Truyen ngan hay tuoi tre CN

Truyện ngắn hay Tuổi trẻ Chủ nhật

Một ngày vui vẻ

TTO - Gửi truyện ngắn cho TTCN, Phạm Ngọc Cảnh Nam gửi kèm theo hai câu "thơ" rất... dở:Nếu in được thì in sơm sớm. Để có tiền nạp học phí cho con!

Lý do của người viết văn đưa ra nghe như một thôi thúc buồn. "Thơ" thì thế... May mà Một ngày vui vẻ lại đầy kịch tính. Người đọc tự hỏi, liệu có vui được chăng khi lòng chân thật không tìm được chỗ đứng trong mối dây ràng buộc giữa những người thân yêu?

TN

Hoàng từ phòng tắm bước ra đột ngột, tóc ước sũng chảy ròng ròng xuống chiếc khăn lông sặc sỡ quấn quanh người. Ông nhăn mặt, lau khô tóc rồi mặc quần áo. Ông đến trước gương, nhìn khuôn mặt hum húp của mình với một cảm giác xa vắng. Ông nắn nót cà vạt, nở nụ cười thật tươi, thấy mình vẫn còn trẻ lắm. Ông mang nụ cười trẻ trung ấy ra bancông.

- Mấy giờ rồi? - Ông hỏi chị giúp việc.

- Đúng bảy giờ, thưa ông chủ. Hôm nay ông chủ tắm nhanh vậy?

- Nước hôi mùi clo quá?

Trong mắt Hoàng, buổi sáng trong trẻo và sâu lắng vẫn còn mang dư vị uể oải một cách dễ chịu của đêm qua. Bữa điểm tâm đã dọn sẵn trên chiếc bàn trải khăn trắng đặt dưới giàn hoa viôlet. Hoàng ngồi vào ghế, cảm nhận được niềm vui tươi tỏa ra từ những tia nắng ấm áp chan hòa trên những ngọn cây thiên tuế. Lúc ấy, Thủy cũng đã trang điểm xong, nhẹ nhõm bước ra. Cô mặc chiếc váy trắng, in những bông hoa to màu tím nhạt rất hợp với nước da trắng mượt của mình.

- Hôm qua anh về khuya quá! - Thủy nói.

- Em có thấy là hôm nay nước máy nồng nặc mùi clo không? - Hoàng hỏi.

- Vâng! Nước ở đây thỉnh thoảng vẫn có mùi clo.

- Lát nữa, em gọi điện cho tay giám đốc công ty cấp nước thành phố, bảo cho hắn biết là trong nước của hắn nồng nặc mùi clo.

- Em sẽ gọi. Tối qua anh đi với ai vậy?

- Bảo cho hắn biết rằng nước của hắn không đạt tiêu chuẩn nước sinh hoạt, rất có hại cho sức khỏe của nhân dân.

- Em sẽ bảo hắn. Tối qua anh đi với ai vậy?

- Mấy ông Hàn Quốc.

- À nó muốn gì?

- Đòi chia 50% tiền lãi.

- Anh đồng ý không?

- Đồng ý.

- Liều quá!

- Bù lại, nó cho mình hùn vốn vào dự án SUN. Anh đã mua 20 cổ phiếu của nó. Một trăm nghìn đô!

- Mua cho công ty?

- Không, mua cho em.

- Xạo!

- Anh sẽ đưa hết cho em. Anh tặng em mấy cổ phiếu đó, được chưa?

- Nhất sếp... nhì trời rồi! Thank you very...

- Thủy cúi người hôn vào môi Hoàng - Vợ anh biết thì sao?

- Em đứng tên cổ phiếu!

Điện thoại trong túi áo Hoàng reo. Ông lấy máy ra đưa cho Thủy rồi tiếp tục ăn.

- Món trứng bữa nay ngon tuyệt! - Hoàng nói.

- Alô! Vâng! - Thủy nói vào điện thoại cầm tay - Năm phút nữa gọi lại!

Thủy cúp máy, để xuống bàn.

- Trứng gà ta, em gởi mua tận Hóc Môn đấy! - Thủy nói, và bắt đầu ăn phần của mình.

- Anh tặng em những cổ phiếu ấy, mừng sinh nhật thứ hai mươi sáu của em - Hoàng nói và đẩy đĩa trứng đã ăn xong qua một bên.

Điện thoại reo, Thủy cầm lên:

- Alô! Vâng! - Cô nói - Tay trợ lý gọi anh.

Thủy đưa điện thoại cho Hoàng. Ông chậm rãi hớp một ngụm cà phê rồi mới áp máy vào tai. Đôi môi ông đóng một lớp mỡ bóng lên chưa kịp lau.

- Báo cáo sếp! - Tay trợ lý nói trong điện thoại - Chín giờ công ty X sẽ đến ký hợp đồng. 10 giờ 30 làm việc với ngân hàng đầu tư. Khả năng họ có thể giải ngân 60% cho ta.

- Tôi đã bảo tám mươi kia mà! - Hoàng nói to.

- Vâng! Em đã cố hết sức, nhưng không được!

- Chiều nay? - Hoàng hỏi.

- Thưa anh, chiều họp sơ kết tháng.

- Cậu kiểm tra lại tổ một và tổ ba cho tôi.

Hoàng bỏ máy xuống, tiếp tục nhấm nháp cà phê. Ông vui vẻ nhìn vẻ đẹp lộng lẫy của Thủy. Những tia nắng lấp lánh xuyên qua giàn hoa viôlet, lốm đốm nhảy nhót trên bờ vai trần mướt như ngọc bích của cô. Năm ngoái, Hoàng đã mang cô ta từ bệnh viện về đây. Tốt nghiệp bác sĩ, nhạy bén và rất giỏi tiếng Anh. Gặp Hoàng, Thủy bỏ nghề để về làm thư ký riêng cho ông.

Điện thoại reo. Thủy cầm lên, mắt nhìn Hoàng.

- Alô! Em đây! Vâng! - Thủy đưa máy cho Hoàng, nói - Vợ anh.

- Vâng! Cái gì? - Hoàng nói vào máy - Mới chiều qua hả?

- Dạ, hiện giờ mẹ vẫn còn mệt - Vợ Hoàng nói trong máy - Bà cụ hỏi anh đi đâu. Bà muốn gặp anh.

- Em gọi bác sĩ Hòa đến xem cho mẹ! - Hoàng nói - Bảo anh ta ở đó trông chừng, không được đi đâu cả.

- Bác sĩ Hòa hiện đang ở đây. Anh muốn gặp không?

- Thôi khỏi.

- Khi nào anh về?

- Chưa biết được. Có lẽ tối nay. Thôi, hôn em!

Hoàng cất máy vào túi áo, rồi xem đồng hồ.

- Bà cụ thấy hai ngày anh không về nên làm nư! - Ông vừa nói vừa cười - Thôi mình đi em!

Đến chỗ đầu cầu thang, Hoàng kéo Thủy vào lòng và hôn cô thật lâu. Người tài xế đã đánh xe chờ sẵn dưới sân, lật tay xem đồng hồ. Anh nóng nảy nhấn nhẹ một tiếng còi.

Hoàng đến công ty lúc tám giờ. Nắng Sài Gòn đã bắt đầu gắt. Tòa nhà Mexco của ông nằm bệ vệ dưới ánh mặt trời, cao to lộng lẫy, nước sơn màu kem tỏa sáng. Người bảo vệ kính cẩn mở cánh cổng sắt ra. Tài xế đỗ xa ngay trước thềm. Hoàng bước nhanh về phòng làm việc. Nhân viên công ty thấy ông, kính cẩn cúi chào và đứng né sang một bên. Căn phòng có gắn máy lạnh, đem lại cảm giác sảng khoái ngay sau khi ông vừa bước vào. Người trợ lý đã để sẵn kẹp giấy tờ trình ký và những hồ sơ cần giải quyết trên bàn làm việc. Hoàng đi lại chỗ dàn máy Compaq đặt ở góc phòng, bỏ một đĩa nhạc nhẹ, chỉnh âm thanh vừa đủ nghe, rồi ngồi vào bàn, bắt đầu làm việc.

Điện thoại trong túi áo reo. Ông bực bội lấy máy, áp vào tai.

- Hello! Ba đó hả? - Diễm, con gái đầu của ông, gọi - Ba đang ở đâu vậy?

- Nhớ ba quá hà! Mấy bữa rầy ba đi đâu?

- À, ba bận công việc. Con ghé lại chỗ ba đi, được chưa?

- Ok! Ba dễ thương quá trời!

Hoàng để máy điện thoại xuống bàn, lắc đầu nhếch nửa miệng cười. Ông xem lại các hóa đơn thanh toán, rồi ký. Thủy mang vào cho ông một ly trà sâm ướp lạnh.

- Bao giờ đi Seoul? - Thủy hỏi.

- Tuần tới.

- Gồm những ai?

- Chỉ anh với em.

- Đi như vậy mệt lắm!

- Chủ yếu là đi chơi. Tất cả đã xong ở đây rồi.

- Cũng phải xem qua nhà máy của họ nữa chứ?

- Tất nhiên! Nhưng đó chỉ là nghi thức.

- Anh nên bảo trợ lý cùng đi.

- Em muốn... vậy à? - Hoàng nhìn vào mặt Thủy, hỏi.

- Để anh ta nắm tình hình cơ sở thiết bị và công việc làm ăn của họ - Thủy nói và nhìn vào ly trà sâm.

- Cũng được. Em bảo nó chuẩn bị đi.

Thủy ra khỏi phòng, vừa gặp Diễm đang tung tăng đi vào.

- Hello! - Diễm nói - Có ba em trong đó không?

- Có. Em vào đi!

Diễm vào, đi thẳng lại chỗ bàn làm việc của Hoàng. Ông bỏ mắt kính ra, nhìn con gái với vẻ lạ lẫm.

- Chào con! "Mát mẻ" dữ! - Hoàng nói.

- Ứ ừ! Đâu bằng cô Thủy của ba! - Diễm lườm ông, nói.

- Được rồi! Con học hành ra sao?

- Very tốt!

- Còn tiền tiêu không?

- Ba dễ thương quá!

Hoàng nhếch nửa miệng cười, mở ngăn kéo, lấy đưa cho Diễm một xấp tiền. Nó cầm lấy, đếm cẩn thận rồi nhăn mặt.

- Cho đủ năm triệu đi, ba!

- Con...! - Hoàng trừng mắt.

- Thôi! Hổng thèm! - Diễm quăng xấp tiền trên bàn, dợm quay ra.

- Được rồi! - Hoàng mở ngăn kéo, đếm tiền thêm cho Diễm. Ông nói tiếp - Làm sao đó thì làm, nhưng chớ quên hai điều ba dặn.

- Rồi! - Thủy nói - Một là, năm nay phải tốt nghiệp đại học. Hai là, coi chừng SIDA. Ba thấy con "thuộc bài" không?

Diễm nhảy lên bá cổ, hôn vào má Hoàng, rồi nó nhún nhảy, ngúc ngoắc mông đi ra khỏi phòng. Hoàng nhìn theo, ngạc nhiên thấy con gái mình quá xinh đẹp trong chiếc quần jean ôm và áo chẽn ngắn đến trên rốn, chỉ che phần dưới bộ ngực khá nở nang. Bạn trai của nó, hớt tóc đinh, một tai đeo khoen vàng, đang ngồi trên chiếc Bonus đen bóng chờ trước cổng. Diễm nhảy phóc lên ngồi phía sau, ôm chặt eo ếch gã.

- Go! - Nó nói.

- Lần này xong, em đặt vòng luôn đi! - gã nói.

- Ok!

Chiếc Bonus rú ga, lồng lên, rồi vọt tới biến mất giữa đám xe cộ nhộn nhịp trên đường phố.

-... Việc khen thưởng tháng này, lát nữa đồng chí Tùng sẽ công bố chi tiết - Hoàng nói, trong buổi họp toàn công ty lúc ba giờ chiều - Ai đi trễ, ai không làm thêm giờ, ai không hoàn thành nhiệm vụ sẽ không có thưởng. Nếu ở trong diện được trợ cấp tháng trước, tháng này cũng cắt. Công ty ta hiện còn nợ nần nhiều, chúng ta phải cố gắng nhiều hơn nữa, lao động quên mình hơn nữa. Ai lôi thôi sẽ cắt thi đua...

Hội trường rộng, chật ních người. Hai chục cái quạt trần quay cật lực. Nắng nóng và mùi hôi của hơn một nghìn con người bốc lên chua chua, nồng nồng. Lọ hoa đặt trên bục, trước mặt Hoàng, Thủy đã cắm chung hoa đồng tiền với hoa thạch thảo một cách rất đẹp.

Hoàng trở về phòng làm việc, đem toàn bộ hồ sơ liên doanh với Hàn Quốc ra xem xét lại. Có tiếng gõ cửa phòng.

- Vào đi! - Hoàng nói.

Người trợ lý của ông bước vào. Anh ta vận comlê xanh đậm, cà vạt xanh nhạt thon dài, tóc hớt ngắn, mặt trắng trẻo hơi ngẩng lên. Điều ấy đã gây cho Hoàng một ấn tượng không mấy dễ chịu.

- À, cậu Quang! - Hoàng nói - Cậu cân đối lại cái này cho tôi.

Ông đưa xấp hồ sơ cho Quang.

- Báo cáo sếp! - Quang nói - Vòng chung kết cuộc thi hoa hậu tối nay, sếp trong ban giám khảo, phải đến trước ba mươi phút đấy.

- Cái luận án cao học của cậu tới đâu rồi? - Hoàng hỏi.

- Dạ, còn chờ kết luận.

- Cái gì nhỉ? Đề tài... ấy mà?

- Dạ, những bài học từ đặc điểm phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc - Quang nói.

- Hay đấy! Cô Thủy có bảo cậu chuẩn bị đi Seoul với tôi chưa?

- Thưa sếp, rồi ạ!

- Tôi thương cậu chịu khó học tập. Tuổi trẻ phải thế. Nhân tiện, tôi báo cậu một tin mừng.

- Dạ...

- Công ty sẽ đứng tên chính thức tài trợ cho luận án của cậu. Đề xuất của cậu về các mô hình liên doanh với Hàn Quốc sẽ nằm trong kế hoạch phát triển công ty. Cậu phải giữ bí mật.

- Dạ...

- Cậu lên kế hoạch kinh phí. Chuyến đi Hàn Quốc này cũng nằm trong chương trình tài trợ nghiên cứu cho cậu. Được chưa?

- Rất cảm ơn sếp!

- Tôi đang xem xét để cậu làm đại diện chính thức cho công ty tại Hàn Quốc.

- Dạ...

Quang quay ra. Hoàng nhận thấy chiếc áo sơmi của anh ta mặc bữa nay thật là trắng tinh. Điện thoại cố định trên bàn làm việc của Hoàng reo. Ông cầm máy nghe.

- Anh đấy hả? - Tiếng vợ ông trong điện thoại - Em gọi để báo anh biết mẹ khỏe rồi, trưa nay ăn được hai bát cơm. Em đang đưa mẹ ra ngoài đổi gió đấy.

- Em chu đáo quá! Em khỏe không?

- Tối nay anh có về nhà không?

- Anh sẽ về! Hơi trễ một chút, vì phải chấm chung khảo...

- Em biết! Anh nhớ giữ sức khỏe! Bye bye!

Hoàng gác máy, một tay chống cằm, nghiêng mặt nhìn qua một bên, nghĩ ngợi. Mặt trời chiều, chiếu ánh sáng nhàn nhạt qua cửa kính, đến tận chỗ bàn khách, trông buồn buồn.

Vòng chung khảo cuộc thi hoa hậu sắp kết thúc. Ông Hoàng bệ vệ trong bộ comlê màu vàng nâu, cà vạt hoa to màu huyết dụ, ngồi giữa hàng ghế đầu. Sân khấu hành tráng, lộng lẫy, tưng bừng hoa và nhạc. Lúc ông Hoàng, đại diện bên tài trợ cuộc thi, lên sân khấu để trao vương niệm cho hoa hậu, ông trông thấy một giọt lệ long lanh nơi khóe mắt người đẹp. Cô bé đẹp quá! Giọt lệ của cô làm ông xốn xang. Chẳng có nghĩa gì cả, nhưng điều ấy đã khiến ông chợt nhận ra nỗi u ám trong lòng mình. Trong lúc ông choàng vòng hoa nguyệt quế vào cổ hoa hậu, thì Hà tắt tivi.

- Bốn mươi phút nữa, ông ta sẽ về tới nhà - Nàng nói.

- Vậy thì anh về đây! - Bác sĩ Hòa nói.

- Vâng! Chúc anh ngủ ngon! Nhớ gọi điện cho em nhé! Bye bey!

Khi Hoàng về tới nhà đã gần mười hai giờ khuya. Hà mặc chiếc áo ngủ bằng sa tanh mỏng màu hồng nhạt, đang nằm đọc sách. Ông bước tới hôn vào trán nàng.

- Em thức khuya vậy? - Ông hỏi.

- Em chờ anh về! - Hà nói - Anh đi tắm đi! Em có nấu súp yến cho anh đấy.

- Hay lắm! Súp yến hả? Em thật điệu!

Lúc nằm ngâm mình trong bồn tắm, Hoàng lại nhận ra mùi clo nồng nặc trong nước. Ông tắm vội cho xong, rồi bước ra ngoài. Hà mang đến cho ông một bát súp nóng hổi.

- Tắm nhanh vậy? - Hà hỏi.

Hoàng làm thinh, ăn súp yến. Món súp ngon khiến Hoàng dễ chịu lại. Ông lên giường nằm, lôi đống giấy tờ báo chí để ở ngăn tủ đầu giường ra.

- Có gì không? - Hoàng hỏi.

- Có hai cái phong bì gửi cho anh - Hà nói.

Hoàng tìm mấy cái phong bì trong đống giấy báo. Ông cầm một cái lên, lôi ra một xấp đôla, kèm theo một bức thư ngắn. Ông đọc thư.

- Thằng keo kiệt! - Ông nói - Nó đưa mình có mười ngàn!

Ông cầm phong bì thứ hai, cũng lôi ra một xấp tiền đô, kèm một bức thư ngắn. Ông đọc thư, và mỉm cười.

- Em cất tiền đi! - Ông nói, rồi vớ mấy tờ báo đọc qua các tít lớn.

- Chiều qua anh Sáu đến chơi - Hà nói. Nàng lên giường nằm, quàng tay ôm lấy ông - Ảnh nhờ anh nhận thằng Dũng về công ty.

- Nó tốt nghiệp rồi à?

- Tốt nghiệp hạng khá. Chờ mãi không xin được việc làm.

- Được rồi! À, mà khoan đã!

- Sao vậy?

- Để xem!

- Chỗ bà con, vợ chồng ảnh cũng nghèo quá! Anh cố gắng...

- Nó có giống bố nó không? - Hoàng hỏi.

- Giống cái gì?

Hoàng làm thinh. Hà siết nhẹ ông vào lòng. Hoàng nhắm mắt, ngạc nhiên nhận ra thân hình vợ mình vẫn no tròn, chắc lẳn như con gái.

Hà đưa tay vuốt tóc ông. Mái tóc ông dày bồng bềnh.

- Tắt đèn đi, em! - Hoàng nói, và chợt nhớ ra đã hai tháng nay chưa nhuộm lại tóc.

Hà tắt đèn, gối đầu lên ngực chồng. Và trong bóng tối, nàng ngạc nhiên không hiểu vì sao lại có một giọt lệ nóng trào ra ở khóe mắt mình.

PHẠM NGỌC CẢNH NAM

Mợ Thanh

TTO - Đứa cháu trai là chứng nhân cho bao thăng trầm trong đời sống hôn nhân của người mợ. Không hề có một "happy end", chỉ là dư vị đắng nghét của mất mát, khổ đau và lầm lẫn... Khi viết truyện này, Bình Nguyên Trang (bút danh của Vũ Quỳnh Trang) đang là sinh viên lớp báo viết của Phân viện báo chí tuyên truyền Hà Nội.

PK

Mợ Thanh về làm dâu nhà bà ngoại tôi năm mười sáu tuổi. Cậu tôi mê mợ từ buổi mợ hát chèo ở thôn Vân. Mợ Thanh người hơi gầy, nổi bật ở cái trán bò liếm hơi dô. Tóc mợ Thanh dài ngang gối. Cậu tôi rất tự hào về mái tóc của mợ.

Mợ Thanh là người chăm chỉ nhưng hẹp hòi. Bởi thế đằng ngoại nhà tôi chẳng ai quí mợ ấy. Bà tôi thường bảo: "Ăn của con Thanh cái gì tao lo ngay ngáy. Nó chẳng biếu không đâu". Nhưng mợ Thanh cấy giỏi nhất làng. Bàn tay thoăn thoắt của mợ ai nhìn cũng thích. Hơn thế, Mợ ăn nói lại rất ngọt ngào. Người khó tính như bố tôi cũng phải thốt lên rằng: "Về khoản ăn nói, mẹ mày xách dép mà đuổi mợ Thanh nhé".

Nhà tôi ở cạnh nhà cậu mợ. Cậu tôi đi biền biệt hằng năm. Cậu tôi đi buôn luồng, nứa từ miền ngược xuống. Tiếng là chị chồng em dâu gần kề, nhưng mẹ tôi và mợ Thanh không ưa nhau. Mẹ tôi không thích cái kiểu đo lọ muối đếm củ dưa hành của mợ Thanh. Mẹ tôi vốn rộng rãi và bộc trực. Từ đận con lợn nhà tôi sổng chuồng ra ăn sạch vườn rau nhà mợ, mợ cứ nói vào nói ra khiến mẹ tôi bực và giận, rồi chẳng đếm xỉa gì đến mợ Thanh nữa.

Cậu mợ tôi ăn ở đúng mười năm, đến khi mợ Thanh hai mươi sáu tuổi mà chưa sinh được mụn con nào. Chẳng biết tại ai. Bà tôi vốn ghét mợ thì bảo rằng tại mợ ăn ở không có trước có sau nên giời phạt. Cậu tôi mãi làm ăn nên không quan tâm đến chuyện đó mấy. Cậu bảo không đẻ được đứa nào thì xin chị Thảo thằng Cò về nuôi. Tôi phải mở ngoặc mà nói thêm rằng chị Thảo ở đây chính là mẹ tôi, còn thằng Cò chính là tôi. Tôi có cái tên khác nhưng cậu thích gọi tôi là thằng Cò từ nhỏ. Mợ tôi tất nhiên là không muốn nên vẫn lén lút đi chữa bệnh ở nhà một ông lang băm. Bà mẹ nào chả mong có đứa con sinh ra bằng máu thịt của mình.

Cậu tôi tính xởi lởi thế nhưng hay ghen lắm. Chuyến nào đi xa cậu cũng gọi tôi sang thết một bữa thật ngon, rồi có cả mợ bên mâm cơm, cậu bảo:

- Cậu đi vắng, thằng Cò sang ngủ với mợ, trông nhà cho mợ kẻo mợ sợ ma. Thằng cò mà ngoan, cậu về mua cho một lồng chim to bự như nhà ông Sáng ấy.

Tôi dạ ran vì cứ hình dung ra một lồng chim to đùng với đủ loại chim nhảy múa là tôi sướng lắm rồi.

Năm ấy tôi mười một tuổi.

Cả bà và mẹ tôi đều cho rằng cậu tôi làm thế là rất khôn ngoan. Đàn bà hơ hớ như mợ Thanh chồng lại đi vắng, biết đâu đấy...

Tôi ở riết bên nhà mợ Thanh. Được cái mợ Thanh rất quí tôi. Bởi tôi làm cho căn nhà của mợ đỡ đơn điệu hơn. Ban ngày tôi loăng quăng lúc bên nhà mợ, lúc bên nhà mình. Mặc dù mẹ tôi không yêu mợ nhưng tôi thì lại yêu quí cả hai người. Tôi nhận thấy mợ Thanh thích chăm chút tôi. Đêm đêm tôi rúc đầu vào nách mợ mà ngủ. Tôi thích được mợ xoa lưng và lẩm nhẩm hát chèo. Cảm giác yên ổn từ bầu ngực căng nóng với hơi thơ thoảng hương bồ kết của mợ quyện vào giấc ngủ của tôi quen thuộc và ấn tượng đến mức khi trở thành chàng trai hai mươi lăm tuổi, tôi vẫn không thể nào quên được.

Cậu tôi sau mỗi chuyến đi xa lại trở về khoảng dăm mười ngày. Những ngày cậu ở nhà, mẹ gọi tôi về ngủ với mẹ nhưng tôi lại muốn ngủ bên nhà cậu. Cậu cười hì hì nói với mẹ tôi rằng: "Chị cứ để thằng Cò ngủ bên này. Được rồi". Tôi đòi nằm giữa, cậu mợ đồng ý ngay. Thế mà sáng dậy tôi cứ thấy mình nằm trong cùng. Cậu hài hước bảo: "Đêm qua Cò ngủ mơ, trèo cả qua người cậu". Tôi cũng tin ngay.

Rồi cậu tôi lại ra đi. Cây bồ kết đầu ngõ qua mùa hoa đậu những chùm quả lúc lỉu. Cái mùi hương bồ kết từ mợ cứ ám ảnh tôi, như một thứ ma lực kinh khủng. Sau này tôi nghĩ rằng tôi không yêu cô gái nào nếu nàng không gội đầu bằng bồ kết.

Tôi đã úp mặt vào ngực mợ Thanh mà ngủ yên lành suốt thuở thiếu thời như vậy.

Đầu những năm chín mươi bỗng rộ lên phong trào đi đào vàng. Chẳng biết vàng ở đâu lắm thế mà người ta lũ lượt kéo nhau đi. Có người đi vài năm về bỗng dưng giàu nứt đố đổ vách. Người chết vì sập hầm cũng lắm nhưng điều đó không làm người ta kinh sợ. Ở cái làng quê ngột ngạt suốt đời vùi mặt với ruộng đồng này, con người muốn đổi đời chỉ có cách nhanh nhất là đi đào vàng mà thôi. Cậu tôi không ở ngoài số đông này. Cậu bỏ nghề buôn bè về để đi đào vàng. Mợ Thanh ngăn mấy cũng không được. Suốt mấy ngày trước hôm cậu đi mợ giận cậu, cứ cằn nhằn rồi lầm lầm lì lì vào ra, chẳng nói chẳng rằng. Cậu tôi vốn nóng tính, thấy thế thì bực quá, bảo rằng người ta sắp đi xa mà đàn bà ở nhà mặt cứ vác lên như cái thớt thì thể nào cũng gặp xui xẻo cho mà xem. Mợ vẫn im lặng giận. Điên tiết, cậu tôi quẳng vèo cái xe đạp Phượng Hoàng xuống ao bèo tím.

Cậu mợ chia tay không vui vẻ gì. Mợ giận đấy, nhưng không quên nhét vào túi xách của cậu những đồng tiền dành dụm cuối cùng cho cậu phòng thân. Cậu đi rồi mợ Thanh mới nằm khóc, khóc như trẻ con vậy. Tôi hiểu rằng mọi điều diễn ra vừa rồi chỉ làm bằng chứng nói mợ Thanh rất yêu chồng mà thôi.

Không ai ngờ rằng đó là chuyến đi không về của cậu.

Tám tháng sau có người bạn cậu về báo tin dữ cho ngoại tôi rằng cậu đã chết. Đêm hôm trước, bà tôi nằm mơ thấy cậu chống gậy về trước sân. Bà gọi, cậu tôi ngoảnh mặt rồi đi luôn. Liền đó là một giọt máu đỏ từ đâu rớt xuống lòng tay bà. Đó là điềm chẳng lành.

Mợ Thanh biết tin này khi đang cấy thuê ngoài đồng. Người ta dìu mợ về, và suốt một tuần liền mợ Thanh nằm bẹp như một cái xác không hồn. Bà ngoại và mẹ tôi chẳng biết vì ghét mợ hay mê tín dị đoan mà cho rằng cậu tôi chết là do mợ Thanh cả. Ai bảo hôm cậu đi cứ nhùng nhằng níu kéo, cứ lầm lầm lì lì mà ám người ta nên mới khốn nạn thế. Cậu tôi chết vì sốt rét rừng. Người bạn kể lại rằng họ đào vàng ở bãi đá sâu trong vùng Bắc Cạn. Nước ở đây rất độc, cậu tôi bị sốt rét ác tính. Mà muốn chuyển ra bệnh viện thị xã thì phải khiêng đi bộ ba ngày. Thuốc không đủ nên cậu tôi chết. Cậu tôi chết thảm quá, cậu gọi tên mợ Thanh rồi đôi tay cứ bắt chuồn chuồn suốt mấy tiếng đồng hồ. Dân bản tốt bụng xẻ ván chôn cậu bên bờ suối. Họ xếp đá đánh dấu mộ cậu, để sau này người nhà nếu có điều kiện thì lên mà đưa cậu về xuôi.

Mợ Thanh ốm rụng tóc dễ đến nửa năm. Tôi nhìn ảnh cậu mà thương mợ Thanh đến thắt ruột. Tôi quanh quẩn bên mợ suốt ngày. Mẹ tôi thấy mợ héo hắt cũng thương lắm, qua lại chăm sóc mợ luôn chứ không giận gì nữa. Ai cũng xót xa cho hoàn cảnh chồng chết, không con của mợ Thanh.

Nhưng thời gian đã làm tốt chức năng khép miệng những vết thương của con người. Mợ Thanh cũng nguôi ngoai dần. Mợ trở dậy đi làm và bắt đầu cuộc sống mới. Thế là phải. Người chết đã yên phận nhưng người sống vẫn phải tiếp tục mà sống chứ?

Cũng kể từ đó tôi không sang ngủ cùng mợ Thanh nữa. Tôi đã mười lăm tuổi và tự cảm giác rằng mình đang dần trở thànnh một người đàn ông. Hơn thế, tôi có nhiều mối quan tâm khác ở bạn bè, trường lớp. Mợ Thanh vẫn yêu quí tôi và chuyển sang gọi tôi là con. Tôi cũng thích điều đó lắm. Tôi sắp vào trung học. Còn mợ Thanh chưa sang tuổi ba mươi.

Tôi về thành phố học trung học được nửa năm thì mợ Thanh lấy chồng. Việc mợ Thanh lấy chồng vấp phải sự phản đối quyết liệt của gia đình đằng ngoại nhà tôi, đặc biệt là bà ngoại và mẹ tôi. Thứ nhất, cậu tôi chết mới được hơn năm, chưa mãn tang. Thứ hai, mọi người không hề muốn mợ Thanh đi bước nữa. Bà tôi cho rằng mợ Thanh là loại đàn bà bạc như vôi. Ba mươi tuổi đầu rồi còn động cỡn. Ngày xưa bà tôi mới hai mươi hai tuổi ông tôi đã hi sinh ngoài chiến trường. Vậy mà bà thủ tiết thờ chồng nuôi con đến tận bây giờ. Có lấy ai thì cũng phải đưa được mồ mả chồng cũ cho vẹn tình vẹn nghĩa đã chứ.

Khốn nỗi người chồng mới của mợ Thanh đã ngoài năm mươi tuổi, góa vợ, có bốn đứa con gái lớn tồng ngồng rồi. Hồi cậu tôi mất được một năm, hai người đã dan díu với nhau. Hàng xóm rình mò thấy thế mách cho bà ngoại tôi. Thế là bà tôi chống gậy giữa nhà mợ, nước mắt lưng tròng mà tru tréo lên rằng: "Nó lăng loàn thế đấy, con tôi chết chưa đầy năm nó đã rước mèo mã gà đồng về cái nhà này. Ối giời đấy ơi, nhà tôi vô phúc mới thế. Hồi con tôi đi, nó nhát đao nhát búa với chồng nó nên mới khốn nạn cho chồng nó thế đấy. Có loại đàn bà nào bạc bẽo thế không?

Sau đợt ấy, mợ Thanh bỏ nhà đi theo người đàn ông kia. Họ sống với nhau chẳng cưới xin gì. Nhà cậu tôi để trống. Mẹ tôi hằng ngày thắp nhang thờ phụng cậu. Nghe bảo mợ Thanh cũng chẳng sung sướng gì với cuộc sống mới. Nhà ông ta rất nghèo, thêm bốn đứa con gái vô học dữ như hổ vồ. Riêng cái chuyện mẹ chúng nó vừa chết bố chúng nó đã đi lấy vợ là điều khó chấp nhận hơn cả chuyện mợ Thanh chưa mãn tang chồng. Hơn thế, chẳng công khai gì cả, tự nhiên trong nhà chúng nó mọc lên một mụ đàn bà hơn tuổi chúng nó chẳng đáng là bao lại không một xu dính túi. (Mợ Thanh không mang gì theo lúc đi cả). Bọn con gái riêng của chồng mợ Thanh lắm điều gièm pha và khinh mợ như rác rưởi. Với chúng nó, mợ Thanh không có vai trò và ý nghĩa gì cả. Tất nhiên là mợ Thanh phải chịu đựng vì mợ còn biết làm gì hơn. Dư luận không bảo vệ mợ vì ở cái vùng hẻo lánh này ai chấp nhận nổi kiểu sống như mợ được.

Bố tôi viết thư cho tôi bảo rằng người ta đồn đại mợ Thanh có thai rồi. Tức là chỉ tại ông cậu tôi ngày xưa chứ mợ Thanh vẫn có khả năng làm mẹ như thường. Tôi mừng cho mợ Thanh lắm, rồi bất chợt gặp lại cảm giác ngày xưa đang chạy râm ran trong cở thể mình, cái cảm giác được vùi đầu vào ngực mợ mà ngủ, cho hương bồ kết ngấm vào tận giấc mơ. Thôi thế cũng là tốt, dư luận rồi sẽ tắt như ngọn lửa hiếu kỳ. Cái chính là mợ Thanh sắp có một đứa con và nó sẽ lớn bằng hương bồ kết.

Thế nhưng niềm vui của tôi chưa kịp ngấm ngáp thì lá thư tiếp theo của bố đã làm cho nó tắt phụt. Mợ Thanh chết. Mợ Thanh chết trong cuộc sinh nở, như cái chết đáng được trao huân chương của những người đàn bà trong công việc thiêng liêng là sinh ra con người. Cái thai ngược không ra được, người ta phải mổ để cứu mợ Thanh. Đáng lẽ mợ Thanh không thể chết. Nhưng thói vô trách nhiệm của những người có trách nhiệm đã để mợ Thanh chết. Người ta truyền đạm vào chơ thể mợ. Mợ Thanh yếu mà đạm thì xuống nhanh, gây sốc và mợ chết. Đơn giản vậy. Người ta xem như không ai có tội. Nhưng mợ Thanh chết là đã hết, không còn gì trên đời này cả. Những đau khổ cũng còn nốt. Mấy đứa con gái nhà chồng mợ Thanh hẳn là hoan hỉ lắm vì chẳng có gì mà ghen tức nữa. Dư luận sẽ không có gì để đàm tiếu cả. Người ta sẽ quên mợ Thanh ngay sau khi đất vùi lấp chiếc quan tài đơn độc kia. Ai hơi đâu mà nhớ mợ Thanh. Có thể bà ngoại và mẹ tôi sẽ chua chát bảo rằng giá mợ Thanh đừng đi bước nữa thì mợ sẽ không chết.

Nhưng mà chết thì cũng có nhiều kiểu chết. Đôi khi người ta chết ngay cả khi đang tồn tại. Ai mà cắt nghĩa được cuộc đời.

Có điều cậu tôi thì sẽ được bà và mẹ tôi và chúng tôi thờ phụng khói hương. Ai sẽ thờ phụng mợ Thanh khi ngay cả tôi cũng có thể quên mợ Thanh, và ông chồng mới của mợ sẽ lại lấy vợ mới.

Chỉ có cây bồ kết ở ngõ nhà cậu mợ tôi là vẫn trổ hoa kết quả nhắc cho tôi những kỷ niệm tuổi thơ đã xa quá rồi.

BÌNH NGUYÊN TRANG

Chiếc bàn đã mất

TTO - Có thể dễ dàng tìm thấy những tình huống xảy ra trong Chiếc bàn đã mất nhan nhản đâu đó trong mỗi gia đình. Song điều quan trọng là lời giải đáp cho ẩn số hạnh phúc đôi khi nằm ở những điều rất bình dị.

PK

Dễ chừng quá nửa đêm, điện thoại nhà tôi đổ chuông. Tôi giật mình - điện vào giờ này thường là tin dữ - vội nhấc cái máy cầm tay đặt ở đầu giường. Tiếng người con gái sụt sùi:

- Vợ chồng em ly hôn rồi!

Có lẽ người này gọi nhầm chăng? Tôi hỏi lại:

- Cô là ai, liên quan gì đến tôi mà thông báo vậy?

Tiếng người con gái giận dỗi:

- Vì anh mà vợ chồng người ta chia tay... Lại còn vờ vịt...

Nhận ra tiếng Phương từ Hà Nội gọi vào, tôi chống đỡ yếu ớt:

- Vợ chồng bạn không muốn sống chung với nhau nữa thì chia tay, tôi làm sao phải gánh chịu hậu quả ấy được?

- Anh đừng chối nữa, tội của anh lớn lắm. Có lẽ anh chưa quên câu nói của anh ở quán ốc hấp thuốc bắc bên hồ Tây?

Tôi ấp úng tìm lời lẽ thanh minh nhưng đầu kia đã cúp máy thật nhanh, dội đến tôi một tiếng khô khốc như chấm dứt lời phán quyết đanh thép.

Tôi ân hận thật sự, đâu dè một câu nói vô tình của mình để rồi khi gia đình ấy tan vỡ họ lại vận vào. Hai người là bạn của tôi từ thuở gạo bài trên giảng đường đại học. Cũng như tôi, Mau từng là lính chiến trường nhiều năm. Anh học nông nghiệp, rất say mê nghiên cứu các giống lúa mới. Dân nước mình chỉ cần có đủ ngày ba bữa cơm là mọi việc ổn cả, anh bảo vậy. Mà đúng thế, anh sinh ra ở vùng quê gió Lào nung nấu đến đất đai tưởng hóa sành; những trái núi, quả đồi cằn trơ như những chum vại khổng lồ úp ngược; và những nổng cát trắng lóa mắt hắt hơi nóng khiến thân chuối trong làng khô xác, dân phải lấy khoai làm lương thực chính. Bên cái bàn ăn ở ký túc xá, Mau thường kể bố anh làm nghề chống đò ngang, đến mùa mưa lũ mới có khách, còn mùa nắng nước cạn người ta lội qua được đành neo đò, cho nên anh thường mong mưa, mưa thật lớn, có lũ càng hay, để có cơm ăn. Những câu chuyện ôn nghèo, kể khổ ấy của Mau khiến một cô sinh viên cùng lớp người Hà Nội động lòng: đó là Phương. Phương có vóc người mềm mại, mắt sắc nhưng vẫn toát ra vẻ đôn hậu. Trong những bữa liên hoan có bia, có rượu - tất nhiên ngày ấy chỉ là bia hơi, rượu đế - khi xỉn vì hơi mem là Mau đập vỡ ly chén. Uống dứt là ném thật mạnh xuống nền gạch, tiếng thủy tinh, tiếng sành sứ vang lên làm hắn bừng tỉnh. Rồi Mau hối hận, lắm khi khóc như đứa trẻ. Dần dà, bạn bè mới hiểu đó là do tác hại của chiến tranh, Mau đã từng sống nhiều năm dưới bom đạn, chắc ảnh hưởng đến tâm lý hay do bị ám ảnh điều gì đó. Cũng là phỏng đoán thế thôi, chỉ biết rằng cứ sau mỗi bận liên hoan, lớp phải góp tiền để bồi thường ly chén cho bà bán quán. Nhưng có người thương Mau, muốn cùng chia sẻ nỗi đau đó với anh là Phương. Những chiều cuối tuần, hai người thường đến chỗ tôi ở, chúng tôi cùng đi chợ, nấu nướng. Phương làm bếp khéo, Mau và tôi phụ nhặt, rửa rau, nhưng rồi Phương phải làm lại. Tôi chưa thấy ai chế biến các món ăn cẩn thận như cô gái Hà Nội này. Nhận bằng tốt nghiệp, họ tổ chức cưới. Bố Phương hồi môn cho con gái căn hộ gồm một phòng khách lớn, một phòng ngủ và một phòng ăn. Ngoài ra còn có một cái bàn ăn bằng gỗ lim, đường kính rộng hơn một mét, dày đến ba bốn tấc, mặt liền, lên nước bóng loáng. "Cái bàn này sẽ gắn chặt vợ chồng, con cái chúng bay với nhau. Dù xã hội có thay đổi, chúng bay cũng phải giữ cái bàn ăn này", ông già nói.

Cú điện thoại quá nửa đêm ấy khiến tôi băn khoăn cả tuần. Không chừng mình đã mất một lúc hai người bạn. Kiếm được bạn đã khó, để mất một lúc hai người bạn, đau quá.

Gia đình ấy còn là chỗ dựa tinh thần của tôi. Sống ở phương Nam, nhưng lúc buồn tôi lại gọi điện thoại ra, lắm lúc cũng chẳng có gì quan trọng, chỉ để nghe họ nói vài câu. Lần nào tôi ra Hà Nội, họ cũng kéo bằng được về nhà ăn một bữa cơm gia đình. Tính đến Phương, dòng họ Phạm ấy đã có mười hai đời dựng nghiệp ở đất Tràng An. Phương chế biến được nhiều món, tôi đặc biệt khoái món bún chả. Những miếng chả do cô nướng chín đều, thậm dậy. Chén nước mắm cũng rất tuyệt. Tôi thích nhìn cô bên dàn bếp có ngọn lửa bện lấy đáy nồi, vẻ mặt thanh tú của cô ửng lên thật đẹp. Bữa cơm gia đình thật ấm cúng, chúng tôi nhắc lại thời sinh viên lúc nào cũng thèm ăn, trêu chọc nhau, người như trẻ lại.

Bẵng đi hai năm, tôi mới được ra Hà Nội. Hai vợ chồng mời tôi đến nhà dùng cơm vào chiều thứ bảy. Tôi đồng ý cấp kỳ và tưởng tượng đã có một bữa cơm thật đầm ấm quanh cái bàn tròn gỗ lim lên nước bóng loáng. Tôi đến sớm để cùng được vợ chồng họ đi chợ. Cũng như nhiều gia đình ở Hà Nội, căn nhà này đã thay đổi nhiều, với nhiều đồ đạc, tiện nghi sang trọng. Mau đã mập và có bụng, mặc đồ bộ sọc xanh, tay không rời máy điện thoại, như một ông chủ xí nghiệp hoặc là giám đốc, chứ đâu phải là tay môi giới xây dựng. Phương mặc áo ngắn, váy hoa, tay ôm con mèo tam thể, cũng là cách học đòi quí phái, và mùi phấn sáp, nước hoa ngào ngạt.

Ngồi trò chuyện với tôi, hai người cứ nói về giá đôla, giá các tiện nghi, cuối chiều vẫn không thấy chợ búa gì cả. Đến khi đồng hồ chỉ vào con số năm giờ, chồng mới đứng lên: "Mời cậu đi nhà hàng với vợ chồng tôi". "Sao không nấu ăn ở nhà cho ấm cúng?". "Nhà này bây giờ còn bếp nữa đâu, ăn ở hàng quán". Người vợ nói thêm: "Sáng trên đường tới cơ quan, ai thích gì vào quán ấy; trưa, dùng cơm hộp ở cơ quan; chiều, anh Mau thường nhậu nhẹt với bạn bè đến khuya mới về, nếu không hai vợ chồng ăn hàng, cơm bụi hoặc gà tần, bún thang, tùy thích". Tôi tò mò: "Còn cái bàn gỗ lim ấy?". Anh chồng cười: "Khen cho trí nhớ của cậu còn nhớ cái bàn cổ lỗ ấy, tôi thải nó đi từ năm ngoái rồi, căn nhà bếp và phòng ăn được tân trang lại để làm phòng vi tính". Anh chồng đẩy cánh cửa vào phòng bếp dạo nào. Tôi sững sờ, một căn phòng sơn nước màu kem, gắn máy điều hòa nhiệt độ, hai dàn máy vi tính hiện đại đặt song song nhau. "Giá mỗi dàn hơn hai ngàn đô đó cậu", bằng giọng hào hứng anh nói với tôi như thế. Họ gọi taxi cùng tôi lên quán ốc Bố Già bên hồ Tây. Bữa ốc hấp thuốc bắc ngon vì lạ miệng. Cuối bữa, tôi nói ra cái điều đáng ra không nên nói, trong đời đâu phải các dự báo về sự thật đều được chấp nhận. Tôi nhớ lúc ấy cả hai vợ chồng nhìn nhau âu yếm cười diễu tôi. Anh chồng rút tiền thanh toán, miệng càu nhàu: "Đến kiếp sau chúng tôi vẫn cứ là vợ chồng. Cứ đợi đấy". Đâu dè, lời nói của tôi đã thành sự thật để rước họa vào thân.

Tôi đâm ra sợ những cú điện thoại nửa đêm về sáng. Thôi thì, trước lúc đi ngủ rút phích ra khỏi máy là hơn, ai có việc gì mai liên hệ. Nhưng từ khi có cú điện thoại của Phương, tôi thấy khó ngủ. Tôi lấy sách ra đọc và bỗng nghĩ lẩn thẩn, giá như có đứa bạn nào không ngủ muốn gọi điện cho mình thì sao? Ờ, giá bây giờ có thằng bạn nào kêu điện đến tán dóc thì đỡ quá. Tôi đành cắm phích vào.

Lướt được dăm trang sách, mắt tôi trĩu xuống và trong lúc mơ mơ màng màng chuông điện thoại đột ngột reo. Tôi choàng dậy nhấc máy. Đằng kia tiếng Mau:

- Vì cậu mà vợ chồng tôi ly hôn?

- Thì... thì tôi cảnh báo vậy thôi... À, mà hiện nay cô Phương vẫn ở đấy chớ?

- Cô ấy về nhà bố mẹ đẻ rồi. Chúng tôi đang chờ tòa án chia tài sản. Trước mắt căn nhà này phải ngăn đôi. Sau này cô ấy đền bù để tôi mua căn hộ khác.

Tôi cảm thấy nhói ở ngực. Tiếng Mau trầm xuống, ngắt quãng:

- Cậu biết đấy, đời sống vợ chồng tôi đâu phải nghèo, giàu có là đằng khác, vậy mà sao lúc nào cũng bức bối và dẫn tới tan vỡ.

Mau nói rất thật. So với những cặp vợ chồng cùng trang lứa ở Hà Nội, vợ chồng anh thuộc loại khá giả. Mau tháo vát, khi thấy công việc nghiên cứu cây lúa không kiếm được nhiều tiền và vất vả vì phải đến với đồng ruộng, tiếp xúc với nông dân; anh quay sang nghề môi giới xây dựng, nghĩa là chạy đi xin thầu những công trình lớn rồi sang lại cho người khác để hưởng phần trăm. Nhờ tài ăn nói, anh kiếm được khá nhiều công trình, nào là xây dựng trụ sở làm việc, rải nhựa cho các đường... Có nhiều tiền, Mau muốn xóa đi cái gốc gác nông dân của mình. Và anh nhập cuộc sống trưởng giả. Tháng tư năm ngoái, tôi gọi điện ra, Mau trả lời và nói: "Cậu gọi chậm một chút nữa là không có ai ở nhà". "Thế vợ chồng ông chuẩn bị đi đâu đấy?". "Cậu không biết hôm nay là ngày gì sao?", "Ngày 14 tháng hai". "Cũng có nghĩa là ngày Valentin, ngày tình yêu. Bây giờ mình đi đón vợ mình ở tiệm uốn tóc về rồi đi mua hoa hồng về tặng".

Sự thật tôi mừng cho họ. Đất nước đã thanh bình, phát triển, mọi người có quyền sống theo nhu cầu, ý thích của mình. Còn Phương tỏ ra hãnh diện, có lần qua điện thoại cô cho tôi hay, "anh Mau của em bây giờ đã đổi khác rồi, mỗi khi say xỉn anh ấy không đập vỡ ly chén nữa". Tôi thật sự mừng cho họ, ngờ đâu giờ đây...

Ra Hà Nội là tôi tìm đến nhà họ. Phía ngoài cửa đã có hai nút chuông, một để Phương, một để Mau. Tôi bấm gọi Mau nhưng không có người, đành gọi Phương.

Phương mở cửa, người cô gầy, da xanh, mắt u buồn. Tôi hỏi để xua đi im lặng:

- Bây giờ tôi là khách của ai đây?

Phương nhìn tôi rồi quay mặt:

- Tội của anh lớn lắm.

Tôi vào nhà, căn phòng rộng đã được ngăn đôi bằng ván ép mỏng, buồn và lạnh tanh như nhà trọ. Trước đây, căn nhà đầy ắp tiếng cưới nói, rồi những ánh mắt âu yếm nhìn nhau, đùa bỡn, nịnh nhau, nào ngờ giờ đây vắng đến thế. Mà phải thôi, một gia đình vừa tan vỡ làm sao vui được.

- Anh chàng hôm nay đi đâu nhỉ?

- Không biết. Tôi không còn quản lý ông ấy.

- Phải có mâu thuẫn thế nào mới dẫn đến cơ sự này chớ?

- Anh xem, ngày nào anh ấy cũng đi từ sáng đến khuya mới về, người nồng hơi rượu và còn đánh em.

- Đánh cô?

- Vâng, em khuyên anh ấy đừng nhậu say là anh ấy đánh. Rồi anh ấy cặp bồ cùng với một cô đã bỏ chồng làm việc cơ quan. Nhiều buổi chiều thứ bảy anh ta đến nhà cô ấy ở khu tập thể Thành Công để hai người nấu nướng bù khú với nhau. Con bạn thân của em ở cùng dãy nhà ấy nên phát hiện.

- Và rồi cô cũng bồ bịch để trả thù chứ gì?

- Không. Em đâu phải là người thế.

- Là hỏi vậy thôi. Cô biết không, khi ở nhà không còn bếp lửa và bàn ăn nữa thì sớm muộn gì người đàn ông cũng phải đi tìm ở nơi khác.

Phương cúi xuống và bật khóc.

Sau mấy ngày ở Thái Bình về, tôi được cơ quan cho hay có người đàn ông tên Mau tới tìm mấy lần. Tôi liền tới nhà họ ngay.

Hà Nội đang tiết mưa bụi. Lạnh đến run người. Lúc này người ta chỉ mong có một mái nhà mà chui vào. Chỉ có Phương ở nhà. Ở góc phòng của cô đã có bếp dầu, bếp điện và giàn để bát đũa.

Tôi ngồi trò chuyện với Phương được một lúc thì có tiếng chân người lên cầu thang. Tôi nhận ra là Mau. Bước đi của anh vội vã và cộc cằn, đã quen thuộc với tôi từ hồi sinh viên mỗi khi anh lên cầu thang để vào phòng tôi. Bước chân cũng thể hiện được tính nết người.

Tôi bước ra:

- Mời ông qua bên này uống nước luôn.

Mau chỉ lừ đôi mắt đỏ vằn nhìn tôi rồi đi một mạch vào phòng mình. Anh đang bị hơi men luộc nhừ. Một lát, có tiếng cốc ly ném xuống sàn nhà. Mảnh thủy tinh bắn sang cả bên này. Lại một tiếng đồ sứ nữa vỡ.

Phương nói nhỏ:

- Mỗi lần anh ta say xỉn về nhà lại đập vỡ vài cái ly chén. Sống với em đã mất thói quen ấy, nay lại tái phát.

Tôi biết Mau đang sống trong bi kịch của người cô đơn.

Tiếng Mau lè nhè:

- Này, các người đừng nói xấu tôi nhé!

Dứt lời, anh ta đổ vật xuống và nôn thốc. Tôi chạy qua đỡ Mau lên giường và dọn dẹp.

Một lát sau tôi qua bảo Phương nấu cho Mau một bát cháo. Phương ngần ngừ một lúc rồi nói:

- Thôi thì vì anh mà em nấu, đây là lần cuối cùng đấy nhé.

- Lại nói gở!

Tôi quát nhưng mừng lắm. Vậy là họ vẫn còn thương nhau, vẫn còn có thể hàn gắn được.

Một lúc sau, Phương bưng bát cháo sang. Tôi đón lấy và đỡ Mau dậy. Mau đã tỉnh nhưng người vẫn lả đi vì mệt.

Tôi dìu Mau ra cái bàn nhỏ. Phương vẫn đứng ở góc phòng. Đâu ngờ tôi lại dại dột gợi chuyện:

- Này, thú thật tôi chẳng còn nhớ hôm ở quán ốc bên hồ Tây mình đã nói câu gì?

Phương nhìn tôi, cắn môi rồi ngó ra cửa sổ. Mau lừ mắt chằm chằm vào tôi:

- Cậu tính chối à? Cậu đã rủa rằng: "Khi cái bàn ăn không còn thì tình nghĩa vợ chồng cũng thay đổi. Cứ kéo tình trạng cơm hàng, phở quán thì vợ chồng nhà này trước sau cũng ly hôn".

NGUYỄN QUỐC TRUNG

Ngày mai

TTO - Đúng lúc 20 tuổi với một tập truyện ngắn nhiều u buồn và mơ mộng. Trang Hạ đã nhận giải khuyến khích cuộc thi sáng tác "Văn học tuổi 20" do NXB Trẻ và báo Tuổi Trẻ tổ chức. Và Tình khúc đã là tập truyện đầu tay của cô sinh viên khoa Trung văn Đại học Quốc gia Hà Nội.

Trang Hạ bây giờ đã ra trường, ban ngày dạy tiếng Hoa cho người lớn tuổi, buổi tối học thêm tiếng Nhật chuẩn bị lấy bằng C, và chen giữa những khoảng bận rộn ấy của một tuổi trẻ mới bước vào đời, cô viết như tìm đến một niềm vui. Cô gái trong truyện ngắn này có bóng dáng của Trang Hạ những ngày loay hoay tìm việc và tìm mình.

TN

Tôi trọ ở lầu ba, tận cùng một con hẻm nhỏ quận 1, cửa sổ trông xuống dãy phố vắng người. Những chiều mưa thường có hai ông già bắc ghế ngồi đánh cờ dưới mái hiên của xí nghiệp thủy sản ngay bên kia đường. Nhiều hôm ván cờ kết thúc khi chiếc xe tải nhỏ bấm còi ầm ĩ xin đường vào. Cho đến ngày tôi rời khung cửa này, thu xếp đồ rời qua chỗ trọ khác, trong một chiều mưa tháng tám vẫn còn thấy hai ông ngồi trầm ngâm trước cái ghế thấp, im lặng qua tiếp một buổi chiều trong tiếng xe cộ ồn ào từ ngã ba vọng lại.

Những ngày đầu mới tới thành phố tôi được ở nhờ nhà hai ông bà cụ người miền Trung, cũng đã thức hằng đêm nghe tiếng lách cách mời chào của đứa bé rao hủ tiếu gõ đi qua trước cửa nhà. Tưởng tượng mình trở dậy, xỏ dép đi khẽ qua khoảng sân ướt để hé cửa nhìn cho được dáng người loắt choắt đi trong đêm vắng, nghe cả tiếng người nói léo xéo, tiếng vòi nước chảy rộ ở nhà bên cạnh có bụi găng ngả từng chùm quả nặng trĩu qua rào sắt. Mỗi buổi sáng giàn cây leo thả lá rụng đầy một khoảng, ông cụ thức dậy sớm mở vòi nước cho đám lá trôi về phía cái cổng cuối sân. Lúc ấy bắt đầu một ngày mới!

Hoàng hơn tôi một tuổi, mang trong mình tám mươi phần trăm dòng máu người Hoa, cao và gầy như cây tre. Khuôn mặt Hoàng nhiều nét tròn hiền lành, đuôi mắt xếch như phần lớn con trai người Tiều tôi gặp, làm cho cái nhìn của anh chằm chằm như của con mèo trắng trán đen hay nhảy vào phòng tôi lục lọi. Hoàng kêu hai ông bà chủ nhà bằng bác. Lần đầu tiên đứng đợi tôi đi làm khuya về dưới mái hiên nhà bên cạnh, tóc Hoàng ướt đẫm nước mưa, cái bánh bao ủ sâu trong áo cũng nguội ngắt từ bao giờ.

Ông bà cụ trước khi về Qui Nhơn ở với cậu con trai út đã hỏi tôi bao giờ tìm được chỗ trọ mới. Hoàng tìm cho tôi căn gác tận lầu ba kia, rồi chuyển sang một căn phòng bé xíu ở tít cuối quận 4. Ở đó khuya về phải qua những quãng phố vắng tanh không người ở, nên cuối cùng tôi dạt về nhà trọ ở gần chân cầu Calmette. Đồ đạc dọn qua dọn lại nhiều chỉ còn nhét đủ balô đeo sau lưng. Tôi với Hoàng vẫn còn những tối rảnh đi cùng nhau, nhưng sao da diết một điều gì trôi qua không thể nào nắm giữ lại được, như tuổi trẻ, những ngày tươi đẹp... Hoàng ơi, em mệt mỏi lắm rồi! Không muốn cứ phải về khuya, chuyển nhà và ngồi những quán cà phê rẻ tiền như thế này mãi!

Hoàng bất lực nhìn tôi. Dù thương nhau đến mấy Hoàng cũng chỉ đủ tiền cho những ly cà phê đá lễnh loãng buổi tối. Hoặc hơn nữa là giờ nghỉ trưa chạy xe mười hai cây số từ quận 5 đến công ty tôi, đưa bịch chè nước cốt dừa một ngàn đồng qua khe cổng sắt, nhìn nhau một cái rồi quay xe về nhiệm sở. Hồi mới vào đây làm tôi còn hãnh diện vì cả mấy nghìn con gái trong xí nghiệp, chỉ mình tôi được như vậy. Về sau lại thấy chúng mình quá tội nghiệp, vào đời mà như đi một con đuờng hẹp, không biết có ngả nào để rẽ ra hoặc để hi vọng những gì hạnh phúc, thiêng liêng hơn miếng ăn đồng lương hằng ngày. Hoàng có hiểu điều ấy không? Có hiểu không mà hôm ấy Hoàng dẫn tôi mò mẫm trên những bậc cầu thang tối tăm của chung cư Cao Thắng, nồng mùi nước tiểu và rác ủ cho đến khi đôi chân tôi leo mười tầng lầu, rã rời quị xuống dựa vào Hoàng thì anh mới chỉ cho tôi một trời sao. Cả một bầu trời sao chi chít rực rỡ và sáng lấp lánh như những chùm pháo hoa vỡ ra bất động, lặng im. Và phía dưới đường phố dòng xe tấp nập như dòng sông hoa đăng đổ từ Cống Quỳnh qua Minh Khai, đi mãi đi mãi bất tận! Làm sao lúc ấy Hoàng lại biết tôi đang nhớ giá sách và lũ gấu bông cùng cha già mẹ yếu ngoài Hà Nội? Phải vậy không khi Hoàng chỉ cho tôi thấy cái hạnh phúc lớn lao khi mỗi ô cửa dưới kia đều lóe sáng lên một ngôi sao nhỏ?

Tôi không cô đơn nữa, và công việc ngày càng bận rộn. Những container xếp hàng ngoài sân xí nghiệp trong mùa giày, qua một đêm phủ đầy lá me. Công nhân mặt bạc ra vì làm việc quá sức, buổi trưa mang suất cơm nguội ngắt ra sân ngồi xổm quanh các xe tải hàng, ăn và tán dóc. Những đêm khuya Hoàng vẫn tìm được tôi trong đám hàng nghìn công nhân tan ca tuôn ra cổng xí nghiệp. Nỗi buồn nhiều, còn niềm vui ngắn ngủi. Mỗi tháng gửi tiền về Hà Nội xong tôi lại thấy trong gương mình gầy hốc hác, quần áo sờn đi từng ngày. Nhưng thấm vào đâu khi ở ngoài kia cứ mỗi lúc trái gió trở trời mẹ tôi vật vã vì bệnh suyễn, tiền của đổ vào thuốc thang không còn bao nhiêu. Cha tôi già, bưng chén thuốc đến tận giường mẹ tôi còn đánh đổ.

Chủ nhật Hoàng chở tôi tới một con đường ngoằn ngoèo phía bên hông chợ Soái Kình Lâm. Hoàng chào những người già bằng câu nói ngắn đầy những ê a. Ngồi giữa giấy tờ, nến, đồ tạp hóa xếp chất ngất, bà cụ nhìn kỹ tôi với cái nhìn hẹp. Hoàng quay qua dịch lại câu nói cho tôi sang tiếng phổ thông, ý hỏi mày muốn tìm gì, giọng Hoàng không chuẩn như giọng Bắc Kinh tôi học ở trường. Xem có vẻ Hoàng hay qua phía này bỏ mối hàng nên quen, lựa kỹ cho tôi mấy tập giấy mỏng đóng bìa bên phải, bút lông và mực tàu. Rồi dẫn tôi qua hàng khác tìm cái bát nhỏ nung bằng sành làm nghiên, men xấu lỗ chỗ những vết đen lồi lõm nhưng trong lòng để mộc đỏ tươi... như màu gạch. Tôi viết chữ Hán khá đẹp, nổi tiếng hồi còn ở trường đại học, nhưng với bút lông mực tàu lại khác nhiều. Em thích không? Vâng. Nhưng em không nghĩ Hoàng hoài cổ đến thế! Hoài cổ mới biết nghĩ, và anh chỉ muốn cho Thương vui!

Tháng mười đến nhanh, không có mưa vào mỗi buổi chiều. Lời than trong quán cà phê rẻ tiền ngày đó chỉ tình cờ nhưng hình như Hoàng không tài nào quên nổi. Hoàng đón tôi những buổi chiều. Sau giờ làm việc anh biến đi một cách bí ẩn. Lúc buồn quá, tôi lên tầng mười khu chung cư Cao Thắng một mình không cần tựa vào ai. Tất cả những vì sao trên trời vẫn sáng, vẫn mãi lấp lánh, như hôm nào có Hoàng ở bên tôi. Gió thổi phần phật qua như có ai kéo áo của tôi, vuốt tóc tôi. Nhắc về một mơ ước giản dị mà đã lâu rồi tôi bỏ quên đâu mất trong chuỗi ngày dài mệt mỏi vì công việc, bận rộn và hờ hững của mình...

Đúng là Hoàng đã thay đổi. Tập tiền dày hẳn lên sau túi quần, cái cười nửa miệng ngạo nghễ trong ánh đèn mờ tối làm tôi sợ. Mới hai tuần đã ở đâu ra con người thực dụng và lì lợm này? Ai chỉ cho Hoàng dẫn tôi vào nhà hàng Casa, và những bước nhảy ôm sát đến không còn khoảng cách? Tôi đẩy Hoàng ra, loạng choạng chạy về chỗ ngồi, nước mắt ướt đẫm má chảy xuống ngực áo lạnh buốt. Trên đường về Hoàng im lặng như biết lỗi, như vừa làm xong một việc quá sức mình. Nhưng tôi không thể giận Hoàng. Không phải anh trả thù tôi, anh đang trả thù những gì mà chúng tôi không thể nào đạt tới được!

