TRUYEN NGAN LENGHIA1

ANH HÙNG RƠM

Thời pháp thuộc, làng Bình An, tỉnh Rạch Giá được nổi danh là sung túc. Ruộng đất quá phì nhiêu, chẳng cần bón phân, mỗi công đất (một ngàn thước vuông) thâu hoạch hơn hai chục giạ. Qua tháng mười một, mãn mùa gặt, dân chúng còn hưởng thêm mùa dưa hấu trồng ngay trên ruộng. Nếu trúng mùa dưa thì rõ ràng là vốn một lời mười. Họ tha hồ mà ăn xài suốt tháng Giêng cờ bạc, đờn ca vọng cổ lai rai đến lúc tháng Ba, sa mưa.

Nhịp sống của đoàn nông phu cứ trôi qua đều đều. Nhưng đến năm 1937, một biến cố khá quan trọng xảy ra khiến dân chúng... nghẹt thở. Hầu hết những kẽ tay lấm chân bùn trong làng đều bị lên án là... kẻ ăn trộm trâu.

Tiên cáo là một ông lạ mặt, người Việt Nam, mặc âu phục, tay xách cặp da, hút ống vố.

Ông ta đến nhà thầy phó hương quản:

- Có ai ở nhà không?

Thầy phó hương quản ngơ ngác:

- Xin lỗi, ông là ai? Xin cho biết quí danh.

Ông ta nói:

- tôi muốn nói chuyện...

Thầy phó hương quản mời ông khách vào nhà. Ông ta mở cặp da, đưa ra một tấm danh thiếp:

" Nguyên Hưu Henri,

Domaine agricole de Saigon."

Sau khi đọc sơ qua, thầy phó hương quản lấy làm bối rối:

- Thưa ông. Xin ông vui lòng"thông ngôn" cho tôi được hiểu.

Thông ngôn có nghĩa là thông dịch. Ông khách cứ hút thuốc, chưa chịu làm công việc ấy. Hồi lâu, ông trợn mắt:

- Tấm"cạc" nầy nói nhiều rồi. Quyền hạn thanh tra... toàn Nam Kỳ thuộc địa của tôi như thế nào, chú phó hương quản dư hiểu.

Khổ quá! Thầy phó hương quản đành nài nỉ, thú nhận sự dốt nát của mình:

- Dạ, tấm"cạc" của quí ông... toàn là chữ Tây. Chắc là ở Sài Gòn!

Khách cười nhếch mép:

- Khá lắm. Còn hai chữ nữa"Nguyễn Hữu" tôi không thèm bỏ dấu cho đúng mẹo luật Lang Sa. Tôi thường giao thiệp với quan chủ tỉnh mà. Ðây, tôi tạm"thông ngôn " cho chú hiểu: Tôi là Nguyễn Hữu Hăngri, thanh tra đồn điền Sai Gòn. Tôi vô dân Tây nên giữ chữ Nguyễn Hữu. Mới đây, sau khi tiếp xúc xa giao với quan chủ quận tôi ăn cơm ở nhà quan chánh sở mật thám. Bậy quá, chắc quan chủ quận phiền giận tôi...

- Thưa ông sao vậy?

- Ổng là anh em bạn học.

Lần đầu tiên từ thưở nhỏ đến từng tuổi này. Thầy phó hương quản mới được vinh dự đón rước một nhân vật quan trọng. Lập tức, thầy gọi vợ ra chào khách, bắt gà làm thịt. Ông khách Hăngri nói, giọng bí mật:

- Tánh tôi bình dân lắm. Tôi ưa làm quen với người chất phác như chú. Vừa vừa thôi, đừng bày tiệc tùng, tốn kém lắm.

Thầy phó hương quản suy nghĩ hồi lâu rồi giả bộ như mình cũng rành tất cả lề lối làm việc của người cầm giềng mối trị dân:

- Ông nói chí lý quá. Các quan chủ quận đều rành chữ Tây. Ðọc sơ qua tấm"cạc" của ông, mấy ổng hiểu liền. Chẳng dám nào, ông cho phép...

- Chú nói đi. Chỗ quen biết với nhau mà.

- Ông cho tôi xin một tấm"cạc" như vầy để lộng kiếng, làm kỷ niệm. Hễ có khách quí tới nhà là tôi nhắc nhở, giới thiệu... lúc ông vắng mặt.

Ông Hăngri cau mày:

- Ðây! Chú giữ tấm"cạc" này. Nhưng mà chú phải dè dặt. Ðừng phô trương quá sớm. Tôi muốn giữ bí mật. Chờ đôi ba ngày nữa, xảy ra nhiều việc lạ lùng lắm, có lợi cho chú... trong tương lai.

Thế là ông Hăngri nghiễm nhiên trở thành vị thượng khách của thầy phó hương quản. Thầy bắt đầu xa lánh bà con chòm xóm, vì lý do riêng. Trong lúc ông Hăngri nằm trên bộ ván gõ, đọc báo Lục Tỉnh Tân Văn thì thầy phó hương quản trèo cây dừa xiêm hái xuống trọn quày.

Nhớ đến câu"gái ngoan làm quan cho chồng," thiếm phó hương quản thắt lưng buộc bụng... sẵn sàng đi tiệm mua nào càri, củ hành, tiêu, tỏi đem về để thanh toán bằng bầy gà bầy vịt.

Tối hôm ấy, ông Hăngri mở đầu câu chuyện:

- Này chú phó hương quản. Chú là người đáng tin cậy, xứng danh là người làm việc nước. Tôi nhờ chú giúp tôi một vấn đề quan trọng. Chừng mãn nhiệm vụ thanh tra, tôi sẽ gặp quan chủ quận, gởi gắm để thăng chức chú lên chức chánh hương quản.

- Dạ, may phước cho đời tôi quá!

- Vợ chú ngủ chưa? Ðừng cho đàn bà hay biết. Họ ưa chộn rộn.

- Dạ, để tôi coi thử.

Rồi chú trở ra:

- Nó ngủ rồi.

- Chú nên giữ bí mật hoàn toàn. Nếu hư hỏng công việc truy tầm của tôi, chú sẽ bị trừng phạt theo phép nước luật quan. Chừng đó mặc dầu thương mến chú, tôi cũng chẳng tài nào cạy gỡ dùm được.

Dưới ánh đèn toạ dăng, trong khi sương mù mịt, bất chấp tiếng chó sủa ma trong xóm vắng, ông Hăngri mở cặp da, đem ra một mớ giấy có đóng dấu đỏ. Thầy phó huơng quản đếm thử: chừng ba chục tấm giấy cứng, màu xanh, lớn gấp đôi cái giấy thuế thân.

Ông Hăngri lẩm bẩm:

- A lo! A lo!

Thầy phó hương quản giật mình, bước ra xa, vấn thuốc hút. Thầy càng tò mò, liếc qua xấp giấy xanh của ông Hăngri. Thầy sực nhớ đến loại giấy mà thầy có đôi ba tấm trong nhà.

Thời thực dân, dân chúng gọi nôm na là đó là"bài kía" trâu bò, trên mỗi tấm, hài rõ tên chủ của gia súc, tên con gia súc, tuổi tác, dấu riêng... và số thuế đã nạp.

Nhà thầy phó hương quản có hai con trâu và một con bò. Thầy đã lãnh"bài kía," xác nhận thầy làm chủ ba con gia súc đó. nếu bị trộm cắp, thầy đem"bài kía" để nhìn nhận của đã mất.

Ông Hăngri thừa hiểu rằng từ nãy giờ cặp mắt tò mò của chủ nhà đan xăm xoi về phía mình.

- Chú phó hương quản. Lại đây tôi dạy việc.

- Dạ, tôi sẵn sàng.

Ông Hăngri lật đật đem xấp..."bài kía" trâu bò ấy bỏ vào cặp da rồi đưa cho thầy phó hương quản xem một tấm giấy trắng có chữ đánh máy, chữ Pháp.

Ông giải thích:

"Số là đồn điền chúng tôi - ở chi nhánh Sóc Trăng - từ lâu thường bị ăn trộm trâu. Theo tin riêng của sở mật thám Sài Gòn cho biết thì bọn bất lương đem số trâu bất hợp pháp ấy về bán tại làng Bình An này. Vì vậy, thừa lệnh quan trên..."

Thật là đất bằng sóng dậy. Thầy Phó hương quản cố gợi lại trí nhớ. Thỉnh thoảng vài người ở xóm này mua trâu, nhưng là trâu tơ, sanh đẻ tại làng. Lúc nhậu nhẹt, nhiều người chế nhạo lẫn nhau:"mầy là chủ phồn ăn trộm trâu!" nhưng đó là tiếng thường lệ cũng như"đồ mặc dịch! đồ ma bắt." Nó không có ngụ ý gì ráo.

Thầy lẩm bẩm:

- Té ra hổm rày ông làm nhiệm vụ mật thám.

- Tôi là thanh tra!

Phó hương quản bắt đầu e ngại:

- Dạ, quan thanh tra muốn"ăn kết" theo cách nào? Theo ý tôi thì dân chúng ở xóm này toàn là người lương thiện. Trâu bò của họ nuôi đều có"bài kía," đóng thuế đầy đủ, do quan trên thừa nhận.

- Nhưng họ mua ở đâu? Mua của ai?

- Dạ, mua ở Châu Ðốc, hoặc mua ở mấy xóm gần đây.

- À! À!

Ông Hăngri vừa gõ cái ống điếu vào gốc cột:

- Phó hương quản đừng che dấu tội lỗi của họ mà chịu chung số phận. bây giờ, việc đầu tiên của phó hương quản cần thi hành là tới cái chuồng trâu nào gần đây nhứt, biểu họ trình cho tôi coi mấy cái"bài kía" của trâu bò trong chuồng để tôi kiểm soát.

Trưa hôm sau, phó hương quản trở về:

- Ðây! Nhà của Trần Văn Lén, tất cả bốn con trâu tên là trâu Pháo, trâu Bướm, trâu Ðiệu, trâu Mẫm.

Ông Hăngri nói nhanh:

- Tôi muốn kiểm soát dấu riêng của mỗi con trâu. Nếu nó trúng dấu với mấy con đã ghi trong tờ cớ của tôi thì đó là trâu gian. Tôi cần làm việc cẩn thận. Phó hương quản cứ tới nhà mấy người khác, từ nhà tên Trần Văn Lén này dài đến cuối xóm, tom góp tất cả"bài kía" đem cho tôi xem xét lại.

Cả xóm nhốn nháo lên vì nguồn tin bất lành ấy. Vốn làm ăn chất phác, tin tưởng nơi công lý, các chủ trâu đều ngoan ngoãn tuân lịnh.

- Vàng thiệt không sợ lửa, - họ tự an ủi.

*

* *

Nhưng trò đời diễn ra khá phức tạp.

Sáng hôm sau, phó hương quản đổ ;mồ hôi trán, đi thất thểu đến mời mấy người chủ trâu:

- Nguy quá. Ông thanh tra mật thám mời bà con tới"hầu." Tôi e đã xảy ra điều gì bất trắc. Nhớ tới nhà tôi cho đủ mặt, bằng không thì ông Hăngri lên án khiếm diện.

Các đương sự lần lượt đến ngồi chồm hổm tại hàng ba, nhà thầy phó hương quản.

Ông Hăngri nâng ống vố lên, rít một hơi dài rồi nói từng tiếng một:

- Trần Văn Lén! Ai tên Trần Văn Lén?

Người tên Trần Văn Lén"dạ" một tiếng nhỏ rồi chạy tới, đứng trước mặt ông Hăngri để nghe lời dạy.

- Bốn con trâu Pháo, trâu Bướm, trâu Ðiệp, trâu Mẫm của chú đều là trâu ăn trộm.

Trần Văn Lén trợn mắt:

- Làm sao có chuyện đó? Xin quan lớn... coi lại. Trâu nhà của tôi mà!

- Chú mua hồi nào?

- Dạ, hồi năm ngoái, 1936.

- Tôi cho biết: hồi năm 1935, đồn điền tôi bị mất trộm, có tờ cớ hẳn hoi. Cái tấm"bài kía..."của chú giữ ghi vô bộ năm 1936. Nhưng"bài kía" của đồn điền tôi vô bộ 1934. Dấu riêng của con trâu Bướm y hệt: sừng cong, hai xoáy ở chân trước bên mặt.

Tên Lén hơ hãi, kêu nài:

- Xin quan thanh tra cho tôi thấy cái"bài kía" của đồn điền...

- Ðừng lẻo lự. Này đâý Tờ cớ rành rành."Bài kía" của tôi cũ hơn... Chứng tỏ rằng kẻ trộm đem trâu của đồn điền tôi đến làng Bình An này bán lại cho chú. Hoặc là chú có nhúng tay vô...

Tên Lén trố mắt."Bài kía" (bài chỉ) của ông Hăngri vô bộ trước, có đóng dấu đỏ và chữ ký tên...

Ông Hăngri giựt cái "bài kía" trở lại:

- Tôi tịch thâu con trâu Bướm của chú. Chú ngồi đó suy nghĩ. Nếu cự nự tôi giao cho quan chủ quận, truy tố ra toà.

Sau tên Trần Văn Lén, lần lượt bốn năm khổ chủ khác đều bị cật vấn. Trâu của họ trùng dấu riêng với những con trâu mà đồn điền bị mất trộm, cách đó vài năm có ghi rõ torng tờ cớ. Kèm theo tờ cớ, ông Hăngri nên ra mấyh cái"bài kía" vô bộ sổ quá trễ mà dân chúng trong làng Bình An đang giữ.

Bằng một giọng nhỏ nhẹ, ông Hăngri giải bày:

- Tôi chảng muốn đưa mấy chú ra toà làm gì. Tội nghiệp cho vợ con mấy chú. Nếu mấy chú ăn năn hối cải, tôi ém dùm. Tôi hứa chạy tờ về ông chủ đồn điền... Với điều kiện là mỗi người cho tôi năm chục đồng. Bằng không thì...

Ai nấy cúi đầu, áy náy. Năm chục đồng đâu phải là số tiền nhỏ.

Day qua phó hương quản, ông Hăngri tiếp lời:

- Thế nào? Phó hưong quản dám bảo lãnh dùm họ không? Tới trưa mai họ phải chạy tiền đầy đủ.

Phó hương quản gải đầu:

- Tôi xin bảo lãnh. Ðể họ về vay nợ, đền ơn quan thanh tra. Nếu ai trốn, tôi chịu trách nhiệm.

Ðã quá mười hai giờ trưa.

Tại tiệm chạp phô ở cuối xóm, dân chúng tụ họp lại, bảo vây thầy phó hương quản. Hai ba chai rượu để trên bàn đều cạn. Ai nấy đều say ngà ngà. Người này sừng sộ:

- Rõ ràng hương quản a tòng với ông Hăngri làm tiền bọn tôi. Trâu nhà, trâu hgé nuôi lớn lên rành rành vậy mà ông ta dám quả quyết là trâu ăn trộm. trời đất làm chứng dùm.

Kẻ khác khóc mùi mẫm:

- Rũi bề gì, mình mất trâu, lại ở tù oan mạng. Phó hương quản sao lại chấp chứa hắn?

Phó hương quản trợn mắt:

- Tôi hổ lắm rồi. Bà con yên tâm. Ta hãy tìm cách gỡ rối, lấy độc trừ độc... bà con giúp tôi vài cơ mưu...

Một người nói xen vào:

- Tôi biết trồi. Thừa dịp này, mình nên sửa dấu riêng trên trâu bò mình để chạy án. Theo kinh nghiệm ông bà còn để lại, mình cứ nướng sắt cho đỏ rồi đót ngay xoáy của con trâu để nó... bớt xoáy. Hoặc chặt một khúc chuối cây hơ lửa cho nóng rồi đút sừng trâu vô mà uốn bộ sừng của nó cho bớt cong...

Phó hương quản gật gù, nhìn xuống mé sông. Thầy ta reo to:

- Hay quá. Vợ tôi tới thăm tôi kìa!

Có người nổi nóng:

- Vợ tới thăm mà cũng"hay quá"! Thầy sung sướng trong lúc bà con chòm xóm đang tán gia bại sản.

Sau khi ra sân nói chuyện rù rì với bà vợ, phó hương quản trở vào tiệm, nói khẻ:

- Mời anh em tụ họp lại, nghe tôi nói rõ đầu đuôi. Số là tên Hăngri nó nhiều hành động dian dối. Hổm rày, vợ tôi theo dõi hắn. Hắn dự trữ trong cặp da môt số"bài kía," đóng dấu giả: Hắn coi"bài kía" của trâu bò lối xóm rồi sao y, điền vô khoảng trống trong "bài kía" giả của hắn. Xong xuôi, hắn... ăn gian ngày tháng. Thí dụ như trâu bò của bọn mình vô bộ năm 1935 thì hắn ghi là 1934. Vợ tôi htấy rõ ràng hắn đang"sao y bổn chánh" , lúc tôi vắng mặt. Hắn tưởng vợ tôi dốt.

Một nạn nhân nổi giận:

- Tôi chém nó mới được.

Phó hương quản nói:

- Ðừng! Chém ruồi ai dùng gươm vàng làm chi. Tôi tính như vầy: đêm nay tôi ăn cắp cái cặp da đựng "bài kía" của hắn. Rồi tôi tri hô rằng ăn trộm đã lẻn vào nhà tôi. Tất nhiên bà con mình nên sắp xếp sẵn. Một người nào đó cứ chạy phía trước, giả như kẻ trộm xách cái cặp da. Rồi bà con xúm nhau đuổi phía sau. Tên Hăngri cũng rượt theo để giựt cái cặp da trở lại. Thừa dịp đó, mình dùng củi khúc mà ném cho hắn ta u đầu, què cẳng.

Nửa giờ sau, kế hoạch được thi hành. Tên Hăngri hốt hoảng, yêu cầu dân làng giúp hắn giựt lại cái cặp da:

- Tôi hứa trọng thưởng. Tôi hứa tha tội cho bà con!

Nhưng ai nấy cứ hò hét, chạy dồn về phía hắn, hươi gậy gộc... Hắn hốt hoảng chạy. Dân làng đuổi theo mãi.

Riêng thầy phó hương quản thì dè dặt hơn. Thầy ngồi núp trong bụi chuối, đề phòng trường hợp tên Hăngri là thanh tra... thứ thiệt. Hắn sẽ rút súng bắn thầy và truy tố thầy là kẻ chủ mưu.

Thầy thất vọng vì quả thật hắn không có súng.

Và dân làng hơi thất vọng, mất hào hứng. Cuộc rượt bắt diễn ra quá nhanh. Chạy được chừng trăm thước, tên Hăngri quẹo xuốngmé kinh xáng rồi té quỵ, rơi tòm trong bóng tối.

Có lẽ hắn biết lội, nên sáng hôm sau không ai thấy"anh hùng rơm" trở lại làng Bình An, và dân chài lưới tuyệt nhiên chẳng gặp cái thây ma chết trôi nào!

ĐẢNG XĂM MÌNH

Ông Tây Lơ Pheo vừa được"nhà nước thuộc địa Nam Kỳ" cấp cho một phầnd dất hoang vu, sình lầy ở rạch Xẻo Quao, làng Ðông Hưng, sát mé biển vịnh Xiêm La.

Sau khi hay tin ấy, mấy ông điền chủ Việt Nam ở gần không ngớt bàn tán:

- Bộ thằng Tây đó muốn tán gia bại sản sao chớ? Thứ đất khô không ra khô, ướt không ra ướt, tràm mọc vài cụm xơ rơ... Biết chừng nào mới làm ruộng được. Cỏ mọc cao hơn đầu người.

Có người đáp lại:

- Ông Lơ Pheo không ngu dại gì đâu, ông làm tới chức"bác vật," ông có vốn liếng nhiều. Vài chục năm nữa, đất phèn, mùa nàng thạch mậu nhờ ổng mướn người xẻ kinh, đào mương cho rút bớt chất phèn.

- Vô lý. Vài chục năm sau, ông Lơ Pheo chết ngắt. Biết đâu Tây rút lui về chánh quốc trước khi đất này trở thành "đất thuộc" có huê lợi. Ông Trạng Trình tiên đoán rằng... thầy tăng trở về... gì đó, bà con mình quên rồi sao?

Nhưng Sấm Trạng Trình, năm ấy, chưa ứng nghiệm. Co bộ còn hơi lâu Tây mới rút về nước họ. nhà nước Tây còn mạnh lắm. Quan chủ quận vừa gời trát xuống cho thầy hương quản"tuân cứ" là hôm sau cả ban hội tề Ðông Hưng mặc chỉnh tề, khăn đóng, áo dài đen, chầu chực đón rước vị điền chủ mới.

Ông Lơ Pheo nói sành sỏi tiếng Việt Nam, không cần ai làm thôn ngôn. Ông không mang theo khí giới, súng đạn, khi người ta là một tay lịch lãm, dám bỏ quê xứ để qua thuộc địa miền nhiệt đới, khi người ta có bộ óc khá to, có cái trán sói sọi vì quá suy tư.

Nghe trình bày những khó khăn trong công việc làm ăn, ông Lơ Pheo mỉm cười:

- Hèn gì... Ngành canh nông ở đây kém phát triển, thua Nhật Bổn, Miến Ðiện, Nam Dương. Ðất nào mà không sanh ra huê lợi. Vậy chớ mấy ông điền chủ"An Nam" ở gần đất của tôi sanh sốn bằng nghề gì?

Thầy hương quản nói:

- Dạ, họ không làm ruộng.

Ông Lơ Pheo trố mắt:

- Tại sao họ xưng là người trồng tỉa lúa gạo. Họ khai trong giấy tờ làRi-di-cun-tưa (Riziculteur).

Thầy hương quản gãi đầu:

- Họ sống bằng nghề nuôi cá.

- Ồ!Phọt-mi-đáp. Nuôi cá là chuyện khác với làm ruộng. Bây giờ, thầy hương quản cứ cho tôi biết. Mỗi mùa nuôi bao nhiêu... con cá? Loại cá gì? Cho cá ăn mồi gì? Làm sao có đủ thức ăn cho cá lớn? Lúc cá đẻ, phải săn sóc cá mẹ cá con ra sao? Mỗi ngày, cá ăn mấy lần? Mỗi năm, bán được bao nhiêu tiền?...

Thầy hương quản nói tóm tắt:

- Dạ, theo chỗ tôi biết thì mỗi người chủ đều bán ra vài chục ngàn kí lô cá. Ðó là cá lóc, cá trê, cá rô do trời sanh, trời dưỡng. Từ hồi... tạo thiên lập địa, cá kiếm ăn một mình. Mình cứ ở không, uống rưọu mà chờ mùa nắng để bắt cá một lần. Gọi tắt là mấy ông điền chủ"An Nam" đắp vuông nuôi cá. Nuôi cá trong cái"vuông".

- Vuông là cái gì? Sao tôi chưa nghe sách vở nói tới. Cái hình bốn góc bằng nhau. Làm sao cá ở trong đó?

Thật vô cùng bối rối cho thầy hương quản. Làm sao giải thích rõ ràng cho ông Tây thuộc địa nghe được. Thầ ngỏ ý muốn đưa ông Lơ Pheo ra ngoài vuông để ông ta quan sát tận nơi. Trời nắng chang chang, đổ sao. Ông Lơ Pheo lắc đầu, nghĩ đến những vụ ám sát, bắt cóc. Phía chân trời, dường như có một dẫy rừng chạy dài.

Rốt cuộc, thầy hương quản nói:

- Dạ, đó là một khoảng đất rộng từ bảy chục, tám chục hoặc hai ba trăm mẫu. Trong khoảng đất hoang vu, người ta đào nhiều đường mương nhỏ, như bàn cờ, cho cá ở. Bên ngoài có bờ bao ngạn như vòng thành khá cao. Cao hơn một thước tây. Vì vậy cá lội quanh quẩn trong vùng đất bao la bên trong. Làm sao cá nhảy ra khỏi bờ bao ngạn được. Cái vuông ấy không nhứt thiết hình vuông. Nó méo mó, hoặc theo hình chữ nhựt.

Ông Lơ Pheo thích chí:

- Tôi hiểu rồi. Giỏi quá! Nhưng mà... làm sao gom cá lại một chỗ, bắt cá đem lên. Chẳng lẽ dùngmáy bơm để hút nước ra ngoài. Muốn bắt cá, phải tốn bao nhiêu nhân công?

- Dạ bẩm, quan lớn... Qua mùa hạn bao nhiêu cá đều rút xuống mương, tự nhiên. Chừngmương cạn thì thì cá rút lui từ từ, dẫn vào một cái đìa khá to, ở sát bờ bao ngạn. Mình cất nhà ở bên cái đìa đó, để coi chừng kẻ trộm. cứ tát đìa. Cá lớn thì bán. Cá nhỏ thì để dành làm giống cho mùa tới.

Ông Lơ Pheo gật đầu lia lịa, khoát tay ra dấu nhận lời thầy hương quản. Chẳng lẽ người Pháp lại thua trí người nông phu"An Nam"? ông ta nói nhanh:

- Tôi hiểu rồi. Mấy người nuôi cá theo kiểu... cái Biển Hồ trên xứ Cao Miên. Mùa mưa cá lên rừng, lên ruộng, sanh đẻ trong lồng cỏ. Mùa nắng, cá gom xuống ao hồ. Tôi làm bài toán rồi. Mỗi năm, một cón cá mẹ sanh ra chừng mười ngàn cá con, hay quá.

- Như vậy nghĩa là quan lớn thấy xa hiểu rộng hơn tôi nhiều. Sáng mai, tôi dẫn quan lớn đi thăm mấy cái ruộng của điền chủ"bổn xứ" , gần đây...

- Cám ơn. Tôi đắp một cái ruộng, lớn bằng hai bằng ba... cho điền chủ An Nam noi theo. Ờ, tại sao mấy người điền chủ ở đây không làm giàu. Cá nưôi không cần mồi. Tiền bạc ở đâu? Tại sao không ai cất nhà lầu, mua tàu bè, lập nhà máy xay lúa. Tại sao ông chủ ruộng nào cũng nghèo xơ xác?

Thầy hương quản mỉm cười bí mật. Thầy ta cũng là một người chủ vuông, luôn cả những người trong ban hương chức hội tề:

- Thưa ông, khó nói quá.

- Sao vậy? Tại vì mấy người chủ vuông hút á phiện, mê cờ bạc?

- Dạ, khó nói quá.

*

* *

Ông Lơ Pheo lấy làm hài lòng khi ông đích thân đến quan sát vùng đất, ông phác hoạ kế hoạch tương lai.

Này, cái bản đồ với bón góc A,B,C,D có thể chứa hàng triệu con cá.

Này, cái trại vuông, lợp bằng thiếc, nền lát gạch, vách ván, có cửa sổ che lưới sát mịn để ngừa loại muỗi đòn xóc gây bịnh rét rừng.

Này, cái phòng khách. Bên góc, có bình lọc nước, thư viện nghiên cứu. Và trước sân là một cái hồ nhỏ, cẩn xi măng để nuôi thử vài loại cá lóc, cá trê. mấy loại này sẽ lai giống, gây ra vài thứ cá mau lớn, dễ nuôi hơn, ăn ngon hơn.

Ngày đắp xong cái vuông, ông khen thưởng bọn"culi" một con heo quay.

Rồi suốt ngày, ông nằm trong trại, theo dõi tình hình nuôi cá.

Vài người đàn ông đen đúa, ở trần, tóc dài tới ót đi qua đi lại gần trại nuôi cá của ông Lơ Pheo.

Họ chào ông, ông chào họ. Họ tự xưng là người"làm ăn lương thiện" ở ngoài mé biển. Họ hút điếu thuốc của ông Lơ Pheo thân tặng rồi họ nheo mắt, khều nhau.

Họ nói nói, cười cười như âm mưu chuyện gì.

Ông Lơ Pheo cau mày, linh tính như báo trước chuyện bất an. Ngực của mấy kẻ"làm ăn lương thiện"ấy xâm đầy chữ Tàu, chữ quốc ngữ, luôn cả chữ Pháp. Bí mật quá.

Chờ khi họ khuất dạng, ông Lơ Pheo đến nhà hương quản:

- Mấy người ở đâu vậy? Tên họ gì? Có đóng giấy thuế thân không? Hay là dân bất lương?

Thầy hương quản nói:

- Họ ngoài mé biển, làm nghề câu cua, đốn củi, gài bẫy chim. Mấy nghề đó, nhà nước Lang Sa đâu cấm đoán. Còn về giấy thuế thân thì... khó quá. Tôi chua dam1 hỏi thử vì làm vậy sợ mất cảm tình. Ðể tôi hỏi thầy xã trưỡng xem thử họ có ghi tên trong bộ sỗ không.

Ông Lơ Pheo lắc đầu:

- Họ còn làm gì khác không? Coi bộ họ rảnh rang hơn tôi. À, họ biết chữ Tây không?

- Dạ, làm sao biết được Ở làng này, chẳng ai biết chữ Tây hết.

- Nè, thầy hương quản. Họ xăm mấy chữ Pháp quá vô phép:"Plutôt la mort que la honte"(thà chết hơn chịu nhục). Họ lại ở trần cho tôi đọc.

Thầy hương quản hơi bối rối:

- Họ xăm mình từ hồi nào lận kìa! Vả lại, chữ nho cũng vậy"Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục."đã xăm vào da vào thịt rồi thì làm sao bôi xoá được. Chữ Tây mà. Chữ Tây ngụ nhiều ý nghĩa quá.

Ông Lơ Pheo lẩm bẩm:

- Câu đó để dành cho người Pháp bên chánh quốc. Hoặc cho tôi. Ở xứ Nam Kỳ này, không nên nhắc lại câu đó, sợ dân tình bắt chước. Ngoài mé biển, còn chừng bao nhiêu người sống lang thang rảnh rổi như vậy?

- Dạ, để tôi hỏi thầy phó hương quản. Phó hương quản lo trị dân ngoài đó.

- Phó hương quản là ngườ nào? Mặt mày ra sao? Kêu lại cho tôi biết mặt.

Thầy hương quản im lặng. Ngưòi xăm mình, xoay mấy chữ ngạo nghễ khi nãy chính là phó hưong quãn chó còn ai đâu xa lạ. Thầy che giấu:

- Dạ, phó hưong quản giờ này đi câu cua ngoài biển.

- Dân ngoài mé biển hiền hậu không? Uống rượu nhiều không? Họ uống rượu với... thịt chó hả? Ở vùng đồng bằng sông Hồng...

Thầy hương quản gật đầu để chấm dứt câu chuyện rắc rối.

- Dạ, uống rượu với thịt chó.

Rồi thầy ra về với nụ cưòi bí mật. Sự thật là dân miền biển ưa nhậu rượu với cá, loại cá nước ngọt, nuôi trong vuông. Cá đồng ngon hơn loài cá biển. Nay mai, đến mùa nước cạn, họ sẽ nhậu với cá trong vuông của ông Lơ Pheo và ăn trộm cá để mua rượu. Họ ăn cá, thay cho cơm.

Ông Lơ Pheo vào trại, tỏ thái độ cương quyết. Ông vừa thắng một trận giặc lòng. Lương tâm ông chẳng còn cắn rứt nữa. Ông quyết tâm vượt những khó khăn đầu tiên mà cuộc kinh doanh nào cũng vấp phải. Kế hoạch đối phó của ông như thế này: Về chợ Rạch Giá, tìm một tay võ sĩ, đánh lộn hay, chém lộn giỏi, rồi phong cho hắn làm chức quản lý vuông cá. Ấy là lấy độc trị độc. Mỗi tháng, cứ tăng lương đều đều cho hắn.

*

* *

Mấy tháng qua, Tư Liệt lấy làm vui thích. Với trách nhiệm to tát, chú tư còn được quyền hạn khá rộng do ông Lơ Pheo giao cho.

