Truyện ngắn Di Li

Tiếng chuông điện thoại cấp kỳ làm luật sư Thạch tỉnh giấc. Ðầu dây bên kia có vẻ mừng rỡ "Vũ đây. Có một khách hàng mới cho anh. Vụ này phi anh không ai làm nổi."

Ðúng 8 giờ sáng hôm sau luật sư Thạch có mặt ở văn phòng. Ông đảm nhiệm việc bào chữa cho các tội phạm hình sự. Thạch khét tiếng trong ngành vì độ rắn mặt, xử lý tình huống bằng mọi cách nhờ vào những kẽ hở trong luật pháp nhưng cái giá phải trả cho ông không rẻ chút nào. Vũ đặt xấp hồ sơ lên mặt bàn. Sắc mặt luật sư Thạch không thay đổi. Ở cái thành phố yên bình này, một vụ án hấp dẫn như vậy khiến ngay cả mấy đứa trẻ nít mặc đồng phục cũng bàn tán với vẻ hiểu biết. Gần 50 tuổi, luật sư Thạch vẫn sống một mình. Thạch say mê nghề nghiệp một cách lạnh lẽo và lạnh lẽo cắt đứt với bất kỳ người phụ nữ nào nhỏ lệ than phiền "Anh tìm đủ mọi cách để chạy tội cho cái bọn bất lương, vô nhân tính ấy. Cái gì cũng phải có nhân có quả chứ". Luật sư Thạch xem qua các thông tin mới nhất trên báo trong lúc chờ đợi đại diện của thân chủ. Một vụ giết người xảy ra tại nhà riêng của một cô gái trẻ. Nhưng cả nạn nhân lẫn bị cáo đều là khách. Người bị giết là bà P, giám đốc ngân hàng X, hung khí là một con dao t**** hoa quả có dấu vân tay của người khách thứ hai, một thanh niên 27 tuổi, nghề nghiệp tự do. Suy luận logic rất đơn giản, một vụ xung đột do mâu thuẫn tình ái dẫn đến va chạm. Ðúng 9 giờ, một phụ nữ nhỏ bé xuất hiện. Bà ta quãng ngoài sáu mươi, nhưng nhìn kỹ thì có vẻ không đến vậy. Dường như những vất vả của cuộc sống thường nhật và nỗi đau mà bà đang gánh chịu khiến bà già đi hàng chục tuổi. Bà ta trông nghèo nàn, nhẫn nhịn và suy sụp. Khi đối diện với Thạch trong phòng riêng, bà ta oà khóc "Mẹ con tôi trăm sự nhờ ông. Mẹ con tôi rất nhiều tiền, ông muốn bao nhiêu cũng được. Thằng Hùng nhà tôi nó non nớt trong khi con mẹ kia thì sành sỏi. Nó bị lừa ông ạ. Con mẹ ấy đãng, quyến rũ một thằng chỉ đáng tuổi con mình rồi bủa vây nó. Chắc chắn là nó làm cho thằng Hùng nhà tôi hoá điên" - "Khoan đã," luật sư Thạch chặn cơn xúc động của người mẹ lại và nói bằng giọng lạnh lẽo "Bà chỉ trả lời những gì tôi hỏi."

Cô gái trẻ trong ngôi nhà Pháp cổ

Luật sư Thạch luôn có những cách làm việc hoàn toàn khác với nguyên tắc thông thường. Ông không căn cứ theo logic của chuỗi sự kiện và những lớp lang bài bản của một luật sư nhà nghề. Phần lớn, trực giác khiến ông đánh hơi thấy chìa khoá của thành công. Ngôi nhà xảy ra vụ án rất dễ tìm, nằm ven hồ, khuất trong một khu phố yên tĩnh. Nó có cửa xanh lá cây, tường màu vàng, xây theo kiến trúc kiểu Pháp và đã tồn tại gần nửa thế kỷ. Chủ nhân của ngôi nhà, người liên quan đến vụ án mà báo chí nhắc tới liên tục vừa tạm thời được tại ngoại, ra mở cửa đón ông. Luật sư Thạch hơi chững lại, chỉ là vì bản năng nghề nghiệp, nữ chủ nhân khoảng 24 tuổi, khuôn mặt khiến người đối diện cho dù là bất kỳ đối tượng nào đều không muốn quay đi chỗ khác. Vẻ đẹp của cô giống hệt ngôi nhà, sang trọng, lịch lãm, cổ xưa và có một vẻ quyến rũ bí hiểm. Một âm thanh mơ hồ va chạm thính giác của người khách, là một bản nhạc. Nó nhẹ, da diết, lạnh lẽo, âm u như cất lên từ lối vào hoang hoải của một khu vườn bí mật. Cô pha trà, mở cánh cửa trông ra hồ và vẫn không vặn nhỏ nhạc. Căn phòng khách xinh xắn, có cả thảm len và giấy bồi tường hoa văn xanh, chiếc lò sưởi cũ kỹ nay được tận dụng để cất toan và cọ vẽ. Cô ta là hoạ sỹ, hẳn nhiên rồi, thông tin này ông đã biết từ trước. Ông bắt chuyện "Bản nhạc gì hay quá, nhưng buồn?". Cô gái rót trà "Appassionata, của Secret Garden". Cô mím môi lại, để ngăn cái gì đó sắp trào ra. "Cô có thể kể lại trình tự", luật sư Thạch không để phí thời gian. Cô gái ngồi thẳng người trên băng ghế, nét mặt trở lại điềm tĩnh "Bà ấy đến, khi tôi và anh ấy đang nhảy. Bà ấy đã hoá điên khi nhìn thấy chúng tôi. Bà ấy chửi rủa, gào thét điên loạn, rồi chạy vào bếp tìm con dao t**** quả và lao vào tôi. Anh ấy giằng ra được nhưng bà ấy đã mất hết lý trí, cứ thế lao thẳng vào lưỡi dao." - "Ở chỗ nào?" - "Ở đây". CÔ gái chỉ vào khoảng không cạnh lò sưởi. Một thoáng sợ hãi, song nữ chủ nhân lấy lại bình tĩnh rất nhanh. "Cô là gì của anh ta?" - "Bạn gái, tất nhiên rồi" - "Người ta bảo bà kia mới là bạn gái của anh ta". Cô gái nhếch mép, vẻ khó tả "Chúng tôi yêu nhau, buổi tối nhảy với nhau ở đây và làm nhiều việc khác ở đây nữa" - "Cô kể cụ thể hơn đi." Vẻ chai sạn, sành sỏi trong vài giây biến mất, cô ta trở lại cảm giác suy sụp và xúc động lúc ban đầu "Anh ấy là tất cả những gì tôi có. Tôi mồ côi. Ngay cả họ hàng cũng không. Chỉ còn lại ngôi nhà này, của mẹ tôi để lại. Anh ấy là người tình cảm, tốt bụng, nội tâm, luôn sống vì người khác. Anh ấy bị oan'. Rồi cô ngước đôi mắt có một hạt nốt ruồi rất dễ thương bên cạnh hỏi một cách ngây thơ "Liệu anh ấy có được cứu không?". Luật sư Thạch rối trí. Ông mới chỉ ngồi với nhân chứng có mươi phút song cô ta thay đổi thái độ liên tục khiến sự nhạy bén của ông bắt đầu bị rối loạn. Ông đứng dậy "Bất kỳ tôi cần thêm thông tin gì, mong cô giúp đỡ". - "Tất nhiên rồi", cô thì thầm như người mộng du "Bà ấy lúc nào cũng muốn nhảy trên nền bản nhạc này. Nhưng anh ấy đã hứa, điệu Waltz là dành riêng cho tôi..." Luật sư Thạch bắt đầu nhìn thấy máu chảy trên nền nhà, ánh inox loáng lên của con dao t**** quả và những tiếng kêu điên dại hoà lẫn bản Appassionata khắc khoải. Ông vội vàng rút lui để lý trí không bị những cảm tính kỳ lạ lấn át. Tiếng nhạc rờn rợn và hiện trường của vụ án khép lại đằng sau lưng Thạch, khi cánh cửa gỗ màu xanh lá cây được nhẹ nhàng đóng lại.

Lời kể của người viết sớ ở chùa Ông

Ông chờ một chút, để tôi viết nốt bức này cho khách... Thôi, xong rồi. Chuyện của thằng Hùng hai năm rõ mười rồi còn gì, giết nhau vì tiền, vì tình. Chỉ có điều ông uốn lượn mồm mép cãi hộ cho thằng bạn tôi giảm án được năm nào hay năm ấy. Bọn tôi học đại học cùng nhau, nhưng đến năm thứ hai thì nó bỏ. Nguyên nhân à? Nó đi làm trai nhảy. Nó bảo nó cần tiền, đi làm thêm, rồi vào vũ trường dẫn mấy mụ nạ dòng và làm cả những gì có trời mới biết. Sau đó nó có tiền, rất nhiều, mua được đủ thứ. Nhà nó nghèo kiết xác, nhưng ra đường ai cũng bảo nó là thiếu gia. Nó giấu tịt gốc gác của mình, đi cùng ai đều tránh cái phố có nhà của nó, nếu lỡ có việc qua đó thì đi đường vòng. Giữa đường gặp mẹ đẻ nó cũng ngó lơ ra điều người lạ. Càng những kẻ giá trị thấp càng cố nâng giá trị của mình lên càng nhiều càng tốt, bằng cách nào dễ thấy nhất, dễ đánh giá nhất. Nó khoác lên người quần áo hàng hiệu, mua sắm xe đẹp, điện thoại xịn, người ngợm lúc nào cũng bóng lộn, thơm phức như vừa bước ra từ khách sạn năm sao. Mới đầu tôi cũng mừng cho nó vì hồi ấy bọn tôi thân nhau, và tôi là đứa bạn thân duy nhất, nhưng sau vài lần bắt gặp nó và tụi đồng nghiệp, tôi đến phát tởm. Mấy đứa bọn nó giống hệt nhau, ngoài cách ăn mặc còn rập khuôn cả đến cách nói và kiểu cười. Bọn nó cười khó tả lắm, giống nhau như cùng được nặn ra từ một cục đất sét, nó đĩ thoã, thớ lợ và hèn hạ. Rồi vài lần tôi bắt gặp nó đèo mấy mụ sồn sồn, lại còn ôm eo và đùa nghịch như gái mười tám. Tôi kinh quá, khuyên ngăn hết lời nhưng nó cười hềnh hệch, bảo sĩ diện có mài ra mà ăn được không. Nó nói thế thôi nhưng sĩ diện to như núi, không thế sao lúc nào cũng phải giấu giấu giếm giếm đủ mọi thứ. Cuối cùng thì nó cũng bỏ học sau khi nợ môn liểng xiểng. Chúng tôi học Hán nôm. Nó bảo có cày được hết hai năm nữa thì cũng thất nghiệp, rồi đến lên chùa mà ngồi viết sớ. Nó nói cũng đúng. Tôi phải ngồi đây viết sớ bốn năm có lẻ rồi, vì chẳng còn nghề nghiệp gì nữa. Nhưng làm theo cách của nó, thơm vào má mấy mụ nạ dòng ấy mà nói "Anh yêu em" để đổi lấy ít quần áo thì tôi chịu. Mà ông thích chữ gì để tôi viết tặng ông một bức miễn phí, chữ Tâm nhé?

Người cháu ruột và ngôi nhà thừa kế

Người thừa kế duy nhất của nạn nhân đồng ý tiếp luật sư Thạch sau cú điện thoại hẹn trước. Anh ta xấp xỉ tuổi nạn nhân, là cháu gọi bằng dì ruột và vừa mới tuần trước dọn đến ngay ngôi nhà của người họ hàng xấu số. Khuôn viên của ngôi biệt thự rộng chừng 500 mét vuông, có gara ô tô và một bể bơi nhỏ ở sân sau. Anh ta mời luật sư Thạch vào phòng khách. Căn phòng này rất rộng, toàn bộ mặt tiền được ốp kính. Anh chủ nhà kéo rèm, ánh sáng ùa vào phòng chan hoà, khoe toàn bộ những đồ nội thất rất thẩm mỹ vẫn được kê nguyên si từ khi người chủ trước còn sống. Anh ta mở tủ lạnh, bật nắp hai lon bia với vẻ kẻ cả như thể đã sống ở đây từ bé. Ngày nay không mấy ai còn để râu, nhưng bộ ria mép được anh ta t**** tót công phu vẻ như cả ngày chỉ có việc sang sửa nó. Bức ảnh phóng to của người quá cố có lẽ trước treo ở vị trí trang trọng nhất trong phòng khách nhưng nay đã bị hạ xuống và dựng sau cửa ra vào. Anh ta thanh minh "Người chết chỉ có bày ảnh thờ, ai lại treo ảnh cười điệu thế. Lát nữa tôi phải mang nó cất xuống nhà kho". Người phụ nữ trong ảnh trông trẻ hơn so với tuổi thực, chỉ như quãng ngoài ba mươi, không rõ do kỹ thuật làm ảnh hay do bà ta trẻ thế thật. Bà ta mỉm cười, nụ cười đèm đẹp, song hơi khô khan. Mái tóc uốn quăn ôm lấy khuôn mặt trắng trẻo và quý phái. "Anh và dì anh có hay gặp nhau không?", luật sư Thạch bắt đầu. "Thỉnh thoảng, vì dì tôi cũng rất bận. Ông thấy đấy, làm sếp cả một ngân hàng lớn, có phải ít việc đâu" - "Còn về anh Hùng?". Anh ta bĩu môi "Tôi có gặp nó vài lần. Cái thằng ma cà bông đẹp mã, nó định chăn dắt bà dì tôi nhưng không thành nên mới nảy ra ý giết người. Dì tôi càng già càng lú lẫn nên mới để nó lừa cho chứ". "Anh có bao giờ gặp cô M?" - "Lúc nào mà chả gặp, con hồ ly tinh ấy nó là con nuôi của dì tôi'. Luật sư Thạch sửng sốt "Con nuôi à?" - "Ðúng thế. Chuyện này chẳng ai biết đâu. Ông bà ngoại tôi mất sớm nên bà dì chỉ có người thân duy nhất là mẹ tôi. Chồng con chả có nên mới thương xót con bé không cha không mẹ ấy, còn chi tiền mua cho nó cả cái nhà to vật cạnh hồ". - "Tại sao anh không khai chuyện này cho bên điều tra, có phải anh sợ khoản thừa kế bị chia sẻ?". Anh ta trợn mắt "Ông hàm hồ vừa thôi chứ, ông nên nhớ ông là luật sư của bên bị đấy nhá. Lẽ ra tôi không cần thiết phải gặp ông thế này. Tôi là người thừa kế duy nhất theo pháp luật thì sợ quái gì việc ấy. Con bé kia chỉ được nhận làm con nuôi bằng miệng thôi chứ có giấy tờ chứng nhận gì đâu. Thế nên nó mới cấu kết với thằng khố rách áo ôm lập mưu giết người để được hưởng ít của nhưng ai ngờ mạt cưa lại gặp mướp đắng". - "Sao ban nãy anh bảo vì kế hoạch không thành nên anh ta mới giết bà dì anh?". Người cháu lúng túng "Thì... phải có nhiều phỏng đoán chứ. Biết rõ rồi thì tôi lên làm thẩm phán rồi còn gì. Mà ông định cho tôi vào tròng gì đấy? Có khi tôi phải báo cáo cuộc gặp ngày hôm nay với bên điều tra mới được". Anh ta nửa đùa nửa thật rồi lo lắng nhìn luật sư Thạch chòng chọc. Luật sư Thạch nói thản nhiên "Nhưng nếu không có cái sự việc kia thì lẽ nào anh lại được ngồi đây". Anh ta hoàn toàn bất ngờ "Ờ thì... tất nhiên là thế, nhưng... tôi vẫn thương bà dì của tôi lắm". Ông đưa đòn quyết định "Anh nhất định can thiệp vào việc này?". Anh ta mỉm cười "Ồ, tôi hiểu ý rồi, có tội thì phải đền tội, nhưng tội trạng đến đâu thì có luật pháp, mà một luật sư giỏi như ông đây cũng có nhiều cách thì phải."Thân chủ 

Luật sư Thạch vào trại tạm giam để gặp khách hàng. Cách làm việc ngược đời của ông luôn tỏ ra hiệu quả. Bị can cao lớn, thân hình vẫn rất vạm vỡ cho dù chế độ phòng giam có khắt khe, duy có khuôn mặt là hóp lại, râu ria không cạo, đôi mắt trũng sâu. Dầu vậy thì anh ta trông vẫn thu hút với sống mũi thẳng và ánh mắt lúc nào cũng buồn bã. Anh ta đưa cho luật sư Thạch một bì thư "Tôi đã viết hết vào đây. Ông đọc xong còn muốn hỏi gì nữa thì tôi sẽ trả lời. Tôi đã nghe mẹ tôi kể về ông. Bà nói rằng ở cái thành phố này ngoài ông ra không còn ai có thể cứu tôi được nữa." rồi anh ta dí sát mặt vào Thạch thì thào "Tôi có tiền, rất nhiều tiền, ông muốn bao nhiêu cũng được, miễn là đưa tôi ra khỏi đây." 

Luật sư Thạch ngồi trong phòng làm việc, mở bức thư, chữ viết trên giấy lúc đẹp lúc xấu, chỗ thì ngay ngắn, chỗ thì run rẩy. 

Kính gửi ông luật sư 

Tôi không biết ông sẽ bắt đầu hỏi tôi từ đâu, từ lúc xảy ra vụ án? từ lúc tôi quen bà ta? từ lúc quen nàng? hay từ lúc tôi bỏ học để đi làm cái nghề bẩn thỉu này? Gia đình tôi nghèo, có mỗi hai mẹ con. Tôi thương mẹ tôi nhưng không đồng ý với cái mơ ước giản dị của bà về một chỗ làm ổn định, tùng tiệm đủ sống. Mà ngay cả cái chỗ làm vớ vẩn ấy đối với tôi cũng quá xa vời. Giá thử tôi là phụ nữ, ra trường sẽ dễ kiếm một việc làm hơn. Nhưng thôi, quay lại chủ đề chính. Mới đầu tôi cũng không nghĩ sâu xa gì, chỉ muốn vừa đi học vừa tìm một chỗ làm thêm. Từ bé tôi đã căm ghét cái nghèo. Nó làm tôi đói cồn cào ruột gan những lúc lên lớp mà không có gì bỏ bụng, nó làm tôi lúng túng đến khổ sở khi bạn bè đến thăm nhà mà không có một cái ghế tử tế cho họ ngồi, làm tôi sượng trân trước mấy chục ánh mắt khi bị nhắc đóng tiền học. Những cảm giác này vẫn đeo đẳng cho đến năm tôi vào đại học. Lúc ấy tôi thèm tiền đến khủng khiếp, thèm chẳng phải để làm gì to tát cả mà chỉ để ăn cho no, đêm ngủ một mạch không phải lo xem sáng mai có sự kiện gì cần đến tiền nữa không. Tôi đã thử xin chán vạn những công việc thông thường nhưng thất bại. Người ta không cần đến một gia sư chả biết gì ngoài Hán nôm hay một thằng bồi bàn khổng lồ như vệ sỹ. Cũng có thể nếu cơn thèm tiền kinh niên của tôi đừng quá đi, tôi đã chấp nhận làm một chân trông xe đêm hay bảo vệ gì đó. Nhưng đúng lúc nan giải nhất, tôi được gã hàng xóm giới thiệu cho một công việc nhàn nhã. Nhàn nhã thế nào? Chỉ việc nhảy múa và lĩnh lương. Lại làm việc trong nhà, mùa đông thì ấm áp, mùa hè thì mát mẻ, môi trường văn hoá nghệ thuật, sáng vẫn có thể đi học bình thường. Tôi đi cùng gã đến sàn nhảy Thiên đường. Gã cai nhìn tôi từ đầu đến chân "Mày biết nhảy không?". Tay hàng xóm vội vàng quảng cáo "Khỏi phải mất công đào tạo. Cậu này là cây khiêu vũ số một ở trường". Sau lời tán tụng ấy thì tôi được nhận vào ngay ngày hôm sau. Gã cai hướng dẫn "Ðơn giản lắm, chỉ việc dẫn khách nhảy thôi. Nhưng điều khó nhất là làm họ hài lòng. Nếu chỉ cần một lời phàn nàn thôi..." Gã huýt sáo và hất nhẹ cái đầu. Gã dạy rằng khách đa phần là nữ nên họ hay ngại ngùng, kể cả những người đã dạn dĩ thì họ cũng muốn được quan tâm nhiệt tình. Làm nghề này phải tinh ý, cần liên tục đảo mắt ra xung quanh. Nếu có bất kỳ khách nữ nào nhìn mình, chỉ cần nhìn lướt qua thôi, thì chính là họ đang cần mình. Phải ra mời ngay, động tác thật nhẹ nhàng. Tôi cảm giác gã kia đang dạy khôn. Tôi rất đẹp trai, tôi biết chắc thế, nên ở bất cứ đâu cũng có hàng tá các nàng tới tán chuyện, vì thế tôi rất nhạy cảm trong giao tiếp với phái nữ. Tôi đủ biết họ thích gì và làm thế nào để họ thấy hài lòng. Tuy nhiên, ngày đầu tiên chính thức lên Thiên đường, tôi bắt đầu đần độn. Những cô gái trẻ thường đi cùng bạn trai của họ, còn phần lớn khách hàng mà tôi phải dẫn đều ngót nghét bằng mẹ tôi, hay chí ít thì cũng bằng bà chị họ con bác cả. Không sao, tôi vẫn dẫn họ ngon lành. Cứ coi như đang giờ học khiêu vũ, chả có rất nhiều cô giáo già đến học cùng chúng tôi đó sao. Trực giác khiến tôi cảm thấy những ánh mắt bao quanh mình tứ phía nhưng tôi không cần phải mời, tự họ ra mời tôi nhảy. Tôi nhảy không kịp thở. Tôi cũng dành tặng cho họ những lời khen ngợi "Bác nhảy đẹp lắm", nhưng xem ra họ có điều gì đó không hài lòng. Hết bài Rhumba thứ hai thì một đồng nghiệp ra nháy tôi "Bàn kia mời anh ra ngồi cùng". Ðó là một tốp các bà đều trên bốn mươi, đang nói cười vui vẻ. Một chị gày gò, nhỏ bé nhưng mặc chiếc váy ngắn như búp bê hỏi tôi "Anh mới làm buổi đầu tiên đúng không?". Tôi xởi lởi, không e ngại "Vâng ạ, cháu mới làm. Có gì không phải cô cứ chỉ bảo nhé". Chị ta không hỏi gì thêm nhưng thằng đồng nghiệp thì bấu tôi một cái. Tôi không hiểu gì luống cuống "Tango này, cháu mời cô". Thằng kia lắc đầu rồi nhanh ng pha trò gì đó làm cả đám các bà cười phá lên. Hắn nhanh ng thọc tay vào lưng áo của bà mặc chiếc váy nhung gấm bó chẽn phô cả những ngấn thịt rung rinh khi cười. Hắn xoa nhè nhẹ rồi cười giả lả "Ướt hết rồi này, cả trong lẫn ngoài". Bà kia rú lên, đu lấy chiếc cà vạt của hắn "Thì đây cũng thế, ướt hết cả áo rồi. Hôm nay nhảy bốc quá". Tôi thấy ngụm bia vừa trôi qua cổ họng chợt ú lên, chỉ chực trào ra ngoài. Thằng này đúng bằng tuổi tôi, và cái quý bà nếu gặp ngoài đường sẽ rất khả kính kia đáng tuổi mẹ nó. Sau ngày làm việc đầu tiên, lúc tôi dắt xe ra ngoài, thằng kia vẫy tôi lại "Này, cậu mít đặc bỏ mẹ. Lần sau cấm không được gọi người ta là cô hay bác đâu nhé. Già quá thì gọi chị, hoặc xưng tên, trẻ trẻ thì cứ gọi bằng em cũng được. Lần này biết cậu lính mới nên họ bỏ qua chứ còn thế nữa nó tẩy chay thì chỉ có chết đói." Tôi ngẩn ngơ "Trẻ bao nhiêu thì gọi là em?". Nó cười như được mùa "Dưới U40 thì em được rồi. Thế nhá". 

Tôi vốn dễ thích nghi, có lẽ chính cuộc sống cơ cực, khốn khổ từ tấm bé dạy cho tôi cái khả năng ấy. Ngày hôm sau, tôi bắt đầu xưng tên với các bác già. Mới đầu thì ngượng mồm, rồi về sau quen dần đi, thậm chí lắm lúc hứng lên tôi gọi họ là em ngọt xớt. Họ không những giận tôi vì tội vô lễ mà còn thích thú đáp trả "Ngày mai Hùng chỉ nhảy Tango với Quỳnh thôi đấy nhé". Dù sao, cũng có những thứ mà tôi không thể làm được, hay chưa thể làm được. Những phụ nữ mời chúng tôi ra bàn, cho dù đã có cháu nội cháu ngoại, có xấu ma chê quỷ hờn cũng đột nhiên trẻ trung lại và nhí nhảnh như thiếu nữ mới lớn. Họ đùa nghịch, giằng co với mấy thằng đồng nghiệp của tôi. Họ đỏ bừng mặt trước một lời đùa tếu rồi nói dỗi "Trông cái mặt ghét chưa kìa". Mấy thằng kia cũng thích chí, liên tục pha trò và tán láo, đôi lúc còn thơm nhẹ lên những cặp má già nua. Nhưng đã bảo rằng tôi rất dễ thích nghi. Mới đầu tôi còn cảm thấy ớn cổ họng hay đi ra đường cứ gặp các bà sồn sồn da mặt nhăn nheo là giật thột. Sau cũng quen, như người ta uống thuốc Bắc ấy mà, chỉ ghê những thang đầu. Bù lại cho những gì tôi phải chịu đựng một cách thoải mái và tự nguyện, những từ giấy bạc cứ đều đặn chui vào túi áo. Tôi trở thành ngôi sao của Thiên đường, vì đẹp trai, khéo chiều khách, lại dẫn giỏi. Khách ở các sàn khác đều đổ đến. Về sau nếu họ muốn nhảy với tôi đều phải gọi điện đặt trước. Tôi có thằng bạn thân, một lần nó tình cờ đến Thiên đường và trông thấy tôi. Nó kéo tôi ra rồi vả một cái vào mặt. Tôi không đánh lại, chỉ cười khấy và bỏ vào. Nó không bị đói, nên không thể có sự so sánh giả định được. Tôi bắt đầu kiếm tiền khá dễ dàng, không đủ để vung tay quá trán nhưng có thể đưa cho mẹ tôi chi dùng hàng tháng. Mới đầu tôi không dám nhìn thẳng vào mặt bà, sau mỗi lần mẹ tôi vặn hỏi về nguồn gốc của những khoản tiền và giờ giấc sinh hoạt còn bị tôi cự nự. Tôi cho mình cái quyền là thu nhập chính của gia đình và tất nhiên bà phải nghe lời tôi. Ở đâu cũng vậy thôi, ngay cả trong một gia đình chỉ có hai người, người nào có tiền, người đó làm chủ. Tôi bắt đầu làm việc tăng ca và thành thạo với đủ ngón nghề. Nếu một bạn nhảy nào đó phàn nàn "Sao hôm nay nhảy ỉu thế cưng?", tôi liền ca cẩm "Hùng vừa phải đi bộ từ trường sang đây. Hôm nay xe hỏng mà vẫn chưa có tiền sửa cưng ạ." Hay hôm nào đó lỡ nghỉ một buổi để thi cuối kỳ, khách nháo nhác cả lên hỏi thăm, tôi làm mặt rầu rĩ "Bà già Hùng đang nằm viện, mấy bữa nay cực quá, phải ở nhà để lo chạy tiền viện phí". Phụ nữ vốn giàu lòng trắc ẩn, nhất là đối với những người mà họ yêu quý. Tuy nhiên, những gì mà tôi phải miệt mài, phải cật lực vẫn không sao thoả mãn khát vọng của tôi. Lũ bạn đồng nghiệp cũng làm như tôi, nhưng không xuất sắc bằng tôi, vậy mà tiền ních đầy túi, có đầy đủ xe đẹp và điện thoại đẹp. Một tối, sau ba tháng làm việc, thằng Tuấn mới rủ tôi đi uống cà phê. Nó hơn tôi năm tuổi và chưa bao giờ tụi tôi nói chuyện ngoài lề với nhau cả. Nó vào đề luôn "Em Ánh muốn mời mày đến nhà chơi". Tôi lắc đầu quầy quậy "Thôi, đánh đu với các mẹ trên sàn đã đứt hơi rồi. Mà lên sàn thì đành phải chiều các mẹ, chứ ra ngoài chơi thú vị nỗi gì. Ði kiếm mấy em trẻ mà chơi có hơn không". Nó làm động tác như hóc xương cá "Tao bó tay. Mày không hiểu thật hay... Ai lại đến nhà chơi không?" - "Thế làm gì?", tôi ngơ ngẩn. Nó phì cười "Làm tiền. Làm cái để ra tiền ấy?. Tôi đỏ mặt lên "Anh xui em đi làm cave à?". Nó cười mỉm "Ấy chết, cave là để dành cho đàn ông. Đàn ông xong việc mặc quần rồi trả tiền là xong, đố có thêm được đồng nào nữa. Còn phụ nữ người ta cần tình cảm là chính. Người ta cần người bầu bạn, nói chuyện, sẻ chia, tán tụng, rồi thì mày muốn bao nhiêu mà chả được. Như thế ăn chắc mặc bền hơn chứ, mày xem tao đây này. Ngồi chờ mấy đồng tiền bo trên sàn mà được thế này à. Ba xoa không bằng một đập đấy". Rồi nó dang hai tay lên như để khoe bộ quần áo đẹp. Nó chốt lại "Mà mày có mất cái gì đâu cơ chứ. Mày cứ làm như mày là thiếu nữ đồng trinh ấy. Lúc nào chán thì thôi, giải tán". Tôi ngồi lại trong quán cà phê một mình, nghĩ ngay đến bà Ánh và rùng mình. Bà ta là khách quen, chủ một tiệm vàng trên phố, lần nào lên sàn cũng nhảy với tôi là chính. Bà ta cao lớn, cười tươi, mặt mũi trắng trẻo nhưng cổ xếp nếp như da voi. Tôi đã va chạm với bà ta chán chê. Chính là những lúc nhảy điệu Tango, bà ta luôn chủ động ép sát vào tôi, dồn cả những khúc thịt mềm và ấm lên bụng, lên ngực tôi. Tôi tính ý, biết ngay là bà ta thích mình nhưng chưa nghĩ đến cái việc cụ thể kia. Tôi bắt đầu cố hình dung, nhưng mới chỉ được vài giây đầu, tôi đã phải tu ừng ực một chai bia để xua đi những hình ảnh hãi hùng. Tối hôm sau, khi ban nhạc sống đang chuẩn bị cho điệu Viennes Waltz cuối cùng, thằng Tuấn gọi riêng tôi ra "Cả hội bây giờ sẽ tụ tập ở nhà em Ánh. Mày phải đi cùng. Uống bia và tán láo thôi, chẳng làm gì cả. Người ta khen mày hôm nay dẫn nhiệt tình, có thưởng cái này". Nó nhét vào tay tôi hai tờ polyme mệnh giá lớn nhất. Tôi dúi vội vào túi quần, ra mời bà Ánh nhảy. Bà ta tủm tỉm nhìn tôi "Tối qua nhà Ánh chơi nhé". 

Cả hội chúng tôi có sáu người, ngoài thằng Tuấn còn có ba bà bạn khác tụ tập ở nhà bà Ánh. Chúng tôi uống bia pha một số loại rượu thuốc gì đó, xem tấu hài và tán những câu nhạt nhẽo cho họ cười sằng sặc. Tất nhiên là tôi chẳng thú vị gì. Nhưng ý nghĩ một cuộc mua vui ngắn ngủi thế này có thể đổi được cái vật đang nằm trong túi khiến tôi vui lên. Tôi bắt đầu say bí tỉ, lơ mơ thấy mọi người rút về hết và thằng Tuấn vỗ vai tôi "Ánh cạo gió giỏi lắm. Cứ yên tâm, một lúc là giã rượu". Tôi vẫn lơ mơ nhìn bà Ánh cởi áo tôi ra và xoa dầu gió lên lưng. Tôi say lắm, nhưng không đủ say để ngủ lịm đi, trái lại có thứ gì đó cứ nóng dần lên và áp đảo tôi. Bà Ánh vẫn vuốt nhẹ lưng tôi và tôi dần nhận ra một điều gì đó thật tồi tệ. Cái cảm giác của đêm hôm đó thật mông lung, chẳng ấn tượng gì đáng kể nhưng nó khiến tôi không bao giờ quên được. Hệt như khi người ta bị ép ngửa mặt để tọng một bát nước thập cẩm vào cổ họng. Cảm giác đó qua rất nhanh, nhưng dư vị chua, chát, ngọt, đắng của nó khiến dây thần kinh vị giác nhiều năm sau vẫn chưa hết bàng hoàng. Ðó là lần đầu tiên của tôi.? Tôi vẫn đọc trong sách, xem trên màn ảnh, nghe bạn bè kể lại, cộng thêm cả trí tưởng tượng phong phú thì hình dung ra cảm giác khi đặt bước chân đầu tiên vào vùng đất cấm phải vô cùng mê đắm và cuồng dại. Có ngờ đâu... Nhưng những gì mà bà Ánh bù đắp đủ để không làm tôi ân hận. Bà ta có đứa con gái đi du học, giờ sống một mình. Tôi bắt đầu cặp kè với bà ta. Và khi đã chán, nghĩa là không phải chán để đi tìm một thứ thú vị hơn, mà do đã tìm được một mối khá hơn, tôi bắt đầu cắt đứt với bà ta. Tôi liên tục thay đổi "mối". Bất kể điều gì, chỉ có lần đầu tiên là khó khăn nhất. Khi đã vượt qua được "cái đầu tiên" nghĩa là những cái về sau không phải là điều gì ghê gớm nữa. Như người ta uống thang thuốc Bắc thôi mà, chỉ kinh những thang đầu, về sau cũng đâu khác gì nước lọc. Có thể là ông thấy ghê sợ, không muốn bào chữa cho tôi nữa. Nhưng tôi phải kể đầy đủ nguyên nhân dẫn đến việc tôi gặp ông ngày hôm nay. Ông nên luôn ghi nhớ rằng tôi có tiền, rất nhiều tiền, thậm chí có thể cho ông hết tất cả. Tôi chẳng cần gì, chỉ cần có nàng thôi, tự do và nàng, thế thôi. 

Tôi vốn dễ thích nghi. Cuộc sống đã dạy cho tôi phải thế. Rồi có thể ông cũng như thằng bạn thân đã không thèm nhìn mặt tôi và tất cả những người khác hỏi rằng tôi làm việc đó thế nào. Tôi làm như là ông công chức đến giờ thì xách cặp đi làm, có thế thôi, không cần nghĩ ngợi gì nhiều. Những ngày đầu, tôi sa vào một trạng thái mâu thuẫn. Tôi như vớ được một món ăn lạ, vừa ghê sợ, lại vừa nghiện nó. Tôi thường tự làm phong phú hoá cái cảm giác thứ hai lên để củng cố tinh thần, cộng thêm những lợi lộc tức thì mà tôi được hưởng, thì tôi có thể cảm thấy mọi sự bình thường như đói thì phải ăn vậy. Tôi bỏ học, sống sung sướng bằng những vật chất chưa bao giờ sở hữu. Những người đàn bà chiều chuộng tôi còn hơn mẹ tôi ở nhà, tất nhiên theo một cách khác. Tôi cũng có cách để chiều chuộng và thoả mãn họ. Những người phụ nữ cho dù tuổi tác có đến đâu, nếu ở trong vòng tay đàn ông đều trở thành con trẻ. Họ muốn được khen ngợi, nâng niu và âu yếm. Cũng có những lần tôi không thể. Những người đàn bà cố làm cho mình quyến rũ bằng cách khỏa lấp các bộ váy áo kim tuyến sặc sỡ và phấn son rậm dày lên làn da đã không thể căng trở lại, lên những múi mỡ phều phào không biết xếp vào đâu làm tôi trở nên lạnh lẽo và khô cứng. Nhiều lần, tôi phải nhắm mắt lại và huy động bằng hết trí tưởng tượng. Tôi sợ làm họ giận. Họ có những cách phản ứng khác nhau, m**** mai, giận dữ, dằn dỗi, nhưng điều làm tôi sợ nhất vẫn là sự trừng phạt bằng những tờ giấy bạc. Chẳng phải tôi làm mọi việc là vì nó hay sao? Một lần thằng Tuấn mới khuyên tôi rằng nên kiếm lấy một mối khá và chỉ tập trung vào mối đó thôi cho ổn định. Nó cũng đã làm được việc đó rồi, một bà Việt kiều góa chồng, có khả năng sẽ bảo lãnh cho nó sang Mỹ. Nó huýt sáo "Rồi đến lúc sang đó sẽ cho mẹ ấy đi tàu suốt, kiếm hai nách hai em trẻ đẹp cũng chưa muộn". Tôi nghe lời nó, bắt đầu ý đồ của mình. Ðúng lúc đó, tôi gặp bà P. Bà ta chỉ tình cờ đến Thiên đường có một lần. Bà P khiêu vũ giỏi, nhưng không phải tuýp phụ nữ thích đàn đúm. Bà P có học thức, cư xử lịch lãm và đàng hoàng, không loè loẹt, dị hợm như những người phụ nữ khác tôi đã gặp. Tôi thích bà ta. Nghĩa là trong số những người phụ nữ kiểu như vậy thì tôi thực sự thích bà ấy. Tôi tìm hiểu mọi thứ về bà P và cảm thấy mừng. Nhưng bà ấy lại không thích tôi. Bà ấy cần đàn ông, nhưng không muốn một thằng nhóc như tôi. Rõ ràng, bà ấy không phải giống những người khác. Tôi bắt đầu lập kế hoạch để chinh phục, bắt đầu là hoa, những tin nhắn lúc sáng sớm và những lời tâm sự khi đã mời được bà ấy đi ăn tối. Tôi thành công quá sức tưởng tượng. Người phụ nữ nào càng khó chinh phục càng lú lẫn khi yêu. Thật tình, bà ấy cần tôi không đơn giản chỉ để làm việc đó hay để nghe những lời tán tụng như một sự phục vụ bao gồm trong hợp đồng, mà bằng cả sự mê muội kỳ lạ khác hẳn vẻ điềm tĩnh vốn có của bà. Bà ấy có nhiều người đàn ông thành đạt theo đuổi nhưng lại dành mọi sự ưu ái cho tôi. Mới đầu bà P còn e ngại về mối quan hệ này, sau tình cảm ngùn ngụt của bà khiến lúc ấy tôi có bảo quả đất hình vuông thì bà cũng đồng ý. Tôi chuyển hẳn đến biệt thự của bà, và được phép ?tham gia mọi cuộc giao tế xã giao khác. Bà P trẻ trung, nồng nhiệt, rất tôn trọng tôi và dần dần tôi thực sự si mê bà ấy. Ðàn ông luôn muốn chứng tỏ trước người phụ nữ mình si mê, tôi cũng vậy. Nhưng tôi chỉ là một thằng dẫn nhảy, bỏ học, tiền bạc so với bà ấy chỉ là hạt cát. Vì vậy tôi đành sử dụng những thứ khác để thể hiện bản lĩnh. Tôi vận dụng hết những gì đã học được để dạy bà ấy. Bà ấy giỏi giang mọi việc song có một thứ lại khờ dại như thiếu nữ mới lớn. Nhưng bà ấy có bản năng phụ nữ mạnh mẽ và một sự nồng nhiệt đầy ma mị. Vì thế chúng tôi si mê lẫn nhau. Chúng tôi thường nhảy với nhau trong phòng khách và sau đó rơi vào ma lực của bản năng ở bất cứ nơi nào có thể, dưới bể bơi, ngoài vườn, trên sân thượng hay trong buồng tắm. Bà ấy tin tưởng tôi nên để tôi khỏi buồn, vẫn cho phép đến Thiên đường dẫn nhảy vào các buổi chiều. Còn buổi tối, tôi lại quay về căn biệt thự để tận hưởng cuộc sống của một Thiên đường thứ hai. Tuy nhiên bất cứ lần nào ở trạng thái mê đắm nhất, bà ấy thường giương đôi mắt ngây dại nhìn chòng chọc vào tôi và nói ngắt quãng trong tiếng rên rỉ không liền mạch rằng nếu tôi rời bỏ bà ấy, bà ấy sẽ giết tôi. Tôi hứa hẹn, chẳng suy nghĩ gì nhiều. Trong một Thiên đường thế này, tôi nào có thời gian mà nghĩ đến những sự đen tối xa xôi. Tôi cứ sung sướng như thế trong suốt một năm trời. Từ ngày có tôi, tối thứ bảy nào bà cũng mở một bữa tiệc khiêu vũ trên tầng thượng. Ở đó tôi phải thích nghi với những quan khách sang trọng và những phép tắc xã giao của giới thượng lưu. Ðối với tất cả những người khác, bà thường giới thiệu tôi là cháu họ xa, để bảo toàn danh tiếng cho một phụ nữ vốn nổi tiếng là đoan chính. Tuy nhiên, mọi sự không phải cứ mãi như thế, cho đến một buổi tiệc tối thứ bảy. Lần đó bà bảo tôi phải chuẩn bị mọi thứ trịnh trọng hơn thường lệ, vì có cô con gái nuôi mới đi học xa về. Ðó là lần đầu tiên tôi gặp M. Ðã chai lỳ với phụ nữ, nhưng khi gặp nàng, tôi hơi sốc. Nàng đẹp lắm, nhiều phụ nữ cũng đẹp, nhưng nàng có một hấp lực khiến người khác không cưỡng lại được. Nếu không tin, ông có thể đến gặp nàng. Không ai cưỡng lại được, tôi biết thế, và trong bữa tiệc rất nhiều người mời nàng nhảy. Nhưng nàng chẳng hề để ý đến tôi, cho đến lúc bà P phải giới thiệu chúng tôi với nhau và phàn nàn rằng tôi không chăm sóc con gái của bà. Tôi nhảy với nàng điệu Rhumba đầu tiên. Cũng như bà P, nàng sang trọng, duyên dáng và khiêu vũ điêu luyện. Nàng nhảy lặng lẽ không nói gì, nhưng lúc bước quanh người tôi khi bản La Laya cất lên những giai điệu cuối cùng, nàng miết nhẹ lên vai tôi "Anh nhảy khá lắm" mà không thắc mắc gì về thân phận "cháu họ xa" của tôi. Tôi nhảy thêm với nàng một bản Tango nữa lúc đã gần nửa đêm. Tôi lịch sự, giữ khoảng cách với nàng, nhưng nàng cười mỉm, vẫn với cung cách vừa quyến rũ vừa ngạo mạn như lúc khen tôi nhảy khá, nàng kéo tôi lại gần "Anh quên mất bài học cơ bản rồi à. Tango không có khoảng cách". Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với phụ nữ mà lại lúng túng. Nàng dạn dĩ giống hệt mấy mụ nạ dòng, song là vẻ dạn dĩ đầy thờ ơ. Chỉ duy nhất lúc dẫn nàng đi trong tư thế mở, tôi chạm vào khuôn ngực nàng, nó nóng bỏng và tôi nghe rõ nhịp tim đầy khao khát trong đó. Khi tiếng nhạc vừa dứt, tôi kéo nàng ngả người ra sau, bàn tay đặt vững chãi trên bờ lưng mềm mại của nàng. Tôi lập cập "Cảm ơn em". Sau lần đó, nàng chủ động gặp tôi và mọi việc xảy ra tất phải như thế. Chúng tôi yêu nhau điên cuồng. Tôi quyết định bỏ việc ở Thiên đường, phần vì muốn dành nhiều thời gian cho nàng, phần vì sĩ diện trong con người tôi bắt đầu quay trở lại. Mỗi lần đến Thiên đường, tôi đều hốt hoảng ngó quanh, lúc nào cũng tưởng tượng rằng biết đâu nàng sẽ đến bất ngờ để chiêm ngưỡng những cảnh khó coi của tôi lúc đó. Với nàng, sĩ diện của tôi lên tới cực điểm. Lần đầu tiên, tôi có cái sĩ diện như bất kỳ thằng đàn ông bình thường nào khác. Tôi bắt đầu tỉ tê với bà P đề cập tới việc xin một chỗ làm ở đâu đó. Mới đầu, bà ta ngạc nhiên, song chiều ý tôi, bà ta cho tôi ít vốn để mua một suất 5000 cổ phiếu trong ngân hàng của bà. May mắn đến với tôi, trong những phiên giao dịch đầu tiên, cổ phiếu của tôi đã tăng gấp đôi, rồi gấp bốn, gấp tám lần những gì bỏ ra. Bà ta tin tưởng, tiếp tục cấp vốn để tôi đầu tư vào những cổ phiếu mới và tôi gặp may mắn liên tiếp. Nàng ngưỡng mộ tôi, nàng không hề biết gì về những việc tôi đã làm cũng như mối quan hệ của tôi với bà P. Tôi đã khéo léo sắp xếp mọi việc cho bí mật và ổn thỏa. Lần đầu tiên, tôi biết đến những cảm giác chưa từng có. Nàng như một khu vườn buổi sớm, tươi mát, huyền ảo và bí ẩn khiến tôi cứ phải tìm các lối đi để khám phá và tận hưởng. Nàng nghiện Secret Garden và sô cô la đắng. Những thanh sô cô la màu đen biến mất liên tục khi nàng tập trung vẽ khiến căn nhà ven hồ của nàng cũng tỏa mùi sô cô la. Sô cô la tỏa hương trên người nàng và để lại cho tôi dư vị đặc biệt khi nàng tặng tôi những nụ hôn sô cô la mềm mại. Dư vị ngọt ngào và đắng đót của nó làm tôi đau khổ. Tôi vẫn duy trì mối quan hệ với bà P một cách bình thường. Nhưng trái tim người đàn ông như những đám cháy rừng, khi nó cháy chỗ nào thì tất những đám cháy nhỏ hơn cũng sẽ tụ về một chỗ tạo thành một đám cháy rừng rực không lồ, để lại chỗ cũ những nắm tro tàn nguội lạnh hay những búi cỏ còn ri rỉ, leo lét. Tôi bắt đầu phải cố gắng, phải giả vờ. Những lúc ở bên bà P, tôi phải nhắm mắt lại và tưởng tượng ra nàng. Chỉ bằng cách đó mới khiến đám lửa leo lét trong tôi bùng cháy trở lại trong giây lát. Bà P là người phụ nữ nhạy cảm, bà ấy bắt đầu cảm thấy điều gì đó đang diễn ra trong tôi nhưng lặng lẽ, không căn vặn. Tôi và nàng vẫn bí mật điên cuồng bên nhau. Tôi yêu nàng, yêu luôn cả những bức tranh kỳ dị mà nàng vẽ, yêu cả vị sô cô la đắng đọng trên môi nàng, yêu những giai điệu đầy ám ảnh của Secret Garden mà nàng thích. Nàng có thói quen chỉ nhảy điệu English Waltz trên nền nhạc Appassionata. Khi tiếng violon của Fionnuala xoáy tròn trong những âm vực sâu thẳm, tôi thường đưa nàng vào bước xoay? để rồi mê đắm trong vị sô cô la đắng đót, còn nàng, lịm vào đám lửa đang cháy rừng rực trong tôi. Và vì nàng, tôi đã làm một điều ngớ ngẩn khi tắt đi bản Appassionata lúc tôi và bà ấy đang ở trong phòng khách. Bà ta chừng như đã hiểu ra, ra lệnh cho tôi "Bật lên". Tôi im lặng, cúi đầu. Bà ta hét lên "Tôi thích bài này, bật lên". Tôi nhẫn nhục, bật trở lại. Nhưng chỉ vừa bắt đầu bước đầu tiên với những thanh âm hoang dại, vị sô cô la đắng nhói lên trên đầu lưỡi tôi. Tôi ngừng lại, bất chấp tiếng gào thét lần đầu tiên xuất hiện từ bà ấy. Cuối cùng, tôi cũng không thể giấu nàng thêm được nữa. Nàng hỏi tôi bằng đôi mắt của kẻ đã biết rõ câu trả lời "Anh phải lựa chọn". Chú ruột thằng Tuấn, người đã đưa nó vào nghề, hôm tôi gặp trong bệnh viện nơi thằng Tuấn nằm điều trị hai cái xương sườn do bị chồng một "mối" thuê người dằn mặt, đã ngoài bốn mươi tuổi nhưng vẫn bảnh bao cạnh một bà già da đồi mồi tuy tóc đã nhuộm đen sì. Ðột nhiên, tôi thấy ghê sợ cái viễn cảnh tầm gửi của mình cho đến hết đời. Tôi lựa chọn, tất nhiên tôi lựa chọn, không phải vì nàng mà vì tôi. Những cổ phiếu tăng vùn vụt khiến tôi vững tâm về một tương lai ở phía trước. Rồi bà ta đến, đúng lúc chúng tôi đang xoáy tròn trong bản Appassionata mê đắm, dưới ánh nắng chiều bảng lảng xuyên qua ô cửa sổ. Bà ta không còn vẻ điềm tĩnh, sang trọng nữa. Người đàn bà khi lên cơn ghen cực điểm thường lộ nguyên hình bản năng cất giấu đâu đó trong con người đẹp đẽ. Bà ta mất hết lý trí, đòi giết nàng. Ông thấy đấy, tôi phải bảo vệ nàng, đương nhiên rồi. Và bà ta lao vào con dao mà tôi vừa giằng lại. 

Luật sư Thạch đọc lại lá thư thêm một lần nữa. Có chỗ nhoè nhoẹt, có chỗ anh ta xoá đi nhì nhằng vẻ như bộc bạch hết tâm can những điều ẩn ức chưa kể bao giờ nhưng lại chợt nhớ ra cũng sẽ có người thứ hai đọc bức thư này. Những dòng cuối cùng, trái với lẽ thông thường, anh ta viết hết sức thẳng hàng và ngay ngắn như thể không hề mỏi tay sau những trang viết dài. Luật sư Thạch gạch những ý chính vào sổ tay. Ông không quan tâm đến những cảm xúc của khách hàng. Những cảm xúc ấy chỉ quan trọng khi được vận dụng vào lý lẽ bào chữa một cách hợp lý để lật ngược tình thế. Tạm thời hai lời khai với bên điều tra của Hùng và M rất khớp nhau, cũng như khi họ kể lại với ông. Tuy nhiên còn một chi tiết nữa khiến luật sư Thạch phải đóng chặt các cửa để tìm sự yên tĩnh tuyệt đối, thói quen ông đặt ra khi kiên quyết tìm cách giải quyết cho một vấn đề. Trên chuôi dao không hề có dấu vân tay của bà P, điều mà Hùng và M khẳng định bà dùng con dao t**** quả để tấn công tình địch. Lúc trên hiện trường vụ án, bà P nằm sấp trong vũng máu tuôn ra từ bên ngực trái, hai tay xỏ vào đôi găng chống nắng. Tuy nhiên, bà P đi ô tô, lúc đó trời đã về chiều và người cháu ruột của bà P, một trong những người gần gũi nhất, khẳng định anh ta chưa hề nhìn thấy bà đeo găng tay chống nắng bao giờ. Chi tiết này và chuỗi thời gian làm trai nhảy có thể khiến Hùng bị kết án vì tội giết người có chủ ý, không chừng còn khiến M bị kết án đồng phạm. Lý lịch dễ mất cảm tình của Hùng chắc chắn sẽ gây bất lợi cho anh ta khi ra toà. Luật sư Thạch thường không phán xét xem bị can có tội thật hay không, cái ông cần là các tình tiết có lợi và những biện pháp nào có thể sử dụng để miễn giảm án. Trong trường hợp xấu, ông sẽ nhấn mạnh vào yếu tố bị can bị kích động tinh thần trong lúc đối phương áp đảo. Ông đã chuẩn bị sẵn những con bài khi tận dụng hình ảnh đau khổ của người mẹ nghèo, những chuỗi ngày đói khổ cùng cực khiến anh ta sa chân vào bẫy của các goá phụ hồi xuân, tình yêu chân thành của Hùng với M khiến một phụ nữ cô đơn như bà P đã dùng mọi thủ đoạn để chấn áp họ. Khi luật sư Thạch cất xấp hồ sơ vào ngăn kéo. Ông quyết định gọi điện cho người thừa kế ngôi biệt thự.

Anh ta chẳng hề ngạc nhiên khi nhìn thấy vị khách quen. Luật sư Thạch không vòng vo. "Tôi cần anh giúp cho một số việc". Ông đặt chiếc phong bì lên mặt bàn kính. Hàng ria mép được cắt t**** cầu kỳ hơi vểnh cao lên rồi rất nhanh ng hạ ngay xuống. Anh ta dẫn Thạch lên tầng ba. Phòng ngủ của người quá cố vẫn nguyên vẹn như cũ. Duy cái mùi vị lạnh lẽo của nó cứ tỏa đều lên từng thứ đồ đạc sang trọng. Luật sư Thạch nhìn một vòng, chiếc lọ pha lê không hoa, cuốn sách đọc dở còn đánh số trang để đầu giường và rèm cửa trễ nải như còn chưa muốn đánh thức chủ nhân. "Tôi cần ít nhất hai tiếng'. - "Ông cứ tự nhiên. Có cần thêm nước gì để tôi mang lên". Người thừa kế giàu có xun xoe như thể bồi bàn thực sự. Luật sư Thạch ở lại trong phòng cho đến khi ánh chiều hất tia tím sẫm lên những ô cửa kính. Ông bước ra hành lang, đầu tóc rối bù, tay run lên vì mệt, nhưng khuôn mặt đầy vẻ thỏa mãn. Một lần nữa, thứ trực giác kỳ lạ lại mang lại may mắn cho Thạch. 20 năm trong nghề, tiếp xúc với mọi hạng người, đủ để Thạch khẳng định, vì một chút tiền mọn, có những kẻ thậm chí có thể bán đứng cả bố đẻ của mình. Ông gọi chủ nhà "Tôi cần biết thêm về người trong bức ảnh này". 

Hồ sơ điều tra đã hoàn tất. Hùng bị truy tố tội danh giết người, còn M, bị quy là đồng phạm. Ngày ra toà, Hùng xạm đen trong chiếc áo xộc xệch. Anh ta nhìn vào mông lung phía trước và trả lời những câu hỏi như một cái máy. Thạch thản nhiên nhìn tay công tố có khuôn mặt vuông chữ điền như thể một đối tác đang ngồi trên bàn tiệc. Ðây là lần thứ hai Thạch chạm trán con người này, một kiểm sát viên mẫn cán và sắc sảo. Ông ta đọc kết quả giám định và kết luận, nạn nhân tắt thở vì một vết đâm trên ngực trái. Bị cáo đã khai rằng anh ta chỉ giằng lại con dao và bà P chủ động lao vào. Ðể thực hiện được cú sát thương, anh ta phải nâng con dao lên ngang ngực. Trong phạm vi phòng vệ, hành động này là phi logic. Bị cáo đã phủ nhận điều này, anh ta cho rằng khi giằng con dao lại, do quá sợ hãi nên anh ta thõng hai tay đứng nhìn, con dao được nắm trong tay phải. Ðây là lời khai mâu thuẫn với kết luận giám định. Hơn nữa, không có lý do gì để thuyết phục được rằng một người phụ nữ đi ô tô trong tiết trời mát mẻ của buổi chiều lại dùng găng tay chống nắng. Ông ta mỉm cười trước khi ngồi xuống ghế. Luật sư Thạch đứng lên "Kính thưa Hội đồng xét xử. Lời khai của anh Hùng không hề mâu thuẫn với kết quả giám định. Lúc đó anh Hùng đứng che cho cô M, trên chiếc bục gỗ 30 phân mà cô M dùng cho người mẫu vẽ, cộng với chiều cao của Hùng chênh 20 phân so với bà P thì khoảng cách mà bà P lao vào con dao hoàn toàn trùng khớp với lời khai của anh Hùng". Công tố viên vẫn mỉm cười "Chúng ta đều biết trên hiện trường vụ án, cạnh chỗ bà P không hề có chiếc bục gỗ đó". - "Lúc đó, vì cô M quá hoảng loạn nên anh Hùng đã lùi chiếc bục ra phía góc nhà để cô M ngồi lên đó, tránh nhìn thấy xác bà P". Tay công tố viên mẫn cán chậm rãi hướng về phía Hùng, ông ta đủng đỉnh như thể một con mèo ngắm chú chuột nhắt hôi sữa còn đang ngơ ngác ngoài cửa hang. "Anh Hùng, lúc bà P đến, anh và cô M đang nhảy với nhau điệu gì?". Ánh mắt lạnh lẽo của luật sư Thạch chiếu thẳng vào đôi mắt hoảng hốt của thân chủ. Lúc này, chính tay công tố viên mới phải đổi lại vị trí của chú chuột nhắt. Luật sư Thạch hất nhẹ đầu khuyến khích. Hùng nuốt nước bọt một cách khó khăn "Slow, thưa ông". - "Còn cô M, cô đã nhảy với anh Hùng điệu gì?". Khuôn mặt của M vẫn điềm tĩnh, như thể những lời tranh cãi về sự sống và cái chết này chẳng hề can hệ gì tới cô. Trông cô thậm chí còn quyến rũ hơn lần gặp luật sư Thạch tại nhà, vẻ đẹp càng bí ẩn khi mọi suy nghĩ đều được bao kín lại trong đôi mắt phẳng lặng như hồ thu kia. Duy có sắc mặt cô hơi xanh xao, cho dù có lớp phấn hồng mịn màng che phủ. Cô nói từ tốn, âm lượng không hề run rẩy "Thưa Quý Toà, lúc đó chúng tôi đang nhảy Slow. Có lẽ vì thế mà bà ấy không thể tự chủ được". - "Ồ không phải. Trong lời khai ban đầu, cả hai bị cáo đều khẳng định rằng lúc bà P đến họ đang nhảy điệu Waltz. Ở đây có ai cho rằng điệu Waltz không cần phải di chuyển không?". Tay công tố viên nhìn lướt một vòng quanh khán phòng vẻ đắc thắng rồi đôi mắt dừng lại chỗ luật sư Thạch. "Người ta không thể nhảy điệu Waltz trong một không gian bị chiếc bục chắn giữa. Lời khai trước Toà và lời khai trong quá trình điều tra của cả hai bị cáo đều có sự mâu thuẫn. Như vậy đủ để minh chứng cho một biểu hiện gian dối có chủ ý". Khuôn mặt xạm đen của Hùng tái lại. Anh ta ngước mắt nhìn về phía chiếc phao cứu nạn, vừa hy vọng vừa tuyệt vọng khi thấy nó đang trôi xa dần. Luật sư Thạch mỉm cười, nụ cười hiếm hoi của ông trong các phiên tòa. Ðúng như dự đoán, tình huống xấu nhất đã xảy ra. Thạch đành tung ra con át chủ bài cuối cùng, như một tên cờ bạc bịp cầm chắc phần thắng trong tay khi biết lá bài đẹp nhất đã nằm trong tay mình. "Thưa Ban Hội thẩm, lời khai trước đây của Hùng và cô M trong biên bản hỏi cung chưa hẳn đã được điều tra viên ghi lại chính xác". Cả phiên toà ồ lên. Ông thẩm phán nhăn mày khó chịu ?Xin ông luật sư cho chứng cứ trước khi đưa ra kết luận?. Luật sư Thạch từ tốn rút ra một tấm ảnh từ tập hồ sơ "Tôi có đủ chứng cứ để chứng minh rằng điều tra viên theo suốt quá trình điều tra chính là người tình của bà P." Những người có mặt tại phòng xử án kinh ngạc nhìn luật sư Thạch "Ðây là những tấm ảnh mà hai người đã chụp cùng nhau hồi còn trẻ trong những tư thế tình tứ... Còn đây, là tấm ảnh mới nhất mà ông đây đã chụp cùng bà P tại nhà riêng của bà với thời gian đề trên ảnh chỉ cách hai tuần trước khi bà P gặp tai nạn". Gã điều tra viên cũng kinh ngạc không kém. Khi được thẩm phán hỏi về chi tiết này, ông ta lắp bắp "Trước đây chúng tôi chỉ là bạn thân... bây giờ cũng vậy. Tấm ảnh cũ kia do hồi còn đi học tôi bị lũ bạn đùa nghịch thách đố. Không ngờ cô ấy còn giữ nó. Còn bức về sau này đúng là ở buổi họp lớp, hôm đó rất đông, và chúng tôi cũng trêu nhau như hồi còn trẻ, nên tôi có... có... hôn lên má cô ấy một cái. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy bức ảnh này. Nó được chụp do ai. Tôi không hề được biết". Luật sư Thạch cười thành tiếng. Ông không thèm nhìn vẻ hoang mang của tay công tố, nét mặt ngơ ngác của điều tra viên, những đôi mắt nghi ngờ từ phía cử tọa. Một cuốn sách nhỏ cũ kỹ được giơ lên "Còn đây là cuốn nhật ký của bà P cách đây 20 năm. Bà ấy đã viết rất kỹ về tình cảm sâu nặng dành cho ông đây". Tay điều tra viên lạc cả giọng, quên mất mình đang đứng trước Toà, bắt đầu nói những câu hết sức bình dân "Không đúng. Ông nói dối. Tôi thề rằng chẳng biết gì về chuyện này. Có thể đó là mối tình đơn phương của cô ấy thời trẻ mà bây giờ tôi mới được biết...". Luật sư Thạch thôi cười, ông dằn từng tiếng "Tôi hy vọng ông trung thực trước người quá cố, đặc biệt trước một tình cảm trong sáng đáng trân trọng như vậy. Theo Ðiều 42, nếu có căn cứ cho rằng điều tra viên có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ, anh ta sẽ phải từ chối tiến hành tố tụng. Vì vậy, tôi cho rằng những lời khai trong biên bản hỏi cung chưa đủ căn cứ pháp lý để làm chứng cứ buộc tội bị cáo". Luật sư Thạch hít một hơi dài. Thẩm phán tuyên bố trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có dấu hiệu vi phạm trong thủ tục tố tụng. Mọi thứ đều được nhấn nút đúng như trong lập trình của Thạch. Chủ nhân ngôi biệt thự thừa kế nhìn luật sư Thạch bằng nụ cười cầu tài. Hắn có vẻ nhắc nhở công trạng về tấm hình thứ hai, do hắn tình cờ chớp được vẫn còn để lưu trong máy ảnh. 

Lần ra Toà thứ hai, luật sư Thạch đi từng bước như trong kế hoạch đã vạch ra. Ông lập luận từng chi tiết và biện hộ chậm rãi, tuần tự như ăn lần lượt ba món trong bữa tối.Thành công ngoài sức tưởng tượng, nhưng luật sư Thạch không mấy ngạc nhiên. Toà cảm động về những hình ảnh ông đưa ra, cử tọa khâm phục những lập luận sắc bén cho dù ở những chi tiết phi lý nhất và quan trọng là gã cháu ruột của nạn nhân đã kể về tính cách không bình thường của bà dì ruột, thú vui sưu tầm trai trẻ một cách bệnh hoạn, những lần anh ta chứng kiến bà P đe dọa Hùng cũng như lật ngược lại lời khai về thói quen không đi găng tay của bà dì ruột. Toà tuyên bố trả tự do cho Hùng. Luật sư Thạch kết thúc hợp đồng bào chữa bằng một bữa ăn tối bình thản như mọi ngày. Thậm chí ông còn từ chối gặp mặt mẹ Hùng để nhận lời cảm ơn của bà. 

Nửa năm sau, luật sư Thạch lại bị đánh thức bởi một tiếng chuông điện thoại cấp kỳ. "Alô". Ðầu dây bên kia, giọng đàn ông là lạ "Luật sư Thạch?" - "Vâng, tôi đây. Ai đấy ạ?", ông không nén nổi giọng cáu kỉnh. "Tôi là Hùng, ông đã bào chữa, ông còn nhớ tôi không?" - "Có việc gì?", luật sư Thạch cảnh giác. Ðầu dây bên kia im lặng, ông nghe lẫn trong đó một âm thanh u u vô thực. Hùng cười khan "Bà ta đang ở đây". Luật sư Thạch hơi giật mình, cái âm thanh u u kia rõ dần, nó nửa quen nửa lạ, vẻ như là tiếng nhạc. "Ai cơ?" - "Bà ấy", tiếng Hùng run rẩy, không rõ âm vực "Bà ấy vẫn đến đây hàng đêm. Nhưng hôm nay muốn tôi gọi điện thoại cho ông". - "Ðể làm gì?" - "Bà ta bảo ông nói dối. Bà ấy muốn tôi phải nói cho ông biết rằng tôi đã nói dối, cháu bà ấy nói dối và? nàng cũng nói dối". Giọng nói có vẻ sợ hãi như thể một thứ gì đó rất kinh hoàng đang ở trước mặt "Bà ta ở đây, đang đứng cạnh tôi". Luật sư Thạch hiểu ra vấn đề. Những tội đồ liên quan đến các vụ án giết người thường gặp sang chấn tâm lý sau đó. Họ bị ám ảnh và hoang tưởng, nhưng dù sao cũng không nên dựng ông dậy vào giờ này chứ. Ông nén cơn bực xuống, giọng xoa dịu "Thôi được rồi. Nói dối là tội lỗi chung của loài người. Tôi cần phải ngủ tiếp. Cậu cũng nên ngủ đi nhé." - "Khoan đã". Luật sư Thạch nghe thấy tiếng văng vẳng to hơn từ đầu dây bên kia, lần này thì ông bắt đầu rùng mình, ông đã nhận ra, đó là những âm thanh mê muội của bản Appassionata mà ông đã được nghe một lần ở ngôi nhà ven hồ. Giọng người bên kia bắt đầu thì thào, mơ hồ như đang tụt dần xuống cõi sâu thẳm "Bà ấy muốn tôi nhảy với bà ấy điệu Waltz... nhưng phải là bản Appassionata, chỉ là bản này thôi...". Ðầu dây bên kia cạch một tiếng khô khốc. Bản Appassionata bí ẩn biến mất. Nhưng khi ông đặt ống nghe xuống, tiếng nhạc ở đâu lại vọng đến, nó cứ lởn vởn như chui vào trong đầu ông rồi xoáy tròn ở đó. Luật sư Thạch thức trắng cho đến sáng. Trưa hôm sau, ông nghe tin khách hàng vừa được ông bào chữa gần đây nhất đã chết trên giường ngủ, trong một tư thế rất kỳ quái như đang vòng tay để ôm một thứ gì đó, và chiếc máy nghe nhạc bị vấp đĩa, chỉ tua đi tua lại một bản nhạc như nguyện hồn cho người chết. 

Ma học trò

Truyện ngắn của Di Li

Rõ một điều rằng, làm cái anh thầy giáo là sự lựa chọn hết sức ngờ ngệch. Bởi lẽ sau 16 năm đèn sách, anh vui mừng hớn hở vẫy tay chào bảng phấn và sách bút, nhưng rồi sau đó lại dại dột gắn bó với chúng suốt đời. Khổ một nỗi, đã trót chen chân với nghề bảng phấn rồi, anh sẽ không tài nào mà dứt ra được. Hồi đó tôi về một trường trung cấp làm giáo viên. Ngày ấy ai thích làm thầy giáo, nhưng cả hai họ nhà tôi đều nêu những khó khăn khi bươn ra làm thuê cho doanh nghiệp và so sánh với nghề cao quý, là người kỹ sư của tâm hồn. Bố tôi bảo rằng HDI của ta đang tăng và phần lớn là nhờ vào giáo dục. Hơn nữa chẳng cần làm sếp mà cũng đựơc khối người nghe theo, ấy chính là lũ học trò. Tôi xuôi dần và thi đỗ công chức, trở thành thầy giáo 3 tháng ngay sau khi tốt nghiệp. Dạy hết một học kỳ, tôi được cử đi công tác Thái Nguyên. Trước khi lên đường, các đồng nghiệp len lén nhìn tôi cười bí hiểm. Một chị đã lên đó trước tỏ vẻ thương tình "Tụi học sinh ở đó hơi nghịch, nhưng Quang nhà mình cũng kinh qua hết mấy lớp cá biệt ở đây rồi còn gì. Lên đó để ý thằng Tuân béo, đừng lơ là nó ngay từ phút đầu tiên." Tôi cười tủm trong bụng, bận rộn với các đồ đạc mang theo. Tôi vứt ba lô lên xe máy và thong thả phóng ra ngoại ô, bụng nghĩ đến mấy trò phá phách của lũ học trò: Hỏi khó thầy giáo? Cho học sinh nữ ăn mặc bắt mắt rồi ngồi lên bàn đầu để ngắm thầy? Ăn quà vặt, hút thuốc lá, nắm tay nhau trong lớp học? Ngày xưa đi học tôi còn nghịch hơn tụi học trò bây giờ ấy chứ. Trời bắt đầu mưa nặng hạt nên tôi không phóng nhanh được. Tôi cho rằng mình không thể vào Thái Nguyên như giờ đã định vì cơn mưa này. Cơn mưa tháng ba khiến tôi tê cóng cả hai tay. Những rặng cây ven đường bắt đầu tím thẫm lại. Khi tôi còn cách thành phố chừng 20 cây số nữa thì... xe tự động đỗ lại. Lúc đó là 9 giờ tối. Tôi kiểm tra xăng, bugi? đều ổn cả. Lúc này tôi mới định hình được tình thế tồi tệ của mình. Con đường hun hút tịnh không một bóng người. Những ngọn núi đen sì thấp thoáng sau màn mưa nhắc chừng rằng xung quanh nơi này hẳn không có nhà dân. Ðói, rét, mệt, chẳng ăn thua gì với một thằng trai 23 tuổi, nhưng tôi có một nỗi sợ còn khủng khiếp hơn nhiều. Tôi rất sợ ma. Ngay bên vệ đường là một nghĩa địa khổng lồ. Thỉnh thoảng ánh chớp loà lên soi rõ những lùm đất còn mới nguyên, những vòng hoa nằm rải rác đã nhão nhoẹt vì nước mưa tạo nên các hình thù quái lạ. Hai đầu đường hút dài như vô tận. Bấy giờ, bất kỳ một tiếng động nào ngoài tiếng mưa rả rích đều làm tôi hãi hùng. Ðến độ có lúc chiếc áo mưa của tôi sột soạt vì những cử động của chính mình cũng khiến tôi giật bắn lên. Tôi cố tập trung vào cơn cồn cào ở dạ dày để quên đi, nhưng những hình ảnh ma quỷ trong các câu chuyện tôi được nghe kể cứ rõ mồn một từng chi tiết. Ma mặt thớt thường hoá thành anh xích lô tốt bụng đèo khách lỡ độ đường về. Vừa đi vừa trò chuyện rôm rả đến nửa đường tình cờ quay lại thấy mặt anh ta phẳng lì như cái thớt. Khách ngất đi, lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm vắt vẻo trên một cái mả mới tinh. Ma cây cứ nửa đêm hoá thành cô gái đẹp đi bán bánh bao. Khách bửa ra ăn thử thấy trong toàn gián với nhện, nhìn lên định bắt đền đã thấy cô gái thè cái lưỡi đỏ lòm dài như đòn gánh cười khanh khách. Rồi ma nam nấp dưới hồ rút chân người, ma xó di chuyển mọi đồ đạc, ma trơi lập lờ ngoài cánh đồng trêu đùa kẻ yếu bóng vía, ma gà có viền mắt vàng khè sống chui lủi trong núi. Thậm chí cả ma sói, ma cà rồng chuyên hút máu người trong những cánh rừng Bắc Âu âm u, và thây ma sống bên châu Phi cũng như tập trung cả lại để giật tung mọi tế bào thần kinh của tôi. Tôi lấy chiếc xe làm điểm tựa đề phòng mọi sự tấn công từ phía sau và bắt đầu cầu nguyện thành tiếng, gọi tên từ ông Khổng Tử, Mạnh Tử cho đến Anselm, Rousseau và Décartes1. Ðúng vào lúc tuyệt vọng nhất thì một âm thanh ầm ì từ phía xa báo hiệu một chiếc xe sắp chạy tới. Những hình ảnh vẫn còn túm chặt trong đầu khiến tôi thay vì mừng rỡ lại đầy cảnh giác với cái vật đang chuyển động. ánh đèn pha quét vào chiếc xe cũng đang rúm ró như chủ nhân của nó. Cái bóng trùm áo mưa lừ lừ tiến lại phía tôi. Tôi quát to "Ðứng lại. Người hay ma?". Khuôn mặt bịt kín bằng một chiếc khăn tối màu càng khiến ảo giác của tôi tăng lên. Người kia cúi xuống chiếc xe của tôi "Ma mà chữa được cho anh chiếc xe này cũng tốt. Hay muốn đứng đây ngắm nghĩa địa. Ðây là nơi tập trung nhiều ma nhất vùng này đấy". Tôi ngần ngừ "Sao phải bịt mặt?" - "Ði mấy chục cây số muốn thủng mặt vì mưa hả ông nội". Dứt lời anh ta đứng dậy, đạp nổ máy. Chiếc xe lại ro ro như thể lúc nãy nó bị ma ám vào. Ân nhân của tôi trèo lên xe. "Xe của anh nên bảo dưỡng bộ chế hoà khí. Anh về Thái Nguyên hả. Tốt nhất nên đi cùng tôi đề phòng nó lại chết máy lần nữa". Tôi líu ríu đi theo anh ta. Chúng tôi không nói lời nào cho đến tận lúc về tới Thái Nguyên. Khi xe vào đến thành phố, đã 12 giờ đêm. Những mái nhà u ám im lặng trong mưa rét. Bất chợt tôi nghe vẳng xa xa tiếng thanh la, chuông mõ như gọi hồn ma quỷ cốc lên từ cõi âm. Âm thanh ngày càng tới gần, và lờ mờ trong làn mưa một đoàn người di chuyển chầm chậm đầy ma quái. Tôi hét lên thất thanh "Cái gì thế?". Người kia cười ha hả "Anh chưa nhìn thấy đám ma bao giờ hả. Thôi chào nhá". Tôi cuống lên "Cho tôi hỏi trường Nghiệp vụ du lịch Bình Minh". Anh ta ngần ngừ "Anh đến đấy làm gì giờ này?". Không muốn để lộ thân phận mình trong hoàn cảnh bất đắc dĩ này, tôi nói bừa "Bác bảo vệ ở đó là chú tôi". Hoá ra ngôi trường nằm ngay góc quẹo trước mặt. Tôi nhận phòng, một căn nhà cấp bốn chừng hơn chục mét vuông kế ngay phòng bảo vệ. Chặng đường dài mệt nhọc và nỗi sợ hãi vẫn còn ám ảnh làm tôi chìm luôn vào giấc ngủ đầy mộng mị.

Sáng hôm sau, tôi có mặt tại lớp học đúng giờ. Cũng là một dãy nhà cấp bốn nằm đối diện căn phòng tôi ở. Trời vẫn mưa lất phất và bầu trời thì tối một cách quái gở. Lớp học lợp mái ngói, những chiếc bàn gỗ ẩm mốc và bức tường lở lói bổ sung vào khung cảnh thê lương của một ngày không lấy gì làm đẹp trời. Khiếp hơn, chiếc cửa sổ bên tay mặt duy nhất sát cạnh bàn giáo viên lại trông ra một khu vườn um tùm cây cối với hơn chục ngôi mộ nằm rải rác. Không đủ can đảm thò tay với cánh cửa sổ phía bên ngoài, tôi bảo một cô bé ngồi bàn đầu với hai bím tóc dài tận đầu gối "Ra đóng giúp thầy cánh cửa cho đỡ gió". Tức thì một giọng con trai lên tiếng phản đối "Thưa thầy, người ta muốn xem thầy giảng bài đấy ạ". - "Ai?" - "Những người ngoài kia". Một tên học trò béo ị ngồi cuối lớp, mấy chiếc răng cửa to tướng như răng thỏ đang trân trối nhìn tôi, đầu hất hất về phía cửa sổ. Tôi bắt đầu nghẹt thở, vờ tiến về giữa lớp "Tôi là Quang, phụ trách môn nghiệp vụ lễ tân, sẽ dạy các em trong vòng bốn tuần. Du lịch là một ngành dịch vụ quan trọng và trong thế kỷ 21, du lịch sẽ trở thành mũi nhọn trong nền kinh tế của nước ta". Những tiếng nhao nhao bắt đầu ồ lên "Thưa thầy Thái Nguyên sẽ trở thành mũi nhọn chứ ạ", "Thầy ơi, chỉ còn 275 ngày nữa là sang thế kỷ 21, chúng em sắp thành đầu tàu rồi.", "Sao tóc thầy nghệ sĩ thế, thầy cắt ở đâu đấy ạ?". Hơn 50 đứa học trò, đứa ngồi đăm chiêu, đứa mặt mũi hớn hở, đứa nheo mắt tinh quái, đứa thản nhiên câng cáo. Tôi bắt đầu cảm thấy sự đe dọa vô hình. Tôi khoanh tay trước ngực, đầu ngẩng cao "Comenxki2 nói rằng: Những kẻ giàu có mà không có học vấn thì chẳng khác gì những con lợn béo ị vì ăn nhiều cám. Những người nghèo khổ mà thiếu hiểu biết thì cũng không khác gì những con lừa đau khổ buộc phải tải nặng. Một người có hình thức đẹp mà không có văn hoá chỉ là một con vẹt có bộ lông hào nhoáng". - "Thầy ơi cần phải có một bộ luật mới để bảo vệ động vật nuôi", "Thế thì chúng em là loài bò sát đấy ạ". Tên học trò béo ị đứng bật dậy, hai tay chắp trước ngực, khuôn mặt nghiêm trang giả tạo một cách đáng ghét và ngân nga giọng như bắt đầu bài diễn văn "Thưa thầy, chúng em xin thầy hãy rủ lòng thương xót cứu rỗi chúng em thoát khỏi cảnh sống kiếp động vật." Hắn ta cười hô hố và bắt nhịp cho cả một tràng cười với đủ mọi thanh âm đa dạng. Tôi thay đổi chiến thuật "Thôi nhé. Tôi bắt đầu điểm danh. Các em biết nguyên tắc rồi, nếu em nào nghỉ quá 20 phần trăm số tiết sẽ bị học lại". Quả nhiên lũ học trò ngồi im thin thít để chờ nghe tên mình. Tôi dò đến tên Nguyễn Văn Tuân, sinh năm 1980 "Em có mặt". Tên học trò xấc xược nhất lớp nói dõng dạc một cách hài hước khiến tiếng rúc rích lại nổi lên. Ðúng là Tuân béo. Tôi ra vẻ không để ý đọc tiếp "Lê Thái Vân". Im lặng. "Lê Thái Vân. Bạn này nghỉ học?". Có vài tiếng nho nhỏ ở bàn đầu "Bạn ấy mất rồi ạ. Chắc trường quên chưa gạch tên". Tôi định hỏi tiếp xong lại thôi "Các em mở trang 4..." Tụi học trò không mất trật tự như tôi tưởng. Trái lại ngồi im lặng một cách đáng ngờ, như thể chúng đang chuẩn bị thực hiện một âm mưu hết sức mờ ám. Tôi dạy hết hai tiết và nhân giờ giải lao ra đầu hồi đứng hút thuốc. Tôi ngắm ngôi trường. Chỉ là một chiếc sân bé tẹo xen giữa hai dãy nhà cấp bốn mà một dãy là lớp học còn một dãy dành cho giáo viên và học sinh nội trú. Tuy nhiên không hiểu sao dãy kia không có người ở ngoài phòng tôi và phòng ông bảo vệ già cách đó hai gian. Riêng lớp học cũng chỉ có độ bốn lớp. Ðang giờ nghỉ nên chúng nô đùa ầm ĩ trong lớp học. Tuy nhiên những âm thanh vui nhộn đó cũng không thể xua đi không khí ảm đạm của ngôi trường, hay ít ra do tôi cảm nhận thế. Vứt điếu thuốc, tôi bước vào phòng nghỉ giáo viên. ở đó có ba chị, có vẻ là giáo viên ở đây, đang chuyện trò rôm rả. Thấy tôi bước vào, họ ngừng cả lại dò xét. Tôi cất tiếng "Chào các chị. Hôm nay trời ẩm ướt quá". Họ rót cho tôi một tách trà nóng và bắt chuyện "Hôm nay em mới lên à? Thấy học sinh ở đây thế nào?". Tôi cười gượng "Dạ, các em ngoan và rất hiếu học ạ." Tôi buộc phải nói ra câu xã giao ấy mà lòng buồn rầu rĩ. Một chị đứng tuổi, mặc áo hoa tay bồng, tóc tết đuôi sam phía sau cười thông cảm "ừ tụi học sinh ở đây hơi nghịch nhưng tâm tính tốt. Mà đa phần hoàn cảnh đều vất vả nên nhiều lúc cách cư xử cũng khác học sinh Hà Nội". Tôi hoà nhập nhanh chóng và bắt đầu đi vào những điều cần hỏi "Sao khu vườn phía sau lớp nhiều mộ thế chị, mà lại chưa dọn đi?". Chị trẻ nhất có nước da rất trắng, áng chừng hơn tôi vài ba tuổi hạ giọng "Trước đây trường này là nghĩa địa của những người vô gia cư. Hồi nạn đói năm 45, người chết nhiều lắm, chôn chung cả ở đây. Mãi vừa rồi chính quyền mới trưng dụng để làm trường học. Cũng là do anh Ðĩnh hiệu trường làm đơn mở trường dạy nghề cho các em." Tôi nổi da gà "Nghĩa là ngay chỗ mình ngồi á?" - "Tất nhiên. Khắp mọi nơi. Cả khu lớp học lẫn khu ở. Em đừng sợ, các tiểu sành được dọn đi hết rồi" - "Nhưng vẫn còn một số trong khu vườn sau lớp học". - "Mọi người kể rằng mấy cái đó không rời đi được, vì cứ hễ ai động vào là y như rằng bị trúng gío cấm khẩu. Có người về nhà còn hoá điên mất một tháng. Lúc tỉnh ra mới kể suốt mấy ngày vừa rồi hôm nào cũng được mời đến một khu nhà lá. Người ngợm ở đó ăn mặc rách rưới nhưng ăn uống linh đình lắm. Hỏi ăn món gì thì người kia bảo không biết, chỉ cười ngây ngô". Tôi uống nốt chén trà và quay vào lớp, cố gắng tránh chiếc cửa sổ. Trời vẫn mưa rả rích và có vẻ ngày càng tối hơn. "Các em bật điện lên". - "Thưa thầy mất điện rồi ạ'. Tôi cố ghìm lại để khỏi văng ra một từ khó chịu. Tôi tiếp tục bài giảng và bất chợt cảm thấy điều gì đó không ổn. Tôi nhẩm đếm lại số học sinh trong lớp, và đếm lại đến ba lượt. "Sao trong sĩ số chỉ có 53 mà ở đây có tận 54". - "Sĩ số 54 chứ thầy" - "Tôi biết rồi, nghĩa là trừ bạn Thái Vân ra." Cực chẳng đã tôi đành phải nhắc đến tên người học trò vắng mặt. Tôi vốn không bao giờ thích kêu tên những người đã chết. Trong ánh sáng lờ mờ của lớp học, tôi nhận ra một cô gái ngồi ngay cạnh Tuân béo. Rõ là lúc nãy Tuân béo ngồi cạnh học trò Quốc Hữu. Tin chắc vào trí nhớ của mình từ lúc điểm danh đầu giờ, tôi trỏ tay "Bạn nữ này là ai?". Cả lớp im lặng, ngơ ngác. Ngay cả Tuân béo lúc này cũng ngẩn người ra "Thầy bảo ai ạ?". Tôi đanh giọng lại "Tôi hỏi người ngồi cạnh em" - "Là bạn Quốc Hữu ạ". Tôi bắt đầu gầm lên "ý tôi hỏi bạn nữ ngồi cạnh em." - "Cả bàn em toàn nam ạ. Chắc thầy thấy Quốc Hữu giống gay quá đây mà." Cả lớp bắt đầu cười rinh rích. "Tôi không đùa". Từ một chuyện rất nhỏ, tôi thấy sự việc bắt đầu trở nên nghiêm trọng khi lũ học trò trở nên bất hợp tác. Tuân béo đứng hẳn lên. Nhìn mặt hắn và cả lớp, tôi biết không ai đùa hết "Thưa thầy, bàn em có 5 con trai ạ. Không có bạn nữ nào. Em không hiểu ý thầy định nói gì". Tôi luống cuống "Cả lớp, tôi hỏi bạn nữ ngồi cạnh Tuân là ai?". Toàn bộ những cái đầu còn lại quay xuống ngơ ngác, tỏ vẻ không hiểu. Tôi điên tiết "Thôi, tôi hỏi chính em. Em nữ áo trắng ngồi cạnh Tuân đứng lên và nói cho tôi biết em tên là gì?". Cô gái ngồi cạnh Tuân mặc chiếc áo trắng nhờ nhờ và vì ngồi cuối lớp, lại trong cảnh tranh tối tranh sáng nên tôi không rõ mặt cô ta. Chỉ biết cô bé rất trắng với đôi mắt to đen buồn rười rượi và mái tóc cũng đen dài lấp gần hết khuôn mặt. Kỳ cục, cô gái chỉ chăm chắm nhìn tôi vẻ ủ ê như không nghe thấy tôi nói gì. Tôi nhắc lại "Nếu em không đứng lên tôi sẽ lên mời ban giám hiệu". Cả lớp nhìn tôi khó hiểu. Tuân béo lại đứng dậy, vẻ nghiêm trọng "Em xin thề với thầy rằng bàn em không hề có bạn nữ nào và ngồi cạnh em là bạn Quốc Hữu. Chỗ cạnh em trước đây thì có một bạn nữ thật, là bạn Thái Vân. Nhưng giờ bạn ấy... Thế thầy nhìn thấy người như thế nào ạ?". Sống lưng tôi lạnh toát, trả lời thằng Tuân như một cái máy "Một bạn nữ da trắng, tóc dài, mắt đen...". Một học trò nữ da ngăm ngăm ngồi bàn đầu giở chiếc ảnh trong ví "Có đúng bạn này không thầy?". Tôi nhìn xuống cô gái cuối lớp, vẫn với khuôn mặt đượm buồn ngồi lặng lẽ như không mảy may để ý đến những điều người khác đang nói về mình "Ðúng rồi". Có vài tiếng nói rất nhỏ "Ðúng là bạn Thái Vân rồi. Thỉnh thoảng bạn ấy vẫn đến lớp". Thốt nhiên một làn khói mảnh bốc lên bao phủ lấy khuôn mặt trắng bệch của Thái Vân. Tuân béo bất ngờ rú lên một tiếng thất thanh, cả lớp nhốn nháo, còn tôi, theo phản xạ đủ thu hết sức lực còn lại nhấc đôi chân nặng hơn chì chạy như bay ra khỏi lớp.

Trong lúc tinh thần hoảng loạn, tôi đâm sầm vào một người đàn ông đang đi giữa sân trường. Ông này chừng ngoài 40, khuôn mặt thông minh và thân thiện, mặc bộ comple màu xanh cổ vịt. Ông ta nhìn tôi mỉm cười, hàm răng sáng bóng kỳ lạ "Cậu là Quang hả. Tôi tên Ðĩnh. Mới lên hôm qua phải không? Ðang giờ dạy chạy đâu mà như ma đuổi thế?". Tôi ấp úng, vẫn còn đủ tỉnh táo để biến báo "Em định lên nhờ ban giám hiệu điểm danh cho hôm đầu. Em là giáo viên mới chưa thuộc hết mặt nên...". Ông Ðĩnh cười ha hả "Chắc tụi học sinh nó lại quậy chứ gì. Không sao, các em ở đây chăm học lắm. Hôm nào cũng đi đủ hết. Cậu đứng ngoài chờ, để tôi vào dặn dò". Tôi đứng nép dưới hàng hiên, hít một hơi căng lồng ngự để lấy lại bình tĩnh. 5 phút sau, ông hiệu trưởng ra ngoài miệng tươi cười "Ðủ rồi, 53 đứa, cậu vào dạy tiếp đi". Tôi cuống lên "54 em cơ ạ". - "Trước đây thì thế nhưng có một em nữ mới bị bệnh tim mất tháng trước, giờ chỉ còn 53". Tôi hoảng hốt "Nhưng ban nãy em đếm trong lớp có 54". Ông Ðĩnh nhìn tôi không hiểu "Cậu vào đây với tôi". Tôi đi sau ông bước vào lớp. Cô gái ban nãy biến mất. Ðúng là bàn của Tuân béo chỉ có 5 nam sinh. Ông Ðĩnh đếm lại thành tiếng và xoa tay "53 mà. Chắc ban nãy cậu đếm nhầm. Thôi thừa còn hơn thiếu". Ông ta bông đùa, vỗ vai tôi và bước ra khỏi lớp. Tôi chạy theo "Có khi nào bạn bè của các em ấy đến chơi không ạ?" - "Không bao giờ, vì các giáo viên của chúng tôi luôn điểm danh rất kỹ. Nội quy nhà trường không cho phép bất kỳ người lạ nào vào lớp học. Bảo vệ cũng rất nghiêm ngặt trong việc này". Tôi thẫn thờ quay vào lớp và... suýt ngất xỉu khi nhìn thấy ở vị trí ban nãy lại hiện lên gương mặt của Thái Vân. Tôi tựa lưng vào tường "Các em làm bài tập trang 6... Cuối giờ tôi thu bài" rồi vội vã bỏ ra ngoài.

Hôm đó, tối mịt tôi mới quay lại trường, sau một buổi chiều ngồi lì trong một quán cà phê bình dân. Ngôi trường nằm trong ngõ nhỏ cách đường cái chừng 50 mét, xung quanh tịnh không bóng người ở, chỉ có đồng không mông quạnh và một khu vườn hoang um tùm lá. Lúc này ngôi trường chìm trong bóng tối. Những ô cửa sổ khoét thành mấy cái lỗ đen ngòm như ẩn chứa bên trong không chỉ là bàn là ghế. Các phòng học ban ngày chở tiếng cười nói của mấy trăm học sinh giờ im lìm đáng sợ. Duy nhất có ngọn đèn vàng lờ nhờ trong phòng bảo vệ đầu hồi là nhắc nhở tôi về sự tồn tại của con người. Tôi tiến về phía ánh sáng. Ông bảo vệ cỡ ngoài 60, thấp bé, quê kệch và nhạt nhẽo. Giá mà ở nơi đô thị đầy ánh sáng thì có thể tôi và ông ta chẳng có chuyện gì để nói với nhau. Nhưng giờ nhìn thấy ông ta tôi mừng húm như thể chiếc phao cứu nạn. Tôi bắt chuyện "Hôm nay trời ẩm ướt quá". Nhưng ông già có vẻ hờ hững như đã quen với sự cô độc hàng thế kỷ "Chào cậu". "Bác cho cháu sang ngủ cùng cho vui nhé. ở một mình thật buồn quá". Ông ta không buồn nhìn tôi "Tuỳ cậu. Tôi còn một chiếc giường xếp đấy". Tôi sung sướng mở chiếc giường ông bảo vệ lôi từ gầm giường ra và thậm chí không dám quay về căn phòng tối om để thay quần áo nữa. "Bác đã bao giờ nhìn thấy ma chưa?" - "Khối". Ðôi mắt người bảo vệ già bỗng ánh lên kỳ lạ khiến tôi run như cầy sấy "Hồi tôi còn đi bộ đội. Có lần lạc đường vào ngủ nhờ một ngôi nhà nằm trên sườn đồi. Chủ nhà là một bà goá có cô con gái chưa chồng. Hai mẹ con tiếp đón tôi niềm nở và mặc dù lúc đó là nửa đêm, vẫn ra ngoài vườn thịt cho tôi một con gà giò rồi nấu một nồi cháo nóng. Tôi ăn xong ngon lành leo lên giường ngủ tới sáng bảnh. Sáng dậy chả nom thấy ai, đoán là hai mẹ con đi ra đồng. Lúc đó có mấy người đốn củi đi qua nhìn thấy tôi mới ngạc nhiên hỏi tôi làm gì ở đấy. Tôi kể lại câu chuyện hôm qua thì họ hết hồn nói rằng ngôi nhà đó bỏ hoang. Trước ở đó có hai mẹ con bà goá thật. Họ hoạt động cách mạng nhưng đã bị địch bắt và xử bắn rồi. Chắc chắn người tôi gặp đêm qua là oan hồn của họ đấy thôi. Tôi chả sợ. Nghĩ rằng ma mà đón tiếp mình tử tế như vậy thì cũng phải biết ơn họ. ở đây tôi cũng gặp khối. Thỉnh thoảng cứ có người vào xin lửa rồi lại kêu đói, kêu rét, ăn mặc rách rưới chẳng giống ai, ra nhìn theo thấy mất hút vào mấy khu vườn hoang kia. Chả ma thì là gì. Nhưng mình có làm điều gì xấu đâu mà sợ. Ma cũng từng là người giống mình cả thôi." Tôi bỗng cảm thấy hối hận vì đã xin vào đây ngủ nhờ, hối hận vì không cáo ốm mà từ chối lên đây dạy học, hối hận vì đã ưng thuận đi làm thầy giáo và bỗng nhiên thấy oán trách bố mẹ tôi hơn bao giờ hết. Tôi buột miệng "Thế có bao giờ mình nhìn thấy ma giữa ban ngày không bác?" - "Có chứ. Ðấy là những con ma có căn số nặng, linh hồn không thoát đi được nên cứ lẩn khuất nơi chốn cũ." - "Nhưng không phải ai cũng nhìn thấy ma phải không bác.?" - "Ðúng thế. Chỉ những người hợp với cõi âm thôi. Ðấy là những người có khả năng đặc biệt. Như tôi chẳng hạn." Tôi chẳng thích cái khả năng đặc biệt này tí nào. Tôi đâm sợ ông bạn già mới quen này, và tự nhiên, sợ luôn cả chính tôi nữa. Không biết ngày mai tôi có phải đối diện với Thái Vân lần nữa không, trong khi không ai nhìn thấy cô bé cả. Ðêm thứ hai. Tôi có một giấc mơ hãi hùng.

* * *

Thái Vân vẫn lên lớp, ngồi ghi chép đầy đủ. Khuôn mặt đượm buồn nhìn tôi không chớp. Những đứa khác cũng thôi không giở trò trêu ghẹo tôi nữa. Quả như ông Ðĩnh nói, chúng khá chăm học. Tuy nhiên giờ thì tôi không còn hứng khởi nào để giảng bài nữa. Nỗi sợ hãi làm tôi tê liệt cả đầu óc. Tôi lên lớp trong tâm trạng u u mê mê, hư hư thực thực. Nỗi khổ lớn nhất của người thầy giờ tôi mới thấm thía, ấy là anh không được phép bỏ học sinh trong bất kỳ hoàn cảnh nào, vì bất kỳ lý do gì ngoài ốm phải nhập viện. Chị Hoa béo dạy cùng bộ môn tôi bị học sinh đặt tên là Hắc Phong, có lần sốt đùng đùng vẫn cố lên lớp. Hỏi sao không nghỉ kêu phiền phức lắm. Tôi bỏ về Hà Nội vì lý do gì, bịa ra một căn bệnh cấp tính hợp lý? Lũ học sinh sẽ không có người dạy trong mấy hôm cho đến khi trường cử được người khác lên thay. Ðể có được người lên thay ấy phòng đào tạo sẽ phải bố trí thay đổi toàn bộ giờ giảng. Mọi thứ sẽ rối tung lên. Hay tôi nói thật về con ma kia? Khéo người ta cho rằng tôi đã phát điên cũng nên. Cơn mưa phùn rả rích không có vẻ gì là ngớt. Tôi vẫn phải đối diện với cái không khí nhợt nhạt ấy hàng ngày, đối diện với những ngôi mộ vô chủ lũ lượt nằm xếp lớp ngoài cửa sổ, với đôi mắt u buồn của Thái Vân và tối tối co ro trên chiếc giường xếp hôi mùi cớm nắng. Tôi bắt đầu thích nghi với không khí kỳ quặc ở ngôi trường, cố gắng nhìn thẳng vào những thứ làm tôi sợ hãi. Tôi gầy xọp đi. Chiều chiều vẫn giở sách ra soạn bài, cảm thấy ngôi nhà quen thuộc đầy ánh sáng và tiện nghi nằm giữa khu phố sầm uất cạnh Hồ Gươm như một giấc mơ xa vời. Tôi quen dần với những con phố hẹp buồn tẻ, quen với những quán cà phê ghế nhựa thiếu internet và điện thoại không dây, quen với những đứa học sinh lôi thôi luộm thuộm, cách pha trò nhạt nhẽo của mấy chị giáo viên giờ giải lao, câu chuyện ma quái hàng tối của ông bảo vệ già, rồi đôi lúc còn ngỡ rằng có khi tôi sinh ra là để nhập vào cái không khí ảo ảo thực thực đầy màu xám này cũng nên. Lũ học trò lại ngày càng ham học một cách đáng ghét. Thậm chí Thái Vân cũng ham học không kém, như thể cô bé thấy tiếc những ngày còn sống vậy. Nhiều khi tôi quên mất thân phận của Thái Vân, còn định gọi cô lên đọc bài. Làm cái anh thầy giáo hay ở chỗ cho dù có tâm trạng thế nào nhưng cứ hễ học trò nó hau háu ngồi nghe lại hăng máu lên mà giảng say sưa. Thằng Tuân béo lạ thay, không quậy phá nữa và mấy lần nhìn tôi len lén như định nói gì song lại thôi. Thấm thoắt chỉ còn ba ngày nữa là tôi được về nhà. Cơn mưa phùn may thay đã tạnh từ hôm trước. Sáng ấy, ông bảo vệ báo cho tôi một tin rất sốc là bà vợ già của ông sẽ ở quê lên thăm. Vì vậy tôi liệu mà thu xếp chỗ ngủ, ông ta sẽ không cho mượn chiếc giường xếp hôi mùi cớm nắng ấy nữa. Dù đã quen với cái không khí kỳ dị của ngôi trường nhưng việc phải ngủ một mình trong căn phòng đen ngòm mà biết đâu dưới nền vẫn còn vài cái tiểu sành còn sót lại là một chuyện khác hẳn. Tối đó, sau khi quán cà phê quen thuộc của tôi đóng cửa sau lời đuổi khéo của bà chủ quán ?Gớm, nom thế mà đã 11 giờ, cậu về ngủ sớm đi rồi mai còn lên lớp?, tôi còn lang thang chừng non một tiếng nữa. Con đường vắng lặng đến nỗi tôi có thể nghe rõ tiếng bánh xe chà sát lên mặt đường lổn nhổn đá dăm. Ðèn đường đã tắt hết và lúc này chỉ còn ánh sáng duy nhất rọi từ chiếc đèn pha của tôi. ánh đèn màu vàng nhạt bất chợt lướt qua một người mặc sơ mi trắng đang đạp xe đằng trước, là một cô gái. Chẳng mấy chốc khoảng cách giữa tôi và cô ta thu hẹp dần. Cô gái quay đầu lại, đối diện với ánh đèn pha sáng loá. Là Thái Vân. Nụ cười lần đầu tiên tôi nhìn thấy với hàng răng trắng đều tăm tắp "Em chào thầy ạ". Tôi không nhớ mình nằm dưới mặt đường bằng cách nào, vì cú phanh đột ngột hay do mặt đá dăm trượt vào bánh xe nhưng não của tôi đã tê liệt. Khuôn mặt trắng toát của Thái Vân cúi xuống càng làm tôi khiếp đảm "Thầy có sao không ạ?". Tôi thều thào "Tránh xa tôi ra. Ðã là ma sao không siêu thoát đi. Còn ám tôi làm gì". Thái Vân bật khóc "Thầy ơi. Em không phải là Thái Vân đâu. Em là Bích Hoa. Trò này là do tụi Tuân béo bày ra. Cả cái vụ đốt hương làm khói nữa. Em xin lỗi thầy". Lúc này tôi như bị ném từ một hồ nước đóng băng tê cóng vào đống lửa đang bén cao từ những cành cây khô nỏ. Cánh tay tôi đau điếng song tôi thấy có chỗ khác còn đau hơn "Tôi không tưởng tượng nổi...". Bích Hoa cuống quýt "Thầy ơi, chỉ vì em không có điều kiện đi học nên Tuân béo mới bày ra đủ trò. Em đã định nói với thầy nhưng em sợ...". Mơ ước của tôi mấy hôm trước đã trở thành sự thật. Cánh tay của tôi bị rạn sau cú ngã xe và tôi từ chối sự thăm hỏi của lũ học trò trong bệnh viện. Hôm cuối cùng, tôi vẫn cố lên lớp với cái tay bó bột trắng toát. Tôi chỉ nói vỏn vẹn một câu "Tôi đã lặn lội gần trăm cây số đến đây để mong gặp các em. Vậy mà tôi thất vọng". Hơn 50 khuôn mặt xanh lét. Cả Tuân béo cũng cúi gằm mặt xuống. Chúng tôi chia tay nhau chẳng vui vẻ gì.

Sáng hôm sau, trời rất đẹp nhưng tôi đã chán ngán cái thành phố này đến tận cổ. Cái cảm giác mình là một thằng ngốc trên bục giảng suốt một tháng qua làm tôi phiền muộn. Ðúng vào lúc tôi loay hoay tìm cách dắt chiếc xe bằng một tay ra cửa, thì có tiếng lao xao rộn lên trong sân trường vắng lặng. Tất cả lũ học trò quý hoá của tôi đã tề tựu đông đủ, dẫn đầu là Tuân béo và Bích Hoa. Tuân béo tay xách chiếc ba lô cho tôi, mắt nhìn đi hướng khác "Em xin lỗi thầy. Chỉ vì hôm thầy bị hỏng xe giữa đường, thấy thầy... sợ ma nên em tính đùa chút xíu. Chúng em vẫn luôn tôn trọng thầy". Tôi trố mắt lên nhìn Tuân béo và chợt nhớ ra cái dáng mập tròn trong chiếc áo mưa màu tím than. Tuân béo lúc này mới dám nhìn tôi "Thầy không phải đi ô tô đâu. Ðể em đưa thầy về tận Hà Nội."

***

Có một vài lý do khiến tôi không thể nào ghét lũ học trò được, cho dù đôi lúc chúng còn khó chịu hơn tụi yêu ma quỷ quái. Bích Hoa năm nào cũng gửi cho tôi một gói trà vào ngày 20 tháng 11. Mùa thu năm ngoái, tôi tình cờ gặp cô bé trong một hội chợ du lịch, đang đứng giới thiệu sản phẩm trà của gian hàng. Mới tuần trước, Bích Hoa cũng gửi thư từ trong Nam ra khoe rằng đã chuyển hẳn sang một công ty du lịch lớn và cô bé được tiến cử phụ trách bộ phận nội địa. Tuân béo cũng hay gọi điện hỏi thăm. Cậu này hồi đi học còn làm thuê cho cửa hàng sửa xe máy giờ đã mở một nhà hàng ăn uống ở Thái Nguyên. Nghe đâu còn có tham vọng đầu tư vào dịch vụ du lịch Hồ Núi Cốc.

Chú thích: 

1. Tên các nhà sư phạm nổi tiếng 

2. Jan Amot Comenski, nhà lý luận dạy học được tôn vinh là Ông tổ của nền sư phạm cận đại 

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn nàyNgười cùng chung cư

Truyện ngắn của Di Li

Một cái đầu màu hạt dẻ hiện ra sau cánh cửa gỗ sơn màu cánh gián vẻ hơi ngạc nhiên, theo sau là bộ ngực trần rám nắng với hình xăm mỏ neo màu đỏ và đen bên ngực trái: "Xin lỗi, làm ơn vặn nhỏ nhạc chút vì khuya quá rồi". Hàm răng sáng bóng kéo ra một độ dài vừa đủ lịch sự: "Xin lỗi chị, phiền hàng xóm quá".

Miên gặp Mỏ Neo lần đầu tiên trong một vụ nho nhỏ như thế. Miên vô thức click chuột vào cuốn album trong blog của Mỏ Neo, những tấm ảnh vô thức trôi, và sống động đến đáng sợ.

***

Miên sải những bước dài, chui tọt vào cầu thang máy và nhanh chóng nhấn số 10. Không may, một bàn tay đã chẹn lấy cửa và nhanh nhẹn bước vào trong, nụ cười sáng bóng làm thân "Chị chờ chút, mình ở cùng tầng mà". Miên vô cùng dị ứng khi đứng trong cầu thang máy với người khác. Trong một mét vuông với những người xa lạ, cô thấy nghẹt thở lắm. Những tấm vật liệu được vần vào trong, cùng vài anh công nhân mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Mỏ Neo cười cầu tài: "Sửa sai việc hôm qua đấy mà". Miên không hiểu. "Hôm qua chị phê bình nên em thuê thợ làm bộ phận cách âm". Miên càng ngơ ngác. Cô mới chuyển tới khu này được hơn nửa năm, còn Mỏ Neo, mới nửa tháng, một tháng, hoặc có thể hơn. Chính xác là từ khi bị tiếng nhạc đêm hành hạ, cô mới bắt đầu nhận thức được căn hộ kế duy nhất có người ở.

Trong số những khu chung cư kế cận, khu nhà Miên ở có giá thuê rẻ nhất và chủ hộ già nhất có lẽ cũng chỉ 40 tuổi. Những cầu thang toả lên các tầng với từng cặp hai hộ khép kín, âm u và bí bách. Những cánh cửa gỗ màu cánh gián giống hệt nhau, đóng im ỉm, đơn điệu đến phát điên. Từ hồi đến đây, Miên không quen ai trong số vài trăm nhân khẩu cùng khối nhà. Thảng hoặc cô đứng chung cầu thang máy với các cư dân của tầng trên hoặc tầng dưới. Họ đều trẻ, trẻ để cảm thấy hứng thú với những cánh cửa màu cánh gián khoanh vùng một thế giới riêng, trẻ để không thích chung đụng và chia sẻ. 

Sau lần đối mặt thứ hai ở cầu thang máy, thứ nhạc cấp ba kia đã chấm dứt. Lần giáp mặt kế tiếp, Mỏ Neo sang gõ cửa phòng Miên hỏi xem bên này có bị mất điện không. Không. Rõ ràng là đường điện bên kia có vấn đề. "Chị sống một mình à. Tuyệt vời đấy. Sống tự do là một trong những sản phẩm văn minh nhất của thế giới văn minh!".

***

Miên nhìn phần Interest trên blog của Mỏ Neo. Chỉ một từ duy nhất Mỏ Neo viết một cách hài hước Mien.com. Miên kết bạn với Mỏ Neo một cách tự nhiên theo lẽ trái tự nhiên nhất. Hôm đó Mỏ Neo lại gõ cửa. "Bên này có mất điện không chị?" - Mỏ Neo hỏi rồi cười xoà, vì khuôn mặt Miên lấp loá trong ánh nến đầy bực bội. "Hôm nay đúng sinh nhật em, đang định ra quán, chị đi cùng nhé? Mất điện lâu đấy".

Lũ bạn của Mỏ Neo vừa lịch sự vừa nhố nhăng. Có khoảng hơn chục đứa, cả nam lẫn nữ, chui vào một quán bar có tên là Funky Girl. Mấy đứa choẽ hai ngón tay làm điệu bộ của các rapper đường phố, đọc một đoạn rap dài trong đó có từ Funky Girl đọc chệch đi thành một chữ bậy bạ rồi cười rú lên. Miên giữ vẻ thản nhiên, cho dù Mỏ Neo có ý gàn tụi kia sợ làm Miên phật lòng. Chả sao. Đề tài liên quan đến sex bao gồm những từ ám chỉ, vật tượng trưng và các câu chuyện hài hước là thứ dễ khiến người ta hứng khởi nhất. Ở cơ quan cũ của Miên, nơi mà Miên làm ngay sau khi về nước, người ta nói chuyện sex từ sáng đến tối. Càng nhiều thời gian, các câu chuyện càng được sáng tạo, thêm thắt, những từ ngữ úp mở chỉ có Miên là không hiểu.

Trên đường về. "Chị hỏi điều này buồn cười lắm, chị chưa biết tên của em". "Ừ nhỉ, em là Gia Lương, một cái tên chưởng bộ, còn nếu để tên không thì nghe rất ngố. Chị cứ gọi em là Ricky, hồi còn đi học tụi bạn em vẫn gọi vậy". "Trước em học bang nào?". "Trường Bowdoin, Massachusette, tốt nghiệp được ba năm rồi". "Nghĩa là năm nay 25?". "Đúng. Em đoán em kém chị 5 tuổi. Chị làm thạc sĩ xong sao không ở lại?". "Thế sao em không ở lại?". Mỏ Neo ngúc ngoắc đầu: "Em khác. Sao chị chưa lấy chồng?".

***

Album trên blog mang tên Ricky vẫn vô thức trôi. Những hình ảnh hiện ra rồi biến mất. Tấm ảnh chụp hôm sinh nhật Mỏ Neo có cả Miên, vài cậu bạn tóc vàng và một cô gái giơ ba ngón tay làm thành chữ Vi.

Có tiếng chuông điện thoại, song Miên không nghe, điện thoại ngừng một lúc rồi đổ hồi thứ hai, lần này Miên rút hết dây cắm và lục tìm một túi càphê tan. Miên có gặp Lam Vi vài lần. Lam Vi bấm chuông cửa nhà Miên, không chào, xấc xược: "Ricky bảo chị mở cửa cho em. Anh ấy có việc ở công ty không về được".

Có vài lần Mỏ Neo mời Miên sang chơi. Nhà Mỏ Neo đủ màu sắc như một phòng học mẫu giáo. Tạp chí, băng đĩa, quần áo, đầu mẩu thuốc lá, vỏ kẹo và chai lọ vắt vẻo mọi nơi tô điểm vào không khí kỳ cục của căn phòng. Mỏ Neo chả có vẻ gì là ngượng nghịu, trái lại còn vứt toẹt vỏ bao thuốc xuống đất ngang nhiên như chỗ công cộng. Miên đi đi lại lại và chân tay ngọ nguậy một cách đầy bản năng. "Em có muốn chị dọn dẹp giúp em đống này không?". "Chị dọn suốt đời được à. Dọn xong ngày mai lại thế". Tuy nhiên Mỏ Neo cũng đưa chìa khoá phòng cho Miên. "Chị có thể vào nhà bất kỳ lúc nào, và làm bất kỳ điều gì chị muốn". Nó ngoắc chiếc chìa khoá vào tay, lúc lắc người tiến lại phía Miên. Mỏ Neo ép sát Miên vào tường, và nắm chặt hai tay ra ý cảm ơn. Miên luống cuống khẽ ẩy nó ra xa rồi vội vã tiến về đống báo cũ. Mỏ Neo khẽ huýt sáo vui vẻ, người vẫn lúc lắc một cách kỳ lạ với vẻ hưng phấn rõ rệt. "Chị yên tâm, em coi chị như chị gái của em". Vẫn dáng đi lúc lắc ngớ ngẩn, Mỏ Neo tiến về chiếc salon, đổ người xuống và hát ông ổng một bài tiếng Anh mà Miên chưa nghe thấy bao giờ.

Miên thấy vui vì có một người tin tưởng, giao cho cô cả chìa khoá nhà. Và thường thì cuối tuần, là những ngày Mỏ Neo đi vắng suốt, Miên mở cửa căn hộ của người bạn hàng xóm để dọn dẹp, dẫu biết rằng chỉ đến sáng hôm sau, những thứ hổ lốn kia sẽ lại xuất hiện như cũ.

Lam Vi khiến bất kỳ người nào khó chịu ngay từ lần gặp đầu tiên. Trượt đại học, mồm nói không ngơi nghỉ trừ lúc nhai kẹo caosu và hút thuốc, toàn lời lẽ bậy bạ và ngớ ngẩn, quần cạp trễ, áo quai treo, tóc tỉa hai tầng sợi ghi sợi vàng, móng tay đính cườm lóng lánh.

Miên mở khoá cửa cho Vi. Cô bé ào vào nhà, rút lon bia trong tủ lạnh bật nắp và gác cả đôi giày 9 phân lên mặt bàn. Không khí trong phòng ngột ngạt. Mỏ Neo luôn đóng tịt các cửa sổ khiến căn phòng như một thứ hầm trú ẩn của các giáo phái tà đạo. "Sao Ricky lại thích chơi với chị nhỉ?". Lam Vi bắt đầu phả thuốc mù mịt khắp phòng, thản nhiên nhìn Miên. Cô không khó chịu vì câu hỏi thiếu tế nhị đó. Chẳng phải cô cũng có chung câu hỏi như thế với Lam Vi hay sao. Có lần Mỏ Neo bảo Miên: "Chị nhạt nhẽo thật đấy". Mỏ Neo cũng giống Lam Vi, luôn nói thẳng những câu rất thô lỗ. Nhiều người bảo Miên đẹp. Nhưng Mỏ Neo đã chứng minh ngược lại khi kéo Miên ra trước gương "Chị xem này, mọi đường nét của chị đều đẹp không chê vào đâu được, nhưng khi ghép chúng vào với nhau thì cứ nhạt nhẽo thế nào ấy".

30 tuổi, Miên gần như chưa có bạn trai. Vài lần, Miên loáng thoáng thấy một anh chàng nào đó thất bại sau vài chầu càphê bình luận: "Đẹp nhưng nhạt nhẽo thế nào ấy". Và bây giờ là Mỏ Neo, ngang nhiên lôi cô đến trước gương nói rằng cô nhạt nhẽo. "Chị sống nhạt lắm". Mỏ Neo lặp lại và bất thần ôm chặt lấy Miên xoay một vòng, miệng cười khanh khách.

Lần thứ ba Miên gặp Lam Vi khi cô bé đang cưỡi lên người Mỏ Neo. Đã một giờ sáng, và Miên ngủ được một giấc rồi. Cô chợt nhớ ra chiếc điện thoại để quên bên nhà Mỏ Neo lúc sang đó dọn dẹp. Nghĩ rằng người hàng xóm giờ này đã ngủ say, Miên lấy chìa khoá nhẹ nhàng mở cánh cửa màu cánh gián. Ngay khi cánh cửa vừa hé, những âm thanh chát chúa dội vào đầu óc đang mơ màng của Miên. Những tấm cách âm dày đã khiến tiếng nhạc bị nhốt an toàn cùng với ánh đèn xanh đỏ đang nhấp nháy.

Miên hoa mắt. Cô lờ mờ thấy những hình thù kỳ dị lổm ngổm trên sàn nhà, bám vào tường, lê lết khắp mọi nơi. Cả Lam Vi và Mỏ Neo gần như vẫn còn nguyên quần áo, đang rên rỉ những âm thanh man dại. Những khối đen khác quằn quại trên salon, dưới sàn nhà trong vũ điệu quái đản và gấp gáp đầy kích động của những con mèo hoang đêm trăng tròn, đều mang dáng vẻ quen thuộc mà Miên đã gặp một lần. Một cô bé trạc tuổi Lam Vi, với bộ ngực để trần, trên người lủng lẳng mỗi chiếc váy cộc gần như sắp rơi xuống đất đang mải miết tìm gì đó dưới sàn. Cô giờ đang thè lưỡi liếm những chiếc chân bàn một cách say mê. Đôi mắt ngây dại nhưng long lanh thích thú, cô bé bò lổm ngổm lại gần gian bếp và bắt đầu liếm láp chân tường. Trên bàn ăn, một cô bé khác đang ngồi chồm chỗm, tay bám chặt thành bàn, thỉnh thoảng lại gào rú một cách thảm thiết "Giữ chặt lấy em, em sắp lăn xuống bây giờ đấy". Căn phòng của Mỏ Neo ban ngày dễ thương như phòng học mẫu giáo giờ biến thành một hang động thuở hồng hoang, ẩm ướt thứ bản năng cuồng dại và ma quái.

***

"Bố mẹ em có hạnh phúc không?". "Rất hạnh phúc! Thậm chí sếp bố tặng sếp mẹ một chiếc lược thép cách đây 30 năm mà giờ sếp mẹ vẫn còn giữ". "Em có thấy mình được chiều quá đáng hay bị ngược đãi không?". "Hô hô! Nếu quá đáng thì đã không tiêu hoá nổi 16 năm học đâu". "Em quen những người bạn kia bao giờ?". Cách đây một năm, người nọ tập hợp được người kia. Một hôm Ricky lên tiếng. Sống chán phát mứa ra rồi. Anh em thử bàn xem có trò gì mới không. Vậy là go go go, toàn đứa thông minh mà. "Em đã bao giờ bị bỏ rơi chưa?". Mỏ Neo tiến lại phía Miên, làm động tác muốn ôm cô vào ngực, dáng người vẫn lúc lắc một cách vui vẻ: "Chị thử nhìn xem. Em có đẹp trai không. Gái bu xung quanh đấy". Mỏ Neo ngả người trên ghế sôpha, giả đò làm điệu bộ khêu gợi. Rồi nó gí sát mặt đối diện với Miên, chừng không thể gần hơn được nữa" "Em chán chị lắm. Chị hỏi những câu nhạt nhẽo ấy làm gì? Chị muốn thay đổi gì ở em. Tốt nhất là hãy thay đổi cái thứ giấy bồi tường gớm ghiếc kia đi và làm cho tấm ga giường nhàu nhĩ thêm một tí. Bố mẹ em có địa vị và giàu có, nhưng nhạt nhẽo y như chị ấy. Và rồi em thấy cần phải thay đổi. Vì vậy hãy đốt lửa lên nào!".

Mỏ Neo lắc lư người và mồm tự làm nhạc, nhảy một điệu kỳ dị. "Thôi đã Ricky! Vậy là em dùng ectasy một năm rồi?". "Sao chị nói văn hoa thế, gọi là lắc, là bay, là cắn, như thế ấn tượng hơn. Không nghiện đâu, đừng sợ em. Thuốc lá không hút còn thèm chứ thứ kẹo này chỉ để vui thôi. Nhưng chị vẫn giúp em dọn dẹp nhà cửa chứ?". Khuôn mặt Mỏ Neo thoắt biến đổi, đôi mắt trẻ thơ đầy biểu cảm và giọng nói có vẻ hơi lo lắng.

Miên vẫn sang dọn dẹp giúp Mỏ Neo. Cô như một bệnh nhân kinh niên nằm giữa bốn bức tường trắng toát, bỗng một ngày nọ phát hiện lối cửa sau có một khu vườn lạ, chứa đầy hoa dại và cả những bụi gai.

Cũng có lần Miên thuyết phục được người hàng xóm từ bỏ đám bạn. Đó là hai ngày nghỉ cuối tuần. Mỏ Neo khoá trái cửa, tắt điện thoại và sang nhà Miên. Ban đêm, Mỏ Neo ngủ trên chiếc salon màu ghi. Nhưng đôi mắt nó đã vô cảm, những mẩu chuyện của Miên như dội vào một bức tường đá. Không còn những câu pha trò vui nhộn và dáng đi lúc lắc kỳ dị. Có lần, Mỏ Neo giật phắt thân hình uể oải khỏi chiếc ghế, hoảng hốt mở tung các cánh cửa tủ và rối rít tìm thứ gì đó trong buồng tắm: "Em nghi rằng có ai đang nấp trong này. Có thể là thằng cha nào đó thích chị rồi muốn tìm cách thủ tiêu em". Những lời trấn an của Miên dường như vô ích. Trong giấc ngủ thảng thốt, Mỏ Neo luôn giật mình và gào rú thảm thiết: "Miên, có người muốn giết em!". Nhưng Miên vẫn kiên trì ngay cả khi nhìn thấy ánh mắt nghi ngờ của Mỏ Neo lúc nhận cốc sữa từ tay Miên: "Biết đâu đã có đứa nào lén bỏ thứ gì vào đây thì sao?". Những cơn trầm cảm và ảo giác đầy hoang tưởng của Mỏ Neo đã khiến cuối tuần của Miên không chỉ có màu ghi như mọi ngày. Sự bất an lây lan sang cả Miên. Thế rồi, Mỏ Neo quay trở lại với cái hang động hoang dã sau cánh cửa màu cánh gián. Nó hưng phấn trở lại. Ánh mắt lúc nào cũng lấp lánh một cách kỳ dị. "Miên này, em mới tìm được một đối tác cực sộp. Sẽ mời công ty em phân phối độc quyền phần mềm ở miền Bắc". Vẻ phấn chấn của Mỏ Neo bao trùm lên Miên.

***

Chiếc xe mui trần màu vàng chanh hiện ra choán hết màn hình. Miên click chuột cho hình ảnh đứng lại. Hôm đó là một chiều cuối thu, chỉ có gió và đám mây hanh hao chậm rãi. "Alô. Chị xuống đây đi. Em đang ở dưới sân". Miên thò đầu qua ô cửa sổ. Mỏ Neo đứng bên chiếc mui trần, vẫy tay hớn hở. "Khoản trợ cấp cuối cùng để làm ăn đây, nhưng bây giờ không cần dùng tới nữa vì sắp ký được một món khá rồi. À quên, chị lên nhà thử cái này đi, thay cho mấy thứ nhạt nhẽo của chị". Nó xiết chặt hai tay Miên: "Em cảm ơn chị vì thời gian vừa qua". Mỏ Neo đưa cho Miên một hộp quà bọc giấy màu đỏ boócđô. Màu đỏ tươi của chiếc váy lụa mỏng manh như kết theo nụ cười bừng sáng của Mỏ Neo. Nước da Mỏ Neo không còn màu rám nắng hấp dẫn, nó tái lại và bắt đầu lộ đường gân xanh trên cánh tay gầy gò. Mỏ Neo huýt sáo vui vẻ ngồi sau vôlăng, lòng mắt in hình bầu trời xanh thẳm. Em sẽ chở chị đi bất cứ nơi nào chị muốn.

Hôm sau thì mẹ Mỏ Neo tìm đến, trách mắng nó đã xài tiền vào cái việc mua sắm vô lý. Bà là một phụ nữ sang trọng, dịu dàng nhưng nghiêm khắc. Hôm ấy Mỏ Neo về sớm hơn thường lệ. Miên cảm thấy một cuộc tranh cãi căng thẳng giữa bà và người hàng xóm bướng bỉnh sau cánh cửa gỗ dày. Khi bà rời khỏi khu chung cư, bực đến nỗi quên cả chào Miên, thì cũng là lúc Mỏ Neo ập sang, rơi xuống chiếc salon màu ghi như quả táo nẫu. "Em thất bại rồi. Phía bên kia không ký nữa vì em thiếu một số giấy tờ pháp lý. Tưởng là chạy được nhưng...". Mỏ Neo phẩy tay, nhìn Miên như muốn khóc, như muốn tròng mắt bỗng dưng mù loà để khỏi phải nhìn thấy vạn vật xung quanh. Miên nói một câu nhạt nhẽo và hết sức vô nghĩa trong trường hợp này: "Thôi, thua keo này ta bày keo khác". "Không còn keo khác nữa. Để lấy uy tín với nhà cung cấp, em đã đầu tư quá nhiều cho các đại lý rồi. Đây là nước cờ sai lầm và thiếu thực tế. Em ngu lắm". "Không sao Ricky, kinh doanh là thế". "Miên ạ, em thất bại hết lần này đến lần khác, và bây giờ phá sản rồi. Cái xe kia cũng sắp phải cho đi ở đợ rồi".

Mỏ Neo bấm điện thoại: "Lam Vi, ở đâu đấy, anh cần em!". Miên biết rằng giờ phút này, Mỏ Neo cần Lam Vi. Lam Vi là thứ thuốc quên thực tại và dìu con người ta vào bầu chân không trong vũ trụ. Nơi đó có cái hốc đen ngòm tham lam sẵn sàng nuốt chửng cả ảo giác và tri giác, cả sự sống lẫn cái chết. 

Chiếc xe màu vàng vẫn đứng đó, vui vẻ trên màn hình. Nó không còn nữa, không phải bị thanh lý để Mỏ Neo trả nợ mà vĩnh viễn nằm dưới vực sâu, nát vụn, cô độc, dưới một chỗ ngoặt hiểm. Tất cả đều không biết Mỏ Neo có việc gì phải đi qua vách núi đó vào đêm hôm khuya khoắt như vậy. Lúc ấy là hai giờ sáng, theo phỏng đoán thì có thể là do lái xe buồn ngủ, gặp một cơn choáng hay một chướng ngại vật ảo giác. Và cái vực sâu hun hút, tối tăm, lạnh lẽo, ranh ma chỉ chờ có vậy, hứng trọn vẹn những gì thuộc về nó như ánh đèn hứng cánh thiêu thân vậy.

Miên vẫn đi làm, đều đặn, vẫn chiều chiều nhai bánh mì gối và cà chua bi, tối đóng chặt cửa và mở máy vi tính. Những lúc này, màu sắc sặc sỡ trên blog của Mỏ Neo như đưa cô vào một thế giới khác, đầy ảo ảnh buồn thương và điên khùng.

Trên Friendlist của Mỏ Neo lấp lánh hàng trăm gương mặt trẻ tuổi, xinh đẹp, mẫn cảm, tự tin, tràn đầy sức sống. Miên click chuột vào chính ảnh mình. Trái với Friendlist hơn trăm người của Mỏ Neo, blog của Miên chỉ có một người bạn duy nhất. Cô mở to mắt khi nhìn thấy tin nhắn, bên cạnh là khuôn mặt rám nắng "Giờ này chắc chị ngủ say rồi. Có người bạn thân của em ở trên Lạng Sơn mời lên chơi. Anh này lập một công ty lớn trên đó, có ý muốn rủ em làm ăn chung. Em vẫn nuôi ý định làm lại từ đầu chứ không muốn đi làm thuê. Em biết chị giận em, nhưng lần này em sẽ từ bỏ "nó". Em hứa đấy. Bây giờ là 12h đêm, em sẽ đi luôn bây giờ mà không cần chờ trời sáng. Đừng lo cho em, lúc về em sẽ mua tặng chị một món quà đặc biệt ở chợ biên giới. Chị cứ ngủ đi nhé. Hẹn gặp lại chị ngày mai". Tin nhắn được gửi cách đây một tuần, đúng vào ngày chiếc xe màu vàng vĩnh viễn ngủ yên dưới vực thẳm.

(Di Li tên thật là Nguyễn Diệu Linh, sinh năm 1978 tại Hà Nội. Tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại ngữ HN, hiện là giáo viên Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch HN)

Người làm ảo thuật trên chuyến tàu đi Saint Peterburg

Truyện ngắn của Di Li

Thục đặt chiếc va li lên sân ga ẩm ướt rồi rất nhanh, ôm chặt chiếc sắc vào ngực. Thuý vung vẩy chiếc túi du lịch nhỏ, trong có một bộ quần áo mỏng dính và vài lon bia, luôn miệng chỉ đạo "Ví tiền đâu rồi, cất hết đi, chỉ bỏ ra ít tiền lẻ thôi...

Khổ quá, sao vé tàu lại để chung với vé máy bay... Tập trung vé tàu ra đây... Thế. Hộ chiếu cất vào ngăn nhỏ kia. Nhớ đấy. Ai bảo đưa hộ chiếu đừng đưa". 

Chị Oanh già nhìn làn khói xám tỏa ra từ điếu thuốc Parliament trên môi Thuý sợ chết khiếp. Từ lúc gặp Thuý, Oanh lo bảo vệ ví tiền và hộ chiếu hơn cả tính mạng. Vào điện Kremlin, xuống Metro, lên Plaza, cứ ba phút một lần, Oanh cúi xuống nhìn chiếc sắc giả da cá sấu treo lủng lẳng trước ngực. 

Đã vậy, dọc đường đi, thi thoảng Thuý lại củng cố tinh thần cảnh giác cao độ cho Thục và Oanh bằng những câu chuyện vụ án rùng rợn ở Mat. Câu chuyện nhẹ nhàng nhất lúc họ ngồi nhai bánh mì và uống nước lúa mạch đen ở nhà chờ là toàn bộ của nả trong một toa tàu đã bốc hơi trước khi đám hành khách thức dậy ngơ ngẩn trong khí ê te. 

"Mà cái chất ê te bên này khiếp lắm. Nó làm con người ta đơ mất một tuần mới hồi phục trí nhớ". Thục đã bật cười, nhìn bạn âu yếm. Cái chữ "bên này" được Thuý sử dụng bất cứ lúc nào để thay thế cho một tính từ so sánh. 

Mười năm trước, Thuý hay gửi thư cho Thục qua đường bưu điện, sau thay thế bằng thư điện tử, rồi chat trên Yahoo Messenger và dần dần tịt hẳn vì đôi bên đều bận. 

Thuý thường tả cho Thục những thảm lá vàng rơi trước cổng Đại học Lômônôxốp mà từ đó nhìn xuống sông Matxcơva trải dài như vệt nắng xanh, những bông tuyết mềm rơi lả tả trên đại lộ Nikitsky, những buổi chiều hè đi shopping trong siêu thị Stockman mua đủ thứ quần áo thời trang (Thuý có gửi về cho Thục vài chiếc vì rằng rẻ lắm, lại là hàng hiệu) và đặc biệt là những người bạn đồng nghiệp rất dễ thương, lúc nào cũng làm như Thuý còn bé lắm, cần phải dạy bảo. 

Thế rồi Thục kiên gan không hề hé môi về chuyến công tác ngắn ngày. Thục liều gọi một chiếc taxi, đưa cho người tài xế chiếc bì thư. Xe chạy lâu lắm, nhưng Thục chả để ý. Những tưởng tượng về vài tình huống bất ngờ thú vị lúc gặp lại người bạn tiểu học khiến tim Thục nhảy nhót như đánh lô tô, có khi lại mỉm cười vu vơ khi người tài xế kín đáo quan sát Thục. 

Xe thả Thục trước một khu chung cư cũ kỹ, có bức tường vàng sẫm bao quanh, bên phải là một nhà máy với những cột ống khói to đùng, đen kịt, bên trái là cánh rừng lưa thưa buồn tẻ. Thục ngơ ngẩn đi vào sân trước, chân dẫm lên những vũng nước nâu sẫm lấp xấp cùng lá cây, vỏ bao nylon và giấy báo cũ. 

Còn sau đó, Thục chả nhớ gì nữa hết, chỉ láng máng những căn phòng lúp xúp như ký túc xá sinh viên, tường dán báo cũ, những cô gái tóc đen, da vàng ngả ngớn, kèo nhèo thêm vài rúp từ chiếc ví nhàu nát hoặc của những gã đàn ông tóc vàng béo ị hoặc của những tay thanh niên da vàng bặm trợn. 

Thuý mặt mũi bầm tím đang đu người theo nắm tóc nằm trong tay gã đàn ông cao lớn. "Một tuần nữa không trả thì gọi điện cho mẹ mày chuẩn bị mà chở xác con gái về nước nhé. Làm đĩ không đủ tiền phấn sáp". 

Nhìn thấy Thục, Thuý kinh ngạc, sững sờ, tê tái rồi lớn tiếng mắng át đi "Sao đến mà không báo trước. Dám đi taxi một mình có ngày nó cho mất xác". Thục ôm chầm lấy bạn "Ngày kia tao về. Mày dẫn tao đi Saint Peterburg chơi một chuyến nhé". 

Thuý xông xáo xếp hành lý của Thục và Oanh vào khoang. Chiếc dát giường tầng một được nâng lên, ở dưới là hộp đồ chứa hành lý. Oanh khoái chí cười khanh khách "Thế này là an tâm rồi. Đứa nào có gan xịt ê te cũng không qua mặt cái Thục được. Nó nặng gần bảy chục ký cơ mà". 

Một thanh niên người Nga vào sau, anh ta tóc quăn vàng, chừng 30 tuổi, dáng người mảnh khảnh và đôi mắt xanh biếc, phẳng lặng như mặt sông Matxcơva. Anh ta chỉ có một chiếc túi ka ki cũ kỹ nên không quan tâm đến chuyện cất đồ như tụi Thục. 

Thấy ba cô gái, người hành khách nhoẻn cười làm thân, nụ cười hiền khô và trông tồi tội. Oanh đưa mắt nhìn Thục đầy ý nghĩa, ý rằng may mắn, không phải qua đêm trên tàu chung với một gã võ biền thô thiển nào đó. 

Người hành khách lạ mặt bắt đầu nói vài câu gì đó và Thuý dịch lại "Anh này hỏi mọi người có thích xem ảo thuật không. Anh ấy là nhà ảo thuật". Tức thì nhà ảo thuật rút từ chiếc túi kaki vài chiếc khăn màu nhàu nát. 

Thoắt cái, những chiếc khăn biến mất, rồi anh ta ra hiệu, những chiếc khăn đã được thắt thành nơ ngay ngắn, nằm chễm chệ trên đầu ba nữ hành khách. 

Vài giây sau, chiếc khăn vụt biến thành bộ bài tây. Đôi tay mềm mại của nhà ảo thuật vừa tung hứng vừa tráo bài thoăn thoắt, rồi trong khi các cô còn đang hoa mắt, 52 lá bài được lật lên, ngạc nhiên thay, chỉ toàn là Quy cơ. 

Thục quan sát thật kỹ, nhà ảo thuật chỉ mặc độc chiếc áo sơ mi vải sợi thô hơi cũ, anh ta lấy đâu ra lắm đạo cụ, từ vòng sắt, bóng bay, bóng bàn cho đến những con rối hình Marusca ngộ nghĩnh. Thục cũng từng được một người bạn tặng cho bộ ảo thuật sau khi anh này đi Trung Quốc về. 

Chỉ cần vài phút, Thục đã có thể biểu diễn được hàng chục trò ảo thuật biến hoá từ khăn tay, đồng xu, bài tây và đủ thứ lặt vặt khác. Thì ra các nhà ảo thuật đại tài đều sở hữu những đạo cụ công nghệ cao bí mật. 

Thục vẫn vô cùng hâm mộ những nghệ sĩ mà từ đôi tay, ánh mắt của họ đều toát lên một thứ nghệ thuật thần bí siêu phàm và quyến rũ. Đặc biệt là những nhà ảo thuật rong như chàng thanh niên người Nga này, vừa có vẻ cao quý, lãng mạn của người nghệ sỹ, vừa gợi lên sự thương cảm, xót xa cho một kiếp người lang bạt. 

Giờ thì Thục không còn nhìn thấy những nghệ sỹ xiếc lang thang, người hát rong hay nhà ảo thuật ở vườn hoa, công viên nữa. Sự biến mất của họ cũng đầy bí ẩn. Chính là những người như Thục đã làm họ biến mất khi thay thế sự thưởng thức cũng các loại hình nghệ thuật này nhưng ở một nơi cao cấp, sang trọng hơn. 

Tuy nhiên, ở một thành phố rộng lớn như Matxcơva, nơi những chiếc xe Rolls Royce kính đen hễ cứ đỗ đèn đỏ là có vài chú bé tóc vàng như thiên thần chạy ra xịt nước lên thành xe, hối hả lau lau chùi chùi để rồi khi đèn xanh xuất hiện, chỉ có tiếng rú ga êm ái và làn khói thơm lừng xộc ra từ đuôi xe thay vì vài rúp lẻ, những nghệ sỹ đàn rong, xiếc rong vẫn tồn tại. 

Họ ở khắp nơi, cả dưới hầm đi bộ dẫn sang điện Kremlin, nhận từ đô la cho đến rúp lẻ. Chàng thanh niên này có lẽ cũng đến từ một nơi như thế. 

Và sáng mai sẽ đặt chiếc túi kaki cũ trong một góc sân nào đó của Cung điện mùa hè, tươi tắn biến nắm giấy vụn thành bó hoa đủ màu sắc tặng khách du lịch để đổi lấy nắm bạc lẻ đủ trả tiền cho bữa tối và phòng trọ. 

Chàng thanh niên nhoẻn miệng cười chỉ cái gì đó trên cổ Thục. Thục đưa tay lên, hốt hoảng "Thôi chết, chiếc dây chuyền của tao". Ảo thuật gia xoè tay, chiếc dây mặt rubi đỏ tía đã nằm gọn trong lòng bàn tay hồng hào và mịn màng như tay con gái. Thuý và Oanh vỗ tay "Giỏi quá. 

Ảo thuật Nga siêu thật". Thục đỏ mặt ngượng nghịu "Cứ tưởng rơi mất. Đây là chiếc dây chuyền may mắn. Rubi chỉ hợp với người sinh tháng bảy". Thuý giải thích cho nhà ảo thuật hiểu đại ý đây là một kỷ vật do bà ngoại để lại cho Thục, mà hồi bé cả hai đứa cứ sà vào lòng bà để "xem một tí". 

Viên rubi to bằng chiếc cúc áo, và bất kỳ một nhà kim hoàn mới vào nghề nào đều đoán được giá trị của nó khi vừa xem qua. Nhiều người khuyên Thục không nên đeo nó khi đi xa vì quá nguy hiểm. Nhưng Thục lại cho đó là một thứ bùa hộ mệnh mà bà để lại. 

Nhà ảo thuật à lên khi nghe giải thích ý nghĩa của viên rubi. Thấy ba khán giả bắt đầu lãng dần các màn biểu diễn, anh ta tế nhị dừng lại và cởi giày, sắp xếp chiếc gối, vẻ sửa soạn đi ngủ. Từ lúc gặp Thuý đến giờ, chỉ vẻn vẹn có sáu tiếng đồng hồ, nên Thục chưa kịp hỏi điều gì. 

Thục kéo Thuý ra ngoài hành lang, xót xa đặt tay lên những vết bầm tím. Thuý nhăn mặt nhìn ra cánh rừng hàn đới lúp xúp vài khu vườn kính tồi tàn trồng củ cải đỏ nhờ nhờ trong bóng đêm, tay bám chặt vào thành tàu "Mày thất vọng về tao lắm nhỉ. 

Nhưng xin mày, đừng kể với ai ở nhà. Tao không muốn thế này. Không muốn", giọng Thuý gắt lên, đùng đục. Thục dịu dàng "Đến Peterburg, mình nói chuyện này sau, hãy cứ chơi một ngày cho đã. Rồi trước khi về, mày kể lại mọi chuyện cho tao nghe. Nếu mày cần bất cứ điều gì...". 

Nhà ảo thuật và chị Oanh già đã ngủ say. Thục nằm ở tầng một còn Thuý tầng hai. Âm thanh đều đặn của đoàn tàu va vào đường ray khiến Thục chìm vào giấc ngủ dễ dàng. 

Trong mơ, Thục thấy cả ba mặc những bộ váy màu ánh bạc dát vàng rực rỡ, chiếc váy xoè có gọng nặng chịch khiến khó khăn lắm Thục mới đi được một bước. Họ đang đứng trên thềm Cung điện mùa đông và chờ đợi cái gì đó. Một cỗ xe ngựa sáu tuấn mã phi đến. Xa giá cũng được dát vàng, lấp lánh và uy quyền như cỗ xe của thần thánh. 

Một người trẻ tuổi bước xuống. Là Sa hoàng, ngài đội vương miện tròn xoay nạm 12 viên ngọc quý màu hổ phách, cổ áo xanh nhạt của ngài dựng lên ôm lấy mớ tóc loăn xoăn và khuôn mặt thanh tú. Khuôn mặt ngài quen quen. Trời ạ, là khuôn mặt của nhà ảo thuật. 

Ngài bước tới, tiến thẳng lên bậc tam cấp rồi đưa tay về phía Thục. Ngài bế Thục lên xe ngựa. Mớ tóc quăn mềm mại chạm vào má Thục buồn buồn. Thục hãnh diện vén rèm vẫy hai bạn đang đứng ngẩn tò te trên bậc thềm. Xe ngựa bắt đầu chuyển bánh. Chợt Thục thấy Thuý và Oanh cứ thế chạy đằng sau gọi tên Thục. 

"Dừng lại đã", Thục bảo Sa hoàng. Nhưng cỗ xe lại chạy nhanh hơn và càng lúc càng xóc, xóc kinh hồn. Nó vòng ra sân trước, phi nước đại trên phố không một bóng người rồi phóng thẳng lên cầu. Đã đến giờ cho tàu bè qua lại, chiếc cầu tự động nâng lên, nứt làm đôi, cỗ xe ngựa theo đà lao thẳng xuống mặt sông Neva đen ngòm. 

Dòng nước đen lạnh như băng nuốt lấy Thục. Thục vùng vẫy, hét lên và bừng tỉnh. Trời đã sáng. Một người phụ nữ Nga to béo đang đứng trước mặt Thục. Bà ta mặc đồng phục của nhân viên đường sắt. 

Người Thục đầy nước. Thục nhìn xô nước trên tay bà ta, đầu nặng chịch, lại có tiếng vo vo gì đó trong tai. Có thể mãi đến sau này, Cung điện mùa đông và sông Neva vẫn là một cơn ác mộng đối với Thục. Cả ngày hôm đó, bọn Thục nằm bẹp ở khách sạn. 

Cả ba đã bị đánh thuốc mê, dĩ nhiên trừ ảo thuật gia. Thuý không bị mất gì hết, vì Thuý dùng thẻ tín dụng. Còn Thục và Oanh, là toàn bộ của nả giữ gìn suốt cả chuyến đi đã được cất gọn ghẽ trong hộp chứa đồ dưới dát giường. Thục chợt sờ tay lên cổ. Ơn Trời, nó vẫn còn nguyên. Thục thầm biết ơn nhà ảo thuật và sự may mắn của viên rubi. 

Ngày hôm sau, Thuý đưa Thục và Oanh ra sân bay. Mặt Thuý rầu rĩ, đôi lúc hốt hoảng và nhìn Thục len lén như định nói điều gì. Thục biết Thuý cảm thấy có lỗi khi không bảo vệ được bạn. Lúc vào nhà chờ, Thục xiết chặt tay Thuý, giọng cố hài hước "Không sao đâu, tao vẫn còn viên rubi là may rồi. 

Người ta vẫn còn nhân đạo chán". Mắt Thuý rân rấn nước. Thục an ủi "Rồi mai kia mày cố gắng về nước, mình sẽ gặp lại." Thục đi vào phòng chờ. Khi đoàn khách đã rục rịch xếp hàng trước cửa lên máy bay, Thục chợt nhìn thấy chiếc áo mình đang khoác trên người là của Thuý đưa cho mượn tạm vì sợ Thục lạnh. 

Thục vội vàng quay lại, với hy vọng mỏng manh rằng Thuý vẫn còn đứng đâu đó ngoài sảnh. Quả nhiên, Thuý vẫn còn ở đó, nhưng đang giằng co với một người đàn ông tóc vàng. 

Người này tát Thuý một cái khiến Thuý ngã văng xuống đất, để lộ khuôn mặt của anh ta giữa sảnh sân bay Domodevodo sáng choang, rõ như được scan với độ phân giải 1000 DPI, là nhà ảo thuật lang thang. 

Thục chạy như bay về phía đoàn người xếp hàng như sợ chiếc máy bay sẽ bỏ mình ở lại. Đằng sau loáng thoáng tiếng người kêu tên Thục. Lúc máy bay cất cánh, tai Thục ù đi. 

Cánh máy bay chao thành một đường vòng, cho hành khách tận hưởng những phút cuối cảnh Matxcơva sáng lộng lẫy trong ánh đèn trước khi bay vào đám mây mù sâu thẳm.  

Bức tranh và ngôi nhà cổ

Truyện ngắn của Di Li

Hôm qua lão bạn già gọi cho tôi "Phong, mày qua đây, tao có món đồ này quý lắm". Tôi đang ngồi trong cuộc họp, thì thào "Tuần này em bận quá". Lão quát lên giọng ra lệnh "Cái này rất hay. Mày phải đến đây ngay. Tối nay nhá", rồi cúp máy. Ngoài việc tôi và lão đều chưa vợ và say mê nghiên cứu tử vi, tướng số, còn thì người ngoài thấy tôi thân với lão, lão chơi với tôi đều tỏ vẻ ngạc nhiên. Tôi mới 30, còn tuổi lão gấp đôi. Tôi làm việc trong cao ốc máy lạnh với những hội thảo từ xa, thư tín điện tử, bận rộn với những catalogue chuyển phát nhanh và giải trí bằng trò ma trận trên máy vi tính màn hình tinh thể lỏng, còn lão kỉm kìm kim quanh những cuốn sổ cũ nát hôi xì ghi ký tự cổ và một tách cà phê rẻ tiền trong quán cóc. Tôi sống trong một villa bốn tầng với bộ đồ điện tử hàng hiệu complex còn lão ở căn hộ hai chục mét vuông chót vót tầng bốn thuộc khu chung cư xây từ thời bao cấp. Nhưng hễ lần nào lão gọi, như hôm nay chẳng hạn, là tôi lại cum cúp mò đến. Tôi mê mẩn những quyển sách đen đúa của lão, mà từ đó lão có thể đọc vanh vách tôi được thăng chức vào năm nào, bao lâu sẽ cưới vợ, thậm chí sáng mai không nên khởi hành về hướng Ðông vì sẽ ngã vào vũng nước bẩn hết quần áo. Lần này vừa nhìn thấy tôi, lão ngồi bật dậy, vẻ phấn khích rõ rệt "Thằng đểu. Cả tháng nay không nhìn thấy mày", rồi vội vàng mở nút chai Vodka nội đã bày sẵn. Lão rót rượu ra hai cái chén cáu bẩn "Cứ uống đi đã, rồi tao sẽ cho xem". Lão lim dim mắt thích thú như để cho tôi phải ngấm sự hồi hộp, nhưng kỳ thực là lão còn sốt ruột hơn tôi, cứ xoay tít thò lò chén rượu. Rồi chừng như không thể chịu đựng hơn được, lão rút phắt miếng vải hoa đậy cái gì đó dựng trên mặt tủ trà, như thể người đi sứ hãnh diện kéo tấm hồng điều trưng bày lễ vật tiến vua. Một bức tranh. Tôi tiu nghỉu "Thì làm sao?". Lão vẫn giữ nguyên vẻ phấn chấn "Tao có thằng bạn đồng hương. Hôm nọ đến thăm thấy nó vứt cái tranh này trong gara. Thấy tao có vẻ thích, nó tặng luôn, bảo rằng của ai biếu nó không nhớ, mà hình như cái thằng đi biếu đó cũng được ai tặng lại. Thế là tao mang về. Thằng bạn tao làm ăn giỏi nhưng có hiểu đếch gì về nghệ thuật đâu". Tôi đang định mở miệng đá ông bạn già "Thì may là có ông rước đi cho người ta đỡ chật nhà" nhưng lão đã thì thầm như sợ có kẻ trộm nghe thấy "Có đứa trả năm ngàn đô rồi đấy. Nhưng tao chưa bán, hẵng để đấy cho sang nhà". Tôi mím môi, thấy thương hại lão. Những kẻ nghèo khó thường hão huyền vào một niềm tin mù quáng và sẵn sàng thể hiện sự giàu sang, sành điệu bất cứ khi nào có thể. Sợ tôi chưa tin, lão chém tay vào không khí "Tao thề đấy. Hôm nọ có đứa buôn tranh trả ba ngàn. Tao sợ hớ mới gọi một thằng chuyên sưu tầm tranh, y như rằng nó phát giá năm ngàn." Lão nhấp vội chén rượu như để lấy lại bình tĩnh "Tao biết ngay mà. Con mắt am hiểu nghệ thuật của tao chưa bao giờ nhìn nhầm". Tôi ngước nhìn bức tranh, qua ánh sáng của ống đèn tuýp, những gam màu nhợt nhạt, trầm đục phác thành con phố cổ. Phố không một bóng người, những mái ngói nâu xỉn, cây si già vươn cành sang tận cột điện mé bên kia đường. Một bức tranh rập khuôn kiểu Bùi Xuân Phái, nhưng vụng về và thiếu kinh nghiệm. Có lẽ cái tài tình duy nhất của tay họa sỹ là những vết bả sơn dầu trên bức tường lở lói đầy vụn vữa khiến ngôi nhà cổ thêm phần thê lương và hoang tàn. Chiếc khung tranh sơn màu nhũ kim nay đã mốc thếch từng vệt do bị chủ nhân trước ngược đãi. Và hỡi ôi, một sự chưa từng thấy là bức tranh không hề có chữ ký cũng như ngày tháng hoàn thành ở dưới góc như lẽ ra gã thợ vẽ hạng bét nào cũng phải làm thế. Tôi vờ tán thưởng "Tranh vẽ được đấy. Bác vớ bẫm nhá". Lão bạn già của tôi say sưa ngắm bức tranh bằng đôi mắt rực sáng như bị thôi miên mãi cho tới khi tôi đòi về "ấy, chưa hết, tao còn cái này nữa". Lão rút từ giá sách ra một cuốn sổ chép tay bẩn thỉu "Thằng cha Việt kiều này nhất định không cho mượn phô tô nên tao phải ngồi chép tại chỗ. Thuyết thông linh đấy". - "Là thế nào?". Lần này thì tôi tò mò thực, nhưng ngay lập tức thất vọng "Tao đang nghiên cứu thuyết này. Của phương Tây, tụi nó gọi hồn bằng cách nói chuyện qua các tín hiệu gõ, hoặc ghép các chữ cái lại với nhau". Lão lại lôi một bảng chữ cái kẻ sẵn trải lên bàn, rồi lau chùi một chén rượu úp xuống, đặt vào góc. Tôi say mê tử vi, và coi đó là một môn khoa học nghiêm túc, còn mấy trò phù thuỷ kia nhất định là nhảm nhí. Hồi đi học, mấy đứa con gái trong lớp cũng giở trò này mỗi bận cắm trại, vừa để giải trí, dọa cho lũ xung quanh một mẻ sợ chết khiếp khi kỳ thực ?bà đồng cốt? tự tay di chuyển chiếc chén, mà cũng là để tự thể hiện mình và gây sự chú ý trong đám đông. Nay ông bạn đầu hai thứ tóc cũng định trộ tôi bằng trò trẻ con này thì thật quẫn hết chỗ nói. Tôi ngửa cổ lên trời theo thói quen tự vận động những lúc làm việc căng thẳng và giả đò nghe điện thoại ?Em có việc phải đi. Hôm nào mời bác sang nhà uống rượu nhé?.

...Bẵng đi vài tháng, những chuyến công tác liên miên làm tôi quên mất ông bạn già tội nghiệp. Nhưng một tối nọ, lão lại gọi cho tôi vừa lúc chuông đồng hồ điểm tiếng thứ mười hai. Nhận ra cú điện thoại là của lão, tôi hơi hoảng, ngỡ rằng lão bị cấp cứu trong bệnh viện hay có việc cấp kỳ sao đó mới gọi vào đêm hôm khuya khoắt thế này. Giọng lão là lạ, gấp gáp, như cố nén sự run rẩy, nhưng vẫn không quên thói quen ra lệnh "Mày xuống mở cửa. Tao sắp qua nhà mày bây giờ đấy", rồi cúp máy. Tôi mặc quần áo, mở sẵn cửa, và ngồi chờ trong phòng khách. Chừng 15 phút sau, tiếng cửa sắt rít lên trong đêm, lão ào vào nhà, ngồi phịch xuống ghế sô pha, người lạnh cóng "Cho tao hớp rượu". Tôi mở chai cognac mới tinh, rót vào ly cho lão. Lão uống một hơi cạn sạch rồi lại giơ chiếc ly không về phía trước. Bất thần lão mở miệng "Mày còn nhớ chuyện bức tranh không?". Tôi cáu kỉnh "Lại chuyện gì với bức tranh thổ tả ấy nữa mà bác dựng em dậy vào giờ này". Lão có vẻ sợ hãi "Hôm trước tao kể với mày đã có thằng trả năm ngàn đô." - "Thì làm sao?" - "Sau hôm đó có thêm ba người nữa đến xem tranh. Và trả tăng dần lên mười ngàn". Nhìn vẻ mặt của lão, tôi biết lão không đùa, nhưng tôi cho rằng lão đắm chìm vào những cuốn sách ma thuật nhiều quá nên có thể đã hoá điên thực sự. Tôi thản nhiên "Thì bác bán đi. Lúc nào mà bác chả cần tiền". - "Tao cũng muốn bán," lão thú nhận "nhưng không bán được". Lão uống đến ly cognac thứ năm, như thể uống chè chén vậy, rồi thì thào "Cả năm thằng đến xem tranh của tao... đều bị tai nạn trên đường hẹn đến lấy tranh." Lão kể lại trình tự rằng kỳ thực lão đã đồng ý bán với giá ba ngàn đô la ngay khi tay buôn tranh đầu tiên đến ngã giá. Thế rồi, gã bị một chiếc xe máy khác tông vào khi đang trên đường đến nhà lão giao tiền. Khách thứ hai, thứ ba cũng vậy, khi mà cái giá họ đưa ra ngày càng làm lão chóng mặt. Những tai nạn ngớ ngẩn không đến nỗi khiến họ nằm viện nhưng thảy đều từ bỏ ý định mua bức tranh xui xẻo ấy. Lần thứ năm, lão không tin nổi vào tai mình nữa, mới xin địa chỉ đến tận nhà bà khách đứng tuổi, là giám đốc một ngân hàng về hưu. Quả nhiên, bà ta ra tiếp lão với cánh tay bó bột trắng toát. Tôi sốt ruột "Thế bây giờ làm thế nào?". Lão tuyên bố chắc nịch "Có lẽ tao không có duyên với việc bán tranh, nên sẽ gửi mày bán hộ. Với lại treo tranh ở cái phòng khách sang trọng của mày sẽ bán được giá hơn". Rồi không cần tôi đồng ý, lão xăm xăm bước ra sân trước bê bức tranh bọc vải hoa vào, dựng ở bức tường cạnh ghế sô pha. Lão hấp tấp "Với lại thế này, tao thấy có một số việc quái lạ..." nhưng rồi lão lập cập tu luôn chai rượu đặt trên bàn như thể sợ buột miệng ra điều gì đó khiến tôi có thể gây phiền phức cho bức tranh. Lão lấm lét nhìn miếng vải hoa rồi vội vã bước ra cửa "Thôi tao đi về đây không muộn" mà không buồn dặn dò tôi xem phải bán bức tranh bao nhiêu tiền.

Tôi nằm cuộn tròn trên ghế sô pha, bật vô tuyến và nhắm mắt lại, hy vọng âm thanh đều đều từ trận đấu bóng trực tiếp phát qua vệ tinh sẽ kéo cơn buồn ngủ đến. Bất chợt, một hơi lạnh buốt khiến tôi rùng mình, cùng lúc đó cánh cửa sắt rít lên như thể ông bạn già của tôi lại vừa đưa tay đẩy cửa. Tôi cao giọng :"Bác Chung đấy à? Phải bác không?". Tôi vớ lấy chiếc đèn pin và lia một vòng quanh sân trước. Không có ai. Ðúng là tôi sơ suất thật. Có lẽ vừa rồi một tên đạo chích nào đó trên đường ăn đêm đã hé cửa ra thám thính. Tôi khoá cửa sắt lại và quay vào nhà. Bỗng nhiên, giàn hoa giấy trước hàng hiên rung ào ạt và lại một cơn gió lạnh buốt luồn tới. Cơn gió giữa đêm đông không những khiến tôi run cầm cập mà còn thốc mạnh như một cơn lốc xoáy giữa mùa hè. Nó thổi những đám lá rụng dồn vào trong nhà, tung bụi mù mịt lên tủ tường, lên mặt bàn kính bóng lộn và sộc lên ghế sô pha. Tôi vội vàng đóng cửa chính lại và giật mình khi thấy tấm vải hoa ban nãy ông bạn già cuốn rất chặt giờ lăn lóc dưới đất. Ðúng là do cơn gió quái ác vừa rồi. Tôi nhắm mắt cỗ dỗ dành giấc ngủ, nhưng thỉnh thoảng lại liếc về phía bức tranh. Cái suy luận tấm vải hoa bung ra do cơn gió vừa rồi quả vô lý, vì nó đã được cuốn chặt tới mấy vòng cơ mà. Nếu bị gió thổi tung thì bức tranh cũng phải đổ ụp xuống rồi mới phải. Tôi ngắm kỹ bức tranh. Vẫn như lần đầu tiên nhìn thấy nó. Chả hơn gì. Nhưng dường như có điều gì đó không ổn. Tôi dán mắt vào bức tranh. Tay hoạ sỹ vẽ vài ngôi nhà san sát nhau, và đằng sau ngôi nhà chính giữa là một chóp mái cổ kính cao vống lên xây thành hình tháp. Có vẻ như cái nhà cao ở sân sau này là do hắn tưởng tượng nên vì nó khác hẳn với quần thể khu phố cổ. Tôi tiến lại gần bức tranh để nhìn cho rõ. Và hình như, trên khung cửa sổ của tầng áp mái có một cái gì đó, một vật gì đó, hay một người nào đó. Lần này đôi mắt tôi chỉ cách tầng áp mái có hai mươi phân và cái điều vừa phát hiện ra khiến tôi giật bắn mình. Hiển nhiên bức tranh này có người. Nó không vô hồn như tôi tưởng. Một người hẳn hoi. Là bóng một mái tóc dài đen sẫm thả nghiêng trên tấm áo trắng. Qua nét vẽ nguệch ngoạc, tôi hình dung ra cô ta gầy, bé nhỏ và cô đơn trong ráng chiều chạng vạng trên những mái nhà cổ. Nhưng cái cách mà tay họa sỹ thể hiện sự hiện diện của con người ở đây thật kỳ quặc. Cô gái làm gì trên khung cửa sổ bé tí đầy tù túng? Nó chỉ càng tăng thêm phần bức bối, ảm đạm cho bức tranh. Nói chung tôi không thích bức tranh này. Tôi phủ chiếc khăn hoa trở lại rồi tắt vô tuyến, quay về phòng ngủ. Ngày mai, tôi sẽ gọi một gã mê tranh ngớ ngẩn nào đó để tống khứ nó đi với bất kỳ giá rẻ mạt nào. Hoặc giả, trường hợp này nhiều phần xảy ra hơn cả, nếu bức tranh không có ai mua, tôi sẽ vứt nó ra bãi rác và đền cho lão bạn già điên khùng ít tiền đủ để lão trà nước mà nghiên cứu ma thuật.

Chiều hôm sau, tôi đã thuyết phục được một người đến xem tranh. Ông ta có chân trong hội sưu tầm tranh của thành phố với thâm niên hơn hai chục năm. Tôi kéo bức tranh ra sân, rồi khoanh tay đứng nhìn, lúc này trông nó xộc xệch chẳng khác nào những bức vẽ bày bán ngoài vỉa hè đang chờ các chủ quán cà phê mua về treo cho đỡ trống tường. Nhưng ngạc nhiên thay, nhà sưu tầm tranh dựng bức tranh lên rồi lại vật ngửa nó ra, quay trước quay sau xem xét kỹ càng. Thậm chí lôi cả kính lúp ra soi rồi lấy ngón tay cạ nhẹ vào lớp vữa lở lói trên tường. Sau chừng mươi phút, ông ta đứng thẳng lên "Mười lăm ngàn". Tôi mỉm cười vẻ hối lỗi, như đã mạn phép làm mất thời gian của một nhà sưu tầm danh tiếng "Tôi biết là ông đang nhạo báng tôi. Nhưng quả thực đây là bức tranh rất quý mà ông chú tôi được thừa hưởng". Người khách tỏ vẻ căng thẳng, khuôn mặt ông ta đần ra và đôi mắt dán vào bức tranh như bị thôi miên "Thôi được. Tôi trả anh hai mươi ngàn. Anh có thể hỏi tỷ giá đô la ngày hôm nay để quy ra tiền Việt hoặc nhận bằng USD thì tuỳ anh". Tôi từng giao dịch những hợp đồng thương mại lớn gấp mười lần thế, nhưng đứng trước cuộc mua bán kỳ lạ như thế này, miệng tôi há ra như con cá bị ném lên cạn không thể thở được bằng mang. Cổ họng tôi khô khốc "Tại sao ông muốn mua bức tranh này. Nó đâu có phải của một hoạ sỹ nổi tiếng?" - "Tôi thích", ông ta nói giản dị, mắt vẫn không rời bức tranh "Giá trị nghệ thuật nhiều khi không thể định nghĩa theo nguyên tắc được". Tôi tò mò "Theo ông thì bức vẽ được hoàn thành vào thời gian nào?". Người khách vuốt nhẹ lên bề mặt sơn "Cũng chỉ mới đây thôi, quãng hơn một thập kỷ là cùng". Ông ta hẹn tôi sau ba tiếng nữa sẽ đến giao tiền và nhận tranh. Sau khi chào ông, tôi cuộn bức tranh vào tấm vải hoa, lần này cẩn thận như nâng pha lê quý. Trời ơi, hoá ra lão bạn già của tôi không lên cơn hoang tưởng. Tôi tò mò chạm vào bức tranh. Biết đâu, bức tranh này là của một trong những họa sỹ danh tiếng đầu tiên của trường Mỹ thuật Ðông Dương, hay của một danh họa nước ngoài mà tôi không biết, và vì một lý do bí mật nào đó đã không ký tên lên bức vẽ. Rồi sau đó những nhà sưu tầm tranh, những tên buôn tranh sành sỏi đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết của tôi và lão bạn già để trục lợi. Tôi vẫn chưa hết choáng váng, định nhấc máy gọi điện cho chủ nhân bức tranh song lại thôi, những muốn tạo một niềm vui bất ngờ cho ông bạn già. "Bác Chung ơi, dù sao hai mươi ngàn đô la cũng là một số tiền lớn, đủ để bác chi tiêu trong suốt quãng đời còn lại." Cả buổi tối, tôi không làm được việc gì, và nhịn luôn bữa vì hồi hộp. Nhưng đã quá hẹn, một tiếng, rồi hai tiếng, vẫn không thấy ông khách kia quay trở lại. Tôi quyết định bấm máy vào số điện thoại in trên các vi dít của ông ta. "Alô", một giọng phụ nữ trẻ trả lời. Tôi tự giới thiệu và tóm tắt mục đích của cuộc đàm thoại. Ðầu dây bên kia chậm rãi "Rất xin lỗi anh. Tôi có biết việc này, nhưng cách đây ba tiếng, cha tôi gặp một tai nạn trên đường đến nhà anh. Ông bị rạn xương bánh chè, không nặng lắm, nhưng cha tôi dặn nếu anh có gọi thì nhắn với anh rằng ông không muốn mua bức tranh ấy nữa". Tôi cảm thấy ngạt thở. Nhưng lẽ ra phải mở hết các cửa cho thoáng thì tôi khoá chặt cửa phòng ngủ lại, rồi chốt luôn tất cả các cánh cửa sổ. Tôi chui vào chăn, lòng không yên. Theo đúng kế hoạch, ngày mai tôi sẽ quẳng bức tranh quỷ quái cho một mụ đồng nát nào đó. Những sự không đâu liên quan đến bức tranh bỗng dưng lại làm tôi mệt đầu. Trằn trọc mất một lúc, đôi mắt rồi cũng díu lại, và tôi chìm dần vào giấc ngủ khó nhọc. Chuông đồng hồ điểm tiếng thứ nhất. Cùng lúc đó, cánh cửa sắt rít lên lạnh lẽo. Tôi giật mình. "Thôi chết. Mình lại quên khoá cửa ngoài". Tôi bật đèn và mở cửa phòng, nghĩ bụng ngày mai sẽ tra dầu vào cánh cửa chứ để cái âm thanh này dễ gây căng thẳng thần kinh lắm. Ðôi chân trần của tôi chạm vào bậc cầu thang lạnh buốt. Hơn nữa hơi lạnh từ đâu cứ thốc tới, như thể hút lên từ một trôn giếng sâu thăm thẳm. Tôi cảnh giác. Trước khi lên phòng gọi điện cho người mua tranh, tôi đã khoá hết cả cửa chính, theo thói quen cửa đóng then cài quanh năm của tất cả những người dân quanh khu vực này, nơi mà những căn nhà đồ sộ cho dù có san sát nhau cũng không nghe nổi bất kỳ âm thanh nào từ hộ kế bên. Tôi bước chậm lại, năm đầu ngón tay bíu chặt vào tay vịn cầu thang để thủ thế. ánh sáng từ bóng đèn nê ông trong phòng ngủ toả những chùm sáng lờ mờ hắt xuống chân cầu thang, và tia sáng yếu ớt kết thúc đường đi của nó ở phòng khách. Mắt tôi đã quen dần với bóng tối, và dường như... trong phòng khách...cạnh ghế sô pha... rất khó định hình... có một cái gì đó... một vật gì đó... hay một người nào đó. Tim tôi thắt lại. Một mái tóc dài đen sẫm thả nghiêng trên tấm áo trắng. Cái bóng mặc pijama của tôi đổ dài lên những bậc cầu thang, nó tụt xuống chầm chậm và dừng hẳn lại chỗ chiếu nghỉ. Tôi rơi vào trạng thái mơ hồ, không trọng lượng. Là một cô gái. Cô ta mặc chiếc quần hoa màu xanh, áo sơ mi trắng, và... bàn tay tôi bắt đầu nhễu mồ hôi, ướt mèm... chiếc áo trắng của cô ta dính đầy máu tươi, những giọt máu từ từ đen sẫm lại và thấm xuống cổ tay gầy gò. Cô ta đứng nghiêng, cạnh bức tranh, mái tóc dài khuất lấp, lại ở cuối đường ánh sáng nên tôi không tài nào nhìn thấy khuôn mặt. Cô gái bắt đầu rên rỉ, trong khi thân hình bất động. Những tiếng nức nở nổi lên, rõ dần, mới đầu nó thắt lại rồi toả ra, âm u như thoát thai từ một hang động bí ẩn dưới lòng đất. Ðôi bàn tay giơ về phía tôi cầu cứu "Tôi đau lắm... Tôi bị giam cầm... Tôi bị xiềng xích". Cô ta bắt đầu di chuyển về phía tôi, đầu vẫn cúi xuống, đầy vẻ nhẫn nhịn, đầy vẻ đe dọa. Ðến đúng khoảng sáng trực diện mà ánh đèn phòng toả xuống, cô gái ngẩng đầu lên, đối diện với cái bóng của tôi trên chiếu nghỉ. Da mặt cô ta trắng xanh, trong suốt, không có tuổi, đôi mắt sầu thảm "Xin anh hãy giúp tôi. Ðừng bán bức tranh đi". Rồi cô ta gào lên, khuôn mặt đẫm nước mắt và nhăn nhúm khủng khiếp, đôi tay đầy máu vươn dài như muốn níu lấy tôi "Xin anh hãy cứu tôi". Tôi kinh hoàng lùi dần, lùi dần, và hẫng chân lăn lông lốc xuống từng bậc cầu thang. Cơn đau điếng dọc sống lưng làm tôi, trong khoảnh khắc, quên cả nỗi sợ hãi. Tôi mở mắt, ngạc nhiên thấy mình vẫn ở trên giường, mồ hôi ướt đầm áo. Trong phòng tối đen, vô sự, và cửa phòng vẫn đóng kín. Cơn ác mộng vừa rồi khiến sống lưng tôi nhức nhối, như thể vừa nện lưng xuống chân cầu thang. Tôi nhớ lại khuôn mặt cô gái, nhớ rõ tới từng chi tiết. Thỉnh thoảng, sau những bận làm việc kiệt sức, tôi vẫn nằm mơ thấy người nọ người kia. Nhưng trong những chuỗi sự kiện lộn xộn của giấc mơ, khuôn mặt họ thường vô hình vô ảnh, còn rõ mặt, chỉ có thể là những người tôi đã từng gặp ở đâu đó rồi. Nhưng nếu gương mặt trong giấc mơ chân thật như một bức hoạ truyền thần, lại hoàn toàn xa lạ, liệu có thể là BóNG MA được không? Nghĩ tới đó, tôi chồm đến chiếc máy điện thoại. Bàn tay để quên ngoài chăn lạnh toát. "Bác Chung à. Bác qua nhà em ngay bây giờ được không". Giọng ông bạn già có vẻ ngái ngủ "Ngay cũng phải mười lăm phút nữa". Mười lăm phút trôi qua mà tôi cảm thấy dài như hàng thế kỷ. Và tình bạn quả là vĩ đại, cho dù là tình bạn giữa một già một trẻ, đúng lúc chuông đồng hồ đổ hồi thứ hai, tôi nghe tiếng gọi khe khẽ "Phong ơi, Phong. Chung già đây". Tiếng gọi của ông bạn bên dưới làm tôi thêm can đảm. Tôi lập cập bước xuống cầu thang và nhắm mắt chạy vù qua phòng khách. Tôi bật hết toàn bộ hệ thống đèn trong nhà, lại mở thêm cả kênh MTV cho không khí thêm phần vui nhộn. Sau ly cognac thứ hai, tôi lấy lại bình tĩnh, kể toàn bộ đầu đuôi câu chuyện cho vị khách thân thiết, và trong suốt thời gian đó, mắt tôi cố gắng tránh không nhìn vào bức tranh. Sau cùng, tôi chú thích "Ðây, ban nãy cô ta đứng chỗ này", rồi nhanh chóng rụt ngón tay lại. Ông bạn già yên lặng nghe tôi nói, rồi cũng như tôi, mắt không nhìn vào bức tranh, ông thì thầm "Tao cũng gặp những chuyện y hệt mày". Chúng tôi rúm vào nhau, lấm lét liếc bức tranh, và chân tay thừa thãi không biết làm gì. Rất lâu sau, ông rụt rè "Tao có ý kiến thế này...".

Tôi đi lấy cho ông một tờ giấy to bản, và tìm mãi mới được chiếc chén hạt mít nhỏ xíu. Ông vẽ vội vàng những ô vuông với 29 chữ cái màu đỏ, rồi lại bảo tôi kiếm một thẻ hương. Giờ phút này, nhất nhất những gì mà thường ngày tôi cho là lố bịch đều được làm theo răm rắp. Trong lúc ông loay hoay xoè diêm châm lửa đốt thì bất thần chiếc chén rung rinh như thể có nam châm ở dưới. Ông hét lên "Mày đặt tay lên chén đi". Ngón trỏ và ngón giữa của tôi cảm nhận hơi lạnh toát tỏa ra từ chiếc chén. Nó bắt đầu chuyển động và truyền một lực hút rất mạnh kéo theo hai đầu ngón tay. Chiếc chén di chuyển qua những con chữ trong khi ông bạn già run rẩy ghi ra một tờ giấy "Xin hãy cứu tôi". Ông thì thào "Cô là ai?". Chiếc chén tiếp tục xê dịch chậm chạp "Tôi đang bị giam cầm". - "Xin cho tôi biết tên". - "Lâu quá rồi. Tôi đã quên mất tên của mình" - "Làm thế nào mà chúng tôi giúp cô được?" - "Hãy tìm đến ngôi nhà trong bức tranh." - "Ngôi nhà đó ở đâu?" - "Tôi không biết. Hắn đã giam cầm tôi qua bao ngày bao tháng. Tôi không được ra ngoài". Chiếc chén dưới tay tôi bắt đầu run rẩy và làn hơi lạnh buốt quen thuộc trườn đi trườn lại quanh chiếc bàn. Lần này, tôi lên tiếng, khi đã đối diện với nỗi sợ hãi "Vậy làm thế nào mà chúng tôi tìm được cô, và ai đã giam giữ cô?". Chiếc chén đột nhiên chạy vun vút, khiến ông bạn tôi ghi không kịp "Tôi phải đi đây. Tôi vội lắm. Tôi chỉ còn ba ngày nữa thôi. Nếu sau mười năm không được siêu thoát, tôi sẽ bị giam cầm vĩnh viễn. Ngày mai tôi không gặp các ông được nữa vì hắn sẽ cho người dán bùa chú trước cửa". Chiếc chén dừng lại rồi bất động. Tôi kiên nhẫn đặt tay lên chén chờ đợi nhưng hơi ấm từ ngón tay tôi dần toả nhiệt lên men sứ. Chiếc chén bắt đầu ấm nóng. Tôi lẩm bẩm như người mộng du "Cô ta đi rồi. Giam cầm... Ngôi nhà... Hắn. Hắn là ai?". Chúng tôi ngồi im không nhúc nhích, và khi ánh bình minh đầu tiên vừa ló rạng, ông bạn già của tôi rời chiếc ghế sô pha "Chúng ta sẽ đi tìm ngôi nhà".

Việc tìm kiếm ngôi nhà, theo tôi, khác nào tìm kim đáy bể. Trên khu phố cổ người xe nhằng nhịt, cho dù có sẵn số nhà tìm cũng còn khó, huống hồ... Ông bạn già hiến kế "Mình sẽ chia nhau đi tìm theo hai hướng. Và đi hết chỗ nào, sẽ đánh dấu vào sơ đồ chỗ đó". Tôi tắt điện thoại, xin nghỉ phép ba ngày và bắt đầu cuộc hành trình. Chúng tôi phải đi bộ như những người hành khất, mắt dán vào từng ngôi nhà, từng lan can, từng ô cửa sổ. Những dãy nhà cũ kỹ đan vào nhau như mắc cửi, ngày đêm ồn ã tiếng người đổ về từ khắp thành phố, những con phố sầm uất mà tôi vẫn lái xe qua hàng ngày giờ đầy vẻ độc ác và bí hiểm. Ði giữa những cơn gió đông cắt da cắt thịt mà mồ hôi tôi ướt đầm áo, và đôi chân đã lâu không hoạt động bắt đầu rời ra như chân giả. Tuy nhiên, đôi mắt tuyệt vọng của cô gái luôn ẩn đâu đó sau những ô cửa sổ kia, khiến có một lúc nào đó chợt nản, tôi chỉ kịp ghé vào một quán cóc uống chén trà nóng rồi lại đi tiếp. Sang ngày thứ hai, mọi nỗ lực của chúng tôi dường như không được đền đáp. Những vòng bút bi đỏ trên bản đồ cứ thu hẹp dần, nhưng ngôi nhà có chóp mái và cây si già trước cửa vẫn không xuất hiện. Ðúng vào lúc tôi định bỏ cuộc, đang ngồi xoa hai bắp chân trong quán nước vỉa hè nằm sát một ngã tư đông đúc, thì ánh mắt tình cờ chạm phải một cái gì đó. Ðấy là khoảnh khắc tôi ngửa cổ lên trời theo thói quen. Dưới ráng chiều đông tím sẫm, một chóp mái nhọn hoắt vươn lên trên những nếp nhà cổ thấp lè tè. Mái nhà này hết sức kỳ cục vì xây nhọn hoắt theo kiểu kiến trúc Gô tích nhưng lại lợp ngói âm dương. Trong ánh chiều tà, nó vươn lên đầy kiêu hãnh và độc địa. Tôi vội vàng tiến về phía trước. Trước cửa, gốc si già um tùm lá, che khuất gần hết lối ra vào. Khác với tất cả những con đường ồn ào trong khu phố cổ, quãng phố này yên tĩnh đến độ tôi có thể nghe rõ tiếng bước chân mình nện trên vỉa hè. Ngoài một am thờ cổ kính mé tay mặt, một kho chứa gạo cũ giờ bỏ hoang, vài ngôi nhà cửa gỗ nâu đóng im ỉm, chỉ duy nhất một cửa hàng tạp hoá bán vài thứ lặt vặt đối diện với ngôi nhà có chóp mái, mà tôi đồ rằng, tay họa sỹ đã từng ngồi chính chỗ này để phác thảo nên bức tranh bí ẩn. Tôi gọi điện cho ông bạn già "Em đã tìm thấy nó rồi".

Như mọi kiến trúc cổ ở khu này, toà nhà cũng có một lối đi chung. Nhìn ngoài, là một chiếc cửa thấp tè như thể đằng sau nó chỉ có một căn phòng nhỏ hẹp. Kỳ thực phía trong là cả một khu dân cư đông đúc chen chúc trong những "hộp diêm" bé tí. Chúng tôi bước vào trong lối đi nhỏ tối tăm mà hai người đi ngược chiều phải tránh nhau. Tôi biết chắc đây là khu phố mà những người Hoa xưa kia từng ở trước khi rút gần hết về bản quán. Mùi ẩm thấp bốc lên từ lối đi. Ngõ sâu hun hút và từ đó toả ra vài chục căn hộ nhỏ xíu quanh năm không ánh mặt trời. Chúng tôi vào đến sân trong. Vài người phụ nữ đang thổi cơm và giặt giũ quanh những vũng nước tù đọng từ vài trăm năm nay. Thấy chúng tôi, họ tò mò ngước lên nhìn. Tôi thản nhiên như thể vào nhà người quen và cứ thế đi thẳng. Chúng tôi lại luồn vào trong ngõ, và tức thì nhìn thấy một cầu thang nhỏ phía tay trái. Cái lối đi này còn rất sâu, nhưng tôi cho rằng đây là cầu thang dẫn lên ngôi nhà bí hiểm kia. Vào đến đây, không còn một nguồn sáng nào nữa. ánh đèn điện văn minh và những âm thanh náo nhiệt ngoài kia đã bỏ rơi chúng tôi. Tôi cảm thấy những bước chân của ông bạn già bắt đầu run rẩy trên từng bậc thang. Cầu thang dốc và xoáy hình trôn ốc. Tôi rút chiếc điện thoại cầm tay thay cho đèn pin. ánh sáng xanh lét trên màn hình dẫn chúng tôi đến một cánh cửa gỗ nâu kín bưng. Thì ra trên này có duy nhất một căn hộ. Trên tường, một quẻ bát quái bao quanh lấy vòng tròn âm dương. Có lẽ đó là thứ mà cô gái trong bức tranh đã nhắc tới. Không có chuông, nên chúng tôi gõ cửa. Rất lâu sau, đến độ tôi đã tưởng rằng ngôi nhà không có người ở, tiếng khoá cửa bên trong bắt đầu kêu lạch xạch và cái bản lề cũ kỹ hàng thế kỷ rít lên. Một người đàn ông nhỏ bé xuất hiện. Ông ta quãng ngoài 40, da mặt trắng xanh hệt cô gái kia. Nhìn thấy chúng tôi, ông mỉm cười thân thiện, khuôn miệng tươi tỉnh dễ mến. Nhưng vì chủ nhân ngôi nhà chỉ mở cửa hé một khoảng đủ để lách người ra nên tôi không tài nào quan sát được bên trong ngôi nhà cũng như đôi mắt đen qua ánh sáng sấp bóng. Người đàn ông này tỏ vẻ ngạc nhiên, ý hỏi chúng tôi muốn gì. Tôi nhanh trí "Tôi đọc trên báo thấy ở địa chỉ này có nhà muốn bán". Ông ta càng ngạc nhiên hơn, nhưng vẫn lịch sự "Chắc các anh nhầm địa chỉ rồi". Tôi giả đò xin lỗi và rút lui. Lúc vượt qua khoảng sân trong, tôi vô tình tuột tay đánh rơi chiếc điện thoại, và sau khi quay người lại để nhặt, tôi giật mình khi thấy một người đang theo dõi chúng tôi từ tầng áp mái. Lần này ánh mắt tôi chạm phải đôi mắt của ông ta, nụ cười dễ mến đã biến mất, bây giờ là của con thú đang rình mồi, đầy cảnh giác và nham hiểm. Còn đôi mắt, nó lạnh lẽo và sắc nhọn, đang bắn ra những tia nhìn chết chóc.

Hôm sau, chúng tôi có mặt dưới gốc si già từ sáng sớm và tiến thẳng vào sân trong. Lần này, chỉ có một chị mặc bộ đồ vải hoa chừng ngoài 40 tuổi, mái tóc lưa thưa búi ngược ra sau gáy đang giặt giũ dưới vòi nước. Tôi bắt chuyện "Chị sống ở đây lâu chưa?". Chị ta dừng tay, cười toét miệng, xưng em với tôi "Em chỉ là người giúp việc thôi, nhưng cũng đã ở đây được 20 năm rồi. Anh định hỏi ai?". - "Tôi muốn mua lại cái nhà có tầng áp mái kia", tôi liếc nhìn ô cửa sổ nhỏ xíu giờ đã đóng im ỉm. Chị giúp việc có vẻ thích trò chuyện, đứng hẳn dậy "Anh mua nhà của lão ấy làm gì. Lão không bán đâu. Có khối người muốn mua cả khu nhà này để xây khách sạn. Ðàm phán xong xuôi hết rồi mà chỉ còn ngắc lại mỗi nhà lão là không mua được." Tôi tỏ vẻ tiếc rẻ "Thế ông này sống với ai chị nhỉ?". - "Một mình. Khách khứa còn chẳng có thì ở với ai được. Lần nào em chào lão, lão cũng đuỗn mặt ra mà đi qua như đeo máy điếc ấy. Ai gặp hạn mà ở với lão". Tôi nhấn thêm "Nhưng chắc trước đây ông ta phải ở cùng ai đó chứ". - "Từ lúc em đến đây làm đã nhìn thấy lão ở đó rồi, và sống một mình suốt cho đến bây giờ". Tôi gạn hỏi "Hình như trước có một cô gái trẻ, tóc rất dài cũng ở đây". Chị kia ngúc ngoắc đầu như bất mãn vì thấy tôi chưa tin "Ðã bảo lão ở một mình mà, ở đây có ai mà em không biết chứ", nói đoạn lại cúi xuống đống đồ đang giặt dở. Ông bạn già của tôi giờ mới lên tiếng "Tay này làm nghề gì cô có biết không?". - "Lão chẳng làm gì cả. Hình như lão có một cái nhà nữa trên phố đang cho thuê. Hàng tháng cứ lấy tiền đó mà ăn. Lúc nào cũng ở dúi trong nhà ấy. Cả đời chưa thấy mở miệng bao gìơ".

Chúng tôi lại leo lên những bậc thang xoáy sâu hun hút, nhưng lần này còn có thêm cánh cửa sắt kéo bên ngoài chứng tỏ chủ nhân ngôi nhà đi vắng. Tôi ngắm bức tường kín bưng, ô cửa hai lần khoá và chiếc gương chiếu yêu gắn phía trên, lòng đầy nghi hoặc. Những gì phía sau kia đầy bí ẩn. Tôi như đang đứng trước một miệng hang có từ thời tiền sử, nửa muốn khám phá nửa hãi hùng khi nghĩ đến những điều ghê rợn sắp phải đối mặt. Chúng tôi lại quay trở ra, rồi theo đúng kế hoạch, đặt bộ cờ tướng lên vỉa hè và chúi đầu vào đó hệt những gã vô công rồi nghề. Tôi đi pháo đầu "Làm thế nào bây giờ?". Ông bạn tôi lên mã "Chờ nó về rồi mình xông vào. Ðành liều một phen". Tôi đẩy tốt "Nhỡ không phát hiện ra được điều gì thì sao?". Ông bạn già nhìn thẳng vào mặt tôi, cương quyết "Ta phải lọt vào nhà trước 12 giờ đêm. Mày không nhớ hôm nay là hạn cuối cùng của...". Lão im bặt. Chúng tôi đang ngồi cạnh cửa hàng tạp hoá, chính là vị trí của tay hoạ sỹ nọ. Khung cửa sổ trên tầng áp mái nhìn ngoài có vẻ vô hại, nhưng chất chứa đầy những u ám. Chúng tôi chơi hết ván cờ nọ đến ván cờ kia, nhưng tay chủ nhà bí hiểm vẫn chưa quay trở về. Bóng tối bắt đầu đổ sụp trước tiên lên chóp mái rồi lần xuống những tán si già. Các ngôi nhà xung quanh lục tục đóng kín cửa để tránh những cơn gió giữa mùa đông. Cửa hàng tạp hoá cũng đã sập lại miếng gỗ ghép cuối cùng (kiểu cửa của những ngôi nhà cổ thế kỷ 19), chỉ còn lại vài ánh đèn vàng vọt hắt qua khe gỗ. Ðoạn đường này, như thể về hùa với bóng tối mờ ám, không hề có chút đèn đường nào, cho dù những cột đèn cứ đứng sừng sững chen ngang cùng vô số tán cây rậm rạp. Chúng tôi không còn lý do gì để chơi cờ nữa. "Làm thế nào bây giờ?", tôi bắt đầu mất kiên nhẫn. Lão bạn già nảy ra một ý kiến, mà chắc chắn cho đến tận sau này, tôi vẫn coi việc kết bạn với lão là vô cùng đúng đắn "Tao quen một thằng làm thợ khoá". Tôi thất kinh "Thứ nhất là mình mắc tội đột nhập trái phép. Thứ hai, liệu thằng thợ khoá kia có đồng ý..." - "Tao chỉ cần bảo đây là nhà mới và chìa khóa bị rơi đâu mất. Mà mày có cách nào hơn không? Hay ta đi về, và vứt béng cái tranh kia đi. Thế là xong". Hình ảnh khuôn mặt tuyệt vọng đẫm nước mắt và chiếc áo sơ mi dính đầy máu lúc này không còn làm tôi sợ hãi nữa, trái lại khiến tôi trào lên một niềm thương cảm và ý nghĩ muốn khám phá điều bí mật kinh hoàng trong ngôi nhà kia. "Rồi, ta đi gọi thằng thợ khoá".

Gã thợ khoá líu ríu đi theo chúng tôi. Trời rét nên nhà nào nhà nấy đóng chặt cửa lại, thành thử con ngõ nhỏ luồn giữa khu nhà càng trở nên ẩm ướt và âm u như lối vào địa ngục. Từng đàn chuột chạy rúc rích trên trần ngõ như dẫn đường. Chúng cũng ra vẻ hiểu ý leo tuột lên thang gác xoáy trôn ốc. Tôi rọi đèn pin còn lão bạn già giả đò đứng hút thuốc cách đó mấy bậc. Kỳ thực là trông chừng tay chủ nhà. Chiếc khoá rời trên cánh cửa sắt, gã thợ khoá lành nghề chỉ xử lý trong vòng mươi phút, nhưng ổ khoá chìm mới thực là phức tạp. Nó là loại khoá thửa trên cánh cửa gỗ lim cũ kỹ. Dường như tên chủ nhà đã lường trước được điều này nên chọn loại khoá tốt nhất khiến tay thợ thâm niên cũng phải toát mồ hôi hột. Tôi sốt ruột ngó đồng hồ. Ðã gần tiếng trôi qua, và chúng tôi sẽ làm gì nếu tên chủ nhà quay về bất thình lình. Mặc dù đã đặt kế hoạch áp đảo gã, nhưng trong tình thế bị động như thế này, tôi cảm thấy bất an. Cuối cùng chiếc khoá cũng bật được ra. Gã thợ khoá định mở thử cánh cửa nhưng ông bạn già của tôi ngăn lại và dúi cho gã ít tiền. Khi tiếng bước chân của gã nhỏ dần rồi trả lại sự yên tĩnh nguyên sơ cho bóng tối, tôi hít một hơi dài, thì thầm "Bác đã sẵn sàng chưa?" - "Rồi", giọng ông bạn già khản đặc và đôi tay bíu lấy cổ tôi đẫm mồ hôi. Tôi nhìn lại đồng hồ, đã 11 giờ đêm và tên chủ nhà có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Tôi đi trước, đẩy cửa, rọi thẳng đèn pin vào trong nhà. ánh đèn loáng một quầng chói loà lên từng góc. Tôi nhìn thấy công tắc đèn, song không dám bật điện. Căn phòng rộng khoảng hai chục mét vuông, không hề có cửa sổ, trần thấp tè một cách đáng ngạc nhiên. Tôi đã thăm quan một vài ngôi nhà trong phố cổ, nhà nào trần cũng thấp, song căn phòng này còn thấp hơn nữa, và với chiều cao của tôi, chỉ cần với tay một khoảng là đã có thể chạm trần nhà. Căn phòng khá ngăn nắp, có đầy đủ tủ trà, tủ tường, một chiếc giường con nhưng không có bàn uống nước, điều này dễ hiểu vì chị giúp việc dưới kia nói rằng gã chưa bao giờ có khách. Nhưng điều kinh ngạc nhất là căn phòng không có vô tuyến, radio, điện thoại, sách báo hay bất kỳ một thiết bị văn minh tối thiểu nào. Trên các ô tủ tường, gã bày biện những khuôn mặt tượng sáp, đồng đen hay được tạc bằng gỗ mà khi lia chiếc đèn pin vào, tôi không khỏi rùng mình. Những khuôn mặt nhăn nhúm, khổ sở với đôi mắt hoặc đang kinh hoàng, hoặc đang ai oán. Phía dưới phần cổ của các bức tượng là những cơ thể không mặc quần áo, trong những tư thế quái dị. Tôi mở toang các ngăn tủ, không có gì đặc biệt ngoài mấy món đồ lặt vặt. Chúng tôi sang gian bên cạnh, là một ô nhỏ được chia làm buồng tắm và kế đó là bếp. Như vậy, chỉ còn một nơi hy vọng duy nhất là tầng áp mái. Ngay lúc vào, chúng tôi đã nhìn thấy chiếc cầu thang gỗ nhỏ xíu bắc lên tầng trên, nhưng cửa trần được đóng bằng một tấm sắt kín mít. Chúng tôi phát hoảng, ngỡ rằng nó lại bị khoá, nhưng không, chỉ ẩy nhẹ là đã nhấc lên được. Tôi trèo lên trước, rồi kéo ông bạn già lên sau, và ngay lập tức lia đèn pin khắp phòng. Tầng này rộng hơn căn phòng bên dưới một chút, vì còn là trần của chái bếp. Tôi nhận ra ngay ô cửa sổ nơi cô gái trong bức tranh nọ đang xoã tóc. ánh sáng từ chiếc đèn pin của tôi đi tới đi lui trong căn phòng, có vài chiếc ghế hỏng, một cái chăn bông cũ, vài loại xoong nồi cũ rích và hàng chục thứ đồ không tên khác. Căn phòng này hẳn là một nhà kho, nó tối tăm, ẩm mốc, và ghê rợn như trong huyệt mộ nhưng tuyệt nhiên không có gì khả nghi. Tôi cởi chiếc móc sắt trên cánh cửa sổ và thử mở hé nó ra. Bầu trời bên ngoài tối đen như mực, nhưng tôi vẫn có thể lờ mờ nhận ra những tán si già phía bên dưới, và đối diện là cửa hàng tạp hoá giờ đang đóng im ỉm. Cả khu phố cổ đã im lìm trong bóng đêm. Tôi thở dài "Không có gì hết. Mình chuồn thôi không lão về bất chợt". Chúng tôi lò dò lần xuống những bậc thang gỗ. Tôi đỡ ông bạn già xuống rồi liếc nhìn căn phòng lần cuối trước khi bước ra cửa. Thốt nhiên, một luồng hơi lạnh bất thần bao phủ lấy đôi chân tôi. Nó trườn qua trườn lại nhưng không có vẻ gì đặc biệt, nó cũng không khác nào lúc tôi chui vào phòng cơ quan trong một ngày nóng nực rồi với tay bấm nút điều hoà nhiệt độ. Tôi ngạc nhiên lần theo làn hơi lạnh. Hoá ra nó phả ra từ dưới gầm chiếc giường gỗ. Tôi rọi đèn pin. Dưới gầm giường sạch sẽ, và chỉ có duy nhất một đôi giày đặt ngay ngắn. Tôi đặt tay lên mặt sàn gỗ, nó cũng mát lạnh y như mặt sàn trong phòng ngủ nhà tôi đang ngấm nhiệt của mùa đông. Tuy nhiên lúc miết tay lên nó và chà đi chà lại, tôi nhận ra một hơi lạnh khác thường, nó lạnh hơn những chỗ khác và toả ra từ một khe sàn. Tôi kêu lên "Dưới này còn một hầm nữa". Lão bạn già ôm chặt lấy lưng tôi. Tôi cảm nhận những nhịp tim dồn dập trong lồng ngực già nua qua ba lần áo dầy. Tôi cuống lên "Nhanh lên. Bác giúp em nhấc cái giường này ra." Chiếc giường một không nặng lắm, và chúng tôi tìm thấy một cái móc sắt to bản phía bên trong. Chúng tôi hè nhau nhấc nó lên và ngay lập tức hơi lạnh ùa ra đặc quánh đến khó thở. Nó ồ ạt tuôn ra như từ một hố băng khổng lồ. Tôi nhận ra cái lỗ sâu hoắm, thực chất cũng là một cầu thang gỗ dẫn xuống bên dưới. Càng lần xuống sâu hơn, xúc giác của tôi càng tê dại. Một thứ mùi rất khó gọi tên, một thứ mùi của chết chóc, của ảo giác, của hư vô sộc lên tận óc. Tôi rọi đèn pin và lần này hồi hộp tới mức quên cả đỡ ông bạn già phía trên. Té ra đây là một căn phòng hẳn hoi. Là một tầng bí mật ép giữa tầng trên của gã chủ nhà và tầng trệt của một chủ hộ khác. Có lẽ xưa kia những chủ nhân người Hoa đã làm thêm tầng này để chứa bạc, hút thuốc phiện, buôn bán đồ quốc cấm hay sử dụng cho một mục đích mờ ám nào đó. Những luồng hơi lạnh vẫn ở đâu ào ra bao lấy tôi nhưng lúc này tôi chẳng hề cảm thấy lạnh. Trái lại, cơ thể nóng sốt lên như đang đứng trước một lò luyện thép. Tay tôi chạm vào công tắc đèn trên tường ngay lúc vừa hạ chân xuống mặt đất. Tôi ấn mạnh vào nó, và ánh sáng loà lên khiến đôi mắt chúng tôi vốn đã quen với bóng tối suốt mấy tiếng đồng hồ phải nhắm tịt lại. Khi chúng tôi mở mắt ra, sau vài giây, một điều khủng khiếp khiến hai tiếng thét kinh hoàng bật ra cùng một lúc. Căn phòng trống không, nhưng trên chiếc giường bên góc phải là một cái xác với mớ tóc dài, mặc sơ mi trắng và chiếc quần hoa xanh. Trên áo lấm lem những vết đen sẫm. Gương mặt và cổ tay, cổ chân đã khô quắt lại, không còn ra hình người. Lão bạn già của tôi choáng váng ngã khuỵu xuống đất, còn đôi chân tôi trở lại trạng thái đu đưa trên mặt đất như cái đêm tôi đối diện với cô gái trong phòng khách. Cùng lúc đó, có tiếng rít của bản lề sắt gỉ từ phía bên trên. Một vật gì đó thoăn thoắt leo xuống chân cầu thang với dáng điệu hung tợn của một con thú bị thương. Gã chủ nhà vớ chiếc xích sắt to tướng dưới mặt đất và bổ thẳng vào đầu ông bạn già đáng thương của tôi. Tôi sực tỉnh, giật mạnh tay ông bắn sang một góc tường rồi thừa lúc gã chủ nhà chới với vì cú vồ hụt, đấm thẳng vào bộ mặt trắng bệch của hắn. Với sức vóc của một gã trai ba mươi, tôi thừa đủ cho gã nằm bẹp dúm dưới sàn và quằn quại trong hơi lạnh. Chỉ mươi phút sau, cảnh sát đã kéo tới đầy nhà, và vụ việc gớm ghiếc này gây náo loạn khu phố đang nằm yên lặng từ vài thế kỷ.

... Tôi đã phải mất tới vài tuần để hồi phục tâm lý. Trong những ngày nhốt mình vào phòng ngủ mà không ăn uống gì, cơ thể tôi gầy xọp đi. Hơn một tháng sau, lão bạn già của tôi mò tới, thân hình còn thảm hại hơn. Lão vẫn tu cognac ừng ực "Cái thằng phi nhân tính đó nhất định không chịu khai gì hết". Tôi hờ hững nhìn lão, như vô cảm với cái tin mà lão vừa thông báo. Cú sốc vừa rồi khiến tâm thức của tôi trống rỗng. Lão mân mê chai rượu "Người ta đã xác định cái xác được cất giấu dưới hầm khoảng 10 năm". Lão đặt cái chai rỗng không xuống mặt bàn, đội mũ, dắt xe thẳng ra ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm như người bị mộng du "Ðã mười năm trôi qua, không một ai trong cái thành phố vài triệu dân này phát hiện ra căn hầm có một không hai ấy. Tại sao người ta lại có thể làm biến mất một con người dễ dàng như thế được?".

Sáng sớm hôm sau, tôi bị đánh thức vì những chiếc loa bán báo đang ngược xuôi ngoài phố. Cái giọng quảng cáo đã bị méo mó đi qua âm thanh đặc trưng của chiếc loa rẻ tiền "Báo ra ngày hôm nay... tin cho bạn đọc biết, con quỷ đội lốt người đã tự sát..." Tôi vội vàng xuống mua một tờ báo. Tấm ảnh chân dung của hắn trước khi chết in to tướng trên trang nhất. Hắn hơi mỉm cười, vẫn nụ cười thân thiện như cái lần đầu tiên tôi gặp hắn. Tôi không khỏi rùng mình. Có lẽ những lần đối diện với nỗi sợ hãi trong bao ngày vừa qua cũng không làm tôi ớn lạnh sống lưng như khi nhìn thấy bức ảnh này. Tôi quẳng tờ báo vào sọt rác rồi quay vào nhà. Những dòng trên mặt báo chỉ đưa tin chung chung về cái chết kỳ lạ của hắn. Mặc dù không tìm ra nguyên nhân cũng như bất cứ thứ gì trong phòng giam có thể giúp hắn tự tử, người ta đành đưa ra một kết luận có vẻ hợp lý nhất cho dù là phi lô gich. Khắp thành phố ồn ào lên vì vụ án ly kỳ này. Người ta đặt ra nhiều giả thiết. Cô gái trẻ kia có thể từng là tình nhân của hắn và sau khi cô ta chết, hắn mới nghĩ ra một ý quái đản là vẫn giữ xác chết ở dưới hầm rồi lắp hàng chục cái máy lạnh để bảo quản. Nhiều người còn khẳng định hắn là hậu duệ của một thương gia giàu có người Tàu và vì thực hiện ý nguyện của tổ tiên, đã bỏ đói một thiếu nữ đồng trinh để làm thần giữ của. Thậm chí, một số cho rằng hắn là con yêu râu xanh đã giam giữ cô gái kia dưới hầm như một nô lệ tình dục. Và sau khi hành hạ cô ta cho đến chết, không có cách gì để phi tang, hắn bèn lấy luôn căn hầm làm mồ cho xác ướp. Dù sao, bí mật về cô gái và cái chết của cô đã vĩnh viễn bị chôn vùi. Nhưng chắc chắn rằng, trong một lần hiếm hoi nào đó, tên bệnh hoạn kia đã cho cô gái được hít thở khí trời bằng cách để cô ngồi sau khung cửa sổ trên tầng áp mái, và đó đúng là khoảnh khắc xuất thần mà tay hoạ sỹ vô danh chớp được, khiến bất kỳ kẻ sành hội họa nào đều mê mẩn bức tranh mà không biết vì lẽ gì. Bức tranh phố cổ, vẫn bất động trên tường, toả màu âm u và hư ảo. Nhiều lần tôi và lão bạn già kiên trì đặt ngón tay lên chiếc chén hạt mít hòng vén bức màn bí mật, nhưng thuyết thông linh của lão dường như đã trở nên vô dụng.

Một năm sau, cũng trong một đêm đông giá rét và mưa tuôn lất phất, tiếng cửa sắt lại rít lên, lạnh lẽo. Tôi vội vã mở cửa phòng khách và giật mình vì một người đàn ông đã đứng sừng sững ở đó từ bao giờ. Ông ta cao lớn, mặc áo choàng cài kín cổ, đôi tay giấu trong găng da màu đen và chiếc mũ dạ lấp đi nửa khuôn mặt. Người khách lạ cất tiếng, âm vực không rõ ràng "Tôi nghe nói ông có một bức tranh muốn bán?". Bất giác, một làn hơi lạnh toát đã từng rất quen thuộc chợt ùa ra. Nó trườn đi trườn lại, bao quanh tôi như một dải khăn sương giá. Rồi rất từ từ, chậm rãi, chùm hơi lạnh đó lướt đi, tan dần, và hoà lẫn vào bóng đêm. Tôi rùng mình nhắm mắt lại. Khi tôi kịp định hình ảo giác vừa rồi, vị khách kỳ dị đã biến mất như thể chưa từng xuất hiện. Tôi quay vào nhà. Bức tranh không còn ở đó nữa. Tôi chạm tay lên khoảng trống sẫm màu trên tường. Người ta có thể làm biến mất một cái tên, một con người, nhưng vĩnh viễn không thể làm biến mất một linh hồn. COCKTAIL

Tôi kể lại câu chuyện này mà các tình tiết của nó chẳng liên quan gì đến "Chuyện tình nơi quán rượu"(1) với nam tài tử Tom Cruise trong vai anh chàng pha rượu bảnh trai có cái lắc hông khiến cả nửa dân số thế giới dán mắt vào vô tuyến. Cũng không hề dính dáng tới những bữa tiệc cocktail của giới thượng lưu, nơi các quý ông ngày ngồi đếm phong bì tối đến đứng tụm lại thành vòng tròn bàn chuyện nên mua hòn đảo nào giữa đại dương, và các quý bà vai trắng nõn nà bận rộn với việc bắt tay hơn là uống champagne. Câu chuyện của tôi xảy ra cách đây tám năm và nó gây cho tôi một phản xạ có điều kiện khi cứ mỗi lần uống một ly cocktail vào lúc 11 giờ đêm (thói quen tôi không thể bỏ) là phải soi tận đáy cốc qua cái ánh đèn kềnh kệch trong quầy bar. Và đôi mắt nàng, vẫn hiện hữu như thể 2920 ngày mới chỉ là hôm qua.

_______________

...Năm ấy tôi hai sáu tuổi, chưa từng có việc làm. Hai cái chữ "thất nghiệp" đeo bám trong đầu tôi đến nỗi tôi đâm thù ghét tất cả mọi cuộc gặp gỡ xã giao với những câu hỏi được đúc khuôn như phát ra từ một chiếc đĩa hát thu sẵn "Thế bao giờ mới cho bọn tớ ăn bánh kẹo đây? Đang làm ở đâu rồi? Lương lậu thế nào?". Dần dần tôi hình thành thói quen hễ cứ thấy bóng người quen là vờ tuột dây giày hoặc quên gì đó phải quay hướng ngược lại. Một lần gã anh họ của tôi đến chơi sau hơn mười năm sống lưu vong ở nước ngoài. Gã trịnh trọng chia các vi dít cho cả sáu thành viên trong gia đình tôi, trên đề chức danh chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn Tư vấn thương mại. Gã vỗ vai tôi bồm bộp "Cậu phải đi theo học hỏi tớ. Hai bằng đại học như cậu mà vẫn ăn cơm mẹ nấu là không ổn đâu". Tôi ngượng chín người. Cái điều vẫn lẩn khuất trong tiềm thức được gã nói trắng ra trước thanh thiên bạch nhật khiến cả nhà tôi gật gù. Gã ngoáy mũi rồi chùi luôn vào vạt áo com lê "Bằng cấp mà làm đếch gì. Giáo sư tiến sĩ còn đang thất nghiệp đầy ra nữa là các cậu". Mẹ tôi bê nước trà đến trước mặt gã mà quên mất mười năm trước bà cấm tiệt không cho anh em tôi giao du với ông anh họ quý hóa. "Thì bây giờ anh em bảo ban nhau mà làm ăn. Gia đình ta neo người nên thím giao nó cho anh. Anh có việc vặt gì sai bảo nó cũng được". Nghiễm nhiên tôi có việc làm. Dù không ưa lắm tay anh họ ruột thịt nhưng giữa chúng tôi cũng có điểm chung. Tôi thù ghét từ "thất nghiệp" còn gã thù ghét từ "bằng cấp". Nỗi khổ tâm làm chúng tôi dính lấy nhau như hình với bóng. Gã luôn giới thiệu tôi với đám khách hàng "Chú em tôi giỏi lắm. Hai bằng đại học, tiếng Anh nói như gió, việc gì cũng thạo. Có gì cần các anh cứ bảo chú ấy." Thật tình thì tôi làm sang cho gã cũng như những bức tranh treo ở phòng khách công ty mà khách khứa đều phải khâm phục trí sáng tạo phong phú của chủ nhân, bức tranh Phật bà treo cạnh poster in mẫu Cadillac ba khoang đời mới nhất, kế tiếp là tấm ảnh khổ lớn gã chụp cùng một quan chức trong chính phủ tại một buổi lễ cắt băng khánh thành và kề ngay đó là chân dung cô gái tóc vàng có vòng một vừa được mua bảo hiểm hai triệu đô la. Cái việc cần mà gã anh họ nói với các ông khách nước ngoài mắt một mí được trịnh trọng giao phó cho tôi. Những ngày đầu tôi tháp tùng gã và mấy ông khách kia đi ngoại giao tại các quán karaoke ruột của gã trong thành phố. Trên đời có hai thứ tôi chưa từng được đụng đến dù có mục sở thị, đó là rượu và phụ nữ. Trước nay tôi vẫn được khen sáng dạ, song lần này gã anh họ khẳng định "Chú tối lắm. Tao thấy lạ khi thím tao khai giới tính cho chú mày trong giấy khai sinh". Gã cười khìn khịt "Đấy, bằng cấp mà làm đếch gì. Hôm nào cắp sách đến tao chỉ cho vài đường cơ bản". Kết quả những ngày đi làm đầu tiên của tôi là những cơn buồn nôn thường trực. Đến độ chẳng cần mùi whisky hay mùi nước hoa sộc ra từ những bộ ngực không che đậy tôi cũng đã đủ gợn cổ họng vào mỗi sáng như đàn bà ăn dở. Hết tháng đầu gã anh họ tuyên bố "Từ nay công tác ngoại giao tôi giao cậu quản lý." Tôi phản ứng yếu ớt "Hay anh chỉ định người khác. Em chưa quen việc". Gã cười nhạt "Vậy thì ai làm? Tao làm? Mấy con thư ký õng ẹo kia hay thằng tài xế?". Nói đoạn gã dỗ dành "Thôi, tao giao cho chú công việc nhẹ nhàng nhất, chỉ việc ăn với chơi. Đấy là tao nể thím lắm. Đối tác họ thích chú vì mặt mũi hiền lành lại nói được tiếng Anh. Chú làm tốt thì tháng sau tôi bổ chú làm trưởng phòng đối ngoại". Dĩ nhiên là tôi vẫn tồi như thường. Đối tác của gã phàn nàn liên tục và lần cuối cùng trước khi đoàn khách thứ bảy về nước, gã gọi tôi lên phòng "Mày ăn gì vào mồm mà ngu thế?". Tôi cứ ngắm mãi mũi giày. Gã càng tức "Sao mày dám đánh khách hàng của tao. Mày có biết hợp đồng tiền tỉ nằm ở đấy không." Tôi cắt ngang "Em chỉ lỡ tay xô lão thôi. Tại lão tát con bé trong quán". Gã nhìn tôi như thể nhìn con bệnh ung thư giai đoạn cuối "Mày để tình thương của mày cho thím tao ấy, người đã nuôi báo cô mày mấy chục năm. Còn loại đàn bà kia không thằng này tát có thằng khác tát. Thôi từ mai chú mày lại về nhà ăn cơm mẹ nấu, nhá". Câu sau cùng này khiến tôi suýt khuỵu xuống. Có ông Maslow nào đó đã cho rằng trong Năm Nhu cầu(2), nhu cầu sinh tồn là nhu cầu đầu tiên và mạnh mẽ nhất. Lần này tôi thấm nhuần mớ lý thuyết của Maslow hơn lúc nào hết. Sáng sớm hôm sau, tôi bê một tách cà phê thơm phức và xẹt lửa vào điếu thuốc cho vị cứu tinh của tôi. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt ti hí sát sống mũi của gã "Anh cho em tiếp tục đi làm. Việc hôm qua em sai rồi".

... Một năm sau, tôi là cục cưng của cả công ty. Hợp đồng tôi kéo về đủ để tôi muốn gì được nấy. Giờ không những chai lì với mùi whisky và nước hoa, tôi còn có thể thẩm định được tất cả các dòng rượu mạnh trong quầy bar cũng như thuộc lòng ý thích của từng khách hàng. Gã buôn phế liệu tàu biển người Nhật Bản thích rượu gin và con gái da ngăm đen phốp pháp. Thằng cha Mễ Tây Cơ lai Tàu kinh doanh bất động sản lại chỉ thích rum trắng và phụ nữ dong dỏng cao. Còn tay giám đốc Đài Loan vừa gặp chân ướt chân ráo đã uống Brandy(3) tì tì như nước lã và vỗ mông bất kỳ cô gái nào đi qua bàn của hắn. Mỗi lần như vậy tôi cũng cười hềnh hệch hưởng ứng, rồi gọi cô gái kia lại để hắn nhét tiền vào khe áo. Các đối tác của gã anh họ mê tôi như điếu đổ. Đến nỗi mỗi lần xuống sân bay, từ đầu tiên họ nhắc đến là tên tôi rồi mới đến câu chào và chuyện làm ăn. Thế rồi tôi quen nàng trong một quán bar, hay đúng hơn trong một chuyến công tác vào phương Nam. Năm ấy khủng hoảng kinh tế Châu Á. Lượng khách hàng của gã anh họ ít dần. Họ rút hết vốn đầu tư lại để dồn sức cho công ty mẹ trong nước. Gã anh họ thức thời không biết cũng sắm sanh được ở đâu hai bằng đại học giống như tôi, rồi lần hồi có cả bằng tiến sỹ. Gã được bổ nhiệm vào một Vụ quan trọng. Khởi đầu là chuyên viên, nhưng một ngày nọ gã trịnh trọng gọi tôi lên "Tôi được thăng chức rồi. Chức giám đốc công ty tôi trân trọng giao lại cho chú". Tôi thành giám đốc, đương nhiên, chỉ trên giấy tờ.

Lần đó tôi dẫn một khách hàng đi khảo sát thị trường phía Nam. Sau giờ làm việc, tôi với hắn lại rúc vào một quán bar. Hắn chỉ cô gái đang quấn lấy chiếc cột inox bằng động tác của một con mèo hoang "Đẹp lắm". Tôi hét lên át tiếng nhạc "Tao có thứ này còn hay hơn". Đôi mắt một mí của hắn sáng lên "Thật à". Tôi ra ngoài và dẫn vào một cô gái có đôi môi trễ nải ướt át. Tôi trao đổi vài câu với cô gái bằng tiếng Việt và với hắn bằng tiếng Anh. Hắn cảm ơn tôi rồi vui vẻ khoác vai cô ta đi ra ngoài. Tôi thở phào, gọi cho mình một ly Margaritta và ngay khi vừa chạm môi vào viền muối trên cốc, có vật gì đó chạm nhẹ vào tôi "Anh mới vào nghề à?". Tôi trố mắt nhìn cô gái trước mặt qua ánh sáng mờ ảo quyện khói thuốc, cảm thấy vừa ngượng vừa tức. Hẳn cô ta tưởng tôi là một tên ma cô chuyên nghiệp. Tôi cuống cuồng rút chiếc các vi dít từ trong ví ra, chẳng màng nhìn lại quần áo xem có ra dáng một giám đốc không. Cô gái mỉm cười vẻ hối lỗi "Em chỉ... tưởng nhầm nên báo anh cảnh giác với tụi chuyên nghiệp ở đây. Tụi nó dữ đòn với những ma mới lắm." Cô gái nói giọng Bắc. Đôi mắt đen đến ngạc nhiên. Nhìn chung khuôn mặt cô không có vẻ gì ấn tượng ngoài đôi mắt với hàng mi dày rợp dễ khiến những gã đàn ông như tôi quên mất ly cocktail hấp dẫn trước mặt "Tối nay em rảnh chứ?". Tôi đặt tay lên vai cô gái. Bất ngờ cô đứng phắt dậy, hàng mi nhướng lên "Em không phải là... Em là một bartender(4)". Tôi ngồi lại đến một giờ sáng. Trước khi định gọi một chiếc taxi về khách sạn, tôi đi tới đi lui trước quầy bar rồi cuối cùng cũng cất lời "Em mắt đẹp ơi. Cho anh xin lỗi chuyện hiểu lầm ban nãy nhé. Mới đầu em cũng hiểu lầm anh còn gì. Một đều được chưa. Mà em pha Margaritta ngon lắm". Cô gái đang thoăn thoắt đôi tay với bình shaker, đôi mắt tươi rói trong khi khuôn miệng hơi trĩu xuống giận dỗi "Margaritta chào đón anh lần sau".

Sau lần ấy, những chuyến bay về phương Nam của tôi dày hơn. Thậm chí chẳng cần dẫn khách đi ngoại giao tôi cũng tự mình mò đến quán bar của Margaritta. Tôi đặt tên cho nàng bằng tên loại cocktail tôi yêu thích, cũng là tên cô đào hồng nhan bạc mệnh được một tay bartender vô danh nào đó gắn lên thứ nước pha cồn diệu kỳ này. Tôi chỉ được gặp nàng vào ban đêm. Đó cũng là lý do cho đến những năm về sau, mỗi lần tôi nhìn thấy nàng trong những giấc mơ không màu, chỉ đôi mắt nàng là có thật và đen hơn cả màn đêm. Tôi không biết nhiều về nàng. Cho dù sau vài lần bị từ chối khi có nhã ý đưa nàng về, tôi đã cất công đứng ngoài cửa đến tận 3 giờ sáng để bám theo nàng về nhà. Nhưng lần nào cũng hướng ấy, con đường ấy, nàng mất hút vào một xóm nhỏ ven nội, như thể nàng mãi là bóng đêm, trên đường phố, trong quầy bar, trong những giấc mơ đen trắng và cả ký ức rặt một màu bóng đêm của tôi nữa. Có lần tôi gọi ly Margaritta thứ chín trong một buổi tối và hỏi nàng "Trước em học trường nấu ăn à?". Nàng mỉm cười dịu dàng, lấy cho tôi vài tờ giấy ăn để thấm vết ướt trên cà vạt "Không, trước em học dược. Sau này vì kiếm sống mà phải học pha cocktail thôi". Trước nay tôi vẫn coi cocktail là một thứ làm mát cổ họng sau khi dạ dày được tưới đẫm whisky. Nhưng những lúc nhìn ánh loang loáng của bình shaker trên đôi tay nhỏ nhắn, nhìn cách nàng đổ rượu vào ly đầy điệu nghệ, nhìn nụ cười khi nàng đặt ly Margaritta lên quầy bar, lần đầu tiên tôi cảm nhận vị mặn của muối hòa quyện với hơi cay từ vỏ chanh và hương thơm lan tỏa của rượu tequila trên đầu lưỡi. Nó cũng ám ảnh chẳng khác nào đôi mắt đen hơn bóng đêm của Margaritta. "Học dược khó nhất điều gì em". Nàng thái vỏ chanh vào một chiếc ly mà không nhìn tôi "Khó nhất là phân biệt những nguyên tố để riêng thì vô hại mà kết hợp với nhau thì thành độc tố". Tôi giơ chiếc ly đã uống cạn "Như Margaritta phải không. Để riêng muối, chanh và tequila thì chẳng ai muốn uống nhưng hòa vào nhau thì thành độc dược chết người. Uống rồi không sao quên được". Tôi nhìn nàng đầy ý nghĩa. Chút tequila chẳng đủ làm tôi say nhưng tôi thấy mặt nóng bừng. Margaritta cũng nhìn tôi luống cuống. Nàng suýt đổ nhầm nước sốt Tabasco vào ly Tom Collins.

Lần khác tôi hỏi nàng "Sao em không làm nghề dược" - "Em bỏ học giữa chừng" - "Tại sao?" - "Em sang Nga" - "Còn sau đó?". Nàng vờ bận pha cocktail không trả lời. Tất cả những gì tôi biết về nàng chỉ có thế. Nàng mãi là một bí ẩn như những dải đêm phía sau Thiên Hà. Nhiều lần sau, tôi vẫn gắng gợi chuyện "Anh họ anh cũng ở bên Nga hơn mười năm". Nàng nhướng mi "Vậy à, anh họ anh làm gì ở bên ấy" - "Anh không biết. Anh ấy không nói. Cũng như em vậy", tôi giận dỗi. Quả thật, tôi cũng không biết sau mười năm lưu lạc xứ người, gã anh họ tôi đã làm gì để kiếm được ngần ấy tiền. Thời gian này, tôi chỉ gặp gã những lúc trao đổi công việc cần thiết. Dù mối làm ăn với đối tác nước ngoài ít dần, gã vẫn tuồn công việc ra ngoài nhờ vào chiếc ghế mới. Một lần gã gọi tôi lên phòng, chốt cửa cẩn thận, đôi mắt sít vào sống mũi "Không xong rồi. Lão cốp này đưa gì cũng không nhận". Tôi xòe lửa cho gã "Cả thứ kia cũng không à?". Gã rít thuốc khổ sở "Nó không thích hàng chợ" - "Hàng tinh vậy" - "Cũng không được". Tôi văng tục "Thế vụ giấy phép này hỏng mất à. Sếp ơi, dạo này làm ăn khó lắm. Em vất vả lắm mới kéo được hợp đồng này về đấy". Gã vò điếu thuốc, tay dò số điện thoại "Biết rồi. Mày đừng làm tao cuống. Thằng trợ lý của lão nói lão này chỉ thích hàng độc". Tối hôm đó, gã hẹn tôi ở một khách sạn ngoại ô. Gã đi cùng một cô bé trạc 20 tuổi mà tôi đã gặp vài lần. Gã từng tâm sự với tôi rằng cô bé sinh viên quê mùa ấy chính là điểm dừng tuyệt vời của cuộc đời gã, rằng gã sẽ giữ cho cô nguyên vẹn đến tận ngày cưới. Lúc đó tôi cho rằng chính khuôn mặt như Đức Mẹ đồng trinh của cô bé đã khiến gã ngụy tạo một điều mê tín hoang tưởng. Gã thì thào với tôi "Tao phải đi đây. Lão kia sắp đến. Tao giao phó cho mày." - Tôi kinh hoàng "Em không làm được". Gã rít lên "Vậy thì ai làm? Tao làm? Mấy con thư ký õng ẹo kia hay thằng tài xế?". Mặt gã đỏ tía "Mà việc này không chỉ mỗi giấy phép thôi đâu. Lão này đã nắm hết mấy phi vụ trước của mày rồi. Mày làm. Mày ký. Mày là giám đốc. Mày thích tự tử thì cứ về trước đi". Tôi thề rằng gã anh họ ruột thịt kia chưa hề tham vấn ông Maslow nhưng đã đánh gục tôi khi đụng đến cái nhu cầu thứ hai. Tôi yếu ớt "Vâng ạ. Em sai rồi". Những ly Margaritta nhẹ như nước khoáng chẳng thể làm tôi quên đôi mắt ngơ ngác trên khuôn mặt Đức mẹ. Tôi còn bị gã gửi gắm "hàng độc" thêm vài lần nữa và sau mỗi bận, tôi đều bay hai nghìn cây số chỉ để xin nàng vài ly Brandy. "Anh có chuyện căng thẳng à? Thứ này không tốt như Margaritta đâu". Nàng đẩy ly Brandy của tôi ra xa. Tôi ngước nhìn nàng như con chiên thú tội trước Đức cha. Nàng đâu biết rằng tôi đã trở thành một tên đồ tể chính hiệu.

Có một lần tôi dẫn gã anh họ đến quán bar của Margaritta. Vừa thoáng thấy bóng nàng tôi vẫy tay, định sẽ giới thiệu nàng với người thân duy nhất mà tôi có thể đưa vào thành phố này. Nhưng nhìn thấy tôi, khuôn mặt nàng tái lại và phút chốc biến mất trong bóng tối phía quầy bar. Đận ấy tôi không gặp được nàng cho dù tối nào cũng hứa với gã anh họ nhất định sẽ giới thiệu nàng, người đầu tiên khiến tôi cảm nhận vị ngọt ngào của những ly cocktail. Chuyến công tác kề sau đó, nàng chủ động gặp tôi với một vẻ bồn chồn hiếm có ngay khi tôi vừa bước chân vào quán. "Người đi cùng anh hôm nọ là ai vậy" - "Anh họ anh. Anh đã kể với em rồi. Sao mấy hôm đó em mất tích lâu thế?". Nàng không trả lời, vội vã đi pha cho tôi một ly Margaritta, không quên hỏi gã nước ngoài cao lớn đi bên cạnh tôi uống gì. "Tequikalu", gã dụi bàn tay đầy lông lên cằm, nheo mắt thích thú. Margaritta đặt hai ly cocktail lên quầy bar, đôi mắt nàng lộ rõ vẻ căng thẳng. Gã đối tác lông lá của tôi chồm qua quầy bar túm chặt cổ tay nàng, khèn khẹt cái giọng Mỹ miền Tây "Tao muốn uống Tequikalu theo kiểu Mexico". Tôi uống cạn ly cocktail để đẩy cơn điên dại tụt xuống dạ dày, cố gắng giải thích cho gã khốn kiếp kia hiểu trong lúc ra hiệu cho nàng lẩn ra phía sau. Gã càng hăng tiết "Gọi người quản lý ra đây. Tequikalu phải uống thế nào hả, lũ lừa cái." Gã trỏ tay vào mặt nàng, rút xấp tiền xanh lè in hình ngài Franklin huơ huơ như lên đồng. Tên quản lý xanh mắt, rít lên với nàng "Làm đi". Trước khi tôi kịp định hình được chuyện gì xảy ra, trước khi tôi kịp phang nắm đấm vào giữa mặt thằng cha lông lá và trước khi tôi kịp ngỏ lời yêu nàng, câu nói mà hàng trăm ả đàn bà cố moi từ miệng tôi, Margaritta lạnh lùng dằn mạnh ly tequikalu xuống mặt bàn. Màu nâu sẫm của rượu Kahlua từ từ hòa lẫn ánh vàng rượi của tequila như những xấp hợp đồng mà gã anh họ ruột thịt đã nhuộm đen cuộc đời tôi. Margaritta thản nhiên kéo vạt áo lên. Nếu là lúc khác, trong một hoàn cảnh khác tôi đã có thể ngắm nhìn và tôn thờ món quà tặng tuyệt vời mà tạo hóa đã ban cho nàng. Nhưng khi ấy, tôi kinh hoàng nhìn Margaritta thản nhiên áp bộ ngực màu ngà voi lên cái mặt lông lá đang ngửa sẵn chờ đợi và từ từ đổ thứ cocktail đen ngòm kia vào mồm gã. Cả quán bar đã dừng mọi hoạt động, nhạc tắt, các cô vũ nữ ngừng quấn lấy cây cột inox, những ly rượu mạnh nằm yên lặng trên mặt bàn. Tôi có thể nghe rõ tiếng nuốt ực khi những giọt cocktail cuối cùng trườn vào cái cổ họng khả ố. Tiếng vỗ tay dậy lên hưởng ứng. Gã kia cười thỏa mãn, nhét xấp tiền vào ngực nàng "Cô khá lắm." Tôi gặp nàng ở cửa sau quán bar "Em làm cái trò gì vậy?". Nàng không nhìn tôi "Em cần việc". Tôi khổ sở "Anh sẽ cho em công việc khác, tốt gấp trăm lần ở đây". Nàng bỏ vào trong, kiên quyết "Em cần làm việc ở đây". Tôi mãi mãi không hiểu nàng. Cả cho đến bây giờ nữa. Hôm sau Margaritta gọi điện cho tôi "Em sẽ bỏ việc ở đây. Nhưng anh mời anh họ anh đến một lần để em pha cocktail đãi anh ấy". Khỏi phải nói tôi mừng rỡ đến mức nào và lấy tình cảm keo sơn ruột thịt mấy năm trời nay để thuyết phục gã anh họ rời chiếc ghế sa lông một ngày vào gặp nàng. Tôi nháy mắt với nàng và ngay lập tức, hai ly Margaritta được đặt trước mặt chúng tôi. Gã anh họ như thường lệ, cho dù là rượu mạnh, cocktail hay trà đá đều uống cạn một hơi ngay khi vừa mang ra. Nàng mỉm cười "Chào anh. Em là bạn gái của em họ anh. Dạo này anh khoẻ chứ?". Vừa nhìn thấy đôi mắt màu bóng đêm của nàng, cái miệng rộng ngoác của gã bỗng cứng lại, rồi khó khăn lắm mới thốt lên được "Tại sao cô... lại ở đây...?". Chưa nói được hết câu, gã ôm chặt lấy cổ họng rồi nện cả thân hình kềnh càng xuống mặt sàn đầy vết rượu. Đôi mắt bé tí dãn ra ngoài sống mũi và kinh hoàng nhìn thẳng lên trần nhà.

Cả quán bar nhốn nháo. Sau đó giám định pháp y tìm thấy trong mớ hỗn độn ở dạ dày gã một hợp chất cực độc nhưng không rõ chất tạo thành. Nhiều ngày liên tiếp tôi phải ở phòng thẩm vấn. Người ta khoanh vùng những thức ăn gã tống vào tối hôm đó và mọi mối quan hệ của gã từ trước đến nay, nhưng cả hai thứ đều lộn xộn và bí hiểm như nhau. Margaritta của tôi cũng bị hỏi đến, song từ lúc nhìn thấy ly cocktail cuối cùng do nàng pha, tôi không còn được gặp nàng nữa. Giữa ánh sáng chói chang nơi thành phố đầy nắng và gió, nàng biến mất như bóng đêm không để lại dấu vết. Tay chủ quán bar đắt khách tìm mọi cách lo lót để đầu mối của cuộc điều tra lái về một hướng khác. Một tháng sau, tôi tìm thấy một mẩu giấy trong túi chiếc áo vét mặc hôm cuối cùng gặp nàng và gã anh họ. Một dòng chữ nắn nót, nhưng hơi run rẩy, chứng tỏ người viết ra nó không vội vàng gì "Hãy tin em, ly Margaritta của anh ngày hôm nay chỉ có muối, tequila và nước chanh. Vĩnh biệt anh". Mãi mãi, tôi không thể đoán được gã anh họ tôi đã làm hại gì nàng, đến nỗi, để sắp xếp kế hoạch cho một ly Margaritta chết người, nàng sẵn sàng từ bỏ lòng tự trọng khi đổ rượu vào mồm tên khách bỉ ổi, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống tuyệt đẹp dưới ánh sáng mặt trời và, sẵn sàng từ bỏ tôi, người mà nàng biết sẽ uống bất kỳ ly cocktail nào nàng pha, cho dù trong đó có thứ gì đi nữa. Vụ ngộ độc của gã anh họ tôi vẫn là điều bí ẩn. Những cái tít giật gân trên mặt báo rồi phai đi, những cuộc thẩm vấn thưa dần và gia đình tôi cũng thôi không nhắc đến gã. Có người nói rằng những vụ án giết người thế nào rồi cũng được tìm ra, cho dù không còn chút manh mối nào. Đấy là linh hồn của những người bị chết oan đưa đường chỉ lối cho người điều tra. Nhưng tôi tin rằng, ở dưới kia có những linh hồn tốt, nhưng cũng có những linh hồn xấu, hoặc nửa tốt nửa xấu, như dưới ánh mặt trời kia, có những người nửa tốt nửa xấu, như tôi và nàng vậy.

----------------

(1)- Một bộ phim nổi tiếng của Mỹ mà tên nguyên bản là "Cocktail"

(2)- Abraham Maslow đưa ra thuyết 5 nhu cầu: Nhu cầu tồn tại (ăn, mặc, ở), nhu cầu an toàn (tính mạng, tài sản), nhu cầu giao tiếp, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu tự khẳng định.

(3)- Một loại rượu mạnh được lên men từ trái cây

(4)- Người pha cocktail 

Canh bạc ma

Gã về số hai rồi ghì chặt tay lái cho chiếc xe khỏi nảy tưng tưng trên con đường làng đầy đá hộc. Vừa đi gã vừa lầm bầm chửi rủa cái nỗi đèo vợ con hơn hai chục cây số về quê ngoại, nhưng trong bụng thì mừng lắm vì đỡ phải nhìn thấy bộ mặt nặng như đá đeo của vợ. Thoạt nhìn gã, người tinh mắt nhận ra ngay đây là một con bạc thâm niên. Quần áo hôi hám, xộc xệch dù rất đắt tiền, hai mắt cá chân chai lại do tư thế ngồi sòng, nước da cớm nắng tai tái của kẻ lấy ngày làm đêm lấy đêm làm ngày và túi mắt thì dày cộm vì thiếu ngủ. Hôm nay đằng nhà vợ gã có việc nên gã dậy sớm hơn thường lệ. Nghĩa là bình thường gã tỉnh giấc vào lúc 2 giờ, ăn bữa cơm vợ dọn sẵn chẳng ra bữa sáng chẳng ra bữa chiều rồi chơi loăng quăng với anh cu con một lúc. Sau đó rất đúng lịch, gã phóng xe ra quán nước đầu ngõ, ngồi trầm ngâm tính tính toán toán vào một cuốn sổ con. Sẩm tối, gã ngóng kết quả rồi và vội bát cơm, phóng lên nhà Tứ sẹo ngồi chờ sẵn. ở đó lúc nào cũng tụ tập một đám đàn ông già có trẻ có ồn ào đủ thứ chuyện, nhưng chủ yếu vẫn là chủ đề cờ bạc "Hôm qua thằng nào làm tổng thống?" - "Thằng Hưng rỗ, nó ngồi có tiếng bạc đút cả chục triệu". Một giọng khác nghe như nghẹt mũi, tiếng của Tứ sẹo chủ nhà "Mẹ cái thằng định ăn non. Tao phải chửi đểu nó mới chịu ngồi đánh tiếp". Giọng ban nãy văng tục "Ð. mẹ. Chỉ tại ông mà nó vét tiếp tụi tôi, ông không bảo thì nó cút rồi". ầm ào một lúc, mỗi người góp một câu, chửi một câu rồi chủ đề lại chuyển sang hướng khác. "Thằng Lâm tặc hôm nay đứt mất con xe đấy. Kết con 32. Hôm trước đã đi nửa cặp vì cái tội bồ kết Chelsea". Cả đám lại ào lên "Tối mai trận nào nhỉ?" - "Manchester - Liverpool. 2 giờ đá xong vẫn ngồi được tăng nữa". Gã ít khi tham gia vào những vụ tranh cãi thắng thua vì minh chứng đi ngược lại xác suất toán học, gã luôn thắng nhiều hơn thua, hoặc thắng đậm mà thua ít. Ðặc biệt là những khi có con bạc lạ, như hôm nay chẳng hạn, gã đã được báo trước có một tay thầu xây dựng mà thằng Hạnh cong giới thiệu.

Gã sốt ruột nhìn Tứ sẹo cắt bốn hình tròn tròn từ vỏ bao thuốc lá. Chiếc chiếu cáu bẩn, rách tua xung quanh được bọn đàn em trải ngay trong phòng ngủ vợ chồng Tứ sẹo cho kín đáo. Các con bạc bắt đầu ai vào vị trí người nấy. Nhà Tứ sẹo nhìn bề ngoài tuy hẹp nhưng sau cái quán nước mặt đường là cả khu vườn rộng, phía bên cạnh là chái bếp rồi đến phòng ngủ mà kỳ thực là một phòng độ hơn hai chục mét vuông với chiếc giường đôi cho cả bốn vợ chồng con cái chui vào. Thế nên hai đứa trẻ nhà Tứ sẹo đã mắc màn từ bao giờ và mẹ chúng cẩn thận vắt thêm một chiếc chăn dạ lên ngang màn để chắn ánh sáng. Ðã quen với cảnh này từ lúc còn ở trong bụng mẹ nên hai đứa cứ ngủ ngon lành mặc kệ tiếng cãi cọ, chửi bới thỉnh thoảng ồ lên giữa âm thanh lầm rầm, lóc cóc của sòng bạc. Gã liếc mắt xung quanh mong ngóng cái thằng sắp đến. Canh bạc ban đầu bao giờ cũng thế, tẻ nhạt và cầm chừng. Tiền đặt cửa nhiều nhất cũng chỉ một trăm ngàn. Gã hô hào "Thằng nào đặt hơn một lít đi cho xôm bạc". Chưa nói hết câu, gã đã nhìn thấy hai tờ giấy bạc của một bàn tay chuối mắn đen đúa thò vào. Gã liu riu mắt qua ánh đèn nhờ nhờ trong phòng quyện với khói thuốc từ hơn hai chục cái mồm phả ra thành một màn sương đỏ quạch. Con bạc lạ thoạt trông đúng là có dáng cai thầu với nước da cháy nắng lâu ngày, quần áo bụi bẩn, hai mắt gần nhau trên khuôn mặt múp míp đần độn. Tuy bẩn thỉu, xấu xí nhưng nhìn qua cũng biết ngay là dân có tiền. Gã khấp khởi mừng thầm nhưng chưa vội, gã phải vờn cái đã, y như con mèo vờn chú chuột nhắt, phải vờn cho chú ta nhũn người đi rồi ra tay cũng chưa muộn, đấy vừa là một thú vui vừa là nghệ thuật. "Chén sớm quá biết đâu hắn tỉnh đòn", lần nào gã cũng tâm niệm như vậy để kìm chế lòng tham và sự sốt ruột. Sòng bạc mỗi lúc một đông nhưng chủ yếu là những con bạc quen mặt, cùng huyện với gã, mà gã thì ghét thắng thua theo kiểu đỏ đen. Gã mua xe, sắm dây chuyền, xây gian nhà mới ba tầng và hàng tháng vứt cho vợ một cục tiền để xoa dịu lối sống khác thường là nhờ hoàn toàn vào tiền thắng bạc, nhưng thắng theo cách của gã. Bàn tay chuối mắn đặt cửa hai trăm ngàn, những con bạc mà gã coi như "cạ cứng" biết trước tình thế, dè dặt rút tiền còn ít hơn trước, chỉ bằng những tên "cò con" đàn em đứng lâu nhâu vòng ngoài thấy tiếng bạc nào rộ mới dám bỏ ra vài ba chục để đi câu. Mở bát. Gã rung rinh khoé miệng, cất giọng dịu dàng còn hơn trò chuyện với vợ "Tiếng đầu thế là bác may mắn đấy". Bàn tay chuối mắn không nói không rằng quơ bốn tờ giấy bạc về, những tên "cò con" ăn theo kẻ mới đến hỉ hả ngồi xếp tiền. Gã cai thầu thả đều đặn mỗi ván vài trăm ngàn và gần như ván nào cũng thắng. Trên chiếu bạc lúc này cũng chỉ có những tên đàn em ít tiền "đục nước béo cò" và kẻ lạ mặt chơi tay đôi với nhà cái. Gã chép miệng "Thôi, hai bên cái cân. Ðúng là bạc già không bằng gà son. Thằng nào dầy vốn thay tao cái. Hôm nay cầm cái đen lắm". Bàn tay chuối mắn lúc này mới mở miệng "Sao? Tưởng xới của cậu nhất huyện này. Ai ngờ mèng thế à?". Gã vờ tức mình. Mắt gườm gườm mà không giấu được khoé miệng đang nhếch lên vui thích "Này bác đừng có khinh dân phố huyện nhá. Tôi hầu bác đến sáng. Hết đạn có các anh em tôi phụ giúp. Nào, bán sạch mặt lẻ". Bàn tay chuối mắn hào phóng rút một tệp từ tập tiền thắng bạc dầy cộm quẳng xuống cửa chẵn và thoáng cái số tiền mất hút. Gã an ủi "Bây giờ bác mới thua tiếng bạc đầu tiên đấy". Gã khấp khởi bẻ tay răng rắc trong lúc chờ các con bạc đặt tiền "Bây giờ mới là lúc bắt đầu đây" và thoáng nghĩ đến chiếc xe Matiz màu đồng mà gã anh họ hôm qua lượn từ Hà Nội về. Bàn tay chuối mắn lại thả một nắm xuống cửa lẻ không cần đếm, bằng con mắt nhà nghề, gã áng chừng chiếc dây chuyền to sụ ở cổ đang nằm chình ình trên chiếu. Cả chiếu bạc suýt xoa "Tiếng to đây. Ðúng quá, sấp đôi cả dây rồi còn gì. Tao đoán sấp ba thôi". Những con gà non ngơ ngẩn ở vòng ngoài nhao nhao đặt cửa theo bàn tay chuối mắn. Gã vờ ngơ ngác "Có ai đỡ tôi tiếng này không nhỉ?". Thằng Vinh nhọ ngồi kế bên gã hiểu ý "Lẻ thừa năm cân". Mạnh quăn tiếp lời "Lẻ còn ba xịch nữa có ai đắt không?". Gã ngước mắt nhìn tên cai thầu "Tiếng to thế này chỉ có bác đỡ được. Bác kết lẻ còn gì." "Ðắt ". Cả chiếu bạc ồ lên "Lại sấp đôi. Lạ nhỉ. Chưa hết cầu chẵn hay sao". Gã ngậm vội điếu thuốc lá rồi vơ tiền thoăn thoắt bằng cả hai tay. Tên cai thầu bắt đầu trở thành con bạc khát nước, liên tục đặt cửa để gỡ lại tiếng vừa rồi. Hắn bắt đầu liếc nhìn đồng hồ "Thôi, hai giờ sáng rồi. Ðánh xôm lên nhé. Tôi đặt tất chỗ này". Gã kinh ngạc liếc nhìn xấp tiền mà bàn tay chuối mắn thả xuống chiếu không cần suy nghĩ. "Hắn lấy đâu ra lắm tiền thế nhỉ, chỗ này phải bằng con xe Future của mình". Gã nói lạc cả giọng "Ðắt". Cái mặt nung núc thịt hơi tủm tỉm cười "Có muốn thêm nữa không?". Gã chần chừ "Thêm bao nhiêu?". Tên cai thầu chợt băn khoăn "Nhưng lần này ông phải cốp đấy nhé. Tôi nhìn chỗ tiền của ông trên chiếu cũng chưa đủ chỗ này đâu". Gã nóng mặt "Thì cốp, không đủ thì thêm cả cái này nữa". Gã tháo sợi dây chuyền và cái nhẫn mặt ngọc to tướng đặt xuống chiếu. Cả chiếu bạc phút chốc im phăng phắc rồi lại ào lên "Ba trắng là cái chắc rồi ". Gã bắt đầu lấy lại bình tĩnh, cũng tủm tỉm cười, "Ưu tiên cho ông mở bát ". Gã thấy chiếc bát thoắt cái bay lên và định cúi xuống vơ tiền nhưng ngay lập tức bị bàn tay chuối mắn chặn lại "Sao thế, sấp đôi mà ". Gã nhìn hai quân sấp ngửa nằm gọn ghẽ trên đĩa mà không tin nổi vào mắt mình. Từ lúc đó, gã quên mất mình là một tay cờ bạc gạo và trở thành con thiêu thân trên chính chiếu bạc do mình làm chủ. Gã bắt đầu lú lẫn và không hiểu giấy tờ xe lẫn giấy bán đồ đạc trong nhà cứ lần lượt rơi vào túi tên cai thầu bằng cách nào. Chỉ ba tiếng bạc, mà gã gần như trắng tay. Gã buột miệng "Vị hôm nay kiểu đếch gì thế nhỉ ". Tên cai thầu nhếch mép "Sao, vị do các ông cắt kia mà ". Gã sực tỉnh, ngước nhìn bộ mặt lúc đầu đần độn giờ trở nên ma quái với hai tròng mắt cá chết. Gã biết rằng mình đã gặp phải đối thủ. Vậy thì hắn ta hẳn phải là tên cờ bạc có cỡ khi chỉ cần chạm vào bát mà đã xoay chuyển cả mấy quân trên đĩa, những quân bài tròn trịa quen thuộc mà gã biết chính xác ở vị trí nào nhờ trình độ kênh bát đến hàng siêu đẳng. Ðúng lúc đó vợ Tứ sẹo thò cổ ra khỏi màn léo nhéo. "Ðến giờ cắt hồ rồi". Hắn văng tục khiến mụ chủ quán đanh đá khét tiếng sợ chết khiếp chui tọt vào trong màn. Tên cai thầu lại liếc nhìn đồng hồ. "Thôi nghỉ nhé ". Cả chiếu bạc lừ mắt hằn học "Nghỉ là thế nào". Hắn cười nham nhở "Thế tôi đánh với ai đây?" Hình ảnh hai đứa bé nằm cuộn tròn trong giường cạnh mụ vợ Tứ sẹo khiến gã chợt nghĩ đến đứa con trai đang say giấc, nhưng là một con bạc chuyên nghiệp, gã quyết định nhanh chóng "Tôi còn giấy tờ nhà". Sau màn xóc đĩa điệu nghệ của nhà cái, văn tự bán nhà cũng tức thì được hoàn tất và dưới mặt lẻ đã thấy xếp gọn ghẽ toàn bộ của nả mà gã vừa cầm cố, các loại giấy sang tên đồ đạc cùng chồng tiền cao ngất không rõ bàn tay chuối mắn rút ra từ chỗ nào. Gã liếc nhìn Vinh nhọ đầy ý nghĩa , "Ông đỡ tôi một lít thôi và mở bát giùm tôi ". Cả chiếu bạc yên tĩnh đến độ chỉ còn nghe thấy tiếng ngáy nhè nhẹ của hai đứa trẻ. Tiếng bạc mà những con bạc nhà nghề chưa từng thấy ở phố huyện này được đánh tay đôi giữa một tên cờ bạc bịp lão luyện và một kẻ lạ mặt bí ẩn. Vinh nhọ mặc dù cũng là con bạc có máu mặt nhưng vẫn không giấu được vẻ căng thẳng, run run mở bát trong khi gã cười thầm trong bụng, rít một hơi thuốc để thư giãn. Nếu lần này không phải tứ tử trắng thì đúng là gã nên về chơi tú lơ khơ với bọn trẻ trong xóm. Gã xoa xoa cái cằm nhẵn nhụi và chợt nhận thấy vẻ băn khoăn của những chiến hữu ngồi cạnh. Bốn quân tròn tròn gần như xếp chồng lên nhau nhưng các con bạc có nghề vẫn nhận ra rõ là ba quân trắng, còn quân dưới cùng? Vinh nhọ từ từ nghiêng đĩa và ánh nhũ đồng của màu vỏ thuốc Vinataba hiện ra trên lòng đĩa men sứ trắng toát, trắng như màu da mặt của con bạc khét tiếng nhất phố huyện này.

Một tháng sau, người phố huyện bắt gặp gã đi bộ lếch thếch trên con đường đầy muội than do những chiếc xe goòng vãi ra từ phía mỏ. Hỏi thăm, gã đáp lời qua quít "Bắt xe về ngoại thăm mẹ con nó", rồi hạ giọng thì thầm cái điệp khúc mà hắn lặp đi lặp lại cả tháng nay "Này, ông có tin là nhà lão Tứ sẹo có ma không?". Rồi chẳng cần chờ người kia trả lời, gã lúng búng những lời lẽ khó hiểu, tay vuốt nhanh vạt râu mọc xiên xẹo không hàng lối "Không, thằng kia mới đúng là ma quỷ. Không thế sao từ bận đấy mình chẳng nhìn thấy hắn nữa. "../.. 

Hoa mộc trắng

Phú Hoàng người gốc miền trong, ra thành phố học đại học và cuối cùng phiêu dạt lên miền rừng núi này sau khi thất vọng vì những bức tranh không được ưa chuộng. Hoàng rất nghèo, gia đình lại chẳng còn ai nên một thân một mình nơi nào cũng sống được. Trước anh sống nhờ nghề chép tranh với mức tiền công rẻ mạt nhưng sau do tiếc bao công lao học tập đổ xuống sông xuống biển hết, Hoàng quyết tâm đi tìm một giá trị nghệ thuật đích thực.

Anh sống trong một chiếc lán nhỏ hoang dựng chơi vơi trên sườn đồi. Từ sớm tinh mơ đã xách giá đi vẽ, chỉ mang theo vài củ sắn khô ngắc cho qua bữa trưa đạm bạc, đến chiều muộn lại trở về lán. Ngày hôm ấy, Hoàng không đi vẽ như mọi bận. Một cơn sốt đã đánh gục anh từ đêm qua. Ðến chiều, Hoàng nhúc nhắc được tay chân, lại lụi cụi sắp màu bày ra phía chái nhà. Vẽ đựơc một lúc Hoàng thấy cánh tay tê dại, nhìn bức tranh màu sắc nham nhở như một khối không hình thù mà bất lực. Anh gắng gượng đứng dậy, ngắm những cánh chim bay chúi vào cánh rừng tối sẫm cảm thấy lòng buồn tê tái. Một cơn giận dữ khiến Hoàng đá thốc bức tranh đang vẽ dở bay tơi tả xuống triền dốc. "Ôi, phí hoài quá." Hoàng kinh ngạc quay phắt lại và thấy một khuôn mặt trắng đến lạ lùng lấp ló đằng sau mớ tóc rối. Cả những tà áo cũng trắng toát như muốn xoắn quyện vào ánh hoàng hôn đỏ rực. "Tranh anh vẽ đẹp đấy, làm thế thật hoài công", cô gái phá tan sự im lặng của Hoàng. "Tôi còn khối tranh, mà cô từ đâu đến?" - "Bản em ở đằng sau quả đồi kia, vừa đi chợ về thấy anh đang vẽ nên ghé lại xem". Hoàng ngẩn ngơ nhìn theo cánh tay gầy guộc đang chỉ về hướng quả đồi tím ngắt đằng xa. "Mời cô vào nhà chơi". Cô gái ngần ngại "Thôi, có lẽ đã muộn rồi, em phải về nhà cho kịp nhưng mai em sẽ ghé lại". Cô gái nói xong tức thì quay gót, rảo bước xuống triền đồi rồi thoắt cái đã khuất sau những đám cây um tùm lá.

Chiều hôm sau, Hoàng về sớm hơn mọi ngày. Vừa cất giá vẽ vào nhà, anh trèo ngay lên mỏm đá đưa mắt về phía chân đồi . Anh hơi thất vọng, có lẽ cô gái chỉ nói chơi thôi. "Chào anh, sao hôm nay đi vẽ về sớm vậy?". Cô gái hôm qua đã đứng sau lưng Hoàng tự lúc nào, vẫn vận bộ quần áo trắng toát. "Cho em xem tranh đi". Hoàng dẫn cô vào "kho báu" của mình. Anh giới thiệu cả những bức tranh lần đầu tiên cầm bút vẽ, còn vương vẻ non tơ trên từng nhát cọ. Từ đó hôm nào cô gái cũng là khách của Hoàng, tuy nhiên chỉ đến vào lúc chiều tà, khi ánh nắng quái chưa kịp trốn sau những mỏm đồi chi chít phía xa và đi ngay khi làn sương vừa xuống. Mỗi lần như vậy là cả một ngày hội đối với Hoàng. Anh bày biện những đồ đạc duy nhất theo một gu thẩm mỹ riêng của mình. Lúc đang lúi húi bê chậu hoa bé tí ra trước cửa, Hoàng lại bị giật mình vì giọng nói nhẹ tựa gió thoảng "Hoa gì mà thơm thế anh" - "Hoa mộc đấy. Loại hoa này rất kén đất. Anh đang lo nó sẽ không chịu đựng khí hậu này lâu được" - "Nhà em cũng có một cây hoa như thế này, em cũng thích, chỉ tiếc rằng không biết tên" - "Nhà em á, vô lý, cây này sao sống lâu ở đây được". Cô gái hơi giật mình "Có lẽ em nhầm?. Hoàng cười xoà "Mà em tên gì nhỉ, em đến rồi đi cứ vội vã làm anh chưa kịp hỏi" - "Thì cứ gọi em là Bạch Mộc, chứ tên thật khó nhớ lắm" - "Ừ, Bạch Mộc cũng được, càng hay". Cô gái cười dịu dàng. Bây giờ Hoàng mới để ý kỹ khuôn mặt nửa lạ nửa quen ấy. Ẩn dưới mái tóc đen dầy là đôi mắt sâu thăm thẳm vừa tràn ngập sức sống vừa ánh lên nét gì đó tuyệt vọng. Hoàng chỉ thấy lạ khi Bạch Mộc luôn tránh né những câu hỏi về bản thân. Lần nào cô cũng có cách khiến anh không thể tò mò thêm được nữa. Một điều lạ là Bạch Mộc luôn mặc những bộ quần áo một mầu trắng toát, dài thụng thượt và che hết cả mọi phần da thịt. Trang phục của cô không giống bất kỳ dân tộc nào đang sinh sống ở đây. Cả khuonôn mặt cũng không giống nốt. Các thiếu nữ Dao đỏ thường cạo nhẵn lông mày còn những cô con gái Mèo đều có khuôn mặt trái xoan và ram rám. Gương mặt Bạch Mộc xương xương và hơi tai tái, giọng cũng rất sõi mà cô giải thích là do đi chợ và giao tiếp với người Kinh từ bé. Tuy nhiên Hoàng thấy nghi hoặc khi Bạch Mộc nói rằng đi chợ lại không mang theo thứ gì trên người như hầu hết các cô gái dân tộc khác. Nhưng cô đã nói thế thì anh biết thế. Trong mắt người khác, Bạch Mộc có đẹp hay không, anh không biết. Hoàng chỉ cảm nhận rằng từ sau buổi gặp gỡ đầu tiên đó, cô là nguồn động viên, là cảm hứng vô tận của anh.

Một lần Hoàng và Bạch Mộc đã ngồi lại trong lán và trò chuyện rất nhiều. Rất lâu sau Bạch Mộc đứng bật dậy hoảng hốt "Muộn quá rồi". Hoàng vừa kéo chiếc phên che cửa thì lập tức một cơn gió lạnh buốt thốc vào mặt. Trời đã mưa rả rích tự lúc nào mà cả hai người đều không hay biết. Cơn mưa rừng cứ to dần tựa như ông trời đổ cơn thịnh nộ sau bao ngày nén nhịn. "Mưa kiểu này không biết bao giờ mới dứt, em cứ ở lại đây, ngớt mưa thì về". Hoàng kéo tay Bạch Mộc ẩy vào bên trong. Bàn tay cô lạnh cóng. Bạch Mộc như có điện chạm vào người giật vội tay ra. Ðêm ấy quả là một đêm kỳ lạ đối với Hoàng. Lần đầu tiên trong đời, anh ở chung phòng với một người con gái mà lại giữa vùng rừng núi hoang vu thế này. Ðã từ lâu anh cảm thấy có một tình cảm lạ lùng nhen nhóm trong trái tim hằng thiếu tình yêu thương. Sợ Bạch Mộc lạnh, Hoàng nhồi thêm củi vào đống lửa đang chập chờn rồi ngồi xích lại phía cô. Bạch Mộc khe khẽ lùi ra. Nhưng lần này Hoàng kiên quyết ghé sát lại và bất chợt ôm chầm lấy. Làn da lạnh toát của Bạch Mộc trái lại càng làm tăng thêm ngọn lửa đang cháy rực trong lòng anh. Hoàng xiết chặt, bất chấp phản ứng yếu ớt của cô. Ðột nhiên Bạch Mộc vùng mạnh ra và bật khóc. Gương mặt cô đẫm nước mắt và trở nên tuyệt vọng. Rồi trước sự bất ngờ của anh, Bạch Mộc chạy vọt ra cửa. Hoàng chạy theo nhưng chỉ thấy trước mặt là một màn mưa trắng xóa với cái buốt lạnh của núi rừng. Anh đội mưa chạy men xuống triền dốc nhưng Bạch Mộc đã biến đi tựa như có phép tàng hình. Sau một hồi tìm kiếm, anh bàng hoàng quay vào nhà. Mọi việc diễn ra như một ảo ảnh. Những hôm sau, Bạch Mộc không đến. Hoàng thẫn thờ mất mấy ngày rồi quyết định xuống thị trấn tìm kiếm nhưng vô vọng. Bạch Mộc đến và đi như thể cơn gió rừng trờ qua đỉnh núi. Tiếng khèn nỉ non của phiên chợ tình như cào xé tâm can anh. Hoàng bước đi trong làn sương dày đặc để trở về lán. Ðúng vào lúc tuyệt vọng nhất thì Bạch Mộc hiện ra ngay bên vệ đường như thể đã biết anh sẽ có mặt ở đó vậy.

Mấy hôm sau, Hoàng cho Bạch Mộc biết rằng anh sẽ quay về thành phố ít hôm để bán đi vài bức tranh. Không chắc được bao nhiêu nhưng anh sẽ có cái để mà tồn tại. Lần này, Bạch Mộc đưa anh xuống tận chân đồi rồi mới dừng lại. Hoàng cảm thấy một cơn quặn thắt phía ngực trái khi ngoái nhìn tà áo trắng im lìm lẫn trong sương mù bảng lảng.

Bức tranh rao bán đầu tiên của anh được một người nước ngoài trả giá. Hoàng tưởng mình nghe nhầm khi mức giá ban đầu phát ra đã bằng cả gia tài. Những tác phẩm của anh liên tục được trả giá, được khen ngợi. Người ta tôn sùng anh, thi nhau tìm mua những bức tranh có ký tên anh để lấy đó làm niềm tự hào. Không biết người ta mê tranh anh vì lẽ gì, chỉ biết họ như bị thôi miên bởi những mảng màu đỏ rực lúc hoàng hôn hay rặt một màu xanh u uất của đêm rừng cô quạnh và ẩn vào đó lúc nào cũng có một bóng áo trắng đầy vẻ liêu trai mà quyến rũ mê hồn. Chỉ duy nhất có một bức Hoàng không bao giờ chịu bán là chân dung Bạch Mộc. Bức vẽ này khiến anh bạn đồng nghiệp của Hoàng cứ gạn hỏi mãi. Hoàng cũng đem câu chuyện khác thường của mình ra kể lại. anh chàng hoạ sĩ kia nghe xong giật bắn mình rồi khẳng định "Không khéo cậu gặp ma rồi. Thảo nào tớ thấy cậu dạo này xanh xao vàng vọt. Có khi nó hút hết sinh khí của cậu rồi cũng nên" - "Nhưng cô ấy có bao giờ cho tớ chạm vào người đâu" - "Ðấy là nó sợ lộ chất âm đấy. Sau này nó mới cho cậu bùa ngải. Tớ đã lăn lộn ở vùng rừng núi mấy chục năm tớ biết". Nói đoạn anh ta thì thào "Cầm lấy con dao này, ma thì không chảy máu được đâu...". Hoàng bán tín bán nghi vội vàng thu xếp quay trở lại.

Xe đến thị trấn thì trời đã xâm xẩm tối. Hoàng vội vã trèo lên đến lưng chừng đồi thì đã thấy bóng áo trắng quen thuộc đang ngồi quay lưng vào lán. Vẻ mừng rỡ thoáng xuất hiện trên gương mặt nom còn xanh hơn trước. Bạch Mộc chưa kịp nói gì thì Hoàng đã rút vội con dao ra và giả đò như bước hụt, lưỡi dao cứa một vệt sắc ngọt lên cổ tay cô. Những giọt máu đỏ tươi thấm dần xuống vạt áo trắng. Hoàng hốt hoảng nắm lấy tay Bạch Mộc nhưng cô hét lên giọng thảng thốt "Ðừng, đừng đụng vào em". "Anh xin lỗi", Hoàng chưa kịp nói hết câu thì Bạch Mộc đã hất tay ra và vùng chạy vào làn sương trắng để rồi không bao giờ quay trở lại nữa.

Vài năm sau, Hoàng trở thành một hoạ sĩ có tên tuổi. Những bức tranh đã đem lại cho anh nhiều thứ: tiền bạc và danh vọng. Các cô gái đẹp vây quanh anh. Ðồng nghiệp ghen tị với anh. Nhưng Hoàng chẳng hề để ý đén những điều đó. Anh treo bức chân dung xưa cũ vào nơi trang trọng nhất và ký hoạ lại lần nữa rồi cất vào ví như một tấm bùa hộ mệnh. Lần ấy, Hoàng đi dự một cuộc triển lãm của những hoạ sĩ danh tiếng trong đó có anh. Ngang qua một con phố, Hòang chợt ngửi thấy mùi hương quen thuộc gợi nhớ đến một hình bóng xa vời. Anh ghé vào quán nước "Ngôi nhà này của ai mà có cây hoa mộc thơm quá?" - "Cuả ông bà Hoa kiều có cô con gái bị Sida đấy. Khi biết mình bị nhiễm HIV, cô gái bỏ đi đâu biệt tích còn hai ông bà đau khổ quá nên cũng chuyển đi mất rồi. Cô gái này hồi xưa vẽ đẹp lắm". Hoàng bồn chồn rút ví ra "Có phải cô gái này không cụ" - "Ừ đúng, cậu quen cô ấy à?", rồi bà cụ chép miệng "Bây giờ chắc đã giai đoạn cuối từ lâu rồi". Hoàng lảo đảo đứng dậy đi vội ra bến xe để bắt kịp chuyến cuối cùng. Linh tính như mách bảo anh phải quay trở lại. Chiếc lán điêu tàn hiện ra trước mắt, chậu hoa vẫn còn nguyên đó. Hoàng chợt sững người khi nhìn thấy những chấm trắng li ti đang toả mùi hương huyền hoặc. Cây hoa mộc vẫn nhẫn nại chịu đựng trước trời đất khắc nghiệt để trổ hoa và chờ đợi. Tim Hoàng nhói đau. Anh thì thầm "Bạch Mộc, có phải em đấy không?". 

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này 

Bến cuối

Tặng Thuỷ

Trạm xe buýt cuối cùng ở vùng ngoại ô này chỉ còn một dãy ghế ngồi. Mái che và tấm pano đằng sau có lẽ đã hư hỏng nên bị tháo rời ra. Ánh trăng hạ tuần mờ mịt đâu đó trong đám mây dày không đủ tỏ bất cứ vật gì trên cánh đồng trống và con đường dằng dặc phía trước mặt. Trên băng ghế dài cũ kỹ chỉ còn lại một hành khách duy nhất đang ngồi chờ xe buýt. Cô gái ngồi lặng lẽ trong bóng tối, mắt nhìn hút về cuối con đường. Cô có vẻ lo lắng. Mới chỉ sáu giờ tối mà trời đã sập lại nhanh chóng. Khu vực này quây tụ một số trường đại học và nhà máy nên chuyến xe nào cũng đông đúc. Nhưng trong ngày cùng tháng tận này, đám công nhân và sinh viên đã về nhà từ sớm để đón Tết, chỉ còn cô phải chăm sóc một đứa bạn ốm cùng phòng, rồi ngay khi nó túc tắc ngồi dậy được, cô đã đi kèm nó về tận nhà rồi mới yên tâm quay lại trường thu dọn đồ đạc. Khi cô rời khỏi ký túc xá, trời vẫn còn chạng vạng, nhưng bóng tối đã ùn xuống nhanh chóng lúc cô đi bộ ra trạm xe buýt này.

Chiếc xe vẫn chưa đến. Cô sốt ruột thu lại đôi tay lạnh cóng và nhét chúng vào hai túi áo cũng đã buốt từ bao giờ. Cô ngờ rằng biết đâu vào cái ngày ba mươi Tết này, chiếc xe cô vẫn đi đã thay đổi lịch trình. Nó kết thúc chuyến cuối sớm hơn thường lệ và có lẽ đã khởi hành trước khi cô ra đây vài phút. Gió từ cánh đồng trống luồn qua nhà máy bỏ hoang phía bên kia đường rồi thốc trở lại. Cô bắt đầu chảy nước mũi. Cô tránh nhìn vào cái nhà máy tối om trước mặt. Ban ngày nó là một công trình khổng lồ với hai cột ống khói im lìm xám xịt, những bức tường đồ sộ với lớp vữa lở loét bao quanh như không có lối vào khiến người qua lại nhìn thấy tức mắt. Ðã hai mươi năm nay nhà máy không hoạt động, cỏ mọc cao lút bao quanh chân tường. Nó không có cửa sổ, và chỉ còn vài lỗ thông hơi gần nóc mái là lành lặn. Những đêm mùa đông giá rét, lũ bạn phòng cô đóng chặt cửa, nằm nghe gió hú từ trên đỉnh núi, tay lùa vào mớ bỏng ngô ấm sực mà run rẩy vì những câu chuyện thì thầm trong bóng tối. Chuyện về cái nhà máy bỏ hoang luôn là chủ đề được nói tới sau cùng, và khi nhắc đến, ai cũng muốn mình chỉ là người lắng nghe chứ không phải buột miệng thốt lên nó. Hồi mới nhập trường, tất cả sinh viên đều được nghe kể về nhà máy. Những bà lao công già nói rằng trước đây là nhà máy tái chế kim loại. Nhưng một ngày nọ, có hai người công nhân xích mích dẫn đến xô xát. Một người lỡ tay giết chết bạn. Anh ta quẫn trí không biết làm sao với cái xác bèn bỏ nó vào cỗ máy nghiền kim loại khổng lồ. Khi người công nhân phụ trách bộ phận nung chảy đứng máy, anh ta thấy nồi hơi bốc lên một làn khói đỏ quạch. Và ngay tức thì, ống khói thay vì bốc lên những cột khói đen, lại vần vũ một đám hơi đỏ như máu bao quanh nhà máy. Kể từ hôm đó, những chuyện kỳ quặc liên tiếp xảy ra. Công nhân cãi lộn liên tục, năng suất giảm, sản phẩm bị lỗi. Nhất là những đêm trăng hạ tuần, khi cái nhà máy đầy sắt thép chìm vào màn đêm đen đặc, người trực đêm kể lại rằng, anh ta luôn bị ám ảnh bởi những tiếng kêu khóc văng vẳng trong các nồi hơi và máy nghiền kim loại. Chẳng bao lâu sau nhà máy giải thể. Nhưng nhiều người có việc đi qua đó vào lúc gần sáng khẳng định họ vẫn nghe thấy những bộ phận máy móc hoạt động bên trong hệt như đang có người điều khiển nó.

Từ cửa sổ lớp học của cô có thể nhìn thấy thấp thoáng toàn cảnh nhà máy, cái ống khói ảm đạm, sân trong còn ám đầy muội than đen sì và những bức tường câm lặng. Vào những chiều mưa phùn, nhà máy bỏ hoang lút trong mưa bụi và cỏ dại, tạo nên một khung cảnh thê lương, chết chóc khiến các sinh viên không ai bảo ai đều đứng lên đóng hết cửa sổ lại. Từ ngày người ta đặt thêm một trạm xe buýt ở đây, cô và các bạn thường rủ nhau về nhà vào ngày cuối tuần. Cô hay căn giờ xe chạy nên không phải đợi lâu, vả lại trạm xe lúc nào cũng đông thành thử hành khách cứ nhớn nhác mắt trước mắt sau chờ được lên trước để có chỗ ngồi. Thời gian trôi chậm chạp theo tiếng mưa phùn thấm lên đám đất mục ải. Chiếc mũ vải trên đầu cô cũng bắt đầu ướt sững và nó sụp xuống mắt khiến cô không thể quan sát được mọi vật xung quanh. Khi cô lộn vành mũ lên, tai cô ù đi và mặt đất nhớp nháp dưới chân như chao đảo. Có một vật gì đó thấp thoáng đằng sau một lỗ thông hơi. Nó không rõ màu sắc nhưng nó chuyển động. Cùng lúc đó, ánh đèn xe loé lên từ đằng xa. Ánh đèn còn ở xa lắm, nó quét những tia sáng mờ đục và rẽ bóng tối di chuyển chậm chạp lên phía trước. Không gian đặc quánh khiến con đường, những cánh đồng cùng dãy núi đá hoà thành một vùng mênh mông vô tận, và ánh đèn xe như đốm lân tinh lúc ẩn lúc hiện. Xe buýt chỉ đỗ ở những điểm cố định, nên cô không thể chạy về phía nó. Cô cố nhìn về hướng chiếc đèn, nhưng cái lỗ thông hơi như ma lực bắt cô quay đầu trở lại. Vật chuyển động đã biến mất. Ánh đèn rõ dần và một khối vuông vắn hờ hững chuyển động trên con đường trải nhựa. Khi nó đến gần, cô mới thấy tốc độ của nó khá nhanh. Nó quay đầu xe và phanh kít lại trước mặt cô. Trên xe không có hành khách. Cô cũng đã nghĩ như thế. Cửa xe tự động mở. Cô cuống quýt quàng chiếc ba lô lên mình rồi vội vã lên xe. Cô suýt kêu lên. Cô cứ nghĩ rằng trên xe ấm áp như một lò sưởi và cô sẽ được duỗi cái chân rét cóng trong hơi nóng ấm sực, nhưng thậm chí còn lạnh hơn ở ngoài. Hơi buốt bao phủ xung quanh như thể tất cả các cửa sổ trên xe đều mở. Anh chàng lơ xe ngồi im lặng ở ghế cuối. Cô chọn ghế đầu tiên ngay sau lưng người tài xế, không quên liếc ra ngoài cửa sổ. Cô bíu chặt vào thành xe. Rõ ràng, lúc này cái lỗ thông hơi thấp thoáng một vật đang chuyển động. Chiếc xe rùng rùng vài giây rồi lao vút đi trong bóng tối. Phía ngoài đen đặc, cô không còn nhìn thấy gì ngoài cửa xe nữa. Cô đã định ngủ một giấc cho đến lúc về đến nhà nhưng xe lạnh quá. Cô buột miệng "Sao xe lạnh thế bác?". Người tài xế không trả lời. Anh lơ xe cũng im lặng. Cô ngoái lại nhìn. Anh ta cũng đang chằm chằm nhìn vào cô. Cô chưa gặp người lơ xe này bao giờ. Cô nhẵn mặt tất cả các anh lơ xe cắm cảu và cục mịch. Nhưng có lẽ người này mới thử việc. Anh ta dường như ít nói, tóc cắt cao và da xanh xao. "Làm thêm mấy hôm nữa, da anh ta cũng bóng lộn lên và lắm điều hệt mấy gã lơ xe khác", cô thầm nghĩ. Người lơ xe tiến về phía cô để kiểm tra vé. Khi anh ta di chuyển, cô cảm giác anh ta dồn hết cả hơi lạnh trên xe về phía cô. Cô định giở sách ra đọc để giết thời gian, nhưng ánh đèn phờ phạc trong xe khiến cô phải bỏ ý định. "Trời hôm nay lạnh bác nhỉ", cô bắt chuyện. Người tài xế vẫn không trả lời. Và đến giờ cô mới để ý thấy cả hai đều mặc áo cộc tay. Cô sửng sốt "Họ điên rồi, mặc áo cộc tay trong thời tiết này." Khi người tài xế quay lại nhìn cô, ông ta cười bí hiểm. Chiếc xe vẫn chạy băng băng mặc dù ông ta bỏ tay khỏi vô lăng. Cô hét lên. Anh lơ xe mỉm cười, như thể họ vẫn chơi trò bỏ tay khỏi vô lăng những lúc không có hành khách. Cô thấy sợ hai con người này. Bóng tối bên ngoài khiến cô không định vị được chiếc xe đã đi đến đâu rồi. Bỗng nó đột ngột phanh kít lại. Vài hành khách nữa lên xe. Là một nhóm những cô gái trong đồng phục công nhân. Họ cũng chăm chú quan sát cô rồi trò chuyện ríu rít. Họ ngồi cuối xe nên cô không thể nghe rõ những câu chuyện của họ, nhưng cô cảm thấy dễ chịu hơn khi trong xe có thêm người. Chiếc xe dừng lại liên tục ở những bến tiếp theo, và xe đông đúc dần. Cô bắt đầu bị chen lấn chỗ. Một anh chàng trạc tuổi cô xin phép được ngồi cạnh. Vẻ như anh ta đã rong ruổi trên những con đường giá rét suốt cả ngày với cái áo pull mỏng dính nên giờ rước theo hơi lạnh vào trong xe. Hơi lạnh toát ra từ người anh ta khiến cô run lên cầm cập. Cô bắt đầu thấy bực mình "Trời rét buốt thế này mà họ ăn mặc phong phanh". Có lẽ cả xe chỉ có cô là mặc áo khoác dạ. Xe đã đông đến độ hết ghế ngồi, và người ta phải chen nhau cả chỗ đứng. Nhưng hơi người trong xe chẳng làm cô ấm lên tí nào. Người hành khách bên cạnh bắt chuyện "Bạn học ở gần đây à?". Cô nói tên trường và anh ta ồ lên "Trước mình cũng học ở đó". "Anh ra trường lâu chưa?". Người đồng hành không nói gì. Anh ta cầm cuốn sách của cô và đọc hau háu dưới ánh đèn lờ mờ như thể chưa được nhìn thấy chữ bao giờ. Anh ta làm cô nghĩ đến một cậu bạn cùng lớp luôn bị bạn bè chế nhạo vì lấy sách và thư viện làm thú vui. Cô chợt nhớ ra cái bài thực hành mà cô phải nộp sau Tết, một bảng điều tra xã hội học. Chẳng mấy khi cô gặp đông người thế này, lại đủ mọi lứa tuổi, ngành nghề. Cô lấy ra tập phiếu điều tra và len lỏi đến từng ghế ngồi. Cô lịch sự xin phép từng người và chép tên tuổi của họ vào bảng hỏi rồi đưa cho họ ký vào. Tất thảy đều vui vẻ khai thông tin và ký giúp cô. Khi về chỗ ngồi, cô đếm được hơn 50 phiếu hỏi. Cô phấn khởi vì sáng kiến vừa rồi. Ðể xin được ngần này bảng điều tra, các bạn cùng lớp cô sẽ phải mệt đứt hơi khi tập hợp các đối tượng. Anh chàng ngồi cạnh giúp cô sắp xếp lại các phiếu hỏi một cách tỉ mỉ như thể làm cho chính anh ta vậy. Sau cùng, anh ta rụt rè hỏi cô "Bạn có thể cho mình mượn cuốn sách này được không?". Cô ngần ngừ "Cuốn này quan trọng lắm. Sau Tết mình thi, sẽ phải cần đến nó" - "Mình hứa sẽ trả lại bạn. Ðể yên tâm thì ghi địa chỉ nhà mình vào nhé". Cô ghi luôn địa chỉ của anh chàng mọt sách vào sau phiếu hỏi của anh ta rồi tựa đầu vào thành xe, lim dim mắt. Những âm thanh trên xe nhỏ dần, và khi chiếc xe chạy rầm rầm trên mặt cầu. Tiếng người trên xe im bặt. Cô nghe vài tiếng thì thào "Ðến cầu rồi". Cô thấy mình rơi xuống một cái vực sâu hun hút, đen thẳm và lạnh lẽo.

Chiếc xe nảy kinh hồn rồi phanh khựng lại khiến cô choàng tỉnh, người dúi về đằng trước. Trên xe đã vắng tanh không còn một ai. Cửa xe tự động mở. Người lơ xe nhìn cô chờ đợi. Cô vội vàng xách ba lô xuống. Ðây đích thị là đầu bến. Từ đây về nhà cô chỉ việc đi bộ vài trăm mét nữa. Chiếc xe chúi đầu về phía trước rồi ánh đèn pha thoắt cái đã biến mất sau một khúc ngoặt. Giấc ngủ vội trên xe làm đầu cô nặng chình chịch, người vẫn bồng bềnh như đang mơ. Có tiếng xe máy phanh kít sau lưng cô. Mẹ và anh trai cô dựng vội xe rồi chạy ào lại. Mẹ cô hốt hoảng "Ði đâu mà giờ này mới về con? Mẹ gọi điện lên ký túc xá mà người ta bảo con về từ chiều rồi". Cô ngơ ngẩn "Vẫn sớm mà mẹ" - "Ba giờ sáng rồi mà còn sớm. Em lang thang ở đâu giờ này mới về?", anh trai cô cằn nhằn rồi xách giúp cô chiếc ba lô lên xe. Cô ngạc nhiên "Làm sao mà ba giờ sáng được. Xe chạy từ trường về đây chỉ mất một tiếng. Mới hơn bẩy giờ là cùng". Hai người kinh ngạc nhìn cô, không nói gì.

Sau Tết, cô lại sửa soạn đồ đạc để lên trường. Khi sắp lại tập phiếu hỏi, cô sững sờ thấy trên đó không có một chữ ký nào. Họ tên của những hành khách cô ghi vẫn còn nguyên, nhưng chữ ký mà cô nhờ họ ký vào đã biến mất hoàn toàn. Cô tìm tờ phiếu hỏi của anh chàng ngồi cạnh trên chuyến xe hôm ấy, cũng không hề có chữ ký. Mà cô còn nhớ rõ rằng, sau khi anh ta ký xong cái chữ ký rất bay bướm, cô đã nói đùa, nhìn chữ ký của anh có thể đoán sau này anh thành ông sếp lớn. Cô nhìn những tờ phiếu hỏi đầy ngờ vực.

Khi cô tìm được địa chỉ của người hành khách trẻ tuổi, đôi chân cô đã đầy bùn đất. Làng của anh ta nằm dọc theo đường xe chạy đến trường cô. Con đường vào làng bẩn thỉu và lầy lội. Cơn mưa phùn khiến cả ngôi làng chìm trong một màu xám quạnh quẽ và ẩm ướt. Cô vào sân trong của ngôi nhà. Khi cô nói tên người cần tìm và xưng mình là bạn học cũ, khuôn mặt của người phụ nữ già nua trước mặt cô rúm lại. Bà ta quay mặt đi và gọi một đứa bé con chừng tám tuổi "Con dẫn chị này ra chỗ anh". Cô đi theo đứa bé lũn cũn chạy đằng trước. Nó đi rất xa. Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, trước mặt cô là một nghĩa trang rộng, có hàng rào bao quanh. Thằng bé dẫn cô vào bên trong và chỉ vào một ngôi mộ. Người coi sóc nghĩa trang thấy có người đến vội ra hỏi thăm "Sao mưa gió thế này còn ra tảo mộ. À đây, cô cầm hộ cuốn sách này về. Tôi tìm thấy trên mộ cậu ấy. Chắc có người nào đó đến thăm rồi để quên". Ông ta đưa cuốn sách cho cô. Cô nhìn cuốn sách mình đã cho mượn trên xe buýt, cảm thấy hơi thở nghẹt lại. Mãi rất lâu sau cô mới hỏi ông ta "Anh ấy mất bao giờ hả bác?". Người coi sóc nheo đôi mắt để tránh những hạt mưa đang hắt vào mặt "Cô chưa biết hả. Ba năm rồi. Hôm đó cậu ấy đi xe buýt. Cầu sập, xe lao xuống sông, không còn một người nào".

Cô đi vội ra cổng nghĩa trang. Cô tình cờ nhìn thấy vài cái tên nữa. Cô rút tập giấy từ trong túi ra. Những ký tự nhoè ướt nước mưa, nhưng cô vẫn đọc được. Những tên người trên bia mộ trùng khớp với họ tên trong tập phiếu hỏi của cô. 

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này 

Quà tặng cuối cùng

Truyện ngắn: Di Li

Tôi mở cánh cửa nặng chịch rồi lần mò trong bóng tối. Áng chừng đã hai giờ sáng, mọi ngày thì giờ này trời vẫn còn nhờ nhợ, nhưng hôm nay bão. Cơn bão hiếm hoi giữa tháng bảy khiến thành Lyon thi thoảng loé lên những nóc nhà đỏ rực. Gió tạt nước mưa và lá cây đập xàn xạt vào các ô cửa đóng kín ngoài hành lang trộn lẫn với âm thanh của bản nhạc giao hưởng phát ra từ những chiếc loa nhỏ xíu gắn trên trần nhà khiến tôi sởn gai ốc. Tôi thầm nguyền rủa lão tác giả nào nghĩ ra những giai điệu quái dị, nguyền rủa gã quản lý khách sạn lú lẫn cho tắt hết đèn hành lang mà lại bật nhạc. Tôi đập cửa "Chị Vân, cho em xin viên thuốc cảm". Chị trưởng đoàn thò cái đầu bù xù 'Chờ tao tí. Chúng mày ốm cũng xứng đáng. Tham tiền cho lắm vào". Tôi ngồi phệt xuống tấm thảm hành lang, đôi môi khô nứt thấm dần vị mặn và nóng. Chúng tôi có 19 người, biểu diễn ngày này qua ngày khác các tiết mục dân tộc qua khắp các thành thị. Cả đoàn di chuyển trên một chiếc xe du lịch đường dài tính đến nay đã tròn một tháng chín ngày. Lẽ ra chúng tôi chỉ được mời tham dự lễ hội trong vài tuần nhưng chị Vân có sáng kiến kết hợp biểu diễn giao lưu trên khắp các tỉnh thành nước Pháp, ròng rã đến sáu tháng trời. Mấy tuần trước, tôi biểu diễn ở Reims, rồi theo đường biên giới ngược lên miền nam nước Pháp. Hôm qua về Lyon, những tưởng sẽ phải chui vào một ký túc xá mùa hè vắng hoe hoét nhưng nhờ tài ngoại giao của chị Vân, chúng tôi được ăn nhờ ở đậu trong một khách sạn 4 sao lơ lửng lưng chừng đồi. Lúc đó tôi sung sướng nghe chị Vân hét lên "Ðược bốn phòng. Tám người thôi, ưu tiên nữ, còn lại ở ký túc xá".

Tôi cầm vỉ thuốc và nghe tiếng sập cửa sau lưng. Người bắt đầu ớn lạnh, còn ớn hơn khi nghe những âm thanh kỳ quái của cái khách sạn ngoại ô này. Khách sạn chỉ có hai tầng, xây theo hình vòng cung nên đi dọc hành lang luôn phải đối diện với những chỗ ngoặt do đường lượn tạo thành. Ðiều này khiến tôi luôn rùng mình ngay cả vào ban ngày, khi chẳng thể biết được cái gì phía sau những đường lượn kia. Có vẻ như cái khách sạn này, sân gôn này xây lên chỉ để làm cảnh vì hiếm người trú ngụ. Ngoài tám chúng tôi còn có một cặp vợ chồng người Hà Lan tôi gặp lúc ăn bữa chiều và một người đàn ông tóc bạch kim áng chừng người vùng Scandinavia.

Một âm thanh khó phân biệt lẫn vào cơn mưa rào nhưng tôi vẫn nhận ra tiếng một cánh cửa sổ hành lang đập vào bờ tường. Một dòng điện chạy dọc sống lưng rồi chui tọt vào tim khiến tôi khó thở. Tôi bắt đầu đi chậm lại và cảm thấy chân như gắn chặt vào tấm thảm khi phía đường lượn trước mặt có một cái bóng đu đưa trên ô cửa. Trong bóng tối, cái bóng sáng trắng lên và một tia chớp chói lòa khiến tôi nhận ra mái tóc dài quay lưng về phía mình. Hình nhân bắt đầu vươn mình ra phía khoảng không và một tia chớp thứ hai loá vào cái cổ tay trắng nhợt thắt sợi dây tết màu đỏ thẫm khiến trong tích tắc, tôi cảm thấy chân mình lại nhẹ bỗng, cơn sốt bay đi đâu mất và chỉ hai bước đã kịp nhào đến chụp lấy người kia. Chúng tôi bắt đầu giằng co. Một người muốn kéo vào, người kia một mực thả mình xuống cái khoảng không chỉ cách mặt đất ba mét song tối âm u như địa ngục. Cực chẳng đã tôi gọi bừa một cái tên, tiếng hét của tôi bị vô hiệu hóa bởi cơn mưa và những cánh cửa dày đóng im ỉm song có vẻ rất thuyết phục. Tôi đã lôi được người mình muốn cứu xuống tấm thảm đẫm nước mưa. Tức thì bước chân người chạy sầm sập từ cuối hành lang, rõ ràng không phải vì nghe thấy tôi gọi. Chị Hoa, ca sĩ của đoàn mặc chiếc áo ngủ mỏng tang, theo sau là anh bồ người Pháp trẻ hơn đến 10 tuổi hớt hải chạy đến "Ðây rồi, chị tìm nó khắp nơi". Tôi lại cảm thấy cơn sốt lan toả khắp người "Chị mang nó về đi. Muốn tự tử". Con người phút trước còn khăng khăng tìm cách chết bám rịt lấy tay tôi "Cho tớ ngủ nhờ phòng cậu đêm nay". Tôi nói cộc lốc "Tôi đang ốm. Lây đấy." rồi quay ngoắt về phòng. Tôi cài cửa rồi nằm xuống chiếc giường cạnh chị Tâm, người vẫn đang ngủ say sưa không hay biết chuyện gì vừa xảy ra bên ngoài. Viên thuốc làm tôi buồn ngủ, tôi nhắm tịt mắt lại trước khi kịp ghìm mối ác cảm với hai chị em nhà kia và phân tích câu chuyện kỳ dị vừa rồi. Chuyến đi dài và những người bạn đồng hành ám vào tôi đến mức đêm nào tôi cũng nằm mơ thấy các sự việc diễn ra trong ngày. Trưa nay, xe vừa vào đến Lyon, chúng tôi đã vội vã chui vào một quán ăn nhanh hạng bét nằm trong con hẻm nhỏ. Như mọi bận, tôi chọn cho mình một bàn ở góc yên ổn, không chung đụng. Nhưng con bé diễn viên múa có cái tên mỹ miều Diễm Hạnh mà suốt từ ngày đặt chân lên đất Pháp gần như tôi chưa một lần nói chuyện lại bê chiếc đĩa đến ngồi cùng. Diễm Hạnh và tôi là hai thái cực mà nếu sông Sein có đột nhiên biến mất khỏi bản đồ nước Pháp cũng không thể khiến chúng tôi xích lại gần nhau được. Các thành viên trong đoàn được chọn từ nhiều nhà hát nên phần lớn chúng tôi không quen biết nhau. Tôi phụ trách tiết mục đàn bầu, đôi lúc thiếu người tôi kiêm luôn cả trống, đàn Krôngpút và múa sư tử. Tôi là con gái một nghệ sĩ đàn bầu mà giờ thất thế làm nghề bơm vá xe đạp. Từ lúc nhà hát tuồng giảm biên chế, cha tôi mất nghề, gia đình tôi vốn đã nghèo khổ lại càng thêm mang tiếng. Cha mẹ tôi ít gặp lại người quen cũ vì nghề nghiệp chẳng vinh quang gì, tôi lại càng hạn chế hơn do vốn dĩ đã hầu như không có bạn bè. Hồi còn đi học, tôi luôn thèm muốn mỗi khi liếc nhìn các bạn đồng môn ngồi tập đàn piano, violon trong phòng học và thầm đặt tên cho chúng là "bọn quý tộc". Sau này tôi hay cằn nhằn cha tôi về chuyện đã ép con cái đi học đàn bầu, cái đàn đánh lên nghe đã rầu rĩ cả người. Cho đến tận khi nhận được suất lưu diễn nước ngoài, cha tôi mới hả hê đi khoe khắp họ tộc và khẳng định hướng đi của tôi là đúng đắn. Lần đầu tiên xuất ngoại, những cảnh đẹp nơi xứ người cũng chẳng làm tôi xúc động bằng khoản tiền thửơng ít ỏi sau mỗi suất diễn. Nỗi quý trọng đồng tiền đã song hành với tôi từ tấm bé, là niềm yêu thích duy nhất trong cuộc sống ít niềm vui của tôi. Sau này lớn lên, tôi còn nhận ra thêm rằng, nhan sắc của mình thậm chí còn khiến người cùng phái quay đi không muốn trò chuyện. Vì thế, mỗi lần nhìn thấy Diễm Hạnh với đôi chân thẳng tắp, làn da chưa từng biết phơi nắng và chuyến lưu diễn chỉ là một cuộc dạo chơi khi lúc nào cũng kè kè một anh bồ và bà chị gái óng ả, tôi cảm thấy sự xuất hiện của tôi trong đoàn là một mỉa mai ghê gớm. Những nụ cười thân thiện của cô ta được tôi đánh giá là sự trịch thượng và ban ơn. Lần này cũng vậy, cô ta cười cầu hoà "Cậu ít nói chuyện với mọi người nhỉ". Tôi vẫn cắm mặt vào chiếc bánh hamburger "Tôi bận". Diễm Hạnh dường như lúc nào cũng ăn rất ít, rót thêm coca vào cốc của tôi, sợi dây đỏ choét phất phơ điệu đàng "Ai chả bận. Cậu sinh năm bao nhiêu?" - "82". Gương mặt tươi tắn nhưng đôi mắt hơi ngây dại ồ lên "Bằng người ta đấy. Người ta cũng đoán thế nhưng chị Hoa cứ bảo Minh phải hơn người ta ba tuổi". Vừa lúc đó chị Vân tiến lại gần, bát đĩa trên bàn chị sạch bách mặc dù đồ ăn chẳng ngon lành gì "Chúng mày nói ít thôi. ăn nhanh lên còn nghỉ lấy sức. Tối nay đầu tư thêm tiết mục nên cái Hạnh chuẩn bị phục trang như hôm ở Reims nhé. Riêng cái Minh tối diễn thêm suất đúp. Thù lao thêm cho mày". Tôi lấy cớ ra ngoài trao đổi thêm với chị Vân và cảm thấy nhẹ người khi thoát khỏi cuộc nói chuyện gượng gạo với Diễm Hạnh. Tôi là cánh tay phải của chị Vân, vì sự chăm chỉ khó tin, không õng ẹo kiểu nghệ sĩ và võ vẽ được ít tiếng Pháp. Chị tính bộc trực, hay gắt gỏng nhưng tháo vát. Mỗi chuyến lưu diễn của chị luôn đi kèm với những thùng hàng đầy lời lãi mà chị đóng sẵn từ Việt Nam rồi gửi gắm những lính mới như tôi mỗi người một ít khi qua cửa hải quan. Hàng của chị sang đây khui ra mới biết, từ mực khô, ếch đông lạnh cho đến dọc mùng và thịt chó. Ngay tối hôm đó chúng tôi đã biểu diễn trên thềm một ngôi nhà cổ ở trung tâm thành phố. Sau các buổi diễn, tôi và vài ba người nữa thường nán lại bán những chiếc nón và quạt lưu niệm cho khách đến xem. Tôi vốn khéo tay nên vẽ thêm lên đó sơ sài hình Tháp Rùa và Tháp Eiffel khiến khách xúm lại xem và mua tới tấp. Tối qua cũng vậy, trong lúc mọi người đã thu dọn để về thì tôi còn cố đứng bán thêm vài chiếc quạt nên mới đổ ốm vì hứng trọn những cơn gió đêm trong chiếc áo tứ thân mỏng mảnh.

Như mọi ngày, mới sáu giờ sáng chị Tâm đã gọi tôi dậy nhưng lần này có cả Hoa và Diễm Hạnh "Hạnh nó muốn ở cùng phòng em nên chị đã dàn xếp để chị Tâm chuyển sang ở cùng chị Mai rồi". Tôi chỉ muốn tống cổ cái đám đáng ghét ra khỏi cửa song chị Hoa nói nhỏ "Chị muốn nói chuyện này với em." Vừa dứt lời Diễm Hạnh đã gào lên thảm thiết "Chị đừng làm thế. Chị có biết em đã mất bao nhiêu bạn vì chị không". Tôi ngơ ngác, "Mình có bạn bè gì với nó" và thấy sự việc càng lúc càng không bình thường. Chị Hoa lập tức lừ mắt "Em ra ngoài kia để chị nói chuyện với Minh". Chị Tâm biết ý kéo Hạnh ra ngoài. Ngay lập tức chị Hoa nắm chặt tay tôi "Em giúp chị. Cái Hạnh thần kinh nó không bình thường đâu". Tôi trố mắt lên. Chị Hoa tiếp lời "Chị cho nó đi chuyến này là muốn nó vui lên, không ngờ lại thế. Mẹ chị đang muốn nó sang Ðức ở cùng để điều trị. Vậy em giúp chị nhé. Nhắc nhở nó uống thuốc. Nó cứ muốn ở cùng với em mà mình còn ở lại Lyon một tuần nữa cơ. Không biết có chuyện gì mà nó lại làm thế. Em cũng tìm hiểu giúp chị". Chị Hoa căn dặn tôi như bảo mẫu rồi bỏ ra ngoài. Tôi những muốn hỏi có phải chị ta muốn rũ bỏ trách nhiệm ngắn hạn với Hạnh để tự do đú đởn cùng anh chàng tóc hoe kia không. Tôi chưa bao giờ ưa cái mắt toe toét cười kiểu ấy. Chị ta đã có một chồng và hai con ở nhà rồi nhưng mỗi đận lưu diễn lại có một anh bạn vớ được dọc đường. Diễm Hạnh tò tò vào phòng, lấm lét nhìn tôi và tự động soạn đồ đạc vào trong tủ. Mãi sau nó mới rụt rè "Người ta... bác sĩ bảo người ta bị trầm cảm". Tôi thản nhiên "Tôi thấy cậu chả bị làm sao cả". Nó ngạc nhiên nhìn tôi. "Có phải nhiều lúc cậu thấy không muốn ăn, không muốn chơi, không muốn gì cả?", tôi cố nhớ lại cảm giác lúc bị mất chiếc hộp đựng tiền tiết kiệm. "Sao cậu biết?". Lần đầu tiên tôi mỉm cười với nó "Vì thỉnh thoảng tôi cũng cảm thấy thế. Nhưng với mỗi người chắc cảm giác đó dài ngắn khác nhau." Diễm Hạnh nhìn tôi đầy vẻ biết ơn. Tuy nhiên tôi vẫn chưa hết ác cảm với nó ngay được, con người có tất cả mọi thứ lại không muốn sống.

Diễm Hạnh không đỏng đảnh như tôi tưởng, nhưng nó lại gây phiền toái cho tôi theo cách khác. Mỗi ngày nó uống hai vốc thuốc xanh đỏ và càng lúc càng trở nên hưng phấn khác thường, duy chỉ có đôi mắt là đờ đẫn không hồn. Ban đêm nó hầu như không bao giờ ngủ mà thường trằn trọc xoay bên nọ bên kia, có lúc nhổm dậy nhìn tôi chòng chọc hoặc ôm chặt lấy làm tôi sợ chết khiếp. Nhiều lần, nó vén tấm rèm cửa che ánh sáng ban đêm1. ánh sáng nhàn nhạt của bầu trời đêm hè cùng làn hơi mát lạnh trong suốt ùa vào phòng. Nó cứ ngồi im bên cửa cho đến khi nền trời tím thẫm mới quay vào. Nhiều lúc thức dậy trong đêm tôi vẫn thấy nó thở dài.

Kể từ hôm đó, Hạnh thường giúp tôi trong việc "buôn bán", những việc mà trước kia dân "nghệ sĩ quý tộc" không bao giờ làm. Nó xinh đẹp, lại thạo tiếng Pháp hơn tôi nên đồ lưu niệm bán chạy. Chỉ cần nhìn thấy bóng khách đi qua là Hạnh đã kịp cười rất tươi "Elle est belle"2. rồi cúi xuống đứa bé gái có chiếc cặp nơ tím "Quel âge es tu?"3. Nó phất phất chiếc quạt giấy, lấp loá ánh hoàng hôn quyện vào chiếc áo tứ thân màu hoa hiên. Ðộng tác và nụ cười của Hạnh dễ thương đến nỗi hai mẹ con người phụ nữ Pháp mua liền một lúc năm chiếc quạt. Hạnh quay sang hích tôi khi người phụ nữ vừa đi khuất "Thấy chưa, cứ bảo người ta chỉ biết ăn với ngủ". Tôi lườm nó. Lần đầu tiên tôi thấy đôi mắt Hạnh thôi đờ đẫn. Một lần nhờ Hạnh trông hàng giúp, tôi chạy vào phòng thay đồ để lấy bình nước. Thấp thoáng giữa đống quần áo ngổn ngang là mái tóc lốm đốm đỏ. Mái tóc mà đã có lần chị Vân bắt nhuộm lại vì vào những màn múa đội khăn xếp trông thật vô lý và kề sát đó là chiếc yếm thắm phục diễn chưa kịp thay của diễn viên múa Khánh Ly. Chen lẫn những tiếng thở dài là cái giọng khàn khàn rất đặc trưng "Nhưng anh phải dứt khoát với cái Hạnh đi, không em ngại lắm". Giọng đàn ông đều đều "Ðược rồi, anh chẳng nói nó cũng tự biết. Em thấy cả mấy tuần nay anh có đụng vào nó đâu." Tiếng Khánh Ly nũng nịu "Em chẳng tin, nó đẹp thế thì...". Tuấn cười khùng khục "Bố nó còn đẹp hơn, đang hứa cho anh chuyển biên chế lên trên, anh còn chẳng thèm. Nó ốm đau bệnh tật thế, có mà phải vạ." Tôi nhớ lại lần phân người về khách sạn. Duy nhất có Khánh Ly không chịu, lấy cớ rằng ở ký túc xá gần trung tâm, dễ đi mua sắm hơn. Trong khi đó anh chàng người Pháp lại muốn bám lấy chị Hoa nên hai người đổi cho nhau. Tôi cũng nhớ vụ tự tử của Hạnh và những tiếng thở dài giữa đêm.

Tuy nhiên, Hạnh dường như không bao giờ để ý đến những gì diễn ra trong một nhóm vỏn vẹn hơn chục người. Trên từng nẻo đường từ Lyon đi Avignon, Provence, Marseille, Toulon rồi lộn về bãi biển Nice và thẳng tới Bordeaux, Hạnh không bận tâm đến những bữa ăn lúc tồi tàn lúc sang trọng, chỗ ngủ không ổn định, những giờ giải lao trong các trung tâm thương mại khổng lồ, những sòng bạc mà các nghệ sĩ trong đoàn dốc hết số tiền kiếm được vào đó. Nó chỉ cum cúp lo giúp tôi từ việc mang đồ, bán hàng cho đến giặt quần áo như muốn tìm một chỗ nương tựa. Tôi biết không chỉ ở đây mà ngay cả khi về chính ngôi nhà mình, Hạnh cũng cô đơn không kém. Càng ngày nó càng hay than thở và tự buộc tội mình. "Minh biết không, mấy viên thuốc này làm người ta tăng cân khủng khiếp. Chắc vì thế nên Tuấn cũng buồn. Cứ đà này sang năm mình không múa được nữa mất. Như thế thì mẹ ở bên kia cũng buồn. Bố ở nhà thì cùng người khác rồi, còn mẹ có mỗi một mình. Chị Hoa cũng trách, mà làm thế là đúng, người ta ngần này tuổi rồi vẫn để mọi người phải lo". Tôi hiểu căn bệnh của Hạnh đang ở mức nguy hiểm nhưng không biết phải làm gì. Buổi tối là lúc chúng tôi vui nhất khi hạch toán những khoản kiếm được trong ngày. Tôi vuốt ve phẳng phiu từng đồng franc rồi nhét vào con lợn đất màu hồng, một cách để kìm chế những cám dỗ phải tiêu pha hàng ngày. Trong khi đó, Hạnh mải mê ký tên lên từng tờ giấy bạc rồi mới cất vào ví. Tôi gắt gỏng "Ðừng có ngứa tay. Nhỡ không tiêu được thì sao". Hạnh cười cầu hoà "Ðể xem đồng tiền này có quay trở lại không. Là một cách đánh dấu ấy mà". - "Vớ vẩn". Tôi luôn thấy những hành động của Hạnh là kỳ cục, cả chữ ký nữa, cũng kỳ cục, những chữ ký bay bướm nhưng ngắn ngủn, kết thúc bằng một nét cắt đột ngột. Một lần tôi có nói chuyện với gã người Pháp của chị Hoa, hay đúng hơn là gã hỏi tôi xem Hạnh sao rồi. Tôi nhìn đôi mắt cành cạch của gã với cái cằm nhọn "Cette histoire ne te concerne pas, occupe-toi donc de tes affaires"4. Gã nói với theo "Je vais partir"5. Tôi nhún vai không quan tâm, cuối cùng thì gã cũng rời bỏ chị Hoa. Những ngày này tôi đang lo chuẩn bị cho đêm hội chính ở Toulouse nên không quan tâm đến mấy chuyện vụn vặt trong đoàn. Gần đây tôi kiếm được khá nhiều tiền thành thử dồn hết tình cảm cho chú lợn đất. Khách mời của lễ hội đến từ khắp nơi trên thế giới nên mọi người mải mê với việc buôn bán, giao lưu và dốc hết những đêm trắng trong quầy bar. Chẳng ai để ý đến Hạnh.

Ðêm diễn cuối cùng ở Toulouse, sân khấu ngập chìm trong biển người. Tiết mục của tôi và Hạnh gần áp cuối. Tiếng vỗ tay, tiếng huýt sáo, tiếng la hét phấn khích trong không khí đại lễ cũng không làm Hạnh vui lên được. Nó ủ rũ ngồi vào bàn trang điểm như mọi bận. Lúc này Hạnh như vô hình trong con mắt mọi người vì thảy đều bận rộn cuống cuồng với màn diễn của mình. Tận đến lúc chị Vân quát lên, Hạnh mới lùi lũi thoát khỏi cánh gà. Nó khiến tôi thót tim khi chường khuôn mặt không chút biểu cảm ra giữa sân khấu. Nhưng khi tôi vừa mới đưa tay lên dây đàn, chiếc áo màu hoa hiên đã lấp loá trong vũ điệu ngày mùa. Những bước chân của Hạnh thoăn thoắt theo tiếng trống dập dồn. Hạnh thăng hoa, khuôn mặt dần hồng hào trở lại, màu hồng không phải của phấn son. Ðôi mắt Hạnh sáng lên, sâu thẳm như bầu trời đêm Toulouse. Lúc này không phải Hạnh múa theo tiếng đàn của tôi nữa mà tôi dạo nhịp theo bước chân Hạnh. Những động tác múa của Tuấn và Khánh Ly mới đầu còn ngập ngừng, kinh ngạc sau cũng hoà theo những ngẫu hứng xuất thần. Dưới sân vỡ oà tiếng vỗ tay. Hạnh mỉm cười, nụ cười viên mãn của người nghệ sĩ. Nụ cười làm tôi liên tưởng tới bố tôi những lúc phân trần với khách vá xe đạp "Ấy, ngày xưa tôi cũng là nghệ sĩ kỳ cựu của đoàn đấy. Mỗi lần diễn xong mệt đứt hơi, cháo cũng chẳng buồn nhai nhưng cứ như phản xạ có điều kiện, hễ nghe tiếng vỗ tay là khoẻ hẳn lên. Nó lại hay thế chứ".

Thấm thoắt chỉ còn gần tháng nữa là tôi được về nhà. Lần này chúng tôi biểu diễn khá lâu ở Nantes trước khi trở lại Paris. Bầu trời đông nhuốm màu xám xịt và chúng tôi ở tịt trong phòng. Ðến tối cả đoàn rủ nhau xuống một quán bar nhỏ ngay góc phố. Lúc này Tuấn chẳng cần phải giấu diếm mối quan hệ với Khánh Ly mà công khai sang phòng tôi và Hạnh để cùng đi. Khánh Ly đứng trước chiếc tủ có gắn gương tự ngắm nghía, cô ta cuốn một chiếc khăn lông rõ to trong khi mặc váy ngắn ngang đùi và áo len hở nửa ngực "Minh và Hạnh đi cùng tụi mình cho vui, kẻo mấy bữa nữa về nước lại tiếc". Tôi chẳng hiểu ý cô ta nói tiếc cái gì nhưng cũng phá lệ vì sắp phát điên trong cảnh nhìn ra ngoài trông tuyết trắng, ngó vào thấy bộ mặt ủ rũ của Hạnh. Hạnh kêu mệt không đi và nhìn tôi cầu cứu. Tôi thấy nó có vẻ suy sụp nhưng hơn bốn tháng trời, tôi đã gắn liền cuộc sống với những lời than thở và tính khí thất thường của Hạnh. Tôi xỏ chân vào đôi giày cao cổ "Hạnh cứ nghỉ đi. Mình tôi đi cũng được". Ánh mắt Hạnh lúc này giống hệt lần nó bíu lấy tay tôi trong đêm mưa bão ở Lyon. Nhưng bàn tay lạnh ngắt của Khánh Ly đã lôi tuột tôi ra ngoài tuyết giá "Chơi một đêm cho biết, bà già khắc khổ ạ. Công nhận bà giỏi thật đấy, ở được với cái Hạnh". Những bông tuyết rơi lả tả xuống bộ ngực trần của Khánh Ly, đậu kín trên những lai tóc nhuộm đỏ của Tuấn và chui vào khe cổ áo tôi đẫm ướt. Nhưng lạ một điều, chúng tôi không ai thấy lạnh. Sự lạnh lẽo ngày này qua tháng khác đã bão hoà không chỉ trên da thịt mà ngấm dần vào từng tế bào, khiến những xúc cảm vô hình đóng băng lại, và trơ lì như những ô cửa kính dày cộp thản nhiên ốp vào bức tường ký túc xá.

Ðã sắp đến Giáng sinh, và người ta như quên hết những ngày khó khăn vừa qua để lao vào cuộc vui chưa muốn tàn canh. Tuấn và Khánh Ly ngất ngưởng trên chiếc ghế cao chót vót bên quầy bar. Hoa cũng ôm rịt một anh người tình mới, chỉ vừa quen lúc dợm bước vào quán. Tất cả đều đã ngà ngà say. Nhạc, rượu và những cô vũ nữ người Ðông Âu lấp loá trong tiếng vỗ tay. Tôi là một trong những người cuối cùng rời quầy bar và cũng là người cuối cùng trong đoàn chứng kiến chiếc xe cấp cứu chạy ra khỏi khu học xá. Những ngày cuối cùng trên đất Pháp thật kinh khủng khi không ai dám đối mặt với sự thật. Chị Hoa không ra khỏi phòng nên thiếu hẳn ca sĩ. Chúng tôi cố gắng biểu diễn cho hết những hợp đồng còn lại rồi về Paris trước thời hạn. Bất cứ khi nào thay đồ trước giờ diễn, tôi cũng chạm phải phục trang màu hoa hiên lạnh ngắt của Hạnh để lẫn trong túi. Mỗi lần như vậy, cái lọ thuốc ngủ rỗng không lại ám ảnh tôi đến nỗi tôi đàn sai nhịp liên tục. Lúc lên máy bay, tôi gửi hết đồ, chỉ mang theo chiếc áo màu hoa hiên và con lợn đất. Tôi ôm chặt nó vào bụng. Hơi lạnh từ con lợn toả ra khiến tôi rùng mình. Khoảng 30 phút sau, một giọng đều đều từ chiếc loa nhắc nhở hành khách thắt dây an toàn vì máy bay đang đi vào vùng thời tiết xấu. Một cú xóc kinh hồn khiến tôi để tuột con lợn. Những mảnh đất nung văng tung toé lẫn vào đám tiền màu xanh và xen lẫn những đồng bạc được gấp làm tư cẩn thận có tới phân nửa tờ franc nhàu nát với những chữ ký bay bướm nhưng ngắn ngủn, kết thúc bằng một nét cắt đột ngột. Mắt tôi mờ đi và một cú hẫng đột ngột nữa, không biết có phải, máy bay vừa vấp vào một đám mây dày.

1 Mùa hè ở châu Âu, trời vẫn sáng vào ban đêm, đến gần sáng mới tối hẳn.

2 Cô bé xinh quá

3 Cháu lên mấy tuổi

4 Không phải việc của anh. Ði mà lo chuyện của mình đi.

5 Tôi sắp phải đi.Chiếc vòng bạc

"Bà ơi, đẹp chưa này", thằng Tũn hét lên bằng cái giọng nheo nhéo mà ngoài bà nội và bố mẹ nó ra, ai cũng muốn tống một quả cho nó im đi.Vừa chạy vừa vấp ngã dúi dụi, Tũn vẫn giữ chặt chiếc hộp và giơ ra trước mặt như một chiến lợi phẩm. Bà Trình rụng rời tay chân khi nhìn thấy cái vật trong tay thằng cháu nội. Chiếc hộp bà đã cất kỹ lắm rồi, cất tận đáy chiếc tủ gỗ lim mà nước sơn sẫm màu như trơ lỳ từ đời ông cố nội, phía trên lèn đầy quần áo cũ tồn lại hàng vài chục năm, trên nữa mới là đống quần áo đang được sử dụng. Ðể ở vị trí chính bà cũng không bao giờ mó tới nên bà yên tâm lắm rồi, có ngờ đâu thằng cháu quỷ sứ rình bà mở tủ chui tọt vào trong chơi trốn tìm rồi quen tay lục lọi, mới thấy cái hộp ấy. Bà khiếp vía nhìn những hoa văn vằn vện in trên nền gỗ bóng loáng. Các đường chạm khắc uốn lượn một cách quái dị như đang bay xoắn vào trong óc bà, kéo bà trở về với những hồi ức u ám như buổi chiều ngày bão. Cái tai họa, cái bóng ma ám ảnh bà suốt ngần ấy năm tưởng chừng mờ dần giờ lại đang nhìn chằm chằm vào mặt bà, bắt bà phải đối diện với nó...

Ánh bóng loáng của mặt sàn đá hoa đắt tiền như xám lại, biến thành cái nền xi măng của gần hai mươi năm về trước. Hồi ấy gia đình bà Trình còn chen chúc trong một căn hộ hơn ba chục mét vuông với những sáu nhân khẩu. Ông Trình mới nghỉ làm, lúc nào cũng chỉ mong ngóng cho hết tháng để qua tổ dân phố lĩnh lương hưu trí. Cái khoản còm cõi của một đại tá quân đội về hưu cộng với lương biên chế hai lăm năm công tác của bà khiến ai tình cờ dòm vào ô cửa bé xíu nhà ấy cũng tưởng rằng họ mới cãi nhau hay nhà có đám. Quả thực ông Trình từ hồi không còn phải dậy từ năm giờ sáng để chuẩn bị lên doanh trại cho kịp giờ nữa thì cái mặt ông dường như choắt lại. Ông vốn dĩ đã ít nói, giờ đâm càng lầm lì. Ai lại đi nói cái điều rất bõ xấu hổ đó ra là ông đói, lúc nào ông cũng thèm ăn. Bốn đứa con biết ý, bữa cơm thường nhường bố miếng thịt nạc ngon nhất, song ông lại gắp sang cho bà, bà đẩy cho thằng út. Rút cục đến cuối bữa, miếng thịt dính đầy cơm mà vẫn chưa ai được thưởng thức. Bình thường cái nhà vuông tối tăm ấy lúc nào cũng im im nhưng cứ hễ đến giờ cao điểm lúc mọi gia đình trong xóm đi làm về là y như rằng đinh tai nhức óc. Mặt bà Trình sưng sỉa lên "Ông đói, ông mệt thì tôi không biết đói biết mệt chắc. Con này còn đang quần quật ra đây. Bâỷ giờ sáng đã phải rúc đầu vào kim với sợi, ở nhà chỉ ăn với ngủ thôi mà cũng kêu?, rồi bà lẩm bẩm đến cả xóm phải nghe thấy "Tiên nhân sư cha cụ tổ nhà nó, tao mà ốm ra đấy thì khối đứa biết thân". Cô con cả đang thất nghiệp vì học xong cấp ba nhất định không chịu đi làm công nhân giống mẹ bị chạm nọc nhảy cẫng lên "Khối đứa là đứa nào, dễ mẹ tưởng con ngồi không ăn hết của nhà mẹ chắc". Lập tức âm lượng của người đàn bà bốn con, từng cãi nhau với tất thảy đồng nghiệp trong nhà máy sợi cũng như thắng thế trong hầu hết các cuộc tranh chấp với hàng xóm ở khu tập thể tăng vọt lên, khiến mái tôn của căn bếp lấn chiếm rung lên bần bật "À, mày ăn tàn phá hại hai mươi mấy năm giời rồi thì bây giờ mày chửi giả. Có giỏi thì tao nằm liệt ra đây cho chúng mày nuôi tao đi". Vậy là ông bố và ba đứa con còn lại vào cuộc, báo hại lỗ tai hàng xóm. Nhưng rút cục, bao giờ bà cũng là người giành phần thắng, không phải tại cái mồm chua ngoa của bà mà do năm bố con nhìn thấy bàn tay sần sùi vì móc sợi đưa lên khuôn mặt đầy tàn nhang chậm chậm nước mắt.

Nhưng bắt đầu từ khi người đàn bà ấy xuất hiện thì cả cái xóm lao động đông đúc, nhà nọ cách nhà kia một bức tường mười lăm phân không còn bị tra tấn lỗ tai nữa. Hôm ấy, lúc cả nhà còn đang ngồi đùn đẩy nhau miếng thịt nạc như mọi bận thì bỗng nghe thấy cái giọng đàn ông khàn khàn của cô Sinh hàng xóm í ới ngoài cửa. Cô Sinh vào, theo sau là một người phụ nữ trạc ngoài 40. Chị ta không đẹp nhưng có một vẻ quái lạ khiến người đối diện cứ phải bất lịch sự mà nhìn lom lom. Cô Sinh giới thiệu "Ðây là chị A Sủng, người quen của chị gái em. Chị Sủng có rất nhiều sản phẩm đặc biệt muốn để rẻ cho chị em mình". Nói đoạn cô Sinh hối thúc người đàn bà tên Sủng giở chiếc túi cói lấm tấm mốc vẫn khoác trên vai. Rồi cô cười giả lả "Nói thật với anh chị, chẳng qua đây là chỗ hàng xóm lâu năm em mới giới thiệu chứ không phải người nào chị Sủng cũng muốn cho xem đâu. Toàn là đồ quý hiếm cả." Bà Trình gác đũa cảnh giác, ai chứ cái con Sinh lẻo mép này cấm có mất công suông bao giờ. Trong vụ này nó không chấm mút vào đấy mươi mười lăm phần trăm thì cứ cho bà nghỉ hưu non đi cho xong. Bà Trình thường tự thề như vậy mỗi khi chắc như đinh đóng cột một điều gì và coi đó là một lời thề độc địa hơn hết thảy mọi lời thề. Ấy thế nhưng bà vẫn không thể không liếc mắt vào những sản vật mà người khách lạ dỡ ra bày lên mặt bàn. Chiếc nhung hươu gói trong lần nhung the đen, chai mật ong rừng vàng óng mà chỉ mới nhìn qua bà đã biết đó là loại thượng hạng, rồi cả những lọ con con đựng chất lỏng sẫm màu. Cô Sinh như vừa chui tọt vào trong đầu bà sờ nắn từng sợi dây thần kinh, miệng liến thoắng "Cái miếng cao hổ cốt này quý lắm đây. Chị ngửi đi thì biết, nó phải tanh như thế mới đúng là cao thật. Thứ này chị sắc rượu cho anh uống thì tuyệt, có mà trai ba mươi cũng không khoẻ như thế". Cô Sinh giúi tiếp chiếc lọ nhỏ xíu miệng nút gỗ vào tay bà "Còn đây là mật gấu. Có cái này chị khỏi phải lo lúc trái gió trở trời nữa nhé, tha hồ mà khoẻ chân khoẻ tay". Những lời nói xoen xoét quả là có tác dụng. Ông Trình nhìn những thứ cô Sinh vừa quảng cáo bằng ánh mắt thèm muốn. Mấy thứ này ông cũng đã thấy rồi. Xưa mỗi lần đi công cán ông đều được chiêm ngưỡng nhưng chỉ bằng mắt vì cái sự sờ mó và cất đi là phận sự của các sếp. Còn bà thì khỏi phải nói. Nhìn ngó, xem kỹ từng món hàng rồi đưa lên mũi ngửi thử một cách âu yếm như bà mẹ vừa sinh con so. Biết tất cả đều là hàng thật nhưng xong đâu đấy bà lại thở dài đặt lên bàn vờ như không quan tâm lắm. Cô Sinh hiểu ý chặn ngay "Ô kìa chị, nào chị Sủng đã nói giá cả thế nào mà chị đã. Chỗ chị em mình với nhau không ai bắt chẹt đâu mà chị ngại". Bà chả ngại nhưng bà không dám, vì dù có là đồ rẻ như bèo, mua tận gốc chứ không phải qua tay con Sinh thì bà cũng chẳng mơ, toàn là thứ xa xỉ cả. Cô Sủng nãy giờ mới lên tiếng "Nếu chị thích lọ mật gấu này em để lại cho chị mười nghìn đồng". Cả cô Sinh lẫn bà Trình nhìn A Sủng trân trối như thể chị ta đã hoá điên. Khi cái cảm giác kinh ngạc ban đầu qua đi thì lúc này tâm trạng mỗi người đã một khác. Bà Trình mừng rỡ tưởng phát sốt lên còn cô Sinh giận dữ ra mÆt "Ơ cái chị này, lúc nãy chị ra giá với bà Chí thế nào mà bây giờ...". Cô Sủng vội vã thu dọn đồ trở lại vào cái túi cói và thản nhiên "Thôi nếu chị có đồng ý thì cho em xin để em còn ra tàu cho kịp giờ". Bà Trình cuống lên "Có, có..." rồi chạy vội vào nhà lấy tiền. Bà ngẩn ngơ đếm đủ mười ngàn đưa cho cô Sủng. Lúc này bà mới có dịp ngắm kỹ dung nhan khách. Khuôn mặt cô Sủng tròn, hơi đẫy và trắng một cách đáng ngạc nhiên. Mắt cô một mí và rất gần nhau. Cặp lông mày rậm rì trông càng nổi rõ trên nước da trắng nhờn nhợt. Tuy nhiên đấy lại là cái may mắn vì người đối diện sẽ bị hút vào điểm sẫm màu ấy mà quên đi chiếc mũi tẹt của cô. Cô Sủng ăn mặc như một người Kinh hành nghề buôn bán. Chiếc áo sẻ bó sát lấy thân hình tròn lẳn của người phụ nữ đang thời hồi xuân. Cô Sủng không đẹp. Hoàn toàn không đẹp, nhưng cô có một vẻ gì đó lạ lắm, khiến người ta phải tò mò mà ngây ra nhìn. Cô Sủng nhận tiền xong từ giã gia đình bà Trình ngay lập tức. Nhưng chỉ độ một tháng sau cô đã quay trở lại. Lần này cô được ông bà đón tiếp như một thượng khách.

Cô Sủng dường như xởi lởi hơn trước và trong chiếc bị cói của cô còn có thêm cả vài cân mận hậu lẫn táo mèo. Lũ trẻ nhà bà Trình mê cô như điếu đổ. Nhưng không chỉ có chúng, ông bà Trình cũng mê cô, mê bằng cả tấm lòng sùng kính như đối với một ông tiên ban phép lạ. Những cuộc viếng thăm cứ đều đặn và bà Trình đều đặn mua được những món hàng rẻ, rẻ bằng cho không. Và lần nào cô Sủng cũng không quên biếu ông bà chút quà nhỏ kèm theo câu "Cái này để anh Trình ngâm rượu uống cho khoẻ" hay "Chị sắc lá thuốc này đắp mịn da lắm đấy". Nhưng dù sao bà Trình cũng là người quen tính toán. Phút giây sung sướng ban đầu qua đi nhường chỗ cho trăm nghìn câu hỏi bắt đầu mọc lên tua tủa trong cái đầu đa nghi. Bà ngờ ngợ "Sao cô Sủng tốt thế, dù sao cô ta cũng là người dưng nước lã, làm thế có lợi gì?". rồi bà lật đi lật lại vấn đề, bà nhớ đến những cử chỉ chăm sóc ân cần của cô Sủng... "Thôi chết rồi, khéo lão Trình nhà mình dính đòn rồi cũng nên". Cái bản tính cố hữu của đàn bà trỗi dậy. Bà khó chịu. Bà bứt rứt. Song một tia sáng chợt loé lên như sự sắp đặt của định mệnh. Bà rình một buổi chiều, khi cô Sủng vừa tay xách nách mang bước vào, hơi thất vọng vì thấy có mỗi bà ở nhà. Cô gỡ túi ra như mọi bận "Em ghé qua chơi rồi phải lên tàu ngay bây giờ. Có thứ này tặng anh chị..." Bà dịu dàng ẩy tay cô ra, nói âu yếm "Thôi, em cho anh chị nhiều rồi. Ai lại lạm dụng lòng tốt của em quá thế". Ngừng một chút bà nói tiếp "Em biết đấy, chị thì vất vả, ba đứa con đi học chẳng ai trông nom, đứa lớn thất nghiệp. Còn anh Trình thì... chị cũng thương anh ấy lắm". Bà thở dài, miệng bà hơi mỉm cười nhưng ánh mắt không cười, chúng có cái vẻ của một con mèo rình chuột. "Em ơi, chị biết em không vướng bận chồng con, nếu nó là cái duyên cái số, em có muốn ở lại đây bầu bạn với chị, trông nom anh Trình và các cháu giúp chị". Cái mặt trắng toát của cô Sủng chợt ửng đỏ lên, hai mắt cô long lanh, cô thở hổn hển như vừa phải vượt qua một đoạn dốc rất dài. "Chị ơi, sao chị tốt thế. Vâng, bâý lâu nay em vẫn mến anh chị, em lại có tuổi rồi nên cũng mong một đứa con...". Tâm trạng bà Trình lúc bấy giờ khá kỳ lạ, trước những lời lẽ thật thà của cô Sủng, bà như người đi câu sung sướng trước một con cá to nhưng nửa muốn mang lên nửa muốn bỏ lưỡi câu thả nó xuống nước. Sau bận ấy, bà vẫn có ý giấu ông Trình. Mãi đến một tối bà mới thủ thỉ lựa lời hỏi ý kiến ông. Bà thanh minh rằng có người vợ nào lại muốn thế nhưng mình bà cáng đáng gia đình không nổi. Những tưởng ông Trình khó chịu phản đối, ngờ đâu ông thản nhiên buông một câu "Tuỳ bà, lâu nay trong gia đình bà vẫn là người quyết định". Bà thấy khó chịu, cái vẻ mãn nguyện trong khoé môi mím mím của ông làm sao giấu nổi bà. Thế là rõ, chúng cắn câu nhau rồi, bà uất ức úp mặt vào tường. Nhưng chuyện người lớn, đùa sao được, bà biết rằng chẳng thể nào thay đổi điều gì nữa.

Kể từ sau tết Nguyên Ðán, cô Sủng chuyển đồ đạc đến ở hẳn với gia đình ông bà. tuy nhiên tháng vẫn một hai lần lên ngược để duy trì nghề buôn bán. Những đứa con mới đầu phản đối ra mặt, nhưng lần hồi, sự bù đắp thoả đáng của dì hai khiến chúng quên đi sự tranh giành của những người lớn. Việc đầu tiên là dì Sủng cấp vốn cho cô con gái lớn mở một quầy buôn bán tạp phẩm ngay ki ốt đầu khu tập thể. Sau đó dì tặng bà cả một xâu vàng hơn chục chiếc. Những bữa cơm bố con không còn phải nhường nhau thịt nữa vì lúc nào thức ăn cũng ê hề. Ông Trình bỏ hẳn bản mặt lầm lì, cau có. Bởi vì cái sự ăn uống no đủ, ông tươi lắm. Sáng sáng ông còn được cô Sủng giúi cho dăm trăm một nghìn đi uống cà phê, mua báo. Bàn chuyện thế sự chán chê ông lại rủ các bạn khu phố sang chơi cờ tướng. Còn bà Trình cũng bớt sưng sỉa hơn, lũ trẻ thay thời gian đi xin nước gạo bằng chuyện đi chơi, học bài nên từ đó tiếng cãi nhau bớt hẳn đi. Nhưng lẽ đời có mấy khi xảy ra chuyện trái tự nhiên mà lại suôn sẻ. Chỉ được hai tháng, bà Trình bắt đầu giở chứng. Bà ghen mới chết chứ. Mới đầu bà còn dằn lòng khi nhìn thấy những gương mặt no đủ phơi phới của chồng con hay mỗi lần giở xâu vàng ra ngắm. Sau, cái con rắn xấu tính cứ quằn quại trong ruột bà, nhất định không để bà yên. Ðôi lúc nó còn lộn lên bóp nghẹt lấy tim bà, chui vào óc múa may làm bà lúc nào cũng như lên cơn sốt. Thủơ cô Sủng mới về, nhà chật, bà kê lùi chiếc tủ đứng ra phía ngoài, đẩy chiếc giường ông bà vẫn nằm vào sát tường, lại thêm cả chiếc ri đô cho kín đáo. Vậy là ông Trình và cô Sủng nằm đó, êm ấm như đôi vợ chồng mới cưới, còn bà Trình chui vào chiếc giường xếp ở góc tường đối diện. Lũ trẻ nằm trên xép. Vài đêm đầu bà hơi trằn trọc, khó chịu trong người, song sau rốt vẫn chìm vào những giấc ngủ đầy mộng mị. Sáng dậy bà còn nhắc các con đi lại ý tứ cho bố và dì hai ngủ. Nhưng mới có vài tuần bà đã gầy xọp hẳn đi. Chỉ duy nhất có bà và cô con gái lớn nhận thấy điều ấy. Giờ đây không đêm nào bà ngủ yên giấc, đi làm thì thôi nhưng cứ hễ về đến nhà nhìn thấy hai cái mặt tươi hơn hớn là bà lộn ruột. Ban đêm bà bắt đầu căng tai nghe những tiếng động vọng ra từ phía sau chiếc tủ đứng dày cồm cộm. Mỗi một âm thanh lạ trong nhà đều đưa bà vào những tưởng tượng quái đản. Bà những muốn giật tung chiếc riđô để băm vằm cho hả giận. Chao ôi, bà tức đến chết mất. Bà lại nghĩ đến những người ức quá rồi bị nhồi máu cơ tim mà chết. Bà tưởng tượng ra mình chết, những đứa con bơ vơ, côi cút phải phục dịch, hầu hạ cái thằng Ngô con đĩ đáng ghét kia. Nước mắt bà chảy dài trên má, chảy cả vào trong tai. Sáng ra bà nhìn ông Trình và cô Sủng bằng ánh mắt dò xét. Cái má hồng đến thế kia cơ mà. Giờ ông Trình sáng ra bắt đầu tập chạy. Lớp áo đầy mồ hôi dính chặt vào tấm lưng người đàn ông từng một thời làm lính công binh và cái dáng lắc lư hây hẩy của người phụ nữ chưa từng sinh nở khiến bà Trình cảm tức. ông Trình có vẻ mãn nguyện vì giá trị của mình. Ngần ấy tuổi vẫn có người theo xin về làm vợ lẽ. Ông cho mình là cao giá. Bà Trình tính đã ngót nghét bảy mươi ngày ông chưa ra nằm cạnh bà. Một hôm bà than thở "Mấy ngày nay trời nóng quá, mà cũng sắp sang hè rồi. Hay là mình thu lại chiếc tủ vào góc nhà cho gọn rồi nằm hết xuống đất cho mát". Ông Trình và cô Sủng không nói gì đưa mắt nhìn nhau. Bà giục "Thế ý kiến ông và dì hai nó thế nào?". Ông ngần ngừ "Tuỳ bà, lâu nay trong nhà bà vẫn là người quyết định". Vậy là cảnh nực cười xảy ra. Bà mua thêm cái chiếu mới rồi trải ra giữa nhà. Tối hôm ấy, trừ lũ trẻ, còn mọi người ngủ khá muộn. Người nọ rình người kia nằm xuống trước xem sự thể ra làm sao. Cuối cùng đã gần nửa đêm, những câu chuyện bâng quơ nghe chừng đã nhạt nhẽo mà mắt ai nấy díu cả rồi. Ông Trình đành nằm chềnh ềnh ra mép chiếu. Cô Sủng thẽ thọt "Chị đã muốn đi ngủ chưa để em tắt đèn". Bà Trình phẩy tay "Cô cứ nghỉ trước, tôi còn làm việc". Cô Sủng chỉ chờ có thế liền nằm nép bên cạnh chồng. Bà lồng lộn đi đi lại lại huỳnh huỵch như đánh trận, rồi xếp nồi niêu soong chảo cho ầm ĩ cả lên. Ấy vậy mà cái cặp kia vẫn giả điếc, nằm im thin thít như chết rồi. Cực chẳng đã bà đành tắt đèn rồi bước lại nhìn chỗ trống to tướng bên cạnh cô Sủng. Bà điềm nhiên vòng sang phía bên kia giúi ông một cú đau điếng "Dịch ra chứ nằm thế này ai mà ngủ được, nằm trước mà chả có ý tứ gì cả". Hai con người khốn khổ đành nhích ra nhường chỗ cho bà. Lúc nãy buồn ngủ là thế mà giờ ai nấy tỉnh như sáo sậu. Bà nhớ lại trước đây cứ mỗi lần ăn cơm xong bà đều lên giường sớm đánh một lèo đến sáng chả cần biết trời trăng gì nữa. Nỗi lo cơm áo gạo tiền và những mệt mỏi thường nhật làm bà hết cả những ham muốn thời tuổi trẻ. Bà nghĩ con người thật lạ, đến khi cái gì không còn là của mình nữa hoặc đứng trước nguy cơ sắp bị người khác cướp mất mới thấy là nó quý giá. Bất chợt bà cảm thấy thương ông hơn bao giờ hết, bà quên mất rằng hiện trên chiếu bây giờ đang có ba người. Bà khẽ khàng xoay người, đặt tay lên bụng ông. Chợt bà giật nẩy mình khi chạm phải một chiếc vòng bạc lạnh toát đã ngự ở đó từ bao giờ rồi. Chiếc vòng bạc cô Sủng vẫn đeo thường ngày, những hoa văn chạm trổ trên đó thật tinh xảo mà máy móc hay bất cứ một bàn tay thợ kim hoàn bình thường không bao giờ làm nổi. Cô Sủng giải thích rằng, chiếc vòng bạc này là một thứ của cải vô giá mà bất kỳ người am hiểu nào cũng muốn chiếm bằng được. Sự tích của nó ly kỳ lắm, vì thế nó rất thiêng, là tấm bùa hộ mệnh của cô. Còn cô lấy nó ở đâu hay ai cho thì cô không nói. Ông Trình dường như cũng giật mình rồi bất thình lình hất tay bà ra. Bà điếng người nằm lặng đi. Cái tủi phận của một người vợ bắt bà quay mặt sang hướng khác. Ðược một lúc, sau lưng bà có tiếng động nhẹ, bà biết rằng ông cũng đã xây lưng lại. Ðêm đó bà thức trắng, giữa một mớ cảm xúc lùng bùng, hỗn độn và tiếng thở đều của hai kẻ nằm bên. Con rắn vẫn bị nhốt trong bụng bà thốt nhiên vươn mình thở phì phì, mang nó bạnh ra như lúc gặp kẻ thù nguy hiểm.

Kể từ bữa đó, ông Trình bênh cô Sủng ra mặt, hay ít ra là bà cảm thấy thế. Những miếng thịt ông tiếp cho cô Sủng như bay vù vào cổ họng bà rồi kẹt cứng ở đấy, làm bà nghẹt thở. Ðòn cân não cuối cùng khiến bà chẳng còn chút tình cảm nào đối với "dì hai" nữa mà thay vào đó chỉ còn lòng căm thù, ấy là khi bà hỏi vay tiền cô Sủng để sửa lại cái nhà "cho dì, anh và các cháu nó ở rộng ra". Bà đã định rằng thôi thì con mẹ Sủng có tiền, bắt nó nôn ra xây một cái nhà to. Ðằng nào thì giấy tờ cũng đứng tên bà, mà nếu nó có tranh giành, ra toà ai làm chứng, giấy tờ đâu, ai đã công nhận nó là vợ ông Trình. Vả lại bà cũng định cơi nới thêm tầng nữa rồi tống lão già và con mẹ Sủng lên đấy cho đỡ ngứa mắt rồi có thế nào tính sau. Như thế là bà cũng có lòng tốt, chứ chúng nó báu gì mà chung đụng với bà. Vậy mà cô Sủng lại từ chối khéo "Dạo này em làm ăn chậm quá chị ạ. Chị cũng biết đấy, trước còn chạy loăng quăng nên kiếm được, giờ ở miết dưới này nên mất mối hàng nhiều". Rồi cô tháo chiếc nhẫn vàng ở ngón áp út ra ngọt ngào nói "Ðây, tất cả vốn liếng của em chỉ còn có ngần này. Chị cầm tạm chi dùng cho các cháu". Bà tái mặt muốn vứt chiếc nhẫn vào cái mặt mẹt kia rồi tống cổ con mụ quái thai ra khỏi cửa nhưng nghĩ thế nào bà lại gói cái nhẫn vào chiếc khăn mùi xoa vẫn giắt bên người rồi ngọt nhạt "Ừ, em đã có lòng thì chị xin cho phần của các cháu". Bà chép miệng "Chị đành phải xoay chỗ khác vậy". Kể từ giờ phút ấy, cô Sủng đã như cái gai găm trong mắt bà. Bà bắt đầu kế hoạch loại trừ cô Sủng ra khỏi cuộc sống yên ấm của gia đình bà. Nhưng giờ đây một mặt bà phải đối phó với cô Sủng, mặt khác tréo ngoe thay lại va vào bức tường bảo vệ cña «ng Tr×nh. Ông cưng cô Sủng lắm và những cử chỉ mà bà ít thấy xưa nay ở người chồng ít nói giờ đây thể hiện như chàng trai mới lớn biết yêu lần đầu. Bà cay đắng mà không biết tỏ cùng ai. Kể ra chỉ bõ cười cho thiên hạ vì thiếu gì kẻ độc mồm độc miệng sẽ rủa bà "Cho chết, đáng đời, tham lam cho lắm vào".

Hôm ấy là rằm tháng bảy, cô Sủng muốn làm một cái lễ thật lớn vì theo tục lệ ở nơi cô sinh sống, ngày này còn quan trọng hơn cả tết âm lịch. Bà những muốn gạt đi vì sợ tốn kém song ông Trình lại ủng hộ, còn sốt sắng đi chợ mua gà cùng cô Sủng. Cô diện một bộ váy thật đẹp theo phong tục truyền thống với những tua đỏ và nữ trang kim loại lủng liểng. Ông Trình khen nức nở còn bà thì thấy gớm chết, cứ như cô đồng gọi hồn ấy. Trong lúc cô Sủng làm lễ, ông Trình dặn rằng sẽ sang hàng xóm rủ mấy ông bạn về cùng dự cho vui. Bà Trình ngồi nhìn cô chòng chọc bằng cặp mắt cú vọ và chờ cho những tiếng lầm rầm vừa dứt, bà nhờ cô với hộ lọ tiêu trên chạn vì tay bà không tới. Giọng bà dịu dàng như cáo già dỗ thỏ non "Ðấy, cái lọ xanh trong cùng, em thò tay vào trong tý nữa". Cô Sủng dướn người lên quờ quạng và bất thình lình, chiếc thớt gỗ nghiến được sắp xếp rất khéo lăn gọn xuống giữa đỉnh đầu. Cô Sủng chẳng kịp kêu tiếng nào ngã nhào từ trên ghế xuống đất. Trước khi cất tiếng gọi các con, bà Trình không quên tháo luôn chiếc vòng bạc mà bà hằng ao ước. Ông Trình nghe tiếng gọi thất thanh hớt hải chạy về rồi khuỵu xuống trong bệnh viện khi nghe bác sĩ chẩn đoán cô Sủng bị tụ máu não. Bà Trình an ủi ông và trách rằng tại bà đã can mà ông không nghe, cứ để cô Sủng làm lễ nên mới xảy ra chuyện. Mấy ngày sau, ông Trình ốm liệt giường khi hay tin cô Sủng vừa mới tỉnh đã bỏ bệnh viện đi đâu mất. Rồi một buổi chiều, có một người đàn ông mặc bộ quần áo dân tộc đến tìm bà mà nhắn rằng cô Sủng đã chết rồi, chết cùng cái thai ba tháng trong bụng và trước khi chết cô có gửi cho bà cái hộp này. Bà sững sờ quên cả cảm ơn người khách lạ. Và cho đến tận bây giờ, ngoài bà ra không ai biết chuyện cái hộp lẫn cái chết của cô Sủng. Ðôi lúc nhớ ra các con bà vẫn tự hỏi không biết số phận cô Sủng ra sao. Còn về phần bà, bà không dám mở chiếc hộp bởi linh cảm thấy sự độc địa ẩn chứa trong đó, nhưng bà cũng không muốn vứt đi bởi nhỡ ra có gì quan trọng thì sao. Tính tò mò theo bản năng và sự sợ hãi đầy ám ảnh cứ giằng co nhau, cuối cùng bà nghĩ tốt hơn hết nên cất kỹ nó đi. Nhưng từ khi có cái hộp trong nhà thì bà cảm giác cuộc sống trong gia đình bà thay đổi hẳn. Cô con gái lớn làm ăn ngày càng phát đạt và tậu riêng một cửa hàng lớn trên phố. Cậu con trai thứ hai tốt nghiệp đại học xin được việc làm ngay. Cậu thứ ba học chuyên ngành ngoại ngữ may mắn được một gia đình ngưòi ÚC nhận làm con nuôi rồi tài trợ cho đi du học. Hơn mười năm trôi qua, ông bà không còn phải khổ sở về chuyện cơm áo gạo tiền nữa. Những đứa con thành đạt đều đều gửi tiền về cho bố mẹ. Ông bà lần hồi xây được ngôi nhà khang trang rồi chuyển hẳn sang ở ngôi nhà mặt phố to tướng để trông nom cửa hàng cho cậu út. Tuy nhiên kể từ lúc bà Trình nhận cái hộp trong tay, chưa một ngày nào bà được thanh thản. Cứ mỗi khi về đến nhà bà lại thấy cái bóng áo xẻ màu da đồng của cô Sủng lượn ra lượn vào trong nhà. Nhiều lúc trong nhà một đống người, ngẩng lên bà cũng chợt thấy đôi mắt một mí của cô Sủng đang nhìn bà chăm chắm. Có hôm đang đêm chợt tỉnh giấc bà đã lại thấy cái đầu đội mũ tua đỏ lơ lửng trên trần nhà. Bà Trình sợ lắm, đi xem bói thầy nói rằng trong nhà có một hồn ma không ưa bà nên phải yểm bùa. Bà nghe theo dán bùa đầy nhà nhưng vẫn không thoát khỏi cái bóng ma đáng sợ đó. Ông Trình sau đận ấy lại trở về với bản tính cố hữu ít cười, ít nói. Bà có cảm giác như ông coi bà chết rồi. Thế cũng xong. Già cả rồi, bà còn bận lo cho con cho cháu chứ hơi sức đâu mà nghĩ đến chuyện tình cảm ong bướm. Nhưng có vài lần ông tỏ ra dịu dàng với bà và đêm hôm ấy ông rời khỏi chiếc giường cá nhân trên gác để xuống với vợ. Bà cũng như thấy lại cả thời tuổi trẻ. Lòng ham muốn của người đàn bà vẫn còn chút xuân tàn lại trỗi dậy, mạnh mẽ và đằm thắm. Bà nhắm mắt bồng bềnh trong những kỉ niệm, cái thời bà tưởng muốn quên cả trời đất trong vòng tay vụng về mà mãnh liệt của ông. Nhưng lúc vừa mở mắt để hoà vào nhịp âu yếm cùng chồng thì bà chợt kinh hãi khi thấy lù lù cái mặt tròn trắng toát bên cạnh giường. Gương mặt cô Sủng trước kia lành lành giờ chứa đầy những hận thù nham hiểm. Bà vội vã đẩy ông ra, toát mồ hôi hột. Sau vài lần như vậy ông đâm chán, và đã vài nghìn ngày ông không mỉm cười với bà, vài ngàn đêm ông không mở chiếc cửa phòng riêng của bà nữa. Nỗi ám ảnh cứ bám riết lấy bà hàng ngày hàng giờ mãi cho đến khi thằng cu Tũn ra đời. Ðã bốn năm nay chỉ thỉnh thoảng bà mới bắt gặp gương mặt ấy, nhưng chỉ là trong giấc mơ. Thằng bé là linh hồn, là cuộc sống của bà. Giờ đây bà sống vì nó.

Bà lại nhìn xuống chiếc hộp và nhìn sang ánh mắt giục giã của cu Tũn. Có cháu bà đây rồi, bà còn sợ gì nữa mà không mở. Nó là vị thần hộ mệnh của bà. Bà từ từ xoay chiếc núm rỉ ngoét qua năm tháng trên nắp hộp và từ từ nhấc nó lên. Ðôi mắt kinh ngạc của bà mở to và trở nên đờ đẫn khi nhìn thấy vật trong hộp. Một chiếc vòng bạc giống hệt như chiếc vòng bà vẫn cất giấu ở vị trí kín đáo và trang trọng nhất trong tủ. Tai bà chẳng còn nghe thấy tiếng reo của thằng cu Tũn nữa, bà chậm chạp nhấc chiếc vòng lên và kinh hãi khi thấy những hoa văn uốn lượn trên bề mặt chiếc vòng nhô lên một cách quái dị rồi biến thành một con rắn. Nó thè cái lưỡi chẽ đôi phun phì phì rồi ngóc chiếc cổ bạnh như cái ria mũ của con mụ Sủng lên bổ vào mặt bà. Cả ngôi nhà bốn tầng quay cuồng sụp xuống giữa đỉnh đầu bà, mạnh gấp trăm nghìn lần sức nặng của chiếc thớt gỗ nghiến. Thằng cháu nội khóc thét lên khi thấy bà nó trợn trừng mắt ngã lăn ra trên nền đất lạnh. 

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này 

Tầng thứ nhất

Trước khi chết, tôi nguyên là một nhà báo. Năm bốn chín tuổi, một lão thầy bói bảo rằng "Nếu ông qua được năm nay thì sẽ thọ đến 90 tuổi, còn nếu không thì...". Tôi cáu tiết: "Một là sống hai là chết, chứ ông cứ nói nước đôi thế nghĩa là sao?". Ông thầy rụt rè "Ðiều đó còn phụ thuộc vào hồng phúc nhà ông. Nhưng cung phúc đức đứng chữ Triệt, sao chủ lại Thất sát nên tôi e rằng khó lắm". Tôi gạt đi "Thôi, xem cái khác". Căn phòng của lão thầy bói tối tăm, lại hôi như cú nên tôi thấy hối hận khi hỏi câu tiếp theo. Lão mân mê cây bút bi rồi rà soát trên tờ giấy ôli kẻ 12 cung chiếu mạng "Cung phu thê sao chủ Thái âm, lẽ ra rất tốt nhưng lại đứng ở vị trí mặt trời mọc, mặt trời che khuất rặng trăng. Với lại tôi nói điều này e không tiện, bà nhà...". Ðến đây thì tôi không kìm được nữa. lão nói liên thiên cái gì thế nhỉ. Vợ tôi đường đường là một bác sĩ đầy triển vọng, nàng xinh đẹp, đảm đang khiến hết thảy bạn bè tôi ghen tị. Ngay cả những hôm tôi đi làm đến nửa đêm mới về vẫn cứ thấy nàng ngồi chờ sẵn bên mâm cơm. Sau bữa ấy, tôi viết luôn một bài báo lấy chủ đề mê tín dị đoan. Tôi chỉ cần tả chân dung lão thầy bói nọ, thêm vài tình tiết ly kỳ, cắt xén mỗi bài một tí rồi nộp lên tổng biên tập. Ðược độ ba hôm sau, tôi thấy có vật gì cứ vương vướng ở cổ. Nó trồi lên tụt xuống làm tôi ăn không ngon, ngủ không yên. Tôi đi khám tai mũi họng rồi chụp cả X-quang nhưng các bác sĩ đều chịu, không tìm ra được nguyên nhân, chỉ ghi vào sổ y bạ rằng bệnh nhân bị rối loạn dây thần kinh cảm giác và kê cho một toa thuốc hơn chục loại. Tôi uống thuốc mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Càng ngày cái cục đó càng to ra và tôi đồ rằng nó phải lớn bằng quả táo. Nó chẹn lấy cổ họng đến nỗi tôi hoá ra cấm khẩu. Tôi vẫn đều đặn đi làm nhưng không đi thực tế được vì chẳng nói năng được gì. Tôi đành ngồi nhà và bịa, nên công việc vẫn hiệu quả. Nhưng cũng chỉ được một tuần sau, bàn tay phải của tôi đột ngột sưng tấy lên như bắp chuối. Tôi cố gắng cầm bút bằng tay trái nhưng chẳng mấy chốc tay trái cũng sưng lên nốt. Tôi nhập viện lần thứ hai và ú ớ ra hiệu rằng có lẽ cái cục trên cổ nó đã lan xuống tay rồi. Lần này toàn bộ giáo sư, bác sĩ giỏi nhất bệnh viện được mời đến để hội chẩn. Nhưng chưa kịp hội chẩn thì chỉ đến chiều hôm sau là tôi chết. Lúc linh hồn rời khỏi xác, tôi ngạc nhiên thấy mình lại nói được bình thường, tay cũng hết sưng nhưng oái oăm thay, giờ chả ai nghe thấy tôi nói nữa. Tôi gào khản cả cổ mà vợ tôi vẫn cứ khóc rưng rức bên cái xác có hai bàn tay sưng của tôi. Người ta đặt xác tôi ngay ngắn vào quan tài và cho thêm cả bộ chắn cũ mặc dù trước nay tôi chưa hề biết đánh chắn bao giờ. Tôi ngó mặt mình qua cái ô kính con con trên nắp quan tài và lần đầu tiên nhận ra rằng mình xấu xí tệ. Hàm răng vẫn cứ toe toét như đang cười. Tôi cáu kỉnh lẩm bẩm "Chết chứ vui sướng nỗi gì mà cười". Vợ tôi khóc lặng đi, tôi thương cảm giơ tay ra ôm lấy nàng nhưng chỉ như khua vào không khí. Vừa lúc đó thì một quầng sáng chói loà ập đến và tôi cảm thấy có ai đó xách nách lôi đi. Trời đất tôi sầm lại và tôi thấy mình rơi vào một cái phễu đen kịt khổng lồ, sâu hun hút, mở mắt ra lại thấy đứng giữa một đám người già trẻ, lớn bé, đàn ông đàn bà đủ cả. Sau cái bàn cao chót vót là một người mặc áo thụng đen dài quét đất, mặt mũi trắng bợt bạt, đầu đội mũ cánh chuồn cũng màu đen nốt. Tôi liếc mắt sang bên cạnh để xem cái người vừa nãy xách nách mình là ai thì chợt hết hồn khi thấy hai ông quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa, hai con mắt tròn xoe như cái trôn bát, lại đỏ rực như hai hòn than hồng, chân tay toàn những vẩy là vẩy. Tôi đồ rằng mình đã bị rơi xuống âm phủ mất rồi. Dưới sân có một người cũng mặc áo đen, đang gí mắt vào cuốn sổ đen đúa, cũ nát, cất giọng sang sảng luận tội đám người kêu khóc như ri xung quanh. Nhiều tội lắm và toàn hình phạt kinh hồn, bất trung, bất nghĩa bị cho vào vạc dầu sôi, ăn trộm, ăn cắp bị chặt cụt tay, ngoại tình bị chẻ đôi người.Tôi nghe lỏm thấy hai ông quỷ sứ bên cạnh thì thào rằng mấy hôm nay ngài mệt do phải làm việc căng thẳng quá, số người xét xử đông gấp trăm lần so với một nghìn năm trước, lại càng ngày càng nhiều thứ tội mà chẳng biết luận vào tội gì trong số mười hai tội chính. Ðến như thằng Lý Thông là tội nhân thâm niên nhất mà cũng chỉ bi giam lần lượt qua ba tầng địa ngục. Giờ có đứa vào đủ mười hai tầng. Ðột nhiên tôi nghe thấy có người gọi đến tên mình "Tên này can tội ăn không nói có. Qua điểu tra sơ bộ thấy hắn đã nhận tiền của một cơ sở để viết bài lăngxê nhưng hôm sau lại nhận tiền một cơ sở khác để viết bài phê bình chính cái nơi hôm qua hắn vừa ca ngợi". Người đội mũ cánh chuồn mà tôi áng chừng là Diêm Vương cất giọng đều đều "Tội nhận tiền mới chỉ thấy phạm một lần nên chưa đáng khép vào tội hối lộ, nhưng tội nói dối đã có bằng chứng lặp đi lặp lại nhiều lần. Chiếu theo luật bộ hình âm phủ, phạt hắn một que xiên ngang mồm". Tôi tiến lên giữa sân đình để bào chữa. Tôi mở đầu bằng lời kêu gọi lòng khoan dung, bác ái của Diêm Vương, của quan Nam Tào, của các ông quỷ sứ và của những tội nhân khác nữa. Phần nội dung tôi nêu nhiều luận điểm với các dẫn chứng sinh động và diễn giải rằng những câu chuyện mà họ cho rằng tôi ăn không nói có thực ra chỉ là những ví dụ minh hoạ mang tính văn học. Phần kết tôi trích dẫn lời của các danh nhân nói về sự nhân từ và khẳng định rằng suốt đời tôi chỉ mang tâm sức ra để phục vụ công chúng. Tóm lại đó là một bài hùng biện xuất sắc với lời lẽ trơn tru và chặt chẽ. Nhưng tôi thấy Diêm Vương ngài giận đến nỗi đứng phắt dậy và quát lạc cả giọng "Tên này còn ngoan cố, lôi cả văn chương ra để biện bạch. Phạt xiên thêm một que nữa ngang mồm". Tức thì tôi thấy ánh thép loáng lên và quai hàm nhói một cái đau điếng. Giờ thì hai bên má tôi thòi ra hai cái que. Ông quỷ sứ lại sấn vào cố xiên thêm một que nữa nhưng có vẻ như đã xảy ra chuyện. "Sao thế?", cả sân đình xôn xao, các tội nhân quên cả kêu khóc "Chắc là que dởm". Ông quỷ sứ cuống quýt thanh minh "Dởm thế nào được. Que này đặt làm theo công nghệ mới nhất từ địa ngục bên Mỹ đấy. Chỉ vì da mặt tên này dày quá". Diêm Vương nhăn mặt "Làm gì có chuyện đó". Một ông quỷ sứ khác nhảy vào giúp sức nhưng vô ích. "Dạ bẩm, quả là da mặt tên này có dày hơn những tên khác thật". Diêm Vương xua tay mệt mỏi "Thôi, giam nó xuống tầng thứ nhất. Mất thì giờ quá".

Ngay lập tức tôi bị tống cổ vào một gian phòng nhung nhúc những người. Tôi thấy lạ vì trông mặt ai nấy đều quen cả. Hồi còn ở trên dương thế, mỗi ngày tôi phải tiếp xúc với hàng chục hạng người nhưng chẳng nhớ nổi một ai. Có lẽ những người này tôi đều đã gặp rồi. Căn phòng đông không còn chỗ đứng vì ngoài những người mắc tội giống như tôi, còn có thêm cả những kẻ mang tội lừa đảo, trộm cắp, tham ô, hối lộ rồi hầu như tội gì cũng liên quan đến tội nói dối nên sau khi bị giam ở tầng thứ nhất 100 năm sẽ tiếp tục bị lôi xuống những tầng khác. Ðông vui là vậy nhưng chả ai nói năng được gì vì đều bị xiên que. Mới đầu chúng tôi còn chịu khó ra hiệu bằng tay chân nhưng sau chân tay mỏi nhừ nên đâm chán. Hơn nữa thảy đều phạm cùng một tội giống nhau nên anh này lại cứ nghi là anh kia nói không thật. Thế là ai nấy đều im thin thít. Ðược mấy ngày, một ông quỷ sứ đến ngó quanh rồi trỏ thẳng vào mặt tôi "Thằng kia lại đây". Tôi run như cầy sấy không biết còn bị hành thêm tội gì nữa. Thì té ra họ thấy tôi nhanh nhẹn nên giao cho việc phát quần áo cho tội nhân. Ở dưới này, trừ các ngài được mặc áo đen, các ông quỷ sứ áo xanh lét còn thì các tội nhân đều mặc áo vải trông thì hệt như mấy bao tải đựng ngũ cốc trên trần nhưng cứ nặng chình chịch. Càng bị đày xuống sâu quần áo càng nặng. Chiếc áo tôi đang mặc dễ tới vài cân còn của các tội nhân tầng thứ 12 phải nặng cả tạ. Thấm thoắt tôi đã làm việc được hơn ba năm thì một bận ông qủy sứ bảo "Hôm nay giao việc này cho đứa khác. Mày đi cùng chúng tao". Tôi phải theo trà nước điếu đóm cho các ông quỷ sứ đi tuần 12 tầng địa ngục. Tôi lại thấy mình bị xách nách và hẫng một cái như chui vào chiếc cầu thang máy tối thui. Hoá ra chỉ có tầng thứ nhất là yên tĩnh còn thì tầng nào cũng đầy tiếng rên la, kêu khóc đến rợn người. Ðến tầng thứ ba tôi nhìn thấy anh bạn học từ thời phổ thông nhưng khuôn mặt già nua còn tay phải bị chặt cụt, đang ngồi nhóm lò cho mấy cái vạc dầu. Tôi ú ớ ra hiệu hỏi han. Anh này không còn bị xiên que giống tôi nhưng có lẽ do ở tầng thứ nhất lâu quá nên theo thói quen vớ lấy thanh củi đang cháy giở vẽ nguệch ngoạc ra hình cái két sắt, giả bộ lấm lét ngó quanh rồi giật mạnh một cái. Tôi vỗ vai thông cảm rồi chào anh ta đi tiếp. Tầng thứ bảy khá đông đúc, cả đàn ông lẫn đàn bà nhưng người đều bị chẻ làm đôi, chỉ dính lủng lẳng mỗi tí bụng. Tôi thấy một người quen quen bèn tiến đến gần và nhận ra chị cán bộ mà có lần đã viết bài ca ngợi. Chị ta có vẻ cũng nhận ra tôi nên ngượng nghịu quay mặt đi. Tôi biết ý lùi ra thì giật thót mình vì nhìn thấy vợ. Mặc dù bị xẻ làm đôi và tóc tai xơ xác hết cả nhưng vẫn đúng là nàng. Chợt nhớ ra cái tội của những kẻ bi giam ở tầng thứ bảy. Tôi định nhảy vào cào nát mặt nàng ra cho hả giận. Nàng sợ hãi giơ tay bưng lấy hai nửa mặt khóc tu tu. Tôi bỗng thấy thương hại và bỏ đi, nghĩ bụng "Thôi, có còn ra hồn người nữa đâu". Ở tầng thứ chín có hàng trăm cái vạc dầu đang sôi xình xịch. Bên trong lúc nhúc những người cứ nhảy lên choi choi may ra có bớt nóng tí nào chăng. Tôi chợt nhìn thấy sếp cũ cũng ở trong đám người ấy. Sếp chết trước tôi không lâu và khi đọc điếu văn, người ta ca ngợi "Ông là người trung với nước hiếu với dân, trong gia đình, ông là một người con hiếu thảo, người chồng, người cha mẫu mực. Giờ này chắc linh hồn ông đã bay lên cõi Niết Bản". Chao ôi, Niết Bản đâu chẳng thấy sao lại thấy sếp nhảy choi choi trong vạc dầu thế kia. Tôi rầu lòng lắm lắm vì trước nay sếp vẫn là người tôi kính trọng nhất. Sếp nhìn tôi cầu cứu nhưng ông quỷ sứ càu nhàu rằng thì là "Người quen thì nhiều lắm, nếu gặp ai cũng chào hỏi thì rất mất thì giờ". Tầng cuối cùng là kinh hãi nhất, toàn là xương trắng. Một ông quỷ sứ phàn nàn "Phải trình với Diêm Vương nới rộng căn phòng này ra. Bọn bất hiếu bây giờ nhiều quá". Giữa đống xương đó tôi nhìn thấy ông hàng xóm giàu có, nhưng chỉ mỗi cái đầu còn người ngợm rụng rời đi đằng nào mất. Tôi kinh ngạc vì đã có lần đi viếng đám ma mẹ ông ta. Trời nắng chang chang mà ông ta cứ khăn xô, áo đơn áo kép lăn xả xuống mộ, vò đầu bứt tai, bốc đất bốc cát khiến ai nấy đều ngậm ngùi nhỏ lệ. Tôi thầm tiếc rẻ "Giá mà bây giờ quay về được thì có khối chuyện để viết, chỉ cần thêm thắt cho có tình tiết, cốt truyện rồi thêm mắm thêm muối thì có mà báo bán chạy như tôm tươi". Vừa nghĩ đến đó bỗng dưng tôi thấy nhói một cái đau điếng bên quai hàm đến nỗi ngã quay lơ ra đất. Vừa hay hai ông quỷ sứ đến xem xét và bảo nhau: "Que này rỉ quá rồi, hôm nào thay cho nó cái que mới". Một ông chỉnh lại cái que nên thấy dễ chịu hẳn. Trên đường về, ông quỷ sứ giơ bàn tay móng dài nhọn hoắt vỗ vai tôi "Nghe nói trước kia chú mày làm nhà báo hả. Hẳn biết nhiều chuyện lắm, trên trần có gì hay kể cho chúng tao nghe với. Nhưng nhớ kể đúng sự thật đấy, không thì chúng ông xiên thêm cho ba que nữa ngang mồm". 

Sự thật

Nó nép vào sau lưng Thành tránh những hạt cát găm vào da như kim châm. Nó cất to giọng để át đi tiếng gió "Anh ơi, dừng lại đây thôi. Em tê hết cả chân rồi đây này" - "Ừ, để anh gọi tụi nó", nói rồi Thành phóng vượt lên khoa tay "Tìm quán nào nghỉ tạm đi, Trang hơi mệt rồi". Lý liếc xéo Thành, cái miệng giấu sau chiếc khăn che mặt không rõ đang cười hay đang nhăn "Chiều nhau quá đấy". Nó cũng liếc sang, đôi mắt cười mặc dù đang rất mệt mỏi sau chuyến đi dài: "Anh Hưng, có người đang ghen tị đây, lo chăm sóc đi thôi". Nó nhìn Hưng đỏ cả mặt lên mà tự thú vị rằng mình có thể trở thành một bà mối chuyên nghiệp. Thành ngoái lại mắng "Lo chuyện của mình đi đã" và giảm tốc độ để nắm lấy bàn tay nó đang co lại vì những hạt mưa bắt đầu trở lên nặng hạt.

Nó và Thành quen nhau trong một hoàn cảnh không những nếu mẹ nó biết sẽ phản đối bằng hàng loạt câu chuyện đầy ẩn ý mà cái chính là đi ngược lại quan diểm của nó "Bạn trai tao phải đàng hoàng, biết rõ nguồn gốc, học vấn, địa vị, gia đình và nhất là không quen đường quen chợ". Ấy thế mà nó gặp Thành ở quán bar. Lần ấy nó phải hẹn gặp một khách hàng. Ngoài giờ đến giảng đường, nó vẫn đi làm part-time cho một hãng bảo hiểm và được người quen giới thiệu cho một khách hàng tiềm năng. Người quen ấy dặn "Cậu ấy hay đến quán vào buổi tối và rất muốn mua một suất cho mẹ. Em nhớ đến đúng giờ kẻo lại lỡ việc". Nó đến đúng giờ và hướng thẳng ra bàn số sáu sát cửa sổ như đã hẹn nhưng nhìn mặt đám khách mặt non choẹt, nó có vẻ không tin tưởng cho lắm. Nó mỉm cười và tự tin trình bày bài hùng biện đã học thuộc lòng "Em là người của công ty bảo hiểm... Ðã gọi điện trước để hẹn gặp anh Tuấn Hùng", rồi sốt sắng giới thiệu hàng loạt hạng mục và các mức bảo hiểm mà quên mất không hỏi nhân vật nào là Tuấn Hùng. Phải rất lâu sau, các vị khách bất đắc dĩ kia mới có thể giải thích cho nó hiểu rằng nó đã nhầm và bọn họ chỉ là khách đến uống nước. Nó đành lúng túng thu xếp giấy tờ, lí nhí xin lỗi rồi tìm một bàn khác để ngồi chờ và ngẫm nghĩ xem tại sao người khách kia lại không đến. Chắc hẳn lúc ấy trông nó đáng thương ghê lắm mà một trong những người vừa nãy sang bàn nó khẽ khàng "Bọn tôi cũng có người cần mua bảo hiểm". Khách hàng mới cẩn thận chọn lựa một mức bảo hiểm phù hợp và giải thích với những người bạn còn đang ngạc nhiên "Coi như trích tiền làm thêm để bỏ ống cho mẹ ấy mà". Kể từ đó, chiến dịch chăm sóc khách hàng là một cái cớ hợp lý để cả hai gặp nhau. Có lẽ Thành bị thu hút bởi vẻ bể ngoài luôn muốn được che chở của cô nhân viên bảo hiểm, còn nó bị ấn tượng vì hành động bất ngờ của vị khách hàng không mong đợi. Quan điểm của nó dường như lung lay khi Thành là một người khác với tụi con trai trong lớp, cả những người bạn của Thành mà sau này nó thường xuyên gặp, cũng rất đặc biệt. Hưng, học luật, với mái tóc bồng bềnh, da trắng như con gái và cao lòng khòng. Minh, dáng người to béo qúa khổ, trông hơi thô kệch và nghe nói đang làm cho một công ty hàng hải. Tuấn, kiến trúc sư tương lai, người nhỏ thó và đầu trọc lốc, trông hơi dữ tướng và đốt thuốc liên tục. Còn Thành của nó, đang học kinh tế, ít nói nhưng tình cảm và biết quan tâm đến người khác. Dần dần nó phát hiện ra bốn người có tính cách rất khác biệt và sở thích, quan điểm, lối sống cũng khác nhau, nhưng lạ một điều lại chơi với nhau rất thân, còn thân hơn cả anh em ruột thịt. Có lần, nó cũng đem điều ấy ra thắc mắc thì Thành ừ hữ "Ờ thì dù sao cũng phải có điểm chung chứ" và nó chịu không đoán ra được. Nó biết Thành yêu nó hơn cả bản thân mình và cũng tự phát hiện bằng sự nhạy cảm bản năng rằng cả những người kia nữa, cũng quan tâm đến nó. Một lần nó hỏi "Sao các bạn anh chưa có bạn gái?" Thành nhìn nó dịu dàng "Chuyện này đâu có đơn giản. Tụi nó còn đang ghen tị với anh đấy."

Mẹ nó, biết con gái mình bắt đầu có bạn trai, càng tăng cường đặt thêm các cuốn sách ở đầu giường. Bà là người hiểu biết và tâm lý. Ngay từ khi nó bắt đầu đến tuổi dậy thì, mẹ đã bắt đầu một chiến dịch giáo dục sát sườn, không phải bằng các bài ca muôn thưở như những người mẹ khác mà bằng thông tin hết sức cập nhật. Cứ mỗi buổi đi học về nó lại tìm thấy trên bàn học một vài tờ báo mà các trang cần quan tâm được giở sẵn một cách có ý với thông tin giật gân về những con yêu râu xanh thời hiện đại, các cô gái trẻ nhẹ dạ bị lưà gạt bằng đồng tiền và lời nói ngọt ngào. Tóm lại là đủ mọi mánh khoé trên đời mà bà có thể sưu tập được để trang bị kiến thức vào đời cho con gái. Rồi sau này, những cuốn sách về giới tính được bà nhét dưới gối nó vào mỗi tối thứ bảy. Có lần nó nghe lỏm được mẹ nói với bạn bè rằng trẻ con bây giờ cần phải hiểu biết và nếu nhà trường không dạy những cái đó thì bà sẽ phải giáo dục. Có vài lần, Thành đến đón nó và cũng được bà mời vào nhà nói chuyện. Thành lễ phép, nhưng dè dặt và luôn xin phép về sớm. Thành chiếm được tình cảm và lòng tin tuyệt đối của mẹ nó nhưng trong chuyện này nó lại cẩn thận hơn mẹ. Nhiều lúc nó cũng đâm nghi ngờ sự trung thực của Thành vì quen nhau đã sáu tháng nhưng Thành chưa lần nào đưa nó về nhà chơi, ngay cả đến nhà những người bạn kia cũng không. Bọn họ luôn hẹn nhau ở một điểm nào đó nhưng tuyệt nhiên không đến nhà nhau, hay theo nó lờ mờ hiểu thì có vẻ như chỉ riêng nó là họ không muốn cho đến nhà. Thành chỉ giải thích đơn giản "Bố mẹ bọn nó khó tính lắm, anh không thích". Một lần nó vờ đòi xem thẻ sinh viên, nhưng Thành bảo quên rồi lảng sang chuyện khác và phản ứng của Tuấn, Hưng, Minh cũng y hệt. Thoạt đầu nó cho rằng họ chỉ mang mác sinh viên ra để loè nó nhưng qua tiếp xúc hàng ngày, sự hiểu biết của họ khiến nó khẳng định mình lầm. Nhưng điều này chỉ càng khiến nó thêm băn khoăn và những câu hỏi "tại sao" cứ mỗi ngày một dày lên. Cho đến chiều hôm qua Thành hỏi "Bọn anh định đi dã ngoại hai ngay. ý em thế nào?". Ðịa điểm và chương trình Thành đưa ra quả là hấp dẫn. Bấy lâu nay nó mới chỉ đi tham quan với lớp và điều này thật thú vị, nhất là lại được đi cùng Thành. Nhưng nó chợt nhớ ra rằng từ trước giờ toàn mình nó đi chơi với bốn gã con trai và hàng loạt câu hỏi lại bắt đầu mọc lên. Không phải nó không tin tưởng Thành, nhưng nó hiểu một chuyến dã ngoại hai ngày là như thế nào. Nó nín thở "Mình chưa sẵn sàng". Thành hiểu ngay và mỉm cười "Em có thể rủ một cô bạn gái cùng đi". Ðương nhiên là Lý đồng ý cả hai tay và hơn nữa ngay chặng giải lao đầu tiên đã thì thào "Thế mà mày không giới thiệu từ sớm- Thế nào?". Lý ngắm bốn người bạn đang loay hoay dỡ đồ xuống vệ đường, tủm tỉm "Rất đàn ông và ga lăng".

Ðiểm đến là một vùng đồi núi cách thành phố 90 cây số về phía Bắc. Nó và Lý được xếp vào một phòng. Ðột nhiên nó thấy Thành lấp ló ngoài cửa sổ "Em có muốn xem dòng suối thiêng mà bà cụ hồi sáng kể không? Anh biết đường rồi". Nó liếc nhìn Lý đang nằm cuộn tròn ở góc giường sau chuyến đi dài mệt mỏi "Chờ em". Nó đắp chăn cho Lý rồi với lấy chiếc áo gió. Nó hơi do dự khi ra đến đường cái "Tối thế này có an toàn không?". Thành khoác vai nó "Có người bảo vệ em bằng mọi giá là được chứ gì?". Nó hiểu rằng những gì Thành nói đều là thật và nó luôn có cảm giác yên tâm từ khi Thành xuất hiện. Dòng suối hiện ra cuối con đường rừng ngoằn nghèo. Huyền ảo như không có thật. Lòng suối rộng và nông, len giữa hai bãi đá cuội trắng muốt rồi chạy dài đến ngọn núi đen sì phía xa xa. Trăng hắt những ánh bàng bạc làm dòng nước sáng lấp lánh như thuỷ tinh. "Mình ngồi xuống đây thôi". Gió mang hơi núi lạnh bao bọc từ bốn phía khiến nó hơi rùng mình. Bình thường, hễ hai đứa gặp nhau là chuyện trên trời dưới bể, và nó nói là chính nhưng hôm nay thì nó tịt mít. Mãi sau nó mới rụt rè "Trước em, anh có quen người nào đó không?". Thành trả lời mà mắt dán vào lòng suối "Có hai người". Nó hơi nhích ra xa một chút "Khiếp mới tí tuổi đầu mà đã có hai người", giọng nó đay lại, tự nhiên thấy hơi khó chịu vì sự mất công bằng. Thành kéo nó lại gần "Ờ, em hỏi thì anh trả lời, chuyện mối tình bọ xít ấy mà, không giống như bây giờ". Nó định hỏi tiếp "Thế rồi sao?" nhưng lại thôi vì thấy hơi thở của Thành sát mặt mình, bàn tay Thành đang bọc lấy tay nó, nóng và mềm mại. Vài giây sau đó, nó quên sạch cả những gì đã đọc được trên bàn học. Chợt nó giật mình vì Thành vùng đứng dậy và nói gấp gáp "Thôi mình về không muộn?". Nó thảng thốt và hơi hụt hẫng "Sao vậy anh?". Mặt Thành tái đi dưới ánh trăng "Anh sợ rằng mình khó kiềm chế được và sẽ mất em". Rồi Thành kéo tay nó đi về hướng cũ như ma đuổi.

Một tháng sau đó, nó có hẹn với một khách hàng và chợt nhìn thấy Hưng đỗ xe ở nhà bên cạnh. Một người phụ nữ trên ban công gọi với xuống "Hoa, đỗ gọn xe cho người khác còn đi con". Hưng khoác cái cặp lên người "Con đi ngay bây giờ mà mẹ". Nó băn khoăn tiến lại hàng nước gần đó và gọi cho mình một cốc nhân trần đá "Cô ơi, vừa nãy bác kia gọi anh Hưng là gì đấy ạ?". Không chỉ bà hàng nước mà hết thảy khách hàng, có vẻ đều là hàng xóm quanh đó, quay lại nhìn nó chằm chằm. Bà ta cười "Anh Hưng á? Cô chơi với con bé ấy à? Cẩn thận bị lừa đấy". Nó quên mất cả khách hàng đang hẹn gặp và phóng vội lên xe. Nó tìm đến địa chỉ mà có lần tình cờ Tuấn buột miệng nói ra. "Mình phải đi tìm Thành để hỏi cho ra nhẽ chuyện này mới được". Căn nhà nơi Thành ở nằm trong một quần thể biệt thự ven hồ, sang trọng và cách biệt. Ngưòi ra mở cửa áng chừng là chị gái của Thành, nhìn nó từ đầu đến chân với con mắt ác cảm khi nghe nhắc đến tên Thành. Một người đàn bà ăn vận sang trọng và có khuôn mặt phúc hậu từ trong nhà chạy ra "Nó đi học cũng sắp về rồi, cháu vào đây chờ". Bà cũng kín đáo quan sát nó và cười lịch sự "Bác đang có khách một chút, cháu lên phòng chờ nó nhé". Chị gái Thành dẫn nó lên phòng sau khi leo ba tầng cầu thang xoáy trôn ốc. Phòng của Thành sạch sẽ, gọn gàng, có cả bàn phấn và nó bất ngờ khi nhìn thấy tấm ảnh hai đứa chụp trong chuyến dã ngoại lần trước được lồng cẩn thận trong khung kính để trên bàn học. Trên giá sách có rất nhiều sách về kinh tế và một quyển album, nó tò mò mở ra xem và giật mình khi nhìn thấy những tấm ảnh của Thành hồi bé. Rõ ràng khuôn mặt của Thành nhưng mái tóc được cột hai bên và kết nơ cẩn thận, và điều kinh khủng hơn cả là Thành lại mặc váy. Tim đập thình thịch và nó có một hành động mà từ trước đến nay mẹ nó luôn cấm là lục tung mọi ngăn kéo của Thành. Nó tìm thấy trong đó tấm thẻ sinh viên có ảnh Thành nhưng lại mang tên Trần Kim Thanh. Cùng lúc đó có tiếng lầm rầm ngoài cửa nhưng giọng nói thứ hai như cố tình để nó nghe thấy "Ai đấy?" - "Bạn gái con Thanh. Chắc lại đào mỏ chứ báu gì". Nó hốt hoảng lao ra phía cửa và lúc này chỉ muốn chui tọt xuống đất cho yên ổn thì chợt húc đầu vào Thành. Mặt Thành mới đầu đỏ tía lên và sau thì tái dần lại. Ðôi mắt nó long sòng sọc còn người run lẩy bẩy "Thế đấy, cả một lũ lừa đảo". Thành giơ tay ra khi nó có vẻ như sắp khuỵu xuống. Nó giật bắn mình lùi lại và quát to "Ðừng có đụng vào người tôi. Bây giờ thì tôi biết lý do tại sao hai cô gái kia đã bỏ anh mà đi. Họ gớm quá chứ sao. Tôi cũng thật chả biết gọi anh là cái gì nữa". Nó lùi dần ra cửa và cũng không biết mình về nhà rồi leo lên giường từ bao giờ. Một tháng sau đó nó không gặp Thành. Nó luôn phẩy tay cố xua đi những ý nghĩ kinh khủng để chỉ coi rằng mình vừa trải qua một chuyện xui xẻo. Nhưng nhiều lần, nó chợt kinh hoàng khi nhận ra rằng mình cũng đang đau khổ. Rồi một ngày, nó tìm đến trường của Thành và nhìn thấy Thành đang đứng trước cổng. Thành cũng nhìn thấy nó, đôi mắt ánh lên niềm hy vọng. Nhưng dòng người xuôi ngược trên đường như một lực cản vô hình không cho nó bước sang phía bên kia. Nó lại lủi thủi đi về nhà và gửi e-mail chỉ vỏn vẹn một dòng "Chúng ta mãi mãi không gặp nhau nữa nhưng anh vẫn là người con trai mà em mến nhất". Ngày hôm sau nó nhận được thư gửi trở lại còn ngắn hơn thế "Cảm ơn em nhiều lắm". Nó tắt máy tính, trong lòng nhẹ nhõm và khi chuẩn bị sách vở cho một ngày mới, nó chợt nhìn thấy cuốn sách mẹ mới đặt trên bàn. Nó mỉm cười "Mẹ yêu quý. Ðâu phải mọi thứ trên đời đều có hết trong sách vở?" 

"Tất cả là nhờ anh bạn tôi"

Tôi có một anh bạn làm nhà văn. Tôi vẫn luôn cho rằng nhà văn là người có một thứ quyền năng đặc biệt, là người nắm trong tay quyền sinh sát, thậm chí có phần còn hơn cả thẩm phán, bác sĩ và cảnh sát giao thông. Nhà văn muốn cho ai sống là được sống, muốn cho chết thì phải chết.

Nhiều lúc hứng lên nhà văn cho thằng bán cà rem trở thành siêu sao nhạc rock hoặc sau một hồi năm phút ngẫm nghĩ, nhà văn đã quyết định chàng tỉ phú nên cưới cô gái ăn xin. Hơn thế nữa thứ quyền năng này của anh bạn tôi không những thể hiện trên giấy trắng mực đen mà còn toát ra khỏi ngòi bút khiến tôi, một gã trai chưa vợ nặng ngót nghét một tạ nhất nhất làm theo những gì anh ta bảo.

Tôi không rành rẽ văn chương nhưng lại rất mê anh bạn nhà văn. Anh có một cái tài đặc biệt, ấy là sau vài chén rượu có thể kể vanh vách một câu chuyện cực kỳ hấp dẫn (tất nhiên anh là tác giả). Cái ông đọc truyện đêm khuya trên đài còn được nhìn vào văn bản chứ anh chẳng cần thứ gì trước mặt, cứ thế diễn trơn tru một mạch, có lúc đóng hai ba vai, thay đổi từ giọng ông già thèm thuốc, đứa trẻ nít đòi mẹ cho đến chị phụ nữ đang có bầu bảy tháng. Có lần sau khi anh kể xong một câu chuyện với nhiều tình tiết rất gay cấn khiến tôi như vừa được ngồi trong rạp xem một bộ phim hành động nghẹt thở, tôi khoái chí quá mới nài nỉ. "Ông phải tặng tôi cái truyện này có chữ ký hẳn hoi". Anh ngẩn người ra: "Cái này tao đã in đâu" - "Thì tặng tôi bản thảo có chữ ký cũng được.

Tôi muốn cho cô nàng khó tính của tôi xem" - "Cũng chưa có bản thảo" - "Thế nghĩa là thế nào", tôi phát cáu: "Ông thai nghén ý tưởng từ bao giờ mà vẫn chưa thèm viết" - "Mới đây thôi" - "Mới đây? Là lúc nào" - "Từ lúc mình nhắm hết hai con chim bồ câu này". Tôi tá hỏa, hóa ra từ trước đến nay những tác phẩm kỳ tài đều được anh bạn tôi ứng tác tức thì sau vài món nhắm. Thế là đã quen lệ, cứ sau một cút rượu là tôi đề nghị anh bắt đầu chương trình "kể chuyện... ban ngày". Thậm chí tôi có thể đề xuất chủ đề, thể loại và mẫu nhân vật của câu chuyện, đôi lúc phởn chí còn kiêm luôn cả một vai trong đó. Rồi dần dần tôi phát hiện ra rằng các yếu tố ngoại cảnh cũng ảnh hưởng đến tác phẩm của anh rất nhiều.

Ví dụ như đang kể đến đoạn đầu, chợt thấy một cô gái xinh đẹp mặc áo hồng đi ngang qua cửa sổ liền được anh vận luôn vào nhân vật nữ chính trong chuyện với các nét mắt, mũi, mồm đặc tả hệt cô bé kia hay một thằng cha thô thiển bàn bên cứ ông ổng các chiến tích tình trường quanh hũ rượu liền bị gán ngay cái đầu hói vào nhân vật phản diện. Nhưng dạo này anh ít viết, hay chính xác hơn là ít tham gia vào chương trình kể chuyện vì mắc căn bệnh đau dạ dày. Bệnh này phải kiêng cữ đủ thứ, đương nhiên kiêng luôn cả món yêu quý nhất đi kèm với đùi chim bồ câu. Càng ngày càng lấn sâu vào cái nghiệp "nghe văn", tôi mới ngộ ra rằng các nhà văn phàm đã bị ám ảnh bởi cái gì thường tống khứ cái đó cho nhân vật.

Vì vậy, anh bạn tôi thường xuyên cho nhân vật bị đau dạ dày, đau đến lên bờ xuống ruộng, đau đến phát ói ra mật xanh mật vàng, đau đến nỗi nhìn thấy quả bom sex Pamela Anderson cũng xem như cây cột điện hay có nghe tin sao Chổi sắp sà xuống Việt Nam thì cũng bằng Manchester United vừa sút tung lưới đội nhà. Thế rồi bẵng đi mấy tháng không gặp, đột nhiên anh gọi điện cho tôi "Cái chuyện tôi kể hôm con bé áo hồng đi qua có nhớ không?" - "Rồi, sao nữa?" - "Nó đã được dựng thành phim và có khả năng giành được 5 đề cử điện ảnh. Thứ bảy này tôi mời ông đi xem nhé".

Nhờ có đôi vé của anh bạn vàng, tôi tranh thủ mời nàng đi xem buổi công chiếu đầu tiên. Cũng là có ý cả. Chả là thế này, tôi vốn rất giỏi trong việc vẽ các đồ án, đồ thị cho những công trình kiến trúc tương lai nhưng còn về đồ án không dùng giấy bút cho một gia đình nho nhỏ thì tôi tịt mít. Nàng xinh xắn, nết na, mỏng manh như pha lê Tiệp, chỉ chực đụng vào là vỡ tan tành. Thế nên tôi không dám đụng. Cứ hễ lần nào anh bạn nhà văn kiểm tra kiến thức, kỹ năng, thái độ là tôi lại đần mặt ra như trẻ con mẫu giáo quên không đóng bỉm. Mỗi lần như thế anh lại lắc đầu: "Ông nên tham gia một lớp tập huấn ngắn hạn". Thành thử nhiều lúc tôi đâm ra oán nàng.

Theo như lời anh bạn tôi thì trải qua một quá trình tiến hóa dài dằng dặc, con người ta ngày càng văn minh. Nếu ngày xa anh con trai ngồi chỗ nào rồi mà lại đứng lên thì cô gái có ngồi xuống cũng phải xích ra một khoảng bên cạnh chứ không được ngồi đúng chỗ anh ta vừa ngồi. Như vậy là để thụ thụ bất thân tuyệt đối. "Còn ngày nay...", anh phẩy tay ra điều chuyện nhỏ như cây kim sợi chỉ. Thế nhưng nàng của tôi vẫn rất tuân thủ nguyên tắc của các cụ. Quen nhau đã hơn một năm nhưng mỗi lần ngồi quán cà phê, nàng thường xăm xăm ngồi xuống trước, rồi xếp túi xách, giấy tờ sang hai ghế bên cạnh như xây thành lũy. Thành ra tôi không còn cách nào khác đành chọn chiếc ghế cuối cùng, xa tít mù khơi, như để mặc định dành riêng cho tôi.

Cái sự mời nàng đi xem hôm nay thực là có ý nghĩa. Là bởi vì tôi đã thuộc lòng câu chuyện phim đó rồi. Chuyện nôm na thế này. Có một chàng trai (rất giống tôi) yêu một cô gái (rất giống nàng). Nhưng chàng lại bị một cô gái khác cũng đem lòng yêu. Chuyện tình tay ba bắt đầu, vô cùng hồi hộp và gay cấn. Cô gái kia mới tìm đủ mọi cách để hại người con gái mà chàng yêu. Chàng đã dũng cảm bảo vệ tình yêu đến cùng và kết thúc câu chuyện, rất tuyệt mỹ, hai người tay trong tay, trao cho nhau nụ hôn nồng cháy. Và đó chính là cái đoạn cần thiết nhất mà tôi muốn để nàng xem. Chuyện phim quả là hiệu quả, nàng cảm động khóc rưng rức, có lúc lại mím môi giận dữ khi cô nàng tình địch kia ra tay ám hại. Tôi liên tục kể trước các diễn biến của câu chuyện (dĩ nhiên là giấu nhẹm việc tôi quen biết tác giả).

Nàng ngạc nhiên "Sao anh biết?". Tôi ngẩng cao đầu: "Vì đó là logic của cuộc sống, là... là... những hữu hình trong tâm hồn con người ". Và mọi thứ mà tôi báo trước đều chính xác như thể sợi tóc của nàng kia nằm ở ô vải nào trên vai áo anh chàng tôi cũng đều biết hết khiến nàng mở to mắt ngạc nhiên: "Sao cái gì anh cũng nói đúng thế?". Tôi tủm tỉm cười: "Là vì anh cũng là một người đàn ông, anh biết những người đàn ông chân chính đều làm như thế". Đến đoạn cuối cùng, ly kỳ nhất, nhân vật phản diện, một cô nàng bốc lửa, điêu toa, tóc quăn tít thời thượng mới cài bẫy và gọi điện cho tình địch đến chứng kiến một cảnh tượng đặc biệt ở văn phòng anh chàng kia. Nàng quên mất các nguyên tắc, bíu lấy tay tôi (làm tôi đê mê trong hạnh phúc): "Cuối cùng thế nào hả anh?". Tôi vờ gắt khẽ, nói những câu đã định sẵn "Em cũng phải tự suy đoán đi chứ, thì nó mới hồi hộp.

Đoạn này anh đoán ra rồi nhưng bí mật. Chỉ biết rằng anh hoàn toàn đồng ý với cái kết tuyệt vời này, tác giả kịch bản là một nhân vật siêu phàm, anh chắc chắn ông ta sẽ để nhân vật hành động như thế, anh cũng ủng hộ anh chàng kia làm như vậy. Có thế mới đáng mặt đàn ông, có thế mới là tình yêu trọn vẹn, có thế mới là người chân chính. Cả nhân vật nữ nữa. Cô ấy hành động rất nữ tính, rất bản năng, rất đáng hoan nghênh". Tôi nói một thôi một hồi như cổ vũ, như xổ tung những ấm ức khó nói từ bấy lâu nay. "Vậy à?", những gì tôi bình luận càng làm nàng hồi hộp. Mắt nàng mở to dán vào màn ảnh. Tôi cũng hồi hộp không kém, kịch bản tối hôm nay của tôi thật là thành công, hiệu ứng văn học và điện ảnh quả là mầu nhiệm thấy rõ.

Đúng như những gì tôi hình dung, khi anh bạn nhà văn đặc tả không khí căn phòng lúc nhắm xong cái đùi chim câu cuối cùng. Nhân vật nữ chính ghé mắt vào kẽ hở của cánh cửa. Ống kính lia vào bên trong từ từ, chậm rãi theo một cách hơi kinh dị, lại cũng rất lãng mạn. Đầu tiên là chiếc tủ đựng công văn màu ghi xám, chiếc bàn làm việc có lọ hoa hồng tỉ muội, rồi đến khung cửa sổ mở ra cả một khoảng trời đêm xào xạc bóng lá luồn qua ánh trăng, chiếc rèm cửa lay động dịu nhẹ theo ngọn gió thu. Rồi bóng chàng đứng trầm tư, lặng lẽ chờ đợi bên cửa sổ. Nàng sẽ ùa vào. Chàng dang tay chờ đón. Họ sẽ quyện vào nhau và nụ hôn sẽ thật nồng nàn dưới bầu trời đêm tình tứ. Bàn tay tôi cũng đã xòe rộng sẵn sàng, chỉ còn vài giây nữa thôi, đến đúng cảnh đó, khi mà nàng của tôi vẫn còn đang xúc động với những gì trên màn ảnh, tôi sẽ nắm lấy bàn tay mềm mại của nàng mà hơn 300 ngày nay tôi ao ước.

Chắc chắn nàng sẽ không còn đỏ mặt tía tai như mọi bận nữa. Nhưng... gì thế kia? Chẳng thấy nụ hôn nào tình tứ với bóng trăng hay gió thu. Ống kính máy quay lia đến chiếc ghế salon. Anh chàng nhân vật chính mình trần nhồng nhộng đang hì hục vật lộn với cô nàng phản diện bốc lửa. Cô ta rên lên những âm thanh ư ử sung sướng, vừa để thỏa mãn khoái cảm, vừa thỏa mãn niềm vui chiến thắng tình địch, ngoài ra còn bổ sung thêm tiếng huỳnh huỵch từ chiếc salon bọc da hiện đại. Nàng hét lên một tiếng thất thanh, còn tôi cũng hét lên kinh hoàng không kém. Cả rạp đứng bật dậy nhìn chúng tôi. Khuôn mặt nàng lộ rõ vẻ thù địch như thể đúng trăm phần trăm tôi là cái gã mượn gió bẻ măng kia còn nàng đang thui thủi đứng nhìn trộm ngoài khe cửa. "Giờ thì tôi đã biết bộ mặt thật của anh rồi. Nào thì đàn ông chân chính, nào thì nữ tính, nào thì bản năng...".

Ngay sáng sớm hôm sau, tôi tìm đến anh bạn quý hóa, nguồn cơn của mọi sự rắc rối để trút hết nỗi căm hờn: "Sao ông dám thay đổi kịch bản. Ông cậy ông là nhà văn thì muốn yêu là yêu, muốn bỏ là bỏ hử, hử?". Anh bạn tôi ngơ ngác, gãi đầu gãi tai: "Tại vì đến khi quay cảnh cuối, con bé diễn viên chính nó bụng bầu to tướng mà ông đạo diễn bảo rằng đây là cảnh đắt nhất, cần quay cho thật gợi cảm. Lẽ ra hai nhân vật chính đứng dưới ánh trăng. Anh con trai đặt tay lên eo cô gái nhưng bụng nó to thế. Đành phải sửa kịch bản". Tôi rên lên: "Ôi thôi, thế là ông hại tôi rồi". Anh ta ngạc nhiên mới hỏi làm sao. Sau khi nghe kể lể sự tình, anh cười rũ rượi: "Ông dốt lắm, thôi được rồi, cứ yên tâm mà về đi, chuyện đâu có đó".

Một tuần sau, đúng vào lúc tôi rơi vào nỗi tuyệt vọng tràn trề thì anh gọi điện. Anh đưa cho tôi một tờ báo mới tinh có in cái truyện được dựng thành phim nọ. Phần kết vẫn nguyên si như lúc đầu, thậm chí tác giả còn hào phóng thêm cho một đoạn nữa là chàng trai và cô gái lấy nhau, đẻ sòn sòn hai lượt, mà mỗi lượt lại sinh đôi hai trai hai gái. Hai đứa con gái tả hao hao giống nàng, hai đứa con trai hao hao giống tôi. Tôi nửa mừng nửa lo mang đến cho nàng xem, nhưng chỉ tiết lộ bí mật có một nửa: "Ngay sau hôm đó anh tức quá đến tìm gặp trực tiếp ông tác giả kịch bản, hỏi xem tại sao lại cho cái kết vô lý thế. Ông ta nhận lỗi rằng việc thay đổi là do đạo diễn còn kỳ thực câu chuyện là như thế này".

Bây giờ tôi và nàng đã thành một gia đình. Chúng tôi cũng sinh được hai lượt nhưng may mắn không phải sinh đôi như trong truyện. Anh bạn nhà văn giờ đã trở thành khách quý trong gia đình. Sau vài lần căn bệnh dạ dày tái phát đi tái phát lại vì những đận uống mừng khỏi bệnh và sau những lời khuyên can của bạn bè, anh đã cam lòng bỏ rượu. Có lần chúng tôi mời anh đến nhà ăn tối. Trong khi ngồi chờ nấu nướng, anh kể chuyện cho hai đứa nhỏ của tôi nghe. Đúng lúc đó, vợ tôi mang chai rượu có người vừa biếu lên phòng khách. Đứa con gái nhỏ giục giã: "Rồi sao nữa hả bác? Bác kể tiếp đi, cô bé quàng khăn đỏ mang gì đến biếu bà?". Vợ tôi, rất kiên quyết, cho chai rượu vào trong tủ buffet và lạnh lùng... đóng tủ lại. "Rồi sao nữa ạ, bác kể nhanh lên?". Anh ngẩn mặt ra: "À... ừ thì... cô bé quàng khăn đỏ mang một giỏ bánh mì nóng rất là ngon và... ở dưới đáy giỏ còn có cả một chai rượu Vodka thật là ngon ngon ngon". 

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #novel