Hết mùa giày, công nhân nghỉ chờ việc vắng hoe. Ông giám đốc Đài Loan đi qua văn phòng, kêu tôi lại. Mai mày xuống phòng giám đốc ngồi, tao đi các nhà máy sẽ mang mày theo phiên dịch. Nói xong nhìn xuống đôi chân tôi mơn trớn. Tôi hốt hoảng, thế còn việc xuất hàng? Làm trợ lý không phải đi xuất hàng nữa, OK? Cả văn phòng chết lặng, nhìn tôi ghen tị và khinh bỉ. Tôi tái mặt nghĩ đến một ngày mai đau đớn, hoặc tiền lương sẽ tăng đột xuất, hoặc cuốn xéo khỏi đây không được lĩnh một xu... Hoàng vừa bị đuổi khỏi công ty anh vì bị phát hiện lén lút mang hàng của chủ khác bán cho đầu mối của công ty kiếm hoa hồng... Đồng tiền ấm hay lạnh lẽo trong bàn tay người? Đêm qua Hoàng đến gõ cửa phòng tôi, đứng kể lể và khóc rất lâu ngoài cửa phòng đóng chặt. Tôi không đủ sức nói tha thứ nên đêm nay có lẽ anh đang uống rượu say khướt hay khiêu vũ cùng cô gái nào, ôm chặt đến không còn khoảng cách?... Sao bây giờ tôi lại cảm thấy cô đơn đến thế?

Lúc thành phố lên đèn, tôi một mình theo những bậc cầu thang tối om lạnh lẽo, nồng mùi rác ủ để tìm lên khoảng trời chúng tôi đã từng hiểu nhau, đã từng mơ ước. Đã thấy muôn vàn những ngọn nến thắp trên nền trời bao la tỏa ánh sáng xuống mặt đất cô đơn. Nhưng mà hình như đã có ai tìm lên đây trước tôi, dáng cao và gầy đứng lặng im và sững sờ giữa trời đêm gió lồng lộng, Hoàng ơi!

Khi Hoàng quay lại, mắt anh sầm lại ấm áp nhìn tôi như những ngày đầu còn chờ nhau đêm mưa, như những khoảnh khắc lọt giữa phố chợ xô bồ là lớp học thư pháp nhỏ và ấm cúng, ông thầy Tàu già nua cầm tay tôi nhấn nét bút lông đầu tiên lên trang giấy viết chữ tâm.

TRANG HẠ

Cha mẹ yêu con

TTO - Hình như đối với các bậc cha mẹ, con cái luôn là những "thiên thần nhỏ". Vì lẽ đó, họ luôn dành mọi sự tốt đẹp nhất cho con cái của mình, nhất là trong điều kiện kinh tế phát triển.

Nhưng đấy lại là thứ tình yêu áp đặt. Suy nghĩ của cha mẹ và con cái mãi là hai đường thẳng song song. Bi kịch gia đình đôi khi cũng từ đó... nếu người trong cuộc không kịp nhận ra.

Bốn năm đại học ở khoa Anh, ĐH Khoa học xã hội & nhân văn, anh cũng có một vài truyện ngắn đăng trên Văn Nghệ Trẻ, Hoa Học Trò. Tuy nhiên, anh được công chúng biết nhiều hơn qua vai trò sáng tác các ca khúc như Chân tình, Cô gái đến từ hôm qua, Nhớ gấp ngàn lần hơn, Tuyết rơi mùa hè... Trần Lê Quỳnh hiện làm việc tại Anh quốc.

PK

Cô bé ngồi chờ đợi: kỳ thi sẽ bắt đầu trong 15 phút nữa. Nhưng không phải cô bé đang chờ đợi kỳ thi. Dù gì cô cũng phải vượt qua nó. Cô đang chờ đợi một điều gì khác. Đầu óc cô cứ mãi không với được môn thi trước mặt cho đến khi tay cô chạm vào cây bút trên túi áo. Mẹ mua nó cho cô. Bà luôn biết cách làm thế nào để con gái học tốt.

Và tuy thế có vẻ như con gái bà vẫn chưa học được cách nhớ rõ lời khuyên của mẹ.

Cô bé ngồi chờ đợi. Khi còn bé... Trong lòng cô không nhịn được tiếng khúc khích vì hồi tưởng lạ lùng ấy. Cô vẫn còn bé kia mà? Đâu có gì khác biệt giữa hôm qua và ngày hôm nay.

Hay chỉ có khác biệt nhỏ là lúc ấy cô trẻ con hơn bây giờ. Một điều bình thường. Không nên chú ý đến. Mẹ bảo mình chỉ nên chú ý đến những gì hữu ích. Nhưng cô bé vẫn cảm thấy có điều gì đó từ lâu cô đã quên, vậy mà giờ đây cô mong nhận lại. Ngay bây giờ trước khi quá muộn, trước khi kỳ thi bắt đầu. Cô nhìn đồng hồ. Vẫn còn thời gian để nhớ lại.

Nếu mẹ cô ở đây và biết con gái của bà, ngay trước thềm kỳ thi, lại đang mơ mộng thế này mẹ sẽ nói gì? Rằng đôi khi mẹ cũng nhớ lại? Hay mẹ sẽ ôm con gái của mình như mẹ vẫn từng làm thế?

Cô nhớ lại tối qua. Giặt xong quần áo, cô rón rén đi qua nhà bếp để lên phòng của cô trên gác. Cô cẩn thận trông xem liệu mẹ cô nhìn thấy mình. Tại sao lại sợ người gần gũi với mình nhất chứ? Cô muốn cười chính mình, tuy vậy cô đã không cười. Ngược lại cô cảm thấy nhẹ nhõm vì mẹ không có ở đó. Lúc cô chuẩn bị bước vào phòng, cô mỉm cười khi tưởng tượng mình vừa trốn thoát trong gang tấc.

Mẹ mỉm cười với cô. Bà đang ở đấy, trong phòng con gái. Cô bé tựa lưng vào cửa, không ngạc nhiên cũng không sợ hãi, biết rằng mẹ đang xem xét căn phòng để chắc chắn con gái làm đúng lời mẹ dạy. Xong việc, mẹ bước đến bàn và chỉ vào tờ báo trên bàn, bà nói:

- "Con thấy không, bạn học sinh này học rất giỏi nên bây giờ bạn được lên trang bìa báo buổi sáng đấy".

Suốt thời thơ ấu, cô không thể nhớ một điều gì ám ảnh hơn thế. Cô bước một bước, biết rằng cô phải nói câu gì. Cô không nên làm mẹ thất vọng. Nhưng không hiểu sao từ ngữ của cô khô cạn. Lần đầu tiên cô muốn mình không cần nói khẽ nữa. Và như thường lệ, cô bước tiếp và cầm tờ báo trong im lặng...

Cô bé đứng dậy khi tiếng chuông báo hiệu giờ thi đã đến. Cùng lúc ấy cô nghe thấy tiếng cười của mấy đứa bé đang chơi trong nhà trẻ bên cạnh. Tiếng ríu rít của bọn trẻ khiến cô ngạc nhiên làm sao mà chơi đùa lại có thể khiến từ ngữ tuôn trào đến vậy. Cô nhún vai. Đôi khi cô tự hỏi liệu cô có thể nói chuyện với mẹ nhiều như thế. Có vẻ như càng lớn con người càng nói ít và nghiêm túc hơn. Và điều nghiêm túc nhất giờ đây cô phải làm là vượt qua kỳ thi một cách vinh quang.

Đề bài không khó lắm và cô hí hoáy viết, nghĩ mình có thể làm xong trong nửa thời gian. Rồi thì cô có thể về nhà. Giá như mẹ biết cô muốn về nhà biết bao!

Rồi mọi sự sẽ ổn cả thôi mà. Và rồi đột nhiên cô ngừng lại, không biết mình sẽ viết tiếp những gì. Đột nhiên cô cảm thấy tất cả những gì cô muốn bây giờ - hay có lẽ đã muốn từ lâu lắm - là cười thật to, thật to để những đứa bé trong nhà trẻ sẽ nghe thấy và tự hỏi không biết một đứa bé như chúng lại đang làm gì trong lớp học thế kia. Bọn trẻ sẽ không bao giờ biết cô muốn được là một trong số chúng. Không phải là một nhân vật trong tờ báo buổi sáng, mà là một trong số chúng!

Cô quay mặt khỏi cửa sổ, trở về với công việc nghiêm túc cần làm. Cô cần tập trung và rồi cô sẽ trở về nhà để nói với mẹ rằng cô đã vinh quang vượt qua kỳ thi.

Mẹ đang đợi cô trước cửa. Bà đã chuẩn bị mọi thứ để sức khỏe con bé phục hồi - bọn trẻ bây giờ phải học rất nhiều. Và nhìn gương mặt đứa bé, bà biết con gái đã không làm bà thất vọng.

Cô bé ôm chặt lấy mẹ như thể cô chưa bao giờ có cơ hội làm thế. Với cái nhìn trìu mến, người mẹ âu yếm vuốt ve cô bé.

- Mẹ thật tự hào về việc học của con.

Cô bé dựa vào vòng tay mẹ. Cô muốn nói điều gì nhưng mắt cô nặng trĩu. Ngày mai cô sẽ nói với mẹ, nhưng - cô chợt nhớ ra - ngày mai sẽ lại là một kỳ thi khác khi mà điều cô cần phải nói với mẹ là ở trường cô đã học thế nào. Có lẽ một ngày nào đó... Cô bé nhắm mắt, chầm chậm đi vào giấc mơ, nơi cô sẽ thì thầm những lời cô chưa bao giờ muốn giấu.

"Thế còn con thì sao hở mẹ?".

- Bố chơi với con, bố nhé!

Người bố gỡ cặp kính, nhìn cậu bé. Con anh lại mở tung hộp cờ vua rồi. Mình đã bảo mẹ nó cất đi, vậy mà bao lần đều nói vì bận nên quên khuấy mất. Anh không muốn con anh học chơi cờ vội, bọn trẻ không nên bị buộc suy nghĩ quá sớm.

- Con nên chơi trò khác nhé, bố đã bảo con nhiều lần.

Cô kế toán viết tháu quá, mình luôn nhắc, vậy mà, anh lại nghe giọng của con anh:

- Bố chơi với con, bố nhé!

Lần này áp vào vai áo anh là quả bóng lạnh ngắt. Tưởng nhà vừa có lớp sơn mới, bóng nện thình thịch thế nào được. Quái quỉ, cô kế toán viết gì thế này, lại phải tìm máy tính. Anh nhoài người đến ngăn kéo lục tìm và để tránh quả bóng lạnh ngắt.

Không thấy bố trả lời, cậu bé nài nỉ:

- Bố chơi với con, bố nhé!

Máy tính để đâu nhỉ, đồ đạc xê dịch trong thời gian sơn tường làm nhiều thứ cứ biến đâu cả. Con không thấy bố bận lắm sao, tường mới sơn đấy, không làm bẩn được.

Cuối cùng anh cũng tìm được cái mình cần, hí hoáy tính toán và thầm trách cô đồng nghiệp bất cẩn trước khi anh, đặt lại máy tính lên bàn, để ý con anh đang quì trước tủ đồ chơi, bàn tay nhỏ bé miết mãi trên mặt kính mà không mở.

Anh ngồi trầm ngâm. Anh mới mua cho con nhiều loại đồ chơi và lẽ ra cậu bé phải dễ dàng chọn hơn anh hồi nhỏ. Trời đã gần tối, anh sắp bật thêm đèn cho sáng, ánh đèn đã làm anh trông rõ hơn khuôn mặt con dường như không vui nhiều hơn tuổi thơ anh mấy.

Người bố lặng lẽ nghĩ mà không để ý con anh đã đứng bên cạnh anh từ lúc nào, tay cầm ly nước.

- Bố uống đi bố.

Cậu bé còn mấp máy môi nhưng anh không nghe rõ. Vậy mà không hiểu sao, anh như nghe con mình lí nhí buồn bã: bố uống đi, nhỡ con làm đổ lên sách của bố, bố sẽ mắng con. Tự dưng anh bỗng cảm thấy hơi buồn như chính tiếng lí nhí buồn bã của đứa trẻ. Anh bỗng muốn ngồi thừ ra, cố hiểu tại sao anh lại buồn như thế.

Nhưng anh không muốn con mình buồn lây, có thể cậu bé còn sờ sợ khi thấy bố như thế. Anh luôn yêu con và muốn con vui vẻ, vui và có gấp đôi những gì tuổi thơ anh từng có. Anh đặt xấp tài liệu lên bàn, hắng giọng hồn nhiên, cho bố làm thủ môn nhé.

Con anh chắc sẽ thành tiền đạo giỏi, anh ngồi bệt hẳn xuống nền nhà tưởng như mình lại đang bắt chước chàng thủ môn mà mùa hè năm ngoái anh khoe với con là giỏi nhất. Bố của con giỏi không nào, xem này, và rồi, như anh vẫn thường như vậy, trong đầu anh hiện ra những cành mai, tiếng bạn bè rủ đến nhà nhau khi trước mặt họ đã là tết. Gần tết rồi, anh chỉ cần cố một chút thôi là xong công việc của mình. Lúc ấy anh sẽ chơi với con nhiều hơn.

Anh ôm chặt quả bóng trong tay, đứng dậy, báo hiệu trận đấu đã kết thúc. Trên tay anh lại là xấp tài liệu, chắc con không hiểu bận bịu là gì đâu.

Cậu bé không hiểu thật. Cậu tiu nghỉu cất quả bóng dưới chân tủ và tay lại miết trên mặt kính.

Buổi tối đến thật nhanh. Anh khẽ gỡ cặp kính, ngẩng đầu lên từ xấp tài liệu. Con anh đang ngồi trước tivi chơi ghép hình. Những con tính cả trong giấy tờ và trong đầu làm anh hay nghĩ lung tung. Anh tự hỏi sao thằng bé cứ phải ngồi đây chơi một mình khi mà anh không bao giờ cấm nó sang nhà láng giềng hay chạy ra ngoài sân. Anh nhìn cả gian phòng yên tĩnh và chợt thấy tự hào vì có rất nhiều gia đình trong những buổi tối thế này cũng giống gia đình anh: những người cha, người mẹ vùi đầu cho tương lai của con, họ làm việc và con cái chơi đùa. Chỉ thiếu vợ anh mà thôi. Cô đang bận họp ở thủ đô.

Anh ngồi xuống cạnh con và xếp hộ cậu bé bảng ghép hình vì đã đến giờ đi ngủ. Trò chơi không khó đối với anh, chỉ một chốc hình nàng Bạch Tuyết đã hiện ra trước mắt cậu bé đầy bí ẩn. Và cũng bí ẩn đối với anh, vì sao trò buồn tẻ này lại có thể cuốn hút con anh đến vậy.

Choàng tay qua cổ bố, cậu bé cười khúc khích. Bố giỏi thật và gì nữa nhỉ, bố vừa chơi chung với mình. Mình không thích ngủ tí nào nhưng phải nghe lời bố: bố vẫn dặn mình có nhiệm vụ ngủ thay phần bố. Bố không biết mình còn muốn làm tất cả cho bố cơ.

Anh đặt con lên giường và đắp chăn cho cậu bé.

- Khi con lớn, bố sẽ chơi với con, bố nhé!

Người bố mỉm cười, anh cũng muốn rất nhiều như thế, và để con yên lòng anh bảo:

- Không lâu như thế đâu con ạ, chỉ cần bố rảnh rỗi.

- Khi con lớn, con sẽ làm thay bố tất cả.

Người bố hôn lên trán con, lòng anh dâng lên một niềm vui dịu dàng khi nhìn con mình nhắm mắt lại và cuộn tròn trong chăn. Khép cửa buồng cậu bé, anh khẽ bước ra phòng khách, ở đó có trang tài liệu đang chờ anh. Đọc xong trang tài liệu chắc anh cũng sẽ ngủ say như đứa trẻ. Dẫu sao anh cũng yên tâm là con mình đã ngủ.

Cậu bé chưa ngủ say, cậu còn việc quan trọng phải làm. Hiếu động và thích nổi, cậu nhô đầu khỏi chăn thầm thì câu nói quen thuộc mỗi tối trước khi cậu ngủ, thầm thì làm sao cậu sẽ lớn thật nhanh để làm thật nhiều thay bố, để bố sẽ yên tâm ngủ sớm, sẽ không còn mệt mỏi và sẽ dành cả ngày chơi với cậu.

TRẦN LÊ QUỲNH

Một bức tranh đẹp nhiều màu sắc

Một bức tranh đẹp nhiều màu sắc

Tập sách này in lại những truyện ngắn được tuyển chọn trong số tác phẩm đã được đăng tải trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật ba năm 1996, 1997, 1998. Tính đến nay cũng đã gần chục năm rồi. Vậy mà bây giờ đọc lại vẫn thấy như mới, không có cảm giác gì là truyện viết từ mười năm trước. Giả thử nếu đặt tên cho cuốn sách là Truyện ngắn hay năm 2005 chắc cũng chẳng sao.

Tôi đã thử cố gắng tự giải thích điều này và nhận ra rằng những truyện đăng ở đây tuy không phải đều hay như nhau nhưng nhìn chung chúng đều là những câu chuyện, những cảm nghĩ về con người, về cuộc đời, mà chuyện người, chuyện đời nếu nó thật sự là văn chương thì có bao giờ cũ, huống chi mười năm qua xã hội Việt Nam cũng không có gì thay đổi đáng kể.

Điều tôi chú ý là tuy cũng kể câu chuyện về cuộc đời nhưng trong mấy mươi truyện ngắn ở đây, các tác giả đã tiếp tục đi theo con đường mà văn học những năm đổi mới đã mở ra. Cuộc sống đã không bị đẽo gọt cho phù hợp với những khẩu hiệu chính trị cũng như với những qui tắc nghệ thuật ấu trĩ.

Trong Miền cỏ hoang của Trần Thanh Hà, Thao là người lính cuối cùng của xóm trở về làng. Anh đứng trước bàn thờ mình, không nói gì, cơ má trái giật giật. Vợ anh đã đi lấy chồng, có hai con, nghe tin anh còn sống trở về vội quì sụp xuống lạy. Anh bảo "Sự thể đã thế, đừng nghĩ ngợi gì. Cố mà sống vuông tròn với người ta". Thao dựng căn nhà nằm chỏn lỏn giữa bạt ngàn cỏ léc, cuốc đất trồng khoai trồng sắn.

Không hiểu sao trong mấy chục truyện ngắn ở đây có rất nhiều truyện viết về tội phạm, gái bán thân, giới giang hồ. Chuyện kiểm lâm giết người và chặt rừng (Của trời và của người - Nguyễn Quang Thân), chuyện săn voi trộm (Mưa đỉnh núi xa - Hoa Ngõ Hạnh), chuyện giết vợ vì ghen tuông (Thế gian một thẻo nhân tình - Nguyễn Trọng Nghĩa), chuyện những cô gái đứng đường (Vào đời - Tiến Đạt), những cô gái bán dâm, bán bia ôm (Tặng phẩm cuối đời - Ngô Khắc Tài) và những người đang nằm trong trại phục hồi nhân phẩm (Chuyện nàng Mimô - Trần Kim Trắc).

Có lẽ xã hội bây giờ phức tạp thật. Nói như lời một nhân vật, "bây giờ phát sinh nhiều nghề lạ lùng như nghề đi nhậu, đi hội diễn mướn", thậm chí cả mang bầu thuê nữa. Cái may là người viết đã nhìn tất cả những chuyện này bình tĩnh hơn, không chỉ khoan dung mà còn tỏ ra rất bản lĩnh. "Cuộc đời nó gặm nhắm chúng ta, nó còn chép miệng khen ngon, tội gì mình phụ họa với nó để làm mình buồn thêm?" (Học trò già - Trần Kim Trắc).

Cái triết lý ấy thấm nhuần tất cả mọi câu chuyện, từ truyện của người cao niên đến truyện của những tác giả còn rất trẻ. Có lẽ nhờ thế mà sự sống ở đây thật bền bỉ, không có dấu hiệu gì là tuyệt vọng. Anh thương binh Thao vẫn lặng lẽ, kiên trì cuốc đất trồng khoai trên một vùng cỏ léc hoang vu để đến một ngày cây chanh bắt đầu trổ bói, hoa thơm bay khắp một vùng (Miền cỏ hoang), chồng cô Tươi cũng là kẻ ăn chơi nhưng vì thương nhau mà bỏ thành phố lên lập nghiệp gần trại phục hồi nhân phẩm, chờ ngày vợ được ân xá, cùng nhau cuốc cày, dạy học nuôi con (Chuyện nàng Mimô). Sự sống kiên nhẫn và mạnh mẽ ấy giống số phận những đứa trẻ được sinh ra trong những hòan cảnh hết sức lạ lùng mà rất nhiều truyện đã mô tả.

Trong mấy chục truyện ở đây có rất nhiều chuyện kể về những người phụ nữ mang thai và sinh nở, nhưng không có cuộc sinh nở nào yên ả, bình thường. Hầu hết, những đứa trẻ sinh ra đều không cha. Một ông chấp ở chùa cưu mang người phụ nữ mang bầu đến sinh con nơi cửa Phật, đứa trẻ hễ nghe tiếng chuông là nín khóc (Tiếng chuông chùa - Xuân Sách). Một ông già về hưu cưu mang đứa trẻ không biết ai là cha, còn mẹ thì bán bia ôm và đi ở tù (Tặng phẩm cuối đời - Nguyễn Khắc Tài).

Cái nghiệt ngã của cuộc sống vẫn không bịt hết lối đi của con người là nhờ ở tình yêu cuộc sống một cách nhẫn nại và giản dị ấy làm cho mấy chục cái truyện ngắn trong tập sách này đáng để đọc và ngẫm nghĩ. Văn chương nhiều khi đơn giản chỉ là tình yêu. Yêu cuộc đời, yêu con người cho dù có lúc cuộc đời tưởng như không chịu nổi, con người có lúc thật đáng ghét. Nhưng nếu không can dự vào tình yêu, văn chương sẽ can dự vào chuyện gì?

Tôi để ý thấy trong khi vẫn kể câu chuyện về cuộc đời, về con người, một số truyện ngắn đã có một lối kể mới. Đó là cách kể không lấy đối tượng tường thuật làm chính mà lấy bản thân sự quan sát của mình làm chính; người viết không tập trung vào kể câu chuyện cho có đầu có đuôi mà thiên về "dựng" lại những cảnh khác nhau để có thể nhìn nó từ nhiều phía, để nói lên những ấn tượng và sự quan sát của mình.

Lối kể này làm cho sự tường thuật đa dạng, biến hóa hơn, nhiều màu sắc chủ quan hơn và do đó cũng có chiều sâu hơn. Đó là một kiểu văn học của cái nhìn, khác với kiểu văn học của tấm gương. Mang dáng dấp của lối kể ấy, Sông ơi của Trần Thanh Hà không chỉ là câu chuyện mà còn là tiếng hát, tiếng hát ngân dài suốt từ đầu đến cuối câu chuyện, lịch sử của cả một thời xuyên qua nó, số phận của một dòng họ, một gia đình đi qua nó, những cuộc hôn nhân buồn tủi đi qua nó.

Một trích đoạn cũ của Đỗ Phước Tiến cũng có lối viết kiểu ấy. Chuyện chẳng có gì, chỉ có lời kể như lời thuyết minh trong một bộ phim không tiếng đi theo nhân vật. Nhân vật cũng rất ít, chỉ có hai người và đều im lặng. Nỗi đau lặng lẽ nén trong từng số phận, trong lời kể. Truyện như một vở kịch câm chứa đựng một cái gì đó khó nói ra thật rõ bằng lời.

Phan Thị Vàng Anh trong Tháng Bảy thì vẫn vậy, vẫn kể những câu chuyện như chẳng thấm vào cái đích nào, vẫn là chuyện loanh quanh trong nhà, trong vườn, những người bạn. Cái chính vẫn là cái nhìn như dửng dưng, nửa trẻ con nửa người từng trải, nhưng lần này truyện Vàng Anh như ấm hơn, vui hơn: Hai mẹ con, hai người đàn bà cùng yêu. Hai câu chuyện tình yêu đứng cạnh nhau, xen vào nhau như một vũ điệu dễ thương.

Cũng viết theo hướng này nhưng truyện Có một người nằm trên mái nhà của Phan Triều Hải lại có một nét mới. Dòng ý nghĩ của nhân vật trở thành cái mạch chính của truyện. Bản thân cái ý nghĩ ấy cũng rất hiện đại: sự khát khao muốn leo lên mái nhà, áp lưng vào mái tôn lạnh, ngắm bầu trời thăm thẳm đầy sao, chờ được nhìn thấy sao chổi Hale - Bopp đi qua và trò chuyện với chính mình, và chơi cái trò kiếm tìm bất tận với những vì sao, những đốm sáng hư hư thực thực. Cái lối kể mải miết theo những ý nghĩ của mình nghĩ về chuyện gần, nghĩ về chuyện xa, đứt đoạn, lắp ghép nhưng có mạch, khiến người đọc cứ phải bám theo, cùng nghĩ, cùng tìm một cái gì đó. Viết hay đến đâu là một chuyện, nhưng viết kiểu đó là mới, là có sáng tạo.

Trong tập truyện này có mấy truyện đặc biệt lôi cuốn vì cái giọng. Con mèo của Lê Văn Thảo là rõ nhất. Mấy nhân vật của truyện - người kể, đứa trẻ, con chó và con mèo cứ ẩn hiện như trong cuộc chơi, lúc nào cũng có cái bất ngờ, những bất ngờ vừa người lớn vừa trẻ con, hóm hỉnh, dễ thương. Cứ như có một nụ cười giấu ở đâu đó.

Truyện Học trò già thì lại có cái giọng hóm mà nghiêm. Một người học trò đã già đến thăm thầy mà vẫn cứ thấp tha thấp thỏm. Thầy thì chỉ hỏi vài chữ ngắn gọn, thỉnh thỏang lại chen mấy câu tiếng Pháp. Hình ảnh ông thầy phảng phất một cái gì xưa cũ. Hành động và lời nói của nhân vât đã được cân nhắc kỹ để tạo ra một tính cách, một không khí. Cách kể mang phong cách Nam bộ rất rõ. Đó là cái khó và cũng là cái hay của cách viết.

Tập "Truyện ngắn hay Tuổi Trẻ Chủ Nhật" là một bức tranh nhiều sắc màu. Có những câu chuyện cảm động về chiến tranh đã đi qua (Người của ngày xưa - Nguyễn Đức Thọ), có câu chuyện về cuộc mưu sinh vất vả, bụi bặm đang diễn ra mỗi ngày (Vào đời - Tiến Đạt, Nơi bão đi qua - Bích Ngân, Đất mặn - Phạm Ngọc Cảnh Nam), có những ký ức về quá khứ xa xôi, những giấc mơ, những mối tình như cổ tích (Câu hát tìm nhau - Quế Hương), có những nỗi đau giằng xé lương tri trước sự vô cảm của quan hệ con người trong xã hội công nghiệp và sự bất lực của chính mình (Tội lỗi hồn nhiên - Đoàn Minh Hà). Chỉ trong một tập truyện nhỏ mà thấy hiện lên đủ loại người, đủ khuôn mặt, đủ hình tướng và đủ điệu cảm, điệu nghĩ khác nhau. Văn học đã chấp nhận sự đa dạng của cuộc sống là văn học đã trở lại chính mình.

Mà không chỉ mang nhiều sắc màu của cuộc sống, "Truyện ngắn hay Tuổi Trẻ Chủ Nhật" tự nó cũng lôi cuốn nhờ sự đa dạng của giọng kể, màu sắc và không khí của ngôn ngữ. Tuy chỉ là một phần rất nhỏ nhưng ở đây vẫn có thể nhìn thấy những đường nét của văn học Việt Nam hôm nay. Và của cả cuộc sống hôm nay.

LÊ NGỌC TRÀ

Học trò già

Đi biền biệt ba mươi năm, được trở về Mỹ Tho, sau khi đoàn tụ với gia đình, việc đầu tiên của tôi là tìm thăm thầy, ông giáo Đức, đẹp trai nhất trường, ai cũng phải ngắm khi thầy thong dong trên chiếc xe alcyon màu đen, lốp công-pho (confort) màu trắng, tóc chải láng mượt, quần tussor, sơ mi trắng, phong thái vừa văn minh vừa quý phái. Trẻ chúng tôi rất tự hào vì được là học trò của người thầy phong lưu nhất tỉnh.

Ngôi nhà của thầy ngày trước vẫn còn đó nhưng đã đổi chủ. Tôi lần dò sang các nhà lân cận và các khu phố, người quen biết thầy trước kia không còn bao nhiêu, chỉ biết rằng sau khi tỉnh lỵ thất thủ năm 1945, thầy đã chuyển đi xứ khác, nghe nói lên Sài Gòn. Nhưng làm sao tìm được giữa rừng người đô hội.

Tôi học thầy 3 năm, một năm lớp moyen, năm sau thầy được cất nhắc lên dạy lớp nhất, tôi lên theo như duyên phận thầy trò sắp sẵn. Học năm đầu tiên đi thi tuyển vào trường cô-le (trung học) đọc danh sách tôi trúng tuyển môn viết, chỉ còn môn oral (hạch miệng) là đỗ nhưng buồn cảnh gia đình sau khi mẹ mất, tôi bỏ không thi hạch miệng, tất nhiên là tôi bị cha tôi dần cho một trận vì cái tính trái gió trở trời và bắt trở lại trường lớp cũ thêm một năm nữa. Cao lêu đêu hơn bạn bè mới cùng lớp một nửa đầu, xếp hàng đứng cuối, ngồi bàn cuối, xấu hổ, nhưng xếp hạng là (major) đáng mặt là đại ca của sư môn.

Mười bốn năm sau, tình cờ gặp chị bạn học cùng lớp. Trường Primaire hồi ấy là của con trai, nhưng đặc biệt lớp tôi có hai trò gái, một cô tên là Huệ, con ông đốc tờ, có lẽ ông đốc tờ mến mộ tài phát âm tiếng Pháp rất ư là Tây của thầy nên xin ưu tiên đặc biệt riêng với thầy cho cô con gái rượu. Còn cô bạn gặp tôi là Muội, cha Trung mẹ Việt, do cô Huệ vòi vĩnh phải có bạn gái với nhau mới dám đơn phương xông pha vào chốn nhất quỷ nhì ma nên được ăn theo.

Cô Muộn chỉ tôi nơi ở của thầy. Mừng quá, tôi quơ hai chai mật ong làm quà, vội vàng lấy xe đến thăm thầy.

Nhà thầy ở gian giữa dãy phố trệt. Hồi ấy mới có kinh tế mở nên chỉ có vài quán cà phê hoặc sửa xe, từng căn phố ngăn cách bằng rào gỗ. Khoảng trống trước nhà có chiếc xích lô đang kê nghiêng để vá bánh. Anh xích lô hao hao giống nên đoán biết là con thầy. Sát vách kê một cái phảng nhỏ, bà lão đang ngồi, cô không nhận ra tôi, nhưng sơn đình còn lưu dấu thời thiếu nữ đã từng lọt mắt xanh ông giáo trường tỉnh.

Tôi chào hỏi và trình bày ý định học trò thăm thầy. Anh con trai vào trong, trở ra mời vào.

Nhìn vào trong tôi thấy thầy thay áo, bộ pyjama của thầy đã ngả màu theo thời gian. Thầy đã già yếu, bước từ từ ra, vừa đi vừa cài nốt nút áo cuối cùng, dáng vẻ vẫn cao đạo tự tin có chút lạnh lùng. Tôi lễ phép cúi chào.

- Thưa thầy! Con đến thăm thầy.

Thầy đưa tay cho tôi bắt, chưa hề bộc lộ thoáng buồn vui mà không để cho tôi chờ đợi. Thầy bất ngờ giáng cho tôi một câu (có lẽ vì trước đây có trò nào đó đã đến thăm thầy trước tôi và nói cách mạng sơ giản với thầy...).

- Tôi không thích nói chính trị à nghe!...

Tôi bị cú bất ngờ choáng váng, chưa lường trước được thái độ của ông già ra sao đây? Vì không thích nói chính trị phải chăng ám chỉ rằng thầy không mấy cảm tình với cách mạng mà bản thân mình lại là kẻ theo kháng chiến trở về.

Thời may ba mươi lăm thủ pháp ứng xử có thủ pháp "đánh gió" nghĩa là có đến bao nhiêu đòn cũngkhông trúng quân mình. Rất may là chính quyển sách "Quốc văn Giáo khoa thư" học từ thuở để chỏm, tái hiện đúng lúc để cứu tôi. Tôi tiếp lời thầy:

- Thưa thầy! Con là Carnot đây. Con nhớ thầy và đến thăm thầy...

Thầy lại ngẩng nhìn tôi, vẫn chưa mỉm cười, nhưng sắc diện không như lúc mới đến, có lẽ đang tái hiện trước mắt thầy thằng học trò nghịch ngợm thường bị thầy cho đứng úp mặt vào vách vì tôi hay nhìn chùm me dốt bên ngoài cửa sổ.

- Ngồi đi !

-Thưa thầy! Năm 75 về Mỹ Tho con đã đến tìm thầy, nhưng thầy đã đổi chỗ biết tìm đâu. Sáng nay, tình cờ gặp cô Muội cũng học lớp thầy cho biết, con lập tức đến ngay. Mừng quá!

Thầy đưa tay cho tôi ngưng lời, nhìn ra ngõ, chỉ tay xuống bàn ra hiệu, không lâu sau anh con trai bưng vô cho một ly cà phê sữa.

Tôi nhẹ nhõm trong lòng, khoảng cách 45 năm như xích gần lại, tôi nhắc kỷ niệm:

- Thầy cho uống cà phê, con chợt nhớ thầy rất thích ăn bánh sầu riêng...

- A! Anh nhớ lâu thật...

- Hồi ấy, đến mùa sầu riêng, trước giờ ra chơi buổi chiều thầy thường gọi con "Viensici". Con liền lên bục... để nhận tiền thầy đưa, đạp chiếc alcyon của thầy ra phố chạy một vòng ra cầu tàu lục tỉnh cho thích, sau đó mới vào "Tiểu Hương tửu lầu" mua về hai cái bánh sầu riêng gói giấy nhật trình còn nóng hổi. Thầy chia cho con một cái, ra chơi con rút dưới gầm cầu thang ăn khoái chí!...

Và đến chiều, tan giờ học, thầy giao cho mang sổ sách về nhà, thấy thầy ghi cho huit points (tám điểm) mà không có phải trả bài gì sất.

Thầy mỉm cười.

- Thì chẳng phải anh redoublant đã trả bài từ năm trước rồi sao? Mà này! Tôi quên hỏi anh Bảy mất trong trường hợp nào. Tôi ở thành vẫn được nghe phong phanh (chẳng cha tôi cũng là giáo viên đồng nghiệp).

- Cha con vào bưng dạy trường Văn Chính không phải dạy học trò để chỏm, mà dạy cán bộ người lớn, thưa thầy dân ta rất nhiều người không được học. Cha mất năm 70, huyết áp cao ngã trên mô đất đào vì lúc ấy nghèo quá, cha con phải đào mương lên líp làm thuê cho người ta lấy tiền nuôi con.

- Tôi nghiệp anh Bảy.

Sợ thầy mất vui, tôi nhắc học trò cũ của thầy:

- Thầy nhớ thằng Huệ không, cũng như con nó vẫn muốn được gặp thầy. Thằng Huệ Rệp ấy.

- Sao lại gọi là Rệp?

Chuyện này có khi nhà sinh vật học không biết nhưng học trò biết. Bàn ghế nhà trường rất nhiều rệp, rệp trăm nhà học học trò mang đến, lại được hút máu con nít bổ béo sinh sôi rất nhanh. Qua hai tháng bãi trường, con nào con nấy đói meo - lạ là chúng không chết. Trước khi tựu trường, thầy bắt cả lớp phải diệt rệp mới cho vào ngồi. Chúng tôi lấy que khều chúng ra từ trong kẽ gỗ, con nào con nấy khô rang, mỏng dính như bánh tráng, màu vàng vàng, dẹp lép, trong suốt, như những mảnh xác khô, thổi nhẹ đã bay - tưởng đâu không còn tí tẹo sự sống - Âởy vậy mà đưa đầu ngón tay đến gần nghe hơi người lập tức những đôi chân nhỏ xíu lại ngoe ngoe thăm dò - đưa gần nữa, lập tức bám lấy, hút lấy hút để, no căng đỏ thẫm, xổng ra bò rất nhanh chui xuống kẹt.

Sau lần tổng vệ sinh, bỗng dưng vài ngày sau, hai cô nữ sinh gãi sồn sột, đem một cái lọ bên trong còn xót vài cái xác rệp lên mách với thầy - Trò nào đã cắc cớ gom xác rệp cho vào góc tủ của hai cô, cả đám giặc đói xông ra bu đốt hai cô bằng thích.

Thầy đưa ve chai lên hỏi ai là thủ phạm và rất giận vì cả lớp im như thóc. Thầy bảo:

- Đáng lý tôi phạt cả lớp, nhưng tôi để chiếc ve chai ở đây - Thầy đặt xuống trước bàn -Tôi để đây không ai được lấy đi! Để khi nào có người nhận tội. Tôi muốn em nào đó đừng để suốt đời bị ám ảnh rằng mình là kẻ hèn - Dám làm không dám chịu... không đáng nhân cách làm học trò tôi!

Sau hơn một tuần, ngày nào cũng bị hình ảnh chiếc ve chai ám ảnh, chịu đựng không thấu thằng Huệ về nhà khóc rấm rứt, ba nó khăn đóng áo dài dắt con đến nhà thầy để cậu quý tử tạ tội.

Nghe xong thầy bảo:

- Trò Huệ? Con ông vựa cá bên bến tắm ngựa phải không?

- Dạ đúng! Cậu ấy bây giờ nên thân lắm, thuyền trưởng tàu biển! Giờ về hưu rồi. Nó vẫn nhắc thầy luôn.

- Năm nay anh bao nhiêu tuổi?

- Dạ thưa thầy con sáu mươi lăm, tuổi con rắn nhưng là rắn nước, hiền lắm!

- Sao lại là rắn nước?

- Dạ hồi trước thầy dạy con phải như vậy?

- Tôi dạy anh cái gì về rắn?

- Dạ! Con rắn cắn Jean Fréron...

- A! Tên này nhớ lâu thật - Bài đó không có trong chương trình sơ học, phải lên cấp cao mới học. Bữa ấy tôi giận lão thầy Mậu lớp D - Ông ấy độc miệng lắm, kích bác tôi trước các thầy, nên tôi về lớp cho các trò chép bài ấy - và thầy ứng khẩu đọc:

L'autre jour, au fond d'un vallon

Un serpent piqua Jean Fréron

Que pensez - vous qu'il arriva

Ce fut le serpent qui creva

Tạm dịch theo văn xuôi: Ngày kia dưới thung lũng sâu, một con rắn cắn Jean Fréron - Biết việc gì xảy đến không? Người không chết mà chính con rắn lăn ra chết (nguyên văn là con rắn vỡ tung ra).

Vậy đó! Trên đời miệng lưỡi con người độc hơn miệng rắn độc. Ông Voltaire làm thơ nhiều ngụ ý...

- Mà này! Anh vẫn chưa nói cho tôi, thoát ly mấy mươi năm, anh làm chức gì?

- Dạ con đi nuôi ong thôi! Không có chức. Dạ! Tuổi con rắn nhưng sinh vào giờ Mùi.

- Nghĩa là sao?

- Người ta định đề bạt con lên một cấp, con lại phạm vào giờ Mùi, nên lại bị đánh tụt xuống một cấp.

- à! Trong Cách mạng, người ta nghiêm khắc chuyện ấy. Vậy có buồn không?

- Dạ, vui vẻ là liều thuốc sống.

- Không nản à?

- Dạ! Vấp ngã thì lồm cồm ngồi dậy đi nữa. Không lẽ nằm mọp luôn.

- Giỏi đấy! Nhưng đi nữa bằng cách nào?

- Biết chấp nhận thực tế - thích ứng và hội nhập.

- Làm sao để thích ứng? Nói nghe coi?

- Dạ! Cuộc đời nó gặm nhấm chúng ta, nó còn chép miệng khen ngon, tội gì mình phụ họa với nó để làm mình buồn thêm? Thân phận condition humaine - tôi ngứa miệng xùy tiếng Tây ra - mỗi người một khác, nếu cả nghìn triệu người trên thế giới không biết tự thích nghi với hoàn cảnh, thế giới này loạn mất.

Thứ hai để thích ứng, phải có cái nghề để tự nuôi sống và trả nợ cơm áo cho xã hội (payer la dette sociale), thầy đã dạy con như vậy. Con bây giờ làm nghề nuôi ong, không dám nào, tiện đây con đem mật ong cây nhà lá vườn, tay con làm ra đến biếu gia đình, xin thầy vui lòng.

- Cám ơn! Anh giỏi đấy! Có cho mình một cái nghề, còn tôi đây sau khi về hưu ngoài ba cái giáo điều trên bục giảng. Moi, je n'ai rien entre mes deux cuisses - (Tôi chẳng có gì giữa hai vế).

- Dạ thưa! Con chưa hiểu ý thầy?

Thầy nói tiếp:

- Sách vở thánh hiền đọc hàng pho - đi đâu cũng tự hào rằng mình là bậc trí giả, ngoài ba cái giáo điều cóc có thực tế, không năng động cũng chẳng có sức bật, đá phòng ngự thôi chứ không dám tiến công đột phá, làm chủ gia đình thì con cái xác xơ, giao cho làm Nhà nước thì quốc gia chỉ có mạt.

Tôi biết thầy ví von để ám chỉ thực tế đạm bạc của mình: vợ chồng già, con đạp xích lô, ngôi nhà cũ kỹ...

Tội vội đỡ lời:

- Dạ thưa thầy không phải giáo điều đâu ạ! Học trò của thầy hàng ngàn đứa đi kháng chiến hoặc lập nghiệp ở năm châu bốn bể. Hiểu vậy mới là chân lý.

- Chân lý ! - Thầy nói theo kiểu chia động từ - Ban đầu: Tôi đúng - anh đúng - nó sai. Rồi : Tôi đúng - anh sai - nó sai. Cho đến khi: Tôi cũng sai rồi... Lúc này mới là chân lý. Có thấy sai mới biết thế nào là đúng.

- Dạ! Đó là tự phê bình và phê bình. Âởy chết! Con lại nói chính trị rồi...

- Không sao đâu, không nói là không nói thứ chính trị nhăng nhăng khó nghe kia! Chứ không có chính trị để mất nước à? Tôi đã đọc không biết bao nhiêu sách Đông Tây kim cổ rồi, tôi chưa hề thấy một triết nhân, một nhà phê bình nào dám nói rằng: "Tôi sai lầm" - Vậy mà Việt Nam dám nói là mình sai để chọn được đúng chiếc chìa khóa mở cửa.

Bụng tôi mừng rơn vì thầy trò tôi đã tìm được điểm tương đồng để tâm đắc.

- Thưa thầy ba năm học, những gì thầy gieo vào đầu óc thời non trẻ con vẫn nhập tâm. Lúc nào con làm đúng là con thành, lúc nào con làm sai là thất bại. Tuổi đời càng chồng chất càng thấm thía bài học của thầy về nhân cách.

Nghe hai chữ nhân cách, bất giác thầy ngẩng lên nhìn thẳng. Bốn mươi lăm năm rồi tôi mới được thấy tái hiện nguyên mẫu thầy Đức trên bục giảng ngày nào:

- Phải rồi! (câu tiếp theo nói nguyên văn tiếng Pháp, rất chuẩn, bàn tay nắm lại chỉ thẳng một ngón về phía trước):

Qui perd sa dignité, perd tout

(Mất nhân cách là mất tất cả)

Hai chữ "p" của từ mất, thầy mím môi phát âm nghe xốc dậy cả cuộc đời.

Tôi từ giã thầy, chào cô và anh con trai xích lô ra về sau khi hẹn gặp lại.

Lên xe, đạp một đỗi tôi nhủ thầm: "May quá! Hôm nay mình đi thăm thầy bằng xe đạp...".

TRẦN KIM TRẮC

Miền cỏ hoang

Trong vườn, có một khoảng nhỏ bà trồng đủ các thứ rau: chân vịt, mã đề, diếp cá, cả rau dền đất. Bà dùng thân lau nẹp thành liếp, ken dày đến nỗi gà cũng không chui vào được. Suốt ngày bà ở ngoài đám đất, cuốc xới, nhặt cỏ dại, thuốc nam hết cả. Mùa hè bà luộc rau sam, rau chân vịt "ăn cho nó mát", nhưng đến bữa cả nhà chỉ ăn hết góc đĩa, bởi nó cứ nhơn nhớt, nhàn nhạt thế nào ấy.

Hơi nóng sốt một tí là y như rằng bà nhai diếp cá bắt đắp lên trán, hôi ơi là hôi. Chỉ bữa nào có cua đồng, mẹ nhổ rau dền đất nấu canh, cô Sửu mới khen ngon.

Ngày cô Sửu đám cưới, đám thanh niên hè nhau đạp gãy cái hàng rào của bà để vào xem cái video bố đem từ trên huyện về chiếu bộ phim đánh chém nhau của Hồng Kông. Sáng sau ra vườn, thấy đất bị dẫm đạp vô số dấu giày, rau có nát bét lẫn với đầu mẩu thuốc lá, bà sốt ruột chửi um, đến nỗi mẹ phải gắt bà mới thôi. Chiều lại đã thấy bà mang cuốc chét ra cuốc xới. Chú Thao từ bên kia đồi vác sang mấy bó lau, lụi hụi trồng lại cái liếp rào cho bà. Bố cằn nhằn: "Không có việc bà nghỉ cho khoẻ, việc gì phải đất với cỏ". Bà thở dài, dặn nhỏ: "Nhớ dội vào cái máng sau nhà cho bà để bà tưới cây".

Lối dẫn ra nhà chú Thao băng qua một vạt đồi cỏ léc cao quá đầu người. Men bờ khe có hơi nước, léc xanh um tùm, lá to và dài, trông rợn cả người. Trong rừng không có loại cây nào lá sắc như cây léc, chỉ cần vương nhẹ, nghe đau, y như rằng lá léc cắt. Thế nhưng chú Thao không phát đường, cứ đạp léc xuống mà đi, thân léc gãy máng vòng. Mùa khô, những người đi bứt lá về hễ mưa xuống trên phiến léc thỉnh thoảng có vắt, sên, nên con đường hầu như bỏ hoang. Lâu ngày, từ những gốc léc gãy, những mầm léc non lá tươi và mềm vươn lên vẫy vẫy.

Chú Thao là người trở về cuối cùng của xóm. Ngày chú ôm chiếc túi lép bước vào cổng nhà, thím Hồng đã hai mặt con, ở với chồng bên chợ, cách sông và một thôi đường. Bà ôm lấy chú mà khóc, mà kể lể thôi là kể lể. Mẹ và cô Sửu khóc thút thít. Chú đứng trước bàn thờ mình, chẳng nói gì, cơ má trái giật giật. Mặt chú trông chẳng giống mặt người trong ảnh, phía hay giật giật đen một mảng và đầy sẹo nhỏ.

à nhắn qua chợ cho thím Hồng. Thím về có một mình, mắt đỏ hoe. Vừa thấy chú Thao thím liền sụp xuống lạy. Cơ má trái của chú càng giật mạnh hơn. Chú bảo: "Sự thể đã thế, đừng nghĩ ngợi gì. Cố mà sống vuông tròn với người ta". Thím Hồng về, rồi lâu không thấy sang nữa.

Ở NHÀ được ít lâu, chú Thao làm cái nhà bây giờ. Căn nhà lúc mới dựng nằm chỏng lỏn giữa bạt ngàn cỏ léc, đứng xa không trông thấy. Chú Thao cặm cụi cuốc đất trồng khoai, trồng sắn. Ðất tốt, chả mấy chốc vườn chú đã có cái để thu hoach. Bây giờ, những cây xoài, cây mãng cầu đã lớn nhanh lên khỏi ngọn léc. Nghe đâu chú còn định xin xã cho khai phá mấy vạt đồi phía sau để trồng bạch đàn nhưng xã không cho. Ông Bính chủ tịch nói là đất ấy nhiều bom đạn, đụng vào lỡ xảy ra chết chóc, không ai chịu trách nhiệm. Chú gặp bố nhờ nói hộ. Bố bảo: "Không dễ", chú nhắc lại: "Vâng, không dễ", rồi về.

Những chiều muộn chăn trâu bên này đồi nghe vẳng từ bên kia tiếng sáo dặt dìu nôn nao. Tiếng sáo phảng phất trong sương khói chiều nghe có cái gì quằn quại trong lòng. Cả rừng léc rập rờn theo tiếng sáo. Lũ chăn trâu đứng ngẩn quên cả ngày đang tắt, quên cả đói và lạnh. Dứt tiếng sáo chúng mới lục đục lùa trâu về, thầm thì kháo nhau: "Ông Thao trông mặt sợ thế mà thổi sảo hay tàn bào, nhỉ!".

Bà kể, ngày con gái thím Hồng xinh nhất làng Thượng, nhà đã gả chồng rồi vẫn nhất quyết chối chỉ bởi mê tiếng sáo chú Thao. Ðêm văn nghệ nào có chú thổi sáo; thanh nữ đứng xem đông nghịt, hết thảy đều ngây ngất. Tiếng sáo như có bùa quyến rũ hết con gái làng, đến nỗi trai làng có bận doạ bẻ hết ống sáo chú Thao, cấm chú thổi. "ấy vậy mà bây giờ...". Nói thế, bà lại khóc. Mỗi lần nghe bà khóc, cô Sửu nhăn mặt: "Ai người ta cũng biết, mẹ kể làm gì".

Quãng gần Tết mấy cây chanh ghép trong vườn chú Thao trổ bói. Giữa một vùng chỉ có cỏ là cỏ, hương chanh ngọt ngào, tinh khiết. Ong rừng nương theo mùi hương rủ nhau bay về, rập rờn trên những vầng hoa trắng. Chú Thao ngồi hàng buổi trầm ngâm, mắt vời vợi mông lung trông ra bạt ngàn ngọn léc uốn cong theo gió, cơ má giật giật.

ừ độ hoa chanh vườn chú Thao nở, cô Sửu thỉnh thoảng sai: "Mày chạy vào nhà ông Thao kiếm ít hoa về gội đầu". Cô đâm nghiền thứ nước bồ kết nấu thả vài cánh chanh trắng, hương thoang thoảng, thanh và cay, gội xong nhiều ngày mà hương còn ủ trong tóc. Hoa chanh nở có kỳ, nhưng cô Sửu bao giờ cũng có thể gội đầu là nhờ chú Thao nhặt hoa rụng, hong khô, cất kỹ, mỗi bận lại cô Sửu một ít. Cô Sửu có lần đùa: "Vì mấy cây chanh nhà ông Thao mà tao lấy được chồng", cô hếch mặt: "Còn mày, đến thời không bù giá bằng hoa chanh được. Bảo bố mày sắm cho ít vòng xuyến...".

Cô Sửu vốn không đẹp, da đen, vóc người to ngang, ăn nói đốp chát. Học xong trung cấp nông nghiệp về xã làm kỹ thuật viên, cũng chân lấm tay bùn như ai, nhưng hễ trai làng buông lời tán tỉnh là cô bĩu môi ra chiều coi thường. Cô nói cô thích người trình độ. Ngoài ba mươi, cô còn ở vậy. ẤY THẾ NÊN CÔ nhận lời lấy anh kỹ sư cùng cơ quan bố.

Bà cũng hay sai. Bà thường sai mang những thức rau trong vườn cho chú Thao. Một lần sai đi bà lại đem chuyện chú Thao hồi chưa đi bộ đội ra kể, nào là chuyện chú Thao tát cá về bắt bà nấu canh rau tập tàng ra sao, nào là chuyện chú Thao cuốc đất khoẻ như thế nào. Thôi thì đủ chuyện, dài có khi hết buổi, làm mẹ phải nhắc khẽ: "Chạy ù đi rồi về học bài".

Chú Thao ít qua nhà nhưng hễ qua là thế nào chú cũng mang cho chục trứng, miếng thịt nhím thịt chồn bẫy được, ngồi với bà một chốc, nói dăm ba câu là đi ngay. Có lần cô Sửu bảo: "Hay anh lấy vợ đi. Ðã già đâu. Em sẽ mối cho anh con bạn học...". Không chờ cô Sửu nói hết, chú Thao trừng mắt làm cô ấn gãy thỏi son đang tô môi dở, xịu mặt. Chú Thao đi rồi cô mới toang toang; "Dở hơi, ông Thao ông ấy giở hơi. Thời này đàn bà rây ra, khối đứa thèm đàn ông không ai để mắt. Ông Thao có hơi bị cháy mặt một chút nhưng cũng là đàn ông. Có vợ có chồng vẫn cứ hơn thui thủi một mình. Biết toan tính, chăm chỉ như ông ấy, chả mấy chốc mà giàu. Hay còn chung thuỷ với bà Hồng? Bà ấy đã là vợ người ta, còn thương tiếc nỗi gì nữa không biết...". Bố gắt: "Biết thì nói, không thì đừng. Cô là hay nói nhiều". Cô Sửu đùng đùng: "Thấy phải là tôi nói chứ! Ông làm như ông thương ông Thao lắm không bằng. Thương sao để ông ấy ra ở rừng một mình?

Sao không chạy cho ông ấy cái giấy thương tật?

Mà ông chỉ bảo với xã một tiếng là người ta cho ông Thao thầu cái đồi léc, thế mà không. Ðể cho cỏ nó mọc bạt ngàn, người ta muốn làm kinh tế lại không cho". "Ðã bảo lắm bom...". "Bom cái gì? Ông không phải sợ cho cái tính mạng của ông Thao, ông sợ cái khác. Ðạo đức giả tuốt?". "Cô đừng có hồ đồ. Im đi cho tôi nhờ!". Bố bực bội. Cô Sửu không im, cô xỉa xói: "Ông đừng ỉ mà quát tôi nhé! Ông bắt ai im được chứ tôi thì đừng hòng. Tôi biết tỏng trăm ngàn chuyện xấu xa của ông. Tôi biết cả cái giấy đòi nhập ngũ là đề tên ông, nhưng vì ông sắp đi nước ngoài nên phải cạy cục lo cho ông Thao đi thay. Có ông Thao gánh hết thiệt thòi ông mới thành ông này ông nọ. ấy thế mà giá ông Thao chết đi có khi ông lại dễ chịu hơn là thấy ông ấy lù lù dẫn xác trở về". "Mày, mày, mày...". Bố lắp bắp, mặt đỏ ngầu. Cô Sửu ngoảy mặt bỏ đi. Bà rên rẩm: "Vô phước, tao vô phước...". Mẹ lặng im cắn môi ngồi một mình trong buồng. Bố nổ máy xe phóng ra huyện dù chưa hết ngày chủ nhật.

ô Sửu lấy chồng chưa đầy năm thì tay xách nách mang về nhà. Mẹ kéo cô vào buồng, mặt tái nhợt: "Làm sao thế hả". Cô Sửu khóc, nói trong nước mắt: "Em dại. Ðã chót ở đến chừng ấy thế mà không ở luôn, lấy chồng là gì cho nó nhục...". Mẹ đảo mắt chung quanh hoảng sợ: "Thì nho nhỏ thôi! Có gì cô nói đi xem nào". Cô Sửu quệt nước mắt: "Cái số em nó khổ. Ngót ba chục tuổi đầu ai cũng cười ế ẩm, lấy chồng trình độ, ăn trắng mặc trơn thiên hạ tưởng sung sướng, nào ngờ vớ phải thằng cha bất lực. Biết em có bầu, nó đánh chửi em thậm tệ...". Trời ơi là trời" - Mẹ bưng mặt.

Tôi bỏ chồng. Ai nói gì thì nói". Cô Sửu tuyên bố khi có đủ mặt cả nhà. Bà chu chéo, bà bảo rằng chính cô làm nhục gia phong, rằng cô bôi tro trát trấu vào mặt bà. Bà khóc, bà chửi ầm cả nhà. Bố im lặng hút thuốc, mãi sau mới nói: "Chuyện xấu, chẳng biết giấu đi, cứ vạch áo cho người xem lưng. Cái làng này không khéo đến lúc cô Sửu đẻ, họ kéo cả đến xem đứa bé giống ai...". "Muốn xem tôi cho xem chứ! Tôi sợ gì mà giấu với giếm". "Hay hớm lắm đấy, cô lên phố mà xem, mấy hôm nay đầu đường xó chợ, đâu cũng thấy tụ tập đàm tiếu chuyện vợ chồng cô. Cô không ngượng nhưng mà tôi ngượng, tôi nhục...". Cô Sửu cúi nhìn cái bụng sắp vượt mặt, lại khóc. Nhà buồn như có đám.

Tháng Chạp thứ hai, hoa chanh vườn chú Thao nở. Cô Sửu không còn sai chạy sang chú Thao lấy hoa chanh nữa. Cỏ léc vẫn rập rờn xanh biếc một màu, ngàn ngàn lớp sóng xô đuổi nhau chạy qua, xôn xao, khấp khởi. Heo may thổi lồng lộng buốt lên tận óc. Lại mưa phùn hay đổ vào buổi chiều tối, giăng mắc lên làng mạc một làn sương mờ dày đặc. Bà bây giờ chỉ còn ngồi trong tay trên bếp lửa, hết sáng tới chiều, hết chiều tới tối, đêm bà ngủ mẹ cũng phải vùi than dưới giường cho bà. Lâu bà không còn nhắc đái vào cái máng sau vườn nữa. Khoảng đất của bà dền đất già nở từng bông hoa xanh xám dài ngoằng ngoẵng, chen chúc với lũ cỏ hôi hoa mầu hồng hồng, lá phủ một lớp lông mọc nham nhám. Cái liếp rào một lần gió lay là xiêu vẹo chực ngã. Phần cái cuốc chét, cán gãy mẹ đã cho vào bếp đun, lưỡi sắt hôm qua thằng cu Ki đã bán cho đồng nát.

Con cô Sửu xinh như tranh, chỉ mỗi hay đái dầm. Không thấy hàng xóm đến xem mặt đứa bé như lời bố, chỉ có ông Bính chủ tịch không con đến nhận thằng bé nhưng cô Sửu cười bảo: "Tôi đẻ, con tôi, chẳng con ai cả".

Cô đặt thằng bé vào cái nôi buông mùng trắng rồi hát: "Cái vạc mày ngủ cho ngon. Mai sau mày lớn, tìm cho ra gái ngoan mà hẹn hò...".

ô bảo: "Mày trông chừng em cho cô nhé! Cô chạy quàng đi một tí. Lâu ngày nằm ổ, buồn quá! Cô vấn tóc trùm khăn kín mặt, đi. Quá bữa cô mới về. Từ ngoài ngõ đã nghe tiếng cô oang oang: "Ðiên, ông Thao nhà này điên mất rồi". Mẹ tất tả chạy từ dưới bếp lên. Cô Sửu vừa tháo khăn vừa nói: "Ðàn bà không chồng làng này thiếu gì. Lấy ai chẳng lấy, lại đi rước mẹ con con mụ Nền. Mang gông suốt đời mà không tránh khỏi miệng thế gian"....

À ra cô Nền về ở với chú Thao. Cô Nền nhà ở gần trường học, không thấy nói có chồng nhưng có ba đứa con. Bọn học trò hay vào nhà cô xin nước uống, lợi dụng bứt trái đu đủ non, dăm quả ổi xanh, trốn học chấm muối ớt, có đứa táo tợn còn lấy cắp trứng gà, bồng cả gà mẹ. Cô Nền biết nhưng không chửi, không mắng. Ðược thể bọn trẻ lại làm quá. Cô là đối tượng trong những câu chuyện của đám đàn ông tụ tập khi rỗi rãi. Họ đùa phát vào lưng nhau đôm đốp: "Em Nền ấy à, cứ xuống xề kể lể nỗi bất hạnh là em mềm lòng cho tuốt...". Ðàn bà khinh nhờn cô ra mặt. Họ bảo cô đĩ thoã, họ bảo cô khốn nạn. Quanh năm suốt tháng, ngoài lũ học trò chẳng có ai tới nhà cô ban ngày ban mặt.

Cô Sửu lay gối bà, than thở, chuyện chú Thao. Bà ngồi lặng im hong tay trên bếp, chẳng ra nghe, chẳng ra không. Mắt bà đục mờ như có phủ sương khói. Bà cười, phô hàm lưỡi trống trơn sóm sém. Lâu bà mới hỏi mẹ: "Thế bao giờ đến giỗ thằng Sơn?". Mẹ dụi mắt, nhắc khẽ "Chú ấy còn sống, đã về". À thế...". Mắt bà ánh lên một chút sáng rất nhỏ, rất mỏng, rồi nguội tắt nhanh chóng, lại chỉ thấy sương khói đục mờ. Mẹ và cô Sửu nhìn nhau, không ai nói.

Trong hơi may, trên những triền đồi hoang chỉ còn một lũ trẻ chăn trâu. Chúng co ro trong áo tơi, da tái xám, giữa lồng lộng gió. Trên muôn triệu lá léc xanh xuyên qua lớp lớp mưa phùn là trong trẻo, là réo rắt, là huyền hoặc tiếng sáo. Chưa bao giờ tiếng sáo nỗi niềm da diết đến thế. Không đứa nào lên tiếng. Chúng nắm chặt tay nhau nhìn về hướng ngôi nhà nhỏ bên kia đồi. Phía đó, một làn khói bếp mỏng bay lên, vẽ một đường cong mềm mại, rồi toả toả vào trong chiều muộn.

TRẦN THANH HÀ

Có một người nằm trên mái nhà

Khi mà sao chổi Hale-Bopp đi qua thì tôi đang nằm trên mái nhà. Ban đầu, tôi thấy nó rất mờ, rất nhạt. Tôi thấy nó như vừa chui ra khỏi một đám mây, trước là một cái đầu nhỏ, tiếp theo sau là một chùm sáng đục mà càng lúc càng mượt mà hơn, uyển chuyển như một cái đuôi chồn dựng ngược.

Tôi biết chắc chính là nó cho dù chỉ nhìn bằng mắt thường, bởi so với những chùm sao quen thuộc khác thì nó có một vẻ kỳ dị, như một thiếu nữ chưng diện bộ áo váy sáng rực kim tuyến đi dự hội đêm hè.

Tôi không biết nó xuất hiện đã bao lâu rồi trước đó. Lẽ ra tôi đã phải leo lên mái nhà sớm hơn, như mọi ngày, để đáp lưng trần xuống cái mái tôn quen thuộc ấy, nơi mà tôi chỉ buộc phải rời khỏi đó vào những đêm mưa. Nếu không, thì tôi đã được chiêm ngưỡng lâu hơn nữa cái cảnh tượng cực kỳ hiếm hoi chỉ diễn ra sau hàng bao nhiêu đời người. Nhưng tối hôm đó, tôi đã bất chợt chợp mắt, không chỉ vì mệt mà còn vì cái lạnh đầy quyến rũ tỏa ra từ những mái tôn nghiêng nghiêng hai mươi ba độ rưỡi ấy.

Chính xác là hai mươi ba độ rưỡi. Khi xây nhà, cha tôi đã không hề tuân theo bất kỳ một kiến trúc nào cả.

- Tao đã ở cái nhà này hai mươi năm nay. Tao biết cần phải xây như thế nào. - Ông nói.

Những bản vẽ của các kiến trúc sư kinh nghiệm lẫn những ý kiến đóng góp của đám sinh viên xây dựng đang tập tành đi vào thực tế đều bị gạt bỏ không thương xót. Không có gì lay chuyển được ông. Và cứ dựa trên tinh thần lãnh đạo đó mà ngôi nhà mọc lên từ từ, chậm rãi, bởi không ai muốn làm trước những mệnh lệnh tùy hứng và thường khi trái ngược với những nguyên tắc cơ bản của vị chủ nhà vừa uy quyền, vừa chủ quan ấy. Trưởng nhóm xây dựng là người hết sức cẩn thận và biết điều khi nhường hẳn quyền quyết định cho cha tôi ngay sau những xung khắc đầu tiên, và vào một đêm của tháng thứ sáu kể từ ngày ngôi nhà cũ bị đập nát để làm nguyên liệu cơ bản cho cái nền của ngôi nhà mới, thì cha tôi, lúc ấy hãy còn ngủ ngoài trời trống hoang hoác vì mùa khô năm nay quá sức nóng nực, không hề có một ngọn gió lẫn giọt mưa, đã bị đánh thức bởi người đội trưởng tận tình và cẩn thận.

- Ngày mai chúng tôi sẽ bắt đầu làm mái nhà. - Ông đội trưởng nói nhỏ.

Cha tôi gật gù:

- ừ, thì cứ làm.

Người đội trưởng có quá thừa kinh nghiệm trong những trường hợp này.

- Tôi hỏi xem ông muốn làm như thế nào. Làm mái nhà là một việc quan trọng, tất cả mọi người trên trái đất này đều phải sống dưới những mái nhà. Có tương lai hay không cũng tùy thuộc vào mái nhà.

- Đúng đấy - Cha tôi ngẫm nghĩ - Vậy thì, tôi muốn có một mái nhà mầu sáng, và nghiêng.

- Mái tôn mầu sáng, và nghiêng. Tất nhiên rồi. - Người đội trưởng vẫn nghiêm nghị.

- Nhưng nghiêng như thế nào. Bao nhiêu độ?

Cha tôi lộ vẻ hoang mang, nhưng vốn là người không bao giờ muốn để người khác thấy sự mất chủ động của mình, ông hỏi ngược lại.

- Trái đất này quay theo một trục nghiêng. Cái trục ấy nghiêng bao nhiêu độ?

Lần này đến lượt ông đội trưởng lúng túng, và phải mất hai giây cho một câu trả lời.

- Hình như hai mươi ba độ rưỡi.

- Vậy thì hãy làm cho tôi một cái mái nhà nghiêng hai mươi ba độ rưỡi. Thật chính xác, không được sai một ly. - Cha tôi ra lệnh, kết thúc vấn đề hệ trọng ấy bằng cách nghiêng lật người sang một bên, và như thường lệ giấc ngủ đến với ông nhanh ngay lập tức.

Cuối cùng thì mái nhà cũng đã làm xong, nó nghiêng nghiêng theo một góc nào đó mà bất kỳ ai khi nhìn ngắm cũng không thể không nhận thấy được sự hòa hợp dễ chịu của nó đối với mình.

- Mái nhà trông rất thoải mái - Mọi người nhận xét.

- Bởi vì nó nghiêng hai mươi ba độ rưỡi. - Cha tôi khẳng định.

Tuy nhiên, những ngày đầu tiên ở trong ngôi nhà mới luôn luôn có một cảm giác lạ thật khó chịu. Mùi vôi vữa, mùi sơn cửa, mùi của vecni đánh trên gỗ chưa kịp khô khiến không ai có thể ngồi lâu được nửa ngày.

- Đó là do nhà mới. - Cha tôi trấn an. - Chưa kịp có hơi người.

Vợ tôi đã sửa chữa thiếu sót ấy bằng những sai lầm. Trước tiên là vào dịp cuối năm, nàng đã hào phóng trích hẳn ra một phần tiền dành dụm còm cõi để mua những cái chậu hoa kiểng sặc sỡ, với tham vọng không hề che giấu.

- Qua năm, em sẽ trồng chúng thành một rừng hoa trong nhà.

Nhưng tham vọng ấy nhanh chóng lụi tàn chỉ mươi ngày sau. Nàng đã phải nhọc công đi hốt hết lá khô cành khô rơi rụng mỗi ngày, mà lòng vẫn hy vọng những cây ấy chẳng qua đang tiến hành một quá trình thay da đổi thịt, để cuối cùng có một phát hiện muộn màng là những cây kiểng ấy được người bán trồng đơn giản bằng cách cắm thẳng vào đất mà không hề có một cọng rễ nào khả dĩ có thể nuôi sống được chúng cho tới mùa ra hoa tới. Sau đó nàng tiếp tục thực hiện sai lầm kế tiếp là mua một chiếc lồng chim tuyệt đẹp có chạm trổ vài đường viền theo phong cách lăng tẩm của vua quan triều Nguyễn.

- Để cho vui cửa vui nhà khi gia đình ta chưa có trẻ con.

Chú chim nhỏ bé mà lanh lợi, cứ líu lo hót suốt những ngày mới về. Thế nhưng chàng chim ấy cũng chỉ mua vui được một vài hôm. Sau đó là một cảnh tượng ủ rũ, với lông cánh, lông đuôi xơ xác rơi xuống sàn. Và để tránh một kết cuộc bi thảm đang diễn ra từng ngày từng giờ trong ngôi nhà, vợ tôi đã vội vàng giúi cái lồng son với con chim tội nghiệp đang thoi thóp cho thằng bé đổ rác vào một buổi trưa.

- Nó sẽ biết cách chăm sóc con chim.

Vợ tôi nói, giũ sạch nỗi ăn năn với sinh vật bé bỏng ấy một cách nhẹ nhàng như vậy.

Nhưng sau những câu chuyện ấy thì mọi người cũng đã bắt đầu quen với ngôi nhà mới. Tất cả nhận ra rằng, cái hơi người cần có thường được nói đến, chính là kỷ niệm, không có gì gần gũi với người hơn là những kỷ niệm. Giờ thì mọi người đã có những kỷ niệm mới, đã có thể nhìn quanh mà nhớ được những sai lầm của vợ tôi đang diễn ra ở đâu. Này là ở bốn góc nhà, nơi từng đặt những chậu kiểng, này là hiên nhà, nơi từng trú ngụ của con chim tội nghiệp với chiếc lồng son. Chỉ có tôi là không quen được với nơi ở mới, không quen ở mà trên đầu bị che bởi một mái nhà, và chung quanh là những bức tường có cửa sổ trổ ra lưng những tường nhà hàng xóm. Tôi đã nhiễm phải thói quen sống ngoài trời trong suốt thời gian xây nhà, ấy là thói quen được ngắm những ngôi sao hằng đêm. Cái thói quen mới đã dễ dàng xóa đi hoàn toàn những thói quen và sở thích khác mà tôi đã tích lũy được trong suốt hàng mấy mươi năm sống trên cõi đời này. Và thế là hằng đêm, tôi leo lên mái nhà, tựa cái lưng trần vào mái tôn lành lạnh nghiêng hai mươi ba độ rưỡi, hai chân khép lại xuôi theo sóng tôn về dưới, hai tay khoanh trên ngực và mắt ngước nhìn lên bầu trời đen thăm thẳm đầy sao. Mỗi đêm tôi cứ nằm như thế hàng giờ liền, sung sướng vì chung quanh không có những bức tường, trên đầu mình chỉ một bầu trời, một bầu trời lớn mênh mông, và không hề bị chia sẻ. Có rất nhiều sao trong bầu trời đó, cứ mỗi ngày lại có một bố cục những sao khác nhau. Và cứ hàng tháng lại có trăng xuất hiện. Nói chung tôi không thích trăng, vì nó sẽ luôn luôn to quá, tròn quá, sáng quá. Trăng cứ như một thiếu nữ đến hoặc sẽ đến trước ta với khuôn mặt đầy son phấn, nhìn thẳng vào ta với cái nhìn lạnh lẽo và bỡn cợt, rồi nói: Tôi rất đẹp, đúng không? Mà ta thì không thể có một lời nào khác ngoài việc phải thừa nhận sự thật đó. Tôi không thích cái kiểu sỗ sàng ấy, tôi chỉ thích tìm những ngôi sao. Phải tìm. Có những lúc ngay nơi ấy không hề có một ngôi sao nào, nhưng trong chớp mắt lại có một đốm sáng xuất hiện bé tí như đầu kim, để rồi khi bạn chưa kịp kìm giữ lại thì chỉ một cái chớp mắt, nó biến mất khiến không thể biết được thực hư. Và cứ như thế, bạn có thể chơi cái trò này mãi, mà càng chơi càng bị hút vào, như một thứ đam mê không sao dứt ra được, để rồi mỗi buổi sáng bạn lại buộc phải mong chờ đến đêm tối để được ngắm, được chơi cái trò trốn tìm bất tận đó.

Vợ tôi rất không hài lòng với đam mê này của chồng. Đối với nàng, tất cả những lý do tôi đưa ra đều không thể biện minh được cho một hành động điên rồ như thế, dù đó là một lối thoát cho những công việc cụ thể mà đơn điệu, hay nhằm chống đỡ những rỗng tuếch mơ hồ cứ ngày lại ngày gặm mòn hết những ý chí muốn được suy nghĩ một cái gì đó thật riêng biệt cho mình. Nàng tuyên bố rằng không có gì tồi tệ cho bằng việc hàng đêm chồng cứ len lén leo lên mái nhà mà ngắm sao trời, bỏ mặc vợ ngồi tù túng ở dưới nhà trong tiếng choang choang của hết bình luận viên thể thao đến bình luận viên thời sự trên truyền hình. Nhưng nàng cũng chưa thể tìm ra được một lý do nào đủ mạnh để có thể kết liễu công cuộc leo trèo tìm tự do của tôi cho đến một ngày tháng Tư nóng bức, lúc ấy tôi đang ở trần, đặt bước đầu tiên lên nấc thang tre dẫn từ bếp lên mái nhà thì nàng thông báo.

- Trong tháng này sẽ có sao chổi Hale-Bopp đấy, độ cao từ mười đến hai mươi lăm độ Tây Tây Bắc.

Tôi sửng sốt. Tôi chưa hề ngờ đến điều này bao giờ. Tôi đứng cheo leo trên thang, hoang mang. Hale-Bopp. Tôi sẽ được trông thấy nó sao. Vợ tôi bình tĩnh tiếp.

- Và anh sẽ không bao giờ được leo lên mái nhà nữa sau khi ngắm được nó.

Đó là một thỏa thuận hợp lý. Bởi Hale-Bopp chỉ quay lại với trái đất sau mỗi hai ngàn bốn trăm năm. Tôi biết rõ như thế. Tôi còn biết rằng cho dù cái đuôi của nó dài đến hơn một triệu kilômét thì cũng không dễ gì mà bắt gặp được bằng mắt thường, nhất là trong tuần trăng sáng này.

- Anh phải lên mái nhà sớm hơn một chút vì nó chỉ xuất hiện khi trời vừa tối. - Vợ tôi nhắc nhở.

Vào giờ ấy, mái tôn hãy còn âm ấm nóng bởi giấc trưa dài mênh mang nắng. Phần da lưng của tôi dán vào mái tôn cứ rìn rịn mồ hôi. Khi tôi nằm dài, tôi có thể trông thấy hai mũi chân của mình chúc lại ở phía dưới kia. Tôi nằm nghiêng đầu qua hướng Tây Tây Bắc một chút, và chọn một cái tư thế nhẹ nhàng nhất với những khớp xương ở khuỷu tay, khuỷu chân sao cho có thể nằm lâu được mà không mỏi. Và trong những ngày chờ đợi khi nằm như thế, thỉnh thoảng tôi bắt gặp một làn khói nhè nhẹ đi lên từ mái nhà bên, một vài ngọn lá khô trượt xuống máng nước và một bãi cứt mèo còn mới tươi.

Lúc chưa có sao chổi xuất hiện thì tôi thường hay nghĩ. Tôi nghĩ là tôi sẽ làm gì vào năm ba mươi tuổi. Có lẽ cũng không có gì thay đổi nhiều. Rồi tôi nghĩ là tôi sẽ làm gì vào năm bốn mươi tuổi. Lúc ấy có lẽ tôi đã chậm đi nhưng chắc cũng vẫn đang đi làm thôi. Người ta nói tuổi ấy mới là tuổi chín muồi. Khi tôi chín muồi vào tuổi đó thì tôi sẽ có gì trong tay nhỉ? Tôi không rõ.

Nhưng nói thiệt tình là tôi không biết, bởi bây giờ tôi cũng đã có thể ngồi ở nhà mà biết chiến sự đang diễn ra ở đâu qua cái ti-vi, tôi đã có thể uống bia lúc nào cũng sẵn trong tủ lạnh. Tôi đâu cần kiếm thêm hai cái tủ lạnh hay hai cái ti-vi để trong nhà mà làm chi. Lúc ấy điều quan trọng nhất có thể có được là những đứa con. Có lẽ lúc ấy tôi sẽ lo cho những đứa con. Rồi tôi nghĩ là tôi sẽ làm gì vào năm năm mươi tuổi. Lúc ấy tôi không thể ôm mãi cái cặp mà đi đến người này người nọ chào hàng như bây giờ. Vả lại người ta cũng không cần một nhân viên già nua như thế cho dù là mẫn cán tuyệt đối đi nữa.

Nói chung, những khi nằm chờ sao chổi tôi thường nghĩ rất nhiều như vậy. Nhưng không phải lúc nào cũng nghĩ quá xa, đôi khi tôi nghĩ rất thực tế, chẳng hạn như tôi bây giờ là một gã rất to rất khỏe. Chẳng hạn như tôi không thích ở trong nhà, mà thích ở ngoài trời. Tôi thèm hít thở khí trời ghê lắm. Nói cái này hơi bậy, nhưng hồi còn nhỏ, lúc nào tôi cũng thích ở truồng. Tôi ở truồng mọi nơi nào có thể được, nhất là những khi chạy ngoài mưa. Những đêm hè không có mưa thì tôi thích tắm ngoài trời, tôi thích dội nước ào ào, nước lạnh ngắt kéo lên từ giếng. Tôi cũng thích ngủ dưới những tán cây, nhất là những đêm mà có gió luồn qua ngực, qua tóc. Tôi thích những điều đó ghê lắm.

Sau một tuần tôi canh giữ sự xuất hiện của Hale-Bopp trên mái nhà, cha tôi tuyên bố.

- Mày sẽ chẳng làm một cái gì cho ra hồn được.

Nhưng đây không phải là lần đầu tiên tôi nghe một câu như thế. Đối với cha tôi thì người ta sinh ra trên đời này không phải là để ăn, ngủ, kiếm tiền phục vụ chuyện ăn ngủ rồi chết. Theo ông thì làm một con người còn khó khăn hơn nhiều. Và không chỉ có mỗi một mình cha tôi có ý kiến như thế. Có lần tôi nghe người ta ca ngợi một nhà thơ trên truyền hình:

- Ông ấy không chỉ là một nhà thơ mà còn là một con người.

Là một con người. Tôi chắc chắn khi mà thốt ra một cấu trúc câu như thế thì con người đang được viết hoa, và nhấn mạnh rằng không phải ai cứ sống là đã đảm bảo thành một con người được. Phần tôi thì tôi rất tiếc, tôi mong được nói một trăm ngàn lần để xác nhận với một trăm ngàn người mà tôi có thể gặp rằng từng người, từng người một, tất cả đều là những con người. Có những người mà tôi rất ghét, nhưng tôi cũng sẽ nói với họ như thế, bởi tôi thấy làm con người tưởng cao ráo lắm, nhưng ê ẩm có thừa.

Người ta phân biệt nhau ra người tốt, người xấu, trong khi xấu hay tốt gì thì cũng đều do chính người nhào nặn nhau mà nên. Tôi biết cái sao chổi Hale-Bopp không phải lần đầu tiên đến trái đất này, nó đã từng du hành ngang qua đây hơn hai ngàn bốn trăm năm trước. Tôi không hình dung được hai ngàn bốn trăm năm trước có những ai là ai, có tên tuổi gì, có địa vị gì, có những vinh quang hay thống khổ gì. Tôi cũng không biết hai ngàn bốn trăm năm sau thì những ai là người sẽ là gì.

Tôi không biết những điều đó bởi tôi sẽ thành cát bụi chỉ chừng năm mươi năm nữa. Tôi muốn chia sẻ ý nghĩ mà cha tôi gọi là điên rồ ấy cho những ai tôi gặp được. Nếu mà tôi có thể bỏ công việc trong một thời gian dài mà không bị chết đói, thì tôi sẽ đi xa. Đi chỉ để làm một công việc hết sức đơn giản. Trước tiên tôi sẽ đến nhà thơ nọ và xin được nói lại: ông không chỉ là một con người mà còn là một nhà thơ. Tiếp đó là bất kỳ ai tôi gặp trên đường. Tôi sẽ xin phép xác nhận với từng người một.

- Anh không chỉ là một con người mà còn là thợ mộc.

Hay

- Chị không chỉ là một con người mà còn là một phụ nữ đẹp.

Và nếu có thời gian, tôi sẽ tán gẫu với họ rằng, khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng là ba trăm ngàn kilômét. Từ quả đất đến mặt trời là một trăm năm mươi triệu kilômét. Từ nhà tôi đến nhà bạn là một trăm mét mà chúng ta gặp nhau mỗi năm chỉ có một lần. Và như thế thì chúng ta mới nhỏ bé làm sao. Quá nhỏ bé để có thể phân cấp hay so nhau một tiếng nói. Cho dù ta có đáng là người hay không đi nữa thì ngay cả khi tựa vào nhau rồi, chính quả đất cưu mang tất cả mọi người cũng nhỏ bé nốt. Đã có số liệu rõ ràng rồi đấy.

Cứ như thế mà tôi đã nằm suốt nhiều ngày liền trên mái nhà từ sáu giờ bốn mươi lăm chiều mỗi ngày, trong khi niềm tin của mọi người đặt vào cái sự kiện ấy dần dần lụi tàn.

- Nếu có trăng thì sẽ không nhìn thấy sao chổi. - Vợ tôi đã bắt đầu muốn chấm dứt những lý do chính đáng cho việc nằm trên mái nhà của tôi.

Tôi không biết là nếu không leo lên mái nhà nữa thì sẽ làm gì ở dưới mái nhà. Vợ tôi thì lúc nào cũng có việc để làm, những công việc vặt vãnh của một phụ nữ chuyên lo cho cái tổ ấm của mình. Hoặc ngay cả khi hết việc rồi, nàng vẫn có thể bận rộn la hét con mèo với nhiệt tình không đổi cũng như thể đang loay hoay bên cái chảo bốc khói nghi ngút. Tôi cũng có thể trông thấy cha tôi vun vén cho những bụi cây con con trước cửa, miệng phàn nàn về đám con nít hàng xóm ngày càng coi thường cái uy của ông mà cứ bẻ ngang mấy cành hoa. Tôi có thể hình dung ra mọi điều thật chính xác, trừ việc tôi sẽ làm gì trong khoảng thời gian đó. Suốt một ngày sống trong khói bụi, trong tiếng động cơ xe máy, trong tiếng nói cười của những đám đông, thì đêm về tôi chỉ muốn yên lặng. Mà yên lặng thì không nơi đâu yên lặng bằng bầu trời. Thật đấy.

Hôm nay trời cứ nắng như lửa. Dưới cái nắng ấy, tôi đã chạy hết mười chín vòng để giao khung tranh cho khách hàng. Người ta trả cho tôi mười lăm ngàn một vòng. Hôm nay tôi kiếm được hai trăm tám mươi lăm ngàn. Hiếm khi nào tôi kiếm được từng ấy tiền trong một ngày, nhưng tôi cũng không kịp vui sướng với điều ấy. Tôi mệt quá. Về đến nhà mới thấy mệt, bao nhiêu thứ trong đầu quánh lại như một trái ten-nis, cứ lăn và nhảy từ góc này sang góc kia, từ mang tai trái sang mang tai phải. Tất cả là tại nắng, nắng như lửa. Tôi mệt đến nỗi chỉ muốn nằm dài ra, và quả thật tôi đã nằm dài ra. Vợ tôi cởi áo cho tôi, chậm rãi lau người tôi bằng một cái khăn khô cứng vì suốt ngày phơi ngoài nắng, những sợi lông của khăn xát lên người rát bỏng. Tôi muốn nói với nàng là hình như nó đang làm trầy da, và nàng làm ơn đi nhúng nước cái khăn ấy, nhưng tôi cũng không phản ứng được, tôi không cử động được cả bàn tay.

Tôi thức dậy khi vợ tôi đang ngồi ở góc bàn. Nàng đang đếm tiền, đang xếp những tờ năm ngàn thành từng xấp một trăm ngàn và buộc mỗi xấp bằng một sợi thun mỏng. Rồi sau đó nàng lại gỡ dây buộc, nàng xếp thành từng xấp năm mươi ngàn và buộc mỗi hai xấp bằng một sợi thun mỏng. Rồi sau đó nàng lại gỡ dây buộc, nàng xếp thành từng xấp mười ngàn và buộc tất cả bằng một sợi thun khác lớn hơn. Nàng làm tất cả những công việc đó một cách chậm rãi, cái ngực lớn tì sát vào bàn. Nàng thong thả đếm, thong thả buộc, tóc nàng lõa xõa sau gáy, màu tóc không còn tươi như ngày trước. Ngày trước tóc nàng đen nhánh, giờ thì hoe hoe vàng. Tôi không biết vì sao tóc nàng lại nhạt đi. Có những điều mà tôi không bao giờ thiết tha tìm hiểu đến nơi đến chốn, bởi những việc ấy cũng chẳng có ích gì.

- Em cảm ơn anh - Nàng cúi xuống, thì thầm. - Hôm nay nhiều tiền quá - Hàm răng nhỏ của nàng cắn vào tai và cái lưỡi vòng quanh khiến tôi rùng mình.

- Anh ngủ lâu chưa - Nàng nhẹ nhàng.

- Chỉ mới một lát thôi.

Tôi thở ra.

- Mấy giờ rồi.

- Tám giờ.

Nàng nói. Tôi bất chợt nghe lạnh suốt lưng. Tôi ngồi phắt dậy, đầu óc quay cuồng như mụ hẳn đi, chỉ trừ duy nhất một điều còn lại, là nó. Sao Chổi. Chưa bao giờ tôi có một cảm giác lạ như thế này về nó, tim tôi đập dồn và hai bàn tay lạnh có mồ hôi nhè nhẹ tứa ra. Tôi tựa cái thang tre vào tường.

- Anh điên à. Anh không thể nào trông thấy nó vào giờ này đâu - Vợ tôi gào lên khi tôi đặt chân lên nấc thang đầu tiên - Đã trễ rồi, anh lên làm gì. Suốt cả tháng nay anh ở lỳ trên đó chưa đủ sao - Nàng càng lúc càng giận dữ. Nhưng tôi cắt ngang.

- Mặc kệ anh.

Chân tôi đã chạm lên mái nhà, tôi bò chầm chậm về chỗ của mình, chân tôi giẫm phải một cái gai bông giấy khô, nhói lên. Mặc. Tôi nằm xuống, người duỗi song song theo những sóng tôn, nghiêng một góc hai mươi ba độ rưỡi, đầu quay về hướng tây Tây Bắc. Lúc này trên bầu trời phía ấy chỉ là những đám mây bàng bạc trôi trên nền đen thẫm trông như những bụi cây. Tôi cố mở mắt lớn hơn, nhìn xoáy vào đó. Dường như chỉ có một vài chấm sáng quen thuộc đang nhấp nháy cùng nhau. Tôi không định vị được những chòm sao Andromède lẫn Persée hay Pégasse, nhưng tôi luôn có một cảm giác rất thật rằng, nó ở đó, như thể Persée ở gần Hale-Bopp chứ không phải ngược lại. Và cứ thế tôi nhìn, hơi lạnh ở mái tôn tỏa ra nhè nhẹ lan man trên da thịt, và tôi thấy mắt bắt đầu mỏi, mí mắt sụp xuống. Tôi không muốn mí mắt sụp xuống vào lúc này, nhưng không thể cưỡng lại được. Tôi xuôi hai tay bên hông, tôi ngủ.

Tôi nằm mơ thấy mình đi trên một miền đất sáng. Mỗi bước chân tôi đi giẫm lên một thứ đất sáng như bạc. ở đó không có nhà máy, không có nhà ở, không có thú vật, không có cây cối. Chỉ có một mầu duy nhất là mầu sáng y như mầu của giấy bạc mà tôi vẫn thường dùng làm thủ công ngày còn bé.

Lúc ấy mẹ tôi là cô giáo. Mẹ tôi dạy rất nhiều đứa nhỏ trong một cái lớp nhỏ, cuối phòng có một cái tủ nhỏ chứa đầy giấy làm thủ công. Có giấy trơn, giấy thô, giấy bóng. Mẹ cho tôi rất nhiều giấy bóng đủ màu, xanh, đỏ, tím, vàng nhưng tôi chỉ thích mỗi một màu, màu bạc. Tôi thích ngắm nhìn nắng loang lóang trên màu bạc đó óng ánh như vàng ròng, màu lá cây trên nền bạc đó lóng lánh như suối, và cả màu của khuôn mặt tôi ngoằn ngoèo, ngoằn ngoèo, đen và nâu.

Còn bây giờ, trong giấc mơ, tôi không soi gương mặt của mình mà đi những bước chân lên lớp đất bạc xốp mịn như bánh kem khô ấy, thấy mình không hề già đi mà vẫn như ngày trước, vẫn là một thằng bé đang loay hoay cắt dán những tờ giấy bạc trong cái lớp học nhỏ và oi nồng của buổi trưa miền Trung, thỉnh thoảng lại ngóng cổ nhìn ra ngoài sân nắng chát chúa mà mơ màng. Và tôi nhìn ra ngoài, đơn giản như thể mở cửa sổ mà nhìn ra, và thấy quả đất thân thuộc của mình đang chầm chậm xoay, xoay quanh mình chứ không theo một cái trục nghiêng có sẵn nào cả. Mọi người đứng ở đó ngước lên, họ nhìn thấy tôi và hét: Về mau, về mau!

Tôi mở mắt ra khi nghe tiếng cửa nhà bên khép lại. Khi cửa của mỗi nhà khép lại thì đó cũng là giờ khắc được xác định. Mỗi cánh cửa hàng đêm khi đóng lại cũng khép lại một ngày cho mỗi ngôi nhà. Có những cánh cửa khép sớm, có những cánh cửa khép trễ, nhưng tôi chưa bao giờ thấy có những cánh cửa nào không khép suốt đêm.

Thời gian như một dải băng giấy dài, được gấp lại, từng chút một, như những cánh cửa cứ lần lượt hàng đêm đóng lại, sớm mai mở ra, đều đặn mãi như thế với cùng một nhịp điệu, không đổi, chỉ có những người đóng cửa là thay đổi. Những người đóng cửa luôn là bậc trụ cột trong nhà, phải cẩn thận, phải trách nhiệm.

Khi họ chết đi sẽ có những thế hệ tiếp theo trưởng thành hơn kế tục công việc đó, đóng cửa và mở cửa. Chính lúc tôi lan man như thế thì rất chậm rãi và điềm tĩnh, Hale-Bopp lộ dần qua những áng mây, nhỏ nhắn và khiêm tốn, khiến tôi không thể hình dung ra được đó là một kẻ khổng lồ với cái đuôi dài hơn một triệu kilômét. Nhưng khi vừa mới thoát ra hẳn đám mây, thì càng lúc nó càng sáng hơn, lộng lẫy hơn so với những chòm sao xung quanh, nó đã thành một kẻ khác, âm thầm nhưng quyền lực, phi không gian, phi thời gian.

Hai tay bám vào máng xối, tôi cúi đầu xuống nhà, thét lên.

- Sao Chổi.

Cha tôi bực dọc.

- Sao Chổi cái con khỉ. Xuống mau.

Giọng ông khản đặc như mọi khi, nhưng so với những gì tôi nhìn thấy được thì không có một tí quyền uy nào nữa. Vẫn đầu chúc xuống nhà, tôi lặp lại.

- Sao Chổi.

Lần này thì mọi người bước ra ngoài, ngước nhìn theo hướng tay tôi chỉ, chăm chú. Tôi thấy Hale-Bopp càng lúc càng sáng hơn, lộng lẫy hơn. Mọi người đứng đó một lát, nhìn đăm đắm vào bầu trời và cha tôi nói.

- Thôi, vào. Chả thấy cái mẹ gì.

Vợ tôi dịu dàng.

- Thôi, xuống nào.

Tôi lạnh mình vì sự thờ ơ đó. Mọi người đều phải được thấy nó. Mọi người không biết rằng họ chỉ là một trong hàng bao nhiêu tỉ tỉ người đến rồi đi khỏi trái đất này trong hơn hai ngàn năm qua được diễm phúc chiêm ngưỡng nó sao. Tôi vội vàng về chỗ của mình, tôi hối hả nhìn theo nó. Tôi biết rằng nó đang chầm chậm trôi qua khoảng trời này, trước đôi mắt thán phục và tuyệt vọng của tôi. Cái sao chổi ấy nó biết như thế, thế mà nó vẫn trôi đi.

Và thế là nó đi mất thật rồi, mất dạng. Tôi cứ ngồi mà lục tìm nó hết trong đám mây này đến đám mây khác, nhưng vô ích. Trên bầu trời lúc này chỉ tuyền những đám mây. Chẳng mấy chốc trời sẽ sáng, những cánh cửa ở những ngôi nhà sẽ lần lượt mở ra, những người chủ nhà sẽ cất những then cài bên tường, tiện tay bóc một tờ lịch nhỏ, trong khi Hale-Bopp đi càng ngày càng xa, lặng lẽ một mình, âm thầm để rồi hai ngàn bốn trăm năm nữa tình cờ nó sẽ quay lại đây, ngang qua trái đất này như đi ngang qua hàng tỉ tỉ những hành tinh nhỏ bé và vô vị khác, mà không hề biết, không hề nhớ nơi ấy những ngàn năm trước đã từng có những ai, có những tên tuổi gì, có những chức vụ gì, có những mưu toan gì, hay đã từng có lưu truyền những câu chuyện kể nào không.

Trời sẽ sáng, và mọi chuyện sẽ như thế, nhưng bây giờ hãy còn tối, tôi cần phải ngủ. Tôi leo xuống thang, tôi chui vào nhà, rón rén nằm xuống, mắt ngước lên chạm phải cái trần nhà còn trắng sáng mầu vôi mới. Ngày mai tôi sẽ không được leo lên mái nhà nữa. ở dưới mái nhà tôi không biết làm gì cho hết ngày, nhưng dù sao tôi cũng đã nhìn thấy nó rồi, cái sao chổi ấy, nó đẹp thật đấy, và thiệt tình tôi chẳng biết còn phải đợi chờ điều gì hơn thế nữa.

PHAN TRIỀU HẢI

Con mèo

Tôi chỉ thích nuôi chó. Không thích nuôi mèo. Tôi không thích cái tính lạnh lùng, khinh bạc của giống mèo. Một mình tôi như thế cũng đủ rồi. Nhà tôi từ lâu lúc nào cũng có nuôi một con chó còn mèo thì không hề. Nhưng không nuôi cũng như nuôi, lúc nào cũng thấy có mèo chạy rần rần trên mái nhà, đồ ăn thức uống để hở một chút là biến mất, căn bếp nhà tôi quanh năm suốt tháng như cửa hàng ăn miễn phí cho chúng vậy.

Nhiều bữa tôi đang ngồi làm việc, giữa ban ngày ban mặt chợt thấy có hai con mèo lặng lẽ như hai bóng ma đi băng qua, không biết từ đâu đến và đi về đâu. Nói chung coi như lúc nào cũng có một đám mèo "thường trú" ở nhà tôi. Và thời gian biểu của chúng là như thế này : ban đêm chạy rần rần trên mái nhà cất tiếng kêu gào rú đến ghê rợn, ban ngày nằm ườn ra hoặc thả tới lui ở những góc vắng, dáng điệu đài các phong lưu như những công nương thái tử.

Thỉnh thoảng tôi đi làm về mở cửa vào nhà thấy có một vị mèo nằm dài ra trên ghế sa lông nhìn tôi với ánh mắt như tôi là khách còn nó mới là chủ vậy.

Không, tôi không thích nuôi mèo chút nào.

Nhưng rồi tôi phải nuôi. Bị bắt buộc thôi. Một bữa tôi vào cơ quan thấy có một đám mèo con bò loằng ngoằng dưới chân. Một cô thư ký có mèo nhà đẻ đem vào cơ quan coi ai muốn nuôi thì bắt về nuôi. Ai chớ tôi không hề. Nhưng cô thư ký nói : "Anh nuôi một con đi, con mèo mướp này nè. Anh suốt ngày lầm lì, con mèo cũng vậy, không ai làm phiền ai đâu" Khó cưỡng lại các cô gái, nhất là các cô thư ký.

Thế là tôi xách cổ con mèo con về. Nó nhỏ xíu, dù sao cũng rất dễ thương. Thằng con bảy tuổi của tôi thì thích mê. Nhưng chỉ được mấy ngày thôi, như thông thường những đứa trẻ, nó lại quay ra với những tranh truyện,bóng đá, trò chơi điện tử của nó. Con mèo lớn lên cũng bắt đầu đánh đu với đám bạn nó trên mái nhà. Lại chạy đuổi nhau rần rần kêu gào rú trong đêm và nằm ườn ra ban ngày. Ngoài chuyện đó ra, cùng chuyện thỉnh thoảng chọc cho con chó sủa váng lên, tôi không biết con mèo làm công chuyện gì. Không thấy nó bắt chuột. Mà cũng không có chuột đâu mà bắt. Căn nhà nhỏ xíu thằng con tôi đá banh suốt ngày chuột nào dám thò đầu ra.

Và rồi con mèo có chửa. Hóa ra đó là một con mèo cái, tôi quên để ý tới điều đó. Một lần, lâu lắm rồi, giờ tôi mới nhớ lại, hôm đó giữa ban ngày tôi ngồi làm việc con mèo đi chơi đâu về dẫn theo một con mèo cụt đuôi, lông vàng rực một cách kỳ quái, con mèo nhà tôi ngước nhìn tôi kêu "meo meo" ý như muốn giới thiệu, còn thằng cụt đuôi đi len lén theo sau như một tên trộm. Ra như vậy đó, sống một mình chưa đủ còn đàn đúm bạn bè nữa. Tôi đứng dậy "xù" một tiếng thằng cụt đuôi quay ra chạy mất, con mèo nhà tôi đứng nhìn tôi kêu "meo meo" ý như muốn nói : "Bạn tôi mà ông không biết sao?"

Ra là bạn đấy, "bạn đời" đấy. Nó có chửa trờ lên nặng nề, thường nằm dài ở ghế sa lông, sau đó đi đẻ đâu không biết một hôm dẫn đám con về, đi thành hàng một, hai con lông xám xịt giống nó và một con lông vàng rực giống y như thằng quỷ cụt đuôi. Nhà tôi chỉ có hai cha con còn nó về đây có cả một gia đình. Rồi chúng cứ sanh đẻ nữa nhà tôi thành cái gì ? Phải chặn lại từ đầu.

Nhưng thằng con tôi lại sa vào mê đám mèo con. Phải tìm cách thuyết phục ông nhỏ. Tôi nói ở cơ quan tôi có nhiều cô chú muốn nuôi mèo lắm, có một chú nhà rất nhiều chuột và một cô có người yêu đi Tây, cần có một con mèo để vuốt ve. Thật ra không có cô chú nào cả, tôi chỉ có đám bạn nhậu của tôi, tôi sẽ tìm cách trong các cuộc nhậu nhét con mèo con vào túi xách của chúng, nhậu say rồi đi khật khưỡng về nhà mở túi xách con mèo con chui ra, đám con nít vui mừng tíu tít chị vợ cũng quên đi chuyện rầy rà, coi như sóng gió tạm yên một lúc rồi sau đó muốn ra sao thì ra.

Và rồi tôi làm được hết, ba cuộc nhậu ba con mèo !

Từ đó về sau tôi cứ theo cách đó mà làm, và làm liên tục, bởi con mèo nhà tôi đẻ nhiều vô số kể. Ước chừng nó đã có con đàn cháu đống rồi và vẫn cứ mượt mà óng ả ban ngày đi phơi nắng ban đêm gào rú trên mái nhà. Nó không hề già. Tôi chưa từng thấy một con mèo già bao giờ.

Con mèo nhà tôi lại đẻ nữa, lần này chỉ có hai con nhưng tôi biết nhét chúng vào đâu? Tôi đã nhét giáp vòng trong túi xách đám bạn nhậu tôi rồi. Một lần thì được, lần thứ hai đám vợ chúng sẽ sinh nghi. Trong lúc đó thằng con như thường lệ suốt ngày ôm ấp vuốt ve hai con mèo con, nói hai con mèo con này là đẹp nhất. Quả hai con mèo con đẹp thật, lông nửa vàng nửa xám như cha mẹ chúng biết cách pha màu vậy.

Nhưng các con mèo con trước cũng đẹp vậy thôi. Tôi nói với thằng con : "Không được đâu con, cơ quan ba lại có cô có người yêu đi Tây rồi, không phải một cô mà là hai cô" Nói rồi tôi xách hai con mèo con đi. Tôi nhắm một chỗ rồi. Đó là đoạn đường vắng ở gần nhà tôi, cặp bờ tường xí nghiệp nào đó rất vắng người qua lại. Tôi sẽ thả hai con mèo con ở đó chúng lẩn quẩn một lúc rồi sẽ có người bắt về nuôi. Hoặc giả chúng mò tới một quán ăn gần đó, rất đông khách, tôi qua lại thường thấy có nhiều chó mèo đến gặm xương ở đó. Như vậy chúng không hẳn là sống trong nhà nhưng cũng không phải lang thang ngoài đường.

Tôi đến đó lúc trời tối, đúng ra là gần giữa khuya. Tôi phải đợi thằng con tôi ngủ say. Quán đã đóng cửa, đoạn đường cạnh bờ tường cũng không có ai, thật là tiện. Nhưng tôi cẩn thận không thả hai con mèo ở gần quán, có thể có người nào đó dòm qua khe cửa thấy được việc làm kỳ cục của tôi. Tôi thả hai con mèo ở chỗ đoạn đường vắng, giũ chúng ra từ trong chiếc túi xách, chúng rớt xuống đứng ngẩn ngơ một lúc rồi bắt đầu hít hửi bò lê trên mặt hè đường ẩm ướt, tối mờ mờ, bốn chân nhỏ xíu run rẩy choải rộng ra, cất tiếng kêu ri rỉ như tiếng con nít khóc. Đành phải vậy thôi, tôi tự nhủ, ai cũng phải tự tìm cách nuôi sống lấy mình, dù là hai con mèo con đi nữa. Tôi vội quay về sợ thằng con tôi thức giấc giữa chừng, và cũng sợ phải nghe tiếng kêu ri rỉ của hai con mèo con.

Thằng con tôi ngủ say cho tới sáng. Nhưng sáng ra vừa thức giấc đưa mắt nhìn quanh nó liền hỏi tôi hai con mèo con đâu. Tôi đáp ậm ừ không ra lời lẽ gì cả rồi bắt qua chuyện khác. Thằng con tôi cho tôi yên được hai ngày, tới ngày thứ ba bất chợt, không báo trước gì cả, nó nhắc lại hai con mèo con, hỏi cụ thể hơn, tôi cho ai hai con mèo, người đó tên gì. Tôi thấy chuyện đã không đơn giản. Không thể bày chuyện các "cô chú", chắc nó đoán biết có chuyện gì rồi, nó sẽ hỏi nữa và tôi sẽ sa lầy vào một đống các câu hỏi của nó. Đành phải nói sự thật thôi. Nhưng cũng nên nói sự thật một nửa. Tôi bèn nói tôi đem cho một người bạn nhưng giữa đường nó xổng mất. Xổng chỗ nào ? Tôi chỉ chỗ. Nó bảo tôi dẫn tới đó. Thì đi. Chúng tôi đến đó cũng vào lúc trời tối, thằng con tôi nhìn đoạn hè đường trống trơn, ẩm ướt, tối mờ mờ, hỏi :

- Hai con mèo con đâu rồi ? Tôi gắt :

- Nó ở đâu làm sao ba biết được ? Thôi đi về đi !

- Nhưng chúng ngủ ở đâu ? - Thằng con tôi vẫn dai dẳng - Đường trống trơn ướt nhẹp như vầy làm sao chúng ngủ được ?

- Giống mèo không ngủ con à - Tôi biện luận - Con không nghe chúng chạy rần rần suốt đêm trên mái nhà đó sao ?

- Nhưng còn ăn, chúng lấy gì ăn ?

- Chúng tự kiếm ăn thôi, mình cũng vậy, ba lo cho con là quá lắm rồi. Con chịu về chưa ?

Thằng con tôi chịu về. Và không hỏi gì nữa. Nhưng như vậy lại khiến tôi càng đâm bực. Không thể yên được với cái kiểu lặng thinh như thế này. Như có tội ác nào đó treo trên đầu vậy. Thế là đêm đêm tôi lại mò ra chồ đoạn đường vắng, kiểu như phạm nhân không cưỡng lại được việc trở lại chỗ hiện trường, tôi đứng một lúc nhìn mặt hè đường ẩm ướt, tối mờ mờ, mong gặp lại hai con mèo con và cũng sợ gặp phải chúng.

- Thằng con tôi có vẻ đã quên hai con mèo con. Nhưng một bữa tôi vô ý dẫn nó đến ăn sáng ở chiếc quán gần đó thế là nó sực nhớ hỏi bà chủ quán :

- Cô có thấy hai con mèo con của cháu ở đây không?

Bà chủ quán đáp:

- Không thấy. Ai biết mèo nào là của ai, ở đây chó mèo rần rần không chịu nổi.

- Hai con mèo của cháu bị xổng ra ở đây nè.

- Sao lại xổng ? Có ai ăn cắp hả? Thời buổi bây giờ quân ăn cắp đầy đường không biết ai là ai đâu.

Tôi hối thằng con tôi ăn lẹ để còn kịp đi học.

Ngày tháng trôi qua. Thỉnh thoảng tôi lại đi qua chỗ đoạn đường vắng nhưng giờ chắc hai con mèo đã lớn rồi có gặp tôi cũng không nhìn ra. Tôi tin chúng vẫn còn sống, giống mèo khó chết lắm, nhưng sống như thế nào tôi không biết.

Con mèo nhà tôi không hiểu tại sao không đẻ nữa, tuy nó vẫn thon thả, óng mượt. Nó chán cảnh đẻ không được nuôi con, hay muốn cảnh báo tôi điều gì ? Nhà tôi có cửa lớn và cửa sổ. Con chó nằm cạnh cửa lớn, nó biết phận sự của nó. Con mèo đi chơi về thường tót vào theo đường cửa sổ, để tránh gặp con chó, và cũng để phô trương tài leo trèo của mình. Nhưng đôi lúc nó muốn chọc phá. Nó từ ngoài đi vào, giả như vô tình theo đường cửa lớn, ngó lơ đâu đó rồi bất thình lình thò tay ra tát con chó một cái. Thế là om sòm cả lên. Con chó nhảy lồng lên cất tiếng tru thảm thiết con mèo nhảy tót lên đầu tủ ngồi lim dim mắt ngó xuống như muốn nói : "Cái gì vậy? Ai ? Thì sao nào ? Giỡn một chút không được sao?"

Con mèo từ ngày thôi bận bịu trên mái nhà thường giở trò chọc phá con chó nhiều hơn, chuyện om sòm coi như xảy ra hàng ngày. Nhìn cảnh con chó to xác tru tréo tôi thật thấy ngán ngẩm nhưng chuyện "chó mèo" của chúng nó tôi không can dự vào làm gì.

Nhưng rồi xảy ra một chuyện khác hẳn. Như tôi đã nói con mèo nhà tôi về sau này có vẻ tu tỉnh, ít chịu đàn đúm với đám bạn mèo hàng xóm của nó, thường ngày ngồi yên trên nóc tủ lim dim mắt ngẫm nghĩ sự đời gì của nó. Nhưng đám mèo hàng xóm lại không chịu để cho nó yên. Đôi lần buồn chán nó thả đi chơi một lúc rồi lộn trở về, một con mèo khác đuổi theo sau. Một bữa tôi thấy nó chạy hộc tốc về, vẻ hoảng sợ lắm và vô ý thế nào lại chạy đâm sầm vào cửa lớn, nơi con chó đang ngồi canh giữ. Lại om sòm rồi đây. Tôi chắc mẩm con chó sẽ không bỏ lở cơ hội gỡ lại những bàn thua lần trước. Nhưng lạ sao con chó không vồ con mèo mà tránh đường cho con mèo chạy vào, và con mèo không nhảy lên nóc tủ như thường lệ mà đứng lại nép sau lưng con chó. Và rồi con chó xồ ra phía trước và tôi thấy xuất hiện ở cổng một con mèo không biết của nhà ai, lớn một cách kinh khủng, như một con beo. Và rồi trận hỗn chiến xảy ra, mù trời mù đất giữa con chó nhà tôi và con beo nhà hàng xóm, tôi và con mèo ngồi trong dòm ra chỉ thấy một khối cuộn tròn như một cơn lốc xoáy.

Sau khi yên trở lại, con mèo nhà hàng xóm bỏ chạy và con chó quay trở vào mặt đầy máu, con mèo vẫn ngồi sau lưng con chó và con chó ngước nhìn tôi như muốn nói : "Phải vậy thôi, dù sao cũng là người nhà với nhau".

Buổi chiều thằng con tôi đi học về tôi kể lại chuyện đó, nó trầm ngâm một lát rồi bỗng nói :

- Con nhớ hai con mèo con quá ba ơi !

Thằng con tôi có kiểu nói bắt quàng như vậy nhưng tôi không nói gì nữa, để yên cho tôi cả năm tôi còn không quên được.

LÊ VĂN THẢO

Nơi bão đi qua

Trong bóng tối loãng dần, Tâm đưa mắt nhìn nhưng không nhận ra con tàu mà sớm này nó đã đưa anh cùng nhiều ngư phủ ra khơi đánh cá. Nó lẫn đâu đó trong vô số con tàu trăng trắng neo san sát kéo dài ra cửa sông, nơi giáp biển. Cột buồm, cột hàng hải vươn chi chít như ăng - ten phố thị.

Nếu là tàu của mình, Tâm ước, mình làm cho nó có màu sắc và hình dáng khác biệt. Mình sẽ... Tâm bỏ ngang cái tương lai vừa thoáng đến. Anh bước một mạch xuống bến sông, nơi chiếc ghe cào, tài sản lớn nhất của gia đình anh đang cột vào đó. Nghe tiếng động, mấy con cá thòi lòi, cá bống sao vội trượt roèn roẹt trên bãi bùn lấp xấp nước. Gió đưa đẩy xạt xào cành lá vẫn nghe rõ tiếng rơi lủm bủm của những trái đước già. Nước triều đang lên. Tâm nới dây buộc ghe rồi bước vào nhà, quên khép cửa sau lưng. Hạnh hấp tấp vặn cao ngọn đèn, nói:

- Mình à, coi bộ nước hơi lớn!

Tâm quay ra khép cửa:

- Gió ngoài biển thổi vô mà, đâu sao!

Thấy vợ còn đứng bần thần, Tâm giục:

- Cơm chín dọn lên, anh ăn xong chuẩn bị đi là vừa!

- Đợi em hâm nồi cá kho!

Nồi cá bắc lên bếp, Hạnh lui cui gọt dưa bên ánh lửa, Tâm xem qua các thứ vợ đã ràng rịt trong nhiều túi ni lông: thuốc hút, thuốc cảm, kem đánh răng, nửa cục xà bông, chai dầu gió xanh mới bóc vỏ và lọ cốm nghệ, thứ thuốc nhân nhẩn khó nuốt mà Hạnh ép anh uống mỗi ngày. Tâm để lại chai dầu gió xanh dưới gối cho vợ và nhét lọ dầu cù là con cọp theo. Anh dồn các thứ vào túi xách đựng quần áo, nhấc lên rồi để xuống. Đi biển lần này đông, vui mà gọn. Ăn uống trên tàu lo hết. Tâm chỉ sợ cái bao tử trở chứng. Khi Hạnh bê mâm cơm lên, Tâm còn chồng lại mấy cái cần xé và vắt mớ lưới lên kèo nhà. Biết vợ không quen ăn sớm, Tâm ăn một mình và ăn rất ngon. Bới cho chồng chén thứ ba, Hạnh nghe tiếng lục cục của gà mẹ và tiếng lít chít của gà con. Chị mồi thêm cây đèn ống khói, bưng ra chuồng gà. Trở vào, Hạnh khoe với chồng:

- Gà nở được năm con, ba con khẽ mỏ.

Hạnh cho tay vào túi ni lông lôi ra ba trứng gà cùng với hai trứng cầm trong tay đưa ra trước mặt Tâm:

- Cái này phần anh mang theo!

Tâm buông chén đũa, cười cười:

- Lần này anh đi đông một tiểu đội mà em cho chừng đó trứng, làm sao chia?

- Ờ, há!

Hạnh vụt hiểu, sựng lại, phụng phịu. Tâm vui vui khi thấy vợ dù bụng mang dạ chửa, vẫn giữ được vẻ thơ ngây ngày nào. Tâm nhớ lại và thấy lâng lâng. Sự hồn nhiên mộc mạc như chài như lưới ấy đã buộc bước chân phiêu dạt của anh vào bến bờ này. Hạnh lần lại chỗ túi xách. Mở túi, chị thấy thiếu cái đài nhỏ như bàn tay mà đi biển lần nào Tâm cũng mang theo. Hạnh vào buồng mang cái đài ra, kéo miệng túi định bỏ vào, Tâm ngăn lại:

- Ở dưới tàu nghe nói có cả máy hát. Em để nhà nghe. Đừng lo gì cho anh - Ánh mắt Tâm bao bọc vợ - Lo là lo cho em ở nhà có một mình!

Hạnh dụi mặt vào ngực chồng:

- Ai nói anh em ở nhà có một mình?

- Ờ, ờ, còn con trai mình nữa!

- Con gái!

- Con trai!

- Con gái!

Tâm ôm lấy vợ. Đợt sóng yêu thương dồi lên khiến anh muốn ngộp thở trước cơ thể nở nang ấm mềm của vợ. Chợt tiếng gọi í ới nghe thật gần. Hạnh xô nhẹ chồng ra. Tâm lảo đảo trong mem nồng lở dở... Quảy túi lên vai, Tâm xiết tay vợ:

- Thôi, em ở nhà, đừng tiễn đưa, gió sớm sương sớm...

Tâm kéo sát vợ vào, ôm choàng cả hai mẹ con một cái rồi vội vã chạy đi. Hạnh nhìn theo chồng cho đến khi Tâm mất hút trong đám đông kẻ ở người đi lao nhao nơi cầu tàu. Lần lượt từng con tàu nổ máy, nhổ neo, rẽ nước tiến ra cửa sông lao xao sóng dưới bình minh toả lan.

***

Hạnh cầm mấy cái trứng đi ra chuồng gà. Ả gà mái đẻ bỏ ổ trứng đang lẽo đẽo theo gã chồng kiếm mồi quanh mấy tấm liếp phơi cá. Mẹ gà đang ấp vội xù lông, nghểnh cổ, mào dựng đứng, tái nhợt. Từ cuống họng nó phát ra mấy tiếng kêu rục rục, vừa tự vệ, che chở cho lũ con lít nhít trong ổ. Hạnh trả mấy cái trứng vào ổ gà đẻ rồi hốt nắm gạo và múc gáo nước đặt trước tầm nhìn của con gà mẹ. Sau một hồi đưa mắt láo liên dò xét, không thấy có nguy cơ đe doạ nào, nó nhảy ra khỏi ổ, sục lẹ vào gáo nước rồi đớp lia lịa những hạt gạo. Hạnh nhón nhén đến bên lũ gà con. Chúng đạp những đôi chân nhỏ xíu lên những cái trứng chưa nở và dẫm xẹp những vỏ trứng mà mới hồi đêm chúng còn loi ngoi trong đó. Hạnh đặt một chú gà con vào trong lòng tay, vuốt nhè nhẹ bộ lông trắng ngà mịn rức. Chú quẹt quẹt cái mỏ vàng tươi vào lòng bàn tay Hạnh và cất tiếng kêu chíp chíp. Lúc ấy, Hạnh nghe tiếng chân thậm thịch, tiếng nói râm ran và một tiếng gọi rồi nhiều tiếng gọi:

- Hạnh ơi!

- Vợ thằng Tâm ơi!

- Con ni, răng không đi tiễn chồng?

- Ôi giời, sao bỏ chồng lùi lũi một mình thế?

Hạnh thấy ấm như nắng sớm tràn vào. Ở làng cá này, người cố cựu chỉ đếm đủ trên đầu ngón tay. Hầu hết là dân tứ xứ. Họ đến từ nhiều miền quê. Kẻ đến trước, người đến sau. Kẻ sắm được tàu đánh cá. Người tậu được đáy giăng giăng ngoài khơi. Và đông đúc là tập hợp những "chồng chài, vợ lưới, con câu". Nhưng với mỗi người, cái làng cá bên bờ sông rì rầm sóng biển này đã thành chiếc phao cho số phận lênh đênh, thành bến bình yên cho cuộc đời sóng gió. Họ bám vào đó và cùng bám với nhau.

Ló mặt vào cửa, Hạnh thấy hàng hiên hẹp và gian nhà nhỏ chật bước chân. Khi chị lệch bệch bước vào thì những cái miệng tép lặn tép lội dừng lại. Thay vào đó là những cái nhìn và dừng lại lâu lâu nơi cái bụng kềnh càng đã bắt đầu trĩu xuống của Hạnh. Rồi họ hè nhau, như người ta thường làm khi một con thuyền mắc cạn, đem kinh nghiệm của người từng vượt cạn truyền lại cho Hạnh. Yên tâm rằng Hạnh đã lãnh hội đủ, vài người quay lưng định về, liền bị kéo lại:

- Chồng con đi rồi mà mấy bà làm gì gấp? Ở lại đây quậy một hồi cho con Hạnh nó... khoẻ!

Nói câu đó là chị Ba Lài, người uốn tóc cao, nước da xạm nắng. Chị Ba hỏi Hạnh:

- Có gì đãi chị em điểm tâm hôn chủ nhà?

Hạnh còn đang lúng túng, chị Ba Lài đã xăm xăm bước vào trái bếp, bợ nồi cơm mà Tâm ăn dở đem ra đặt chình ình lên bộ vạt giữa nhà. Chị cầm đũa bếp nại cơm cháy với điệu bộ khó nhọc như đào phải đá khiến cho mọi người cười rộ. Không ai mời ai, cùng một lúc những ngón tay đeo cà rá mặt đỏ mặt xanh gặp nhau chỗ giề cơm vàng khấy! Họ nhồm nhoàm nhai ngon lành như những kẻ đói ăn. Đôi mắt dài sắc như mũi lao của chị Ba Lài vụt sáng khi thấy bó ngô khoai treo lủng lẳng trên vách nhà. Chị liền gỡ xuống, mang vào bếp, thổi lửa phù phù. Mùi khô nướng xộc vào mũi. Chị Năm Mận, người dong dỏng cao, có búi tóc to mượt sau gáy lên tiếng:

- Có khô mà không rượu chịu sao được, bây?

Chị Năm dứt lời liền có hai ba mái tóc uốn quăn tự nguyện đi mua rượu. Chị Năm dặn thêm:

- Nhớ mua chai bia nữa nghen! Ờ, nè, đi ngang nhà tao ghé lấy hộp sữa rọng trong tô để trên tủ chén.

Khi rượu mang về thì mọi người đã kê dép ngồi quanh đĩa ngô khoai đặt dưới đất giữa nhà (bộ vạt được dựng sát vách). Ly rượu đầy tới miệng được xoay vòng. Riêng Hạnh được chị Năm Mận làm cho một ca bia sữa ú ụ. Chắng mấy chốc căn nhà ồn ào như cái chợ. Chị Năm cạn ly, nhìn lướt qua mọi người, nói:

- U quả, mới vắng chồng mà lũ đàn bà đã thành quỷ!

Chị Ba Lài vặc lại:

- Đàn bà là đàn bà khi có đàn ông bên cạnh!

- Khi có chồng bên cạnh chớ!

Người đàn bà áo trong áo ngoài, giọng Quảng, chỉnh lại.

Gần một nửa ùa theo chị Ba Lài, còn hơn một nửa ủng hộ người đàn bà giọng Quảng. Chẳng bao lâu, cái nhóm chợ rối như bầy ong vỡ tổ. May mà hết sạch hai chai đế. Chị Năm không cho mua thêm, nói:

- Sười rười như vậy là vui rồi. Thôi, ai về nhà nấy, làm hết công chiện, chiều lợi đây quậy tiếp. Ờ, nè, chị dặn thêm - Ai có cái gì nhấm được nhớ mang theo. Đừng xách đít không, nghen!

***

Chiều. Mặt trời còn hơn một con sào mới lặn xuống biển và bầy gà còn đi long nhong ngoài đường đã thấy bước chân bôn sôn của chị Năm Mận. Tay chị Năm vung văng rẽ khô đuối to như cây quạt giấy xoè hết cỡ. Như những người đàn bà khác của làng này, chị Năm ít có lúc rỗi rãi. Vô số việc nhỏ, việc lớn trong nhà, tiếp một phần việc của chồng và thằng con trai, vá lưới, vá chài, đôi khi gặp con nước thuận chị theo chồng con ra khơi và cũng tháo vát như một ngư phủ. Chị Năm được nể nang không phải vì chiếc tàu mũi sơn đỏ chói chở được mấy trăm cây đá, cũng chẳng phải vì ngôi nhà mái bằng, nền gạch đỏ au và góc sân rộng phơi ăm ắp cá, mực, mà do bản tính bộc trực, rộng rãi và đôi tay mát mẻ khi chị làm bà mụ. Chị vào nhà, bỏ rẽ khô vào cần xé rỗng rồi trở ra nhấc bổng tấm cửa ván sang một bên:

- Nhà có cửa mà không để đón gió!

Ngọn gió mang hơi nước mát rượi tràn vào. Gió nắng phóng khoáng của xứ này đã xua đi những tâm tính bẩn chật. Chị Năm khoan khoái lùa mớ tóc loà xoà ra sau, miệng bảo Hạnh:

- Mày rà rà tìm coi đài nào có vọng cổ mở nghe chơi!

Tranh thủ lúc đợi chị em, chị Năm ngã lưng xuống vạt giường. Hạnh đem gối ra. Chị Năm kê dưới đầu, nói:

- Nằm trên cái gối Hạnh phúc này chắc tao phê quá!

Giọng Tài Linh cất lên. Chị Năm cựa mình rồi nằm im, chỉ phập phồng hơi thở. Bài vọng cổ dứt, hồn phách chị Năm mới tìm về:

- Con nhỏ lùn sủn mà sao nó ca mùi quá vậy, mày?

Hạnh ấm ớ. Lùn cao mập ốm thì có can hệ gì tới giọng hát? Hạnh muốn bẻ lại câu hỏi nghe kỳ cục của chị Năm nhưng không dám. Tuy chị Năm bỗ bã gọi mày xưng tao nhưng Hạnh chưa lúc nào tự nâng mình lên ngang hàng với người đàn bà từng trải và được cả làng nể trọng. Cái khoảng cách không chỉ là tuổi tác đã khiến Hạnh ngần ngại bộc lộ mình. Nhìn vẻ bồn chồn của chị Năm, Hạn e dè:

- Em nghe nói Tài Linh Vũ Linh sắp xuống hát ở miệt này!

Chị Năm nhổm dậy:

- Thiệt hôn? Ai nói?

- Thì... em nghe người ta đồn.

Chị Năm thở dài:

- Đồn thì đồn hoài mà có thấy bóng dáng ai đâu!

Thấy vẻ tiu nghỉu của chị Năm, Hạnh bối rối bèn quay lưng đi. Chị Năm gọi lại:

- Mày đi đâu đó?

- Em đi nhóm lửa nướng khô chuẩn bị...

- Để đó, lát nữa tụi tao làm, mày được miễn!

- Vậy... em đốt củi để có lửa than.

- Ờ, cũng được!

Mớ củi bắt lửa nổ lép bép, chị Năm bước xuống nói với Hạnh:

- Sáng giờ mắt tao giựt giựt hoài, chắc mấy ông đi chuyến này khá đa!

Hy vọng xoè nở dịu dàng nơi Hạnh. Chuyến này Tâm về mà kha khá, Hạnh thầm tính, mình sắm thêm một chiếc cà rá mặt hột dưa, chớ hai bàn tay trống trơn cũng kỳ kỳ. Còn Tâm sẽ không đeo sợi dây chuyền bằng bạc cũ xì đó nữa. Chợt Hạnh nhăn mặt, nhíu mày, bỏ dở dự tính trước cái đạp đau điếng của thằng bé (khi trêu chồng Hạnh bảo là con gái, ngược với linh cảm của người mẹ). Hạnh xoa xoa bàn chân nhỏ xíu của con và nghĩ xem nên mua thứ gì cho cu cậu thì chợt nghe giọng hốt hoảng của chị Năm:

- Trời ơi! Không biết mấy ổng có kịp quay về?!

Hạnh chạy lên, thấy chị Năm buông cái đài ra, trân trân nhìn nó. Hạnh nghe tiếng được tiếng mất của bản tin thời tiết. Xoáy vào tai Hạnh chỉ mấy từ "bão", "gió giật", "tàu thuyền". Dưới bếp, củi cháy rừng rực, lưỡi lửa loè khè khẹt. Chị Năm chạy vào dập lửa. Vội vàng, chị bảo Hạnh:

- Coi gói ghém đồ đạc rồi tới nhà tao, tao về trước đây!

Chị Năm đi khỏi, Đài lập lại bản tin thời tiết. Giọng đọc run run như anh ta đang dầm mưa. Một hồi lâu không gỡ được nắp rương. Hạnh chạy đi tìm con dao nhỏ để cạy lớp sét gỉ chỗ nút bấm. Mất thêm mấy phút nữa chị mới nhìn thấy cái cán dao màu cam thòi lên trên ống đũa. Chị cuộn thêm mấy cái quần, mấy cái áo của chồng, của mình, quơ lấy cái đài và bọc mớ đồ đạc của đứa con sắp sinh bỏ vào rương. Bầu trời đã sà thấp, bao phủ một màu chì xám xịt. Chim từng đàn hối hả bay về tổ. Bước thêm mấy bước, tiếng kêu chíp chíp của lũ gà mới nở níu Hạnh lại. Chị đặt rương xuống đất, quày quả quay vào.