Sáng sớm, vừa thức giấc là chú Tư Liệt dạo vòng quan bờ ruộng, đi hơn một tiếng đồng hồ mới giáp bốn phía bờ bao ngạn. Chẳng có kẻ bất lương nào ẩn náu trong vùng cấm địa cả! Ông Lơ Pheo đã la hoảng, vậy thôi. Trong vuông, chú Tư Liệt thấy nào chi, cò, trích, cúm núm. Hàng trăm con le le bay lên từng chặp, từ mấy cái lung đầy sen bạch, nở muộn. Gió chướng thổi hiu hiu. Mấy giề rong đuôi chồn tan rã, chìm xuống. Mắt nước lềnh bềnh, đầy bông súng.

Mấy tấm bảng"Vuông này là của riêng của ông Lơ Pheo, Cá có chủ! Coi chừng! Nếu trộm cắp sẽ bị nghiêm trị!"đứng trơ trẽn lạnh lùng trưóc cơn gió biển. Thỉnh thoảng, vài con cò quắm đáp xuống, đâu thử trên đầu bảng. Nhưng chặp sau, vì tấm bảng quá mỏng, nên cò quắm đau chân. Cò vỗ cánh, phóng uế, bay về phía rừng mắm xanh rì để đậu. Cành mắm tròn đậu êm ngón chân hơn.

Tư Liệt ngáp dài, trở về trại, uống viên ký ninh, đúng theo lời căn dặn của ông Lơ Pheo, và uống với nước lọc, những giọt nước mát lạnh nhểu xuống từ cái"phít" bằng đất sét trắng. Buổi chơm chiều, chú ăn chậm rãi. Nhà đóng kín, muỗi không lọt vào được. Ông Lơ Pheo đã trở về Sài Gòn từ tháng trước. Tư Liệt nghiễm nhiên trở thành chủ nhà, chủ vuông cá. Còn năm ngày nữa, ông Lơ Pheo mới trở lại Xẻo Quao này.

Chú nằm trên giường lắng tai. Bên ngoài có những tiếng động lạ thường.

Trong cái đìa sau trại, cá quậy nước nghe ầm ầm. Hàng ngàn con cá to đã gom vào đó. Im một chặp, lại nghe tiếng"chép chép," "lụp bụp," "lào xào"... cứ như thế, mỗi lúc một náo nhiệt.

Chú xách cây đèn"pin" , chạy ra ngoài rọi xuống đìa. Nước đục ngầu pha trộn với bùn đen. Hằng hà sa số cá lóc, cá trê cố vùng vẫy, toan lội trở ngược. Chú dạo một vòng, chung quanh bờ vuông. Cá gom xuống mương rồi. Cá muốn lội dài theo dòng nước đục, gom vào cái đìa lớn. Chú rọi đèn"pin"... Vài con cá choá mắt, nhảy dựng đứng để trốn ra ngoài bờ bao ngạn khá cao. "Cá ở đâu mà nhiều quá vậy?" Tư Liệt hỏi thầm.

Sau cuộc tuần tra ấy, Tư Liệt vào nhà mừng thầm vì nay mai ông Lơ Pheo sẽ hài lòng.

Hừng sáng, chú thúc dậy sớm, dạo một vòng trên bờ vuông. Ðằng kia, đôi ba người lực lưỡng đưa tay ngoắt chú. Bên cạnh họ, đống lửa cháy vàng lườm. Khói bay cuồn cuồn, đưa màu cá nướng thơm phức. Thấy họ đông đảo và mạnh khoẻ hơn mình, Tư Liệt dừng lại. Có tiếng kêu réo:

- Lại đây nhậu chơi nè. Chẳng lẽ ba người ráp đánh một người. Anh hùng một thứ với nhau mà.

Tư Liệt cười gượng, đến gần. Ô hô! Nãy giờ, và có lẽ từ mấy ngày trước, họ ăn hằng hai ba chục con cá lóc, cá trê, bỏ xương bỏ thịt một đống to. Dường như chưa thoả mãn, họ đang chuẩn bị cặp vào gắp tre chừng mười con cá trê mà nướng tiếp theo.

- Lại đây đại chúng ta. Uống một hớp cho tỉnh táo để thính lỗ tai, nghe tụi tôi hạch tội.

Tư Liệt ngạc nhiên:

- Hổm rày, tôi đã làm gì khiến bà con hờn giận?

Một người trong bọn nói:

- Hồi tối, đại ca đi đâu. Rọi đèn"pin" để rình bắt tụi tôi hả? Rình ban ngày chưa đủ sao? Lại đây ăn no rồi kéo tay sơ sơ coi ai mạnh, ai yếu. Nè! Cá lóc Xẻo Quao ngon lắm, ngốn một miếng cho biết mùi. Ăn lớn miếng mới biết ngon.

Cực chẳng đã, Tư Liệt phải ăn và uống. Bọn người cười vang:

- Cha nội này tiếc của dùm cho ông Lơ Pheo. Cá này là cá của mình mà. Tại sao đại ca lại trung thành"bất tử" với ổng?

Tư Liệt hỏi nhanh:

- Cá ở đây vậy?

- Cá ở trong vuông trốn ra chớ ở đâu.

- Cá biết trốn à? Làm sao nó nhảy qua bờ bao ngạn, cao hơn một thước tây.

- Nó đào hang, đào ngách. Ðất mềm lắm. Kìa! Thí dụ, như mấy bụi sen bạch này. Nó mọc phía ngoài nhưng nó trổ ngó, mọc thêm vài bụi phí trong vuông của ông Lơ Pheo. Hai bụi sen dính liền với nhau. Thử đào đất lên thì biết. Lời tục thường ví:"Ðất có con mắt".

Hôm sau, ông Lơ Pheo từ Sài Gòn về Xẻo Quao để... bán cá. Ông hơi buồn phiền vì Tư Liệt cứ vắng mặt. Chỉ còn người bạn tâm giao của ông ta là thầy hương quản.

Thầy hương quản nói:

- Xứ này khó làm giàu lắm. Bởi vậy, mấy ông điền chủ Xẻo Quao chỉ lo nhậu rượu rồi làm hương chức hội tề cho vui. Làm sao phân biệt cái hang tự nhiên với cái hang của tụi nó đào. Tôi biết. Gây gỗ với tụi nó vô ích.

Ông Lơ Pheo nói giọng chán ngán:

- Chắc thằng Tư Liệt theo đảng xăm mình rồi. Còn thầy có xăm mình không?

Thầy hương quản mỉm cười:

- Ôi thôi. Cá nước chim trời mà.

CÁI TỔ ONG

Vừa bước lên sân, việc đầu tiên của cậu Minh là phóng mắt vào nhà rồi liếc nhanh phía sau sàn nước để tìm hình bóng cô Kim Em. Hổm rày, cậu mang bịnh tương tư. Nhưng khi đến đây cậu gặp sự thất vọng.

Ông Tư hỏi:

- Lâu quá, không gặp cháu. Cháu vắng hổm rày, chắc lo học hành...

Cậu Minh đáp:

- Dạ, cháu không có chuyện chi. Bãi trường rồi, rảnh rang lắm. Chừng một tháng nữa, cháu mới lên chợ Rạch Giá nhập học lại.

Thằng Thích chạy tới, nói xen vào:

- Ba ơi! Cậu Minh đọc sách để coi kiểu nuôi ong lấy mật ở bên Tây! Hôm qua, con lại nhà cậu, cậu lật sách cho con coi mấy cái hình ăn ong. Ở bên tây hễ muốn lấy mật, người ta bận áo mưa, đội mão, mang bao tay bằng da bò. Hèn gì họ... mình đồng da sắt, không sợ ong đánh. Cậu Minh nói với con: Hễ con dạy cách ăn ong ở xứ mình cho cậu... ăn được thì cậu mua cho con một cáibê hê , một cây đènpin.

Ông tư lườm thằng Thích:

- Ai hỏi mà mầy lên tiếng. Bỏ cái tật nói hớt của mầy nghe không? Xuống bếp, lo dọn cơm.

Rồi ông day qua cậu Minh:

- Nhằm bữa, cậu ăn luôn với tôi. Hổm rày nhằm cỡ ong"dàn trận." Lui cui tối ngày với ba cái mật, cái sáp...

Cậu Minh vô cùng thắc mắc: "Cô Kim Em đi đâu vắng rồi? Sao ban nãy thằng Thích rủ mình tới chơi, nó quả quyết rằng chị Hai nó có ở nhà."

Phía nhà dưới, nào thấy bóng hồng thấp thoáng. Gió phăng phắc nhưng mùi mật ong xông lên nồng nực khắp nhà. Ruồi bay từng bầy, bu lại gần mấy cái thùng thiếc đầy tàn ong mới"xắn" về. Mấy con ong non ngày non tháng như luyến tiếc ổ cũ, bò ra chung quanh miệng thùng, quạt cánh nhưng chẳng tài nào bay được. Cậu Minh nói hơi to:

- Chà! Ong nhiều quá. Mật thơm quá.

Rồi cậu đi lững thững xuống nhà bếp để xem cách nấu sáp, vắt mật, luôn dịp, tìm bóng giai nhân.

Trong buồng, vọng ra giọng chanh chua của thằng Thích. Nó đấu khẩu với chị nó:

- Ai biết cơm nước ra làm sao mà dọn? Sao chị nằm trong mùng hoài vậy? Ra dọn cơm cho người ta ăn. Kỳ cục quá.

Giọng cô Kim Em trả lời:

- Tao bịnh. Lâu lâu nhờ mầy dọn chén ra mà mầy cằn nhằn hả? Hết nói.

- Chị bịnh hả? Hổm rày sao không bịnh. Chờ khách tới thì chị bịnh... Tôi biết rồi.

- Ðừng om sòm cái miệng. Nhớ đem con cá nướng trên bếp xuống, cạo sơ sơ cho tróc cái lớp khét cháy ở ngoài da cá.

Thằng Thích trở giọng khôi hài:

- Ờ phải. Ta biết rồi. Vậy hả? Cha chả...

Mâm cơm đã dọn ra. Cậu Minh ngần ngại, leo lên bộ ván nhưng chẳng dám ngồi đối diện với ông Tư. Ông Tư mời mọc đôi ba lần mà cậu vẫn rụt rè, nói nhỏ nhẹ như con gái:

- Dạ, bác cầm đũa trước, cháu mới dám.

"Thiệt cái thằng ăn học theo thời bấy giờ mà còn giữ được lễ phép thời xưa." Ông Tư khen thầm như vậy. Bấy lâu nay, ông nghe thiên hạ đồn đãi: cậu Minh yêu mến con gái ông. Lúc đầu, ông chưa tin. Không lẽ cậu Minh lại muốn cưới con gái nhà bần h; àn, dốt chữ nghĩa. Dư luận ngày càng phồng lên, gia đình cậu Minh dường như chẳng lên tiếng đính chánh. Ông Tư tin là chuyện có thật. Gia đình cậu Minh thuộc vào hạng"có tiếng mà không có miếng" vì đã phá sản. Gia đình ông tuy vô danh nhưng đủ ăn nhờ nghề ăn ong mật ở góc rừng này. Con gái ông được nhiều người khen ngợi nhan sắc và nết na.

Nếumay mà hai đứa nó kết tóc với nhau, ; âu cũng là vinh hạnh lớn cho ông. Dường như cậu Minh ưa rủ thằng Thích đi chơi để"giả đò mua khế bán chanh" , viện cớ hợp lý tới lui thăm người đẹp. Ngoài ra, cậu Minh bắt đầu nghiên cứu về sinh hoạt của loài ong mật.

Ông Tư lên giọng:

- Bữa nay ăn uống sơ sài quá. Cá lóc nướng trui mà thiếu rau dấp cá, mất ngon. Nước mắm thì mặn đắng, thiếu me chua, ớt thì để nguyên trái. Thằng Thích mầy sao tệ quá.

Thằng Thích cãi lại:

- Ðâu phải tại tôi. Tại chị Hai đó. Hồi sáng, chỉ còn mạnh cùi cụi. Vậy mà chỉ vô mùng nằm, đắp mền, không biết đau chứng bịnh gì. Ba hỏi coi!

Nắm lấy cơ hội ấy, cậu Minh vào đề:

- Dạ thưa bác, cô Hai đau nặng nhẹ ra sao?

Ông Tư nín cười không được:

- Ối! Ðau đớn gì. Vô ý vô tứ thì ong vò vẽ nó đánh, nóng lạnh một buổi là hết. Ổ ong ngay nóc chuồng heo. Thứ ong vò vẽ bất nhơn, không có mật vô ích. Lát nữa mầy đốt ổ đó cho xong, nghe Thích. Bữa nào nó đánh tới tao nữa.

Thằng Thích mừng quýnh. Nó muốn trổ tài, giúp cậu Minh thấy tận mắt thói ăn nết ở của bầy ong. Nhứt định cậu Minh sẽ vui mừng mua tặng cho nó cáibê rê và cây đènpin , theo lời hứa. Nó ăn lua láo cho mau hết chén cơm rồi từ từ lui ra sau hè.

Còn lại ông Tư và cậu Minh. Cậu cố hướng dẫn cho cuộc đàm thoại đi sâu vào vấn đề... con ong. Hổm rày cậu chịu khó đọc qua một quyển sách khảo cứu in tại Ba Lê. Cậu hơi to giọng cố ý cho cô Kim Em trong buồng nghe ngóng.

- Thưa bác, sách Tây nói rằng ong mật là lại côn trùng có cánh, rất hữu ích cho loài người tự cổ chí kim.

Ông Tư trố mắt:

- Vậy hả? Nếu vậy thì sách Tây đâu có hay ho gì. Con ong có cánh để bay lẽ dĩ nhiên, ai cũng biết. Nhưng còn thiếu...

- Thưa bác thiếu điểm nào?

- Ðiểm ích lợi... ong mật có ích cho loài người mà cũng cần thiết cho loài thú. Con gấu trong rừng sống nhờ mật ong.

Cậu Minh đáp:

- Ðúng vậy. Rồi mấy hãng kẹo bên Tây thường lấy con gấu làm nhãn hiệu. Và mỗi hãng kẹo đều có mướn nhiều ông kỹ sư, nhiều ông khảo cứu. Họ nhìn nhận mật ong bổ ích cho loài người. Lịch sử của loài người làm nên...

- Khó hiểu quá. Ăn thua gì với con ong.

- Dạ thưa hồi thời Bàn Cổ sơ khai, càn khôn hỗn độn, trước khi tìm ra lửa để nướng thịt thú rừng, con người đã nhờ mật ong mà tẩm bổ qua ngày qua tháng, chịu đựng sương tuyết. Ðó lànền văn minh mật ong (civilisation du miel), trước khi có nền văn minh dùng búa dao bằng đá, bằng sắt.

Liền khi ấy, ông Tư thích thú, rót rượu đầy chén mời cậu Minh:

- Hay quá. Hồi nhỏ tới lớn, bác mới nghe cháu nói. Mới nghe qua thì hơi dở nhưng ngẫm lại thì hữu lý.

Cậu Minh hớp chút rượu, trình bày tiếp, trong khi đó cô Kim Em ho húng hắng...

- Thưa bác, xin nói qua các nhà chép sử phương Tây. Họ bảo rằng thời xưa mật ong là vậy quí. Ong là loài côn trùng oai hùng chẳng kém loài sư tử. Bên Do Thái dây gian còn truyền tụng tích chàng dũng sĩSăm Sông đi tìm nàngÐa Li La. Chàng ta gặp con sư tử cản đường nên ra tay giết sư tử. Vài ngày sau trởi lại chốn cũ thì ô hô! Có một ổ ong khá to đóng trong lồng ngực con ác thú, khoét gần hết xương thịt.

Ông Tư lắc đầu:

- Cháu nói hơi trật chìa rồi! Chắc đó là loài ong lỗ, ong vò vẽ, thứ ong đóng ổ ở sau chuồng heo. Loài ong mật thì ăn bông thôi, tinh khiết lắm. Còn gì lạ nữa không?

- Thưa bác, nhà kiến trúc sư khen loài ong đã biết cất nhà lầu. Ổ ong là toà nhà bốn trăm hoặc tới năm trăm tần. Loài người ở thời văn minh chưa làm chuyện đó. Mùa nực, ong xúm nhau quạt cánh cho mát bầy con. Mùa lạnh, ong nằm xo rút liền với nhau để sưởi ấm. Nhờ vậy không khí được tinh khiết điều hoà, chẳng khác gì lò sưởi hay quạt máy.

Ông Tư bắt đầu chán nản vì ở rừng Cà Mau chỉ có hai mừa mưa nắng và mùa nào cũng nực, ở trần. Ông hy vọng chắm dứt câu chuyện khá dài.

- Bác ít đi chợ búa nên chưa rành cái quạt máy, lò sưởi... Thiết là lắm chuyện.

- Dạ còn nữa, bác ơi. Nhà chính trị khen loài ong biết tổ chức thành những quốc gia, có vua, có tôi, có thần dân. Nhà y học công nhận rằng nọc độc của loài ong trị được bịnh tê bại. Họ khen mấy người ăn ong trong rừng vì người ăn ong giỏi như mấy ông thầy Chà thổi ống sáo để chỉ huy loài rắn bàn nạo.

- Hơi lạ. Ăn ong với bắt rắn là hai nghề khác nhau.

- Thưa bác, đó là cách bào chế thuốc ngừa thiên thời, trái giống. Thầy rắn Chà Và đùa giỡn với rắn hổ con, rắn cắn không sao hết vì nọc còn non. Rắn lớn lên, nọc càng ngày càng độc. Máu huyết của thầy rắn cũng quen lần lần với nọc độc. Rủi bị rắn cắn thầy ta vẫn cười tươi! Người ăn ong ở rừng nào khác thầy rắn. Lần hồi, máu huyết người ăn ong trở thành lờn, ong đánh không đau đớn nữa...

Chén rượu thứ ba đã cạn. Ông Tư cười hề hề:

- Giống như uống rượu vậy thôi. Con nít uống rượu mau say, dân ghiền rượu thì coi rượu hơi giống nước lạnh. Uống đi cháu. Uống cho quen. Rượu còn hiếm hiệm... Cháu giỏi quá.

Cậu Minh cao hứng, uống lần hồi cạn nửa chén rượu đế. Mặt trời sắp lặn, đỏ khé sau rừng nhưng cậu nào hay. Mặt mày cậu ta cũng hừng lên, đỏ khé như một cái mặt trời nhỏ bé trong căn nhà ấm áp này.

- Còn nữa hết vậy cháu. Nhà kiến trúc, nhà y họ, nhà làm quốc sự đều khen con ong. Còn nhà gì nữa không?

- Thưa bác, ong ong ngộ lắm... Nhà nghệ sĩ nói rằng hễ gặp bông đẹp, nhụy ngọt thì con ong bay trở về ổ, báo cáo sự tình với đồng loại bằng một điệu vũ tức là nhảy múa. Nhờ điệu vũ đó mà bầy ong xúm nhau tìm hoa, hút nhụy. Ðẹp làm sao! Ổ ong tối mờ mờ như trong phòng ngủ. Con ong khiêu vũ trong bóng mờ. Khiêu vũ là cách nói chuyện tâm tình của loài ong. Có nhà thi sĩ cho rằng sáp ong là kết tinh bao nhiêu hương hoa của trời đất. Trong vũ trụ, đẹp nhứt là hoa. Nhụy hoa được loài ong hút về, tạo ra chất tinh khiết, xứng đáng cho chúng ta... xe lại làm cây đèn sáp để đọc sách hoặc cúng vái thần thánh. Con ong lại là... ông Tơ bà Nguyệt là lá thắm chữ hồng, đem nhụy bông đực rắc vô lòng bông cái. Vì vậy, bên Sa trại chủmạc Phi châu, cây chà là mới sanh trái được. Mấy người Ả Rập quí trong con ong, nuôi ong gần vườn chà là để cho bông cái chà là đừng trở ra thứ trái lép xẹp!

Ông Tư ngơ ngẩn vì... cậu Minh nói hơi nhiều lời, nói hết sách vở mà cũng chẳng ích lợi gì ráo. Nói tới nói lui rồi cậu ta cũng loanh quanh trở lại chuyện ái tình hơi thô tục.

Ngoài cửa sau, có bóng thằng Thích lấp ló. Ông tư hỏi:

- Gì vậy Thích?

Nó trả lời:

- Con muốn rủ cậu Minh ra ngoài này cho mát.

Ông Tư lắc đầu:

- Mầy giả ngộ hả? Muỗi mòng như trấu. Ra ngoài sau hè để làm gì?

Cậu Minh bắt đầu chán tiệc rượu vì cậu ta chẳng còn lý luận gì để phô trương cả!

- Thưa bác. Cháu muốn nói chuyện với thằng Thích. Cháu uống rượu hết vô rồi. Hơi say.

Khi thấy cậu Minh đến cửa nhà bếp, thằng Thích reo lên:

- Ðiệu lắm. Không có chổ chê. Cậu Minh ơi! Xong rồi. Mời cậu vô mùng kẻo mất cơ hội.

Ông Tư càng sửng sốt, nạt lớn:

- Mầy khùng rồi hả? Làm gì mà vô mùng? Ðừng nói bậy.

Thằng Thích nói khẽ:

- Dạ... con giăng mùng ở gần cái chuồng heo để cho cậu Minh coi cái ổ ong vò vẽ. Cái ổ này kỳ cục lắm. Ba biểu con phá ổ đó cho xong. Cậu Minh thì muốn con giúp... làm cách nào cho cậu thấy tận mắt con ong sống nhăn...

Ông Tư chép miện, muốn rầy thằng Thích nhưng sợ cậu Minh hiểu lầm:

- Ừ! Ðể tao coi mầy làm ăn ra thế nào!

Cậu Minh đứng ngoài hè., liếc thấy cái chuồng heo và cái mùng giăng trên bãi cỏ, bốn sợi dây căng thẳng qua bốn cây chuối hột. Sợ làm phật ý ông Tư, cậu dò hỏi:

- Cháu vô đó với thằng Thích. Nhà xảy ra chuyện, gì nguy hại không bác?

Sực nhớ đến mớ lý thuyết mà cậu ta vừa nói lúc uống rượu, ông Tư lẩm bẩm:

- Ờ! Thuốc dạy thầy, cậy dạy thợ. Biết đâu cháu thấy chuyện lạ hơn mấy ông bác vật! Ðây là ong vò vẽ, đóng ở góc chuồng heo của... rừng Cà Mau... Hiền lắm... Bác đâu dè thằng Thích nó rắn mắt. Mặt trời còn chạng vạng, ong nó thấy đường....

Lần đầu tiên, cậu Minh đánh bạo chui vô mùng. Ngồi bên trong, vui sướng làm sao. Vững như ngồi trong chiến bào. Ngoài kia, trời nhá nhem. Muỗi bay vo vo. Ông Tư chống nạnh, ho từng chập và dường như cô Kim Em cũng rón rén đến sát ngưỡng cửa.

Cậu Minh mỉm cười. Qua lớp vải mùng c3nh vật hiện ra mờ ảo, rung rinh. Mấy tàu lá chuối phất phơ. Con ruồi, con muỗi còn bay không lọt vào mùng, huống gì con ong vò vẽ. Một đoạn sách mà cậu đọc sơ qua cho biết: bên Âu châu, mấy nhà nuôi ong đều sắm những thùng nhỏ, lọng kiếng hoặc lưới sắt để dễ bề quan sát.

Muỗi dưới mặt cỏ bay luồn lên, vo ve. Cậu Minh quên đập muỗi, mải nhìn theo hướng ngón tay thằng Thích. Cái ổ ong vò vẽ lớn tròn, đen thui như cái trống, vừa một ôm. Ghê quá, đất chung quanh ổ ong chấp chóa, trơn láng. Nắng thoi thóp nhưng còn chiếu thẳng vào miệng ổ: một cái lỗ nhỏ, có hai ba con vàng bay loanh quanh như canh gác.

Cậu Minh muốn chứng minh tinh thần hăng hái:

- Nó không ra, làm sao mình coi được. Xa quá! Mầy Thích ơi. Phải chi hồi nãy mầy giăng mùng sát ổ ong.

Thằng Thích thở nhẹ:

- Nè anh! Tôi đem cây trúc này vô mùng để dành thọt.

- Làm sao mà thọt?

- Anh vén mí mùng, đưa cây trúc ra rồi đè mí mùng cho lẹ.

- Tao nghi ngờ quá.

- Ðể tôi!

Thằng Thích vén mí mùng, đưa cây trúc ra, nhắm ngay cái miệng ổ ong mà"chọt" tới.

Lẹ như điện xẹt, ba bốn con ong bay ra, theo cây trúc, chui vào mí mùng trước khi thằng Thích khép lại.

Hai người la hoảng:

- Chết tui. Anh ơi!

- Nó đánh tao. Ui da! Trời ơi! Thích ơi! Chạy ra được không?

Tình thế thật khó xử. Chạy sao kịp. Hàng ngàn con ong ào tới đậư ngoài mùng đen thui tùng cục, từng dề... chớp cánh nghe lào xào. Vài con xung phong lách mình xuống gốc cỏ; chui rèn rẹt vào mùng như con trùng, con kiến.

Bên ngoài, ông Tư kêu la ỏm tỏi:

- Dại quá vậy. Tại sao giăng mùng mà không trải chiếu cho sát mặt đất? Giăng mùng lơ lửng như vậy đó. Rán chịu trận.

Cô Kim Em đứng nép vào bệ cửa, lỡ cười lỡ khóc: Thằng Thích và chàng trai thông minh kia đang bị nhốt trong mùng.

Chập sau, mặt trời lặn khuất. Bầy ong gom về ổ. Ông tư bước tới, cầm một cái bao bố, khom lưng rồi thừa cơ hội thuận tiện, gói trọn cái ổ ong vào bao, chạy nhanh trở lại mương, nhận xuống nước: ong chết ngộp. Cô Kim Em tuân lời cha, xuống mương đem cái bao lên. Cái ổ ong được phá ra. Ong non trắng phau, lúc nhúc, gom hơn một thùng, đem lăn bột chiên ăn trong đêm ấy...

Cậu Minh uống rượu khá nhiều, ôm thằng Thích mà ngủ cho tới sáng...

*

* *

Vài tháng sau, cậu Minh cưới cô Kim Em. Họ sống không mấy yên ổn, vì thời cuộc. Lần hồi, họ tản cư lên Sài Gòn. Chàng làm thơ ký ở một tiệm bán kem, nàng thì thủ phận đêm đêm gánh chè đậu kiếm thêm tiền để nuôi nấn bày con sáu đứa. Càng tiếc mùi mật thơm lành của quê nhà, thuở ban đầu. Nhứt là những đêm mưa gió, vợ chồng ngậm ngùi nhìn nhau không nói một cậu. Ngọn đèn điện mập mờ gợi hình ảnh ngọn đèn sáp từ đâu lạc đến, để lệ hàng đêm, chẳng bao giờ lụn để soi sáng trang sách của cuộc đời bao la: cuộc đời vừa xới mật vừa dễ hiểu nhưng họ chưa bao giờ hiểu - như cái ổ ong bên cạnh chuồng heo.

CO ÚT ZỀ RỪNG

Má ơi! Đừng gả con xa.

Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu...

Câu chuyện xảy ra tại rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ, đâu cũng vào khoảng năm 1939 hoặc 1940 gì đó.

Trời sáng trăng. Thường lệ cứ đến chín giờ tối là nhà ông hương Cả Ba đóng cửa ngủ sớm. Đêm ấy, có khác. Cây đèn "măng sông" cất lâu trong tủ được đem ra lau chùi, đốt sáng lên. Ông Cả nheo mắt, nhìn đăm đăm ra sân tìm một góc tối om nào đó mà định thần hòng gỡ mối tơ vò rối rắm của gia đình. Ngoài sân, trăng sáng yên lành; lớp thủy ngân xao động, nhảy nhót, gờn gợn trên lá trên cành của vườn cam, trên ngọn tre mềm dịu đang chuyển động từng cơn.

Ông lẩm bẩm:

- Kìa... mà gió trở ngọn. Gió chướng qua gió nồm. Hết nắng sang mưa.

Bà Cả lắc đầu:

- Ông này vớ vẩn. Gả con Út hay là không? Sáng mai mình phải trả lời cho cậu Quỳnh biết. Ở đó mà lo gió chướng, gió nồm! Hai đứa nó đâu rồi?

- Tụi nó ở ngoài sân nói chuyện rù rì, bà không nghe sao? Thế nào tôi với bà cũng tính cho xong xuôi nội đêm nay.

"Tính" đây là cả một bài toán. Làm thế nào có lợi cho gia đình mình? Gả cô Út cho cậu Quỳnh, ông bà rất đỗi vui mừng vì gặp nơi môn đăng hộ đối. Nhưng về mặt tình cảm thì thiệt thòi quá. Gả con gái về chốn Cạnh Đền xa xăm! Tháng trước, ông xuống đó để dò xét thân thế gia đình của đàng trai: căn nhà ngói vách ván, xung quanh có vườn tược lai rai, xa xa nhô lên vài nhà của người Miên. Và rừng xanh một dãy che phủ tứ phía chân trời!

Ông đáp:

- Tôi nhứt định gả. Hai đứa nó thương nhau từ hồi còn đi học ở Sài Gòn. Bên đàng trai khá giả. Mình đòi bắt rể, ai mà chịu. Thôi đành vậy...

Bà Cả thở dài:

- Tôi ngại quá. Mình có mụn con gái. Gả đi xa xôi không nói làm gì. Ngặt xứ đó kỳ quái, hiểm nguy. Nội cái tên Cạnh Đền nghe cũng dị hợm...

- Tưởng bà ngại điều gì chớ chuyện đó thì dễ. Dân ở dưới hiền lành lắm. Bộ thiên hạ ăn thịt con gái mình sao mà nguy hiểm?

- Tức chết đi! Nói vậy mà không hiểu! Ông không nghe người ta hát sao?

- Xứ đâu hơn xứ Cạnh Đền,

Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh.

Ông Cả nghe qua, cười ngất hồi lâu. Bà Cả càng sôi gan:

- Ông cười tôi nói bậy à? Ở xứ đó chạng vạng là ai nấy phải vô mùng để... ăn cơm

- Nhưng sự thật là họ ăn cơm sớm, hồi cỡ bốn giờ chiều để khỏi cần vô mùng. Bà nghe ai nói lại vậy?

- Ông có tài binh vực cho xứ Cạnh Đền. Dẹp chuyện muỗi một bên, tôi bàn qua chuyện đỉa để ông có giỏi thì cãi. Nè, tôi nghe nói... phen đó cô dâu nọ ở chợ Cần Thơ gả xuống. Cổ xuống bến làm cá, xong xuôi đem trút vô chảo, nấu canh chua. Dè đâu chừng con đỉa đeo trong khứa cá. Cô dâu nọ bị đuổi vì tội... nấu canh chua bằng đỉa. Oan ức quá. Xứ đỉa nhiều, đâu ai dè trước! Tôi sợ con Út nhà mình phải bị đuổi trở về mà mang nhục với xóm riềng.

Ông Cả cười dòn:

- Thiên hạ đồn nhưng có thiệt lần nào chưa? Tôi nói cho bà nghe: chuyện đó dóc. Hồi xuống Cạnh Đền, tôi nhắc chuyện... "đỉa lềnh như bánh canh". Thiên hạ ở dưới đó cắt nghĩa: Cạnh Đền là nơi nước mặn gần mãn năm. Hơn nữa, ruộng ít khi cày trâu. Làm sao có đỉa ở vùng nước mặn? Chẳng qua là mấy người đặt bài hát đưa em, thêm nhưn thêm nhụy để bắt vần. Đỉa nhiều ở là xứ nước ngọt như Bình Thủy, Ô Môn đây nè! Bà biết chưa. Ở đây, từ hồi nào tới giờ, có ai lỡ nấu canh chua đỉa không? Bà chỉ cho tôi coi thử.

Bà Cả đuối lý, cố suy nghĩ, tìm cách bảo thủ ý kiến của mình.

Sau rốt, bà nói:

- Gả con về rừng khổ lắm. Xưa nay, người ta hát:

Mẹ mong gả thiếp về vườn,

Ăn bông bí rợ dưa hường nấu canh.

