Các sinh vật huyền bí
Có 1 số sinh vật huyền bí sẽ suất hiện trong bộ truyện này nên tui lưu nào đây lúc cần viết đến con nào thì quay lại đây cho nhớ ý mà :)))
Những sinh vật hiền bí trong truyện của tui
Giám ngục Azkaban
(Dementor of Azkaban) là những sinh vật nguy hiểm, không có mắt, không có tình cảm, cảm xúc. Chúng ưa mùi chết chóc, luôn luôn hút hết tất cả những niềm vui của người khác, biến họ thành những sinh vật giống như chúng. Mỗi khi giám ngục đi qua, nơi đó trở nên lạnh lẽo và đóng băng. Chúng canh giữ nhà ngục phù thủy Azkaban ngoài biển Bắc. Chính chúng đã làm cho nhà ngục Azkaban trở thành địa ngục.
Các cai tù ngục Azkaban được đề cập lần đầu trong....... . Chúng được điều đến trường để truy lùng , ngay trong chuyến tàu Tốc hành để tới trường. Và đó chính là nguyên nhân khiến Harry khốn đốn, vì cứ gặp chúng là cậu nhớ lại những ký ức khủng khiếp, không nên có của mình trước đây, điển hình là cái chết của cha mẹ mình.
Vũ khí khủng khiếp nhất của các giám ngục Azkaban là "nụ hôn" của chúng, chúng sẽ hút sạch linh hồn của nạn nhân và biến kẻ đó thành kẻ không có cảm xúc hay ký ức nữa. Vũ khí hữu hiệu nhất để xua đuổi giám ngục Azkaban là thần chú Expecto Patronum ("Triệu Hồi Thần Hộ Mệnh"), mỗi phù thủy có một thần hộ mệnh là các con vật đặc trưng, tùy theo cá tính, ước nguyện của mỗi người.
Giám ngục Azkaban được coi là "Đồng minh tự nhiên" của các lực lượng Hắc Ám mà đứng đầu là Voldermot .
Bạch kỳ mã
(tiếng Anh: Unicorn, hiện nay Bạch kỳ mã thường được biết đến với cái tên ) là một con vật huyền bí sống ở trong Khu rừng cấm (Forbidden Forest) của trường .
Bạch kỳ mã là một con vật đẹp và buồn: chân dài thon thả, móng vàng bờm màu ngọc trai, có máu màu xanh ánh bạc. Bạch kỳ mã con tuyền là vàng ròng, chuyển thành màu bạc khi được 2 năm tuổi, lên đến 4 tuổi thì bắt đầu mọc sừng. Trưởng thành hoàn toàn thì chúng mới có bộ lông trắng, lúc đó Bạch kỳ mã khoảng 7 tuổi.
Bạch kỳ mã được miêu tả rất nhanh nhẹn, thậm chí nhanh hơn cả người sói, không dễ gì có thể bắt được một con Bạch kỳ mã đang sống. Đặc biệt, giáo sư Grubbly-plank từng nói trong lớp học Chăm sóc Sinh vật Huyền bí rằng Bạch kỳ mã chỉ chịu cho phép các trinh nữ chạm vào.
Sừng và lông đuôi của Bạch kỳ mã được sử dụng để chế tạo Độc dược, lông đuôi của nó thậm chí có thể dùng làm lõi đũa phép: đũa phép của Draco Malfoy, Cedric Diggory và Neville Longbottom đều sử dụng lông đuôi Bạch kỳ mã.
Theo lời nhân mã Firenze: "Bởi vì giết một con bạch kỳ mã là một việc cực kỳ dã man. Chỉ kẻ nào không còn gì để mất, và muốn dành tất cả, mới phạm một tội ác như vậy. Máu của kỳ mã sẽ giúp kẻ đó giữ được mạng sống, dù cái chết đã cận kề trong gang tấc. Nhưng mà kẻ đó sẽ sống bằng một cái giá khủng khiếp. Hắn giết một sinh vật tinh khiết không có khả năng tự vệ, chỉ để giữ lấy mạng sống của mình, nhưng hắn cũng chỉ có thể sống dở – một kiếp sống bị nguyền rủa, kể từ lúc môi hắn chạm vào dòng máu Bạch kỳ mã." Điều này đã được xác thực bởi chính chúa tể Voldermort và giáo sư Quirrell: Voldermort không thể tự mình hành động mà phải phụ thuộc rất nhiều vào kẻ hắn ám cho tới khi Đuôi Trùn giúp hắn thực hiện nghi thức hồi sinh.