Bão ào đến bằng những luồng gió với sức mạnh khôn lường. Đến được sau nhà, Hạnh thấy chuồng gà không còn trên mặt đất. Mấy tấm lá chằm đốp bao quanh chuồng và những tấm liếp phơi cá vờn vật trên không. Hai ổ gà bị những cánh tay lực lưỡng vô hình nhấc lên cao rồi đột ngột hất mạnh xuống. Tròng đỏ tròng trắng vương vãi. Ổ gà con không còn sót lại một tiếng kêu. Con gãy cổ, con bẹp đầu, con chỉ là một nhúm lông dúm dó. Và nhầy nhụa máu những chú gà chưa một lần được chui ra khỏi vỏ. Gió mỗi lúc một mạnh. Những luồng gió va đập nhau, giằng xé nhau và cuốn đi những gì gặp trên đường đi của nó. Cuốn phăng lên không trung bất cứ thứ gì không gắn vào đất: tấm liếp, tấm phên, mái lá, mái ngói, mái tôn và vô số vật dụng cần thiết hàng ngày. Tiếp đến nó giao chiến dữ dội với những gì gắn chặt vào lòng đất. Thảm đước, thảm vẹt xanh rì, choãi rộng hàng hà sa số cánh tay gân guốc bám chặt dãy phù sa chạy dọc theo bờ sông, phút chốc biến thành mục tiêu tàn phá của nó.

Trên đường đi đến nhà chị Năm Mận trú bão, ngoảnh lại, thấy ngôi nhà mình chỉ còn là đống đổ nát, Hạnh không đi tiếp mà quay ngược lại và lần xuống bến sông. Chiếc ghe cào, tài sản có được sau nhiều năm ki cóp vợ chồng Hạnh mới sắm được đang vật vã trong sóng gió. Đoạn dây buộc rít lên ken két. Hạnh cố rướn tới, chị chưa kịp với tay nắm lấy sợi dây thì cùng một lúc, những luồng gió giật chiếc ghe lên bờ, va mạnh vào mấy trụ cầu, vỡ ra nhiều mảnh.

Chị Năm Mận và chị Ba Lài tìm gặp Hạnh, vội xốc lên. Nửa người dưới của chị ướt sũng.

Trong cơn cuồng nộ của đất trời, Hạnh chuyển bụng với dấu hiệu bình thường tuy có mấy vết xây xát tứa máu ở tay, ở đùi.

Chị Năm Mận giữ vai trò một bà mụ điềm tĩnh đồng thời là vị chỉ huy lẹ trí của pháo đài nhao nhác người và không hề có thứ vũ khí chống đỡ nào ngoài lời thầm thì van vái Phật Trời. Chị Năm cắt đặt mọi việc đâu vào đó khiến cho nét mặt người lớn giãn bớt vẻ hoảng loạn, còn trẻ con la khóc inh ỏi giờ co trong lòng mẹ, lim dim ngủ trong tiếng gió giật, sóng gào, nước dâng, cây đổ, nhà sập.

Tuy nhiên, sự khốc liệt đang nén chặt trong lòng mỗi người còn dữ dội hơn sự huỷ diệt bao vây. Cho đến khi người đàn bà oằn mình trong cơn vượt cạn đã bật gọi chồng thì nỗi hãi hùng lên tiếng:

- Đừng, đừng gọi người đi biển!

Hạnh không dừng lại được. Ai đó vội bịt miệng Hạnh. Nhưng chị vẫn gọi. Rứt tim rứt ruột mà gọi. Tiếng gọi vút lên tận trời xanh, dội xuống mặt đất rùng rùng bão cuốn. Một bàn tay lẩy bẩy kéo chiếc khăn nhét vào miệng Hạnh.

Khi cái mầm sống khoẻ mạnh xé lòng mẹ ra đời, Hạnh vẫn còn cắn chặt góc khăn./.

BÍCH NGÂN

Gái nước Việt

TTO - Tôi là một đứa con gái của nước Việt, khi xung quanh tôi những người đàn bà khác hớn hở nhớ ngày Tám Tháng Ba là ngày quốc tế phụ nữ thì tôi lại nhớ ngày đó là ngày khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Ví như thời nào cũng có những người như chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị thì người ta có cần ngày Tám Tháng Ba làm gì?

Gia đình tôi đã có một thời đài các nên đám em gái của tôi khá kiêu sa. Nhưng bây giờ lụn bại hết rồi, tôi chẳng màng chuyện cũ, thậm chí thấy cuốn Buồn ơi chào mi của mụ Francoise Sagan, tôi chỉ lật vài trang ngó chơi.

Trong khi má tôi ngồi kể ngày xưa bà có một căn biệt thự nguy nga, mấy đứa em thì khoe hồi nhỏ đi học bằng xe hơi, tôi lãnh đạm chải đầu soi mình trong tấm kiếng đã ố vàng và dắt chiếc xe đạp ra phố để tránh không khí ngột ngạt rởm đời của một gia đình thượng lưu đã bệ rạc.

Một đàn con trai chạy xe Honda theo mái tóc dài bay bay của tôi. Tôi không chú ý họ, chỉ thấy thương thương những gã đàn ông chạy xe Cub nghĩa địa mà mặt cứ hếch lên trời.

Tôi đi học tiếng Anh. Giáo viên bản ngữ hỏi học viên trong lớp học tiếng Anh để làm gì? Người nói để đi xuất cảnh, kẻ kêu để đi làm nhà hàng, khách sạn, tiếp viên hàng không... Tôi nói tôi học để hễ có dịp thì tôi sẽ phát biểu trên diễn đàn của Liên Hiệp Quốc. Các học viên người Việt cười ồ, riêng cô giáo già người Anh là nhìn tôi trìu mến. Có lẽ đó là lí do duy nhất để tôi còn tiếp tục theo học tại lớp đó.

Má tôi nói tôi là đứa con gái bất bình thường. Còn ba tôi thì rất thương tôi, ông thường hay nói tôi là đứa con gái đẹp nhất trong ngôi nhà toàn người đẹp. Tôi thầm biết ơn ba, nhưng cũng không quên trách chính ông đã vô tình khơi sâu sự ngăn cách giữa tôi và gia đình.

Mấy đứa em gái tôi thường mau quên những chiếc xe hơi thuở bé để mau mắn, ngoan ngoãn leo lên những chiếc xe Dream của những tên con trai lấc cấc, ngổ ngáo. Tôi thấy tiếc má tôi đã không sinh cho tôi một đứa em trai để chở tôi đi học và để trở thành đồng minh của tôi. Những gã con trai đeo đuổi tôi suốt những năm tôi đi học làm tôi thấy tội nghiệp mình.

Tôi làm ở một khách sạn lớn, chức vụ của tôi là thu ngân. Họ bảo tôi đẹp chỉ cần ngồi ở quầy cho người ta ngắm. Và chỉ vậy không gì khác. Tôi sử dụng tiếng Anh rất ít, vài từ chuyên môn. Không nói gì thêm với những gã ngoại quốc, tôi chẳng cần gì để nói. Tôi làm phận sự của mình và không biết ơn ai hết. Hết giờ làm việc, chấm hết! Hẹn ngày mai. Không có ăn trưa, ăn chiều, ăn tối với ai cả. Tôi không thấy tự hào về chuyện làm việc cho ngoại quốc. Hình ảnh những người con gái Việt Nam qua Campuchia làm gái rồi bị bán qua biên giới Thái Lan, họ cũng làm việc cho ngoại quốc vậy? Không lẽ chẳng ai thấy ê chề sao, huống chi tôi cũng là phận gái?

Nếu bị đuổi việc tôi sẽ chuyển qua làm ở một chi nhánh ngân hàng. Tôi có chuyên môn, tôi không sợ ai hết, tôi không nhận tiền "boa," tôi đi xe đạp để giữ eo mà mặc áo dài.

Một lần trong giờ nghỉ trưa, tôi đi uống cà phê một mình, tình cờ gặp một tên Mỹ say, gã khá già, hình như là một cựu binh Mỹ. Gã hỏi tôi nghĩ gì về cuộc chiến tranh vừa qua? Tôi đáp lạnh lùng: "Hãy quên những cuộc chiến đi, nhưng đừng quên những người đàn bà đã chết." Gã khóc, tôi bỏ đi. Tôi ghét sự "cải lương," dù là "cải lương" kiểu Mỹ.

Buồn tình, những ngày nghỉ tôi đi du lịch chơi.

Tôi ngồi trên một cây cầu nhỏ bắt ngang suối nước nóng. Cặp giò tôi ngâm dưới nước và dòng suối cuốn đi đôi guốc model màu đỏ của tôi. Nó trôi lững lờ trước khi mất hút. Tôi không đi theo nó, không thấy luyến tiếc gì cả, chỉ thấy nhớ thương Huyền Trân công chúa. Nàng đã bị đem cống cho Vua Chiêm để đổi lấy đất đai. Nàng có lẽ là "Việt kiều" đầu tiên... Chiến tranh, ký ức về nó trong tôi là một màu xám nhức nhối tâm can. Khi tôi lên tám, dì tôi bị lạc đạn chết. Tôi ôm xác dì tôi còn nóng hổi, mà cái đầu của dì cứ quẹo mãi sang một bên như con gà vừa bị cắt cổ, từ bên màng tang của dì một dòng máu đen kịt cứ rỉ rỉ ra...

Ở khách sạn nơi tôi làm việc chẳng ai chơi với tôi, tôi cũng chẳng chơi với ai. Mấy đứa con gái cứ lo xun xoe nịnh bợ Tây, Tàu. Mở miệng ra là khoe hôm qua vừa đi với "mít" này, "mít" kia. Tôi dửng dưng với cuộc chơi của họ. Tôi có suy nghĩ của tôi - suy nghĩ của một người con gái nước Việt yêu tự do. Nhưng tôi chợt mủi lòng và thèm bật khóc khi tâm thức chợt vẳng lại câu hát ngày xưa như thầm nhắc: "Thương thay cây quế giữa rừng..." Tôi thấy mình dù không phải là hậu duệ của Huyền Trân nhưng biết đâu một ngày nào đó, tôi cũng phải tự mình đem "cống nạp" cho một tên đàn ông cha căng chú kiết nào đó?

Gã đàn ông đứng trước mặt tôi với đôi guốc màu đỏ. Ðôi chân tôi đã nhăn nhúm, trắng bệch vì ngâm nước lâu. Tôi nhớ Tấm ngày xưa tìm được hoàng tử cũng nhờ đánh rơi hài. Còn gã đàn ông này, gã có phải là hoàng tử hay chỉ là một hướng dẫn viên, bồi khách sạn, hay có khi là một tên sở khanh lừa đảo?

Tôi thấy ghét gã thậm tệ, ngay cả khi gã cười nhe hàm răng trắng bóc trên gương mặt đàn ông cương nghị, rám nắng.

Tôi quen với Trần từ đó. Anh đi theo tôi như cái bóng, lặng lẽ như một vệ sĩ. Lúc giận tôi đuổi Trần đi, nhưng ngày mai anh lại lặng lẽ đến. Tôi nhận được nhiều thơ tỏ tình của một tên thi sĩ, nhưng những vần thơ sướt mướt hão huyền của gã làm tôi phát ớn cái bộ vó nửa bụi đời nửa hào hoa của gã. Một tên họa sĩ tập sự đòi vẽ tôi, tôi chỉ thích tranh khỏa thân nhưng trong mắt gã tôi thấy nhiều men say hơn là men nghệ thuật.

Một gã Việt kiều đến trú ngụ nơi khách sạn tôi đang làm. Gã thường hay xuống quầy thu ngân đổi bạc lẻ. Trông gã sạch sẽ, giản dị và lãnh đạm. Tôi thích gã. Khi gã mời tôi đi chơi, tôi đi ngay không cần suy nghĩ.

Thật lạ, cả gã và tôi đều không biết khiêu vũ. Gã rất ít lời. Lúc gã hôn tôi, tôi cảm nhận được mùi thuốc lá và tròng kiến cận của gã cọ trên sống mũi của tôi.

Lúc gã cởi áo ngực của tôi là lúc tôi từ chối. Gã không hề bối rối, chúng tôi trả phòng và rời khỏi khách sạn. Gã ngỏ ý muốn cưới tôi, tôi hỏi về thiên hướng của gã. Gã nói gọn: "Vi tính!"

Tôi về suy nghĩ không biết mình sẽ sống ra sao với một gã chồng có bộ óc điện tử? Gã trao lại địa chỉ cho tôi rồi ra đi. Tôi bỏ địa chỉ của gã vào thùng rác tự tiêu. Hy vọng nó không lọt vào tay một con bé ngu xuẩn nào đó.

Trần lại đến, chẳng gợi ở nơi tôi một cái gì. Trần hơn tôi bao nhiêu tuổi? Có thể là mười, mười lăm hay hai mươi tuổi? Tôi không quan tâm.

Ngày đứa em gái kế tôi đi lấy chồng. Trần ngang nhiên tới phụ. Má tôi thì lạnh lùng, ba tôi thì tội nghiệp, còn tôi thì dửng dưng. Nhưng khi khách mời thắc mắc về sự hiện diện của Trần, tôi trả lời gọn: "Bạn!"

Trần vẫn mãi lẽo đẽo theo tôi, chỉ giúp được tôi có một lần. Ðó là lần tôi đi làm về khuya, vừa rời khách sạn gặp tụi du đãng toan làm hỗn. Trần đã nhanh chóng trấn áp bọn chúng. Trần đưa tôi về, trầm tĩnh như mọi lần. Không hớn hở, cũng chẳng ra vẻ ta đây con nhà... võ. Lần đầu tiên tôi nói với Trần hai tiếng: "Cám ơn."

Tình cờ tôi biết Trần là một võ sư. Anh đang có những mối ưu tư để phát triển môn võ thuật cổ truyền. Nghe anh nói về sự say mê võ thuật tôi không hiểu nhưng vẫn thích nghe giọng nói trầm, ấm và chuẩn của anh.

Thu nhập của anh từ những lớp võ rất thấp, nhưng anh từ chối những hợp đồng béo bở làm bảo vệ cho mấy vũ trường. Có lần anh được mời tham gia đóng phim, anh rất mừng vì đây là một dịp để anh triển khai các đòn thế của môn võ cổ truyền nhằm tạo thanh thế chấn hưng lại một nền võ học đang mai một dần. Nhưng giữa anh và đạo diễn có sự bất đồng, trong khi anh muốn sử dụng những đòn thật, tuy giản dị mà hữu hiệu, thì tay đạo diễn chỉ muốn phô trương những đòn hư để câu khách. Anh rút các môn đệ của mình về.

Trần rất ít nói, anh chỉ say sưa khi nói về đạo học trong môn phái của anh. Tôi thấy anh cũng có nỗi buồn giống tôi. Trai nước Việt theo Trần thấy thì họ thích đi học Anh ngữ, vi tính để làm bồi bàn, tài xế taxi, nhân viên văn phòng hơn là rèn luyện thân thể, suy tư về khoa học hay đạo học - là lẽ hưng vong sống còn của một quốc gia trên con đường mưu cầu sự hưng thịnh và hạnh phúc.

Tôi giúp Trần học thêm vi tính để anh có điều kiện nghiên cứu võ học một cách khoa học hơn. Cụ thể, nhờ biểu đồ tự sáng chế trên máy, anh "lược giản" bớt những nghi thức, đòn thế rườm rà sao cho mau lẹ và hiệu quả, phù hợp với tinh thần tấn công của thời đại.

Năm đó tôi ba mươi tuổi, má tôi gọi tôi là "gái già." Ðám em gái tôi đều đã có chồng ở nước ngoài, hưởng một cuộc đời vinh hoa phú quý. Tôi chuyển về một công ty kinh doanh vàng bạc, đá quý. Ông tổng giám đốc vừa mới chết vợ ngỏ lời cầu hôn với tôi, má tôi mừng như bắt được vàng vì cuối cùng cũng có một "người Việt cao quý" ngỏ lời với con gái bà. Nhưng tôi từ chối thẳng thừng.

Năm đó Trần bước vào lứa tuổi bốn mươi. Tôi chưa một lần tới nhà anh. Má tôi bây giờ quý mến anh lắm, anh là niềm hy vọng cuối cùng của má tôi về người đàn ông có thể làm cho tôi rung động con tim sắt đá.

Ngày tôi tiễn cô bạn gái đi công cán ở nước ngoài, có một gã Hàn Quốc trẻ tuổi đeo theo tôi từ phi trường cho tới tận nhà. Gã được má tôi tiếp, còn tôi bỏ vô phòng ngủ. Khi ra về, gã trao lại cho má tôi một tấm danh thiếp ghi rõ chức vụ là tổng giám đốc một công ty danh tiếng. Gã có nhã ý mời tôi làm giám đốc một công ty sắp thành lập (?)Má tôi thở dài, bà chẳng dám khuyên gì tôi.

Ðêm ấy tôi khóc, chẳng biết vì buồn hay vì bực tức? Lần đầu tiên trong đời tôi tự hỏi, người ta làm thân con gái đẹp để làm gì?

Sáng ra Trần đến thăm tôi, tôi nói với anh mà nước mắt lưng tròng: "Anh hãy cưới em đi."

Trần cầm tay tôi xót xa, anh cố nén một tiếng thở dài.

Ðêm ấy đi chơi, tôi chủ động hôn Trần, anh chỉ nhẹ nhàng vuốt tóc tôi mà không đáp lại nụ hôn đầu của tôi.

Tôi cầu khẩn Trần thêm một lần nữa: "Hãy lấy em đi!"

Trần buồn bã lắc đầu: "Không! Anh không thể lấy một người con gái không yêu anh."

Tôi buồn bã tự hỏi, làm sao để yêu một gã con trai? Tôi chẳng biết, vì trái tim tôi chưa biết đập rộn rã một lần nào.

Trần đi vắng một thời gian, tôi không cảm thấy nhớ. Tối đi chơi lần đầu tiên sau khi anh về, anh đột nhiên nói: "Anh muốn cưới em làm vợ với một điều kiện!"

Tôi giương mắt nhìn anh: "Ðiều kiện gì?"

"Em đừng tự dằn vặt mình nữa?" - Giọng của Trần thật nhỏ nhưng gương mặt anh rắn đanh đầy đau khổ.

Tôi rùng mình lúc anh cúi xuống hôn tôi. Tôi cảm nhận được sự mạnh mẽ cường tráng và tình yêu vô bờ bến anh dành cho tôi, khi sự khắc khổ trên gương mặt anh biến mất. Trong vòng tay đàn ông của anh tôi nhận ra thân xác đàn bà của mình.

Ðám cưới của tôi, người vui nhất là má tôi. Tôi nói vui với bà: "Chồng con nghèo lắm!"

Má tôi cười rõ to. Tôi cảm thấy bà thấu hiểu tôi hơn bao giờ hết khi bà đoan chắc là cuộc đời tôi sau này sẽ vô cùng hạnh phúc.

VI KÝ

Một cuộc hội ngộ mới

TTO - Tập truyện ngắn hay Tuổi Trẻ Chủ Nhật 1996-1998 ra mắt bạn đọc cách đây gần bốn năm, tái bản đến lần thứ 4. Con số xấp xỉ một trăm truyện còn lại thật sự là "kho" tư liệu quí, có không ít mẩu chuyện đầy xúc động và sâu sắc.

Bởi thế, 24 truyện trong tuyển tập lần 2 của ba năm 1996-1998 sẽ tiếp tục hội ngộ với độc giả yêu văn chương khắp mọi miền đất nước.

Bên cạnh những cây viết đã thành danh trên văn đàn như: Xuân Sách, Triệu Bôn, Hoàng Lại Giang, Phạm Trung Khâu, Ngô Khắc Tài, Nguyễn Quốc Trung, Phan Triều Hải, Trang Hạ, Châu Giang, Võ Thị Xuân Hà, Phong Điệp..., chúng ta còn bắt gặp nhiều khuôn mặt mới (Nguyễn Ca, Trần Lê Quỳnh, Lê Thanh Hải...). Ngoại trừ một vài mẩu chuyện mang tính triết lý sâu xa (như Cậu Ba, Hoàng đế Quang Trung và Tam Thái Sử Mộ nước Tề), phần lớn các truyện đều ít nhiều khắc họa lại tiểu tiết hết sức bình thường, giản dị trong cuộc sống. Một câu nói vu vơ của ai đó, chen lẫn cảm xúc khó tả khi hoàng hôn buông xuống. Hoặc bao ngổn ngang tâm sự trong ký ức con người; lắm lúc là tâm tình chân thật, là gút mắc đương nhiên trong các mối quan hệ cộng đồng (những người đang yêu, rồi vợ - chồng, cha mẹ - con cái, đồng sự...).

Xét cho cùng, 24 mẩu truyện được tuyển chọn lần này không buộc độc giả phải "rướn mình" quá sức để kịp hiểu những ẩn ý mang tính thời đại... Ngược lại, hầu như rất nhẹ nhàng, thiết thân như nhịp sống thường nhật. Đọc - để thư giãn; đọc - để hiểu biết và ứng xử đẹp hơn với những người gần gũi quanh mình. Có lẽ đấy chính là thông điệp mà các tác giả và cả những người tham gia tuyển chọn muốn chuyển tải đến độc giả của mình!

Tủ sách Tuổi Trẻ & NXB Trẻ 2008

Chúc mừng năm mới

TTO - Ngô Thị Mỹ Trang là cộng tác viên thân thuộc của TTCN (nay là TTCT). Có vẻ như tác giả rất thuận tay khi lột tả mọi xung đột tâm lý hết sức tinh tế giữa cặp vợ chồng trí thức trẻ.

Mỗi diễn tiến phức tạp đan xen trong nội tâm của họ có thể xem là những điển hình dễ tìm thấy trong xã hội đương đại. Đúng như lời tự sự của nhân vật chính: "Tôi đang tìm một cái gì đó không biết, nhớ một cái gì tôi không hay. Nhưng tôi biết đằng sau những tất bật đời thường luôn có sự hiện diện của nó".

Dòng chữ Happy New Year hiện lên trên pager mà không có tên người nhắn. Tôi tần ngần tự hỏi người nào đã bày ra trò này. Sau một ngày làm việc mệt nhọc, tôi đâu phải chờ đợi những cú nhắn tin quái quỉ không rõ xuất xứ, dẫu cho đó là một lời chúc mừng năm mới. Phiên bảo tôi bây giờ không giống phụ nữ chút nào. Đi đâu cũng có máy nhắn tin, làm gì cũng nhanh quá mức. Tôi hỏi nhanh quá là sao. Phiên tần ngần: ý anh muốn nói là nhanh hơn cái mức mà người ta mong đợi ở một người đàn bà. Có lẽ Phiên nói đúng, sự nghiệp của tôi đã dần dần biến tôi thành một người nhiều nam tính, quyết đoán và xông xáo. Tôi cần phải dịu dàng một chút, thong dong một chút và thỉnh thoảng tỏ ra... ngu đần một chút. Đó là điều Phiên muốn, tôi cay đắng thầm nghĩ. Ngày trước, khi mới lấy nhau, Phiên đôi khi tỏ ra không hài lòng khi tôi rề rà trong cử chỉ, e dè trong tiếp xúc. Thì bây giờ tôi đã thay đổi như ý Phiên đó thôi. Từ ngày tôi rời cái chỗ ngồi buồn bã trong thư viện với những quyển sách cũ kỹ ẩm mốc, nghe lời Phiên thử vận may trong một công ty thương mại, tôi đã đi từ thành công này đến thành công khác. Mãi cho đến hơn ba mươi tuổi tôi mới thấy cái khả năng tiềm ẩn trong tôi. Lâu, đã quá lâu rồi, tôi ẩn mình trong chiếc vỏ tẻ ngắt của mình, không có khái niệm gì về thế giới náo nhiệt chung quanh. Khi khám phá ra sự hấp dẫn mê hồn của cuộc sống nhiều màu sắc, tôi hối hả lao vào và quên đi rất nhanh những tháng ngày nhạt nhẽo cũ. Hội họp, công tác, kế hoạch, tiệc tùng... đã làm tôi trở thành một con người khác, bặt thiệp và tự tin. Phiên ban đầu hưởng ứng nhiệt tình những thay đổi của tôi, và mỗi lần bước đi bên tôi, nụ cười Phiên thoáng vẻ tự hào. Tôi đâu còn là cô gái nhà quê, ấp úng, thẹn thùng khi Phiên giới thiệu tôi với bạn bè anh. Ấy vậy mà khi Phiên có cái mình muốn, anh lại dè dặt, thận trọng. Thỉnh thoảng tôi thấy Phiên nhìn tôi với một ánh mắt kỳ lạ, mong mỏi. Có những đêm giật mình thức giấc, tôi thấy Phiên ngồi trầm ngâm nơi đầu giường, khói thuốc mờ mịt. Hình như Phiên bỏ hút thuốc lá đã lâu lắm rồi mà. Khi tôi hỏi sao Phiên không ngủ thì Phiên bảo anh thấy nhớ lắm. Tôi hỏi: "Nhớ gì?". Phiên cười nhỏ: "Nhớ em".

Ai đã nhắn cho tôi dòng tin trên, tôi lại băn khoăn tự hỏi. Những ý nghĩ trôi tuột như giọt nước trên đầu lá thu khô. Mấy hôm nay trời dịu mát, hơi hướm mùa mới đã len lỏi tới. Đã bao lâu rồi, dù vô tình đến mấy tôi cũng không thể dửng dưng với tiết trời này trong năm. Nó bắt người ta phải nghĩ đến những gì đã qua, phải nhớ một cái gì đó. Ánh nắng đến hết sức rụt rè, và thời gian đi cũng khẽ khàng quá đỗi. Điều đau khổ của tôi là tôi không biết mình đang nhớ gì, và đang mong mỏi gì nữa. Tôi chỉ biết một điều là nỗi nhớ đôi khi dâng lên thật đầy, và rồi cũng đẩy tôi xuống thật thấp. Lòng tôi hoang mang giữa những hồi tưởng đứt nối, rời rạc. Nhưng khi tôi đến sở làm, tôi nhanh chóng quên hết. Khi tôi đang lúi húi với lịch hẹn khách thì Minh bước vô phòng. Anh ta đến bên tôi, nói nhanh: "Chúc mừng năm mới!". Tôi cười: "Bày chuyện quá, hãy còn sớm để nói câu đó...". Nhưng rồi tôi bỗng nghe như có một cơn sóng ùa tới. Có phải Minh không, người đã nhắn cho tôi dòng tin trên máy? Tại sao Minh lại làm như vậy? Có lẽ nét mặt của tôi làm cho Minh bối rối quay ra. Khi đã đến cửa, Minh chợt quay lại nhìn tôi. Tôi cười và Minh cũng cười. Thế đấy, con người là chúa giả vờ.

Cái ý nghĩ Minh là người nhắn cho tôi mẫu tin bỏ ngỏ ấy làm cho tôi thấy phấn khích. Một cách tự nhiên, tôi nhìn xuống bộ quần áo đang mặc. Màu xanh nhạt luôn hợp với tôi nhất, Phiên nói như vậy mà. Mở ví ra, tôi cố gắng nhìn thoáng mình qua gương một chút. Và tôi buồn cười tự hỏi vì sao mình ngớ ngẩn đến vậy. Nếu đó là Minh, thì có gì là khác đâu. Dẫu sao anh ta cũng là đồng nghiệp của tôi, và đối với anh, tôi luôn nể trọng sự uyên bác, tính trầm tĩnh của một người đàn ông chững chạc. Giấy tờ trên bàn hôm nay có vẻ lộn xộn quá, tôi nghĩ. Cái điện thoại tôi để cũng không được ngay ngắn cho lắm. Đang loay hoay dọn dẹp, tôi giật mình khi thấy Minh lại bước vào. Tôi hỏi giọng run run: "Có chuyện gì không anh Minh?". Minh cười cười: "Tôi muốn nói với Quỳnh chuyện này mà khó quá". Tôi thấy choáng váng và con người xông xáo trong tôi cụp mắt xuống, ngại ngùng. Lần đầu tiên tôi nhận ra mũi giày của mình có những vết rạn, và màu vecni đã bắt đầu cũ. Minh ngập ngừng rồi nói: "Chiều nay tôi có việc về sớm, Quỳnh thay tôi gặp ông Kha dưới đại lý được không?". Thở phào, tôi nói nhanh: "Tưởng chuyện gì, anh cứ để đấy". Khi Minh đi rồi, tôi mang cái cảm giác pha trộn giữa an tâm và tiếc nuối. Con người lạc quan trong tôi khẳng định một cách nhục nhã rằng Minh còn muốn nói một điều gì nữa đằng sau mớ công việc bộn bề kia. Nhưng con người cũ kỹ nhà quê trong tôi lại an tâm một cách chua xót.

Chiều nay khi về nhà tôi đã thấy Phiên quần áo chỉnh tề ra vẻ như sắp đi đâu đó. Cảm thấy hối hận về những ý nghĩ không đoan chính của mình trong ngày, nên tôi cười thật tươi với Phiên: "Anh không đi đâu chứ?", tôi hỏi. "Không, rồi sao?". Tôi đi về phía chiếc gương to, vừa xoay người trước gương trả lời: "Không, em hỏi vậy thôi". Phiên nhìn lên tờ lịch: "Còn mấy ngày nữa thì...". "Hết năm phải không?", tôi tiếp lời. Dòng nhắn tin Happy New Year lại hiện lên trong tâm trí tôi với bao câu hỏi bí ẩn. Tôi nghĩ đến Minh. Không hiểu sao tôi đoan chắc là Minh đã nhắn đến tôi lời chúc trên. Niềm tự ái đàn bà có thể làm đủ mọi chuyện, huống hồ chỉ là trong ý nghĩ. Tôi rà soát lại cử chỉ và cách cư xử của Minh, cố tìm ra vài điểm tương đồng với những gì tôi đang tưởng tượng. Khi tôi ngẩng lên thì Phiên đã đi đâu mất. Tôi thấy khó chịu khi Phiên tỏ ra không cần đến tôi. Người ta thường nói giữa vợ chồng đôi khi cũng có sự ganh tị. Hay Phiên không thích khi thấy tôi thăng tiến khá nhanh. Tôi uể oải đóng cửa rồi lên giường ngả lưng một chút. Những ngày cuối năm. Thế là xong, bắt đầu kế hoạch mới, công tác mới. Nhưng cuộc sống giữa tôi và Phiên thì có gì mới đâu. Vẫn ngày ngày hai đứa đến sở làm, quay cuồng với công việc. Tôi biết nhà tôi thiếu vắng tiếng khóc của trẻ, tiếng dỗ dành của mẹ và giọng ân cần của cha. Nhưng biết làm sao hơn, đó là một thỏa thuận ngầm giữa chúng tôi lúc đầu. Phiên muốn cuộc sống được chuẩn bị tốt trước khi có con, mà tôi lúc đó thì luôn nghe theo lời Phiên bảo. Bây giờ qua bao nhiêu năm, nhìn lại thấy mình đã có thừa mà cũng rất thiếu. Công việc không cho phép tôi ngừng lại để giải quyết sự thiếu thốn cá nhân đó. Nếu Phiên khuyến khích tôi một chút thì có lẽ sự việc sẽ khá hơn. Tôi sẽ cho Phiên một đứa con. Phải chăng đó là điều bấy lâu nay tôi ấp ủ, mong ngóng. Đôi khi tôi thấy Phiên rất gần mà cũng rất xa, tựa như những mộng mơ thời trẻ đã phủ chụp lên hình bóng Phiên một thứ sương mù lạ lùng không tên gọi. Tôi đang tìm một cái gì đó không biết, nhớ một cái gì tôi không hay. Nhưng tôi biết đằng sau những tất bật đời thường luôn có sự hiện diện của nó. Và tinh quái thay, đang lúc tôi đang lù mù rối rắm thì lại có người chúc tôi năm mới vui vẻ. Mà tôi thì buồn cười làm sao khi thích lãng mạn hóa vấn đề. Giữa hàng trăm khác hàng và bạn bè quen thuộc, bất cứ ai cũng có thể nhắn cho tôi dòng tin đó. Thế nhưng ai cũng để tên lại, và họ cần để tên lắm chứ! Để cho tình cảm thắt chặt hơn, công việc trôi chảy hơn. Còn kẻ nhắn tin kỳ bí này thì không nể nang tôi chút nào. Cứ như là ban phát cho tôi một thứ ân huệ. Cứ như là muốn gieo rắc một không khí nghi ngờ. Cứ như là bắn đi một lời hẹn hò đắm say đầy ẩn dụ.

Tối nay bên phía liên doanh tổ chức liên hoan cuối năm. Tiệc bắt đầu lúc sáu giờ chiều nhưng thật ra nó đã có mặt trong sự bồn chồn của mọi người từ lúc sáu giờ sáng. Riêng tôi, tôi thật lòng mong mỏi đến tối để được cười nói và được quên cái điều tôi đang cố nhớ. Bấy lâu nay tôi tưởng mình đã khô khan lắm rồi, máy móc lắm rồi. Nhưng dòng nhắn tin ngọt ngào ấy đã đánh thức con người lãng mạn và cả tin trong tôi. Nhớ lúc còn làm ở thư viện, suốt ngày im lìm bên những cuốn sách dày. Có những ngày mưa dầm, tôi không biết đi xe gắn máy, phải ngồi bó chân nơi góc hành lang chờ Phiên đến đón. Chúng tôi che chung áo mưa, trong khi tôi rét mướt run rẩy thì Phiên gõ nhẹ vào trán tôi, khẽ đùa: "Cô bé ngốc nghếch nhà quê ạ, khi nào thì em hết làm khổ anh đây?".

Bây giờ thì tôi có làm khổ Phiên nữa đâu. Tôi đã đi được xe máy, đã biết phóng nhanh, đã biết cười cầu tài với anh công an khi lỡ đậu xe vượt mức qui định. Và tôi còn có cả xe hơi để di chuyển khi cần thiết. Đương nhiên là Phiên đã tự do hơn, không còn bị ràng buộc thời gian vì tôi nữa. Có những lúc tôi thèm sự đột phá, và sự đột phá đầu tiên là đi từ tĩnh sang động. Còn bây giờ, chẳng lẽ tôi bắt đầu đi ngược lại? Cái gì đã làm tôi thảng thốt?...

Tôi khoác vào người chiếc áo dài đen có điểm những bông hoa tím. Phiên bảo màu đen là màu của sang trọng quí phái, nhưng với em, màu đen là màu của lãng mạn. Tôi xấu hổ khi dựa trên sự chỉ bảo của chồng để làm vui lòng một người đàn ông khác.

Khi tôi đến mọi người đang nâng ly tiễn đưa năm cũ. Mọi người tỏ vẻ vui mừng khi thấy tôi, làm như không phải vừa mới gặp nhau cách đây hơn một tiếng đồng hồ. Đang nói cười trong vòng vây của họ, tôi may mắn được Minh giải thoát khi anh bước đến chào tôi. Sau khi đưa tôi ly rượu, Minh ngồi xuống ghế. Tôi thấy trơ trọi nên cũng ngồi xuống theo. Chúng tôi nói về chuyện công ty, về dự án năm mới, về những chấn chỉnh cần thực hiện. Ít ra đề tài đó cũng vớt vát chút danh dự cho một con ngốc. Rồi Minh nói chỗ này nóng quá, mình ra ngoài kia ngồi cho mát đi. Tôi ngần ngừ một lát rồi rủ Minh đến chào ông tổng giám đốc. Chưa bao giờ tôi mang ơn những tiếng cười đùa giòn giã của mọi người bằng lúc này. Nó giúp tôi che giấu được nét bối rối trên khuôn mặt và những nôn nao trẻ con trong lòng. Tôi muốn biết có phải Minh đã nhắn cho tôi dòng tin trên, tại sao và tại sao... Tôi hiểu óc tưởng tượng của một con mọt sách đang giở trò với mình, và tôi đã đi quá xa rồi. Tôi bâng quơ nói: "Vậy là xong. Một năm qua rồi". Minh biếng lười: "Ù, một năm qua rồi. Tôi thấy mình già. Nhưng Quỳnh thì còn trẻ lắm. Cố gắng đi. Quỳnh sẽ được nhiều hơn thua đấy". Tôi tinh quái: "Đâu phải ai cũng cảm thấy vui khi được nhiều. Đôi khi tôi yêu cái cảm giác của kẻ thua trận". Minh định đáp lại thì bỗng có tiếng "bíp bíp" vang lên. Ai đó mang theo máy nhắn tin. Có tiếng càu nhàu: "Đi ăn liên hoan mà cũng đeo theo máy". Rồi họ bật ra cười vui vẻ. Minh buột miệng: "Tôi công nhận thông tin đã làm một cuộc cách mạng với cái máy nhắn tin. Nhưng tôi thật tình chẳng thích trò này lắm". Tôi ngơ ngác: "Thế anh không bao giờ...". Minh khoác tay: "Phải nói là rất ít, bất đắc dĩ thôi". Hụt hẫng vì thất vọng, tôi cố vớt vát: "Vậy... mấy ngày nay anh không chúc mừng cho ai qua máy nhắn tin sao?". Minh ngạc nhiên: "Không, để làm gì?". Đầu óc nhanh nhạy của một người lăn lộn trên thương trường đã giúp tôi nhanh chóng lấy lại được bản lĩnh, dẫu đó là thứ sĩ diện hão của một tà áo lộng lẫy trên cỗ xe bằng bí ngô. Tôi quay sang bắt chuyện với những đồng nghiệp khác, lòng thầm cảm ơn đêm nay có đông người. Dẫu sao che giấu niềm tự ái bị thương tổn sau lưng đám đông vẫn dễ chịu hơn là nhìn ngắm nó một mình. Khi tiệc tàn, tôi chào Minh mà thấy lòng mình dửng dưng kỳ lạ. Tôi tự hỏi nếu quả thật Minh là người đã nhắn cho tôi dòng tin trên thì có gì đáng bận tâm đâu. Không, cái mà tôi đang nghĩ là một cái gì khác kia. Nó không phải là nét lịch sự phù phiếm hay lãng mạn giả tạo, mà là một điều hết sức thiêng liêng và gần gũi, như tôi và khoảng trời đêm nay, như cành lá non tơ và đất trời đang run rẩy chuyển mùa.

Tôi về đến nhà, cửa mở. Đèn sáng choang. Chiếc máy hát góc nhà vang lên bài Yesterday quen thuộc. Phải, ngày hôm qua vẫn còn đấy thôi. Ngày hôm qua với đợi chờ ướt át, với đêm nóng thiêu và giấc ngủ nhiều mộng mị. Ngày hôm qua với tôi khẽ khàng như một cánh bướm non, và với Phiên nồng ấm, dịu dàng. Đôi khi cuộc sống cứ đẩy mình trôi đi mà không ngờ rằng mối nguy cơ trôi về những hướng khác nhau đang rình rập. Những ngày cuối năm tựa như một dấu lặng muộn màng. Tôi mơ hồ tưởng tượng những ánh nến lung linh trong căn phòng mượt mà, đầy hoa và tiếng nhạc. Nơi mộng ảo ấy, tôi và Phiên dìu nhau đi trên nền âm thanh lao xao. Hồi ấy Phiên hay bày trò đố nhau, Phiên đọc lên một câu gì đó rồi bảo tôi tìm ra tác giả của nó. Đôi khi Phiên mua quà mà không bao giờ đưa thẳng cho tôi. Phiên chơi trò mật thư để tôi phải tìm lung tung khắp nhà. Tôi nhớ, trời ơi tôi nhớ ánh mắt Phiên ân cần lo lắng khi tôi trượt chân té ngã nơi cầu thang. Tôi nhớ chiếc giỏ xinh xắn là quà sinh nhật Phiên tặng, và tôi đã hồi hộp run rẩy biết bao khi mở nó ra: một trái tim nhỏ xíu bằng gỗ thông, nhẹ nhàng và mong manh quá. Nhưng nó đủ sức làm tôi choáng ngợp trong một niềm hân hoan không tên gọi. Tôi ngỡ ngàng nhận ra cái mà tôi hoài nhớ bấy lâu nay chính là tình yêu của Phiên mà tôi vô tình quên lãng. Ngó quanh, tôi thấy trong ngôi nhà này đâu đâu cũng là kỷ niệm. Kia là chiếc đồng hồ treo tường có vỡ một mảnh kính nhỏ do tôi sơ ý đụng phải khi quét mạng nhện những ngày cận Tết. Này là chiếc mặt bàn còn một vết xước to vì hai đứa tranh nhau bổ dưa trong đêm giao thừa. Và rất gần với tôi bây giờ là khung hình để bàn có lồng một tấm ảnh đen trắng của chúng tôi. Chiếc khung đầy bụi và lòng tôi đầy mưa bão.

Không biết tôi đã ngồi như thế bao lâu. Tiếng nhạc đã im bặt tự lúc nào. Ai đó đã tắt đèn. Màn đêm tràn ngập, tôi tưởng mình cũng hòa tan trong bóng tối mịt mùng kia. Lạ lùng thay khi người ta chỉ cảm nhận được sự thật trong đêm tối. Những ảo ảnh lấp lánh không có ý nghĩa gì cả bên một sự thật lồ lộ giữa bóng đêm trùng trùng. Đầu óc ngu muội của tôi chợt hiểu ra tất cả. Và rồi một cảm giác cô đơn bỗng dưng ùa tới, tôi thảng thốt gọi: "Phiên ơi!". Ngay tức thì tôi được bao bọc trong một vòng tay chở che ấm áp. Có tiếng Phiên thì thầm trên tóc tôi: "Chúc mừng năm mới".

NGÔ THỊ MỸ TRANG

Tình lặng

TTO - Không gian sống được miêu tả thật chật hẹp. Chỉ bấy nhiêu mà tác giả trẻ Hoàng Lan Anh khéo dẫn dắt người đọc đi đến tận cùng những nỗi niềm, trăn trở, ước vọng của người mẹ, người chị, người em... trong một đại gia đình.

Mọi hỉ nộ ái ố... trên đời như gắn liền với số phận từng nhân vật. Tình yêu thương của người mẹ dành cho con cái cũng thật bao la và sâu lắng như trời biển. Con cái dẫu có thất bại, có nông nỗi, có hư hỏng... thì lúc nào tấm lòng người mẹ cũng mãi bao dung đón chờ và tha thứ.

PK

Mẹ ngồi khuất sau cánh cửa. Mắt bà đục đi trước rá gạo. Từng hạt gạo nhỏ vỡ vụn tơi tả sau đôi mắt kèm nhèm đầy đau khổ. Hai bàn tay bà run run run như cành cây khô trước cơn bão, chỉ chực gục ngã. Tôi đứng sau mẹ từ lúc nào mà bà không hề hay biết. Cánh cửa mở nửa vời tạo nên một khoảng tối ngột ngạt. "Mẹ...". Mẹ không ngước mắt lên, hỏi khẽ: "Xuyên đấy hả? Đi học về rồi ư?". "Vâng". Tôi đỡ rá gạo trên tay mẹ. "Chị Hương đâu mà mẹ phải làm thế này?". "Đi rồi, ới một cái là đi với thằng Quang". Tiếng thở dài của mẹ hiu hắt trong tiếng gió như yếu ớt và tuyệt vọng. "Mẹ - tôi đứng dựa lưng vào tường nói khẽ - Biết đến bao giờ cuộc sống của mẹ mới thay đổi đây?".

Đêm muộn màng của mùa thu. Tôi đi ra cửa hóng trăng, chị Hương vẫn chưa về. Tôi không biết chính xác bây giờ là mấy giờ, chỉ cảm thấy những giọt sương rơi trên cánh tay mình đẫm ướt. "Vào ngủ đi Xuyên. Muộn rồi". "Vâng, con đợi chị Hương thêm chút nữa". "Kệ nó". Tôi đóng lại cánh cửa, dặn chị Trang ngủ ở phòng ngoài: "Lúc nào chị Hương về, nhớ mở cửa hộ em nhé". Nghe tiếng "ừ" một cách khó chịu và cáu bẩn của người bị đánh thức lúc nửa đêm. Tôi bước chậm chạp lên cầu thang, nghe tiếng chuông đổ dồn ngoài cổng, vội vàng quay người xuống. Nụ cười của chị Hương thấp thoáng ngoài cổng, trông thấy vẻ hạnh phúc của kẻ đang yêu. Chỉ có điều vừa bước qua cánh cổng, nụ cười ấy vụt tắt, thay vào đó là một khuôn mặt khác, nhăn nhó và bực bội. "Sao về muộn thế, chị Hương?". "Có việc gì đến mày không, nhóc?". Tôi nhún vai: "Cùn lắm!". "Chị bất cần: "Bao nhiêu phần sắc tao cho mày đấy". Tôi lật đật leo lên gác chui vào màn, nghe tiếng mẹ thầm thì: "Chắc tao hết phúc rồi. Con với cái, chẳng dạy được đứa nào cả". Tôi im lặng, không biết mình phải bắt đầu như thế nào. An ủi mẹ là một điều quá khó đối với tôi, người già thường khó tính, dễ tủi thân và mặc cảm. Trên tường chỉ chú thạch sùng tặc lưỡi như cảm thông. Tôi biết mẹ đang khóc!

Chị Trang đi làm từ năm giờ sáng. Nơi làm việc của chị là một trường đại học lớn, cách nhà độ ba, bốn kilômet, khoảng mười lăm phút đạp xe. Trước đây, công việc phục vụ ăn uống cho lũ sinh viên như một nghĩa vụ. Cơm đỏ ngầu và sạn nhiều như vãi. Dăm ba miếng thịt lèo tèo, nổi lên những mỡ là mỡ. Nay đổi đời, phần thịt mỡ, cơm sạn biến đi, nhường lại cho các căntin phục vụ sinh viên hệt những thượng đế nhỏ. Chị Trang khá từ ngày ấy, mỗi tháng kiếm vài triệu đồng, đời sống bắt đầu sung túc hơn, sắm được cái này cái nọ. Chị Trang là chị cả của gia đình, một đầu tàu kéo ba chị em còn lại đi theo hướng nào đó. Tôi biết mẹ nhiều đêm khóc vùi vì chị, như là nỗi ám ảnh cho cả gia đình!

Chị Trang lấy chồng năm hai mươi mốt tuổi. Chồng chị là sinh viên văn khoa, quê ở một tỉnh miền biển. Mẹ tôi không phải là một người duy tâm, cũng không xem tướng số trước khi cưới chị. Mấy bà hàng xóm bảo: "Con Trang tuổi hổ, thằng Khải tuổi lợn, làm sao mà hợp nhau". Mẹ tôi gạt đi: "Chúng nó cứ yêu nhau là được". Năm đó mẹ còn trẻ, vẫn còn tin đời và năng động. Trước khi cưới chị, bà còn lặn lội về quê thăm bà thông gia già gần như mù hai mắt. Con đầu cháu sớm, mẹ lại đưa cả hai mẹ con chị Trang lên tận Cao Bằng thăm con rể, vốn được phân công lên dạy ở vùng cao. Được gần chục năm, anh rể xin chuyển về quê dạy học, chăm sóc mẹ già. Chị Trang từ nhỏ đã được chiều, lại sống ở thành phố nên không muốn về quê. Khi anh rể đi, chị trở về với bố mẹ tôi, chiếm một phòng trong căn hộ tập thể không lấy gì làm rộng rãi và đẹp đẽ. Hai năm sau, anh rể đưa đơn xin ly hôn. Chị không chịu. Mấy lần có giấy gọi của tòa, chị vẫn nhất quyết không đến. Lúc đó chị còn yêu anh Khải, mà anh lại đã yêu người khác, và sắp có con. Chị Trang ký toẹt vào cái đơn ly hôn khi biết chuyện đó. Chị chuyển từ con người tình cảm sang con người lý trí trong khoảnh khắc. Sau này, mỗi lần anh rể đến thăm Tuấn, chị nhất quyết không cho nó về quê. Mẹ tôi nhắc chị nhiều lần về điều đó, nhưng luôn luôn chỉ gặp câu trả lời khô khốc: "Bố nó không xứng đáng được gặp nó. Mẹ không thấy con đã khổ như thế nào ư?". Mấy chị em ôm nhau rơm rớm khóc. Mẹ cũng khóc, những giọt nước mắt già cả và đầy đau khổ. Mỗi lần thằng Tuấn có điều gì không phải, chị lại bắt con úp mặt vào tường, quát lên như khóc: "Mày mà hư, tao cho mày về với bố mày để con Chín nó nuôi. Tha hồ đi giặt tã lót với chăn trâu nhé". Tôi nhìn đôi mắt ngơ ngác của Tuấn, bảo chị: "Thôi mà, chị Trang". Chị gục đầu vào vai tôi, nức nở: "Chị buồn lắm, dì út ạ".

Chị Trang lấy chồng đầu năm, cuối năm chị Quỳnh cũng lấy chồng. Mẹ tôi cười: "Một năm hai con vịt bay". Có lẽ chỉ thời gian ấy, tôi mới thấy mẹ hay cười. Theo thời gian, nụ cười cứ rụng đi, mất dần. Lúc cưới chị Quỳnh, bụng chị Trang đã to lùm lùm, tôi còn nhỏ hay gọi đùa là bụng trống. Chị Quỳnh lấy chồng sớm, ăn hỏi từ năm mười tám tuổi. Bố mẹ chồng chị với bố mẹ tôi là chỗ bạn bè. Anh rể thứ hai của tôi tên Vũ, là người tôi quí nhất trong mấy anh rể cả chính cả hụt. Anh Vũ và chị Quỳnh yêu nhau từ ngày còn đi học, lúc mới mười lăm, mười sáu tuổi. Thường lúc nào sang nhà anh Vũ, chị cũng đem tôi đi, cho ăn vài cái bánh kẹo của thời bao cấp. Chị Quỳnh xinh đẹp. Cùng với anh Vũ, cũng không ít người ngấp nghé hỏi chị. Ngày chị Quỳnh lấy chồng, cánh thanh niên trong khu đứng xem mặt cô dâu, thở dài vì mất hoa khôi của xóm. Bố chồng chị Quỳnh là vụ trưởng, ai cũng bảo chị "chuột sa chĩnh gạo". Chỉ có mẹ tôi hiểu con gái mình như thế nào. Trong ánh mắt bà đôi khi có những nỗi buồn không thể nói ra.

Tôi học lớp năm, chị Hương tốt nghiệp trung học. Mẹ chạy hai chỉ vàng cho chị đi xuất khẩu lao động ở Liên Xô. Hầu như tuần nào chị Hương cũng gửi thư về nhà, nhớ bố mẹ và chị em lắm lắm. Lâu dần, dường như quen với nuớc Nga, chị càng ít gửi thư về. Chị Quỳnh bảo mẹ: "Hương nó có người yêu rồi đấy, mẹ ạ". Mẹ tôi ngạc nhiên: "Sao mày biết". "Nó mới gửi thư về cho con hôm qua. Nghe nói người yêu nó cũng ở Hà Nội, tận tình lắm". Tôi lén lấy lá thư trong túi xách của chị Quỳnh, trốn ra ngăn cửa nhỏ: "Chị Quỳnh, em không hiểu tình yêu là cái gì, nhưng thấy đến với em dễ dàng quá. Trước kia em cứ nghĩ nó phải cao xa lắm, nhưng khi Minh đến với em, mọi thứ chẳng có nghĩa gì nữa. Chỉ một lần bị ốm, người ta chăm sóc em, vậy đã thành tình yêu được rồi...". Tôi cất lại lá thư trong túi chị Quỳnh, suốt đêm không ngủ được. Lúc đó tôi đã chớm thành thiếu nữ, thấy lòng mình xốn xang.

Chị Quỳnh lấy chồng ít lâu cũng xin đi Nga. Bé Dương, con chị, lúc đó đã bốn tuổi, xinh xắn và ngoan ngoãn. Tôi thường đến chơi với bé Dương và anh Vũ, quấn quít với hai bố con. Hình như trước khi chị Quỳnh đi, hai người đã có lục đục. Anh Vũ không bao giờ gửi thư cho chị Quỳnh, chính xác hơn là không gửi. Mẹ tôi quí anh Vũ, coi như con đẻ của mình. Đôi lúc tôi bắt gặp mẹ và anh ngồi uống rượu với nhau, hình như cả hai đều sắp khóc.

Trước khi chị Quỳnh về hai tháng, anh Vũ mất. Đột ngột trong một tai nạn giao thông. Không có ai nhận ra anh, không có ai đi tìm anh. Không có một thứ giấy tờ nào hết khi xảy ra tai nạn. Đêm hôm anh mất, tôi mơ thấy con rắn cắn vào bàn chân mình chảy máu. Chiều, tôi nhận ra anh trong chương trình nhắn tin của đài truyền hình... Ai là thân nhân của nạn nhân, đến trụ sở cảnh sát giao thông quận Ba Đình... Quan Thánh để giải quyết. Hình ảnh cuối cùng của anh trong tâm trí tôi là một khuôn mặt méo mó và bê bết máu. Đám tang đưa vào hôm sau.

Chị Quỳnh về nước vào tháng mười. Mùa thu. Tôi không nhận ra chị trong khổ người nhỏ nhắn và đôi mắt cũ. Tôi nghĩ, tất cả phải đổi khác, chẳng hạn như khi chị Hương về. Chị Quỳnh vẫn giống như xưa, tất cả, kể cả bộ quần áo chị đang mặc trên người. Chị từ nhà chồng trở về thăm bố mẹ đẻ, mẹ tôi khóc để đón chị trong niềm vui sướng. Ít lâu sau khi trở về, mẹ tôi lại đón chị Quỳnh trong vòng tay. Lần nào chị Quỳnh về mẹ cũng khóc. Trong số bốn chị em, chị Quỳnh là người được mẹ yêu quí nhất. Những giọt nước mắt của mẹ chuyển từ sung sướng sang xót xa. Đôi khi trong tình yêu, người ta trở thành những con thiêu thân mù quáng. Mà chị Quỳnh lại xinh đẹp thế, chị không thể sống một mình. Mẹ tôi khuyên chị Quỳnh trở về nhà nội, nhưng chị không nghe. Mọi lời khuyên đều trở nên không có nghĩa lý gì. Mẹ tôi không biết trước đó chị đã có một tình yêu, đến lúc biết đã thành quá muộn. Chị Quỳnh lao theo con đường của mình, mặc cho mẹ tôi dọa sẽ từ chị. Chị ra đi theo một tiếng gọi mà tôi không thể giải thích nổi. Anh ta không phải người có tài, cũng không giàu có, chỉ là một nông dân thuần chất đã có vợ con. Mọi người chép miệng, chắc chị Quỳnh bị bỏ bùa mê mất rồi. Bố tôi không nhìn mặt anh ta, mẹ tôi than thở: "Nó xinh đẹp thế, nào có kém cạnh ai mà sao ngu đến thế là cùng. Người ta thì lấy chồng xuôi, còn nó lọ mọ lên tận miền ngược". Ngày chị Quỳnh đi, mẹ tôi khóc dấm dứt, hai mắt đỏ hoe, bảo: "Quỳnh, mẹ hỏi con lần cuối, có thật con nhất quyết phải ra đi không?". Chị Quỳnh như một kẻ mê muội, đôi mắt chẳng còn chút thần khí nào: "Vâng, con phải đi. Để giữ lấy hạnh phúc của mình". Mẹ tôi giũ tay áo lên nhà trên, không nói thêm lời nào nữa. Chị ra đi trong sự sững sờ của cả nhà. Mẹ cho chị mang theo mình tất cả những gì chị mang về và mẹ đã cho chị. Những ngày chị Quỳnh đi, nhà như có đám tang, đêm nào mẹ cũng khóc. "Hòn vàng thì mất, hòn đất thì còn". Mấy chị em còn lại không biết phải làm gì, cứ ngơ ngơ ngác ngác. Tuy mẹ nói từ chị, nhưng tôi hiểu lúc nào mẹ cũng quí chị Quỳnh nhất. Chị Trang ôm vai mẹ: "Mẹ đừng giận con Quỳnh. Dẫu sao cũng là con mẹ đẻ ra, chị em một nhà cả". Mẹ quì trước bàn thờ tổ tiên, tấm lưng như còng xuống. Cơn mưa ập đến trút đầy lên vai bà những điều phiền muộn và khổ đau.

Chị Trang trở về sống với mẹ. Mua sắm đồ đạc đều đều, chất đầy căn phòng nhỏ xíu. Ngôi nhà đã nhỏ lại bị đến mấy tầng síết, ngột ngạt như người bị bóp cổ. Chị Trang không có ý định lấy chồng. "Một người là đủ lắm rồi, cần gì phải thêm nữa. Cứ tự do sống theo mình là hay nhất". Chị cặp với người bạn đã có vợ và hai con. Đôi lúc tôi hỏi: "Chị không có ý định lấy chồng nữa sao?". "Không". "Thế đi lại với người ta làm gì?". Chị cười lớn, cốc vào đầu tôi đau điếng: "Cô còn ngốc lắm, bây giờ chẳng thằng nào đi với bồ mà lại nỏ bỏ vợ đâu. Mồm thì vẫn gia đình anh không hạnh phúc, anh bị khổ sở... Nhưng đố mà dứt được ra đấy". Chị cười lớn, nước mắt long lanh trong mắt. Mẹ tôi thấy chị Trang cứ đi đi về về đâm ngứa mắt, nói mãi chị không dứt khoát. Chị Trang cũng giận mẹ, không còn hay chuyện trò với bà như trước nữa. Mẹ tôi thường than cái nhà này như bị ma ám, lúc nào cũng chập chà chập choạng. Thêm chị Hương từ ngày đi Nga về vẫn ở vậy, mà tuổi thì đã lớn, hai sáu, hai bảy rồi còn gì. Mối tình đầu ở tận nước Nga xa xôi của chị Hương quá sâu sắc, đến nỗi không còn yêu ai được nữa. Chị sống trong ký ức của quá khứ, trong những cơn mê sảng ám ảnh không nguôi. Những đứa con bé bỏng của chị chẳng bao giờ nhìn thấy ánh sáng của cuộc đời. Chúng chết đi khi còn quá nhỏ bé, khi chỉ là những hài nhi trong bụng mẹ. Đêm đêm những đứa con gào thét bên chị, không hình thù, chỉ có đôi mắt chòng chọc, lóe sáng. Chúng đòi chị trả lại quyền được sống, quyền được làm người. Chị như miên man trong nỗi khiếp đảm của những phút giây bị kết án, bị phụ bạc bởi mối tình đầu. Người chị mềm oặt sau những cơn gió, những trận ốm liên tiếp làm người rạc đi. Nhiều năm, khi những chuỗi hình ảnh ghê rợn đó lắng dần, chị như được hồi sinh, trở lại với cuộc sống bình thường vốn có của mình. Chị bắt đầu hiểu được sự cô đơn, bắt đầu cần cho mình một người đàn ông để được che chở. Nhưng những người chị yêu thì không yêu chị, những người yêu chị thì chị lại không yêu. Mẹ tôi luôn vun đắp cho chị đến một trạng thái cân bằng nào đó nhưng không bao giờ thực hiện được. Mà chị luôn ý thức là mình xinh đẹp và thông minh nên những gã đi theo chị chỉ là những kẻ tầm thường lớp dưới. Chị yêu những cái bóng mà mình luôn phải chạy theo, luôn quị lụy và si tình như một con ranh ngốc nghếch.

Tôi biết mẹ đã kiệt quệ cả về sức lực, tinh thần. Khi tôi nhận ra bà lọt thỏm trong chiếc ghế bành nhỏ, hai mắt nhắm nghiền mệt mỏi và mái tóc muối tiêu bay lòa xòa trong gió, bàn tay rã rời. Tôi hiểu bà đã đau khổ thế nào khi mình bị đánh cắp những đứa con. Bà không dám bộc bạch cùng ai, thậm chí không dám sang hàng xóm chơi vì sợ bị thóc mách. Đáng lẽ tuổi của mẹ cần được nghỉ ngơi, được con cái chăm sóc, gần sáu mươi rồi còn gì... Nhưng số phận nghiệt ngã, cứ tước đi của bà từng đứa con, từng đứa cháu, để lại trơ trọi những nỗi đau. Mẹ luôn luôn nhắc bà chỉ còn tôi, với một ông chồng suốt năm công tác biền biệt và đàn chó nhỏ. Mẹ tôi đòi về quê, về với căn nhà lợp ngói cũ kỹ của bà ngoại. Nơi mẹ đã sinh ra, đã lớn lên, đã nuôi nấng các chị tôi những ngày sơ tán. Về quê. Có lẽ mẹ sẽ bớt đi buồn đau và tủi cực. Ở đó không có ai biết được chuyện của bà, không ai hỏi bà những câu khó trả lời, không ai có quyền chất vấn. Về quê. Niềm hi vọng của mẹ bị bẻ gãy khi nhìn lại ngôi nhà ngổn ngang. Mẹ phải ở lại để nuôi dạy tôi, để chăm sóc chị Hương, để đợi những lá thư ít ỏi của chị Quỳnh. Tôi thương mẹ. Nhưng có lẽ bàn chân lại đặt trượt con đường mà mẹ đã chọn cho tôi. Tôi không si tình như các chị, có lẽ thế. Nhưng tôi chôn mình trong những quán cà phê mệt mỏi, ám ảnh bởi những khúc nhạc của Richard Clayderman đến không thể nhấc chân lên được. "Xuyên, sao mày cứ tiêu phí đời mình trong những trò vô bổ thế. Không có gì hơn cho mày à?". Mẹ đập bàn giận dữ, những chiếc tách trên bàn run lên bần bật. Tôi ngồi im nghe tiếng chị Hương xào rau sột soạt trong bếp, không biết phải trả lời thế nào. Tan học, tôi đạp xe thật chậm qua quán cà phê, nhìn vào chỗ mình vẫn ngồi. Rồi phóng xe một đoạn xa, thấy như tiếng đàn đuổi theo mình, văng vẳng: "I've been alone inside my mind. And in my dream. I' ve kiss your lips a thousand times. I some time see you pass outside my door. Hello". Lại không cưỡng được lòng mình, tôi đạp xe trở lại. Ngồi vào chiếc ghế quen thuộc, vọng vào trong một ly nâu quen thuộc.

Mẹ bảo mấy hôm nay lòng dạ cứ bồn chồn, nóng như có cái gì đang thiêu đốt. Mẹ lại thơ thẩn nhắc lại chuyện xưa, nuôi nấng từng đứa con như thế nào, vất vả đến cùng cực với những thùng lương khô dự trữ. Chị Hương xì một tiếng rồi đi ra ngoài. Mẹ kéo ghế ra ngoài cửa, hướng mắt ra phía đường lớn. Bà như thể bất động suốt buổi chiều, mặc cho cơn bão xoáy lông lốc. Gió gào và rít. Mưa như điên dại, như than khóc và quở trách. Tôi dìu mẹ vào giường, thấy rơi ra hai bức thư từ túi áo nhỏ. Bức thư thứ nhất của chị Quỳnh, đề ngày ba mươi tháng chín:

"Mẹ yêu thương, Con gửi mẹ lá thư này trong sự hối hận và tủi hổ. Nhưng con đã bước chân ra đi, không thể trở về với mẹ được nữa, dù con biết mẹ rất thương con. Cuộc sống của vợ chồng con ở đây rất khổ cực, số tiền hàng mang về đã hết. Chúng con ở đây lại không biết làm gì. Con không biết nên nói thế nào để hiểu, con cũng không dám xin mẹ. Nhưng nếu mẹ vẫn còn thương con như ngày xưa, mẹ hãy gửi cho con một ít tiền, chúng con đang cần lắm...".

Tôi giở lá thư thứ hai, đây là lá thư của mẹ. Dường như nó vẫn còn là một trang giấy trắng, ngoài một dòng chữ đầu trang run rẩy: "Quỳnh thương yêu của mẹ...".

HOÀNG LAN ANH

Lời giới thiệu - Truyện ngắn hay TTCN 1999-2002

Tấm gương soi đa chiều

TTO - Truyện ngắn đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần - từ lâu rồi, đã mặc nhiên trở thành một "đặc sản tinh thần" không thể thiếu của bạn đọc khắp nơi. Lần này, những người tuyển chọn lại có dịp gửi đến độc giả yêu văn chương 24 mẩu chuyện đầy ý nghĩa trong Tuyển tập truyện ngắn hay TTCN của bốn năm 1999 - 2002.

Các nhân vật xuất hiện bàng bạc trong từng truyện đều là những hình mẫu sống động. Để khi nhìn vào đấy, người ta chừng như có cơ hội soi rọi lại chính mình, đồng thời khám phá thêm bao cung bậc thăng trầm của đời sống hiện hữu. Tình yêu là đề tài không bao giờ cũ. Tự bản thân nó đã chứa đựng sức hấp dẫn đáng kể.

Ở đây, có những tình yêu thật nhẹ nhàng, đầy chất lãng mạn (Một mùa thu ở Rennes), song lại có mối tình phải bị "dập vùi" trong tai ương bão lũ, trải qua cay đắng, khổ nhọc mới nảy mầm tươi xanh (Sắc tím). Thậm chí, lắm khi nhuốm chút màu sắc triết học (Chín phẩy năm).

Bên cạnh đó, những sắc thái đa dạng với không biết bao nhiêu biến động phức tạp, mâu thuẫn trong chiều sâu nội tâm từ mỗi thành viên của gia đình cũng được "đào xới" tận cùng (Khu vườn bất tận, Thưởng trăng, Ngôi nhà không có đàn ông...). Ngoài ra cũng có không ít câu chuyện khắc họa sắc nét nỗi niềm hoài cổ khôn nguôi và tâm trạng day dứt, trăn trở của những người con Việt xa xứ (Chiếc lá hình giọt lệ, Ông già từ Pusan, Về nhà...).

Cùng với một số cây bút quen thuộc đã "trình làng" ở tập 1 và 2 trước đây như: Lê Văn Thảo, Vũ Hồng, Quế Hương, Bích Ngân, Châu Giang, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần..., chúng ta còn bắt gặp nhiều gương mặt khác: Đoàn Thạch Biền, Phạm Thị Ngọc Liên, Liêm Trinh, Trang Hạ, Bùi Hoàng Anh, Đặng Ngọc Hùng... trong tuyển tập số 3 này.

Cứ thế, 24 tác giả là 24 phong cách thể hiện riêng biệt, đang "thổi hồn" vào mỗi trang văn; đủ sức lôi cuốn độc giả cùng họ trải nghiệm cuộc sống qua lăng kính muôn màu muôn vẻ với mọi hỉ, nộ, ái, ố... vốn dĩ thường trực trong tâm thức mỗi người.

Tủ sách Tuổi Trẻ - NXB Trẻ

Ngôi nhà không có đàn ông

TTO - Tác giả Đinh Thu Hương gửi về Tuổi Trẻ Chủ Nhật truyện ngắn này trước ngày tham dự Hội nghị những người viết văn trẻ VN lần thứ 6. Truyện viết về một thái độ hết sức tỉnh táo, nhưng lẩn khuất phía sau sự lạnh lùng ấy là một nỗi đau nhói lòng, cùng những hậu quả dài lâu.

Nhân vật không hề xuất hiện trong truyện lại đóng vai trò quan trọng nhất. Nếu ông hiểu được điều đó thì có thể câu chuyện này đã không xảy ra...

____________

Nhà có ba chị em gái sàn sàn tuổi nhau, thêm mẹ là bốn, quanh năm dù có vui hay buồn cũng chỉ nghe mỗi tiếng đàn bà. Ba bỏ nhà đi sau khi mẹ sinh con gái út được vài tháng. Ông chê mẹ "không biết đẻ", lấy đó làm lý do để ra đi. Mẹ buồn một thời gian dài nhưng nhờ có cơ quan, bạn bè mẹ lại đứng dậy được, một mình nuôi ba cô con gái khôn lớn. Mẹ không bao giờ nhắc đến ba trước mặt mấy chị em nó, và mấy chị em nó cũng thế - hình như chị em nó sợ mẹ buồn, nhưng nó biết hễ có ai nhắc đến ba là mẹ im lặng, sau đó nén một tiếng thở dài.

Chị cả tên Quyên, là bản sao của mẹ từ vóc dáng, gương mặt đến cả sự khéo léo, dịu dàng. Chị hiền, trong mắt luôn chứa một nỗi buồn u uẩn. Tóc chị dài, đen và đẹp. Gương mặt chị cũng đẹp, nhìn thánh thiện như một thiên thần.

Quỳnh thì khác. Quỳnh thua chị Quyên ba tuổi nhưng từ khuôn mặt đến tính tình khác Quyên đến ngàn lần. Tóc ngắn, ánh mắt lạnh lùng và một dáng vẻ con trai, chị luôn tạo cho mình một vẻ bất cần. Không có ba, Quỳnh gánh vác luôn vai trò người đàn ông trong nhà. Từ sửa điện, sửa ống nước, chữa bàn ghế gãy... đều một tay Quỳnh làm. Mỗi lần chữa xong một thứ bị hỏng Quỳnh lại bảo mẹ: "Sau này con chẳng lấy chồng làm gì, ở vậy với mẹ... hết đời". Mẹ cười: "Để rồi xem..." nhưng trong mắt thoáng một nỗi buồn.

Con gái út - từ khi sinh ra đã phải mang một cái tên con trai: Quân. Hồi bé đi học thường bị thầy cô giáo gọi nhầm, rấm rứt khóc đòi "mẹ đổi tên khác cho con" nhưng mãi rồi cũng thành quen, thỉnh thoảng còn bật cười thích thú về sự nhầm lẫn "cố tình" đó! Quân không đến nỗi ngang tàng như chị Quỳnh song cũng không nhất thiết phải tỏ ra dịu dàng mới được bằng chị Quyên. Nó mang một nửa tính cách của ba, một nửa tính cách của mẹ nhưng lúc nào cũng nhủ thầm: "Con là nỗi buồn của mẹ".

Chị Quyên học sư phạm, ra trường xin về dạy ở một trường ngay gần nhà. Học trò của chị là những đứa trẻ mắt đen lay láy, tay nguệch ngoạc những nét chữ đầu tiên, tâm hồn còn trong trẻo như tờ giấy trắng. Chị yêu bọn trẻ ấy đến nhường nào Quân không hề biết, chỉ thấy mỗi khi về đến nhà câu đầu tiên chị nói với mẹ thường là: "Hôm nay học trò của con...".

Những lúc ấy, chị cười chị nói, đôi mắt sinh động hẳn lên, nhìn chị càng xinh đẹp gấp bội lần. Đã có lúc Quân đứng lặng im ở cửa bếp nhìn mẹ và chị Quyên nấu cơm, chị Quyên líu ríu như con chim non bên cạnh mẹ, Quân thấy lòng mình thật ấm áp.

Quỳnh về, ào ào như một cơn lốc: "... Lại chuyện trẻ con... Sao mà lắm chuyện thế! Chị thích trẻ con sao không cưới đi cho xong... Đẻ một lũ, tha hồ mà khoe"... Quỳnh bĩu môi trêu chọc chị, xong cười một mình, có vẻ khoái chí mặc cho má chị Quyên đang đỏ dần vì ngượng. "Bà này cứ như bọn chíp hôi mới lớn ấy... trêu thế đã đỏ mặt, sau này lấy chồng thì thế nào...", Quỳnh liếc chị Quyên một cái rồi xô ghế đứng dậy, vừa đi vừa nói vọng lại: "Con đi có việc một chút mẹ ạ!". Mẹ nhìn theo, khẽ lắc đầu: "Chị em chúng mày sao mà khác nhau đến vậy...". Quyên lặng thinh, sau bảo: "Kệ nó, mẹ...". Quân ngồi im, cố gắng không thở dài.

Chẳng mấy khi Quân thấy chị Quỳnh cười hay vui vẻ được lâu, cứ năm phút trước cười, năm phút sau lại cau có là chuyện thường. Khuất bóng Quỳnh rồi mẹ mới than thở: "Con ấy... chẳng giống ai...". Quân hiểu mẹ đang nói đến ba, định hỏi điều gì đó nhưng thấy mẹ buồn buồn nên lại thôi, lẳng lặng đi về phòng. Nó không thấy ghét hay giận chị Quỳnh, chỉ nghĩ chị quen với ý nghĩ mình "là" con trai rồi, giờ khó có thể dịu dàng được... Tự nhiên trong đầu lại xuất hiện suy nghĩ lẩn thẩn: "Giá như không có mình, chắc ba không bỏ đi như vậy!".

Một lần Quân đánh bạo hỏi mẹ về ba, mẹ không trả lời, chỉ nói: "Lớn lên một vài tuổi nữa con sẽ hiểu". Chị Quyên về, thấy mắt mẹ hoe hoe đỏ, vội kéo tay nó ra ngoài, giọng ươn ướt: "Từ nay em đừng nói chuyện đó với mẹ nữa nhé!". Tối đó, Quỳnh gằn giọng với nó: "Trẻ con đừng có lắm chuyện! Mày mà còn nhắc đến... ông ấy một lần nữa thì đừng trách tao!". Nhìn vào mắt Quỳnh lúc đó không hiểu sao nó thấy sờ sợ. Giận dữ. Lạnh lùng. Nó không dám tin rằng Quỳnh lại hận ba đến từng ấy. Nó nhìn Quỳnh, không hiểu sao lại gật đầu.

Phong bảo nó: "Dạo này Quân có vẻ buồn...". Nó nhếch mép cười (cười xong, thấy giật mình vì... mình bắt đầu giống Quỳnh quá!). Nó thì lúc nào chẳng thế, buồn hay vui chỉ là cơn gió thoảng qua trên nét mặt chứ đâu làm thay đổi được cả tính cách con người. Phong với nó học chung với nhau từ hồi cấp ba, giờ vẫn chung trường nhưng khác khoa, khác lớp. Phong hiểu nó cần gì và không lúc nào làm nó buồn. Còn nó, nó biết tình cảm của Phong nhưng còn ngại ngần... không nghĩ đến chuyện gì khác. "Mấy hôm rồi toàn gặp chị Quỳnh đi với một anh nào đó, nhìn cũng bụi bụi...". Phong nói thế rồi cười. Nó gật gật đầu, nghĩ bạn chị Quỳnh thì ai chả "bụi bụi", có ai hiền lành thư sinh bao giờ. "Phong là bạn Quân mà cũng bụi bụi đấy thôi...". Nó trả lời Phong vậy và nheo nheo mắt, cười. Đầu đinh, đeo kính cận, lúc nào cũng áo kẻ carô rộng thùng thình, chẳng ai nghĩ Phong là sinh viên kinh tế. Nghe vậy, Phong chỉ cười. Nụ cười có chiếc răng khểnh, thật hiền! Mỗi lần Phong đưa nó về, chị Quyên thường trêu chọc: "Hai thằng đi chơi đừng có đánh nhau nhé!". Phong cũng cười, hài hước không kém: "Quân nó giành hết bạn gái của em rồi chị ạ".

Cứ thế, ngày này qua ngày khác nối đuôi nhau đi ngang qua căn nhà - dẫu buồn hay vui cũng chỉ nghe mỗi tiếng đàn bà. Chị Quyên vẫn bận rộn cả ngày với đám học trò, chị Quỳnh đi cả ngày, tối mới thấy có mặt ở nhà - mà có ở nhà Quỳnh cũng chẳng mấy khi ra khỏi phòng, mình chị hình thành một thế giới riêng biệt. Quân thì cũng chẳng có gì khác trước, nó đi nhiều hơn, mái tóc mỗi ngày một ngắn lại, cảm thấy càng ngày nó càng giống chị Quỳnh... Nhưng vì sao lại thế thì Quân không sao giải thích nổi, đành lúc lắc đầu cho rằng đó là ý thích nhất thời của mình.

Mẹ về hưu, thành ra người nội trợ trong nhà. Cả ngày ba chị em đi hết, mình mẹ lui cui dọn dẹp trong căn nhà rộng thênh thang, Quân thấy "tồi tội sao đó", nhưng rồi... nó cũng chẳng biết làm gì, cứ vùi đầu trong cái vòng quay riêng của mình, khi nhìn lại thì cũng là lúc đồng hồ gõ từng tiếng cuối trong ngày.

Phong hỏi: "Không nghe chị Quỳnh kể về anh "bụi bụi" đó à?". Quân cười, lắc lắc những cọng tóc ngắn theo gió xòa ra trước trán. Quỳnh có kể hay không cũng chẳng có gì quan trọng, bạn của chị con trai nhiều hơn con gái, có khi... đến Quỳnh cũng chẳng còn biết mình yêu ai nữa là. Quân dè dặt hỏi Quỳnh: "Dạo này... chị... hay đi với anh nào vậy?". Quỳnh cười. "Lại nghe thằng Phong mách lẻo chứ gì?... Tao thì lúc nào chả có mấy thằng ở cạnh, đâu riêng gì thằng nào...". Nó cũng cố lấy giọng chua loét: "Bà cứ như một con cáo ấy! Ai làm gì đến bà mà phải khư khư đề phòng...". Nghe trong giọng mình bắt đầu nhuốm phần cay độc, nó im lặng, ánh mắt đầy vẻ hối lỗi nhìn chị. Nhưng Quỳnh chẳng để ý đến điều đó, chỉ nhìn sang rồi lặng lẽ quay về phòng. Hai chị em hình như ngày càng nối dài thêm khoảng cách.

Cuối năm, mẹ tính chuyện cho chị Quyên cưới chồng. "Ngày bằng tuổi mày mẹ sắp có cái Quỳnh, đâu như bây giờ...". Mẹ nói với chị Quyên vậy rồi mỉm cười, khóe mắt ươn ướt.

Mẹ lấy ba năm hăm bốn tuổi, hăm lăm tuổi có chị Quyên. Ba là con trai duy nhất trong gia đình, lại là trưởng họ nên ông bà nội rất coi trọng chuyện cháu trai, cháu gái. Mẹ sinh thêm chị Quỳnh, ba bắt đầu sinh lầm lì cáu bẳn, họ hàng bên nội nhỏ to điều ra tiếng vào. Quân là giọt nước làm tràn ly, từ đó mọi chuyện dường như kết thúc.

Đó là những chuyện mãi sau này Quân mới biết, còn trước đó mẹ và chị Quyên đều giấu, bảo nó còn nhỏ chưa hiểu gì.

Chị Quyên ấp úng: "Tháng trước... ba đến tìm con...". Ánh mắt Quỳnh tóe lửa: "Tìm... tìm làm gì? Không còn chỗ nào cho "ông ấy" đi nữa nên định quay về, bày đặt xin tha thứ à?". Mẹ tát Quỳnh, năm ngón tay hằn rõ trên má nhưng gương mặt mẹ nhăn nhúm lại, ánh mắt thật đau đớn. Quỳnh đứng lên, định đi song mẹ quát: đi là đi khỏi nhà luôn đừng quay về nữa. Chị toan bước đi nhưng nghĩ thế nào đó, quay lại và ngồi phịch xuống ghế, nhìn mẹ bằng đôi mắt trống rỗng.

"Con muốn ba có mặt trong đám cưới của con... Dẫu sao thì đó cũng là ba... mà mẹ...". Chị Quyên nói với mẹ, khẽ khàng và nài nỉ như nói với chính bản thân mình. Mẹ lặng thinh, không trả lời.

Quân cũng chẳng có ý kiến gì nhưng trong lòng trào dâng những cảm xúc lẫn lộn. Nó vừa muốn đứng về phía chị Quyên, lại vừa muốn ủng hộ ý kiến của chị Quỳnh. Nó vừa muốn gặp ba, lại vừa thấy xa lạ... Đơn giản từ lúc sinh ra tới giờ nó mới chỉ nhìn ba qua những tấm ảnh - mà những ngày đó thì đã xa, thật xa rồi...

Quỳnh đứng dậy, đưa tay vuốt vuốt mái tóc ngắn, rành rọt: "Chị muốn cưới thì cứ cưới, còn... có mặt "ông ấy" thì không có mặt tôi", đoạn quay bước bỏ về phòng. Mẹ nhìn theo, không cần giấu một tiếng thở dài. Chị Quyên ôm mặt khóc tấm tức.

x

Một chiều, Quân bước chân vào phòng chị Quỳnh, bắt gặp những trang nhật ký viết dở:

"... Trong mình hình như không còn có cảm giác yêu thương hay thù hận nữa... Mình bắt đầu cảm thấy lo sợ về điều ấy! Từ trước đến nay mình luôn không được sống bằng chính bản thân mình rồi, những ngày sắp tới cũng vậy sao? Ở trong nhà, mình đóng vai trò một người đàn ông lúc nào cũng phải thật mạnh mẽ. Ở ngoài đường thì gồng mình lên, cố tỏ ra cay độc chỉ để... không bao giờ có cảm giác thất bại. Ngay cả khi yêu T. cũng vậy! Biết là đang yêu phiên bản của mình nên không bao giờ dám nghĩ đến những từ chở che, nương tựa. Và biết những người giống nhau quá thì không yêu được nhau, chia tay là điều dễ hiểu, vậy mà sao mình vẫn buồn. Không lẽ mình yêu T. đến vậy à?

Mình không còn thấy cảm giác giận ba hay gì khác. Đó là mình thấy mẹ cứ ủy mị theo chị Quyên nên mới nói cứng thế thôi. Từng ấy năm mẹ giấu mình, giấu Quân về cuộc sống của ba, còn chị Quyên thì mẹ lại chẳng giấu điều gì, chị ấy giống mẹ nhiều quá, chỉ có chị ấy mẹ mới tâm sự được những điều làm mẹ khổ tâm. Sao mẹ lại làm thế hở mẹ?...

Mình chỉ thương con bé Quân. Mình và chị Quyên còn biết mặt ba, còn có những kỷ niệm, còn nó lúc ấy nhỏ tí, có biết gì đâu! Nó không bao giờ nói với mình nó nghĩ những gì, nhưng mình đọc trộm sổ của nó thì mình biết... Lẽ ra nó phải là người tỏ thái độ với ba nhiều nhất chứ, sao lại là mình?... Nó có sự điềm tĩnh của ba. Nó hơn mình ở điều đó! Mình hiểu vậy nên càng tỏ ra bất cần, mình ghét ba đến nhường nào mà không biết rằng càng làm thế mình càng khiến mẹ nghĩ đến ba nhiều hơn. Thật là tệ!

... Không phải mình không muốn ba không có mặt trong đám cưới của chị Quyên, mình còn muốn ba quay về đây với mẹ nữa! Ở gia đình kia ba cũng đâu có gì ngoài mấy đứa con gái và bị đối xử như người lạ qua đường? Nhiều khi nghĩ lẩn thẩn, mình cho rằng ba đang bị "quả báo" và cảm thấy hài lòng với ý nghĩ đó; nhưng nhìn mẹ ngồi một mình bên cửa sổ, lại nghĩ đến cảnh sau này mẹ cô độc một mình... mình không đành lòng...

Chị Quyên đi rồi. Mình và Quân cũng đâu ở mãi với mẹ được! Quân là đứa kín đáo, nó không nói nhưng chắc nó cũng nghĩ như mình. Càng ngày nó càng giống mình, nó làm mình có giảm giác hối hận... Nó cứ tự dằn vặt: "Con là nỗi buồn của mẹ", nhưng thực ra đâu phải lỗi tại nó! Cuộc sống có những điều mà nó chưa hiểu hết, có những điều mà thầy giáo và nhà trường không dạy cho nó, những điều mà mới hai mươi tuổi người ta không thể biết được...

Mình ước gì chị em mình có thể trò chuyện với nhau như ngày xưa. Chị sẽ nói với em những gì chị nghĩ. Về một căn nhà đầy ắp tiếng cười. Về ba. Về mẹ. Chị sẽ được sống thật là mình, được yêu ghét những gì mình yêu ghét. Em không còn phải dằn vặt: "Con là nỗi buồn của mẹ"... Ngày ấy có còn xa nữa không hả Quân?...".

Quân gập sổ vào, nhìn ra ngoài cửa sổ. Ngoài kia, trong màu vàng rợ của nắng có một câu trả lời.

ĐINH THU HƯƠNG

Chín phẩy năm

TTO - Phạm Kim Anh sinh năm 1978, là học viên khóa 6 Trường Viết văn Nguyễn Du. Đã có thâm niên 5 năm cộng tác cùng chương trình "Gặp nhau cuối tuần" ở vai trò biên kịch. Tác giả mong ước sẽ gắn bó với văn chương hơn qua các tác phẩm kịch bản điện ảnh.

Truyện ngắn Chín phẩy năm mang đậm triết lý sâu sắc và biện chứng về cuộc đời: tất thảy đều mang tính tương đối, trong đó tình yêu cũng không là ngoại lệ.

______________

Bà ngoại nó bảo trên đời này chẳng có thứ gì toàn diện hay tuyệt đối cả, chỉ tương đối thôi. Từ thời con gái, bà đọc sách nhiều, biết rộng, bà luôn đúng nên nó tin bà. Bà nó bảo "tương đối" khác với phiên phiến. Người nào phiên phiến là người vô trách nhiệm. Bà dặn: "Chớ có cầu toàn". Nó hỏi bà: "Nếu mọi thứ đều có một thang điểm thì không phải thang điểm mười mà là chín phẩy năm, bà nhỉ?". Bà không nói, chỉ cười. Nó hiểu bà định nói: "Cứ sống đi, con sẽ biết".

Lớn lên nó mới nhận ra bà rất hay triết lý. Nhưng nó thích kiểu triết lý của bà, gần gũi, dễ hiểu. Có lần bà bảo: "Có nhiều việc không nên hỏi vì sao người ta làm mà phải hỏi làm như thế nào. Người ta phải lòng nhau, ai biết được vì sao lại phải lòng". Nói chung nó cũng không hay đặt câu hỏi, chỉ trừ những lúc thật cần thiết và giống như bà, nó chỉ hỏi "như thế nào" chứ không hỏi "vì sao".

Nó ở với bà từ nhỏ, chịu ảnh hưởng nhiều của bà, có thể vì thế nó giống bà hơn giống mẹ. Bà kể: "Mẹ mày một mình một tính, khó nhất nhà". Ngày chị dâu nó mới về, mẹ xét nét từng tí. Nhiều đêm mẹ mất ngủ, thở dài sườn sượt, có khi chỉ vì chị dâu đi qua mặt mẹ mà không cúi thấp lưng hay đặt cái gì mạnh tay trước mặt mẹ. Mẹ kêu với nó: "Mình đi làm dâu, thở còn không dám thở mạnh. Thế mà giờ chúng nó vô tâm vô địa, chẳng hiểu nổi đoảng hay là hỗn". Nó gạt đi: "Mẹ để ý làm gì cho mệt. Con có thấy chị Hằng dám nói hỗn với mẹ câu nào đâu. Bà nói rồi, cái gì cũng tương đối thôi. Cứ "chín phẩy năm" là được mẹ ạ!". Mẹ trợn mắt: "Đừng có trứng khôn hơn vịt. Bà thì chỉ cần "tương đối" nên hai chục năm nay có ở được với mợ mày ngày nào đâu". Nó im. Những lúc ấy tự nhiên nó thấy buồn. Người ta cứ nói: "Giặc bên Ngô...", nhưng nó đâu để ý. Nhà nó có đến ba thế hệ. Bà bảo: "Giỏi là ở chỗ hòa hợp được chứ không ai khen giỏi cãi nhau". Chị Hằng cũng là người tốt. Giá mà mẹ bớt xét nét đi một chút...

Hai mươi tuổi nó bắt đầu yêu. Bà kể: "Ngày xưa các cụ không gọi là yêu mà là phải lòng. Lúc bằng tuổi con, bà đã có bác Thanh, ba năm sau thì có mẹ mày". Mẹ nó chỉ muốn nó học, có ý cản, bà ngăn: "Con trai con gái đến tuổi biết tìm nhau là lẽ tự nhiên. Đã là tự nhiên thì đừng cố làm trái, càng cấm càng không cản được đâu". Bà chỉ dặn nó: "Các cụ gọi là "tìm hiểu" chẳng sai tí nào. Các con còn trẻ, đừng vội, phải "tìm" để "hiểu" đã con ạ". Nó không dám nói gì, chỉ biết khó mà chia sẻ được với ai ngoài bà. Bà hỏi: "Bạn con thế nào?". Nó nói: "Với con thì tốt, bà ạ!". Bà vừa quệt vôi trầu vừa gật đầu: "Ừ, ai cũng có phần khuyết, con phải biết thông cảm. Hợp nhau là được". Nó cười: "Vâng, vẫn "chín phẩy năm" mà bà". Rồi bà lại kể hồi bà sinh bác Thanh, ông đi tối ngày, chỉ ghé qua nhà để xem con trai hay gái rồi đi. Ông vô tâm, bà cũng tủi thân. Nhưng càng sống bà càng hiểu ông thật lòng. Bà ốm, một mình ông nâng giấc. Đến phút hấp hối ông còn lo bà đi sau sẽ đơn độc. Bà bảo: "Phải biết cái gì cần hơn, biết lấy cái tốt nhiều lấp vào chỗ khuyết sẽ dễ sống hơn".

Nghe lời bà, nó cũng nhìn người yêu như ngày xưa bà đã nhìn ông - lấy cái tốt nhiều bù vào phần khuyết. Người yêu rất chiều nó. Nó có những gì mà nó thích. Nó đẹp lòng với bạn bè vì người yêu biết cư xử. Nó có người đưa đón, có người đồng hành đến với những nơi thuộc thế giới mơ mộng của mình. Bạn nó rỉ tai: "Hết ý đấy! Không phải chín phẩy năm mà là mười". Nó tự hào ra mặt. Chúng nó còn bảo người yêu nó "chơi đẹp". Nó không thích hai từ "chơi đẹp", nhất là khi nói đến tình yêu. Nhưng nhìn đám bạn sôi động hẳn lên mỗi khi người yêu nó xuất hiện, đứa nào cũng "tâm phục khẩu phục" và nể nó khéo chọn, nó lại vui. Nó nhủ thầm: "Anh ấy bóng bẩy thế kia mà rất bình dân, thế là quí rồi".

Mẹ lại tiếp tục cằn nhằn về chuyện chị Hằng, nó chẳng dám lên tiếng, len lén leo lên phản ngồi bóp vai cho bà. Nó hỏi: "Có bao giờ bà buồn vì không ở được với vợ chồng cậu Sơn không bà?". Bà cúi xuống, hai mắt chớp liên hồi, nhưng bà bảo: "Bà buồn làm gì. Vợ chồng cậu ấy khó khăn, mợ Liên phải bươn chải ngoài chợ, đốp chát một tí cũng nên thông cảm. Mợ con đâu phải người xấu. Mợ cũng biết chạy ngược chạy xuôi vì chồng vì con, bà nghèo chả giúp được, chấp mà làm gì". Nó ngừng tay, ôm lấy lưng bà. Nó thương bà quá. Nó biết bà nói dối. Vợ chồng cậu Sơn mấy khi đoái hoài đến bà, mẹ nó có mát mẻ bà cũng gạt đi: "Có trách thì trách con mình trước chứ trách gì con dâu". Hình như bà chưa bao giờ trách ai. Bà bảo đừng hỏi "vì sao" nhưng bà luôn tự lý giải cho mọi người rằng vì thế này nên họ phải thế kia. Nó chợt thấy xấu hổ. Nó học đến năm thứ ba đại học về xã hội nhân văn mà không hiểu nổi điều bà nói mà nó vẫn gọi là "chín phẩy năm" kia lại nhân văn đến thế.

Nó yêu. Một tháng, hai tháng, ba tháng... Mọi việc vẫn diễn ra đều đều, tốt đẹp cả. Nó không phải khóc vì người yêu. Nó vẫn có những gì nó thích, vẫn có người đưa đón, vẫn đẹp mặt với bạn bè. Nhưng dường như có cái gì đó đơn điệu. Nó vẫn tự trấn an mình là không được cầu toàn, ai chả luôn thiếu một cái gì đó và càng không nên hỏi "một cái gì đó" ấy là gì. Nó nghĩ: "Có lẽ sự phẳng lặng đến mức đôi khi hơi đơn điệu này lại chính là sự bình yên".

Nó về nhà đúng lúc bà đang lúi húi lau dọn bàn thờ. Nó nhớ hai ngày nữa là giỗ ông. Nó lại làm cùng bà. Đột nhiên bà hỏi: "Sao bà chưa thấy con đưa bạn về chơi?". Nó giật mình. Bà nói tiếp: "Cũng phải biết cửa biết nhà nhau chứ. Ngày kia giỗ ông, con mời bạn đến ăn cơm". Nó đáp lí nhí: "Dạ, để con nói".

Nó nói với người yêu lời của bà, người yêu chỉ ậm ừ. Nó biết người yêu chưa muốn. Nó không nói nữa. Chưa bao giờ nó hỏi tại sao người yêu không muốn biết nhà nó hay không hỏi về bà. Nhưng lúc này tự nhiên nó chột dạ (lạ thật!). Nó có cảm giác mình như người vừa lùi một bước.

Ngày giỗ ông, người yêu không đến, nó buồn buồn. Bà hỏi: "Có chuyện hả con?". Nó lắc: "Không ạ. Tất cả đều phẳng lặng". Bà nhìn sâu vào mắt nó: "Sự phẳng lặng cũng chỉ tương đối thôi con ạ. Phẳng lặng quá sẽ thành không bình thường". Nó cúi đầu, tự dưng nước dồn lên khóe mắt, nó vội quay ra. Khấn ông xong bà lại ngồi trên phản ăn trầu. Nó lên ngồi cạnh bà, không nói gì. Bà ngẩng lên, bảo: "Làm việc gì cũng nên có một khoảng trống để lùi". Nó giật mình. "Để lùi?". Chẳng lẽ bà đoán trước được điều gì? Bà không nói thêm. Nhưng đây là lần đầu tiên nó thấy mình không chậm hiểu.

Chiều tan học, Dũng đuổi theo dúi cho nó mượn đĩa nhạc mới có cái tên là lạ: Tựa như tình yêu. Người yêu đến đón nó như mọi ngày. Nó chẳng biết người yêu nói những gì trên đường. Đầu nó chỉ có mỗi điều ngộ nghĩnh tựa như tình yêu kia thôi. Xe dừng ở đầu phố. Nó xuống xe. Người yêu nháy mắt với nó rồi lướt đi, tất cả đều quen thuộc.

Nó vẫn yêu. Bốn tháng. Năm tháng. Rồi sáu tháng. Nó đã có đĩa nhạc Tựa như tình yêu của riêng mình. Ngày nào nó cũng nghe. Nó vốn mù tịt về âm nhạc, nó không hiểu được những âm thanh của bản nhạc, chỉ nghe bằng cảm giác và cứ thắc mắc mãi về cái tên. Không lẽ những thứ tình cảm "tựa như tình yêu" là có thật?

Nó ốm. Hóa ra, kết thúc một sự đơn điệu không phải dễ dàng. Bây giờ nhìn lại nó mới tự hỏi: "Mình đã yêu như thế nào?". Nó không trả lời được, chỉ thấy những lần hẹn hò đầu phố, những buổi rong chơi, những bữa tụ tập cùng đám bạn - tất cả, ồn ào có, yên tĩnh có, nhòe đi trong mắt.

Từ hồi có cuộc thi SV đến giờ sao người ta hay gào lên "chín phẩy năm" với "xin cám ơn" đến thế. Mỗi lúc nghe thấy nó lại giật mình. Mà sao nó cũng hay giật mình đến thế? Người nó đầm đìa mồ hôi, bà ngồi bên lấy khăn khô lau cho nó. Bà không trách mắng nó, bà biết hết, bà chỉ buồn. Bà bảo: "Gắng đi con. Việc gì cũng cần có khoảng trống để lùi mà". Nó ngước lên nhìn bà, sụt sùi khóc. Chỉ có bà mới đủ từng trải để hiểu được điều tương đối "chín phẩy năm".

PHẠM KIM ANH

Mỗi người một nỗi cô đơn

Mỗi người một nỗi cô đơn

TTCT - 24 truyện ngắn được tuyển chọn trong Truyện ngắn hay Tuổi Trẻ Chủ Nhật 1999-2002 là 24 lát cắt của những nỗi cô đơn. Từ nỗi cô đơn của một cô bé bị cha mẹ bỏ quên trong cuộc mưu sinh (Thưởng trăng) đến nỗi khắc khoải của ông lão chăn vịt trơ trọi giữa đồng (Cái nhìn khắc khoải).

Từ sự lạc lõng của một người lạc mất nguồn cội (Ông già đến từ Busan) đến cánh cửa lòng mỗi ngày mỗi khép chặt của một người "lạc thời" (Chiếc lá hình giọt lệ) hay một người tốt hiếm gặp (Toàn "hâm")...

Phong vị của những trang văn qua 24 tác giả có đủ độ phong phú riêng biệt để giữ độc giả lại với những tự sự sâu kín, những ngõ ngách tế vi của tình cảm con người. Có câu chuyện được kể chi tiết và đơn giản như ống kính phim truyền hình (Xem tivi), lại có câu chuyện nhuốm màu liêu trai, ma quái (Phiên bản, Nhà tiên tri ảo). Có sắc thái tình yêu từ lãng mạn, ngọt ngào (Một mùa thu ở Rennes) đến đơn phương đau đớn (Chiếc lá hình giọt lệ)...

Đọng lại vẫn là nỗi cô đơn làm chao lòng người đọc, kèm thông điệp về sự thờ ơ. Sự thờ ơ của những người thân với những người thân, sự thờ ơ làm nỗi cô đơn thêm trơ trọi. Đọc Ám ảnh dòng sông sẽ biết việc mở một cánh cửa lòng tưởng như khép chặt không khó như người ta tưởng, đôi khi chỉ cần một bước chân.

Ở một nơi không có đêm cho người ta thấm cảm giác dằn vặt và tiếc xót khi biết mình đã bỏ qua những cơ hội để được quan tâm, chăm sóc người thương... Dù yêu thương vẫn đong đầy, nhưng những ngần ngại với người quá gần gũi, những lần lữa với người tưởng như sẽ còn chờ đợi ta vĩnh viễn đã trở thành những rào cản không thể vượt qua, biến mỗi người thành mỗi ốc đảo, và đôi khi để lại những ân hận muộn màng...

24 truyện ngắn - của các tác giả khá quen thuộc với bạn đọc Tuổi Trẻ Cuối Tuần (Lê Văn Thảo, Đoàn Thạch Biền, Vũ Hồng, Quế Hương, Bích Ngân, Phạm Thị Ngọc Liên, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần, Dương Thụy, Nguyễn Thị Châu Giang, Liêm Trinh, Trang Hạ, Trương Thị Thanh Hiền, Đinh Thu Hương...) - với nhiều hơn thế những nỗi cô đơn được bộc bạch trong tuyển tập lần này đủ để giúp người đọc nghe lòng mình rưng rưng hơn khi nghĩ đến những người thân; và khi gấp sách lại, người ta muốn làm một điều gì đó bày tỏ lòng yêu thương, vượt qua những e ngại thường ngày...

PHẠM VŨ

Chiếc lá hình giọt lệ

TTO - Mối tình vô vọng thuở hoa niên. Tình yêu hoài cổ của một Việt kiều xa xứ dành cho cô gái lỡ thì. Chút hương vị Tết xưa còn sót lại. Tất cả đan quyện vào nhau tạo nên một câu chuyện cảm động đủ làm ta cay cả khóe mắt...

_________________

Suốt thời niên thiếu, tôi nghiện hương vị tết phả ra từ căn bếp chị Thời. Hương vị ấy ăn sâu, bám mãi trong lòng tôi, dai dẳng, da diết mỗi độ xuân về.

Sau tiết đại hàn, khi mưa chỉ còn lất phất, lâm thâm và rét đã đằm đi, dịu lại, cây mai vàng trảy lá sớm của chú Tâm lác đác vài nụ chúm chím, chị Thời bắt tay chuẩn bị tết. Từ bên ni hàng rào chè tàu ngăn hai nhà, tôi thấy chị tất bật đi về với những giỏ xách nặng trĩu. Mẹ nhìn qua lẩm bẩm: "Cái con giỏi thiệt! Tau mà thằng Tâm..." - Mẹ bỏ lửng câu nói nhìn chú Tâm ngồi thẫn thờ ngắm nắng, lắc đầu.

"Mai nắng to không anh Tâm?" - chị Thời nhìn chú, hỏi qua rào. Chú Tâm nhìn trời ngâm nga: "Trời mưa thì mặc trời mưa. Tôi phơi dưa món... trời chừa tôi ra!". Chị tủm tỉm cười bắt tay làm dưa món. Nhìn chị tỉ mỉ tỉa dưa mà không nỡ ăn. Ngọn lá, cây thông, hoa đào, trái lựu bằng đu đủ đẹp như ngọc; những con thú bằng cà rốt, su hào xinh như đồ chơi. Có một năm chú Tâm dự báo thời tiết không đúng, chị phơi dưa vào ngày không được nắng. Dưa thiu, chị ỉu xìu, còn chú Tâm quạt lửa than cho chị ngồi hong đến nửa đêm. Cái thẩu dưa món không trắng ấy chị gọi là "dưa - nắng - ốm!".

Cái tết đối với tôi không chỉ ba ngày. Nó dài ra theo những ngày làm mứt và ăn mứt nếm của chị. Đi học về là tôi chạy bổ sang nhà chị. Bao giờ cũng thấy chị ngồi trong bếp gọt me, gọt quất, gọt gừng, rim mứt... tóc rối ren, người sực nức mùi mứt ngào ngạt. Học xong, tôi lại qua ngồi canh mứt với chị, đợi chị cho ăn mứt vét. Đối với tôi, không có thứ mứt nào trên đời ngon lạ ngon lùng như thế. Tinh túy cả thau mứt dường như lắng lại trong những vụn đường, vụn mứt dưới đáy thau. Vụn dừa béo ngậy. Vụn gừng nồng nàn. Vụn khoai bùi đậm mê người. Vụn sen ngon đến bối rối... Có khi đợi không nổi, tôi ngủ gục trên vai chị. Cả trong giấc ngủ tôi vẫn cảm nhận được sự ấm áp, thơm tho không bờ bến vây bọc lấy mình trong đêm cuối đông.

Chú út Tâm của tôi mắc bệnh thất tình từ khi chị Hà, người yêu chú, đột ngột đi lấy chồng. Chú hay lẩm bẩm đọc thơ hoặc ngồi im như bụt. Nhưng chớ dại chọc chú nói. Chú sẽ tuôn ra như nước chảy miên man câu chuyện tình đầy ắp ký ức chú đến lần thứ một ngàn lẻ một. Chỉ có một người lắng nghe lần thứ một ngàn lẻ một chuyện tình của chú mà không trêu chọc, đó là chị Thời.

Nhà chị Thời có ba cô con gái. Chị là con đầu, không đẹp nhưng lại có mái tóc còn đẹp còn hơn tóc người mẫu quảng cáo dầu gội đầu. Tôi thích nhìn chị mặc áo lụa, túm hờ hai lọn tóc mái bằng chiếc nơ nhung đen đằng sau. Nghe nói hồi đi học có nhiều người "chết đuối" trên suối tóc chị nhưng không hiểu sao chị vẫn chưa có chồng. Mái tóc ấy luôn gội bằng bồ kết, hong khô bằng gió trời, ngan ngát mùi hương bưởi, hương nhu, óng ả, mềm mại, dìu dịu bay bay đến say lòng. Tôi hay nhìn chị hong tóc qua bờ rào. Cả chú Tâm cũng nhìn, nhưng khi tôi hỏi chú có đẹp không thì chú lại lạc đề về một mái tóc khác. Rồi không hiểu vì cớ gì chị cắt phăng mái tóc dài đẹp nhất xứ Huế. Tôi tiếc ngẩn ngơ, nhặt chiếc nơ nhung đen chị quẳng ép vào cuốn từ điển chẳng biết để làm gì. Tết năm ấy, tôi không còn được ngủ gục trên mớ tóc dài ngan ngát hương mứt của chị nữa. Năm ấy vụn mứt đượm mùi khét đắng.

Mẹ rủ chị Thời lên chùa Linh Mụ cúng giải lời thề cho chú Tâm vì bệnh chú mỗi ngày một nặng. Chú cứ lang thang dọc đường Lê Lợi để đón chị Hà tan trường dù chị Hà đã theo chồng tận đẩu đầu đâu. Những cặp tình nhân ở Huế không mấy ai chọn chùa Linh Mụ làm chứng cho sự thề nguyền vì sợ nữ thần áo đỏ của chùa nổi cơn ghen giáng xuống bất hạnh. Thế mà chú và chị Hà lên chùa học thi, dại dột thề nguyền chi nơi đó... Rồi không phải nữ thần giải lời thề mà chính chị Hà về lôi chú ra khỏi cơn mê hoang tưởng về một mối tình vĩnh cửu. Tôi không nhận ra chị vì chị như một quí bà, béo ra, đầy trang sức và son phấn. Chị thương hại nhìn chú Tâm gầy gò, xơ xác, lầm bầm đọc những câu thơ dành cho chị và chợt rùng mình vì không gắn kết số phận với một người như thế. Chú Tâm dường như tỉnh lại bởi cái rùng mình của người chú đã yêu điên dại cả tuổi thanh xuân. Chiều ấy, những bài thơ tình chép bằng mực tím lả tả thả bay trong gió. Tôi tiếc chạy theo lượm đem cho chị Thời. Chị ngồi đọc, chậm rãi như uống từng giọt trong bóng hoàng hôn.

Hai cô em song sinh của chị Thời, thua chị mười tuổi, học cùng lớp với tôi hoàn toàn trái ngược với chị như nước và lửa. Hai đứa giống nhau như đúc, đẹp đến phát sợ, nổi tiếng từ ngày còn mặc áo đầm đi học mẫu giáo qua các kỳ thi bé khỏe, bé đẹp, hoa hậu nhí... Một đứa mặc đầm vàng, một đứa đầm xanh để dễ phân biệt. Hai sắc màu ấy trở thành tên thường gọi của chúng - con Vàng, con Xanh. Con Vàng dễ ghét lại ngồi gần tôi. Hễ tôi chạm vào cái áo đầm xòe to như cái hoa hướng dương của hắn thế nào cũng bị hắn véo. Có cái gì khoe, hắn cướp ngay. Nắm đấm chưa chạm vào người, hắn đã bù lu bù loa nằm vạ. Con Xanh hiền hơn, dẫu vẫn khuôn mặt búp bê giống hệt con Vàng. Tôi và hắn hay chơi trò nấu ăn, trò vợ chồng. Cơm nấu trong cái nồi đất nhỏ xíu, chưa kịp xới ra những cái chén bằng lá mít đã bị con Vàng ném đá bể nồi. Con diều cắt dán cả tuần chưa kịp thỏa khao khát trời xanh đã bị hắn xé toang rồi lấy chân giẫm lên. Tôi nắm áo bắt đền, hắn nắm tóc tôi tru tréo. Tôi gọi chú Tâm. Hắn gọi chị Thời. Kết cục mỗi đứa bị đét vào mông một roi mới yên chuyện.

Tôi càng lớn, chị Thời càng làm mứt tết ít đi. Bánh hộp, kẹo hộp, mứt công nghiệp ê hề ra đó, vừa đẹp vừa rẻ, chỉ cần một giờ ra chợ là có ngay cái tết nên chẳng mấy ai bỏ cả chục ngày dài để làm như chị ngày ấy. Có làm cũng chẳng mấy ai ăn. Mốt mứt đã tàn lụi. Món mặn và đồ nhắm lên ngôi. Đi nhà nào cũng thấy giò chả, nem tré, thịt nguội, đồ nhắm đưa cay. Tôi đi học xa về, sà vào bếp chị. Ông Táo về trời mấy hôm rồi mà bếp vẫn lạnh tanh, chỉ mấy thẩu đồ chua trên kệ, chị bảo nhà không cho làm. Bạn con Vàng, con Xanh thì nhấm nháp kẹo sôcôla, hạt điều. Bạn bố thì thưởng thức đồ nhắm nguội mua sẵn. Mứt ế phải đem cho bọn con nít nghèo trong xóm. Không có cái bếp sực nức mùi mứt của chị Thời, hương vị tết đối với tôi bỗng nhạt hẳn. Tôi bỏ đi chợ tết với bạn gái. Cô ấy không biết làm mứt và cũng không cần biết, chỉ mặc thật đẹp ra phố, dạo qua hàng mứt bánh nhón nếm và chọn mỗi thứ một ít. Thế mà hồi nhỏ tôi bảo với chị Thời lớn lên em chỉ lấy cô nào làm mứt ngon như chị.

Tết năm nay về nhà, tôi lại thấy bếp chị rộn ràng. Những trái me dầm đẹp như ngọc xúm xít nhau trong thẩu. Những trái quất rim vàng óng gối đầu lên nhau. Rồi mứt hạt sen đài các, mứt khoai dân dã, mứt khế như cô bé lọ lem mà tôi mê mẩn cũng có mặt. Trên lò than âm ỉ nóng lại là thau mứt dẻo rối lòng rối dạ bởi sự hòa quyện màu sắc, hương vị cay chua ngọt đắng như đời... Người chị lại sực nức mùi mứt, ấm nồng hơi lửa, má đỏ hồng, tóc rối ren... Chị giải thích năm nay có khách xa về ăn tết. Con Xanh lấy chồng ở nước ngoài về thăm nhà sẽ đem theo một ông Việt kiều về giới thiệu cho con Vàng. Vả lại có em và anh Tâm về... - Chị nhìn tôi rồi nhìn ra cửa, ánh mắt đợi mong. Tỉnh giấc mộng tình, chú Tâm cầm cái bằng tốt nghiệp trường sư phạm tình nguyện về nơi cuối đất làm thầy giáo ở đất rừng U Minh. Chú hẹn năm nay về ăn tết.

Con Xanh trở về đúng lúc chị Thời vừa hoàn thành món bánh bó mứt. Tôi đứng nhìn chị trộn các loại mứt quất, gừng, cam, bí... đã cắt mỏng vào chảo đường bột đánh nhuyễn trên bếp, sau đó bưng cả chảo trút lên cái mâm rải sẵn bột nếp khô, lấy tay nắn thành đòn dài. Con Xanh lao vào bếp, hôn tới tấp lên đôi má dính bột nếp của chị Thời, rên lên: "Em nhớ nhất cái bếp của chị!". Nó quay qua tôi hôn đánh chụt vào trán "ông chồng thời thơ ấu" rồi ngắt đại một miếng bánh trên mâm cho vào miệng nhai ngấu nghiến như kẻ đói khát hương nhà. Nó vẫn như ngày nào, đẹp rực rỡ và không để cho người khác yên.

Con Vàng thất vọng vì ông Việt kiều con Xanh dẫn về đã già nhưng con Xanh bảo chỉ hơn chồng nó năm tuổi. Nhiều lắm là như bài hát "Năm anh hai mươi, em mới sinh ra đời. Ngày anh bốn mươi, em vừa tròn đôi mươi...".

Đó là một kẻ tha hương bị lưu đày trong nỗi nhớ quay quắt trở lại quê nhà thì đúng hơn. Con Vàng không hợp gu với ông Việt kiều đẫm hương đồng nội này. Những bộ áo váy cực kỳ thời trang phô thân thể son trẻ của nó không tác dụng. Vẻ đẹp từng quyến rũ bao hội đồng chấm thi thời trang, sắc đẹp từ bé đến giờ không lọt qua cửa sổ tâm hồn của người đàn ông đang là đối tượng săn đuổi của nó. Ông ta thích lang thang một mình theo những lối mòn của ký ức để tìm lại thời gian đã mất hơn là đi nhảy nhót với nó. Ông ta mê mải nhặt những từ cổ lỗ sĩ, quê bỏ xừ của các mụ nhà quê, các gánh bún bò, cơm hến hơn là ngôn ngữ thời thượng của nó. Một lần nghe chị Thời mắng yêu tôi "ăn như thúng lủng khu" ông hớn hở nhặt ngay như nhặt được cục vàng, cám ơn chị rối rít làm chị ngỡ ngàng. ông bảo hồi nhỏ ông bị mạ ông mắng như rứa khi ăn một lần ba tô cơm hến. Nghe lại nhớ quá! Nhà chị Thời mời đi ăn cơm vua ở khách sạn Hương giang, ông lại xin ăn một bữa cơm dân tại gia. Chị Thời phụ trách trong bóng tối bữa cơm ấy để con Vàng được là tác giả ngoài ánh sáng. Cá bống thệ kho tiêu kiểu Huế cứng ngắc, cong vòng, canh rau dền nấu tôm, chột nưa kho, thịt phay chấm tôm chua kèm đĩa chuối chát, vả, khế, rau thơm trình bày đẹp như một tác phẩm nghệ thuật và chè khoai tía tráng miệng. Bữa cơm nhà bình thường ấy đem lại kết quả mỹ mãn. Ông Việt kiều ăn như mở toang cảm giác đón nhận hương vị, ăn chầm chậm như ngậm mà nghe mùi vị nhung nhớ trào về rồi thở hắt ra lời khen rất Huế: "Răng mà ngon dễ sợ!". Ông nhấp đắm say từng ngụm nước chè tươi thơm nức mùi gừng và bảo hai mươi năm rồi ông mới lại được ăn một bữa cơm đượm khí vị quê nhà như thế. Mẹ con Vàng được dịp khoe hắn nấu nướng giỏi, coi bộ chịu chơi vậy chứ nếu cần cũng đảm đang lắm. Còn con Vàng bảo chuyện đó đối với hắn dễ dàng như ngồi sơn móng tay.

Hai mươi tám tết, chú Tâm vẫn chưa về. Tôi phải thay chú canh nồi bánh tét. Nhà chị Thời cũng nấu. Hai bếp lửa chụm đầu nhau bên rào. Cây mai nở rộ, toàn thân như tỏa ánh vàng trong bóng đêm, phả một mùi hương nhớ. Chị Thời kể cho tôi hồi bé chị hay trèo lên cây mai mở to mắt không chớp để rình coi mai nở. Thế nhưng chẳng bao giờ chị chộp được khoảnh khắc ấy vì chú Tâm ác lắm cứ nắm áo kéo chị xuống. Có lần chị kéo bị té gãy chân phải bó bột, còn chú chuộc lỗi bằng cách cõng chị đi chơi cả tháng... Chị phụ mẹ làm mứt bán tết từ thuở mười ba. Khi mẹ đẻ con Xanh, con Vàng chị làm một mình, tay sứt sẹo, nứt ra vì gọt me, gọt quất... Chú Tâm thấy tội hay qua gọt giùm. Chú gọt me giỏi vì thế... Chị ngồi bó gối, giấu ánh mắt trong ngọn lửa bập bùng, gương mặt buồn và kiêu hãnh có phần héo hon bởi năm tháng, mái tóc để dài lại gói trong chiếc kẹp cứng ngắc. Tôi lục tung đống sách cũ tìm chiếc nơ nhung đen bị gián gặm lỗ chỗ đưa cho chị. Chị cài lên tóc, cười mà mắt như có nước.

Chú Tâm về vào chiều 30 tết. Nghe tiếng reo mừng chú bên kia rào, chị Thời luống cuống suýt đổ cả nồi chè đậu xanh đánh nấu cúng giao thừa. Mặt chị tái đi nhưng đôi mắt ngời ngợi một niềm vui không tả nổi, xôn xao chảy tràn trên khuôn mặt vốn trầm tĩnh của chị. Môi chị run run nửa cười nửa mếu. Dưới thứ ánh sáng kỳ diệu của tình yêu mãnh liệt mà câm nín ấy trông chị đẹp lạ lùng. Tôi và chị chạy ào ra cửa bếp. Chị nhìn sững chú Tâm, còn tôi nhìn sững một bóng người đứng dưới cội hoàng mai. Đó là bóng một cô gái. Trái tim tôi bỗng thắt lại bởi một linh cảm vừa ào tới. Tôi quay lại nhìn chị Thời như cố khắc ghi thoáng hạnh phúc mong manh rờ rỡ trên mặt chị trước khi nó lịm tắt.

Mứt của chị Thời năm nay không ế. Chị bỏ bùa trong những món mứt khiến ông Việt kiều quanh quẩn mãi bên nhà con Vàng nhấm nháp mứt với nước trà. Hắn khoe cá sắp cắn câu vì ổng tưởng hắn làm. Ông khen món ăn nhà nó đậm hương vị quê hương, có mùi văn hóa, ăn ngậm mà nghe. "Kiểu này lấy ổng, tao phải đem theo bà Lạc Thời!" - con Vàng cười. "Rồi ổng biết mi không nấu được nước sôi thì mần răng?". "Dễ ợt. Qua đó không hợp thì ly dị. Khối người rứa. Chết ai mô!". Tôi ngắm đôi môi tô son tím lịm mốt Hàn Quốc của nó đang dẩu ra và không hiểu tại sao nó là em ruột chị Thời.

Ông Việt kiều chính thức ngỏ lời với nhà chị Thời, nhưng không phải xin cưới con Vàng mà là chị Thời. Đúng là một quả bom nổ! Mẹ chị ngồi sững không biết nói thế nào. Con nào cũng là con. Con Vàng há hốc miệng rồi nanh nọc: "Tân thời không ưa, lại ưa lạc thời. Dắt nhau về thế kỷ 19 mà sống, đây đi lấy chồng Hồng Kông!". Nó nguýt ông Việt kiều cổ lỗ sĩ một cái tưởng như cắt ông ta làm mấy mảnh rồi rú xe ra khỏi cổng, chấm dứt những ngày đóng vai yểu điệu thục nữ, công dung ngôn hạnh.

Tôi không ngạc nhiên. Tôi không tin một người sâu nặng với kỷ niệm và quá khứ như ông Việt kiều lại chọn một tạo vật xinh đẹp phù phiếm như con Vàng thay vì một người lặng hơn nước, thấp hơn cỏ nhưng sức sống tâm hồn vẫn trào dâng ngay cả khi ngồi im lặng.

Chị Thời không nhận lời cầu hôn lại được xem là quả bom nổ thứ hai trong vòng một ngày. Không đẹp, lớn tuổi, coi như thuộc loại ế thế mà chị từ chối không luyến tiếc cơ may vừa có chồng giàu vừa được xuất ngoại. Mặc cha mẹ và con Xanh phân tích hơn thiệt, cả chú Tâm cũng khuyên vào, chị ngồi im, lặng lẽ ngó qua bên kia hàng chè tàu, nơi trước kia chú Tâm thường thờ thẫn đi lui tới lẩm bẩm mấy câu thơ:

"Tình thơ dại ai ngờ sâu nặng thế.

Năm tháng đi mà tình yêu vẫn ở

Mai cho dù tóc trắng với ngàn lau" (*)

Nắng hoàng mai vừa tắt, chú Tâm đã bàn chuyện hôn nhân của chú. Cô kia cũng dạy học, mồ côi, neo đơn nên cưới hỏi một lần cho tiện, sau đó dắt nhau vào lập nghiệp ở quê người. Chú bảo trong đó dân tình ấm áp, đơn giản, dễ sống lắm. Chú đã tìm lại niềm bình an. Mấy mâm cỗ cưới chú trông cậy vào đôi tay khéo léo đảm đang của chị dâu (tức là mẹ tôi) và cô bạn thân từ thuở thơ ấu. Chị Thời nhận lời và bắt tay vào việc chuẩn bị. Tôi hay xót xa nhìn trộm chị nhưng chỉ gặp một chị Thời lặng lẽ, khép kín không thể thấm qua. Ngày cưới càng kề, chị càng bận rộn như thể đám cưới chị. Ánh đèn trong bếp vẫn đỏ cho đến nửa đêm. Chị thức làm bánh gatô, bánh phu thê... Thấy chị ngồi tỉ mỉ dưa chua, tôi bỗng cáu:

- Kệ họ! Đi ngủ cho khỏe!

- Em cưới vợ, chị còn thức hơn thế nữa.

- Em không khiến. Dọn nhà hàng. Đã rứa... còn hành người ta!

- Làm việc luôn tay... khỏi nghĩ trong đầu.

Chị cười ngu ngơ rồi lại cắm cúi tỉa dưa. Chẳng biết làm gì, tôi xúm vào giúp chị cho mau xong việc. Chị vẫn tỉ mỉ như ngày nào làm dưa món. Tôi chợt thấy trên tay chị rơi xuống những chiếc lá mất cuống, thiếu răng cưa, thuôn thuôn hình giọt lệ, những giọt lệ đu đủ đẹp như ngọc, những giọt lệ cà rốt hồng tươi như máu. Tôi nhận ra chị Thời đang khóc.

QUẾ HƯƠNG

_____________

(*): Thơ Võ Quê (trong bài Nơi con sông)

Toàn "hâm"

TTO - Bùi Hoàng Anh chỉ là một tên gọi trong số rất nhiều bút danh khác (như: Phan Kiên, Khánh Sơn, Phan Hoàng...) của Phạm Ngọc Luận. Xuất thân từ vai trò của một kỹ sư khai thác máy tàu biển và kỹ sư kinh tế; và hiện làm việc tại Công ty Busaco, Vũng Tàu, song anh cũng rất bén duyên văn chương, viết lách.

Nguyên là phóng viên báo Bà Rịa - Vũng Tàu, Tạp chí Việt Nam. Đã có gần 120 phóng sự, 200 tạp văn đăng trên các báo Lao Động, Sài Gòn Giải Phóng, An Ninh Thế Giới, Phụ Nữ TP.HCM, Tuổi Trẻ...

Sự thật nghiệt ngã về con đường lập nghiệp của một thanh niên trẻ có tri thức, hoài bão, có tấm lòng trong sáng, kiên định... nhưng vẫn luôn bị "bầm dập" với cuộc đời đã làm nhói lòng bất cứ ai có lương tri. Niềm tin vào sự công bằng và lẽ phải sẽ thắng thế mãi tồn tại, nếu trên cõi đời này còn xuất hiện nhiều, thật nhiều những con người chính trực, nghĩa khí như Toàn "hâm".

Nhiều người bảo Toàn hâm. Qua cách ăn nói có duyên của hắn tôi nghĩ điều tồi tệ này chưa hẳn đã xảy ra. Là bạn thân nên tôi không ngần ngại hỏi hắn: "Người ta bảo mày hâm, mày nghĩ sao?". Đưa tay vuốt mớ tóc xoăn lòa xòa trên trán, hắn thở dài: "Có thể là như vậy...".

Sinh ra và lớn lên ở vùng trung du nghèo khó xứ Nghệ, tuổi thơ của Toàn chịu không ít cực nhọc. Nhà đông con, cha mất sớm, hắn lại là anh cả nên cái nghèo cái khó tất tần tật đổ lên đầu hắn. Tốt nghiệp cấp II hắn nói với mẹ: "Con nghỉ học đi buôn kiếm tiền giúp mẹ nuôi các em ăn học". Mẹ hắn nài nỉ: "Sướng khổ gì mẹ cũng nuôi được các con hết cấp III. Đứa nào giỏi lên được đại học mẹ cũng ráng". Thế rồi hắn cũng được học cấp III như bạn bè cùng trang lứa. Chỉ có điều nhà hắn quá nghèo nên hắn luôn phải sống khép mình. Ba năm học cấp III hắn chỉ có hai bộ quần áo. Từ nhà đến trường hắn phải lội bộ trên 10km. Vào mùa mưa, về đến nhà là hắn phải giặt vội vàng áo quần để hơ lên ngọn lửa bếp củi cho kịp ngày mai mặc tiếp nên người hắn lúc nào cũng hôi mùi khói. Bạn bè chê hắn hôi, hắn bỏ ngoài tai để lo chuyện học hành. Và chuyện ấy thì khỏi chê. Năm nào hắn cũng rinh về cho nhà trường vài ba giải cấp tỉnh, cấp quốc gia, không toán thì lý hoặc hóa.

Mẹ hắn là người phụ nữ tần tảo nhất thế gian. Đó là điều tự hào của hắn và lũ em khi nhắc về người mẹ quá cố của mình. Ngày nào cũng như ngày nào, mẹ hắn dậy từ lúc 4 giờ sáng và chỉ lên giường khi lũ con đã thuộc bài, tắt hết đèn và chui vào màn. Dù đói khổ thế nào bà cũng ráng kiếm cho con chút lót dạ vào ban sáng, khi thì nắm ngô rang, khi thì củ sắn luộc hoặc chỉ là dăm bảy muỗng cơm chiên. Chia phần cho các con xong, bà khẽ nhón tay lấy chút thừa cho vào miệng của mình và coi như xong bữa. Kể lại cho tôi câu chuyện cảm động này mắt hắn nhòe ướt. Hắn ước: "Giá chi bà còn sống đến bây giờ, dù cuộc sống còn khó khăn anh em tao cũng chiều bà hết lòng". Hắn kể với tôi những điều gan ruột... Đó là suất ăn sáng tội nghiệp nhất kéo dài suốt 30 năm làm mẹ của bà, một phụ nữ nghèo suốt cuộc đời chưa có bộ áo quần lành lặn. Cho đến khi nhắm mắt xuôi tay gia sản của bà cũng chẳng có gì hơn ngoài ngôi nhà tranh vách đất và năm đứa con ngoan đã lần lượt bước qua giảng đường đại học...

Hắn tiếp tục nói với tôi trong nước mắt: mỗi sáng, xong công việc chia cơm cho các con, mẹ hắn kêu chúng dậy học bài và quày quả đi chợ. Thường bà đi chợ xa mua các loại nông sản về bán chợ gần. Bà không cần lãi nhiều, nói đúng hơn là việc bán buôn của bà chỉ lãi ở những thứ mà người ta không thèm mua đến. Một mớ khoai, mớ sắn bà chỉ cần lãi ở những củ sứt mẻ. Một mớ chè xanh bà chỉ cần lãi ở những lá rụng khỏi cành... Thấy con thèm đến nhỏ dãi các thứ hoa quả, bà mắng: "Mẹ bảo không là không. Tụi bay ăn mai lỗ lấy tiền đâu tao đi chợ tiếp". Hắn bảo với tôi: "Đói quá đâm hư. Nhiều bữa mấy thằng em rủ nhau ăn vụng hàng của mẹ. Mẹ biết nhưng không nói gì mà chỉ vào buồng gạt nước mắt". Thương mẹ, hắn kêu lũ em ra hè nhà và đe: "Lần sau tụi bay còn lén ăn hàng chợ của mẹ, tao lôi ra bờ sông nhận chìm hết cả lũ bây giờ". Mẹ nhắc hắn: "Con đừng rủa các em mà mắc tội. Chỉ tại mẹ quá nghèo mới ra nông nỗi".