"Đằng này mình gả con về rừng... Bao nhiêu người chịu tai nạn đó rồi".

Ông Cả hút điều thuốc, chập sau mỉm cười, đắc thắng. Bà day lại:

- Ông gả thì gả đi. Đường xá xa xôi làm sao nó về thăm mình được. Nãy giờ tôi quên nói chuyện đó.

- Dễ ợt. Miễn con gái của mình có hiếu... Gả con... ở trong nước Việt Nam chờ qua bên Tây bên Tàu gì sao! Một khi quên cha quên mẹ thì dầu ở kế bên nhà nó cũng không thèm về thăm. Tôi thì tôi tin con Út lắm. Công cha mẹ nuôi dưỡng, cho đi ăn học lẽ nào nó quên.

Bà Cả bỏ đi chỗ khác, nói lại một câu:

- Để coi nó nhớ hay quên! Xuống miệt Cạnh Đền, muỗi ăn thịt nó. Nó bỏ thây ở dưới, hai ba năm chưa chắc về thăm mình được một lần. Lần hồi mất gốc rễ, nó nhè lấy tên mình, đặt trùng lại cho con cháu của nó mà không hay.

- Tại sao vậy? Bà này vô lý quá...

Tuy cãi lời bà, trong thâm tâm ông cảm thấy chút gì buồn bực đuối lý. "Ông có lý luận đúng, nhưng bà... không lẽ nói sai". Nghĩ vậy, ông lại nằm nơi ghế trường kỷ, lẩm bẩm:

- Ông Tơ xếp đặt rồi. Phận con Út vậy đành vậy.

Thế là tháng chạp năm đó, nhà ông Cả treo bông kết tuội để gả con, giữa tiếng dị nghị của bao chàng trai tơ ở rạch Bình Thủy.

Cô Út về làm dâu đất Cạnh Đền.

Hai năm qua.

Ba năm qua...

Chuyến đầu, đôi vợ chồng về thăm ông Cả bà Cả, đèo theo một đứa con gái nhỏ... sổ sữa dễ thương.

Chuyến sau họ về, lại thêm một đứa gái. và một đứa thứ ba nữa đang nằm trong bụng mẹ.

Hai ông bà quá đỗi vui mừng.

Nhưng liên tiếp mấy năm sau họ bặt tin, ngày Tết ngày giỗ cũng chẳng về. Lo ngại quá! Có chuyện gì xảy ra bất lành không?

Hai ông bà muốn xuống Cạnh Đền thăm con nhưng ngại mình già sức yếu, đường xa xôi, phải vượt qua sông Cái Lớn. Nằm đêm, lắm khi bà khóc lóc mà trách ông:

- Tôi nói muỗi rừng ăn thịt hai đứa nó rồi. Xứ gì mà muỗi kêu như sáo thổi. Không đau bịnh rét thì cũng chói nước lớn bụng mà chết... Hồi đó ông cãi tôi, nhớ không?

Ông Cả vô cùng buồn bực. Nhứt là khi nghe con nít chòm xóm hát đưa em:

Má ơi đừng gả con xa,

Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu?

Mỗi khi tiết trời lập đông là cơ thể rêm nhức, tuổi già của ông càng đè nặng hai vai. Nảo nuột quá những câu hát:

Một mai ai đứng bên kinh,

Ai phò giá triệu, ai rinh quan tài?

Bên kinh đã có con trai,

Giá triệu con gái, quan tài nàng dâu

Hỏi nào chàng rể ở đâu?

Chàng rể uống rượu đi sau nói xàm...

Ông nhìn trời. Ngày nào đó ông chết, con gái không về kịp để phò giá triệu, càng không có chàng rể. Nhưng ông tin tưởng rằng đứa rể của ông ở vùng Cạnh Đền xa xôi kia, giờ phút này đang cặm cụi làm ăn nhớ cha mẹ vợ, không bao giờ uống rượu nói xàm vì chàng là kẻ có ăn học. Suốt tháng ngày, ông chống gậy đi quanh quẩn bên gốc tre già ở mé sông, mắt mòn mỏi nhìn bóng dáng các ghe thương hồ qua lại.

Trời đất nào phụ kẻ có lòng như ông!

Mãi đến buổi trưa đó, có chiếc ghe chèo chậm chậm ngang bến. Chồng trước mũi hỏi vợ sau lái:

- Phải chỗ cây mù u này không? Cậu Quỳnh nói nhà bên vợ ở đâu đây.

Chị vợ đáp:

- Không chừng... Đúng quá, cách ngã ba, qua hai cây cầu khỉ, nhà ngói có vườn quít.

Anh chồng ngó tới ngó lui, cãi lại:

- Mình mới qua một cây cầu. Chèo tới trước chỗ cây cấu khỉ, đằng kia kìa, họa may...

Ông Cả cố gom tất cả sức già, la lớn:

- Ở đây nè, bà con ơi! Nhà vợ thằng Quỳnh ở đây nè...

Ghe đậu lại. Hai vợ chồng nọ được mời lên ăn cơm với thịt gà tại bộ ván gõ giữa nhà ông Hương cả. Trong đời, họ chưa bao giờ được hân hạnh lớn như vậy! Ông Cả, bà Cả, người lối xóm xúm lại hỏi nhiều câu quá. Họ bối rối, trả lời vắn tắt:

- Dạ, vợ chồng cậu Quỳnh mạnh khỏe. Nhờ trời sanh được sáu đứa con. Bốn đứa sau đều là con trai.

Bà Cả mừng quýnh:

- Úy! Bộ con Út đẻ năm một sao? Con nhỏ đó thiệt giỏi!

Khách trả lời:

- Dạ, đẻ năm một. Đứa ăn thôi nôi, đứa lôi đầy tháng. Mẹ tròn con vuông. Hồi tôi đi đây, cô Út gần nằm chỗ một lần nữa. Thưa ông bà, miệt dưới ai cũng vậy. Như vợ chồng cháu đây có tám đứa con.

- Sao vậy cà? Sao vậy cà? Ở dưới cỡ này ra sao mà thiên hạ đẻ nhiều quá vậy?

Khách ngượng nghịu, chập sau mới nói:

- Dạ ở miệt dưới muỗi dữ lắm. Chạng vạng là cả nhà, vợ chồng con cái rút vô mùng... nói chuyện. Ít ai đi đâu.

Ai nấy phá lên cười to. Đến lúc bấy giờ, ông Cả bà Cả mới hiểu thêm một sự bí mật quan trọng của tiếng "muỗi kêu như sáo thổi" ở Cạnh Đền. Nó làm hại sức khỏe con người. Nhưng nó gắn bó mối tình chồng vợ hơn ở xứ không có muỗi.

Để đánh trống lảng, ông nói:

- Ừ! Phải vậy mới được. Xứ mình cần có dân đông để tạo lập thêm ruộng vườn, khai phá đất hoang.

Bà Cả nóng ruột:

- Anh chị đây có nghe vợ chồng nó nhắn chừng nào đem mấy đứa cháu ngoại của tôi về cho biết mặt?

Khách trả lời:

- Dạ không nghe. Con cái lũ khũ cả bầy, chắc vợ chồng cậu Quỳnh khó đi xa. Năm rồi mùa màng thất bát, ai cũng lo tay làm hàm nhai để nuôi con. Sông Cái Lớn mấy năm nay lại thêm sóng gió bất thường.

Bà thở dài, nói như rên siết:

- Nhớ mấy đứa nhỏ quá. Ông ơi! Hồi đó ông cãi tôi...

Ông Cả im lặng, nghĩ đến cái ngày gần đất xa trời của mình. Nó không còn bao xa nữa. Ngày đó, ai phò giá triệu, ai rinh quan tài? Nhìn bụi tre già dưới bến mà ông tủi thân: Măng non mọc kề bên gốc. Phận ông có khác; con gái, con rể và đám cháu ngoại ở chốn xa xôi kia làm sao được gần gũi để ông thấy mặt lần đầu- và cũng là lần chót - khi ông tàn hơi. Nước mắt muốn tươm ra, ông cố dằn lại. Ông hiểu đời ông chưa tới mức đen tối, còn chút ánh sáng lập lòe trong tương lai vô biên vô tận:

- Ờ... ở dưới nó có lập vườn chưa? Lát nữa, anh chị chịu khó chở về dùm cho vợ chống con Út một gốc tre Mạnh Tông để làm giống. Chừng thấy măng non cận gốc già, mấy đứa cháu của tôi luôn luôn nhớ ông ngoại bà ngoại nó trên Bình Thủy.

CON BẢY ĐƯA ĐÒ

Rạch Cái Cau là ngọn sông Cái Lớn ăn qua địa phận tỉnh Cần Thơ. Trên ba mươi năm về trước, đó là nơi sầm uất, lau sậy mọc um tùm quanh mấy gốc bần to lớn cở hai người ôm không xuể. Sớm thì chim kêu, chiều thì vượn hú, quang cảnh buồn bã làm sao! Thỉnh thoảng, có người bảo rằng: giữa đêm khuya nghe tiếng cọp rống. Những tin đồn đãi bất lành như vậy lần lần bị đánh tan và không còn làm cho ai sợ sệt nữa. Kìa kinh Xáng Lái Hiếu vừa múc xong! Ngọn nước bạc mát lạnh, ngon lành đổ tuôn qua Rạch Giá, mang mấy dề lục bình lá xanh bông tím trôi phiêu lưu từ sông Hậu Giang ra ngoài khơi vịnh Xiêm La xa thẳm.

Sông rạch thông thương, vàm Cái Cau lần lần có người đến cất nhà đông đúc thành xóm nhỏ, có ông hương ấp đứng đầu. Ông hương ấp họ tên gì? Nhà ở lối nào? Ðiều đó khách thương hồ ít ai quan tâm đến.

Có qua đây, dầu vô tình đến cách mấy đi nữa họ cũng phải chú ý đến một cái tên, hay nói đúng hơn là một giọng hát: giọng hát của con Bảy đưa đò. Nó xa lạ nhưng quen thân, ấm áp. Khi cất lên thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh; giọng ấy lúc buông trầm xuống thì như hơi gió xao động cả giòng sông, chuyển rung mặt nước dẫu khi thuyền đã xa khuất. Nó trở thành một lớp mù sương mờ ảo che lấp bóng dáng của người hát. Khách ngẩn ngơ nhìn theo không còn thấy gì nữa tâm trí bâng khuâng giữa cảnh sông rạch âm u với nhánh "bần gie con đốm đậu sáng ngời".

Người hát hay thường thường là có nhan sắc.

Bao nhiêu người tưởng tượng như vậy. Họ tìm tòi rồi đâm ra thất vọng. Vài người quả quyết:

- Cô lái đò này mặt rỗ hoa mè.

Nhưng rồi không nói ra, họ cũng phải nhìn nhận một sự thật: con Bảy có gương mặt chữ điền, đôi mắt đen lánh và vóc hình cao ráo.

Lý lịch của con Bảy ra sao? Chuyện đó lại càng khó hiểu. Chính ông hương ấp cũng chưa rõ vì hồi đó đàn bà, con gái không mang giấy chứng chỉ nên không có ghi tên vào bộ sổ. Mấy người ở lâu năm tại vùng này nói lại: năm đó, đâu từ miệt Cần Thơ, con Bảy xuống đây gặt mướn. Có điều lạ là đến khi rồi mùa thì cất chòi mà ở luôn chớ không về xứ. Năm sau, người mẹ già mang bịnh mà chết. Con Bảy đành sống một mình, hằng đêm chuyên nghề bán bánh bò cho ghe xuồng qua lại để độ nhựt; sau đó, đưa đò. Xóm này bao nhiêu trai làng gấm ghé nhưng nó không ưng ai. Lần lần thiên hạ phải dang ra.

Dạo nọ, cậu trai làng con của ông hương ấp vừa học được câu hát:

- Hò... ơ... Anh muốn gá chữ lương duyên với em trăm năm tình chồng nghĩa vợ. Mai sau anh có vô phần từ trần, xấu phước chết trước thì em ơi! Ðừng chôn xác anh dưới nước sâu sợ e con đỉa cắn, đừng chôn anh trên gò bởi ngại con mối ăn...

Gái trong làng không ai đối được. Cậu trai nó thích chí hát mãi một câu ấy hầu khoe tài khoe trí của mình. Nhưng đêm sau, giọng hò con Bảy trả lời:

- Hò... ơ... Em gá chữ lương duyên với anh trăm năm tình chồng nghĩa vợ. Mai sau anh có xấu phần từ trần chết trước, em rước thợ Bắc về cẩn đá lục lăng để chôn chàng.

Nghe câu đáp, ai nấy tấm tắc khen ngợi. Khi nấm mồ được cẩn đá thì sợ gì đỉa cắn, mối ăn. Ðó là cách giải quyết ổn thỏa nhất của mối tình bền như đá. Cậu trai nọ suy nghĩ tìm nhớ câu rao khác để thử tài con Bảy. Nhưng giọng con Bảy vội đuổi theo:

- Hò ơ... Gái tôi không hò đến chuyện Tây Du thì thôi, chớ hò đến chuyện Tây Du thì nhắc từ thuở xưa kia Tề Thiên Ðại Thánh loạn Thiên Cung đánh trời giành đất làm cho ông Nhạc Hoàng xang bang xấc bấc, đến chừng thác xuống đất bị Ngũ Hành Sơn chụp đè. Phật Bà có dặn: Này Tôn Hành Giả ơi! Nằm xuống đây chờ chừng nào Tam Tạng đi thỉnh kinh mi hãy đi theo làm đệ tử, Tam Tạng đi đến chợt thấy Tề Thiên nên mau mau chạy đến gỡ hai lá bùa... Tề thiên vùng mình đứng dậy được, nhưng mình mẩy thì ôi thôi... rong rêu đóng giáp, lỗ mũi thì cỏ mọc xanh lè... Bớ trai chàng có thấy không?

Cậu trai đành chịu thua không đáp được, về nhà sanh bịnh tương tư. Trong cơn bịnh triền miên, có lần cậu đánh bạo bơi xuồng qua nhà con Bảy để tỏ nổi lòng:

- Hò... ơ... Hột châu nhỏ xuống khoang hầm,

Em ơi! Phận em là gái phải có chồng nay mai.

Con Bảy vội đáp:

- Hộ hôn, điền thổ, đổ lửa mái nhà,

Ðứa nào muốn bậu, ông bà cháy tiêu...

Tức tối biết bao nhiêu! Cậu trai quay trở về. Quả thật cô ta hỗn xược dám khinh rẻ cậu và cả đám trai tơ ở xóm vàm này. Cũng may, câu đáp ấy nhỏ giọng vừa đủ cho cậu nghe thôi. Câu âm thầm ôm mối hận, hằng đêm tự an ủi:

- Ðèn treo Trường án, tỏ rạng bờ kinh.

Bình Thủy lưu linh, đáo lại Long Tuyền.

Trà Niền, Kinh Xăng, Ba Láng, Cái Răng

Hơn không hơn cũng kiếm cho bằng.

Có đâu thua bạn, bạn hành cười chê...

Nhưng ở đồng quê, chuyện gì xảy ra lần lần thiên hạ đều hay biết. Họ không tiếc lời để mỉa mai con Bảy:

- Ừ, Trời cao có mắt. "Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị". "Trèo cao té nặng. Ngó cao đau ót".

Cái ngày ấy lại đến.

Như thường lệ, con Bảy sửa soạn lên bờ ngủ. Khuya ít có khách sang ngang. Hơn nửa, trời chuyển mưa đen kịt phía Nam. Nhưng kia, một ánh đèn nho nhỏ chói lềnh bềnh giữa sông, từ từ trôi lại như cố ý đón đầu:

- Hò... ơ... Thân anh như con phụng lạc bầy.

Thấy em lẻ bạn, anh muốn vầy duyên loan.

Câu rao ấy thuộc loại tầm thường! Nhưng cảm mến cái giọng trai ấm áp, con Bảy hát lại:

- Gặp mặt anh đây, em muốn vầy hai họ,

Sợ vợ anh ở nhà tiếng nọ tiếng kia.

Khách cười to:

- Anh nói với em, anh đã có vợ nhà.

Vợ thì mặc vợ, anh xử hoà thì thôi!

Thừa lúc con Bảy đang rối trí, khách hò thêm một hơi:

- Anh thương em, thương quấn thương quít,

Bồng ra gốc mít. Bồng xít gốc chanh.

Bồng quanh đám sậy. Bồng bậy vô mui.

Bồng lủi sang lái. Bồng ngoáy trước mũi.

Ðặt em nằm xuống đây...

Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng, miệng đắng, cơm hôi.

Tiếc công anh đỡ đứng, bồng ngồi.

Bây giờ em vinh hiển... em bắt anh đi bán nồi làm chi?

Ý trách người tình nhân bạc bẽo! Trí nhớ của con Bảy bao giờ cũng có cách sẵn sàng ứng phó:

- Bánh bò một vốn ba bốn đồng lời, khuyên anh ở nhà cứ việc ăn chơi. Ðể em đi bán kiếm ít tiền lời, trước nuôi ba với má, sau lại nuôi mình...

Cũng là tưởng nghĩa tưởng tình. Ai dè anh bạc nghĩa em phải ở một mình bơ vơ!

Khách bên xuồng nọ lên tiếng:

- Ờ nàng ơi!

Khiến nghĩa bất vi vô dõng giã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Nàng còn nghĩ phận chữ tùng, thì trao dây xích buộc vòng sau đây.

Tức thì khách quày xuồng đi trước, rủ con Bảy tranh tài với khách. Nào chịu thua, con Bảy liền bơi theo sau.

Mái chèo phía trước nhịp nhàng:

- Ðêm khuya anh thức dậy xem trời;

Anh thấy sao Nguyệt Bạch, ngó xuống lòng rạch, anh thấy con cá chạch nó lội đỏ đuôi.

Nước chảy xuôi, con cá buôi nó lội ngược.

Nước chảy ngược, con cá nược nó lội theo.

Anh than với em rằng số phận anh nghèo.

Ðũa tre đâu dám đánh đèo với đũa mun.

Giọng con bảy lảnh lót đuổi theo:

- Canh khuya em thức dậy, em lau nĩa rửa dỉa, dọn bàn,

Tay em san rượu chát, miệng em hát một đôi câu.

Trên lầu kia tiếng chuông đánh rộ,

Dưới nhà việc trống đổ tàn canh.

Em đây lịch sự chi đó mà đi đâu năm bảy người giành?

Giả như con cá kia ở chợ, dạ ai đành nấy mua.

Ðến khúc sông vắng, xuồng của chàng từ từ dừng lại. Con Bảy cũng lơi mái chèo. Bên ngọn, gương mặt của chàng rõ ràng là khôi ngô, tuấn tú. Chàng nói:

- Cô Bảy hò hay quá.

Con Bảy cúi đầu:

- Anh hò hay hơn em đó chớ!

- Anh khen cái giọng hò của cô em. Nghe sao mà ngộ quá. Cô em dạy cho tôi...

- Có gì mà dạy. Ðó là điệu "hò bánh bò" bắt chước giọng rao bán bánh bò trên sông. Ở đây sông rộng, nhà cửa, ghe xuồng thưa thớt. Mình phải có giọng vừa cao vừa dài, che lấp hết, để cho ai nấy nghe được mình. Khó hơn giọng hò cấy nhiều lắm, vì hò cấy có nhiều người ở gần mình để "hòa hơi" theo. Ở đây mình hò một mình.

Ðôi mắt của chàng sáng lên, ngạc nhiên:

- Vậy sao? Hồi nào tới giờ tôi không hiểu rành.

- Ủa! Chàng ở xứ lạ mới đến à?

- Phải. Tôi ở Bình Thủy-Phong Ðiền xuống đây. Nhưng ở đâu cũng là non với nước.

- Em gốc ở Ba Láng. Vậy là cũng như một quê. Em đến đây hai năm rồi. Lúc này ở trển ra sao?

- Cũng vậy... Hồi tháng sáu, Tây ăn lễ lộc gì đó. Cụ cử Hoành ở Sa Ðéc không chịu treo cờ của nó trước nhà. Thiên hạ đồn, không biết hư thiệt... rằng ngày lễ ấy cụ treo quần trước cửa để phản đối. Ở Bình Thủy, cụ Tòng Hiên làm bài thơ tự trào. May thay, hương chức làng giấu nhẹm nhưng vẫn thấu tai quan trên. Lúc đề bài thơ ấy, cụ Tòng Hiên kẹp ngọn bút ở giữa hai ngón chân mà viết. Ngạo nghễ quá! Khí khái quá! Vừa rồi ở Cái Răng có người bị tình nghi vì đã chép bài thơ "Vịnh chó chết trôi sông" Của cụ Cử Trị mà dán giữa nhà. Vì vậy, tôi phải đi. Qua đây gặp cô, vui biết mấy. Thôi ta tạm biệt...

Nghe qua, con Bảy bùi ngùi tấc dạ; Từ chỗ kính mến đến chỗ yêu thương chàng trai đó cũng không xa mấy. Con Bảy nhìn vầng trăng khuyết vừa hé lên khỏi ngọn bần.

- Bao giờ chàng trở lại. Em xin chờ.

Chàng cười mà đáp:

- Cám ơn.

- Lời em hứa là chắc. Hay chàng không tin nơi lời nguyền của gái đưa đò.

- Ðâu phải vậy. Chỉ sợ tôi không giữ đúng lời hứa của tôi. Chí trai bốn biển là nhà. Không có sức như chim bằng, như cá kình chớ phận con se sẻ, con tép, con tôm này cũng đòi học ngao du trong vòng đất nước nhỏ hẹp.

Dứt lời, chàng đứng dậy cất mái chèo. Con Bảy xúc động, rưng rưng nước mắt. Duyên may một đời chưa chắc gặp hai lần.

- Vậy thì xin chàng dạy lại cho em một đôi câu hò... để em nhớ đời.

- Cô hò đã hay mà lại có duyên. Tôi còn biết gì mà dạy thêm. Họa chăng chỉ có một tấm lòng này...

"Một tấm lòng"! Con Bảy mãi suy nghĩ về ba tiếng đó, chừng giựt mình nhìn lại thì chàng đã khuất dạng trong lớp sương khuya.

Cầu cao ba mươi sáu nhịp,

Em qua không kịp,

Nhắn lại cùng chàng:

Cái nghĩa tào khang sao chàng vội dứt?

Ðêm nằm thao thức, tưởng đó với đây,

Biết nơi nao cho phụng gặp bầy,

Cho le gặp bạn,

Ruột đau từng đoạn,

Gan thắt chín từng,

Ðôi ta như quế với gừng,

Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi,

Bây giờ, con Bảy đưa đò đã già; người ở chợ vàm lại kêu bằng dì Bảy Ðò. Cứ mỗi sáng, dì ngồi đó nhưng tâm trí bâng khuâng theo câu hát nói trên. Chàng trai trẻ năm xưa như con nhạn bay xa. Phận của dì ví như con le bơi lội lẩn quẩn trong ao hồ nhỏ hẹp. "Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi". Phải chăng là dì năn nỉ chàng trai năm xưa đừng khinh dì là người kém lòng yêu non nước? Mấy năm rồi, dì không còn đưa đò nữa. Ngang kinh Xàng đã có cây cầu sắt. Trên, xe hơi chạy. Dưới, tàu đò đưa. Ngay tại vàm xóm nhà cũ lần lần tản ra, nhường chỗ cho một nhà lồng chợ.

Hồi nào thênh thang trời rộng sông dài, giờ đây dì ngồi lì một chỗ. Hồi nào trăng trong gió mát, giờ đây dì phải chịu đựng từ hừng đông tới lúc tan chợ trưa, bên một lò lửa cháy và một nồi nước sôi! Nãy giờ chúng tôi quên nói rõ: dì chuyên bán thịt heo luộc.

Nếu thời xưa dì nổi danh về câu hát câu hò, ngày nay món thịt heo luộc của dì cũng ngon ngọt không đâu sánh kịp. Thịt heo già, thịt heo nái mà dì luộc rồi thì cũng trở nên mềm mại, không dai, da thật dòn. Bởi vậy, lắm người ở chợ lân cận đến đây tìm mua cho được để nhậu hoặc ăn với bánh hỏi.

Lắm người khách tò mò:

- Dì Bảy à, Dượng Bảy đâu rồi! Sao ở đây không ai biết cả?

Dì đáp:

- Dượng Bảy đâu còn! Cũng như không. Dì... ở góa hằng chục năm rồi mấy cháu à...

- Làm sao thịt heo của dì luộc ngon quá vậy? Chỉ cho chúng tôi học với.

- Có khó gì đâu. Nhưng... mà khó lắm! Phải luộc trong nồi nước có để chút xíu phèn. Ðừng cho nước quá sôi mà hại đó mấy cháu! khi nước sôi thì đổ vô một lon nước lạnh. Cứ như vậy hoài. Dì chỉ cho nhiều người nhưng họ luộc không ngon, nói rằng dì giấu nghề...

- Ờ... nghe mấy bà già nói rằng hồi đó dì đưa đò, hò hát hay lắm phải không dì Bảy? Dì nhớ lại, dạy dùm chúng tôi...

Thiệt là khó quá. Không dạy, e mang tiếng làm hiểm. Mà dạy thì dạy làm sao? Ngồi đây mà nhớ đến cái thời xuân xanh năm nào! Nó như chiếc lá già rụng, mục nát trở về lòng đất để làm phân cho nghững cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa. Nó như một chiếc xuồng cũ kéo lên trên đất khô, phơi dưới ánh nắng day gắt. Còn đâu hơi gió cũ? Còn đâu ánh trăng xưa? Còn đâu hơi thở, còn đâu dáng người? Còn đâu bến sông "nhánh bần gie con đốm đậu"?

Buộc lòng dì Bảy nói một câu:

- Cái việc hò hát cũng như cái việc luộc thịt heo vậy. Ai làm cũng được. Cách thức dễ ợt. Nhưng mà công phu lắm.

- Công phu là thế nào dì Bảy?

Im Lặng, chập sau dì đáp:

- Ở đây, hồi đó có người nói là cần "một tấm lòng".

HƯƠNG RỪNG

Sống ở rừng U Minh Hạ từ lâu rồi mà Hoàng Mai hãy còn có cảm giác như lạc loài tận đâu đâu, bước chân đi không vướng đất. Ví nàng như cánh bèo rày đây mai đó thì không đúng lắm: có lẽ nàng như đoá hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhưng loại hoa sen thông tục quá, lại thường lọt vào tay phàm! Ðằng này, bẩm sinh nàng thuộc về một phẩm chất thanh cao hơn.

- Tằng tổ nhà ta vốn họ Trần, nhờ dày công phò chúa từ Thuận Hoá đến đây nên được cải ra họ Nguyễn, Niên mỗ, ngoạt mỗ, quân Tây Sơn đến mãi tận chốn rừng già này, chúa Nguyễn đành ra khơi tìm nơi cứu viện. Thảm hại thay! Tằng tổ nhà ta tuổi già, nhuốm bịnh không vượt biển hộ giá được, đành cam lỗi đạo quân thần, giả dạng lê dân, nương náu nơi chốn thanh lâm u cốc. Người được phong đến chức ngự y. Gia phổ ghi chép rành rành, nói xứ này, chỉ dòng họ ta là có gia phổ, đó con.

Cha của nàng thường nhắc nhở như vậy.

- Là quan ngự y, cớ sao tằng tổ ta không tự chữa bịnh được. Hẳng là bệnh nan y! thưa cha...

Bao lần nàng ướm hỏi như vậy nhưng không dám. "Thuộc dòng hoàng phái nhưng sao triều đình không chú ý tới mà ban cho chút bổng lộc?". Ðó là nỗi thắc mắc triền miên của nàng khi thấy cha già chuốt tre đan giỏ mà độ nhựt hoặc ngồi buông cán câu bên bờ trúc, giữa trăm bầy muỗi rừng.

Thỉnh thoảng, cha nàng nói khẽ như thanh minh, tự an ủi:

Hoàng đế đang tức vị thuộc dòng ngụy, do tân trào dựng lên. Giọt máu hùng anh của tiên vương này đã bị lưu đày nơi hải đảo Bòn Bon, bặt tăm nhàn cá. Nhận chức hương giáo trong ban hội tề làng Khánh Lâm sở tại, chẳng qua là cha muốn bưng bít dư luận. Bổng lộc của tân trào, cha nào màng, chỉ nguyện làm bạn bầu với cây cỏ, gió trăng.

Ngày ngày lớn khôn, Hoàng Mai càng yên tâm tin tưởng nơi dòng máu quí phái của mình. Cội hoàng mai cổ thụ trước sân, há chẳng là một bằng cớ? Bao năm rồi, nó vẫn bền gan khoe sắc khi gió Tết thổi về; vùng U Minh này mấy ai biết thưởng thức giống hoa vương giả lạc loài! Bản Nam Bình réo rắt trong ruột cây đàn thập lục chỉ để riêng cho nàng thông cảm đó thôi... Nhưng cơ trời không ai ngờ được, tránh được. Mây đẹp của đỉnh Ngự còn có khi tan, nước yên làng của dòng Hương thường bị gợn những làn sóng nhỏ. Năm ngoái, năm kia, khi vừa quá tuổi trăng tròn, một buổi chợt soi mặt vào lu nước mưa, nàng bắt gặp cái màu trắng trong leo lẻo của dàn da mình. Miệng chúm chím hàm tiếu, nàng vuốt mớ tóc đen huyền; bàn tay ngà đặt trên má đỏ hây háy, mơn man chuyền suối tóc về trên sau lưng gầy. Nhưng... lạ kìa! Hàng chục sợi tóc thi nhau tuôn xuống.

Gió nhẹ thoảng qua; chân tóc lấm tấm đung đưa, vướng bận chưa chịu bay đi như còn than van niềm biệt ly vô cớ. Nàng cau mày trở vào phòng, cầm lược chải kỹ. Nàng toan rú lên. Lược đùa đến đâu là tóc rụng đến đó như lá úa trên cành đến độ gió trở mùa. Nàng e thẹn. Nàng giận dỗi.

Thân phụ nàng - Ông hương giáo - chạy tới. Nàng soi gương, không day lại rồi trả lời về tiếng rú khi nãy:

- Không gì lạ đâu, thưa cha.

Ông hương giáo đã hiểu nguồn cơn. Mớ tóc rối nằm cuộng đống trên bàn khiến ông xúc cảm, không che giấu được cơn buồn. Chiếc gương mờ soi đôi má ửng của Hoàng Mai, màu ửng đỏ lạ thường, không biến đổi dầu khi nàng sợ hãi.

- Từ hồi tấm bé, làn da của Haòng Mai mịn quá, bóng quá. Trăm sự đều do đó mà ra...

Ông thở dài, cũng như ông đã thở dài hồi mấy năm trước, tuy gió bấc về không lạnh lắm nhưng Hoàng Mai đòi đốt lửa để sưởi rồi dẫm chân lên than hồng mà cưòi. Ðêm đến, ông nghe tiếng rên khe khẽ. Ngỡ là con gái nhuốm bịnh, ông đến gọi cửa đôi ba lần. Hoàng Mai nằm đó, tỉnh mà như say, hơi thở hổn hển, đôi mắt úp vào chiếc gối mềm như trốn tránh mấy sợi tơ trăng buông xuống từng hồi, khi gió rạt rào khẽ rung làm hở ra mấy mí lá che trên đầu vách.