Phượng hoàng
( Newt Scamander đã giới thiệu trong....... : "Loài Phượng hoàng được phân loại ..... không phải vì chúng hung dữ và hiếu chiến, nhưng chính vì có rất rất ít pháp sư có thể thuần hóa chúng) là một loài chim đến từ , và , có họ với loài Thunderbird.
Ngoại hình:
Loài Phượng hoàng có kích thước lớn như loài và bộ lông rực rỡ màu đỏ và vàng. Chúng có chiếc mỏ và những móng vuốt màu vàng kim lấp lánh, đôi mắt đen và chiếc đuôi dài và đẹp của loài . Bộ lông vũ đỏ rực của chúng có thể phát sáng lờ mờ trong bóng tối, còn những chiếc lông đuôi ánh vàng thường tỏa ra sức nóng khiến người khác không thể chạm vào được (Trong một số trường hợp - như khi Harry bám vào đuôi của phượng hoàng Fawkes để thoát ra khỏi Phòng chứa Bí mật, hay khi cụ Dumbledore bám vào đuôi của Fawkes rồi biến mất trước mắt những quan chức của Bộ Pháp Thuật - chiếc đuôi của Phượng hoàng không hề tỏa nhiệt nữa. Vậy có thể nói loài Phượng hoàng biết điều chỉnh sức nóng từ chiếc đuôi của mình). Phượng hoàng là đại diện cho yếu tố hỏa, nhưng trong một số trường hợp cũng là đại diện cho cái chết, hoặc yếu tố phong).
Có hai con Phượng hoàng được biết là đã được thuần hóa, là Fawkes của cụ Albus Dumbledore, và Sparky - linh vật cho đội Quidditch Moutohora Macaws của New Zealand. Một khi loài Phượng hoàng đã được thuần hóa, chúng sẽ trở nên vô cùng trung thành với chủ của mình - kể cả khi chủ của chúng qua đời, Phượng hoàng cũng sẽ bay đi và tự sinh sống chứ không đi tìm người chủ mới.
Bản tính và năng lực pháp thuật:
1. Bản tính: Loài Phượng hoàng chỉ ăn thực vật, rất hiền lành, thường làm tổ trên những đỉnh núi cao. Chúng là những sinh vật cực kỳ trung thành, luôn tìm đến và trợ giúp người mà chúng yêu mến và kính trọng khi họ gặp nguy hiểm.
2. Năng lực pháp thuật:
Năng lực trời phú của loài Phượng hoàng là có thể tự hồi sinh. Theo định kỳ, vào ngày Hỏa thiêu (Burning Day) của mình (thường là khi cơ thể của chúng đã lão hóa), chúng sẽ bùng lên thành một quả cầu lửa, biến thành đống tro tàn, rồi từ trong đống tro lại xuất hiện một chú chim non, nhăn nheo và bé tí xíu. Chính khả năng này giúp cho Phượng hoàng có tuổi thọ rất cao - kể cả khi chúng có bị đánh trúng Lời nguyền Giết chóc (Avada Kedavra) cũng có thể tự hồi sinh theo cách trên. Theo quy luật sinh tử rằng không ai có thể sống dậy sau khi đã chết, loài Phượng hoàng sau khi "tái sinh" lần thứ nhất chỉ là xuất hiện trong hình dạng sống thôi. Tuy nhiên, việc loài này chết-thực-sự như thế nào vẫn gây tranh cãi.
Loài Phượng hoàng có thể biến mất và xuất hiện theo ý muốn, mang theo cả người đang chạm vào mình, sau khi bùng lên một quả cầu lửa. Khả năng này cũng tương tự như Độn thổ (Apparition), và giống với loài gia tinh (House-Elf), chúng không bị giới hạn Độn thổ như các pháp sư. Chúng cũng có thể để lại lời nhắn bằng cách biến mất sau khi bùng lên một quả cầu lửa, để lại một chiếc lông đuôi vàng kim của mình.
Loài Phượng hoàng còn có năng lực pháp thuật trong nước mắt và tiếng hót của mình. Nước mắt của chúng có khả năng chữa lành vết thương rất hiệu nghiệm. Ví dụ, nước mắt phượng hoàng là thuốc giải duy nhất được biết tới cho nọc độc Basilisk (Tử xà) - chính bản thân loài Phượng hoàng cũng miễn nhiễm với cái nhìn của Basilisk, thứ mà thông thường sẽ giết chết bất cứ sinh vật nào nhìn thẳng vào mắt nó hoặc hóa đá những ai gián tiếp nhìn thấy đôi mắt Basilisk (như là nhìn thấy thoáng qua hay nhìn thấy hình ảnh phản chiếu trong gương). Nước mắt của Phượng hoàng cũng có thể dựng dậy một người đang cận kề bề vực của cái chết. Còn tiếng hót của phượng hoàng có thể vựng dậy tinh thần, củng cố lòng can đảm của người tốt, và đưa nỗi sợ vào trong tim những kẻ xấu.
Phượng hoàng cũng có thể nâng những trọng lượng rất lớn bằng đuôi của mình, chẳng hạn như có thể dễ dàng bay lên trong khi có tận 4 người bám trên đuôi.
Lông của Phượng hoàng có năng lực pháp thuật rất mạnh, có thể sử dụng làm lõi đũa phép. Vì Phượng hoàng rất khó thuần hóa và là một trong những sinh vật tách biệt nhất thế giới, những chiếc đũa phép chứa lông đuôi phượng hoàng cực kỳ khó tính trong việc chọn chủ nhân. Những cây đũa phép này thường tự hành động theo ý mình, vì vậy chúng là loại lõi đũa phép chủ động nhất. Lông Phượng hoàng vài lúc cũng được sử dụng làm bút lông.
Rắn
Ashwinder (Hỏa xà)
Ashwinder (Hỏa Xà), là loài sinh vật kì bí có tri giác, sinh ra từ tàn dư của các phép thuật tạo ra lửa. Vốn được tạo ra từ phép thuật nên sinh vật này cũng rất nhạy cảm với những phép thuật liên quan đến lửa. Các phù thủy cao tay có thể nuôi dưỡng loại sinh vật này bằng cách ấp trứng của chúng. Loài Ashwinder thường nhỏ con và có màu xám tro, với đôi mắt đỏ rực rỡ. Loài này chỉ sống trong vòng một giờ và sẽ tan thành bụi khi đã đẻ trứng. Trứng của Ashwinder có màu đỏ lấp lánh và tỏa ra nhiệt độ rất cao. Một khi đã được hóa đông, trứng Ashwinder trở nên rất hữu ích trong việc pha chế Tình Dược và Phúc Lạc Dược, hoặc có thể ăn trực tiếp để chữa bệnh sốt rét.
Cái tên Ashwinder được ghép bởi từ "ash", có nghĩa là "tro" trong tiếng Anh, giống với màu da của loài này và cũng liên quan mật thiết tới lửa; và từ "winder" chỉ dấu vết khi bò ngang qua của một số loài rắn như rắn đuôi chuông (một loài rắn hoạt động vào ban đêm sống tại các sa mạc ở Bắc Mĩ; khi di chuyển, chúng uốn mình thành những hình chữ S in trên cát).
Nagini
Nagini là con rắn của chúa tể hắc ám Voldermort, có kích thước rất lớn so với những con rắn bình thường. Voldermort luôn luôn giữ nó rất kĩ bên mình vì nó là trường sinh linh giá của hắn. Điều thú vị đó là theo truyện ở tập 4 Đuôi Trùn đã vắt sữa của nó để nuôi dưỡng Voldemort
Tử xà Basilisk
là một loài rắn khổng lồ, có thể sinh sống ở khắp nơi trên thế giới. Chúng có phần thân màu xanh lá cây rực rỡ có thể dài lên đến năm mươi feet (khoảng 15,24 m). Da của Basilisk được bọc thép cứng như da rồng, và nhờ vậy có thể đánh bật lại mọi câu thần chú ếm lên chúng (khi lớn lên, chúng cũng lột da như những loài rắn khác). Con đực có một chiếc mào đỏ trên đầu. Răng của chúng có một loại nọc cực độc (mà chỉ có thể được chữa lành bởi nước mắt của phượng hoàng) nhưng phương tiện nguy hiểm nhất trong các cuộc tấn công của Basilisk là cái nhìn từ đôi mắt màu vàng to lớn. Bất cứ ai nhìn thẳng vào mắt chúng sẽ chết ngay lập tức (nhưng nếu không nhìn trực tiếp mà chỉ nhìn thấy hình ảnh phản chiếu đôi mắt qua gương, qua ống kính máy ảnh... thì sẽ chỉ bị hóa đá). Tuy nhiên, loài này lại có một điểm yếu chết người: tiếng gáy của gà trống. Nếu có nguồn thức ăn dồi dào (Basilisk ăn tất cả những loài động vật có xương sống, chim và phần lớn các loài bò sát), con rắn có thể sống lâu một cách đáng kinh ngạc.
Việc tạo ra Basilisk là bất hợp pháp từ thời Trung Cổ, mặc dù thực tế ta có thể dễ dàng che giấu bằng cách di chuyển quả trứng gà mà con cóc đang ấp khi Sở Quy chế và Kiểm Soát Sinh Vật Huyền Bí đến kiểm tra. Con Basilisk đầu tiên được lai tạo bởi Herpo Bần Tiện, một pháp sư Hắc Ám người Hy Lạp và là một Xà Khẩu, là người đã phát hiện ra nở ra một con rắn khổng lồ sở hữu những sức mạnh phi thường cũng rất nguy hiểm. Tuy nhiên, đến khi Basilisk không thể kiểm soát được, ngoại trừ bởi các Xà Khẩu, chúng gây nguy hiểm cho cả phù thủy Hắc Ám lẫn những người khác.
Trong tiếng Hy Lạp Cổ, "basil(eus)" có nghĩa là "vua", với phần đuôi là "-iskos" hạ xuống một cấp độ bao quát hơn - cả cụm từ có ý nghĩa là "vương hầu" hoặc tương tự, có thể lấy lý do là có một chấm nhỏ màu trắng trên đầu Basilisk như chiếc vương miện.
Tử xà Basilisk là vật nuôi của - một trong bốn nhà sáng lập trường đào tạo phù thủy . Salazar Slytherin do bất đồng ý kiến với ba nhà sáng lập còn lại nên đã có ý định sử dụng con Tử xà này để giết những phù thủy gốc Muggle. Basilik sống trong căn hầm bí mật, di chuyển dọc theo đường ống cống trong trường Hogwarts nhiều năm dài và chờ đợi truyền nhân của Slytherin quay trở lại để điều khiển nó tiêu diệt tất cả những phù thủy "máu bùn" trong trường. Tuy nhiên vì lý do ngẫu nhiên, nhiều người chỉ nhìn thấy một cách không trực tiếp vào mắt của nó, kết quả là họ chỉ bị hóa đá, chứ không phải bị chết.
Ở phần 2 của bộ truyện , Basilik đã bị con phượng hoàng lửa mổ mù đôi mắt chết người và cuối cùng đã dùng thanh kiếm của để tiêu diệt nó. Chiến răng nanh của Basilik được Harry Potter dùng để phá hủy quyển nhật ký của Tom Riddle, hay chính xác là khi còn học tại Hogwarts.
Rồng
Rồng . Về cơ bản thì con cái to lớn và hung hăng hơn so với con đực. Da, máu, tim, gan, và sừng là các bộ phận có khả năng phép thuật, nhưng trứng rồng lại được coi là Hàng hóa Cấm Trao đổi Buôn bán Loại A. Có mười loại rồng chính, mặc dù vào mùa giao phối, nhiều giống lai hiếm có đã ra đời.
Antipodean Opaleye (Rồng Mắt Ngọc Châu Đại Dương)
Là một loài rồng đến từ , mặc dù chúng có di chuyển đến khi lãnh thổ bị thu hẹp trong vùng đất bản địa. Khác với những loài rồng khác, chúng thích sống trong các hơn là trên . Kích thước của chúng thuộc loại trung bình (khoảng 2-3 tấn). Chúng có lớp vảy óng ánh như ngọc trai và lấp lánh nhiều màu, đôi mắt có con ngươi rất nhỏ, cũng chính là nguồn gốc về cái tên của chúng - Opaleye (Ngọc Mắt Mèo). Chúng có thể phun ra những tia lửa màu đỏ tươi rực rỡ - tuy nhiên xét theo đặc tính cơ bản của loài rồng thì giống này khá thụ động và hiếm khi giết chóc trừ khi chúng đang đói. Thức ăn ưa thích của chúng là , nhưng cũng có tấn công những con mồi lớn hơn. Trứng của loài Rồng Mắt Mèo Vùng Đối Cực có màu xám nhạt và có thể bị các nhầm lẫn với .
Chinese Fireball (Cầu Lửa Trung Hoa)
Còn được gọi là Lân Rồng, là một loài rồng phương Đông. Chúng có lớp vảy mịn màng màu đỏ ánh vàng, một hàng rìa gai vàng nhọn quanh khắp khuôn mặt với cái mũi tẹt hơi vểnh lên và đôi mắt lồi đặc biệt. Mỗi con nặng khoảng 2-4 tấn, con cái lớn hơn con đực. Trứng của Cầu Lửa Trung Hoa có màu đỏ thẫm cùng những vết lốm đốm màu vàng rực rỡ, và phần vỏ trứng với những sức mạnh ma thuật được giới pháp sư hết sức ưa chuộng. Rồng Lửa Trung Hoa khá hiếu chiến những lại ôn hòa hơn so với hầu hết các giống rồng khác - đôi khi chúng cũng đồng ý chia sẻ lãnh thổ của mình với hai con rồng khác. Rồng Lửa Trung Hoa ăn hầu hết các loài , và cả .
Common Welsh Green (Rồng Xanh Xứ Wales)
Rồng Xanh Xứ Wales rất dễ lẩn trốn trong màu xanh cỏ mặc dù nó làm tổ ở vùng núi cao, cũng chính khu vực riêng được tạo ra là để bảo vệ nó. Con mồi của Rồng Xanh Xứ Wales thường là - chúng luôn chủ động tránh trừ khi bị khiêu khích. Rồng Xanh Xứ Wales có tiếng gầm rất dễ nhận biết (tiếng gầm của chúng cũng khá du dương). Chúng phun ra những tia lửa theo dòng, rất nhanh và mỏng. Trứng của Rồng Xanh Xứ Wales màu nâu đất, đốm màu xanh lá cây.
Hebridean Black Britain (Rồng Đen Hebrides)
Rồng Đen Hebrides là một loài bản địa khác tại , hung hăng hơn nhiều so với loài Rồng Xanh Xứ Wales. Mỗi con Rồng Đen Hebrides đều muốn có một lãnh thổ rộng hơn một trăm vuông cho riêng mình. Chúng có lớp vảy khá lởm chởm, đôi mắt màu tím rực rỡ và một hàng chóp gai ngắn nhưng sắc như dao cạo dọc sống lưng. Đuôi của chúng hình mũi tên nhọn và có đôi cánh của loài dơi. Rồng Đen Hebrides ăn chủ yếu là , và thậm chí là . Phù thủy tộc MacFusty - những người đã trú ngụ ở vùng qua nhiều thế kỷ, có truyền thống thực hiện trách nhiệm quản lý loài Rồng Đen Hebrides này trên địa phận của họ.
Norwegian Ridgeback (Rồng Lưng Xoáy Na Uy)
Rồng Lưng Xoáy Na Uy là loài rồng khá giống với loài Rồng Đuôi Gai Hungary, nhưng đuôi Rồng Lưng Xoáy Na Uy có những đường lằn đen nhánh nổi bật dọc sống lưng. Do đặc tính hung hăng khác thường của loài này, Rồng Lưng Xoáy Na Uy hiện nay là một trong những giống rồng hiếm thấy hơn cả. Chúng tấn công hầu hết những loại động vật có vú lớn sống trên cạn, và khác với những loài rồng khác, Rồng Lưng Xoáy Na Uy cũng ăn cả các sinh vật sống dưới nước.
Peruvian Vipertooth (Rồng Nanh Độc Peru)
Rồng Nanh Độc Peru là loài rồng nhỏ nhất trong số tất cả các loài rồng đã được phát hiện và cũng chính là loài bay nhanh nhất. Chỉ dài khoảng mười lăm feet, loài Rồng Nanh Độc Peru có lớp vảy mịn bóng màu đồng với những đường lằn màu đen nhánh, đôi sừng ngắn và những chiếc răng nanh đặc biệt độc. Rồng Nanh Độc Peru ăn và , nhưng sự ưa thích đặc biệt về thịt người của chúng đã khiến cho Liên đoàn Pháp thuật Quốc tế buộc phải gửi các dũng sĩ diệt rồng đi vào cuối thế kỷ XIX để giảm số lượng Rồng Nanh Độc Peru đang tăng nhanh với tốc độ đáng báo động.
Rumanian Longhorn (Rồng Sừng Dài Rumani)
Rồng Sừng Dài Rumani có lớp vảy màu xanh lá đậm và một chiếc sừng dài lấp lánh vàng mà chúng thường dùng để húc con mồi trước khi đem đi nướng. Bột nghiền từ sừng của chúng được coi là một nguyên liệu pha chế độc dược rất quý giá. Số lượng cá thể Rồng Sừng Dài Rumani đã tụt xuống quá thấp trong khoảng những năm gần đây - chủ yếu là do việc tiêu thụ sừng của chúng, được coi là Hàng hóa Cấm Trao đổi Buôn bán Loại B.
Swedish Short-Snout (Rồng Mõm Cụt Thụy Điển)
Rồng Mõm Cụt Thụy Điển là một loài rồng có lớp da màu xanh nước biển ánh bạc thường dùng để sản xuất găng tay bảo vệ và lá chắn. Ngọn lửa phun ra từ lỗ mũi của chúng có một màu xanh rực rỡ và có thể biến gỗ và xương hóa tro chỉ trong vài giây.
Ukrainian Ironbelly (Rồng Bụng Sắt Ukraine)
Rồng Bụng Sắt Ukraine là loài lớn nhất trong họ rồng (cân nặng khoảng 6 tấn). Rồng Bụng Sắt Ukraine là một loài cực kỳ nguy hiểm, có thể nghiền nát tất cả mọi thứ nằm trong phạm vi hạ cánh. Vảy của chúng có màu xám kim loại, đôi mắt đỏ rực, với những móng vuốt đặc biệt dài, hung hăng và khát máu.
Hungarian Horntail (Rồng Đuôi Gai Hungary)
Rồng Đuôi Gai Hungary được coi là loài rồng nguy hiểm bậc nhất, với lớp vảy màu đen và hình dáng như một con . Chúng có đôi mắt màu vàng, đôi sừng màu đồng, và cái đuôi dài có phần gai nhọn nhô ra mang màu sắc tương tự. Rồng Đuôi Gai Hungary là một trong những loài có hơi lửa phun ra dài nhất (lên đến hơn 50 - 13 thước). Trứng của chúng có màu xi măng và rất khó tách vỏ; những con rồng non tự chui ra ngoài bằng cách dùng cái đuôi của mình, một bộ phận đã phát triển gai đầy đủ ngay từ khi mới sinh. Rồng Đuôi Gai Hungary ăn , và cả bất cứ khi nào có thể.
Chúng từng xuất hiện trong . Các pháp sư phải khống chế bằng Bùa Choáng.
Nhân ngư (Người cá)
Nhân ngư xuất hiện trong tập 4 Harry potter và chiếc cốc lửa, là giám sát đích đến cũng là giám khảo kết quả bài thi số 2 trong cuộc thi Tam Pháp Thuật. Nhân ngư được miêu tả là sinh vật sống ở Hồ Đen, có thân mình dưới là cá Kình, thân trên có 2 tay và đầu tương tự con người, khuôn mặt tuy không giống nhưng tương tự như con người, vũ khí là Kích ba chĩa (đinh ba); nhân ngư là sinh vật khá hung dữ nhưng rất trọng chữ tín.
Nhân mã
trong thế giới của Harry Potter là những sinh vật hoang dã được cho là có trí thông minh hơn con người. Dù có khả năng nhận thức, nhưng họ không cần công nhận và tránh xa mọi vấn đề liên quan đến con người. Bất cứ nhân mã nào kết giao với con người, ví dụ như đã đồng ý dạy môn Chiêm tinh học ở trường Hogwarts, sẽ bị các nhân mã khác tấn công và bị bầy đàn xua đuổi. Nhân mã rất giỏi chữa trị vết thương và chiêm tinh, họ dành phần lớn thời gian theo dõi các vì sao để dự báo tương lai. Nhân mã sống trong các cánh rừng và sống theo từng bầy. Họ không làm việc cho ai và không cần sử dụng bất cứ công nghệ nào cao hơn cung tên và mũi tên. Loài nhân mã rất kiêu hãnh và vô cùng khắt khe trong vấn đề lãnh thổ, vì vậy để giao tiếp với họ nhất thiết phải có tài ngoại giao giỏi. Nếu không coi trọng nhân mã thì rất có thể sẽ phải trả giá đắt, như mụ đã học được một bài học. Trong tập Harry Potter và Bảo bối Tử thần, bầy nhân mã sống trong Khu rừng Cấm sau khi bị Hagrid mắng mỏ đã hợp sức cùng với chiến đấu.
Các nhân mã:
BaneMagorianRonan
Người sói
Người sói (Werewolf), là những sinh vật giống người, nhưng sẽ hóa sói vào đêm trăng tròn. Người sói có khả năng biến một người thành người sói bằng cách cắn người đó. Khi hóa sói, người sói không thể kiểm soát chính mình. Tuy nhiên có thuốc giúp cho người sói kiểm soát chính mình và trở nên vô hại. Thầy Remus Lupin là một người sói.
Ông Kẹ
Ông Kẹ (Boggart) là sinh vật có khả năng biến đổi hình dạng, nó sẽ biến thành thứ mà nạn nhân của nó sợ nhất. Ông Kẹ thường trốn ở những nơi tối tăm và đóng kín. Bởi vì nó thường xuyên thay đổi hình dạng nên có rất ít người biết hình dáng thực sự của nó là như thế nào. Một trong số đó là Moody Mắt Điên , thầy Moody với con mắt phép thuật đã khẳng định rằng có một ông Kệ trú trong ngăn bàn của phòng vẽ. Trong tập , thầy đã dạy các học trò trong lớp cách đối phó với ông Kẹ. Cách thông thường nhất để trị một ông Kẹ là chỉ đũa phép vào nó và hô "Riddikulus" (kì cà kì cục) trong khi nghĩ về điều gì đó thật buồn cười; phép thuật này có thể sử dụng để tiêu diệt một ông Kẹ đã suy yếu.
Vong mã
Vong mã có hình dáng giống một con ngựa nhưng không có lông, chúng có cánh như cánh dơi, chúng vô hình với mọi người, chỉ có những ai đã từng chứng kiến cái chết mới có thể nhìn thấy chúng. trường Hogwarts dùng vong mã để kéo xe cho những học sinh năm 2 trở lên
Bye.
Wao. tính cả dòng này sẽ là 5000 từ. Wowwwwwwwww.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top