Mũ len đỏ và đôi giày mới
Lưu ý: cực kì OOC.
Hết lưu ý.
--
Chúng tôi có một căn cứ bí mật.
Chuyện từ lâu lắm rồi, lâu đến mức những kí ức còn lại trong trí óc tôi cứ lộn tung hết cả lên, rối lùng bùng như một đống chỉ vụn mắc mớ vào nhau. Nhưng mà, chúng tôi đã có một căn cứ bí mật.
Đó là vào khoảng năm tôi học lớp ba thì phải, hồi đấy ở trường có một tin đồn rất nổi, phòng y tế bị ám. Tôi không rõ lắm tin này từ đâu mà ra, hình như đều là đồn lại từ đám khối trên, tôi chẳng để tâm lắm, dù thằng Keonho cứ suốt ngày lải nhải bên tai rủ tôi tới chứng thực cái tin đồn đấy với nó.
Nói cho ngắn gọn thì Keonho là bạn nối khố của tôi, học dưới một lớp, nhà ngay bên cạnh, là một thằng lỏi to con hơn tất cả những đứa bạn cùng khối với nó, và chưa bao giờ thực sự coi tôi là anh. Có một thời gian rất dài hồi bé, tôi đã bị lừa rằng chúng tôi bằng tuổi, tính ra thì, cũng không giống như bị lừa cho lắm. Thời đấy tôi không nghĩ cái gọi là "phân vai vế theo số tuổi" thật sự tồn tại, tôi chưa bao giờ hỏi tuổi mọi người, nhà tôi cũng chẳng có truyền thống ăn uống mừng sinh nhật gì. Nói đúng thì hồi ấy gia cảnh không khá khẩm mấy, sự kiện kiểu này làm chỉ tổ tốn kém, nên tôi luôn nghĩ người ta phân biệt cao thấp thành ba dạng: trẻ con, người lớn, và người già, chỉ như vậy thôi.
Đến năm vào lớp một tôi vẫn ngờ ngợ thằng Keonho sao chẳng nhập học cùng, thì mới biết, nó ít tuổi hơn và cách biệt tuổi tác quan trọng lắm. Tới lúc ấy hai chữ "anh Juhoon" tôi mới được nghe lần đầu tiên từ miệng thằng nhóc nhà bên, và sau đó thì cũng chỉ thêm được vài lần nữa rất hiếm hoi thôi.
Lớp một là dấu mốc quan trọng trong đời tôi. Bố tôi có được công việc mới, lương lậu phải gấp mấy lần vài đồng ít ỏi kiếm được của ông khi ở nhà chạy xe chở gỗ và tre nứa thuê. Nếu tôi nhớ không lầm thì là được giới thiệu bởi một người bạn cũ thời đi lính của bố, ông vô tình gặp lại trong một lần chở gỗ cho nhà kia. Công việc này đã cứu sống cả gia đình tôi khỏi cái cảnh ăn uống dè xẻn từng đồng, mẹ tôi cũng thay đổi ngay luôn nguyện vọng, cho tôi theo học tại một ngôi trường có cơ sở vật chất tốt hơn trong vùng. Nghe thì rất cơ bản, nhưng đây đúng là một sự kiện trọng đại đã thay đổi cuộc đời của tôi rất nhiều.
Nói chung chẳng có gì để phàn nàn với công việc mới của bố cả, ngoại trừ việc nó ở rất xa. Một công việc tận trong trung tâm thủ đô, cách nhà tôi cỡ hai tiếng rưỡi đi tàu. Tôi của cái ngày vẫn mơ hồ về "sinh nhật" ấy, chỉ biết việc mới của bố xa lắm và ông chẳng thể ở nhà cùng mẹ con tôi được. Đương nhiên, tôi không vui vẻ gì với nó, dù trường mới của tôi sẽ to hơn, tôi sẽ được ăn những món ngon hơn, được mặc quần áo đẹp và mua một đôi giày thể thao cứng cựa, một bộ đồ chơi xếp hình mới toanh chứ không phải cái hộp rách mất miếng dán bên ngoài và thiếu vài mảnh thải lại từ thằng anh họ khó ưa, hay những cuộn băng thật xịn của một ban nhạc nào đó tôi chưa từng nghe tên. Tôi không vui cho được.