Bịnh của nàng, ông doán được, ngặt không muốn nói rõ tên ra: bịnh nan y - bịnh cùi. Ông chỉ khuyên con gái năng đi duốc vì ở rừng này... "phong" nhiều lắm. Quyển gia phổ ngủ từ lâu đời dưới lớp bụi trên bàn thờ được vời xuống. Lật ra kính cẩn dưới ánh nến bạch lạp. Hơn trăm năm qua, kiếng họ Nguyễn chưa ai nhiễm chứng ấy, rõ ràng không phải bịnh di truyền. Ông suy luận:

- Có thể nhà mình đắp nền trên ngôi mộ xưa của ai. Và tự ngày xưa, ai dám, chối rằng khu rừng này không là bãi sa trường mà người thắng kẻ bại đều lẫn lộn trong đống xương Vô Ðịnh đã hóa ra cát bụi:

Trang phụ lục thứ sáu của quyển gia phổ thứ nhứt còn thố lộ vài chi tiết khó hiểu, viết bằng chữ nôm:

"Ðến Ngạc Ngư Ðàm tức Ðầm Sầu, Ao Sấu, hơi sương lạnh buốt, chướng khí xây thành. Khách hỏi: loại Ngạc Ngư (cá sấu), từ đâu lạc vào đầm? Kẻ thổ dân thưa: không ai rõ. Chúng đến đây như án ngữ nẻo đường qua truông quỉ. Nơi ấy, muôn nghìn ma quái như ẩn, như hiện. Lại có loài ong dị thường năng về là ổ; lạo ong này lưng nhuộm ngũ sắc, vượt thiên lý để hái nhụy trăm hoa đem về luyện Ngọc. Người phàm chưa ai đến gần được.

Chúng không sợ khói, hửi nhằm hơi kim khí ở trược là chúng ào ra như giông tố giết cho kỳ được kẻ ngạo mạn. Quan ngư y họ Trần biết được tin ấy bèn sai quân sĩ bày mưu kế hòng cướp ổ ong nọ, đoạt loại Ngọc thiên nhiên hiếm có đem về luyện thuốc trường sinh..."

Tư Lập, tay thanh niên khét tiếng về nghề ăn ong ở xóm Cán Gáo được ông hương giáo mời về nhà, bày rượu thịt thết đãi, đối xử như thượng khách.

Trang gia phổ lại giở ra, đọc nho nhỏ vừa đủ cho Tư Lập nghe. Tư Lập gật đầu.

Trong rừng già này, bên kia Ao Sấu, thỉnh thoảng loài ong ngũ sắc ấy trở về. Ban đầu chú Tư dùng con dao xương nai mà cạo lấy mật nhưng không hiệu quả. Lần sau, chú mài miếng xương người, dẹp như cây dao, theo ý muốn của ông hương giáo. Ngọc ong đã lấy được, đem về. Chú bán tín bán nghi vì thấy "ngọc" chỉ là mớ nhụy bông quế lại thành ké mà loài ong dự trữ bên góc ổ. Từ đấy, ông hương giáo mời Tư Lập ở luôn trong nhà cho có bạn. Ngày đêm, ông chong hàng chục ngọn nến bạch lạp chung quanh mớ "ngọc" để luyện, hy vọng rằng khi đúng một ngàn ngày nó sẽ trị được bịnh nan y của Hoàng Mai. Tư Lập như không chú ý đến điều vô lý đó, cứ ra vào nhìn trộm hình dáng giai nhân rồi nằm trằn trọc... mãi đến một đêm nọ, lúc đứng ngắm thẫn thờ cội mai già trước sân, chú nghe hơi thở nào ấm nồng, nhồn nhột sau gáy:

- Anh Tư ở đây vui chớ? Nãy giờ em không dám hỏi.

Chú nhìn kỹ: không phải là dạng hồ ly tinh trêu cợt, chính là Hoàng Mai cô gái con ông hương giáo mà bấy lâu nay chú trộm nhớ thầm thương.

Nàng nói tiếp:

- Cha của em dặn em gọi bằng anh. và đừng làm gì anh buồn.

Chú hiểu ý. "À té ra bấy lâu nay ông hương giáo thương mình". Chú đánh bạo tìm bàn tay nàng. Nàng lắc đầu:

- Em hơi mệt, như vậy...

Rồi nàng nâng tay áo lên, thứ tay áo lỏng thỏng quá rộng quá dài:

- Anh nắm cái chéo tay áo này, em cũng đủ vui rồi.

Cảm đông làm sao! Ngạc nhiên làm sao! Một mùi hôi hám từ trong tay áo bay ra. Khi níu cái chéo tay áo của người đẹp. Tư Lập thấy rõ ràng bên trong: ngón tay của nàng rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải nhỏ vấn khéo léo thay thế.

Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về ở long Xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại sanh buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại thì không được.

Chú lại trở về.

Sông Trèm Trẹm bắt nguồn từ xóm Cán Gáo chảy về phía Nam, qua xóm Tân Bằng rồi đổ ra sông Ông Ðốc, hòa mình vào vịnh Xiêm La.

Thằng Kim nóng lòng, không biết Tư Lập muốn dừng lại làm ăn ở khúc nào. Giây lâu, Tư Lập nói:

- Rừng U Minh còn nhiều bí mật! Ðừng lo mà. Tao hứa dẫn mày tới chỗ này vui lắm, đừng sợ chết đói. Có tao.

Xuồng ngừng lại giây lát nghỉ trưa rồi mái dầm lại tiếp tục khoát dòng nước đỏ ngòm, tuy chảy mạnh nhưng tứ bề khuất gió nên không gợn sóng. Ðôi bờ quanh co, hoa lá nghiêng mình lại, gioa đầu, bắt tay nhau che kín bóng mặt trời.

Khách đi đường ngỡ mình lạc lối trong hang, thứ hang thiên nhiên, bất tận. Có tiếng vượn hú. Từ bên này, con vượn bồng con, nắm sợi dây rau câu, lấy trớn đu mình sang nhánh ở bờ bên kia để hái trái rừng. Trái quá chát, vỏ quá dày, vượn nhăn mặt, bực tức ném mạnh. Trái vừng sa vào giữa lưới nhện giăng hờ, lơ lửng. Lưới rung rinh không đứt hẳn; con nhện hoảng hốt, thả sợi tơ dài, sa xuống. Chợt thấy mặt nước, nó toan rút lên. Nhưng trể quá rồi! Con cá bông phóng mỏ theo, táp mạnh. Thằng Kim ngỡ đó là con trăn. Cá lớn bằng cây cột nhà, vảy xanh vảy trắng thêu từng vòng ngời lên khắp thân mình. No mồi, cá lặn sát đáy, lội nhanh. Bầy cá con hối hả di chuyển theo mẹ, hàng trăm con lấm tấm như rắc cườm đầy mặt nước, mất dạng trong bóng mát đằng kia. Bờ sông im lìm, mặt nước thẫn thờ trả lại bóng dáng hiền hòa của cây chồi mọc sát mé bãi; bông vừng buông thõng xuống từng xâu chuỗi hường, chen lấn, nối tiếp nhau như bức mành mành. Nhánh vừng khó cắn, lá vàng rụng mất hẳn. Ðôi đọt non nhú lên, mỏng mịn, chưa nhuốm được màu xanh vì thiếu nắng; ở xa, trông như những cánh bướm khổng lồ đang phập phồng, ngứa ngáy, chưa đậu yên chỗ là đã chớm bay.

- Kim, mày biết nước sông này màu gì không?

- Ở dưới sông, giống như màu máu bầm. Múc lên tay coi thì như nước trà pha đậm.

Tư Lập day lại:

- Hồi xưa, có người nói nó giống như cà phê đen. Ờ... mày uống cà phê lần nào chưa?

- Chưa, chú Tư à.

- Bán thiếu gì, tại chợ Thới Bình. Dân ở chợ là người mới tới mua bán lập nghiệp, họ chưa dám đi sâu vô rừng làm ăn như tụi mình bây giờ. Họ nể nang dân phía này lắm.

- Sao vậy, chú Tư?

- Vì dân này là dân cố cựu, phá sơn lâm, đâm Hà Bá dọn đường cho họ tới sau làm ăn. Con nhà tướng đi mở đường máu mà!

Tư Lập vừa nói vừa vói tay đập sau lưng. Thằng Kim đã hiểu nghĩa mấy tiếng "mở đường máu". Ba bốn đốm máu đỏ ngời: mấy con muỗi vừa bị đè nhẹp xác.

Nó sực nhớ tới bầy muỗi bu quanh nó từ mấy ngày rày. Ban đầu, nó bực mình, đập giết thẳng tay, phải buông dầm khiến xuồng lủi vô bờ. Mổi lần như vậy, Tư Lập day lại:

- Cứ bơi lẹ, muỗi cắn ít hơn. Ở lầy quầy mình bị cắn nhiều mà không đi tới đâu hết. Xuống xuồng để bơi chứ đâu phải để đập muỗi!

Nghe lời Tư Lập, thằng Kim bấm môi chịu đựng.

Vài tiếng gà gáy văng vẳng, hưởng ứng nhau phá tan bầu không khí tĩnh mịch. Vòm cây lần lần trống trải nắng rớt từng mảng, ngưng đọng không chịu trôi theo dòng nước ngày càng chảy hăng. Bên bờ, nước đổ róc rách theo con lạch nhỏ, vỏ tràm trôi lềnh bềnh trắng. Thằng Kim nôn nức:

- Tới chỗ nghỉ chưa, chú Tư?

- Chưa. Hai voi nữa. Mày nhớ không, hồi sáng tới giờ mới qua có sáu voi.

Hai voi, đường còn xa. Thằng Kim yên lòng vì sẽ đến chỗ nghỉ trước khi trời sụp tối:

- Chú có bà con ở đây hả?

Tư Lập cau mày không trả lời, mở gói thuốc ra vấn hút. Ðó là gói thuốc mà chú hứa tiết kiệm, để dành hút khi tới nơi.

Thằng Kim đoán chừng Tư Lập đang suy nghĩ nhiều. Chú lẩm bẩm:

- Ừ, bà con hay là người dưng, chuyện đó không quan hệ. Nhắc tới tao buồn quá, muốn quày trở lại bây giờ. Nhưng đã tới đây rồi không lẽ lại trở về. Tao không muốn kiếm nhà quen. Ở gần xóm đông thì bất lợi, ở xa quá cũng hại. Mày tin tao. Tao không dại gì trở lại đây mà tìm cái chết... Ờ, mày họ gì? Mấy ngày rày, tao quên hỏi.

- Họ Trương hay họ Trần gì đó, tôi quên rồi. Nghe nói hồi đó ba tôi đổi họ.

- Ối! Họ gì cũng được, miễn tới chừng người ta hỏi thì đừng trả lời lập dập. Nói vậy chớ ai xét hỏi. Tao có quen với vua. Hồi xưa, có người ở xóm này được cải ra họ Nguyễn cho giống với họ vua... Họ nói vậy hay lắm.

Thằng Kim ngơ ngác hỏi:

- Bà con với vua sao lại ở đây?

Tư Lập không trả lời. Chú bơi mạnh, mũi xuồng quẹo vô bờ, phía trái. Vàm mương nhỏ hiện ra. Chú nói:

- Mày nghỉ tay đi. Tới phiên tao rồi...

Ngồi trước mũi, chú bơi phía mặt vài dầm rồi trở lẹ qua bên trái, bơi vài dầm. Xuồng lướt tới ồ ồ. Gặp dây, gặp nhánh cây cản mũi, chú bứt, bẻ rôm rốp. Gặp nước cạn, chú đứng mà chồng hoặc quì trên sạp xuồng, ngả mình tới lấy trớn. Thằng Kim vui sướng quá. Lúc này nó khỏe tay, dầu muốn tiếp sức với Tư Lập cũng không được. Mũi xuồng quá nhỏ, nào đủ chỗ để hai người cùng ngồi ngang nhau. Hơn nữa, bơi xuồng theo lối mới này nó chưa quen. Mặt trời sụp xuống thấp, rọi thẳng từ trước mặt. Con rạch quá nhỏ, uốn ngoằn ngoèo như ruột ngựa nối liền qua những lung, bào, tròn tròn méo méo như hình mấy cái bao tử, gan, lá lách... Sậy mọc khỏi đầu.

Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kim hít mạnh để hửi cho kỹ, để nhớ cho rõ nhưng nhớ mãi không ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả! Trên hàng vạn nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp các tứ phía. Rừng sáng lạn, ai dám nói là rừng âm u? Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt.

Nó buột miệng:

- Rừng cây gì vậy? Chú Tư.

Tư Lập day lại cười vang:

- Thằng quỉ! Hửi mà không biết mùi mật ong sao? Tràm chớ giống gì! Muôn ngàn hũ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng đó. Hửi vô thì say. Say thì không tỉnh được. Có người toan dùng nó mà luyện thuốc trường sinh, từ trăm năm nay...

Tư Lập ngâm mình dưới bưng nãy giờ khá lâu rồi. Nước dâng lên nửa ngục. Hai tay chú quậy dưới bùn, chân bò tới lui, bọt nước sôi ùng ục. Chú rút lên một cây búa to tướng, nói huyên thiên:

- Nó còn nguyên, mới tinh. Bộ trái đấy xoay tròn sao mà! Hồi năm ngoái tao nhớ rõ ràng, nhận ở gần gốc cây tràm bên kia. Bây giờ nó chạy qua bên này. Ðể tao rửa sạch cho mày coi. Cam đoan không có một bợn sét, khuất dưới lớp bùn non, mưa nắng không sao thấu tới. Sét ăn hư hõng là khi nào mình giữ không kín. Lòng người cũng vậy... Mày chưa hiểu hả?

Thằng Kim thật tình không hiểu câu nói lắc léo của Tư Lập. Nó không cần tìm hiểu. Cây búa khiến nó ngạc nhiên hơn: cán dài cỡ năm tấc, lưỡi cao hơn hai tấc, bề ngang lưỡi búa trên một tấc rưỡi, lớn như mấy cây búa thần mà các ông tướng hát bội thường vác ra khi đánh trận.

- Cầm thử coi nặng không? Tay anh hùng mới cử nó được. Tạo ra lúa gạo, xuồng, chèo là nhờ nó. Nên nhà nên cửa, nên đất nên vườn, nên chồng nên vợ, xưng hùng xưng bá cũng nhờ nó.

Tư Lập nói tiếp:

- Ðói bụng chưa?

- Hơi đói. Nãy giờ tôi lưỡng lự; gạo còn chừng hai nắm, không lẽ nấu cháo. Hay là mình kiếm nhà nào mượn đỡ.

- Mượn gạo mà ăn, xưa quá! Ở xứ này, tao không muốn gặp mặt ai hết. Con người ta chết... không phải vì thiếu gạo. Tới lớn, mày hiểu câu nói đó. Bây giờ đi với tao tìm nhà quen, bảnh thì mày đi trước một lần coi!

Nói vậy chớ tư Lập bước trước, đạp lên choại, lên dớn nghe sột soạt. Thay vì đi thẳng lại phía rừng tràm trắng tih, thơm ngào ngạt, Tư Lập quẹo trở về phía rừng thấp lè tè, cây cối mọc so le hỗn loạn. Bùn non ngập mắt cá. Muỗi bay lợn cợn, vướng vít dưới chân cây còn u tối. Tư Lập khuyên nhủ:

- Ráng chịu cực vậy! "Lô" rừng tràm đằng kia là của người ta. Rừng chồi phía này mới là của mình. Vắng hai năm nay, tao ngán rồi, không muốn nhớ lại cái mùi nhụy tràm.

- Sao vậy?

- Ðừng hỏi nữa. Tao muốn lánh mặt người quen. Mai chiều, có lẽ mình qua nơi khác. Gió thổi hiu hiu, buồn quá.

Tư Lập thẫn thờ đôi mắt rồi bỗng nhiên khoát tay, ra dấu im lặng. Chú ngồi nép xuống. Thằng Kim cũng bắt chước, cúi đầu, ái ngại. Tư Lập cầm tay nó mà nói khẽ:

- Ðừng động đậy, thở nhè nhẹ. Nó kìa...

Thằng Kim ngớ ngẩn, liên tưởng đến thứ tai nạn khủng khiếp:

- Co... ọp hả?

- Nói bậy xui xẻo! Ong mật.

Và nó định thần khi Tư Lập nói rõ thêm:

- Ong mật... đi ăn bông. Bay rề qua rề lại, thấy chưa, thấp chủn trên đọt sậy kìa.

Thằng Kim mừng rỡ:

- Ngộ quá! Ổ nó ở đây đây, hả chú. Làm sao kiếm được? Ý! Nó lớn bằng hai con ruồi.

Om sòm cái miệng! Về chống xuồng lại đây mau, tao chờ! Nhớ cái hộp quẹt máy. Thằng Kim hối hả làm y lời. Trở lại chỗ cũ, nó chợt nghe tiếng "hì" ở phía rừng tràm. Té ra nãy giờ Tư Lập lội tắt qua mương đi lại đằng ấy.

Chú vội ngồi lên xuồng, chụp cây dầm, hờm sẵn:

- Bậy quá! Nó "đi bông" tới đây rồi mất dạng. Chờ một hồi nữa coi.

- Ði bông là gì? Chú Tư.

- Là đi hút nhụy bông... kìa mê quá!

Một con ong rồi hai con ong bay qua sát ngọn cỏ, lưng ngời những rằn xanh đỏ, hai chân sau quặp lại kẹp hai đốm vàng sậm mà thằng Kim đoán là nhụy bông. Ong vừa qua khỏi chừng mươi thước. Tư Lập hối hả bơi xuồng theo. Nhưng hai con ong nọ lại đáp xuống, mất dạng. Chú nói:

- Ðây là trạm thứ nhì của tụi nó. Rán chờ chút nữa. Chém chết tao cũng ăn được ổ này.

Sau đôi ba lần theo dõi rồi dừng lại như vậy, Tư Lập bỗng cười vang, múa men tay chưn như đứa trẻ thấy kẹo. Hàng trăm con ong bay chập chờn trước mặt, đáp xuống, vọt lên cao, không dời chỗ. Chú ngóng xem hướng gió trên ngọn cây, ra lịnh cho thằng Kim đứng im rồi chú đi khuất, chập sau mang về một nắm rễ cây gừa.

Hộp quẹt bật lửa lên. Nắm rễ gừa ngún cháy, khói bay đều. Chú nói nhỏ:

- Ði theo tao, đừng chạy bất tử nghe!

Chú phồng má thổi mạnh, khói tung bay mịt mù chưa tan là chú thổi thêm lần nữa, chân bước nhanh tới. Hiển hiện sau lớp khói mỏng kia, vật gì lạ thường như một trái cây khổng lổ, lớn bằng cái nia, đen ngòm rực rỡ như nạm muôn ngàn hột thủy tinh chấp chóa...

Thằng Kim há miệng:

- Ổ ong hả? Ong đâu hết rồi?

- Cả triệu con kết lại, nằm sắp lớp đen ngời, chớp cánh lia lịa đó, không thấy sao! Ổ ở bên trong. Lên xuồng đi. Rủi bề gì tao với mày thối lui, lặn dưới mương, úp chiếc xuồng này lại mà che...

Tư Lập cầm nhánh cây khô gạt mạnh vào ổ; ong rớt xuống cỏ từng mảng, lần lần tan ra. Ổ ong khoe mày trắng tinh như sáp, treo trên khúc cây gác nghiêng; cây kèo.

Chú quát:

- Chống xuồng lại. Tao với mày khiêng nguyên ổ xuống. Dầu sao mình cũng mang tiếng ăn cắp của thiên hạ rồi.

Ðặt dưới xuồng, ổ ong nứt ra, mật vàng tươi chảy đọng vũng. Tư Lập chụp cây dầm, bơi trối chết, lướt qua sậy, qua năn. Thằng Kim cúi đầu sát ván, nhắm mắt, e nhánh hai bên quật nhằm. Nó cười tươi khi thấy mái chòi hoang hiện ra trước mặt, Tư Lập trao cây dầm cho nó thò tay xé tàn ong:

- Trời ơi! Tao hại tao! Tao ăn cắp... của tao.

- Chú nói gì?

- Miếng kèo bằng cây nhum. Hồi năm ngoái tao gởi nó lại cho người quen. Chữ "điền" tao khắc làm dấy rành rành.

Cây rừng chuyển răng rắc. Ðâu đây có tiếng chưởi thề ỏm tỏi, xen vào tiếng dầm khuấy nước. Tư Lập cau mày.

- Họ đi theo dấu bắt tụi mình. Không khéo lại xảy ra đâm chém, uổng mạng. Nhiều khi họ mạo nhận là của họ để hăm dọa mình. Lát nữa, mày đứng yếu bóng vía... Cứ cãi lại cho tao.

Thằng Kim giựt mình:

- Chú đi đâu? Một mình tôi không dám...

- Tao núp sau hè. Họ tới kìa! Cầm búa lên! Ðụng độ thì tao ra ăn thua.

Nhanh như chớp, Tư Lập bước lui, ngồi khuất sau bụi mật cật. Thằng Kim nhìn trước mặt. Hàng cây rung rinh, rẽ ra. Một người vạm vỡ cầm búa, bước tới:

- Khôn thì chịu tội. Thằng kia, mày ở xóm nào tới?

Thằng Kim cố giữ sắc trầm tĩnh:

- Tôi ở đây, mần ăn...

- Ăn cắp chớ mần ăn? Tao theo dấu tụi bây nãy giờ. Công trình mấy tháng nay toa tạo sẵn để mày hưởng! Ðã ăn cắp mà lại còn gỡ luôn tấm kèo, chẳng khác nào ăn trộm rồi đốt luôn nhà của tài gia.

- Tôi không biết gì hết...

- Chém chết mẹ chớ không biết!

Lưỡi búa của khách hươi lên. Thằng Kim cũng nâng cây búa một cách vụng về. Khách nhìn nó, ngạc nhiên rồi nhìn cây búa:

- Mày ăn trộm búa nữa hả? Ráng mà đỡ. Nè!

Hoảng hốt, Tư Lập nhảy ra, nắm cườm tay người khách lạ:

- Tao ở nhà ông hương giáo hồi xưa đây mà. Chú mày đến sau nên không biết rõ tao là ai.

Khách trố mắt:

- Trời! Cậu Tư. Về hồi nào! Trời... nãy giờ thấy cây búa, tôi hồ nghi là của cậu. Sao không lại thăm cô Hoàng Mai?

Tư Lập vuốt mồ hôi trán:

- Thôi! Về đi. Nhắn với ông hương giáo rằng tối nay tao tới.

Khách nói:

- Buồn lắm! Cô Hoàng Mai yếu nhiều.

Tư Lập thở dài:

- Vậy hả? Ðừng nói nữa. Về trước đi.

Khách rút lui. Tư Lập nói ngậm ngùi:

- Trốn mà không khỏi. Trốn Tây ta là chuyện dễ; trốn người quen là chuyện khó hơn. Ta ăn cắp ổ ong khi nãy mà chi? Nghề ăn ong có nghiệp chướng... Ðâyu là ổ ong cuối cùng của tao trong nghề...

Thằng Kim hỏi:

- Sao vậy? Ai đau nhiều vậy chú? Cô Hoàng Mai là người bà con...

- Bà con không phải bà con. Người dưng không phải người dưng. Tối nay mày thay mặt tao, lại đó mà thăm ông hương giáo. Phần tao, tao phải xa rừng này. Ở lại đây, mày có dịp học khôn. Ðừng buồn. Ðể tao nói lại đầu đuôi sự tích, hồi năm trước...

Nghe xong thằng Kim đi từng bước chẫm rãi đến nhà ông hương giáo. Câu chuyện tình của Tư Lập hãy còn lâng lâng trong trí nó. Gió chiều nhẹ thổi. Mùi bông tràm ngào ngạt. Nó nhìn từng gốc cây, lắng nghe từng tiếng lá trở mình mà khoang khoái trong lòng. Rừng U Minh này đối với nó cơ hồ không là còn gì bí mật khó hiểu nữa.

Ðến nhà ông hương giáo, nó được thết đãi cơm nước tử tế. Ông hương giáo không nói chuyện nhiều. Nó nói dối rằng... chừng lát nữa Tư Lập sẽ đến. Nhưng Tư Lập có đến đâu! Ðêm đó, nó được nằm ngủ trên ván gõ, trải chiếu bông, giăng mùng rộng rãi. Nửa đêm, nó chợt tỉnh vì ánh đèn chói mắt.

Ông hương giáo nói:

- Chú em thức hả? Kìa! Trên bàn thờ, từ bao năm rồi, tôi luyện "ngọc ong" để trị bịnh. Bịnh gì, chắc Tư Lập nói sơ cho chú em hiểu rồi. Tôi buồn quá. Tư Lập không trở lại nhà này nữa đâu. Chú em cứ nói thiệt. Phải vậy không?

Thằng Kim nói:

- Dạ cháu không biết. Chú Tư không nói rõ...

- Ta hiểu lắm. Dầu sao, trở về lần này, Tư Lập cũng đã tỏ ra có nghĩa! Ai nỡ câu thúc chí trai của mình trong một xó để đổi lấy chữ nhàn? Ai nỡ bỏ cái danh dự để mua chuộc một chức tước quí phái huyền hão. Từ xưa, tằng tổ của ta cũng vì khí khái ấy mà phò Chúa, xiêu lạc đến đây! Bây giờ ta yếu lắm rồi. Dầu muốn bắt chước Tư Lập, ta cũng không còn đủ sức lực mà bắt chước. Gia thế của ta, thiên hạ đã rõ. Câu thúc Tư Lập ở mãi tại đây chăng? Ta chỉ là người hương giáo, quyền hạn gì? Ừ! Tôi là tôi cho Hoàng Mai. Năm nay, nó ngồi một chỗ, không còn đủ sức mà ra thăm cội hoàng mai trước ngõ như hồi Tư Lập biết.

Sáng hôm sau, thằng Kim từ giã ông hương giáo rồi đến ngồi bên mé rạch. Bông vừng tươi thắm, cây cối hai bên bờ giao đầu lại, mát mẻ. Nó chờ đón bất cứ xuồng ghe ai, đi về đâu cũng được, để quá giang. Sau lưng nó, trên thềm nhà, trong bóng mát, hình dáng của Hoàng Mai với đôi mắt và mớ tóc trùm kín trong chiếc khăn. Chiếc tay áo của nàng lòng thòng che khuất mấy ngón tay, từ từ nâng lên như tiễn đưa một hình bóng...

RUỘNG LÒ BOM

Ông Hai Don đến khu rừng tràm, vừa bơi xuồng vừa nhìn dáo dác. Lệ - đứa con gái ông - đi đốn củi một mình từ sáng đến xế trưa mà vẫn chưa về nhà ăn cơm.

Nó mất dạng nơi chốn nào? Hồi năm ngoái, Lệ đã tư tình với một tên cướp. Ông Hai don bắt quả tang đôi trai gái trắc nết, đánh cho một trận đòn nên thân. Tên cướp nọ bỏ xứ, vắng bặt. Nhưng dường như Lệ bắt đầu sống phóng khoáng, tập ca vọng cổ, vào rừng đốn củi một mình, chẳng sợ ma rừng như trước. Mới đây, trong xóm lại xuất hiện một tay"anh hùng mới," gọi nôm na là Tư Cồ, vì hắn to lớn xác, vai u thịt bắp. Tư Cồ khoe khoang rằng đã phiêu bạt khắp Nam Kỳ, lục tỉnh, biết làm đủ thứ nghề. Hắn ta còn nói thêm:

- Tôi nghèo vì muốn sống ngang dọc chớ nếu cần làm giàu như thiên hạ thì mấy hồi... Và tôi làm mướn qua tháng qua ngày chỉ vì tôi không muốn làm chủ. Người làm mướn sung sướng trăm bề: không lo xa, có nhà ở, cơm ăn. Khi cháng ông chủ này thì mình giựt nợ, làm tôi tớ cho ông chủ khác. Rốt cuộc kẻ giàu người nghèo đều chết ráo trọi. Chỉ có cỏ cây là sống mãi mãi...

Ông Hai Don đã dè dặt đề phòng. Lệ nói gần nói xa:

- Tư Cồ rõ ràng là người lịch thiệp, có tài như vậy thì chẳng bao giờ chết đói.

Ông Hai đáp:

- Có tài... ăn cướp chớ tài gì. Nó là đứa liều mạng, lười biếng, xem loài người như cỏ cây, thua cỏ cây nữa là khác. Phách lối, xấc xược quá!

Lệ vẫn chưa hiểu:

- Ảnh nói dứng phần nào chớ.

- Nín đi. Nó nói cao xa lắm. Nó ám chỉ rằng tất cả dân xóm này là loài cỏ cây, chữ nho kêu bằng thảo giái. Riêng nó mới xứng đáng làm người, dọc ngang ngang dọc.

Dè đâu lời mạt sát ấy lại gieo cho Lệ một ấn tướng tốt đẹp về chàng trai Tư Cồ. Lệ tò mò, muốn hiểu Tư Cồ oanh liệt như thế nào. Nàng muốn tìm người yêu cho xứng đáng. Người bạn trăm năm của nàng phải là người tứ xứ mới tới. Chàng ta chẳng hiểu rành dĩ vãng của nàng. Và theo kinh nghiệm cho biết, kẻ giang hồ tứ chiếng ít kén chọn khắt khe trong tình chồng vọ. Họ dễ dãi đối với sự trinh tiết.

Lệ đã hẹn hò với Tư Cồ nhiều lần, vào rừng tràm để tìm hiểu nhau hơn. Nhưng lần này, ông Hai Don dường như chú ý. Hai người lựa một gốc cây tràm cao ráo, đem cơm ra ăn...

Lệ chợt nghe tiếng động nên cau mày, néo mình vào gốc tràm:

- Em hồ nghi quá.

Từ Cồ vẫn thản nhiên:

- Trong rừng, nghe tiếng cảnh lá khua răng rắc hoặc tiếng khoát nước là sự thường. Em sợ hả? Sợ ai? Sợ nỗi gì?

Lệ nói khẽ:

- Sợ ba em bắt gặp.

Từ Cồ nói:

- Dễ quá. Hễ ổng gặp thì xử huề. Chẳng lẽ ổng đánh anh.

- Rũi ổng đánh thì sao?

- Thì anh chạy trốn lẩn quẩn... như con nít chơi cút bắt.

- Anh nói kỳ quá. Bộ... ba em là con nít sao?

- Ừ! Anh xin lỗi. Theo ý em thì anh nên làm gì lúc này...

Tâm hồn Lệ xao xuyến lạ thường. Tuy lẳng lơ trắc nết, nhưng nàng chẳng muốn cha buồn phiền. Ðối với Tư Cồ, nàng chưa từng gần gũi về xác thịt. Nàng muốn làm lại cuộc đời, kỹ lưỡng hơn. Nếu tình cờ, cha nàng bắt gặp thì oan ức cho nàng quá. Ðôi trai gái hò hẹn nhau giữa rừng, kín đáo, thiệt là tình ngay mà lý gian. Vài con chim áo dà bay tới tấp như giật mình. Ðể được vững bụng. Lệ mạnh dạn trèo lên cây tràm.

Nàng nắm lấy một nhánh to, lao mình, rút chân, uốn lưng. Ðến ngọn cây tràm, nàng nằm nghiêng, ôm sát thân cây. Ðằng xa, trong bụi lá gồi, như có gió thổi nhẹ, vô cớ. Lá gồi như cái quạt xanh tươi, đung đưa. Nàng nói hơi to:

- Coi chừng cọp, anh Cồ ơi!

- Anh xem cọp như... loài cỏ cây! Ý kìa! Ngộ quá...

- Cái gì ngộ? Anh phải cúi mặt xuống để nghe tiếng đất. Kìa... Dường như cọp tiến lại phía tụi mình.

Tư Cồ đáp:

- Em sao u mê quá... Xứ này đây có cọp. Cọp đâu dại khờ tới đây làm gì?...

Bỗng dưng, có tiếng quát to:

- Tụi bây lộng quá rồi! Ðứa nào nói tao là loài thú vật, dại khờ, giống như cỏ cây hả? Còn con yêu tinh kia! Xuống đây. Mầy không thấy cha mầy đây hả? Rõ ràng phường mèo gà đồng...

Ông Hai Don bước tới, vạch lá. Lệ im lặng như nài nỉ Tư Cồ đừng cãi vã vô lễ. Tư Cồ lắc đầu, buồn bã:

- Tôi có tội. Bác muốn trừng trị cách nào! Tứ thật, hồi nãy tôi nói giỡn cho vui với cô Lệ. Tôi chẳng dám so sánh bác với cỏ cây, thú vật.

Ông Hai Don vẫn chưa vừa lòng. Ông muốn đánh Tư Cồ. Hắng ngồi lì đó, trông thật đáng ghét. Nếu đánh, ông sẽ viện cớ gì? Trai gái gạp nhau giữa rừng, nói chuyện. Câu chuyện giữa Lệ và tư Cồ chẳng có gì xúc phạm thuần phong mỹ tục cho lắm, ông nói đổng:

- Tụi bây làm gì ngoài này?

Tư Cồ bèn lên tiếng, tự bào chữa:

- Dạ, như bác thấy rõ: cô Lệ ở trên ngọn cây, còn tôi thì ngồi trên mặt đất. Không có gì lạ cả.

- Ðừng giỡn mặt với tao! Mầy ưa giỡn quá. Mầy coi tao như loài vô tri vô giác.

Tư Cồ đáp:

- Dạ, bác là cha ruột cô Lệ. Tôi kính mến cô Lệ.

- Nói dóc hoài!

- Dạ, tôi nói thật. Nếu bác thương tôi, tôi hứa làm ăn cho bác thấy. Tôi ghét những người khinh tôi. Chẳng lẽ bác khinh đứa làm ăn giỏi dắn. Tôi hứa chẳng bao giờ phụ lòng bác.

Ông Hai Don cau mày. Nếu làm to chuyện thì chẳng ích lợi gì cho ai hết. Chi bằng ông giữ thể diện với Tư Cồ và bắt buộc Tư Cồ giữ thể diện đối với ông. Ông nghĩ ra một giải pháp vẹn toàn: cho Lệ và tư Cồ ăn ở với nhau, haiđứa nó phải đi làm ăn ở xứ khác. Dân trong xóm sẽ bớt lời dị nghị, thanh danh của ông được bảo vệ một phần lớn.

Lệ xuống xuồng, cầm cây dầm bơi cho cha ngồi. Tư Cồ bơi xuồng của mình theo sau. Anh ta đem gói thuốc rê, vấn một điếu, mời ông Hai Don:

- Thưa bác...

Hai Don đưa tay nhận điếu thuốc:

- Ðược rồi. Tao tính cho tụi bây. Con người ta sống trên cõi đời nên giữ đức hạnh. Nói thiệt cho mầy nghe, Tư Cồ...

Tư Cồ im lặng. Ông Hai don lên tiếng thị oai:

- Tao kêu mà mầy không dạ hả?

Tư Cồ giựt mình:

- Dạ, thưa bác.

- Mầy có sức lực, có tài. Nếu mầy bớt phách lối thì nên nhà nên cửa, bằng không thì mãn đời mầy cứ như vầy hoài.

Tư Cồ toan cãi lại. Nhưng nghĩ sao không biết, anh ta lại thôi.

Gần mãn mùa mưa. Nước sông Hầu Giang lần lầ giựt xuống. Cánh đồng hoang vu, chạy dài tới chân trời, lai láng như biển cả, rộng hàng năm, sáu chục cây số nối liền bờ sông Hậu ra vịnh Xiêm La. Không một bóng người. Không một căn chòi hoặc nhà sàn. Lệ ngồi nấu cơm trên xuồng. Tư Cồ hút thuốc, khen tấm tắc:

- Trời vừa mưa vừa nắng hiu hiu, mát quá. Trời đất bao la, đất này vô chủ...

Lệ bắt đầu ngao ngán. Tư Cồ vẫn giữ thói ngang ngược ngày trước. Anh ta đưa nàng về đâu? Ðất này tuy đầy nước lụt và nhấp nhô những lượn sóng cỏ nhưng phải có người làm chủ, ghi tên trong sổ bộ của nhà nước. Tư Cồ cứ bơi xuồng thẳng về phía đông bắc:

- Ðằng kia, anh cất sẵn một căn nhà sàn, hồi ba năm về trước, lúc chưa gặp em... Em thấy xứ này ngộ không?

Lệ nói gắt:

- Giống như biển.

- Nó là đất liền, là đồng hoang. Vài tháng nữa, nước giựt xuống, mặt đất bày ra, vợ chồng mình đâu còn bơi xuồng thảnh thơi như vầy. Chừng đó, mình đi bộ... trên đầu ngọn cỏ.

- Anh cứ nói phách hoài. Hồi đó, ba ghét anh cũng vì mấy tiếng cây cỏ đó! Sao anh ư cái vụ cây cỏ, cỏ cây quá vậy! Chẳng lẽ trên mặt đất này chỉ có anh mới là không phải loại cây cỏ...

Tư Cồ nói lảng sang chuyện khác:

- Giống như biển. Cỏ mọc nhấp nhô, giống như rong trôi ngoài biển. Tới chòi rồi! Phía gò đất đằng kia, ngay gốc cây gáo.

Xuồng đậu bào bến. Bến tức là gốc cây gáo, loại cây chịu đựng nước lụt rất giỏi. Căn chòi đã xiêu vẹo nhưng còn tạm làm nơi trú ẩn được. Nước dâng lên gần ngập sàn nhà. Tư Cồ thúc hối:

- Lệ à! Em dọn cơm lên chòi.

Rồi anh ta nhảy xuống tắm. Nước sâu ngập cả đầu. Tư Cồ lặn hụp nhu con cồng cộc. Hồi lâu, anh trồi đầu khỏi mặt nước, vuốt mặt, đưa lên một cọng cỏ, loại cỏ dài hơn hai thước:

- Bảnh không! Nhờ cỏ này mà vợ chồng mình làm ruộng.

Lệ sửng sốt vì anh chồng này nói như đùa giỡn. Xưa nay, chẳng ai làm ruộng nhờ cỏ. Cỏ là loại thù nghịch của nhà nông. Nước ngập cao hơn đầu người. Lệ nhớ đến những trận mưa tầm tã vào tháng Tám âm lịch. Lúc cấy xong, nếu nước dâng lên đột ngột, một đêm hai tấc, lẽ dĩ nhiên lúa phải hư hao vì nạn lụt.

Ðoán chừng sự ngạc nhiên của vợ, Tư Cồ nói tiếp:

- Lát nữa, anh... bắt đầu làm ruộng.

Lệ không còn chịu được nữa:

- Anh nói giỡn hoài. Giữa cảnh trời nước bao la, không một bóng người, cỏ hoang mọc đầy. Ngồi trên chòi như ngồi giữa cù lao, ngoài biển.

- Anh nói thiệt chớ không nói chơi. Em chưa tin à? Nấu cơm cho lẹ đi.

- Muốn ăn thì lên đây mà ăn! Anh coi chừng cảm mạo. Rùi mang bịnh, làm sao chạy thầy chạy thuốc.

Tư Cồ vẫn cười hề hề. Anh nhảy lên sàn, vuốt mặt. Nước vẫn chảy ròng ròng trên lưng:

- Ăn rồi làm liền!

- Thôi! Giỡn như anh, có ngày chết đói. Gạo còn đủ ăn có một hai ngày. Hết gạo, mượn ai?

- Ðừng lo. Hết gạo thì mình đi chỗ khác chơi. Bộ mình muốn ở đây hoài sao? Chí trai, tang bồng hồ thỉ, rày đây mai đó. Nếu sống hoài một chỗ, mình... giống như loại cỏ cây sao?

Tư Cồ vừa nói vừa cười. Lệ thở dài. Nàng gặp anh chồng Sở Khanh rồi chăng? Ai lại làm ruộng theo kiểu này. Hay là tư Cồ có dính líu đảng cướp nào đó. Căn chòi giữa nơi vùng nước ngập này là sào huyệt của chúng. Tư Cồ hẹn hò với đồng đảng để chia của hoặc âm mưu bố trí một trận giết người cướp cửa. Làm ruộng mà không có lúa giống, không trâu bò, làm sao tin được.

Lệ dọn cơm cho chồng ăn, Tư Cồ vẫn nói giọng thiếu nghiêm trang:

- Em ăn cho no đi. Anh ăn ít lắm. Ăn nhiều tức bụng. Ðúng theo sách vở... Trước khi làm, mình không nên ăn.

Trong một thoáng. Lệ hối hận vì trót vương mang với Tư Cồ. Hắn lười biếng, ăn nói bóng gió nghe thô tục quá. Tiếng "làm" có nhiều nghĩa. Ðôi vợ chồng trẻ, buổi xế trưa, trong căn chòi nhỏ, tư bề sóng dậy lăn tăn và gió thổi hiu hiu... Tư Cồ nói:

- Lát nữa tôi cày...

Lệ thẹn thuồng:

- Thôi, đừng nói chuyện trên trời dưới đất. Anh làm ruộng à! Ruộng gì? Hay là anh gạt em, đưa em ra đây.

Tư Cồ cười dòn, xô chén cơm ra xa, rồi ho sặc sụa:

- Trời đất ơi! Con mẹ này... vô đoan quá. Ừ! Tôi là đưá bất lương, bắt cóc con gái ra đây để luyện"Thiên linh cái." Cây dao đây nè. Nãy giờ, tôi quên coi chừng, rủi mất thì chắc ngồi ở không mà chơi.

Nói xong, Tư Cồ đứng dậy, lại nóc chòi, vạch mái lá. Lệ chợt rú lên:

- Ghê quá! Anh đừng giỡn!

Một cây dao dài chừng non thước tây. Cán dao ngắn. Lưỡi dao sáng ngời, bên ngoài có thoa dầu mỡ, láng bóng. Cây dao được gói cẩn thận trong cái vỏ bằng mo cau. Tư Cồ thủ bộ như hiệp sĩ thời trung cổ đang tuốt thanh gươm khỏi vỏ. Lệ sực nhớ đến bọn cướp biển đang hươi ngọn mã tấu:

- Kỳ quá! Anh giỡn hoài.

- Làm thiệt chớ đâu phải giỡn. Làm ăn mà. Có làm mới có ăn.

Lệ nói gắt:

- Tôi về bây giờ! Tôi xuống xuồng về nhà. Giỏi thì anh ở ngoài xứ này một mình...

- Sao lại về? Tình chồng nghĩa vợ gì mà kỳ cục vậy? Chưa cực khổ, đói kém mà lại bỏ chồng ra đi. Ở lại... bớ phu nhân!

- Ở lại để làm gì?

- Ðể làm ruộng.

- Xứ ngập lụt, mênh mông như biển, làm ruộng gì?

- Ruộng"Lò Bom!"

- Lò Bom là ruộng gì?

- Là ruộng Lò Bom, ông bà nói vậy tôi hay vậy. Chẳng có ai"thông ngôn" tiếng đó. Tiếng Việt Nam.

- Lò Bom là gì?

- Ủa! Em hỏi cù cưa cù nhằng hoài vậy. Tôi cắt nghĩa rồi.

- Lúa Xom Mà Ca, ruộng Lò Bom. Em chưa biết lúa Xom Mà Ca à?

Tư Cồ giải thích:

- Ðất này hoang vu từ hồi tạo thiên lập điạ. Nghe đâu ông Mạc Cửu tới khai khẩn vùng Hà Tiên nhưng ổng ưa ở vùng biển để lập chợ mua bán, lập sòng bạc. Ruộng bỏ hoang. Thế là ông Mạc Cửu tiêu tan sự nghiệp. Chợ Hà Tiên lần lần sụp đổ. Ông Mạc Cửu ở bên Tầu qua, đem theo nhiều quân sư quạt mo nhưng chẳng ai chú ý tới chuyện làm ruộng. Họ chê đất này ngập lụt. Họ dòm đất này rồi uống rượu, ngâm thơ, bày đặt đủ điều lăng nhăng. Ðất này giáp mí với cái Ðông Hồ. Nghe đâu, mấy ông Tàu nói rằng ở Ðông Hồ, ban đêm có tiên hiện xuống. Vợ chồng mình là tiên... ở gần Ðông Hồ.

Lệ đổi giận làm vui:

- Ồ! Em nghe nói chuyện ông Mạc Cửu...

- Ông Mạc Cửu bất tài, không khai thác nổi xứ này. Rồi tới trào này: Tây lắc đầu, chẳng biết làm thế nào để lập làng lập xóm. Bác vật Tây chê đất này phèn, ngập lụt, khó khăn, thiếu kinh rạch, muỗi mòng. Mấy ông điền chủ không them khai khẩn, sợ tốn tiền đóng thuế mà chẳng thâu được huê lợi. Anh làm chuyện này, giỏi hơn Tây.

Nói xong, Tư Cồ cầm cây dao dài, đặt nhẹ xuống xuồng. Rồi anh ta cầm cây dầm, bơi ra khỏi chòi chừng vài chục thước, nhảy xuống nước.

Lệ đứng trông theo. Tư Cồ đứng trên mặt đất - tức là đáy nước - Nước cao ngang cổ. Hai tay Tư Cồ cầm dao, chém cỏ, chém gốc cỏ dưới nước. Cỏ nổi lên từng giề, vàng lườm màu phèn, trông giống như mấy giề rau câu, hải thảo ngoài biển.

Tư Cồ bơi xuồng lại gần chòi, kêu to:

- Mình ơi! Về...

Lệ ngơ ngác:

- Về nhà bây giờ à? Làm ruộng kiểu gì lạ vậy?

- Thì... ruộng Lò Bom, rồng lúa Xom Mà Ca. Xong rồi. Hay là mình muốn ở đây một mình.

Chiếc xuồng tiến nhanh, qua ngày đêm về nhà ông Hai Don. Dọc đường, Tư Cồ nói dong dài về cách thức làm ruộng Lò Bom. Cỏ bị chặt đứt gốc trôi lều bều. Hai tháng nữa, nước giựt xuống. Cỏ đã thúi, trở thành loại phân tốt, rải đầy trên mặt đất. Hai tháng nữa, tức là tháng Hai tháng Ba âm lịch, trời nắng cháy. Vợ chồng Tư Cồ sẽ trở lại đó, đốt cỏ. Rồi gieo lúa giống, lại lúa Xom Mà Ca từ lúc gieo đến lúc trổ bông là bốn tháng.

Tư Cồ lẩm bẩm:

- Nè! Mình phát cỏ mộ buổi, mình gieo giống một buổi. Hai buổi cộng lại là một ngày. Rồi nước mưa dâng lên, lúa trổ lúa chín. Mình trở lại đó gặt, một buổi nữa. Tổng cộng, làm ruộng tốn có một ngày rưỡi mà có lúa ăn. Một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, mình rảnh rang đến ba trăm sáu mươi ba ngày rưỡi!

- Mình làm biếng quá! Nhưng lúa Xom Mà Ca ra sao?

- Nó giống như lúa khác vậy thôi. Nhưng ăn không ngon cơm, bán mất giá. Mỗi mùa, mình cứ dời chỗ, theo kiểu làm rẫy trên núi. Chim chuột sâu bọ đâu có hay biết mà phá hoại. Tháng Hai, sau ngày Tết, em tới đó gieo mạ với anh? Chịu không? Rồi tháng Bảy, mình gặt, chừng vài chục giạ. Mình mượn chiếc ghe của ba.

Lệ dàu dàu nét mặt, không trả lời. Bấy giờ nàng đã hiểu tại sao Tư Cồ cứ rong chơi quanh năm mà vẫn tự hào là kẻ... chí thú làm ăn, khôn ngoan, lương thiện. Anh ta tự hào đến mức khinh khi kẻ khác - những kẻ chỉ biết ham thích vùng đất cao ráo, không phèn, không ngập lụt, thứ đất sản xuất lúa ngon thơm hơn.

Tư Cồ nói:

- Sao em nín thinh vậy? Hay là em muốn bỏ anh? Chán thằng chồng nghèo này hả?

Giọng Tư Cồ buồn rầu. Anh ta bớt nói, khi xuồng vào xóm. Anh ta nhớ tới vùng đất gần Ðông Hồ mà từ xưa đến giờ, không ai sản xuất ra lúa gạo nổi. Họ sự nước. Họ sợ cỏ hoang. Họ là loại cỏ cây. Từ khi học được kỹ thuật làm ruộng Lò Bom với ông lão vô danh, tư Cồ mừng quýnh như kẻ học được phép tiên, do kẻ siêu phàm truyền lại. Anh bám lấy nghề, sống thử. Nhưng muốn sống thì phải có lúa gạo, có tình yêu. Tình yêu muốn bền vững thì phải có thông cảm sâu sắc.

- Sao em lại không nói? Lệ...

- Nói gì bây giờ?

- Ở với anh không? Anh đã cưới hai người vợ, rồi cả hai người đó lần lượt bỏ anh, trong mùa phát cỏ. Chẳng cô nào trở lại với anh, khi gieo mạ, gặt lúa. Họ chê anh.

Lệ suy nghĩ vẩn vơ. Tư Cồ yêu vùng đất phèn mà thiên hạ đều chê là vùng đất bỏ. Giờ đây nàng yêu Tư Cồ, người mà thiên hạ chê là thô tục, bất lương. Thôi thì cũng hy sinh theo chàng ta vài năm, để chúng tỏ lòng nàng khác hơn loại cỏ cây. Nàng đáp:

- Ừ! Gieo mạ thì gieo mạ. Gặt lúa thì gặt, em không ngán. Nhưng em chỉ xin anh một điều.

- Ðiều gì? Anh sẳn sàng nghe theo em, miễn là em đừng xúi giục anh bỏ cái nghề ruộng Lò Bom.

- Em đâu dám. Mình làm ruộng thì cứ làm. Nhưng anh đừng nhắc tới chuyện cây cỏ cỏ cây. Thiên hạ họ không biết rõ, họ giận anh. Lại còn mấy tiến Lò Bom, Xm Mà Ca. Ðừng nói cho ai nghe. Họ hỏi hoài, anh cắt nghĩa mãi, rốt cuộc chẳng ai hiểu được ai. Họ hỏi để cầu vui vậy thôi... Trừ ra hai vợ chồng mình.

MÙA LEN TRÂU

Nước tràn bờ sông Hậu chảy qua. Nước trên trời tuôn xuống. Gió biển triền miên thổi lộng về. Từ Sáng đến chiều, mặt trời biến dạng sau lớp mưa: ánh nắng pha loãng đều đều không làm chóa mắt kẻ ưu tư đang ngồi hút thuốc mà ngắm mấy lượn sóng chạy dài tiếp lưng trời. Núi Ba Thê bên này, núi Cấm trước mặt, hòn Sóc, hòn Ðất bên kia bình thường xem hùng vĩ, thơ mộng thì nay trở thành lè tè, bé bỏng trong cảnh bao la trời nước.

Chú Tư Ðinh lại vấn điếu thuốc thứ nhì, mỉm cười khi thấy từ chân trời một cơn mưa to hơn sắp kéo đến.

- Ừ! Mưa hoài đi. Ông trời năm nay biết điệu, thuận mùa, thuận tiết...

Thiếm Tư như phản đối ý chồng:

- Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc nhà mà ở. Ba cái lu, ba cái hũ trôi lểnh nghểnh trong nhà rồi, ba nó chưa hay sao? Gạo hết, tiền hết.

- Mình đừng trách trời. Hồi nào tới giờ, trời cứ vậy hoài, hết mùa hạn thì phải tới mùa nước lụt chớ.

Chú Tư muốn giải nghĩa sự lạc quan của mình dài dòng hơn để thiếm Tư nghe. "Ðàn bà giỏi tài chú ý lặt vặt chuyện bếp núc. Nhìn ra đồng thì họ chỉ thấy những chuyện trên mặt nước, hơi đâu mà cãi". Nghĩ vậy, chú im lặng, vấn thêm điếu thuốc nữa. Giờ này, dưới đáy nước, sát mặt ruộng, mớ đất cày mềm nhũn, trở mình trắng phau. Gió thổi mạnh, trôi nhà trôi cửa nhưng lúa một tấc; thân lúa đuối sức cố nằm dài trên mặt nước vừa hấp hối ngột thở là nhánh non nứt ra trong nháy mắt để chào đón cuộc sống.

Sau hè nhà, nước dậy đùng đùng, sóng gợn từng lượn lớn, vỗ lát chát vào vách. Chú Tư bước nhè nhẹ trên sàn tay vịn mái nhà, tay che mắt rồi cau mày; thằng Nhi đứa con trai của chú đang cưỡi trâu về.

Ðôi trâu bước lên nền chuồng trâu lúc trước, tuy đã đắp cao thêm gần một thước vậy mà nước leo lên lé đé.

Chú Tư chờ thằng Nhi vào nhà. Nó cổi cái áo ướt mem quăng trên sân:

- Xung quanh đây hết cỏ rồi. Làm sao bây giờ hả ba? Trâu đói nữa, con mắt nó đổ ghèn hoài.

Chú nói:

- Bên giồng cát Sóc Xoài... Mày có qua tới đó không?

- Có. Mà hết cỏ rồi. Mấy lõm cỏ sau chùa không đủ cho trâu bò ở đó ăn, đâu có dư tới mình. Trâu mình ốm nhiều. Từ Ðây tới nước giựt còn trên ba tháng nữa, làm sao chịu nổi?

- Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu mình họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Má mày ngăn cản. Bây giờ tới nước này rồi...

Thiếm Tư trầm ngâm suy nghĩ, nhìn đôi trâu đã mòn sức, be sườn lòi rõ rệt từng hàng như vòng cung. Ðể ở nhà, trâu chết đói; giao cho thiên hạ len đi thì làm sao bảo đảm được? Trâu của trăm chủ khác nhau gom lại chung một bầy, tha hồ lấn hiếp, chém lộn bầy trâu gần bốn trăm con mà chỉ có năm sáu người chăn giữ.

Ðường dài thăm thẳm, lội nước băng rừng, rủi khi bịnh hoạn thì trâu đành bỏ mạng nơi xứ lạ quê người. Thật là tấn thối lưỡng nan! Ðôi trâu nhà đứng khúm núm đó, trên nền chuồng, như hai pho tượng bằng đồng đen dựng lên mặt nước. Thiếm nói:

- Ba nó tính sao thì tính. Tôi rối trí quá rồi.

Chú Tư chép miệng:

- Không nên cãi mạng trời. Muốn cãi cũng không được. Không lẽ họ giết trâu mình? Trăm con, chết chừng đôi ba con là nhiều. Muốn vững bụng hơn, mình cho thằng Nhi theo coi chừng.

Thằng Nhi há miệng ngạc nhiên không dè mùa nước năm nay nó lại được đi du lịch bất ngờ như vầy. Chú Tư hỏi:

- Muốn đi không mậy? Chặng đầu, họ mới len trâu tới chân núi Ba Thê, mình đuổi theo nhập bầy còn kịp, đây qua đó chừng nửa ngày đường. Lấy cái nóp mới của tao mà đem theo. Dọc đường muỗi mòng, mưa gió nhớ đi theo sát hai con trâu của mình, đừng ham chơi lêu lổng. Nói với tằn khao (đầu nậu, cai thầu) rằng mình chịu đóng cho y mười giạ lúa tiền công len trâu, mùa này.

Mưa cứ mưa trút xuống. Gió cứ dậy sóng lên. Từ lúc thằng Nhi dẫn trâu đi, nhà cửa lần lần trở nên vắng lạnh. Thiếm Tư cằn nhằn:

- Giao sanh mạnh hai con trâu cho họ, ba nó chưa vừa bụng sao? Lại còn bày đặt cho thằng Nhi đi theo! Rủi bề gì...

Chú Tư nói:

- Má nó khéo lo thì thôi! Trâu hễ tới số thì dẫu cầm ở nhà nó cũng không sống. Tôi buồn lắm. Trâu giúp mình tạo ra hột lúa; bù lại, mình không kiếm đủ cỏ cho nó ăn no. Như vậy là mình bất nhân. Còn thằng Nhi... dịp này để nó học nghề với người ta.

Thiếm Tư hơi giận:

- Nghề gì? Nghề chăn trâu mà cũng học nữa à? Tôi không ham cái nghề đó.

- Má nó nói giỡn sao chớ! Chăn trâu còn khó hơn diều binh khiển tướng. Ðời xưa, nhiều người nhờ lúc nhỏ chăn trâu mà tới lớn được làm vua. Con nít chăn trâu ca hát nghe bậy bạ nhưng nhiều khi linh nghiệm như sấm truyền, đoán trúng những chuyện quốc sự. Tôi nhớ coi... Trong truyện Phong Thần gì đó nhắc cái tích ông Nịnh Thích ngồi trên lưng trâu, gõ sừng mà hát công kích vua đời... Liệt Quốc Ðông Châu! Vua giựt mình, mời ông Nịnh Thích về làm quân sư. Nghe đâu lúc về hưu trí, ông Nịnh Thích lại cữi trâu mà du sơn ngoạn thủy. Như, tiều, canh, mục là bốn điều quan trọng mà.

Thiếm Tư vẫn chưa nguôi cơn buồn:

- Ba nó nói chuyện đời xưa. Chăn trâu theo kiểu ở xứ mình có khác, tối ngày đeo đuôi trâu mà lặn hụp dưới nước, ăn không no, ngủ không yên...

- Nhưng mà học khôn nhiều chuyện. Mà nó hồi nào tới giờ chưa từng tới núi Ba Thê, vậy mà bây giờ thằng Nhi nó rành đó! Cảnh núi non thanh lịch, tâu ăn cỏ ngẩng đầu coi mây bay lui tới; ngứa lưng thì trâu cọ mình vô cột của đền vua chùa mà gãi sốn sột. Má nó biết không? Ở núi Ba Thê, trâu len ăn cỏ trên đền vua đời xưa... Vua chùa mất hết, trâu đời đời kiếp kiếp còn đứng dửng dưng trên mặt đất này hoài!

Thiếm Tư bực bội:

- Ðói, không đủ cỏ ăn mà cũng sang trọng. Thôi ông ơi! Ðừng nói nữa.

- Hết cỏ thì qua chỗ khác, má nó đừng lo. Từ Ba Thê cả bầy trâu len qua miệt Bảy Núi. Oai vệ lắm kìa! Voi đi một lần đôi ba chục con là cùng, cọp đi hai ba con là nhiều; cảnh đó ở miệt rừng ai cũng thấy. Ðằng này, trâu lội nước năm ba trăm con, đen đầu, đặc nước. Kiếm bạc trăm là dễ chớ muốn thấy được cảnh đó không phải dễ, giống như hồi thiên hạ sơ khai, càn khôn hỗn độn... Mấy ông thầy chùa, bà vãi ẩn mình trong cốc trên núi, chán cảnh trần tục vậy mà họ còn bước ra ngóng mắt theo bầy trâu len dữ dội...

Càng nhắc tới, chú Tư càng thích chí, thiếm Tư trái lại ngồi buốn xo, không tin nơi lời chồng , cho rằng đó là kiểu an ủi gượng của kẻ túng cùng. Chú Tư lại vấn thuốc, hỏi vợ:

- Má nó ngủ hay thức? Nãy giờ có nghe không? Sao không ừ hử gì ráo, hay là ngủ rối...

- Tôi nằm nghe đây mà. Nghe bằng lỗ tai chớ nghe bằng miệng sao mà phải ừ hử từng chập?

Chú Tư lại nói tiếp:

- Ở Bảy Núi thanh khiết hơn ở Ba Thê. Trâu ăn toàn cỏ lạ hoa thơm; lắm thứ cỏ phảng phất mùi gì giống như vị thuốc Bắc. Ban đêm, muỗi mòng cũng ít, tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh gõ mõ thì nhiều... Mặc dầu ăn cỏ ở dưới chân núi, trâu cũng được phong làm chúa sơn lâm. Cọp beo trên núi quì xuống mà đầu hàng chớ không dám xáp lại.

Bên kia sàn nhà, thiếm Tư bắt đầu thở nhẹ rồi ngáy pho pho. Chú Tư mỉm cười, không chút hờn giận. "Vợ mình chán không thèm nghe nữa vì nãy giờ mình nói toàn những chuyện vui tươi, sung sướng, giấu giếm những nỗi cực nhọc trong nghề chăn trâu. Nhưng cần gì? Cốt ý là mình nhắc lại cuộc đời len trâu của mình hồi thuở con nhỏ cho riêng mình nghe mà thôi". Chú lại vấn thuốc hút. Bên ngoài trời vẫn mưa, sóng nước vẫn chạy ùa tới đập vào vách nhà. Khói thuốc phun mờ mờ, bay thoảng lên cao. Chân trời lại hiện ra, lúa nằm dài xanh rờn, nhấp nhô trên ngọn sóng. Và... Ðằng xa kia là Bảy Núi, nơi mà giờ này thằng Nhi và hai con trâu của chú đang tung hoành, sắp lội nước hằng mươi cây số để vượt ra mé biển đến vùng rừng tràm miệt Linh Quỳnh.

Rừng tràm xanh đậm, rọi xuống mặt nước đỏ ngầu, rung rinh. Nhứt là về đêm khi trăng chiếu, đom đóm bay về đậu khắp nhánh tràm như họp chợ phiên! Hồi thuở nhỏ, chú đến đó nhiều lần. Cảnh ấy bây giờ thay đổi vì nhà nước đã đào thêm con kinh Xáng Rạch Giá - Hà Tiên và đắp xong con lộ đá. Trâu vượt qua lộ xe hoặc ngủ tạm trên lộ cho tới sáng. Lội dưới nước lâu ngày, móng trâu trở nên mềm, đứng trên đá, trâu đau chân. Chú Tư bỗng hình dung trước mặt một cảnh tượng oai hùng, khi mặt trời vừa lố dạng, đàn trâu phải rút vào rừng tìm nơi ăn nằm. Nhà nước đắp lộ xe nào phải để cho trâu đứng, phá hoại... Trâu chạy ầm ầm. Không mấy chút, tràm gãy rôm rốp ngã liệt xuống, lõm rừng trở thành một cái đầm rộng lớn. Người len trâu tạm nghỉ ngơi vài ngày. Mấy "tay riều" đốn củi gần đó tụ họp lại làm quen, đánh bài cào, uống rượu, đốt lửa lên bàn chuyện tiếu lâm. Lắm khi họ sắp đặt công việc đi ăn cướp, ăn cướp kẻ khác và ăn cướp lẫn nhau. Mấy tay len trâu giựt tiền của tay riều; mấy tay riều xúm nhau giựt trâu của mấy tay len. Rừng lại đẫm máu... Trong cuộc xô xát dao búa đó, sanh mạng của con người như con kiến, hà huống chi đứa trẻ bé bỏng như thằng Nhi, con trai chú!

Chú Tư giựt mình, e ngại.

Trong giấc mơ, có lẽ thiếm Tư không tưởng tượng được tới cảnh chém giết rùng rợn đó. Thiếm nói lảm nhảm rồi lại trở mình, ngáy khò khò.

Tháng mười, nước giựt xuống. Ðến cuối tháng, mặt ruộng lộ ra, cỏ non nhú mọc xanh tươi đến tận chân trời. Mưa dứt sớm. Núi non lại trở nên hùng vĩ. Suốt mùa, lúa nương theo nước mà vươn lên đến bốn năm thước; bây giờ lúa nằm rạp xuống đất, chồng chất cao ngùn ngụt. Cái sàn nhà của chú Tư cũng hạ xuống. Cuộc sống trở lại bình thường.

Ðêm ấy, quá canh ba, có tiếng kêu vang dội:

- Ba ơi ba! Má ơi má! Trâu mình nè...

Chú Tư, thiếm Tư mừng quýnh, tốc mùng chạy ra: Thằng Nhi về đó, coi dị hợm hơn mọi ngày, máng trên vai một đống gì cao nghệu. Chú Tư xanh mặt. Nó thảy đống ấy xuống đất:

- D.m. chết hết một con. Ðem cặp sừng bộ da của nó về nè! Nặng gần chết. Ð.m. không lẽ bỏ luôn.

Thiếm Tư mếu máo, mừng vì gặp được con, buồn vì mất hết phân nửa gia sản:

- Mô Phật. Mạnh giỏi hả con? Trời ơi! Con đi theo coi chừng mà làm sao nó chết? Dọc đường con có đau ốm gì không... Con, Con...

