Tru Tiên(chương 1>>10)

Tiêu Đỉnh

Tru Tiên

Chương 1

Thanh Vân

Dãy núi Thanh Vân nguy nga sừng sững, hùng cứ Trung Nguyên, phía bắc núi có một dòng sông lớn tên gọi Hồng Xuyên, phía nam là trấn quan trọng "Hà Dương Thành", chẹn lấy chỗ hiểm yếu của thiên hạ, vị trí địa lý hết sức trọng yếu.

Núi Thanh Vân kéo dài liên tục trăm dặm, nhấp nhô trùng điệp, có bảy ngọn cao nhất, vươn ngập trong mây, ngày thường chỉ thấy mây trắng vờn quanh sườn núi, không nhìn được đỉnh ngọn. Núi Thanh Vân có rừng rậm rạp, có thác đổ, vách núi dị kỳ, chim quý thú lạ rất nhiều, cảnh quan âm u hiểm trở, nổi tiếng trong thiên hạ.

Nhưng còn nổi tiếng hơn, lại là một môn phái tu chân trên núi này -- Thanh Vân Môn.

Thanh Vân Môn có lịch sử rất lâu đời, từ khi sáng lập đến giờ đã hai ngàn năm có lẻ, đứng đầu trong hai phái chính tà hiện nay.

Nghe nói tổ sư khai phái vốn là một thầy tướng trong giang hồ, nửa đời thất vọng, buồn bực bất đắc chí. Năm 49 tuổi, ngao du khắp nơi, trên đường đi qua núi Thanh Vân, vừa nhìn đã nhận ra nơi đây có vẻ thiêng liêng kỳ tú, tụ được linh khí của trời đất, là một nơi tốt đẹp vào bậc nhất. Lập tức đăng sơn, ăn gió nằm sương, tu chân luyện đạo, chưa được bao lâu, lại tìm đuợc một quyển sách cổ không tựa đề trong một hang sâu bí mật, trên đó ghi chép những thuật pháp môn kỳ ảo, thâm thuý cao xa, mà lại diệu dụng vô cùng, uy lực cực lớn.

Thầy tướng nọ được mối kỳ ngộ này, dốc lòng tu tập. Thấm thoắt hai mươi năm, có chút tựu thành, bèn xuất núi. Trải qua mấy trận mưa gió giang hồ, tuy không thể độc bá thiên hạ, nhưng cũng trở thành người hùng một phương. Bèn ở trên núi Thanh Vân, khai tông lập phái, đặt tên "Thanh Vân". Vì nội dung trong quyển sách không có tựa đề kia rất gần với đạo gia, nên ông ta bèn phục trang đạo nhân, tự xưng hiệu Thanh Vân Tử, đệ tử đời sau tôn xưng là Thanh Vân Chân Nhân.

Thanh Vân Tử thọ 167 tuổi, sinh thời thu nạp mười đệ tử, lúc lâm chung có dặn rằng: "Ta nửa đời đã học đến tận cùng về tướng thuật, tinh yếu nhất chính là tướng phong thủy. Núi Thanh Vân này là linh địa hiếm có trong nhân gian, phái Thanh Vân ta giữ ngọn núi này, về sau nhất định sẽ hưng thịnh, các ngươi quyết không thể bỏ được. Nhớ lấy, nhớ lấy!"

Lúc ấy mười đệ tử đều gật đầu, tin tưởng chắc chắn rồi, Thanh Vân Tử mới nhắm mắt tắt nghỉ. Không ngờ trong vòng một trăm năm sau đó, chẳng biết là có phải ý trời ghẹo người, hoặc căn bản là Thanh Vân Tử tướng thuật không tinh, Thanh Vân Môn không chỉ không phát triển, mà mỗi ngày một suy vi.

Trong mười đệ tử, có hai người chết sớm, bốn người bỏ mạng trong những cuộc huyết sát giang hồ, một người tàn phế, một người mất tích, chỉ truyền lại hai chi phái.

Trải qua năm mươi năm, trong vòng một trăm dặm quanh núi Thanh Sơn đã xảy ra những thiên tai địa chấn chưa từng có, ngập lụt khủng khiếp, đất rung núi chuyển, tử thương vô số, lại dứt tuyệt đi một chi phái. Mà còn lại mỗi một người, nhưng tư chất có hạn, bản lĩnh thấp kém, vốn chẳng thể khôi phục được phong quang năm xưa của Thanh Vân Tử, lại còn vì duyên cớ quyển sách cổ kia, kích động kẻ thù bên ngoài đến tranh đoạt, mấy phen huyết chiến, nếu không phải là nhờ mấy pháp bảo lợi hại mà Thanh Vân Tử để lại, thì e rằng Thanh Vân Môn đã bị người ta diệt tận rồi.

Tình cảnh này kéo dài đúng bốn trăm năm, Thanh Vân Môn không hề khởi sắc, hầu như có thể dùng từ "ngắc ngoải" để hình dung. Đến phút cuối, thậm chí còn bị người bắt nạt đến tận cửa nhà, trong bảy ngọn núi cao của Thanh Vân, ngoài ngọn chính Thông Thiên Phong, sáu ngọn còn lại đều bị ngoại địch chiếm hết, trong đám ngoại địch đó còn có cường đạo hãn phỉ, lấy làm cứ điểm, cướp bóc bốn phương, hoành hành ngang ngược.

Những người không rõ nội tình phần lớn đều hiểu nhầm, cho rằng Thanh Vân Môn đã sa sút mất rồi, mặc dù đệ tử Thanh Vân giải thích rất nhiều, rằng cũng có lòng giết địch, hiềm nỗi lực bất tòng tâm, thật đáng thương. Đến nay nghĩ lại, lúc ấy quả thực là quãng thời gian cay đắng nhất của cả phái Thanh Vân.

Mãi cho đến thời điểm một nghìn ba trăm năm trước, tình hình mới có thay đổi.

Có lẽ là tướng thuật của Thanh Vân Tử rốt cục cũng hiển linh, hoặc là trời già mệt rồi, không muốn trêu cợt Thanh Vân Môn nữa, đến lúc ấy, trong đám truyền nhân đời thứ mười một của Thanh Vân Môn, lại xuất hiện một nhân vật tuyệt luân, kinh thế hãi tục đứng lên dẫn dắt - Thanh Diệp Đạo Nhân.

Thanh Diệp tục gia họ Diệp, vốn là một thư sinh nghèo khổ, thiên tư đĩnh ngộ hơn người, nhưng ứng thí rất nhiều lần mà không trúng, sau này cơ duyên xảo hợp, được Vô Phương Tử chưởng môn đời thứ mười của Thanh Vân Môn thu làm đệ tử, lúc ấy tuổi mới 22.

Sau khi Thanh Diệp nhập môn, chỉ qua một năm đã lĩnh hội quán thông hết thảy những kiếm thuật pháp đạo do Vô Phương Tử truyền cho, độc chiếm hàng đầu trong đám đệ tử. Lại qua một năm, đến Vô Phương Tử cũng chỉ có thể dựa vào sự tu hành thâm hậu mới cố gắng đánh được ngang tay với y. Vô Phương Tử vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, quyết định lấy quyển sách cổ mà tổ sư truyền lại đem cho Thanh Diệp tự tham tường tu tập. Thanh Diệp bèn bế quan ở Huyễn Nguyệt Động đằng sau ngọn Thông Thiên Phong, lần bế quan này kéo dài mười ba năm.

Nghe nói lúc y phá cửa thoát ra, là vào một đêm trăng tròn. Đêm ấy trăng lạnh treo cao, cả ngọn Thông Thiên Phong núi Thanh Vân sáng rực như ban ngày. Thốt nhiên cuồng phong ập tới, đằng sau núi lại có tiếng hú ngân dài, vang động đến trăm dặm, ai nghe thấy không khỏi biến sắc. Sau, có ánh sáng tốt lành tím nhạt dâng lên ngập trời, một tiếng động cực lớn, Huyễn Nguyệt Động phủ rộng rãi sáng tỏ, Thanh Diệp râu tóc bạc hết, mặt điểm nụ cười, thân mình có thanh quang, chậm rãi bước ra, mọi người kinh ngạc, tưởng đã thành tiên.

Sau đó, Thanh Diệp chính thức xuất gia, lấy họ Diệp của mình, thêm vào chữ Thanh trong Thanh Vân, lấy tên là Thanh Diệp.

Ngày hôm đó y cười bái biệt ân sư Vô Phương Tử, nói: "Sư tôn xin hãy đợi, đệ tử đi làm mấy việc, một ngày là sẽ quay về."

Mọi người không rõ ý tứ, một ngày đêm sau Thanh Diệp chống kiếm quay về, ngoại địch ở sáu ngọn của Thanh Vân đã bị mai phục chém sạch. Thanh Diệp Đạo Nhân đạo pháp thâm sâu, thủ đoạn tàn độc, một thời gian đã danh động thiên hạ, thanh thế của Thanh Vân Môn đại thịnh.

Lại qua một năm, Vô Phương Tử đem chức vị chưởng môn truyền cho Thanh Diệp, còn mình thì chay tịnh thanh tu, không lý đến những chuyện lặt vặt trong môn nữa. Thanh Diệp chấp chưởng rồi, dốc sức vì môn phái, hết lòng trợ giúp đồng môn, nghiêm khắc tuyển chọn truyền nhân, lại nhờ những điều đã lĩnh hội được từ quyển sách cổ, có được cái uy quỷ thần vô lượng.

Thanh Vân Môn từ đó ngày một tăng tiến, trong vòng 50 năm, đã trở thành trụ cột trong chính đạo, thêm hai trăm năm sau, đã trở lành lãnh tụ của các môn các phái chính đạo.

Thanh Diệp Chân Nhân thọ đến 550 tuổi, cả đời thu nạp đồ đệ rất nghiêm khắc, chỉ truyền thụ cho có bảy người, chia bảy ngọn núi cho họ, lệnh cho thất chi phái cùng nhau truyền hương hoả. Trong đó trưởng môn ngụ ở ngọn chính Thông Thiên Phong, là chi phái trọng tâm.

Cho đến nay, đệ tử của Thanh Vân Môn đã gần một nghìn người, cao thủ như mây, thanh uy hiển hách, cùng với Thiên Âm Tự, Phần Hương Cốc tề danh tam đại môn phái. Chưởng môn Đạo Huyền Chân Nhân, công tham tạo hoá, siêu phàm nhập thánh, là một nhân vật tuyệt thế bậc nhất đương thời.

Dưới chân núi Thanh Vân, ở phía Tây Bắc cách Hà Dương Thành chừng 50 dặm, có một thôn nhỏ tên là Thảo Miếu.

Thôn này có hơn bốn mươi hộ dân, tính tình thuần phác, dân cư phần lớn sinh sống bằng cách lên núi đánh củi bán cho Thanh Vân Môn đổi lấy ngân lượng.

Ngày thường thôn dân thường thấy đệ tử Thanh Vân Môn đi tới đi lui, phần nhiều thần kỳ, đối với Thanh Vân Môn rất là sùng bái, coi như tiên gia đắc đạo. Mà Thanh Vân Môn từ xưa đến nay thường chiếu cố dân chúng quanh vùng, với thôn dân ở đây cư xử cũng không tệ.

Hôm ấy, trời âm u, mây đen trĩu thấp, khiến người ta có cảm giác nặng nề nghẹn thở.

Từ thôn Thảo Miếu nhìn ra, núi Thanh Vân sừng sững xuyên thẳng lên trời, ngọn cao vách cheo leo, âm thầm dữ tợn. Chỉ có điều, thôn dân đời đời ở đây, cảnh tượng ấy đã nhìn quen không biết bao nhiêu lần, nên cũng không để ý, còn bọn trẻ nhỏ chưa biết gì thì càng không phải nói.

**

*

"Xú tiểu tử, mi chạy đi đâu đó?"

Một tiếng la mắng, kèm theo là mấy hồi cười cợt, phát ra từ miệng một đứa trẻ lơn lớn. Nó lối 12, 13 tuổi, mi thanh mục túc, dẫn theo chừng bốn, năm đứa bé con cả trai cả gái, đuổi theo một thằng nhỏ khác chạy phía trước. Thằng nhỏ ấy nom bé hơn nó chừng hai tuổi, người thâm thấp, mặt mũi hớn ha hớn hở, đang dốc sức chạy đi, vừa chạy vừa ngoảnh đầu lại nhăn mặt trêu.

"Trương Tiểu Phàm, mi muốn tốt thì đứng lại!" đứa trẻ chạy theo cao giọng gọi.

Thằng nhỏ chạy trước, tên gọi Trương Tiểu Phàm "xì" một tiếng, vừa chạy vừa kêu: "Mi làm như ta là đồ ngốc vậy!" Nói đoạn lại còn chạy nhanh hơn.

Trên đường đuổi bắt, mấy đứa trẻ càng lúc càng chạy gần đến toà miếu cỏ vừa cũ vừa nát ở phía đông thôn. Từ ngoài nhìn vào, toà miếu cỏ này rách nát không thể chịu được, chẳng biết là đã trải qua gió mưa mấy kiếp.

Trương Tiểu Phàm chạy đầu tiên xông tọt vào, ai ngờ không chú ý, lại vấp phải ván cửa, tòm một cái, ngã lộn nhào.

Mấy đứa trẻ đằng sau mừng rỡ, nhao nhao lao lại, đè lên mình thằng nhỏ, đứa bé mi thanh mục tú kia vẻ mặt đắc ý, cười bảo: "Bị ta bắt được rồi! Lần này mi chẳng có gì để nói nữa, phải không nào?"

Ai ngờ Trương Tiểu Phàm đảo mắt kỳ dị, nói: "Không tính không tính, mi ám toán ta, tính làm sao được?"

Đứa trẻ kia ngạc nhiên, lạ lùng bảo: "Ta ám toán mi lúc nào?"

Trương Tiểu Phàm đáp: "Giỏi lắm Lâm Kinh Vũ, mi dám nói cái ván cửa này không phải là mi đặt ở đây ư?"

Đứa trẻ tên gọi Lâm Kinh Vũ kia hét to: "Đời nào có chuyện ấy!"

Trương Tiểu Phàm chúm miệng, nghiêng đầu, có vẻ nhất định không đầu hàng, không khuất phục.

Lâm Kinh Vũ tức khí bốc lên đầu, một tay chẹn lấy cổ nó, giận dữ bảo: "Nói rồi bắt được là phải nhận thua, mi phục hay không phục?"

Trương Tiểu Phàm chẳng hề lý đến.

Lâm Kinh Vũ sắc mặt đỏ bừng, vận sức vào tay, hét lớn: "Phục hay không phục?"

Khí quản của Trương Tiểu Phàm bị nó bóp chặt, hô hấp dần dần khó khăn, sắc mặt bắt đầu bầm lên, nhưng nó tuổi tuy nhỏ, tính khí lại rất quật cường, cứng cỏi không hề kêu một tiếng.

Lâm Kinh Vũ thì càng lúc càng giận, lực ở tay càng lúc càng lớn, miệng thì cứ lặp đi lặp lại: "Phục hay không phục? Phục hay không phục? Phục hay không phục?!"

Lúc ấy bọn trẻ kia thấy cũng không đúng, bèn lặng lẽ co rúm lại với nhau, chỉ còn trơ hai đứa bé non dại, vì tranh cãi, rồi do cái tính quá khích của đôi bên, đều cứ gan lì mãi.

Có vẻ một trường đại hoạ sắp xảy ra, thốt nghe góc sâu trong miếu cỏ niệm phật hiệu, rồi có người nói: "A di đà phật, mau mau dừng tay."

Một nắm tay khô xác, xé qua làn không lao đến, thò ra hai ngón, búng vào hai tay Lâm Kinh Vũ. Lâm Kinh Vũ như bị giật, toàn thân chấn động, hai tay tự nhiên lỏng ra.

Trương Tiểu Phàm há miệng nghẹn ngào, rõ là bị bí thở lâu quá. Hai đứa nó đờ ra tại chỗ, định thần lại được, nhớ ra tình cảnh vừa rồi, liền nhìn nhau.

Lâm Kinh Vũ đờ đẫn bảo: "Tiểu Phàm, xin lỗi nhe. Ta cũng không biết làm sao mà..."

Trương Tiểu Phàm lắc lắc đầu, hơi thở dần dần điều hoà, nói: "Không sao. Ồ, lão là ai?"

Bọn trẻ nhìn theo ánh mắt nó, thì thấy trong miếu, có một hoà thượng già đứng đó, trên mặt nếp nhăn chi chít, khoác một tấm cà sa rách mướp, cả người từ trên xuống dưới bẩn thỉu nhem nhuốc. Chỉ có chuỗi tràng hạt bích ngọc đang cầm trong tay là óng ánh loá mắt, chiếu ra những tia sáng xanh nhạt.

Điều kỳ lạ là, trong chuỗi tràng hạt bích ngọc mười mấy viên chằn chặn, chiếu sáng lấp lánh thì lại lẫn vào một viên đá chẳng ra đá ngọc chẳng ra ngọc, màu tím sẫm, ảm đạm vô quang.

hết: Chương 1

Chương 2

Mê Cục

Lão tăng đó không đáp, chỉ dùng ánh mắt quan sát kỹ càng người ngợm hai đứa trẻ, không nén được bèn liếc nhìn Lâm Kinh Vũ lần nữa, thầm nhủ: "Tư chất tốt, chỉ có điều tính khí sao mà lại quá khích làm vậy?"

Lúc này Trương Tiểu Phàm bước lên một bước, nói: "Ê, lão là ai vậy? Làm sao mà chưa từng thấy lão nhỉ?"

Thôn Thảo Miếu ở gần Thanh Vân Môn, ở đây Đạo giáo là chính, ít thấy có Phật gia đệ tử, cho nên Trương Tiểu Phàm mới hỏi như vậy.

Lão tăng liếc nó, khoé miệng lộ ra một vệt cười, hỏi ngược lại: "Tiểu thí chủ, vừa rồi tính mạng sắp nguy, ngươi chỉ cần nhận thua một câu là xong rồi, tại sao khăng khăng một mực như vậy? Nếu không phải có lão nạp ra tay, chỉ e ngươi đã chết toi rồi!"

Trương Tiểu Phàm ngây người, trong bụng cảm thấy điều lão hoà thượng nói chẳng phải là không có lý, chỉ có điều đối với việc đã xảy ra, nó không nói ra được là sao lại như thế.

Lâm Kinh Vũ trợn mắt nhìn lão tăng, kéo tay Trương Tiểu Phàm bảo: "Tiểu Phàm, lão hoà thượng này kỳ quái lạ lùng, chúng ta đừng để ý đến lão nữa." Nói đoạn bèn kéo nó đi ra ngoài.

Mấy đứa trẻ cũng theo gót đi ra, rõ ràng xưa nay toàn làm theo lời Lâm Kinh Vũ.

Trương Tiểu Phàm cất bước một cách vô thức, đi mãi một đoạn, khi ra đến cửa miếu rồi, nó không nén được mới quay đầu nhìn lại bên trong, trời đã tối dần, chỉ thấy lờ mờ lão hoà thượng vẫn đứng đó, nhưng chẳng trông rõ nét mặt nữa rồi.

**

*

Đêm khuya.

Một tiếng sấm động, gió cuốn mây tàn, bên trời mây đen cuộn lên ngùn ngụt.

Mưa gió sắp tới, một cơn càn quét.

Lão tăng vẫn ở trong miếu cỏ, đả toạ trên mặt đất. Lão ngước mắt nhìn, núi Thanh Vân đằng xa chỉ còn là một vệt mông lung.

Trận giông mới lớn làm sao!

Một lằn chớp rạch ngang thinh không, loé lên ngôi miếu cỏ nhỏ nhoi trơ trọi trong gió, lúc ấy lão tăng đã ra đứng ở cửa, nét mặt nghiêm trang, ngước mắt nhìn trời, cặp lông mày cau rúm lại.

Trong cái thôn phía tây, không biết tự lúc nào đã đùn lên một đám khí đen, đậm đặc như mực, cuồn cuộn không ngừng. Lão tăng đứng ở miếu cỏ, nhìn trừng trừng vào đám khí đen đó.

Thốt nhiên, đám khí đen đó cuộn lại, lượn vòng lên, trườn thẳng ra phía ngoài thôn, hướng về phía ngôi miếu cỏ nhỏ. Tốc độ của nó cực nhanh, chớp mắt đã tới nơi.

Cặp mắt sắc của lão tăng liếc thấy trong đó kẹp một đứa nhỏ, chính là Lâm Kinh Vũ đã gặp hồi ban ngày. Nét mặt lão chùng xuống, không chần chừ, cũng không nhìn thấy động tác thế nào, thân hình khô đét chớp một cái đã vọt lên, xuyên thẳng vào trong đám khí đen.

Trong vùng ảm đạm không gọi được tên, truyền đến một tiếng kêu khẽ kinh ngạc: "Í?"

Mấy tiếng rên thảm, đám khí đen vụt ngừng lại, xoay vòng ngay trên miếu cỏ không đi.

Lão tăng kẹp Lâm Kinh Vũ bên sườn, chầm chậm hạ xuống, nhưng tấm cà sa đã bị xé một miếng sau lưng. Dưới ánh một tia sáng yếu ớt loé lên, chỉ thấy Lâm Kinh Vũ hai mắt nhắm nghiền, hô hấp bình ổn, chỉ không biết là ngủ hay là đã ngất đi.

Lão tăng không đặt nó xuống, ngẩng đầu nhìn đám khí đen trong không trung, nói: "Các hạ đạo pháp cao thâm, tại sao lại ra tay với một đứa trẻ chưa biết gì, e rằng mất tư cách quá?"

Từ trong đám khí đen truyền lại một âm thanh khàn khàn: "Ngươi là ai vậy, dám chõ mũi vào việc của ta?"

Lão tăng không đáp, mà nói: "Nơi này là chân núi Thanh Vân, nếu Thanh Vân Môn biết các hạ ở đây làm những điều càn rỡ, e rằng sau này các hạ không dễ xoay xở đâu."

Kẻ kia "phì" một tiếng, ngữ điệu khinh thường: "Thanh Vân Môn là cái thá gì, chỉ cậy đông người mà thôi. Lão lừa trọc khỏi nhiều lời nữa, biết điều thì mau mau giao thằng nhỏ đó cho ta."

Lão tăng chắp tay đáp: "A di đà phật, người xuất gia phải giữ lòng từ bi, lão nạp tuyệt không thể giương mắt nhìn đứa nhỏ này bị hại dưới độc thủ của ngươi."

Kẻ kia giận dữ: "Giỏi cho lão tặc trọc đầu, ngươi tự tìm lấy cái chết đấy."

Cùng với câu nói, từ trong đám khí đen vốn vẫn xoay tròn từ nãy tới giờ, một đạo dị quang đỏ sậm loé ra, ụp xuống xung quanh ngôi miếu cỏ nhỏ nhoi, âm phong l-ồ-n-g lộng, quỷ khí ngập tràn.

"Độc Huyết Phiên!" Lão tăng nét mặt đột nhiên tức giận: "Nghiệt chướng, ngươi lại dám tu luyện cái loại tà vật táng tận lương tâm, hoạ hại nhân gian này à, hôm nay quyết không tha cho ngươi."

Giọng khàn khàn đó bật lên tiếng cười lạnh lẽo, không đáp một lời, chỉ nghe thấy một tiếng hú u u, ánh sáng đỏ sậm ngập ngụa, luồng khí tanh thối tràn đầy, một tấm phướn đỏ dài hai trượng từ giữa trời chầm chậm căng lên.

Lúc ấy, tiếng quỷ khóc vẳng lên thê thảm, tựa như có vô số hồn ma bóng khế rên rỉ trong đêm, trong ấy còn âm ỷ có tiếng xương khô lách cách, nghe mà kinh hoàng.

"Lão tặc trọc đầu, chết này!" Người trong đám khí đen kêu lên một tiếng, chỉ thấy từ trên tấm phướn màu máu đó, đột nhiên thò ra một cái mặt quỷ nanh ác, có ba góc bốn con mắt, răng nhọn nanh dài, tiếng xương cốt va loạn "cộp, cộp, cộp, cộp", bốn con mắt trên cái mặt quỷ thình lình mở choàng, rống lên một tiếng, hoá thành một thực thể, từ trên tấm phướn xông ra, mang theo một mùi máu tanh xộc, lao vào lão tăng.

Lão tăng sắc mặt càng giận dữ, biết Độc Huyết Phiên uy lực cực lớn, trong khi tu luyện hẳn đã hại chết rất nhiều người vô tội. Muốn luyện thành uy lực như thế này, chắc là đã thu hết tinh huyết của trên ba trăm người.

Kẻ tà ác này thật là táng tận lương tâm!

Thấy con quỷ kia sắp ập xuống trước mắt, lão tăng vẫn không buông đứa nhỏ Lâm Kinh Vũ cắp bên sườn, chỉ dùng tay trái đang nắm tràng hạt bích ngọc, vạch lên trước mặt một vòng tròn, đơn thủ nắm thành dấu hiệu sư tử Phật môn, đầu ngón tay âm thầm phát xuất kim quang, nháy mắt đã dựng lên trước mặt một bánh xe thần sắc vàng, kim quang huy hoàng, cùng con quỷ kình chống nhau giữa không trung.

"Cái trò vặt này, cũng mang ra khoe..." chưa kịp thốt nốt từ "khoang", đột nhiên toàn thân lão chấn động, chỉ thấy bên tay phải, ở chỗ vẫn ôm đứa nhỏ Lâm Kinh Vũ, cổ tay bị dị vật ngoạm vào một miếng, một cảm giác tê ngứa lập tức chạy dọc nửa mình, trước mắt tối sầm, bánh xe thần lập tức lung lay sắp đổ.

Chính vào lúc ấy, ở trước mặt con quỷ kia lại biến hoá kỳ dị, trên trán chính giữa bốn con mắt bên trái bên phải, "cộp, cộp" hai tiếng, lại mở ra một con mắt cực to đỏ máu, luồng gió tanh tưởi nổi lên, uy thế càng nặng trĩu, chỉ nghe một tiếng quỷ gào, ánh sáng đỏ sậm màu máu nhấp nháy, con quỷ đánh nát vụn cái bánh xe thần sắc vàng, giáng mạnh vào ngực lão tăng.

Cả thân hình lão tăng bị giáng mạnh đến mức bay vọt lại đằng sau, Lâm Kinh Vũ bên sườn bị tuột xuống đất, trên đường mấy tiếng buồn thảm rên rỉ, tựa như xương cốt đã gãy hết rồi. Chỉ thoáng chốc, tấm thân khô đét của lão bị bắn chặt lên tường miếu, "bùng" một tiếng, bụi đất mù mịt, cả bức tường đều sập xuống.

"Ha ha ha ha ha..." người trong đám khí đen cười lên một tràng cuồng loạn, đắc ý vô cùng.

Lão tăng lẩy bẩy đứng dậy, cổ họng mằn mặn, không nhịn được phún ra một ngụm máu nóng, nhuộm đỏ cả vạt trước tấm cà sa. Lão thấy mắt nổ đom đóm, toàn thân đau đớn, mà cảm giác tê ngứa càng lúc càng thấm dần vào tim.

Lão gắng gượng trấn định tâm thần, liếc nhìn dưới đất Lâm Kinh Vũ vẫn đang hôn mê, lại thấy trong ngực áo của nó, dần dần thò ra một con rết sặc sỡ, to như bàn tay, lạ nhất là phần chót nó xoè ra bảy tua, nhìn cứ như là bảy cái đuôi. Mà mỗi cái một màu khác nhau, rực rỡ đẹp đẽ, có điều trong sự đẹp đẽ đó lại chứa tới mấy phần ghê sợ.

"Rết bảy đuôi!" Lão tăng thốt lên, nghe như một tiếng rên rỉ.

Trên mặt lão đám khí đen càng lúc càng trĩu nặng, khoé miệng không ngừng ứa máu tươi, xem ra khó có thể gắng gượng được nữa, nhưng vẫn gồng mình không chịu ngã xuống.

Lão nhìn đám khí đen giữa trời, nói: "Ngươi đem cái vật kỳ độc trên đời này nhồi vào người thằng bé, lại cố ý ẩn tàng thực lực, chờ đúng cơ hội là đả thương ta, ngươi nhằm vào ta phải không?"

Người trong đám khí đen cười lạnh "Ha ha", nói: "Không sai, ta chính là nhằm vào con lừa trọc Phổ Trí ngươi. Nếu không làm như vậy, thật không dễ đối phó với một thân tu hành cửa phật Thiên Âm Tự của ngươi. Được rồi, hãy mau mau giao Phệ Huyết Châu ra đây, ta sẽ đưa giải dược của rết bảy đuôi, tha chết cho ngươi!" Phổ Trí cười thảm một tiếng, đáp: "Uổng cho chữ Trí trong cái tên của ta, chẳng ngờ ngươi lại luyện được tà vật Độc Huyết Phiên, há lại không mưu tham chiếm đoạt Phệ Huyết Châu." Lão nghiêm sắc mặt, quả quyết nói: "Đòi ta đem cái vật chí hung trong thế gian này cho ngươi ư, đừng vọng tưởng nữa."

Người trong đám khí đen nổi giận: "Thế thì ngươi hãy đi gặp Phật tổ ngươi đi!"

Một lằn sáng đỏ chớp lên, Độc Huyết Phiên trương gió, tiếng quỷ khóc rộ, rồi con quỷ to vật đó lại hiện ra, khẽ xoay trong không trung, xông vào Phổ Trí một lần nữa.

Phổ Trí hét to, y bào toàn thân không có gió mà căng phồng lên, thân hình vốn gầy nhỏ dường như lớn lên rất nhiều.

Phổ Trí lật tay, nắm viên tràng hạt tím sẫm vào trong, hai tay trái phải kết thành hình thủy bình, cặp mắt trợn tròn, cả thân hình trên dưới chỗ nào cũng ẩn chứa kim quang, niệm lần lần từng từ: "Án, Ma, Ni, Bát, Di, Hồng!" (Xem chú thích 1: Sáu chữ Đại Minh Đà La Ni)

Người trong đám khí đen lập tức tỏ vẻ chú trọng thêm mấy phần.

Phổ Trí vừa thốt xong chữ "Hồng", lập tức cả tràng hạt bích ngọc cùng phát ra ánh sáng rực rỡ.

Cùng lúc ấy, con quỷ của kẻ tà ác kia cũng đã xông đến trước mặt, mùi máu tanh xộc tới, nhưng vừa chạm vào ánh bích ngọc xanh nhạt, lập tức hoá thành vô hình, không tiến lên được nữa, cứ lửng khửng giữa trời.

Tuy vậy, thân hình Phổ Trí cũng lại trúng một cơn run rẩy, con rết bảy đuôi là vật tuyệt độc trong thiên hạ, lão đã tu hành đến mấy trăm năm, vẫn còn khó chống đỡ. Chỉ có điều trên khuôn mặt vẫn lởn vởn đám khí đen của lão, lại lộ ra một nét cười, kèm theo nét run run..

"Oác!" Phổ Trí thét lớn, như sư tử hống, tiếng động bốn bề, tràng hạt bích ngọc trước ngực thụ được phật lực, ánh sáng càng rực rỡ, thốt nhiên một viên vỡ rốp , hoá ra trong không trung một chữ Phật , đánh thẳng vào mặt con quỷ.

"Ôi...chà!" Con quỷ hét lên thảm thiết, bật lui lại mấy bước, ánh đỏ toàn thân vụt xẹp đi, rõ ràng là đã trúng thương.

Người trong đám khí đen giận dữ la: "Giỏi cho lão lừa trốc!"

Hắn còn đang chuẩn bị động thủ, có điều nói thì chậm mà diễn biến thì quá nhanh, trong phút chốc bảy tám hạt châu đều hoá ra chân ngôn nhà Phật đánh trúng con quỷ. Con quỷ kêu la không ngớt, liên tục né tránh, dáng điệu rất sợ hãi, khi bị hạt bích ngọc thứ chín đánh trúng, nó gào lên một tràng dài, năm con mắt nhất tề vỡ toé, xương cốt lục cục, rầm một tiếng ngã vật ra đất, quằn quại thêm một lúc thì cứng đờ bất động, dần dần hoá ra vũng máu, tanh thối kinh khủng.

Cùng lúc đó, Phổ Trí "ộc" một tiếng, lại phun ra một ngụm máu lớn, máu đã ngả màu đen xạm.

"A!" một tiếng lanh lảnh truyền vào từ cửa miếu cỏ, giữa lúc hai đại cao nhân đang hồi đấu phép căng thẳng.

Phổ Trí và người trong đám khí đen kia đều thất kinh, làn khí đen trên trời rùng chuyển, Phổ Trí cũng nhìn theo về phía cửa miếu, trông thấy trong ánh sáng bên ngoài, thằng nhỏ Trương Tiểu Phàm không biết vì sao lại tới trước miếu cỏ, đứng ở cửa, mắt trơ miệng há đứng xem cảnh tượng kỳ dị này trong miếu.

Người trong đám khí đen lạnh lẽo "hừ" một tiếng, cũng không nhìn thấy động tác của hắn ra sao, chỉ thấy con rết bảy đuôi vẫn bò trên mình Lâm Kinh Vũ đột nhiên quẫy đuôi, chớp một cái, bay vù đến Trương Tiểu Phàm.

Phổ Trí dựng ngược cặp lông mày, tay phải chỉ ra, một viên bích ngọc bắn ngay đến. Con rết bảy đuôi lại như là thông linh, biết rõ lợi hại, không dám chống đỡ, quẫy đuôi một cái, rồi bật thẳng lên như cái cánh, lặn vào trong đám khí đen, không thấy tăm tích gì nữa.

Người trong đám khí đen u ám bảo: "Hừ hừ, quả không thẹn là Tứ đại thần tăng của Thiên Âm Tự, trọng thương như vậy, vẫn có thể phá được Độc Huyết Thi Vương của ta, nhưng ngươi bị Thi Vương tấn công, lại trúng độc của rết bảy đuôi, còn gắng gượng được bao lâu nữa? Hay là ngoan ngoãn đem giao Phệ Huyết Châu ra đây cho ta!"

Phổ Trí lúc ấy đến khoé mắt cũng bắt đầu ứa máu đen, lão cười thảm, khàn giọng bảo: "Lão nạp coi như hôm nay táng mạng ở đây, nhưng trước tiên cũng phải trừ được yêu nhân ngươi."

Lời nói vừa thốt, tất thảy những hạt bích ngọc trước mặt lão cùng sáng rực lên, người trong đám khí đen lập tức đề phòng. Hốt nhiên hắn rú lên, một vật nhang nháng thanh quang từ đằng sau lao tọt vào đám khí đen, chính viên bích ngọc vừa bắn vào con rết bảy đuôi, bay ra quãng không một đoạn, được Phổ Trí âm thầm điều động, vòng đằng sau đám khí đen, thình lình đánh úp.

Chỉ nghe thấy trong đám khí đen một tiếng rống giận dữ, rõ ràng kẻ đó không kịp đề phòng, ầm ầm mấy tiếng bình, bình, bình , ánh xanh chớp chớp, đám khí đen tán loạn, cuối cùng tan loãng ra bốn phía, mất tăm mất dạng.

Từ giữa trời tà tà rớt xuống một người cao gầy, toàn thân từ trên xuống dưới bó chặt trong tấm hắc bào, nhìn không rõ dung mạo tuổi tác, chỉ có hai con mắt, hung quang lồ lộ, đằng sau hắn quấn một thanh trường kiếm.

Phổ Trí thấp giọng hỏi: "Các hạ đạo hạnh như vậy, sao lại không dám gặp người?"

Hắc y nhân chớp cặp mắt lồ lộ hung quang, dữ tợn bảo: "Lừa trốc, hôm nay bắt ngươi chết không có đất chôn!"

Nói đoạn, hắn lật tay rút soạt thanh trường kiếm sau lưng, chỉ thấy thanh kiếm trong như thu thuỷ, sáng mà không loá mắt, kéo theo một làn sáng xanh nhàn nhạt. "Hảo kiếm!" Phổ Trí không kềm được thốt lên.

Hắc y nhân hừ khẽ, tay nắm kiếm quyết, chân đạp theo thất tinh, bước liên tục bảy bước, trường kiếm chớp chĩa lên trời, trong miệng lầm rầm niệm: "Cửu thiên huyền sát, hoá vi thần lôi. Hoàng hoàng thiên uy, dĩ kiếm dẫn chi!"

Chỉ trong khoảnh khắc, mây đen trên trời phút bỗng cuộn lên không ngừng, tiếng sấm ùng ùng, rìa mây đen chớp loé lia lịa, giữa đất trời một luồng sát khí, cuồng phong rộ lên.

"Thần Kiếm Ngự Lôi Chân Quyết!" Sắc mặt Phổ Trí giữa lúc ấy trắng bệch như vôi, kèm theo là một mối kinh ngạc, một tia tuyệt vọng và một chút cuồng nhiệt không hiểu được.

Lão bỗng nhiên hét to: "Ngươi chính là môn hạ Thanh Vân Môn!"

Hết chương 2

-------------------

Tác giả - chú thích:

1. Phổ Trí niệm Án, Ma, Ni, Bát, Di, Hồng, tức là Lục Tự Đại Minh Đà La Ni rất nổi tiếng, trong kinh điển Phật gia còn gọi là "Quan Âm Linh Cảm Chân Ngôn."

2. Trong Phật kinh có nói đây là một trong những chân ngôn chú nổi tiếng nhất của nhà Phật. Chân ngôn này thông thiên địa tạo hoá, ngâm lên có thể thoát được trần ai, gột rửa được tâm kính, đến được cõi cực lạc.

3. Nguyên văn tiếng Hán Quan Âm Linh Cảm Chân Ngôn: Án ma ni bát di hồng, ma hắt nghê nha nạp, tích đô đặt ba đạt, tích đặt ta nạp, vi đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc rị tất tháp cát, nạp bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thất ban nạp, nại ma lô kiết thuyết ra gia, tóa ha.

Alex chú thêm:

· Nguyên văn tiếng Phạn: OM MANI PADME HÙM, MAHÀ JNÀNA, KETU SAVÀDA, KETU SÀNA, VIDHÀRIYA, SARVÀRTHA, PARISÀDHAYA, NÀPURNA, NÀPARI, UTTÀPANÀ, NAMAH LOKE'SVARÀYA, SVÀHÀ.

· Nghĩa: OM MA NI BÁT MÊ HÙM là tính chất mầu nhiệm của cây phướng Đại Trí. Hãy ngồi dưới cây phướng ấy, xa lìa mọi sự chấp giữ mà thành tựu trong khắp các cõi. Hãy luyện các căn cho thanh tịnh để thành tựu viên mãn các pháp và siêu việt tất cả. Con xin quy mệnh công đức nội chứng của Đức Thế Tự Tại. Nguyện cho con được thành tựu như Ngài.

· Xuất Xứ: Kinh Trang Nghiêm Bảo Vương

Phật bảo Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: Sáu chữ Ðại Minh Ðà La Ni này khó được gặp gỡ, nếu có người nào được sáu chữ Ðại Minh Vương đây, thì người đó tham, sân, si, độc không thể nhiễm ô. Nếu đeo mang trì giữ nơi thân, người đó cũng không nhiễm trước bịnh ba độc. Chơn ngôn này vô lượng tương ưng, với các Như Lai mà còn khó biết, huống gì Bồ Tát làm thế nào biết được. Ðây là chỗ bổn tâm vi diệu của Quán Tự Tại Bồ Tát.

hết: Chương 2

Chương 3

Hồng Nguyện

Đối với Trương Tiểu Phàm, mây trên trời, bất kể là mây trắng, mây đen, chưa từng có đám mây nào xà xuống gần mặt đất như đám mây đen tối nay, chưa từng có tiếng sấm nào chấn động màng nhĩ như thế, chưa từng có ánh chớp nào chói mắt như thế, hầu như khiến nó khó nhìn thẳng lên.

Có vẻ bầu trời sắp sụp xuống.

Nó cứ đứng ngây ra ở đó, ngó hắc y nhân và lão hoà thượng trong miếu cỏ đang trừng mắt nhìn nhau giận dữ, khua khoắng đấu phép.

Thốt nhiên, một tiếng sấm nổ, giữa lúc màng nhĩ chấn động kêu lùng bùng, nó nhìn thấy trên cao một lằn chớp chói mắt rạch ngang bầu trời, rồi lao xuống mặt đất, đậu lên trường kiếm của hắc y nhân.

Trong phút chốc, trang phục trên mình hắc y nhân căng phồng lên, hai mắt trợn tròn như sắp nổ tung. Lúc ấy, dưới ánh chớp chói ngời, trong miếu cỏ sáng rỡ như ban ngày.

Giữa đêm ánh chớp loè rộ trên mũi kiếm, đẹp đẽ như thế, Trương Tiểu Phàm khép nép không dám thở, còn trong mắt Phổ Trí lại lần nữa xuất hiện một thứ cuồng nhiệt kỳ dị.

"Đây chẳng phải là đại năng đại lực của chân pháp đạo gia sao?"

Hắc y nhân hét to một tiếng, tay trái dẫn kiếm quyết, dùng toàn lực lắc mạnh cổ tay, sấm nổ, ánh chớp trên kiếm vụt bắn vào Phổ Trí. Trên đường, cây cỏ sỏi đá, bốc bay tung hết cả, chỉ để lại trên mặt đất một vệt cháy sâu hoắm.

Phổ Trí lui liền ba bước, thu ấn, song chưởng chắp lại, mặt lộ vẻ trang nghiêm, toàn thân âm ỷ tán phát kim quang, khẽ niệm: "Đức Phật từ bi!"

"Pắp" một tiếng, bảy hạt bích ngọc còn lại trước mình lão đều vỡ vụn, hoá thành một chữ "Phật" cực lớn ở cách trước mặt ba thước, kim quang chói loà, không thể nhìn thẳng vào.

Một khắc sau, ánh chớp và chữ Phật đó va vào nhau.

Trương Tiểu Phàm đột nhiên cảm thấy nội tạng trào sôi hết thảy, hình như huyết dịch toàn thân lúc ấy đều chạy ngược, chân tay nó bủn rủn, không thở được nữa, rồi thoáng chốc, cảm thấy gió tắt, sấm ngưng, cả thế gian đều yên tĩnh lại.

Sau đó, nó bất giác bị hất bay về đằng sau, thậm chí còn không kịp cảm thấy sợ hãi, chỉ thấy ánh trắng ánh vàng, rực rỡ vô cùng, rực rỡ hơn cả thái dương. Toàn bộ ngôi miếu cỏ tan tác rời rã, dưới đấu phép của hai người, bay tán ra bốn phương tám hướng, tung bắn cả lên trời.

Trái tim nó rỗng hoang hoác, chỉ cảm thấy tiếng gió dữ dội không ngừng vùn vụt qua tai.

Nó cảm thấy sợ hãi, bất giác muốn oằn mình lại, nhưng hữu tâm vô lực, đành để mặc thân hình mình phiêu phất bay đi một nơi chưa từng biết.

Trong đầu nó, chỉ dấy lên một ý nghĩ: mình sắp chết rồi ư?

Nỗi sợ hãi khủng khiếp thình lình chụp lấy đầu óc nó, toàn thân đẫm mồ hôi lạnh, nó run lên khe khẽ.

Cái chết đến ngay trước mắt, đối phó sao đây?

Nó ngất đi, bất tỉnh nhân sự.

**

*

Phổ Trí chầm chậm tiến lại, bước chân khập khiễng, cắp Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ vào be sườn, đi đến một chỗ đất có phần sạch sẽ rồi nhẹ nhàng đặt hai đứa trẻ xuống, chợt lão cảm thấy toàn thân đau nhức, ngõ hầu như muốn vỡ ra, không thể chi trì thêm được nữa, lão liền té phịch xuống đất.

Lão cúi nhìn, qua lớp tăng y cháy khét, lờ mờ trông thấy một luồng hắc khí dần dần vây kín lấy ngực, chỉ còn lại một phần nhỏ quanh chỗ cuối xương mỏ ác là chưa bị xâm nhiễm.

Lão cười khổ, thò tay dò dẫm trong bọc. Tay lão run ghê quá, mãi một lúc mới chậm chạp rút ra được một viên dược hoàn màu đỏ, chỉ nhỏ bằng đầu ngón tay, trông bình thường chẳng có gì là lạ lùng.

Phổ Trí thở dài, thầm thì than: "Chẳng ngờ quỷ y nói đúng, ta rốt cục vẫn phải dùng tới viên Tam Nhật Tất Tử Hoàn này của hắn."

Lão do dự một lát, cuối cùng khẽ gật đầu, đem dược hoàn nuốt đi.

Xong rồi, lão ngẩng đầu, nhìn về phía rặng núi xa.

Trời cuối cùng cũng phiêu phất mưa.

Núi Thanh Vân đứng sừng sững trong gió bão, mông lung thần bí.

"Pháp thuật Đạo gia thật là huyền bí, có thể sai khiến được cả thiên thần. Đem ấn chứng với Phật gia của ta, bù đắp cho nhau, tất tham phá được sự trường sinh bất tử. Đáng tiếc Đạo Huyền Chân Nhân tu hành lâu hơn ta, nhưng rốt cục cũng như ba vị sư huynh đệ kia của ta, không từ bỏ được quan niệm bè phái, không rũ bỏ được thân phận và địa vị. Ôi!"

Phổ Trí thở dài, thu hồi mục quang, ánh mắt dừng lại trên mình hai đứa trẻ. Khi ấy mưa mỗi lúc một to, dầm ướt đầm đầu mặt lão. Ngôi miếu cỏ đã rã rời tan tác trong trận đấu phép vừa rồi, gần đấy lại chẳng có chỗ nào khả dĩ tránh được gió mưa.

Trong lòng lão chợt hồi hộp, bất giác thấy lo cho hai đứa trẻ. Vừa rồi lão vận chân nguyên cao độ, dùng kỳ công "Đại Phạm Bát Nhã", mượn sức Phật môn chí bảo là "Phỉ Thuý Niệm Châu" sinh ra một đại lực hàng ma, mới chống lại được Thần Kiếm Ngự Lôi Chân Quyết uy lực vô song của kẻ tà ác kia, rồi phản công lại khiến hắn bị thương, khiến hắn phải kinh hãi mà tháo chạy.

Nhưng thân thể lão trọng thương, lại bị công kích bởi kỳ thuật của đạo gia, đã như ngọn đèn dầu sắp cạn, đến một tia hi vọng sống cuối cùng cũng tuyệt rồi. Xem ra lão chẳng qua là nhờ vào kỳ dược Tam Nhật Tất Tử Hoàn của quỷ y để kéo dài chút hơi tàn, kéo dài sinh mệnh thêm ba ngày nữa mà thôi.

"Tên yêu nhân bị thương tuy nặng, nhưng chưa phạm vào căn nguyên. Sau khi ta đi, hắn tất sẽ lộn lại giết người diệt khẩu. Đến lúc ấy không chỉ hai đứa trẻ này, mà e rằng tính mệnh của mọi nhà trong thôn cũng đều lâm nguy. Thế này, thế này, thế này thì phải làm sao mới được?"

Phổ Trí ruột rối như tơ vò, chân tu đạo hạnh của lão rất cao, nhưng một là biết rằng mình sắp chết, tâm thần cũng hoảng hốt vài phần; hai là lo lắng cho sinh mạng của bách tính vô tội, yêu nhân kia xem ra là người có thân phận địa vị cực cao trong Thanh Vân Môn, nếu đi bừa lên núi cầu cứu, e rằng được việc thì ít, mà hỏng việc thì nhiều.

Nhưng điều khiến lão di hận nhất là vẫn có một việc, chính là điều lão bình sinh đại nguyện, lại không thể hoàn thành được. Thân là Tứ đại thần tăng của Thiên Âm Tự, lão đã được thiên hạ mến phục, tôn vinh đến cực điểm. Nhưng đối với lão mà nói, quan trọng nhất là khám phá được bí ẩn về sự sống và cái chết, tìm được sự trường sinh bất tử. Chỉ có điều 50 năm trước, lão đã nhận ra rằng dù mình cần cù tu luyện Phật môn đạo pháp đến thế nào, cũng chỉ có thể tăng được công lực, mà không thể phá giải bí ẩn của sự trường sinh.

Lão đau đầu vắt óc, mấy chục năm sau, quả thực nghĩ ra được một biện pháp chưa từng có.

Thiên hạ ngày nay, Phật - Đạo - Ma tam giáo đều đang cực thịnh, trình độ phép thuật rất cao thâm. Ma giáo vốn mang tiếng xấu, tà thuật tàn nhẫn hết sức, chẳng ai muốn dây vào, còn kỳ thuật của đạo gia thì tinh thâm thần diệu, cùng với Phật môn mỗi bên đều chiếm ưu thế riêng, nếu có thể liên thủ nghiên tập, tất có thể tháo gỡ được tình thế này.

Nhưng lão ngàn vạn lần chẳng thể ngờ, ba vị sư huynh từ trước tới giờ luôn phóng khoáng cởi mở lại dị khẩu đồng thanh phản đối lão, cho là viển vông hão huyền, hết lời khuyên bảo mãi không thôi. Trong lòng lão không cam chịu, khăng khăng mấy lượt đến yết kiến các danh môn Đạo gia, chỉ riêng núi Thanh Vân cũng đã lên không biết bao nhiêu lần, nhưng chẳng lần nào mà không bị chưởng giáo của Thanh Vân Môn là Đạo Huyền Chân Nhân khéo léo chối từ.

Nghĩ đến đây, lão cười khổ một tiếng, điểm chút tự trào, nghĩ bụng: chỉ còn sống được ba ngày, lại nghĩ ngợi gì cái chuyện trường sinh bất tử, chẳng phải là tự làm khổ mình lắm sao?

Có điều lão tuy mặc lòng, nhưng nhìn thấy hai đứa trẻ vẫn nằm lăn dưới đất lại không nỡ dứt, nhất thời nghĩ không ra cách nào vẹn toàn, cứ nghiêng trái ngó phải, thấy đằng xa có một cây tùng, khả dĩ che đỡ được phần nào gió mưa, có vẫn còn hơn không, lão bèn gắng lên tinh thần, ôm lấy hai đứa trẻ, gồng sức đi lại phía ấy.

Khó khăn lắm mới đến được gốc cây, cẩn thận đặt hai đứa xuống xong, Phổ Trí đã sức cùng lực tận, ngồi phệt ra đất, dựa lưng vào thân cây, thở hồng hộc.

Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu! (*)

Câu danh ngôn Đạo gia chầm chậm buột khỏi miệng Phổ Trí, chứa chất mấy phần phẫn hận.

Bầu trời tối như mực, phủ chụp lấy mặt đất. Mây đen mênh mông đè trĩu xuống, mưa lia thia rơi, dày và mau, gió lạnh lùa tới, lắc tha lắc thắc quất vào mặt, lạnh lẽo thấu tim.

Lão ngửa mặt nhìn trời, hồi lâu mới chậm chạp thu ánh mắt, nhìn hai đứa trẻ trước mặt, thầm thì nói: "Nhị vị tiểu thí chủ, lão nạp có lòng tương cứu, đáng tiếc hữu tâm vô lực. Sự tình vốn do ta gây ra, để hại hoạ đến hai vị, thật là tội nghiệt! Ôi! Giá hai người các ngươi là đệ tử của Thanh Vân, ở trên núi Thanh Vân kia, giữa bao nhiêu người, sẽ an toàn hơn, nhưng bây giờ..."

Đột nhiên, toàn thân Phổ Trí chấn động, miệng lầm rầm: "Thanh Vân đệ tử, Thanh Vân đệ tử..." Tâm niệm lão chợt xoay chuyển, tựa hồ nắm bắt được hay nghĩ ra được điều gì, rồi thoáng cái lại bẵng đi mất. Trong khoảnh khắc, mồ hôi lạnh toát ra.

Phút sau, trong mắt lão, không hiểu tại sao, lại thêm lần nữa ánh lên một thứ cuồng nhiệt kỳ dị.

Lão ngẩng mặt cười lớn, trong tiếng cười ẩn chứa một chút điên cuồng!

"Diệu quá, diệu quá! Mệnh ta tuy không còn lâu dài nữa, nhưng nếu truyền thụ Phật gia thần công cho một người, rồi để hắn đầu nhập làm môn hạ Thanh Vân Môn, tu tập Đạo gia thuật pháp, chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện sao, như vậy vừa có thể cứu được hai đứa nó, lại có thể giúp ta hoàn thành tâm nguyện!"

"Phật Đạo hai nhà vốn xa cách từ xưa, đến lúc già chết cũng không hề lai vãng tới nhau. Thanh Vân Môn tuyệt không ngờ được một thiếu niên ít tuổi, từ nhỏ sống dưới chân núi Thanh Vân lại có thể mang trong mình Phật môn đại pháp. Chỉ cần có người kiêm được cái học của hai nhà, tất sẽ phá giải được mê cục của sự trường sinh bất tử suốt vạn năm nay. Ha ha, nếu như vậy, ta chết còn có gì đáng tiếc?"

Lão tâm niệm đã quyết, trong người phấn khởi vô cùng, hai gò má ửng đỏ, mắt loé tia máu, bất giác nhìn Lâm Kinh Vũ rồi thò tay ra. Nhưng tay thò ra đến nửa chừng thì dừng lại, trong lòng đắn đo: chuyện này quan hệ rất lớn, ngày nay các môn các phái có chính kiến rất nặng nề, cực kỳ uý kỵ việc học lén, chẳng may bị người phát giác, sự tình bại lộ, chắc chắn là chết. Thằng nhỏ Lâm Kinh Vũ này tư chất rất tốt, nếu để Thanh Vân Môn thu nạp làm môn hạ, nhất định sẽ được sư trưởng chú ý. Nó tuổi còn nhỏ, e là sẽ không giữ được cái bí mật tày trời này!

Nghĩ đến đây, trong lòng lão chợt nhớ ra điều gì, ánh mắt chuyển sang người Trương Tiểu Phàm, nhớ lại cái tính quật cường của nó lúc ban ngày, chết tới nơi mà không chịu cúi đầu, lão gật gật, nói: "Tư chất kém một chút, cũng không sao, sau này phải trông vào phúc phận của ngươi thôi."

Nói đoạn, không chậm trễ nữa, thò tay vỗ mấy cái lên người Trương Tiểu Phàm, dùng chút sức tàn cứu tỉnh nó.

Trương Tiểu Phàm mãi sau mới tỉnh dậy, trước mắt mơ mơ hồ hồ, trong tai vẫn còn đập lùng bùng. Một lát sau mới trở lại bình thường, nhìn rõ mọi vật trước mắt rồi, nó bỗng giật bắn mình, há hốc miệng không khép lại được.

Ngồi trước mặt nó là lão hoà thượng nọ, thương tích cùng mình, lườn trái dường như bị cái gì đó thiêu đốt, khô cháy rất khó coi, trên mặt sắc đen rùng rùng, cả gương mặt nhuộm tử khí. Nhưng không biết tại sao, lão trông có vẻ rất phấn chấn rạng rỡ. Nó cũng nhìn thấy thằng bạn Lâm Kinh Vũ nằm một bên, hôn mê bất tỉnh.

"Lão, lão làm gì đó?" Trương Tiểu Phàm đờ đẫn một lúc lâu, mới ngập ngừng hỏi.

Phổ Trí không đáp, ngắm nghía nó kỹ càng, rồi hỏi lại: "Tiểu thí chủ, mưa to gió lớn thế, đứa bé như ngươi sao lại một mình đến nơi héo lánh này?"

Trương Tiểu Phàm run run, đáp: "Hồi tối ta trông thấy lão hãy còn đứng ở trong miếu, sau đấy thấy trời sắp mưa, nơi này lại rách nát quá thể, ta nghĩ chắc là lạnh lắm đây, bèn mang đến cho lão một ít đồ ăn."

Phổ Trí động đậy khoé miệng, chắp tay đáp: "Thiện tai, thiện tai. Vạn vật đều là duyên, số mệnh đã sớm sắp đặt rồi, Đức Phật từ bi."

Trương Tiểu Phàm lạ lùng hỏi: "Lão bảo sao cơ?"

Phổ Trí mỉm cười đáp: "Lão nạp nói, tiểu thí chủ và ta có duyên. Đã như vậy, lão nạp có một bộ Pháp môn tu hành, tiểu thí chủ có muốn học không?"

Trương Tiểu Phàm đáp: "Pháp môn là cái gì cà?"

Phổ Trí đờ người một lúc, rồi phá ra cười, thò bàn tay khô héo xoa xoa cái đầu trọc, nói: "Cũng không phải là cái gì cụ thể, mà là phương pháp dạy hô hấp thổ nạp thôi. Ngươi học xong, phải hứa với ta một vài chuyện, được không?"

Trương Tiểu Phàm có vẻ hoàn toàn không hiểu, nhưng vẫn đáp: "Lão nói đi!"

Phổ Trí nói: "Ngươi quyết không được kể với người xung quanh chuyện này, cho dù là đối với những người thân nhất, ngươi có làm được không?"

Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, đáp: "Biết rồi, chết ta cũng không nói."

Phổ Trí giật mình, thấy nó còn nhỏ tuổi mà trên nét mặt đã đầy vẻ kiên tâm, mù trời mưa sợi bay như đao như kiếm lại như sương, táp rạt vào khuôn mặt bé nhỏ, có phần tiều tuỵ hốc hác.

Phổ Trí bỗng hít sâu, rủ mắt không nhìn nó nữa, mấp miệng tiếp tục nói: "Ngoài ra, mỗi ngày ngươi nhất định phải tu tập pháp môn này một lần, nhưng không được luyện ở trước mặt người khác, chỉ có thể tiến hành lúc đêm khuya người vắng. Điều cuối cùng, trừ phi đến lúc sinh tử quan đầu, tuyệt đối không được thi triển cái thuật này, nếu không tất có đại hoạ."

Nói tới đây, lão lại mở bừng mắt, nhìn Trương Tiểu Phàm chằm chặp, hỏi: "Ngươi làm được không?"

Trương Tiểu Phàm đắn đo một lúc, nghiêng nghiêng đầu, rồi lại gãi gãi đầu, nét mặt đầy vẻ nghi hoặc, nhưng rốt cục vẫn gật lia lịa.

Phổ Trí khẽ mỉm cười, không nói thêm gì nữa, bắt đầu truyền khẩu quyết cho nó.

Bộ khẩu quyết này bảo dài thì không dài, chỉ có chừng một ngàn chữ, nhưng trúc trắc khó hiểu, Trương Tiểu Phàm cố gắng hết sức, mất đến ba canh giờ, mới học thuộc được hết.

Phổ Trí đợi đến khi nó nhớ kỹ hết thảy, mới thở phào một hơi, thần sắc bải hoải.

Lão nhìn Trương Tiểu Phàm, ánh mắt chất chứa từ ái, bảo: "Lão nạp cả đời tu hành, xưa nay chưa từng nghĩ đến việc thu nhận đệ tử, ai ngờ đến lúc sắp chết, lại có cái duyên sư đồ với ngươi. Xem ra, ngươi cũng nên biết danh hiệu của ta." Lão ngừng một lát, rồi tiếp: "Ta pháp danh Phổ Trí, là tăng nhân của Thiên Âm Tự. Khục, hài tử này, ngươi biết Thiên Âm Tự chứ?"

Trương Tiểu Phàm nghĩ ngợi một lúc, rồi lắc đầu.

Phổ Trí tức cười bảo: "Đúng là trẻ con mà." Rồi sực nhớ điều gì, bèn thò tay vào trong bọc lần ra một viên hạt châu tím sẫm, chăm chú nhìn nó, rồi đưa cho Tiểu Phàm, bảo: "Ngươi hãy giữ viên hạt châu này cho cẩn thận, không được để người ngoài dòm thấy. Đợi đến này sau an định rồi, ngươi tìm một hang sâu hay vách núi, ném nó xuống là được. Còn nữa, ta vừa nói cho ngươi biết danh hiệu của ta, ngươi nhất thiết không được nhắc đến với người ngoài."

Trương Tiểu Phàm nhận lấy hạt châu, đáp: "Biết rồi."

Phổ Trí xoa đầu nó, nói: "Ngươi và ta có mối túc duyên này, cũng chẳng biết kiếp sau còn gặp lại nhau không. Hài tử, ngươi hãy quỳ xuống khấu đầu ba cái, gọi ta một tiếng sư phụ đi!"

Trương Tiểu Phàm nhìn Phổ Trí, thấy lão đã thu lại nụ cười, nét mặt trang nghiêm, bèn gật đầu dạ, gọi một tiếng "Sư phụ." rồi quỳ xuống đất, liên tiếp khấu đầu ba cái. Nó vừa khấu đầu xong, chưa ngẩng lên, đã nghe Phổ Trí cười khe khẽ, nhưng trong tiếng cười chất chứa những bi thống và quả đoán.

Trương Tiểu Phàm toan ngẩng lên nhìn lão, chợt cảm thấy sau lưng có người vỗ khẽ, rồi mắt mũi tối sầm, lại lăn ra bất tỉnh nhân sự.

**

*

Alex chú:

· Bất nhân: không có lòng thương xót, lạnh lùng trước mọi vật và mọi hiện tượng, đúng thời thì dùng, hết thời thì bỏ, không thương xót, không tư vị, cứ một đường tiến tới.

· Sô cẩu: chó rơm, chỉ con chó kết từ rơm, dùng trong các buổi lễ, khi dùng xong thì đốt bỏ.

· Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật sô cẩu: câu trích trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử, dịch nôm là Trời Đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm.

· Trời Đất công bình, nguyên tánh thản nhiên lạnh lùng, không vì có kẻ chết rét bởi cái lạnh của mùa Đông mà dẹp bỏ mùa Đông, nên nói là "bất nhân".

· Lão Tử cho rằng, "bất nhân" như trên, là qui luật của Trời Đất và các bậc đạt đạo (Thánh nhơn), khi tu đạt đến bực hiểu rõ qui luật của Càn Khôn vạn vật thì các bậc ấy thản nhiên trước các đổi thay của Trời Đất, của vạn vật.

hết: Chương 3

Chương 4

Kinh Biến

Sáng sớm, một trường mưa gió rốt cục đã lắng xuống.

Nước đọng trên cây trong vắt long lanh, từ rìa lá lặng lẽ rỏ giọt, vừa rơi xuống, lại theo gió văng vào không trung kéo thành một vệt đẹp mong manh, rớt lên mặt Trương Tiểu Phàm.

Nước lạnh buốt gỡ Trương Tiểu Phàm tỉnh khỏi cơn mộng, nó trợn mắt, vô thức thét gọi: "Sư phụ..." nhưng bốn bề vắng ngắt, chỉ có Lâm Kinh Vũ nằm bên cạnh, đang say giấc nồng.

Cứ như vừa trải qua một giấc mơ.

Nhưng toà miếu cỏ nát vụn nơi xa, rồi thằng bạn vẫn hay nô đùa với mình nằm ngủ say bên cạnh, đều nhắc cho nó biết, tất thảy đều là thật cả.

Nó run rẩy nghĩ một lúc rồi lắc lắc đầu, đi đến bên mình Lâm Kinh Vũ, xô mạnh vào người bạn, Lâm Kinh Vũ làu nhàu mấy tiếng trong miệng, rồi từ từ bừng tỉnh, dụi dụi mắt, còn chưa nói lời nào, đã cảm thấy một luồng hàn khí thấm vào người, không nén được liền nhảy mũi mấy cái.

Nó mở to mắt nhìn, thấy mình với Trương Tiểu Phàm người ngợm ướt đẫm cả, lại nằm dưới một gốc tùng ở ngoài đồng, bất giác trơ mắt há miệng, hỏi: "Chẳng phải là ta đang ngủ ở nhà sao, thế nào mà lại đến đây?" Trương Tiểu Phàm khẽ nhún vai, đáp: "Ta cũng không biết nữa, có điều ta lạnh lắm rồi, hay là mau đi về đi!"

Trong óc Lâm Kinh Vũ có vô khối nghi vấn, nhưng thân mình lạnh giá, bèn gật đầu, bò dậy cùng Trương Tiểu Phàm đi về trong thôn.

Chưa đến trước thôn, hai đứa bọn nó đã phát hiện ra có gì đấy không bình thường, hằng ngày vào giờ này, thôn dân đều đã dậy rồi, nhưng hôm nay lặng lẽ quá thể, chẳng thấy bóng một người nào, mà trong luồng gió ban mai thổi tới lại trộn lẫn mùi tanh của máu.

Hai đứa liếc nhìn nhau, đều đọc thấy trong mắt nhau nỗi kinh nghi, liền cùng tăng tốc chạy vù về thôn. Không bao lâu, hai đứa đã đến trước cửa thôn, nhìn theo con đường lớn chạy từ trong ra, thấy ở bãi đất giữa thôn, hơn bốn mươi gia đình của Thảo Miếu, khoảng hai trăm người, già trẻ gái trai đều nằm trên đất trống, thân thể cứng đờ, đã ra thây chết hết, màu chảy thành sông, ruồi nhặng bay vo ve, mùi máu tanh xộc thẳng vào mặt.

Lâm Kinh Vũ và Trương Tiểu Phàm hai đứa bỗng đâu gặp cảnh tượng kinh khủng này, trong lúc khiếp đảm bật la to rồi ngất xỉu.

Cũng không biết là trải qua bao lâu, Trương Tiểu Phàm tự dưng bừng tỉnh lại, nó ngồi phắt dậy, há hốc miệng thở hổn hển, hai tay khe khẽ run. Vừa rồi trong lúc ngất đi, đầu óc nó đầy ắp những mặt quỷ hung ác, máu tươi xương trắng, liên hồi gặp ác mộng.

Nó định thần rồi, quay nhìn bốn phía, chỉ thấy đây là một sương phòng bình thường, cửa sổ nhỏ có hai cánh, trong phòng sắp đặt đơn sơ sạch sẽ, chỉ có mấy cái bàn ghế bằng gỗ tùng, trên đặt ấm chén. Một cái lò lớn (1), trên đặt bốn cái giường liên tiếp nhau choán lấy hẳn nửa căn phòng. Ngoài cái giường nó đang nằm, giường bên cạnh chăn đệm lộn xộn, như là vừa có người ngủ ở đó xong. Hai cái còn lại chăn gấp rất ngay ngắn, cẩn thận.

Bức tường đầu dãy giường có treo một tấm hoành phúc, trên viết một chữ Đạo rất lớn!

Xem vẻ giống như một phòng nghỉ bình thường trong một quán trọ, hoặc là phòng ở chung của mấy đệ tử đi tầm sư học nghệ.

Trương Tiểu Phàm ngồi một lát, trong lòng bất giác nảy ra một ý nghĩ: tất cả những chuyện đêm qua phải chăng đều là ác mộng cả? Biết đâu vừa rồi mình đã ngủ suốt tại đây? Biết đâu đi ra khỏi căn phòng này, sẽ gặp ngay mẫu thân cười rồi la mắng nó như mọi khi Cái thằng lười này!"

Nó chậm chạp tụt xuống giường, xỏ giày, đi từng bước từng bước ra phía cửa.

Cửa đang khép hờ. Qua khe, thoáng có gió lùa vào mát rượi.

Nó đi từng bước từng bước, hai tay bé nhỏ nắm càng lúc càng chặt. Tim nó đập mạnh ghê gớm, chèn ép cả hơi thở, rất nhanh, nó đi đến cửa, đặt tay lên cánh phên.

Tấm cửa gỗ nặng như núi, trĩu như sắt.

Nó nghiến răng, "dô ta" một tiếng, kéo mở cánh cửa phòng.

Ánh sáng rực rỡ bên ngoài thoắt cái ùa vào, làm nó phải híp mắt lại. Dương quang nồng nàn rơi trên thân mình khiến nó thấy dịu dàng ấm áp.

Nhưng trái tim nó, một lát sau lại như rơi vào hố băng.

Phía ngoài cửa là một đình viện be bé, có mấy thân tùng bách, mấy cụm cây cỏ, chen lẫn có mấy đoá hoa nhỏ toả hương trong lành, nở rộ hân hoan. Trước cửa là một hành lang, dẫn thông ra ngoài viện. Bước lên độ bốn thước, có mấy bực thềm, nối liền đình viện và hành lang.

Bên một góc thềm, có một đứa bé đang ngồi cô quạnh, tay chống vào má, cứ lẳng lặng ở đó, không động đậy.

Có lẽ tiếng mở cửa đã khiến đứa trẻ chú ý, nó trù trừ một lát, rồi chầm chậm quay đầu lại.

Lâm Kinh Vũ.

Trương Tiểu Phàm há to miệng, trong lòng có trăm ngàn điều muốn hỏi, nhưng lời nói đến cửa miệng, lại hoá ra câm lặng.

Nó còn muốn hét lên, chỉ có điều trong lòng u buồn, hét không ra tiếng.

Hai hàng nước mắt, cứ thế, lặng lẽ chảy xuống.

Hai đứa trẻ, cứ thế, im lìm không nói, lẳng lặng nhìn nhau.

**

*

Chẳng biết từ nơi nào ở đằng xa, có tiếng chim hót trong trẻo đưa tới, bầu trời xanh thẳm, mây trắng bồng bềnh.

Trương Tiểu Phàm ngồi ở một mé bậc thềm, đầu cúi thấp, nhìn con đường nhỏ lát đá trong đình viện.

Trong đình viện, một bầu không khí tịch mịch.

Cứ như thế cũng không biết đã qua bao lâu, Lâm Kinh Vũ chậm rãi bảo: "Ta dậy sớm hơn mi, lúc ấy trong phòng còn có mấy người, ta đã hỏi bọn họ, đây là Thông Thiên Phong của núi Thanh Vân.

Trương Tiểu Phàm thì thầm thốt: "Núi Thanh Vân..."

Lâm Kinh Vũ nói: "Nghe bọn họ bảo, mấy đệ tử môn hạ Thanh Vân đi qua, nhìn vào trong thôn, trong thôn..." nói tới đây, giọng nó bất giác nghẹn ngào. Nó giơ tay lau mắt thật mạnh, thở hắt ra, lại nói tiếp: "Sau đó bọn họ tìm thấy hai đứa bọn mình ở cuối thôn, bèn đem bọn mình lên núi."

Trương Tiểu Phàm nhúc nhích khoé miệng, nhưng không ngẩng đầu, hỏi: "Sau này bọn mình biết làm sao, Kinh Vũ?"

Lâm Kinh Vũ lắc lắc đầu, buồn thảm đáp: "Ta cũng không biết."

Trương Tiểu Phàm toan nói nữa, chợt nghe từ hành lang sau lưng vọng tới một giọng lạ: "A! Các ngươi đều tỉnh rồi à?"

Hai đứa cùng quay lại nhìn, thấy đứng đó một đạo sỹ trẻ trung, vận bộ đạo bào lam sắc, trông rất có khí khái anh hùng. Y rảo bước đi lại, nói: "Vừa lúc mấy vị sư tôn cũng muốn gặp các ngươi, hỏi han các ngươi mấy việc. Các ngươi giờ theo ta lại đây!"

Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ nhìn nhau, rồi đứng dậy, Lâm Kinh Vũ nói: "Vâng, xin đại ca dẫn đường!"

Đạo sỹ trẻ đó liếc nhìn Lâm Kinh Vũ, gật gật đầu, đáp: "Các đệ theo ta lại đây."

Theo đạo sỹ, hai đứa đi ra khỏi đình viện, trước mắt hiện ra một dãy hành lang uốn khúc hình vành khuyên rất dài rất to, tay vịn cứ cách hai trượng lại có một trụ màu đỏ. Giữa mỗi cặp trụ đều có một cái cửa tò vò.

Họ men theo hành lang uốn khúc tiến về phía trước, đi qua từng trụ và từng cửa tò vò, mới nhận ra, trong mỗi cửa tò vò đều có một đình viện nhỏ y như chỗ ban nãy, xem ra đây là nơi ở của các đệ tử Thanh Vân Môn.

Đừng nói gì khác, cứ nhìn quy mô này, số đình viện nhỏ chắc không dưới một trăm, có thể thấy đệ tử Thanh Vân Môn rất đông.

Đi được một lúc, mới trông thấy đoạn cuối của hành lang, đó là một bức tường trắng cao chất ngất, phía dưới trổ một cái cửa lớn, hai cánh gỗ đại thụ dầy dặn, cao đến hai trượng, hầu như phải ngẩng đầu lên mới nhìn thấy hết, cũng không biết lúc đầu làm sao mà tìm thấy thứ gỗ to đến nhường này.

Đạo sỹ trẻ tuổi nhìn mà như không thấy gì hết, có vẻ hàng ngày ra ra vào vào, nhìn mãi thấy nhàm rồi, trên mặt không một chút cảm xúc nào như hai đứa trẻ kia, tuyệt không động dung, qua cửa này đi ra. Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ vội vàng rảo theo.

**

*

Vừa mới đạp chân lên bậc cửa cánh lớn này, hai đứa trẻ thoắt cùng nín thở, không thể tin vào tất thảy những gì đang nhìn thấy

Đây, dường như chính là tiên cảnh trong truyền thuyết.

Một khoảng sân rộng lớn mênh mang, bề mặt lát toàn bằng đá Hán bạch ngọc toả sáng lóng lánh, trải ra trước mắt vụt khiến người ta cảm thấy mình sao mà nhỏ bé. Đằng xa nhiều đám mây trắng, nom mịn màng nhẹ nhõm, cứ bồng bềnh quanh bước chân.

Chính giữa sân, cách vài chục trượng lại đặt một cự đỉnh bằng đồng, chia làm ba hàng, mỗi hàng ba cái, tổng cộng chín đỉnh, sắp xếp rất ngay ngắn. Trong đỉnh phiêu phất thoảng lên làn khói, hương thanh nhẹ mà không tiêu tán. "Đi lại đây nào." Dường như thấu hiểu tâm tư của hai đứa bé, vị đạo sỹ trẻ trung khuôn mặt lộ nét cười, cứ để chúng nó ngắm nghía một thôi một hồi, mới lên tiếng gọi, rồi tiếp tục đi về phía trước.

"Đây là Vân Hải trong Thanh Vân Lục Cảnh, đầu đằng kia còn đẹp hơn nữa!" Đạo sỹ trẻ vừa đi vừa nói.

Lâm Kinh Vũ không nén được hỏi: "Là gì đấy ạ?"

Đạo sỹ trẻ vung tay chỉ, miệng đáp: "Hồng Kiều" (2).

Hai đứa phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy tít tắp phía trước, nơi cuối khoảng sân, sau làn mây lảng bảng như sương, tựa hồ có vật gì đó lấp la lấp lánh, bọn chúng cất bước mau hơn, đi về phía ấy. Dần dần nghe tiếng nước chảy vọng tới, trong đó lẫn vào một thứ quái thanh y như tiếng sấm động, chẳng biết phát ra từ đâu.

Đi càng lúc càng lại gần, vân khí tựa như tiên nữ ôn nhu, nhẹ nhàng lượn quanh mình chúng, từ từ giãn tấm mạng che mờ ảo, để lộ ra cảnh sắc thanh thao.

Phía cuối sân, là một dãy thạch kiều không mố không trụ, vồng ngang qua trời, một đầu tựa trên sân, đầu kia vươn chếch lên, ngập chìm trong mây trắng, tựa như kiều long dược thiên, khí thế cô ngạo. Tiếng nước chảy tí tách vọng tới, dưới ánh dương quang, cả dãy thạch kiều tán phát một thứ màu bảy sắc, như cầu vồng từ trời chảy xuống nhân gian, cẩm tú rực rỡ, diễm lệ vô song.

Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ cứ ngẩn ra nhìn.

Đạo sỹ trẻ cười cười, bảo: "Theo ta lại đây nào!" Nói rồi đi trước, bước lên thạch kiều.

Đặt chân lên thạch kiều, hai đứa mới phát giác ra, hai bên cầu có làn nước chảy mãi xuống, trong leo lẻo, nhưng ở giữa không thấm một giọt nước nào. Ánh nắng xuyên qua lớp màu bảy sắc chiếu rọi lên cầu, tán xạ làn nước, tạo thành cầu vồng lóng lánh.

Vị đạo sỹ thấy bộ dạng say sưa mê mẩn của hai đứa, bèn bảo: "Các đệ cẩn thận đấy, dưới cái cầu này là vực sâu không đáy, vô ý mà rơi xuống đó, thì chết không có chỗ chôn đâu."

Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ đều giật thót, vội vàng trấn định lại tinh thần, đi đứng cẩn thận.

Hồng Kiều này thật cao quá dài quá, ba người đi trên ấy, chỉ thấy bên trái, bên phải mây trắng lờn vờn chìm xuống gót chân, hình như càng đi càng cao lên. Âm thanh cổ quái đằng trước vẫn không ngừng vọng tới. Lại đi thêm một hồi, mây trắng mỏng dần, vậy là đã ra khỏi Vân Hải, trước mắt vụt sáng loá, chỉ thấy bầu trời mênh mông trong trẻo, xanh đến thấu suốt, bốn bề quang đãng, rộng đến không biết đâu là cùng; phía dưới là Vân Hải mịt mù, bồng bềnh chìm nổi, phóng mắt ra xa, tâm hồn bỗng chốc như rộng mở.

Ở đằng trước kia, chính là đỉnh ngọn Thông Thiên Phong, nơi đặt Ngọc Thanh Điện, chính điện của Thanh Vân quán chủ. Như viên ngọc trên non xanh, mái điện sừng sững, Ngọc Thanh Điện toạ lạc trên đỉnh núi, vân khí bao bọc, thi thoảng vài cánh hạc kêu hiu hắt bay qua, lượn vòng tròn trên không, như tiên gia linh cảnh, khiến người ta thốt sinh lòng kính ngưỡng.

Lúc ấy Hồng Kiều không vươn cao lên nữa, nó vẽ thành một hình khum khum giữa trời, ngả xuống bên đầm nước màu bích lục trước điện. Cùng lúc ấy, từ trong Ngọc Thanh Điện âm âm vọng tới tiếng ca quyết của đạo gia, đầy khí thế thần tiên. Thứ quái thanh kia, cũng càng lúc càng lồng lộng. Ba người đi hết Hồng Kiều, đến bên đầm nước, một con đường đá rộng rãi dẫn từ đầm nước lên thẳng đại môn Ngọc Thanh Điện. Nước trong đầm màu bích lục, thanh tĩnh như gương, bóng người bóng núi soi trong ấy có thể nhìn thấy rõ ràng.

Họ bước lên con đường đá, toan theo hướng đại môn bước tới, chợt nghe từ sâu dưới đầm một tiếng gầm rống, vang như sấm nổ, chính là thứ quái thanh nghe thấy từ lúc trước. Phóng mắt nhìn lại, từ giữa đầm thình lình nổi lên một xoáy nước cực lớn, giây lát sau, chỉ thấy sóng nước cuộn trào, rồi một thân ảnh khổng lồ thoát ra, hoa nước bắn lên đầy trời vỗ hết cả vào mặt. Vị đạo sỹ trẻ trung kia dường như đã sớm có phòng bị, tay trái khẽ vẫy, thân hình chớp lên trên không, tránh vụt về đằng sau chừng hơn hai trượng rồi dừng lại lơ lửng giữa trời. Hai đứa trẻ nhỏ chẳng biết nên tháo chạy đi đằng nào, liền bị té nước ướt sũng như con gà rơi vào nồi canh (3).

Nhưng hai đứa chúng nó lại chẳng hề chú ý đến tình cảnh mình, cứ ngây người ra nhìn cái vật thù lù vừa mới xuất hiện trước mặt, nó cao đến năm trượng, đầu rồng mình sư tử, toàn thân phủ đầy vảy và mai, mắt to mồm lớn, hai cái răng nanh sắc nhọn lấp lánh sáng dưới ánh dương quang, mặt mày hung ác, trông mà phát sợ. Con quái thú ấy lắc lắc mình, hu la la lại một trận hoa nước nữa bắn ào ra, sau đấy tuồng như phát hiện được điều gì, nó liền duỗi cái đầu ù lại chỗ bậc thềm.

Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ thấy cái đầu con quái vật ấy còn lớn hơn cả hai đứa bọn nó cộng lại nhiều, dưới ánh dương quang, răng xỉ sắc nhọn trông rõ mồn một, thấy nó đi lại càng lúc càng gần, hai đứa sợ phát khiếp, không nén được bèn rúm rít lại với nhau, tim đập thình thình. Lúc ấy, đạo sỹ trẻ trung kia chẳng biết đã bay trở lại tự khi nào, đặt đơn chưởng lên trước ngực, cung cung kính kính nói: "Linh tôn, bọn trẻ này là do chư vị sư tôn có ý triệu kiến."

Con quái thú ấy trợn mắt nhìn y, "hừ" một tiếng, vắt mũi một cái, đôi con ngươi trong cặp mắt to cồ cộ đảo đảo, y như người đang động não suy nghĩ. Sau rồi nó chẳng lý gì đến ba người nữa, lúc lắc đi sang một bên, tới chỗ khô ráo cạnh đầm nước nằm phục xuống, ngáp dài, uể oải ngả đầu ra sưởi nắng, rồi ngủ thiếp đi.

Hai đứa còn kinh hãi chưa nguôi, vị đạo sỹ trẻ đã làm hiệu bảo tiếp tục đi, rồi nói: "Linh tôn là dị thú thượng cổ do Thanh Diệp tổ sư của phái ta thu phục được từ ngàn năm trước, tên gọi là "Thuỷ Kỳ Lân". Năm ấy Thanh Diệp tổ sư quang đại Thanh Vân, hàng yêu trừ ma, nó cũng đã từng xuất đại lực đấy. Bây giờ thì là linh thú trấn sơn của Thanh Vân Môn chúng ta, trân trọng nó mà gọi là linh tôn."

Nói đoạn, y lại hướng về phía Thuỷ Kỳ Lân hành lễ, Trương Tiểu Phàm đang nhìn đến xuất thần, chợt bị Lâm Kinh Vũ kéo một cái, thấy nó đánh mắt ra hiệu, bèn cũng cùng nhau cung cung kính kính hướng về Thuỷ Kỳ Lân hành lễ.

Thủy Kỳ Lân chẳng hề ngoái đầu lại, cũng chẳng nhúc nhích, chỉ có tiếng ngáy vang lên ầm ầm, chắc là nó cũng chẳng nhìn thấy.

Ba người hành lễ xong, lại tiếp tục đi về phía trước. Đi qua đường đá cao cao, xa xa đã nom thấy tấm trương bài kim sắc, trên đề ba chữ Ngọc Thanh Điện, đến trước đại điện hùng vĩ, chỉ thấy cánh cửa mở rộng, bên trong ngập tràn ánh sáng, khí độ trang nghiêm, phụng thờ thần vị của Tam Thanh là Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn và Đạo Đức Thiên Tôn (4).

Phía trước thần vị, trên đại điện, có mấy chục người đang đứng, có kẻ tu hành có người phàm tục, xem ra đều là môn hạ của Thanh Vân Môn. Phía trước đám người ấy, đặt chừng bảy cỗ đại kỷ, bên trái bên phải mỗi bên ba cái, chính giữa, nơi đầu hai dãy đặt một cái, trên đó có sáu người ngồi, riêng cái ghế tận cùng dãy bên phải thì để trống.

**

*

Hết chương 4

Alex chú:

1. Lò: là một loại giường xây bằng gạch hoặc đất phía dưới có thông bếp lửa, để sưởi ấm, thường thấy ở miền bắc Trung Quốc.

2. Hồng Kiều: cầu vồng

3. Con gà rơi vào nồi canh: lẽ ra có thể dịch là ướt như chuột lột, nhưng tôi thấy để nguyên thế này, nghe hình ảnh có vẻ mới mẻ hơn.

4. Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn và Đạo Đức Thiên Tôn: được gọi chung là Tam Thanh Đạo Tổ theo Đạo giáo, bắt đầu từ một cái thuyết như sau:

5. Kể từ thuở mênh mông mờ mịt chưa chia, trời đất còn là một khối hỗn độn, mặt trời mặt trăng chưa phân, lúc đó khí tiên thiên vô tận, Thánh Phật Tiên hoà hợp chung cùng một thể, toả chiếu vô lượng hào quang xoay chuyển hư không được gọi là: Huyền huyền thượng nhân hay Nguyên Thuỷ Thiên Vương. Bởi địa vị tối cao đó nên còn được kêu là "Thượng Đế", là thuỷ tổ muôn loài vạn vật, hoặc cha Trời mẹ Đất. Vì không biết tên nên gọi là "huyền huyền" (mờ mịt), không rõ gốc rễ nên gọi là "nguyên thuỷ" (ban đầu) tức là gốc của đạo lớn, cõi của không tên. Vận chuyển tới mức tròn đầy khí tự nhiên phân hoá thành "tam thanh" gồm: Ngọc Thanh Nguyên Thuỷ Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn. Ba nhân tố "Huyền, nguyên, thuỷ" cùng chung một thể, ba cấp bậc khi đã nên sự thì "tam thanh" phân chia biến hoá sang hữu hình, khí thanh nhẹ bay lên cao hội hợp làm trời, mặt trời, mặt trăng và sự xuất hiện này đã hoàn thành tam bảo.

hết: Chương 4

Chương 5

Nhập Môn

Lúc ấy, mọi người trong điện đang đàm đạo, dường như đang thảo luận việc gì.

Vị đạo sỹ trẻ dẫn Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ đến ngoài cửa, chỉnh đốn lại y bào, rồi cung kính thưa: "Chưởng môn, các vị sư thúc, đệ tử Thường Tiễn phụng mệnh đưa hai vị tiểu..."

Y chưa nói hết, đột nhiên trên đại điện thần quái nghiêm trang, bỗng vẳng ra một tiếng hét ghê gớm, cắt ngang lời y: "Quỷ, ác quỷ! Quỷ!..."

Thường Tiễn kinh hoảng, nhưng Trương Tiểu Phàm và Lâm Kinh Vũ còn kinh hoảng hơn, tiếng hét này chói lói rát tai, nhưng có vẻ rất quen thuộc.

Trương Tiểu Phàm chẳng kịp suy nghĩ nhiều, nhoáng một cái xộc vào trong điện, hét lớn: "Vương nhị thúc, Vương nhị thúc, là thúc phải không?"

Nó bối rối quá, giọng điệu vừa lo lắng, vừa khóc lóc, mọi người trông thấy không khỏi thương xót.

Chỉ thấy đằng sau đám người, chỗ mé tường trong đại điện, một trung niên nam tử ăn mặc lối tiều phu, hai tay ôm đầu, co rúm người vào sâu trong góc, toàn thân run bắn, từ các kẽ tay vẫn ri rỉ vọng ra tiếng kêu: "Quỷ, quỷ..."

Trương Tiểu Phàm với Lâm Kinh Vũ vừa vào theo lập tức đều nhận ra người này chính là một tiều phu trong thôn Thảo Miếu, họ Vương, sắp hàng thứ hai, người rất lương thiện, lúc nào cũng cười ha ha, đối xử với đám trẻ con bọn nó rất tốt, ngày thường sau những lúc lên núi đánh củi, đều mang quả rừng về chia cho bọn chúng.

Trương Tiểu Phàm chẳng suy xét gì, chạy ào tới bên mình Vương nhị thúc, ôm choàng lấy vai hắn, gọi to: "Vương nhị thúc, rốt cục là đã xảy ra chuyện gì? Vì sao mọi người trong thôn đều, đều chết cả?

Lại còn, mẹ cháu nữa! Cha cháu nữa! Họ ra sao rồi? Thúc nói đi!"

Vương nhị thúc nghe thấy Trương Tiểu Phàm liên tục truy vấn, tựa hồ có chút tỉnh táo, tạm thời không nói "quỷ, quỷ" nữa, chậm chạp ngẩng đầu lên, ngó Trương Tiểu Phàm đang đứng trước mặt.

Mọi người trên đại điện rờn rợn động dung, ai nấy đều im lặng, cả những người ngồi trên ghế cũng không nén được, bèn đứng dậy, trông lại phía ấy.

Tròng mắt Vương nhị thúc đỏ ngầu, rõ ra thần sắc sợ hãi khủng khiếp quá. Hắn ngắm nghía Trương Tiểu Phàm, chẳng thốt một lời, cau cau đôi mày, tựa hồ đang cố sức nghĩ ngợi gì.

Lúc này, có người trong Thanh Vân Môn không nén được liền bước lên, đang định cất lời, thì bị người bên cạnh khe khẽ nắm lại.

Trương Tiểu Phàm thấy Vương nhị thúc chẳng có phản ứng gì, cứ nhìn mình mặt rùng rùng tử khí, trong lòng càng thêm lo lắng, lại la to: "Vương nhị thúc, thúc sao vậy?"

Ai ngờ Vương nhị thúc nghe nó hét, toàn thân phát run, nét mặt tỏ ra kinh sợ khủng khiếp, cả người đột nhiên lăn chiêng ra mặt đất, hai tay ôm đầu, rúm lại thành một đống, trong miệng không ngừng la thảm: "Quỷ, quỷ, quỷ!..."

Trong đại điện khắp phía vang tiếng thở dài, chúng nhân Thanh Vân Môn trên mặt đều có vẻ thất vọng, những người vừa đứng lên cũng chán nản ngồi xuống. Trương Tiểu Phàm còn muốn truy vấn, nhưng bị Lâm Kinh Vũ bên cạnh giữ lại.

Trương Tiểu Phàm vô thức ngoảnh đầu sang, thấy Lâm Kinh Vũ khoé mắt đầy lệ, buồn thảm nói: "Chẳng ăn thua gì đâu, chú ấy điên rồi!"

Trương Tiểu Phàm thấy trong đầu nổ "rầm" một tiếng, ngã phịch ra đất, chẳng nói chẳng rằng.

Lâm Kinh Vũ lớn hơn nó một tuổi, tâm tư cũng tinh tế hơn, đưa mắt nhìn mọi người trong đại điện, nó thấy những người đứng đó đều khoác môn y của Thanh Vân Môn, có nam có nữ, có đạo có tục. Hầu hết giắt binh khí, đa số là trường kiếm.

Trong đó, sáu người ngồi trên ghế, khí độ càng có vẻ xuất chúng, hơn hẳn mọi người khác. Trong sáu người này, có ba người là tu hành, ba người là tục gia, đặc biệt nguời ngồi chính giữa, mình khoác hắc lục đạo bào, tiên phong hạc cốt, hai mắt ôn nhuận long lanh, tất nhiên chính là vị chưởng môn đại danh đỉnh đỉnh của Thanh Vân Môn, Đạo Huyền Chân Nhân.

Lâm Kinh Vũ không rườm lời nữa, kéo Trương Tiểu Phàm dậy, chạy tới chỗ sáu người đó, quỳ xuống trước mặt Đạo Huyền Chân Nhân, dập đầu lia lịa bình, bình, bình .

Đạo Huyền Chân Nhân đưa mắt ngắm kỹ hai đứa nó, khẽ thở dài bảo: "Hài tử đáng thương, các ngươi đứng dậy đi!"

Lâm Kinh Vũ chẳng hề nhỏm dậy, nó ngẩng đầu nhìn nhân vật thần tiên đệ nhất lưu này, nói giọng bi thương: "Chân Nhân, hai đứa con niên ấu vô tri (1), thình lình gặp cơn đại biến này, thực là không biết làm thế nào mới được. Lão nhân gia người thần thông quảng đại, tỏ tường được cả việc tương lại, xin hãy vì chúng con mà quyết định cho!"

Trương Tiểu Phàm chẳng khéo ăn nói như thế, vả lại đầu óc đang hỗn độn tơi bời, cũng chỉ biết nói theo: "Vâng ạ! Thần tiên gia gia, xin người hãy quyết định giùm cho!"

Chúng nhân nghe vậy, trên mặt đều không kìm được nét cười, thoạt tiên nhìn Truơng Tiểu Phàm nói lời trẻ dại ngây thơ, nhưng sau mọi ánh mắt đều dồn về phía Lâm Kinh Vũ.

Lâm Kinh Vũ tuổi nhỏ, thân lâm đại biến, lại đối diện với cao nhân danh động thiên hạ như Đạo Huyền Chân Nhân, mà nói năng vẫn đâu ra đấy, rõ ràng mạch lạc, quả là điềm đạm trầm tĩnh hơn hẳn những hài đồng bình thường, càng không thể đem so với Trương Tiểu Phàm vô tri đến mức còn tưởng Đạo Huyền Chân Nhân là thần tiên.

Thảm án thôn Thảo Miếu, là chuyện mà Thanh Vân Môn chưa từng gặp, chưa từng nghe tới suốt nghìn năm qua, lại xảy ra ngay dưới chân họ, làm cả môn phái đều chấn động.

Đạo Huyền Chân Nhân nhận được cấp báo xong vừa kinh ngạc vừa tức giận, bèn triệu tập thủ toạ của sáu chi phái kia đến thương lượng. Lúc này, ngoài thủ toạ của Tiểu Trúc Phong là Thuỷ Nguyệt Đại Sư còn chưa đến, thủ toạ của năm chi phái kia đều đã an toạ.

Những nhân vật gánh vác được trách nhiệm thủ toạ của bảy chi phái, tất nhiên là những nhân vật đỉnh cao trong Thanh Vân Môn; mà những nhân vật đỉnh cao trong Thanh Vân Môn, cũng chính là những nhân vật tuyệt luân trong hàng ngũ đạo sỹ tu chân luyện đạo trên thế gian. Những người đang ngồi đây, ai nấy đều nhìn xa trông rộng, lúc này trong lòng chỉ biết nhận xét một câu: "Đúng là một miếng ngọc đẹp!"

Đạo Huyền Chân Nhân khe khẽ mỉm cười, nói: "Tương lai quá khứ thì ta không biết, nhưng các con sống dưới chân núi Thanh Vân, Thanh Vân Môn chúng ta tất nhiên không thể bỏ mặc không lý đến. Tuy thế ta có vài câu muốn hỏi, mong rằng con sẽ trả lời cho rõ."

Lâm Kinh Vũ gật đầu nói: "Vâng, đệ tử biết gì sẽ thưa ấy. Xin chân nhân cứ hỏi!"

Đạo Huyền Chân Nhân gật gật đầu, nói: "Con làm sao mà thoát được kiếp nạn này?"

Lâm Kinh Vũ đờ người, rồi đáp: "Hồi bẩm chân nhân, con còn nhớ là đêm hôm qua vẫn ngủ trên giường ở nhà, nhưng sáng nay tỉnh giấc thì lại đang cùng Tiểu Phàm nằm ngoài đồng, dưới một cây tùng, con cũng không biết đã xảy ra chuyện gì. Sau đó Tiểu Phàm gọi con dậy, chúng con chạy về thôn, thì nhìn thấy cảnh, cảnh, cảnh đó, sợ quá ngất đi."

Đạo Huyền Chân Nhân chau mày, nhìn sang Trương Tiểu Phàm, nói: "Là con gọi y dậy, thế con thì sao?"

Trương Tiểu Phàm nghĩ một lúc, rồi đáp: "Con cũng không biết làm sao mà ra đến chỗ đó, khi tỉnh lại thấy Kinh Vũ ở bên cạnh, con bèn đánh thức y."

Đạo Huyền Chân Nhân đưa mắt trao đổi với các vị thủ toạ khác, trong mắt có nét nghi hoặc. Nếu có cao nhân cứu giúp, thì tại sao chỉ cứu có hai đứa nhỏ, nếu không phải là cao nhân, thì bất luận thế nào, cũng giải thích không xuôi!

Đạo Huyền Chân Nhân trầm ngâm một lát, nói: "Nói như vậy, các con đối với việc đêm hôm qua, không hay biết gì hết."

Hai đứa đồng thanh đáp: "Vâng."

Đạo Huyền Chân Nhân thở dài, gọi một tiếng: "Tống Đại Nhân (2)."

"Có đệ tử." Một đệ tử Thanh Vân ứng tiếng bước ra, dáng khôi ngô cao lớn, phục trang theo lối tục gia. Chỗ y vừa đứng là ở sau lưng một người béo lùn đang ngồi, xem ra chính là môn hạ đệ tử của người đó.

Đạo Huyền Chân Nhân nói: "Ngươi là người đầu tiên phát hiện ra chuyện ở Thảo Miếu, ngươi hãy đem việc lúc đó nói lại một lượt nữa!"

Tống Đại Nhân cất giọng thô sảng: "Vâng. Sáng sớm hôm nay, đệ tử và mấy sư huynh đệ đồng môn ra ngoài lo việc, khi quay về đạp không trung mà đi. Lúc ngang qua trên thôn Thảo Miếu, đệ tử vô tình cúi đầu, thì phát hiện ra trong thôn có hơn hai trăm tử thi chất đống, thảm thương không nỡ nhìn. Bọn đệ tử vội vàng hạ xuống xem xét, thì tìm được hai đứa nhỏ này ở đằng sau thôn, thấy chúng hôn mê bất tỉnh, bèn trước tiên giao cho một vị sư đệ đưa về. Rồi trong một cái nhà tiêu lợp cỏ gianh ở rìa thôn..." y chỉ tay vào Vương nhị thúc đang co rúm trong góc tường, tiếp: "phát hiện ra người này. Chỉ thấy y mục quang đờ trệ, tinh thần hoảng hốt, bất luận đệ tử hỏi han thế nào, y đều không đáp, chỉ lặp đi lặp lại mấy lời: quỷ, quỷ, ác quỷ mà thôi."

Lâm Kinh Vũ giật bắn mình, run run hỏi: "Vị đại ca này, xin hỏi các huynh có đếm kỹ số người không?"

Tống Đại Nhân ánh mắt có vẻ thông cảm, nói: "Ta tìm được một vị sư đệ ngày thường vẫn giao dịch củi lửa với người trong thôn, y rất quen thuộc với mọi người. Y đã nhận mặt, chúng ta cũng đếm nữa, bốn mươi hai hộ dân thôn Thảo Miếu tổng cộng có 247 người, ngoài ba người các ngươi ra, ai nấy đều đã chết."

Mặc dù trong lòng đã có dự cảm, nhưng nghe thấy Tống Đại Nhân khẳng định rõ ràng như thế xong, Lâm Kinh Vũ và Trương Tiểu Phàm vẫn thấy trước mắt tối sầm, suýt lại ngất đi lần nữa.

Đạo Huyền Chân Nhân khe khẽ thở dài, tay trái nhẹ phất, trong tụ bào bay ra một viên ngọc nhỏ màu đỏ, bay đến trước mặt Trương, Lâm hai đứa, lăn trên trán chúng mấy vòng, lập tức một luồng khí thanh mát thấm vào mình.

Chẳng hiểu tại sao, thần kinh chúng vốn đang căng thẳng, tự dưng nhẹ nhõm hơn, rồi thấy trong người mệt rũ, không kìm đuợc bèn nằm ngay trên đại điện, ngủ thiếp đi.

Đạo Huyền Chân Nhân xua xua tay, chúng đệ tử đang đứng lần lượt hành lễ, rồi theo thứ tự lui ra. Trong đại điện, chỉ còn lại sáu người bọn họ.

Lúc ấy, người béo lùn nói: "Chưởng môn sư huynh, bây giờ huynh dùng Định Thần Châu tạm thời xoa dịu, nhưng sau khi chúng tỉnh lại, huynh sẽ xử trí thế nào?"

Đạo Huyền Chân Nhân trầm ngâm một lát, quay đầu nhìn đạo nhân ngồi đầu hàng bên trái, hỏi: "Thương Tùng sư đệ, ý đệ ra sao?"

Thương Tùng Đạo Nhân thân hình cao lớn, diện mạo trang nghiêm, là thủ toạ chi phái Long Thủ Phong của Thanh Vân Môn. Trong Thanh Vân Môn, ngoài chi phái chính của Đạo Huyền Chân Nhân ra, thanh thế của Long Thủ Phong là lớn nhất.

Thương Tùng bản tính nghiêm khắc, ngoài việc quản lý các đệ tử trong chi phái của mình ra, còn kiêm quản những việc xử phạt trong Thanh Vân Môn. Thanh Vân đệ tử bình thường đối với chưởng môn Đạo Huyền Chân Nhân cố nhiên kính ngưỡng vô cùng, nhưng khiếp sợ nhất lại chính là vị Thương Tùng thủ toạ ít khi cười nói này.

Bấy giờ, Thương Tùng Đạo Nhân cau đôi mày rậm, một lát sau mới đáp: "Câu chuyện rất nhiều nghi vấn, trong lúc vội vàng e là khó mà tra xét cho rành mạch được. Nhưng thôn dân Thảo Miếu xưa nay chất phác, chúng ta không thể bỏ mặc con côi của họ. Đệ thấy chúng ta nên thu nạp hai đứa nó vào làm môn hạ!"

Đạo Huyền Chân Nhân gật gật đầu, nói: "Không sai, ta cũng có ý như vậy. Hai đứa trẻ này thân phận cô khổ, chúng ta phải chiếu cố một chút. Chỉ có điều ta đã rất nhiều năm không thu nạp đồ nhi, chẳng hay có vị sư đệ nào có thể nhận chúng không?"

Lúc này, người béo lùn kia, tức thủ toạ chi phái Đại Trúc Phong của Thanh Vân Môn, Điền Bất Dịch, nói: "Chưởng môn sư huynh, theo đệ thấy, tốt nhất là không nên để cả hai đứa nó quy vào một nơi. Bọn nó thân thế tương cận, nếu để ở với nhau, mỗi khi gặp mặt đối phương, sẽ nhớ lại chuyện cũ, như vậy lệ khí bất tuyệt, e là sau này không hay!"

Đạo Huyền Chân Nhân nghĩ một lúc, đáp: "Điền sư đệ nói rất có lý. Hai đứa nó tuổi còn nhỏ, gặp cơn đại biến này, chúng ta phải từ từ hoá giải oán hận trong tim chúng, vậy thì không nên để hai đứa nó ở cùng một nơi. Vậy thì cần có hai vị sư đệ thu lưu chúng." Nói đoạn, ông ta đưa mắt nhìn khắp mọi người.

Chỉ thấy thủ toạ của năm phái kia, mà trước nhất là Thương Tùng, ai nấy cùng lúc đổ dồn ánh mắt về Lâm Kinh Vũ, rồi xoáy đi xoáy lại ở đó, không chịu rời ra, mà chẳng có ai để ý đến Trương Tiểu Phàm ở bên cạnh cả.

Với đạo tu chân, tư chất là cực kỳ quan trọng, thế gian thường có cái gọi là thiên tài ngộ đạo, tức là cái thuyết vượt được tu hành trăm năm. Mà người trong Thanh Vân Môn rất thấm nhuần điều này.

Năm xưa khi Thanh Vân Môn cùng đồ mạt lộ, chỉ nhờ vào Thanh Diệp tổ sư kinh tài tuyệt diễm, tuy tuổi còn trẻ, nhưng thiên tư hơn người, tham phá cổ thư của tiền nhân, tu hành vượt xa tất thảy tiên nhân, mà khiến một Thanh Vân Môn hấp hối trở nên dồi dào sức sống, thịnh vượng vô song, rồi trở thành lãnh tụ chính đạo trong thiên hạ ngày nay.

Thêm nữa, danh sư cố nhiên nan cầu, nhưng đệ tử tư chất thượng thừa cũng nan đắc, Lâm Kinh Vũ thiên tư hơn người, căn cốt kỳ giai, thủ toạ của các chi phái Thanh Vân Môn vừa nhìn là đã chọn nó ngay.

Sau một hồi im lặng, Điền Bất Dịch ho lên, rồi nói: "Hà hà, chưởng môn sư huynh, huynh biết Đại Trúc Phong của đệ từ xưa tới nay vốn neo người, thôi thì để đệ giải quyết giúp huynh chuyện này đi!"

Nói đoạn toan chỉ tay về phía Lâm Kinh Vũ, nhưng thủ toạ của Triêu Dương Phong là Thương Chính Lương ngồi bên cạnh đã nhổm dậy trước, chắn ngang đường nói với Đạo Huyền Chân Nhân: "Chưởng môn sư huynh, hôm nay đệ vừa nhìn thấy đứa bé này đã cảm thấy rất hợp với nó, chắc là có mối túc duyên, chẳng bằng để nó đầu nhập môn hạ đệ!"

Thanh Vân Môn lịch sử lâu đời, các chi phái ngoài mặt luôn giữ hoà khí, nhưng bên trong đều có ngầm ý giao kình, nhìn thấy Lâm Kinh Vũ tư chất hơn người, chưa chừng có thể là một Thanh Diệp tổ sư nữa, huống hồ thu nạp môn hạ ít nhất cũng là thêm được một đệ tử, không thể để chi phái khác nắm được cơ hội.

Vì có uy vọng tu hành của Đạo Huyền Chân Nhân, vốn chẳng ai dám tranh, đằng này Đạo Huyền tự nói là không thu nạp, chuyện tốt như vậy đời nào có thể bỏ qua?

Lúc ấy Thương Chính Lương vừa nói dứt câu, liền có thủ toạ của Lạc Hà Phong là Thiên Vân Đạo Nhân ở bên cạnh nói: "Thương sư huynh, môn hạ huynh đã có đến hai trăm đệ tử, nếu ai ai cũng có túc duyên với huynh, e rằng túc duyên của huynh khó tránh khỏi là quá nhiều đấy."

Thương Chính Lương đỏ lựng mặt, toan nói, Điền Bất Dịch đã tranh tiên: "Thiên Vân sư huynh nói rất đúng á! Luận về số lượng đệ tử, các vị ít nhất cũng trên trăm người, Đại Trúc Phong của ta lại chỉ có bảy người, chẳng ra cái thể thống gì. Chi bằng..."

Lúc ấy Thương Tùng Đạo Nhân lập tức ngắt lời lão: "Điền sư đệ, hai đứa trẻ này thân thế đáng thương như vậy, cần mang lại cho chúng sự chăm lo, chứ không phải là chú ý đến việc số người của chúng ta nhiều hay ít." Nói đoạn, ông ta ngoảnh đầu sang Đạo Huyền Chân Nhân, vòng tay nói: "Chưởng môn sư huynh, đứa trẻ này quả là một nhân tài, xin để đệ thu nạp nó làm môn hạ, đệ nhất định sẽ hết lòng dạy dỗ, giúp nó thành tài để an ủi những vong linh của thôn Thảo Miếu."

Đạo Huyền Chân Nhân trầm ngâm một lát, bọn Điền Bất Dịch, Thương Chính Lương trong lòng đều biết thế là thôi rồi, quả nhiên một lát sau, Đạo Huyền Chân Nhân bảo: "Thương Tùng sư đệ nói cũng có lý, vậy thì để nó đầu nhập môn hạ đệ đi!"

Thương Tùng khẽ mỉm cười đáp: "Đa tạ chưởng môn sư huynh."

Mọi người ở đây đã cùng Thương Tùng là đồng môn từ rất lâu, biết Thương Tùng ngày thường ít nói ít cười, hôm nay mỉm cười như vậy tức là trong lòng vô cùng hoan hỉ, ai nấy đều không nén được nỗi ngấm ngầm tức tối. Chỉ có điều Đạo Huyền Chân Nhân đã nói ra lời, mà Long Thủ Phong của Thương Tùng thực lực lại lớn, đành phải nuốt nỗi tức này xuống.

Đạo Huyền ngưng một lát, lại nói: "Thế còn đứa kia..."

Thương Chính Lương ho một tiếng, nhắm mắt lại; Thiên Vân ngẩng nhìn đỉnh trần đại điện, hình như đột nhiên phát hiện ra hoa văn trên ấy vô cùng đẹp đẽ; Điền Bất Dịch khục khục cười khan, thình lình cơn buồn ngủ ập đến, bèn ngủ say sưa; người ban nãy chưa kịp nói câu nào mà toàn bị kẻ khác cướp lời là Tăng Thúc Thường thủ toạ của chi phái Phong Hồi Phong thì quay ra nhập định, tựa hồ từ đầu đến giờ không chú ý gì đến sự việc nơi đây vậy.

Còn kẻ vừa giành được thắng lợi là Thương Tùng Đạo Nhân thì quét mắt khắp lượt một cách lạnh lẽo, nhưng sâu trong mắt lại có nét cười cợt.

Đạo Huyền Chân Nhân thốt không tránh khỏi chút lúng túng, nhưng bằng vào thân phận của ông ta, tất nhiên không thể nói những lời như lẽ nào chỉ vì đứa trẻ này tư chất kém mà các người lại không cần, chợt trong lòng sực nhớ điều gì, lập tức tìm ngay ra được một kẻ thế mạng.

"Điền Bất Dịch." Khuôn mặt tươi cười của Đạo Huyền Chân Nhân bỗng đầy vẻ dịu dàng.

Điền Bất Dịch giật thót mình, đang định cất lời, Đạo Huyền Chân Nhân đã tranh tiên: "Chuyện của thôn Thảo Miếu vốn do môn hạ đệ là Tống Đại Nhân phát hiện ra trước tiên, xem ra đứa bé này với Đại Trúc Phong của đệ rất có duyên phận đấy. Hà hà, hay là đệ thu nạp nó đi!"

Điền Bất Dịch luống cuống, Trương Tiểu Phàm tư chất tầm thường, nhìn một cái là nhận ra ngay, thu nạp làm môn hạ chỉ tổ nhọc xác, lão tất nhiên chẳng vui vẻ gì. Lão muốn phân biện, nhưng Đạo Huyền lại giành lấy cơ hội, không cho lão nói: "Được rồi, chuyện này ấn định rõ ràng như vậy, các vị sư đệ cũng phải chú ý điều tra việc kia, hiểu cả chưa?"

Bọn Thương Tùng cùng đứng dậy, đồng thanh đáp: "Vâng."

Đạo Huyền Chân Nhân gật gật đầu, ho khẽ mấy tiếng, không nhìn đến thái độ của Điền Bất Dịch, bước mau vào hậu điện. Bóng ông ta khuất rồi, trên Ngọc Thanh Điện liền vang tiếng cười lớn.

Môn hạ đệ tử của Đại Trúc Phong là Tống Đại Nhân vẫn đợi nãy giờ ngoài cửa Ngọc Thanh Điện, mãi mới thấy các vị sư trưởng bước ra, bèn tiến lên đón, thì thấy sư phụ Điền Bất Dịch trong tay ôm Trương Tiểu Phàm, bất giác đờ người, hỏi: "Sư phụ, thế nào rồi?"

Điền Bất Dịch nhìn ra là y, bỗng đâm tức giận, cáu kỉnh quát: "Thế nào thế nào? Có ngốc không thế? Còn không mau đón lấy?!"

Tống Đại Nhân vội vàng đón lấy Trương Tiểu Phàm vẫn đang say ngủ, Điền Bất Dịch nộ khí bừng bừng, khoé mắt cứ chĩa vào bọn Thương Chính Lương, Thiên Vân mấy người lúc ấy vừa đang bước ra vừa cười vụng, lòng càng thêm giận dữ, bèn hét bảo Tống Đại Nhân: "Mau đi đi, còn ngây ra ở đó làm gì?"

Dứt lời, cũng không thèm để ý đến ai nữa, hữu thủ hư không vạch một đường, một làn xích quang loé sáng, rồi một thanh trường kiếm màu đỏ vút lên, chưa nhìn rõ động tác của lão ra sao, đã thấy lao tới kiếm rồi phá không bay vọt đi.

Tống Đại Nhân nhất thời không nắm được đầu đuôi câu chuyện, nhưng ít nhất cũng hiểu rằng mình vừa có thêm một sư đệ. Y nhìn Trương Tiểu Phàm nằm trong lòng, thốt lên: "Tiểu sư đệ, ta còn chưa biết đệ tên là gì nữa!"

Trương Tiểu Phàm vốn vẫn ngủ say chưa tỉnh, hồn nhiên không biết rằng số mệnh của mình đã vô tình quành sang một khúc ngoặt lớn.

**

*

Hết chương 5

Alex chú:

1. Niên ấu vô tri: tuổi nhỏ chẳng hiểu biết gì

2. Tống Đại Nhân: là chữ Nhân 仁 trong nhân từ 仁慈

hết: Chương 5

Chương 6

Bái Sư

Trương Tiểu Phàm mãi mới tỉnh lại, đờ đẫn đến nửa ngày trời, nó từ từ ngồi dậy, việc đã qua như nước thuỷ triều, vụt lại ào vào trí não.

Kinh hoàng như ác mộng!

"Đệ tỉnh lại rồi à! Vậy thì tốt." Từ ngoài cửa vọng đến một giọng nói, rồi bước vào một người.

Trương Tiểu Phàm ngước mắt nhìn, nhận ra Tống Đại Nhân, thân hình to cao, tướng mạo thô hào hôm đó đã gặp trên Thông Thiên Phong, với tâm trạng của nó hiện nay, chẳng biết sao nữa, gặp được người quen là cảm thấy mấy phần thân thiết.

"Tống đại ca." Trương Tiểu Phàm thốt lên.

Tống Đại Nhân tuy là một đại hán, lúc này trong lòng cũng bất giác thương xót, y đi đến trước giường, giơ tay xoa đầu Trương Tiểu Phàm, dịu dàng nói: "Tiểu sư đệ, đừng buồn bã quá, sau này chúng ta là người một nhà rồi." Trương Tiểu Phàm đờ ra một lúc, hỏi: "Người một nhà là thế nào?"

Tống Đại Nhân mỉm cười đem chuyện Điền Bất Dịch thu nạp nó làm đồ đệ kể qua một lượt, đương nhiên mối tranh chấp nho nhỏ xảy ra giữa các vị trưởng bối trong Ngọc Thanh Điện trên Thông Thiên Phong ngày hôm đó, y không hề hay biết.

Trương Tiểu Phàm lắng nghe, nhất thời hoang mang, trong mắt một con nhà nông gia như nó, Thanh Vân Môn gồm toàn những nhân vật như là thần tiên, nó chưa bao giờ dám vọng tưởng một sớm một chiều, lại có cơ hội được vào Thanh Vân Môn. Chỉ có điều, nó chẳng mong phải trả cái giá như thế này.

Nó nghiến răng, rốt cục biết là nghĩ ngợi nhiều cũng vô ích, bèn cất giọng gọi: "Tống sư huynh."

Tống Đại Nhân mỉm cười gật đầu: "Tốt lắm, tiểu sư đệ, lần này đệ ngủ đến một ngày một đêm rồi đấy, chắc là đói lắm?"

Trương Tiểu Phàm vốn không có cảm giác gì, nay nghe y nhắc thế, bụng nó liền réo lên "lục bục" hai tiếng.

Tống Đại Nhân cười: "Nào, tiểu sư đệ, chúng ta đi ăn cái gì đã, tiện thể ta nói cho đệ nghe qua tình hình bản môn, sau đó cùng đi bái kiến sư phụ sư nương, gặp qua các vị sư huynh khác."

Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, tụt xuống giường, bây giờ mới chú ý thấy căn phòng nó nằm đây, có chút giông giống với căn phòng của đệ tử Thanh Vân trên Thông Thiên Phong, nhưng hình như rộng hơn chút xíu.

Tống Đại Nhân vừa dắt nó đi ra ngoài, vừa nói: "Đại Trúc Phong của chúng ta không bằng các chi phái đồng môn khác, người rất là ít, nếu tính thêm đệ vào, tổng cộng không quá mười người, vì thế phòng ốc đều rộng rãi."

Y vừa nói vừa bước ra ngoài, cũng là một tiểu viện tương tự, lại đi thêm mấy bước, ra ngoài sân, cũng là một hành lang lượn khúc, nhưng nhìn qua là nắm bắt được hết, chỉ có mười mấy phòng, kém xa quy mô bên Thông Thiên Phong.

Trương Tiểu Phàm cùng Tống Đại Nhân đi xuống nhà bếp, nghe y nói, chi phái Đại Trúc Phong là do Trịnh Thông, toạ hạ tứ đệ tử của Thanh Diệp tổ sư khai sáng, truyền tới Điền Bất Dịch ngày nay là sáu đời, tình hình luôn luôn như vậy, lúc nào cũng neo người. Hiện giờ vào hàng sư trưởng ở đây, ngoài thủ toạ Điền Bất Dịch, còn có một vị sư thúc là Tô Như, cũng chính là thê tử của Điền Bất Dịch.

Họ chỉ sinh được một con gái là Điền Linh Nhi, năm nay 13 tuổi, hơn Trương Tiểu Phàm hai tuổi, vì vậy Trương Tiểu Phàm ở đây quả thực là một tiểu sư đệ.

Trong số đệ tử của Điền Bất Dịch thì Tống Đại Nhân là đại sư huynh, tiếp theo có Ngô Đại Nghĩa, Trịnh Đại Lễ, Hà Đại Trí, Lữ Đại Tín, Đỗ Tất Thư.

Trương Tiểu Phàm dụng tâm ghi nhớ: "Ờ, Đại Nghĩa sư huynh, Đại Lễ sư huynh, Đại Trí sư huynh, Đại Tín sư huynh, Đại Thư sư huynh..."

Tống Đại Nhân cười: "Là Đỗ Tất Thư sư huynh."

Trương Tiểu Phàm ngây người, rồi hiểu ra, buột hỏi: "Sao vị lục sư huynh này lại khác mọi người vậy?"

Tống Đại Nhân đáp: "Vốn cũng kêu y là Đại Thư đấy, nhưng mà đệ thử gọi thêm hai tiếng nữa xem."

Trương Tiểu Phàm lẩm nhẩm gọi: "Đỗ Đại Thư, Đỗ Đại Thư, Đỗ Đại Thúc..." rồi vỡ lẽ, bèn phá ra cười. (1)

Tống Đại Nhân cũng cười: "Đệ thấy đấy. Thực ra sư phụ cũng chẳng chú ý mấy, nhưng sư nương thì rất là bực, kêu tên mấy lần thì bảo Đỗ sư đệ chẳng tôn sư trọng đạo gì cả, bèn ra tay sửa trị một trận, doạ Đỗ sư đệ sợ gần chết, khiến y phải vội vàng xin sư phụ sư nương đổi tên cho, sau này sư nương bèn chọn cho y cái tên Đỗ Tất Thư, đệ lại đọc kỹ cái tên này xem."

Trương Tiểu Phàm khe khẽ đọc: "Đỗ Tất Thư, Đỗ Tất Thư, Đổ Tất Thu... (2)" rồi lại phá ra cười gập cả bụng.

Tống Đại Nhân vốn có ý muốn làm cho nó cười, mong giảm bớt phần nào nỗi bi thống, thấy Trương Tiểu Phàm cao hứng như vậy, trong lòng y cũng rất vui, bèn hân hoan bảo: "Lục sư đệ trước khi nhập môn vốn có thói xấu đánh bạc, sau này cơ duyên xảo hợp, được sư phụ độ hoá thượng sơn, tuy không đánh bạc ăn tiền nữa, nhưng bình thường cứ thích gạ người cá cược, sư nương làm thế là cũng có ý nhắc nhở y."

Trương Tiểu Phàm tính tình trẻ con, mặt mày tươi tắn rồi thì nỗi bi thiết trong tim cũng giảm bớt, lại thấy đại sư huynh thân tình như vậy, nỗi e ngại khiếp sợ nung nấu về tương lại cũng dần dần được xoa dịu.

Ở nhà bếp ăn uống xong, Tống Đại Nhân bèn dẫn Trương Tiểu Phàm đến Thủ Tĩnh Đường, điện chính của Đại Trúc Phong. Lúc ấy tất thảy mọi người từ trên xuống dưới trong Đại Trúc Phong đều đang tập trung tại Thủ Tĩnh Đường, nhà lát gạch đỏ, mái tươi cột đá, nền đất có khắc hình Thái Cực rất lớn, trần thiết nói chung là khá giản dị.

Trước sảnh bày hai cỗ trường kỷ, trên có hai người ngồi, một người là Điền Bất Dịch, người kia là một thiếu phụ xinh đẹp đoan trang điềm đạm, khoảng hơn ba mươi tuổi, phong tư yểu điệu, đứng cạnh bà ta là một đứa bé gái, mặt mày thanh tú, đôi con ngươi long lanh, trông rất hoạt bát, đáng yêu.

Năm nam đệ tử kia, xếp thành hình chữ nhất, đứng ở bên dưới, hoặc cao hoặc thấp, hoặc béo hoặc gày, lúc ấy ánh mắt đều tập trung vào Trương Tiểu Phàm.

Tống Đại Nhân đi đến trước sảnh, cung kính thưa: "Sư phụ, sư nương, đệ tử đưa tiểu sư đệ đến đây."

Điền Bất Dịch hứ một tiếng, có vẻ sốt ruột, nhưng thiếu phụ xinh đẹp Tô Như thì nhìn kỹ Trương Tiểu Phàm, nói: "Đại Nhân, y ngủ đã một ngày một đêm, e là đói lắm rồi, con hãy dắt y đi ăn gì đó."

Tống Đại Nhân thưa: "Hồi bẩm sư nương, con vừa mới đưa tiểu sư đệ lại nhà bếp ăn rồi ạ."

Tô Như khẽ gật đầu, liếc nhìn Điền Bất Dịch, không nói nữa. Điền Bất Dịch lại lạnh lẽo hứ một tiếng, bảo: "Bắt đầu thôi!"

Trương Tiểu Phàm chẳng hiểu mô tê gì, chỉ nghe Tống Đại Nhân đứng sau khẽ nhắc: "Tiểu sư đệ, mau quỳ xuống dập đầu bái sư."

Trương Tiểu Phàm lập tức quỳ xuống, dập đầu "cộc, cộc, cộc" mười mấy cái liền, vừa mạnh vừa vang.

"Ha ha." Đứa bé gái Điền Linh Nhi không nhịn được phá ra cười. Tô Như cũng mủm mỉm: "Hảo hài tử, dập đầu chín cái là được rồi."

Trương Tiểu Phàm "ố" một tiếng, rồi ngừng lại, ngẩng đầu lên nhìn, mọi người thấy trán nó đỏ bừng một khoảng, không nhịn được đều bật cười, trong mắt Điền Bất Dịch ngập tràn sự chán nản, nghĩ đến việc sau này phải dạy dỗ một đứa ngu ngốc như vậy, cái đầu đã to của lão dường như lại phình to thêm.

"Thôi được rồi, cứ như vậy đi!" Điền Bất Dịch chẳng còn chút tinh thần nào, vẫy tay bảo: "Đại Nhân, trước tiên con hãy dìu dắt y, những quy giới của bản môn, đạo pháp nhập môn, đều để con truyền thụ."

Tống Đại Nhân ứng tiếng: "Vâng." rồi sau trù trừ, lại nói: "Có điều, thưa sư phụ, tiểu đệ tuổi hãy còn nhỏ, những bài đệ tử nhập môn này..."

Điền Bất Dịch trợn trắng con mắt, bảo: "Cứ theo thế mà làm." Dứt lời liền đứng dậy, chẳng ngoái đầu lại, bước ra sau hậu đường, chúng đệ tử cúi mình, hô: "Cung tiễn sư phụ." Điền Bất Dịch vừa đi khỏi, chẳng đợi ai mở miệng, đứa bé gái Điền Linh Nhi đã xẹt đến trước mặt Trương Tiểu Phàm, chằm chằm ngắm nghía nó kỹ càng, Trương Tiểu Phàm thấy khuôn mặt cô bé đáng yêu như đoá phù dung lay động trước mắt, tuổi tuy còn nhỏ, nhưng đã có dáng dấp một mỹ nhân, khi nó còn ở thôn Thảo Miếu, chưa từng nhìn thấy đứa con gái nào cùng tuổi mà lại xinh đẹp như vậy, bất giác đỏ bừng mặt lên.

"Ha," Điền Linh Nhi như vừa phát hiện ra vật báu, chỉ vào Trương Tiểu Phàm cười lớn: "Sư huynh, các huynh nhìn này! Nó vừa thấy muội là đỏ hết cả mặt!" Trên sảnh bật vang lên tiếng cười, Trương Tiểu Phàm mặt đã đỏ lại càng đỏ, Tô Như đi lại, mủm mỉm mắng: "Linh Nhi, không được bắt nạt sư đệ."

Điền Linh Nhi làm bộ mặt hề, rồi hoàn toàn chẳng chú ý gì đến lời mẫu thân, cô bé nhổm mình dậy, nói với Trương Tiểu Phàm: "Ề, mau gọi ta là sư tỷ đi."

Trương Tiểu Phàm bỗng tức khí, nhưng trước mắt vụt thoáng qua cặp mắt sáng và hàm răng lóng lánh của Điền Linh Nhi, trong lòng chợt luống cuống, buột miệng: "Sư tỷ."

Điền Linh Nhi xưa nay toàn xếp hàng chót ở Đại Trúc Phong, tự nhiên lại có thêm một sư đệ còn bé hơn cả mình nữa, trong lòng rất lấy làm hoan hỉ, lúc ấy liền ra vẻ đạo mạo bảo: "Ngoan, tiểu sư đệ, sau này phải nghe lời sư tỷ nhé." Trương Tiểu Phàm lí nhí ứng tiếng: "Vâng."

Tô Như kéo con gái bảo: "Không được làm ồn nữa." lại nói với Tống Đại Nhân "Đại Nhân, tiểu sư đệ tuổi còn nhỏ, bài vở có lẽ hơi vất vả, con hãy chăm sóc y một chút."

Tống Đại Nhân cung kính thưa: "Vâng." Năm đệ tử kia đứng bên nhau, cùng cười hi hi, ánh mắt liếc đi liếc lại, vẻ hí ha hí hửng.

Đúng lúc ấy, Tô Như đột nhiên làm một động tác kỳ cục, tựa như là giãn gân cốt, cái đầu quay tít một vòng, khác hẳn với khí chất đoan trang từ nãy đến giờ của bà ta. Chỉ trong nháy mắt, tất thảy chúng đệ tử của Đại Trúc Phong, kể từ Tống Đại Nhân trở xuống, đang cười đùa đều bỗng nín bặt, đều câm hầu tắc họng, trông y như thể sắp đương đầu với đại hoạ. Tô Như hắng giọng, nói: "Các con..."

"Sư nương," có tiếng ai đó, thì ra là Tống Đại Nhân trán lấm tấm mồ hôi, vừa vội vàng kêu lên.

Năm sư đệ còn lại không hẹn mà cùng hét: "Đại sư huynh, huynh định làm gì?"

Tống Đại Nhân vội vàng thưa: "Sư nương, tiểu sư đệ vừa mới nhập môn, đệ tử phụng mệnh sư phụ, truyền cho y môn quy giới điều và nhập môn công khoá, cần thực hiện ngay." Tô Như trầm ngâm một lát, gật đầu bảo: "Nói cũng phải, con đi đi."

"Cái gì?" Năm đệ tử còn lại đồng thanh la lên.

Tống Đại Nhân cười khan hai tiếng, không nói một lời, tiến lên ôm lấy Trương Tiểu Phàm, rồi chẳng để ai cất tiếng hỏi han, lập tức quay ra ngoài đi mất, miệng nói: "Tiểu sư đệ, để sư huynh tìm một nơi yên vắng, dạy đệ môn quy của bản môn."

Điền Linh Nhi cười cười chạy theo, kêu lớn vẻ thú vị, chỉ nghe thấy sau lưng có người mắng vuốt: "Đại sư huynh, huynh thật là vô sỉ!"

"Đồ hèn!"

Trương Tiểu Phàm nghe rót vào tai, ngờ vực không hiểu, nghĩ thầm đại sư huynh dạy ta môn quy sao lại có người mắng là đồ hèn?

Nó nghĩ ngợi mãi, thốt nghe tiếng Tô Như hét lên ngắt đoạn, âm thanh chói lói chọc vào tai, như chém băng phạt tuyết: "Câm mồm!"

Trên điện thốt bỗng lặng như tờ.

Rồi tiếng Tô Như nói: "Các con mấy đứa học hành chẳng ra gì, vừa thấy ta muốn kiểm tra xem tu luyện ra sao rồi thì sợ đến mức như thế đấy. Năm năm nữa là đến Thất Mạch Hội Võ của Thanh Vân Môn, một giáp mới có một lần, lần trước các con đã làm ta và sư phụ tức gần chết, lần này nếu không nỗ lực, hai ta còn xấu hổ chết với đồng môn! Mau lên, năm đứa cùng lên đây..."

Tống Đại Nhân đi mỗi lúc một nhanh, sải bước thật rộng, ra khỏi cửa điện bèn nhằm thẳng hậu sơn mà tiến. Trương Tiểu Phàm nằm vắt trên vai y, cây cối hai bên cứ vùn vụt trôi lại đằng sau, tốc độ cực nhanh. Điền Linh Nhi phía sau lưng chẳng biết tự lúc nào đã vung ra một dải lụa ngọc đỏ thắm, vẫy lên một màu hổ phách, hầu như trong suốt, toả ráng hồng, hiển nhiên là pháp bảo của tiên gia.

Lúc ấy Điền Linh Nhi bèn thong dong đứng lên trên dải lụa đỏ, tiện tay bắt quyết, dải lụa ngọc bèn đẩy cô bé bay lên giữa không trung, sát lại sau lưng Tống Đại Nhân.

Trương Tiểu Phàm nào đã nhìn qua những sự thần kỳ lạ lùng như thế, kinh ngạc quá đỗi, thấy Điền Linh Nhi cứ cưỡi gió lướt tới, nhàn nhã vô cùng, trong mắt tức thời dấy lên niềm cảm phục vô bờ bến.

Điền Linh Nhi nhận ra vẻ mặt của Trương Tiểu Phàm thì cực kỳ đắc ý, bay trên dải lụa đến cùng đi bên cạnh nó, miệng hỏi: "Thế nào, thấy ta lợi hại không?" Trương Tiểu Phàm gật đầu thật lực, đáp: "Có, sư tỷ lợi hại quá, cưỡi một dây vải đỏ mà cũng chạy nhanh thế!"

Điền Linh Nhi ngây người, rồi hiểu ra cái dây vải đỏ nó nhắc đến là cái gì, cô bé phì một tiếng, không nhịn được phá lên cười: "Đồ ngốc nghếch!"

Trương Tiểu Phàm chẳng hiểu gì hết, chỉ nghe Tống Đại Nhân cười: "Tiểu sư đệ, nói năng linh tinh gì thế! Hổ Phách Chu Lăng đó là pháp bảo thành danh mà sư nương luyện được hồi còn trẻ, diệu dụng vô cùng, uy lực cực lớn, cũng là một tiên gia pháp bảo rất nổi tiếng trong Thanh Vân Môn chúng ta , mà đệ bảo là cái dây gì, vải đỏ gì?" Nói đoạn rồi phá ra cười lớn.

Trương Tiểu Phàm đỏ bừng mặt, len lén đưa mắt nhìn Điền Linh Nhi, thấy cô bé đang hi hi cười giễu, đôi má hiện ra hai lúm đồng tiền xinh xinh.

Chạy một hồi, ba người đã đến trước một trái đồi nhỏ đằng hậu sơn, Tống Đại Nhân dừng lại, đặt Trương Tiểu Phàm xuống. Điền Linh Nhi cũng tiếp đất, thu ấn quyết, Hổ Phách Chu Lăng dường như có linh tính, tự động cuốn lại, vòng quanh hông cô bé, nom như một dải đai lưng màu đỏ dễ thương.

Trái đồi này mọc đầy những trúc, có to có nhỏ, có thưa có mau, rất là um tùm. Nhưng nhìn kỹ, trúc nơi đây không giống với trúc bình thường, ở các ngấn đốt đều hiện sắc đen.

Tống Đại Nhân chỉ một vạt rừng trúc, nói với Trương Tiểu Phàm: "Tiểu sư đệ, quy củ của Đại Trúc Phong chúng ta là, đệ tử vừa nhập môn, mỗi ngày đều phải đến đây chặt trúc. Đệ tuổi còn nhỏ, ba tháng đầu mỗi ngày chặt một cây trúc thôi! Cây to hay bé để đệ chọn cũng được."

Trương Tiểu Phàm ban đầu nghe nói đến bài tập nhập môn, Tô Như còn bảo Tống Đại Nhân phải chăm sóc một chút, cứ tưởng là chuyện khó thế nào, ai ngờ là cái việc đốn chặt bình thường này. Nó sinh ra ở thôn Thảo Miếu, con nhà nông dân, cũng đã theo người lớn lên núi mấy lần, chặt củi mấy lần, lúc này trong lòng rất thoải mái, hớn hở nói: "Đại sư huynh, đệ đã từng chặt rồi, xin đừng bận tâm." Tống Đại Nhân thấy dáng điệu của nó, toan nói lại thôi, chỉ cười bảo: "Vậy thì tốt. Mình từ từ đi về, ta sẽ chỉ cho đệ xem đường đi lối lại, sau này đệ tự mình đến, tiện thể cũng nói qua một chút về môn quy giới điều."

Điền Linh Nhi ở bên cạnh cười bảo: "Đại sư huynh, sao phải vội vàng chạy xa thế mà nói toàn những chuyện chẳng đâu vào đâu, lại còn từ từ đi về nữa, hay là sợ mẹ muội đấy?" Tống Đại Nhân đỏ mặt, phớt lờ cô bé, lại nói với Trương Tiểu Phàm: "Tiểu sư đệ, điều thứ nhất trong môn quy của bản môn là tôn sư..."

Điền Bất Dịch, thủ toạ của Đại Trúc Phong, vốn có tính lười biếng, rất ưa chuyện thể diện nhưng xưa nay luôn ngại quản giáo đệ tử, cứ truyền thụ đạo thuật pháp môn xong là không quan tâm gì nữa, mặc cho đệ tử tự hành tu tập.

Nhưng Tô Như, thê tử của lão, thì tính tình cứng rắn, hiếu võ, thời trẻ danh tiếng khá nổi, rất đỗi phong quang. Sau khi thành hôn với Điền Bất Dịch, tính tình đã điềm đạm nhiều, nhưng một là xưa nay vẫn nóng nảy thiếu kiên nhẫn, hai là toạ hạ đệ tử không có chí phấn đấu, Thanh Vân Môn theo lệ mỗi giáp tổ chức một lần đại thí Thất Mạch Hội Võ , mà mấy kỳ liên tiếp, đệ tử của Đại Trúc Phong cứ tham chiến là thất bại, ngoài đại sư huynh Tống Đại Nhân thi thoảng thắng được một trận, những người còn lại toàn bại cáo chung, lâu dần trở thành một đề tài đàm tiếu cho mọi người trong Thanh Vân Môn.

Tô Như cả đời hiếu cường, làm sao mà chịu được điều tiếng ấy, bèn thường xuyên ra tay thay phu quân Điền Bất Dịch giáo hối đám đệ tử. Vẻ ngoài của bà ta tuy nhu mỹ, nhưng tính tình thì rất nóng nảy, tu hành thì cực cao, hễ không cẩn thận là đánh cho đám đệ tử ôm đầu tháo chạy, thương tích cùng mình, đến nỗi mọi người sợ hãi vị sư nương diễm lệ tuyệt mỹ này còn hơn cả sư phụ béo lùn.

Lúc ấy vẻ trời đã muộn, mặt trời đã ngả về tây, ráng tà xán lạn. Bóng tịch dương rọi lên Đại Trúc Phong, ba người một cao lớn hai bé nhỏ chậm rãi đi lên đằng trước núi, mãi xa ở các dãy nhà, chẳng biết tự nơi đâu đưa lại một tràng tiếng chó sủa, lẫn với tiếng la đau đớn của người nào nghe rất đáng thương.

**

*

Hết chương 6

Alex chú:

1. Đỗ Đại Thư: trong tiếng Trung, chữ Thư 書 (sách) và chữ Thúc 叔 (chú) đều phát âm là shū, dễ nghe nhầm.

2. Đổ Tất Thu: nghĩa là đánh bạc nhất định thua, đọc na ná Đỗ Tất Thư.

hết: Chương 6

Chương 7

Sơ Sử (1)

Vào giờ ăn cơm tối, trời đã nhá nhem.

Trên Đại Trúc Phong, hậu sơn là toàn bộ cánh rừng trúc, đằng trước là phòng ốc của mọi người, lớn nhất là chính điện Thủ Tĩnh Đường, phu thê Điền Bất Dịch và con gái họ ở sau điện này.

Bên cạnh Thủ Tĩnh Đường chính là tiểu viện có hành lang uốn khúc, nơi ở của các đệ tử, do neo chiếc, số phòng còn nhiều hơn số người, nên mỗi người một gian, cả Trương Tiểu Phàm dù mới đến cũng có riêng một phòng. Điều kiện ăn ở là một điểm hiếm hoi mà Đại Trúc Phong trội hơn hẳn các chi phái đồng môn khác.

Còn lại là nơi luyện công tên gọi Thái Cực Động, nhà bếp và nhà ăn. Lúc này các đệ tử đều đã tụ tập trong nhà ăn, phụ trách việc ăn uống là lão lục Đỗ Tất Thư, đang đưa từng khay cơm và thức ăn đặt lên bàn, phần lớn là đồ chay, rất ít đồ tanh mặn.

Bọn đệ tử lần lượt ngồi xuống bên phải chiếc bàn dài trong sảnh, Tống Đại Nhân ngồi phía đầu, Trương Tiểu Phàm lễ phép ngồi phía cuối. Ở đầu bàn và phía đối diện đặt một chiếc ghế lớn và hai chiếc ghế nhỏ hơn một chút, xem ra là dành cho mấy người trong gia đình Điền Bất Dịch.

Trương Tiểu Phàm thấy bên cạnh mình còn thừa ra một khoảng trống, đấy là chỗ ngồi của lão lục Đỗ Tất Thư, lúc này vẫn đang bận túi bụi, một lát sau, Đỗ Tất Thư rốt cục cũng thu vén xong cơm nước, rửa tay sạch sẽ, đi về chỗ ngồi, cùng mọi người đợi sư phụ.

Đỗ Tất Thư nom còn khá trẻ, mặt gầy và nhọn, mắt tam giác, bộ dạng rất là tinh quái hiếu động, rất là nhanh nhẹn. Y ngồi xuống rồi, liếc nhìn Trương Tiểu Phàm, cười mỉm hỏi: "Tiểu sư đệ, đệ tên gì vậy?"

Trương Tiểu Phàm thật thà đáp: "Trương Tiểu Phàm."

Đỗ Tất Thư gật gật đầu, chỉ tay vào mình, nói: "Ta là lục sư huynh của đệ, Đỗ Tất Thư."

Trương Tiểu Phàm lễ phép gọi một tiếng: "Lục sư huynh."

Đỗ Tất Thư khẽ hắng giọng, vỗ vỗ vai nó, cười: "Đệ đợi lát nữa rồi thưởng thức tài nghệ của sư huynh."

Trương Tiểu Phàm nhìn mâm bàn đầy ắp thức ăn thơm ngon, không nén được nuốt nước bọt đánh ực, rồi gật đầu thật mạnh.

Đỗ Tất Thư thình lình bật cười, có vẻ rất ám muội, chỉ tay ra cửa sảnh nói: "Tiểu sư đệ, lát nữa sư phụ sư nương, cả tiểu sư muội nữa, sẽ đi từ hướng nào vào, chúng mình thử đánh cuộc xem nhé?"

Trương Tiểu Phàm ngây ra, mấy người ngồi trên nhao nhao quay đầu lại, mặt mày đều có vẻ vui thích, ngồi trên Đỗ Tất Thư là lão ngũ Lữ Đại Tín cười bảo: "Lão lục, đệ lại phạm thói nghiện cá cược rồi hử?"

Bên cạnh đó, Hà Đại Trí gầy đét cũng giễu: "Y lâu lắm rồi chưa thắng, bây giờ đi lừa trẻ con."

"Đi, đi, đi!" Đỗ Tất Thư vẫy tay lia lịa, phớt lờ mọi người, mặt mày hớn hở, bảo Trương Tiểu Phàm: "Tiểu sư đệ, đệ đoán lát nữa ba người nhà sư phụ, ai sẽ là người đầu tiên đặt chân lên bậc cửa này? Ồ, đệ vừa đến, để đệ đoán trước, khỏi nói là sư huynh bắt nạt đệ."

Lão nhị Ngô Đại Nghĩa ngồi mãi đằng xa cao giọng gọi: "Tiểu sư đệ, đã là đánh cược, đệ hãy hỏi y xem thua thì sao, thắng thì sao?"

Đỗ Tất Thư hừ một tiếng, đáp: "Các huynh sợ đệ trốn nợ chăng? Đỗ Tất Thư này hành tẩu thiên hạ, đều dựa vào đổ phẩm hảo danh vấn giang hồ (2) (Mọi người cười ồ: đệ có thắng bao giờ đâu!), tiểu sư đệ, nếu đệ đoán trúng, ta sẽ giúp đệ chặt trúc mười ngày, nếu đệ thua, thì giúp ta rửa bát mười ngày, được không?"

Mọi người lại cười ồ, Tống Đại Nhân cười mắng: "Hết nói nổi."

Trương Tiểu Phàm nhìn các vị sư huynh ai nấy đều hớn hở hoà mục, thái độ rất thân thiết, chẳng ai coi mình là người ngoài, trong lòng cảm thấy ấm áp, bèn nói: "Được."

Đỗ Tất Thư vỗ đùi, vẻ mặt hân hoan, dáng điệu hớn hở, hỏi: "Tiểu sư đệ, vậy theo đệ rốt cục sẽ là sư phụ, sư nương hay tiểu sư muội đi vào trước?"

Ánh mắt mọi người đổ dồn vào Trương Tiểu Phàm, Trương Tiểu Phàm lặng lẽ tính toán, Thanh Vân Môn thủ trọng tôn sư, chắc Điền Bất Dịch sư phụ sẽ là người đầu tiên bước vào, bèn cất tiếng dõng dạc: "Đệ đoán nhất định là sư phụ sẽ vào đầu tiên."

Mọi người cười lớn, Lữ Đại Tín lắc đầu nói: "Không ngờ hôm nay quả thật là đệ đã bị lão lục lừa mà giành lấy phần thắng rồi."

Đỗ Tất Thư vui mừng khôn xiết, nhìn Trương Tiểu Phàm đang nghệt mặt không hiểu, cười hi hi nói: "Tiểu sư đệ, ta bảo cho đệ biết, thực ra lần nào, tiểu sư muội cũng là người đầu tiên trong gia đình sư phụ lao vào đây. Ha ha, lát nữa đệ đến giúp ta rửa bát nhé."

Trương Tiểu Phàm gãi gãi đầu, không nhịn được cũng bật cười, gật đầu đáp: "Vâng, lục sư huynh."

Trịnh Đại Lễ, người đứng vào hàng thứ ba, thân hình thấp lùn vạm vỡ, cười bảo: "Lão lục, đệ cũng dày mặt thật?"

Đỗ Tất Thư trợn mắt quái dị, nói: "Lão tam, huynh nói cái gì, đệ không ràng không buộc, mọi người muốn đánh cược thì phải nhận thua chứ, đúng không tiểu sư đệ?"

Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, chợt nghe Tống Đại Nhân nói: "Sư phụ đến rồi."

Ai nấy nét mặt nghiêm trang, đều đứng cả dậy, hướng ra ngoài nghênh đón sư trưởng. Giây lát sau, thân hình béo lùn của Điền Bất Dịch xuất hiện ở cửa, kế đến đằng sau lưng lão là...

**

*

Chẳng có ai cả.

Lão đến một mình.

Mọi người đờ hết cả người ra, Đỗ Tất Thư không nén được bèn hỏi giật: "Sư phụ, sư nương và tiểu sư muội đâu ạ?"

Điền Bất Dịch ném cho y một cái nhìn, lạnh nhạt bảo: "Sư nương ngươi dẫn tiểu sư muội về nhà mẹ rồi."

Mọi người ngạc nhiên, nhưng thoáng chốc sau không nén được đều phá lên cười. Nhìn Điền Bất Dịch lắc lư bước vào, Trương Tiểu Phàm lúng túng, muốn cười rồi lại không dám cười, Đỗ Tất Thư thì trơ mắt há miệng.

Điền Bất Dịch ngồi xuống cái ghế lớn của mình, vẫy tay bảo: "Ăn cơm thôi!"

Bọn đệ tử lúc này mới ngồi xuống, ai nấy nhìn Đỗ Tất Thư, vẻ cười mà không phải cười. Điền Bất Dịch liếc qua Trương Tiểu Phàm rồi hỏi Tống Đại Nhân: "Ngươi bảo cho y biết về môn quy và giới điều chưa?"

Tống Đại Nhân gật đầu đáp: "Rồi ạ, 12 môn quy 20 giới điều, con đều đã nói với tiểu sư đệ. Còn về tu luyện đạo pháp cơ bản, đệ tử thấy tiểu sư đệ hôm nay mới đến còn hơi mệt nhọc, định là ngày mai bắt đầu chính thức truyền thụ."

Điền Bất Dịch gật gật đầu, có vẻ bằng lòng, nói với Trương Tiểu Phàm: "Lão thất này."

Trương Tiểu Phàm còn chưa hiểu ý, bị Đỗ Tất Thư bên cạnh huých một cái, mới nhận ra là sư phụ gọi mình liền vội vàng đứng dậy: "Có đệ tử."

Điền Bất Dịch lắc lắc đầu, lòng tin tưởng đối với đứa đệ tử phản ứng chậm chạp này lại giảm đi mấy phần, bảo: "Ngươi trước tiên hãy theo đại sư huynh, nhớ là phải dụng tâm học, đạo hải vô nhai, cần lệ vi chu (3), tuy tư chất có kém một chút, nhưng chỉ cần ngươi kiên nhẫn chịu khó, chưa chắc là không thể không học được, biết chưa?"

Trương Tiểu Phàm như phụng thánh chỉ, cung cung kính kính đáp: "Vâng."

Điền Bất Dịch khoát tay: "Ăn cơm."

Trương Tiểu Phàm tuổi nhỏ người thấp bé, bưng cái bát to ngồi lên ghế, thức ăn hơi xa, với mãi không tới, Đỗ Tất Thư bên cạnh rất tốt, gắp cho nó luôn, khe khẽ bảo: "Tiểu sư đệ, ăn nhiều một chút." Thấy y có vẻ hoàn toàn chẳng để ý gì đến việc cá cược bị thua, tư cách đổ phẩm quả không tệ.

Trương Tiểu Phàm xúc động, gật đầu lia lịa, ăn được một lúc rồi len lén gọi: "Lục sư huynh."

Đỗ Tất Thư quay đầu lại hỏi: "Gì thế?"

Trương Tiểu Phàm nói: "Làm sao mà sư nương lại còn có nhà mẹ nữa?" Trong cái đầu bé bỏng của nó, người trong Thanh Vân Môn thảy đều như thần tiên, lẽ nào vẫn vướng vít những sự thế tục. Đỗ Tất Thư phì ra: "Tất nhiên là có chứ, sư nương cũng là người mà. Nhưng sư phụ nói sư nương về nhà mẹ, không phải là nhà mẹ đẻ đâu, mà là về bên Thuỷ Nguyệt sư thúc ở Tiểu Trúc Phong."

Trương Tiểu Phàm ngạc nhiên: "Gì ạ?"

Đỗ Tất Thư thấp giọng bảo: "Sư nương hồi còn trẻ xuất thân ở Tiểu Trúc Phong, vốn là sư tỷ muội với Thủy Nguyệt đại sư thủ toạ bên ấy, tình cảm rất sâu sắc. Sau này không biết là vì chuyện gì, sư nương người đẹp như hoa thế ấy, lại lấy sư phụ nhà mình, nghe nói lúc ấy các vị nam sư thúc trong Thanh Vân Môn rất nhiều người không hiểu ra sao..."

"Phắp", một cây đũa bắn ngay vào trán Đỗ Tất Thư, lực đạo không nhẹ, làm lằn đỏ lên một vệt. Hai người sợ giật thót, thấy Điền Bất Dịch mặt mày bừng giận, đôi đũa trong tay thiếu một chiếc. Đỗ Tất Thư quay đầu lè lưỡi với Trương Tiểu Phàm, cả hai không dám nói chuyện nữa, cắm đầu ăn thật lực. Lúc ấy, Tống Đại Nhân hỏi Điền Bất Dịch: "Sư phụ, lần này chưởng môn chân nhân triệu tập thất chi phái, sao Thủy Nguyệt sư thúc lại không đến?"

Điền Bất Dịch hừ một tiếng, cầm đôi đũa khác lên, nói: "Thì lão đạo cô ấy giả bệnh, phái người đến nói với chưởng môn sư huynh cái gì mà đau đầu phát sốt mãi, chưởng môn sư huynh cũng thật là, lại đi tin chứ. Hừ, hôm nay nếu mụ ấy đến, ta cho dù không cướp được, cũng không phải..." Toạ hạ tứ đệ tử là Hà Đại Trí ho khan hai tiếng, khe khẽ nói: "Sư phụ, chi phái bên Thủy Nguyệt sư thúc xưa nay không thâu nam đệ tử."

Điền Bất Dịch phát nghẹn, lắc đầu nói: "Lại được sư nương các người nữa, vừa nghe nói Thuỷ Nguyệt có bệnh gì đó, lập tức dẫn Linh Nhi đi sang thăm mụ ấy, cứ làm như trời sập không bằng, đúng thật là."

Bọn đệ tử nhìn nhau, nét mặt đều có vẻ mừng, Tống Đại Nhân ngập ngừng một lát, mới dọ dẫm hỏi: "Sư phụ, thế không biết sư nương ở bên Thủy Nguyệt sư thúc bao nhiêu ngày?"

Điền Bất Dịch trợn mắt nhìn y, nói vẻ không vui: "Cái gì mà mấy ngày, ngày nay đi, tối nay là về."

"Ối!" Bọn đệ tử than thở, ai nấy lộ rõ sự thất vọng. Điền Bất Dịch nhìn tới nhìn lui, hừ một tiếng nói với Tống Đại Nhân: "Hôm nay sư nương lại dạy dỗ bọn ngươi phải không?"

Tống Đại Nhân chưa cất tiếng, lão nhị Ngô Đại Nghĩa đã cướp lời: "Sư phụ khỏi phải hỏi y nữa, đại sư huynh hôm nay lâm trận bỏ chạy, thật là mất mặt."

Tống Đại Nhân tức giận: "Nói bậy, ta phụng mệnh sư phụ giúp tiểu sư đệ..."

"Úi..." mọi người cùng thốt lên.

Bữa cơm kéo dài đến nửa canh giờ, sau khi mọi người đi cả, Trương Tiểu Phàm muốn nán lại giúp Đỗ Tất Thư rửa bát, Đỗ Tất Thư cười bảo: "Tiểu sư đệ, đa tạ đệ, có điều việc ở đây ta làm là được rồi. Đệ đánh cược thắng ta, ngày mai ta sẽ giúp đệ chặt trúc."

Trương Tiểu Phàm ngường ngượng, đang định cất lời thì nghe thấy tiếng Tống Đại Nhân: "Lão lục, đệ đừng giúp y." Lời vừa rót ra, đã thấy Tống Đại Nhân từ ngoài cửa đi vào, nói với Trương Tiểu Phàm: "Tiểu sư đệ, lại đây, ta dẫn đệ đến phòng riêng." Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, Đỗ Tất Thư ở bên cạnh hỏi: "Đại sư huynh, huynh bảo gì?"

Tống Đại Nhân đáp: "Tiểu sư đệ vừa nhập môn, chính là lúc phải rèn luyện căn bản, chưa đến lúc được lười biếng."

Đỗ Tất Thư gãi gãi đầu: "Nói cũng đúng, thế này vậy! Tiểu sư đệ, lần này coi như ta nợ đệ, ngày sau đệ có việc gì cần ta đỡ, cứ bảo nhé, được không?"

Trương Tiểu Phàm nói: "Lục sư huynh, hay là bỏ đi, đằng nào..."

Đỗ Tất Thư nghiêm mặt, hiên ngang nói: "Gì vậy, ta lẽ nào là loại thị phi bất phân, trung gian bất biện (4) ư, đã nhận lời đệ tất nhiên phải làm cho bằng được, nếu không thì sẽ trở thành trò cười, bị các vị sư huynh phỉ nhổ."

Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, tuy thế trong lòng vẫn không rõ lắm việc này với thị phi bất phân, trung gian bất biện thì có liên quan gì?

Tống Đại Nhân kéo tay Trương Tiểu Phàm dậy, bảo: "Tiểu sư đệ, nào, ta đưa đệ đi xem phòng mới của đệ nhé." Hai người ra khỏi nhà bếp, trời đã tối mịt, một vầng trăng sáng từ từ nhô lên, treo phía trời đông. Họ đi ngang qua Thủ Tĩnh Đường, Trương Tiểu Phàm ngoảnh nhìn vào trong, thấy đèn lửa đã tắt hết, một vùng đen ngòm, chỉ có ánh trăng chiếu trước điện, mang chút khí vị u ám.

Lại đi thêm một lúc, họ quay về khu hành lang lượn khúc nơi ở của bọn đệ tử, Tống Đại Nhân đưa nó vào một gian tận cùng phía bên phải, nói: "Tiểu sư đệ, căn phòng mà đệ thức dậy lúc ban ngày đó là nơi ta ở, các sư đệ khác theo thứ tự mà xếp phòng, đều nằm bên phải, bảy căn bên trái kia không có người ở." Ngưng một lúc, y nhìn Trương Tiểu Phàm hỏi: "Đệ ở một mình, liệu có sợ không?"

Trương Tiểu Phàm lắc đầu.

Tống Đại Nhân mỉm cười: "Vậy thì được rồi, nam tử hán đại trượng phu chúng ta sao có thể sợ cô đơn! Lại đây, chúng ta cùng vào!" Nói đoạn dắt Trương Tiểu Phàm đi vào. Trương Tiểu Phàm ngắm cái nơi bây giờ lạ lẫm mà rồi sẽ phải kết bạn với nó lâu dài, cái sân nhỏ, bên trái có một cây tùng xanh, bên phải có năm thân trúc tỉa tót, cao bằng hai ba người.

Trong sân đá mảnh lát thành lối đi nhỏ, hai bên là bờ cỏ, gió đêm thoảng tới, lá cây cành trúc khe khẽ khua động, hương cỏ dịu dàng đưa lại, rất đỗi thanh tịnh.

Tống Đại Nhân mở cửa phòng, đi vào thắp đèn, gọi: "Tiểu sư đệ, lại đây nào!"

Trương Tiểu Phàm bước theo, thấy bên trong sắp đặt giản dị y như phòng của Tống Đại Nhân, chỉ có bàn ghế chăn đệm, ngoài ra chẳng còn gì nữa.

Tống Đại Nhân bảo: "Hôm nay ta đã quét tước qua chỗ này, đệ ở tạm vậy! Sống trên núi thanh bần, đệ tuổi lại nhỏ, có thể cảm thấy cô đơn, nhưng chúng ta là người học đạo, phải chịu đựng mọi sự rèn luyện, về sau những chuyện ăn ở sinh hoạt, đệ đều phải tự lo lấy."

Trương Tiểu Phàm đáp: "Đệ biết rồi, đại sư huynh."

Tống Đại Nhân gật gật đầu, quay nhìn các phía, nói: "Thế nếu không có việc gì nữa thì ta về đây. Đệ đã mệt nhọc suốt cả ngày cũng nên nghỉ sớm một chút!" Trương Tiểu Phàm vâng lời, tiễn đại sư huynh đến cửa, sực nghĩ ra một điều, liền hỏi: "Đại sư huynh, làm sao mà vừa sập tối, đã chẳng thấy vị sư huynh nào ló ra ngoài thế?"

Tống Đại Nhân cười đáp: "Đệ không biết đâu, bọn chúng ta ở trên Đại Trúc Phong học đạo cũng được ít nhất mấy chục năm rồi, ngày thường hiếm khi ra ngoài, nơi này bước chân đã thuộc khắp, vì vậy lười đi lại. Như lão tứ thích xem sách, lão nhị thích ca hát, người cần mẫn hơn một chút như lão tam thì ngồi trong phòng tu luyện, thông thường đều không ra ngoài." Trương Tiểu Phàm giờ mới hiểu, Tống Đại Nhân xoa xoa đầu nó, lại dặn dò vài câu, rồi quay mình bước đi.

Trương Tiểu Phàm trở vào phòng, đóng cửa lại, lúc ấy cảm thấy cả thế giới đột nhiên tĩnh lặng, chẳng có lấy một tiếng nói.

Nó sè sẹ bước lại trước bàn, đờ đẫn ngồi xuống một lát; rồi chẳng biết làm gì, nó bèn thổi tắt đèn lửa, cởi bỏ áo ngoài, lên giường nằm, trằn trọc trở mình, chẳng biết bao lâu thì mơ mơ hồ hồ ngủ thiếp đi.

"Á!"

Trong bóng tối, Trương Tiểu Phàm kêu khẽ rồi lật mình ngồi dậy thở hổn hền. Nó vừa mơ thấy mình quay lại thôn Thảo Miếu, gặp lại cha mẹ, gặp lại lũ bạn nhỏ vẫn thường chơi đùa, lại cả các chú bác cô dì khác rất là vui vẻ, nhưng đột nhiên họ đều biến ra tử thi, máu chảy thành sông, kinh khủng cùng cực. Nó run hết cả người, thế là thức giấc.

Nó ngồi trên giường một lúc lâu, hơi thở dần dần điều hoà, mắt cũng lần lần thích ứng với bóng tối, nhìn ra phên cửa mở hé, có ánh trăng nhàn nhạt xiên vào, rơi trên nền đất, mờ ảo như tuyết sương. Tương Tiểu Phàm không buồn ngủ, bèn bò dậy đi đến trước cửa, cọt kẹt một tiếng, kéo cửa bước ra ngoài.

Bốn bề tịch mịch lặng lẽ, từ nơi nào chẳng biết âm ỷ đưa lại tiếng côn trùng, một tiếng, hai tiếng, rủ rà rủ rỉ, ánh trăng long lanh như nước, rải xuống mình nó.

Nó ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy ngàn sao nhấp nháy, trăng giữa từng không, long lanh trong trẻo.

"Chẳng biết Kinh Vũ thế nào, có phải cũng đang mất ngủ không?" Nó khẽ thì thầm, rồi thở dài, xoay mình đi vào phòng, thình lình trước ngực chùng lại, một vật từ trong áo lót sát mình lăn ra, rơi xuống mặt đất.

Trương Tiểu Phàm giật bắn mình, cúi xuống nhặt lên, thì ra là hạt châu tròn trặn tím sẫm ảm đạm vô quang nọ, chính giữa trên hạt châu có một lỗ nhỏ xíu, chắc là để Phổ Trí xuyên vào chuỗi tràng hạt ngày hôm đó. Mấy buổi nay nó gặp toàn đại biến, đã quên bẵng vật này, giờ mới nhớ lại khi ấy Phổ Trí có dặn phải ném hạt châu đi.

Nghĩ đến đây, lòng nó chợt trào nỗi cay đắng, cha mẹ chẳng để lại gì, Phổ Trí với nó là chút duyên tao ngộ, tuy chỉ gặp nhau một đêm, nhưng cũng đã như người thân, mà hạt châu xấu xí này là vật duy nhất Phổ Trí để lại cho nó.

Trương Tiểu Phàm giơ tay, soi hạt châu lên giữa không trung, dưới ánh trăng rờ rỡ sáng trong, chợt thấy màu sắc hạt châu bợt đi một chút, thành ra màu tím nhạt, nửa như trong suốt, lờ mờ bên trong có một luồng khí loãng xoáy tròn không ngừng, hình như có linh tính, chỉ chực phá vỏ mà ra. Duy có điều mỗi lần luồng khí chạm được gần đến nơi nào trên bề mặt, nơi ấy lại sáng lên một chữ 卍 nho nhỏ, dồn nó quay lại.

Trương Tiểu Phàm ngắm mãi, lòng bất giác sinh niềm vui thích, lại nghĩ đây là vật duy nhất mà Phổ Trí di niệm, nên thực sự không nỡ vứt bỏ.

Nghĩ ngợi lâu lắc, lại từ trên cổ tuột xuống một sợi dây đỏ, đó là cái cha mẹ buộc cho để giữ gìn trường mệnh bình an. Con nhà bình thường đều có thể đeo thẻ vàng khoá bạc, nhưng gia đình nó nghèo nàn, đành lấy dây đỏ thay thế.

Nó bèn dùng dây đỏ xuyên vào hạt châu buộc kỹ lại, đeo lên trước ngực, sát da, bất giác lạnh buốt, nhưng vẫn cảm thấy khí vị ấm áp. Nó mỉm cười một mình, ngẩng đầu nhìn trăng sáng trên cao, rồi quay gót bước vào phòng đi ngủ lại.

Ngày đầu tiên của nó ở Thanh Vân Môn, đã kết thúc như vậy đấy.

**

*

Hết chương 7

Alex chú:

1. Sơ Sử: 初始 bắt đầu

2. Đổ phẩm hảo danh vấn giang hồ: 賭品好名聞江湖, ai đấy phiên hộ tôi cái nghĩa, dịch mãi không xuôi

3. Đạo hải vô nhai, cần lệ vi chu: bể đạo không bờ bến, cần cù cố gắng là con thuyền.

4. Thị phi bất phân, trung gian bất biện: chẳng biết việc phải trái, không hiểu chuyện ngay gian.

hết: Chương 7

Chương 8

Truyền Nghệ

"Trương Tiểu Phàm!" một tiếng kêu lớn, âm thanh ngọt ngào, nhưng chấn động sém tét màng nhĩ.

Trương Tiểu Phàm tỉnh mộng, mở to hai mắt, đột nhiên thấy một cái miệng há rộng, rồi hai hàng răng nhọn hoắt ghé sát lại trước mặt, nó sợ phát khiếp la lên: "Ối!"

"Khách khách khách..." một tràng cười từ đằng sau vọng lại.

Trương Tiểu Phàm mãi mới hoàn hồn, lúc ấy nhìn rõ thì ra là một con chó vàng to tướng, cao đến nửa người ta, lông vàng láng mướt, nằm trên giường mình, đằng sau con chó là Điền Linh Nhi mặc bộ đồ đỏ bó sát, đang cười gập cả bụng.

Trương Tiểu Phàm len lén liếc con chó to, thấy mình nó thù lù, răng nanh nhọn hoắt, cái lưỡi dài ơi là dài thè lè ra ngoài, bộ dạng rất hung ác. Trương Tiểu Phàm chưa từng nhìn thấy con chó to như vậy, trong lòng có chút hoảng sợ, rồi thấy Điền Linh Nhi nét mặt tươi cười rạng rỡ, bèn lúng búng hỏi: "Sư tỷ, chuyện gì vậy?"

"Chuyện gì ư?" Điền Linh Nhi đang cười nói, chợt nét mặt nghiêm lại, cau mày quát lớn: "Trời đã sáng rồi mà đệ còn hỏi ta chuyện gì? Dậy mau, ta và đệ đi lên núi chặt trúc." Trương Tiểu Phàm ngây ra, rồi lạ lùng hỏi: "Sư tỷ cũng phải đi á?"

Điền Linh Nhi hét: "Còn phải nói, đệ tử nhập môn ở chi phái ta ba năm đầu đều phải lên núi chặt Hắc Tiết Trúc , ta mười tuổi mới bắt đầu, năm nay là năm cuối cùng rồi. Ê, đệ vẫn còn ỳ ra trên giường à?"

Trương Tiểu Phàm vội vàng vâng lời, cẩn thận dè dặt vòng qua con chó to, theo mé bên kia giường tụt xuống, hấp ta hấp tấp mặc quần áo.

Điền Linh Nhi hét: "Tiếp này." rồi ném một con dao chặt củi lại.

Trương Tiểu Phàm giơ hai tay đỡ lấy, đó là một con dao chặt củi thông thường, cầm thấy nằng nặng.

Chuẩn bị xong xuôi, nó hỏi Điền Linh Nhi: "Sư tỷ, có phải gọi đại sư huynh cùng đi không?"

Điền Linh Nhi lườm nó một cái, bảo: "Đệ chưa nghe ta nói là riêng nhập môn đệ tử mới phải làm bài tập hả, bây giờ chỉ có ta và đệ đi chặt trúc thôi, đi nào!"

Nói rồi vẫy tay, Trương Tiểu Phàm còn chưa động đậy, đã thấy trên giường con chó vàng kia đột nhiên đứng phắt dậy, nhảy phốc xuống, ngoáy ngoáy cái đuôi, hướng về phía Trương Tiểu Phàm sủa mấy tiếng "oẳng oẳng", nhe răng làm bộ hung ác, rồi phóng ra ngoài.

Trương Tiểu Phàm nghe thấy quen tai, sực nhớ hôm qua lúc theo đại sư huynh quay về có nghe thấy hai tiếng chó sủa, xem ra chính là con chó vàng to này, trong lòng bất giác ngấm ngầm tự nhủ: "Thanh Vân Môn thật là lợi hại, đến con chó nuôi cũng lớn hơn nhiều con chó ở thôn mình."

Nó theo Điền Linh Nhi rời khỏi phòng, trời còn chưa sáng tỏ, vẫn lờ mà lờ mờ, đi ra khỏi hành lang lượn khúc nhìn về phía hậu sơn, đằng xa sương mờ mông lung lảng bảng trong núi.

Hai người và con chó cứ thế đi ra sau núi Đại Trúc Phong.

Hôm qua Trương Tiểu Phàm được Tống Đại Nhân ôm lên đồi, thấy chẳng bao lâu là đến nơi, đường cũng dễ đi, chẳng dè hôm nay tự mình đến, mới đi được nửa đường, đã thấy độ dốc càng lúc càng lớn, lộ trình cũng xa hơn mình tưởng tượng rất nhiều.

Quay sang nhìn Điền Linh Nhi ở bên cạnh, hôm nay cô bé không dùng Hổ Phách Chu Lăng , nhưng vẫn bước đi nhẹ nhàng, thân hình nhỏ nhắn mặc bộ đồ đỏ lướt trên đường núi rất nhanh nhẹn. Con chó to màu vàng kia thì chẳng phải nói, chạy trước chạy sau, lúc thì xuyên lên, lúc thì lùi lại, có lúc còn luồn vào vạt rừng bên đường, chẳng biết để làm trò gì, lát sau, cây cỏ lao xao, lại thấy từ một chỗ khác chui ra, dáng điệu rất là hưng phấn hoạt bát.

Đi tiếp chừng nửa canh giờ, Trương Tiểu Phàm mệt nhoài thở hồng hộc, hai chân đau mỏi, rã rời cả người.

Điền Linh Nhi đi trước, thấy bộ dạng nó như thế thì hừ một tiếng bảo: "Thật vô dụng, dừng lại nghỉ tý vậy!"

Trương Tiểu Phàm vội gật đầu, đặt mông ngồi xuống, ra sức thở, con chó to màu vàng lúc ấy lại chẳng thấy đâu, không biết đã chui vào xó xỉnh nào rồi.

Trương Tiểu Phàm thở một lúc, hô hấp mới dần dần điều hoà. Nó ngồi trên sơn đạo, nhìn xuống dưới, thấy Đại Trúc Phong vươn cao sừng sững, trông có vẻ cô ngạo bên cạnh những dãy núi gần đó đều thấp hẳn xuống.

"Sư tỷ, đệ có một việc muốn hỏi, không biết là..."

Điền Linh Nhi nghe giọng điệu nó có chút e dè bèn đưa mắt nhìn sang, trong lòng rất là đắc ý, lơ đãng dùng tay sửa lại mớ tóc, nét mặt ngay ngắn, nghiêm trang nói: "Đệ hỏi đi!"

"Tại sao chúng ta lại coi chặt trúc là bài tập! Đệ nghĩ bài tập phải là tu hành đạo pháp chứ?"

Điền Linh Nhi cong môi: "Đệ thì hiểu cái gì, với người tu chân sức khoẻ là quan trọng nhất. Mẹ nói nếu thể trạng không tốt, thì dù có diệu pháp vô thượng cũng khó mà tu tập được. Thanh Vân Môn chúng ta bắt nguồn từ Đạo giáo, rất coi trọng dưỡng sinh kiện thể, tu tập đạo pháp tới chỗ sâu xa, thể trạng càng quan trọng. Nói ngay như kỳ thuật tối cao của bản môn là Thần Kiếm Ngự Lôi Chân Quyết..."

Trương Tiểu Phàm chợt run bắn, mặt biến sắc.

Điền Linh Nhi lạ lùng hỏi: "Đệ làm sao vậy?"

Trương Tiểu Phàm hồi tâm, sắc mặt u ám bất định, lẩm bẩm nói: "Không, không có gì, đệ nghe cái tên này có vẻ dài dòng ghê gớm quá."

Điền Linh Nhi trợn mắt nhìn nó, bảo: "Đương nhiên là ghê gớm, đây chính là một trong những tuyệt kỹ trấn sơn của Thanh Vân Môn, chẳng có mấy người luyện được đâu. Nghe cha nói, thi triển chân quyết này, phải lấy chính thân mình để dẫn, rồi dùng thần binh lợi nhẫn, dẫn dụ cửu thiên thần lôi, thiên uy thần lực, làm đối phương tan tác, uy lực tuyệt luân." (1)

Trương Tiểu Phàm thở dài, nói: "Thế à!"

Điền Linh Nhi lại tiếp: "Thì đệ thử nghĩ xem! Tuy có chân quyết hộ thân, nhưng những uy thế cỡ cửu thiên thần lôi, người thường hễ đụng phải là hoá ngay thành tro bụi, người thi triển thuật ấy cố nhiên tu hành cực thâm sâu, nếu thể trạng không tốt, một chốc một lát chỉ e là chính mình bị thần sấm vụt chết trước ấy chứ, còn nói gì đến đánh cho ai tan tác?" Cô bé liếc nhìn Trương Tiểu Phàm, nói: "Vì vậy cha bảo đệ làm bài tập này chính là vì muốn tốt cho đệ, thế mà đệ còn giữ cái thái độ không bằng lòng."

Trương Tiểu Phàm giật thót, nhẩy cẫng lên vội nói: "Làm gì có chuyện đó, đệ hoàn toàn, hoàn toàn không dám có chút ý bất kính nào với sư phụ, càng không có ý không bằng lòng. À! Đệ đã nghỉ đủ rồi, thôi đi, đi!"

Nói đoạn vung con dao chặt củi, khoa chân bước thình thịch, đi lên trên núi, tốc độ đã nhanh hơn. Điền Linh Nhi nhìn theo sau nó, khe khẽ mỉm cười, rồi cũng đi lên theo.

Khó khăn lắm mới bò lên đến sườn đồi, Trương Tiểu Phàm nhịp thở đứt đoạn, thấy mé trước rừng trúc, con chó to màu vàng đó chẳng biết đã phục sẫn đấy từ khi nào, trông thấy hai đứa lên tới nơi, nó chõ mõm kêu "oẳng oẳng" mấy hồi, cũng không nhổm dậy, lại ngoảnh đầu đi.

Trương Tiểu Phàm ngây ra một lát, nói: "Nhanh quá nhỉ!"

"Đệ nói Đại Hoàng hả?" Điền Linh Nhi đi từ đằng sau lên, không đỏ mặt, không thở gấp, cất tiếng hỏi.

Trương Tiểu Phàm chỉ con chó to: "Nó tên là Đại Hoàng à?"

Điền Linh Nhi đáp: "Phải, đệ đừng coi thường nó, nó lợi hại lắm đó!"

Trương Tiểu Phàm lẩm bẩm: "Thì vậy, xem cái bộ dạng nó to như thế là biết, ít nhất cũng đã nuôi được cỡ hai chục năm."

Điền Linh Nhi xì một tiếng: "Đâu có!"

Trương Tiểu Phàm lạ lùng nói: "Nó chưa được hai chục năm à! Đại Hoàng quả là chóng lớn."

Lúc ấy Đại Hoàng ở đằng trước hướng về Trương Tiểu Phàm mà sủa rất là dữ dội.

Điền Linh Nhi bảo: "Ta nói đâu có ít năm như thế. Chà, để ta tính xem, hình như lúc tứ sư huynh đến đã có rồi, vậy là cỡ bảy mươi năm, không đúng, tam sư huynh nói lúc huynh ấy đến nó đã ở đây rồi, vậy thì phải đến chín mươi bảy năm. Á!"

Cô bé bỗng thốt lên, làm Trương Tiểu Phàm giật thót mình, vội vàng hỏi: "Sao vậy?"

Điền Linh Nhi vui hơn hớn nói: "Ta nhớ ra rồi, lúc nhỏ có lần mẹ cãi nhau với cha, nói năng rất ghê gớm, bảo là sẽ đem con chó vàng mà cha nuôi từ bé đến lớn đem ra giết thịt nấu canh ăn, làm cha tức gần chết, Đại Hoàng cũng sợ đến nỗi mấy ngày liền không dám về nhà!"

Trương Tiểu Phàm tò mò hỏi: "Đại Hoàng không dám về nhà hử?"

Điền Linh Nhi đáp: "Đúng! Đại Hoàng sống đã rất nhiều rất nhiều năm, hiểu tính nết con người lắm, biết mẹ ghê gớm, sợ bị rơi vào tay mẹ thật, bèn chuồn mất. Thế nào, ghê không?"

"Ghê!" Trương Tiểu Phàm nói rất thật lòng, cũng không biết là nói Đại Hoàng, hay là nói sư nương. Nó nhìn kỹ con chó to ấy thêm một chút, Đại Hoàng chẳng thèm để ý, phì mũi một cái rõ to, quẫy quẫy đuôi, rồi nghiêng đầu, lười biếng ngả ra mặt đất.

Hai đứa lúc ấy đã đi đến trước rừng trúc, Trương Tiểu Phàm nói với Điền Linh Nhi: "Sư tỷ, lúc đệ vừa đến Thông Thiên Phong, còn nhìn thấy một con quái thú to hơn Đại Hoàng rất nhiều lần, nghe đại sư huynh gọi nó là Thuỷ Kỳ Lân , Đại Hoàng có phải là linh thú giống như thế không?"

Điền Linh Nhi đi vào rừng trúc, lắc đầu đáp: "Không phải, linh tôn là dị thú thời thượng cổ, là linh chủng hồng hoang, vượt xa Đại Hoàng, không thể so sánh được."

Trong lúc nói chuyện, cô bé đã dẫn Trương Tiểu Phàm đi xuyên qua rừng, lát sau tới một nơi tương đối nhiều thân trúc gầy, Hắc Tiết Trúc nơi đây đều chỉ lớn bằng cỡ cổ tay, rất là mảnh mai.

"Ở đây đây, đệ từ nay về sau, trong vòng ba tháng, mỗi ngày chặt một cây là được rồi." Điền Linh Nhi nghiêm trang bảo.

"Nhỏ thế này mà chỉ chặt một cây thôi ư?" Trương Tiểu Phàm ngạc nhiên hỏi.

Điền Linh Nhi hừ một tiếng, bảo: "Đệ chặt thử xem."

Trương Tiểu Phàm gật đầu, cầm con dao chặt củi lên đi đến trước một cây trúc mảnh mai, ước lượng hươ dao một phát là đốn ngã. Chỉ nghe một tiếng trong trẻo vang lên, con dao như chém phải đá, dội lại mạnh đến nỗi lòng bàn tay Trương Tiểu Phàm phát tê dại. Cây trúc gầy bị nó chặt nghiêng xéo về trước, tích tắc sau bật trở lại, Trương Tiểu Phàm không kịp tránh, bị cành trúc quật vào đầu đau điếng, để lại một vệt đỏ bầm.

"Khách khách..." Điền Linh Nhi ôm bụng cười, một lát sau mới nhăn nhó bảo: "Đệ ở đây chặt nhé! Ta phải đi làm bài tập của ta đây." Nói rồi vừa cười vừa quay mình bỏ đi.

Trương Tiểu Phàm xoa xoa chỗ bị quật đau trên mặt, thấy trên thân trúc, nơi nó vừa chém phải, lộ ra một vệt trăng trắng, bất giác thở ra một hơi lạnh buốt.

Sáng hôm nay, Trương Tiểu Phàm một mình ở đây đối mặt với cây Hắc Tiết Trúc, dùng đủ mọi cách chặt, chém, cưa, mài, đè, bẻ, đến hai canh giờ, mặt trời đã lên giữa thinh không, toàn thân mồ hôi đầm đìa, chân tay mỏi nhừ vô lực, cũng chỉ xẻ được một cái lỗ be bé chừng hai phân trên thân cây trúc.

Lúc ấy một tràng tiếng hát đưa tới, Điền Linh Nhi cất tiếng ca bài gì chẳng biết, nhảy chân sáo quay trở lại, thấy bộ dạng bối rối của Trương Tiểu Phàm, lại nhìn cây Hắc Tiết Trúc, lắc lắc đầu, vung con dao lên, có vẻ như định chặt.

Trương Tiểu Phàm vội vàng hỏi: "Sư tỷ, làm gì vậy?"

Điền Linh Nhi sốt ruột bảo: "Thì giúp đệ chặt chứ gì nữa!"

Trương Tiểu Phàm lắc đầu thật mạnh, thở hộc ra: "Không cần đâu, đa tạ sư tỷ. Đây là bài tập của đệ, đệ sẽ tự mình hoàn thành."

Điền Linh Nhi hừ một tiếng, chỉ lên mặt trời, nói: "Đệ biết lúc này là lúc nào rồi không?" Trương Tiểu Phàm tính tình cứng cỏi, nghiến răng đáp: "Dù phải chặt đến tối mịt cũng được..."

"Đồ ngu!" Điền Linh Nhi vụt chống nạnh mắng, Trương Tiểu Phàm kinh ngạc, nhất thời không thốt nên lời, chỉ ngây ra mà nhìn vị sư tỷ.

Điền Linh Nhi uy phong lẫm lẫm, rất có cái phong phạm của mẹ, nổi giận: "Ngươi không xem thời gian, cũng không nghĩ gì đến người khác. Ngươi chặt đến tối, chẳng lẽ muốn ta cũng phải đợi ngươi đến tối hay sao? Nếu ngươi thật sự cương quyết như thế, về sau mỗi ngày nên hết sức cố gắng, nghĩ cách nào để trong hai canh giờ có thể làm xong bài tập, khỏi phải nói ra những lời dấm dớ chặt đến tối cái gì đó!"

Nói xong, cô bé vung dao lên, dao rít phá không, "phách phách phách phách" bốn tiếng, cây trúc theo tiếng rít đổ rạp, Trương Tiểu Phàm đứng trơ mắt trông.

Điền Linh Nhi liếc nhìn nó, lạnh lùng bảo: "Về thôi!" đoạn đi ra bìa rừng. Trương Tiểu Phàm trong lòng vừa thẹn vừa ngượng, âm thầm hạ quyết tâm, ngày sau nhất định phải hết sức cố gắng, làm bài tập thật tốt.

Nó lê tấm thân mệt mỏi về tới nơi ở trong Đại Trúc Phong thì đã là chính ngọ, Điền Linh Nhi chẳng nói chẳng rằng đi vào hậu điện Thủ Tĩnh Đường.

Trương Tiểu Phàm ngây đuỗn, khó khăn lắm mới cất nổi bước chân về phía phòng riêng, đến lối vào hành lang uốn khúc thì gặp đại sư huynh Tống Đại Nhân đang đứng ở đó.

Tống Đại Nhân khoé miệng lộ nét cười, nói: "Sao rồi, tiểu sư đệ, mệt lắm hả?"

Trương Tiểu Phàm nhệch ra cười, lắc lắc đầu. Tống Đại Nhân thấy nó tuổi còn nhỏ mà tính tình cương nghị, bèn thôi cười, đưa nó về đến phòng, bảo: "Trong nhà bếp thường có sẵn nước nóng, sau này hễ đệ về thì hãy tự vào lấy nước rửa ráy. Lát nữa là ăn cơm rồi, đệ nghỉ ngơi một lúc đi, ta sẽ đến gọi đệ sau, ăn cơm xong chúng ta còn phải làm bài tập nữa!"

Trương Tiểu Phàm giật thót, hỏi: "Chiều vẫn còn bài tập nữa ư?" Tống Đại Nhân thấy nó phản ứng mạnh như thế thì sững ra một lát, rồi lập tức tỉnh ngộ, cười bảo: "Ồ, ta nói sai, chiều là lúc tu tập đạo pháp của đệ tử chi phái, từ hôm nay ta sẽ truyền thụ cho đệ nhập môn đạo pháp."

Trương Tiểu Phàm lúc này mới thở phào, lòng vừa mừng vừa sợ, khe khẽ hỏi: "Đại sư huynh, những đạo pháp ấy rất lợi hại, có khó học không?" Tống Đại Nhân mỉm cười: "Tu hành đến chỗ sâu xa, tất nhiên là lợi hại vô cùng. Còn có khó học hay không, thì phải tuỳ vào tư chất ngộ tính của từng người. Tư chất kém một chút cũng không sao, đệ nghe sư phụ nói tối hôm qua rồi đấy: Đạo hải vô nhai, Cần lệ vi chu. Chỉ cần đệ chịu khó kiên trì chăm chỉ, chuyên cần tu tập, thì dù có khó đến đâu đi nữa, cũng có thể luyện thành."

Trương Tiểu Phàm gật đầu thật mạnh. Đến giờ cơm trưa hôm đó, Điền Bất Dịch hỏi qua về tình hình bài vở của Trương Tiểu Phàm, Điền Linh Nhi ngồi bên thêm mắm dặm muối kể xấu Trương Tiểu Phàm một thôi một hồi, đến nỗi thằng bé đỏ hết cả mặt, không dám ngẩng đầu lên.

Điền Bất Dịch nghe con gái kể, lắc đầu hoài, cuối cùng khẽ phẩy tay, nói thon lỏn: "Ăn cơm."

Điền Bất Dịch chẳng buồn mắng Trương Tiểu Phàm, nhưng Trương Tiểu Phàm lại nghĩ, sư phụ rất quan tâm mình, mình làm ăn chẳng ra gì mà sư phụ không hề trách mắng, khoan hồng đại lượng đến như thế, đúng là một bậc ân sư hiếm thấy trên thế gian. Nó tự thẹn với lòng, không dám nói năng gì nữa, âm thầm phát thệ, sau này nhất định phải chuyên cần tu tập để đền ơn sư phụ.

Sau bữa cơm, Điền Bất Dịch lại theo cái lối đi chữ bát vốn có, lắc la lắc lư trở về Thủ Tĩnh Đường. Những đệ tử khác vội vàng đi đến Thái Cực Động, còn Tống Đại Nhân thì cùng Trương Tiểu Phàm về phòng, bảo: "Tiểu sư đệ này, bản phái đạo pháp rất trọng căn cơ, đệ mới nhập môn, ta hãy truyền cho đệ đạo thuật cơ sở, đệ nhớ kỹ rồi thì sau này phải tự hành tu luyện, nếu có chỗ nào chưa rõ thì hỏi ta, biết chưa?"

Trương Tiểu Phàm gật đầu lia lịa, trong lòng xúc động.

Tống Đại Nhân nét mặt trang trọng, nghiêm nghị nói: "Còn một chuyện nữa, ta phải cảnh báo đệ: kỳ thuật bản môn tinh thâm thần diệu, tà ma yêu nhân lúc nào cũng rình mò. Đệ phải lập trọng thệ, sau khi đệ học xong, trừ phi là đệ tử bản môn, quyết không được truyền cho người ngoài."

Trương Tiểu Phàm giật mình hoảng hốt, nhưng lập tức hiểu ra, khuôn mặt bé nhỏ tỏ vẻ kiên quyết, đáp: "Dạ. Có trời xanh trên cao, đệ tử Trương Tiểu Phàm ngày sau nếu tiết lộ bí mật đạo pháp của Thanh Vân Môn, tất sẽ bị sét giáng đỉnh đầu, chết không có chỗ chôn."

Tống Đại Nhân mỉm cười gật đầu, bảo nó ngồi xuống trước bàn, rồi dạy cách đả toạ, mặc tưởng, lại nói sơ qua cách vận hành kinh mạch và tinh khí, cuối cùng là truyền cho nó pháp môn tu hành tầng thứ nhất của Thái Cực Huyền Thanh Đạo .

Thái Cực Huyền Thanh Đạo là căn bản của tất thảy những diệu pháp kỳ thuật trong Thanh Vân Môn, cũng chính là điều mà Thanh Vân Tử đã ngộ ra từ cuốn cổ thư kia hai ngàn năm về trước, trải qua quá trình tinh nghiên của các tông sư Thanh Vân Môn, cho đến nay, đã trở thành một đạo pháp vô thượng, định đoạt được cả chuyện thiên địa tạo hoá.

Thái Cực Huyền Thanh Đạo gồm ba cảnh giới Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Đệ tử Thanh Vân Môn, kể cả những người thông minh tài trí, suốt cuộc đời giỏi lắm là đột phá được đến Ngọc Thanh Cảnh, nhưng cũng chỉ loanh quanh tại đó, mà tu hành được đến tầng cao nhất của Ngọc Thanh Cảnh cũng đã là một việc hiếm thấy xưa nay.

Trong Thanh Vân Môn, người đông đến gần một nghìn, nhưng có thể đột phá được Ngọc Thanh Cảnh để tiến lên Thượng Thanh Cảnh, ngoài chưởng môn Đạo Huyền Chân Nhân, bất quá có chừng hơn mười người nữa mà thôi. Nhưng chỉ với mười mấy người này, Thanh Vân Môn đã đứng được vào hàng những môn phái có thực lực mạnh nhất thâm ảo nhất trong giới tu chân ngày nay. Còn về Thái Thanh cảnh giới vô thượng trong truyền thuyết, nghe nói mới có mỗi Thanh Diệp tổ sư là tu tập tới.

**

*

Hết chương 8

Alex chú:

1. Nguyên văn: 听我爹說,施展這个真訣,必須要以自身為引,舖以神兵利刃,引下九天神雷,煌煌天威神力,真是儅者披靡,威 力絕倫. (Chưa dịch thông)

hết: Chương 8

Chương 9

Phật và Đạo

Tống Đại Nhân lần đầu làm thầy, thấy Trương Tiểu Phàm hai tay chống má, lắng nghe chăm chú, bất giác cao hứng, ăn nói rất đĩnh đạc.

Quá trình tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo là từ dễ tới khó, phần lớn mọi người ngay năm đầu tiên đều có thể tựu thành tầng thứ nhất của Ngọc Thanh Cảnh, nhưng sau đó trở đi bắt đầu đụng phải những chỗ thâm thuý khó hiểu; với tầng thứ hai, người bình thường phải tu tập mất năm năm; tầng thứ ba lại càng một trời một vực, người nào tư chất hơi kém thì cả đời sẽ dừng mãi ở chỗ này, người khá hơn một chút tu tập đến năm sáu mươi năm cũng không phải là chuyện lạ.

Trương Tiểu Phàm nghe mà há hốc miệng, Tống Đại Nhân mủm mỉm cười, lại giảng tiếp.

Pháp môn tu hành chủ yếu của Thái Cực Huyền Thanh Đạo, đến tầng thứ ba là hầu như truyền thụ hết, từ đó trở đi phần nhiều phải dựa vào tu vi và tư chất của bản thân, sư trưởng trình độ cao thâm có thể chỉ điểm chút ít, nhưng cũng chỉ là về mặt kinh nghiệm, để đệ tử tránh rẽ theo đường vòng mà thôi. Đương nhiên, cái gọi là đường vòng ở đây phải tính bằng đơn vị thời gian từ một trăm năm trở lên.

Trong Thái Cực Huyền Thanh Đạo, tu luyện đến tầng thứ tư của Ngọc Thanh Cảnh là tựu được căn bản của mọi pháp thuật, có thể bắt đầu đồng thời tu tập những kỳ thuật diệu pháp khác và rèn tập bảo bối của mình.

Bảo bối vốn có nguồn gốc lâu đời, trong thần thoại truyền thuyết, các vị thần linh phần nhiều đều có bảo bối riêng, uy lực tuyệt luân. Còn trong nhân gian, những người tu chân luyện đạo dùng nó để chế ngự dần thiên địa tạo hoá, uy lực cũng rất đáng kể, nhỏ thì có thể đằng không, cưỡi gió bạt mây mà đi, lớn thì có thể làm trời rung đất chuyển, phá được núi ngăn được sông.

Vật liệu để luyện bảo bối cũng lắm màu nhiều vẻ, thiên kỳ bách quái, nhưng có điều, vật liệu sẽ quyết định uy lực của bảo bối sau khi luyện thành, nếu lấy sắt thường để thi triển Thần Kiếm Ngự Lôi Chân Quyết , thì chưa kịp tấn công kẻ địch, kiếm đã cùng với chủ nhân biến thành tro bụi rồi.

Đối với môn hạ Thanh Vân, nhớ chuyện xưa Thanh Diệp tổ sư lấy được cổ kiếm Tru Tiên trong Huyễn Nguyệt Động Phủ rồi cùng nó tung hoành khắp nơi, thiên hạ hầu như không có địch thủ, bọn hậu bối ngưỡng mộ dư thế, thành ra quá nửa đều tu luyện tiên kiếm, mãi ngàn năm sau, kiếm khách vẫn không ngừng xuất hiện. Việc chọn kiếm làm bảo bối gần như là quy tắc bất thành văn của Thanh Vân Môn, nên có đổi tên thành Thanh Vân Kiếm Phái thì cũng không phải là bất khả.

Nói tới đây, lại phải nhắc một chút đến thủ toạ Đại Trúc Phong là Điền Bất Dịch, lão vốn luyện kiếm, pháp khí hộ thân Xích Linh cũng là một trong các danh kiếm của Thanh Vân Môn, nhưng chẳng hiểu sao, lão không hề có ý khuyến khích bọn đệ tử tu luyện tiên kiếm.

Không chỉ có vậy, lão còn thường xuyên "xui giục" mọi người rèn tập các loại pháp bảo khác, khiến dư luận trong Thanh Vân Môn dấy lên ít nhiều trách móc, nhưng một là chẳng có quy định nào nói rằng không được, hai là đệ tử của Điền Bất Dịch tư chất tầm thường, số lượng cũng ít, nên mọi người cứ để mặc lão.

Trong các đệ tử Đại Trúc Phong, đại sư huynh Tống Đại Nhân tu hành súc tích nhất, đã luyện tới tầng thứ năm của Ngọc Thanh Cảnh trong Thái Cực Huyền Thanh Đạo, sát ngay sau là lão tứ Hà Đại Trí, luyện tới tầng thứ tư. Tuy thời gian y nhập môn ngắn hơn Ngô Đại Nghĩa, Trịnh Đại Lễ, nhưng trong số các đệ tử ở đây y thuộc hạng thông minh nhất, vì vậy tuy đi sau mà lại về trước.

Trong khi ấy, lão nhị Ngô Đại Nghĩa, lão tam Trịnh Đại Lễ, lão ngũ Lữ Đại Tín, lão lục Đỗ Tất Thư, đều đang chật vật ở tầng thứ ba Ngọc Thanh Cảnh.

Còn tiểu sư muội Điền Linh Nhi thì thông tuệ hơn người, từ nhỏ đã được cha mẹ hết lòng giáo hối, tuy mười tuổi mới bắt đầu bài tập chặt trúc, nhưng tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo đã khá nhiều năm.

Cô bé còn nhỏ, nhưng năm mười ba tuổi đã luyện tới tầng thứ tư Ngọc Thanh Cảnh, có thể khu dụng pháp bảo, là một trong những hài đồng khôn sớm nổi tiếng ở Thanh Vân Môn, cha mẹ yêu chiều, các vị sư huynh quan tâm thương mến. Tô Như cũng đã đem dải Hổ Phách Chu Lăng trứ danh của mình tặng cho con gái làm pháp bảo phòng thân.

"Sư tỷ thật là giỏi!" Trương Tiểu Phàm nghe tới đây, bất giác thốt lên cảm thán.

Tống Đại Nhân mỉm cười nói: "Không sai, tiểu sư muội rất thông minh, đối với việc tu chân lại có thiên phú, sư phụ sư nương truyền thụ điều gì, sư muội vừa nghe là nhớ liền, tư chất hơn hẳn bọn huynh, hiện nay chỉ vì thời gian tu đạo còn ngắn, hoả hầu chưa đủ, sau này có thêm thời gian, thành tựu của sư muội nhất định sẽ không thể tưởng tượng được, vượt xa bọn huynh. Chi phái Đại Trúc Phong phát dương quang đại hay không, là nhờ ở sư muội."

Nói đoạn, trong ánh mắt y khấp khởi hi vọng, hiển nhiên là rất yêu mến tiểu sư muội kiều mỵ dễ thương này.

Tiếp theo, Tống Đại Nhân lại chỉ cho Trương Tiểu Phàm những điểm cần chú ý trong quá trình tu hành, sau đó nghiêm nghị bảo: "Tiểu sư đệ, cuối cùng có một chuyện, ta nhất định phải nói cho đệ hay: việc tu hành của bản môn quý là ở chỗ tuần tự nhi tiến, đi bước nào chắc bước đó. Nếu tham lam muốn vượt nhanh, chỉ e là lòng tham chưa được thoả mãn, đã phát sinh đại hoạ. Thành công hay thất bại là do số mệnh, không cần phải cưỡng cầu. Đối với yêu ma ngoại đạo, dị đoan tà thuật, ham muốn không được đáp ứng thì đều muốn tốc thành, cuối cùng quá nửa là bị trời phạt, bi thảm lắm. Đệ phải cần thận đấy."

Trương Tiểu Phàm kinh hãi, vội đáp: "Vâng, đại sư huynh, đệ hiểu rồi."

Tống Đại Nhân gật gật đầu, đứng dậy nói: "Hẵng như vậy đã! Thái Cực động đằng hậu sơn, chỉ có đệ tử đã tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo từ ba tầng trở lên mới được bước vào. Trước đó, đệ hãy tạm ở phòng riêng rèn luyện! Chỗ này cũng rất thanh tịnh, sư phụ sư nương ít khi lại, đệ hãy tự mình cố gắng nhé."

Trương Tiểu Phàm đứng dậy đáp: "Đa tạ đại sư huynh."

Tống Đại Nhân nhe răng cười, vỗ vỗ đầu nó, rồi quay mình bước đi.

Trương Tiểu Phàm tiễn Tống Đại Nhân xong, trở vào trong phòng, đóng kỹ cửa lại, lòng mừng không nói hết được, đến những mệt nhọc lúc chặt trúc hồi sáng cũng chẳng biết đã tan biến đi đằng nào.

Nó hô hấp thật sâu, rồi tĩnh tâm, chầm chậm trèo lên giường, theo đúng tư thế đả toạ mà Tống Đại Nhân vừa dạy, nhắm nghiền hai mắt, nhẩm lại một lượt từ đầu đến cuối nội dung tầng thứ nhất trong Ngọc Thanh Cảnh của Thái Cực Huyền Thanh Đạo mà Tống Đại Nhân vừa truyền thụ, đang lúc định theo đó tiến hành tu tập, thốt nhiên trong lòng chợt nhớ ra điều gì, hai mắt bừng mở, thất thanh la: "Không phải rồi!"

Những gì mà Tống Đại Nhân vừa dạy cho nó là pháp môn tu tập căn bản thô sơ nhất trong Thái Cực Huyền Thanh Đạo, công dụng chỉ nằm ở hai chữ: luyện khí. Người tu tập phải tĩnh toạ, mở rộng tâm niệm, khống chế những phiền não, dẫn linh khí của trời đất vào vần chuyển vòng tròn trong người, tiến tới cảm ngộ được thiên địa tạo hoá. Nếu có thể dẫn linh khí đó liên thông khắp ba mươi sáu huyệt đạo, thì kinh mạch trong mình sẽ vững vàng, có thể tu luyện lên cảnh giới cao hơn.

Pháp môn tu tập này vốn đã trải qua mấy ngàn năm được Đạo giáo gọt giũa, tuyệt không có điểm nào sai sót đáng ngờ cả, nhưng giờ đây trong lòng Trương Tiểu Phàm như có phong ba bão táp vần vũ không ngừng. Tất cả chỉ là vì những gì hôm nay nó nghe thấy trái ngược hoàn toàn với bộ khẩu quyết và phương thức tu hành mà Phổ Trí hoà thượng đã giảng cho nó ngày hôm đó.

Trong cái đêm trước khi xảy ra thảm án ở thôn Thảo Miếu, lúc Phổ Trí truyền khẩu quyết cho nó, đã dặn nó rõ ràng rằng, tu chân luyện khí nhất thiết phải tách hẳn mình khỏi mối liên hệ với ngoại giới, để ngộ ra tự tính, cái đó gọi là: chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ tập diệt đạo; vô trí diệc vô đắc. (Chú: lời trích từ "Bát Nhã Tâm Kinh (1)") Cái đạo lý thâm thuý khô khan này, Trương Tiểu Phàm tức thời không thể lý giải cho minh bạch, nhưng nó nhận thấy rõ là hai loại pháp môn tu tập này căn bản hoàn toàn khác nhau, lòng dạ lúc ấy rối như tơ vò, không biết phải làm thế nào mới được.

Thực ra Trương Tiểu Phàm không hề biết, Thái Cực Huyền Thanh Đạo cố nhiên là diệu pháp vô thượng của Đạo gia, nhưng bộ khẩu quyết mà Phổ Trí dồn bao nhiêu ước nguyện to lớn, ký thác kỳ vọng cả một đời để truyền cho nó lại cũng là pháp đạo chí cao của Phật môn, gọi là Đại Phạm Bát Nhã.

Nói đến hai loại đại pháp, hai cách tu tập hoàn toàn khác nhau này, phải bắt đầu từ căn nguyên.

Phật môn và Đạo gia, lịch sử đều lâu đời, nhưng trước sau không hề đi lại với nhau, thuật tu chân lại khởi nguồn từ trào lưu tư tưởng của mỗi nhà. Chẳng hạn như Đạo gia, tôn chỉ của nó nằm ở một chữ Đạo , diễn tả ra là: đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, trung khí dĩ vi hoà. (Chú: lời trích từ chương 5 Đức Kinh thuộc "Đạo Đức Kinh")

Đạo giáo khởi nguồn từ tư tưởng Đạo gia, đến ba cảnh giới của Thái Cực Huyền Thanh Đạo cũng là lấy từ Tam Thanh gồm Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh chỉ Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn và Đạo Đức Thiên Tôn trong thần thoại Đạo gia. Tu chân của Đạo giáo chú trọng đến thiên địa nhất tức (2) , thân thể hoà với tự nhiên, dùng thân mình để chế ngự tự nhiên tạo hoá, biến ra đại uy lực.

Đối với Phật môn, tôn chỉ của nó lại nằm ở chỗ "Sự ứng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, nhất thiết vạn pháp, bất ly tự tính." Lại nói: Hà kỳ tự tính, bản tự sinh diệt; Hà kỳ tự tính, bản tự cụ túc; Hà kỳ tự tính, bản vô động dao; Hà kỳ tự tính, năng sinh vạn pháp! (3) (Chú: lời trích từ "Đàn Kinh, Hành Do Phẩm Đệ Nhất") Tu chân của Phật giáo chú trọng đến lĩnh hội tự thân, nhận ra ngũ uẩn (4) chính là đạo lý "có thể lấy bát nhã mà độ ra trí tuệ bốn phương tám hướng". Tư tưởng đạo Phật khác hẳn, pháp môn tu tập tất nhiên cũng đi theo hướng ngược lại, chỉ có điều mấy nghìn năm nay nhà nào cũng giữ bí mật riêng, không để cho người ngoài biết. Giờ phút này thằng bé Trương Tiểu Phàm ở trên Đại Trúc Phong của Thanh Vân Môn, bị việc này làm cho đầu óc rối tinh rối beng.

"Rốt cục đằng nào là đúng đây?" Trương Tiểu Phàm nhảy xuống khỏi giường, đi đi lại lại trong phòng, nó thấy trong đầu ong ong, nghĩ ngợi lung tung, lại không dám hỏi ai, cuối cùng đành thờ thẫn ngồi ở mép giường, thở dài rồi im lìm lặng lẽ.

Nó vốn chẳng phải là đứa thông minh, con nhà nông dân, tuổi lại còn nhỏ, không có gì là hiểu biết quyết đoán, những việc lớn như thế này nó nghĩ tới nghĩ lui, mất bao nhiêu thời gian vẫn không hiểu ra được tại sao lại như thế. Cuối cùng, Trương Tiểu Phàm tự nhủ với mình: "Thôi, đằng nào lúc đầu Phổ Trí sư phụ cũng chẳng nhắc gì đến tình huống này, ta luyện cả hai thứ vậy, cũng thế cả." Rồi không nghĩ ngợi nhiều nữa, trong lòng bỗng thấy thoải mái, lại trèo lên giường, đả toạ mặc tưởng, trước tiên luyện tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo.

Có điều nó nghĩ thì thấy dễ dàng, thực hành rồi mới thấy hoàn toàn là một cảnh khác hẳn. Luyện khí theo Thái Cực Huyền Thanh Đạo phải mở hết thất khiếu và các lỗ chân lông trên toàn bộ cơ thể, dẫn linh khí của trời đất nhập vào mình vận hành theo kinh mạch, việc luyện tập này sẽ củng cố nguyên khí thân thể và kinh mạch nội lạc; Đại Phạm Bát Nhã lại đòi hỏi phải nhập vào cảnh giới tịch diệt, phong bế ý tưởng và hành thức (4), để thân mình hoà vào với thế giới, tự mình ngộ ra mình, dùng chân nguyên thâm tâm để cố bản bồi nguyên.

Hai bộ pháp môn hoàn toàn tương phản, làm Trương Tiểu Phàm khổ không nói hết. Trong vòng ba tháng sau đó, ngoài việc mỗi ngày bất kể mưa gió lên núi chặt trúc, nó đều dụng tâm tu luyện hai bộ đại pháp môn này. Chỉ có điều nó luyện Thái Cực Huyền Thanh Đạo vừa mới được chút thành tựu, khổng khiếu toàn thân vừa mới mở ra, linh khí nhập thể, thì tiếp ngay sau, Đại Phạm Bát Nhã lại đóng mạnh tất cả các chỗ đó lại, nhập vào cõi tịch diệt, làm cho bao nhiêu nỗ lực lúc trước, hầu như đều đổ sông đổ bể cả.

Sau ba tháng, đột nhiên một hôm Điền Bất Dịch chợt nổi hứng, hỏi han tình hình tu đạo của Trương Tiểu Phàm, ai ngờ mỗi lần hỏi mỗi lần đáp, đều khiến lão tức gần chết.

Cứ theo lẽ thường mà xét, người bình thường tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo, với độ đơn giản của tầng thứ nhất, sau ba tháng đều phải có chút thành tựu, sơ bộ dẫn được linh khí trời đất nhập thể, vận hành được ba đến năm huyệt đạo.

Ai dè cái kém cỏi của Trương Tiểu Phàm thật là hiếm có. Tu luyện đã ba tháng tròn, mà đến khổng khiếu toàn thân cũng không thể khống chế như ý, dẫn linh khí nhập thể thì gượng gạo, nói gì đến việc vận hành vài huyệt đạo.

Điền Bất Dịch mở to mắt, bộ mặt giận dữ nhìn chằm chằm vào Trương Tiểu Phàm, chúng đệ tử bên cạnh đều có vẻ thông cảm, nhưng không dám nói gì, Tống Đại Nhân vốn cũng muốn đỡ hộ Trương Tiểu Phàm một hai câu, nhưng thấy sư đệ do mình dạy dỗ lại luyện tập đến cái mức như thế này, mặt mày mất hết thần sắc, thành ra không dám mở miệng nữa, còn Điền Linh Nhi thì cười hi hi đứng cạnh xem chuyện vui.

Trương Tiểu Phàm mặt đầy nỗi hổ thẹn, quỳ xuống trước Điền Bất Dịch, chẳng có chỗ nào để trốn tránh, trong lòng nghĩ bất luận sư phụ trách mắng thế nào, đều là phải lẽ cả. Ai ngờ đợi mãi một lúc lâu, sư huynh xung quanh không hé một tiếng, mà Điền Bất Dịch cũng chẳng thốt lời nào, nó lấy làm lạ, len lén ngửng đầu lên nhìn, thì thấy bộ mặt giận dữ của Điền Bất Dịch, không biết từ lúc nào đã biến ra bộ mặt thất vọng, thật ứng với câu nói: Đúng là chết cả cõi lòng! Điền Bất Dịch phất tay áo đứng dậy, lắc đầu, rồi lê cái thân hình béo lùn, chẳng nói chẳng rằng đi về phía hậu điện. Bọn đệ tử liếc nhìn nhau, chẳng hiểu thế là thế nào.

Tống Đại Nhân ở với Điền Bất Dịch lâu nhất, ngấm ngầm đoán biết được những suy nghĩ trong lòng lão ta, hiểu rằng sư phụ đang muốn rũ bỏ tiểu sư đệ này.

Ba tháng nay, Trương Tiểu Phàm ngoài việc tu hành và làm bài tập, những lúc rỗi rãi thì tíu ta tíu tít vui vẻ giúp đỡ người khác, tính tình rất thực thà, mọi người ai cũng quý. Sống trong núi tịch mịch, Điền Linh Nhi xưa nay vốn ngạo túng, đột nhiên ở đâu nảy ra một người bạn vui đùa xấp xỉ tuổi mình, tuy ngoài mặt luôn chỉ trích quát mắng, nhưng trong lòng cũng thấy mấy phần ưa thích.

Tống Đại Nhân chau mày, đi lên trước đỡ Trương Tiểu Phàm dậy, nói: "Tiểu sư đệ, sư phụ chỉ là giận dữ nhất thời thôi, không sao đâu. Chỉ cần đệ tu tập chăm chỉ hơn, sớm muộn gì cũng có lúc lão nhân gia người chấp nhận."

Trương Tiểu Phàm hổ thẹn, gật đầu lia lịa, tự lúc ấy càng ra sức cố gắng.

Mỗi ngày từ sáng sớm nó cùng Điền Linh Nhi lên núi chặt trúc, đệ tử bình thường tu tập Thái Cực Huyền Thanh Đạo sau ba tháng đã có thể chặt gãy được Hắc Tiết Trúc, Trương Tiểu Phàm thì đến hơn nửa năm mới chặt được cây trúc đầu tiên. Có điều mỗi ngày bất kể mưa gió, thân thể nó nhờ rèn luyện mà trở nên khoẻ mạnh, ít nhất lên núi cũng không đến nỗi thở hồng hộc như trâu.

Từ lần đó trở đi, Điền Bất Dịch chẳng nghe chẳng hỏi gì đến Trương Tiểu Phàm nữa, Tống Đại Nhân ban đầu còn xem xét tình hình tu tập của nó, có điều bao lâu trôi qua, tiến cảnh của Trương Tiểu Phàm vẫn chậm chạp đến nỗi không thể nào chậm chạp hơn, cuối cùng Tống Đại Nhân cũng chán nản, không buồn hỏi.

Trương Tiểu Phàm thì chẳng để ý đến chuyện đó, biết mình tư chất không tốt, tuy đôi lúc cũng nghĩ có khi hai loại pháp môn này không thể nào cùng nhau tu luyện đến nơi đến chốn được, nhưng mỗi lần nhắc tới chuyện này, nó đều nhớ lại khuôn mặt và giọng nói của Phổ Trí hoà thượng, trong lòng chợt bừng bừng, bèn kiên trì học tiếp. Tuy luyện tập theo kiểu này gian nan vô cùng, nhưng tính nó cứng cỏi quật cường, vẫn không hề buông xuôi. Nơi nó ở vắng vẻ yên tĩnh, ban ngày tu hành Thái Cực Huyền Thanh Đạo, đêm xuống lại luyện Đại Phạm Bát Nhã, thời gian dài lâu thấm thoắt trôi, chẳng mấy chốc đã ba năm.

Chính vào khoảng thời gian này, Trương Tiểu Phàm cũng lập được một kỷ lục tồi tệ nhất trong Thanh Vân Môn kể từ thời khai sáng: nó đã dùng đủ ba năm, tức là dùng gấp ba số thời gian cho một người bình thường, mới hoàn thành tầng thứ nhất trong Ngọc Thanh Cảnh của Thái Cực Huyền Thanh Đạo, tức là có thể tuỳ ý khống chế khổng khiếu toàn thân, dẫn linh khí trời đất nhập thể vận hành ba mươi sáu huyệt đạo. Nhưng điều mà mọi người không biết là đồng thời trong việc rèn tập Đại Phạm Bát Nhã, nó cũng đã mấp mé ở ngưỡng cửa khống chế nội khí, tạo được một căn cơ vững chắc.

Một buổi tối lúc ăn cơm, khi Trương Tiểu Phàm rụt rè thông báo với mọi người chuyện này, tất thảy đệ tử của Đại Trúc Phong đều há hốc miệng, như nhìn thấy một cây sắt ngàn năm nay nở hoa, rồi liền đó cùng phá lên cười rõ to, Tống Đại Nhân thì ôm lấy Trương Tiểu Phàm giờ đã lớn ra nhiều tung lên không trung, liên tiếp mấy lần liền, rất là vui sướng. Nhưng Điền Bất Dịch ngồi đầu bàn chỉ lạnh lùng nhìn, hừ một tiếng, rồi khẽ chửi: "Đầu đất!"

Trong ba năm đó, Trương Tiểu Phàm đã được mười bốn tuổi, vì mỗi ngày đều đi chặt trúc nên thân hình rất khoẻ mạnh, tuy ít hơn sư tỷ Điền Linh Nhi hai tuổi, nhưng lại cao hơn đến một cái đầu. Điền Linh Nhi thì từ một cô gái nhỏ mười ba tuổi, đã lớn lên thành một thiếu nữ mười sáu, dung mạo thêm diễm lệ, lúc nói cười trông vẻ càng thanh tú. Điền Linh Nhi xưa nay đều cảm thấy sáu vị sư huynh lớn hơn mình nhiều quá, lại bần thần không sức sống, nên thường thích ở cùng với gã sư đệ ngớ ngẩn ngốc nghếch, ba năm qua, tình cảm thân mật vô cùng. Xưa nay lúc nào Điền Linh Nhi cũng chiếm thế thượng phong, Trương Tiểu Phàm cảm thấy sư tỷ quả thật hơn mình quá nhiều, tuy ngày thường hay đùa nghịch chọc phá, nhưng thi thoảng mình bị sư huynh trêu ghẹo, sư tỷ lại là người đầu tiên đứng lên bênh vực, ủng hộ mình.

Trong núi tịch mịch, nhưng cũng thanh tịnh, Trương Tiểu Phàm đã hỏi Điền Bất Dịch và Tống Đại Nhân mấy lần về vụ thảm án thôn Thảo Miếu, nhưng chuyện đó đến nay chẳng còn tìm ra đầu mối, thời gian lâu dần, Trương Tiểu Phàm cũng lần lần bớt sốt sắng.

Sáng sớm hôm ấy, Trương Tiểu Phàm theo lệ thường cầm lấy con dao chặt củi, một thân một mình đi ra khỏi phòng, nhằm hướng hậu sơn mà bước. Điền Linh Nhi từ hai năm nay đã hoàn thành bài tập chặt trúc, không còn đi nữa, vì vậy Trương Tiểu Phàm thường lên núi một mình, có điều lúc nào rỗi, Điền Linh Nhi cũng chạy lên theo chơi đùa với Trương Tiểu Phàm.

Hôm nay Trương Tiểu Phàm chẳng thấy bóng Điền Linh Nhi đâu, nhưng cũng không để ý lắm, cứ thế đi lên núi, thêm một tháng nữa là có thể kết thúc bài tập chặt trúc. Bây giờ mỗi ngày hắn đã chặt được hai cây Hắc Tiết Trúc, nhưng vẫn còn kém xa Điền Linh Nhi, hồi đầu Điền Linh Nhi đã kết thúc rất nhanh, một ngày có thể chặt đến mười mấy cây.

Một tháng trước, cuối cùng hắn cũng đã tu xong tầng thứ nhất trong Ngọc Thanh Cảnh của Thái Cực Huyền Thanh Đạo, kế đó Tống Đại Nhân truyền thụ cho hắn yếu quyết của tầng thứ hai. Hắn tập được một tháng, tuy tầng thứ hai thâm ảo hơn tầng thứ nhất nhiều, nhưng chẳng hiểu tại sao, hắn ngấm ngầm cảm thấy còn dễ dàng hơn.

Chẳng hạn tầng thứ nhất cần khống chế khổng khiếu toàn thân, hắn luyện đủ ba năm mới có được chút thành tựu, nhưng tầng thứ hai yêu cầu "hoá khí vi tinh", tức là biến linh khí trời đất dẫn nhập vào cơ thể thành tinh khí trong kinh mạch. Theo như đại sư huynh nói, bài này khó hơn tầng thứ nhất không chỉ mười lần, nhưng Trương Tiểu Phàm tự thấy là nhẹ nhàng vượt xa tưởng tượng.

Xét đến căn nguyên, chắc có liên quan với bộ "Đại Phạm Bát Nhã", ba năm nay mỗi ngày hắn đều tu tập Đại Phạm Bát Nhã không hề gián đoạn, vận hành nội khí cũng đã hơi có hoả hầu, mà tinh khí thì thuộc nội khí, có căn bản ba năm rồi, tiến cảnh của Trương Tiểu Phàm thành ra cực nhanh.

Chỉ có điều hắn không tin lắm vào bản thân, lúc đầu người xung quanh luyện mất một năm thì hắn luyện mất ba năm, lần này chắc quá nửa là cảm giác sai rồi. Vì vậy hắn cũng chẳng để ý nữa, có điều mỗi ngày vẫn theo đúng giờ giấc tu tập, trước nay cũng chẳng có ai lai vãng làm phiền.

**

*

Hết chương 9

Alex chú:

1. Bát Nhã Tâm Kinh: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (tiếng Phạn gọi là Prajnaparamitahridaya Sutra) được gọi là Bát Nhã Tâm Kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn.

2. Bản dịch tiếng Việt cho phần trích kinh trên:

3. ..tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.

4. Nguồn: Wikipedia

5. Nhất tức 一息: Hơi thở, mũi thở ra hít vào một lượt gọi là "nhất tức"

6. Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm: một câu quan trọng của kinh Kim cương (tên gọi đầy đủ là Kim cương bát nhã ba la mật đa, tiếng Phạn là Vajraprojna - poramita - Sutra, tên kinh có nghĩa là bộ kinh giúp cho người ta phá bỏ mọi phiền não một cách nhanh chóng để đến bờ chính giác, thành Phật). Bộ kinh này vốn được viết bằng tiếng Phạn, Cưu-ma-la-thập (Kumara-jiva), đầu thế kỷ thứ năm sang Trung Quốc mới đem dịch ra tiếng Hán. Câu Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm được nhiều người đề cập đến, Lục tổ giảng như sau: "Hà kỳ tự tính? Bản tự thanh tịnh. Hà kỳ tự tính? Bản tự sinh diệt. Hà kỳ tự tính? Bản tự cụ túc. Hà kỳ tự tính? Bản vô động dao? Hà kỳ tự tính? Năng sinh vạn pháp. Thức đắc thử tâm, diệu trạm viên tịch, bất nệ phương sở, bản vô sở sinh."

7. Nghĩa là: "Thế nào là tự tính? Vốn tự nó thanh tịnh. Thế nào là tự tính? Vốn nó tự sinh ra và mất đi. Thế nào là tự tính? Vốn tự nó đầy đủ. Thế nào là tự tính? Vốn nó không lay động. Thế nào là tự tính? Nó có thể sinh muôn vạn sự vật. Phải hiểu cái tâm ấy kỳ diệu sâu sắc, tròn vẹn lặng lẽ, không lệ thuộc vào nơi chốn, không từ đâu sinh ra. "

8. Câu này muốn khuyên người học đạo phải hiểu được vạn vật là không, cái tâm là kỳ diệu, tự đầy đủ, trong sáng, trường tồn bất biến, không bị lệ thuộc vào một sự vật, nơi chốn nào.

9. Hành 行: tư duy; Thức 識: ý thức

hết: Chương 9

Chương 10

U Cốc

Trương Tiểu Phàm lên núi, đến chỗ cánh rừng trúc đã quen thuộc bấy nay, nhưng thấy màu xanh tươi tràn ngập, trùng trùng điệp điệp, gió núi lùa tới, rừng trúc xào xạc như sóng xô, vẻ rất lộng lẫy, trong lòng bỗng như mới mẻ..

Hắn hít thật sâu luồng không khí thanh tân, vận động thân thể một lát, rồi cầm con dao tiến vào rừng trúc. Chỗ hắn đến lúc này không phải là chỗ bắt đầu bài tập ba năm về trước nữa, mà ở tít mãi sâu trong rừng, nơi toàn trúc to, chất trúc cũng cứng rắn hơn nhiều.

Trong rừng, sương loãng ban sớm lờn vờn như sa mỏng, trên lá trúc xanh hai bên con đường nhỏ, móc đọng lóng lánh, đẹp long lanh.

Đi được một hồi, mình hắn chìm vào trong biển màu xanh lục, Hắc Tiết Trúc ở đây vươn cao sừng sững, lá cành rậm rạp xuyên thẳng lên trời, ánh sáng từ các khe kẽ rọi xuống, để lại từng mảng bóng sẫm trên mặt đất. Trương Tiểu Phàm nhìn trái nhìn phải, chọn một cây Hắc Tiết Trúc lớn, ước lượng một chút, rồi vung dao lên định chặt.

"Phụp", thốt nhiên vang lên một tiếng động buồn ỉu, Trương Tiểu Phàm cảm thấy trước đầu đau nhói, ra là bị một vật đập đúng vào trán. Hắn cúi đầu xuống nhìn, trên đất đang lách tách một quả thông. Trước sau trái phải ở đây đều là Hắc Tiết Trúc, trúc non rất nhiều, nhưng tuyệt nhiên không có cây thông.

Hắn nghĩ một lát, khoé miệng lộ nét cười, rồi dòm khắp bốn phía, kêu lớn: "Sư tỷ, là tỷ phải không?"

Giọng hắn truyền đi mãi xa trong rừng trúc, vang dội nhưng chẳng có ai đáp lời. Trương Tiểu Phàm biết sư tỷ xưa nay nghịch ngợm thích lừa người ta, đang định kêu thêm lượt nữa, thốt nhiên trước đầu lại nhói lên, đau ơi là đau, ra là bị một quả thông nữa ném trúng, phía trên đỉnh đầu vẳng xuống tiếng kêu lanh lảnh "chí chí chí chí".

Trương Tiểu Phàm nén đau ngẩng nhìn, thì thấy trên cây Hắc Tiết Trúc, có một con khỉ lông xám chẳng biết đã trèo lên ấy từ khi nào, tay nó nắm mấy quả thông, đuôi treo vào cành trúc, đang cười lảnh lót "chí chí chí chí", bộ dạng hí hửng trông kẻ khác gặp nạn.

Trương Tiểu Phàm đờ người, ba năm nay hắn chưa từng nhìn thấy con khỉ nào trong rừng, trên Đại Trúc Phong hầu như toàn là trúc, mãi nơi hang động xa xôi phía bắc núi mới có một dải rừng hoang tùng bách, xem ra con khỉ này chính là sống ở đằng đó, hôm nay chẳng hiểu thế nào lại chạy lên đây.

Đại Trúc Phong vươn thẳng và hiểm trở, tuy không cao vượt chân mây như Thông Thiên Phong, nhưng cũng ngập Vân Hải, từ chân núi leo lên trên, hầu như không có đường lối, phần lớn đệ tử Thanh Vân Môn đều đằng không mà đi.

Trương Tiểu Phàm tu tập thô sơ, ngoài việc chặt trúc mỗi ngày ra, thường xuyên cũng nghe các sư huynh nói chuyện, trong thâm cốc ở hậu sơn Đại Trúc Phong loài tùng bách dại mọc thành rừng, thâm u khó lường, ít người lai vãng.

Năm xưa tổ sư của Đại Trúc Phong cũng đã từng có người chống kiếm đi vào thám thính thâm cốc, nhưng đó chỉ là rừng rậm nguyên thuỷ, chẳng có sự gì kỳ quái lạ lùng, thú dữ trùng độc tuy nhiều, nhưng cũng chẳng bao giờ ra khỏi cốc, vì vậy mấy năm lại đây tương đối bình an vô sự.

Hắn đang nghĩ ngợi, chợt thấy con khỉ giơ tay lên, hắn giật thót, vội vàng lách mình tránh, quả nhiên lại là một trái thông nữa ném xuống, nếu không né kịp, e lại dính vạ tiếp.

Con khỉ xám thấy hắn né ra, bèn kêu lanh lảnh hai tiếng, mặt mày giận dữ, tựa hồ trách Trương Tiểu Phàm không nên tránh đi vậy.

Trương Tiểu Phàm xông tới con khỉ làm bộ mặt hề, rồi không thèm để ý đến nó nữa dang ra bỏ đi, trong lòng nghĩ con khỉ này lấy việc chọi người ta làm vui, thật là ít thấy, đúng là súc sinh vô tri.

Hắn đi được hai bước, chợt nghe sau tai tiếng gió rít lên, tránh không kịp, rồi "phụp" một tiếng, sau ót lại bị quả thông cứng đập vào, lần này lực đạo không nhẹ, Trương Tiểu Phàm thấy mắt tối sầm, không kìm được kêu thốt lên.

Chỉ thấy con khỉ đó ngồi trên cành trúc vỗ tay cười to, lắc la lắc lư, rõ là vui thích. Trương Tiểu Phàm bừng bừng nổi giận, xông lại lay cây trúc thật mạnh, cây Hắc Tiết Trúc to thế bị hắn lay rùng rùng nghiêng ngả, nhưng con khỉ xám chỉ dùng đuôi quấn vào cành trúc, đu đưa người theo nhịp hắn lay, chẳng tỏ vẻ sợ hãi, lại còn cười "chí chí chí" không ngừng.

Trương Tiểu Phàm thấy không làm gì được con khỉ, trong lòng càng thêm tức giận, rút dao ra chặt mạnh vào cây trúc. Con khỉ cũng chẳng sợ sệt, cứ ở trên cây trúc nhìn hắn với vẻ thú vị.

Trương Tiểu Phàm chặt đến đầm đìa mồ hôi, khó khăn lắm mới chặt được bảy tám phần, đã thấy thành công trước mắt, chợt nghe trên cây tiếng kêu lanh lảnh, liền ngẩng đầu nhìn, thì thấy con khỉ xám lắc đuôi, tung mình bay lên, rồi nhảy sang một cây Hắc Tiết Trúc bên cạnh, sau đó kêu "đoành", lại ném một quả thông xuống.

Trương Tiểu Phàm tức quá, cũng không thèm bận tâm xem nó có nghe hiểu không, chỉ tay quát lớn: "Mày có giỏi thì xuống đây!"

Con khỉ xám gãi gãi đầu, ngoẹo cổ nghĩ một lúc lâu, áng chừng không hiểu cái gì là giỏi hay không giỏi, nên chỉ há mồm cười to, làm mặt xấu với Trương Tiểu Phàm.

Trương Tiểu Phàm bị nó hành cho tức gần chết, nhưng chẳng biết làm thế nào, ngày hôm ấy mãi mới làm xong bài tập, nhưng bị nó ném bảy tám phát vào đầu, đau không chịu nổi.

Trương Tiểu Phàm tức cành hông, bực bội xuống núi, không đếm xỉa gì đến con khỉ nữa. Ai dè nó nghịch thành quen, mấy sáng liền đều đợi trong rừng, hễ thấy Trương Tiểu Phàm đi đến chặt trúc, là chọi hắn làm vui, rồi thích thú ngó bộ dạng nổi giận của hắn.

Trước bữa cơm tối ngày hôm ấy, Điền Linh Nhi kéo Trương Tiểu Phàm qua một bên, khe khẽ hỏi: "Tiểu Phàm, đầu đệ sao vậy?"

Trương Tiểu Phàm mấy ngày liền bị con khỉ bắt nạt, đầu bị chọi đến mức chỗ thì xanh chỗ thì tím, đau đớn không chịu nổi, chỉ có điều hắn cảm thấy bị một con khỉ chọc ghẹo là chuyện rất mất mặt, nên chẳng nói với ai, lúc này nghe sư tỷ hỏi, trù trừ một lát, rốt cục cũng kể hết ra.

Điền Linh Nhi bĩu đôi môi hồng, không nín được bật cười, hai má hiện ra đôi lúm đồng tiền xinh xinh, tú mỹ quá đỗi. Trương Tiểu Phàm bị cô ta cười, lại giống như mọi khi, mặt mày đỏ ựng lên, cúi đầu nhìn xuống.

Điền Linh Nhi vỗ bồm bộp vào vai Trương Tiểu Phàm bảo: "Yên tâm đi! Tiểu sư đệ, mấy ngày nay mẹ muốn ta năng vào Thái Cực Động tu tập, chuẩn bị cho kỳ Thật Mạch Hội Võ hai năm tới, chẳng ngờ để đệ bị một con khỉ bắt nạt. Đệ đừng lo, ngày mai ta đưa đệ lên núi, dạy cho nó một bài học."

Giọng điệu của cô ta ra vẻ già dặn, lại có ý như là dỗ trẻ con, nhưng Trương Tiểu Phàm từ nhỏ nghe đã quen, chỉ cười mếu mà không để tâm đến.

Sáng hôm sau, Điền Linh Nhi quả nhiên thức dậy rất sớm, cùng Trương Tiểu Phàm thẳng đường lên hậu sơn.

Trong núi gió mát, thổi tới hiu hiu, Điền Linh Nhi mặc bộ đồ đỏ, y như bóng dáng buổi đầu cùng Trương Tiểu Phàm lên núi chặt trúc, thoăn thoắt bước đằng trước.

Trương Tiểu Phàm theo sau, thấy người thiếu nữ xinh đẹp như một dải mây hồng phiêu phất thong dong trên núi, thoảng trong làn gió, dường như có một phiến u hương nhè nhẹ thả đưa.

Trương Tiểu Phàm thốt bàng hoàng, chợt nhiên nảy sinh ước vọng là được đi mãi, đi mãi như thế này.

Trong lúc hắn nghĩ ngợi đến xuất thần, Điền Linh Nhi đã đi rõ xa, rồi ngoảnh đầu nhìn lại, gọi lớn: "Tiểu Phàm, đệ làm sao mà chậm chạp thế!"

Trương Tiểu Phàm giật mình thức tỉnh, khuôn mặt chợt hồng, không dám nghĩ nhiều nữa, vội vàng rảo bước lên..

Hai người đến trước rừng trúc, Điền Linh Nhi bảo Trương Tiểu Phàm: "Tiểu Phàm, đệ một mình vào trước, ta sẽ theo sau."

Trương Tiểu Phàm gật gật đầu, cầm con dao đi vào, mới được vài bước, thình lình nhớ ra là cần dặn dò Điền Linh Nhi phải cẩn thận, bèn xoay mình nhìn lại, đã không thấy bóng dáng cô ta đâu nữa.

Hắn đờ ra, lòng trào lên một nỗi buồn nản mơ hồ, rồi khẽ lúc lắc đầu, rũ bỏ những suy nghĩ vô liêu, hướng về phía sâu trong rừng trúc cất bước. Đến nơi, thấy khắp rừng là một dải tịch mịch. Trương Tiểu Phàm giương mắt ngó quanh nhưng không tìm thấy con khỉ xám đâu cả. Hắn lẩm bẩm: chắc là con khỉ đó có linh tính, biết rằng hôm nay hắn đưa trợ thủ đến, nên không dám lại nữa.

Hắn vừa nghĩ ngợi, vừa ngó nghiêng khắp bốn xung quanh, nhưng không thấy tung tích con khỉ, hoài công vô ích, đành đi đến bên một cây Hắc Tiết Trúc, chuẩn bị đốn chặt.

"Chí chí chí chí", thình lình trên đỉnh đầu vang lên cái tiếng lanh lảnh quen thuộc.

Trương Tiểu Phàm lập tức nhảy ra như một phản xạ có điều kiện, nhưng đã thấy đầu đau nhói, thì ra lại không kịp nữa, bị một quả thông nện trúng, đau ơi là đau. Trương Tiểu Phàm ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy con khỉ đó treo ngược lên cành trúc như mọi khi, cười mãi không thôi.

Hắn mừng rỡ, nhảy cẫng lên chỉ vào con khỉ cười lớn: "Ha ha, rốt cục mày cũng đến rồi!"

Hắn nói không to, nhưng con khỉ lại giật mình đánh thót, bụng nghĩ người này ngày thường bị chọi luôn nhảy lên như đỉa, lửa giận cứ sùng sục, sao hôm nay lại vui vẻ như thế, lẽ nào bị ta chọi mấy ngày, đâm ra nghiện rồi, không được chọi không chịu nổi, bị chọi đau lại cao hứng đây?

Chính lúc đó, trong rừng trúc bỗng xẹt đến một cái bóng đỏ, Điền Linh Nhi đạp trên Hổ Phách Chu Lăng , đằng không lướt tới, nhanh như chớp giật, năm ngón tay vung trảo, tóm lấy con khỉ kia.

Ai ngờ con khỉ cực kỳ linh mẫn, mắt vừa liếc thấy là liền có phản ứng, cái đuôi đang quấn lấy cành cây lập tức lỏng ra, cả thân mình buông rơi xuống. Điền Linh Nhi đã tính kỹ cách vây chụp khắp các phương vị trước sau trái phải, nào ngờ con khỉ tự thả rơi, cô ta bất giác sững người, chụp trượt vào khoảng không.

Trương Tiểu Phàm ở dưới đất đang chuẩn bị hành động, thì lại thấy con khỉ nhẹ nhàng giơ cánh tay, níu lấy thân trúc bò lên, rồi dường như biết phía trên là cô gái áo đỏ lợi hại, nó chẳng chậm trễ, lập tức lắc lư nhảy từ cây trúc này sang cây khác rồi lại sang cây trúc khác nữa, ra ý tìm cách đào thoát.

Điền Linh Nhi sinh lòng hiếu thắng, hét vang từ trên cao: "Đuổi theo!" Co ta vẫy tay trái, Hổ Phách Chu Lăng phá không mà tiến, Trương Tiểu Phàm dưới mặt đất sải bước chạy.

Nếu ở trên đất trống, với tốc độ của Hổ Phách Chu Lăng, chưa đến một tích tắc là Điền Linh Nhi đã bắt được con khỉ xám, nhưng hôm nay lại là trong rừng trúc rậm rà, thành ra gặp vô số chướng ngại.

Con khỉ xám vô cùng thông minh, nó không chạy trốn theo đường thẳng, mà luồn trái quẹo phải trong khu rừng, vòng tới ngoặt lui, tháo chạy về phía trước. Điền Linh Nhi vừa phải chú ý tông tích con khỉ, vừa phải đề phòng những cây Hắc Tiết Trúc nhan nhản khắp nơi ào đến trước mặt, thật là phiền phức. Trương Tiểu Phàm thì chỉ có thể chạy dưới đất mà lo hão, không giúp được gì.

Hai người một con khỉ cứ đuổi chạy gấp gáp như thế, trong những tiếng "chi chí" lanh lảnh của con khỉ xám, cũng chẳng biết là trải qua bao lâu, Trương Tiểu Phàm hô hấp dần dần nặng nề, đã thấy mệt nhừ, có lẽ cũng chạy đuổi đến rất xa rồi.

Rừng trúc xanh tươi trước mặt dường như trải dài khôn cùng khôn tận, hết lớp này đến lớp khác ào tới trước mặt. Trương Tiểu Phàm lưỡi khô miệng khát, chợt thấy bóng con khỉ xám xẹt qua, rồi cứ tụt lại mãi. Hắn mừng rỡ, lập tức lấy lại tinh thần, một luồng sức mạnh trào lên, chợt trong tích tắc, Điền Linh Nhi phía trên cao la hoảng: "Cẩn thận!"

Trước mặt Trương Tiểu Phàm bỗng hiện ra một vách đá dựng đứng. Hắn vội vàng thu bước, mất đà ngã bổ chửng. Định thần lại được, hắn thấy dưới vách đá là một thâm cốc, tít xa trong cốc có sương dày mù mịt, chẳng nhìn rõ gì cả, trên sườn vách gần đó không có Hắc Tiết Trúc, mà là các loại cây cối hoang dại, phần lớn là tùng bách, thì ra bọn họ đã vô tình đuổi tới u cốc xa mãi phía sau núi.

Trương Tiểu Phàm trông thấy con khỉ xám rơi xuống dưới, giữa không trung lại giở ngón cũ ra, nắm vào các cành cây đưa đẩy thân mình, rồi theo đà nhảy xuống, tháo chạy về phía trước.

Hắn đang băn khoăn, chợt nghe tiếng gọi xé màn không vẳng tới, ngẩng đầu nhìn thì thấy Điền Linh Nhi tà áo đỏ phơ phất, đang lướt trên không, chìa cánh tay ngọc về phía hắn: "Lên đây nào."

Trương Tiểu Phàm không kịp suy nghĩ nhiều, thò tay ra nắm lấy Điền Linh Nhi, Điền Linh Nhi dùng lực kéo, lôi hắn lên dải lụa đỏ, Hổ Phách Chu Lăng chợt trĩu xuống một chút, nhưng lập tức trở lại nguyên trạng.

Trương Tiểu Phàm lần đầu có trải nghiệm này, cứ luống ca luống cuống, Điền Linh Nhi đẩy hắn lại đằng sau, quát: "Ôm lấy eo lưng ta, mau."

Trương Tiểu Phàm y lời ôm lấy, Điền Linh Nhi vội vã thúc tấm lụa bay, ánh đỏ lướt tới, hai người ngự trên Hổ Phách Chu Lăng , nhào thẳng xuống thâm cốc, đuổi theo bóng con khỉ xám kia.

Gió rít căm căm, Trương Tiểu Phàm chỉ nghe tiếng vù vù, hai mắt nhắm nghiền chẳng mở ra, dưới chân hắn, Hổ Phách Chu Lăng mềm mà không phải mềm, e sơ sẩy là có thể rớt ra ngoài, khiến người ta cứ thấp tha thấp thỏm. Hắn cảm thấy rất là sợ hãi, bất giác giữ chặt Điền Linh Nhi thêm một chút, chỉ thấy tà áo hồng như mây, phiêu phất trước mắt, bóng hình sư tỷ tựa như tiên nữ trên chín tầng trời, thanh lệ vô song, lại thêm làn u hương nhè nhẹ, phả vào khứu giác, trong lòng hắn ngập niềm vui sướng, khắc khoải mong sao giờ phút này đừng mãi trôi đi.

Điền Linh Nhi hơi sức nào tưởng đến những suy nghĩ kỳ cục của thằng bé đằng sau lưng, một lòng một dạ đều hướng về con khỉ xám đang ở trước mặt. Cô ta thường ngày được cha mẹ và các vị sư huynh yêu thương khen ngợi, tính tình rất cao ngạo, hôm nay đuổi không nổi một con khỉ, thì làm sao mà chịu đựng nổi.

Thế là trong thâm cốc, giữa những tàng cây, chỉ thấy bóng con khỉ xám đằng trước, bóng đỏ theo sát sau, quành tới quẹo lui, bay chạy vùn vụt.

Cứ thế chừng nửa canh giờ nữa, con khỉ xám đó chẳng biết là thứ dị chủng gì, hoàn toàn không tỏ ra mỏi mệt, vẫn chạy nhanh như cũ. Điền Linh Nhi thì đuổi bắt suốt quãng đường dài như vậy, đã dần quen với cách chạy xuyên qua rừng, thành ra càng đuổi càng thấy gần tới nơi.

Con khỉ chạy một mạch về mãi xa, Trương Tiểu Phàm từ sau lưng Điền Linh Nhi ngó lên, nom thấy cây cối trước mặt lần lần thưa đi, ánh sáng xuyên xuống, thấp thoáng đằng trước một dải đất trống, tựa hồ có tiếng nước chảy. Lúc này tiếng kêu lanh lảnh của con khỉ xám càng thêm gấp gáp, tựa như bất ngờ vì hai người này đuổi cả ngày trời mà không bỏ cuộc, nhưng nó chẳng có đường rút nữa, đành cố sống cố chết tháo chạy.

Chẳng bao lâu, trước mặt bỗng sáng oà, quả nhiên là một vùng đất trống bao la, trên đất đầy đá vụn, ở giữa có một cái đầm nhỏ biêng biếc, sóng gợn dập dềnh, dòng nước chảy về phía tây. Con khỉ xám lăng mình đến đây, tỏ ra lúng túng, nhưng sau lưng tiếng gió rít thoắt đã đến gần, nó bất đắc dĩ phải nhảy xuống đất, chạy bộ về đằng trước.

Nhưng không hiểu tại sao, bước chân nó bỗng dưng chậm rì, chẳng giống chạy trốn, mà cứ như là tản bộ. Có điều, nó vẫn đi về phía trước, dẫu chỉ là từng bước, từng bước.

Trương Tiểu Phàm nom thấy, trong lòng lấy làm lạ, nhưng Điền Linh Nhi vừa né tránh các chướng ngại, vừa chú ý theo dõi tung tích con khỉ, tất cả tư tưởng đều tập trung cao độ, chẳng chú ý nhiều đến thế. Trông thấy con nghỉ xám ngay trước mắt, cô ta mừng rỡ quá, quát lớn một tiếng, thúc Chu Lăng bay thẳng lên, xông đến giữa bãi đất trống, lao ập tới con khỉ xám nọ.

Đã thấy sắp bắt được con khỉ rồi, bỗng nhiên trong đầu Trương Tiểu Phàm nổ "rầm" một tiếng, thân mình chợt nhiên rung lắc lia lịa, một cảm giác váng vất nôn nao từ ngũ tạng trào lên, xông đến đỉnh đầu, trong phút chốc toàn thân hắn run lẩy bẩy.

Trương Tiểu Phàm thất kinh, đang không biết làm thế nào, thì vừa lúc ấy, ngực hắn đột ngột nóng ran, một luồng khí ấm áp tán phát toàn thân, bảo vệ tâm mạch, rồi đánh tan cái cảm giác nôn nao kia đi.

Trương Tiểu Phàm vô tình cúi nhìn xuống ngực, cảm thấy luồng khí nóng kia toả ra từ hạt châu tím sẫm mà Phổ Trí cho hắn ngày nào. Vừa lúc đó, Điền Linh Nhi phía trước thân hình cũng run rẩy, người chợt mềm oặt, rồi ngã nhào.

Hai người bọn họ đang ở giữa không trung. Vừa mất đi sự điều khiển của Điền Linh Nhi, Hổ Phách Chu Lăng liền dừng ngay lại, hai người lập tức rớt tòm xuống dưới.

Trương Tiểu Phàm lăn mấy vòng trên mặt đất, đau ơi là đau, nhưng hắn chẳng màng đến điều đó, còn chưa đứng vững đã hét toáng: "Sư tỷ, sư tỷ, tỷ không sao chứ?"

Chỉ thấy Điền Linh Nhi ngã lăn đằng trước, không hề động đậy, nét mặt trắng nhợt, mồ hôi lạnh toát ra đầy trán, đã ngất xỉu tự khi nào.

Trương Tiểu Phàm hoảng kinh thất sắc, đoán chừng quá nửa là có liên quan với cảm giác cổ quái vừa nãy, liền nén đau, bò dậy chạy tới bên mình Điền Linh Nhi, lay lay cô ta gọi thêm mấy tiếng, Điền Linh Nhi vẫn không có phản ứng gì.

Trương Tiểu Phàm ngoái nhìn bốn phía, thấy ở khu vực quanh cái đầm nước biếc này, trong vòng ba trượng, chẳng mọc đến một ngọn cỏ, nhưng ngoài ba trượng lại có cây cối um tùm. Hắn nghiến răng, trấn áp cảm giác váng vất không ngừng trào dậy trong đầu, cõng lấy Điền Linh Nhi, thu nhặt Hổ Phách Chu Lăng vứt rơi một bên, đi ra phía ngoài.

Với khoảng cách một hai trượng này, nếu là lúc bình thường nào khác thì chẳng đáng mấy bước chân, nhưng giữa lúc trong người nôn nao, đi đứng sao mà gian nan. Khó khăn lắm hắn mới ra khỏi ba trượng, đến dưới một cây thông lớn, cảm giác nôn nao kia quả nhiên lập tức tiêu tan không vết tích.

Trương Tiểu Phàm đặt Điền Linh Nhi xuống, hồng hộc thở dốc, nhìn về phía đầm nước biếc, hắn thấy con khỉ vốn đến đó từ nãy giờ đang đứng im, nét mặt đau đớn khôn cùng, hướng ra chỗ hắn, trong mắt đong đầy những lời cầu cứu.

Trương Tiểu Phàm chau mày, cuối cùng không nén được, bèn đứng lên đi vào trong. Mới có mấy bước, cảm giác nôn nao váng vất đó liền xuất hiện, rồi luồng khí ấm áp nơi ngực bỗng tràn dậy, chặn đứng nó lại.

Trương Tiểu Phàm chầm chậm đi đến bên mình con khỉ, đầu mặt đầm đìa mồ hôi, con khỉ thấy hắn đến gần, chẳng nhúc nhích được, xem ra đã bị nén đến nghẹn thở. Trương Tiểu Phàm hít hơi thật sâu, cúi xuống ôm con khỉ lên, quay mình bước ra ngoài. Con khỉ lúc này rất nghe lời, yên yên lặng lặng phục trong lòng hắn.

Khó khăn lắm mới bước nổi ra ngoài, đến bên mình Điền Linh Nhi vẫn đang hôn mê, cảm giác váng vất cũng theo đó tiêu tán. Trương Tiểu Phàm thả con khỉ, đặt mông ngồi xuống, thở hổn hển, con khỉ xám đó cũng thở phào, nằm lăn ra đất, mắt long lanh đưa đi đưa lại, nhưng không chạy trốn nữa, cứ chằm chằm nhìn Trương Tiểu Phàm.

Trương Tiểu Phàm cởi vạt áo, lấy hạt châu xỏ ở sợi dây đỏ ra ngắm nghía kỹ càng, chỉ thấy bề ngoài tím sẫm của nó đã biến thành tím nhạt, luồng khí xanh bên trong tựa hồ bị kích thích, xoáy lông lốc không ngừng với tốc độ nhanh gấp mười lần, va đập vào khắp phía bề mặt hạt châu.

Cũng như lúc trước, cứ mỗi lần luồng khí xanh chạm vào bề mặt, thì chữ "卍" của chân ngôn nhà Phật lại hiện lên ngăn chặn. Cảm giác ấm áp vừa giải cứu Trương Tiểu Phàm cũng chính là từ chân ngôn này toả ra.

Chỉ có điều Trương Tiểu Phàm nhận thấy rõ ràng, so với lần đầu hắn phát hiện ra hồi ba năm về trước, những chữ "卍" của chân ngôn nhà Phật này mỗi lần xuất hiện dù lớn hay nhỏ, thì độ long lanh cũng kém hơn khi xưa rất nhiều.

hết: Chương 10

Mời các bạn truy cập vào Wapsite: philongka.wap.biz download tiếp phần sau (nguồn truyện: VNthuquan)

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #dustinlee