Mẹ tôi đã an ủi tôi rất nhiều, rằng tôi phải biết ơn vì bố đã hi sinh để đem đến cho chúng tôi một cuộc sống hạnh phúc đủ đầy hơn. Tôi chấp nhận, dù vẫn còn mắc mớ trong lòng, và bước vào cổng trường Tiểu học với ba lô mới, đồ dùng học tập đầy đủ, giày thể thao màu đỏ, áo đồng phục, quần vải đã được mẹ ủi phẳng lì từ tối ngày hôm trước, và một khuôn mặt cười thật tươi.
Có vài đứa khóc toáng lên ngay ở dưới sân trường, còn tôi chỉ cười thôi, tôi biết, mẹ đã nói rồi mà, tôi phải biết ơn. Tôi thấy mình thật may mắn.
Có một kẻ khác cũng cười, tôi trông thấy nó khi lia mắt nhìn khắp chung quanh. Đó là một thằng nhóc gầy gò, cao hơn tôi tận nửa cái đầu, dù tính ra, đám xung quanh chẳng có mấy thằng cao được ngang tôi. Nó có đôi mắt rất to, hai bên mí mắt hơi lệch, tóc cắt ngắn tủn mủn làm khuôn mặt trông như quả trứng vậy. Chúng tôi nhìn nhau, tôi tự hỏi, không biết liệu nó có học cùng lớp với tôi không nhỉ?
Câu trả lời là không.
Ở lớp một, người ta xếp lớp theo khu vực, kiểu như học sinh từ một làng sẽ được xếp vào cùng lớp với nhau ấy. Chỗ tôi mỗi xã có một trường tiểu học, trường này nằm ở xã bên cạnh, vì nơi tôi sống là khu ít dân cư và khá nghèo, nên cơ sở vật chất của trường không được tốt (nếu chẳng muốn nói là tệ). Thường thì các gia đình có đủ điều kiện kinh tế và muốn con cái theo học ở một môi trường tốt sẽ chọn để cho con học tại đây thay vì trường gần nhà, dù có phải chịu khó dậy sớm hơn một chút và tập đi xe đạp ngay từ năm lớp một. Tới năm ba thì các lớp sẽ được chia ra theo lực học, chính nhờ cái quy chế xếp lớp lạ lùng này mà năm lớp ba của tôi cũng là một dấu mốc rất quan trọng trong đời.
Bạn cùng lớp một của tôi chẳng có mấy khuôn mặt quen thuộc, vì tôi là đứa từ nơi khác chuyển đến, cả một lớp ba chục đứa, tôi quen duy nhất thằng Minjun, cũng là một đứa có gia đình khá giả. Tôi không thân với Minjun cho lắm, trước kia là do nó giàu, nên mấy thằng chúng tôi cũng ngại chơi cùng, về sau, nó chẳng hiểu sao quen Keonho rồi nhập bọn luôn, nhưng chúng tôi vẫn không gọi là "thân" cho được.
Ngay từ lúc bước vào cửa, tôi đã thấy mặt thằng Minjun như rạng rỡ cả lên, mắt nó sáng trưng rồi gọi tôi vào chỗ ngay, ngồi cạnh nó. Tôi đương nhiên chẳng còn lựa chọn nào, dù nó có gọi hay không, tôi vẫn sẽ ngồi ở đấy.
Chính hôm ấy tôi mới biết, lý do tôi cao lớn hơn tất cả những đứa còn lại trong lớp là vì tôi nhiều hơn chúng nó một tuổi tính theo lịch âm, tức là tôi đẻ ngay đầu năm. Minjun cũng là đứa lớn tuổi hơn. Nó không sinh vào chớm tết, nhưng vì hồi nhỏ sức khỏe không được tốt, nên gia đình để nó đi học chậm luôn.
Cuối cùng thì, cả một lớp học, hai thằng chúng tôi là khác biệt nhất. Chúng tôi từ nơi khác chuyển tới, chúng tôi đi xe đạp tới trường, và chúng tôi có năm sinh không giống những đứa còn lại. Đó là một cú sốc với một thằng chẳng có khái niệm gì về cái gọi là "cách biệt tuổi tác" như tôi. Thời gian đầu, đã có hai mươi bảy người trong lớp gọi tôi là "anh" chỉ vì một lần lỡ miệng giải thích về sinh nhật. Lúc đấy tôi nghĩ, chắc là ông trời muốn bù cho mấy năm liền Keonho coi tôi như bạn bè đồng trang lứa. Nhưng mà tôi không cần. Gần như tất cả những đứa trẻ tôi từng gặp trong đời đều sợ sự khác biệt, chẳng đứa nào mong mình sẽ tách ra khỏi tập thể cả, chỉ trừ có một người.
Quay trở lại với tin đồn năm tôi học lớp ba. Tới khi lớn hơn tôi mới biết, tất cả các trường học trên đời đều bị đồn ngày xưa từng là bệnh viện, hay nhà xác, hay bãi tha ma, gì đó đại loại vậy. Chẳng có cơ sở gì đặc biệt cho những tin đồn ấy, nhưng mà cứ như là, bất kể khi nào muốn xây một ngôi trường mới, người ta sẽ chọn những vùng đất có nhiều người chết đầu tiên. Bởi thế, tôi đã có một mơ ước rất đơn giản, rằng sau này khi lớn lên, tôi nhất định phải xây một ngôi trường khác biệt với tất cả, nó sẽ được dựng lên từ nền là một khu trò chơi, để đứa trẻ nào học ở đó cũng được vui vẻ. Lúc đấy tôi không nghĩ gì đến việc, nếu dỡ bỏ một khu trò chơi để xây trường học, thì chẳng còn đứa trẻ nào vui nổi cả.
Trường tiểu học của tôi đương nhiên cũng không phải ngoại lệ. Ai đó đã nói rằng nơi này ngày xưa từng là bệnh viện, và phòng y tế chính là phòng chứa xác. Để tăng tính xác thực, người đó còn nói thêm, "bà nội tao kể vậy đấy!" Tất cả các người già đều biết hết mọi thứ trên đời, và tất cả những đứa học sinh trong trường, đều tin lời này răm rắp.
Từ đó, tin đồn phòng y tế có ma bắt đầu rộ lên. Nhưng mà lời đồn thì cũng chỉ là lời đồn, mãi mãi sẽ chỉ nằm trong mấy mẩu chuyện trò chán ngắt của đám học sinh mà thôi. Mọi thứ bắt đầu tệ hơn là lúc Martin, bạn cùng lớp mới của tôi, cái thằng có mái đầu quả trứng từ năm lớp một tới giờ vẫn chẳng thay đổi tí gì, cái thằng cười với tôi dưới sân trường ấy, nói rằng nó đã gặp một con ma.
Martin thường ở trong phòng y tế vào tiết thể dục, nó bị một căn bệnh gì đó liên quan đến cột sống (tôi chẳng biết cột sống là cái thứ quái quỷ gì cho đến khi mẹ nói rằng nó là thứ luôn đỡ chúng tôi được đứng thẳng) và phải đeo nẹp lưng quanh năm. Cũng bởi vậy mà Martin được miễn mọi tiết thể dục, và thay vì ngồi trong lớp học bài, nó chọn tới phòng y tế. Tôi không biết tại sao nó lại thích thế, chắc vì trong phòng y tế thì có giường, nó sẽ không phải phụ thuộc vào cái thứ cứng ngắc kẹp cứng lấy thân mình nữa. Nhưng mà lời giải thích này vẫn chẳng khiến tụi bạn cùng lớp chúng tôi an tâm thêm là bao, vì trong phòng y tế có ma.
Chuyện gì đến rồi cũng phải đến. Có một ngày Martin ngủ quên mất, hôm ấy tiết thể dục được chuyển xuống cuối buổi chiều để chúng tôi học bù toán vào sáng. Martin ngủ quên thật sự và tỉnh dậy khi trời đã sẩm tối, tôi không trực tiếp nghe nó kể chuyện, nhưng Keonho bảo, con ma ấy treo cổ trên quạt trần. Cả lũ sợ xanh mắt mèo, mặt Martin vẫn vô cảm. Nó không sợ ma.
Tôi nhớ tới mái đầu ngắn tủn mủn tới mức lố bịch của Martin. Hồi năm lớp một và lớp hai tôi hay gặp nó ở sân trường, chỗ ghế đá dưới một cái cây rất to mà tôi thậm chí còn chẳng biết tên. Vào mùa thu, lá khô và quả chín cứ rơi rụng đầy khắp xung quanh, nhơ nhớp và bẩn thỉu nhất là vào đợt chuyển mùa, vì lúc ấy có mưa, và mọi thứ cứ nhầy nhụa hết cả ra. Cuối ngày bảo vệ, kiêm lao công, và các chức vụ lặt vặt khác của trường mới quét tước lại. Đương nhiên chẳng giải quyết được gì, vì cái sự nhớp nháp ấy chúng tôi đã phải chịu đựng hết nguyên cả ngày rồi. Sáng hôm sau, lá cây cùng quả chín lại rụng đầy như chưa có gì xảy ra.
Chúng tôi thường né cái cây ấy mỗi khi mùa thu tới, chỉ đi qua nó đúng hai lần trong ngày là lúc cất và lấy xe, vì chỗ để xe ngay cạnh đó. Để tránh khỏi việc vô tình dẫm chân lên một cái lá hay quả rụng nào đấy là bất khả thi, xui hơn thì trượt ngã chổng vó, rồi trở thành trò cười cho đám bạn thôi. Dưới sân trường có cả rêu, tôi đã ngã ở đó hai lần rồi. Thực ra đứa nào học ở trường này mà đi xe tới trường, cũng đều phải trải qua ít nhất là một lần như thế.
Martin luôn ngồi dưới cái cây ấy, bất kể mùa nào đi chăng nữa. Vào thu, trời chưa lạnh lắm nhưng nó đã đội một cái mũ len màu đỏ dày cộm, để lộ ra vài cọng tóc ngắn cũn chỉa lung tung trên trán, trông lại càng giống một quả trứng hơn. Martin sẽ luôn đội cái mũ ấy tới tận khi hết mùa xuân. Tôi để ý vì trông nó kì quái quá. Martin không có bạn, nó tách ra khỏi tập thể và đóng đúng vai một đứa lập dị trong lớp. Không ai ghét Martin, nhưng cũng chẳng ai quý mến nó.
Keonho vẫn chưa chịu bỏ quyết tâm muốn rủ tôi tới trường vào buổi tối để "gặp ma". Keonho là vậy, nó có hứng thú và tò mò với mọi thứ trên đời, và thỉnh thoảng phản ứng lại hết sức kì cục với những điều nó gặp phải xung quanh mình. Keonho cũng cố chấp nữa, dù có tin hay là không, nó cứ phải nhìn tận mắt, nghe tận tai, tự mình đi xác nhận thì mới chịu được. Tôi từ chối. Tôi chẳng tin ma quỷ có thật, và dù có thật đi chăng nữa, tức là nó tồn tại, mà đã mang nghĩa "tồn tại" thì chẳng khác gì một con người như chúng tôi cả. Có ai vui được khi người ta cứ chăm chú trông mình như một thú lạ đâu?
Tôi từ chối hết lần này đến lần khác, từ chối cho tới tận khi câu chuyện con ma treo cổ trở thành điều gì xa lắc đã bị ném ra tít tận ra sau óc của lũ trẻ, Keonho cũng ngừng. Lúc ấy thì vừa kịp đông tới, tôi chợt nhận ra Martin không đội mũ len nữa rồi.
Đó là một sáng thứ tư trời trong vắt.
Ngày hôm trước chơi bóng đá cùng lũ hàng xóm, tôi ngã một cú đau điếng, một mảng chân chảy đầm đìa máu tươi. Đứa trẻ nào cũng từng trải qua vài lần xây xước như vậy trong đời, ngã, lộn nhào, hay rơi xuống từ cái cây bất kì nào đó, đương nhiên, cả bị mẹ quạt cho một trận tơi bời nữa. Tôi phải nghỉ tiết thể dục. Trời đã khá lạnh rồi, thầy giáo đồng ý cho tôi trở lại lớp ôn bài. Ngáp dài, tôi nhớ là mình đã ngáp, nghĩ bụng sẽ đánh một giấc no nê thay vì "ôn bài" như vừa hứa hẹn. Tôi gặp Martin trong lớp, tóc vẫn ngắn cũn cỡn, mắt vẫn tròn xoe, chống cằm nhìn tôi tập tễnh bước vào.
Martin ngồi bàn cuối cùng cạnh cửa sổ, có lẽ do nó thuộc dạng cao lớn nhất nhì lớp, ngay từ lúc chuyển lớp nó đã được xếp cho vị trí ấy, và sau bao lần xoay vòng chuyển chỗ ngồi, thì vị trí của Martin chẳng thay đổi chút nào. Chắc vì đến cả giáo viên cũng có thể thấy được sự lạ lùng từ nó.
"Này", Martin bắt chuyện với tôi, điều này thật sự không hề bình thường tẹo nào.
"Sao?", tôi định trở về chỗ rồi mặc kệ nó ở đó: chúng tôi không chơi với nhau. Chưa bao giờ nói chuyện, ấn tượng duy nhất của tôi về nó chỉ là nụ cười kì quặc dưới sân trường và chiếc mũ len màu đỏ đội gần như quanh năm. Chỉ thế mà thôi. Nhưng Martin đã bắt chuyện với tôi.
"Tao có một cái mũ, màu giống đôi giày của mày ấy", giọng nó như thể đang khoe khoang một điều gì đáng tự hào lắm vậy.
"Ừ, đây biết."
"Ồ, biết nhiều đấy chứ. Tao còn có một con ma nữa", Martin híp mắt, đung đưa hai chân. Mùa đông không thể trông thấy mặt trời, nhưng hình như tôi thấy rõ ràng, rất rõ, ánh nắng đã chiếu xuyên qua cả bóng lưng của nó.
"Mày không có con ma, mày chỉ nhìn thấy nó thôi", tôi trở về bàn học, tiếp tục ngáp thêm một cái nữa. Tối hôm qua tôi đã đi ngủ muộn vì mải mê một chương trình ưa thích chỉ phát vào mỗi tối thứ ba hàng tuần, mặc cho mẹ càm ràm bên tai. Chỗ ngồi của tôi khá xa Martin, cách một dãy, bàn thứ hai từ dưới lên. Ở vị trí này tôi sẽ không thể nhìn được nó nếu không quay xuống phía dưới, còn Martin thì dễ dàng trông thấy tôi, ngay cả những cử động nhỏ nhất.
"Ừ, tao nhìn thấy nó", giọng nó nghe như đang nín cười, bởi vậy tôi xoay ghế lại để đối diện với khuôn mặt trông như quả trứng vì kiểu tóc ngắn kì cục kia, "nó đã lấy mũ của tao."
Thỉnh thoảng tôi lại thử tưởng tượng ra nếu kiểu đầu như vậy mà ốp vào mặt tôi trông sẽ như thế nào. Chắc là xấu tợn, xấu hơn cả quả tóc dài quá mức vì lâu ngày chưa cắt và rối lùng bùng của tôi bây giờ. Thật là để được đầu tóc như vậy đúng vừa can đảm, vừa hay ho. Tôi nhận ra không phải ai cắt kiểu đấy cũng hợp, giả dụ như Keonho hay Minjun, chắc chắn trông hai tên này sẽ còn đần hơn cả tôi gấp mấy lần nữa.
"Tại sao?"
"Chẳng sao cả", ngửa người ra sau thành ghế, Martin lại đung đưa hai chân và ngâm nga một bài hát nào đấy nghe rất quen, nó nhìn ra ngoài cửa sổ. Tia nắng vừa nãy đã tắt ngấm từ bao giờ.
"Tao nói dối đấy, chẳng có con ma nào cả", sau một lúc, đủ lâu để tôi tự hỏi rằng liệu có phải ánh dương vừa nãy là do tôi tự tưởng tượng hay không tới hai lần, Martin bảo.
Tôi nhận ra là mình chẳng bất ngờ cho lắm.
"Ừ."
"Chỉ ừ thôi?"
"Muốn tao mách với thầy hả?"
"Không, đúng là đồ kì quặc."
"Tự nói mình đấy à?"
Thực ra tôi đã nghĩ chuyện con ma treo cổ là trò bịp từ lâu rồi, chỉ là cho tới tận mãi về sau, tôi vẫn không hiểu Martin làm vậy với mục đích gì. Có một lần nó bảo tôi, vì nó thích nhìn thấy mọi người sợ hãi vậy thôi, nhưng tôi chẳng tin. Tôi cho rằng, chắc là bởi Martin không có bạn. Chúng tôi cũng chỉ là những đứa trẻ mà thôi, dù có lập dị hay không, thì chúng tôi cũng chỉ là những đứa trẻ.
Đó là lần đầu tiên tôi nói chuyện với Martin.
Mùa đông qua đi cũng là lúc tin đồn về con ma treo cổ lụi hẳn, chúng tôi quên béng nó và trở lại làm những đứa trẻ vô lo. Lên lớp ba, Minjun được xếp lớp khác tôi, dù nó học ngay bên cạnh nhưng chúng tôi cũng ít nói chuyện đi nhiều. Vốn là chẳng thân thiết gì, Minjun không thích chơi đá bóng, không thích những bài của T. Rex, The Beatles hay Queen, nó không thích nói chuyện về những viên đá, bầu trời, hay một cái cán chổi bất kì, không thích trèo cây và ghét đạp xe nhất trên đời - dù nó phải đi xe tới trường mỗi ngày. Chúng tôi không hợp nhau cho lắm, tôi biết, kiểu người như Minjun thì dễ được mọi người yêu mến hơn là tôi.
Tôi không có nhiều bạn bè.
Tôi thích đá bóng, nhưng lại hay nghe T. Rex, Beatles, Queen, tôi nhặt đá ở ven đường và hứng thú với cả đám cỏ dại mọc lung tung khắp các khe nứt nhỏ, tôi thường nhìn đăm đăm lên trời, trông theo những đám mây nhích dần từng mi-li-mét, tôi ưa chạy xe đạp, và thường ngã chổng vó mỗi lần thử một trò mới: ví dụ như vừa nhắm mắt vừa lao nhanh nhất có thể chẳng hạn. Giày của tôi luôn có màu đỏ.
Không ai ghét tôi, nhưng cũng chẳng ai quý mến tôi cả.
Tôi không biết liệu Keonho có quý tôi không, nếu nhà nó chẳng ở cạnh nhà tôi và chúng tôi không quen nhau từ bé.
Cuối mùa đông có một sự kiện rất trọng đại - không phải sinh nhật tôi - mà là nhà trường đã quyết định chặt cái cây kia đi, cái cây to mà Martin hay ngồi dưới đó ấy, vì nhiều phụ huynh phản ánh lại quá. Lũ trẻ đứa nào cũng mừng, đơn giản thôi, chúng sẽ chẳng phải lo mình bị trượt ngã nữa, sẽ chẳng còn bất kể trò đùa nào chỉ vì lỡ dẫm phải một quả chín đã nát bét ra dưới chân mình.
Martin không còn đội mũ len, và cũng chẳng ngồi dưới bất kì một cái bóng cây nào nữa rồi. Đột nhiên tôi lại hơi tiếc rẻ.
Sau kì nghỉ, đám trẻ chúng tôi lại có một tin đồn mới. Không như những lần trước, không phải chuyện cười hay trò hù dọa nào cả, lần này, thật sự có nạn nhân cho mấy lời đồn đại ấy. Thằng Martin Edwards. Ai đó đã nói rằng, con ma treo cổ chỉ là do bịp bợm mà thành, chẳng có con ma nào cả, chẳng có quỷ ám gì hết, hoàn toàn do thằng Martin phịa ra mà thôi.
Đã là trẻ con thì không cần xác thực tính đúng sai, hoặc là chưa kịp xác thực, lời đồn này lan rộng ra như thả lửa vào đống rơm vậy, bùng lên nhanh đến mức, chỉ trong một cái chớp mắt, mọi thứ đã cháy rụi mất rồi. Martin không có bạn, tôi chưa thấy nó nói chuyện hay đi chung với ai bao giờ, chính xác thì, có lẽ tôi là người đầu tiên nói chuyện với Martin ở lớp học, dù chỉ một lần ngắn ngủi như thế thôi.
Một kẻ lập dị dễ biến mất khỏi đám đông, nhưng lại càng dễ dàng trở thành trung tâm của sự chú ý hơn cả. Tôi đã nhận ra điều ấy ngay từ ngày đầu tiên trở lại trường học sau kì nghỉ, vẫn chưa hết niềm vui bố trở về nhà và đem cho tôi vài cuộn băng khác mua ở tiệm bán đĩa rất nổi trong thành phố, một cái máy nghe mới cứng nữa, giá thành không vừa chút nào.
Cái tên Martin Edwards như thể dịch bệnh vậy, mấy trò bắt nạt của lũ trẻ cũng chỉ có vài cái đẩy người, mấy lời đàm tiếu, và đôi khi là bịa đặt nữa, trí tưởng tượng của đám học sinh cấp một thì lúc nào cũng tài. Chỉ có thế mà thôi, nhưng chỉ thế cũng đủ gây sát thương to rồi. Martin trông không hề như bị nao núng chút nào, ai đẩy nó ngã, nó lại đứng dậy, ai mắng nhiếc nó, nó bịt tai, còn mấy lời đồn hay những cái lườm nguýt trông còn chẳng rõ là lườm ấy, dường như chưa từng chạm được tới Martin. Có lẽ nó đã quen khác biệt, tôi nghĩ thế, và một mình nữa, nên "bị bắt nạt" hay "bị cô lập" trở thành cái gì quen thuộc và bình thường lắm trong cuộc sống của Martin. Tóc nó vẫn ngắn cũn cỡn, và khuôn mặt vẫn tròn xoe như quả trứng vậy.
Lại là một sáng thứ tư, lần này thì tiết thể dục được diễn ra bình thường, chúng tôi chơi bóng đá. Xuân tới rồi, nhưng thời tiết thì có vẻ vẫn chưa chịu ấm lên dù chỉ là một chút. Đám con trai đứa nào đứa nấy ướt sũng mồ hôi vì một trận bóng căng thẳng, mặc kệ cái lạnh thổi rờn rợn qua sống lưng. Mọi thứ diễn ra rất bình thường, điều duy nhất bất thường là, lần này Martin không ở lại lớp học hay vào phòng y tế. Nó đem một cái ghế nhựa thấp mượn từ phòng giáo vụ, ngồi xem chúng tôi học thể dục. Lũ con trai đã bàn ngay từ đầu trận rằng có nên để Martin lĩnh một quả không, đó là trừng phạt, vì cái trò lừa bịp của nó, và vì nó đáng bị như thế. Tôi thử ngăn lại, nhưng không thể. Theo một góc nhìn khác, tôi cũng là thằng lập dị. Lời nói của tôi sẽ chẳng bao giờ nặng bằng mấy câu cợt nhả của chúng bạn được.
Gần hết trận, Martin đã thật sự lĩnh một cú, trúng ngay cánh tay phải, đau điếng. Tôi nghe thấy tiếng kêu tiếc rẻ của mấy thằng còn lại, nhất là Hyunuk, thằng đã thực hiện cú sút "trượt chân" hết sức lộ liễu ấy. Nó to con, luôn là tâm điểm của mọi trò nghịch ngợm cũng như bắt nạt trên đời. Hyunuk đã nhắm vào mặt Martin, chứ không phải là tay. Dù sao thì, dính tay phải cũng đủ để thằng đấy khỏi viết bài trong vài ngày rồi, hình như tôi đã nghe giọng thằng nào đó an ủi thế.
Khi thầy giáo nhắc đưa Martin tới phòng y tế, không một ai trả lời. Cả lớp chìm vào câm lặng như thể đã được họp bàn và lên kế hoạch tỉ mỉ sẵn từ trước. Cái im lặng của lũ trẻ luôn nặng nề hơn nhiều so với một người lớn không muốn nói chuyện. Cái im lặng thể hiện rõ ràng sự bài xích, khác biệt và chán ghét tới cùng cực. Nếu là tôi, nếu tôi là Martin, với một cánh tay đau điếng và những cái nhìn đăm đăm xa cách từ chúng bạn, có lẽ thôi, tôi sẽ phải khóc toáng lên, hay là thấy tổn thương lắm. Nhưng Martin thì không. Nó vẫn thế, chìm vào thế giới riêng của nó, và nhìn ngược lại mọi người. Không thách thức, không buồn đau, nó chỉ nhìn với một ánh mắt như chẳng nghĩ gì.
Cuối cùng, tôi nhận nhiệm vụ ấy. Bất đắc dĩ thôi, tôi là thằng phù hợp nhất cho việc này rồi.
Phòng y tế trở thành từ khóa nhạy cảm giữa đám trong lớp, thậm chí còn lan sang cả các lớp bên cạnh nữa. Trường tôi dù có giáo viên y tế ở đây, nhưng cô không phải lúc nào cũng trực trong phòng, lần này cũng vậy, khi tôi đưa Martin tới nơi, chẳng có ai ở đó cả. Suốt một quãng đường từ sân trường đến, chúng tôi đã không nói một lời nào. Tôi không giỏi bắt chuyện, còn Martin thì lúc nào cũng lặng yên.
"Để tao đi gọi cô."
"Không cần đâu, tao ổn."
Tôi chẳng biết đáp sao, chỉ gật đầu, rồi định bụng quay lại tiếp tục trận đấu còn đang dang dở. Tôi biết, dù có thiếu đi một người thì chúng nó vẫn sẽ chơi, mặc kệ tôi thôi, chưa lần nào tôi được đợi chờ cho một vị trí còn trống cả.
Martin lại là người mở đầu trước, "này."
"Sao?", phòng y tế khá nhỏ, chỉ có một cái giường đơn được đặt ở góc tường cạnh cửa sổ to, một bàn làm việc, và một tủ đựng các thứ bông băng thuốc thang, có một cái cân và dụng cụ đo chiều cao nữa. Nơi này cũng mang mùi của bệnh viện, tôi rất ghét.
"Không phải mày nói ra đúng không?", Martin ngồi xuống bên giường, rất tự nhiên, nơi này chắc là phải quen thuộc với nó lắm. Tôi với lấy chiếc ghế từ bàn làm việc phía bên cạnh, cũng ngồi xuống, đối diện với nó.
"Không."
"Ừ, tao biết", Martin cười, ngửa người ra phía sau, nằm phịch xuống giường với hai chân vẫn đung đưa dưới đất.
"Mày biết?"
"Ừ, tao biết, vì không ai trong lớp tin tưởng mày cả", giọng nó nghe như đang nín cười vậy, tôi rất ghét kiểu ăn nói thế này, từ trước tới nay đã vậy rồi, "trừ tao", nhưng Martin không làm tôi khó chịu. Thật là lạ.
"Tại sao mày lại tin tao?"
"Mày muốn tao không tin mày hả?"
Tôi không đáp nữa.
Cửa sổ phòng y tế mở toang, nhìn ra sân trường, tôi thấy lớp tôi, chúng nó đang chơi bóng, thằng Hyunuk vừa ghi được một bàn, tôi nhìn được cả cảnh nó nhảy cẫng lên ăn mừng và ra oai với đám bạn. Trong lớp cũng không có ai nghe The Beatles, lại càng chẳng có thằng nào thích nhặt đá, ngắm cây cối mây trời, hay vừa nhắm mắt vừa chạy xe. Một lũ trẻ con tẻ ngắt.
"Này, có muốn tới căn cứ bí mật của tao không?"
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top