn ông. Chị trở người quay lưng, co hai chân lên cao, và cuộn tròn như một cái kén. Đã từ lâu rồi, người đàn ông không nhận tin nhắn vào sáng sớm. Có một quy ước giữa người đàn ông và người đàn bà rằng: Gia đình là nơi không có mối quan hệ nào khác chen chân vào. Người đàn ông ra đường, anh ta có thể là một gã hào hoa hút hồn các cô gái, nhưng khi về nhà, anh ta phải là một ông bố, nghĩa là phải chỉn chu và nghiêm túc. Người đàn bà không can thiệp nhiều vào cuộc sống của người đàn ông. Trong quá khứ, chị đã từng lồng lộn, dằn vặt anh ta bởi những lần đi sớm về khuya và rất nhiều tin nhắn đưa đẩy của các cô gái trong điện thoại. Nhưng sự chì chiết luôn thể hiện là một phản ứng sai lầm của con người khi giận dỗi. Càng lúc người đàn bà càng nhận thấy bản thân mình còn mệt mỏi hơn khi luôn phải chạy theo người đàn ông với trái tim hậm hực, nghi ngờ. Họ thỏa thuận với nhau về quyền riêng tư của từng người. Một người đàn bà khác hỏi chị: Vì sao không thể ly hôn? Người đàn bà mỉm cười với sự thỏa mãn yếu ớt rằng: Vì những đứa bé cần phải có gia đình! Nắng đã đứng yên trên những tấm kính cửa sổ. Chưa có tiếng trẻ con quấy khóc, nhưng người đàn bà đã gạt nước mắt bước ra khỏi giường. Sóng gió đã ngủ yên rất lâu trong lòng chị, hoặc có thể tự bản thân người đàn bà học cách sống chung với lũ, lờ đi quyền được ghen tuông và ràng buộc người đàn ông của chính mình. Nhưng hôm nay, từ một dòng tin nhắn sáng sớm trong điện thoại của người đàn ông, sóng gió lại cuộn lên trong lòng người đàn bà. Trong vô thức, người đàn bà đến gần bàn trang điểm. Chị phát hiện tóc mình đã quá dài và đuôi tóc xác xơ như những cọng rơm khô. Gương mặt của chị cũng sạm đen, lấm chấm tàn nhang. Đuôi mắt hằn in vài đường nhăn nheo ngạo mạn như một sự chế giễu với dung nhan già nua, xấu xí của chị. Từ bao giờ mình trở nên tồi tàn như cái thảm lau thế này? Người đàn bà hốt hoảng nhìn lại mình trong gương. Chị tần ngần như thể tìm lại ai đó sau một thời gian quên bẵng. Người đàn bà trong gương nhìn chị đăm đăm: Ở vị trí thứ 32, cô chỉ được quyền xấu ở mức vậy thôi… Chị giật mình dụi mắt. Có lý nào chỉ là ảo ảnh? Có lý nào mình đã khiến cái chức danh “vợ” trở thành vô nghĩa trong cuộc đời người đàn ông?... Người đàn bà yên lặng đối diện với bản thân rất lâu trong gương. Nắng mỗi lúc một rực rỡ hơn, báo hiệu một ngày ấm áp. Người đàn bà nhẹ nhàng rời khỏi bàn trang điểm. Chị sang phòng của những đứa trẻ. Chúng vẫn đang ngủ say. Chị khẽ khàng bế đứa bé nhất lên. Đứa trẻ ngọ nguậy trong tay chị rồi lập tức nằm yên. Người đàn bà đi về phòng mình, nhẹ nhàng đặt đứa bé lên giường, bên cạnh người đàn ông cũng đang say ngủ. Người đàn bà thay quần áo, xỏ chân vào đôi giày bệt xước da, xòe gót quen thuộc. “Đã đến lúc mình cần một đôi giày mới”. Chị ngoảnh lại nhìn hai nhân vật đang ngủ trên giường, nhếch môi nói tiếp: “Và cũng đã đến lúc, anh cần học cách làm một ông bố”. Trước đây, người đàn bà tin vào số mệnh. Bây giờ người đàn bà vẫn tin vào số mệnh. Chị đã chọn người đàn ông để nương tựa thì có nghĩa số mệnh của họ buộc phải gắn kết với nhau, không phải chỉ bằng những đứa trẻ hay vì sự quy ước của Chúa trời, mà phải bằng tình yêu - thứ đã chết mòn khi người đàn ông và đàn bà không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân. “Nhưng để có được tình yêu của người khác, mình phải tự yêu mình cái đã…”. Người đàn bà chấm dứt dòng suy nghĩ, khi vừa thấy một tiệm làm tóc. Bèo gặp nước PNCN - Mày quê ở đâu? - Vĩnh Châu. - Ở đâu lạ hoắc vậy! Mày làm tháng được nhiêu? - Hai triệu. - Nó có hay đánh chửi mày không? - Không có. Hỏi chi vậy? - Ơ, cái con này láo. Mày làm cho nó, liệu hồn có bữa ăn đòn lây nghe con. Cái thứ ở đợ mà hỗn. Cái thứ ăn rau ăn cà mà bày đặt nuôi Ôsin. ĐM, làm như hay lắm vậy... Đoạn hội thoại trên được con Lệ kể lại trong ấm ức và tức giận. Cái thứ vô duyên kiếm chuyện. Mình chẳng làm gì đụng chạm mà cứ thích xỏ xiên. Tại thím hiền quá. Có gì phải sợ chúng nó. Sao thím không thưa công an? Mà thím cũng đừng thèm nhịn nó nữa, nó càng làm tới... Lam ngồi lặng thinh nghe con Lệ nói, lòng trống rỗng, mỏi mệt. Cuộc sống trong cái hẻm này vốn xô bồ, không phải cứ an phận sống là yên. Lam không hiền, cũng chẳng nhu nhược, nhưng không lẽ lại chạy ra trả treo mồm năm miệng mười với họ? Mà liệu Lam có đủ sức để làm việc đó, hay rồi sẽ chuốc thêm bẽ bàng, thua thiệt? Nên Lam đành cười giả lả cho qua chuyện, lòng tự cười mình đang tỏ ra cao thượng khi vỗ vỗ lên tay con Lệ: - Thôi, hạng người đó đừng để ý làm gì. Rồi như chợt nhớ ra, Lam nhắc: - Có rảnh thì lấy vở ra tập viết đi, Lệ. Con Lệ dường như vẫn chưa nguôi ngoai, bặm môi ấn cây viết chì thật mạnh, liền sau đó phải tất tả đi tìm cái đồ chuốt. Lam nhìn theo dáng con gái khỏe mạnh của nó, nhìn mái tóc sau khi đã được Lam dắt ra tiệm bình dân đầu hẻm cắt bớt phần đuôi cháy nắng đang mọc ra bóng mượt, bất giác, Lam buông tiếng thở dài. Nhà con Lệ nghèo lắm. Nghèo không tưởng nổi. Căn nhà lá xiêu vẹo trên một khoảnh đất ngập nước mặn, xung quanh mọc đầy cỏ năn, lau sậy, xa xa điểm xuyết bằng những cây điên điển còng queo, vài ba nhánh so đũa gãy đổ. Lệ không có tuổi thơ. Những đứa trẻ quanh nó cũng vậy. Tuổi thơ là gì, bản thân nó cũng không hiểu. Nó chỉ học tới lớp 3, đánh vần mặt chữ vẫn còn bập bẹ. Chữ học rồi lại quên. Bởi trong nhà nó hiếm có món gì có chữ. Tờ báo, cuốn sách, thậm chí vài ba mảnh giấy cũng xa lạ. Nhà nó chỉ có một cái giường nhỏ trải chiếu cũ. Ba nó mất vì bệnh xơ gan. Những người đàn ông, đàn bà xứ này vẫn thường chết vì những bệnh tương tự. Thuốc lá rẻ tiền tỏa khói trong những cái chòi, những mái nhà lợp lá, những mảnh hiên được che chắn tạm bợ bằng mấy tấm tôn hoặc vài miếng ni lông rách nát. Khói bếp nhà họ lẩn khuất mùi kho quẹt, họa hoằn lắm mới có thứ gì đó hân hoan chất đầy trong nồi, để bọn trẻ con thèm thuồng chạy ra chạy vào ngong ngóng. Con Lệ người gốc Khmer. Xứ này đông đúc, nhưng trẻ con không mấy đứa được đi học. Dù mỗi mùa tựu trường, cũng có người của chính quyền đến dặn dò, cho tập, cho viết. Nhưng đi học thì ai giữ em? Ai làm cỏ lúa? Ai cắt lúa? Ai bắt cá hôi? Ai bắc nồi cơm đợi mẹ đi làm đồng về? Những bậc làm cha mẹ cũng mơ hồ biết được đi học sẽ tốt hơn cho con cái họ. Có thể sẽ bớt nghèo, bớt khổ. Nhưng bây giờ, nghèo quá, khổ quá, cứ nghỉ học cái đã, tính sau. Đàn bà gói bánh ít, bánh ú, xong bỏ vào thúng đội ra chợ xã, chợ huyện bán. Đàn ông làm ruộng mướn, cả ngày phơi lưng ngoài đồng, để chiều đổi về ngày công mấy chục ngàn, biến thành ký gạo, lít rượu đế, vài con khô, trái ổi, trái xoài. Miếng thịt là thứ hiếm hoi, xa xỉ với họ. Chập tối, vài ba người đàn ông gầy thành một sòng rượu, khề khà trong cái hơi bùn tát đìa bắt cá vừa lắng xuống chưa lâu. Tối mịt thì thắp thêm ngọn đèn, điện cũng có nhưng biết lấy đâu ra tiền để trả. Gần đây, cư dân xứ này có một cái nghề thời thượng hơn: đi Sài Gòn giúp việc nhà. Bà Hoa dẫn mối. Để rồi thi thoảng có đứa trốn về, xách theo một vài món đồ gì đó. Nếu đáng giá, thì mấy hôm sau chủ nhà xuống tận nơi để tìm. Câu chuyện râm ran trong xứ được vài hôm, rồi chìm. Những đứa con gái lớn lên chỉ quen việc đồng áng, tay chân to bự vụng về, lâu lâu lại bất ngờ quay về vì không làm được việc, hư hao gì đó. Có những đứa nhà nghèo quá, vẫn cứ liều đi. Gởi theo xe, tới nơi, chủ ra đón, trả tiền xe ôm luôn. Có khi bà Hoa ứng ra trước. Đến nơi chủ trả tiền cò, cộng với tiền cho Ôsin mượn. Nhà chúng không thể chạy nổi hơn trăm ngàn tiền xe cho con gái đi “làm ăn”. Bà Hoa đến từng nhà chỉ bảo đường đi nước bước. Đứa nào trắng trẻo xinh xẻo hơn thì nên để dành gả chồng. Gả chồng được cho tụi nó là đổi đời luôn. Nhà có tiền sửa sang xây lại. Trả hết nợ nần từ đời cha căng chú kiết. Có thể sẽ dư ra mua được cái ti vi màu, thêm cái đầu máy coi đĩa chẳng hạn. Chứ để ở nhà rồi thì chúng cũng mau chóng có chồng, mà nhiều khi đời chúng còn khổ cực, lam lũ hơn nhiều là đằng khác. Bởi con trai, con gái lớn lên, quen biết nhau trên ruộng lúa, dòng kênh. Lấy nhau cũng đơn giản, chẳng cần lễ lạt cưới xin gì. Tiền đâu mà bày vẽ. Mùa lúa nếp chín, giã cốm dẹp, làm bánh phồng tôm. Rồi thích nhau, hẹn nhau ngoài bờ cỏ và gần nhau lúc đi tát mương bắt cá, khi cái bụng lùm lùm thì dọn về ở chung. Ít tháng sau sẽ có một đứa con nít xuất hiện, da ngăm đen, mũi dãi lòng thòng. Luẩn quẩn. Vô vọng. Mà vô vọng là gì, có hỏi chắc con Lệ cũng không biết. Con Lệ quen Thạch Sơn cũng theo lịch trình gần giống như vậy. Chỉ khác ở chỗ, chúng nó không dọn về nhà nhau ở, bụng con Lệ chưa kịp lùm lùm, mà cả hai rủ nhau đi Sài Gòn làm ăn. Làm gì, con Lệ và thằng Sơn cũng chưa kịp nghĩ. Kệ, cứ đi rồi tính. Cuối cùng, con Lệ cũng được nhận vào xưởng may học việc. Nó dần dà biết đạp máy may, biết ráp hàng ở một công đoạn nhất định. Làm từ sáng sớm đến mười giờ khuya. Hôm nào không tăng ca thì sáu giờ. Thằng Sơn phụ việc ở một cái xưởng hàn chật hẹp. Chúng mướn một căn phòng nhỏ rí như cái hộp quẹt, ẩm thấp, tối tăm. Có chỗ để trải một chiếc chiếu, đặt hai cái giỏ xách, một cái bếp dầu, vài ba cái nồi nhỏ. Ở nhà đâu ai biết chúng sống với nhau. Khu nhà trọ cũng có vài đứa cùng quê hoặc ở xứ khác, nhưng hoàn cảnh tương tự. Tối hôm trước thằng Sơn đi nhậu về, bực mình, vô cớ đánh “vợ”. Vậy là hôm sau con Lệ bỏ việc, đón chuyến xe sớm về quê. Gặp ngay bữa bà Hoa qua nhà nó tỉ tê. Nó không muốn lấy chồng. Chuyện vợ chồng chẳng có gì vui thú cả. Nên nó chọn đi ở đợ. Từ ngày đó Lệ vào nhà Lam, trở thành cư dân của xóm hẻm nghèo này. Hàng ngày nó giữ thằng Bi cho Lam đi làm. Ở đó, lần đầu tiên trong đời, nó biết đến tờ báo, biết đến việc ngoài nghe cải lương, xem phim bộ, người ta còn coi thời sự hàng ngày. Ở đó, lần đầu tiên con Lệ được dạy rằng, phụ nữ phải được ưu tiên, được nâng niu trân trọng, cuộc sống có nhân quả, tốt xấu, có niềm tin vào những điều tốt đẹp. Ở đó, con Lệ biết rằng trẻ con thường được đọc truyện cho nghe trước khi đi ngủ, cuối tuần được đi công viên, đi bơi chẳng hạn. Ở đó, con Lệ hiểu ra, người ta phải học hành, phải kiếm một cái nghề gì đó trước khi lấy chồng, sinh con. Con Lệ còn được Lam dạy phải biết tiết kiệm, dành dụm tiền, không phải cứ lãnh lương là mua sắm những thứ linh tinh quần áo, giày dép, phấn son. Sống ở đây thì không thể hành xử giống như những đứa con gái khác cùng quê trạc tuổi Lệ, cũng lên Sài Gòn nhưng để phụ bán cà phê được. Con Lệ hỏi tuổi Lam và nhớ ra, Lam cũng chỉ ngang bằng với chị hai nó ở nhà. Nhưng nhìn Lam khác quá. Con Lệ vừa ngưỡng mộ vừa khao khát được như vậy, hay chí ít cũng được một phần như vậy. Nó tập tành nhìn lại mặt chữ cùng với bé Tép. Nó bập bẹ đánh vần, ghì bàn tay với những ngón chai sần, cố gò cho ra nét chữ. Lam dành mỗi tuần vài buổi tối để dạy vỡ lòng cho bé Tép, và sẵn dịp, cô trò chuyện và dạy chữ lại cho con Lệ. Lam nhắc con Lệ cách phát âm, cách nói chuyện sao cho rõ ràng, dễ hiểu, không phải cứ không diễn đạt được bằng tiếng Việt là thay ngay bằng “tiếng mình”. Để làm gì, chính Lam cũng chưa biết. Lam không có tham vọng mở cho con Lệ một cánh cửa khác, bớt tăm tối hơn cho cuộc đời nó. Lam cũng không có khả năng để bảo bọc, lo toan cho một người giúp việc nhà, khi phải vun vén lắm, cô mới giữ cho cái guồng gia đình mình trôi qua êm ả. Nhưng Lam vẫn tin, nếu biết chữ, cộng với biết lắng nghe những gì Lam khuyên nhủ, đừng quá đa đoan như Lam, thì chắc sẽ không đến nỗi nào, phải không Lệ? Lam thương con nhỏ bằng thứ tình cảm tự nhiên nhất mà cô có, chẳng hiểu do đâu cứ thấy quen thuộc đến lạ. Lam thầm cảm ơn số phận đã đưa con Lệ đến bên mình, như thể người thân. Lam hình dung ra đoạn đường trước mặt, tự dưng cũng thấy yên lòng. *** Mấy bữa nay Lam thấy con Lệ có phần chểnh mảng. Bữa cơm, nó cũng không tha thiết ngon lành với mấy món ăn như trước nữa. Lam thấy con Lệ thậm thụt qua điện thoại với ai đó. Lam không hỏi, nhưng cũng nhắc chừng: - Làm gì cũng cẩn thận nghe Lệ. Con Lệ “dạ” nhỏ, mắt không nhìn Lam. Nó đang bận chăm chú lau lau dọn dọn, tất bật, như thể nó không còn có dịp nào để phụ giúp Lam nữa vậy. Lam mở cửa, lòng ngờ ngợ thấy cái gì đó khang khác. Là gì, Lam cũng không biết, chỉ đến khi nhìn thấy tờ giấy được dằn dưới cái chặn giấy trên bàn thì Lam mới sực hiểu, thì ra nhà không có con Lệ lên xuống như thường lệ, nên vắng vẻ, hiu quạnh. “Thiếm ơi con đi dới thằn Sơn. Con hông bỏ nó đượt thiếm ơi? Thiếm đừng bùn con ngheng thiếm”. Lam ngó khắp lượt, rồi lại nhìn vào tờ giấy với những nét chữ xiêu vẹo to cộ. Lam thẫn thờ nhìn ra những tia nắng chiều hiu hắt, bất giác thở dài. Ngoài kia dài rộng bon chen thế, rồi sẽ đi đâu về đâu hở Lệ? Chỗ trọ PNCN - 1. My dọn tới đây được hai ngày thì chủ nhà cho thuê luôn mặt bằng để bán quán chay. Kể ra thì không có gì ồn ào, bất tiện vì My ở tận tầng hai. Mỗi khi về đến phòng, chỉ việc đóng cửa là mọi thanh âm bị chặn lại bên ngoài. Bất tiện duy nhất là chỗ để xe. Mới hôm rồi, báo chí đưa tin nạn mất cắp xe hoành hành ở các quán chay. Kẻ trộm thừa cơ hội cả tin của những người ăn chay niệm Phật, họ không nghĩ ở chốn gần với Phật ấy mà lại tồn tại kẻ trộm nên ỷ y không khóa xe kỹ. Vì vậy mà ở khu vực để xe thường kê thêm cái bảng: Coi chừng mất xe. Cái bảng ấy nói lên một điều: thực khách phải tự giữ lấy xe của mình. Quân thấy vậy, vội sắm cho My cái khóa thắng dĩa cho chắc ăn. Quân là người kỹ tính và chu đáo. Hôm dọn tới đây, anh kiểm tra hết đường dây điện, ống nước… kê kệ, khoan móc và công đoạn sau cùng là kho luôn cho My một nồi cá, loại cá mà My thích nhất. Vài người bạn bông đùa: “Về ở chung luôn đi, “share” tiền phòng cho đỡ tốn kém!”. Cả hai cùng cười. Làm gì phải thế cho bó buộc nhau. Cứ như vầy, thích thì gặp, có hay hơn không. Vả lại, My với Quân không hẳn là hợp tính. Có nhiều quan điểm trái ngược nhau mà hễ nhắc tới thì thể nào cũng xảy ra tranh cãi. Nói chuyện thì rất hạn chế đề tài. Tính Quân hay ghen bóng gió. My thì sống cởi mở, ít khi có sự đề phòng trong các mối quan hệ nên rất nhiều bạn. Quân vốn có tính đa nghi, ít tin bạn bè. Chỉ nhiêu đó thôi cũng đủ mệt. Thỉnh thoảng gặp nhau thì còn được. Gặp nhiều dễ “đứt” lắm! My thì nghĩ vậy nhưng mọi người nghĩ khác: My không chỉ có mình Quân. Đúng như vậy thật. Hôm sau, trời vừa chập choạng tối, thấy My đi bộ vội vã ra phía chân cầu. Lúc về dắt theo anh chàng cao dong dỏng, khuôn mặt baby và trẻ hơn My rất nhiều. Anh ta xách theo con gà đã làm sẵn - món ruột của My. My thích ăn gà từ bé. Nhưng phải là gà ta. Ngày trước, hồi còn ở quê, nhà My lúc nào cũng nuôi một bầy gà. Lớn có nhỏ có. Nuôi chỉ để ăn chứ không bán. Gà nhỏ thì hầm với thuốc Bắc. Gà tơ thì luộc chấm muối tiêu chanh. Gà trống hay mái đẻ thì hầm, rô ti… Tất cả những món ăn từ gà, dưới bàn tay chế biến của mẹ, My đều rất thích. Huy đọc được điều đó trong trang blog cá nhân của My. Nhà Huy ở Bến Tre, mỗi lần lên, quà cho My là một con gà mái tơ béo ú. Thường thì Huy hỏi My thích ăn món gì để Huy chuẩn bị luôn nguyên vật liệu chế biến. Huy nấu ăn theo kiểu miền Nam, món ăn nào cũng ngọt và béo. Khi Huy đến thì nồi cá kho vẫn còn đầy ắp. Huy bê cả nồi lên mũi, ngửi ngửi, bảo: “Hình như có mùi chua rồi!”. My cũng đưa lên mũi: “Em có thấy đâu. Vẫn ăn được mà!”. Lúc đó, tự dưng My thấy thương Quân. Nghĩ đến cảnh anh gò lưng mổ bụng, làm vảy, khử mùi tanh, dùng muối để rửa từng lát cá rồi đem kho, mất cả buổi trời. Quân bảo muốn tự tay làm, thay vì để bà bán cá làm cái vèo là xong. Huy cãi: “Em đừng tiếc. Ăn vào đau bụng lại khổ anh chứ ai!”. My vẫn nằng nặc giữ lại nồi cá: “Phí lắm, anh đừng đổ. Để đó em xử lý được mà!”. Huy vui vẻ chiều theo My vì không biết “tác giả” của nó là Quân. Nếu biết, hẳn Huy đã úp cả nồi vào thùng Bạn bè có người biết Huy, người không. Hỏi thì My bảo bồ. Đứa bạn tru tréo: “Bồ gì mà lắm thế?”. My cũng không vừa: “Đã sao? Trai chưa vợ, gái chưa chồng, ảnh hưởng gì ai nào?”. Với gã trai nào, thấy My cũng quấn quýt như là thân thiết lắm. Người thì bảo cô này số sướng, đào hoa. Người khác lại chép miệng thương hại: đào hoa để làm gì, nếu là tình yêu thì cũng chỉ có với một hai người chứ có yêu được nhiều đâu. Con gái như thế chỉ thiệt thân. 3. Anh chàng thứ ba “diện kiến” phòng trọ mới này là một tay kiến trúc sư. Phong cao to, đẹp trai, hiểu biết và có khiếu ăn nói hơn hai “đối thủ”. My thích nhìn anh trong lúc ăn. Lần đầu gặp Phong cũng là trong bữa ăn. Nhìn anh ăn uống tự nhiên, miệng nhai ngồm ngoàm, My có ấn tượng ngay. Phong thì bảo, thích vẻ nữ tính của My. Dù hôm ấy, My ăn mặc trông rất quậy: áo sơ mi nam rộng thùng thình và quần short ngắn, không có vẻ gì là nữ tính cả. Phong nói, như vậy mà nhìn em vẫn nữ tính thì đích thị em rất nữ tính. Sau này, những buổi hẹn hò, My đều mặc váy. Kiểu váy hoa li ti, xòe rộng là style chính của My. Phong bảo nhìn My mềm mại, dịu dàng như diễn viên Pháp trong phim tình cảm lãng mạn thời xưa. 4. Quân thì không nói thế. Mỗi khi ngồi bên cạnh, anh hay vòng tay qua người My. Chỉ cần những ngón tay anh chạm phải xương sườn hơi nhô lên của My là anh la toáng lên: “Em không nghe lời anh, không chịu ăn uống gì cả. Càng ngày càng gầy đi”. Rồi anh đưa ra một thực đơn cho cả tuần. Bữa sáng, trưa, tối phải ăn gì, uống gì. My thì tự hào vì thân hình mình dây của mình. My cũng thích mỗi lần gặp Phong, Phong nhìn My với ánh nhìn xót xa: “Nhìn em gầy, anh cứ muốn được che chở cả đời”. Nói thì nói vậy nhưng Phong lại không phải mẫu người kho cho My nồi cá hay luộc cho My con gà. Ai đó đã nói, tình cảm cũng là một món nợ từ kiếp trước. My thì không biết kiếp trước mình nợ gì, nợ những ai nhưng ngay kiếp này đây, My thấy mình đang dốc sức trả nợ cho Phong. Quen nhau vài tháng, My nắm toàn bộ sở thích của Phong. Cố gắng thực hiện mọi điều để làm vui lòng Phong, từ những quan tâm bé xíu như hong khô áo mưa khi Phong tới vào lúc trời mưa, ủi lại chiếc áo Phong treo trên móc trong lúc ngủ trưa tại phòng My, làm những món ăn Phong thích. Lạ thay, những gì My nhận lại đơn giản chỉ là thấy Phong hài lòng về hành động của mình, không một chút đòi hỏi nào khác. Nói thì nói vậy, ai có người yêu mà không muốn nhận sự quan tâm. Có điều, Phong đã quen nhận hơn là cho. Thế là cứ nhận thôi. Khi nào không “cho” gì nữa thì chán ngay. Một lần, sau khi hai đứa có buổi tối lãng mạn ở nhà hàng sang trọng, My giả đò nũng nịu than: “Hình như anh chẳng yêu em gì cả!”. Phong choàng người My: “Sao em nói vậy? Em thấy đấy, anh có ai ngoài em đâu”. “Vậy chúng mình cưới nhau đi, nha anh!”. Phong ngập ngừng: “Chuyện đó là đương nhiên rồi nhưng chưa phải lúc này!”. My định hỏi lại: “Thế khi nào mới phải lúc?”, nhưng lại thôi. Hình như My đã hỏi câu này rồi và Phong cũng trả lời rồi. 5. Một buổi sáng, tiếng ồn ào dưới nhà làm My tỉnh giấc. My hé cửa ban công nhìn xuống. Bên dưới rất đông người nhốn nháo, chỉ trỏ. Những thanh âm chồng chất lên nhau, My nghe tiếng được tiếng mất. Có tiếng gõ cửa phòng. My ra mở cửa. Khuôn mặt anh chàng có nhiệm vụ giữ xe buồn xo: “Xe mất rồi em ạ! Mất tới hai chiếc, một của chị anh, một của…”. My sững sờ: “Của em à?”. Gã gật nhẹ đầu. My chỉ nói nhẹ: “Vâng, em biết rồi!”. Thái độ của My nói với gã là hãy để My một mình. Gã hiểu ra, đi xuống. My nhắn cùng một tin nhắn, cho ba người: Quân, Huy, Phong, với nội dung cụt lủn: “Xe của em mất rồi anh ạ!”. Quân gọi ngay lại cho My, hỏi rất nhiều, nào là: “Mất lúc mấy giờ, có nghi cho người nào lấy không? Bây giờ chẳng tin ai được đâu, có khi người lấy chính là người trong nhà, biết đâu còn là chính người giữ xe nữa, em có tin không?”. My mệt mỏi nói: “Sao anh cứ hay đa nghi. Mình có chứng cớ gì đâu mà dám nghi cho ai”. Quân lại nói: “Hay là em không khóa thắng dĩa?”. Đúng là My không khóa. Quân lại trách: “Đấy, có bao giờ anh nói mà em chịu nghe đâu!”. My cúp máy, thấy mệt mỏi đến không buồn nói gì thêm nữa. Khi My vừa tắt máy đã thấy có cuộc điện thoại chờ, của Phong. Phong bảo: “Bỏ đi em, của đi thay người. Mà anh thấy xe đó cũng cũ rồi!”. My vâng vâng dạ dạ rồi tắt máy. Cảm giác chênh chao ập đến nhanh như một cơn gió. My đi ra phía lan can, nhìn xuống đám người còn lổn nhổn bên dưới. Phía vệ đường đối diện, gã coi xe ngồi chống cằm buồn bã. Bất ngờ hắn nhìn lên, My vội đi vào nhà. Điện thoại báo hiệu có tin nhắn, là của Huy: “Sao xui vậy, anh đang tính tuần sau lên mang theo cái còng số 8. Loại còng này kẻ trộm không bấm được, chỉ cảnh sát mới có. Chú anh là cảnh sát nên có cho anh một cái”. My không nhắn lại vì cũng chẳng biết nhắn gì. Sáng hôm đó, My đi làm trễ, đi bộ. Vẻ mặt của My bình thản như không. Chị chủ quán nhìn My: “Xui cho em quá, chị cũng mới buôn bán, chưa có lời nên không thể…”. My không nói gì, chỉ cười nhẹ rồi bước đi. My cũng không hiểu mình như thế nào nữa. Chiếc xe không hẳn là vật quá quý giá với My. Với số tiền dành dụm được, My có thể mua ngay lại chiếc xe trong lúc này. Nhưng có cái gì đó lớn hơn cả nỗi mất mát hiện tại đang hình thành trong My, khiến My muốn khóc. My nhắn cho Phong: “Em buồn quá!”. Một hồi lâu sau, Phong nhắn lại cụt lủn: “Mọi chuyện rồi sẽ qua”. Suốt ngày hôm đó, My không thể làm gì. Người cứ ở trạng thái bồng bềnh, chênh chao khó tả. 6. My đổi số điện thoại và chuyển phòng. Gã giữ xe là người buồn nhất. Gã luôn nhìn My với ánh nhìn của một người có lỗi, dù My đã nói với gã rất chân tình: “Em không trách anh đâu, xui thôi mà, anh cũng đừng áy náy!”. Gã hỏi lại: “Vậy sao My không ở lại đây?”. My bảo: “Em phải đi, em muốn được một mình”. Rồi đột nhiên My quay lại: “Khi nào muốn ăn món mì xào, anh cứ ghé, địa chỉ là…”. My đọc địa chỉ cho gã. Nhìn gã cảm động đến lập cập, tự dưng My thấy nước mắt mình trào ra. Khổ cực phí' Chính vì vậy, hiệu trưởng Trịnh quyết định chi cho mọi người một chút “khổ cực phí”. Tuy số tiền không nhiều, chỉ một vài trăm đồng, song trực tiếp phát cho từng người, hiệu trưởng Trịnh cảm thấy bất nhã, thế là ông tìm những chiếc phong bì làm bằng giấy tái sinh màu cỏ úa khá dầy, cho “khổ cực phí” mà mọi người mong đợi vào. Người nào có phần ấy, ai nấy đều rất hoan hỉ. Mỗi người cầm những chiếc phong bì chất liệu như nhau, dày dặn như nhau, tự nhiên phấn khởi không thể nói ra lời, tất cả những gian khổ làm thêm ca thêm giờ, tất cả gian truân, tất cả mệt nhọc, tất cả oán thán trước đây, trong chốc lát đều biến như mây tan. Lúc ấy, hiệu trưởng Trịnh nói ra mấy lời: “Thưa các vị đồng nghiệp! Chớ có cầm phong bì mà ngây ra cười như thế, phải thận trọng tỷ mỷ xem khoản “khổ cực phí” của mình, đếm kỹ số tiền. Nếu cầm phong bì không về nhà, e rằng khó nói với “ông bà chủ nhà”. Cái món tiền này, cần phải đếm ngay trước mặt, chứ việc qua rồi thì dù có người nhà máu mủ thân thích cũng không được công nhận đâu!”. Nói xong, hiệu trưởng ha hả cười lớn, tươi hơn cầu vồng hiện trên bầu trời sau trận mưa rào! Trước mặt hiệu trưởng Trịnh, các thầy cô giáo, từng người một đều mở phong bì tuy nhè nhẹ, song khi liếc mắt vào trong mọi người đều mặt mày hớn hở. Chỉ có một vị là thầy giáo Phu đeo kính cận dầy cộp không cười. Bởi vì thầy Phu lúc ấy phát hiện ra phong bì mình cầm trong tay rỗng không. Thầy Phu lăn tăn lấn cấn, cơn cớ làm sao lại là phong bì không? Ông đã từng viết ra vô số bài luận văn học, đã từng nhận từ tay các vị lãnh đạo vô số bằng khen cơ mà. Hiệu trưởng Trịnh vừa cười đùa, bỗng nhiên nhìn thấy thái độ của thầy giáo Phu, cảm thấy có điều gì khó xử, ông vội thôi cười. Bộ mặt bỗng thay đổi như thời tiết mùa hè, vừa nắng chói chang, bỗng chuyển sang mây đen vần vũ. Gương mặt ông băn khoăn khiến cho thầy giáo Phu vốn yêu chuộng văn chương từ nhỏ cũng không thể tìm được ngôn ngữ thích hợp để mô tả. May mà hiệu trưởng Trịnh trải đời, thực tế, gặp chuyện vẫn đĩnh đạc, điều ấy làm cho thầy Phu hơi yên tâm, nghĩ bụng, là chính bản thân ông bảo chúng tôi mở phong bì trước mặt, chớ trách tôi không giữ thể diện cho ông. Định thần, hiệu trưởng tự riễu cợt: “May quá, may quá, tôi đã bảo mọi người mở phong bì trước mặt, đếm lại xem. Nếu không, thật sự không biết nói sao cho rõ ràng được…”. “Nếu như cầm về nhà giao cho “nữ tướng chủ nhiệm hậu cần”, phát hiện ra phong bì không, thì mới làm cho mọi người mất vui. Bản thân mình không vui không nói làm gì, mà bà xã thật thà như đếm cũng sẽ hoài nghi “khổ cực phí” đi đâu? Chắc sẽ thắc mắc, vì sao phong bì hoàn hảo như thế, “khổ cực phí” lại không cánh mà bay mất?” Thầy Phu khẽ lắc đầu, hai tay giơ ra trước mặt mọi người, lộ vẻ bất lực. Mọi người thấy vậy, cười như điên như cuồng, chỉ có thầy giáo Phu và hiệu trưởng Trịnh lại không cười. Thừa lúc mọi người chưa định thần lại sau tiếng cười ran, hiệu trưởng Trịnh vội rút ra hai tờ giấy một trăm đồng mới toanh, từ chiếc cặp da màu đen căng phồng, hai tay cung kính đưa cho thầy Phu: “Xin lỗi! Xin lỗi! Sai sót tại tôi, có thể là khi đang cho tiền vào phong bì, thì bà xã gọi điện thoại nói hoa quả ở nông trường bà ấy đã chín nẫu, bảo tôi muốn ăn thì mau đến hái, nếu không…, Chu cha, phải trách tôi vội đi hái hoa quả, kết cục gây ra chuyện này”. Thầy Phu vui vẻ nhận khoản “khổ cực phí”. Ông không cho vào phong bì nữa, mà cho luôn vào trong túi quần trống không của mình. Thầy Phu nghĩ thầm: “Nhân vật lớn cũng có lúc phạm sai lầm, huống hồ là cánh bình dân như chúng mình, chỉ có điều, khi phạm sai lầm, có người sửa nhanh, có người sửa chậm, thậm chí có người suốt đời còn mê muội không hiểu ra!”. Vì không muốn để hiệu trưởng Trịnh nhìn thấy tâm tình phức tạp của mình lúc ấy, thầy Phu vội vàng ném chiếc phong bì không vào trong thùng rác, và nói với lãnh đạo: “Hiệu trưởng Trịnh, chuyện hôm nay, khó nghĩ quá, nhỉ?”. Nhưng hiệu trưởng Trịnh đã toét miệng cười, nhìn chiếc phong bì không trong thùng rác, sắc mặt lại bình thản như không có chuyện gì xẩy ra: “Chu cha, nói chuyện khác đi, thầy Phu. Nói thật, người thật sự khó nghĩ, phải là tôi!” Lúc ấy, thầy giáo Phu chỉ im lặng không nói, không biết nên gật đầu hay là nên lắc đầu, bàn tay ông nắn nắn túi quần. Rồi thầy cười. Đường mưa > Những kẻ đồng hành Mưa ngang TP - Giữa Ngọ mà mưa, trời đất thật loạn. Mụ quay cuồng cái suy nghĩ phải rõ ngô rõ khoai mọi việc. Nhưng mưa thế này mà dấn thân, họa là trời đày. Thật lạ, mưa vắt sang Mùi, cứ đà này mưa đến tối. Đã thế càng phải đi. Không ai can được đâu. Mưa là cái thá gì? Trời đã đày, thì cho đày cả thể. Con phố dốc, ngắn và hẹp, nước chảy như suối ngay trên lòng đường. Mụ chân đất, quần xắn quá gối, tay cầm dao, tay cầm ô, một mình bòm bõm trên con đường mưa.Thi thoảng có thằng xe máy rẹt qua, nước văng cả vào mồm mụ. Đến chợ, cái chợ như tụt xuống dưới lòng đất chừng hai chục bậc đá mòn vẹt. Ngày dưng, chợ vắng, mưa lại càng làm cho vắng. Quán cơm nhà nó nằm góc chợ, chỗ căng bùng nhùng mấy tấm bạt chắp vá. Kia rồi, nó đang quay lưng lại mụ, liến thoắng gì đó. E hèm! Mụ hắng giọng, cụp ô, róc nước, để con dao lên mép bàn, ngay sát bát phở của gã Mông đang ăn dở. Ả kia quay lại, mặt nó tối sầm như mây đen vừa kéo thêm về đày ải cái vắng vẻ buổi giao thời. Nếu nói về dao, về vũ khí, thì nó sẵn hơn mụ. Con dao thái thịt mỡ sáng loáng, bóng nhờn, con rựa chặt xương, cả hai nằm trên cái thớt nghiến to bằng cái mẹt. Chưa kể xiên, dùi, búa, củi gộc và xoong chảo. Mụ thầm cân nhắc lực lượng và cầm con dao lên thế thủ. Mụ câng cấc hỏi. - Lão Phính đâu? - Chi pâu. Ái chà, lại còn cậy tiếng Mông để đối đáp với bà hả? - Lão Phính đâu? Ả kia chả vừa. - Tôi chả giấu chồng chị dưới gầm giường hay trong cạp quần tôi được. Mụ ngó nghiêng. Thằng già này hoặc đi gánh nước, hoặc bị nó sai vặt đi đâu đó thôi, cứ đứng ở đây đợi. Ở nhà, mụ chắc mẩm, mưa gió thế này, quán vắng khách, kiểu gì anh ả cũng kéo bạt mà hú hí với nhau. Ai ngờ nó vẫn móc đâu ra vài gã Mông đang đủng đỉnh câu giờ với bát phở trương phình. Bình thường, mụ mặc kệ, chả thèm ghen. Nhưng nó lại dám đánh tiếng thách thức mụ, kích động mụ. Rằng giỏi thì đẻ đi, không đẻ được thì để người khác đẻ cho, loại gái độc. Mưa càng ngày càng mau, càng to hạt. Cả khu chợ dậy lên mùi xào xáo, nướng nấu. Cái mũi của mụ cứ hếch lên, hít cho đẫy những mùi thơm đang tấn công cơn đói của những ai vô tình hay cố ý đi qua cái góc ẩm thực này. Mùi măng chua xào lòng gà cấm có lẫn vào đâu được, mùi đậu phụ sốt cà chua và thịt ba chỉ, mùi trứng rán hành, mùi cá suối nướng tẩm thảo quả…mùi nào rõ mùi ấy. Thế này, bố đứa nào chịu được. Cái cơn ghen tuông, bức bối lặn đâu mất, chỉ thấy cơn thèm ăn, thèm uống ngoi lên từ dạ dầy, đến thực quản và lấp đầy khoang miệng. Mụ tạm tha cho nó, đủng đỉnh đi ra hàng cơm phía ngoài, ghếch mông, ý tứ ngồi cũng mất phần ba cái ghế băng dài. Cái ghế cập kênh, giơ hai cái chân còn lại lên, chới với. Mụ ngượng nghịu đứng dậy. Chủ quán là lão già có cái đầu hói bóng nhoáng, đôn đáo. - Ấy chết, chị cứ ngồi xuống, ngồi vào giữa ấy cho chắc. Mụ liếc xéo qua đôi mắt lươn ti hí của lão mà đưa đẩy. - Em thôi, chắc gì đấy đã bằng đây. Lão chủ quán gật gật, che chắn ngay. - Thì nịnh em tí cho sướng thôi. Chứ em còn mỡ màng lắm. Mụ hởi lòng hởi dạ, luồn con dao xuống dưới gầm bàn rồi làm ra vẻ sành sỏi. “Làm chai rượu và cái đĩa tổng hợp đã nhỉ? Phở thì ăn sau cho nóng. Mưa gió thế này cũng chẳng mó được việc gì”. Chủ quán, tay thoăn thoắt, mồm liến láu, mắt đảo như lắc bi. Chạm con dao dưới gầm bàn cũng hơi chợn, nhưng với bản lĩnh của lão già ngoài sáu mươi từng giang hồ ngang dọc, cũng thấy thường thôi. Chỉ sợ rượu vào, cơn ghen của mụ lại cuồng lên thì có đứa chết. Đàn bà là thế, hoặc không bao giờ chạm vào rượu, hoặc là phải say bí tỉ, chứ cứ nhồi nhội, nghi ngơ là rách việc. Tính tiền trước cho chắc ăn. Lão già khôn gớm, mụ thầm nghĩ và moi trong túi quần ra cái túi thổ cẩm con. Mụ kéo khóa, lôi ra tờ một trăm để lên bàn và cẩn thận lau bát, đũa. Tổng hợp là mấy miếng xương sườn xào chua ngọt, mấy miếng nội tạng luộc, vài miếng đậu phụ rán và dăm cọng hành chần tái. Thế cũng quá ổn. Mụ rót rượu ra cái cốc thủy tinh không to, không nhỏ, rót cắn cạp, bưng lên miệng tợp một phát hết non nửa. Cũng khà đến nơi đến chốn. Cái kiểu ẩm thực của mụ, đàn ông phố chợ này trả lại tiền. Mụ có tiền, là người có tiền thì ăn uống phải mạnh bạo chứ. Việc gì phải xấu hổ. Cái chai nhựa thứ nhất lăn xuống gầm bàn, mụ dáo dác tìm cái điếu cày. Mụ nhồi thuốc, đánh lửa, châm đóm, rít thật lực. Mắt lim dim, khói tít mù, đầu ngả nghiêng. Phê… “Ơ kìa, quán hết rượu rồi hay sao? Chậm quá”. Mụ buông điếu cày là vớ lấy chai rượu mới, rót tràn ra cả mặt bàn. Chủ quán xót ruột. Mụ hiểu ý móc túi rút thêm năm chục. “Tiền rượu đấy, chưa gì đã…mà ông anh cũng làm vài chén đi, làm chó gì có khách mà lo”. Hết chai thứ hai, nhẵn cái đĩa tổng hợp, mụ chẹp chẹp cái miệng cạp dậm gọi. “Phở, phở gà nhé”. Chưa đầy ba phút, bát phở kiệt cả cái lẫn nước. Mụ lảo đảo đứng dậy. Trước khi đi, mụ không quên cúi xuống, nhặt con dao. Mụ đi thẳng vào quán con tình địch to gan, lớn mật. Nó đứng dựa lưng vào cột quán nhìn mưa, phía dưới cái tạp dề của nó là cái bụng phồng phồng. Mụ khua con dao trước mặt nó. “Tao giết mày, đồ lăng loàn cướp chồng người khác”. Nó ưỡn ngực thách thức. “Đấy, chị có giỏi thì giết cả mẹ lẫn con tôi đi”. Mụ khựng lại, con dao rơi xuống đất. Thật thế sao? Nó chửa thật rồi sao? Người ta đồn đại thế mà hóa thật sao? Đời khốn nạn. Lão Phính nhà mụ thật khốn nạn, mấy mươi năm không làm cho mụ chửa được mà mới thì thụt với nó hôm nào giờ đã chửa. Chân tay mụ rã rời, nước mắt mụ ứa ra. Nỗi hờn tủi cứ dâng lên, dâng lên… Mụ quên cả nhặt con dao lên, quên cả cái ô đen bên quán lão hói, lật đật trở về nhà. Mụ chống tay vào hông, giọng ngất ngưởng. “Nó chửa thật không? Hả?”. Lão Phính biết không giấu được, nhát gừng. “Ừ, chửa”. Mụ phệt xuống hè, dựa lưng vào cái cột, thở dốc. Mưa có vẻ mau hơn. Trong nhà, một bà già, già mốc già meo như cái gốc lê đang lần tay vào trong người gãi sồn sột. Mụ thấy người ngứa ngáy râm ran, thi thoảng nhoi nhói như ong đốt. Tự nhiên mụ thấy thèm được đi đâu đó một chuyến. Ít nhất là ra khỏi cái nhà này, ra khỏi cái tiếng gãi lưng sồn sột của mẹ chồng như gãi ghẻ. Từ bữa nghe phong thanh thằng con giai mình làm chửa được đứa chủ quán bún phở, cụ tự hào lắm. Hết đùn đẩy nhau, đứa nào biết đẻ hay không giờ đã rõ. Cụ càng khỏe gãi. Hay là về quê? Dễ đến chục năm rồi mụ chưa biết mặt quê. Độ ấy, vừa xuống bến xe, bọn xe ôm nhao nhao xí phần. Có dăm cây số, đã mặc cả trước là mười lăm ngàn. Xuống xe, không có tiền lẻ, đưa nó cả hai mươi ngàn, nó đút tiền vào túi áo, nổ máy định đi. Mụ giật lại. “Không trả tôi năm nghìn thừa hả?”. Nó trợn mắt nhìn mụ. “Ơ hay, có năm nghìn, bà to như con voi ấy, lại còn đòi”. Nó cười hô hố. Quê đấy. Về đến ngõ, bọn trẻ con nhếch nhác ùa ra đến cả tá. Chúng hò ầm lên. “Tây, Tây về làng chúng bay ơi”. Con em gái út chạy ra, ngó chán mới dám đưa tay sờ vào cái áo rét không độ của mụ, sờ mái tóc xoăn tít, vàng suộm của mụ. Rồi nó tru lên. “Đúng là bá Ngọ nhà mình rồi các con ơi”. Lúc ngồi trên phản ăn cơm. Lâu lắm mới ngồi phản, hai cái vế của mụ to như hai cây chuối hột, chả khoanh được, mà có khoanh được cũng hết bố nó nửa cái phản, còn ai ngồi được nữa. Mâm cơm được chuyển xuống chiếu, mụ chọn cái cột mà dựa, bữa ăn phải xoay sở, đổi tư thế mấy lần. Đứa em út nhà mụ cầm tinh con chuột, bé tí, gầy tong, răng chìa ra mà ăn khỏe đáo để. Nó vừa nhai vừa bảo. “Tết xong em lên để bá vỗ béo cho em nhá”. Thằng chồng lườm vợ. “Con vợ em có sán hay sao ấy, ăn như đúc dế mà đếch béo được”. Mụ ăn qua ăn quýt, ra điều, đây ăn rông rài thế đấy, mà vẫn cứ béo ục, béo tròn, chả hiểu làm sao. Cái áo khoác dài ba lớp của mụ cởi ra treo trên cột, bọn trẻ lấy sào chòi xuống đắp làm chăn, rú lên “nóng quá”. Bốn đứa đắp cái áo còn rộng. Con em mụ, giỏi được bốn chục cân cả dép mà đẻ bốn con, đứa nào đứa ấy như cái nắm cơm, nhìn sướng cả mắt. Chẳng ai dám hỏi chuyện sinh nở của mụ, sợ mụ buồn. Quê đấy. Hay là về quê một chuyến. Cho lão Phính đi tàu một lần cho biết. Lão Phính chồng mụ là người Mông vùng này. Phính có nghĩa là phở. Người Mông, thật lạ, hiếm có người không biết thích bún phở. Vào tuổi mười tám, khi theo một người bà con họ xa lên đây bán muối bán mắm, mụ đã to quá cỡ quá khổ rồi. Trai Kinh thấy mụ là sợ. Cả khi mụ tậu được mảnh vườn trĩu chịt hoa trái và cất được ba gian nhà gỗ thì bọn họ vẫn sợ. Mụ chưa bao giờ leo lên cái cân để xem mình nặng cỡ nào cả. Chỉ biết bọn thanh niên con trai giễu mụ thế này. “Lấy em, anh đỡ tốn khoản tiền mua đệm.”. Cuối cùng, vào cái tuổi ba mươi, người ta con bồng con bế hết cả thì mụ mới có người đến hỏi. Đó là Phính, chồng mụ. Phính nhỏ người nhưng được cái khỏe mạnh, chăm chỉ. Lấy Phính, mụ được ở luôn nhà của mình. Vì cái trận mưa lớn năm ấy, nhà Phính bị lũ quét mất, Phính lại nghèo nên mãi không có tiền cưới vợ Mông. Lấy vợ là người đa số, chả mất gì lại có sẵn nhà ở và đưa cả mẹ đẻ về sống cùng. Ba người lớn không có mống trẻ con, buồn như mọt gặm hòm rỗng. Thi thoảng lão Phính có đón bọn cháu họ lên chơi, chúng chỉ ăn, chỉ phá cho xơ xác vườn quả rồi lại cút về nhà chúng, nịnh thế nào chúng cũng chả ở. * * * Lão Phính lần đầu về quê vợ nên phấn khởi lắm. Lấy nhau hai chục năm, giờ mụ mới dám đưa chồng về quê trình diện. Chẳng là lão Phính thấp bé quá, lại chột một bên mắt do ngày bé nghịch lửa bị than nhảy vào. Dụi mãi thành mù. Mà ở quê, em gái mụ chót huênh hoang, rằng anh rể to cao, đẹp giai rồi. Ở đất này, dù chột, dù thấp bé nhưng lão Phính nhà mụ lại có giá lắm. Dưới chợ, quán cơm phở nào có mặt lão Phính, bà con dân tộc Mông kéo về ùn ùn. Thế nên họ tìm cách lấy lòng lão, nay bát phở, mai cốc rượu. Có đứa còn thân thiện với lão bằng cách nhờ lão gánh nước, nhặt rau, bổ củi và đánh cảm, cạo gió cho. Cái bài đánh cảm, cạo gió của người Mông tài tình lắm. Mà cái giống phải gió, cạo một lần là phải cạo mãi, nếu không đầu nặng như đeo đá không tỉnh được. Cạo thế chó nào mà bây giờ nó chửa. Lúc đầu, nghe dân chợ bàn tán mụ không tin, tận mắt thấy cái bụng nó rồi thì phải tin. Lão Phính đứng xếp hàng mua vé. Rõ là xếp hàng mà tí cái lại có vài con mẹ láu cá ngoi lên đứng trước lão. Xếp đến dài cổ không mua được đôi vé. Mụ lôi lão ra và đứng vào đấy. Mụ đứng vừa khít cái lối vào cửa mua vé được ngăn bởi hai cái rào I nốc. Mấy bà Tây thấy mụ thì xì xồ hỏi thăm xem mụ đến từ quốc gia nào. Mụ tự hào vỗ ngực. Việt Nam… Việt Nam. Khách ngạc nhiên lắm. Mụ đi trước, sải bước dài như bà chủ. Lão Phính chạy sau, lưng đeo ba lô, tay xách cái túi to như nô bộc. Mụ được cái dễ ngủ. Bất cứ sự di chuyển nào mà không bằng chân của mụ cũng khiến mụ buồn ngủ. Chuyến tàu đêm sớm nhất mà mụ đã dính mắt vào. Mụ nằm kín cái giường tầng một khoang sáu. Lão Phính và các kiểu đồ đạc, quà cáp ở tầng trên. Tàu chưa qua một ga, mụ đã ngáy rung cả giường. Mụ ngáy to đến nỗi, mấy cô cậu cùng khoang phải úp gối lên mặt mà cười. Lão Phính tụt xuống, vỗ mông vợ, mụ đổi tư thế nằm nghiêng. Được một lúc mụ lại ngáy, tiếng ngáy nhỏ hơn nhưng dai hơn và âm điệu khác thường. Mụ ngủ đến khoảng mười hai giờ thì mụ thức. Suốt năm tiếng đồng hồ tra tấn lỗ nhĩ người khác, mụ dường như cũng biết. Ngáy ngủ là nguyên nhân khiến mụ ngại về quê, ngại đi xa thăm thú bà con, đền chùa hay du lịch đây đó. Mụ lấy ra từ túi xách những thứ đồ ăn đêm chuẩn bị từ nhà. Một bọc xôi đỗ to. Một con gà luộc. Hai khoanh giò lụa và cơ man nào là hoa quả. Mụ mời tha mời thiết nhưng mọi người tranh thủ lúc mụ ăn để chợp mắt nên ai cũng từ chối, kể cả lão Phính. Vì thế mà một mình mụ nhóp nhép, từ từ giải quyết con gà luộc đến lúc chỉ còn bộ xương. Ăn xong một lúc là mụ lại muốn ngủ. Mỗi cơn ngủ, tư thế ngủ là một điệu ngáy. Cái giường nhà tàu chật quá khiến các kiểu ngáy của mụ lại càng phong phú. Lần này, nhờ có mỡ gà bôi trơn mà tiếng ngáy của mụ thanh thoát hơn, đỡ khàn hơn, nhưng lại to và khí thế hơn trước. Cả khoang tàu thức trắng. Ai nấy mệt rã rời. Mười năm mà quê thay đổi nhiều quá. Nhất là con em út, nó đã có da có thịt, cũng bớt vâu, cứ nhìn anh rể tủm tỉm cười. Lão Phính ngượng nghịu trước bầy cháu hơn hai chục đứa, đứa gọi bác, đứa gọi ông, inh cả tai. Nhưng mà lão thấy không khí ở quê vui và ấm áp quá. Nó khác xa với căn nhà lạnh lẽo mà vợ chồng lão với bà mẹ già đang ở. Con em út cứ nhìn mụ, tỏ vẻ ngờ vực. Nó hỏi mụ đã khám vô sinh chưa. Mụ cười ha hả. “Dễ tôi lại đợi dì nhắc nhở chắc. Khám nhiều rồi, tứ phương rồi, uống đủ các loại thuốc ích mẫu, ích tử rồi. Họ bảo tôi không có bệnh gì sất”. “Hay là tại anh rể?”. Mụ khựng lại ngay. May mà kiềm chế được. Chẳng nhẽ lại phô ra cái thói trăng hoa của chồng. Xấu chàng hổ ai. Cứ thả lỏng cái lão Phính nhà mụ, có khéo, con khắp chợ rồi cũng nên. Con em út ra cái vẻ hiểu biết. “Khám vô sinh cho đàn ông bây giờ là phải khám nam khoa trong bệnh viện lớn ở thành phố cơ. Bá đừng có lo, không tốn kém đâu”. Mụ nổi tính sỹ diện. Khám thì khám, sợ gì không khám. Không khám nó lại bảo mình có của mà kiệt. Đằng nào mụ cũng muốn cho lão Phính biết mặt cái thành phố, chứ quan trọng nam khoa, bắc khoa gì. Năm chục rồi, không khéo họ còn cười cho. * * * Lão Phính nhà mụ bị vô sinh. Cái kết luận ấy làm mụ ngã ngồi xuống ghế, mắt hoa lên như trúng gió độc. Thế là hết hi vọng. Mấy chục năm mụ cam chịu cái tai tiếng nghiệt ngã. Gái độc không con. Nhiều lúc, muốn bước qua cái dư luận khắc nghiệt để xin ai đó một mụn con mà mụ không dám. Bây giờ, lại càng không dám. Năm chục tuổi rồi, sinh nở gì nữa. Bao nhiêu hi vọng đặt vào con mẹ hàng cơm cũng tan biến. Nó chửa với ai chứ có phải với lão Phính nhà mụ đâu? Khổ thân lão Phính, cứ trông đợi mòn mỏi. Về thôi, chơi với bời gì. Mụ chẳng còn hứng thú gì mà công viên hay bờ hồ nữa cả. Đêm ngược tàu, mụ nằm im không ngáy. Cả đêm không ngáy bận nào. Lão Phính biết vợ không ngủ. Không biết bác sỹ nói gì với nó? Hay lão có bệnh gì nguy hiểm? Người đàn bà đã không con, hiếm muộn mà lại có bát ăn bát để thì ít khi được thông cảm lắm. Thiên hạ bảo, chết chẳng mang của đi được, cũng chẳng có ai khóc, ai hương khói. Nói không có con không đúng. Mụ từng nhận ba đứa con nuôi rồi. Nhưng cứ trơn lông đỏ da là chúng biến, sau khi cuỗm đi của bố mẹ nuôi một món. Cũng tại mụ, nuôi nấng gì khi chúng đã mười lăm, mười bảy? Chúng chỉ ngọt ngào lấy lòng để mụ chu cấp tiền cho chúng thỏa mãn thôi. Bây giờ thì mụ nản rồi. Thiên hạ muốn gán cho cái tội gì cũng được. * * * Đứa hàng cơm sắp đẻ. Nó nằm ỳ ở nhà, gần như giao phó mọi việc ở quán cho chồng mụ hết. Lão Phính cũng chẳng nề hà. Có hôm còn ôm đống quần áo bẩn dơ của nó về nhà hùi hụi giặt. Lão thèm con quá rồi. Mụ biết chứ. Ấy thế, có lần lão lỡ tay đánh rơi, vỡ cái bát, nó cong tớn lên chửi. “Sau này tôi cũng chả khiến cái mặt ông nuôi nó, làm bố nó. Tôi có con tôi nuôi, ông về mà chăm cái mụ béo nhà ông”. Nó ít hơn lão Phính cả chục tuổi mà hỗn thế không biết. Nó cậy nó sắp đẻ con trai cho ông đấy mà. Nó xem bói, thầy bói bảo nó sinh quỷ tử khôi ngô, tuấn tú lắm. Lão Phính cứ hề hà qua chuyện. Bát à, chuyện nhỏ. Lão về nhà, mở hòm bưng xuống cho nó cả chục cái bát sứ Hải Dương trắng nõn. Mụ ấm ức trong lòng lắm, nhưng bỏ qua. Cốt để lão vui. Lão có vui thì cả nhà cũng mới vui được. Con của lão rồi cũng là con của mụ. Hôm đứa hàng cơm đi đẻ. Cả anh em nhà nó đuổi lão Phính về như đuổi hủi. Nó không mượn mặt lão Phính ở bệnh viện cho vướng chân. Lão Phính về nhà, tủi thân, ôm mặt khóc rưng rức. Mụ bực mình, định sổ toẹt. Nó có phải máu mủ của ông đâu mà đòi? Nhưng lại thôi. Lòng mụ cũng héo hon từng tấc chứ vui gì. Sáng hôm ấy trời cũng mưa, mưa rất to. Điện thoại nhà mụ đổ chuông. Lão Phính bật dậy, chạy ra nghe. Lão cuống quýt như bắt được vàng. “ Tôi đi đón con đây bà ạ”. Mụ cũng bổ dậy. “ Đón về nhà mình hả? Sao nó lại cho ông đón?”. Mụ vội vàng xỏ dép và vớ cái chăn băng lông nhỏ chạy theo chồng. Lão Phính thập thò ở bên ngoài. Mụ mở cửa, lách vào. Sản phụ nằm nghiêng, úp mặt vào tường, lí nhí. “ Đằng nào em cũng không có sữa, anh chị mang cháu về mà bầu bạn”. Mụ run rẩy đưa tay bồng đứa bé lên. Tiếng lão Phính hỏi vọng vào. “Con trai hay con gái đấy?”. Tiếng một bà vọng ra. “Con gái, đỏ như cái mậm giềng ấy, khỏe lắm”. Mụ bế đứa trẻ sát vào lòng mình, cho nó nhận hơi ấm từ mụ. Nhìn con bé, mụ thấy cay cay sống mũi. Lão Phính xòe ô, che cho hai mẹ con khi ra đến sân. Trên con đường mưa, lão Phính nôn nóng, kiễng chân ngó vào mặt con bé. Lão giật mình, thắc mắc. “ Sao, người ta làm thế nào mà con bé lại bị rách môi to thế?”. Mụ lườm chồng. “Ông đừng nói vậy, con nghe thấy tủi thân”. Lão Phính tay cầm ô giơ lên cao, chân líu ríu theo sát vợ con. Sa pa mùa đông 2013 Những kẻ đồng hành > Mưa ngang Nhà ngoại cảm TP - Không biết gã xuất hiện từ lúc nào. Ngay bên ngoài cửa kính băng ghế sau chiếc xe màu xám. Lúc chiếc xe thoát ra khỏi quãng đường mấp mô ổ gà lướt như bay vào khoảng không lấp lánh phản quang hạt thủy tinh mặt đường mới trải nhựa. Người đàn ông đứng tuổi có cặp mắt lơ đãng chợt nghiêng mái đầu nửa bạc nhìn ra bên ngoài. Bắt gặp một hình hài trong suốt. Cặp mắt trong suốt với đôi đồng tử tròn vo màu trắng đục. Gã mỉm cười với người đàn ông lơ đãng bên trong xe. Ngồi bên cạnh người đàn ông lơ đãng là hai cô gái. Một còn khá trẻ. Một nữa rất trẻ. Họ ăn mặc gọn gàng cho một chuyến đi xa. Quần jean xanh và áo phông màu sặc sỡ. Gương mặt trang điểm kín đáo nhưng vẫn toát lên vẻ lộng lẫy kiêu kì. Người lái xe ngồi cạnh một phụ nữ to đậm. Im lặng. Anh chăm chú quan sát con đường bắt đầu có những giao cắt bất ngờ. Vài chiếc xe máy ngập ngừng trườn qua những giao cắt không có đèn hiệu. Nỗi nguy hiểm là thường trực. Thiết kế nút giao thông hoang dã biến những người đang sống chuyển sang từ trần chỉ trong tích tắc. Phụ nữ to đậm thỉnh thoảng liếc nhìn anh trìu mến. Cặp mắt trong suốt với đôi đồng tử màu trắng đục của gã quét nhanh qua tấm gương chiếu hậu trong xe. Gã lầm bầm, họ thuộc về nhau, những kẻ đồng hành chân chính! * Băng ghế sau của chiếc Ford Escape khá rộng. Đủ chỗ cho ba người ngồi thoải mái. Thế nhưng cô gái trẻ hơn ngồi cạnh anh rất khép nép ý tứ. Khép nép cả dáng hình lẫn lời ăn tiếng nói. Và không giấu được nỗi buồn thoáng hiện trên nét môi cười. Anh chỉ được biết sơ qua về cô gái trẻ qua cô bạn ngồi phía đầu kia băng ghế. Cô gái trẻ vừa đánh đổi cuộc hôn nhân lấy một nỗi buồn chứ không được như anh chồng cũ. Với anh ta là niềm vui khôn tả khi rước thêm về nhà một bất trắc. Anh buột miệng, không bao giờ tưởng tượng ra đàn ông có nhiều người tăm tối đến thế, tưởng bỏ vợ để làm gì? Và biết ngay là mình sơ suất. Đã nhiều lần như thế. Không nhiều lắm đàn bà thích nghe câu ấy. Nhất là phụ nữ đơn thân. Mà ngay cạnh anh thì ít nhất có hơn một người. Rất có thể là ba. Nhưng lời đã thốt ra rồi. Ở chỗ này thì Chúa trời chưa hẳn đúng khi nói “Khởi thủy là lời”. Câu nói của anh có vẻ mang ý nghĩa bắt đầu cho một kết thúc. Anh kín đáo đưa mắt nhìn sang cô bạn đầu ghế bên kia. Cô ấy cố giấu vẻ không hài lòng. Mà hình như không chỉ mình cô ấy. Anh phát hiện ra một gương mặt lờ mờ hắc ám khác bên ngoài cửa kính. Cũng trong veo hai tròng mắt với đôi đồng tử màu trắng đục. Cái nhìn nghiêm khắc đầy hồ nghi hướng về phía cô bạn. Và hướng về anh. Mái tóc bồng bềnh nhẹ tênh như một làn khói. Lan man trôi… Hai mươi năm trước cũng vào mùa này nàng từ Sài Gòn ra thăm Hà Nội. Nhí nhảnh tươi vui. Hình như nàng mang theo cả bời bời nắng gió miền Nam trên gương mặt rạng rỡ. Nó trái ngược hẳn với mọi người xung quanh. Hà Nội lúc ấy trầm tư ngỡ ngàng vừa thoát ra khỏi vũng lầy mấy chục năm tem phiếu. Nụ cười trên môi người còn chưa đủ dài để sẻ chia. Gương mặt rạng ngời của nàng khiến anh rạo rực. Phải che giấu nó bằng một nụ cười gượng gạo dài hơn bình thường. Anh đoán lúc ấy nàng nhìn anh bằng con mắt khá thương hại. Một kẻ nghèo nàn từ áo quần nhôm nhoam mặc trên người cho đến gương mặt bần thần lưỡng lự. Anh đã không chuẩn bị gì cho một gặp gỡ Chẳng biết cái huyên náo nhí nhảnh của nàng đã kéo anh ra khỏi tâm trạng trầm uất ấy từ lúc nào. Buổi chiều nắng đẹp, anh chở nàng bằng chiếc xe máy cũ kĩ lang thang khắp phố phường Hà Nội. Điều mà anh chưa bao giờ cho phép mình làm ở cái thành phố người ta quen nhau khắp lượt này. Lúc ấy thành phố còn chưa đông đúc dù rằng dân phố luôn có mặt ngoài đường. Họ lùng sục khắp mọi ngõ ngách cố gắng kiếm tìm cho ra cơ hội của mình khi không còn có thể bấu víu vào đồng lương nhà nước nữa. Ra đường chạm mặt nhau cành cạch. Cười gượng và gật đầu chào nhau đầy ý tứ. Họ cũng có nỗi xấu hổ như mình. Cái vẻ điềm nhiên ngạo nghễ của công chức ăn lương vài năm trước đã bất ngờ biến mất. Bộ mặt của kinh tế thị trường bắt đầu rụt rè ló ra rất thảm hại. Lần đầu tiên nó được công khai. Trước đấy vài năm công chức làm thêm thường giấu giếm rất kĩ trong ngôi nhà của mình. Dán hộp, in hóa đơn, quấn thuốc lá, dệt len, gấp sách thuê, dán túi nilon và luồn chun quần đùi cho bộ đội hậu cần. Những con phố cổ vắng người luồn lách dưới tán cây mát rượi. Anh tăng tốc cho xe chạy nhanh dưới những hàng cây chói nắng. Những Hàng Ngang, Hàng Đào đông đúc bán mua. Những chợ quần áo họp tràn ra con đường thông từ Hàng Đào sang Đinh Lễ. Chẳng ai để ý đến ai. Những nơi ấy khá an toàn trong một thành phố người ta gìn giữ sự thủy chung một cách lạ lùng. Giữ cho mình và giữ hộ người khác. Một ai đó trông thấy anh cùng với cô gái lạ hẳn sẽ là đề tài thảo luận cho đến khi nó lọt vào tai người không muốn nghe nhất. Quán cà phê Nhĩ trên đầu phố Hàng Cá đông khách cả vào buổi chiều. Xe cộ bày ngổn ngang chiếm hết vỉa hè. Anh và nàng tìm một góc khuất ngồi bên trong quán. Cà phê đựng trong cốc thủy tinh lớn bưng ra đặt xẵng xuống mặt bàn. Người phục vụ tỉnh bơ như vừa quẳng xong cái trách nhiệm hời hợt ra khỏi tay mình quay ngoắt vào nhà trong. Những nét thanh lịch đầu tiên ở thành phố này biến mất như thế. Nàng đã rất ngạc nhiên về cách phục vụ ở quán cà phê Hà Nội. Anh mỉm cười bấm khẽ bàn tay nàng. Đó là đụng chạm đầu tiên và duy nhất cho đến tận lúc ra về. Một cơn mưa lớn bất ngờ kéo đến. Hai đứa lướt thướt dưới ồn ào tiếng mưa và những bóng người thoăn thoắt trên mặt đường ngập nước. Chiếc áo trắng bó sát thân hình của nàng khiến nhiều cặp mắt dửng dưng Hà Nội bị hút vào. Mái tóc đẫm nước nhỏ thành vệt dài trên gương mặt bất chợt hồng lên kiêu hãnh làm anh nhớ quá những cơn mưa Sài Gòn. Áo trắng dính sát thịt da những thiếu nữ hừng hực thanh xuân. Một vô tình đầy ý nhị ở thành phố đông đảo ồn ã nhất nước ấy như là một dấu lặng êm đềm trên nền mưa bất tận. Và bây giờ thì dấu lặng ấy ở bên anh thật gần. Và cũng rất xa… Cuộc hẹn ngày hôm sau của anh và nàng bất thành. Anh đã chuẩn bị một bộ quần áo tươm tất để chuộc lỗi chiều hôm trước quá luộm thuộm bên nàng. Thực ra thì anh cũng không chắc lắm liệu bộ quần áo tươm tất này có còn làm cho nàng nổi bật như chiều hôm qua nữa không? Nhưng nàng đã khéo léo từ chối. Phải rất lâu sau anh mới biết nguyên nhân. Buổi chiều cùng nàng tung tăng trên phố đã kịp trở thành một đề tài thảo luận của những người anh quen biết. Nó đã chẳng khó khăn gì tìm đến tai vài người đàn bà không thích nghe. Anh thẫn thờ rời khỏi khách sạn nơi nàng ở. Bắt đầu có cái cảm giác vướng víu quanh mình của một kẻ đồng hành không rõ mặt. Nó ẩn hiện trong tiềm thức và có mặt vào đúng những lúc không mong muốn. * Hai mươi năm sau, cuộc hẹn mới được thực hiện. Nàng tìm được số liên lạc gọi anh vào một buổi sáng. Xin lỗi có phải số máy của anh T? Giọng phụ nữ miền Nam lơ lớ pha trộn âm sắc Bắc không thể lẫn vào đâu được khiến anh giật mình ấp úng, dạ vâng tôi nghe! - Em N đây, chắc anh không còn nhớ nữa rồi! Anh cố trấn tĩnh khẽ cười trong máy, làm sao có thể quên được, tôi hoàn toàn không có tin tức gì về em mà thôi! - Vậy thì anh sắp nhận được tin rồi, em sẽ ra Hà Nội chơi vào tháng chín! - Hay quá, cụ thể là ngày nào đi để tôi đón?Anh hấp tấp. - Không những đón mà còn phải đưa em đi chơi xa nữa đấy! Nàng khúc khích cười, nhưng liệu có phiền gì cho anh không? Phiền ư? Anh giật mình kiểm soát lại tất cả những phiền nhiễu có thể xảy ra vào lúc này và quả quyết, bây giờ thì còn ai có thể làm phiền tôi được nữa! - Thế thì đúng ngày… em ra và anh chuẩn bị một chuyến đi lên miền núi được không. Em chưa biết gì nhiều về những thửa ruộng bậc thang trên ấy! - Anh đùa, tưởng em đòi đến thăm các “cán bộ lão thành” thì tôi còn phân vân chứ miền núi khó gì! - Lão thành nào vậy anh? - Thì những người em gặp hai mươi năm trước bây giờ chẳng đã lão thành cả rồi ư. Trong số đó có cả tôi nữa đấy! - Không đâu, em đã xem ảnh anh đầy trên mạng rồi. Đừng nói thế chứ! Và bây giờ là trên chiếc xe khỏe khoắn đang phăm phăm nuốt trọn con đường ngược lên miền núi rừng phía bắc. Băng ghế sau có ba người ngồi. Anh và hai cô gái. Một còn trẻ và một nữa rất trẻ. Và hai kẻ đồng hành vướng vất bên ngoài cửa kính. Buổi trưa, lúc vừa đến đón nàng ở khách sạn anh đã hơi ngờ ngợ việc xuất hiện của cô gái trẻ. Liệu cô ấy có nằm trong một tính toán an toàn nào đó của nàng? Một tính toán được rút kinh nghiệm từ lần gặp gỡ hai mươi năm trước. Nhưng nếu quả thật nàng tính toán như thế thì sẽ tìm ra đáp số ngược lại. Tuổi như anh ở thành phố này dưới con mắt của vài nhà đạo đức học là chưa hề suy giảm độ nguy hiểm. Hành trình cùng với hai cô gái đi đến một miền xa lắc sẽ là một câu chuyện đàm tiếu ít nhất dài gấp hai lần. Dù nàng đã cố tình ngồi lên xe cách anh cả một trẻ đẹp nhu mì thì hình ảnh mà hai kẻ đồng hành lẩn khuất bên ngoài cửa kính trông vào cũng vẫn thế. Ngồi cạnh một cô gái trẻ trung xinh đẹp vừa gặp lần đầu lại trong một chuyến đi xa khiến anh muôn phần lóng ngóng. Chẳng biết cất toàn bộ số chân tay của mình vào đâu. Cô gái cũng vô cùng khổ sở vì cái dáng ngồi ngay ngắn khép nép suốt vài trăm cây số. Và chuyện trò với anh thì cũng lễnh loãng chỉ ở mức thăm hỏi và nói về những người quen mà cả hai đều biết. Hà Nội về một nghĩa nào đó không nhiều người lắm. Những người cô gái quen thì anh đều biết cả. Vài người còn là bạn thân của anh từ nhỏ. Anh kể cho cô gái nghe một thôi một hồi về những quen biết ấy. Tự rất lấy làm ngạc nhiên vì sao mình lại kể ra những chuyện như thế. Nếu như chỉ mình anh và cô gái trẻ trên xe có lẽ câu chuyện đã rất khác. Chưa bao giờ anh bỏ lỡ một cơ hội mười mươi như thế. Anh gần như không chuyện trò với nàng suốt trên quãng đường dài. Không hẳn vì cách bức. Cũng không phải là không có chuyện gì để nói. Anh biết. Chỉ gợi lại một chi tiết nhỏ trong cuộc gặp gỡ hai mươi năm trước thôi cũng đủ để chuyện trò với nàng vài tiếng đồng hồ. Và nếu kể câu chuyện của hai mươi năm thì có lẽ phải cần đến nhiều tháng. Nhưng hình như nàng cũng nhận thấy sự có mặt của những kẻ đồng hành không mong muốn. Chúng như từng bước theo sát anh và nàng hòng ngăn chặn tất cả những gì muốn quay về với quá khứ. Một quá khứ mà cả anh và nàng đều biết chắc sẽ là con đường dẫn đến đâu. Tối mịt, xe đến thị trấn nhỏ Bắc Quang - Hà Giang. Phải dừng lại ăn tối và tìm khách sạn ngủ qua đêm. Quãng đường đi lên Hoàng Su Phì chỉ còn gần trăm cây số nhưng là cung đường rất nguy hiểm không thể chạy xuyên đêm. Người lái xe bạn anh pha trò, thì chỉ đi chơi thôi chứ tất cả những hẹn hò đều đã có mặt ở trên xe cả rồi, tội gì đi đêm cho vất vả! Nàng liếc anh mỉm cười như trách móc. Anh thấy mình thật tệ. Nhất là trong lúc này. Khách sạn Hướng Dương nằm trong một con ngõ rộng. Là nơi duy nhất trong thị trấn có ánh đèn diêm dúa sáng. Khoảnh sân rộng đủ cho hàng chục ô tô đậu lại nghỉ đêm. Khi anh vào đến nơi toàn bộ phòng khách thênh thang vắng hoe. Bộ bàn ghế giả cổ tay ngai to như bắp đùi trẻ em nằm ngay ngoài sảnh tranh tối tranh sáng căn nhà ba tầng. Đó cũng là lần đầu tiên trong đời anh nhìn thấy một khách sảnh có ri-đô che ra hướng mặt sân. Căn bệnh ri-đô đã có lần lan vào Hà Nội. Chẳng biết để gìn giữ nét thanh lịch cũ hay là phá hoại nó nữa. Nhà cũ trong phố ngăn ri-đô cho vài gia đình chung sống. Ô tô chạy trên phố cũng kéo ri-đô kính hậu. Cửa đi cửa sổ những căn nhà mới xây trong phố đều treo những tấm ri-đô đủ kiểu đủ màu. Phòng khách ri-đô, phòng ngủ ri-đô, phòng làm việc cũng ri-đô. Cuối cùng thì người Hà Nội cũng nhận ra sự cần thiết của tấm ri-đô không tương xứng với những phiền hà mà nó gây ra. Nhất là vào mùa xuân ẩm ướt mưa phùn. Nhiều tấm ri-đô cứ như dụng cụ để trồng nấm mốc. Cuối cùng thì người Hà Nội cũng nhận ra rằng chỉ có một nơi duy nhất trong thành phố cần đến ri-đô mà thôi. Nhà nghỉ. Nhưng những nơi ấy phòng khách chỉ là chỗ để dựng xe máy quay đầu ra ngoài. Xe máy tự che giấu thân phận của nó. Chưa bao giờ cần đến ri-đô. Bà chủ khách sạn nửa nằm nửa ngồi trên bộ cánh phản dưới hiên khu bếp giới thiệu những món ăn mà họ có thể chuẩn bị ngay. Theo thói quen của những lần xa nhà anh vào bếp xem xét. Nhưng việc lựa chọn món ăn của anh hôm nay là hơi thừa. Nhà bếp cũng chỉ còn vài món đạm bạc và một con gà sống nằm trong danh sách dự trữ. Anh gọi cá suối rán, rau luộc, trứng rán và dĩ nhiên gà luộc. Con gà dự trữ oác oác lên mấy tiếng cuối cùng ngoài sân. Tiếng cánh đập phành phạch lịm tắt dần. Anh lôi chai rượu whisky trong cốp xe ra bàn ăn. Nàng xách theo bình rượu vang chát. Bữa tối nhẩn nha sau một ngày thấm mệt không huyên náo như anh mong muốn dù đã uống năm sáu li rượu mạnh liền tù tì. Bạn anh không uống. Nàng nhấm nháp uể oải li vang đỏ. Cô gái trẻ hình như say xe chỉ dám uống soda. Người đàn bà to béo tập trung vào các món ăn nhiều hơn. Cô ấy không mấy quan tâm đến rượu. Món ăn dân dã anh tưởng rằng sẽ rất khoái khẩu với dân phố mà không phải. Cá rán không đủ giòn xương gai sắc lẻm. Thịt gà dai ngoách tay giằng chân đạp toát mồ hôi. Khoảng cách giữa mọi người dường như rộng ra thêm khi bữa ăn kết thúc. Người phục vụ dẫn anh và các bạn lên tầng hai. Không khó để nhận ra tình trạng duy nhất có thể đến với anh lúc này. Một mình anh một phòng. Dĩ nhiên thế. Nhưng anh vẫn đùa nàng, kể ra thì ba người chúng ta cũng chỉ cần một phòng là đủ! Nàng cũng gượng cười đùa lại, anh muốn chúng em bất hòa là hơi khó đấy! Một mình trong căn phòng rộng. Dĩ nhiên rèm cửa màu xanh da trời. Dĩ nhiên tủ lạnh trống không han rỉ. Dĩ nhiên TV kĩ thuật số chỉ xem được vài kênh rất chán. Dĩ nhiên màn tuyn thêu ren hoa hoét buông sẵn chỉ còn có việc kéo cửa màn khép nốt lại là có ngay một giấc ngủ an toàn. Chiếc tủ gỗ ép ọp ẹp long cánh bày trong căn phòng giữa vùng núi rừng bạt ngàn như một lời than ai oán. Khái niệm cho một nhà nghỉ phố huyện luôn là thế. Chẳng thể đòi hỏi gì hơn. Anh cởi bộ quần áo đi đường vứt bừa ngay lên chiếc ghế sắt độc nhất trong phòng. Chẳng cần phải tắt đèn. Tấm rèm cửa sổ màu xanh da trời lỗ chỗ vết thủng là thứ hoàn toàn không cần đến việc kéo nó lại. Anh ngả người lên tấm đệm có khăn trải trước đây đã từng trắng. Ngước nhìn lên trần nhà loang lổ vết ố như ngấm nước đái trẻ con ở những khu nhà tập thể thành phố. Cơn buồn ngủ kéo đến rất nhanh. Anh chỉ còn kịp mỉm cười khi nhận ra tình cảnh hài hước của mình. Vượt quãng đường ba trăm cây số chỉ để lên đây ngắm cái trần nhà! * Buổi sáng, anh thức dậy vào lúc năm giờ. Ra hành lang nhìn lên bầu trời ảm đạm. Những tảng mây lớn ùn ùn băng qua khoảng trời trước sân báo hiệu một ngày mưa dai dẳng. Những chân ruộng bậc thang nhìn qua cửa kính xe buổi chiều hôm qua chỉ còn trơ gốc rạ. Lúa đã chín trước khi anh có mặt vài tuần. Dự định chụp lại phong cảnh vàng rực trên ruộng bậc thang của anh kể như đã thất bại. Nhưng với nàng thì đó vẫn là những cảnh đẹp chưa từng biết đến. Dù mưa thì cũng phải cố vào đến tận nơi chụp ảnh Ăn sáng xong, bạn anh cho xe chạy một mạch thẳng lên con đường hiểm trở bậc nhất đất nước dẫn vào huyện Hoàng Su Phì. Mưa òa xuống mịt mù. Núi chìm trong mây khuất mặt. Chỉ thỉnh thoảng rộng ra một khoảng trời sũng nước mông lung. Chiếc xe phiêu phưởng như không chạm đất. Bạn anh dù là một tay lái lão luyện cũng không dám cho xe chạy quá bốn mươi cây số giờ. Những vòng cua tay áo thót ruột liên tục lúc lên đèo. Nhưng cái phong cảnh thần tiên ấy hoàn toàn chinh phục được nàng. Khiến nàng ngạc nhiên trầm trồ không dứt. Anh nhìn sang chỗ nàng và phát hiện ra nhiều nét thân quen của hai mươi năm trước. Trẻ trung. Dạn dĩ. Hạnh phúc ngập tràn xóa đi khá nhiều những dấu vết của tháng năm trên gương mặt. Và bóng dáng của kẻ đồng hành bên phía nàng ngồi lại bất giác hiện hình… Nàng lấy chiếc máy ảnh lớn ra bấm liên hồi ở những chỗ dừng chân. Anh dùng máy của mình chụp cho nàng những tấm chân dung trước cảnh núi non trùng điệp. Cho đến lúc chiếc xe chui sâu vào vùng sương mù đỉnh đèo. Chỉ còn nhận ra cảnh vật không quá bốn mét trước mặt. Đốm đèn vàng của những chiếc xe đi ngược chiều đặc quánh tưởng có thể cầm lên được. Rất may, qua hết đỉnh đèo trời chợt hửng nắng. Có thể chụp ảnh những thửa ruộng bậc thang còn sót lại vài đám lúa vàng chói trong thung lũng tím. Những đám cỏ lau non hồng nhạt phất phơ hoang vắng bên con đường hun hút ngoằn ngoèo. Thế cũng là quá đủ cho một mong muốn vào lúc này. Anh biết. Chuyến đi sẽ kết thúc ở đây. Chẳng cần phải kéo dài nó ra làm gì. Thêm một đêm nữa nằm trong khách sạn huyện trên hai chiếc giường chỉ cách nhau mười xăng-ti-met. Bằng đúng độ dàycủa bức vách ngăn phòng. Anh có thể vượt qua nó dễ dàng. Nhưng cặp mắt của những kẻ đồng hành mới là hố sâu ngăn cách không thể vượt qua. Ở lứa tuổi của anh và nàng. * Hai mươi năm nữa. Nếu quả thực còn có hai mươi năm dành cho một gặp gỡ. Anh cũng biết rằng sẽ chỉ gặp nàng qua điện thoại. Nói vài câu với nàng đại loại như, em phó phẻ phông? Anh phẫn phình phường! (Em có khỏe không? Anh vẫn bình thường). Thế cũng là may mắn lắm rồi. Ông nội chết rồi Ba giờ sáng một ngày mùa hè, cậu trai mười bảy tuổi Đạt Đít Đỏ viết lên tường nhà mình: “Ông nội chết rồi. Mừng quá!” rồi nằm vật xuống giường ngủ thẳng cẳng mà không hề hay biết rằng chỉ mười lăm phút sau trang Mương Bà Tám đã đăng ngay bài báo điện tử Đắng lòng nam sinh trường X. vui mừng trước cái chết của người thân. Công nghệ làm báo online đơn giản lắm, chỉ cần chụp lại status trên Facebook của Đạt Đít Đỏ rồi click vào phần thông tin cá nhân á à mày mới học cấp ba một trường danh tiếng ở Sài Gòn chết mày rồi chú em thế là a lê hấp có ngay một bài năm trăm chữ ngắn thôi bày tỏ sự quan ngại sâu sắc trước tình hình xuống cấp về mặt đạo đức của giới trẻ ngày nay. Đúng như tay phóng viên dự đoán, chưa đầy bốn tiếng sau bài báo đã nhận được một ngàn lẻ một lượt like và hơn trăm comment ném đá Đạt Đít Đỏ không thương tiếc. Có thể kể đến như đờ mờ thằng này là khỉ chớ hổng phải người hay như ông sống khôn thác thiêng tối nay ông hiện hồn về bóp cổ nó cho cháu, cháu cám ơn ông. Ngay lập tức, năm mươi trang báo mạng khác thi nhau hóng hớt xào xáo và bàn tán không ngớt về Đạt Đít Đỏ. *** Tám giờ sáng, nạn nhân của chúng ta còn đang ngon giấc thì điện thoại di động bỗng rung dồn dập kêu tới tấp hàng loạt tin nhắn. Mở màn là bạn gái, em không ngờ anh lại là người như vậy đau lòng quá mình chia tay đi rồi mới tới đám bạn thân thằng chó dậy mau lên Mương Bà Tám coi tụi nó viết gì kìa mày nổi tiếng rồi đó. Đạt mắt nhắm mắt mở đọc tin nhắn của bạn gái rồi chửi thầm con điên lại ghen tuông vớ vẩn nữa rồi ông là ông sắp hết kiên nhẫn với mày rồi nhá rồi chuyển sang đọc tin nhắn của thằng bạn thân. Đạt bật dậy ngay trước hung tin mở ngay máy tính vào ngay muongbatam.vn đọc ngay bài viết về mình cùng tất cả comment. Bọn này ném đá không đều chỉ vài đứa hung hăng thật sự lũ còn lại chỉ được cái a dua, cậu nghĩ vậy rồi cười nhếch mép rồi khóa Facebook rồi nhấn nút gọi cho bạn gái khoảng chục cuộc nhưng điện thoại không liên lạc được ok mình chia tay. Từ mười giờ sáng đến chín giờ tối hôm đó, Đạt thong thả đứng bên cạnh quan tài của ông nội với nhiệm vụ thắp nhang đưa cho từng đoàn người tấp nập đi viếng ông kiêm cất bao thư vào cái túi bao tử đeo bên hông. Hết khách, cậu đem tiền lên phòng chép lại vào một cuốn sổ tay đã chia sẵn hai cột họ là ai và nếu vậy thì bao nhiêu và không quên giếm lại vài cái phong bì chất lượng hảo hạng đề tên học trò của ông mà cậu tin rằng bố mẹ không quen biết. Khi cậu trao khoản tiền phúng viếng tận tay mẹ cậu, mẹ cậu ấn tượng với con số tới mức không chút nghi ngờ. Mẹ cậu khen ngay rằng con trai mẹ giỏi toán thiệt giống ông nội hết sức khiến cậu tiếc rẻ biết vậy đã tỉa nhiều hơn và âm thầm rút kinh nghiệm cho mấy ngày sau. Đạt về phòng tắm táp rồi vừa gặm bánh mì nem nướng cậu vừa online để coi thiên hạ chửi bới cày xới gì mình. Ái chà Mương Bà Tám vừa mới đăng bài phỏng vấn một tiến sĩ tâm lý về vấn đề nên xử sự thế nào trước cái chết của người thân, bài báo khá chán nên mới chỉ có vài ba lượt like và một comment rất xúc động hồi bà em mất em đã khóc hết nước mắt em nhớ mãi cái hôm em nhổ tóc sâu cho bà em hỏi tại sao tóc sâu trên đầu bà nhổ xuống rồi nhìn cứ như lông chó, bà nghe em hỏi mà cười sặc sụa giờ đi đâu hễ thấy lông chó là em lại nhớ bà và em lại khóc khóc khóc hoài... Khi Đạt mở trang web yêu thích haivn.com để xem các thể loại ảnh vui clip hài, cậu hơi sững sờ trước loạt ảnh chế ai đó đã photoshop tấm ảnh avatar cậu đứng cười trước biển Việt Nam thành cậu đứng cười trước cảnh lũ lụt ở Thái Lan, động đất ở Nhật Bản, sóng thần ở Indonesia cùng nhiều thiên tai thảm họa khác. Ghép ảnh cũng được lắm hiệu ứng tương phản tốt cậu vừa tấm tắc khen vừa rê chuột xuống phía dưới đọc một lượt hết tất cả các comment không có gì mới mẻ cậu thất vọng tắt máy tính búng lên giường ngáy khẩn trương. *** Chiều hôm sau, lớp trưởng lớp phó học tập cùng mấy đứa bạn thân và không thân đại diện cả lớp tới viếng ông nội Đạt. Sau khi thắp nhang, cả đám ngồi vào bàn vừa uống trà nóng cắn hột dưa vừa tỏ vẻ choáng ngợp trước số lượng vòng hoa đặt rải rác khắp nhà. Một đứa đại diện hỏi thăm: - Ông nội mày làm gì vậy? Tao thấy quá trời vòng hoa của các trường đại học. - Ờ, ông nội tao là phó giáo sư - Đạt trả lời ngắn gọn. - Đào Đỏng Đảnh qua chưa? - Tụi tao chia tay rồi. - Sao vậy? - Tại cái status trên Facebook. - Ừm... Bộ ông nội mày chết mày mừng lắm hả Đạt? - Ờ. Tối hôm đó, Đạt online thấy Mương Bà Tám giật tít Ông nội của “nam sinh bất hiếu” là phó giáo sư đại học S. Cậu vừa đờ mờ không ngờ trong lớp có nội gián vừa đọc bài viết ca ngợi ông nội cậu lên tận mây xanh rằng ông từng là phó giáo sư đại học S. là trùm đại số đồng điều của miền Nam sau khi cơn đột quỵ quật ông liệt nửa người ông vẫn tận tình hướng dẫn cho hai sinh viên đại học, ba học viên cao học hoàn thành khóa luận tốt nghiệp luận văn thạc sĩ rồi đột ngột kết luận thật đau lòng khi một con người toàn tâm toàn tài như ông lại gián tiếp sinh ra một thằng cháu bất hiếu dám vui mừng trước cái chết của ông nội rồi thì ông yên tâm chúng cháu nhất định sẽ đòi lại công bằng cho ông trước mắt chúng cháu vừa nhận được tin bạn gái của nó đã chủ động chia tay nó vì quá xấu hổ rồi ông ạ. Chuyện này đã đi quá xa, Đạt nghĩ, ban đầu mình chỉ muốn biết cảm giác bị cộng đồng mạng ném đá nó thế nào té ra cũng bình thường nhưng mình không ngờ chuyện này lại đi quá xa một cách quá nhanh như vậy ngày mai mà báo đăng tin dám không có ai tới viếng ông nội nữa, dám ba mẹ cạo đầu mình lắm. Thôi đã tới lúc tự minh oan rồi nghĩ vậy cậu liền đăng nhập Facebook và viết một cái status như sau: Gửi ai đó muốn đọc Nói chung là tôi rất bất ngờ khi hai hôm nay status “Ông nội chết rồi. Mừng quá!” của tôi lại nhận được phản hồi mạnh mẽ từ cộng đồng mạng như vậy. Trước tiên, chắc tôi phải gửi lời cảm ơn chân thành tới phóng viên P. Đ. và trang muongbatam.vn vì đã có công loan truyền tin tức rất nhanh chóng và hiệu quả. Sau nữa, tôi tha thiết cảm ơn trang haivn.com vì đã có công chế ảnh tôi rất sinh động và hài hước. Cuối cùng, tôi đặc biệt cảm ơn tất cả các bạn trẻ trên toàn lãnh thổ Việt Nam vì đã có công đọc báo, share ảnh và comment ném đá tôi rất sôi động và nhiệt tình. Nhưng tôi phải nói thật là các bạn thật là lố bịch! Các bạn tự cho mình cái quyền phán xét tôi trong khi các bạn chả là gì và chả hiểu gì về tôi cả. Để tôi nói cho các bạn nghe, các bạn chửi tôi là thằng cháu bất hiếu, nhưng các bạn có biết tôi là thằng cháu duy nhất ngày nào cũng ngồi nói chuyện với ông nội về toán học, về cuộc đời suốt bao ngày tháng ông nằm liệt giường sau cơn đột quỵ không? (Các bạn có nhận ra sau gần một năm đàm đạo với ông nội tôi nói chuyện cứ như ông cụ non không?). Mà thôi, chả cần nói nhiều, các bạn phán xét tôi vì hai chữ “Mừng quá!” chứ gì? Để tôi nói cho mà biết, gia đình tôi theo đạo Thiên Chúa, ông nội tôi lúc nào cũng tin rằng Chúa muốn ông nằm một chỗ mà nhìn nhận và sám hối tội lỗi của mình để có thể lên thiên đàng ngay sau khi chết. Giờ thì ông nội tôi đã chết và được lên thiên đàng. Tôi tin như vậy và tôi mừng cho ông. Điều đó là đúng hay sai? Cuối cùng, thông qua chuyện này, tôi chỉ hi vọng rằng các bạn trẻ trên toàn lãnh thổ Việt Nam hãy lo hoàn thiện bản thân mình, đừng vội vàng phán xét người khác chỉ vì một bài báo, đừng để bị truyền thông dắt mũi như trâu. Thân mến. Mười phút sau, một thằng Đại Đầu Đá nào đó bê nguyên status của Đạt Đít Đỏ lên haivn.com đặt tựa đề Theo đạo Thiên Chúa thì có thể mừng vì ông nội chết không quên thòng thêm một câu “Chó nó tin, phải không các thím?”. Tội nghiệp thằng đầu đá ngu mà lì dám đụng chạm đến niềm tin tôn giáo ngay lập tức hứng chịu hàng trăm comment của bầy chiên online sạch tội ném đá thẳng tay. Ảo diệu hơn, trang haivn.com ngay lập tức bị một hacker mũ xám làm cho ngưng hoạt động. Ai vào trang haivn.com vào thời điểm đó sẽ bắt gặp ngay một giao diện hoàn toàn mới gồm hình ảnh Chúa Jesus đứng dang tay chiếu hào quang lấp lánh, dưới chân Chúa một dòng chữ cố định Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm. Rút kinh nghiệm từ trang web bạn, muongbatam.vn lập tức đăng tải status mới của Đạt, tất nhiên ả biên tập viên đã nhanh tay cắt bỏ câu đừng để bị truyền thông dắt mũi như trâu kèm một lời xin lỗi chân thành tới Đạt Đít Đỏ và lời nhắn nhủ hỡi cộng đồng mạng nếu các bạn còn có lương tri hãy ngừng ném đá chàng trai hiếu thảo ngay đi. Có lẽ thấy vậy là chưa đủ, tay phóng viên P. Đ. tiếp tục chữa thẹn bằng một bài phỏng vấn nóng hổi Đào Đỏng Đảnh qua điện thoại. Cô bạn khóc lóc nghẹn ngào vì đã hiểu lầm bạn trai và xin hứa sáng mai sẽ chạy vù qua đám tang để làm lành. Đạt Đít Đỏ đọc tới đó thì rú lên kinh hãi lật đật gọi ngay cho Đào Đỏng Đảnh tao với mày chia tay rồi nhá tao cũng hết yêu mày lâu rồi. Mày nói cái gì Đào điên tiết hỏi lại nhìn mày ẽo ợt như thằng gay bà yêu giùm cho mà còn vô ơn. Vâng cháu cám ơn bà Đạt giả giọng nhão nhẹt thôi cháu gay thì cháu chịu cháu không dám làm phiền bà nữa. Á à cứ chờ đó mày không yên với bà đâu. Đào cúp máy gọi ngay cho P. Đ. anh ơi em báo anh một tin sốt dẻo thằng Đạt Đít Đỏ nó bị gay anh ạ bấy lâu nay nó coi em như bức bình phong thôi hu hu. Thôi anh xin cô tay phóng viên trả lời anh chả dám tin bất cứ tin gì liên quan đến thằng đó nữa đâu sếp vừa mắng anh một trận kinh thiên động địa đây này sếp dọa thêm một vụ nữa là mất việc cái công việc ba trăm sáu mươi lăm triệu một năm của anh đó anh chả dại dây vào nó nữa đâu hu hu. *** Về phần mình, Đạt lặng lẽ đứng đưa nhang và âm thầm bòn rút tiền phúng viếng thêm ba hôm nữa thì kiếm được năm triệu đồng và bắt đầu nghĩ tới chuyến du lịch Nha Trang trong lúc theo đoàn người đưa ông nội tới nhà hỏa táng. Những ngày trò chuyện với ông nội bên giường bệnh, Đạt vẫn hay nghe ông nhắc về cầu Xóm Bóng. Đó là nơi ông nội gặp bà nội lần đầu tiên. Con cá loay hoay 01/12/2013 08:36 (GMT + 7) TT - Vợ dặn: “Trên đường đi anh ghé chợ mua con cá!”, tiếng thằng con léo nhéo, anh chỉ kịp nghe loáng thoáng “nấu chua”. Món canh chua, dù vợ không dặn chi tiết song anh khá tự tin, anh rành sáu câu nó cần những thứ gia vị gì. Nhà anh một tuần ăn mấy bữa canh chua, chả phải giàu có hay thích thú gì, chẳng qua nó chua chua dễ đưa cơm. Mấy thau cá xếp hàng cạnh nhau, những con cá giống hệt nhau, da trơn, màu bạc, mồm ngoạc rộng có râu nhưng lại mang những cái tên rất khác, tra, hú, bông lau, ba sa... Anh chỉ thấy chúng bằng những khoanh, những khúc xếp trên đĩa, có thêm ít cọng bạc hà, mấy cọng giá, lát thơm... Bà bán cá nhiệt tình tư vấn cho anh muốn nấu chua thì chọn cá hú, muốn kho thì lấy cá bông lau, và túm lại một câu, cá gì cũng ngon hết (!). Anh chỉ con cá có đôi râu rất dài, nước da trắng bóng, mình trơn nhẵn khỏe mạnh. Bốp một cái, bà bán cá nện cho nó một cú trời giáng, con cá nằm ngay đơ. Thế là xoẹt, xoẹt, máu văng ra, anh lùi lại mấy bước, ngửi mùi máu tanh nồng. Một chiếc xe máy cà tàng chỉ còn trơ khung sắt chở hai cái thùng khá to sầm sầm tiến lại. Cầm lái là cậu thanh niên không mặc áo lại đeo khẩu trang, cậu ta phanh gấp nên cái xe chao nghiêng sang bên. Hai cái thùng to và nặng nên cậu ta không thể chống chân, phải khuỵu xuống. Cả xe lẫn thùng từ từ đổ. Trong thùng, những con cá da trơn lách mình nhao ra đường, chúng hiên ngang trườn, quẫy tìm cách thoát thân. Thằng con anh mở to mắt nhìn, miếng bánh mì gặm dở đưa tới miệng bị đông cứng ở đó. Chắc chưa khi nào nó thấy nhiều cá thế. Cậu trai vơ quàng vơ xiên, hất từng con cá vào thùng. Thằng con bỗng nhìn anh bối rối. Anh vẫn dạy nó phải biết giúp đỡ người khác, đây phải chăng là lúc anh cho nó thấy việc anh làm đi đôi với điều anh nói. Với trẻ con, không gì thiết thực bằng hành động. Anh nhớ có lần nó đã viết một bài văn nói bố là người nó ngưỡng mộ nhất vì bố chăm chỉ. Nó kể bố nó biết nấu ăn, biết quét nhà và còn biết... đổ bô cho em. Trẻ con luôn là tờ giấy trắng chờ người lớn viết lên đó từng dòng. Anh dựng chân chống, xuống xe, rút chìa khóa bỏ túi. Nhớm bước, nghĩ sao anh lại quay người bồng luôn thằng bé xuống đất. Lũ cá thật khỏe, chúng trườn cả lên đôi giày của anh, để lại những vệt nước nhớt nhợt. Mùi tanh cá ùa lên. Bị lùa quay lại, chúng càng oằn mình tìm hướng thoát xa. Anh như nhìn thấy vẻ quyết tâm tìm đường sống hiện lên trong từng đôi mắt cá. Có tiếng rú ga rất gần anh. Anh giật mình quay lại, thấy cái xe máy của mình đang chạy về hướng xa dần. Mà người cưỡi trên nó, chết tiệt, không phải là anh. Anh hô: “Cướp! Cướp!”. Con trai anh sau phút kinh hoàng chợt òa khóc. Anh nhảy qua đám cá trơn nhẫy để đến gần con. Thằng bé vô cùng sợ hãi. Dù đã nhảy như nhảy sạp, anh vẫn đạp nhằm con cá, suýt ngã ngửa. Người ta ùa đến, không phải để phụ anh bắt cướp mà chỉ muốn nghe cho rõ câu chuyện. Rồi từ đây, câu chuyện sẽ mang đi bốn phương tám hướng, mỗi người sẽ có cách kể của riêng mình, rồi câu chuyện lại bay xa hơn theo cấp số nhân, vài chi tiết thật đắt có thể được thêm thắt vào làm câu chuyện trở nên sống động và ly kỳ hơn. Rồi anh cũng có được một lời khuyên là nên đến công an phường trình báo. Người ta chỉ đường cho anh đến đó. Một lần nữa, anh quay lại “hiện trường”, kể lại cho đồng chí công an miệng còn hơi mùi rau thơm ăn kèm món bún bò nghe chuyện đã xảy ra. Có một vài người sốt sắng phụ anh kể để câu chuyện thêm chi tiết, sinh động hơn. Một vài người, cùng một vài con cá làm nhân chứng. Cậu nhóc chở cá lúc này đã lột khẩu trang, khụt khịt mũi liên tục, mắt không ngừng nhìn đám đông xung quanh, nhìn anh, những cái mụn trên mặt cứ đỏ dần lên. Cậu ta hẳn đang lo lắng, sợ người ta nghĩ cậu ta tiếp tay cho tên cướp. Ngay cả anh, cậu nhóc và những người xung quanh đều không nghĩ, đã có một kẻ nào đó, dáng vẻ thờ ơ nhưng lại rất nhanh trong việc làm cho cái xe nổ máy, biến mất trước bao người. Anh những muốn nói gì với cậu nhóc, lại không biết nên mở miệng thế nào. Tội nghiệp mấy con cá, chúng khỏe mạnh, tươi ngon. Vô tình chúng trở thành công cụ cho tên cướp, cũng là kẻ cản đường người bị nạn tốt nhất. Anh dắt tay con thất thểu đi trên vỉa hè, thằng bé vẫn chưa thôi khóc. Anh không biết lúc này con đang nghĩ gì, sợ hãi vì những điều trông thấy hay buồn vì bố làm mất xe máy. Một ngày có hàng trăm vụ cướp to nhỏ, có hàng trăm cái xe máy giã từ chủ ra đi. Mặc dù trình báo, anh không hi vọng mình tìm lại được cái xe. Anh đang lo không biết sẽ ăn nói làm sao với vợ, rồi ngày mai một nhà bốn người sẽ đi đứng bằng gì? Ngẫm lại anh thấy mình vẫn còn may. May là anh đã bế con xuống đất... Anh rùng mình không dám nghĩ đến tình huống con trai mình ngồi trên xe, tay cầm ổ bánh mì ăn dở, khóc thét vì sợ hãi và một tên cướp cuống cuồng chạy trốn. Tên cướp sẽ làm gì thằng bé, sẽ thô bạo gạt nó xuống bất kể sống chết hay chịu khó dừng lại, bỏ thằng bé xuống nhẹ nhàng như cách anh, bố nó, đã làm? Quay đầu lại sau nhìn đám người đang xô ra bắt cá quanh cái xe cà tàng, anh thấy mắt mình cay cay. Món canh chua hôm nay của gia đình anh sẽ có vị gì chủ đạo, chua hay cay? Anh tưởng tượng gương mặt vợ xám ngoét vì xót của, vì giận dữ, vì xót xa, thấy tim mình nghẹn lại. Vợ chồng dành dụm, nhịn ăn nhịn mặc mãi mới mua được cái xe, tiền nợ còn chưa trả hết. Anh thấy mình không khác gì một con cá, loay hoay vùng vẫy trên mặt đường đầy bụi, tìm đường sống. Vàng 24/11/2013 08:00 (GMT + 7) TT - Cưới vợ. Như nhà người ta có của làm cho con cái vòng kiềng, sợi dây chuyền, chí ít là chiếc nhẫn vàng làm quà. Đằng này nhà anh khó khăn, chẳng có gì để cho cả. Nhưng ở thôn quê, vàng bạc tặng trong ngày cưới là tinh thần, không có không được. Anh phải chạy vạy vay tiền làm được cái vòng kiềng và cặp nhẫn cưới, trị giá bốn chỉ vàng. Nhà chị cũng khó khăn. Cũng ở một miền quê lấy vàng đám cưới làm thước đo danh giá. Chị cũng chạy vạy tiền sắm gửi bố mẹ một đôi bông tai, dây chuyền, hết ba chỉ vàng. Ngày cưới anh và chị có tất cả bảy chỉ vàng. Cũng có nghĩa tiền nợ người ta bảy chỉ vàng. Đã là vợ chồng, cái nợ cái nần thành ra cũng là của chung. Chị nói hay là mình bán vàng đi trả cho người ta. Anh bảo đó là cái duyên, mới cưới xong đem vàng đi bán xui lắm, thôi cứ giữ thế đã. Sau này làm có thì trả. Nếu người ta đòi ráo riết thì mượn đây đập đó. Bán vàng cưới như bán hạnh phúc, vợ chồng khó bền. Hai vợ chồng sống cùng bố mẹ đằng trai. Gia cảnh khó khăn, nhiều khi túng quẫn nhưng rồi cũng vượt qua hết. Con nhà nghèo, lo gì cực. Anh bảo thế. Chị mỉm cười, bảo hai đứa mình nghèo nhưng giàu nghị lực, giàu sự lạc quan, ắt sẽ có. Anh chị mở quán buôn bán hàng tạp hóa. Lúc đầu quầy nhỏ, bán chủ yếu bánh kẹo, mì tôm cho người trong làng trong xóm. Sau mở rộng bán thêm nước giải khát. Dần cũng khấm khá lên thành một đại lý bia lớn trong vùng. Mỗi tối chị ngồi đếm tiền, nghĩ về những ngày khó khăn mà chảy nước mắt. Anh nói ông trời đúng là có mắt. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Họ xây được một căn nhà hai tầng kiên cố và tiện nghi. Ở vùng quê này được như thế là đại gia. Hiềm một nỗi từ ngày cưới đến giờ là mười năm mà chưa sinh được con. Nhiều người nói ra nói vào, gièm pha lắm chuyện. Có người ghen ăn tức ở bảo đúng là trời không cho ai trọn vẹn bao giờ. Có của thì hụt con. Nhưng quan niệm của người quê là đông con hơn đông của. Chị bảo anh đi bệnh viện khám chữa. Anh không đồng ý, bảo con cái là trời cho. Khám làm gì cho sứt mẻ chuyện gia đình. Anh tính vài năm nữa nếu không sinh được thì mình xin đứa con về nuôi. Quan trọng là tình nghĩa. Vợ chồng đã sống với nhau từ những ngày cơ cực thiếu thốn, đi vay đi mượn về làm đám cưới thì tấm lòng đã chân thật với nhau. Bày vẽ ra khám chữa làm gì cho rách việc. Chị phơi phới hẳn lên. Tươi rói. Phụ nữ thường có kiểu ngoại hình dễ biến đổi theo kinh tế. Ngày mới cưới chị ốm nhom, gầy rạc, áo cưới phải chọn loại cao cổ để giấu giếm thân thể xương xẩu. Thế mà nay chị múp máp, hồng hào, đỏ da thắm thịt. Da trắng tóc mướt sang trọng. Lại là chủ quầy hàng, lắm khách qua lại chọc ghẹo. Mà nghề kinh doanh không vui vẻ đon đả thì dễ mất khách. Anh cũng từng thấy nhiều gã đàn ông ghé vào uống bia cười nheo mắt với vợ. Anh rất muốn ném cho thằng cha ấy một cái chai nhưng rồi tự nhủ phải kiềm chế vì công việc làm ăn. Hơn nữa, anh vốn là người nhẫn nhục, giỏi chịu đựng, lại nặng về tình cảm, mắng mỏ vợ là việc anh rất ngại. Buổi tối anh đem hộp đồ kỷ niệm ngày cưới ra. Chị cũng ngồi bên vừa đếm tiền vừa liếc mắt xem. Bảy chỉ vàng, những ngày cơ cực mình đã có nhau nhờ những thứ đi vay đi mượn, chẳng lẽ bây giờ giàu có lại để sứt mẻ tình cảm. Chị hình như không quan tâm lắm đến cái hộp đó. Tay vẫn mằn mò đếm tiền. Ném chạch xuống giường bảo chừng này là bằng bảy chỉ vàng đó anh. Lúc có tiền mới thấy kiếm tiền không đến nỗi khó. Chị thay đổi dần. Từ một người quê mùa cục mịch thì nay đã khác. Như một thương gia sang trọng, váy áo, giày ví, phấn son. Tóc uốn cong nhuộm vàng cho có nét Tây. Cuộc sống vợ chồng rạn nứt dần. Mười năm chung sống không con cái, những cảm giác đã ê chề chán chường. Anh vẫn cố gắng duy trì hạnh phúc bằng cách chiều chuộng vợ. Cố gắng chịu đựng những cơn giận vô cớ mà chị đổ lên đầu anh. Rằng anh là kẻ quê mùa, đã giàu có mà vẫn như gã nông dân mười năm trước, cục mịch, đần độn. Những lúc như thế anh lại lôi cái hộp đồ nữ trang ngày cưới ra xem và tự an ủi mình. Chị đòi ly hôn. Lý do là sống với anh quá chán. Lại không có con cái, thôi đường ai nấy đi. Anh khuyên nhủ chị không được, cuối cùng cũng đồng ý. Trước khi ra tòa, hai người dàn xếp chuyện chia tài sản. Khó nhất là chia tài sản, nếu êm đẹp thì ra tòa chỉ là một hình thức. Anh nói anh không cần gì cả, chỉ lấy lại cái vòng kiềng và cặp nhẫn đính hôn. Chị bảo như thế thì anh bị thiệt quá. Anh cười, nói khi không còn hạnh phúc thì mọi thứ chẳng nghĩa lý gì. Anh chỉ lấy cái vòng kiềng để cho bố mẹ, và cặp nhẫn cưới làm kỷ niệm. Thế thôi. Chị cười đáo để. Cặp nhẫn này giờ cũng chả còn ý nghĩa gì nữa. Chị sẽ trả lại cho anh. Ngày hôm sau chị đến tiệm kim hoàn nhờ đính lại viên đá lên chiếc nhẫn. Mấy hôm trước chị sơ ý để nó rơi mất. Dù sao cũng phải trả lại cho anh nguyên hình trạng ban đầu. Thợ kim hoàn cầm chiếc nhẫn ngạc nhiên hỏi chị sao đính đá quý vào đây làm gì. Đây chỉ là chiếc nhẫn bằng vàng giả. Chị đem chiếc nhẫn về, ném thẳng xuống bàn trả lại cho anh. Hóa ra anh cưới tôi bằng vàng giả. Anh buồn rầu, nói chỉ muốn lấy lại chiếc nhẫn vì không muốn cho em biết đó là đồ giả. Dù hết tình cạn nghĩa nhưng là đàn ông thì phải giữ lấy sự tự trọng. Hoài, không chết cho 13/11/2013 21:30 (GMT + 7) TTCT - Ông bà Chín quyết định bán đất, bán sạch, chỉ chừa cái nền nhà. Tiền nhiều như lá rừng. Những một tỉ bảy, những gần hai trăm cây vàng, không gọi nhiều như lá rừng thì gọi như gì cho nó đúng kia chứ? Chuyện ấy cách nay đến mười năm rồi, thời đất lên cơn sốt giá hầm hập, kể cả miếng đất cằn của ông bà. Thời ấy, ông bà cũng thấy mình không còn mê đất nữa, oải lắm rồi. Thời ấy, ông bà Chín chắc mẩm như đinh đóng cột: tiền này, hai ông bà già ăn đến chết chưa hết. Và ai cũng tin như thế, ăn đến chết còn chưa hết. Không giải tán hết đống lá rừng ấy đi, lúc ông bà già chết đi, con cái còn phải đánh nhau chí tử vì phải phân chia di sản không chừng. Nhưng nay thì đã ăn hết, hết lâu rồi, ăn đến hết mà chưa... chết. Cái thuở lập nghiệp, đất rộng người thưa, mùa khô chích mồi lửa, lửa cháy đến đâu lượm đá đặt thẳng hàng làm ranh đất nhà mình đến đấy. Mà làm ranh vậy chớ đất làm không xuể, thả bắp, thả đậu, lên mạnh đấy nhưng làm đằng trước cỏ mọc đằng sau, đêm tưởng như nghe rân rân tiếng cỏ mọc, cỏ nảy mầm. May nhà ông bà đông con, những chín đứa nên đất đai cũng thuộc hàng kha khá trong làng. Rồi đất kiệt, địa hình vừa cao vừa dốc, mưa gió ngày càng thất thường, dân tình chỉ quan tâm đến việc khai thác sự trù phú của đất mà bỏ lơ chuyện làm bờ làm thửa tránh rửa trôi nên ngày càng xói mòn lớp đất mùn. Nhưng đất vừa bạc màu thì công nghiệp hóa lan đến. Đất nhà ông bà Chín vừa có ngọn đồi nhỏ, vừa có mặt tiền đường mới mở, xã lại nâng cấp thành thị trấn thành ra đất xóm thành đất khu phố, thành ra nhiều người mê. Mê thì bán, bán quách cái thứ mình chán nhưng người ta thích. Gần hai trăm cây vàng, chia mỗi đứa mười cây, đất đai thì mỗi đứa có một thổ chia từ trước rồi, còn bao nhiêu ông bà dồn hết vào ngân hàng để dành ăn đến chết. Riêng con Út không nhận vàng được chia vì lý sự đã đủ lông đủ cánh để tự lo rồi. Không nhận thì lại bỏ vào ngân hàng, để dành, ăn đến chết chưa hết. Chủ mới sau khi nhận đất thì triển khai luôn, phần làm cây xăng, phần xây ngôi biệt thự đứng lừng lững. Thì ông bà Chín cũng xây nhà, nền đôn lên, mái tôn giả ngói, nóc lại gắn củ tỏi, trên củ tỏi lại cắm cái cột thu lôi, thành ra cái chỏm cao vút đua với căn biệt thự bên đó. Cũng cỡ ngang ngang vai chứ kém cạnh gì. Chuyện ông bà Chín bán đất đến bây giờ nhiều người vẫn còn tấm tắc nể phục. Hai ông bà già ngoài bảy mươi, nông dân rặt, quyết định cái rụp mà sáng suốt. Đất ấy để mười năm sau bán chưa được hai mươi cây vàng chớ đừng nói hai trăm. Vậy là ông bà Chín được mười năm ăn chơi không. Đời như ông bà Chín rõ sướng. Mà sướng thật. Không dưng ngủ một đêm sáng ra, người chưa từng có hai chỉ bỗng có đến hai trăm cây vàng. Vậy nên thức mà trong trạng thái mê. Ban đầu ông bà cũng ý thức cao lắm, vẫn chi tiêu tằn tiện, vẫn mặc đồ cháo lòng, vật dụng trong nhà vẫn cũ mốc, vẫn ra mảnh vườn nhỏ trồng rau, chăn gà. Nghèo khó quen rồi, mà cũng phải giữ ý giữ tứ không chừng hàng xóm chửi vào mặt cho. Rồi đổi hồi nào không hay. Đổi chóng mặt. Làm nhà mới thì tất tật phải mới. Bà Chín bỗng dưng mê đi chùa, mê làm từ thiện. Làm xong rồi thấy người nó nhẹ nhàng, khoan khoái như muốn cất cánh bay lên. Mà làm việc thiện khỏe thiệt. Ông thì mê mấy cái máy. Ban đầu là máy thở để hỗ trợ cho lồng ngực phập phù của ông. Rồi máy hồng ngoại, máy matxa, máy thể dục, máy ngâm chân... đầu tư luôn cho bà xài ké. Vậy nên hai ông bà khỏe ra, trẻ ra, vui vẻ yêu đời ra. Không thấy cằn nhằn cuộc đời nữa. Đêm nằm ít mơ thấy ông bà cha mẹ hiện về rủ đi chơi. Ít thấy cằn nhằn mấy đứa con chỉ quen ăn hoang phá hoại đi. Người giỏi nịnh đến gặp cứ xuýt xoa: Ông bà trẻ từng ngày, trẻ mãi ra như thế này không thắng lại coi chừng có ngày biến thành... em bé mất. Ngộ, nghe khen người già cũng thấy sướng dẫu biết nó xạo rành rành. Mà trẻ thiệt. Khuôn miệng “hăng rết” ngày nào của cả ông lẫn bà nay mọc răng, trắng nõn nà, đều tăm tắp như răng sữa. Mắt mờ thì cả hai cùng về viện mắt thành phố mổ cườm, lắp kiếng vô, ông bà già nhìn đời lại trong veo. Đại tu chuyện gì cũng hai người một lần, vì cả hai đều đáng được tổng đại tu. Suy đi tính lại thì ông bà Chín chỉ làm những thứ có lợi cho sức khỏe, cho cuộc sống lành mạnh của con người chớ có ăn hoang phá hoại gì đâu. Mà làm chuyện gì cũng ướm cả. Làm răng à: mười triệu cho hai người, bằng một phần của một ngàn bảy trăm; làm mắt à, ba phần của một ngàn bảy trăm; mua máy à, một phần... toàn những chuyện nhỏ, vặt vãnh. Vậy mà quay qua quay lại mới nửa năm thấy đi đứt năm chục cây vàng. Đầu tư ban đầu phải chịu tốn kém thôi. Mấy tháng sau đấy thì ổn, tiền lãi ăn không hết lại gửi gộp vào vốn. Trời thương cứ cho như vầy hoài… đến chết, chắc gì đã hết tiền! Nhưng ông bà Chín còn mấy đứa con, đứa nào cũng làng nhàng cả, đứa nào cũng có lý do chính đáng để xin tiền. Tiền ba mẹ cho lớp trả nợ, lớp sửa nhà, lớp mua xe, lớp sắm máy lạnh máy giặt… đúng là tiền vào nhà khó. Tiền của con hết nhưng tiền ông bà già vẫn còn, vậy nên quay sang dòm ngó. Có hàng triệu lý do chính đáng được rủ rỉ rù rì vào tai. Lần nào dấm dúi bà cũng thì thào... đừng nói ba bay biết. Lần nào móc túi ông cũng nẹt, tao cho là cho... trùm mền nghe bay! Nhưng rồi ông cũng thông tin cho bà, bà cũng báo cho ông, thì thôi cũng là thương cháu thương con, tiền mình để không đó, con cháu nó khó sao đành. Chuyện chi tiêu, ông bà có mở sổ theo dõi đàng hoàng. Có sơ, tổng kết để đánh giá rút kinh nghiệm hẳn hoi. Cũng có chấn chỉnh nghiêm túc và đề ra giải pháp khắc phục. Vậy mà vẫn hết tiền. Mà không hết sao được. Phú quý sinh lễ nghĩa, ông bà đầu tư một chuyến thăm quê bằng tàu bay để làm mộ tổ cho mát mặt mát mày cả dòng họ. Ông bà chi hết, chuyện nhỏ xíu, đáng gì. Bà con lối xóm mấy chục năm không gặp lại, nay thấy ông bà về hoành tráng, mắt dẹt mắt tròn, gặp mặt lúc nào cũng xoay mòng mòng nói chuyện trong trỏng. Gom hết các cụ vào một khu, xây to vật, hoành tráng, lừng lững giữa cánh đồng làng. Vậy là yên tâm chết được rồi. Nhưng vẫn chưa chết, mắc gì phải chết. Lại tiếp tục nấu ăn, đãi đằng, lu bù, toàn những chuyện không thể sử dụng nước miếng không. Cũng chỉ nhỏ bằng cái móng tay so với khối tiền khổng lồ, ăn nhằm gì, chết còn chưa chắc hết, thây kệ chúng nó, trời sinh voi trời sinh cỏ. Con Út về nhà nhìn cảnh ăn uống, sắm sáp, chơi bời, lễ nghĩa lu bù, ức vọt ra miệng: Ông bà hư, còn tập cho mấy người đó hư! Ăn xài kiểu gở chết. Ông bà Chín nghe con Út nói mà thấm thía. Ngồi kiểm lại mình. Ờ, giống gở chết thật, nhưng gở hoài mà không chết là thành sống dai. Quay qua quay lại hết mười năm. Lần rút tiền cuối cùng, bà Chín mang cho chủ cây xăng mượn, cho tiện rút tiền lời. Chắc ăn hết chỗ này tui với ổng cũng đi thôi, mệt mỏi lắm rồi. Nghe cười phà phà: Ăn chơi cũng phải có sức cụ ạ. Sức gì, ờ mà sức gì cũng phải có... Bà Chín không còn đi chùa nữa, yếu rồi, hết sức rồi. Ông Chín cũng chẳng còn sức ngồi lên mấy cái máy matxa, mát gần, mà lỡ có bò lên máy được rồi, nó đấm, nó xoa, nó xoay, nó lắc cho cũng chóng mặt mà chết. Thôi kêu bán, bán hết, lấy tiền mua gạo. Còn bây giờ có bệnh, không thèm chữa nữa. Gần chín mươi năm ở đời, cay đắng, vinh quang có cả rồi. Nay đang trong thời kỳ trở lại cay đắng, cố đeo đẳng cuộc đời mà làm gì. Vãn tiền, không thấy đám con ông bà Chín bu đen như ngày nào. Chúng nó việc ngập mặt, nghe bà Chín giải thích thì biết vậy. Việc nhiều tới độ ông bà già thường tự bệnh, tự hết. Kêu tụi nó mà làm gì. Chỉ có con Út chạy tới chạy lui lo nhưng sức và lực nó cũng có hạn, nó cũng còn bầy con lâu nhâu. Đã lại nghe ông bà Chín oán trách cuộc đời này. Oán thì oán chớ so với nhiều người, ông bà vẫn còn sướng mê. Người ta còn làm bạc mặt cả đời mà chưa có ngày hưởng thụ nữa kìa, ai như ông bà, có đến mười năm. Nói thì biết vậy nhưng người mát mặt quay trở lại thời bạc mặt coi chừng còn thấy khổ hơn kẻ bạc mặt cả đời. Nhưng ông bà Chín vẫn là người may mắn. Nghe đâu vợ chồng tay mua đất hồi nào sang chơi, thấy hai ông bà già ngồi ho như kèn thổi đôi thì xót xa lắm. Rồi về nhà bàn. Rồi kéo nhau sang thưa chuyện: Rằng nhờ phúc của ông bà, miếng đất tụi con sang lại của ông bà để kinh doanh buôn bán nay phát lộc, phát tài. Biết ông bà đã có các anh, các chị lo chu đáo nhưng lộc bất tận hưởng, mỗi tháng tụi con xin biếu ông bà hai triệu đồng để uống cà phê, mong ông bà không từ chối tấm lòng của tụi con. Ông bà Chín vừa nghe, vừa ho, vừa gật gật gù gù cảm ơn. Chết, hai bác sẽ phù hộ cho vợ chồng con! Mừng hú, vợ chồng thằng này người dưng mà tốt hơn cả đám người chui ra từ trong bụng mình. Có một điều, cả ông bà Chín và mọi người đều công nhận: ông bà sống đến chừng này là may, không bán đất, nay chắc xanh cỏ từ lâu rồi! Mùi hương 03/11/2013 11:50 (GMT + 7) TT - Từ đỉnh cao bốn mét rơi tự do mà không chết thì quả là đại phước cho ba đời nhà Hậu. Nếu sự sống muôn đời là đáng quý, thì gãy một chân và cái mặt bị cây rừng xé nát thì thà chết còn hơn. Dân cư Đồi Đất Đỏ ai cũng nghĩ thế. Dưới ách của ông dượng tên Chí thì đúng vậy. Chí, thường gọi Chí Phèo, cái phèo này ta bà nào có biết chi. Hôm đó trong quán nhậu Xuân Kim, một gã tài xế mục sở thị Chí bị thoi bởi chửi bậy vì say nên gán cho cái tên này. Rồi gã kể về một tên Chí trong cái truyện nào đó. Chí trị vợ con, nhất là con riêng của vợ, bằng thoi. Đó là khi Hậu chưa thành phế nhân. Nên chi thà chết sướng hơn. Ở đây ai chẳng rượu, đàn bà còn lai rai ba sợi, nhưng không ai như Chí. Chả là - thiên hạ kể - hồi đó, má thằng Hậu yêu một anh, có bầu anh quất ngựa. Má nó lao đầu xuống sông tự vận, dượng thằng Hậu đeo đuổi từ lâu, nhảy theo và đưa đầu chịu báng. Hậu sớm biết mình không là máu thịt vì mỗi lần say Chí thượng tay hạ chân kèm câu mày là thứ lộn sòng. Lộn sòng không được đi học, đành vậy, tất cả nhường lại cho hai đứa em kề. Hậu làm ra tiền từ rất sớm. Sáu bảy tuổi đã biết canh mánh cho lâm tặc. Mười tuổi đã trèo tất cả các loại cây rừng có trái... Bao nhiêu tiền làm ra Hậu đem về cho má, vậy mà còn không yên, huống bây giờ là phế nhân. Phế nhân Hậu bi thảm với cái khăn bịt mặt và cây nạng gỗ. Ngày nào cũng đóng đô ở quán Xuân Kim để tránh đòn, và mong bá tánh thương tình một đôi bữa ăn. Có đêm mặc cho muỗi đốt, Hậu ngủ luôn dưới mái hiên quán. Thủy - má Hậu - chỉ biết khóc, đàn bà mà, cái nhẹ dạ luôn làm họ khổ. Có hôm Chí lếch thếch tới rầm rĩ rằng bà mẹ mày, nếu còn nhớ thằng đó thì cứ dẫn lộn sòng đi kiếm. Xuân - vợ Kim - nói với chồng rằng thì ra Chí Phèo ghét thằng Hậu là vì ghen. May cho Hậu. Phi, chủ một xe tải năm tấn chuyên đi bỏ hàng tạp phẩm cho các quán từ bến sông Lẻ Bảy vào Đồi Đất Đỏ. Cám cảnh liền thân chinh đến gặp vợ chồng Chí: - Thằng Hậu có thể giúp việc cho tôi. Nếu được anh chị cho ở với tôi, tôi trả... Nghe đến tiền, Chí Phèo gật đầu liền. Vậy là Hậu lên xe thẳng mạch về phố sông. Công việc trong một tiệm tạp phẩm kể cũng nhẹ. Khách lấy hàng, bà chủ ghi toa, Hậu nhận toa, bỏ hàng vào thùng rồi dán băng keo, hết. Khổ cái Hậu không biết chữ lấy gì đọc toa. Chủ Phi và gia đình phải dụng thời gian buổi tối, dạy cho Hậu mấy con chữ và chục con số để làm việc. Đúng rơi rớt, lại tật nguyền nên thông minh. Hậu học một biết mười, chỉ một tháng đã đọc được thứ ghi trong toa. Gia đình Phi thương Hậu lắm, cho phép ăn cùng mâm. Nhưng Hậu không bao giờ. Đói, nó bới tô cơm rồi ngồi trong góc. Sao vậy? Hôm nọ đang rửa mặt, con gái chủ Phi nhác thấy đã hét lên hãi hùng, nó mà mở khẩu trang ra, chắc cả nhà hết ăn cơm... Hậu lặng lẽ sụp cái mũ tai bèo, cái khẩu trang, và cây nạng. Không nhìn ai, cả tiền cũng không thiết, lâu lâu má nó ghé, cùng má xuống sông tâm sự một chút rồi thôi, buồn và mặc cảm lắm. Cho đến một hôm, nó nghe một mùi hương lạ ập vô khứu giác. Ngước mặt, mắt Hậu đập vô một nhan sắc loại hoa nhường. Đó là Kiều Oanh con gái rượu của Phi. Ngay lập tức Hậu choáng váng. Đã dậy thì, cô gái trang điểm và có tí nước hoa, nó đánh tan cái mùi con gái thường nhật. Hơn tất cả những gã trai khác trên đời, Hậu biết mình đã chết bởi một thứ tình rất lạ ngập tràn trong tâm khảm. Cô gái con nhà giàu lớn lên trong một gia đình đầy lòng nhân ái. Không nhân ái làm sao Hậu có cửa kiếm miếng ăn, thậm chí cả tiền cho mẹ trong từng ấy năm ròng. Cô đẹp nên lắm tài tuấn đeo đuổi, và như một số đông người đẹp khác, cô bị tình vây bủa, nó khiến cô không có tên trong bảng vàng đại học. Phi thì sợ con gái lớn như một quả bom nổ chậm trong nhà. Mười tám tuổi, Kiều Oanh rực rỡ như một đóa hoa đang thì viên mãn, cô đi ra, đi vô trong nhà. Vui tươi và hạnh phúc khi cha nhận lời cầu hôn kẻ cô yêu. Và gã si tình tật nguyền chỉ còn biết lặng lẽ nhìn. Tám năm. Đủ để chín một cái tình. Và đủ để tan nát một trái tim. Trời ơi, người ta yêu người ta nói mà còn cháy bỏng nhân gian, đằng nầy gã thọt yêu trong âm thầm bóng tối. Yêu mà biết rằng mình không có một cửa nào trong cuộc sống đang trôi. Ngày cô gái của Hậu lên đường, đường đi ở bến sông này phải lụy phà. Cha cô giàu nên không lụy. Ông thuê hai chiếc phà liên hoàn lại và tổ chức đám cưới trên ấy. Tất nhiên là đèn treo giăng từ ngõ nhà đến tận phà. Ở bờ sông, dưới gốc si cổ thụ, Hậu gác đầu lên cây nạng gỗ, nghe tiếng đàn, tiếng hát vọng xuống bến. Rồi theo gió, ngàn vạn mùi hương thoảng bay. Tám năm chung trong một mái nhà, Hậu nhận biết từng thành viên qua mùi hương của họ. Mùi đàn ông, mùi đàn bà và rõ nét là mùi con gái của cô. Bây giờ, những mùi ấy đã bị át bởi bia rượu và hương hoa... Hậu nhắm mắt hít một hơi thật dài, cánh mũi phập phồng phân định mùi hương. Và đâu đó, từ thẳm sâu của tâm hồn, hương con gái hoang sơ từ từ hiện hữu. Hôm sau. Thiên hạ phát giác Hậu chết ở bến sông. Ai cũng chép miệng tội nghiệp. Vì sao nhỉ? Họ tự hỏi. Mà vậy cũng là tốt cho nó, họ tự nhủ. Chỉ ông Phi thở dài. Ông biết vì sao Hậu chết. Tám năm dưới một mái nhà, thông nhau từng hơi thở, không biết đâu phải người. Ông biết Hậu chết bởi không nắm được một mùi hương. Hương tình yêu.
rác rồi.
>
>
như thế.
xem xét.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top