Chú Tư im lặng, buồn buồn. Mừng con, tiếc của là một lẽ. Nhưng còn lẽ khác đáng lo ngại hơn... Hồi nào tới giờ, thằng Nhi ăn nói đàng hoàng mà chuyến về này, trong câu nói hồi nãy, nó pha vô hai lần chửi thề mà nó không hay.

Thiếm Tư nhìn cặp sừng và bộ da trâu mà rơi nước mắt:

- Thôi! Lần này lần chót. Năm tới bán con trâu còn lại, không làm ruộng nữa. Ðất nước gì kỳ cục quá, cái xứ này...

Chú Tư nghiêm mặt:

- Nói bậy nữa đi. Ðất của mình, nước của mình mà bà dám nguyền rủa hả? Hồi nào cúng vái, bà nói bà phục ông bà đất nước lắm mà...

Thiếm Tư đi ra sân lo đốt lửa để un trâu. Chú Tư cũng đến vuốt ve con trâu còn lại rồi trở vô thấy thằng Nhi đang chụp gói thuốc rê trên bàn; nó mở ra, xé giấy vấn hút phì phà một cách tự nhiên, ngon lành.

- Ghiền rồi hả mậy? Chú hỏi.

- Hai ba bữa rày, hút có mấy điếu. Ở rừng, họ hút kịch liệt lắm kìa... ba.

Chú Tư đem chai rượu đế ra, rót vào chén. Chú thấy thằnh Nhi hít mũi lia lịa.

- Nhậu thì nhậu một chút cho ấm đi! Cỡ này mày sanh nhiều tật lạ.

Rồi chú day ra sân mỉm cười:

- Bà nó ơi! Coi thằng con của bà nè! Nó giống hệt tôi hồi nhỏ quá chừng.

Thiếm Tư chạy vào, không hiểu rõ đầu đuôi. Thiếm lau nước mắt rồi nấu cơm cho thằng Nhi ăn, dọn mùng cho nó ngủ... Chú Tư thức mãi tới khuya, thỉnh thoảng hé mùng dòm thằng Nhi. Mùng rộng rãi nhưng nó vẫn co rút như hồi nằm trong nóp chật hẹp. Tay và bụng của nó xăm đầy những chữ nho, chữ quốc ngữ. Không cần đọc kỹ, chú đoán đó là "ngũ hồ tứ hải giai huynh đệ" hoặc "ái tình vạn tuế" mà một tay hảo hớn nào đã xăm cho nó.

- Mình không lỗ lã gì đâu! Chú Tư lẩm bẩm một mình.

Chuyến đi len trâu này, đứa con của chú mhiễm nhiều tật xấu nhưng nó khôn lớn hơn, nghe thấy được nhiều việc mà ở nhà chú không nghe thấy. Chú ra sân. Dưới ánh trăng suông, con trâu Pháo bước tung tăng, nhịp móng xuống lớp phù sa mát rượi, đứng trên mặt đất hôm nay mà sao thấy hơi khác lạ hơn mặt đất hôm nao, cũng ở chốn này. Nó hinh hỉnh lỗ mũi như cố phân biệt mùi thơm của cỏ núi hoa rừng với mùi thơm của mùi lúa sạ đang độ chín.

BÀ LÃO LÒA

76 tuổi đầu, mỗi bữa thất thểu ăn một lưng cơm, bà lão lòa ở nhờ một đứa cháu họ, thật đã lắm phen cực nhục. Cháu bà, một bác đánh giậm, với vợ, một chị mò cua bắt ốc, khốn thay, dưới nách hai đứa con mọn, cũng đã lắm phen nhăn nhó vì chẳng đủ ăn.

Hai mươi năm về trước, bà lão lòa này còn là người có của trong làng. Con trai bà nó chơi, nó phá, nó bán ruộng, cầm nhà rồi nó bỏ bà nó đi, chẳng biết đi đâu, lòng mẹ đối với con tuy có giận mà vẫn có thương, bà khóc lóc một mình đến nỗi lòa cả mắt. Trong thời bà còn giàu có, ngoài những việc cúng tiền tô tượng đúc chuông, bà còn năng giúp đỡ kẻ nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà mà đến khi gặp bà bước khốn cùng thì chẳng ai thương cả. Cũng vì xưa kia đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà, bác đánh giậm đành cắn răng, vuốt bụng, nhắm mắt nuôi cô trong lúc hoạn nạn.

Nhưng vốn bị ma nghèo ám ảnh, mới nuôi cô được độ ba năm, bác đánh giậm đã thấy nản lòng. Cái cảnh túng bấn nó thường đẩy người ta vào chốn bùn nhơ, nó thường buộc người vào vòng tội lỗi, đối với bác đánh giậm, ác hơn, nó làm bác quên bỏ cả lương tâm. Quên hẳn cái ơn ngày trước, bác ta chỉ còn biết xót ruột khi bà lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác.

Buổi chiều hôm ấỵ..

Trước túp lều tranh xiêu vẹo như chỉ còn chờ một trận gió to là đổ ụp xuống, cái sân đầy những bã mía, lá khô, một mâm cơm bát đàn đũa mộc trong để đĩa cá rô kho chuối với đĩa cá đen sịt đen sì, cầm trên tay mấy bát cơm ngô vàng ói, bà lão lòa, bác gái và hai đứa bé chỉ còn chờ bác trai rửa mặt rửa chân tay, ngồi vào là cùng cầm đũạ Đàn ruồi vù vù bay lung tung như đánh trận, hết bâu đầy vào mấy nốt mụn chốc trên đầu thằng cu con lại bay xuống đặt mình vào đĩa cá.

Bác trai, người mảnh khảnh, đen như củ súng, trán răn, má hóp, mắt kèm nhèm, mặc cái áo vải vá đã đến năm mười miếng mụn, đóng khố, vừa ngồi xổm xuống đất cầm lấy bát cơm, vợ đã vội hỏi:

- Bố nó hôm nay kiếm được bao nhiêu tất cả...? Ấy tôi chỉ được có bốn sóc cua hai xu với một mẹt tôm riu năm xu là bảy đấy thôị Gạo ăn bữa mai hết rồị..

- Hôm nay được thêm mẻ lươn thì, ác quá, gặp đứa nào cũng trả rẻ, lang thang khắp chỗ, mãi đến chiều chẳng thấy ma nào hỏi lại phải bán tống bán tháo đị.. cả ếch cả cá cũng chỉ được ngót hai hàọ Vợ nhìn chồng thở dài rồi lại nhìn đến niêu cơm. Thằng cu lớn xới một bát nhường cho em, còn mình thì cầm cái đũa cả, gắp những hột còn dính lạị Bà lão lòa, ăn hết một lưng, tay lẩy bẩy chìa bát ra toan xin ít nữa, chưa kịp nói, bác gái đã quát:

- Hết rồị..! Còn đâu nữa mà chìa mãi bát rạ.. Đến tôi đây quần quật suốt ngày, đã ốm cả xác mà cũng chỉ được có ba lưng thôi đấỵ.. Bà không phải làm gì, ngồi nhà ăn ít cũng được.

Bà lão giật mình, đớ người ra một lúc rồi đứng lên đi vào trong nhà, ngồi xuống bậu cửa, lấy cái tăm gài trên mái tóc xuống xỉa răng.

Mặt trời sắp lặn, còn xiên qua lũy tre xanh, tầu lá chuối mà rọi ánh sáng đỏ đó vào gian nhà. Dưới những đám mây thiên hình vạn trạng mầu cá vàng chăng dọc chăng ngang phủ kín một bầu trời, một đàn sếu xếp hàng chữ nhân bay từ Bắc về Nam, vươn cổ kêu oang oác. Trên mấy ngọn tre gió thổi ngả nghiêng, dăm ba con chèo bẻo tung tăng chuyền cành này sang càng khác, còn đua nhau hót như muốn cất giọng chào mặt trời truớc khi vào tổ.

Bà lão lòa ngồi trầm ngâm chống tay lên trán, nhân hôm ấy chiều trời êm ả, gió thổi hây hây, chim kêu xào xạc mà một mảnh đời dĩ vãng như một luồng chớp nhoáng, trong trí bà lại thấy hiện ra:

Ngoài cổng, một ông lão ăn mày lụ khụ đến ăn xin. Con vện con vàng đang nằm trong sân bỗng nhảy xổ ra cắn xa xả. Tiếng một bà ngồi trên sập gụ bên trong quát thằng nhỏ ra mắng chó, giắt ông lão ăn mày vào thết một lưng cơm.

Bác nhiêu B, vừa bị nạn hỏa, rủi đâu, vợ lại hậu sản mà chết. Trong gian nhà lụp xụp, thằng cu lớn, cái đĩ con ngồi mã la mã lệnh với thằng cu mới đẻ, cuộn tròn trong cái tã nâu, nằm ngay cùng giường cái xác mẹ nó. Tiếng ba đứa trẻ khóc như rị Cả đêm hôm trước, bố chúng nó ôm đầu mà khóc, sáng hôm sau mới bảnh mắt đã thấy đội nón ra đi, mặt trời lên đến đỉnh đầu rồi mà chưa thấy về, bụng chúng nó đói cào như muối xát. Bỗng thấy ai nói văng vẳng như tiếng bác nhiêụ Thằng cu lớn quệt nước mắt, lủi thủi bước rạ.. Quái thay! Một bà khách lạ nào miệng bỏm bẻm nhai trầu, váy sồi, áo lụa, xệ nệ trên đôi dép da cong, bước vào nhà ôm lấy thằng cu con mà kêu: tội nghiệp! Rồi thấy bà khách cởi hầu bao, lấy ra một cuộn giấy bạc, bác nhiêu đưa hai tay nhận lấy, dòng dòng nước mắt tạ ân.

Giữa chợ gần chỗ hàng gà, hàng cá, mùi hôi tanh xông lên nhức đầu, một đám đông xúm quanh một người đàn bà ăn mặc rách rưới, tay ôm đứa bé chừng bốn năm tháng.

- Thưa bà, cháu chỉ lấy có năm đồng thôi đấy ạ.

- Thôi, chả của đâu mà trả đến năm đồng. Trông gầy thế kia, biết rồi có sống được không? Ba đồng đấy, bằng lòng đi!...

Người nọ xô người kia, chen nhau len vàọ Có người đứng ngoài, không hiểu chuyện, tưởng họ mặc cả gà, khi kiễng chân, nghển cổ nhìn vào mới rõ. Giọng nói phều phào một bà cụ già lụ khụ:

- Rõ tội nghiệp chưa! Tôi mà có năm đồng thì tôi trả ngaỵ..!

Bỗng có một bà ăn mặc lụa là, người trông phúc hậu, len lỏi vào cất tiếng dõng dạc hỏi:

- Này nhà bác kia! Làm gì mà đến nỗi phải bán con đi thế?

- Thưa bà, nhà con phải bệnh, liệt giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng nay, không có tiền thuốc thang gì thì chết mất. Con phải bán cháu đi để cứu lấy nhà con, mất đứa này còn mong đẻ đứa khác chứ để chồng chết thì rồi tất chết cả mạ con cháụ Nước mắt chảy xuống dòng dòng, nỗi thương đưa lên nghẹn cổ, người đàn bà không nói được nữa, gục đầu xuống mặt con mà khóc nức nở.

- Nàỵ..! Cứ ẵm cháu về, đừng có bán nó đi mà phải tội đấy! Năm đồng đây tôi xin giúp. Hãy cầm về mà liệu thuốc men cho bác traị Người kia ngạc nhiên ngơ ngác nhìn lên, mãi chưa dám tin là thật, bàng hoàng như đang lúc chiêm bao, giơ tay ra nhận tiền, rồi không biết nói thế nào với vị ân nhân của mình, phục ngay xuống đất mà rưng rức khóc. Đám người tản mát, có kẻ thì thào: người đâu mà phúc đức tệ!

Ấy đó, đổi lại bao nhiêu điều thiện xưa kia ông trời cay nghiệt nay đều trả bà bằng hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm nhờ cực kỳ khổ sở. Cho rằng kiếp xưa tiền oan nghiệp chướng chi đây, nghĩ thương mình, thương đứa con bất hiếu, thương vợ chồng con cái bác đánh giậm, bà lão lòa thổn thức, trên hai gò má răn reo lại thấy mấy giọt nước mắt chảy ròng ròng. Bà lão gục đầu xuống gối tỉ tê khóc không ra tiếng, chỉ thấy sụt sùi hậm hực, khiến thằng cu con lò rò bò đến với bà, không hiểu ra sao bỗng cũng khóc thét lên. Bác gái chạy vào bực mình xỉa xói:

- Này bà! Bà đừng làm sốt ruột...! Bà ăn xong bà đã chẳng làm được việc gì thì cứ ngồi yên một chỗ hay ẵm cháu giúp tôi, bà đừng có sụt sùi khóc lóc, đây không ai chết mà bà phải khóc...

Giọng nói day dứt mà lanh lảnh như từng nhát búa bổ vào thành sắt vang động bên tai, bà lão hoảng hốt trong hai con mắt lòa trợn trạo cầm nước mắt cho khỏi chảy ra, trông rõ đôi tròng trắng đảo đi đảo lạị..

- Trời làm đói kém thế này, vợ chồng chúng tôi không thể nuôi bà được nữa đâu, bà phải liệu mà giúp đỡ chúng tôi mới được. Rồi từ mai trở đi, để thằng cháu nó giắt bà ra đầu đê, bà ngả nón dưới bóng cây gạo mà ngồi, thấy tiếng người chợ búa qua lại thì bà chìa rá ra xin, nếu có được mỗi ngày một vài xu cũng là đỡ được cái mồm bà rồi đấỵ..

+ + + Đã được nửa tháng nay, sáng nào cũng thấy thằng cu lớn dắt bà ra ngồi đầu đê rồi chiều đến lại dắt về. Trong bọn những người chợ búa qua lại con đường cái quan, tạt vào đường đê, thấy một bà lão lụ khụ, hổn hển thở, ngẩng đầu chìa nón kêu van, cũng đôi khi có người vứt cho một vài đồng kẽm. Chẳng may, nếu hôm nào về tay không thì vợ bác đánh giậm - cháu bà - lại nghiến răng xỉa xói thậm tệ:

- Hôm nay chẳng ai thí cho bà đồng nàọ..! Bà có biết thế là bà lại ăn phần cơm của thằng cu lớn đấy không? Từ mai, bà liệu mà kêu to lên mới được... Hay tại bà ngồi dưới bóng cây mát mà ngủ thiếp đị..? Bà liệu đấỵ..!

Bát cơm ngô điểm quả cà thiu, bà lão lòa trước khi và vào mồm đã chan đầy như canh bằng nước mắt.

Một ngày kia, trời tháng ba nắng gay gắt, bà lão lòa dưới gốc cây gạo, ngồi từ sáng đến quá trưa, bụng đã đói mềm mà chẳng thấy nguời khách đi đường nào vứt cho lấy một đồng trinh. Trên cành cây, thỉnh thoảng lộp độp rơi xuống đường đê một vài bông hoa gạo, mỗi khi quạ cái tha mồi về tổ cho con lại đập cánh sập sè vươn cổ kêu: quà! quà...! như gợi một mối thương cho người ngồi dưới gốc.

Xa xa, trong cánh đồng bát ngát một màu xanh, mấy người làm ruộng nhễ nhại mồ hôi, chẳng ai buồn nói chuyện với aị Một đàn chim vành khuyên trong bụi rậm kia đang chuyền cành này sang cành khác cũng không con nào kêu hót, kiếm ăn một cách rất lặng lẽ. Phong cảnh dường như mệt mỏị Những tiếng vang động đều bị sức nóng mặt trời át mất hẳn đị Trên con đường cái quan, thỉnh thoảng thấy tiếng một cái xe hơi như một mũi tên bay, vo vo chạy qua rồi biến mất vào trong đám bụi mù xa tít,... bốn bề im lặng như tờ. Hai cánh tay khẳng khiu ôm lấy bụng mà nhăn nhó, cố quật lại với cái đói nó cào xé ruột gan, bà lão lòa thở hổn ha hổn hển.

Chợt có tiếng người dẫm lạo xạo trên đống lá khô, đi về phía mình bà lão vội chìa ngay nón:

- Lạy ông đi qua, lạy bà đi lạị..! Cứu cho thân tôi lấy một miếng cơm...

- Tôi đâỵ..! Phải ai đâu mà lạy với lục...? Bà được đồng nào chưa thì đưa đây cho tôị..

- Đã được đồng nào đâụ..? Chẳng thấy ai đi qua đây cả... Mẹ nó có dắt tôi về thì dắt, tôi đói lắm rồị..!

- Bà đói à? Bà đói thì dễ tôi no à? Bà hãy ngồi đấy xem sao, buổi chợ chiều nay, rồi họ về qua đây nhiềụ.. chốc nữa, tôi sẽ bảo thằng cu nó ra nó dắt...!

Rồi bác ta thoăn thoắt bước đi, cái váy cũn cỡn để lộ hai ống chân trùng trục, đen thui, giỏ cua đeo sau lưng cũng theo nhịp từng bước mà lắc đi lắc lạị.. Về đến nhà, sung sướng thay đã thấy bác trai ngồi phì phèo thổi lửa làm cơm dưới bếp. Nghĩ thầm hẳn bố nó hôm nay được mẻ phát tài, bác ta rửa chân tay xong, vào hú hí ngay với con.

Bỗng trên trời mây kéo đen nghịt tối sầm hẳn lại, rồi nổi một cơn giông. Bác đánh giậm chạy vội ra sân vơ quần áo đem vào nhà, giục thằng cu lớn mau mau chạy ra để dắt bà về kẻo mưa to gió lớn. Nghe câu ấy, bác gái ngồi ôm con một góc giường cau mày ngẫm nghĩ: thật vậy! Ba bốn năm nay, bác ta đã nhịn như nhịn cơm sống ấy rồi, quá lắm thì không chịu được. Mặc kệ bà ấy! để bà ấy chết quách đi cho rảnh mắt...!

Rồi hiện ra lần lượt trong trí bác những ngày trở trời trái gió, những ngày lửa hạ chang chang, ruộng khô đồng nứt, kiếm chẳng ra tiền, hai đứa bé bò nheo bò nhóc, một niêu cơm ngô chia khắp cả nhà, bụng mẹ đã chẳng được no, còn lấy đâu ra sữa nuôi con... Mà bà lão lòa kia thì, ngày kiếm được một vài xu cũng như ngày không kiếm được đồng nào, chẳng nhịn được bao giờ, cứ đến bữa là ngồi vào mâm, chìa bát ra cho thằng cu sớị Không, không! Không thể thế được...! Bà lão ấy chỉ là một bà cộ.. mà lại là cô họ một người chồng, có lẽ nào báo hại mãi nhaụ..?

- Kìa! Thằng cu! Tao bảo thế nàọ..? Không bỏ bếp đấy mà ra dắt bà về à? Ông lại đét cho bây giờ.

Bỗng bác gái đặt phịch con xuống giường, quặn mình nhăn nhó:

- Ối trời dất ôị..! Ối trời dất ôị..!

- Chết chửạ.. làm sao thế? Sao thế hở mẹ nó?

- Sao mà bụng tôi cứ thấy đau xoắn lại thế này! Ối trời dất ôi, đau thế này thì đến chết mất thôị..

- Chết chửa! Kìa thằng cụ.. ẵm em dỗ đị.. dỗ đi cho nó nín đi rồi dậy đấm cho u mày một chốc... để tao đi nướng hòn gạch mà chườm bụng vậỵ.. Rõ khổ chửả Bên ngoài mấy hạt mưa bắt đầu ném vào mái tranh lộp độp rồi trời đổ cơn xuống rào ràọ Dần dần mưa càng to, gió càng mạnh, mỗi lần một luồng gió thổi trên không nghe ào ào là một lần nước đổ như trút xuống sân. Trời tối mịt. Thấy mẹ đã ngủ được yên, thằng cu bước xuống đất, phong phanh trong tấm áo vải, ra tựa cửu đứng nhìn.

Tiếng sấm động ù ù, mỗi khi chớp nhoáng chớp nhoàng nó lại nom rõ thấy giữa những vũng bong bóng phập phồng, những dây nước ròng ròng từ mái tranh rỏ xuống. Rồi thỉnh thoảng lại đánh "đoành" một cái, những tiếng sét vang trời đánh nhịp, hòa theo với tiếng mưa rả rích, tiếng sấm hục hặc, nổi sôị..

Chợt nghĩ đến bà nó ở ngoài đầu đê không biết ra sao, quay lại nhìn thì bố nó vẫn lúi húi dọn cơm, nét mặt thản nhiên như không, thằng cu phụng phịu nét mặt, hỏi gắt:

- Kìa thày! Thế bà ở ngoài đầu để Nó chưa nói hết câu, bố nó đã như bị một luồng điện giật, nẩy người ra, mắt tròn xoe, mãi mới nói được.

- Chết chửa! Biết làm thế nào bây giờ? U mày đau bụng, kêu rối rít lên, làm tao cũng quên bẵng đi mất...

- Thế thì chắc bà chết rét mất rồị.. Còn gì nữạ..

Nghĩ đến cái chết của bà lão lòa ở ngoài đầu đê - tình cháu đối với cô - bác đánh giậm rùng mình, rợn tóc gáỵ Nhưng bác tự dối lương tâm, bác đáp lại con:

- Ôi già... chả việc gì phải sợ... dễ bà lại không biết lần mò đến một cái quán nào đấy mà ẩn hay saọ..?

Rồi bác gọi vợ con dậy ăn cơm. Bữa ấy bác gái tuy kêu đau bụng mà cũng cố ăn được đến bốn năm lưng, mặc dầu hai đứa bé không thấy bà nó đâu, thường nhắc đi nhắc lạị Trời vẫn mưa, lúc to lúc nhỏ, rả rích suốt đêm.

Sáng hôm sau, ánh sáng mặt trời xé những đám mây bay tan tác, chiếu xuống, trông lại càng tươi càng đẹp. Trên mặt đường đê, nước đóng từng vũng, những người đàn bà gồng gánh ra chợ phải xắn váy vén quần, lội bì bõm, hễ ai hơi trượt chân muốn ngã là cả bọn lại khúc khích cườị Những đám cỏ bấy lâu phơi nắng xám cả màu, sau một trận mưa rào đã trông thấy ngay cái vẻ tươi tốt. Trên mấy cây bàng, một đàn chim sâu, con ngửa cổ uống nước, con đập cánh rũ lông, kêu hót vang taị Vệ đường loáng thoáng thấy cành cây rơi rải rác...

Phong cảnh trông có vẻ khoan khoáị Cái khoan khoái của phong cảnh sau trận mưa rào cũng như cái khoan khoái của người sau khi tắm gộị Bác đánh giậm hôm ấy dậy rất sớm, đóng khố, cài rổ, vác vợt ra đị.. Mon men ở dưới chân đê, lội lõm bõm qua mấy vũng bùn lầy xa xa, phía dưới cây gạo - chỗ bà lão lòa vẫn ngồi, bác thấy giữa ruộng, trong một đám mạ xanh tươi tốt, một đàn quạ, con bay con liệng, kêu sào sạc rồi đậu xúm xít vào một chỗ. Bụng tưởng hẳn là một tổ rắn chi đây, bác ta vác ngay một vợt tre lên mặt rồi phăm phăm chạy lạị Đàn quạ vùng bay lên rồi tản mác đị.. Chao ôi! Bước vừa đến nơi thì bỗng bác ta rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống cạnh một cái xác, cái xác một người đã bị quạ mổ nát nhừ, xác bà lão lòa bị gió thổi xuống ruộng đêm hôm trước.

CHỐNG NẠNG LÊN ĐƯỜNG

Mấy hôm nay,thằng Hai Xuân xem ra có ý lo buồn lắm.Phải, ở vào cái cảnh như nó bây giờ,thì đến ai mà chả đâm lo;bảo nó không buồn sao được?

Từ ngày mọi người còn thấy nó cầm đôi tay xe chạy trên đường đê Gia Quất thì thằng Hai vẫn là người vui tính nhất làng.Vào những buổi chiều mùa hạ sáo diều vo vo réo rắt hay buổi chiều mùa thu gió vàng hắt hiu,trong những cảnh hoàng hôn của tiết xuân mát mẻ hay của trời đông lạnh lùng;mỗi khi hình thằng Hai tay vòng càng đi trước cái xe,vẽ cái bóng thật dài trên giải đường trắng xoá,thì tận trong làng xa lắc xa lơ cũng có người nghe thấy nó cất giọng ồ ồ,nghêu ngao hát cái bài "xẩm" của nó tuy cụt đầu cụt đuôi thật,nhưng nghe nó cũng hay hay:

...Còn trời (mà )còn nước,còn non...

Còn cô (mà ) còn cô bán rượu,( ý y )anh (a ) còn (thì )say sưa...(chừ này mình ơi... ý y ỳ ý y tang tình tính tang... ! ! ! ) Thật vậy ! cái đoạn đời ấy tuy trước mắt bọn giàu chỉ là cái đời khốn nạn của con "ngựa người" ngày ngày "dang"chân trên mạt đường rải nhựa khi lửa hạ chang chang,hay bì bõm trên giải đê trơn mỡ đổ khi mưa phùn gió bấc...mà đối với thằng Hai,nó vẫn cho là vui vẻ lắm...

Nó được vui vẻ nhất là sau khi,trước cái mái trnh lụp xụp nó đặt "phịch" càng xe,rảo cẳng chạy vào sân, đến chỉnh nước ngửa cổ "tu" một hơi nước lã thật dài xong thở đánh "hà à à"một cái rất khoái trí rồi cầm mảnh mo vừa quạt vừa bước vào nhà ngơ ngác nhìn xem bố mẹ đã thổi chín cơm chưa, để liệu dọn mâm bát,không thì giốc nẹp áo lấy ra một nắm đầy bàn tay những mảnh tròn tròn bằng đủ thứ:thau, đồng,kền,bạc vừa hào vừa xu đưa cho mẹ mà rằng: "U mua vào đây cho tôi vài xu diêm thuốc".

Mâm cơm dọn xong,nó chỉ còn chờ anh Cả cho nó đi làm về là cùng ngồi vào ,tuy bữa nào cũng chẳng hơn gì bữa nào,chỉ rặt cà,tương,dưa muối mà thằng Xuân ăn thấy ngon.Nó ăn được ngon là vì nó đã kéo xe nhọc mệt cả ngày,là vì không những nó đã chẳng phải ăn nhờ ai mà lại còn nuôi được bố được mẹ, đỡ anh,anh nó,một người phu kíp ở ga Gia Lâm,mỗi tháng kiếm không đầy chục bạc.

Khốn nạn thay cho thằng Hai Xuân ! Bây giờ khác hẳn xưa rồi... đến cái nghề kéo xe kể đã là cùng cực mà nó cũng không đang nổi nữa vì người ta đã cướp cơm của nó,một cái xe hơi đã vồ phải nó, đánh gẫy của nó mất một bên chân,rồi vào nhà thương,người ta đền cho nó một cái khác bằng gỗ để mặc nó lộc cộc chống nạn về nhà...

Bay giờ nó đành phải ăn nhờ vào anh,mà từ khi nó được cái chân gỗ thì những bữa rau cháo buổi xưa cũng ra điều chểnh mảng,không được đúng hẹn nữa.Không đầy chục bạc mà bốn miệng ăn... ! lại tiền thuê nhà, ấy là chưa kể đến những món vặt khác như áo,quần củi lửa...tuy không để đem chôn vào bụng mà cũng cần như hạt muối,hạt gạo,gia đình nhà nó sống trong một cảnh túng bấn cực kỳ,chỉ hơn được ăn mày một nước là không phải ngửa tay xin lấy của ai.Gạo đỏ còn phải ăn kém hơn ngô khoai nên bố mẹ nó,tuy trên đầu tóc đã pha mùi,hàm răng chiếc đã lung lay,chiếc rụng mặc dầu,cũng đành bưng đến bát cơm ngô,cơm khoai mà...khốn thay! vẫn thiếu... ! Ðã nhiều lần bố mẹ thằng Hai và nó phải bấm bụng nhịn đi để anh Cả nó về được ăn no đủ - vì là người kiếm ra tiền - anh nó chẳng phải tay vừa,nếu để thiếu cơm thì nó sẽ thấy ngay anh nó mắng bố,gắt mẹ,chửi nồi,chửi rế,chửi đôi guốc đang đi mà đứt quai,chửi xó nhà lắm muỗi vo vo...

Thằng Xuân mấy hôm nay xem ra có ý lo buồn lắm Một buổi chiều hè kia,sau khi chống nạn lang thang đi khắp đó đây - từ độ nó què,không có việc gì nó vẫn lang thang như thế - thằng Hai lên cầu ngồi hóng mát.Lúc ấy có lẽ đến 6 giờ rồi,bụng nó đã thấy đói như cào mà nó vẫn chưa dám tưởng đến sự về nhà vì nó chắc thế nào anh nó cũng cau cau nét mặt nhìn nó ra ý bất bình hay hỏi căn vặn nó bằng những câu chẳng được nhẹ nhàng như khi nó chửa cụt cẳng.Nó đói lắm nhưng nó vẫn cố gượng cho khuây,ngồi nép vào sát với thành cầu,nó lẳng lặng trông mây ,trông nước.

Mặt trời đỏ hỏn như một hòn than tròn đã từ từ rẽ những đám mây chồng chất lên nhau mà lặn xuống chân trời,trước mắt nó,giẫy núi Tản Viên ba chòm xanh biếc,mập mờ trong đám sương nhoà dưới chân điểm ngang một nét xanh xanh biết bao làng mạc, đứng sừng sững như một bức trường thành trên mặt nước đỏ ngầu.Sông Nhị bấy giờ đang ào ào đập bọt vào mấy chân cầu,dữ dội mà hung hăng như một người điên bị ai trêu ghẹo.Trông về đằng đông,lại dòng nước Nhị Hà,dài rộng mênh mang,hai bên bờ xa nhau mờ mịt,mấy cánh buồm căng thẳng,xa lơ xa lắc,sxa đến nổi tuy con thuyền đang chạy băng băng mà trông vẫn phải tưởng như không,như chỉ cắm sào một chỗ.

Thành phố Hà Nội,phơi mình dưới một tầng mây dài dằng dặc mà đỏ ối như thể đám lửa hung hăng,phô lên những rặng mái nhà chi chít nhấp nhô,mảng đen mảng đỏ,rồi,nhoi lên cao hơn hết thảy,này ngọn cột cờ và ống khói sở Máy tơ tiêu điều vì không đắc dụng,này đôi trụ nhà Thớ chính đưa ra những hồi chuông văng vẳng chiều hôm,này mấy cột vô tuyến điện làng Vọng mập mờ mà cao ngất,lênh khênh như muốn chọc trời.

Trên cầu lúc ấy không thấy bọn người áo quần lam lũ,gồng gánh qua lại nữa.Cái giờ ấy là cái giờ đuổi bọn người kém phúc này tất tả về nhà,chúi đầu vào bếp vần nồi cơm gạo đỏ bưng lên xới cho một ông bố hay một bà mẹ mù loà hoặc ôm vội lấy đứa con gầy ngẳng,từ sáng chưa trông thấy mặt mẹ,nhét cái vú mướp vào miệng nó mà cất giọng: "à ơi...",rủ nhau náu mình dưới những mái tranh lụp xụp cho khỏi làm bẩn mắ bọn tỉnh thành,bọn giàu hay có cái vẻ giàu bấy giờ đã nghênh ngang,lũ lượt,kéo nhau lên hóng mát.

NHững đoàn xe hơi bệ vệ mà không lịch sự,nối đuôi nhau,tiếng còi inh ỏi,sang sang,về về,dồn các bác phu xe ngửa ngực kéo,hớt hơ hớt hải chạy vào những chỗ tránh của họ,hình ảnh cái mãnh lực tuyệt đối của cơ khí bao giờ cũng chỉ lợi riêng cho một bọn.

Thấy vẽ rỏ ra trước mắt nó cái cảnh phồn thịnh nhường kia,Hai Xuân tuy là một thằng què,một thằng chân gỗ thật mà vẫn có lòng quảng đại nhìn đời bằng con mắt lạc quan,chẳng vì thấy mình tàng tật kém người mà thù hằn oán ghét họ.

Một cặp uyên ương người vận tây,người quần trắng áo lam thung dung lướt qua mắt nó.

Nó ngẩn người ra! Chưa bao giờ nó được trông thấy cô nào xinh đẹp đến thế.Nhất là cái mũ nhung đang quay vòng tròn trên hai ngón tay cái với đôi hoa kim cương lóng lánh với làn tóc mây phất phơ bên đôi má mơn mởn cô làm nó phải lõ mắt nhìn. "Hai vợ chồng nhà nầy hẳn sướng hơn người !..." lần thần nó nghĩ.

Người dạo chơi trên cầu dần dần càng đông, đôn gnhư thể rủ nhau trảy hội.Theo sau cặp trai gái xinh đẹp ấy,một ông béo phục phà phục phịch,hai bên má chảy xệ xuống như má lợn xề,hình như trời xinh ra chỉ để nhai toàn những của ngon vật lạ nên cái bụng nghênh ngang trên bộ giò chữ bát chẳng đủ sức khiêng ông,bắt cái đầu và cái ngực phải dồn cả lại đằng sau. Ông bày bụng ra một cách vênh váo,bệ vệ đi trước để theo sau,một bà gầy nhẳng cao lênh khênh,mình lép như bồ kếp,một cái mái đẻ sắp đến hồi phế thải.Hai Xuân cứ bịt mồm nhịn cười chẳng được vì nó nghĩ ngay đến một miếng đồng dần dần tất phải dài ra nếu bị một cái búa nặng bên trên cứ ngày ngày nện xuống.

Rồi đến những cậu đầu trần,tóc mượt nhẹ nhàng cưỡi trên những con "ngựa sắt" sáng choang hay phong phanh trong những bộ áo lót mình kẻ dọc kẻ ngang sặc sỡ,rồi đến các con nhởn nhơ trong những bộ "cánh cào cào"vàng , đỏ,tím,lam,rồi có cả một vài cụ già quần lụa áo sa,tay quạt,mắt kính,ung dung dạo gót nhìn non nước mà chẳng buồn nhìn đến bọn trẻ ranh.

Thằng Hai trông đám người ấy chẳng bằng con mắt ác cảm.Nó rất ước ao được có ngày thảnh thơi như họ,nó coi họ như hạn người đã được trời thương,mà trời đã thương ai, đã ban hạnh phúc cho ai thì người ấy đã đành là xứng đáng.

Còn nó nghèo,nó khổ,nó đổ là tại số.Tại số? Phải,những bộ óc rắn đặc như óc nó thì bao giờ lý hội sự đời cũng chỉ thấy toàn số,mệnh.Nó không biết rằng bố mẹ nó đã bị xã hội hắt hủi vào cái cấp hạ lưu đê tiện thì không còn mong gì ngoi ngóp được lên, đã không ngoi ngóp được lên,thì tiền đâu nuôi nó,cho nó học hành,mà nó chẳng phải cầm đến cái tay xe? Ðã cầm đến bộ tay xe,không những nó phải ra sức kéo người có tiền cỡi nó,nó còn phải đem mảnh thân cát bụi của nó ra chiế đấu với tạo vật,với những tia mắt mặt trời dữ dội chiếu xuống đốt lưng đốt gáy nó,với những trận mưa trận gió phũ phàng ném những hạt nước nặng nề thẳng vào mặt nó,thổi tung cát bụi lên làm tối mắt nó hay đưa lạng cả xe nó kéo về đằng sau,làm tròng trành sang bên phải,bên trái,tròng trành như một chiếc thuyền.Nào đã hết đâu !...Thắng được tạo vật rồi,nó còn lại phải chiến đấu nữa,chiến đấu với cơ khí,chiến đấu để nuôi thân.Những ông đại tư bản,giàu có hàng triệu,có thể nuôi nổi không biết cơ man nào hạng người như nó,cũng cạnh tranh với nó.Rồi các ông ấy mang ra đường sắt những đoàn xe lửa hùng hổ để chạy thi với anh cu li bé nhỏ yếu ớt kia.Những ông tiểu tư bản cũng chẳng tha nó nào,cũng lại cướp cơm của nó.Mỗi khi nó khom lưng kéo chiếc xe tay thì những tiếng còi inh ỏilàm lọan óc nó,những chiếc xe hơi máy chạy vo vo phun khói mù trời,dồn nó,hắt nó vào một bên đường để tranh lên bước trước.

Mặt trời vẫn "tưới" trên lưng nó một lớp mồ hôi,khúc đường tráng nhựa chang chang không một bóng cây vẫn ở dưới châm kim lên hai bàn chân nó,hỏa trong mình nó bắt lên hai mắt đỏ ngầu,cát bụi bốc lên làm nó tối xẩm mắt lại, đoàn xe hơi vẫn sùng sục đuổi nhau,rồi không biết thế nào,một chiếc vồ phải nó,hắt người khách của nó vào một góc đường,hắt nó té nhào xuống đấy.

Khi nó mỡ mắt ra thì nó thấy nó đã được nằm trong một gian buồng nhà thương Hà Nội.Bố mẹ nó ngồi cả bên giường,tay bưng lên mặt mà khóc tỉ tê; quan đốc tờ bảo nó đến phải cưa chân.

Nó ngơ ngác nhìn hết mọi người rồi hỏi họ rằng:nó được người ta đền cho bao nhiêu tất cả?Người ta chỉ nhìn nó mà cười một cách chế nhạo rồi bảo rằng người ta đền cho nó một cái chân gỗ,chỉ một cái chân gỗ và một cái nạn thôi,nó đã đi trái luật.Trái luật ư? Không,quyết là không,chẳng khi nào nó đi trái luật bao giờ,nó còn nhớ rõ,quả thật hôm ấy nó vẫn đi bên tay phải.

Vẫn đi bên tay phải ư?... Ðối vớ hạng người như nó,họ chỉ cần đáp lại một câu:mặc kệ ! - Thân nó từ đấy què cụt,ai nuôi? -Mặc kệ ! - Bố mẹ nó già lão thế kia rồi sẽ ra sao? - Mặc kệ !...Họ mặc kệ hết thẩy,nó chỉ đành từ đấy lê cái chân gỗ suốt đời,vì chẳng ai đã làm chứng cho nó trong lúc tai nạn xảy ra nó vẫn đi bên phải.

Trên cầu người dạo chơi bóng mát lại càng đông thêm.Thỉnh thoảng,một cặp trai gái lướt qua mặt nó, để lại cho nó một ít hương thơm thoang thoảng.Nó bỡ ngỡ đưa hai con mắt nhìn hết người ,mà ồ nầy ! chả ai buồn nhìn đến nó,nó chỉ là một thằng què cụt,rách rưới,khốn nạn,ai nhìn đến nó làm gì...!

Thằng què ! thằng què lòng tự nhủ lòng,Hai Xuân rầu rầu nét mặt nhìn xuống cái chân gỗ...Những người chung xóm nó,những anh em đồng ngiệp nó ít lâu nay đã cải tên của nó, đã gọi nó là thằng Hai Què.Thằng què ! ôi đau đớn !...

Mặt trời lúc ấy đã lặn hẳn,nhường cho những ngôi sao lăn tăn lấp lánh trên khoảng không trung.Dẫy đèn điện trên cầu,trong một cái chớp mắt, đã rủ nhau bật đều lên cả,ló ra những đám lửa đỏ hung hung có vẻ buồn rầu và kèm cho mỗi người dạo mát một cái bóng hiện trên những thửa gỗ lim,nó lặng im,bé lại hay dài ra tùy ở con người đứng trên một chỗ hay đi đi lại lại.

Trông về Hà Nội,dưới tầng mây bạc lộn vẩy tê tê,thành phố tung lên một giải hào quang sáng lòa cả mắt mà kéo dài một mạch từ ô Yên Phụ đến tận Lò Lợn giáp với Thanh Trì,dẫy đèn điện bờ sông ra công "phá tối" sáng quắc và thẳng băng như chuỗi hạt kim cương.

Cảnh vật đều vui,nhưng Hai Xuân chỉ là một thằng què cụt... !

Nó buồn ,buồn lắm!

Rồi nó bỗng thấy nó rất đáng hổ thẹn trong đám đông người ấy,hổ thẹn như một con vật ghẻ lở trốn vào đâu cũng bị hắt hủi đuổi ra.

Nó không dám nhìn họ nữa,quay mặt vào thành cầu,nó tựa cằm vào một thanh sắt mà nhìn xuống nước,nhìn những ngọn đèn điện từ trên ánh xuống bị dòng nước l-oi cuốn đi làm tan nát ra như muôn nghìn mảnh kính,như muốn trôi đi mà lại như muốn đọng đấy,lửng lơ một chỗ,lạ mắt vô cùng.Rồi nó vẳng nghe thấy dưới nó tiếng chèo bì bõm,tiếng trẻ khóc oa oa,tiếng cái điếu cày có người rít một hơi sòng sọc.

Nó cố định thần nhìn xuống;một chiếc tưyền từ từ ở gầm cầu chui ra,lù lù mà bí mật như một con quái vật nó thường gặp ta trong những đêm trằn trọc có chiêm bao ghê gớm vậy.

Từ khoang thuyền chiếu ra ánh sáng hiu hắt một ngọn đèn con để thằng Hai thoáng nhìn thấy bóng một người đàn bà cầm chèo ngả nghiêng đằng mũi,ngả nghiêng một cách rất táo bạo như có lúc muốn lăn tòm xuống nước,táo bạo như bóng một con ma đen.

Chiếc thuyền cứ đủng đỉnh mà đi để lại mặt nước chỗ sóng sôi cuồn cuộn,bọt trắng ngầu ngầu,chỗ xô nhau,xoáy nhau,tròn như một cơn gió lốc,chỗ lăn tăn vẩy cá và chỗ phẳng lặng lạ lùng,phẳng lặng mà bì bì đóng váng như một bát nước cơm.

-"Chà ! sung sướng biết bao ! nếu mình lềnh bềnh trôi trên làn sóng ấy !...

Thằng Hai chợt nghĩ thế,nghĩ đến cách tự tử ấy một cách âm thầm.Nó sống mà làm gì nữa?...nó chết đi là phải,rất phải,np& chẳng còn nên tiếc gì đời,cái đời què cụt không kế sinh nhai.Rồi nó khỏi phải đau lòng trông thấy những tấn tuồng "con mắng mẹ vì thiếu cơm ăn"mà rồi đâu anh nó lại đem diễnra trước mắt nó,nó sẽ khỏi phải trông thấy cái cảnh tượng bố nó mẹ nó vêu vao nét mặt,ngồi mỗi người một xó mà nhỏ lệ đầm đìa. Ðược lìa đời,nó sẽ thoát khỏi mọi điều đau khổ.Cái đời nó nay xoay ra đến thế là tuyệt vô hy vọng,trời không thương nó nữa vì xưa nay nó chỉ mong có lấy được một bộ chân khỏe mạnh để kéo cái xe tay, để nuôi thân và nuôi cha mẹ mà thôi. Ông trời ngày nay bắt nó què cụt,nó còn sống nữa làm gì?...Nó đã đau khổ lắm...Vì đâu nó đến nõi phải liều thân như vậy?Chao ôi ! nếu nó vẫn có đủ cả hai chân như mọi người !...

Hai Xuân mệt quá,mệt lả người đi ,thiếp mất đi.

Nhưng một sức mạnh vô hình đã đến bao phủ lấy nó,lay nó dậy,dựng nó đứng lên,giục nó trông trước nhìn sau chẳng thấy ai đứng đấy thì trèo lên thành cầu, đăm đăm nhìn xuống nước.Chỉ trong một vài giây đồng hồ nó cũng đủ thấy rợn,nó nhấm nghiền mắt lại,liều buông tay ra. Ðánh bõm một cái thân nó đã bị làn sóng cuồn cuộn xuống,nước lạnh ùa vào tai,vào mắt,vào mũi,vào mồm nó,nó như ngây như dại,nhưn gnó vẫn thấy hình như trên cầu có tiếng người rộn rịp chạy,tiếng kêu tiếng thét lào xào,họ túm cả vào một chỗ mà chỉ chỏ cho nhau,thảy đều sửng sốt,những con mắt long sòng sọc xiên qua quãng tôi tìm tòi xác nó,lại văng vẳng có tiếng người kêu...

Hồ ồ ồ ồ ồ ồ ha a a a a a !...

Một tiếng còi đinh tai làm Hai Xuân giật mình đánh thót một cái.

Nó bàng hoàng cả người,chớp mắt luôn mấy cái rồi định thần nhìn kỷ mới biết nó vẫn ngồi gục đầu xuống đấy mà ngủ quên đi mất tự bao giờ,nước dãi nó đã chẩy ra đầy một bên má nó.Như một vòng trong đèn cù,những người hóng mát vẫn ung dung lướt qua mặt nó, đến bấy giờ họ mới dừng chân cả lại đứng chờ xem một chuyến tầu về...

Sình sình sình sình ! sình sình sình sình!...cả cầu chuyển động,trên đường sắt hiện ra trong đám tối hai con mắt lửa đỏ ngầu,một cái miệng phun khói ra đen nghịt,rồi như một trận cuồng phong,cái đống sắt đen lù lù ghê gớm ấy phăng phăng trôi qua mắt nó,kéo một dẫy dài đến mười cái toa những người đông nghịt,họ đứng lố nhố mà nghênh ngáo nhìn quanh.

THằng Hai đực mặt ra trông chuyến tầu ấy nó đi đến đâ làm rung chuyển đến đấy như một trận động đất dữ dội,nó làm nhấp nháy muốn tắt cả hai dãy đèn điện trên cầu mãi đến lúc nó đã đi xa,chỉ để lại cho mọi người một ngọn lửa đỏ tù mù ở sau toa cuối cùng nó dần dần biến mất đi trong đám tối...

Không,Hai Xuân chưa chết.Nó hãy còn trơ trơ ngồi đó,nó chưa ném mình xuống nước bao giờ;Nó nghĩ đến cái chết dại dột kia mà chợt rùng mình,rùng mình lạnh toát cả người như trong một cơn(...)thấy muốn đứng dậy lần về nhà nhìn mặt bố mẹ nó,nhìn mặt anh nódẫu rằng anh nó,nó cũng bằng lòng.Rồi nó cầm lấy nạng.

Bỗng nó thấy đói lắm, đói đến nổi không đứng lên được nữa, đói quá đi mất.Nó lại thấy lâm râm hơi đau bụng mà chân tay nó mỏi lả đi như đã mất hết cả gân.Nhưng biết làm thế nào?nó chỉ đành cố sức đứng lên,chống nạng mà đi,cái nạng gỗ rắn quá,cứ đâm nhoi nhói vào chỗ xương nách nó chửa quen dùng,làm đau chết điếng người đi được.

Ði hết cầu,xuống đường đê thì trời tối đen như mực.Nó cứ nghe tiếng mấy người đàn bà đi trước nó mà lần theo họ,theo mãi đi đến nữa giờ.Rồi nó dừng chân trước một mái gianh,một cái lều tồi tàn, đổ nát,rách rưới ở ngay đầu xóm,bên trong có ngọn lửa to bằng hạt đậu, ánh sáng tiêu điều lách qua phên cửa chiếu ra.Nó chưa dám vào ngay,nó còn lẳng lặng nghe xem sao đã.

Thốt nhiên như có một cơn gió buốt xiên vào tai,vào gáy thằng Hai làm nó rét lạnh cả người,từ đầu đến chân run như cầy sấy,rõ ràng như có tiếng mẹ nó,người mẹ rất thân yêu của nó sụt sùi,như muốn khóc mà như cố nín,cố nín vì phải sợ ai.Nó rón rén tiến gần đến cửa,vén cái mành mành rách lên,nhịn thở nhìn vào. Ôi ! một cảnh buồn!...buồn chết người đi được!...

Bố nó,một ông lão ngót 60 tuổi,cởi trần,gầy gò như một bộ xương,ngồi một góc phản,hai tay để trên hai đầu gối, đầu cúi về đằng trước,ngây người ra như một cái tượng.Mẹ nó ngồi sệp dưới đất,gục mặt xuống đầu gối,hai tay ôm chân,còn anh Cả nó thì nằm thẳng cẳng trên giường,chốc chốc lại dằn vặt chân tay như đang có chuyện gì làm bực tức đến cực điểm.Mẹ nó vẫn tỉ tê khóc lóc,chợt anh nó ngồi vùng dậy như bị một cái lò xo sai khiến rồi đập tay xuống bàn đánh "bộp"một cái mà quát:

-Bà thương nó phải không?Bà cũng phải biết mới được chớ!Nó có là bố tôi đâu?Bà còn tỉ tê nổi gì?

Hai Xuân đứng ngoài tái mặt đi.Vì nó,anh nó đã sinh chuyện với bố mẹ rồi.Nhưng nó vẫn phải lẳng lặng đứng nghe,bố nó vẫn ngồi yên,chẳng nói chẳng rằng,mẹ nó vẫn sụt sùi,tay bưng lấy mặt.Anh nó lườm mẹ nó một cách trông rất khả ố rồi lại nằm vật xuống giường,thở dài một cái ra chiều rất chán nản.Sau một lát,anh nó lại xấn xổ nói:

-Này tôi bảo thật,lần này là lần cuối cùng đấy...nếu cái thằng mặt chó ấy nó vác xác về đây thì cả ông cả bà liệu mà bảo nó đi đâu thì đi...biết chưa? Ông bà đã nghe chưa?...tôi chỉ có một bố thôi nhé!...Năm nay tôi ngót ba mươi tuổi đầu rồi mà chưa có vợ con gì cả,vẫn cô độc cô quả thế này là vì những ai?... ông bà có biết không?Nếu bà thương nó thì bà đi ngay đi...có gì ghói ghém ngay lại mà đi theo nó... đi ăn mày với nó...Rồi lại chả lo được ăn mày cả lũ cho mà xem à?...nay mai nhà máy loại người thì biết ngay chứ khó gì...!

Mẹ nó đến bây giờ mới hậm hực nói:

-...Thì rồi tao bảo nó,việc gì mày phải vội mắng tao...?mày không nuôi nó nữa thì thôi mà... để tao bảo nó mà... để tao đuổi nó đi mà...tao vẫn bảo.

Anh nó lần này quát lại to hơn trước:

-Vẫn bảo à?vẫn bảo mà để mấy tháng nữa?sao không bảo ngay đi có được không?

Bố nó bấy giờ mới khẻ nói:

-Ở thì ở chứ mấy hôm nay nó có dám xin ăn xin uống gì đâu!

Anh nó ra ý tức đến cực điểm lại gắt:

-Thôi đi ông... ông đừng vào hùa nữa...nó không ăn gì thì chó ăn à?chó ăn cả đấy à...

Nghe đến đây,thằng Hai thấy trong mình sôi máu lên sùng sục.Nó những muốn nhảy xổ ngay vào nhà,giơ nạng lên mà phang cho anh nó luôn mấy cái,nhất là đến vỡ đầu sứt trán thì thôi.Nhưng anh nó bỗng lại thấy ngồi nhỏm lên,vớ lấy cổ cái chai để trên bàn,nện xuống đánh "thình" một cái rồi giơ chai như muốn xỉa xói vào mặt ông bố:

-Ðể tí nữa nó về đây xem! Tôi sẽ hỏi nó xem mấy hôm nay,nó không ăn gì sao nó sống được...tôi sẽ đập cái chai này vào mặt nó xem nó có phải nói thực không thì sẽ biết...muốn chối mà được à?

Hai Xuân rùng mình...Trống ngực nó bỗng thấy đập mạnh,hơi thở nó bổng thấy hồng hộc,nó thở ra khò khè cả lổ mũi.Rồi nó sợ hải quá,sợ hải quá đi mất,tưởng chừng như anh nó đã nghe thấy nó thở, đã biết là nó đứng đấy nên nhẩy xổ ngay ra,cầm chai thẳng cánh dơ lên,toan đập vào giữa trán nó.Nó vội dơ tay lên như muốn đỡ,chống nạng giật lùi mấy bước rất kinh hãi,ngẩn ngơ như kẻ mất hồn,như đã bị một thương vào trán thật.Trước túp lều tranh ấy,trong đám tối ấy,nó đứng ngây người ra một lúc rất lâu.Rồi nó thấy ghê quá,sợ quá,không dám...(bản chụp mất khoảng 10 từ)gót lủi thủi chống nạn bước đi,bước liều đi chẳng biết đi đâu,trong lòng nửa buồn nửa tủi,phần thương bố mẹ,phần giận anh đau đớn đến tê dại cả người,nó cứ lủi thủi bước đi,trốn tránh đi,buồn rầu như một con chó cụp đuôi mà chạy vì có người đuồi theo ném đá.

Nó cứ lần mò trong tối,chống nạn mà đi,cứ đi thế mãi.Chợt nó đứng dừng lại,ngạc nhiên lắm,rồi tự hỏi:ta định đi đâu bây giờ?...rồi nó đứng ỳ ra đấy,chẳng biết nghĩ sao.Nhưng sau nó nhớ ngay đến một chỗ bờ đê gần đấy có một cây nhãn rất to,dưới gốc mặt đất nhẵn lì vì ban ngày,những trẻ chăn trâu vẫn họp nhau đánh đáo,cây cao bóng mát,có thể hứa với nó được một giấc ngũ no say,không phải lo gì đến chuyện rắn ,rết.Nó lại trông thẳng mà bước chân đi,chưa được bao lâu đã thấy hiện ngay ra trước mắt nó cái bóng nhãn lù lù mà nó đang mong mỏi.

Nó ném mình vào chỗ tối ghê tối gớm ấy,tay quờ quạng tìm một rễ cây để gối đầu nằm kềnh xuống đất,vắt tay lên trán mà thở hồng hộc như bò.

Chung quanh chỗ ấy,cánh đồng rộng thênh thang,lác đác vài nơi ngoi lên những rặng tre lố nhố, đều đắm đuối trong một bức màn dày,lúc đó càng thêm mù mịt vì những đám mây đen nghịt đã kéo đâu về,che lấp cả các ngôi sao.

Những tiếng "ộp oạp" đưa lên inh ỏi,những tiếng chó sủa văng vẳng lao xao,lại trên không,những đàn vạc ăn đêm thỉnh thoảng bay qua, đua nhau kêu líu ta líu tíu.Một cơn gió mát lạnh, đượm những hơi mưa,thổi điều hòa, đập rào rào vào vòm lá nhãn,khởi ra mùi bọ xít thoang thoảng hôi nồng nặc.

Hai Xuân nằm lăn dưới gốc,chân tay uy đã mỏi như dần mà mắt vẫn còn thao lắo nhìn đêm,cái đêm tối tăm, đau khổ,cái đêm không giăng,không sao,cái đêm bí mật,nặng nề của những chuyện tự tử,quyên sinh..

Thôi,từ đêm ấy trở đi,nó không còn mong gì bước chân về nhà nữa,nó đành phải bỏ túp lều tranh rách rưới,tồi tàn mà rất thân yêu ấy,bấy nay trong hai mươi mấy năm trời đã quây quần dưới mái nào cha,nào mẹ,nào anh và nó, đã đếm qua những ngày giờ vui sướng cũng như ngày giờ đau khổ, đã bao lần che chở cho nó được yên thân trong những cơn vũ bão tưạ như lở đất long trời.Rồi đây,thân phận nó sẽ nổi,chìm,rôi,giạt,lênh đênh như những cánh bèo mặt nước,như những mảng bọt giữa sông,cái chân gỗ nặng nề đã phá tan trong óc nó mất mối hy vọng đến những ngày no ấm, đã bầy ngây ra trước mắt nó cái đoạn đời khốn nạn của người hành khất;lúc mưa cũng như lúc nắng , đến cửa nhà nào cũng chỉ như để đợi nghe cái câu bất tử: "không sẳn !... đi đi".

Ðau lòng quá đổi,thằng Hai tay bưng lấy mặt,khóc lên rưng rức.Chợt một cơn sấm động u ù làm nó sợ hãi đến bay hồn.Trên trời bấy giờ sấm chớp đùng đùng,gió thổi lại càng thêm mạnh. "Chết nổi ! mưa bây giờ thì mình ra sao?...dễ thường số mình bị trời đánh chắc?"Nó vừa bâng khuâng nghĩ thế thì đã thấy "lộp bộp" một vài hạt nước mưa to ném xuống như mấy tiếng dạo trong một khúc đàn rồi,theo sau vài cơn gió mạnh,bài âm nhạc sầm sập,rào rào chỉ những cơn gió thổi từng cơn,tiếng nước tơi rả rích kéo dài cái điệu buồn buồn mà tẻ ngắt vì không thay đổi,cái khúc âm nhạc rả rích "trời mưa".

Thằng Hai phải vớ nạng đứng ngay lên,tìm cách náu mình,lom khom ẩn dưới gốc cây.Thỉnh thoảng,một vài giọt nước rơi vào mặt,vào đầu,vào gáy,vào lưng nó,làm nó rét run lên cầm cập mà dưới đất,những hạt mưa lăn tăn bắn lên chân nó làm nó thấy ngứa ngáy khó chịu vô cùng.Nhưng nó chỉ đành lom khom đứng yên một chỗ,lưng mõi rả rời,chốc chốc ngoáp dài một cái rồi lại nhìn đến cơn mưa,cái cơn mưa trút nước của những ngày hè uể oải,có dư sấm sét rất đáng lo ngại.Hai ba lần,nó phải bưng tai,nhắm mắt,trong lòng hồi hộp mà chờ cái chết vì ngay trên đầu nó thấy những cơn "ùng ục"dữ dội.Cũng may,những con ma chắc không bay đến ẩn mình vào cây nhãn ấy (?)nên những tiếng sét "đoành đoành" đi sau ngững giây chớp sáng quang đã tha cho nó,chỉ đánh xuống những nơi ở tận đầu xa.

Nó cứ đứng thế,mặt đất sũng nước đã ngập cả một bên chân nó tưởng chừng như mưa không bao giờ tạnh được.Nhưng độ một vài giờ sau thì hết cơn mưa.

Hai Xuân bấy giờ đã nhọc lắm, đến chân tay cũng không buồn cử động nữa.Rồi cái đói giúp cái nhọc nó chẳng còn bận tâm lo nghĩ chuyện gì,nó đổi chỗ đứng,một tay vòng nạng,một tay kê sau gáy để đỡ lấy đầu,nó cứ việc tựa lưng vào gốn nhãn,chống tay vào nạng gỗ mà đánh một giấc ngủ rất say sưa,cái giác nguy hiểm của những nguời bụng đói như cào,có khi ngủ không dậy nữa.

Nó cứ đứng thế mà ngủ được mãi đến khi trời tang tảng sáng;mãi đến khi có một đàn kiến bị nước phá tổ nhung nhúc bò ra,một vài con đỏ như lửa mà to như hột thóc bò lên bàn chân thịt của nó,cong đuôi đốt nó,nhoi nhói như kim châm.Hai Xuân bấy giờ mới vùng thức dậy,dụi mắt,rũ kiến rồi ngơ ngác nhìn cũng hơi ngạc nhiên vì mình đã ngủ,trời tuy đã sáng nhưng chung quanh nó,nó chẳng nom được rỏ vật gì,nó chỉ thấy một mầu trắng toát,một bức màn sương,nhưng vì nghĩ ngay đến chuyện về nhà,nó cũng cầm lấy nạng.

Trên đường đê lầm lội mà trơn hơn rêu bám,thằng Hai lủi thủi chống nạng về nhà, đi giữa cái "đám rước"những cốc và giun,những con nòng nọc mới đứt đuôi lăn tăng nhảy trước mặt nó và những con giun đen xì xì,to như cái đũa ngọ nguậy bò dọc bò ngang,vẽ trên đường đi những vết dài dài.Thằng Hai cứ việc bước đi,lội lõm bõm mà đi.

Về đến gần nhà,nó dừng chân lại đứng ngẫm nghĩ.Chắc hẳn bây giờ thể nào anh Cả nó cũng ra ga rồi,trời chưa sáng rõ là vì có sương,nó vào bây giờ chỉ còn việc là lạy từ cha mẹ.Nó đến cửa,khẽ gõ mấy cái vào phên thì cửa mở ngay.Mẹ nó có vẻ ngạc nhiên hỏi nó:

-Mày ngủ đâu về thế con?

-Dạ,tôi ngủ đằng nhà anh Xã.

-Thế à... thế đã cơm nước rồi đấy chứ?

-Ðã,anh ấy gọi tôi đánh chén vì hôm qua,anh ấy phát tài to.

-Sao quần áo mày ướt đầm cả thế kia?

-Nhà giột -Sao tối hôm qua mày không về?

-Có,tôi có về.Anh Cả nói với thày u những gì tôi đã biết hết...Tôi thấy thế nên tôi lại đi...thế anh ấy đi làm chưa u?

-Nó đi rồi...vào,con... !

Theo sau tiếng thở dài của mẹ,nó bước chân vào, ố ! này lại...bố nó vẫn ngồi một chỗ như đêm hôm trước.

-Thầy đã dậy làm gì thế?

-Ðã ngủ đâu mà dậy? Đêm qua có ai ngủ đâu?

Rồi bố nó cũng thở dài như mẹ nó.Hai Xuân bấy giờ mới định nói thật,có nói vì thấy ấp úng,khó khăn chẳng khác gì một đứa trẻ con bập bẹ:

-Thầy u ạ,tối hôm qua,anh ấy nói với tôi những gì,tôi đã biết cả.Tôi về bây giờ là để lấy mớ quần áo cũ và cái thẻ của tôi để tôi đi đây...tôi phải đi chứ tôi ở nhà thế nào được?

Rồi nó đứng cúi mặt nhìn xuống đất,trong lòng thật đau đớn,cố cầm lấy nước mắt lúc đó đã thấy chạy quanh.Mổi phút im lặng mà tưởng như rất lâu,bố mẹ nó vẫn không đáp nó,nó chỉ nhận được hai tiếng thở dài áo não vô cùng.Hai Xuân nói tiếp:

-Tôi cũng biết...thế này là phiền não cho thầy u lắm...thầy u chẳng nỡ,thầy u vẫn có bụng thương tôi,nhưng khốn nổi là nếu ở nhà,tôi không làm gì kiếm ăn được...Thầy u có nuôi được tôi đâu?tôi không đi cũng không xong mà... !

Mẹ nó vẫn đứng ngây người như một khúc gỗ,nó phải giục:

-Kìa u ! u lấy đi cho tôi... để tôi đi cho sớm sủa.Tôi đi thế này tôi cũng khổ lòng lắm,nhưng thôi,thầy u cũng chứ lo phiền,rồi dăm ba ngày một lần,tôi sẽ về thăm thầy u,thầy u không sợ.

Mẹ nó bấy giờ đưa cho nó một gói nhỏ trong cái khăn bọc ngoài đã bạc phơ,bảo nó:

-Cả mấy cái quần áo cũ và cái thẻ u gói kín trong này đây, đừng bỏ mất đâu mà khốn.

Nó đỡ lấy gói,lần đến một góc nhà với một cái nón rách xuống, đội vào đầu:

-Thôi ,thầy u ở lại,tôi đi đây...tôi đi rồi tôi về luôn, đừng nói gì cho anh ấy biết.

Ông cụ ấy vẫn không đáp nó,chỉ nằm xuống giường để tay lên trán.Hai Xuân vừa bước chân ra khỏi nhà đã thấy bên trong bố khóc lên hậm hực.Nó đau lòng quá đỗi,mẹ nó cũng theo nó bước ra,nắm chặt lấy nó như chẳng nỡ dời tay.Nó giương to con mắt nhìn cái mặt răn reo, đau đớn mà thân yêu ấy một lần cuối cùng,nhìn túp lều tranh âu sầu, ủ dột,l&uc đó cũng đang thanh thót rỏ lụy,rồi khẻ bảo mẹ:

-U buông con ra buông con ra cho con đi...

Bà cụ đờ đẫn buông tay,ngơ ngẩn nhìn con,mi mắt và mồm như bị một cái gân tai ác giật lấy giật để.Rồi bà cụ đưa ngang cánh tay lên mặt.Hai Xuân tần ngần đứng đấy,trông mẹ khóc mà cảm động quá,thương quá nhưng sau ý chừng cũng biết rằng đem nước mắt mà chống với cuộc đời thật chẳng lợi gì,nó dằn lòng quay mình,mắt đăm đăm nhìn xuống đất,mặt có vẻ dữ tợn đáng ghét,nó rảo cẳng bước đi,bước thẳng đi một mạch.

Bà cụ mẹ nó,vẫn tay bưng lấy mặt,rung động hai vai,mãi đến lúc con đã đi xa mới mỡ mắt ra nhìn.

-Hai ơi !... ời Xuân ơi !...Xuân ơi...

Không biết bụng nghĩ ra sao mà bà cụ ấy gọi con rối rít,nhưng vì đã đi xa lắm,nó không nghe tiếng,cứ việc cắm cổ mà đi.Rồi thấy bà cụ ấy chạy theo con,vẫn ra sức gọi Thương thay ! mái tóc hoa râm đã điểm 60 tuổi trên đầu mà bà cụ ấy vẫn chưa biết mình thân già tuổi yếu,ton ton chạy được vài mươi bước thì chổ mặt đê trơn như đổ mỡ đã làm bà cụ té nhào lắm lét từ dầu đến chân,nằm trong vũng nước đầy vừa run vừa khóc.Bà cụ ấy ngã đau, đau lắm nhưng cũng cố gượng chống tay nghểng cổ mà nhìn,nhìn đến đứa con thân yêu kia,nhìn đến thằng Hai lúc ấy chỉ còn như một cái chấm trông thẳng về Cầu Sắt Hà nỘi mà đi,dần dần biến mình vào đám sương mù...

PHỞ

Trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân dân Việt-Nam, có một cái thực tế mà hàng ngày ít ai nỡ tách rời nó, tức là cái thực tế phở. Cái thực tế phở ấy lồng vào trong những cái thực tế vĩ đại của dân tộc.

Xứ Phần Lan rừng thông trùng trùng xanh ngắt, nước hồ biếc biếc, phụ nữ da trắng một màu tượng tuyết, gái trai quần áo len ngũ sắc người nào cũng như nai nịt sắp biểu diễn điền kinh. Mình thành ra lạc lõng vào một thế giới vật chất nó sạch sẽ quá, sạch đến cái mức tạo cho tôi một thứ nghi ngờ nơi đây là một ấn tượng giả tạọ Cảnh và người Hen-xanh-ky, ví phỏng đây đó lem nhem đi ít chút, có lẽ tôi dễ thân gần hơn. Chúng tôi ở đây mười ngày, mỗi ngày họp trả tiền ăn mỗi người là sáu đồng đô la, nó là cái tiêu chuẩn đã khá cao của đoàn đại biểu ta đi hoạt động quốc tế. Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thãi bổ béo; nghi thức lúc ăn thật là trang trọng: đồ sứ, pha lê, khăn bàn trắng muốt, quanh bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn trông đẹp như rượu rót trong các truyện thần thoại phương Bắc này. Tôi hào hứng làm việc liền liền ở Đại hội Hòa bình thế giới, cơ thể nhịp đều, tâm trí có nhiều sáng kiến. Nhưng ăn uống sao không thấy ngon. Người ta thường nói rằng những bậc vĩ nhân hoặc hiền giả có chí lớn chỉ biết có sự nghiệp mà rất coi nhẹ miếng ăn. Nhưng trường hợp tôi kể ra đây chỉ là cái trường hợp thông thường của một con người bình thường thôi.

Chúng tôi là mấy anh em trong đoàn đi, mỗi người một công tác chuyên môn, nhưng đều cùng đã gian khổ với nhau trong kháng chiến và cũng là người Hà nội cả. Quanh hồ khu Ô-ta-ni-ê-mi, chúng tôi ngồi dưới rừng thông xanh phân tích với nhau xem tại sao lòng dạ mấy người đang thấy nhớ thương một cái gì xa xôi lắm. Từ hôm xách va ly ra tàu qua nước này nước khác, thế là mấy tháng rồi; ở nhà đã hoàn thành tiếp quản Hải phòng rồi, đất đai miền Bắc giải phóng toàn bộ rồi... Nhưng mà chúng tôi đã kéo cuộc nhàn đàm xoáy vào chuyện ẩm thực và muốn giúp đở nhau tìm hiểu vì đâu mà lâu nay ăn uống kém ngon. Có người bèn chỉ tay thẳng xuống nền cỏ bờ hồ Phần Lan, buông thõng một câu: "Bây giờ có ngay một gánh phở đỗ bên bờ hồ này, thì tớ đả luôn sáu bát!". Tất cả đều reo lên. Thì ra gần đây chúng tôi héo hắt đi, vì xa đất nước, khẩu vị lạc điệu, thấy nhớ nhà nhớ nước, trong cái nhớ nhà nhớ đất nước, có cả một sự nhớ ăn phở nữa. Hình ảnh bát phở quê hương đưa ra lúc ấy giải quyết đúng vào thắc mắc chung của mấy người. Tất cả đều thi nhau đề cao những đức tính của phở dân tộc. Dưới đây liên tiếp những mẩu chuyện góp về một bát phở, về một miếng ăn kỳ diệu của tất cả những người Việt-nam chân chính.

- Này, các cậu có thấy món ăn ở Phần lan có nhiều cái rất kỳ quặc không. Thịt bò rán, lại phiết mứt công-phi chua ngọt sắt lên trên. Cam chanh lại ăn kèm với cá gỏi. Cơm lại ướp vào tủ nước đá, mình thấy đĩa cơm có khói, lúc ăn buốt đến chân răng. Nghệ thuật ẩm thực tôi gọi tên là lối nấu nướng của trường phái lập thể. Cho nên tôi càng thấy cần phải trở về với món quà cổ điển rất tính chất dân tộc của ta, tức là phở.

-Phở còn là một món ăn rất nhiều quần chúng tính. Ông muốn ăn phở ngồi hay đứng lù lù ra giữa hiệu mà ăn cũng không ai nói, ăn ngồi ăn đứng tùy thích. Phở là món ăn bình dân. Công nông binh trí, các tầng lớp nhân dân lao động, thành thị, nông thôn, không mấy ai là không biết ăn phở. Người công dân Việt-nam khi còn ẵm ngửa, cũng nhiều vị đã nếm phở rồi; chỉ có khác người lớn là cái bát phở của tuổi ấu trĩ chưa biết đau khổ ấy chưa cần phức tạp, không cần hành hăng, chanh chua, ớt cay. Con nhà nghèo, nhiều khi lại không cần cả thịt nữa, mà căn bản phở nhi đồng vẫn là bánh và nước dùng thôi.

- Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được. Trong một ngày ăn thêm một bát phở, cũng như lúc trò chuyện ăn giọng nhau mà pha thêm một ấm trà, cùng thưởng thức với bạn bè. Hình như không ai nỡ từ chối một người quen rủ đi ăn phở. Phở giúp cho người thanh bạch đủ điều kiện biểu hiện lòng thành theo với bầu bạn nó hợp với cái túi nhỏ của mình. Phở còn tài tình ở cái chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có nghĩa thâm thúy. Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt chợt thắm tươi lại. Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người. Đêm đông, có người ăn phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thể ngủ yên đến sáng, để mai đi làm khoẻ. Dùng những hình ảnh bình dị để nói lên mùa đông ở Việt-nam, tôi cho không gì nên thơ bằng cái hình ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều hành khách quây quanh chờ đợi bát mình, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy như trẻ em đang thú đời. Tết, nhà ai cũng bánh chưng, cá kho, thịt đông, nhưng vẫn rất đông người tình cờ mừng tuổi nhau ở những hiệu phở khai trương từ mùng hai Tết.

- Vì hay la cà với phở, mà tiếng nói của tôi được chính xác va giầu có thêm lên. Trước kia tôi cứ tưởng chữ "xương xẩu" là một tiếng đôi, và chử xẩu chỉ là một tiếng đệm. Ông hàng phở đã làm cho từ ngữ tôi hôm ấy thêm lên một danh từ. Xẩu khác với xương, dùng để chỉ những cái đầu xương phở có dính thịt và gân róc chưa hết. Tôi đã thấy những người phu xe kéo vào hiệu phở gọi một chén rượu với một bát xẩu. Tôi còn được nghe một ông phở khác nói đến mỡ gầu, cái tảng thịt dắt mỡ quí giá nó không béo quá, mà lại quánh như sáp, ròn và mềm ấy mà gọi là một cánh gầu; và lúc cầm vào cân thịt tái, thịt tươi còn nhảy lên dưới làn dao, mà gọi là một quả thăn. Trong tiểu thuyết Việt-nam trước đây, nhớ người ta có viết cái truyện "Anh hàng phở lấy vợ cô đầu". Tôi còn được nghe một cô điếm ngày xưa ví von than đời tàn "đời hồi này như một gánh phở bánh trương mỡ nguội đóng váng". Phở nguội tanh thật là buồn hơn cả cái sự đời cô gái thập thành bị ma cô lừa bỏ. Chữ nghĩa của ta hay thật! Người ta bảo chữ phở là xuất xứ từ chữ "ngưu nhục phấn", và ta đã Việt-nam hóa chữ phấn thành ra chữ phở. Chữ phở nguyên là một danh từ, còn chuyển thành một hình dung từ: cái mũ phở. Chữ nghĩa của ta hay thật !

- Đố biết thế nào là mũ phở? Lại cứ phải dựng chân dung những người bán phở gánh chân chính ngày xưa thì mới tầm nguyên ra được. Những người bán phở gánh xưa kia có người đỗ ở đầu phố này, hoặc giữa phố nọ, hoặc ở tít trong cùng một cái ngõ cụt, mỗi người một "giang sơn nào, anh hùng ấy", người mua quen mặt người bán, và người bán thuộc cả thói quen và sở thích người ăn trong phố. Những anh hàng phở" hùng cứ một phương" này lại còn thuộc cả nhân số từng bộ khẩu và ngày giỗ tết trong từng gia đình khách hàng quen của mình. Họ thường là những người làm ăn chân thật, hay mặc một cái áo vành tô vải vàng hoặc dạ màu cứt ngựa của ông binh khố đỏ thải ra, trên đầu là một cái mũ cát mất cả núm chỏm, và nhất là hay đội những cái mũ dạ méo mó đã mất cả băng hoặc rách cả bo. Những cái mũ này đặt lên đầu người nào cũng không chỉnh, mà hình như chỉ đặt lên đầu những bác phở gánh là có một ý nghĩa. Không những thế, cái mũ phở ấy, còn là một dấu hiệu tập hợp, một cái hình thức gây tín nhiệm nữa. Những con người đội mũ rách ấy thường là người làm phở ngon, nếu không ngon thì chỉ ít cũng phải là ăn được. Phở gánh với ông đội mũ phở nay thấy hiếm, chỉ còn phở xe, phở hình tàu thủy có ống khói phở, phở quán, phở hiệu. Đồ chơi trẻ con ngày xưa làm bằng sắt tây sơn màu, ở phố Hàng-Thiếc, có ghi lại cái dáng ông phở gánh, bánh xe đồ chơi càng chuyển càng cử động cái cánh tay cầm dao nhấc lên thái xuống.

- Phở cũng có những quy luật của nó. Như tên các hàng phở, hiệu phở. Tên người bán phở thường chỉ dùng một tiếng, lấy ngay cái tên cúng cơm người chủ hoặc tên con mà đặt làm tên gánh, tên hiệu, ví dụ phở Phúc, phở Lộc, phở Thọ, phở Trưởng ca, phở Tư... Có khi một cái tên tật nguyền trên thân thể người bán phở được cảm tình quần chúng thân mật nhắc lại thành một cái tên hiệu: phở Gù, phở Lắp, phở Sứt... Cái khuyết điểm trên hình thù ấy đã chuyển thành một cái uy tín trong nghề bán miếng chín mà lưu danh một thời trên cửa miệng những người sành. Quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân Hà-nội có nhiều sáng kiến để đặt tên cho những người họ yêu tin. Anh hàng phở ấy hãy đứng ở đâu bán hàng, họ lấy luôn cái địa điểm ấy mà gọi thành tên ngườị Bác phở Nhà thương, ông phở Đầu ghi, anh phở Bến tầu điện, anh phở Gầm cầu... Có khi lấy một vài nét đặc thù trong cách phục sức mà gọi. Cái mũ tàu bay trên đầu ông bán phở thời Tây xưa, đã thành cái tên một người bán phở trứ danh của thủ đô sau này. Có lẽ vì gần với quần chúng trung lưu và người nghèo, nên cũng như "ông chủ" hiệu hớt tóc, hiệu cà phê, tên anh hàng phở cũng chỉ có một tiếng gọn gàng. Tôi chưa hề thấy ông bà hàng phở nào nổi tiếng trong nghề mà tên lại dài lê thê, chẳng hạn như phở Tôn thất Khoa gì gì, hoặc phở Trần thị Kim Anh gì gì đó. Cái tên càng độc âm ngắn cộc, càng đáng cho người mua tin cậy; cái tên một chữ, gọn như một nhát dao thái xuống miếng thịt chín. Vả lại những biển hàng hiệu phở dù là giữa đất Hà-nội văn hoa mỹ tự, cũng chỉ đặt tên một cách nôm na, không kẻ những chữ huyênh hoang. Tôi chưa thấy biển hiệu phở nào mà lại đề tên một cách quá trầm bổng du dương cả. Ví phỏng có ai mở phở mà nổi máu hay chữ lên mà đề biển thì tôi không bao giờ chọn những hiệu phở có tên như "Thu Phong" "Bạch Tuyết" "Nhất chi Mai" mà vào ăn. Trong nghề phở, nó cũng có những cái nền nếp của nó.

- Nhưng khoa phở đã có những việc nó đòi phá cả những khuôn phép của nó. Theo tôi nghĩ, cái nguyên tắc cơ bản của phở là làm bằng thịt bò. Có thể có nhiều thứ thịt loài bốn chân, loài ở nước, loài bay trên trời, nó ngon hơn thịt bò, nhưng đã phở thì phải là bò. Có phải là vì muốn chống công thức mà người ta đã làm phở vịt, phở xá xíu, phở chuột? Cứ cái đà tìm tòi ấy, thì rồi sẽ có những hàng phở ốc, phở ếch, phở dê, chó, khỉ, ngựa, tôm, cá chép, bồ câu, cắc kè... nghĩa là loạn, phở nổi loạn. Có nhẽ ngày ấy thiên hạ sẽ gọi là đi ăn một thứ phở Mỹ miếc gì đó. Trong năm đói 1945, ở đáy nồi nước phở của thời đại, ở Hải phòng và Hà nội, đã có thùng phở có cả những bàn tay trẻ con: nhưng đó lại là chuyện khác.

- Lại còn phở ngẩu pín. Chắc thứ phở này chỉ những người năm bảy vợ hoặc thích léng phéng mới hay ăn. Tên thứ thịt phở này, còn gợi lại một thứ roi của bọn Tây độc ác hay đánh cu li đến thối thịt tím xương.

- Lại còn phở gà. Muốn đổi cái hương vị chính thống của phở bò, ăn một vài lần phở gà trong đời mình cũng không sao. Nhưng có một hàng bán phở gà ở Hà nội mà nhiều người thủ đô không bằng lòng chút nào. Y bán vào buổi sớm, người xúm lại kêu ăn gạt đi không hết. Cái người bán hàng khinh khỉnh như một quý tộc đó, cũng đã khéo chọn một góc phố mang tên một bà chúa mà dọn hàng! Nói của đáng tội, gà ở đấy trông ngon mắt thật. Đã có những bạn lưu dung khen ông ông hàng là nhất nghệ tinh nhất thân vinh, và khen tay ông lách vào con gà béo vàng như tay một bác sĩ khoa mổ sẻ thuộc lầu từng khớp xương thớ thịt. Cái đầu gà, cái cẳng giò gầy, cái cổ, xương mỏ ác, ông hàng thản nhiên vứt nó xuống một cái thùng, không phải để vứt đi, nhưng chắc là đã có những bợm rượu khu phố ăn giá sẵn từ trước rồi để chốc nữa đem ra nhấm nháp. Thực ra, khi mà có người ăn bát phở gà không tiếc tiền dám gọi đến cái thứ phở từ một ngàn năm trăm đồng một bát, thì bát phở ấy cũng khó mà không ngon được. Hãy đứng ở đây một buổi sớm mà xem người ta ăn phở gà. Sốt ruột đáo để. Người ăn mề gà, người ăn đùi, ăn thịt đen chứ không ăn thịt trắng nó chua, ăn lá mỡ, phao câu, ăn đầu cánh. Miếng ăn ở đây đích thị là một miếng nhục, nhục theo cái nghĩa một miếng thịt ngon hợp khẩu vị, và cũng đi theo cái nghĩa nhục nhằn túi bụi. Ở vỉa hè đường ấy, cứ nhao nhao cả lên quanh một ông hàng mặt phớt tỉnh như đế quốc Ăng lê và bán hàng rất cửa quyền, khách phải đi lấy lấy bát. Có người đã dắt sẳn từ nhà đi một củ hành tây, có người quả trứng gà... đập trứng bỏ hành tây vào cái bát mình đã thủ sẵn và đánh dấu vào bát, dúi dúi bát trước mặt ông hàng, cười cười, nhắc nhắc, xuýt xoa nói to nói nhỏ, cứ như là sợ cuộc đời nó quên mình, nó nhầm mình... Bên cạnh tiếng thái thịt chặt của gánh phở gà, chốc chốc có tiếng nổ xe bình bịch lái xuống tận đây ăn quà sớm, khói phở phảng phất đây lát ít mùi ét săng. Có người vừa húp vừa kể lại cái thời oanh liệt của cửa hàng này, khi còn đế quốc và bù nhìn, ô tô cứ nối đít xuống đây mà điểm tâm, nhiều bà Hà Nội tứ chiếng cầm vào bát phở gà, mười ngón tay lóng lánh nhẫn vàng tắm, vàng, trắng, cà rá kim cương, miếng phao câu lúc ấy còn mọng lên biết mấy nữa kia.

Trong kháng chiến có những tay phở nổi tiếng ở vùng tự do như phở Giơi, phở Đất, phở Cống, (tên vẫn một tiếng thôi) nhưng cũng có những bát phở, chưa được đúng cách thức lắm mà ăn vào vẫn cứ thấy cảm động. Ví dụ, phở ở căn cứ địa, làm ngay trong cơ quan. Một vài cơ quan ở quanh Trung ương, chung nhau giết bò để bồi dưỡng theo kế hoạch hàng tháng. Thịt sẵn, xương sẵn, nhưng thiếu nước mắm, thơm, hành mùi, bánh lại là bánh đa khô. Nhưng cứ làm. Những chầu phở ngày chủ nhật ở bên bờ suối cơ quan, thật là đầu đề phong phú cho báo liếp.

- Hình như Thạch Lam trước đâ cũng có bàn về phở, nhưng vẫn còn phiến diện. Thạch Lam có nhắc đến vấn đề cải lương ở Hà nội văn vật. Đầu năm 1928, ở Phố Mới, cái phố trước đây mang tên thực dân Đồ phổ Nghĩa, có một hàng phở cho cả húng lìu, cả đầu vừng, đậu phụ. Nhưng những cái lối tìm tòi ấy không thọ, vì trình độ nhận thức của quần chúng phở không sa đọa như người chế tạo. Quần chúng vẫn đòi hỏi những cái cố hữu của phở. Ngày nay cũng còn có người cho cả tương tầu lạp chíu chương vào phở, nhưng đây là cái quyền của người có tiền, ai muốn bày vẽ ra thế nào, nhà hàng cũng chiều trong phạm vi có thể của phở. Nhiều người bảo nên ăn phở tái thì bổ hơn phở thịt chín. Có thể là như thế đấy. Nếu cần bổ thì cũng có thể uống Pan-tô-cờ-rin Liên sô hoặc làm tễ thuốc Bắc, còn kết quả trông thấy rõ hơn là ăn phở tái. Thật ra, ăn phở cho đúng, đúng cái "gu" của phở, phải ăn thịt chín. Thịt chín thơm hơn thịt tái, mùi thơm miếng thịt chín mới biểu hiện đúng cái tâm hồn của phở. Thêm nữa, về mặt mhỡn thức tạo hình, người thẩm mỹ bao giờ cũng thấy miếng thịt chín đẹp hơn miếng thịt tái. Thường những hiệu phở không tự trọng, hay thái sẵn thịt chín, thái cứ vụn ra không thành hình thù gì cả, ai đến gọi là rắc vào bát. Có thể việc ấy không hề gì với khách hàng không cần ăn no vội. Nhưng cũng trong một cái hiệu vẫn thái thịt vụn ra ấy, ông chủ phở rất là phân biệt đối xử và không san bằng các thứ khách: đối với những khách quen, với những người có thể ông chưa biết quí danh nhưng ông đã thuộc tính ăn, những người cầu kỳ ấy mà bước vào hiệu, là ông đã đặt ngay tay dao vào những khối thịt chín đặc biệt như khối nạm ròn, nạm dắt hoặc khối mỡ gầu, thái ra những miếng mỏng nhưng to bản, với cái sung sướng bình tĩnh của một người được tỏ bày cái sở trường của mình trong nghề. Ông nào ăn phở mà có chất họa thì thấy muốn vẽ tranh tĩnh vật ngay. Có những lúc ông phở ấy gắt, gắt với vợ ông, vì ông thái không đẹp. Một ông làm đầu bếp hiệu chim quay trong hồi Hà Nội chiếm đóng, nay cũng ra mở phở và thích múa dao nói chuyện với khách về cái khoa thái. "Chặt thái loài có cánh đã khó, mà thái miếng thịt bò không xương còn khó hơn. Tôi dạy mãi mà đàn bà nhà tôi vẫn không làm được, đàn bà thường chỉ thái bánh thôi".

- Trong số những thắc mắc của một số ông Hà nội trí thức dở người ta có nhắc đến một ông lo sau này ta tiến lên kinh tế hoàn toàn xã hội chủ nghĩa, kinh tế phân tán không còn nữa, thì mất hết phở dân tộc, và rồi sẽ phải ăn phở đóng hộp, mỗi lúc ăn bỏ cái hộp phở ấy vào nồi nước sôi trước khi đục ra ăn, và như thế thì nó trương hết bánh lên. Cũng ngay trong hiệu phở, có người đã đập ngay lại: "Thôi đốt ông đi. Ông đừng có làm cái chuyện lo giời sập ấy đi. Hiện nay phở đang phát triển mạnh ở thủ đô Hà nội, lớn nhỏ, gánh rong, bán trong nhà, bán ngoài hè, có đến trên dưới hai ngàn chủ phở. Người Việt-nam còn thì còn phở bát, bát phở trong tương lai vẫn nóng sốt như bây giờ. Phở bát của ta không thể thành một thứ đồ hộp đâu, người công dân Hà nội này xin trả lời ông là một nghìn lần không, không, không thể có sự thô bạo ấy".

- Cái thế giới phở Hà nội trước đây hình như cũng có những thứ nhân vật nghiệp dĩ của nó. Làng chơi, học trò, ông binh, thày ký sở buôn, ông phán sở tòa, con bạc, chủ hiệu nhỏ, những người lao động vận tải, những người làm nghề tự do... Có những lính lê dương chạy đến hàng phở, ăn xong tính tiền, lật ngay cái mũ đỏ ra trong cái mũ có cái quần lĩnh vừa cướp ở nhà chứa ra; người khách hàng lính đánh thuê đó đã vắt quần lĩnh đó xuống quầy hàng thay một thứ trả tiền, rồi ù té chạy... Có những tay giầu sụ nhưng tính nết hấp lìm, mua bánh mì thả vào nước phở béo mà cứ gọi là ăn cơm Tây bình dân. Có những người đàn bà trái duyên trộn cơm nguội vào bát phở nóng, mà ăn một cách ngon lành, nhưng người ngoài trông vào thì thấy nó thê lương thế nào ấy. Có những kẻ sống không nhà cửa, chuyên môn đứng đường, chạy hàng sách chợ đen đủ các thứ, lúc tính tiền hoa hồng, lấy bát phở tái năm xu làm đơn vị giá cả,"việc này mà trôi chảy, ông bà chị cứ cho em một trăm bát tái năm, vân vân...".

Hương vị phở vẫn như xa xưa, nhưng cái tâm hồn người ăn phở ngày nay, đã sáng sủa và lành mạnh hơn nhiều... Ngày trước, anh hàng phở có tiếng rao, có người rao nghe quạnh hiu như tiếng bánh dày giò đêm đông tội lỗi trong ngõ khuất; có người rao lên nghe vui rền. Tại sao, bây giờ Hà nội vẫn có phở, mà tiếng rao lại vắng hẳn đi? Có những lúc, tôi muốn thu thanh vào đĩa, tất cả những cái tiếng rao hàng quà rong của tất cả những thứ quà rong, của tất cả những thư quà miếng chín trên toàn cõi quê hương chúng ta. Những tiếng rao ấy, một phần nào vang hưởng lên cái nhạc điệu sinh hoạt chung của chúng ta đấy.

Chúng tôi ngồi trên bờ một cái hồ xứ Bắc ở ngoại thành Hen xanh ky tưởng nhớ đến một bát phở quê hương, và đối với món ăn đó của dân tộc đáng yêu chúng ta ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đã phát hiện những đức tính dồi dào của phở, tự mình cho đó là những cơ sở vững chắc để dựng lên một nền lý luận cho món phở. Sau đó mấy tháng trở về nước, đặt chân lên đất Hà nội, bữa cơm đầu tiên của tôi là một bữa phở. Về sau này, hay rủ nhau đi ăn phở, tôi được đi sâu vào ý nghĩ của một anh bạn nó đã trở thành một ám ảnh: "Mình khen phở mình là một món ăn ngon, nhưng trước khi khẳng định giá trị dân tộc của phở, có nên tranh thủ thêm ý kiến của bạn bè, quốc tế của ta không? Bạn Liên xô, bạn Ba lan, Hung, Tiệp, Đức sẽ có cảm xúc gì về món phở Việt-nam? Họ đã có dịp nếm phở chưa?" Bài dân ca của mình họ nghe rồi, đất nước mình, các bạn thấy rồi. Nhưng còn phải cho bạn mình "thấy" phở nữa, bởi vì phở cũng là một thứ tiếng hát yêu đời của tất cả những tấm lòng con người Việt-nam chân chính và bình dị. Thế rồi một hôm khác, cũng trong một quán phở nổi tiếng Hà nội, tôi đã nghe được mẩu chuyện giữa hai nữ sinh một trường phổ thông cấp 3 gần đây: " Phở hiệu này, ăn mê quá. Thế đố chị biết Hồ chủ tịch và các lãnh tụ Đảng có thích phở không? - Làm thế nào mà biết được - Này, nói đùa chứ các cụ mà đến ăn cho hiệu nào, thì chủ hàng thật là sung sướng vô bờ đấy chị nhỉ!". Hai cô rút lấy túi gương con chiếu lẫn vào hàm răng nhau xem có vướng tí hành tí rau mùi nào không, cười ríu rít như chim đàn nhảy quanh bàn phở. Mẩu chuyện hai cô học trò như giúp tôi hiểu thêm nữa về phở, và giúp tôi nhận thức đến những cái nó quan trọng hơn cả phở nữa.

Ít lâu nay, chúng ta hay nói đến thực tế Việt-nam, đến vấn đề thực tiễn Việt-nam, đến những đặc tính của Việt-nam trong mọi điều kiện chuyển mình tiến lên. Tôi thấy rằng trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân dân Việt-nam, có một cái thực tế mà hàng ngày ít ai nỡ tách rời nó, tức là cái thực tế phở. Cái thực tế phở ấy lồng vào trong những cái thực tế vĩ đại của dân tộc. Trong một giọt nước rơi lóng lánh có cả câu chuyện của vầng thái dương; trong một miếng ăn, cũng thấy rộng được ra những điều cao cả yên vui trên đất nước bao la giầu có tươi đẹp. Tôi thấy tổ quốc chúng ta có núi cao vòi vọi điệp điệp, có sông dài dằng dặc, có biển bờ thăm thẳm, có những con người Việt-nam dũng cảm xây đắp lịch sử quang vinh, có những công trình lao động thần thánh như chiến thắng Điện Biên, nhưng bên cạnh những cái đó, tôi biết rằng Tổ quốc tôi còn có phở nữa. Trong những năm chiến tranh giải phóng, kẻ thù bay trên bát phở, có những bát phở phải húp vội trong đêm tối tăm, quệt ngang ống tay áo mà nhẩy xuống lỗ lầm; có những bát phở bị bom, bánh trương lên mà người ăn không còn thấy trở lại một lần nào nữa. Nhớ lại cái hồi tôi về công tác ở vùng sau lưng địch, tôi không thể quên được mấy cái quán phở khuya trên con đê miết lấy vùng căn cứ du kích; những bát phở nóng ăn sau những đêm vượt vành đai trắng và xuyên qua vị trí địch, ăn có một hương vị thật là đặc biệt; sau này nó tổng càn, nó hất hết các quán trên đê, không biết người bán phở đêm đó, có còn sống hay đã chết trong chuyến ấy rồi? Lại còn cái lần đi chiến dịch với tiểu đoàn Lũng vài, tôi không quên được những cuộc hành quân với đồng chí cấp dưỡng ban chỉ huy; đồng chí ấy gánh rất nhiều nồi niêu ga-men và thực phẩm cồng kềnh, các chiến sĩ đều đùa gọi là "ông hàng phở của tiểu đoàn". Trước kháng chiến đồng chí ấy vốn mở hiệu phở; nay hòa bình rồi, đồng chí có còn sống mà mở phở lại? Nhiều hình ảnh phở trong những năm gian khổ đã hiện về. Giờ mà ngồi an tâm ăn bát phở nóng sốt giữa ban ngày bất giác cần nhớ ơn nhiều người. Rồi mối cảm xúc phở vụt chốc bay xa rộng mênh mông. Bỗng nghĩ đến những vùng chăn nuôi xanh rờn áng cỏ sữa khu tự trị Thái-Mèo, những đàn bò Lạng Sơn, Thanh hóa đang cúi xuống ngốn cỏ ngon trên đất nước. Gạo mấy vụ liền lại được mùa, bột bánh mịn và dẻo. Rau cỏ vùng ngoại thành Hà nội: mở rộng mãi những diện tích xanh ngon vô tận, rau thơm hành hoa phưng phức cái hương vị thổ ngơi.

Đêm Hà nội, nay thức khuya nhất vẫn là những hiệu phở. Xưa kia phở ông Trưởng Ca bán đến bốn giờ sáng ở đình Hàng Bạc - cái nơi tập trung nhân dân Hà nội năm đầu kháng chiến để rút ta khỏi vòng vây địch. Đình cũ không còn ông Trưởng Ca nữa, nhưng nay đã có ông phở Sửa sai thay ông mà thức khuya. Người Hà nội đặt tên đến là hay.

Trước đây ông nấu bếp hiệu cao lâu Tàu; rồi ông ra mở phở. Rồi ở quê ông quy nhầm ông, ông phải về quê, giao lại quán phở cho bạn. Nay ông được sửa sai, lại trở lại thủ đô, chính quyền khu phố miển thuế cho ông một thời hạn và tìm một chổ lợi địa thế cho ông mở hiệu. Món quà của ông phở "Sửa sai" càng thơm ngon một cách chất phác hơn bao giờ. Có thể là cảm tình của khách hàng, đối với một người phở quen nay được khôi phục càng làm cho bát phở giải oan có thêm nhiều dư vị nữa. Những bát phở hồn hậu ấy cũng chỉ là một sự đền bù công bằng đối với những người làm ăn lương thiện khu phố đi xem hát về hoặc họp hành bình bầu học tập xây dựng vừa xong.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: