truyen-lenghiabk05

Làm dân cũng khó

Sau lần bầu bán thất bại, Lanh về hưu. Cũng đúng thôi! Với cái tuổi năm tám xuân xanh, với bệnh tiểu đường do ăn uống thiếu điều độ lại dư thừa bổ béo cộng thêm cái bụng phát tướng cứ trễ xuống cạp quần trông Lanh ỳ ạch và nhễ nhại khi đi đứng. Dễ đến hơn mười năm nay đi đâu cũng bằng xe gắn máy lạnh, mở cửa có người hầu hạ, Lanh chỉ mấy bước là ngồi vào ghế quay, lại máy lạnh…Cái nhàn hạ nó nhiễm vào người nặng quá nên khó bỏ, hơi tí là thở giấc lên.

Về hưu có nghĩa là về với cái đích đầu tiên trước khi xuất phát, nơi ấy là cái vườn nhà, vậy thì gọi là “về vườn” cũng chẳng có gì là ác khẩu ấy thế mà ai đó nhận cái sổ hưu vẫn chạnh lòng nghĩ đến về vườn, có người thì vui vẻ chấp nhận quy luật tuổi tác lấy đó là hạnh phúc, có kẻ thì ngẩn ngơ tiếc nuối quá khứ vàng son, nhất là kẻ ăn trên ngồi chốc mà làm bố mẹ thiên hạ.

__________

Trong số bạn học tuổi thơ, Lanh có thằng bạn làm nhà văn bướng bỉnh và gàn rở, nó gàn dở ngay cả tên gọi với bút danh Mai Văn Khuổng, đọc lên đau cả lưỡi. Lanh có biệt thự vườn làng La Thượng thì gã nhà văn kia ở nhà cấp bốn bên La Hạ. Ngày còn học phổ thông nó học giỏi đều các môn, riêng môn văn là nhỉnh nhất, đi thi tỉnh thi huyện đều đạt giải cao và Lanh vẫn thấm thúi nhòm bài của nó. Có một lần Khuổng lấy tay che bài không cho nhòm, nó bảo: “Mày học cho mày chứ học hộ ai mà lười thế! Tao cho mày nhòm bài là tao hại mày, cố mà học cho ấm vào thân”.

Trong ngôi nhà rất đầy đủ tiện nghi Lanh đang ngồi nghĩ đến thằng bạn gàn dở kia và thầm tự hào nghĩ: Mẹ thằng khùng! Mèo nào cắn mửu nào, mày học giỏi mà chỉ làm thằng dân, còn tao, tao mua chữ bằng tiền mà cũng ông nghè ông cống cưỡi đầu thiện hạ. Ba cái tiểu thuyết của mày ma nó đọc, tao đếch đọc quyển nào mà có chết đâu…

Chuông điện thoại bàn gắt gỏng khua, Lanh ỳ ạch đứng lên nhấc máy. Đầu bên kia một tiếng nói quen quen:

- Lanh đấy à! Chào cậu.

- À! Ờ…Xin hỏi ai đang gọi tôi đấy?

- Tớ đây mà, Khuổng đây mà!

- Có việc gì đấy ông bạn.

- Có việc đấy! Việc chết người.

Lanh chột dạ, tim bắt đầu đập mạnh…Sợ có người nghe thấy, Lanh thầm thào như cái thói quen ngày làm quan mỗi khi có việc mờ ám dấu đút :

- Gọi di động đi! Điện bàn bất tiện.

- Rất tiện! Cứ nghe đi sẽ biết, chả có phiền nhiễu gì đâu mà sợ, chả ai xin sỏ cầu cạnh gì đâu mà lánh…Số điện thoại di động của ông tôi xoá đi rồi, hai lần gọi ông toàn nói đang chỉ đạo cái này cái kia thì giữ số làm gì…Thế hôm nay bận “chỉ đạo” gì không thì bình tĩnh nghe trưởng ban liên lạc Khoả 23 thông báo này.

Lanh thở phào! Bố khỉ! Chuyện tào lao của mấy thằng cùng khoá. Lại cái giọng sặc mùi khiêu khích! Về hưu thì còn chỉ với đạo ai, có mỗi việc là cắm nồi cơm vào ổ điện rồi đi nằm hay xem ti vi. Thức ăn chờ vợ hết giờ hành chính bọc túi giấy bóng mang về…Lanh trả lời thật nhanh nhảu:

- Rồi! Nói đi! Quyết…

Chợt nhớ ra sự lỡ lời như thói quen nói với thuộc hạ, Lanh lấy tay che miêng nhưng lời nói như mũi tên đã lìa ná sao mà thu về được. Đầu bên kia Khuổng mỉa mai chõ sang:

- Này! vừa nói cái gì nói lại cho nghe thử?

- À không…Tớ không nói gì…Tớ …tớ chưa nói gì, thế có chuyện gì mà cậu gọi tớ thế

- Nghe này: Thằng Bích xuất huyết não chết đêm qua rồi, cả lớp đi viếng nó tập trung tại ngã ba làng La hạ rồi đi ! Hết!

- Này này tớ bảo! Khoan hãy cúp máy, các cậu đi trước đi, tớ xin tỉnh chuyến xe con đi sau.

- Thế đi xe máy xấu hổ à! Đi với bọn này mất oai à?.

Đầu bên này Lanh còn nghe tiếng cúp máy đánh cộp.

Đúng giờ hẹn, tất cả lớp tập trung. Nghĩa tử là nghĩa tận với bạn bè, cả lớp ai cũng có mặt. Thương thằng Bích quá, mới năm chín tuổi, còn béo tốt phây phây bỗng lăn đùng ra chết. Hai đứa con đang đi học, vợ thì lương ba cọc ba đồng, có cái nhà xây ba năm nay chưa kiếm đủ tiền hoàn thiện.

__________

Lanh nâng điện thoại gọi cho văn phòng, đầu bên kia một giọng ỏn ẻn cât lên:

- Dạ! em chào xếp! Em vừa báo cáo với xếp trưởng Lê Khanh về việc cho xe đón xếp đi đám ma nhưng xếp đang bận họp có bảo với em nhắn anh tự lo phương tiện mà đi, xe văn phòng đi công tác từ sáng sớm tinh mơ nên không có xe cho xếp! Em chào xếp.

Chưa kịp nói gì thì nó cúp máy! Láo thật! Mẹ cha con Tuyết văn phòng! Ông mày mà còn đang chức thì mới khẽ ho là mày đã cuống lên như sư đẻ thế mà mới về hưu một tháng đã lỡm mặt ông rồi! Cả cái Văn phòng chết tiệt kia nữa, bao giờ cũng đủng đỉnh hành chính thế mà nó bảo đi công tác từ tinh mơ! Mẹ kiếp…Lanh Móc ví cho tờ hai trăm ngàn vào phong bì rồi đặt vào đấy mấy chữ to như gà mái ghẹ, thè lưỡi liếm mép phong bì. Hai trăm ngàn có bốn tờ năm chục mới coóng nằm như hoa xoè trong cái phong bì. Lanh soi lên ánh sang, nghênh mặt nhìn và chép miệng: Cay thật đấy! Cả đời nhận phong bì hôm nay phải móc ví tống tiền của mình vào! Xót thật! Khi còn đương chức đi đâu con Tuyết cũng chuẩn bị phong bì từ trước mà tiền nong nó lo từ quỹ tiếp khách chứ mình có phải móc ra thế này đâu…Nghĩ đi nghĩ lại Lanh lại đưa cái phong bì lên soi lần nữa. Vẫn là cái đồng tiền mà tự tay cho vào nhưng hình như nó có bốn cái mắt nhìn xoáy vào vào chủ nhân. Lanh lại xé phong bì và rút lại hai tờ rồi lại nắn nót ghi phong bì khác…Không thể được, nước không thể chảy ngược mà phải chảy về chỗ trũng.

Thế là Lanh vác cái bụng chửa mỡ ra ngã ba La Hạ.

Cả lớp đã đủ mặt và Lanh là người đến sau cùng với com lê cà vạt loè loẹt. Cái cavat màu mỡ gà to như chiếc giầm bơi cứ trung chiêng khua đi liếng lại như đồng hồ quả lắc trước bụng.

Người đầu tiên gật đầu chào là Khuổng. Rất vô tư Khuổng hỏi :

- Xe đâu mà đi bộ ra đây thế này! Vậy cậu đi với ai đây?

- Tôi đi vơi ông! Đi với trưởng ban cho đẹp đôi.

- Gớm! Có “xấu đôi” đi thì có! Ông như Hộ Pháp còn tôi như con nhái bén thế này…Thôi ông sang đi xe cái My cầm lái cho nó.

- Cái My buôn cá chợ Bầu chứ gì? Thôi tôi ngại lắm! Cái My chúa đanh đá chua ngoa lại còn “tanh vèn vẹt” …Nằm đất với cô hàng hương hơn nằm giường với cô hàng hàng cá.

Cả lớp ào ào nổ máy xe và đi trước còn trơ hai người. Lanh vỗ vai:

- Đi thôi! Mà đi chỗ khỉ nào đấy?, cậu biết đường chưa?

- Lên làng Ngò! Thằng Bích ở làng Ngò! Ông thì chả biết ai ở đâu…Mà ôtô đâu lại đi với bọn nhom nhem này.

- À…Ờ! Xe cơ quan đi công tác sớm.

Hai người đi ngang qua cơ quan cũ của Lanh, lé mắt thấy chiếc xe với tấm biển kiểm soát mà Lanh chai đít trên ấy. Chiếc xe như con đĩ lữa đã có thằng tình nhân mới nằm im lìm trêu ngươi! Mẹ con Tuyết, Mẹ thằng Khanh! Đồ xỏ lá ba que đến thế là cùng…đúng là thằng Sở Khanh.

Một tiếng còi cảnh sát chát chúa cất lên! Một cái gậy chỉ đường loang lổ như rắn hổ mang chặn lại. Khuổng nép xe vệ đường. Một bóng áo cảnh sát giao thông sinh viên thực tập chặn lại. Cậu ta giơ tay chào và tay kia nhanh chóng thu chìa khoá đang tong teng trên ổ:

- Mời hai bác đưa xe lên hè và cho kiểm tra giấy tờ, bác ngồi sau đã vi phạm luật không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông.

- À ! Tưởng gì! Nhạt toẹt! Để tớ điện cho xếp cậu…Thế các cậu không biết ai đây à?.

Cậu công an thực tập còn trẻ đỏ gay mặt vì tự ái trước câu nói ngạo mạn ngăn không cho Lanh dùng di động. Cậu ta nghiêm mặt:

- Đề nghị bác bỏ điện thoại. Đây là chốt gương mẫu Thanh niên. Từ quan đến dân ai vi phạm đều bị xử lý. Hình ảnh vi phạm đã được báo về Trung tâm trên màn hình. Ai tha cháu khi cháu không chấp hành điều lệnh.

Nản thật! Đúng là đời bạc như vôi…Giá mà ông còn ngồi trên xe đen xe đỏ thì đâu khốn nạn thế này! Khốn nạn thật! Đời khốn nạn thật.

__________

Quả thật đời Lanh sinh ra có số làm quan. Ngày giải ngũ về địa phương Lanh dặt dẹo như chó ốm. Với cái nghề cờ đèn kèn trống trong quân đội chỉ mồm miệng đỡ chân tay, ỳ ạch mãi mới làm anh Thiếu uý tuyên huấn. Mang tiếng là làm tuyên huấn nhưng chỉ cắp cặp tháp tùng vị Đại tá chính uỷ. nhiệm vụ chính là chỉ lo xe cộ và chăm sóc thủ trưởng . Về quê một thời gian lang thang làm đủ nghề đi phụ nề, phụ xe công nông, phụ máy xay sát…Cái gì cũng đứng chân phụ. Thấy anh chồng lép vế loay hoay mưu sinh cô vợ đổng chác: Tôi thấy anh cái gì cũng phụ, hay là làm thêm phụ khoa! Vào trạm xá xã nhận chân phụ đỡ đẻ cho nhà hộ sinh vừa nhàn lại bổ mắt.

Cơ may cũng đến. Hôm ấy xã đại hội. Lanh xung phong vào đội trang trí hội trường và cắt khẩu hiệu. Đấy là dịp Lanh làm chân thợ chính. Kỳ đại hội ấy xã được khen về khâu tổ chức trịnh trọng và trang nghiêm. Trong cái khen của cấp trên có công chính từ tay Lanh và thế là cánh cửa đường quan lộ hé ra từ đấy. Khoá ấy Lanh vào chân văn hoá thông tin rồi đi học chuyên tu, kỳ bầu bán năm sau đã nghễu nghện ngồi ghế trưởng ban có nghĩa là quan “tuyên uý” chuyên đi giảng kinh kệ… Thoắt cái từ xã Lanh đã lên làm quan tỉnh. Lần hội khoá ngồi cùng mâm Lanh ba hoa xích tốc với đám bạn về tài hùng biện của mình trước bàn dân thiên hạ. Khuổng thân ái bảo nó: Nghề tuyên huấn cần hết sức nghiêm túc về sự kiện, về số liệu, về nhân vật. Tưởng ông bạn học lấy đó làm kinh nghiệm ai dè Lanh vỗ mặt:

- Mày không phải dạy tao! Có giỏi thì thay ghế tao mà làm! Cái lũ nhà văn chúng mày là đồ nói phét hết, có ngày tao gô cổ tống tù…

Khuổng nổi khùng:

- Tao bảo cho cái mặt mày biết: Coi mày là bạn tao mới nói còn thằng khác tao ỉa vãi vào. Tao đi tù có đầy bạn bè tiếp tế, chỉ sợ mày đi tù bạn bè nó tống cứt vào mồm.

Chuyện rươu say như vay không trả…Khuổng cũng quên đi, bạn bè “cá mè một lứa” thế là thường nhưng Lanh thì không bao giờ quên mà ngấm ngầm trả đũa.

Đó là một lần Khuổng tát hai cái vào mặt một “Việt kiều yêu nước” người Đài Loan. Tin báo đến tai Lanh lập tức một đội hình sự được điều động. Hiện trường còn đấy, hai cái tát còn lằn vết tay hung thủ. Khuổng tra tay vào còng vì hành hung người nước ngoài phạm pháp quả tang. Khi lấy lời khai Khuổng rất tự tin mà rằng: Tôi đánh vì quốc thể chứ không ăn cướp hay trấn lột, đánh vì tội thằng ấy nhiếc một ông già khi ngồi gần, trong khi ăn trót vương mắm vào áo nó, thằng oắt con ấy về nước phải gọi ông bằng cụ mới đúng thế mà cả gan chửi ông già: Mày là đồ man ri, đồ con lợn…Ông cha chúng tôi đổ xương máu giữ nước, ông cha nó yên thân lẩn đi lánh nạn bây giờ mang mấy đồng tiền về loè thiên hạ, chửi lại ông cha nó. Tôi đánh nó thế còn nhẹ đấy.

Vụ ấy ồn lên, Khuổng bị giam và sau đấy với đủ lời lẽ thêu dệt được loang ra bến đò lò rào: Thằng nhà văn lưu manh đi trấn lột người nước ngoài bị Công an gô cổ vào khám.

Ông già bị lăng nhục không ngờ đấy lại là vị Lão thành cách mạng. Ông về tập hợp tất cả các vị lão thành rồi bạn đồng niên, vong niên đến phản đối và đòi tha Khuổng. Các cụ còn đe nếu không thanh minh được chuyện này các cụ còn kéo lên trung ương mà kêu…Thế là Khuổng được tha bổng.

Môt lần về La Hạ nói chuyện thời sự với cử ri. Trong hội trường đông nghịt người Khuổng cũng có mặt để nghe thuyết giảng. Thằng nhà văn hâm gàn ấy ngồi lủi tít hàng ghế cuối với mấy con mẹ sồn sồn. Hắn lặng lẽ hút thuốc và tý tủm tán mấy mụ, thỉnh thoảng lại cười rinh rích… Thật tình là Khuổng không muốn đối diện với Lanh khi điễn thuyết. Cái loại mọt sách lại “mọt” cả intent Khuổng theo dõi trên mạng thông tin từng giờ còn nóng hổi lại phải ngồi nghe những chuyện cũ mèn từ miệng Lanh phun ra thì kể cũng hơi nhàm tai.

Cuối buổi nói chuyện Khuổng giơ tay phát biểu: Tôi xin cải chính hộ diễn giả là trùm khủng bố tên biladen chứ không phải là Bi Da Đen. Nó đen hay nó trắng thì không rõ lắm vì mặt nó toàn râu ria nhưng chắc là nó đen thật…Cú phản công bất ngờ với Lanh làm cả hộị trường ôm bụng cười như vỡ chợ. Lanh toát hết mồ hôi. Đã bảo thằng nhà văn ấy hâm lắm, nó chẳng kiêng nể ai bao giờ, có mặt nó ở đâu mà trái mắt lập tức nó khủng bố.

------------

Đời người dâu bể. Thấm thoắt thế mà đã mấy chục năm họ lại về bên nhau trong cái xã ven sông và cùng sinh hoạt trong ban liên lạc học sinh khoá 23, cái thời cắp sách đội mũ rơm học trong lòng đất tránh máy bay.

Căn bệnh ung thư quái ác ập đến với Lanh, đã bị đái đường rồi gút độ ba sưng hết khớp xương, lại máu nhiễm mỡ, toàn cái bệnh nhà giàu do tẩm bổ thái quá. Căn bệnh cuối cùng này quật ngã Lanh nhanh như ai đem vốc thịt ném đi mỗi ngày. Lanh ngao ngán nhìn tử thần gõ cửa, đấy là lúc con người bình tâm nghĩ ngợi chuyện hay rở đã đi qua cuộc đời.

Cứ vài ngày Khuổng lại đến thăm một lần. Khi biết ngày mất nhau không còn xa nữa, cả Khuổng, cả Lanh đều trắc ẩn. họ thấy không phải với nhau. Khuổng nằm bên Lanh kể cho Lanh buồn vui của nghề chữ nghĩa, ôn lại chuyện xưa và nhiều khi cả hai cùng im lặng, chỉ có hai bàn tay nắm vào nhau càng chặt hơn . Họ thấy mọi mưu toan quyền chức và đấu đá ganh đua, hãm hại , trả miếng nhau trên cõi đời thật vô nghĩa. Khi còn sức mạnh thì tác phúc giương oai, đến lúc tàn tạ mới ân hận dày vò. Lanh nghẹn ngào nói với Khuổng:

- Tao cứ nghĩ làm dân thì dễ nhưng quả thật là rất khó mày ạ! Có người làm quan rồi, khi về vườn không biết làm dân nữa, cứ nghĩ mình đang ở trên dân, coi dân là thứ đáng thương hại , kém cỏi cần dạy bảo. Hơn một năm nay tao nghiệm ra: Làm quan làm dân cũng giống anh nuôi quân đời bộ đội. Nấu cả vạc cơm cho cả trăm người ăn thì chín nhưng khi về bếp nhà mình, nấu cái niêu bỉm lại sống nhăn sống nhở ra…Mày làm nhà văn suy cho cùng sướng hơn tao. Trước cuộc đời mày chẳng bao giờ bị đẩy vào hưu trí còn tao hết quan là về vườn cô quạnh, hết chức là không ai đoái hoài. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm thâm thật, cụ ấy đã tổng kết: Thớt có tanh tao ruồi đậu đến/ Gang không mật mỡ kiến bò chi.

Rồi Lanh mất…Đám tang Lanh đông đủ bạn bầu. Khuổng viết điếu văn vĩnh biệt bạn với lời lẽ chân thành thống thiết. Trong các vòng hoa chỉ thấy một màu thương tiếc người quá cố chứ chẳng có vòng hoa nào ghi cái chức danh khi còn sống đang làm…Cái chết là sự chấm dứt vĩnh viễn một cuộc đời, cái còn lại của một kiếp người là dấu ấn để lại khi đang sống.

Không một quan chức nào đi theo linh cữu Lanh. Họ đến viếng vội vàng với lời lẽ ai điếu chung chung xong lại hối hả lên xe về công sở, chỉ có đám bạn lớp đủ mặt từ lúc Lanh tắt thở đến lúc ra nghĩa địa.

Đám tang đi bộ tiễn Lanh về cõi vĩnh hằng khoảng hai cây số. Trước khi chết, trong lần gặp nhau cuối cùng Lanh dặn Khuổng: Đừng cho vợ tao thuê xe tang nhé! Chúng mày đi bộ cho tao ra đồng. Tao sợ đi xe máy lạnh lắm.

Đám tang như đàn kiến vống di chuyển chậm chạp trên con đê quai với đầy đủ thanh la não bạt ỉ ôi. Những cờ phướn câu đối bay phần phật trong gió. Tiếng trống cái thúc đùng đùng chen tiếng khóc than…

Đến ngã ba Cống Vòng đoàn đưa tang rẽ phải xuống bãi Mả Mây. Khi người cuối cùng khuất sau đê, người trong làng không còn nghe thấy tiếng kèn trống…Âm thanh của đám tang bị con đê che khuất.

Gà trống thiến

Gà trống thiến

Truyện ngắn của : Lưu Quốc Hoà

Như một thói quen đã ăn nhập vào gia đình con bé Châu Giang từ rât lâu rồi, hình như đã bốn năm thì phải, con gà trống cường vẫn nhởn nhơ tồn tại bên mấy lứa gà mái. Theo kinh nghiệm dân gian, trống càng già thì trứng ấp càng đậu. Đấy chính là lý do nó không bị hoá kiếp.

Con trống ấy trưởng thành từ một chú gà choai có hai cánh nhỏ vểnh lên nên gọi là con cánh tiên.

Trống choai nùng nục những thịt, cái lườn đỏ hỏn như gấcchín, cái mào nhờn nhợt nhú lên trên đỉnh đầu. Nó tham ăn và hay lấn át đám mái ri cùng trang lứa đang ra dàng chum chúm đuôi tôm. Mỗi sớm bình minh, chúng háo hức chen lấn khỏi cửa chuồng và thi nhau vỗ cánh như tập thể dục sau một đêm tù hãm. Khi con Châu Giang bưng rá thóc kẹ ra sân, cả đàn vây quanh chân nó, có con bạo dạn sán đến mổ nhẹ vào mu bàn chân làm con bé buồn kêu ré lên thích thú. Châu Giang bê rá thóc dụ đàn gà ra cuối vườn, dấm dứ chán chê để lũ gà chạy nhảy rồi mới té cho ăn.

***

Cùng trang lứa với trống choai là lũ mái di lông vàng điểm xuyết hoa mơ. Đấy là một bọn nông phu chăm chỉ bới đất nhặt cỏ kiếm ăn bờ dậu và sống hoà bình. Chúng lích cha lích chích dẫn nhau khắp khu vườn. Chúng lấy một chân làm trụ để chân kia bới nhanh nhách. Những con sâu con giun là miếng mồi béo bở chúng ra công kiếm tìm. Bọn gà mái chăm chỉ ấy là niềm vui nhưng cũng là sự gây nhiễu vô tận cho những vạt rau khu vườn, bạ chỗ nào cũng bới tung bới tác lên, khi xót ruột chúng cũng ăn rau, có con còn ăn cả ớt hạt tiêu, ớt sừng bò, cứ thấy quả xanh quả chín nào ló ra lại mổ nuốt chửng và khi bài tiết hậu môn đỏ hỏn, sưng tấy lên, khi ấy lũ mái lại kêu lên tong tóc. Cái gì ăn lắm cũng quen miệng kể cả những thứ đắng cay chua chát.

***

Bên cạnh sự chăm chỉ của gà mái là sự lười nhác của trống choai, nó nghênh ngáo thăm dò sự sơ hở của người mà kiếm ăn, nó chui luồn vào xó bếp tìm vại gạo, bì thóc hay cơm thừa canh cặn mà mổ, nó biết lấy mỏ, lấy chân mở vung nồi, cái nhìn của trống cũng rất lưu manh, nó không bỏ sót bất kỳ sơ hở nào của người mà kiếm chác, đục khoét. Đôi chân nó chỉ dùng chạy nhảy nô dỡn chứ chẳng bới tìm thức ăn trong khu vườn. Nó là tên kẻ cắp khó chịu nhất trong nhà. Mấy lần con Giang bắt được quả tang lúc đang phạm tội trong bếp, nó đóng cửa và lấy lồng bàn úp được cu cậu. Hình phạt của nó vừa quái ác vừa buồn cười. Châu Giang cấu một tàu lá khoai môn úp lên đầu, trống ta nằm im thin thít vì sợ, nó hãi cái dọc khoai bằng ngón tay chặn ngang cổ như con rắn đang trườn qua. Nếu không kết thúc hình phạt, nó sẽ nằm cả ngày không nhúc nhích, chả cần trói chân buộc cánh…Tên lưu manh chuyên nghiệp ấy đánh chết cái nết không chừa, vừa được ra tù là mắt trước mắt sau lại tính đường gây án.

****

Ngày qua tháng đọan, trống đã thấc lên tuổi dậy thì. Cái chân màu vàng nhú lên chiếc cựa như hạt ngô non, ấy là sự tuyên chiến, cái mầm của đấu đá đua tranh, của kẻ đi thống trị.

Bắt đầu là sự đỏm dáng của chàng công tử phong tình. Trống khoe cái mào đỏ rực và cái mắt tròn xanh lơ hấp háy đưa tình với đám gà mái cũng đang vào độ ngứa ngáy thân xác…Trong ba con trống cùng đàn, nó vươn lên làm thủ lĩnh cai quản đám thê thiếp mượt mà ẩm ướt cũng chăm tỉa tót nhung y để dẫn dụ người tình.

Đầu tiên là việc tranh ăn của gà trống để lấy lòng đám mái. Hễ cứ có thóc rắc ra là đứng giữa và trông cho lũ mái mổ tăn tắt. Mấy con trống tình địch bén mảng vào là no đòn. Con trống đầu gấu xù lông, tung vó đưa cựa vào cổ, vào diều mà đạp những cú rất điêu luyện, bọn đàn em đành lủi ra xa ngóng về uất hận.

Nhà Châu Giang có đống rơm rất to. Giữa đống rơm là một cây tre già đóng cọc làm trụ để giữ khỏi đổ. Trống cường thường bay lên đỉnh vỗ cánh phành phạch rồi gáy vang. Tiếng gáy của nó kéo dài, trong trẻo, uy lực và quyến rũ đám gà mái. Đấy là cái đỉnh vinh quang mà nó độc chiếm để thị uy với đồng loại và khoe mẽ với đàn gà mái. Đứng trên đỉnh cao ấy, nó khinh nhờn nhìn đám gà trống thuộc hạ hèn yếu đang bị nó cai trị…

Trống cường đã gây nhiễu đến mức khó chịu, nó đâu biết rằng trên nó còn có người uy thế hơn, đấy là con Châu Giang ngày ngày vẫn hai lần đem đấu thóc kẹ ra ban phát, tối cài cửa, sáng mở cửa để trả tự do cho cả đàn…Nó chả cần biết, nó chỉ nhìn vào cái mào, cái cựa và sức mạnh đang có để tự tung tự tác uy lực với đồng loại nhất là với đám gà mái. Cuộc chiến tranh hùng giữa nó và mấy con trống lép vế là một mất một còn. Nó cấm cả tiếng gáy của hai tình địch, nếu thấy đối phương cất cổ vỗ cánh định gáy là mổ cho lõm đầu nát cánh, thường thường mỗi sáng, do bản năng mấy cậu chàng yếu thế cũng không quên chức phận Giời cho nên ngứa miêng, cứ mở miệng định gáy là có cuộc ẩu đả oành oạch trong chuồng

***

Châu Giang đưa cho ông nó cái đề văn cô giáo vừa cho: “Em hãy tả con gà trống nhà em”… Ông nó làm nghề chữ nghĩa nên vênh vang bảo: “Nhạt toẹt! Ông sẽ tư vấn cho cháu bài văn tả cảnh thật nổi tiếng cho thầy cô mày, bạn mày phải lè lưỡi thán phục! Chả gì cháu cũng là cháu của Nhà văn “nhơn nhớn”, rau nào sâu ấy chứ bỡn à”…Thế rồi bài văn tả con gà trống cũng được xuất xưởng từ tay ông nó, con bé chỉ nắn nót chép vào. Văn đã hay, chữ lại đẹp cô giáo nó phen này có nguy cơ “ngất trên cành quất”.

Nó hý hửng đem bài văn khoe cụ Ngoại và cũng mắc bệnh hoang tưởng kinh niên giống ông, nó thưa với cụ:

- Cụ ạ! Cháu tin bài này “nhất quả đất” ! Ông cháu bảo là bài văn mẫu thì không còn nghi ngờ và có thể dịch sang tiếng tây tiếng tầu cho nhân loại chiêm ngưỡng cũng trong tầm tay…

Vốn là thầy giáo lâu năm dạy môn Sinh vật đã gần chin mươi tuổi lại hay chữ nghĩa và thạo đông tây kim cổ, cụ nó ngước cặp mắt cùi nhãn qua cặp kính sề sễ mà nhìn nó…Cụ chép miệng sau khi đọc xong:

- Có thể dịch từ tiếng Việt sang tiếng Ta thì được, dịch xong đem nhóm bếp hay dán diều cũng không độc hại gì. Văn lá cải! Ông mày toàn viết văn lá cải. Về bảo ông mày là cụ bảo đấy! Nghe chưa? Chính cụ bảo đấy.

***

Nó khóc nưng nức chạy về mách ông: Hỏng rồi ông ạ! Cụ bảo đây là văn lá cải! Ông ơi, thế văn lá cải là thứ văn gì? Thế là từ trước đến nay ông toàn đeo kính viết văn lá cải à! Hoan hô ông! Hoan hô nhà văn lá cải! Hoan hô! Hoan hô.

____________

Thế này thì cụ quá lắm! Nhịn làm sao được. Ông nó hầm hầm sang nhà “nhạc phụ”…Vừa đi ông nó vừa lẩm bầm: Đúng là gàn rở toàn phần chả hiểu gì văn chương chữ nghĩa! Không phải bố vợ thì phen này cho mấy quả thụi.

***

Ông nó quên cả lễ phép chào hỏi, vừa vào đến cửa cụ ngoại đã gây sự:

- Con chả hiểu làm sao cả! Bài văn “con gà trống nhà em” con đã viết bằng tâm huyết để đạt chân giá trị của mỹ cảm Dân gian và đạt tính hoc thuật văn chương bác học…Cụ ngoại nó cáu tiết gỡ phăng cái kính đang đeo, đập bàn kình kịch, cốc chén nhảy tưng tưng:

- Đấy là thứ văn mòn sáo và a dua nghe chưa! Thấy thằng trước nói thằng sau cũng nói theo đuôi, cả lũ rồng rắn, hú hoà kêu la ỏm tỏi và hù doạ bàn dân dưới cái từ mĩ miều là chân lý. Anh đã bẻ cong quy luật tự nhiên để loè thiên hạ nghe chưa? Chân lý dưới sự nhào nặn của anh là “lý có chân”, nó biến ảo xu thời và sặc mùi minh hoạ, thấy người ta im thì vỗ ngực tâng lên là phát kiến vĩ đại, thấy người ta bài bác chê bai, mắng mỏ thì cải chính, lý của anh có chân nên nó chạy như lươn như chạch.

- Ông đừng bảo con hỗn láo, hình như ông mắc mưu địch hay sao ấy? Lập trường của ông có vấn đề hay sao ấy?

Cụ nó như hổ bị thương lồng lên bổ xả:

- Tôi hỏi vào thẳng cái mặt nhà anh: Thế nào là địch, thế nào là ta, anh chỉ là con vẹt không hơn không kém! Anh chớ tưởng thằng già gần trăm tuổi này điếc tai mù mắt, ta đọc, ta học từng ngày dù biết chẳng mấy nả nữa là chui xuống đất. Ta chiêm ngẫm về nhân tình thế thái trong khi anh chỉ chăm trải đầu thẳng nếp và đánh giiầy bóng rồi đút chân gậm bàn, chưa bao giờ chịu đọc hết một cuốn sách rồi chống tay lên trán mà nghĩ ngợi xem cuốn sách ấy nói điều gì, nghĩa lý nó ra sao, đầu anh chỉ toàn nghĩ đến đặc sản và dâm dục, anh chỉ đọc văn mình mà không đọc văn người nên huyễn hoặc tự cao…Đấy là một dạng thủ dâm tinh thần quái dị.

- Ông quá lời với con rồi đấy! Sai quan điểm đấy! Rất nguy hiểm đấý!.

- Anh đừng ngắt lời tôi, đừng láo toét, hãy nghe tôi nói đây này: Bây giờ là thế giới phẳng, những đầu óc siêu đẳng đang cố tạo ra thế giới phẳng để con người chung sống hoà thuận rồi cùng phát triển thì bao kẻ với cái đầu nửa mê nửa tỉnh lại rỗi mồm rỗi việc luôn nghĩ cách quẳng chướng ngại vật ra cho nó mất phẳng đi, cho phức tạp lên. Hơi tý là la lên mưu ta với mưu địch, nếu địch mà nó có cái đáng học thì cũng nên học chứ sao? học cái mưu cao của nó để tiến bộ đâu phải là mắc mưu. Chỉ có kẻ bảo thủ dốt nát mới bài bác văn minh tiến bộ…Ngày tôi còn quân ngũ tôi chứng kiến một tay đại đội trưởng tát vào mặt một anh lính ở lòng chảo Điện Biên, cứ nghe súng nổ là vãi đái ra quần, úp mặt xuống đất mà cầu phật, anh có biết vị chỉ huy ấy nói gì không: Thà kính phục một kẻ thù quả cảm còn hơn có một đồng đội hèn nhát…

- Ông lại mênh mông rồi! Con là nhà văn nên phải làm thiên chức nhà văn là ngợi ca cổ suý.

- Thế thì anh hỏng đứt đuôi rồi! Là nhà văn hay “nhà” gì tôi không biết, các anh cứ thấy người ta rồng rắn đi trên một con đường thì cũng khăn gói nhập bọn, có anh thì cung cúc mà đi, đi hùng hục theo kiểu “đi đầu chẳng biết đi đâu / Đi đâu chẳng biết đi đầu cứ đi” có anh vừa đi vừa bài tiết gây ô uế mất vệ sinh con đường. Chỉ có ai vừa đi vừa chăm quan sát để có ý tưởng mới, phát hiện mới nhằm mở mang cải tạo con đường ấy mới là người đáng dẫn đầu thiên hạ! Mà tôi nói thật, những người đó có khi bị bọn anh đẩy xuống cuối hàng rồi chỉ mặt đặt tên họ là mắc mưu địch.

- Cụ thể cái bài văn tả cảnh con gà trống ông thấy thế nào! Sao ông lại chửi con, ông chửi con là ông chửi một nhà văn đấy.

- Anh đánh trống lảng phỏng? doạ tôi phỏng? Anh vô ơn tôi phỏng?...Anh có cái tật không dám nhìn thẳng vào sự thật, bị đối diện là tảng lờ …Tôi dạy anh từ năm vỡ lòng, tôi lấy thước lim mà dần vào tay anh để anh viết chữ đẹp như bây giờ, đem chữ kiếm cơm thiên hạ? Thấy anh văn hay chữ tốt tôi lại gả con gái cho anh mặc dù tôi biết sau này thể nào anh cũng vào giới văn chương phú lục…Anh là loại nói như thánh phán còn làm thì như mèo mửa ấy! nghe chưa?

- Ông vào đề ngay cho con nhờ…Gớm chết! Ông cầm cả cái chảo lửa mà hắt vào con, bê cả cái thúng cà chua trứng thối mà úp lên đầu con thế này là con tụt hết cảm xúc văn chương …Vâng con là thằng khốn nạn cũng được, nhưng con muốn biết ý ông về con gà trống trong bài văn con viết kia?

- Muốn nghe thì ta nói cho mà biết này: Ta nuôi gà từ ngày để chỏm. Ta thấy gà trống là con vật đáng ghét vì nó giả dối. Nếu xét về bản năng sinh lý nó là giống “hoang dâm vô độ”, bao nhiêu thê thiếp cũng cho là thiếu. Nó bức hại đồng loại để tranh hùng bằng mọi thủ đoạn. Người đời cứ bảo nó gáy là gọi bình minh, ta chả cho là thế, nó gáy vì chính nó…Có khi sự tán phét ấy từ lỗ miệng cánh văn chương thơ phú các anh thổi ra. Bao nhiêu năm quan sát thực địa và nguyên cứu loài vật ta chỉ thấy một hiện thực tự nhiên của gà trống: Khi giam hãm trong chuồng một đêm, vị chí thống trị của nó bị kiềm toả, nó mong sáng để thoát ra khỏi chuồng mà làm tình với lũ gà mái nên giục giã kêu gào cho loài người thức giấc mở cửa chuồng. Nó đánh động bọn gà mái về sự có mặt của nó trong đồng loại, nó cổ xuý cho bọn gà trống các chuồng lân cận hưởng ứng sự tham lam cố hữu…Tất cả cùng gáy vang lên vừa sướng miệng vừa thị oai cái liên minh dâm đãng…Anh hãy để ý kỹ mà xem, khi ra khỏi chuồng nó là con lao ra trước tiên, tìm một hòn cuội hay vật gì đấy không có giá trị dinh dưỡng mổ lấy mổ để và luôn miệng : Thóc thật! Thóc thật. Bọn gà mái nhẹ dạ cả tin sán lại thì nó “ghẹ”. Nó xỉa cánh xuống đất và lượn quanh như cánh diễn viên các vũ đoàn múa minh hoạ thời nay. Các ả gà mái võng cái lưng xuống mời mọc và nó thản nhiên sung sướng cưỡi lên đạp phành phạch. Các nàng gà mái đang cần ăn nhưng vẫn phải dâng hiến nhục dục không thì mất phần…Không thích nhưng cứ vui vẻ nhận, đấy cũng là tính xấu cố hữu của gà mái. Gà trống là tên “ăn gỡ sống gấp” nên lắm thủ đoạn, nó cần thoả mãn sự khoái lạc thân xác trước rồi mới cưỡng đoạt miếng ăn sau, cả hai mục đích ấy ngang nhau…Thế mà cánh văn chương nhà các anh thi nhau ca ngợi sự lưu manh của nó. Tôi thấy các anh bị nó lừa hay có thể biết nó lừa nhưng trót ca ngợi rồi ngượng mồm không dám thú nhận.

********

Dạo này lại sinh ra lắm thứ ăn uống tẩm bổ quái đản. Ngoài dái ngựa bạch, tắc kè, bìm bịp, cá ngựa, con bổ củi…có nhà dinh dưỡng vừa công bố “ngọc kê” nhất là hai quả cà gà trống có thâm niên đạp mái, họ đưa ra những bằng chứng hùng hồn về sức tái xuân và nhất là khả năng cương cứng dương vật đàn ông khi phục vụ các quý bà tái xuân muốn gỡ gạc khoái cảm trước khi bị tê liệt cảm súc... Trống cường lọt vào tầm ngắm của đám thương lái đi săn của lạ. Qua mấy lần thương nghị bộ “ngọc kê” đã ngang một chỉ vàng dòng. Gia đình con Châu Giang không bỏ lỡ cơ hội hiếm có. Trong sự tính toán tiểu nông, họ thấy đây là món hời có nuôi gà mấy năm cũng không lãi bằng, vậy là số phận trống cường được định đoạt.

Sáng ấy trống cường vừa ló cổ khỏi cửa chuồng thì bị thộp. Đám thương lái vật ngửa ra và dùng dao lam rạch lấy đi hai quả cà. Hai quả cà có “ thâm niên” được cho vào cái túi nilon có nước đá bảo quản cho khỏi thiu thối.

Bây giờ trống cường được chuyển giới tính thành trống thiến đã lú mụ mất cái quá khứ anh hùng của mình. Con gà thiến ấy hiền lành với cái mào thun lại, cái cựa dài từng đạp rách diều đồng loại co tụt và mất đi.

Hôm con mái hoa mơ nở một đàn con, bố mẹ Châu Giang lấy rượu bắt trống thiến uống cho say ngủ mê mệt. Họ nhốt đám gà con nằm chung và phun rượu lên lông. Khi tỉnh dậy trống thiến vui vẻ dẫn đàn gà nhiếp đi bới đất tìm sâu thay con mái hoa mơ. Trống không còn biết gáy những âm thanh vang động như xưa mà cục ta cục tác như gà mái…Mỗi khi con gà mẹ tranh con, nó buồn bã bỏ đám gà mới nở, nó sợ con mái hung dữ tấn công khi chiếc cựa dài không còn nữa.

Bố mẹ Châu Giang bàn nhau: Chờ cho con gà thiến béo lên bớt dai thịt sẽ hoá kiếp vào dịp giỗ cụ Nội…Mấy con trống choai đang thấc lên sẽ thay thế chức phận nó.

Trên cái đống rơm cao nhà Châu Giang bây giờ, xuất hiện mấy con trống cường đang ung dung tỉa lông và lại tiếp tục vỗ cánh cất tiếng vang lừng.

Mèo Cộc

Truyện ngắn

Mấy hôm liền tắc tỵ không viết nổi chữ nào. Công việc làm báo nó như con nợ áo cơm hối thúc. Tối nay ngồi trước bàn “gõ văn” lẩn quẩn định sáng tác cho đỡ nhớ nghề nhưng càng gõ càng tắc. Mà quỷ tha ma bắt cái nghề làm báo. Thề với quỷ thần hai vai chứ làm báo thì đừng làm Văn và ngược lại. Hai thứ nó kị nhau hay sao ấy. Những con số khô khan vả trần trụi cộng với Logích sự kiện nó bắt thằng tôi

khuôn phép và chỉn chu.

Viết báo mà “láo” là cái còng ynốc thấp tho bên cạnh sườn. Gan bằng sắt cũng hãi huống chi gan tôi mềm như bánh ga tô. Không viết báo thì lấy đâu để nuôi văn.Viết báo lắm khi sờ đến văn thì ôi thôi…Chữ nghĩa bò lổm ngổm như đàn kiến mà đàn kiến ấy chẳng con nào rung râu chào nhau. Nó nhìn nhau khinh khỉnh. Nó không là đàn kiến có chủ nữa mà là tụi hỗn mang không họ hàng hang hốc, bò bát nháo để đến một địa điểm bát nháo… Cái bát nháo ấy là trang văn thằng tôi bây giờ. Nó có mùi vị thum thủm của cá ế lòi ruột chợ chiều, nó có vị khai khai của bọn trẻ con đái dầm. Nó pha một chút thưỡn thuột của đàn bà muộn sinh nở vì ế chồng…Văn thằng tôi tắc tỵ là như thế. Tôi lại chán cả thằng tôi. Ông bạn Văn đa tình lấy 3 lần vợ trong đó có 2 lần không giá thú chặn tôi ngang đường. Hắn khều cái tay với những đường gân xanh lét vì đói ăn bảo tôi: - Tao nghe nói dạo này mày lắm tiền, lắm lộc văn lắm! Cho tao vay mấy trăm! Vợ tao ở cữ. Tôi nhìn hắn từ đầu đến chân mà ái ngại: - Sao mày lắm vợ ở cữ thế! Con nào! Miền ngược hay miền xuôi! Kinh hay Mường. Ở cữ lần thứ bao nhiêu. Thấy tôi hỏi dồn tự nhiên nó khóc! Chao ơi là nó khóc. Nó khóc ty tỷ, nó khóc hy hý. Nó khóc hưng hức…Tội thật! Thế mà Cụ Nguyễn Khuyến nhà ta còn có đôi câu đối: “Vợ Cả , vợ Hai…Hai vợ đều là vợ cả”…Phục các cụ thật. Đa tình lẻo mép như tôi mà còn hãi thế mà mấy ông bạn Văn nhà tôi trông tẩm ngẩm lại đa mang, lại đèo bòng, lại đèo còng, lại nhọc lòng, thế thì viết làm sao được hở giời. Đã không viết được thì chớ, tại mình chứ tại ai thế mà còn hậm hực. Họ chửi cái đời này đen bạc nên họ phải “sinh bất phùng thời”. Tác phẩm của họ gửi mỗi cơ quan mấy trăm cuốn để bán dần cho độc giả. Đấy là những tác phẩm để đời. Không để được đời này thì để đời sau. Đến đời sau hay sau nữa có mà bán chạy hơn thẻ viễn thông khuyến mại…Chỉ giận bọn gián, bọn chuột., bọn nhện nó không có ý thức bảo vệ tác phẩm cho họ. Mà tôi nói gì ấy nhỉ, lại huyên thuyên mất rồi. Khổ quá! Cái đầu lú mụ áo cơm nên nói nhăng nói cuội. Đêm nay thôi chẳng viết văn mà nói đôi ba câu cho nó hả cái nỗi niềm, ai đọc thì đọc, ai chửi thì chửi…Đừng trách tôi nhé. Thằng tôi lúc dại lúc khôn ấy mà. Hết chuyện đời. Bí quá, tôi kể chuyện Mèo chuyện Chó nhà tôi. Hai con vật mà tôi rất yêu quý để bạn đọc cho vui. Chuyện Người, chuyện Đời kể nhiều quá rồi, ta đổi khẩu vị tý ty cho lạ miệng.

******************

Tôi có con mèo đực cụt đuôi. Không phải nó cụt vì tai nạn xe hơi tàu thuỷ gì mà cái giống nòi nó thế. Tôi mua của một gã buôn mèo giống từ miền Nam mang ra. Còn nhớ hôm ấy. Trận gió mùa đông bắc về giữa đêm. Một chuyến xe khách Miền Nam đỗ xịch trước cửa hàng tôi. Qua ánh đèn đường, tôi thấy một gã vần từ nóc xe xuống 2 cái lồng sắt và từ những lồng sắt ấy vang lên tiếng mèo gào thảm thiết. Nói là gào thì không đúng, có con yếu quá chỉ khẽ kêu khau khau. Ái ngại cho lão đi buôn mèo, tôi cho gã vào nhà. Đáng lẽ tôi phải thương lão vì lão cùng giống người với tôi, nhưng không hiểu sao tôi thấy thương mấy chục con mèo đang thảm thiết kêu gào vì đói rét. Giống mèo vốn kém chịu rét mà. Tự dưng tôi lại thù lão., Cái thằng cha mắt ốc nhồi và môi thâm rinh rích. Nó cũng run cầm cập vì ướt. Tôi đánh thức vợ dậy và hai vợ chồng hai cái máy sấy tóc liên tục hoạt động. Gần một giờ đồng hồ thì lũ mèo khô lông… Tôi gõ cửa hàng xóm và huy động toàn bộ cơm và thức ăn cứu đói lũ mèo. Sau một chặng đường vất vả vì đói rét . Lão lái buôn và lũ mèo no say lăn ra ngủ. Tôi thức gần đến sáng cứ mê mẩn ngắm cả lũ mèo và phát hiện con nào cũng cộc đuôi. Có một con tỉnh giấc và giương mắt nhìn tôi. Tôi đánh bạo mở lồng và nhẹ nhàng rút nó ra ngoài. Con mèo ngoan ngoàn nằm gọn trong lòng tôi và gừ gừ “say lúa”. Nó màu trắng pha lẫn màu ghi và ánh mắt rất lương thiện. Sáng hôm sau tôi hỏi lão lái buôn mèo: - Để cho tớ con Cộc này! Tớ thích nó. Lão chẳng dám lấy tiền của tôi mà biếu không lại còn cảm ơn rối rít . Tôi nhận con Cộc, mà quả thật nếu không có tôi cưu mang có lẽ đàn mèo của hắn đêm qua chết sạch. Ngày tháng bình yên trôi qua. Tuổi thơ ngây của con Cộc gắn liền với tôi bên bàn viết. Ngày đó tôi còn làm thợ nên chỉ viết vào ban đêm bằng bút giấy chứ chưa có Vi tính như bây giờ. Con Cộc cứ thấy tôi ngồi vào bàn là nhẹ nhàng leo lên lòng và “xay lúa” . Tôi viết được đoạn hay nào lại vuốt đầu, vân vê râu nó, có hôm phởn quá còn hôn lên trán con Cộc. Tôi chăm nó như chăm con nhỏ nên Cộc rất nhanh lớn và lông óng ả mỡ màng.

********************

Cái gì đến rồi cũng phải đến. Khoảng 6 tháng sau, nó không còn leo lên lòng tán thưởng tôi viết văn. Bọn mèo cái mấy nhà bên động đực kêu gào thảm thiết mời gọi bên hàng rào. Cộc lúc này đã là một trang Nam nhi xung mãn và đa tình. Nó lao ra bất kỳ lúc nào khi có bạn tình lên tiếng . Bọn mèo cái sao mà đông thế. Con nào cũng nhõng nhẽo và gợi cảm vô cùng kỳ tận với cái đuôi dài cong tớn lên. Nó ngoe nguẩy lượn lờ bên Cộc mời mọc. Cái lưng nó võng xuống, võng xuống dần, hướng dẫn nhục dục. Khi Cộc không đủ sinh lực ban phát, các nàng mèo cái gào lên, lăn ngửa bốn vó ăn vạ. Cộc bất lực ngồi nhìn và vô tư đưa chân rửa mặt. Cứ thế, cứ thế, ngày qua tháng đoạn. Cộc nhà tôi là bố của bao nhiêu mèo con cộc đuôi. Đúng là “giỏ nhà ai, quai nhà ấy”. Lũ con của một ông bố ba vạ, nhốn nháo lăng quăng chạy theo mẹ và phớt lờ ông bố đã trăng hoa với mẹ nó…Tôi phì cười với kiểu sinh hoạt của họ nhà mèo. Người ta bảo “mèo già hoá cáo” và “mèo mả gà đồng” kể cũng chẳng sai. Xóm tôi lúc ấy xuất hiện anh Tam thể nhà Cả Khâm. Anh chàng này nhanh chóng vượt lên nổi trội để lấn át Cộc nhà tôi. Đuôi con Tam thể dài và tiếng kêu vô cùng gợi cảm. Nó to thùng lục và rất galăng với đám mèo cái. Nó vả, nó tát, nó cào cắn Cộc nhà tôi tơi bời. Cộc lép vế hằn học ngồi nhìn lũ mèo cái bạc tình đang rên xiết cái khoái cảm tình dục với Tam thể. Một lần chắc cơn ghen cố hữu nổi dậy. Cộc lao ra cắn cổ một ả mèo cái bạn tình hôm xưa. Ả mèo cái chống lại quyết liệt. Lũ Cộc con cũng quay lại tiếp sức với mẹ. Tam thể hùng dũng xuất hiện, chỉ vài chiêu, Cộc nhà tôi ôm đầu máu rút lui. Mụ vợ tôi dè bửu: Chết bố mày đi! Đồ hám…! Đồ hãm…. Cộc lại tìm sới khác. Lần này nó mò sang làng bên kiếm bạn tình, vài hôm mới về và lâu dần năm bữa nửa tháng mới kéo lê cái thân phờ phạc sơ xác về nhà. Tôi động lòng thương mua cá mua tôm cho ăn. Nó ăn như kẻ chết đói và ra chiều ân hận. Nó leo lên lòng tôi và lại “xay lúa”. Mụ vợ nhà tôi lườm ngúyt cả thằng người , thằng mèo: Đi hẳn bố mày đi! Có thì có, không có thì không có hẳn! Chuột không hay chỉ hay theo gái”. Tôi đi công tác vắng đến gần một tháng mới về. Tôi đinh ninh lần này Cộc nhà tôi mất tích. Dạo này nó ít về lắm, chẳng biết có phải nó hoá cáo hay không. Mèo là mèo, cáo là cáo chứ sao giống này lại hoá giống kia được nhỉ…Nghĩ vậy thôi chứ bao việc phải lo. Tôi tạm quên chuyện con Cộc. Hôm nay tôi về…Trái với nhận định. Cộc đang “xay lúa” trên lòng vợ tôi, nét mặt Cộc u buồn và nó chẳng thèm lao ra cọ vào chân tôi như mọi lần. ..Tôi nhìn vợ . Hình như đoán được điều tôi sắp hỏi . Mụ ta bảo: “Anh đi mấy hôm nó đói ăn lần về. Em úp lại. Gọi chú thú y đến thiến nó rồi. Từ hôm thiến, cu cậu nằm lỳ ở nhà.”. Mụ chọc tôi: - Này! Cánh nhà văn các anh mà như mèo thiến chắc không đi, không viết nữa nhỉ. Tôi bổ vào mặt mụ: - Chẳng biết có còn viết được không nhưng chắc chắn là sau 24 giờ vợ hắn sẽ bỏ đi không bao giờ ngoái lại dù lão chồng có tòa biệt thự 5 tầng... Chợt nhớ ra điều gì . Mụ ta te tái chạy vào buồng lục lá thư cất trong ngăn kéo: - Chú Hải Hồ vừa đến chào anh! Nghe chú ấy bảo lần này chú ấy đi Nha Trang nhận con chắc còn lâu mới về - Hình như năm ngoái đi trại viết trong ấy, chú lại có con riêng…( Hải Hồ là lão bạn chặn đường vay tiền ở đầu câu chuyện) .............

Bên kia hàng rào vẫn vang lên tiếng mèo đang hoan lạc. Quái lạ, không nhìn thấy con Tam thể nhà Cả Khâm. Một gã mèo đen tuyền đang vuốt râu như một lãnh chúa

Tam Đại đồng đường…Vui lắm

Tôi quen hắn lâu lắm rồi nhưng chưa đến nhà lần nào. Hắn là dân thơ phú, tuy không thành danh nhưng nhiệt tình lăn lộn, nhễ nhại vì thơ. Nhà hắn cách nhà tôi tính theo đường con chim bay khoảng 7 km còn đi đường “chim không bay” phải già 10 cây số.

Mỗi quý một lần họp lại gặp nhau tay bắt mặt nheo. Có điều rất lạ là lần nào vác xác thằng người đi họp, hắn cũng ăn mặc rất lôi thôi nhếch nhác. Trong đám văn sỹ diệu vợi hoa hoè hoa sói, hắn như một gã nông dân vừa cởi ách trâu xong buổi cày rồi rửa qua chân tay để đi họp. Cái bụng lép dán vào xương sống, mái tóc cờm cợp còn đôi mắt đục lờ như mắt chó giấy.

Tôi nghĩ bụng: Bọn làm thơ nó hay lập dị cho thiên hạ trông vào biết độ “nhớn”. Càng nhớn càng lập dị, đầu tóc phải như quạ đánh và áo phải nhiều túi, ngực cài mấy loại bút, mồm phải nồng nặc bia rượu, chân đi phải chữ bát hay một tiến hai lùi… khác với dân văn xuôi, mặt mũi lúc nào cũng nhăn như khỉ ngửi mắm tôm, thấy bà đi chợ bỏ thúng ngang đường đi đái cũng nhòm để “tìm chi tiết cuộc sống”…Dân văn thơ không dở hơi có mà chuyện lạ. Bọn thê thiếp mà trót phí đời lọt vào vòng tay cò bợ ấy, thật đúng là con nhà vô phúc.

***********

Lại kể về lão bạn làm thơ.

Lần nào đi họp, lão cũng mặc bộ quần áo lính chó đớp gấu hay bộ cánh nâu. Tôi nghĩ lão trưng mốt ý là: Ta đây “chất lính” hay ta là “chất nông dân”. Mẹ kiếp! Đàn ông nước Nam này ai chả đi lính mà phải khoe, đa phần ai chả là Nông Văn Dân mà ra, việc gì cứ trưng mới được… Ấy là tôi chửi thầm gã như thế.

Nghĩ vậy là tội cho gã. Nguyên nhân lôi thôi nhếch nhác là do gã nghèo, lại đông con, lại ham thơ phú. Một bữa liên hoan nhà hàng ăn lẩu, tôi mới phát hiện ra, lão cứ lóng ngóng cầm thìa, cầm đũa rồi ngồi đực ra không biết ăn thế nào, lão quan sát mãi mới dám thao tác. Lúc có hai thằng với nhau, nhân say rượu, gã nói thật: Tớ nghèo lắm, chỉ quanh quẩn ruộng vườn gà qué. Được con vợ ngoan nhưng đần thối ra, chỉ được cái mắn đẻ, cứ “sớt” qua một tý là bụng lại phùng tướng như ễnh ương cóc kềnh, con đông nhà chật ở đất nhà quê có làm gì ra đồng tiền, nhìn thiên hạ họ sống lại tủi thân cho mình… Gã khóc và cuối cùng tôi cũng rơi nước mắt.

Buổi tổng kết cuối năm gã lên diễn đàn đọc thơ. Bài thơ của gã có nhan đề: Tam đại đồng đường.

Bài thơ thế này:

"Vui sao Tam đại đồng đường

Ông bà con cháu tình thương dạt dào

Lúc nào nhà cũng xôn xao

Như mối vỡ tổ mưa rào tháng ba…"

Đại khái là thế, đoạn sau quên tịt không nhớ. Hội trường vỗ tay ào ào khen hay. Đã là thơ đọc trước đám đông là phải hay rồi, không hay có mà lạ, không vỗ tay cũng là… lạ. Vỗ tay vốn dĩ không mất tiền.

Tan cuộc, hắn rủ tôi: Hôm nào rỗi về nhà tớ chơi đi, vui lắm, nhà tớ Tam đại đồng đường.

Vốn là kẻ tò mò chi tiết nhà quê, tôi hẹn hắn sẽ về chơi sau dịp Tết, nhân thể mừng tuổi ông bà hắn.

**********

Đấy là một sáng xuân sau tết Nguyên đán, tôi háo hức cho chuyến vi hành về huyện Nhân Lý cuối tỉnh Nam. Hôm ấy, tôi diện rất oách, lại nổi máu đĩ thoã vẩy cả nước hoa cho thơm như chả quạt. Biết đâu phen này về quê hắn lại có mấy em chồng chê, chồng bỏ phải lòng phải mề thì… vớ bở.

Giá nhà hắn có điện thoại thì đỡ nhọc. Tôi lơ ngơ như bò lạc trước cổng làng để hỏi thăm nhà. Người làm đồng đi qua lạ lẫm nhìn tôi như nhìn gã hề vừa xuất hiện trên chiếu chèo. Chả ai ăn mặc chải chuốt như thế. Tết qua cả chục ngày rồi ai còn hoa hoè hoa sói như tôi.

Tôi dè dặt hỏi thăm đường về nhà gã bạn. Họ rất nhiệt tình chỉ đường: Bác đi đến ngã ba cây gạo kia kìa… Đấy! Đấy… đi thêm quãng nữa gặp ngã tư thì rẽ trái. Đi một đoạn nữa lại gặp ngã tư có ba con trâu đang buộc gốc cây đa, một con cái với hai con đực, một con nằm, hai con đứng nhai cỏ ấy. Đi lúc nữa rồi rẽ phải, đi lúc nữa có cái giếng bỏ không lại rẽ ngang… Ối giời ơi! Sao mà lắm rẽ thế thì biết đường nào mà lần. Cái đầu lú mụ sao nhớ nổi.

Tìm mãi rồi cũng thấy nhà bạn, đó là một khu nhà giữa làng như khu trù mật rậm rì tre gai và những bụi duối ken dày. Gã lao ra ngõ ôm chầm lấy tôi cứ như tôi mới ở âm phủ hiện hồn về. Chưa hỏi han nhau được câu nào bỗng hết hồn hết vía vì đến hơn chục con chó từ bốn phương tám hướng lao ra cắn hội đồng. Con thì to như chú bê con, răng trắng hởn nhe ra đến khiếp… Kinh quá, cái răng ấy mà ngoạm chân có lẽ tới xương ống. Bọn chó rách thì sủa cuống cuồng, cứ chạy vòng quanh chân mà sủa, mồm sủa, đuôi quất tũn tỡn. Giống chó nhà quê cậy đông nên rất hăng hái trong việc đón khách lạ…Sợ quá, tôi khư khư ôm bạn và cùng quay vòng chống đỡ như diễn viên vũ Ba lê.

Cũng may là có bọn trẻ con ra can thiệp. Gần chục đứa túa ra, mỗi đứa một cái roi, chó nhà nào nhà ấy vụt. Đàn chó bị giải toả, cum cúp chạy về nhà. Tôi nhận ra chó nhà Tam Đại đồng đường đông hơn chó nhà không Tam đại.

Hoàn hồn, tôi mới buông bạn ra mà thở và có dịp ngắm cơ ngơi đồ sộ nhà bạn. Nhà cửa gì mà kéo dài thườn thượt như ký túc xá sinh viên, mà người thì đông như cái chợ phiên đang họp.

Thấy tôi nhìn ngắm tò mò, bạn giải thích: Nhà đầu tiên là của ông bà, cái nhà có bức dại ấy. Bà tớ đang mệt nên đóng cửa tránh gió máy. Nhà kế tiếp là của bố mẹ. Mẹ tớ mất rồi nên còn mỗi bố, kế đến là nhà tớ rồi đến nhà chú Hai Thìn, Ba Tỵ, Tư Nhân…Cuối cùng, ở góc vườn là con trai tớ, vợ nó đang ở cữ… Cái nhà con con kia là của cô Nhan chê chồng dẫn con về nương nhờ đất cha mẹ… Tất tật cả nhà ở chung nhau trong mảnh vườn cụ tớ để lại…

Các loại gia chủ tiến ra chào khách, ông khách từ trên trời rơi xuống là tôi cứ luống cuống chìa tay ra bắt. Đám trẻ con cỡ gần một trung đội khoanh tay dạ ran. Cũng may, khi qua kho xăng, tôi gạ đổi được trăm ngàn tiền lẻ nên gần đủ mừng tuổi chúng. Đứa nào đứa nấy tý tởn bỏ túi và cười như vỡ chợ. Chúng toá toà loa ra vườn, chỗ này đánh chắt đánh chuyền, chỗ kia đánh bi đánh đáo, có toán lại bày trò nấu cơm thi bằng vỏ trai, nổi lửa khói um, cãi nhau chí choé. Khách không thể an toạ bất kỳ chỗ nào cho phải phép vì lượng người quá dư so với ghế ngồi cũng như diện tích khả dĩ căn nhà cho phép nên đứng ngoài sân chờ làm xong thủ tục đón rước mới vào nhà xơi nước.

Bạn tôi tâm sự:

- Ông tớ là người rất hiếu đễ với tổ tiên. Ngày cụ tớ mất dặn lại: “Thế gian vẫn ước “ruộng giữa đồng, chồng giữa làng” là có phúc nên anh cứ ở lại ngôi nhà này mà duy trì nòi giống tổ tiên. Hết đời này sang đời khác quy tụ một nơi như tre ấm bụi, chị ngã em nâng.

Tôi ái ngại hỏi bạn:

- Nhưng mà đông quá ở chật chội khổ lắm, sống sao đặng?

Như hưởng ứng lời nhận định của tôi, bà con dâu thứ, vợ Hai Thìn đi chợ về đã loé xoé:

- Đứa nào đun tranh bếp của tao, giờ này sao còn khói um lên thế kia! Không cho tao cơm nước, trưa nay tao nhịn à?.

Vợ anh bạn chui từ bếp ra, chùi tay vào đít quần, thầm thào cái gì đó rồi không khí lại im lặng nhưng Thím Hai vẫn lầu bầu trong miệng. Tôi hiểu ra là bác Cả vợ bạn tôi đun nước pha trà cho khách nên mới lỡ nhịp “ca” thổi nấu thường nhật khi hai nhà đã quy ước.

Trong một khu vườn rộng chừng hơn một sào mà chứa đến bảy hộ gia đình thì quả là kinh hãi. Liên tục có khói bếp bay lên, liên tục có trẻ con cãi cọ bày trò chơi, liên tục có kẻ cười người khóc. Cái bát cái đũa còn có lúc xô xát huống chi giống người… Cha này làm thơ mà không có cái bàn viết, không có mẩu giấy, không biết hắn làm thơ lúc nào…Manh áo hắn mặc nhôm nhoam, miếng ăn lạ bỡ ngỡ cách nhai cách gắp, không phải hắn lập dị đâu. Tôi nhận ra điều ấy khi hôm nay “mục kích” cái mô hình mấy thế hệ ở chung. Cái câu lục bát hắn viết: “Lúc nào nhà cũng xôn xao / Như mối vỡ tổ mưa rào tháng ba…" là câu thơ hắn viết rất thực, thực như cảnh nằm trong chăn mới biết chăn có rận.

Tự nhiên hắn hỏi tôi:

- Cậu thấy cảnh Tam đại đồng đường nhà tớ thế nào?

Tôi buột miệng:

- À…Ờ! Cũng vui nhưng tớ thấy nó giống cái bến xe Giáp Bát… Thế này mà ông còn làm được thơ thì ông vĩ đại nhất trong những nhà thơ vĩ đại nước Nam, có khi hơn cụ Tam nguyên Yên Đổ.

Trên đường về, tôi lại tự nguyền rủa cái thói hay xỉa xói móc máy người khác khi chưa hiểu gì về họ.

Tôi nhận ra thói vơ đũa cả nắm của mình cũng vô tình thành kẻ bất lương với bè bạn.

Những mảnh đời góc chợ

(Thương mến tặng những mảnh đời bất hạnh trong cõi Người)

Tu..Uỵt...Tu uỵt

Dòng xe máy, xe đạp và người đi bộ đang đi lại hối hả qua đường sắt bỗng khựng lại. Hai anh chàng mặc sắc phục nhân viên ngành đường sắt, lem nhem những vệt tím vệt nâu, đầu đội mũ Kêpi đứng chắn hai bên đường ray, cùng giơ cánh tay phải nâng lá cờ hiệu màu đỏ, tay trái cầm còi đưa lên miệng liên tục phát ra những âm thanh chói gắt, cảnh báo cho những ai bỡn cợt với thần chết.

Thừa lúc người bên phải đang mải chặn một xe máy đèo hàng cồng kềnh, một xe cải tiến chở đầy than tổ ong hai người gò lưng, nhướn cổ đẩy thục mạng. Biết không ngăn nổi, anh chàng bên kia ào sang trợ sức.Vừa đẩy vừa tuýt còi nhắc nhở người phía sau:

- Alô! Đường sắt thông báo! Gác chắn số 1 an toàn mời đoàn tàu F5 tiếp tục vào ga.

Cả hai anh chàng gác chắn đứng thẳng đuỗn nâng lá cờ hiệu ngang mặt, một anh áp đện thoại di động vào tai, vẻ măt đầy quan trọng nói nheo nhéo. Chuyến tàu khách Bắc Nam như con rắn khổng lồ từ từ giảm tốc độ, bình yên lao qua. Hồi còi báo hiệu vào ga ngân dài, náo nức. Người ùn lại bên gác chắn bây giờ mới để ý đến chiếc điện thoại di động đồ chơi trẻ con loằng ngoằng những dây là dây nối với chiếc đèn pin hoen rỉ .

Một cậu chàng ăn vận na ná như hai người kia, từ dãy chợ ven sông, nhảy chân sáo qua dải phân cách, toét miệng cười chạy đến. Cả 3 nhập đám, nắm tay nhau vui vẻ đi ngược về phía nhà ga, tay vung vẩy móc sắt, thõng thẹo trên vai chiếc bì tải sác rắn nhem nhuốc. Khom lưng nhặt những vỏ lon nhôm hành khách trên tàu vừa liệng xuống. Cả 3 dáng vẻ phởn phơ, luôn miệng hát những câu do họ tự nghĩ ra.

Lữ khách qua đây lần đầu bán tín bán nghi, cứ tưởng 3 anh chàng nhôm nhoam kia là nhân viên đường sắt. Họ nghi hoặc sinh ra tò mò và tò mò sinh ra nghi hoặc.

Không! Ngàn lần không! Đó là món quà kỳ diệu mà Ngọc Hoàng Thượng đế ở tít cao xanh và Diêm Vương từ thẳm sâu địa ngục cùng “hiệp y” trao tặng phẩm vật cho hạ giới làm giảm bớt thương vong ở cái thời mà con người đang chóng mặt vì những phương tiện giao thông thời thượng, tân kỳ và siêu tốc.

Có thể trong một lần “giao ban” nào đấy, hai vị vua anh minh sáng suốt đã giật mình vì danh sách những kẻ đầu xanh tuổi trẻ trong sổ ThiênTào được xếp vào diện đang hưng cường, chỉ trong giây phút phẫn kích đã tự xoá tên mình trên hạ giới, ùn ùn kéo xuống Diêm Vương làm ma đói ma khát.

Những gia đình sống ở đoạn này cứ giật mình vì bao cái chết thương tâm liên tục xảy ra. Người ta đồn rằng ở đó có ma đói :đói áo cơm, đói mốt thời trang, ,đói tình yêu...đói đủ thứ nên cứ dẫn thêm người xuống âm ty để có thêm bè bạn .Đấy là cái “dớp”...cứ mỗi vụ tai nạn xảy ra lại thêm một cái “dớp”.

Vốn dĩ nơi đây ngày trước cũng có một gác chắn, có nhân viên ngành đường sắt túc trực gác ngày đêm. Cái bốt gác hình hộp vẫn còn nguyên đó. Thay vào lớp ve vàng, thời gian đã phủ lên lớp rêu xanh mốc thếch và bức tường tróc lở đóng cửa im ỉm ngày đêm.

Từ ngày con đường QL1A được nâng cấp thành đại lộ, ngành giao thông mở đoạn bùng binh quay vòng, phá thế ách tắc nút cổ chai, gác chắn cũ chuyển đi, người ta chôn một cọc bê bê tông án ngữ, dành riêng cho người đi bộ, đi xe máy xe đạp lưu hành. Người ở thị xã quen gọi là cái nách Phú Hồng, lâu dần thành tên gọi chính thức, là cái địa danh kinh hoàng với nạn tàu hoả cán chết người vô ý đi qua. Cái nách ấy không thể không có vì mục đích dân sinh nhưng lại là điểm tự quản, tự điều tiết .

Từ ngày có 3 anh chàng dở hơi, tự nuyện làm việc không công, tai nạn không sảy ra nữa. Ba con người dị mọ làm việc thật mẫn cán. Mà không hiểu sao giác quan của kẻ dở hơi lại thính nhạy thế. Giữa muôn vàn âm thanh hỗn độn, họ vẫn nhận ra từ rất sớm âm thanh của đoàn tàu đang về ga, hùng hổ, thét lác, săng sái tuýt còi, nâng cờ hiệu chặn người...Thế chẳng phải họ là quà tặng của Ngọc Hoàng và Diêm Vương là gì .

Nách Phú Hồng đã tồn tại từ lâu. Bên phía nam đường tàu là chợ cóc, không lều quán, không biển bài, tụ tập theo giờ với đủ các mặt hàng xếp trên thúng mẹt và hàng bán rong bằng xe thồ. Phía Bắc là chợ chính, trên bến dưới thuyền, đông vui xầm uất, nơi giao lưu của trung tâm Tỉnh lỵ thời đổi mới. Nơi tiêu thụ sản vật vùng đồng chiêm trũng.

Ba chàng gác chắn nọ được hai bên chợ cưu mang. Hàng cơm phở, bún bánh gọi cho đánh chén thường xuyên, có khi còn có “cỗ ăn cỗ dựa” đùm về. Hàng rau, hàng hoa quả thì lựa những thứ xấu mã nhưng còn tươi ngon cho đem về nấu nướng .

Được mọi người khuyến khích, ba chàng nọ càng chăm chỉ với việc giữ an toàn cho ngã ba. Họ xin mấy tấm lợp xi măng gạc bán mái vào bốt gác cũ để tránh nắng mưa, xum vầy hủ hỉ với nhau, luôn miệng hát ca vui vẻ. Nhường nhịn đùm bọc nhau như anh em ruột thịt.

Trong ba người, chỉ có một là nhớ tên tuổi và quê quán, hai người còn lại có ai hỏi đến chỉ ngẩn mặt rồi quầy quậy lắc đầu. Đồng tiền có lỗ người cần có tên, thế là bác hàng khoá hay chữ liền đặt tên cho 2 người còn lại. Bác đập vai một cậu mảnh khảnh hay soi gương chải đầu:

- Mày hay làm dáng tao đặt cho mày cái tên thật kêu...! Bác ngênh mặt ngẫm nghĩ...ừ!Tuấn Anh! Được đấy! Tên mày là Tuấn Anh nhé! Thằng kia to béo dữ tợn có tướng con nhà võ tao đặt là Sơn Nam, gánh mãi võ Sơn Nam nức tiếng một thời chúng mày biết không?...Cả bọn nhệch miệng ra cười, trả ơn bác hàng khoá, họ nắm tay nhau vây quanh, tô tổ múa hát.

Như đã kể đầu chuyện. Phía Bắc ngã ba là khu chợ chính. Ba chàng tội nghiệp lấy đó làm nơi tá túc. Họ chọn góc hẻm, lấy bạt cũ căng làm lều. Chiếc chiếu cũ rách te tua trải lên nền đất ẩm ướt, chiếc màn vó tôm buông sẵn chẳng bao giờ vắt lên. Nhổm nhảm trong màn là đùm, bọc, tập tàng chi vị nồi niêu mắm muối, tài sản của người dở hơi và cuối bức tường là bếp đun nấu kê bằng hai hòn gạch xỉ, tanh bành củi đóm cháy rở, tềnh hệch một lũ nồi niêu méo mó, lúc nhúc một lô bát cóc gặm.

Đã cả tuần nay, Sơn Nam ốm nằm rên khừ khừ trong đống chiếu chăn nhàu nhĩ. Tuấn Anh và Bạ thay phiên nhau, vừa cơm cháo chăm người ốm vùa lo trực gác chắn tàu. Không có đồng hồ (mà có chắc gì đã biết xem) nhưng họ căn giờ tàu chay qua rất chuẩn, chân bước nhon nhót, mắt để ý liền liền, lúc nào cũng chủ động với đoàn tàu sắp vào ga.

- Có gạo nấu cháo cho thằng cu ốm chưa, sang đây tao cho, có cả gạo nếp nữa đây này....Bà Tám gạo gọi ơi ới.

- Cho mấy cái đầu cá trắm cỏ mà nấu dưa này, xin bà Hợi toét mấy quả cà chua dập, bỏ vào cho nó ngọt nước...Chị Thâu hàng cá gọi với sang.

Bà Cúc béo hàng thịt ỏn thót:

- Cho ít xương vụn ninh lấy nước mà nấu cháo cho thằng cu Nam này! Lôi cổ nó dậy, ép cho nó ăn đẫy vào, cạo gió cạo máy rồi sông gội đi cho nhẹ người. Mẹ cha cái đời, chán cho cái đời thế, kẻ ăn không hết người lần không ra, thằng nuôi chó cho nằm đệm mút, thằng nằm đất nằm sương...Bà thở dài, đập cái dao phành phạch xuống phản thịt.

Tuấn Anh túi tít vâng dạ, đôi chân vòng kiềng bả thả bước, “nhà” có người ốm bận thật...

- Mua rượu uống nhá! Mà phải mua thuốc cho thằng Nam uống chứ!

- Mua thuốc thôi! Tiền còn phải đi viếng đám ma chứ!

Hai chàng ngẩn mặt cân nhắc.

Mùi cháo thịt, mùi hành hoa, tía tô sực nức bốc lên. Bạ và Tuấn Anh đỡ Sơn Nam ngồi dậy xoa xoa, đập đập dỗ dành:

- Ăn đi! Ăn vào đi! Khỏi ốm đấy, mai đi gác tàu cho chúng tao còn bới rác, ốm lâu thế này ông Quang lo lắm, tý nữa ông ấy đến chơi đấy, ông ấy bảo làm tốt, đừng có để tàu làm chết người ông ấy cấp cho cái bằng khen, cả tiền nữa, tha hồ mà ăn .

Ông Quang là ai, ở đâu! Cả chợ tò mò thấy các cậu lúc nào cũng nhắc đến .Chắc ông là mặt trời! Mặt trời là tinh tỏ lắm, nơi nào chẳng soi thấu. Ai ốm đau, ai chăm, ai lười ông đều biết cả đấy! Có lẽ trong đầu óc sơ giản và lú mụ, nhóm gác chắn vẫn hình dung như thế.

Cầm bát cháo nóng hôi hổi, Nam cố húp. Ngon thật! Cháo đã sánh lại lần nhần những thịt ninh nhừ. Nhìn các bạn đang ngật đầu vỗ tay, Nam càng húp mạnh. Mồ hôi tứa ra lân rân trong người. Có lẽ trong cái ngon vật chất ngấm vào tỳ vị còn có cả tình thương ấm áp, thật lòng mà hai người cùng cảnh ngộ dành cho. Suy cho cùng có gì thật hơn ở tấm lòng những kẻ dở hơi, đắp đậy cho nhau giữa chốn kinh kỳ, đô hội.

Chị Gấm lao công lễ mễ bưng nồi nước sông sực nức mùi lá chanh, hương nhu, bạc hà. Bắt Nam ngồi gò lưng, chùm chăn kín mít. Thế là khỏi thôi mà! Ông trời phú tính cho kẻ lang thang cơ nhỡ chỉ đau ốm qua loa, thuốc men là cơm cháo ,lá lảu, không phải vào bệnh viện để bác sĩ mổ bụng cho đau. Kẻ nào ác là hay ốm nặng lắm, bị bác sĩ mổ bụng! Ông Quang chẳng bảo thế là gì ! .

Khu chợ trung tâm rộng mênh mông. Có đến chục dãy Kiốt nằm ngay hàng thẳng lối, quay mặt vào nhau, cứ mỗi buổi trưa thưa người mua bán. Khi các chủ sạp gà gật ngủ thì góc chợ xuất hiện hai tốp người đó là nhóm gác chắn và nhóm đồng nát ở làng Động, làng Hạ, làngVọng tụ tập về sau một hồi đôn đáo chạy quanh thị xã mua gom vỏ bia lon, giấy lộn, sắt vụn, vỏ bao xi măng...Họ trải tấm bạt cũ, nghỉ ngơi một lát để lấy lại sức chiều còn mưu sinh. Mùi bánh rán, mùi bún đậu mắm tôm bốc lên theo tiếng cười giọng nói dân quê. Thỉnh thoảng họ lại mời mấy chàng gác chắn dở hơi nhập đám cho xôm. Ba chàng lôi ra bao nhiêu của nả thu gom được. Một cuộc thương nghị, đấu giá chóng vánh diễn ra...năm trăm một ngàn, năm ngàn...ừ thôi! Vô tư đi! Sông xênh! Có ai lại đi kèo cừ với mấy chàng thiểu năng trí tuệ, giúp nhau là chính, làm phúc đâu cứ phải bỏ tiền vào hòm công đức nhà chùa.

Cánh đồng nát mùa nào thức ấy, có sản vật gì cũng nhớ đến nhóm gác chắn Đùm khoai, bắp ngô, nải chuối...có gì cho đấy. Tội nghiệp những kẻ vô gia cư, cũng là cái giống người da vàng máu đỏ mà đầy đoạ tấm thân nơi vỉa hè góc chợ. Chỉ có mỗi cái an ủi là khổ mà mà không biết là mình đang khổ.

Có lần sau Tết họ lượm được ở thùng rác nhà giàu vô khối rượu vang, mang về mừng tuổi cánh gác chắn. Rượu sịn hẳn hoi thế mà họ lén vất đi. Chắc là của đám dân nghèo đến tết lễ. Họ dùng bia lon, rượu Tây chứ ai thiết dùng thứ tầm thường ấy...Các chàng uống cả tháng say bí tỷ.

Tuấn Anh vân vê đùm sôi gà ở lòng tay sau khi đã chia phần cho hai bạn. Cậu ta vừa tong tả từ một đám hiếu trong Thị xã trở về .

Trong lúc hai bạn đang háo hức ăn. Tuấn Anh đưa nắm sôi lên miệng mấy lần rồi lại thẫn thờ bỏ xuống! Mới hôm nào vui vẻ thế, vợ chồng, con cái sum vầy,hủ hỉ, giờ tan tác đôi nơi...

Tuấn Anh đã từng có một bạn đời! Đó là một cô gái dở hơi. Chung chạ với nhau sinh một cu con. Không biết tại sao, bất kỳ đám tang nào trong Thị xã cậu cũng biết và có mặt với chiếc phong bì có hai ngàn đồng thẳng nếp, một phong hương thơm. Sau khi đặt trịnh trọng lên bàn vong, cậu chắp tay, khom lưng bái lậy rồi lui ra làm những việc nhà đám rất thành thạo không đợi ai phải cắt đặt. Tan đám, cậu không ăn uống chỉ nhận một đùm lộc rồi tức tốc chạy về chợ, dành lấy thằng cu con hôn lấy hôn để. Hai vợ chồng tranh nhau hôn con rồi cù cấu nô đùa nhau. Thằng cu mặc cái áo có nhiều mụn vá, tỗng tễnh cởi Chuồng, nhún nhảy hai cái mông nhọ nhĩnh và bụ bẫm cười như nắc nẻ. Hai cổ tay bụ thun lút cầm miếng thịt gà đưa lên miệng gặm gặm ,mút mút. Niềm vui sinh sôi! Bức tranh hạnh phúc có gì cay cay nơi mắt ai nhìn nhưng cũng làm vui thêm góc chợ. Cái sinh linh bé nhỏ ấy là sự gạch nối, là sợi dây thắt buộc hai mảnh đời bất hạnh giữa cuộc đời còn bao điều làm cho mỗi chúng ta động lòng trắc ẩn.

* * *

Mà quên chưa kể, ở góc chợ phía Tây, sát bờ sông có một toán ăn mày trên dưới chục người, toàn là diện khoèo chân hở rốn, mù loà ngớ ngẩn, lủng củng bị gậy, tanh bành sống áo, nhệch nhạc hình hài. Đám mây màu xám ấy từ tứ phương tụ bạ về đây. Khác với đám ăn mày giả dạng, họ ốm o, hẻo lả, dật dà dật dẹo. Trong đám ấy, có một cô gái dở hơi trông cũng ngồ ngộ với da trắng và cặp má bầu bầu. Nếu không vì cái miệng hơi méo, cái mũi to ngồi chồm chỗm như con ếch cơm, cái mắt ngơ ngơ và mái tóc rối như tổ quạ, sơ tướp như phoi tre thì khả dĩ có thể gọi là cũng dễ nhìn! Thôi, dở hơi thì mới thế và như thế mới là dở hơi. Chẳng biết tý tủm lúc nào với cậu Tuấn Anh nhà ta, ít lâu sau, cái bụng lùm lũm đội áo to dần lên. Tai ác thật! chỉ trách Thượng Đế chí công đặt cái trò đùa tai ác! Sao ngài không làm cho cái sự “tỉnh tình tinh” cũng dở hơi luôn môt thể cho rồi, để hai kẻ khốn khổ, khốn nạn kia bớt đi phiền toái. Đa mang nhau thì phải đèo bòng! Một cậu cu oe oe khóc chào đời, nó nhẵn nhụi, xinh xẻo đáng yêu như những đứa trẻ đáng yêu trên cõi đời này...Đúng là “sượng mẹ lại bở con”, vì thế sự có mặt của nó lại làm thăng bằng thêm cho hai kiếp người đang bất hạnh, ngày tháng phập phều trôi dạt.

Đám ăn mày ở càng lâu, càng như cái gai chọc vào mắt lão cai chợ. Vốn dĩ lão là dân lục lâm thảo khấu, chuyên đâm thuê chém mướn, can án rồi ngồi tù. Ra tù lão xin cai cái chợ ven sông lắm đầu bò, đầu bướu. Du đãng mới trị được du côn, thói đời vẫn thế .

Lão chống nạnh tay nhìn đám người ăn mày như nhìn vật thể lạ. Cái mắt ốc nhồi vằn những tia máu đảo ngược lên quát tháo :

- Mẹ cha tiên sư bố bọn ăn mày! Đồ bẩn thỉu! Sao không chết bố chúng mày hết đi cho nó khỏi bẩn chợ .

Đám ăn mày run như dẽ. Quả thật, những thân hình nhệch nhạc, xiêu vẹo kia còn chỗ nào nương thân ngoài cái xó chợ này. Họ vịn bám vào cuộc đời với đôi tay hẻo lả. Họ đi ăn mày để sống và sống để đi ăn mày rồi...chờ chết!

Số ăn mày tụ bạ ngày một đông. Cái tập đoàn đui, quoè, mẻ, sứt cứ tưng bừng sinh xôi phát triển làm tối một góc chợ. Họ đeo bám vào cuộc sống bằng mọi cách. Thế mới biết, sự sống ở cõi đời này đáng quý biết nhường nào.

Một buổi sáng lão cai chợ vút roi đen đét. Cái mặt lưỡi cày vằn vện. Cái miệng bèm bẹp phun ra giọng điệu thiên lôi :

- Xéo…! Xéo ngay cho khỏi bẩn mắt ông! Nội nhật hôm nay, đứa nào ở lại ông bỏ bao tải buông sông. Biết đường xéo đi nơi khác kiếm ăn!

Cái roi huơ lên vút xuống kêu hút hút rợn cả tóc gáy làm cho những mái lều tả tơi vung vãi .

Đám ăn mày lấm lét nhìn nhau rồi người tỉnh lôi tha người mù, người ngớ ngẩn dắt ríu người quoè, lùng rùng, lả thả đi ra khỏi chợ. Lệnh di tản của Thiên lôi đã phát, cái roi lão mà vút vào đâu, ở đó lột da thối thịt .

- Còn con này nữa! Đứng giương mắt lên lên đấy à! Có xéo không thì bảo? .Một tay bế con, một tay cầm đùm quần áo, tã lót nước dưa. Cô ả ngẩn ngơ tội nghiệp nói đứt quãng:

- Chưa đi đâu! Đợi đã! Chồng chưa về đâu, còn ở trên đường tàu ấy! Cho ở đây đi! lạy rồi mà!

- Này thì lạy! Này thì lạy này ...Mả bố đồ của khỉ! Đồ nhựng mỡ, ăn mày không rồi lại vợ với cả chồng! Mẹ kiếp , voi đú chó cũng đú!

Hai caí mông nhận đủ hai roi cá đuối quắn lại, cô ả ném đùm quần áo le te chạy lên đường tàu, vừa chạy vừa y ỷ kêu, thằng cu thất đảm khóc không thành tiếng .

Tuấn Anh ôm vợ con trên manh chiếu rách cạnh đường tàu. Lúc thì xoa đầu con, lúc thì trật mông vợ ra, trân trân nhìn vào hai vệt roi như hai con thằn lằn bầm tím .

Đêm đó, họ lại bồng bế nhau về cái lều ở góc chợ. Còn đi đâu được nữa đành quay về đó thôi, may ra lão cai chợ thương tình. Trong góc người còn sót lại họ láng máng nghĩ như thế.

Sáng hôm sau, khi đã nặn đủ mọi đồng vé chợ, lão đáo qua khu ăn mày tá túc mọi hôm vẫn thấy đôi vợ chồng dở hơi còn nằm đó. Lão thộp cổ lôi dậy quát tháo:

- Mày dám dỡn mặt ông đấy à! Có cút xéo không thì bảo!

Ba nhân mạng khốn nạn quỳ mọp dưới chân lão lạy như tế sao :

- Cho ở lại đi! Còn coi tàu mà. Ông Quang giao rồi mà...lạy đấy !

- Kệ bố ông Quang! Kệ bố tàu, chúng mày không cút ngay ông lột da nhồi trấu .

Lại những làn roi vút xuống, lần này thằng cu cũng bị dính một roi, nó giật lên, lả đi không khóc nổi, chân tay thõng ra, mặt biến sắc. Lao ra cổng chợ, cô vợ dở hơi bế con cùn cụt chạy. Tuấn Anh cũng lao theo, Sơn Nam và Bạ đuổi theo gọi cuống cuồng :

- Ông Quang! Ông Quang! Nhận rồi, đừng bỏ.

Tuấn Anh sực tỉnh, khựng lại, cậu ta ôm lấy vợ con. Lúc này mới khóc được, những giọt nước mắt hiếm hoi rịn ra từ khoé mắt, bò lân rân trên gương mặt dại ngây, đen đúa. Cậu chỉ tay về cái làng xa xa, ở đó có một chợ quê :

- Đi về đấy đi ! Nó đánh, nó đánh ...Rồi tìm nhau được đấy mà …

Cái chết của Tuấn Anh làm xôn xao cả thị xã. Hôm đó vào ca trực của mình, Tuấn Anh mải cùng Sơn Nam đánh gió cho Bạ bị cảm tối qua. Nghe tiếng còi tàu cậu vội vã lao lên, đúng lúc đó, một bà cụ tùm hụp khăn vuông lọc cọc chống gậy đi vào đường ray, mọi người hô hoán rầm rỉ trong khi đoàn tàu đang sầm sập hét còi vào ga. Tuấn Anh nhoai người đẩy bà cụ ngược trở lại.'Bà cụ thoát chết nhưng cậu đã bị cuốn vào bánh tàu, khi tàu dừng được, cơ thể chỉ còn là một đống lùng nhùng loe loét máu .

Một đám tang đông chưa từng thấy. Mọi người buôn bán trong chợ đóng cửa, quyên góp nhau lo đám tang cho Tuấn Anh, dân thị xã cũng ùn ùn đổ đến đưa tang, nhỏ lệ tiếc thương một kiếp đời sinh ra không toàn vẹn.

Trong dòng người dầm dề chảy theo bánh xe tang hôm ấy, có một thiếu phụ ăn mặc rách rưới, dẫn theo cậu con trai nhỏ, nét mặt chị ngơ ngác, đôi bàn chân không dép với những ngón toẽ loe bước vô hồn. Lúc thì vấn khăn tang lên đầu, lúc tháo ra quấn vào cổ, thỉnh thoảng lại gào lên hư hứ ngã lăn, giãy đành đạch trên đường, tứa máu rồi thình lình đứng vụt dậy, trỏ tay lên trời cười khanh khách ...Cậu cu con đã mọc đủ răng, bụ bẫm phục phịch chạy theo bám vào ống quần mẹ, nó vắt khăn tang lên vai, hai dải khăn kéo lê trên đất, một tay đưa nắm xôi lên miệng cắn, nó chỉ vào chiếc quan tài đỏ đọc, ngần ngật hương nến bi bô :

- Đẹp chưa, đẹp chưa! Hay chưa ! hay chưa. Bố! Bố đấy!

Lão cai chợ cũng có mặt trong dòng người đưa đám. Lão khoanh tay trước ngực, mặt cúi gằm lừ lừ tiến lại và vỗ vỗ vào lưng thằng bé. Dưới làn áo mỏng, vệt roi ngày nào còn cờn cợn lòng tay lão. Lão thoáng rùng mỉnh rồi trừng mắt dúi vào tay mẹ nó một xấp tiền lẻ ...Người mẹ dở hơi ấy cứ cầm nắm tiền soi đi soi lại rồi cười khành khạch. Chị ta vung nắm tiền lên trời. Những đồng tiền thật lả tả rơi lẫn vào những đồng tiền âm phủ và vô số vàng mã trải trên đường. Lão thở dài, đi ngược đám tang về cuối chợ .

Đằng sau đám tang, con tàu vừa rời ga, phăm phăm tăng tốc, tiếng rền vang đổ hồi

Đúng là "của khỉ"

(Rút trong tập Cung đàn xưa ngân mãi - NXB Lao Động)

************************

Đã ngoài 40 tuổi, bà Thềm vợ ông Cả Mịch vẫn sinh thêm một bé gái. Sự sinh nở muộn màng và hơi trái khoáy này là có lý do : Công ty ông Cả làm ăn thua lỗ phải giải thể, mà bà nhà trông hãy còn “nhuận” lắm. Bà Mụ trong lúc phởn chí đã nặn bà hết sức dư thừa về tổng quát hình hài... Bốn mươi tuổi mà nây nả phốp pháp, lúc nào cũng cười tanh tách. Dạo ông Cả vắng nhà, bà mỗi tháng lên cơn “động kinh” một lần làm con cháu hết cả hồn vía… Đến khi có ông Bác sỹ về hưu rỉ tai mấy bà nạ dòng và bày cho liệu pháp về cách chữa trị mới tai qua nạn khỏi… Lạy trời, nào có thuốc men gì đâu, người ta đóng cửa, buông màn, đuổi hết con cháu ra ngoài rồi hành sự công việc cấp cứu hết sức oái oăm, ở ngoài, nghe mà ghê hết cả người, cứ tưởng sắp phải mời đội Bát âm đến nơi. Khoảng non nửa giờ, bà lại khoẻ phừng phừng… Hỏi ông Bác sỹ, ông ấy bảo ”Có chết rực, ấy là bệnh Et tơ ri”... Mấy bà chả hiểu tiếng Tây ra sao, cứ đằn ông tra khảo. Bực mình, ông nói toạt móng heo: “Là bệnh thiếu đàn ông! Là bệnh phải gió cắn răng… Là bệnh khỉ gió! Nghe ra mà chửa”.

Ông bà có mỗi cậu ấm mũ gậy, lấy vợ đã xin ra ở riêng, cháu Nội ông cũng gần hai đứa… Con dâu bụng chửa nê nê, mẹ chồng cũng bụng to inh ích. Cái lão mất nết hàng xóm, hôm họp thôn, xung phong lên đọc thơ, lão tuôn ra mấy câu lục bát, cười vỡ bụng:

Mẹ ơi! Con đã có thai

Con ơi! Mẹ cũng có vài tháng nay

Mẹ ơi con con sắp đẻ đây

Con ơi mẹ cũng đẻ ngay bây giờ...

Ấy thế nên bé gái tên là Thêm mới sinh ra gần như cùng tháng với “cháu” của nó, đương nhiên, nó làm cô ruột và đương nhiên cái cảnh ”cháu bú bà, em bú chị ”ắt phải có… Kể ra thì cũng chả làm sao, về già cố thêm đứa “chấy rận” cũng thích… Thôi không tọc mạch chuyện nhà ông Cả nữa, ông ấy mà biết thằng nào con nào trong cái làng này nói lén, bình luận lén là ông ấy gang họng ra… Ông Cả là ông Thiên Lôi mà Giời phái xuống để đe nẹt cả làng, cả họ này… Đã bảo là ông nóng tính lắm.

Sáng mồng Năm tháng Năm ta (Tết Đoan Ngọ vẫn gọi là chạp chiết sâu bọ), bà bế cô út Thêm ra sông tắm khi ông mặt giời còn chưa lên. Giờ này, làng xóm còn đang ngái ngủ…

Hai mẹ con lẻn trốn ông Cả, không đem theo quần áo khô để thay… Bảnh mắt ra chứ có ai đâu mà ngại, cứ “tắm Tiên” cho nó sướng rồi về trước lúc ông Cả dậy là "lai vô ảnh, khứ vô tung". Tắm trước cả làng, hè này lo gì rôm sảy, mụn nhọt… Ấy là bà nghĩ thế.

Sáng đầu hè mát mẻ thanh khiết vô cùng tận, nước sông lại trong văn vắt. Hai mẹ con “thoát y vũ”, nhét tất cả quần áo vào hẻm thẹo cái cống gạch cổ lỗ rồi chọn chỗ nước quẩn bên cánh gà lội xuống, tự tin và bình tĩnh hưởng lộc trời.

Con bé Thêm mới lẫm đẫm biết đi nhưng nghịch như quỷ, cứ chuồi khỏi tay mẹ mà quẫy đạp rồi cười như nắc nẻ… Bỗng, ôi thôi! Bà vuột tay, con bé quá đà sa ra dòng nước đang chảy xiết nên chìm nghỉm. Bà rụng rời đổ đốt lao theo, may mà túm được nó rồi ngoi ngóp tha nó vào bờ. Hú hồn hú vía giời ạ! Con bé uống mòng cả bụng nước, mắt trợn ngược và khóc không thành tiếng… Thế có cơ khổ không kia chứ! Bà hình dung ông Cả “Thiên Lôi” mà biết sự này có lẽ ông cầm lưỡi tầm sét mà bổ bà thành trăm mảnh.

Trong cơn bấn loạn, bà bế thốc con bé lên bờ cứ thế chạy nhông nhông trên đường, chạy đi rồi chạy lại trên đường làng để nó nôn cái bụng nước đầy phinh phích kia ra… Con bé tỉnh và bà cứ thế, bà bê con chạy về nhà.

Cách cổng một đoạn, bà gặp ông Chương (chú em họ nhà sát cống gạch) đi đổ ống lươn về sớm… Nhìn thấy bà, ông chạy tụt vào một ngõ hẻm như ma đuổi.

Về đến nhà, không kịp nghĩ ngợi vân vi, hai mẹ con chui tọt vào buồng, vơ quáng vơ quàng quần áo khô mặc vào. Bà dặn con bé: "Cấm nói chuyện tắm táp với bố mày, bép xép tao cắt lưỡi”.

Mọi việc diễn ra êm đẹp.

Cơn sợ mất mật ban sáng hồi dần, bà quay sang bực bõ với ông em họ, quái lạ! Làm sao nó thấy mình hoạn nạn lại bỏ chạy kia chứ! Rõ là cái đồ mắt trắng môi thâm! Anh với chả em, họ với chả hàng, chỉ mời uống rượu là nhanh.

Chiều ấy, ông mời mấy anh em trong họ đến ăn thịt ngỗng và thưởng thức rượu nếp ngâm… Từ ngày về hưu, Tết Đoan Ngọ nào cũng thế.

Vợ chồng ông Chương đến rõ sớm. Ông lặc lè ôm quả dưa hấu, bà vợ có gói gì vuông chằn chặn, kẹp khư khư bên kẽ nách.

Lúc này, ông Cả đang lễ ở ngoài Đình. Nhà chỉ có hai mẹ con. Đụng mặt nhau, cả hai chẳng mặn mà như mọi lần, Bà Thềm tớn cái mặt đầy khí giận lên mà trách móc:

- Gớm! Chú còn nhớ đến cái nhà này cơ à! Sao sáng nay thấy tôi như thế chú lẩn như trạch như lươn…

Ông Chương như gà mắc tóc, Bà Thềm càng giận, càng tức:

- Thế chú không biết tôi với con bé làm sao à! Lúc sáng ấy! Tôi vừa chạy vừa ri rỉ khóc ấy, chú chẳng nhòm ngó, hỏi han một nhời… Vô tâm đến thế là cùng…

- Vâng, thưa chị! Nhìn rõ mồn một là đằng khác nữa cơ… Nhưng mà trông bác ghê chết, bố ai dám nhòm với ngó.

- Họ hàng với nhau, cũng là người trần mắt thịt với nhau thì ghê cái nỗi gì! Thế chú coi mẹ con nhà tôi, coi tôi nữa là ma à…

- Ma còn đỡ sợ! Bác nhìn còn ghê hơn cả ma… Ghê chết! Bố ai còn nhòm với ngó… Mà sao bác kỳ cục thế, quên đi chẳng được bây giờ còn vạch vòi ra cho nó nhiễu sự! Rõ của khỉ nhà bác…

Sợ mâu thuẫn chị em bùng phát. Bà Chương gái lôi từ nách ra cái bó vuông vuông:

- Thế bác có nhớ là quần áo ai đây không! Có phải đích thị là quần áo mẹ con bác không?? Có nhớ nhét vào đâu không hở giời?

Bà Thềm giật mình… Chết thật! Thế mà không nhớ ra! Cái hẻm cống gạch, chết nỗi, cái hẻm cống?... Hoá ra ban sáng, mình vác con thỗn thện chạy trên đường làng…

Ông Cả đã về, ông rặng hắng rõ to từ đầu ngõ! Chết rồi, ông đã về…

Bà Thềm chạy tụt ra chái bếp, tim đập tong tong. Bà lẩm bẩm:

- Sâu với chả bọ! Tắm với chả táp… Hú hồn… Đúng là “của khỉ”.

Hiếm" mà không "mun"

Dạo này hình như cả làng ghét bỏ Lưu Quốc Hòa. Các bạn chơi BL "Tiếng Ta" kháo nhau: Cái gã Hòa ba toác là tên đại bịa. Hắn là tên viết Tiểu thuyết, Truyện ngắn là bịa ghê lắm,chớ có chơi...Đúng quá chứ còn gì nữa. Nhưng hắn! Chính hắn phải thú nhận nghề viết Văn đồng nghĩa với hư cấu.

Nhưng chuyện này thề đến 13 lần là không hư cấu hư véo gì (lại thề) mấy lần trước thề độc đến mức đem tính mạng tài sản, vợ con ra thề mà chả ăn thua,rồi lại thề độc đến mức... "xét đánh vào đường dây 500 klv trên núi cao" có ghê thịt người ta không chứ...Lần này gã thề nâng cấp hơn là: Nếu hư cấu thì ...Mù mắt để ...không được nhìn đàn bà con gái ngang qua mặt...Quanh co vòng vo như thế để gã mào đầu một chuyện khá hài hước về bạn gã cưới lại để chữa bệnh muộn hiếm khi đã bước vào tuổi gần bốn chục mùa xu hào cải bắp.

*****************

Bọn họ lấy nhau đã quá 10 năm. Tên chồng là Trần Khao Khát, tên vợ là Đỗ Thị Ao Ước và cả hai đều khỏe mạnh phởn phang, hàng hóa xếp đặt ngăn nắp nhìn rất bắt mắt. Chả hiểu làm sao mà họ không sinh ra trẻ con. Bảo đi khám bệnh và giám định khả năng giới thì chồng đùn cho vợ, vợ đùn cho chồng vì cả hai không muốn cho ngành Y tế xăm xoi kết tội mình...Ấy thế cho nên u u, minh minh chả rõ do ai bị hen tắc. Đến cơ quan thì đồng sự nói lén: "Vợ chồng thằng Khát là loại "chày thối cối hỏng"...chán họ lại quay sang nói kháy: "ăn lắm lú mề".Biết vậy nhưng vợ chồng Khát vẫn phải nhai ký-ninh khen ngọt.

**********

Đầu tiên là họ đi khám mấy ông mấy bà lang băm. Ông bà nào cũng hứa, chỉ chăm uống thuốc lá lảu là bụng sẽ phưỡn ra như cái thúng cái. Uống mãi cũng thế, chỉ có cái bụng to do béo phì lớp mỡ dày xân xấn. Ông này chán lại quay sang bà kia, bực quá Khát chửi đổng: Mẹ kiếp! Đẻ chẳng thấy chỉ thấy đái tồ tồ, bao nhiêu tiền chỉ thu mỗi cái lãi là nước giải tưới cây".

Còn liều Mocphin cuối cùng họ đem dùng nốt là đi xem bói. Mà bói là thứ "bói xịn" chứ không phải bói ế hàng phải "bó bù"...Hãy nghe lão bói phán:" Này tín chủ! Kiếp trước cả hai nhà ngươi nặng cái tiền duyên! có nghĩa là duyên kiếp trước ấy nên bây giờ cả hai phải giải oan cắt đoạn cái người tình đang đeo bám khó chịu, xong việc ấy hai nhà ngươi cưới lại coi như mới tỉnh tình tinh, lại động phòng hoa trúc, ái ân cuồng nhiệt như cổ động viên bóng đá Anh Quốc, có nghĩa là hết sức "hô ligân" vào...Có con ngay mà lại có con mắn năm 1 đứa"...Lễ tạ xong họ ra về chứa chan hy vọng nhưng cái khoản "hôligân" họ quá băn khoăn...Còn đâu nữa mà cuồng với khấu, mạ thì quá lứa lại đang đạo ôn khô vằn mà ruộng thì chua phèn hạn hán nặng rồi, phải tăng cường hóa chất thôi,(hóa chất là thuốc kích dục bán lén ở các hiệu thuốc Tây cạnh cơ quan vẫn tăng cường sức chiến đấu cho hai phía,rất công hiệu đến mức quá liều là ...lãnh cảm luôn)

***********

Vì là bạn tâm giao. Khát bàn với tôi kế hoạch thực thi cưới lại...Tôi cười vỡ cả bàng quang mà rằng: "Mày lẫn rồi à! Bố láo bố toét cả thôi, đừng làm trò cười cho cơ quan, mấy thằng dốt nát nó còn không làm việc ấy huống hồ mày là trí thức"...Mặt Khát buồn rượi và trầm ngâm không nói gì.

Tưởng là lời khuyên tôi có công hiệu, ai ngờ tối ấy Khát điện hẹn đi Cfê. Khát lại bàn: "Còn nước còn tát thôi mày ạ! Vợ tao nó máu cưới lại lắm, nếu không nghe nó dọa đi cặp bồ với thằng khác để có con! Tao yêu vợ lắm, mất nàng có lẽ tao uống thuốc chuột quyên sinh ngay tắp lự mất thôi"

Thế này thì cũng đến nước botay.com mất rồi, bàn lui để bạn uống thuốc chuột hay tan vỡ phu thê là tôi có tội tày đình. Ấy vậy nên tôi hùa vào. Tôi phác ra kế hoạch là mời mấy ông bạn hẩu chuyên bia rươu với nhau đến chứng kiến. Đã là đám cưới là phải khách khứa cỗ bàn đãi đằng, mừng mọt nhau như thật, chúc tụng nhau sinh năm đẻ bảy. Cưới mà không thế ai ngửi được, nó xúi quẩy làm sao có con.

*******

Thế là Ước, vợ Khát mật tập về nhà mẹ đẻ, có nghĩa là cơ sở xản xuất ban đầu cỗ máy cái, cách đấy 12 km. Bọn tôi thuê xe Inôva 7 chỗ đen nhẫy kết hoa, chờ cho phố vắng mới quần lĩnh áo the, lên xe như đi buôn á phiện. Cũng may phố hôm ấy mất điện nên hành tung đáng xấu hổ của tụi tôi không bị phát giác.

Khoảng ngoài giờ Tý thì việc đón dâu hoàn tất. Bên trong cửa xắt có kính cách âm, chúng tôi hoan hỷ chúc mừng đôi "Tân hôn"...Mạ già ruộng ngấu đi qua đầu giường là khai hoa kết nhụy sòn sòn. Chồng Khát, vợ Ước hôn nhau như bạo hành giới, chúng tôi vỗ tay hò hét như cổ động viên Anh Quốc. No say đám "họ nhà trai" ra về ngật ngưỡng, bỏ mặc hai vợ chồng động phòng hoa trúc thế nào thì tùy anh, tùy ả.

Sáng hôm sau tôi đến cơ quan thật sớm, ngồi bật vi tính ra vẻ có ý thức làm việc, kỳ thực là lé mắt xem Vợ chồng nhà Khát thế nào. Khoảng một giờ đồng hồ sau, đôi uyên ương như hai con quạ già, lướt mướt dẫn cái xác tiêu điều, ẩm ướt đến. Ước mặc váy đen, xập xòe như con Dơi ướt cánh đi ăn đêm về, đang muốn tìm chỗ đậu. Khát thì râu ria túa ra, mặt mũi bơ phờ xách cặp tài liệu đi vào phòng như cái xác chết trôi vừa hiện hồn từ dưới sông nhoai lên bờ...Tôi hình dung ra đống thuốc "tăng cường" gã mua hôm nọ vẫn để đầu giường trực chiến...Quả thật, thứ gì cố quá cũng sinh ra phản ứng phụ.

Chuyện cũ tào lao ấy đã qua gần 20 tháng rồi mà "Nguyễn Y Vân"...Có nghĩa là liều mocphin cuối cùng vẫn không công hiệu.

Cách đây khoảng gần 2 tháng, lần đi công tác về huyện Lò Vôi cùng đoàn làm báo Nhân Đạo. Tôi gặp cảnh khá thương tâm: Một bé trai bụ bẫm không biết của bà mẹ khốn khó hay lầm lỡ nào bỏ ở cổng nhà văn hóa xóm Lò Gạch. Trong tã có một lá thư đề nghị giúp đỡ cưu mang hài nhi...Tôi điện về cho vợ chồng Khát - Ước. Cả hai vợ chồng thuê tắc xi, hộc tốc phóng ra bế cậu Cu về nuôi...Trên gương mặt họ bừng lên nỗi khát ước. Lẩn mẩn tôi lại nhớ câu ca dao xưa nói về tâm sự người mẹ phải bỏ con:

Trời mưa bong bóng phập phồng

Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai

Có đói thì con ăn khoai

Con đừng khóc lóc, điếc tai láng giềng

Tôi tin cháu bé ấy sẽ được nuôi nấng cẩn thận trong niềm khát khao của vợ chồng bạn tôi. Cuộc sống hôm nay khác rồi, cháu sẽ không phải ăn khoai thay sữa hộp. Tiếng khóc của cháu sẽ làm bừng thức bao trách nhiệm của gia đình và xã hội. Xóm giềng sẽ vui khi nhận ra tiếng khóc trẻ thơ cất lên trong sự vỗ về của lòng nhân ái, nhất là trong nỗi khát khao của cặp vợ chồng hiếm muộn.