Hắn nói với tôi rằng ngày ấy hắn chỉ mơ ước làm sao sau này có thật nhiều tiền để đền đáp công lao dưỡng dục sinh thành và lo liệu cho các em. Tất nhiên đồng tiền mà hắn kiếm được phải là những đồng tiền sạch, do sức lực của hắn làm ra. Nghề hàng hải có thu nhập cao, lại được đi đây đi đó làm hắn chết mê chết mệt... Rốt cuộc hắn đỗ á khoa ngành khai thác máy tàu biển Trường đại học Hàng hải Hải Phòng. Những năm ngồi trên ghế giảng đường hắn biết mình đã nhầm bởi gia cảnh như hắn ra trường làm sao xin được việc làm. Rồi linh tính đó cũng thành sự thật khi hắn cầm trong tay mảnh bằng tốt nghiệp loại khá và vác hồ sơ đi xin việc khắp nơi mà chẳng nơi nào ngó tới. Lúc này thì thằng Hòa, em trai kế của hắn, đậu Đại học Y Hà Nội. Để có tiền phụ giúp em ăn học, hắn trở thành con buôn trên tuyến đường sắt Vinh - Hà Nội - Hải Phòng. Thời bao cấp, buôn bán khó khăn, hắn là kẻ buôn chuyến nên thuế khá dày. Nhiều lần hắn bị công an bắt, chán ngán quá hắn chuyển sang nghề sửa xe đạp, xe máy. Vốn không có, phải đi thuê mặt bằng, hắn lại luôn luôn bị chủ nhà tăng giá và đòi lấy lại mặt bằng... Có lần ức quá hắn chửi và đánh lại chủ nhà. Công an phường bắt giam hắn một ngày một đêm và tịch thu phương tiện hành nghề. Đến lượt thằng Hải, em thứ ba của hắn, đỗ Đại học Sư phạm Vinh, hắn viết thư cho thằng Hòa: "Việc anh lo cho chú mày tạm ổn. Từ nay về sau chú mày tự bươn chải làm sao vừa nuôi bản thân vừa phụ nuôi em...".

Một người cậu họ lúc đó là phó giám đốc một ngân hàng thương mại ở Hà Nội hứa giúp hắn. Thấy đứa cháu họ xa lắc xa lơ đưa hồ sơ đến nhà xin việc, bà mợ hắn mắng chồng xa xả: "Thời buổi này muốn ăn con tôm thì phải thả con tép. Bọn nhà quê không có tiền hơi đâu mà ông lo cho nó". Giọng bà the thé vọng lên từ bếp làm hắn giật nảy mình. Hắn rút bộ hồ sơ từ tay ông cậu và chạy ra ga cho kịp chuyến tàu tối về nhà. Thấy con trở về quá nhanh, vẻ mặt lại không mấy vui, mẹ hắn hỏi: "Có chuyện gì vậy con?". Hắn trả lời: "Chẳng có gì cả. Mình nghèo nhưng không thể hèn. Chắc con phải vào Nam. Nghe bảo trong ấy dễ kiếm việc làm".

Hai tháng sau hắn vào Nam và bốn tháng sau hắn kiếm được việc làm ở một công ty vận tải phà sông biển. Hắn mừng hơn bắt được vàng, nhưng sau chuyến đi biển đầu tiên hắn đã vỡ mộng. Giấc mơ trên ghế giảng đường của hắn biến mất khi hằng ngày hắn chứng kiến cảnh thuyền viên trên tàu ăn cắp hàng, bán mua nhiên liệu. Quá ngao ngán, lên bờ hắn làm đơn xin nghỉ việc rồi kể cho bạn bè nghe. Một số người khuyên hắn "sao mày ngu thế, mày cứ theo họ mà làm. Khôn ngoan làm vài ba vụ có tiền là dông lên bờ". Hắn cười: "Các anh ngu thì có. Dại gì tôi đánh đổi nhân cách của tôi lấy những đồng tiền dơ bẩn ấy". Bạn bè xì xào: "Đúng là đồ hâm!". Và biệt danh Toàn "hâm" ra đời từ đó...

Một lần lên thư viện đọc báo, hắn quen một ông giáo già. Thấy hắn hiền lành, ông giáo già kết bạn. Biết cha hắn là nhà giáo, lại có máu văn chương nên có bữa ông già rủ rê: "Hay là cháu tập tành viết báo". Hắn cười: "Cháu biết gì mà viết". Ông già gợi ý: "Cứ viết những điều cháu nghĩ, cháu bức xúc ắt phải thành công". Vậy là hắn viết, viết như có ai thôi thúc. Những bài báo hắn đưa cho ông giáo già xem rồi cũng lần lượt được đăng trên các báo... Hắn chưa nổi tiếng nhưng người đọc đã bắt đầu nhận ra hắn qua bút danh trên báo. Vậy là hắn đam mê nghề viết và tạm có tiền.

Bảy năm trước hắn trúng giải khuyến khích cuộc thi "Vận hội mới và hoài bão của bạn" do Hội

Liên hiệp thanh niên Việt Nam tổ chức. Tờ báo X nhận hắn vào làm. Có lần hắn tâm sự với tôi: "Đó là những tháng ngày cay đắng nhất trong cuộc đời mình". Trưởng phòng phụ trách hắn là một người đố kỵ. Lão chỉ thích nịnh và ghét tất cả những ai hơn lão. Một phần đam mê, một phần vì cuộc mưu sinh nên hắn viết như chưa bao giờ được viết. Ngoài lĩnh vực được phân công hắn còn làm thơ, phụ trách chuyên tranh, viết truyện ngắn để kiếm tiền nuôi hai đứa út đang là sinh viên đại học. Thấy số lượng phát hành của bào ngày càng giảm nên trong cuộc họp cơ quan hắn đề xuất ban biên tập thay đổi cách làm báo. Hắn cùng một số phóng viên khác xung phong đi viết phóng sự và phóng sự điều tra. Số lượng phát hành báo tăng lên sau mỗi kỳ xuất bản. Hàng loạt phóng sự điều tra của hắn và êkip dần dần vạch ra bộ mặt tham nhũng ở nhiều cơ quan đơn vị. Bút danh của hắn được nhắc đến nhiều hơn. Lão trưởng phòng đâm ghét hắn và nhỏ to với sếp: "Anh muốn yên vị thì nên dẹp thằng Toàn khi hắn chưa vào biên chế".

Một bữa Toàn ôm xấp tư liệu về các cửa hàng xăng dầu trên địa bàn luôn pha dầu lửa vào xăng trình sếp để viết bài điều tra. Sếp bảo với hắn: "Chú bình tĩnh và chấm dứt vụ này. Vụ này liên quan đến nhiều vấn đề. Tuy chú không viết nhưng cơ quan sẵn sàng trả nhuận bút riêng cho chú". Hắn không nói gì rồi về nhà cố viết, âm thầm gửi đi báo khác. Bài được đăng, có kẻ đem lưỡi lê, giáo mác đến dọa giết hắn. Hắn cười: "Các anh giỏi cứ giết. Việc gian lận của các anh trước sau cũng bị vạch mặt". Hai tháng sau hắn bị một kẻ lạ mặt tông xe, nằm viện mất hai tháng. Bạn bè lại có dịp cười hắn hâm... Đợt giảm biên chế đầu tiên có hắn và bốn phóng viên chuyên viết bài điều tra đã được tay trưởng phòng và vị lãnh đạo dàn dựng khá bài bàn: cả năm người đã hết hợp đồng, cơ quan lại đang tiến hành giảm biên chế.

Nhận được quyết định thôi việc, hắn và lũ bạn không vui mà cũng chẳng buồn. Mỗi người một nơi tìm đất sống. Riêng hắn, hắn cứ bám trụ mảnh đất mà mười năm qua hắn đã từng gắn bó. Hắn lặng lẽ làm, lặng lẽ viết. Các báo đặt bài hắn... Bây giờ thì hắn đã bớt khổ. Gánh nặng gia đình đã thôi không đè lên vai hắn nữa. Các em hắn đứa nào cũng đều làm ăn khá và một lòng giúp hắn.

Ngày cưới vợ, hắn chỉ tổ chức năm mâm đơn giản ở nhà hàng nhỏ. Hắn tuyên bố với bạn bè thân hữu: "20 năm còn lại mình biếu trẻ em nghèo". Nói là làm, ba hôm sau ngày cưới hắn dành tiền để mua 300 bộ đồ cho trẻ em nghèo. Người khen hắn hảo tâm, người bảo hắn vẫn là kẻ hâm. Hai năm nay hắn bắt đầu làm việc thiện. Hắn vừa mở một lớp học tình thương cho trẻ em nghèo mà giáo viên đứng lớp là bạn bè đồng môn, tốt nghiệp đại học nhưng ngành nghề dang dở. Vợ hắn vẫn chở con đi học bằng chiếc xe đạp cà tàng và bản thân hắn vẫn cặm cụi trên từng trang bản thảo kiếm những đồng tiền nhuận bút nhỏ nhoi để giúp người khốn khó. Tôi nói với hắn: "Tao sẽ đưa mày lên báo". Hắn cười: "Mày hâm mới đi viết chuyện thằng hâm". Đến lúc này tôi mới hiểu thằng Toàn bạn tôi chẳng hâm một tí nào...

BÙI HOÀNG ANH

Thưởng trăng

TTO - Khi đường phố đã lên đèn, Thanh bắt đầu sốt ruột trước bản báo cáo dài dằng dặc của cô dược sĩ phụ trách các trình dược viên. Bình thường chị thấy cô rất hiểu ý người đối diện. Chỉ cần liếc qua, cô thường biết ngay sếp mình đang vui hay đang bực mình và điều chỉnh ngay thái độ.

Một cô gái thông minh. Nhưng hôm nay cô lại không thông minh tí nào khi lòng Thanh đang như lửa đốt. Thời gian cứ vùn vụt lướt qua cái giờ chị hẹn với con gái mình mà cô cứ huyên thuyên về những điều chị đã biết. Chị không phải là dược sĩ, chỉ là một cô giáo bình thường, nhưng từ khi bỏ nghề chuyển qua kinh doanh dược phẩm đến giờ mọi thứ liên quan đến ngành dược chị đều như người trong cuộc. Cô giáo dạy văn trường trung học năm xưa giờ điều hành một lúc hai công ty kinh doanh dược phẩm thuộc hàng tầm cỡ. Và hiển nhiên chị cũng bận rộn đến nỗi không có thời gian để hưởng thụ những gì mình có, huống chi là quan tâm đến điều gì khác, người nào khác.

Thật ra chị cũng quan tâm đến người khác. Đó là những đối tác làm ăn của chị. Như chiều nay đây, sau khi tống tiễn được cô nhân viên ba hoa đột xuất của mình ra, chị bàng hoàng, không, phải nói là kinh hãi đúng hơn, khi một đoàn người xuất hiện trước cửa phòng chị. Đó là giám đốc một công ty dược cấp tỉnh cùng tùy tùng. Một cuộc gặp mặt không thể chối từ. Thế là chị phải đóng vai bà chủ, huống chi bà chủ và khách lâu nay đã thân quen nhau như người trong nhà, một bữa ăn thân mật diễn ra cũng bình thường như mọi khi không có chi là lạ. Chỉ lạ là bà chủ vốn rất sôi nổi hoạt bát giờ cứ nhấp nha nhấp nhổm lén xem đồng hồ và tâm trí để tận đâu đâu.

Không phải đây là lần đầu tiên chị thất hẹn với con gái và cũng đã lâu rồi chị không còn cảm giác áy náy nữa. Con bé cũng thôi không còn trông đợi hay giận dỗi nữa, khi đã hiểu và cảm thông với công việc của mẹ. Nhưng mức độ hiểu và cảm thông đến cỡ nào thì chị không thể đo lường và cũng không nghĩ đến việc đo lường. Lâu lâu trong những giây phút hiếm hoi hai mẹ con gặp nhau, chị lại thủ thỉ: "Mẹ phải làm việc nhiều để nhà mình sống sung sướng hơn, không còn khổ nữa. Sau này con cũng đỡ vất vả". Nhưng cái cảnh khổ thì đã qua rất xa rồi, còn cái chuyện vất vả của con bé hẳn chẳng bao giờ có vì nó là con gái duy nhất của chị, thừa hưởng một gia tài kếch sù mà trí óc non nớt của nó không thể nào biết được hết giá trị.

Khi thấy buổi tiệc còn lâu mới kết thúc, chị đi ra ngoài điện thoại cho con. Con bé khóc nức nở:

- Mẹ có biết là con đã từ chối đi chơi trung thu với các bạn để ở nhà thưởng trăng với mẹ không? Bây giờ thì đi chơi cũng không mà thưởng trăng cũng không! Con đã bày mọi thứ hết lên sân thượng. Mấy chậu kiểng con đã sắp xếp lại gọn gàng. Đèn trung thu đã được treo. Hoa quỳnh cũng sắp nở. Mẹ bảo trung thu này là đoàn viên. Đoàn viên gì mà kỳ vậy?

- Ba đâu?

- Ba điện nói sẽ về trễ một chút.

Chị tắt máy, thở dài não nuột, tưởng chồng đã có ở nhà với con bé, thế mà vẫn chưa về. Lại công việc níu chân anh ở đâu đó. Đã từng sống những ngày thiếu thốn cực kỳ, nên hai người hiểu chỉ có làm việc, làm việc cật lực mới đưa mình thoát ra khỏi thế giới ảm đạm của những ngày cũ. Thế giới đó đã xếp lại rồi, nhưng thời gian biểu của cả hai càng dày đặc bởi hai từ "công việc". Nó không còn là cách để anh chị thoát ra khỏi cảnh nghèo nữa mà như là một ma lực dẫn dắt mình đi không ngừng nghỉ. Thế nên khi chị mở thêm một công ty lấy tên là Phương Chi, tên con gái chị, ai cũng bảo chi mà khổ thế, dù gì thì ngày cũng chỉ ba bữa cơm, mà là những bữa cơm vội vàng, trái buổi.

Khi chị và chồng còn sống trong khu tập thể giáo viên, hai người chỉ dám mơ một căn nhà nhỏ cho riêng mình. Mơ là mơ vậy thôi, chứ không tưởng tượng nổi khi nào sẽ có nó với đồng lương chưa đủ trang trải cuộc sống gia đình. Sách vở chị chất đầy trong các thùng giấy, đêm nghe mối mọt đục rào rào. Chị tiếc và bảo khi nào có nhà nhất định sẽ xây phòng sách to và đẹp nhất. Mấy lần dời nhà chị đem sách gởi nhà mẹ và quên bẵng đi. Khi ăn tân gia ngôi biệt thự to đùng mà ngày xưa có nằm mơ chị cũng không dám nghĩ tới, con bé Phương Chi đi tung tăng khắp các phòng tìm kiếm rồi ra vẻ thất vọng hỏi: "Phòng đọc sách đâu hả mẹ?". Khi đó chị mới giật mình nhớ đến niềm mơ ước năm xưa của mình và nhớ đến đám sách cũ chị bỏ quên ở nhà mẹ dễ có hàng chục năm trời khi chị quyết tâm lao vào thương trường để làm cuộc đổi đời. Chị đành phải biến một phòng ngủ thành phòng sách. Tủ được đóng, các bức tranh được treo lên, những thùng sách được mang về. Khi đổ sách ra, Phương Chi kinh ngạc khi so sánh giá trị tiền của sách với nền kinh tế eo hẹp của ba mẹ vào thời đó. Nó hỏi: "Lúc đó ba mẹ nghèo đến thế mà sách lại nhiều gấp bao nhiêu lần bây giờ?". Chị biết nó còn quá bé để nói khóe, nghĩa đen nghĩa bóng gì trong câu nói đó, nhưng nó cũng làm chị giật mình, đành phân bua, không phải với nó mà là với chính mình: "Lúc này mẹ không có thời gian để đọc". Đó là sự thật. Và chị cũng không có thời gian để la cà ở các hiệu sách, nhẩn nha chọn lựa. Trớ trêu thay. Khi trước, bước vào hiệu sách là chị thèm khát đến ngẩn người, kiềm chế lắm mới không chi hết những đồng tiền ít ỏi của mình.

Con bé Phương Chi tham gia việc sắp xếp sách vào tủ một cách rất nhiệt tình. Thời gian xếp sách thì ngắn nhưng thời gian để phủi bụi thì nhiều, chưa kể xếp đến cuốn nào cả hai vợ chồng chị lẫn con bé đều lật vài trang để đọc rồi bị cuốn hút vào đó đến nỗi quên nhiệm vụ chính của mình. Những ngày đó chị như sống lại thế giới của mình khi xưa. Thế giới huyền diệu của những câu chuyện thần tiên, của những câu chữ đầy màu sắc; thế giới của con bé Thanh thường xuyên không ăn sáng vì tiền đã bỏ hết vào sách và những đêm chui trong chăn rọi đèn pin để đọc.

Đó là lần đầu tiên Phương Chi tiếp xúc với sách văn học, vì lâu nay chị cũng không quan tâm đến việc nó nên đọc những sách ấy. Hầu như nó cũng ít đọc sách vì thời gian trong ngày rất sít sao. Chị Đoan là người bà con xa giúp việc nhà cho chị, đảm đương việc lo cho con bé ăn ngủ những khi chị không có nhà, đưa rước nó đi học. Cô sinh viên tên Tâm đến dạy nó học. Hè thì học vẽ, học đàn. Học tài tử vậy thôi chứ hè năm sau là quên hết, gần như học lại. Có khi chị cũng giật mình tự hỏi không biết nó có khiếu gì. Người ta nói cần phát hiện năng khiếu con mình ngay từ bé để có kế hoạch bồi dưỡng nó. Thế mà nay nó đã mười lăm tuổi rồi chị mới nhớ đến điều đó. Chị cuống quýt tìm xem tập học của nó. Tất cả đều tốt. Văn, toán, ngoại ngữ đều thuộc loại giỏi. Mà hầu hết học sinh bây giờ đều giỏi như vậy. Thế thì nó có năng khiếu gì? Chị không biết. Hỏi nó, nó cũng không biết. Nó nói con thích bơi lội (chả là thứ năm tuần nào nó cũng đi bơi). Chị nạt ngang, vớ vẩn, đó không phải là năng khiếu mà là sở thích. Nó thất vọng, thế thì con không có năng khiếu gì rồi, vì cái gì con cũng thích cả. Chị phì cười: "Ý mẹ không phải vậy". Cái việc đi tìm năng khiếu của hai mẹ con chẳng có kết quả nào, vì chỉ vài ngày sau công việc lại cuốn chị đi làm chị quên khuấy mục đích của mình. Có lẽ một ngày nào đó chị nhớ ra thì đã thêm mười lăm năm nữa trôi qua. Cũng may, có con bé Tâm luôn kèm cặp sát Phương Chi một lần vô tình nói: "Nó khoái nghe em đọc thơ lắm". "Thơ thì có nhiều người khoái lắm, nhưng đâu phải ai cũng thành nhà thơ". "Nhưng mà nó có làm thơ đấy". "Thật không?". Chị giật phắt người, run lên vì một cái gì đó chị không rõ. Chị là một cô giáo dạy văn, có một thời cũng đắm chìm trong các câu thơ từ cổ tới kim, có một thời mơ viết được nỗi lòng mình thành những câu thơ bất tử. Nó sẽ thực hiện được ước vọng của chị chăng? Thế nhưng chị hoàn toàn thất vọng, thậm chí vô cùng tức giận khi Tâm lén lút dúi vào tay chị bài thơ của nhà thơ tương lai là con gái chị. Đó là một bài thơ họa lại một bài thơ nào đó của một thằng bạn trai trong lớp. Hai "nhà thơ" mười lăm tuổi ngồi gần bàn nhau trong lớp bắt chước lối si tình "nhà nàng ở cạnh nhà tôi" có cải biên thành "bàn nàng ở cạnh bàn tôi". Chị bàng hoàng, chị điên tiết, chị giận dữ nhưng cuối cùng cũng nguôi ngoai vì biết tình cảm kia chẳng có gì ngoài một bài thơ. Nhưng Tâm thì cảnh cáo chị: "Chị mà đi hoài thì em không biết đâu. Nó có sao chị đừng trách em".

Nó thì không sao cả nhưng lại đâm ra thơ thẩn khi đọc đám sách cũ của mẹ. Cả ngày nó ngồi lì trong phòng sách, đọc nghiến ngấu như bù đắp lại những thiếu hụt của thời gian qua. Nó ngạc nhiên khi trên đời này người ta có thể tỏ tình bằng một khúc Phượng cầu hoàng và thấy bài thơ của thằng bạn trong lớp tặng nó ngày nào cũng lãng mạn không kém. Nó phục Tư Mã Thiên, một người mà ở tuổi nó không đứa bạn nào biết đến. Nó trách mẹ nhà mình có một kho tàng mà mẹ lại giấu đi. Trong cái kho báu đó, nó khóc cười cùng những con người từ thuở xa xưa, từ nàng Lâm Đại Ngọc tài hoa bạc mệnh đến thi tiên Lý Bạch ôm trăng chết dưới đáy hồ. Nó nói với mẹ đó là một cảnh chết hết sức bi tráng, cả tỉ con người không ai có được. Phải hết sức tri âm tri kỷ với trăng mới chết như thế. Chị ngạc nghiên nhìn nó, thấy nó không phải là con bé mười lăm tuổi mà là một triết gia bảy mươi lăm.

Một đêm rằm, nó mơ màng nhìn trăng (chị không còn lạ gì khi nó đang bước vào cái tuổi mơ màng). Nó hỏi:

- Mẹ ơi, ở đâu trăng cũng như thế này hả?

- Con hỏi vậy là sao?

- Con thấy trăng đâu có gì đẹp như trong sách tả đâu, càng không đáng để cho Lý Bạch phải chết. Nó không lung linh mà mờ nhạt, tối tối thế nào ấy.

Từ ngày tiếp xúc với đám sách mà chính bản thân chị biết toàn là sách quí, ngôn ngữ của con bé như vượt xa cái tuổi của nó. Chị cũng không thấy có gì lạ, vì đó là tác dụng tất nhiên của sách. Nhưng cái cách con bé nhận xét về trăng khiến chị cũng có chút suy nghĩ. Dường như nó chưa hề biết trên đời này có một vầng trăng cho đến khi nó biết có một người ôm trăng mà chết, như người ta không chú ý đến một vật gì đó rất tầm thường bên mình cho đến một ngày nó bị mất đi. Chị thấy mình cũng nên đặt mình vào vị trí con bé để nhìn nhận sự việc. Chị bước ra sân thượng, quan sát trăng thật kỹ. Trăng tròn vành vạnh, treo giữa bầu trời trong xanh. Ánh sáng chiếu xuống thành phố bị những ánh đèn lấp lánh đủ màu sắc che lấp hết. Một cái gì đó rúng động trong lòng chị khi chị nhìn thấy vẻ cô đơn của vầng trăng giữa thành phố đầy ánh sáng. Dòng xe cộ hối hả chen chúc, dòng người lũ lượt về nhà cứ chăm chăm vào đèn xanh đèn đỏ, thắng ken két hoặc rú ga ào ào, có ai một lần ngước nhìn vầng trăng vằng vặc chỉ tròn mỗi tháng một lần kia. Chị ôm vai con, chính bản thân mình cũng cảm thấy thất vọng về vầng trăng đang thời mười sáu trên kia:

- Có lẽ không phải trăng ở đâu cũng đẹp cả. Nó còn tùy vị trí mình đang đứng và tùy tâm trạng người ngắm. Khi mẹ còn nhỏ, mỗi ngày rằm, nhất là khi trung thu, hầu như cả xóm túa ra đồng cỏ. Người lớn thì túm tụm nhau nói chuyện, bọn trẻ thì đùa giỡn nghịch ngợm. Trung thu còn vui hơn nữa. Bọn trẻ miệt mài làm những cái đèn ông sao, rồi đem khoe nhau xem ai làm to nhất, làm đẹp nhất. Tối trung thu cả đồng cỏ lấp lánh ánh đèn. Trên trời trăng cũng lấp lánh, lung linh...

Kể đến đó, cả lòng chị cũng thấy bồi hồi xúc động. Cảm giác ngày xưa ùa về làm tuổi thơ sống dậy. Chị chợt thèm cái cảm giác ấy, cái cảm giác mỗi mùa trung thu đến lại nôn nao làm những cái đèn lồng, nôn nao rồng rắn kéo nhau ra đồng cỏ xanh bạt ngàn hát bài chú Cuội. Chú Cuội khờ khạo ngàn năm và vĩnh viễn muôn đời vẫn ngồi gốc cây đa. Bọn trẻ khờ khạo ngày xưa thì đã lớn thành những con người thành đạt và không thành đạt, nhìn trăng lẻ loi giữa lòng thành phố mà lòng những ngậm ngùi. Cao hứng, chị nói:

- Trung thu năm nay con đừng đi chơi nữa. Cứ chạy xe rông rông ngoài đường cũng không có gì thú. Cả nhà mình sẽ thưởng trăng trên sân thượng. Con tiếp mẹ sắp xếp lại những chậu kiểng làm sao cho ánh trăng tràn ngập cả sân, sao cho hoa quỳnh nở đúng lúc trăng thật tròn. Mình tắt hết đèn, cho trăng phát huy hết ánh sáng của nó.

Nó bằng lòng ngay và chăm chăm mong chờ ngày đó. Nó ngoan cực kỳ, chỉ sợ mẹ đổi ý. Chị cũng tự hứa với lòng sẽ cố gắng làm cho nó thật vui...

Gần chín giờ đêm chị mới về được. Chị gọi điện về nhà nhưng không có ai lên máy. Hẳn là mọi người đều đã lên sân thượng. Chị tắt máy và hối hả chạy xe về nhà. Lúc này mọi người mới túa ra đường đi chơi trung thu. Bọn trẻ choi choi cỡ con gái chị trở lên, trung thu không còn chơi đèn, chỉ tụ năm tụ bảy chạy xe vòng vòng ngoài phố. Chị sốt ruột khi cứ hết đèn đỏ rồi đèn đỏ, rồi lại bị kẹt xe, mãi đến hơn mười giờ chị mới về đến nhà. Nhà lặng ngắt. Chị hoảng hốt chạy vào hết phòng con gái đến phòng chồng. Không có ai. Trên sân thượng cũng không có ai. Bánh trung thu đã cắt sẵn bày la liệt trên cái bàn nhỏ cạnh bụi hoa quỳnh. Đèn đủ màu được treo xung quanh. Mọi thứ đã sẵn sàng cho một cuộc thưởng trăng đầy lãng mạn, thế nhưng người thì vắng mặt. Chị chạy ào xuống phòng khách, lại chỗ cái bảng nhỏ ghi những lời nhắn gởi. Dòng chữ nguệch ngoạc của Đoan. "Em và Phương Chi đi về nhà em". Trời ơi! Chị gần như muốn té xỉu. Chưa bao giờ chị nghĩ ra tình huống này và chị cũng không nghĩ con gái mình lại nghĩ ra. Dù cả ngày mẹ con ít gặp nhau, nhưng nó chỉ quanh quẩn ở trường học và ở nhà, chưa bao giờ đi đâu xa. Nguyên cớ gì tự nhiên nó lại theo Đoan về quê? Mà Đoan cũng đâu có việc gì phải về quê vào cái giờ này mà không thể đợi chị về. Chị hốt hoảng gọi cho chồng. Giọng anh lè nhè ở đầu dây bên kia. Chị cáu gắt: "Giờ này mà anh còn say nữa à. Anh thất hẹn với con gái mà còn dám say nữa!". "Thì em cũng thất hẹn với nó đó thôi. Không phải em bảo anh nếu có lợi cho công việc thì cũng nên say hay sao?". "Nhưng không phải lúc này. Anh có hay con Phương Chi đi mất rồi không?". "Hả?". "Anh về mau, cùng với em về quê ngay. Hứa dẫn nó về quê không biết bao nhiêu lần mà không dẫn. Để bây giờ thì nó tự đi rồi". Nói "quê" cho nó có vẻ xa xôi, chứ thật ra chỉ cách thành phố vài chục cây số mà chị hứa hoài chẳng có dịp dẫn nó đi một lần cho thỏa. Vì nơi đó bà con gần chẳng còn ai, vì khi còn nghèo phải lo bươn chải kiếm sống, vì khi đã giàu sợ mất mối làm ăn, vì con bé Phương Chi khi nhỏ cứ bệnh triền miên, nhất là hay hạ canxi té xỉu bất chợt, vì đủ mọi lý do trên đời mà chị có thể vin vào đó để lòng khỏi ray rứt.

Loay hoay thế nào gần bốn giờ sáng hai vợ chồng mới đến được nhà Đoan. Chị định bụng sẽ mắng cho Đoan một trận, lớn rồi mà còn nông nổi. Nhưng cả nhà Đoan còn đang hoảng loạn hơn cả chị. Họ cũng đang tìm Phương Chi. Đoan tái ngắt, giãy đành đạch trên nền đất, kêu gào thảm thiết:

- Không phải tại em. Tại nó bắt em phải dẫn về. Không chiều thì nó đập đầu vào tường. Nó bảo chắc ba mẹ không về đâu mà ngày mai thì trăng bị méo rồi. Nó hỏi em ở nhà chị có trăng không. Em nói ở đâu mà không có. Nó hỏi có đồng cỏ không. Em nói cỏ thiếu cha gì. Chỉ qua cơn mưa là phún lên đầy đồng. Người ta còn tìm cách đốt bỏ. Nó nói sao uổng vậy. Rồi nằng nặc bắt em dẫn đi. Đã về đến đây rồi, ra đồng xem trăng đã đời rồi, vô mùng ngủ với em rồi. Thế mà khi em tỉnh giấc thì không thấy nó đâu nữa.

Thanh ngồi phịch xuống đất, gần như muốn ngất đi. Chồng chị tỉnh rượu hẳn, bắt đầu chì chiết chị:

- Cũng tại em cả, tả làm chi cảnh đồng cỏ nên nó mới đòi về. Lại còn hứa thưởng trăng nữa. Thưởng, thưởng cái gì. Biết không làm được thì đừng có hứa. Chỉ vớ vẩn. Cắt đứt mọi mơ mộng của nó ngay từ đầu là được chứ gì. Cứ trả lời sách phần nhiều là xạo. Trăng không đẹp như nó tưởng là xong. Nó cứ việc ăn ngủ, đi học, lớn lên đi làm để có nhiều tiền là được. Vẽ vời chi cho khổ vậy. Em bao nhiêu tuổi rồi, đã trải qua những gì rồi, thấy cái giá của những mơ mộng hão rồi mà còn hùa theo con bé mười lăm tuổi tìm vẻ đẹp của trăng. Khùng, khùng hết chỗ nói. Còn bây giờ thì không phải tìm trăng nữa mà tìm nó kìa. Không tìm được thì em có mà ôm trăng chết cũng không ai khen ngợi đâu.

Dẫn đầu là Đoan, cả đoàn người túa nhau đi tìm. Hai vợ chồng chị cứ bám theo Đoan, gặng hỏi đêm qua đứng ngắm trăng ở đâu. Đoan dẫn hai người ra đồng. Đêm đã gần tàn. Trăng vẫn kiên trì lơ lửng trên trời dẫn đường họ đi. Cả xóm nháo nhác. Chuyện một cô bé mười lăm tuổi người thành phố mất tích giữa đồng là một chuyện hi hữu. Hay là nó đã bị bắt cóc? Chuyện tống tiền thời nay cũng không phải là hiếm.

Cuối cùng cũng có một tin báo về, dù là tin dữ, có một cô bé nằm bất động trên ruộng lúa. Tất cả chạy ào đến. Phương Chi đang nằm sấp trên một vũng nước mấp mé bờ ruộng. Khi người ta kéo thân thể mềm nhũn, rã rượi của cô bé lên làm vũng nước lay động, ánh trăng dưới đáy nước vỡ vụn ra từng mảnh. Khi chồng chị xốc lấy con chạy băng vào bệnh viện thì chị từ từ khuỵu xuống, ngất ngay trên vũng nước. Ngay cả trong mơ chị cũng không dám nghĩ Phương Chi chỉ bị hạ canxi xỉu như bao lần, ngủ thiếp đi với bóng trăng hay là đã chết cùng trăng, dù là một vầng trăng nhỏ xíu trong vũng nước ao tù.

TRƯƠNG THỊ THANH HIỀN

Khu vườn bất tận

TTO - Tôi hay có những giấc mơ kéo dài từ hai giờ đến khoảng bốn giờ sáng thì xong. Những giấc mơ đó luôn khiến tôi suy nghĩ nhiều vì độ khó hiểu của nó. Có khi tôi thấy mình như một tờ giấy thấm và tôi hút các đường nét xung quanh mình; cũng có khi là giọt mực và tôi bắt đầu loang ra trên nệm một vết dài đúng bằng chiều cao của tôi.

Đó là những giấc mơ luôn lặp lại. Xong tôi dậy, đầu váng vất cảm giác loang ra và thu vào khó hiểu đó.

Tôi ra chợ coi hàng với mẹ. Nhà tôi có một sạp nhỏ bán hoa tươi. Đây cũng là nhu cầu xuất phát từ ý nghĩ mơ mộng của tôi và gần như điên rồ: tôi thích hoa và thích trồng hoa. Nhà tôi có một mảnh vườn rất rộng trồng đủ loại, từ mào gà tầm thường tôi chuyển sang những loại cao cấp hơn, quí hiếm hơn và nhân lên vô tận. Vô tận đến nỗi mẹ tôi nảy ra ý định cần phải đem bán nó. Cũng không hẳn mẹ, đầu tiên là những người hàng xóm lân la đến xin một vài bông, thấy nhiều quá xin vài bó, rồi nhiều người cùng xin, xin mãi cũng ngại người ta mua theo danh nghĩa tượng trưng rồi sau mua thật như mua ngoài chợ. Cái sự nghiệp bán hoa của gia đình tôi cũng bắt đầu từ đó.

Sau những bó hoa đầu tiên được bán, mẹ có vẻ hài lòng lắm cái trò mơ mộng tưởng chừng vứt đi của tôi. Không những nhiều tiền mà còn có vẻ sang trọng, thanh cao hơn cái nghề mà mẹ đã chọn cho tôi trước đó: nghề thợ mộc.

Có một dạo xóm tôi cứ con trai khoảng 16 tuổi thì gần như chẳng cần lựa chọn gì ngoài quấn môtơ và làm đồ gỗ. Vẫn là nghề mộc được chọn vì quấn môtơ cần phải hội thêm một yếu tố nhà ở gần chợ hoặc có vốn liếng một chút, tức có thể mở một cửa tiệm nho nhỏ để ngày ngày kéo cửa ra khép cửa vào. Nói chung một cái nghề sạch sẽ - điện mà. Tôi không được vậy, đành theo thầy Cả đóng đóng gõ gõ được ba năm rồi cũng thành nghề, thành thợ, đóng dăm cái tủ cái giường cho cậu, cho mợ, dì, chú Tư và cuối cùng là mợ Ba thì sự nghiệp chấm dứt, kéo dài được hai năm.

Theo tính toán thì cứ trung bình bốn tháng tôi đóng được một cái gì đó cho dòng họ tôi, đóng cẩn thận, kỹ lưỡng từng đường nẹp nhỏ và hoa văn thì nói chung rất tùy tiện, giống như một chủ trương chỗ nào trống thì thêm một cái hoa, chỗ nào trống nhiều thì một chùm. Hoa là tình yêu của tôi mà.

Những bông hoa đầu tiên trong cuộc đời tôi nở vào lúc tôi đi học thầy Cả. Một ngày tôi giao tôi cho thầy khoảng mười tiếng, thời gian còn lại tôi dành cho niềm thương mến của tôi, một tình yêu lớn hơn cả bản thân mình. Tôi trồng, tưới, bắt sâu... Đầu tiên, tôi trồng chúng trong những chậu sứ. Nhưng dường như chúng không thỏa mãn tôi, những chậu sứ nghèo nàn kinh khủng, chúng đại diện cho một cái gì chật hẹp và thu nhỏ, trong khi những giấc mơ về hoa luôn trải dài như một cánh đồng và nở ra vô hạn. Tôi dấn sang mảnh vườn sau nhà. Tôi tạo nên những cống rãnh, những vòi tưới và như những con mắt hoa lệ quanh tôi, khu vườn dậy hương từ đó. Đơn giản và chân thành, đó là ước mơ của tôi.

Bây giờ mẹ tôi hài lòng lắm rồi. Hằng ngày tôi ra chợ phụ mẹ bán hoa, gói chúng trong những tờ giấy bạc cắt tua, màu mè. Đây phải nói là một ý tưởng mà tôi "chôm" được của người thành phố. Quê tôi, người ta đựng hoa trong những xô lớn và khi khách mua thì gói chúng trong những tờ giấy báo nhàu nát hoặc những chiếc lá chuối xỉn đen. Cải cách nhỏ này đã đem về cho gia đình tôi rất nhìêu lợi nhuận, lại có vẻ trí thức và trân trọng khách hàng.

Có một thời tôi cứ loay hoay mãi giữa những ước mơ và hiện thực. Những ước mơ của tôi cũng đồng nghĩa với những giấc mơ. Tuổi mười sáu tôi mơ mộng quá nhiều và mẹ cho rằng những giấc mơ sẽ không đưa tôi ra khỏi khu vườn. Tôi sẽ như một cái lu, một cái cuốc, một cái bừa cào mà nằm vật trong xó bếp, nằm vật trong cái lứa tuổi mười sáu ngờ nghệch và không lớn nữa. Bây giờ sau nhiều năm nghĩ lại, tôi tạm hiểu cuộc đời mình như một điều may mắn lớn, những bông hoa như những chiếc chìa khóa đã mở ra cuộc đời tôi.

Mỗi buổi sáng khi trở dậy, việc đầu tiên là tôi nhìn qua cửa sổ; vợ và thằng con trai ba tuổi của tôi đang tưới hoa. Nàng mặc cái áo dây màu hồng nhạt và những đường nét trên người nàng luôn làm tôi sững sờ. Tôi hay liên tưởng nàng với những tiểu thư ở thế kỷ mười sáu, mười bảy dạo chơi trong vườn và có thể thổn thức vì một đóa hoa, xác bướm, một tiếng ve. Thế rồi giấc mơ của tôi kết thúc vào khoảng bảy giờ, lúc nàng xách cái xô to đùng đi xồng xộc vào nhà. Nàng đến bên giường và hét lớn: "Dậy đi ông tướng!". Tôi hay cười khùng khục trong chăn khi nhớ lại cái ngày chúng tôi mới lấy nhau, nàng vẫn thường đánh thức tôi bằng câu nói như vậy nhưng khác hơn và cũng đi đứng nhẹ nhàng hơn: "Dậy đi ông tướng của em!". Tôi chẳng nhớ nàng đã bỏ rơi chữ của em từ lúc nào. Và tôi luôn nghĩ đến một ngày nào đó có lẽ tôi cũng sẽ ngạc nhiên như hôm nay và tự hỏi nàng đã bỏ rơi ông tướng lúc nào, chỉ còn dậy đi. Đời sống vợ chồng hình như người ta đi từ hoa mỹ đến giản đơn, từ cái bay bổng đến là là ngọn cỏ và cho rằng đó là một đời sống thật. Nhiều lúc tôi cũng muốn gọi vợ tôi là mình ơi nhưng bỗng thấy giả giả vờ vịt, thấy như một cái gì bất thường hơn là bình thường, một cái kiểu bốc thơm, thế là dừng lại. Năm nay tôi ba mươi bảy tuổi mà đã thấy ngượng rồi thì chắc chắn rằng tôi sẽ không dám làm điều đó nữa lúc bốn mươi, năm mươi. Lúc ấy nàng sẽ gọi tôi bằng ông, tôi gọi nàng bằng bà, chấm dứt giấc mơ chàng chàng thiếp thiếp.

Từ ngày vườn hoa đẻ ra tiền, đời sống dư dả, tôi đã vướng cái tật thích nằm ềnh trên giường nghĩ vẩn vơ. Có đôi lúc còn ráng ngủ lại để nối tiếp giấc mơ lỡ dở nào đó. Vả lại đời sống người trồng trọt một ngày làm việc có thể kéo dài mười bốn tiếng đồng hồ nên tôi có nhiều cơ hội tự bào chữa cho mình. Tôi nằm và nghĩ ngợi về gia đình tôi.

Con tôi năm nay ba tuổi, mười ba năm sau nó sẽ bằng tôi lúc đi học nghề mộc của thầy Cả, mười ba năm sau nữa nó sẽ cưới vợ và sinh con; cả nhà nó sẽ sống bằng cái vốn liếng kha khá của tôi để dành và riêng nó có thêm một cuốn nhật ký. Tôi tưởng tượng cái lúc tôi chết đi. Nó quay lại căn nhà cũ của bố. Căn nhà lúc ấy hẳn phải trống trải lắm, hoang tàn và mối mọt. Nó sẽ chạm tay vào những chiếc áo cũ, phủi những đống bụi lớn trên mặt bàn và đồng thời bàng hoàng phát hiện cuốn nhật ký đầy ám ảnh của tôi. Như cái cách người ta khai quật một lâu đài dưới lòng đất bằng tấm bản đồ trên da lừa nhặt được, cuốn nhật ký sẽ mở ra một kho tàng vĩnh cửu ẩn giấu trong lòng cha nó. Trong tranh tối tranh sáng và tâm trạng hoang mang của kẻ nhập đồng, nó lần giở từng trang nhật ký đẫm lời yêu thương lẫn khuyên răn bóng gió của tôi. Đại loại mở đầu bằng: ở đời... có nên chăng... ai đó... vậy kia... và nó sẽ thảng thốt mà khóc khi thấy tôi cẩn thận ép khô những bông hoa trong đó, những bông hoa cánh mỏng như tờ giấy quyến soi tỏ tâm hồn tôi. Một đời sống tương lai sau tôi hẳn ngắn ngủi lắm, người ta sẽ trao đổi với nhau bằng cách dậy đi mà không có ông tướng lẫn của em. Thì đây, những bông hoa sẽ cho con trai tôi hiểu rằng vẫn còn một thế giới không nằm bên ngoài mà bên trong tâm hồn của cha nó. Có thể ví như những giọt mật nằm chen giữa cánh hoa mà đời sống nào cũng cần, hoặc nó có lỡ thái quá thì cũng thư thả mà chùng lại. Chẳng hiểu tại sao tôi luôn nghĩ rằng để lại cho con những giấc mơ vẫn tốt hơn mọi thứ, những giấc mơ là những câu văn dài lãng mạn yêu thương như anh yêu, mình ơi, ông tướng và của em...

Vậy đó, những buổi sáng và nghĩ ngợi. Bảy giờ, tôi ra vườn bắt những con sâu ăn đọt hoa bỏ vào cái đĩa, cũng sẽ là món quà cho lũ gà kế hoạch nhỏ ngu ngốc và lười biếng của con trai tôi. Chúng chỉ biết ăn rồi nằm kềnh như những con heo, chúng mập ú. Tôi có dự định chờ đến ngày sinh nhật của con trai tôi là mần thịt chúng. Thằng bé tuy mới ba tuổi nhưng hôm qua nó đã biết nói một từ độc đáo, từ suy nghĩ khiến vợ tôi cười khanh khách. Con gà nằm im vì suy nghĩ. Nàng luôn giành cái phần thông minh của nó về phía mình do nàng di truyền. Nàng giành cái khuôn mặt xinh tươi của nó và đẩy cái mũi xấu xí cho tôi. Nàng giành cho mắt, chân tay, hàm răng và mái tóc. Càng ngày tôi càng có cảm giác nàng đẩy tôi ra khỏi thằng bé, giống như những gì tươi đẹp nhất của nó đều từ nàng và tất nhiên, nó thuộc về nàng. Tôi trở nên không có gì hết, ngay cả cuộc sống của tôi gần như tan biến: con trai của vợ tôi, khu vườn đầy hoa của mẹ tôi. Những buổi sáng không thuộc về tôi nữa. Thay vì tôi có thể nằm chường, nghĩ ngợi đến mười một giờ trưa thì bây giờ nó đã được cắt giảm phân định rạch ròi, đúng bây giờ. Càng lúc tôi càng có cảm giác mọi thứ không thuộc về một ai mà dường như thuộc về mọi người, trừ chính người đó. Ngay cả thời thơ ấu, tôi luôn nghĩ về nó nhưng càng lúc theo thời gian nó càng xa tôi, không thuộc về tôi. Những chi tiết mà nó gợi nhắc có mình thoáng chốc hiện lên rồi tan biến trong cái hiện tại mà trước sau gì cũng trở thành quá khứ, rồi cũng sẽ tan biến như cái trước. Tôi hình dung gia đình tôi như một cái bàn tròn mà ở đó mọi thực khách đều đánh mất mình. Tôi đánh mất mình trong con tôi, con tôi lại đánh mất nó trong vợ tôi, rồi vợ tôi đánh mất nàng trong tôi; và đấy là những con người đánh mất mình trong cái mối quan hệ rất ư hài lòng. Rồi sau con tôi cũng sẽ đánh mất nó trong con của nó và cứ thế tiếp dĩên. Giống như một sợi dây vô tận xuyên qua các thời đại, từng con người lần lượt xâu chuỗi với nhau trong mối quan hệ rất ư là hài lòng và cũng rất ư là không còn mình.

Đã lâu lắm rồi tôi chưa hề có một ý nghĩa thảnh thơi như sáng hôm nay. Nó gần như dồn hết sinh lực của tôi vào một niềm vui nào đó tôi chưa biết trước, tôi cần phải chờ đợi. Tôi nghĩ trước sau gì trong hôm nay nó cũng phải lộ diện thôi nhưng chẳng biết lúc nào. Thay vì tưới cây như cái lộ trình quen thuộc được vạch sẵn của những ngày trước đó, tôi ra chợ ngồi chơi với mẹ; vừa nhâm nhi ly cà phê vừa hình dung toàn bộ cái lộ trình của một cộng đồng đang đi qua đi lại dâng lên trước mắt tôi dưới dạng những con sóng thủy triều; ồ ạt dăm hôm cuối tuần, dăm hôm lễ lạt dăm hôm rằm, rồi lắng dịu chờ đợi đến những ngày cuối năm lại ồ ạt một lần nữa rồi chấm dứt. Đời sống của gia đình tôi cũng phụ thuộc vào những đợt sóng đó. Mỗi mùa xuân đi qua, khu vườn hoang tàn như một bãi chiến trường chỉ còn trơ lại màu cát, những bông hoa đã bị cuốn đi đến tận gốc, để rồi đầu mùa xuân tôi lại bắt tay vào cuốc xới gieo hạt. Như động thái của người họa sĩ đối với tấm toan, tôi phủ màu lên khu vườn tôi.

Năm nay mùa xuân đã khởi động từ đầu tháng chạp, sáng hai mươi chín tết khu vườn tôi gần như không còn gì, mẹ phải để dành hoa lại cho ngày ba mươi. Tôi cũng đã có ý định mua lại miếng đất của bà cụ Phúc xóm bên để mở rộng diện tích canh tác. Tôi biết cụ đã lâu nhân một ngày cuối năm nọ, cụ đến xin tôi những cây hoa dập úa hoặc ế ẩm mà trước sau gì tôi cũng vứt đi vào tối ba mươi. Từ trong cái đống hổ lốn đó, cụ nhặt ra những bông hoa còn nguyên, bó lại thành một bó nhỏ. Cụ nhìn tôi cười khà rồi lọ mọ, run rẩy ôm bó hoa về. Cuối năm nào cụ cũng ghé. Cụ còn hứa khi nào mất sẽ bán lại mảnh vườn cho tôi. Cụ sống chỉ có một mình, không con cháu. Đã nhiều năm nay tôi âm thầm chờ đợi, sự chờ đợi này đôi khi gieo vào lòng tôi một cái gì đó thật nhẫn tâm, giống như tôi chờ cụ chết đi để được mua mảnh vườn, để gia đình tôi được sung túc hơn. Nhiều lúc tôi tự bào chữa cho mình nhưng điều đó đã gieo vào lòng tôi một sự day dứt mãi.

Tết năm nay là cái tết thứ hai không thấy cụ ghé. Tôi cũng quên bẵng một điều là cần phải hỏi nhà cụ ở đâu và khi mua khu vườn cần phải giao số tiền đó lại cho ai. Không chừng cụ đã mất rồi cũng nên. Nhiều khi tôi nghĩ đó chỉ là một trò đùa của cụ và cái mảnh vườn mà cụ đã hứa nằm đâu đó bên ngoài đời sống này, chúng không có thật. Nơi đó tôi sẽ vĩnh viễn không bao giờ được biết đến, được đặt chân đến; rằng nó chỉ có một vườn hồng như tấm lòng đầy rẫy những giấc mơ cho riêng cụ, một vườn hồng đỏ rực mà thôi.

NGUYỄN NGỌC THUẦN

Một cuộc tập hợp đẹp

Một cuộc tập hợp đẹp

Đều đặn và thầm lặng, những truyện ngắn trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật (TTCN) - khoảng 40 truyện một năm, số còn lại dành cho các truyện dịch nước ngoài - đã tạo một vị trí cho riêng mình trong đời sống văn học của cả nước. Sân chơi này thật bình đẳng cho mọi người, từ những tên tuổi lớn của làng văn cho đến các cây bút chưa từng xuất hiện trên bất kỳ văn đàn nào cũng đều có thể tham dự. Tham dự và được trân trọng, như nhau. Có mặt trên trang Sáng tác của TTCN đã trở thành một niềm vui, không chỉ cho những người chưa từng được ai biết đến.

Từ khoảng 120 truyện ngắn trên TTCN ba năm 2003 - 2004 - 2005, Tủ sách Tuổi Trẻ chọn giới thiệu trong tuyển tập này 30 truyện ngắn theo đánh giá riêng của chúng tôi là tương đối khá nhất. Có mặt nơi đây là các nhà văn Trần Kim Trắc, Nguyễn Đông Thức, Bích Ngân, Quế Hương... già giặn, quen thuộc, rồi Nguyên Hương, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần... tiếp tục độc đáo sau các giải thưởng Văn học Tuổi 20, đến những Đỗ Quang Hiếu, Dương Bình Nguyên, Nguyễn Thị Việt Hà, Trần Minh Thuận... trẻ măng, có thể nói đây là một cuộc tập hợp đẹp các thế hệ cầm bút ở khắp các miền đất nước.

Những câu chuyện trong tuyển tập này thảy đều thấp thoáng một chữ "tình". Đó có thể là tình bằng hữu, tình gia đình, tình cha mẹ dành cho con cái và ngược lại..., nhưng trên hết vẫn là tình yêu đôi lứa. Cuộc sống vốn đa dạng, với nhiều góc cạnh khác nhau thì những cái tình thể hiện trong mỗi câu chữ ở đây cũng muôn màu muôn vẻ.

Có những tình bạn ấm nồng, chân thành. Tình thương của đấng sinh thành dành cho con cái là vô bờ bến. Lại có những tình yêu mới chớm nhẹ nhàng, tươi mát như sương mai; và không hiếm những cuộc tình dang dở, trúc trắc, cay đắng với bao uẩn khúc đến tê tái... Cũng chẳng thiếu những tình yêu chung thủy - bạc đầu vẫn mãi tìm nhau... Nhưng tựu trung lại, những mẩu chuyện được kể trong quyển sách này chắc chắn sẽ đem đến cho người đọc một niềm hi vọng tràn đầy rằng: tình cảm là duỡng chất cần thiết để nuôi lớn tâm hồn mỗi con người, nâng đỡ ta mỗi khi gặp thất bại trên đường đời...

Hi vọng tập sách sẽ đem lại cho bạn đọc những phút giây thú vị cho một niềm vui tao nhã: ĐỌC SÁCH.

Tủ Sách TUỔI TRẺ

Phép thử

Mưa. Cứ đến ngày Hạc thi thì trời đổ mưa. Những cơn mưa sầm sập, ngả nghiêng quét qua thành phố làm lụt lội những con đường cũ kỹ luôn bị đào xới và chắp vá tứ tung. Cả đám sinh viên nhao nhao bàn luận về đề thi, một số lấy áo mưa ra mặc, tiện tay móc "bùa" ra khỏi túi áo, túi quần và quăng vào sọt rác. Ngày thi cuối cùng nên đứa nào cũng có vẻ nhẹ nhõm. Quân quay sang cô:

- Karaoke à há?

- Không, mấy bạn đi chơi vui vẻ, mình có việc phải về!

Quân nhìn cô, cả đám bạn chung lớp nhìn cô. Lạ lẫm vì trước giờ Hạc chưa từng từ chối cuộc vui bất chợt nào của cái lớp "mặn mòi" chuyện ăn chơi nhất trong khối, những cuộc vui đầy chất sinh viên mà cô là một trong những kẻ quản trò.

Ngày thi cuối cùng của đời sinh viên chấm dứt. Điều đó đồng nghĩa với việc những người trẻ tuổi sắp rời ghế giảng đường đại học sẽ đối mặt với không ít ngả rẽ và nhiều lựa chọn. Tất nhiên không có sự lựa chọn nào mà không phải trả giá. Cô bạn gái tên Hạc trong truyện cũng đã chọn cho mình một lối đi, và xem đấy như là một phép thử: thử lòng người và cũng là thử thách cuộc sống của chính mình.

P.K.

- Thôi mà, đừng xa anh đêm nay - giọng Quang "béo" ẽo ợt - đêm nay anh thấy cô đơn?

- Thì về bú tí mẹ chứ còn sao nữa? Lan chêm vào, cả đám cười rần rần phụ họa. Quang giơ bàn tay hình nải chuối dọa tát yêu Lan. Hạc mỉm cười nhìn những giây phút vô tư cuối cùng của thời sinh viên. Chỉ còn một vài tháng nữa là tốt nghiệp. Mỗi người một khoảng trời, một con đường để đi, chắc gì mai này còn nhớ về nhau. Hạc bấm cái nút áo mưa cuối cùng rồi chào đám bạn, mặc cho chúng nài nỉ, mặc cho ánh mắt có vẻ trách móc của Quân.

Hạc đạp xe đi trong mưa. Hòa trong dòng đời chấp chóa ánh đèn và những chiếc áo mưa đủ màu sắc, cảm thấy buồn và trống rỗng. Và vụn vỡ trong lòng.

Lúc nãy đi xuống cầu thang có đứa hỏi "bạn là Hạc phải không?". Hạc ừ và ngạc nhiên. "Sao mà bạn điên quá, ổng cho quay thì quay đại đi, việc gì phải vậy!". Hóa ra cái chuyện cô đòi nộp giấy trắng môn luật nhà nước vào giữa giờ thi, từ chối lòng tốt của ông giám thị trẻ măng mới ra trường năm ngoái đã trở thành một xì căng đan và lan nhanh như điện xẹt. Đám bạn xúm vào nói cô là đồ điên, đồ dở hơi".

Trong khi các phòng khác chúng có muốn nhúc nhích cũng không được, Hạc cười không nói gì. Môn đó, thầy cho ôn mười hai câu. Cô học đúng mười câu, còn hai câu thì quá mệt và căng thẳng do phải học thi nhiều môn. Chẳng ngờ đề ra đúng hai câu đó, Hạc thà chịu chết chứ quyết không nhận lòng thương hại của anh ta. Nhục và mất tư thế.

Trong khi lũ bạn cắm cúi liếc ngang liếc dọc thì anh ta cứ gõ giày cồm cộp đi từ bàn đầu xuống chỗ Hạc, động viên cô cố lên, bởi học kỳ này là học kỳ cuối, đừng nộp giấy trắng. Thằng Quang "béo" quay sang nháy nháy mắt nhích tờ giấy thi lại gần cô. Hóa ra không phải riêng mình ông thầy mà cả lớp tỏ ra thương hại cô.

Đối với Hạc, nhận điểm không còn hơn cứ phải thập thò, láo liến con mắt để canh giám thị. Hoặc nhận điểm bảy, điểm tám mà cảm thấy ngượng ngùng khi có một đứa bạn vỗ vai khen "sao mày giỏi vậy!". Và không biết mình đã vất vả như thế nào để có chúng. Những con số vô giá trị và là một sự bất công nhức nhối. Điểm cao chưa hẳn là giỏi, điểm thấp chưa hẳn đã ngu. Chỉ hơn nhau ở cái trò gian lận.

Hạc càng không thích trước mỗi giờ thi bị cô trợ lý văn phòng khoa đẹp người khó tính, mặt lạnh như đồng đến từng phòng kêu gọi lòng tự trọng của từng người và khoe cái thành tích chưa bao giờ quay cóp thời đi học của mình. Chưa quay thì có nhưng chắc gì cô ta không một lần lận lưng tài liệu nhưng chẳng bao giờ dám móc ra. Một kiểu cầu an tâm lý. Hạc đã từng như vậy. Và cô luôn tự sỉ vả bản thân mình.

Những vòng xe vẫn quay đều trong mưa. Qua bao nhiêu con đường rồi Hạc cũng không biết nữa. Ai đó gọi tên Hạc. Cô ngạc nhiên quay sang. Trong làn nước mưa vỗ rát mặt, Quân đang kè sát bên cô.

- Không đi karaoke với tụi nó à? - Hạc hỏi.

- Không, Hạc không đi Quân cũng không đi. Mình uống chút gì rồi về nghen! Hạc đắn đo. Mà thôi, cô không nên từ chối. Còn lại mấy lần bạn bè được ngồi bên nhau.

- Hạc uống gì?

- Chanh rum! Cô muốn tối nay cô sẽ có một giấc ngủ ngon. Không tư lự.

- Không sợ nhức đầu à?

- Quân quan tâm chuyện ấy làm gì!

- Sao lại không, Hạc buồn làm Quân tứa máu cả tim đây này!

- Giỡn hoài! Hạc phát nhẹ vào tay Quân. Quân chụp lấy tay cô giữ lại. Rất chặt.

- Ra trường chắc Hạc phải về quê thôi, sống một cuộc đời bình lặng - Cô nói và rụt tay lại

- Sao không ở lại thành phố?

- Để suốt đời ở nhà trọ, ăn cơm bụi và bon chen mỗi ngày à!

- Thế về quê thì Hạc làm gì?

Hạc mím môi im lặng. Cô cũng không biết nếu về quê cô sẽ làm gì. Ở đấy không có những công việc dành cho cô. Một miền quê đơn điệu, tẻ nhạt và nghèo khó. Nơi giữ cho Hạc những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, trong trẻo. Và nơi ấy, trong căn nhà nhỏ cuối xóm, một người mẹ già cặm cụi làm việc quên ngày tháng để nuôi Hạc và bầy em. Nơi ấy, một chốn bình yên để quay về...

- Hạc nên ở lại, Sài Gòn còn nhiều cơ hội dành cho Hạc. Với lại, Hạc mà về, Quân sẽ nhớ Hạc nhiều lắm đó!

Cô thảng thốt nhìn Quân. Học chung với nhau bốn năm, chuyện trò vui vẻ và hợp nhau ở cái tính hay đùa. Đã đôi lần Hạc mơ hồ nhận thấy có một điều gì đó khác lạ ở Quân. Nhưng cô không dám nghĩ đến. Hạc nhủ rằng mình đã hiểu lầm. Và cô mong rằng mãi mãi là như vậy. Quân tìm gì ở cô, một đứa con gái bình thường trong khi Quân có quá nhiều ưu điểm, được nhiều người con gái để ý. Con đường tương lai thênh thang rộng mở vì bố Quân là một người có chức vụ trong thành phố.

Quân lại tìm lấy tay Hạc. Cô hoảng hốt trong một cảm giác mới mẻ. Hai mươi hai tuổi đầu chưa một lần tìm đến vườn yêu. Cô lo sợ bất trắc cuộc đời sẽ làm cô gục ngã, "Đừng Quân". Mặc. Quân quay hẳn người sang. Mặt đối mặt. "Làm bạn gái Quân nha!". "Hạc...". "Quân biết Hạc muốn nói gì rồi. Những thứ đó không phải là lý do. Điều quan trọng là...". Hạc run rẩy. Cô chới với trong men say tình đầu.

Cái tin Quân và Hạc yêu nhau lan nhanh như điện xẹt. Có đứa hoan hỉ chúc mừng. Có đứa kín đáo bĩu môi. "Thằng Quân nó bị khùng!". Thiên hạ nói vậy, còn Quân thì bình thản nhún vai: "Có sao đâu, ông trời xẻ đôi con tim thì có lúc ổng phải ghép lại chứ". "Không hối hận à?". "Không bao giờ". Hạc có yên tâm không khi mọi thứ đối với cô còn lạ lẫm. Nhưng rồi Hạc cũng chẳng còn thời gian để mà suy nghĩ, bận tâm nhiều về nó khi kỳ thi tốt nghiệp đã gần kề. Cô còn phải vắt giò lên cổ với việc làm thêm ở một cửa hàng bán máy vi tính. Quân nói tới nói lui để cô chịu nghỉ làm. "Lo thi đi, đừng cố!". Quân bóp nhẹ tay cô. Hạc bồi hồi, xúc cảm ban đầu vẫn còn trọn vẹn.

oOo

Cái ngày trọng đại trong cuộc đời sinh viên rồi cũng đến. Hội trường tràn ngập hoa cùng các cô cử, cậu cử trịnh trọng trong những bộ đồ thụng. Đèn flash lóe sáng liên tục. Lúc thầy hiệu trưởng bắt tay trao bằng, Hạc suýt khóc. Quân hân hoan dắt Hạc đến chào mẹ mình. "Cháu chào bác!". "Ừ, bác có nghe Quân nói nhiều về cháu. Chiều nay cháu đến nhà chơi để bác nấu vài món mừng hai đứa tốt nghiệp? ". Đến nhà ư? Cô chưa chuẩn bị tinh thần. Cô nghe nói bố Quân là người rất khó tính.

"Chụp hình với bác nghe". Hạc dạ khẽ, ước gì có mẹ bên cạnh trong những giây phút này để được thấy nụ cười của mẹ. Cô mân mê, vuốt ve tấm bằng, xúc động, đó là nước mắt, mồ hôi, đó là tình thương và hi vọng của mẹ mình. Nhìn mẹ Quân sang trọng đẫy đà, Hạc càng nhớ tới mẹ mình. Tóc lúc nào cũng búi tó, quần ống thấp ống cao, bàn tay chai sần và bàn chân nứt nẻ. Nếu mẹ cô mà đi bên cạnh mẹ Quân hệt như cô đi cạnh Quân. Không bao giờ cân xứng. Nhưng Hạc tự hào về mẹ mình. Người đàn bà cả một đời gian truân.

Buổi chiều, Quân chở Hạc đến nhà mình. Trái với mẹ Quân, bố Quân là người đàn ông nghiêm nghị và lạnh lùng. Giọng nói của ông vang và sắc lạnh. Ông nói nhiều về tương lai của Quân, về những con đường mà anh sẽ đi. Những trở ngại nếu như anh lập gia đình sớm. Ông không bày tỏ sự yêu ghét cô ra mặt nhưng những câu nói buông lửng bóng gió làm Hạc nhói đau. Nhưng mẹ Quân và anh đã khéo léo làm cô quên đi cái cảm giác ấy.

Quân đi làm. Trong một công ty mà bố anh đã xếp đặt sẵn. Quân bảo Hạc đưa hồ sơ để bố anh xin việc giùm. Hạc cương quyết không đồng ý. Chỉ mới quen nhau, cô không muốn mình mang tiếng lợi dụng. Dẫu mỗi ngày cô vẫn bấp bênh trên đường xin việc. Cô không có bạc triệu để lo vào những công ty nhà nước như một vài đứa bạn của mình. Cô cũng không có kinh nghiệm để xin vào những công ty lớn của nước ngoài. Một số khác thì đòi hỏi ngoại hình và xe máy.

Có lúc cô tưởng mình đã yên ổn khi được nhận vào làm trong một công ty xây dựng. Nhưng ông trưởng phòng hay chửi rủa nhân viên trong một lần hét vào mặt cô "đồ ngu" đã khiến cô không kềm nén được tức giận. Cô bỏ việc. Mỗi ngày rơi rụng một giấc mơ, lụi tàn một hi vọng nhưng chưa tắt hẳn niềm tin. Hạc muốn tự mình bước đi, dẫu bàn chân cô có rướm máu nhưng cô biết được giá trị của bản thân mình. Nếu khi nào cô không còn sức và quị ngã, có lẽ...

Thêm một lần, bạn bè bảo cô là đồ dở hơi, đồ không biết thực tế là gì. Hạc mỉm cười nhìn trời xanh và thấy lòng thanh thản. Cô đạp xe đi, hòa trong dòng người với đủ mớ âm thanh, khói bụi và những khuôn mặt rất riêng, những mảnh đời va đạp lẫn nhau để cùng tồn tại.

Lúc Hạc xin được việc làm ổn định cũng là lúc Quân được cơ quan ưu tiên một suất du học hai năm ở Mỹ để nâng cao nghiệp vụ. Quân tôn trọng hỏi ý kiến của Hạc. Cô bảo nếu đó là yêu cầu của cơ quan, mong muốn của bố mẹ, nguyện vọng của mình thì Quân cứ đi. Cô luôn ủng hộ anh.

Lũ bạn dọa rằng Quân mà sang bên ấy sẽ mau chóng quên Hạc. Việc ấy thì cô cũng suy nghĩ nhiều lắm. Cô đã từng nghe chuyện một cô gái mới sang trời tây được chừng một tháng, vẫn luôn tự hỏi tình yêu là gì thì sau đó ít lâu, nửa đêm tốc mềm cô bạn chung phòng dậy và bảo: "Mày ạ, tao đã yêu rồi". Nửa tháng sau thì mướn nhà ở chung và nhanh chóng chia tay. Hay một anh chàng đã từng yêu đương thắm thiết với một người con gái ở quê cô nhưng khi qua tới bên ấy đã nhanh chóng viết thư "say goodbye" tình nhân ở quê nhà. Dò được biển sâu, đếm được sợi tóc nhưng ai đo được lòng người. Quân của cô, cũng có thể lắm chứ, nhưng cô muốn làm một phép thử. Và cô đặt ở Quân một niềm tin.

Phi trường Tân Sơn Nhất một ngày nọ, Quân lưu luyến chia tay mọi người. Anh hôn cô đằm thắm. Khóe mắt Hạc cay nhưng cô không khóc. Tối đêm hôm trước Hạc đã nói với Quân những gì cần nói, đã cho đi tất cả những yêu thương của mình. Quân đi, Hạc thẫn thờ nhìn bóng anh khuất dần trong phòng cách ly. Nếu có ngày nào đó Quân không còn là của cô, có lẽ đó là một lần nước mắt cô sẽ rơi nhưng cô không được phép bi lụy. Cô sẽ dành trọn một khoảng thời gian để đớn đau, để cõi lòng êm dịu, để quên đi có một lần mình đã dạo bước trong khu vườn yêu.

HẠNH ĐÍNH

Đường về nhà

Đó là căn nhà trên đồi, mỗi buổi chiều mẹ tao ngồi ở đó. Tao sẽ làm gì ấy à, chẳng làm gì, tao ngồi trong căn nhà thế thôi. Điều đó không êm ái, dịu dàng à?

Tôi đã được nghe câu nói này vào một đêm, người nói chuyện với tôi là Toản. Ngồi bó gối và say khướt. Tôi đến ở ké phòng trọ của nó. Đáng lý tôi cũng chẳng đến nhưng chẳng còn con đường nào. Sự run rủi đôi khi lại là một cơ may.

Sau nhiều lần đăng quang trong các cuộc thi viết cho thiếu nhi, nhà văn trẻ kiêm họa sĩ Nguyễn Ngọc Thuần (hiện đang làm việc tại báo Tuổi Trẻ) đã có những bước chuyển mới trong cách khai thác đề tài. Truyện ngắn Đường về nhà là câu chuyện trăn trở về cuộc sống thường nhật của hai chàng trai trẻ nhập cư. Để hiểu rằng con người ta vẫn mãi mãi cô đơn, lạc lõng nếu căn nhà không được sưởi ấm bởi lòng nhiệt thành và mối quan tâm giữa những con người trong gia đình. Bởi thế không phải ai cũng có thể tìm được đường về nhà...

P.K.

Ai cũng cần một căn nhà. Điều này được viết ở đâu đó, hay tôi viết ra cũng không biết nữa. Nếu đó là căn nhà của tôi, nó sẽ ra sao? Trồng Lan à, tên của nàng. Những người tên Lan, Điệp, Phượng đều nhạt nhẽo. Mẹ tôi nói vậy. Những người tên Yến thường trắng trẻo. Lan là người yêu của tôi, nhạt nhẽo thì cũng là người yêu của tôi.

Có một khoảng thời gian dài, trước khi muốn tìm hiểu ai tôi đều hỏi tên rồi gọi điện về cho mẹ. Tôi chẳng tin cái trò này nhưng vẫn thích vậy, thích nghe cách mẹ nói. Con đố mẹ, người tên Dung thì thế nào? Trời ạ, con không thấy cái tên đó không hề có một chút màu sắc hay sao? Mẹ thích nhất là những người tên Thoa. Những người tên này dám lam lũ một đời vì chồng. Sau này tôi hiểu ra những cái tên mẹ cho là nhạt nhẽo thường là tên mang cấu trúc thực vật: Lan, Huệ, Cúc, Hồng, Phượng...

Đôi khi tôi cũng nảy ra ý định đi tìm người tên Thoa xem sao. Cái tên này được xem như một biểu tượng chịu đựng trong tôi. Nhưng hình như đời sống bây giờ những cái tên này gần như tuyệt tích. Tôi nói với mẹ như vậy.

- Rất tiếc cô Thoa mày đã chết rồi, lại chết từ thời chiến tranh, nhà cũng chẳng có lấy một tấm hình để thờ. Nếu không mẹ sẽ đưa cho con xem.

Cô Thoa. Cô Thoa bán nhà để chạy chữa thuốc thang cho chồng, cô đi chưa qua khỏi chiến tranh đã chết. Cô chưa có dịp cất nhà lần thứ hai. Cô chỉ có một căn nhà đã mất, cho một cuộc đời đã mất.

- Với tao, ngôi nhà như một biểu tượng yên lành - Toản nói.

Tôi ở với Toản được một tháng thì cả hai dọn qua phòng trọ khác. Người chủ nhà cũ không thích những kẻ về khuya. Một lũ trác táng, trong mắt của bà tôi đọc được điều đó. Bà tên Hạnh. Có nói gì nhiều thì cũng không thể thay đổi con mắt của bà.

Tôi gọi điện về cho mẹ.

- Đố mẹ, người tên Hạnh thì thế nào? - Tôi nín thở để nghe điều này.

- Người tên Hạnh ấy à, để mẹ xem, thường thì đoan trang hơn mức cần thiết.

Hình như mẹ tôi nói vậy. Tôi rú lên, trúng phóc. Ít ra thì cũng đúng trong trường hợp này.

Xem ra trên cõi đời để có một cái tên khó lắm thay. Một cái tên lưu lại, một cái tên để ta có thể yêu, để hi sinh cho nó. Bạn thân tôi tên Quốc, Hà, Thảo..., đôi khi tôi cứ đoán mò họ tượng trưng cho điều gì. Nhưng hoàn toàn không bao giờ hỏi mẹ. Một đời sống con người có dễ dàng đoán định thế chăng?

Căn phòng mới thuê nhỏ hẹp như một giấc mơ tầm thường. Cổng vào đơn độc, bẩn thỉu. Nằm cao vút trên tầng năm. Muốn vào giấc mơ này tôi phải đi 120 bậc thang và qua một hành lang đầy trẻ con. Không biết tại sao chúng nhiều đến thế, trần truồng đen đúa. Tôi hay nhìn chúng, tuổi thơ của tôi nằm trong đám này đây, thò lò mũi dãi, thiếu chăm sóc. Bố mẹ của chúng gần như tôi không nhìn thấy. Họ đi từ sáng sớm, nửa khuya mới về. Đứa lớn lo cho đứa nhỏ. Đôi khi tôi có nghe tiếng cha mẹ nó cười, yên lành, trần trụi. Sự yên lành này như mang trong mình một cơn bão, chúng có thể cuốn đi bất cứ lúc nào.

Một đôi lần tôi đi qua đi lại trước căn phòng của họ, tôi muốn nhìn thấy khuôn mặt người đã cười kia. Nhưng thường thì chỉ thấy cái bóng. Họ đang ôm đứa con của mình, họ đang ôm cái mớ giẻ rách thần thánh của mình. Và cái bóng bật cười khanh khách.

Đêm nằm tôi nghĩ về họ, nghĩ về tiếng cười. Bởi tôi thừa biết họ chỉ có thể cười trong giây phút ngắn ngủi thôi, sau một ngày làm việc mệt nhọc không còn kẽ hở. Cái kẽ hở ấy họ dành cho cái mớ giẻ rách kia. Cả một đời sống to lớn hùng vĩ bên ngoài đã được cất đi trong bóng đêm như vậy.

Những ngày tháng thất nghiệp nối tiếp, tôi chơi với đám trẻ con. Tôi cho chúng nó một niềm tin rằng có một ngôi nhà dành riêng cho chúng. Ở đó người ta có thể ngoáy mũi mà không bị người lớn la. Có thể ăn bánh như một ông hoàng, và dĩ nhiên ở đó người ta bình thản trong nỗi buồn.

Ý tưởng này đến với tôi có lẽ từ ngôi nhà của Toản. Nó thường say ngất vào những ngày nghỉ. Mặc dù nó chỉ bằng tuổi tôi thôi. Mặt nó già choắt. Tôi đếm được bốn nếp nhăn. Đáng sợ lắm. Điều đó có nghĩa rằng một lưu lượng thời gian lớn hơn tôi tưởng đã trôi qua, chúng trôi nhạt nhẽo và buồn phiền. Trôi không nhìn thấy.

Một đôi lần tôi ngồi uống với nó. Toản nói.

- Tao vừa nghĩ ra một điều như thế này, ngôi nhà chính là dấu ấn về một con người, về khả năng của họ gắn bó với một địa điểm. Mẹ tao suốt cuộc đời không bao giờ ra khỏi căn nhà của mình.

Hôm đó Toản bốc hàng cho một người nước ngoài, một ông tây già cỗi ở bến đỗ xe. Cái vốn ngoại ngữ kha khá bỏ ngang ở đại học thường giúp nó vớ bẫm những cú như vậy. Ông ta khoảng chừng năm mươi, có một đứa con gái nõn nà. Và Toản gọi cô ta là "người huyền bí". Một tiêu đề hống hách có thể cầm chân mọi câu chuyện.

Nó được ông ta dẫn về nhà, khu biệt thự cho thuê, có hồ bơi. Ngẫm nghĩ thế nào nó xin ông ta được tắm ở đó.

- Đúng là điên thật! - Tôi thốt lên.

- Nhưng chẳng sao - Toản cười - Hồ nước xanh lắm. Khi tao đang tắm thì "người huyền bí" đi ngang. Tắm xong tao xin ông ta được lên sân thượng chơi. Tao xin đến ba lần. Chắc ông ta sợ tao là kẻ cướp. Tao nói với ông ta vẻ đẹp của một ngôi nhà không phải nó mang trong mình một kiểu cách gì, mà nó đẹp ở chỗ từ sân thượng nhìn ra bầu trời trong vắt thế kia. Lưỡng lự một hồi ông ta quyết định cho tao lên. "Người huyền bí" cũng lên theo. Đứng trên cái sân thượng đẹp đẽ đó ta muốn lao mình ra ngoài dễ sợ. Nếu có được một căn nhà như vậy thì cú nhảy của tao chẳng nhằm nhò gì so với vẻ đẹp của nó.

Đó là một căn nhà bốn tầng, rất nhiều bancông. Cầu thang lên tay vịn bọc đồng. Trên đó có một bộ bàn ghế giản dị và một chiếc dù. Những buổi chiều xuống ông tây đã ngồi ở đây. Ông ta uống rượu tây. Ông ta nhìn xuống buổi chiều đẹp đẽ, nhìn xuống những hàng cây.

- Mày tưởng tượng nổi không, "người huyền bí" mời tao một ly rượu rót từ chai rượu của bố. Thế rồi cả ba chúng tao cùng uống. Ông ta kể tao nghe về một căn nhà xa xôi nào đó ở nước ngoài. Mùa đông tuyết đã rơi xuống như thế nào. Trên bancông màu trắng tuyết của chúng như một biểu tượng thanh khiết và bi thảm. Ông ta co ro trong sự cô đơn và mơ về một nơi nắng đẹp. Ông ta khát khao một tia nắng. Một tia nắng như ngoài cửa sổ này đây.

Và Toản đã kể cho ông ta nghe về căn nhà tưởng tượng của nó. Cái thứ ánh nắng như vậy không thiếu đâu. Một lũ gà, trời ơi, chúng nhàn nhã như thế nào, đi lại trong sân. Lũ gà mái đã đẻ ra những quả trứng thơ mộng trinh trắng nhất...

- "Người huyền bí" khen tao kể chuyện hay, còn ông bố bắt tao uống đến say bí tỉ. Uống xong, tao xin tắm một lần nữa. Trời ạ, mày tưởng tượng đi, thế giới này mà không tưởng tượng thêm thì con người chắc phải chết vì nghèo; hồ bơi rộng khủng khiếp, từ đầu này đến đầu kia cũng phải 25m. Người tao ướt đẫm, lạnh run, nhưng vẫn muốn tắm. "Người huyền bí" cho tao một cái khăn thơm ngát. Riêng người bố hẹn tao một lúc nào đó rảnh rỗi đến chơi. Tao đã là khách của họ. Và tao đã hứa. Chuyện chỉ có vậy.

Một hôm ngoài hành lang có tiếng cãi vã nhau rất lớn. Đó là mẹ của thằng bé mà tôi thương nhất, tôi thương nó vì nó chảy mũi dãi nhiều nhất. Nó gợi cho tôi nhớ về tuổi thơ của mình nhiều hơn cả, như một biểu tượng cô đọng, đặc quánh. Những đứa ít chảy mũi không làm tôi nhớ nhiều. Ngày xưa tôi không hề chảy mũi như nó đâu, nhưng hình như với cái biểu tượng như thế mới làm tôi nhớ sâu sắc hơn. Mẹ nó đang bị chủ nhà mang đồ ra để ngoài cửa. Có lẽ cô ta chưa trả tiền nhà. Những lần trước cũng thấy bị vậy nhưng sau đó thì lại dọn vào. Cũng có thể đã có tiền trả chủ nhà hoặc họ cho nợ gì đó. Tôi không rành lắm nhưng có thể đoán ra.

Nhưng lần này có vẻ khác hơn, cô ta ngồi khóc. Thằng nhóc đứng bên mẹ. Mũi nó chảy dài ra. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy bố nó hoặc bất cứ bóng dáng một người đàn ông nào trong căn phòng đó. Chỉ có hai mẹ con. Thường thường cô ta ghé về nhà vào lúc trưa trật và sau đó đi tiếp đến nửa khuya. Thằng bé tự ăn tự ngủ. Có hôm thấy nó nằm trên vách cầu thang ngủ thiếp đi. Có lẽ nó trèo lên tuột xuống chán chê thế là cơn buồn ngủ ập đến. Tôi ẵm nó vào nhà. Vừa ẵm vừa thấy ghê ghê cái phần mũi dãi.

Có một lần tôi tắm cho nó vào ban trưa. Chẳng hiểu nghĩ gì, chỉ chợt nổi hứng bất thường vậy thôi, một chút lãng đãng đâu đó trong người còn sót lại khiến tôi làm việc này. Tắm rửa xong, khuôn mặt nó bỗng sáng bừng đến không tin nổi. Giống như có một thiên thần nằm đâu đó bên dưới lớp da bẩn thỉu kia. Đến chiều nó nhếch nhác trở lại. Thiên thần cũng chẳng thấy đâu. Và Toản kết luận rằng những thiên thần đến rồi đi, và cái nguyên nhân sâu xa nhất đó là sự nghèo khó, sự nghèo khó đã giấu đi những thiên thần. Tôi cho đây là một câu trả lời hay nhất về sự hiện hữu của những thiên thần.

- Thế giới này có gì nào?

- Đó là một căn nhà - Toản trả lời như đinh đóng cột - Người đàn bà kia đã bị lấy đi cái thế giới mà cô ta cần. Sự hiện hữu của cô ta chứ đâu.

Hai ngày sau, không một lời từ biệt, cô ta lặng lẽ ra đi. Cô ta cũng không có ai thân quen để mà nói điều này. Những khoảnh khắc của sự giao tiếp đã bị cắt xén một cách tồi tệ. Vì đâu, chỉ vì miếng ăn thôi. Chúng đã trám vào cái thế giới đáng lý cô ta sẽ được rảnh rỗi gặp gỡ người này người kia, trao đổi, hàn huyên, được cởi bỏ tấm lòng mình. Mười hai giờ đêm cô ta mới về đến nhà thì thử hỏi làm sao, chỉ còn lại một đứa con thò lò mũi dãi thôi.

Ba hôm sau tôi nhận được một công việc - là ngày vui của tôi. Tôi kéo Toản đi làm vài chai bia, trả thù những ngày đói meo. Vả lại tôi muốn nhắc nhở cho nó thấy rằng những chai rượu đầy cồn của nó thật tồi tệ. Chúng cũng là men đấy - một sự tồi tệ, nhưng có những chất men tồi tệ khác thanh tao hơn, nó được nấu bằng lúa mạch. Nó được ủ trong những hầm kín, trưng bày sang trọng trong những khách sạn đắt tiền.

Khi uống được ba chai bia thì thằng Toản khóc.

- Khốn nạn thật, mày sỉ nhục tao đấy à!

Một điều ngoài dự đoán của tôi. Cả hai lầm lũi bỏ về. Đường về xa lắc, qua hai cây cầu. Qua hai cây cầu tức là qua hai con sông. Người xưa xem chuyện qua sông như một biểu tượng của sự xa cách. Như đi qua một quãng đời. Tôi chưa đi hết một phần ba cuộc đời thế mà đã nhìn thấy sông rồi. Chiếc cầu thứ hai bỗng dưng làm tôi e dè ở đó.

- Thôi quên đi. Nhiều lúc sao tao đau đời đến thế - Toản nói - Chúng mình ghé chỗ lão già nước ngoài chơi đi. Lão dễ thương lắm. Tao sẽ cho mày thấy thế nào là một hồ bơi dài 25 mét, vuông vắn và hoàn toàn nằm trong nhà.

Chúng tôi quay lại khu biệt thự. Ngay từ xa tôi đã nhận ra cái bancông mà thằng Toản nói. Nó đẹp quá. Như một giấc mơ lạ lùng của kẻ không nhà, của những kẻ tha phương đến tìm kiếm sự hiện hữu. Thằng Toản mạnh dạn đến nhấn chuông.

- Tao quên mất, không mua cái gì đó làm quà cho lão - Toản nói - Người già giống như một lần nữa trẻ con, họ chỉ chờ đợi những điều như thế.

Cửa mở. Một người phụ nữ bước ra. Tôi giật mình. Đó là mẹ của thằng bé thò lò mũi dãi.

- Chị đấy à? - Tôi thốt lên.

- Các cậu là ai?

- Tụi tôi là người thuê nhà gần chỗ chị hôm trước đấy.

- À, thì ra là vậy. Tôi vừa được người ta thuê coi nhà này hai hôm nay. Tôi sẽ ở đây cho đến lúc có người khác thuê thì đi.

- Thế thằng bé đâu rồi?

- Nó ngủ. Các cậu còn nhớ nó à? Căn nhà này mát lắm nên nó ngủ suốt ngày, chẳng thèm đòi ăn nữa. Từ nhỏ đến giờ nó chỉ toàn ở trong những căn nhà nhỏ và nóng.

- Thế chị có biết ông tây vừa mướn căn nhà này đi đâu không? - Ông ta chết rồi. Nhảy lầu, tự tử. Có như thế người ta mới thuê tôi đến đây. Những người phục vụ cũ bỏ đi hết. Họ sợ. Tôi cũng sợ, nhưng để có nhà cho thằng bé ở, đành cắn răng.

- Chị có biết tại sao ông ta tự tử không?

- Nghe nói ông ta không có nhà, không người thân. Ông ta là tây nhưng cũng không có nhà. Ông ta dành dụm được một ít tiền và đến đây để chết. Ông ta thèm nhìn ánh nắng.

Chúng tôi lặng người. Thì ra cũng vậy, những kẻ đi tìm. Những kẻ đi trên cỏ non dự tưởng. Tính hết mùa hè này tôi đã ở thành phố 11 năm. Tôi đã thay đổi giấc mơ 27 lần cả thảy về một căn nhà. Đầu tiên là một căn nhà vĩ đại, và cứ tiếp nối nhau nó thu hẹp dần lại, bây giờ nó chỉ là một căn nhà cũ kỹ, nhỏ bé, xa ngút ngàn. Cái chết của ông tây đã nhắc nhở tôi không phải chỉ ở đây, mà còn ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này, không chỉ 11 năm, có đôi khi giấc mơ kéo dài hết cả cuộc đời.

- Thôi, thế là ông ta đã về nhà rồi - Toản nói như muốn khóc - Em còn nợ ông ấy một lần đến thăm.

- Em quen ông ta à?

- Em cũng không biết nữa. Thôi, chúc chị may mắn. Tụi em về đây.

Có tránh né thì con sông cũng hiện ra ở cuối con đường. Đường về nhà. Đường về nhà sao xa quá. Đi mãi sao không tới, đi mãi vẫn không thấy, nó nằm quá xa khỏi tầm mắt tôi.

Thế bạn hỏi cô gái huyền bí con của ông tây đâu ư? Có cô gái nào đâu. Thằng Toản đã thêm cô ta vào, như chúng tôi đã từng thêm vào đời mình những điều huyền bí, những điều bí mật, những điều mà cuộc sống xa nhà không bao giờ có. Ông ta là một kẻ cô đơn.

NGUYỄN NGỌC THUẦN

Chat room

Nhóm chat room Amazon bắt đầu sôi nổi từ khi có mặt hai tay đầu hói Diễn, Đức. Đầu hói là do Hoa Dung đoán mò đặt tên chứ cả nhóm chỉ biết hai người qua lý lịch trích ngang, còn dung nhan với cái đầu bị vắng tóc ít hay nhiều thì cả hai giấu kỹ.

Ra mắt buổi chat đầu tiên Diễn viết:

- Tụi tui chỉ mong được làm người tình không chân dung của tất cả quí vị thôi.

Chat room là câu chuyện dí dỏm, dễ thương, gây bất ngờ vào giờ chót.

Tác giả Minh Thùy từng học văn khoa Sài Gòn trước 1975. Bà đã cộng tác với TTCN năm 2004 qua truyện ngắn Trà đá. Hiện đang làm dịch vụ du lịch và sống tại thành phố Mainz, Đức.

P.K.

Hắn lòng vòng chối quanh khi Quỳnh bắt bí phải trình diện nhan sắc mới cho tham gia chat room của cái nhóm Amazon toàn đàn bà.

- Không có ngoại lệ ở đây, ai muốn vô chơi phải lên hình, có khi phải lăn dấu tay, lấy mẫu DNS trước cho chắc, biết đâu có tên terrorist nào dở hơi định vào chat room này khủng bố tinh thần cô đơn tụi tui thì sao?!

Đức than thở:

- Sao khó khăn quá vậy mấy bà... ngoại, thân em trôi nổi từ trong nước ra nước ngoài, đến nay gần nửa thế kỷ vẫn mồ côi vợ thì mấy bà biết nhan sắc của em thê thảm cỡ nào rồi.

- Dám hắn là Chí Phèo vừa mới trốn khỏi bệnh viện tâm thần, có ngày lên cơn tưng tửng xỉ vả bọn mình.

Ý kiến của Điệp làm cả nhóm thất kinh, yêu cầu tạm ngưng để tất cả 14 bà hội ý chat riêng, duyệt trình đơn xin gia nhập của hai ông. Hai đầu hói bắt đầu nản chí anh hùng định xin ra, Phượng ra tay cứu vớt:

- Muốn biết người biết ta thì cứ để bên địch lên tiếng chát chét vài hôm đi, xem hai ông phát ngôn ra sao rồi có gì bác đơn người ta chưa muộn, mà mình được tiếng ăn ở có đức.

- Bọn tui đâu có ngán, nếu cần cứ đem webcam ra dùng thì biết mặt nhau liền, chỉ sợ mấy bà thấy mặt hai đứa tui lại phải khóc thầm ân hận là: "Sao ngày xưa anh không đến sớm với em" hay ngậm ngùi hát câu: "Duyên trăm năm đã lỡ, tình một thuở còn vương...".

Sau cùng hai ông cũng vô được vòng bán kết, với bảy phiếu thuận, bảy phiếu chống. Trận chung kết chưa xác định thời điểm nên hai ông cứ chat chat liên tục, dù âm thịnh dương suy. Từ ngày có hai đầu hói, những kỷ niệm vụn vặt thời học trò bớt nghe kể lể, không khí sôi nổi với những chuyện đùa, chuyện thời sự. Người trong nhóm ở rải rác mấy nước: Việt Nam, Mỹ, Úc, Canada, chỉ có Phượng một mình bơ vơ bên trời Âu, nước Đức.

Diễn ở vùng Florida, mở màn buổi chat:

- Quí vị nghĩ sao khi Hoa Kỳ định tiến công Iraq? Cậu em út tui đang học đại học lại muốn đăng ký đi lính Mỹ. Ông bà già rầu quá.

- Làm gì phải có danh chính thì ngôn mới thuận. Không có lý do cụ thể mà cứ ào ào nhảy vào nước người ta, đúng là khách không mời mà đến.

- Có ai biết chuyện Aristotle và Alexandre đại đế không? Để Dung kể nghe, Alexandre là vị vua thông minh theo học thầy là Aristotle. Với mục đích xây dựng hòa bình cho Hi Lạp, ông đem quân tiêu diệt các nước lân cận để tránh bị xâm lăng, tấn công. Cứ thắng trận ở nước này xong, ông lại đem quân đánh nước khác, chiến tranh kéo dài liên miên. Khi lên ngôi hoàng đế, ông tâm sự với thầy: "Con sẽ đưa quân càn quét Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ". "Rồi sau đó?"- Aristotle hỏi. "Con sẽ dẹp luôn nước Ba Tư, nêu cao ngọn cờ Hi Lạp". "Rồi sao nữa?". "Con sẽ thu phục cả Trung Đông vào tay mình". "Rồi sao nữa?". "Sau đó thì con mới ngủ được bình yên".

Aristotle mỉm cười, nói: "Con ơi, thế sao con không ngủ bình yên ngay từ hôm nay đi, có hơn không!".

oOo

Hôm nào chat room vắng bóng hai đầu hói thì buổi chat xoay ra hỏi thăm tình hình mấy người vắng mặt.

- Cả tuần nay sao không nghe Thanh lên tiếng, nó lặn đâu?

- Nó bận tổ chức sinh nhật cho con gái.

- Nghe nói đó là con nuôi?

- Không, con ruột, nhưng nó thuê người ta mang bầu giùm, đẻ giùm.

Phượng sửng sốt:

- Có chuyện đó nữa, sao làm được?

- Xứ Mỹ này mà, chỉ cần xì tiền ra là muốn làm gì cũng có, nó thuê người ta đẻ hộ bằng cách cấy tinh trùng, nghe đâu phải trả đến 100.000 đô. Nó không muốn đẻ, giữ dáng người cho đẹp để chồng khỏi chê.

- Vậy mà ông chồng cứ kiếm cớ lặn về Việt Nam thăm "em gái" hoài. Hương ở Sài Gòn, chừng hai ba tháng là thấy mặt hắn nhởn nhơ ở mấy câu lạc bộ tennis, chưa bao giờ từ chối buổi thi hoa hậu hay trình diễn quần áo thời trang nào.

- Làm cách nào mà Thanh thành triệu phú mau thế?

- Nó trúng mánh nhờ mua bán stock (*) của Microsoft, vừa khi stock lên giá cao nó bán hết, lời gấp đôi, thành triệu phú. Còn bà Kim nuôi stock như người ta nuôi heo, chờ heo nặng ký bán cao giá lời nhiều, bất ngờ stock xuống giá ào ào, chỉ còn nước khóc.

- Tham thì thâm, em ơi, he... he.

- Thế đứa con gái của Thanh giống ai? Sao tao nghi nó giống cái bà mang bầu đẻ thuê giùm quá?

- Lại Tào Tháo nữa, tao có đến chơi nhà nó, thấy đứa bé giống cha nó lắm.

- Dung lại nghi nó giống ông Phi mới vô nhóm.

- Phi nào vô đây?

- Phượng tuần trước không vô chat room chưa biết, thêm một đầu hói mới xin gia nhập, họ Tôn, khai báo ở vùng Los Angeles.

- Hê, mấy người phải thông báo cho tui biết trước để bỏ phiếu chứ.

- Đừng khó tính em ơi, anh Phi còn đơn côi chưa "dzợ", là bác sĩ ở bệnh viện, ai đang sống mình ên thử nhào dzô đi.

- Lý lịch lấy đâu ra, độ chính xác bao nhiêu phần trăm?

- Nghe Thanh nói hình như hắn ta là bạn của bạn chồng nó, hồi xưa ở bên xóm Gà, Gia Định, là cháu trăm đời của Tôn Ngộ Không.

- Hậu duệ của Tôn Ngộ Không thì phải ở trong sở thú chứ sao ở xóm Gà?

- Hắn là bác sĩ mà không có phòng mạch riêng, vẫn kéo cày ở bệnh viện thì chắc đời còn đìu hiu, Thanh có biết mặt hắn không?

- Có lẽ không, nhưng chắc đầu hắn cũng hói như hai tay Diễn, Đức.

oOo

Nhân vật đầu hói thứ ba cũng trốn không đưa hình. Mấy ông được lợi là vào website của nhóm xem hình, biết mặt, biết lý lịch cả 14 người nhưng không tay nào đủ khí phách chịu trình diện, lý lịch mơ hồ nhưng phát biểu có tôn ti trật tự nên cả nhóm thôi không thắc mắc. Anh Phi xé lẻ chat riêng với Phượng:

- Phượng có vẻ âm thầm nhất trong nhóm, sao ít lên tiếng vậy?

- Thì mọi người nói hết phần rồi, mình làm cột đèn đứng nghe.

- Anh lại thích sự im lặng của Phượng.

- Biết tui bao nhiêu tuổi mà xưng anh ngon ơ vậy, coi chừng nhỏ tuổi hơn chị đấy.

- Không sao, lớn tuổi hơn thì làm anh lớn, ít tuổi hơn thì làm anh nhỏ vậy.

- Thử trả lời Phượng câu này rồi hãy tự phong chức cho mình: đố anh, cái tượng nữ thần Tự Do ở New York đi giày hay chân đất vậy, trả lời ngay, 10 giây thôi.

- Có khi đi giày, có khi chân đất. Mùa đông lạnh, tuyết rơi thì nữ thần mang giày, mùa hè nóng thì bà đi chân không, hóng gió cho mát, trả lời vậy được không?

- Láu cá, trả lời nước đôi. Đố anh chơi chứ Phượng cũng đâu có biết, vì đã qua Mỹ bao giờ đâu.

- Úm ba la, mình với ta tuy hai mà một, ta với mình láu cá như nhau. Đố lại Phượng, nhà văn nào từng viết câu này: "Trên quyển sổ đời số mệnh tên chúng ta cùng ở một hàng".

- Tưởng gì, dễ ợt, đó là Shakespear, viết ở vở kịch Romeo and Juliet, nhưng liên quan gì số mệnh ở đây?

- Thế Phượng không thấy tên anh với Phượng cùng có một vần hay sao?

Phượng lặng thinh, thở ra. Từ lâu cô đã thờ ơ trước những lời ngụ ý trêu ghẹo của đám đàn ông ở mấy party, đám cưới. Sau lần chia tay ly dị với Hưng, cô cay đắng thấy mình mất hết niềm tin ở cuộc đời, con người.

- Phượng, sao im lặng vậy? Cho anh xin lỗi. Nếu có dịp mời Phượng sang Mỹ chơi...

Phượng lặng im offline, tắt computer.

oOo

Trong đầu Phi dường như chất chứa rất nhiều bài thơ, bài hát trữ tình một thời xao xuyến tâm hồn giới trẻ nhưng anh lại không nhớ hay lẫn lộn tên tác giả. Không hôm nào Phượng không nhận ít nhất một cái mail của Phi. Cô ít vào chat room Amazon của nhóm bạn, sợ có lúc không kềm được lòng mình, tỉ tê bật mí tâm sự thì thành trò cười cho cả nhóm.

- Em có về ăn cưới những vì sao, Để chân bước trên dòng sông loáng bạc, Ở một chỗ tưởng chừng như đi lạc, Yêu một người mà cảm thấy mênh mông...

Phượng có biết tác giả mấy câu thơ đó không? Anh đang đi lạc đây, Phượng ơi...

Những cái mail của Phi chỉ đôi dòng vớ vẩn, trôi nhẹ nhàng vào trái tim đóng băng của Phượng. Có lúc cô ao ước muốn biết Phi như thế nào, lập tức viết mail nhờ Thủy Cúc ở San Jose tìm hiểu điều tra, chưa kịp gửi mail đi đã vội xóa.

Cô sợ. Cô không dám đối mặt với sự thật. Phượng đã đủ ê chề thất vọng với đời. Tuyệt vọng lần nữa biết cô còn sức lực, ý chí đứng dậy đi tiếp được nữa không. Cái gì mơ hồ xa xôi mới đẹp. Phượng tự an ủi mình mà cảm thấy thương thân.

- Phượng là hoa đỏ hay hoa tím? Có hôm ngồi ở thư viện của bệnh viện gõ computer trong đêm, anh nhớ Phượng quá sức. Nơi anh ngồi, dọc theo cửa sổ là những bụi hoa hồng trắng lóng lánh sương đêm, giữa sân có cây phượng tím, không biết ai trồng từ lúc nào. Buổi chiều, sau mấy giờ căng thẳng ở phòng mạch, anh hay ra ngồi ở ghế đá bên cây phượng đó, chờ một cánh hoa nào vô tình rơi xuống vai anh, tưởng đó như là Phượng.

Bao giờ thì Phượng rơi xuống đây, bên anh?

oOo

Nhìn trên bản đồ thấy gần, chạy xe ra khỏi trung tâm thành phố Los Angeles hơn một giờ mới tới bệnh viện. Thật ra đó là khu dưỡng bệnh dành cho người giàu hơn là bệnh viện chữa trị cấp thời, ở trên một khu đồi thấp, khung cảnh đẹp êm đềm. Tuấn thả Phượng ngay trước cổng sắt, dúi vào tay Phượng cái mobile phone.

- Chừng nào muốn về chị bấm số handy là em sẽ lên đây đón chị, em còn phải chạy vài việc riêng nữa, O.K.

Chưa hết câu, Tuấn đã vù xe biến mất. Phượng hơi lo nhưng không dám kỳ kèo Tuấn theo mình làm vệ sĩ. Dân Mỹ quí thời giờ như vàng. Người nào cũng ôm hai ba job, đời cứ xoay như con lật đật.

Qua Mỹ mới hai hôm, Phượng chưa dám cho ai biết tin, kể cả nhóm chat room Amazon. Cả đám biết Phượng qua Mỹ mà không thông báo trước dám đăng báo từ Phượng. Chính cô cũng bất ngờ với quyết định của mình.

Chiều thứ ba, Mai làm việc ở phi trường Frankfurt gọi điện thoại tiết lộ:

- Chuyến bay Lufthansa trống nhiều chỗ, để giá rẻ cho nhân viên, em nhận hai vé bay qua Los Angeles, chị có xin nghỉ phép được thì bay cùng với em.

Trưa hôm sau hai chị em đã ngồi trên máy bay.

Ông gác cổng da đen lật đi lật lại cuốn sổ danh sách nhân viên, rồi mở computer.

- Cô thông cảm, không có ai ở đây mang tên TON hết, cô có nhầm lẫn không?

Chính Phượng cũng tra tìm với ông, chỉ thấy có sáu nhân viên người Việt, bốn người mang họ Nguyễn, người họ Lê và người họ Trần.

- Tôi làm việc ở đây hơn 20 năm, chưa hề thấy tên này. Cô có tấm hình nào của người bạn đó không, tôi biết mặt hết mọi người ở đây, từ ông giám đốc đến nhân viên, bệnh nhân, người cũ và mới, hỏi tôi còn hơn điều tra cảnh sát.

Phượng cảm ơn ông ta, cười như mếu, chính cô có biết mặt người đó đâu. Ông gác cổng nhìn cô thương hại.

- Tôi nghĩ ra kế này, cô vào căngtin ngồi nghỉ, vừa quan sát mọi người, bao lâu cũng được. Bộ dạng cô có cho đeo đầy súng trên người cũng không dám thành tên terrorist dấm dớ nào đâu, chừng nào tìm ra người quen thì cho tôi biết, O.K?

Phượng ngồi chán chê ở căngtin, đi loanh quanh các dãy hành lang, gặp nhiều nhân viên da vàng tóc đen nhưng khi cất tiếng hỏi mới biết đa số là dân Tàu hay Mễ. Cái con người mỗi ngày gửi mail cho cô dường như không có trên đời này. Trời tối dần, đa số bệnh nhân trở về phòng, cô đi vô định lên lầu năm, lầu sáu. Một bác lao công tóc bạc, trán hơi hói, độ 60 tuổi, mặc áo xanh, đang đẩy cái xe điện lau hành lang sạch bóng.

Nỗi hi vọng hồi hộp từ hồi trưa mới đến đây rơi rụng hết. Cô xách cái túi có gói quà từ nước Đức dành cho Phi thất thểu quay lại căngtin chờ Tuấn đến đón. Tim cô bất ngờ đập mạnh, cái bảng hướng dẫn vào thư viện treo cạnh căngtin, lúc mới vào cô chẳng để ý. Phượng bước nhanh đến đó. Đúng như Phi mô tả, ở góc thư viện là một dãy computer để bệnh nhân vào Internet đọc tin tức, gửi mail... Vài người đang lóc cóc gõ phím, Phượng chọn cái bàn computer cạnh cửa sổ. Cô muốn ứa nước mắt. Bên ngoài cửa sổ là dãy hoa hồng trắng, giữa sân cỏ là cây phượng tím và cái ghế đá. "Thế còn anh, anh đang ở đâu?".

Cô kín đáo quan sát từng người đang dán mắt vào khung hình, thất vọng: tất cả đều tóc nâu hay vàng. Cô gõ phím:

- Hello, hôm nay Phượng rảnh rỗi, có nhiều chuyện để chat, anh có bận gì không? Phượng có điều muốn hỏi anh đây!

Im lặng. Cái tên Phi không thấy bật xanh, chưa thấy dấu hiệu báo online. Phượng nhìn đồng hồ, quá sớm. Phải sau 9 giờ tối anh mới vào chat room. "Thường giờ này anh còn đi một vòng thăm bệnh nhân" - Phi từng kể như vậy. Cô đốt thời gian vào Internet đọc tin tức, chưa dám gửi mail báo tin cho đám bạn. Nhất quyết hôm nay ở đây cho đến tối. Cho đến khi nào tìm ra được Phi, cái ông bác sĩ đó, người mọi ngày gửi đến cô những lời dịu dàng tha thiết.

- Phượng đó à, hôm nay vào chat sớm thế, anh mới vừa rời phòng mạch xong, rất mệt, nhưng chat với em là vui, hết mệt ngay, có chuyện gì kể anh nghe đi.

Phượng xúc động, ngày chưa tết sao lòng mình như tết, như có tiếng pháo nổ giòn giã ấm áp đêm giao thừa. Anh có mặt thật trên cõi đời này chứ đâu phải là ma. Niềm tin của cô chưa chết.

- Tự dưng em chợt nhớ nhà văn Remarque từng viết: Không cần cứu vớt những giấc mộng bởi vì giấc mộng sẽ tự hồi sinh. Hãy cứu lấy niềm tin vì nếu không có niềm tin thì người ta biết sống bằng cái gì! Đố anh câu đó trong tác phẩm nào?

- Chịu thua, đầu hàng, em đọc nhiều thật đó, dám thành cái tủ sách biết đi.

- Chịu thua sớm vậy, dở tệ. Ở tác phẩm Một thời để yêu và một thời để chết.

- Thế chúng mình đang ở thời nào đây, theo em?

- Em không biết, có lẽ chính anh mới là người cho em biết.

- Nói nghe kỳ bí quá. Hôm nay nhớ em, lẩn thẩn anh làm ra mấy câu thơ này gửi tặng em, đừng chê thơ con cóc nhé:

Cũng chỉ là gian dốiÔi nhỏ của lòng taĐợi chờ gần mãn kiếpNhớ thương muốn bạc đầuMà em chừng xa lạNhư chưa từng quen nhauCòn gì trông ngóng nữaĐời ta... đời ta đâu...

Phượng biết không, anh chờ em chín đỏ trái sầu, chờ em muốn bạc đầu rồi đây...

Phượng đứng bật dậy, trong đầu cô như vang lên chát chúa tiếng nổ của quả pháo đại cuối cùng ở tràng pháo dây. Mặt cô tái xanh, trái tim như bị thắt lại, đưa mắt quan sát những người đang gõ phím. Chỉ còn lại ba người, và một người mới vào ở góc phòng, quay lưng về phía cô đang dán mắt vào màn hình, say mê gõ. Cô từ từ đi đến sau lưng người đó. Màn hình trắng, những dòng chữ đen nhảy múa... Hình như ở đó là mái tóc bạc, hơi hói, bộ áo xanh lao công cô gặp ở hành lang, một gương mặt gầy khô, mệt mỏi, nhẫn nhục.

- Phượng có thấy câu thơ ôi nhỏ của lòng ta... nghe da diết quá không...?

Cô đi như kẻ mất hồn, qua khu sân cỏ, qua cổng bệnh viện, thẳng ra đường chính. Ông gác cổng buông tờ báo, nhìn theo Phượng lắc đầu.

Người đàn ông vẫn tiếp tục gõ:

- Phượng đâu rồi, sao đang chat mà bỏ đi, hello, Phượng ơi...

Trong bóng đêm chẳng còn nhìn thấy cây phượng tím... Cũng chỉ là gian dối. Ôi nhỏ của lòng ta... Còn gì trông ngóng nữa. Đời ta... đời ta đâu...

(Mainz, tháng 12-2004)

MINH THÙY

__________________________

(*): cổ phiếu

Biết ngày nào nguôi

TTO - Ra khỏi cái ngõ lát gạch vương đầy rơm vàng, đây đó lún phún những thảm mạ xanh, con bò ngúc ngoắc cái đầu muốn lôi Thao đi. Anh thả chùng rồi bất thần kéo căng dây thừng, dúi đầu nó xuống đám cỏ mần trầu cằn cỗi mọc bên đường làng và gọi với Thơi đi làm đồng.

Đang mùa làm bãi trồng rau, đã thành lệ, buổi trưa cứ ăn cơm xong Thao dắt bò qua rủ chị đi làm.

Vừa thấy Thơi cầm cái vồ ra đến ngõ, tim anh đã đập liên hồi, lòng chộn rộn một cảm giác khó tả. Thơi đẹp quá, môi chị mọng như quả bồ quân, da trắng ngần và ửng hồng dưới vành nón.

Chị Thơi là người đẹp nhất trong đám con gái ở làng. Phải mỗi cái tội mắt chị buồn buồn, lúc nào trông cũng ngân ngấn nước như chực khóc. Mẹ anh bảo mắt chị đẹp, nhưng số chị khéo mà khổ mất. Anh không tin như vậy, từ sâu thẳm đáy lòng anh luôn nghĩ sẽ che chở được chị trong vòng tay rắn chắc của mình.

Nhà Thao ở cạnh nhà Thơi, bên dòng sông Tích bốn mùa soi bóng mây trời và rì rầm chảy. Mùa khô nước cạn, lòng sông nhỏ lại, từ trên núi cao trông xuống như một sợi thừng vắt qua dải đất. Và con đê cong bờ eo thiếu nữ lại nhớ thương dòng nước đến mấy tháng liền. Thao cũng nhớ thương những mùa nước cạn. Lòng sông nông choèn, đôi chỗ vịt lội lấm chân, đôi chỗ có thể bơi vài sải ngắn ra giữa lòng sông, trèo lên một ụ đá ong đã kết sa thạch rắn chắc, dao chém không sứt, búa cũng phải chùn. Ở đó, anh và Thơi hay nằm ngửa ra và ngắm mây trời. Bọn anh tranh cãi mây có hình gì. Đến lúc anh chán không buồn đáp lời, chị cởi phăng áo ra, lao xuống dòng sông như con cá trắm. Thao liền lao theo như hai con cá rượt đùa dưới nước, để lại đằng sau những vòng sóng rộng mênh mang. Đó là những ngày thơ bé Thao và chị vẫn chăn bò, cắt cỏ cùng nhau...

Ngày tháng ruổi trôi. Anh thấy chị đã lớn phổng một cách lạ thường. Môi chị đỏ hơn, tóc cũng dài và đen hơn. Còn Thao vẫn là một thằng bé con lách chách, còm nhom, đen đúa. Nhưng điều làm anh ngạc nhiên là chị lại lẩn tránh mình. Thơi chẳng đi chăn bò nữa. Chị tránh mọi cuộc vui có thể gặp anh ở đó. Vô tình họ chạm mặt nhau, ánh mắt chị lướt qua nơi khác như họ chưa từng thân thiết, chưa từng cởi áo bơi ra ụ đất giữa sông chơi. Hôm ấy, tàn chiều, anh vác cuốc ra đồng bắt nước, vô tình bắt gặp chị đang lúi húi đắp bờ. Thao thoáng thấy chị ngẩng lên nhìn anh rồi cúi gằm xuống. Anh ngập ngừng định tìm một bờ ruộng khác để đi, nhưng nghĩ thế nào lại hỏi: "Sao chị tránh mặt em?". Im lặng. Rồi anh thấy chị ngập ngừng: "Tôi lớn rồi... Cứ chơi với cậu mãi tôi sợ người ta dị nghị. Tôi... tôi xin lỗi". Thao thở dài. Vì sao? Thao không biết nữa.

Chỉ hơn nhau hai tuổi mà đi cạnh nhau ai cũng ngỡ Thao sinh sau chị đến năm năm. Trong làng, gia đình nào có con gái xinh thì giống như có con bê đẹp. Con bê đẹp đi đến đâu người ta cũng sờ lưng, vuốt mông một cái, khen cái khoáy đẹp, khen bộ lông đẹp, rồi bảo với chủ: "Khi nào nó lớn, ông nhớ phần cho tôi nhé!". Cha mẹ chị Thơi đi đâu cũng có người bảo khi nào chị lớn, ông bà nhớ gả cho thằng con nhà tôi nhá. Đi đâu, làm gì chị Thơi cũng bị để ý. Đi ăn cỗ làng, chị không dám ăn no, chỉ dám nhón đũa gắp vài miếng, rồi ôm cái bụng đói meo về nhà ăn cơm nguội. Đi làm đồng, chị không dám về trước khi ông mặt trời khuất sau dãy núi Ba Vì xa mờ trong làn mây trắng. Đêm đêm, Thao mong mình mau cao lớn, thân hình săn chắc như vâm để có thể đến nhà Thơi, đuổi hết đám trai làng kia và ngỏ lời cầu hôn chị.

Chập tối, vầng trăng như cái lưỡi liềm hiện lên ở một góc trời. Thao cầm bát cơm ra hiên ngồi ăn. Chiều nay anh bận cày giúp người cô già ở vậy một thửa ruộng nên vừa mới về. Cô mời ở lại ăn cơm, nhưng anh về nhà ăn cơm nguội. Vừa và được một thìa cơm vào miệng, Thao nghe thấy tiếng lao xao ngoài ngõ. Rồi có tiếng gạch ném rào rào trên mái ngói. Anh bỏ bát cơm chạy ra. Hóa ra là Lộc, một gã đầu gấu trong làng đến tán tỉnh chị Thơi nhưng không được chị tiếp đón, gã cầm gạch ném. Ngoài ngõ lúc này đã đông người lắm, toàn là trai tráng trong làng đến chơi nhưng không ai dám ra tay ngăn cản. Thao nhìn khắp đám trai hơn tuổi mình, rồi lừ lừ tiến lại húc đầu thật mạnh vào bụng Lộc, lúc này đang nhơn nhơn vênh cái mặt lên chửi Thơi. Bị bất ngờ, hắn ngã ngửa ra đất, nhưng đứng lên lao vào anh. Thao và hắn quần nhau như hai con trâu. Cuối cùng mấy người hàng xóm xông vào để gỡ mới tách được anh và hắn khỏi nhau. Mắt Thao tím bầm, mũi chảy đầy máu cam. Lộc cũng bị đánh gãy một cái răng. Lôi anh về nhà, bố đá cho anh một cái ngã dúi vào tường, Thao choáng váng tưởng mình ngất lịm. Mẹ sợ quá quì xuống, níu chân bố xin tha cho Thao. Anh đã không thể chịu được cảnh hắn chửi bới Thơi.

Thơi cúi khuôn mặt đầy nước mắt xuống sát gần mặt Thao. Anh không nghe thấy chị nói những gì mà chỉ tự hỏi trái tim anh đã yêu tự khi nào? Cách đây hai tháng, cũng vào một đêm trăng sáng, anh cùng chị ra đồng tát nước. Bầu trời trong đêm trăng mười sáu trong vắt, không một gợn mây. Thơi xắn quần cao đến nửa bắp chân, làm lộ ra làn da trắng như ngọc ngà dưới ánh trăng. Bọn anh đi men theo đôi bờ mương mà nghe như nước chảy miên man trong lồng ngực. Lúa đang thì con gái, cả cánh đồng như một tấm thảm xanh mịn màng, êm ái trải đến cuối trời, trải đến vô cùng trong tâm hồn hai đứa. Đó đây vang lên từng bản hòa âm ra rích... rích ra của tiếng côn trùng tìm gọi bạn tình. Thơi gỡ dây gầu ra tát nước. Anh và Thơi đứng hai đầu ruộng, cứ nhún người xuống rồi lại co lên một cách nhịp nhàng để hất từng gầu nước từ lòng mương sâu lên thửa ruộng.

Trăng từ rặng cây phi lao đã lên chênh chếch đỉnh đầu, càng về đêm càng vằng vặc. Thao tưởng như con mương dưới chân là một dòng bạc lỏng đang cuộn chảy, mỗi gầu nước tát lên đều là những gầu bạc ấy. Khi lớp đất khô và lứa lúa đang thì con gái được thỏa thuê cơn khát, lưng áo bọn anh ướt đẫm mồ hôi. Thơi kêu lên khi phát hiện ra điều ấy, nhưng Thao không hay biết vì anh tát nước theo quán tính và chỉ chăm chú ngắm trộm chị thôi. Anh đi làng trên, xóm dưới nhưng không thấy ai đẹp đằm thắm và hút hồn như chị. Đứng tát nước anh thấy thân thể chị uyển chuyển như một con mèo. Thân hình cúi xuống, cánh tay đưa lên, cứ cúi xuống rồi lại đưa lên sao mà đẹp thế, dẻo dai đến thế.

Bọn anh đi ra bờ sông. Sông Tích dưới ánh trăng đầy huyền hoặc. Những ụ đá ong kết thạch giữa dòng sông thẫm lại như đang tắm đẫm ánh trăng. Mỗi người tìm một chỗ tắm dưới trăng. Trăng đổ rười rượi lên nước, lên tóc, lên vai giữa bốn bề mênh mông, vi vu gió thổi. Khi trở lên bờ, Thơi cứ cúi mặt không dám nhìn thẳng vào mắt anh. Chị ngượng ngùng xấu hổ vì quần áo dính chặt vào người. Thao nhìn thân hình tròn lẳn như mình cá trắm ấy, thầm than thở "sao chị và tôi lại là hàng xóm của nhau? Sao càng lớn lên chị càng xinh đẹp đến thế? Sao tôi lại sinh sau chị hai năm? Sao tôi được coi như là em chị?". Thao trở về làng với mớ câu hỏi bùng nhùng trong đầu. Họ đi bên nhau như hai cái bóng. Thơi hiểu vì sao anh lại trở nên lầm lì như thế, mà có thể chị chẳng hay biết gì.

Thao ngồi như cái bóng ở góc nhà, trong đám cưới của Thơi. Thật buồn cười, chị lại lấy Lộc, cái gã đã nhặt gạch ném vào mái ngói hôm nào. Người làng anh vẫn quan niệm sinh con gái đẹp mẹ cha mang tội. Trai làng không ai không thầm mơ ước lấy được chị về làm vợ, nhưng rồi họ lại bảo nhau: chị xinh đẹp thế, chắc gì đã dành cho mình. Ai cũng nghĩ thế và ai cũng dè chừng ai. Cuối cùng khi bạn bè cùng trang lứa đã bế bồng rồi, chị Thơi thành người ế chồng. Thao đi qua ngõ, thấy thương chị quá, thương cho cả mình. Có thể anh dám đánh nhau với gã đầu trâu mặt ngựa nhưng ngỏ lời cầu hôn chị thì anh lại sợ. Anh sợ cha mẹ không chịu những lời thị phi của láng giềng. Nhưng Thao cũng thầm hỏi phải chăng mình hèn nhát, giả tạo? Bây giờ thì anh ngồi đây, như một cái bóng nhìn Thơi sắp về nhà chồng. Thơi mặc váy trắng, ghé mông ngồi lên chiếc xe máy của chàng rể. Nước mắt nhạt nhòa làm trôi cả mảng phấn son. Chị ngoái lại nhìn. Có ai biết chị đang nhìn Thao vừa yêu thương, vừa trách móc không?

Thao bỏ làng vào Nam làm ăn. Đi một chặp năm năm sau mới trở về làng. Anh trở về khi ao sen hoang cuối làng bắt đầu nở hoa lác đác. Ngày mai, các cậu mợ anh sang cát cho ông ngoại. Bốn giờ sáng, khi trời đất còn chìm trong màn tối nhờ của đêm tháng tư, cả nhà đã lục tục kéo ra đồng, mang theo mâm cỗ gồm một đĩa xôi, một con gà trống mổ moi, một bát cơm cặp quả trứng, cút rượu, thẻ hương để xin phép các vong hồn người chết được sang nhà mới. Cậu anh thắp mấy nén hương cắm lên mộ ông và lên mâm cỗ, trong khi những người khác thắp hương lên những ngôi mộ xung quanh để các linh hồn bớt phần cô quạnh. Mùi hương lan tỏa trong đêm và từng cơn gió thi thoảng lùa đến, thổi rặng phi lao chao về một phía, gợi một cảm giác lạ lùng, vừa linh thiêng, vừa rờn rợn.

Đợi cho tàn một bó nhang, các cậu cùng năm, sáu người bắt đầu xấn đất. Tiếng cuốc bập, tiếng xẻng hất đất giữa đêm, trên cánh đồng mênh mông vang vọng tiếng côn trùng. Khi lưỡi xẻng đầu tiên chạm vào ván thiên, mọi người nín thở. Tất cả hồi hộp chờ mảnh ván thiên trên cùng được bật. Và anh thấy một mùi lạ chợt tỏa ra trong không gian. Bác trưởng họ từ lúc trước vẫn đứng im lìm quan sát liền cầm can rượu đổ xuống, rồi hai cậu xuống mò xương. Từng mẩu xương được chuyền lên, được rửa lại bằng rượu thơm và xếp nhẹ vào tiểu sành. Anh nhìn những cái xương ấy mà không thể hình dung đấy chính là ông ngoại ngày xưa anh thường đấm lưng, nắn chân mỗi khi trái gió trở trời. Cánh xương tay từng xoa đầu anh vẫn còn, nhưng đôi mắt nhìn trìu mến đã mất vào chốn hư vô. Thao chợt nhận thấy kiếp người sao mong manh quá. Anh cũng chợt nhớ đến Thơi, vài chục năm nữa bọn anh sẽ là những cẳng chân ấy, những đốt tay này. Sẽ không thể yêu thương, vui buồn hay căm giận nữa. Vậy ra rồi ai cũng chết, thời gian sống lại chẳng bằng tấc gang, sao không dám làm những điều mình muốn?

Thao cùng cậu út kéo xe cải tiến đựng bảy tám tấm ván thiên về làng. Cỗ áo quan này cậu anh sắm cho ông ngoại không biết bằng loại gỗ gì mà bao năm nằm dưới đất vẫn còn nguyên thớ, không biết mối mọt. Nhưng dù gỗ tốt mà làm ván thiên thì cũng chẳng để làm gì, cậu anh đang tính xem nên vứt chúng ở đâu thì họ đi qua cái ao sen hoang cuối làng. Trời đã gần sáng, có thể nhận ra mấy bông sen hồng lấp ló sau những lá xanh. Cậu chọn góc ao không có sen mọc và thả mấy tấm ván xuống. Thao kéo chiếc xe cải tiến trống không về làng, nhưng thấy nó vẫn trĩu nặng như được chất lên hàng ngàn tấn thóc, lòng bộn bề những kỷ niệm về ông ngoại. Và Thơi...

Đang nằm trong buồng, Thao nghe thấy tiếng lao xao ngoài ngõ. Mấy tấm ván thiên cậu anh vứt ở góc ao ban sớm, chiều đã không cánh mà bay. Người ta nghi rằng gã Lộc đầu trâu mặt ngựa làng bên, chồng Thơi, lấy về. Bây giờ, hắn làm thợ mộc. Người làng đã mấy lần bắt gặp gã vớt ván thiên đóng quan tài về làm giường mô-đéc bán cho khách làng xa. Thao chợt thở dài, lẽ nào Thơi cũng đồng ý cho gã làm cái chuyện tồi tệ ấy? Mẹ Thao cho biết chị vừa sinh nở, đứa con mới đầy hai tháng. Thao không biết lòng anh đang vui hay buồn? Anh mong mình gặp lại Thơi, nhưng rồi lại sợ... Anh ở lại nhà thêm một tháng để rồi mai mốt lại ra đi. Một chiều sắp đến ngày đi, anh thấy mẹ chạy ào vào nhà, ôm lấy anh, rơm rớm khóc: "Con Thơi bỏ làng đi rồi! Con nó chết rồi con ơi".

Phải mất một lúc Thao mới đau đớn hiểu ra những gì mẹ nói. Thơi bỏ làng đi, vậy là chị không có hạnh phúc ư? Cuộc đời Thơi khổ cực ư? Mẹ anh thều thào kể lại: "Thằng Lộc đã dùng những thanh gỗ thừa khi xẻ ván thiên đóng giường cho khách để làm cái cũi cho đứa bé ngủ. Đứa bé ngủ được ba lần, lần nào đặt vào nó cũng khóc ré, đến lần thứ tư thì không bao giờ tỉnh nữa. Khi con Thơi biết sự thật nó đã tất tưởi bỏ nhà ra đi. Không ai biết nó đi đâu".

Thao đi. Trên mỗi nẻo đường anh vẫn dõi tìm bóng hình Thơi.

NGUYỄN THỊ VIỆT HÀ

Món quà

Tôi muốn bắt đầu câu chuyện này bằng hai từ ngày xửa ngày xưa...Ngày xửa ngày xưa... có một người nhà giàu, rất giàu. Sự giàu có bắt đầu từ một cơ may - hồi đó, khi còn là cậu bé nghèo khổ chỉ mong được ăn no, ông đã được một người tốt bụng đưa về nhà nuôi nấng và cho ăn học.

Ông thường kể lại chuyện này cho con cái nghe nhưng các con ông cười cho rằng đây chỉ là một trong những bài học đạo đức của ông mà thôi.

Rất bận rộn nhưng tuần nào cũng vậy, ông dành ra một buổi tối ăn mặc như một người lao động bình thường và đi dạo. Nói là đi dạo nhưng thật ra là ông tìm gặp những ai cần giúp đỡ, ngay cả kẻ trộm cắp ông cũng không từ chối vì nghĩ rằng biết đâu sự giúp đỡ của mình sẽ là một cơ hội cho kẻ muốn hoàn lương.

Một tối mùa đông, như thường lệ ông đi trên đường. Ngang qua công viên ông dừng lại vì chợt thấy dáng vẻ của một chàng trai sao mà thiểu não quá. Cùng với bộ áo quần tỏ rõ sự nghèo nàn là nỗi tuyệt vọng lồ lộ.

- Chào cháu, có chuyện gì vậy?

Câu hỏi êm ái của ông khiến chàng trai rùng mình. Cái rùng mình trong bóng tối của đêm đông khiến trái tim nhân hậu của ông đau nhói. Ông rất biết giới hạn của mình. Tiền bạc, ông không thiếu. Một công việc, ông sẵn sàng mở rộng cửa các nhà máy của mình cho bất kỳ ai cần một công việc. Nhưng nếu là một căn bệnh hiểm nghèo thì... Ông đã từng cho người ta tiền không phải để có cuộc sống mong ước mà là để mua một cái quan tài.

- Cháu không thể nói gì với ta sao?

Giọng chàng trai đẫm nước mắt:

- Cháu yêu...

A, ông có thể hiểu được. Đôi trẻ thiết tha yêu thương nhưng mẹ cha nhất định ngăn cản bằng cách thách chàng trai một đám cưới linh đình? Ông mỉm cười:

- Ta sẽ tặng cháu tất cả những gì nhà gái muốn.

- Không... Không ai có thể - Giọng chàng trai tuyệt vọng.

- Ta có thể.

Câu trả lời tự tin và quả quyết của ông chỉ khiến chàng trai lún sâu thêm trong cay đắng:

- Ông trời cũng không thể làm được gì. Tối nay, cháu và nàng hẹn gặp nhau lần cuối tại đây. Rồi sau đó...

Giờ thì đến phiên ông rùng mình - rồi sau đó...

- Nhưng cái gì là không thể? - Ông gặng hỏi.

- Cha mẹ nàng chẳng đòi hỏi gì cả ngoài việc cháu phải đưa cha mẹ đến thăm nhà gái.

- Ơ, một thách cưới thật khắt khe. Như ta đây, nếu nhà gái đòi con trai ta phải đưa mẹ nó đến thì ta biết làm sao khi mẹ nó đã qua đời từ lâu.

- Không phải vậy - chàng trai kêu lên - cháu không biết cha mẹ mình là ai. Tự nhiên mà lớn lên... Tự nhiên mà có trên đời... Làm sao họ dám gả con gái cho một kẻ chẳng có gốc tích?

Ông đặt tay lên vai chàng trai và cảm nhận được toàn bộ sức nặng của cuộc sống trĩu trên đôi vai non tơ này. Có tiếng chân rón rén bước đến gần và một cô gái xuất hiện. Dù cô đang mặc một cái áo dày sụ của mùa đông và cái mũ len trùm xuống che khuất cả nửa khuôn mặt, ông vẫn nhận ra cô thật xinh xắn và đang đau khổ đến nhường nào. Ông nhìn thấy rõ vẻ ngạc nhiên trên mặt cô dù trời tối. Một ý nghĩ thoáng qua đầu... Ông mỉm cười:

- Chào con.

Cô gái đưa tay lên miệng để che một tiếng kêu kinh ngạc, còn chàng trai thì sửng sốt. Ông thấy mình còn xúc động hơn cả đôi trai gái:

- Nếu hai con không chê có một người cha như ta.

oOo

Đám cưới diễn ra vô cùng vui vẻ. Cha mẹ cô dâu càng lúc càng quí chú rể bởi vì cha chàng không những thật lịch sự mà còn rất hiểu biết, ông nói chuyện về công việc lao động chân tay như một người cả đời gắn bó với nó vậy.

Nhưng điều đáng nói là những chuyện sau đám cưới. Một người khách đến dự tiệc rồi về là chuyện thường, còn đây là cha của chú rể. Nhìn những điều không dám thốt thành lời trong mắt đôi trai gái đang tràn trề hạnh phúc, ông chẳng thể làm gì khác hơn là đóng trọn vai diễn của mình. Thăm họ hàng và cùng nhau ra biển lưới cá... Con trai ông không phải dân biển nên rất vụng về, nhưng điều đó không khiến niềm vui giảm đi.

Mất một tuần ông không đến văn phòng làm việc.

Rồi mọi chuyện cũng kết thúc êm đẹp. Đôi vợ chồng mới cưới lưu luyến tiễn ông từ làng chài ra đến thị trấn và từ đây ông sẽ lên tàu. Lúc này không có ai, chỉ có ba người với nhau, không cần phải đóng kịch. Nhưng làm sao có thể xưng hô khác được nữa?

- Chúng con chào cha.

- Chào hai con.

Sự trở về của ông làm cả công ty nháo nhác. Người thì tưởng ông gặp tai nạn mất xác, người tưởng ông bị bắt cóc và đang đợi cú điện thoại đòi tiền chuộc. Có người còn thì thầm rằng các con ông đang tìm kiếm di chúc...

oOo

Ông vẫn mỗi tuần một buổi đi trên đường để tìm kiếm và chia sẻ với người không may. Khi là một tấm chăn bông ấm áp cho kẻ đang run rẩy, khi thì tháo chiếc nhẫn trên tay tặng người cơ khổ...

Một năm trôi qua, mùa đông lại đến. Một tối khi ngang qua công viên, ông chợt nghe tiếng gọi vui mừng:

- Con chào cha!

Ông nhận ra ngay là chàng trai hôm nào. Dù không thể nhớ mặt tất cả những người ông đã giúp nhưng chàng trai này là một kỷ niệm đặc biệt: chưa có ai cầu xin ông một điều tương tự vậy.

- Chào con.

- Mấy hôm nay ngày nào con cũng đến đây. Con mong được gặp cha.

- Để làm gì?

- Vợ con mới sinh em bé. Ông bà ngoại mời ông nội đến ăn mừng mẹ tròn con vuông.

Giọng chàng trai đầy hi vọng đồng thời cũng rất ngập ngừng. Quả là chàng mong muốn nơi một ông già gặp gỡ tình cờ một điều hơi quá đáng! Nói xong, nhìn thấy đôi mắt nhướng lên vì kinh ngạc của ông thì chàng trai vội vàng tiếp ngay:

- Con cũng định là nếu không gặp được cha thì sẽ nói với ông bà ngoại là ông nội đang bệnh nặng.

- Chẳng ai muốn mình là người đang bị bệnh nặng cả, con trai - ông nói với một nụ cười tươi tắn trên môi - Biết tặng cháu nội món quà gì đây?

oOo

Ông bà ngoại tíu tít mừng vui khi ông đến. Còn phải nói, làng chài nhỏ bé mấy khi có khách xa về. Không phải chỉ ông bà ngoại mừng mà như là cả họ mừng vui. Hôm nay nhà này mời ông ăn một bữa, ngày mai nhà khác mời... Cứ như vậy nhà nào cũng kéo ông đến. Lần thứ nhất là sau tiệc cưới, và đây là lần thứ hai ông được bao nhiêu người mời mọc mà không phải là để nhờ cậy một điều gì. Họ nấu những con cá con tôm tươi hiếm hoi trong mùa đông và rất sung sướng khi thấy ông ngon miệng; để mừng cháu nội ông kháu khỉnh, mừng con dâu ông khỏe mạnh, mừng con trai ông đáng mặt nam nhi làng chài, vậy thôi. Họ không biết ông là ai nên không dạ thưa, không cố gắng làm ông hài lòng, không điệu bộ, không kín đáo quan sát đợi ông cau mày là vội dọn thay món khác, không chuẩn bị trước đến lúc này thì thế này và tí nữa thì thế kia... Tất cả thật giản dị như vốn là như vậy. Ông ăn và uống rượu chiết từ một cái can nhựa thật to được mua về cho tất cả mọi người cùng uống.

Ông hít thật sâu làn không khí mằn mặn của biển, thấy lòng dâng một niềm vui khó tả, và ông thấy hãnh diện khi nhìn thấy ánh mắt mọi người nhìn con trai của mình lúc nói về anh. Chỉ một năm thôi mà anh đã trở thành một trong những người đi biển giỏi nhất làng chài này. Có một đứa con trai đáng mặt nam nhi thật không dễ, ông hiểu sâu sắc điều này.

- Rảnh rỗi ông lại về thăm cháu nhé.

Câu nói và những cái vẫy tay lưu luyến khiến ông xúc động. Ông chợt thấy có lỗi khi lừa dối những con người hồn hậu chân thành như vậy. Nhưng biết làm sao đây? Nhất là khi tất cả đang rất hạnh phúc. Tất cả, đúng vậy! Đêm, nằm trong ngôi biệt thự tiện nghi của mình, ông chợt nhớ ra các món cá hơi mặn, dân chài thường ăn mặn. Bác sĩ nói quả thận của ông sẽ gặp phiền toái nếu ông ăn mặn, nhưng tại sao lúc đó ông không hề thấy đau nhức như lẽ ra? Làm sao mà ông đã ăn hết tất cả một cách ngon lành?

oOo

Cho đến một ngày... bé Bi vòng đôi tay nhỏ xíu qua cổ ông, miệng bập bẹ gọi "Ông ội ơi..." thì ông nhận ra mình đến đây không chỉ vì chàng trai, không phải vì trách nhiệm tình cờ số phận sắp đặt. Ông đến đây vì bản thân mình muốn. Mỗi lần chìa má cho bé Bi hôn, ông thấy lòng trào lên niềm xúc động lạ lùng. Bước chập chững vấp vào ngưỡng cửa, bé òa khóc giơ hai tay về phía ông tin cậy.

Ông muốn cho bé tất cả những tiện nghi mà cháu nội của ông được hưởng nhưng rồi ông không dám mang tới làng chài gì khác ngoài túi bánh qui, cái khăn len, hộp sữa...

Ông sợ. Phải, ông sợ...

Nếu biết ông là tỉ phú thì chuyện gì sẽ xảy ra? Một khoảng cách mênh mông đẩy những con người hồn hậu của làng chài ra xa tít tắp, mình ông cô đơn bên này với bao qui tắc, có qui tắc ông phải chấp nhận và có qui tắc do chính ông đề ra. Hơn vậy nữa, họ sẽ biết những đứa con của ông là như thế nào. Và... sẽ giống như những nơi ngày ngày ông đi qua, rập khuôn những lời nói, những kiểu dáng cung kính và những tính toán lợi lộc. Tệ nhất là con trai và con dâu của ông sẽ thay đổi, tiền bạc và quyền hành sẽ làm biến đổi tất cả, ông quá rõ như vậy.

Không, để có những phút giây êm đềm ở làng chài này, để có gia đình êm ấm này, ông vẫn hãy là ông nội thôi. Ông cảm thấy bứt rứt trước những món quà đẹp muốn cho bé Bi mà đành phải thôi. Nhìn bé chơi với những viên sỏi, những vỏ ốc, những cái nắp hộp bằng thiếc... ông quyết định khi bé đến tuổi đi học sẽ nói thật và đưa bé vào một trường danh tiếng nhất.

oOo

Chưa kịp thực hiện thì ông ngã bệnh. Nguy kịch đến nỗi báo chí và truyền hình ngày nào cũng đưa tin và tung ra những dự đoán cho tương lai của cơ nghiệp mà ông dày công xây đắp.

Quanh ông là những hàng rào người: bảo vệ, các cộng sự, bác sĩ, luật sư, phóng viên, những kẻ thừa kế hàng thứ nhất, họ hàng xa, họ hàng gần...

Giờ khắc tỉnh táo hiếm hoi, ông bình tĩnh truyền đạt những gì cần thiết và điều cuối cùng là gọi gia đình nhỏ của làng chài. Lệnh ban ra xong, ông cầu trời cho cuộc sống của mình đừng kết thúc trước khi kịp gặp. Nhưng ông không phải đợi một giây nào cả. Ngay lập tức họ xuất hiện trên ngưỡng cửa. Nghĩa là họ đã ở cạnh ông từ lâu lắm rồi. Làm cách nào vào được ngôi biệt thự của ông trong giờ khắc này? Không phải là điều dễ dàng, nhưng nếu người ta thiết tha muốn thì luôn có một cách nào đó. Ông thấy lòng ấm áp. Nghĩa là họ đã nhận ra ông! Còn ông thì...

- Các con biết từ bao giờ? - Ông yếu ớt hỏi.

- Ngày đám cưới đã có người nhận ra... bác. Bác nổi tiếng như vậy, đặc biệt như vậy...

- Hãy gọi bằng cha như con vẫn thường.

Ông nói và cảm thấy hạnh phúc. Đúng vậy, hạnh phúc. Và tiếc nuối.

- Cha chưa làm được gì cho các con và bé Bi - giọng ông chỉ còn là tiếng thầm thì - Nhưng ta có một món quà...

- Cha đã cho con rất nhiều rồi - chàng trai nghẹn ngào.

- Ta đã làm gì đâu... - giọng ông yếu ớt và tràn đầy hối tiếc - Nếu ta biết con nhận ra ta là ai, hẳn ta đã...

- Cha đã cho con một người vợ hiền, cha đã cho con của con những kỷ niệm về ông nội, cha đã cho con một làng chài làm quê nhà... - chàng trai bật khóc - Cha đã cho con một cuộc đời.

Khuôn mặt người sắp chết ánh lên nét ngỡ ngàng. Ông muốn nói gì đó nhưng không kịp... Chàng trai áp khuôn mặt đầm đìa nước mắt vào lòng bàn tay của người đã thay đổi đời anh từ một tối mùa đông. Sau lưng anh, bé Bi trên tay mẹ mở to đôi mắt tròn xoe, kỷ niệm cuối cùng của bé về ông nội là trên khuôn mặt khép lại xanh xao hé nở nụ cười.

NGUYÊN HƯƠNG

Gió mùa thao thức

Những ngọn gió tháng mười ráo khan đã thổi về xóm Rạch Mồ Côi. Không ngủ được, má dậy sớm nấu ấm trà mang ra chòi vuông cho ba. Má biết cữ này ba cũng đang thao thức.Thức, vì đêm nay kỷ niệm chợt theo gió về kinh hãi. Nghe gió tưởng bên ngoài cửa chòi lũ cá rô đang đớp móng dưới trăng giật mình quẫy chủm.

Nghe như tiếng những cây dao yếm mần cá chặt đều trên mặt thớt mù u. Nghe phảng phất mùi tanh tanh của khạp cá muối chưa chao nước mắm... Tháng này năm ngoái, Rạch Mồ Côi vào mùa đìa, mùa thu hoạch cá đồng lớn nhất trong năm.

Ừ, năm ngoái cũng gió này, nước trên đồng cạn dần, cá nhà ta giã từ hết mùa mưa rày đây mai đó, giã từ những bữa ăn ngon trên chân ruộng, chân rừng, buồn tình rút xuống mương đìa ca "la la la, ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục cũng ao nhà...". Thấy cá ục sôi dưới đìa, mắc nôn nao trong ruột. Hai ông bà không ngủ được, nghe cá lóc táp phập trên mặt nước, tiếng gọn hơ như dừa rụng; ba nói: con này cả ký lô nghen bà. Má cãi: hỏng tới đâu đó ông ơi, chừng nửa ký là cùng, cá lóc táp nghe hờm vậy chứ. Ba cười, già đầu rồi hổng lẽ tui cãi qua cãi lại với bà như con nít. Rồi má châm một bình trà đậm, bưng lại chỗ cửa sau rủ ba ra ngồi. Vừa tráng nước nóng mấy cái ly má vừa hỏi năm nay ông tính cữ nào thì xuống lưới?

Thấy đằng xóm làm đìa, má nôn nên hỏi vậy chớ má biết năm nào cũng chờ cận tết, chờ đám con cháu về đủ. Chúng nó bôn ba thành thị, chen chúc nhọc nhằn ở đó cả năm rồi, chừng về phải đãi cho tụi nó mấy bữa cá đã đời.

Ba má làm nông dân cả đời, nghèo lắm, chỉ có chút này làm niềm vui lớn cho con. Ở thành phố đám con cũng đủ đầy, nhưng chẳng bao giờ được sống đầm ấm như vầy, được đứng ngồi quây quần, rối rít với nhau ngoài bờ chuối, bờ dừa mát rượi, khói tỏa quanh nồng nàn, khung cảnh vẫn như ngày chúng lên tám lên mười. Coi cái cách ăn của con, ba má mừng chúng vẫn chưa thay đổi, tánh ý hồi nhỏ sao giờ vậy.

Thằng Hai với con Năm mê cá lóc, khoái thấu trời món cá nướng rơm chấm muối ớt kèm rau húng lủi, bắp chuối non. Hai đứa nói với nhau: trời ơi mùi khói này nó thơm, ngọt làm sao đâu á, nghe như đang ở giữa đồng lúa quê mình, như hồi còn đi dận cù bắt chuột hén anh. Thằng Ba ngồi ở một góc khác lặng lẽ, chắt lưỡi hít hà với mấy con cá trê vàng nướng, nó ngồi trở cá, mắt lom lom vô con cá bóng nhẫy, mỡ nhỏ xèo xèo trên bếp lửa, tô nước mắm gừng để tum hum trong lòng.

Con Tư chê cá rô, cá trê, ghét cá lóc (hồi năm tuổi, nó nhào vô cái lu đang rộng cá nên bị cá lóc phóng trúng, con mắt sưng như trái ổi, xanh dờn), nó lăng xăng làm cá sặc nấu cơm mẻ, nó nói cái tạng nó nghèo khó, nhăn nhó nên chỉ hợp với cá sặc thôi. Anh chị nó cười ha ha ha, ui cha, ba má ơi, nó nói vậy chớ ở thành phố bây giờ ăn cá sặc là sành điệu lắm, nhiều bữa muốn ăn cá sặc kho sả ớt mà kiếm không ra, thèm muốn rớt nước mắt luôn vậy đó. Má ngồi nhìn con cháu đang cười đùa ăn uống, nhớ thằng Út vừa vào bộ đội, cữ này ở đơn vị nó có biết gió về không, có thèm không một nồi canh chua cá rô đồng bông so đũa?

Má khum tay che cho khỏi chói, ngước lên nhìn bông so đũa nở trắng xóa trên đầu. Những thứ bông rau đồng cũng như có hẹn với mùa đìa. Đám con má chỉ cần vói một chút là hái được những đọt chùm ruột trên đầu, những đọt sung hơi chát nhưng cặp với cá lóc nướng rơm thì ngon không biết tả vào đâu. Rồi mớ rau đắng đất ngoài bãi lá vào thời non lẩy bẩy, gừng thì đang già, đang vào độ nồng nàn, trái dác treo từng chùm xanh xanh trên lùm lức. Đất quê nhà cũng thương những đứa con xa như tình thương của ba má vậy.

Nhưng năm nay bông so đũa đã nở trắng bờ rạch, bờ mương, mùa cá cũ thôi không còn nữa. Ba nhìn ra cánh đồng sâu hút, tối mênh mông, gió mênh mông nghe lạnh lòng quá mới nhắc: năm ngoái cữ này mình nhậu mệt nghỉ bà hén. Má cười, ờ ờ.

Má nhớ bữa làm đìa nhà Tư Nổ, má với mấy "ní", mấy chị sui xỉn quá trời đất. Nghĩ, đàn bà con gái xứ này thiệt hết biết, uống rượu còn hơn đàn ông, nhậu xình xang còn bày đặt nhảy nhót cà dựng (chớ có biết rumba, chachacha... gì đâu). Nhắc lại còn nghe mắc cỡ quá chừng. Hôm đó mặt mày má đỏ gay, đầu tóc đầy vảy cá, già thở không ra hơi mà ca vọng cổ ngời ngợi. Ra về ba còn chọc, tui thấy bữa nay bà đẹp hơn mọi bữa à đa. Má cười, ông già quỉ...

Nhắc lại, ba nói mùa đìa năm ngoái là mùa vui nhất mà cũng buồn nhất vì đó là mùa đìa cuối cùng. Bà con bàn ran chuyện năm tới Rạch Mồ Côi chuyển qua nuôi tôm, nghe nói người ta bên Năm Căn, Ngọc Hiển nuôi tôm ai cũng cất nhà tường. Xóm Rạch mình còn nghèo quá, chỉ hai vụ lúa với một mùa đìa, ai có vườn rộng trồng cải trồng bầu được thêm chút tiền huê lợi nhưng đâu vô đó hết, sống đắp đổi không dư, bây giờ Nhà nước cho nuôi tôm thì mừng chứ. Hôm đó chỉ có ba má là bần thần, hồi nào giờ cây lúa cũng chung thủy với mình, bây giờ quay mặt với nó, không lẽ tệ vậy.

Má nói vậy rồi năm tới mình có tụ lại vui như vầy không. Được chớ, Tư Nổ cười khà khà khà, nghe nói nuôi tôm một năm bằng chục năm làm ruộng đó, năm tới tui xây nhà lầu, bà con kéo nhau lên sân thượng nhậu tép luộc mát trời. Mà hỏng chừng tui còn sắm tivi màu, đầu máy video, sắm điện thoại di động - Tư Nổ ngẩn ra, nước miếng chảy xuống chỗ môi chẻ thâm sì - tướng tui mà cầm điện thoại di động coi sang lắm nghen.

Ba nhớ lời của Tư Nổ hoài, vì anh đã vẽ bức tranh tôm mù mịt thành những điều rất thật, thật như đang rờ đụng vậy. Vậy mà... đêm hôm qua ba rượt Tư Nổ qua mấy cái bờ mới túm được anh, cả hai loi ngoi ướt, ngồi trên bờ. Tay vẫn còn nắm cái áo rách te tua của anh Tư, ba nhắc câu nói xưa của anh, không sai một chữ. Anh bật khóc, khóc vì cùng đường đi đổ lúa trộm tôm vuông ba bị ba rình bắt, hay khóc vì thương tiếc mùa xưa. Rồi vợ Tư Nổ chạy lại, chỉ biết lí nhí xin tha cho chồng, chị nói hồi này tôm tép không có, tụi con khổ quá, bần cùng quá chú thím ơi... Má ngậm ngùi, người phụ nữ này năm trước một tay câu eo ếch má còn tay kia cầm cây chổi nhảy cà tưng, sao giờ tới nông nôi vầy... Bốn người ngồi với nhau lặng lẽ, hồi lâu, day qua chị Tư Nổ má nói thôi coi như là lá lành đùm lá rách, rách ít đùm rách nhiều, rách nhiều đùm rách nát, bây biết mà tao cũng nghèo. Rồi má trút mớ cá phi rộng trong xô ra giỏ, giúi vào tay chị biểu chị đưa chồng về, kiếm đồ khô mà thay để vầy cảm lạnh chết.

Lúc vô nhà thấy cửa mở toang hoang, cái lư hương không cánh mà bay mất. Ba má tỉnh rụi, không phải hô hoán lên làm chi, hôm rồi mất ông Tà ngoài miễu, hôm trước nữa thì mất cái lon cặm nhang trên bàn thông thiên. Ba cười buồn, mai là tụi nó trả lại, tụi nó mượn để cầu số chớ đâu. Tôm chết hoài cũng buồn, nên rủ nhau đánh số đề chơi, may ra... Nhưng may thì ra rủi lại vào, xóm Rạch Mồ Côi vừa tiễn đưa một gia đình ly xứ. Chú thím Chín bên kia rạch thua sạch nhà cửa đất vườn, xuống ghe bắt đầu một cuộc nổi trôi; hôm ra bến chú mếu máo nắm tay ba: biết chừng nào vợ chồng tui mới gặp lại anh chị sui để tụi mình nhậu với nhau tối trời đất. Phải hôm đó có mưa là cảnh mủi lòng y hệt trong phim. Bây giờ ba vẫn thường đứng nhìn phía nền nhà của bạn, cái nền phèn váng trắng, xốp như nước đá bào, bên phải vẫn còn nguyên chỗ cầu ao, nước mặn ngấm vào, nước trong thấy đáy, chẳng có bông súng nào mọc ở đó, chỉ thấy rong nhớt xanh dờn trôi lình phình.

Xóm Rạch bây giờ buồn, chẳng có cái gì để vui chung với nhau như hết mùa lúa, như xong hội đìa, như năm cũ. Người trúng tôm thì lẳng lặng không dám khoe (vì sợ trộm), người không có trao tráo khấn vái trời. Hễ mười vuông thì thất bát hết bảy vuông, vì không ai hiểu rành con tôm hết, không ai biết con tôm nó đỏng đảnh cỡ nào, vậy mới khổ. Nước mặn thấm vào vườn tược trụi lơ, xơ xác hệt như vừa qua bão, cây trái teo héo, chặt năm trái dừa mới được một ca nước, cọng cải lá rau, trái ớt, trái bầu... cũng phải mua.

Nửa đêm nằm nghe người nào đó ca văng vẳng ở mấy chòi trên, giọng sao buồn rượi vậy. Quê xứ như cô con gái trót lỡ "khôn ba năm, dại một giờ", bắt đầu nhớ tiếc vì mình đã đứng núi này trông núi nọ. Ba nhìn má qua ánh đèn chong leo lét, chợt giật mình: đôi gò má của người vợ hiền năm ngoái còn hồng vì rượu, nay đã seo sắt quắt queo vì trơ trọi dưới nắng và gió trời. Hồi lâu ba nói: tiền bán tôm mót hổm rày được bao nhiêu bà, sớm mai này bà ra chợ huyện lựa mua một ít cá rô mề, mốt là thằng Út về phép, nấu cho con nó nồi canh chua cá rô bông so đũa, tội nó...

Má gật đầu, khẽ hớp một ngụm trà, thương đắng đót đám con xa nhà; tết này, ừ tết này con của má về, mà má ba chẳng có gì cho tụi nó.

Sớm nay, trà vẫn pha nửa vốc tay như mọi bữa mà sao nghe đắng quá vậy nè?

NGUYỄN NGỌC TƯ

Vĩnh biệt Huyền Trân

Thứ bảy. Bà mẹ đẹp như một bức tranh thời Phục Hưng gọi điện thoại năn nỉ: "Con bận không Hưng, đến đây với cô nhé. Cô có vé xem hát, lâu quá rồi không được đi xem Huyền Trân. Đi với cô, biết đâu con lại viết được một bài báo hay". Hưng ngồi trong phòng máy chạy vo vo. Đến hay không nhỉ?

Thời buổi này không ai còn hứng thú đi xem tuồng nữa. Hưng và Phan đang giận nhau. Vì nhiều lẽ. Người ta bảo đó là những chất xúc tác của tình yêu. Chẳng biết nhưng cũng thoáng chút ngại ngần. Ngại ngần nhưng rồi vẫn đến.

Bà mẹ mừng như trúng số, pha nước đưa tận tay. Bà đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng, quần áo nhã nhặn, một chút phấn son. Nhìn bà khiến người đối diện một chút bùi ngùi, một chút tiếc nuối. Phải, xuân sắc chỉ qua một lần thôi. "Uống đi con. Phan, đi luôn với mẹ và anh. Hôm nay ba phải đi chiêu đãi, chắc khuya mới về". Phan nhìn Hưng, không nói gì. Nhưng rồi bất thần qua bấm máy: "Anh tới chở Phan đi xem kịch!". Hưng hụt hơi nhìn trối chết vào giò phong lan treo ngay phòng khách. Cái thứ hoa lan sao mà đẹp. Tại sao chúng có thể thỏa mãn tràn trề như thế khi chỉ có mấy cọng rễ ăn mòn thân gỗ mục nhỉ?

Đi xem. Hưng nghe bà mẹ kể về những tích tuồng cổ. Hồi học đại học, Hưng có đọc qua mấy cuốn sách liên quan đến tuồng cổ, cũng nắm được đôi phần. Câu chuyện ấy khiến cho chiếc xe bên cạnh trôi đi im lặng và ấm ách đến khó hiểu. Rạp mở cửa trong tưng bừng, chủ yếu người già, trẻ con đi theo giấy mời (chứ thiên hạ bây giờ ào ào chạy đua với thời đại, mấy đứa lao vào xem tuồng tối thứ bảy?). Bà mẹ nhìn quanh thấy những gương mặt quen quen, nhìn ai cũng có vẻ chào cười. Hưng liếc qua nhìn cu cậu đi bên cạnh cô gái của mình, hạnh phúc tự dưng rơi xuống như táo rụng, không mừng sao đành. Phan mím môi đi không nói gì. Giận thì giận.

Tám giờ. Vở diễn bắt đầu. Tướng Trần Khắc Trung nghe tin dữ, hoàng thượng gả Huyền Trân cho vua xứ Chiêm Thành làm kế an dân, giữ hòa khí láng giềng. Huyền Trân ngây thơ trong sáng không biết gì, hai người lập đàn thề nguyền. Hưng ngồi ngoài cùng rồi tới bà mẹ, Phan và "kẻ bên kia".

Bà mẹ kể trường đoạn thứ nhất. "Cô diễn viên nhập vai quá tuyệt phải không con? Được lắm. Nhưng cảnh hai mới là đẫm nước mắt. Buổi biệt ly nào mà chẳng thế phải không con?". Hưng dạ khẽ, một thứ sân khấu cổ với tính ước lệ cao đôi khi là khó khăn trong vấn đề tiêu hóa của bọn trẻ. Khi MTV đánh thức mọi cảm xúc bằng thị giác thì tuồng cổ bắt chúng phải tư duy liên hồi theo từng cái buông người, theo từng hồi trống chiến. Hưng liếc nhìn sang bên cạnh, thấy một kẻ nhìn kẻ còn lại, kẻ còn lại nhìn ngước lên những ngọn đèn màu đang tắt nháy. Máy di động trong túi rung bần bật. Một tin nhắn.

Từ ngày quen nhau, đôi khi họ chỉ có thể nói chuyện bằng những dòng tin không dấu trên những cái màn hình xanh lét của điện thoại. Quen đến nỗi không cần nhìn màn hình, hai tay trong túi mà không hề sai một cái dấu phẩy. "Hôm qua anh làm gì? Tại sao không trả lời máy?". Hôm qua Hưng làm gì nhỉ? Lúc đó Hưng đang đi Hải Phòng, viết về những lò luyện thi hoa hậu và cái giá rẻ mạt của nghề người mẫu.

Khi Phan gọi thì Hưng đang phải ngồi cà kê trong cái bar tum hủm đó, nhìn mấy em thời trang treo những mảnh vải ơ hờ trên mình diễu qua mặt trên những cái bục ximăng bé tẹo. "Anh ở nhà, ngủ quên". Bà mẹ nhìn qua, bảo: "Con cứ ra ngoài nghe cho rõ". Hưng cười: "Con nhắn tin". Bà mẹ lại bảo: "Hay thật. Trần Khắc Trung đúng là đại trượng phu". Hưng khẽ vâng. "Thật ra thì chúng ta có nên tiếp tục không nhỉ? Bố em rất giận anh. Em rất yêu bố".

Trên trần, những bóng đèn tắt ngúm. Tiếng vỗ tay nổi lên. Tiếng những bà già tóc bạc phơ chép miệng: "Rõ tội, con bé đẹp người đẹp nết thế mà lại phải lên thuyền theo lệnh quân vương". Máy tiếp tục nháy xanh: "Anh không biết. Nhưng anh chỉ muốn chúng ta yêu nhau vì một lý do đơn giản: anh yêu em và em yêu anh". "Nhưng bố cũng không có gì sai".

Bố Phan có gì sai không nhỉ? Bố Phan có tài kinh bang tế thế, quảng giao hơn người. Cơ ngơi này do ông gầy dựng. Một biệt thự, có bể bơi trên tầng thượng, có vườn hoa và ông chỉ có một cô con gái. Khi cưới vợ được năm tháng, ngày ấy ông mới là một nhân viên quèn chỉ biết nghề cạo giấy, đã quyết tâm bắt vợ nghỉ hát để ở nhà. Không phải cuộc sống quá khá giả mà bởi ông không chịu nổi vợ mình chuyên khóc thương và trao thân cho kẻ khác trên sân khấu.

Cuộc sống trôi đi nhanh như một cái khoát tay vậy. Giờ thì ông đã là một người đầy danh tiếng, mọi việc trôi vèo trong sự nâng đỡ của thủ trưởng mới. Thế thì có gì phải lo lắng nhiều đến thế. Bố Phan có gì sai không nhỉ? Hưng kiểm điểm lại mọi thứ. "Anh không biết. Nhưng có một độ vênh nhất định trong quan niệm giữa anh và bố em". "Chưa lấy nhau đã thế, lấy nhau rồi chắc anh sẽ không coi ai ra gì". "Em nặng nề như thế làm gì?". "Anh mới là kẻ cố chấp!".

Hưng có cố chấp không nhỉ? Hưng có cố chấp không khi mà Hưng chỉ là một phóng viên văn nghệ, không thể viết những thông tin bêu riếu người khác đầy mưu đồ mặc dù có những chứng cứ trong tay. Làm thế có thể không sai về pháp luật. Nhưng đời này làm gì có ai hoàn hảo được đâu?

Bà mẹ bắt đầu sụt sịt. "Ngày xưa diễn cảnh này cô đã khóc đến run người. Chú ấy phải rút khăn tay lau nước mắt cho cô vì sợ nhòe son phấn. Huyền Trân đúng là phận má hồng, buồn quá phải không con? Thế mà qua bao nhiêu năm nét diễn của chú ấy vẫn còn sức lay động lòng người đến thế". Hưng lặng lẽ lấy khăn giấy đưa cho bà mẹ. Phía bên kia cũng có kẻ làm như thế với người bên cạnh. Nhưng nét mặt lộ rõ vẻ hoan hỉ kiểu phú ông được mùa. "Anh rất buồn" - cái màn hình lại bật tín hiệu. Và bên kia có kẻ lật đật mở máy ra. "Anh thương cho Huyền Trân à? Sao anh giống mấy bà già miền Tây".

Hưng nắm chặt máy và cứ đọc mãi. Ngày Hưng gặp Phan, cô là một hoa khôi áo dài. Người ta trao cho cô vương miện về giải ứng xử hay nhất. Nước mắt cô dính đầy kim tuyến lấp lánh. Hôm ấy, bố Phan đã là người vỗ tay rất lớn. Ông mang bó hoa to tướng lên sân khấu ôm ghì lấy con gái. Hạnh phúc thật sự của những người làm cha.

Phút giây ấy Hưng đã kịp ghi lại và về sau nó được lồng khung kính treo trang trọng trong phòng khách. Đến bây giờ Hưng vẫn không hiểu vì sao Phan lại đồng ý yêu mình. Cô có quá nhiều thứ. Còn Hưng quá giản đơn với những công việc hằng ngày. Bố Phan vồ vập Hưng ngay từ đầu khi bài viết của Hưng về Phan được đăng rất trang trọng. Và vẫn là tấm hình cảm động của hai cha con. Ông sai cậu lái xe đi mua mấy trăm tờ báo về để tặng bạn bè. Hạnh phúc ấy có thật và Hưng biết ông yêu con gái mình đến nhường nào. Tình yêu ấy đánh thức những khuyết thiếu của Hưng về cha. Và không dưới một đêm Hưng nghĩ về những điều đó.

Hưng không nghĩ Phan yêu mình. Bởi vì sau cuộc thi ấy Hưng đã đến với nhiều cuộc thi khác và cũng có biết bao người đẹp khác. Bây giờ những cô gái đẹp và được trang điểm kỹ lưỡng có thể gặp nhan nhản ngoài đường chứ nói gì đến những cuộc thi mang lại quá nhiều lợi lộc và danh vọng. Người đẹp bây giờ như một món quà xa xỉ, những kẻ thường thường bậc trung như Hưng chỉ thích nhìn ngắm, bàn luận chứ chẳng khi nào thầm nghĩ đến chuyện sở hữu. Người ta vẫn kháo nhau người đẹp dành cho các đại gia, thế thôi.

Nhưng bất ngờ một hôm cô đến tòa soạn, mang theo một bó hoa lớn và một gói quà xinh xinh. Ngày báo chí mà, cô nói, em tặng anh. Và bố có nói mời anh tối qua nhà dùng cơm. Hưng ngồi vân vê món quà trong phòng, thấy lòng mình tròng trành. Thật ra mọi chuyện như thế nào nhỉ? Tối hôm ấy, Hưng đã lưỡng lự. Không đến: phiền toái. Đến: ngại ngần. Rồi cũng đến. Đến để bất ngờ nhận ra một thế giới quá khác lạ với mình. Nhưng Phan nhanh chóng lôi anh vào cuộc, hòa đồng nhanh chóng với một bà mẹ hiền dịu, xinh đẹp và một ông bố quyền lực nhưng biết ngoại giao. Cứ như thế, người ta yêu nhau lúc nào thật cũng chẳng biết được. Hưng cũng dường như quên Phan là một hoa khôi. Họ yêu nhau, với Hưng chỉ thế thôi.

Hưng tắt máy. Kịch đã đến màn thứ mấy cũng chẳng nhớ. Huyền Trân chuẩn bị lên dàn hỏa thiêu sau khi đức vua Chế Mân băng hà vì dính phải độc dược của Bố Đề. Mỹ nhân phải theo quân tử về chín suối cho linh hồn được trọn vẹn bên nhau. Huyền Trân không khóc, nét mặt ủ dột ngơ ngác nhìn mọi người. Bà mẹ đã dùng tới gói giấy thứ hai. Một tình yêu mãnh liệt với quá nhiều hối tiếc được dịp bùng phát.

Bà như tựa hẳn người vào vai Hưng. "Ngày xưa cô đã khóc thật đấy. Khi nghe tin hoàng thượng băng hà, cô như bị điện giật. Thế là diễn như lên đồng ấy. Và lúc đó giọng hát như bị lạc đi mà vẫn vang mới lạ. Không ngờ đó cũng là vai diễn cuối cùng. Cô giận mình. Cô không giữ được niềm đam mê, phải không con?". " Con không nghĩ vậy. Bằng lòng với hoàn cảnh cũng là điều tốt, mẹ con vẫn hay nói thế". Bà mẹ khóc run trên ghế. Bên kia vẫn im lặng. Những cái tin chưa thể có report ấm ách trong máy. Biết nói với nhau thế nào được khi bên Phan là một người khác, khuôn mặt khác và mọi thứ rất khác với Hưng

Kịch hạ màn. Tiếng vỗ tay rào rào. Mấy cụ già lên sân khấu tặng hoa. Kẻ xấu đã bị bắt giam vào ngục tối. Huyền Trân được giải thoát bởi một vị tướng tài ba và rất mực quân tử. Bà mẹ đứng dậy: "Xúc động quá phải không con?". Phan đi ra cửa trước, kẻ bên cạnh vội chạy theo đuôi trông rõ là te tái. Kẻ bên cạnh là con của phó của bố Phan. Hạnh phúc lắm chứ, nếu cuộc hôn nhân đầy hãnh tiến ấy thành sự thật.

Về nhà. Bà mẹ thẫn thờ nhìn cánh cổng vẫn khép kín như tờ. Bà mẹ bảo: "Con vào nhà đã đi. Cô buồn quá". Vào nhà. Kẻ bên kia rút lui sớm, như một hành vi đầy ga lăng và ghi điểm trước đối phương. Chứ đâu như Hưng, đi xem hát tuồng rồi vào nhà ngồi trò chuyện với một người già về những điều hết sức tẻ nhạt. Bà mẹ mở cuốn album cho Hưng xem những hình ảnh cũ. Những vai diễn in dấu ấn một thời. Những bức hình như một cuốn nhật ký, ngắn ngủi nhưng đầy day dứt. Phan ngồi im như pho tượng sáp. Rồi bất thần cô đứng dậy: "Anh về đi! Mẹ cũng thôi đi, ký ức gì mà suốt ngày ký ức". Bà mẹ ngước nhìn con gái rồi nhìn khách. Tất cả trong tích tắc và mọi chuyện đã là ký ức thật. Thật sự là một vết lõm trong ký ức. Một vết lõm. Chỉ thế thôi.

Sau buổi tối hôm ấy, nhà hát còn diễn Huyền Trân nhiều lần. Bà mẹ cứ cuối tuần lại đi xem hát, ngồi khóc lặng nơi hàng ghế cuối cùng cho đến khi đèn bật sáng. Rồi lại gọi taxi về nhà, giam mình cả tuần trong thế giới của máy lạnh, bể bơi và chăn nệm ngột ngạt hoa lan hoa hồng. Một hôm, ông bố gọi điện cho Hưng, giọng ôn hòa: "Con đến với chú một chút, được không?". Một chút của ông không bao giờ là chuyện đùa, càng không bao giờ là chuyện nhỏ. Nhưng phải đến. Hưng bước vào phòng khách lành lạnh.

Ông ngồi đó, bình thản giở những trang họa báo của một cuốn tạp chí mới rất ăn khách với những trang hình bắt mắt đầy gọi mời. "Việc chú nhờ con làm tới đâu rồi?". "Hôm nọ, con đi xem hát thấy chú ấy. Thật ra đó là một người đàn ông tội nghiệp". Rất tội nghiệp và rất đáng thương vì ông lại là tình yêu đầu của vợ đối phương. Ông cũng ngồi co ro trên hàng ghế cuối, mắt ngó trân lên sân khấu, những mảnh đời trôi qua mắt ông. Sân khấu bao giờ cũng vậy, đẹp lạ lùng và mọi kết thúc đều làm yên tâm những thực khách sau bữa tiệc đầy màu sắc bước chân ra về. Cái thiện phải thắng cái ác, thiên hạ nói vậy và sân khấu luôn luôn diễn như vậy.

Ông bấu víu điều đó làm niềm tin trong cuộc chiến không cân sức này. Ông đã làm gì nào? Một sai lầm thời trai trẻ, một cuộc tình và một sự nghiệp dở dang. Ông sống như một chiếc quan tài hoen gỉ biết đi giữa lòng thành phố này với một hoài niệm không dứt. Tất cả những điều đó Hưng chỉ biết khi đến với ông quá nhiều lần, uống rượu với ông và những cuộc chuyện trò không có đoạn kết. Ông bố vứt tờ báo xuống: "Con có thương chú không? Có thương em Phan không?". Hưng im lặng.

Không đơn giản như trong kịch bản. Kể cả Khắc Trung trao Huyền Trân cho người khác, đau đớn lắm nhưng đã được soạn lời rồi. Chỉ là một sai lầm thôi. Người ta đến, người ta muốn mọi thứ được kết thúc. Hợp pháp chứ đâu tội lỗi. Ông đã làm. Và ông đã lỡ tay. Người ta không còn cơ hội làm mẹ nữa. Không được phép có thứ phẩm, nghề mà. Khi Hưng hỏi ông về những điều ấy, ông đã giữ thái độ im lặng rất dài. Chỉ khi đêm diễn Huyền Trân khai mạc, ông đến xem và nhận ra Hưng thì mọi chuyện mới được giãi bày. Người ta bảo: "Em không muốn có con với hắn ta".

Đêm đã rất khuya. Hưng không thể trả lời được. Hưng không biết viết gì về những ngõ khuất trong quá khứ, những thứ mà lẽ ra nên chôn vùi. "Con xin lỗi, cho con một thời gian nữa, được không?". Ông bố nhìn Hưng, thở dài: "Tùy con. Em Phan cũng rất buồn".

Hưng gặp Phan ở cửa. Phan mới đi chơi về. Giận nhau mà. Họ đi qua nhau. Lặng lẽ.

Nhưng đó là một dấu chấm!

Cuối cùng thì Hưng phải thừa nhận mình là một kẻ yếu đuối. Khi Phan tỉnh dậy vào buổi sáng thì những cái tin đã đầy nhóc nhách trong máy rồi. Khi ấy Hưng đã ở trên máy bay. "Anh rất buồn. Nhưng anh sợ tiếng Việt biểu cảm quá, nó sẽ níu anh ở lại vì yêu em mất thôi. Những con chữ không dấu này dễ chịu hơn. Anh đi đây. Anh đã nạp sẵn cho mình những dự định. Để vượt qua."

Hưng vào Nam. Bà mẹ tha thiết trong máy, tiếng nói như đang đi dần vào những ngõ cụt đầy tuyệt vọng. "Sao con không nói với cô. Hưng ơi, cô có nên nói với Phan sự thật này không?". Người đàn ông tội nghiệp, người đàn bà bất hạnh. Họ đã tạo nên một sản phẩm hoàn hảo rồi để vuột vào tay người khác. Ai đó nói, hình như ông nhà văn Đoàn Thạch Biền, rằng mẫu số chung của những mối tình đầu là chia tay. Hưng im lặng đặt máy. Tình đầu của Huyền Trân cũng thế, thật mà. Ông già tội nghiệp, ông đã nói gì trong cái đêm công diễn ấy nơi hàng ghế cuối? Ừ, phải, ông đã vĩnh biệt Huyền Trân hai mươi mấy năm.

DƯƠNG BÌNH NGUYÊN

Lưới tình

TTO - Theo kế hoạch, đoàn văn nghệ sĩ hội văn nghệ của tỉnh đi thực tế sáng tác lần này sẽ dừng chân tại thành phố biển Nha Trang trước tiên. Tiếp theo là những di tích lịch sử cách mạng, lịch sử, văn hóa trên dọc đường đến cố đô Huế. Thành phố sương mù Đà Lạt sẽ là nơi tham quan sau chót trước khi trở về điểm xuất phát. Gần mười chỗ trong vòng mười ngày. Nhà văn Mã Tiến Châu đùa: "Bình quân mỗi chỗ một ngày.

Mấy cha họa sĩ, nhiếp ảnh còn hi vọng kiếm được chút cháo chứ cánh văn học thì trớt huớt, coi như cưỡi ngựa xem hoa". Quốc Nam cãi: "Bố làm như chụp ảnh dễ lắm vậy. Nhà văn nhà thơ của bố hễ có cảnh là có tình, còn bọn tui đâu phải cảnh nào chụp cũng được, vẽ cũng được". Nhà văn nữ Lệ Quân đốp chát: "Tức cảnh sinh tình là mấy nhà thơ kìa ông ơi". Chị trưởng đoàn trấn an: "Để cho không ai bị thiệt thòi, kế hoạch có thể thay đổi tùy theo tình hình. Đại khái nơi cần thiết thì ở lâu, nơi không cần thì ở vài tiếng đồng hồ là được".

Đoàn có hai mươi người. Sáu nữ, bốn bà, hai cô. Già nhất là hai cụ Bình Sơn và Quang Lê đã thất thập cổ lai hi. Vui vẻ, dễ tính nhất là nhà văn Mã Tiến Châu vừa tròn sáu chục cái xuân xanh. Ông vui vẻ, dễ tính đến đỗi bạn bè gọi là Mã giám sinh vẫn không giận. Dù mang cái biệt danh đó nhưng ông không thuộc loại "mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao" mà có dáng dấp và cốt cách phong trần của người nghệ sĩ "lăn lóc gió sương". Trong cuộc sống cũng như trong sự nghiệp văn chương ông không bao giờ hấp tấp, ồn ào mà âm thầm, rỉ rịt như con dơi quạ đêm đêm bay đi khắp nơi kiếm tìm trái chín.

Trẻ nhất là nhà thơ nữ Huyền Trân. Mười chín tuổi, mười một tháng, hăm bốn ngày. Nếu chuyến đi chậm sinh nhật lần thứ hai mươi của cô sẽ ở Huế, còn đi nhanh thì ở thành phố ngàn hoa. Huyền Trân xuất hiện khá sớm và nổi lên như một hiện tượng. Mười bốn mười lăm tuổi đã có thơ đăng rải rác trên các tờ báo của tuổi mới lớn, tuổi học trò rồi dần dần tiến đến các tạp chí văn nghệ địa phương và trung ương. Mười bảy tuổi đoạt giải A cuộc thi thơ dành cho những cây bút trẻ do một tờ báo lớn ở TP.HCM tổ chức. Cùng năm ấy lại đoạt giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi thơ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sang năm mười tám tuổi xuất bản tập thơ đầu tay. Do dư âm của hai cuộc thi thơ năm trước còn vang vọng như một lời khẳng định nên tập thơ được độc giả đón nhận nhiệt tình, nhất là độc giả cùng lứa tuổi với tác giả, khiến nhà xuất bản phải in thêm mấy lần. Còn trẻ mà thành công vang dội, Huyền Trân sinh ra kiêu ngạo, "mục hạ vô nhân". Khá nhiều người bất bình, thẳng thắn đóng góp, phê phán nhưng cô coi như pha. Ông Châu thì nhỏ to tâm sự rồi nhẹ nhàng nhắc nhở bằng lời Phật dạy: "Sai lầm lớn nhất đời người là tự đánh mất mình và thất bại lớn nhất đời người là tự cao tự đại đấy cháu". Thật bất ngờ, Huyền Trân khải ngộ như ngài Huệ Năng sau khi nghe câu "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" trong kinh Kim Cang. Từ đấy cô xem ông như "nhà tư vấn" về những vấn đề thuộc các lĩnh vực tâm lý, tình cảm, xã hội. Mỗi lần gặp chuyện rắc rối, khó xử cô đều tìm đến ông nhờ "gỡ rối". Tình cảm giữa cô gái trẻ đẹp và ông già từng trải nảy sinh, phát triển tốt đẹp từ những chuyện ấy.

Do làm bìa tập thơ của Huyền Trân nên họa sĩ Hoài Phương trở thành bạn thân của nhà thơ trẻ. Hai người thường vào các di tích văn hóa tìm dấu vết lịch sử một thời vàng son của vùng đất học Long Hồ Dinh. Hoặc sóng đôi dạo mát trên công viên sông Tiền vào những chiều đẹp trời hay lên cầu Mỹ Thuận ngắm cảnh sóng nước về đêm. Trong những lần dự trại sáng tác ở miền quê, cô cậu luôn tách khỏi đoàn tìm nguồn cảm hứng trong những mảnh ruộng miếng vườn vắng vẻ. Nhìn họ quấn quít bên nhau như bướm với hoa, anh chị em hội viên tin tưởng sẽ nhận được thiệp hồng của họ nay mai.

Một lần, trong phòng triển lãm tranh tập thể tại hội, Hoài Phương đề nghị với Huyền Trân: "Hay em làm người mẫu cho anh đi, Huyền Trân?". Nàng nhìn lên bức tranh của chàng vẽ một thiếu nữ trẻ đẹp mặc áo dài trắng, ngồi tréo ngoảy, hai bàn tay úp trên đầu gối, nói: "Chẳng phải anh đã có người mẫu rồi đó sao? Cô ta cũng khá xinh và ngây thơ quá đi chứ?". Chàng cười: "Cô ta xinh thật nhưng đâu bằng em. Nếu em chịu làm người mẫu anh sẽ vẽ em đẹp hơn cô ta gấp trăm lần. Tuy nhiên, nói chơi với em cho vui chứ cô ấy do anh thai nghén đẻ ra, hay nói cách khác thì đấy chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng thôi". Nàng nheo mắt lém lỉnh: "Tưởng tượng sáng tạo hay tái tạo?". Chàng ngơ ngác: "Em nói gì anh không hiểu, Huyền Trân?". Đến phiên nàng ngạc nhiên: "Anh không hiểu thật hay đùa, Hoài Phương?". Trông anh ta cũng có vẻ trí thức, những bức họa cũng có hồn mà tệ thế sao? Phải rồi, có lẽ do anh ta quá chú trọng vào lĩnh vực hội họa thành ra bỏ quên lĩnh vực tâm lý chớ gì. Kể ra cũng đáng thương. Nghĩ thế nên nàng vui vẻ giải thích thuộc tính tâm lý trên cho chàng nghe. Chàng khẳng định: "Bạn gái không có thì lấy đâu ra để tái tạo!". Nàng trề môi xí dài: "Xạo! Một họa sĩ tài năng và thành đạt mà không có bạn gái thì ai tin cho?". "Nhiều người cũng nghĩ như em nhưng sự thật vẫn là sự thật, Huyền Trân ạ". "Nè, dối trá là tội vọng ngữ, là sự dốt nát lớn nhất đời người đó nha". "Em học được những lời đó ở đâu vậy?". Nàng hãnh diện: "Chú Châu, nhà tư vấn tuyệt vời của em. À, em biết rồi. Không phải anh không có bạn gái mà vì các người đẹp không dám làm bạn với anh do họ sợ anh "lần khân hóa ra sàm sỡ", đúng không?". Nói xong Huyền Trân cười ré lên thích thú. Hoài Phương nhăn mặt lắc đầu nhưng trong bụng rất vui. Yêu nhau lắm cắn nhau đau mà! Cái suy nghĩ chủ quan đó lại được Huyền Trân củng cố khiến Hoài Phương càng lạc quan. Nàng nhận lời làm người mẫu với điều kiện không chịu vẽ khỏa thân. Dĩ nhiên Hoài Phương "cung kính không bằng tuân lệnh".

Có người mẫu, tài năng chàng họa sĩ như hổ mọc thêm cánh. Chàng sử dụng và diễn tả màu sắc, ánh sáng càng lúc càng tinh tế, đầy sáng tạo. Rực rỡ, vui tươi, trong veo như thủy tinh. Hoàn tất bức chân dung Huyền Trân có gương mặt rộng mở, thân thiện và sinh động, Hoài Phương treo bức tranh vào nơi trang trọng nhất trong phòng rồi mời người đẹp đến chiêm ngưỡng, trắc nghiệm. Sẵn dịp, chàng họa sĩ si tình bèn trút hết bầu tâm sự với nàng. Nàng cười hích hích: "Gì gấp vậy? Có cần sớm thế không?". Chàng bối rối: "Anh xin lỗi. Coi như anh chưa nói gì với em. Anh hiểu rồi. Thời gian càng dài thì tình cảm sẽ càng tốt hơn". Nàng lắc đầu khá lạnh lùng: "Không hẳn vậy đâu, Hoài Phương!". Bị hụt hẫng, chàng tìm đến "nhà tư vấn Mã giám sinh". Ông hứa giúp đỡ anh ta. Huyền Trân cười hô hố: "Có phải chú không vậy, chú Châu? Chú đổi nghề hồi nào mà Trân không hay ta ơi, ngộ ghê".

oOo

Đoàn đến Nha Trang lúc chạng vạng tối. Sáng ngày sau, bảy tám nghệ sĩ nhiếp ảnh rời khách sạn kéo nhau ra bãi biển khá sớm để săn tìm ảnh đẹp lúc bình minh. Lát sau, ông Châu cùng mấy người bạn già cũng xách máy ảnh du lịch lót tót đi theo. Đang vào mùa hè, ngày dài đêm vắn, sáng trắng rồi mà mặt trời vẫn chưa lên. Mấy hòn đảo ngoài khơi còn mờ mờ trong màn sương xám đục. Vài chiếc thuyền nhẹ như lá khô trôi chầm chậm trên mặt nước lặng trang. Để giết thời giờ đợi mặt trời lên, đám nghệ sĩ ngồi chùm nhum trên cát uống rượu đế với khô mực. Không có ly, họ rót rượu vào cái ống nhựa đựng cuộn phim. Mỗi người một ống. Nhậu đã rồi tắm. Tắm đã rồi nhậu.

Cánh đàn bà con gái kéo nhau ra biển khi mặt trời lên khoảng một tầm trên đỉnh đảo ngoài khơi. Năm người mặc đồ gọn nhẹ, Huyền Trân khoác chiếc áo choàng. Họ ngồi cách đám đàn ông mươi thước. Một chị sồn sồn bước xuống nước đi tới đi lui rồi trở lên nói với những người trên bãi:

- Không lạnh lắm, tắm được.

Huyền Trân đứng dậy, trút bỏ chiếc áo choàng, phô bày thân hình lồ lộ trong bộ đồ tắm bikini màu sắc sặc sỡ, yểu điệu đi xuống biển bơi lặn tự nhiên trong làn nước xanh trong leo lẻo như nàng tiên cá. Tất cả ánh mắt của đàn ông lẫn phụ nữ đều dán vào ngoại hình đáy thắt lưng ong vòng mông đầy đặn của cô. Nó vừa đẹp, vừa khỏe mạnh và ngon lành, hấp dẫn như trái lê chín. Ông Châu chép miệng:

- "Rõ ràng trong ngọc trắng ngà; rành rành sẵn đúc một tòa thiên nhiên".

Quốc Nam chắp tay xá xá trước mặt ông Châu:

- Con lạy bố. Của thằng Hoài Phương chớ đâu phải của trời mà bố thèm hả bố?

Ông Châu cười hì hì:

- Yểu điệu thục nữ quân tử hiếu cầu. Vả lại chừng nào cô Trân chưa đăng ký kết hôn thì chừng đó cậu cũng có quyền tán tỉnh chinh phục, nếu cậu muốn và có cơ hội.

Quốc Nam ngó dáo dác tìm kiếm:

- Con Trân ở đây còn thằng Phương đi đâu rồi ta?

- Nó đi vẽ trên tháp bà Ponagar - Trọng Phúc đáp - Mà mày kiếm nó chi vậy? Bố Châu nói không phải sao mày cứ thắc mắc hoài vậy mậy? Phạt mày một ống về tội ngoan cố.

Trọng Phúc rót một ống rượu phạt Quốc Nam, bố Châu cũng được thưởng một ống. Những người còn lại đều hưởng ứng rất vui. Mấy cậu nhiếp ảnh trẻ lấy máy chỉnh khẩu độ, ánh sáng, gắn têlê chờ cơ hội chụp lén Huyền Trân. Mấy cậu nhát quá. Cứ đến đề nghị thẳng với người đẹp chắc chắn sẽ được chụp công khai chớ tội gì chụp lén.

Chiều. Hoài Phương mời Huyền Trân ăn cơm (đi chuyến này tất cả hội viên được ứng tiền ăn uống tự túc). Họ vào trong cái quán thuộc loại thường thường bậc trung nhưng có đầy đủ các món đặc sản biển. Hoài Phương cầm tờ thực đơn xem tới xem lui, miệng lẩm bẩm:

- Các món hải sản giờ này chắc chắn không còn tươi. Người ta lại hay trộn phân urê vào nước đá ướp lạnh rất có hại cho sức khỏe. Cơm gà vịt thì sợ nhiễm cúm H5N1, bò thì sợ lở mồm long móng. Chỉ có heo là an toàn.

Hoài Phương kêu hai đĩa cơm sườn, hai ly trà đá. Rõ chán! Vượt đoạn đường năm sáu trăm cây số ra đây để... ăn cơm sườn, uống trà đá! Huyền Trân ráng nuốt cũng chỉ được hai phần đĩa. Ăn xong, Hoài Phương rủ đi dạo chợ Đầm, cô từ chối:

- Cảm ơn anh. Do không quen tắm biển, lại tắm sớm nữa nên cơ thể em bị dị ứng muốn sốt nãy giờ. Anh đi đi, em phải về khách sạn mới được.

Nhìn đĩa cơm còn bỏ mứa, Hoài Phương lo lắng:

- Để anh đưa em đi mua thuốc rồi đưa em về?

- Thôi khỏi, em có đem thuốc theo. Em về một mình được, anh cứ tự nhiên. Chúc vui.

Huyền Trân đứng lên một cách dứt khoát, bước ra đi không ngoái lại một lần. Không có người đẹp bên cạnh, Hoài Phương cảm thấy cô độc như Robinson trên hoang đảo. Đi một hồi thấy chán, chàng ta lững thững quay về khách sạn. Thấy cửa phòng của phụ nữ còn mở toang hoác, Hoài Phương bước vào. Trong ấy còn có ông Châu, Quốc Nam và Trọng Phúc đang xem mấy chị khoe đồ lưu niệm mới mua. Huyền Trân lấy chiếc vòng cẩm thạch màu xanh có điểm vân trắng bóng mượt của chị trưởng đoàn mân mê, trầm trồ:

- Chiếc vòng đẹp quá! Bao nhiêu vậy cô?

- Đâu Trân đoán thử coi? Chị trưởng đoàn bảo.

- Con chịu. Chắc mắc lắm hả cô?

- Cũng không mắc lắm. Hai trăm ba chục ngàn. Rẻ hơn trong mình chút đỉnh.

Thấy Hoài Phương đi vào, Quốc Nam vọt miệng galăng giùm bạn:

- Tay Huyền Trân đeo chiếc vòng này đẹp hết sẩy. Đâu đeo thử coi Trân? Nếu vừa sẽ có người mua tặng cô ngay, hén Hoài Phương?

Nhiều ánh mắt đổ dồn về chàng họa sĩ. Bị chiếu tướng bất ngờ, chàng hơi lúng túng, mặt mày chai ngắt như cái bánh phồng nếp nướng thiếu lửa. Chàng cố tạo nụ cười che giấu nhưng càng cố càng lộ rõ nét gượng gạo. Huyền Trân nhíu mày khó chịu. Cô rất thích chiếc vòng và định đeo thử nhưng vừa chúm năm ngón tay lại thì nghe lời nói của Quốc Nam lập tức tự ái nổi lên bèn trả chiếc vòng về chỗ cũ. Vấn đề không chỉ là tình cảm mà còn liên quan đến danh dự. Nếu làm như lời anh ấy chẳng khác nào hạ mình xin xỏ người ta cho người ta coi thường, khi dễ! Ông Châu mỉm cười ý nhị rồi lặng lẽ rút lui.

oOo

Sinh nhật lần thứ hai mươi của Huyền Trân sau một ngày đoàn đến Huế. Ở nơi xứ lạ quê người không có điều kiện, túi tiền đã vơi, đường về còn quá xa nên cô không thể tổ chức tiệc mừng dù bữa tiệc nho nhỏ. Hơn nữa, nếu tổ chức các cô chú, anh chị trong đoàn sẽ đến dự và mua quà tặng tốn kém khi mà túi tiền của họ cũng có hạn như cô. Tuy bất khả kháng nhưng Huyền Trân vẫn cảm thấy buồn.

Sáng ngày ấy đoàn đi tham quan lăng Tự Đức, còn ông Châu mời Huyền Trân sang Gia Hội ăn bún giò. Hai người vừa ăn vừa trò chuyện. Huyền Trân chợt hỏi:

- Chú đi Khiêm Lăng không?

- Không, chú có đến đấy rồi. Vả lại còn tranh thủ thăm vài người bạn. Sao? Bún ngon không?

- Ngon. Nhưng hơi cay. Vừa ăn vừa... khóc - Huyền Trân nói vui.

- Huế có hai chỗ bán bún giò ngon nổi tiếng, một ở đây, một ở chợ Tuần. Dân xứ này thường dùng ớt khô xay nhuyễn, khi ăn Trân nhớ kêu họ bỏ ít ít.

- Bộ chú đến đây nhiều lắm sao rành dữ vậy? Còn món nào ngon nổi tiếng nữa không chú?

- Lần này là lần thứ hai. Huế có khá nhiều món ăn thuộc hàng dân dã nhưng đậm đà hương vị khó quên. Hôm qua Trân đã ăn cơm hến, nay ăn bún giò. Chiều, chú sẽ đưa Trân đi ăn bánh bèo Ngự Bình, bánh ướt thịt nướng Kim Long. Đi nhé?

- Dạ!

- Tuy nhiên, Ngự Bình và Kim Long cách nhau khá xa nên chú sẽ đưa Trân đến nhà hàng Kinh Đô ở An Cựu cũng ngon không kém. Huế còn nổi tiếng với các món chè bột lọc bọc thịt quay, chè hột sen bọc long nhãn, chè đậu huyết, đậu ván, đậu ngự. Đêm hè nóng nực mà ăn chè Huế sẽ mát mẻ như đi dạo trên đôi bờ sông Hương. Nếu không có gì trở ngại, sau khi ăn bánh bèo, bánh ướt thịt nướng xong, chú sẽ đưa Trân vô thôn Vỹ Dạ vừa thưởng thức chè vừa nghe ngâm thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, chịu không nào?

Huyền Trân reo lên:

- Hoan hô chú! Trân đồng ý cả hai tay! Ngoài Hàn Mặc Tử, cháu cũng rất hâm mộ Chế Lan Viên, nhất là bài thơ Điêu tàn. Hôm ở thánh địa Mỹ Sơn, chú ca bản Hận Đồ Bàn rất hay, cháu nghe buồn muốn khóc vậy đó.

Ông Châu mỉm cười ý nhị. Đa sầu, đa cảm và cả... đa tình là bản chất của thi nhân. Xưa nay vẫn thế.

Chiều, Huyền Trân trang điểm, ăn mặc rất đẹp. Ông Châu cũng tươm tất hơn ngày thường, cổ có thêm chiếc cà vạt đỏ nổi bật lên trên nền chiếc áo sơmi dài tay màu vàng lợt. Hai người ngồi chung một chiếc xích lô đến nhà hàng Kinh Đô lộng lẫy, vào trong chiếc bàn cạnh quầy. Cô gái ngồi trong quầy liếc mắt nhìn Huyền Trân, mỉm cười gật đầu chào hai người. Ông Châu nheo mắt với cô ta. Cô ta lập tức bưng chiếc bánh kem hai tầng ra đặt trên bàn rồi trở vô mang bó hoa hồng trao cho ông Châu trước sự ngạc nhiên của Huyền Trân. Ông Châu nhìn Huyền Trân cười nụ, ôm bó hoa tặng cô. Cô đỡ bó hoa bằng hai tay, mắt vẫn không rời ông Châu. Tiếp theo, ông thò tay vào túi quần lấy cái hộp nữ trang đựng chiếc vòng cẩm thạch, to hơn, đẹp hơn chiếc vòng của chị trưởng đoàn, mở ra nói:

- Mừng sinh nhật thứ hai mươi của Huyền Trân.

Huyền Trân đứng ngây người nhìn ông Châu. Ông nâng bàn tay cô lên, nhẹ nhàng đặt cái hộp vào đấy. Cô chớp mắt xúc động nói lí nhí:

- Sao... sao biết hôm nay là sinh nhật của... của Trân mà chuẩn bị chu đáo quá vậy?

Ông Châu không trả lời, đưa mắt trìu mến nhìn Huyền Trân, kéo nhẹ tay cô ngồi xuống rồi lấy chiếc vòng, cầm tay cô âu yếm đeo vào. Đôi mắt cô không bỏ sót một động tác nào của ông. Khi chiếc vòng nằm vào vị trí của nó, cô tình tứ nhìn ông, ngọt ngào hỏi:

- ... Mua bao nhiêu vậy? Có mắc lắm không?

Ông Châu lắc đầu nhè nhẹ, đưa tay mời Huyền Trân thổi nến, cắt bánh. Tiệc mừng sinh nhật được bổ sung hai đĩa bánh bèo, bánh ướt thịt nướng đầy ắp và một chai rượu nho. Tiệc tan, sau khi rời nhà hàng Kinh Đô, không biết hai người có vô thôn Vỹ Dạ ăn chè, nghe ngâm thơ hay không mà suốt đêm đó không ai thấy họ trở về khách sạn.

TRƯƠNG HOÀNG MINH

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #art