TRUYEN NGAN DOAT GIAI(P1)-LENGHIABK05
NƯỚC MẮT
Chương một Cách đây đã hai mươi năm. Chuyện xảy ra như đã cũ lắm rồi. Tôi đi tìm cái cũ để rao bán cho con người ư? Hay chỉ ghi lại cái gì tinh chất, được sàng lọc qua thời gian và trong trí nhớ, để độc giả cùng sống lại, một thời chiến tranh chúng tôi phải chịu đựng, thời chiến tranh mà ngoại bang muốn đưa dân tộc chúng tôi trở về thời kỳ đồ đá. Tôi phải lục tìm những câu chuyện đã xảy ra, một công việc quá nặng nhọc, có thể trái ý mình, ngược lại với ý của một số người nhưng không thể khác được . Phải lục lọi, bới ra từ tro tàn, từ trong khói đen của dĩ vãng, từ sự ẩn giấu trong lòng người, mà con người đã rải lên lớp tro giấu kín nó đi, một sự lấp liếm đầy đau khổ và dằn vặt. Thế là, tôi đã tự bộc lộ nơi ẩn nấp, để lộ chân tướng của chính mình, và, các bạn ạ, câu chuyện bắt đầu rồi đấy… Đoàn xe Gát 83 kéo pháo nối nhau thành hàng dài, đứng nép vào hàng phi lao cụt ngọn ven con đường ùn lên những lớp cát khô. Đôi giày vải cao cổ của người lính nào đó đập mạnh, phụt lên một lớp bụi cát trắng xác, bay mù mịt. Lưng áo bờ-lu-lông lính bạc phếch cúi xuống tấm bạt phủ pháo mầu xanh lá cây, nhìn xa như bức tượng bằng đất quét vôi. Khẩu pháo được vít vào giá an toàn, ở tư thế hành quân. Tốp lính trẻ đã khoác áo pháo làm cho lưng khẩu 37 ly ụ lên, vươn ra cái vòi vải rất dài. Mặt trời đỏ ối trôi bập bềnh trên rặng cây khấp khểnh cằn cỗi, lá xù xòa, thân cành xơ cứng, trắng vết mảnh đạn, vết bom bi xoáy tròn ngọt sâu trong thớ gỗ và không ngừng tuôn nắng xuống mặt cát. Một con chim mái đang ấp trứng dưới gốc bụi cây xương rồng gai đâm tua tủa. Con chim có cái mỏ dài lập bập ,bộ lông dày , lốm đốm trắng, nó trễ hai cánh, chạm vào mặt cát, cái mỏ dài gục xuống ngậm một ngọn cỏ đã héo táp, cố hút lấy chút hơi ẩm còn sót lại. Con chim cũng đang thỉu đi vì nắng nóng ghê gớm. Bỗng dưng biển quẫy cựa, trở mình lặng lẽ, tiếng sóng thoảng như hơi thở con trẻ, dào về phía bờ cát. Ông trời vừa qua một thoáng chóng mặt. Giống như có một bàn tay mát lành xoa nhẹ lên cái vòm xanh cao hun hút úp chụp lên đất và biển, khiến nó tươi hớn lên. Gió nồm hây hẩy. Con người vừa được chứng kiến một phép lạ của tạo hóa, cả vùng đất bị nung nóng hầm hập, gió tây nam thốc đến làm cây cối mềm oặt, lá gục rũ xuống. Bây giờ nhìn cây lá tươi non, hàng phi lao cất lên tiếng hát vi vút, đứng nơi giao hòa giữa biển và trời, tiếng gọi muôn thuở của sự sống thật duyên dáng, mềm mại, mát mẻ và tươi tắn lạ lùng. Con chim mái bừng tỉnh, đạp đôi chân khô gầy xuống cát, rũ mạnh bộ lông xơ xác và nghiêng cái đầu nhỏ chớp chớp mắt nhìn mấy quả trứng vỏ lốm đốm xám, sắp đến kỳ tách vỏ. Trong đôi mắt đau đáu khô khao vì gió cát, bỗng bừng lên cái ánh vui mừng của kẻ sắp làm mẹ. Nó ngáp rộng miệng, yết hầu phập phồng, thở những hơi dài khoan khoái. Nó nhằn nhằn cỏ héo, hít mạnh cái bã cỏ, một chút nước chỉ nó mới cảm biết được, ngấm vào tấm thân gầy khô. Đang xòe hết đôi cánh ủ kín ổ trứng, con chim bỗng nhiên nghển đầu, như có một tín hiệu lạ vừa nhập vào người, làm cho sức lực bừng dậy, nó đập cánh bay vút lên qua đám xương rồng cát. Một bên cánh bị gai cào, xước da chảy máu, con chim không hề hay biết. Một bên cánh xõa ra, nó vẫn vút lên cao, treo lơ lửng bên trên một khẩu pháo và kêu lên thảng thốt. Nhìn con chim vỗ tít đôi cánh không biết mệt và kêu lên không ngớt, tốp lính biết có người lạ tới trận địa, hoặc có một sự gì lạ sắp xảy ra. Nó là một con chim nhạy cảm, người bạn quen thân của trận địa pháo 37 ly này. Tốp lính còn coi nó như một giàn ra-đa sống chứa đựng sự bí ẩn có màu sắc siêu nhiên. Đúng là sự lạ như con chim mẹ mách bảo. Một cô gái đang hộc tốc đạp xe từ phía xa lao tới. Cô gái đầu không đội nón, tóc xổ tung bay lơ thơ hai bên vai. Cô mặc chiếc áo sơ mi màu xanh lá cây, hồi đó gọi là áo “Phòng không”, tà áo bị hất ngược lên, đôi chân cô guồng cuống cuồng, liều lĩnh. Chiếc xe lao sầm vào “thằng người gù” của khẩu đột một. Cậu Viên, pháo thủ số hai đang ngồi trực, giật mình kêu: - Cô này, điên à? Định hy sinh cái xe đạp hay sao? Đi đâu mà húc bừa vào xe kéo pháo như thế? Cô gái đứng sát vào bánh xe, chộp lấy bàn tay Viên đang nắm chặt tay tầm khẩu pháo. Bàn tay cô nóng rừng rực, nhớp nháp mồ hôi và bụi cát. Cô đứng thở, miệng cố không mở to, mồ hôi đọng thành giọt lớn trên mặt, ướt bết mớ tóc hai bên thái dương và ướt đẫm cả ngực áo. Cô đã định nói mấy lần mà chưa thể cất lời được. Đại đội trưởng Lộc ngồi ở xe đầu ngó cổ ra ngoài quát xuống xe thứ hai, xe thứ hai truyền khẩu lệnh xuống xe thứ ba, rồi xe thứ ba truyền lệnh xuống xe sau ,cứ thế được truyền đi miệng lệnh hành quân của trung đoàn. Đoàn xe kéo pháo nổ máy. Tiếng động cơ rền rĩ. Cô gái vẫn không chịu buông tay Viên. Anh chàng cuống cuồng miệng ú ớ định gọi ai. Cô gái hít đầy hơi vào ngực, mặt tái xám, đầu ngặt ra sau, thu hết sức, thốt lên: - Anh ơi! Hai tiếng “anh ơi” phào ra miệng người con gái sắp ngất vụt xéo qua người Viên. Chiếc xe đang kéo khẩu pháo, lôi theo cô gái, bàn chân tuột mất dép, miết xềnh xệch trên mặt đường. Viên nhổm người quát lớn. - Dừng lại! Thằng cha Mịch tử tiệt, dừng lại! Chiếc Gát 63 phanh kít lại, khẩu pháo đẩy cần lái xô mạnh, nghiến vào móc kéo ken két. Viên nhảy phốc ra khỏi cái ghế sắt nóng bỏng, đập mạnh hai bàn chân không giày xuống mặt cát. Cậu ta nâng phốc chiếc xe đạp, đặt xuống vệ cỏ, trong khi đó cô gái vẫn lẵng nhẵng bám chặt lấy tay chàng pháo thủ to khỏe, đẹp trai có tiếng. Đại đội trưởng Lộc đẩy cửa xe đánh sầm, lệnh khệnh bước xuống, lừ lừ đi đến chỗ chàng trai và cô gái. Anh hỏi gằn trong họng: - Cô làm sao mà tru lên thế? Tôi lại phải gánh cái của nợ gì thế này, hở? Lộc nhe răng, lộ ra cả chiếc răng bọc vàng ở khóe miệng. Anh vẫn có thói quen khi tức giận hai hàm răng nhe hết cả ra và một âm thanh lạ tai cứ gừ gừ ở trong cổ họng. Lộc giẫm đôi giày đen kêu to hơn mức nó phải kêu, đi quanh, gầm ghè. Vừa xuất phát đã có đàn bà chặn đường, thật xúi quẩy! Sao? Cái thằng tử tiệt này làm gì nó? Mà cái con chết rấp ấy làm sao lại níu lấy thằng cha như cái bị thịt thế kia? Viên đứng đờ mặt như chính cậu ta chứ không phải cô gái gây ra lỗi lầm cho đoàn xe vừa lăn bánh đã phải dừng. Lộc nhìn chằm chằm vào mặt, xuống ngực, tới mông, rồi cặp đùi cô gái. Cô có bộ ngực cao rất đẹp tuy đã hơi căng ra không bình thường sau lần áo. Cái lưng dài, đẫy đà, hông nhìn nghiêng hơi xệ xuống. Ái chà, không phải con gái. Một mụ đàn bà! Một mụ đàn bà đã ăn sống, nuốt tươi một thằng hoặc nhiều thằng đàn ông. Lộc đi quanh, dáng thấp nhỏ choi choi, đôi mắt nhìn xói vào cô gái như cách đang đánh giá một con vật sắp mua. Anh vẫn khoe rằng ông bố trước kia làm lái trâu bò nên đã truyền cho anh cái khả năng đặc biệt tinh ranh, lọc lõi khi phân loại, định giá con đực, con cái. Thường khi trực ban ở sở chỉ huy đứng giữa các cậu trinh sát, thông tin mặt non choẹt, má phinh phính lông tơ, anh, bằng cái giọng của một tay bợm gái lão luyện răn dạy rằng, cái tài của anh đàn ông là khi nhìn một cô gái trinh bạch phải nhận ra ngay, nhận ra bằng sự tinh nhậy, từng trải, tinh quái, thèm khát của giống đực. Phải nhớ rằng, ở người con gái còn trinh bạch cái gì trên người cũng được nâng niu và sửa sang luôn. Tuyệt nhiên không phải chỉ là hàm răng trắng muốt, mái tóc huyền giữ mượt óng, thơm tho, mà là tất cả. Tất cả là một khối ngọc quý còn nguyên vẹn, một sự tinh khiết tuyệt hảo luôn luôn bật ra cái sức phản kháng và giữ gìn. Một cô gái trinh bạch có thể run lên trước cơn gió thổi xấc xược, thô lỗ qua bộ ngực non trẻ và rụt phắt tay lại như bị bỏng khi chạm làn da mát rượi, nõn nà của mình vào tay một người đàn ông. Mỗi lần khoe như thế anh thường kể một câu chuyện trần tục với những động tác của con bò đực trông thấy một con bò cái đang gặm cỏ bên đường, khi anh riết mũi chú chàng kéo đi cho kịp ông cụ đang bước phăn phắt ra khỏi cái chợ mà ở đó ai cũng lọc lõi, tinh ma đến phát khiếp lên được. Lộc vẫn đi quanh Viên và cô gái, cổ họng gầm gừ. Anh gườm gườm đôi mắt, xoạc mạnh cẳng cho chiếc giày cao cổ sát vào chân cô gái, đôi mắt cạu lại: - Duyên cớ làm sao mà cô giữ cậu ấy? Sao? Cô thất thân với nó rồi à? - Trời ơi! Sao anh ác thế? Cô gắng gượng trút ra từng chữ rời rạc. Đôi mắt thoáng bừng lên giận dữ song sắc mặt lại nhợt nhạt, hơi thở đứt quãng, thều thào, cô lả xuống tay Viên. Người pháo thủ trẻ hai tay lóng ngóng đỡ lưng cô gái. Nhiều pháo thủ ở các khẩu đội khác cùng nhảy ào qua thành xe, xúm lại nhìn cô ái ngại. Một cậu quát tướng lên: - Thằng Viên, sao mày lớ ngớ thế? Đặt người ta ngồi xuống đường nhanh lên! Cô ấy ngất rồi kìa! Cô gái vẫn gắng gượng nghển nhìn vào mặt Lộc. Đôi mắt anh vẫn lừ lừ rọi khắp người cô. Cô gái khẽ rên rỉ: - Thủ trưởng ơi, có anh Thái nhà em ở đây không? Tốp lính trẻ quay nhìn cả vào Lộc, không ai dám thay anh trả lời cô. Viên đã tìm cách đặt cô xuống vệ đường. Cô gái cúi đầu, úp mặt vào hai đầu gối khóc rưng rức. Vẻ liều lĩnh, táo tợn đã biến mất, trông cô như một đứa trẻ lạc lõng, bơ vơ. Cô khóc vì bị xúc phạm, vì tủi hổ và thất vọng. Đôi vai ướt đẫm mồ hôi rung lên từng đợt. Thỉnh thoảng cô ngẩng nhìn tốp lính đang ái ngại nhìn cô, và càng khóc to hơn, răng cắn sâu vào môi cho nước mắt tràn qua miệng, thành dòng trên cổ. Lộc nháy đôi mắt dẹt có đuôi dài nhọn hoắt làm nó tụt sâu vào hai mí như có vành. - Thái nào? Cô hỏi Thái nào? – Anh hỏi có phần mềm mỏng hơn, vì hiểu ra không phải cô đến để bắt vạ đơn vị. - Dạ, em hỏi anh Thái ở “ xê tám” mới về cưới vợ lên ấy ạ! - Thôi chết rồi – Chiến sĩ trinh sát Đăng gạt mạnh mấy phảo thủ đứng cạnh Lộc ra xa – Vợ anh Thái A trưởng chỉ huy của ta, chứ còn Thái nào ạ! Nét mặt Lộc sa sầm, giọng lạnh tanh: - Ờ, nếu quả đúng như vậy cũng phải hỏi rõ đầu đuôi, cho có ngọn ngành chứ. – Anh quay đi, gằn từng tiếng: – Gọi ngay cậu Thái đến gặp tôi. Đại đội trưởng bước thẳng về xe đầu, hai gờ vai mỏng rung lên và hơi lệch sang một bên, bàn tay nắm chặt. Đăng biết Lộc đang rất giận giữ vì vợ Thái đường đột xuất hiện ngay lúc đơn vị hành quân nhận nhiệm vụ mới, mọi người vừa được nói công khai vừa thì thầm với nhau là đến một nơi rất khốc liệt. Chắc rằng “ông ấy” đang nghĩ ra những lời cay độc để “quạt” anh Thái một mẻ. Mặc xác ông ấy, Đăng gọi to: - Anh Thái ơi, chị Hà đến! Đăng chạy hớt hải về chiếc xe đầu vì không thấy tiếng Thái thưa. Có tiếng giữ chăn phùm phụp và tiếng các hòm đạn va vào nhau lịch kịch. Mấy người lính lôi ra một thân hình cao to, mềm nhũn, ngủ mê mệt. Một tiếng quát như lệnh vỡ: - Sở vào mũi xem nó có còn thở không, hay hòm đạn đè nó chết rồi. Hà lập cập chạy lại chiếc xe đầu. Chị vấp ngã nhưng thoắt cái chị đã sáp tới bên chiếc xe. - Cấu vào chân nó xem nào! - Nó co chân các cậu ạ. A, lại còn đạp tao hả? Vợ đến mà lão thần ngủ không chịu buông tha nó ra. - Trời ơi, con giời ngủ gì mà khiếp thế không biết? Hà nghển đầu lên thùng xe thở hổn hển, mếu máo: - Anh…Thái…ơi! Một cậu đứng dưới đường giục với lên: - Nắm vào hạ bộ bóp mạnh một cái cho nó tỉnh. Bóp! Bóp nữa!!! Thái bật người ngồi dậy, hai mắt vẫn nhắm tịt. Cậu dưới đường lại giục: - Đấm cho nó mấy quả. Đấm thật mạnh. Đấm nữa! Cầm cái của quý của nó vặn thật mạnh. Hà đu hẳn người lên mếu máo: - Các anh ơi, em lạy các anh trăm lạy. Các anh đừng đánh nhà em nữa! *** Thái ngồi sát bên vợ trên vệ cỏ, hai bàn chân sục sâu vào lớp cát khô. Cát vẫn còn nóng rát, hai bàn chân anh lính dũi như hai cái dầm ngoáy sâu, giấu đi cả bàn chân, cả cổ chân cóc cáy, bẩn thỉu. Không những chân mà cả tay anh ta cũng dính đầy đất đỏ. Thái vừa mới đi tiền trạm về lại vội vàng lao ngay vào dỡ lán, bới hầm, rồi xếp tất cả cái đống ngổn ngang ấy lên xe cùng với anh em trong tiểu đội chỉ huy. Suốt nửa tháng nay Thái cùng tổ tiền trạm của đơn vị bứt ra khỏi anh em băng lên trước, vừa phải nhanh, vừa tỉ mỉ, khoa học, sục tìm nơi giấu pháo, nơi nấu ăn, trên đường đơn vị sẽ đi qua. Mỗi đêm tổ chỉ dừng lại nghỉ hai tiếng đồng hồ. Thời gian trong ngày còn lại đều ở trên xe, thậm chí đi tiểu cũng ở trên xe, đứng xạng cẳng, vạch quần tè ra hai bên đường. Con đường xuyên xen giữa miền rừng phía Tây ban đêm nườm nượp xe nhưng ban ngày vắng đến rợn người. Vắng đến nỗi há sẵn mồm xem có ai gọi một tiếng cho đỡ nhớ người mà há mỏi hàm cũng chẳng thấy bóng ai. Chiếc Gát 63 cứ lồng lên mà chạy như nó đã bị điên, quăng quật trên mặt đường đầy ổ gà. Chậm trễ một chút có khi phải ngồi đợi ở cái bến phà con ba bốn đêm. Khi tổ của Thái trở về trông ai cũng như quân tướng của Tề Thiên Đại Thánh vừa ở động ra, tóc đỏ, râu đỏ, mi mắt cũng nặng trĩu bụi đỏ. Quần áo thì bết lại cóc cáy, bụi đỏ trộn lẫn mồ hôi, bốc ra thứ mùi chua khăm khẳm. Họ chưa kịp hít thở hơi biển trong lành cho thư giãn lá phổi, đơn vị lại nhận được điện khẩn: bỏ hết các thứ cồng kềnh lại, hành quân gấp. Xếp xe xong Thái chỉ định nằm mấy phút cho giãn xương cốt, chưa kịp dặn Đăng gọi dậy nếu anh ngủ quên, lưng chưa kịp cảm giác tấm bạt nóng rẫy, hai mắt đã nhắm tịt lại, không thể nào mở ra được nữa… Hà tì ngực vào một bên đùi chồng, chị cảm thấy sự rắn chắc của cơ bắp đang truyền sức lực sang người mình. Mùi mồ hôi chua khẳm phả vào miệng, vào mũi ngàn ngạt. Tuy thế Hà không thấy thứ mùi chua này xa lạ hay ghê ghê cái sự bẩn, trái lại chị chấp nhận nó như một cái gì thật gần gũi, và chị cắn khẽ vào lớp vải dày cáu bẩn, hít lấy hơi chồng. Rồi chị ngả hẳn người, gần như nằm nghiêng trên đùi anh. Hà thì thào: - Em sợ quá, sợ không gặp được anh. Sao anh ngủ say như chết ấy thế? Nghe các anh ấy đánh anh, em cứ bủn rủn cả người. Thái cười nhẹ: - Chúng nó phủi bụi, ăn thua gì. Đứa nào cũng vờ làm quá cho em sợ đấy thôi. Anh vụng về đặt bàn tay dày cộm một lớp chai ráp sì lên ngực vợ. Chị lần sờ, ngạc nhiên thấy từng ngón tay anh xù xì, biến dạng vì cầm xẻng, cuốc chim, đào ngoáy suốt ngày này sang ngày khác như chuột chũi. Im lặng một lát, chị quờ một tay kia, rồi đặt cả hai ban tay chồng lên ngực mình. Thái rút khẽ tay ra, luồn trong lần áo mỏng, thấy vợ không mặc áo nịt, hai đầu vú cương cứng, và cặp vú mới đây thôi nhỏ gọn, rắn đanh, giờ to lên khá nhiều. Thái vội hỏi: - Em có chửa phải không? Thấy Hà không trả lời, anh hỏi lại bằng giọng hấp tấp hơn: - Em có mang sao không báo cho anh biết? Chị ứa nước mắt: - Anh cứ im như thóc thế, thư không thèm gửi không thèm nhắn ai lấy nửa câu , em biết đâu mà báo với chả cáo. Chị lật người, ôm riết ngang lưng, cắn mạnh vào ngực áo anh. Thái kéo vạt áo xuống, ôm chặt vợ, rồi bế hẳn chị vào lòng. Anh luồn bàn tay, lần quanh lưng, thấy chị đã hơi đẫy ra. Trời tối hẳn từ khi nào cả hai người đều không rõ nữa. Hàng phi lao réo lên u ú, cây nào cũng bị mảnh bom phạt cụt ngọn, cành con mọc túa ra um xùm. Sóng biển ầm ào, có con sóng lớn nào đó đổ xoài lên bờ cát nghe hút như một tiếng thở dài. Bầu trời nhạt nhòa muôn vì sao dạt trôi, tan tác, gió cuốn những đám mây xác xơ, ánh lân tinh sáng hắt lên trên đầu những con sóng bạc khi mờ khi rõ, một con còng gió chưa tìm thấy hang chạy cuống quýt trong cơn gió tạt. Tiếng biển thẳm sâu trĩu nặng. Hơi biển mặn mòi làm cả hai vợ chồng đều khó thở. Thái ôm ghì lấy vợ, lòng rờn rợn dõi theo ngọn gió lướt qua mặt đường, ném từng nắm cát vào chiếc xe đạp làm sắt thép bật kêu khe khẽ như tiếng người rên. Anh cũng không nhớ rõ tốp pháo thủ vây quanh hai người tản về các xe từ lúc nào. Đoạn đường ồn ào, người đi, người chạy, lố nhố, bây giờ im phắc. Sự im lặng giống như có người chỉ huy làm Thái đâm nghi ngờ, anh ngoái nhìn đằng trước, đằng sau, nhìn ra hai bên, người thấy gai gai, sờ sợ. Một sự im lặng cố gắng nén lại và có phần giả tạo. Một lúc sau có anh lính già nào đó không nén nổi, buột ra tiếng thở dài não lòng, làm cả đoàn quân xao động, tuy vẫn là sự xao động của im lặng. Ở trên thùng chiếc xe Gát gần hai vợ chồng nhất, cậu Viên như vờ vui đập tay lên thùng xe làm nhịp bõng dưng ư ử hát bài gì không ai nghe rõ lời. Nhưng tiếng hát của cậu ta dừng đứ ngay lại. Chắc có tay nào véo cho cậu ta một cái, nên sau đó Thái nghe tiếng đấm nhau. Sau đó lại im lặng. Một cậu nào đó liều bật diêm hút thuốc lào. Có tiếng quát khẽ. Lửa tắt phụt. Tiếng điếu cày bật kêu lóc xóc. Tiếng điếu xa hút trong đêm sâu lặng tờ. Trong sự im lặng bất đắc dĩ, chỉ có biển ở ngoài bờ cát ầm ĩ sôi réo. Thái ngồi lặng lẽ, đôi mắt mở to, nhìn đăm đắm vào mặt vợ. Qua ánh pháo sáng từ phía xa rọi tới, đôi mắt người phụ nữ như cháy loáng lên từng đợt, ánh lên như sóng những tia sáng bối rối, và hoảng sợ. Người chị cứ run bắn lên, không ghìm được và anh hôn lặng lẽ lên đôi môi ướt mọng, mấp máy, chỉ chực khóc. Chị không thấy ngượng, không còn xấu hổ nữa, ngón tay lần tìm cởi cúc áo chồng, hất tung hai tà áo ra, rúc mặt vào bộ ngực đầy, hít lấy mùi da thịt chồng, cái hơi mằn mặn và dịu ngọt nuốt vào làm người đàn bà ấy rạo rực, chị tận hưởng chưa được bao nhiêu. Đến khi Thái đậy vạt áo phủ kín mặt làm ngột thở thì chị bỗng nhiên thấy mình liều lĩnh đến ghê gớm. Chị quờ hai tay kéo đầu anh áp vào ngực nghe trái tim mình đang đập rối loạn. Rồi bàn tay mềm mại bỗng rắn chắc, bắt các ngón tay anh xòe ra, đặt lên cái bụng đã tròn lùm lùm lên trong lần vải “phíp” mỏng. Bàn tay như có ma thuật bắt Thái vuốt dọc cặp đùi dài chắc lẳn của chị. Thái ngạc nhiên hỏi vợ: - Hà, nghe anh hỏi nhé: em không xấu hổ à? - Em lặn lội đi đường hàng trăm cây số đến gặp anh. Xấu hổ là cái gì? - Này, này, các anh ấy đang cười kia kìa! - Ai cơ? - Các anh lính pháo hay khịa chuyện, có một chúng nó tố lên gấp mười đấy… - Có lẽ họ chưa hiểu thế nào là vợ lính, là đàn bà chăng? - Ít người biết, còn nhiều người chưa biết chứ. - Thảo nào cái anh bạn lúc nãy dìu đỡ em tay chân cứ lóng nga, lóng ngóng. - Ôi dào, lóng ngóng gì nó, thằng ấy trẻ tuổi, đẹp trai, hát hay đến cỏ cây cũng phải mê, nhiều cô chết mệt vì nó đấy. - Thế sao anh ấy run thế nhỉ, cứ như lần đầu chạm tay vào phụ nữ. - Vì nó biết em là vợ anh. Vợ một người lính thì người lính khác phải biết trọng chứ. - Anh thì chúa là hay đề cao các anh lính. Thế tại sao người ta nói văn mình vợ người. - Ô hay, em hỏi như trẻ con ấy thế, anh cắn vào má vợ một cái rõ đau. – Đúng đấy, nhưng cổ nhân đúc kết điều ấy để dành cho kẻ sinh ra để tự thưởng thức cái đời sống của mình, sống dửng mỡ và phè phỡn. Những kẻ biết mình sống ba chục năm, hai chục năm hoặc mươi mười lăm năm nữa. Còn người lính thì bây giờ đang sống, lát nữa có thể chết. Lúc này nhìn thấy ánh mắt, nụ cười của nhau, ôm chầm lấy nhau, nhưng chốc nữa có thể nhìn thấy máu phun ra, cánh tay ấy đã nát bét, thân người bị mảnh bom chém lìa, nhìn thấy tim óc bạn phơi ra ngoài. Vì thế đối với đồng đội đang sống lại như đối với người có thể chết. đã chết một phần, hoặc có khi là nhất định sẽ chết. Thế nên, rốt cuộc những người lính quý nhau, thương nhau, cùng chịu đựng và chia sẻ mọi thứ trên đời. Có thể nói trên đời này không tình thương nào sâu nặng một cách đau đớn như tình thương giữa những người lính. - Những người lính và vợ lính nữa chứ lị. - Ừ, vợ lính nữa em ạ! Trời tối mịt mùng. Gió bỗng mạnh lên và thổi hung hãn. Biển gầm gào, những con sóng lớn gầm thét đổ vào bờ cát. Biển sôi sục, ở sâu trong lòng nó, biển như cố ghìm lại sự phá hủy muôn đời. Biển giãy giụa. Thái xoay hẳn người che cho cát khỏi bắn vào mặt và vào người vợ. Gió thốc tung lưng áo Hà làm tà áo kêu lên lật phật. Anh lần tay kéo tà áo xuống giữ chặt lấy, trong khi chị cứ níu như đu lấy cổ anh, tấm lưng to đẫy hơi cong lên, hai chân chị giãy ra khỏi tay anh, đạp mạnh xuống, cào cào trên cát. Và rồi, chị bỗng bật khóc nức nở. Thái bỗng đứng lên, quên hết mọi sự gìn giữ, e sợ, lập cập bế vợ đến cái thùng nhà hầm gần đấy. Những người con gái như Hà phải làm vợ trước khi được làm người yêu. Họ quen nhau chưa kịp yêu thì ngày cưới đã đến. Luật pháp và luật lệ ghép họ lại với nhau. Hai bên họ nhà trai, nhà gái vội vàng làm một cái lễ tác thành cho người đàn ông và người đàn bà. Họ sáp lại với nhau trong khi còn đang bỡ ngỡ về nhau một cách vội vàng vì trách nhiệm hoặc là một thứ nghĩa vụ gì đó, có khi từ sâu bên trong một đòi hỏi có tính chất bản năng chứ chưa phải là tình yêu. Tuy nhiên cái gốc gác của nó bao giờ cũng vì cuộc sống con người. Vì thế khi tách ra xa nhau tình yêu mới bật nở, một thứ nở chậm như hạt được ủ mới đem gieo, nên sâu đậm và khao khát đến cháy bỏng. Tình yêu cứ thế được nuôi dưỡng dần dần qua những lá thư và sự xa cách xen vào với nỗi thương nhau cùng nghĩa vợ chồng và rồi để trở thành một thứ tình vợ chồng ào ạt như giông bão, như lũ cuốn đối với đời người lính. *** Đã qua giờ đơn vị hành quân từ lâu. Tiếng còi ô tô “Toe!toe!” gắt gỏng phát ra từ xe Lộc ngồi khiến Thái giật bắn người. Nhận thức của anh bị lôi tuột ra khỏi thế giới êm dịu trở về với sự thật nghiệt ngã. Sự thật tàn nhẫn mà cái phần trữ tình đã bị lột bỏ, còn trơ lại cái cục lửa của chiến tranh, làm cho Thái cảm thấy nóng rát và đắng nghét trong cổ họng. Anh phủi cát ở lưng áo vợ, dùng ngón tay cào nhanh mấy cái cho mái tóc đỡ rối và đỡ nhanh chị đứng dậy. Qua màn đêm nhờ nhờ bởi ánh lân tinh từ những con sóng hất mình lên bãi cát, Thái vẫn thấy rõ đôi mắt Đại đội trưởng nhìn mình giận dữ và đấy cái ý trách móc. Hai người đi đến gần nhau, Lộc vấp chân làm cát bay tung. Họ vội vàng quay đi để tránh luồng mắt nhau. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc bốn con mắt lại quay phắt lại, ngó vào nhau, trân trân. Đôi mắt Lộc bừng bừng chiếu vào Thái khiến anh nóng bừng cả khoảng đầu, phía sau gáy tê đi, rờn rợn. Lộc rút phắt cây cờ chỉ huy vẫn giắt ở lựng, cầm chắc nơi tay, hầm hầm như sắp vụt vào người Tiểu đội trưởng chỉ huy dưới quyền anh. Biết rằng giây phút này không thể kéo dài, Hà níu chặt lấy tay chồng. Người lính trẻ từ từ gỡ tay vợ. Chị nắm luôn lấy bàn tay anh, dùng cả hai tay nắm rất chắc. Thái làm một động tác mạnh, như một cái hất tay, bước vụt đi. Hà bước theo, rồi chạy lên kịp, đi song song với anh. Thái thở hổn hển. - Về đi em! Đơn vị tới nơi ở mới, anh sẽ viết thư cho em. Hà mếu máo: - Anh Thái, anh đặt cho con một cái tên. Không nghe tiếng vợ vừa nói gì, Thái bám cửa thùng xe đu người nhảy vọt lên, miệng thở hồng hộc. Chiếc xe Gát 63 rung rung sốt ruột vì chờ đợi. Từ góc bên kia thùng xe Đăng đứng chồm dậy, loạng choạng bước qua đống đồ đạc lổng chổng, gần như xô tới đẩy mạnh Thái trở xuống mặt đường. Người lính trẻ măng quát to, giọng rất dữ, như chính cậu ta là người chỉ huy cao nhất ở đây. - Xe sau vượt lên, chạy trước đi! Đăng cũng nhảy xuống mặt đường, sải những bước dài tới chỗ Hà và Thái đang nhấp nhổm, nôn nóng đứng dưới hàng phi lao. Hà phải dựa hẳn vào một cây phi lao cụt ngọn, cành lá lòa xòa đang réo lên ú ú trong gió mạnh. Hà cắn chặt môi, mặt cúi gầm, tay ôm cái nón che trước bụng… Chiếc nón cậu Chư rỗ vừa ngó hắn người ra ngoài cửa xe đội lên đầu cho Hà. Chiếc nón ấy cậu ta mua làm quà miền Trung chờ mang về cho vợ. Một chiếc máy bay phản lực xẹt qua thả pháo sáng. Chùm pháo sáng nổ lục bục, tỏa bung ra phía trên đầu đoàn quân. Đăng nói hấp tấp: - Chị Hà về đi! Em và anh Thái phải đi ngay bây giờ. Hà chậm chạp ngẩng đầu lên, khi đã nhìn rõ đôi mắt thương cảm của Đăng, đôi mắt của chị bỗng giương to, óng ánh nước. Giọng chị chìm trong gió. - Thôi, em đừng giục nữa khiến chị thêm đau đớn. Chị về ngay bây giờ đây! Từ đôi mắt sưng mọng, nước mắt trào thành dòng, chảy dọc hai cánh mũi và đọng lại ở đôi môi rớm máu. Chiếc nón úp trước bụng lỏng dần, tuột ra khỏi tay, rồi cứ thế trượt dần, nằm lăn ra đất. Cơn gió dữ dằn vỗ ngay lấy, hất nó lăn lộn loang loáng trên con đường ngập ngụa bụi cát. Thái đuổi theo, mãi mới lấy được chiếc nón đưa lại cho Hà. Anh chụp vai Đăng kéo rất mạnh, gần như lôi anh chiến sĩ về phía chiếc xe vẫn đang đợi. Hai người bám vào thành chiếc xe quân sự nhoài lên. Hà bỗng chồm người về phía trước, chạy cuống cuồng: - Anh Thái, anh Thái ơi!Cho em đi với các anh một đoạn, một đoạn thôi. - Không thể được đâu Hà! - Em giặt giũ, em nấu cơm cho các anh ăn mà đánh nhau!!! Chiếc xe Gát lăn chầm chậm. Hà ngồi thụp xuống, lại đứng dậy chạy. Khẩu pháo vấp vào ổ gà nẩy lên bần bật. Viên nắm chặt tay tầm khẩu pháo, đầu cúi gầm xuống. Hình như cậu ấy khóc. Một chùm pháo sáng nữa lại bung xòe trên bầu trời. Ánh lửa đám cháy do chiếc máy bay ném bom ở phía xa chiếu loang loáng trên nền trời.Trong thứ ánh sáng gắt gao, quái gở, những đám khói kết lại với nhau thành vầng khói lớn đùn lên sừng sững như những trái núi khổng lồ, che khuất hẳn một khoảng trời. Hà vẫn chạy theo xe, chị vấp vào cái gì đó, ngã lăn ra. Thái hộc lên, níu chặt lấy vai Đăng. Những tưởng người thiếu phụ không dậy được nữa, nhưng kìa, chị đã đứng lên, lảo đảo, chệnh choạng, chới với. Chiếc xe lăn bánh đã xa. Chị chỉ còn như một cái bóng vật vờ trong ánh pháo sáng ma quái, như chị bị đè sấp xuống dưới vùng khói bom khổng lồ, và biến đi trong màn đêm khi anh pháo sáng bị đẩy lùi, bóng đêm ken ập tới đen kịt, mịt mùng. Thái từ từ khuỵu xuống đống đồ đạc ngổn ngang trên thùng xe. Đăng cũng ngồi xuống theo, ôm chặt lấy anh. Anh nhắm nghiền đôi mắt, mi mắt lặm nhặm vì cát bụi. Màn đêm tơi tả chụp xuống xung quanh. Như một giấc mơ vội vàng, Thái hốt hoảng vì ý nghĩ điên dại đây là lần cuối cùng hai người gặp nhau. Anh vùng ra khỏi tay Đăng, hỏi to: - Các bộ phận đo xa, trinh sát, thông tin có ai để quên cái gì không? Đường hành quân xe rất xóc, cố gắng bảo vệ tốt khí tài. Anh quay sang Đăng – Đăng đeo ống nhòm lên người, vất vạ vật như thế vào đến A2 không có nó, đơn vị như mù mắt, nằm im chờ chết. Chương hai M ột người lính ngồi dựa lưng vào bức tường đổ, ngả hẳn đầu lên đám rêu mọc lầy ngầy, mồm há hốc, hai bàn tay sần sùi chập lại làm máng hứng nước. Anh ta gí sát đôi môi khô khốc vào cái máng tay, đôi mắt mở to nhìn trừng trừng. Gió đã dịu hẳn, về cuối cơn giông mưa chỉ còn lắc rắc từng hạt, thỉnh thoảng đôi hạt mưa bay lạc vào tận họng khiến cho vòm miệng cứ muốn mở to mãi ra. Một dòng nước mỏng nhỏ xíu, từ cái máng tay nhè nhẹ lăn qua làn môi, thấm vào kẽ chân răng; tia nước chạm vào đầu lưỡi làm dịu dần cơn khát và làm tan cơn đói ngủ đang rập rình ở mi mắt, sẵn sàng kéo tuột anh vào một giấc ngủ mê mệt. Anh lính đưa bàn tay vuốt từ đỉnh đầu xuống trán, nước tràn qua mặt, lan da rân rân như giãn nở. Anh lại vuốt, lại miết, lặp lại động tác như một cái máy, tưởng như tư duy của anh đã bị lập chương trình điều khiển, bàn tay còn lại chặn nước cho chảy vào mồm, cặp môi cong lên, cái cổ rướn lên, toàn thân đê mê lặm chìm trong một khoái cảm dìu dịu. Cách đó chừng mấy bước chân, sát cái bậc lên xuống căn nhà đổ, một thân người xám ngoét bọc trong bộ quân phục ướt sũng. Những hạt mưa to tướng ném vào cái trán hóp, đen sạm và đập vào đôi mắt hai mí chưa kịp khép kín, làm tròng mắt lồi ra, tím ngắt. Cái đầu ngoẹo hẳn sang một bên, được kê lên đôi giầy cao cổ ướt nhoét, đế giầy bê bết bùn đất đỏ; cái thân hình không hẳn là người không hẳn là xác nằm thẳng dẵng. Những hạt mưa lớn bắn vào đôi bàn chân cũng bê bết bùn quánh đỏ, làm lộ ra từng mảng da trắng nhợt nhạt, dăn deo. Một dòng nước xanh mờ theo bức tường không mái chảy xuống. Dòng nước tràn qua bậc lên xuống căn nhà, tuồn vào lưng chiếc áo bờ-lu-dông vải dầy, ướt lũng nhũng, cái ngấn nước loang ra trên nền đất, ngấm sang chiếc quần bạc mầu cáu bẩn. Như được hẹn giờ, cứ vài phút người lính lại ngừng uống nước bằng máng tay, quay sang nâng cái thân người ấy lên vắt bớt nước ở lưng và ở đũng quần, sau đó anh cẩn thận đặt cái thân hình nửa người, nửa xác, đứng như tư thế cũ. Trời mờ sáng, bầu trời xanh nhạt. Mảnh trăng già cong cong, nhợt dần, trôi bồng bềnh trên dãy đồi trọc lô xô. Tiếng nước chảy từ phía Ba da Đô Lương vọng lại nghe ồ ồ. Người lính cởi quần áo ngoài ném phịch xuống thềm căn nhà đứng giữa trời tắm khô. Thấy trong người bức bối, khó chịu, anh cởi nốt chiếc quần đùi cầm ở tay, đoạn áp vào đám rêu cho ướt, dùng làm khăn lau người. Anh để mình khỏa thân như thế đi ra đứng ở ngã ba đường ngóng ngược lên phía Phủ Quỳ đau đáu. Anh lính ngáp một cái thật dài, tưởng đến rách miệng rồi vội vàng quay về đứng trước căn nhà. Hoang vắng quá. Hoang vắng tới mức con người phải tự khỏa thân để thấy da thịt mình. Không một tiếng kẹt cửa ở dãy phố câm lặng, gẫy vụn, vài căn nhà còn sót lại tường nứt hoặc bay mất nóc. Không một sợi khói ấm áp nào run rẩy qua khe bếp. Tuyệt không có ánh đèn dầu le lói báo hiệu con người ta đang sống. Anh lính bỗng nảy ra một ý nghĩ rồ dại, để nguyên mình trần truồng như thế chạy quanh đây xem nếu gặp ai tất họ phải kêu lên cho bớt vắng lặng. Đôi mắt mở to hoang dã nhìn như bới tìm xung quanh. Qua ánh ngày mờ mờ anh lính thấy một đoạn hào nhỏ chắc rằng bỏ hoang đã lâu. Anh sải mấy bước dài, nhảy thử xuống con hào và bỗng giật mình hoảng hốt vì lũ cóc nhái nhảy hỗn loạn. Một con chim cũng đang trốn ở đầu kia đoạn hào thấy động chấp chới vỗ cánh bay lên, nó loạng choạng ở trên không, chưa tìm ra chỗ nào có thể trốn lại được. Anh lính ân hận vì làm kinh động, khiến con chim tội nghiệp vội vã bay đi. Và rồi, anh nhảy phắt lên mặt đất. Bằng đôi tai đặc biệt thính nhạy, anh đã nghe có tiếng động cơ máy bay ở rất xa. Gần như cùng một lúc anh ta nhìn thấy bằng mắt thường hai chiếc A7 bay sóng đôi về phía thị trấn. Sau mỗi chiếc máy bay, hai luồng khói tuôn phùn phụt, làm vẩn lên bầu trời xanh lơ trong sạch. Hai chiếc A7 xông bừa qua mảng hồng nhạt của bình minh còn rớt lại, rồi cứ thế lừ lừ diễu qua bầu trời. Anh lính trinh sát đang chờ để đón chiếc xe hậu cần của đơn vị. Đại đội pháo cao xạ 37 ly đang chiếm lĩnh trận địa ở phà gần phà Sỏi. Anh phải “chốt” ở đây để chặn chiếc xe lại, chắc “thằng già khụ” chờ nhà bếp bị hỏng máy hoặc giở quẻ xịt lốp, gẫy cầu ở đâu đó. Lúc đơn vị hành quân rời vùng đất đỏ Phù Quỳ chiếc Gát đã đứng ì ra không chịu nổ máy. Quay ma-ni-ven chán tay đầu xe rung lên đùng đùng, nhưng nó vẫn đứng trơ thổ địa. Phải móc cáp cho xe kéo pháo lôi đi một đoạn, chiếc “chuồng gà” Gát 51 rách tã mới nổ máy phành phạch. Đến khi tăng ga lăn bánh, nó cứ rên ư ử. Đúng, nó dở chứng hỏng máy nằm ở đâu đó thôi. Có khi các bố hậu cần thấy trời sáng đánh bài lủi, nằm lại chờ tối. Các khẩu đội phòng xa đã quẳng lên thùng xe hai bao gạo, vài chục hộp thịt, thùng lương khô dự trữ chiến đấu. Người lính bị ru trong ý nghĩ đó, ngồi xuống, đầu ngửa hẳn ra, tựa vào vệt nước xỉn trên bức tường, đôi mắt đờ đẫn, dại hẳn đi và trong khi đôi mắt vẫn mở trừng trừng thì thần kinh đã tê dại, anh đã ngủ trong một giấc ngủ quái đản. Anh thấy mình đang chạy trên một vùng đất chết, bước nào cũng thụt xuống hố bom. Và khói, khói như một thứ bệnh dịch lan tràn, che mờ cả mặt đất. Anh chạy cuống cuồng trên mặt hoang mạc, bị săn đuổi bằng rốc két 70 ly và đạn hai mươi ly sáu nòng. Rồi cả một trận mưa bi thép tuôn chảy ra từ những trái bom to bằng nắm tay trẻ con, quả nào cũng vàng mỡ, tươi bóng, mầu của quả chín, nhìn vào chúng ngỡ ngàng, như có thể vồ lấy ăn ngấu nghiến, nhưng chúng lại giấu bên trong sức mạnh giết người khủng khiếp. Giấc ngủ vật vã, không thể nào sâu, dồn đuổi người lính trong ý nghĩ thật và mơ ngột ngạt. Đột nhiên trên bầu trời lóe hai tia chớp sáng. Đôi mắt trừng trừng đờ dại thoắt sống động và người lính choàng dậy. Các giác quan thính nhạy ở anh ngay tức khắc được đẩy đến chỗ tinh nhạy nhất. Anh tự hỏi: “Tại sao sáng rồi mà hai chiếc A7 còn thả pháo sáng? Hay là chúng tóm được chiếc xe hậu cần chạy lạc đường?”. Chỉ mấy giây sau anh lính đã tự giải đáp được cho mình. Từ trên khoảng xa, xanh hút, bỗng dội lên tiếng rú rít chói buốt. Bom bi! Hàng triệu viên bi sắt từ những quả bom con vừa rời bom mẹ, sẽ bắn ra. Người lính nào từng trải như anh ta, từng chịu hàng trăm tấn bom tính theo đầu người, đều hiểu rằng cái chết đàn lũ sẽ xuyên vào khắp cơ thể và nằm ở đó, lặn sâu, gây nên các vết thương khó giải phẫu hơn gấp nhiều lần so với mảnh bom đạn thường. Người lính bật dậy, nhảy vọt đến ôm ngang cái thân xác sũng sĩnh nước ,lăn bừa xuống đoạn hảo bỏ hoang mà anh đã xem thử khi hồi. Loạt bom nổ ầm ập, những quả dứa, quả ổi giết người hết sức tinh vi và dã man từ cái bàn chụp khổng lồ túa ra đều đặn, rơi chụp xuống mặt đất, bật nổ, tiếng nổ nhỏ, khô ngái chọc vào làm buốt óc. Anh lính lắc mạnh người thấy mình đang sống liền giơ tay sờ khắp mặt, lần tay vào ngực, hai bên sườn và vùng rốn cái thân xác anh đã đặt xuống lòng hào. Không thấy máu, anh vẫn sờ, viên bi có thể chui vào đâu đó rất ngọt và người chiến binh chưa kịp cảm thấy đau. Anh lần sờ ở đùi, ở bẹn, không thấy vết xây xát nào đáng kể. Đến khi anh nâng hai đùi cái thân xác để sờ vào hạ bộ thì chân tay anh bủn rủn. Một cái khúc đen xám, nhẫy nhợt, thò dài từ mông về phía chân, đang ngọ nguậy, uốn lên, vật xuống. Trời ơi!Rắn!Anh lính gần như hét lên, nhảy thót lên bờ hào. Con rắn bắt đầu bị ngạt, uốn cong hẳn thân lên, vật mạnh xuống đất rồi lại hất cả nửa mình đang được tự do sang hai bên, cái đuôi tù tù đen nhợt thọc ngoáy vào đùi cái thân người đang đè lên nó. Anh lính luống cuống chạy quẩn bên trên đoạn hào. Mùi khói bom khét lẹt, ghê rợn xộc vào mồm, ộc vào tận trong họng làm anh ngạt thở. Anh nhổ một miếng đờm lẫn đất bụi trong mồm ra, nhấp nhổm định nhảy xuống đoạn hào. Cái khúc rắn quằn quại, duỗi thẳng ra phập phồng, rồi lại quằn quại, nhớt ở thân nó quệt vào hai ống quần dầy cộm lèo nhèo. Cái đầu bị đè dưới lưng người, có lẽ nó đã ngạt lắm, bây giờ nhấc lưng lên nó mổ cho một miếng thì đi tong. Do quá lo sợ và kinh tởm người lính muốn ói mửa. Đám khói bom vẫn đặc sệt quanh chỗ anh lính cúi khom khom. Thứ khói bom vàng quẩn ở thấp rất lâu tan vì chúng là đám bụi hạt nặng nhỏ li ti, chúng cứ lắc lư, sền sệt, được ngọn gió Nam dâng lên rồi rơi thõng xuống lòng hào. Cái thân xác bỗng bật ho sặc sụa, ho thành cơn dài rung cả ngực và tay chân. - Ngột thở quá! Tôi đang ở đâu đây anh Thái? Thái nhẩy chồm chồm: - Đăng! Cậu nằm im, không được nhúc nhích. - Sao thế anh Thái? Sao không được nhúc nhích. - Đã bảo nằm im, nguyên tư thế ấy. Cậu động đậy là chết tươi đấy. - Có cái gì ngọ nguậy ở dưới lưng!Anh Thái ạ? Thái gắt: - Nằm im!Có lẽ trên thế giới này không ai ngủ như cậu. Một thứ chết ngủ. Nhiều lúc tớ nghĩ cậu chết đột tử rồi. - Trời ơi, nó ngó ngoáy buồn và lạnh quá anh Thái ạ. - Đã bảo im cơ mà – Thái gắt. Anh lo sợ lỡ bạn lồm cồm bò dậy con rắn được gọi là chúa trong cái giống rắn này sẽ ngẩng phắt đầu dậy, cắn ngay. Đăng quờ quờ tay: - Tôi nắm được nó đây rồi - Thân con rắn chúa đang như một cánh cung lắc lắc. Thái đang đứng xạng hai chân ra bên bờ hào, môi mím chặt lại. Phải một lát sau, Thái mới nghĩ ra cách cứu Đăng ra khỏi tình thế vừa đáng sợ vừa hài hước như một chuyện đùa nghịch. Anh với tay xuống lấy tấn và Đăng đưa hai tay nắm chặt tay Thái. Đăng làm động tác bật mạnh, tung người lên khỏi đoạn hào, ôn chầm lấy người A trưởng. Con rắn hổ mang to bằng bắp tay ngáp miệng thở mấy hơi cho hồi sức, rồi nó quay nhìn hai anh lính, phè cái mang to bằng bàn tay phun phì phì. Chú ta oai vệ ngẩng cao đầu bò về đoạn cuối hào. Lũ cóc nhái líu vào nhau, nhảy loạn xị. Con hổ mang bành, vẻ rất hiền, bò qua lũ cóc nhái, lên góc hào bị lở tránh vũng khói vẫn còn đặc sệt,đầu nghếch cao,mồm há ra thở gấp.Con mắt bé tí sáng chói nghiêng nhìn những chú nhái mọi khi vẫn là mồi ngon của nó, giờ đây cùng trong cảnh lánh nạn. Ở ngã ba thị trấn không sinh vật nào sống nổi trên mặt đất, do bản năng sinh tồn, chúng kéo cả xuống chung sống với nhau trong con hào. *** Lộc cầm một chân Đăng lôi xênh xệch. Cậu lính trẻ giãy lên, giọng ồ ồ: - Đứa nào kéo chân tao đấy? Để cho tao chợp mắt một tẹo, ờ ờ, cả chục đêm thức trắng. Này, này…để cho tao yên, không tao đào mả bố mày lên đấy! Lộc nhe cái răng vàng ở khóe miệng, một tay cầm cờ chỉ huy đưa về phía sau, tay kia nắm chặt cái chân Đăng giật mạnh. Đăng đạp chân kia vào tay Lộc chửi: - Thằng khỉ đột! Chợp mắt một lúc cũng không cho nằm yên. Ông lại đả cho một trận bây giờ. Lộc buông chân Đăng, bước mấy bước, cổ họng gầm gừ, người gập xuống sát cậu lính trẻ. Thái sợ tái mặt, nhổm người định chạy tới đánh thức người chiến sĩ dưới quyền mình song nghĩ thế nào anh lại ngồi im như phỗng đá, không nhúc nhích được. Lộc đã túm cổ áo, dựng người lính trẻ măng dậy, và không kìm mình nữa, tát cho Đăng mộ cái rất mạnh vào mang tai. Cái tát quá mạnh làm mắt Đăng nảy đom đóm, cậu ngớ mặt, sau chợt hiểu cú tát từ đâu tới, liền chồm dậy, nhảy bổ đến, mắt nhắm, mắt mở quai một quả đấm trời giáng. Lộc kịp giơ tay gạt nhưng vì quả đấm nặng đô làm đại đội trưởng chúi người, phải gắng gượng mới không bị ngã. Cậu lính trẻ chưa hết cơn khùng, lao tới định táng bồi một quả nữa thì nhận ra Đại đội trưởng của mình. Cậu ta trợn mắt, há hốc mồm ra vì sợ hãi, hai cánh tay to khỏe gân guốc vừa mới đây còn được chứng minh sức mạnh trong cú đấm, giờ đây buông thõng trước đùi, mất hết sinh lực. Đứng đờ ra một lát, không chịu nổi cái nhìn như có ánh thép xuyên vào người, Đăng lùi lại mấy bước rồi ngồi bệt xuống cái bậc nhà ướt nhầy nhụa. Lộc bỏ Đăng nhìn xoáy vào Thái: - Các ông đón xe như thế đấy hả? Rũ đầu xuống ngủ như gà rù. Xe hậu cần vượt qua chỗ các ông về phía Truông Bồn rồi. Ông biết Truông Bồn rồi chứ? Cửa tử! Cái cửa tử đầu tiên và cũng nhiều máu lửa nhất vùng cán soong. Điều đó thì ông còn biết hơn tôi chứ, hả ông Thái? Thái lúng túng, chân tay như bị thừa ra trước mặt Lộc. Vốn là một người lính dày dạn, trải qua hàng trăm trận đánh, anh hiểu thấu và lường hết mức độ nghiêm trọng trong tình huống vừa xảy ra. Anh và Đăng đã trải qua hơn mười đêm đưa đón đơn vị an toàn, các khẩu pháo được giấu tốt, khi cần có thể nổ súng đánh địch, anh nuôi ở ven suối, anh em đơn vị nghỉ ngơi, tắm giặt, còn tổ thì lại vội vã lên đường chuẩn bị một nơi đỗ mới. Họ làm công việc đó một cách thuần thục, có phần tài ba, khiến người khó tính như Lộc khi xét đoàn bất cứ việc gì cũng phải thốt lên “Khá, tổ các cậu khá, làm cho tớ cũng mát mặt với mấy tay hay hoạnh họe trên trung đoàn”. Tưởng rằng mọi việc trên đường trôi chảy một cách mĩ mãn, nào ngờ sáng nay cơn đói ngủ thắng cuộc đã vùi các anh xuống bùn và nước, xóa đi cái vinh quang ít tổ trinh sát tiền trạm nào có được, và đẩy các anh vào một tình thế trớ trêu. Trong chiến tranh sức chịu đựng ở con người dù có được huy động đến mức cao nhất vẫn chỉ đạt đến một giới hạn nhất định. Nhưng sự nghiệt ngã lại thường xảy ra ở chính chỗ này. Người lính không bao giờ được vin vào cái giới hạn đó, bấu víu lấy nó như một lý do. Anh ỷ vào cái giới hạn ác nghiệt đó, sự bi thảm ắt xảy ra. Bấy giờ thì dù có hối hận, dù có khóc lóc thảm thiết cũng không thể kịp nữa, ai cho phép hối hận, dù sự hối hận sâu sắc nhất trước xương thịt và máu người. Suốt những tháng khốc liệt sau đó của cuộc ném bom hạn chế, anh càng thấm thía điều đó. Thái lảng tránh ánh mắt dữ như bắn ra từ đôi mắt nặng nề. Đôi mắt Lộc cũng đói ngủ, sâu trũng, hai mí trĩu nặng, từ chiếc cằm nhỏ râu đâm tua tủa, những sợi râu cũng bắt bụi đỏ màu gạch non. Anh không kìm được lòng mình, hỏi một câu hết sức ngơ ngẩn. - Biết làm thế nào bây giờ, Đại đội trưởng? Xe không ngụy trang dông qua Truông Bồn ban ngày, máy bay nó làm thịt mất. Đôi mắt dẹt của Lộc lóe lên một cách quái gở: - Chạy đuổi theo chứ còn làm thế nào!- Anh vung ngọn cờ chỉ huy, hướng nó về phía mấy ngọn núi cao phía xa: - Đồng chí Đăng đứng dậy! Đăng vẫn ngồi, vẻ mặt thỗn ra vừa sợ hãi vừa hối hận buồn bã. Lộc hét: - Đứng dậy! Đăng bật lên đứng ở tư thế nghiêm. Đôi mắt Lộc tối sầm, Lộc nhả ra từng tiếng một như ném ra từng cục chết. - Chạy -đuổi – theo – xe ngay! Lộc không ra lệnh thẳng cho Thái. Anh tránh né những điều phải nói ra một cách rõ ràng nhất. Ở một góc nào đó trong con người anh vẫn ẩn kín một nỗi niềm, ngờ vực đối với Thái, một chiến sĩ dưới quyền mình. Lộc ngầm không ưa Thái song anh không bao giờ chịu nhận điều đó với chính mình, lòng anh nặng những uẩn khúc. Thái chạy không còn biết trời đất là đâu nữa, tất cả trở nên mù mờ. Chính Hà cũng đã phải chạy đuổi theo xe như thế này buổi tối đơn vị lên đường vào A2, chạy một cách vô vọng và đau khổ, lật đật trong nỗi vò xé thèm được sống bên chồng. Chiến tranh là vậy đấy, không điều gì là không thể xảy ra. Anh chấp nhận như một sự nhẫn tâm, sự tàn nhẫn để vợ đuổi theo chồng một mình đơn độc giữa vùng chết, thì bây giờ chính anh lại buộc phải chạy theo xe vào vùng chết. Chiến tranh thì làm sao có thể tươi hơn hớn được. Nếu có một cái gì tương tự thì nó ở tận phía sau, phía xa kia. Còn bây giờ phải đối mặt với cái khốc liệt nhất thì cái gì sẽ xảy ra, ngay tức khắc, bi tráng, bi hùng, bi thương, bi thảm, người lính chân chính dám chấp nhận chứ không phải và không thể phung phí mạng người một cách bừa bãi. Tiếng máy bay gầm gừ và những quầng khói bom vằn vện ở phía xa, chỉ cho rõ có một chiếc xe đang chạy vào vùng tử địa! Trên xe có đồng chí đại đội phó mà Thái đặt tất cả niềm tin và tình thương yêu chân thành của người lính, có tổ nuôi quân và lương thực, thực phẩm dự trữ để nuôi đơn vị trong cuộc hành quân dài ngày. Nó kia, chiếc xe ở tít tắp, mình đầy ngụy trang như một con cua khổng lồ nặng nề leo lên dốc, vừa leo vừa dò, có lúc nó dừng hẳn để tìm hướng đơn vị đương trú quân. Hai người đã bỏ lại khá xa thị trấn Đô lương bị san bằng. Chiếc xe như một kẻ u mê vẫn đi về phía Truông Bồn. Khi đã nhận ra con đèo lở lói, chiếc Gát 51 dừng lại, tìm cách quay đầu để chạy xuống dốc. Không kịp nữa, nó đã đứng tô hô ra trên một cái “cua”. Và điều làm tim Thái và Đăng cùng thắt lại vì lo lắng. thấp thỏm mong nó đừng tới, đã xảy ra. Hai chiếc A7 bay tuần thám phía thị trấn Đô Lương phát hiện ra chiếc xe Gát đang cố lùi đít vào vạt bạch đàn thấp lè tè, chúng hạ thấp độ cao, vòng ngay lại. Thái bám được vào buồng lái chiếc xe nhảy lên ấp hẳn ngực vào cửa sổ xe, né nghiêng người về phía chiếc máy bay đang lao xuống với tốc độ chóng mặt, tưởng làm như vậy có thể tránh bớt được luồng đạn sắp sửa vãi xuống. Khi hơi thở đã bớt ngột, anh nhoài hẳn người vào buồng lái, ghé sát tai cậu Mịch lái xe với hy vọng giúp cậu ta đưa được chiếc Gát thoát khỏi cuộc săn đuổi chết người. Hai chiếc A7 sà xuống rất thấp và đều tăng lực xả những luồng lửa đỏ lòe trên hàng bạch đàn. Rõ ràng những tên phi công Mỹ không muốn con mồi ngu ngơ chúng bỗng vớ được, chạy thoát. Một chiếc bất ngờ đổi hướng bay lượn sát ngọn cây, thận trọng khép nhỏ vòng lượn. Nó nghiêng cánh vờ như bay đi, rồi chỉ trong chớp mắt, lật mình vòng lại, hạ thấp hơn, vờn chiếc xe như mèo vờn chuột. Cả tổ nuôi quân nằm dán mình trên thùng xe. Đến khi một chiếc A7 căn giữa lòng đường, chúc hẳn xuống hai cánh xòa rộng, trùm lên chiếc xe như một con ác điểu tuôn ra một loạt rốc két với những đuôi lửa đỏ chói lòa, thì tất cả mọi người bật chồm dậy, nhảy té ra hai bên thành xe, lao xuống lòng đường. Cậu quản lý Chư Rỗ sợ quá cứ rúc đầu xuống cái hố đá nông choèn, Chư ta tọng được nửa người vào, còn cái mông đít to phềnh phệnh vẫn thòi ra ngoài. Đột nhiên có tiếng đạn pháo 37 ly nổ lụp bụp trên đầu, Thái ghì hai tay vào cửa xe, anh thấy chóng mặt, máu như đông lại trong người. Đã mấy lần hai bàn tay cứng đơ như mảnh gỗ, không theo sự điều khiển của trí óc, tuột ra, để thả bịch khối máu thịt thèm khát sống xuống ta luy con đèo. Nhưng có cái gì vượt ra ngoài bản năng sợ hãi, có lẽ sự dũng cảm được rèn giũa, thử thách ở người lính từng trải đã giúp Thái bình tĩnh chỉ huy người lái xe tăng giảm tốc độ, tránh đạn. Nghe tiếng pháo nổ, Thái thấy vững tâm hơn. Chắc rằng Lộc cho đơn vị bắn mấy điểm xa, xua hai chiếc máy bay, đỡ đòn cho xe hậu cần. Hai chiếc A7 không bỏ đi, chúng chỉ lách mình tránh đạn, gầm rít bốc lên cao, và rồi, chúng lại từ đầu kia con đèo sà xuống bắn như vãi đạn 20 ly xuống chiếc Gát tội nghiệp không có thứ vũ khí gì chống đỡ. Đạn 20 ly trúng vào những cái chậu nhôm, nổ tung, từng mảng nhôm trắng chói, bay tóe ra, rơi lả tả xuống mặt đường. Thái nhìn thấy mặt Đăng nhợt nhạt. Cậu ấy vẫn đu lấy cửa xe lủng lẳng như một cái túi. Đôi mắt to lồi ra dưới đôi mày rậm, không ngước nhìn lên trời mà cứ nhìn chòng chọc vào Thái. Thái hiểu rằng bây giờ anh rời cửa xe tức khắc Đăng sẽ nhảy xuống ngay, như vậy chiếc xe hiện nguyên một con mồi rúm lại chờ chết. Không biết có phải trong mấy giây anh quan sát Đăng và suy nghĩ, Thái đã để “sổng” một chiếc máy bay, chiếc A7 luồn sang bên kia đèo, khi Thái vụt ngẩng lên, luồng đạn 20 ly ác nghiệt từ chiếc máy bay bắn xuống đã chụp đúng đầu xe và vọt về phía trước làm phụt lên từng đám bụi đỏ dưới mặt đường. Bàn tay đau nhói, thân người Thái bật ra khỏi cửa xe, rơi bịch xuống bờ ta luy đá ong. Người lính lái xe bị một viên đạn 20 ly xuyên qua từ lưng sang ngực, gục xuống tay lái. Chiếc xe khựng lại, mặt người lái xe đập mạnh vào vô lăng, đầu ngoặt sang một bên. Mặt Thái như vỡ tung ra, trời đất như tối sầm, đen đặc, anh có cảm giác máu không chỉ chảy ra ở bàn tay mà chảy tóa ở cả hai mắt mình. Một loạt 20 ly nữa lại cắm thun thút xuống mặt đá nóng bỏng. Chương ba Viên đạn 20 ly xuyên qua ngực người lính lái xe, xoáy vào hộp số nổ tung, bắn một mảnh vào bắp tay và nhiều mảnh nhỏ vào mu bàn tay phải của Thái. Hình như trong lúc căng thẳng nhất anh đặt bàn tay lên vai cậu Mịch, cậu ấy liếc sang mỉm cười biết ơn, vậy mà cậu ấy chết rồi, đột ngột quá. Lòng Thái tê dại, cánh tay, bàn tay cũng tê dại. Tuy vết thương chỉ ở phần mềm, anh vẫn bị choáng nhẹ vì máu ra nhiều. Cả Thái và Đăng đều không có băng cá nhân. Hai cuộn băng sợ bị ướt, gói cả trong bọc quần áo, phủ vải mưa để ở bậc thềm căn nhà đổ. Lúc Lộc bắt chạy đuổi theo xe hậu cần, cả hai chỉ bon có người không, chắc rằng đại đội trưởng đã mang hộ cái bọc ấy về trận địa giao cho anh em trong tiểu đội chỉ huy. Đăng lúng túng cởi chiếc áo lót cổ vuông nặng mùi chua khẳn, rồi bằng một động tác mạnh cậu ta xé ra làm hai mảnh, một nửa băng cho Thái, một nửa cất đi dự phòng. Mặt anh lính tái xám, cặp môi run run vì thấy máu ra nhiều, cậu ấy vẫn sợ máu, chưa thể quen được với tâm lý tỉnh táo khi nhìn thấy máu người. Vạt bạch đàn mới trồng được dăm năm còn thấp bé. Thái phải lê người tìm một gốc cứng cát, dựa lưng vào đó. Đôi mắt nhắm lại hững hờ, da mặt nhợt nhạt, anh dường như không để ý đến vết thương ở bàn tay, máu vẫn thấm qua vải áo như thấm qua một cái màng mỏng. Đăng bỗng nhớ tới cách cầm máu của những người đàn ông vót nan rổ ở quê vẫn dùng khi bị đứt tay. Anh lính tụt trễ chiếc quần đùi, túm lấy đám lông lún phún bên dưới rốn vặt mạnh như người ta nhổ cỏ, rồi cậu lóng ngóng cởi miếng vải áo ra dịt nhúm thuốc quý hóa đó vào và băng lại. Thái nhăn mặt vì đau, bàn tay thõng thượt, và Đăng mặt mày đau đớn không kém gì Thái, nâng bàn tay anh đặt lên đùi, cậu ấy vuốt nhẹ dọc cánh tay, rồi tụt đôi giầy cao cổ, bẻ mấy cành bạch đàn phủ lên trên, lựa thế đặt Thái nằm gối đầu lên đó. Thấy tiểu đội trưởng vẫn nhắm mắt, Đăng gọi cuống quýt: - Anh Thái ơi anh Thái, anh đừng ngất đấy nhé! Thái khẽ nhếch miệng cười: - Tớ không ngất đâu. Trầy da, tróc vảy, chưa mùi mẽ gì. - Ôi chao ôi, anh cho rằng mảnh bom nó phạt luôn một cánh tay mới đáng kể chắc. Đăng nói mặt cứ thộn ra thơ ngây. Thái phì cười. - Tất nhiên là tớ chẳng bao giờ nghĩ thế. Thái mở to đôi mắt mệt mỏi nhìn Đăng âu yếm. Đăng bỗng hỏi như trẻ con: - Bây giờ chị Hà đã về đến nhà chưa anh Thái nhỉ? - Đến rồi…ừ…dù thế nào cũng phải đến rồi chứ! Hai chiếc A7 vẫn quần bên trên chiếc xe cháy. Hơi lửa nóng rát phả vào tới vạt bạch đàn nơi Thái nằm. Một tốp nữ thanh niên xung phong láo nháo đổ ra, họ lạch bạch chạy trên con đường mòn gần chỗ hai người nằm. Đăng nhổm dậy định gọi họ đón thương binh nhưng Thái vội ngăn: - Để các cô ấy ra ngoài đường dập lửa, kẻo đám cháy kéo dài máy bay sẽ bu thêm đến thì không còn cứu vớt được gì nữa. Mình với Đăng nghỉ thêm một lát rồi ta tự vào làng. Tối nay đơn vị vượt đèo, theo như hợp đồng trước với anh Lộc nhà bếp sẽ đặt trong làng Nam Thái. Thái nhắm nghiền hai mắt, tự lấy làm ngạc nhiên là tại sao mình không bị ngất. Sự tỉnh táo là lạ, cổ họng ngây ngất buồn nôn, như anh đã uống cả bát nước chè xanh đặc sánh đang khi đói. Cảm giác rằng mình vừa thoát khỏi cái chết cầm chắc làm Thái như mê đi trong nỗi trống trải gai người. Anh nghĩ tới cái chết của người lính lái xe. Đó mới thật là một con người gan góc. Cậu ấy nghển người, ghì chặt vô lăng, phanh tay hoặc nhấn hết ga, mắt long lên và tai ghét sát vào miệng Thái. Nếu cậu ấy không tỉnh táo nghe lời Thái chỉ huy thì cả xe đã tiêu ngay sau loạt rốc két đầu tiên. Thái thấy xót đến tận đáy lòng, cậu ấy, cái cậu Mịch ấy trẻ quá, da trắng, mắt đen, giọng nói thỏ thẻ, con trai làm lính ba bốn năm mà khi bị ai giễu mặt cứ đỏ hồng lên. Vậy mà cậu ấy đã chết. Cái chết chém ngang cuộc đời trai trẻ của cậu ấy vì đâu, một phần vì sự lơ là của mình chăng? Thái chợt nghĩ đến Hà. Trước mắt anh Hà dắt chiếc xe đạp, bánh trước ngoặt bên này, lại ngoặt bên kia, khi rõ, khi mất. Anh chưa kịp hỏi và cũng không bao giờ được nghe nói lại chị đã đạp xe hai ngày đêm ròng rã chỉ để báo cho chồng biết họ đã có con với nhau. Thật ra ngay trong cái đêm hai người ngủ quên trong ngôi nhà thờ đổ nát Hà đã biết mình sẽ có mang. Có cái gì thần diệu và bí hiểm của sự sống vừa xảy ra và chị cảm biết được. Hình như người đàn bà nào cũng được tạo hóa phú cho cái trực giác mang màu sắc siêu nhiên. Biết rõ ràng như vậy, chị nằm lặng đi trong cảm giác đau đớn thể xác và chị đã khóc. Nước mắt thấm ướt đẫm ngực anh. Hà siết chặt cổ Thái thoát ra khỏi cảm giác nặng nề về sự mất mát. Chị vừa chứng kiến mình tự vượt qua cái ranh giới phân chia giữa người con gái và người đàn bà, sự chông chênh, thất thường, bối rối và sự vững bền. Thái mở mắt thấy đang gối đầu lên chiếc giầy cao cổ bám đầy bụi đá xám, anh ngửi thấy mùi thuốc nổ khét nhức nhối bốc ra từ chiếc giày đang gối đầu và lại mê hoảng trong cơn buồn ngủ, mệt mỏi bời bã. Anh chợt thấy vầng trăng già bơi ra khỏi bức tường đổ. Bọn cóc nhái và cả con rắn chung sống với nhau dưới lòng đất để tránh mặt đất chết. Lũ cóc nhái giăng giăng cái tiếng nói không ngớt về sự sống và sự sinh sôi. Vầng trăng cong vắt giống một con thuyền cổ trôi đi, bập bềnh, bập bềnh, mờ ảo, thấp thoáng lặn rồi lại hiện giữa một vũ trụ chết mênh mông. Thái mở choàng mắt nhìn lơ láo. Đăng đã tỉnh ngủ đang ngồi nhìn anh lo lắng. Cậu ta hỏi giọng run run lo sợ: - Anh mơ cái gì mà ú ớ mãi thế? - Thế à…tớ mơ…hốt quá. - Mơ thấy chị Hà chứ gì? - Mặt đất chết. Chẳng thấy con người đâu cả. Đăng hất đám lá bạch đàn, xỏ đôi giày khú khắm vào chân: - Thật rõ vớ vẩn. Anh nói như một kẻ gở miệng!!! - Ừ nhỉ… Mơ với mộng. Anh cứ mơ bế chị Hà xuống cái nhà hầm, rồi ngủ một giấc đẫy cho nó phổng phao con người. Thái bỗng vui lây niềm vui hồn nhiên ở người lính trinh sát trẻ măng. Anh buột mồm khoe: - Đăng này, chị Hà nói chúng tớ sắp có con đấy nhé! - Khiếp. Lạy bố! Bắn trúng đích đến thế là cùng. Đăng nhìn vào mặt Thái giọng tâng tâng: - Bà chị đến đòi dưỡng thai chứ gì? Thái cười vỗ vào cái bụng to phưỡn của Đăng: - Nói thế tủi thân cô ấy. Tớ nghe nói khi có mang phụ nữ có nhu cầu ghê gớm muốn được thổ lộ với chồng – anh lấy ngón tay trỏ chọc sâu vào rốn Đăng trêu – cậu miệng còn hơi sữa mà bụng đã trễ ra thế này, sau làm to phải biết. Đăng này, có con thì đặt tên là gì nhỉ? - Tên Vội. Vội vàng. Vội vội, vàng vàng. Hay đấy chứ anh Thái nhỉ? Thái vỗ bộp bàn tay lành xuống đùi: - Hay! Hay! Được đấy! Đăng đứng dạng hai chân cho Thái bám chắc vào vai. Cậu chàng cười toe toét: - Chị Hà liều thật. - Ừ, phải liều chứ! * * * Đại đội trưởng Lộc mặt tái đi vì giận dữ, lập bập bước ra khỏi sở chỉ huy trung đoàn. Anh nghĩ sẵn trong đầu một câu thật độc để lần sau gặp lựa thời cơ nói đốp vào mặt Tham mưu trưởng Đoàn Cung. Đi đã khá xa, quay đầu lại vẫn thấy Đoàn Cung đứng oai vệ trên mặt hầm nhìn theo, Lộc cố nén lòng. cố xua đuổi câu nói gắt gao lo le ở đầu lưỡi. “Ông chỉ đáng làm một kẻ khuếch khoác. Người cầm quân kém nhạy bén, thích ứng với chiến trường chậm cũng là một thứ vô trách nhiệm. Lúc nào ông cũng to giọng hết lòng vì người lính ở đơn vị chiến đấu, để rồi xem, ông không tự biết mình đã bán máu chiến sĩ cho cái danh của mình đâu!” Về tới trận địa đại đội tám, Lộc đứng lại giữa dốc quát khẩu đội một dịch quá vị trí anh tự đánh dấu. Tay toài khẩu đội trưởng đã cho đào hầm pháo về mé đồi gần con khe nhỏ. Dễ thằng cha láu cá định ra đấy chiều xua lính xuống tắm cho tiện. Hắn không thèm để ý đến chiếc Zin 130 mới tinh vừa đổ kềnh sáng sớm hôm nay ở chân dốc. Lộc phát bẳn: - Đ. mẹ, cậu định cắm khẩu đội ở đấy để khi máy bay đánh chiếc xe đổ, hay đánh cầu, nó xơi tái luôn khẩu đội hả? Hả??? Lộc quay về sở chỉ huy, Đại đội phó Xương đang trực ban chiến đấu. Anh bỗng hầm hầm tức giận khi nhìn thấy cái hầm chỉ huy Xương đứng chỉ tới ngang rốn. Mấy thằng tiểu đội chỉ huy làm ăn như mèo mửa, cái hầm dùng để đánh nhau mà cạn dạch, che đậy như buồng tắm đàn bà. Lộc gọi cậu Đỗ tổ trưởng thông tin mới thay Thái làm Tiểu đội trưởng đến gần. Đỗ ngước chiếc cằm lởm chởm râu nhìn đại đội trưởng chờ đợi. Lộc cố nén giận: Các cậu làm hầm cho tôi đứng thế này đấy à? Anh khẽ nhếch miệng giục Xương: - Anh đứng thẳng lên tôi xem nào? Đỗ đứng im, mặt hơi đỏ. Đôi mắt ướt lặn trong cặp mi, nhìn như không hề động đậy. Bản tính Đỗ chậm chạp, tỉ mỉ, cậu ta có thể ngồi cả buổi lần sờ nhổ từng sợi râu nơi cái cằm lẹm như người ta dùng nhíp nhổ lông lợn ở miếng thịt cạo dối. Xương gỡ thế bí cho Đỗ: - Đồi đá ong rắn quá anh ạ. Anh em họ còn làm hầm thông tin, bốn hầm trinh sát, một hầm đo xa. Cứ để tạm, ta vừa đánh vừa củng cố. Lộc nổi khùng: - Tạm là tạm thế nào? Con gà mái nó bới giun cho con ăn còn sâu hơn. Anh vẩy tay giục Đỗ: - Mang cuốc chim lại đây, tôi với cậu cùng cuốc. Anh bổ mấy nhát cuốc chim, nhát nào cũng bới được mấy hột đá ong. Nhát sau cùng Lộc choang phải hòn đá rắn, toé lửa, không khí bốc ra mùi khét. Anh quẳng toạch chiếc cuốc chim, để lại một mình anh chàng thông tin chổng mông đánh vật với cái hầm, lẳng lặng đi xuống con khe có chiếc xe Zin 130 đổ chổng sáu bánh lên trời. Mấy tay pháo thủ khẩu đội một làm xong công sự, kéo cả xuống đầm ở con khe, tắm sau họ sợ nước ngầu bẩn. Con khe có một vùng nước đỏ màu son, nước ngập chưa quá đầu gối, mấy người lính trẻ cởi truồng đứng nồng nỗng vớt nước lên người và té vào nhau. Thấy Lộc, đám lính trẻ nhăn răng ra cười, họ còn rủ anh tắm tiên. Lộc vờ mắng: - Sao các cậu không giấu cái của khỉ kia đi. Trông thằng nào cũng tồng ngồng như ngựa, tao phát khiếp lên được. Có tiếng cười khùng khục: - Ở đây toàn đực cả, có giống cái đâu mà Đại đội trưởng dạy anh em phải kín đáo. - Kín đáo là tư cách của con ngưòi văn minh chứ phải đâu chỉ để che mắt giống cái. Cậu lính lại bắt chước tiếng khỉ cười khèng khẹc: - Tôi nghĩ nếu không nhằm ngăn các anh đực lúc nào cũng muốn làm bậy thì các cụ ta không cần quần áo đến tận bây giờ. Cả bọn cười toá ra, có tay vớ cái khăn mặt nhuộm màu xanh lá cây, che cái vật của giới tính đi, riêng cậu Viên pháo thủ số hai vẫn để tồng ngồng đứng nói chuyện với Lộc. Cậu ta có cặp đùi ếch dài và thon, rắn chắc, vòng bụng thắt nhỏ, mỗi lần cúi xuống với nước bộ mông giãn ra, rắn như đá. Tảng ngực nở, đầy lồ lộ, cái cổ dài và to đẫy, cằm bạnh, bắp thịt ở hai cánh tay nẩy ra cuồn cuộn. Nhìn Viên giống như một bức tượng khoả thân thời cổ. Lộc không kìm được tiếng thở dài. Bất giác anh giơ bàn tay sờ cái trán hói và nhận ra với một chút cay đắng mình đã bắt đầu già. Cuộc chiến tranh dữ dội kéo dài mấy chục năm để lại phía sau nó nhiều thế hệ không kịp dùng tới cái sức mạnh cường tráng của giới tính mình. Tất cả phải dồn nén lại, được huy động để mang ra đối đầu với sức mạnh huỷ diệt của vũ khí. Lộc đi đến gần cái xe đổ nằm tênh hênh ở đầu cầu, cánh lính trẻ đang tắm cười rộ lên. Có cái gì lục sục trong buồng lái chiếc xe Zin màu xanh cánh chả. A – thằng Kình có cái cổ ngẳng, tiểu đội trưởng tiểu đội lái xe của đơn vị. Lộc nạt nộ: - Kình, sao cậu lại rúc vào đấy! Phá cái gì hả? Tiếng Kình rè rè: - Tôi lấy bộ chế hoà khí thay vào cái xe trung đoàn mới điều cho ta. Nó tã lắm rồi ạ. Giọng Lộc vẫn dữ dằn: - Cái xe còn mới tinh của người ta. Cậu là đồ phá hoại. Tay Tiểu đội trưởng xe cười gỡ tội: - Thằng cha lái nhanh chân và khôn ranh chuồn sang bên kia đèo từ đời tám hoánh nào thủ trưởng ơi. Hắn báo cáo xe vào chiến trường A2 ác liệt bị máy bay Mỹ đuổi theo bắn cháy, hắn lại nhận xe mới toanh. Có khi hắn còn khịa ra tích trò giúp các cô thanh niên xung phong vá đường gì đấy và được khen thưởng là dũng cảm cũng nên. Lộc còn gầm gừ trong họng: - Chiếc xe đưa vào tới đây tốn bao nhiêu công của. Có móp méo gì đâu, gọi xe cẩu đến lật dậy lại chạy tốt. Kình lấp liếm: - Không lấy nhanh mấy thằng lái “con cháu” ông Đoàn Cung nó cũng sang làm thịt, móc hết đồ tốt. Lúc ấy Thủ trưởng cũng tức chứ cứ gì chúng tôi phải không ạ? Thằng cha láu cá gãi đúng vào nỗi bực tức của Lộc với Tham mưu trưởng trung đoàn. Hắn say sưa tận hưởng khoái cảm đã xoay chuyển tình thế từ chỗ có thể bị kỷ luật vì phá hoại (hắn ta có triết lý kiểu của hắn, ôi dào, lính từ ông bé nhất đến ông to, ông nào chả có cái di căn đập phá) song hắn có thể chọc tức Lộc, mà theo hắn, tính nết thất thường, lúc nào cũng muốn trội hơn người, thông minh hơn người. Bỗng cậu ta rú lên kinh hãi: - Bom! Bom từ trường, Thủ trưởng ơi! Theo bản năng, Lộc nhảy lùi ra xa chiếc xe, hỏi với vào: - Giời ơi! Nó nằm ở dưới đầu xe, cái kính lúc lắc tôi mới nhìn thấy. - Đứng im! Cậu làm đầu xe lúc lắc, bom nổ bây giờ. Lộc lùi lại thêm mấy bước, tìm một chỗ có thể nằm tránh được. Kình cổ cò đứng trong cái lồng chết mếu máo: - Thủ trưởng ơi, tôi mở cửa tôi chui ra đây! Giọng Lộc run run, tuy vậy anh vẫn quát to: - Không được mơ…ở. Cánh cửa kim loại chuyển động gây ra từ trường, nó nổ thì cậu tan xác. Cậu lái xe khóc lên tu tu: - Tôi chết ở trong này mất Thủ trưởng ơi! Thủ trưởng Lộc ơi, tôi còn vợ với hai con thơ ở nhà, tôi lạy Thủ trưởng, cứu lấy tôi Thủ trưởng ơi! Lộc cuống cuồng chưa tìm ra cách gì cứu cậu lái xe. Tốp pháo thủ đang tắm vớ quàng quần áo chạy lại đứng sau Đại đội trưởng, bây giờ mới lục tục mặc quần áo, vừa mặc vội vàng, vừa xì xào bàn thêm một câu. Thì ra cái xe lật ngửa có nguyên do bây giờ Lộc mới hiểu. Khi qua đèo thấy trời sáng tay lái xe đã hoảng, xe đến đầu dốc xuống cầu hắn nhìn thấy quả bom từ trường ghìm ở đầu cầu bên kia, bốn cánh nó úp chụp trên mặt đất, sợ mất mật, buông tay lái, xe không người điều khiển, chệch bánh lật ngửa đè ca bin lên quả bom. Cậu lái xe thôi khóc, lồng lộn trong “cái lồng” nhốt hắn ta. Lộc quay người lên sở chỉ huy đại đội, thấy Đỗ vẫn đang chổng mông cuốc đá ong, anh gọi to: - Đỗ ơi, quay máy điện thoại báo Tham mưu trưởng cho công bình trung đoàn xuống trận địa C8 ngay. * * * Đoàn Cung không cho trợ lý công binh xuống giúp C8 tìm cách cứu cậu lái xe, mà cho gọi Lộc về gặp qua máy điện thoại. Lộc cầm tổ hợp thổi phù phù, xưng tên, hỏi Đoàn Cung có chỉ thị gì về tác chiến. Ở đầu dây đằng kia, tiếng Cung dõng dạc đầy uy quyền. - Anh phải kiểm điểm ngay vì sao để chiến sĩ vô kỷ luật đi phá hoại, gây ra tình huống chết người này, rồi báo cáo về trung đoàn rõ chưa? Lộc cố hỏi với giọng nhã nhặn: - Thưa anh Cung, thế còn cậu lái xe của tôi vẫn chưa ra được. - Nó chui vào được, thì phải biết tự mở mà ra chứ? - Tôi cấm cậu ấy mở vì sợ cánh cửa chuyển động, kích thích quả bom nổ. Bỗng đất dưới chân rung lên, rồi một tiếng nổ lớn dội vào hầm chỉ huy. Lộc vất máy chạy ra ngó xuống con khe, thấy cái đầu xe còn nguyên, anh vội quay vào cầm máy lên. Đoàn Cung hỏi bình thản: - Quả từ trường tự huỷ rồi phỏng, anh Lộc? - Đấy là quả ở chỗ khác. Ở chỗ tôi “nó” vẫn chưa nổ. Đề nghị tham mưu trưởng cho trợ lý công binh xuống giúp chúng tôi giải quyết quả bom. Đoàn Cung nổi cáu: - Các anh lạ thật, tôi đã trả lời rồi còn cố nì nèo gì nữa thế? Các anh không chịu nhìn toàn cục (có mỗi một mình Lộc mà Đoàn Cung gọi các anh) ,các trận địa pháo 57 ly đều có bom từ trường ghim xung quanh. Ở đại đội một nó còn nằm thu lu ngay giữa sở chỉ huy kia kìa. Ngay ở đoạn đường rẽ vào sở chỉ huy trung đoàn cũng có mấy quả, công binh còn báo dọc đường từ đỉnh đèo xuống rất nhiều bom chưa nổ. Máu ứ lên trong người, Lộc vẫn cố nén: - Nhưng còn người ở trong cái đầu xe, phải cứu người ta chứ? - Tự giải quyết lấy – Đoàn Cung trả lời lạnh lùng, rồi anh chửi một câu bâng quơ – Mẹ nó, sao rải nhiều bom thế không biết. Lộc nổi khùng, không còn biết kiêng nể, biết sợ gì nữa. Anh nói như quát: - Cứ huênh hoang “quả đấm thép”, rơi mẹ nó vào cái bẫy bọn Mỹ giăng sẵn rồi. Ông Tham mưu trưởng có biết đường số một bị chặt khúc cá, cầu phà đều tắc, người và xe pháo kéo cả lên đường 15, tuồn qua Truông Bồn như thác lũ. Chen nhau qua đèo thì trời sáng, buộc các ông phải vội vã chui vào mấy cái trận địa đào đắp sẵn từ hồi đầu chiến tranh. Máy bay trinh sát chụp ảnh kỹ từng hầm pháo. Cậu A trưởng chỉ huy của tôi bị thương nằm trong dân, nghe dân họ nói mấy “quả đấm thép” từ miền ngoài vào, qua đây dừng lại đều bị đánh thiệt hại nặng nề. Bây giờ nó quây các ông lại, nó làm thịt! Lộc buông máy, mắt tối sầm. Một tiếng nổ lớn dội lên, xô cái máy điện thoại vào góc hầm. Thôi rồi, thằng Kình xong rồi! Anh phải tựa vào cửa hầm thông tin đứng rất lâu mới hết chóng mặt. Đại đội phó Xương nghe thấy Lộc to tiếng trên máy cũng nhảy xuống, giữ tay như đỡ lấy anh. Chương bốn N ắng hầm hập nung người, gió tây cuốn đến từng đám bụi và cả những khối không khí nóng rực, từ đồi sỏi, lăn qua những đồi sỏi, được đốt nóng thêm, táp lên mặt bỏng rát. Nắng và gió làm cho những cành ngụy trang buộc trên mũ sắt khô cong, rơi lả tả. Đăng đứng trong hầm trực ban trinh sát, ngực đeo thõng chiếc ống nhòm, trên đầu phủ chiếc khăn mặt màu xanh lá cây dấp nước lạnh. Mỗi lần Đăng quay đầu quan sát mục tiêu, đuôi khăn chạm vào má nóng, nước mát chườm trên da thịt làm tê cả nửa mặt. Tít phía xa, hai cái bóng trôi vật vờ. Hai cái bóng khi chụm vào, khi tách ra xa nhau, mất hút mé bên kia đồi. Thế rồi đôi hình nhân lại hiện lên run run, lắc lư như ảo ảnh, như hai bóng ấy là vật phẩm của đồi sỏi đẻ ra một cách ma quái. Đăng chớp mắt, vẫn thấy hai bóng đứng vờn nhau và hình như còn cõng nhau. Một cái bóng như là cậu Mịch lái xe hậu cần bị trúng đạn 20 ly trên Truông Bồn ngay sát mặt Đăng hôm trước. Còn một bóng nữa thì đích thị là cậu Kình cổ cò, Tiểu đội trưởng lái xe bị nhốt trong ca bin xe đổ, một mình lĩnh quả bom 250 bảng Anh, cả đơn vị theo sự chỉ huy của Đại đội phó bới mãi cũng chỉ tìm được một nhúm xương thịt cho vào quan tài. Cậu lính trẻ hoảng hốt nhảy lên mặt đồi, đứng tĩnh trí một lúc, định gọi Đại đội phó Xương trực chỉ huy ra xem nhưng sợ bị quở trách nên lại thôi. Đăng bỏ mũ, lấy khăn ướt lau mặt, chớp chớp mắt rồi toài chân, người hơi ngửa ra, giơ ống nhòm lên nhìn lại. Cậu ta thở phào nhẹ nhõm. Đứng giữa nắng trưa quá lâu nên Đăng bị lóa mắt, bị ảo giác dánh lừa. Cậu tự mắng mình về tội “thần hồn nát thần tính”, tuy vậy hai tay vẫn run run. Hai “bóng ma” một là anh Thái, một nữa là anh Chư Rỗ quản lý đơn vị, gánh cơm trưa ra trận địa. Chư Rỗ gánh hai thùng nước đi sát sau lưng vừa đi vừa giục, miệng thở hào hển, còn Thái gánh hai cái thúng đựng cơm trưa. Trước khi đi, cậu Chư Rỗ úp cái mũ cối bị mấy viên bi xuyên thủng lên đầu Thái, miệng giục: “Đi nhanh lên bố ạ, cho con nhờ, ở ngoài trận địa giờ cao điểm máy bay đến đánh, bom bi nó vãi như vãi trấu, không phải đầu cũng phải tai, con sợ lắm. Nào đi”. Từ hôm Lộc cho chuyển Thái vào hậu cần, đương nhiên thành quân của Chư Rỗ, vì cậu ta làm quản lý đơn vị. Lộc vin cớ, Thái còn đau tay vào bếp điều trị cho khỏi hẳn vết thương cũng để giúp đơn vị củng cố bộ phận hậu cần vừa bị tan tác sau lần xe bị đánh cháy trên đèo. Sự thật thì Lộc tìm cách bãi chức A trưởng chỉ huy của Thái. Cành bạch đàn đẽo chưa sạch mấu, nghiến vào vai Thái đau nhói. Vết thương ở cánh tay bị dồn máu nhức khẽ giật lên. Mồ hôi đọng mờ mí mắt, nhìn không rõ, Thái vấp vào đường dây thông tin từ “trung đoàn bộ” đi các trận địa, người lạng chúi, một tí nữa thì đổ. Cơm đổ thì phải quay về nấu lại, anh em pháo thủ đứng phơi nắng trực ban, có tí cơm trưa để nguội, người ta chửi cho lấp mặt. Thái bàng hoàng cả người, và ngay sau đó một nỗi buồn tê tái, nỗi buồn như những thước phim quay chậm tràn qua ngực, thấm dần ra ngoài làm buồn các đầu ngón tay. Thái chạnh lòng khi nhìn thấy làn tiểu đội mình dựng xiêu vẹo, thấp tè giữa trận địa, anh em đang ngủ cả, chỉ có Đăng ngồi trên cái ghế đẩu đặt dưới hai cây bạch đàn non vít lại với nhau, trực ban trinh sát. Nhìn thấy Thái gánh hai thùng cơm, hai vai so lại, cổ rướn lên, Đăng đứng chồm dậy, mắt cay nóng, chân tay ngượng ngịu như bị thừa. Nhận ra ngay sự lúng túng đó, Thái lên tiếng trước: - Đăng trực ban hả? Xem A mình cậu nào còn thức gọi ra lấy cơm về tranh thủ mà ăn đi. Đặt gánh cơm xuống đám cỏ, sát vào mấy bụi sim bụi mua cằn cỗi, Thái bỏ mũ ra quạt, miệng gọi to: - Các khẩu đội cho người mang xoong lấy cơm nhé? Không có tiếng đáp lại, pháo thủ các khẩu đội ngủ lăn lóc trên những tấm phản kê xốc xếch trong những cái lán thấp tè, lợp ni lông, nóng như thiêu. Ở khẩu đội một, một cậu mặc quần đùi thắt dải rút, áo may ô cổ vuông dội đẫm nước rồi để nguyên như thế mà ngủ. Khẩu đội trưởng Toài ôm thêm một ôm lá to tung lên mái làm ngụy trang che bớt tấm ni lông bắt nắng sáng nhóng nhánh, có đám lá tươi cũng che bớt được hơi nóng. Anh không nỡ gọi mấy cậu pháo thủ còn măng tơ dậy. Thôi,cứ để cho chúng nó ngủ, Toài nghĩ thầm, đời thằng lính pháo cao xạ ngủ thêm một phút nào, hay phút ấy. Thái ra ngoài hầm pháo hỏi Toài: - Anh để lính ngủ bệ rạc thế kia, Đại đội trưởng xuống trông thấy, ông ta lại mắng cho vuốt mặt không kịp bây giờ. Toài nói toang oác: - Kệ cho chúng nó ngủ, ông ấy còn có thằng y tá, thằng quân khí nó hầu. Đời thằng lính pháo lúc nào cũng như bị nướng trong lửa, cứ đòi mũ mão cân đai thì đánh nhau thế quái nào được. Vả lại buổi trưa bố mày ít khi ra khỏi hầm chỉ huy, đứng trên ấy quát tháo, việc gì ngang mắt, khệnh khạng xuống đến nơi, lính của tôi dù có vớ được cô nào ngủ vụng cũng kéo xong quần, đứng dậy rồi. Toài cười phà phà, tiếng nói nghe oang oác. Âm thanh phóng ra khỏi ngực anh ngỡ như vập vào cái gì, thứ đó sẽ vỡ ngay. Cần phải báo cáo tình hình khẩu đội sau trận đánh, Toài đứng luôn trong hầm, không cần nhô đầu lên, bắn luôn thứ tiếng pháo mõ ấy cho Lộc. Anh em trong đơn vị vẫn đùa gọi Toài là mõ làng. Thái chăm chú nhìn Toài hí húi cắm cành ngụy trang trong lòng hầm pháo, hỏi đùa: - Ông Toài định cắt cơm trưa của khẩu đội hả? Toài ngẩng lên, xua tay: - Ấy ấy. Kiêng! Kiêng! Đừng nói vậy ông Thái. Lấy lưng cơm ăn với nước mắm gạo rang chứ gì. Hay là vừng lạc. Một mảnh hạt lạc cõng mười hạt muối. Thưa ông A trưởng chỉ huy, sẽ có ngay đây. Toài tất tả chạy vào lán lay chân Viên. Cậu pháo thủ số hai lưng đặt trên tấm chăn chiên dấp nước rải lên phản, từ mông chòi ra ngoài, hai chân đi giày cao cổ ướt lõng bõng. Thái cúi xuống, mặt vấp vào một chiếc chăn chiên ngâm nước rồi để nguyên như thế căng ở phía cửa lán, nước nhỏ xuống tòng tõng. Anh thấy cay sóc nơi sống mũi. Lính ta khổ vì nắng, bất cứ cách gì có thể giảm được chút nóng đều đem ra thi thố với đồi sỏi và gió tây. * * * Đăng xách cái đĩa nhôm hai ngăn, một tay cầm xoong, chân chạy gằn, mắt vẫn ngước lên quan sát bầu trời. Cậu chàng thụp xuống, vớ lấy đĩa vừng lạc lắc lắc như người ta sàng gạo, quờ tay định gạt tất cả những mảnh lạc to sang đĩa mình. Thái khẽ ghè cái muôi đang xúc cơm vào tay Đăng, mắng: - Cậu láu cá nó vừa vừa thôi. Dễ thường pháo thủ người ta thích ăn toàn muối trắng, còn thứ ngon cậu hớt sạch. Đăng cười hềnh hệch: - Người nhà làm nuôi trưởng, chúng em phải được phận nhờ chứ ạ. Năm cái đĩa đặt thành hai cạnh xoong cơm, Thái đếm thấy vẫn còn thiếu một chiếc, dừng tay chia: - Xoong lấy cơm của xê bộ đâu? - Đây, của “lão” đây. Đại đội phó Xương cất giọng ồm ồm. Xương bước chậm, đầu lắc lư, tay vẫy mạnh cho cái đĩa trắng bắn hết nước, miệng cười độ lượng, tiến về phía tốp chiến sĩ đang quây lấy Thái ồn ào. Xương có nước da đen cháy, vầng trán thắt hẹp, khuôn mặt lại bầu ra, đường vòng cong của khuôn mặt khép lại ở khuôn miệng rộng và cặp môi dày nở bung, khiến ta có cảm giác anh luôn cởi lòng, một con người dễ dãi. Trước khi nhập ngũ Xương dạy học, trong đại đội anh thân với Thái nhất, họ như hai anh em. Đại đội trưởng Lộc bỏ giấc ngủ trưa ra đứng trong hố chỉ huy từ lâu. Anh nhấc chiếc dùi kẻng định gõ một hồi báo động, nghĩ sao anh lại thôi, chỉ cầm nó lăm lăm ở tay. Lộc nói gần như quát: - Các ông bày cỗ chờ máy bay đến hả? Có khác gì cái chợ con. Cậu Thái xem cái đĩa nhôm trắng để như thế có coi được không? Xương giục: - Ông nào nhận cơm xong bê về đi. Đại đội trưởng đang làm toáng lên kia kìa. Đăng bẻ một cành bạch đàn che quấy quá lên cái đĩa hai ngăn, chạy về hầm trực ban trinh sát. Lộc quát lên: - Cậu Đăng đứng lại đã. Đang giờ cao điểm bỏ vị trí trực ban đi lấy bát cơm, máy bay đến ai báo động cho đơn vị. Đăng chống chế: - Tôi lấy cơm, mắt vẫn nhìn trời đấy Đại đội trưởng ạ! Quả đúng như Đăng nói, đứng ở chỗ chia cơm đôi mắt đồng thau được mệnh danh là mắt lửa con người vàng của Ngộ Không, vẫn “quét” khắp bầu trời. Lộc vẫn quát: - Cậu Đỗ đâu? - Có. Tôi đây ạ! Đỗ chui trong hầm thông tin ra, đầu mượt bóng ,tay kẹp cái nhíp nhổ râu. Lộc đập mạnh cái dùi kẻng xuống mặt hầm. - Cậu cũng làm việc riêng. Tôi đã ra lệnh cấm trực ban không được làm việc riêng cơ mà. Cho thay trinh sát trực ban ngay, cậu Đăng bỏ vị trí quan sát trong giờ cao điểm. Đỗ xị mặt, ậm ự trong miệng ngầm oán Lộc “có thằng trinh sát giỏi ông bắt thay trong giờ cao điểm. Lấy ai mà thay”. Cậu ta vênh cằm lần nhổ râu. Đăng đứng quay lưng lại phía Lộc tránh đôi mắt gay gắt nhìn như xoáy lấy mình. Cậu ta giơ ống nhòm lên mắt và “tóm” ngay được hai chiếc F8 từ rất xa, chúng mới chỉ nhỏ bằng hai hạt đỗ đen. Nhanh như chớp Đăng nhẩy vọt lại chỗ chiếc kẻng, vớ lấy dùi gõ liên hồi. - Hướng 34 hai F8 bay thẳng vào! Thái chộp lấy nắp nồi quân dụng đậy vội lên cái xoong trắng đựng cơm, giơ chân đá nó vào bụi sim, rồi lao ngay đến đứng cạnh Đăng. Hai chiêc F8 bay rất thấp. Loại máy bay này có sở trường bay lắt léo. Tên phi công cho máy bay ngóc lên chúii xuống như hai con cá sộp. Hai chiếc F8 nghiêng hẳn cánh bay dọc đội hình trung đoàn pháo cao xạ Sông Châu. Thái nhắc khẽ bên tai Đăng, dùng ống nhòm bám sát, thể nào hai thằng này vọt sang bên kia Truông Bồn rồi nó cũng quay lại. Hai chiếc F8 quay lại thật. Chúng lượn lờ phía xa lừa cho mặt đất không chú ý đến nữa rồi mới bất ngờ hạ thấp độ cao bay gần như song song vào thẳng đội hình các trận địa pháo. Trong mấy giây, một chiếc vọt lên trước, rồi lại tụt lại phía sau chiếc kia như làm trò chơi ú tim. Bất thình lình đại đội một pháo 57 ly trực thuộc trung đoàn nổ một điểm xạ ngắn. Chiếc F8 lật mình, phơi cái bụng lóa sáng. Các pháo thủ reo ầm lên “cháy rồi”. Chiếc máy bay lật sấp ngay lại làm mọi người chưng hửng. Lộc hạ lỏng tay cờ. tay kẻng. Thái nói nhanh như không chủ nói với ai. - Nó thăm dò hỏa lực đấy. Đừng đánh! Hai chiếc F8 rít lên như còi bay vèo qua trên đầu trận địa. Thái liếc nhanh thấy mặt Lộc hơi tái đi. Ý nghĩ trong đầu Thái vụt lóe như một tia chớp, bọn phi công Mỹ toàn những tên thông minh rất “cáo”, không khi nào chúng bay sóng đôi đủ thời gian cho đạn cao xạ tầm thấp xơi gọn. Địch trinh sát trực tiếp bằng mắt thường chuẩn bị cho một trận đánh quyết liệt đây. Thái sắp quang gánh lủi thủi xuống khỏi trận địa. Từ hầm pháo khẩu đội một, Toài ngoác miệng như gào: - Có ông Thái đứng giữa trận địa, chúng tôi yên tâm. Trinh sát ú ớ bọn tôi run lắm. Quản lý mục tiêu không chặt, để xổng một thằng F8 là bỏ mẹ. Lộc hỏi vọng xuống: - Đồng chí vừa nói run cái gì đấy, hở đồng chí Toài? - Run, sợ rốc -két nó xỉa vào lưng chứ còn run gì nữa ạ! Lộc không nói gì nữa, nhìn theo Thái gánh lỏng chỏng mấy cái xoong nồi, cái đen, cái trắng lững thững xuống đồi, Xương nói với theo: - Chiều mang cơm chính, gánh nặng nói thằng Chư Rỗ nó gánh cho. Bảo với nó rằng Đại đội phó phụ trách hậu cần dặn thế. Thái chưa khỏe hẳn, tay còn đau, đừng gắng. Phải giữ sức khỏe rồi mấy hôm nữa đánh to, moi đâu ra người. Lộc ngầm nhìn theo người Tiểu đội trưởng bị giáng chức. Cậu ấy có chào mình không nhỉ? Có chào, nhưng là chào lấy lệ, chào cho qua chuyện, cho phải lẽ thôi, chẳng có chút tình cảm nào cả. Lộc thoáng ghen tị về mối quan hệ giữa Xương với Thái. Chúng nó vừa như thầy trò, vừa như bạn bè. Thái học gần xong đại học song nó vẫn là học trò, vẫn còn những mặc cảm và cần sự dìu dắt, nâng đỡ của người thầy. Còn Xương là giáo viên cấp I, tuy thế vẫn có phong thái người thầy của Thái. Xương giơ hai tay như đôi cánh ra che chở cho Thái. Đôi cánh tay có vẻ ngắn và bé cho một con chim đã lớn song vẫn cần che chở. Lộc nghệch miệng nheo đôi măt vòn đuôi lại, cười ngậm ngùi.Anh học hết lớp bảy, vào bộ đội học bổ túc qua phổ thông và anh tự coi mình là Đại đội trưởng trí thức duy nhất trong trung đoàn. Trong đại đội Lộc nể vì song cũng tị hiềm với Thái. Cái chức danh lính đặt lên vai nó có vẻ quá tải tuy nó chịu đựng và còn tỏ ra giỏi giang nữa. Chà sát với nắng, gió Tây như vậy nước da không đen, mặt chỉ hơi đỏ sậm. Đôi mắt to, đuôi dài, mơ màng, vậy mà có lúc như bùng lửa, chói lên rừng rực. Ở Thái hình như được trời phú cho cái linh cảm dự báo lành, dữ, cái linh cảm nói ra ai cũng ngờ vực, thậm chí còn cười nhạt, dè bỉu, dù vậy nó không thể thiếu trong những cuộc đọ sức quyết định. Lộc nhìn sang ba trận địa pháo 57 ly ở dải đồi trọc xa xa. Nhà bạt giăng ra trắng lốp. Chiếu mắt kỹ một tý còn thấy rõ những chiếc áo bờ lu dông chiến sĩ mặc bạc trắng. Lộc khẽ rùng mình, sao các bố chủ quan thế không biết. Địch tổ chức trinh sát lại bằng mắt thường, các trận địa pháo ở đây quen thuộc đến nỗi chúng không cần dùng khí tài để chụp ảnh, nội nhật chiều nay, hoặc ngày mai chúng sẽ đánh lớn. Anh em chủ quan thì cán bộ phải tỉnh táo chứ. Lộc vào hầm thông tin định quay máy điện thoại gọi Tham mưu trưởng Đoàn Cung. Nghĩ tới cái ngón út cong cong đầy vẻ khinh thị của Cung giơ ra trước mặt khi nói về “xê” 8 của mình, mắt Lộc tối sầm. Anh quay một vòng máy điện thoại, chợt ngừng, rồi đôi mắt ấy chợt lóe sáng. * * * Thái quảy gánh xoong nồi, xuống vũng nước ở con khe nhỏ rửa mặt, nhân tiện rửa chiếc nồi quân dụng nhớp nháp nhọ nồi dính mỡ hóa học. Cái anh mỡ hóa học dây vào chỗ nào là đại khó rửa, làm tay chân Thái lúc nào cũng lọ lem. Anh vẳng nghe có tiếng sấm ở dãy núi phía Tây. Tên dãy núi là gì nhỉ? À, tên là Thiên Nhẫn – ngàn ngựa, ngàn con ngựa bị quất lồng lên trong nắng và gió Tây. Chiều nay thế nào cũng có một trận mưa giông. Vào mùa màng đất này bao giờ cũng như được hưởng một ân huệ đặc biệt của thiên nhiên. Suốt mùa xuân, mưa xoa bàn tay mát lành nhẹ nhẹ lên mặt đá sỏi. Mưa xuân ngạt ngào hương vị, nồng nàn sức sống, đuối dần, đuối dần, đất bắt đầu bị vắt kiệt, lo hoảng lên trước mùa gió nắng lơ lửng ở đâu đây. Đất trời lả đi trong trận nắng tháng ba.Thế rồi, bất thần sấm vỡ giọng và mưa giông dội ào ạt xuống lớp lớp đồi sỏi cùng với những thửa ruộng nằm giữa những con khe nhỏ khô cằn.Cây cối mỡ ra, vụt lớn phổng lên như tự nhận biết mình phải lớn rồi đâm nụ, rồi ra hoa, rồi vào quả, rồi vội chín và con người cũng vội thu hoạch. Lớp cây nào chậm mọc chưa kịp làm xong thiên chức cao quý, dâng hiến sự chắt lọc từ đất đai cho sự sống thì bị đày đọa, chết lặng đi, chết mòn mỏi trong mấy tháng hè và đầu thu, gió nóng ầm ập đổ về bất ngờ, dữ dội, ác không kém những cơn bão nhiệt đới. Mưa giông giống như một ân huệ cuối cùng trước một tai họa lớn. Thái ngồi xuống sát bờ, nhúng hẳn hai chân xuống nước. Lúa chín rũ, dân không dám đi gặt. Cách đây mấy hôm lá lúa còn vàng sậm quật không ngã hôm nay đã thâm lại, bông rục xuống. Nhiều bông gãy gục, bám lủng lẳng sát thân cây. Trong thung lũng bé con con, bom từ trường ghim chôm chổm. Chỗ nào đám lúa giạt ra, thành khoảng trống to bằng cái nong, y rằng chỗ ấy có bom từ trường. Dân sợ không dám mang liềm, hái, vì có sắt thép, nên đến ruộng lúa mà chỉ đứng đầu bờ??? Có nhà liều vào sát bom dùng tay dứt từng bông, quả bom nổ bất thình lình, vùi luôn cả người và nắm lúa cầm tay. Hễ chỗ nào bom nổ xong, bà con nhào đến gặt. Cắt vội một nẹn lúa, lại chổng mông bới những bông bị đất bom vùi. Bới mà mắt vẫn phải dè chừng, nhớn nhác ngó xem quả bom ở gần đây có nổ thì nằm xoài ngay xuống. Dán chặt thân người xuống mặt ruộng, nhắm mắt trong nỗi sợ hãi lặng người, quả bom nào nổ xa hòn đất nhỏ rơi xuống đầu, xuống lưng đau điếng nhưng còn dậy được. Nếu quả từ trường tự hủy ở ngay gần, tảng đất to bằng cái thúng táng xuống người thì nằm chết thẳng cẳng luôn. Đánh vật với cái chết để giành lấy hạt lúa. Biết có thể chết nhưng nhìn thấy hạt lúa chín vẫn phải lăn vào giằng lấy vì cái hạt ấy nó nuôi sống người… Một cơn gió thốc qua mặt đường ngầu bụi. Đám bụi đỏ ngầy ập vào hàng bạch đàn, bám suốt từ gốc lên đến tận ngọn làm cho cây nào cũng như bị vít đầu xuống. Trong đám bạch đàn đỏ cạch màu đồi đá ong có một con đa đa thốc lên tiếng kêu: xúc – con tép – kho cà. Con chim có tiếng kêu đến lạ tai, thứ âm thanh dõng dạc, đanh buốt óc. Nghe tiếng kêu trí tưởng tượng bắt ta phải nghĩ đến một kẻ đực trễ cánh, gân cổ, phồng mồm lên mà hét. Người đi bẫy đa đa cự phách nói rằng mùa động dục, con đa đa đực suốt ngày ngoác mồm quát tháo, bước dạo quanh cái vương quốc của riêng nó. Đa đa phân chia sườn đồi thành vùng, mỗi vùng một đôi (thực ra chỉ một con đực) trị vì. Suốt ngày nó hét “mi muốn chết đấy à?” và con chim sẵn sàng đánh nhau đến chết để giữ tô giới, nó còn dám tấn công cả chồn là loài thú thích ăn thịt chim đa đa, dù phải chết, con chim cũng minh chứng tính gia trưởng cố hữu của nó. Đất mình thật lạ, đến con chim cũng chuộng một thứ cát cứ phân vùng và một sống, một chết với tư tưởng gia trưởng. Bất chợt Thái nghĩ đến Lộc, dù đã cố gạt đi, vẫn thấy nhói lên một cái gì hao hao giống nhau giữa người đàn ông này với con chim đa đa. Anh ấy tốt, ai cũng nhận thấy lòng tốt, một kiểu lòng tốt muốn người khác đứng trong cái ô che của mình. Cái ô ấy che đỡ, dung túng và được nhìn nhận như là một nếp sống hết sức đẹp??? Tôi đã tạo ra anh hoặc là tôi đã cho anh một phần cái tôi có, một phần sự giúp đỡ trong sự che chở của tôi, sự dung túng bật tín hiệu của tôi. Và vì vậy anh phải đứng trong cái đại gia đình ấy, trong sự hổ lốn phe phái, trong sự “đoàn kết” ấy. Anh đứng ra ngoài, đi một con đường mới khác, thậm chí anh nghĩ khác liền bị coi như một sự phản bội, bị quy chụp vào sự kết tội nặng nề, vi phạm đạo đức truyền thống. Đấy, cái lô cốt cố hữu chưa hề bị công phá đè nặng lên lịch sử, khuynh đảo hiện tại, đặt mớm đầu cầu của nó vào tương lai, là cái bóng trùm lên cuộc đời mỗi con người. Con chim vẫn kêu “Bắt lấy nó – chà chà” Thái đứng lên vùng chạy, như thể chạy trốn con chim vô tư kia. Thái về đến nhà bếp, mồ hôi ở lưng áo ướt đẫm, mặt nóng bừng, khô bỏng, gió nóng hút khô hơi ẩm trên da mặt. Anh lảo đảo đặt gánh xuống sân. Chợt đâu có người gọi ở phía sau, Thái quay phắt lại, thấy Đăng đứng sát sau lưng. Mặt Đăng tái sạm trong khi đôi mắt trong sáng ánh lên chớp chớp như sắp khóc. - Anh Thái ơi, Đại đội trưởng nói anh bàn giao bếp lại cho anh Chư Rỗ, mang quân tư trang về ngay đơn vị. Ba lô của anh đâu, để em đeo. Nhanh lên anh Thái! Chương năm Đ ội tiền trạm ngủ đỗ lại ở một làng phía nam sân bay Vinh. Sáng sớm Tham mưu trưởng Đoàn Cung dẫn cả đội đi trinh sát địa hình. Ông cắp tấm bản đồ Vinh – Bến Thủy bọc trong giấy bóng mới tinh, bước đi oai vệ. Giữa thanh niên bạch nhật Thái mới có điều kiện ngắm kỹ tham mưu trưởng trung đoàn mà theo cách gọi hơi quá lời của Lộc “một cái thùng ô tô đựng rượu và thịt chó”. Da Đoàn Cung hung hung đỏ, màu da bốc men thường thấy ở những người gắn vào mỗi bữa cơm vài chén rượu cuốc lủi khai vị. Tham mưu trưởng hay nhìn ngước lên, cố ý khoe vầng trán cao, đôi mày rậm có những sợi to dài hoặc xoăn bắt đầu lốm đốm bạc, đôi mắt to mí mọng như hơi sưng, khi ấy dữ và đầy vẻ thông tuệ, đầy quyền thế. Đoàn Cung cẩn thận trải tấm bản đồ xuống mặt cỏ, ấn khẽ những ngón tay to mập, khuyên một vòng tròn hẹp ở sát đầu phía nam đường băng. Ngón tay đi quá đà, chạy rộng ra, phác một cử chỉ vu vơ. Ông hỏi tốp trinh sát tiểu đoàn năm mới sát nhập vào trung đoàn pháo cao xạ chủ lực của ông, giọng hơi sẵng: - Tốp các cậu do ai chỉ huy? Thanh đặt một tay lên ống nhòm, tay kia vuốt đám tóc cho lộ vầng trán khổng lồ: - Báo cáo Tham mưu trưởng, tiểu đoàn có cử đồng chí Thái A trưởng chỉ huy đại đội tám quản lý hành chính, còn về tác chiến và công việc chuyên môn hoàn toàn dưới quyền ban tham mưu. - Cậu Thái đâu?- Cung to giọng đưa mắt tìm. Thanh đập tay vào lưng Thái, mau miệng: - Dạ đây- Cặp môi cậu ta loe quá cỡ. Người mẫu của chúng tôi đây. Đẹp trai nhất và là một trong số ít người có trình độ văn hóa cao nhất tiểu đoàn. Giọng Thanh tưng tửng có phần xách mé vì thiếu hẳn thái độ vâng chịu và khúm núm, làm Đoàn Cung khó chịu. Ông nhìn nhanh Thái để nhận mặt, vầng trán hơi cất lên. Cái hất trán ấy hàm một nhận xét của người trên: thử xem cậu có xứng với lời giới thiệu ba hoa của thằng cha miệng vạc dầu kia không! Thái nhìn lại Cung bằng đôi mắt trầm tĩnh. Đôi mắt to trong sáng và lộ ra những suy tư sâu kín. Đôi mắt ấy cũng nói với Cung: “Cậu ấy quá lời đấy ạ. Nhưng thưa Thủ trưởng, tổ chúng tôi toàn những thằng trẻ tuổi đẹp trai, sản phẩm của mái trường xã hội chủ nghĩa thập kỷ 60, Thủ trưởng nhìn kỹ mà xem”. - Cậu Thái ở đại đội tám phải không?- Đoàn Cung hỏi với sự tinh ý đặc biệt của con người nhiều năm làm công tác tham mưu. - Vâng- Thái đáp rắn rỏi. - Đại đội cậu Lộc hả? Chữ “cậu” Đoàn Cung ném văng ra khỏi miệng, bổng lên như trọng tài tung quả bóng qua lưới để chọn bên séc vít. Thái chạm ý nhếch mép cười mỉm. Sau cái cười ấy Đoàn Cung ngầm hiểu rằng trong đầu cậu này dầy rẫy những tư tưởng chiến thuật còn rơi rớt kiểu du kích chiến của thằng cha Lộc. Ông đứng dậy, rung rung hai đùi, cái bụng to đẫy, phưỡn ra phía trước, lắc mạnh. Cánh tay Đoàn Cung đưa lên, khoát rộng về phía nam sân bay. - Ở khu vực có ba trận địa, tiểu đoàn các cậu cụm vào, tựa lưng nhau mà đánh. Còn Sở chỉ huy tiểu đoàn thì kia – Cung rướn lên chỉ: kề đường tàu, chỗ có mấy bụi tre hoang và đám cây cộng sản ấy. Đoàn Cung vừa nói dứt lời, Thái hỏi ngay: - Thưa Tham mưu trưởng, sân bay Vinh máy bay ta còn hạ cánh, cất cánh không ạ? - Còn. Vẫn có những chuyến lên xuống đột kích về ban đêm. Thái chộp luôn ý đó: - Máy bay lên xuống ban đêm, ba trận địa ôm sát đầu đường băng rất nguy hiểm. Không an toàn cho cả máy bay ta và cả cho chúng tôi. Miệng Đoàn Cung ráo hoảnh: - Lui ra một chút cũng được! Tôi cho phép. Thái vẫn hỏi bằng giọng chất vấn: - Báo cáo Tham mưu trưởng như vậy các đại đội phải cấu trúc trận địa mới! - Ừ, đúng, phải. Thái dấn thêm: - Báo cáo, nghĩa là phải cho một bộ phận đơn vị từ nam Truông Bồn xuống đây trước, làm trận địa mới. Giọng Đoàn Cung nẩy lên: - Đúng! Phải! Thái dằn lòng mới giữ được sự nhã nhặn phải lễ trước cách trả lời có vẻ đồng tình nhưng thật ra biểu lộ một thái độ rất coi thường những lập luận ấy. Cặp môi bóng đỏ như sẵn sàng trôi tuột vào họng hơi nhếch sang bên ra ý bảo: cậu toàn nói những điều người ta biết cả rồi. Nhẽ ra không nên hỏi. Tốp trưởng một nhóm trinh sát biết mùi đánh nhau với máy bay Mỹ không nên hỏi như vậy. Lấy lại điềm tĩnh, cân nhắc một lát. Thái nói chậm rãi: - Thưa Tham mưu trưởng. Đơn vị tôi quân số ít, như tình hình hiện nay san đội ra rất bất lợi. Chúng tôi đã tìm gặp Xã đội trưởng xã sở tại tìm hiểu tình hình địch và được biết, đoàn Vạn Kiếp pháo trung cao khi ở Hà Nội “chồm” vào A2, vọt qua Truông Bồn, dừng chân ở Nam Thái, bị địch chụp một mẻ. Đến Nam sân bay Vinh cụm lại ở ba trận địa trung đoàn giao cho chúng tôi, lại bị bồi thêm một trận nữa thua liểng xiểng. Đoàn Hàm Tử, Đoàn Chương Dương cũng rơi vào tình huống tương tự ở nam Truông Bồn. Chúng tôi thấy địch đã biết rõ các trung đoàn phòng không tinh nhuệ của ta vào tăng cường cho chiến trường A2 đều tập kết ở vùng đất đỏ Phủ Quỳ, rồi từ Phủ Quỳ qua thị trấn Đô Lương, vượt đèo Truông Bồn trước khi trời sáng phải dừng lại ở khu vực Nam Thái, nên chúng đã chuẩn bị để gặp các “quả đấm” của chúng ta ở đây. Thưa tham mưu trưởng, ta phải chớp thời cơ lật cánh khỏi những đồi đá ong trơ trọi ở Nam Thái, chiếm lĩnh ngay càng nhanh càng tốt các trận địa có sẵn tương đối kiên cố trong thành phố Vinh. Đoàn Cung ngước cao hơn vầng trán. Khuôn mặt da hung đỏ, đánh rơi mất vẻ thông tuệ thường nhật, mà thoáng nhanh sự ngơ ngác, mồ hôi rịn ra lấm tấm trên cái sống mũi thấp, làn da quanh hai gò má chuyển sang mầu hung nhợt. Những thông tin và lý sẽ Thái đưa ra đều rất xác đáng. Làm công tác tham mưu lâu năm, ông thừa biết tốp trinh sát tiểu đoàn năm có tư duy sắc sảo, nhạy bén về tình hình địch, ta. Ông cũng biết rằng trung đoàn nằm ở Nam Thái hiện ở trong tình thế bất lợi cả về chiến dịch và chiến thuật. Tuy nhiên ở con người ông sự tự nhận ra điều mình sai bao giờ cũng chậm chạp. Ông có một lập luận quái gở, tự nói ra điều chưa hoàn thiện của mình trước cấp dưới là một cách đầu hàng. Và cách ngụy biện đầy “khí thế tiến công ấy” chuyển qua trạng thái tình cảm giống như cảm hứng về sự phủ nhận kẻ dưới quyền rõ cái đồ trứng khôn hơn vịt! Đoàn Cung vẫn bám vào hy vọng trung đoàn đang sung sức, đầy đủ người và xe pháo, cụm lại, tựa lưng vào nhau đánh một trận lớn làm nhụt nhuệ khí lực lượng phi công Mỹ đang ỷ thế đông máy bay bắt nạt các đơn vị pháo cao xạ. Ông gạt phắt những lý lẽ Thái đưa ra, vầng trán hói cau lại, nói một cách lạnh lùng: - Các cậu có thể lùi ra xa đường băng nhưng chỉ được phép từ tám trăm mét trở lại. Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến, pháo 37 ly chỉ được phép như vậy. Ông vội vàng quay đi để rớt lại cái giọng đầy quyền uy nhưng cũng đầy sự lừa dối và lấp liếm tội lỗi. Chân ông bước hấp tấp, mét mặt hầm hầm, vội vã đuổi theo một cái gì không thể nắm bắt được, nhưng lại sợ nó chạy mất. * * * Thái dẫn tổ trinh sát xộc vào nhà Xã đội trưởng. Chả lẽ Đoàn Cung bỏ đi vội không nhắn lại tin tức gì. Người Xã đội trưởng, một cựu chiến binh thời chín năm, dáng điệu và phong thái đặc biệt xứ Nghệ, có đem đi trộn vào đâu cũng chẳng lẫn được. Người anh thấp đậm, to bè, cái đầu vuông húi cua, tóc dựng đứng trước trán, khuôn miệng rộng ngoác được khuyên vòng lại bằng căp môi thẫm vì nghiện thuốc lào. Cặp môi ấy luôn mấp máy, như lúc nào cũng sẵn sàng tuôn ra những câu chuyện trạng cười rung cả nhà. Anh mời cả tốp uống nước chè xanh gọi là “nác mới” rồi cố lấy bộ mặt quan trọng mở túi áo ngực lấy ra một tờ giấy nhỏ đưa Thái. Luật uống nước ừng ực, lé mắt nhìn tờ giấy. Hóa đặt bát nước xuống, đưa cặp mắt lửa chiếu quanh căn nhà. Còn Thanh đứng sát Thái, nghển cổ, nhanh như mắt chim cắt. Cung viết vắn tắt: “Ở nhà xảy ra tác chiến lớn. Xe tiềm trạm đi về phía làng Đỏ. Tổ trinh sát D5 không được phép quay về Nam Thái, tìm mọi cách đi sâu xuống Bến Thủy nhận ngay trận địa. Trung đoàn sẽ thay đoàn 12A pháo địa phương Nghệ An, chốt giữ trọng điểm quan trọng này!… Thái gấp tờ giấy ngược chiều gấp cũ, cho vào túi áo, ngồi thừ mặt ra một lúc. Xã đội trưởng cho biết thêm, ban chiều tham mưu trưởng Đoàn Cung có hỏi anh rất kỹ về tình hình hoạt động và cách đánh phá của máy bay Mỹ ở khu vực Vinh – Bến Thủy. Ông còn căn vặn có phải một cậu trinh sát đã hỏi tôi về tình hình địch ở đây không? Hỏi về cách đánh của máy bay hải quân Mỹ. Hỏi cách phòng tránh bom bi, bom từ trường…Tôi đáp răng “có”. Sau đó cả đoàn chộn rộn cả lên, giữa tham mưu trưởng và chủ nhiệm trinh sát xảy ra va chạm, họ tranh luật gay gắt một lúc lâu. Đồng chí liên lạc trên Nam Thái xuống báo tin, đại đội một pháo 57 ly bị địch tập trung lực lượng công kích dữ đội suốt ngày, bị trúng cả bom sát thương, bom pigiăng (nổ trên không), cả rốc-két và bom bi…bị mất sức chiến đấu. Các đại đội trực thuộc trung đoàn khác máy bay địch rải bom bị nổ chậm dày đặc, bộ đội không có cơm ăn đến tận đêm vì anh nuôi không thể nào gánh cơm lên đồi. Thái loạng choạng đứng lên, lòng bối rối. Nỗi lo lắng lơ lửng trong đầu từ hôm anh gánh cơm ra trận địa gặp hai chiếc F8 bay thấp, trinh sát dọc đội hình trung đoàn, đến hôm nay đã thành một sự thật bi thảm và tàn khốc. Ai sẽ chịu trách nhiệm về những trận đánh thất thiệt lớn, đổ nhiều máu như thế này trong chiến tranh. Tại sao Tham mưu trưởng không đợi tổ trinh sát tiểu đoàn năm về đủ rồi hẵng đi. Vội thì vội thật nhưng không phải không thể đợi thêm nửa tiếng đồng hồ. Có lẽ Chủ nhiệm trinh sát và Đoàn Cung va chạm vì chuyện này chăng? Hay anh ấy cũng phản đối Đoàn Cung về cách bố trí đội hình chiến đấu có phần giễu võ giương oai ở Nam Thái đến nay được lập lại ở khu sân bay Vinh. Dù sao tổ Thái cũng không nên gặp Đoàn Cung vào lúc này. Trong căn nhà nhỏ bỗng trĩu nặng không khí dè dặt. Ai cũng ngại nói ra điều gì không phải với đồng đội vừa nằm xuống trong một trận tao ngộ có phần bốc đồng và nhẹ dạ, không đáng có và dễ dàng tránh được. Trước mắt tổ của họ còn một gánh nặng hơn, là phải đơn độc hành quân bộ ban đêm trên con đường xa ngái, ở một thành phố lạ, lúc nào máy bay cũng rập rình ào vào ném bom tọa độ. Cuối cùng Thanh vẫn không giữ được cho miệng mình nghỉ lâu, thứ ngôn từ liên liến Thanh xổ ra kéo ý nghĩ mọi người về đơn vị đang rối tinh, rồi mù vì hàng trăm công việc sau trận đánh: - Ngoài “xê” một pháo 57 ly bị đánh rất nặng ra, các đại đội trực thuộc khác đều bị sứt mẻ. Đã đành rằng pháo 57 dễ lộ hơn nhưng ở đây lại là cái khôn, sự mưu lược và từng trải. Các Đại đội trưởng pháo 37 ly đã từng phải giữ bí mật trận địa cơ động thần diệu, tránh những cơn mưa pháo ở vùng bờ biển Thanh Hóa nên chả bố nào dại phơi mình ra theo chiến thuật “quả đấm thép” của ông Cung. Phen này nhà trí thức Lộc thắng thế, phạt đền ông Cung trong hội nghị quân chính ra trò đây. Đúng, phải đập cho nứt cái thùng tô nô chứa thức ăn ấy ra! Luật đứng ở góc nhà tức tối, đôi mắt dài nhìn xói xuống chân, miệng làu bàu tiếc rẻ cái trận địa cậu cùng hai cô dân quân đào dở. Hai bên đã cắn với nhau đến độ ghi địa chỉ, chép thơ tặng nhau. Luật đã nhanh tay vuốt mái tóc dầy và dài của con gái vùng Vinh. Thẳng cha còn lập mưu lừa cho một cô quay lại rồi hôn đúng vào môi cô rất nhanh khiến cô gái thẫn thờ. Hắn thở dài, cằn nhằn riếc Đoàn Cung là gà tồ. Thái phải gắt lên cậu ta mới giúp Hóa mở bản đồ, rồi đo độ dài đường hành quân. Hóa dùng địa bàn năm tác dụng đo đi, đo lại rồi quả quyết tuyên bố hơn mười cây số. Cẩn thận hơn cậu ta đặt địa bàn, quay lại hướng Bắc, rồi cùng Thái dự kiến địa điểm Đoàn Cung đổ quân xuống. Trước khi tổ trinh sát lên đường, anh Xã đội trưởng bê ra một rổ khoai, đặt phịch giữa nhà. Anh chọn những củ không bị toét vỏ nhét vào túi quần từng người. Khoai đất cát da mềm, mới luộc đang còn nóng, xiết vào đùi khiến Luật nhảy lên thích thú. Tốp trinh sát đi lặng lẽ. Tiếng vỏ ống nhòm va vào hông lịch kịch. Ai nấy đều lấy khoai trong túi lặng lẽ bóc ăn, không người nào lên tiếng, mỗi người đuổi theo một ý nghĩ riêng. Thái đi trước, dáng cao bước nhanh, Thanh cúi cái trán gồ về phía trước. Luật bước phăn phắt vẫn ngoái nhìn lại phía sau. Hóa nhỏ con, bước dài chắc chắn luôn dướn lên cho kịp cả tổ. Đang đi bỗng Luật ú ớ không nói được. Thái quay phắt lại, thấy cổ Luật cứ ngắc lên. - Thái ơi…tôi bị…-cậu ấy nghển lên thở. Thái ngoắt người, đỡ Luật, tay chạm phải cái vật mềm mềm cậu ta vẫn nắm trong tay. À, khoai lang, Thái vỡ lẽ, cậu chàng bị nghẹn vì ăn phải củ khoai bở quá, lại không có nước. Luật ngửa cổ, ngực dô lên. Trời tối như bưng lấy mắt không biết chỗ nào có nước. Đi liều ra xa lỡ gặp bom từ trường, trong người có sắp thép nó nổ thì bay cả tổ. Thanh cuống lên quát Luật: - Đồ tham ăn, vẫn còn ngậm khoai trong mồm. Nhổ ra! Luật lè ra bàn tay miếng khoai to tướng, không chịu bỏ đi, cổ vẫn rướn lên vì chưa hết nghẹn. Thanh giục Hóa: - Cậu cho nó một tí nước đái. Giá có cô dân quân đào công sự với nó ở đây áp cái ấy vào miệng xòe xoáy họng thì hết nghẹn ngay tắp lự. Luật ú ớ: - Tớ không chịu được nước đái. Nôn hết! Thanh chửi: - Cho nó thốc mẹ nó ra hết đi,giữ cái của khỉ ấy làm gì! Hóa nói vội: - Thằng này háu ăn. Không có gì trong bụng nó lăn kềnh ra, không đi dược đâu. Thái vuốt cổ, vuốt ngực cho Luật. Cậu ấy ợ ra tay miếng khoai nữa, bụng hóp lại, giục: - Nhổ – vào – mồm – tớ…ít nước bọt! Thanh ôm lấy đầu Luật: - Từ thuở bé tao có mớm ai bao giờ đâu. Thái gắt: - Mớm đi! Mồm Luật há ra cho Thanh dồn nước miếng sang. Cậu nuốt ực ngon lành như trẻ con. Thái bỗng thấy mình khát, khát bỏng họng và đói nhũn cả tay chân. Củ khoai bóc chưa sạch vỏ, đút túi quần cứu nghẹn cho Luật, giờ anh lấy ra tống bừa vào mồm. Luật lại vỗ miếng khoai giữ ở tay vào mồm ăn ngon lành như chưa hề có chuyện nghẹn tí nữa tắc thở vừa rồi. Cậu ta rập rình chờ chỗ nào có ánh lửa ló ra là xộc vào xin nước uống. Song tuyệt nhiên không hề có một ánh lửa nhỏ nào. Thành phố chìm trong hoang lặng, bầu trời, mặt đất trong đêm có gì thật cổ sơ. Không một tiếng trẻ u ơ khóc. Không có tiếng con chuột chù rúc rích chạy qua đường. Cả tiếng côn trùng cũng không có, hay là vì họ đang bộn bề những ý nghĩ trái ngược nhau nên không nghe thấy. Một vài cây phi lao, cây bạch đàn bị phạt cụt ngọn, đoạn thân gốc lá xù ra, đứng chơ vơ trong đêm như những người không đầu. Một ngôi sao băng bay xéo qua rồi tắt ngấm như không có thật về sự tồn tại. Thành phố bị san bằng, giá có một ngôi nhà bị cháy,còn trơ lại bức tường đổ, chắc lòng họ đỡ lo âu hơn. Hoang rợn quá. Lê bước tới ngã sáu, họ vấp vào cái ba-ri-e. Thấy bên trong chìm dưới sâu có ánh đèn le lói. Luật rú lên. Cậu ta chồm tới như vồ lấy ngọn đèn phòng không được bảo vệ bởi khúc bương lớn đục ra một lỗ vuông nhỏ bằng bao diêm. Luật chui tọt vào trong nhà hầm. Vách nhà được xếp bằng đá hộc để tránh mảnh bom, mảnh pháo biển. Trạm trưởng, một người đàn ông đứng tuổi tưởng Luật hỏi đường, mỉm cười chờ sẵn. Nhưng anh bị bất ngờ, đứng bật dậy vì thấy Luật sờ tay vào chiếc bi đông anh đeo lủng lẳng bên sườn , xin nước. Phì cười vì tác phong trợn trạo của người lính trẻ, ngừơi đàn ông gỡ chiếc bi đông đựng nước chè xanh đã gần ráo đưa cho cậu ta. Chỉ còn một ngụm để giải cơn nghẹn vẫn âm ỉ hành hạ cậu ta một cách khốn khổ. Họ lại đi hàng một , không ai tạt ra mép đường.Ngọn đèn phòng không ở ngã sáu đã khuất, bầu trời thành phố lại tối đen như thời hồng hoang.Song Thái không còn cảm giác hoang vắng nữa, họ đã gặp một ngọn đèn đứng gác và một con người. Đang cắm cúi đi, ngẩng đầu lên Thái nhìn thấy một vệt đen dài. vệt đen ấy ngày càng rõ ra, sừng sững như ở đó bầu trời được phết màu đen đặc hơn. Và Thái đã nhận ra ngọn núi Quyết ghi trên bản đồ địa hình. Thoáng hiện trong đầu anh những trận đánh đẫm máu trên đỉnh ngọn núi anh đọc trong một quyển sách. Nhưng những nhận thức về ngọn núi cứ xa dần, xa vời không thể nắm bắt được. Cái hiện thực đang sôi réo trong người anh lúc này là cơn đói đang cào cấu giữ dội dạ dày và khắp cả ổ bụng. Người Thái mê mụ, cơn đói ngủ cũng vào hùa với cái đói ăn, muốn kéo anh lăn kềnh ra vệ cỏ. Thái chỉ cần thốt ra một câu “nghỉ”, cả tổ sẽ thụp xuống, không ai đứng dậy nữa. Bây giờ nếu được ngủ ngồi Thái đã thấy sung sướng lắm rồi. Mấy thằng tựa lưng vào nhau quay mặt ra các phía, ngồi mà ngủ, máy bay đến đánh thế nào cũng có đứa nghe thấy. Ngủ đi, mặc kệ trời đất, mặc kệ tất cả, trên đời chẳng còn gì hết, chỉ có cơn đói ngủ và sự chống lại nó giày vò. Ừ, sự chống lại mới đáng kể, nếu sáng mai các đơn vị bị đánh tơi tả kéo tới thì sao? Không! Không thể như thế được? Con người làm sao lại có thể coi thường sinh mạng ngưòi khác. Lấy cái chết của người khác làm vinh quang cho mình? Làm sao lại nỡ nhẫn tâm lấy thân xác đồng đội làm bậc thang tiến trên con đường danh vọng, thoả mãn lòng khát khao vươn tới quyền lực. Căn bệnh quyền lực, hiểm hoạ lớn với con người. Có lúc Thái cảm thấy rõ ràng đang bước đi, cũng đồng thời anh thấy mình đang nằm bên cạnh vợ trên chiếc giường còn mới. Chiếc giường đóng có rẻ quạt như mặt trời mọc, cứ rung lên và đu đưa theo bước chân. Hà nằm hơi nghiêng gối đầu lên cánh tay anh ngủ say. Vầng trán hơi lộ, đôi lông mày dài, đen đậm, hơi nhíu lại lo lắng. Cánh mũi thanh tú khẽ rung theo nhịp thở. Cặp vú đã to, không mặc áo nịt làm kênh cúc chiếc áo cánh. Cái bụng ấm nóng tròn lùm lùm, uốn vồng lên. Ở bên trong ấy đứa con anh đang hình thành, nó đang máy, đang giao tiếp với anh bằng thứ ngôn ngữ kỳ diệu và bí hiểm của sự sống. Thái mở choàng mắt, cố cho mình tỉnh mà vẫn không sao tỉnh được. Anh choài lên, nắm mạnh tay Hoá, hỏi xem đã đến ngã ba rẽ vào làng chưa. Cố mà tỉnh táo, nếu đi quá ngã ba, cả tốp sẽ mở cuộc diễu hành hàng một, như mấy lộ tiêu tới xuống phà Bến Thuỷ, giơ đầu ra hứng bom toạ độ. Vẫn chưa tới chỗ rẽ, con đường đêm vẫn dài hun hút. Thái lại trôi đi trong cơn mơ thức – ngủ êm dịu. Anh vẫn choáng váng nhớ lại lúc Hà lảo đảo, lao theo xe kéo pháo. Có lẽ vì thế mà anh thấy yêu Hà hơn chăng. Tình yêu của anh đối với Hà thật lạ. Chắc chắn tình yêu ấy ít bay bổng nhưng nó trần thế hơn, đậm tình hơn nhiều. Anh hầu như chưa mơ thấy những cái hôn rạo rực, mềm người song lại hay nghĩ tới một cách êm dịu cánh tay trần nuột nà Hà gối đầu cho mình. Anh mơ thấy cái đêm trong ngôi nhà thờ cũ anh kê mấy cái bàn học sinh sát vào bệ thờ đặt tượng chúa đã bỏ không, làm giường nằm cho hai người. Tình yêu kỳ lạ và những đứa trẻ sinh ra cũng kỳ lạ như vậy. Chúng là kết quả những lần gặp nhau vội vàng giữa những người chưa được hưởng tình yêu. Chúng hình thành, ra đời và lại phải gánh vác những cuộc chiến tranh ngày một khốc liệt hơn. Thái bừng tỉnh khi lao vào một hầm pháo trồng toàn cây dứa dại để nguỵ trang. Anh không biết rõ ràng tổ đã gặp ngã ba từ khi nào, hoặc là Hoá đã dắt anh tới đây. Thái vội vàng gỡ những chiếc gai cong, móc vào da thịt. Bất ngờ một người chồm lên hỏi: - Ai rứa? Đứng im! Cả bốn người đứng im như trời trồng. Thanh cướp lời: - Chúng tôi là trinh sát đoàn pháo cao xạ Sông Châu đi tiền trạm. Ngưòi gác lại hỏi bằng giọng Nghệ An bỗ bã: - Đơn vị nớ đến thay chúng tớ hè? Thái đáp từ tốn: - Trên mới phái chúng tôi đi nắm địa hình và nắm địch ở khu vực Vinh – Bến Thuỷ. Còn thay hay chưa thì cũng phải tuỳ trên đồng chí ạ. Vẫn cái giọng bộc bạch thật ấm: - Trên đếch gì? Các đồng chí là dân trinh sát phải biết chớ, hè? Răng mà đi khuya rứa? Mà răng đi tiền trạm lại không có xe? Ở gần hả? Thanh dấn lên chóp chép cặp môi dày, chắc cậu ta định nhân dịp này tố Đoàn Cung đã bỏ tổ ở dọc đường. Thái phải bấm mạnh vào cổ tay, Thanh mới chịu im. Thái cười nhẹ: - Có phải đây là trận địa của “Dê” 12A không đồng chí? - Trúng rồi đó! Thái ôm chầm lấy Thanh: - Ôi chao. Giữa đêm tối mịt mùng mấy ông tướng cướp đã mò được đến đúng nơi cần tìm. Người gác cũng choàng ôm lấy Thái: - May gặp tôi chớ anh em pháo thủ gác thấy các đồng chí im im thốc lên hầm pháo, tưởng biệt kích từ sông Lam mò lên, xiết một băng AK thì khiêng nhọc, tôi là A trưởng. Thái nghĩ tẩn mẩn, trinh sát đâu lại vừa đi vừa ngủ, cả tổ cứ mê mụ không còn đủ tỉnh táo để nhận đưòng. Họ đi như là đi trong tiềm thức. Có lẽ ngoài các trận đánh phải dồn mọi tinh lực để tính táo ra, từ ngày đơn vị đi vào vùng khói bom mênh mông, lính cao xạ, nhất là cánh trinh sát luôn sống trong tình trạng nửa ngủ, nửa thức. Ôi chao, mê man khói. Ngột ngạt khói. Sặc sụa khói. Thỉnh thoảng một cơn gió lành thổi từ sông Lam lên, hít sâu vào mới biết cuống họng lúc thường ướp trong cảm giác xót đắng vì khói. Người khẩu đội trưởng báo đại đội rồi dẫn tổ trinh sát vào chỗ đặt bếp trong làng. Một bà mẹ tay cầm cây đèn pin bọc vải cẩn thận ra đón họ ở cái cổng có bậc lát đá. Khẩu đội trưởng thì thầm: - Bà mẹ đấy? - Bà mẹ nào cơ? Luật ngơ ngác hỏi. - Rồi đồng chí sẽ biết. Khẩu đội trưởng đến sát bà mẹ nói nhỏ: - Có mấy đồng chí ở đơn vị mới, vừa đến trận địa, nhờ mẹ trông nom giúp. Bà mẹ mừng rỡ: - Pháo vô thêm à con? Ô, mừng quá hè? Không hiểu răng dạo ni hắn bay nhiều rứa không biết. Nhiều đếm không xuể. Thanh liến láu: - Nó ném bom hạn chế đấy mẹ ạ. Bà mẹ chớp chớp cặp mắt ướt: - Hạn chế là răng con? - Là tất cả máy bay nó dồn lại để đánh khu Bốn, đánh Vinh -Bến Thuỷ mẹ ạ. Bà mẹ cười rõ to: - Mẹ cha hắn. Hèn chi hắn bay nhiều rứa. Bom hắn ném cũng nhiều rứa. Suốt cả ngày bom nổ. Suốt ngày lửa. Suốt ngày khói. Khói bom hắn làm mình ngợp thở. Bà mẹ bỗng ho sặc sụa. Loạt bom toạ độ chiếc A6 rải dọc đường xuống phà khói thuốc thốc vào chỗ họ đứng. Bà mẹ nén cơn ho, hỏi thật ấm áp: - Các cơn ăn cơm chưa, để mẹ đi nấu? Thái thấy lòng rưng rưng: - Dạ chúng con ăn rồi ạ! Họ cùng nói dối. Nói dối mà không thấy xấu hổ bởi vì bây giờ ai nỡ để bà mẹ đi nấu cơm. Cũng không còn cảm giác thèm ăn tuy bụng vẫn sôi ùng ục. Bà mẹ rũ lại giường chiếc cho tổ trinh sát nằm nhưng bốn anh em từ chối. Thái mượn bà chiếc chiếu rải xuống nền nhà phía cửa hầm rồi cả mấy cậu lăn đùng ngay ra đất. Thái dặn bà mẹ: - Nếu có máy bay vào mẹ cũng đừng đánh thức chúng con mẹ nhé. Bà mẹ lại ho. Thái cũng ngửi thấy phảng phất mùi khói bom. Cái mùi ấy của hung thần không thể nấp lẫn vào với mùi gì khác. Có dễ con người đã ghi nhận vào bản năng cảm giác ghê sợ, lợm mửa trước cái mùi của sự chết. Cơn ngủ đã đè nặng lên mí mắt song tâm trí vẫn còn ở trạng thái nửa thức, nửa ngủ. Thái cố xua đi cảm giác ngột ngạt. Cả vùng đất rộng lớn bị dìm trong cái bể khói đen mênh mông. Khói che lấp bầu trời, ngập tràn mặt đất, khói nấp trong căn nhà, khói lùa vào căn hầm vừa để trú ẩn vừa để ngủ. Khói đặc sệt đen đúa: tất cả, cả con người, súc vật và cây cỏ, cả mặt trời, bị dìm xuống và bị che trong khói. Nhưng kìa, còn có vầng trăng ở đâu lại hiện ra lồ lộ, không hề bị che khuất. Vầng trăng hiện ra sau tấm màn che. Thái giật mình choàng tỉnh. Anh nhận ra khuôn mặt cô gái chắc là con bà mẹ, từ nãy vẫn lấp ló phía trong giờ vén tấm màn che màu xanh lơ, nhìn trộm mấy anh lính trinh sát đầu gối lên hộp ống nhóm, ngủ lăn quay trên nền đất. Chương sáu T hái với chiếc quần đùi phơi ở lán đã khô cong, cuộn vào lòng bàn tay rồi đi ra giếng tắm. Cái giếng cổ ở cửa miếu Thành hoàng, gần hầm pháo khẩu đội một, lúc nào nước cũng đầy ứ và trong vắt như nước mưa. Lòng giếng không đổ khuôn trong lòng như các giếng khác, mà từ dưới đáy lên miệng xếp bằng đá hộc. Từ mặt cát lên người ta mới xây bằng những tảng đá to. Cây lưỡi rắn mọc từ khe đá, cố vươn cái ngọn cong như lưỡi câu lên hứng nắng. Chúng mầu mỡ, xanh bóng, đặt tay lên mát rười rượi. Cánh pháo thủ đi tắm cũng chỉ đánh mỗi chiếc quần đùi như Thái. Họ mặc đơn sơ như vậy để khi có báo động máy bay chạy cho nhanh. Mang theo nhiều quần áo, máy bay đến lúng túng quơ tìm, rồi ôm một mớ lòng thòng chạy về đến trận địa máy bay đã bổ nhào cắt bom. Chi bằng cứ cởi trần, nhẩy lên mâm pháo, đánh nhau cũng cởi trần, nếu bị thương cũng còn mảnh quần cộc che thân. Tốp pháo thủ tắm ào ào, cốt dội cho mát, không có thì giờ kỳ cọ cho kỹ những chỗ lâu không đụng tới trên thân thể. Đôi khi nhìn quanh không thấy ai, dù cái giếng ở ngay bên con ngõ nhỏ, họ cởi nốt manh quần chăng nó lên bụi cây hoa tứ thời cho đỡ mất công giặt, vả lại đời lính được tắm tiên thì sung sướng nhất trần đời. Về đêm cái giếng ấy lại có những người bạn thân thiết khác. Các cô dân quân đi làm công sự pháo về, đêm khuya vắng vẻ, cậy thế đông, nhiều khi họ cũng cởi hết xiêm áo, dội nước ì ũm, rồi vừa kỳ lưng cho nhau vừa cười rinh rích. Viên đang hí húi giặt quần áo. Cậu ta vẫn giữ được chiếc bàn chải bằng dây móc, miếng gỗ đã nhẵn lì, mòn lõm ở chỗ tay cầm. Rải chiếc áo bờ lu dông ra nền giếng cọ soàn soạt, cậu chàng nhấp nhổm lưng trông rất buồn cười.Thái đến sát lưng, hích nhẹ cho Viên một cái. Viên đứng dậy quơ chiếc gầu, khom người tung nó xuống giếng, bên vai dày, chắc nình nịch u lên trước mặt Thái. Viên rút phăng cái gầu nước to tướng quay người lại hỏi: - Anh Thái hôm nay cũng “làm lông” kia à? - Nóng quá. Có lẽ tớ cũng phải tắm bài hai cho nhanh. - Cởi phăng ra, giải phóng cho bộ khung thoát khỏi bị giam hãm trong mớ vải dày cạu, khắm khú. Thái thấy thú vị nghe Viên nói nhưng cũng hơi hoảng. - Nhỡ có cô nào đi qua thì bỏ bố. Chui xuống đất không được. - Ôi dào. Ngồi đại xuống, gục đầu vào thành giếng, thế là khuất. Thái đưa mắt nhìn quanh định làm theo lời khuyên của Viên, nghĩ sao, lại kéo cao quần, mặt thoáng nóng lên. Thái bật cười, nói nhanh: - Thôi cứ tắm cả quần đùi. Tắm xong mặc nguyên quần ướt đi từ đây về trận địa là khô ngay. Gió nóng thế này khoác cả cái chăn chiên ướt lên người cũng chỉ một loáng là bay hết nước. Viên vẫn cọ chiếc áo soạn soạt, không ngẩng lên, hỏi Thái: - Anh Thái đã bao giờ khoác chăn chiên lên lưng để chống nóng chưa? Thái ngừng kỳ, nhìn Viên: - Bọn tớ chỉ nhúng ướt chăn căng ở hai đầu lán cho đỡ khô nóng thôi. Học tập khẩu đội các cậu, tớ thấy từ hồi ở Nam Thái kia, mà sao cậu giặt lâu thế? Viên ngẩng nhìn Thái đăm đăm: - Anh Thái ạ, gần đây không hiểu sao tôi sinh chứng để ý chăm chút cho những gì thuộc về tôi. Tôi vốn sinh ra ở vùng mà quần áo chỉ là thứ tạm bợ che thân. Rồi tôi kể cho anh nghe, vào lính mình được rèn giũa cẩn thận, từ cách gấp cái chăn, bộ quần áo, đến cách gấp cái màn, cách xỏ dây đôi giày cao cổ. Rồi khi về lính pháo những khi đánh nhau ít, nghiễm nhiên thành lệnh cậu. Gần đây đánh nhau ác liệt tôi tranh thủ lúc rỗi tự chữa lại quần áo, khâu lại những chỗ rách tự nhiên đâm khó tính, thích sống sạch sẽ, đàng hoàng. Anh Thái này, có lẽ trong ý nghĩ của tôi, tôi đã chuẩn bị nếu có chết thì cũng chết cho nó đàng hoàng sạch sẽ, để khi chết rồi người ta khỏi cười mình. - Cậu nghĩ vớ vẩn…Thái ngắt nhanh lời Viên. Bom đạn nó tránh mình, nó ném nhiều bom nhưng chắc gì đã trúng. Mà trúng chưa chắc đã chết. Cứ sống bơ đi cho nó tươi đời. Viên cho áo vào gầu rũ xà phòng, giọng vẫn đều đều, thoảng một chút buồn: - Nói thật với anh Thái, từ ngày đơn vị vào A2 tới giờ tôi chưa viết thư về cho bố mẹ. Sống trong cái lò bom, lúc nào cũng ngột ngụa khói này thật chả biết sống chết thế nào. Không viết thư về các cụ lo mình có thể chết, để các cụ quen dần với ý nghĩ đó đi, anh Thái ạ. Để nếu mình có chết thật bố mẹ cũng đỡ đau khổ hơn chăng. Đỡ thì không đỡ đâu, tôi biết thế nhưng nỗi đau nó không đổ sụp xuống đầu một lúc, mà nó từ từ thì quen dần và cũng đỡ hơn chứ anh Thái nhỉ! Thái thấy mình bị cuốn vào cái tâm tư rất thật có phần bi đát kia. Anh hỏi giọng ngùi ngùi: - Quê Viên ở đâu nhỉ? - Tôi ở Vĩnh Phú, ở cái làng ngay dưới chân đền Hùng. Thái cười to, hy vọng Viên cũng sẽ cười theo: - Ái chà, trai đất tổ Hùng Vương dựng nước. Có khi cậu là con thần con thánh liên quan gì đến bà chúa Tiên Dung và ông Chử Đồng Tử cũng nên. - Không phải đâu anh Thái. Nhưng nhà tôi cũng hiếm, được ba chị em có mình tôi là trai. Nếu tôi chết mẹ tôi chắc cũng không sống được. Viên nhìn Thái đôi mắt vời vợi. Đôi mắt ấy con người chỉ có thể nhìn thấy ở những người lính xa nhà, sống lăn lộn giữa sự sống và cái chết. Dường như chỉ những người lính không có nhiều hy vọng trở về quê hương mới thấu hiểu nỗi niềm ở cái nhìn con mắt ấy. Hai anh lính đang đứng nói chuỵên, chợt một cô gái bất ngờ xuất hiện ở đầu ngõ. Thái liếc rất nhanh và nhận ra cô thanh niên xung phong vẫn ra chơi ở trận địa. Đơn vị các cô dừng trong làng, chờ qua nhà đi sâu về phía Nam. Cô gái nhìn quanh định tìm một lối tránh nhưng con ngõ dài, hai bên rậm rịt. Cô cúi mặt rồi cứ nhằm thẳng giếng mà đi tới. Viên mặc chiếc quần đùi vải trắng, mỏng, may rất khít nên cậu ta ngượng vội ngội thụp xuống bờ giếng. Thái hỏi to: - O đi mô về rứa? Cô gái đỏ mặt, không hiểu do Thái nhại tiếng miền Trung hay thấy hai anh con trai tắm gần như khoả thân. Cô lắc người, chạy té vào cái ngõ nở đầy những bông me đất màu tím sáng. Chạy về tới cái cổng cáo, cô đứng trên bậc cao nhất quay người nhìn xem hai chàng trai có nhìn theo không. Rồi cô chạy tọt vào sân nhà. Thái thầm nghĩ “Đúng là một cô bé con”. Viên đứng lên, múc nước dội lên đầu, dội liên tục như thể dồn nước vào người. Cậu ta hầu như không để ý đến việc cô gái đi qua đây là vì cớ gì. Cậu hỏi Thái: - Chị Hà có biên thư cho anh không? - “Bà ấy” chả thư từ gì. Tớ sốt ruột quá. Viên vẫn kỳ người bằng tay, da tay cọ vào người rin rít: - Tôi chưa thấy người phụ nữ nào yêu chồng như chị ấy. Yêu một cách bạo liệt, dũng cảm. - Chuyện. Đàn bà ở đâu chả vậy, đầy tự tin, đúng như người vợ lính thực thụ, ở cái đất nước nhiều chiến tranh, người đàn ông chưa kịp để lại một đứa con, người đàn bà sớm goá bụa. Anh đàn ông nào rơi vào tay các bà ấy rồi, thì các bà ấy giữ gìn, khống chế, đe nẹt, be bít ghê lắm. Viên nhìn Thái nghiêm khắc đầy vẻ trách móc. Anh thấy gai người vì cái nhìn ấy. - Không phải. Các bà ấy đi săn tìm sự sống. Săn tìm những đứa con. Còn tôi, anh Thái ạ, nhiều lúc tôi cảm thấy mình bị săn đuổi. Thằng phi công ở trên kia nó biết có tôi và nó săn đuổi tôi. Mà thật ra cũng không phải thằng phi công, đúng là chiến tranh đang săn đuổi. Làng tôi có từ thời vua Hùng dựng nước, cũng có nghĩa là nó tồn tại đến 4000 năm rồi. Nó đã trải qua cả ngàn cuộc chiến tranh. Tại làm sao đất nước này, chiến tranh như món nợ truyền kiếp, như một định mệnh. Đã mất đi người đàn bà đi tìm chồng, đợi chồng, đợi chờ đến hoá thành đá. Còn chiến tranh vẫn cứ truy đuổi, săn tìm chúng ta. Thái ngạc nhiên, thằng cha này là một nghệ sĩ thực thụ, một nghệ sĩ dân gian. Khi những nhà nghệ sĩ trí thức bác học tốn cơm, tốn vải tha lôi những lý thuyết gà mờ tận đâu về nói những chuyện tận đẩu tận đâu thì đất nước biết cách sinh ra những nghệ sĩ dân gian để nói lên những điều nằm ở tầng sâu dự cảm cho sự tồn vong của dân tộc, của quốc gia. Thái thấy trong lòng dâng lên, ngập trên một nỗi xúc động. Anh chạnh nghĩ tới Hà. Hoá ra những người vợ lính đi thăm chồng trong những hoàn cảnh hết sức éo le có sự thôi thúc của tiềm thức cá nhân còn có tiềm thức của cả cộng đồng. Viên chuyển giọng nói vui: - Anh vừa đi vừa về, nhờ ngừơi mai mối, rồi tìm hiểu, lại ăn cơm trước kẻng nữa, hết có đúng mười ngày. Mà bà ấy kịp to bụng. Chao ôi, lính! Nhậy thật. Thái nhìn Viên tò mò, cái thằng này sao hôm nay nói chuyện tỉ mẩn, hiền như một con bê. Từ trước tới nay anh em trong đơn vị vẫn gọi Viên là con chồn già. Viên có hai con mắt bé hơi hiếng, sáng lấp lánh, nó nhìn con gái nhà người ta cứ như nhìn con gà mái. Cậu ta cao lớn, đẹp trai một cách dữ dội. Được trời phú cho giọng hát cao vút, vang thánh thót, Viên là cây hò số một của đơn vị. Ngày đơn vị còn bảo vệ pháo bờ biển ở Tĩnh Gia, Thanh Hoá, Viên một mình đứng trên thành hầm pháo hò tới nửa đêm. Các cô gái Thanh Hoá đa tình bạo dạn đến phát khiếp xắn quần, lộ cả đùi non đứng ở đầu làng hò với ra. Cậu Thanh, trinh sát đoàn bộ có hôm xuống chơi với Thái, ra đứng đằng sau vận câu hò giúp Viên, thế mà vẫn bị thua chỏng vó. Các cô đi hàng ba quần xắn tới bắp vế trắng nõn, lội qua ruộng lúa cát, tiến vào sát công sự, chĩa mũi nhọn vào cái anh gà câu hò, đứng đằng sau, làm Thanh cuống lên phải tụt vào trong lán. Sau này Thanh đã nghĩ ra một vế đối, thành câu nói cửa miệng lính cả tiểu đoàn “con gái xứ Thanh, đi thanh niên xung phong, không có nam thanh niên, vẫn có con bồng bế”. Viên đứng ngay trước mặt Thái thay quần, cậu ta tồng ngồng như vậy nói với Thái: - Anh Thái này, bây giờ nghĩ chúng mình có đứa con cũng hay nhỉ? Vừa ngượng, vừa xấu hổ lại thấy mê ly! - Cậu thì xấu hổ cái gì? Tôi nói thật, mình biết người con gái nhưng chưa biết đứa con như thế nào. Chả nhẽ sự sống đến mình thì chấm dứt, đứa con nó nối dài đời mình ra không được sao? Thái vắt bớt nước ở quần đùi: - Sao đằng ấy giặt lâu thế? Tớ về đây. * * * Buổi tối cậu Đăng ti toe đứng giữa trận địa tung ra một câu hò ghẹo mấy cô thanh niên xung phong quê Thanh Hoá đóng quân trong xóm Đình. Đang nằm chờ qua phà tù cẳng, buồn mồm, các cô túa ra đầu làng, các cỗ súng miệng thi nhau phát hoả. Đăng chui vào hầm thông tin không dám ló ra nữa, mấy cô túm tụm ngoài đường hò trêu tức. Đứng ở sở chỉ huy, dùng ống nhòm quan sát Thái nhìn thấy cô bé ban chiều đi qua giếng tắm, đứng trên đầu đang vươn cổ ra hò. Thái liền gọi Viên,cậu ta đang nằm ngủ trong hầm nghe tiếng Thái, nhảy phắt ra công sự. Không đợi Thái giục, Viên tung ra các câu hò đối chan chát. Giọng cao, trường, tha thiết, nhiều khi bông lơn, nghịch ngợm, cậu chàng đã làm cho các cô đối lại rất vất vả. Các cô cay cú, càng khuya càng tiến sát trận địa. Các cô gái vùng ven biển xứ Thanh có cặp vú to bó chặt trong những chiếc áo xẻ tà xanh lá cây. Bực bội, họ cởi luôn áo ngoài, mặc áo dệt kim đông xuân trắng, xô tới hò đối. Tiếng hò của Viên bay vút vào cơn gió mát lành từ sông Lam thổi tới. Ngọn gió ngây ngất. Thuyền than mà đậu bến than Thấy em vất vả cơ hàn anh thương. Viên định lỉnh vào hầm ngủ, để sáng mai còn phải dậy ngồi trực số hai trên mâm pháo thì các cô gái đã móc cho một câu: Mẹ anh ăn dở phải gừng Nên anh hò hát nửa chừng anh thôi Viên lại nhảy bổ lên thành hầm, hai tay chống vào hông, thả ra một câu tán sát sạt: “Anh nghe em nhức đầu chưa đã, anh băng ngàn bẻ lá về xông, rồi mai em vợ anh chồng, khi đổ mồ hôi anh quạt, khi trận gió lồng anh che ơ hò”. Các cô gái rú lên cười. Họ ríu vào nhau, thi nhau cốc vào trán cô gái đầu đàn Viên đã gặp lúc tắm, bắt cô này nghĩ một câu vận lại. Về khuya, trận địa đã đánh kẻng nghỉ. Để kết thúc đêm hò hai bên bắt đầu giở giọng cay nghiệt. Viên giở bài tủ lếu láo ra. Chém cha con ngựa tía tô Một trăm thằng cưỡi thằng mô cũng vừa. Nghe dứt câu hò các cô gái vùng chạy, vừa chạy vừa đấm nhau chí choé. Trên đầu họ một đám mây ẩm ướt mát lành, vượt ra khỏi vùng khói, giạt về phía làng. Tan cuộc hò, trong người bức bối, Viên lại tranh thủ ra giếng dội mấy gầu nước cho dễ ngủ. Đêm cuối tháng tối đen, cậu chàng định cởi quần đùi tắm tiên thì nghe thấy phía bên kia giếng có gầu va vào thành đá. Cái giếng rộng. Viên phải căng mắt ra nhìn mới thấy một cái đầu người thấp nhô. Cậu hồi hộp hỏi: - Ai mà tắm khuya thế? - Em đây! Tiếng con gái trả lời hấp tấp. Viên ra vẻ nạt nộ: - Cô ở đâu ra đây. Giếng này dành cho đơn vị chúng tôi tắm đêm, sao cô gan to thế, dám ra đây tắm trộm! Tiếng cô gái trở nên cứng cỏi: - Ai dành riêng cho các anh, giếng này của chung. Chúng em cũng ra tắm đấy. Chàng trai chuyển giọng, nghe đã ngọt như mía lùi: - Cô à ai? Chúng em sao lại có một mình? Cô gái bạo dạn: - Em hò đối với anh chứ còn gì nữa. Anh lui ra cho em tắm đã. Không em kêu lên bây giờ. Đúng là con gái xứ Thanh. Viên thầm nghĩ, cô gái này mình với anh Thái nhìn thấy đi qua đây ban chiều. chắc lúc bấy giờ cô nàng đi qua trinh sát cái giếng để tối các nàng rủ nhau ra tắm tiên. Mà sao cô nàng lại đi ăn mảnh thế này. Cô ta bảo hò đối với mình. Nhớ lại cô gái đã hò với anh bằng giọng hò nồng nàn, với những câu tha thiết như lời tỏ tình, người Viên cồn cào. Anh chàng muốn nhìn cho tỏ mặt cô ta. Viên tiến sát bên giếng, nói chắc như đanh: - Tôi không lùi đâu. Ta tắm chung vậy. - Ơ cái nhà anh này! Em kêu lên bây giờ. Em kêu lên đây này ơ ô ơ…ối. - Ơ gì cơ…tôi nghe cô hò Thanh Hoá hay thế, nghe ngọt lịm mà bây giờ tiếng cô dữ như cái chuông sành. Cô gái cười giọng đã mềm: - Em đanh đá lắm phải không? - Lại chả đanh! Viên cũng ngồi xuống dội ào ào. Im một lúc cậu lựa lời hỏi: - Tối mai các cô có hò nữa không? Không hò thì nhớ qua mất thôi. Bao giờ các cô đi? Cô gái dừng tay dội, khẽ thở dài: - Các ông chỉ huy bí mật lắm. Nhưng em nghe bọn bạn em chúng nó rỉ tai nhau tối mai vượt phà. Máy bay nó đánh dữ lắm phải không anh? Mấy con bạn em nói mười người đi qua chỉ sống được một hai thôi. Cô buông một tiếng thở dài hút hơi. Viên nói như nói thầm, như sợ ai nghe tiếng: - Bao giờ anh với em lại được hò đối với nhau nhỉ? Mà biết có còn gặp nhau nữa không Cô gái mắng yêu chàng trai: - Anh ni toàn gở mồm. Nhất định phải gặp lại. Bao giờ Mỹ ngừng ném bom, ở trong kia quay ra em đến tìm anh nhé! Thôi, anh quay mặt đi cho em về đây. Cô đứng lên định bước đi. Bây giờ Viên mới nhìn thấy cô gái chỉ mặc coocxê với quần lót. Cậu chàng đứng lên gọi giật giọng - Cô gì ơi, tôi chưa biết tên - Tên em là Minh -Cô định chạy. - Minh ơi – Viên gọi giọng lạc đi. Khi em quay ra biết anh có còn sống không, hay anh đã nằm yên dưới đất rồi. Cô gái dừng lại. Có lẽ những lời buông ra từ miệng anh thành thật một cách đau đớn, khiến cô không bước đi nổi. Viên không biết mình đi đến gần cô gái từ lúc nào. Cô đi giật lùi, rồi lưng cô bỗng vấp vào bờ tường ngôi miếu thờ Thành hoàng. Ngôi miếu bị bom xô tung mái trơ ra bộ rui trần. - Anh xin em…!- Giọng chàng trai run lên. Anh ôm lấy đôi vai tròn trắng nuột nà. Cô gái run lẩy bẩy: - Anh ơi, anh làm thế này nhỡ có ai biết thì chết! Anh ôm chặt lấy cô gái như sợ cô chạy mất. Hai cánh tay thừa sức lực siết chặt cảm thấy như xương trong người cô kêu rau ráu.Cô gái đứng ngây người, anh hôn cô tới tấp. Anh sắp phải chạy về ngồi vào mâm pháo trực ban, đối mặt với cái chết đang rình rập giáng xuống. Tất cả sức lực cường tráng trong con người anh trỗi dậy, không thể kìm nổi mình nữa, anh luồn tay lật chiếc coocxê lên đặt bàn tay lên cặp vú tròn nhỏ, tinh khiết, giọng khàn trong cái cổ họng khô khốc: - Anh xin em! Anh xin em một đứa con! Nếu anh chết em gắng nuôi nó cho anh, cho nó nên người. Anh lạy em trăm lạy. Anh xin em đừng cho anh là thằng đểu giả thèm khát thấp hèn. Anh quỳ xuống anh lạy em! Viên quỳ xuống mặt cát trước ngôi miếu bật khóc mặt gục vào bụng cô gái. Cô ôm lấy mái đầu anh đang còn ướt đẫm nước. Rồi, bất ngờ, bằng một sức mạnh lạ lùng, cô nâng xốc anh dậy, ôm ghì lấy anh. - Anh đừng khinh em! Chỉ có một mình anh được… Cô bình tĩnh tụt chiếc quần lót và vẫn cầm nó ở tay. Nhưng rồi cô vứt toẹt nó xuống nền giếng, hai cánh tay siết chặt tấm lưng chắc như gỗ lim. Chàng trai cảm nhận được hai đầu vú to và cứng cọ vào tảng ngực mình. Người ta bảo đàn bà có đầu vú to nuôi con khéo. Ôi trời ơi, tôi sẽ có một đứa con ư? Bằng sức mạnh tưởng phải làm đổ xiêu ngôi miếu Thành hoàng, anh hiến dâng sự trong sáng của người con trai cho cô. Và cô gái, mê trong tình yêu say đắm, trong niềm hoan lạc không bờ bến, trao gửi sự trinh trắng của cô cho anh. * * * Buổi tối Lộc cho gọi Thái lên ban chỉ huy, anh nhìn kỹ lưỡng như người Tiểu đội trưởng mất đi đâu bây giờ mới lại hiện lên. Anh cố nén, cái ác cảm bám dai dẳng trong đầu, nhoẻn cười. Thái ngồi xa phía cuối lán, Lộc vẫy lại gần, nói tóm tắt những ý Đoàn Cung dặn khi sáng, chuẩn bị cho Thái đi dự hội nghị trinh sát toàn trung đoàn. Thái phải chuẩn bị ý kiến để phát biểu. Đã lâu Lộc mới có một lần nói chuyện kỹ lưỡng, nói một cách tâm tình với Thái. Đôi mắt Lộc nhìn thẳng vào Thái và anh nhận biết người tiểu đội trưởng chỉ huy đang xúc động. Lộc nhắc: - Chuẩn bị tóm tắt nội dung phát biểu trong hội nghị, đưa tôi xem trước. Anh đưa mắt quan sát Thái rồi nói thêm có ý tiếc rẻ. - Sao tay Cung không mời cả Đại đội trưởng nhỉ? Thái đáp nhỏ, cốt để Lộc yên lòng: - Máy bay địch nhiều, tác chiến phức tạp. Đại đội trưởng đi sợ không có người chỉ huy vững ở trận địa. Tôi nghĩ thế. - Ừ, có lẽ vậy… Thái về lán, mắc màn đi nằm sớm vì anh đoán chắc đêm nay máy bay Mỹ quần dữ. Còn đang lơ mơ, chưa ngủ hẳn, Thái thấy Đăng gỡ kẻng báo động. Anh định bụng nằm gan vì ngoài hầm chỉ huy đã có trinh sát, ban đêm cần một người thôi, nhưng Xương đã gọi: - Thái đã ra hầm chưa đấy? Thái lao người ra ngoài lán, đứng ngay ở cửa hầm tránh bom bi vì nghe tiếng máy bay A7 rít lên rất gần. Chiếc máy bay bổ nhào giả thăm dò hỏa lực. Xương cho đại đội bắn một điểm xạ ngắn. Hai chiếc A7 lượn vòng hẹp ở trên đầu, máy bay A7 có hệ thống lái tự động, bay chậm, khéo léo như một con cá chuối, rất thích hợp với việc đánh mục tiêu lẻ ban đêm. Thái nói nhỏ: - Bọn này chủ tâm lùng trận địa gây phiền toái cho chúng bấy lâu nay. Nó chuẩn bị đấu với ta đấy anh Xương ạ. Giọng Xương khàn khàn: - Thái lại gần đây, nghe tinh vào nhé. Tiếng máy bay bỗng lặng đi, rất đột nhiên từ khoảng đêm đen đặc chọc ra tiếng rít o…o nhọn sắc. Tiếng rít to dần, nhói lên, đanh buốt màng nhĩ. Đăng hô: - Máy bay bổ nhào vào trận địa! Xương gõ kẻng cho đanh hai điểm xạ liên. Tiếng máy bay xuống rất thấp, rú ghê rợn. Không thấy bom nổ. Có thể chiếc máy bay bổ nhào giả lừa ta bắn. Cũng có thể nó xuống thấp định cho chắc ăn mới cắt bom, thấy pháo bắn mạnh vội là lên, tên phi công chưa kịp ấn nút nhả cái khối gang chết người ấy ra. - Nó có cắt bom không đấy, hở ông Thái? -Toài đứng trong hầm pháo hỏi vọng lên. - Thưa, nó chưa cắt bom. Thái đùa: - Nút cắt bom bị hỏng, bom hóc không chịu rời giá máy bay. Vẫn tiếng Toài oang oác: - Mẹ nó, hai thằng mù quờ nhau. Chơi thì chơi luôn đi, vờn mãi hại thần kinh lắm Mèo ơi! Tiếng máy bay lại rồ lên ở phía Hồng Lĩnh. Toài quát lạc giọng: - Quay pháo theo tiếng động cơ! Vật chuẩn 3 góc bắn 450. Khẩu pháo quay chậm phát ra tiếng kêu “rèo rèo”. Đánh ban đêm, người pháo thủ lúc nào cũng sống trong tình trạng tâm lý phấp phỏng. Họ không biết bom rơi xuống lúc nào. Nếu ban ngày, qua kính ngắm họ có thể nhìn thấy cái chết từ khi nó rời máy bay, bé tí xíu, mảnh mai như đám hạt người ta đem vãi. Cái đám hạt ấy lao xuống với tốc độ chóng mặt, to lên trong khoảnh khắc, dài thượt nhọn hoắt đen sì khủng khiếp. “Đám hạt” hiện nguyên hình móng vuốt của thần chết. Mặc dù vậy người lính pháo còn khả năng dận cò cho viên đạn ra khỏi nòng. Viên đạn có thể gieo cái chết cho kẻ thù và điều đó tăng thêm dũng khí, giúp họ bình tĩnh đánh trả máy bay địch. Còn ban đem nghe tiếng bom rít là một nỗi ghê sợ, chỉ khi nào nhận ra ánh chớp chói lòa, không phải phát ra từ chỗ mình, mới biết chắc rằng mình còn sống. Tiếng rít sắc nhọn ẩn đi trong màn đêm đầy ngờ vực, giờ bật ra, xoáy thẳng xuống trên đầu. Xương cho bắn một điểm xạ và anh cười nhỏ khi không thấy bom nổ. Hình như tiếng cười ấy cốt để sở chỉ huy ấm áp, thêm bình tĩnh. Xương nói nhỏ với Thái: - Thái này, lần sau máy bay bổ nhào vào trận địa hô nhỏ thôi, để pháo thủ không nghe thấy, bình tĩnh mà đánh nhé. Bỗng Lộc từ vị trí cố vấn nhảy sang hầm chỉ huy, giật lấy chiếc dùi kẻng từ tay Xương: - Cậu đánh nhiều quá! Phải lắng xem các trận địa khác nữa chớ. Hai “con quỷ biển” (tên người Mỹ đặt cho máy bay A7) lảng ra phía bến phà. - Con giời bay ra chăng?- Xương nói, tiếng anh vang vang như ở sở chỉ huy vừa rồi không có chuyện gì xảy ra. Không có chuyện Lộc gọi anh là “cậu” và chiếc dùi kẻng chỉ huy bị giật thô bạo ra khỏi tay anh. Thái cựa mình trong hầm cá nhân. Đột nhên đất dưới chân anh rung lên như người rùng mình. Tiếng không khí bị dồn nén ở độ cao cực thấp ào ào như bão. Thái kêu to, thảng thốt: - Máy bay cường kích. Anh Xương! Xương nhào ra: - Cường kích! (máy bay đi rất thấp hất bom vào trận địa). Chỉ kịp kêu lên, hình như chưa ai kịp nghe tiếng Thái và Xương, kể cả Lộc đứng trong hầm chỉ huy. Cái khoảnh khắc ghê rợn ấy tất cả đều bàng hoàng. Trận địa đã bị hai chiếc A7 thu hút đánh lừa, chiếc A6 từ hướng Cửa Hội ào đến, tiếng động cơ phản lực gầm át đi tất cả. Ánh chớp bom chói lòa. Đất thành hầm hất vào ngực làm Thái không thở được. - Có khẩu nào bắn không? Lộc hỏi run run. Không có tiếng trả lời. Khói bom đặc sệt trùm lên sở chỉ huy. Có cảm giác bức tường khói ngăn cách tất cả mọi người không cho thông tin với nhau. Xương nhảy lên mặt hầm xua khói, ráng sức hỏi vọng xuống các khẩu đội. - Có khẩu nào việc gì không? Khẩu đội trưởng báo cáo về sở chỉ huy. Khẩu một!…Khẩu hai!… Tiếng Toài ngàn ngạt: - Khẩu đội một bom sát thương nổ trên thành công sự. Hầm ngủ bị sập. Chính trị viên phó giọng hốt hoảng: - Ai ngủ ở trong ấy? - Cậu Viên! - Trời, đánh nhau thế mà không ra hầm pháo? - Cậu ấy vừa thay ca trực, vào nghỉ trong hầm. Phía nhà bà mẹ lửa bùng lên. Cháy bếp rồi. Trong ánh lửa nhìn rõ những đám khói bom trắng hếu vẫn bốc lên cuồn cuộn. Một nửa trận địa cây cỏ bị hơi bom phạt bằng. Hầm pháo khẩu đội một bị vạt hẳn một bên, khẩu pháo đứng trơ trọi. Thái nhảy mấy bước về phía đoàn người đang bới hầm cứu Viên. Nhưng Lộc gọi giật lại: - Dưới ấy đông người rồi. Cậu cho người vào bếp dập lửa không thì máy bay nó bâu đến bây giờ. Ngọn lửa bốc cháy đùng đùng. Cái cổng cao từ từ rụm xuống. Tàn than từ cái khối lửa hừng hực bay tóa lên đỏ rực. Thái nhảy vào trong sân, gọi toáng lên. - Chư ơi! Chư rỗ đâu rồi? Cô thanh niên xung phong Thái với Viên gặp ở bờ giếng hôm trước từ sau đám lửa bùng bùng chạy ra. - Anh ơi, anh Chư bị ù tai vì bom nổ gần đang ngồi trong hầm. Cô gái quay ngoắt đi, mái tóc dài kẹp gấp lên đánh ngang lưng bay loáng như một lưỡi búa đen. Chiếc áo quân phục bị rách toạc từ gấu áo lên tới cổ làm lộ cả dây chiếc áo nịt. Khuôn mặt cô trong ánh lửa trông như phồng to, mồ hôi chảy thành vệt dài, dính bết bụi than. Một vết xước ở dọc trán máu đang tứa ra. Cô gái cùng các bạn cứu bếp cho bộ đội. Gió quạt thốc hơi nóng vào người làm bay xòa hai mảnh áo, làm lộ cả tấm lưng đỏ hồng như được nung trong lửa. Bất ngờ, cô bổ đến nắm lấy hai tay Thái, khiến anh ngớ ra: - Anh ơi, anh Viên có việc gì không anh? Thái sững người, rút khăn mùi xoa thấm máu ở trán cô gái. - Cô là thế nào với Viên? - Anh ơi, em van anh, em là bạn, em như vợ của anh ấy. Anh ơi! Em vừa nhìn thấy hầm pháo của anh ấy bị trúng bom rồi. Thái ứa nước mắt: - Hầm bị sập nó còn ở trong ấy, chưa bơi ra được. - Trời ơi! Cô gái đổ sụp xuống chân Thái. Nhưng chỉ chớp mắt cô lại vụt đứng lên vùng chạy. Các bạn cô đuổi theo giữ cô lại. Họ giằng co nhau, người ôm, người níu chặt tay. Minh ngồi thụp xuống, thoát khỏi tay một người bạn, rồi cô đứng bật lên, bứt mạnh. Bàn tay hai cô gái đang ngoắc nhau co kéo bỗng tuột ra. Minh bổ nhào vào bóng đêm, ngã lăn lóc. Cô lồm cồm bò dậy, loạng choạng chạy trong con ngõ hẹp rậm dài, thăm thẳm. Một chếc A6 bay cực thấp, xé màn đêm. Tất cả mọi thứ như vỡ vụn ra. Mấy chục quả bom hất xuống, bùng lên một dây chớp chói lòa. Thái nằm vật xuống bên đống tàn than âm ỉ, khóe miệng rỉ máu. Còn cô gái do quả bom hơi nổ quá gần, quần áo bị thổi bay sạch. Thân người cô không còn thứ gì che đậy. Mái tóc dài, rất dầy xổ tung, che kín vai và lưng, cô nặng nhọc hất nó về phía trước che lấp ngực, rồi thụp xuống, bàn tay cào cấu khắp người như muốn bới cái gì đó ra mà che đậy. Cô bật khóc. Đứng lên. Lại ngồi xuống, hai tay ôm gối, che ngực, đôi mắt thất thần nhìn lên ngơ ngác, bất lực. Nhưng rồi tiếng máy bay lại gầm lên, pháo sáng bung ra. Bom lại nổ ở phía trận địa. Cô gái như đã hóa thân, vùng đứng lên, như bay vào màn đêm. Cô lao tới chỗ hầm pháo của Viên, rơi vút vào cái hố bom sâu thăm thẳm. Thứ nước ngầu đỏ, nóng sực bắt đầu ngấm ra. Bọt nước như bọt máu bám vào đôi chân dài, trắng muốt của cô thanh niên xung phong. Cô nhoài lên, tụt xuống lại nhoài lên. Thân hình đẹp đẽ, thanh xuân hằn lên trong đám sắt thép. Giấu thân mình đi, đầu cô gái ngẩng cao, hai bàn tay cào vào đất. Thái bổ về trận địa, thấy tốp chiến sĩ do Chính trị viên phó chỉ huy vẫn chưa bới được Viên. Chiếc hầm cũ do đơn vị bạn để lại trên nóc lát tà vẹt và mấy lần gạch chống bom bi nên bới rất khó, lưỡi xẻng chạm vào chỗ nào cũng thấy lủng củng. Thái gò lưng cùng cậu pháo thủ khiêng được thanh tà vẹt gỗ ra, thì lưỡi xẻng của Chính trị viên cũng xúc phải chân Viên. - Nhanh lên các đồng chí. Cậu ấy ngạt rồi còn gì! Thái thởi hồng hộc. Thái vục hai bàn tay bới đất. Đầu ngón tay móc sâu vào cát lẫn mảnh gang và Thái bỗng bủn rủn tay chân, người bàng hoàng như có luồng điện chạy ngược từ đầu ngón tay lên óc, anh đã chạm vào mái tóc Viên. “Đây rồi, mau lên”. Đỗ khỉ, sao cậu run thế?”. “Tôi sợ quá! Từ nhỏ tôi chưa chạm vào người chết bao giờ”. “Đồ nhát gan. Đồ thỏ đế gở mồm. Chết đâu mà chết. Bới nhanh cho hở mũi, hở mồm ra đã”. Đầu Viên lộ ra giữa đám gạch và đất, cái cổ ngoẹo sang một bên, mềm nhũn. Một chiếc A6 lại rẹt qua trên đầu, cắt bom vào đầu con đường rẽ đưa pháo vào trận địa. Thái cùng Đăng khom lưng khiêng Viên về sở chỉ huy, Lộc gắt: -Làm sao lại đưa về đây? Thái nói như rên: - Để cậu ấy nằm giữa mấy cái hầm cá nhân. Máy bay có đánh nữa, còn tránh được. - Y tá đâu? - Vào bếp cứu mấy người bị sức ép hơi bom trong nhà bếp. - Ai xử trí ca này? - Tôi ạ! Viên vẫn chỉ mặc độc một chiếc quần đùi Thái nhìn thấy ở giếng buổi sáng. Thái sờ vào bộ ngực rộng bụi cát dính ram ráp. Người Viên vẫn còn ấm. Lộc không nói gì nữa, anh liếc qua chỗ Viên nằm trên cáng và lại bận tâm theo dõi tốp A7 đang vòng trở lại. Thái quì xổm bên Viên ,lấy ngón tay móc đất trong mồm ra. Anh dùng bàn tay lau bớt đất bám vào cặp môi dày rồi ngậm miệng vào cặp môi ấy hô hấp trực tiếp. Một vị lạ mặn mặn và mùi thức ăn đã hoai ngấm vào miệng Thái, nước miếng trào ra buốt chân răng. Anh dùng hết sức thổi thật mạnh, một tay bịt mũi Viên. Khuôn ngực Viên từ từ vồng lên. Dùng bàn tay xoa nhẹ vùng tim, đầu Thái hơi ngẩng lên, ngừng thổi. Thái mong có luồng hơi từ từ qua miệng, mũi người pháo thủ số hai nổi tiếng gan góc và tài hoa phả nhẹ ra. Thái lại mở rộng gối, lưng võng xuống, dồn hơi thổi, luồng hơi mang sinh khí truyền sang Viên nặng nhọc và anh làm công việc ấy chật vật đau đớn, có gì gần giống người đàn bà trong cơn đau sinh nở. Hai chiếc A7 đã vòng lại, lần này xuống rất thấp thả pháo sáng. Thỉnh thoảng có thể nhìn thấy chiếc máy bay lóa lên trong ánh sáng nhờn nhợt. Chúng tăng tốc tỏ rõ quyết không tha cái trận địa bé con hàng tháng nay quần nhau với chúng gan góc và mê muội, vừa tỉnh táo thiên biến vạn hóa, vừa lỳ trơ trong vùng kim cô xiềng xích vô hình. Bây giờ cái trận địa pháo ấy đã bị các đám lửa cháy làm thành lộ tiêu hiện lên rõ ràng trước mắt mấy tên phi công. Lộc ngửa cổ nhìn chiếc máy bay loáng qua rồi lại nghiêng tai xem nó đã bổ nhào chưa. Hình như anh không còn giữ được bình tĩnh nữa. Thái kiên nhẫn làm hô hấp nhân tạo cho Viên. Có thể đã được một tiếng hoặc hơn một tiếng đồng hồ rồi. Thái không còn khái niệm về thời gian. Anh nghĩ tới buổi nói chuyện với Viên sáng nay và bỗng rùng mình khi nghĩ rằng đã có một linh cảm nào mách bảo với Viên chăng. Rồi anh nghĩ đến lúc Viên đỡ lưng Hà. Nó tinh lắm, có lẽ chạm vào Hà nó biết cô ấy có mang nên nó nâng niu cái sự sống bé nhỏ trong người. Nghĩ vậy Thái lại ráng sức thổi, mong truyền sinh khí sang người Viên. Có một lúc làn da ở ngực Viên ấm lên. Hay đó chỉ là do cảm giác của Thái chăng. Anh luống cuống dùng gan bàn tay lau bụi ở trán, ở hai mu mắt, hai gò má, trên sống mũi, chóp mũi, chỗ hy vọng cảm được hơi nóng đầu tiên. Rồi Thái lại dùng hết sức thổi một hơi thật dài. Luồng hơi phì ra nhanh như từ trong một quả bóng, không có chút sinh khí của sự sống. Tất cả hình như đã chết. Con người Viên trong một thế giới khác, một thế giới khác, một thế giới vô tri,vô giác, không còn ước mơ, thèm khát, không ham muốn và đau khổ nữa… Nhưng mà này, có một hơi thở nhỏ nhoi, bỗng nhiên xuất hiện sau luồng hơi dài bị đẩy ra. Thái nhổm hẳn người dậy nói nhanh như khóc “Viên ơi, sống lại đi. Sống lại đi Viên! Mình sẵn sàng san sẻ một nửa sự sống của mình sang cho cậu. Viên. Viên ơi!”. Hơi thở tiếp theo đã ấm hơn. Ơ này, hình như cái đầu Viên khẽ cựa, rồi lật khẽ sang một bên. Một chiếc A7 sà xuống rất thấp, tiếng động cơ làm tê lạnh sống lưng Thái. Anh chồm lên. À, thằng phi công, cái thằng người kia. Cái thằng người máy con đẻ của chiến tranh bấm nút hủy diệt vẫn lằng nhằng, tàn độc, vẫn truy đuổi Viên. Cái chết vẫn truy đuổi ráo riết nghiệt ngã không buông tha. Thái hoảng hốt cuống cuồng, gần như nằm che lên người Viên và vẫn thở vào ngực bạn điên cuồng. Có một cuộc chạy đua không hề nhân nhượng. Hơi thở dài làm Viên bị ngợp, người pháo thủ số hai lắc đầu, một bàn tay khẽ động đậy, rồi toàn thân ấm nóng. Hơi ấm sự sống lan sang Thái rân rân, như ngược chiều chạy thẳng vào tim, vào óc Thái. Anh muốn gào lên vì sung sướng. Chiếc A7 thả thêm pháo sáng và tăng lực gào thét lao xuống. Các trận địa trong trung đoàn chia lửa bắn mạnh thu hút bọn phi công. Hỏa lực mạnh mẽ tập trung nhằm hất mấy chiếc máy bay lên cao. Nhưng bọn A7 quỷ quyệt không chịu rời những đám cháy chưa tắt hẳn. Tiếng động cơ chiếc sau nhỏ dần rồi bỗng tắt lặng đi. Chừng một giây sau nói bắt đầu rít lên o…o…ro…ro - Nó bổ nhào rồi đấy Đại đội trưởng ạ! – Đăng nhắc Lộc nhỏ nhẹ, không dám nói to. - Không, tớ phải nghe đã. Giọng Lộc run run. Thái bỏ dở chừng hơi thở cho Viên, hét lên: - Máy bay bổ nhào thẳng vào trận địa. Đánh đi anh! Lộc ghè hụt chiếc dùi kẻng. Anh vội vã vụt mạnh nhát tiếp theo. Không kịp nữa. Vài luồng đạn ngắn bay lên. Chiếc A7 vẫn cứ lao xuống. Trời đất bỗng chao đi, đen đặc lại rồi chói lòa trong mắt Thái. Sóng chấn động và luồng hơi cực mạnh, bỏng rát, hất tung Thái ra xa Viên. Anh quờ tay sang hai bên theo bản năng, mắt không nhìn thấy, lồm cồm bò về chỗ Viên nằm. Tay Thái lập cập sờ thân thể người pháo thủ. Đất phủ kín người Viên. Một tảng đất củ to bằng chiếc thúng cái từ đáy hố bom ném lên đè kín ngực và cổ Viên. Đầu người pháo thủ bị đẩy thõng ra ngoài thành chiếc cáng. Thái bật khóc rưng rức: - Viên ơi! Thôi rồi. Viên! Anh hất tảng đất ra, gục xuống ngực người lính trẻ. - Viên ơi, tôi không cứu được cậu. Viên ơi? Thái lảo đảo đứng lên, tay quờ quờ trước mặt như hóa dại. Phía khẩu đội một tiếng Toài gào xé ruột: - Ối giời ơi! Ối mẹ ơi! Cứu chúng tôi với… Chương bảy Đ êm khuya, một ánh lửa vụt sáng trong màn đêm sâu thẳm. Căn hầm ngủ nhà bà mẹ vẫn còn sáng ngọn đèn phòng không. Lam Hồng đang quây cót xung quanh cái bếp bắc ngoài trời chỉ còn than hồng. Cô gái quơ nắm lá cam héo tung vào bếp than đề phòng mấy mẩu củi bốc lửa. Mùi khói bay ra thơm lựng, trong một thoáng, mùi khói bom khét lợm bị dìm đi trong mùi thơm cay nồng ấm. Nhìn bóng cô chờn vờn quanh cái bếp ngoài trời và hình dáng bà mẹ như tạc ở cửa hầm, thấy trong đêm chỉ là một cái hốc đen, giống cửa một cái hang con người sống ngụ thời tiền sử. Cái thời kỳ đồ đá, con người còn sống hoang dã, chưa ra khỏi tự nhiên, còn bấu víu vào đá, rừng sâu, hang động chống lại thú dữ, đi săn bắt thú nhỏ, hái lượm quả cây trong rừng để tồn tại. Bếp than hồng bỗng reo lên nhè nhẹ , rồi từ trong đám củi và lá cam khô, một ngọn lửa nhỏ, vàng thắm hớt hải vươn lên. Cô gái quỳ mọp người, dùng que ấn ngọn lửa xuống. Ngọn lửa nhỏ quằn quại. Tay cô bỗng run lên, từ trong cõi thẳm sâu nào đó của cõi vô thức, òa ra nỗi sợ hãi ngọn lửa sẽ tắt vĩnh viễn, con người sẽ trở về sống mông muội. Ngọn lửa lịm đi. Cô gái chúm môi thổi, đám tàn lửa bay túa như đom đóm. Và cái lườn sống vàng sậm lại chờm lên trên chiếc que cời. Bà mẹ hỏi, giọng xa lắc: - Mi nghịch chi rứa con? - Con sợ ngọn lửa tắt. Tắt mãi mẹ ạ! - Tắt răng được. Còn người còn lửa. Mình phải giữ lửa con ạ! Cô gái đi đến sà vào lòng bà mẹ. Trong cái bếp quây cót ngọn lửa âm ỉ lặn vào than hồng. Đêm tối vắng lặng, chìm vào mung lung. Bà mẹ hỏi con gái điều gì như nựng một đứa nhỏ. Giọng Vinh nằng nặng, ấm xiết vào lòng. Vào một đêm như đêm nay cần nghe tiếng người xiết bao. Đời sống vật chất ở thành phố này một phần đã trở về thời tiền sử, thời kỳ đồ đá, đúng như những kẻ gieo rắc chiến tranh hằng mong. Ta tin vào đời sống con người ở những nơi ấm xiết ấy, tình người sâu nặng ấy bởi đấy là hiện thân của sự sống thật của con người và của cả nền văn minh. Ngẫm cũng lạ, từ hàng triệu năm, con người phát minh ra ngọn lửa, nuôi dưỡng, chăm chút nó, và ngọn lửa cũng sáng tạo trở lại con người. Nhưng đến bây giờ, đến thời đại vũ khí hủy diệt đè nặng lên con người thì ngọn lửa biến thành ngọn lửa trắng, cái khói của nó cũng quái đản và khủng khiếp. Vẫn chỉ có ngọn lửa đỏ, nguyên thủy, nồng đượm của sự sống đã kết lại, báo hiệu một sự sống dài lâu. Chiến tranh đã cướp dần đi những gì thật lớn lao do con người sáng tạo ra. Đầu tiên là căn nhà với những cột bằng gỗ lim. Một quả bom sát thương rơi trúng mái ngói, gỗ bay tóe ra khắp mặt đất. Lửa cháy rần rật leo lên đầu cây cột. Khi những người đàn ông hàng xóm lao bổ đến, công việc hủy diệt đã gần xong, còn riêng cây cột lớn ngún lửa. Họ múc nước từ giếng lên liên tiếp hắt vào và những cây cột rên lên xèo xèo. Rồi đến cái bờ giếng bị vỡ tung vì một quả pháo hạng nặng, từ ngoài biển, cách 30 cây số bắn vào, khoan xoáy xuống, nổ tung; cái giếng bị lấp đầy đất cát, mảnh gang. Cây cam bị trúng mấy quả bom bi, những cành mơn mởn, quả sai trĩu trịt, ngã huỵch xuống, rắn như đá cuội. Sau khi cây cam Vinh bị chết ít lâu, ông bố bị chết vì bom từ trường, mùi khói khét đắng bám vào quần áo ông, ướp vào da thịt ông, bà mẹ cùng cô con gái dùng quạt tay quạt mãi trước khi đem ông đi chôn,nhưng cái mùi ghê gớm ấy vẫn không thể nào bay hết được. Người con trai đang ở trung Lào nghe tin bố chết, xin đơn vị tạt về nhà được một ngày, sự hiện diện của người contrai giúp cái gia đình bị khuyết cân bằng lại, bớt đi tiếng khóc đau đớn, rồi anh lại vội vã khoác ba lô hướng sang tây Trường Sơn. Khi đi, qua đò Chợ Tràng trên sông Lam anh lại bị thương vì thuyền chạm thủy lôi, phải đi cấp cứu tại quân y viện Bốn trên miền đồi núi Thanh Chương. Ở nhà còn trơ lịa một bà già bà một cô gái học lớp cuối bậc phổ thông phải bỏ dở vì trường chưa có chỗ sơ tán. Bà mẹ ngó sát đôi mắt kèm nhèm lên xà hầm, năm ngón tay run run cầm viên phấn trắng viết chữ “V”. Bà hỏi cô gái: - Vần sau viết ra răng con? - Mẹ để đấy con viết cho. - Không. Tau viết. Phải tự tay viết mới nhớ được lâu. Bà viết chậm chạp một chữ “i” rồi bà nghỉ, suy nghĩ cân nhắc các nét của “e”. Chữ sau cùng xếp ba cái đũa ăn cơm lại “N”, đội cho hắn cái mũ ê kỳ cục rứa “Ê”. Trên cái xà gồ lấy từ căn nhà bị cháy xuống làm xà dọc hầm chữ A, hiện lên đầy đủ ký hiệu con người nghĩ ra để ghi tên một con người. Bà viết tên người con trai mình dứt ruột đẻ ra, hay tên anh chàng nào đó đã hò hẹn với cô con gái rượu chăng? Không đâu. Bà đánh vật với chữ nghĩa để viết tên một người lính ở trận địa mới hy sinh. Hội mẹ chiến sĩ phân cho bà ngôi mộ ấy, ngôi mộ chưa mọc ngọn cỏ nào. Bà ghi lại tên người, tên quê để sau này tiện liên lạc với gia đình. Trên cái xà hầm, lâu lắm, phải mất hàng tiếng đồng hồ bà mẹ mới viết đầy đủ tên họ người chiến sĩ. Nguyễn Sinh Viên. Đơn vị: C8 đoàn Phòng Thành. Hy sinh ngày 12/7/1968. Quê quán: làng…xã…huyện…tỉnh… Bà mẹ tựa vào cửa hầm, đôi môi run run, mắt nhìn những con chữ nhấp nhô, nguệch ngoạc, những con chữ nghiêng qua, nghiêng lại, bồng bột như những con người. Chúng sống thay cho những con người. Ở xóm Đình xã Hưng Thủy thành phố Vinh, trên xà hầm nhà nào cũng có những con chữ nhỏ máu như vậy. Bà đi ra ngoài, những con chữ lật đật theo sau lưng. Chúng nhỏ xuống những giọt nước mắt làm nóng rát tấm lưng già bắt đầu còng gập xuống. Bà ngẩng đầu nhìn lên vòm trời ban đêm. Bầu trời đêm gió nam, cao vời vợi, chi chít những ngôi sao sáng long lanh. Mỗi ngôi sao kia là một con người trên đất này đã chết trong chiến trận. Ngôi sao nào cũng nhỏ xuống ròng ròng những giọt đỏ. Gió nam khuya lạnh làm bà rùng mình. Tại sao những ngôi sao kia nhìn bà đau đáu làm vậy. Hay đấy là sự chờ đợi đứa con của bà cũng biến thành một ngôi sao như thế. Bà bỗng bước như bị ma đuổi. Bà không còn căn nhà để đi trong đó, thấy ấm áp hơi con người. Xung quanh bà là những thứ đã có hàng vạn, hàng triệu năm; chỉ có đêm tối, ngọn gió hoang dã, mặt đất cổ sơ. Bà chạy khỏi cửa căn hầm, nhìn giống cái cửa hang đá lạ lùng. Bà gần như nhào vào cái bếp than đỏ hồng. Cô gái đang dùng đôi đũa cả quấy nồi cháo gà. Cô vớt ra cái chân gà, thổi phù phù, ngước nhìn lên thấy bà mẹ thở hổn hển, cô hỏi: - Mẹ sợ chi rứa mẹ? - Không, mẹ có sợ chi mô. Cô gái làm nũng: - Con ăn trước đây mẹ ạ! Cô mút cái chân gà như một đứa trẻ con. Bà mẹ mắng yêu: - Con gái lớn ngồi bếp ăn vụng. Con có đào trận địa không mà đòi ăn cháo. Cô gái cãi: - Răng không đào. Con mới ở trận địa về đây. Bà mẹ ngắm nhìn khuôn mặt con đỏ hồng vì hơi lửa nóng. Nó càng lớn trông càng dễ ưa. Con gái mười bảy, mười tám tuổi, cao vổng lên như một cây mấc, chao ơi cây mấc đất Vinh mình mọc hoang dã trong các vườn nhà ngoại thành… Cây bám rễ sâu vào cát lớn phổng phao, gỗ dẻo, mềm bóng mát mẻ, người thợ khéo léo gọt tượng và còn làm ra đồ trang sức. Cây mấc ra hoa kết quả sớm.Tiết cuối đông đầu xuân, quả mấc nứt xòa, túa hạt, hạt nó có sợi bông dài, bay tung đi khắp nơi, đáp xuống rồi nở thành cây con. Ôi! Con gái bà đã đứng cao hơn bà nửa mái đầu. Lam Hồng ôm ngang người mẹ, dụi đầu vào tấm lưng nhỏ quắt. Có một mình ở với mẹ, cô gái hay ngúng nguẩy, nũng vòi, nhưng trông đã là một cô gái lớn. Cái cổ cao, bộ ngực nở vừa phải, căng dưới lần áo. Tấm lưng mảnh, dẻo mềm với bước đi nhanh, vững chắc, cô có vẻ đã bỏ qua thời học sinh. - Con múc một bát mà ăn, rồi mang ra trận địa pháo cho các anh. - Mẹ ăn một bát mẹ nhé! Con biết mẹ đói lắm rồi. - Không, mẹ không ăn- bà mẹ xoa đầu con. Cô gái cũng chỉ nhai rau ráu cái xương gà, nhằn từng miếng xương mút chùn chụt cho thỏa mãn tính trẻ con, cô không ăn cháo. Bà mẹ giục con bắc nồi quân dụng ra khỏi bếp rồi hai mẹ con khiêng ra trận địa. Trời chuyển dần về sáng. Phương đông ửng lên những đám mây xám bợt. Những đám mây cũng đứng im, đờ đẫn vì mất ngủ. Khoảng sáng ở phía đông ửng dần rồi bầu trời bắt đầu trắng ra. Trận địa ngổn ngang pháo đạn, từng đống gỗ làm hầm vứt lổng chổng. Trên nền cát trắng xen sẫm từng khoảng bạt lợp lán, ni lông che, chăn màn, bát đũa, chổi quét, xoong chia cơm, một đống ba lô con cóc nhét căng quần áo lính vất chồng lên nhau. Trên tất cả nắp và thân ba lô đều lỗ chỗ vết mảnh bom, mảnh rốc két, vết bom bi. Một cái xoong chia cơm đem làm nồi đun, đít đen xì nhọ nồi, úp chụp lên chồng bát đũa chưa kịp rửa. Mấy cuộn dây điện thoại vứt thành đống, cạnh hầm đại đội trưởng vừa làm xong. Khi nào cũng vậy, sau trận đánh Lộc bắt Thái tập trung trinh sát, đo xa, thông tin làm hầm chỉ huy trước, các hầm khác ngoáy sau. Ở giữa trận địa chiếc máy vô tuyến 2 oát giương cần ăng ten liên lạc với trung đoàn, sôi đều đều. Đăng dẫn Thái đi vùn vụt dọc con đường xe kéo pháo, qua miếu thổ thần rồi quặt vào góc vườn chỗ có cây mấc cao. Giống mấc cây mơn mởn, lá lúc nào cũng mỏng mảnh xanh non, họ không nỡ chặt. Đăng thì thầm chỉ cây xanh cổ thụ lá cành um tùm. Lá xanh ngụy trang tươi lâu nhưng khi gặp mưa xuống úa đen, gió Lào quạt từng hơi, lá rụng sạch, còn trơ cành. Vả cây cao, trời còn sáng sớm, khó trèo lên cao mà chặt lắm. Hai người sán vào bờ dứa dại, cái anh dứa dại thọ lâu hơn cả cỏ, chặt về quăng lên nóc vài tuần còn tươi, gió nóng thổi khô nứt đôi người, lá dứa cũng không héo, chỉ hơi ngả sang màu vàng. Đem cái ngọn cây dứa vàng ấy trồng xuống cát, sáng sáng tưới cho ca nước rửa mặt, chỉ dăm ngày sau nõn cây đã phóng ra nhọn hoắt xanh vàng óng. Các đầu rễ to, tù tù, nhớt nhớt như ngọ nguậy, thử có một trận mưa xuống xem, các đầu rễ ấy cắm ngập vào cát, đua nhau hút các chất bổ béo từ đất, nuôi cây dứa dại thành bụi, thành bờ, ở ven biển thì sẽ thành rừng dứa dại,có cây thành cổ thụ đến cả trăm năm, cao ngất nghểu vững bền đến gió cát, đến bão biển, đến cả sóng thần cũng không hề hấn gì. Làm anh lính pháo cao xạ phải biết sức sống vĩnh cửu của đám dứa dại ấy. Bờ dứa trồng làm rào vườn nhà dân,sáng sớm chưa hỏi ai được. Đăng vung dao chặt, trận địa đang cần ngụy trang. Trong tình hình hai bên săn đuổi nhau như hiện tại, giữ kín trận địa là vấn đề sống còn. Thái cũng ào vào chặt văng mạng, mới một loáng đã được một đống khá to, Đăng rút sợi chão quấn ở đòn, bó lại, Đăng siết mạnh sợi dây, luồn xoắn vào, gọi nhỏ “Ta vù thôi, anh Thái!” Thái vừa ngẩng mặt lên thì thấy một ông già tóc bạc đứng sát trước mạt, gằn giọng: - Các chú chặt cây ngụy trang không hỏi ai hè? - Dạ chúng con xin lỗi. Trận địa trống quá, mà trời sáng rồi bố ạ! - Chặt nhiều chưa? - Dạ được một ít rồi ạ! Đăng nhấc thử bó ngụy trang. Ông già bảo: - Để nguyên đấy! Thái ngơ ngác vì ngượng và xấu hổ. Đăng đứng im, bỗng đôi tai cực nhạy của cậu ấy vểnh lên. Đăng nghiêng đầu: - Có tiếng động cơ máy bay, anh Thái! Thái hấp tấp rút cái đòn khiêng, hai người khiêng cây đòn không, vắt hai chiếc quần lính lủng lẳng, chạy bổ về. Tới đầu trận địa họ gặp bà mẹ với cô gái đang khiêng lặc lè nồi cháo. Thái tạt qua hầm pháo khẩu đội một về sở chỉ huy. Lộc đứng ở cửa lán “Xê” bộ đã lợp ni lông, hỏi xẵng: - Ngụy trang đâu các cậu? Thái lúng túng: - Chúng tôi chặt được một khiêng, ông cụ già ra giữ. Nghe tiếng máy bay vội chạy về. Lộc cay nghiệt: - Các cậu ăn cắp của dân chứ gì? Vội thì vội cũng không được làm xằng! Trời đã rạng. Mấy quả pháo sáng cháy leo lét ở phía trời xa, mỗi quả kéo theo một cái đuôi dài trắng nhợt, ngùng ngoằng như lũ xoắn trùng. Thái đi về phía hầm pháo cũ của khẩu đội một, đứng bên bờ hố bom. Chợt anh cúi xuống, rồi bật lên, bước lùi mồm há hốc, mắt căng ra. Hai bàn tay xòe ra, giơ lên như định đón vật gì. Đôi môi Thái mấp máy định kêu lên, mà chưa kêu được!… Ở chiếc càng khẩu pháo nghiêng xuống hố bom, hai cánh tay trắng ngần vắt lên. Một mái tóc con gái rất dày, rất dài xõa ra như che kín cả cái hố bom, nước ngầu lên như máu. Bờ vai trắng nõn thật tinh khiết, nửa người chìm dưới nước, nửa người nhô lên, miệng và cằm bị che khuất. Riêng đôi mắt vẫn mở trừng trừng. Minh đã chết! Trận địa nhốn nháo cả lên. Mấy người lính pháo định nắm tay cô thanh niên xung phong kéo lên, bị Thái sừng sộ ngăn lại. Một người lính chạy vào chiếc lán bị sập góc, ôm ra cái vỏ chăn đơn,đứng gần thi thể cô gái. Loạt bom sau cùng giết hẳn Viên và sức ép của nó làm chết luôn cả cô gái. Thi thể cô lành nguyên, tinh khiết một cách đau đớn khiến cậu pháo thủ không dám chạm tay vào. Không người lính nào dám chạm tay vào. Không người lính nào dám đặt tay lên cái thân thể đẹp như ngọc kia. Trong làng ồn ào. Tiếng ồn ào như sóng truyền. Thế rồi các bà mẹ, các cô thanh niên xung phong, bạn của cô túa ra. Họ quây kín lấy xác cô gái. Những người đàn ông lặng lẽ lui ra xa. Thi hài Minh được bọc vào trong cái vỏ chăn lính. Các bạn vội vã khiêng cô đi, nhiều cô nấc lên khóc lén, họ không muốn để những anh lính pháo nhìn lâu thêm người chết trong trận địa. Tiếng ồn ào trong làng vẫn không dứt. Thái cúi đầu bước vô định. Bỗng Đăng ở đâu chạy về, xồ vào người anh.Cậu lính trinh sát trẻ gọi cuống quýt: - Anh Thái! Anh Thái! Dân làng Đỏ đào hào đóng cọc không cho xe pháo đi qua! Thái không nói gì lẳng lặng đi về chiếc hầm cá nhân dành cho A trưởng chỉ huy đang đào dở. Qua chỗ Xương thấy anh đang nằm trên mặt hầm Đại đội trưởng, Thái đứng lại. Chắc rằng ngồi trực chỉ huy mệt quá, anh lăn ra ngủ thiếp đi. Anh gối đầu lên tảng cỏ mới lát mặt hầm, tay cầm hờ chiếc dùi kẻng, nửa người thả thõng xuống vệ hầm.Thấy động Xương trở mình, ngửa hẳn mặt lên trời, trán hẹp, cặp môi dầy hơi tách ra như cười, hai cánh mũi mỏng phập phồng. Từ hôm trận địa bị đánh đêm, đơn vị cơ động như cuốn chiếu, đến trận địa mới, cái kẻng treo lên, các khẩu đội chưa chiếm lĩnh xong, Xương đã ngồi trực chỉ huy. Nhiều hôm anh nằm cù queo, má áp xuống đất, ngủ vội. Thái thấy khóe mắt nóng hổi, vội giơ tay dụi cho giọt nước tan đi. Từ trong hầm thông tin, cậu Đỗ tai đeo cáp nghe ngó ra gọi: - Trung đoàn báo động chiến đấu, Đại đội phó ạ! Xương choàng dậy: - Về cấp I đi! Anh gõ một hồi kẻng dài. Đỗ trao cáp nghe cho Xương. Tham mưu trưởng Đoàn Cung đang trực chỉ huy. Ông hỏi giọng ráo hoảnh, không một chút ngái ngủ: - “Xê” tám ai trực đấy? - Tôi, Xương đây ạ! - Củng cố trận địa xong chưa? - Công sự tạm xong. Chưa lấp cửa hầm pháo. Lán ở chưa khẩu nào dựng được. - Có ngụy trang chưa? -Báo cáo mới có một ít. Đoàn Cung ngừng một lát, thì thầm trao đổi với ai đó, chắc là Trung đoàn trưởng. Ông bỗng nói rất dứt khoát: - Từ bây giờ “xê” tám phải cho hai khẩu đội trực ban. Người chỉ huy phải đeo cáp, nghe trực tiếp mệnh lệnh chiến đấu của trung đoàn. Giọng ông bỗng rin rít: - Từ của Hội bốn A7 bay vào! Ông tiếp: – “Xê” ba vào bám chốt thay cho các anh ra củng cố. Hiện giờ mới có một khẩu đội đưa được pháo vào hầm. Nếu địch bổ nhào, “Xê” tám bắn chi viện cho “nó”, nhận đủ chưa? - Nhận đủ – Giọng Xương khàn đặc. Đoàn Cung nạt nộ: - Đứa nào nhận lệnh, điếc hả? Nhận đủ chưa? Lộc đứng cạnh Xương nghe tiếng, giật phắt cái cáp nghe, ghé mồm quát: - Nhận đủ!- Rồi anh vờ như không biết Đoàn Cung đang trực, nói to: – Cậu trực ban tác chiến hả? To mồm hạnh họe cái gì thế? Anh trao cáp lại cho Xương đứng vào cửa hầm thông tin. Thấy Thái đang chỉ tay cho Đăng theo dõi tốp A7 bay khuất vào vạt mây vẩy cá, anh giục: - Đồng chí Thái xuống làm khẩu đội trưởng khẩu đội Một. Tổ thông tin bớt một người làm pháo thủ số ba để khẩu Một đủ số đánh, tăng hỏa lực cho đơn vị. Thái lao qua đống ba lô, quần áo của tiểu đội chỉ huy vứt ở giữa trận địa. Thiếu chút nữa anh đâm sầm vào ông già tóc bạc đã mắng anh và Đăng lúc sang sớm, đang lòng khòng gánh hai bó cây dứa dại làm lá ngụy trang ra trận địa. Thái ôm chầm lấy ông: - Bố ơi! Con cám ơn bố. Bố đặt xuống rồi về ngay đi. Các hầm pháo trống toác. Thái nhìn ông già lom khom đi về chỗ Lộc, tự dưng muốn khóc. Cậu số 5 của khẩu đội Một từ mâm pháo như bay qua cửa hầm, bốc ôm ngụy trang cắm vội lên vành hầm. Thoắt cái, cậu ta lại vớ xẻng xúc cát táp vào cửa hầm pháo mong cho nó cao thêm một ít. Lộc quát: - Số 5 khẩu đội Một, về vị trí! Xương giơ lá cờ lên: - Các khẩu đội ấn đạn! Tiếng ấn đạn roàn roạt. Các khẩu pháo quay chậm chạp. Lộc như lồng quanh cái cửa hầm thông tin, gọi với xuống chỗ Thái. - Khẩu đội Một quay chậm thế kia? Thái! - Báo cáo, pháo thủ ghép chưa quen thao tác các số. Bên đầu dây kia tiếng Đoàn Cung hét bên tai Xương: - “Xê” tám bắt mục tiêu! Chiếc A7 đầu tiên đã lao xuống. Thái phất cờ hai lần, số hai bắn được có một điểm xạ. Cậu thông tin đứng ở vị trí số ba run lập cập, đôi mắt bạc phếch vì căng thẳng. Thái cố nói giọng bình thường: - Bình tĩnh. Đặt cự ly 3.000 mét giữ nguyên. Bọn A7 bay với tốc độ chậm, chúng đánh rất gan như giễu ở trên trời. Cứ như không hề có những viên đạn có thể làm chết người từ dưới đất kia bay lên. Đoàn Cung lệnh cho đại đội tám bắn một cách điên cuồng. Ông không thể chịu nổi cái gọi là thiếu ý chí tiến công. Ông cho bắn tất cả mọi chiếc máy bay giặc mong làm thằng địch chùn lại. Tốp A7 luồn lách tránh đạn. Bằng con mắt tinh tường, gan lỳ liều lĩnh, tên phi công như phát hiện ra cái trận địa bé con bị truy đuổi bấy lâu, nay nổ súng chuệch choạc, đạn bay lên thưa thớt và rất tản mạn. Hắn sà xuống thấp, còn nhìn thấy rõ cảnh trận địa ngổn ngang, công sự súng thấp, trơ trọi. Hắn lạnh lùng khép hẹp vòng bay, lấy đừơng ngắm thật chính xác rồi lao thẳng xuống. Từ đầu trận đánh Thái bối rối không biết máy bay địch vào thêm có đông không. Anh không còn khái niệm thời gian xác định xem trận đánh diễn ra đã lâu chưa, máy bay Mỹ đang tản ra ở hướng nào. Làm khẩu đội trưởng pháo, Thái phải nhìn cờ, nghe kẻng ở Sở chỉ huy. Chỉ được phép nhìn vào một tốp, một chiếc người chỉ huy lệnh cho pháo bắt mục tiêu. Chiếc A7 bị trúng đạn, bốc cháy, chắc tên phi công đang cố vọt lên bay ra phía biển. Nhưng không kịp, chiếc máy bay đã thành một đống lửa lớn, một chiếc dù bung ra bỏ lại chiếc A7 lại gẫy đôi như hai khúc cá, lủng liểng rơi xuống biển. Cả Sở chỉ huy náo động, nhốn nháo. Hình như cả Xương và Lộc cùng nhảy lên hò reo. Thái chợt rùng mình, hướng Tây Bắc (số 12) từ nãy không có ai theo dõi. Bằng sự tinh nhạy phi thường ở người lính trinh sát phòng không được tôi luyện dày dạn, như có linh cảm mách thầm, Thái quay phắt về phía sau, phất mạnh ngọn cờ nhỏ hô bắt mục tiêu. Trong khoảnh khắc anh liếc nhanh về Sở chỉ huy, thấy Đăng đang cố rướn người chỉ cho Lộc một chiếc A7 đã xuống rất thấp. Lộc luống cuống vì anh vẫn chưa nhìn thấy, cả trận địa chưa khẩu nào kịp quay về hướng chiếc máy bay bổ nhào. Thái tự động cho bắn một điểm xạ. Rồi lại bắn luôn một điểm xạ nữa. Không kịp. Chiếc A7 đã cắt bom và đang phóng rốc két. Kịp nghe tiếng rít lạnh người. Thái né nghiêng vào thành hầm. Quả rốc két nổ hất Thái vào giường pháo, mắt tối sầm. Kịp nhận ra khối lửa chói lòa, òa chụp lên mặt mình; chùm bom nổ dận mạnh Thái xuống giường pháo và anh thấy mình như tắt thở, không thể nào đứng dậy được. Trận địa lặng đi một cách khủng khiếp. Song chỉ trong tích tắc ghê rợn nhất con người chưa thể ý thức được tai họa. Sau cái khoảnh khắc ấy, nhiều tiếng kêu cứu nổi lên. Thái cố hết sức vùng dậy, nhảy qua hầm pháo, chạy chệnh choạng về Sở chỉ huy. Cảnh tượng đập ào mắt anh thảm khốc. Xương nằm vật lên chiếc kẻng. Anh đã tắt thở, đôi mắt dại đờ chưa kịp khép lai. Đầu anh ngoẹo xuống, tóc vùi vào cát. Khoảng trên thái dương mảnh bom vạt một miếng to bằng cái bát, óc lẫn máu văng ra ngoài. Mảng đầu bắn đâu mất. Thái dứt mạnh cúc chiếc áo đang mặc, choàng vội lên đầu Xương. Máu thấm ướt đỏ ngay một khoảng áo rộng. Thái nhảy chồm đến chỗ cô gái đang đỡ Đăng trên đôi tay run bắn. Miệng cô méo xếch xác. Hai chân Đăng thõng vào hố cá nhân. Một mảnh bom lớn thúc qua ngực từ phía trước và phá khoảng lưng to bằng chiếc bát ăn cơm. Bọt máu trào ra phập phều. Đăng đã thoi thóp. Đôi măt to hơi lồi nhìn Thái đau đớn. Da mặt Đăng trắng bợt bạt, Đăng không nói được câu nào, đôi măt dại dần và trên vầng trán hóp như vụt qua ý nghĩ hờn oán. Thái đổ xuống, cô gái phải bỏ một tay khỏi lưng Đăng đỡ Thái. Và anh quỳ xuống vuốt mắt Đăng một cách điên cuồng. Từ sau lưng Thái, chiến sĩ đo xa Thịnh đang khóc. Thịnh bị sức ép hơi bom, hai mắt lồi ra, máu chảy ướt hết da đầu, tràn xuống khắp mặt. Thịnh khóc tu tu: - Tránh ra. Ai đấy? Tránh ra cho tôi nhìn anh Xương. Đăng ơi! Thái phải gần như bò đến lau máu trên mặt cho Thịnh. Thịnh bíu chặt lấy anh, và khi nhận ra người A trưởng của mình, cậu ấy khóc rống lên, đập hai bàn tay đầy máu tươi lên ngực Thái. Trên làn da trắng muốt ở ngực anh in rõ hai bàn tay với mười ngón máu bầm đỏ. - Anh đi đâu mà không ở Sở chỉ huy, hở anh Thái? Người chiến sĩ trắc thủ dựa vào ngực anh khóc thút thít như đứa trẻ tìm thấy mẹ. Thái cứ đứng ngây ra cho Thịnh tựa, đưa mắt về khẩu đội một, khẩu pháo dựng nòng không hồn. Các chiến sĩ như đã biến thành tượng đá. Như họ là những người chết rồi. Sáu quả bom có sức nổ khủng khiếp làm họ bị thủng màng nhĩ, điếc hoàn toàn, thần kinh họ bị sức ép hơi bom làm cho gần như tê liệt. Thái cố hết sức giữ vững đôi chân cho Thịnh tựa vào anh mà khóc. Nếu không có Thịnh gục đầu vào anh tin cậy, Thái đã đổ xuống cát bỏng, có thể không đứng lên nổi nữa. Anh đi tìm và thấy Lộc ngồi trong hầm thông tin bên cạnh cậu Đỗ. Lộc nhìn người A trưởng chỉ huy ngơ ngác, đôi mắt anh thất đảm, da mặt sạm như tro nguội. Anh dùng hai ngón tay chỉ chỉ vào hai tai ra hiệu anh đã bị điếc rồi. Sau đấy Lộc chỉ ngón tay khòng khòng ra phía ngoài, ý bảo Thái hãy quay ra thay mình chỉ huy đơn vị, máy bay địch đang còn tới. Ra đứng giữa Sở chỉ huy, ngực Thái đau tức không còn thở được. Khói bom đặc quánh vẫn cuốn lên trong trận địa. Vầng khói ánh lạnh mầu thiếc như một chứng chỉ về sức mạnh hủy diệt con người. Thái thấy sống lưng lạnh toát.Anh cũng muốn có một căn hầm to, đất đắp dầy, thật chắc chắn để lăn vào, bịt chặt hai tai lại, nhắm nghiền mắt, trút lấy hơi thở dài, tìm lấy một chút bình yên. Nhưng Thái nhìn thấy ngọn cờ nằm lăn dưới đất dính đầy đất cát và máu người. Và bà mẹ chạy tới từ khi nào, đang vuốt mắt Đăng vẫn mở trừng trừng. Bà sụt sịt khóc, đôi mắt kèm nhèm đỏ hoe, bà không ngẩng lên, ngón tay bà vuốt rất khẽ, một động tác rất thuần thục. Chao ôi, chả lẽ với đất nước này, trong cái vùng khói đáng nguyền rủa này, các bà mẹ phải nhiều lần vuốt mắt cho chồng con đến nỗi động tác quen đến thế kia. Lòng Thái se thắt. Anh cúi xuống nhặt lá cờ giũ cho rơi bụi cát. Cô con gái bà mẹ đang băng kín mặt cho Thịnh, mắt vẫn ngước nhìn Thái như nhắc nhở trách nhiệm của anh lúc này. Thái vung lá cờ lên, cái góc ướt máu của nó trĩu xuống. Anh thấy các Khẩu đội trưởng đã nhìn vào lá cờ. Các pháo thủ khẩu đội Một cũng thao tác, trông họ như một tốp người ngây, mắt ai cũng nhìn Thái chòng chọc. Chiếc A7 từ hướng mặt trời đang từ từ lao xuống, khói tuôn ra đen sì. Chậm một giây lúc này là cả trận địa sẽ bị thổi bay hết. Thái thấy cái trách nhiệm đè nặng lên vai mình, nặng ghê gớm làm anh không đứng thẳng được, anh vươn lên, lại cúi xuống. Cánh tay cầm cờ cứng như đá. Nhưng rồi anh chồm lên, hất tung cái sức nặng vô hình đè lên ngực mình. Anh hét lên trong trạng thái bị kích động cao độ. Đến chiều tối trận địa Đại đội Tám gần như không còn người. Phải đưa tất cả pháo thủ khẩu đội một đi trạm xá trung đoàn. Họ đều bị chảy máu tai, mắt cương máu và bị chấn động thần kinh. Thái cử Đỗ dìu Lộc về trung đoàn. Anh nhìn nhanh Thái, bàn tay xua xua, và nói nhỏ “không cần”. Anh bước lủi thủi, vầng trán cao nặng trĩu, toàn thân anh trở nên nặng nề. Ra khỏi trận địa Đại đội trưởng dừng chân, như cân nhắc điều gì. Rồi anh xoay người lại, đứng rất lâu, nước mắt trào ra má, anh giơ một bàn tay. Thái hiểu Lộc chào anh, chào trận địa và cũng vĩnh biệt một cách đau lòng nhưng gì mà từ trước tới nay anh vẫn tự hào về nó. Thái đi những bước nặng nề quanh mặt hầm chỉ huy. Trên các mâm pháo, các cô dân quân đứng nhiều hơn bộ đội. Thái cứ đi như thế, đôi mắt nhìn quanh. Lòng anh vẫn đang bị xáo tung lên, vì một ám ảnh nào đó, nó cồn cào, thúc giục, Thái như đang làm một việc vụng trộm. Bỗng anh giật mình, sững người nhìn cái miếng đo đỏ ở dưới cuộn dây điện thoại. Mảng đầu đại đội phó Xương còn dính óc rơi xuống cát. Nhúm tóc dài bay lất phất. Thái nhìn trừng trừng cái mảng đầu, mặt anh biến dạng, miệng méo xệch, các cơ ở hai má co rút lại. Và bằng một động tác quyết liệt, Thái quăng cuộn dây thông tin đang xách ra xa, quỳ xuống, vục mạnh hai bàn tay xúc lấy mảng đầu, rồi chập hai bàn tay cứ thế chạy ra khỏi trận địa, lao về phía cái miếu Thành hoàng. Ban chính sách trung đoàn cùng chính quyền, nhân dân địa phương làm các thủ tục mai táng các liệt sĩ. Họ đặt các anh nằm thành hàng dài, trên đầu có miếng bìa gắn tên, một bát cơm, một đôi đũa bông và một quả trứng luộc. Thái ào đến chỗ thi hài Xương. Đầu Xương được phủ vải trắng. Thái lật tung tấm vải, đặt mảng đầu vào chỗ khuyết. Thật kinh lạ, mảng đầu liền khít lại. Thái lùi một bước nhìn khuôn mặt Xương đã teo quắt, hóp lại, da mặt vàng ệch, đôi mắt khép hờ, đục nhạt. Miệng anh còn bị một mảnh bom nhỏ bắn vào làm rách toác cả đôi môi dày chất phác. Có lẽ răng cũng bị gãy nên bờ môi hõm vào. Khuôn miệng ấy không bao giờ còn thuyết trình, giảng bài được nữa. Thái phủ phục xuống cạnh Xương, úp mặt vào hai bàn tay mình. Hai bàn tay anh dính đầy óc, máu khô trộn vào với cát trắng. * * * Thi hài Xương và Đăng được mai táng cạnh gốc cây sanh mà sáng sớm nay Thái và Đăng vẫn còn đứng dưới gốc toan tính chặt cành về ngụy trang trận địa. Thái thẫn thờ đi quanh hai nấm đất. Trận đánh dừng đã lâu mà không hiểu sao khói bom vẫn phảng phất. Cổ họng đắng nghẹt, mùi khói bom lặn vào quần áo, Thái đập mạnh, rồi cởi hẳn ra giũ, quật mạnh vào gốc cây sanh cổ thụ vẫn không làm sao hết được cái mùi lờm lợm khét tanh, mùi của tử thần. Thái đi như người không hồn, không thấy khát, cũng không thiết gì đến ăn. Anh cứ đi như thế, đi mãi trong một thế giới không cùng, không có nhận thức, nếu cô con gái bà mẹ không nhìn thấy. Cô chạy lúp xúp qua cồn cát sau nhà, cầm lấy tay anh, kéo về cái lán con làm trước hầm ngủ. Cô lấy nước chè anh ép anh uống. Thái ghé mũi ngửi cốc nước, hơi thơm nước mới bốc lên làm hai cánh mũi anh phập phồng. Lưỡng lự một chút rồi Thái uống một hơi cạn cốc nước chè xanh. Anh lấy tay áo quệt nước rớt ra ở miệng, ở cổ rồi lại ngồi ngây ra mắt nhìn xa bên ngoài, đầy hoang vắng. Thấy Thái vẫn ngơ ngác, cô gái luýnh quýnh chân tay. Cô bê đến một xoong cơm cùng đĩa thức ăn, đặt xuống trước mặt Thái rồi lại chạy ra ngoài gọi quản lý. Cậu quản lý mặt rỗ nhằng, lững thững đem đến một hộp thịt. Đưa cho cô gái xong, hắn ta lòng khòng đi về căn phòng nhỏ, ngồi cắm mặt xuống quyển sổ chấm cơm. Mặc tay quản lý cũng ngơ ngác, bát cơm to, có thịt bà mẹ để từ trưa, hắn cũng chưa động đũa vào. Cô gái dùng con dao nhà bếp to tướng bổ hộp thịt ngay trước mặt Thái. Cô làm, đôi tay thoăn thoắt với một tình cảm gần như sắp cơm cho một người thân trong gia đình. Cô xới cơm ra bát, sắp đũa đặt vào tay Thái. Anh nhìn trân trân vào miếng thịt hộp còn lẫn những mảng mỡ nhỏ trắng hếu, nổi phập phều. Thoáng hiện trong Thái mảng đầu của Xương với phần óc trắng màu sữa. Nước miếng bỗng ứa ra đầy miệng, từ trong bụng anh một cái gì nóng bỏng cuộn lên, Thái gập người nôn thốc tháo không thể kìm lại được. Anh nôn ra giặt thứ vàng vàng, trong người không còn thứ gì khác để ói ra vì từ hôm qua Thái chưa ăn gì. Cô gái sợ hãi kéo Thái vào hầm để anh nằm ra tấm phản nhỏ bà mẹ với cô vẫn nằm ngủ đêm. Bỗng dưng cô gái thấy ngượng ngập, má nóng lên, cô xấu hổ nhao ra ngoài hầm, vơ vội xoong cơm, bát nước chấm, đĩa thức ăn cất đi. Bà mẹ vẫn chưa về “nhà”, có lẽ bà vẫn đang ở ngoài trận địa “Xê”8. Cô gái đi quanh cái giếng vỡ, quanh qua gốc cam bị bom chặt gẫy, rồi lại vòng về đứng vào cửa hầm. Buổi chiều vắng tiếng máy bay. Khói bom bay mờ ở phía xa khiến ánh ngày tàn nhanh hơn. Gió tây đẩy đám khói bom từ sau núi Quyết tràn về phía làng. Cô ngồi thụp xuống chụm mấy cây chổi trong cái bếp đặt ngoài trời. Một làn khói nhỏ, nâu ấm bốc vọt lên, lan nhanh trong vườn. Mùi củi cháy thơm hăng hắc. Con lợn anh em nhà bếp nuôi thả rông thấy bếp có lửa, ở phía đường hào đi lên đứng sau cô rít lên đòi ăn. Nó rụi cái mõm dài xuống đám đất, rụi cả vào gót chân làm cô giật mình. Cô lấy tay đập khẽ vào đầu con lợn, nó không chịu đi, ngước lên rít to hơn. Ngọn lửa reo khe khẽ. Một thoáng bình yên làm cô gái xôn xao, trái tim nhỏ thổn thức. Cô đi tới cửa hầm, thấy Thái đã ngồi dậy, mặt ngây ngô nhìn cô. Một thoáng chần chừ nhưng rồi cô vào hầm, mạnh bạo ngồi xuống cạnh Thái. Anh vẫn ngồi im, không nhúc nhích, mắt nhìn lên mái hầm, khuôn mặt tái xạm, mái tóc như bị sấy quăn, áy đỏ, trong chân tóc bám đầy bụi xám. Cô nhìn anh thương cảm, đặt nhẹ bàn tay khẽ giũ mớ tóc cho anh. Cô biết anh hơn mình bốn, năm tuổi, và đã có vợ. Anh nhìn cô dài dại. Cái ánh nhìn của người bị tâm thần, loạn trí hay bị điên. Cô không rõ. Anh như sợ cô, nhích dần về phía cửa hầm. Anh giơ hai bàn tay lên run rẩy như cầu xin cô. Anh vái lậy hay là anh định ôm lấy cô bằng sức mạnh điên khùng của người loạn trí. Đôi môi anh mấp máy, hai chân nhấp nhổm. Cô gái không hề thấy sợ. Nhìn nét mặt anh căng thẳng, cô gái bỗng thấy từ trong trái tim mình trào lên một tình cảm lạ lùng. Tình cảm ấy không phải tình yêu, nó bồng bột dâng trào và cô gái bỗng thấy mình lớn hẳn lên, lớn hơn anh rất nhiều. Anh cần được chở che, cần được nghe một lời nói dịu ngọt, cần được vỗ về, ôm ấp như trẻ thơ. Cô thấy mình như là chị hay là mẹ của anh vậy. Cô gái bằng một động tác gọn gàng, dứt khoát và âu yếm ôm gọn mái đầu bù xù của anh. Cô kéo đầu anh vào ngực. Thái ngoan ngoãn ngả vào lòng cô. Anh nằm im tin cậy. anh hít thở cái mùi dịu ngọt, ấm áp từ tấm thân người con gái tỏa ra. Chỉ một lát sau Thái đã ngủ say. Hơi thở dài, rất sâu. Anh ngủ thật ngon lành như chưa hề chứng kiến những giây phút khủng khiếp đối với đời một con người. Cô gái ngồi im cho Thái ngủ. Bà mẹ vẫn chưa về. Có lẽ đêm đã khuya lắm, Thái giật mình tỉnh dậy. Anh bang hoàng thấy mặt mình áp vào bộ ngực non trẻ của người con gái. Có thể cô gái đã quên đi ý thức rang mình đang ôm ấp một người đàn ông. Cô cũng đã ngủ say lắm. Thái không dám thở mạnh. Không dám động cựa. Anh lắng nghe. Và tiếng động đầu tiên anh nghe, anh cảm biết được từ sau lúc tấm thân hoảng loạn là tiếng trái tim cô gái đang đạp đĩnh đạc trầm tĩnh. Chương tám Họp xong hội nghị trinh sát viên Trung đoàn, Chủ nhiệm trinh sát nhắn Thái về nhà anh có việc riêng. Thái vặn hỏi nài nỉ, dằn dỗi anh cũng không nói. Hai người lẳng lặng đi trên con đường lầy cát. Qua một cái giếng nước trong vắt, Chủ nhiệm trinh sát dừng lại giục Thái múc nước rửa mặt, rửa chân tay cho mát mẻ, tỉnh táo. Rồi anh dẫn Thái tới một cái giếng nước ứ đầy, nghĩ có thể đứng ở bờ giếng gục xuống thật sâu cho mất đi cái nóng bừng bừng trong đầu óc. Hai người đứng đối diện với nhau qua mặt giếng sóng sánh như một chiếc gương tròn óng biếc, ngỡ đâu có thể qua đấy nhìn thấu mọi điều sâu kín nhất trong tâm hồn mỗi người. Sau cùng họ tới một vạt rừng non. Chủ nhiệm ngồi xuống một cửa hầm chữ A lớn. Khoảng cát vàng sẫm mịn màng, sạch bóng và đầy bóng râm mát. Một cây bưởi bung sai bó những chùm quả nhỏ bằng ngón tay da trắng mọng , thả dịu dàng ngay trước mặt. Đang đi trong nắng gió Lào gặp những chùm bưởi bung lúc lỉu, sao mà hấp dẫn vậy, tưởng rằng sẽ phải nhảy ngay đến, vồ lấy mà ăn cho thỏa cơn khát cháy phổi. Nhưng hãy khoan xin đừng chạm vào, nó là thứ quả không ăn được, thậm chí rất độc. Giữa trưa nắng gió như cuốc, như cào, được ngả mình vào vạt rừng vườn này thật sung sướng. Chủ nhiệm trinh sát vẫn giành cho Thái một tình cảm riêng, tin yêu mà vẫn nghiêm cẩn, đòi hỏi cao ở chuyên môn, nhất là bản lĩnh một người lính chiến thực thụ, gánh vác trách nhiệm đấu mưu, đấu trí với những tên phi công Mỹ được đào tạo ở trình độ cao về trí tuệ quân sự. Anh nhìn nhanh vào mắt Thái như soát lại rồi mới chỉ cho Thái một người mắc võng đang ngủ trong hầm trên mặt phủ tấm dù ngụy trang. Anh thì thầm: - Cậu có nhận ra ai không? Thái bồn chồn lắc đầu. - Nhìn kỹ xem. Thái định xô tới thì “pắp”, cổ tay anh đã bị nắm chặt trong những ngón tay cứng như thép. - Lính trinh sát không được hấp tấp, vồ vập trước đối tượng chưa được đánh giá; thôi để tớ bật khóa mật mã. - Đại đội trưởng anh tài của cậu đấy. - Ớ…Anh Lộc! Nghe tiếng người, Lộc giật mình thức giấc, tung tấm dù ngụy trang sang bên, choàng ngay dậy. Phải một lát sau anh mới nhận ra người chiến sĩ dưới quyền. Anh hỏi giọng thảng thốt: - Thái ở trận địa lên đấy à? - Vâng. Lộc vồn vã: - Anh em ta có khỏe cả không? - Khỏe cả anh ạ! Im một lát, Lộc lại hỏi: - Anh Xương với cậu Đăng mai táng chỗ nào? - Ở gốc cây sanh gần miếu Thành hoàng anh ạ! Ban chính sách trung đoàn định mang về mai táng ở nghĩa trang các chiến sĩ phòng không đã huy sinh ở Vinh, ngay đầu thôn Phong Xuân đây ,nhưng bà mẹ xin để ở đấy cho tiện trông nom, hương khói. Cặp môi Lộc run run, đôi mắt nhỏ, mí sệ xuống, lóng lánh nước: - Nếu mình bình tĩnh kịp nhìn thấy chiếc máy bay bổ nhào thẳng vào trận địa thì anh Xương với Đăng không hy sinh. Đăng nó vươn hẳn người lên chỉ mà mình vẫn không nhìn thấy. Lộc cúi đầu xuống, nước da anh còn xanh tái, những cơ ở mặt rung nhè nhẹ. Trên gương mặt như có bóng tối lướt qua, một nỗi bàng hoàng kinh sợ đã lặn sâu nhưng Thái vẫn nhìn ra nó còn đang ở trong ấy, trong ánh nhìn, trong cử chỉ lúng túng và hơi thở như nén lại. Thái ngồi im lặng tránh ánh mắt Lộc và cố tìm một câu nói vui cho không khí giữa hai người nhẹ nhõm mà nghĩ mãi không ra. Lúc lâu sau Lộc ngẩng lên: - Tai mình đã hơi đỡ. Mai kia mình xin Thủ trưởng Trung đoàn về lại trận địa. Thái ngẩng lên rất nhanh, nói rõ từng tiếng: - Không, anh không nên về nữa! Trên gương mặt Lộc vụt đến sự nghi hoặc: - Sao không nên về? À, cậu đang phụ trách đại đội phải không? Hiểu ngay ẩn ý câu nói, Thái đáp rắn rỏi: - Tôi vẫn làm A trưởng chỉ huy. Giọng Lộc trở về với sự hằn học cố hữu, chiếc rẳng vàng lóe sáng ở khóe miệng: - Ai làm Đại đội trưởng thay tôi, hả? - Tham mưu trưởng đã thông báo anh Toàn Đại đội phó đại đội ba anh hùng sang “xê” ta làm “xê” trưởng từ hôm nay. - Thế tôi sẽ làm gì bây giờ? – Giọng Lộc hoảng hốt, không ra hỏi Thái cũng không hẳn nói với chính mình. Anh chồm đứng dậy, nhảy ra khỏi võng: - Không! Không! Tôi phải về đại đội. Tay Đoàn Cung nó thù tôi. Thằng cha bụng phệ đánh nhau không tiếc sinh mạng của lính, mấy lần bị tôi khía cho, hắn còn uất. Chờ cho Lộc ngồi trở lại võng, Thái nói từ tốn: - Anh nên ở cơ quan. Anh sẽ làm trợ lý tác chiến chẳng hạn. Như vậy phù hợp với sức khỏe của anh hơn. - Nhất định không. Tôi phải về, không ai thay tôi được. sẽ hỏng mất truyền thống đơn vị. Bao nhiêu công lao chỉ huy, xây dựng nề nếp, bây giờ đổ xuống cát hết. Thái đứng dậy: - Chiến tranh sẽ ngày càng ác liệt. Có lẽ đại đội ta sẽ chẳng còn ai để mà tính công lao. Anh nên về ban tham mưu trung đoàn, như thế hợp với năng lực của anh hơn. Lộc loạng choạng đứng dậy, với tay lên cái túi công tác đeo trên đầu võng. Anh lập cập mở khóa, lấy một phong thư, bàn tay run lẩy bẩy: - Cậu cầm lấy cái này – Anh chưa đưa cho Thái ngay- Xin lỗi cậu, với tư cách là người gần gũi cậu và rất yêu quí cậu, tôi đã mở ra đọc trước. Cậu phải rất bình tĩnh để đọc lá thư này. Cậu hứa đi! Thái tái, mặt, cặp môi bỗng run bắn, tay chân lạnh toát. Anh phải tựa lưng vào gốc cây bưởi bung. Những chùm quả căng mọng, độc địa rủ ngay trước mặt. Đôi mắt mở to kinh ngạc, chờ đợi một tai họa lớn sắp giáng xuống. Thái gắng gượng bước lên ôm cứng lấy người Lộc. - Thư à! Thư gì vậy anh? - Cậu hứa đi. Cậu phải rất bình tĩnh. - Tôi hứa…Thái nói một cách khó nhọc. Lộc khẽ đẩy Thái ra. Anh thu lá thư vào người rồi cả quyết đặt vào tay Thái. Mặt anh tối sầm, đầy bi thảm vừa vụt lên một tia nanh ác. Tia sáng ấy anh không cưỡng lại được, nó từ một cõi nào đấy, anh không kiềm chế được và nó bật ra. Tia mắt ấy nói lên sự đau đớn và sự hằn học vì con người phải từ bỏ những gì cao cà chính mình đã từng sống, từng suy nghĩ và sáng tạo nên. Còn người khác vẫn đĩnh đạc đi trên con đường đó.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top