Nghề Trời đầy

(Viết tại nhà sáng tác Tam Đảo và vào tập Câu Đồng dao Làng Vòi - NXB Hội Nhà Văn )

Đã lâu lắm. Thành An mới đến chơi nhà Thiên Khuê, bạn đồng niên cùng trong hội Văn học tỉnh Nam. Có hai thứ cản trở cho việc gặp gỡ của họ, đó là An mải làm ăn buôn bán còn Khuê rỗi việc nhưng tứ thời chẳng có đồng xu nào dính túi mà đi chơi, xe máy không có mà xe đạp không chuông không phanh chưa bao giờ đạt tiêu chuẩn cho thằng người cưỡi lên để vi hành dăm cây số

.

Nhà Khuê vắng ngắt.Căn nhà cấp 4 hiền lành ẩn dưới tán cây xấu già ,dàn mướp lúc liủ quả, mấy bụi ngô đồng đang đỏ ối chùm hoa, con chó đen 4 mắt có móng huyền đề riu riu ngủ gật dưới bụi hoa giấy, thấy khách lạ vào vểnh tai rồi ẩm ử quay vào nhà. Không gian thoáng đãng và hiền lành đáng yêu, nó cũng đáng yêu như người chủ, một hàn sĩ văn chương tỉnh lẻ nhiều kỳ vọng nhưng lực bất tòng tâm với tay vượn chân cò .

Thành An cứ đứng giữa sân hưởng cái dư vị thanh bình chốn nhà quê. .An ra bể ọăn vòi nước rửa mặt rồi nghê nga dạo trong vườn, quài tay với mấy chùm sấu non nhai rau ráu rồi nhăn mặt khoái trá. Chẳng rõ giờ này thi sỹ đang tìm cảm hứng ở đâu mà nhà cửa thông thống thế này. Tò mò, An vào nhà thì ôi thôi, thi sỹ đang nghênh mặt trên cái bàn gỗ sung có 3 cái chân gỗ và một chân bằng gạch xỉ. An dặng hắn to làm Khuê giật mình. Cậu ta giơ một cánh tay lên trời bí hiểm như chiêm tinh đạo sỹ đang hành nghề tác nghiêp.

- Lặng yên nào! đang về ...

An cười khâng khấc:

- Của khỉ ạ! Cái gì đang về .

Khuê lắp bắp : :

- Cảm súc! Cảm súc nó đang về mày thấy không, nó đang vo ve bay lượn! đấy, nó đang đậu vào ngòi bút, tao nhả ra cho mày xem ngay bây giờ .

Rồi thi sĩ cúi gập người trên trang bản thảo, rom rom cái mông đít bọ ngựa nghiêm cẩn hạ câu thơ :

Em ngoại tình, có nghĩa là em đi ngủ với giai

Anh phải thét lên ngôn từ trần trụi .

Mày thấy chưa An!Tao đang tự rút ruột, đang thoát xác, đang nhập đồng để làm thơ! Mày đó bao giờ xả thân cho văn chương và thi ca như thế chưa .

Thành An cười vãi nước mắt lăn kềnh ra cái phản gỗ, cơn cười bất khả kháng ấy nó làm anh quặn thắt ruột gan. Cười đâu phải là vui, có khi người ta cười vì không khóc lên được. An nâng vạt áo lau mặt vỗ vai Khuê :

- Thôi nào! Tao đến hôm nay không phải để nghe thơ của mày, nói chuyện khác đi cho vui mà có cái gì lai rai một tý chứ! Ừ!Mày nhúm bếp, để tao vù ra chợ...Khuê thẫn thờ đến tội nghiệp :

-Củi đóm quái đâu ra mà nhóm, tao có mỗi cái bếp ga du lịch đã hết ga từ mấy hôm rồi, toàn ăn mỳ tôm sống uống rượu khan nhắm với nỗi buồn. Từ ngày Thy Ngọc bỏ tao, tao không có khái niệm về bữa cơm, ăn là cái quái gì, cứ sống là được, chúng mày ăn cho lắm vào để bụng nó phưỡn ra như cái dó mẹ rồi cao áp huyết, rồi đái đường, rồi gút git lôi thôi ...Nghệ sỹ là phải thanh tao cổ ngẳng vai gầy, tóc dài gối hạc chứ ai lại cắt tóc kiểu lục lâm thảo khấu như mày! Khốn nạn, mày lắm tiền thế sao tao chẳng thấy mày ăn mặc cho nó ra hồn người, ra cái thằng nghệ sỹ của nhân loại! Trông mày lúc nào cũng nhôm nhoam .cái xe cái cộ như nhặt từ đống sắt vụn...

An xua tay cắt cái bản cáo trạng Khuê đang đọc tràng giang đại hải....

Khuê là thế, Anh chàng thi sỹ tỉnh lẻ cò bợ, chân tay nổi chằng chịt gân xanh, dâu tóc nhễ nhại, um xùm, tham viết và ngại tắm rửa, đang viết cơn ngứa kinh niên kéo đến gãi sồn sột cẳng chân cẳng tay lằn những đường gét bị nạo vét bất thường như một kiểu áo kẻ trên da. Giá ông trời đừng tai ác khoác lên anh ta một gia đình, chắc Khuê đỡ khổ, đằng này Khuê lại có cả một gia đình đầy đủ ý nghĩa với một cô vợ công chức trong một cơ quan tỉnh và một chức danh có cũng được mà không cũng chẳng sao, đã thế nàng lại xinh đẹp, lại hay phấn son ngắm vuốt, lại thích ăn quà vặt và thích đi du lịch.Thích đền nọ miếu kia. Ai bảo cái đống mối linh thiêng, nàng cũng tin và lập tức bò ra mà lễ bái. Cái thú ấy hại tiền lắm. Tưởng như thế là tai hoạ, quá khập khiễng với gia cảnh đang bần bách, nhưng nàng còn đoảng tính, cái bệnh này nhiễm vào đàn bà con gái thì khổ lắm lắm, tai hại lắm lắm. Cái gì cũng nhờ vào máy, vào điện, vào xe ...Mấy đứa con gửi bên ngoại, học hành ông bà lo. Hai vợ chồng lại trở thành son rỗi, mỗi người có cái riêng để mà đam mê, việc chăn gối cũng lỏng ra, thưa đi rồi gần như lịm tắt khi giữa nhân quần vào tuổi này đang vẫy vùng gào thét .

Nói thế chẳng hoá ra vơ đũa cả nắm. Điều ấy chỉ có ở Khuê chứ Thy Ngọc vợ chàng còn xuân lắm, Mắt nàng còn xanh và có lửa cháy lung linh. Má nàng đỏ và càng hây đỏ khi có mỹ phẩm thời thượng can thiệp hàng ngày. Mỗi sáng đi làm nàng đứng trước gương oăn ẹo cái eo cái mông, sửa đi sửa lại cặp vú nây nả, rừng rực vốn hay cãi lại cái nịt ngực màu lòng tôm... Nói chung Thy Ngọc rực rỡ và nồng nàn, cái nồng nàn làm bắt mắt, trêu ngươi những trang mày dâu phong tình, mơ đãng .Khuê chẳng để ý hay có thể chẳng cần để ý cái sự rườm rà quá đáng của Thy Ngọc. Thằng đàn ông lúc nào cũng săm soi vợ là loại tiểu nhân, nàng cứ đẹp đi cho thiên hạ ngất ngây, nghiêng ngả. Thi sỹ là người tạo ra cái đẹp, cái phong tình, sao lại khạc nhổ vào cái đẹp của chính vợ mình kia chứ ...Khuê thấy hãnh diện với đời là có cả vợ đẹp lại có cả nàng thơ linh huyền lúc nào cũng nằm trong vòng tay sở hữu ...cứ để đấy mà lặng ngắm như ánh trăng sao không bao giờ lụi tắt trên ngân hà, việc gì mà cứ hành hiệu nhau cho khổ ...

* * *

Trên công trường khai thác đá, An đang treo mình trên chiếc cẩu tự hành đời mới để hoàn thành nốt công việc lắp đặt hệ thống báo quá tải tự động. Một chiếc xe sang trọng xịch đỗ. Trong xe bước ra là một cô gái thanh tú dáng vẻ trí thức đeo kính đổi maù thời thượng. Cô lấy khăn lau kính và ngước lên dàn cẩu có ý ngóng đợi. Khoảng mươi phút, chừng như sốt ruột cô nghển cổ gọi với kên :

- Dạ! Cho cháu hỏi đấy có phải là Nhà văn Thành An không ạ .

Chẳng cần ngoái lại . Người ở trên nói vọng xuống :

- Đúng đấy, nhưng chỉ đúng một nửa thôi, ai cần gì chờ tôi một lát nhá! Sắp xong rồi mà .

Tụt xuống đất An lau qua bàn tay lem nhem dầu mỡ tiến lại phía cô gái hóm hỉnh :

- Xin lỗi! Tôi đang được người mẫu thời trang cho chiêm ngưỡng nhan sắc hay có việc gì?

Cô gái đỏ bừng mặt, có lẽ cô đang cảm động vì lời khen khéo của An .

- Dạ! Thưa bác nhà văn! Đồng chí Bí Thư Thành Uỷ muốn gặp bác có chút việc, mong bác nhận lời mời và thu xếp đi ngay cho ạ .

An nheo mắt cười cười :

- Làm quen một chút đã nào! Thế năm nay cháu bao nhiêu tuổi và tên là gì .

- Dạ cháu tên là Linh Huyền, cháu 33 tuổi, làm việc ở Văn phòng cơ quan

- Tên đẹp! Người đẹp, trời cho cô nhiều thứ quá đấy! Nhưng mà này! Cháu hơn vợ bác một tuổi đấy ...

Cứ nhấm nhẳn như thế, cô gái nọ như bị xa vào những câu đùa hóm rất ma mãnh của An nên khó trả lời. Nhớ tới công việc cô hối thúc :

-Dạ! Bác đi ngay dùm cháu kẻo lỡ việc cơ quan :

An lại tiếp tục cái trò đùa dai ;

- Quan cần nhưng dân đang mệt! Gọi một câu "bác" nữa là sinh đột quỵ ngay bây giờ cho mà xem .

Cái dân văn chương là chúa hay đùa hóm. Hóm nhưng mà thích. Cô gái cũng không vừa :

- Quả lời đồn thiên hạ chẳng sai! Nói chuyện với Văn nghệ sỹ như tìm đường lên trời! Thôi được ...Anh vậy ..Nào xin mời anh nhà văn Thành An lên xe .

- Xin lỗi! Ta cần hiệu đính lại chức danh! Tôi tên khai sinh là Phạm Thành An 42 tuổi là thợ điện công nghiệp chứ không phải là nhà văn. Tôi không muốn đánh bóng mình bằng cái chức danh mạo nhận. Tôi chỉ là một tác giả hết sức bình thường ...Khổ thế, đất nước mình sao mà lắm người tự nhận mình là nhà văn, là văn sỹ, thực ra chúng ta nhiều nhà "Sỹ" hơn nhà "Văn"

An chẳng còn đủ thời gian mà thay quần áo cho chỉnh tề. Chàng lôi nguyên cái tấm thân kềnh càng gần một tạ cùng bộ bảo hộ còn chua lòm mồ hôi, quấn quanh mình là dây bảo hiểm với kìm cộng lực leo lên xe, cái xe du lịch lún xuống, dùng rình như con đò dưới nước. Hai cái mẫu người ngồi cạnh nhau mới khập khiễng làm sao, nếu ai nhìn thoáng qua chắc chắn nghĩ rằng cái ông hộ pháp nhom nhem kia chắc được quý tiểu thư sang trọng tóm về để sửa điện nhà mình, có ai nghĩ đấy là một tay nhà văn phong tình và đanh đá, chua ngoa vắt nóc với những thiên truyện cười ra nước mắt .

Thành phố sắp ấn hành một đầu sách nói về lịch sử văn hoá. Đồng chí Bí thư đang loay hoay với lời giới thiệu tác phẩm nên nhờ An tư vấn, đã mấy lần ông nhờ An làm việc này, lần nào cũng "ngon" cả, ông mê và ông tin vào cái bộ nhớ siêu đẳng của anh chàng viết văn ngổ ngáo nhưng cẩn trọng này. Quanh ông có đội ngũ giúp việc lúc nào cũng hãnh diện với bằng đỏ bằng xanh, đầu chải gôm và dầy da bóng nhưng khả năng viết một câu văn bắt mắt người đọc chưa bao giờ để ông hài lòng, Mấy "Tiến sỹ giấy" vo ve lượn quanh ông chỉ giỏi ăn lẩu và nịnh đầm, tán gái và a dua, chính vì vậy mới có buổi đón đưa vừa công lại vừa tư...Bí thư Thành Uỷ coi An như một bạn đồng niên, hiểu tính khí, sở thích của An nên những lần gặp gỡ đều tự nhiên và chóng vánh .

Thành An đã vào cái tuổi "tứ thập bất hoặc". Anh chàng nửa quê nửa tỉnh, nửa hiện đại, nửa cổ sơ rất khó nắm bắt này là cây bút tỉnh Nam. Hai vợ chồng đều ở quê ra tỉnh, chị vợ mau mắn và thảo lảo có một quầy thuốc đông y gia truyền. Hai vợ chồng với hai đứa con ngoan ngoãn mạnh khoẻ sống đầm ấm, giản dị như bao hàng xóm lân bang. An yêu văn chương từ nhỏ, cái nghiệp ấy nó đến với anh lúc đậm, lúc nhạt, anh lăn lộn mưu sinh lăn lộn viết lách. Quả thật, vợ anh là người không am hiểu gì lắm về văn chương và thi ca nhưng vì yêu chồng nên cũng chiều theo ý thích, sở nguyện của chồng. Cũng chẳng có gì mà phải trách An, công việc văn chương là thú đam mê lành mạnh, khi các người đàn ông khác đi đánh cầu lông chơi cờ hay đi nhậu nhẹt bia bọt thì ông chồng mình vùi đầu trên trang viết, viết được cái gì hay thì hớn hở, lúc tắc tỵ thì khổ sở vò đầu bứt tóc. Chẳng mấy khi thấy An dùng thời gian rỗi vào những thú vui vô bổ. Một anh chồng coi mưu sinh và gia sự là điều tối thượng thì còn ai trách cứ vào đâu được .

Thực tình ở cõi người trong nhân gian chẳng ai giống ai, khó có thể lấy giá trị này áp đặt thay giá trị kia, có khi cái tốt của anh lại là sự đố kỵ của người khác, An cũng bị những quy luật đời thường chi phối, khối người cho anh là lập dị là gàn rở, thời buổi này ai còn đọc văn đọc thơ. Kẻ cao đã có iteenet người thường đã có ty vi, ở đó nhan nhản thú vui tha hồ xem, tha hồ cười rồi...tha hồ quên, có chăng sách bán chạy nhất thời nay là sách giải đáp và hướng đạo tình dục, hướng đạo chiêm tinh bói toán, nhà thơ ăn khách nhất là thơ bói đề, thơ quẻ thẻ bán 2 ngàn một lá ở cổng chùa ...Thôi đi các nhà thơ nhà văn đáng thương.Trên mặt đất đầy bia lon và rượu ngoại, đầy mông và vú được bảo hiểm trong đồ lót Thái, ê hề đặc sản và thuốc kích dục thì ai còn nhấm nhá cái "con cò bay lả bay la" của các người ...Viết văn làm gì nhọc sác .

Mặt hồ còn nổi phong ba huống chi cuộc sống vợ chồng, cũng có lần vợ chồng An to tiếng cãi cọ nhau vì cái hoạ văn chương, lắm kẻ chạm nọc đến hẳn quầy thuốc của vợ An mà đe doạ

- Tôi nói vào mặt nhà chị! Vợ phải biết bảo chồng! Cái thằng chồng nhà chị là nó ác lắm, đểu lắm, sỏ lá ba que lắm, cái gì nó cũng chõ mõm vào, nó ví chồng tôi là là con chó ngồi trên bàn lộc, nó bảo em gái tôi kỳ này được thăng chức là nhờ cái "đít" chứ không phải nhờ cái "đầu", cứ tưởng nó hiền lành củ mỷ nhưng nó là đứa sở khanh. Bảo nó chừa đi không có ngày mang vạ ...

Mà sao đời cũng lắm kẻ khôn quá hoá rồ! Cứ nhất định, cứ cả quyết là mình thành con lợn, là con chó, cứ vơ cái tật xấu xa qua những trang văn của Thành An đã mô tả rồi hậm hực, rồi đe loi. Các cụ tiền nhân kể cũng thâm thuý thật , cái thành ngữ "có tật giật mình" có lẽ đúng ở mọi thời .

Một hôm vợ An đi ăn cưới về lăn ra giường giãy lên đành đạch bảo An :

- Em nghĩ mà xấu hổ, em ngồi mâm bên này, mấy con mẹ phấn son ngồi mâm bên nói với nhau đủ cho em nghe thấy :

- Lặng mà ăn nhá! Mau đi rồi về! Có đứa nó đang soi vào đũng quần đấy! Nó soi rồi về nhà rỉ tai thằng chồng viết thành truyện đưa lên bêu rướu! Mẹ bố cái lũ ma gà, liệu hồn có ngày các bà mày xẻo lưỡi cho chó nó ăn ...Nó chửi cả em nữa đấy! Em có tội gì mà vạ lây với văn chương của anh, vứt cha nó bút đi cho rảnh nợ để em mua cho anh mấy cái lồng chim hay mấy chậu cảnh mà chơi ...

An lồng lên như hổ bị thương :

- Kệ cha nhà chúng nó, cái lũ ấy như cái máy chế biến phân chứ có gì phải ngại! Em biết không! Một dân tộc mà phỉ báng văn chương là một dân tộc sắp diệt vong. Một con người chỉ bái lạy đồng tiền là con người sắp thành thú vật. Một người cầm bút chỉ lả lướt trăng hoa, lời phời ca tụng là kẻ đạo chích. Anh không nằm trong số đó.Tác phẩm của anh viết bằng trách nhiệm công dân trước thực tế đời sống để tôn vinh cái thiện, lên án cái ác ...Thế thôi, anh không thể nào quay quắt với chính mình .

Bực với đời mà nói vậy thôi chứ vợ An tin chồng lắm, cái căn cốt thiện lương lúc nào cũng thường trực ở người trai phong trần bụi bặm, không ồn ào khua triêng gióng trống, không đánh bóng mạ kền tên tuổi, không ảo vọng tự huyễn. An sống để viết và viết để sống như một thứ cây mọc ở đất cằn nhưng vẫn cho đời trái ngọt .

*********

Leo lên xe máy một lúc, An quay về mang theo một chiếc bếp ga du lịch và một tá hộp ga đã nạp đầy. Mấy thùng mỳ tôm, cháo gói. An ngồi thẫn thờ giữa nhà buồn rầu bảo Khuê :

- Lúc này tao mới thấy cần một bàn tay đàn bà. Tao với mày chỉ quen ngồi ăn sẵn chứ việc bếp núc biết quái gì, có mua về cũng trợn trạo sống xít sao thành được món ăn.Tao đặt một nồi lẩu tý nữa họ đem vào!Thế mày định sống kiểu này đến bao giờ, lôi thôi, nhem nhuốc, dị mọ quá, cái tiêu chí nhỏ nhất của thằng người là mái ấm gia đình và miếng cơm ấm nước không ra sao thì viết lách cái quái gì ...

Khuê lặc lọi cái chân ống đót đứng lên, hất mái tóc tổ quạ nghệ sỹ, ra sức hùng biện :

- Mày mất cái chất Văn nghệ sỹ rồi! Hỏng to rồi! Nghệ sỹ là gác lại áo cơm và chi chi cái tủn mủm để sáng tạo. Nghệ sỹ phải tan vào văn chương để thăng hoa súc cảm. Phải quên những thứ phàm tục để mang cái ánh sáng trí tuệ mở mắt cho bao kẻ u mê, phải như người nhập đồng, như kể thoát sác mỗi khi cầm bút, nói chung phải như ma ám ấy ...

Thành An xua tay, cái bất đồng phì ra như nồi hơi quá áp xuất :

- Con trăm lạy, ngàn lạy bố trẻ! Nói như bố có nghĩa nhà văn là một thứ gì đấy huyền bí, siêu phàm mà thượng đế đã đặc ân ban cho trái đất ?

- Đúng một trăm linh chín phần trăm! không phải nghi ngờ .

An bực dọc :

- Đúng! Đúng cái con khỉ! Tao nghĩ hoàn toàn khác mày. Nhà văn trước hết phải là người bình thường nhất trong những người bình thường, có tâm hồn nhạy cảm , có tần số rung động mẫn cảm và một số yếu tố nữa. Những thằng khuỳnh thường viết rất rở, mày xem trong làng viết chúng ta cứ anh nào mặc áo nhiều túi, giắt lắm bút đỏ bút xanh, bắt trước mốt ăn mặc của các danh kiệt thế giới có tác phẩm nào ra hồn, thơ thì rặt một giọng tán gái, văn thì viết rối rắm nhì nhằng như sơ mướp không hiểu để cho ai đọc, chỉ được cái vỏ còn ruột sượng ngấm sượng ngầm .

- Mày vơ cả tao vào đấy à thằng bạn sỏ lá kia! Mày có im đi không tao tống vào miệng bây giờ .

An cười khành khạch ma quái :

- Lại chạm nọc rồi chứ gì! Lặng tao kể cho mà nghe cái sự đời : gần nhà tao có một thằng học đại học chuyên tu theo kiểu "nước đổ lá khoai, mỗi bận mươi hôm buổi đi buổi bỏ" thế mà lại là người gác cổng cho văn hoá một vùng. Một thằng mù tịt, điếc đặc văn chương đi chỉ bảo, thống trị thằng làm văn chương. Cái gì nó cũng phê, cũng gạch, cũng xoá. Cứ như không làm được cái việc gạch xoá ấy đời nó nản lắm. Một hôm ra vẻ ta đây có trình độ chuyên môn về văn học, nó viết một chuyên luận về văn hoá để khoa trương, nó nhờ tao xem rồi góp ý. Xem song tao bảo "nếu bài này phát tán có lẽ trước hết phải giải tán Hội Văn học thành phố và chí ít cánh văn chương sẽ khối kẻ đi tù"...Nó căm tao ra mặt. Nó bảo văn nó viết ra đấy mới là tác phẩm văn chương đích thực, bên dưới nó thích lắm.Tao sỏ ngọt :Nếu đã thích thì cả bên trên và bên dưới cùng thích mới đã! Thì ra nó viết văn như thằng thủ dâm. Khổ thế đấy, nhà văn bây giờ là hay thủ dâm với văn chương, đọc một viết mười lúc nào cũng cho mình là chúa thiên hạ, cái kiểu thủ dâm ấy không bao giờ có sự hoài thai tác phẩm .

Khuê nhăn mặt rồi khịt khịt mũi :

-Tao công nhận là mày có lắm tác phẩm ăn khách, mày có nhiều đóng góp cho văn chương, năm nào mày cũng có đầu sách khá vạm vỡ nhưng đấy chưa thể khẳng định ý kiến của mày là duy nhất đúng, tao không thích cái giọng văn quàng quạc như mấy con mẹ nhà quê mất trộm gà, văn mày đọc nó không thanh tao, nó tục tằn, cái lối tả đàn bà con gái của mày nó dung tục, đĩ thoã, lúc nào cũng ngửi thấy tinh khí phì phào ...tao hỏi thật, mày bận kiếm ăn như thế thì mày viết văn lúc nào .

Nồi lẩu đã sôi đều, họ vừa ăn uống vừa tranh biện nhau, có vài chén rượu lại làm họ thêm hăng hái :

- Tao nhớ một lần ...An thủng thỉnh ...Tao cũng hỏi ông thày văn tao câu ấy ông bảo "viết văn còn hơn mê gái"...ông ta vừa phá bom nổ chậm, vừa lái xe vẫn sáng tác, cứ rảnh tay là lao vào viết sầm xập.Tác phẩm của ông đọc thú lắm, nó là cảm súc, là tiếng nói vọng ra từ bom đạn, đọc lên nghe tươi rói hiện thực đời sống.Tao ăn lộc ông ấy về khoản viết, càng lăn lộn với cuộc sống viết càng thoát, nó không tắc tỵ như thằng ngồi một chỗ. Mày còn nhớ triết lý của ông Nam Cao không, nếu quên vạch cái tai cối lon ra mà nghe này: Trước khi đặt cái hôn lên miệng hoa của người yêu thì trước hết phải nghĩ đến đổ cơm vào đấy, điều này không được thơ cho lắm, nhưng cuộc sống vốn không tha thứ những gì qúa thơ... Tao viết bất kể lúc nào tao thích, trên bàn viết lúc nào cũng có 2 cái điện thoại để sẵn sàng đòi nợ người và để người đòi nợ. Vừa làm vừa viết, vừa viết vừa làm, áo cơm gia sự đi trước dẫn văn theo sau. Viết văn để đói nghèo ly tán thì viết làm quái gì. Mày xem, văn sĩ thời nào cũng là kẻ nghèo khó, kể cả các vị tiếng nổi như cồn thì văn chương cũng chẳng đủ nuôi thân, ông nào cũng kiếm việc làm thêm, kể cả những nghề cực nhọc, lao động văn chương là thứ lao động khổ hạnh nhưng giá trị lại luôn bị nâng lên đặt xuống. Người làm văn chương lại gan yếu ruột mềm, chân cò tay nhện lại đa mang lắm thứ nợ nần với nhân gian.Cái gì cũng thích tý tủm. Lại hay làm phật ý ông này bà nọ. Là bông hoa tô điểm cho cuộc đời nhưng cũng bị gió mưa dập vùi không thương tiếc mỗi khi trời đất ấm lạnh thất thường...Gò lưng, toét mắt mấy năm viết sách, lụi cụi chạy giấy phép, vay chạy tiền nong để in ấn rồi nhận nhuận bút bằng sách đem về toàn cho với tặng, đến chỗ nào xin sỏ phát hành thì người ta coi ngang kẻ đi hành khất. Khổ thân nhất là những anh chẳng hiểu mình là ai, cứ tưởng văn chương làm được điều gì to tát để thay đổi xã hội trong khi hiện trạng đời sống đương đại họ coi văn chương là loại kháng sinh rất nhẹ, chẳng có giá trị chữa bệnh, đấy là chưa kể một số ông văn nghệ sỹ lại bị lôi kéo, bị cường quyền và vật chất sỏ mũi biến thành kẻ a dua, a tòng...Thế mà chúng ta chẳng thằng nào bỏ nghề mới lạ! Đấy là cái nghiệp trời đầy...Cuộc sống đã dạy khôn tao nhiều, nó nhắc tao trang văn không được che lấp cái hiện thực gia đình anh đang có, đánh mất gia đình đồng nghĩa với đánh mất văn chương...Còn mày chê văn của tao cũng được nhưng tao nghĩ nghề văn cũng như nghề ca hát, mỗi người cần có một giọng riêng để dẫu bịt tai nhắm mắt độc giả vẫn nhận ra mình...Đấy là ý thích của riêng tao .

Khuê tư lự :

- Tao vẫn coi văn chương và thi ca là siêu phàm và bí hiểm, ta phải khác đời một chút mới gánh được cái sứ mạng cao siêu đó .

- Đấy cũng là một quan niệm, nhưng theo tao văn chương, thi ca nó không phải là cái gì bí hiểm lắm đâu, đừng thần thánh hoá nó. Gái già quá quá lứa cứ hay õng ẹo làm dáng cho đắt chồng. Trừ các bậc vĩ nhân xả thân cho văn chương để nhân loại đúc tượng tôn vinh, cái thứ tao với mày mọt đời cũng chỉ là tác giả chứ không thành nhà văn và nhà thơ đâu, phải nghiêm túc nhìn vào cái sự thực đó, đừng huyễn hoặc. Văn chương cánh cửa không rộng mở để ai cũng có thể lọt vào, con đường văn chương không dễ cho ai cũng có thể tung tăng bước, văn thơ không phải nồi thắng cố ở phiên chợ tình, ai xà vào xì sụp cũng được. Cứ viết đi kết cục ra sao đã có công chúng độc giả phán quyết. Nhiều kẻ lúc nào cũng kêu là đang thai nghén mài chỉ mãi mãi "nghén" chứ không có "thai". Buồn lắm mày ạ, hôm nọ tao đọc chuyện ngắn cuối cùng trước khi Nguyễn Khải mất, ông than rằng cứ tưởng về già nhàn rỗi tha hồ viết, tha hồ sáng tạo văn chương nhưng có ngờ đâu chữ nghĩa nó chê, nó trốn sạch, nó bỏ mình, nó chết trước khi mình còn đang sống. Tầm như Nguyễn Khải mà còn thế huống hồ bèo bọt như mình ...Lúc này không viết cho ra hồn về già ta còn tồi hơn như thế rất nhiều

Lâu lắm hai bạn văn mới có dịp ngồi bên nhau để nói chuyện văn, chuyện đời. Ngoài vườn nắng đang đứng bóng, họ ôm nhau trong cơn say và thấy thương yêu nhau quá đỗi. Trong cơn say họ thấy có lúc là kẻ hạnh phúc nhất ở cõi đời, có lúc lại thấy là kẻ gàn rở đã tự dấn thân vào cái chốn trời đầy. Cái chiếu văn đã chọn họ hay chính họ đã chọn cái chiếu văn ...

Hạnh phúc đêm Giao Thừa

************************

Những đêm cuối tháng trăng lên muộn. Gần sáng mới thấy mảnh trăng lưỡi liềm leo loét treo giữa trời. Đêm cuối tháng là đêm "nguyệt tận", có nghĩa là đêm không có trăng. Phải rồi! Không có trăng mọc là đêm cuối tháng.

Vòng quay của con trăng đủng đỉnh nhưng đúng hẹn. Đêm nay là nguyệt tận rồi. Đêm 30 tết. Người ta vẫn ví: "Tối như đêm 30".

Ngoài trời lất phất mưa, làn mưa nhẹ như bụi phấn giây giây rắc bụi mờ. Mưa chẳng làm ai ướt áo, chỉ làm cho những đôi lứa có cớ để nép vào nhau, Vuốt tóc, làm cho những bụi ẩm li ti rơi nhẹ có giọt vương trên lông mi lông mày. Mưa vương lên tấm áo choàng mỏng, mưa chẳng hù doạ ai, chẳng bắt ai phải bó gối ở nhà để khỏi ướt đầu ướt áo.

Và đêm nay, đêm 30 tết mưa cứ thế bay, nhàn tản, dịu dàng để cho mùa xuân thêm hương sắc. Xuân đang về với đất trời và vạn vật, mùa xuân không có tuổi. Mưa xuân trong thơ Nguyễn Khuyến xưa đượm buồn, mưa làm tiếng trống các làng cũng "ình ịch". Phải chăng cái hơi ẩm đã làm trùng đi mặt trống.

Người thành thị quen với ánh điện nên chẳng ai để ý đến cái tối bưng của đêm nguyệt tận. Với họ, đèn cao áp lúc nào cũng tỏ hơn trăng rằm. Chỉ có vùng quê yên tĩnh và buồn tẻ này, sự có mặt của ánh trăng mới rõ nét. Nhất là đêm nay 30 tết, đêm cuối của một năm đầy lo lắng nhọc nhằn, đầy giông bão và trắc trở, với những chia ly và đoàn tụ. Người ta phập phồng đón mùa xuân mới! Trước thềm xuân có báo điều trăn trở rủi may. Nhưng người ta vẫn tin Nàng Xuân là bạn đường đúng hẹn.

Hường cứ ngồi như thế đã lâu lắm rồi, căn nhà ắng lặng, ngọn đèn ngủ xanh lét, bàn thờ nghi ngút khói hương, những bức ảnh thờ nhập nhào hư ảo. Trong chiếc màn màu nước dưa khép lỏng. Tiếng bà Bính khẽ rên, rồi ú ớ nói mê! Tiếng chó sủa ran phía cuối xóm. Một vài bóng người đi lại vội vàng, thỉnh thoảng có tiếng xe máy và ánh đền pha nhấp nhênh hất lên những cành tre lả bên đường đang xoã tóc.

Đêm 30 tết tối và buồn. Giờ này ở thành thị cách chỗ Hường ngồi đây thôi chỉ già một cây số, người ta đang chen vai thích cánh ra đường, nào hoa, nào cờ, ai cũng tươi mởn và lịch lãm, ai cũng thấy trẻ lại cùng thời khắc giao mùa mỗi năm chỉ đến một lần.

Tiếng muỗi vo ve nhắc Hường đến cánh màn còn chưa khép nơi giường nằm bà Bính.

Huân, con trai độc nhất của gia đình đã xa nhà 3 Tết rồi. Cả 3 Tết, nói đúng hơn là cả ba đêm chờ Giao thừa, Hường vẫn ngồi như thế, hưởng trọn cái buồn của nỗi cô lẻ mà hai người đàn bà một già, một trẻ ở chốn nhà quê đang gánh chịu. Hường đứng dậy đi về phía giường, có tiếng bà Bính trong màn nói vọng ra:

- Mấy giờ rồi con ơi! Cứ bật cái đèn lên cho nó sáng sủa. Giao thừa này u thức với con, tao nằm, mày ngồi. Nhớ têm sẵn trầu nước để cúng Tổ trong nhà! Chuẩn bị lễ trung thiên ngoài sân, nhớ có cả gạo và muối để phát cho chúng sinh cô hồn. Họ đang đứng quanh nhà ta nhiều lắm đấy... Thằng Huân chắc cũng sắp về rồi! Chiều nay con chim khách chả kêu ba hồi ở cây bồ kết là gì.

Hường giấu đi sự lo lắng bồi hồi:

- Tất cả con lo rồi! Cái chân gà mang sang thầy Tự Lâm xem hộ, thầy bảo lành lắm, năm nay cả nhà sẽ đoàn tụ, sẽ yên ấm vui vầy, mẹ sẽ khoẻ lên, con và anh Huân sẽ ... Hường ngập ngừng và e thẹn vì trót lỡ nói ra điều cuối cùng! Ngượng thật! Đã đâu vào đâu mà vơ vào.

- ừ! Nó về là u khoẻ lên. Rồi chúng mày cũng phải có cháu để tao bồng cho đỡ tủi thân, có nhắm mắt cũng yên lòng, ... Tao nhớ thằng Huân bao nhiêu lại thương thằng cu Hảo bấy nhiêu, giờ này nó ở đâu... Tao giận con mẹ nó lắm.

Lẩn nhẩn như thế, chuyện nọ nối chuyện kia, cái đồng hồ quả lắc mốc thếch đã điểm 9 tiếng bính boong. Ngoài trời càng tối, mưa càng dầy hơn. Gió bấc lại hối lên làm bụi tre gai trái nhà vặn mình răng rắc.

Người đi xa vừa được nhắc tới là Huân. Đứa con trai độc nhất đang ở trại cải tạo trong Thanh Hoá, được đặc xá về quê, đã nhờ người xã bên đi thăm con đem lá thư gửi tận tay bà: "Thưa mẹ! con đã được đặc xá, tết này về đoàn tụ với gia đình xóm mạc, con xin phép mẹ ở lại ít hôm để sửa lại ngôi nhà, đào thêm cái giếng cho mẹ nuôi con ở trong này, con sẽ cố gắng về nhà trước tết, chậm lắm là đêm 30. Mẹ nhắn Hường chờ con ở nhà nhé, con mang ơn và yêu thương cô ấy rất nhiều".

Giờ chỉ còn 3 tiếng nữa là sang canh, lá thư vẫn còn bên túi áo phải của Hường, hình như cũng cựa mình thắc thỏm.

Hường lục túi lấy lá thư ngắm nghía, cô đã thuộc lòng từng chữ trong thư. Huân, con trai mẹ, vừa xa vời vừa gần gũi thân thương... Nhớ sao cái khoảnh khắc tình cờ ấy để nên đợi nên chờ khắc khoải. Nó như sợi chỉ hồng, mỏng nhưng bền, vượt thời gian, làm con người sống có ý nghĩa hơn cùng hi vọng.

Hường là cô giáo làng, cha mẹ và các em mất từ ngày cô còn là thanh niên xung phong. Ngày đó máy bay Mỹ thường hay tập kích ban đêm. Một quả bom rơi trúng nhà cô. Có ai ngờ được cái làng hẻo lánh, xa mục tiêu oanh kích của không quân Mỹ lại lĩnh trọn một vệt bom. Ba quả bom tấn rơi giữa làng, một số quả lạc ra cánh đồng. Bao xác người chết khi còn đang ngủ bị quăng xuống ao, xuống đìa. Cả nhà Hường không còn ai sống xót.

Thế là trên cõi đời này, Hường không còn tình cốt nhục. Nỗi đau chiến tranh ập xuống mái nhà và làng xóm cô đêm ấy là nỗi kinh hoàng. Ngày trở lại quê hương, cô lặng người trước bốn nấm mộ liền nhau lạnh lùng hương khói.

Cô vẫn sống trên nền xưa, họ hàng và bè bạn đã giúp cô dựng lại căn nhà... Cô giáo làng lại đứng trên mục giảng.

Thoáng đấy mà Hường đã 32 tuổi. Vầng trăng tròn trĩnh năm xưa với mái tóc dài xuôn sẻ, với đôi môi mọng đỏ, đôi trái bồ quân ửng hổng dần phai nhạt. Nỗi đau chồng lên nỗi đau. Chiến tranh đã cướp gia đình còn cướp cả tuổi xuân đầy đặn và rực rỡ của cô. Tất cả sự tròn trịa lung linh cô đã gửi lại chiến trường. Má Hường giờ lấm tấm tàn nhang. Mỗi khi chải đầu cô xót xa viên những lọn tóc rỗi bời, rụng gãy... Cô thành vầng trăng khuyết leo loét treo giữa trời đêm, chẳng đủ sức tỏa sáng và lay động cho ai tìm đường kết thành đôi lứa.

Chiều ấy, trên đường đi dự hội giảng từ huyện về nhà, cô thủng thỉnh đạp xe, con đường nhựa bóng loáng, phẳng lỳ, những phương tiện giao thông phóng qua vun vút, Hường nhớ lại tất cả những diễn biến của kỳ hội giảng sáng nay, nhớ phút công bố kết quả, thật cảm động khi ông Giám đốc Sở giáo dục tiến lên tặng hoa những cô giáo tiểu học đạt thành tích xuất sắc.

Bống có một chiếc xe bịt bùng kín mít lao qua, Một bàn tay vẫy, một lá thư nhỏ, một lời gọi với vô vọng và gấp gáp:

- Làm ơn chuyển giúp cho mẹ tôi nhé! Ở làng Lâm ấy.

Chỉ có thế thôi, gương mặt người tù trên xe Hường không nhìn rõ.

Lá thứ ấy đã đến tay mẹ Huân người cùng xã nhưng khác làng.

Những dòng chữ viết vội trên đường chuyển trại, Huân thông báo với mẹ phải lĩnh án tù 5 năm.

Lá thư ấy làm bà Bính gục ngã. Năm năm dài đằng đẵng, mất chồng. Đứa con độc nhất đi tù biền biệt, cháu nội và con dâu mịt mờ tung tích. Đêm đó Hường ở lại cùng bà. Người già tăng thêm bệnh khi nỗi đau gia đình đè nặng.

Thế là nỗi đau, nỗi buồn ở hai người đã gắn kết một già, một trẻ bên nhau. Nỗi buồn được sẻ chia cũng phần nào vơi đi sự nặng nề đang đè nặng.

Hường vẫn dạy học và thường xuyên đi lại thăm nom mẹ Huân.

* * *

*

Thoáng đấy đã ba năm. Ba năm, một ngàn ngày, một ngàn đêm có lẻ. Hai người đàn bà mong ngày trở lại của một chàng trai đang trong vòng lao lý... Tết này Huân về có nghĩa là anh được đặc xá hai năm.

Cái ngày mà hoàn cảnh đã gắn kết Hường với mẹ Bính như mốc son đánh dấu. Như khúc nhạc dạo đầu cho mối tình nảy nở. Cái nghĩa làm nên cái tình và cái tình làm đầy thêm cái nghĩa. Không biết từ lúc nào, Hường đã coi mình là đứa con của mẹ.

Trước khi thụ án, Huân đã có một gia đình, vợ Huân một nhân viên lễ tân khác sạn đẹp như đóa hồng nhung, lúc nào cũng thướt tha áo dài như bông huệ trắng, dúng rẩy và nhõng nhẽo. Họ đã có một câu con trai hai tuổi kháu khỉnh. Huân là một kỹ sư xây dựng, chuyên thiết kế công sở trong tỉnh. Huân đón mẹ lên thành phố ở cùng. Những tưởng cái tổ ấm ấy dù trời long đất lở cũng không chia lìa.

Bỗng đâu một ngày Huân bị bắt, khu nhà mà Huân phụ trách thi công bị sụt lún đến 3 độ. Nhiều bức tường nứt toác đút lọt bàn tay. Mới bàn giao cho bên B chưa đầy một năm mà sự cố đã xảy ra tệ hại đến như thế. Những cai thầu được thuê thi công các hạng mục giờ đã tứ tán trong Nam ngoài Bắc. Trách nhiệm chính vẫn là người thiết kế mặt bằng và giám sát thi công. Anh ân hận vì đã tin đồng sự để thất thoát vật liệu và rút bớt chỉ tiêu kỹ thuật. Huân bị tạm giam, vợ Huân dẫn con vào ở tập thể khách sạn và bỏ mẹ chồng bơ vơ. Mẹ Huân lại về vườn xưa nhà cũ một mình. Một thời gian sau, người vợ bạc tình ấy đã đem con trốn theo tình nhân. Nghe đâu là một gã chủ thầu giầu có.

Ba năm qua đi, cuộc đời mẹ con Huân như cơn ác mộng. Huân thụ án được sáu tháng. Hường giành giụm được một số tiền, hai mẹ con lên tầu vào tỉnh Thanh, trèo đèo lội suối gặp Huân ở trại cải tạo. Lúc này anh đang đi làm tự giác, chỉ đạo một toán thợ xây khu căng tin trại giam. Phút gặp gỡ ấy mẹ cầm tay Huân nghẹn ngào:

- Con ơi ! Mày đi vắng, nếu không có cái Hường, ngày về chắc chẳng gặp mẹ đâu. Vợ mày nó bạc quá đi thôi, nỡ cất chia tình phu thê phụ tử, nó mang thằng cu Hảo trốn đi với thằng khác rồi, con xem thế nào, nếu một năm nữa nó nhất quyết không về, con nên dứt khoát xây dựng với cái Hường.

Phút ấy đã làm hai mảnh đời xích lại.

Một năm qua đi, bóng dáng cô con dâu cũ qua bao đợt nhắn tin trên báo, trên đài, trên ti vi vẫn bặt vô âm tín.

Và mùa xuân này đã đến, đã quá mười một giờ đêm, mưa xuân càng dày thêm, gió hối cangg mạnh. Những người lớn tuổi sau phút du xuân đã trở về giành phần cho cánh trẻ đón xuân ngoài đường còn hái lộc.

Thời khắc Giao thừa càng đến gần, hai người đàn bà càng khắc khoải. Mẹ Huân đã ngồi dậy sửa khăn áo, bỏm bẻm nhai trầu. Mắt ngóng ra trời đêm tối sẫm.

Hường hết ra lại vào, mâm cúng trung thiên đã bưng ra sân, ánh nến chập chờn lay động, làn khói hương vẽ thành nhiều dấu hỏi bay vào trời đêm. Con gà trống choai mỏ ngậm bông hồng chập chờn theo ánh nến.

Huân ào vào nhà như cơn gió, phút đoàn tụ bất ngờ, Hường vẫn đứng ngoài sân, những giọt mưa li ti đậu trên mái tóc.

Huân xà vào lòng mẹ.

Cuộc đời kỳ diệu thế ! Nước mắt đâu chỉ dành cho nỗi buồn.

Bống không gian rực sáng, nhà bên mở to ti vi, tiếng chúc Tết ấm áp của Chủ tịch nước đang dõng dạc cất lên.

Các chùa triền quanh vùng đồng loạt cất hồi chuông dóng giả. Tiếng chuông lan vào trời đêm những thông điệp tốt lành.

Pháo hoa rực sáng, từng đợt, từng đợt tung lên không trung muôn ngàn màu sắc.

Mẹ Huân đã vịn vai con đứng dậy, chậm chạp tiến về ban thờ nghi ngút khói hương.

Mẹ chỉ tay ra sân. Hường vẫn đứng giữa mưa bụi ngóng lên trời, nơi có từng chùm pháo hoa vẫn vút lên rực rỡ. Huân đứng bên cô, chẳng rõ từ lúc nào, bàn tay ấm nồng đã sưởi ấm cho nhau.

Bống có một tiếng ùng ngay trên đầu họ, một chùm pháo sáng ai đó vừa bắn lên cháy xèo xèo. Trời đêm rực hồng, gương mặt hai người cũng rực hồng theo ánh sáng huyền ảo. Họ nhìn vào mắt nhau rạo rực ...

Chiếc dù pháo sáng mỏng tang chùng chiềng từ trên trời rơi xuống, quấn vào cổ vào vai họ. Hường giật mình ôm choàng lấy Huân. Họ gỡ chiếc dây tơ hồng trời vừa se. Nhưng càng gỡ, sợi tơ mỏng tang ấy càng vấn vít.

Mưa càng dày hạt, gió bấc se se lạnh. Mùa xuân đã về với mênh mang trời đất. Con người và vạn vật như trẻ lại trong thời khắc giao mùa.

Bên nhau họ tin mùa xuân này sẽ không còn lẻ bóng.

Giao thừa năm nay có bắn pháo hoa.

Chị Lam

Tôi trở về công tác ở Nhà máy Cơ khí nông nghiệp với bản lý lịch khá lý tưởng : 26 tuổi đời 2 năm tuổi Đảng. Trình độ chuyên môn Cao đẳng chế tạo máy lại là hội viên Hội Văn học tỉnh H. Cũng chẳng ai ngờ việc chuyển chuyển vùng công tác lần này ngoài lý do hợp lý là gần gia đình để chăm sóc cha mẹ già còn có một lý do sâu xa hơn mà nói cụ thể là sự “bật bãi” của tôi khỏi cơ quan cũ vì một lý do xung quanh chuyện phụ nữ. Cũng xin được thanh minh trước, đây không phải là việc quan hệ bất chính, cái lỗi muôn thưở của người khác giới với nhau mà lại là chuyện công tác trong một cơ quan khi tôi là anh cán bộ trẻ măng đang ngồi ở cái ghế thường trực hội đồng thi đua khen thưởng kỷ luật. Dự kiến sẽ được đề bạt một chức vụ cao hơn trong tương lai ở một nông trường quốc doanh có trên ba ngàn người, đa phần là phụ nữ .

Chuyện như thế này :

Tôi được tin báo ở đội sản xuất số 5 của nông trường đang xảy ra việc xâm hại thân thể và làm nhục phụ nữ. Nạn nhân đồng thơi cũng là tội nhân là một phụ nữ người dân tộc, trong khi đi làm nương về đã lẻn vào lô hái trộm một lẵng cam bị bảo vệ bắt được. Bà Khương đội trưởng ra lệnh cho bảo vệ dùng thắt lưng da vụt vào người, trói chị ta bằng thừng trâu rồi dong về trụ sở đội nhốt vào kho thuốc trừ sâu. Chưa hết, bà ta cử hai phụ nữ dưới quyền lột trần chuồng mặc dù chị phụ nữ kia quỳ lạy như tế sao .

Tôi và 2 nữ đoàn viên lập tức có mặt. Lúc đó vào giờ nghỉ trưa nên không ai canh giữ. Cái cửa kho làm bằng sắt ô cáo nên tôi nhìn rõ cảnh hành nhục người. Không vào trụ sở đội, tôi uất quá tự tay phá khoá cho hai phụ nữ cùng đi vào cởi trói, mặc quần áo, chải đầu, cho chị ta rửa mặt mũi rồi giao cho hai người đưa chị ta về phòng bảo vệ Nông trường để giáo dục .

Bà Khương nghe tin loé xoé chạy ra. Cơn phẫn nộ đang lên cao trào, tôi chỉ vào mặt bà Khương dằn từng tiếng :

- Chị là đồ man rợ! Phi nhân tính! Loại người trung cổ, cùng phụ nữ với nhau mà chị khốn nạn. Tôi không cho qua việc này đâu !

Bà Khương mặt đỏ lựng rồi dần dần tái đi. Nếu không vì bộ ngực và hai quả mông vĩ đại cản trở có lẽ bà nhảy ngược lên ngọn cây :

- Tao vào nông trường từ ngày mày còn bú tý mẹ! Chúng tao dựng lên nông trường thì có quyền trừng trị bọn ăn cắp. Đừng có dạy đời là mày đi tong đấy con ạ !

Thời bao cấp, trong luật có 8 năm Chiến sĩ thi đua liên tục là được phong danh hiệu Anh hùng lao động. Bà Khương đã vượt qua cái ngưỡng này, hồ sơ đề nghị danh hiệu tôi đã làm xong ở các cấp cơ sở, đang nằm ở Viện Thi đua khen thưởng trung ương, cũng có nghĩa là không bao lâu nữa trong ngành Nông nghiệp sẽ có thêm một nữ Anh hùng lao động .

Qua cơn nóng nảy đành hanh của đàn bà, biết cái nguy cơ đối đầu với tôi sẽ bất lợi, bà Khương đấu dụi. Tôi cũng không tha. Thế là một cuộc họp đột xuất của ban thi đua được tiến hành. Trước khi vào cuộc họp, bác Văn giám đốc nói nhỏ với tôi :

- Xem sao phiên phiến thôi cháu ạ! Bác cũng căm cái hành vi vô văn hoá ấy lắm nhưng ngặt nỗi ông Kiên anh trai bà Khương lại là Phó giám đốc, đổ bể danh hiệu bà ta là sinh lắm điều rắc rối cho cháu .

Tôi ức đổ máu mắt nhưng trước giám đốc mà tôi coi như cha đã dìu dắt tôi trong công tác nên tôi từ tốn nói :

- Không thể làm khác được đâu bác ạ! Nữ công nhân các cơ sở toàn Nông trường đã lên tiếng phản đối, bản thân cháu cũng đã viết nhiều bài báo tố cáo hành vi bạo hành của bà Khương trên tờ Lao động và Phụ nữ. Nếu ta bưng bít chuyện này toàn thể chị em Nông trường nhìn vị Anh hùng của mình bằng con mắt thế nào, còn uy tín của bác nữa, mọi người sẽ cho là bác thoả hiệp, xuê xoa “.Tội quy vu trưởng” ,nhất định bác sẽ mang tiếng về việc này trước dư luận .

Mọi việc diễn ra đúng luật. Bà Khương mất danh hiệu và tôi thì không thể tiếp tục công tác ở cơ quan vì những lý do không thể biện dẫn trong quan hệ người với người.

Hôm nhận quyết định thuyên chuyển, bác Văn mời tôi đến nhà liên hoan chia tay, cả nhà rất quý tôi. Riêng Mai Hà cô em út đang học cấp 3 cứ tiếc từ nay không được ở gần để tôi dạy “làm thơ”. Tiễn tôi ra ngõ bác Văn tần ngần :

- Phải chia tay cháu bác tiếc lắm. Làm công tác phong trào kén được người không dễ đâu. Cuộc đời này éo le lắm, có những việc không thể áp công thức vào là xong, đấy là một thực tế cay đắng và nghiệt ngã mà ai cũng phải đối mặt .Về đơn vị mới ta mong cháu tỉnh táo, tế nhị, khôn khéo nhưng đừng làm mất mình. Bác Kính là chỗ bạn thân với bác nên bác đã nói rõ về cháu, cứ yên tâm mà chuyển công tác, ta tin cháu sẽ nên người .

Cứ tưởng từ nay dã biệt cái nghề “cờ, đèn, kèn, trống, đóng đinh leo thang” ai ngờ về cơ quan mới lại nghề cũ. Thấy tôi băn khoăn do dự, Bác Kính giám đốc mới gọi lên văn phòng. Ông là người thâm trầm ít nói nên tôi rất ngại tiếp súc, ngồi trước ông tôi như bị thôi miên …

-Anh Văn bàn giao cụ thể về năng lực công tác của cậu cho tôi rồi! Thôi làm đi, nhà máy đang thiếu chân Thi đua Văn hoá. Tôi tin cậu sẽ đảm nhiệm được .

-Dạ! Cháu chưa quen với nhà máy công nghiệp, xin bác cho cháu xuống làm thợ theo ngành cháu được học .

- Làm được! thường vụ Đảng uỷ nhà máy đã thống nhất rồi.

Nhìn kỹ tôi bác Kính cười tủm tỉm :

- Ngoan nào! Chụi khó công tác rồi tôi gả cái Nhung nhà tôi cho cậu, nó ở phòng KCS ấy, là tay đo có hạng, nó làm thơ và hát chèo cậu cứ là chết mệt…chụi chưa nào ?

…Thế là tôi lại một mình một phòng. Chấm công “gầu sòng” ở Phòng tổ chức nhân sự và chức danh lại y hệt như cơ quan cũ .

Thực sự lúc ấy, cú sốc ở cơ quan cũ vẫn ám ảnh tôi. Tôi muốn xa lánh cái chức danh đã làm cuộc đời có bao nhiêu phiền toái để bình lặng làm người thợ tuy cực nhọc nhưng thanh thản đầu óc, song hình như cái số trời đã định tôi lại phải làm công tác phong trào để không phụ lòng tốt của cả 2 vị giám đốc mà tôi rất mực kính trọng .

Sau một tuần vừa trấn tĩnh, vừa tìm hiểu công việc tôi lại nhập cuộc đầy hứnh khởi mà công việc đầu tiên là dựng lại phòng truyền thống và Thư viện của nhà máy. Tôi xin giám đốc và công đoàn chi tiền dựng lại bộ mặt văn hoá cho công nhân bấy lâu vẫn để nhện chăng. Những tủ sách quý như vậy mà chẳng ai đọc. Chiếc máy ảnh “Penta” đã phát huy hiệu lực. Tất cả các nhân tố điển hình được nghệ thuật hoá khá sinh động trên bảng tin hàng ngày trước cổng ra vào nhà máy. Phong trào thi đua, sáng kiến cải tiến được thổi làn gió mới. Khiêm tốn mà đánh giá, tôi đã làm được một số việc có hiệu quả trong công tác thi đua được lãnh đạo biểu dương.

Nhà máy có trên 400 người, ngoài cán bộ lãnh đạo, khối phòng ban nghiệp vụ còn lại là công nhân kỹ thuật .

Hôm xây dựng đội Văn nghệ, tôi gặp một chuyện vừa rắc rối vừa buồn cười. Số là hôm ấy, tôi đi thâm nhập thực tế một số tổ Lao động XHCN, gặp và làm quen các Chiến sỹ thi đua nằm ở các dây chuyền sản xuất. Tôi xuống tổ đúc gang Sie. Đang ngơ ngơ như chú bò lạc thì gặp bố gìa Tích nguyên đội trưởng đội văn nghệ quần chúng của nhà máy đã dã đám. Thấy tôi có ý tìm hiểu về phong trào văn nghệ những năm trước đây do bác làm ông bầu. Bố già quái quỷ mặt lạnh tanh, hai cái mắt lá dăm ướt nhượt hấp háy ma mãnh quét vào tôi rồi chỉ tay ra phía đông nhà máy mà phán rằng :

- Cu con không biết tốp ca nam nhà máy này à! Toàn tay hát rất “vững”nhất là bài “năm anh em trên một chiếc xe tăng” đã đi hội diễn đạt giải cao ngất ngưởng, ngang ngửa với tốp ca nam đoạn đầu máy xe lửa Hà Lào.

Tôi như thằng vớ được của xoắn lấy. Bố già liền chỉ tay:

- Các lão ấy còn sống cả đấy, khoẻ như trâu húc mả, cứ xuống tổ ván sàn ôtô mà hỏi. Tao già rồi chỉ hát ở nhà thôi. không đi biểu diễn lung tung được, có hỏi thì tìm lão Tuệ tóc xoăn ấy, lão là nhóm trưởng, lão ấy mà lĩnh xướng thì quằn quại mê ly .

Thế là tôi hập báo hập bổ lao xuống tổ ván sàn giữa lúc cưa xẻ đang chí choang và bụi mạt cưa vung vãi tán tàn. Năm ông hộ pháp trong “tốp ca” ai cũng chùm kín mặt, chẳng biết ông nào là ông Tuệ tóc xoăn .

Chờ lúc giải lao tôi mon men đến bàn nước gạ gẫm và nói nguyên si lời quảng cáo của ông Tích. Vừa nghe dứt, ông Tuệ đã nổi máu Trương Phi :

- Thằng oắt con định cùng thằng Tích ma gà xỏ lá các bố mày đấy à! Ông cắt lưỡi bây giờ! Bố láo bố lếu! Đến ông Kính giám đốc cũng còn chưa dám hỗn với chúng tao nữa là cái ngữ mày…

Cả năm ông như năm con hổ đực mắng tôi là đồ hỗn hào xỏ xiên …Chẳng rõ cơ sự thế nào, tôi lạy như bổ củi .

Trưa ấy về văn phòng tôi hỏi bác Kính. Bác tủm tỉm cười :

- Cậu lạc vào chuồng dê đực rồi! Năm lão ấy là năm con dê già! Cả năm lão đều ngủ với bà Nga chồng bỏ đang làm ở tổ hàn hơi , Chiếc xe tăng là cái bà hộ pháp ấy đấy! Từ rày muốn làm việc gì cần tìm hiểu kỹ, bí quá cứ hỏi tôi…

Một buổi trưa gần đến giờ tan tầm, Nhung, cô gái rượu con bác Kính, tay đo Panme siêu hạng kiểm định chất lượng sản phẩm ở phòng KCS lạc vào phòng làm việc tôi xin ca nước giữa lúc tôi đang vụng trộm viết nốt đoạn kết một chuyện ngắn. Nàng tủm tỉm cười :

- Lại ăn cắp giờ hành chính để viết văn rồi! Liệu hồn tối nay mách giám đốc đấy! Ngập ngừng nàng rủ rỷ …Tối qua đài đọc chuyện đêm khuya “người thức cùng mùa đông”của anh, nghe xong mà mất ngủ cả đêm, nó cứ váng vất ám ảnh làm sao ấy! Này!Cho hỏi thật nhé! Sao tý tuổi mà sớm thành ông cụ non thế, lại tọc mạch ma mãnh kinh người. Cái mặt bấm ra sữa sao mà tinh quái thế. Cả bố mẹ Nhung cũng nghe rồi còn gi âm tối nay nghe lại, bố bảo cái giọng văn thằng này lạnh lùng kiêu bạc nhưng đằm thắm và nhân đạo nó lặn vào trong, phải là người sớm đau đớn vật vã với đời mới có cái giọng tưng tửng nhà quê, nó tả đau bụng nước ao tự nhiên tao cũng thấy đau bụng. Cụ Lý rõ là cụ Lý, thằng trai đinh rõ là thằng trai đinh, chi tiết nào cũng đắt…Nhung hỏi bố: Không biết anh ấy viết vào lúc nào …bố bảo : ai mà biết chuyện ma ăn cỗ, khi người ta yêu cái gì thì chuyện thời gian là tự họ sắp đặt, tao biết lúc có cảm xúc là viết ngay trong giờ hành chính, cứ thấy mặt nó nghênh lên trên trang giấy là lúc nó đang viết, tao biết tỏng nhưng cứ để nó tự do sáng tác, nó viết xong lại lén lút thầm vụng qué vào ngăn bàn. Tao đã ra lệnh cấm mọi người la cà uống nước vặt ở phòng trợ lý thi đua trong giờ làm việc cho nó tự do viết lách! Cơ quan mà có một tay nhà văn thì càng vui, càng tự hào chứ sao! Bố ra lệnh tối nay anh cắt cơm bếp tập thể về nhà mẹ chiêu đãi bún ốc. Tuân lệnh hay không là tuỳ nhà văn …

Cơ quan tôi có chị Vũ Thị Lam, quá lứa lỡ thì 40 tuổi vẵn chăn đơn gối chiếc sống ở phòng tập thể. Tôi và chị chơi thân với nhau, thương quý nhau như chị em một nhà. Chị chăm sóc tôi chu đáo lắm. Tôi thường cắt cơm tập thể bữa tối về ăn với chị. Cái xuất gạo làm gián tiếp của tôi có 13 ki lô lại độn ngô một nửa. Tôi ăn khoẻ như trâu uống nước vũng nên chị thường xoay sở thêm để cho cái dạ dày háu đói của tôi được thoả mãn. Tối đến sau khi ăn quáng quàng tôi lại ra lớp dạy nhạc do Nhung làm lớp trưởng. Cái đàn phong cầm to hơn thùng mỳ tôm đeo xễ cả vai. Dạy tự nguyện và học tự nguyện chẳng có lương bổng thù lao gì thế mà ham thích say mê lắm, Khu tập thể vang tiếng xướng âm, tiếng hát tiếng cười .

Nội bộ lãnh đạo nhà máy lúc này chia nhiều bè phái, kiện tụng tùm lum, cái vấn nạn xảy ra bức bối ngột ngạt ấy kéo theo bao tác hại cho phong trào, tôi được giám đốc cưng nên một số cán bộ đố kỵ ra mặt. Đúng lúc ấy tôi lại gây ra sự cố trong công tác .

Một đêm nằm nghe chương trình văn nghệ trên đài, tôi thao thức vì bài bút ký “Làng không có trẻ con”viết về cảnh không chồng của bao công nhân quá lứa nơi vùng nông trường chè. Kết thúc bài Ký Văn học lại có một bài thơ làm nao lòng chúng ta :

Đừng khen em hái chè như múa

Khi tuổi ba mươi em lẻ bóng giữa đồi

Điệu múa nhọc nhằn trôi ngày nhàm tẻ

Tuổi xuân đâu còn mà mơ ước xa sôi .

Suy nghĩ và cách nhìn của tác giả thật mới mẻ, thật dũng cảm, rất đời và rất người. Nhà văn mà tôi không nhớ tên ấy xót xa cho bao số phận không chồng không con của những phụ nữ nông trường. Gióng một hồi chuông đòi hỏi phải tạo điều kiện cho họ nếu không có cơ hội làm vợ hãy được có quyền làm mẹ, xoá bỏ cái định kiến con ngoài giá thú để họ có hạnh phúc dù không đủ ý nghĩa trọn vẹn. Gặp chị Lam tôi nói điều này, chị cười buồn:

-Thôi! quên chuyện ấy đi cậu ạ! Miệng tiếng thế gian lắm chuyện dè bỉu chê bai, họ không thể thông cảm cho mình đâu! Đợi kiếp sau làm lại vậy .

Chị Lam đáng thương của tôi đã qua thì xuân sắc, chị là thanh niên xung phong thời chống Mỹ sốt rét rừng rụng cả tóc, mặt đã lấm tấm tàn nhang, đôi ba lần gì đấy có người đàn ông hoặc là chết vợ hay bỏ vợ cũng lượn lờ nhưng đến rồi lại đi, chị cũng chẳng thiết tha gì cái cảnh vợ chồng vá vúi nhôm nhoam nên đành ở vậy .

Tôi thương chị quá nên cứ đeo bám cái dự định xui chị có con ngoài giá thú với ai đó. Tôi bàn:

- Em nghĩ mọi quan niệm rồi sẽ thay đổi. Chị nên có con với ai đó miễn là chị tự nguyện sống để dạ chết mang đi, không tranh giành hạnh phúc với ai, em tin hội đồng kỷ luật, cả bác Kính, cả em sẽ tìm cách bênh vực quyền làm mẹ của chị .

Thế là chị Lam có thai. Tôi biết chắc tác giả của cái thai là ông Tuệ tóc xoăn trong cái “tốp ca nam” hay si la lang chạ. Mấy tháng vừa rồi ông ta hay lượn lờ ve vãn chị .

Có thai khoảng 3 tháng tôi bàn với chị báo cáo tổ chức nhà máy. Kể ra thì chuyện này cũng chẳng có gì đặc biệt ở cơ quan có phụ nữ lỡ thì nhưng vào thời điểm đó đâu dễ như chúng ta vẫn sử sự bây giờ! Bà Hảo phụ trách nữ công cơ sở triệu tập ngay ban chấp hành bàn soạn việc đưa chị Lam ra đấu tố, khảo đả. Như đã hứa, chị nhất quyết không khai tác giả cái thai lùm lũm đội áo to dần lên. Rồi hội đồng kỷ luật nhà máy do tôi làm thường trực đưa ra lời phán tội cuối cùng. Chị cũng chỉ một mực như thế…Bà Hảo nặng lời chỉ trích, mạt sát, toàn những ngôn từ to tát trầm trọng. Bà đòi hội đồng áp dụng mức kỷ luật cao nhất để làm gương cho phụ nữ trong cả nhà máy .

Là thường trực hội đồng tôi kịch liệt phản đối ý kiến độc địa của bà Hảo. Tôi nêu quyền phụ nữ theo phép tự nhiên đang được nhà nước sắp có những thay đổi cho phù hợp, đưa ra những quan điểm của các học giả có uy tín được báo chí đăng tải…Cũng là bắt cóc bỏ đĩa. Khi con người ta cái tâm không sáng, cái đức không dày thì có bao nhiêu là sự phản biện đanh thép lại được từ “đồng chí” lên gân. Trong một cuộc họp quan trọng để phán sử sinh mệnh một con người không khí đã nhuốm màu cãi vã. Chị Lam của tôi ngồi trân trân nhận sự đấu tố của một người đồng giới, đồng niên làm cán bộ phụ nữ rất chi là “tiết hạnh khả phong”bởi không chồng không con, cứng nhắc như chiếc cột điện mặc váy. Bác Kính thì ngồi ục ra, đau đầu nhức óc giữa lý và tình, đám người không có chính kiến mạnh bên nào thì lao sang bên ấy cứ hóng miệng chờ nói leo, ăn theo. Họ có mặt trong hội đồng để ngáp vặt, để chờ dịp biểu quyết a dua, cái cảnh “hội đồng chuột” là thế…

Bất phân thắng bại, bà Hảo quay sang cay độc chỉ trích rồi súc phạm tôi :

- Không ngờ cơ quan ta lại giao trọng trách xét kỷ luật cho một cán bộ có máu Văn nghệ sĩ. Tôi đề nghị nên để anh ta đi làm thơ viết kịch chứ ở cương vị này có ngày anh ta cổ suý cả nạn quần hôn, thật là đồi phong bại tục, thật là…

Máu dồn lên mặt, tôi đứng phụt dậy quên cả thưa gửi phép tắc :

- Chị là loại phụ nữ nhẫn tâm, chị đã ngồi nhầm ghế trong vị chí đang phụ trách! Là phụ nữ lập dị và quái đản, phụ nữ mà không có trái tim phụ nữ, không chồng con lại thích ai cũng giống mình để trả thù đời! Chị có thấy mỗi lần chị hô hào chị em nhà máy sinh đẻ có kế hoạch, người ta cứ bụm miệng mà cười! Sao chị ác thế chị Hảo !

Máu hàng tôm hàng cá nổi lên, bà Hảo xỉa vào mặt tôi riết gióng :

- Thằng chó! rồi mày biết tay tao! để xem thằng nào hay con nào là đứa ngồi nhầm chỗ .

Cuộc họp náo loạn như vỡ chợ! Chị Lam lau nước mắt đứng dậy cũng đanh đá không vừa :

-Tao đẻ thì tao nuôi! Không tranh vợ cướp chồng của ai cả! Không ở nhà máy thì tao về quê. Không cần phải vạch vòi tao đâu Hảo ạ! Mày tệ lắm .

Thế là chị Lam đùng đùng bỏ việc mà không cần đòi xin sỏ điều gì. Tối ấy mặt chị lạnh tanh, ngồi ăn cơm với tôi, chị cả quyết :

-Không lôi thôi gì nữa, chị quyết định rồi, chị về quê sinh cháu, em đừng nhọc hơi mà cãi nhau! Chị rất quý trọng bác Kính, bác ấy nhân hậu lắm, chỉ tiếc bọn quân sư vô dụng nó đang nhè lúc bác bị kiện cáo để khống chế rồi tự tung tự tác .

Tôi bàn :

- Thế cũng được chị ạ! Em cũng chán cảnh đút chân gậm bàn rồi. Sau vụ này em xin đi làm nghề, chị ở lại sau ngày cưới của em với Nhung rồi về cũng được. Cưới nhau xong chúng em cũng ra mở dịch vụ Cơ khí. Nhất nghệ tinh ,nhất thân vinh. Em đứng số tử vi mệnh “xa trung kim” chỉ thích đãi cát tìm vàng ngoài cuộc sống để có cơ hội thực hiện mơ ước văn chương .

Thế là cuộc đời tôi và chị xoay bản lề. Cuộc chia tay ấy cũng làm rơi nhiều nước mắt nhưng chị em tôi tin rằng quyết định của mình là đúng. Cũng như dòng sông tìm về với biển, chúng tôi tự chọn chỗ đứng cho mình giữa cuộc đời và khả năng tự thích nghi sẽ được bộc lộ .

Giờ tôi và Nhung đã làm chủ một doanh nghiệp cơ khí., vẫn duyên nợ với văn chương và cho ra đời mấy đầu sách. Công việc làm ăn nhờ cơ chế mới khá thành đạt. Chị Lam về quê sinh cháu. Ngày cháu ra đời vợ chồng tôi có mặt và chị đề nghị lấy họ của tôi trong giấy khai sinh. Bé trai Lưu Hoàng Long là tên tôi đặt cho kỷ niệm ngày cháu ra đời ở quê hương có cái tên thật ấn tượng : Bến Đế – Hoàng Long tỉnh Ninh bình .

Ngồi viết lại chuyện này khi mái đầu chị em tôi đã bạc. Cả chị và tôi đã có cháu nội cháu ngoại. Chàng trai Hoàng Long kỹ sư thuỷ sản là giám đốcTrung tâm lai tạo và nhân giống tôm càng xanh, vợ làm giáo viên trung học “sinh con một bề” liền hai bé trai đẹp như tranh vẽ .

Hôm kỷ niệm 40 năm thành lập nhà máy tôi báo cho gia đình chị về. Lưu Hoàng Long tự lái chiếc xe riêng sang trọng chở mẹ và vợ con. 'Sản phẩm của họ là hai thùng tôm càng xanh góp tài trợ để ban tổ chức làm bữa đại tiệc .

Hai phụ nữ năm xưa gặp lại nhau. Bà Hảo vẫn một mình sống trong ngôi nhà rộng rãi nhưng buồn tẻ cô quạnh. Bà Hảo sa xầm nét mặt cố ý tránh gặp chị Lam. Gặp nhau sau bao năm xa cách mọi người tay bắt mặt mừng. Tôi nói vui :

- Xuýt nữa ta đánh mất một gia đình. Nếu chị em nhà máy ngày ấy cứ noi gương chị Lam thì cuộc sống này vui lên biết bao nhiêu …

Hoàng Long mặt tấng tang vì rượu, hứng khởi cầm cốc dẫn vợ con đi chào mọi người. Gặp ai cũng chỉ vào tôi : Dượng con đấy…!

Hồi ức ông Đại Tá

Làng quê một thuở ( Chương 18 tiểu thuyết Người thức cùng mùa đông)

- Làng mình thế mà lắm ma quỷ, nhiều bà cô ông mãnh lắm mày ạ .

Ông bạn có tên là Điền ghé vàp chơi với vợ chồng Hoàng Tài. Hắn có bộ mặt bánh đúc phộng phệu thật thà đáng yêu, nhờ phúc lộc bộ mặt ấy hắn đem nó làm giấy thông hành để đi buôn, mà kiểu buôn bán của hắn cũng hơi khác đời. Hắn lấy bong bóng trâu đổ rượu Làng Bẻo, cho vào một cái túi, lên tầu trao cho một bà nạ dòng sồn sồn, bạn buôn chuyến, trang trí thành một cái bụng chửa thật khéo, mang vào ga Thanh Hoá đổ buôn. Chuyến trở ra là cá khô, mắm tép, toàn thứ “quà quê” nên không bị đánh thuế.

Chẳng biết lời lãi bao nhiêu nhưng cứ hết vụ cày cấy hắn lại đi vì thế mới gặp Thìn , vợ Tàỉơ chợ cá ven sông và là đường day liên hệ duy nhất để vợ chồng Tài nắm được tình hình ở cái làng nhỏ, nơi chôn nhau cắt rốn của họ từ ngày cùng nhau chốn quê bỏ làng, dắt ríu nhau vào đây cho “qua thì đói, khỏi thì loạn”

Tài ôm lấy bạn, hít cái hơi đồng nội mà nhớ nôn nao mảnh đất chiêm trũng nghèo khó của mình, nơi đó Tài đã gửi trọn những ngọt bùi, cay đắng của tuổi thơ. Hình như Tài vừa khóc. Lâu lắm rồi Tài mới gặp Điền, thằng bạn quê ruột để ngoài da, ai nói gì cũng tin, đã gắn bó với Tài suốt thời thơ ấu. Tài nói giọng hãy còn ngàn ngạt:

- Chẳng có bà cô ông mãnh nào đâu, nếu có thì tao với cái Thìn phải bị vật chết đầu tiên. Chắc mày không quên tao là đứa ngủ bụi ngủ bờ rồi ăn nằm với cái Thìn trong Miếu Cô hồn ở gò Ma Trơi giữa cánh đồng Bối sau đó mới bỏ làng vào đây sinh thằng cu Nam…Điền ngẩn mặt nói vớt vát:

- Biết đâu đấy! Ngày xưa ma nó chưa khôn, bây giờ hoà bình không có Tây có Nguỵ, không có mooc- trê tăng sình, nó mới sinh sự thì sao?

Câu chuyện ma đang dở thì Thìn đi chợ cá về, vất cái mẹt tanh lòm la lên:

- Giời ơi bác Điền! Đi đâu mà biệt tăm biệt tích, dễ đến một năm nay mới nhìn thấy bác?. Các bác bên nhà và vợ con ra sao rồi…Làng mình vào Hợp tác hết rồi à…Những câu hỏi tíu tít của Thìn làm Điền không biết trả lời câu nào trước.

Thìn là con gái cụ Tú Sinh Hà gia giáo nề nếp, vì yêu Tài và vì hoàn cảnh ép buộc nên phải theo Tài trốn vào đây. Cô sợ anh em ruột nhà mình như sợ cọp. Họ đe “gọt đầu bôi vôi” cái đứa chửa hoang với trai làm mất nề nếp gia phong, mang tiếng họ mạc…Sáu năm rồi còn gì, thằng cu Nam đã cắp sách đi học vỡ lòng ngoài Xóm Bến

*******

Tài và Điền sống với nhau từ nhỏ ở làng Lơ Thượng. Điền có bố mẹ mà Tài thì mồ côi, nay bà dì, mai ông bác, cơm bữa có bữa nhịn, mọi người đều bị đói chứ chẳng riêng gì mình Tài, nhiều ngày chẳng ở với ai, vớ được cái gì cho vào bụng cái ấy, kiếm ăn chủ yếu là đánh đó thả te, đêm ngủ bụi ngủ bờ, lâu dần rồi cũng quen. Khi cái khổ nằm giữa cái khổ thì người ta cũng thấy vợi đi phần nào. Miếng ăn vào miệng không xong thì chuyện ma tà , quỷ quái người ta cũng xem nhẹ. Tài rúc vào Miếu Cô hồn ngủ qua đêm là chuyện thường. Ở đó tuy lắm muỗi nhưng tránh được mưa giông. Điền thương Tài hay nắm cơm đem ra miếu khi biết ngày hôm đó Tài không xoay được miếng ăn. Tính Điền nhát ma nên không bao giờ dám ngủ lại trong miếu qua đêm với Tài. Mà Điền sợ cũng phải, cái miếu cỏn con nằm giữa đồng không mông quạnh, âm u trong lùm duối, chuột bọ rắn rết cắn nhau loạn xạ, thỉnh thoảng đào còn thấy những khúc xương người trắng hởn lẫn trong đất. Tài chẳng sợ gì cả, cứ thế đánh một giấc qua đêm. Chuyện một thời có ai quên được.

Cơm nước xong Điền có ý đòi về, Tài gạ:

- Ngủ với tao một đêm đi! Tao thèm nghe chuyện quê mình ngoài ấy quá…!

Một đêm bên nhau, quanh quẩn Điền chỉ kể chuyện ma. Tài hình dung đất làng ngoài ấy toàn những người không có học, cái rốt nát làm con người hay lú mụ trước thật giả, dễ bị bọn đồng cốt lừa phỉnh.

Sáng hôm sau Điền dạy rất sớm, khăn gói ra tàu. Điền vỗ vai Tài:

- Về quê mà sống mày ạ! Chẳng đâu bằng quê hương! Đừng sợ, nước mắt chảy xuôi, các cụ không hạch tội đâu.

Tài trầm ngâm

- Tao muốn lắm chứ! Để từ từ nghe tình hình các cụ đã, mày giúp tao dò la ý các cụ thế nào, lần sau vào cho tao biết nhé!

Điền về rồi, đêm ấy vợ chồng Tài thao thức. Chẳng ai nói với ai câu nào nhưng mỗi người đang tự cật vấn lương tâm mình…Đã sáu năm lôi tha nhau đầu sông cuối bãi, đầu đường góc chợ là vì đâu. Tài thấy thương vợ đến thắt lòng, cũng là một đời con gái má đỏ môi hồng, con nhà danh giá mà phải chui lủi theo Tài, Không cưới treo, không có trình làng trình họ…Vì tiếng gọi tình yêu, vì lễ giáo gia phong, vì thời buổi điên đảo phải chấp nhận tất cả để đi cùng trời cuối đất cùng Tài trong khi Tài là kẻ cầu bơ cầu bất, tương lại bịt bùng vô định…Thìn chưa một lần oán thán số phận. Suốt ngày quần áo lôi thôi, cắp cái mẹt cá tanh lòm. Đêm ngủ còn nói mơ việc mặc cả ngoài chợ

Năm Tài bước vào tuổi 16, như một con chim ra ràng tập bay. Nhìn cuộc sống diễn ra quanh mình, chàng thanh niên háo hức muốn vào đời. Tài chợt nhận ra và cay đắng cho thân phận mình, trước tiên là tủi thân với hình hài còm nhom và đen đúa rồi đến cảnh cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, ngày tháng rạ rật nơi miếu hoang, chui rúc như cáo, như chư chồn. Quê hương vừa tan bóng giặc, làng xóm không còn nơm nớp lo chạy càn, đàn bà mặc áo mới ra sân đình họp tổ đổi công, tuy còn đói nghèo nhưng con người nhìn nhau còn đoán ra tuổi, chẳng bù lúc còn Tây còn lính Dõng, đàn bà phải bôi mặt mình cho thật xấu, thật già, thật bẩn thỉu để nhỡ không kịp chạy càn khỏi bị Tây trắng Tây đen nó hiếp. Đàn ông tí tuổi đầu đã để râu dài, cải trang thành ông lão để trốn lính trốn phu…Thân phận Tài như cờ không gió, cả làng vẫn kêu là Cu Tài…Thằng Cu Tài mồ côi mồ cút

Một đêm vào lúc tang tảng sáng, Tài mắt nhắm mắt mở, lút cút đi đổ ống lươn. Qua ánh chớp loé lên sau trận giông, Tài nhìn thấy một bao tượng vải nâu rơi ở vệ cỏ. Ngập ngừng một lát, cậu nâng lên xem, thục tay vào trong rủng rỉnh những tiền. Thảo nào hồi sang canh có tiếng súng nổ và tiếng hô hoán của mấy ông bà du kích đuổi theo toán cướp chạy về phía Lơ Hạ, chắc bọn này nhân cơ hội đang vào đợt cải cách ruộng đất, đột nhập vào nhà lão Hào Nhương giàu nứt đố đổ vách mà ăn cướp…Tài cho Điền một ít dắt lưng. Hai thằng rủ nhau lên phố huyện đánh chén một bưa kếnh cang rồi rủ nhau cắt mấy bộ cánh tươm tất như con em nhà giàu vẫn mặc lên tỉnh học.Cái lộc trời thương ấy đã làm Tài đổi lốt. Trong cái miếu âm u đó, Tài biến nó thành Vương quốc riêng của mình với chiếc màn sô trắng bóc, có gối thêu hoa và chăn đắp hẳn hoi. Ngọn đèn hoa kỳ hắt ánh sáng vào gian miếu thấy vững tâm và ấm áp lạ. Tài thấy bắt đầu thèm chữ, cứ chập tối là cầm đèn vào lớp bình dân học vụ do cô giáo Thìn con cụ Tú Sinh Hà dạy. Cụ Tú là người nhân đức và hay chữ lại có cô út xinh đẹp. Mới thấc lên ở tuổi dậy thì, cô như đoá hoa chúm chím nở, bỏ tóc đuuôi gà óng mượt ngang lưng. Mỗi bước đi lọn tóc khẽ đung đưa trên tấm lưng thon của cơ thể đang vào thời thiếu nữ. Nhất là cặp mắt, nó vừa to, vừa đen lay láy, con mắt ấy linh động và biết nói, cứ cháy lung linh trên vầng trán thanh tú. Thìn làm bao trai làng ngả nghiêng, nhất là đám con nhà khá giả, các cậu trống choai đua nhau đến lớp, đua nhau gáy gẩm để được cô chú ý.

Sống ở chốn làng quê lam lũ, nhưng Thìn chưa bao giờ bị đói cơm rách áo. Cụ Tú cưng cô út nhất nhà nên kèm cặp nữ công gia chánh và luyện rèn chữ nghĩa. Ngày ấy việc cho con gái học chữ ở nhà quê là vô cùng hi hữu. Người ta bảo con gái biết chữ là chỉ để viết thư cho giai…Cụ Tú là người thức thời nên mới có cô Thìn bây giờ dạy cả làng học chữ. Cụ Tú vừa dạy học, vừa bốc thuốc. Cụ khá giả chính là nhờ bốc thuốc cứu người chứ không phải nghề dạy học. Các nhà Tư sản ngoài Hà Nội còn phải lần về xin cụ chữa chạy, nhất là bệnh hậu sản và bệnh muộn sinh nở. Vì thế tuy không có ruộng cả ao liền cụ vẫn giàu hơn mấy ông địa chủ trong vùng.

Lớp học do Thìn phụ trách , học sinh lẫn lộn tuổi tác, có đứa mặc quần đùi, thò lò mũi xanh, có ông đang là chủ tịch, là bí thư xã, có cụ già và các bác trung niên.

Tài biết phận mình nên cắm đầu vào học ngày học đêm, chỉ qua tháng đầu đã đọc thông viết thạo, làm bốn phép tính khá nhanh được “cô giáo” nêu gương rồi làm lớp trưởng. Những đêm nghỉ lớp, trong ngôi miếu con Tài vùi đầu vào đọc Nhị Độ Mai rồi chuyện Kiều, lục Vân Tiên…. Cô Thìn vẫn lén đem sách của cụ Tú cho Tài mượn…Chưa làm được điều gì nhưng Tài tin một ngày nào đó, cuộc đời sẽ đổi khác.

Một đêm tháng ba, ếch nhái i uôm khắp cánh đồng. Trong miếu hoang Tài đang nằm đọc sách, có tiếng chân rụt rè và hơi thở gấp gáp nơi cửa miếu. Tài nhổm dậy khêu to ngọn đèn, không thể tin đấy lại là Thìn với mái tóc sổ tung ướt nhèm, chân không dép. Thìn nói như người đứt hơi:

- Tài ơi! Thày mẹ và cả nhà bị bắt hết mất rồi, họ nhốt tất cả ngoài đình Lơ ấy! Sợ lắm, có cả du kích bồng súng giương lê đứng canh, họ ghê lắm, hơi tí là thích báng súng vào người. Thìn lẻn trốn được chạy ra đây! Cho tôi ở chung với nhé, về bây giờ là chết. Người ta gọi nhà mình là địa chủ, là phú nông, là cường hào hay Việt gian gì ấy. Có lẽ phải đi tù hết mất thôi…Giời ơi! Sao lại thế này hở giời! Sao lại đến nông nỗi này?.

Tài chẳng biết nói gì, ngồi thượt ra, tâm trí rối bời. Đợi Thìn nín khóc,Tài ngập ngừng:

- Ở đây khổ lắm đấy, không hợp với cô đâu! Chịu khó có gì ăn nấy, đợi tình hình yên yên ta tính liệu sau vậy.

Không ai ngờ trận cuồng phong ấy đã làm đổ bể bao điều tốt đẹp. Đập vỡ bao điều thiêng trọng nơi quê hương thâm nghiêm, nhưng cũng là dịp người với người soi rõ nhau về đạo nghĩa. Ai nhân hậu trung thưc, ai điêu ngoa phản chắc, a dua…Tất cả đều gạn gùng thể hiện và thể hiện đến gạn gùng.

Thế là hai người chung sống với nhau hơn 2 tháng. Nhập nhoạng tối là Tài trở lại miếu hoang kẻo cô tiểu thư cụ Tú sợ ma, ban ngày kiếm cái ăn và theo dõi tình hình đấu tố và số phận gia đònh cụ Tú Sinh Hà đang trong giai đoạn gắt gao về quy thành phần. Gặp chị du kích cũng là chỗ họ hàng, Tài nhờ chị báo tin cho gia đình cụ về Thìn vẫn sống an toàn.

Chẳng nói thì ai cũng ró , điều gì sẽ xảy ra khi hai đứa trẻ chung sống với nhau nơi đồng không mông quạnh, cách xa làng xóm bằng một cánh đồng cò bay mỏi cánh, Cái nghĩa lúc tao loạn làm nên cái tình để mãi mãi họ gắn bó bên nhau.

Tình hình đã đổi khác. Gia đình cụ Tú bị nâng lên hạ xuống qua những cái đầu đã rốt chữ lại giỏi điêu ngoa. Ngày ấy là thời kỳ “ nhất đội nhì trời” với những bản án tiền trảm hậu tấu làm khuynh đảo nhân tâm. Mặc dù vậy cụ Tú vẫn không thể nào bị quy kết là giai cấp bóc lột. Không trâu, không ruộng, không người ăn kẻ ở. Tàì sản là cái đầu hay chữ và con dao cầu thái thuốc mà cả vùng này chí ít nhờ cậy cụ một lần lúc ốm đau…Không đủ bằng cớ, cụ và gia đình được tha nhưng toàn bộ gia sản mồ hôi nước mắt bị bốc hơi hết, từ cái chổi sể bằng cọng dừa đến cái ống tăm bằng mu rùa trên cột cũng bị hôi. Đây là dịp trống rong cờ mở cho lòng tham lam tác oai tác phúc.

Mọi việc có thể thu hẹp, co nhỏ lại nhưng cái bụng Thìn thì không thế được. Nó lùm lũm đội áo nhô dần lên, cái lông mày cũng dựng, cái dáng đi thưỡn thườn thườn, cái tật thèm của chua…Tất cả tố cáo Thìn đang có chửa. Thìn quỳ lạy nẹ tha tội. Hai mẹ con chỉ biết ôm nhau khóc lặng đi, khóc tưởng hai thân xác tan thành nước mắt. Mẹ Thìn mếu máo:

- Khốn nạn rồi con ơi! Tội vịt chưa qua, tội gà lại tới mất rồi! Suy cho cùng tại thời buổi đảo điên nó gây ra! Bố mày biết chuyện này chắc ông ấy cắn lưỡi tự tử vì nhục! Thôi, nhân thể ông ấy phẫn trí bỏ nhà đi chơi với cụ Tú Nhâm. Con với nó bảo nhau bỏ làng đi đâu một thời gian mà sinh con! Mà đi thật xa vào không cho ai biết mà tìm. Bố mày về tao lựa lời khuyên can, như bát nước bớt nóng dần ông ấy sẽ nguội.

Mẹ cho Thìn mấy đồng vàng lén chôn được làm vốn. thịt một con gà làm cơm cúng tổ tiên, mời Tài cùng đến…Trong đêm tối bịt bùng, họ dắt ríu nhau ra ga và xuôi vào Thanh Hoá. Thế là họ thành vợ thành chồng nơi đất lạ, là một đôi lang bạt trong những mảnh đời lang bạt sau cải cách ruộng đất! Cái chuyện đến thế kỷ 21 này, cháu con vẫn lắc đầu khó hiểu…Nhanh thật ! Thế mà đã 6 năm trời.

Hai tháng sau ngày chia tay, Điền lại vào Thanh Hoá tìm Tài. Lần này Điền đem theo cả vợ. Vợ Điền là Tý Thản con ông Nhiêu Khoái cùng làng, cũng là bạn chăn trâu cắt cỏ với nhau. Tý Thản khoe:

- Tao nhờ bố tao sang nói chuyện với cụ Tú nhà mày. Cụ có vẻ nghĩ ngợi ghê lắm! Cụ bảo: “ suy cho cùng chúng nó yêu nhau thì sống chết với nhau chứ mắc tội gì đâu, đấy là cái đạo nghĩa làm người, cái đạo ấy nhiều kẻ nói làu văn sách nhưng sống quay quắt đầu Ngô mình Sở.

Thế là 6 năm gắn bó với Sông Mã tỉnh Thanh với bao buồn vui, vợ chồng Tài và Thìn gạt nước mắt, dẫn con ra tàu trở về làng cũ.

Về quê

Con tàu ngược Thanh Hoá là tàu chợ đen đúa, phì phò khói trắng , khói đen hổn hển chuyển bánh

Sau Hoà bình cảnh vật hai bên đường có bao thay đổi. Dòng sông xanh uốn khúc như những dải thắt lưng màu ngọc bích, thao thiết chảy qua bao xóm mạc ruộng đồng,. Lúa đang vào thì con gái mởn mang lao xao trong gió. Nắng thu vàng mơ trải rát vàng lên cảnh vật đang hồi sinh sau loạn ly, giặc dã. Đôi vợ chồng trẻ ôm con vào lòng, nhấp nhổm nhìn ra hai bên đường, lòng cồn cào, buồn vui thắc thỏm. Cu Nam sớm tỏ ra người lớn, nó nhìn cảnh vật rồi nhận xét những câu thật hóm hỉnh. Ngày chốn quê bỏ làng, cũng trên một con tàu già nua và đen đúa như thế này, đôi trẻ run rẩy ôm nhau nghĩ đến ngày mai. Họ sống bên nhau đến bây giờ cũng nhờ tình yêu làm động lực, Quả thật, nếu không nhờ tình yêu làm sợi chỉ hồng thắt buộc, họ đã gục ngã trước cuộc sống, người gục ngã đầu tiên chính là Thìn. Những sóng gió ấy không do thiên tạo mà do chính con người trên mặt đất tạo nên để truy bức, tàn hại nhau. Trên đường về quê hôm nay, họ có một báu vật kết tinh từ tình yêu gừng cay muối mặn.

Suốt dọc đường hai vợ chồng Tài không chợp mắt. Vợ chồng Điền ôm nhau, vùi đầu vào đống chổi đót ngáy phì phì, lâu lâu mở con mắt đỏ ngầu hỏi thăm đến ga nào…Con tàu cứ ậm ạch bò trên đường ray, mây cứ bập bềnh bên cửa sổ và dòng sông, cánh đồng, cứ xanh đến nao lòng

Quê hương đây rồi. Con tàu vượt chặng đường xa, chậm dần, chậm dần rồi dừng lại nhà ga còn tạm bợ, thông thống cửa ra, không ai soát vé. Ngày đi, rặng phượng vĩ bên đường qua tiêu thổ kháng chiến còn xơ xác, giờ đã xum xuê tán như chiếc ô che bình yên mời mọc khách qua đường. Thị xã đồng chiêm xôn xao tiếng rao hàng quen thuộc. Mùi bún riêu thơm chua ngầy ngậy bên những quán lợp lá gồi, chợ Bầu nôn nao kẻ bán, người mua. Thân thương quá mảnh đất đồng chiêm đang dang tay đón đợi những đứa con lưu lạc.

Vợ chồng Tài rắt con xuống tàu, nước mắt ầng ậng. . Vợ chồng Điền lặng lẽ đi bên bạn. Tý Thản chỉ tay về phía gốc phượng, nơi có cả nhà, cả họ cụ Tú đã đợi từ lâu. Cụ ông tóc bạc trắng như hoa lau, cụ bà còn khoẻ mạnh, mau mắn bỏm bẻm nhai trầu. Thìn sà vào lòng bố mẹ, lả di vì xúc động. Cu Nam bíu lấy ống quần ông bà ngoại, ngơ ngác nhìn mọi người.

Vợ chồng về nhà cụ Tú. Cụ chống gậy đi mời cả làng, thịt một con lợn to cúng tổ tiên và mời làng ăn cỗ, mừng vợ chồng Tài đem cháu về nhận họ.

Dân làng Lơ thượng xuýt xoa: Đúng là nhân nào quả nấy! Người phúc đức luôn gặp điều lành…Hai cụ rạng mặt, trẻ ra đến mấy tuổi.

Buổi sáng sau ngày đoàn tụ. Dư vị ngọt ngào, lâng lâng còn đọng trong lòng. Thìn kéo tay Tài:

- Ta ra miếu Cô hồn đi anh! Cho cả con đi cùng nữa.

Sáu năm sau ngày đôi trẻ bỏ làng ra đi , chốn chạy con người trong đêm đen như mực, giờ họ lại tìm về nơi cũ với mối tình lén lút vụng dại. Đứng trên đê cao nhìn từ xa, cây gạo cổ thụ vẫn im lìm đổ bóng, con đường đất gan gà năm xưa giờ được tôn cao hơn. Người làng vẫn quen gọi là “đường bạn” . Đúng là con đường đã làm bạn với bao kiếp người. Từ con đường này, Tài đã có dấu ấn tuổi thơ cay cực nhưng thấm đẫm tình bạn, tình yêu. Trong cái hoạ lại sinh cái phúc. Có ai ngờ được cô gái rượu cụ Tú đẹp như sao băng, được xếp vào diện cành vàng lá ngọc chốn quê mùa lại là vợ anh Cu Tài cầu bơ cầu bất, không được xếp vào hạng gì trong làng. Họ sánh đôi bên nhau sáng nay giữa đất quê, giữa thanh thiên bạch nhật mà không còn ngại ngùng về thân phận. Cuộc sống Hoà bình đã cởi trói cho bao kiếp người lầm than, nghèo hèn.

Vẫn khung trời xưa với không gian đầy chim hót. Trên ngọn gạo cổ thụ, những đôi vành khuyên, chim sâu, bình yên làm tổ. Đàn sáo mỏ vàng ríu ran, vài ba chú quạ khoang nghiêng nghé… Ở chốn linh thêng này, con người dù táo tợn đến đâu cũng không dám tàn hại những thứ nhỏ nhất, nó vẫn còn nguyên sơ, sơ khoáng như nó đã tồn tại bao đời. Thần linh là đấng vô hình, nhưng chính cái ma lực của thần linh cũng giúp cõi người vơi đi cái ác. Sợ “hồn cây đa, ma cây gạo” đã tồn tại trong tiềm thức bao thế hệ. Cũng may, con người còn biết sợ điều gì đấy để cái bản năng “vị thực” không lấn át…Lan man trong ý nghĩ, hoài niệm. Hai vợ chồng cùng đứa con trai nhỏ đã đứng bên cửa miếu.

Trong miếu chật ních bao người, khói hương tức thở, bao cái lưng cúi rạp khấn khứa, lại có cả mấy bức tượng xanh đỏ, vác gươm đao, con mãng xà với lớp vẩy nhua nhủa há miệng doạ người! Ghê quá, ngày xưa vợ chồng họ đâu thấy những hình thù quái dị thế này. Bao nhiêu bà già, ông già mắt viền vải tây điều toét nhoèn, áo vá mụn nọ chồng lên mụn kia, ngồi bó củi nghe cô đồng phán bảo. Nhìn kỹ hoá ra cô đồng là cái Đĩ Nhỡ con mụ Đỹ Hỷ cùng làng, bố thị là lão Cu Vàng nát rượu chuyên đi đánh bả gà, bả chó.

Đang cơn thượng đồng, Đĩ Nhỡ “say” nên không để ý đến sự xuất hiện của hai vợ chồng Tài. Nó khua bó hương như con choi choi, cái miệng đỏ loét quết trầu, đúng là miệng của yêu tinh, phù thuỷ. Đĩ Nhỡ mặc quần lĩnh tía bầm gót, nhảy lắm cái gót cứ lẹm dần nên trễ xuống đến nửa mông cũng chẳng thèm xốc lên cứ loã thoã như thế mà nhảy, với lại thánh đâu biết xốc quần. Đĩ Nhỡ phán rằng: Làng này có con ma 9 ví chưa chồng, bị chết trẻ nên thèm đàn ông lắm, sắp tới sẽ lần lượt bắt hết đàn ông làng này xuống bỏ kho Diêm vương dùng dần, cho bõ khi còn trên dương thế, có bao thằng mơ tưởng mà chưa được sơ múi, nhân nhị gì. Lại phán rằng: Dân Lơ Thượng này tệ lắm, chẳng hương hoa phù tửu cho cô hồn quả tú, để ma đói ma khát nổi lên như ri, nó vầy cho cả làng toét mắt, ai cũng khư khư cái khăn cháo lòng để chùi rử mắt. Cơ chừng cái làng này sắp tiệt giống, sắp cụt mầm thâm rễ. Các cụ già mặt xanh bẹn ếch mà than trời, mà lạy Phật…

Tài thấy cay cay nơi sống mũi, nhưng nể người già đành đứng chôn chân. Tự nhiên Thìn phá lên cười, cơn cười nén lâu bị bung ra không tài nào kìm được. Đĩ Nhỡ chạm nọc, bẽ mặt với dân làng nên lồng lên, tiến lại phía Thìn dằn mặt:

- Mày chửa hoang, bỏ làng theo giai rồi cơ mà! Đồ đĩ dài đĩ rạc, đĩ lạc cả quê, đĩ mê đĩ lú! Muốn sống thì xéo ngay! Tao được Thánh cho ăn lộc, tao có sách thánh hiền, cái loại mày biết gì mà chõ mõm vào hở con chó cái kia?

Thìn tím mặt, nỗi cay cực bao ngày dồn nén bung ra như mũi tên rời ná. Cô giang tay tát thẳng vào mặt đối thủ và hét lên:

- Đồ lừa đảo! Đồ cướp ngày! Đồ gặm cả khố rách! Thánh nào cho mày ăn lộc! Tao dạy mày 2 năm mà chưa thuộc hết mặt chữ, giờ lại mang sách doạ tao mà không biết xấu hổ à?

Đĩ Nhỡ xỉa xói:

- Cái đồ nhà mày là cường hào ác bá, là đồ bóc lột, là Việt gian phản động, rồi có ngày bố con nhà mày bị cắt cổ. Mày là đứa chửa hoang tao không thèm chấp.

Một cuộc ẩu đả là không tránh khỏi, như giọt nước làn tràn ly nước, Thìn lăn xả vào Đĩ Nhỡ túm tóc và tát như mưa vào mặt. Đĩ Nhỡ chống trả kiên cường, phun đầy quết trầu vào mặt đối phương, lấy tay móc mắt hụt mấy lần. Tài nhanh tay gỡ hai địch thủ đang trận đấu bất phân thắng bại, dẫn vợ con ra về. “Con nhang” cũng tháo chạy tá hoả như vịt vỡ đàn. Trên cành gạo, đàn quạ khoang cũng vội vã bay đi ném lại tiếng kêu rờn rợn. Đĩ Nhỡ đứng trơ giữa miếu với đám chân nhang văng tung toé sau cuộc hỗn chiến.

* *** *

Đĩ Nhỡ với Thìn cùng lứa nhưng khác hoàn cảnh. Những lúc đói kém, tai ương mẹ Nhỡ vẫn đến nhờ cụ Tú vay giật nhưng không bao giờ trả và cụ cũng không bao giờ đánh tiếng đòi.. Mẹ Nhỡ, cô Đỹ Hỷ nghèo khạc ra tro, hay ăn trầu thuốc và tính gian vặt, buồng cau trái chuối trong làng. Trên đường từ đồng về nhà, ngang qua nhà ai, hở cái gì ăn cắp cái ấy, có khi là ổ trứng gà đang ấp rở, có khi là lũ gà nhiếp vừa bóc trứng kêu chiêm chiếp trong cái thạ bắt cua. Đĩ Nhỡ học theo nóng mẹ cũng ăn cắp ăn nhặt thành thần. Nhỡ cũng ăn trầu thuốc nhổ phèn phẹt như ngan ỉa, đoảng tính lại đành hanh. Mới thấc lên, nhìn cũng hay hay con mắt, đám trai làng có ý mơn lơn thì ả chửi người ta như cào như cấu, như vặt thịt róc xương, mà toàn là những lời tục tĩu buồn nôn. Ả cũng chẳng có gì khiếm khuyết về nhan sắc để đến nỗi không lấy được chồng, nhưng vì “cái nết đánh chết cái đẹp” nên chẳng có ma nào rước về làm vợ. Cho đến lúc này, nói trắng ra là gái ế chồng. Lão Cu Vàng, bố ả thì tệ hết phần thiên hạ. Một chữ bẻ đôi không biết thế mà cải cách ruộng đất lại là cốt cán thét ra lửa mới chết cha thiên hạ. Chổi cùn rế rách hắn cũng vơ. Con gái nhà địa chủ mà sa vào tay, hắn xoi đến đũng quần. Cả đời lão chỉ mỗi nghề ăn cắp, đánh bả, đào tường khoét nghạch bất kỳ nhà nào trong làng, ngoài tổng. Sau chiến dịch sửa sai, biết tội mình quá nặng nên bán xới và can án đi tù ở trại Lý Bá Sơ, mới vừa rồi được tha, ngồi bó củi chờ cơ ở nhà.

Đĩ Nhỡ bị áp giải về nhà cụ Tú. Mặt nó câng câng, cái mắt đồng cô hiu hiu trông rõ ghét.

Cụ Tú khăn áo chỉnh tề ra đứng giữa sân. Một lát sau, anh Thảo Chủ tịch Xã, anh Hào trưởng Công an, anh Ninh Bí Thư cũng có mặt. Họ vồn vã bắt tay vợ chồng Tài và kính cẩn chào cụ Tú, người thày dạy học ngày nào. Các anh là lứa con cháu cụ, vừa từ mặt trận Điện Biên Phủ trở về làm cán bộ Xã.

Tập thể lãnh đạo Xã nhanh chóng hội ý, nhân dịp này phá tan tụ điểm mê tín dị đoan do Thị Nhỡ cầm đầu đã gieo rắc hoang mang trong toàn xã, nhất là Thôn Lơ Thượng.

Theo lệnh của Chủ tịch Xã, sau 1 giờ nhân dân toàn Xã đã tập trung khá đông đủ tại cái sân lát gạch rộng thênh nhà cụ Tú…Thị Nhỡ bị Công an Xã lôi ra luận tội trước dân. Lãnh đạo Xã mời cụ có ý kiến. Cụ chậm rãi bước ra chỉ vào Thị Nhỡ:

- Nghe ta hỏi đây Thị Nhỡ! Ngươi hãy quỳ trước dân mà xin họ tha tội và hứa là chừa đi. Đây là nơi mà ngươi không thể làm càn! Đây không còn là đời Chủ tịch Mãn nhà ngươi, một chữ bẻ đôi không biết, cầm công văn đọc ngược thế mà ký lệnh bắn người tiền trảm hậu tấu. Cái thứ Hậu Duệ của Tần Thuỷ Hoàng đã bị lịch sử phế bỏ, không ngóc đầu lên bênh vực ngươi đâu…Hãy nghe đây! Về bảo bố ngươi là hãy còn nợ ta cái quần dài lụa đũi màu vàng hôm a dua vào nhà ta hôi của (mọi người nín cười)…Cụ tiếp:Hôm đó, bố ngươi mặc áo mà không mắc quần, xông vào dằn ta ra, lột quần của ta mặc vào rồi xui Đội Tằng là ta cởi truồng coi khinh chính quyền, nọc ta ra đánh cảnh cáo 10 roi. Mẹ ngươi nợ ta tầng lâu tầng mới, thấy ta thất thế bắt gọi bằng bà. Cứ tưởng sau đận ấy bố mẹ ngươi phải ăn năn cái nhẽ ở với ta ai ngờ vẫn ngựa quen đường cũ. Cả nhà ngươi lấy oán báo ân mà không sợ quả báo nhỡn tiền…Ai dạy ngươi thêu dệt chuyện ma quỷ ở miếu Cô hồn.

Ngừng một lát, cụ quay về phía dân làng đang hả hê vì lời kết tội thâm thuý của cụ:

- Thưa bà con! Theo sách Cụ Ngô, cái miếu Cô hồn có từ đời Hồng Đức để lại. Sau trận vỡ đê Nhị Hà, có bao xác người, xác thú bị dòng nước quẩn lại, vón thành cái gò. Biết bao thây vô chủ nằm lại đây được các cụ làng xã chúng ta đời trước chôn cất rồi quyên góp nhau xây miếu để nhang khói, cho đỡ tủi các vong hồn. Việc làm nghĩa cử ấy, nếu các vong hồn có khôn thiêng phải phù hộ làng xã này. Ngay con rể và con gái tôi đã có thời trốn trong miếu, có ma chúng phải là người biết trước tiên…Ta đừng tin vào điều xằng bậy do Thị Nhỡ và lũ cô đồng lợi dụng, ảnh hưởng đến cuộc sống vừa yên hàn sau bao năm giặc giã.

Từ đấy miếu Cô hồn vắng đi những cuộc lên đồng của Thị Nhỡ và Tài viết đơn tình nguyện vào chiến trường, gửi lại vợ con cho bố mẹ vợ đi chiến đấu.

Ba mươi năm binh nghiệp, giờ đây Đại tá Hoàng Tài tóc ngả màu sương. Ông bà Tài lại kế nghiệp Cụ Tú trên mảnh đất đã trải bao biến cố lịch sử.

* * *

Bữa tiệc hôm ấy thật vui. Ông bà Tài đón Tiến Sỹ Hoàng Nam vừa bảo vệ thành công luận án trở về sau bao năm du học. Con trai thứ hai: Thiếu tá Hải quân Hoàng Hải cao lớn, vạm vỡ trong bộ quân phúc Sỹ quan. Vợ chồng Đại tá dẫn các con , kính cẩn thắp hương lên bàn thờ tổ tiên. Những tấm di ảnh đôi bên nội ngoại lồng trong khung kính và bên trên là bức Đại tự chữ quốc Ngữ viết lối Thi Pháp: Đức - Lưu – Quang ngời lên rạng rỡ.

Tan tiệc, Đại tá giữ tôi ở lại:

-        Ông là Nhà văn, ông có thể giúp tôi ghi lại câu chuyện gia đình để cháu con sau này nhìn vào mà suy ngẫm?

Ngập ngừng một lát ông bảo tôi:

- Tôi không có tiền nhuận bút trả ông đâu! Ông vui lòng giúp tôi chứ?

Bản thảo câu chuyện ông nhờ tôi đã chắp bút xong. Tôi ma lanh giữ lại bản phôtô gửi cho tạp chí Văn Nghệ tỉnh. Bản chính ông yên trí cất vào ngăn tủ. Cách đây mấy hôm ông thuê xích lô chở đến tặng tôi châụ Xanh “cửu tán”. Tôi biết tháng trước có người buôn cây vật nài 5 triệu đồng mà ông không bán

Nắng quái chiều hôm

TN: Lưu Quốc Hoà

Gái thương chồng đang đông buổi chợ

Trai thương vợ nắng quái chiều hôm

(ca dao, tục ngữ VN )

_________________________

Đã phát trong chương trình Đọc chuyện đêm khuya đài TNVN sau đó chuyển thể kịch truyền thanh Quân đội ND sáng chủ nhật năm 2008

********************************

-        Tốp mục đồng làng Văn Khúc chúng tôi có gần chục đứa con nhà nghèo, thau tháu cá mè một lứa, trong tốp ấy có 3 đứa là con gái: Cái Vi, cái Cần và cái Thêm

Bọn tôi tụ tập nhau ở Đồng Bồi, nơi có một gò đất cao, khá xa làng . Cái gò đất pha cát ấy lắm cỏ mật, cỏ lá tre, cỏ mần trầu nên đàn trâu thả sức gặm. Lứa này lụi, lứa khác mọc chẳng bao giờ thiếu cỏ nên lũ trâu no ăn béo mầm. Giữa gò có cây đa cổ thụ không rõ mọc từ bao giờ, những đoạn dễ lõng thõng thò xuống đòi hơi đất, chúng tôi thường đánh đu bằng túm rễ cây, trèo hái quả đa ăn, thường thì những quả ngon nhất bị lũ chim ăn mất, chúng đậu, chúng hót chiêm chiếp cùng lũ trẻ trâu “ve vẻ vè ve” những khúc đồng giao tạo nên bản nhạc nhiều bè của đồng nội . Người ta đồn cây đa này có con ma 9 vú vẫn hay leo trèo như khỉ, Bọn con trai chẳng sợ, bọn tôi còn nghịch hơn cả ma, chỉ khổ thân lũ con giái, 3 đứa cứ bám lấy chúng tôi đèo đẽo, bị sai phái đủ thứ thế mà chẳng đứa nào bỏ đi chăn riêng đồng khác,

Năm nào cây đa cũng bị xét đánh, ông thiên lôi mạnh như thế cũng chỉ làm gãy mấy cành, đấy là con muỗi đốt vào cơ thể ông hộ pháp chứ có nhằm nhò gì đâu. Cứ thấy từ chân trời có đám mây giông, có những thừng lửa nhoáng nhoàng là tụi tôi đánh trâu lồng té lồng tát về làng, há miệng gào lên cho thoát khí dương trong người kẻo sét đánh vào đỉnh đầu. Kinh nghiệm dân gian ấy có từ lâu rồi, cả làng chạy mưa từ đồng về đều bỏ cuốc cào, kéo lê trên đất, vừa chạy vừa há miệng gào lên như ma đuổi.

Tuổi thơ yên ả cứ êm đềm trôi qua , chẳng mấy chốc cả bọn thấc lên thành tuổi dậy thì , mấy đứa con gái khôn sớm hơn bọn con trai.Tầm chiều rong trâu về làng bên đầm sen, bọn con gái ý tứ tắm riêng tránh bọn con trai cởi truồng nô như quỷ sứ ở cái đầm sáng trong chiều ngầu đục. Tôi là đầu trò của các trò nghịch ngợm tinh ma, là thủ lĩnh của các đợt tập kích vào bãi mía, bãi lạc để ăn trộm, là cố vấn cho các thủ đoạn ăn cắp bưởi bằng sào tre cắm đinh xiên, dông ngược quả lên cho đứt núm rồi hạ xuống, thính tai như lũ chó còn không nghe tiếng động, Thằng Tuất con bà Bảo là trợ thủ thứ hai của tôi, nó đẹp mã nhất bọn và cũng là đứa tham ăn nhất bọn. Cả lũ choai choai chỉ có nó học giỏi nhất, bố nó là cán bộ Tỉnh thường hay vắng nhà, việc nuôi dạy mấy đứá là một mình tay mẹ nó .

Tốp trẻ trâu đã thành lao động chính, vừa đi học, vừa theo công điểm . Bọn con trai trứng cá đầy mặt, tiếng nói vỡ giọng cứ khau khau, khàn khàn nghe buồn cười lắm. Mấy đứa con gái ngực nhô lên lũm lũm. Hay làm dáng, hay đỏ mặt, các ả đều có cái gương nhỏ như mắt trâu bỏ túi thỉnh thoảng lại soi lén. Bọn nó bắt trước các chị lớn sắm coóc xê độn nhiều vải cứng như mo nang. Chóp nhọn nhô lên rách cả áo. Cái Vi xấu hổ không dám theo đuôi vẫn mặc yếm để nịt vú lại, cái hột lạc bé tẹo cứ in ra ngoài cái áo gụ cắt cổ quả tim. Tôi hay tò mò đứng sán bên cái Vi , ngó vằm vặp chỗ “của khỉ” ấy, khoaí trí cười rung rúc làm cô nàng đỏ mặt, từ ấy nó lánh xa tôi như lánh hủi .

Ôi! kỷ niệm một thời. Những kỷ niệm thơ dại khó quên của mỗi chúng tôi sinh ra từ làng Văn Khúc .

Chiến tranh phá hoại đã lan ra vùng quê tôi. Làng Văn Khúc hiền lành ngày đêm rậm rịch không khí chiến đấu. Đây là cuộc chiến tranh với thằng giặc trên trời thoát ẩn, thoắt hiện, khác với cuộc chiến tranh lần trước có Tây đen, Tây trắng, lính dõng lính nguỵ, cha mẹ phải gánh chúng tôi đi chạy càn .

Bọn con trai rậm dịch lên đường đi bộ đội , bọn con gái ở lại lo việc ruộng đồng và khoác súng trường chéo qua vai đi trực chiến bắn máy bay

Tốp trẻ trâu ngày xưa lên đường cùng một đợt với sức khoẻ loại A .Chỉ có mình Tuất chẳng hiểu lý do gì sức khoẻ tụt xuống loại B2, chúng tôi bảo nhau : “Thằng Tuất khoẻ thánh vật không chết thế mà phải ở lại, tiếc cho nó quá, đi cùng nhau một đợt có phải vui không” .Được lên đường đánh giặc ngày ấy là một vinh dự, là lẽ sống của trai thời loạn. Chẳng cứ gì chúng tôi, có bác, có chú vợ dại con thơ cũng tình nguyện lên đường vào tuyến lửa, không cầm súng thì làm cấp dưỡng, làm đường hay bất kể việc gì miễn là có mặt ở trận tuyến… Đám con gái thấy chúng tôi háo hức chuẩn bị đi nhập ngũ thì buồn ra mặt. Không khí như có lửa sôi , cả nước mình như thế “Có những ngày vui sao , cả nước lên đường / Sao xuyến bờ tre từng hồi trống dục”.

Những ngày trước khi lên đường nhập ngũ, chúng tôi được hợp tác đánh cá ao , thịt lợn chia phần cho các nhà làm cơm tiễn con đi bộ đội . Cơm cỗ rõ ngon mà chẳng đứa nào ăn nổi , lòng dạ cứ nôn náo trước giờ chia tay, ai cũng hiểu rằng lứa trai làng đang đi vào chỗ nước sôi lửa bỏng lần này việc sống chết khôn lường, ngày trở lại còn xa lắm, ai cũng biết nhưng ai cũng tảng lờ như không biết, chỉ có tự đáy lòng xốn sang bao điều .

Buổi tối trước ngày lên đường. Chi đoàn thanh niên tổ chức liên hoan văn nghệ. Trong lúc mọi người tíu tít chuẩn bị hoá trang, tôi ra sau đình bẻ lá gài vào vòng nguỵ trang cho tốp đóng vai bộ đội hành quân. ánh đèn măng sông sáng xanh lè hắt ra từ sân khấu, lô nhô là bóng người làng tôi đang chuẩn bị chỗ ngồi. Lúc bẻ lá định quay vào chợt nhận ra bóng một cô gái đang nép vào gốc ổi thút thít khóc, tôi nhận ra đó là Vi. Bỏ ôm lá, tôi sán lại, Vi thì thầm , tấm tức :

- Thế là mai đi rồi đấy! Sướng nhỉ! Chỉ buồn cho Tuất không được đi đợt này .

Tôi tuế toá bảo Vi ;

- Không đợt này thì đợt khác, chiến tranh còn lâu dài! Thế mà cũng khóc, cậu có cái gì kỷ niệm tớ không đấy.

Vi tần ngần đưa tay lên đầu gỡ cái cặp ba lá chìa cho tôi :

- Chẳng có gì cả, tặng cậu cái cặp tóc để ngoài chiến trường cậu vẫn nhớ đến tớ !

- Đếch thèm! Con trai giữ cặp tóc người ta cười cho. Cho tớ cái khác đi. Tôi thì thào nói vào tai Vi như hụt hơi : Cho…Cho tớ hôn cậu một cái, sờ tý cậu ngoài áo một cái nhỡ đi có chết cũng đỡ thèm, chiến tranh ác liệt lắm chắc gì có ngày trở lại mà gặp nhau .

Tôi liều lĩnh lao vào ôm Vi như mèo vồ chuột, không kịp phản ứng Vi cứ đứng đờ ra, kêu thì sợ xấu hổ với đám bên ngoài còn kháng cự sức Vi làm sao địch lại hai cánh tay như thép của tôi. Thế là tôi “hành sự” sấn sổ , hung bạo và cuồng nhiệt, kết quả là đã tìm thấy cái hột lạc bé tẹo trên bầu vú rắn nình nịch, gai ốc nổi rân rân, dưới ánh sáng nhập nhoạng, tôi mê mẩn ngắm cái bình nguyên kỳ diệu, non mởn, ngắm cái thung lũng bí hiểm lúc rộng lúc hẹp theo đôi tay hào hển của tôi đang cuống cuồng tận hưởng, Vi cắn chặt môi, ngả đầu vào thân ổi, mái tóc rối bời, bật lên một tiếng rên khe khẽ. Tôi lại định tấn công lên đôi môi nhưng lần này thất bại, Vi nhanh tay cù vào nách, tôi bật cười rinh rích và buông ra . Vi buột miệng chửi tục :

- Gời ơi! Đ..bu thằng Lân nhá! Tao cho nhưng cấm nói với ai đấy nhá ! Thôi nào! Ông kêu lên bây giờ là mày chết

Tôi buông Vi, qua cơn liều mạng đầu tiên trong đời thằng con trai lúc này mới thấy sợ, luống cuống cúi xuống gom bó lá văng tung toé dưới chân, khi ngẩng lên Vi cũng vừa cặp xong mái tóc, Cô nàng vít má tôi hôn một cái, vỗ vào lưng tôi: “gét cái đồ mặt dày” tôi ôm bó lá lủi nhanh như kẻ cắp, quay cổ ngó lại thấy cây ổi vẫn còn rung như đảo đồng .Đấy cũng là kỷ niệm khó quên khi tôi xa làng. Sau này mỗi khi nghĩ lại cái giây phút trẻ con ấy, trên đường hành quân hay lúc nghỉ giữa bãi khách rừng già Trường sơn tôi vẫn mủm mỉm cười thầm, lại nhớ, lại thèm nôn nao cái giây phút cùng Vi bên gốc ổi .

Ngày tôi xuất ngũ về làng người gặp đầu tiên lại là Vi. Buồn cười thật! Đã 4 năm rồi, khi chúng tôi đã thành người lớn, khá dày dạn và trưởng thành mà phút đầu gặp nhau kỷ niệm cũ lại hiện về khiến cả hai cùng đỏ mặt. Chúng tôi bồi hồi nắm tay nhau :

- Thế là mình không chết, lại trở về đi học tiếp! Cậu lấy chồng chưa !

- Rồi!Tớ đã có một nhóc! Tớ lấy Tuất! Chuyện dài và buồn lắm, thôi về đi cho bố mẹ mừng, gặp nhau tớ kể sau .

Tôi là đứa đầu tiên trở về trong đám trai làng đi đợt ấy. Chiến tranh ác liệt như thế mà tôi lành lặn như thường, chỉ có bệnh sốt rét nó hành vài ba trận nên nước da mai mái. Bốn năm đi biền biệt không một phong thư về nhà ,tôi nghĩ nay sống, mai chết gửi thư làm gì, vô khối bạn cùng đại đội , trung đội tôi gửi thư hôm trước thì hôm sau hy sinh, tôi kỵ gửi thư là vì thế, cứ để yên, còn sống thì về, nếu hy sinh thì coi như hoàn thành nghĩa vụ làm trai khi đất nước có giặc.

Sự xuát hiện đột ngột của tôi làm cả nhà, cả làng sôi lên. Bố mẹ tôi như trẻ ra mấy tuổi, suốt ngày tiếp khách. Bà con kéo đến túc mục trong nhà ngoài sân, hỏi tin con em mình ngoài mặt trận, ai hỏi tôi cũng nói phứa rằng : thằng ấy, thằng nọ vẫn khoẻ như vâm, có những đứa hy sinh rồi tôi cũng nói dối ,nói xong lại cay cay khoé mắt Thương chúng nó lắm, bao nhiêu đứa hy sinh mà chưa một lần nắm cổ tay con gái. Cái Cần, cái Vi, cái Thêm có mặt suốt ngày hý hút chạy ra chạy vào giúp mẹ tôi cơm nước, cả đàn gà bị nhốt để thịt dần . Ba đứa con gái trẻ trâu năm xưa giờ đã có chồng. Cái Cần, cái Thêm chồng cũng đang ở mặt trận , toàn là cảnh cưới gấp lấy giống trước khi chồng đi đi B ngắn B dài mà có đứa nào được hạnh phúc làm mẹ đâu. Các bạn gái tôi héo hon, mòn mỏi chờ ngày xum họp mà chiến tranh thì vẫn là một ẩn số khôn lường. Làng quê Việt Nam mình mấy ai quên có một thời như thế .

Phải hai hôm sau tôi mới đến thăm mẹ con Vi. Ngôi nhà của mẹ con nhỏ như cái tổ chim mằm dưới tán cây xấu cổ thụ giữa làng, tường trình đất gan gà, trên lợp bỗ bằng rạ mùa dày sân sấn, kiểu nhà để tránh máy bay nhỡ ban đêm ngủ quên không kịp xuống hầm. Tôi mang theo con búp bê Sài Gòn làm quà cho con gái Vi. Con bé xinh giống mẹ, hai má lúm đồng tiền, cặp má bầu bĩnh thơm như trái lê chín. Tôi ôm nó vào lòng, con búp bê có cái mắt bi ve biết chớp làm nó thích mê, nó liú lô hát cho tôi nghe bài hát mới thuộc từ lớp mẫu giáo. Chưa ấm chỗ đã truồi khỏi lòng tôi chạy đi khoe trẻ hàng xóm. Còn hai đứa ngồi đối diện nhau , tự dưng đổ đốn tôi lại nhắc chuyện bên gốc ổi đêm lên đường nhập ngũ :

- Này… Cái tay tớ được lộc cậu cho hay sao ấy, bao nhiêu lần chết hụt mà lại chẳng sao cả, tớ nói thật cậu đừng cười nhé! Hay lắm cơ! Giữa khói lửa mù trời, giữa sống và chết ngay kẽ nách tớ lại nghĩ đến “cái ấy”, như người bị nắng bò đến gốc đa hóng cơn giải nồng, nó nhắc tớ phải cố lên và đừng chụi chết, cuộc đời này đẹp lắm, linh diệu lắm, nói chung là rất ám ảnh và ngọt ngào, nói chung là…Vi đỏ mặt xua tay:

- Nói chung là cậu bốc phét! Nói chung là tớ giận bọn đàn ông các cậu! Nói chung là tớ thù đàn ông! Lũ “của khỉ” các cậu như con lươn con trạch, như con hổ mang hổ lửa, cứ thấy phụ nữ là lẻo mép ong ve, chơi hoa bẻ cành. Tớ căm Tuất chồng tớ lắm, vì Tuất mà đời tớ thế này đây!

Tôi ngồi ục ra, có lẽ nét mặt tôi lúc ấy nhìn thộn lắm, Vi xăm soi nhìn tôi thương hại, chắc nàng ân hận vì câu nói quá lời nên rân rấn nước mắt quay đi, một lát sau mới ngàn ngạt cất lời :

- Cho tớ xin lỗi nếu quá lời vơ đũa cả nắm. Cậu với Tuất đều là bạn tuổi thơ nếu có thời gian cậu ngồi lại lâu lâu để tớ kể chuyện tình duyên cho cậu nghe!

- Tớ đến hôm nay cũng vì chuyện ấy, nghe lóp bóp mẹ tớ kể! Thằng Tuất thế mà tệ .

***

- Lân có biết vì sao đêm ấy tớ khóc một mình không .Vi bắt đầu câu chuyện… Trước ngày khám tuyển mình nhận lời yêu Tuất. Đêm ấy Tuất rủ mình ra bờ mương tâm sự. Tuất ôm mình vào lòng nhưng lòng dạ để đâu đâu, luôn miệng rít thuốc, trời thì nóng bức như thiêu thế mà Tuất đi dép 4 quai lại sỏ bí tất như gái đẻ ở cữ, thấy lạ nhưng mình không tiện hỏi. Khám tuyển xong Tuất hớn hở chìa cho mình xem cái giấy kết quả B2. Đêm ấy bọn mình lại rủ nhau đi chơi ngoài Miễu Giáp. Khác đêm trước, Tuất vui và cuồng nhiệt hôn như điên lên môi mình , cả hai đứa đắm say trong khoái cảm tình yêu, mình nghĩ đây là đêm chia tay để Tuất lên đường chứ thực tình có biết sức khoẻ B1 hay B2 là gì đâu. Mình trao Tuất tất cả. Trong cơn nồng nàn, Tuất khoe là đã trượt đi bộ đội vì cái mẹo uống nhựa đu đủ cho người phù thũng, rít thuốc lá liên tục và thức đêm cho cuống họng tấy abiđan kèm theo sốt cao. Tuất bảo ở lại để gần nhau tổ chức đám cưới xong là bố lo cho đi học, chẳng tội gì mà đi vào chỗ mũi tên hòn đạn chết cho uổng. Hôm sau Tuất lên tỉnh thăm bố không ở lại tiễn bạn bè lên đường nhập ngũ. Tớ choáng váng vì nhận ra chân tướng khôn lỏi đến hèn mạt của Tuất, Nhìn các cậu lên đường đi vào chỗ bom đạn mà vui như chảy hội tớ thẹn thay cho Tuất, thẹn cả cho mình có người yêu hèn đớn, ân hận vì đã trao tất cả tình yêu đầu đời cho một người con trai mà tự đáy lòng mình đã trồi lên những khinh thị. Thế rồi gặp cậu đi bẻ lá. Mà sao cậu liều thế, có thằng nó biết đấy vì nó thấy cây ổi lặng gió mà rung ..Nhưng thôi! Cái chuyện trẻ con pha người lớn ấy mà, tớ chẳng giận đâu trái lại còn tự hào đã cho bạn mình cái “có thể cho” trước giờ ra trận .

Vi trao tôi bát nước vối nóng ủ trong giành tích . Cô nàng uống một hơi cạn đến đáy bát như để kìm nén cảm súc trước khi kể tiếp câu chuyện.

- Giá như mình không có cái mầm sống , kết quả của tình yêu dại khờ và trong trắng của mình trao cho Tuất đang hình thành thì nhất định lần ấy mình tình nguyện đi thanh niên xung phong vào chiến trường cho Tuất biết tay, nhưng hình như là số kiếp nó vậy, bụng cơm thì mòn bụng con thì lớn, cũng là do Tuất hối thúc, cả hai bên gia đình thuận lòng, chắc Lân chẳng lạ gì cái nếp quê mình, gái chửa hoang chỉ có cách hoặc bỏ làng , hoặc tự tử .Với ngần ấy lý do quái ác mình thành vợ Tuất. Con Hoài năm nay đã đi lớp. Nó ra đời khi Tuất vừa bước vào năm thứ hai đại học thương nghiệp. Chẳng rõ bằng cách nào trong lý lịch Tuất vẫn khai là chưa vợ, Tuất bảo vì sự nghiệp tương lai sau này nên gửi mình sang ông bà ngoại ở tạm, tránh việc điều tra của tổ chức nhà trường, việc khai man trá là nhận án buộc thôi học. Mình thì thế nào cũng được, cốt là Tuất công thành danh toại, ai ngờ năm cuối Tuất cưới một cô cùng khoá với đủ giấy tờ hợp pháp. Mình nghe tin choáng váng như rơi xuống chín tầng địa ngục. Tuất được bố bảo lãnh về công tác tạiTy Thương nghiệp. Mình giận bố con Tuất không thèm nhìn mặt, cũng chẳng la lối kiện cáo làm gì, khi tình yêu đã chết , cái thiêng trọng mất rồi, mọi sự niú kéo trả thù mình thấy nó nhạt nhẽo thường tình quá .Một lần Tuất về ban đêm quỳ lạy mình, đáng lẽ mình phải băm vằm Tuất cho hả nhưng không hiểu sao thấy hắn khóc lóc lại thương tình .Mình đuổi Tuất khỏi nhà, yêu cầu từ nay đừng can thiệp vào cuộc sống hai mẹ con. Tuất ở hẳn trên tỉnh từ đó không ló mặt về làng, nghe đâu hắn vừa được cất nhắc chức trưởng phòng gì ấy.

* *

*

Tôi đã thi đỗ vào trường đại học luật với số điểm khá cao, tốt nghiệp công tác trong nghành luật 6 năm rồi về làm chánh án Toà án nhân dân Tỉnh Nam, bận bù đầu với những phiên sử án. Cái sự học là biển không có bờ, tôi lại theo các lớp hàm thụ cả trong và ngoài nước. Giành được mảnh bằng Tiến Sỹ luật thì tuổi đã ngấp nghé “đầu bốn” mắt phải đeo kính dày như đáy trai, ít có dịp về làng thăm hỏi thân tộc họ hàng, chỉ tết lễ đáo về qua loa, loáng nhoáng một lúc lại leo lên xe. Nhiều lúc ngồi trầm ngâm bên bàn làm việc lòng tôi thoáng buồn nghĩ đến bạn bè anh em đã nên cơ ngũ, con cháu đề huề, họ chẳng quyền cao chức trọng , bằng nọ bằng kia nhưng mái ấm gia đình với những lo toan thường nhật làm họ vui tươi và viên mãn. Có đâu như tôi lúc nào cũng việc , lúc nào cũng áp công thức, điều luật khô cứng vào những kẻ đứng trước vành móng ngựa. Tôi muốn lấy vợ, muốn có cuộc sống bình thường ngoài những giờ sử án. Tôi lấy ai và ai sẽ thành vợ lão quan toà khô như củi, nghề nghiệp bắt tôi phải bỏ thói quen của thằng con trai hiếu động năm xưa, bỏ cái tính ba tếch ba toác nghịch ngầm, bắt tôi đạo mạo và cẩn trọng từ lời ăn tiếng nói đến dáng đi.Với cái vẻ mặt ấy, tôi chẳng bắt mắt phụ nữ. Càng nghĩ vẩn vơ tôi lại khát cái giây phút vô tư, cuồng nhiệt bên gốc ổi với Vi năm nào.

Hôm nay tôi lại ngồi ghế Chánh án để sử một can phạm có cỡ , kẻ ấy lại là Tuất, thằng bạn chăn trâu một thời, vung vinh quyền chức, lắm ô che dù chắn vừa sa lưới pháp luật với hai tội lớn là tham ô của nhà nước bằng việc lợi dụng kẽ hở của luật thuế giá trị gia tăng chiếm dụng gần 6 tỷ đồng . Tội thứ hai là bạc đãi, bạo hành phụ nữ, hắn có đến 5 đời vợ, lấy rồi bỏ, thay vợ như thay áo , mà sao hắn có lắm đời vợ thế không biết, có lẽ những cô gái lấy hắn chỉ vì tiền, có cả những cô chỉ đáng tuổi con hắn. Bòn xuôi nuôi ngược, tiền tham ô hắn đổ cả vào những lạc thú, chơi hoa rồi bẻ cành mà mỗi lần bẻ lại một thủ đoạn phi nhân tính được phô diễn. Sau cáo trạng của Viện kiểm sát, còn một lô những kiến nghị của các cấp hội Phụ nữ từ cơ sở đến Hội liên hiệp Phụ nữ Tỉnh Nam. Với tư cách là người vợ đầu tiên cũng là nhân chứng sống của vụ án, Vi cũng có mặt trong phòng sử. Trước giờ nghị án tôi gặp riêng Vi ở hành lang,Vi vẫn đẹp đến nao lòng và u buồn đến nao lòng. Giờ giải lao sau tranh tụng, các luật sư đều từ chối việc bào chữa cắp cặp ra về, bằng danh dự nghề nghiệp, họ thấy không còn điều gì phản biện để gỡ tội cho thân chủ. Tuất ngồi ủ rũ, cúi gằm mặt chẳng dám nhìn ai. Đáng lẽ với chức danh chủ toạ tôi không được phép nhưng không hiểu sao tôi lại cầm tay Vi bên ngoài hành lang phòng sử. Vi rụt rè rút bàn tay mềm ấm khỏi tay tôi, lấy khăn chấm nước mắt, nói với tôi những lời thao thiết đến nghiệt ngã :

- Lân ạ! Mình biết cậu đang nắm sinh mệnh Tuất! Luật nhân quả nó có tha ai đâu, ngày Tuất tạm giam mình là người duy nhất trong một lô những vợ thật vợ giả của Tuất đến thăm nuôi! Khổ thế đấy! Trái tim đàn bà mà! Một ngày nên nghĩa. Tuất có biết cậu là Chánh án nhưng không nhờ vả vì chính Tuất cũng ý thức được tội lỗi của mình. Những lần gặp nhau ngắn ngủi, Tuất khóc nhiều lắm, Tuất bảo khi tỉnh ra thì quá muộn rồi. “gái thương chồng đang đông buổi chợ / Trai thương vợ nắng quái chiều hôm” là thế. Đàn bà càng lúc vui lại càng nhớ đến chồng, đến con, đến mái ấm của mình trái lại có bao đàn ông càng vui lại muốn vui mãi, trượt mãi trên đường hoan lạc! Chẳng nhớ đến ai cả , phụ bạc tất cả, đến khi gối mỏi chân chồn, tai ương lao lý mới nghĩ lại .Thứ tình thương vớt vát của kẻ xa cơ lỡ vận có khác nào tia nắng cuối ngày cố loé lên gay gắt nhưng lụi tàn trong chốc lát để đêm đen phủ lên vĩnh viễn.Giá đàn ông các cậu ai cũng nghĩ được điều này thì cuộc đời tốt đẹp biết bao .

Trời ơi! Vi, Cô giáo dạy Văn cấp ba trường huyện của tôi đẹp đẽ và nhân ái biết nhường nào. Ngần ấy năm lặng lẽ nuôi con, lặng lẽ phấn đấu để có tấm bằng đại học sư phạm, Vi là đoá sen của ao làng vươn lên chống lại số phận. Tôi cồn cào nhớ về làng Văn Khúc, nhớ đám bạn trẻ trâu, nhớ cây đa có những rễ lõng thõng đòi hơi đất, nhớ những lần chạy mưa gào lên bỏng họng thúc trâu về làng...Nhớ cái đêm bồng bột si cuồng bên gốc ổi, nhớ tất cả những điều sâu nặng trên cõi đời đã trải...Lẽ nào tôi không đến với Vi, dù có thế nào chăng nữa nhất định lần này tôi lại về làng Văn Khúc tìm Vi, cái khởi đầu ám ảnh năm xưa…lời chửi tục, cái hôn vụng dại, cái vỗ lưng. Cái cổ cao trắng ngần, cái áo phin gụ cổ quả tim, thắc thỏm phía dưới là cặp trái đào nồng nàn rạo rực .

Tiếng chuông từ tay người thư ký phiên toà làm tôi sực tỉnh. Chỉ ít phút nữa thôi, tôi sẽ là người đọc lời tuyên án cho một số phận.Trắc ẩn lắm, nhưng biết làm sao được .

Chim sa cá nhảy

Đã đăng trên Văn nghệ Công an

Lời thưa của tác giả: Đây là truyện ngắn tôi đăng trên số 74 Văn nghệ Công an, sau đó lọt vào tốp NHỮNG TRUYÊN NGẮN HAY VIỆT NAM NĂM 2006. xin kính tặng độc giả yêu quý

****************

Có việc phải xa nhà hai tháng, vừa về đã thấy trên bàn viết của tôi một tờ báo in ảnh Kiểm kèm theo một cái “tít” có cánh. Tờ báo này là của Hân, bạn tôi đem sang đã hơn tuần, cậu ta trải tờ báo lên bàn, cẩn thận đè lên đấy một cái thước góc thợ xây cùng một dấu hỏi to như gà mái ghẹ.

Đọc xong bài báo tôi nổi khùng, chửi váng lên. Vợ tôi khoặm mặt cự lại:

- Anh vớ vẩn vừa thôi! Ghen à? Có giỏi thì làm theo người ta để được báo chí ca ngợi. Vợ con anh mát mặt, cái ngữ anh ngày thì nhọ nhọ nhem nhem, đêm thì mài đũng quần viết lách, còn lâu mới cất đầu lên được…

Tôi quắc mắt gầm lên:

- Phù phiếm, bợm bãi, láo toét! Chúng nó định giết người ta hay sao mà bày ra cái trò này. Tôi sống với nó đã hai thứ tóc không hiểu sao! Thằng Kiểm mà thành tỉ phú thì cả nước này là tỉ phú! Nó dại như vích, khờ như gà thiến thì làm nổi trò trống gì…

Vợ tôi bĩu môi mát mẻ:

- Thì cũng là do cánh văn chương nhà các anh dựng lên chứ ai vào đấy! Còn trách ai mà cứ táo tác như quạ già mất tổ.

Vừa nói, cô ta vừa vung vẩy đi ra ngõ… tức thật.

-        Minh hoạ của Nguyễn Đăng Phú

Tôi có năm thằng bạn thân, chơi với nhau từ ngày còn quần cộc, đi học “vỡ lòng”, đứa Ngọ, đứa Mùi suýt soát nhau, cùng lên đường nhập ngũ. Chiến tranh, trận mạc cướp mất một đứa, còn lại hai thằng là thương binh. Hết chiến tranh về quê chẳng đứa nào có nghề ngỗng gì lại đông con, sức khỏe kém, vốn liếng mỏng tèo, học hành lại ít, nghe có bao gương vươn lên làm giàu bọn tôi cũng trăn trở nhưng vẫn chưa tìm được con đường đi riêng cho bản thân mình, thế mà đùng một cái, như có phép thần thông, một ông bạn lại trở thành tỉ phú, vua biết mặt chúa biết tên thì kể cũng lạ…

Tôi sang nhà Hân, hắn đang xay đậu, mồ hôi nhễ nhại, hắn cười, phô mấy cái răng ám khói thuốc lào:

- Mày về rồi đấy à, khỏe không, vào nhà đợi tao một tý, loáng nữa là xong, gọi cả thằng Kim sang uống rượu với đậu phụ luộc ngải cứu chấm mắm tôm.

Tôi bảo con bé lớn nhà Hân:

- Cháu sang bảo chú Kim đến ngay, bác và bố cháu đang đợi!

Con bé như chim sẻ chạy vù ra ngõ! Đã đủ mặt, tôi hỏi hai thằng bạn, giọng cố nén bực tức:

- Tao đi mới chưa đầy hai tháng mà thằng Kiểm đã lên tỉ phú, nó giết ai ra tiền cơ chứ! Chúng mày ở nhà có hiểu gì không?

Hân vừa lau mồ hôi, vừa bô lô, ba la:

- Tỉ phú cái con tiều! Vay tiền ngân hàng đổ vào dự án giời ơi đất hỡi để lấy cái danh tỉ phú, nó bị kẻ bất lương xúi giục, lợi dụng. Phen này chúng nó ăn thịt thằng Kiểm là cái chắc! Tao cũng đang lộn ruột lên nhưng chẳng làm gì được.

Thằng Kim khề khà vớ ống điếu:

- Chả hiểu ra làm sao cả? Các ông nhà văn, nhà báo hết tốp này đến tốp nọ tham quan, ông nào cũng vỗ ngực là “nhà lớn” đã từng tham dự vào bao “sự kiện lớn”, hôm nay thăm một “mô hình lớn” với một ông chủ có “chí lớn”, toàn là cái “lớn” cả, bọn rong rêu bèo bọt như chúng tao chỉ nhìn đồ lễ, xe cộ, áo quần đã hãi rồi. Thôi mặc xác, việc họ họ làm, can gián bây giờ không khéo lại bị quy tội là phá chủ trương này nọ…

Tôi gặng lại:

- Thế chúng mày không bàn hơn tính thiệt với bản thân vợ chồng nó thì còn quái gì là bạn bè, chiến hữu. - Có rồi, hai lần chúng tao gặp nó rồi. Lần trước thằng Kiểm còn lịch sự, lần sau nó gần như là lên lớp, nhục mạ bọn mình là thiếu ý chí, thiếu năng động. Chắc đứa nào bơm vào đầu nó chứ thằng Kiểm phổi bò đâu nghĩ ra được những lời cay độc như thế… Buồn thật, tức thật - Kim nhăn mặt thở dài.

Thực tâm cả bọn đều ái ngại cho Kiểm. Việc cơm áo khó nói lắm, ngày xưa ở với nhau ngoài chiến trường, trận mạc nhường nhau sống chết là bình thường, tất cả đều thanh thản và tự nguyện. Giờ thì khác rồi, ở mặt trận không tiếng súng có nhiều cạm bẫy xanh, đỏ, tím, vàng, có những danh vọng vật chất và cả phi vật chất nữa cũng có sức hấp dẫn chết người.

Cả bọn quyết định gặp Kiểm lần cuối. Chúng tôi rẽ xuống khu bãi nổi, nơi vợ chồng Kiểm dựng lều tạm coi cá. Gặp đám thợ đấu đang giải lao uống nước, họ nhìn chúng tôi với ánh mắt tò mò. Một gã đen như cột nhà cháy nói kháy:

- Chắc là bọn bạn ông Kiểm ở ngoài làng. Thấy bạn sang thì bắt quàng tìm đến! Đúng là “đói rách thì chẳng ai nhìn, đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em…”.

Thật là ức đến nổ ruột. Bước chân cảm thấy chùng lại, chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau và đọc được ở nhau nỗi buồn mênh mang về con người và thế sự…

Như đã kể từ đầu chuyện, chúng tôi là bạn nối khố. Quê tôi là dải đất đồng chiêm trũng nghèo khó, miếng cơm, manh áo chỉ trông chờ hạt lúa, củ khoai. Làng xóm ngày ấy nghèo đói đến thắt lòng, cha mẹ, anh chị chúng tôi cứ hết mùa lại tha phương kiếm kế sinh nhai. Nghề chính là làm thợ đấu đào ao, vượt thổ.

Ông bạn Kiểm của chúng tôi vừa làm nghề nông, vừa chài lưới ở khúc sông trước nhà. Được cái Kiểm có sức khỏe và chịu khó, hết lòng thương vợ quý con. Vợ Kiểm là cô gái cùng làng, tốt nết và nhẫn nhịn, luôn yên lòng vì chồng, một anh chàng tính nết như bánh đúc bày sàng, thật thà chất phác, mang ơn ai một tý thì xuýt xoa, trăn trở, có lẽ điều không hài lòng duy nhất là chồng nhẹ dạ, cả tin, dễ bị lợi dụng! Tôi nhớ, ngày còn ở Quảng Bình, có cô thanh niên xung phong ở bến phà Xuân Sơn, đẹp gái nhưng hơi lẳng lơ, ỡm ờ. Có lần cô nói kháy khẩu đội pháo thủ chúng tôi:

- Em thấy ở sườn núi sau nhà nhiều ơi là nhiều hoa phong lan đẹp, đố anh nào có gan trèo hái tặng em thì bảo em gọi gì cũng được…

Mấy cậu lính trẻ gặng lại:

- Là anh hùng hay là người yêu! Tất cả phá lên cười nhưng chẳng ai dám trèo lên vách đá dựng đứng!

Khẩu đội trưởng Thăng đáp lại một câu thật hóm:

- Anh thấy bằng liệt sĩ chẳng có dòng nào ghi anh hùng hái hoa phong lan cả, em thông cảm nhá!

Kiểm phổi bò thì không nề hà, hùng hục trèo lên, đận ấy Kiểm sống được là do may rủi, cu cậu trượt chân ngã ở lưng chừng vách núi, trúng bụi bùng nhùng, không thì tan xương rồi.

Lập nghiệp với hai bàn tay trắng, vợ chồng cùng ba đứa con, mấy sào ruộng và dăm tay lưới, ngày qua tháng đoạn cái gia đình ấy vẫn nhôi nhai, tạm đủ nhưng nổi trội hơn đám bạn bè là gia sự bình yên, chẳng bao giờ vợ chồng đay trì nhau, con cái khỏe mạnh, chăm chỉ, ngoan ngoãn. Ngày ủy ban xã có chủ trương đấu thầu khúc sông trước nhà, Kiểm thắng thầu và làm chủ một đoạn dài gần nửa cây số. Mát mặt được vài ba năm thì hết hạn hợp đồng, địa phương tổ chức đấu thầu lại, Kiểm vò đầu bứt tai nghĩ cách giữ cái nồi cơm nhà mình. Đang bí kế thì Lanh, một tay chuyên nghề sống bằng nước bọt, vừa là văn thư, vừa là anh loong toong của xã hiến kế:

- Ông có dự án khả thi được các cấp có thẩm quyền phê duyệt là khỏi phải lo đấu thầu, mô hình này không làm dự án thì quá phí. Ông là người biết làm ăn, có chí lớn phải ra tay cho đời biết mặt, tôi dám chắc 5 năm sau, ông sẽ thành lập công ty khai thác thủy sản, có ôtô riêng hẳn hoi, cho mấy tay làm ăn cò con chết ngất vì thèm!

Kiểm xoa tay vào đít quần nhăn nhó:

- Dự án dự iếc quái gì, tiền đâu ra, người đâu ra mà mơ tưởng, cứ nhì nhằng thế này chắc ăn hơn.

Tay Lanh tán vào:

- Có sổ đỏ thế chấp, có dự án khả thi là có tất cả, ông không thảo được dự án đã có tôi quân sư, dự án càng to ngân hàng cho vay càng nhiều. Ông không nhớ câu ca các cụ à: “Thứ nhất thả cá, thứ nhì gá bạc”, một vốn bốn lời, tôi phục cái tài, cái trí ông tôi mới bàn chứ thằng khác thì thây kệ.

Thế là Kiểm gật đầu! Cuộc vận động để cho ra đời dự án âm thầm diễn ra, vốn liếng tự có bao nhiêu dốc sạch, cái sổ đỏ 360 m2 thổ cư, 480m2 thổ canh và hồ sơ dự án với hàng lô chữ ký đóng dấu đỏ tươi nằm gọn trong két sắt ngân hàng, cái vốn 300 triệu cũng được đặt trịnh trọng vào tay chủ dự án, Kiểm vênh vang tuyên bố:

- Tao đã có gậy chống rồi, đứa nào còn lớ xớ là ăn đòn!

Vốn là người hào phóng, Kiểm phong bì tạ ơn hết chỗ này chỗ nọ, tất nhiên là quân sư Lanh nhận được phần khá nhất - nguyên khoản ấy, ngân quỹ vẹt đi không phải ít. Kiểm thuê ba bốn hiệp thợ đấu, đắp chỗ nọ phá chỗ kia, việc quản lý lỏng lẻo, thợ ăn gian khối lượng cũng không hay biết. Các loại lưới chia căng sáng lóa cả một đoạn sông, không khí sôi lên sùng sục. Rồi các đoàn khách đến tham quan có mô hình ngăn sông thả cá của Kiểm, mỗi lần lại phong bì, lại liên hoan đặc sản, cả chủ lẫn khách mặt mày chín bầm rượu bia, lời chúc mừng, ca tụng, tâng bốc cứ lẫn lộn với nhau. Thấy chi tiêu quá lãng phí, vợ Kiểm phàn nàn. Kiểm vung tay trấn an:

- Nhạt toẹt, dự án thành công là “bộn” tiền, mẹ mày khỏi lo.

Quả thật Kiểm đang cưỡi lên lưng hổ xám, cầm số vốn 300 triệu có nghĩa là cứ ngày 26 hàng tháng, chị cán bộ ngân hàng nhẹ nhàng và nghiêm túc chìa phiếu thanh toán hơn 3 triệu tiền lãi, một tháng Kiểm phải trả lãi gần bằng số tiền của cả nhà tôi tích cóp một năm, nghĩ mà sởn da gà.

Đấy là dạo tháng hai ta, lúc trời đất còn bình lặng, những con trôi quả gạo, con mè lưỡi hái đầu tiên được thả xuống sông sau đó là cá chim Amazôn cũng “nhập sới”. Cá tây, cá ta thi nhau đổ xuống, loại nọ rình ăn thịt loại kia. Kiểm như anh “đẽo cày giữa đường” ai bàn gì nghe nấy, một thứ dự án hổ lốn và phi khoa học, cả khúc sông đục ngầu những cá, thức ăn chế sẵn của nhà máy vãi ào ạt.

Một hôm đoàn làm phim, có đạo diễn hẳn hoi đến quay cảnh cá ăn, một chi tiết khá nực cười là cảnh cá nhảy trong lưới, ai đời, thả cá mới hơn một tháng mà kéo lên cứ to như chày giã cua cỡ bự. Cá mè, cá chép thì bằng quạt nan, ba ba lớn nhỏ lúc nhúc trong chậu, làng trong xã ngoài đồn ầm cả lên. Riêng tôi biết tỏng cái trò ấy từ thời bao cấp, mượn lợn xã viên đem nhốt vào chuồng hợp tác để tham quan điển hình, không ngờ, căn bệnh trầm kha ấy hôm nay vẫn còn diễn lại.

Cá thả được gần 5 tháng thì trận lụt xảy ra, ông trời như đứa trẻ hờn dai, suốt cả tuần liền, bầu trời như sà thấp hơn xuống mặt sông để trút nước, lác đác vùng lân cận đã nổi hiệu trống hộ đê, cái eo sông nhỏ được dâng dần lên đề phòng cá vượt ra sông cái. Lũ cá phản chủ tụ tập xanh rờn, thỉnh thoảng lại giãy lên đùng đùng, tìm cách thoát ra.

Một buổi sáng, vợ Kiểm hộc tốc chạy từ chợ tỉnh về mặt cắt không ra máu hốt hoảng gọi chồng:

- Anh ơi! Chợ bán ê hề là cá, cánh lưới bén rổ lớn rổ bé khuân lên, em trông giống hệt cá nhà mình, không khéo cá chuồn hết ra sông cũng nên!

Kiểm quắc mắt quát vợ:

- Vớ vẩn, lưới vẫn còn nguyên thế kia thì cá ra sao nổi, họa là nó có cánh bay qua.

Nói vậy để trấn an, thực tâm Kiểm cũng lo! Biết đâu có kẻ hại mình xé lưới thì sao!

Và thế là Kiểm cùng mấy người lặn xuống sâu sờ từng khoảng lưới thì ôi thôi; hằng hà sa số lỗ thủng, lỗ thì to như cái thúng, lỗ thì nhỏ đút lọt bàn tay, cái lũ cá chim Amazôn răng khỏe như răng nghé tơ, phàm ăn như thuồng luồng đã cắn lưới chui ra kéo theo cả những giống khác “du lịch” ra sông cái và chui vào lưới những gã đánh bắt tự do.

Khi nước rút, Kiểm gia cố bờ, căng lưới sắt, nhưng quả như câu ca người xưa để lại: “Họa vô đơn chí”, đợt nước đen từ phía thượng nguồn đổ về. Cả một vùng sông, cá chết như ngả rạ, những người nuôi cá lồng cũng dở khóc dở mếu. Dân kêu, báo chí truyền hình phản ánh rồi đến tỉnh kiến nghị hết đợt này đến đợt khác, dòng nước đen quái ác vẫn đổ về. Sự thiệt thòi của dân đôi bờ vẫn đợi chờ các cấp cầm cân nảy mực.

Vâng! Một dự án thiếu tính khả thi, việc thất bại là điều không tránh khỏi. Từ ngày Kiểm trắng tay, chẳng thấy “nhà lớn” nào lai vãng. Những lời tán dương tắt lịm, tay Lanh cò mồi cũng lặn mất tăm. Chỉ còn lại chữ ký của đích danh Kiểm với ngân hàng cùng món nợ khổng lồ khó bề thanh toán.

Khi tôi viết câu chuyện này thì đúng lúc tỉnh có dự án mở con đường vành đai, nhà Kiểm ở trong vùng quy hoạch được đền bù, số tiền cũng đủ để trang trải món nợ và xây dựng nhà mới, thế là anh bạn của tôi lại trở về vạch xuất phát.

Sau những biến cố chết người, tôi, Hân và Kim lại tìm đến Kiểm như ngày xưa vẫn tìm nhau sau mỗi trận đánh. Kiểm nhìn tôi hồi lâu rồi chép miệng thở dài: -

Mày là dân có máu văn chương, thế thì mày cứ viết chuyện cái dự án con tiều của tao đi, sỉ vả tao thế nào cũng được, cốt đừng để có thằng nào lâm vào cảnh khốn nạn như tao.

Tôi ậm ờ:

- Chuyện này cũng đáng viết đấy, nhưng để sau. Cái cần bây giờ là phải tiếp tục sống, có điều nên sống bằng chính năng lực của mình. Mèo nào thì bắt chuột ấy. Làm giàu thì đừng có “Thấy người ăn khoai cũng vác mai đi đào”...

Buổi chiều cuối thu, chúng tôi ngồi bên nhau rất lâu, trước mặt là con sông kỷ niệm tuổi thơ vừa dữ dằn vừa nhân hậu, mỗi đứa lặng lẽ nghĩ chuyện “một thời” và chuyện “một đời” với bao thăng trầm buồn vui, khôn dại....

Thẹn thùng nghề bút mực

Truyện ngắn mới viết

Đang sưả lại cái “chuồng chó” thì cái Nhinh bế con loả toả chạy vào ngõ. Con mẹ mặt mũi như hề, như tranh vẽ hỏng, nhệch cái miệng ra mà khóc mếu, đứa con hơn một tuổi lại nhe cái lợi ra mà cười như trâu sứt. Tôi lé mắt nhìn ngang thấy mẹ con nhà nó mà cám cảnh. Thằng bé bụ như củ khoai chiêm nhưng bẩn gê người. Mũi lẫn với rãi, đầu thì đầy vẩy nến cứt trâu…Cám cảnh! Nhà quê con rau con khoai, chúng lớn lên chẳng khác mèo chó.

Cái Nhinh vào sau và cái miệng vào trước, có nghĩa là mồm nó bao giờ cũng đi trước người. Nó là con bé tếch toác nhất cái làng này.

- Ới ông ơi là ông ơi! Ông có làm ơn làm phúc thảo cho con cái đơn! Phen này nhất định con lìa cái thằng chó ấy…

Tôi khề khà:

- Có nghĩa là mày bảo tao tiếp tay cho vợ chồng mày bỏ nhau! Sư bố nhà chúng mày! Đang yên đang lành lại làm đơn làm từ. Mày tưởng bỏ nhau là dễ lắm à! Cứ nhanh như quan tỉnh vẽ dự án à!Cứ như đập cái niêu đất vất ra hàng rào không bằng à.

- Dưng mà con ức nó lắm ông ạ! Nó theo gái! Có mấy con đĩ rạc nó quyến. Nó phụ bạc vợ con…Nó…

Tôi cáu tiết :

- Tao không tin! Thằng Vộc nhà mày mà gái cũng theo! Nó theo chồng mày để lấy cái răng vổ à! Trên thì răng, dưới là dái thối, cái xe đạp gẻ ruồi, cái mũ lá rách…Con điên nó theo chồng mày .

- Dưng mà mười mươi có thật! Ông cứ làm cho con lá đơn, phí tổn bao nhiêu con chịu. Con có tiền! Chiều qua mới bán ổ chó đẻ, gớm đàn chó nhà con đẹp như tranh vẽ. Nó tơ nhau với con chó đực nhà Ba Lẫm. Con chó đực ấy như con bê. Nó lại lai bẹc, lại …

Nếu không cả quyết xua tay cắt chương trình, con bé này có lẽ lạc chủ đề chó giao hoan để sinh ra chó. Khổ lắm, cảnh nhà quê là hay chuyện con cà con kê. Đám nạ dòng nhà quê là chúa hay chuyện. Hình như họ càng nói càng thích. Họ sinh ra để hóng chuyện thiên hạ và kể chuyện mình. Cái chuyện buồng the vợ chồng suy cho cùng chỉ kín về ban đêm để ban ngày cũng lộ ra đằng miệng. Cái gì cũng thành chuyện. Thế mới là nhà quê! Nhà quê thì mới thế...

Biết không thể gỡ nổi cái con đỉa đói đang ngoe nguẩy bám vào chân. Tôi bảo nó

- Mày kể đi! Ngồi đấy mà kể để yên tao làm! Kể khoẻ vào tao nhớ lại tối tao viết đơn cho! Cấm kể sai đấy! sai là mày chết với ông.

Bỏ mặc thằng con lạch bạch, lê la xem tôi sửa chuồng chó, nó chẳng thèm phủi nền, đặt ệch mông xuống và bắt đầu cuốn phim dài tập Việt nam mà kể ! Ôi thôi là nó kể! Nó làm tôi ù tai, chóng mặt. Có trời mới nhớ nó kể cái gì. Tôi không thể kiên trì nữa quay sang hỏi chuyện thằng con nó. Hai ông cháu đấu khẩu nhau. Nó vẫn kể! Tôi lại chuyển sang hát! Nó vẫn kể! Nó kể, tôi hát! Tôi hát, nó kể. Chán chết! hay nó nghĩ cái lão nhà quê đã viết bao nhiêu chuyện trên trời dưới bể có hai cái đầu. Cứ nói phứa đi ! Cái đầu thứ hai của gã sẽ nhập hết dữ liệu rồi sử lý thông tin! rồi biến thành lá đơn “vợ bỏ chồng, con bỏ cha”! Hỡi trời! Có thứ nghề phụ nào ở chốn nhà quê nó kỳ quái như nghề tôi không! Vừa làm ruộng. Vừa viết văn, làm báo vừa làm đơn ly dỵ, đơn kiện cáo mất gà mất chó. Đơn tố cáo anh em tranh nhau đất hương hoả…Ngàn vạn thứ đơn của vạn ngàn cái rắc rối eo sèo. Thì ra nghề chữ nghĩa thời buổi này cũng “đắt hàng” đáo để.

Nhinh là con thằng bạn tôi từ ngày còn chăn trâu cắt cỏ. Bố nó ham bắt cua bắt cá nên học chưa hết cấp 1 đã bỏ. Nói trắng ngay bây giờ là nó gần như mù chữ. Vợ chồng đẻ xoạch ra 5 con vịt giời, con Nhinh là đứa thứ 3 cũng thất học. Nó lại lấy Cu Vộc ngay giữa làng. Hai vợ chồng nhà quê nồi nào vung ấy trông xứng đôi tệ.

Cu Vộc lùn tịt. Người nó như chầy vồ gỗ nhãn nên có lẽ bố mẹ nó đặt tên như thế. Vộc hay rượu, rượu vào là bốc phét ta đây lắm. không biết vợ chồng nhà nó ân ái với nhau lúc nào để khai hoa kết nụ chứ quanh năm ngày tháng cãi nhau như vỡ chợ. Được cái cãi nhau nhưng không đánh nhau, mà có đánh nhau cũng không lại được với con vợ khoẻ như trâu lăn.Con Nhinh da bánh mật, cũng lùn và béo thun lút. Cái đận lâu lắm rồi, cu cậu đi đám về say nghiêng say ngả. Về đến sân. Cu cậu đứng nghênh mặt nhìn giời và chửi bâng quơ, móc cái của nợ ra vần vò rồi đi vòng quanh sân mà đái. Cái giống say rượu say bia là khoẻ đái lắm. Nó nhăn mặt khoái trá vẩy tứ tung hình rồng, hình rắn. Con Nhinh cáu tiết vật ngửa thằng chồng tềnh hệnh ra. Nó thụi, nó đạp, nó bóp cổ, bóp cả cái bộ phận vừa thải nước khai mù mù ra sân. Cu cậu kêu oai oái vừa kêu, vừa chửi, vừa đe. Con Nhinh ngồi lên bụng mà cào mà cắn. Cu cậu hút chết. Từ đó nạn bạo hành kỳ quái và gớm giếc kia cũng không sảy ra. Về mặt vũ lực tạm vãn hồi hoà bình thì bù vào đấy là chiến tranh bằng lỗ miệng.

Dạo này Cu Vộc lại dùng cả di động nữa mới “chết cha con gà ta” chứ. Chả biết từ ngày đi theo cánh cai xây làm thợ đội bê tông, có ông chủ nhà vứt cái di động lỗi mốt , to thùng lục như củ khoai lang làm đồ chơi cho con. Cu Vộc gạ đổi một cái di động đồ chơi bằng nhựa . Thằng cu con nhà chủ ưng thuận. Thế là cậu ta có di động hẳn hoi. Cũng nhắn tin, cũng gọi choang choác như ai. Cái Sim khuyến mại 50 ngàn có đáng là bao. Tội gì không dùng cho oai cái thằng người.

Cứ say rượu là cu ta mang di động ra gọi. Có khi không bật nguồn cũng gọi cho nó sướng. Cậu ta nói chuyện dả lả với ông nảo ông nào là tuỳ cái đầu tưởng ra. Con Nhinh ức lắm! Mẹ cái đồ gàn, cấi đồ cứt nhã có chóp, đã khổ như con trâu lại còn sỹ diện. Tiền chó đâu mà gọi lắm thế!

Sáng ấy bổ quáng bổ quàng thế nào, cu cậu quên cái di động của nợ ở nhà. Mấy ông mãnh cùng tốp thợ biết thóp, nó cứ nhè số cu Vộc mà giả làm con gái nhắn tin. Bao lời thương yêu ong bướm, hết em này đến em kia. Con vợ ngồi sàng gạo thỉnh thoảng lại thấy cái “của nợ” rung ì ì, giãy đành đạch sốt ruột chạy vào ngó, rồi lại chạy ra , rồi lại chạy vào, cứ thế đến mươi bận thì vừa hay mấy đứa học sinh chuyên nghiệp ở trọ nhà bên ngang qua. Nhinh gọi chúng vào xem cái gì cứ như ma làm. Thỉnh thoảng lại ty ty tút tút…Chúng vô tư mở mục tin nhắn và vô tư đọc. Con bé Nhinh mới giãy lên đành đạch! Chết cha rồi…Thằng của khỉ sinh hư đổ đốn rồi. Sao nó đen hôi như thế mà lắm gái theo thế…Tối ấy cả làng được một phen đinh tai nhức óc …Cái đơn ly dị đẻ ra từ đấy! Cái pha bi hài cũng đẻ ra từ trò chơi nửa người lớn, nửa trẻ con

****************

Lại đơn ly dị! Lần này khách hàng của tôi là người giàu có hẳn hoi. Nàng ở nhà hai tầng trong cái chốn nhà quê lổn nhổn nhà cấp 4, vợ một ông quan to mãi tỉnh bên. Ông ta có nhà đẹp nhất làng và cố nhiên có vợ đẹp nhất làng. Nàng còn thua tuổi con bé lớn nhà tôi nhưng gọi tôi bằng anh leo lẻo. Cái loại đã lên ông như tôi nhưng được lũ gái trẻ gọi bằng anh nhiều khi nghe mà sướng lỗ nhĩ. Cứ gãi mái tóc tổ quạ đã ngả màu chó gio mà cảm động. Nàng còn ngon mắt lắm! Cái gì cũng nở bung nở xoè chọc vào mắt mấy thằng đàn ông nhà quê quanh năm ở với vợ lồi thồi lưng đeo vú thắt. Nàng như một cơn gió mát mơ hồ thổi vào trưa hè oi bức, như làn nước tưới cho những loại cây còi cọc đang hạn hán, háo han…Cái trích ngang lý lịch của nàng cũng thật đơn giản: 29 cái xuân xanh! Nghề nghiệp : Thợ làm đầu kiêm mát sa tẩm quất nhà hàng . Chồng nàng là một quan tỉnh. Qua mấy pha thư giãn sinh tình. Vốn có mối quan hệ rộng. Quan bác "di rời” người tình về làng này mua đất, “quàn” người đẹp tại đây. Nàng cũng mới đọc thông viết thạo nhưng phấn son đua đòi ăn diện ngất trời. Nàng là con oanh con khiếu để mỗi dịp quan bác công cán ngang qua thưởng ngoạn. Ông ấy lắm tiền không xây nhà mua đất thì để tiền nó mục ra à. Cái sổ đỏ đứng tên ông. Cô vợ hờ tình nhân là nhà thổ có lương nhưng là quản gia không lương và rất trung thành! Quan bác khôn dóc tổ! Khôn thì mới là quan! Đa mưu túc kế thì mới làm quan…

Nói của đáng tội. Mấy lão nhà quê có thèm giỏ rãi vãi rớt cũng chỉ liếm mép liếm môi mà thôi. Người ta thơm tho thế kia ai lại phí cái thân mà xà vào lòng mấy lão răng cải mả và hôi như cú vọ. Lúc nào cũng chum mỏ tóp má vào điếu cày, phả khói như tàu hoả vào ga. Lúc quan bác chưa về thì có quan khác xe đưa xe đón. Con cú cứ đòi đậu cành mai…Thấy mấy ông chồng thầm thào bàn tán, các mụ vợ thường nói vỗ mặt: Này! Nó có mốc ra thì treo gác bếp chứ không đến lượt các ông! Đừng giàu trí tưởng bở mà lượn như ruồi bâu cặc ngựa! Rõ dơ cái mặt.

Ấy thế mà đùng một cái. Chiều nay nàng tha tấm thân ngàn vàng đến nhà tôi đòi viết đơn ly dị. Cái đất nhà quê, bọn ruồi cứ thấy mùi lạ là bâu đến. Có mắm tôm y như rằng là nhặng xanh kéo về hôi chợ. Chắc nàng sức nước hoa thơm quá, bọn ruồi ào ạt nghênh đón. Nàng cứ lấy tay hoa lên như nhập đồng mà khoả. ..Tôi đưa nàng cái quạt nan để làm vũ khí. Nàng thè lưới đỏ nhờ nhờ, liếm vào cái môi rất chi là đỏ. Kìm cái khí giận lại mà bảo rằng:

- Em biết anh là người văn chương chữ nghĩa nên đến cửa anh cậy nhờ! Anh cố giúp em! Thích cái gì em chiều.

Nàng vén áo bụng và gãi vô tư như đang trong nhà tắm. Dù tôi cố làm ra vẻ khách khí nhưng cái bụng trắng như sáp nặn vẫn đập vào mắt. Cái áo trễ cổ thấp tho một thung lũng ma quái hút hồn. Cũng may vợ vắng nhà không thể nào cũng có mấy cái lườm đứt mặt.

- Nó định bỏ em anh ạ! Nó bỏ em là nó chết! Sư bố cái loại đàn ông chơi hoa bẻ cành. Nó lập mưu cho bạn nó tán tỉnhr em ! dẫn em vào nhà nghỉ rồi "ấy" em, chụp ảnh quay phim lén! Nó bảo em là con đĩ trăm thằng nên cuốn xéo ngay khỏi ngôi nhà này, anh nghĩ có ức không! Em cũng chẳng thiết nó! Em cũng chán cái bụng phệ ấy lắm rồi! Anh làm cho em cái đơn ly dị! Ly dị là chia đôi tài sản …Hí ..Hí..chia đôi tài sản.

Tôi thủng thẳng:

- Thế anh chị có giấy hôn thú do chính quyền cấp không tôi xem đã chứ! Đơn từ bút sa gà chết chứ phải chuyện chơi đâu:

- Làm gì có! vợ chồng ăn ở với nhau 2 năm nay đầu gối tay sờ, không đủ hay sao mà hôn với chả thú. Nó hôn em còn rai hơn cán bộ tuyên huấn tỉnh ta nói chuyện thời sự.

- Không ổn rồi! Không có giá thú thì làm sao ly di, làm sao đi đòi cái không có được cơ chứ.

- Anh dốt bỏ mẹ! Nó ngủ với em cả vạn lần, nó phá tan tành trinh tiết một cô gái nhà hàng trong trắng thơ ngây như em , không phải là chồng thì là gì! Anh xem cái ông "Bút ông Mực" tổng thống tổng thiếc gì bên Mỹ. Chỉ sớt tý “vi trùng” vào váy cô bưu điện mà còn bị suýt ra toà! đằng này….

Gời ơi là giời. Thà không có cái tiếng hay chữ lại hơn! Tôi như con ruồi giẫy đạp trong mớ tơ nhện

-        Bệnh gì cũng có thể lây nhiễm thành đại dịch bùng phát. Có lẽ bệnh kiện cáo trong các chốn quan trường to nhỏ đã lây nhiễm về quê tôi. Dân bây giờ cũng sính đi kiện, hơi một tý là đe “ông đi kiện”. Họ cứ làm như đi kiện nhau là đi lễ hội không bằng! Ấy vậy cái thằng tôi là cái thúng đựng tạp phế chuyện nhà quê hay rở. Họ kéo đến nhà tôi để nhờ làm đơn. Tự dưng cái phòng Văn của tôi thành phòng Luật sư bất đắc dỹ và tôi, gã văn chương gàn rở lại được tôn là luật sư mà không thuộc một nửa sợi điều luật nước nhà. Hình như tôi đang trượt dần thành kẻ bất lương. Những bà con quanh tôi đua nhau kiện cáo. Cứ gần đến phiên bầu cử hội đồng này nọ là tha hồ viết đơn kiện. Thiếu gì cái kiện, kể cả ông cán bộ nọ hay quên kéo khoá quần khi đi hội nghị. Kể cả hôi nách, hắc lào thối tai cũng có tội…Đấy là các ông ấy kiện nhau , họ thuê người đi kiện để hạ bệ nhau chứ dân ai rỗi hơi. Họ đến nhà tôi và kể lể dài dòng như mấy vị dân biểu có bằng tại chức chuyên tu đi tiếp xúc cử tri…Tôi giận họ, tôi giận tôi, tôi thương họ và cũng thương cả tôi và... chán cho cái nghề bút mực.

Sao mấy ông luật sư cứ phải lập Văn phòng tư vấn luật ngoài phố. Về đây tôi nhường nhà cho mà hành nghề. Đảm bảo tôi không lấy một đồng một cắc…Quê tôi đầy việc kiện cáo, sợ các ông không đủ thời giờ…Tôi không xui dại đâu, có mà giàu bạc ức.

Trước mắt, tôi đóng cũi sắt nhốt 3 con chó vào đấy. Để ra ngoài cổng…Nghe chó sủa là tôi liền đeo kính dâm và thưa với quý khách:

-Thông cảm! tôi viêm màng bồ đào cả hai mắt rồi! sắp mù tịt rồi…Bố thằng nào mù lại còn viết được chữ.

Ngày giỗ họ

Đã đăng trên tạp chí Văn nghệ công an

*************************

Lâu lắm rồi họ Đồng mới tổ chức giỗ họ. Sự kiện ấy làm con cháu náo nức đến cuồng nhiệt. Trước đấy cả tuần lễ, ông Trưởng tộc Đồng Văn Nhâm đóng complê cả hộp. Ông là trung tâm chú ý trọng vọng của cả họ. Ông còn “vượng” lắm, năm mươi tư tuổi tóc vẫn đen nhánh, răng trắng và khít, cắn xương gà, xương chó cứ rôm rốp, mặt mũi lúc nào cũng đỏ ke ke, hào hoa, lịch lãm, cái bắt tay dẻo oặt, miệng cảm ơn trơn nuồn nuỗn. Nếu không mắc cái lỗi lòng bàn tay tứ thời nhơm nhớp thì ông là một nhà ngoại giao có hạng. Ông đang làm sếp một sở trong tỉnh, có kẻ thưa người bẩm, lắm lộc tứ phương. Đường quan lộ ông đang hanh thông, gia sự cũng tạm ổn. Ông trưởng tộc “xịn” như vậy ai trong họ chẳng ngưỡng mộ.

Thế gian vẫn bảo “được vợ hỏng chồng”, câu ấy sai bét với ông: bà trưởng cũng phát tướng mệnh phụ đang là chủ nhà nghỉ Lan Ngọc. Cái eo, cái mông, cái bụng bà mụ nặn đến khéo, nó vừa kín đáo, vừa bí hiểm lại vừa phô phang, con người bà phát lộ một cảm xúc mơ hồ si mê và lãng mạn với đám mày râu. Nếu không vì cái miệng quá bé lại hay lép bép thì nhan sắc bà thật hoàn hảo.

Minh họa của Lê Tiến Vượng.

Quả thật nhìn kỹ miệng bà, người ta hay liên tưởng đến nhát rạch vụng của lão thợ hoạn... Bà mụ đỏng đảnh và tai ác đến thế là cùng...

Nhà thờ họ được xây dựng trước ngày giỗ trọng khoảng hai tháng. Theo ông Trưởng tộc giải thích hôm khởi công với cả họ: “Vạn sự khởi đầu nan, họ ta lấy ngắn nuôi dài, cứ phải có nhà thờ đã thì mới quy tụ được dòng tộc”. Thế là mấy rặng xoan tươi, bạch đàn non bị đám thanh niên cưa cắt đổ rầm rầm. Sợ mọt ăn, người ta đốt gỗ để hãm nhựa đắng. Đòn tay đã có bương tươi Thanh Hóa, mái chỉ lợp tạm ngói Hương Canh... Nhà thờ xây chóng vánh như thời bao cấp làm lán trâu hợp tác, các họ khác xì xào bàn tán nhiều về cái Từ đường của họ Đồng! Kệ họ, ông trưởng Nhâm trấn an con cháu:

- Bách nhân, bách khẩu! Chấp làm gì! Mỗi người mỗi mưu, mai kia con cháu tỉnh xa giàu có, rồi bên ngoại quốc nó về tài trợ ta xây gấp chín lần thế này, cho họ khác ức đến nổ mắt ra.

Cả họ không tin lắm! Ông là người có chức có quyền, lại đa mưu túc kế, bà nhà lại giỏi đồng cốt, cúng bái thì phúc lộc chan cả họ được nhờ.

Họ Đồng ở đất này lâu lắm rồi, trong gia phả để lại còn ghi, vào năm 1789, nghĩa quân Nguyễn Huệ, sau khi đại phá quân Thanh trên đường trở về Phú Xuân, qua đây thấy cảnh đẹp đất tốt đã trình tấu Minh quân xin ở lại, trong đó có cụ tổ họ Đồng. Cứ thế gia phả dòng họ từ chỗ lót đót đến nay đã sum suê với những chi, những ngành nội ngoại bám rễ vào mảnh đất Bắc Hà từ thế kỷ XVII. Vốn là dòng họ thông minh, cần cù, hiếu học, con cháu qua các đời đều có người hiển đạt, ngay tỉnh này, bà chủ tịch đương nhiệm Đồng Thị Nhật Vân cũng là con cháu họ Đồng. Bà quyết đoán, mực thước và giản dị.

Trong họ ai cũng bảo: “Bà Vân - Chủ tịch là niềm tự hào của dòng họ ta”. Cứ nhìn phong cách bắt tay của bà với các đối tác nước ngoài vẫn được truyền hình tỉnh ghi lại cũng đủ thấy, một cái bắt tay không hề nhún mình, cầu cạnh, xu nịnh. Đấy là cái bắt tay giầu tự trọng, giàu bản lĩnh của người cầm cân nảy mực. Các cụ già trong họ có lần nhìn thấy bà trên tivi đã vỗ tay đen đét:

- Hào sảng! Hào sảng! Thế mới là con cháu họ Đồng.

Ta hãy trở lại với ngày giỗ, cái ngày trọng đại mà ông Nhâm đang đứng ra điều hành.

Từ sáng sớm, trước nền sân từ đường đã nhộn nhạo khác thường. Tuy nền còn lầy lội, ban khánh tiết họ nhanh ý té vào đấy một xe công nông đá mạt, trải tấm bạt rộng phủ lên trên nhìn cũng đẹp mắt. Con cháu bầu đoàn thê tử từ các xóm đồng chiêm vần vần kéo lên.

Các cụ ông, cụ bà cao tuổi, ốm yếu, áo the khăn xếp chỉnh tề, ngục ngặc chống gậy, miệng thở pho pho, các cụ sĩ quan quân đội đeo huân chương vàng chóe, các ông công chức complê, cà vạt chỉnh trang. Lũ con cháu hậu duệ bảy, tám đời từ các thành phố lớn theo cha mẹ về rực rỡ tươi trẻ như những đám mây ngũ sắc, quần áo, giày dép, máy ảnh, máy camera lỉnh kỉnh đung đưa theo nhịp đi. Nghe tin giỗ họ, chúng theo cha mẹ về pích ních một chuyến. Mang tiếng có quê có quán mà cả đời có biết ở chỗ nào đâu.

Chiếc loa nén miệng to như cái sàng được treo tít lên cây muỗm, trợ sức cùng mấy cái loa thùng to tổ bố đặt ở hai bên cánh gà, thỉnh thoảng lại ré lên từng hồi chói gắt, lũ trẻ rụt cổ bưng tai. Chỉ thích cho các cụ nghễnh ngãng đã lâu mới được ăn một bữa cỗ âm thanh no nê đến vậy. Ông Trưởng tộc dù đã cố công đắp “gôm” lên đầu nhưng giữa bao nhiêu là công việc, giờ thì tóc ông đã lả thả, xõa xượi, có đám dựng lên như lông nhím, có đám vểnh ngang như râu dê. Chả là ông phải trườn, phải nhoai như con lươn giữa những hỗn mang để điều hành công việc.

Vừa bắt tay, ôm, hôn, gật, cười, đập, vỗ, nói nhẹ và quát to, trịch thượng và quyền bính, khiêm nhường và kính cẩn... đủ cả, ông là tổng hòa của tất cả các mối quan hệ, của một núi công việc cả họ giao cho.

Bà trưởng hôm nay được dịp phô diễn vai trò của mình với cả họ. Khác mọi ngày bà mặc váy đen để lộ cặp ngà voi hủng hỉnh những thịt, hôm nay bà chọn quần bò zin, áo phông cổ lửng, bà nghĩ, ngày lễ trọng phải nai nịt cho thật kín đáo, với lại mấy lão đàn ông khách khứa trai lơ cứ thấy bà mặc váy là nhìn vằm vặp đến... cháy cả đùi, có lão còn ngồi sán lại, thỉnh thoảng táy máy rút di động, tiện tay rờ nhầm vô tội vạ làm bà sướng đến tận tủy nhưng bà vẫn quét cái nhìn nong nóng quở trách. Có lão còn nhăn nhở khen: “Cặp bánh dầy em đẹp thật, của Tây Thi cũng thế là cùng”.

Hôm nay bà trưởng đoan trang lắm, hiền thục lắm, tay bà nhoay nhoáy xếp lễ vật, cặp mắt quét nhanh liên liến điều hành việc cúng lễ, cái tay búp măng đầy nhẫn mặt ngọc vái dẻo quẹo. Thế mới biết cái gì cũng phải có thâm niên. Khấn vái như mấy lão thợ đấu đến là thô, khấn khứa gì mà cứ sầm sập như hạ kéo cắt đất, vừa hành sự bà vừa nghĩ lẩn mẩn như thế... Nếu không vì cái miệng đắp son quá cỡ, hôm nay chắc bà ăn ảnh lắm. Ừ, mà mấy thằng quay phim nó toàn chọn mình theo góc xiên...

Cái sân nhà thờ họ hôm nay sôi xì những âm thanh, đài loa phát hết công suất, nói chuyện như gào, cười như cống vỡ, sự lam lũ quê mùa trộn với cao sang đài các, cái tươi trẻ hừng hực trộn với cái ì ạch già nua, cái trầm lặng uyên thâm đặt cạnh cái trưởng giả trọc phú ba hoa dốt nát. Tất cả đều gạn mình thể hiện và thể hiện đến gạn mình.

Bà Nhật Vân - Chủ tịch đang tiến vào. Quái lạ! Sao hôm nay bà ăn mặc chẳng “xứng kỳ đức” tí nào. Cái xe bốn chỗ đen nhẫy đâu không đi lại tòng tọc đạp cái mini Nhật. Lỉnh kỉnh hai cái túi xách treo trên ghi đông, chẳng có tùy tùng thư ký lếch thếch đi theo, chả hiểu ra làm sao cả! Bà là niềm kiêu hãnh của dòng họ, tuy ngôi thứ chỉ là hàng cháu nhưng chức quyền lồng lộng, đứng đầu hàng tỉnh... Bao nhiêu cái mông nhổm lên, bao nhiêu cái tay rụt vội khỏi túi áo, túi quần, bao nhiêu cái lưng muốn loại trừ xương sống sẵn sàng làm việc

-        Ai cũng định chen ra trước nhưng người nọ ngại người kia. Họ ngại các bậc trưởng lão đang dương kính đít chai hầm hầm soi mói. Ông trưởng Nhâm hớt hải chạy ra trước, xòe cả hai tay ngật ngật cái đầu bả lả:

- Gớm! Cả họ mong cô, sao giờ mới về, bận họp hả.

Bà Vân ý tứ khom lưng thấp hơn ông trưởng, đưa cả hai tay ra bắt rồi vỗ vỗ lưng ông thân mật:

- Bác để em vào chào các cụ, các cụ đang nhìn kia kìa! Không khéo lại bị mắng ngập đầu.

Nhanh nhẹn và cả quyết, bà đến nơi các cụ đang an tọa, khoanh tay trước ngực kính cẩn thưa:

- Con chào các cụ, các ông, các bà họ nhà ta! Dạ, lâu lắm mới có vinh hạnh này để chúng con được gặp các cụ, xin các cụ tha lỗi, chúng con bận công tác nên không có dịp vấn an, xin các cụ đại xá cho ạ!

Nhiều ánh mắt đổ dồn vào phía bà Nhật Vân. Ông cả Điềm trưởng chi à lên:

- Con Vân đấy à! Ngoan lắm! Thế mới là con cháu họ Đồng, mà chồng cháu đâu lại đi một mình hả?

- Dạ thưa! Nhà cháu tái phát vết thương cũ, không đi được nhờ cháu khất lỗi giùm!... Dạ cho cháu ra ngoài lo việc.

Bà đi giật lùi, qua cửa từ đường mới đổi vị trí, bao nhiêu cái mông lại nhổm lên, bao nhiêu cái tay lại vội rút khỏi túi quần. Bà tươi cười chào cả họ, thu tay trước ngực nửa như chào, nửa như xá rồi tiến lại chiếc xe đạp lấy lễ vật trịnh trọng xếp lên khay. Bà trưởng tộc được dịp tiếp cận “cô em chủ tịch” nên chân tay cứ cuống cả lên, cái miệng chun chun bé lại, chẳng hiểu sao bà lại thè cái lưỡi mào gà liếm ngoèn ngoẹt lên cái môi cũng đỏ khé như mào gà. Bà Vân dâng hương xong, ông Nhâm đã đứng cung cúc bên cạnh, khoan thai và niềm nở, ông đưa tay chỉ hàng ghế đầu. Bà Vân lại vỗ vỗ đập đập vào lưng ông trưởng:

- Em là hàng con cháu, em phải làm đúng phận sự.

Nói xong bà tiến lại cái xe đạp lôi ở túi thứ hai một chiếc tạp dề vàng chóe đeo vào người.

- Cô làm gì thế! Định vào bếp à? Chết thật! Ai lại làm thế! Anh van cô, người ta cười cho.

- Bác nghĩ gì lạ thế! Tại sao ta có chức có quyền lại tự ý tách bổn phận mình ra khỏi họ hàng. Em nghĩ ta nên làm gương cho thế hệ sau từ việc làm nhỏ nhất.

Kẻ lôi, người kéo, cái tạp dề đã được nút lại cứ bị ông bà trưởng đứng kèm hai bên nhọ nhạy cởi ra. Bà Vân hơi bực mình:

- Bác nên đi làm phận sự của mình đi! Nếu cứ thế này, dâng hương xong là em xin phép ra về cũng không ai trách em được.

Thế là bà Chủ tịch phăm phăm tiến lại nơi làm cỗ. Ở đấy, mấy chị mấy bác trong họ đang lả tả đi lại, chỗ thì nhặt rau, chỗ thì chặt thịt kênh kếch. Chảo chim cút quay lúc búc sôi, những con gà luộc vớt ra vàng hếch, nhẫy nhụa mỡ, những tảng thịt quay vàng suộm, tất cả dậy lên một mùi bếp núc ấm cúng... Bà Vân nhập đám thật tự nhiên. Bà hào hứng cầm dao lọc thịt, vừa làm vừa dạy người ở bên. Thấy anh cu Thong chặt lộn đô lộn đáo thịt gà, bà sấn lại giành phần, vừa làm vừa giảng giải:

- Kiểu cháu chặt là kiểu ngày xưa, thời bao cấp đói kém, một con gà luộc chia năm, sáu đĩa con, độn cổ cánh ở dưới, xếp ngửa lên, sau đó úp đĩa lộn ngược cho đầy, cho đẹp. Bây giờ no đủ, một con gà chỉ chia hai... đây này! Xem cô chặt.

Một đĩa thịt gà khít khịt với đầy đủ đùi lườn, xương nạc bày thật khéo. Nhát chặt gọn tưng, một loáng đã xuất xưởng. Ba cái lá chanh xếp lại, mấy lát vỏ cà chua cuộn đẹp như đóa hoa hồng nằm giữa. Ôi chao! Thế mà không biết! Đẹp đến phát thèm... mấy bà nhà quê cứ ngây ra, tưởng bà Chủ tịch chỉ giỏi ra lệnh, ai ngờ nấu ăn khéo thế.

Vừa làm, bà vừa tâm sự:

- Dù có làm vương làm tướng gì thì phụ nữ vẫn là phụ nữ, thế gian vẫn bảo: “Vắng đàn ông quạnh nhà, vắng đàn bà quạnh bếp”. Đàn bà nấu ăn không khéo là hỏng to đấy! Ngày xưa con gái phải học từ khi lên năm, lên sáu “hai tay chín bếp còn chòi gạch cua”, con gái ngày xưa mẹ dạy chu đáo lắm, từ dần sàng khâu vá bếp núc. Phận con gái phải nhớ bốn điều: Công - Dung - Ngôn - Hạnh. Đoảng cái ấy là ế chỏng ra...

Bà cười ngất! Ôi vui quá! Con người hạnh phúc nhất là tháo bỏ được những khiên cưỡng để trở lại với chính mình.

Mà kìa! Xe ở đâu cắn đuôi nhau tiến về nhiều đến thế, toàn xe biển xanh có số tỉnh nhà. Bà dừng xe ngóng lên đường cái. Vốn làm Chủ tịch đã hai khóa, bà chẳng lạ gì những gương mặt ngồi ở mỗi xe.

Các đoàn đại biểu tỉnh đang sửa lại áo quần, xủng xỉnh xiêm y tiến vào từ đường. Lễ vật, phong bì ngần ngật xếp lên khay. Ông bà trưởng tộc quýnh cả lên! Riêng ông trưởng tộc trông như quan hề, bà trưởng cứ động “bất an” lại liếm môi nhun nhút. Ai dâng hương xong cũng láo liên xem bà chủ tịch ngồi ở ghế nào... Giỗ họ nhà bà chủ tịch mà lại! Người ta chỉ nhớ như thế...

Bà Vân mở di động gọi cho ai đấy.

Chưa kịp cất điện thoại đã thấy ông trưởng khom lưng bên cạnh lạy như tế sao:

- Anh lạy cô! Anh lạy cô! Cô mà không ra bây giờ thì khốn cho cả họ.

Hình như không kìm nén được cơn giận, bà Vân đập cái dao xuống thớt đánh “phạch”, đám mỡ gà phụt tứ tung lên áo quần cả hai người, bà dằn giọng:

- Nghe đây bác trưởng! Bác đã làm một việc mang tội với tổ tiên, xúc phạm đến danh dự tôi, danh dự bác... giời ơi - Bà kêu lên đau đớn.

Nhìn thẳng vào mặt ông Nhâm, mắt bà hoe đỏ:

- Lợi dụng tổ tiên để quảng giao, trục lợi rồi biển lận bớt xén tiền xây trụ sở để chạy chức chạy quyền, lập mưu vu oan cho người chính trực để hạ bệ họ! Tàn hại họ đến thân tàn ma dại đã có kiểm toán nhà nước, có công an, viện kiểm sát mời bác ra đối chất. Ba ngày nữa Thường vụ tỉnh ủy họp phiên đột xuất về việc của bác đấy. Trời cũng không cứu nổi bác đâu.

Nhận điện thoại, bà Chánh văn phòng lập tức có mặt. Bà Vân chỉ vào đống phong bì cả quyết:

- Em giúp chị, quản lý tốt đống phong bì kia, ghi rõ tên người gửi, sáng mai giao ban, chị xin nhận lỗi việc này

Về làng

Truyện ngắn của Lưu Quốc Hoà

Ông Vọng có thói quen đọc sách vào ban đêm khi bà và cháu con tập chung ở tầng trệt xem Ty vi.

Căn nhà hai mặt phố của ông bà là nơi đông vui nhộn nhịp nhất trong một quận của thủ đô. Tuy sống chung nhưng thành viên cả nhà cũng chẳng nhiều nhặn gì. Ông bà ở với anh trưởng nam đã vào tuổi ngũ thập đang công tác nhà nước. Cô vợ kém chồng hơn chục tuổi ngồi bán hàng cùng mấy người gíup việc. Mấy đứa cháu gái đang tuổi đi học. Chúng học ngày học đêm. Có khi trong giấc ngủ mơ cũng là chuyện học hành thi cử. Mắt đứa nào cũng sề xễ cái kính và độ dày điốp cũng dày theo tuổi và cấp học. Mang tiếng ở cùng nhà mà suốt ngày có khi chẳng ai nói với ai câu nào. Con trai đi làm vắng. Tối nhọ mặt người mới về lại lao đầu nhòm vào vi tính mà lắc, mà gật. mà vỗ đùi, mà bực dọc hay hớn hở… Hình như mọi buồn vui, lo lắng trong con người anh trưởng nằm cả ở sàn giao dịch chứng khoán...Con dâu ngoài giờ bán hàng là sơn sửa móng chân móng tay, đi cầu đi cúng đền nọ phủ kia. Các cháu thì tất nhiên rồi: Chúng tiết kiệm từng giờ, tiết kiệm cả lời hỏi thăm ông bà để còn học. Ngồi mâm mấy chị em nó nói toàn tiếng Anh tiếng Nga sèo xèo như rán mỡ, tiếng Trung xủng xoảng trúc trắc, thậm thọt rồi phá lên cười. Rõ khổ! Sống trong nhà với con, với cháu mình mà như đi du lịch Sao Hoả sao Kim.

Ông khổ thì bà cũng có sướng hơn đâu. Ngoài 70 tuổi với nhau cả rồi. Ăn ít, ngủ ít mà hoạt đông ngoài trời ngoài mấy tiếng đi dưỡng sinh với câu lạc bộ người cao tuổi là chui vào cái lô cốt tít tịt đỉnh ông giời trên gác 5. Gối mỏi chân chồn, chúm miệng vào huýt sáo. ở trên ấy thoáng và đỡ ồn hơn. Cứ đóng cửa kính và bật điều hoà nhiệt độ lên là thích mùa nào có mùa ấy. Ông lại đọc sách. Bà lại lẩm nhẩm đọc kinh Phúc âm. Thôi cuộc sống người già thế là ổn lắm rồi. Lương hưu trí đại tá của ông và lương Bác sỹ của bà thừa sống. Chẳng con cháu nào phải nuôi. Căn nhà của ông đấy 5 tầng mát mẻ thênh thang, cháu con mặc sức mà dùng…

Dạo này ông Vọng lại mê văn học. Trong thư viện nhỏ nhà ông đầy vầm vập các sách văn học. Cả đời làm lính rồi làm cấp chỉ huy Sư Đoàn. Ông toàn phải vùi đầu vào các sách vở của nhà binh. Toàn chiến thuật với chiến lược. Toàn mệnh lệnh và nghị quyết. Về già ông mới thấy mình như thoát sác khỏi bao điều đã trải.

Đọc những trang văn, ông thấy thư thái tâm hồn và hý hoáy sáng tác. Ông mê những trang viết của các nhà văn tên tuổi viết về làng quê Việt Nam thanh bình…Làng quê hiện lên trong ông cánh cò trắng bay chấp chới trên thảm lúa xanh. Cánh diều no gió trên đê làng. Luỹ tre xanh và hàng xóm láng giềng chất phác…Ông nhớ nôn nao quê hương chôn nhau cắt rốn của mình ở Hà nam, có con sông Châu Giang trong mát. Có mía và ngô ven bãi. Có con đò ngang với tiếng gọi đò vang vọng sông dài…Ông sinh ra từ đấy. Ra đi từ đấy. Mồ mả ông cha vẫn còn nằm lại Nghĩa địa Bãi Quan…Ông gấp sách thẫn thờ và nôn nao nhớ bao kỷ niệm cũ. Như kẻ mộng du. Ông bơi trong những hoài niệm quê hương …Quê ông đấy. Cái làng Quần Phương cách Thủ đô 50 phút ô tô. Ông còn 3 sào vườn hương hoả vẫn cho cô cháu gái mượn trồng rau sạch …Ông phải về thôi. Nhất định phải về xem lại thế nào.

Đấy là thời điểm làng quê vẫn vô cùng yên ả…Nó đúng như trang văn mà ông cầm tên tay. Cái khát vọng an lạc tuổi già lại nhen nhóm trong ông và từ từ lan sang bà. Nó len vào ý nghĩ và khát vọng của đôi vợ chồng già đang cư ngụ trên đỉnh thượng ngôi nhà 5 tầng sang trọng với vật chất và tinh thần quá đầy đủ…

…Phải đến gần 2 năm sau. Quyết tâm trở lại quê cha đất tổ mới thành hiện thực. Có nghĩa là ông bà và con cháu đã có cuộc thương nghị cởi mở và hết sức dân chủ để đi đến nghị quyết chung là: Ông bà rời thành phố để về quê an dưỡng tuổi già. Để hưởng không khí mát lành chốn nhà quê. Để cái bệnh cao huyết áp có môi trường thanh sạch, bài thuốc tự nhiên không mất tiền mà rất chi là công hiệu. Rồi mồ mả ông cha, rồi nội ngoại xum vầy yên ấm…Rồi rất chi là bao nhiêu thứ người già cần đến…Kể cả việc nhắm mắt xuôi tay cũng được mát mẻ phần hồn…Nơi đô hội là dành cho người trẻ đua chen. Ông bà sắp về với tổ tiên thì cần gì học tiếng Anh, tiếng Nhật. Cần gì đến vi tính với ký hiệu rặt tiếng ngoại quốc nhìn hoa cả mắt… Cần gì vũ trường và nhạc “rốc” …Con cháu hãy tha cho cảnh “tứ đại đồng đường” bất đắc dĩ này! Cho mấy thân già được thoát ly cái lô cốt vĩ đại mà về quê với hương đồng gió nội.

Anh trưởng tên là Vũ Vân hết lời can ngăn bố mẹ. Vốn dĩ anh là người có giáo dục. Hai vợ chồng rất ngại mang tiếng là con mà không được kề cận mẹ cha lúc tuổi già bóng xế. Giá là con đò, vợ chồng sắn sàng nhổ neo mà dong buồm theo con đò cha mẹ. Khổ nỗi nó lại là ngôi biệt thự 5 tầng bê tông cốt thép có độ vững chống động đất 6 độ rite . Lại đang đương nhiệm việc nước. Vợ con đang là một tế bào ký sinh vào chốn đô hội không thể tách rời. Cha mẹ quyết vậy anh cũng đành chiều. Mà kể ra từ đây về quê đâu xa sôi . Thôi cha mẹ đã quyết cũng phải chiều lòng. Biết đâu mai mốt về già. Vợ chồng anh cũng nghĩ như thế. Cha mẹ đi trước làm “tiền trạm” có khi lại là cơ hội tốt cho nay mại của vợ chồng anh.

Thế là Vũ Vân thu xếp về quê. Lo thủ tục xin phép họ hàng. Thuê một cai xây dựng cũng là chỗ con cháu để thiết kế ngôi nhà 2 tầng theo kiến trúc của biệt thự đời mới cho cha mẹ. Anh giải quyết nhanh gọn mọi việc trong 3 hôm và báo cáo cha mẹ: Con đã khoán “chìa khoá trao tay” bao giờ xong con mời bố mẹ về quê nhận nhà. Nhà quê bây giờ ai cũng bận, chỗ ăn ở chưa có, bao giờ song chỉ cần một chuyến ôtô là ông bà về quê định cư yên ả

********************

Đó Là buổi sáng đẹp trời. Chiếc xe 24 chỗ ngồi nhẹ nhàng êm ả lăn trên đường làng chở ông bà Vọng và một số bạn già trong câu lạc bộ dưỡng sinh Thành phố về quê khánh thành nhà mới. Đây cũng là dịp những bạn già chia tay nhau để thay đổi môi trường .

Ngôi biệt thự 2 tầng với sơn ngoại thất màu kem, hiện lên như cô gái tỉnh rực rỡ và hiện đại đứng bên cô gái quê còn trang trí tuỳ tiện. Cơm cỗ đã sẵn sàng. Các già làng trong họ lục cục chống gậy đi dự tiệc theo lời mời rất trọng vọng của gia chủ. Ông bà Vọng mặt tươi như hoa vồ lấy mấy ông bạn già thời còn chăn trâu cắt cỏ. Thế là từ nay, sau một vòng đời tao loạn. Họ được lần thứ hai đoàn tụ với nhau dưới mái quê đầm ấm

***********

Thấm thoắt đã qua tháng đầu. Cái dư âm đoàn tụ vừa lắng xuống. Ông bà loay hoay thích nghi với môi trường nhà quê. Cũng chẳng dễ dàng gì. Sự xoay bản lề này là cuộc cách mạng mới trong lối sống thường nhật của con người từ tỉnh về quê. Nhà thì đầy đủ tiện nghi chẳng khác gì Thủ đô. Cũng tắm nóng lạnh. Cũng máy giặt, điều hoà nhiệt độ loại xịn. Cô cháu gái trong họ làm người giúp việc nội trợ trong nhà…Nhưng có để mà có cho đủ lệ bộ chứ không tài nào hoạt động được. Đường dây tải điện nhà quê, cả xóm chung một đường tải bằng dây lưỡng kim. Cứ đóng điều hoà hay các đồ dùng công xuất lớn là cả xóm kêu như như vạc. Đèn nê ông đang sáng phụt tắt. Quạt đang quay đứng khựng hoặc lờ đờ đếm được 3 cái cánh. Cả xóm lại nhao nhao: Cái nhà ông Vọng lại chơi sỏ cả xóm rồi. Người ta nhông nhốc chạy đến mà la , mà trách, mà dè bửu xỏ xiên cái ông cậy lắm của nhiều tiền chơi hoang, chơi huỷ. Vài bận như vậy . Ông bà không dám động đến cầu dao. Cả cái tăng thế cũng giấu biệt vào buồng. Người ta đồn ông dùng cái máy “hút điện” hết về nhà mình mặc cha hàng xóm. Vậy là hai thân già rát mặt không dám dùng điện. Nhiều tối điện yếu quá, Cả hai phành phạch quạt nan. Mà dạo này nông thôn mất điện luôn xoành soạch. Oái oăm là cái điện lưới. Đã yếu lại phì phụp lúc có lúc không…Khi dọn cơm nóng chảy mỡ thì không có điện. ăn xong tám hoánh vác cuốc ra đồng rồi mới có. Ban đêm cũng vậy. Lúc thức thì tối om. Ngủ vài giấc tự nhiên bừng lên chói cả mắt…

Lại cái nạn chó cắn nữa mới tệ. Sao nhà quê bây giờ nuôi lắm chó thế! Lũ chó no ăn dửng mỡ, ngứa miệng nên ra sức mà sủa. Chó lai như con bê sủa ông ổng . Lũ chó cỏ sủa dai như bão may. Mỗi nhà đều có dăm ba con để thừa lộc cơm thừa canh cặn. Chó nhà này sủa lập tức nhà bên, nhà bên nữa nhất hô bá ứng. Nó sủa lên còn hơn tàu hoả chạy ngoài đường lộ. Có nhiều con chó rách tập sủa leo hẳn lên mái bằng, vểnh tai, nhướn cổ ngó ra bốn phía. Sao đổi ngôi: sủa. Đài tút tút : Sủa. ánh đèn pin loáng qua ngoài đường cái: sủa…Ba bề bốn bên làng xóm nhôn nhao tiếng chó…Tầm trưa là lũ gà mái nhảy ổ. Những con mái vỗ cánh nhảy khỏi ổ là tông tốc, toang toác mà kêu. ..Lũ vịt dưới ao bơi trắng như cò. Chúng leo lên hồi nhà ông Vọng mà thải tầng lâu, tầng mới. Chúng sơi cám cò nên phân khắm lặm đến nôn nao ruột gan. Khác lũ chó, lũ gà. Bọn vịt thường cất tiếng đồng loạt. Vỗ cánh đồng loạt như động cỡn phát dồ…Khi chúng đã đồng thanh khởi nghĩa. Ông bà chỉ còn nước bịt tai , nhắm mắt mà kêu trời...Góc trái ao . Nhà Năm Lân làm nghề mổ lợn. Cứ 3 giờ sáng tiếng lợn bị chọc tiết kêu xé tầng trời, kêu rợn tóc gáy. Mấy nhà trang trại nuôi heo đồng loạt thải nước bẩn vào cái ao nhỏ. Nước ao đặc sệt và tanh lợm. Những mô hình trang trại kiểu ấy mọc lên như nấm quanh làng. Mùi thuốc trừ sau , mùi phân hữu cơ từ cánh đồng dưa gang , dưa chuột hợp sức chen vào. Không gian quê làng như quả gấc ủng rụng lâu ngày. Người làng như con sâu uể oải hoặc cuống cuồng bơi trong ruột quả gấc ấy!Mặc kệ. Họ vẫn làm kinh tế bằng mọi cách...Đúng là cảnh: Đau mắt là tại hướng đình/ Cả làng toét mắt chứ mình em đâu.

Nhà cả Thoại lại vừa khánh thành tổ hợp máy sát gạo đầu tách ngay trái nhà ông nữa. Suốt này máy nổ tòng tọc kêu, Bụi trấu bay mù trời, khói đen phun lên nồng nặc…Đứng trên tầng thượng quan sát cả làng. Ông thấy cái làng Quần Phương nghèo khó xưa kia giờ đã đổi lốt. Tất cả là một khối xi măng vĩ đại và rất phản mỹ thuật. Nó nhôm nhoan hổ lốn như khoai xếp gậm gường. Đâu còn những mái tranh, mái ngói vẩy cổ kính ngày xưa. Cả con người cũng khác đi nhiều lắm. Nhà ai cũng kín cổng cao tường …Họ cũng uống bia và chơi lô, chơi đề bạo liệt. Đám con trai con gái không còn hò hát đêm trăng hay tụ tập nô dùa sân đình có cây đa giếng nước. Cả con cháu gái giúp việc ông bà nữa. Cứ xểnh ra lại đi đàn đúm với bạn. Nó cũng phấn, cũng son. Cái quần bò ngắn đũng lúc nào cũng chỉ trực tụt khỏi mông.

Biết sao được. Trai gái quê bây giờ đâu còn e ấp thẹn thò. Cuộc sống thị thành dã táp vào tận hang cùng ngõ hẻm…Nhà quê như lột sác, thoát sác khỏi những tập tục, lễ hội truyền thống thời ông bà đã đắm mình. ..Ông ngán ngẩm bảo bà

- Thế là ta mhầm rồi bà ạ! Cứ tưởng về quê thanh bình nhưng về quê còn ồn gấp mấy Thành phố. Phố xá ồn ào có giờ. Đây suốt ngày suốt đêm ồn không giờ giấc…Cứ mất ngủ oi bức thế này chắc tôi với bà không bám trụ nổi.

Như hưởng ứng nhận định của ông. Điện bừng sáng. Lợi dụng có điện. Cánh máy sát bắt đầu hành sự. Những bao thóc xếp tầng lâu tầng mới chờ điện bây giờ mới cho vàò máy. Cánh xay đậu. cánh làm bún, làm giò chả cũng đợi dịp có điện là vào cuộc. Giữa đêm khuya khoắt. Cái thời khắc để cho con người tái tạo nơ - ron thần kinh mà sống nhưng làng Quần Phương ít ai nghĩ đến. Họ phải tranh thủ. Họ phải giành dật thời gian mà mưu sinh. Làm quáng quàng và hộc tốc leo lên xe đạp, xe máy vù ra chợ tỉnh đổ buôn. Suy cho cùng chỉ có lũ gà lũ vịt và trâu bò là vô can với các hoạt động ban đêm. Con người làng ông khổ quá, tất tưởi quá trong cơ chế thị trường. Suy cho cùng cũng vì cơm áo. Ruộng đất 70% đã thành khu công nghiệp. Họ không bươn chải chỉ có chết chìm trong đói nghèo. Chỉ có ông bà hưởng lương nhà nước nên có quyền “trưa không vội tối không cần”. Các cụ bô lão cũng bị hút vào vòng quay cùng con cháu. Chẳng ai có thời gian ngâm vịnh thơ phú.Để chè tam rượu tứ. Bàn chuyện ngoài hành tinh. Họ đã quen với cảnh tất bật này từ lâu rồi. Khổ mấy nhưng khi đã quen rồi. Người ta cho là lẽ tự nhiên nên chẳng ai thấy khổ. Ông bà như cái cột hành hình. Ra đường không ổn mà ở nhà thì nóng nôi, bứt dứt: Ông chua chát bảo bà:

- Quả thật chẳng con cháu nào làm mình khổ! Chỉ tại mình…Tham hương đồng gió nội

Bà Vọng lườm ông:

-Mang tiếng ông là nhà binh…Ông chẳng chịu nguyên cứu tình hình. Đùng đùng dẫn quân đi phá bốt làm gì chẳng thất bại.

Cứ đều đặn. Hai ngày một lần. Các con ngoài Thành phố gọi điện về hỏi thăm sức khoẻ ông bà. Trót thì trét. Khổ đến ngập đầu nhưng chả lẽ tốn bao tiền của xây biệt thự để về quê. Tốn bao cuộc họp giải thích lý do cùng con cháu. Mấy tháng trời đã sinh sự tháo lui sao tiện. Ông cười vang bảo chúng: “yên tâm đi! Bố mẹ thấy khoẻ ra! Quê mình mát mẻ dễ chịu lắm”…

******************

Đến tháng thứ 3 thì tình hình nguy cấp quá rồi! it ăn, ít ngủ , đến trẻ trai cũng quỵ huống chi người già. Những căn bệnh tiềm ẩn được dịp chui ra hành hạ. Bệnh viện thì ở xa. Mấy ông bác sỹ về hưu cũng già cả. lẫn cẫn với nhau cả rồi. Mà gọi được họ đâu có dễ. Phải lấy hết bình sinh mà lên tấn, chống lại mấy con chó dữ như hổ báo. Gần nhà xa ngõ, trẻ mỏ lại không có mà sai bảo…Thật là cảnh có tiền mà chịu khổ! Thịt cá mua về cô cháu nhà quê chém to kho mặn bắt miệng già khảnh ăn tiêu thụ…Ốm đau từ đấy mà ra. Bà chăm ông. Ông gượng được thì ông lại chăm bà. Cái cảnh hàng xóm tối lửa tắt đèn gọi nhau qua bờ dậu mồng tơi bây giờ không còn nữa. Nhà nào cũng kín cổng cao tường bí hiểm như lô cốt , lúc cần nhau cũng diệu vợi vô cùng. Ông bà Vọng như nằm giữa hoang đảo . Cái hoang đảo cô đơn giữa bao hoạt động sống vần vũ chốn nhà quê thời mở cửa.

Kết quả là hai ông bà phải thuê tắc xi đi viện. Thầm lặng và lén lút như kẻ trốn chạy khỏi chính ngôi nhà mình. Cô cháu gái chăm sóc ông bà mải chơi vừa “lĩnh lương” xong đã vù đi mãi đẩu đâu để giao du bạn bè. Căn bệnh “u sơ tiền liệt tuyến" bệnh viện Tỉnh gợi ý cho ông lên tuyến trên. Bạc nhược vì bệnh tật. Ông bàn với bà điện cho anh trưởng…Và thế là qua gần một trăm ngày thử nghiệm thay đổi môi trường. Cả ông và bà gày sọm đi mấy tuổi…

Thành Phố Phủ Lý đêm 1 và mồng 2/6/09

Thổ công – Hà bá

Lưu Quốc Hoà

************************************

Chỉ khổ cái đám dân “Voi đú ..”

Thấy con mẹ Ngàn lấn đất cũng theo đuôi. Ấy thế cho nên sinh ra cảnh vừa bi, vừa hài. Đầu đuôi câu chuyện là như thế này:

Lối vào làng tôi có con hồ rộng chừng độ hơn một hecta . Đây là di tích còn lại của một con sông. Năm lần bảy lượt, cứ mùa lụt lã vỡ. Khi có con đê bao chặn lại , nó thành con hồ nông. Mồ mả vô chủ quanh hồ vô thiên lủng. Người ta bảo ở đây đất “nghịch” lắm. Oan hồn bà cô ông mãnh cứ vào đêm gió bấc, mưa phùn là kéo lên khóc như ri. Rồi những oan hồn bị tàu, bị ô- tô cán ở đoạn này tính ra cũng khá nhiều. Lại có người cam đoan rằng: mấy con ma áo trắng, cứ xoã tóc ngồi trên đường tàu khóc ty tỷ về tầm sao mai gần khuất.

Rồi ma rủ người, bưng tai bịt mắt người thấy tàu hoả lao qua không nhìn thấy, cứ thế mà lao đầu vào. Đồn là vậy, chứ tôi là con “ma mò” ở đoạn này nhiều năm chẳng gặp bao giờ. Đi thả ống lươn, đi đặt câu ngày còn bé. Tôi còn thấy cả một lũ “ma chơi”. Cứ hôm nào lặng gió hoặc mưa phùn mùa xuân là bay ra mấy cục sáng loè, lượn lờ quanh hồ rồi biến mất. Không phải ma đâu! Là khí Phốt pho đấy. Nó ở xương người và xương động vật chôn dưới đất, tích lại và khi quá áp xuất là tự bay lên phát sáng. .. Con mẹ làm nghề “thày cúng đểu” bên kia nhà tôi còn bảo : Tao thấy trước cửa nhà mày ( tôi có nhà sát đường tàu ) có một con ma áo trắng, là đàn bà dong dỏng cao, tóc dài, cứ vào 1 hay 2 giờ sáng lại xoã tóc mà ngồi…Tôi chọc đểu luôn:

- Thế chắc là loại người mẫu “chân dài đến nách”. Của này các xếp, các đại gia thích lắm. Nó yêu tao hay đánh đàn oocgan nên đến nghe! Tiếc thật! Lúc ấy tao ngủ khì từ tám hoánh còn “đàn địch” nữa đâu! Tao nhờ mày lúc nào em ấy ghé thăm, cứ điện tao ra mở cửa dắt em ma vào! Khổ thân quá! Khát đàn ông ấy mà. Em “chiêu đãi ái tình miễn phí” mà mình làm khách thì còn đếch gì là con đực, mang tiếng là đĩ thoã như tao…Có “kiết” ra tao cũng thù lao mày nửa triệu…Từ ấy nó không phỉnh phờ được nữa. Thày cúng như dạng nó ở các làng vùng tôi nổi lên như mối vỡ tổ…Toàn phán láo, doạ đểu.

Thưở trước. Khu đất này không ai dám ở. Nó vẫn vào loại đất “chó ỉa” hoang hoá và lạnh lẽo đến ghê .

Người mỗi ngày một đông mà đất lại không đẻ như người nên có đôi ba hộ liều mạng đến đây sinh cơ lập nghiệp. Người cứ lấn dần ma. Người tiến thì ma lùi. Lâu dần thấy êm êm, các hộ khác cũng theo nhau đến dựng nhà. Cái thời ấy có ai cấm đoán đâu, mạnh ai nấy ở. Thuế má cũng không phải nộp cho chính quyền. Người ta còn khuyến khích là “khai hoang, phục hoá” nữa là đằng khác.

Khoảng mấy năm gần đây. Nhất là khi Thị xã nâng cấp lên Thành phố. Khu này là “miếng gan miếng tiết”. Bởi đất nằm cạnh đại lộ 1A. Là chỗ người ta dựng cửa hàng buôn bán, kinh doanh. Khu ấy là cửa ngõ vào tỉnh lỵ. Người ở chặt quá nên ma mất chỗ, di tản đi đâu không biết. Mà quả thực, không ai nghĩ đến ma nữa vì người bây giờ còn mạnh hơn ma. Họ còn ma hơn cả ma…Thế mới biết, ma âm phủ “chẳng là cái đinh” gì.

Làm vương bá khu này là Cu Tuất. Một thằng đọc báo ngược. Có nghĩa là nó chẳng cần hiểu quái gì sự đời. Có biết chữ đâu mà đọc hiến pháp với pháp luật nước nhà. Đã thế tai nó lại ngễnh ngãng. Đài đóm là của thiên hạ chứ có lọt được vào lỗ nhĩ nó đâu. Hình như nó điếc lác theo giờ hay sao ấy. Có việc nói khẽ nó cũng ừ. Có việc gào lên nó chỉ “hở” với “hả”. Cứ thế nó dựng nhà và tiến lên xây nhà và đắp bờ thả cá. Nuôi ngan, nuôi vịt, nuôi ba ba…Vụ được, vụ mất nhưng cũng nhôi nhai đủ sống. Ai chớm động vào hồ của nó, nó vác con dao nan dài nửa thước hoa lên trông ghê cả người. Quả thực, nó vác dao nhiều lần nhưng chẳng ai phải mất cái lông chân. Nó khôn lắm, biết cương, biết nhu để bảo mạng. Hoàn cảnh nó nghĩ cũng thương. Cô vợ bé như nắm chắt. Đội nón đứng giữa giời khó mà phân biệt đâu là mặt tiền, đâu là mặt hậu của đàn bà. Nó vóng vót như thước kẻ dựng ngược. Trời mưa đi lùa vịt trượt chân, lần thứ nhất gãy tay trái, bó bột gần lành lại ngã tiếp, gãy tay phải. Rồi dò tuỷ, rồi viêm xương mãn, rồi ung thư giai đoạn đầu. Tiếp hoá chất mấy lần rụng sạch cả tóc. Trông như sư trốn chùa, phá giới. Mấy chục triệu đền bù ruộng đất đổ vào bệnh hết veo. Mấy đứa con trứng gà trứng vịt, học hành buổi đi, buổi bỏ. Quả thật , bố nó làm sao thì chúng chỉ có nước đi ăn mày. ..Chém người “ tượt da ba quan, chảy máu sáu quan” để đi chăn kiến, đi bóc lịch ai nuôi con. Nó chỉ doạ thằng nào gan thỏ đế.

Việc nó bám lấy cái hồ là có lý. Nó khôn như dận váy. Lợi lộc hoa màu, cá mú đâu không biết. Riêng khoản ăn vạ cũng ối tiền: Thằng ôtô mất phanh đâm xuống ư! Năm triệu…Ai bảo mày lao xuống, xăng dầu loang ra chết ngạt hết cá ao tao. Thằng hút cát bắc ống, bắc vòi qua ư : Một triệu…Ôi thôi nhiều lộc lắm. Vịt nó thả, ngan nó bơi kín cả mặt hồ. Rau muống ngọn bò xanh rêu rểu. Nó cứ vác dao nan đi vòng quanh con hồ mà nghĩ kế kiếm tiền. Thằng nào con nào cơi nới đất thổ cư, phạm một ly một lai, tốt nhất là vác xác vào nộp phạt rồi hãy làm. Cán bộ xã đến thu thuế thì nó chửi. Đàn ông đàn ang mà nó ngoa vắt nóc . Nó véo von có lớp, có hồi, có chương có đoạn để kể tội các ông các bà cán bộ. Có việc nó chửi đúng nhưng phần lớn là phịa ra vu vạ cho các vị kiềng mặt…Nó đe con cái các vị đi học qua là nó cho con nó“ làm việc”. Nó như con trâu lấm với cái đuôi vẩy tứ tung, vậy sinh ra cảnh : Vua thua thằng liều. Mà nhà quê bây giờ vô khối thằng liều. Có thằng liều kiếm được cơm. Có thằng liều phải ở tù…”Voi đú chó cũng đú”. Mấy lão nhà quê, hàng xóm láng giềng vẫn chửi lén sau lưng.

Từ dạo hè năm ngoái. Con mẹ Ngàn mua đất cạnh hồ. Mụ lẳng lặng đổ vật liệu, không thèm đếm xỉa đến cái thằng Chí Phèo đời mới. Nó chẳng là cái thá gì mà chấp. Tiền mụ như lá đa, cửa nào mụ cũng rắc. Đồng tiền nó mỏng tang nhưng nó có keo mà bưng lấy cái miệng nào cần bưng . ..Thiên hạ nhân, thiên hạ tài. “Cúng hổ thích hơn cúng chó”…Ấy là mụ bảo thế

*

* *

Tất cả cũng chỉ tại lòng tham thằng người. Con mẹ Ngàn lắm tiền, lắm mưu nên mua một, lấn mười. Đúng lúc ấy Nhà nước mở đại lộ. Các loại đất thải bên hành lang, máy xúc, máy ủi múc đi, lái xe cứ thế vận chuyển mà bán cho mụ với giá rẻ. Lấp sông cũng đủ chứ chưa nói lấp hồ. Nhân đà này mụ ra sức tận dụng cơ hội có một không hai. Những chiếc xe tải với sức chở 15 – 20 khối như đàn kiến khổng lồ thi nhau mà đổ vật liệu san lấp. Diện tích lấn chiếm đã ra gần nửa con hồ. Chính quyền xã Lam Đình huy động lực lượng ngăn chặn nhưng như nước đổ lá khoai. Cấm ngày thì mụ làm đêm. Chỉ mụ làm đêm chứ cán bộ xã ai làm đêm bao giờ…Ngày qua tháng đoạn, mọi biện pháp hành chính cứ như đấm bị bông. Mức độ vi phạm đã “quá ngưỡng” đã “vượt khung” cấp xã…Cấp xã phải nhờ cấp Thành Phố vào cuộc.

Con mẹ Ngàn vẫn phớt lờ và cố nhiên Cu Tuất ức trào máu họng. Đúng lúc ấy. Mụ Ngàn dừng san lấp vì con lộ ngang qua đã hoàn thành việc cải tạo mặt bằng. Cơ quan pháp luật đã gọi mụ ký biên bản vi phạm mấy lần nên mụ cũng chờn. Đây là thời cơ Cu Tuất tranh thủ nghĩ phương kế kiếm tiền. Tuất lân la các hộ quanh hồ gọi là chỗ “tối lửa tắt đèn, mất điện vay nến” bắn tin: Mụ Ngàn làm được ta cũng làm được. Đất bây giờ là bạc là vàng, 5-6 triệu một mét vuông bán đâu chẳng được. Ai muốn lấn hồ, cứ đền hoa lợi cho hắn rồi thoả sức lấn. Nhà đông con lấn nhiều. ít con lấn ít, lấn xong hợp pháp hoá sau.

Nghe bùi tai. Một vài hộ theo nhau thuê tàu hút cát bắc vòi từ sông thổi vào. Cứ chập tối là khởi sự, gần sáng thu dọn chiến trường. Họ ngả tre pheo cắm cọc đánh dấu chủ quyền vừa hùng cứ. Và thế là như một téc dầu vỡ loang ra. Các hộ khác sợ mất phần cũng tưng bừng theo đuôi. Không khí như có lửa sôi. Một cuộc chia chác, tranh giành quyết liệt diễn ra không còn thầm vụng ban đêm mà công khai giữa thanh thiên bạch nhật. Đúng là cuộc nội chiến của những con ma sống tranh lãnh địa cư trú.

Cu Tuất kể cũng cao thủ. Không biết chữ nhưng còn khôn hơn chán vạn thằng chữ nghĩa đầy đầu. Hắn nheo mắt nhẩm tính: Cho chúng mày lấn. Hồ còn rộng chán, vịt vẫn còn chỗ bơi, cá vẫn còn chỗ thả, rau vẫn còn chỗ trồng. Mà suy cho cùng, đất của quốc gia công thổ chứ có phải đất nhà mình quái đâu. Việc thằng nào lấn đất nhà nước bắt phạt thì thằng ấy chịu. Liên can gì mình. Tao bắt đền hoa lợi chứ có phải bán đất quốc gia đâu. Cứ lấn đi, lấn tợn vào…Đục nước béo cò.

Chỉ khổ mấy ông quan cấp xã. Trên ép xuống, dưới kiện lên. Ông chủ tịch chẳng khác nào cá trạch nằm trong giỏ cua, cứ hoắng lên mà đốc thúc binh mã. Binh mã ra quân cũng loay hoay như gà mắc tóc bởi đương sự toàn “phi nội tắc ngoại”. Chém tre cần nể đầu mặt chứ… Ung thư di căn mất rồi, hết thuốc rồi…Nhìn mà hãi! Mấy hôm lại có tắc xi lôi người đi viện cấp cứu.

* * *

Đấy là một buổi sáng không bình thường của làng Trường Đình. Từ sáng sớm.

Một đoàn máy xúc, máy ủi đã tề tựu tập kết trước đầu làng. Dân lấn đất sáng nay cũng hình dung được sự không bình thường này vì qua bao lần cảnh cáo, giáo dục họ vẫn đua nhau làm. Các nhà quanh con hồ đóng cửa im ỉm và lặng lẽ theo dõi. Đàn ngan và đàn vịt nhà Tuất vẫn nhởn nhơ bơi lội, thỉnh thoảng lại động cỡn, đồng loạt vỗ cánh và kêu “như vịt”. Lúc này họ mới ngó cẩn thận vào tờ giấy ra hạn của pháp luật! Không xong rồi! Đất có Thổ công, sông có Hà Bá…Mà xe cộ, công an, cảnh sát, đội đặc nhiệm mũ sắt dùi cui đứng đầy quanh hồ. Lệnh đọc oang oang. Cái loa gọi cả họ và tên cúng cơm từng hộ…Thôi ! dại thì phải chịu…Chỉ tại con mụ Ngàn đầu têu. Chỉ tại thằng Cu Tuất sui dại.

*

* *

Một núi đất đá con mụ Ngàn làm mồi cho hơn chục cái xe ủi. Chỉ một ngày, cái núi ấy đã bị tãi ra lấp kín con hồ. Mặt bằng đi đến đâu, cọc mốc bê tông cắm đến đó. “Đất trả vua, chùa trả bụt”. Các cụ đời xưa nói cấm có sai.

Chỉ khổ cho Cu Tuất…Tiền bán mặt nước thì bán bằng mồm chứ đã thu được một đồng một cắc của ai đâu. Dân làng này “rắn” lắm. Phải xong họ mới trả. Tiền có phải lá đa, lá ổi đâu mà vãi. Cái dễ thấy nhất là hôm nay ngan vịt không còn vũng nước nhỏ mà bơi. Cái thứ ngan vịt giống lai chưa đến kỳ bán, thịt còn nhũn nhèo tiêu thụ cho ai. Đàn cá dưới hồ chưa kịp đánh bắt, làm mồi cho đám trẻ trâu chạy theo máy ủi mà nhặt bỏ vào bao xác rắn. Bao năm sinh sống bình yên giờ tay trắng. Con mụ Ngàn nó giàu có. Nó còn cơ phục lại. Mình khốn khổ khốn nạn thế này thì sống sao được hở giời…Và hắn khóc! Khóc ông ổng, khóc hưng hức, khóc ty tỷ. Khóc như chưa bao giờ được khóc. Có lẽ từ cha sinh mẹ đẻ hắn tích nước mắt để bây giờ mới có dịp tháo ra. Tuất nằm bò nhoài trên cái phản gỗ cập kênh và vô tình tay hắn chạm vào chuôi con dao nan, vật bất ly thân bấy lâu đã làm bạn, lúc đi ngủ vẫn thủ dưới cái gối đã ngả màu cháo lòng. Tuất nhỏm dậy. Nhìn trân trân vào con dao và lẳng lặng đi ra sân, liệng con dao vào vạt rau muống. Chiếc máy ủi đang tiến về vạt rau. Hai cặp bánh xích nghiến lạo xạo trên nền đất mới tãi và đè lên lên con dao của hắn…

Bãi bể đã thành nương dâu. Bây giờ con hồ ấy tự nhiên thành cái chợ ngoại ô nhộn nhịp, tiện thuyền tiện bến. Phiên chợ Tết con trâu vừa rồi. Người ta thấy hắn cùng mấy đứa con gái loạy nhoạy biên biên chép chép. Tuất lại xoay nghề mới: Nghề coi xe và bốc hàng thuê. Vợ Tuất đã mọc lại tóc và nhanh nhẹn chào mời khách vào uống nước chè xanh. Hình như Tuất mặc cảm với mọi người. Hắn lặng lẽ và chu đáo với công việc, ít nói và hay dàn hoà những vụ cãi nhau trong cái chợ quê lắm hàng tôm hàng cá…

Tiệc cưới- Tiệc cười

Đăng trên Văn Nghệ Công an số 94

|

Viết xong cuốn tiểu thuyết tôi lăn đùng ra ốm. Cũng không có gì là bạo bệnh, chẳng qua cũng là làm việc quá độ nên sinh ra suy kiệt cơ thể. Vợ tôi dấu biệt tôi vào buồng để lánh nạn mấy ông bạn văn la cà, rủ rê chè rượu

. Từ người thật thà như đếm, mụ ta sinh tật nói dối hơn cả thằng cuội. Đi đâu thì đóng tịt cửa, ở nhà thì cứ như con dê đực gác cổng chuồng, đám bạn tôi đến, mụ ta nói dối ngon ơ với đủ các lý do nặn ra theo từng hoàn cảnh và cấm bao giờ mời khách vào nhà. Tôi đã ốm lại sinh thêm tật sợ vợ, ho he là mụ ta đay trì cáu cẳn tụt hết cảm hứng văn chương trong thằng người.

Đang thiu thiu ngủ bỗng có tiếng xe rồ ngoài sân. Tôi chột dạ, hé mắt qua khe cửa và chờ một pha nói dối ngoạn mục sắp diễn ra. Khác với dự đoán, vợ tôi niềm nở dẫn khách vào nhà và chõ miệng vào buồng gọi tôi:

- Chú Mịch đến chơi, ông dậy uống nước.

Tưởng ai hoá ra Mịch, ông em họ con cô con bác đằng vợ, đễ đến gần chục măm nay mới hạ cố đến nhà tôi, chẳng qua cũng là chênh lệch nhau về giàu nghèo chứ nhà cũng cách nhau có một con sông. Hắn ở thành thị, tôi ở nhà quê. Nhà Mịch kín cổng cao tường, mấy con chó ngao giống Hoa kỳ nó dữ hơn cả hổ báo, dân nhà quê yếu bóng vía như tôi sợ mất mật.

Tôi hong hóng chờ cái lý do của sự thăm viếng đột xuất này nhưng ông em cứ đà đận hết khen cái này đến cái kia trong một cái gia cư nghèo kiết của tôi:

- Cây táo nhà bác sai quả nhỉ! Con chó đen nhà bác lại 4 mắt, cái móng lại huyền đề là phát tài phát lộc cho chủ lắm…Tôi gượng cười, nụ cười méo xệch, cay đắng cho cảnh nhà có bán đấu giá chắc gì mua nổi vài chậu cảnh nhà hắn. Con chó đen ghẻ kềnh ghẻ càng lõng thõng hai hàng vú đang trốn đàn con à à chạy theo đòi bú. Mấy cây táo còi cọc như đào thế loi phoi quả. Phát tài cái nỗi gì, tôi đang phát bệnh thì có. Lời khen mua mặt của hắn làm tôi tủi phận. Cái phận của thằng văn sỹ nửa mùa.

Thế rồi hắn cũng phải vào chuyện, ấy là chuyện hắn cưới con. Chỗ họ hàng, dù là thứ họ bắn ca nông cũng cứ là họ. Đấy là lý do thứ nhất. Lý do thứ hai tôi lại là nhà văn, đã là nhà văn ắt phải giầu chữ nghĩa, giỏi biến báo thưa gửi, giỏi kê lệch nên bằng. Những kẻ trọc phú đời mới bây giờ lại khát chữ nghĩa danh vọng, thèm của ấy như gái chửa ăn dở khế chua, thích có ông nhà văn để triềng ra như vật trang trí. Thích có ông trưởng này bà phó nọ, bằng cấp đùng đùng ngồi sắp măng với gia chủ cho thiên hạ nhìn vào mà rôm đốt sau lưng. Tôi giật mình! Thế ra cánh văn chương cũng có lúc vẻnh dâu tôm đáo để. Hắn mời tôi làm đại diện họ nhà trai bởi vì nhà gái, có nghĩa là ông xuôi gia của Mịch cũng là Thạc sỹ ngữ văn, đang đứng đầu một cơ quan văn hoá.Tương đăng hậu đối đến thế là cùng.

Mụ vợ tôi nể tình họ hàng nên ton tón nhận lời khi cái miệng tôi còn chưa kịp mở. Cái nước này thì thằng tôi cũng đành “nhắm mắt, đưa chân” thôi. Khước từ là chuốc hoạ. Tôi hình dung cái môi cá thờn bơn của mụ mà đay đả đã ghê hết cả xương sống, xương sườn. Tiến thoái lưỡng nan tôi đành nhận chân ăn nói ở cái đám cưới lạ hoắc lạ huơ chốn thành thị chỉ vì cái danh nhà văn. Lần đầu tiên tôi ân hận và tủi hổ vì cái danh của mình.

Thấy mọi việc đã đến hồi kết. Mịch dúi vào tay tôi bao thuốc lá thơm, một cái phong bì và hẹn sáng mai sẽ cho xe đến đón. Tôi ngây ra như thằng dở hơi, chân tay luống cuống như đi mượn, lập cập bắt tay Mịch .

* * *

Khổ thân cái thằng tôi cứ phải vạch áo cho người xem lưng. Đã mấy lần vì văn chương mà rước hoạ cho cả nhà. Có kẻ đến tận ngõ nó chửi, nó réo tên củ tên cái cả nhà ra mà chửi vì dám bêu nó lên tờ nhật trình. Nó đe cắt lưỡi xẻo tai vì hay tọc mạch chuyện đời. May mà có mụ vợ đỡ đòn chứ cả như cái tính đã nhát lại gàn của tôi chắc định cư trong làng được đến giờ này cơ chừng còn khó.

Viết chuyện cưới xin lần này mà lại viết chuyện anh em nhà vợ có lẽ còn lôi thôi to. Tốt nhất viết xong vo viên bỏ lọ. Vác mặt sang nhà vợ có lẽ no đòn. Cái giống văn sỹ gàn quải muôn thưở là giống khó bảo. Cứ thấy cái gì cay mũi là la lên cấm có để trong bụng.

* * *

Tôi và Mịch sinh ra ở làng Trường Lộc. Tên làng thì thật no đủ nhưng cả làng nghèo vào diện đội sổ trong vùng vì chiêm khê mùa thối, vì bệnh dịch. Đàn ông đàn bà tuổi ngoại 50 đã là diện lão lai trường thọ lắm rồi. Thân hình khô đét nhăn nheo, đi đứng đã siêu vẹo và đã tính chuyện lo cỗ hậu sự để chuẩn bị chui vào. Cái thời dị mọ ấy người ta sống ngắn hạn lắm. Động một tý là chết, chết như đùa. Bao nhiêu thứ bệnh chỉ trông vào ông lang Lùn có cặp kính thô lố, dày như đít chai. Thuốc men tất cả là lá lảu trong vườn nên dịch đậu mùa năm xưa đã cướp đi non nửa làng. Trong số người còn sống sót có ông Tư Na bố của Mịch. Chẳng biết ông sống được có phải do thuốc lang băm hay không nhưng còn sống là may lắm rồi. Di chứng để lại cho khuôn mặt những vết giỗ lấm tấm. Tính ông vui vẻ và hay bông phèng, ông bảo với đám trẻ con là : Tao ngủ dưới gốc cây bị mít nó rụng vào mặt. Có lúc ông lại phịa chuyện với lũ choai choai: Tao bị thằng Tây tra tấn, nó dẫm dày đinh lên mặt Thế mà lũ trẻ tin đáo để, cứ tròn mắt mà nghe. Ông là bạn thợ cày lão nông chi điền với bố tôi, nhà gần nên tôi và Mịch rất thân nhau. Cả hai nhà đều nghèo, tối lửa tắt đèn đều cưu mang đùm bọc. Tình thân ấy chỉ kéo dài khi bố mẹ chúng tôi còn sống. Đến đời chúng tôi, hai thằng mỗi đứa mỗi ngả. Tôi đi bộ đội rồi tự học, hết chiến tranh làm anh cạo giấy văn phòng và tập tọng văn chương, Mịch đi công nhân đường sắt một thời gian lại bỏ về quê sau làm cáI chân loong toong trong một cơ quan cấp tỉnh. Tôi lấy chị con ông bác nhà Mịch nên hắn phải gọi tôi bằng anh chứ thực tình Mịch hơn tôi một tuổi. Bẵng một thời gian tôi không gặp hắn, cả những đình đám lễ tết cũng mất dạng, tôi hỏi vợ mới biết “cậu ấy” lấy vợ trên phố, ở dể ông bố vợ vừa giàu có vừa có chức quyền. “Cậu” học giỏi lắm, một năm 3 lớp, rồi chuyên tu, rồi tại chức và đang là trưởng phòng cứng cựa. Nghe đâu bố mẹ vợ cho nhiều đất lắm. Rồi cũng một thời gian sau đấy, vợ chồng tôi được mời đến ăn mừng ông em khánh thành nhà. Căn nhà to nhất phố chợ cao đến 3 tầng rưỡi, vợ tôi cứ xuýt xoa: Đời có số thật rồi, nó học hành cứ nhanh như lợn ăn cám tăng trọng. Một bước lên quan. Cạo giấy như ông chán bỏ mẹ, quanh năm nghèo kiết đít

* * *

Sáng hôm sau, y hẹn, chiếc tắc xi bóng nhẫy như phết mỡ đã chờ sẵn đầu làng. Một con bé choai choai mặc váy đen, nồng nỗng hai cái ngà voi trắng hều hễu, dúng dẩy sách cái va ly lặc lè, cùng cậu lái xe lần vào nhà tôi! Chết bỏ mẹ rồi, đại hoạ rồi. Chúng nó vào tha xác thằng gàn này đi bêu thiên hạ rồi. Quả thật là từ lúc miễn cưỡng nhận lời, tôi cứ mong trời phật phù hộ độ trì cho nhà nó khai tâm mở trí mà rút lui ý kiến rồ dại. Tôi mong có người thổi vào tai vợ chồng nhà nó là cái thằng văn sỹ kia gàn rở hâm chập lắm, khó ngửi lắm.

Tôi đứng ngây ra chịu sự điều hành của đứa oắt con cứ leo lẻo gọi tôi bằng anh. Ngượng với vợ quá tôi hỏi:” Cô bao nhiêu tuổi”. Nó trả lời xanh rờn lá mạ: “Em 21” . Tôi bồi vào mặt nó: “Em kém con út anh 2 tuổi đấy”. Tưởng nó xin lỗi mà cải chính ngôi thứ ai ngờ nó tỉnh khô đáp lại: “Văn nghệ sỹ không có tuổi, gọi anh cho nó trẻ”. Bố con ranh! Chỉ được cái…nói đúng.

Công việc trùng tu nhan sắc cho gã văn sỹ nhà quê diễn ra ngay tắp lự. Có nghĩa là tôi phải “quàn” lên người bộ com lê và cái giầy nâu bóng loáng, phải tròng vào cái cổ họng chiếc cà vạt đỏ khé và xịt gôm lên mái tóc tổ quạ rồi rẽ ngôi. Tôi cứ như cái hình nộm bị vày vò vặn vẹo. Mụ vợ tôi tý tởn chạy quanh ngó nghiêng, cổ vũ, nghiêng nghé nhìn như tôi vừa từ sao hoả mới hạ cánh về. Kết quả, tôi bị áp giải lên tắc xi giữa thanh thiên bạch nhật trong sự tò mò của đám nạ dòng , bạn buôn dưa lê của vợ. Mặt tôi cứ rồm rộm, tê tê! Ngượng chết đi được! Bố cái của khỉ nó hành tôi, nó đày ải thằng tôi bằng những trang bị, phụ tùng thời thượng

*

* * *

Đây là lễ ăn hỏi và liền ngày hôm sau tổ chức đón dâu nên nhà Mịch hôm nay đã trang hoàng đâu vào đấy. Bà cô vợ tôi gần 80 tuổi ốm kinh niên được di tản về quê với cậu dể út. Mấy con chó ngao bị nhốt trong cũi sắt hầm hầm nhìn khách ra vào. Phông bạt, bàn ghế, tranh ảnh, âm ly, màn hình to như vuông chiếu sẵn sàng hoạt động. Mùi xào sáo, mùi phấn son ngào ngạt chen vào không khí. Vừa ra khỏi xe, vợ chồng nhà Mịch đã chạy ra săn đón và dẫn tôi vào chiếu nhất với bạt ngàn là com lê, là váy, là phấn son, là mông và vú đàn bà được cơi nới tưng bừng. Có lẽ nhìn tôi cũng hay hay, ngồ ngộ nên sau lời giới thiệu chức danh, mọi người xúm vào bắt tay.

Đoàn ăn hỏi lên đường. 21 cái xích lô trong đó có 11 chiếc chở lễ vật. Số còn lại, mỗi cái tha 2 nhân mạng. Tôi được ngồi chung với ông trưởng ngành thuế vụ và kế sau đó toàn là những vị có chức danh và bằng cấp dài thòng thõng. Đám choai choai bạn bè chú rể cứ đôi một kề đùi gác vế cấu véo nhau rinh rích trên cái xích lô chật chội. Tuyệt nhiên không có người già và cũng có nghĩa không ai nhìn thấy tóc bạc và răng rụng. Tất cả trẻ rờ rỡ và bừng bừng như thuốc súng sấy khô. Có lẽ thời đổi mới họ không dùng già làng, trưởng họ trong việc cưới để bớt đi cái sức ỳ, bớt đi sự ăn nói thưa gửi rườm rà theo kiểu “con tằm nó ăn lá dâu” .Khổ thân tôi, uốn lưỡi làm sao cho hợp thời hợp cảnh đây. Tôi lẩm nhẩm soát xét những lời vàng ý ngọc sắp trải ra trước sự uỷ thác thật trái khoáy phải đeo vào cổ.

Đoạn đường từ nhà trai sang nhà gái non chục cây số. Cuối thu nhưng trời còn nóng và oi. Ông trưởng ngành thò tay vào túi rút khăn lau mồ hôi. Cái bụng có lớp mỡ dày hí hóp theo nhịp thở. Tôi cũng bải hoải cả người nhưng không dám động cựa sợ hỏng phụ tùng đang đeo. Ngoái lại trông đám xích lô mới thảm. Vốn dĩ ngày thường đi chở hàng, họ toàn mặc soóc, mặc áo cộc cho thoáng khí, nay phải “quàn” com lê lại hộc tốc, gò lưng mà đạp nên mồ hôi chảy như mưa rào. Quên cả lời cam kết, họ nới cà vạt phanh cúc áo rồi vén quần qúa gối mà đạp. Thỉnh thoảng lại thò tay vuốt mặt đen nhẻm và lởm chởm dâu, thở phì phì như bò bắt nợ, có gã hất ca vát ra sau bay phất phới nên trông vào, đây là một đám rước sách lạ mắt và bi hài. Dân hai bên đường nhìn đoàn ăn hỏi xanh đỏ loè loẹt. Nhôm nhoam lễ phục, lả thả con người mà xầm xì, mà châm chọc.Tôi thấy mặt mình rân rân. Ôi! cái làng quê nghèo khổ của tôi thế mà ấm cúng. Cưới hỏi đơn sơ, người già áo vá quần thâm, trẻ con mũi thò lò vẫn được đón tiếp chu đáo, có ai phân bì giàu nghèo địa vị đâu. Tôi đã được đắm mình vào bao niềm vui thôn dã, sơ giản nhưng thấm đẫm cái tình, niềm vui không nhuốn màu vụ lợi hay phù phiến trưởng giả.

Hôm sau đám cưới bắt đầu. Từ sáng sớm. Đoàn nhạc sống bầu đàn thê tử, lễ mễ đàn trống, xủng xỉnh xiêm y kéo vào. Một toán ca sỹ, có cả một sao ca nhạc đang ăn khách góp mặt trong cái sân khấu nhỏ trước hôn trường. Mấy cái loa thùng to tổ bố ụp ụp oạp oạp. Khách khứa bắt đầu lác đác tiến vào, sau đó ngùn ngụt tuốn vào. Toàn là com lê thẳng đuỗn. Toàn là váy đỏ váy đen. Các mệnh phụ được dịp khoe của và khoe eo, khoe lườn. Tất cả đều thấp tho của nả. Người ta thi nhau nói cười, vỗ đập, xướng rõ to chức danh bằng cấp của nhau cho đám dân đen nó hãi.

Tiệc mặn bắt đầu. Những tà áo dài thướt tha như cánh bướm. Những bộ váy bộ díp mỏng đến tận cùng bưng đồ ăn toả khói nghi ngút, len lỏi cọ sát với các thượng khách hào hoa và dư thừa sang trọng đang ràn rạt nâng ly đụng cốc. Không khí náo động như có lửa sôi. Đúng lúc đó dàn nhạc sống xuất chiêu với những âm thanh sôi cuồng bốc lửa. Đám ca sỹ nhảy như choi choi mà hát, mà gào, mà rên. Trang phục họ đeo trên mình là cái đồ hàng mã hết. Nó chỉ dính hờ hờ trong cái thế khá nguy hiểm khiến người cẩn trọng hay cả lo đến cái chức năng che chắn, đậy điệm muôn thưở của xiêm y. Không sao! Đám cưới thời đổi mới cũng phái có chút mở cửa chứ. Cứ nhảy, cứ hát, cứ gào, cứ uống. Lảo đảo là những bước chân đi tìm cạ, tìm mặt mà quảng giao. Làm thân và xu nịnh, tâng bốc và gạ gẫm…Vui lắm.

Tôi lủi tịt vào một góc, ngồi với mấy ông xích lô, mấy nhân viên thu vé chợ vốn dĩ là lân bang của gia đình nhà chủ, chỉ ngay ngáy lo nhỡ có thằng nào ngứa miệng mà phô cái danh còm của mình. Cũng may mà trong không khí nước sôi lửa gào ấy, chẳng ai chú ý đến tôi. Ăn uống quáng quàng cho phải phép, tôi lủi nhanh ra phía hậu trường, nơI một số bà con xóm mạc và họ hàng đang đứng xúm xụm như những kẻ tội đồ bị dồn vào trại tập trung. Họ là chỗ họ hàng “phi nội tắc ngoại” có lẽ vợ chồng Mịch miễn cưỡng phải mời và họ cũng miễm cưỡng phải đến. Để cho đỡ tẻ, đỡ vô duyên. Họ xúm vào định nhận chân bưng mâm rửa bát, tiếp rượu nhưng tất cả mọi dịch vụ gói gọn rồi. Ai mượm mấy bà răng đen, mấy ông răng cải mả, dị ứng với com lê cà vạt làm hỏng đội hình nhà đám. Chốn này là của váy và com lê, của tóc ốp và nước hoa Pháp chứ không thể có quần thâm và khăn vuông mỏ quạ, không thể có răng rụng và bỏm bẻm trầu thuốc. Tất cả là óng chuốt và thơm tho. Cái làng quê cách một tiếng gọi đò giờ đây nó xa lơ xa lắc. Có chăng chỉ đến lúc nhắm mắt xuôi tay là cần đến nhau. Nhưng ngày ấy chắc còn xa lắm. còn xa lắm thì lo nỗi gì. Đám dân quê nhà tôi chẳng ai nhòm ngó hỏi han. Họ biết thân biết phận nên gửi tấm phong bì mỏng tang dăm ba chục ngàn rồi tìm mọi lý do rút lui.Lần đầu tiên tôi thấy dân nhà quê họ nói dối cũng đại tài. Ngó quanh ngó quẩn chẳng thấy vợ đâu, thì ra mụ ta cũng theo đám dân làng hồi cư lúc nào không rõ.

Thế rồi đám cưới ầm ỹ cũng qua. Cố nhiên là tôi hoàn thành xuất sắc việc ăn nói thưa gửi cho đáng mặt của một thằng phu chữ. Tôi dằn lòng với bao ý nghĩ và trách nhiệm trước việc hệ trọng của một đời người. Tôi không muốn vì những định kiến hẹp hòi để vô tình trở thành kẻ bất lương. Sau khi tháo bỏ xiêm y lỉnh kỉnh, tôi nhận thêm chiếc phong bì nữa và thập thững cuốc bộ về làng. Qua cổng nhà chú dể út , nơi bà cô vợ đang tá túc, gặp vợ tôi đang hái lá hương nhu nên rẽ vào. Trong ngôi nhà cấp 4 nghèo nàn, bà cô đang nằm đó. Cô dâu út đang chải tóc gội đầu. Bộ quần áo lâu ngày bà mặc đã được thay mới. Chiếc thau nhựa có đám hạt mùi già nổi li ty trên nền nước đục nhờ vừa lau mình mẩy. Tôi nắm bàn tay còn rặt xương xẩu của bà mà ngậm ngùi. Bà thầm thào:

- Nó tệ với cô lắm, vợ giống tính chồng. Cái gì cũng sai con ở. Cả tháng chúng nó chẳng hé răng hỏi han một lời. Đám cưới con nó, nó sợ xấu mặt nên đùn tao về đây. Nó nhiều “bố” lắm nên phải tiếp. Tao có cần nó phải là ông lớn đâu. Tao cần nó là con cơ mà. Nó làm con không đúng phận thì làm ông lớn cũng chẳng ích gì cho tao và cả cho ông Chính phủ. Lần này tao về đây ở hẳn với vợ chồng nhà út. Đứa nào bắt tao lên phố là tao cắn lưỡi tự tử ngay cho mà xem.

Biết nói gì đây nhỉ. Tôi thấy mắt mình cay cay. Vợ tôi và cô dâu út cũng đỏ hoe con mắt. Hai cái phong bì như cựa quậy trong túi. Tôi lặng lẽ đặt vào tay bà mà cổ họng ngẹn đắng dềnh lên, chặn ngang bao lời định nói.

Ngoài trời chợt nổi trận mưa trái mùa...Con gà mái mẹ nhá Út táo tác ne lũ gà nhiếp vào trái bếp. Xòe đôi cánh ướt nhoèn ấp ủ.

Câu đồng dao làng Vòi

Đã đăng Văn Nghệ Công an số 84

Đài Tiếng nói Việt Nam chuyển thể thành kịch truyền thanh

|:protest

Nhiều người thắc mắc về cái tên làng Vòi. Quả thật tên này không được văn vẻ như làng khác.Tên làng có từ đời xửa đời xưa ai mà biết được, chẳng có bất kỳ bằng cớ gì để khẳng định cái nghĩa lý khi các cụ đời xưa vẫn lấy để đặt tên làng. Thì ta cứ gọi là làng Vòi đã sao, thiếu gì cái lý, ai tưởng thế nào thì ra thế ấy.

.

Làng Vòi ở ven con đường giao thông liên huyện, bao bọc xung quanh là cánh đồng mỏi cánh cò bay. Những năm úng lụt mất mùa, đứng trên đường cái quan nhìn vào, làng nổi phập phờ trên mặt nước như cái chảo lớn úp ngược. Chẳng rõ tiền trăm bạc vạn nơi khác vẫn kiếm ngon ơ chứ ở đất làng này kiếm tiền khó lắm. Đám đàn bà con gái mài đũng quần từ bảnh mắt đến tận đêm khuya bên khung thêu cũng chỉ được ngót chục ngàn, cánh đàn ông chạy ngược chạy xuôi hết thợ xây, thợ mộc rồi đào ao vượt thổ cũng chỉ khô áo là hết tiền. Quanh năm người ta chỉ nhìn vào hai vụ lúa .Nhà nào “vô phúc” có con thi đỗ đại học thì cười rở mà khóc lại…không nên

Đùng một cái, đầu làng hiện ra quán bia. Thằng động mả nào lại mở quán ở cái làng nghèo khô nghèo quoắt này cơ chứ !Tiền đâu mà đi uống cái thứ nước sủi bọt như bong bóng xà phòng lại ngai ngái khai,rồi kem rồi sữa chua…ôi thôi toàn là những thứ mất tiền to cả, từ trước đến nay dân làng chỉ uống nước mưa trong bể bằng gáo dừa mà có làm sao đâu. Chủ quán dĩ nhiên không phải người làng này mà là cháu “bắn ca nông” với lão Tư Xạ nửa làm thày cúng nửa đi hoạn lợn sống già đầu mốc trán ở làng Vòi này.

Đầu tiên họ cưa hết mấy cây táo gia lộc còi cọc như đào thế rồi ùn ùn chở vật liệu về dựng quán. Tuy là quán chốn nhà quê nhưng khang trang và mát mẻ lắm, bao bọc quanh là những luỹ tre gai rậm dì gió thổi nhẹ cũng vặn mình răng rắc, gió sông thốc vào mát bằng mấy quạt điện. Trong quán là bàn ghế inốc trắng bóng, mấy cái loa thùng hoạt động ngày đêm, trần nhựa đèn chùm chậu hoa cây cảnh thôi thì thứ nào ra thứ ấy, góc vườn lại có mấy bàn bi-a đặt trong quán lá gồi! Kinh thật !Đây có khác gì chốn thành thị

Dân làng sì xào về cái quán đang chuẩn bị khai trương. Mỗi khi làm đồng ngang qua họ chống cuốc đứng ngắm nghía. To gan thật , hàng quán sang trọng thế kia thì bán cho ai, khách vãng lai năm thì mười hoạ mới có một mống, cái làng này nghèo bỏ bố đi ai dám tiêu tiền. Mụ cả Lẹp goá chồng có mỗi mẹt kẹo bột còn ế chỏng ra suốt ngày phe phẩy cái quạt nan đuổi ruồi. Mấy thằng “kem mút” bóp còi gọi khách mỏi tay có ma nào đến “mút” đâu. Người ta cứ bàn cứ lo hão rồi ai về nhà nấy.

Tư Xạ cười khẩy bảo thằng cháu chủ quán :

- Đúng là lũ u mê! Chẳng hiểu đếch gì thời buổi nó đang xoay vần! Rồi xem, có ngày chúng nó đua nhau mà móc bẽm quăng tiền vào ăn tiêu, mà chơi bời, mà đề đóm mà cờ bạc đỏ đen, khi cái lòng tham cố hữu thằng người nổi lên có trời can .

Thằng cháu họ “bắn ca-nông”của lão Xạ đang đứng làm chủ quán tên là Đức Hạnh. Cái tên cãi lại tướng mạo hắn với nước da thúc bì mai mái của kẻ ăn chơi tác táng, cái mắt thô lố như hai con ốc bươu và cái mũi sần có hai túm lông như sừng củ ấu tòi ra .Nghe đâu hắn là con một quan chức ngành địa chính nên nắm rõ quy hoạch toàn vùng. Rồi biết mưu ta ! Con đường ruột của thành phố sắp ngang cánh đồng làng Vòi .Từ đây mà phóng xe máy vào nội đô chỉ chưa tàn điếu thuốc lá! Trời thương cái làng này rồi .Quanh làng toàn là công sở, là khu tái định cư, cái đất trồng tre gai đầy cứt trâu cứt chó này sẽ đắt như vàng, dân nông nghiệp sẽ được đền bù tiền ruộng đất, tiền hoa lợi. Khối thằng nổi máu sĩ ăn chơi .Gớm !mở hàng ra để bán cho mấy bà gầy vắt ra trong cái làng này thì đến mùa quýt.

Khi các hàng cọc tiêu được cắm đỏ ối ngang qua đầu làng người ta mới à lên thán phục cái sự nắm bắt thời cuộc của Tư Xạ và thằng cháu giời ơi ở trên Tỉnh về mở quán. Dân đây hiền lành chí thú làm ăn theo kiểu bới đất nhặt cỏ, ít tiền, ít mưu lược, được đồng nào là qué vào cái khăn bao thắt nghìn nghịt dưới rốn, đêm ngủ cạnh chồng còn không dám cởi ra, bố thằng nào móc cho được .

Buổi sớm ấy có đoàn cán bộ trên Tỉnh đánh xe về làng. Cố nhiên là phải đỗ xe ở quán Đức Hạnh mà nghỉ. Chim khôn phải đỗ ngọn đa chứ ai đỗ bụi bụi duối bờ tre bao giờ. Mấy ông bụng đóng đai, mấy bà ngón chân ngón tay quệt nhũ ngồi uống bia, uống nước ngọt khoát tay chỉ ngược chỉ xuôi . Theo tay họ chỉ toàn bộ nơi làng này sẽ là khu đô thị nay mai. Chết thật !Lên đô thị thì trâu bò đem mà nấu lẩu hết à!Phải mặc quần bò áo phông rồi ngồi bán hàng dịch vụ! Mà bán cái gì cơ chứ, cả làng ai cũng bán vậy ai là kẻ mua. Mấy bà nhà quê thỉ thỏ vào tai nhau mà lo lắng. Lo lắng để rồi lại thỉ thỏ vào tai nhau .

Thôi đấy là chuyện của những cái đầu có tầm vĩ mô định liệu. Gái goá làm sao tính việc triều đình.Ta lại quay về bàn chuyện làng mà khởi sự cho câu chuyện là cái quán của chú cháu nhà Tư Xạ .

Nhận tiền đền bù đất, làng xóm cứ như chảo thuốc súng đã xấy khô . Các hộ nhìn thấy xấp tiền từ chiếc hòm sắt tây mà phát hoảng. Sao mà lắm tiền thế, có nhà nhận được cả trăm triệu, nhà ít dăm chục toàn là bạc trăm xanh rờn lá mạ, cứng cạo dâu được. Nhận tiền mà tay cứ run run,có tiền rồi dùng thế nào cho nó sinh nó nở chứ vặt ra ăn dần rồi mai đây sống bằng cái gì. Nhà thì gửi ngân hàng lấy lãi, nhà mua xe máy chạy hàng vặt từ chợ nọ sang chợ kia buôn qua bán lại, nhà cho con đi học nghề cứ rối cả lên nhưng mà vui, con người cũng thấy mình cần thay đổi một chút cho nó khỏi tụt hậu. Xưa kia nghèo đồng tiền, cái khó nó bó cái khôn, có tiền trong tay rồi khả năng tiềm ẩn lúc này mới phát lộ. Chớ có chê mấy thằng chân đất mắt toét không biết dùng tiền để lãi mẹ đẻ lãi con .

Ông bà Đỗ Giang sinh 2 lần được luôn 3 mống con trai, cố nhiên là có một lần sinh đôi nên con cái đóng đầu trứng gà trứng vịt .Thuận miệng đặt tên một lèo: Đỗ Giảng, Đỗ Giàng, Đỗ Dạng. Nhà quê đặt tên có vần như thế để chúng có mải chơi hàng xóm gọi về cho liền hơi nhưng khi chửi nhau cũng thuận miệng cho trẻ nhà hàng xóm nó chửi như hát đồng giao, chúng nó hò lên đầy đủ từ bố đến con tuột một lèo nghe vừa tức vừa buồn cười.

Ba anh chàng ở chung một xóm mỗi anh mỗi phận. Họ rất giống nhau , nhất là 2 chàng sinh đôi ở hình hài và lại giống nhau cả tính hà tiện “vắt cổ chày ra nước”, không chơi bời giao du và cũng chẳng có gì để ai tìm đến mà giao du nên nhà cửa ít khi có khách lạ .Vợ giống tính chồng ,các nàng dâu cũng “vào 8 lạng sắt ra 10 cân đinh” nhưng họ khôn róc đời , cái kiểu khôn một lóng, chỉ thích ăn người mà không để người ăn. Người ta đi tát nước thì vợ chồng ở nhà cuốc vườn bình chân như vại, tối đến thủ một cái que đâm bờ hàng xóm cho nước chảy sang ruộng nhà mình rồi đổ tội cho con giun con dế. Đi thăm ruộng tứ thời dẫm cái chân chổi xể xéo nát lúa nhà khác rồi ngó sang ruộng nhà mình. Câu đăng hà tiện , ích kỷ hại nhân đến thế là cùng. Người ta gán cho kiểu sống bo thét ấy bằng câu ví “đánh rắm sợ đói, nói to sợ mệt” kể cũng không ngoa .

Ba anh em nhận gần ba trăm triệu tiền đền bù lần này lo lắng quá người cứ gày rạc như ve, chẳng lo làm sao cho được !Từ cha sinh mẹ đẻ có bao giờ lắm tiền như thế này đâu. Ba chàng cụm lại bàn mưu tính kế dùng tiền sao cho nó sinh lãi vùn vụt. Cả Giảng lấy trịch làm anh khởi xướng :

- Thế này các chú ạ ! Thiên hạ họ làm cách gì thì kệ thây họ! Anh em ta có cách riêng thật cao tay! Hữu dũng mà vô mưu là vứt! Tôi quyết thế này, số tiền của ba nhà cứ cất kỹ, không bàn và cũng không nghe ai bàn, ta cứ nghe ngóng binh tình cho nó chín rồi tập trung lực lượng sau đó cùng động binh.Tam ngu tích lại thành hiền, nhất định dịp này ta sẽ làm nên chuyện lớn .

Cứ y hẹn, nhá nhem tối ba anh em họ Đỗ lại rủ nhau ra quán Đức Hạnh uống bia rồi dâng kế sách. Đã già nửa tháng, cái bọc tiền vẫn nằm bất động. Cần quái gì mà cứ rối lên. Nhà nước đền bù rồi vẫn cho dân cấy rốn vụ nữa, lo gì cái hột ăn. Mệt nhọc cả đời cũng cần thảnh thơi một tý cho não bộ tái tạo lại cái dây thần kinh khôn lỏi. Cái làng này rặt một lũ đần thối ra, không biết tính toán làm ăn lớn. Đời nó có số, vụng tính vụng suy là ăn cám, là thằng còng nuôi thằng ngay cho mà xem .

Quán Đức Hạnh dạo này đông khách. Cứ vào tầm trưa lũ lượt trẻ con người lớn xách can, cầm gáo đi mua bia, lũ trẻ con oai oái đòi kem, đòi sữa chua kem cốc. Có tiền trong tay nó cứ ngọ ngoạy bắt người ta ăn tiêu, bắt cái đầu phải nghĩ suy tính toán, có vốn rồi người nọ học người kia về cách mưu sinh, cuộc sống xóm làng như tổ ong vĩ đại cứ rùng rùng chuyển động. Các chị nạ dòng dũng cảm trong việc đổi lốt quần áo ngủ màu cháo lòng bằng vải hoa mát mẻ đến tận cùng mà trông thì cũng óng ướt ra trò. Các lão chồng cứ im ỉm không ra chiều khuyến khích cũng chẳng ra phản đối nhưng quả thực nhìn vợ mình cũng dễ chụi quá thể đi mất,

Đã gần một tháng, ba chàng họ Đỗ vẫn uống bia , vẫn bàn tính và vẫn chưa bày ra kế hoạch khôn lỏi khả thi .Một tháng thì đã sao! Vội quái gì , tiền vẫn bọc kỹ hàng chục lần túi giấy bóng bỏ trong tủ đứng gỗ lim, đi đâu thì thôi, về lại mở tủ ngó cái chân hương đánh dấu .

Chiều ấy, mặt trời vừa khuất sau nóc ngọn đa, ba chàng lại có mặt trên chiếc bàn bấy lâu vẫn ngồi. Không cần gọi chủ quán cũng biết thực đơn của ba thượng đế là bia hơi uống vã với thuốc lào, nhưng hôm nay thì trái lệ. Đích danh chủ quán mang một két bia chai. Một khay đồ nhắm, một bao thuốc lá thơm cung kính chắp tay thưa với ba ông khách quý :

- Thưa tam huynh, hôm nay em xin hân hạnh được khoản đãi các huynh một chầu ra mắt gọi là chút lòng của chúng em khi đến đây lập nghiệp. Em xin các huynh chớ khước từ .

Thằng này thế mà biết ăn ở! Nó thấy ba anh em ruột ngày nào cũng cụm đầu chi kỷ nó trọng, nó hãi anh em nhà mình đây. “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” thằng nào mà chẳng hãi. Ba chàng thấy thái độ chủ quán lấy làm đắc ý và thầm cao ngạo nghĩ như vậy .

Vài tuần “cạch” bia đã ngấm. Hai Giảng cất giọng đàn anh phán rằng :

- Không vòng vèo cho nó mệt, có điều gì chú cứ nói toẹt mẹ nó ra cho chúng tớ nghe xem nào, đã coi nhau là anh em chớ có khách khí mà hỏng bố nó cái sự chân tình .

Đức Hạnh nhã nhặn, khúm núm như diễn tuồng :

- Dạ. Không có gì đâu ạ! Gọi là bọn em được hân hạnh làm quen các bác lấy cái tình thân, chúng em dù sao cũng là kẻ chân nâng đến đây tha phương cầu thực nhờ cái uy, cái bóng của các bác che chở, thế gian này mà có được sự đùm bọc, đoàn kết như ba bác là hiếm lắm đấy. Nhà khác có mà sách dép không song .

Chí lý! Thằng này thế mà biết nhìn người. Nó là con cái nhà thần thế mà còn biết hãi 3 cái thằng này, thế mà cái làng Vòi khố dây lại coi cả bọn là lũ không thể chơi được . Nó gọi họ là một tổ hợp chó không ăn được cứt ! Quá láo! Như thế nghèo khạc ra gio là phải .

Tiệc kết ngãi tình huynh đệ đã đến phút cao trào, có nghĩa là 4 thằng người với 8 cái tay đã nắm vào nhau, đã thành anh em chi kỷ sống chết có nhau, Có nghiã là trong cái làng này đứa nào mà sờ đến lông chân “chú Tư Hạnh” coi như mả bố nó đến ngày động .

Nói phét gặp thời thôi chứ cái làng này hiền như đất, ai cũng chí thú làm ăn, ai cũng chuộng hoà bình thì cần quái gì 3 cái bong bóng xà phòng kia che chở, cái cảnh nói cho “đắt miếng sôi trôi miếng thịt” thì con chó nó nói cũng được. Cứ nói phứa đi, nói phét có bị phạt vi cảnh bao giờ đâu mà ngại .

Thế là từ nay ba anh em nhà họ có bản quyền ở cái quán rất chi là lắm bia và đồ nhắm. Rất chi là sẵn các mốt chơi kiểu thời thượng như hát “Okê” , phim trưởng “đấm ự, đá ợ” rồi ngắm mấy ả phục vụ mặc váy hoa cà hoa cải có những cặp vú tố hộ, vểnh ngược lên rừng rực như chọc vào mắt .Mẹ kiếp! Cùng là cái thứ đàn bà mà sao nó trang trí sắp đặt của nả đâu ra đấy thế, chẳng bù cho mấy con mẹ mướp nhà mình lúc nào cũng hôi rình, khét khú ,đầu tóc như quạ đánh trông mà nản .

Chẳng phải bàn, tự nhiên ba thằng người bẩn tưởi, ki bo hà tiện kia cũng đổi lốt, cũng ra dáng ăn chơi với áo kẻ lòng tôm đóng thùng, cũng nhét mấy ngón chân toẽ loe vào đôi dày da bóng “ruồi không dám đỗ” .Cũng di động bên hông thỉnh thoảng rút ra ộp oạp kêu gào. Đức Hạnh còn nể, cái làng này không nể sao được. Các em phục vụ ca tụng hết lời nghe mà sướng cái lỗ nhĩ, thỉnh thoảng rúng rẩy cái mông đến rót bia rồi chiêu đãi vài cái lườm tình, vài cái cọ vú vào lưng! Mẹ cái của khỉ! Sướng đến thế là cùng .

Quán Đức Hạnh ngoài bán đồ giải khát, không rõ còn kinh doanh thứ gì nữa, có ma mới biết chứ người thì chụi bởi cái phòng riêng của hắn lúc nào cũng đóng cửa rất bí hiểm, ngoài vợ chồng hắn không ai được ra vào .Những cuộc điện thoại trong phòng kín như buồng tằm ấy cũng không ai nghe thấy. Tháng hắn vắng nhà vài lần nói là về trên Tỉnh để thanh toán công nợ. Những khi hắn đi vắng bao giờ cũng nhờ cậy ba anh em coi sóc cửa hàng. Thế mới chí tình huynh đệ. Thằng em nó tốt thế, nó tin thế tội gì mà không uống cho đái ra bia, lại còn mấy em phục vụ có cái mông quả mận nữa, cứ giờ cái thần hồn.! Đừng tưởng mèo nhà quê không biết cách cậy vung đâu nhé .

Chiều ấy Đức Hạnh trên tỉnh trở về, cái bộ tứ lại đóng đầu chén chú chén anh. Ông em vẻ sầu não ưu phiền cứ rở sổ tay gi gi chép chép rồi lai rút điện thoại liên lạc, lúc thì gọi sang Liên xô lúc lại gọi sang Nhật bản mà toàn những đối tác tiền tỷ! Hãi thật! Làm gì mà to tiền đến thế .

Cả Giảng hấp háy tò mò :

- Gớm thật !Chú làm gì mà toàn tiền tỷ cả thế !Toàn làm việc với Tây mà không sợ à ! Chú bạo gan thật đấy .

Đức Hạnh khiêm nhường :

- Chẳng có gì đâu các anh ạ! Bây giờ làm việc với Tây là chuyện thường ấy mà. Hợp tác liên doanh liên kết làm ăn nhà nước ta đang khuyến khích. Ít nữa họ sang ta đầy ra! Họ hiền khô ấy mà.

Hai Giàng cũng góp lời :

- Thế chú là gì với họ mà thân thiện thế cơ chứ ?

Hạnh ậm ờ :

- Chỗ anh em nhà,em chả dấu các bác làm gì nhưng mong các bác kín cái miệng giùm em .

Cả ba nổi máu tò mò cùng à lên :

- Khỏi lo đi! Có mà cạy miệng chúng anh đây cũng chẳng nói với ai .

Hạnh đà đận:

- Thế này các anh ạ! Sắp tới có dự án hợp tác đầu tư giữa ta và Nhật Bản thành lập khu chế xuất ở khu vực cánh đồng làng ta .Bọn em trúng thầu san lấp khi hoàn thành sẽ có lợi nhuận gần chục tỷ. Công ty do ông anh cả em làm giám đốc đang chuẩn bị cho việc mua máy ủi máy san về thi công. Ngân hàng cho vay có hạn nên còn thiếu một chút, em định điện sang nước ngoài bảo các chiến hữu cùng góp vốn rồi sau này chia lãi.

Cả Giảng ngập ngừng :

-Thế chúng tôi cũng góp thì có được hưởng lợi không ?

- Thế thì quý hoá quá nhưng các bác tiền đâu ra mà góp, làng mình gửi ngân hàng hết lượt rồi còn gì .

- Chúng tôi còn 300 triệu, chỗ anh em cả hai bên cùng có lợi là được, chú nghĩ sao ?.

Lại rút di động, lại thưa anh, thưa xếp và Hạnh trịnh trọng thông báo :

- Chỗ anh em nhà, em vừa báo cáo với giám đốc về tình cảm và sự hỗ trợ của các anh. Giám đốc cảm ơn và bảo em trước mắt huy động tiền vốn trong nước càng nhiều càng lợi cho dân! Riêng các bác trả lãi tháng 5 phẩy và sau này được chia lợi tức bình thường, số tiền lãi của các bác là 15 triệu trả vào mồng 10 các tháng tại gia đình. Chuyện tiền nong các bác cân nhắc cho kĩ rồi hãy quyết định không để ảnh hưởng đến tình cảm anh em .

Ba chàng rời bàn tiệc khi trời tối sẫm . Vừa đi vừa lấm lét ngó trước nhìn sau sợ có kẻ nào bám càng. Họ không về nhà mà rủ nhau ra bờ sông thầm thào như buôn á phiện :

- Chơi được đấy! Lãi bằng mấy cho vay ngân hàng. Sáng ngủ dậy đã thấy gần 200 ngàn trên đình màn, có nghĩa là mỗi ngày có kẻ đội đến sân gần một tạ thóc mẩy như duối chín, không những thế sau này còn được chia lãi rồi được tuyển vào làm trong công ty liên doanh có mà bộn tiền !Chú Tư Hạnh nể mình mới thế chứ bọn khác có mà chen vào cũng khó, phải bí mật tiến hành đừng để con nào thằng nào nhảy vào, có muốn nhảy vào phải qua mặt 3 cái thằng này mới được. Kẻ chân chắp có bao giờ thua đứa chân nâng .

Tháng đầu và tháng thứ hai lặng lẽ trôi qua. 30 triệu tiền lãi đã chui vào tủ nhà họ. Người ta bảo bí mật nằm trong bụng đàn bà như người chửa dấu bụng rồi cũng đến lúc nó phải đẻ. Ba bà vợ lại đi dỉ tai với chị em nhà rồi chị em họ. Cũng lại với thái độ rất thận trọng, rất nể nang Đức Hạnh “miễn cưỡng” nhận và lại trả lãi đẹp như mơ. Qua mấy tháng số tiền “góp” cho công ty giời ơi đất hỡi đã gần bạc tỷ .

Đùng một cái Hạnh biệt vô âm tín. Cái quán mát mẻ chỉ còn lại ít bàn ghế, vài cái ty vi đời cổ và cái tủ lạnh Liên xô ngốn điện đến phát hãi .Đám nhân viên cũng khăn gói cao chạy xa bay. Cái con nặc nô vẫn gọi là vợ chủ quán kia là ả ca ve xuống khung không giá thú giá mèo nên không ai có lý gì bắt nợ, mà có đi chăng nữa ả cũng chỉ có hộp son Thái và chiếc xe máy chaly như con vịt bầu biết chạy. Cái lão Tư Xạ thày cúng nửa mùa thì vào Nam mấy tháng nay chơi với con để bà vợ già điếc lòi tổng nhĩ lại mù rở coi nhà, ai có gào lên cũng chỉ “hả” với “hở”. Rõ chán đời .

Cả nhà cả họ ba anh chàng khôn lỏi lồng lên cắn xé nhau, lúc này mới đẻ ra lắm thứ tội. Anh nọ đổ tội cho anh kia là sui nhau vào chỗ dại. Nhà nọ đổ cho nhà kia là đồ tham ăn mắc hợm mà suy cho cùng lòng tham của họ có kém gì nhau đâu. Thế mới biết rằng lòng tham con người là đất để mẹo lừa có dịp nảy mầm. Đau thật. Đau mà phải cắn răng chụi mới khổ chứ. Cái làng Vòi này không biết có ai thương họ không .

Người viết chuyện thấy không cần kể thêm nữa để câu chuyện không trở thành chuyện vụ án. Chắc chắn các nhà bảo vệ pháp luật sẽ tìm ra tên lừa đảo một khi hắn chưa chui xuống mồ. Chỉ băn khoăn một điều nếu có tìm ra thủ phạm thì món tiền cho vay kia không giấy tờ pháp lý, không người đứng ra làm chứng liệu sẽ áp vào điều khoản nào trong luật pháp. Bàn vậy thôi và cũng chỉ dừng lại ở đây thôi.

Làng Vòi hiền lành chăm chỉ qua cái đận chênh chao vì chuyển đổi nay đã lấy lại thăng bằng. Mỗi người mỗi việc ổn định làm ăn. Hầu hết đã có nhà kiên cố và tiện nghi sinh hoạt được nâng cấp. Những đêm trăng sáng lũ trẻ tụ tập nô đùa. Chẳng rõ thằng sỏ lá nào dạy mà chúng cứ dắt tay nhau vừa đi vừa đọc thuộc lòng mấy câu đồng dao kiểu mới :

Ve vẻ vè ve

Cái vè củ tỏi

Ba ông khôn lỏi

Ăn tất ăn dầy

Cứ tưởng lên mây

Ai ngờ xuống hố

Khổ lại hoàn khổ

Vãi cứt ra quần

Chẳng lẽ đánh chúng nó , chửi chúng thì khác nào đổ nước vào lá khoai ! Mẹ cha cái lũ mất dạy! Chúng mày liệu cái thần hồn thần sác! Mà cả làng Vòi nữa! chỉ được cái lắm chuyện .

Dâu bể chuyện đời

Đương nhiên là lý Tào mất hết sản nghiệp

Trận hoả hoạn ấy làm nhà hắn không còn cái bát ăn cơm. Đồ thờ tự bằng đồng thau cũng chảy ra thành cục. Hoành phi câu đối, ngai bệ tràng kỷ, giường bát bảo, xập gụ tủ chè …Thôi thì có gì cháy nấy. Mấy đàn lợn nái, lợn cấn cũng thành thịt quay. Sống qua cơn ấy chỉ còn 5 con trâu rứt được thừng, mấy con chó, con mèo là chạy kịp. Đấy là giống bốn chân được tai qua nạn khỏi còn giống hai chân, có nghĩa là bốn mụ vợ, một lão chồng và đám con cháu vẫn lành lặn. Lý Tào phải chạy sang Cựu Liển mượn tạm quần áo nhà vợ chồng lão ta mà ra đường. Cả nhà mỗi người còn một bộ duy nhất dán vào thân. Con ăn con ở bỏ lão mà cao chạy xa bay. Trâu bò đánh nhau thì ruồi muỗi phải lo thân.

Cay nhất vẫn là đồ cầm cố của đám sa cơ lỡ vận, đầy inh ích trong buồng cũng cháy hết. Cay nhất là bao nhiêu văn tự vay lãi cả vùng lửa cũng thiêu. Có đụt mấy thì bọn vay cũng chối cãi số tiền, số vàng, chí ít có trả thì cũng khai rút đi. Ai bết mà lần, nhiều lắm, nhớ sao nổi.

Khốn nạn cho Lý Tào là vừa lấy thêm hai con vợ bé. Từ hai vợ tự nhiên lại có hai của nợ nữa lôi về là bốn. Bốn vợ, tám cái mắt, tám cái chân tay bâu quanh một kẻ trắng tay gia sản. Toàn môn đăng hậu đối, toàn con cái cụ Bá, Cụ Tổng chỉ quen ăn không quen làm. Họ lấy lý Tào cũng chỉ vì sản nghiệp lý Tào to quá. Lý Tào đang vận động để lên chức Bá Hộ nay mai rồi có tên trong Bắc Kỳ nhân dân đại biểu. Cứ đà hanh thông, chẳng mấy lão sẽ cưỡi lên đầu lên cổ bao thằng trong tổng Nam Sang này.

Vốn là đấng gian hùng. Lý Tào không rơi nước mắt. Nước mắt vãi ra lúc này ai thương. Bao kẻ cùng chiếu cùng mâm tỏ vẻ thương xót nhưng lý Tào đi guốc vào bụng chúng nó. Đấy là một bọn đểu giả, mạnh bên nào ôm áo bên ấy. Còn núp bóng lão thì nó cúc cung, lão sa cơ lỡ vận là lập tức trở mặt quay lưng. Cái miệng chúng nó là lỗ chôn nhà thổ. Dân làng thấy lão ra đường thì tránh như tránh hủi. Họ không biết nói sao lúc này. Đám dân đen không quen mua mặt, không biết thớ lợ. Không giúp gì kẻ hoạn nạn thì chi bằng ngậm miệng. Họ hả dạ ngấm ngầm. Ai còn thương được chứ lý Tào gian ác thì có chết tan thây nát xác càng mừng.

Cái thằng Cu Têu thế mà to gan thật, nó cũng lắm mưu thật. Giá nó hung hục vác dao đến nhà mà trả hận thì dễ ứng phó. Lão có tiền, có vàng cây bạc lá mà mua chuộc cho nó tham của mà im đi thì biết đường mà lần. Đằng này ra đường gặp lão, nó vẫn cung kính khom lưng: Cụ ạ…Con vợ nó cũng thế, cấm có mặt nặng mày nhẹ, nó vẫn khoan hoà, tịnh không động đến việc cũ làm lão chủ quan. Hay là cháu nó lú chú nó khôn, thằng nào, con nào bày mưu cho nó. Từ bữa Nhiêu Vạn tự tử, lý Tào lo ngay ngáy. Lão thừa biết oan khiên tày đình do lão mà ra. Mẹ kiếp! Cũng chỉ tại con Thắm nó đẹp quá. Nó đẹp thế sao không lên phố làm cô đầu nhà thổ thì mứa tiền hay làm vợ tư sản, làm vợ mấy chú khách Tầu, làm vợ mấy ông Tây Đoan Sở Cẩm lại đi lấy Cu Têu, lại nhơn nhơn sống ở cái làng Hà Sở này. Nó càng ăn mặc lôi thôi, càng vùi cái đẹp đi thì vẫn lộ ra hơn hớn trước mắt. Lần đầu tiên trong đời lão thấy căm cái đẹp, cái xuân sắc đàn bà. Ác hại thật. Giá không có buổi việc làng, giá lão không làm chủ tế, giá lão không nhòm thấy Thắm để thấy cái môi nó vừa đỏ, vừa ướt, cái mông, cái vú của nó trêu ngươi? Ôi! cái đôi tay giời đánh thánh vật này, sao mày liều thế? Bóp vú vợ thằng khác cũng là mày, đập bát bẻ đũa cũng là mày, cái gì mày cũng thích…Bố cái lão Nhiêu Vạn! Có thế mà cũng phải lao đầu xuống giếng mà chết! Ông ngủ cả với con ở bị mụ Cả bắt được mấy lần ông cũng chẳng sợ. Đã làm chức sắc thì phải hưởng, muốn hưởng phải có gan làm điều xấu. Chức sắc quan dân thì phải tham lam tàn ác để có nhà cao cửa rộng, lắm vợ nhiều con, lắm kẻ thưa người bẩm cho sướng lỗ tai. Phải biết nịnh trên nạt dưới nên ở cái làng cái tổng này ông đây mỗi cái tóc là một cái tội ông cũng chẳng coi ra gì. Có tý Nhiêu mua mà cũng trọng danh giá. Rõ là thằng gàn. Danh giá là con chó gì mà nó coi ghê thế.

Nỗi ân hận muộn màng cứ vò xé lão. Giá đừng đuổi chuột cùng sào, giá đánh chó biết ngó chủ nhà thì đâu đến nỗi! Hoá ra thế gian này không ai giống ai. Có người mặt dày mày dạn với cái xấu, cái ác vẫn thản nhiên chung sống với nó. Cố sống cho bằng được để rồi xấu nữa, ác nữa. Có người coi danh dự cao hơn cả mạng sống. Thằng Nhiêu Vạn nó chẳng có chức quyền địa vị gì cho ra tấm ra món mà vẫn trọng danh giá phẩm hạnh…Loại ấy thảo nào suốt đời khổ đói, suốt đời không được làm quan mà hưởng lộc.

Trong cái lán tạm dựng lên che mưa nắng. Lý Tào giữ lại cô vợ tư bằng tuổi con lão. Ba mụ vợ còn lại thôi hãy tạm hồi cư về bản quán để sinh sống. Ở lại lấy gì nuôi nhau. Các mụ cũng chả thiết con quỷ đực giam hãm mình, vội khăn gói quả mướp đem con mà hồii cư. Các mụ coi đây là xổng cũi. Ai biết được Cu Têu quay lại bất kỳ lúc nào với con dao chọc tiết lợn mà báo thù…Nó chặt đầu mình hay chọc tiết mình, con cái mình lúc nào không biết

Chả cứ các mụ. Chính Lý Tào cũng nơm nớp sợ điều này. Một tiếng thạch sùng tắc lưỡi mái lều, một tiếng chó sủa ma mãi đầu làng cũng làm lão bật dậy vã mồ hôi hột, thủ thế cái gậy, con dao bầu ngồi thu lu mà rình. Cu Têu có gan lắm chứ. Nó có gan đốt nhà nó, đốt nhà lão để đi thì sớm muộn cũng quay lại báo thù. Nó có chết nhưng vợ con nó phải được sống. Phen này nó đem vợ con lên rừng xanh núi đỏ thâm sơn cùng cốc mà bảo toàn sinh mệnh cho dòng giống nhà nó để quay lại quyết tử với mình cho mà xem. Mà Lão Nhiêu Vạn có gan đâm đầu tự tử vì nhục thì con nó giống bố là điều chắc. Hỡi ôi! Cõi người này trầm luân quá. Giàu có chức quyền cũng khổ! Đói rách bần hàn cũng khổ. Kẻ thì khổ thân, kẻ thì khổ tâm. Chả biết ra làm sao cả? Mà bọn dân đen nó gàn quải lắm, nó có thể chết đói chết rét nhưng lại rất không chịu chết nhục chết hèn. Cái đận năm nọ bên làng Hà Khê đây thôi chứ đâu xa. Con mẹ Đĩ Lơ đi chợ sớm bán gà con cũng bị Chánh Cân chặn đường, cầm dao bầu chọc tiết lợn ne xuống bụi định bức hiếp, chưa lột được quần nó thì nó lừa bảo: Cứ từ từ để nó cởi, váy nó ải lắm rồi khéo rách không đi chợ được, nó lại còn đòi xong là “cụ” phải cho nó mười đấu gạo. Chánh Cân tưởng thật buông ra đi cởi quần mình thì nó lén vốc nắm cát ném vào mắt rồi bỏ chạy tắt cánh đồng về nhà. Nó thuật lại với chồng, thằng chồng không tin, nhất quyết bảo: Nó đâm cái “đầu lâu bố” nó vào của mày rồi, tát nó mấy cái. Ức lên nó cũng lao đầu xuống giếng làng chết. Hơi tý là chết! Bố cái đồ ngu! Ông vác tiền lên phố, ông ngậm sâm Cao - Ly ông đâm mấy con một lúc sao nó không tự tử. …Lẩn mẩn, láng máng, Lý Tào ngộ ra ra điều: Hạ nhục người đời sống quanh ta là đưa họ đến cõi chết, không chết thì cũng thù oán rồi truy bức nhau suốt đời. Hạ nhục kẻ dưới khi có chức quyền còn nguy hại hơn, chẳng khác nào châm lửa mà đốt nhà mình, đào huyệt mà tự chôn sống mình…Cái chết Nhiêu Vạn là gương tày liếp. Cái chết của mụ Đĩ Lơ bên Hà Khê cũng là gương tày liếp. Cái giống hai chân, ăn cơm mắc áo trên thế gian này thật vô cùng vô tận là khó hiểu…Nó vô cùng nên vô tận, nó vô tận nên hoá vô cùng.********

Oan nghiệt sân đình

-------------

Tiểu dẫn: Đây là phần tiếp theo của phần trước. Để bạn đọc tiện theo dõi, tôi tạm đặt đề như trên. Cám ơn các ý kiến bạn đọc đã ban tặng cho tôi. Mong những ý kiến tiếp theo.

---------------

Ông Nhiêu Vạn cũng có mặt trong đám việc làng. Cái chức mua thì ngồi bàn nhì kém miếng một tý. Đám Tiên chỉ, Phó lý có bầu dục, tiết canh thì đám ông Nhiêu mua có tai, có xỏ, có lòng thái đĩa và rượu Ty Văn Điển. Cùng ngồi với lão là đám Phó, đám Chánh mua mít tịt chữ nghĩa, chỉ ăn tục là giỏi. Các lão nhăm nhăm cái đũa, mắt hau háu nhìn vào đĩa thịt.

Cái loại thịt lợn cấn ta luộc chín tới, nó thơm tệ. Đĩa lòng lợn lại có mấy cây hành hoa trần ơi vắt ngang. Cái món này trông trêu ngươi lắm, miếng xanh, miếng trắng, chỗ thâm thâm, chỗ lại hồng hồng… Thôi ăn đi. Cả năm mới được ngửi hơi thịt. Miếng thịt tái phay bung búng những mỡ nhai nó ngậy, nó bùi nghìn nghịt sướng tê lưỡi, nhức răng. Miếng tai luộc cắn giòn khâng khấc… Lại miếng cổ hũ càng nhai càng thấy lúng búng, hơi khâm khẩm.

Đám phó mua ngồi nhìn lên mâm trên. Bọn đương chức nó sướng miệng thật. Bát tiết canh lợn đỏ như hoa đào, lấm tấm sựn lợn lẫn với nhân băm, nó cứ nghê nga đánh chén, phớt đời. Lại thơ phú nữa mới bực. Thằng này tung, thằng kia hứng. Nó lại xỏ xiên đám các lão: Thế gian sợ cọp sợ hùm / Ai thèm sợ lũ đội nùn coi dưa… Thằng này xướng, thằng kia hoạ. Mấy cái râu sừng củ ấu thỉnh thoảng lại nhấp nháy như con chôm chôm thập thò cửa lỗ, mấy cái mặt có túm râu trê lờ phờ thỉnh thoảng được cái tay dùi đục khoan thai vuốt như thằng xẩm tìm gậy. Mẹ kiếp! Cũng râu mới ria! Hợm đời, râu ria gì mà lờ phờ như rễ bèo tây. Mấy cái tay kia chỉ quen lần váy đàn bà. Cái lông thẽm đàn bà trông còn dễ chịu hơn mấy cái râu trê đểu giả. Mấy lão phó mua chỉ dám nhìn lén. Không nên nhìn lâu đám đương chức ba hoa xích tốc, nhìn vào là nó bảo “nhìn đểu”. Nó có chức có quyền, có bằng có triện là nó úm cho thì khốn nạn, có ghét như chó cũng phải cung kính mua mặt. Lạ gì chốn làng xã này là xôi thịt, là chỗ ngồi thấp cao. Thằng to ăn to, thằng bé ăn bé, chỉ khổ đám dân. Mấy lão mua danh là cái loại bù nhìn coi dưa ngoài bãi, chỉ doạ chim chứ doạ sao nổi mấy thằng người chuyên mọt đục. Cũng mang tiếng là Chánh, là Bá, là Nhiêu nhưng là cái danh hàng mã, chữ tác đánh chữ tộ làm cái trò đùa, làm cái bàn bêu thiên hạ. Làng Hà Sở này dân đụt lắm, hơi doạ là vãi đái ra quần. Mấy thằng đàn ông chỉ giỏi bắt nạt vợ chứ ra đường thì gặp “các cụ” từ xa đã khom lưng mà chào. Các cụ còn trẻ rơn ấy mà, có tý chức là thành cụ thiên hạ ngay thôi. Các cụ còn phong hoa tuyết nguyệt lắm, cụ nào cũng vài ba vợ, vợ nào cũng ngoan hơn con ở, không ngoan thì các cụ cho mốc ra rồi hoá điên hoá dại vì tình. Trên phố đầy cô đầu nhà thổ, nó mượt như nhung, ngọt như mía lùi. Các cụ mà đi chơi, có kim la cù đinh về ban cho là … hết đời. Phận đàn bà nhà quê nó phúc đức vậy đấy. Làm vợ các cụ còn khổ hơn con chó. Được ăn trắng mặc trơn một tý nhưng suy cho cùng các bà lại thèm cái thân phận mấy con mẹ đĩ chuyên mặc màn tờ lồng ộp. Bọn ấy có đói bụng khổ thân nhưng chồng nào vợ nấy không lo chồng tìm la, lậu, giang mai. Không lo nó rước vợ bé về bắt mình bưng mâm rửa bát rồi tối nằm nghe vợ bé nó rúc rich với chồng.

---------------

Cả làng rào rào ăn cỗ. Tiếng chan húp xì xoạp, mùi cơm, mùi thịt thà, mùi mồ hôi trộn vào nhau. Tám chiếu với tám thân phận thằng người cùng hưởng lộc thánh. Thánh đây là Thành Hoàng làng, là ông Ngũ Hổ, bà Chúa Thượng ngàn. Ngài Thành Hoàng thì có thần phả, ngọc phả chứ mấy vị thánh giời ơi đất hỡi kia do giống người trên trần gian nghĩ ra, không ấn tín sắc phong. Các già làng thì biết lỗ mỗ chứ đám bố cu mẹ đĩ bảo thánh nào mà chẳng khom lưng vái. Đã là Thánh thì oai lắm. Không vái để Ngài vật chết à.

Kỳ thật Thượng đế chí công mà lại bất công ở xứ này. Đám tế việc làng chỉ có đàn ông. Đám mẹ đĩ không được tham dự. Đàn bà uế tạp không được lễ thánh, trừ mấy cô gái trinh, mấy cô có chồng nhưng còn hay mắt, các cụ cho đội lễ. Đám đàn bà trẻ con ở nhà chờ chồng về có miếng thịt miếng xôi, quả chuối tiêu cạnh lác lấy phần.

**********

Ăn nửa bữa, rượu đã ngà ngà bỗng “bàn thứ tám” nhôn nhao. Các cụ mâm trên nghĩ bụng: Bố cha đám trai đinh say rươu lại cà khịa nhau rồi. Đình đám làng năm nào chả thế, không cãi nhau có mà sự lạ, say rượu là phải cãi nhau mới thích. Có anh cu vừa nhấp chén rượu, gắp miếng thịt đã tu tu khóc, hỏi làm sao thì mếu máo: Tao thương mẹ đĩ với mấy đứa con trưa nay ăn cơm với tương ôi. Tao ăn cơm cỗ không nuốt nổi. Có thằng, nhân say rượu mới dám chửi thằng hôm nảo hôm nào đi ngang qua nhà mình vặt trộm mấy chùm khế lả cạnh hàng rào, hay nghi thằng nọ thằng kia thó mấy quả trứng gà đang ấp dở. Cũng đổng chác, cũng ta đây nói phét nói lác chứ thực tình có ai làm gì ai đâu. Xong đám quên sạch, mai hỏi ớ ra không biết hôm qua ở đám nói gì. Phận làm dân đen trong làng có mỗi cái quyền tức lên chửi ngầm chửi ngấm vợ, chửi mèo quèo chó chứ chửi ai được. Thằng cha nào có con vợ nhìn hay hay mắt thì bắt ăn mặc lúi xùi, bôi gio trát trấu cho nhom nhem để ra đường xuống bến không bị trai nó ghẹo. Trai ghẹo không sợ bằng quan ghẹo, ghẹo không được là thằng chồng vạ lây. Người ta lấy hoà bình làm trọng, hơi tý cãi nhau xưng hùng xưng bá để lên đồn xuống phủ rồi nuôi chức dịch.

Khi cái bát bị đập vỡ, khi lý Tào bẻ đũa thì mọi người đổ xô mắt về phía ấy. Có tiếng lao xao từ bàn nhất:

- Con thằng Nhiêu Vạn bị cụ Lý Tào bẻ đũa!

Chánh hội gọi Thơ Lại:

- Mày ra xem sự thể thế nào rồi ghi biên bản để làng xử tội! Bố cha cái đồ tham ăn.

Tiếng lão mục Thang chen vào:

- Khốn nạn! Thằng mõ làng cũng không tham như thế. Đúng là đồ chết đói chết khát! Bố nó kỳ này thì đeo mo vào mặt.

Mỗi người mỗi lời, thật đúng là cảnh: Trâu lành không ai mặc cả, trâu ngã lắm kẻ cần dao.

Đám bàn ba bàn bảy lao xao:

- Chắc là xỏ lá nhau chứ nhà Têu nó thiếu gì thịt. Cả làng này ai sướng hơn nó! Mỡ lợn nó có hàng hũ sành. Thịt lợn nó có cả yến vùi trong chum tương ăn dần, gà qué đầy ra, thèm nhạt gì nó phải ăn tham miếng giữa đình.

Cu Tất ái ngại.

- Nó thảo lắm. Hôm nọ vợ tôi ở cữ, nó cho cả đôi chim câu mới ra ràng nấu cháo.

Hai Thong, gã lực điền chuyên cày thuê cho lý Tào gật gù:

- Vợ chồng nhà nó ai chê vào đâu được. Có miếng gì cũng cho con biếu ông Nhiêu. Ai thiếu muối, thiếu mắm, thiếu mẻ sang xin nó cho rất đầy đặn. Hôm nọ, tao giỗ cụ sang vay mỡ, con vợ nó dốc hũ cho cả bát tộ, đến khi đem trả nó cười như nắc nẻ: Đáng gì mà trả, ông lẫn à! Nhà tôi còn khối, không ăn để nó hoai ra hoài của.

Mấy lão bố cu khác thầm thào vào tai nhau:

- Khéo ma đói nó nhập vào nó hành. Nhà nó ở bãi tha ma có mà đầy ma ám vào, phen này khéo nó bỏ làng.

Nhiêu Vạn ngồi đờ ra trước tin dữ, giữa những lời bàn ra tán vào. Thanh thiên bạch nhật còn đấy. Miếng thịt nó đang cắn dở, miếng gắp lạm gọn trong bát nó còn nằm giữa sân đình. Hàng trăm con mắt nhìn thấy chứ oan ức gì. Sao lại khốn nạn thế này con ơi là con! Miếng ăn là miếng nhục. Chả thế các cụ ta cũng gọi miếng thịt là miếng “nhục” chứ có ai gọi là miếng "vinh" đâu. Lão mua cái chức Nhiêu rất tốn kém trả nợ hai năm mới xong, cũng chỉ để có danh có phận. Danh hão cũng là danh… Ông cúi gằm mặt xuống mâm mà khóc, khóc như trẻ con bị đòn. Khổ thân ông! Phen này ra đường xuống bến, ai cũng xì xào: Bố nào con nấy cho mà xem. Cái thứ nói lén nhà quê đất này tai ác lắm, nó là cái dây thòng lọng thít dần cổ người ta. Thằng mõ làng vốn dĩ nó cũng là người lương thiện, thảo ngay nhưng lẽ đời bất công với nó. Nó làm việc cho làng cho tổng, nó phục dịch chức sắc để quan xã, quan làng lo việc cho dân sao lại khinh rẻ nó. Chẳng qua cũng tại người với người hạ nhục nhau mà thôi. Khi thằng người bị hạ nhục có nhiều cách xử thế: Ừ! Đã nhục thì nhục một thể! Bố mày nhục cái danh nhưng no cái bụng. Nhục rồi thì nhục thêm tý nữa cũng thế! Đời này hạ nhục bố mày thì bố mày quay lại trả thù đời, bõ công mang tiếng xấu. Có kẻ bị hạ nhục uất ức bỏ làng ra đi, có kẻ tìm đến cái chết… Nhiêu Vạn trong cơn say ngồi bó củi giữa sân đình chang chang cái nắng tháng sáu. Mọi người đã tản vào gốc cây uống nước vối trong cái thong đại. Họ im lặng nhìn về phía ông. Bên gốc muỗm mát mẻ, vợ chồng nhà Mới phè phỡn đánh chén cười ngả nghiêng. Cả nhà nó ngự một mâm đầy tú hụ. mấy đứa con nó cắn thịt phay nhả nhớn rồi quăng cho con chó vện ngồi chầu. Nó có gắp mươi miếng cũng chẳng ai bẻ đũa, đập bát… Ông Nhiêu ngẩng lên, manh áo đũi của ông cũng ướt sũng mồ hôi và nước mắt chảy ra từ khi chứng kiến lý Tào đập bát cu Têu, chứng kiến cái cảnh con dâu ông cõng chồng khuất dần sau đống rơm sân đình, lút cút đi về bãi mả…Lại những ánh mắt đám bàn nhất diễu nhại quẳng sang, Trên sân đình bây giờ chỉ còn ông ngồi trơ khấc với vợ chồng nhà mõ… Ông hét lên một tiếng xé trời, long óc và vụt đứng dậy chạy về bên gốc muỗm và lao đầu xuống cái giếng cạn, sâu gần sáu thước bấy lâu bỏ không. Cả làng nhốn nháo như chợ vỡ. Có người sợ quá ù té chạy, có người bịt mắt ôm đầu gục xuống… Khi người ta lôi xác ông lên, cơ thể vần nguyên lành nhưng đỉnh đầu vỡ to như cái bát. Dòng máu tươi và óc xanh nhờ trộn lẫn với nhau. Mắt ông mở trừng trừng không nhắm lại được. Trương tuần lấy rượu ấp lên mu mắt mà day. Người ông còn nóng hâm hấp. Người ta đặt ông lên phiến đá phẳng phiu. Bộ cánh đũi màu mỡ gà loang lổ máu. Người ta rùng mình nghĩ đến máu lợn sáng nay chọc tiết, buồn nôn buồn tháo bát tiết canh trên bàn nhất sáng nay. Cái bọn người ăn máu sống ác hơn bọn ăn rau chuối thái và húp nước xít.

Vợ chồng Têu nhận tin dữ quay lại, rẽ đám đông lao vào bên xác bố khóc không thành tiếng. Cả hai ngất lịm bên phiến đá. Chiều ấy, đưa đám bố xong, Têu ngồi như chết lặng bên cửa nhìn bãi tha ma. Trời tối dần. Cái vòng hoa nhoè dần để lại bó hương đang cháy dở cứ bùng rực lên khi gió sông thốc vào. Tiếng gió hú từ mặt sông thổi vào lỗ ống tre đầu trái kêu tu tu như oan hồn ông Nhiêu hiện về. Có ai ngờ đến kết cục này đâu. Một cái tát, một miếng thịt, một mạng người chết vì nhục thay con… Sao bố phải liều mạng nhỉ? . Hay tại bố say mà liều… Nhiều cái “hay là” lắm. Thắm thì đổ quỵ xuống. Cô không thể khóc được mà chỉ kêu trời! Trời ở đâu không biết. Trong mắt cô chỉ có cái mặt lưỡi cày đỏ tấng của lý Tào. Cái thộp vú thô bạo, đểu cáng, dâm dục, cái tát như phản xạ tự nhiên của một phụ nữ trọng tiết hạnh. Lý Tào ơi! Mày phải trả cái nợ này, chưa trả xong vợ chồng nhà tao chết không nhắm được mắt. Tao phải trồng tre làm gậy ở cõi đời này mà chờ trả hận cho người bố chết oan cay đắng. Hỡi ôi miếng thịt thái phay oan khiên… Thắm quỳ lạy cha chồng rồi quỳ lạy chồng. Tội này do Thắm gây ra… Giá còn mẹ chồng mà kể lể, mà van xin thì nguôi nhẹ phần nào, cho dù mẹ có chửi mắng, giận dữ thì cũng là thân phận đàn bà với nhau dưới gầm trời oan nghiệt. Mẹ ra đi bỏ bố ở lại mấy giỗ rồi. Bàn thờ này giờ lại thêm bát hương nữa.

Đám cỗ Tam nhật sau đấy, vợ chồng Têu bắt hết lợn gà làm cỗ mời làng. Đám chức dịch bàn nhất hôm ấy cũng được mời nhưng không mống nào có gan vác mặt đến. Cách đấy không xa, mộ ông Nhiêu Vạn vẫn ngần ngật khói hương. Mấy vòng hoa bị nắng Tây Nam đã héo rạc và đám cỏ ấp mộ lổ đổ xanh xám. Trên ban thờ, di ảnh ông nhập nhoà trong khói hương. Chẳng có bức ảnh nào mà thờ. Duy nhất có bức ảnh bé như đồng xu chụp để chức trách nhận mặt khi bắt phu bắt lính là còn. Têu mang tấm ảnh ấy lên phố nhờ ông truyền thần phục lại bằng chì đen nên rất đúng thần khuôn mặt. Bộ dao hoạn lợn, cuộn chỉ tơ thợ hoạn cũng được gói ghém thờ ông. Chả biết sang kiếp khác có lợn không mà hoạn nhưng trần sao âm vậy, có nghề, có nghiệp, tự kiếm nuôi thân bao giờ cũng lương thiện hơn kẻ nhàn vi. Nhàn vi bất thiện, chỉ nghĩ điều ác hại người. Dù kiếp sau có đổi nghề thì mong ông cứ giữ làm kỷ vật một quãng đời trầm luân mông muội. Cái thẻ Nhiêu mua bằng bìa cattông Têu gọi vợ ném xuống sông! Cha bố cái chốn quan trường, cái chốn tranh ăn, cái chốn lọc lừa phản chắc…

Cành phan rung bần bật. Trời lặng gió mà cành phan rung từng hồi. Cái thang làm bằng chuối tiêu rơi ra khỏi thân cành phan. Người ta bảo ông giận chốn trần gian mà bẻ thang đi, không thèm về. Lão Tự Lãm xin âm dương mấy lần cũng thế. Ông Nhiêu giận con cháu hay giận chốn dương gian sinh ra cái bàn nhất giữa đình để đám chức dịch tác oai tác phúc…

************

…Mấy tháng sau, trời chuyển sang Thu. Những cơn gió heo may và cái nắng hanh nám trái bưởi trải ra trên cánh đồng làng Hà Sở. Vào một đêm không trăng sao, quá giờ Ngọ, khi gió heo may vừa thốc lên, cả vùng nháo nhác vì làng Hà Sở bùng lên hai đám cháy. Hai đám cháy sáng rực góc trời, thanh la não bạt nổi lên, tiếng người la thét, tiếng lửa réo ù ù, tiếng đòn tay bương nổ đôm đốp. Một đám cháy ở bãi mả có căn nhà Têu. Một đám cháy bên nhà lý Tào. Đám cháy nhà Lý Tào mới tai ác. Nó cháy từ chuồng trâu cháy đi, cháy góc vườn nơi có căn nhà vợ cả lý Tào cháy lại. Những ngôi nhà tranh quanh ngôi nhà ngói năm gian cháy trước, thốc lửa táp vào nhà mái ngói cháy cửa bức bàn gỗ lim, cháy vào rui mè kèo cột. Ba ngôi nhà lá gồi cỏ bái cùng cháy một lúc nên không ai dám vào cứu ngôi nhà gỗ lim mái ngói. Cái thứ gió hanh mới tệ, nó thốc lửa nhanh lắm. Lý Tào ôm con vợ bé mới cưới, sau cơn hoan dục cả hai không mảnh vải che thân đang ôm nhau ngủ, không kịp mặc quần, cứ thế nhao ra mà hô hét, mà kêu gào nhưng ai dám lao vào quầng lửa đang réo, đang hú như hồn ma hiện về. Thuỷ, hoả đạo, tặc có ai chống nổi.

Phen này sản nghiệp lý Tào sạch bong. Bao ky cóp bóp nặn dân đen bị lửa thiêu thành tro than tất cả.

Cùng đêm ấy, vợ chồng và ba đứa con nhà Têu biến mất. Người ta đoán già đoán non Têu đốt nhà Lý Tào và đốt nhà mình bằng hương xạ buộc vào bao diêm Tây nên cùng phát hoả mới cháy nhiều chỗ một lúc như thế. Khi nhà cháy, hắn đã cùng vợ con cao chạy xa bay. Nghe đâu tháng trước nó lên Hà Nội tìm đường vào Nam Kỳ bằng xe lửa… Mà chả biết nữa… Thằng chạy có chủ định, thằng tìm thì vô định trong cái nước Nam còn đầy nhiễu nhương mà pháp luật như sợi cao su, ai quan tâm đến cái làng nghèo xác mồng tơi có chưa đầy một ngàn mống người mông muội… (còn nữa)

Việc làng

Cùng bạn đọc yêu quý: Tiểu thuyết Người thức với mùa Đông của tôi gồm 426 trang sắp trình làng. Tôi viết về những thay đổi của nông thôn VN qua nhiều thời kỳ từ 1945 đến 2005 mà nhân vật TT là những người đã và đang sống quanh tôi. Xin thể nghiệm một đoạn tôi viết để thăm dò ý kiến bạn đọc...Cám ơn tất cả những ý kiến đóng góp để tôi yên tâm đăng tải lần lượt...

________________

Bữa cỗ việc làng ấy năm nào cũng tổ chức vào dịp 12 tháng 6. Khắp vùng đồng chiêm gọi đây là ngày “việc làng”. Việc làng là việc của làng, đơn giản như vậỵ. To tát là xây đình xây chùa, lát đường, bầu chức dịch Thủ Lộ, Trương Tuần, Hội Lại. cắt cử thêm phó lý hay bầu Lý Trưởng mới rồi nhận thêm xuất “đăng cai” những bố cu đã vào tuổi 12 để làng chia ruộng canh điền.

Cũng có những xuất nhiêu mua xã bán cho những kẻ không học hành, mù tịt chữ nghĩa nhưng lại muốn bàn dân gọi là ông Chánh, ông Phó, ông Nhiêu…Thôi thì hãy tạm liệt kê những việc như thế.

Làng Hà Sở y hẹn lại tổ chức tế thần và bàn việc làng. Đấy là một buổi sáng mùa hè ong ong, tai tái. Cây muỗm cửa đình Hạ Trang đã rụng hết hoa. Những quả muỗm bé tẹo chưa đủ vít cong cuống nên cứ nhô thẳng lên, ngỡ ngàng nhìn trời. Nó cũng lơ huơ tũn tĩn như những núm vú chũm cau của mấy cô thôn nữ đang đội lễ vào việc làng. Hôm nay dù sang hèn thế nào, đám gái thau tháu cũng cố sắm cho mình bộ cánh, khá giả thì lụa mỡ gà, khăn hoa lý, nghèo túng xẻn xo cũng là manh chúp bâu nhuộm nâu Tây.

Đình làng được quét tước chu đáo. Chiều hôm trước vợ chồng nhà Mới cùng 2 đứa lớn mang cuốc xẻng, chổi xể hè nhau mà dọn. Những đôi vợ chồng cùng con cháu nhà nhện an cư yên ổn một năm bỗng táo tác chạy loạn trên mái đình, nhiều nàng nhện cái cố sống cố chết lôi tha đùm trứng căng mòng theo. Những ông phỗng ông phật bị ăn nhiều lộc khói hương ám vào được nhà Mới lấy nước, lấy khăn lau cho đỡ cáu bẩn. Kể ra làm thân ông phỗng ông phật ngự trong chùa cũng khổ. Bao xôi thịt oản quả dâng ngài, bao ông lý, ông phó, bao thằng cu bố đĩ trong làng lụp cụp khấn vái. Khấn xong tuần hương lại hạ xuống, chia nhau “thụ lộc” hết, ngài có sơ múi gì đâu. Chỉ có khói hương nó ám vào ngài. Suy cho cùng chỉ có thằng Mõ làng nó thương. Không có vợ chồng nhà Mới, ngài sẽ biến thành bồ hóng bếp.

*******

Đầu tiên là tiếng lợn kêu ré lên khi bị chọc tiết. Những con lợn nuôi gần một năm chưa đầy tạ bị trói gô vào nằm bên gốc muỗm. Trước khi bị hành quyết tế thần, lợn cũng được tắm rửa cho tịnh. Đám thợ làm cỗ là bọn trai đinh, có nghĩa là bọn ngồi ở chiếu thứ tám, cái chiếu hạng bét nhất về khẩu phần và bét nhất về thân phận, thường gọi là thằng cu bố đĩ, đầu chầy đít thớt. Trong số ấy có anh cu Têu con ông Nhiêu Vạn.

Nói ra khí khiếm nhã. Ông Nhiêu Vạn chuyên làm nghề hoạn lợn, nghề này cũng được gọi làm ông phó như ai: Phó Hoạn, Phó Cối, Phó Cạo. Hình như trong làng trong tổng chỉ có mấy ông bốc mả thuê thì không ai gọi chức phó, chả lẽ gọi là “phó bốc mả” nghe ghê ghê thế nào ấy. Đã có xuất phó đương nhiên nhưng ông thích gọi là Nhiêu cho oai vì thế dân làng mới gọi là Nhiêu Vạn. Được cái chức vị hữu danh vô thực này, chức sắc làng chẳng cho không đâu. Một bữa chén mấy con lợn, mấy tạ gạo, cả làng ăn cỗ rào rào như tằm ăn rỗi, các chức sắc say vãi đái ra quần. Đã ăn rồi thì nhớ lấy chức danh mà hò mà xướng lên, quên cái chức ấy là đồ xỏ lá ba que, là đồ ăn quỵt. Ông Nhiêu Vạn vểnh râu tôm khi ra đường đám bố cu mẹ đĩ gọi chức mình ra. Đời này khốn nạn vậy đấy, làm dân nó không thích, phải trên dân một tý một tẹo mới xướng, tiền bạc tiếc làm quái gì. Ăn lắm vào ỉa đống cứt to.

Cu Têu lấy vợ. Vợ Têu là con ông Cu Huê trong làng. Cho đến bây giờ cũng không ai biết tên củ tên cái bà là gì, ngay chồng con bà cũng quên béng cái tên mà cha mẹ bà đặt khi chui ra khỏi bụng mẹ. Chắc không là Hồng, Lan, Thu, Huệ đâu. Ngày xưa đặt tên đẹp là ma nó bắt mất. Chắc cũng chỉ là Thẽm, Hĩm,Cua, Lươn, Ếch, Ộp thôi, nhưng đi lấy chồng tên bay mất. Người ta chỉ gọi tên chồng.

Ở chung với bố mẹ đẻ 3 năm Têu ra ở riệng. Khổ mấy cũng ăn riêng ở lẻ thôi. Chui rúc với bố mẹ cùng lũ em thau tháu bực lắm. Nhà cứ như cái chợ. Bố mẹ chồng thì thòi thòi năm một. Con dâu đẻ, mẹ chồng đẻ, cháu bú bà, em bú chị, tuổi cháu nhiều hơn tuổi cô tuổi cậu. Cái bụng bà xẹp xuống để tã lót bung ra, tiếng trẻ khóc váng lên mấy tháng rồi lại phồng lên, rồi lại xẹp xuống, rồi lại phồng lên…Hãi quá! Cả đời mang vác cái bụng con nên lúc nào nước da cũng nhợt bấy như người chết trôi mới vớt từ dưới sông lên, hai núm vú thâm xì như cà ủng. Đứng lên có đứa chạy theo kéo cho tụt váy mà đòi nhay, đòi hít, ngồi xuống là bị vạch ra co kéo hai bên, bất kể con hay cháu mút tòm tọp…Cái tài sản cố định của bà bị xung công triệt để ngày đêm…Cái quả mướp già ấy thõng théo nhăn nhúm đến tội nghiệp.

Tuy khổ ải thế nhưng Thắm, vợ Têu đã hai con vẫn mặn mà. Hình như gái hai con mới đẹp, mới nây nả căng đầy. Cái hông phồng ra cho cái eo thắt lại như đáy tò vò, cái mắt lúng lẩy sắc như dao hoạn lợn. Mái tóc dài bầm gót. Cứ chui vào bếp ra một hồi là hai má như người đánh son thoa phấn. Càng khổ cô càng đẹp, càng giòn. Càng đẹp càng giòn …Càng khổ vì mấy cụ Lý, cụ Bá, anh Trương Tuần, chú Hội Lại nhìn tít cả mắt.

Ra ở riêng một năm. Hai vợ chồng dựng căn nhà nhỏ cạnh bãi tha ma đầu làng. Đấy là thẹo đất chó ỉa, chẳng ai cấm đoán phép tắc giấy má. Ai lại đi dựng nhà làm bạn với ma, bãi tha ma chỉ có ma chứ làm gì có người. Khi chôn xong người chết, ơ hờ một chặp là người ta lui về làng bỏ lại cái hoang lạnh của cõi âm. Têu chả sợ. Tuy ít học nhưng trong cái ý nghĩ sơ giản không có sách vở Têu nghĩ: Người ta chết đi là hết, là ngủ với giun với dế chứ còn gì đâu. Ma là người đời tưởng tượng ra để doạ nhau.Suy cho cùng trong cái bãi ma này toàn người làng, sống với nhau trên thế gian còn chẳng làm gì được nhau huống hồ đã chết. Mà có ma đi nữa thì người làng, người tổng với nhau phải phù hộ chứ ai lại trở mặt hại nhau. Cứ phải phù hộ là cái chắc, không phù hộ thì nhịn xôi nhịn oản, nhịn cúng nhịn lễ. Ma phải hiền hơn người. Chỉ có người sống tranh nhau ăn, tàn hại nhau chứ ma can dự gì vào việc thế gian mà hóc hách vào.

Vô tâm hoàn vô sự. Têu hạ luỹ tre gai cạnh đấy. Ngâm cho nhuyễn rồi dựng nhà, căn nhà 2 gian có 2 đầu trái rộng rãi cho 3 đứa con thoải mái nô đùa. Gió sông thì mát hơn quạt hầu, gà nuôi chạy như sao xa trên bãi mả, vịt bơi thung thăng mặt sông, rau xanh lên non hều hễu. Chả phải chạy xuôi chạy ngược đâu kiếm ăn, cứ đất quanh bãi ma mà trồng cấy. Đến năm thứ năm thì mát mặt nhất làng. Têu sắm cho vợ cái dây xà tích rõ to, thắt lũng lẵng ngang người trông càng ngứa mắt kẻ đố kỵ. Cái bọn dày ăn mỏng làm nhìn thấy cô Thắm, vợ Têu đi hội kháy nhau: Mẹ kiếp! Làm cái giống bố cu mẹ đĩ mà cũng học đòi làm sang. Đến bà chánh bà lý làng này còn không dám diện, cái ngữ mảnh trĩnh vất bờ tre cũng đua đòi.

Lão hội Lại làng vốn cậy chữ nghĩa bề bề liền thảo ra câu lục bát trần ngôn mà rằng: Có tiền đeo nhẫn đeo hoa / Đeo dây xà tích nó va vào…l”…Bọn rỗi miệng đi đâu cũng đọc rồi cười nghiêng cười ngả.

Têu yêu tin vợ lắm. Có phải đẹp gái ai cũng đĩ thõa lẳng lơ đâu. Sống với nhau mà nghi kỵ là làm khổ nhau chứ ích gì, chỉ tội thiên hạ cười cho. Cô vợ tốt nết đẹp người. Đi đường không bao giờ thèm đối điều với bọn trai lơ. Ai giầu có, chức vị cũng thây kệ. Chưa bao giờ cô xo bì anh chồng trai đinh với ai. Trong mắt cô, anh Cu Têu và mấy đứa con là tất cả, là ngọc là vàng. Cu Têu nghe kẻ khác chọc ghẹo gièm pha liền chửi: “Nó va vào đâu thì kệ nó chứ có va vào mồm đứa nào đâu mà “lách lưỡi” vào. Của mồ hôi nước mắt chứ có thó của đứa nào đâu mà ức ói”.

Mấy bà chánh bà lý thì ghen ra mặt, thấy cô Thắm đâu là xìa cái môi trầu vỏ, đỏ loét như yêu tinh mới ăn thịt người mà đổng trác, xỏ xiên: Gớm! Trông rõ là giống nhà thổ cô đầu trên phố. Mẹ kiếp: Ba quan đừng ngỡ là giàu / Một cơn nhức đầu mất sáu mươi quan.

Âý là các mụ ghen tỵ. Mấy mụ hơn của nhưng trời tai ác không cho nhan sắc. Vợ lý Tào đã lùn như đụn rạ mặt lại đầy tàn nhang, cái mồm thì vạt ống dầu, trong miệng lúc khúc răng cải mảl. Lão lý Tào ăn lắm lộc dân nên nhựng mỡ, chán vợ tuần nào cũng lên phố hát cô đầu. Đám chức dịch làng Hà Sở như đàn dê đực thả giông, cứ nhìn thấy Thắm là mấy cái mắt lươn xoi tận đũng quần. Mấy mụ vợ các lão canh chừng kèn kẹt, nhất là coi chừng Thắm, nó mà lả lơi mấy lão lập tức vác cộtnhà đi bán mà theo. Trong mắt các mụ, bọn chức dịch làng này là loại thối tha, dâm dục. Ra đường dân gọi là “Cụ” nhưng các mụ gọi là “cụ ngâm”.

**********

Lễ tế thần đình Hạ Trang đang vào nước kiệu. Trống cái đánh như động đất, tróng con chen vào lanh chanh, chũm choẹ thanh la chói tai nhức óc. thủ Con lợn cấn to nhất được luộc chín tới bày nghễu nghện trên mâm xôi nhe cái răng nanh trắng ởn. Mùi thịt, mùi xôi đỗ hoa cau, mùi hương, mùi hoa lan, hoa móng quyện vào nhau làm người lớn trẻ con nhểu nước miếng.

Lý Tào hôm nay giữ vai chủ tế. Ngoài bốn mươi nhưng lý Tào vẫn phong tình ngần ngật. Ở vai chủ tế phải mắc xiêm áo lằng nhằng lão bực lắm. Lúc thì vái bổ thượng, lúc bổ hạ cong gập cái lưng lại nhìn lên hương án mệt lắm. Hôm nay gái làng khoe sắc như bướm vỡ tổ mà chả được ngắm tẹo nào. Ngắm mấy ông tượng gỗ mít, mạt cưa chán chết. Nghĩ vậy lão đảo mắt đưa ngang gặp Thắm đang đội lễ đứng hầu. Gớm! sao mà lóng lánh quá thể đi mất. Sao cái má nó như trái bồ quân mà cái môi lại ướt nhượt mọng như cà chua chín thế không biết. Mỗi lượt quay mâm, vòng xà tích cũng nhao theo…Mà nó cứ va vào đâu ấy nhỉ?... Cặp vú nó cứ như nắm cơm đội áo nhô lên thách thức, lại mồ hôi mồ kê nữa, mồ hôi nó nhỏ dài từ khoé tai xuống cổ, xuống ngực rồi chui vào hai thung lũng vú. Bố khỉ! Cái gì nó cũng đẹp, cũng giòn tỉnh tình tinh…Hai con vợ trâu lăn nhà lão chỉ đáng bỏ vào dọ làm mồi bẫy hổ. Nghĩ ngợi lông bông nên lão vái mà như thằng canh điền tát nước gàu xòng gàu rai. Càng nhìn Thắm, lão càng đãng trí. Tự nhiên cái của nợ nó cứng như đanh, đội cái quần lĩnh tía nhoai lên. Bất tiện quá, bất kính quá. Chỗ cúng vái thần thánh mà nó tự dưng bướng bỉnh không bảo được. Ngó trước ngó sau, lão vờ sửa khăn đai, nhanh tay kéo cổ thằng bất trị ngược lên rồi thắt dây rút thật chặt.

Tan buổi tế cũng gần giờ Ngọ. Đám trai đinh chạy cỗ bưng mâm mệt bở hơi tai mà trải chiếu, sắp mâm. Lý Tào vào trong thay đồ Tế. Cô Thắm đang một mình cắt những nải chuối khỏi bẹ xếp vào thúng để tý nữa chia phần. Trong nhập nhoạng hậu cung cái lưng ong cúi xuống. Chiếc yếm đào trễ nải thấp tho bầu vú mẩy. Lý Tào cứ ngây ra nhòm. Cơn khát dục bốc lên, lão thò tay luồn qua vai Thắm thộp được bầu vú. Thắm giật thót mình rồi chợt nhận ra lý Tào. Thắm giơ tay tát thẳng vào cái mặt lưỡi cày. Cái tát quá mạnh làm lão đổ đom đóm mắt. Kinh quá, nó mà kêu lên bây giờ thì mặt mo. Hai con sư tử cái nó xấn đến làm thịt. Lý Tào lặng lẽ quay ra chiếu nhất ngồi nghĩ ngợi.

Ức thật! Ưc hộc máu ra mất. Cái thằng Cu Têu đâu bằng lão. Con cú mà đậu cành mai. Được rồi! Mày biết tay ông, phen này mày chỉ có bỏ làng mà đi! Vợ mày láo thì mày liên can liên đới. Tao chưa chiếm được vợ mày thì mày gặp nạn con ạ…Lão gọi mấy thuộc hạ đầu trâu mặt ngựa trong làng, cho mỗi đứa mấy xu rồi điềm nhiên ngồi đợi cỗ. Cái chiếu Tiên chỉ làng có móng giò, có tiết canh húng láng và bầu dục lợn cũng sắp dọn kia rồi.

******

Cu Têu cũng có mặt trong đám chạy cỗ làng. Hôm nay cả làng ăn cỗ nên chạy bở hơi tai. Mỗi chàng trai đinh chạy cỗ đều thắt một cái lạt tre cật quanh người. Đấy là biểu hiện sự liêm khiết của người dọn cỗ và cũng là ám hiệu cho các chức sắc hạch lạc. Sang hèn ra chốn đình trung là chỗ ngồi, là miếng ăn. Tám vị chí ngồi là tám loại người khác nhau, người ta nhìn vào đấy mà khinh trọng. Đám trai đinh bao giờ cũng xếp vào cỗ Tám. Cũng chỉ là thịt lợn trắng nhởn chấm với nước mẻ cơm đặc xệt, một đống rau chuối thái, một bát nước xít lèo tèo mấy cọng hành hoa. Người ta vẫn gọi là cỗ “dấm gém”. Có khác nhau đi nữa là lục phủ ngũ tạng con lợn, vì thế mới đẻ ra câu ví: “ Bầu dục đâu đến bàn thứ tám / Cám đâu đến mõm lợn xề.

Có xuất công bằng nhất trong cỗ làng là đĩa thịt thái phay. Bất kể mâm nào cũng có đĩa này, ai ăn thì ăn, không ăn lấy phần cho trẻ con ở nhà. Cánh làm cỗ phải là tay giầu kinh nghiệm mới được giao vai thái thịt phay. Nó phải giống nhau từ trọng lượng đến màu sắc được lọc ra từ hai mông sấn con lợn. Không ai được xâm phạm khẩu phần của ai. Ai vi phạm thì tiên chỉ làng có quyền bẻ đũa quẳng đi và tước quyền ngồi mâm ăn cỗ. Ai mắc tội này thì tiếng để đời là đồ tham ăn tục uống. Cái nỗi nhục này xấu lây đến cha mẹ, vợ con, họ hàng. Đàn ông bị bẻ đũa giữa đình, đàn bà chửa hoang xấu ngang nhau.

*********

Têu được xếp mâm sáu với đám vô danh tiểu tốt trong làng. Bữa nay những tay bợm rượu đều thủ sẵn một chai từ nhà. Vào mâm rót oà rượu ra bát và mời nhau. Một bát rượu tăm cũng đủ vật chết một người không biết uống rượu như Têu. Đến khi cầm đũa Têu đã say mềm. Ăn thịt cũng như ăn rau chuối thái. Têu vớ một miếng thịt phay nhai nhồm nhoàm. Miếng thịt đã cắn một nửa nằm tròn trong bát. Bỗng một miếng thứ hai len lén bỏ vào Têu cũng không hay biết. Một gã trong mâm tiến về chiếu Tiên chỉ và nhanh như cắt, lý Tào đứng phắt dậy tiến lại mâm, tát vào mặt Têu một nhát nảy lửa rồi giằng đũa giơ lên cao trước bàn dân thiên hạ. Một nhát bẻ gọn lỏn. Đôi đũa gãy làm tư quẳng giữa sân đình. Một tiếng choang khô khốc, cái bát cũng bị đập theo, hai miếng thịt, một ăn rở, một lành lặn nằm ệp trên nền đất…Têu choàng tỉnh và ngơ ngác như bị xét đánh vào đầu…Ôi! Nỗi nhục. Cái hương ước khốn nạn làng này không biết có từ bao giờ để mấy thế kỷ nay mới được áp dụng lần đầu trong làng Hà Sở.

Thắm hiểu tất cả sự tình. Cái tát của Thắm đã vạ lây đến chồng. Cái tát ấy bị lý Tào trả đũa. Trời cao đất dày ơi! Thế gian này oan khiên lắm. Nhan sắc đàn bà là nghiệp chướng trong cõi trầm luân. Hồng nhan bạc phận, bạc phận vì hồng nhan cũng chỉ là một. Biết sao đây với miệng tiếng thị phi. Thương chồng quá. Thắm muốn chết ngay để cứu vãn điều tiếng cho chồng.

Giữa cái nắng oi nồng, cô vực chồng đứng dậy, Têu mềm nhũn ra không đứng nổi. Thắm quả quyết xốc chồng lên, quàng tay chồng lên vai mình cõng về nhà. Trên lưng Thắm, Têu kêu lên những tiếng xé lỏng đứt ruột, nước mắt , mồ hôi Têu túa ra ướt đầm tóc Thắm…Cả làng nhìn theo ái ngại, trong cái xuýt xoa thương cảm có cả những nụ cười khẩy đắc thắng.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: