truyen co tich Viet Nam

1__Vàng lấy con vua

Ngày xửa ngày xưa, có một em bé tên là Vàng, Vàng mới lên tám tuổi thì bố chết. Nhà nghèo, em phải theo mẹ đi làm thuê khắp đó đây. Quần quật suốt ngày mà mẹ con vẫn không đủ ăn. Những hôm mưa rét thấu xương cũng không được nghỉ. Nhiều bữa Vàng chỉ uống nước đi ngủ, còn dành một ít cơm nguội cho bà mẹ. Bà mẹ càng thương xót cho đứa con tội nghiệp của mình.

Ngày tháng qua đi, năm ấy Vàng đã lớn và mẹ Vàng cũng đã già yếu. Vàng một thân đi làm nuôi mẹ và nuôi mình. Thỉnh thoảng Vàng còn làm giúp hàng xóm. Tuy công việc nặng nhọc, bụng đói, nhưng ai nhờ việc gì Vàng đều cố sức làm đâu ra đấy. nét mặt lúc nào cũng vui vẻ. Vì vậy láng giềng ai cũng quý mến Vàng.

Tiếng lành đồn xa. Nhà vua biết tin Vàng làm ăn khéo, lại giỏi. Một hôm bèn cho lính đi gọi Vàng về lợp nhà cho mình. Vàng đến và trèo lên nhà ngay.

Trong khi dỡ mái xuống, chàng trông thấy phía dưới sân nhà một cô gái đang ngồi dệt vải. Vàng muốn biết mặt cô gái liền ngửa cổ nhìn lên, nhưng cô gái vẫn cúi mặt xuống tấm vải, tay đưa thoi. Vàng nghĩ ra một kế khác: lấy sợi lạt cứa vào tay mình cho chảy máu xuống tấm vải. Nhưng uổng công, cô gái vẫn thản nhiên đưa thoi. Vàng thấy không xong, càng nóng lòng bèn đánh bạo gọi:

- Cô ơi! Cho tôi xin miếng giẻ buộc chỗ đứt tay cho khỏi chảy máu.

Lần này cô gái đứng dậy đi tìm cái gậy và buộc miếng vải vào đầu gậy rồi từ từ giơ lên nóc nhà nhưng vẫn không hề nhìn Vàng. Thấy đầu gậy đã sát tay mình mà cô nàng không ngẩng mặt lên, Vàng lại giả vờ gọi:

- Cô ơi! Chua tới... chỗ này cơ mà!

Cô gái tưởng mình giơ lệch chỗ, mới ngửa mặt nhìn lên. Vàng thấy khuôn mặt xinh đẹp của cô gái hiện ra.

Tối hôm ấy, Vàng về nhà nói với mẹ:

- Mẹ ơi! Hôm nay con đi lợp nhà cho vua thấy con gái của vua xinh đẹp lắm. Mẹ đi hỏi cho con lấy cô ta làm vợ.

Bà mẹ nghe nói không khỏi ngạc nhiên. Một lát, bà thở dài:

- Mẹ con ta nghèo. Vua nào lại gả con gái cho con.

Nhưng Vàng cứ một mực van nài mẹ. Cuối cùng để chiều con trai, bà đi hỏi vua. Mẹ Vàng chưa nói hết lời, nhà vua đã nổi cơn lôi đình mắng vào mặt:

- Nhà ngươi láo thật. Dám đi hỏi con gái ta cho thằng khố rách áo ôm nhà mày ư? Lính đâu, đem mụ già vào cối giã.

Bọn lính răm rắp tuân theo. Mẹ Vàng bị một trận nhừ tử. Bà van lạy mãi nhà vua mới bằng lòng thả cho về.

Khi mẹ đi, Vàng ở nhà đứng ngồi không yên, bụng như có lửa đốt. Vàng hết ra trông lại vào ngóng. Thoáng thấy mẹ về, Vàng đã hỏi ngay:

- Mẹ ơi! Được chứ! Nhà vua đồng ý chưa?

Mẹ Vàng thở không ra hơi:

- Vợ con gì. Chưa nói hết lời, mẹ đã bị vua sai lính bỏ vào cối giã, lại còn chửi mắng. Con muốn lấy thì đi mà hỏi.

Ít lâu sau, Vàng lại đòi mẹ đi hỏi con gái vua cho mình. Thương con, mẹ Vàng lại đánh liều đi hỏi một lần nữa.

Khi bà già đến, nhà vua lần này không chửi mắng và sai lính bỏ vào cối giã như lần trước nữa, mà nói với mẹ Vàng:

- Nhà ngươi muốn công chúa ta làm con dâu thì về bảo con trai tìm cho ta một chum bọ chó và một cái chĩnh dái gà đem đến đây nộp thì ta mới gả công chúa cho.

Mẹ Vàng về nhà thuật lại cho con nghe. Vàng lập tức đi tìm khắp chốn, khắp nơi, nhưng không sao kiếm được một chum bọ chó và một chĩnh dái gà. Chàng buồn rầu khóc bên bờ suối. Bỗng một cụ già râu tóc bạc phơ hiện lên, hỏi:

- Làm sao cháu khóc?

Vàng thưa:

- Mẹ cháu đi hỏi con gái vua cho cháu, vua bảo phải tìm bằng đủ một chum bọ chó, một chĩnh dái gà thì vua mới gả. Cháu đi tìm khắp chốn nơi không được cháu buồn cháu khóc.

Cụ già nói:

- Không lo, cháu về trồng thật nhiều vừng đen và khoai sọ, đợi khi vừng chín, khoai sọ mập cũ, cháu gặt vừng đập lấy hột cho vào chum, rồi bắt mấy con bọ chó rắc lên trên, bịt kín miệng chum lại. Sau đó, cháu đào khoai sọ đem cạo vỏ luộc chín đổ vào chĩnh rồi bắt mấy con gà sống mổ thịt lấy dái nó để trên chĩnh khoai và bịt kín lại đem đi nộp vua.

Y lời, Vàng về nhà làm theo lời cụ dặn. Mấy tháng sau, vừng đã chín, khoai sọ cũng đầy đủ. Vàng làm đúng như lời cụ già và mang đến cho nhà vua.

Vua nhận được đồ lễ bèn mở ngay chum bọ chó nếm thử. Vua khen:

- Úi chao! Ngon quá! Thơm như vừng.

Rồi vua lại mở chĩnh dái gà ăn mấy miếng tấm tắc:

- Tuyệt! Tuyệt! Bùi như khoai sọ.

Ăn hết chum bọ chó và chĩnh dái gà, nhà vua trở mặt:

- Ngươi muốn làm rể ta à? Chưa đủ đâu! Ngươi phải đi kiếm một đôi gà tiên, một trống một mái đem về nộp cho ta thì lúc đó mới nói đến chuyện vợ con.

Vàng tức lắm. Nhưng đành phải đi tìm gà tiên. Được ba ngày, đi mỏi rời chân mà không thấy gà tiên đâu cả. Vàng ôm mặt khóc. Cụ già khi trước lại hiện lên hỏi:

- Làm sao cháu khóc?

Vàng đáp:

- Thưa cụ, vua bảo cháu phải đi tìm một đôi gà tiên, một trống, một mái tới nộp thì vua mới gả con gái cho. Cháu đi tìm ba ngày mà chẳng được.

Nói xong, Vàng lại ôm mặt khóc.

Cụ già bảo:

- Thôi, không khóc nữa. Gần nhà cháu có cái hang đá, bên trong có vợ chồng gà tiên. Hàng ngày cứ đến giờ ngọ, vợ chồng mới ra cửa hang. Gà chồng đứng một bên gáy, gà vợ đứng một bên nghe, cháu đến rình mà bắt. Gà gáy tiếng thứ nhất, chúng xê lại gần nhau, cháu đừng bắt, gáy tiếng thứ hai, chúng xích lại gần nhau hơn, cháu đừng bắt. Đến tiếng thứ ba, chúng sát lại bên nhau, cháu lại bắt cả đôi sẽ có gà tiên nộp vua.

Hôm sau, Vàng tìm đến hang đá ngồi rình. Đúng giờ ngọ bỗng cửa hang từ từ mở ra. Ga trống tiên, gà mái tiên đi ra, mỗi con đứng một bên cửa hang. Gà trống bệ vệ vươn cổ gáy tiếng thứ nhất, chúng xê lại gần nhau. Vàng vẫn ngồi yên. Gáy tiếng thứ hai, đôi gà xích vào nhau tí nữa. Vàng vẫn không nhúc nhích. Gáy tiếng thứ ba, gà trống, gà mái sát lại liền nhau. Lúc đó Vàng mới xông đến chộp lấy chân gà. Nhưng lạ thay, gà khoẻ vô cùng, chúng kéo tay Vàng vào hang, tức thì cửa đóng sập lại. Tay Vàng bị kẹp, đau quá cố rút ra, nhưng càng rút càng đau.

Qua một đêm, bà mẹ ở nhà không thấy con về sốt ruột quá bèn đi tìm. Đi mãi, đi mãi đến hang đá, bà thấy con nằm lăn ở cửa hang, bèn hỏi:

- Sao thế! Sao lại bị kẹp cả tay hả Vàng?

Vàng mếu máo đáp:

- Con tìm được gà tiên rồi. Nó lôi con vào, con vẫn túm chặt chân nó, bị kẹp... mẹ cứu con với!

Mẹ Vàng vừa thương vừa bực, trách con:

- Đấy mẹ đã bảo! Mình là con nhà nghèo ,à đòi lấy con vua. Lần trước vua bắt con nộp bọ, dái gà, lần này lại bắt nộp gà tiên đến nỗi mắc cạn khổ thế này.

Nói xong, bà túm lấy con kéo ra ngoài. Nhưng kéo thế nào cũng không ra. Bà tức quá nói tục một câu. Hang thần nghe không nhịn được, phì cười, cửa hang mở toang chốc lát, Vàng rút được tay, kéo cả đôi gà ra ngoài và trở về nộp vua.

Đến nhà vua, Vàng quỳ xuống mà rằng:

- Muôn tâu Hoàng thượng, thần đi tìm bọ chó, dái gà, gà tiên, con đã tìm đủ rồi, bây giờ vua cho thần được đón công chúa vua về ở với mẹ con thần.

Vua lại bảo:

- Đồ lễ cưới ngươi nộp đủ rồi. Bây giờ ngươi muốn đón vợ thì phải có nhà ở. Trong vùng này, có ông Thạch Long nhà to nhất, đẹp nhất, ngươi về làm được như thế thì hãy đến đây ta mới cho rước dâu.

Vàng lại quay về. Đến nhà Thạch Long, chàng lấy gậy đạp xung quanh nhà để đánh tiếng, Thạch Long nghe có người đạp vào nhà mình, chạy ra hỏi:

- Ai đập gì nhà tôi đấy?

Vàng đáp:

- Vua bảo tôi làm nhà to đẹp như nhà ông thì mới gả công chúa cho. Tôi đến thử đây.

Thạch Long nói:

- Cái hạng mày mà lấy được con vua thì tao nhường lại cái nhà này cho mày ở.

- Ông nói thật hay nói dối?

- Tao nói dối với cái thứ mày làm gì?

Vàng lấy cái đinh đóng vào cột rồi bảo Thạch Long: "Tu mi nam tử, nói thì phải như đnh đóng cột. Tôi đóng cái đinh này để làm chứng".

Vàng đi đến nhà vua xin đón vợ về nhà mới. Hàng xóm láng giềng rậm rịch theo sau, thổi kèn, đánh trống, chuyện trò vui vẻ. Đến nhà Thạch Long, Vàng gọi Thạch Long và bảo:

- Tôi đón dâu về rồi, ông dọn nhà đi nơi khác cho vợ chồng tôi ở.

Thạch Long mắng:

- Nhà của tao sao mày lại đuổi tao đi?

Vàng vặn lại:

- Hôm nọ ông nói gì với tôi. Đinh đóng cột còn kia. Ông ở được thì ông ở cái nhà này. Không nhổ được thì ông đi nơi khác.

Thạch Long cố hết sức nhổ nhưng không được, phải đi nơi khác.

Vàng đưa vợ về nhà Thạch Long, rồi cả hai vợ chồng cùng đi đón mẹ. Khi vợ Vàng đến, mẹ Vàng không tin, hỏi:

- Cô là ai mà đến đây đón tôi?

Vợ Vàng thưa:

- Con là con dâu của mẹ. Vợ chồng con về đón mẹ đến ở với chúng con.

Mẹ Vàng trông thấy Vàng mới tin, bèn theo hai con đi ở nhà mới. Từ đấy gia đình mẹ Vàng thêm một người con dâu biết dệt vải giỏi. Nàng cũng rất mực thương quý mẹ chồng.

Năm sua, có giặc vua nước bên sang cướp. Vàng được vua cha sai đi đánh. Chàng bàn cùng với quân lính lấy rơm bện hàng nghìn hàng vạn người giả đem cắm khắp ngả đường, chờ giặc. Giặc đến, thấy bên Vàng quân sĩ hăng hái, lại đông hàng nghìn, hàng vạn, bèn rút lui.

Nhà vua thấy con rể tài giỏi, làm giặc lui không phải đánh, liền nhường ngôi cho.

Từ đó dân bản yên ổn làm ăn. Vợ chồng Vàng sống hạnh phúc bên nhau.

2__Chú thỏ tinh khôn

Từ ngày xửa ngày xưa đồng bào người Việt gốc Khơ Me ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn thường kể chuyện về một chú thỏ tinh khôn. Chuyện của chú nhiều và dài lắm, vì trí khôn của chú lớn và chiến công của chú kể hết năm này qua năm khác không thể hết được.

Một hôm thỏ đang nằm ngủ dưới một gốc cây sung. Bỗng một quả sung chín rụng rơi đánh bốp một cái giữa đầu thỏ. Vốn nhát, thỏ giật bắn mình chồm dậy và chạy. Chạy như gió cuốn, chạy như bay. Hổ thấy thỏ chạy thì cản đường hỏi tại sao thỏ chạy. Thỏ trợn mắt nói:

- Không chạy thì chết mất ngáp. Đất đang sụt dưới chân ầm ầm kia kìa... Chạy đi thôi...

Hổ nghe hoảng hồn, cũng cắm đầu chạy đứt hơi đuổi theo thỏ. Nhưng hổ làm sao mà đuổi kịp.

Thỏ chạy trước còn hổ thì vừa chạy vừa thở phì phò như kéo bễ. Thần Gió Giêvata cười phì bảo:

- Hổ ơi sao mày to xác thế mà để thằng thỏ nhãi ranh nó lừa mày. Đất có bao giờ sụt đâu mà cần phải chạy.

Nghe thần gió, hổ tin ngay liền tìm thỏ để trừng phạt cho bõ tức. Nhưng thỏ bình tĩnh hỏi:

- Bác hổ ạ, bác ăn thịt cháu cũng được thôi, nhưng phiền một nỗi là toàn thể loài vật vừa bầu cháu làm vua rồi. Bác từ nay cũng phải coi cháu là vua. Nếu bác không tin bác cứ thử đi với cháu mà xem. Chắc hơn hết bác cứ để cháu ngồi lên lưng, ta đi dạo một vòng, nếu không đúng là các loài sợ oai vua của cháu thì bác cứ việc ăn thịt.

Hổ ngờ ngệch bằng lòng cõng thỏ đi một vòng rừng, đi đến đâu trăm loài đều sợ sệt bỏ chạy. Họ chạy vì hổ mà hổ cứ tưởng họ sợ oai thỏ thật. Lúc ấy thỏ mới ra oai quát hổ rằng:

- Nhà ngươi thấy chưa! Trăm loài trong rừng đều sợ ta. Thế mà nhà ngươi còn dám láo với ta. Lần này thì ta tha, vì nhà ngươi chưa biết oai của ta là vua của núi rừng, lần sau ta sẽ trị tội nghe không!...

Hổ sợ quá đành vâng lời.

Lừa hổ xong, thỏ cũng bỏ trốn luôn, nhưng vì bụng đói, thỏ muốn trở lại bãi cỏ xanh non bên bờ suối. Thỏ đã định phóng mình chạy ra đấy nhưng chợt nhớ lần trước mình đã lừa cá sấu nếu ra cá sấu có thể giết chết mình mất. Thỏ sợ đành gậm cỏ trong rừng vừa già vừa khô. Ăn mãi chán quá, thỏ tự nhủ có thể cá sấu quên chuyện cũ rồi chăng. Ra đến nơi thấy cá sấu bận ngủ không để ý gì đến thỏ, thỏ càng tin là cá sấu đã quên chuyện cũ thật. Ai ngờ cá sấu cũng rất cao tay, lừa thỏ đến gần bèn chẳng nói chẳng rằng há mồm ra đớp gọn, chỉ còn chờ nuốt vào trong bụng nữa là hết đời con thỏ tinh khôn. Thỏ sợ quá, rụt rè hỏi:

- Này bác cá sấu, bác có định ăn thịt cháu thì ăn nhanh lên cứ ngậm mãi làm gì, cháu sợ lắm.

Cá sấu cười mím miệng:

- Hút... hút... hút... tao sẽ làm cho mày sợ chết khiếp... chết khiếp... chết khiếp... trước khi nuốt mày vào bụng... hút... hút... hút...

Thỏ nhận ngay ra rằng muốn giữ mồm, mõm cá sấu dài phải mím chặt nên chỉ cười hút... hút được mà thôi... Thế là thỏ ta cười vang:

- A ha, buồn cười quá... buồn cười quá... cá sấu ngọng nên cứ phải kêu hút... út... làm sao ta sợ được... Muốn ta sợ mày phải cười ha... ha... cơ... chứ thế này thì buồn cười đến đứt ruột mất thôi.

Cá sấu tức quá quát:

- Tao mà ngọng à... thằng thỏ ranh... nghe đây... dỏng tai mà nghe ta cười đây... ha... ha... ha...

Để cười ha ha cá sấu phải ngoác miệng ra, thế là lập tức thỏ nhảy tót ra khỏi mệng cá sấu và quay lại dạy cá sấu rằng:

- Này thằng cá sấu ngu ngốc kia... Nghe đây... Từ nay trong miệng đang ngậm mồi thì chớ có cười ha ha nghe không...

Dứt lời thỏ chạy vào rừng.

Một lần có người muốn thử tài của thỏ, bèn đưa cho thỏ một cái đơn kiện vô cùng tối nghĩa. Đơn viết rằng: "Cách đây ít lâu, có người lấy trộm của tôi một con trâu. Không phải trâu đực cũng không phải trâu cái. Không phải năm ngoái cũng không phải năm nay, người lấy không phải họ hàng, cũng không phải người ngoài".

Thỏ chuyển đơn kiện lên các quan, các quan đều ngơ ngác chẳng thể nào hiểu được lá đơn kiện nói gì, phải nhờ thỏ giảng giải rằng:

- Vụ mất xảy ra vào đêm ba mươi Tết. Vì đêm đó có thể gọi là đêm cuối cùng của năm ngoái, nhưng cũng có thể coi là ngày đầu tiên của năm nay. Còn con trâu bị mất trộm không phải là trâu đực cũng không phải là trâu cái chỉ có thể là trâu thiến. Mà kẻ lấy trộm dứt khoát là thằng rể. Vì chỉ có thằng rể mới không phải là người trong nhưng lại không phải là người ngoài họ.

Nghe thỏ giải thích các quan toà đề phải kính phục. Lúc đó, quan toà đang đau đầu về một vụ kiện không cách nào xử được, vội xin thỏ xử giùm. Vụ kiện đầu đuôi như sau:

Có một người cưới vợ. Anh ta yêu quý vợ đến nỗi suốt ngày chẳng muốn rời nửa bước. Nhưng rồi đến buổi loạn ly anh phải đăng lính, không đi không được. Người vợ tiễn chồng đi hết đường này đến đường khác không nỡ rời tay. Đến mãi gốc cây đa kia, người chồng mới dừng lại tâm sự biết bao nhiêu điều, mãi đến khi trống thúc quân vang dậy, loa thét động trời, người chồng mới đành dứt áo ra đi. Không ngờ ở gốc đa có một con yêu tinh. Nó nghe hết mọi điều tâm sự của hai vợ chồng, lại thấy người vợ xinh đẹp, nó đành nghĩ ra một kế độc. Vài hôm sau nó bèn giả dạng thành người chồng vác gươm, giáo về quê hương nói rằng vua không bắt lính nữa. Vì biết tất cả mọi điều riêng tư của hai người nên con yêu tinh làm cho người vợ cứ yên trí đây là chồng mình thật không một chút nghi ngờ gì.

Người chồng sau một thời gian chinh chiến được hồi hương, anh mừng lắm vội vã về nhà đập cửa gọi vợ. Người vợ mở cửa thì thấy lạ quá, ngoài cửa cũng là chồng mình. Người chồng trong nhà quát hỏi người chồng ngoài cửa rằng:

- Mày ở đâu mà dám giả dạng là tao để nhận xằng vợ tao.

Người chồng mới về uất ức vặn lại:

- Người đàn bà này chính là vợ tao, tao mới cưới được vài ngày thì phải đăng lính. Mày ở đâu đến mà dám nhận xằng vợ tao là vợ mày.

Hai bên cãi nhau chẳng bên nào chịu bên nào, đến người vợ cũng đành chịu, vì hai người giống nhau quá, không thể nào phân biệt được ai là chồng thật ai là chồng giả.

Việc đưa lên quan, quan cũng đành chịu. Vừa may có thỏ ta nổi tiếng quan toà, nên chính quan toà nhờ thỏ xử hộ.

Thỏ bèn hỏi hai người chồng rằng:

- Ai là chồng thật của người đàn bà này?

Cả hai người đều tranh nhau nhận. Thỏ gật gật đầu ra vẻ suy nghĩ rồi bảo cả hai người rằng:

- Nếu là chồng thật thì phải biết trong cái hũ nào của vợ giấu một viêm kim cương. Chị vợ đâu mang hết hũ nhà chị ra đây!

Người vợ ngạc nhiên vì mình có giấu kim cương vào hũ bao giờ đâu, nhưng nghe lệnh của thỏ, chị cũng đành khuân hết các hũ nhà mình ra trước toà. Bấy giờ thỏ mới bảo rằng:

- Ai trong hai người không dùng tay, không được chạm vào hũ mà chui vào trong hũ ngậm được viên kim cương ra thì người đó chính là chồng người đàn bà này.

Nghe lệnh như thế, quỷ ta mừng lắm, bèn rùng mình, chui ngay vào hũ đầu tiên, thỏ ta bèn ra lệnh cho người chồng thật bịt ngay miệng hũ lại, mang vứt xuống sông. Quan toà ngơ ngác, thì thỏ cười mà rằng:

- Phải vứt nó đi thôi, giam nó vào hũ vì nó là yêu tinh. Chỉ yêu tinh mới có thể chui vào trong hũ. Thôi hai vợ chồng anh về nhà đi. Đừng chần chừ ở đây mà quan toà ác hơn cả yêu tinh lại cướp mất vợ của anh, thì thỏ tôi cũng đành bó tay không còn cách gì giúp nữa đâu.

Dứt lời thỏ nhảy tót vào rừng làm cho đám quan toà tức điên lên mà chẳng kịp làm gì cả...

3__Anh chàng nghèo khổ

Ngày xưa có hai mẹ con nhà nọ nghèo rớt mồng tơi, anh chàng lang thang đi kiếm việc làm nhưng chả có ai cho thuê cả. Mãi sau, có một chủ thuyền buôn thấy anh khoẻ mạnh, lại biết bơi lội mới thuê anh về làm thuỷ thủ, hắn hứa cho anh cơm một ngày ba bữa và một năm bốn mươi quan tiền trả trước. Anh chàng tưởng không có nỗi mừng nào hơn thế nữa, vội cầm ba mươi quan về cho mẹ tiêu, còn mười quan thì mang theo định để dành may mặc.

Thuyền cất hàng, vượt biển luôn năm ngày đến một thị trấn lớn. Trên bến người mua kẻ bán chen chúc như hội. Bọn thuỷ thủ bảo chàng:

- Ở đây buôn thứ gì cũng được. Cứ mua một ít đưa về quê nhà bán là tự khắc có lãi.

Anh chàng xưa nay không quen buôn nên cầm mười quan tiền trong tay, chưa biết nên mua thứ hàng gì. Bỗng chốc, anh thấy có một người mang ra bến một con chó bị trói toan vứt xuống sông. Lấy làm thương, anh vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Người ấy cho biết chó này là của chủ mình. Hôm nay chủ đi chợ mua thịt dọn tiệc, không rõ cất đặt thế nào để chó ăn vụng mất cả. Chủ tức giận trói chó đánh một trận thừa sống thiếu chết rồi sai đi bỏ sông. Nghe kể thế, anh chàng xin mua lại con chó. Người kia cười mà rằng:

- Nó chỉ chuyên môn ăn vụng, anh mua về làm gì?

Chàng nghèo đáp:

- Thây kệ, cứ bán nó cho tôi đi!

Cuối cùng anh chàng xỉa ra ba quan mua lại con chó. Anh cởi trói cho nó rồi xích lại bên chỗ mình làm việc.

Sau đó một chốc, anh lại trông thấy có một người đàn bà mang một con mèo toan vứt xuống sông. Anh chàng vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Khi biết tội trạng của mèo cũng chỉ là ăn vụng, anh nài nỉ để con vật lại cho mình. Thấy người đàn bà khuyên không nên mua thứ mèo xấu nết, anh không nghe và nói:

- Thây kệ! Chị cứ bán cho tôi đi!

Thế là cuối cùng mèo cũng thoát chết. Và người chủ mới của nó sau khi xỉa ra ba quan để mua, đem buộc lại gần bên con chó. Ngồi một mình trên thuyền, thấy buồn, anh chàng bèn bỏ thuyền lên bộ đi dạo bờ sông. Bỗng chốc anh thấy có ba đứa trẻ chăn trâu bắt được một con rắn nước, toan dùng roi xử tội. Anh chàng vội chạy lại ngăn cản:

- Các em đừng đánh nó, nó là rắn nước, có làm hại ai đâu?

- "Mặc kệ chúng tôi" - bọn trẻ đáp, rồi lại tiếp: "Chúng tôi bắt được nó, chúng tôi đánh, ông cản làm gì?"

Thấy bọn chúng khăng khăng cố tình giết rắn, anh chàng lại dùng tiền để cứu con vật vô tội. Chúng đòi năm quan. Mãi sau anh mới bớt được một. Thế là tất cả số tiền mang theo lần lượt vơi đến hết. Mua được con rắn, anh vội thả xuống sông cho nó trở về xứ sở. Bọn thuỷ thủ khi nghe anh kể lại những việc mua bán của mình, thì đều cười ngất, cho là một người khờ dại ít có. Anh chỉ ngồi lặng yên, không nói gì cả.

Khi thuyền bắt đầu trở về vào khoảng nửa đêm, anh đang chèo bỗng thấy con rắn nước từ dưới sông bơi lên trao cho mình một viên ngọc mà nói:

- Cha tôi là Long Vương cảm ơn anh cứu mạng tôi, cho tôi đem biếu anh viên ngọc "băng xuyên" để mời anh xuống chơi. Mang ngọc vào mình, anh có thể đi được dưới nước cũng như đi trên bộ.

Anh chàng nghe nói vội vàng đi theo con rắn nước xuống thuỷ phủ. Quả nhiên anh được Long Vương tiếp đãi rất hậu, và biếu anh ngọc vàng châu báu rất nhiều. Sau đó, anh được người của Long Vương đưa về đến tận nhà.

Chủ thuyền thấy anh mất hút, tưởng anh đã rơi xuống nước, bèn đỗ thuyền lại trình xã sở tại. Nhưng khi mọi người về đến quê hương thì họ rất lấy làm ngạc nhiên vì anh thuỷ thủ trẻ đã về đến nhà ba ngày trước rồi.

Từ đó anh trở nên giầu có. Nhưng anh vẫn sống một cuộc đời bình thường với mẹ già. Con chó, con mèo được anh cứu vẫn theo anh không rời. Về sau, anh lấy vợ. Vợ anh là một cô gái rất đẹp. Nàng rất thích đeo nữ trang. Thấy viên ngọc "băng xuyên" chiếu sáng một góc tủ, nàng thích lắm, nên một hôm lấy trộm mang đến cho một người thợ kim hoàn, bảo đánh cho mình một chiếc nhẫn. Không ngờ, người thợ kim hoàn biết là ngọc quý ít có trong thế gian, bèn đi kiếm một viên khác tương tự như thế đánh tráo mà cướp lấy bảo vật.

Khi biết rõ chuyện mất cắp thì anh chàng thuỷ thủ trở nên buồn bã. Hàng ngày anh ra bờ sông, mong tìm lại con rắn nước nhưng chả làm sao gặp được. Chó và mèo thấy chủ không vui, một hôm nói với chủ xin đi tìm viên ngọc.

Đường đi đến nhà người thợ kim hoàn phải qua một con sông rộng. Không có cách gì để vượt cả, hai con vật cứ loanh quanh ở trên bờ. Về sau chúng nó tìm được vào nhà một con rái cá và nhờ nó đưa giúp qua sông. Rái cá vui lòng gọi cho các bạn bè của nó đứng sát vào nhau, kết thành một cái bè cho chó và mèo ngồi lên lưng, chở qua sông yên lành.

Khi đến nhà người thợ kim hoàn, mèo bảo chó:

- Để tao trèo lên nóc nhà kêu lên mấy tiếng cho những con chó trong xóm xúm lại sủa. Thế là mày cứ đường hoàng theo cổng mà vào, không ai biết.

Quả nhiên, bầy chó của nhà người thợ kim hoàn nghe mấy tiếng mèo kêu vội xông ra đuổi. Mèo dẫn chúng đi thật xa nên chó ta lẻn vào nấp dưới cái hầm, vô sự.

Khi hai con vật gặp lại nhau, chúng tìm tòi khắp trong nhà. Tất cả của cải của lão kim hoàn đều bỏ trong cái rương xe, luôn luôn khoá kín, không dễ gì lọt vào được. Mèo bèn cố sức tìm, chụp bắt được một con chuột. Chuột van lạy xin tha mạng. Mèo bảo nó dẫn mình đến gặp chuột chúa đàn. Mèo nói rõ việc mình đến đây và nhờ hắn giúp mình lấy cho được viên ngọc, đổi lại mèo hứa sẽ không chạm đến gia tộc nhà hắn. Chuột chúa đàn vâng dạ rối rít.

- Để tôi bảo lũ con cháu, tôi tớ trong nhà khoét chiếc rương ra, tìm cho các ông.

Nhưng đến khi lọt vào được rương, lũ chuột tìm mãi vẫn không thấy ngọc. Chuột chúa đàn ra báo cho mèo biết, và nói:

- Trong rương này có một cái hộp bằng bạc. Có lẽ nó giấu trong đó; Cái hộp đó thì khó lòng mà gặm được.

- Vậy làm thế nào bây giờ? - mèo hỏi.

- Chỉ có cách là chúng tôi sẽ nhờ xóm giềng hợp sức cùng chúng tôi khoét rộng lỗ thủng làm sao đưa lọt cái hộp ấy ra đây cho các ông tìm.

- Thế thì làm gấp đi.

Chỉ trong một đêm, cả xóm nhà chuột đã lấy được cái hộp đưa cho mèo. Hai con vật tìm cách phá hộp ra, quả thấy viên ngọc của chủ. Chúng vô cùng mừng rỡ.

Sau khi ra khỏi nhà người thợ kim hoàn, chó tranh mèo mang ngọc. Nhưng đến lúc sắp sửa sang sông, vì mắng nhau với một con chó khác, nên chó đã lỡ làm cho ngọc văng xuống nước. Một con cá trông thấy ngọc vội bơi tới đớp và nuốt ngay.

Thấy chó để mất ngọc, mèo giận quá, mắng cho một trận thậm tệ. Chó biết lỗi, lặng thinh, cuối cùng mếu máo:

- Biết làm sao bây giờ?

Suy nghĩ một lát, mèo tìm được một kế bảo chó:

- Chúng ta sẽ tìm đến nhà thuyền chài ở vùng này xin ở với họ. Thế rồi chờ khi họ câu được con cá đã nuốt viên ngọc thì sẽ kiếm cách cướp lấy đem về.

Chó khen mưu kế hay, bèn cùng mèo tìm đến một gia đình ông chài đang đỗ thuyền lại ở bờ sông phơi lưới. Hai con vật tỏ ra rất khôn ngoan, hiền lành nên được cả nhà đối đãi tử tế.

Mấy hôm sau, ông chài đánh mẻ lưới được một con cá chày rất lớn, mổ ruột ra, thấy có viên ngọc. Chó và mèo khấp khởi mừng thầm. Trong khi cả nhà đang trao ngọc cho nhau để xem của lạ, thì mèo tiến lại cọ vào người chủ. Nhân khi chủ sơ ý, nó nhảy lên ngoạm lấy viên ngọc và lập tức cong đuôi nhảy lên bờ chạy mất. Thấy thế, chó cũng ba chân bốn cẳng chạy theo trước con mắt ngơ ngác của mấy bố con nhà ông chài.

Lần này mèo tranh chó mang ngọc. Mèo lên mặt, bảo chó:

- Lần trước ngậm bị rơi mất, lần này có cách rất hay là đội lên đầu. Sắp đến nhà rồi, chả sợ gì nữa.

Nó nói thế nào thì làm như thế.

Nào ngờ mới đi được một quãng đường, bấy giờ có một con quạ đang bay trên đầu mèo, thình lình sà xuống đớp lấy rồi bay lên đậu trên cành cao. Thấy ngọc lại mất, đến lượt chó mắng mèo rất dữ, rồi nói:

- Ngọc rơi xuống nước còn có thể lấy lại được, chứ bay lên trời thì đừng có hòng.

Mèo buồn rầu, nhưng ngẫm nghĩ một lát, nó lại bảo chó:

- Đúng rồi. Tao đã nghĩ ra được một kế.

Chó hỏi:

- Kế gì?

Mèo đáp:

- Giả chết bắt quạ.

Nói xong mèo chạy xuống bờ sông uống một bụng nước đầy căng. Đoạn trở về xua chó trốn đi một chỗ, còn mình thì tới gốc cây phơi bụng trắng hếu giả vờ chết. Quạ đang ngậm ngọc, đậu trên cây cao nhìn xuống thoáng thấy có bóng con vật chết, vội vàng bay xuống toan rỉa thịt. Nhưng khi quạ vừa xáp lại thì mèo đã nhảy xổ lên vồ lấy Quạ. Quạ van lạy xin trả lại viên ngọc cho mèo để được tha mạng. Mèo chỉ đợi có thế, ngoạm lấy viên ngọc ra đi.

Lần này, cả hai con đưa ngọc về đến nhà vẹn toàn. Anh chàng thuỷ thủ lấy lại được món tặng vật của Long Vương, hết sức vui mừng càng thêm quý mến hai con vật có tình có nghĩa.

4__Trí khôn của ta đây!

Một con cọp từ trong rừng đi ra, thấy một anh nông dân cùng một con trâu đang cày dưới ruộng. Trâu cặm cụi đi từng bước, lâu lâu lại bị quất một roi vào mông. Cọp lấy làm ngạc nhiên lắm. Ðến trưa, mở cày, Cọp liền đi lại gần Trâu hỏi:

- Này, trông anh khỏe thế, sao anh lại để cho người đánh đập khổ sở như vậy?

Trâu trả lời khẽ vào tai Cọp:

- Người tuy nhỏ, nhưng người có trí khôn, anh ạ!

Cọp không hiểu, tò mò hỏi:

- Trí khôn là cái gì? Nó như thế nào?

Trâu không biết giải thích ra sao, đành trả lời qua quýt:

- Trí khôn là trí khôn, chứ còn là cái gì nữa? Muốn biết rõ thì hỏi người ấy!

Cọp thong thả bước lại chỗ anh nông dân và hỏi:

- Trí khôn của anh đâu, cho tôi xem một tí có được không?

Anh nông dân suy nghĩ một lát rồi nói:

- Trí khôn tôi để ở nhà. Ðể tôi về lấy cho anh xem. Anh có cần, tôi sẽ cho anh một ít.

Cọp nghe nói, mừng lắm.

Anh nông dân toan đi, lại làm như sực nhớ ra điều gì bèn nói:

- Nhưng mà tôi đi khỏi, lỡ anh ăn mất trâu của tôi thì sao?

Cọp đang băn khoăn chưa biết trả lời thế nào thì anh nông dân đã nói tiếp:

- Hay là anh chịu khó để tôi buộc tạm vào gốc cây này cho tôi được yên tâm.

Cọp ưng thuận, anh nông dân bèn lấy dây thừng trói cọp thật chặt vào một gốc cây. Xong anh lấy rơm chất chung quanh Cọp, châm lửa đốt và quát:

- Trí khôn của ta đây! Trí khôn của ta đây!

Trâu thấy vậy thích quá, bò lăn ra mà cười, không may hàm trên va vào đá, răng gãy không còn chiếc nào.

Mãi sau dây thừng cháy đứt, Cọp mới vùng dậy ba chân bốn cẳng chạy thẳng vào rừng không dám ngoái nhìn lại.

Từ đó, cọp sinh ra con nào trên mình cũng có những vằn đen dài, vốn là dấu tích những vết cháy, còn trâu thì chẳng con nào có răng ở hàm trên cả.

5__Quả bầu kỳ lạ

Tờ Chú (có nghĩa là anh đen) nghèo nhất làng. Họ nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có một con dao mẻ để phát nương, một cái thuổng để đào củ mài. Tờ Chú phải đi ờ cho chủ làng để lấy cơm gạo nuôi thân, nuôi mẹ.

Nhà chủ làng giàu lắm, trâu hàng đàn, voi hàng lũ, ruộng chim bay mỏi cánh, muông thú chạy chồn chân không hết. Tờ Chú không ao ước gì hơn ngoài mảnh ruộng, đám nương để cấy lúa, trồng ngô nuôi mẹ.

Một hôm Tờ Chú nói vơi chủ làng:

- Tôi không muốn ở thuê cho chủ làng mãi. Tôi muốn có một mảnh ruộng, một đám nương. Chủ làng có thể cho tôi một khoảng rừng để tôi phái nương, vỡ ruộng được không?

Chủ làng nghe chàng trai nói vậy, lắc đầu.

Nhiều lần Tờ Chú hỏi xin nhưng không lần nào chủa làng trả lời cả. Một hôm chủ làng đang uống rượu, Tờ Chú lại vào xin. Hắn bực mình chỉ lên dãy núi xanh xanh phía chân trời và nói:

- Thôi được, mày đã muốn thì tao cũng chẳng tiếc nữa. Nếu mày có sức thì cả dãy núi kia, tha hồ cho mày phát.

Nghe chủ làng nói thế, Tờ Chú sung sướng quá, vội chạy về báo tin cho mẹ biết. Mẹ khuyên:

- Con chớ nên đi, dãy núi hoang kia là chỗ ở của hùm beo, rắn rết. Con lên đấy sẽ bị chết mất xác. Rồi đây, ai thay con nuôi nấng, chăm sóc mẹ?

Tờ Chú an ủi:

- Mẹ không lo. Hùm beo con chẳng sợ, rắn rết con chẳng kinh. Chủ làng đã cho đất, nhất định con sẽ phát được nương, vỡ được ruộng.

Thấy con quả quyết, người mẹ cũng không can ngăn nữa. Sáng hôm sau, Tờ Chú từ biệt mẹ lên đường. Chàng cứ nhắm hướng núi xanh trước mặt mà đi. Đi mãi, suốt chín ngày, chín đêm liền không nghỉ, ngày thứ mười, Tờ Chú đến chân núi. Đó là một khu rừng rộng bạt ngàn, cây to cây nhỏ chen nhau kín mặt đất. Chàn dùng tay không bẻ gãy cây nhỏ, lấy đá đập đổ cây to. Qua chín ngày, chín đêm nữa, Tờ Chú đã khai phá được một khu đất rộng. Đến ngày thứ mười, anh bỗng thấy một con chim gõ kiến bay đến nói:

- Nghĩ tay một tý đã, Tờ Chú. Tôi có câu chuyện muốn nói vơi anh. Hãy để cho loài chim chúng tôi ít cây để làm tổ. Rẫy của anh đã dài hơn rẫy chủ làng rồi đó. Tôi bay rã cả cánh ra rồi mà vẫn không hết đám rẫy anh vừa phát.

Nghe chim gõ kiến nói, Tờ Chú ngưng tay không phát theo chiều dọc nữa. Chàng quay lại phát chiều ngang. Cũng đến ngày thứ mười thì chàng thấy một con nai vàng từ trong rừng chạy ra, nói:

- Rẫy của anh rộng gập đôi rẫy của chủ làng rồi. Tôi chạy đã mỏi cả gối mà vẫn không hết. Anh hãy dành chỗ đất cho loài thú chúng tôi.

Tờ Chú nghe lời nai, ngừng tay. Đúng là rẫy của chàng bề dài hơn rẫy của chủ làng, bề ngang rộng hơn rẫy chủ làng. Từ nay, gia đình chàng sẽ có ngô, lúa. Tờ Chú đập đá lấy lửa đốt rẫy. Xong việc, chàng về bản lấy thóc giống lên gieo. Nhưng khi về đến nhà, bao nhiêu thóc giống, mẹ chàng đã ăn hết cả rồi. Chàng hỏi vay các nhà trong bản, nhưng chẳng ai còn thóc cho chàng vay. Cùng đường, Tờ Chú phải đến nhà chủ làng vay thóc giống. Tên chủ làng nham hiểm cho chàng vay loại thóc đã luộc chín rồi. Tờ Chú không biết cứ mang lên rẫy gieo. Không thấy lúa mọc, chàng lại đến nhà chủ làng vay lần nữa. Chủ làng nói:

- Giàng không cho mày sướng đâu ,Tờ Chú ạ. Mày đừng phí công vô ích. Nếu lần này mày gieo không mọc thì đúng là cái số mày như vậy. Mày lại đến ở thuê cho tao thôi.

Đúng như chủ làng nói, lần thứ hai, Tờ Chú gieo lúa vẫn không mọc. Nhìn cả đám rẫy, cỏ đã bắt đầu mọc, cây non đã đâm chồi. Tờ Chú buồn quá ngồi khóc. Chắc là Giàng không muốn cho mẹ con chàng có gạo cơm, bỗng thấy một quả bầu khô từ đâu trôi đến, đụng vào chân. Bực mình, chàng đá quả bầu cho trôi theo dòng nước, nhưng nó lại trôi trở lại, đụng vào chân chàng. Hai ba lần như vậy, Tờ Chú nghĩ: "Hay là mình trồng bầu ăn vậy. Ăn bầu người cũng sống được. Nếu không, mình chỉ còn cách là lại đi làm thuê cho chủ làng".

Nghĩ vậy, chàng vớt quả bầu lên rồi về nhà từ biệt mẹ lên rẫy trồng bầu. Đến nơi, chàng ghè quả bầu vào đá, lấy hạt rắc khắp rẫy.

Hôm sau, ra xem rẫy. Tờ Chú hết sức kinh ngạc vì rẫy của chàng đã là một rừng bầu. Hôm sau nữa, bầu đã ra hoa và ngày thứ ba thì khắp rẫy lố nhố những quả.

Tờ Chú mừng quá, hái một quả về nướng ăn thì thấy rất thơm ngon. Sung sướng quá, chàng reo lên:

- Sống rồi, ta sẽ mang bầu về cho mẹ, chắc là mẹ mừng lắm.

Nhưng khi ra đến rẫy định hái bầu về cho mẹ thì cả rẫy bầu đã úa vàng. Quả bầu mới hôm qua xanh mơn mởn, hôm nay đã khô đét. Tờ Chú đi đi lại lại khắp rẫy, nhìn những quả bầu khô, nước mắt cứ trào ra. Chàng nghĩ: "Giàng không cho ăn bầu tươi, thì lấy hạt bầu về cho mẹ ăn cầm hơi vậy". Chàng liền hái một quả ghé vào đá. Quả bầu vỡ đôi, tung ra không biết cơ man nào là hạt, nhưng không giống những hạt bầu mà là một thứ hạt nhỏ, vỏ cứng. Tờ Chú nhìn kỹ thì đúng là hạt thóc. Thóc cứ chảy rào rào như thác nước. Kinh ngạc quá, chàng đập thử quả thứ hai rồi quả thứ ba, quả nào cũng đầy những thóc là thóc. Tờ Chú mừng quá vội đi hái bầu, chất từng đống vào chòi rồi gùi thóc về nhà cho mẹ.

Đến nhà, thấy mẹ đang nằm co quắp bên đống lửa tàn, da bọc lấy xương vì đói. Tờ Chú hốt hoảng lay gọi mẹ.

- Mẹ ơi, có lúa gạo rồi. Con đem về đây, mẹ dậy mà ăn.

Người mẹ mở mắt, trông thấy con, nước mắt cứ trào ra. Đến khi nhìn thấy gùi thóc bên bếp bà lại nhắm mắt lại và nói.

- Con đem bán thóc trả cho người ta, con ạ. Mẹ không nở ăn cơm gạo không phải do sức của mẹ con ta làm ra. Thà là mẹ chết còn hơn ăn phải của ăn trộm, ăn cắp.

- Mẹ ơi, thóc của nhà ta đấy mà. Tờ Chú vội nói.

Người mẹ vẫn lắc đầu:

- Con đi gieo lúa, lúa không mọc. Con đi gieo bầy, bầy ăn được thì Giàng lại làm cho héo đi. Thế mà con bảo là thóc của rẫy nhà ta thì mẹ tin sao được.

- Nếu mẹ không tin thì để con cõng mẹ lên rẫy xem, mẹ sẽ rõ.

Không đợi mẹ trả lời, Tờ Chú nâng mẹ dậy, sốc bà cụ lên lưng cõng đi. Chàng đi như bay, phút chốc đã đến chòi giữa rẫy. Chàng đặt mẹ nằm bên bếp lửa rồi lấy một quả bầu, ghè vào đá. Thóc từ trong quả bầu rào rào chảy ra như thác nước. Người mẹ thấy vậy, mắt sáng lên:

- Giàng giúp mẹ con ta rồi con ơi.

Từ ngày có rẫy bầy kỳ lạ, mẹ con Tờ Chú trở nên no đủ. Dân dưới bản bị đói, kêu nhau lên rẫy đào củ, được mẹ con chàng cho thóc, nhờ vậy mà qua được nạn đói.

Chủ làng nghe tin Tờ Chú nhờ phát rẫy trên núi trồng bầy mà có dư lúa gạo, bèn tìm cách đòi nợ. Tờ Chú trả rất sòng phẳng hàng chục quả bầu, chủ làng hí hửng màng bầy về, chắc mẩm phen này sẽ suốt đời dư thóc gạo. Nhưng khi đập bầu ra thì quả nào cũng toàn sỏi cát. Chủ làng tức giận nhưng không làm gì được chàng trai. Còn mẹ con Tờ Chú từ đó trở đi không bao giờ bị đói như xưa nữa.

6__Rể trăn

Xưa, có một bà sinh được ba người con gái. Một hôm bà đi bắt cá ngoài đồng, giữa lúc đang mò cá, bỗng có một con trăn bò đến quấn vào chân bà. Bà sợ hãi kêu lên, trăn nói:

- Nếu bà muốn tôi thả ra thì phải gả cho tôi một trong ba đứa con gái của bà. Nếu không tôi sẽ cắn chết.

Khi ấy có một người đi ngang qua, bà nhắn về gọi giúp ba đứa con gái ra cứu mình.

Một lúc sau thì ba người con gái đến. Bà gọi đứa con gái đầu lại gần, và nói rằng:

- Cả ơi, trăn quấn chân mẹ, con hãy thuận lòng lấy trăn để nó thả mẹ ra, nếu không trăn sẽ cắn chết mẹ.

Con gái cả nhìn thấy con trăn to tướng thì sợ chết khiếp, nghe mẹ nói vậy bèn vội vàng trả lời:

- Làm gì lại có chuyện người lại lấy trăn, con sợ lắm, con không ưng đâu.

Bà mẹ lại gọi đứa con thứ hai mà than rằng:

- Thứ ơi, mẹ bị trăn quấn chặt vào chân đau lắm, con bằng lòng lấy trăn để mẹ được thả ra đi con, nếu không mẹ chết mất.

Đứa con thứ hai cũng trả lời nhừ đứa con gái đầu.

Cô út thấy hai chị đều một mực từ chối, mà lòng thì rất mực thương mẹ, nàng bèn nói với trăn rằng:

- Trăn ơi, hãy buông thả mẹ tôi ra, tôi sẽ bằng lòng lấy anh.

Nghe nói vậy, trăn liền buông chân bà mẹ ra.

Đêm đó, người chị cả rình xem việc gì sẽ xảy ra giữa trăn và em mình. Nàng rất đỗi ngạc nhiên thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú ở trong phòng và đang nói chuyện với em gái út chứ không thấy trăn đâu cả.

Sáng hôm sau nàng cả đem chuyện đó kể cho mẹ nghe, và xin mẹ đi hỏi một con trăn về cho nàng. Vài hôm sau, có một con trăn to bò vào phòng của cô gái lớn. Nửa đêm hôm đó bỗng cô gái kêu lên:

- Mẹ ơi, con sắp chết, trăn đã nuốt đến lưng con rồi, cứu con với mẹ ơi!

Không biết rằng trăn có thể nuốt được người, bà mẹ lại khuyên con rằng:

- Cố chịu đi con, rồi con sẽ được chồng đẹp trai, giàu sang hơn người.

Sáng hôm sau, bà mẹ không thấy co gái lớn thức dậy bèn sinh nghi. Bà mở cửa nhình vào thì thấy một con trăn nằm dài, bụng trương phình. Bà khóc than, kể lể. Lúc bấy giờ chàng rể cô út biết là đã có chuyện chẳng lành, bèn lấy dao một bụng con trăn, lôi chị cả ra, rồi chạy tìm thuốc cứu sống chị.

7__Chó Thần

Ngày xưa, ở một phủ nọ miền thượng du, có vị lão quan họ Lê được dân chúng kính yêu như cha già, vì trong bao nhiêu năm cai trị vùng này, cụ đối xử với dân như con cháu trong nhà, không một việc oan ức nào mà chẳng được cụ xét đến.

Vị tri phủ già họ Lê có một con chó rất khôn ngoan, được cụ thương mến như con. Việc quan xong, mỗi đêm cụ nằm ngủ trên sập hút thuốc phiện, con vật trung thành nằm cạnh dưới chân, ngước nhìn chủ đầy vẻ trìu mến, đôi mắt thông minh ý nghĩa tưởng chừng như không là của loài bốn chân. Thỉnh thoảng ông quan già ngừng tay vuốt ve con vật thân yêu rồi bốn mắt nhìn nhau như trao đổi cảm tình không phải nói ra thành lời.

Một đêm, vị lão quan nằm luôn ở sập không dậy nữa. Dân chúng trong vùng thương tiếc khóc đưa không khác nào cha chết. Chôn xong, mọi người ra về, trên ngôi mả mới, con chó trung thành còn nán lại rên rỉ, ứa nước mắt, từng lúc kêu lên áo não.

Người con trai cụ Lê là cậu cả Tông, bấy lâu nhờ sự dạy bảo của cha học hành xuất sắc, được bổ nhậm nối nghiệp người đã khuất. Song Lê Tông tính nết lại khác hẳn cụ phủ, trong việc cai trị thường tỏ ra khắc nghiệt, tham lam, tàn bạo. Đối với cụ phủ Lê trước kia, dân có cảm tình bao nhiêu, thì ngày nay đối với cậu cả Tông, họ lại oán ghét bấy nhiêu.

Cả Tông chỉ bắt chước cha ở một điểm là hút thuốc phiện, hút ngay tối hôm hạ huyệt cụ phủ Lê. Dân chúng phải lo cung cấp đủ số thuốc phiện cho vị tân quan, và lỡ người nào đem nộp thứ thuốc không được ngon là bị nọc ra đánh ngay trước phủ đường.

Một đêm Tông hút nhiều hơn lệ thường, đang nằm mơ màng bên ngọn đèn dầu lạc, bỗng nghe có tiếng động nhẹ rồi thấy con chó nhảy lên sập gụ, nằm dài phía dưới mâm đèn á phiện. Tông muốn quát lên đuổi nó đi, song đã quá say, chỉ lầm bầm mấy tiếng: "Cút đi, đồ khốn kiếp"!

Đôi mắt thông minh của con vật chăm chú nhìn lại khiến Tông khó chịu, ấp úng: "Đồ khốn kiếp"! Rồi im bặt, kinh ngạc, hoảng sợ khi thấy con chó lên tiếng: "Sao cậu lại rủa tôi, đuổi tôi đi? Tôi làm gì hại cho cậu"?

Qua phút hãi hùng, Tông trấn tĩnh lại, nhận thấy sự buồn cười nghe con chó biết nói, mới bảo nó: "Này, mày là loài chó, làm sao biết nói được thế kia"? Rồi Tông không nhịn được cười sặc sụa lên một hồi. Con chó lại nói: "Cậu lầm rồi, cậu tưởng tôi chỉ là chó, thật ra tôi chính là thần".

- Thần! Thần... chó!

Tông muốn cười phá lên, song đã say đờ đẫn, nên chỉ mở hé hai mắt cười gằn.

- Cậu không tin lời tôi nói à?

Tông lại cười rồi đáp:

- Tao không tin thần thánh gì cả.

- Rồi một ngày kia cậu bắt buộc phải tin, mà ngày đó cũng không xa đâu.

- Ngày đó mà có, là bao giờ mày làm được cho tao thôi chức quan lớn, đóng khố trong rừng đi xin ăn.

Con chó không trả lời ngay, cậu cả Tông không để ý đến nữa, tiếp tục nướng thuốc hút. Trong khi cả Tông ro ro kéo thuốc phiện, con chó lên tiếng kể lại bao nhiêu tội lỗi của con chủ rồi trách: "Cậu hãy nên hối cải đi, theo gương của cụ ngày trước, kẻo tủi cho vong linh người đã khuất". Tông chán nghe con vật khuyên răn, nhấc đầu lên bảo: "Tao đã chán tai nghe mày nói rồi, thôi mày đi đi". Giọng con chó trở nên nghiêm nghị: "Cậu đã muốn thế thì mặc cậu. Tôi đi đây, song chẳng mấy chốc đâu cậu lại phải gặp tôi. Cậu hãy nhớ lấy những lời cậu vừa nói: "Bao giờ thôi chức quan lớn, đóng khố trong rừng đi ăn xin". Nói xong con chó nhảy xuống đất.

Tông ngủ thiếp đi, chập chờn trong ác mộng, đến lúc tỉnh dậy, đầu óc căng lên như búa bổ. Viên quan trẻ tuổi càng ngày càng gắt gao, nha lại được lệnh bắt bớ đòi ăn hối lộ người giàu, hành hạ đánh đập dân nghèo. Con chó không thấy trở lại nữa, Tông cũng quên hẳn đêm gặp gỡ con vật trong thành của cha già.

Một buổi chiều trời giông, mây đen vần vũ, có một sứ giả cùng một toán lính đến trước phủ đường. Người cầm đầu vừa xuống ngựa, ra lệnh báo tin cho quan phủ hay. Quan phủ Tông thường ngày vẫn cấm quân hầu không được đánh thức trong lúc mình đang giấc, nên người nhà chần chờ không dám gọi. Khách lạ lớn tiếng ra lệnh một lần nữa, tên lính hầu cận mới rón rén vào phòng quan phủ run sợ, tâu bẩm. Phủ Tông đang ngái ngủ gắt mắng ầm ỹ lên, nhưng đến khi nghe thấy tiếng khách, liền vội vã phóc dậy khoác áo ra khúm núm tiếp đón. Vì khách kia chính là sứ giả của triều đình đến báo tin nhà vua sắp ngự qua đây nay mai.

Thế là những ngày sau đó, dân chúng sở tại phải khốn đốn trăm chiều, vì quan phủ cho thuộc hạ bắt buộc mọi người phải dẹp bỏ hết công việc để sửa soạn tưng bừng bày hương án trên đường đón tiếp hoàng đế. Nha lại lính tráng được dịp tha hồ làm tình, làm tội dân, hạch xách, quấy nhiễu đủ điều. Lính phủ phải ê tay vì đánh đập, thúc hối dân làm việc quan.

Tới ngày vua ngự đến, phủ Tông vận trào phục lộng lẫy, ngồi cáng che lọng có lính hầu khiêng đi nghênh đón. Khi thấy bóng kiệu nhà vua xa xa, phủ Tông đã xuống cáng, vòng tay đứng chờ cạnh hương án khói trầm nghi ngút. Bỗng từ bụi cây bên đường một con chó phóng ra, chồm lên người phủ Tông mà cắn xé rách nát cả triều phục. Lính hầu hốt hoảng không kịp ra tay, con chó đã chạy mất biến.

Phủ Tông chưa kịp hoàn hồn thì xa giá đã đến. Trông thấy viên phủ áo quần tả tơi, gần như trần truồng, vua nổi giận đùng đùng, xuống lệnh nghiêm trị tức khắc viên quan phạm thượng, dám tiếp đón hoàng đế một cách khiếm lễ, khi quân như vậy.

Phủ Tông rập đầu van lạy kêu ca về tai nạn bất ngờ vừa xảy ra, song chẳng được đoái hoài đến. Nhà vua đã hay biết lối trị dân độc ác của viên phủ tham ô, bèn nhân dịp này mà ra oai thiên tử. Vị quan cận thần được lệnh vua truyền lột hết chức của Tông, giáng làm thường dân và xử trảm ngay tại trước phủ đường về tội khi quân.

Tông bị trói chặt dẫn về đến trước dinh phủ, đã biến thành pháp trường. Trong khi đao phủ đang sửa soạn, một bô lão sở tại đến xin ra mắt vua, tâu xin nhà vua nên nghĩ đến vong linh vị lão quan hiền đức họ Lê thân sinh ra Tông mà tha tội chết cho đứa con bất hạnh. Vua chuẩn y lời thỉnh cầu thành khẩn. Tông thoát chết, lạy tạ nhà vua, lầm lũi kiếm đường lẩn tránh mọi người.

Tông men vào rừng gần đấy, vừa đi vừa chạy, cho đến khi khuất hẳn giữa ngàn cây, không còn thấy bóng người nào, mới vật mình xuống chân một gốc cây mà khóc mùi, hận tủi, nhục nhã. Tông chua xót, mệt mỏi lịm người đi. Đến lúc bừng tỉnh, thấy trời đã xế chiều, trong bụng đói khát cồn cào, lồm cồm đứng lên, thất thểu tìm đến một giòng suối uống nước và kiếm trái cây rừng đỡ dạ. Tông quanh quất ở trong rừng ngày này sang ngày khác, ăn trái rừng, uống nước suối, tránh các lối mòn, sợ người trông thấy cảnh mình điêu vong. Đói lạnh, thú dữ, nhọc nhằn giữa rừng sâu, Tông cắn răng chịu đựng, không muốn trở lại với loài người, vì lòng kiêu hãnh đã bị tổn thương.

Một hôm, Tông đi đến một cánh rừng thưa, trông thấy một túp lều tồi tàn ở gần bờ suối. Sức người đã kiệt, bụng đói thèm cơm khiến Tông không còn giữ kiêu hãnh được nữa. Tông lê gót về phía túp lều, trông như là một chốn Cực Lạc đối với anh lúc bấy giờ. Trước khi đến cửa lều, thấy nước trong ở một con suối, Tông dừng là.i đưa hai tay vốc uống, và nước lên mặt cho tỉnh táo.

Tông kinh hoảng khi nhận thấy gương nước phản chiếu hình ảnh của mình: khuôn mặt hốc hác tiều tụy, thân hình sạm đen, da bọc lấy xương, áo quần tả tơi, bẩn thỉu. Anh đập tan gương nước, như muốn xóa đuổi hình ảnh ghê rợn của mình rồi toan cắm đầu chạy trốn, nhưng đã đuối sức, mất cả thẹn thuồng, lê người vào túp lều tranh.

Cánh cửa mở, Tông thấy hiện ra một người con gái trạc chừng mười lăm tuổi, áo quần nâu thô rách, nhưng trông rất dịu hiền, xinh đẹp. Cô gái thoạt tiên trông không khỏi kinh sợ khi thấy người lạ mặt, nhưng trông lại vẻ tiều tụy, gầy yếu của con người tuấn tú, không thể là kẻ trộm cướp được, nên yên lòng ngay. Một người đàn ông lực lưỡng bước tới sau lưng cô gái lên tiếng hỏi han.

Đấy là một gia đình tiều phu, sống ở ven rừng, lam lũ mà an vui với cuộc sống riêng biệt. Họ mời Tông vào nhà, gặp bữa mời cùng ăn. Chưa bao giờ Tông ăn được ngon miệng đến thế, và cơm đỏ trộn sắn dọn trong chén đá với muối vừng, cà muối, thức ăn thường ngày của nhà này, anh thấy quý trọng gấp bội các món cao lương mỹ vị bày ở đĩa sứ, chén bạc thời làm quan. Người tiều phu không khỏi mỉm cười thích thú khi thấy khách không chê bữa cơm đạm bạc, ăn hết bốn bát đầy có ngọn. Chủ nhà rót mời Tông một chén rượu rừng, anh uống vào tưởng chừng như đã nhấp tiên tửu, thấy cả cuộc đời cao sang vừa qua, chưa bao giờ được ăn uống ngon lành như vậy.

Sau đó Tông lễ phép hết lời cám ơn chủ nhà, rồi chào ra đi. Người tiều phu thấy Tông yếu mệt, bảo anh nghỉ lại đến mai hẵng đi.

Tối hôm ấy, Tông nằm ngủ trên một mảnh chiếu cũ, nhưng cảm thấy khoan khoái nhất đời. Sự nhọc nhằn, thiếu thốn dồn dập trong bao nhiêu hôm tụ lại thành một cơn sốt kịch liệt, sáng hôm sau Tông không gắng gượng ngồi dậy nổi. Trong liền mấy hôm, Tông mê man li bì, nhờ vợ người tiều phu đi kiếm thuốc lá ở rừng về sắc cho uống mới hạ dần cơn bệnh. Khi Tông đã bình phục, người tiều phu mới nói rằng: "Tôi không rõ là anh ở đâu đến, định đi đâu, nhưng nếu anh không chê nhà này, còn có chỗ đụt mưa tránh nắng hơn là lang thang ngoài trời thì mời anh ở lại đây với chúng tôi. Củi rừng không thiếu, miễn là anh chịu khó làm với chúng tôi".

Tông ngần ngại, ngẩng đầu lên bỗng gặp đôi mắt đen lánh, trong sáng của người con gái đang chăm chú nhìn mình, thắc mắc chờ đợi.

- Tôi ở lại.

Tông chỉ biết nói thế và từ hôm đó, anh bắt đầu chia xẻ đời sống của người tiều phu, những nặng nhọc và vui thú của gia đình nghèo hèn này. Chẳng bao lâu anh học được nhiều điều hay trong lúc đem sức cần lao ra để đổi lấy sự sống, mà suốt quãng đời nghiên bút, kinh sử anh đã không hề biết đến.

Ban ngày vào rừng đốn củi, tối lại Tông còn dạy cho người con gái học dưới ngọn đèn nhựa trám mờ khói. Anh không nề hà một sự khó nhọc nào để giúp đỡ chung quanh, vui vẻ nhận lấy sự tiến bộ mau chóng của cô học trò ngây thơ. Cô gái không dấu được thích thú mỗi lúc gần người trai lạ bí mật, chẳng hề nhắc nhở đến quá khứ, có khi thẫn thờ xa vắng tận đâu.

Hai năm êm đềm trôi qua, Tông hầu như quên hẳn con người quyền quý của mình ngày trước. Cô gái tiều phu bây giờ đã trở nên một thiếu nữ xinh đẹp mà lớp quần áo nâu sồng không làm giảm vẻ tươi sáng của tuổi dậy thì. Vẻ trong trẻo, đằm thắm của cô gái thuần phác đã biến đổi hẳn tính nết độc ác, ích kỷ, kiêu ngạo của Tông trước kia. Anh đã thành ra một người bình thường như mọi người, hàng ngày làm lụng vất vả, nhưng trong lòng êm ả, nhẹ nhàng. Tông bắt đầu hưởng hạnh phúc mà cả quãng đời nhung lụa ở phủ đường không được biết đến, là tình yêu.

Một hôm, Tông vừa hạ xong một thân cây lớn, đang vuốt mồ hôi trán, thì nghe co tiếng kêu rên ở gần, ngoảnh lại trông thấy một con chó đang ngước mắt nhìn anh một cách thảm thương. Con chó đã già lắm, gầy yếu, trông như sắp chết. Tông ngồi xuống đưa tay vuốt ve lên mình con vật, nó đưa mắt nhìn tỏ ý cám ơn. Sẵn mo cơm và cá khô gói theo ăn trưa, Tông lấy một phần cho nó. Con chó chỉ ăn một lúc là sạch nhẵn. Tông im lặng nhìn nó, bỗng sực nhớ lại hình ảnh của mình hai năm trước đây, cũng đến chốn này kiệt sức như con vật đáng thương hiện thời.

Khi Tông vác rìu trở về lều, con chó lẽo đẽo theo sau chân. Đêm đến, mọi người trong nhà lần lượt yên ngủ, Tông đang nằm thao thức, bỗng nghe có tiếng động nhẹ, đoán chừng là con chó đến nằm ở cạnh chân. Tông vỗ về con vật liếm tay mình, rồi trong đêm tối yên lặng bỗng nghe tiếng nó nói: "Anh không nhận ra tôi sao? Chính là tôi đã đưa anh đến đây mà! Anh có nhớ những lời mà anh đã nói với tôi là "nếu anh thôi chức quan lớn, đóng khố trong rừng đi ăn xin"?

Con chó im một lúc lâu rồi lại nói: "Bây giờ anah tin là có thần linh không"? Tông thầm đáp: "Ta tin ở mi và cầu xin vong hồn cha tha tội cho con".

- Anh có sẵn lòng nghe lời tôi không?

- Nói đi cho ta nghe.

* * *

Hôm sau, đã tối mịt rồi mà chưa thấy Tông trở về. Trọn đêm cũng không thấy đâu. Người con gái thao thức, đợi chờ, khóc thầm. Sáng tinh sương nàng đã cùng cha đi vào rưng, đến chỗ Tông thường đẵn củi, thấy bầu nước và rượu ở gốc cây. Nhìn lên lưng thân cây vừa lột một miếng vỏ lớn, nàng đọc thấy những chữ của Tông đã dùng lưỡi dao sắc cạnh ghi lại rằng: "Tông có việc phải đi, luôn luôn nhớ đến nàng và hẹn sẽ trở lạị"

Trong khi cô gái buồn rầu trở về túp lều giữa rừng thì Tông đã đi xa, theo sau con chó, cũng không tìm hỏi nó đưa mình đi đến đâu.

Tới một ngôi làng, vào buổi phiên chợ đông, con chó làm nhiều trò xảo thuật theo lời bảo của Tông, khiến nhiều người tò mò xúm lại xem, bỏ tiền ra thưởng. Các nhà buôn giàu có tranh nhau mời mọc thày trò con chó kỳ tài về nhà khoản đãi.

Từ làng này qua xã khác, từ huyện nọ đến tỉnh kia, Tông cùng con chó đi đến đâu cũng được thán phục, tặng quà biếu tiền. Hai thày trò sống một cách đầy đủ, phong lưu dọc theo đường gió bụi.

Từ mạn ngược về đường xuôi, người và vật đi, đi mãi. Cái túi vải đeo bên mình Tông đã bắt đầu rủng rỉnh tiền, và mỗi ngày một nặng thêm. Tông chưa hề hỏi con chó là rồi sẽ đi đến đâu. Con chó cũng không nói nữa, và trông cũng chẳng khác gì đồng loại nó, ngoài ra tài múa nhảy và sự thông minh tỏ ra hiểu biết lời nói của người ta.

Một buổi chiều vào lúc trâu bò về chuồng, Tông và con chó đi đến kinh thành. Qua cửa thành đô, Tông hồi tưởng lại năm nào mình vác lều chiếu đi thi, và ngày tên ghi bảng vàng, kết quả bao nhiêu năm khó nhọc dùi mài kinh sử.

Tại kinh đô chẳng mấy chốc tiếng tăm của thày trò Tông đồn đãi khắp mọi nhà. Ngoài các trò múa nhảy tài tình theo lời sai bảo của chủ, con chó còn làm cho mọi người kinh ngạc về sự nhận xét không bao giờ sai. Đàn ông hoặc đàn bà có vợ chồng hay chưa, con cái nhiều hay ít, làm chức nghiệp gì, bao nhiêu tuổi, giàu hay nghèo, con chó đều trả lời đích xác theo ước lệ đã định trước. Thiên hạ truyền miệng đi là chó thần, tiếng đồn đến tai vua. Vua cũng muốn biết qua tài diệu kỳ của con chó, thử xem lời đồn của bá tính có quá đáng chăng.

Có lệnh vua vời vào trước sân rồng để biểu diễn. Tông không khỏi làm cho vua ngạc nhiên thấy một kẻ thường dân ra mắt vua đúng với nghi lễ triều đình. Vua không nhận ra Tông là viên tri phủ đã bị thải hồi. Con chó bắt đầu múa nhảy, vua cười chảy cả nước mắt khi thấy nó chỉ đúng phẩm tước của bá quan theo từng hồi tiếng sủa. Trò cuối cùng là chó làm thơ. Tông xin giấy trắng trải lên sân rồng, buộc bút vào chân chó. Sau khi chấm bút lông vào nghiên mực, chó gật gù suy nghĩ rồi thảo luôn một bài luật thi dâng tặng vua. Chữ viết như rồng bay phượng múa, lời thơ trang nhã, bóng bảy khác thường.

Thị vệ dâng vua ngự lãm, vua sửng sốt thấy chưa có một thi sĩ hữu danh nào đương thời có thể làm được hay hơn bài thơ của con vật bốn chân kia. Trong lúc hào hứng, vua truyền cho Tông cùng con chó từ đây được ở luôn tại viện trong cung nội và được lương bổng nhà vua ban cho.

Tông hết lời cảm tạ ơn vua rồi tâu: "Bệ hạ chỉ mới thấy vài trò tiểu xảo đó thôi, con vật trung thành của thần còn biết được nhiều điều lạ hơn nữa". Thấy vua càng ngạc nhiên tò mò hơn nữa, Tông bèn thưa: "Nếu bệ hạ muốn chứng kiến thực hư, thần xin bệ hạ cho triệu họp đông đủ văn võ bá quan triều đình lại ở sân rồng".

Vua nóng lòng muốn xem trò mới lạ, liền chuẩn y ngay đề nghị của Tông và truyền cho khắp triều thần ngày mai phải có mặt. Tông lại xin được hội kiến riêng trong chốc lát với một mình vua trước khi bắt đầu trình diễn các trò phi thường. Lời yêu cầu tuy táo bạo song cũng được chấp thuận trong khi vua đang cao hứng.

Ngày mai lại, trước giờ vua lâm triều, bá quan văn võ tề tựu đông đủ trước sân rồng. Tông và con chó được đưa vào gặp riêng vua ở cấm điện. Vua ra lệnh cho thị vệ tả hữu lui ra, Tông mới thưa rằng: "Tâu bệ hạ, con chó của thần ngoài sự thông minh xuất chúng khác hẳn đồng loại nó, còn có kỳ tài đoán biết được những ý nghĩ thầm kín, những hành động bí mật của người ta mà ngỏ riêng cho thần hiểu, và lại có nhiều ý kiến khôn ngoan thần tình. Nếu bệ hạ cho phép, nó sẽ kể rõ về mỗi vị thượng quan ở triều phục vụ bệ hạ ra sao".

Vua nghe nói hết sức ngạc nhiên, hỏi Tông làm cách nào. Tông đáp: "Bệ hạ cho thị vệ xướng danh và chức phẩm của mỗi quan triều rồi cho phép con chó của thần được đến gần để nhận xét, đánh hơi từng vị, rồi sau đó, cho nó gặp riêng thần một lúc để thần được nghe báo cáo của nó mà tâu lại cùng bệ hạ".

Vua lâm triều, phán cho thi hành theo lời đề nghị của Tông. Con chó lần lượt đi qua trước các hàng thượng thư, quan lại triều đình, theo tiếng loa của thị vệ báo danh trước mỗi vị. Các quan bối rối thầm nghĩ là vua định bày trò đùa gì đây, khi thấy con chó dừng lại trước từng người, đứng trên hai chân sau, giương hai mắt ra nhìn xét, đưa mũi đánh hơi quần áo.

Sau đó, Tông và con chó được đưa vào một phòng riêng giữa bốn vách tường kín mít. Con chó nói qua cho Tông hay sự tình để tâu lại, rồi hai thày trò được đưa đến bệ kiến riêng vua.

Sau khi tâu lại những nhận xét của con chó về các quan, nhất nhất đều đúng với sự thực, Tông báo cho vua hay một sự khám phá quan trọng: "Tâu bệ hạ, hiện đang có một cuộc âm mưu tiếm vị, khuynh đảo bệ hạ cùng các quan trung thành với đương triều. Kẻ cầm đầu cuộc phản loạn này không ai khác hơn là quan thượng thư bộ Hình, người đã thọ lãnh ân tứ của bệ hạ nhiều hơn ai hết".

Vua lặng đi vì kinh ngạc, hãi hùng, Tông kể luôn danh sách của nội bọn mưu phản và kế hoạch của chúng đã trù liệu, rồi phục mình trước ngai vàng tâu rằng: "Thần cúi xin bệ hạ cho mật xét lại để xem thực trạng có đúng thế không. Nếu con chó của thần biết sai và thần tâu man để làm rộn đến bề trên, thì thần xin chịu tử hình về tội khi quân. Ví bằng đúng sự thực..."

Vua đang trầm ngâm suy nghĩ bỗng ngước đầu lên bảo: "Nếu sự thực quả như lời khanh tâu, trẫm sẽ không bao giờ quên công ơn thày trò khanh đâu. Bây giờ trẫm muốn cho khanh cùng con vật trung thành ở riêng một nơi tại cung cấm, không phải thiếu một thứ gì, đợi cho đến khi trẫm xét rõ lời khanh nói có đúng không".

Theo lệnh vua, Tông được đưa đến một cung riêng, có sẵn người hầu hạ và quân sĩ tuốt gươm trần canh gác bên ngoài. Ba hôm sau một vị cận thần đến mời Tông đi. Qua dẫy cung điện sơn son thếp vàng, Tông theo chân vị quan triều đi vào giữa chánh điện, trông thấy vua đang ngồi trầm tư trên ngai rồng. Tông toan quỳ xuống thi lễ thì vua đã bước xuống ngai đỡ dậy mà bảo rằng: "Trẫm cho phép khanh từ đây là thần dân duy nhất được miễn quỳ lạy trẫm, để ghi nhớ công khanh đã giúp trẫm giữ vẹn long thể và ngôi báu, giúp giang sơn khỏi nạn binh đao. Tất cả những lời khanh tâu đều được chứng nghiệp chính xác. Lũ loạn thần bị bắt đều đã thú tội. Chúng sẽ được xử theo phép nước".

Vua không dấu nổi kinh hoàng vừa khám phá ra âm mưu thí vua của đám gian thần, xúc động nói với Tông: "Trẫm không biết khanh là ai, ở đâu đến, nhưng từ đây trẫm muốn khanh ở bên mình trẫm, với chức Quốc Sư, tước quan nhất phẩm triều đình của trẫm ban cho khanh. Trẫm lại cho khanh được phép ra vào trong cung cấm, muốn gặp trẫm bất cứ lúc nào cũng được, và khanh chỉ ở dưới quyền của trẫm thôi".

Vua dành riêng cho Tông một dinh thự lớn, ban cho bao nhiều vàng bạc, châu báu, gấm vóc, và mỗi khi quyết định việc gì quan trọng cũng đều hỏi ý kiến vị quốc sư. Sống trong cảnh quyền thế, nhung lụa, Tông cũng không thấy gì là sung sướng, người ta không bao giờ thấy Tông cười. Một hôm, vua thân mật hỏi chuyện nguyên nhân sự buồn bã của vị Thượng Khanh, Tông mới thành thật tâu rằng mặc dầu được hưởng bao nhiêu đặc ân của vua ban cho, không bao giờ tông thấy lòng vui thú giữa chốn cung vàng điện ngọc, và xin phép vua được trở về quê nhà thăm phần mộ cha già. Vua không muốn rời xa ân nhân, song cũng đành phải nghe theo lời thỉnh cầu của Tông.

Mấy hôm sau, trên đường về quê, Tông không còn phải là kẻ dắt chó làm trò nữa, mà oai vệ ngồi trên con tuấn mã vua ban cho, đi giữa đoàn lính tráng cờ lọng uy nghi theo hầu. Về đến đầu làng, chỗ ba năm trước đây Tông quỳ rước vua bị con chó cắn xé áo mũ gây ra bao nhiêu nông nỗi, Tông xúc động xuống ngựa bảo đoàn tùy tùng dừng lại. Anh đi lại tảng đá bên đường, ngồi ôm đầu suy nghĩ. Đến lúc ngẩng đầu lên, Tông không khỏi ngạc nhiên thấy một dám rước trọng thể do viên tri phủ sở tại dẫn đầu đi đón, Tông lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe vị quan đã thay mình ba năm trước đây phụng đọc chiếu vua bổ nhậm Tông cai trị vùng này.

Dân chúng hay tin vị Quốc Sư thân cận của hoàng đế đến hạt mình, già trẻ lớn bé rủ nhau đi xem đầy đường, tiếng chào mừng dậy đất khi thấy Tông ngồi trên mình ngựa hiện ra. Tiếng ồn ào bỗng im bặt khi người ta nhận rõ vị thượng quan nhất phẩm triều đình chính là viên phủ độc ác trước đây đã làm cho tất cả dân chúng trong vùng khiếp sợ. Tông mỉm cười nhảy xuống ngựa, cho gọi các bô lão đến mà nói rằng: "Xin các cụ yên tâm và bảo con em hãy yên lòng. Người trở về hôm nay không phải là người mà dân đã xua đuổi trước đây. Xin bà con biết cho rằng con trai của cụ phủ Lê ngày trước sẽ cố gắng được xứng đáng với danh tiếng của ông cha. Có một điều tôi muốn cho tất cả rõ: con chó ở bên cạnh tôi đây, là bạn trung thành của thày tôi trước kia, đã giúp cho tôi được như ngày nay, phải được mọi người trọng vọng cũng ngang bằng tôi. Tôi đã hối cải về những sự lầm lỗi ngày trước, bây giờ tôi còn sống là để mà làm việc giúp dân".

Tông giữ đúng lời hứa, dân chúng trong vùng lại được sống yên lành với một vị quan cai trị công bình, nhân đức. Con chó vẫn ở bên cạnh Tông, yên lặng không hề nói nữa. Một tối bất ngờ nó lại lên tiếng bảo Tông: "Anh đã nghĩ tới việc lấy vợ để sinh con nối dõi giòng họ chưa"? Tông mỉm cười đáp: "Đã, nhưng lần này tôi không nghe ai đâu, tôi tự ý quyết định lấy một mình thôi". Con chó không nói gì nữa, sằng sặc trong miệng như cười.

Ngày hôm sau, Tông sửa soạn ra đi, theo sau một đoàn người ngựa chuyên chở nhiều lễ vật. Mặc dù Tông không nói trước là đi đâu, song con chó đã đoán biết trước, chạy đi đầu dẫn đường. Băng rừng, lội suối, đến gần chiều tối đoàn người ngựa tới trước túp lều của người tiều phu mà Tông đã sống qua hai năm trời lao lực.

Cô gái sợ hãi thấy một toán quân đến trước nhà mình, chạy trốn vào trong. Cả nhà vừa sợ, vừa mừng khi thấy lại Tông áo mũ xênh xang ra mắt.

Lễ cưới của tri phủ Tông với con gái người tiều phu cử hành lớn lao. Tất cả dân nghèo trong vùng đều được mời đến ăn uống linh đình luôn ba hôm liền. Vua phái sứ mang tặng vật quý giá đến mừng. Sau đó, Tông mời cha mẹ vợ về dinh ở, song ông bà nhất quyết không bỏ chốn rừng núi đã quen thuộc.

Mấy tháng sau, Tông được tin mừng là vợ đã có thai, cùng với tin buồn là con chó già nằm ngủ luôn không dậy nữa. Đám táng con chó được cử hành rất trọng thể, vợ chồng Tông mặc tang phục đi sau linh cửa, cùng với đủ mặt dân chúng trong vùng theo đưa.

Mộ con vật có nghĩa được xây cất lớn lao, có bia ghi chép công trạng, còn lưu truyền đến ngày nay. Qua bao nhiêu đời, câu chuyên con chó thần vẫn còn nhắc nhở trên cửa miệng dân chúng miền thượng du.

8__Hai cô gái và hai cục bứu

Xưa có một cô gái con nhà nghèo khó, không may cho cô là khi sinh ra đã mang một cục bướu ở mặt. Người càng lớn, cục bướu càng to, vì vậy nhan sắc của cô thua em kém chị. Tuy nhiên cô gái không lấy thế làm buồn, suốt ngày vẫn thường vui đùa ca hát.

Một buổi trưa hè, cô theo bạn lên rừng kiếm củi. Vì mải mê tìm nấm, cô vui chân quá bước vào rừng sâu, quên bẵng mất trời đã về chiều và mây thì đang kéo tới mỗi lúc một đen sầm, báo hiệu một cơn dông sắp tới. Quả nhiên khi cô định trở về để gặp chúng bạn thì không kịp nữa. Gió thổi mạnh làm cây rừng xào xạc, cành khô gãy răng rắc, những giọt mưa hắt vào mặt. Bất đắc dĩ cô phải tìm chỗ ẩn. May làm sao cô chạy kịp đến một gốc cây cổ thụ, thu mình chui vào m8ột cái hốc để tránh mưa. Nhưng đến lúc mưa tạnh bước ra khỏi hốc thì trời cũng đã tối mịt. "Các bạn ta bây giờ chắc đã rủ nhau về cả. Đường rừng lại tối đi một mình thật là đáng sợ. Thôi đành ở đây đợi sáng, không còn cách nào khác". Nghĩ vậy, cô dọn lại chỗ hốc sạch sẽ rồi lách mình vào đó nằm nghỉ, không quên đặt bó củi chắn cửa để đề phòng thú dữ.

Đến khuya, có những tiếng hát, tiếng cười và tiếng đàn sáo làm cho cô tỉnh giấc. Cô nhìn ra thấy trăng sáng như ban ngày. Ở một bãi đất bằng phẳng phía bên kia gốc cổ thụ có một đám người đang múa hát vui vẻ. Cô bước ra khỏi hốc. Thoạt đầu cô cứ ngỡ là một đám người đi rừng nào đó lên đây sớm ngồi đợi trời sáng nên bày ra múa hát mua vui. Nhưng khi nhìn kỹ thì hoá ra không phải. Đó là những người hình dung dị thường, ăn mặc khác lạ, có những bộ mặt đen đúa đầy lông lá gớm ghiếc. Cô gái bụng bảo dạ: "Đúng là một bọn quỷ", và cô bỗng rùng mình, nhưng rồi cô liền đánh bạo bước lại nấp sau cây cổ thụ rình xem. Bọn quỷ vẫn múa hát không biết có người đang rình mình. Giọng hát của chúng không hay nhưng thật là vui làm cho cô vui lây. Cho nên cô cũng lẩm bẩm hát theo bằng một giọng nho nhỏ trong cổ họng. Dần dần hứng lên, tự nhiên cô cất cao giọng, quên bẵng là mình đang nấp.

Nghe tiếng hát, bọn quỷ bỗng im bặt. Rồi cả bọn ùa nhau đến gốc cây. Một đứa nói:

- Hà hà, khá quá! Ra đây, ra đây, ta cùng hát cho vui.

Rồi chúng dắt cô ra bãi, bảo cô hát tiếp. Cô lấy can đảm hát lại bài hát vừa rồi. Giọng cô rất ngọt làm cho bọn quỷ phải lắng nghe. Xong một bài, chúng tấm tắc khen ngợi rồi nhảy múa thích thú. Chúng lại đưa những quả sim, quả ổi mời cô ăn. Ăn xong, lại bảo cô hát tiếp, rồi chúng còn lần lượt đàn hát và nhảy nhót suốt đêm.

Tiếng gà rừng gáy buộc bọn quỷ phải ngừng cuộc vui. Một đứa bảo:

- Cô hát hay quá! Tối mai đến đây hát nữa nhá!

Cô gái đáp:

- Cái đó thì cũng còn tuỳ.

Nó kêu lên:

- Ấy, còn tùy thế nào? Chúng mày ơi! Ngộ tối mai cô ấy không đến thì sao?

Một đứa chỉ vào cái bướu:

- Ta hãy giữ lấy cái này, chắc là của quý. Mai cô đến đây mà lấy nhé!

Nói xong phẩy tay một cái, rồi cả lũ biến đi lúc nào không hay.

Sáng hôm sau cô gái ra về, lòng mừng khấp khởi. Cục bướu đã được bọn quỷ lấy đi một cách thần diệu, làm cho cô trở nên nhẹ nhõm. Gặp ai cô cũng kể chuyện tối hôm trước cho họ nghe. Chẳng mấy chốc, tiếng đồn đã lan khắp đầu đường xó chợ. Một cô gái con nhà phú ông ở làng bên cạnh cũng không may mang một cục bướu trên mặt, khi nghe câu chuyện, cô này vội vàng đến gặp cô kia xin chỉ chỗ cho mình đi thay, hy vọng nhờ lũ quỷ nhổ cho cái bướu xấu xí trên mặt. Cuối cùng, cô gái nhà phú hộ cũng tìm được đến gốc cây cổ thụ nọ và nấp sẵn trong hốc cây. Nửa đêm, bọn quỷ hiện ra dưới ánh trăng. Chúng tìm đến chỗ cô gái nấp:

- Nào, cô hãy xuống hát với chúng tôi đi!

Vốn quen thói gắt gỏng, lại thấy những cánh tay lông lá giơ ra kéo lấy áo, cô vội gạt đi:

- Buông ra đã nào, tránh để cho tôi xuống. Ôi, kinh tởm!

Rồi cô cũng nhảy xuống khỏi hốc, nhưng vẫn tỏ vẻ sợ hãi, gớm ghiếc, không dám lại gần lũ quỷ. Cô để cho chúng giục hai ba lần mới cất giọng hát, song nét mặt thì không được vui. Giọng của cô cũng vì thế mà mất tự nhiên. Mỗi lần cô cố gắng cất cao thì giọng lại the thé, nghe chẳng hay ho gì. Cô mới hát được một bài, bọn quỷ đã tỏ ý không hài lòng! Một đứa nói:

- Hôm qua hát hay thế, sao bây giờ thì chán ngắt! Thôi cô về đi cho rảnh.

Cả lũ quỷ đồng thanh:

- Phải đấy, về đi!

Tiếng đuổi của lũ quỷ nhao nhao làm cho cô gái phật ý, quay lưng trở lui. Nhưng mới đi được mấy bước, cô đã nghe có tiếng chạy theo: Này cô kia, trả lại cô cái làm tin hôm qua.

Cô vừa ngoảnh lại thì thấy có vật gì mềm nhũn văng vào má. Sờ tay vào mới biết bây giờ không phải là một mà có tới hai cục bướu.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #vinh