Truyện ngắn Hội Nhà Văn phần 1
Mục lục
1. Người đàn ông tốt nhất
2. Về thôi em
3. Dòng nhớ
4. Kịch
5. Thung Vang
6. Về thôi em
7. Bong bóng vẫn bay
8. Gã hàng xóm
9. Chuyện tình thời A-còng
10. Người đàn ông sau cánh cửa xanh
11. Dì Tuyết
12. Giữa hai bờ xôi mật
13. Thợ trồng cây
14. Bà thánh của hai người
15. Người vác tù và thành phố
16. Những con đường không đến SEATTLE
17. Nỗi niềm của chị
18. Thạc sĩ bằng ưu
19. Máu của lá
20. Chuyện nằm trong ký ức
21. Lễ vật bên đời
22. Người chờ sấm
1. NGƯỜI ĐÀN ÔNG TỐT NHẤT
Dò hỏi mãi, tôi và Sang cũng đã tìm ra nhà giáo Nghị. Ngôi nhà hai tầng lợp ngói vẩy cá rêu mốc nằm khuất trong một ngõ nhỏ, đằng trước có giàn hoa giấy đỏ rực. Người đàn bà mở cổng trạc ngoài bốn mươi tuổi, khuôn mặt tròn, nước da ngăm ngăm. Bà nhìn lướt chúng tôi, rồi hỏi:
- Thưa, ông cần gì ạ?
- Chúng tôi muốn gặp giáo sư Nghị. Tôi nói.
- Ông đến trễ chừng mươi phút. Giáo sư vừa ra sân bay. ồ, mời hai ông vào nhà đã. Nói rồi bà kéo rộng cánh cửa sắt. Căn buồng tiếp khách của giáo sư có bộ xa lông giả da cũ kỹ. Một lọ hoa nhỏ đặt trên bàn uống nước cắm mấy bông hoa tươi, thoang thoảng hương. Trên tường đối diện chỗ
chúng tôi ngồi treo một bức sơn dầu lớn, mặt tranh có nhiều vết nứt chân chim. Sang hỏi:
- Chân dung tự hoạ của giáo sư phải không, thưa cô?
Nở một nụ cười thật hiền, rót nước ra tách, người đàn bà nhìn Sang hỏi lại:
- Sao cậu biết?
- Cháu thấy chữ ký ở góc kia kìa.
Theo tay Sang chỉ, giờ tôi mới phát hiện ra chữ "Nghị - 1960" mờ mờ trong mảng màu tím sẫm ở góc tranh. Tôi bảo:
- Giáo sư tài hoa quá!
Chủ nhà mời nước, rồi nhìn bức tranh, nhỏ nhẹ kể lể:
- Giáo sư có hai bằng, tiến sĩ y khoa và Đại học Mỹ thuật Hà Nội. Tôi thường nghe một số
bạn của giáo sư bảo, nếu ông trở thành nhà khoa học tài ba, thì cũng sẽ là một hoạ sĩ danh tiếng. Những năm qua bận việc chuyên môn ông không còn thì giờ để vẽ. Mới rồi, ông thu thập tất cả
tranh treo vào một phòng nhỏ trên gác. Tôi nhấp ngụm nước trà ngòn ngọt nơi cổ hỏng, rồi nói:
- Hôm nay, chúng tôi tìm tới đây vì từ lâu đã ngưỡng mộ giáo sư Nghị. Đã có lần tôi được nghe giáo sư giảng về thần giao cách cảm.
- Vậy anh học ngành y? Chủ nhà hỏi.
- Không ạ, tôi học ở trường Sư phạm, đang đi thực tập tốt nghiệp. Đây là Sang, học trò lớp mười một, tôi là giáo viên chủ nhiệm.
Bà nói tiếp:
- Chủ nhật nào có giáo sư ở nhà cũng đông khách lắm. Lần này ông vội ra Hà Nội vì việc gì
đó, hình như không định trước.
- Thưa, chị là...? Tôi ngập ngừng hỏi.
- Là người giúp việc. Tôi ở đây hơn mười năm rồi.
- Thế giáo sư được mấy người con ạ?
- Giáo sư trông phương phi, hào hoa vậy mà đường con cái thật vất vả. Nghe đâu ngày trước đã có một cô con gái, viêm màng não, mất từ hồi lên ba. Rồi từ đó không có thêm con nào nữa. Giáo sư mải làm khoa học, còn bà ấy luôn rầy la vì nhà cửa tềnh toàng mãi. Mà số bà ấy cũng không phát theo đường thương mại được, cứ bỏ vốn ra buôn chuyến nào là đổ bể chuyến ấy. Rồi bà
mới mất được ba năm nay. Tôi thì vào được gia đình này như trời khiến. Sáng hôm ấy giáo sư qua phà sông Hậu, tình cờ gặp tôi đang làm mướn ở đó. Ông thấy tôi không con cái, không nhà cửa bèn đưa tôi về đây. Ban đầu bà không chịu, bảo đã thuê phải thuê người linh lợi, tháo vát, mà nom tôi rõ
đặc nhà quê. Về sau, bà giáo sư cũng đã hài lòng về tôi. ở đây, tôi thật mát mặt các cậu ạ. Trẻ lại. Nếu mười năm trước chắc các cậu gặp sẽ bảo tôi còn già hơn bây giờ. Lúc mới về tôi gầy nhom, đen nhẻm, tóc đã có sợi bạc. Tôi đội ơn vợ chồng giáo sư lắm. Sang hỏi:
- Thưa, giáo sư năm nay bao nhiêu tuổi?
- Sáu nhăm rồi. Ông còn mạnh lắm, sáng nào cũng tập chạy và tắm nước lạnh. Đêm thì làm việc đến một, hai giờ
sáng. Tôi nhiều lần can ngăn, ông bảo: Chị không biết đấy thôi. Nếu tạo được một nếp sống trật tự, ít đảo lộn thì sức khoẻ không bị hao phí. Một ngày tôi chỉ ngủ độ bốn, năm tiếng, nhưng là
giấc ngủ sâu. Nói các cậu đừng cười. Sau khi mãn tang bà ấy, tôi đánh bạo hỏi: "Thưa, sao ông không tìm lấy một bà để giúp đỡ lúc trái nắng trở trời?". Giáo sư
cười bảo: "Tôi già quá rồi chị ạ". Lúc sau lại bảo: "Tôi không còn sống được bao lâu, muốn dồn mọi tâm sức cho nghiên cứu". Lĩnh vực nghiên cứu của giáo sư các cậu biết rồi đấy. Những cộng tác viên của ông đều có nhiều tài lạ. Có người có thể đoán được người đứng trước mình đang nghĩ gì...
- Bà Phương Lan, diễn viên múa ba-lê đã nghỉ hưu, phải không ạ? Sang hỏi ngay.
- Phải - Bà chủ nhà nói - Ra các cậu cũng rành chuyện này. Đau xót là bà mới đột ngột qua đời cách đây không lâu.
- Chúng tôi đến đây - Tôi tiếp lời Sang - trước hết muốn làm quen với giáo sư, sau là hỏi chuyện về bà Phương Lan đấy ạ.
- Ra thế! Bà giúp việc rót thêm nước vào tách. Rồi như chợt nhớ, bà mở tủ ly lấy kẹo, bánh bày lên đĩa, đặt trước mặt chúng tôi và nói - Các cậu xơi đi. Thú thật lúc đó các cậu bấm chuông, tôi ở trong cổng ghé ra một lúc, xem xét mặt mũi có hiền lành tử tế mới dám mở. Các cậu thông cảm, dạo này an ninh trật tự trong thành phố không tốt, vớ vẩn nó
ẩy cho một cái ngã chỏng, lấy hết mọi thứ, giáo sư về biết ăn nói thế nào. Nghe vậy, bỗng Sang vặn vẹo cổ tay, vui vẻ bảo với bà giúp việc:
- Con có võ Tê-côn-đô, mấy bận đã cho những thằng trộm vặt ở ngoài chợ biết mặt rồi cô ạ.
- Vậy ư? - Bà cười phô hàm răng trắng đều - Có bận tôi bảo giáo sư Nghị, hay là mướn vệ
sĩ, ông xua tay: "Nhà mình chỉ có đống giấy, bọn trộm ăn nhằm được gì". Tôi lại bảo: "Chúng thấy ông hay đi nước ngoài, tưởng sẵn của chìm của nổi, không đề phòng có khi không phải đầu cũng phải tai. Hai cậu ạ, tôi thấy trên đời này chỉ có ông ấy là một, đi toàn nước giàu, mà mang về chỉ
toàn sách, cấm có vật dụng gì đáng giá".
Bà giúp việc và Sang đang sa đà sang một chủ đề khác. Từ lúc nghe nhắc đến bà Phương Lan tôi đã mừng, chắc thế
nào cũng được biết thêm nhiều điều về người đàn bà có khả năng đặc biệt này. Trước lúc về
hưu và ấy giống như mọi người bình thường khác, vậy mà sau một lần thoát chết vì điện giật, người bà bỗng thay đổi hẳn. Hôm ấy, có anh cháu gọi bà bằng cô ruột đến chơi, bà chỉ ngay vào bụng anh ta bảo: "Mày bị đau dạ dày nặng rồi. Đi viện sớm đi". Anh ta cười phá, bảo bà cô lẩm cẩm rồi, khoẻ
như vâm, là vận động viên bóng chuyền cấp kiện tướng đây, làm gì có chuyện dạ dày dạ mỏng. Vợ
anh cũng có mặt ở đó thì nghi ngại hỏi: "Làm sao cô biết ạ?". Bà bảo "Thì cô nhìn thấy một vùng tối đậm ở dạ dày nó". Thế rồi vài ngày sau, anh kiện tướng bóng chuyền nọ bỗng đau bụng dữ dội phải đi cấp cứu thật. Bệnh việc xác định xuất huyết dạ dày, bác sĩ còn bảo anh bị loét dạ dày đã lâu mà không biết, thể bệnh câm rất ít gặp. Bà Phương Lan còn gọi bệnh cho một số người khác nữa, đều trúng cả. Đến một ngày kia, bà đã có đôi mắt kỳ
diệu nhìn thấu tâm can người khác.
Chuyện dưới đây thì chính Sang đã kể cho tôi nghe. Sang là con út của ông Bí thư Tỉnh uỷ
này, nó biết một lần ông Bí
thư mời bà Phương Lan đến nhà chơi, tình cờ hôm đó có thêm người khác nữa là ông Trưởng ban Tổ chức Tỉnh uỷ. Khi ông ta về trước rồi, bà Phương Lan mới bảo với chủ nhà là, cái ông vừa gặp đang có mưu đồ muốn hạ bệ người khác để nhoi lên cao đấy. Hỏi sao biết, bà Phương Lan thản nhiên nói là đã đọc được ý nghĩ như vậy trong đầu ông ta lúc ánh mắt hai người gặp nhau khi ngồi đối diện. Sau khi bà về, Sang hỏi, ông Bí thư xác nhận là đang xảy ra chuyện đó.
- Chị có biết gì thêm về việc bà Phương Lan có tài đoán ý nghĩ của người khác không? Tôi hỏi.
- Đến cuối đời quả là bà Phương Lan nảy thêm tài lạ ấy - Bà giúp việc nhìn tôi gật đầu nói
- Mà tôi nói nhỏ chuyện này cho các cậu biết thôi nhé. Nghe đâu thời trẻ giáo sư và bà Phương Lan đã phải lòng nhau. Cho nên thời kỳ đầu khi giáo sư đề nghị bà làm cộng tác viên thì vợ giáo sư ghen lồng ghen lộn, làm ầm ỹ. Thật là chuyện con nít, gần kề miệng lỗ rồi mà còn ghen với tuông. Thôi, bây giờ mời hai cậu lên gác, tôi cho xem phòng tranh của giáo sư, có bức chân dung bà Phương Lan. Trước đây, giáo sư cất kỹ, bà vợ lúc còn sống không biết được. Giáo sư dặn tôi là, khi ông đi vắng, chỉ những người thật tin cậy mới cho vào phòng tranh. Chúng tôi không ngờ lại được bà giúp việc ưu ái như thế.
Căn buồng có cửa sổ mở ra hướng thoáng mát, rộng chừng hai chục mét vuông, trần cao, xung quanh tường quét ve, các cửa đều mới được sơn lại may xanh thẫm. ở giữa có một cái đôn nhỏ, trên đặt chậu sứ hoa văn lạ mắt, trồng một cây mai, vẫn còn những cánh hoa vàng chưa rụng hết. Có tới vài chục tranh to nhỏ, sơn dầu, bột màu, thuốc nước đủ
cả. Thêm một chân dung tự hoạ nữa. Có lẽ bức này vẽ gần đây. Mái tóc giáo sư bạc phơ dài trùm kín gáy, hất ngược ra sau, vầng trán rộng chứa đầy ánh sáng và hằn cộn lên những nếp nhăn. Đôi mắt sáng, đầy tình cảm đang chăm chắm về phía trước sau cặp kính. Đôi môi giáo sư hơi trễ và
phía mép cong lên, như đang muốn giễu cợt điều gì. Đôi mày rậm nhíu lại, cái cằm vuông thì bạnh ra một cách bướng bỉnh. Chắc hẳn đây là bức tự hoạ được vẽ trong một trạng thái có những dằng xé
nội tâm.
- Bức này là mới nhất - Bà giúp việc bảo tôi, chỉ tay vào chỗ ghi ngày tháng góc tranh, nói
- giáo sư vẽ ngay sau ngày bà Phương Lan qua đời.
Bà Phương Lan trong tranh trẻ nhiều so với bà Phương Lan đôi lần tôi đã gặp ngoài đời. Đó
là một thiếu phụ xinh đẹp, điên dại trong đôi mắt mở to luôn nhìn xoáy vào người đối diện. Hầu như chỉ có gam màu xanh ngọc huyền ảo, mà mảng sáng tối chuyển tiếp được cố tình thể hiện như
muốn nhấn những cung bậc tình cảm rạch ròi, chân xác của nhân vật. Mái tóc bà chải ngược, đôi mày cong mảnh, cái mũi thanh tú và đôi môi như sắp bật lên lời...
Đứng cạnh tôi, Sang cũng đang chăm chú nhìn vào bức chân dung đó. Một hồi sau tôi nghe có giọng nghẹn ngào như
từ rất xa vọng lại:
- Bà mất năm sáu mốt tuổi, năm đại hạn của bà.
Tôi quay lại. Mắt bà giúp việc ngấn lệ và toàn thân bà run rẩy.
*
Thế rồi tôi phải xa Sang, để trở về trường Sư phạm, mọi công việc cuối cùng của kỳ thi tốt nghiệp đang chờ đón. Hôm ở phòng thi ra, tôi nghe được một tin rụng rời. Một vụ tống tiền lớn đã
xảy ra ở nhà giáo sư Nghị. Vụ án gây chấn động dư luận.
Tôi ngồi ở phòng thường trực của bệnh viện đợi đến giờ vào thăm bệnh nhân, tranh thủ đọc bài tường thuật mới nhất của tờ nhật báo thành phố: "Bọn bất lương đã nhầm mục tiêu khi tấn công nhà giáo sư Nghị". Đầu đề chạy suốt hai cột của trang báo:
"Hồi 6 giờ kém 16 ngày... Nhóm 3 tên côn đồ đã ập vào nhà giáo sư Nghị khi ông vừa đi tập về. Chúng chọn thời điểm này bởi trên đường còn vắng vẻ, đúng lúc nhà khoa học mở cửa định vào buồng tắm. Chúng giơ dao doạ nếu
"không nộp hai mươi cây vàng thì sẽ cho về chầu Diêm Vương" - lời của tên cầm đầu. Giáo sư giữ được bình tĩnh ngay từ phút đầu, bỗng bật cười khi nghe chúng nói về số vàng. Ông bảo:
- Các cậu cứ lục soát, có gì đáng giá thì lấy. Nhưng nhớ để ngay ngắn sách vở trong phòng làm việc của tôi. Bọn côn đồ yêu cầu giáo sư không kêu to và cho chúng trói ông vào đi văng. Có lẽ
do tin chắc là bọn bất lương này đã
chọn nhầm mục tiêu khi tấn công vào nhà mình, nên ông đồng ý để chúng trói và còn dặn đi dặn lại "đừng làm lộn tập giấy viết trên bàn". Hai tên lục soát, một tên canh giữ giáo sư. Sau mười phút chúng chưng hửng. Bất ngờ, bà giúp việc từ cửa buồng đi vào. Thấy giáo sư bị trói, bà hét lên, lao tới và lập tức bị một cú đá vào bụng của tên đứng gần đấy. Bà ngã vật xuống sàn. Giáo sư phẫn nộ cũng thét to và chúng đã đánh ông túi bụi, rồi nhét một nắm giẻ vào mồm. Bà giúp việc thoi thóp, nhưng vẫn cố vùng dậy. Tên đầu đảng dùng chuôi súng đánh vào gáy bà. Bà
gục hẳn.
Bất đồ một người xuất hiện. Đó là Sang, con một đồng chí cán bộ cao cấp ở thành phố. Sang có việc gì đó đến tìm giáo sư. Anh mới 16 tuổi, to khoẻ như một thanh niên trưởng thành. Anh lao vào tên gác. Bị cú đấm bất ngờ, tên này ngã chúi. Sang liền la lớn: "Cướp! Cướp! Bà con ơi!". Tên đầu đảng đứng gần đấy đã giơ súng nhằm vào Sang bóp cò, may thay, viên đạn lép. Anh lại lao tới hắn. Song tên đầu đảng là một cao thủ đã tránh đòn và đánh ngược chuôi súng vào đầu Sang. Giữa lúc đó cảnh sát và dân phố nghe tiếng kêu cứu đã kịp ập vào. Một bàn tay nhẹ đặt lên vai tôi, ông Bí thư Tỉnh uỷ, đứng cạnh là má Sang mắt đỏ hoe. Ông Bí thư nói với tôi:
- Tôi vừa vào thăm, em đã khá hơn nhiều rồi thầy ạ.
- Còn giáo sư Nghị? Thưa bác.
- Vết thương của giáo sư nhẹ hơn, nhưng chậm phục hồi hơn. Thầy cũng quen giáo sư ư?
Tôi đến giờ vẫn không thể
hiểu sao cháu lại đến nhà giáo sư từ sớm như thế. Nó có việc gì, anh có biết không?
- Có thể Sang ngưỡng mộ tài năng của giáo sư. Tôi nói dối quanh. Giáo sư Nghị đang nằm ngửa trên giường, mái tóc bạc phơ của ông lẫn vào ga trải giường. Mắt ông nhắm nghiền. Trên đầu giường còn chai huyết thanh đang truyền dở. Có khá nhiều người đến thăm ông và vì thế bệnh viện phải phân thành từng tốp, với thời gian ngắn. Ông Bí thư Tỉnh uỷ cúi xuống đặt nhẹ bàn tay lên trán giáo sư và quay lại bảo bà vợ:
"Không sốt nữa mình ạ". Giáo sư
mở mắt. Ông nhận ra Bí thư Tỉnh uỷ ngay, nhếch mép cười hỏi khẽ:
- Cháu sao rồi?
- Tốt anh ạ. Còn anh thế nào?
- Cũng tốt. Tôi lo không biết Sang có bị rạn hộp sọ không?
- Đã chụp xi - ti. Không việc gì anh ạ.
- Bà ấy thì mất rồi phải không? - Giáo sư hỏi tiếp.
Tôi bỗng thấy giọt nước mắt lăn ra từ sau mắt kính của giáo sư. Tôi cũng khóc lúc nào mà
không hay. Bà giúp việc tận tuỵ đã qua đời hôm qua. Giáo sư bỗng nấc lên. Một tuần sau, Sang và giáo sư Nghị đều bình phục ra viện. Thấy tôi, Sang gọi to: "Thầy!"
và cậu chạy lại dắt tay tôi đến chỗ giáo sư giới thiệu:
- Thưa, đây là thầy chủ nhiệm của con, đã có dịp con kể với giáo sư rồi. Chúng tôi ra nghĩa trang thành phố. Giáo sư đặt một vòng hoa to. Những vòng hoa khác ở đấy chưa héo hẳn. Khói nhang bay nghi ngút, lúc mờ, lúc tỏ. Tôi và giáo sư ở phía cuối mộ chắp tay khấn khứa. Bình minh. Nắng vàng ươm trải khắp nghĩa trang. Xung quanh mờ ảo trùng trùng. Giáo sư Nghị ngồi lặng phắc, vẻ mặt khắc khổ bởi những sang chấn tinh thần. Tuần hương đã gần tàn, Sang đến ngồi cạnh ông.
- Mãi đến gần đây tôi mới chợt nhận ra bà ấy đã có một tình yêu thầm kín - Giáo sư Nghị
nói với chúng tôi bằng giọng trầm trầm - Bà mới học hết cấp hai, ở một vùng quê hẻo lánh mà khi ra thành phố làm việc, luôn tỏ ra nhanh nhẹn, tháo vát. Việc giao bà hiểu ngay và làm đến nơi đến chốn. Tôi để ý bà có một trực cảm mạnh. Gặp ai lần đầu bà cũng có
những nhận xét khá cụ thể về tính cách người đó, mà sau này tôi có dịp kiểm nghiệm thấy là
sai số không nhiều. Một lần tôi buột miệng hỏi: "Chị nhìn người tinh đấy, sao lại để bị lừa?". Bà
hơi choáng và tôi thì hối hận vì đã chạm vào nỗi đau thời con gái của bà. Thế rồi bà cười gượng và
nói lại với tôi một câu thật bất ngờ: "Có thể vì sau lần vấp ngã ấy mà đầu óc tôi trở nên sáng suốt, nhìn người không mấy khi lầm, thưa ông". Ai ngờ tối hôm đó cũng là tối cuối cùng tôi có dịp nói chuyện với người đàn bà có nhiều nỗi u uẩn đó. Kể xong câu chuyện của đời mình bỗng mặt bà tái nhợt, nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng nghẹn ngào:
- Ông ạ, tôi cảm thấy cái chết đến rất gần tôi.
Tôi hơi choáng trước câu nói ấy, rồi chỉ biết an ủi:
- Cô nói nhảm nhí cái gì vậy! Cô mới bốn chín tuổi. Tôi hơn cô mười mấy tuổi mà chưa cảm thấy gì cơ mà.
- Nhưng tôi biết tôi sẽ chết bất đắc kỳ tử.
Đến đây, bà ấy lại nói với tôi với giọng đầy ái ngại: "Ông phải có người như bà Phương Lan ở bên cạnh. Sống cô đơn mãi sao được". Bỗng bà gục xuống bàn khóc nức nở. Tôi đỡ bà dậy và pha nước chanh cho bà uống. Bà cứ lặng lẽ
nhấp từng ngụm. Tới khi cốc nước cạn dần, bà đặt cốc xuống bàn, chống tay lên cằm nhìn tôi, giọng trở nên rành rọt và đột ngột đổi cả cách xưng hô:
- Em nhiều khi mơ ước thế này, anh Nghị ạ. Trẻ lại, như thiếu nữ ấy. Thì em sẽ hiến dâng cho anh tất cả. Anh là người đàn ông tốt nhất trên đời...
Nắng đã gắt. Tôi giục giáo sư và Sang về. Hai người quấn quít bên nhau. Tôi hiểu rằng, từ
nay trong cuộc đời còn lại của giáo sư, không thể thiếu cậu thiếu niên thông minh quả cảm này. Khương Hạ, đầu tháng 7-2005
P.Q.Đ
(Báo Văn nghệ)
3. DÒNG NHỚ
Sáng nay, má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, nghiêng nghiêng ngó ngó một hồi, biểu con nhỏ chèo đò
chèo dài dài chợ nổi. Chợ rao bán rau trái dậy động cả một khúc sông, má tôi thấy ghe nào cũng lăn xuồng lại, dòm mặt chủ rồi đi. Con nhỏ chèo đò chắc là chèo mối, nó biết bà già định đi đâu, định làm cái gì nên nó biểu:
- Hỏng hỏi thăm thì vô phương kiếm ra, ngoại ơi.
Má tôi ngẩn ngơ. Hỏi chớ, chú ơi, thím ơi, tôi muôn hỏi thăm một người quen. Tên gì? Ghe bán gì? Hai Giang. Ghe bán hàng bông. Trời đất, ở xứ này có tỷ tỷ ghe bán hàng bông, cũng có biết bao nhiêu người tên Giang, vậy tướng tá
người đó ra làm sao? Bây giờ đâu có biết ra làm sao, gặp được một lần mười sáu năm trước, nhớ sao tả vậy nghen. Đàn bà, chừng sáu mươi, trạc tuổi tôi, tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không xấu. Mới đầu đi với chồng, sau chồng bỏ lên bờ vì cơ cực quá trời, hồi trẻ có đứa con gái đầu lòng chừng bảy tháng tuổi thì rớt xuống sông chết.
- Vậy thì đông lắm, người sống trên chợ này hễ mười thì có năm người y chang hoàn cảnh vậy, dân Ba Bảy Chín mà,
'ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh', chị hổng nghe sao?
Má tôi chẩng hẩng
- Vậy?
ừ, người đó quen sao mà tìm coi bộ cực dữ?
- Quen. Chà, hỏng biết nói sao bây giờ, dài dòng làm, vợ của chồng tôi. Nếu vậy thì dài dòng thiệt, chuyện tình tay ba mà phim dính vô chuyện nầy cũng năm bảy tập trở lên, còn cải lương lâm ly không biết bao nhiêu là nước mắt. Má tôi cũng khóc nhiều rồi.
Má tôi nói hoài, ba mươi tám năm bà về làm dâu nhà chồng, cực có, sướng có chưa bao giờ
nội tôi khắt khe, nhỏ
nhặt khó chịu với dâu, nhưng má tôi vẫn hận nội tới chết mới thôi. Hỏi sao kỳ vậy, má tôi kéo chéo khăn lên chậm chậm vô đôi mắt: "Bộ hết người rồi sao mà nội bây cưới tao cho ổng, đó - bà chỉ tay ra bến - gần hết đời rồi tao có
được vui đâu".
Đó là lúc "ổng" tức ba tôi chống cây gậy khật khừng lang thang xuống bến. Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ
rẫm, săm soi từng cái lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mấm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lở, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình, ông già tha thiết nhìn ra sông. Chỉ vậy thôi rồi khật khừng quay lên, cái chân trái yếu ớt như tựa hẳn vô cây gậy, cứ
mỗi lần chân bước, đầu gậy lại xoáy sâu vô đất một lỗ tròn tròn. Cảnh thì quen lắm, thì ngày nào, buổi nào ba tôi chẳng làm vậy nhưng cứ tụm cả nhà lại, rồi ngồi lặng lẽ dòm, ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới cứa lui trong lòng. Bởi cái lúc này là lúc sum họp đây, vậy mà sao vẫn thấy thiếu một người, mà thiếu đúng cái người đang lững thững đi dưới nắng kia mới chết. Sau đợt tai biến mạch máu não lần thứ nhất, nửa người bên trái ba tôi yếu hẳn đi, tưởng chỉ vậy thôi, đến lần thứ hai bỗng dưng tâm trí ông già nhớ quên, ít nói, lẩn tha lẩn thẩn. Nhưng còn sống còn tự
mình đi đứng được là may lắm rồi, ai cũng nói vậy. Lúc đó cả nhà đang ở chợ, ba tôi càng lúc càng buồn hay chống gậy đi, mấy lần cả nhà bỏ tiệm may đi kiếm ông. Sau này chỉ cần một mình tôi, vắng ông tôi chạy xe dọc theo con đường về vườn cũ là gặp. Thấy tôi, ông già
khựng lại, không nói gì, nhưng cặp mắt khẩn cầu, da diết, tôi làm như không biết, cầm gậy, đỡ ông lên xe chở về, có
lần ba tôi khóc, ông khóc rưng rức, nước mắt nước mũi nhễu nhão, lòng thòng. Sau lần ấy, cả nhà quyết định đưa ông về sống trong vườn nhà nội. Vườn bỏ lâu nay, nhưng nhờ cô dượng Ba ở kế
bên nhà trồng trọt, trông coi nên chỉ cần dựng căn nhà lên là ở được. Chuyện cắt cử người ở
lại với ba tôi thì khỏi phải bàn bởi chừng nào mà má tôi bỏ ông được. "làm gì má cũng phải giữ ba", tôi đùa. Má tôi xua tay:
- ổng còn nguyên đó chớ có đi đâu, trước không mất giờ còn sợ mất mát gì nữa, giọng má
chợt cay đắng, hồi đó giờ
ổng có phải của tao đâu mà giữ.
Nói rồi má tôi trùm cái khăn lên đầu bước xuống xuồng, đưa tôi qua sông, tới bờ bên kia, ngó lại, ba tôi đứng chênh vênh trên bến, đôi mắt như đang nhìn da diết mà không biết nhìn ai, chỉ
thấy mông mênh vậy thôi. Chơ vơ, cô độc. Má
biểu tôi đi đường cẩn thận rồi bơi xuồng trở về, còn nói với theo:
- Sao má lo quá, má sợ ba mầy, ổng mà chết ổng cũng xưống sông để chết. Lo cũng phải, không phải ba tôi nhớ vườn xưa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lượt lủi thủi chống gậy ra bến, cặp mắt như ngó mong, như hờn giận. Ba tôi vốn là người của sông mà. Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi.
Và cũng y như má tôi, ba cũng không sống được mấy ngày vui, vui thật, vui đúng nghĩa. Hồi tôi còn nhỏ, còn sống chung với bà nội, đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ
vạc kê trước nhà, chống rèm lên ngó ra sông. Kiểu ngồi một chân xếp bằng, chân kia dựng lên, rồi tì cái tay cầm điếu thuốc lên cái đầu gối, đêm này qua đêm khác, kiểu ngồi không đổi. Nửa đêm, má tôi đi ém mùng lại, tôi thức giấc, ngó ra chỉ thấy đốm lửa lập lòe, lúc đỏ rực lúc lại tắt thiu tiu. Má tôi ngồi trong mùng lặng lẽ nhìn ba, còn ba thì nhìn ra sông. Sông cách nhà một cái bến dài chẻ
ngang đám dừa nước, đám ô rô mọc lởm chởm chồm từ mé lá lên. Những đêm trăng sáng, nếu không vướng mấy bụi ráng, bụi lức dại có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng, lồng lộng. Ban đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó
thức theo những chiếc tàu rầm rì chảy qua, theo trống mái chèo quẫy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến đây, nước chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại nghỉ ngơi. Lâu lâu có chiếc ghe hàng bông lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo ngọn đèn chong lên cây đước chơm chởm những cái nhánh con, mỗi nhánh lủng lẳng trái khóm, trái bầu dầm nắng mưa đã teo héo. Không thấy bóng người, chỉ nghe tiếng gàu tát nước cọ vô xuồng xao xác. Hừng đông chạy xuồng bến thì ghe đã đi rồi. Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ
ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia. Ba tôi thở dài. Má tôi thở dài, chạy qua buồng bên khóc với bà nội tôi, không biết nói cái gì, chỉ nghe lõm bõm, tiếng nội làu bàu: "Vậy ra má đã làm sai cái gì?" và má tôi tuyệt vọng: "Kiểu này biết chừng nào ảnh mới quên chuyện xưa hả má?'. Ngày xưa ba tôi cũng yêu thương một người. Nội tôi dứt khoát không chịu (nội có tỷ tỷ lý
do để không chịu), ba tôi mới dắt díu người ta bỏ nhà đi, sống kiếp thương hồ. Hai người trải qua biết bao nhiêu cơ cực, nào là gặt mướn, làm cỏ
lúa, đắp bờ... mới có được một ít vốn, ba tôi sắm cái máy Koler xuống rẫy bán hàng bông. Họ sống nghèo lắm. Mỗi lần đi ghe đi ngang qua nhà, ba tôi khắc khoải ngó lên, vừa nhớ, vừa đau vì cãi nội. Rồi hai người có với nhau đứa con nhưng chị bạc mệnh chết đuối, tận cùng đau khổ, ba tôi bỏ về nhà, được về, ba tôi cũng phải đáp ứng vài điều kiện của nội, vậy là ba tôi bỏ người ta giữa dòng bơ vơ. Tôi biết được có bao nhiêu đó thôi, kể ra cũng mấy dòng vậy thôi. Mà, cũng phải đợi tới năm mười lăm tuổi, cả nhà mới cho tôi biết. Tôi bật ngửa, chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được. Mà, cũng vì ba tôi quên không được má tôi mới thương ông nhiều, sau này, lớn lên, biết yêu thương rồi, tôi mới ngộ
rạ. Con người ta, nhất là đàn ông thương ai mà vì nỗi gì đó quay lưng lại quên mất tiêu thì
đúng là không tử tế, không đáng tin chút nào. Với tôi, ba tôi thì quên hay không cũng được, ba đã
sống tốt với cả nhà tôi lắm rồi. Ông sống tử tế
đến vô cùng, đến thừa, dường như ông gởi gắm tình thương yêu đến cả người vắng mặt. ở
cái xóm quê, mười người đàn ông thì nhậu nhẹt hết chín, trong chín người hết năm nhậu về chửi vợ, đánh vợ như
đánh bịch muối, ba tôi là người duy nhất còn lại. Ông ít nói, hiền lành, từ tốn với má tôi, những lần má tôi bệnh, ba chèo một hơi mười mấy cây số vừa đi vừa về đưa má tôi ra trạm xá, không than mệt, không thở ra, tận tuỵ. Lúc nào cũng mình mình tôi tôi, mấy bà hàng xóm nghe tủi cho mình mà khóc, má tôi cũng òa khóc theo, cảnh mỗi người tự người đó
biết, người ta hay đứng núi này trông núi nọ vậy mà.
Mơ hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả nhà tôi lúc nào cũng cảm thấy không vui, dù hạnh phúc (hai thứ này sao lại không thể đi chung). Không thấy ai đòi nhưng nợ vẫn cứ là nợ, nó rờn rờn quanh quất trong chái bếp ngày ngày khói tỏa, trong mấy chiếc giường ngủ con con, trong hai bữa ăn mỗi ngày. Ngồi quây quần như vậy trong bụng cứ nghĩ, có
một người nào đó cô độc, bơ vơ. Mà tội nhất là nội tôi, vốn mê cải lương, nhưng bữa nào ti-vi chiếu mấy tuồng có bà
mẹ chồng ác nghiệt chia rẽ duyên của con, dâu là thấy nội tôi rầu. Cho tới lúc cuối đời, chắc nội tôi vẫn băn khoăn trong lòng câu hỏi: "Vậy ra, mình giống mấy bà già trong đó thiệt sao". Má tôi thấy nội bứt rứt cũng không tỏ ra phiền muộn nữa, cốt để an ủi nội tôi lúc cuối đời. Khi nội tôi vừa khuất, má
quyết định gặp đối thủ một lần, chỉ định nhìn vậy thôi, chưa biết làm gì mà cũng không biết làm gì người ta, nhưng chắc chắn phải biểu người ta buông tha ba tôi ra, còn gì nữa đâu mà neo ghe trước nhà ngó mong hoài. Chờ đợi, rình rập hụp hửi mấy lần, chiếc ghe nhỏ với ngọn đèn đo đỏ lại về đậu trước bến nhà tôi, như mong đợi của má. Bữa đó, má nói với ba tôi chèo xuồng về chơi bên ngoại một đêm. Gà gáy chập đầu, bà trở lại, trên xuồng chất đầy mấy thứ rau đồng, bà giả đò làm người đi chợ sớm.
Ngang qua, má tôi tấp xuống lại kế bên chiếc ghe, than:
- Tính đi chợ cho sớm mà gió quá, chèo không lên, bậy thiệt.
Má tôi tin rằng, người đàn bà kia, cũng như ba tôi, những đêm như vầy không bao giờ ngủ. Mà thật, dì đang chong đèn ngồi thêu áo gối, nghe giống má tôi, dì quay lại, dường như sững sờ, bất ngờ một chút dì cười:
- Dà, đêm nay nhiều gió thiệt - Dì vẹt mớ quần áo, kim chỉ trên cái sạp tre - Chị vô mui ngồi cho ấm, chờ bớt gió rồi đi, ngồi ngoài đó cảm sương chết.
Má tôi không từ chối, bà buộc dây xuồng lại bước qua ghe. Bà cao người nên ngồi trong cái mui lợp bàng lá chầm đóp phải khom một chút. Họ ngồi đối mặt với nhau. Má tôi thấy lòng mình bình lặng lạ lùng, hồi ngồi dựng cái cảnh gặp mặt nầy, cứ tưởng là phải làm một cái gì ghê gớm lắm. Có thể vì người đàn bà của ba tôi hiện lên rất hiền, dì mặc chiếc áo cộc tay màu cau khô ở
trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở ngoài, mỏng te, nhiều mụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo. Má tôi nghĩ thầm trong bụng:
"Xấu hơn mình nhiều". Má tôi sợ cứ nhìn chằm chằm người ta hoài cũng không phải nên má ngó lơ chỗ khác. Đồ vật trên ghe món nào cũng nhỏ nhắn, tuềnh toàng. Ngay sau lưng chỗ má
tôi ngồi, bỏ khoang tát nước có một cây ớt hiểm, một cây sống đời đang trổ bông trồng chung trên miệng cái khạp bể. Dì lúi húi dẹp miếng vải đang thêu dở, với lấy bình thủy, châm nước vô cái bình trà sứt vòi ho khúc khắc. Má tôi chép miệng: "Cha, có trà uống thì còn gì bằng, mà chị
bịnh hả, mấy lá sống đời nầy ngậm với muối cũng đỡ ho lắm". Dì ngước lên cười: "Dà, lúc nầy trở gió, cũng nhờ nó...". Má tôi hỏi:
- Chị đi ghe một mình à, một mình cũng được sao?
- Dà, cũng được, chị.
- ủa, chồng chị đâu?
- Dà, dì bối rối, ảnh... đi xa lắm
- Còn chồng tôi thì theo vợ bé mất rồi, má tôi nói luôn.
Dì nhìn sững má, dường như để xem xem nỗi đau mất chồng của má với dì có giống nhau. Hồi lâu, dì chợt cúi mặt:
- Uống trà, chị, hoàn cảnh của chị cũng buồn thiệt. Nhưng thể nào rỗi ảnh cũng quay về. Thiệt đó chị, đa số đàn ông đều tốt.
Tốt sao? Người ta bỏ cô để cưới tôi mà là tốt à, má tôi ngồi lặng, tự hỏi, mà không biết nói gì nữa, cái câu quan trọng nhất chắc không phải nói lúc nầy. Má tôi ngồi ngó quanh, một ánh đèn nhỏ nhoi thôi cũng đủ hắt sáng vài xâu cốm gạo treo trên vách, mấy hũ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để
bên này, trái cây như khóm, bí rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia. Sát bên hông dì, dưới tấm vải trắng thêu dở là hai xấp quần áo cũ, người lớn có, trẻ con có được xấp ngay ngắn, nhưng hết thảy đều cũ kỹ, bạc màu. Má tôi vọt miệng:
- ủa, chị có cháu nhỏ à?
Sau nầy, má tôi nói, đó là cái câu tàn độc nhất mà má lỡ miệng đánh ngay vào nỗi đau của dì. Dì nhìn trân trân vào ngọn đèn, cái nhìn đau nặng. "Con bé Phước nhà tôi vô phước lắm chị à, tại tôi không cẩn thận nên cháu vừa mới biết bò đã té sông, trôi mất. Cũng mười mấy năm rồi, bây giờ nó còn sống, chắc tôi thêu gối cưới cho nó cũng vừa. Tôi... tôi chiêm bao thấy cháu nó hoài, chiêm bao lãng nhách hà, tự nhiên tôi thấy con tôi biết nói, nó biểu má đừng bỏ con, trời ơi, tiếng nó thấy cưng lắm kìa, vía tôi trả lời, mẹ sẽ sống trên sông hoài với con, vía tôi thấy nó cười..'. Dì
nói một hơi dài, giọng dì hơi nghẹn lại: 'Trời ơi, chị có chuyện buồn lòng mà tôi lại kể chuyện buồn lòng nữa, chắc chị phiền tôi lắm. Mớ đồ nầy tôi cất lâu rồi, sợ mốc, cứ mấy tháng là tôi đem ra giặt lại, của con bé con tôi có, của chồng tôi có. Chồng tôi... tôi chỉ còn giữ lại bao nhiêu đây thôi. Chị
coi, tôi khùng hôn, không giặt thì không được mà giặt hoài, tới hơi chồng cũng bay, tôi cũng quên mất rọi..".
Dì cười quay quắt. Má tôi chút nữa đã bật khóc, bà cố nén nghẹn ngào:
- Đàn bà mình sao khổ vậy?
Tiếng gà gáy xa xa, con nước đêm nay mau lớn quá, mới đây thôi đã ngập nửa cây sào neo ghe rồi. Lúc nãy, nước lớn không nghe bìm bịp kêu, mà nhờ không có, chứ nghe bìm bịp kêu càng buồn nữa. Má tôi ngồi bình tâm lại, vậy thì
mình nhỏ nhen gì mà giành với người ta chút nầy nữa. Năm nầy qua năm khác mình được sống chung với ảnh, ban ngày ngoài ruộng, ban đêm chung giường. Ngó mặt nhau ăn cơm, ngủ
cũng đấu mặt lại ngủ... Còn người ta, nhớ
thương đứt ruột, có thể chạy ào lại để gặp nhau nhưng vì lương tâm không làm được, đành ngồi đây ngó lên, ngồi ở
trên ngó xuống. Đau lắm chớ. Má tôi nhìn ra ngoài trời, vẫn còn khuya lắm, nhưng đã thấy máy chiếc xuồng đi chợ sớm lướt quay trống mái chèo quẫy chũm trên mặt sông ngọt, nhẹ, cứ
tưởng từng lát nước xếp lên nhau như những lát đất cày. Dường như trời bớt gió nhiều rồi. Dì
nghiêng đầu ra ngó trời, chừng như nuối tiếc, thảng thốt:
- Trời đất, đêm qua lẹ thiệt. Chắc tôi phải đi bây giờ.
- Sớm vậy sao ?
- Dạ, tôi thường đi... trước lúc người ta thức...
- Tại tôi nhiều chuyện làm chị thêu không xong...
- Không, người đàn bà cười, nét mặt thốt nhiên buồn bã, tôi thêu cho hết đêm, xong rồi lại tháo chỉ ra thôi, tôi sợ, nếu không làm gì, tôi... tôi sẽ nhớ chồng con tôi rồi mắc... khóc, cầm lòng không được. Mà, đàn ông chịu cực khổ nhiều lắm rồi, lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ lắm, chị à...
Vậy rồi hai người chia nhau đi. Ghe nổ máy rồi khói xịt tơi bời, dì còn dặn lại: "Nếu ảnh có
quay về, chị đừng giận ảnh nghen. Người ta có đi đâu làm gì thì cũng thương mình chị thôi". Má tôi không nói, quay đi và khóc. Tháng sau, má tôi quyết định gom mớ của cải cả nhà có được ra chợ, mua cái nhà. Ba tôi biết chút ít nghề mộc nên nhận đóng tủ, bàn, ghế ở nhà, má tôi chiên đậu hũ bỏ
mối, chị tôi mở tiệm may, tôi vào đại học. Mọi thứ được sắp đặt lại, mới mẻ, gọn ghẽ. Má tôi bắt ba phải xa sông, nhưng chính bà cũng biết, những dòng nhớ vẫn tiếp tục chảy mãi trong hồn ông. Má
tôi cũng không kể với ba cái đêm gặp "tình địch" ấy, nhưng mãi mãi, mỗi khi cả nhà ngồi ăn cơm, tim má lại hiện lên hình ảnh cái rổ úp chén đan bằng nan tre đã xỉn màu, trên đó có cái dĩa, cái tô và
ba cái chén, ba đôi đũa như thuở người đàn bà trên ghe còn nguyên một gia đình.
...Bây giờ má tôi muốn gặp dì, nhưng lâu quá, chờ hoài không thấy dì ghé lại đậu ngoài bến như ngày xưa, đã mười mấy năm rồi, không biết có biến cố gì không. Chỉ tội má tôi tảo tần kiếm cho kỳ được. Tôi hỏi má tìm làm gì, má tôi nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có đỡ
hơn không. Rồi thì ba tôi cũng mỏi mòn nằm xuống trên mảnh vườn của nội tôi bình yên. Má tôi vẫn không ngừng tìm kiếm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà
không gần được chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôi. Đó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy.
N.N.T
(Báo Văn nghệ Trẻ)
5. THUNG VANG
Gần chục năm nay rừng mường Sến đã xanh trở lại, ấy là nhờ có Nhà nước triển khai dự án phủ xanh đất trống, đồi trọc, dự án đem lại nhiều thứ lợi cho người dân, người trồng rừng được cấp gạo ăn, được cấp cho cây giống. Khu rừng trong thung Vang(1), thung lũng phía sau mường Sến được chia lô cho các hộ dân khoanh nuôi, bảo vệ, hàng năm chủ rừng được Nhà nước chu cấp tiền. Có rừng, thú lại về, tiếng chim muông ríu rít vang lên từ khi đất trời còn mờ tỏ trong làn sương sớm cho đến tận chiều hôm. Đêm đêm tiếng chim Đốk-clộc, tiếng tắc kè kêu râm ran. Cánh đồng mường Sến nhờ có rừng nên nước suối không bao giờ cạn, dọc theo suối người mường Sến đắp bai đưa nước lên mương, máng dẫn ra ruộng đồng. Nhờ đủ nước nên cộng với sự chăm bón của con người nên lúa đồng mường Sến tốt bời bời. Mùa hè ở mường Sến dường như mát mẻ hơn các mường khác, bởi màu xanh của rừng, có
những cơn gió rì rào từ trong rừng, trong thung Vang thổi ra mát rười rượi. Trong thung Vang độ này xuất hiện dấu chân hoẵng, ai cũng nói là có một con, thực hư vậy thôi chứ ở mường này chỉ
có lão Sầm là biết tỏ. Lão là tay thợ săn lão luyện, các tay chủ quán đặc sản dưới phố huyện cả trên thị xã tôn lão như
một chuyên gia siêu hạng, tài nghệ trong việc đánh bẫy bắt sống thú rừng. Lão thông thuộc rừng xung quanh mường Sến như lòng bàn tay. Trong thung Vang còn bao nhiêu con cầy, con sóc, nhìn dấu chân thú đi trên đất, lão biết ngay là
có mấy con, to hay nhỏ... Những năm trước lão chuyên cung cấp nai, hoẵng, cầy hương, nói chung là thú rừng cho các quán hàng đặc sản, cho bọn chuyên buôn bán động vật trái phép. Nhà
lão vốn có bí quyết truyền đời nghề chế tên nỏ
tẩm độc. Mũi tên độc của lão bắn ra chỉ cần xước ra là con vật không chạy được quá mười bước, kể cả đó là con hổ. Tên độc của lão có cái hay là cực độc giết chết thú rừng, song người ăn thịt thú lại không bị làm sao cả, nó chỉ độc ở
một đời. Thú đã chết làm sao có giá đắt như thú còn đang sống, do đó lão ít khi săn bắt thú
bằng tên độc, lão chuyển sang làm các loại bẫy. Lũ khách hàng của lão rất khoái, những con thú sa vào tay lão thường chỉ bị thương chứ ít khi có con chết. Chúng có các thực khách lắm tiền, nhìn thấy các con vật bị nhốt trong cũi sắt, họ sẵn sàng trả giá gấp năm, gấp mười lần giá bọn chủ mua từ lão Sầm.
Càng về sau nghề săn, bẫy thú của lão Sầm càng sa sút bởi rừng bị phá đi để lấy đất làm nương, rẫy, thú rừng không còn chỗ để ở, thêm vào nữa Nhà nước cấm ngặt nghèo việc săn bắn thú
rừng trái phép, lão cũng sợ, nếu sơ sểnh để
bị bắt dễ đi tù như chơi. Lão biết trước mọi người về sự xuất hiện của hoẵng, xem dấu chân lão biết phải có hai con hoẵng, chứ không phải một con đang ở rừng thung Vang. Lão biết, từ xa xưa tổ tông nhà lão và cả dân mường Sến này có một lời thề nguyền kiêng kị không săn bắt, không ăn thịt hoẵng, lão bỏ ngoài tai, không quan tâm đến lời thề
nguyền ấy, lão biết đôi con hoẵng trong rừng thung Vang là một gói tiền biết đi. Lão bí mật giấu vợ, giấu con chuẩn bị
bẫy vào rừng thung Vang đi đặt.
Làng mường Sến ở lưng núi cao là nơi đón gió, đón mưa cho cả dải vùng ba xã rẻo cao. Gió
ở mường khác chỉ nhẹ
nhàng rung lá, ở mường Sến gió đã ào ào thổi thốc tháo. ở mường khác có mưa phùn song ở mường Sến mưa đã
nặng hạt. Người trong mường còn truyền đời kể lại từ thuở xa xưa có những cơn lốc thổi nhấc hẳn một bụi tre từ trong mường quăng ra tận ngoài ruộng lúa phía trước mường, gió lốc còn thổi lăn cả cối đá ra ngoài ngõ. Người mường Sến thời nay chưa thấy việc đó, những ngày đất núi trơ trụi chưa chồng lại rừng, gió lốc, mưa lở đất, đá là chuyện thường thấy. Những trận mưa to, gió
lớn, sấm sét chớp loé vang rền, đá lăn, núi lở ầm ầm như thiên binh đánh trận trong thung Vang, nước suối sủi bọt ngầu bùn đất như máu núi chảy ào ra, tràn lên làm lấp ruộng, vùi lúa, vùi hoa màu, thiệt hại khôn xiết. Nắng là của trời, mưa gió là việc thiên nhiên, song người mường Sến rất quan tâm, nhà nào cũng mua đài để nghe, mấy năm nay có điện về mường nên cả xóm lại mua ti-vi để xem, nghe tin tức, song quan trọng hơn cả là để nghe dự báo thời tiết. Lúa tháng năm đang chín rộm ngoài đồng, người mường Sến đang thu hoạch ngô ngoài bãi, xong rồi mới quay sang gặt lúa. Trời cao xanh lồng lộng, nắng chói chang như giúp người mường Sến phơi ngô mau khô, cho cây lúa thêm vàng bông. Mế Hừm cùng cái Hon, đứa cháu nội đang ngồi tẽ ngô trên cửa voóng nhà sàn, ngoài kia ánh nắng chiều tà màu vàng nghệ còn như cố muốn vương đọng lưu luyến trên những ngọn cây cau, cây tre đang lay lay cành lá trước gió. Trên trời cao một vài đám mây vàng rộm như màu mỡ gà nhàn nhã, lững lờ trôi, tiếng mõ trâu lốc cốc, rộn rã
dồn cùng bước chân rầm rập đi về mường. Bỗng từ trên núi cao trong thung Vang có tiếng kêu:
- U... u... oác... oác...
Tiếng kêu dài, vang động cả khung trời chiều yên ả.
Mế Hừm buông bắp ngô đang tẽ dở, kêu lên:
- Chết rồi, trời sắp mưa, kéo gió về mường Sến ta rồi...
Cái Hon ngơ ngác hỏi bà nội:
- Sao Mế biết?(2)
Mế Hừm bảo cháu nội:
- Ngày mai cháu tạm dừng việc ôn học một, hai buổi để ra đồng với bố, mẹ cháu mau gặt lúa chuyển về nhà. Cứ để
chậm khéo mà có làm, không có ăn, mưa, gió, quăng quật lúa hỏng rụng hết hạt. Cái Hon vẫn chưa hiểu sao bà nội nó lại nói vậy, nó gặng hỏi, mế Hừm như sực nhớ ra:
- Cháu không nghe thấy tiếng kêu lúc nãy à, đó là tiếng hoẵng kêu báo cho mường ta đấy. Thật đúng là phúc ấm tổ tiên để lại, có rừng hoẵng lại về. Từ lâu rồi, người mường Sến ta có lời thề
nguyền với loại hoẵng, hễ có tiếng hoẵng kêu là trời đang mưa sẽ tạnh, đang nắng trời sẽ chuyển sang mưa to, gió lớn đấy cháu ạ. Cái Hon hồ nghi, nó không tin, mới buổi trưa nay đài báo khu vực phía Tây Bắc Bộ có mưa giông vài nơi. Mà phía Tây Bắc Bộ có hàng nghìn, hàng vạn mường như
mường Sến này chỉ có mưa giông vài nơi, chắc gì đã đúng vào mường Sến. Song lời thề nguyền của người mường Sến xưa đối với con hoẵng, đã kích thích trí tò mò
của Hon. Chiều ý cháu nội, mế Hừm kể lại truyền thuyết cho cháu nghe:
- Ngày xưa, từ lâu lắm rồi, khi ấy làng mường Sến còn ở dưới mường Bưa Bằng dưới chân núi. Trong một năm trời đại hạn, có người thợ săn trong mường đi chăng bẫy, nghe nói người đó là
tổ tiên, dòng họ nhà lão Sầm bây giờ. Một con hoẵng chẳng may sa vào bẫy nó tìm mọi cách mà
không sao thoát ra được. Thương con đực, con cái không nỡ
bỏ bạn tình, nó cứ quẩn quanh canh chừng. Sáng tinh mơ, người thợ săn vào rừng thăm bẫy, thấy cảnh trên, anh ta cả
mừng, lắp tên, giương ná nhằm con cái bắn. Mũi tên đi không trúng đích, cả đôi hoẵng hoảng hốt vội van xin người thợ
săn đừng giết mình, đổi lại nó sẽ báo cho người thợ săn biết thiên cơ việc trời đất sắp xảy ra, nó có thể cứu sống cả
làng mường Sến khỏi một cái tai hoạ đang sắp ập tới.
Nghĩ đến dân Mường, đến tai hoạ, người thợ săn buông ná, tháo tên, hỏi vợ chồng nhà
hoẵng có tai hoạ gì sắp xảy ra. Con hoẵng cho biết trời sắp nổi cơn đại mưa, đại gió làm trận lụt lớn để phạt loài người nhân gian phá rừng, giết hại vô tội vạ các loài thú dưới gầm trời. Việc đó chắc chắn sẽ xảy ra, khi nào thì hoẵng chưa biết, song có tin hoẵng sẽ
báo tin ngay cho con người. Người thợ săn đồng ý thả cả đôi con hoẵng, đôi bên cùng lập lời thề nguyền:
- Từ nay về sau người Mường Sến sẽ không săn bắt, không ăn thịt hoẵng, đổi lại hễ trời sắp mưa, sắp nắng hoẵng phải kêu báo cho con người biết.
Ba tháng sau vào một ngay trời quang, nắng nóng, bỗng từ trên ngọn đồi phía sau mường Sến có tiếng hoẵng kêu rống riết. Biết là tai hoạ sắp xảy ra, người thợ săn vội báo cho cả mường Sến biết. Các nhà vội bế con, gồng gánh thóc lúa, dắt trâu bò leo ngược lên núi. Mưa bắt đầu ập tới, những hạt mưa to như quả ổi, hạt nhỏ cũng bằng ngón chân cái. ầm ầm, ào ào từ không trung trút xuống. Nước dâng lên trắng xoá nhấn chìm hết rừng rú, nương rẫy, các mái nhà sàn ở mường Bưa Bằng. Thây người, thây súc vật chết nổi lềnh bềnh, trôi dạt khắp mọi nơi. Nước dâng quá ngọn cây cổ thụ trong rừng vậy mà nước vẫn chưa ngừng dâng, mưa vẫn tuôn. Sau ba ngày, ba đêm người mường Sến dắt díu nhau chạy lũ đến tận lên núi cao là làng mường Sến bây giờ nước cũng đã ngấp nghé theo bước chân, thật may là trời ngừng mưa nên nước không dâng lên được nữa. Người mường Sến thoát chết là ơn nhờ có con hoẵng báo trước. Từ đó cả mường tuân thủ lời nguyền, cư
trú trên vùng đất mới, họ dành hẳn thung lũng phía sau mường cho hoẵng về sinh sống, tất cả mọi người cùng canh chừng cấm các thợ săn ở mường khác đến săn, bắn hoẵng. Về sau hoẵng nhiều lên thành lũ, thành đàn và thung lũng hoang tự nhiên có tên là thung Vang. Rừng với hoẵng với người làm bạn với nhau, dựa vào nhau để tồn tại bao đời qua... Chỉ mới gần đây khi rừng bị phá đi nhiều, bọn săn bắn có cả
người trong mường tiếp tay, chúng đánh bẫy, săn bắn không run tay tiêu diệt hoẵng, số
sống sót cũng đành phải bỏ
thung Vang đi vào rừng sâu mong hòng thoát chết, thung Vang không còn hoẵng nữa, hơn chục năm nay tai ương do mưa, gió gây ra liên tiếp giáng xuống mường Sến ta. Nay rừng đã được trồng, được bảo vệ, hoẵng đã lại về trong thung Vang, lại báo trước cho dân mường biết trước mưa gió để phòng tránh, thật là phúc đức, người mường ta cũng nên lập giữ lại, tuân theo lời thề nguyền. Giọng mế Hừm lâm râm như tự nói với chính mình, đưa đứa cháu nội vào không gian truyền thuyết thực hư, huyền mặc. Đầu óc non nớt của Hon cũng cảm nhận được sự vọng tâm thành tín của bà nội đối với chuyện xưa.
- Cháu là người đang sắp trở thành người có học, hãy nên lắng nghe, tìm trong các câu chuyện xưa của người mường ta, không phải mọi thứ đều là mê tín, là của đáng vứt đi hết đâu, người xưa đã phải chiêm nghiệm, thậm chí phải trả
giá rất đau đớn mới đúc rút được những kinh nghiệm, những bài học những tri thức truyền đời. Có thể bây giờ cháu chưa tin, nhưng cũng nhanh thôi, hai, ba hôm nữa cháu sẽ thấy ngay. Đêm hôm đó con hoẵng còn kêu vài lần nữa. Dường như trong mường Sến vẫn còn nhiều người nhớ tới lời nguyền xưa, hôm hơn nửa số nhà trong mường quay sang đi gặt lúa. Tối hôm qua đài vẫn báo khu Tây Bắc có mưa rào và
giông vài nơi, "trong cơn dông đề phòng có gió lốc và mưa đá". Nửa mường còn lại vẫn bằng chân như vại, họ chê
cười những nhà đi gặt lúa là mê tín, u muội tinvào truyền thuyết xưa. Ngày hôm sau nữa trời vẫn nắng chang chang, trời xanh đến loá mắt, nắng như đổ lửa xuống đồng, không khí ngột ngạt, trời im gió không một lá cây ve vẩy. Qua giờ ngọ đột nhiên mây ùn ùn kéo đến, gió âm u gầm gào, rất nhanh trời bắt đầu mưa, những hạt mưa đá to như những hạt sỏi vãi lung tung trắng xoá cả đường đi, chúng như những viên đạn bắn phá không thương tiếc xuống cánh đồng lúa, những hạt đá to xuyên thủng mái nhà tranh, những tàu lá chuối chẳng mấy chốc đã tả tơi rách tươm. Cả không gian vang lên tiếng lộp độp, rào rào của những hạt nước đá khi rơi vào vật cứng, lá cây mặt đất tạo nên thứ âm thanh vui tai, tàn nhẫn của sự phá hoại, của tai hoạ. Sau hơn mươi phút mưa đá
là mưa nước, từng dợn mưa ào ào lạnh buốt cuốn theo chiều gió táp lên như kẻ trợ lực cuốn đổ cây cối, hất tung những phên tranh, viên ngói, cuốn đi cả những vách nứa, nong nia trong các nhà sàn. Thiệt hại lớn quá, các nhà không chịu gặt lúa lúc này mới hối tiếc không nghe theo lời hoẵng kêu. Từ khi có hoẵng về thung Vang, việc cày cấy, làm mùa của mường Sến như thuận lợi hơn. Người vùng cao nơi đón mưa, đón gió tránh được những cơn thịnh nộ, những cơn giông tố dữ
dội của thiên nhiên. Gần năm tháng nay lão Sầm mất ăn, mất ngủ vì đôi hoẵng. Lão cười khẩy trong bụng khi nghe có người nói lời tạ ơn con hoẵng, với lão, lão chỉ cám ơn khi đôi con hoẵng sa vào bẫy. Lão rủa thầm người mường Sến ngu si, mê tín đủ
điều. Nhất là các mụ già ngu độn, lắm điều, suốt đời chưa dám đi đâu khỏi làng mường Sến quá hai ngày. Với các mụ này từ hốc cây, tổ mối, mỏm đá, cái gì cũng thiêng, có thần thánh, ma quái trú trong đó. Đến cả đài, báo, ti-vi của Nhà nước cũng chỉ dám nói là "dự báo thời tiết..." chứ
đâu dám nói chắc đinh là báo thời tiết đâu, ấy thế mà còn nhiều khi sai be, sai bét ra đấy, đang báo nắng thì trời mưa, báo lạnh thì trời nóng đó thôi. Hoẵng là giống vật hoang sinh ra trong rừng chỉ
để cho hổ, cho con người săn, bắt về làm thịt, chứ làm sao báo được thời tiết, rõ là vơ vẩn... Lão đoán hai con chắc đã bị con người săn đuổi, chết hụt nhiều lần nên chúng rất nhạy, bao nhiêu cạm bẫy lão chăng mà chưa làm sao bắt được. Kể ra lão công cốc cũng là do người mường Sến đi rừng gặp cạm, bẫy lão chăng, người ta đập, phá huỷ nó không thương tiếc. Lão đã nhận tiền đặt cọc của một tay chủ quán dưới phố huyện, thời hạn giao hàng đã
qua, vậy mà lão chưa thể nào bắt được đôi con hoẵng, nhiều lần lão định dùng đến mũi tên có tẩm thuốc độc, song chủ quán không muốn nhận hàng chết, chúng chỉ muốn con vật còn sống. Hết mùa mưa đã chuyển sang mùa khô, rét, qua tết sang giêng, đến tháng ba trời vẫn không có một cơn mưa to, suối thung Vang cạn không, chỉ còn lại một vũng nước nhỏ trên đầu nguồn. Trời đất thật lạ, đã nhiều năm qua chưa bao giờ
suối thung Vang lại cạn đến thế. Lão Sầm mừng thầm, lão biết cơ hội đã đến, trên thế gian này chẳng có con vật nào là không cần nước, lần này đến cả ếch, ngoé, rắn, rết cũng phải tìm đến vũng nước, chứ đừng nói gì loài to xác như
con hoẵng kia. Để tránh bị phá đến buổi chiều hôm lão vào rừng đặt bẫy, mờ sáng tinh sương lão lại vào rừng tháo bẫy cất giấu đi.
Điều lão mong đợi cũng đã đến, hôm ấy buổi sáng tháng ba khô hạn, một đêm đã qua vậy mà trên các ngọn cỏ, lá cây không có một giọt sương đọng, lá cây khô lạo xạo rụng phủ một lớp dày trên mặt đất thung Vang. Từng bước chân đi lão phải cẩn thận xem xét, bởi dưới lớp lá khô thường có ốc sên, rắn rết trú ẩn, bước chân lão nhẹ hơn tiếng gió, chỉ
có những thợ săn lão luyện mới đi được như vậy vậy.
Con hoẵng mắc loại bẫy theo kiểu cần câu, dây câu làm bằng dây thép phanh xe đạp có
buộc thòng lọng, cần câu được làm bằng gốc cây sống to bằng bắp chân, chân sau hoẵng mắc vào thòng lọng bị chiếc cần nhấc bổng lên khỏi mặt đất chừng hai gang tay. Sợi dây thép xiết chặt, cứa đứt lớp da, máu chảy ra đem thẫm, lũ ruồi nhặng bu kín quanh vết thương, nó hoảng loạn chạy vòng quanh cố giãy hòng thoát thân song càng giãy, sợi dây thép càng xiết chặt hơn. Chờ tang tảng sáng, từ xa lão đã nghe tiếng thở phì phì, tiếng bước chân đạp lá khô loạn xạ, lòng lão muốn hét lên, vậy là đã có bạc triệu cầm tay.
Lão Sầm bình tĩnh quan sát, tay lắp mũi tên độc giương ná, có thể còn có con thứ hai còn ở
quanh đó. Lão để ý lựa thế, người mường đúc rút một kinh nghiệm "Lòi bàng, Vang hẽo". Lợn lòi trong cơn bí quẫn sẵn sàng xông thẳng vào kẻ thù, còn giống hoẵng có móng guốc chân sau sắc như
lưỡi dao cạo cứa đứt cả cây gỗ chứ đừng nói đến da thịt người. Khi vào hiểm nguy, hoẵng sẵn sàng chạy thẳng tới kẻ thù xiếtm óng guốc vào bất cứ chỗ nào trên cơ thể đối thủ để thoát thân. Đúng như lão Sầm dự đoán con hoẵng thứ hai đang ở trong đám bụi rậm cách chỗ lão đứng chưa đầy mười bước chân, lão tự khen mình có bước đi đến con thú cũng không nhận ra được. Phải bắn thôi, nhanh lên để
còn kịp gọi lũ con cháu vào khênh về, nếu trời sáng quá không kịp khênh về, đành phải đem giấu đến tối mới chuyển đi. Thôi thì một con sống, một con chết vậy, kể ra cũng hơi tiếc. Pựt... mũi tên lao vút đi trúng đích, con hoẵng bị bất ngờ nó xông thẳng tới nơi phát ra tiếng ná, bất đắc dĩ lão Sầm phải nhảy vội vào đám bụi bên cạnh, con hoẵng ào ào rẽ cây, rẽ lá đi xuôi, cùng lúc ấy lão Sầm nghe như có cành gai đâm buốt nhói ở bên trên cổ chân, lão rùng mình ngoảnh lại, một con rắn cạp nong đang trườn nhẹ ra xa.
"Chết rồi...", lão kêu lên, tay rút dao chặt dây cung ná vội buộc thít chặt bên trên bắp chân để ga-rô không cho máu độc chảy lên tim, lão dần bủn rủn chân, tay, mắt quáng lên chỉ kịp ngoáy mũi dao vào vết rắn cắn cho máu độc chảy ra, lão ngất lịm đi. Cả mường Sến nhộn nhạo, người ta oán lão Sầm, thương cho con hoẵng bị trúng tên độc chết ngay dưới thung lũng, con hoẵng mắc bẫy được thả ra. Lão Sầm được đưa đi cấp cứu dưới bệnh viện, chậm chút nữa tính mạng lão khó
mà cứu được, bên chân bị rắn cắn phải tháo khớp bỏ đi. Lão đau nhất là cả mường không ai thốt ra được một câu thương xót, thông cảm cùng lão, đã thế có người còn lửng lơ, ngụ ý, nói kháy:
"ở đời, ai ưa cái gì, tìm, sẽ gặp cái đó". Vừa đau, vừa bực song nghĩ lại lão vẫn thấy mình thật còn may mắn, phúc lớn, số dày, nếu không có hai người trong mường đi rừng sớm phát hiện ra, hẳn lão đã chết trong rừng.
Sau hơn hai tháng nằm viện, đúng hôm lão Sầm xuất viện ra về trời nổi cơn giông tố. Đang giữa buổi chiều mà mây đen phủ kín trên không trung, trời tối sầm tựa lúc chạng vạng chiều hôm, sấm ra, chớp giật, mưa gió dữ dội. Trong vườn nhà lão Sầm cây cối gãy đổ ầm ầm. Lão còn đang mệt, miệng rên hừ hừ, bỗng một cơn gió xô lệch ngôi nhà
sàn vững chãi, hai đứa cháu đang tuổi thanh niên vội đứa cõng, đứa đỡ, đưa lão chạy ra khỏi nhà, vừa lúc đó gió bẻ
vặn ngôi nhà răng rắc một hồi mới hất đổ tung, tiếng bát đĩa vỡ, cây gãy, tiếng ngói vỡ hoà
lẫn tiếng lũ gà đang trú
mưa dưới gầm sàn, tất cả hoà vào nhau huyên náo loạn xạ. Thật may là lũ đàn bà, trẻ con vốn tính nhát gan ngày thường gió hơi mạnh đã bỏ nhà ra trú ở hốc đá sau nhà, nên không có ai trong nhà nữa. Lão Sầm run bần bật, miệng lão rầm rầm:
- Con là kẻ có tội đã vi phạm lời thề nguyền, xin tổ tiên tha tội...
Cơn lốc kinh hoàng đó đã cuốn đổ, làm tốc mái, du xiêu niều nhà trong mường Sến, có điều lạ là nhà lão Sầm thuộc loại vững chãi nhất mường, nay đổ gãy tan hoang. Ngay trong cơn mưa gió
quăng quật mọi người sực nhớ ra, giá đôi con hoẵng được yên lành hẳn nó đã kêu, báo trước cho dân mường biết để chuẩn bị chằng, chống nhà cửa. Biết đến bao giờ thung Vang mới có hoẵng trở
về. Chẳng biết làm sao cho bõ tức, bõ bực, những câu chửi ngấm ngầm đâu đâu cũng nhằm vào lão Sầm, có đứa chẳng sợ gì cứ lớn tiếng chửi đổng:
- Mả bố lão Sầm giết chết hoẵng, làm hại, làm khổ cả làng, cả mường...
Bong bóng vẫn bay
Nhận được tin nhắn "Các cậu về quê ngay" của Dũng, Phác biết là ở quê đã xảy ra chuyện. Linh tính như báo cho anh biết đây là chuyện chẳng lành. Ruột gan Phác như có lửa đốt. Anh muốn có một đôi cánh để mà bay về quê ngay. Nhưng anh phải đợi Dịu. Như mọi khi, bao giờ về quê, anh luôn có Dịu đi cùng. Phác nhìn đồng hồ, giờ này chắc Dịu cũng đang trên đường về. Bọn trẻ, đứa đang có buổi pích ních, đứa thì còn ca học thêm tin. Tự nhiên, Phác cảm thấy có sự vắng vẻ đến lạ
trong nhà. Anh bật cười khi phát hiện ra đã có một sự yên tĩnh, thật là tuyệt đối vô cùng nhỏ bé nằm ngay giữa cái khối ồn ào sôi động của thành phố vào lúc tan tầm này. Trong anh lại ùa về cái cảm giác thật là êm dịu, lan toả nhè nhẹ trong người, mỗi khi anh nghĩ về cái làng quê ấy. Làng Chằm. Một cái làng nhỏ bé, có những lũy tre xanh xanh bao bọc lấy những mái nhà tranh. Và những con người mà một thời, anh đã từng được họ đùm bọc chở che.
Ngày ấy, mẹ đưa chị em Phác về làng Chằm sơ tán. Gia đình Phác ở nhờ nhà cô Như. Nhà
cô Như chỉ có hai mẹ con. Cô Như với cái Hoài. Chồng cô Như đi bộ đội, giống như bố của Phác, đang chiến đấu mãi trong chiến trường B. Nghe nói ngày chú Đống, bố cái Hoài, về phép trước khi lên đường vào Nam chiến đấu. Cái Hoài còn bắt bố bò chồm chồm để nó nhong nhong cưỡi trên lưng. Bây giờ, cái Hoài đã tự mình cưỡi trên lưng con trâu to đùng, có nước da đen nhánh. Hai cặp sừng cong vênh vênh nhọn hoắt. Chị Nụ của Phác, mấy đứa con trai đầu bò, đầu biếu ở phố phải kiêng nể, thế mà cũng phải lắc đầu, lè lưỡi khi nhìn nó ngồi vắt vẻo trên lưng con trâu mộng ấy. Mẹ
chỉ ở lại nơi sơ tán có một hôm. Rồi để hai chị em Phác ở lại với cô Như. Mẹ phải trở về Hà Nội ngay. ở quê cái gì cũng lạ. Từ những con đường đi. Đường sá gì mà lại cứ cong queo uốn lượn giữa những cái ao lớn ao b é. Len lỏi qua những mảnh vườn có bao nhiêu là cây cối. Nào là chuối, nhãn, bưởi, ổi... Đến những con người, nom ai cũng đen đúa lầm lụi, tất bật. Nhưng ai cũng cởi mở đến lạ. Từ bác Hậu, bác Tý, cô Liên... cứ te tái sang hỏi thăm chị
em Phác. Nào là "có nhớ nhà không", hay "có ngủ được không" và "có ăn no không" vân vân và vân vân. Làm như chị
em Phác đều đã quen thân với mọi người từ lâu rồi. Mọi người còn hay mang sang cho chị
em Phác từ củ khoai lang mới luộc còn nóng hôi hổi. Khi thì quả khế, khi miếng mít... Có bác lại thở dài bâng quơ: "sểnh nhà ra thất nghiệp. Loạn ly đến là khổ". Cả xóm ai cũng coi chị em Phác như là khách quý ấy. ở nơi sơ tán, Phác thích thú nhất là một nồi cơm được ủ trong tro bếp. Khi cơm chín thì toả mùi thơm rất khó tả. Mà có
lẽ chỉ khi nào cơm được thổi bằng rơm rạ và được ủ kỹ trong tro của nó thì mới có được cái mùi thơm đến nức cả
lòng người ấy. Rồi những con ốc lùi. Những con ốc nứa vàng ươm được vớt lên từ những cái ao thả đầy rau rút. Cái Hoài bảo "Chỉ những con ốc ở trong cái ao này thì mới thơm, mới ngon", chị Nụ hỏi "Tại sao?". Cái Hoài tỏ ra rất thông thạo "Rau rút là loại rau rụt rè nhưng kỹ tính lắm. Nước ao dính bẩn là nó tự huỷ mình mà chết, chứ nhất quyết không chịu sống trong ao tù nước bẩn. Cho nên từ con cá, con cua, con ốc... ở trong ao có thả rau rút đều rất thơm ngon". Chị Nụ và Phác chỉ còn biết gật đầu đến sái cổ trước những thông tuệ của cái Hoài. Nó còn chỉ cho hai chị em biết bao nhiêu là điều mới mẻ khác. Như cách nhìn sao đêm để biết tháng tới có
mưa nhiều hay ít. Nhìn lũ kiến bọ giọt xây tổ để biết sắp có mưa to gió lớn từ hướng nào. Nhìn đùi con ếch sẽ biết được sắp có mưa rào hay vẫn còn hạn hán v.v...
Mới tý tuổi đầu mà nó đã làm được bao nhiêu là việc. Từ chăn trâu cắt cỏ, cho lợn cho gà
đến cơm nước giặt rũ. Người nó bé sắt lại. Nhưng việc làm thì nó làm ào ào như nước chảy. Nó
thường vừa làm vừa hát và hay cười. Khi nó
cười, hai cánh mũi xinh xinh hếch lên. Đôi mắt đen láy tít lại. Miệng mở hết cỡ khoe cả
hàm răng trắng nõn đều tăm tắp.
Phác thường hay ngắm cái Hoài cười. Những lúc ấy, tâm hồn trẻ thơ của Phác xao xuyến. Phác tự bảo thầm. Nay mai Hoài lớn lên, chắc là xinh lắm.
Cô Như thì chẳng mấy khi ở nhà. Cô làm việc trên uỷ ban xã. Bận bịu quần quật suốt ngày, nào làm đồng, nào hội họp. Nhiều hôm, khuya lắm cô mới về đến nhà. Chị em Phác và cái Hoài đã
ngủ khoèo hết cả. Đứa nọ gác chân lên đứa kia mà ngủ. Cô buông màn, quạt muỗi, gỡ chân xoay từng đứa nằm ra cho thẳng, rồi cô ngồi lặng lẽ quạt mát cho cả
bọn.
Những làn gió nhẹ, thoang thoảng mùi mồ hôi làm cho Phác tỉnh ngủ. Nhưng Phác vẫn nằm im. Một cảm giác thật là
dễ chịu nao nao trong lòng. Như những đêm ở Hà Nội, vào hôm tiết trời oi bức, mẹ vẫn thường thức để quạt mát cho cả hai chị em ngủ.
Đấy là những đêm bình yên. Còn có nhiều đêm cả nhà đang ngủ thì bị đánh thức bởi tiếng kẻng báo động. Hoặc tiếng máy bay gầm rít, tiếng bom nổ ì ầm, lục bục từ phía Hà Nội hay từ trên thị xã vọng về. Cô Như đánh thức cả bọn dậy rồi dắt díu nhau xuống hầm trú ẩn. Nhiều đêm có
tiếng bom nổ rất gần làm cho mặt đất cứ rung lên từng đợt, từng đợt. Cô Như ôm lấy cả bọn vào trong lòng. Ngồi gọn trong lòng cô, Phác lại nhận định: hơi thở và da thịt của những người mẹ cũng có sự giống nhau hay sao ấy.
Cô Như rất ít nói. Hoạ hoằn lắm mới thấy cô cười. Khi cô cười, ẩn sâu trong đáy mắt vẫn đọng mong ước gì?". Phác gặng hỏi. "Như... bố tớ mau đánh một nỗi u buồn thăm thẳm mà Phác không biết là tại sao. Phác lại chỉ còn biết tự
nhận xét: phụ nữ ở quê ai cũng đẹp cả.
Thi thoảng, mẹ Phác mới tạt qua nơi sơ tán. Thường chỉ là chốc lát. Cũng có lần mẹ nghỉ
đêm lại. Lần nào ở lại, mẹ
với cô Như cũng chuyện trò rì rầm với nhau đến rất khuya. Có lần Phác bỗng thức giấc. Hình như hai người đang khóc. Tự nhiên Phác cũng thổn thức, làm cho cả nhà sợ. Rồi mọi người đều cho là Phác ngủ mê. Ban ngày làng xóm vắng ngơ vắng ngác. Những lúc bình yên, những đứa trẻ ở trong xóm thường hay bày ra các trò
chơi. Cùng với lứa tuổi với chị Nụ có chị Thoa, chị Hiền, anh Tú, anh Quyết... ở lứa tuổi của Phác ngoài cái Hoài còn có cái Chiên, cái Mai, thằng Bình, thằng Dũng còm... Tất cả rất thân thiết với nhau và hợp thành một nhóm. Hết chơi chốn tìm, cánh con trai lại quay ra đánh khăng, đánh bi. Còn con gái thì đánh chắt đánh chuyền. Rồi nhảy vườn đến mệt lử thì ngồi tụm lại với nhau để nghe chị Nụ đọc truyện. May mà hôm chuẩn bị đồ đạc đi sơ tán, Phác cố mang theo được bộ Không gia đình, quyển Dế mèn phiêu lưu ký với quyển Rôbinsơn. Bọn trẻ ở xóm, đứa nào cũng mê truyện cả. Thế giới ở trong những trang sách đã đưa cả
bọn đến với những miền đất xa xăm. Nhưng chúng chẳng có mấy truyện để mà đọc. Cái Hoài cũng vậy. Nó rất hay hỏi về Hà Nội, về Hồ Gươm...
nó luôn nhắc nay mai thắng Mỹ rồi thì bố sẽ về để mang nó ra thăm Hà Nội. Vào những hôm trời trong, bầu trời ở thôn quê rất cao và rộng, cái Hoài lại bày ra trò chơi thổi bong bóng xà
phòng. Những chiếc cọng rơm ngắn vừa bằng cái tăm, thi nhau nhúng một đầu vào cái trôn bát có
tý nước xà phòng đặc. Ngậm một đầu còn lại vào miệng, bụm môi lại, ngửa mặt lên trời mà khẽ
thổi. Từ đầu cái cọng rơm vàng nhỏ xíu, từ từ
nở ra một quả bong bóng có bao nhiêu là sắc màu xanh, vàng, hồng, tía... lung linh. Những quả bong bóng như là cả
một điều kỳ diệu thi nhau vượt qua những ngọn cây, bay tít lên tận trời xanh. Cả bọn ngước nhìn theo. Lòng hồi hộp gửi vào những quả bong bóng kia bao nhiêu là mong ước. Tuổi thơ bao giờ
chẳng có nhiều mong ước. Mỗi lần thổi, mỗi quả bóng bay lên cao là một mong ước. Những mong ước cũng lung linh sắc màu, gửi cả vào khoảng trời bao la lồng lộng. "Này cậu mong ước điều gì thế?". Phác thì thầm hỏi Hoài. "Tớ
mong ước nhiều lắm". "Nhiều là những thắng Mỹ để về đưa tớ ra thăm Hà Nội... Tớ cũng sẽ được học ở Hà Nội, sẽ...
thành người Hà Nội". Mắt Hoài sáng long lanh.
Lạ thật. Phác cũng từng thầm mong ước được cùng học với Hoài ở Hà Nội, ở trong một lớp học khang trang. Hai người sẽ học tập, lớn lên bên nhau... Và Phác cũng từng mong ước ta mau thắng Mỹ, để cuộc sống trở lại bình yên. Phác lại được trở về Hà Nội, với những đường phố sạch bong, rợp bóng cây. Về với trường với lớp, gặp lại thầy cô, bạn bè. Không biết giờ này thầy cô và
bạn bè đang ở nơi nào, biết đến khi nào mới gặp lại. Ngày ấy cũng đã đến. Mỹ ngừng ném bom ra miền Bắc, chị em Phác trở về Hà Nội. Rồi chiến tranh kết thúc. Bố của Phác bình yên trở về. Những ngày tháng tràn ngập hạnh phúc trong gia đình. Thời gian đầu cả gia đình Phác thường hay về thăm cô Như. Chú Đống đã mãi mãi không bao giờ trở về nữa. Có một nỗi buồn đầy ăm ắp trong gia đình cô. Bố mẹ Phác phải động viên khéo lắm, cô Như mới cùng với cái Hoài ra Hà
Nội. Nhưng chỉ có được một lần duy nhất.
Những cuộc về thăm làng Chằm của gia đình Phác cũng thưa dần. Bố mẹ bận công việc. Chị Nụ với Phác mải mê với việc học hành.
Kỳ nghỉ hè trước khi vào Đại học, Phác một mình trở lại làng Chằm. Cô Như gầy và xanh xao như một tàu lá. Đôi mắt cô trũng sâu, thâm quầng bởi nhiều đêm mất ngủ. ở tận đáy mắt, đọng một nỗi u buồn vời vợi. Hoài đã nghỉ học và trở thành lao động chính thay mẹ. Nỗi buồn mất cha dường như qua mau để nhường cho một vẻ
đẹp tươi tắn, phơi phới của người con gái vừa bước vào tuổi thanh xuân. Trái tim Phác run rẩy trước vẻ đẹp thuần khiết ấy.
Từ đó Phác thường xuyên về làng Chằm. Rồi Phác yêu. Và được Hoài đáp lại bằng một tình yêu nồng nàn say đắm. Tình yêu của một chàng trai thành phố với một cô gái ở nơi thôn dã thật chân thành mộc mạc, đẹp và trong sáng như
ánh trăng rằm.
Thế rồi tình yêu ấy lại bị phản đối. Ban đầu là ở bố mẹ anh, nhưng còn có vẻ dè dặt với một mong muốn. Cô dâu là
một người có học, có bằng cấp. Hay ít ra cũng là người ở Hà Nội. Còn chị Nụ thì "mày có
mang được mấy sào ruộng ở quê ra Hà Nội để cho Hoài nó cấy hay không?". Trái tim Phác như bị
bóp nghẹn lại. Anh không thể hiểu nổi cái quan niệm của những người mà anh hằng kính trọng, yêu thương.
Với cô Như, người đã từng yêu thương Phác như con của cô đẻ ra. Phác cũng đã tự hứa với mình và với Hoài là sẽ
làm hết sức mình để Hoài có hạnh phúc. Sẽ cùng với Hoài phụng dưỡng cô. Để có thể bù
đắp được phần nào những mất mát của cô. Vậy vì sao mà cô lại phản đối kiên quyết đến vậy. Rồi anh nhận ra, ở những người nông dân nhân hậu và trung thực, khi lòng tự trọng của họ bị tổn thương thì trái tim của họ dễ trở thành sắt đá. Giữa lúc này, đùng một cái, Hoài đi nước ngoài. Một bác trước kia là đồng đội của chú Đống, trong một lần tìm về
thăm gia đình cô Như. Thấy hoàn cảnh của gia đình cô, bác ấy đã đứng ra làm mọi thủ tục để Hoài được đi lao động xuất khẩu ở Cộng hoà dân chủ Đức.
Hoài đi, không kịp chia tay. Không một lời nhắn, một dòng chữ để lại. Những ngày tháng đằng đẵng mong chờ. Nhưng càng mong càng mất.
Được hơn hai năm thì có tin của Hoài. Nhưng lại là tin buồn với Phác. Hoài đã lấy chồng ở
bên Đức. Cô gửi cả ảnh và băng hình ngày cưới về.
Nhìn Hoài lộng lẫy trong bộ váy cưới với nụ cười mãn nguyện, bên cạnh một người con trai cao lớn lạ hoắc lạ huơ, mắt Phác tối sầm lại. Mặt đất dường như đang sụt lở từng mảng lớn ngay dưới chân anh. Anh như đang chơi vơi rơi xuống một hố vực sâu đen ngòm. Kể từ đó, mọi người tưởng như anh không thể tiếp tục học tập được nữa. Cả bố mẹ với chị
Nụ vội trở lại làng Chằm. Mọi người đều thất vọng. Vì tất cả đã là muộn. Phác vẫn một mình về làng Chằm đều đặn. Anh tự nhận rõ được về anh, không sao cả. Lòng anh bồi hồi bước trên ngõ xóm đã in dấu những bước chân của một thời thơ bé. Những người bạn nhỏ xưa kia, giờ cũng đã lớn cả rồi. Những đứa con trai đều đã đi bộ đội, đứa trên biên giới, đứa ngoài hải đảo. Còn những đứa con gái thì hầu hết đã đi lấy chồng. Cuộc sống của làng xóm vẫn diễn ra bình thường. Mọi người vẫn ra đồng từ sớm tinh mơ, đến nhọ mặt người mới lục tục kéo nhau về. Vẫn là những cuộc đời lam lũ, nhưng vẫn rất yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Và vẫn rất vô
tư trong nỗi vất vả nhọc nhằn.
Từ ngày Hoài đi đến nay, cô Như cũng chẳng có gì thay đổi. Cô vẫn sống trong lặng lẽ u buồn. Hình như cô luôn cảm thấy là một người có lỗi với Phác. Tự đáy lòng mình, anh thương cô
đến vô bờ. Phác bảo vệ luận văn tốt nghiệp một cách xuất sắc. Mối tình đầu đẹp đẽ và thơ mộng của anh chỉ còn là một vết thương lòng, đã lên sẹo. Phác lại yêu. Đó là Dịu, người bạn cùng lớp. Và
là cô con gái của miền quan họ. Hai người làm lễ cưới. Và được bố mẹ Phác thu xếp cho hai vợ
chồng cùng về công tác tại Hà Nội. Phác mải mê với cuộc sống mới. Bắt đầu bước vào bươn trải, lao theo sự cuốn hút của cuộc đời trong cái kiếp nhân sinh. Chị Nụ thì đã lấy chồng rồi sống định cư ở Pháp. Bố mẹ cũng lần lượt qua đời. Hình ảnh của làng Chằm tưởng như đã trở nên mờ nhạt trong tâm trí anh.
Thế nhưng, do tình cờ, anh lại biết tin tức của làng Chằm. Hoài đã bỏ chồng ở bên Tây về
nước. Cô Như đã mất hơn năm nay rồi.
Phác chạy bổ ngay về làng Chằm. Hoài khoẻ và đẹp. Chỉ có điều giờ là một vẻ đẹp với những đường nét sắc sảo, rờn rợn của một gương mặt dùng nhiều mĩ phẩm. Phác với Hoài ngồi lặng lẽ, rất lâu. Không gian tưởng như chùng hẳn xuống. Hai người đã
nói với nhau có lẽ cũng rất nhiều rồi. Và cũng vẫn còn nhiều điều muốn nói. Nhưng cả hai lại cùng cảm thấy chẳng còn gì để mà nói nữa. Với Phác, ở tận trong sâu thẳm của lòng anh, anh vẫn dành riêng một khoảng để chứa đựng tất cả những gì đẹp đẽ
nhất mà hai người đã có với nhau. Đã nhiều lần, có lẽ cũng chỉ có mình anh, lại thấy khao khát được sống lại những ngày tháng của ngày xưa... Những ngày tháng gian khó, tuổi thơ bé của anh, anh đã được những cuộc đời nghèo khổ, lam lũ chăm sóc yêu thương. Trong ký ức của anh vẫn còn in đậm nét những ngày tháng ấy. Nó đã nuôi dưỡng cho anh có được một tình yêu. Mặc dù
chính mối tình ấy đã đem lại cho anh một nỗi đau cũng đến khó quên. Không một lời oán trách, Hoài cũng không một lời giải thích. Những lời thăm hỏi về nhau cũng chiếu lệ, nhạt thếch. Thật không ngờ tình cảm của hai người lại đến nông nỗi này.
Phác trở về Hà Nội, lòng anh nặng trĩu ưu phiền. Trước khi về làng Chằm, anh cứ nghĩ và
tưởng tượng ra cái cảnh hai người sẽ ôm chầm lấy nhau. Hoài sẽ khóc thút thít, sẽ kể lể về những nhớ nhung. Sẽ có một lời biện minh cho việc Hoài đi lấy chồng. Anh sẽ lau nước mắt cho Hoài. Sẽ
an ủi động viên Hoài, sẽ nói với Hoài rất nhiều điều. Kể về
những đôi lứa yêu nhau, không lấy được nhau, nhưng vẫn sống tốt với nhau. Phác buồn, buồn miên man trong những xô bồ của nếp sống thị thành ở giữa cái thời thị trường. Sống trong môi trường mới, người ta dễ có sự thay đổi. Nhưng anh không tin được là Hoài lại có sự thay đổi như vậy. Anh tự nhủ hãy quên đi. Quên đi tất cả để mà sống với hiện tại của ngày hôm nay. Nhưng từ nhiều nguồn, Phác vẫn luôn có được những tin tức ở làng Chằm. Về nước, Hoài không chấp nhận cuộc sống lao động chân tay như mọi người ở trong làng. Với số vốn cũng không nhỏ, Hoài lao vào kinh doanh buôn bán. Hoài từng buôn to, buôn nhỏ. Từng lãi, từng lỗ. Từng là
một bà chủ có tiếng tăm trong vùng. Và cũng đã từng trắng tay. Hoài đã có lần quyên sinh nhưng vẫn chưa thoát khỏi được kiếp trần ai. Đường chồng con thì cũng gập ghềnh không kém. Đến đời chồng thứ ba thì Hoài đứng vững được với một người chồng khoẻ mạnh, hiền lành chịu khó. Hai vợ chồng mở quán lòng lợn tiết canh ở đầu chợ làng. Ngoài ra Hoài có thêm một gánh hàng rau. Cặm cụi nhặt nhanh từng đồng ở những mớ hành, mớ húng, quả ớt, quả chanh... Hoài đã bắt đầu chấp nhận một cuộc sống bình thường, từ bỏ những ham hố, tham vọng cao xa. Vợ chồng Hoài sinh được hai đứa con, đều khoẻ và ngoan. Mọi người đều mừng cho Hoài. Nhưng chồng Hoài đột nhiên bị tai nạn giao thông rồi qua đời.
Trong lòng Phác lại như đang trào dâng lên những đợt sóng ngầm. Nhiều khi anh tưởng như chân đi không tới được đất.
Dịu luôn lặng lẽ theo dõi mọi diễn biến trong tâm tư của Phác như một thầy thuốc theo dõi người bệnh. Dịu muốn được cùng Phác về làng Chằm. Chẳng có một lý do gì để anh từ chối. Thông thường trong khó khăn hoạn nạn, con người ta dễ gần với nhau hơn. Phác chẳng ngờ
Hoài với Dịu lại sớm trở
lên thân thiết với nhau. Từ đó, anh và Dịu thường xuyên về làng Chằm. Về với những người bạn một thời của anh. Họ
chẳng được học hành như anh. Cuộc sống của họ vẫn nghèo, vẫn vất vả nhọc nhằn. Nhưng ở họ lại có đủ một tấm lòng mà ở trên đời này không phải ai cũng có được. Vợ chồng anh rất năng về với họ, cùng vui, cùng buồn với họ. Và
coi làng Chằm như là quê hương thứ hai của mình.
*
Vợ chồng Phác về đến làng Chằm thì trời đã tối được một lúc. Dũng đón hai người từ đầu làng rồi kéo thẳng về nhà
Dũng.
Đường làng Chằm đã trải bê tông. Tất cả những cái ao lớn, ao bé đã được lấp đầy. Vườn thì
cũng đã chặt hết cây. Người ta đặt vào đó những ngôi nhà một tầng, hai tầng với mái bằng mái nhọn nhấp nhô. Quán bia hơi, rượu thịt chó, karaôkê, cà phê nằm rải từ đầu làng đến giữa làng. Nhạc xập xình, đèn mờ đèn tỏ nhấp nhoáng. Tự nhiên Phác cảm thấy nao nao buồn. Về đến nhà Dũng thì đã thấy có đủ cả Chiên, Mai, Hoa và Bình. Một không khí nặng nề bao trùm lên tất cả. Những tiếng chào, những cái bắt tay lặng lẽ. Phác không thấy có Hoài. Lòng anh hoang mang không hiểu điều gì đã xảy ra.
- Tất cả cũng chỉ tại mấy ông cán bộ...
- Tại là tại cái gì?
- Tôi là tôi cứ nói thẳng. Tại vì các ông có ăn tiền đút lót của chúng nó, nên các ông phải nhắm mắt mà làm ngơ cho chúng nó tác oai tác quái! Chiên vẫn cứng giọng một cách rắn rỏi.
- Cán bộ chúng tôi lúc nào cũng theo sát được chân của chồng bà, con bà để ngăn không cho chồng con bà rượu bia, đề đóm được hả? Không ngờ Dũng đã đỏ mặt tía tai lên.
- Thôi thôi! Tôi xin hai người hãy dẹp cái chuyện đó lại. Bình lên tiếng can Dũng với Chiên. Rồi anh quay sang thông báo vắn tình hình của Hoài. Đại thể tóm lược lại như sau: Thời gian vừa qua, Hoài đã lao vào đánh lô đánh đề. Tiền của trong nhà đã cứ theo đề đóm mà ra đi. Hiện giờ giấy tờ
nhà đất Hoài đã đem cắm ở ngân hàng. Hết hạn, Ngân hàng đã ra quyết định phát mại. Nhóm bạn của Hoài ở quê bàn đi tính lại hết mọi cách mà vẫn chưa tìm ra giải pháp gì để giúp Hoài. Ai có dư giật đồng nào thì Hoài cũng đã mượn cả rồi. Mà biết bao nhiêu tiền để đưa cho Hoài cho đủ lúc này. Bây giờ để mặc Hoài thì Hoài cũng không còn trách ai được nữa. Nhưng mọi người sao nỡ nhìn mẹ con Hoài không có nhà có cửa. Lại còn nơi thờ cúng chú Đống với cô
Như... Giọng Bình đến đây như tắc nghẹn lại.
Phác đã hiểu. Các tệ nạn đã tràn về tàn phá cuộc sống bình yên của làng Chằm. Anh định quay sang hỏi xem thái độ
của chính quyền địa phương ra sao. Nhưng chợt nhớ ra cuộc cãi lộn giữa Dũng với Chiên vừa rồi, anh lại thôi. Thảo nào, vừa rồi Hoài có ra Hà Nội mấy lần. Nhưng chỉ nói là có việc, nhân tiện tạt vào thăm vợ chồng Phác, chứ
không hề đả động gì đến việc vay mượn. Thì ra với anh, Hoài vẫn giữ được một khoảng cách. đó là lòng tự trọng. Số nợ của Hoài so với nhà quê là rất lớn. Và so với thành phố thì cũng không hề nhỏ. Nhưng với thực lực của gia đình Phác, anh vẫn có thể gánh vác được. Song Dịu là
một người rất cẩn thận trong việc tiêu tiền. Vốn sinh ra từ một gia đình nông dân nghèo, nên Dịu rất tiết kiệm và luôn biết lo xa. Phác đã phần nào hiểu được ý của các bạn. Nhưng sự
việc đột ngột quá, vợ chồng anh chưa bàn bạc được gì với nhau. Anh vẫn lặng im. Mọi người vẫn đang bàn định, mỗi người một ý. Nhưng tất cả mọi người đều cho rằng bây giờ có
đưa tiền cho Hoài mượn để trả Ngân hàng thì sẽ có ngày Hoài lại mang nhà đất đi cắm.
- Vậy thì làm sao bây giờ. Phác hỏi to một câu thật ngớ ngẩn.
- Thế nên chúng tôi mới cần tới vợ chồng ông. Người thành phố bao giờ cũng sáng suốt hơn... Dũng im bặt, tay gãi gãi lên đầu, anh nhận ra mình đã lỡ lời. Dịu có ý kiến. Tất cả chăm chú nghe.
- Vẫn phải để cho Hoài bán nhà. Nhưng phải là một trong số những người thân này sẽ đứng ra mua. Tiền nong do chúng tôi lo chạy. Người mua sẽ dọn hẳn sang ở. Sẽ có trách nhiệm trực tiếp trông nom hai đứa trẻ của Hoài ăn học cho bằng những con nhà khác. Và thờ cúng chú Đống với cô
Như. Còn Hoài sẽ bố trí cho sang làm người giúp việc ở
Đài Loan. Việc này do chính tôi lo liệu. Như vậy sẽ tạo cho Hoài có thời gian tỉnh ngộ mà
kiếm tiền. Trong khi đó, các cháu vẫn được học hành, và vẫn giữ được nơi thờ cúng chú Đống với cô Như. Đến khi Hoài trở về thì sẽ bàn đến bước thứ hai. Như vậy. Còn ai có ý kiến gì không?
Tất cả im lặng. Hình như mọi người đang cùng trút ra một hơi thở dài nhẹ nhõm. Ai cũng dụi mắt và cảm thấy cay cay ở sống mũi.
*
Lần này Phác về làng Chằm chỉ có một mình. Dịu có lý do rất chính đáng để không về cùng anh. Chiều nay Hoài bay. Đúng với phương án mà Dịu đã vạch ra. Tự đáy lòng Phác, anh rất cảm ơn Dịu và cũng rất đỗi tự hào về Dịu. Chẳng ai ngờ được Hoài lại tuân theo sự sắp đặt của mọi người một cách ngoan ngoãn đến như vậy. Cũng tại nhà Hoài, chiều nay có cuộc gặp mặt của nhóm những người bạn thân thiết với Hoài. Những người một thời cùng nhau đánh đáo, đánh bi, cùng nhau đánh chắt, đánh chuyền. Một mâm cơm cúng ông Công ông Táo để các vị ấy chứng nhận cho gia chủ mới dọn đến nhận nhà. Và cúng tổ tiên, Gia thần phù hộ cho người ra đi gặp nhiều may mắn. Trên bàn thờ chú Đống và cô Như hương trầm nghi ngút. Tấm bằng Tổ quốc ghi công và
những Huân chương, Huy chương của chú và của cô Như vẫn được treo trang trọng như xưa.
Phác chưa một lần được gặp chú. Nhưng nhìn vào ảnh chú, Phác tin rằng chú là một người cương nghị và dũng cảm. Lòng anh xốn xang khi bắt gặp một ánh mắt. ánh mắt một thời của chú, rất trong sáng nhưng sao đã trở nên xa xăm đến thế.
Còn ảnh của cô Như thì đã là một phụ nữ có tuổi. ở cô, vẫn là một gương mặt đẹp, hiền dịu. Nhưng vẫn hiện rõ lên những nét khắc khổ với đôi mắt luôn đượm một nỗi buồn thăm thẳm. Hương trầm phảng phất làm lòng Phác nao nao. Không biết lúc này đây, ở nơi chín suối, chú và cô đang vui hay buồn. Chiều nay, một buổi chiều thật êm ả. Nắng vàng đặc sánh như mật ong. Gió quê ào ạt. ở góc sân, những đứa trẻ nhà
Bình và các đứa con của Hoài đang tụm lại với nhau. Chúng nó lại đang cùng nhau thổi bong bóng xà phòng. Những quả bong bóng lung linh với bao nhiêu là sắc màu xanh, vàng, hồng, tía... vẫn đang thi nhau bay lên tận trời xanh. Bầu trời ở quê vẫn cứ cao vời vợi. Có một bàn tay nhè nhẹ nắm lấy tay Phác. Hoài đứng cạnh anh từ lúc nào mà anh không hay. Hai người nắm chặt lấy tay nhau. Cùng ngước nhìn lên những quả bong bóng đang bay tít ở trên cao kia. Trong anh lại ùa về bao nhiêu là những kỷ niệm của một thời thơ trẻ. Lòng Phác bỗng thấy bâng khuâng. Chỉ còn mấy giờ đồng hồ nữa là Hoài bay rồi. Anh cầu mong đây sẽ là một chuyến bay găp nhiều may mắn. (Báo Văn Nghệ)
Chuyện tình thời A-còng
Cứ như thể tôi và hai người đó có hẹn nhau vậy, giờ nghỉ làm việc ban trưa, khi tôi ghé
quán cà phê ăn nhanh đó thì
hai anh chị cũng đến. Gần như là đã giữ chỗ trước, tới quán là chúng tôi ngồi vào "ghế của mình". Có lần tình cờ lọt vào tai tôi cái tên dễ thương khi hai anh chị gọi chốn này là,Quán Chúng Mình. Cô nàng thường đến sau, anh chàng bao giờ cũng ngồi đó rồi, tách cà phê đen để mé bên phải, mé tay trái là chiếc điện thoại di động, trước mắt là tập tài liệu chụp đóng gáy xoắn, tay không cầm tách cà phê thì lại cầm cây bút dạ gạch gạch đánh dấu. Cô đến, ngồi vào ghế trước mặt anh, rồi cũng bầy lên bàn chiếc điện thoại di động màu hồng, đặt trước mặt một tập tài liệu cũng đóng gáy xoắn, rồi giơ tay ra hiệu, và người nhà hàng biết lệ liền mang đến một tách cà phê đặt ở mé đối xứng với chiếc di động màu hồng.
Cái đầu óc thích nghĩ ngợi viển vông của tôi gọi thầm họ là đôi câu đối. Thế rồi một bữa kia khi tôi vào quán thì đã thấy xuất hiện cùng với họ một bé gái chừng ba bốn tuổi. Tôi nghe lỏm bé
gọi người đàn ông là "Ba Gấu" và người đàn ông gọi bé là Tép còn người đàn bà gọi người đàn ông là gì tôi nghe không rõ. Một tuần lễ liền sau đó, tôi không thấy người đàn bà đến quán cà phê ăn nhanh, mà chỉ thấy Ba Gấu cùng với con bé có tên là Tép. Máu nhà văn khiến tôi ngẫu hứng viết nên câu chuyện dưới đây, tên nhân vật do tôi đặt cho, định bụng viết xong sẽ
tặng họ.
Thấy anh ra ga tiễn vợ đi công tác, một người đàn ông cùng cơ quan với vợ Luyện nói trêu:
- Thế đấy, tương kính như tân! Cưới nhau đã một tuần rồi mà vẫn cứ như mới cưới ngày hôm qua... Câu đùa không được ai hưởng ứng cả. Vì cả cơ quan đều biết Luyện và Nhung lấy nhau là cảnh rổ rá cạp lại. Nếu là
cưới lần đầu, mấy khi người ta điều một người đi công tác sau khi chỉ cho hai người có
nhõn một tuần hú hí. Mà nào một tuần lễ đâu chỉ có cho riêng hai người!
Còn bé Tép chen ngang nữa chứ!
Tép là tên gọi ngắn con gái Nhung. Đúng ra định gọi Top Ten cho đúng mô-đen thời đại mua sắm. Bà ngoại bĩu môi, Tóp với chả Tép, chê cháu bà xấu xí. Chắc chắn bà ngoại bĩu môi cho phải nhẽ, muốn tỏ ra không quá chầm vập con gái và cháu ngoại. Mà cũng có cả cái mê tín không được khen con trẻ mà phải chê cho nó hay ăn chóng lớn. Bà nội tồ tề ngỡ bà ngoại nói thật, cũng ngoại giao bĩu môi theo, Tóp với chả Tép. Thế là đổi luôn thành Tóp Tép. Rồi cứ ngắn dần, nay chỉ
còn Tép. Cũng hay, đậm đà bản sắc. Nay cái Tép đã bốn tuổi rưỡi, sắp tuổi đi học. Hôm mới về ở
với nhau, Nhung hỏi Luyện có nên gửi tạm bé Tóp về bà ngoại ít bữa không. Luyện ngăn lại. Sao lại thế? Chả cần. Tép phải ở gần chúng mình chứ?
Hôm nay ở cửa nhà ga, Tép đứng nép cạnh Luyện. Cao bằng cả cái đùi anh. Nhung nghe tiếng người nói trêu, mắt cô
liếc một cái vào phía chồng, xem anh có phản ứng gì không. Thấy Luyện chẳng tỏ thái độ
gì, Nhung lại liếc xuống thấp chỗ con gái đứng. Hình như Nhung muốn nhìn cái việc Luyện không bế nó lên một cái. Nhưng chỉ với hai cái liếc liếc như thế là đủ để đôi bên đánh giá hết tình hình. Một là, thiên hạ vẫn thích chõ vào công việc riêng nhà ta, anh có thấy hối vì đã cưới em không? Hai là, em biết đúng là con bé vẫn chưa chịu gọi anh bằng bố, nhưng sao anh cũng không chịu bế nó
nhỉ? Luyện cũng biết vợ mình nghĩ thế. Chỉ mấy cái liếc liếc không lời là đủ để
anh đánh giá gần đúng Nhung của anh đang nghĩ gì.
Hai bố con lên xe buýt. Hai người ngồi hai ghế như hai người lớn. Luyện mua hai vé, cố ý
mất năm nghìn để hai cha con thành hai người lớn.
- Ba Gấu ơi...
- Gì hả Tép?
- Sao ba Gấu không đưa Tép đi xe máy?
- Đi xe buýt thì hai chúng mình nói chuyện với nhau được nhiều hơn. Tép nhìn ra ngoài đường phố, không bình luận gì.
Cách gọi "ba Gấu" và "bé Tép" chính là sáng kiến của Lượng. Sáng kiến đó cũng lại là của Nhung nữa. Mỗi người có
một biệt danh. Gọi thế rất khôn. Mới đầu là Nhung gọi Lượng. Biết Lượng nhiều tuổi hơn mình, muốn xưng "em" lắm, Nhung bật ra cách gọi Lượng là "ông thầy" hoặc "ông giáo", mặc dù
Lương chẳng là nhà giáo, lại càng không là thầy giáo của Nhung. "Ông giáo ơi, em nhờ thầy cho ý
kiến này...", nghe dễ chịu và giải quyết được biết bao nhiêu chuyện. Lượng không bắt lỗi Nhung chuyện đó. Nhưng cũng thầm cám ơn cô nàng khôn ngoan. Và khi về ở với nhau, Lượng dùng cách đó cho cả nhà.
Bé Tép ngồi một lát lại ngọ ngoạy.
- Ba Gấu ơi...
- Gì hả Tép?
- Vì sao mẹ đi mà ba Gấu không đi?
- Vì mỗi người một việc. Mẹ đi chống bệnh dịch ở miền biển.
- Ba Gấu không biết chống bệnh dịch à?
- Ba Gấu chỉ biết làm việc khác thôi...
Lượng nghĩ bụng, nó không hỏi mình biết làm việc gì để mình nói nữa... Nó không thèm chú ý đến mình, hay là nó chưa đủ sức hỏi thêm?
Lượng lơ mơ nhớ thằng con trai của mình hiện đang ở với mẹ nó. Thằng bé ấy lầm lì, tựa hồ
như sinh ra nó đã biết thân có lúc phải chuẩn bị sống cảnh bố mẹ xa nhau. Lượng nghĩ bụng, chả
biết lúc này có ai nói chuyện với nó không?
Anh bỗng giật mình.
- Ba Gấu ơi...
- Gì hả Tép?
- Ba Gấu có bao giờ buồn không?
Lượng nghĩ bụng, con bé già quá! Mà mẹ nó lại cứ thích nó già như thế, hễ nó nói một câu như bà cụ non là khen ngay trước mặt nó. Lượng đã cố chữa lại cho Nhung chuyện này. Nhưng Nhung bao giờ cũng nghĩ thầm cho rằng anh khắt khe, cái khe khắt của người nhiều tuổi. Những khi đó, Nhung không nói gì, mắt chỉ liếc liếc về phía con gái. Chỉ vài cái liếc liếc nhưng cũng đủ để
Lượng đoán định. Nhung muốn anh khen đứa con gái.
- Thế Tép có bao giờ buồn không?
- Tép không buồn. Chỉ khi nào xem ti vi có chuyện khóc thì Tép thích khóc. Thế thôi, không buồn.
- Ba Gấu thì khác, không bao giờ buồn.
- Tép biết, mẹ bảo ba Gấu cả đời vui sướng.
- Mẹ bảo thế nào?
- Mẹ bảo bố là người hạnh phúc.
- Ba Gấu ... (anh định nói "bố", nhưng kịp nói như mọi bận) ... ba Gấu thì không nhớ có
được mẹ của chúng mình khen như thế bao giờ.
- Con nhớ mà! Bố không tin thì thôi...
- ờ... ba Gấu tin con...
Lượng nghĩ thầm, mình vừa mới thay tiếng "con" cho tiếng "Tép". Anh nghĩ tiếp con bé
con làm gì đã biết thế nào là
buồn. Buồn là điều phải học, để có cái buồn tử tế. Chẳng qua nó mới nhắc lại những thứ quá
nhiều xa lạ bị nhồi vào đầu đấy thôi.
Xa lạ cả với mình! Anh nhớ lại lần đầu gặp Nhung. Bữa đó anh ra Thư viện tìm tài liệu. Trời mưa rất to. Buổi trưa người ta ra về ăn trưa, rồi chắc là vì mưa to nên buổi chiều bạn đọc chỉ
thưa thớt. Luyện ngồi vào bàn và thấy Nhung cũng đã ngồi đó. Ban sáng hai người ngồi đối diện nhau. Buổi chiều, quen lệ lại vào chỗ cũ. Hai người định nói gì với nhau, nhưng chỉ có cái mắt thỉnh thoảng liếc liếc. Hình như ngay từ bữa đó hai người đã có cái thói quen tinh tế nói ít hiểu nhiều.
Sau này, khi đã quen nhau và khá thân, Luyện mới dám hỏi.
- Vì sao em ly dị?
- Vì anh ấy hay ghen. Thế vì sao anh ly dị?
- Vì anh có lần trót tát cô ấy một cái. Tiểu thư bị tát thì nhất định là đòi ly dị bằng được.
- Anh có tiếc không?
- Anh vẫn nhớ và vẫn yêu cô ấy... Thế em có tiếc không?
- Không.
Hôm đó Lượng nghĩ, đàn bà bao giờ cũng dứt khoát thật! Mình thì có thể ở với cả cô vợ
cũ... và với cả em này... Mình yêu cả hai. Thế là sai hay đúng? Bữa đó, Nhung nói anh là người hạnh phúc. Lượng phá lên cười. Anh trêu Nhung:
- Em cũng có thể hạnh phúc như thế.
- Làm cách gì cho anh ấy khỏi ghen?
- Dễ thôi. Em không nghe chuyện kể dân gian bao giờ à?
- Dân gian thì gian lắm.
- Dân gian nhưng mà ngay thẳng, vì nói đúng bệnh chỉ đúng thuốc. Em chỉ cần làm theo phương thuốc dân gian, cầm một hòn sỏi giả vờ vứt xuống hồ Hoàn Kiếm, bảo là òm đi rồi. Thế là
hết ghen.
- Chẳng nhẽ ghen chỉ vì cái ấy thôi à?
- Thế còn vì cái gì nữa?
Cái đêm đầu tiên sau đám cưới lại, Nhung hỏi anh:
- Cho Tép nằm đâu?
- Dĩ nhiên là không nằm giữa.
- Chẳng nhẽ em với anh chỉ có chuyện đó thôi à?
- Thế thì thôi vậy, được không?
Nhung ngả đầu vào người anh, rồi ngả cả người vào anh thay cho câu trả lời. Anh xếp giường cho bé Tép nằm riêng. Anh kéo tay Nhung ngồi bên con gái, cho nó nhìn thấy hai người rạng rỡ hạnh phúc, hai người cùng nắm tay nó và chờ
cho nó thiu thiu ngủ, rồi anh bảo Nhung:
- Con ngủ và trong mắt con vẫn lưu lại hình ảnh em và anh.
- Em cám ơn anh.
ấy là lần duy nhất trong quan hệ hai người họ nói rõ ý riêng ra mà không chỉ dừng lại ở
những cái liếc liếc. Hôm Nhung đi công tác về, Luyện bảo bé Tép:
- Tép ơi hôm nay chúng mình đi xe máy ra đón mẹ nhé?
- Sao hôm nay bố con mình không đi xe buýt?
Luyện thấy như trong ngực mình khẽ nhói. Hoặc một cảm giác căng căng bên trong lồng ngực. Hôm ra toà ly dị người vợ trước anh cũng có cái căng căng trong ngực như thế. Rồi khi chia tay với đứa con trai anh cũng khẽ nhói trong ngực như thế.
Anh lấy cả hai tay nhấc bổng bé Tép lên, nhìn vào mắt nó và hỏi:
- Đố Tép biết vì sao?
- Hôm nay bố thích nhanh con thích nhanh.
- Hôm nay con có quà gì đón mẹ?
- Con sẽ kể với mẹ là ...
- Chuyện bí mật à?
- Mẹ dặn con không nói những gì mẹ kể.
- Thế thì không nói gì cả. Hai bố con im lặng như thế này này... Ba Gấu bắt chước người không nói. Mắt nhắm. Người đứng thẳng. Môi mím lại. Không nói gì cả. Bí mật. Anh mong con bé sẽ bật cười vì anh đóng kịch câm giỏi. Nhưng nó lại vẫn đuổi theo ý nghĩ riêng. Nó bảo:
- Mẹ dặn không nói, nhưng con kể với bố, mẹ nói bố cả đời vui sướng. Hai người đi trên chiếc xe máy cũ. Cái mái tóc của bé Tép chịn chịn vào mũi Lượng thơm thơm. Anh chợt thoáng nghĩ
đến đứa con trai riêng.
Ước gì trẻ em trên khắp thế gian này đứa nào cũng sung sướng. Đó là ý nghĩ hoàn toàn chân thành của anh vào lúc này, ngay bây giờ.
Viết xong truyện ngắn này, tôi in ra rồi đọc đi đọc lại và hồi hộp chờ dịp được tặng cái gia đình tình cờ bắt gặp nơi quán cà phê ăn nhanh mỗi buổi trưa.
Và tôi đã chờ hoài mà không gặp lại họ.
Đã mấy lần tôi tới đó, gọi một tách cà phê đen đặt một bên, chiếc điện thoại di động vỏ màu xám đặt một bên, bản in truyện ngắn đặt trước mặt, đọc đi đọc lại đến phát chán.
Và tôi chờ họ đến, song chẳng thấy họ đến.
Tôi chợt nghĩ, mình bây giờ như một vế câu đối, còn thiếu một vế nữa để thành đôi như hai anh chị kia. (Báo Văn Nghệ)
Dì Tuyết
Thuở nhỏ, tôi yêu dì Năm lắm. Tôi cứ tưởng dì là em họ mẹ tôi. Dì cũng rất quý tôi, mỗi lần đi chợ thị xã, về qua nhà tôi, dì không vào mà đứng ở gốc cây bàng, lấy nón quạt và gọi tôi:
- Thằng Tước đâu, ra đây dì bảo.
Tôi từ sau nhà, chạy ra hớn hở, lần nào cũng có quà. Một cặp bánh dày kẹp chả hoặc chiếc bánh đa trát kê và đường cát trắng, có rắc đậu xanh rồi bẻ gập đôi lại. Hai món quà tuyệt ngon mà
tôi ưa thích. Dì nhìn tôi ăn vẻ hài lòng:
- Mẹ cháu sang Hà Nội à? ở nhà có mấy chị em thì phải nghe lời chị, học hành chăm chỉ
nhá. Dì về đây. Lúc nào vào dì
chơi.
Nhìn dì cắp rổ đi, cái dáng uyển chuyển bởi chiếc váy lụa dài với những nếp như sóng lượn theo nhịp bước chân. Giải dây lưng màu hoa lý phấp phới. Dì Năm đẹp như cô tiên! Thực ra những cô tiên vẽ trên các chiếc ấm, bát đĩa tàu của nhà tôi thì áo dài tha thướt với những giải dây lưng bay lượn như mây, khác hẳn áo váy của dì Năm. Song tôi vẫn thấy dì gần gũi, thân thiết và đẹp biết bao. Thầy tôi làm việc trong một công sở ở Hà Nội. Thỉnh thoảng mẹ tôi đong ít gạo tám, làm thức ăn mang sang. Dì Năm và mẹ tôi rất thân nhau, có chuyện gì cũng bàn bạc với nhau. Hai người xưng hô là "dì", "già". Các con dì gọi thầy mẹ
tôi là bác và già. Chồng dì mất sớm, dì có ba người con, kể cả anh Lực là con riêng của chú
ấy. Con trai dì là Đích, hơn tôi ba tuổi, con gái là Thục, kém tôi hai tuổi. Một hôm ngồi nhổ tóc sâu cho mẹ, tôi hỏi:
- Mẹ này, sao dì Năm chỉ có họ với nhà mình mà không có họ với nhà cậu Thành?
Cậu Thành là em ruột mẹ tôi. Cậu trắng trẻo thư sinh, đi làm ở tỉnh xa. Vợ cậu là mợ Tú thì
hầu như không giao thiệp với dì. Tôi vốn không thích cái công việc gò bó mà mẹ tôi thường sai nhổ
tóc sâu. Mẹ tôi bắt bí:
- Nhổ được hai mươi cái tóc trắng có chân thì mẹ nói cho biết. Bắt một thằng bé mười ba tuổi cầm hạt thóc và rẽ những đường trên mái tóc dày đen như
mun để tìm những sợi tóc trắng ngắn ngủn mà phải nhổ được cả chân! Thật là một việc nặng nhọc đối với tôi. Nhưng rồi tôi cũng được nghe mẹ
kể...
Cô gái có cái tên đẹp: Tuyết. Nhưng vì trùng tên húy của cụ mấy đời trong họ nên bị gọi chệch là Tít. Cô Tít có nước da ngà, mái tóc huyền, mắt phượng. Con gái ngày ấy điệu đà là mặc áo cánh bó sát người, tay áo cũng ôm khít cánh tay, cổ tay phải trích độ ba phân đính khuy bấm để lúc mặc áo mới xỏ được tay. Váy lụa dài chấm gót, chỉ khi gánh nước hay làm lụng mới xắn cao lên để
lộ hai chiếc cổ chân tròn trịa trắng ngần. Cô Tít để ý đến một chàng trai, cậu Tín Thành con trai út cụ đồ Yên. Thực ra, cậu Thành đã thầm yêu cô Tít từ lâu nhưng chưa tìm được dịp để thổ lộ nỗi lòng. Cậu mơ cảnh vợ dệt lụa, chồng ngâm thơ. Mẹ cô Tít có nghề dệt lụa. Bà là con gái làng La Cả, Hà Đông. The La Cả nổi tiếng mỏng, đẹp và bền. Cô Tít được mẹ truyền nghề. Hai mẹ con toàn mặc hàng the. Mẹ thì áo the đen, the nâu, con gái mặc the màu mỡ gà, nom óng ả nuột nà. Đàn bà, con gái làng này dần dần cũng chuộng hàng the. Rồi nhân ngày làng mở hội, cậu Tín Thành đã tìm cách ngỏ lời với người đẹp. Đôi mắt phượng chớp chớp rồi cụp xuống. Họ đã hẹn hò để gặp gỡ
nhau. Cậu Thành thưa với cha mẹ và ông bà đồ Yên nhờ
người sang đánh tiếng. Theo tục lệ của làng, nào chạm ngõ, sêu tết, rồi ăn hỏi linh đình. Cô
Tít, cậu Thành đã được hai gia đình định ngày tiến hành hôn lễ. Ai cũng tưởng cặp trai tài gái sắc ấy nên vợ nên chồng, hạnh phúc đề huề. Nào ngờ hôm rước dâu, cô dâu mặc áo mớ ba, váy the chấm đất, nghiêng chiếc nón quai thao để bước vào cổng nhà chồng thì bỗng con chó nhà cậu Thành đã xích tận chuồng trâu mà nó giật tung cả xích, xông ra cắn rách tan ba vạt áo dài của cô dâu. Những mảnh lụa màu huyết dụ, màu hường, hồ thủy tơi tả. Điềm gở chăng? Cả hai họ trong đám rước dâu hốt hoảng. Ông đồ Yên đi đi lại lại trong gian nhà
thờ, cặp lông mày nhíu lại.
Tin đến là nhanh, đã đến tai ông Trưởng Thọ, bố cô Tít. Ông Trưởng vội nhờ ông anh họ
sang có lời với ông bà đồ
Yên xin đón cô Tít trở về ngay. Ông Trưởng cứ lẩm bẩm: "Lẽ ra chó thấy cô dâu mới thường vẫy đuôi mừng. Đằng này xích tận chuồng trâu mà dứt xích, không cắn ai chỉ cắn cô dâu. Thế là hỏng!". Một đồn mười, mười đồn trăm. Cả làng nháo nhác lên. Chỗ này chỗ kia tụm năm, túm ba bàn tán. Không ai dám vào nhà cô dâu chú rể. Chỉ có mấy cụ già chống gậy sang hỏi thăm. Người ta ngồi so lại tuổi, tính lại giờ đón dâu nhưng không có gì trắc trở cả. Vậy thì tại sao?
Cô Tít khóc sưng cả mắt, không bước ra đến sân. Cậu Tín Thành như phát điên, giật xé hết những bức trướng và câu đối mừng đám cưới, đập phá đồ đạc khiến mọi người phải vào can ngăn. Thương con, bà đồ Yên đi sang nhà cô Tít, xin ông bà Trưởng làm lễ giải vía để đón con dâu về. Ông Trưởng buồn rầu thưa lại:
- Thưa bà, trăm đường tránh không khỏi số. Số trời đã định nếu cưỡng lại thì e sau này lụy đến các cháu. Như thế còn khổ hơn...
Mẹ cô Tít cùng bà chị dâu họ về tận Phủ Giày lễ thánh Mẫu và xin thẻ. Ôi dào, Thánh đã
dạy thế. Đôi này không thể ăn đời ở kiếp với nhau. Ông bác họ cô Tít lên giọng đọc tấm thẻ: Duyên kiếp hẹn hò đã mấy đông
Ai ngờ như thế, thế mà không
Thôi thôi chốn ấy đừng mơ tưởng
Phượng ấy rồi ra sánh với rồng.
Tấm thẻ làm yên lòng mọi người: "Thánh đã dạy thế!".
Cậu Tín Thành chán chường, bỏ sang Hà Nội, nhờ anh rể thứ hai xin việc làm. Nghe đâu cậu làm thư ký ở toà đốc lý, lương rất hậu. Vì thất tình, cậu không tu chí làm ăn, nổi tiếng chơi bời ở chốn lầu xanh. Cậu đặt tên cho một cô đào nhân tình là Mộng Tuyết. Rồi cậu thụt két. Hai bà chị
phải chạy vạy cho em thoát tội. Sau đó, hai bà chị ép em trai lấy một cô gái buôn bán đảm đang, căn cơ và có của: cô Tú. Cô Tú có cửa hàng vải ở thị xã. Lấy cậu Thành được ba năm, cô đã sinh liền hai đứa con trai. Cô Tú rất hay ghen. Chẳng biết từ đâu cô hiểu mối tình trắc trở của chồng với cô
Tít, lại biết có cả "cô Tuyết trong mộng" nữa. Một lần cô cười nửa miệng, hỏi chồng:
- Cậu bây giờ đã hết mộng chưa? Đời thực khốn khổ nhãn tiền mà vẫn còn mơ mộng ư?
Cậu Thành không nói gì, chăm chú nhìn vào tờ báo vẻ như không nghe vợ hỏi. Thực lòng, cậu rất thương cô Tít nhưng không dám thăm hỏi, an ủi. Mỗi lần gặp bà chị cả mà không có mặt vợ, cậu mới dám hỏi để biết về cuộc sống của cô. Phải mấy năm sau khi cậu lấy vợ, cô Tít nhận lời lấy chú Năm, một người đàn đàn ông goá vợ, có một đứa con trai mười tuổi. Ăn ở với nhau được hai mụn con thì người chồng bị chó dại cắn chết. Cô Tít vẫn canh cửi sớm khuya để
nuôi hai con và con riêng của chồng. Chẳng dè lớn lên, thằng Lực lại yêu cô em gái út của cô Tít. Tuy rằng không máu mủ ruột rà nhưng trước nay vẫn coi như dì cháu. Cô và ông bà trưởng Thọ can ngăn khuyên bảo nhưng hai đứa nó say nhau, bỏ nhà trốn đi. Đến khi đã có với nhau hai mặt con, vợ chồng Lực mới kéo nhau về xin gia đình tha thứ, chấp nhận để hai đứa trẻ khỏi tủi. Miệng lưỡi thiên hạ thật độc địa. Họ dè bỉu là gia đình loạn luân; cô Tít cao số, cái điềm con chó
cắn rách áo cô dâu thế mà linh nghiệm. Thật là may cho cậu Tín Thành, người chồng sau này dù đã
qua một đời vợ, vẫn bị chết yểu... Cậu Thành nghe hết những điều đó, cậu không cho mình là may, lòng đầy oán trách nhưng biết oán trách ai, chỉ ngậm đắng nuốt cay một mình. Mọi lần tôi đếm từng sợi tóc trắng nhỏ xíu, có khi còn ngắt một sợi thành hai để chóng đủ
số tóc phải nhổ. Lần này mải nghe chuyện, tôi nhổ rất chăm chú. Khi mẹ tôi ngừng kể thì mảnh vải quần đen nơi đầu gối bà trắng xoá. Mẹ tôi thở
dài:
- Con thấy chưa, mẹ sắp bạc hết đầu rồi đấy. Mẹ cho con biết chuyện của dì Năm để con hiểu rằng mẹ rất thương dì. Dì không được là em dâu thì mẹ coi dì như em gái. Con không được hỏi dì Năm điều gì nhá. Dì đau khổ
nhiều rồi, nghe không Tước?
Tôi tỏ ý vâng lời mẹ. Từ đấy tôi càng quý dì hơn, năng đến thăm mẹ con dì hơn, và những món quà mỗi khi dì đi chợ về
qua, tôi chạy ra nhưng không hớn hở và ăn ngấu nghiến như trước. Dì hỏi:
- Cháu không thích món này nữa sao?
Tôi ngước mắt nhìn dì:
- Không, cháu vẫn thích dì ạ. Có điều cháu đã lớn rồi, dì mang về cho em Thục. Dì cười:
-Ôi dào, ra vẻ làm anh quá nhỉ. Dì mua rồi, Thục nó thích ăn sắn dây luộc để nhai như nhai trầu ấy. Tôi lại nhìn theo dáng đi uyển chuyển của dì. Chợt nhận ra dì không mặc giống mẹ tôi, không giống mợ Tú hoặc những người đàn bà khác. Trong làng tôi có lẽ chỉ còn dì và mấy bà già lụ
khụ là mặc váy. Mẹ đã dặn là không được hỏi dì
điều gì. Tôi láng máng hiểu rằng việc giữ nguyên y phục cũ có phải dì muốn mãi mãi là cô
Tít thuở xưa?
Tôi sang Hà Nội học, thỉnh thoảng mới về thăm mẹ và lần nào cũng đến thăm dì Năm. Thật lạ, năm tháng cứ đi vùn vụt, anh Đích con trai dì đã lấy vợ, Thục càng lớn càng giống dì như khuôn đúc, vậy mà thời gian không khắc được những nét già nua trên mặt dì. Dì vẫn giản dị, mộc mạc, vẫn đẹp. Tôi nhìn khung cửi để không hỏi dì:
- Dạo này dì không dệt lụa, dệt sồi nữa ư? Thục đi đâu ạ?
- Em Thục vừa rồi trúng tuyển vào nhà máy dệt. Dì cho em nó vào tập thể, có chị có em cho nó dạn dĩ lên. Ru rú ở nhà
thì mẹ vui nhưng con lại buồn lây...
Tôi thắc mắc hỏi:
- Em Thục làm ở nhà máy thì tốt rồi. Nếu em ở nhà giúp dì, có mẹ có con cũng vui chứ sao lại buồn lây?
Dì cười buồn:
- Cháu còn ít tuổi lại đi học xa, chưa hiểu hết lẽ đời đâu. Bây giờ người ta nói là gì nhỉ, à, định kiến. Phải đấy, họ có
định kiến với dì và lây cả sang con Thục nữa đấy. Hồng nhan bạc mệnh, hồng nhan đa truân, cháu ạ. Cái số mẹ con dì
chẳng ra sao...
Trước vẻ ngơ ngác của tôi, dì vỗ vào vai tôi, dịu dàng:
- Thôi, cháu về đi kẻo mẹ đang đợi cơm đấy. Về nhà có một ngày mà đến với dì là quý lắm rồi. Lúc tiễn tôi ra cổng, dì nói bâng quơ nhưng tôi thấy xót xa:
- Nếu biết được số phận mình hẩm hiu thì nên gửi thân nơi cửa Phật. Mệnh bạc thì dù gắn bó với ai cũng chỉ làm khổ
người ta...
Tôi về nói lại với mẹ. Mẹ tôi bảo:
- Đúng đấy, con ạ. Người ta bảo rằng dì ấy nhan sắc lồ lộ như thế là cái nhan sắc... giết người đấy! Cả cái con Thục cũng thế, nó lại biết ăn mặc theo kiểu mới chứ không nệ cổ như mẹ nên càng đẹp. Đàn bà còn thích ngắm nó nữa là...
Con xem, ông già bà cả trong làng này có ai dám đánh tiếng xin nó cho con, cháu đâu. Ai cũng sợ cái nhan sắc... chôn chồng giống mẹ nó - mẹ tôi bỗng hạ giọng như nói thầm - Lại còn chuyện vợ chồng thằng Lực nữa. Chồng thì gọi dì, vợ gọi chị, lũ con chúng nó chẳng biết gọi dì ấy bằng bà hay bằng già nữa. Rõ cái nhà lộn tông! Thương dì ấy thì thật thương, nhưng...
Tôi hiểu cái "nhưng" bỏ lửng ấy. Nó làm giảm đi lòng nhân ái và thông cảm hết mình. Nó
chỉ còn là sự thương hại dửng dưng. Biết bao giờ mới phá nổi cái ách vô hình nhưng lại rất nghiệt ngã chụp xuống đời hai mẹ con dì Năm, người dì
không phải họ hàng của tôi?
Ngày giỗ ông ngoại tôi, cậu Thành về. Cậu về có một mình. Trông cậu xanh xao. Cậu bảo với mẹ tôi: "Em bị bệnh tim, chết lúc nào không hay. Lần này về thăm mộ thầy đẻ, thăm chị và các cháu". Mẹ tôi gắt cậu chỉ gở mồm. Có bệnh thì
chữa, thiếu gì người bệnh tim mà vẫn sống lâu. Cả nhà đang ngồi nói chuyện thì dì Năm bước vào. Dì nhớ ngày giỗ
ông ngoại tôi nên đưa hoa quả và chai rượu để mẹ tôi thắp hương cho ông từ hôm qua. Dì
đoán tôi về, nhưng vì tôi đã
lớn, dì không gọi từ ngoài cửa mà mang quà vào. Nhìn thấy cậu tôi, dì sững người, tái mặt. Chỉ một thoáng dì trở lại bình tĩnh, chào mẹ và cậu tôi rồi đặt tấm bánh đa kê lên bàn:
- Quà của Tước đây.
Tôi reo lên:
- Dì vẫn mua quà cho cháu!
Nhìn thấy tấm bánh đa kê, mặt cậu tôi tươi lên:
- ồ, bánh đa kê, ngon quá nhỉ. Dễ đến hơn chục năm tôi không được ăn món quà này nữa. Tước cho cậu ăn với nhé. Món bánh đa kê quả là thần tình, nó phá tan bầu không khí gượng gạo, ngượng ngập của những người lớn. Cậu Thành ăn rất ngon lành. Dì Tít không nhìn cậu nhưng vẫn hơi mỉm cười. Họ hỏi thăm nhau về sức khoẻ. Khi nghe cậu tôi nói bị bệnh tim, dì vẫn không nhìn cậu nhưng bảo:
- Cậu xanh lắm. Phải biết giữ gìn sức khoẻ.
Không ngờ lần gặp ấy lại là lần gặp cuối cùng. Cậu Thành tôi mất sau đó ba tháng ở bệnh viện tỉnh. Đến lúc bệnh trở
nên trầm trọng, cậu đòi về bệnh viện tỉnh nhà.
*
Mấy chục năm qua. Mẹ tôi và dì Năm cũng đã ra đi. Bây giờ lại đến lượt các con tôi hỏi:
- Bố ơi, cô Thục có họ với nhà mình như thế nào?
Tôi kể với các con tôi về mối quan hệ giữa mẹ cô Thục với mẹ tôi - bà nội của chúng như
một chuyện cổ tích. Tôi bảo các con hãy coi vợ chồng cô Thục và các em như bà con họ hàng. Cô
Thục một phiên bản trung thực về hình ảnh dì
Năm của tôi, nhưng Thục tươi roi rói. Cô đã trở thành phó giám đốc xí nghiệp dệt. Còn dì
Năm với dáng đi uyển chuyển, những nếp váy theo bước đi như sóng lượn vẫn là một kỷ niệm đượm buồn trong tôi. (Báo Văn Nghệ)
Thợ trồng cây
Thằng Cưng là "cục cưng" của đời Thắm. Đứa con so ra đời trong một hoàn cảnh khó đẻ, suýt phải mổ. Bác sĩ bảo vì
sinh con so khi tuổi đã cứng. Cũng như trước đây, chị mòn mỏi vì lo ế. "Nồi méo úp vung méo", câu nói không sai với trường hợp chị. Anh Quýt tìm đến chị là đong vơi nỗi lo, nỗi hoang mang, đong đầy niềm vui, niềm hạnh phúc. Đêm nào ngủ bên chồng, chị cũng có thời gian dành những lời nói thầm, nựng yêu với anh. Nếu như có anh Quýt giải quyết chặng thứ nhất cho đời chị, thì thằng Cưng giải quyết chặng thứ hai. Ngày sinh con, đau ơi là đau, chị đã gào tên chồng lên cho đỡ đau mà "hòn máu" vẫn ngắc ngứ không lối thoát. Mồ hôi đầm đìa, càng cố rặn thì sức càng kiệt. Cuối cùng, bằng một nghị lực "được ăn cả, ngã về không", dành chút sức tàn của người cứng tuổi, chị rặn thật lực. Tiếng khóc "oe oe" đã bật dậy niềm vui tức thì, át hẳn nỗi đau như xé cả thân xác. Chị đã vượt cạn thành công. ý nghĩ ban đầu xuất hiện: "Ngay từ giờ đừng hòng có thế lực nào cướp đi "tài sản" của mình!". Cũng từ bấy, từ trong ý nghĩ, chị đã
biến mình thành kẻ ích kỉ nhất, tỉ mỉ, chỉn chu nhất đời. Có nghĩa là bất cứ lời nói nào, bất cứ sự chắt chiu, chịu khó nào cũng tập trung vào cho "cục cưng" của mình. Mọi việc xung quanh trở thành "muỗi", con trai bằng cái đình, bằng trời đất. Tuổi ngoại ba mươi, nhưng kinh nghiệm nuôi con, chị mới vỡ lòng. Lương thợ hai vợ chồng nay có việc, mai mất việc khiến "cục cưng"
cũng thua thiệt hơn con người ta. Khi cưng biết ăn, thì đã có bữa, bố mẹ cơm rang, con cũng cơm rang. Bụng dạ người già như vợ chồng họ chịu được cơm lẫn bụi, nước lẫn cát, nhưng bụng thằng Cưng không chịu được cơm rang. Con bị té re, mẹ vẫn "lơ ngơ như bò đội nón". Nó càng đi nhiều lần thì chị càng cuống quýt lên, lú
lẫn, mụ mẫm. Nghe hàng xóm, rang gạo lên cho con uống, ruột nó vẫn không nghe. Cho đến khi thuê xe ôm vắt con trên vai như vắt một cái giải khoai ra bệnh viện. Van xin, lạy lục, trong ba mươi sáu chước, chước này động lòng trắc ẩn nhất. Không một đồng trinh lót tay, thằng Cưng vượt được hiểm nghèo. Qua đận đó, lòng trống rỗng khôn nguôi, chị
thầm xin lỗi con "mẹ không xứng đáng là mẹ. Mẹ hứa sẽ không để xảy ra lần thứ hai". Bữa cơm có tí thịt, tí cá là của hai con. Vợ chồng họ ăn vẩy, mút xương, ăn mỡ, ăn bì, chan tí nước kho. Một bó rau cũng hai phần thực đơn: xào của hai con, luộc của bố mẹ. Hai đứa thấy lạ, hỏi "bố mẹ
ăn cá, ăn thịt đi chứ", anh chị
đồng thanh cười "chúng tao không thích, ăn quả cà pháo nó đượm hơn, rau luộc mát cái bụng, lại dễ tiêu". Chúng chịu trước lí lẽ của người lớn. Chị khắc vạch lên cái cột nhà cho chúng đo chiều cao. Nhìn thằng Cưng, cái Chiều lớn lên từng năm một, chị cười ứa nước mắt. Những đứa trẻ
diện những bộ cánh cũ mặc lại của các anh chị con bác chúng cho, chúng soi gương khoái chí cười, chị chớp mắt ngoảnh đi. Sao bố mẹ không khá hơn cho chúng con đẹp hơn trong những bộ quần áo mới?
Đồng hồ đếm mười một giờ rưỡi trưa, cái Chiều mới đi học về kia. Nhìn con gái mang trên lưng cái cặp nặng những sách là sách, mặt bợt bạt, chị lại chơm chớp mắt. "Mẹ ơi, hôm nay lớp con được cô hiệu trưởng đến dự giờ, bạn Gái bị cô túm tai hỏi "bạn này không chịu đi học thêm à?
Điểm kém là phải". Cô chủ nhiệm và các cô ghét lắm! Bạn ấy toàn điểm ba phẩy, bốn phẩy". Đặt cặp sách xuống, Chiều lôi ra trước mặt bố mẹ và anh Cưng một trang vở mực tím ghi dài những dòng tên, con số các khoản còn thiếu phải đóng góp: quĩ trường, quĩ lớp, quĩ phụ huynh trường, quĩ
phụ
huynh lớp, quĩ đội, tiền học thêm cô Vòi dạy trong trường, cô Vĩnh dạy ngoài trường...
Thắm nhìn hoa cả mắt, thở dài, rối bời gan ruột. Bỏ ra ba trăm nghìn mua cặp kính cận cho con, xót tiền một thì xót cho đôi mắt con mười. "Không có
kính, ngồi xa, con không tài nào nhìn thấy chữ gì trên bảng", nó nói mãi chị mới tin. Anh Quýt xẵng lên:
- Thôi, bỏ học quách đi, bố mẹ không lo được đâu, chúng mày lớn lên làm thợ với bố!
- Bố nói không xây dựng tý nào. Đừng nghe bố các con ạ. Mẹ có mặc áo vá, mặc áo bảo hộ
cả đời thì cũng phải lo cho các con được ăn học - Chị Thắm tuyên bố một câu xanh rờn.
- Mẹ con mày lãng mạn vừa vừa thôi - Anh Quýt khoác bảo hộ vào - Tay đội trưởng nó
nhắn đi làm đấy. Đêm nay, cả
ngày mai chủ nhật cũng làm để Công ty chi cho mỗi người một ít. Ra muộn chúng nó nói cho.
- Hai đứa khoá cửa cẩn thận đi ngủ nhé! Bố mẹ làm ca gần sáng mới về đấy - Chị dặn con, vội đội nón theo ra ngồi sau xe đạp, hai vợ chồng đi về phía đồng Tran.
*
Trong căn nhà cấp bốn của mình, nhiều đêm gió mát trăng thanh lọt qua cửa sổ, Thắm trằn trọc không ngủ được. Chị
vẽ ra bức tranh hạnh phúc. Tưởng chừng số phận của bà cô được đóng đinh vào chiếc giường một ở một góc rừng núi xa xôi nọ, thì giờ đây, chị đã có chồng, con, nhà cửa. Còn gì nữa?
Có các con cũng đồng thời có những đứa bạn nó kéo đến nhà chơi, làm ríu rít thêm căn nhà. Lúc một, lúc hai, ba đứa, có lúc kéo cả đoàn, tự dưng như bầy chim sẻ
cứ thế là sà vào thôi. Nghe chúng chào, nhìn chúng vui, chị thấy xao lòng và một chút tự
hào, vì từ thằng Cưng, con Chiều mà có chúng bạn. Từ sáng sớm, có rá sắn luộc sẵn để trong chạn chờ đi làm về trưa mệt đem ra ăn. Khi lục đến chỉ còn mấy mẩu sần xơ, chị quay sang Cưng:
- Sao hôm nay hai đứa ăn nhiều thế? Cẩn thận kẻo say đấy!
Cưng cười hơn hớn:
- Cả bạn mới của con ăn nữa. Đây là bạn Mong mới chuyển về lớp con. Chị nhìn Mong mệt mỏi không đáp lời, quay đi vo gạo thổi cơm. Lý trí nhắc chị rằng, thương con là chịu cho con tất cả!
Từ bấy, trong đám bạn, thằng Mong hay đến nhất. Thường có bộ ba trông nhà cho anh chị
đi làm. Tối, gió mát trăng thanh, chị tâm sự với con:
- Con có vẻ thân bạn Mong nhỉ?
- Con thích nó hiền - Cưng đáp.
- Nó học có giỏi không?
- Cũng được. Nhưng nó không chơi được với nhiều đứa, thầy cô hay phạt...
- Chắc bạn ấy mới về chưa quen?
- Không. Nó không chịu học thêm, trong khi cả lớp con học thêm. Lớp con tổ chức đi tham quan, đi liên hoan, nó cũng không tham gia. Cô chủ nhiệm cau mặt không nói gì. Bọn trong lớp ê
hề, chê ki bo, kẹt xỉ, không chịu chơi. Nó là đứa đóng tiền đồng phục cuối cùng...
- Bộ đồng phục màu trắng ấy à?
- Đấy là đồng phục mùa hè, đồng phục mùa đông cơ. Mẹ đã từng gào lên định không chịu đóng tiền cho con là gì? Cô
giáo nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần, nó là đứa đóng tiền cuối cùng. May mà nó còn học được... Nó bảo mẹ nó không có tiền.
- Mẹ hiểu rồi. Mẹ nó cũng như mẹ - Bỗng dưng chị ôm đầu đứa con đã học cấp ba của mình hôn chùn chụt như ngày còn thơ bé - Thế thằng Mong con cái nhà ai?
Đến câu này thì Cưng gắt lên:
-Con không biết! Mẹ cứ hay vặn vẹo.
"Mẹ cháu tên là Dịu, cháu không có bố...", nghe Mong nói vậy, chị đã lờ mờ hình dung...
Ngày lên đồi trồng dứa, trồng chè, không ai còn nghĩ gì ngoài định mức, năng suất. Chị em cũng không để tâm nhiều rằng mình người tổ này, tổ kia, ở đội trồng dứa hay trồng chè. Chị cả, em út, đôi khi cũng "cá mè một lứa" nói năng mất mặn, mất nhạt chỉ vì năng suất, sản lượng; vì đồi dứa, đồi chè xanh ngắt một vùng. Dứa chè càng xanh ngắt thì
lòng họ càng được thoả mãn. Cây càng tươi non, nhiều búp, càng sai quả, càng là niềm vui của người trồng. Chị đang có tháng quặc lại bà tổ trưởng lắm lời. Lính mới cũng phải cố lên cho bằng "ma cũ". Chỉ có đêm về. Đêm che mắt, yên tĩnh, đêm cô đơn. Bấy giờ làng chị em ở nông trường này mới "trăm hoa đua nở". Ban đêm ra vào rặt một cư xá chị
em. Họ thấy mình không còn vui, còn mới. Những câu chuyện tán, những chuyện cười cũng không còn buồn cười. Kẻ
đan len, người đan sọt làm thêm. Chuyện len, chuyện sọt, chuyện rau dưa, hành tỏi... "điệp khúc" cũ mèm. Thèm một bóng dàn ông, dù gầy gò, đen đủi cũng vẫn có cơ may làm "mồi" cho
"bữa tiệc" tán tỉnh... Bấy giờ, bọn họ chỉ còn thấy gần nhau hơn trong cùng một tổ, một đội, cùng định mức, cùng lương thưởng... Gần hơn nữa, tao với mày đồng hương; đồng hương huyện, đồng hương xã càng tốt. Nấc cuối, sâu nhất là gặp nhau trong hợp tính nết, ăn uống, sở
thích. Thắm và Dịu đồng tỉnh, đồng tổ, lại đồng buồng, sao mà hợp nhau! ở càng lâu càng quí nhau hơn ruột thịt. Thắm về nghỉ phép ở quê, Dịu cho vay thêm tiền. Mỗi ngày xa là một ngày mong trở lại. Khi ai có tháng, ốm đau, người kia chăm nom giặt giũ, ngày đèo lên trạm xá, đêm xoa dầu, sắc thuốc, bón cháo... Thắm khéo tay đan len, đan luôn cho Dịu chiếc áo len. Trong khi nhận đan sọt làm thêm chút đỉnh kiếm tiền giết thời gian, ngày nghỉ; thì việc xả nứa, chẻ
phanh, Dịu xốc vác hơn. Món canh sắn ăn vã cải thiện, Dịu bỏ thêm rau cải, thì bữa sau theo ý thích Thắm, bỏ thêm cà
chua...
Nguyên nhân từ sự xuất hiện của anh Quýt. Đêm ấy, gió mát trăng thanh. Trăng thắp sáng cả một vùng đồi rộng lớn. Đội làm đường của Quýt hợp đồng thi công đoạn đường trước cổng nông trường. Ai nấy đều đã về yên giấc tại lán của đội ở bản bên kia đồi. Riêng Quýt, anh thợ lái lu phải ở lại trông "đứa con" nặng nề, ngủ luôn trên xe lu. Dù không là nhà thơ, phong cảnh này cũng khiến Quýt cao hứng và xúc động. Anh xôn xao nhớ một điều gì, bật dậy tha thẩn dạo bộ về phía lán nông trường giờ đang im lìm ngủ. Anh vẽ ra trong khối im lìm sau hàng rào kia là bức tranh đồng loạt những chị em đang ngả người ngáy pho pho, phần đa họ là những người luống tuổi chưa chồng. Anh làm con mèo, bước tới hàng rào, đi lại, lòng nôn nao. Một cánh cửa phòng mở. Kìa, một trong số những chị em đã đi ra, về phía hàng rào và ngồi thụp xuống. Quýt chạy tới, kịp gọi khẽ khi người ấy vừa đứng lên:
- Chị gì ơi, tôi nhờ tí. Tôi đau bụng quá, có tí dầu xoa nào không?
Thoáng giật mình, rồi Thắm bối rối đưa lọ dầu "con hổ" trong túi ra. Quýt cuống quýt:
- Qua lỗ hổng của hàng rào đây. Chị tới đây giúp tôi với...
Không hiểu sao, Thắm mạnh bạo theo cánh tay dắt của Quýt chui qua lỗ hổng ra ngoài hàng rào nông trường. Anh rủ
chị lên ngồi trên xe lu, xoa dầu hộ anh. Bất ngờ, anh quàng tay ôm vào vai chị. "Chết, sao lại thế? Tối mai mời anh vào lán chúng em chơi". Khi khách qua cổng, người đàn ông tên Quát ngồi ở cổng bảo vệ nông trường trừng mắt đáp cụt ngủn: "Chỉ cho phép ba mươi phút thôi nhé. Bật điện lên!". Bóng dáng đàn ông của Quýt xuất hiện tại phòng khiến Thắm mới mẻ lên, cũng đồng thời xuất hiện đầu tiên những đợt sóng ngầm âm ỉ trong lòng Dịu. Buổi đầu, Dịu còn giả
tảng cười hiếu khách. Hôm sau, chị dửng dưng. Hôm sau nữa, Quýt chào, Dịu không đáp. Cho đến lúc, Dịu không thể
yên được khi phải nghe những lời có cánh Quýt nói cười với Thắm. Chị em trong dãy lán cũng mượn cớ đi qua ngó
mắt vào, hoặc sang xin thìa đường, mượn cái lược để nhìn tận mặt khách. Đêm về, hai giường nằm song song, giả vờ
ngủ, nhưng cả Thắm và Dịu đều xoay trở. Dịu miễn cưỡng trả lời những câu Thắm hỏi. Những đêm sau, khi Thắm được người đàn ông lực lưỡng ấy rủ đi chơi, thì ở nhà, Dịu trùm chăn tắt đèn đi ngủ sớm. Trong chăn, mặt nóng bừng, Dịu khóc. Chị tức bạn! Tức người đàn ông "cướp"
Thắm đi, tức bản thân sao không có nổi một người đàn ông? Tiếp, dậy bật đèn, tung chăn, sang các phòng bên của dãy lán, thêu dệt nói xấu Thắm với các bác, các chị, các cô. Tất cả
đều đứng về Dịu như những cử tri trung thành, hờn dỗi, ghen ghét ra mặt với Thắm. Kẻng ngủ vang lên, Dịu về phòng để trùm chăn tiếp. Đến giờ này con "nặc nô" vẫn còn đú đởn, hú hí tận đâu chưa về? Bỗng chị nhớ lại, cách đây không lâu, chị đã tâm sự với Thắm, có một lần lão Quát bảo vệ đã nắm tay chị sàm sỡ. Thắm lên giọng ngay: "Không được!
Lão ấy người trong bản, đã có vợ con. Nông trường chỉ thuê trông coi cổng. Cậu mà dây vào là hậu hoạ đấy!". Dịu gật. Lần sàm sỡ sau của lão, Dịu giật phắt tay ra. Trời đất! Hắn chỉ
khuyên mình thôi, còn hắn...
Không còn những bữa cải thiện chung bếp nữa. Ăn cơm tập thể về, hai người hai giường đang ngồi yên lặng. Sẵn có
bếp dầu, lại có dầu ma dút đun Quýt vặt từ máy lu ra, đôi tình nhân nấu cơm chung ngày chủ nhật, mời nài ăn, nhưng Dịu từ chối. Con "phản thùng" này có mới nới cũ! Ngày trước, nông trường phân cho mình chiếc xe đạp Thống Nhất, mặt hắn nặng như chì. Bây giờ, hắn đòi mình thông cảm chắc? Chủ nhật sau, vừa thấy Quýt ló mặt, Dịu sửa túi sang phòng bên rủ bạn đi chơi ngay. Đi với chị em khác nhằm để xoa dịu, nào ngờ họ đổ thêm dầu. Tuy nhiên, Dịu cũng đã
có cách của mình. Đêm đến, tự dưng Dịu đi qua cổng bảo vệ nông trường nhiều hơn. Về
giường, cô nằm bấm đốt ngày sinh tháng đẻ của mình, nhớ lời mẹ dặn rằng, người con gái sinh nở
tốt nhất vào tuổi ngoài hai mươi. Giấc ngủ
cứ thế cuống lên, cuống lên, chạy như ngựa..., vừa mới nằm đã ba, bốn giờ sáng. Khi thấy Thắm miệng nôn oẹ, lôi khế trong túi ra ăn, mắt Dịu loé sáng, miệng tru tréo cho một cơ hội. Chỉ
ngay hôm sau ra hiện trường, lời đồn đại về
một kẻ sớm muộn cũng bị kỉ luật từ đám chị em đã lọt vào tai Thắm. Người Thắm nổi gai, lòng run rẩy. Chỉ có cái Dịu tọc mạch! Chị tổ trưởng gọi Thắm ra bìa rừng, khuyên bảo nên tẩy nạo đi, may ra còn kịp gỡ gạc. Bữa trước, Thắm là
tội nhân của Dịu, thì bây giờ tình thế xoay ngang, Thắm là quan toà. Thì cứ "thương nhau cho lắm" đi để mà "cắn nhau cho thật đau?!". Thắm lại có ngay nước cờ. Dù "giọt máu" trong người còn mong manh dễ vỡ, Thắm quyết săn lùng!
Với chiếc đèn pin trong tay và một linh cảm chính xác, Thắm đã soi tỏ tận mặt lão Quát đang đè Dịu ra trong lán bảo vệ
nông trường. Dịu vái lạy như tế sao, còn Thắm thì cười sằng sặc điên dại, cứ thế lu loa ầm lên trong đêm cho một lần lập công.
Thắm nhận án kỉ luật đuổi việc khi cô đã có bầu với lí do "không tôn trọng nội qui nông trường, làm gương xấu cho chị
em". Chị tổ trưởng ôm lấy cô trong nước mắt giàn giụa: "Nếu em chịu nghe chị đâu đến nỗi này?". "Cám ơn lời khuyên của chị, nhưng em dám chịu mà!", Thắm lắc đầu, mắt ráo hoảnh. Vợ chồng Thắm chạy chọt xin được chuyển về Công ty dưới xuôi này. Nghe chuyện đứa bạn của con, chị mới biết Dịu cũng theo vết xe đổ của chị. Và Thắm khóc, toàn thân rung lên, ôm lấy đầu thằng Mong trong một cảm huống đột ngột:
"Các con của tôi!". Cưng và Mong đều hết sức ngỡ ngàng. Chị gọi chồng:
- Mình ơi, thôi đi! Bổ chừng ấy củi đủ rồi. Vào đây mà xem, con cô Dịu đây này!
Anh Quýt vội lao tới ôm lấy Mong, nhìn kĩ nó như nhìn một hành tinh lạ:
- Mình xem, đôi mắt nó buồn dịu, nhẫn nhịn, giống mắt mẹ quá đi mất!
- Thì mẹ nào con ấy chứ. Các con phải coi nhau như anh em nhé!
- Phải rồi, lại nói chuyện anh em, bố nhớ, cả cái thằng beo béo đến nhà mình lần trước cũng có họ hàng xa với nhà
mình đấy!
- Bọn con gọi nó là thằng Béo.
- Đợt trước về quê giỗ họ, bố bắt gặp bố con nhà nó, cũng cười chào, nhưng thằng bé không nhận ra bố. Nó đến nhà
mình mỗi lần phải không?
- Đến mỗi lần. Thấy bàn ghế nhà mình cũ, nứt, nó bĩu môi. Ngửi thấy mùi phân từ chuồng lợn bay vào, nó bịt mũi lắc đầu cho qua luôn... Lớp con có mấy "hội" liền. Hôm rồi, thằng Chứa chẳng làm gì, giờ ra chơi thằng Chất bảo:
"Mày nhìn đểu tao đấy à?", hai đứa cãi nhau, thế là đấm nhau ngay. Tan học về, rình ngoài quán nước, vừa gặp thằng Chất, "hội" thằng Chứa xông vào táng luôn, sưng cả mặt. Thằng Chất ức lắm, thủ sẵn con dao nhọn trong người, bất ngờ nó đâm thằng Chứa một nhát vào vai, phải đưa đi cấp cứu đấy!
- Chết! - Chị Thắm rú lên hoảng hốt.
- Con cóc sợ. Hội bọn con cũng mạnh lắm. Trong hội con có thằng Liều chuyên "trấn" xe đạp. Tháng trước có thằng bên lớp B bị thằng Liều "trấn" xe. Gặp ngoài cổng trường, nó giơ dao ra doạ "đưa tao mượn xe một tý", nhìn lưỡi dao sắc ngọt, sáng loáng, nhọn hoắt, thằng kia phải đưa ngay. Không đưa thì "đứt điện" với nó. Đưa xe đi cầm đồ được tiền, nó khao cả hội nhậu xả láng, rồi chơi chát điện tử... Thằng Béo lớp con vua trốn học, vua muộn giờ. Hôm cả nhà
nó về quê ăn cưới, bố nó viết "giấy xin nghỉ học", kí tên ở dưới. Cô chủ nhiệm đọc xong trố
mắt, mỉm cười, rất cẩn thận tờ đơn vào cặp. Nó khoe sau lần đó, tao thích nghỉ hôm nào, cáo bệnh, tự tao viết lấy, bố tao không cần nhìn, kí xoẹt luôn. Có chữ kí của bố tao là cô Sinh, thầy Toán, con mụ Địa, lão Thể dục không nói gì...". Bọn con chỉ ngán hội của nó. Thằng Béo chơi xông xênh lắm! Nó tặng cô chủ nhiệm một cái di động đấy. Cứ bố nó thải ra là nó lấy. Có hôm đang học bài, nó bấm số, chuông điện thoại của cô reo lên, khiến cả lớp cười ồ. Cô chủ nhiệm cũng bật cười theo. Học kì một, thằng Béo bị mấy môn dưới năm phẩy, nhưng các thầy cô đều nâng điểm cho nó...
- Ưu tiên vừa vừa thôi chứ! - Anh Quýt đã nóng mắt.
- Lớp con khối đứa được nâng điểm. Lớp bị loại kém là trường sẽ kém theo ngay...
Nhìn con đêm hôm khuya khoắt vẫn chăm chú học bài, dù thương cho sức khoẻ của con, nhưng chị không dám ngăn con chăm chỉ. Nhìn câu khẩu hiệu nó dán treo ở góc học tập "Chưa học thuộc bài chưa đi ngủ, chưa làm bài đủ chưa đi chơi. Quyết tâm, quyết tâm, quyết tâm!", chị yên tâm về thằng con của mình. Nó chăm, cái Chiều cũng theo anh, không chịu đi ngủ sớm. Liệu cần cù
có bù cho thông minh? Trong thời buổi học tập cao siêu, tân thời hiện nay, có cơ
hội nào cho con mình? Bóp hầu, bóp miệng, hành hạ cái thân xác; nay nhận đào đất, kia nhận vét bùn ở cống, cũng mong kiếm đủ đồng tiền đầu tư cho con cái được học hành. Anh Quýt bảo "sau này cho nó đi làm thợ thay chân chúng mình", nhưng chị không nghe. Đi ở đâu, người ta cũng kể con cái họ học trường này, trường kia, ra trường làm ở Viện này, Bộ kia, chỉ cần cầm máy di động gọi chỗ này, chỗ kia, tiền chảy về nhà như nước, nghe mà thèm rỏ dãi. Cóc nhái cúng phải nhảy lên làm người chứ! Ôi, ước mơ! Nghĩ đến đó, mắt chị sáng lên trong đêm, reo thầm thì. Chị
lại liên tưởng đến Dịu, giờ này chắc cô bạn nông trường cũng có những giấc mơ tương đồng?
Trong căn nhà cấp bốn nằm rìa làng ấy, Dịu nghĩ gì nhỉ? Người bạn xưa, nay gặp nhau, tóc đã có
những sợi bạc vẫn gọi nhau "mày, tao". Một cách gọi kéo tuổi xuân lại, quên cả xấu hổ với những nếp nhăn hằn trên đuôi mắt, khóe miệng. Gọi "mày", xứng "tao" kể về
chuyện mấy chục năm qua rời nông trường về chạy chợ một mình nuôi con.
- Mẹ con nhà mày giỏi ăn thật. Đậu phụ, rau muống quanh năm, lần nào đến tao cũng thấy
- Thắm "khiêu khích".
- Con mẹ này, rõ là "chuột chê mèo lắm lông". Mày khá lắm nhỉ? Chả có gì quan trọng sất!
- Dịu "vặc" lại. Chuột bị phê là chê mèo, nhưng chuột đâu buông tha:
- Nhà người ta thì xây cất, lên lầu, nhà mình thì cấp bốn, ngói ri xanh rêu suốt đời, không biết xấu hổ!
- Chuột lại chê mèo lắm lông! Kệ người ta, chẳng quan trọng gì sất! - Dịu chành môi. Người đàn bà tưởng chừng chẳng coi việc gì quan trọng ấy, lại bỗng bật dậy, tròn môi:
- Quan trọng nhất đây.
Dịu kéo thằng Mong vào lòng và vục mặt vào đầu nó:
- Nó sẽ xây nhà cho tao. Tao sẽ bế con cho vợ chồng nó. Đúng không con?
Mong đỏ mặt:
- Bác và mẹ buồn cười. Con không lấy vợ đâu!
- Phải lấy! Lấy sớm nữa là đằng khác - Thắm reo lên... Lấy cho mẹ được lên bà. Thắm và
Dịu đắc ý cười ngả ngớn, cười vang nhà, xô đẩy nhau rung cả giường như thuở họ còn làm ở nông trường vậy.
Thay vì ước mơ, hiện thực đã về trong chớp mắt. Vẫn từ chuyện thằng Cưng hối hả mang về. Lần này, mặt nó cắt không còn hột máu, hốt hoảng tận cùng. Lại vẫn từ chuyện của lớp nó. Cô
giáo dạy văn đang giảng bài về sự sống:
"Sự sống không bao giờ biết chán, nhà thơ Xuân Diệu từng tuyên ngôn thế! Các em có thấy không? Các chiến sĩ cách mạng ngày xưa vào tù ra tội, bị địch tra tấn chặt tay chân, làm mù mắt, nhưng họ vẫn muốn phần còn lại của cơ thể
được sống mãi với thời gian. Việt Nam ta đã có anh hùng trong cuộc chiến chống lại đại dịch HIV/AIDS. Họ là những người biết không thể sống, nhưng vẫn đánh lui bệnh tật từng ngày để
vẫn được sống trong đau khổ, mặc cảm. Các cụ
già trăm tuổi vẫn vượt lên "đời là bể khổ" để sống mãi. Đó là khát vọng sống!". Tiếng ồn ào ở dưới lớp ngắt lời cô. Vẫn từ cái di động của thằng Béo. Nó bất ngờ phát hiện ra cái di động để
trên bàn bỗng dưng không cánh mà bay!
Đang giờ học mà nó cuống cuồng lên, nhìn bên này, ngó bên kia, nó nghi cho thằng Đam ngồi trước mặt, lại ngoảnh sang con Mê ngồi bên. Cô giáo văn gõ thước cành cạch vào bảng, nhưng không trật tự được. "Thưa cô, đứa nào trong lớp lấy cái môbai của em". Không đứa nào dám cả gan tự nhận mình bỏ tiền triệu vào túi cả. Cái điện thoại di động nó cũng có chân, nó lê từ chân bàn này sang chân bàn khác, từ góc này sang góc khác. Cuối cùng nó reo lên
"reng reng" dưới chân thằng Mong. Thế là, thằng Béo như một con hổ rời hang, nó xông tới thằng Mong, bất chấp thầy cô, bất chấp bạn bè, bất chấp giờ học, táng luôn vào mặt thằng Mong túi bụi. Mong cuống lên chống đỡ, bạn bè hô:
"Chạy đi!". Nó lao ra ngoài lớp, thằng Béo rượt theo, hội của nó cũng hôi theo. Cả lớp như
chợ vỡ. Gặp cái gì, nó
dùng cái đó. Nó vơ luôn cái dùi trống treo ở cổng bảo vệ, đánh luôn vào mặt trống báo tan giờ. Nó làm thế để cả
trường ra bắt Mong hộ nó? Quả thật, thầy Địa nhìn thấy nó tránh sang một bên, cô Giáo dục công dân mới ra trường chưa kịp làm người lớn, cuống chân chạy. Nó lao ra cổng trường đuổi kịp thằng Mong, tới tấp nhằm đầu thằng Mong nện tới, nện thật lực, nện không thương tiếc cho hả
bằng hết nỗi tức giận. Mong ngã sụp xuống đường, máu me đầy đầu, bất tỉnh nhân sự. Cả trường ào ra, thằng Béo đã lủi vô tăm tích.
Người ta đưa thằng Mong vào cấp cứu ở bệnh viện. Người vòng trong, vòng ngoài, nhưng một thành viên trong hội thằng Béo vẫn lẻn vào, bất thình lình tiến tới chỗ Mong nằm, rút dao nhíp ra nhằm tới. Cánh tay ai kịp ngăn lại, nếu không chẳng biết nó sẽ cho Mong đi về đâu? Nó lủi nhanh như một tên khủng bố. Các thầy cô, các bạn mang quà cáp, tiền bạc đến thăm hỏi, động viên, nhưng chị Dịu mặt vàng như nghệ, chỉ biết lắc đầu, khóc triền miên. Anh Quýt, thằng Cưng, cái Chiều đến rồi lại về, riêng chị Thắm không lúc nào rời bệnh viện. Chị bên bạn để chia sẻ nỗi đau có
một không hai với người bạn như chị em thuở nông trường. Hai tuần, thằng Mong đã mở mắt, đôi mắt đờ đẫn vô hồn, hỏi, nó không đáp lời. Thỉnh thoảng nó nói ra những lời vô nghĩa. Nó bị chấn thương sọ não! Như chứng bệnh tâm thần dễ
lây, chị Dịu đã trở nên lú lẫn. Lệ chảy tràn mắt, nhưng miệng trở nên cấm khẩu. Đang đêm trong cơn mê sảng, chị
bỗng thét lên: "Cây dứa... cây chè?... Con hổ... chúa rừng!... Đóng cổng nông trường...
anh Quát ơi!". Tên ân nhân của mình, "bảo bối" cuối cùng tưởng đào sâu chôn chặt, chị đã gọi ra làm cứu cánh. (Báo Văn Nghệ)
Người vác tù và thành phố
"Người vác tù và thành phố". Cho tôi được gọi như thế về công việc làm của anh. Anh đã
sống hết mình cho thành phố
thân yêu của mình suốt mấy chục năm qua.
Tôi quen anh khi cùng anh vào học ở trường Đại học Nông nghiệp Trung ương. Học cùng khoá, nhưng khác lớp, chúng tôi thường gặp nhau ở những buổi sinh hoạt văn nghệ và hoạt động thể dục thể thao của nhà trường. Anh là
người năng nổ và tháo vát trong mọi hoạt động. Hội thao quân sự nhà trường, anh là một trong những xạ thủ xuất sắc. Trong môn điền kinh hàng năm, anh là người luôn vô địch về môn ném lựu đạn. Nhưng môn ưa thích của anh là bóng đá. Người cầu thủ trắng trẻo cao to thường đá ở
nhiều vị trí tiền đạo hay trung vệ. Anh lại là thủ môn xuất sắc, đôi tay nhựa của đội bóng nhà
trường, được nhiều người mến mộ.
Trong quen thân có lần anh kể: "Anh là con một liệt sĩ. Ba anh trong kháng chiến chống Pháp nguyên là một xã đội trưởng kiên cường của xã Hoà Tiến. Xã Hoà Tiến hồi kháng chiến chống Pháp rộng lắm. Xã nằm dọc phía nam sông Cẩm Lệ, kéo dài từ Cẩm Thạch Bồ ở phía tây, xuống tận làng Quảng Khái ở phía đông. Xã có phong trào du kích khá
mạnh, là vùng đứng chân các cơ quan của thành phố Đà Nẵng để hoạt động vào nội thành. Hoà Tiến được mệnh danh là vùng tự do giữa vùng tạm bị chiếm. Để trấn áp phong trào du kích, địch đã đóng quanh xã nhiều đồn như đồn Lệ
Sơn sau chuyển đồn xuống Gò Phật nằm giữa xã và đồn Quá Gián ở gần cuối xã. Vẫn chưa an tâm, giặc Pháp lại dựng thêm lô cốt Dương Sơn, cách vườn nhà xã đội trưởng chưa đầy trăm mét. Xã Hoà Tiến trong kháng chiến chống Mỹ đã chia làm nhiều xã. Xã Hoà Tiến ngày nay chỉ
còn là một phần nhỏ của xã Hoà Tiến cũ. Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Hoà Tiến cũng là vùng cơ sở cách mạng vững mạnh, một xã diệt Mỹ là lá cờ đầu của vùng Hoà Vang. Bởi vậy hồi ấy có
câu:
Muốn đánh Mỹ về Hoà Vang
Muốn cầu an về Đại Lộc
Giặc Mỹ đặt giữa xã tại Hầm Xẻ một trận địa pháo khá mạnh, ngoài nhiệm vụ kìm kẹp phong trào đánh Mỹ trong vùng, còn nhằm án ngữ bảo vệ sân bay Đà Nẵng. Chính chúng sợ phong trào cách mạng ở đây, nên đã đem máy bay huỷ
diệt làng Cẩm Nê, một làng dệt chiếu nổi tiếng, cách thành phố Đà Nẵng non chục cây số
và sát gần trận địa pháo binh của chúng ở làng Sơn Dương.
"Năm 1954, ba tôi tập kết ra Bắc, theo chế độ chung của cán bộ miền Nam lúc bấy giờ. Hồi đó tôi còn bé nên chưa biết gì nhiều. Sau này nghe kể lại, ông ra Bắc đi tham gia xây dựng các khu công nghiệp như Thái Nguyên, Việt Trì và
phục hồi các đoạn đường sắt Yên Bái, Lào Cai, Lạng Sơn, Hải Phòng... Ông đạt nhiều thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất. Được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động. Năm 1964, sau một khoá huấn luyện, ông được điều động về miền Nam chiến đấu. Ông về quê
hương và được bổ sung vào tỉnh uỷ. Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ rất rộng. Chính quyền Mỹ - nguỵ phải chia ra thành hai tỉnh: Tỉnh Quảng Tín ở phía trong, từ nam sông Thu Bồn vào đến tận núi Thành - Chu Lai - Dốc Sỏi. Tỉnh Quảng Đà ở phía ngoài, từ bắc sông Thu Bồn ra đến chân đèo Hải Vân. Ông hoạt động ở phía bắc, cùng đồng chí đồng đội củng cố phong trào gây dựng cơ
sở nội ngoại thành, làm nên cuộc nổi dậy mùa xuân 1968, làm chủ thành phố Đà Nẵng trong một thời gian. Trong một chuyến đi công tác, ông đã bị
bọn giặc sát hại. Trong chuyến trở về này, ba tôi đã gặp mẹ tôi và đã sinh cho tôi thêm một cậu em trai. Khi ông trở về
chiến đấu ở quê hương, thì tôi đang học tiểu học ở trường làng. Tôi được các chú ở huyện và tỉnh gửi ra miền Bắc để
học tập. Sau nhiều tháng trên đường Trường Sơn đầy gian khổ, ra tới miền Bắc, tôi trở
thành học sinh miền Nam trường Đông Triều, sau đó là vào đại học". Trong những ngày cùng học tập, nhiều lần nghe anh kể tôi vẫn chưa hình dung hết sự hy sinh gian khổ của đồng bào miền Nam. Rất may là thành phố Hải Phòng, quê hương tôi, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, lại là thành phố
kết nghĩa với Đà Nẵng, quê hương anh. Do đó, tấm lòng hậu phương, tiền tuyến giúp cho tôi thông cảm và hiểu anh nhiều hơn.
Bảo vệ xong luận án, tốt nghiệp, mỗi chúng tôi chờ phân công tác. Đó là lúc Đà Nẵng quê
hương anh hoàn toàn giải phóng. Một chiều anh về Hải Phòng thăm mẹ tôi và nói:
- Bác ạ, cháu phải về quê thăm bà già và thằng em lâu nay sống và sức khoẻ ra sao đã. Cháu xin chào và tạm biệt bác.
Anh về quê không lâu , thì tôi nhận được thư. Trong thư anh kể: "... Gia đình mình vẫn khoẻ. Mình đã lên huyện xin các chú phân cho công việc. Mình đã về xã Hoà Nhơn, một địa phương chưa mạnh về phong trào hợp tác xã. Bây giờ
những lý luận trong nhà trường sẽ phải đem áp dụng vào thực tiễn. Bạn có về quê mình để
giúp tay xây dựng vùng đất đã có lần hò hẹn vào ao ước không?..."
Đọc thư anh trong lòng tôi có nhiều xáo trộn. Tôi cũng là con của một liệt sĩ. Mẹ tôi tuổi đã
cao. Tình hai mẹ con cũng là
tình của hai người bạn, trông cậy vào nhau. Tôi nay đã trưởng thành, làm sao bỏ mẹ già để
đi xa được. Tôi không dám viết thư cho anh. Tôi vẫn dõi theo công việc anh làm. Tôi lại nhận được thư của anh. Thư anh kể nhiều chuyện về
chàng kỹ sư trẻ với cái hợp tác xã nông nghiệp Hoà Nhơn mà tôi chưa hề biết mô tê gì. Anh kể: "... Hợp tác xã được mùa liên tiếp nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Nhân dân phấn khởi, lãnh đạo phấn khởi. Các vị tiến hành xây một chiếc cầu trong xã. Trong lễ khánh thành cầu, các vị
hứng lên đặt tên là Cầu Tân Thanh. Tên cầu trùng tên anh. Từ đó
mới sinh chuyện rầy rà..." Anh bảo, khi tôi nhận được thư này, thì anh không còn ở hợp tác xã Hoà Nhơn nữa, mà đã
nhận quyết định của huyện lên một nông trường miền Tây Hoà Vang để công tác. Một năm sau thư anh viết từ nông trường có đoạn: "... lên nông trường thấy đời sống công nhân nhếch nhác quá. Mình cùng ban giám đốc họp bàn đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Cải tạo giống, cải tạo đất thì mới có năng suất cao. Mình lân la nhà các công nhân. Họ
cho biết vùng đất nông trường có nhiều sa khoáng vàng. Có người đã trộm khai thác. Nhưng bị cấm. Nông trường nằm trên vùng khan nước. Cần có thêm nước, cây trồng mới phát triển nhanh. Dựa trên ý thức đó, ban giám đốc nông trường quyết định mỗi gia đình phải đào trong khu vườn của mình một cái giếng lớn để lấy nước. Bạn biết đó, vùng đất sơn địa ba dan này phải đào sâu hàng chục mét mới gặp mạch nước. Thế là cả nông trường đào giếng, không hiểu họ có kết hợp khai thác sa khoáng vàng không mà một thời gian sau đó, gia đình nào cũng khấm khá hẳn lên...". Tôi lại nhận được thư của anh: "... Mình đã được trên rút về phòng Nông nghiệp huyện và được bầu vào Hội đồng Nhân dân tỉnh..." Trong thư anh không nói được "thăng chức" hay bị kỷ luật như lá thư trước. Vào một ngày chủ nhật anh xồng xộc về Hải Phòng thăm mẹ tôi. Không gặp tôi ở
nhà, tôi nghe sau này mẹ kể lại. Anh được cử đi học trường Chính trị cao cấp Hồ Chí Minh dài hạn. Mẹ tôi bảo: - Cậu ấy sẽ còn tiến bộ nhiều... - Tôi thấy giọng nói của mẹ có
chứa một điều gì như nuối tiếc. Được biết sau khi tốt nghiệp trường cao cấp chính trị trở về, được địa phương bố trí
giữ chức Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp tỉnh. Đồng thời lúc này tôi đọc báo thấy có tên anh được bầu làm Đại biểu Quốc hội của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng khoá IX. Nghe các báo đài nói ở
Quảng Nam - Đà Nẵng được mùa liên tiếp mấy vụ, tôi viết thư chúc mừng ông Giám đốc Sở Nông nghiệp và đùa:
Mất mùa thì đổ thiên tai
Được mùa thì bảo thiên tài Đảng ta.
Anh không nghĩ thế, thực ra nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến cộng với thời tiết thuận hoà, dưới sự lãnh đạo sâu sát của các cấp các ngành, nên bước đầu đã đạt được những thành quả nhất định, cá nhân chỉ là phần bé nhỏ. Thư anh lại viết: "Tỉnh đang cần có một Phó Chủ tịch, để
lo mảng công việc Nông, Lâm, Ngư nghiệp. Mảng này rất quan trọng. Quảng Nam - Đà Nẵng có
hàng chục cây số bờ biển, hàng trăm ha rừng với nhiều cây công nghiệp, cây thuốc và gỗ quý. Đây cũng là vùng trọng điểm lúa của miền Trung. Một vùng có nhiều điểm du lịch... Đoàn đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh của các huyện tiến cử anh. Nhưng anh rút lui để tập trung phiếu bầu cho một đồng chí Giám đốc Sở Thuỷ lợi. Nhân dân quê anh có câu "thuỷ lợi thì lên Uỷ ban còn Hoà Vang thì lên..." Có câu đó vì lâu nay các đồng chí ở Sở Thuỷ Lợi thường được đề bạt lên chức Phó Chủ
tịch rồi Chủ tịch. Ông Mai Thúc Lân, Bí thư Tỉnh uỷ gặp anh:
- Tỉnh muốn bố trí ông về giữ chức Chủ tịch thành phố Đà Nẵng. Đà Nẵng từ sau ngày giải phóng đến nay cũng chưa có khuyết điểm gì, nhưng phong trào cứ nằm tại chỗ, chưa có ai xốc lên được. Ông biết đó, với ngày nay, đứng yên một chỗ tức là thoái bộ, thụt lùi, tụt hậu...
- Tỉnh lại muốn đưa kỹ sư nông nghiệp về cấy lúa trên đường nhựa à? - Anh nói với đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ thế.
- Ông không nhớ bản thân tôi cũng là một kỹ sư nông nghiệp à?
Bạn còn nhớ ông Lân này khi chúng ta về thực tập ở tỉnh Hà Bắc không? Ông là Chủ tịch tỉnh Hà Bắc lúc đó, cũng từ
một Giám đốc Sở Nông nghiệp mà lên. Khi nhận lời anh còn nói với ông Lân một câu nửa đùa nửa thật:
- Nếu tỉnh cho tôi về làm Chủ tịch thành phố thì lúc ấy các đồng chí cho tách Đà Nẵng trực thuộc Trung ương nhé..."
Sau đó năm 1995 anh được bổ sung vào Thường vụ Tỉnh uỷ và về nhận chức Chủ tịch thành phố Đà Nẵng. Một thành phố có những hai Thường vụ Tỉnh uỷ. Đó là chuyện hơi lạ. Anh viết thư cho tôi tâm sự trăm ngàn khó khăn của thành. Trước kia chỉ chăm lo công việc cục bộ ở
một hợp tác xã, một nông trường, rồi của một huyện, một ngành... Nay một ông Chủ tịch trẻ phải đảm trách mọi mặt ở thành phố hơn bảy mươi vạn dân. Tôi chia sẻ những khó khăn và lo toan ban đầu của anh. Tôi tin ở sức làm việc của anh. Được biết anh đã cùng Đảng bộ thành phố họp bàn, vạch ra những phương sách mới để đưa thành phố tiến lên ngang tầm một thành phố trung tâm kinh tế văn hoá, du lịch của miền Trung. Những ngày đầu anh đã nhiều khó khăn, nhiều cản trở, nhất là
của các vị lão thành cách mạng và đội ngũ
thương bệnh binh. Muốn cho thành phố phát triển được thì trước tiên, cơ sở hạ tầng phải tốt. Anh di dân, đổi đất lấy mặt bằng để mở đường. Anh gánh chịu bao nhiêu phản ứng. Họ đánh giá việc làm của anh là bày đặt và xuyên tạc tên anh - là Nguyễn Bá Láp tức làm chẳng ra gì. Anh cùng các đồng chí lãnh đạo của thành phố cắn răng chịu đựng, vừa tiến hành vừa thuyết phục. Anh có thế mạnh là con một cán bộ lão thành, một liệt sĩ, được đào tạo cơ bản, đã kinh qua nhiều thực tiễn công tác từ cơ sở đi lên và được Đảng bộ tỉnh và thành phố ủng hộ. Những công trình đầu tiên của thành phố đẹp đã đẽ được hình thành như con đường Đông Tây, đường Nguyễn Văn Linh, đường Nguyễn Tri Phương... Công việc còn nhiều khó khăn nhưng trăm hay không bằng một thấy, những thành tích của lãnh đạo thành phố được nhân dân chấp nhận. Nhiều đoàn cán bộ ở
Trung ương về làm việc với thành phố đã đánh giá cao những khởi sắc bước đầu của thành phố. Có
đồng chí Trung ương bảo "Cái khó trong lãnh đạo, quản lý bây giờ không phải là cái khó khi chúng ta đang thiếu thốn, đang lo từng bữa cơm cho no đủ, tấm áo cho lành lặn mà cái khó khi đã có của ăn của để..." Với tấm thẻ gia đình liệt sĩ trong túi, rảnh rỗi công việc văn phòng. Anh cưỡi xe máy xuống các cơ sở, các công trường tham gia giải quyết những công việc còn mắc mứu. Anh tổ chức những cuộc giao tiếp với dân để
giải toả những thắc mắc. Có lẽ anh là một trong những cán bộ cấp tỉnh đầu tiên giao tiếp với nhân dân trên màn ảnh nhỏ và công khai số điện thoại di động của mình, để ai cần gì cứ gọi thẳng cho Chủ tịch. Điều mong đợi của lãnh đạo và nhân dân thành phố lâu nay đã trở thành sự thật. Sau hai năm anh về làm Chủ tịch, năm 1997 thành phố Đà Nẵng đã được tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam
- Đà Nẵng để trở thành một thành phố trực thuộc Trung ương. Từ đây được Trung ương đầu tư trực tiếp, không còn manh mún nữa, bộ mặt Đà Nẵng từng ngày được đổi thay. Một biểu tượng mới của thành phố xuất hiện. Đó là chiếc cầu sông Hàn như một con rồng vắt ngang sông, thay cho con phà
đã tồn tại nhiều năm tại bến đò Hà Thân. Chủ tịch thành phố cùng tập thể đảng bộ, kỹ sư, công trình sư thiết kế nên chiếc cầu có nhịp chính giữa bằng dây văng quay 180o để cho tàu bè vào đêm có thể
qua lại. Chiếc cầu dài hàng ngàn mét duyên dáng soi bóng xuống dòng sông "nước xanh như tàu lá" là một công trình của Nhà nước và nhân dân cùng làm, nghĩa là cả hai bên cùng góp vốn xây dựng. Một bảng vàng danh dự được gắn bên đầu cầu ghi danh những người có công đóng góp với hàng trăm triệu đồng để xây dựng cầu. Trong số đó người đọc thấy có cả
tên Chủ tịch thành phố. Nghe nói có người hỏi anh:
- Lương Chủ tịch đâu có nhiều, tiền ở đâu mà anh đã đóng góp hàng chục triệu để xây cầu. Anh đã trả lời:
- Đó là số tiền tôi đem bán những món quà của nhiều tập thể và cá nhân biếu. Số quà đó tôi đã nhờ cán bộ văn phòng tích góp lại và đã nhờ họ đem bán.
Ngoài cầu sông Hàn, Đà Nẵng đã có thêm nhiều cầu mới: cầu Thuận Phước, cầu Tiên Sa, cầu Cẩm Lệ... Những chiếc cầu này đã góp phần giải phóng hàng hoá nhập vào cảng Tiên Sa tạo nên chặng đường ngắn nhất cho xe vào thành phố. Trước đây hai cầu Nguyễn Văn Trỗi, Trần Thị
Lý quá yếu, xe có trọng tải lớn không thể qua được, mà phải chạy vòng vào cầu Vĩnh Diện. Gần hai năm nay, nhiều báo, đài trung ương và địa phương nói nhiều về Đà Nẵng, bài nào cũng đề cập nhiều đến vai trò đồng chí Chủ tịch. Có tờ báo với một dòng tít to nêu hẳn tên anh và
gọi đó là một hiện tượng. Nhiều đoàn cán bộ
lãnh đạo của một số tỉnh, thành phố trong cả nước đã về Đà Nẵng tìm hiểu cách thức làm ăn như đổi đất lấy mặt bằng, xoá đói, giảm nghèo, trọng dụng nhân tài, tệ nạn xã hội và an ninh trật tự... Trăm nghe không bằng một thấy, tôi đã sắp xếp một chuyến vào thăm Đà Nẵng để có một sự
bất ngờ với anh. Rất tiếc lại không được gặp, vì anh phải theo Đoàn đại biểu Quốc hội nước ta đi thăm một số nước ngoài. Đến đâu cũng nghe họ nói về anh. Một đêm tôi ra đứng trên cầu sông Hàn. Có thể nói đây là một trong những cây cầu đẹp nhất nước ta, sau cầu Mỹ Thuận. Một người bạn quê
Đà Nẵng cùng đứng trên cầu nói với tôi:
- Cầu này đã đón Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước Trung Quốc, do Chủ tịch Giang Trạch Dân dẫn đầu sang thăm nước ta. Trước cảnh trời nước lung linh những dãy đèn, cầu trông như một chuỗi ngọc, Giang Trạch Dân nói vui:
- Cứ tưởng như đang đứng trên cầu Trường Giang vậy.
Tôi đã đặt chân tới những danh lam thắng cảnh của Đà Nẵng. Ngũ Hành Sơn, biển Tiên Sa-Bãi Bụt... Bà Nà, ở cách thành phố vài chục cây số, là nơi nghỉ ngơi lý tưởng của quan khách. Được biết đây là khu biệt thự của thực dân xây dựng trước đây ngót trăm năm. Sau Cách mạng Tháng Tám, nơi đây thành hoang phế, vừa mới được khôi phục lại, rất hấp dẫn khách du lịch trong nước và thế giới với một khí hậu lý tưởng và rất gần thành phố, nằm trên trục du lịch Bạch Mã, Lăng Cô, Ngũ Hành Sơn, Hội An, Mỹ Sơn... Tôi còn được biết, năm trước anh đề xuất xây dựng Công viên nước gần nơi Quảng trường 29 tháng 3 bên một bờ sông Hàn. Chủ trương đưa ra trước Hội đồng Nhân dân tỉnh, bị
một số đại biểu phản đối kịch liệt:
- Thành phố ta có hàng chục cây số bờ biển, có cả một dòng sông vắt qua thành phố. Còn mơ ước gì hơn mà phải mở
công viên nước! Lãng phí.
Không chùn bước, Chủ tịch thành phố bèn thay đổi tên đề tài, còn nội dung công việc thì
giữ nguyên. Lần thứ hai đề tài Trung tâm thể thao dưới nước được Hội nghị chấp thuận. Sau đó
không lâu Công viên nước được khánh thành, trở
thành trung tâm vui chơi của nhân dân lao động. Thoắt cái vốn đầu tư đã được thu hồi sau hai cái Tết. Điều tôi nghe nhiều nhất về anh là tư tưởng dám nghĩ dám làm và tài thuyết phục. Điều họ nói nhiều nhất là cách thức đổi đất lấy mặt bằng. Một bác xích lô nói với tôi:
- Làm như ổng thì ai không ưng. Giải phóng mặt bằng để xây dựng công trình. Ông muốn lấy gấp đôi diện tích của mình đã bị giải toả thì đi xa lên Hoà Cường, Hoà Phát. Chả anh nào chịu. Tự nhiên ở trong xó xỉnh, nay mở đường mình có
mặt tiền, giá một mét đất từ một vài chỉ trở nên một vài cây vàng. Nói phải thì củ cải cũng nghe. Ông Chủ tịch trẻ, mà
giỏi phân tích và thuyết phục.
Thật tâm mà nói, Đà Nẵng hôm nay đẹp quá. Đường sạch, cây xanh, an ninh trật tự ổn định. Đà Nẵng đang trở thành đầu mối con đường kinh tế xuyên á. Tôi thử hỏi một vị lão thành cách mạng đang ngồi hóng mát trên đường Bạch Đằng:
- Nếu bây giờ Trung ương điều ông Chủ tịch thành phố đi nhận một công tác khác cao hơn thì bác thấy thế nào?
- Răng được. Ông mà đi thì mọi việc ở đây bể hết. Không phải tôi đề cao chủ nghĩa cá nhân. Nhưng sự đời, mọi việc không có người cầm chịch vững thì thành công không được mấy. Vui chuyện tôi hỏi luôn:
- Trước đây các bác không đồng tình những việc làm của anh ấy cơ mà?
- ừ, có đó. Thấy anh ta chỉ chuyển dân để mở đường. Cả thành phố bộn bề như một công trường, chứ đã thấy chi mô.
- Sau gần mười năm, dưới sự lãnh đạo của thành phố, của ông Chủ tịch trẻ bác thấy thế
nào?
- Được quá đi chớ. Anh ấy trẻ, có tri thức và có quyết tâm, dám nghĩ dám làm. Thế hệ
chúng tôi cạn nghĩ và thiếu quyết tâm.
Tôi về lại cơ quan chưa được bao lâu, thì được tin ngày 25-7-2003 theo Quyết định của Chính phủ số
145/2003/QĐTTg công nhận Đà Nẵng là thành phố loại Một, cùng với Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh và Hải Phòng quê tôi với năm tiêu chuẩn đã đạt được: - Thành phố trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật du lịch dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu quốc tế, liên tỉnh và cả
nước - Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 85% trở lên - Cơ sở hạ
tầng đồng bộ và hoàn chỉnh. - Quy mô dân số có từ 50 vạn trở lên - Mật độ dân số bình quân từ 12.000 người/km2...
Tôi thật sự tự hào có người bạn, người vác tù và thành phố làm nên những kỳ tích mà riêng bản thân tôi rất khâm phục. Tôi đang làm việc thì nhận được điện thoại của anh:
- Chào bạn, mất chức Chủ tịch rồi!
- Kỷ luật à?
- Không. Phải làm Bí thư Thành uỷ.
Anh kể: "Đồng chí Nguyễn Đức Hạt, Bí thư Thành uỷ được Trung ương điều đi nhận công tác mới. Sau khi được toàn thể Ban chấp hành Thành uỷ nhất trí bầu giữ chức Bí thư, Bộ Chính trị
đã chấp thuận. Anh bảo trách nhiệm càng nặng nề. Tôi tin chắc với bản lĩnh của mình, anh sẽ cùng các đồng chí lãnh đạo ở thành phố Đà Nẵng sẽ có những dự án mới để cái thành phố miền Trung trở thành một thành phố hiện đại hoá, công nghiệp hoá, thương nghiệp và du lịch ngày càng phát triển ngang tầm cùng cả nước.
Còn bao nhiêu là việc làm của "người vác tù và thành phố". Nhưng qua vài công việc tôi đã
ghi ở trên về người bạn của mình, chắc đến đây bạn đọc nhận ra người vác tù và thành phố là ai. Với nhiệm vụ của một người bạn, người ghi chép tôi xin được công bố danh tính: Anh là Nguyễn Bá Thanh đương nhiệm Bí thư Thành uỷ, trước đây đã hơn tám năm giữ chức Chủ tịch thành phố
Đà Nẵng.
(Báo Văn Nghệ)
Nỗi niềm của chị
Vậy là chấm hết. Chị úp mặt xuống bàn. Xót xa nỗi mình, nỗi người. Chị bật khóc. Những con chữ ướt nhèm nước mắt. Những con chữ hình thù nhem nhuốc, vênh váo, dường như chúng cũng đang cười cợt chị. Chị vò nhàu bức thư
của anh, quẳng vào sọt rác. Lòng đau như cắt. Cuộc đời dâu biển. Vinh quang tột đỉnh. Tủi nhục tột cùng. Mặn lạt. Đắng cay. Chơi vơi. Khúc khuỷu... Chị đã từng. Bao lần chị qua cầu, cầu gãy. Chị xuống đò, đò chẳng sang sông. Bến bờ mù khơi. Chị hỏi trời, trời xanh mênh mông. Chị
hỏi đất, đất rộng vô cùng. Chị đẹp. Chị có tài. Nếu chỉ đơn giản cần một người đàn ông trong nhà, để chị có nơi nương tựa, chở che, đùm bọc... cùng với những đứa con ngoan, một gia đình ấm êm hạnh phúc, điều đó đối với chị không khó. Thậm chí cả với những người đàn ông sang giàu, quyền thế, chị vẫn không chọn. Chị chấp nhận một mình đi suốt cuộc hành trình hai mươi năm đơn lẻ, với hành trang là cung đàn tiếng hát. Và ở đâu đó trong thẳm sâu lòng chị, vẫn đau đáu một bến bờ
hạnh phúc...
Bỗng một ngày chị biết anh. Chị nghe trái tim mình run rẩy. Tình yêu đến với chị như gió
giông, sấm chớp. Chị như con thiêu thân tự đốt cháy mình để được yêu anh. Vậy mà... Chị nhặt lại lá thư. Chị trải lá thư nhăn nhúm lên bàn, tằm mằn cố vuốt cho nó thẳng lại. Những con chữ hiện ra, hình như chúng vẫn ngoan cố, nham nhở nhìn chị, thách thức. Chị
bừng giận. Lúc này đây, chị thấy ghét và giận anh quá đỗi. Ghét. Ghét. Ghét. Chị muốn hét thật to, hét vào mặt anh mặc dù khoảng cách giữa anh và chị là hai đầu đất nước, mà nhịp cầu Ô
Thước là mail, là mạng, là máy vi tính, là chiếc điện thoại di động. Chị xé nát bức thư, tung ra ngoài cửa sổ. Hãy trả chúng về với gió. Số phận bức thư tan tành. Những mẩu giấy con con bay chập chờn như những cánh bướm trước cơn gió dữ, lần lượt rơi xuống nằm phơi mình trên khóm lan bên bậu cửa sổ, khóm lan mà chị yêu quý nhất. Chị loay hoay bứt hết dây cáp ở chiếc máy vi tính, không còn dây dưa gì nữa hết. Những cọng dây cáp nằm chỏng chơ, bơ vơ. Chị đuối sức. Chị
bỏ đi nằm. Cơn giận chưa nguôi, nhưng không ngùn ngụt nữa, nó vón cục trong lòng chị thành nỗi buồn thăm thẳm, buồn đến phát bệnh. Chị lặng lẽ chịu đựng. Một mình chịu đựng như đã từng chịu đựng.
Trời ngả chiều. ánh nắng trườn qua khóm lan, len vào tận bên trong cửa sổ, nằm vắt ngang khung tranh. Không gian bức tranh toàn vàng, rười rượi. Duy có suối tóc đen tuyền của người đàn bà trong tranh, phần phật bay. Cuồn cuộn. Mãnh liệt. Anh đã cặm cụi vẽ chị bằng tâm lực, bằng trí
tưởng tượng. Bởi khi đó, anh mới biết chị qua điện thoại, qua mail. Bằng giọng nói, tiếng cười, bằng những dòng mail của chị, anh đã thân thuộc biết dường nào. Và thế là anh vẽ
chị. Chị cầm bức tranh trên tay, cảm nhận được hết tình anh. Cảm xúc trào dâng. Giây phút
- đời người. Còn bây giờ, bỗng dưng chị không chịu đựng nổi bức tranh. Người đàn bà trong tranh kia vừa lạ vừa quen, ai đó chứ không phải là
chị. Chị thấy cô đơn khủng khiếp. Chị thèm được chia sẻ. Chị bốc điện thoại gọi cho cô
bạn, nói là bạn nhưng cô ấy còn kém chị mươi tuổi. Cô ấy cũng là người của cay đắng. Thăng trầm. Thân phận... Với chị, cô ấy là người có tâm hồn đồng điệu, tinh tế. Cô ấy sẽ hiểu chị. Cảm thông. Chia sẻ. Bên kia đầu dây, tiếng cô gái rất nhẹ và ấm:
- Chị có khoẻ không?
Chị nói như người hụt hơi:
- Chị muốn chết đây.
Cô gái phát hoảng:
- Có chuyện gì vậy chị?
- Em xem... cô gái lắng nghe chị nói, lòng hoang mang. Cố trấn tĩnh, cô gái nhẹ nhàng khuyên chị:
- Chị lên em liền đi. Đừng ở đó, gặm nhấm cục buồn một mình, chịu sao cho thấu.
- Lên với em đi chị. - Giọng cô gái đầy lo lắng.
- Sáng giờ chị có thiết làm gì đâu. Ăn uống cũng không. Chỉ có muốn chết thôi.
- Đừng nghĩ quẩn. Chị còn phải sống lâu để trả nợ nần. ở gần cuối con dốc cuộc đời, trời đất còn quá hào phóng ban tặng anh chị cho nhau. Ơn này thậm sâu. Nếu anh chị làm khác đi là có tội với ông trời đó nghen.
- Vô ích thôi em. Chị ngộ ra, tất cả đều giả hết em ơi. Kể cả tranh, cả nhạc cũng không phải anh làm tặng chị.
- Có oan không đó?
- Thật mà, mấy ngày chị lặn lội ra ngoài ấy với anh, chị cảm nhận được điều đó. Anh là
người tài năng, tâm hồn rộng mở, con người của nghề nghiệp. Anh đã từng làm chính trị, ngoại giao..., đi năm châu bốn biển, tiếp xúc với biết bao hạng người... Với ai, anh cũng chân thành...
Nói đến đây chị nghẹn lời.
Cách đây không lâu, chị bươn bả ra Hà Nội vì hay tin anh bị ốm. Lần đó cũng là lần đầu tiên anh chị giáp mặt nhau. Suốt cuộc hành trình, chị không sao giữ nổi trái tim mình, nó không ngừng gồng lên, lao chao, điên đảo... Hôm ấy, anh ốm, không ra sân bay đón chị được. Sợ chị lạ nhà, lạ
người, bỡ ngỡ, anh ra ám hiệu cho chị. Anh sẽ mặc chiếc áo màu xanh cỏ úa, có thắt cà vạt hẳn hoi, y như chú rể. Anh sẽ đứng ở dưới tàn cây bàng trước ngõ, đợi. Còn chị với bộ
đồ màu đen, trên ngực áo có thêu cành mai cùng màu vải, trông nền nã và quý phái. Thế là
quá đủ để họ nhận ra nhau. Xe taxi trờ tới. Cửa mở. Chị bước xuống. Anh bước đến. Cả hai người ập vào nhau như cơn lốc. Không có chỗ cho giây phút ngỡ ngàng. Họ như đã thuộc về nhau từ kiếp trước. Anh hôn chị. Chị bẽn lẽn nép vào anh, tinh khôi như cô
dâu mới về nhà chồng. Thật tình tứ, thật lãng mạn, và cũng thật cinéma. Và họ đã có với nhau những giờ phút nhớ đời. Bên kia đầu dây, giọng cô gái thúc giục:
- Sao nữa, em đang chờ nghe chị đây?
- ... Thì em nghĩ coi, đã có bao nhiêu người đàn bà trong cuộc đời anh? Với anh, chị thấy mình không chỉ là con số
không. Tất cả đều là ảo. Tại chị hết em à. Chị ngộ nhận. Chị không tỉnh. Chị mộng mị. Chị...
Chị không ngớt giày vò mình. Cô gái bật cười.
- Thôi đi bà. Vừa phải thôi. ở đâu ra cái vụ ghen thinh không này vậy? ừ, thì cho là ảo đi. Vậy còn những giờ phút hai ông bà đốt cháy hết cho đời cho nhau, thì nó là cái giống gì? Phần xác à? ở vào cái tuổi ngoại bát tuần mà còn có
những giây phút thăng hoa như vậy mà là anh không tình yêu cho chị à? Hơn ai hết chị biết điều đó mà. Chỉ có tình yêu mới làm nên điều kỳ diệu. Ngoài sức tưởng tượng của chị rồi còn gì?
- Anh không cảm nhận được tình yêu của chị dành cho anh ư? Anh luôn là người kiêu hãnh. Sao anh nỡ nói với chị như
vậy? Rằng anh già rồi, là người vô tích sự. Là người bỏ đi... Còn chị thì khác. Chị còn tràn đầy sức sống, gia đình con cái ổn định. Anh không nỡ để chị chịu thiệt thòi vì anh. Anh khuyên chị
nghĩ lại, anh chị đã là ông nội bà nội. Anh không muốn có sự xáo trộn nào về phía chị. Và, rằng anh muốn tới một nơi nào đó thật vắng vẻ, thâm sơn cùng cốc chẳng hạn, để sống ở đó cho đến khi nhắm mắt xuôi tay... Mỗi lời anh nói, chị cảm thấy không hề có sự hiện diện của chị
trong anh. Anh đã lãng quên chị. Cho tới thời khắc này, tình yêu của chị dành cho anh không hề suy giảm. Chị luôn khao khát có anh trong đời chị, yêu thương say đắm và mãi mãi. Chị
không ân hận. Không nuối tiếc. Chị đã chọn anh để
gởi gắm, để yêu thương. Vậy mà... Chị nấc lên bên kia đầu dây.
Cô gái dỗ dành:
- Chị nghe em, cố ăn một chút gì đi, và cố bình tĩnh ngủ một chút, sau giấc ngủ chị sẽ cảm thấy khá hơn.
- Vô ích thôi em ạ.
Chị lại tuôn ra hàng bao nhiêu lời lẽ để luận tội mình, để kết án anh. Hàng chuỗi sự việc lũ
lượt lên bàn mổ. Chị phân tích, chị mổ xẻ. Chị sử dụng hàng tá ngôn từ như những ngọn roi quất rát rạt vào da thịt chị. Hình như chị muốn lấy niềm đau này để làm vơi đi nỗi đau đớn, giận hờn vì
mình bị phụ bạc. Nghe chị nói, cô gái có cảm giác chị đang tự
hành hình mình để trả thù anh. Trả thù cho cái sự phụ bạc mà anh đã phạm phải, vì không có chị trong đời anh. Điều đó, chị cảm nhận được qua thư anh mail cho chị sáng nay. Trời ạ, tình hình càng lúc càng rối rắm. Hết thuốc thật rồi. Cô gái hoang mang:
- Chị cố bình tĩnh. Cố hiểu và thông cảm cho anh ấy chị à. Những gì anh nói, anh làm đều xuất phát từ yêu thương chị. Kể cả cái việc anh bảo chị đừng gọi di động cho anh nữa, cũng không ngoài sự lo lắng cho chị. Anh sợ chị phải gánh vác một kinh phí ái tình quá lớn, mỗi ngày vài ba bận, mỗi bận cả tiếng đồng hồ, thì có nước vác bị gậy theo phường Cái bang. Lâu dài chịu sao thấu. Em nghĩ trong lúc đau ốm bệnh tật, phần vì tuổi tác, và nhứt là anh đang đứng trước chị, trước một sức sống ngồn ngộn, thì bảo sao anh ấy không có lúc mặc cảm, không yếm thế hả chị?
- Trời ơi, sao em không bênh chị mà toàn bênh vực ảnh không vậy?
- Nào em có bênh ai bỏ ai đâu. Em chỉ nói toàn đúng thôi. Chị chịu khó nghe em đi mà.
- Em lạ. Không biết một tí gì về ảnh, mà sao ráo riết biện hộ cho ảnh vậy? Bộ ảnh thuê em là trạng sư cho ảnh chắc. Vô
ích thôi, chị đã ngộ ra rồi...
Cô gái vội cắt ngang lời chị, sợ lại phải chết chìm trong cơn lũ lụt. Cô gái bèn đổi chiến thuật:
- Chị cho em xin số điện thoại của anh đi, em sẽ điện thoại cho anh. Vụ này để em giải quyết cho. Chị càm ràm:
- Vô ích thôi. Em nhân danh tư cách gì để gọi điện thoại cho ảnh?
Cô gái quả quyết:
- Em nhân danh tư cách gì à? Nhân danh tình yêu và lẽ phải.
Chị bật cười. Tiếng cười ngắn. Cô gái thấy đỡ lo. Trời bắt đầu hửng nắng. Chị ngần ngừ
giây lát:
- Em ghi đi, 178...
- Bây giờ thì em gác máy đây. Chị cố mà tháo gỡ nút dây thòng lọng đó nghen. Căng hoài chịu sao thấu? Vỡ tim à
nghen.
Rồi cô gái điện thoại cho anh. Cô cẩn thận rào trước đón sau cho cái sự đường đột nhúng mũi vào chuyện riêng của người khác. Hai người khách lạ có vẻ thông cảm nhau. Cô gái dễ dàng vượt qua rào chắn của sự e dè. Cô thông báo cho anh biết, tình trạng của chị hiện giờ. Chị chỉ muốn chết thôi. Cô không đành lòng nhìn chị đau khổ. Rằng là chị yêu thương anh vô cùng tận. Từng giây, từng phút, trong từng hơi thở của chị đều có sự hiện diện của anh. Chị không chịu nổi sự thiếu vắng anh trong chị. Sao anh lại có thể nói điều gì đó làm tổn thương chị. Để chị có thể nghĩ rằng trong anh không có chị. Và càng đau đớn hơn khi anh cứ cố tình tự nói không đúng về mình như
vậy, có vẻ như anh cố thu mình nhỏ lại, trước chị. Nhất là khi nghe anh nói mình già, không chỉ
riêng anh, ai ở vào độ tuổi anh, than già chị đều ghét tất. Với chị, không có sự già nua ở đây. Tất cả
những điều đó, đối với chị đều có chung một tội danh: phản bội. Và cô kết luận:
- Anh liệu cách gì thì liệu. Thời gian anh chị không còn nhiều đâu mà đem phung phí cho những chuyện không đâu. Quà
tặng của trời, anh chị phải biết trân trọng giữ gìn và tận hưởng chứ. Không thì mắc tội. Cô
gái gác máy. Thở phào. Nhẹ nhõm. Cô ngả người tựa lưng vào lưng ghế, thoải mái. Một phút xa xôi. Và cô lấy làm vừa lòng với vai trò thiên sứ của mình. Cô thấy vui. Giây sau, cô trở lại với trang bản thảo của mình, từ đó sẽ mọc lên những vần thơ tình có cánh. Cho mình và cho tất cả người dưng. ở góc trời xa, người dưng của cô sẽ đọc. Chuếnh choáng. Say. Cô nhấm nháp niềm vui của mình một cách thú vị, trong tâm trạng lơ lửng chín tầng mây. Bẵng đi ít hôm, cô gái nhận được điện thoại của chị. Giọng chị thật trong. Chị cười. Trời xanh mây trắng. Nắng gió yên lành. Cô gái vui niềm vui của chị:
- Hết bão rồi hả chị?
- ừ... Tội nghiệp ảnh lắm em ơi. Anh đang bệnh. Thui thủi một mình, ăn uống chả ra làm sao. Không ai chăm sóc, thật tội. Chị bảo để chị ra, anh không cho. Anh xin lỗi chị quá trời. Anh trách mình ngu lâu. Em thấy không cái tật...
- Thôi mà, cho em xin... - Cô gái bật cười khúc khích. Tiếng cười tròn căng sức sống. Bỗng cô gái cảm thấy mình thật đủ đầy hạnh phúc khi được chia sẻ cùng anh chị một tình yêu huyền thoại. Tình yêu thế kỷ. Tình yêu thời @, mà nhân vật chính lại là hai người bạn tình đang ở cuối con dốc cuộc đời, tháng ngày còn lại chỉ được tính bằng giây, bằng phút trong cõi vô thường. Sáng sáng chiều chiều, hai mái đầu bạc trắng họ gặp nhau bên máy vi tính, nhịp cầu Ô Thước thời hiện đại, gởi cho nhau những nhớ nhung chờ đợi, những lo toan trái gió trở trời, chuyện nhà chuyện cửa, tuổi già
cô quạnh... Cuối thư, bao giờ cũng những vòng tay ôm cháy bỏng, và hàng tỉ tỉ những nụ
hôn. Họ hồn nhiên yêu nhau. Trẻ trung. Say đắm. Nguyên sơ như cái buổi ban đầu. (Báo Văn Nghệ Trẻ)
Thạc sĩ bằng ưu
Kể từ hôm Đài truyền hình mở chuyên mục "Chuyện lạ có thật", ông giám đốc Sở tôi cứ
nhắng cả lên. Buổi họp báo, giao ban đầu tuần, ông phát động: "Mỗi người đều phải có trách nhiệm tìm ra cho được ít nhất một chuyện lạ trong ngành hoặc trong Sở chúng ta". Mọi người toát mồ hôi. Không biết trong ngành, trong Sở chúng tôi thế nào, nhưng rõ
ràng, nhờ Đài truyền hình, chúng ta mới biết, ở ngay đất nước mình, ở ngay bên cạnh mình, những người sống quanh ta cũng có bao nhiêu tài năng, bao nhiêu chuyện lạ. Tuy vậy, sau cái lệnh của Giám đốc, ai cũng tỏ ra ái ngại, vì nếu không tìm ra cho được một chuyện lạ thì... rất có thể bị
mất điểm thi đua, mới lại, làng người ta, xã người ta, ngành người ta có niềm tự hào về
chuyện lạ, ngành mình không có, cũng kỳ.
Trong lúc mọi người đang băn khoăn, thì... cái tay Trọng liền giơ tay phát biểu. Hắn nói một thôi một hồi về những
"Chuyện lạ có thật" mà hắn đã xem, rồi tuyên bố:
- Không biết, những chuyện chưa được xem lạ đến cỡ nào, chứ những chuyện đã chiếu trên ti vi thì ở quê tôi có mà
đầy, thằng bé năm tuổi đã biết nói tiếng Anh vanh vách, cô học trò đang học lớp ba đã dạy chị lớp mười giải phương trình có mũ... Vậy thì tại sao Sở ta lại không, Ngành ta lại không, chúng ta không chỉ giới thiệu những chuyện lạ Việt Nam mà phải giới thiệu cho thế giới biết những kỷ lục Guiness.
Mọi người thở phào nhẹ nhõm, nhưng trong lòng vẫn lo ngay ngáy, hắn mà không tìm ra chuyện lạ thì có mà chết, rồi sẽ
đến lượt mình, tìm đâu ra chuyện lạ có thật!?
- Anh có yêu cầu gì không - ông giám đốc gật gù nhìn Trọng khuyến khích.
- Cám ơn, nếu được sự trợ giúp, tôi xin giám đốc Sở chọn cho một ban giám khảo, bởi vì, có
ban giám khảo sẽ tránh cho tôi cái tiếng cảm tình cá nhân, giới thiệu người không đủ tiêu chuẩn.
- Okê - giám đốc Sở vui vẻ đồng tình.
Chẳng biết lớ ngớ thế nào, tôi cũng được Giám đốc Sở đưa vào Ban giám khảo. Và một điều bất ngờ... ngay chiều hôm ấy - nghĩa là chưa đến một ngày sau cuộc họp, tôi đã được triệu lên văn phòng, cùng với ban giám khảo, xét chuyện lạ thứ nhất.
- Xin hân hạnh giới thiệu: Nhân vật thứ nhất, cũng là chuyện lạ thứ nhất - Trọng tỏ ra thận trọng khác với cái vẻ bất cần thường ngày của hắn - người này khả dĩ vươn tới tầm cỡ ấy là do quyết tâm cao của chính anh ta, nhưng một phần cũng là nhờ có sự giao thoa của hai tư tưởng lớn. Trọng nói khá tỉ mỉ về ứng cử viên có thể giới thiệu về chuyện lạ có thật và sau đó sẽ đưa lên hàng kỷ lục Guiness. Người này thì tôi biết.
... Vào cuối mùa hè năm 1985. Một thanh niên, dáng người thanh lịch, gương mặt sáng, đôi mắt màu nâu, thông minh, nhưng có vẻ buồn - anh ta đến cơ quan tôi rụt rè đưa tập hồ sơ xin việc. Bấy giờ, tôi là nhân viên phòng tổ chức, chuyên tiếp nhận hồ sơ và hẹn ngày trả lời kết quả. Buổi xét duyệt hồ sơ, tôi cũng hân hạnh được mời ngồi dự, rồi suốt cả một quá trình hàng chục năm cùng làm việc với nhau, nên những chuyện mà Trọng nói về anh ta, quả thật có thể xem như một kỷ
lục(?).
... Hôm ấy, ông Giám đốc Công ty cầm tập lý lịch xem đi xem lại nhiều lần rồi nói:
- Thành tích học tập của anh này khá, có thể thu nhận được, nhưng phòng tổ chức cần phải xác minh cho rõ, xem động cơ vào đây làm việc của anh ta, tại sao một sinh viên y khoa tốt nghiệp loại giỏi lại không làm việc trong các bệnh viện đa khoa? Lại xin vào Công ty vệ sinh, môi trường?
Nếu phát hiện anh ta có ý đồ xấu, vào cơ quan chúng ta chỉ là để
thăng quan tiến chức, tranh giành địa vị thì... ở dưới ấy các ông cứ trả lời... đủ, không còn biên chế. Bấy giờ đi xin việc là một chuyện khó khăn. Cả nước đang bước vào một cuộc lột da đau đớn; người ta bắt đầu nói đến cải cách hành chính, tiêu chuẩn hoá cán bộ. Những viên chức không có bằng cấp lo ngay ngáy đã đành; những người có bằng cấp cũng phấp pha phấp phỏng, bởi họ
thường bị coi là một hiểm hoạ - hiểm hoạ của người không có
bằng cấp! Trưởng phòng tổ chức cơ quan tôi là một người nhạy cảm, ông ta rất thương thủ
trưởng vì ông này chẳng có một miếng bằng làm thuốc! Nhưng... ông cũng tỏ ra mến anh sinh viên mới ra trường, nên khi tiếp cận làm hợp đồng lao động cho anh này, trưởng phòng tổ chức chủ
động phủ đầu ngay:
- Tôi hỏi thật, cậu cũng đi gõ cửa mấy cơ quan rồi phải không?
- Dà... ạ... sao... ông biết?
Người cán bộ có thâm niên nghề tổ chức chỉ cần nghe bấy nhiêu và xem qua hồ sơ là đủ
hiểu cái nguyên do chàng thanh niên đến đây xin việc, nhưng ông cũng phải nói cái điều cần nói:
- Một số cơ quan ngần ngại không muốn tiếp nhận cậu vì... trong lý lịch thời sinh viên của cậu có vấn đề quan hệ nam nữ không lành mạnh(!). ở đây chúng tôi không chấp, nhưng tôi nói trước, vào đây để làm chuyên môn nghiệp vụ thì
được, còn muốn nhòm ngó chức này ghế nọ thì...
Chàng sinh viên sợ hãi, vội thanh minh:
- Không ạ. Em chưa nghĩ tới chuyện ấy, em chỉ mong có việc làm - anh chàng rơm rớm nước mắt - không lẽ năm, sáu năm học hành bây giờ lại tiếp tục về ăn bám mẹ!
- Ai mà biết được, khi ngồi ấm chỗ người ta mới bắt đầu sinh chuyện - trưởng phòng tổ
chức dằn mặt - ở đây đã xảy ra chuyện ấy rồi; tay Trịnh, nhân viên bảo vệ lúc đầu cũng năn nỉ xin cho được một chân gác cổng, nhưng vừa làm được vài tháng, không biết hắn lấy đâu ra cái bằng đại học tại chức chuyên ngành Luật, thế là một hai đòi bố trí công việc, chỗ ngồi cho phù hợp khả
năng, nguyện vọng, làm rối tung rối mù cả lên...
- Không ạ, em xin thề - chàng sinh viên đột ngột cắt ngang lời trưởng phòng tổ chức. Đã
nói đến thề, một tiếng nói có giá trị như được thế chấp bằng vàng, nhưng vẻ mặt ông này vẫn chưa yên tâm, chàng sinh viên buộc phải chứng tỏ thiện chí của mình, anh ta lấy từ trong cặp một tờ giấy trắng đặt lên bàn rồi hý hoáy viết. Xong. Anh chàng cầm cả hai tay đưa cho ông trưởng phòng tổ
chức. Ông ta cười phá lên:
- Cam kết! Cậu cam kết là không bao giờ nghĩ đến chức quyền? Tốt. Nhưng cậu phải viết thêm một dòng - một dòng mà bất cứ ai, và đi xin việc ở đâu cũng phải ghi lòng tạc dạ: Cam đoan xin nhận bất cứ công việc gì mà cấp trên giao.
- Vâng. Em viết ngay bây giờ, em xin thề ngay cả trong giấc ngủ cũng không bao giờ được mơ đến chuyện ngồi vào ghế lãnh đạo, dù chỉ là ngồi chơi, ngồi thử, và sẵn sàng nhận bất cứ việc gì
khi tổ chức phân công.
- Tốt - trưởng phòng tổ chức tỏ ý hài lòng.
Chuyện ấy tưởng chỉ là hậu quả ấu trĩ của một thời, hoặc, có thể hắn phải làm như vậy để
được vào làm việc, ai ngờ
gần hai mươi năm nay hắn vẫn trung thành với lời cam kết, giữ nguyên lời hứa: hắn chỉ làm công tác chuyên môn; hắn đã có những công trình nghiên cứu đáng giá về quy hoạch xử lý rác thải, hệ thống tiêu thoát nước trong mùa mưa lũ, chống ô nhiễm môi trường khu dân cư tập trung đông người. Các công trình đều được ứng dụng và đem lại hiệu quả
thiết thực trong đời sống của nhân dân thành phố. Dĩ nhiên, người có công chẳng bao giờ bị
cuộc đời phụ bạc; cấp trên đã nhiều lần gợi ý, đề bạt hắn nhưng trước sau hắn cũng không nhận bất cứ một chức vụ nào. Từ đó đến nay đã
bốn đời giám đốc, đã bao nhiêu thăng trầm, thay đổi, anh ta vẫn thế. Và, dĩ nhiên, đó là
người có kỷ lục thâm niên -
nhân viên lâu nhất.
- Còn... Nhân vật thứ hai - Trọng có vẻ lưỡng lự - xin ban giám khảo chờ cho vài tuần nữa, bây giờ chưa đủ độ chín, vì người này còn thiếu một cái bằng: cái bằng thứ Mười. Khi đã có cái ấy, chúng ta xét cũng chưa muộn. Không ngờ, cái gã Trọng mà ai cũng nghĩ hắn chỉ là anh công chức quèn, làm công ăn lương, sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về, bất cần, vô cảm, đến khi hữu sự mới biết. Đúng là đường dài mới biết ngựa hay! Y hiểu rõ từng con người như
vậy thì không phải kẻ vô tình mà ngược lại, đây là một người tâm huyết, chẳng qua, ta chưa biết xài người đấy thôi. Nhân vật thứ hai, Trọng định giới thiệu vào chương trình "Chuyện lạ Việt Nam" và ứng cử viên cho kỷ lục Guiness, dù
hắn chưa nói tên nhưng ai cũng đoãn được: đó chính là nhân viên gác cổng có tên Bùi Hữu Trịnh, đã được ông trưởng phòng tổ chức đưa ra như một bằng chứng để răn đe khi cậu sinh viên y khoa vác đơn đến đây xin việc gần hai chục năm về trước.
Hồi ấy, sau khi tiếp nhận anh sinh viên y khoa vào làm gác cổng, anh gác cổng đã được bố
trí vào chỗ ngồi hợp lý -
nghĩa là anh nhân viên bảo vệ có bằng cử nhân Luật lên giữ cương vị giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân về các vấn đề vệ sinh, môi trường, lệ phí thu gom rác thải v.v...
Chẳng biết anh này giải quyết thế nào mà đơn thư
khiếu nại, tố cáo ngày càng nhiều; có thư tố cáo chính bản thân người cầm cân nảy mực về
hiện tượng hối lộ, cửa quyền, rồi cả chuyện không minh bạch về việc thanh lý các hợp đồng xây dựng đường ống tiêu thoát nước v.v... Ban giám đốc bấy giờ cũng láng máng cảm thấy giữa vị trí
và cung cách của anh này có điều gì không ổn nên quyết định luân chuyển anh ta xuống công trường xử lý rác thải. Nhưng, chỉ sau một đêm, tức là sau khi Trịnh nhận được thông báo cho luân chuyển thì ngay sáng hôm sau, từ trên Uỷ ban thành phố đã có một cú điện thoại xuống Công ty. Không biết người từ trên thành phố là ai và nói những gì nhưng quyết định luân chuyển Bùi Hữu Trịnh lập tức bị huỷ bỏ. Cũng may, lúc ấy đã là thời của bằng cấp, ban giám đốc Công ty liền gợi ý
cho Trịnh đi học lớp cử nhân chính trị. Trịnh vui vẻ
nhận lời ngay.
Ba năm, trở về, Trịnh trình diện cùng với hai tấm bằng đỏ chót: bằng cử nhân chính trị và
bằng C ngoại ngữ. Vào những năm cuối thập kỷ tám mươi, quả thật ở công ty vệ sinh, ba cái bằng của Trịnh chưa thể phát huy tác dụng. Lúc đầu, phòng tổ chức đề xuất phân công Trịnh về phòng quản lý trật tự đô thị, nhưng Trịnh có lý do chính đáng "viêm xoang mãn tính" không quen ra nắng; sau, đưa về phòng kế hoạch, ông trưởng phòng này từ chối quyết liệt, mà thực bụng Trịnh cũng không thích làm kế hoạch. Trịnh mấy lần đã nói toẹt ra rằng: học ngoại ngữ, chính trị là để nói chuyện, thuyết trình, giao tiếp...
Trịnh có năng khiếu làm việc giữa đám đông và nói những lời hoa mỹ, lẽ ra phải phân công Trịnh đến công tác tại Công ty Hội chợ hoặc tổ chức những buổi liên hoan, đình đám... Nhưng Sở
tôi lại rất ít liên hoan và không có chức năng quản lý Hội chợ! Không nỡ để Trịnh ngồi chơi xơi nước, Ban giám đốc đành phân công Trịnh ngồi tạm ở phòng tiếp dân. Từ ngày Trịnh làm việc ở phòng tiếp dân, đơn thư khiếu nại lại rộ lên. Lần này nhiều nhất là
những lá thư nói về tư cách và Văn hoá của người giao tiếp. Ông giám đốc gọi tôi lên phòng làm việc, ông bảo tôi đọc một vài lá thư và thở dài:
- Cậu xem có lớp học nào thì cho tôi biết ngay.
- Chà... à. Hoan hô tinh thần hiếu học của đồng chí giám đốc.
Tôi thật sự ngạc nhiên nên không kiềm chế được lời bỗ bã. Còn ông giám đốc, mặt vẫn buồn rười rượi. Ông bảo:
- Tôi già rồi, sắp về hưu còn đi học làm gì, tôi nói là nói cái tay Trịnh ấy, có lớp nào cho anh ta đi học tiếp. Đấy, ông xem, để anh ta ở nhà chỉ rối thêm!
Tôi lần lượt xem hết các đơn thư và góp ý:
- Thưa đồng chí giám đốc, thực ra, anh này có một số nhược điểm có thể làm cho nhiều người khó chịu, nhưng để
đánh giá một con người, chúng ta cần phải có thời gian. Trong những đơn thư này tôi ngờ
có cả những lá nặc danh do chính người của cơ quan viết ra, vì đố kỵ, ghen ghét, lúc này mà có
được ba cái bằng cử nhân cũng nhiều người tức lắm chứ.
- Thôi được, việc này tôi giao cho cậu.
Được thủ trưởng tin tưởng, tôi cũng thử làm một cuộc vi hành. Sáng hôm sau, tôi xuống phòng tiếp dân. Tôi đến với tư cách một người đồng nghiệp rỗi việc vào tán gẫu với bạn bè. Thấy tôi xuất hiện ngoài cửa, Trịnh cất lời chào sang sảng:
- Hê-lô! Xin mời, xin mời, hôm nay rồng đến nhà tôm...
Đã quá quen với những lời móc ngoéo của Trịnh nên tôi không chấp. Tuy vậy, tôi cũng hơi khó chịu khi Trịnh lấy tay phẩy phẩy như xua muỗi:
- Khoan, khoan... trước khi vào phải cởi giày ra chứ. Nói chung cởi giày trước khi vào nhà
là phạm trù của văn hoá. Quả thật, tôi đã hơi nóng mũi và đã toan phản ứng, cơ quan không có quy định cởi giày khi bước vào phòng làm việc, tại sao Trịnh lại tạo ra một cái luật lệ riêng. Nhưng thôi, nếu việc cởi giày đã thuộc phạm trù của văn hoá thì mình phải tôn trọng, ở đây mà đấu lý với Trịnh rất có thể mình sẽ bị nhồi thêm một bàn thua trông thấy, tốt nhất là nhập gia tùy tục, tháo giày ra cho rồi!
Vừa lúc ấy, một người khách từ ngoài cửa, rón rén bước vào.
- Good morning, sir; Hello! My name's Bui Hưu Trinh - Trịnh sổ ra một tràng tiếng Anh nghe rất điệu. Vị khách giật bắn người bước giật lùi về phía sau, miệng líu lại nói lời xin lỗi!
Tôi vội vàng chạy lại hỏi xem ông ta đến tìm ai. Ông ta bảo đến Công ty vệ sinh trình bày về cái đống rác ở ngã tư
Vườn Mít.
- Thế thì bác đến đúng chỗ rồi đấy ạ - tôi gật đầu xác nhận.
Người đàn ông ngớ người ra một lát, rồi sợ mình nghe nhầm, ông ta hỏi lại:
- Anh nói đây là Công ty vệ sinh? Tôi không gõ nhầm cửa đấy chứ?
- Đúng thế.
Chợt hiểu ra tại sao người đàn ông lại luống cuống như vậy, tôi nhẹ nhàng giảng giải:
- Bác thông cảm, lúc này cả đất nước đang bước vào thời kỳ hội nhập, cán bộ công nhân viên phải tập cho nhân dân làm quen với giao tiếp bằng ngoại ngữ. Đây còn là cái "mốt" bác ạ. Lần sau đến đây, bác cứ mua cuốn "Tiếng Anh cấp tốc". Học thuộc bấy nhiêu từ cũng đỡ run khi bước vào công sở.
- Dà... dạ - người đàn ông khẽ "dạ", miệng mếu xệch như muốn khóc. Tuy vậy, trước khi giải quyết về vụ cái đống rác, ông ta vẫn phải nghe bài học không thể
thiếu về phạm trù văn hoá. Đúng thế. Trịnh nhắc nhở người đàn ông:
- Lần sau ông đến các cơ quan Nhà nước, việc đầu tiên là phải gõ cửa, sau đó là việc tháo giày để bên ngoài. Nói chung đó là những thao tác thuộc phạm trù văn hoá. Tôi có cảm giác như ông ta không còn thiết tha gì đến chuyện khiếu kiện, sẵn sàng chấp nhận cái đống rác kia để
đánh đổi việc thoát cho nhanh khỏi bài học về những phạm trù, nên vừa nộp đơn xong, ông ta vội đứng lên, ngả nón, chào, rồi bước nhanh ra cửa, đi như chạy!
Trịnh nhìn tôi, nhướng mắt, cười khoái trá:
- Ông thấy không, nghệ thuật giao tiếp là phải "uýnh" đòn phủ đầu, uy hiếp, đưa đối phương vào thế bị động, lúng túng, tiến thoái lưỡng nan, kiềng mặt, hoặc ít ra lần sau không dám đến nữa. Mặt khác, cũng phải cho thiên hạ biết: chúng ta
- là - những - người - có - trình - độ.
Trịnh nói đúng, nghệ thuật giao tiếp kiểu "uýnh" phủ đầu ít nhiều đã làm cho nhiều người e ngại. Đa số anh em trong cơ
quan đều đã nếm mùi phủ đầu của Trịnh; ngay cả giám đốc sở cũng vài lần bị Trịnh chơi cho một vố! Giám đốc Sở sau này là một nhà thơ. Ông thường thức rất khuya làm thơ, kẻ nhạc, nên sự thật, ông cũng thường đi muộn. Hôm ấy đã
hơn bảy giờ ông mới vào công sở. Hình như ông đang có việc gì vội lắm, khi đi ngang qua phòng tiếp dân, Trịnh tươi cười ngoắc lại:
- Ê... Anh Công.
Ông này sững lại.
Trịnh đưa tay xem đồng hồ, rồi nửa đùa nửa thật:
- Anh đi muộn mười phút đấy nhé!
Nhà thơ giận đỏ mặt. Nhưng, làm gì được nhau, vì... Trịnh nói đúng!
Tất cả mọi người, từ quan tới lính tuy không ai nói ra, nhưng ai cũng sợ Trịnh, bởi vì, ai cũng biết, mỗi người đều có
cái gót của Asin! Thế nào cũng có lúc Trịnh tìm được chỗ hiểm, anh ta bắn cho một mũi tên độc thì... không chết cũng bị thương! Khôn ngoan nhất là lánh "Tránh voi chẳng xấu mặt nào"
hoặc, thực hiện một phương án tối ưu: "Ta không đụng tới mi thì mi cũng đừng đụng tới ta". Giám đốc Sở cũng chọn một phương án tuyệt hảo: cho Trịnh đi học. Thật may mắn cho cả
hai, bởi vì, niềm khao khát của Trịnh là những tấm bằng, anh ta luôn săn tìm các thông tin về
những cuộc chiêu sinh, bất kể là lớp học nào, và mỗi lần Trịnh đệ đơn xin đi học, tất cả các giám đốc Sở đã từng ngự trị nơi đây đều duyệt ngay tấp lự. Từ ấy đến nay, đã mấy đời giám đốc, ông giám đốc nhà thơ cũng đã về hưu, không biết họ có bàn giao cho nhau cái việc "Duyệt" cho Trịnh đi học hay không, nhưng con đường thăng tiến của anh thật vô cùng ngoạn mục - gần hai mươi năm - mỗi năm anh chỉ có mặt tại Sở khoảng mười lăm ngày vào dịp nghỉ hè, mỗi tháng anh chỉ
ghé qua Sở một ngày để lĩnh lương, còn tất cả là ở nhà và ở trường, lý do chính đáng, thuyết phục cho việc vắng mặt suốt mười mấy năm qua là chín tấm bằng, tấm nào cũng hạng ưu, đỏ chót. Cũng có người xấu mồm xấu miệng nói ra, nói vào, rằng, toàn bằng dỏm, bằng giả, bằng phong bì, bằng nhậu chứ làm gì có một người chẳng làm được việc nào nên thân lại sắm được nhiều bằng đến thế?
Để có sự công bằng, tôi xin thú thật: Tôi không thích Trịnh nhưng trong lòng cũng thầm bái phục - dù Trịnh có làm cách nào, nhưng anh đã có trong tay ngần ấy tấm bằng, toàn là bằng cử
nhân, đại học thì quả là một điều đáng nể. Sáng nay, Trịnh đến trình diện cơ quan với tấm bằng Thạc sĩ loại ưu và gương mặt cực kỳ mãn nguyện. Đây là người đầu tiên của Sở tôi có tấm bằng Thạc sĩ. Lẽ ra, cơ quan phải nghỉ việc một ngày để làm lễ đón chào tân khoa cho phải đạo - như
ngày xưa dân làng chào đón tân trạng nguyên vinh quy bái tổ. Nhưng, thật đáng buồn, họ coi việc đỗ đạt của Trịnh là chuyện quá bình thường; một vài người thấy Trịnh chỉ khẽ gật đầu, mỉm cười, chào cho có lệ; còn đa số vẫn dán mắt vào máy tính hoặc tờ nhật báo. Không thể chấp nhận cái cảnh thờ ơ lạnh nhạt của số đông đối với người đồng nghiệp vừa vinh quang trở về, tôi dứt khoát đứng lên chúc mừng Trịnh và thay mặt anh em Phòng điều hành mời Trịnh một bữa điểm tâm và
một chầu cà-phê sáng. Chúng tôi hàn huyên về việc học hành, những chuyện vui buồn của cơ quan; ngày Trịnh đi học đơn vị còn là một công ty nay đã phát triển thành cơ quan cấp Sở... Trịnh nói rất nhiều về
chuyện cải cách hành chính, hệ điều hành của một Chính phủ điện tử, anh luôn than thở về
chuyện lãnh đạo không ít cơ
quan đến giờ này vẫn chưa có bằng thạc sĩ! Và, một chuyện làm anh rất quan tâm, đó là ông phó giám đốc Sở mới về
hưu. Tôi lờ mờ đoán được tình cảm của anh nên ướm hỏi:
- Anh với anh Nguyên trước đây chắc là bạn học cùng trường?
Trịnh lắc đầu lạnh nhạt:
- Không! Tôi nghĩ là ông ta đã về hưu đúng lúc, cũng nên nhường ghế cho lớp trẻ, những người có bằng cấp, bằng cấp là một trong những thành tố thuộc phạm trù văn hoá, không có bằng cấp thì không làm ăn gì được...
Bấy giờ tôi mới hiểu ý Trịnh, tôi thông báo để anh yên tâm, chiếc ghế của anh Nguyên vẫn còn bỏ trống, hình như cấp trên cũng có ý định...
- Dĩ nhiên - Trịnh hào hứng hẳn lên - lãnh đạo thành phố rất sáng suốt, muốn xây dựng một Chính phủ điện tử thì phải bổ nhiệm những người có bằng cấp.
Chúng tôi rời quán khi ánh nắng mùa hè đã xiên qua những chùm bông bằng lăng thưa thớt, chiếu thẳng vào sau lưng, bỏng rát. Để buổi ra mắt của Trịnh thêm phần long trọng, tôi cùng đi với anh lên lầu 3 - nơi Giám đốc Sở làm việc. Vừa bước vào phòng Giám đốc, chưa kịp bắt tay, Trịnh phê bình ngay:
- Ô... ồ thế này thì không thể tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá được rồi! Tiết kiệm điện, hay là máy điều hoà nhiệt độ bị hư?
Ông Giám đốc mỉm cười độ lượng:
- Các cậu thông cảm, mình không được khoẻ, rất sợ máy lạnh. Nhưng... hôm nay đón tân thạc sĩ, tôi xin chiều, nào...
Ông giám đốc cầm chiếc remote đưa tận tay cho Trịnh: nào, ông cứ việc bấm hết số đi cho mát, hôm nay ta phá lệ một chút không sao.
Và để chứng minh bệnh sổ mũi kinh niên là có thật, ông liền móc túi lấy ra chiếc khăn mu-xoa ướt nhẹp, rồi xì, xịt liên tiếp ba, bốn cái!
Thạc sĩ cầm remonte bấm liền mấy phát, máy điều hoà nhiệt độ nhận được tín hiệu kêu tít... tít. Tôi đóng cửa lại, rồi cùng ngồi tán chuyện cho vui. Từ lúc mở máy điều hoà nhiệt độ, không khí trong phòng bỗng trở nên ngột ngạt và nóng nực không sao chịu nổi, ông thạc sĩ xem lại remonte và cười khỉnh:
- Cái máy lạnh của anh.. coi chừng đồ dỏm, tôi đã nhấn hết cỡ... lên đến... hai mươi bảy độ
mà vẫn nóng...
Bị bất ngờ, tôi không kịp giữ gìn ý tứ, đưa tay giật phắt chiếc remonte trong tay ngài thạc sĩ: quả nhiên, ngài đã nhấn cái điều khiển lên tới... hai mươi bảy độ... hèn chi(!). Tôi kinh ngạc... kêu lên như người phải bỏng:
- Chết rồi má ơi!
Ông giám đốc hoảng hốt nhìn về phía tôi lo lắng:
- Cậu làm sao thế?
May phước, vừa lúc ấy, có một con ruồi - một con ruồi ngớ ngẩn bay thẳng về phía tôi như
tên bắn, và tôi giơ tay chộp được. Khi ông giám đốc hỏi: "Chuyện gì mà cậu la thất thanh lên vậy?". Tôi liền xoè tay ra, trong đó có con ruồi! Suýt nữa thì tôi buộc phải nói ra cái điều đã làm tôi kinh ngạc: "Ông thạc sĩ có cái bằng hạng ưu, đỏ chót: chưa - tốt -
nghiệp - trung - học - phổ - thông, Trời ạ!".
(Báo Văn Nghệ)
Chuyện nằm trong ký ức
Trong đời, đôi khi có những việc thoảng qua rồi nằm lặng vĩnh viễn trong sâu thẳm của ký
ức mịt mùng. Một khuôn mặt người, một hoàn cảnh trắc trở éo le mà ta lâm vào, hoặc cả một mối tình câm lặng chết rụi. Như đêm dài thăm thẳm, chợt bình minh thức dậy, cái ký ức mịt mùng kia chợt bừng sống trả lại cho ta vẹn nguyên những gì ta từng có, từng sống, để rồi buộc ta phải dày vò
ân hận, tiếc nuối hoặc vui mừng hoan hỉ. Chiều kích nào, thái cực nào cũng khiến ta xốn xang tâm trạng. Thì đây chiều nay...
Quán bia hơi đông nghẹt người tải theo rừng âm thanh hỗn loạn. Những dãy bàn ken sít, tua tủa tay người khua khoắng vung vít, những cốc bia trào bọt giơ lên, đặt xuống, hào phóng chạm nhau lách cách. Tôi ngồi một mình, nhấm nháp tận hưởng nỗi cô đơn của mình. Chợt mặt tôi rát bỏng. Một ánh nhìn trần trụi tuồng như được phóng thẳng không cần che đậy, gìn giữ. Phản ứng phòng vệ tức thì của tôi là chấp nhận luồng nhìn rát bỏng ấy. Chỉ kịp nhận ra đó là một cái nhìn săm soi không tâm trạng của một gã đàn ông râu rậm rì, dáng vóc phong trần, tôi đã lạnh ngắt người và
cứng lại toàn thân. Khuôn mặt kia hoàn toàn xa lạ, thoắt đã như tạc sẵn từ bao giờ, nằm đông sệt trong ký ức tôi và đột ngột oà dậy, rõ từng đường nét. Đúng là gã, không thể có sự nhầm lẫn nào. Gã! Đúng là gã của ngót ba chục năm về
trước.
*
Năm 1974. Đại đội pháo cao xạ 57 ly của tôi nằm ngay trên một quả đồi sát nhà máy chế
biến mủ cao su thị trấn Lộc Ninh. Thị trấn giải phóng này nằm gọn trong một thung lũng, nhà dân san sát. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ thị trấn và sân bay Lộc Ninh. Bấy giờ vừa hết mùa mưa, hàng ngày chúng tôi liên tục trực chiến và thi thoảng phải đánh trả
những đợt oanh kích của lũ A37 và F5E của không quân Sài Gòn. Chỉ đến chiều tối, khi chạng vạng hoàng hôn, một ngày của lũ lính pháo chúng tôi mới thực sự bắt đầu. Đám ào xuống tháp nước tắm táp kỳ cọ, đám đột kích vào rừng le kề cận kiếm măng, rau và hy vọng lùng được con thú khả dĩ nào đó kể từ chuột, dũi hắt lên. Tươm tất hơn là cánh lính được phép vào thị trấn chỉ
để gom góp nhau mua bịch trà Blao và gói thuốc cuốn, hoạ hoằn mới dám xài sang tậu hẳn bao Rubi quân tiếp vụ "chân duỗi chân co". Lác đác trên đồi, dân vào dựng lều làm rẫy, chủ yếu trồng củ mì (sắn). Đáng kể, ngay sát trận địa có một ngôi nhà được làm có lẽ từ rất lâu. Nhà lợp tôn cẩn thận, không như những chiếc lều rẫy lợp gianh cỏ tạm bợ. Nhà chỉ có hai bố con. Người bố, một ông già nhỏ choắt, đầu bé, quần áo xộc xệch, luôn sùm sụp chiếc mũ vành tròn của lính địa phương quân. Giữa thân mũ kẻ đậm dòng chữ "Phận anh nghèo". Chúng tôi gọi tên ông già vắng mặt bằng chính dòng chữ bông lơn ấy. Khác hẳn với bố, cô con gái đang tuổi thanh xuân, ăn diện, đẹp lộng lẫy theo như đánh giá của đám lính có vợ, còn chúng tôi, một lũ choai choai, chưa biết cầm tay đàn bà, mít đặc biết chi mà bình phẩm. Còn trẻ nhưng cô gái đã có chồng là trung sĩ nhất biệt động, nghe nói tử trận dạo bảy hai ngay tại chiến trường Lộc ninh này. Cũng không ai biết tên cô gái, chỉ
thấy ông già đầu bé gọi con là út. Lính tráng đại đội tôi đa phần là lính trẻ Hà Nội, chân ướt chân ráo vừa từ miền Bắc vào, nhìn cái gì cũng lạ lẫm. Khoản quan hệ dân vận, phần vì thiếu kinh nghiệm, phần vì kỷ luật chiến trường của một đơn vị cao xạ chiến đấu nghiêm cứng, nên hầu như
cánh lính trẻ chúng tôi không quen biết bất cứ một ai ngoài đại đội. Bố con cô út luôn tỏ ra ngần ngại chúng tôi nên dù sát sạt nhau, chưa bao giờ họ có thái độ thân thiết, thậm chí tôi ngờ rằng vì
cái chết của tay biệt động quân kia, họ
còn thâm thù chúng tôi là đằng khác. Bằng chứng lớn nhất là tấm biển cắm ở rẫy mì, ngay rìa trận địa, viết nguệch ngoạc dòng chữ bằng sơn trên tấm bìa các tông: "Gia đình tôi nghèo đói trông vào rẫy mì này, xin các chú giải phóng đừng lấy". Dòng chữ quá là trêu ngươi, làm tổn thương lòng tự trọng của chúng tôi. Chả gì chúng tôi cũng là lính, lại là
lính nội thành Hà Nội, chẳng giàu có nhưng dứt khoát không thiếu thốn, ba lô thằng nào thằng nấy, chật cứng đồ ăn thức uống dự phòng. Thêm nữa, lính pháo hành quân bằng cơ giới, mang vác được đủ thứ, lại rơi vào thời điểm đường mòn chiến lược thông một lèo từ hậu tuyến vào, thèm khát gì ba cái thứ củ nhăng nhít, ăn vào lòng ruột nóng như hơ lửa kia. Không cần bàn cũng biết chúng tôi phẫn nộ đến mức nào, nhưng hệt như có phép thần, tấm biển bị hạ
xuống quăng đi, chỉ lát sau đã lại mọc lên ở một vị trí khác vẫn trong tầm quan sát. Đích thân đại đội trưởng vào nhà
ông già đầu bé đề nghị vứt bỏ tấm biển thì được chủ nhân trả lời nhũn nhặn:
- Biết mấy chú đàng hoàng nhưng đâu phải có mình đơn vị mấy chú. Bữa trước, mấy cha trong cứ tăng gia thuận tay vạt hẳn của tôi nửa rẫy. Cẩn thận vẫn hơn chú à. Với lại mấy chữ này đâu có phạm gì vào Cách mạng. Đại đội trưởng đuối lý đành rút lui, trút hậm hực lên đầu chúng tôi bằng một câu xanh rờn:
- Tụi bay, đứa nào chàng màng đến một gốc mì, đừng trách tao ác. Việc rồi cũng qua, đánh nhau túi bụi, thì giờ đâu mà để ý đến cái chuyện cỏn con ấy. Tuy nhiên lòng chúng tôi khôn nguôi khó chịu cả hai bố con vì tấm biển thù địch kia. Ngày ngày cô út hai buổi vào thị trấn đi chợ, buộc phải đi vòng không dám men rìa trận địa để tắt xuống đường lớn, chủ yếu là để tránh những ánh nhìn thiếu thiện cảm của tất cả
chúng tôi.
Rồi một việc xảy ra làm chúng tôi quá đỗi bất ngờ. Cô út có người yêu. Đang tuổi xuân xanh, chuyện chồng vợ của người đàn bà chết chồng đâu có gì trầm trọng đến mức ngạc nhiên. Nhưng không, lũ chúng tôi không thôi bàn tán xầm xì vì cái nhẽ, kẻ lọt vào mắt xanh của cô út, oái ăm lại là một gã lính quân ta, không biết chui từ đơn vị vị nào lọt đến căn nhà mái tôn. Cứ nhìn thấy bóng quân phục xanh thậm thụt lủi vào nhà giữa ban ngày, ban mặt là máu chúng tôi sôi lên. Điệu bộ kia, con người ấy, dứt khoát không thể gọi là minh bạch được. Cô út từ ngày có gã lính trở nên e ấp và bắt đầu có những biểu hiện mang tính thiện cảm với cánh lính đại đội. Chính tôi, có lần đi qua nhà, chạm mặt cô đã bất ngờ được tặng một nụ cười tươi tắn kèm lời mời vô nhà uống nước khiến tôi phải bối rối. Tất nhiên sự tổn thương vì
dòng chữ kia trong tôi còn nguyên, nên tôi đáp lại thịnh tình ấy bằng một cử chỉ lạnh lùng, đúng với mức độ sứt mẻ lòng tự trọng. Ông già đầu bé từ ngày có gã lính xuất hiện đâm ra phởn phơ. Mỗi khi gã kia đến, ông vẫn sùm sụp chiếc mũ
định mệnh nhưng thay vì ngậm cuốn sâu kèn thuốc rê ngún khói ướt nhẹp, bây giờ mép ông vắt vẻo điếu thuốc thơm một cách đầy viên mãn. Cứ gã kia đến là ông già đầu bé lần xuống thị trấn tìm bạn nhậu. Cả đại đội như phát cuồng vì
mật độ những lần đến tình tự của gã lính lạ ngày một dày lên. Thậm chí có lần cánh lính gác trận địa còn phát hiện ra gã
dám ngủ lại qua đêm tại đấy. Thế này thì quá quắt thật, nhưng chúng tôi cũng chẳng biết làm gì, vì gã có xâm phạm đến trận địa của chúng tôi đâu. Có lẽ gã biết phạm vi khu vực dân thuộc quyền của an ninh thị trấn nên đôi khi gã chẳng mấy giữ gìn, đi lại ngang nhiên như thể gã đã chính thức thế chân tay trung sĩ nhất yểu số. Chúng tôi cú lắm, không quá
nặng nề về chuyện ta địch nhưng lính tráng bỏ đơn vị đi thế kia, chắc là ngữ chẳng ra gì. Thêm nữa, cái ý nghĩ ghen tức này là có thực, mình ngày nào cũng căng thẳng phơi nắng, dầm sương trên mâm pháo còn gã nhởn nhơ hưởng lạc, thật chẳng công bằng. Đến một hôm vào phiên tôi gác đêm, gã lính lại mò đến. Hôm đó trời xui đất khiến thế nào, hồi chiều chúng tôi bị chần cả
một dây bom A37 sát sạt trận địa, không ai trầy da, tróc vẩy nhưng tai ù đặc vì sức ép gần, nhân chuyện này khẩu đội nào cũng làm một cuộc liên hoan nho nhỏ mừng phúc của mình dầy nên thoát nạn. Trà lá quá
cữ, khối kẻ tham lam sùng sục vì không ngủ được, thành thử cái việc gã lính thậm thụt kia trở thành quá đà, không thể
tha thứ. Mấy thằng mất ngủ, mắt kè kè đỏ như mắt cá, chụm đầu bàn bạc. Đang phiên gác nhưng tôi cũng hăng hái không kém. Bàn đi tính lại, chúng tôi quyết định phải tống khứ bằng được gã cho đỡ chướng tai gai mắt. Dạo đó tội quan hệ trai gái không phép là trọng tội, đằng này lại là
thứ quan hệ với vợ lính phía bên kia, cứ bắt được quả tang ăn nằm với nhau thì con giời có mà mọc thêm tá lưỡi cũng đừng hòng chối thoát. Thống nhất phương án xong, Thắng ngọng được cử vào trinh sát. Thắng vào chỉ một tẹo đã lộn ra ngay, đầu gật lia lịa, tay chỉ trỏ loạn xạ, miệng ríu lại, ạo ạo:
- úng ó ủ ới au. ận anh èo i ồi. (Chúng nó ngủ với nhau. "Phận anh nghèo" đi rồi.) Gọi Thắng ngọng vì hắn bị tật co lưỡi, không nói được phụ âm, thành thử cái gì hắn cũng quy tuốt ra nguyên âm, nghe nhiều thành quen, không còn khó hiểu và buồn cười như dạo đầu. Thông điệp của Thắng ngọng khá đầy đủ. Ông già
đầu bé thành lệ ngủ luôn dưới quán nhậu khi biết gã lính ngủ đêm. Tôi và Thành y tá đại đội nhà ở phố Tạ Hiện, vốn là
hai thằng có máu liều được đảm nhiệm việc giải quyết khâu cuối. Lúc men vào đến nơi, tôi khững lại, liều thế không biết, ngủ lậu còn dám để đèn. Ngọn đèn ắc quy đã bị che vải vẫn nhờ nhờ
sáng, đủ để tôi nhìn rõ hai người đang ôm lấy nhau ngủ ngon lành. Thậm chí tôi còn nhìn thấy khoé
môi cô út hơi nhếch lên khiến khuôn mặt cô thơ dại như một đứa trẻ. Một thoáng ngần ngại, tôi thở
dài quay sang Thành dò hỏi. Hình như Thành cũng đang lừng khừng như tôi nên hắn nói khẽ:
- Còn nguyên quần áo...
Tôi thấy nhụt hết khí thế thế phừng phừng ban nãy, chưa biết tính thế nào thì gã lính đã thức giấc, phản ứng rất nhanh, vùng dậy, tung người khỏi giường lao vào tôi. Chủ động hơn, nhưng tôi vẫn bị lĩnh đủ một cú đá vào bụng dưới đau đến tê dại, điên máu tôi ấn hẳn nòng khẩu AK vào giữa ức gã dúi mạnh, sau đó quật hắn ngã xuống giường:
- Hủ hoá, ngồi im!
Gã lính lồi mắt nhìn, chợt hiểu ra, mắt vằn lên, tức tối, còn cô út sợ hãi luýnh quýnh, tay cứ
vân vi lọn tóc, nước mắt đã
nhấp nhánh ứ tràn. Từ trận địa, đám lính mất ngủ đồng mưu nhất loạt ùa vào. Gã lính hực lên như một con thú, không kiềm chế nổi lại chồm dậy, húc vào người tôi, miệng thốt ra căm hờn:
- Chúng mày, đồ khốn...
Chúng tôi dong gã về trận địa. Gã từng là lính chiến của một đơn vị bộ binh nức tiếng toàn miền, nay đã bỏ đơn vị
thành dân " tụt tạt". Ngay sáng hôm sau, tôi và Thành được giao nhiệm vụ giải gã về cảnh vệ sư đoàn. Đó là một phần thưởng cho hai đứa lập công được tung tẩy đi ra ngoài. Đường lên sư
đoàn bộ khá xa, vào tít tận làng 10, ngót dăm, bảy cây số nhưng bực tức của tôi lâu nay được giải toả nên đoạn đường kia chả mấy bõ bèn. Gã tên là Thái, cũng dân Hà Nội mới đau! Nhà gã ngay quãng Cửa Nam. Loại lính chiến như gã, nếu không vì cú này đáng mấy bậc đàn anh của tôi. Gã
vào chiến trường từ đầu bẩy mươi, trận mạc chắc chắn trải nhiều, chẳng hiểu nông nỗi gì mà ra cảnh ngộ bây giờ. Không ngờ Thái biết rất rõ chúng tôi, gã không có vẻ sợ sệt, nói rủ rỉ như tâm sự, đại loại cùng đồng hương Hà Nội, nên thả gã ra, có đưa lên đấy, cùng lắm gã chỉ bị trả về đơn vị cũ, chứ gã có tội gì đâu. Thú thực, với quãng đường dài như thế, cả tôi và Thành đều nao núng trước những giãi bày của gã. Tôi chưa một lần yêu nên không hiểu lắm khi gã bảo gã yêu thật lòng, đấy là tình yêu của gã, không một ai lại đi ngăn cấm tình yêu cả. Lời lẽ của gã chân thành, lại cộng thêm sự từng trải của một lính chiến thâm niên, tất nhiên cả tình cảm đồng hương cộng vào, khiến tôi và
Thành phải hội ý vì dao động. Lẽ ra chúng tôi đã liều thả gã nếu như gần đến làng 10, gã không bất chợt nổi điên, khiến tôi lại chạnh lòng nghĩ về hành tung của gã ở nhà cô út. Gã gầm lên chửi bới tôi và Thành thậm tệ. Tôi bập bõm nhớ câu được câu chăng của gã:
- Để xem chúng mày có giữ nổi gáo để vác được mặt về Hà Nội không? Mấy thằng oắt con, tao vào sinh ra tử ở đây thì chúng mày còn chưa biết ngửi cứt khói... Tao thề ông trời có mắt cho tao được gặp lại chúng mày ở đất thánh... Tôi bật cười vì kiểu chửi ngồ ngộ của gã. Trong sự thích thú có một chút thoả mãn ganh ghét, chúng tôi giao gã cho cảnh vệ sư đoàn theo đúng phận sự. Sau hôm đó không thấy gã còn lai vãng về nữa. Cô út rất ít khi ra khỏi nhà. Nghe nói đận ấy cô bị ốm liệt giường. Ông già đầu bé lại ngậm sâu kèn thuốc rê ngày ngày làm rẫy. Đại đội tôi cũng được lệnh hành quân theo hướng chiến dịch giải phóng Phước Long, mở màn cho Tổng tiến công 1975. Miền Nam giải phóng, chúng tôi như đàn chim sổ lồng bay nhảy khắp nơi, đứa về nhà, đứa đi học, đi làm... không còn dịp cho chúng tôi trở về mảnh đất Lộc Ninh ấy nữa. Câu chuyện về bố con cô út và gã "tụt tạt" chỉ là những gì thoảng qua, nằm vùi sâu trong bộn bề ký ức đời lính. Với riêng tôi nó bị lấp nhoà và hoàn toàn quên lãng.
*
Đúng là gã! Cả người tôi đùng đùng như lên cơn sốt, mồ hôi túa ra đầm đìa. Ngần ấy năm sao khuôn mặt gã vẫn không mấy thay đổi và tại sao tôi tịnh không một lần nhớ lại câu chuyện của gã dù loại người như tôi sống có lẽ chỉ
hợp với ký ức. Không nhớ, để bây giờ nó ùa sống lại, mãnh liệt cào móng vuốt cấu xé trái tim tôi. Ba mươi năm, từ
anh lính trơn trở về, lăn lộn bươn chải đủ nghề để rồi cuối cùng thành một nhà văn bất đắc dĩ, gần chót đời người chưa làm nên một cái gì ra hồn. Tôi đứng dậy, toan tiến thẳng đến trước mặt gã, nói một câu gì đó theo kiểu lính tráng chúng tôi, nhưng lóng ngóng thế nào, tay tôi chực cầm vại bia lên thì lại cầm hụt, nước bia đổ lênh láng trên mặt bàn và tưới xuống hai ống quần... Trong giây lát xử lý sơ suất, ngửng lên, tôi chưa kịp phản ứng gì đã không thấy gã ngồi đó nữa. Có lẽ gã
đã nhận ra tôi? Cuộc sống của gã sau cái đêm khắc nghiệt ấy ra sao? Tôi nghẹt thở vì những ý nghĩ
vừa ập đến. Cô út sẽ thế nào? Gã có trở về lại được với cô không? Tôi đã chia lìa hạnh phúc của họ?
Cớ sao gã lại biến mất trong khi lẽ ra chúng ta phải biết cho chuyện đó là của quá khứ, của chiến tranh chứ? Chợt tôi thấy bẽ bàng, đành thui thủi lặng lẽ rời khỏi quán bia... Thời ấy chúng tôi đang còn trẻ quá.
(Báo Văn Nghệ)
Người chờ sấm
Đã lâu lão chưa nghe một tiếng sấm nào. Bầu trời cứ mỗi ngày một âm ung như thể cái miếng thịt thối mưng mủ mãi chưa vỡ. Đêm nào lão cũng ước, giá nghe được một âm thanh chát chúa, cho nó đỡ tẻ, cho nó đỡ bức. Đằng này tịnh không tiếng gió, thậm chí cả tiếng thở phì phò
hàng ngày của mụ vợ đang hấp hối giờ đây cũng lịm tắt, làm cuộc đời ngưng trệ và trì đọng biết mấy.
Trong những cơn mơ, bao giờ lão cũng được tắm sấm thỏa thích. Lão chỉ cần nghiêng tai là
cái thứ chuynh choang màu mỡ ấy lại kéo đến vang rền. Bụng lão như mở cờ, bởi lão biết cứ mỗi tiếng rú hào phóng giữa tầng không là một lần mưa móc lại ào qua. Con ranh Hoa Lơ lại thập thò
trước cổng. Lão đã mấy lần bảo nó đừng đến, mà cái loại thiêu thân ấy làm sao cứ nô nức quá đáng. Đã đành đùi non má phấn thì ai chả thích, nhưng chả phải mụ vợ kẽo kẹt của lão vẫn chềnh ềnh đó
ư? Để rồi hàng xóm người ta cười cho à? Nó không đợi được đến cái ngày yên duyên lành phận ư?
Rõ là khốn nạn. Đến lúc lão tỉnh lại thì sự u tù bức bối vẫn còn nguyên đó, con Hoa Lơ cũng chẳng thấy đâu, làm lão vừa mừng vừa tiếc...
*
Sáu mươi năm trước, lão ra đời trong một tiếng sấm long trời. Sau này nghe kể, thì bà cụ đẻ ra lão vốn sợ sấm sợ sét lắm. Bà kể rằng bà chửa lão đã quá
tháng quá ngày đến phát ốm mà vẫn chưa đẻ được. Ngày đó trời đất cũng bức bối mãi, như thể câm lặng dồn dỗ vong hồn của dòng người chết đói về với cõi cam khuất. Bà cụ mẹ lão cũng chẳng còn gì để ăn, ngày ngày phải ra phụ giúp cho cái đại lý cám cuối cầu Đông San của người Tàu Ô, để đến bữa may ra người ta cho quét mót đám cám rơi mang về nấu cháo. Đã
thế ông cụ thân sinh ra lão lại dở thói sĩ diện, lôi mấy ông bạn nghiện về nằm chềnh ềnh giữa nhà, đến bữa ăn chực cháo cám của gia chủ rồi ngứa họng nôn ọe khắp nơi, làm bà mẹ lão vất vả muốn chết. Cũng may rồi bọn khốn cũng cút, ông chồng ấm ớ cũng biệt tích, bỏ mặc vợ lăn lóc với cái bọc thai đã lên vảy chun quần trong cái xóm vắng điêu tàn. Thế rồi một hôm giữa thanh thiên bạch nhật, một tiếng sét hãi hùng đâm toang giữa bầu trời. Mẹ lão sợ quá lăn ra đất bất tỉnh, đến lúc hoàn hồn nhìn dưới đũng quần đã thấy đứa con đỏ đang lùng bùng quẫy đạp. Bốn phía chẳng có
ai mà dựa dẫm, hai mẹ con buộc phải lau chùi mút hít cho nhau bên cái gốc đa làng sét đánh nát tướp. Lão ra đời vừa kịp thời vừa bất đắc dĩ như một định mệnh. Lão không định yêu sấm, nhưng cái thứ tiếng động xung thiên kinh khiếp kia dường như
tiền định là bản mệnh của lão. Thuở mới chín mười tuổi, đã có lần lão nhìn thấy một người liên đới bị sét đánh chết, đó là ông Lông Phông nhà ở làng bên. Vốn phải lòng mẹ lão, ông Lông Phông từng nhiều lần muốn cưới bà về làm vợ bé. Nhưng vì cha lão là trai làng cậy thế gần nhà, lại có thế
lực trương tuần, nên mặc dù đã có đợt dồn được mẹ lão phải sang ở đợ, ông vẫn không thể chiếm được hoa khôi áo gụ quần thâm. Sau khi cha lão bỏ đi, ông Lông Phông lại càng chết khát. Ông ta dọa nếu bướng, ông ta sẽ cho đàn em phục kích làm nhục, nhưng mẹ lão vẫn không hề suy chuyển. Lần ấy mưa to gió lớn, ông Lông Phông rủ thằng bé đói rách là lão lên bờ đê ăn rắn luộc, rồi nhắn tin cho mẹ nó ra đón. Khi mẹ lão xuất hiện, lão kêu to cảnh báo, rồi móc cả vốc bùn ném mù mắt kẻ
dê già. Sau khi lão dắt mẹ chạy khỏi mấy bờ ruộng, chợt một tia chớp chói lòa xuất hiện, hất cả hai mẹ con vào bụi. Lồm cồm bò dậy, lão chỉ cho mẹ thấy mái điếm canh đê, nơi lão dê
đứng, vừa bị sét đánh tan thành từng mảnh, còn thầy trò ông Lông Phông thì đang giẫy dụa như đôi chuột nướng. Bầu trời lúc ấy bỗng dưng trong sáng lắm. Mưa ngừng rơi, gió ngừng thổi, chỉ có tiếng ếch nhái chẫu chuộc uôm oam như
một dàn đồng ca hoan hỉ.
Sau cái chết của ông Lông Phông, những tưởng mẹ con lão được yên, nào ngờ thực tế còn phũ phàng hơn gấp bội. Số là cha lão bỏ đi đâu hàng chục năm trời, nay bỗng quay về ngông nghênh vênh vác. Thì ra thuở làng chết đói, ông cựu trương tuần đã bỏ làng lên miền ngược làm thuê. Suốt những năm bom đạn như trấu như tàn, ông ta đã kịp đội lốt một cán bộ thuế vụ Việt Minh hy sinh, để trà trộn vào đoàn quân chiến thắng. Rồi ông ta về làng phách lối, bắt cả chính quyền xã phải cung phụng đủ điều, làm ai cũng phùng mang trợn mắt căm tức. Không kể cái tội bôi xấu những người có thù oán cũ, hành hạ những nhà gia phong gia truyền, ông bố lão còn lấy thế bề
trên dẫn về một đứa con gái tết tóc đuôi sam mà mẹ con lão không hề thích. Năm ấy lão mới mười hai, nào đã biết gì đến chuyện giăng hoa, nhưng con bé kia thì hơn tuổi lão, đã đến độ có ngực có
mông, nên mẹ lão đành phải chấp nhận. Nhưng hình như cái giống ngựa cái ấy về nhà lão không phải để chăm lo cho tương lai của lão. Đã mấy lần chính mắt lão nhìn thấy bố đẻ ra mình đánh đu với nó trong nhà giã gạo, bên lu nước, mé bờ rào. Ông ta dọa lão nếu không biết cất cái lưỡi đi sẽ bị
nhốt chuồng trồ, dìm hố vôi, nên lão đành ngậm đắng nuốt cay. Sau mấy năm tác oai tác phúc làm kinh khiếp khắp cả vùng, ông bố
lão đã gần như thành một con cáo già không ai làm gì nổi. Thế rồi một đêm mưa gió tơi bời, trên đường đưa con dâu đi "khám bệnh", ông thuế vụ đã bị sét đánh chết đầu làng, nấm mồ chôn đến ba tháng vẫn chưa mọc nổi cỏ. Con bé
thương nghiệp phố Huyện giờ đây nghiễm nhiên thành vợ thằng tóc tai rễ tre gầy như que củi là lão, dù chỉ trên danh nghĩa, làm bà cụ phúc hậu là mẹ lão hâm điên mất một dạo. Đời người thật không biết thế nào mà dự đoán trước, chỉ mới vào tuổi lún phún ria mà lão đã cay đắng nhận ra điều ấy. Lúc bấy giờ cả nước đã bước sang cuộc chiến tranh với những kẻ xa lạ mang danh là Thế giới Tự do. Lão cũng là
một trong những trai làng xung phong lên đường Nam tiến.
Thực ra lão đi vì lý tưởng đẩu đâu thì ít, mà muốn rũ bỏ cái quá khứ tuổi thơ heo hắt trầy trợt kia thì nhiều. Ai bảo đau thương khổ tủi có thể vùi dập con người ta đến độ gục ngã? Lão đăng ký đi Bê đợt đầu mà vẫn ghen tị với mấy thằng bạn thoát ly lậu từ trước. Nhưng kỳ lạ là đến lúc phải lên đường, thì quan hệ của lão với mụ vợ "giời cài" bỗng dưng đổi khác. Đêm cuối cùng vào ngủ với chồng, ả đã lột xác gần như trở thành một nô gia nữ tì, nhu mì và đàn bà như
chưa từng bao giờ nanh ác cay độc. Lão mờ mắt vì cái khối bột lọc nồng nàn từ trước tới giờ
vẫn thường ghê tởm. Mụ bảo tôi chịu thầy anh là để được gần anh suốt đời. Lão bảo thôi giờ ở nhà
chăm u cho tốt, cũng là góp một phần đuổi giặc, gìn giữ cõi bờ, tớ đi nhưng vẫn còn tổ tiên linh ứng. Mụ khóc chán rồi thết đãi lão những cam xa quýt gần làm mồ hôi lão túa ra như tắm. Cho đến lúc ông chủ nhiệm vác cái kẻng tay đi gõ khắp làng báo giờ lên đường thì lão mới vội vàng chào u, vơ ba lô chạy lên ủy ban, mà lòng vẫn còn như thèm thuồng nuối tiếc. Đó là những năm tháng vô
lo nhất trong cái cuộc đời ùng oàng khói lửa của bản thân lão. Nhưng những tiếng sấm xung thiên dằng dai vẫn luôn bám đuổi theo lão. Con người ta khi đã bị buộc vào một sợi dây trói mơ hồ thì đừng hòng thoát, suốt đời lão không tin vào điều dị đoan đó mà rồi vẫn phải ngậm ngùi công nhận. Cho đến lúc lão yên lành về quê (những vết xây xước mà
chỉ ở tay chân, phần mềm, thì coi như không có) thì chính mắt lão đã phải chứng kiến hàng trăm mạng người đi đứt vì cái tai ương bốp chát kia. Lần thì là thằng bạn đồng hương leo cây nhòm phòng ngủ tên đại úy đồn trưởng ngụy, bị sét hòn đánh cho vẹo cổ, rồi chết. Lần những là hai mươi ba thằng lính Pắc đang đứng chào cờ trên cầu Ông Hinh, bị một tia chớp quăng ngang hất tung xuống sông, cả người lẫn cầu hóa thành cát bụi. Kỳ lạ nhất là cái chết của cô đào Linđa Nhung, từ
Sài Gòn lên hát cho Lữ Rồng đen thủy quân lục chiến Amêricơn đóng chốt tại buôn K'lây nghe. Lúc ấy lão là lính trinh sát, trà trộn vào đám người Êđê được chúng cho đến dự thính, hòng dụ về ấp chiến lược. Đúng cái lúc cô đào hát xong, đang ngửa cổ rũ rĩ cười trước chàng trai đóng khố vỏ si là lão đứng gần máy phát điện, thì... roành... một phát... Ngọn cờ sao và vạch cán sắt trên nóc trực thăng bị
sét đánh tơi tả. Dây điện ba pha từ máy phát néo tới cột cờ rơi xuống, trượt qua đầu lão, quấn đúng hai vòng quanh cổ cô gái. Nạn nhân chết tức khắc sau vài cú co giật. Còn lão hãi hùng thừa lúc hoảng loạn trốn biệt vào rừng, một tuần sau mới dám mò về đơn vị. Sau đận ấy, cả lữ Rồng đen lẫn đơn vị lão đều chuyển khỏi địa bàn lắm sấm nhiều sét ấy, còn ngôi mộ của cô đào Linđa thì
được bà con chất củi xung quanh trông xa như một chiến hạm. Lão nghiệm ra rằng, tất cả những ai làm lão bận tâm đều sớm muộn sẽ bị ông trời tiêu diệt. Chẳng phải thế ư? Thì
chính ông Lông Phông ngày xưa là một ví dụ, chính lão đã từng nhiều lần nguyền rủa để
trời phật vật chết kẻ săn ám mẹ lão. Rồi chính ông bố đẻ ra lão, kẻ đang yên đang lành về quấy quả
mẹ con lão, lại còn làm cho điêu đứng xóm làng. Rồi thằng bạn đồng hương chuyên ăn chặn khẩu phần lương khô của lão, đại đội lính Hàn là cái đinh trong mắt đơn vị lão, rồi cô đào Linđa cậy nhan sắc, cậy Mẽo yêu mà dám cười cợt xúc phạm nhân phẩm thằng trai đóng khố da si là lão... Tất cả, tất cả đều làm lão uất nghẹn đến không thở được... Phải chăng đấy đơn thuần chỉ là tiền căn nghiệp chướng? Hay thanh thiên tiền định với kiếp luân sinh phù du cũng có những mối liên hệ tế nhị? Lão không được học hành gì nên mù mờ tậm tịt, đã đành, nhưng ngay cả những kẻ rành rẽ sành sỏi xem chừng cũng vẫn ú ớ mắc tóc. Thế
mới ác.
Một lần gặp một nhà sư trong vùng mới giải phóng, lão đã được ông ta kể cho nghe những huyền thoại hãi hùng. Chuyện rằng trước khi thành Phật thì đức Thủy tổ Như lai cũng năm lần bảy lượt bị sét đánh chết hụt. Lần thì Ngài rắc tro trộn muối vào đôi chó đang câu sinh, đêm về nghe sấm chuyển trên đầu, tỉnh dậy thấy phía sau nhà có một tảng thiên thạch to như nửa cái giường đang nghi ngút khói dưới lòng hố đen sâu thăm thẳm. Lần thì Ngài thấy người bị cá
sấu đuổi dưới sông, cái quần xàri bị nó đớp nát tướp, hở ra cả chim lẫn mông loang lổ thỗn thện, Ngài đã không cứu còn gọi các bạn đến xem, làm người kia phải đu mình trên vách đá hàng tiếng mới thoát thân. Chuyến ấy Ngài bị sét đánh chặn đầu chặn đuôi, mắc kẹt trong trai phòng nửa ngày trời nóng như nung. Nhưng lần Ngài bị sét đánh trúng đỉnh đầu mới thực sự kinh khủng. Ngài đang đi khất thực bỗng thấy ba cô gái đội xôi lên núi. Vì đã đi cả ngày đường xa không được ai cho ăn, nay lại thấy món bở bày ra trước mặt, nên Ngài nổi tà tâm, định giả vờ giúp đỡ họ khi ngang qua bãi lầy. Đúng lúc các cô đang mê man với tiếng sáo của người bắt rắn, Ngài vừa nhanh chân rẽ
xuôi vào rừng, thì
một ánh chớp chói lòa từ nơi cao xanh bất ngờ phóng xuống, cả xôi lẫn Ngài bay xa đến mấy chục bước chân. Lạ một cái là khi tỉnh lại, Ngài chẳng thấy các cô gái lẫn người bắt rắn đâu, chỉ thấy một rừng hoa súng đỏ tươi đang hàm tiếu trước gió.
Lão hỏi nhà sư hàn lâm: "Theo thầy thì bát nhã có phải là chốn vắng sấm sét?". Sư cụ cười:
"Việc gì phải bận lòng. Ngay cả sự đốn ngộ sát na của Đức Huyền bồ cũng chỉ là sợi dây neo tám hướng rịt ràng, nào đã tuyệt hư phù thủ mà
tịnh". Lão băn khoăn: "Thế tức là bên hoa có gai, giữa trong có đục, quá thủy tích hỏa?". Sư
cụ nhìn mây đăm đắm, cái cằm rung rung chẳng biết là gật hay lắc. Thì cứ cho là vị cao tăng kia gật, thì lão cũng bất an, bởi làm người thì phải có
chí xung phong tiến tới chân lý, chứ làm sao lại chưa đi đã mỏi, chưa thích đã ghét, đang sống đã chết? Lão không ưa cái kiểu triết học đầm lầy ấy. Nhưng nếu bảo ông ta thương hại lão, thì
nóng lạnh phải gạt đi đâu, đen trắng biết đổ cho ai, rồi hợp tan bao giờ mới đủ? Phải chăng bản thân cái nghiệp tu hành của ba vạn chín nghìn kiếp tín cũng chưa cải hoán được cõi thế? Lão sẽ vẫn cứ
phải tự mình giải mã những tân toan đinh ninh? Từ lúc nào bên tai lão lại đang rì
rầm vọng về tiếng đổ vỡ.
Cái tâm thế ấy sau ngày yên tiếng súng lão đem về quê là một hiểm họa. Vừa nhìn thấy u già lọm khọm nhao ra đón cửa, lão đã cực lòng cay đắng mà chảy hết nước mắt. Làm sao ra nông nỗi này u ơi? Đôi mắt bà cụ khóc con lâu quá đã hóa mù, chỉ còn hai cái hố
toét nhèm đùn ra toàn dử. Mụ vợ chanh chua khi trước của lão giờ béo đỏ phây, và đã lên đến cái chức Trưởng phòng Thương nghiệp Huyện, suốt ngày họp hành khách khứa gần xa. Lão sẵng giọng hỏi mà như quát mụ: "U chết liệu đã hết việc công chưa?" Mụ đanh mặt, nhưng giọng vẫn hàm xúc: "Hết việc công còn việc tư, nhà làm sao tường tận...". Việc gì? Những ngày sau lão theo dõi, cứ
thấy vợ lúc nào cũng có bùn trên tóc. Mẹ lão bảo suy dương thì hỏi cường âm, lão nhớ đến ngày cha lão bị sét đánh. Đêm đó lão ra soi đèn góc mả, bắt được con cá trê đen to bằng cỡ cổ tay, đem về cho vào chảo gang nước sôi thấy vẫn bơi lội tung tăng, bèn bực mình hắt cả cá lẫn chảo xuống sông. Từ đó mụ vợ lão mới hết nhớn nhác. Cái cảnh hai vợ chồng đã đứng tuổi, lại thêm u già mù lòa sầu héo làm lão buồn mất mấy tháng. Lão xung phong xin tổ
chức cho làm Xã đội trưởng, ngày đêm dẫn dân quân đi truy tìm lũ cờ bạc nát rượu. Mụ vợ
không bằng lòng, vì cái tuổi nắng quái chiều hôm của mụ không được "tôn trọng", nhưng lão thì
dần dà nức tiếng là cán bộ liêm khiết, có năng lực. Cho đến cái ngày u già của lão lặng lẽ chầu giời, lão đã thanh lý được hơn năm chục tên anh chị, đầu biếu đầu bò có, kiêu binh cậy thế thương binh làm càn cũng có, rồi ngay cả mấy choai tơ con tỉnh con huyện cũng lần lượt chịu trói giữa sân đình. U già trối trăng: "Anh giúp dân dẹp loạn u mát lòng, nhưng không khéo ổ nhà mình chưa hết mối". Lão khóc u bằng bản quyết tâm thư nguyện hiến mình trọn đời cho quê hương, rồi tiếp tục kéo quân ra tử chiến với bọn xã
bên đang cậy đông muốn lấn ruộng cướp bờ thôn lão. Lần nào cũng vậy, cứ khi gặp khó
khăn là lão lại được thiên ân phù trợ. Những tiếng sét long trời dù không hạ thủ được hết bọn thù
trong giặc ngoài đang bủa vây, thì cũng làm cho những thằng thoát chết phải táng đởm vỡ mật. Càng ngày lão càng ý thức được cái vai trò "thuận thiên" của mình, để
"khuyến thiện trừng dâm", dù có kẻ đã bóng gió bắn tin cái nguy cơ tổn thọ đến tai lão. ác giả ác báo ư? Lòng lão trong sáng, lão có thù oán riêng ai mà sợ tổn đức? Đông Ki Sốt chống cối xay gió ư? Lão cũng từng nghe kể câu chuyện hài hước ở tận trời Tây này, nhưng lại càng khẳng định ý thức về "sứ mệnh" của mình. Nếu lão gàn dở thì trời nào giúp được lão mãi? Mới biết giữa dòng muốn trong cũng phải xăn tay sấn sổ mới hòng trong được, mà như thế
thì là lòng người chứ đâu chỉ bụng trời?
Từ ngày u già mất, mụ vợ lão bỗng như thay đổi hẳn. Nhất là từ khi cái ngành thương nghiệp quốc doanh của mụ
không còn độc tôn độc quyền phân phối những tư liệu đời sống muôn phần phức tạp nữa. Tiếng nói của mụ ở cái chợ
đời vĩ đại cứ mỗi lúc một lạc lõng. Càng thế, mụ càng ráo riết quấn quýt với chồng. Đôi lúc lão có cảm tưởng là mỗi bước chân đi, mụ cũng nhũng nhẵng lần theo. Cuộc sống nhà lão gần đây đã có bức tranh lọ hoa cải thiện, do mụ xoay ra nghề cho vay nặng lãi, nhưng cái hồn ấm nóng nhất vào lúc đêm khuya thanh tĩnh thì vẫn gập ghềnh gai xóc. Lão bảo vợ: "Có lẽ tôi lên trực với anh em rồi ở hẳn đấy cho tiện". Mụ bảo: "Thế bát hương các cụ có mang theo không?". Lão đang định nghĩ
đến sấm thì mụ thẽ thọt: "Hãy đợi cho cái gái già này quy âm rồi hãy cởi mở, đừng sợ muộn", làm lão cụt hứng và đuối lý quá.
Đã thế, gần đây mụ Thương nghiệp hưu non còn công khai quan hệ với tay Địa chính nhà
đất Huyện trẻ măng, là hàng xóm mới chuyển đến phía Tây nhà lão. Thỉnh thoảng lại thấy chúng chở ô tô nhau đi những đẩu những đâu, bàn những gỉ những gì thậm thà thậm thụt. Lão không thèm để ý, bởi cái tư cách "quân tử phu dịch" hiển lộ đã đành, còn cũng bởi sau những chuyến đi về, mụ
vợ lão đã phần nào làm thay đổi được cái nhịp sống buồn bã, tẻ nhạt quanh làng. Thỉnh thoảng mụ
nổi máu đồng bóng làm giỗ cho tổ tông nhà chồng rõ xôm, mời khắp lượt quân dân chính đảng đến ăn uống đụng chạm nhộn nhịp. Những dịp xã thôn có hoạt động từ thiện, mụ bao giờ cũng xung phong hăng hái, đóng góp đầu tiên, vừa hào phóng vừa hợp khéo, làm ai cũng phải tấm tắc. Rồi những dịp địa phương có hội có hè, mụ kéo đâu về
toàn những nghệ nhân vũ đoàn thời thượng, diễn đêm rồi lại diễn ngày, từ sân đình về đến tận cổng nhà, làm những người ưu tư sầu muộn nhất như lão cũng phải hé mắt. Thôi thì nay sống mai chết, cuộc đời còn nhiều vất vả, mụ mua vui được thêm cho xóm ấp thì có gì phải bận lòng?
Cho đến cái đận năm ngoái, sau cú áp phe doanh trại quốc phòng, bị công an phát giác, tay Địa chính ngồi tù, dây rợ rơi xủng xoẻng, mụ vợ lão bị cảnh cáo và bị phạt tiền đến suýt phải bán nhà, thì lão mới bàng hoàng nhận ra sự thật. Mụ lăn ra ốm, ốm không gượng dậy được, đêm đêm quấn chăn ho sù sụ, đòi với lão từng ngụm nước viên thuốc, làm lão vừa thương hại vừa thấy hài hước. Nhưng có một điều lão không thể ngờ, là chính ngay trong những ngày mụ vợ lão khuynh đảo, đã
có một ánh chớp làm thay đổi quãng đời cuối cùng của lão.
Số là gần đây, bọn cướp ngày cướp đêm mỗi lúc một nổi lên như nấm. Dân quân bọn lão ngày càng quá tải bất lực đã
đành, mà những tiếng sấm thị uy từ cao xanh cũng không còn đủ độ minh xác kịp thời nữa. Trong khi lũ sâu mọt mỗi lúc một đông, hành tung mỗi lúc một biến ảo, thì nhân pháp càng ngày càng như rối rắm, khó bề luận giải. Đã mấy lần lão sơ xuất hành xử, bị chúng phản đòn cho lao đao. Đã có lần chúng lập mưu lừa lão, làm cho các chế tài của lão hóa mù lòa, tội phạm không bắt đi bắt dân lành, để làng xóm phàn nàn ta thán mãi. Đảng ủy xã gọi lão lên bảo đồng chí
phải nghiêm khắc, hãy tạm nghỉ một thời gian rồi tham gia việc khác. Lão buồn bã về nhà
nằm đắp chăn mấy tháng sốt rét. Chính trong lúc đó thì con Hoa Lơ xuất hiện. Con Hoa Lơ chẳng ở đâu xa. Nghe nói bà ngoại nó là con gái út của ông Lông Phông khi xưa, sinh ra sau khi ông chết bởi sét trên điếm canh đê năm nào. Suốt thời kỳ chiến tranh và hợp tác, bà và mẹ nó phải sống lay lắt trong sự kỳ thị
của khắp cả vùng, rồi không biết dan díu với cóc nhái đâu, mãi đến những năm đổi mới mới đẻ nó. Chẳng biết có phải vì nhà nó bị tiếng là nòi sét đánh và hoang dã hay không mà chẳng được ai đoái hoài xót thương, cho đến lúc nó lớn bổng dậy thì tất cả mới tròn mắt vì vẻ đẹp thanh xuân roi rói đang bừng. Nhưng lúc ấy thì đã muộn rồi, con Hoa Lơ
không học không hành, nói bậy như két, suốt ngày chao chát bên hai người đàn bà giờ đây một điếc một ngọng, là cái trái độc bị các vị phụ huynh treo biển cấm từ xa. Nó cũng chẳng cần ai, ngày ngày chạy mối xu chiêng quần lót cho các cửa hàng thời trang, tối đến chơi bời khắp các quán cà phê, trà mờ phố Huyện. Con Hoa Lơ để ý đến lão ngay từ khi trung đội dân quân triệt hạ lũ đề
đóm. Nó ở vòng ngoài nên vô can, nhưng cũng bị Xã đội Trưởng phẩy tay như xua ruồi khi cố len vào xin cho bạn cạ. Rồi đến cái hôm mụ vợ lão mở hội rước thần, nó
đang tô son thì bị lão ngang qua tạt phải. Thỏi son rơi nát dưới chân lão toe toét, nhưng cả
hai chợt nhìn ra nhau trong những ngỡ ngàng xiêu dại. Chả biết tiếng trống hay tiếng sấm ở đâu vọng về mà mỗi lúc một náo nức. Lão nhìn thấy hình bóng khối bột lọc lung linh đêm tân hôn, nhưng trong dáng vẻ thơ ngây và óng nuột hơn nhiều. Còn nó hiểu rằng lão cũng chưa đến nỗi dao bố gậy tày như đám dân chơi thường hỗn hào dè bỉu. Đêm ấy sấm sét nổ bung bét khắp bầu trời xổ
ngải, con Hoa Lơ ngã ập xuống bóng tối gã cô liêu bên bến ao là lão. Lão bảo đừng chọc mắt thiên hạ mà
đổ loạn. Nó cãi mưa nhớt tóc sư đâu mà lo. Lão ú ớ, là tôi lo cho... lo cho... Nó cười sằng sặc như bị thốn... Từ đấy cứ đêm nào có sấm là nó lại đến, các đêm trời quang lão lại mong. Sức khỏe mụ vợ lão ngày mỗi lịm dần, nhưng không phải vì thế mà mụ quên đức ông chồng đang tớn tở. Có lần mụ uống thuốc xong nghển dậy nói cộc lốc:
"Tôi thấy u anh về đòi cúng cám". Lão nạt: "Bà mê rồi đấy, thôi ngủ đi". Lần khác mụ tủm tỉm: "Cha anh hỏi tôi sao nhà
này không có thằng cu? Tôi bảo để xem". Lão soi đèn nóc nhà thấy lấm tấm mùn đất. Không phải lão không biết con Hoa Lơ là điếm, nhưng cả đời lão chưa cãi gió đè mưa cho đến nhẽ
thì giờ đây hũ mật ong rừng kia thật quá khó để ruồng bỏ. Chả biết nó hư đốn ở đâu, lúc nào, chứ
cái cách nó chắt gạn hết mọi vốn liếng cho mỗi phút giây phiêu bồng, thì lão hiểu chính lão mới không còn xứng với tuổi trẻ thanh khơi nơi nó. Và rồi một ánh hồi quang xanh như lân tinh từ đâu khe khẽ rọi về. Lão thương con Hoa Lơ như bậc cha, bậc ông âu yếm đứa cháu đứa con dại khờ. Lão thấy ghét mụ vợ lão... Mụ từ đâu tới, là cái thá gì mà ám quẻ suốt đời lão? Cái cách mụ chằng chuộc với cha lão, với nếp thương nghiệp quan liêu, rồi với những kẻ cơ hội như tay địa chính trai lơ kia... mà có thể
lấy đời lão làm khiên mộc che đỡ ư? Nhưng mụ đã sắp hết đời rồi, cái kiếp cho vay nặng lãi của mụ cũng sắp tiêu vong rồi, lão chẳng vì ghét mà hận mụ. Có hận là hận cái thiên hạ vô tâm vô
tình trơn láng ngoài kia. Lũ họ là cái thá gì
mà dám ngạo mạn đặt lề nối luật, làm xiêu dạt những linh hồn? Nếu bảo những kẻ như con Hoa Lơ là điếm thì thử hỏi nó đã vòi gì của lão, đã nặn bóp gì của nước của dân, để tổng làng phải gườm nó như kiêng hủi? Từ lúc nào trong lão đã hình thành một lối rẽ... Trước mắt lão hiện ra lô xô
lếch thếch những thây ma cháy sém, những linh hồn không kịp rên kêu... Phải rồi, lão sẽ cầu cho sấm sét nổi lên trừng trị hết những kẻ cơ trí cơ tâm, những đứa nói có ăn không, những phường thủ
lợi thủ bùa ép dồn đồng loại. Rồi lão sẽ cưới cho con Hoa Lơ một tấm chồng xứng đáng... Lão không có
con trai, nhưng đám dân quân dưới quyền lão thiếu gì, chỉ có điều chưa nghĩ được đứa nào đáng tầm thì lão đã rối trí
quá...
*
... Mà trời đất cứ oi nồng như đã quên mất lão, như đã bỏ rơi lão, như đã thu lại cái oai mệnh
"thuận thiên" dành tặng lão từ thuở thiếu thời. Hay lão đã không còn xứng đáng làm "tay chân của công lý" nữa? Hay lão đã già yếu hết "đát"
rồi mà công lực đuối mòn? Tiếng rên của mụ vợ lão từ lúc nào lại đã nổi lên ầm ầm như
sấm. Thôi chết, không phải tiếng rên mà là tiếng ngáy, cái thứ âm thanh báo hiệu mụ đã khỏe lại, có
khi còn hơn xưa, trong khi cái bàn thờ tổ tiên treo gia huy nhà lão thì vẫn tiêu điều trong miên man bột mối. Bây giờ thì lão biết, không phải mụ vợ "kẽo kẹt" của lão đang hấp hối, mà là chính lão, chính lão đang chìm dần xuống cõi vực thẳm cuối cùng. Lão lảo đảo ôm ngực lần ra bến cầu ao ngước nhìn lên khắp bầu trời rộng. Có những đám mây lững lờ trôi như mê
ngủ, xa nữa là những khoảng thẫm màu như bùn như thạch. Người xưa bảo ngũ thập tri thiên mệnh, nay lão đã sắp sáu mươi mà còn mông muội. Có lẽ cái vai trò bao cấp sấm sét xưa nay của lão cũng chỉ là một màn giả tưởng, một huyền thoại ảo mà trong cơn say chân lý lão đã ngộ
nhận?
Mệt quá, lão lựa chỗ nằm xuống, quyết phải là chỗ tươm tất sạch sẽ, một lần cho mãi mãi. Phía trời xa, cơn dông lão mong đang ùn ùn kéo lại mà không kịp nữa rồi. Mụ vợ lão lại đã nhỏm dậy hào hùng và đang trang điểm. Trong con mắt đục mờ trước khi ngây dại của lão có bóng mẹ
lão, bà cụ già một thời khó đẻ. Còn xa nữa là con Hoa Lơ, trên tay hàng xấp xu chiêng quần lót liên hoàn, đang hiên ngang chập trùng đi trong gió bão. (Báo Văn Nghệ)
2. VỀ THÔI EM
Sau gần hai năm trời quen biết, Na đã nhận ra tình cảm anh dành cho Na. Điều đó làm cho Na hốt hoảng và buộc phải xác định rõ tình cảm của mình. Nhưng càng cố lảng tránh, cố không nghĩ đến anh thì Na lại nghĩ đến anh nhiều hơn. Thế
là lại yêu! Lại khổ! Rồi lại phải đi trốn nữa sao? Đã trốn từ Bắc vào Nam, bây giờ biết trốn đi đâu? Lần trước trốn vì
Na yêu mê dại còn người ta chẳng hề yêu Na, chỉ chiếm đoạt Na mà thôi! Bây giờ phải trốn vì Na quá hoảng sợ trước tình yêu, không còn tin ở tình yêu nữa! Na không dám nghĩ đến chuyện yêu nữa! Yêu là thứ xa xỉ, đắt đỏ và quá kinh hãi với Na! Na có còn gì đâu để được một người như
anh Huy yêu! Anh Huy ơi, em đã mất hết rồi, chẳng còn gì dành cho anh đâu! Em chẳng xứng đáng với anh, anh đừng đến với em nữa! Anh đừng bắt em phải chạy trốn nữa! Em sợ tình yêu của chính em và em sợ những người con trai dễ làm cho con gái chúng em xao xuyến như anh lắm! Rồi em cũng lấy chồng nhưng người chồng em lấy chẳng cần phải có tình yêu! Chỉ cần người đàn ông đó
phù hợp với hoàn cảnh của em, một người lao động lam lũ, già một chút, xấu một chút, hoặc đã
từng lỡ làng, dang dở càng tốt. Chỉ người như
thế họ mới an phận với một gia đình bình thường, họ mới bằng lòng với một người vợ như
em để gắn bó cuộc đời với em! Vẫn biết, trời thương cho em chút nhan sắc đấy nhưng nhan sắc ấy chỉ có chút giá trị để được các anh quí mến, được các anh khát khao, chỉ có chút quyền uy để được các anh quỵ lụy khi nó còn ngoài tầm tay các anh! Cái nhan sắc mỏng manh ấy các anh đã chiếm đoạt rồi, chẳng còn gì xa lạ nữa thì các anh lại lạnh lùng vứt bỏ nó để đi tìm nhan sắc lạ lẫm khác, mặn mà hơn, tương xứng hơn!
Đã đinh ninh như thế, đã xác định rõ ràng như thế nhưng Huy mới tha thiết hẹn hò đến lần thứ ba Na đã xiêu lòng nhận lời đi chơi với anh.
Huy chở Na trên chiếc xe máy qua những đường phố tấp nập, cuồn cuộn, đi ra phía ngoại thành. Bước vào quán cà
phê vườn, Na nhận thấy sau những chậu cây lòa xòa, trên những chiếc ghế đôi, những đôi trai gái đang quấn lấy nhau trong bóng tối mờ ảo. Lại nhớ những lần Đang dẫn Na vào những quán xá cũng đầy tối tăm, đầy khêu gợi như thế này ở Hà Nội. Na vội dừng bước nói với Huy rằng: Em không vào đây đâu, sợ lắm! Huy đành theo Na quay ra. Đi đâu được nhỉ? Cứ ngồi trên xe chạy lòng vòng trên phố, đã người trước, người sau, Na còn cố ngồi tách xa khỏi Huy, muốn nói điều gì phải nói to mới nghe được thì chẳng còn muốn nói gì nữa! A, Huy chợt nhớ quán cà phê bên sông. Chiếc bàn nhỏ cùng đôi ghế kê sát mép nước. Mặt sông sáng bạc. Ngọn gió quấn quýt. Đất trời thoáng rộng. Na có vẻ
yên tâm và thích thú với khung cảnh đó. Có lẽ cả ngày cặm cụi, lầm lũi trong xưởng may, giữa bốn bức tường cao ngất, giữa tiếng máy rào rào ầm ĩ, giữa ngột ngạt mùi vải, mùi bụi, mùi mồ
hôi nên Na thích cái không gian lồng lộng này chăng? Giữa thiên nhiên thoáng rộng, tâm hồn người ta như cũng hồn nhiên, tươi trẻ, phóng khoáng, cởi mở hơn. Đó là không gian của những câu chuyện tâm tình sâu thẳm và chân thật.
Im lặng hồi lâu trong tiếng sóng lắp xắp, trong tiếng gió dào dạt, Huy mới thì thầm lên tiếng. Anh hỏi những câu không đâu về Na, cả những câu anh đã hỏi Na nhiều lần. Anh nói về tình cảm của anh với Na. Khi anh đặt bàn tay lên tay Na, Na chợt giật nảy lên. Na rất muốn để bàn tay mềm yếu trong bàn tay mạnh mẽ, nóng rực của anh nhưng Na phải kiên quyết rút tay ra. Tiếng anh lại thì thào mà Na không hiểu anh nói gì nữa. Na chỉ nghe được tiếng trái tim mình đập loạn. Đến lần thứ ba anh nắm tay Na thì Na không còn đủ sức rút tay ra nữa dù Na biết rõ rằng đã một lần bị
khuất phục thì
sẽ bị khuất phục mãi! Và điều đó đã diễn ra ngay sau đó. Anh vòng tay kéo vai Na tựa vào ngực anh, Na không còn cưỡng nổi nữa. Nhưng khi môi anh tìm đến môi Na, Na mới chợt bừng tỉnh. Trời ơi, anh Huy làm gì thế? Na đẩy anh ra và ngồi ngay ngắn lại. Na nhìn thẳng vào mắt anh. Anh cũng nhìn Na đăm đắm. Lại những câu đối đáp qua lại, rì rầm nhưng rõ ràng. Anh Huy, anh yêu em thật không? Anh yêu em! Nhưng anh đã biết gì về em đâu? Những điều anh biết về em gần hai năm qua đủ để anh quí em, yêu em! Biết thêm những điều khác, anh sẽ không còn yêu em nữa đâu!
Điều gì mà ghê gớm thế? Dù ghê gớm đến đâu nhưng em không giấu anh thì anh lại càng yêu em hơn. Anh chỉ thất vọng khi phải biết cái điều em giấu anh! Em muốn anh biết rõ về em để
anh đừng yêu em nữa. Vì thế, em chẳng cần giấu anh. Chỉ cần anh thụng cảm cho hoàn cảnh của em thôi, anh Huy nhé!
Na chủ động tựa vai vào ngực Huy và tiếng Na rì rầm như tiếng gió bên tai Huy. Mười bảy tuổi, Na bị bố mẹ ép gả cho một người ở làng Na không yêu. Đến ngày cưới, Na bỏ nhà trốn ra Hà
Nội tìm một chị cùng làng nghe nói chị buôn bán chè chai ở Ô Chợ Dừa. Na tìm đến nhiều vựa chè
chai đồng nát, hỏi thăm tất cả những người gánh chè chai Na gặp trên phố đều không ai biết chị
người làng Na. Na xin họ cho đi theo để tập buôn bán, họ đều ngạc nhiên nhìn Na, người nghi ngờ
không tin, người thật thà bảo: Loại gái sề như chúng tôi mới phải quẩy gánh đi tầm những thứ
người ta bỏ đi. Trẻ đẹp như cô đi làm người mẫu cho sướng, việc gì phải theo chúng tôi! Chị người làng Na chỉ hơn Na hai, ba tuổi là cũng còn trẻ lắm! Chị lại đẹp hơn Na nhiều, chị không buôn chè
chai thì chị làm nghề gì nhỉ? Đến nước này chắc không thể theo gánh chè chai được rồi!
Vậy biết làm gì kiếm sống giữa chốn xa lạ này?
Các bà chè chai đều không nhận cho Na theo nghề nhưng nhìn theo Na vật vờ thất thểu trên đường, đã có mấy bà chủ
nhà hàng, ông chủ quán cà phê chạy theo bảo Na vào làm tiếp viên cho họ. Tiếp viên là gì
nhỉ? Na ngỡ ngàng trước một nghề mới lạ nên chưa dám nhận. Sau một tuần ngủ nhà trọ bình dân, ăn cơm bụi vỉa hè, số tiền ít ỏi dắt lưng đã
cạn, Na đành nhận lời làm tiếp viên cho quán cà phê Mây ở Cầu Giấy. Bà chủ quán Mây lướt nhìn Na từ đầu đến chân vẻ ưng ý, liền dịu dàng rằng: Cô biết con mới ở quê ra, chưa quen việc, cô phải nói rõ. Lương của con là tiền boa của khách. Tiền boa là tiền thưởng đó con ạ! Sao, con sợ người ta không boa à? Đã có tiếp viên ngồi tiếp là phải có boa. Luật chơi là thế! Chẳng cần văn bản nhưng các loại luật đời bao giờ cũng nghiêm. Con yên tâm đi! Càng đẹp, càng khéo chiều khách thì tiền boa càng khá và người ta càng năng lui tới với con. Đẹp và
khéo chiều khách, làm tiếp viên chỉ cần thế thôi. Nhìn con, cô cũng biết con có đủ hai thứ đó. Cô
sẽ dạy con làm đẹp, con sẽ còn đẹp hơn nữa! Rồi sẽ khối thằng mọc rễ ở đây! Con chưa có
váy áo đẹp, cô sẽ cho con vay tiền đi may để thay ngay mấy bộ nhà quê kia đi!
Sau khi ghi đầy đủ các mục trong quyển sổ của quán, đưa trả lại Na giấy chứng minh nhân dân, bà chủ lại bảo: Na với nhãn! Việc gì phải lòi cái đuôi nhà quê ấy ra! Đã vào đây phải chịu chơi! Chịu chơi từ cái tên! Tên con là Na thì cô đổi là Nga. Trong sổ, cô ghi tên con là Kiều Nga. Con nhớ nhé! Cô cũng lùi năm sinh của con lại một năm cho đủ tuổi lao động. Mấy ông công an có
kiểm tra, mình cũng không phạm luật, con ạ! Con cất kỹ giấy chứng minh của con đi!
Có lẽ nhờ cái tên và cả năm sinh đã được chuyển đổi mà sau này, khi gây án, Na đã trốn tránh được sự truy nã để
sống yên ổn ở thành phố công nghiệp phương Nam xa xôi và có được tình yêu của Huy. Nhưng đó là chuyện về sau. Được bà chủ quán Mây chỉ bảo dẫn dắt vào nghề, cô gái nông dân mới lớn đầy ngơ ngác đã trở thành cô tiếp viên Kiều Nga vừa có vẻ đẹp rực rỡ phấn son thành thị vừa có
vẻ dịu dàng nai tơ quê mùa làm ngẩn ngơ hết thảy khách mày râu đến quán Mây, biến quán Mây lặng lẽ đìu hiu thành nơi dập dìu xôn xao. Nhưng rồi Kiều Nga vẫn chỉ là cô gái nhà quê dại khờ
khi Kiều Nga nhanh chóng có mối tình đầu đời mù quáng và cuồng si. Người được Kiều Nga trao gửi tình yêu chân thật và xây mộng tương lai tươi đẹp là Đang làm ở một công ty kinh doanh. ít uống cà phê và không ham bia rượu, Đang chỉ thường xuyên đến quán Mây từ khi tình cờ vào quán và gặp Kiều Nga. Không phải chỉ có Đang, càng ngày càng có nhiều khách đến quán Mây chỉ vì
Kiều Nga. Trong ánh sáng mờ ảo của những bóng đèn yếu ớt vẫn thấy rõ những đôi mắt si mê nhìn theo cơ thể óng ả và dáng đi uyển chuyển của Kiều Nga. Rồi những cánh tay vươn ra, những bàn tay vồ vập, níu kéo. Làm theo ý bà chủ, Kiều Nga đã thay chiếc áo sơ mi trắng cúc cài kín cổ và
chiếc quần xanh chân chất bằng chiếc áo thun hở nửa ngực và chiếc váy vừa ngắn vừa bó do bà chủ
sắm giúp nhưng Kiều Nga vẫn chưa làm sao dạn dĩ chai lì được với những bàn tay ham hố
thô bạo của những ông khách nửa say nửa tỉnh. Kiều Nga ngồi bên họ cố tươi cười mà nụ cười vẫn như vay mượn của ai, miệng cười mà
nét mặt xa vắng, lì ra. Mỗi lần họ đụng chạm đến cánh tay trần, đến đùi, đến eo, Kiều Nga lại giật thót và cứng người lại.
Cũng may còn có người đến quán Mây chỉ để có Kiều Nga ngồi bên mà bộc lộ sự quan tâm đến Kiều Nga và sự
ngưỡng mộ với Kiều Nga. Và Đang là một người như thế. Có lần thấy Đang ngồi lặng rất lâu mà không nói gì, Kiều Nga đứng lên định ra tiếp tốp khách vừa vào thì Đang liền kéo Kiều Nga lại và hai người lại ngồi lặng bên nhau đến khuya. Giữa đám khách táo tợn, sỗ sàng, dung tục, Đang tạo cho Kiều Nga cảm giác tin cậy, được che chở. Tin cậy ở
sự trân trọng, trìu mến Đang dành cho Kiều Nga. Tin cậy ở sự quan tâm của Đang đến Kiều Nga. Tin cậy ở sự lịch lãm, ở vẻ có học của Đang. Tin cậy ở sự bình thản đến như thờ ơ của Đang trước thể xác Kiều Nga. Điều đó khác hẳn với sự vội vàng, hấp tấp, vồ chụp của đám khách xô bồ
kia. Ngồi với đám khách ấy, Kiều Nga cứ e ngại bồn chồn, chỉ
mong họ sớm rời quán. Ngồi với Đang là sự nhẹ nhõm, thoải mái và thời gian sao qua đi nhanh quá! Cả phong thái sống của Đang cũng tạo cho Kiều Nga sự tin cậy. Đang không vung tiền nốc hết thùng bia nọ đến thùng bia kia, sàm sỡ hết mức, đổ hết cả chai bia vào ngực tiếp viên như
những đám khách nhốn nháo. Mỗi lần đến quán, Đang chỉ
chậm rãi nhấm nháp một lon bia Heineken và Đang chỉ rì rầm hỏi chuyện Kiều Nga, quan tâm đến cuộc sống của Kiều Nga. Cảm giác che chở Đang mang lại cho Kiều Nga bởi vóc dáng to khỏe, sức vóc tràn trề của Đang, bởi ánh mắt nghiêm khắc Đang dõi theo những người đang vồ
vập, bờm xơm với Kiều Nga. Nhiều lần khách quen đòi phải có Kiều Nga ngồi tiếp khi cô đang ngồi với Đang. Kiều Nga thấy rõ sự tức giận của Đang khi cô đứng lên đến với sự đòi hỏi kia. Những lần đó Đang đều ngồi lì đến cùng chờ Kiều Nga. Vì thế khi Đang nói rằng anh đến đây để
ngồi với em nhưng em luôn bỏ anh để tiếp người khác nên anh không đến đây nữa. Chúng ta sẽ gặp nhau ở nơi khác chỉ có hai đứa thôi, em đồng ý không? Kiều Nga liền đồng ý ngay. Kiều Nga gặp bà chủ kêu rằng phải thức khuya liên tục, cô bị thiếu ngủ nhiều quá, đã mệt mỏi đến mức không chịu đựng nổi nữa, xin bà chủ cho cô mỗi tuần được nghỉ một tối. Bà chủ biết rõ giá trị của Kiều Nga với quán Mây, rất muốn Kiều Nga gắn bó cả thời xuân sắc với quán. Giữ gìn cái xuân sắc ấy chính là giữ gìn nguồn thu của quán. Bà chủ chấp nhận ngay lời đề nghị của Kiều Nga, chỉ không cho Kiều Nga được nghỉ vào tối thứ bảy và chủ nhật. Kiều Nga chọn nghỉ vào tối thứ năm và cô
dành cho Đang trọn buổi tối đó.
Sự tin cậy cho Kiều Nga được thản nhiên, vô tư theo Đang vào những quán cà phê vườn tối om trong tán lá um tùm của những chậu cây cảnh. Sự tin cậy cho Kiều Nga sung sướng tiếp nhận tình cảm nồng nhiệt, mạnh mẽ của Đang. Lúc ấy Đang trở thành con người khác. Đang không còn bình thản đến như thờ ơ trước cơ thể gợi cảm đầy quyến rũ
của Kiều Nga nữa. Đang cuống quýt, hối hả bộc lộ nỗi thèm khát và Kiều Nga sung sướng tin rằng đó là tình yêu mạnh mẽ, tha thiết Đang dành cho cô. Tình yêu mạnh mẽ ấy là vòng tay quấn riết, là những cái hôn ngộp thở. Tình yêu tha thiết ấy là những lời thì thầm yêu đương như
thốt ra tự sâu thẳm trái tim Đang. Đợi cho những con sóng tình cảm của Đang bớt dồn dập, Kiều Nga cố thoát ra khỏi vòng tay ghì xiết của Đang để hỏi: Em chỉ là con bé nhà quê xấu xí, vụng về, ngốc nghếch, ngoài lội bùn làm ruộng, em chẳng biết làm gì, vì sao anh lại yêu em? Đang ngắm cái miệng rất xinh của Kiều Nga, gắn vào cái miệng đó cái hôn dài rồi mới thì thầm: Ngốc rồi sẽ khôn. Vụng rồi sẽ khéo. Điều ấy không khó. Đã phải tự kiếm sống thì không thể vụng về ngốc nghếch được mãi. Nhưng hình hài đã xấu thì không thể nào đẹp ra được. Em có biết con gái Hà Nội tìm được người đẹp như em cũng hiếm lắm đấy! Em càng đẹp hơn bởi cái nhà
quê mộc mạc tinh khôi của em. Vẻ đẹp trời cho em, anh yêu một thì cái nhà quê tinh khôi của em, anh yêu mười. Anh yêu em vì cái nhà quê ấy đấy, chịu chưa? Em có cho anh cái nhà quê
tinh khôi của em không? Kiều Nga nhắm mắt lại tận hưởng vị ngọt trong câu nói của Đang và đón nhận những cử chỉ nồng nàn của Đang. Những ngày đó Đang mang lại cho Kiều Nga đầy ắp niềm vui. Có lần Kiều Nga đi với Đang bỗng thấy đứa bé gái khóc thảm thiết bên đường. Thì ra con bé bị
cướp giật mất cả túi tiền đeo bên người và tập vé số đang bán cầm trên tay. Đang là người đầu tiên dúi cho con bé ít tiền lẻ. Thấy thế những người đang xúm quanh nó liền gom góp giúp nó
chút vốn sinh sống. Nhìn những đồng tiền lẻ tới tấp dúi vào tay con bé, Kiều Nga sung sướng như chính Kiều Nga được nhận những đồng tiền quí giá ấy. Kiều Nga càng thấy Đang cao thượng, tốt bụng và đáng tin cậy biết bao. Một tối thứ năm Đang dẫn Kiều Nga vào căn phòng trên gác hai một nhà nghỉ ở Giáp Bát. Nhìn căn phòng máy lạnh kín mít, nhìn chiếc giường nệm trắng, Kiều Nga bối rối nhận ra ý định của Đang. Cô còn đứng ngây giữa phòng thì
vòng tay Đang mạnh mẽ ôm ghì Kiều Nga. Hơi thở và mùi da ấm nồng quen thuộc của Đang làm cho Kiều Nga bủn rủn. Sự xô đẩy của Đang làm Kiều Nga đổ vật xuống tấm nệm. Kiều Nga biết rằng đây là lúc quyết định đời con gái của mình nên cô cố thoát khỏi vòng tay Đang và
ngồi dậy. Mấy tháng ở quán Mây phải tiếp đủ loại khách tham lam, thèm khát, Kiều Nga đã vượt qua được mọi sự rủ rê, gạ gẫm, cô vẫn giữ được tấm thân con gái cho người cô sẽ gắn bó cuộc đời để hai người được sống với nhau trong tôn trọng, thương yêu nhau. Có đúng Đang thật sự muốn gắn bó
cuộc đời với Kiều Nga? Một người như Đang, một gia đình quan chức nhà nước như gia đình Đang đời nào lại chấp nhận một đứa tiếp viên về làm dâu! Từ ngày quen Đang, Kiều Nga thường hay nghĩ đến thân phận tiếp viên của mình rồi lại nghĩ đến tư thế xã hội của Đang và gia đình Đang. Một ý nghĩ tỉnh táo lóe lên, Kiều Nga van nài Đang: Anh Đang ơi, anh cho em ra khỏi đây đi! Anh không yêu em đâu! Anh đừng làm em khổ thêm nữa! Đang tỏ ra ngạc nhiên, hỏi: Sao đến tận hôm nay em vẫn còn nói anh không yêu em? Kiều Nga nói thật suy nghĩ chợt đến của mình: Có thể anh yêu nhưng anh không dám lấy một đứa tiếp viên cà phê đèn mờ như em đâu. Đang muốn xóa tan nghi ngờ của Kiều Nga bằng cử chỉ nồng nhiệt. Lại vòng tay ghì xiết. Lại nụ
hôn nóng bỏng. Lại những toan tính cho tương lai được Đang phác ra: Để từ từ rồi anh sẽ lo. Tất nhiên anh không thể để em làm tiếp viên mãi. Anh sẽ tìm cho em một công việc đàng hoàng rồi mới có thể dẫn em về nhà giới thiệu với bố mẹ anh. Như mọi cô gái thiếu tự tin khác, Kiều Nga hỏi: Em có biết nghề gì đâu mà đi làm chỗ công việc đàng hoàng? Những giọt mật ngọt lịm lại được rót từ miệng Đang thấm vào mọi giác quan Kiều Nga: Không biết thì học. Anh sẽ lo cho em học một lớp may công nghiệp rồi nói bạn anh nhận em vào xưởng may của nó. Chịu chưa? Trước mắt tạm như thế đã. Lâu dài, em sẽ phải đi học rồi làm một công việc của sổ sách, giấy tờ. Chịu chưa? Còn mong gì hơn nữa mà không chịu! Kiều Nga bộc lộ sự tin tưởng hoàn toàn ở Đang bằng tiếng kêu thốt lên: Ôi, anh Đang!
Đang biết rằng mọi cản trở đã khai thông, mọi hàng rào đã mở toang! Đã đến lúc xông lên cắm cờ chiếm lĩnh! Tham lam nhưng không vội vã, không thô bạo, không bao giờ Đang cưỡng ép Kiều Nga điều gì. Mọi đòi hỏi của Đang, Đang đều để Kiều Nga tự động đáp ứng. Lần này cũng thế. Đang thì thầm bảo Kiều Nga cởi áo ra. Kiều Nga vội khép chặt hai cánh tay trước ngực và run rảy: Đừng! Anh Đang ơi, đừng vội thế! Để khi em về ở với anh đã! Vẻ mặt Đang xịu xuống, thất vọng và giận dỗi: Anh đâu có ham hố việc ấy. Anh chỉ muốn xác nhận xem em có yêu anh thật không. Thế là rõ! Em đâu có yêu anh! Vì không yêu, em mới tiếc anh, không cho anh! Em giữ lại cho người yêu của em! Kiều Nga bỗng bật khóc. Ngoài Đang ra, Kiều Nga có dành tình cảm cho ai đâu! Hàng ngày phải tiếp đủ loại đàn ông thật đấy nhưng ngồi với họ, Kiều Nga là gỗ đá, trái tim trơ lì. Chỉ với Đang, Kiều Nga mới được trở về là con gái, cả tin và
mềm yếu! Kiều Nga có giữ cũng là giữ cho anh thôi, anh Đang ơi! Trước sau cũng là của anh. Anh muốn có trước, thôi cũng đành tùy anh! Vừa khóc lặng lẽ, Kiều Nga vừa trút bỏ mọi che chở trên cơ thể để chứng minh cho Đang thấy tình yêu của Kiều Nga dành cho Đang, để Đang hiểu cho rằng Kiều Nga chỉ có Đang mà thôi!
Trút bỏ sự che chở trên cơ thể, tấm thân con gái nõn nà Kiều Nga trần trụi trước Đang để
mong nhận được sự che chở của Đang cho cả cuộc đời Kiều Nga. Nhưng sự che chở ấy chẳng bao giờ có với Kiều Nga! Cuộc đời con gái của Kiều Nga phải mang đánh đổi lấy lòng tin của Đang nhưng Đang chỉ tin rằng cho đến lúc đó Kiều Nga vẫn là con gái và Kiều Nga đã trao cuộc đời con gái cho Đang! Đang chỉ tin Kiều Nga có thế thôi và Đang cũng chỉ cần ở Kiều Nga có thế thôi!
Không bao giờ Đang nghĩ rằng Kiều Nga là lời giải cho cuộc tìm kiếm hạnh phúc gia đình của Đang!
Không bao giờ Đang nghĩ đến việc gắn bó cuộc đời với Kiều Nga! Sau vài lần đưa Kiều Nga đến nhà nghỉ, những cuộc gặp của Đang với Kiều Nga cứ thưa thớt dần. Những ngày Kiều Nga nghỉ làm việc ở lại nhà trọ chờ Đang đến trở thành những ngày trống rỗng, khắc khoải, nặng nề. Gọi điện thoại gặp Đang cũng không còn dễ nữa! Chỉ có thể
gọi Đang ở máy điện thoại di động. Nhưng nhận ra số máy Kiều Nga thường gọi, Đang liền tắt máy! Đang có trả lời thì
lại là những lí do thoái thác: Dạo này công việc bận lắm! Hoặc: Anh đang ở Đà Nẵng, còn lâu mới trở về! Trong những cuộc gặp thưa thớt, Đang cũng chểnh mảng, hờ hững và càng lặng thầm hơn. Khi ấy Kiều Nga lại phải cố làm cho Đang vui để Đang lại háo hức, thèm khát, cuồng nhiệt như ngày nào. Trước đây Đang khao khát gặt Kiều Nga, khao khát đòi hỏi ở Kiều Nga thì nay sự khao khát ấy lại ở phía Kiều Nga. Chân thật quá, mộc mạc quá Kiều Nga không biết rằng nỗi khao khát không giấu diếm của Kiều Nga làm cho Đang càng thấy Kiều Nga trơ trẽn, vô duyên, Đang càng chán ngấy, rẻ rúng Kiều Nga và Đang càng thấy rõ sự khác biệt về cuộc sống, về tâm hồn và về cả tầng văn hóa của hai người.
Nỗi chán ngán nhanh chóng trở thành nỗi chịu đựng. Đang liền viện dẫn đến duyên số để
kết thúc sự chịu đựng đó: Em trách anh dạo này đổi khác mà em không thấy anh đang quá buồn sao? Anh buồn lắm, đau khổ lắm từ khi đi hỏi thầy tử vi về duyên phận chúng mình. Thầy nói sao em biết không? Anh và em không được tuổi, lấy nhau sớm muộn gia đình cũng tan vỡ! Ông thầy này giỏi lắm. Nhiều người nổi tiếng như giáo sư Trần, nhạc sĩ Phan cũng phải chịu thầy!
Anh chưa chịu nhưng hỏi hai thầy nữa cũng nói như thế thì anh phải chịu! Gia đình tan vỡ, anh khổ một thì em phải khổ
mười! Vì anh mà em phải dang dở, bất hạnh thì anh không đành! Duyên số đã không cho chúng ta gắn bó với nhau, thôi, phải chấp nhận em ạ! Đang còn rỉ rả nói nhiều lắm nhưng Kiều Nga không còn nghe được gì nữa. Chỉ còn tiếng lào xào bên tai và cõi lòng tan nát!
Dù đã linh cảm nhận ra điều này từ trước, Kiều Nga vẫn bị choáng váng. Anh Đang ơi, anh bỏ em thật à? Kiều Nga lại nhớ đến đứa bé gái bán vé số bị cướp giật giữa đường. Sao Kiều Nga không òa khóc được như nó cho nhẹ bớt nỗi tức tưởi mà cứ ngồi trơ như đá? Bé gái bán vé số bị
cướp giật còn được người đi đường góp tiền giúp đỡ, dù chỉ bù
đắp được một phần nhưng cũng còn được bù đắp. Cái mất mát của Kiều Nga, cái Kiều Nga bị lừa mất làm sao bù
đắp được! Không còn gì để nói. Đang im lặng đã lâu Kiều Nga mới lên tiếng: Không có
anh, em không thể ở lại quán Mây được nữa! ở đó mọi cái đều nhắc đến anh, đều nhắc đến sự mất mát của em, em không chịu nổi! Thân con gái đã mất, em cũng không còn là đứa con gái nhà quê
nữa nên em không thể về quê. Nhưng hai bàn tay trắng, em không biết đi đâu! Đang nói thản nhiên như một cuộc trả giá: Anh sẽ đưa em ít vốn làm ăn! Chịu chưa? Lại chịu chưa! Đã
đến nước này thì thế nào chả phải chịu! Kiều Nga cay đắng nghĩ đến việc nhận đồng tiền của Đang. Tiền mua cuộc đời con gái của Kiều Nga đấy! Thôi cũng đành phải nhận để thoát chốn đầy lừa lọc, cạm bẫy và đe dọa này. Một người sẵn tiền và có lẽ cũng rộng rãi như Đang thì đưa Kiều Nga ít tiền cũng là bình thường. Kiều Nga mong có ít tiền để đi thật xa nơi ê chề này, học lấy một nghề lao động chân tay chính đáng, có được cuộc sống bình thường như mọi người. Chỉ
khoảng dăm triệu Kiều Nga sẽ thực hiện được điều đó. Số tiền ấy với Đang đâu có lớn lao gì! Mỗi lần Đang trả
tiền quán, Kiều Nga đều thấy rõ những tập tiền lớn trong ví Đang. Từ khi Đang nói rõ không thể có hôn nhân với Kiều Nga thì Đang lại đến với Kiều Nga nhiều hơn như là Đang dùng gỡ
thứ đồ dùng trước khi vứt bỏ nó! Lại những nhà nghỉ ở Gia Lâm, ở Hồ Tây, ở đường lên cầu Thăng Long. Lúc Đang trả tiền phòng, Kiều Nga vẫn thấy trong ví Đang những tập tiền lớn nhưng Đang không đả động gì đến chút vốn làm ăn của Kiều Nga. Không thể kéo dài mãi cuộc tình hờ và cuộc sống tạm này. Trông chờ lối thoát ở Đang thì
Đang chỉ bình thản dẫn Kiều Nga đến những nhà nghỉ. Thấy rõ sự nhẫn tâm phũ phàng của Đang mà Kiều Nga vẫn như nô lệ của Đang, phó mặc thể xác cho Đang, vẫn chiều ý Đang, nhắm mắt đưa chân theo Đang đến mọi nơi để rồi khi trở về lại một mình trần trụi với nỗi đau khổ, bế tắc, tuyệt vọng! Những bữa ăn chểnh mảng. Những đêm mất ngủ kéo dài. Sức khỏe suy sụp, Kiều Nga phải nhờ đến những viên thuốc mới có được giấc ngủ cưỡng bức, nặng nề, mệt mỏi. Chỉ uống một viên thuốc là
giấc ngủ đến ngay nhưng lúc thức dậy đầu nặng trịch, người bải hoải, càng thấy cuộc đời trống rỗng, vô nghĩa. Sao không ngủ luôn để khỏi phải thức dậy với cuộc đời đã trống rỗng vô
nghĩa lại quá nặng nề, tàn nhẫn? ừ nhỉ, sao không ngủ luôn không bao giờ phải thức dậy nữa? Xem ra chỉ còn có lối thoát đó mà thôi, một lối thoát dễ dàng, nhẹ nhàng lại khỏi cần đến Đang. Kiều Nga mở chiếc túi da lấy vỉ thuốc ngủ và rót cốc nước đầy. Người bán thuốc dặn mỗi tối trước khi đi ngủ chỉ uống một viên. Kiều Nga lấy ra năm viên thuốc. Năm viên đã đủ chưa? Thôi, uống luôn mười viên cho chắc!
Kiều Nga ngồi lặng trước mười viên thuốc ngủ trong tay. Thoáng nghĩ đến bố mẹ và ba đứa em, Kiều Nga ứa nước mắt. Lòng mềm lại, Kiều Nga bỗng rùng mình bừng tỉnh khỏi một cơn mê
khủng khiếp. Con Na của bố mẹ phải chết như thế này sao? ép gả đứa con gái vừa chợt lớn cho người đàn ông lớn tuổi góa vợ có quán hàng ở đầu làng, bố
mẹ chỉ mong con bé Na trở thành bà chủ quán có cuộc sống khá giả. Có cuộc sống khá giả
cũng cần nhưng con Na của bố mẹ còn cần lấy được người chồng có tình yêu nữa. Hoá ra có được tình yêu cũng khó lắm. Dù Đang có si mê
nhan sắc cô tiếp viên Kiều Nga nhưng Đang đâu có yêu cô. Ngây thơ và dại khờ, Kiều Nga không phân biệt được sự
si mê chốc lát với tình yêu bền bỉ. Đang lại cố làm cho Kiều Nga lầm tưởng sự si mê của Đang là tình yêu của Đang!
Nghĩ đến Đang, Kiều Nga lại nghĩ đến thân phận khốn khổ hiện nay của mình và sự nhẫn tâm của Đang. Một ý nghĩ táo tợn lóe lên trong đầu Kiều Nga. Kiều Nga lại rùng mình vội đứng lên lấy tờ giấy gói mấy viên thuốc ngủ đã bật khỏi vỉ
cất đi.
Cố gạt cái ý nghĩ ghê gớm vừa lóe lên nhưng ý nghĩ ấy cứ bám riết trong đầu Kiều Nga. Dần dần cả một kế hoạch hoàn chỉnh đã hình thành để Kiều Nga có tiền thoát khỏi bế tắc. Kiều Nga đã thực hiện trơn tru, trót lọt kế hoạch ấy. Gọi điện thoại hẹn Đang đi chơi. Hai viên thuốc ngủ đã
nghiền nhỏ từ trước lén đổ vào lon bia của Đang. Đang nằm ngủ li bì trong căn phòng máy lạnh khép kín của nhà nghỉ. Trên người Đang có nhiều thứ có giá trị: dây chuyền vàng nặng trên cổ, điện thoại di động, chìa khóa xe máy trong túi. Kiều Nga chỉ lấy tập tiền lớn trong ví của Đang. Số tiền đó là hai mươi bảy triệu đồng và một số tiền lẻ. Kiều Nga đã gửi vào ngân hàng hai mươi triệu đồng. Số tiền còn lại tạo nên cuộc sống đơn sơ dung dị của cô thợ may công nghiệp để cô thợ may đó lại được trở về với tên gọi Nguyễn Thị Na quê mùa của cha mẹ đặt cho. Câu chuyện tình trớ trêu trên một lần nữa lại được kể xác thực và xúc động tại phiên tòa hình sự của tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Xúc động vì câu chuyện luôn bị ngắt bởi những khoảng lặng của nước mắt. Xác thực vì câu chuyện được diễn giải chi tiết trước sự có mặt và xác nhận của Đang, người trong cuộc và là người bị hại về vật chất. Phải nói rõ người bị hại về vật chất vì trong vụ việc còn có người bị hại về tinh thần và phẩm giá nhưng phần bị hại này lại không được tòa phán xét.
Đang đi một mình đến dự phiên tòa. Khi tòa bắt đầu thẩm vấn thì một cô gái đến ngồi cạnh Đang làm cho Đang giật mình bối rối. Đang quay sang hỏi nhỏ cô gái: Sao em biết mà đến đây? Cô
gái nói: Anh không cho em biết nhưng em đã nghe phong thanh vụ việc nên phải đến để hiểu cho đầy đủ. Cô gái trẻ xinh đẹp đó là vợ chưa cưới của Đang hiện nay. Sự việc đã rõ ràng. Bị cáo tự ra đầu thú và thành khẩn nhận mọi tội lỗi nên phiên tòa diễn ra chóng vánh. Có được chỗ
dựa tinh thần to lớn ở Huy, Na mới dám ra đầu thú. Nghe Na kể hết đoạn trường, Huy vòng tay ôm bờ vai Na mỏng manh và nói: Nghe chuyện, anh càng thương em hơn, yêu em hơn. Anh đủ
can đảm, đủ tình yêu dành cho em để vượt qua cái vấp ngã đau xót của em, để yêu người phạm tội như em. Bị tù bao lâu anh cũng chờ được. Nhưng anh không thể yêu người là tội phạm suốt đời phải lẩn trốn. Em phải ra đầu thú và trả lại đầy đủ số tiền cho Đang. Em còn thiếu bao nhiêu, anh sẽ
đưa cho đủ số tiền đó. Muốn sống lương thiện và thanh thản thì không thể mang nợ với pháp luật và
lương tâm. Huy đi với Na ra Hà Nội và cùng Na đến công an phường nơi Na gây án để đầu thú. Bây giờ Huy đang ngồi ghế trên cùng trong số người ít ỏi tự đến dự phiên tòa, ngay cạnh hàng ghế Đang và cô vợ
chưa cưới ngồi. Huy là người duy nhất trong số người tự đến dự phiên tòa đứng lên nghe toà tuyên án như chính Huy là bị cáo. Bị cáo Nguyễn Thị Na đã tự ra đầu thú, đã khai báo thành khẩn, đã khắc phục đầy đủ những thiệt hại gây ra, xem xét những tình tiết giảm nhẹ đó, tòa tuyên bị
cáo mười hai tháng tù cho hưởng án treo!
Bà thẩm phán vừa tuyên bố kết thúc phiên tòa bỗng có tiếng khóc nấc lên. Mọi ánh mắt dồn về phía người bật khóc và
tất cả đều ngạc nhiên vì người khóc lại là vợ chưa cưới của Đang. Người phụ nữ trẻ và xinh đẹp nước mắt nhòe ướt đến bên vành móng ngựa nắm tay Na, nói: Cảm ơn chị! Nhờ có câu chuyện của chị, em mới hiểu rõ anh Đang. Anh Đang cũng nói với em những câu đúng như anh Đang nói với chị khi lần đầu tiên anh Đang đưa chị đến nhà nghỉ. Anh Đang còn nói sẽ cưới em. Nhưng ngày cưới ấy càng ngày càng xa xôi, mờ mịt! Thế mà em vẫn chờ đợi bao lâu nay, em ngốc thế đấy, chị
ơi! Đến bây giờ em mới biết rằng chẳng có gì cho em chờ đợi! Sớm muộn rồi em cũng sẽ lại như
chị thôi!
Na cũng giàn giụa nước mắt nhưng làn nước mắt ấy không xóa đi, không làm tắt mất ánh mắt lấp lánh niềm vui của Na. Huy đến bên thấy Na nắm tay chia sẻ với người đàn bà đang nức nở
đau khổ, anh đành đứng lặng chờ một lúc lâu mới khẽ nói: Về thôi em!
(Tạp chí Nhà văn)
4. KỊCH
Tấm màn nhung mở. Sân khấu trống. Chỉ có một cái giường. Giường bệnh. Trắng toát. Trên đó có một người. Tấm dra cũng trắng. Thoi thóp. Thở hắt ra. Một người vào. Quắc thước. Hàm râu cạo. Vẫn còn một vệt đen xậm trên môi. Bước rắn rỏi. Oang oang:
- Chào anh?
- Ai đó?
- Tôi.
- Tôi là ai?
- Bạn anh.
- Bạn? Sao bây giờ mới tới?
- Trễ quá hả?
- Không trễ, nhưng không còn sớm. Nhưng anh là ai mới được?
- Bạn anh.
- Khổ quá. Biết. Bạn. Nhưng bạn nào chớ?
- Anh quá nhiều bạn phải không? à, tôi hiểu, anh hỏi bạn hạng nào chớ gì? Tôi đến, hai bàn tay trắng. Tùy anh coi là
bạn nào cũng được. Nhưng anh hỏi làm gì. Vào lúc như thế này, khi bên anh không có một thằng bạn nào. Có tôi, không tốt sao?
- Tốt. Tốt lắm. Rất tốt nữa là đằng khác. Ba tháng rồi nằm bết trên giường. Mấy ngày đầu người ta nườm nượp tới. Bây giờ. Không có ai. Không có ai hết.
- Người ta chỉ đủ sức thăm anh một lần thôi. Anh hiểu không?
- Sao lại chỉ một lần. Nhiều lần không được sao?
- Không được. Có ai gan, dám đến thăm anh bằng hai bàn tay không như tôi không?
- Bàn tay không cũng được mà.
- Nhưng không được. Là tôi nói họ. Một người như anh, đến mà không có cái gì trong tay làm sao dám đến. Phải một cái bọc thực to. Nếu không phải có một cái bọc thực nhỏ. Bọc to và bọc nhỏ giá trị nhiều khi bằng nhau. Nhưng bọc nhỏ tốt hơn. Chỉ đến một lần. Không đến lần thứ hai. Nhiều bọc như thế, có thể có người phá sản. Cơ quan cũng chỉ
cấp kinh phí ngoại lệ một lần. Mà họ thì không thể đến tay không. Bệnh như anh bây giờ, người ta đang chuẩn bị một thứ quà khác.
- Quà gì?
- Hoa.
- Hoa?
- Hoa kết thành từng vòng. Tròn. Ô van. Kết thành đài. (Cười).
- Không.
- Không cái gì mà không? Không thế nào được. Phải có hoa. Hoa càng nhiều càng tốt. Người như anh đáng kính trọng. Nên phải hoa cho nhiều.
- Còn anh. Anh đến tôi như thế nào?
- Vẫn chỉ hai tay trắng. Nhưng nhất định phải lạy anh ít nhất là ba lạy. Để tỏ lòng kính trọng. Tiếng thở dài. Giống như tiếng âm u vọng từ đâu đó vọng về.
- Anh cho tôi nghỉ một chút được không?
- Rồi anh sẽ được nghỉ. Nghỉ hoài. Tôi đến nhờ anh một việc?
- Ôi trời ơi. Giờ này tôi còn giúp gì được anh nữa?
- Giúp được. Giúp được mà...
- Giúp gì đây?
- Trước hết, tôi hỏi anh một câu đã. Anh còn nhớ Lã Bất Vi không?
- Nhớ. Cái thằng cha có chủ trương: buôn vàng, buôn vải lời ức vạn. Còn buôn người lời không kể xiết chớ gì?
- Vậy là anh còn nhớ.
- Đông chu liệt quốc là sách gối đầu giường của tôi mà. Anh có biết, mỗi lần gặp chuyện rối rắm là tôi lại dở Đông chu liệt quốc ra coi. Cái anh Tầu hay thực.
- Thế hả. Hay há. Thế anh xếp anh là một nhân vật như thế nào trong Đông chu liệt quốc.
- Là một con tép.
Ông khách cười. Tiếng cười thoạt nghe sảng khoái. Nhưng có cái gì cứa vào lòng người.
- Tép. Tép. Mới là tép thôi mà đã... - (cười thực lớn) - Nếu mà là cá mập nữa thì không biết sẽ ra sao há.
- Nè, anh là ai mà ngạo mạn quá xá vậy chớ.
- Ngồi dậy...
- Ngồi làm sao được.
- Không ngồi được cũng phải ngồi. Ngồi mà nhìn vô cái mặt tôi nè, xem tôi là ai.
- Thôi mà. Đừng bắt tội tôi nữa mà.
- Thôi được rồi để tôi nhắc cho anh nghe xem tôi là ai nghe. Anh có nhớ con sông Vàm hồi chiến tranh xưa không?
- Nhớ. Làm sao không nhớ con sông đó chớ. Con sông bốn mùa êm chảy. Bom đạn chiến tranh ác liệt mà dòng sông vẫn trong xanh.
- Có một cô gái xinh xắn ở bên sông.
- Làm gì có cô gái nào?
- Một cô gái mặt tròn trĩnh, hai mắt trong như mắt họa mi. Có nụ cười làm sáng cả mặt sông.
- Cha cha. Thơ mộng quá heng.
- Một ngày kia, cô bị tố cáo là chửa hoang.
- Tội nghiệp chưa?
- Còn người làm cho cô ta chửa hoang là tôi. Rồi sau đó sao, anh nhớ không? Cô ta không hề bị chửa. Những chuyến đi giao liên của cổ khiến cô không đúng được cái ngày dơ dáy của con gái. Chậm. Có một người theo dõi cả những ngày phơi vải lót của cổ. Và rồi rêu rao lên: cổ chửa hoang. Cái bầu không hề có kia khoác lên cổ tôi...
- Thì cũng tại anh. Ai biểu chiều nào anh cũng ngồi với cổ bên bờ sông Vàm. Không anh thì
còn ai...
Lại tiếng cười.
- Thì ra anh giả đò. Anh nhận ra ngay khi tôi bước chân vào đây. Có phải không.
- Nhận ra. Đúng. Có nhận ra. Anh là thằng ăn cắp. Phải anh đó không?
- Rất đúng. Như trong kinh - (thở dài) - Chiến tranh kinh khủng thực. Bom đạn kinh khủng. Tưởng như không còn chỗ
cho những tính toán riêng tư nữa. Vậy mà kinh khủng thay. Chỉ cần một kẽ hở thời gian thôi cũng đủ để người ta len lách. Tôi không nói anh đâu. Tôi nói tôi đó. Ăn cắp. Nhục thực. Nhưng thấy kẻ khác ăn cắp còn nhục hơn. Giải phóng nhanh quá. Người ta tràn vào thành phố. Lệnh rất nghiêm. Không được đụng đến cái kim sợi chỉ của dân. Sao trong ba lô ông này thì có cái này, ông kia lại có cái kia. Anh có biết tôi thấy có ba lô còn có cả những chiếc nịt vú đàn bà
nữa kìa. Nhục thực. Anh mệt rồi, đừng cãi tôi. Đương nhiên là tôi không nói tất cả. Cả triệu người tốt, chỉ có một người thôi không thể làm xấu cả một đoàn người. Tôi nói cái cá biệt thôi. Và
tôi cũng trở thành cá biệt. Ăn cắp của một kẻ ăn cắp. Nhưng tôi ngu, kẻ ăn cắp của dân không ai đụng đến. Còn ăn cắp của đồng đội thì ra tòa. May mà tôi không phải ra tòa. Vì hình như không ai muốn hỏi đến thứ tôi ăn cắp vì sao có...
- Thôi, thôi tôi xin anh. Đừng nhắc chuyện cũ nữa...
- Anh phải cho tôi nhắc chớ. Mà tôi chỉ có thể nhắc được với anh thôi. Tôi hỏi thiệt anh nghe. Tại sao cái chuyện cô
gái chửa hoang mà không chửa anh kiểm điểm tôi dữ thế. Còn chuyện tôi ăn cắp rõ ràng mà
anh lại dễ dàng cho qua như thế? Tại sao vậy?
- Tôi quên rồi...
- Quên. Trời đất, chuyện như thế mà anh quên được sao? Mà cũng phải, anh bây giờ có biết bao nhiêu chuyện lớn lao. Chuyện ngày ấy là chuyện vặt. Nhớ làm gì cho bận lòng phải không. Nhưng với tôi, không thể là chuyện vặt được. Chỉ
cần hai chuyện như thế thôi, đời tôi coi như mạt. Còn anh sau hai chuyện ấy, đời anh lên như diều. Nói thế không đúng phải không. Đương nhiên là còn bao nhiêu thứ khác làm bàn đạp cho anh vươn lên, nhưng hai chuyện của tôi là bàn đạp đầu tiên. Phải không nào... Đó, không là một chút Lã Bất Vi trong ông sao?
- Không. Anh đừng nói nữa. Anh có biết anh đang thoá mạ con người không?
- Có bị thóa mạ cũng còn là con người. Có người mong được thóa mạ cũng không được nữa kìa. Anh bị ung thư phổi phải không? Anh còn đủ sức thóa mạ tôi không? Thử coi... Không được chớ gì... Có tiếng hét:
- Dừng lại. Các ông đang diễn cái gì vậy, hả?
- Ê, bà là ai. Bà là ai mà nhảy lên sân khấu hả?
- Đạo diễn. Tôi là đạo diễn. Các anh diễn cái gì thế? Không có trong kịch bản. Chuyện gì
đâu đâu và nhạt hoét. Anh. bệnh gì mà nói sang sảng thế. Anh phải rên hừ hừ kìa. Còn anh. Anh là
một người sống tự do, anh chuyện như người có học ấy. Không được. Anh coi kịch bản nè. Một người phải rên hừ hừ, yếu đuối. Một người bước đi, bước lại bồn chồn... Thôi diễn lại. Diễn lại đi...
- Diễn lại hả. Bà cho miếng nhạc coi. Có tý nhạc diễn nó mới mùi.
- Làm gì có nhạc. Kịch bản không có nhạc. Chỉ có tiếng rên hừ hừ của người bệnh và tiếng nện gót giày cồm cộp. í trời ơi. Sao lại giày. Kịch bản cũng tầm bậy. Người như ông làm gì có giày mà đi. Dép là tốt rồi. Lê dép xoèn xoẹt. Thế. Nào diễn lại. Rên hừ hừ đi. Lê dép xoen xoẹt đi.
- Từ đoạn nào?
- Đất đai. Chuyện xin đất. Bắt đầu từ chuyện xin đất... diễn... Người trên chiếc giường trắng toát nằm xuống và rên hừ hừ. Người quắc thước bước đi bước lại.
- Có nghĩa là anh là bạn tôi.
- Bạn. Đương nhiên rồi. Một điếu thuốc chia đôi. Một chén cơm xẻ nửa. Chui cùng hầm. ở
cùng hố. Ba lô hai đứa hình như cũng nhẹ bằng nhau. Nhưng rồi hết chiến tranh. Bây giờ, anh thì
vậy. Tôi thì vậy. Không công bằng. Không công bằng chút nào hết...
- Thế anh biểu thế nào là công bằng? Cả tôi cả anh cùng thành tướng cả thì công bằng hay sao? Nếu thế, Việt Nam này đi chợ cũng chỉ toàn là tướng. Tướng đàn ông, tướng đàn bà, tướng già, tướng trẻ...
- Bộ anh tưởng tôi ham làm tướng lắm hả. Không có đâu. Tôi nói chuyện khác kìa.
- Còn chuyện gì nữa?
- Tôi hỏi anh nghe. Ngày xưa khi rời căn cứ ra, anh có khác gì tôi không? Mỗi thằng một cái ba lô. Mỗi thằng một đôi dép râu. Thế mà sao bây giờ giữa tôi và anh có một khoảng cách xa đến như thế. Tôi biết, anh sắp biểu xã hội phân công. Thì xã hội phân công, tôi thất cơ tôi làm dân. Anh sang anh làm quan. Nhưng sao trời cho anh nhiều thứ thế. Còn tôi mỗi ngày mỗi mạt. Tôi hỏi anh nè, vì sao hồi đó, tôi chỉ xin anh có một miếng đất con con trong hốc bò tó của thị xã
này, anh cũng không cho...
- Cho sao được. Cho anh thì sẽ phải cho bao nhiêu người khác nữa. Đất nhà nước mà đem cho manh mún như thế
sao được?
- Vậy tập trung thì được phải không?
- Anh hỏi sao tôi không hiểu.
- Cho mỗi người một chút thì không được, nhưng cho một người cả chục mẫu, cả trăm mẫu thì được chớ gì? Đương nhiên đâu có phải ai các anh cũng cho.
- Anh nói cái chuyện gì đâu đâu. Anh không thấy tôi đang gần đất xa trời rồi sao. Lúc này tôi trả lời anh thì được cái gì
chớ.
- Sao lại không được. ít nhất thì cũng làm tôi thảnh thơi khỏi băn khoăn. Còn anh, anh lời hơn tôi nhiều. Anh sẽ không phải mang những chuyện trắng đen không rõ ràng xuống địa ngục.
- Cái gì không rõ ràng. Mà sao tôi lại phải xuống địa ngục?
- Anh còn phải hỏi tôi. Tôi kể cho anh nghe chuyện này. Một hôm tôi rảnh, ra ngồi quán cà
phê. Có người hỏi tôi: "Ông có biết tỉnh mình có thêm một dãy phố mới không?". Tôi hỏi: "Phố
gì?". "Phố Trần Dư". Tôi ngạc nhiên. Trần Dư? Nghe quen quen. Trong lịch sử nước mình hình như có một ông tên Dư. Nhưng không phải. Đó là Trần Khánh Dư đời Trần. Không lẽ con cháu bây giờ hỗn, cắt bỏ tên lót của một vị tướng đáng kính trong lịch sử. Thấy tôi ngây thộn ra, người tiếp chuyện tôi cười ngất. Ông ta nói trong tiếng cười sằng sặc. "Chẳng có tên tướng, tên tá nào hết. Cha nội ngu không hiểu. Trần Dư, là "trừ dân". Biết không? Dãy phố ấy không có một người dân nào ở
được hết. Lúc mới xây dựng, người ta kêu, sẽ đấu thầu. Ai bỏ giá cao sẽ được mua. Trời đất ơi, ai mà vô đó đấu thầu được. Các vị không phải là dân đã xí phần hết rồi. Mỗi ông một căn nhà sang trọng. Thấp bảy, tám trăm triệu. Cao cả tỷ bạc. Nghe tiền dân đã ngán rồi ai dám vô đó mà đấu thầu. Còn những người không phải là dân kia, không hiểu sao họ lắm tiền đến như
thế.
- Nè, tôi không có căn nào ở đó nghe.
- Ai biểu anh có một căn trong đó? Nhưng người trên anh một chút, dưới anh một chút có
không? Có, phải không? Tôi có sáng kiến rồi đó. Nay mai xây tường rào lại. Gọi đó là biệt khu lãnh đạo. Được chớ hả. Tôi biết anh ranh khôn lắm. Anh để một lớp người giành phần lấy trước. Tai tiếng họ chịu đã đi. Rồi đến anh. Một căn ở phố Trần Dư với anh đâu có khó khăn gì. Thiên hạ nói chán rồi, anh đến, cũng đã xong mọi lời ong tiếng ve. Đó không phải là cái chất Lã Bất Vi trong anh sao. Xem ra anh còn khôn hơn Lã Bất Vi kìa. Lã Bất Vi buôn người, chớ anh khỏi buôn luôn. Khỏi cần bỏ
vốn luôn.
- Anh ác khẩu quá... ác quá.
- Tôi học sách Tàu đó. Sách Tàu có kể chuyện ai đó chỉ mắng thôi mà giết chết tướng giặc không? Anh có nhớ
không?
- Thế anh định mắng tôi cho tôi chết phải không?
- Đâu có. Tôi với anh đã từng là đồng đội. Tôi với anh cũng chưa bao giờ là kẻ thù mà. Tôi hỏi anh chuyện này nghe.
- Chuyện gì nữa đây?
- Không phải chuyện anh đâu. Tôi nghe nói, có một ông dưới quyền ông kìa. Mỗi lần ông ta ra Hà Nội họp hành gì đó. Nhà nước đã đảm bảo cho chuyến đi của ổng cả chục triệu đồng. Nhưng trước khi đi. Ông ta nhấc máy điện thoại lên gọi đi vài ba cú. Nội dung chỉ có thế này thôi: "Ê, tớ
sắp ra Hà Nội. Lần này thế nào cũng phải lo cho bên ngành các cậu cái công trình, cái dự án, cái...". Ông có biết sau đó thì sao không? Cái sở ấy, cái ban ngành ấy chạy vội sang gặp ông ta. Đương nhiên là phải nhờ cậy rồi. Mà bây giờ ai lại cậy nhờ xuông. Phải không. Một cái phong bì. Mỗi cái phong bì tương đương với số tiền ngân sách chi cho ông đi công tác. Người ta biểu, mỗi năm ông đi công tác chừng mươi lần thôi. Mỗi lần năm cái phong bì thôi. Là bao nhiêu một năm? Mà ông ta giữ quyền sáu bảy năm trời như thế.
- Vừa phải thôi nghe ông. Không lẽ ông biểu người ta làm giàu nhờ đi họp sao?
- Đâu có giàu. Về hưu được vài tháng ông ta đã có một cơ sở sản xuất mà vốn đầu tư gần ba tỷ đồng. Ui da. Xem ra ông này tốt số. Ông bà, cha mẹ để của chìm của nổi quá trời. Chớ thử hỏi chỉ lương thôi làm sao có thể xây dựng được một cơ sở như thế? Hai triệu lương một tháng, là tính cho vót cần câu đó. Để có hai tỷ bạc vốn, phải làm việc một trăm năm, không ăn, không mặc... Nhất định là không phải như thế. Nhưng những gần ba tỷ đồng. Thì chắc là của hương hỏa ông bà
rồi. Mà cũng không phải. Tôi nhớ ông ta cũng như ông và tôi. Mới chớm lớn là vào rừng kháng chiến rồi. Một thứ nông dân rặt. Cha mẹ ông bà hồi đó mót từng hạt lúa, ém từng củ khoai cho mình đánh giặc, hỏi làm gì có của chìm, của nổi nhiều như thế. ở đâu vậy ông.
- Làm sao tôi biết.
- Ông biết. Nhất định là ông biết.
- Tôi không biết thực mà.
- Ông nói dối. Một đời ông nói dối. Không lẽ chỉ còn ít phút sống ở dương gian này ông không thể nói thực một lần sao?
Lại có tiếng hét:
- Khoan. Dừng lại. Các anh đang làm cái gì vậy?
- Thì đang diễn...
- Ai biểu các anh diễn như vậy chớ. Hoàn toàn sai kịch bản. Trật lấc... Các anh nên nhớ, tôi là người chịu trách nhiệm về kịch bản này. Các anh định cướp cơm cướp gạo của tôi hay sao chớ. Không ai được phép làm sai kịch bản, ngoài tôi hiểu chưa.
- Thưa bà đạo diễn. Bà sai rồi. Kịch bản là khâu sáng tạo thứ nhất. Đạo diễn là khâu sáng tạo thứ hai. Thứ ba là
chúng tôi. Những diễn viên. Bà không hiểu như thế sao?
- Trời đất ơi, tôi đang làm cái gì thế này? Tôi hỏi các anh, năm nay các anh bao nhiêu tuổi.
- Ba mươi. Cùng tuổi với đất nước thống nhất.
- Ba mươi tuổi. Ba mươi tuổi các anh có quyền gì mà mổ xẻ những chuyện ngoài tuổi tác của các anh. Các anh biết gì
đến những chuyện một thời hả...
- Bà lại sai nữa rồi. Tại sao chúng tôi lại không biết. Biết rất nhiều nữa là đằng khác. Mọi chuyện bày đặt ra trước mặt sao không biết chớ.
- Nhưng không được phép nói. Trước hết là trong kịch bản không nói. Thứ hai, không được đụng chạm.
- Ô hay. Kịch cơ mà. Ai có tích thì rục rịch. Chúng tôi là diễn viên, chúng tôi nói chuyện của đời sống. Mắc mớ gì đến ai.
- Nhưng không được. Các anh diễn như vậy, rồi khi kiểm duyệt, người ta sẽ cắt. Vở diễn sẽ
bể. Mà vở diễn bể, các anh biết rồi đó. Tất cả chúng ta sẽ đói dài dài. Các anh có diễn hài được không? Các anh có hát nhạc trẻ được không. Không chớ gì. Những người làm chính kịch chúng ta vốn khó tìm khán giả các anh biết không. Có tiếng cười sảng khoái của người nằm trên giường bệnh.
- Giống như quan liêm thì khó tìm đất dung thân có phải không? Đời hay thực. Nói dối nhiều người tin. Nói thực họ
biểu chuyện trên cung trăng...
- Thôi, thôi, thôi xin mời các anh diễn tiếp đi cho. Nhưng tôi phải nói lại: tôi là đạo diễn. Các anh phải tuân thủ những yêu cầu của tôi. Rõ chưa? Nào diễn tiếp.
- Đoạn nào thưa bà?
- Đoạn anh bị cho thôi việc nghỉ hưu.
- Nhân vật trong kịch bị thôi việc nghỉ hưu, chớ không phải tôi. Bà không thấy lúc người ta làm phim ăn liền, làm kịch nhí nhố, tôi ngồi nhà chơi điện tử sao? Tôi chờ những vở như thế này lâu lắm rồi. Tôi mà bị nghỉ việc ai dám diễn cho bà...
Bà đạo diễn cười. Nụ cười không biết diễn tả rằng vui hay buồn. Nhưng thoáng một cái mím môi vẻ kiên quyết. Bà
kêu lên:
- Diễn.
Người bệnh nằm xuống.
Ông khách đến bên giường. Ngồi xuống, nói khẽ:
- Hôm nay, tôi cũng thú thực với anh một điều nghe: tôi là một thằng ăn cắp. Đúng thế. Còn nhỏ ăn cắp của hàng xóm, ăn cắp của ông già bà già. Lớn lên ăn cắp của đồng đội. Cái lý của thằng ăn cắp nó cũng nhiều như cái lý của người đi làm công tác ấy. Nhưng xét cho cùng, tôi có ăn cắp cũng chỉ ảnh hưởng đến một hai người thôi. Không như...
- Ông biểu tôi là thằng ăn cắp sao?
- Không, không, ai dám. Ngu sao nói thế. Tôi tự thú với anh vậy, để
anh yên lòng vì ngày trước anh đã loại tôi rất sớm ra khỏi cuộc chơi. Lại quên nữa. Loại tôi ra khỏi đội ngũ.
- Tại anh, chớ tại ai...
- Nhưng tôi hỏi anh, ở đời này ai không ăn cắp, anh nói nghe coi? Ăn cắp tình, ăn cắp tiền, ăn cắp kiểu bây giờ. Bạc tỷ. Không chức không quyền không ăn cắp như thế được...
- Anh nói gì nghe kỳ vậy hả?
- Không phải sao. Anh tưởng tôi về rồi, tôi không biết gì sao. Tôi làm rẫy. Nhưng mỗi ngày tôi mỗi mua báo. Điều tôi khó chịu nhất là mỗi ngày trên mặt báo cũng có một chuyện. Ông này bị
bắt, ông kia làm thất thoát vài chục tỷ đồng, có
kẻ làm hại nhà nước, làm hại của dân mà còn lên giọng kêu oan...
- Trời ơi, chuyện ấy của thiên hạ, ông quan tâm làm gì chớ?
- Không quan tâm sao được. Tôi làm rẫy cũng phải đóng thuế cho nhà nước. Bàn dân thiên hạ, bán từ cái chổi, cái kim, còng lưng trên ruộng, mỏi mệt trên những cỗ máy, nhất nhất đều phải đóng góp cho nhà nước vậy mà sâu mọt cứ
ăn chặn như thế, hỏi có giận không? Tôi biết, ngày các anh loại tôi ra khỏi đội ngũ là có cái lý của các anh. Nhưng cái tội của tôi ngày ấy có đáng phải như thế không? Mà xét ra tôi chẳng có
tội gì cả. Chẳng qua chỉ vì cái tội biết quá nhiều thôi.
- Anh biết cái gì mà nhiều?
- Biết gì ư? Có nên nói ra đây không?
- Còn cái gì nữa mà không nói. Lúc này chỉ có tôi biết, ông biết, đất trời biết. Tôi sắp ra đi rồi. Ngậm miệng mà mang theo chuyện. Có gì mà không nói ra được...
- Vậy hả. Tôi nói nghen. Nhưng anh nhớ không được nói ra đó. Kể cả với Diêm Vương.
- Rồi tôi hứa.
- Ngày đó anh lấy đâu ra một bản kiến nghị nhiều chữ ký đến thế?
- Kiến nghị nào?
- Anh lại quên rồi. Sao anh hay quên đến như thế? Bản kiến nghị cho tôi nghỉ hưu sớm ấy. Nhớ ra chưa?
- Thì anh em trong cơ quan người ta thấy sao làm vậy.
- Thấy sao?
- Thấy cái gì anh cũng nhúng vào, cái gì anh cũng chê bai, phê phán. Chê bai, phê phán ai cũng được. Đằng này anh phê phán ngay vào cái chỗ không nên đụng đến.
- Trong đó có anh phải không?
- Tôi thì là cái gì trong đó. Mà thôi. Tôi cũng chẳng có gì phải dấu anh nữa. Tôi hỏi anh, anh chỉ là một cán bộ bình thường như bao cán bộ khác, sao anh bày đặt bàn đến chuyện tổ chức làm gì? Người ta sắp đặt ai ở đâu, ai làm gì, người ta cân nhắc kỹ rồi. Mắc gì đến anh chớ?
- Cảm ơn anh đã thực thà với tôi. Nhưng ngay cả bây giờ, nếu được nói tôi vẫn cứ phải nói. Anh có công nhận trên bất cứ bàn cờ nào cũng phải có những con tốt không? Không có con tốt làm sao nên bàn cờ. Không có con tốt lấy gì mà
thí cờ. Nhưng có bao giờ con tốt có thể bay cái vèo để nhập cung không? Thế mà bàn tay các anh đẩy tốt nhập cung ào ào. Cung nào cũng nhập. Từ xã lên tỉnh. Chuyện câu trước câu sau là
người ta biết ngay con ông nào, cháu ông nào... Nói thiệt tôi nghỉ là may đó. Khi còn làm việc tôi ngán nhất xuống cơ sở. Nói không dám nói. Nói thì sợ đụng con ông, cháu bà. Hớ hênh một cái là
xong. Tôi kể ông nghe chuyện này. Có một anh nhà báo về cơ sở. Làm việc xong lãnh đạo huyện mời anh ta ra quán nhậu. Cùng nhậu có một ông cán bộ dưới quyền của ông đó. Cái anh nhà báo này bạo miệng. Chuyện đang vui, anh ta nói như phán: "Tỉnh này hết người hay sao mà để lão làm cải lương làm giám đốc Văn hóa." Anh cán bộ huyện đá hoài vào chân anh nhà báo. Anh nhà báo tưởng được khuyến khích nói tiếp: "Mà cải lương đâu có phải lão viết. Người ta viết cho lão ký tên. Thậm chí bây giờ, chương trình của đoàn cải lương, diễn vở
nào cũng phải có tên của ổng trong kịch bản thì vở mới được diễn. Chuyện mới đây nè. Một anh soạn giả muốn vở
mình diễn, bèn thêm tên ổng vào. Lúc lấy nhuận bút, ông đến cưa trước một nửa. Một nửa còn lại ổng viết một lá thư
biểu anh soạn giả chính chi mấy trăm ngàn để nhậu. Đúng là tác giả". Thấy đá chân anh nhà
báo hoài không được ông cán bộ huyện phải ghé tai anh nhà báo: "Nín. ổng là em ruột ông ngồi kia kìa". Nhưng chuyện đã rồi. Ông có biết sau đó thì sao không. Anh nhà báo không được vào dự một hội nghị quan trọng, mà ở đó anh ta phải viết một bài quan trọng. Lý do: tóc dài, không nghiêm túc.
- Có chuyện ấy sao?
- Đấy là chuyện của người ta. Còn chuyện của tôi nè. Ngày các anh quyết định chuyển tôi xuống huyện C, tôi đã mang máng nghi rồi. Khi không các anh lại đưa tôi xuống một huyện thơm tho như thế hay sao. Ngay ngày đầu tiên, tôi đã
biết mình sa vào một cái vòng khẩn cô nhi rồi. Có nghĩa là sao hả. Nghĩa là: tôi có mọi thứ, kể cả uy quyền. Nhưng có
một cái tôi không có và không thể nào có. Đó là vây cánh. Ai gặp tôi cũng khúm núm. Gọi một tiếng dạ rân. Biểu một tiếng cũng dạ rân. Nhưng dạ thực ngon, nhưng chẳng ai làm những việc tôi nói. Ông có biết tình hình ra sao không. Cả
huyện không nhúc nhích được việc gì ngoài việc hội họp rất nhiều. Tôi không sinh ra ở
huyện ấy. Tôi không trưởng thành ở huyện ấy. Tôi không là người của huyện ấy đào tạo. Tôi là
người ngoài. Anh nghĩ tôi là người ngớ ngẩn sao mà không nhận ra chuyện đó. Tôi phản ứng trong lãnh đạo huyện. Tôi phản ứng lên các anh. Tôi chỉ cho các anh thấy những chuyện rắc rối trong tổ
chức. Thế nên các anh mới gợi ý cho tôi nghỉ hưu sớm. Nhưng để hợp lý hơn, các anh cho mọi người làm một bản kiến nghị. Cho có dân chủ, phải không anh. Ngày ấy tôi biết tôi hết thời rồi, nên tôi chẳng phản ứng gì cả. ờ thì nghỉ. Bây giờ nghĩ lại mới thấy mình ngu dại. Không về, liệu các anh có đuổi tôi được không?
Còn làm cán bộ nói đôi ba tiếng có khi còn có người nghe. Còn bây giờ làm dân, nói ai nghe, nói ai tin đây?
- Nhưng tại sao anh không làm việc khác, mà lại chọn việc làm rẫy. Anh làm chúng tôi...
- Mắc cỡ phải không nào? Cùng cống hiến như các anh, bây giờ các anh thì thế, còn tôi chỉ
là anh nông dân cầy trên rẫy chớ gì. Sao ngày ấy các anh không cấp cho tôi mảnh đất tôi cất cái nhà
tôi ở...
- Thế bây giờ anh có đất chưa?
- Có rồi.
- ở đâu?
- Cũng nhờ các anh đó. Cám ơn. Tôi ráng mua lại của mấy ông được các anh cấp đất theo dạng trồng rừng. Các ổng làm không hết, tôi năn nỉ mua lại. Tôi còn một miếng nữa cũng phải mua.
- ở đâu?
- Ngoài Cực lạc ấy. Ngang một mét. Dài hai mét và sâu từ tám tấc đến một mét...
- Anh nói cái gì thế?
- Tôi phải mua trước đó. Không ngu dại gì nữa đâu. Sống nhăn ra đó xin cấp đất còn không được, chết rồi làm sao xin.
Lại có tiếng hét:
- Thôi, dừng lại. Sân khấu có phải là nơi các ông đấu khẩu không? Chuyện như các ông nói chỉ là cá biệt. Xã hội này mà như thế thì còn gì là xã hội nữa chớ.
- Thưa bà đạo diễn kính mến. Chúng tôi muốn tiêu diệt những chuyện cá biệt bà biết chớ?
- Diệt bao giờ cho hết hả các ông. Mầm cỏ dại lúc nào mà không có. Mà mầm cỏ dại lúc nào cũng mạnh hơn cây trồng...
- Thì bằm nó ra. Nhổ gốc nó đi.
- Nhưng đó không phải là nhiệm vụ của sân khấu?
- Thế sân khấu làm cái gì?
- Diễn theo kịch bản. Tất cả những gì không có trong kịch bản thì không được diễn.
- Có nghĩa là chỉ diễn những gì vuông vuông, tròn tròn. Méo mó một chút thì phải bóp lại cho vuông tròn phải không.
- Thôi, thôi, thôi, không cãi với các ông nữa. Lã Bất Vi không buôn chuyện như các ông đâu. Màn. Tiếng bà đạo diễn lanh lảnh. Hai nhân vật trên sân khấu biến mất. Màn không hạ. Mà
thêm một tấm màn nhung nữa lại mở ra. Bà đạo diễn ngơ ngác:
- Ô hay, sao lại mở màn nữa. Tôi lẫn mất rồi. Phải kêu là hạ màn mới đúng chớ. Sao lại màn. Mà màn thì ai hiểu rằng đóng vào hay mở ra. Kìa, màn nữa mở ra rồi. Nhà viết kịch ơi, dẹp kịch bản này của ông đi. Ông viết ngay kịch bản khác. Lẹ lên. Đời lại diễn nữa rồi kìa./.
Gã hàng xóm
Sáng tinh mơ mụ vợ gã đã xe xẻ: Trời ơi là trời! Nhà người ta cái tốt phô ra, xấu xa đậy đắp, đằng này ông làm ngược. Mắc cỡ chết đi được! Còn mặt mũi nào mà ngó bà con chòm xóm... Chuyện cự lộn giữa hai vợ chồng gã như cơm bữa. Bà con lối xóm đã chai cái lỗ tai, chẳng ai thèm quan tâm can thiệp. Hầu như ngày nào vợ chồng gã cũng cự nhau một vài chặp. Và đã
thành thâm căn cố đế, hình như không cự lộn, vợ chồng gã ăn không ngon ngủ không yên. Xem ra chuyện cũng chẳng có gì to tát, chỉ tại cái miệng gã lúc nào cũng muốn mọc da non, cứ bô lô ba la văng mạng, chẳng đâu vào đâu, gây trò cười cho thiên hạ. Mụ vợ chúa ghét cái thói ruột để ngoài da của gã, nên thường đay nghiến gã bất kể ngày đêm. Được cái gã mặc xác mụ, cũng có khi gã vặc lại đôi câu qua quýt rồi bỏ đi, bởi thế nên mỗi "hiệp đấu" khẩu thường kết thúc chóng vánh và phần thắng thường nghiêng về mụ vợ.
Khổ nỗi, nhà tôi liền kề nhà gã. Vì thế, không biết tự bao giờ, tôi coi gã như là một sinh linh vừa đáng thương vừa đáng giận, vừa nể phục mà lại vừa coi thường. Tình cảm kỳ cục đó cứ như
con lắc đu đưa đa chiều trong tôi. Thẳm sâu tự đáy lòng, biết mình nghĩ về gã như thế là hẹp hòi, cố
chấp, chưa đồng cảm với cuộc đời riêng đầy sóng gió và
uẩn khúc của gã. Thực tình ở bên nhà gã cũng thấy vui. Từ cái miệng của vợ chồng gã
"tuôn" ra khối điều nửa như dở
dở ương ương, nửa như khôn khôn dại dại. Song ngẫm cho kỹ, trong những điều ấy cũng có
khối điều lý thú bất ngờ. Theo mụ vợ, gã đã ngoài năm mươi, cái tuổi coi như bỏ! Hỏi gã, gã chỉ ậm ờ, vì thế chẳng ai biết đích xác gã bao nhiêu. Chỉ thấy, đã lâu lắm rồi gã luôn ở trần, chỉ đánh độc cái quần xà lỏn. Gã có nước da men mét, gân cơ rệu rạo, gồ ghề. Mái tóc điểm màu nhũ ngân. Mắt đùng đục thô lố, luôn ánh lên vẻ bất cần, chán đời và cam chịu. Tại sao gã ở trần? Và tại sao?
Những câu hỏi cứ rào đón săm soi, nhưng chỉ nhận được những cái lắc đầu nguầy nguậy của gã. Người ta bảo gã sợ vợ, sợ đến nỗi không dám mặc áo quần (?), gã chỉ cười cho qua chuyện. Vì ở
gần, tôi biết, có lẽ đã mười năm rồi, dường như gã đã quên phéng khái niệm về quần áo. ở nhà với vợ: xoay trần. Đi chơi lối xóm: trần luôn. Ra chợ: đánh trần. Thỉnh thoảng ra Cần Thơ hoặc có đi đám cưới xin, giỗ quải... gã mới ăn mặc đủ
bộ, nhưng xem ra có vẻ vướng víu và bứt rứt lắm.
Người ta đồn thổi gã chập mạch, kể ra cũng có lý. Nhất là từ ngày vợ gã đón gã từ Nhà điều dưỡng thương bệnh binh về. Là bệnh binh, gã mất trên 60% sức khỏe, do bị nhiễm chất độc màu da cam trong những tháng năm đánh giặc ở
miền Đông, làm ảnh hưởng đến thịt da và cái đầu của gã.
Có lần tôi tò mò hỏi vợ gã vì sao chị cứ để ảnh ở trần trùng trục vậy? Đôi mắt đượm buồn xa xăm, mụ phân trần: Nào tui có cấm cản gì đâu, ổng biểu ổng thích thế! Tui có khuyên, la mấy bận, ổng chẳng nghe. Tui cạn nghĩ, mong anh bỏ
ngoài tai. Thôi thì mặc xác ổng! Xét cho cùng, thì ở trần cũng chẳng ảnh hưởng gì đến trật tự an ninh chòm xóm mà
ngăn cản ổng. Vả lại ở trần cũng có nhiều cái lợi, như đỡ tốn tiền sắm may quần áo, đỡ công giặt giũ phơi phóng... Tôi nghe cái lý lẽ của người đàn bà chân đất, mắt cười thấy cay cay. Vậy việc gã ở trần đích thị không phải tại vợ gã
rồi. Cũng chẳng nên vạch vòi soi mói làm gì. Gã bảo chuyện vặt, thích thì ở trần, thế thôi. Nhưng người ta cứ muốn tò
mò, vọc vạch... Còn vợ chồng gã thì úp úp mở mở làm câu chuyện mới trở nên lôi cuốn.
* *
Những kẻ thần kinh có vấn đề thường hay uống rượu. Cách uống của gã thật đơn giản. Một chai rượu đế, một cái chung nhỏ, không cần mồi, cứ thế gã có thể ngất ngư cả ngày. Nhưng được cái không khi nào gã say xỉn, quậy quạng. Sáng nay mụ vợ có việc về bên ngoại. Gã được dịp vô tư
với "bầu rượu nắm nem". Chợt có người đàn bà chừng bốn mươi tuổi, xõa sượi, rách rưới thập thững bước vô, hai tay chắp trước ngực, van vỉ: "Con không may bị trời đầy đất phạt. Con cắn cỏ
lạy ông lạy bà, làm phước làm đức, cho con xin miếng cơm miếng cháo...". Gã nhìn người đàn bà
như nhìn một sinh vật lạ từ dưới đất ngoi lên, mắt đỏ lừ, quát: "Cút! Ta cũng đang đói rã
họng ra đây. Đi chỗ khác". Nghĩ sao, đột nhiên gã đổi giọng: "Quên! Này! Cô kia!... Ta chỉ có rượu thôi, vô đây uống với ta mấy chung cho vui. Uống một mình buồn thấy mồ". Người đàn bà có vẻ
khúm núm, sợ sệt: "Cám ơn ông, ông cho con cái gì đút vào lỗ
miệng cơ. Rượu! Con xin vái". Gã quắc mắt, gầm gào: "Thế thì cút, cút ngay!". Người đàn bà run cầm cập, lê từng bước bải hoải như sên ra cổng. Buông ánh mắt ái ngại thương cảm bám theo, gã bỗng bật dậy chạy ra kéo tay ả lại:
"Này, ta la là la vậy thôi, tự ái hử! Ăn xin mà tự ái, đói rã họng con ạ. Vô đây, ta cho, ta cho...". Để người đàn bà hồn vía nhập trở lại thân xác, gã làu bàu: "Đấy, trong nhà cô coi có cái gì
lấy được cứ lấy. Ta cho, ta cho tuốt". Người đàn bà thấy thế càng sợ hãi, hai tay vái lia lịa: "Dạ, con không dám, không dám! Con xin phép ông con đi". Gã lừ mắt, quát:
"Chê hử! Không lấy cái gì ta quyết không cho ra khỏi nhà". Hai người đang dùng dằng, không hiểu sao, gã chùng giọng: "Ta làm khó dễ cho cô phải không? Ta cho cô cái bình thủy Trung Quốc này, bán đi mà xài, còn mới đấy. Cầm lấy, cút mau! Kẻo vợ ông nó về... nó tưởng... Chết với nó như chơi...". Ngã ấn cái bình thủy vào tay người đàn bà, rồi đẩy ra ngõ. Chị ta thấy cái quần xộc xệch cái gã say ở trần, sợ quá chân muốn vắt lên cổ. Xế chiều mụ về, gã còn ngủ chỏng vó trên chiếc dạt tre ọp ẹp. Mụ chẹp miệng, rồi bỏ đi quét dọn và chuẩn bị cho bữa tối. Khi châm nước chín vào bình thủy, mụ mới phát hiện bình không cánh mà bay. Mụ dựng gã dậy, gắt: Bình thủy đâu rồi?
Gã dụi dụi mắt, miệng há hốc, ậm à ậm ừ: Bà để đâu còn đó, nó có chân đâu mà... Mụ quát: Mà... mà cái con khỉ. ở nhà có ai mượn không? Gã tỉnh khô: Tôi đâu có biết. Mụ gào lên: Trời ơi là trời!
Ông là cái thằng vô tích sự, nốc cho đẫy vào, lăn ra ngủ như chó chết. Để nó vào nó lấy mất cái bình thủy rồi còn gì? Gã nghệt mặt ra, lẩm bẩm: Trộm hử, trộm hử! Cái đồ... chó cắn áo rách... Mụ
tức khí sồng sộc chạy đi báo cho tổ tự quản. Có người mách sáng nay thấy có đứa cầm cái bình thủy từ trong nhà bà ra... Cứ tưởng... Nào ngờ... Mụ về càng đay đả gã: Mất mẹ nó rồi... có người trông thấy... Từ rày tui cho ông uống nước đìa. Gã chẳng nói chẳng rằng, nhưng cái bụng muốn bể
vì tức cười. Kể cũng lạ! Gã buồn gã đi lang thang đã đành, gã vui gã cũng lang thang. Không ra khỏi nhà thì thôi, đã ra khỏi nhà y như rằng có chuyện. Về nhà thể nào cũng bị vợ la. Gã vốn ghét cay ghét đắng những kẻ có của mà không biết giữ. Có
lần nhặt được cái ca táp của ai đó đánh rơi, chẳng cần biết trong đó có gì, tay gã huơ huơ
vung vít, miệng toang toác:
"Ê... thằng nào con nào đánh rơi cái của mắc dịch này đây. Mồ cha nó chứ, có của mà
không biết giữ, nó định gieo rắc tiền bạc của nả ra đường đấy hử! Khác nào gieo rắc bệnh hoạn. Phải cảnh giác bà con ơi! Làm mất công ông phải nhặt, phải la rát họng...". Có lẽ do trời xui đất khiến, gã rất hay nhặt được của rơi. Dù của rơi là tiền bạc hay đồ vật nhỏ
gã đều tắp lự la ổng khắp đầu thôn cuối ấp, để ai mất đến mà nhận. Có đôi lần người nhận có nhã ý biếu gã vài chục để tỏ lòng hàm ơn, gã phồng má trợn mắt mắng te tái vào mặt người ta. Sau khi họ về, mụ vợ tru tréo: "Ngu ơi là ngu!
Người ta có ý tốt sao ông không nhận? Ông tưởng ông sống bằng nước đìa đấy phỏng! Từ
rày tôi cấm ông không được nhặt những của nợ ấy về. Tôi quẳng ra đìa, đừng trách!". Gã chỉ cười khì khị rồi bỏ đi. Mụ ngoay ngoảy vỗ mông bèn bẹt, một đám bụi vẩn lên rồi tan dần trong gió. Gã tên Phẹo. Cái tên như đánh đố, vừa khó nhớ lại khó kêu. Chỉ nghe cái tên thôi người ta đã nghĩ ngay đến một gã
phổi bò, dấm dớ và đáng thương nhưng lòng dạ thẳng thớm không độc địa. Vậy nên, cả ấp từ người lớn đến trẻ con chẳng ai kêu gã là anh Phẹo, chú Phẹo hay ông Phẹo bao giờ. Bởi đã từ
lâu, trong con mắt họ, gã chỉ là kẻ dở hơi, có
thân nhiệt bất bình thường. Thực ra gã cũng chả quan tâm đến cái đại từ nhân xưng dớ dẩn ấy làm gì. Gã nghĩ gì, muốn gì, đau cái gì? Chỉ trời biết!
Có lần mấy anh em quây quần bên bàn trà, vui miệng, tôi hỏi: "Phẹo này, tại sao vợ chồng cậu ăn ở với nhau bấy nhiêu năm mà không có con cái gì? Chắc "cái ấy" của cậu bị xịt rồi". Gã xua tay: "Xịt là xịt thế nào! Chỉ tại mụ vợ, nó kỳ lắm". Tôi gợi chuyện: "Kỳ là kỳ làm sao, nói nghe coi". Gã xổ ra một đống: "Này nhá, cứ mỗi lẫn ngủ với nhau, mụ cứ đòi ngoi lên trên, dìm tôi xuống dưới, ngộp muốn xỉu. Mụ "Nhoáy", "nhoáy" mấy cái thế là xong. Các ông nghĩ coi, làm vậy có con sao được!". Cả bàn cười nghiêng ngả, gã cũng cười ngả nghiêng. Chuyện chỉ có thế, không hiểu sao, mấy bữa sau, mụ nghe được, la cho gã một chặp: "Khùng ơi là khùng! Chuyện tí tởn với nhau mà ông cũng lôi ra kể.
"Nhoáy" một cái, "nhoáy" hai cái là sao? Ông làm như gà không bằng. Thử hỏi, ông
"nhoáy" hay tui "nhoáy"? Cái giống chưa đụng vào đã nhểu ra như nước lọc, còn đổ thừa". Mặt gã
đờ đẫn, rầu rầu thật tội nghiệp: "Thôi, thôi, tại tôi, tại tôi... Tại cả cái chất màu da cam..." Giọng gã
nhỏ dần, nhỏ dần như bị nghẹn tắc trong cần cổ. Mụ im bặt, mắt bỗng nhòe nhoẹt ứa ra những giọt chát đắng xót xa...
Ngày mới về mất sức, gã thường ăn mặc tề chỉnh. Một hôm qua nhà bạn chơi, gã phát hiện có một bé gái bị rớt xuống kênh khi đang leo cầu khỉ. Gã vừa hô hoán vừa lao xuống dòng lũ xiết. Gã chồi lên hụp xuống quần thảo dọc ngang kiếm tìm mà chẳng thấy bé đâu. Khoảng hai mươi phút sau, gã cùng với một số người mới mò thấy bé. Mặt gã nhợt nhạt như tàu chuối non. Gã quáng quàng dốc ngược bé trên vai chạy tâng tâng quanh xóm. Song mọi cố gắng và
phương cách cứu chữa của gã và mọi người đều vô hiệu. Bỗng nhiên gã lột quần áo, chỉ còn độc cái quần xà lỏn. Chân dẫm đạp thục mạng lên bộ sơ vin, gã la lối om xòm có vẻ thê thảm: "Tại mày, tại mày, như cột chân trói tay ông lại. Làm ông vướng víu không kịp cứu được con bé. Quần ơi là quần! Ông căm thù mày, ông nguyền rủa mày. Vì mày mà con bé phải chết". Mọi người đang ngơ ngác, chưa hiểu ra sao. Thì bất ngờ gã quẳng bộ quần áo xuống dòng nước xiết, như một động thái tiễn biệt bộ áo quần không nuối tiếc.
Về nhà gã phát sốt phát rét, rên ư ử... ư ử... Mấy ngày gã không ăn, đêm đêm mộng mị lảm nhảm luôn miệng: "Tại mày, tại mày... mà con bé phải chết oan". Mụ vợ hoảng quá, tưởng bị ma nhập, vội sắm lễ ra miễu ra chùa cạy nhờ
bàn tay của thánh thần cứu giúp! Cả tháng gã không ra khỏi nhà. Cái chết của đứa bé ám ảnh ư? Không! Chính bộ
quần áo ám ảnh gã. ám ảnh tới mức, chỉ cần trông thấy bộ đồ dài trong nhà là gã đã muốn băm vằm ra từng mảnh. Có
lẽ từ đấy mà gã luôn ở trần. Đơn giản thế sao? Hay còn uẩn khúc nào khác. Thiệt tình chính gã cũng không ý thức được.
Dần dà nỗi ám ảnh rồi cũng qua đi. Chỉ phải cái từ đó gã "nhiễm bệnh" ở trần. Vợ khuyên mấy cũng mặc. Thôi thì thế
cũng còn may, không phát rồ là phúc rồi! Vợ gã bô bô bảo vậy. Đúng là chưa đến nỗi phát rồ, song những ai chưa hiểu về gã lại luôn nghi ngờ về điều đó. Chẳng là trong ấp ngoài thôn, hễ nghe đâu có tang lễ, bất kể thân sơ, gã đều có mặt. Đã thành thói quen nên không ai cấm cản. Chẳng lẽ cấm cả người đến chia buồn với tang gia? Đôi khi tang gia bối rối còn nhờ gã việc này việc nọ, gã đều làm đến nơi đến chốn. Có người chọc ghẹo gã, miệng gã
oang oang: "Nghĩa tử là nghĩa tận, tôi phải tiễn đưa họ chớ, để phù hộ cho tôi được sống lâu. Các người không muốn sống thêm sao?". Thấy mọi người bụm miệng cười, gã điên tiết vơ đũa cả
nắm: "Đ. mẹ nó chớ! Đời bạc như chó, như mèo. Đời thuở nào chúng nó tiễn người ta xuống mồ chỉ bằng những cục đất, nắm cát thôi ư? Thử hỏi xuống đó họ ăn bằng gì, họ ở bằng gì, họ mặc bằng gì... bạc quá, bạc quá. Bạc cả với kẻ
đã chết...". Mọi người nghe im thin thít, bởi gã chửi cũng có lý đấy chứ. Của đáng tội, nhà
gã nghèo, ai cũng biết. Nhưng được cái, mỗi một đám tang, trước khi lấp huyệt, ai bỏ gì xuống huyệt, mặc, gã không cần biết. Riêng gã, không bao giờ gã bỏ đất hay cát xuống huyệt cả. Gã bảo làm vậy là kẻ keo kiệt, là kẻ vô học, là kẻ... Bởi vậy mỗi khi có người xấu số, gã bỏ xuống huyệt cho họ khi thì bọc trái cây, khi thì chai rượu đế, lúc lại thả xuống dăm mười ngàn bạc lẻ... gọi là
chút quà tiễn đưa người xuống cõi âm. Đoạn, gã đứng như trời trồng bên huyệt, miệng lẩm nhẩm như
người phải gió. Chẳng ai biết gã nói gì với người xấu số. Chỉ thấy khi khấn xong, gã ngửa hai mặt lên trời gật gật ba lần, cúi mặt xuống đất lắc lắc ba cái. Xong, mắt gã nhòe nhoẹt rồi quay gót về thẳng. Người ta đồn rằng gã biết trò
chuyện với người dưới cõi âm. Khiếp! Nghe mà sởn cả tóc gáy. Nhưng tôi biết, gã rất hiền. Tuy gã làm những chuyện ngược đời, trái khoáy, nhưng xem ra đều có lý, có tình với người sống lẫn người chết đó sao!
* *
Mấy năm nay gã ra khỏi nhà ít hơn, ít lang thang hơn. Sức khỏe gã giảm sút trông thấy, những be sườn nổi như sóng lượn. Nước da tai tái, hốc mắt hốc má hõm sâu bởi bàn tay nắn nót vụng về của mụ thời gian đỏng đảnh. Chính vì thế
gã năng sang nhà tôi chơi hơn. Quanh bàn trà gã thường là tâm điểm của mọi chuyện vui buồn, tếu táo. Có bữa đang trò chuyện, tôi hỏi vui: Độ này trông Phẹo kinh bỏ mẹ! Bộ khung phơi ra chẳng khác gì hình nhân. Gã gục gặc cái đầu: Kinh là thế nào. Các ông thử đánh trần như tôi xem? Người ta có mà chạy sạch, chẳng ai dám ngồi uống trà với các ông đâu. Các ông cứ tưởng mình đẹp lắm đấy hử! Chỉ mẽ bề ngoài thôi. Trong! Thúi, thúi lắm!... Mọi người chỉ cười, tôi nhẹ
nhàng hỏi: Này tớ hỏi thật nhá, cậu mặc cái quần xà lỏn trông bay bướm thế nào ấy. Lột phắt đi cho nó mát mẻ
toàn phần... Uống hết ly trà đặc quánh, gã cầm ly gõ gõ xuống bàn, giọng lý sự chua chát: Đúng là cái quần xà lỏn chỉ
lớn hơn hai bàn tay úp. Nó dơ dáy, hôi hám, bẩn thỉu đến phát tởm. Nhưng mấy ông biết không? Nó lại là cái quý giá
nhất trong tất cả các thứ đồ mà người ta khoác lên người đấy. Các ông xúi tôi làm bậy hử. Cái xà lỏn là ranh giới cuối cùng và mỏng manh nhất giữa người và vật đấy! Các ông có hiểu không?
Tôi giật mình. Bái phục, bái phục! Nghĩ được thế ai dám bảo dở hơi?
Nhìn gã lòng tôi bỗng rưng rưng xa xót. Tôi thoáng nghĩ vu vơ, lẩn thẩn: Giá như mai kia gã có mệnh hệ gì! Hẳn cái làng Long Tuyền quê tôi sẽ buồn biết bao!
Và có lẽ tôi là người buồn nhất./.
(Tạp chí Nhà văn)
Người đàn ông sau cánh cửa xanh
Vì sự hèn hạ của chính mình mà tôi khóc
Mỗi khi đám hàng xóm rách chuyện của tôi, với một khoái cảm kỳ lạ của đàn ông thành thị, vừa rung đùi vừa giễu Trí là
dở hơi, thông thái rởm hay ếch ngồi đáy giếng, còn Trí thì ngước nhìn tôi như kẻ đồng minh cuối cùng, tôi lại cảm thấy tội tội. Nhưng dù có muốn tôi cũng không biết phải bênh vực Trí thế
nào. Trí óc tôi ngắn, nó phản bội tôi, tôi lại phản bội Trí.
Đám đàn ông trong xóm gồm có tôi, Hùng "thịt lợn" làm nghề mổ lợn, Hải Kều bộ đội về
hưu nay gác cổng nhà tang lễ, Ba Trạc cũng bộ đội về hưu nay làm đồ sắt, Thái "lốp" buôn lốp, Đông "Gioăng" không ai biết làm gì và cậu Biền trượt đại học giờ làm nghề thợ mộc. Sang nhất là Hùng, mạnh mồm nhất cũng là Hùng. Câu cửa miệng của anh ta là: "Này ông Trí ạ. Ông nên bán quách cái đống giấy lộn đi cho đỡ chuột. Ông mà nghiên cứu được thì có mà..."
Có mà thế nào, họ không nói ra, nhưng Trí cứng họng.
Nói vậy chứ anh em trong xóm cũng quý nhau. Miệng xà tâm phật, tiền bạc chẳng có cho nhau nhưng được cái thật lòng.
Một hôm, Trí mời tôi đến nhà, cho tôi xem giá sách. Toàn những quyển sách dày như cục gạch, cả mới lẫn cũ.
- Tác phẩm của tôi đấy - Trí nói, tôi nghe giọng Trí có phần cay đắng. Tôi choáng người. Những quyển sách này, thực tình, chỉ một quyển cả đời tôi cũng không đọc hết. Nhưng khi nghe tôi thuật lại, mấy ông hàng xóm gạt đi: "Ui dào, thời buổi này, có tiền là
in được tất. Gì mà chả in được. Ông có tác phẩm nhớn nào đưa đây, tôi in cho, còn dày bằng mấy ấy chứ!". Đến lượt tôi cứng họng. Những chuyện xảy ra với Trí, tôi chẳng biết nói thế nào. Tôi nhớ, một lần cả xóm tụ tập nhân dịp Hùng "Thịt lợn" mua được chiếc T.V Liên Xô vỏ đỏ. Trí góp lời:
- Trên thế giới bây giờ người ta phần lớn dùng T.V màu, thậm chí có điều khiển từ xa, chứ
không còn phải bấm tay như
thế này nữa rồi các bác ạ.
Chủ nhà cụt hứng, đốp ngay:
- Vâng nhà em "nạc hậu", chỉ dùng đồ thải, đâu dám dùng đồ hiện đại cho hại điện!
Đám Hải Kều, Ba Trạc, Đông "Gioăng", Thái "lốp" cũng ùa vào:
- Đời thủa nhà ai T.V, lại không cần nút bấm. Thế thì điều chỉnh làm sao?
- Em cũng chưa nghe ai nói - Đông "Gioăng" có vẻ tư lự.
Cậu Biền thợ mộc nháy nháy mắt làm ra vẻ trịnh trọng:
- Có chứ. Chắc là nhà bác Trí có nhân điện!
Không thể địch với chừng ấy cái mồm, Trí lắc đầu, nhìn tôi cầu cứu, nhưng tôi cúi đầu, giả
vờ không để ý. Một buổi tối, cũng vào lúc cả xóm tụ tập vì chuyện gì chẳng rõ, Thái "lốp" mang đâu về một tờ Hà Nội Mới, đọc oang oang.
- Thấy chưa, tôi đã nói là có loại T.V. điều khiển từ xa, vậy mà ông Trí cứ khăng khăng là
không.
- Đấy, ông Trí nhé, có phải cứ chúi mũi vào đống sách vở là được đâu!
- Tôi khuyên ông nhé, cứ bán quách cái đống giấy lộn của ông đi cho đỡ chuột, mà cô ấy lại được vài buổi đi chợ. Trí định phản bác lại nhưng Hải Kều, Ba Trạc, Đông "Gioăng", Hùng "Thịt lợn" và cậu Biền đều cười ồ lên vui vẻ:
- Thôi bác ạ, chính bác nhớ nhầm. Chúng tôi đã bảo bác là Tây nó giỏi lắm, nó làm cả T.V
điều khiển từ xa, nhưng bác không chịu tin. Chẳng lẽ chừng này con người lại đổ thừa cho bác!
Tôi vô cùng hoang mang. Trong cái trí nhớ mù mịt của mình, tôi nhớ hình như Trí là người nói đúng. Nhưng suy nghĩ một lát, tôi lại có cảm giác ngược lại: "ừ, chẳng nhẽ chừng ấy con người đều nhớ nhầm?" Thế là tôi đánh trống lảng:
- Thôi, thôi, có gì quan trọng đâu mà các bác!
Những chuyện như thế xảy ra rất nhiều lần, khi thì với chuyện đi giày (Trí nói đi giày là
nóng hay không nóng?), khi thì
với chuyện mì chính (Trí nói ăn mì chính có hại hay không có hại?), và thậm chí cả chuyện tránh thai, đẻ đái (Trí nói thắt ống dẫn tinh sau này nối lại được hay không nối lại được?), khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Linh cảm mách bảo tôi rằng con người đọc chừng ấy quyển sách chắc phải là
người hiểu biết, nhưng mặt khác tôi lại tin vào đa số. Nhiều cái đầu phải hơn một cái đầu chứ. Thiểu số phục tùng đa số, chẳng phải chúng ta đều được học như thế đó hay sao? Thế là
tôi nảy ra ý định kiểm tra.
ở đời, anh cứ cần cái gì thì y như rằng chẳng thấy nó đâu. Bát phở chẳng hạn. ở cái đất Hà
Nội này nhìn đâu chả thấy hàng phở. Thế mà cứ lúc nào anh định ăn phở là đi rạc cẳng chẳng thấy một hàng! Cái ý định kiểm tra của tôi cũng vậy. Chờ mãi mà chẳng có dịp nào. Đầu những năm Tám mươi của thế kỷ trước, loại xe Cúp màu ốc bươu được dân buôn theo tàu Vốt cô đem về Việt Nam. Đèn tròn long lanh, đạp phát nào ăn phát ấy, chạy từ Hà Nội xuống Hải Phòng chưa hết hai lít, ngay lập tức nó
đánh bạt anh Mô kích vè vè của đám lưu học sinh Đông Đức. Hết tối này đến tối khác cả
xóm ngồi bàn về nó và bao giờ cái đề tài cũng chuyển sang sự ngợi ca người Nhật trước khi kết thúc bằng chuyện tiếu lâm.
- Mẹ kiếp, máy êm hơn máy đàn bà một con!
Với cánh đàn ông, dù là đàn ông trong cái ngõ tồi tàn của chúng tôi, chiếc xe màu ốc bươu ấy vẫn trở thành niềm mơ
ước cháy bỏng.
Thế nhưng Trí tương ngay một câu:
- Này, nhưng tôi thấy cái bình xăng hơi dở. Theo tôi, đáng lẽ họ phải biến cả phần dưới yên thành bình xăng, như thế
vừa chứa được nhiều xăng, vừa đẹp dáng. Chứ cái anh Cúp này, bình xăng đã bé lại thù lù
một cục, cộng thêm hai cái đèn xi nhan như hai nắm đấm, thô lắm. Như thường lệ, Trí chưa kịp dứt lời, những tiếng phản bác đã ồ lên:
- Cái gì, ông đùa đấy à? Đầu óc người Nhật chứ có phải cứt đâu!
Hải Kều nói, Ba Trạc nói, Đông "Gioăng" nói, Thái "lốp" nói, Hùng và cậu Biền cũng nói. Riêng tôi không nói. Tôi mừng như bắt được vàng. "Bình xăng dưới yên, bình xăng dưới yên" - tôi nhủ thầm trong bụng - "Trí nói bình xăng dưới yên. Lần này mình phải ghi nhớ thật kỹ". Lần này tôi sẽ không ba phải nữa. Lần này tôi sẽ đóng vai trò phân xử đúng sai. Cả Trí lẫn đám đàn ông trong xóm đều không hề biết kế hoạch của tôi. Sau đó còn nhiều cuộc tranh cãi khác, nhưng tôi kiên quyết không chú ý đến nữa. Tôi biết mình đầu óc ngắn, không thể
nhớ nhiều. Tập trung vào câu nói của Trí đã đủ mệt rồi.
Nhà Trí ở đầu ngõ, hôm nào đi làm về tôi cũng đạp xe chậm lại, ngoái nhìn cái cửa gỗ sơn xanh đã bạc phếch của anh và đọc thầm trong bụng: "Bình xăng ở dưới yên. Trí nói bình xăng ở
dưới yên". Có những hôm Trí đang làm gì đó trong nhà, trông thấy tôi, anh đẩy cửa ra:
- Có gì mà tươi thế!
- Tươi chứ, tươi chứ! - Tôi nói lấp lửng, vừa buồn cười vừa cảm thấy thú vị với cái bí mật nhỏ nhỏ của mình. Và tôi còn nghĩ thầm "Tôi đang bảo vệ ông đây, ông có biết không!"
Câu chuyện kết thúc một cách ngớ ngẩn, sau đó khoảng ba năm.
Cuối những năm 1980, những chiếc Su 100 đầu tiên xuất hiện và tiếp theo là loại Rim hai đầy kiêu hãnh. Lại Hùng, anh hàng thịt tốt số, dắt về con Rim đầu tiên của xóm. So với nó, cái anh Cúp ngày xưa mới thảm hại làm sao!
Đám đàn ông lại có cớ tụ tập. Khi tiệc rượu đang tràn cung mây, Trí đứng lên nói với một giọng nhỏ nhẹ, đầy tự tin. Anh vẫn chưa quên cuộc tranh cãi.
- Các ông thấy chưa, mấy năm trước tôi đã nói rằng phải làm bình xăng chạy dài suốt yên xe, đúng không.
- Cái gì, ông nói thế nào ấy chứ. Chính chúng tôi, chính mồm tôi đây này, tôi nói rằng thế
nào người Nhật họ cũng cải tiến nữa, năm nào họ cũng cải tiến, họ sẽ biến toàn bộ phần dưới yên thành bình xăng, vừa chứa được nhiều xăng vừa đẹp dáng. Mà họ chẳng chịu dừng ở đấy đâu, họ
còn cải tiến nữa! Còn ông thì cứ khăng khăng là con Cúp đã
đẹp lắm rồi, sửa thế nào được. Có anh em đây làm chứng.
Đông "Gioăng" hùa theo:
- Tôi còn nhớ khi đó tôi nói sẵng với ông, rằng đầu óc người Nhật có phải cứt đâu! Ông nhớ
không? Thế nào ông Ban? Sao ông toàn chơi cái kiểu ngậm miệng ăn tiền thế là thế nào?
- Tôi nhớ, tôi nhớ. Ông Trí ông ấy nói rằng bình xăng ở dưới yên...
- Con khỉ! Thì ai bảo bình xăng ở trên yên! - Hùng "Thịt lợn" mở khoá đánh tách rồi ngửa cái yên xe còn bọc nguyên ni lông - Bình xăng chẳng ở dưới yên thì ở dưới cái rốn mẹ thằng ăn mày à! Nói thế mà cũng nói!
Tôi đắng cả miệng, chẳng biết nói sao.
Cũng may, Đông "Gioăng" đã sốt ruột:
- Thằng Hùng đúng. Thằng nào có xe, có rượu, thằng ấy nói đúng, xong chưa!
- Đúng! - Tất cả đồng thanh.
Hải "Kều" vuốt ve cái mặt đồng hồ, xuýt xoa:
- Đã quá các bố ạ. Bố Hùng là nhất đấy!
- Nào cạn chén. Trăm phần trăm nhé! - Tất cả đều hồ hởi.
Tôi cũng cạn chén và tặc lưỡi.
Chiều hôm sau, đi làm về, tôi lại nhìn thấy Trí đứng sau cái cánh cửa gỗ sơn xanh đã bạc phếch của anh nhưng giả vờ
không biết.
- Thôi, kệ xác. ừ, chẳng lẽ chừng ấy cái đầu đều nhầm cả...
(Báo Văn Nghệ)
Giữa hai bờ xôi mật
Nhà văn N.K, người Hiệp đã yêu quý từ lâu, gửi thư mãi Thành phố Hồ Chí Minh ra: "Sắp tới mình ra Hà Nội họp, muốn tới chỗ ông chơi. Ông tìm cho mình gặp mấy nhà doanh nghiệp ăn nên làm ra. Mình muốn hỏi chuyện thẳng họ, biết đâu có thể viết về họ". Hiệp cười. Tưởng gì, muốn gặp mấy "nhà tỷ phú" thời mới nào có khó. Vùng này mấy năm nay nhan nhản các ông chủ, bà chủ đứng đầu hàng tỉnh, có vị vươn sang địa phương bạn, có vị mò
mẫm tung hàng tận châu Mỹ, châu Âu. Hiệp vội vã viết thư mời nhà văn. Kể ông này cũng nhiễu sự. Dễ trong đó không còn ai chắc? Nhưng để thay đổi chỗ ở, thay đổi con người, hẳn cảm xúc cũng dễ đến hơn. Cũ người thì mới ta!
Hiệp bị viêm khớp, phải đi bệnh viện Trung ương. Người lái chiếc xe con là bạn con rể
Hiệp, hai đứa cùng học phổ
thông, cùng vào đại học, giờ mỗi đứa mỗi nghề. Nghe tin bố bạn ốm nặng, cậu chàng đánh hẳn chiếc xe mới tinh về
đón: "Thưa bố, bố phải đi xe này mới đảm bảo bệnh tình. Con sẽ lái chậm, tránh mọi ổ gà, đưa bố đến phòng khám trước giờ làm việc". Chàng ta nói liến thoắng, rồi cười phá, sợi tóc hớt cua rung rung trên đầu, che đi bộ mặt gầy gò
xương xẩu. Hiệp cười nụ. Đúng giọng anh chàng "xế". Chuyện nổ ngô rang, từ lúc lên xe đến dọc đường dài. Như lâu lắm mới gặp lại. Như lạc nhau mấy mươi năm, nay được dịp hàn huyên. Cậu con rể Hiệp cũng ồn ào chuyện. Xem chừng hai ông bạn này khó dứt nổi tâm sự.
- Này anh, ta giới thiệu tên tuổi nhau đi chứ?
- Xin vâng. - Anh chàng vòng vội tay lái tránh một vũng nước. - Con tên Luân, Nguyễn Kim Luân. Ông thì con rõ từ rất lâu, khỏi phải nói thêm. Dạo này ông nghỉ hưu hay còn làm việc?
- Tôi hưu dăm năm nay rồi. Cái bệnh khớp quái ác, nó sưng tấy đầu gối, sưng tấy mắt cá
chân, đau buốt đêm ngày, không đi lại được. Lắm lúc đau quá, ôm chân trên giường, đầu óc tỉnh queo muốn chết lắm!
- ấy chớ, bố không được quyền nghĩ thế. Bố phải sống vài chục năm nữa cho chúng con nhờ.
- Tôi còn làm được việc gì, các anh bảo nhờ. Bận chân các anh thì có. Đúng đau gì khổ nấy. Các anh đau khớp đâu mà biết.
- Chúng con chưa đau khớp nhưng đau thứ khác, thưa bố đau tiền. Suốt ngày con chỉ quẩn quanh mỗi chữ tiền. Ngày nào không kiếm được mươi, mười lăm triệu là bồn chồn, tất cả sẽ treo niêu.
- Anh lái xe này, kiếm sao nổi số tiền to ấy? Chả nhẽ buôn đô-la, buôn vàng?
Chàng Luân tủm tỉm cười, tiếp tục tăng ga. Chiếc xe lướt nhẹ, mặt đường nhựa. Cậu con rể
Hiệp vội đỡ lời bạn:
- Thưa bố, con quên giới thiệu. Cậu Luân đây là giám đốc một Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng công nghiệp lớn. Chiếc xe này là chiếc thứ năm cậu ấy mua và tự lái lấy. Đơn vị cậu ấy đóng giữa thủ đô, có bốn ngôi nhà cao tầng, trong tay vốn lưu động cũng vài chục tỷ. Hiệp giật mình. Anh chàng này là một giám đốc, lại giám đốc tấm món? Ông đảo mắt nhìn Luân lần nữa, xem cung cách anh chàng đúng mác ấy không? Ông lặng người, ít chuyện. Ông ngượng. Xưa nay ông vẫn nghĩ, giám đốc một doanh nghiệp phải anh chàng cỡ khác. Ông đã viết một truyện, anh chàng giám đốc của ông là một cán bộ trung lưu, đến đâu cũng com lê cà vạt, cũng bụng phệ lặc lè, cũng đèo thêm cô thư ký trẻ. Bao nhiêu chuyện xảy ra cũng từ cô
thư ký này. Những chữ ký khống lấy trộm vật tư, những chữ ký rút tiền ngân hàng chia nhau, những chữ ký kèm theo những chiếc hôn. Bà vợ ông ta mò mẫm tìm ra khách sạn ông trú. Bà
bắt quả tang chồng cùng "con đĩ" ngay trên giường. Ông viết và được đăng trang nhất một tờ văn nghệ. Con rể ông đọc, nó vốn giáo viên chịu khó đọc văn chương, rụt rè: "Bố viết thế này, mấy ông giám đốc đọc được chỉ thiếu nước độn thổ. Hình như, con nói hình như thôi, các cây bút bây giờ
thành kiến nặng với mấy nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Trang viết rứa, điện ảnh rứa, sân khấu cũng rứa. Thấy mặt họ xuất hiện thì y như tiêu tiền chùa như xé vải, là thêm cô thư ký trẻ khuynh đảo, là
mắt la mày lém. Chẳng rõ họ đang làm ăn những gì ngoài chuyện chơi bời, tiệc tùng xả láng, bồ
bịch lăng nhăng, bỏ bễ gia đình vợ
con". Ông Hiệp tự ái: "Dễ tôi viết không đúng. Anh thử lượn ngoài phố, đến các khách sạn, các tiệm ăn, các khu vui vầy xem. Những người bình dân, thu nhập thấp như cánh tôi, cả đời sống không thể bén mảng tới. Họ uống rượu ngoại như uống nước lã, một chai John Walker cũng triệu trên triệu dưới. Mấy con nhóc tháp tùng thì ỏn ẻn ngồi đứng, ngứa cả mắt. Đạo đức xem chừng đang đảo điên, lộn tùng phèo hết". Cậu con rể nhìn bố vợ, chống chế: "Con đâu nói bố viết sai. Con muốn nói bố viết chưa đầy đủ. Bố hãy tới mấy vị trời phú nọ xem tận mắt cung cách họ làm lụng lẫn thực sống. Nếu vị nào cũng na ná như các bố viết thì đất nước mình chỉ một nước chết. Đồng tiền lúc này làm ra đâu dễ, đổ mồ hôi lẫn sôi nước mắt, còn đổ cả máu nữa". Ông Hiệp lim dim mắt. Chiếc xe bon khá nhẹ mà các gối khớp vẫn cọ nhau đau nhói. Luân vẫn nhịp nhàng vòng lái, đường cái năm nay hầu như bê tông hoá, xe băng vài chục cây số
giờ nhẹ như không. Hai bên đường dày kín nhà mới cất hoặc đang xây dở, ngổn ngang gạch đá vôi vữa. Đất nước vào công nghiệp hoá, tiến độ xây dựng ồ ạt nom nhỡn tiền. Trên đỉnh một nhà
đang cất nóc, mấy cô gái chuyền các xô
vữa nói cười thật sự vui vẻ tươi tắn.
- Này, anh Luân ạ, anh đọc báo có rõ cụm chung cư nhà Thanh Xuân bị rút bớt mấy chục cột thép. Chúng thật gan, giám sát và thi công thông đồng nhau. Chúng bít kín các lỗ bê tông giữa các cột, cốt, tránh bên chủ kiểm tra.
- Dạ, con đọc rồi. Bởi thế hơn chục đứa phải vào nhà pha bóc lịch. Bởi thế những nhà chung cư khác mang vạ, xây xong không có người hỏi mua, đành im ỉm khoá. Người mua mặc cả liệu phòng ở trụ nổi năm mươi năm không. Người bán tắc cổ, không thể trả lời. Trong kéo ra, ngoài đẩy vào, đầu Ngô mình Sở, chẳng còn ra sao.
- Theo anh, phải vì mất đoàn kết, chia chác không công minh nên tố nhau, chuyện vỡ lở ra?
- Cũng một phần. Cái này bên công an họ biết kỹ, họ tung trinh sát ngay từ ngày đầu xây dựng. Nhưng theo con, đây còn là miếng đòn hiểm với người lãnh đạo cao hơn. Chính con cự lại đồng chí phụ trách. Đồng chí ấy bảo: "Công trình này là chủ trương của cấp uỷ dành cho người có
thu nhập thấp, các cơ sở phải đúng lịch xây dựng". Con nói: "Công trình xây xong, địa phương cất cho ai ở là quyền địa phương. Riêng quỹ vốn mới đáng phải nói. Không thể vì cái mác dành cho hộ
thu nhập thấp mà rút bớt tiền các hạng mục. Nhà ở lâu dài, phải đâu cái lều cái quán mà bảo cất thế
nào cũng xong".
- Theo anh, không thể có ăn cắp vật tư trong chuyện này?
- Có chứ, vậy mới phải tù, mới treo niêu. Trong xây dựng không có chuyện làm nhà chỉ
dành riêng người thu nhập thấp. Tất cả đều phải đúng quy trình kỹ thuật, đúng đồng tiền bỏ ra. Phân phối tất khác. Chiểu theo chính sách, hộ
nghèo không đủ tiền mua thì chính quyền sẽ cân đối ngân quỹ bù trừ.
- Công ty anh hiện đang có bao nhiêu người?
Cậu con rể Hiệp nhanh nhảu:
- Công ty Luân là một công ty lớn, làm ăn hợp đồng với cả nước. Bộ phận kỹ thuật gồm hai lăm kỹ sư và kiến trúc sư, phần lớn thạo nghề. Thợ sản xuất gồm năm trăm người. Luân đảo tay lái, giòn giã tiếp:
- Học xong đại học, con vào làm Nhà nước dăm năm. Dọc đường công tác, thấy bao nhiêu bất hợp lý không chịu được, con xin nghỉ việc. Mình vốn người làm lụng, chân tay thừa thãi thì
không yên, cô vợ lại mặt mũi xưng xỉa cằn nhằn, con liền bổ đi làm tư. Con chạy tiền, chạy giấy tờ
xin lập công ty. Mình mình bươn chải, đánh đông dẹp bắc, gây dựng dần mới được như ngày nay.
- "Ngày nay" gồm những nghĩa gì"?
Cậu con rể lại xắng xở:
- Nghĩa là Hà Nội có bốn ngôi nhà cao tầng dành cho sản xuất. Hải Dương, Hải Phòng đảm đương mấy chung cư. Quảng Ninh xây xong khu nuôi hải sản Bãi Cháy và khu cảng lẻ Cái Lân. Đà
Nẵng bắt tay xây khu du lịch sông Hàn. Cả
Đà Lạt, cả Thành phố Hồ Chí Minh...
- Thưa bố, con suốt ngày xa vợ con, suốt ngày quần với chiếc xe độc diễn này. Giao dịch cũng nó, chỉ huy cũng nó, thậm chí ăn chơi cũng nó. Mồ hôi mồ kê lúc nào cũng đẫm lưng. Bố tin không, con vừa vào thăm một anh bạn tù, thằng này mải vui ở đất nước người mất tăm nửa tháng trời, về nước bị thằng phó xốc cho một đòn nốc ao. Con hỏi nó cung cách gây dựng đơn vị, nó bảo:
"Dùng đứa có tài thì tốt, nhưng phải nhớ đứa có tài lại phải có tâm, cái tâm suốt đời máu thịt với nghề nghiệp. Hãy xem chung quanh mình đứa tài nhan nhản, nhưng tâm dạ thì nhạt nhoét, chúng làm việc như cái máy, đứa nào chỉ biết đứa ấy". Công ty con đang vào vòng làm ăn. Từ cái khâu tuyển người, con em bạn thân, con em con ông cháu cha vẫn nhận, nhưng nếu thử vài lần không nổi thì chuyển ngay lao động khác. Lao động chân tay cũng phải sớm thạo nghề, không dễ lơ mơ. Trong một công ty không thể còn kiểu người làm giả ăn thật, bỏ phứa từng công đoạn quy trình. Kìa, chỗ đầu cầu kia có một quán nước. Ta nghỉ mươi phút làm một hụm trà nhỉ? Con giờ hư đốn, sáng không ăn cũng xong nhưng không thể bỏ trà. Cái giống trà chỉ uống buổi sáng là sướng nhất, thú vị nhất. Xe dừng, cô chủ quán trẻ măng đon đả mời khác. Hiệp ngỡ ngàng trước cảnh tượng đổi mới. Ngày nào qua đây còn phải sang phà, nạn chờ phả khổ quá đi đầy, phà chở ba bốn xe, dòng xe chờ dài hàng cây số. Con sông vẫn nhỏ như
xưa, cây cầu đồ sộ bắc ngang nên sông càng như nhỏ hơn. Năm ba con đò bé bỏng lững thững cập bờ, chở người sang phố đi chợ quang gánh lổng chổng. Hiệp đảo mắt dọc cầu. Sớm, xe qua lại ít, cầu khá quang quẻ sạch sẽ. Dễ
mấy năm ông mới đảo tới đây, trước có việc đi Hà Nội ông thường tắt đường khác, xa nhưng khỏi cảnh đợi phà đò. Anh chàng Luân và cậu con rể vồn vã rót nước trà ra chén. Nom mã
chúng thao tác, biết chẳng đứa nào chơi nghiện, không có dáng khoan thai của người ẩm trà sành điệu. Luân cung kính dâng ông chén trà bốc khói, miệng không ngớt động viên: "Ông khỏi lo nhỡ
giờ. Con đã bấm rồi, kịp về Hà Nội ta làm bát phở Thìn. Riêng món phở thì thủ đô mình đặc sản. Không chỉ phở Thìn Bờ Hồ. Mà còn phở Bát Đàn, phở Ngô Quyền, phở Lý Quốc Sư... Con sẽ dẫn bố đến nơi nào bố thích. Nghe nói hồi chống Mỹ, bố suýt ăn bom tại bến phà này?". Ông Hiệp khẽ
gật đầu. Cái hồi ấy xa lắc xa lơ, gần bốn chục năm rồi. Ông qua dây, một tràng bom xé rát tai nổ
ngay đầu bến. May, ông chỉ bị đất bờ sông vùi, khi tỉnh lại thấy mình nằm trong bệnh viện dã chiến sơ tán đầu núi. Trong cái rủi hái được cái may. Tại đây ông gặp một cô nhân viên y tế. Cô này nền nã, chịu thương chịu khó chăm nom ông. Hai người yêu nhau, cưới nhau, sinh được cô con gái lớn. Vợ của anh chàng giáo viên văn đang xì xoạp uống trà cùng anh bạn Luân kia. Chóng quá!
Xe tiếp tục lên đường. Cây cầu rộng mượt, nhanh chóng lùi xa. Luân vi vu huýt sáo miệng, nom bề ngoài không thể
đoán anh chàng đang ấp ủ nhiều mưu tính. Con chim lông đen kít đậu dọc đường, hốt hoảng tránh xe, bay vội lên cao.
- Ngày hôm nay, anh định làm những gì? - Hiệp hỏi tò mò thêm. Luân thản nhiên:
- Đưa bố vào bệnh viên xong, con xin phép quay ngay về tỉnh lúa dưới kia. Trưa nay con phải họp với các cơ quan đương chức để ký biên bản quyết định. Này cậu - Luân ngoái sang phía con rể Hiệp - còn nhớ thằng Quân không? Cái thằng học cùng cánh ta, giờ làm phó cho công ty mình. Phân công hắn điều hành một hạng mục lớn, ký với bên Nam Dương. Hắn diễn ra cái trò y bên Thanh Xuân, rút bớt các cột cốt thép, ăn trộm vật tư. Trưa nay sẽ chính thức kết luận và mình sẽ thay mặt công ty ký vào.
Con rể Hiệp kêu to sau xe:
- Thằng cha sao quá liều? Nó không nghĩ đến hậu quả công trình, không nghĩ cái ngày phải đút tay vào còng số tám?
- Nghĩ chứ, nhưng đồng tiền bẩn thỉu thúc lưng nó. Nó đang bị tạm giam chờ xét xử. Ông ơi, thằng Quân này thực sự
một thằng tài năng. Con tuyển nó không chỉ bạn, còn bởi cái tài của riêng nó. Đọc bản thiết kế nó thảo, nhận ra ngay sở ngón một kỹ thuật viên chuyên nghiệp, rành mạch, đâu đấy, không chê
được từ chi tiết nhỏ. Giữa kiến thức nhà
trường, với thực tế thi công cách nhau thật xa. Nhà trường chỉ dạy ta kiến thức chung nhất, nhưng cũng cũ nhất. Còn thực tế cuộc sống mài rũa ta hiểu biết mọi chuyện cụ thể và luôn mới mẻ. Con đọc mẫu thiết kế Quân gửi, bụng bảo dạ thằng này được, nó không sách vở, nó đầy sáng tạo. Được nó cộng tác thì công ty ắt vào cầu, việc tất nở rộ.
- Vậy mà..., ông Hiệp toan nói hết ý nhưng vội ngừng. Ông muốn nghe Luân thổ lộ. Luân thở dài:
- Con người ta chẳng biết đến đâu là dừng. Quân cũng rứa. Công ty Nam Dương là một đơn vị hùng mạnh. Bọn con cậy cục mãi mới thầu phụ được mấy công trình trọng tâm. Quân phụ trách điều hành một hạng mục. Nó chỉ huy đêm ngày tại chỗ. Tưởng yên, đâu ngờ nó loạn, xén đứt mất bốn cột thép. Công an người ta thoại tới con. Họ mời trưa nay giám đốc về Nam Dương nghe kết luận điều tra.
- Trời đất, sao anh không bảo trước, lại bận tâm về bệnh tật lão già này?
- Chuyện nhỏ. Đưa bố đi viện cũng là một việc trong ngày. Bố khỏi nghĩ ngợi. Chúng con phận làm con, hiếu thảo với bố mẹ lúc nào, tốt cho chúng con lúc ấy. Bởi chúng con rất bận. Mà bố
mẹ mỗi tuổi mỗi già, người già như chuối chín cây, nay còn, mai rụng. Vợ bỏ, vợ mất có thể còn kiếm vợ khác. Bố mẹ không may lâm nạn, hỏi tìm đâu bố mẹ trở lại?
Hiệp nghếch tai, bắt đầu chú ý những lời Luân. Càng nói càng nhận ra sức nghĩ, sức làm của chàng ta. Nó đánh bật hình bóng người giám đốc xưa cũ trong đầu óc ông lâu này. Nó lay động những ý nghĩ trái chiều ông vẫn thường ấp ủ. Xem chừng Luân còn giấu nhiều tâm trạng trong cái vỏ xuềnh xoàng, ăn mặc giản dị, không chút cầu kỳ, thậm chí có
thể gọi buông tuồng. Anh chàng Quân nào đó đang lâm nạn tày trời. Anh ta đang trông chờ
vị thủ lĩnh cứu độ. Vị thủ lĩnh vẫn lặng lẽ xoay vòng vô lăng, vẫn thủ thỉ chuyện trò với ông bố bạn mình, vẫn coi cái việc đang xảy tới kia là tất yếu.
- Con không sốt ruột - Luân tiếp - chỉ tiếc một điều mình công phu rèn cặp mà vẫn tuột khỏi tay, kết quả của việc thiếu ý chí ở một con người. Bây giờ người học cao khá nhiều, nhưng người dốc tâm đeo đuổi cả đời vì sự nghiệp, mất ăn mất ngủ vì nó, coi sự nghiệp như một lẽ sống khắc khoải, hỏi được mấy. Nhà trường dạy dỗ nhưng chẳng nổi bao nhiêu, vốn dĩ lọt thỏm như muối bỏ
biển. Lại quá xưa cũ. Học trò ra trường thường ngơ ngơ ngác ngác trước những chuyện cuộc sống đầy rẫy phức tạp. Bình chân như vại, khỏi nói, đẻ ra một lớp người sáng cắp ô đi, tối cắp ô về. Thảng hoặc mới thật sự chạm trán vài vị tâm huyết nghiệp nghề, thiếu nghèo nhưng vẫn bám chặt với cái đích mình theo đuổi, càng gian nan càng sáng chói tấm gương. Nói vậy đúng không cậu?
Luân hất đầu phía cậu con rể Hiệp. Nghề nào cũng có thể gặp được số người dốc lòng như thế. Như
nghề dạy học của cậu, giữa khối đông đảo thầy giáo, cô giáo ngày ngày chỉ đứng lớp đúng giờ, chẳng hé chút nào sáng tạo thì riêng cậu vẫn lặng thầm vượt lên. Đâu phải thi đua. Đâu muốn chơi trội. Bởi từ đấy gói trọn niềm vui nỗi đau của chính cậu. Người tuy ở xa nhưng vẫn dõi mắt theo sát cậu. Nếu không, hẳn cậu không còn bạn mình. Nhiều đêm thao thức, mình vẫn thường cắn môi lẩm nhẩm. Trong khoảnh khắc ngỡ vô tận, cảm giác cô đơn mạnh mẽ ập tới, mình đang sống với ai đây, làm từng ấy việc liệu đã
mấy người cảm thấu? Nỗi cô đơn cứ đeo đẳng bám sát, đồng tiền thu về phỏng mấy ích, vợ
con đề huề đã hẳn mặn mòi hạnh phúc? Trên đời đầy nỗi quạnh hiu sẵn sàng ập tới mình ư?
Ông Hiệp cầm chiếc gậy chống đặt bên, nhìn nhanh Luân. Con người này đổi khác dần trong mắt ông. Đã lâu la gì, mới từ mờ sáng đến giờ, ông từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ
ý nghĩ này sang ý nghĩ khác.
- Trưa nay, anh phải xa bố con chúng tôi thật sao?
- Vâng, thưa bố, con sẽ phóng xe bảy tám chục cây số giờ. Con sẽ tới đúng hạn phía địa phương yêu cầu. Con không ký thì mọi tội lỗi Quân vẫn có thể mờ mờ tỏ tỏ. Con ký rồi, tất Quân sẽ
bị xử tội tù.
- Anh cũng nên nhớ Quân còn là bạn anh, cả một gia đình trông mong vào trí lực nó.
- Thế con mới phải ký. Con ký xong, nó chính thức thụ án thì con cũng chính thức cùng nó
ngồi tù. Người ta sẽ không tha con, bởi con là giám đốc, liên đới chịu trách nhiệm. Cái cơ ngơi con vun xới bao năm rồi sẽ theo nhau bay biến bởi tai hoạ này. Nhà cửa dễ bị niêm phong. Tài khoản ngân hàng sẽ bị khoá. Thiên hạ được một phen ồn ĩ chê bai, thêu dệt. Biết nói sao đây, mình làm mình chịu tiếng đời.
- Có nghĩa công ty anh chỉ tồn tại từ giờ đến trưa nay thôi? Hay anh quan trọng hoá vấn đề
để tôi hiểu rõ công việc anh hơn?
- Không, con nói đúng thế, bố khỏi lo. Rồi con sẽ có cách vực lại công ty. Cua máy cáy đào. Thiên hạ vốn nhiều quân tử sẵn sàng giơ tay cứu độ người bị nạn. Xe dừng cổng bệnh viên đúng chín giờ sáng. Luân dìu ông Hiệp vào tiền sảnh phòng khám, trong khi cậu con rể líu tíu lo phần nộp các thủ tục. Luân xin phép chia tay, nét mặt tươi tỉnh, không chút âu lo. Chiếc xe con nhả một đợt khói mỏng, vù phóng về phía cuối đường Giải Phóng, mất hút giữa khối đông người và xe qua lại. Ông Hiệp thẫn thờ nhớ anh chàng Luân. Bức thư nhà văn N.K
từ Thành phố Hồ Chí Minh chợt hiện về. Ra ông này chuyển hướng viết từ rất lâu, vươn xa trước nếp nghĩ ông đến gần chục năm, ông thì vẫn mò mẫm theo lối cũ. Mình lạc hậu thật rồi, ít ra cũng lạc hậu trước bạn bè đồng nghiệp. Cuộc sống thì vẫn đó, ồ ạt qua mặt, đông đúc và cuộn chảy như
dòng sông mùa này băng nước cuốn trôi, dòng sông quê ông, cũng của riêng Luân, của tất cả mọi người, giữa hai bờ xôi mật.
(Báo Văn Nghệ
Bà thánh của hai người
Dưới tàn cây Tầm Sét rực hoa vàng, anh Mọn dựa ngửa trong xích-lô thiu thiu ngủ vì ế
khách. Điếu thuốc cháy đỏ gần sát đến hai ngón tay thòng ra ngoài, tàn tro cong lại. Anh đã ngủ
say... Nửa buổi sáng mà ngủ, ông bà thường bảo, đó
là giấc ngủ của chó! Trong giấc ngủ của chó ấy, anh Mọn lơ mơ thấy mình bị xé ra từng mảnh, những mảnh ấy được nhuộm xanh, chụm lại thành cành lá của một cây có củ, lúc nào cũng vùi dưới đất. Cũng lúc này, xuất hiện một ông khách khoảng năm mươi, ăn mặc cẩu thả nhưng sang trọng, loạng choạng trên vỉa hè; ông dừng lại, thò tay vào xích-lô đập mạnh vào vai anh Mọn:
- Chở ta đến thành phố.
Anh Mọn giật mình, dụi mắt. Ông khách mặt tái mét, chân râu xanh um đến tận mang tai, mắt sáng quắc, nhất định là
chứa trong người đầy rượu.
Anh Mọn bước ra khỏi xích-lô, uốn lưng, vươn tay lên trời, ngáp một cái lê thê... Đó là
cách lấy bình tĩnh của riêng anh. Càng ngáp dài, càng ngáp to là càng đạt đến tự chủ. Anh nhìn ông khách lạ từ đầu tới chân, rồi cười hì hì, gãi cằm, nheo nheo mắt phải. Ông khách nhắc lại:
- Chở ta đến thành phố!
- Thành phố nào? Đây là thành phố rồi còn gì?!
- Một thành phố không chết kia... đây là thành phố chết!
Ông khách nói, nhắn nhó với vẻ thất vọng. Chắc là ông ta say đứt đi rồi!
Nghe xong, anh Mọn chớp chớp mắt, rồi nghĩ ngay đến cái nghĩa địa gần nhà. Nó cũng là
một thành phố đấy chứ, tuy nhỏ hơn nhưng cũng giàu nghèo đủ cả. Anh nói bừa:
- Được... được rồi... Nghĩa địa chứ gì? Đến nghĩa địa cây số năm hai nhé? Thành phố lớn đấy... Đi... về... trọn gói bốn chục... Em chở nhiều vị như thế rồi! Thưa ông anh...
- Nghĩa địa à?
Ông khách tròn mắt, tay rút lại.
- Thì nghĩa địa là nơi không chết nữa... Du lịch nghĩa địa rất tốt... Thưa ông anh...
Anh Mọn vừa nói vừa khom người phủi phủi nệm xe mời mọc!
- Rất tốt à?
Ông khách dướn người, nhìn anh Mọn chăm chú. Hình như chuyện "du lịch nghĩa địa" làm ông tỉnh rượu. Thấy ông khách có vẻ "ngọn cỏ gió đùa", anh Mọn mạnh dạn, tiếp:
- Đúng... Thăm trước cái nơi thế nào mình cũng phải ở... Sao lại không tốt... Thưa ông anh...
Ông khách trề môi, ngước mặt lên trời nhìn đám mây phi nhanh như ngựa chạy, ông gục gặc đầu rồi cười phá ra, đoạn ông móc gói Man-bô-rô ra hút, chìa anh một điếu, trong mắt ông có
niềm vui lướt nhanh:
- Chở ta đi... phải... Để ta coi vài kiểu nhà dặn lại con cháu... Tiền đây...
Ông khách rút ví lấy một tờ năm chục đập và tay anh Mọn một cách dứt khoát. Ông cười hề
hề:
- Cầm luôn... chú mầy khá... Làm hướng dẫn viên luôn cho ta chớ?
- Dĩ nhiên... Thưa ông anh!
Anh Mọn cất tiền vào túi, cài nút cẩn thận, cười toe toét, ló hai chiếc răng sún. Ông khách vào xích-lô, ngồi tréo chân chữ ngũ, ngã người ra sau, phì phèo thuốc lá. Anh Mọn cũng thót lên yên, gò
lưng đạp. Anh thấy mình không là loại cây có củ nữa, mà là loại cây có trái hẳn hoi, giá trị
rất dễ thấy, nó nằm ngay trong túi áo anh vừa cài nút!
*
Anh Mọn (tên đầy đủ: Nguyễn Văn Bé Mọn) 27 tuổi, cao 1m 79, có nghề xích-lô từ nhỏ. Trông anh như người thượng cổ còn sót lại. Râu tóc như rễ tre, ngực tay lông lá, mũi hếch xương hàm vầu ra, hai nếp nhăn dao xé nơi khoé
miệng... nhưng anh lại có đôi mắt thật hiền, đôi mắt của loài bò nghé. Nhà anh (một cái trại thì đúng hơn!) nằm sát nghĩa địa cây số 52. Mùa hè năm kia, bụng anh bỗng sưng to, cứng lên như cái vò sành, chạm vào rất đau đớn, da lại vàng như nghệ. Anh nằm ngửa thở phì phèo chờ chết!
Nhà quá nghèo, không đi bác sĩ nổi, vợ anh lập bàn thiên tại nghĩa địa, chị phục xuống đất, khấn vái suốt đêm, kiên trì
cả tuần không ngủ, đầu tóc bơ phờ, quần áo lấm láp... Lạ thay! Anh khỏi bệnh! Không chết! Nhưng cuối năm ấy, vợ
anh lại chết vì tai biến mạch máu não. Anh khóc thảm thiết, suýt mù mắt. Nay anh chỉ còn một mình, ăn đâu cũng được, ngủ đâu cũng xong, như đám mây trên trời, tụ cũng được mà tan cũng được, không quan trọng gì!
*
Khi xe xích-lô ra đến quốc lộ 1A, anh gợi chuyện với ông khách:
- Đi dạo giữa những mồ mả... thích thú không gì bằng! Thưa ông anh!
Ông khách ngồi trong xích-lô im lặng không nói gì. Ông lơ đãng hút thuốc. Anh Mọn vừa đạp vừa nói tiếp:
- Nhất là đi lúc chiều tà... thâm vào đêm một chút càng tốt... Người chết họ hiền lắm...
Không như người sống... "Bà
đầm" em quí trọng người chết... Nay em cũng thế...
Ông khách vẫn im thin thít. Hình như ông ta đang suy nghĩ, hay buồn phiền, hay đang khóc thầm, chẳng hiểu!
Anh Mọn lại tiếp, giọng to hơn:
- Ông anh sẽ ngắm một ngôi mộ nguy nga xây cả trăm triệu... Ông anh sẽ nhìn một nấm mộ
đất thấp lè tè mà tấm bia chỉ là hòn đá nhặt ngoài đường, được nguệch ngoạc bằng mấy chữ sơn đen... Lạ kỳ... Ông anh sẽ thấy nó cũng vậy... Rồi ông anh thương cả hai...
Không nghe động tĩnh, hình như ông khách đã ngủ. Anh Mọn giật thả cái cần thắng xe kêu
"tróc... tróc", anh nói lớn:
- Ông anh ngủ rồi à?
- Không... Ta đang nghe...
- ý ông anh thế nào?
- ý ta... chết là xong... nhưng con cháu không cho ta xong... chúng nó sẽ đình đám rình rang đấy...
- Đúng vậy... Thưa ông anh... nghĩa địa là nơi người sống nỗ lực của cải để tròn chữ
"hiếu" chữ "thương"... Thế cụ
ông cụ bà mất, ông anh có rình rang không?
- Có.
- Thế sao ông anh lại trách con cháu?
- Thôi... không trách nữa... Chú lung tung quá... Ta đang nhức đầu...
Anh Mọn cười thầm. Anh bỗng thấy mến ông khách. Ông ấy cứ như người chết rồi! Dễ
thương thật! Anh Mọn lại hỏi:
- Ông anh ở đâu?
- ở nghĩa địa...
- Hừ... Ông anh giỡn hoài...
- Thì trước sau gì cũng ở...
- Đúng vậy... Thưa ông anh... Em cũng thế! Trên đời chỉ có chết là to nhất, không có gì to hơn... Cái chết chẳng biết ở
đâu, nó mò ra... chạm nhẹ vào ta... là ra nghĩa địa... Có thể nó ở trong cái chai cũng nên, hay trong mũi dao, trên giường, trong cây gai, nơi lốp xe... thậm chí trong cả nụ cười của người đẹp... cũng nên!
- Chú là nhà thơ à?
- Không... Nhà xích-lô... Những chuyện ấy là của "bà đầm" em đấy!
- Thế "bà đầm" nay bao nhiêu?
- Ba mươi... Lớn hơn em ba niên... Một bậc kiên nhẫn hy sinh cho kẻ khác... Kẻ khác ấy là em... và cả những người em không biết...
- ối dào! Nịnh vợ quá ta!
- Không phải nịnh... mà là hiển nhiên như thế... Ông anh ở bên Tây về thăm quê chắc?
Nghĩa địa bên ấy ra sao?
Đến đây, ông khách không trả lời mà ra lệnh:
- Đạp quay trở về.
- Chưa tới nghĩa địa mà...
- Lòng ta đã sẵn một nghĩa địa rồi!... Không đi kiếm đâu xa...
- ồ!... Ra vậy! Lòng em cũng có một nghĩa địa xâu xấu từ một năm nay...
- Quay về... nhanh lên...
- Dĩ nhiên... Thưa ông anh!... "Nghĩa địa em" sẵn sàng chở "Nghĩa địa ông anh" đi đâu cũng được...
Vừa nói, anh Mọn vừa nhìn qua nhìn lại, rồi cua xe, anh gò lưng đạp về hướng thị xã. Có lẽ
cái ông khách này giàu, nhưng đang thất tình đây!? Khổ!... Anh Mọn chuyển hướng câu chuyện:
- Rút cục... chỉ có người tình là quan trọng ngang hàng với nghĩa địa mà thôi...
- Thế à...?!
Giọng ông khách có vẻ giật mình và run run.
Anh Mọn nói tiếp:
- "Bà đầm" em bảo thế... Bà ấy còn bảo chỉ hai nơi ấy là cái máng còn lại duy nhất để ta rót hết đời sống vào...
- Ôi dào...! Quá đúng!
- Thế ông anh cũng cho đúng à?
Ông khách nín thinh. Ông đốt thuốc chìa lên cho anh một điếu. Anh Mọn đỡ lấy rít liền mấy hơi, phà khói mù mịt.
- Chú nói... nói... nữa ta nghe... "Bà đầm" còn bảo gì nữa...
- à... "Bà đầm" em còn nói... Sống một kiếp người... thì ngu muội cũng là cái quyền mình cần phải tranh đấu mà giành lấy... Trong ấy đựng nhiều hạnh phúc lắm... Nhưng khi lấy em... Bà
ấy khôn quá... nên chẳng có hạnh phúc gì... mà
chỉ có đọa đày!...
- ối trời...! "Bà đầm" dám nói vậy?
- "Bà đầm" em là bà Thánh mà... Bà sợ ai mà không dám! "Bà đầm" em còn nói... Hạnh phúc sẽ "tiêu tán đường" nếu quá mơ ước nó... Hạnh phúc đơn sơ lấm láp lắm... Hạnh phúc biết cười biết khóc...
- Nói nữa đi... Nghe được...
- Không nhớ nổi... Đại khái là thế...
Đột ngột, ông khách la lên:
- Quay xe lại... Chở ta đi nghĩa địa... Ta và chú sẽ đi dạo trong chiều tà... Bảo "bà đầm"
chú nấu cơm ta ăn luôn...
Tiền đây...
Ông khách rút một xấp tiền, chìa lên phía mui xích-lô.
- Nhưng 'bà đầm" em chết rồi...! Năm ngoái... Thưa ông anh!
- Hả...?!
Xấp tiền rớt khỏi tay ông khách, bay lung tung xuống mặt đường nhựa. Anh Mọn thắng xe, nhảy xuống lượm gom lại. Ông khách như trúng gió, sùi bọt mép, môi mắt giật giật, nhưng cố thều thào:
- Chết thật rồi ư...!
Nhưng ông lấy lại được bình tĩnh rất nhanh. Ông giống Rô-bốt quá chừng!
Anh Mọn đem tiền lại, ông khách xua tay, nói như hét:
- Cho chú... Chở ta về thành phố... Vào quán rượu ngay...
Anh Mọn cất tiền vào túi, những 6 tờ năm chục, anh lại thấy mình là loại cây có trái hẳn hoi, mà sai trái nữa chứ!
Anh cua xe lại, thót lên yên, rướn cẳng đạp về thành phố.
- "Bà đầm" chú chết bệnh gì?
- Tai biến máu não.
- Thế mộ ở đâu?
- Ngoài nghĩa địa... Chỉ là một nấm đất lè tè...
- Vợ chồng chú có con không?
- Không.
Ông khách lại la lớn:
- Quay xe trở lại nghĩa địa...
Anh Mọn lại ngoan ngoãn ngó trước ngó sau rồi cua xe lại hướng nghĩa địa. Giờ thì anh có
thể đạp chạy vòng tròn một chỗ cũng được, miền là ông khách muốn!
Đi một quãng, chẳng biết suy nghĩ gì, ông khách lại hét lớn:
- Quay xe lại thành phố... Vào ngay quán rượu... Ta không cần nghĩa địa... Anh Mọn lại nhẫn nại quay về, gò lưng đạp về hướng thành phố.
*
Tại nhà hàng Phương Phương, ông khách lôi anh Mọn vào cùng uống. Ông khách uống tợn, không ăn gì. Đã hết một chai Remy Martin, ông gọi chai nữa. Ông ngồi nóng nảy, loay hoay và
loạng choạng. Bỗng ông chống hai tay lên bàn, rướn người nhìn sững anh Mọn có đến một phút, rồi nước mắt trào ra. Ông run rẩy móc ví rút khoảng 20 tờ 100 đô la dúi vào túi áo anh Mọn. Anh Mọn cản lại, nhưng ông giận dữ hét toáng lên như người điên:
- Chú mày không thương "bà đầm" à?
Rồi thật đột ngột, ông dịu xuống mếu máo:
- Bà Thánh của chú... cũng là bà Thánh của ta... Chỉ là ít tiền xây mộ thôi mà...!
Anh Mọn sững sờ cầm lấy xấp tiền, anh thấy mặt ông khách đầy nước mắt... Anh cũng khóc hu hu như trẻ con:
- Cảm ơn ông anh... Ông anh cũng quen "bà đầm" em à?
Anh quệt ống tay áo chùi nước mắt:
- Cho dù ông anh là gì đi nữa... chồng hay người tình cũng được... "bà đầm" em có quyền như thế... Em đây cũng cảm ơn... Cũng ghi ơn...
Anh Mọn chống tay đứng dậy, mếu máo tiếp:
- Ngày mai em cho xây mộ ngay... Em khắc vào tấm bia thế này: Đồng lập mộ: Nguyễn Văn Bé Mọn và ông anh nghĩa địa... Như thế có được không?
Ông khách thẫn thờ:
- Được.
- Em xin kiếu ông anh. Xin về trước...
- Được.
Anh Mọn loạng choạng bước ra khỏi nhà hàng. Thành phố đã lên đèn từ lâu. Anh vừa đi vừa nhép xấp tiền vào túi, gài nút cẩn thận, sợ rớt cả ngôi mộ bà Thánh của hai người. Anh đến chiếc xích-lô của mình, đang nằm âm u dưới bóng đen của Tầm Sét, một cây Tầm Sét khác cây Tầm Sét ban mai...
(Báo Văn Nghệ)
Những con đường không đến
SEATTLE
Nếu không thể đi xa, anh vẫn hy vọng về sự bao la mà anh chưa biết đến. Còn nếu anh đã
biết đến sự bao la ấy có
giới hạn như thế nào, liệu còn thèm muốn nữa không... Mọi thứ ở đây chỉ có một màu. Màu xám. Công nhân xây dựng mặc áo phản quang đang im lặng làm việc dưới tầng ngầm sân bay, giữa những chiếc cột lớn loang lổ thép và xi măng. Chúng tôi đi chầm chậm ngang qua họ, không nghe thấy tiếng xe của mình, chỉ nghe tiếng rì rì nho nhỏ, không rõ
là âm thanh của những chiếc máy sưởi gắn dọc theo tường hay tiếng hơi thở đùng đục dưới những chiếc nón bảo hộ
trơn tuột kia. Tất cả mơ hồ như những hình người loà nhoà phía bên ngoài cửa kính xe mịt mờ hơi nước. Mưa rơi rả rích, và chắc chắn sẽ còn tiếp tục rả rích như thế trong những ngày tới. Mây xám cuồn cuộn trên đầu ùn ùn kéo về phía đất liền hết lớp này đến lớp khác, nhiều đến nỗi có
cảm giác rồi đến hết năm cũng không cạn mây được. Tôi đang ở sát bờ đông của Thái Bình Dương, chỉ chừng một quãng chạy xe ngắn nữa thì đến bờ biển Oregon. Đứng ở bờ biển đó nếu nhìn ngút mắt qua hết cái đại dương mênh mông không núi non nào cản trở tầm nhìn, (một chuyện hoang tưởng bởi chỉ cần bay bằng Boeing 747 cũng mất hơn nửa ngày trời), thì tôi sẽ gặp được bờ biển thân thuộc của đất nước mình. Chính xác như thế. Bởi cái bờ biển cong cong nơi mà vào những ngày hè, ngày lễ tháng tư, tháng năm, mọi người vẫn thích đáp xe lửa đi suốt đêm để được vùng vẫy, hay thả người trôi lều phều ngắm san hô ngoài chân mấy hòn đảo con con, chính là bờ tây của cái đại dương đang phả hơi nước ngập ngụa cái thành phố buồn tẻ tôi đang ghé ngang đây. Rốt cuộc thì chuyện đã trở nên đơn giản quá chừng, đã thu hẹp lại trong lòng một bàn tay, ngắn gọn như thể một quãng đường dài năm phút đi xe máy từ nhà đến sở làm và ngược lại. Tôi bảo:
- Nếu chỉ nghĩ thôi thì rất đơn giản, nhưng thực tế là một chuyện khác. Bởi vì như anh muốn đến một bờ của đại dương, anh phải làm hộ chiếu, phải có thị thực nhập cảnh, phải khai báo ở mỗi nơi anh đi qua. (Quyền lực đôi khi chỉ
thể hiện đơn giản ở những cánh cửa nhỏ, hay có nơi chỉ là những thanh gạt bằng inox lạnh lẽo màu sáng choang). ở
bờ tây, anh phải khai có đem theo văn hoá phẩm đồi truỵ phản động gì không, phim ảnh thì
được tạm giữ, tốt xấu sẽ
được phân định sau. Còn ở bờ đông thì người ta sẽ hỏi cái gì trong túi của anh thế, trái cây khô hay tươi, anh đem vào đây thứ thực phẩm nào. Vâng, hiểu theo khoảng cách địa lý thì đơn giản lắm, chỉ việc đem dây ra mà đo, nhưng có
những khoảng cách khác không đo lường được. Bởi thế, người mới không là chim. Xe chạy chậm rãi trên con đường đẫm nước. Hai bên đường là nhà thấp đèn đẹt, lạnh lẽo. Những ngôi nhà
làm từ những container chứa hàng cũ, đứng lún trong cỏ dại, những dòng chữ điện màu đỏ chạy ngoằn ngoèo bên ngoài, xa xa nhìn nhoè nhoẹt như mực viết lên tờ giấy ẩm. Keith nói:
- Nếu chạy thẳng mãi con đường này, chúng ta sẽ đến Seattle.
Nước mưa chảy trên những hộp thư dáng tổ chim bồ câu đứng một chân bên đường làm thẫm lên những vệt sơn vằn vện màu vỏ trứng. Keith nhìn chăm chú về phía trước, bắp tay cuồn cuộn. Tôi nhớ bàn tay My nhỏ xíu, mảnh dẻ như một chiếc lá non với những ngón tay mềm. Ai cũng bảo, đó là số sướng. Muốn biết chắc trong tương lai có sướng thật hay không thì phải nhìn thêm gót chân (tôi phải mất gần cả năm trời mới nhìn được gót chân My), gót chân nhỏ, mịn, mà
không nứt nẻ gì là yêu cầu tối thiểu. Nhưng với My thì khác, nàng viết cho tôi: Đây là dịp để cho anh đi khắp nơi mà anh muốn. Anh phải đi thật nhiều, và thư kết thúc rất con gái: Sướng nhé! Cái thư ấy bây giờ đang nằm trong túi áo của tôi đây, nấp dưới năm tầng bảy lớp những áo khác bởi tôi không quen được với kiểu lạnh ẩm này, cứ cóng lên như
những ngày tháng chạp mưa phùn Hà Nội.
Keith hỏi:
- Anh đã xem Mất ngủ ở Seattle chưa? ít ra một con phố lát đá đọng nước, hay một chiếc ghế gỗ dài ven đường ở đó
có thể cho anh một chút tình cảm nào đó, khác với nơi đây.
Đó quả là một gợi ý hấp dẫn, bởi vừa bước xuống sân bay tôi đã thấy thất vọng với Oregon rồi. Đất Mỹ mà còn có một nơi như vậy sao, buồn bã quá chừng. Chỉ nhìn cái màu xam xám này thôi cũng đủ biết những ngày tới sẽ buồn như thế
nào. Vả lại, đây cũng là một dịp để tôi kiểm chứng xem đời thường trong cái phim ấy thật đến đâu, dịu dàng đến đâu, để tôi có thể kể với mọi người rằng tôi đã từng đi trên những vỉa hè sạch bong và im lặng của Seattle, đã từng ngồi chiếc ghế nơi Meg ghé ngang qua trong chuyến đi tìm cuộc tình định mệnh của mình. Và trên hết, với thêm một nơi đến ấy, tôi sẽ làm thêm được một điều cho mơ ước của My, (chi tiết dặn dò nằm trong lá thư dưới áo), cho bạn bè tôi, (những người lúc nào cũng dặn: Đi nhớ chụp hình. Về nhớ kể chuyện nghe!). Nếu bây giờ tôi nói, ừ, ta đi đi, thì
không ngần ngại gì Keith sẽ cho xe lao về phía trước, bởi ở đây, nối nơi này với nơi kia thẳng tắp một con đường. Keith nói:
- Thật ra, quan trọng hơn cả chính là cảm giác thực hiện được điều ta muốn. Ví như anh không thích nơi này tôi sẽ đưa anh đến nơi khác, không thích Seattle thì sẽ đi tiếp đến thành phố
khác xa hơn nữa. Đôi khi, không vui không buồn, tôi vẫn thích ngồi vào xe và đi mãi như vậy, không phải vì nhu cầu biết thêm một nơi mà vì cảm giác choáng ngợp rằng, con đường ấy kéo dài vô tận, nhưng nếu muốn, tôi sẽ tự đi hết cái vô tận ấy. ờ, thì tôi cũng từng nghĩ về một cảm giác như
thế khi đi từ bờ đông sang bờ tây, khi đi xuyên ngang miền Trung nước Mỹ. Tôi đã đi thật nhiều. Tôi đi máy bay, tôi đi xe, tôi đi bộ. Thậm chí còn đôi ba ngày còn lại, tôi cũng tìm cách ghé ngang đây tham lam cóp nhặt thêm một nơi chốn để rồi phát hiện ra có một Oregon như thế ở miền Tây Bắc, heo hút, ảm đạm. Trong khi Keith nói, tôi nhìn qua cửa. Cảnh vật lặng lẽ bên ngoài khiến tôi như mềm nhũn ra. Tôi quá mệt mỏi vì những chuyến đi dài rồi chăng? Hay tôi đã quá mong muốn về nhà? Cái nhịp điệu đột nhiên chùng xuống lúc này khiến tôi nhận ra rằng dường như những ngày vừa qua tôi đang cắm cúi thực hiện cái điều tôi nghĩ là ước muốn của nhiều người, trước khi có đủ thời gian cho chính tôi thật sự mơ ước về nó. Tôi tóm lấy từng cơ hội, vội vàng và manh mún, (đã là cơ hội thì không thể sắp đặt trước sau được), chứ không phải làm cái công việc mua sắm với phong thái thong dong của người có tiền trong tay. Keith vẫn đang lái xe về phía Bắc. Con đường dài hun hút trôi tuột về sau, lướt thướt như một dòng sông. Lúc này mùa đông đã bắt đầu được hai tuần. Cây hai bên đường xơ xác, vừa trụi lá vừa ướt át. Thỉnh thoảng, vài ngôi nhà nhỏ xuất hiện rồi mất hút, không một bóng người. Mây từ phía đại dương vẫn ùn ùn thổi ngang trên đầu. Mưa trên con đường thẳng tắp này và hẳn cũng đang mưa trên dãy núi cao kia. Chúng tôi đang đi dần vào vùng núi đồi. Tôi chợt nhớ một người bạn chỉ quen biết qua điện thoại nhưng hầu như năm nào cũng có dịp trò chuyện vài lần. Anh ta nói địa chỉ nơi anh ta ở đơn giản là thị trấn Núi Đèo, Hải Phòng. Tôi chưa từng đến đó, không biết trong thị trấn ấy có những con đường ngoằn ngoèo vắt ngang qua đồi núi giống nơi đây không, nhưng đó thật sự là cái tên thơ mộng.
- Chúng ta quay về. Tôi bảo với Keith. Nếu tôi đến được Seattle, tôi sẽ muốn đến thị trấn kế
tiếp cách đó năm dặm, rồi đến Vancouver, rồi cứ như thế mãi, xa hơn nữa. Anh không thể suốt ngày ngồi lái xe cho tôi, mà tôi thì không biết tôi đang làm gì, đến một nơi, hay chỉ để thoả mãn rằng tôi đang muốn và tôi đang đến. Thật ra, trong tôi lúc này cả hai thứ
đó đều không có. ở nhà giờ này My đang ngủ ngon. Sáng mai khi thức dậy nàng sẽ theo con đường thẳng tắp và lớn nhất của Sài Gòn để đến sở làm, tất cả mất mười bảy phút. Tất nhiên, có
những lúc chậm hơn thế bởi phố sá ngày càng đông đúc và lúc nào cũng sẵn sàng tắc nghẽn với với một xe bánh mì đẩy dạo bên đường hay một chiếc xe rác nặng nề xoay trở với công việc chưa kịp làm xong. My luôn mơ ước về những cuộc đi xa, (lá thư đầy những chi tiết dặn dò lại cộm lên), nhưng thật ra chưa bao giờ nàng nghĩ đến việc đi xa hơn một chút, khoảng 30 phút chẳng hạn, để
băng qua một cây cầu ra đến ngoại ô thành phố, nơi có không khí trong lành hơn, cây lá
xanh tươi hơn. Không lúc nào My nghĩ đến việc đi thêm một lúc nữa, ra khỏi con đường mỗi ngày, cũng như những người khác, tất cả chỉ có một nghĩa vụ lớn là sống đúng giờ. Đi và về. Tôi hoàn toàn không có lỗi gì nếu không đến được Seattle. Keith quay sang nói, giọng tình cảm:
- Đôi điều không làm được ấy sẽ giúp ta sống vui hơn. Nếu không thể đi xa, anh vẫn hy vọng về sự bao la mà anh chưa biết đến. Còn nếu anh đã biết đến sự bao la ấy có giới hạn như thế
nào, liệu còn thèm muốn nữa không. Và thế là chúng tôi quay lại với ngoại ô của Portland, vẫn những con đường ướt, vẫn những ngôi nhà một tầng hình hộp màu xám nay đã thẫm màu trong đêm tối mênh mông của miền Tây Bắc. Những dòng chữ điện đỏ nhoè nhoẹt. Dancers. Restaurant. Parking. Motel. Tất cả chậm rãi mọc lên, rồi lui dần về phía sau, từng thứ một, im lìm, lạnh lẽo, ướt át. Mùa này đêm xuống nhanh. Vẫn mưa. Chúng tôi tìm một quán ăn nhỏ nằm lọt thỏm trong một bãi đậu xe lớn rào sơ sài bằng kẽm gai, nhưng không có một chiếc xe nào ghé lại. Một quán Philippines. Bên trong, bàn ghế gỗ tróc lên những lớp vỏ màu nâu thẫm và cửa kính dày đọng nước thành dòng. Người phụ nữ chủ quán, tóc đen nhánh, hơi xuềnh xoàng và khó đoán tuổi, lịch sự lùi lại đứng im lặng sau quầy.
Keith hỏi:
- Rồi anh sẽ tiếc vì không đến Seattle?
Tôi hướng về Keith, một nửa khuôn mặt của anh chìm trong bóng tối:
- Một ngày nào đó tôi sẽ đến.
Keith nói:
- Nếu anh nghĩ sẽ đến, thì việc sẽ diễn ra như thế.
Trong chiếc ghế bành bọc bằng vải nỉ cũ kỹ đặt ở góc nhà, một đứa bé con nằm lọt thỏm, hai chân quấn trong chiếc chăn mỏng, hai tay nhỏ xíu đặt sấp lên nhau đỡ lấy chiếc cằm bụ bẫm, mắt nhìn tư lự mơ màng ra phía cửa. Đôi mắt nó trầm lặng và buồn dẫu tôi chắc rằng nó chưa thể
biết buồn là gì, bởi nó còn bé quá, chỉ mới chừng năm tuổi. Thỉnh thoảng, đứa bé đưa mắt về phía chúng tôi, ánh mắt không nói lên điều gì cả, chỉ to tròn, đen láy, ươn ướt như mắt con Lem, con chó
con ở nhà mà tôi rất yêu quý dù đám lông trắng dài của nó thường xuyên vón cục như sữa bột. Đứa bé
vẫn im lìm bất động như thế suốt bữa ăn, trong khi mưa ngoài trời cứ rả rích với cùng nhịp điệu không đổi từ sáng đến giờ. Nếu trời cứ mưa mãi như thế này đến hết ngày mai, hết ngày kia, mưa hết năm này cho đến sang năm khác, thì
đứa trẻ ấy sẽ lớn lên ra sao, sẽ đi về đâu nhỉ? Nó sẽ sống một đời sống lu mờ giữa bao nhiêu cuộc đời khác, hay sẽ
trở thành một tay chơi nhạc rock, một nhà thơ? Tôi không biết. Bây giờ tôi thấy tôi sẽ
không biết gì hết. Ngay khi tôi bước qua cửa ra về, đứa bé sẽ ở lại, sẽ nằm im lìm như thế ít nhất cho đến hết ngày vô tư lự này. Và trong hiểu biết còn lại của tôi, mãi mãi đó vẫn là một đứa bé nằm trong ghế bành. Mãi mãi như thế. Nhiều năm sau nữa, nếu tôi vẫn còn nghĩ về Seattle, có thể tôi sẽ
đến được thật, nhưng với đứa bé này thì tôi không bao giờ gặp lại, cho dù tôi muốn biết tường tận số phận nó biết bao. Nó sẽ lưu lạc đâu đó, nó sẽ lẫn vào đám đông. Đứa bé khác với Seattle, đó là
một cuộc đời. Nơi chốn thì ở lại để chờ đợi, nhưng một cuộc đời thì không. Người phụ nữ chủ quán hỏi chúng tôi ăn có ngon miệng không. Tôi gật đầu. Trên tường tờ
lịch đã bị xé vội đến ngày mai, ngày 21-11. Sau hai ngày nữa, ngày 23-11, tôi sẽ đi làm, sẽ đi lại trên con đường quen thuộc, sẽ sống một đời sống khác cách đây nửa vòng trái đất, song hành với bao nhiêu cuộc đời khác xuất hiện lặng lẽ và biến mất lặng lẽ nơi này, nơi kia. Bên ngoài trời đen và sâu thăm thẳm, đó là bầu trời mà tất cả mọi người đang cùng chia sẻ, cũng như
cùng chia sẻ những lần nước xuống, những lần nước lên, những lần trăng tròn, những lần trăng khuyết. Mọi người cùng sống và cùng chia sẻ với nhau bao nhiêu điều, nhưng tôi vẫn thấy có
cái gì đó xa cách, không hẳn chỉ vì một tiếng gọi từ bờ đông đại dương này không đến được với bờ
tây của chính nó, mà là một điều khác, một điều gì đó thật mơ
hồ nhưng mệnh hệ như thể liên quan đến số phận của mỗi con người. Bên trong, Keith chậm rãi đi về phía góc phòng, xoa đầu đứa trẻ với bàn tay to lớn đen nhẻm của anh. Bà mẹ người Philippines nhìn theo mỉm cười. Keith bảo:
- Trông nó dễ thương quá. Cứ như một chú chim non bị ướt hết cánh rồi. P.T.H
(Báo Văn Nghệ Trẻ)
Máu của lá
Đã quá nhiều người tôi quen đi vào cõi vĩnh hằng vì ung thư. Trộm nghĩ đến những con sâu nhỏ màu xanh đang quằn quại giãy chết trong rừng chất độc dioxin hay dưới bình phun vô-fa-tốc mà ruột gan quặn thắt buồn nôn. Con người hơn gì những con sâu đó?
Quân đẹp quá! Bốn mươi hai tuổi, khuôn mặt với nước da hơi tái viền bộ râu quai nón ửng xanh, đôi mắt sâu thẳm đen láy như thấu hiểu tất cả. Tiến sĩ y khoa. Chưa vợ. Và ung thư dạ dày di căn. Không dám nhìn Quân, tôi hướng vào cành lá thiên tuế đang thấp dần về đất trong chậu cảnh. Thiên tuế nhọc nhằn lắm mới ra nổi một lá.
Đang rủa thầm sao bệnh viện lại nỡ để cho con bệnh biết mình sắp chết mà quên rằng chính Quân là một trong những thầy thuốc giỏi của viện.
Quân mỉm cười nhìn tôi vẻ bất cần:
- Với tớ tất cả đã rõ ràng. Gọi cậu đến không phải để than vãn. Vài tháng nay, tớ đã cố dọ
dẫm đồng hành với thần chết.
Nhấp ngụm chè sen, Quân ngửa cổ nuốt từ từ như thể cố nghiệm ra điều gì đó rồi bâng quơ:
- Cậu có biết trẻ con sợ ma chúng biểu hiện thế nào cho qua cơn sợ hãi? Đầu tiên nhắm chặt mắt lại, gào lên, gào chán bắt đầu mở he hé... nhắm tít rồi lại mở ra... Cố mở to dần và cuối cùng mở hẳn.Tớ cũng vậy, cơn hoảng loạn qua rồi. Chết trẻ thế này có lẽ lại hay, được nhiều người tiếc. Cậu đi đưa ma tớ chứ?
Quân lại cười nhạt. Nhưng mắt rưng rưng nhìn lên bầu trời xanh ngắt. Tôi quay đi, lau vội nước mắt làm nhoè kính. Rồi đây nắp quan tài sẽ ập xuống dưới sức nện của chiếc búa đinh. Có lẽ
nó sẽ nghẹn lại khi phải nuốt chửng một người đàn ông tuấn tú như anh!
Bỗng Quân bật dậy, căng mắt nhìn ra.
- Cậu có thấy không? Kìa, cô ấy đấy... Mình gọi cậu đến đây là vì việc này.... Phút chốc, vẻ
đau đớn của con báo bị trọng thương biến mất. Đôi hàng mi anh lưng chừng khép và hơi run rẩy. Chỉ khi chờ người yêu hay một điều gì linh thiêng lắm người ta mới có được vẻ xao xuyến ấy. Tôi nhìn theo hướng Quân nhìn, tưởng đến bóng yêu kiều của một thiếu nữ sẽ hiện ra đầu con đường nắng nhợt.Vài giây sau một chấm nhỏ hình xoan thoáng hiện. Cô xê dịch chậm chạp trên lề đường đối diện tiến đến gần. Đó là một cô gái nhỏ xíu chỉ cao khoảng hơn một mét. Ngực lép. Đôi mắt tròn mở rưng rưng, làn môi trên hằn một vết sẹo trắng kéo miệng hơi xệch về bên trái . Chắc là sẹo vá môi, tôi đồ vậy. Ngược với môi trên, môi dưới cô mọng đỏ
hơi lõm giữa như núm đồng tiền nhỏ thoáng qua, chia thành đôi cánh hoa tươi nũng nịu. Chiếc làn trên tay cô là thứ làn đi chợ các bà nội trợ thường dùng từ những năm sáu mươi. Dáng đi khập khiễng của cô khiến người ta dễ liên tưởng đến bóng con chim sâu đang nhảy chon von trên đường, mỏ quắp chiếc lá làm lệch người. Chợt bóng cô khuất sau dãy tường gấp khúc. Tôi ngóng ra xa. Người mà Quân chờ hẳn là một người đẹp, tôi nghĩ thế. Bỗng Quân rút từ
trong túi ra một bì thư, mở đưa cho tôi:
- Này, nhìn đâu thế? Xem đi. Cậu đọc qua rồi sẽ hiểu.
Ngoài bì thư đề "Gửi anh M", nét chữ không đều đặn, hẳn người viết là người mơ mộng. Tôi thoáng giât mình:
- Cậu đọc trộm thư ai vậy?
- Của tớ, thư tình đấy! Đã bảo cứ đọc đi rồi sẽ biết.
Trang giấy lấm tấm xanh, những đoạn nhạt màu có lẽ do nước mắt.
"Anh yêu!
Bẵng đi bốn tháng ròng không nhận được thư anh. Dường như em sắp chết. Chị Huyền em bảo thư thất lạc là
thường, nhưng em vẫn lo anh sẽ tan ra như một làn khói!
Anh ơi! Thượng Đế đã say rượu khi nặn ra em. Hồi mười ba tuổi em suýt uống cạn bát nước lá Trúc Đào. Đó là lần đầu tiên em nhìn thấy toàn thân mình hiện mồn một lên tấm gương lớn bố mới mua về. Bố em nói, em đã nhồi quá
nhiều tiểu thuyết vào đầu, như thế không tốt. Không những thế, em là một tác phẩm làm hổ
danh người. Mỗi lúc khách đến nhà em thường tìm cách lánh mặt để làm vừa lòng bố. Rồi lúc thi vào đại học đạt điểm ưu nhưng không một trường nào nhận vì lỗi hình thể. Em đã cầu cho mình hoá
điên. Người điên hạnh phúc vì họ luôn trôi mông lung trong thế
giới huyền ảo. Và tất cả như đều là những con búp bê dễ thương trong vòng tay họ. Họ
chẳng nhận ra ngay cả chính mình. Thường thường em chắp tay cầu cho mình được chết - Người chết là người có được hạnh phúc thứ hai sau người điên. Tại sao Thượng Đế nỡ đặt bộ óc vào đầu một đứa con gái mà ngài đã nặn ra trong cơn say?
Thế là em ở nhà với bếp núc, những con mèo và một gian nhà tiểu thuyết sưu tầm được. Người yêu đầu tiên của em là ông Rôchetxtơ trong bộ Jên Êrơ. Đêm đêm, đôi khi em thấy Rôchetxtơ cúi xuống mỉm cười, mở vạt áo choàng sẫm màu nhẹ nhàng nhốt em vào và đi ra ngoài trời trăng. Nhưng em chợt nhận ra ông quá to lớn so với khổ người của mình. Em rụt đầu. Như thấu hiểu mọi lẽ Rôchetxtơ dừng lại, ông nhìn em thương hại, nói: "Này cô bé xấu xí yêu quý, em muốn ta nhỏ lại phải không?". Em gật đầu hàm ơn! Nhưng có tiếng máy bay sầm sập. Tiếng còi báo động. Bom xé. Nhà đổ. Trẻ khóc... Rôchetxtơ đặt em xuống lao vào lửa. Hồi sau, khi những con Diều Hâu thép thoả cơn tàn khốc bỏ
đi, lửa tắt, người ta khiêng ông ra, đôi mắt chỉ còn là hai hố trống ngòm đen thui. Rôchetxtơ
đã chết! "ngay cả trong mơ trời cũng cắt xén của em. Thương Đế không cho em hưởng trọn giấc mơ nào". Em khóc với anh Hưng em. Anh Hưng lặng lẽ vuốt tóc em. Những trò chơi trẻ con mà
anh ấy miệt mài bày đặt làm cho em vui không còn, kể từ ngày anh ấy đi chiến trường B. Một tháng sau em nhận được bức thư của người con trai ký tên "M". Thư anh? Nhiều khi em tự hỏi, anh thật hay chỉ là
hư ảo, tại sao anh giấu tên và cả một bức ảnh chân dung em cũng không được nhận? Em muốn tìm anh. Sẽ được nếu em cố tình. Nhưng em lại sợ, dù chỉ một lần thôi em tìm gặp thì những lá thư sẽ không bao giờ đến với em nữa, như
lời anh đã viết. Vì thế, chính em cũng sợ phải gặp anh. Em tự dặn mình hãy bằng lòng với những trang thư. Ba năm nay em đeo lá thư đầu tiên của anh trước ngực, trong chiếc túi nhỏ sau lần áo lót.... Anh ơi! Có biết em còn muốn tự dối lòng mình hơn nữa, để không nghĩ đến một ngày sẽ
chẳng còn thư. Nghĩa là
chẳng còn anh và thế là cũng chẳng còn em trên cõi đời này!
Giấy báo tử của anh Hưng - Người yêu quý em nhất trên đời. Rồi bặt thư anh. Em đã nói dường như em sắp chết. Mẹ nhận được tin anh Hưng, xuất huyết não nằm liệt giường, cả ngày mở
mắt chong chong thảng thốt nhìn em cười như nhìn một người lạ ngoài hành tinh. Bố bị huyết áp biến chứng đi lại nhiều khi phải nhờ em dìu. Chị Huyền em vừa gặp một gã sở khanh. Em cho rằng những người tốt thường không gặp may? Vì thế em lo cho anh. Cuối cùng Bồ
Tát cũng rủ lòng từ bi trước lời khẩn cầu, sau anh Hưng hy sinh bốn tháng em lại nhận được thư anh mặc dù giọng điệu và nét chữ hơi khác. Anh bảo vừa bị thương khi làm công tác bí mật nên không viết thư được. Em cũng mong là
như vậy, thế giới ngoài kia toàn là bí mật và điều bí mật lớn nhất đối với em là anh. Anh ơi!
Em vẫn còn sống chừng nào còn thư anh..."
*
Lá thư dài như những trang tiểu thuyết và cuốn hút như có ma lực. Hơn cả những dòng chữ
là một vẻ thiêng, tôi rụt tay về rồi lại chạm thật nhẹ mấy đầu ngón lên trang giấy nghĩ đến một thánh đường màu trắng. Trên đó, một trái tim nhỏ xíu đang thoi thóp đập.
- Thư cô ấy đây ư?
- Phải
- Lẽ nào cậu... Cậu yêu cô ấy?
- Không yêu. Không đời nào. Nhưng...
- Thế... Tại sao?
- Cậu đoán được tớ là tác giả của những bức thư gửi cho cô ấy! Đúng không? Nhưng chỉ
đúng một nửa... Quân ngả người sát chiếc lá thiên tuế vừa đổ xuống uốn cong thành hình chiếc lược vàng, mơ màng kể cho tôi nghe câu chuyện rất khó tin mà xưa nay tôi tưởng chỉ gặp trong tiểu thuyết lãng mạn.
*
"Đã hơn mười năm trôi qua mà mỗi lần nhớ lại, ruột gan tớ như bị ai đó nắm chặt lấy, xoắn tít... Năm 1974 tớ ở chiến trường Buôn Mê Thuột, cùng đơn vị với Hưng. Hưng là hoạ sĩ nhập ngũ
trước. Cả ngày cậu ta chỉ nói vài câu, mắt cứ lơ mơ buồn, đêm đêm thường trùm chăn viết thư dưới ánh đèn pin lập loè lúc tắt lúc bật như
ma trơi. Đồn rằng cậu ta có người yêu đẹp ở Hà Nội, sợ mất nên cứ phải giữ bằng thư. Cậu từng là lính biết rồi đấy, trong chiến tranh người ta thường buộc mình vào người khác. Tự bóp nát tim hòng che giấu những tình cảm tự do nhất và hy vọng, nhờ thế khả dĩ chịu đựng được những hoàn cảnh quái gở. Cho nên, dù Hưng gan lì trong các trận đánh vẫn bị liệt vào hàng có dấu hiệu yếu đuối, cần kèm sát đề phòng đào ngũ.
Trận ấy tớ đi bên Hưng. Tiếng súng đã thưa thớt. Chiều sậm tái buồn đứt tuột,đã kết thúc một trận đánh mà cả hai bên gần như chỉ vờn nhau để thăm dò. Tớ vốn là lính mới nên đi lại trong rừng quá chật vật, cứ tụt lại đằng sau. Hưng dừng lại chờ. Không lê nổi chân nữa, tớ ngồi xuống một tảng đá.
- Khát khô cả họng. Đứt hơi mất Hưng ạ!
Hưng nhìn quanh, đá cũng nẫu buồn ong ong. Những thân cây trút lá nâu sẫm đan chằng chịt như mê trận của quỷ sứ. Không tìm đâu ra nước. Hưng cúi xuống, dò dẫm trên dòng suối khô
nứt nẻ. Hồi sau, anh khẽ reo sung sướng vồ lấy một vật bẩn bẩn tròn tròn bằng đầu ngón chân cái đưa cho tớ.
- Đập ra rồi mút đi. Đỡ khát đấy!
Tớ ghê tởm nhìn, mặc dù cổ họng như đang bị cào xé. Hưng đón lấy khéo léo đập tan. Lòng bàn tay anh lầy nhầy một thứ đen đen mông mốc.Nhìn kĩ, hoá ra là một cái ruột ốc còn cựa quậy.
- Có lẽ đây là chú ốc duy nhất còn sót lại của rừng này, số cậu may thật. Nuốt đi! Hưng nghiêm nét mặt nhìn tớ thương cảm. Oẹ khan mấy tiếng, nhưng khát quá tớ nhắm mắt đón lấy vật bẩn thỉu đó cho vào mồm nuốt chửng rồi lấy tay bưng kín miệng, nước mắt nước mũi cứ trào ra. Cùng với cảm giác ghê ghê tanh nồng là cơn dịu mát lan toả từ đầu lưỡi đến dạ dày khiến tớ tỉnh hẳn. Mở mắt ra, tớ thấy "Quả táo Adam" nơi cổ Hưng giật giật mấy hồi có vẻ thèm thuồng. Hoá ra anh còn khát hơn cả tớ.
- Sâm của Trường Sơn đấy. Đừng ghê!
Tớ nhăn mặt khổ sở nhìn anh hàm ơn! Cả hai cùng phá lên cười. Mặt Hưng sáng ngời như
trẻ thơ. Anh nhặt bên chân một quả trứng nhỏ trắng xanh tung sang:
- Trứng rắn đấy. Hồi bé mình và cái Cúc - Tên em gái Hưng - bị một phen hú vía. Nhặt được quả trứng như thế này, hai anh em thay nhau ấp trong tủ quần áo. Cái Cúc cứ đinh ninh đó là
trứng Tiên. Đủ tháng đủ ngày nở ra một con vật loằng ngoằng đánh võng trong tủ... Bỗng một tiếng "bục" khẽ. Hưng đưa tay ôm ngực và cứ thế thấp dần, thấp dần không một tiếng kêu, gục xuống. Khoảng trắng của bàn tay anh bị nuốt dần thành quầng máu sủi bọt. Im lặng đến rùng rợn. Tớ kinh hoàng thét lên bỏ chạy. Được vài mươi bước vấp dúi dụi vào một bụi cây mới sực tỉnh, hộc tốc chạy trở lại, ào tới đỡ Hưng lên tay rối rít lay gọi... Một lát, Hưng mới khó
nhọc mở mắt. Cơn đau làm nước mắt trào ra, nhễu xuống ướt đẫm cả chân tóc.
- Mình thấy nóng rẫy trong ngực. Chết mất!
Tớ băng cho Hưng nhưng máu cứ lâm lì thấm ướt hết lần băng này đến lần băng khác. Một viên đạn lạc đã găm vào bả vai anh. Tớ chỉ còn biết đặt anh lên đùi, lật đật làm động tác vuốt nửa bên ngực lành còn lại trong vô vọng. Máu vẫn rỉ rả chảy xuống đùi, thoáng chốc tớ đã ngồi trong vũng máu.
Những lời cuối cùng, Hưng chỉ kể về cô em gái tật nguyền tên Cúc. Khi đó mới biết những đêm anh cặm cụi viết thư
trong ánh đèn ma trơi ấy là viết cho em Cúc.
- Mình chết!... Thiếu thư... Con bé sẽ chết mất! Ngày ấy, mình giằng bát nước lá Trúc Đào trên tay nó... Rồi nghĩ ra những bưc thư của chàng trai ẩn danh và nó đã tin. Chắc nó muốn tin, nó
đã nhồi vào đầu biết bao điều phi lí... Nó
đang tự dối lòng, nhưng biết làm sao? Mắt con bé rưng rưng. Nó cần những lời yêu đương ngọt ngào như cần nước... Bây giờ... chàng trai ẩn danh ấy... là mình... chết. Những bức thư...chết và em gái mình...!
Mắt Hưng lạc đi trong cơn đau. Anh oằn người, cào nắm đất lẫn sỏi bỏ vào miệng. Một viên sỏi vỡ "cốc" nghe khô
khốc lạnh người giữa hai hàm răng nghiến chặt. Anh ngước lên nhìn tớ, ánh mắt như cầu khẩn, miệng mấp máy toan nói nhưng cổ anh đã ngật ra. Cái nhìn đau đáu tạc lại trên khuôn mặt trắng nhợt tựa thạch cao... Cậu có tin không? Tớ gào lên, lu loa như mụ đàn bà xúi quẩy ngoài chợ. Một mình trong rừng với cái xác trên đùi, thân cây đen ngòm như những bộ xương sắp nhảy bổ vào xiết cổ. Tất cả được hiện mờ mờ dưới ánh trăng non nhạt nhẽo hắt xuống đất qua sàng cành cây ma quái. Qua cơn, tớ dùng lưỡi lê hì hục đào đến kiệt sức mới được cái hố nông choèn. Lấp đất xong và nằm qua đêm bên mộ, khi ấy không còn sợ nữa. Tớ nằm ngẫm ra những câu triết lí dở hơi về
sự đau xót của kiếp phù sinh. Tảng sáng tớ lết về với hai chiếc ba lô và hai khẩu súng, mọi người đổ xô tới định băng bó vì thấy người tớ bê bết máu và nồng nặc mùi người chết. Một tuần sau, tớ dở ba lô Hưng xem bức thư cuối cùng anh chưa kịp gửi cho Cúc, bì thư hai lớp. Lớp trong đề: "Thương gửi em Kim Cúc". Lớp ngoài đề: "Gửi chị Thanh Huyền - Báo Phụ Nữ - 47 Hàng Chuối - Hà Nội." Có lẽ đó là người chuyển thư cho em Cúc bằng những lời nói dối hợp lí nhất. Tớ
chép đi chép lại thư này để bắt chước nét chữ và giọng điệu văn chương ngọt ngào mơ mộng ăn sâu vào đầu. Vài tháng sau, khi đã nhập tâm, tớ bắt đầu sắm vai người con trai mang danh "M" gửi thư
cho em Cúc. Nhìn chung, gần như là một gánh nặng. Trước đây tớ tưởng chừng những câu chuyện đại loại thế này chỉ đọc được trong sách vở. Có ngờ đâu rằng, sau này mình lại là nhân vật chính trong câu chuyện tưởng huyễn hoặc như vậy. Xưa nay tớ vốn là thằng lười học văn và viết thư nên đánh vật với những con chữ kiểu thế toát cả mồ hôi. Nhưng luôn nhớ
đến ánh mắt cầu khẩn trong cơn hấp hối của Hưng và thấy ham sống hơn bao giờ hết. Đến lá thư thứ mười ba, chiến tranh kết thúc, tớ trở ra Hà Nội, lần đến nhà Hưng chuyển di vật của người đã khuất. Trông thấy em Cúc, điều đầu tiên là tớ thầm oán trời đất sao nỡ thổi vào cái vỏ tật nguyền một lương tri, một tâm hồn thật lãng mạn? Từ đó, thi thoảng tớ ghé qua nhà Hưng với tư
cách là đồng đội của anh trai Cúc.
Những lá thư vẫn được gửi đi. Hình ảnh cô bé đáng thương cứ lặng lẽ hiện lên trang giấy. Tớ liên tưởng đến hình bóng chàng Trương Chi xưa thấp thoáng trong đáy chén bạch đằng. Từ lúc nào không biết, tớ trở thành hai. Một tớ trong tiểu thuyết tình lãng mạn đóng vai chàng trai ẩn danh viết cho cô bé tật nguyền những lời văn cóp từ những cuốn tiểu thuyết tình ba xu, về một tình yêu mơ mộng không bao giờ có kết cục. Một tớ gần như yêu cô gái vô hình tên Cúc. Nàng ẩn hiện chơi vơi, mặt che khuất bởi một màn voan trắng, chấp chới trên viền là đôi mắt mơ màng mở rưng rưng và
bên trong là đôi cánh môi dưới thắm nồng nũng nịu. Nàng như sương, như mật, như Đức Mẹ!
Thế là tớ ôm ấp một tình yêu không thật. Nực cười làm sao, kẻ đi gieo ảo ảnh cho người khác lại tự ấp ủ ảnh ảo ấy cho chính mình. Rồi công việc cứ cuốn đi, hết luận án phó tiến sĩ đến tiến sĩ, những ca bệnh hối hả, các cuộc hội chẩn, hội thảo liên miên... Không biết bao nhiêu nước đã
chảy qua cầu. Và lẽ ra tớ đã kịp cưới một cô vợ đẹp nếu như
không luôn cảm thấy bên cạnh ảnh ảo kia, bất cứ cô gái nào cũng trở nên dung tục dẫu biết mọi sự so sánh đều khập khiễng..."
Quân đưa tay vuốt mái tóc muối tiêu, một sợi bạc vô tình giắt vào kẽ tay. Anh nhìn nó giây lâu chợt ứa nước mắt.
- Thế mà nay, tớ cũng sắp chết, cũng vắn số như anh trai Cúc. May chăng là có nhiều thời gian hơn để tìm người thay thế, tìm người có đủ lương tri để kéo dài một công việc kỳ dị, nhẫn nại thêu dệt cuộc tình mơ mộng không để cho mình. Việc đó gần như việc làm của một nhà văn và một người điên. Người đó không ai khác chính là cậu!
Tôi hoảng hốt!
- Tại sao? Tớ đã có vơ. Bất tiện lắm!
- Không cãi. Quân lạnh lùng. Chọn cậu vì cậu từng là một người lính. Cuộc chiến vừa qua đã biến chúng ta thành những người kỳ lạ, có thể là quái dị so với lối suy diễn thông tục hiện thời, hơi trái với tự nhiên và khó tin... Song, đó là
sự thật và sẽ là một trong những điểm sáng của những câu chuyện cổ buồn mà đời sau kể về
cuộc chiến vĩ đại vừa qua của những người lính.
- Nhưng.....
- Thôi đi ! Không nhưng nhị gì hết. Đây là lời khẩn cầu của một người sắp chết! Cậu hiểu không?
Quân thui thủi đứng lên không cho tôi tiễn. Và tôi không ngờ cả cuộc chiến tranh lại thường tái hiện trong tôi qua những giấc mơ. Cả đất nước rùng rùng ra trận, chân đi dép lốp, tay cầm súng, ngực đeo những lá thư, những trang văn, trang thơ bay cùng những lá thư thất lạc và không thất lạc, có người nhận và không còn người nhận. Tất cả cứ
bay đầy trời, nhiều hơn cả sao, cả lá rụng. Trong đó tôi thấy mình rất rõ. Vàng bưng, đang chạy, đưa một phong thư
lên miệng ngậm trước khi ngã xuống.
*
Những ngày tiếp sau Quân vàng võ tiều tuỵ, xẹp nhanh như một trái cây héo. Tôi thường bắt gặp anh nằm trên giường ôm bụng lăn lộn, miệng thở ra máu tươi. Lúc được yên ổn một chút anh đọc đi đọc lại những Lá thư gửi cho em Cúc. Một ngày nắng đẹp, gió heo may và hoa cúc ngập tràn phố phường, ngày không ai nỡ nghĩ đến cái chết. Thế mà Quân ra đi. Tôi đẩy cửa vào thăm anh như thường lệ. Quân đã nằm như ngủ trên giường, cánh cửa chớp nhìn ra đường được kéo lên, nắng hiu hắt chiếu vào xác người đàn ông vạm vỡ xấu số. Quân đã chết! Một cái chết được biết và
chuẩn bị trước. Mấy dòng nguệch ngoạc trong cuốn vở mở sẵn trên bàn có lẽ anh giành cho tôi:
"Thời sinh viên hai đứa thường đọc cho nhau nghe Chiếc lá cuối cùng. Có hiểu Chiếc lá
cuối cùng đối với người sắp chết có ý nghĩa thế nào không? Tớ không có chiếc lá đó Tú ạ. Hãy đặt trên bậu cửa nhà em Cúc Chiếc lá cuối cùng Tú nhé!"
Vĩnh biệt bạn thân yêu!"
Tôi mụ mị ra đường, vẫy một chiếc xích lô đi báo tang. Phố phường đặc ngầu tiếng chửi thề. Ngã tư xôn xao chợ ven đường nhốn nháo: Một tên cướp vừa giật chiếc hoa tai của người đàn bà áo trắng, máu loang lổ cả bờ vai. Tưởng rằng chỉ trong chiến tranh mới có máu? Cổng toà án, một cụ già có lẽ thua kiện ngồi bệt bên lề đường, bưng mặt:
"Công lí ơi! Cứu tôi! Công lí đâu rồi, trời có mắt không?". Cách đó không xa, một người đàn ông hồng hào phốp pháp liếc xéo sang, kín đáo cười khẩy trước khi chui hẳn vào chiếc xe con phóng vút, vứt lại đàng sau một cuộn bụi mù mịt. Một thầy tu chân trần niệm nam mô hành khất. Trước cổng nhà thờ vị linh mục đang làm dấu rửa tội cho mọi người. Trong dòng đó, ngày mai sẽ
có chiếc xe tang của Quân hoà vào dòng người mê sảng nặng mùi tục luỵ. Đám tang Quân tôi không trông thấy Cúc. Nhưng khi đám người theo xe tang về hết, tôi ngoái lại, hình như có một bóng chim sâu chon von thấp thoáng sau lùm lá đỏ nơi bia mộ giữa làn khói nhang quặn quẹo. Tôi cứ cảm thấy cái màu đỏ lá cây ấy chập chờn và tôi đồ rằng đó là ảo ảnh. (Báo Văn nghệ)
Lễ vật bên đời
Mùa hạ ở Kon Kring bắt đầu bằng một trận mưa giông xum xuê, sau những tiếng sấm đầu nguồn bạo liệt. Chỉ một trận mưa ngắn mà suối khe, các gộp đá tung bọt trắng, tôm càng và cua đá
tở mở chào đón cuộc giao hoà dịu mát của đất trời. Út Nhân ban nãy chạy ùa vào rừng thẳm, giờ
đột ngột xuất hiện bên kia rặng bồ quân, cười giòn giã:
- Tối nay mình chiêu đãi cả làng!
Rồi cô nhanh chóng thả mình xuống làn nước, hai tay vốc lên, mỗi lần năm bảy con cá suối bằng chiếc đầu tăm, lung linh mầu ngũ sắc, cho chúng ríu ran trườn qua vai, ngụp xuống trồi lên như trẻ thơ chơi trò dã tràng xe cát. Cô tiếp tục thả thêm sự sôi động vào gió nước tưng bừng:
- Thầy lôi cổ giùm ông Lăng xuống phụ em bắt cá!
Út Nhân vẫn là Út Nhân thời xưa cũ, nét hồn nhiên tinh nghịch không thể nào chìm khuất qua rất nhiều năm tháng. Lăng thì cũng không thay đổi mấy, trừ mái tóc lốm đốm, còn lại là sự đa cảm và rụt rè như hồi chưa vợ, đỏ mặt lúng búng giả
vờ không nghe thấyï. Ấy vậy mà đã ngót ba mươi mùa hạ đi qua rồi. Hồi ấy, tôi vừa ở rừng về, cấp tốc được phân công phụ trách một phong trào có cái tên nghe rất oách "Chiến dịch đưa ánh sáng văn hoá về buôn làng". Tôi tổ chức cho cả thị trấn vận đôïng thanh niên địa phương có trình độ đi dạy các lớp bình dân học vụ ban đêm trên núi, trong đó
Út Nhân và Lăng đứng chân ở Kon Kring xa xôi này. Út Nhân lúc đó vừa sắp tú tài bán, ở
Đà Lạt về thăm ngoại, còn Lăng là sinh viên Sài Gòn, nghỉ học từ sau giải phóng. Tôi thao thao bất tuyệt tập huấn cho họ về một số kỹ năng sư
phạm, trong đó có một chuyên đề về phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số, để
khi dạy học, họ đỡ bỡ ngỡ. Giữa hàng chục người tình nguyện nhận sự điều động, Út Nhân nhìn tôi hơi nghi hoặc có lẽ vì cái bộ dạng tôi có vẻ
nửa dân sự nửa quân sự,ï cả quần áo lẫn tác phong. Tôi bị thuyết phục bởi một tính cách có
vẻ cương nghị, hơi thoáng một chút gì u ẩn toát ra từ ánh mắt cô bé, khi cô bạo dạn:
- Em đề nghị rằng tối nay đích thân thầy đưa em và anh Lăng vào ra mắt bà con. Từ thị trấn vào, mất khoảng gần hai chục cây số, già nửa là đường núi gập ghềnh. Khi trèo được qua các bậc đá để
đến bờ con suối này, Lăng ngã vật ra bảo:
- Thôi rồi, hai chân đã rụng khỏi người.
Út Nhân đang mệt cũng phải bật cười:
- Đến rồi anh Lăng ơi, rụng chân gửi suối giữ giùm.
Xa xa, tiếng chiêng đã nổi lên. Cách một quãng rừng, phía hạ nguồn con suối, bên triền thung lũng, bà con đang chuẩn bị đón các thầy cô giáo.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn mường tượng rõ tiếng chào hỏi rộn rịp chân chất của dân làng Kon Kring và cuộc vui ăn cá
suối nướng, uống rượu ghè trong nhà rông. Út Nhân và Lăng ban đầu có ngỡ ngàng một tí
nhưng rồi nhanh chóng hoà
nhập ngay trong các nghi lễ vừa trang nghiêm vừa thân mật của người vùng cao. Nghe bok Đăm mở đầu cuộc hát kể
sử thi, tất cả chúng tôi đều rưng rưng hồi hộp với bản khan hơamon về chàng dũng sĩ biết bay, mỗi chớp mắt là một hừng đông, đi cứu người tình bị nạn trong hẻm đá. Tiếng mang tác. Tiếng vượn đầu non kêu lảnh lói. Tất cả dội vào vách đá mờ xa, vừa man dại vừa ấm áp. Trận mưa giữa rừng khuya như tăng thêm vẻ nồng nàn của bếp lửa. Đêm trôi qua, một đêm sau chiến tranh, dào dạt và đa cảm. Tôi rưng rưng nước mắt cảm nhận tất cả nỗi hoan hỉ của sự
yên bình, có thể ngửi thấy được, sờ thấy được, từ nụ cười của dân làng dưới mái nhà rông cho đến những âm thanh vừa quen vừa lạ ngoài rừng khuya, cả trên đỉnh nóc trời. Mùa hạ ấn tượng sẽ lưu lại trong ký ức Út Nhân bao lâu nữa từ cái đêm huyền thoại ấy. Tôi còn nhớ, khi ấy cô bé lóng ngóng cảm động nhón cốm trên tay, đưa lên mũi hít mùi thơm nếp rẫy, mấp môi theo tiếng hát kể của già làng, lúc mãnh liệt hùng tráng, lúc trữ tình trong vắt. Cô đã thức cho đến khi mưa tạnh, vầng trăng đầu tháng nhô lên phía trên vòm cây ké nơi bến nước đầu làng, hoan hỉ đáp ứng tiếng nói trầm trầm của pá Siu, thôn trưởng: "Hôm nay, bà con chơi cho đến sáng". Út Nhân liến thoắng cho nước suối vào ghè rượu rồi bẹo tai Lăng đang ngoẹo cổ ngủ bên gốc cột: "Nam nhi chi chí đừng ngủ khi cuộc vui chưa tàn".
Cứ thế, suốt cả mùa hạ năm 1975 đáng nhớ ấy, mỗi tháng tôi lên làng một vài bận, mang theo ít gạo mắm và sách báo, chứng kiến cả quãng thời gian say mê của Út Nhân với gió suối trăng rừng, với cuộc đi tìm những giá trị mới của bản thân bằng cách "sơn dã hoá nữ sinh đô thị" như tâm sự của cô. Tôi có bụng mừng vì cô tự nhiên như con sóc con nai, vui tươi nhí nhảnh giữa cuộc sống gian khổ và mới lạ. Có lẽ, mỗi ngày trái tim của tuổi trẻ phố phường thêm một lần được thâu nạp những buồn vui của đời sống đại ngàn nên sự linh động vốn có của cô được khắc thêm những đường nét mới. Tôi nhiều lần ngồi với Út Nhân bên bến nước này, lắng nghe những câu chuyện thân tình của một cô
gái tuổi trăng tròn, mồ côi mẹ. Một lần, Út Nhân tha thiết:
- Giá như thầy là mẹ của em!
Mẹ cô là một đồng nghiệp khả kính hồi tôi còn đi dạy ở trường Bồ Đề đầu những năm bảy mươi. Chị dạy Triết, tôi dạy Anh Văn, thỉnh thoảng trao đổi cho nhau một vài quyển sách mới, dịch hộ cho nhau vài thuật ngữ chuyên môn. Ba Nhân làm kỹ sư công chánh, bôn ba ở Cao nguyên Trung Phần. Thời chiến, gian nguy khó lường, chị gửi con ở với nội trên Đà Lạt rồi về thị trấn quê
nhà dạy trung học. Năm 1972, giải phóng toàn huyện, tôi lên rừng, còn chị thì mất tích trong cuộc di tản.
Tôi hiểu, khi thốt lên những lời như vậy, Út Nhân đã không còn xa lạ với dân trí thức "nhảy núi" chúng tôi. Mới hôm qua, Út Nhân còn nhìn tôi với ánh mắt u ẩn rồi nói thẳng:
- Em rất giận ông cậu, làm gì mới tập kết về, cả nhà chưa hết niềm vui sum họp, đã đùng đùng đem cả tủ sách của ngoại ra nộp cho đội du kích phường "chống văn hoá phẩm ru ngủ, phản động, đồi truỵ". Mấy năm vừa qua, tôi cơ hồ quên với sự bộc bạch kiểu này nên ngượng nghịu dỗ
dành:
- Em nên thông cảm công cuộc xây dựng cơ ngơi mới còn thiếu kinh nghiệm. Cái gì sai rồi sẽ sửa. Cô lặng chìm trong dịu dàng xa xôi:
- Thầy biết không, khi mẹ em không còn trên đời này nữa, ba năm thì mười hoạ mới về
thăm, em đã sống cùng thế
gian này không cô đơn là nhờ tủ sách đó. Đó là Platon, Aristote, Alexandre de Rhodes, Friedrich Hegel, Hemingway...
Rồi cả Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tử, Bách Gia Chư Tử...
Tôi khẳng định một cách kiên quyết:
- Nhất thiết, tất cả kho tàng văn hoá của nhân loại sẽ được tái bản một cách nghiêm túc. Út Nhân đột nhiên gay gắt:
- Nhưng đó là kỷ vật của mẹ em!
Đến đó, Út Nhân ôm vai tôi khóc nấc lên. Lòng tôi chợt dịu đằm lại trong những kỷ niệm xa vời của nhiều năm trước, bên khung trời trường xưa lớp cũ với những đồng nghiệp thân thiết của quãng đời trai trẻ. Quả nhiên, ký ức đã không phụ tôi. Tôi hứa với Út Nhân:
- Ngày mai, tôi sẽ cố gắng bù cho em toại nguyện phần nào.
Tôi về thị trấn ngay trong đêm đó, lục tìm quyển "Nghệ thuật thi ca" của Ph. Aristote có
chữ ký tặng của mẹ Út Nhân và
một cuốn lưu bút bằng bàn tay, có dán ảnh chúng tôi đứng chung trong tập thể hội đồng giáo sư Bồ Đề, giữa vườn dừa, nhân một trại hè. Sáng hôm sau, tôi tức tốc mang vào Kon Kring. Út Nhân hú gọi Tó, một thanh niên người dân tộc, là học trò tiêu biểu trong lớp bình dân học vụ của cô. Anh đến rất nhanh mang theo một ít gừng tươi giã nhỏ. Út Nhân bảo: "Em sẽ săn sóc cho thầy, chân thầy đã sưng tấy lên kìa!". Tôi ở lại tháng cuối cùng, chứng kiến cảnh những người vài ba chục tuổi, tối tối đốt đuốc lồ ô sáng rực cả một quãng núi, đến nhà rông học tập. Út Nhân cầm tay các mí, các pá, nắn nót những chữ a, b, c... Giọng cô trong trẻo:
- Kờ ơ kơ, en nờ I ni. I a ia là nia..., cây kơ-nia ở đầu làng Kon Kring đó!
Tó còn trẻ nên tỏ vẻ lanh lợi, cất lên:
- Buổi sáng em lên rẫy, thấy bóng cây kơ-nia, bóng ngả che ngực em, về nhớ anh không ngủ...
Pá Siu vẫn thường ra ngồi đầu hồi hút thuốc, đôn đốc mọi người học, nói vọng lên:
- Đề nghị trò Tó giữ nghiêm túc, giữa lớp học không được hát!
Tó bẽn lẽn:
- Em xin lỗi cô Nhân, xin lỗi thầy Lăng...
Tó chính là người hằng đêm, sau khi học xong, dịch khan hơamon cho Út Nhân và Lăng. Bản sử thi dài lắm, nghe nói dài từ khi trỉa hạt bắp xuống đất đến khi trổ trái nướng ăn mới hết. Mỗi đêm được bok Đăm già làng hát kể một đoạn. Bữa cơm trưa ngày cuối cùng, cơm gạo ba-rưng, lúa trỉa, hạt đỏ rưng rức như ngọc châu, xới lên thơm phưng phức ăn với canh cải cay và món rau ranh chấm mắm ruột cá niên. Đây là các món mà Út Nhân thực hiện với sự hợp tác của Tó và Lăng, chiêu đãi tôi, thoạt nhìn đã thấy ngon. Để có bữa cơm này, Út Nhân liến thoắng điều khiển Lăng tíu tít:
- Anh bửa củi giúp em! Bửa xong vào nhúm lửa. Bắc ấm nước lên trước bỏ chè tươi nhiều nhiều vô!
Rồi cô rối rít:
- Anh lặt rau mang ra suối rửa! Nhớ lên chỗ đầu nguồn, lựa phía con nước chảy mạnh mạnh đó!
Tôi bảo để tôi giúp một tay. Út Nhân cong cớn nhìn về phía Lăng:
- Nếu anh có ý định để thầy giáo làm sao không bàn trước một tiếng, em và anh ngồi uống chè với nhau cũng được!
Lăng giấu một nụ cười tồi tội sau ống tay áo gạt mồ hôi, lút cút thực hiện mọi yêu cầu của Út Nhân. Sau hồi lâu suy nghĩ, Lăng mới pha trò:
- Thầy đừng mó tay vào kẻo làm hại đến uy tín kẻ sĩ của em!
- Thầy biết không, trên này ảnh hết rủa em là nữ quái đến thím ong mật, mợ ve rền! Út Nhân ta thán. Lăng gắng sức lắm để đáp từ một câu ý nghĩa:
- "Con kiến đen huyền bí" có sức mạnh vô biên!
- Hết cãi nổi lại chê nhau cái nước da! Trời xanh ơi có thấu lòng kẻ sĩ!
Đến nước này thì Lăng chống chế:
- Trong khoa học cũng như trong nghệ thuật, con kiến đen chưa bao giờ thôi được tôn vinh!
- Câu thuộc lòng chỉ đáng điểm năm trừ! Số phận của khoa học cũng như nghệ thuật sẽ
đoản mệnh nếu gặp sự lặp lại!
Lăng hình như hiểu được tình thế của mình, len lét đi ra rẫy. Lát sau, anh ta mang về một cây ớt trái xanh trái đỏ chen nhau, nhẹ nhàng đặt xuống mâm cơm. Tó cũng vừa đến, cõng theo một ghè rượu. Út Nhân đỡ lấy những cần rượu, giúp Tó cắm vào ghe. Cô tinh nghịch trêu:
- Kẻ mời rượu cả ghè, người mời ớt cả cây. Sao chưa ai mang cho ta voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao... Thú thật, lúc đó tôi cũng lờ mờ nhận thấy một điều gì bí ẩn, rất khó mô
tả giữa những người tuổi trẻ nhưng rồi bữa cơm trở thành mở màn cho cuộc tiễn biệt, thỉnh thoảng một vài người vào vít cần mời nên chìm dần trong hơi men, không còn để ý gì nữa. Từ bữa cơm trưa cho đến chiều tối, lần lượt qua tiếng gọi í ới, người cõng mít, người gùi sắn, người địu rượu về
nhà rông. Khi màn đêm buông xuống, tiếng chiêng trống nổi lên tưng bừng và già làng chủ trì một cuộc chia tay kéo dài cho đến khi tiếng gà rừng gáy trên triền núi Cà Tang. Những vệt mây hửng gấp gấp bay. Bây giờ, cơn mưa rừng vừa tạnh, tiếng ríu rít của Út Nhân vẫn cứ trong trẻo và vang như thuở nào trên đường xuống bờ đập Hóc Yang. Mỗi bước đi, chúng tôi một ngỡ ngàng với cảnh vật. Làng Kon Kring nồng đượm của chúng tôi giờ
chỉ còn vang bóng trên mặt hồ rộng ngờm ngợp với làn nước thẳm xanh như một nỗi đợi chờ hoang hoải. Chúng tôi dừng lại hỏi chuyện một người đang xách súng đi từ dưới thuyền lên, anh cho biết làng đã được di dời mười năm có
lẻ, cách đây quãng nửa ngày đường. Thực ra, tôi ở trong tỉnh này cũng có nghe phong thanh việc xây dựng hồ Hóc Yang, nhưng công việc quấn lấy tháng ngày, dễ đã mấy chục năm dư, chưa ai đặt chân về chốn cũ. Vài tiếng chim kêu thảng thốt phía chân mây đang ửng lên bảy sắc cầu vồng, dội lại những âm thanh diệu vợi lan trên những vòng sóng lăn tăn. Út Nhân cất tiếng, không biết nói về tiếng chim hay nói về cảnh huống chúng tôi hiện tại:
- Chim phượng hoàng bay đi tìm rừng tùng cổ tích!
Lăng mơ màng:
- Chim phượng hoàng?
- Đó là một kẻ cho tiếng mà ít cho hình.
Hình như Út Nhân cũng quá trường trải với cuộc đổi thay. Cô bóp trán, mắt nhắm lại giây lát. Mới vừa chớp chớp như
sắp sửa khóc, cô đã trấn tỉnh trổ tài điều khiển Lăng như ba mươi năm trước, thuê một chiếc thuyền nan chèo ra giữa dòng. Thấy Út Nhân hí hoáy định buộc thuyền vào một chiếc vó tre cất giữa dòng, Lăng ngửa mặt lên trời buông một lời có cánh:
- Bà này đang giải quyết mối quan hệ của hai khái niệm tự do và ràng buộc!
Nhân còn chìm trong hồi tưởng:
- Làng cũ ở bên dưới gọng vó này!
Rồi cô ngước lên vầng da chiều đỏ ối:
- Chuyện xưa còn mãi trên mây cao! Em không quên được thầy, quên được anh Lăng... Lăng như sống lại cảnh ngộ ba mươi năm trước:
- Và bữa cơm con gái vua Hùng...
Út Nhân vụt miệng:
- Không, con kiến đen huyền bí!
Lăng nhanh nhẩu:
- Kẻ tiện sĩ xin đa tạ ghi nhận của công nương dù đã quá muộn mằn!
- Thời gian không bỏ rơi ai, trừ những người vung vãi nó.
Sau đợt công tác ở Kon Kring, Út Nhân về ở với ngoại mấy tuần nữa. Hồi đầu hạ, từ Đà Lạt về, cô đã có ý định hồi hương học tiếp ở trường trung học thị trấn. Thế nhưng, cơ sự lại không được như ý. Sau đợt dạy bình dân học vụ, những tưởng Út Nhân sẽ rất vui vẻ đón chào quãng đời mới tươi đẹp ở quê nhà, nào ngờ tai vạ giáng xuống đầu cô, gây một cú sốc khủng khiếp. Không biết từ
đâu xuất hiện một cái tin đồn kín kín hở hở là mẹ Út Nhân bị cách mạng trừng trị năm 1972 vì tội làm thông ngôn cho địch. Cái thị trấn nhỏ như lòng bàn tay bỗng chốc lại nóng lên. Bức xúc quá, tôi hỏi một vài người có trách nhiệm, kẻ bảo ông nọ bà kia của ta đã xác nhận, người nói một cách bí hiểm rằng có hồ sơ lưu của Mỹ ngụy. Vì tương lai của Út Nhân, chính tôi đã viết một bức thư hết sức tỉ mỉ gửi cho huyện trình bày về nhân thân của mẹ Út Nhân. Thư tôi viết khoảng năm trang giấy, ngoài những ấn tượng đẹp với người đồng nghiệp cũ, trong đó có kể về cuộc giao thiệp với bọn Mỹ để thả những lương dân, chúng chở về bằng trực thăng nhốt ở chi khu, sau đợt càn quét vùng giáp ranh. Tôi bảo do chính tôi đã chủ trương việc này, vì hồi ấy chỉ có tôi và mẹ Út Nhân là
người địa phương thông thạo Anh ngữ, công khai kiến nghị với bọn chỉ huy Mỹ. Sự thực thì công việc ấy mang lại kết quả, có lợi cho cách mạng vì toàn bộ những đồng bào cơ sở đã được phóng thích. Tôi đã từng báo cáo việc này cho ông bác của Lăng, lúc ấy là cơ sở đầu mối các hoạt động ở thị trấn. Còn việc mẹ Út Nhân mất tích năm 1972 thì không dính dáng gì đến việc trước. Cuộc chiến tranh khủng khiếp luôn có những ngẫu hứng tàn bạo trên mọi số phận con người. Phải nói, trong đời sống có những việc thật không lường hết được. Tôi gấp rút được cử đi học một khoá bồi dưỡng cán bộ quản lý dài hạn ngoài Hà Nội. Nếu đàng hoàng ra, tiêu chuẩn đi học là của cốt cán chứ tôi có nằm mơ cũng vài ba năm nữa mới tới lượt. Nhưng chẳng hiểu sao, ban tổ chức huyện đánh quyết định gấp rút giành cho tôi. Trước khi đi, ông bác của Lăng có gặp tôi thật hớn hở: "Chúc đồng chí có nhiều tiến bộ sau này về góp phần xây dựng quê
hương". Rồi ông cười nụ cười thật khó hiểu.
Tôi còn nhớ thời gian đó, Lăng bươn bả đi tìm Út Nhân trên Đà Lạt nhưng không gặp được. Nghe nói, Nhân đã
chuyển vào đồng bằng sông Cửu Long với ba. Trên đường về, Lăng có gặp tôi, than thở. Tôi hết sức bất ngờ và chắp nối các mẩu chuyện lại với nhau. Tôi khuyên Lăng thôi thì tìm cách nối lại sự học bị đứt đoạn, các chuyện khác cứ từ
từ, thời gian sẽ trả lời cho mọi nỗ lực.
Trên đường lên tàu ra Bắc, tôi đã lờ mờ nhận thấy uẩn khúc của câu chuyện hình như có
một rắp tâm nào đó, từ ông bác của Lăng. Tôi nghiệm ra rằng mọi sự nhiêu khê, từ vụ phao tin đồn nhảm đến việc ly gián tôi một thời gian, tất cả
đều nảy sinh từ chuyện ai đó kiên quyết không để Lăng giao thiệp với Út Nhân, thế thôi. Tôi đã có ý định một lúc nào đó, gặp lại cả Lăng và Út Nhân, sẽ nói với hai người những lời có ý
nghĩa và tích cực hơn đối với đời sống của họ. Nhưng rồi cuộc sống xô đẩy chúng tôi ra ba chân trời xa lạ, những người bạn mới, môi trường mới, tương lai mới. Quê hương nằm trong ký ức như
một mảnh trăng đầy, lặng lẽ sáng ở những góc sâu kỷ niệm. Tôi về tỉnh. Lăng thì bỏ ý
định ở lại thị trấn xin việc, tiếp tục tìm đường nối lại mộng ước khoa học, tốt nghiệp ở lại giảng dạy ở một trường đại học tỉnh bạn. Còn Út Nhân thì biệt vô âm tín. Sau đó, chúng tôi được nghe danh cô trên báo, sang làm nghiên cứu sinh bên Pháp, trở thành nhà khoa học về năng lượng mặt trời. Thế là lặng lẽ mừng. Lăng bộc bạch như trong mơ:
- Thực ra, tôi chỉ là mẫu người tận tuỵ mà Nhân lại hết sức lãng mạn...
- Nói thật với thầy và anh Lăng, không lãng mạn được thì em chết mất. Lăng như tự vấn:
- Cả một lề thói cũ tưởng trôi theo rều rác, lại núp bóng cái mới úp chụp xuống đầu em. Tôi đồng tình:
- Gọi là gì nhỉ? Nhân danh... Ờ, nhân danh cái này cái nọ để làm điều khuất tất thì thời nào cũng có. Nhưng các em ơi, dẫu sao chúng ta cũng phải...
- Cảm ơn ngàn lần quê hương đã rèn luyện cho em và ông Lăng biết đứng dậy mà đi - Nhân tiếp lời tôi như một hồi chuông - Ở một ngôi làng nhỏ, em đã tiếp nhận những bài học lớn. Lăng cười thành tiếng:
- Đi một mạch ba mươi năm ta gặp lại mình!
Cuộc gặp gỡ của chúng tôi là do Út Nhân chủ động đứng ra tổ chức. Nhân huyện mời đại biểu là các nhà khoa học con em địa phương về hội thảo " quê hương trên đường phát triển", Út Nhân về thăm quê với dự án lắp thiết bị dùng điện năng lượng mặt trời cho bà con dân tộc. Còn Lăng thì dự định giúp cho việc đào tạo con em miền núi về công nghệ thông tin. Út Nhân và Lăng gặp nhau trên tỉnh, cả hai tung tăng đến thăm tôi. Tôi chưa hết ngỡ ngàng trước cuộc trùng phùng thì Út Nhân đề nghị trước khi về huyện, chúng tôi phải hành hương về Kon Kring, coi như ôn lại kỷ
niệm cũ
.
Út Nhân trên bốn mươi mà vẫn trẻ trung, linh hoạt, tự lái chiếc Mercedes đen bóng đưa chúng tôi đi. Thấy hai bạn trẻ, bạn nào cũng chững chạc, tự tin, đầy sức sống, tôi mừng cho người quê nhà thành đạt nơi xa xứ. Sớm nay, Lăng đã
trêu Út Nhân:
- Hồi bà lấy tôi thì chỉ chồng cán bộ xã, vợ nội trợ.
Út Nhân bảo Lăng:
- Đằng nào cũng nên về viếng mộ ông bác của anh.
Rồi cô nói với tôi:
- Thầy còn nhớ thầy đã cho em kỷ vật của mẹ em. Bao nhiêu ngày trong rừng, em và anh Lăng cố gắng tìm hiểu những nguyên lý cao xa của những khái niệm mỗi đời người. Cô tiếp tục hồi tưởng:
- Ở Kon Kring, chúng em còn học được những phép lạ của đời sống. Em và anh Lăng đã
từng nhặt mỗi người một hòn sỏi trắng bên suối làm kỷ niệm. Em đã giữ đến bây giờ, mỗi khi thiếu dũng khí, em đã bóp chặt nó trong lòng tay. Tôi vụt miệng:
- Không có những kỷ niệm giản đơn như vậy, làm sao Út Nhân đam mê lấy lửa từ mặt trời. Chúng tôi thanh thản ngắm những làn mây trắng sà vào lòng hồ Hóc Yang. Hình như sự yên lặng dịu dàng đã kết nối chúng tôi với trời và đất.
(Báo Văn nghệ)
Copyright by
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top