Trong cơn gió lốc

Nguồn: vnmilitaryhistory.net do bạn 

thinhtu

 đưa lên

VÀO e

Việc chú Mánh ghi nhật ký chẳng còn là điều gì mới mẻ nữa. Cả tiểu đoàn 3 đã biết chuyện đó. Lúc đầu không thiếu gì người dè bỉu, cho rằng đó là một việc làm có vẻ như vô công rồi nghề. Để châm chọc anh, họ còn bịa ra đủ thứ chuyện khôi hài xung quanh những tập nhật ký của anh.

Có lần, cậu Ổn, xạ thủ B40 một tay láu cá có hạng, không hiểu bằng cách nào đó đã thó được một trong ba cuốn sổ dày cộp đó và mang ra đọc oang oang cho cả trung đội nghe. Nhiều đoạn thú ra phết, văn chương nữa là đằng khác. Nhưng, cũng có đoạn đọc lên làm mọi người cười đến nôn ruột. Cái đoạn chú Mánh ghi về cuộc chia tay của vợ chồng chú thì thật chan chứa “chất trữ tình đồng quê”. Đoạn này chú viết toàn bằng văn vần (thế mới bợm chứ), trong đó có những câu thế này:

Anh đi gìn giữ nước non

Còn em ở lại nuôi con tháng ngày

Thương em vất vả lắm thay

Áo dăm miếng vá tay dày vết trai.

Đáng lý phải viết 

chai

 nhưng chú Mánh viết thành 

trai

, sai lỗi chính tả đứt đuôi con nòng nọc rồi, vậy mà ai nói chú cũng không chịu. Đến khi tiểu đội trưởng Hưng, dân sư phạm chính ngạch, phải giải thích rằng: nếu chú viết 

chai

 thành 

trai

 thì câu thơ sẽ bị hiểu chệch sang nghĩa khác, xúc phạm đến lòng chung thủy của “thím ấy”, chú Mánh mới “à” một tiếng, vỗ đùi đánh bạch, và than: “Cái sự chữ nghĩa nó cũng hóc hiểm thật!”.

Nhưng nói chung thì chú viết rất có duyên, đọc lên ai cũng thấy đúng cái giọng khôi hài của chú mỗi khi kể chuyện. Văn vẻ cũng không đến nỗi quá quắt, trừ một vài đoạn lắm “thì”, lắm “mà” quá, ai cũng có thể nhận ra ngay.

Một hôm, chú lôi ở đâu về một tờ báo, trỏ vào những cột dài dằng dặc và bảo chúng tôi:

-   Này, các cậu đọc mà xem, chuyện chẳng có quái gì cả, ấy vậy mà “nó” viết hay quá đi mất. Chúng mình thiếu cha gì những chuyện đại loại như thế này, có khi còn hay hơn nhiều ấy chứ.

Ổn bảo: 

- Vậy chú viết đi.

Chú Mánh đang hăng, buột miệng tuyên bố:

- Chưa biết chừng, sẽ có lúc tớ viết cho các cậu xem.

Thế là hôm sau hễ kể chuyện với ai, Ổn cũng oang oang tuyên bố: “Anh Mánh đang chuẩn bị viết truyện chiến đấu của chúng mình đấy”. Còn ai là gì cái tính bô lô ba la của anh chàng Ổn-ba-toác nữa. Ấy vậy mà cái biệt hiệu “ Văn Sĩ Mánh” vẫn cứ được tung ra. Lần này chú Mánh nổi nóng thực sự (đâu như có bớp cho Ổn một cái để trị cái bệnh láu táu); nhưng dù sao cái biệt hiệu “Văn sĩ Mánh” cũng ra đời mất rồi.

Không biết sau này anh trung đội trưởng Nguyễn Văn Mánh có viết truyện hay không, nhưng cho đến bây giờ rõ ràng cả đại đội đều mê những cuốn nhật ký của Mánh. Vô hình chung, nó đã biến thành một cuốn “sử biên niên” của cả đại đội. Ở đó, Mánh đã ghi hầu như không sót một ngày nào, một sự kiện nào đã diễn ra trong đơn vị kể từ khi vào chiến trường Tây Nguyên đến nay. Mỗi khi muốn nhớ lại một kỷ niệm nào đó, chẳng hạn: hôm nào thì đơn vị vào tới chiến trường; bị trận bom bi đầu tiên ở đâu; ăn cái tết đầu tiên ở chiến trường có những thứ gì; mất chốt đường 14 hôm nào; vì sao đại đội trưởng bị ong đốt cho một trận thừa sống thiếu chết ở làng Gà, v.v… Nghĩa là đủ mọi chuyện lớn nhỏ đã diễn ra trong đại đội, tiểu đoàn; ai muốn nhớ lại cho chính xác hoặc khi cần phân xử cho một cuộc tranh cãi, nhất nhất phải nhờ đến Mánh mở nhật ký ra coi hộ và cho ý kiến… Chính trị viên đại đội viết tổng kết các chiến dịch, có khi cũng phải nhờ đến Mánh cung cấp cho một vài chi tiết mà anh quyên không ghi.

Nhưng, cả đại đội không ai ngờ rằng những cuốn nhật ký ấy lại quan trọng tới cái mức: khi trung đoàn đặt vấn đề viết tiếp “truyền thống trung đoàn 6” thì, đích thân chủ nhiệm chính trị trung đoàn (vốn là chính trị viên cũ của tiểu đoàn), phải viết thư tay cho Mánh, do anh trợ lý tuyên huấn trực tiếp mang xuống, yêu cầu Mánh cho mượn những cuốn nhật ký đó để làm tài liệu tham khảo. Nhưng Mánh đã không chịu nhả những cuốn sổ quý báu ấy ra. Anh đã tuyên bố: “Mấy cha trợ lý là chúa hay quên. Lỡ các vị ấy quên luôn cho một lèo thì đi đứt. Chả chơi! Nếu anh cần chỗ nào thì mang sổ xuống tôi đọc cho mà chép!”.

Mấy hôm sau, quả nhiên anh trợ lý tuyên huấn phụ trách việc biên soạn truyền thống trung đoàn phải mang sổ xuống thật.

Sau cái “sự kiện trọng đại” ấy, không ai dám coi thường việc Mánh ghi nhật ký nữa. Trái lại, khi nào công việc nhiều quá, Mánh quên thì anh em trong “

trung đội gió lốc

” của anh còn nhắc anh phải ghi. Đôi khi, họ còn gợi ý cho anh hôm nay cần ghi những việc này, việc này… Và dần dần cuốn nhật ký hầu như không còn chỉ dùng để ghi những tâm tư, ý nghĩ riêng của Mánh nữa. Khi viết, anh cũng không ghi “Tôi” nữa mà ghi “chúng tôi”. Điều đó xảy ra từ lúc nào chính anh cũng không biết, nhưng anh cảm thấy thay đổi như thế là hợp lý.

Chiều hôm ấy, mọi công việc chuẩn bị cho một cuộc hành quân ra trân đã xong. Rỗi rãi, tú lơ khơ chơi mãi cũng chán, Ổn liền đứng dậy, khoát tay bảo mấy chiến sỹ trong tiểu đội:

- Lại bảo chú Mánh đọc nhật ký nghe chơi, chúng mày.

Tiểu đội trưởng Hưng vội gạt đi:

-Đừng! Bọn bay để yên cho anh ấy ngủ một chút. Mấy hôm vừa rồi anh ấy thức như vạc, đêm này qua đêm khác đi trinh sát với đại đội trưởng, có được ngủ ngáy chi đâu.

Lúc đó trung đội trưởng Mánh đang nằm trên võng, cuốn nhật ký còn úp trên bụng. Anh cũng nôn nao không ngủ được. Thấy anh em xôn xao, anh nhỏm dậy gọi:

-   Lại đây tụi bay! Tao có ngủ được đâu.

Khi mọi người đã tìm được chỗ ngồi xung quanh võng của mình, Mánh mới trịnh trọng nâng cuốn nhật ký lên. Đó là một cuốn sổ khổ vừa, bìa lót ni lông màu xanh, tặng phẩm chiến sỹ thi đua năm 1974 của Mánh. Anh nhìn mọi người một lượt rồi nói:

- Mình vừa ghi được một đoạn ngày về hôm nay. Mình đọc thử để các cậu nghe xem thế nào nhé.

Anh xoay người, chọn tư thế ngồi cho thoải mái, khịt mũi rồi đọc:

Thế là mọi việc chuẩn bị đã xong: đạn hai cơ số, gạo ních một bao, lương khô chục bánh…Chúng tôi chỉ còn đợi có lệnh là  xuất quân. Chưa bao giờ chúng tôi ra trận mà lại đàng hoàng, thảnh thơi như hôm nay. Giống như một người chuẩn bị ra “xướng vật” (1), thấy gân bắp mình cứng rắn hơn, tâm tư mình sảng khoái hơn và tin một cách chắc chắn rằng thì phen này nhất đinh đối phương sẽ lấm lưng trắng bụng…

Ổn thích chí vỗ đùi đánh đét một cái:

- Đúng quá! Hệt như mình nghĩ.

Lúa bĩu môi:

- Cậu có mà nghĩ! Cậu chẳng bao giờ nghĩ được cái gì cho ra hồn bao giờ. Chỉ phách lác!

Phùng vội nhăn mặt, xua tay:

- Im nào!... Để nghe anh Mánh đọc.

Mánh lại hắng giọng, khịt mũi rồi cái giọng khàn khàn của anh lại vang lên:

…Phen này thì nhất định đối phương sẽ lấm lưng trắng bụng. Không biết chúng tôi có chủ quan không, nhưng chưa bao giờ chúng tôi lại tin ở sức mạnh của mình như bây giờ.

Hôm qua, chính ủy sư đoàn xuống thăm chúng tôi; sau khi kiểm tra xong mọi công việc của đại đội, ông có ghé vào trung đội của chúng tôi một lúc. Ông hỏi chúng tôi: “các đồng chí thấy cuộc ra trận này khác những cuộc ra trận trước ở chỗ nào?”. Chúng tôi mỉm cười nhìn nhau… Thật khó trả lời quá, mặc dù chúng tôi cảm thấy hết sức rõ ràng “cái khác” ấy. Cái khác ấy hình như có ngay trong mỗi ý nghĩ, mỗi nhịp đập của trái tim chúng tôi nhưng nói ra thật khó. Chúng tôi chỉ nhận biết rằng, dân tộc ta đã chuẩn bị đầy đủ cho cuộc ra trận này. Nói đầy đủ đâu có phải chỉ vì cái bụng chúng tôi không còn đói, khẩu súng trên tay chúng tôi không còn lo hết đạn. Nói đến đầy đủ cũng chẳng phải vì thấy thập thò vài chiếc xe tăng, vài khẩu pháo lớn trong đội hình sư đoàn. Hình như cái đầy đủ ấy trước hết phải là sự đầy đủ về tinh thần, ý chí, về lòng tin của mỗi người chiến sỹ ra trận. Sự đầy đủ, còn là sự chín mọng của thời cơ cách mạng mà cả dân tộc đã chuẩn bị hai chục năm nay. Thời cơ ấy, khi đã đến cũng giống như khi thằng giặc đã mắc mưu, phơi ngực ra trước nòng AK và chúng tôi nín thở, bóp cò; tin chắc rằng súng nổ là nó phải gục, không thể khác được.

Với sự “đầy đủ” ấy chúng tôi bước ra “xướng vật”. Chưa ái dám nghĩ đây là cuộc đọ sức cuối cùng. Nhưng, chắc chắn đây phải là cuộc ra trận hả hê nhất

”…

Mánh dừng lại liếc nhìn các chiến sỹ của mình. Khi thấy mọi người đều im lặng, say sưa lắng nghe, anh lại cúi xuống đọc tiếp, giọng anh chợt trỗi lên cao hơn, dạt dào xúc động:

“… 

Sáng nay tiểu đoàn làm lễ xuất quân. Buổi lễ giản dị nhưng cảm động và trang nghiêm. Chúng tôi đứng trước những hàng mộ đắp tượng trưng, tưởng nhớ đến các chiến sỹ của tiểu đoàn đã hi sinh trên vùng đất Tây Nguyên này. Máu xương sao kể cho xiết, nhưng điều quan trọng là chúng ta vẫn tồn tại và lớn mạnh. Hỡi những đồng chí thân yêu! Những thằng Sâm, thằng Tánh, thằng Liên, thằng Soát…Nếu chúng mày còn cả thì đội ngũ tiểu đoàn phải đứng chật cả khu rừng này. Nhưng, dù hôm nay vào chiến dịch, tiểu đoàn chỉ còn từng này tay súng thì sức mạnh vẫn là sức mạnh tất cả. Chúng nó sẽ biết tay tiểu đoàn mình!

“Trung đội gió lốc” lại được nhận cờ. Trong chiến dịch này, chúng tôi sẽ đưa lá cờ vinh quang đó tới tận đâu, cắm lên những căn cứ nào của giặc? Điều đó không thể lường hết được. Nhưng, chúng tôi sẽ chiến đấu xứng đáng với lá cờ ấy.

Tôi quay lại nhìn các chiến sỹ của trung đội mình. Các chiến sỹ cũng ngước nhìn tôi. Những ánh mắt của họ đã nói với tôi rằng: Anh hãy tin tưởng ở chúng tôi, như tin chính bản thân mình!

”.

Trung đội trưởng Mánh đã đọc hết trang nhật ký ghi ngày hôm đó. Các chiến sỹ của anh vẫn ngồi yên lặng, suy nghĩ thấm thía. Dường như mỗi người cũng đang có những lời lẽ riêng để nói với lòng mình.

Một trận gió ào qua rừng. Lá khô trút xuống xào xạc. Những khoảng trời lộ ra sau những vòm lá, xanh ngăn ngắt. Cảnh vật nhẹ nhõm, lênh thênh. Mùa khô lên tiếng gọi. 

Chiều ấy, họ hành quân ra trận.

CHƯƠNG MỘT

1.

Ra khỏi khu vực đóng quân của sư đoàn bộ, trung đoàn trưởng Thuần, tham mưu trưởng Sự cùng mấy chiến sỹ thông tin, trinh sát vội vã bước gấp. Trời ngả về chiều mà nắng vẫn chang chang. Hơi nóng bốc lên hừng hực, không gian lấp lóa, mưng mưng như đang bị dồn nén. Thỉnh thoảng mới có vài gợn gió uể oải kéo lê qua những cánh rừng khộp đã trụi lá, khẳng khiu, hiu hắt. Đang giữa mùa khô, cây cỏ như đã bị vắt hết nhựa sống; tất cả đều xào xạc, úa vàng, chỉ còn những vạt rừng lim là vẫn xanh ngăn ngắt. 

Họ đi qua những trảng cỏ rộng mênh mông đã ngả màu rơm. Cỏ khô dẹp xuống, tưng tức dưới bàn chân. Trên những trảng cỏ ấy, thỉnh thoảng còn sót lại một vài hố bom hoặc hố voi đằm còn xâm xấp nước, la liệt những vết chân nai, chân hoẵng. Đêm đêm, trên những trảng cỏ này rậm rịch bước chân thú rừng, chú nào cũng hý hửng tưởng mình láu cá nhất, ai dè tới đây chạm mặt “cả làng”, vô phúc còn sa vào nanh vuốt của những vị láng giềng biết ăn thịt mình hoặc nhận một viên đạn của những anh thợ săn lõi đời nữa.

Đi được chừng hơn một giờ đồng hồ, trung đoàn trưởng Thuần phải cho đoàn của mình dừng lại để tránh một đám cháy rừng.

Tiếng lửa réo ù ù như tiếng vó ngựa của một đạo quân hung dữ. Khói cuộn lên, cồn lên từng đụn như những đám mây vần vũ khi trời chuyển động. Tàn lá bay đen trời. Không gian bị nung lên, nóng hừng hực. Trời đất tối sầm lại. Gió thổi gằn từng đợt. Đàn “ngựa lửa” chồm lên, nhảy ùa vào những cụm le khô, vừa cào cấu vừa réo lên ù ù, ra chiều thỏa thuê, khoái trá lắm. Khi gặp những bãi cỏ khô, ngọn lửa lại rạp xuống, thè lè những chiếc lưỡi dài đỏ đọc ra mà liếm lèo lèo.

Đám cháy rừng không hiểu bắt đầu từ đâu và kéo dài tới tận đâu. Chỉ thấy trước mặt sừng sững dựng lên một bức tường lửa và khói. Những chú nai, hoẵng ngủ ngày trong những vạt cây xanh giữa rừng khộp gặp nạn la lên oang oác, rồi cắm đầu chạy, co cẳng phóng rào rào. Khi những đám cháy rừng thế này đi qua, người ta thường gặp không ít những chú nai, hoẵng, chồn, cheo không chạy thoát khỏi cơn hỏa tai, bị thiêu chín nứt nở, mỡ vẫn còn nhỏ xèo xèo xuống tàn tro.

Con đường mòn mà trung đoàn trưởng Thuần và các đồng chí của mình đang đi xế về mé đầu gió nên phải đợi cho đám cháy đi qua. Họ tạm nghỉ bên một con suối cạn. Lòng suối rộng đến hơn chục mét, ngổn ngang đá xanh, đá trắng. Về mùa mưa chắc cũng phải khó khăn lắm vượt qua nổi con suối này; vậy mà bây giờ nó khô khốc không một giọt nước. Thấy có tiếng động lạo rạo trên đá, đàn dế con từ trong khe ùa ra, nhảy tưng tưng nom đến vui mắt.

Tham mưu trưởng Sự mồ hôi nhễ nhại, mặt đỏ rân, vừa đặt đít xuống anh đã mở bi đông nước, tu ừng ực. Nhìn Sự uống nước, trung đoàn trưởng mỉm cười, hỏi:

- Hạ nhiệt chưa, Sự hè?

Sự lắc đầu ngao ngán:

- Phát ớn mùa khô ở cái xứ này rồi

- Là tớ muốn hỏi cậu đã vơi cái bị ức đi chưa? 

Sự chậc lưỡi:

- Tôi thấy bực mình thì phát, phát xong thì thôi, có chi đâu? Nhưng mà kể cũng sầu thật, chưa chiến dịch nào trung đoàn mình được phân công làm ăn cho ra tấm ra miếng. Đấy, rồi anh xem. Phục kích chiến dịch! Nghe thì hay ho đấy, nhưng rồi lại ngồi trơ mắt ếch ra nhìn họ làm ăn cho coi.

Sự vẫn chưa hết thắc mắc về nhiệm vụ phục kích chiến dịch mà sư đoàn giao cho trung đoàn 6. Thực tình mà nói, trong thâm tâm, Thuần cũng hơi tự ái khi trung đoàn mình chỉ được nhận nhiệm vụ thứ yếu trong đội hình tác chiến của sư đoàn ở giai đoạn đoạn đầu của chiến dịch. Nếu trung đoàn ông cũng được giao nhiệm vụ đánh chiếm một chi khu quân sự như trung đoàn 4 thi vẫn hơn. Nhưng ông tỉnh táo hơn Sự để hiểu rằng, Đảng ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn sử dụng lực lượng như thế là hợp lý, hợp với sở trường của các đơn vị. Công bằng mà nói, trung đoàn 4 giỏi đánh địch trong công sự vững chắc hơn trung đoàn ông. Giao cho nó cụp thật nhanh, gọn cái Thuần Mẫn để gây khí thế và tạo thời cơ làm ăn chung cho cả sư đoàn là hợp lý. Đây còn là một trận được coi là mở màn cho toàn chiến dịch, nếu đánh cù cưa, trầy trớt thì rất phiền, ảnh hưởng cả thế trận chung của toàn mặt trận. Theo dự đoán của Bộ tư lệnh chiến dịch, sau khi ta tiêu diệt chi khu Thuần Mẫn, đẩy mạnh hoạt động ở phía nam; nhất là khi ta tiến công mục tiêu A (Buôn Ma Thuật), bộ tư lệnh quân đoàn 2 ngụy sẽ cuống cà kê và chúng có thể phải điều lực lượng ở phía bắc cao nguyên xuống ứng cứu. Cái khoảng “có thể” đó chính là thời cơ làm ăn của trung đoàn ông. Vì vậy, cùng với vài đơn vị hỏa lực tăng cường, trung đoàn ông phải triển khai một thế trận phục kích lớn trên đường 14, cắt đứt con đường này, thực hiện ý đồ của Bộ tư lệnh chiến dịch. Đó chính là nhiệm vụ chia cắt chiến dịch mà không một người cán bộ chỉ huy nào được coi thương.

Nhưng vốn dĩ Sự là người nôn nóng, hay tự ái vặt, chỉ nghe mấy tiếng “nhiệm vụ thứ yếu” là cậu ấy không chịu nổi. Theo Sự, hễ chiến dịch mở màn là phải nhảy bổ vào những “điểm nóng  nhất” mà nện tơi bời thì mới hả hê. Vậy nên, trong buổi giao nhiệm vụ trên sa bàn. Sự đã “nói dỗi” với tư lệnh trưởng Thanh Đồng:

- Vâng, trung đoàn 6 “cà là mèng” xin chạy đèn cù để các bậc đàn anh là ăn!

Vốn là người chặt chẽ nghiêm khắc, nghe Sự nói vậy, tư lệnh trưởng chỉnh luôn cho một bài:

- Đồng chí Sự! Đây không phải chuyện xôi thịt mà phân ngôi phân thứ. Đã là người chỉ huy thì không được coi thường bất cứ nhiệm vụ gì.

Đã thế Sự còn dám đai thêm:

- Tôi đâu có dám coi thường nhiệm vụ. Nhưng… trung đoàn tôi thì kém hẹm gì mà không hất phăng được cái thằng Thuần Mẫn!

Biết tính Sự, trung đoàn trưởng vội phanh lại:

- Thôi mà Sự! Nhiệm vụ là nhiệm vụ. Tớ hỏi cậu, nếu cậu phân công tác chiến cho các tiểu đoàn mà thằng cha nào đó cũng mè nheo nhận nhiệm vụ chủ yếu cả thì cậu tính sao?

Đó là hôm giao nhiệm vụ giai đoạn một của chiến dịch. Còn hôm nay Sự nổi nóng lại vì chuyện khác. Thuần và Sự vừa làm việc với tham mưu trưởng sư đoàn xong, vừa ló mặt ra khỏi phòng tác chiến thì gặp ngay trung đoàn trưởng trung đoàn 4 Đặng Ngọc San, một cán bộ trung đoàn trẻ. Biết Sự đang cay cú, San vừa cười vừa nói móc một câu:

- Thế nào anh Sinh Sự? (tên Sự là Nguyễn Đình Sự, nhưng vì anh có tính hay “sinh sự” không chiến dịch nào anh không hò hét, cãi vã ở ban tác chiến vì hợp đồng chật mấu hay ở phòng quân nhu, quân giới vì đạn, gạo, nên các trợ lý trên sư đoàn đặt luôn cho anh cái tên ấy) – Triển khai nhiệm vụ đến đâu rồi? Cứ yên trí, thế nào anh em cũng để sổng cho vài tiểu đội mà đón lõng.

Gan ruột Sự đang tức anh ách như một quả bóng bơm căng, bị chích một mũi vậy, giận quá anh “xì” luôn một hơi:

- Này đừng có cậy thế chủ công mà khinh anh em nhé. Ra cái điều ta đây! Chưa biết mỉu nào hơn mỉu nào đâu mà đã rộn.

San đứng chết lặng, tưng hửng:

- Kìa, đùa một tí cho vui thôi mà. Ông này buồn cười nhỉ, có ai dám khinh các anh đâu!

Sự vẫn to tiếng:

- Đây không thíc đùa kiểu ấy. 

San nháy mắt, cười;

- Thế… đùa kiểu này vậy. Này, con Xuân ở viện 4 nó gửi lời thăm cậu đấy.

Sự ngay mặt, cười ngô nghê rồi dang thẳng cánh thụi cho San một quả:

- Ba láp.

- Ba láp cái gì? – San tiếp tục tiến công – Thế cái bọc võng của cậu chẳng tay nó khâu thì ai? Anh Thuần này coi chừng cái thằng này nhé. Nó bợm lắm đấy!

Bị “điểm đúng huyệt”, Sự đành phải xuống nước. Anh chàng quay sang tán chuyện tào lao và cười hơ hớ. Sốt ruột, trung đoàn trưởng Thuần phải giục, anh ta mới chịu dứt ra. Sau đó lại còn vừa đi vừa huýt sáo nữa mới tức cười.

Bây giờ cũng vậy, hình như chàng ta lại nghĩ ngợi điều gì xa xôi lắm. Khuôn mặt vuông vức rám nắng im lìm. Đôi mắt to đen mở ra, nhìn xa hút. Thỉnh thoảng, chừng nghĩ tới điều gì vui lắm, anh ta tủm tỉm cười ruồi, hai cánh mũi to phập phồng, đôi lông mày đen rậm động đậy. Trung đoàn trưởng Thuần thích thú quan sát Sự một lát rồi hỏi:

- Nè!... có thực cậu yêu cái Xuân ở viện 4 không?

Sự trợn mắt:

- Anh mà cũng nghe tụi nó tán láo à?

Trung đoàn trưởng cười mủm mỉm:

- Được đấy, tớ ủng hộ. Nó với tớ là chỗ đồng hương. Cũng dân Phú Yên cả mà. Tớ nói vô một câu là ổn hết.

Thành, công vụ của trung đoàn trưởng, nghe thấy vậy cũng chen vào:

- Phải đấy anh Sự ạ. Em tiết lộ bí mật nhé. Hồi thủ trưởng điều trị ở đó, cô Xuân mến thủ trưởng lắm. Một câu “chú Thuần”, hai câu “chú Thuần”. Nghe đâu còn muốn nhận thủ trưởng Thuần làm ba nuôi cơ đấy. Anh nhận làm con rể thủ trưởng luôn đi cho rồi!

Trung đoàn trưởng Thuần bật cười vang. Sự đỏ rân mặt, nhảy vội tới, hai tay cứng như sắt của anh nắm chặt lấy hai vai Thành mà lắc liên hồi:

- Nhóc con! Tầm bậy tầm bạ. Chừa không? Chừa thì tao buông. Nếu không tao bóp cổ!

May thay cho Thành, vừa lúc đó có một con hoẵng từ trong đám cháy rừng lao vụt ra, vừa nhảy cà nhắc cà nhót vừa la lên oang oác. Mấy cậu thông tin, trinh sát hè nhau đuổi. Sự vội buông vai Thành vớ lấy hai hòn đá hét inh lên:

- Nó bị thương rồi. Đuổi… bắt sống!...

Nhưng dù bị thương, con hoẵng vẫn chạy nhanh hơn người. Loáng một cái nó đã mất hút. Những người đuổi theo nó luồn qua cả những đám rừng vừa cháy qua, than tro bám vào quần áo, mặt mũi, nom như một đội chữa cháy vừa đi làm nhiệm vụ về. Sự vừa thở dài vừa lắc đầu:

- Nó chạy cà nhắc mà nhắc mà nhanh quá!

Trung đoàn trưởng nói khích:

- Bọn mình cứ tưởng phải khiêng theo cả hoẵng thì mệt quá lắm!

Đám cháy nương theo chiều gió tạt qua hướng khác. Phía trước mặt, nơi Thuần và các đồng chí của mình sắp sửa đi tới hiện ra một vùng đen nhẻm. Những cây con, dây leo, cỏ đều bị đốt trụi, chỉ còn trơ ra những thân khộp đen xì, đứng im lìm như đã chết. Vỏ cây cũng bị cháy sém, đang còn bốc khói nghi ngút. Cả dải đồi mới đó còn vàng rộm màu lá khô mà bây giờ đã đen kịt, tối thẫm như một vùng mỏ than lộ thiên. Tựa hồ như có một bàn tay thần kỳ vừa nhấc bổng cả những dải đồi ấy lên, nhúng vào một đại dương màu mực tàu rồi lại đặt nó về vị trí cũ vậy.

Thuần cho nghỉ thêm ít phút nữa để các chàng đuổi hoẵng thở một chút cho lại sức rồi tiếp tục ra lệnh hành quân. Tối nay ông phải có mặt ở trung đoàn để báo cáo trước Đảng ủy nhiệm vụ cụ thể của Đảng ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn giao cho trung đoàn. Còn bao nhiêu việc phải triển khai trước khi chiến dịch bắt đầu mở màn. Ông cảm thấy những ngày này, thời gian như nén lại, không gian thì như căng giãn ra. Cả núi rừng Tây Nguyên cũng đang dồn nén, âm ỉ, tích tụ, chuẩn bị cho một sự bùng nổ dữ dội chưa từng xảy ra trên vùng cao nguyên đất đỏ này.

2

Dự buổi họp giao ban buổi sáng xong trung đoàn trưởng Thuần kéo chính ủy Tâm ra ngồi trên chiếc ghế gỗ, do đồng chí công vụ làm dưới gốc cây Trếch già, cành lá sum sê.

Ngồi đây một chút anh! Tôi… có chuyện này…

Thuần nói với chính ủy như vậy rồi rút thuốc lá ra mời ông. Hai người đã châm thuốc hút được đến nửa điếu rồi nhưng Thuần vẫn chưa nói gì. Chính ủy đã nhận ra những nét khác thường trên gương mặt trung đoàn trưởng. Đôi mắt ông long lanh ướt, gương mặt ông thoắt như hồng lên, thoắt lại như tái đi. Điếu thuốc lá trên môi ông lập bập. Sống gần bên Thuần lâu năm, chính ủy hiểu rằng Thuần đang xúc động, đang có một điều gì muốn nói ra nhưng không phải dễ gì mà nói ra ngay được. Biết vậy nên ông yên lặng chờ đợi, vờ như không hề nhận ra những nét xúc động đó trên gương mặt người bạn chiến đấu của mình.

- Anh Tâm ạ!... phì… có một điều này… phà… lạ lắm!...

Chính ủy ngước nhìn lên, gợi chuyện:

- Có chuyện gì vậy, anh Thuần?

- Phà… có một điều này… mà sao nhỉ! – trung đoàn trưởng đưa tay ra đập đập lên trán mình- Quái nhỉ! Tối nói anh đừng cười, bỗng tự nhiên tôi nghĩ rằng… Anh còn nhớ cái thư anh Năm Tự gởi cho tôi hồi tháng hai năm bảy ba không?

Chính ủy à một tiếng rồi mỉm cười:

- Nhớ, tôi nhớ chứ! Quên làm sao được.

Chính ủy làm sao quên được buổi chiều hôm ấy. Cái buổi chiều mà người bạn chiến đấu của ông, đã ngoài bốn mươi tuổi, dày dạn phong trần đến vậy mà bỗng khóc nức nở như một đứa trẻ. Anh mếu máo run rẩy đưa cho chính ủy một phong thư: “Đọc đi…anh, tha lỗi cho tôi”. Chính ủy đọc bức thư và hiểu ra tất cả. Đó là những dòng tin tức đầu tiên về quê hương và gia đình mà sau gần hai mươi năm trời xa cách, mong nhớ, lo âu, khắc khoải, nay Thuần mới nhận được. Bức thư ngắn ngủi ấy của người bạn đồng hương đã mang đến cho anh nỗi đau thương mất mát lẫn niềm vui, hạnh phúc mà gần hai chục năm nay anh cứ ngỡ rằng mình không hề có. Bên cạnh những tin tức về bạn bè, đồng chí, người thân bị giặc bắt, giặc giết là những dòng tin làm sáng rực trong lòng Thuần một niềm vui hạnh phúc. Vợ anh vẫn còn, vẫn chờ đợi anh, vẫn hoạt động cách mạng. Và đặc biệt anh được biết thêm rằng mình đã có một đứa con. Đó là điều kì diệu nhất má suốt gần hai chục năm xa cách, anh không bao giờ dám nghĩ đến. Lấy vợ được bảy ngày thì anh thoát ly đi hoạt động. Một năm sau hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Trước khi ra Quy Nhơn để xuống tàu đi tập kết, anh chỉ được ghé qua nhà có một ngày một đêm. Anh đâu biết từ cái đêm chia ly đẫm nước mắt ấy, anh đã để lại quê nhà một phần máu thịt của mình. Đứa con của anh đã ra đời trong những ngày đen tối nhất của miền nam. Ở tỉnh Phú Yên quê anh, đó là những ngày bọn tay sai Ngô Đình Diệm điên cuồng mở chiến dịch Hải Âu, một chiến dịch tố Cộng đẫm máu. Đứa con của anh đã ra đời trong những ngày máu và nước mắt ấy. Nó đã sống bằng dòng sữa cay đắng của mẹ, sống trong sự đùm bọc yêu thương của bà con làng xóm. Nó đã lớn lên, đã trưởng thành cùng phong trào cách mạng của quê hương. Và, cũng như tất cả những người con thân yêu của miền nam, có mang trong mình dòng máu cách mạng, nó đã trở thành người chiến sỹ. 

Nhưng người bạn đồng hương của anh lại vô tình không nói đến một điều thường tình nhất nhưng đối với người cha lại là một điều rất thiêng liêng, rất hệ trọng. Có lẽ, anh ấy tưởng rằng đã từng ấy năm thì ít ra Thuần cũng đã một lần nhận được tin nhà và đã biết mình có con nên trong thư anh chỉ vẻn vẹn có mấy dòng “

Chị và cháu thì vẫn khỏe mạnh, bằng an. Cả 2 má con hiện đang công tác ở tỉnh và trông tin anh lắm

”. Thành ra bức thư lại khiến cho Thuần càng thêm bồn chồn, khắc khoải. Anh cứ phấp phỏng đoán chừng không biết con mình là trai hay gái nữa.

Hồi ấy, hiệp định Pa-ri vừa được ký kết. Đã có lúc, Thuần nghĩ rằng: dù có lần khân, quanh co đến đâu đi chăng nữa thì sớm muộn thằng địch cũng phải thi hành các điều khoản của hiệp định. Sau đó sẽ đi đến thống nhất, sum họp. Thuần và hàng vạn người con thân yêu của miền Nam dù còn ở miền Bắc hay đã trở về miền Nam chiến đấu, đều phấp phỏng chờ đợi cái ngày đó để về quê hương, gặp lại gia đình, vợ con, bạn bè, đồng chí.

Nhưng thực tế đã cho anh thấy kẻ thù vô cùng ngoan cố xảo quyệt. Chúng ra sức phá hoại, không chịu thi hành các điều khoản của hiệp định. Súng vẫn nổ. Những trận chiến đấu vẫn diễn ra ngày một ác liệt. Thuần lao và chỉ huy đơn vị đánh trả những cuộc hành quân lấn chiếm của địch. Suốt ngày anh lầm lì, đôi mắt lúc nào cũng rực lên như có lửa. Quê hương anh dưới đồng bằng kia, có bao xa? Ngày về tưởng sắp đến lại bị kẻ thù mưu toan cướp đoạt. Con anh là gái hay trai? Chẳng lẽ câu hỏi giản dị đó chỉ được trả lời bằng những trận đánh, bằng máu và nước mắt?

Trong hội nghị quân chính mặt trận hồi đó, Thuần là một trong những cán bộ hăng hái đề nghị Bộ Tư Lệnh mặt trận cho đánh thẳng vào những sào huyệt trung tâm xuất phát của những cuộc hành quân lấn chiếm của địch. Thuần rất khẳng khái nói rằng: “Dã tâm của kẻ thù đã rõ bản chất của chúng nó là ngoan cố kéo dài chiến tranh, kéo dài sự chia cắt của đất nước. Tôi hoàn toàn không tin một chút nào về cái gọi là “Thiện chí hòa bình của chúng”. Đối với chúng, không còn con đường nào khác con đường dùng bạo lực cách mạng mà đè bẹp ý chí của chúng. Chỉ có nghiền nát bộ máy chiến tranh tập đoàn bán nước Nguyễn Văn Thiệu thì đất nước mới có hòa bình, Bắc Nam mới được sum họp…”

… Giờ đây, ngồi bên Thuần, nghe Thuần nhắc tới chuyện gia đình, tới những ngày đó, chính ủy Tâm cũng thấy lòng mình bồi hồi xao xuyến. Dẫu hiểu bạn đến tận gan ruột, ông cũng không thể chia sẻ với Thuần nỗi nhớ thương đau đáu, nỗi chờ đợi xót xa ấy được. Cứ mỗi lần chiến dịch nổ ra là trong lòng Thuần lại dội lên từng đợt sóng nhớ thương. Có những lúc nó cồn lên, vỗ ào ạt như hôm nay, hoặc như cái hôm đi nghe phổ biến nhiệm vụ của chiến dịch về, Thuần đã ôm lấy ông mà nghẹn ngào thốt lên:

- Lần này có lẽ thiệt rồi, anh ơi!

Trung đoàn trưởng đã hút hết điếu thuốc là mà vẫn chưa nói được điều mình muốn nói với chính ủy. Nói sao nhỉ? Chẳng lẽ lại kể câu chuyện vớ vẩn ấy? Nhưng có sao đâu, anh ấy hiểu lòng mình, có gì mà phải dấu.

- Anh định nói gì, anh Thuần?

Thuần bật lửa, châm điếu thuốc thứ hai, rít một hơi dài rồi ngập ngừng:

- Cõ lẽ … cháu là cháu trai, anh ạ.

- À, ra vậy! - Chính ủy mỉm cười thông cảm -  Nhưng sao anh lại nghĩ vậy, lỡ cháu gái thì sao?

- Không … thế này anh ạ … phà … nghĩa là, đêm qua không hiểu vì sao tự nhiên tôi lại mơ đến cháu. Nói ra điều này có lẽ anh cười, nhưng … đúng là như vậy. Đêm qua, làm việc xong với trinh sát thì đã một giờ sáng, tôi lên võng nằm, định ngủ một giấc cho lại sức. Vừa chợp mắt, đang còn mơ mơ màng màng thì thấy một người con trai, giống tôi như tạc, mặc bộ đồ giải phóng, vai khoác tiểu liên AK, đến bên đầu võng của tôi và cúi xuống gọi “Ba ơi! Ba ơi!... Con đây nè! Con của ba đây nè…”. Tôi choàng dậy, thảng thốt gọi “Con ơi!”. Khi biết mình nằm mơ, mồ hôi tôi toát ra như tắm. Và, từ đó cho tới sáng tôi cứ trăn trở, bồn chồn không sao ngủ lại được. Tôi cứ nghĩ hoài, hay cháu là con trai thật?

Chính ủy tâm khẽ cười. Ông cười mà tự nhiên thấy sống mũi mình cay cay. Ông siết chặt tay trung đoàn trưởng, lòng thương bạn khôn xiết. “Thuần ơi! Tôi hiểu lòng anh lắm! Bấy lâu có lúc nào anh thôi nghĩ về đứa con thân yêu của mình. Đó là hạnh phúc, là hy vọng của đời anh. Nhưng, niềm hạnh phúc ấy còn treo lơ lửng ở đâu đó, còn giữa thực và mơ; lúc nào nó cũng chờn vờn trong tâm trí anh. Phải từng làm cha, hay nói cho đúng hơn, từng khát khao được làm cha mới hiểu nỗi lòng của một người cha sau hai mươi năm xa cách mới biết là mình có một đứa con. Nó là trai hay gái! Đối với người cha điều đó là thiêng liêng lắm chứ? Câu hỏi đó lúc nào cũng nóng rực lên, nhức nhối trong lòng anh. Nếu đất nước thanh bình thì chỉ một bức điện, một trang thư thì câu hỏi đó đượ trả lời trọn vẹn. Nhưng trên đất nước đau thương của chúng ta, để trả lời câu hỏi đó, chúng ta phải chiến đấu hai mươi năm trời đằng đẵng.

Anh muốn con anh phải là con trai để trở thành chiến sỹ giải phóng, mặc dù ở miền Nam không chỉ có những người con trai biết cầm súng. Đó cũng là một điều lạ lùng của đất nước mình, anh Thuần ạ. Có lẽ, chỉ những nơi nào mà việc cầm súng trở thành lẽ sống còn như ở Việt Nam ta thì mới có những người cha, người mẹ chỉ mong con mình lớn nhanh lên để có thể đặt vào tay con khẩu súng. Phải vậy không anh? Ý nghĩ ấy bám sâu trong anh, suốt ngày này qua ngày khác, vừa như một niềm hạnh phúc, vừa như một nỗi xót đau; nó theo cả vào giấc ngủ của anh, biến thành giấc mơ, có vậy thôi, anh Thuần ạ”

Chính ủy Tâm nghĩ như thế, nhưng không hiểu sao khi nhìn gương mặt khắc khổ của Thuần như đang ánh lên những tia hy vọng, ông lại không nỡ nói như thế. Ông chỉ ngồi xích lại phía người bạn chiến đấu của mình và khẽ gật đầu:

- Ừ … biết đâu. Nếu cháu là con trai thật thì hay quá.

Ông định nói thêm với Thuần điều gi nữa, nhưng vừa lúc đó anh trưởng ban tác chiến đã đi tới. Thuần đứng dậy, đón cuộn bản đồ trên tay anh, rồi kéo anh ngồi xuống bên cạnh mình và hỏi:

- Đủ cả bộ chứ Nhuận?

- Báo cáo thủ trưởng – Nhuận đáp – còn thiếu mấy mảnh thuộc khu vực Sài Gòn và đông Nam Bộ, tôi đã cho người lên phòng tham mưu sư đoàn xin thêm – Rồi anh cười – Trong chiến dịch này, các thủ trưởng cứ sử dụng hết từng ấy mảnh bản đồ là tình hình cũng đáng phấn khởi lắm rồi.

Chính ủy hỏi:

- Nhuận này … có bao giờ các cậu nghĩ rằng, tới một ngày nào đó chúng mình sẽ đánh xuống tới đồng bằng không?

Nhuận gật đầu sôi nổi:

- Có chứ ạ. Tối hôm qua bọn tôi thức khuya lắm. Chả là có ấm chè Bầu Cạn mà. Anh em ngồi tán với nhau về tình hình hiện nay. Anh nào cũng bốc lắm, thủ trưởng ạ. Có anh còn nghĩ đến tắm biển ở Nha Trang hay ăn hủ tiếu ở Sài Gòn kia ạ.

Chính ủy cười:

- Ghê nhỉ! Có vẻ … hơi lãng mạn đấy.

- Vâng. Nhưng tôi bảo anh em rằng: mùa khô năm nay hãy cố mà làm cho xong cái vùng Tây Nguyên này đã. Chừng ấy có lẽ cũng đủ mệt rồi. Sang năm hãy tính chuyện tắm biển ở Nha Trang. Còn nói chuyện ăn hủ tiếu ở Sài Gòn trong năm nay thì có vẻ như là tếu quá.

Trung đoàn trưởng đập tay vào nhau:

- Sao lại tếu! Cũng đến lúc chúng ta phải nghĩ tới chuyện đó rồi chứ!

Nghe trung đoàn trưởng nói vậy, chính ủy thầm nghĩ: “Phải, đã đến lúc chúng ta có thể nghĩ tới điều đó rồi. Nhưng muốn làm được chuyện lớn lao đó, cả dân tộc, cả đất nước phải cố gắng phi thường, phải vươn mình lên như Phù Đổng. Chấm dứt một cuộc chiến tranh kéo dài đằng đẵng hai mươi năm như thế nào đây? Đó là một câu hỏi lớn không dễ trả lời”. Chính ủy nghĩ vậy, nhưng lại một lần nữa trước ánh mắt chứa chan hy vọng của trung đoàn trưởng, ông không nói ra ý nghĩ của mình.

3

Lúc ấy Sự còn đang nằm thu lu trên tấm bạt ngụy ở  một góc hầm tác chiến.

Nhưng khi loạt pháo đầu tiên của ta bắn vào chi khu quân sự quận lỵ Thuần Mẫn nổ dậy đất thì Sự liền tung chăn bật dậy. Thấy trung đoàn trưởng và chính ủy vẫn ngồi bên máy, anh liền hỏi:

- Quân ông San đánh rồi, phải không các anh?

Chính ủy quẳng cho anh một điếu thuốc rồi bảo:

- Cậu ngủ thêm một chút nữa thì e4 nó làm xong cái Thuần Mẫn rồi.

Thực ra đêm qua Sự cũng thức suốt sáng. Táng một ly cà phê vào, đầu óc cứ tỉnh như sáo. Mãi tới bốn giờ rưỡi sáng, khi nghe tin đơn vị bạn đã vào tiếp cận an toàn, các trận địa pháo cũng đã triển khai xong, anh mới kéo tấm bạt, trải xuống nền hầm và lăn ra ngủ cho đến tận bây giờ. Anh vừa hút thuốc, gãi cái đầu rối bù vừa lắng nghe tiếng pháo nổ mỗi lúc một dồn dập. Cha trời, bắn vậy mới gọi là bắn! Các cha e4 sướng thật. Pháo dứt, lao lên, thằng địch vẫn còn choáng óc vì pháo, đánh đấm gì được nữa.

Ở một góc hầm, anh trưởng tiểu ban trinh sát ngồi bên chiếc máy PRC.25 cùng đồng chí trinh sát vô tuyến chăm chú “nghe địch”. Pháo bắn được mươi lăm phút đã thấy đồng chí chiến sỹ trinh sát ngẩng lên, mặt tươi rói:

- Chúng nó kêu pháo bắn trúng sở chỉ huy. Tên đại úy tiểu đoàn trưởng đi tong rồi!

Sự vội xỏ dép, chạy lại:

- Cho tớ nghe một tý xem chúng nó kêu gì!

Đồng chí trinh sát đưa cáp nghe cho Sự. Anh ngoắc vội lên đầu, áp hai ống nghe vào tai và nhăn mặt vì những tiếng réo, tiếng rít, tiếng nhiễu loạn xị; tiếng những thằng địch ở đâu đó gọi nhau nhí nhéo; tiếng một con điện tín viên nhõng nhẽo đọc những tràng con số. Rồi, đột nhiên trong máy vang lên những tiếng gọi thất thanh:

- Duy Tân đâu? Duy Tân đâu?... Đù má! Duy Tân… Các con lâm bệnh nặng, cho thuốc cấp cứu mau.

Sự phì cười:

- Thế thì kêu thẳng ra là sắp tiêu ma rồi có hơn không? Mật danh với chẳng mật diếc gì mà dở ẹt.

Trong máy lại ồn lên, léo nhéo đủ thứ giọng. Có cả tiếng súng, tiếng loảng xoảng va đập, tiếng la hét, tiếng chửi rủa… Nhưng tiếng cái thằng gọi “Duy Tân” vẫn rõ hơn cả.

- Duy Tân! Duy Tân đâu! Các con nguy cấp lắm. Lạnh tứ chi rồi!

Sự quay sang hỏi đồng chí trinh sát:

- Nó kêu “các con nguy cấp lắm. Lạnh tứ chi rồi” là sao?

Đồng chí trinh sát giảng giải:

- Vậy là ta đã mở được cửa hoặc bóc được tuyến phòng thủ ngoại vi rồi.

- Duy tân là cái thằng chết toi nào?

- Có thể nó gọi sở chỉ huy liên đoàn bảo an.

Sự tháo cáp đưa trả đồng chí trinh sát:

- Thôi cậu nghe đi. Nhức cả đầu!...

Ở một góc hầm, chính ủy Tâm đang nói chuyện điện thoại với tiểu đoàn 3. Tiểu đoàn này là lực lượng cơ động của sư đoàn, do sư đoàn trực tiếp nắm. Hiện nó đang nằm tận bên kia đường 14, trên dãy cao điểm 758. Tiểu đoàn thông tin của sư đã phải chôn một đường dây điện ngầm, bí mật vượt qua đường 14 và những khu vực địch vẫn đi lại, lùng sục để giữ liên lạc với tiểu đoàn 3. Tiểu đoàn 3 có nhiệm vụ cơ động trên cả hai hướng: vừa sẵn sàng đánh địch đến chi viện cho Thuần Mẫn hoặc từ Thuần Mẫn rút chạy; vừa là lực lượng dự bị sẵn sàng tung vào trận phục kích lớn của trung đoàn nếu địch hành quân giải tỏa phá thế chia cắt chiến dịch trên đường 14. Biết các chiến sỹ tiểu đoàn 3 đang sốt ruột ngồi “xem” đơn vị bạn đánh địch, chính ủy Tâm luông miệng nhắc anh tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi của tiểu đoàn này phải kiên trì chờ đợi, không nôn nóng.  Hình như anh tiểu đoàn trưởng vừa nhắc tới điều gì khiến chính ủy không được hài lòng lắm. Giọng ông đã hơi gay gắt:

- … Tôi đã nói các anh phải giải thích cho anh em hiểu điều đó rồi cơ mà. Các anh tưởng chỉ đánh một hai trận rồi bó súng lại ngồi chơi đấy hẳn? Chính các anh nôn nóng chứ đừng nói gì tới anh em chiến sỹ. Hả? Tôi nói chính anh, cả anh và anh Khẩn cũng vậy. Có thể các anh còn phải ngồi nhìn người ta đánh lâu nữa, nhưng đó là yêu cầu của thế trận. Rồi sẽ đến lúc người ta cần tới các anh. Chỉ sợ rồi lại kêu toáng lên thôi. Được rồi, đâu sẽ có đó. Các cậu là tiểu đoàn chủ công của trung đoàn, sư đoàn sử dụng làm lực lượng cơ động là có ý đồ, không ai để các cậu thất nghiệp đâu. Thế nhé! Hãy nhắc anh em giữ bí mật cho tốt. Còn các cậu phải liên lạc thường xuyên với sư đoàn và trung đoàn.

Chính ủy đặt tổ hợp xuống, quay lại nói với mọi người:

- Tay Nguyên kêu um lên rồi đấy. Hắn nhìn rõ Thuần Mẫn, thấy đơn vị bạn họ đánh, ngứa chân ngứa tay rồi mà.

Sự cười, giảng giải:

- Chuyện! Các cụ đã đi xem vật bao giờ chưa? Anh em mình bây giờ hệt như mấy đô vật máu mê phải ngồi  ngoài sân chầu rìa ấy.

Từ phía Thuần Mẫn, tiếng súng dội lại mỗi lúc một dồn dập. Nhuận quay máy điện thoại gọi ban tác chiến sư đoàn hỏi thăm tình hình nhưng không được. Thấy vậy trung đoàn trưởng Thuần quay lại nói với chính ủy: 

- Ta lên đài quan sát xem sao!

Đài quan sát là một cái chòi làm trên chạc ba của một cây cà boong lớn. Nếu không có sương mù, đứng trên đài quan sát có thể nhìn bao quát cả một khu vực rộng lớn từ quận lỵ Thuần Mẫn tới tận điểm chặn đầu của trận địa phục kích. Nhưng lúc này hãy còn sớm, ánh nắng yếu ớt chưa đủ xua tan sương mù và khí núi. Đứng trên đài quan sát, chiếu ống nhòm về phía quận lỵ Thuần Mẫn chỉ thấy những đụn khói cứ đùn lên mãi và ánh chớp của đạn pháo, đạn B.40, ĐKZ nhấp nhoáng trong sương khói. Một tốp máy bay lên thẳng võ trang từ phía Plây cu  bay lên bu lấy những vầng khói ấy, thỉnh thoảng chúng lại cúi đầu xịt xuống một trái hỏa tiễn. Đạn cao xạ từ mặt đất bắn lên, nổ lục bục, bung ra những chùm khói trắng vây quanh lũ máy bay. Một chiếc đang chúi xuống, chuẩn bị xịt hỏa tiễn bỗng tóa lửa, khói đen từ bụng nó tuôn ra phun thành hai luồng. Rồi cứ thế, nó chúi mãi, chúi mãi cho tới khi mất hút sau những tầng khói của căn cứ địch đang hấp hối. Những tốp máy bay ném bom không hiểu từ hướng nào bỗng ùa tới, gầm rít điên loạn, lao ngang lao dọc trên bầu trời. Pháo cao xạ lại nổ ran. Tiếng bom dậy lên từ mặt đất. Chiếc chòi gác của đài quan sát cũng rùng rình, kêu răng rắc. Chính ủy đưa ống nhòm lên quan sát một lần nữa rồi nhận xét:

- Tình hình phát triển có vẻ thuận lợi.

Trung đoàn trưởng gật đầu đồng tình:

- Vâng, thuận lợi. Hình như ta đã chiếm được tuyến phòng thủ vòng ngoài. Pháo thôi bắn rồi.

- Hơn hai ngàn quả pháo cho một trận, chưa bao giờ được đánh sang như thế. – Chính ủy nói như vậy rồi quay sang hỏi trung đoàn trưởng:

- Anh còn nhớ đêm bọn mình mắc võng nằm bên bờ sông Đắc Đam không?

Thuần khẽ gật đầu:

- Nhớ chứ! Đêm ấy bọn mình đã tiên đoán bao nhiêu điều, tranh cãi cũng cật lực đấy chứ nhỉ? Nhưng tất cả đều nhất trí rằng: có một cái gì đó rất lớn lao đang diễn ra. Chúng mình mới chỉ cảm thấy thế, phải không nhỉ? Còn bây giờ hình như cái điều lớn lao đó đang xuất hiện

Đó là những ngày sôi sục nhất của chiến trường. Chiến dịch đang bước vào giai đoạn cài thế. Ta và địch lừa nhau từng miếng một. Ý đồ của chiến dịch mới chỉ phổ biến đến cấp sư đoàn. Nhưng với một trình độ hiểu biết nhất định về nghệ thuật chiến dịch, các cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn cũng đã phán đoán được phần nào quy mô của chiến dịch mùa xuân năm nay. Một hôm, Thuần ở sư đoàn về rỉ tai chính ủy Tâm:

- Này, anh biết cái gì không?

- Cái gì?

- Cụ Dũng vào tận đây đấy. Cụ ấy sẽ trực tiếp chỉ huy chiến dịch này.

- Ái chà – Chính ủy vỗ đùi đánh đét một cái – Vậy thì to chuyện rồi.

- Anh nói sao?

- Còn sao nữa? Đại tướng ra trận không phải là chuyện đùa. Nghĩa là Tây Nguyên năm nay sẽ khét trời.

Cuối tháng hai, các đơn vị tác chiến đã chuyển hết xuống phía nam mặt trận. Bên cạnh những đơn vị quen thuộc của Quân giải phóng Tây Nguyên đã thấy xuất hiện một vài đơn vị có phiên hiệu lạ. Có cả những đơn vị từ hậu phương mới vào, tuy vẫn giữ bí mật nhưng cứ nhìn nước da hồng hào, quần áo mới tinh, “rất xã hội chủ nghĩa”, lính tây nguyên cũng thừa biết đó là quân “trung ương” mới vào tăng cường. Đi trong rừng chỗ nào cũng gặp bộ đội. Hàng chục con đường bí mật đã mở ra từ lúc nào chẳng rõ, đường nào cũng bụi mù, chi chít vết xe đi.

Phía bắc mặt trận cũng sôi động không kém, có phần còn ồn ào, lộ liễu hơn cả phía nam nữa là đằng khác. Những đoàn dân công nườm nượp gùi đạn, gùi gạo, hàng trăm voi thồ lặc lè đi về. Những đơn vị mở đường vẫn được lệnh mở những tuyến đường rộng, hướng về các thị trấn, thị xã và các căn cứ quân sự lớn của địch. Các đơn vị tham gia tác chiến ở hướng chính của chiến dịch đã rút hết về phía nam nhưng các trung tâm thông tin, liên lạc bằng vô tuyến điện vẫn được lệnh để lại tại chỗ một bộ phận làm công tác nghi binh, hàng ngày vẫn phát lên không trung những mệnh lệnh, chỉ thị, những lời đề nghị, yêu cầu, những báo cáo về trinh sát các mục tiêu, về đạn, gạo, đường sá v.v… Có thể hình dung những ngày ấy, trên không trung cũng ồn ào, lộn xộn, rối rắm như dưới mặt đất vậy.

Phía nam địch kêu có một sư đoàn chủ lực Bắc Việt đã án ngữ ở ven đường 14, chuẩn bị tiến công các quận lỵ Buôn Hồ, Phú Nhơn, Thuần Mẫn và có thể cắt đứt đường 14 bất cứ lúc nào.

Phía bắc, địch cũng kêu có một sư đoàn chủ lực khác của Bắc Việt cũng với một trung đoàn đặc công, một trung đoàn xe tăng đang chuẩn bị tiến công vào thị xã Plây Cu là nơi có sở chỉ huy quân đoàn 2 ngụy.

Bộ tư lệnh quân đoàn 2 và quân khu 2 của quân đội Sài Gòn rối mù lên bởi những nguồn thông tin trái ngược nhau. Toàn quân khu 2 và đặc biệt các lực lượng chủ lực, địa phương trấn giữ quân khu 2 được đặt trong tình trạng báo động. Các tướng tá thuộc Bộ tổng tham mưu ngụy và và các cố vấn thân cận của tổng thống Thiệu tới tấp bay lên Tây Nguyên để thị “sát tình” hình. Các trung đoàn của sư đoàn ngụy số 23 hết bị kéo lên Plây Cu lại bị kéo vào vùng ven Buôn Ma Thuật ầm ĩ kéo ra chốt hết các điểm cao lợi hại xung quanh chi khu và tổ chức càn sâu vào những vùng nghi có chủ lực ta tập kết.

Ngày nổ súng đã sắp đến. Tình hình trở nên hết sức căng thẳng. Sư đoàn đã chuẩn bị đánh Thuần Mẫn theo phương án hai, nghĩa là phải đánh trong trường hợp địch tăng cường lực lượng và sẵn sàng đối phó.

Nhận thấy tình hình đó, để giảm bớt khó khăn cho sư đoàn, Bộ tư lệnh chiến dịch hạ lệnh cho hướng nghi binh chiến dịch nổ súng trước để thu hút địch.

Thế là trong lúc địch đang căng ra chuẩn bị đối phó với ta ở hướng nam thì chiến sự bỗng bùng nổ ở hướng bắc. Chỉ trong một đêm, hai vị trí tiền tiêu án ngữ tây bắc thị xã Plây Cu đã bị tiêu diệt, sân bay Cù Hanh bị pháo kích dữ dội chưa từng thấy. Bộ tư lênh quân đoàn 2 ngụy là lên “Plây Cu bị tiến công, Việt Cộng đánh thẳng vào sở chỉ huy quân đoàn”.

Trung đoàn 45 ngụy được lệnh cấp tốc về phòng thủ Plây Cu cùng liên đoàn 21 biệt động quân.

Bộ tư lệnh sư đoàn Chiến Thắng thở phào. Thế là chúng mày bỏ mẹ rồi! Trung đoàn 4 được lệnh nổ súng tiến công chi khu quân sự quận lỵ Thuần Mẫn theo phương án một, phương án thuận lợi nhất.

Chiến dịch đã cài thế xong. Địch đã mắc sai lầm nghiêm trọng, để cả một vùng phía nam cao nguyên sơ hở, trong đó có thị xã Buôn Ma Thuật.

Thời cơ nổ súng của chiến dịch đã tới

Đứng trên đài quan sát, lắng nghe tiếng súng của đơn vị bạn đang nổ giòn giã, trung đoàn trưởng Thuần đã nhớ lại tất cả những điều đó.

     Đó là bài học sâu sắc về tài thao lược của những người cán bộ chỉ huy quân sư ưu tú của Đảng. Phải trải qua hai cuộc kháng chiến, trải qua bao mất mát hi sinh, dân tộc ta, Đảng ta mới đào tạo và rèn luyện được một đội ngũ những người chỉ huy quân đội có tài thao lược như vậy.

     - Nghĩ gì mà lì ra thế ông bạn?- Trung đoàn trưởng Thuần quay lại nhưng không trả lời câu hỏi của chính ủy mà chỉ về phía Thuần Mẫn, hỏi lại:

     - Anh có nhìn thấy con đường chạy dưới chân điểm cao kia không?

Chính ủy gật đầu:

     - Thấy, đó là con đường 7b phải không?

     - Đúng đấy. Con đường ấy chạy qua thị xã của tỉnh Phú Bổn, tức là Cheo Reo ấy mà, rồi men theo sông Ba, chạy thẳng về quê tôi.

     Chính ủy cười, vỗ vai Thuần:

     - Vậy thì hôm nay trung đoàn 4 hôm nay nó mở cho anh cái cửa của con đường về quê rồi.

     Trung đoàn trưởng khẽ gật đầu rồi đăm đăm nhìn xuống con đường. Từ đó về quê ông có bao xa đâu.

     Chợt chính ủy reo lên, hồi hộp:

     - Xong rồi hay sao anh Thuần ơi! Đúng rồi! Trời ơi! Cờ! Cờ thật rồi.

     Trung đoàn trưởng vội đưa ống nhòm lên. Sương mù cũng đã tan tự lúc nào, trong ống kính chỉ còn nhìn thấy những cột khói trong căn cứ địch đang đùn lên, đùn lên mãi. Ông rê ống nhòm một lượt và chợt dừng lại ở mỏm chính của căn cứ. Đúng rồi! Cờ thật rồi. Ông lẩm bẩm một mình:

     - Dứt điểm rồi. Nhanh thật!

     Chính ủy cũng lắc đầu:

     - Chịu quân e4 thật! Trung đoàn chủ công có khác, đánh như gió ấy.

     Cùng luc đó, tham mưu trưởng Sự từ trong hầm tác chiến huỳnh huỵch chạy ra, đứng dưới đất kêu toáng lên:

     - Dứt điểm rồi! Dứt điểm rồi anh Tâm, anh Thuần ơi!

     Trung đoàn trưởng cũng quát to lên:

     - Gọi điện thoại chúc mừng trung đoàn 4!

     Chính ủy và trung đoàn trưởng vội vàng lần thang tụt xuống, Sự vẫn đứng dưới đất, hét lên:

     - Cẩn thận kẻo ngã, mấy ông già!

     Xuống tới đất chính ủy rút đồng hồ trong túi ngực ra xem rồi tuyên bố:

     - Hai tiếng đồng hồ, kỷ lục rồi đấy. Chưa bao giờ sư đoàn ta đánh chiếm một chi khu quân sự mà lại nhanh đến thế.

     Sự mặt đang tươi rói bỗng sa sầm lại, nhăn nhó:

     - Người ta đang làm ăn như thế mà mình vẫn nằm ì ở đây. Phục với chả phịch!

CHƯƠNG HAI

     1.

     Chiều hôm ấy trung đội trưởng Mánh lên tiểu đoàn bộ chơi. Danh nghĩa là để thăm tiểu đoàn trưởng Nguyên, cháu ruột anh, nhưng thực ra là để làm nhiệm vụ “dò la tin tức” mà anh em trong đại đội gợi ý.

     Tin chiến thắng từ khắp nơi truyền về khiến mọi người xôn xao. Người ta bắt đầu thấy rằng hình như tiểu đoàn mình bị “bỏ quên”. Ở các tiểu đội, không ngày nào là không xảy ra những cuộc tranh cãi kịch liệt. Lính ta sôi lên sùng sục vì bị chôn chân ở điểm cao này, trong khi các đơn vị bạn đang tung hoành ngang dọc.

     Sau mấy câu thăm hỏi lấy lệ, Mánh đi thẳng vào vấn đề:

     - Mày thử hỏi lại trung đoàn xem thế nào chứ Nguyên. Chẳng lẽ tiểu đoàn mình cứ nằm bẹp ở đây mãi?

     Nguyên vẫn cắm cúi ghi chép, anh biết chú lên gặp mình cũng chỉ vì chuyện ấy:

     - Chú sốt ruột lắm hả?

     - Cả tiểu đoàn chứ riêng gì tao.

     Nguyên ngẩng lên lườm chú:

     - Sao chú vơ đũa cả nắm thế. Ban chỉ huy tiểu đoàn vẫn bình tĩnh lắm.

     - Nói phét! Dễ mày chỉ muốn ngồi đây mà ôm lấy mấy cái núi đá.

     Nguyên khẽ lắc đầu cười. Lúc này, nếu có một người lạ nào đến, hẳn họ không thể ngờ người thanh niên trẻ đó lại là cấp trên của người đã cứng tuổi, có gương mặt dày dan gió sương kia. Con người dày dạn ấy, con người đã sống đến nửa phần thời gian mà một con người có thể tồn tại trên mặt đất ấy, mà lại “thưa thủ trưởng…”, “báo cáo thủ trưởng…” với cái anh chàng mặt còn non choẹt kia, coi sao được? Mà anh ta lại trắng trẻo quá, đẹp trai đến mức có thể nghi ngại nữa. Theo xét đoán thường tình của người đời, những anh chàng có bộ mã như thế  thường là “trói gà không chặt”, chứ làm nên công trạng gì. Nhưng nếu anh ta ra trận thì tình hình lại khác. Anh sẽ gặp không ít những cảnh có vẻ trái khoáy như thế, nhưng anh không ngạc nhiên. Anh cán bộ trẻ ngồi bên chiếc máy điện thoại, mắt đăm đăm nhìn lên cửa đột phá. Anh cán bộ cấp dưới của anh, có khi nhiều tuổi gấp rưỡi anh, chỉ huy đội bộc phá mở cửa nằm bên cạnh mắt cũng đăm đăm nhìn lên cửa bộc phá. Bỗng đôi mắt anh cán bộ trẻ sáng rực lên, anh khoát tay ra một mệnh lệnh đanh gọn “Mở cửa!”. Anh đội trưởng bộc phá mở cửa hơi nghi ngại “có sớm quá không đồng chí?”. “Không sớm đâu, pháo sắp chuyển làn, phải mở cửa thật nhanh để khi pháo bắn vào trung tâm, xung kích đã có thể đánh chiếm đầu cầu”. Và trận đánh đã diễn ra đúng như anh tính toán. Pháo vừa chuyển làn thì cửa đột phá đã thông, địch chưa kịp ngóc đầu lên, xung kích đã ập tới, tung lựu đạn, thủ pháo, xỉa AK vào các hầm cố thủ. Hay một trường hợp khác – Anh cán bộ trẻ dẫn trung đội hoặc đại đội của anh cán bộ nhiều tuổi đến một khu vực và bảo: “sao các đồng chí bố trí dọc theo triền đồi thế này”, “ Sao lại bố trí ở đây, gần chân dốc quá?” “Chính thế! Này nhé, xe tăng địch từ trên đèo lao xuống sẽ phải lượn một vòng cua (anh vẽ xuống đất một vòng cung tròn và kẻ một đường tiếp tuyến), đang ở đà lao xuống dốc, chúng nó rất khó ngoặt thẳng vào trận địa các anh mà chỉ còn cách dừng lại quay ngang xe mới dùng pháo được, như thế B.40, B.41 của các anh có thể diệt nó ngay từ mép đường”…

     Chỉ khi nào được chứng kiến những trường hợp như thế chúng ta mới hiểu được cặn kẽ và có cơ sở những hiện tượng “trẻ” chỉ huy “già” như hiện tượng của chú cháu Mánh. Còn những lúc bình thường, quả thật, mỗi khi nhìn thấy một anh cán bộ trẻ, mặt còn non choẹt, ra lệnh hay căn vặn cán bộ cấp dưới nhiều tuổi hơn mình ta thường cảm thấy nó cồm cộm thế nào ấy.

     Trường hợp của chú cháu Mánh chỉ là một trong hàng trăm trường hợp mà chúng ta vẫn thường gặp ở các đơn vị. Nguyên vừa trưởng thành đã rời mái trường vào bộ đội. Nguyên vừa trưởng thành đã rời mái trường vào bộ đội. Hai mươi bốn tuổi đời nhưng anh đã có bảy năm cầm súng. Khi Nguyên đi bộ đội thì chú Mánh hãy còn là tổ trưởng tổ mộc của hợp tác xã, với cái bút chì lúc nào cũng dắt ở vành tai. Năm 1970, trước khi vào “Bê dài”, anh được đơn vị cho ghé thăm nhà. Vừa xuống xe ở Bến Vạng, khoác ba lô đi bộ được một quãng thì thấy một chiếc máy kéo “Công Nông” bì bạch đi tới. Anh bỗng sững người khi nhận ra chú ruột của mình mặc bộ quần áo bảo hộ lao động lấm lem dầu mỡ, đội một chiếc mũ nan rộng vành, ngồi ngất nghểu trên ghế lái. Nguyên vội vàng vẫy mũ hét toáng lên:

     - Chú Mánh! Chú Mánh!....

     Chú Mánh vội dừng xe, ngẩn mặt ra giây lát mới nhận ra cháu mình. Chú vội nhảy xuống, chạy ào tới, ôm choàng lấy Nguyên:

     - Thằng trời đánh! Tưởng ai. Sao mà lớn ngồng rồi thế này?

     Rồi chú giằng lấy ba lô của Nguyên, quẳng lên thùng xe và nháy mắt, cười:

     - Mày thấy chú mày có cừ không? Tay lái vững nhất xã đấy nhé! Thôi lên xe tao kéo về.

     Nguyên vội lắc đầu:

     - Cháu chịu! Ai lại ngồi thế này, ngượng chết!

     - Á à!... Mày chê xe “Công Nông” kém tư thế hả? Phải rồi, đại đội trưởng rồi mà. Người ta ngồi “com-măng-ca” chứ ai thèm ngồi thùng xe “Công Nông”!

     Nguyên sung sướng cãi lại:

     - Ai bảo cháu đã là đại đội trưởng? Mới phụ trách đại đội tạm thời thôi, chú ạ!

     - Lắm chuyện! Phụ trách hay không phụ trách thì mày cũng đã chỉ huy đại đội rồi. Mày tưởng ở nhà không ai biết mày đánh đấm ra sao đấy phỏng? Thằng Tĩnh con nhà ông Yên xóm Thượng, bị thương về điều trị ở Hà Nội kể hết. Thôi, lên xe đi!

     Nguyên giãy nảy:

     - Đã bảo cháu không đi xe chú mà lại!

     Chú Mánh phủi tay:

     - Thôi, mặc xác mày. Không đi xe thì cuốc bộ mà ngắm cảnh cho sướng mắt.

     Nói thế nhưng chú còn đứng đó kể huyên thuyên đủ mọi chuyện một lúc lâu mới chịu lên xe. Nguyên đứng ngẩn ra bên đường, nhìn theo mãi cho đến khi chiếc xe của chú mình khuất hẳn sau rặng điền thanh ở đầu lối rẽ vào làng anh mới chậm rãi vừa đi bộ vừa say sưa ngắm cảnh đồng quê, hít thở bầu không khí quen thuộc của quê hương.

Mấy ngày ở nhà anh lại phát hiện thêm nhiều điều mới mẻ ở người chú ruột. Chú nhanh nhẹn hơn, khỏe hơn và làm việc “khoa học” hơn cái hồi còn làm thợ mộc. Đầu giường chú vất ngổn ngang dăm ba cuốn sách về nguyên lý cấu tạo các loại máy kéo, máy nổ, sách dạy nuôi lợn, trồng khoai tây, cà chua v.v… Một hôm, Nguyên còn tìm thấy cả một cuốn “Con đường dẫn đến tài năng” kể về cuộc đời các nhà bác học trên thế giới. Thấy Nguyên tỏ vẻ ngạc nhiên, chú mỉm cười, giải thích “Đọc cho biết thôi mà cháu. Chú có mơ ước trở thành bác học đâu!”. Tất cả những sách vở, bản vẽ, đến sắp đặt nhà cửa, cách nói năng chuyện trò, phương pháp làm ăn... đều chứng tỏ rằng chú anh đang “đổi mới”.

     Chú yêu xe, yêu máy móc lạ lùng. Có thể nói chú mê xe, mê máy như mê gái. Chỉ trừ những bữa ăn và buổi tối, còn lúc nào cũng thấy chú ở bên chiếc xe “Công Nông”. Hết lau chùi, cho dầu mỡ, vặn ra vặn vào lại loay hoay sửa nhà chứa xe. Hễ thấy Nguyên đi qua là chú lại gọi vào bằng được và bắt đầu “mở máy”:

     - Anh nông dân bây giờ khác xa ngày xưa lắm cháu ạ - Chú nói – Bố mẹ cháu ấy, mới ngày nào còn è cổ ra kéo cày ở ngoài đồng Vạng. Đến những thằng địa chủ giàu sụ, ruộng thẳng cánh cò bay cũng chẳng dám mơ đến chuyện xe cộ, máy móc nữa là anh nông dân. Cả cái xã này có mỗi thằng chánh. Nhưng tậu được một cái xe đạp cho con trai nó đi học trên tỉnh. Mỗi khi nghe tiếng chuông xe đạp của nó kêu kính cong ngoài đầu làng mọi người phải dạt ra hai bên đường. Bọn chú hồi đó còn nhỏ cứ lồng ngồng chạy theo xe nó cho đến khi mệt bở hơi tai mới chịu thôi. Có bận, nó đang đi nhanh bỗng chơi ác, phanh gấp lại một cái, nhiều đứa ngã dập mày dập mặt ra ấy chứ. Hồi ấy chú nghĩ rằng, có lẽ suốt đời mình không được đặt đít lên cái yên xe đạp bao giờ. Hà … hà! Vậy mà sự đời cũng hay, cầu được ước thấy. Hồi xe “Thống Nhất” mới ra những loạt đầu, chú liều lĩnh dấu thím mày, dắt con nghé lên chợ tỉnh bán rồi tậu luôn một cái xe. Buồn cười, mua được xe rồi mà không biết đi có nhục không cơ chứ! Vậy là phải dắt bộ từ trên tỉnh về, nghĩ lại mà buồn cười. Nhưng cái sự đời, được miếng tiết lại muốn biết miếng dồi. Có lúc chú đã nghĩ: “cứ đà này rồi mình biết lái cả ô tô cũng nên”. Hà hà… Nghĩ bậy thế thôi, chứ ai ngờ rồi chú lái ô tô thật. “Công Nông” cũng là một thứ “cơ giới nhẹ” chứ sao! Hả? Khi hợp tác xã chuẩn bị nhận máy kéo, cử người đi học lái xe là chú xung phong luôn! Cũng trầy trật ra phết đấy chứ cháu tưởng ngon à? Văn hóa của chú thấp quá, ban quản trị họ không nhận. Cậy cục, xin xỏ mãi, các ông ấy thấy mình nhiệt tình quá nên cho đi thôi chứ chẳng mấy ai tin chú học nổi. Chú bỏ tổ mộc sang tổ máy nhiều người chê chú là dại. Hà hà… kể làm cái anh thợ mộc có nhàn nhã hơn thật. Làm hết việc hợp tác thì nhận khoán nhà cửa, giường tủ của bà con xã viên, rỗi rãi lại có thể đi đây đi đó làm ngoài, mỗi ngày cơm rượu hai bữa rồi bỏ rẻ cũng được dăm đồng bạc đút túi nữa. Vì thế, nên những ngày chú mới rời cái cưa cái đục đi học lái máy kéo, thím mày cũng mặt nặng mày nhẹ mãi đấy chứ.

     Chú Mánh của anh là như vậy. Nguyên ngạc nhiên khi nhìn thấy chú mình mặc bộ đồ công nhân lái máy kéo bao nhiêu thì cũng lại sững sờ bấy nhiêu khi gặp chú mình trong bộ đồ giải phóng quân. Chú lại như “lột xác” một lần nữa. Hôm trung đoàn tổ chức hội nghị “Những trận đánh hay, những người đánh giỏi”, ngồi dưới hàng ghế đại biểu, Nguyên đã rưng rưng nước mắt khi chú anh bước lên diễn đàn. Vẫn bằng cái giọng gồ ghề, chân chất nhưng rất đỗi say sưa như hôm nào kể về công việc thợ thuyền, đồng áng của mình, chú trình bày trước hội nghị những trận đánh xuất sắc của trung đội chú, một trung đội có tác phong đánh nhanh, diệt gọn, đặc biệt giỏi khi đảm nhiệm nhiệm vụ của một mũi thọc sâu nên đã được mang danh hiệu “Trung đội gió lốc”.

     Con đường đi lên của chú dường như chẳng có gì đặc biệt. Chú chỉ là một người nông dân đã biết biến đổi mình, nghĩa là biết tự vượt lên những hạn chế của giai cấp mình để theo kịp trào lưu chung của cách mạng, theo kịp giai cấp tiên phong. Từ một người nông dân cũ, chú trở thành một người nông dân mới rồi trở thành người chiến sỹ giải phóng. Đến mùa xuân năm 1973, giữa những ngày cả nước tưng bừng phấn khởi vì hiệp định Pa-ri vừa ký kết thì người chú ruột thân yêu của anh đã được kết nạp vào Đảng.

     Hôm đó Nguyên cũng có mặt. Anh đã khóc khi nhìn thấy chú mình nghiêm trang đứng trước cờ Đảng, giơ nắm tay gân guốc lên ngang đầu, run run đọc những lời tuyên thệ.

2.

     Ở ban chỉ huy tiểu đoàn về, Mánh phải đi qua cái khe duy nhất còn nước của dãy điểm cao. Khi đi anh đã chuẩn bị một chiếc túi ni lông màu xanh, loại túi mà các đơn vị vận tải vẫn dùng để thả trôi các bì gạo trên những con sông, con suối, một hình thức vận tải sáng tạo trong những ngày địch đánh phá dữ dội các tuyến đường giao thông. Năm ngoái, đơn vị đã trang bị đủ cho mỗi chiến sỹ một chiếc. Vừa để gói quần áo vừa để chứa nước, hoặc làm phao bơi mỗi khi vượt sông. Ấy thế mà cả trung đội chỉ còn độc một chiếc túi của trung đội trưởng Mánh là chưa bị thủng. Cánh lính trẻ không biết lo xa, đi lấy gạo, lấy sắn, bọn nó cũng mang lót ba lô để khỏi phải giặt. Vào chiến dịch, đơn vị được phân công  chốt giữ điểm cao cho lấy một tháng, xa nguồn nước là các cha biết nhau ngay. Làm cái anh lính ở chiến trường mà không biết chắt chiu thì có phen còn nhịn đói ấy chứ. Lắm đứa tuềnh toàng tới cái mức không còn lấy một mẩu của cái bao gạo. Hễ được phân công đi công tác là nháo cả lên rồi xúm lại kêu với trung đội trưởng: “Chú Mánh! Cháu không không có cái gì đựng gạo, làm thế nào?”, “Ngửa áo ra mà đựng!”. Quát thế nhưng cuối cùng bao giờ Mánh cũng phải mở ba lô lấy những cái bao gạo rách của bọn chúng vứt đi anh đã nhặt về, vá lại đem cho chúng nó dùng. Nếu không, chúng nó dám cởi áo ra gói gạo thật chứ chẳng chơi.

     Mánh dừng lại bên khe nước, lấy khăn mặt ra rửa mặt rồi mở chiếc túi ni lông, dùng mũ múc nước đổ vào. Được lưng chừng túi, anh xoắn miệng túi lại, vác lên vai rồi đi ngược lên dốc. Nước rỉ ra áo, thấm vào người anh lành lạnh.

     - Chà, thủng rồi… - Mánh lẩm bẩm – Mấy thằng nỡm đi lấy nước chiều qua đây mà. Thế có đáng tế cho chúng nó một mẻ không cơ chứ!

     Mánh vừa lẩm bẩm rủa thầm “mấy cái thằng làm ăn hậu đậu” vừa lom khom vác bao nước ngược lên đồi. Bỗng như một trận gió, một tốp máy bay lên thẳng ầm ĩ lao tới, tiếng động cơ rít lên ken két. Mánh nép vội vào một bụi cây nhìn lên. Anh nhận ra trong tốp máy bay có cả một chiếc “tàu quạt”. Chúng nó sắp giở trò gì đây? Hay vị trí trú quân bị lộ? Tốp máy bay mỗi lúc một hạ độ cao, có lúc tưởng như chúng trượt bụng trên những vạt rừng. Tiếng động cơ rít đến nhức màng tai.

     Reng reng … reng … ào

     Reng reng … reng … ào

     Phù … ụp!

     Mánh nằm ép mình xuống đất, vô ý, anh  buông bàn tay tóm miệng túi, nước đổ òa trên lưng. Cáu tiết, mánh bật ngửa lên, vung nắm đấm lên trời:

     - Tiên sư mày! Có thấy con c… tao đây này!

     Rồi anh lồm cồm bò dậy vừa nhìn lên trời đoán hướng bay của chiếc “tàu quạt”, vừa lao từ bụi cây này sang bụi cây khác, tay vẫn nắm chặt chiếc túi còn lọp bọp những nước.

     Vượt qua một quãng trống nữa, Mánh về tới 

kiềng

 của đại đội. Đại đội trưởng Quảng đứng nép bên một gốc cây quan sát máy bay, thoáng thấy bóng người chạy, anh liền quát:

     - Đi đâu mà lộn xộn thế?

     Mánh vội lên tiếng:

     - Tôi đây, mánh đây mà.

     - Anh Mánh hả? Anh về nắm trung đội của anh đi. Sẵn sàng đánh địch đổ bộ nhưng phải tuyệt đối giữ bí mật.

     Mánh chạy vội về khu vực trú quân của trung đội mình. Thấy Ổn còn đứng trên mặt đất, tay lăm lăm khẩu AK, anh liền quát:

     - Xuống hầm ngay!

     Ổn chỉ tay lên trời.

     - Nó bay thấp quá, chỉ một loạt…

     - Liệu hồn! – Mánh đe – Nổ súng bây giờ thì mất đầu cả lũ.

     Mánh chạy về hầm của mình, trung đội phó Đạt cũng đã nai nịt gọn gàng đứng bên cửa hầm. Thấy Mánh về anh vội hỏi:

     - Lộ sao thế, anh Mánh?

     Mánh lắc đầu:

     - Chưa rõ. Thông báo cho các tiểu đội sẵn sàng chiến đấu chưa?

     - Rồi!

     - Nó mà nhảy xuống đây thì phiền lắm đấy.

     - Nhảy thì đánh, gì mà phiền.

     - Đánh! Nhưng ăn thua mẹ gì. Nó có nhảy thì cũng chỉ vài mống mà lộ cha nó cả thế trận.

     Mánh nhảy xuống hầm lấy bao đồ thắt vào lưng. Lúc này Đạt mới nhận thấy quần áo Mánh ướt nhèm, liền cười hỏi:

     - Anh nhảy xuống suối đấy à?

     - Đâu – Mánh nhăn nhó – Tại cái túi nước chết toi này đấy chứ!

     Bỗng ạch … oành... ạch… oành!...

     Đạt xô vội Mánh vào trong hầm:

     - Nó phóng cối đấy!

     Ạch… oành… ạch… oành!

     Những tiếng “oành” chát chúa như nổ ngay trên nóc hầm. Đạt lo lắng nhìn Mánh:

     - Khu vực mình rồi!

     Mánh chợt nhớ đến Ổn, anh vội ra cửa hầm nhô đầu lên hỏi:

     - Có ai việc gì không?

     Không nghe tiếng trả lời. Anh định vọt lên khỏi hầm chạy đi thì đồng chí liên lạc đại đội luồn rừng chạy đến, thở hổn hển:

     - Chú Mánh! Đại đội ra lệnh tuyệt đối giữ bí mật. 

Kiềng

 vẫn chưa bị lộ.

     Mánh lẩm bẩm: “Vậy mà chúng nó làm dữ thế!”

     Tốp máy bay lên thẳng lại xẹt qua, xối xuống từng tràng đại liên. Chúng càng giận dữ, điên cuồng bao nhiêu thì mặt đất càng trơ lì, gan góc bấy nhiêu. Chúng đợi một vài loạt súng hồ đồ bắn trả, nhưng núi rừng vẫn thờ ơ, bắt buộc chúng phải tin rằng chúng đang “đấm” vào một chỗ không người. Ầm ĩ. Náo nhiệt một lúc, lũ máy bay lần lượt kéo nhau chuồn thẳng. Bầu trời lại quang đãng, không gian bỗng lắng hẳn xuống và tiếng ve rừng lại trỗi ran lên dưới thung lũng.

Mánh cởi áo, vắt kiệt nước rồi phơi lên sợi dây rừng dưới một lùm cây nhỏ. Trung đội phó Đạt mở ba lô lấy cho Mánh chiếc áo khác, anh cầm cổ áo giũ một hồi:

     - Khiếp! Áo với xống! Toàn mùi thuốc lào!

     Mánh chậc lưỡi

     - Già rồi! Diện với ai mà cậu bảo phải thơm tho?

     - Thì cũng phải cho sạch sẽ một tí chứ! Mẹ đĩ mà ngửi thấy mùi thuốc lào ở áo anh cũng bỏ chạy xa ba cây số!

     Mánh cười khì khì:

     - Ấy! “Người yêu” của mình lại mê cái mùi ấy mới chết chứ. Hồi tớ về phép, trước khi đi chiến đấu, bà ấy bắt phải bỏ lại cái áo, bảo để đêm gối đầu cho con nó đỡ khóc. Tớ cho là cóc phải, bà ấy nhớ cái hơi của mình mà thôi!

     Đạt chưa có vợ, anh không hiểu khi xa nhau, người vợ có nhớ chồng đến mức ấy không, chứ riêng với anh, nói thì nói vậy hễ Mánh đi vắng một đêm thì anh thấy trống trếnh làm sao ấy. Cái hầm cứ rộng hoác ra và anh trằn trọc khó ngủ. Không biết anh có nhớ cái hơi đẫm mùi thuốc lào của Mánh hay không, nhưng chắc chắn anh nhớ cái giọng thủ thỉ kể chuyện của Mánh. Mánh cứ rì rầm kể hết chuyện này sang chuyện khác. Lúc đầu anh cười đến phát ho sặc sụa lên, cười mãi mệt, anh nằm im và ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Đối với anh Mánh, Đạt cũng không giấu diếm chuyện gì, kể cả chuyện vui lẫn chuyện buồn. Mới đêm qua thôi, nằm trong căn hầm này, Đạt đã kể cho Mánh nghe về mối tình của mình. Anh còn bấm đèn pin đọc cho Mánh nghe lá thư gần đây nhất của Dung, lá thư mang đến cho anh một nỗi buồn vô hạn: Dung đã đi lấy chồng sau khi tốt nghiệp đại học ở nước ngoài trở về. Đọc đến đoạn Dung kể rằng: Dung đã khóc sưng cả mắt lên nhưng gia đình vẫn không nghe, vẫn ép Dung phải lấy một tay kỹ sư, cùng công tác ở phòng kỹ thuật của một nhà máy với anh trai Dung, thì Mánh bật dậy, phẫn nộ quát lên:

     - Nói láo! Nó chẳng khóc lóc cái cóc khô gì đâu. Đồ bội bạc. Làm gì có cái chuyện ép duyên bịa đặt ấy.

     Đạt sững sờ:

     - Bịa đặt!... Anh cho rằng Dung không hề bị ép duyên?

     - Không! Làm gì có chuyện ấy. Cậu không thấy lời lẽ của nó viết trơn như mỡ cả một lượt đấy à? Nghe thì lâm li đấy, nhưng chỉ là nước mắt cá sấu, cậu hiểu không? Đau khổ! Đau khổ mà nó còn viết nổi cho cậu tám trang giấy. Văn chương chữ nghĩa hay hớm chưa? Đem vào Sài Gòn mà đăng báo được đấy!

     Nhận xét của Mánh khiến Đạt rụng rời. Anh như thấy trời đất đổ sụp quanh mình. Có thể như thế không? Lẽ nào một người con gái như Dung mà lại bội bạc, lừa dối? Nhưng quả thực Dung nhiều lời như thế. Lá thư dứt tình mà Dung viết trơn tru như đã chuẩn bị từng lời, từng chữ vậy. Lòng dạ đàn bà con gái, chả biết thế nào? Thề thốt, hứa hẹn như thế, nhưng biết đâu, sau khi đi học ở nước ngoài về, Dung chẳng tính toán khác đi. Cuộc sống thực bao giờ chẳng hấp dẫn hơn là ôm ấp một giấc mộng xa xôi?

     Mối nghi ngờ mỗi ngày một lớn lên trong lòng Đạt. Chiều nay, khi anh Mánh lên tiểu đoàn, còn một mình trong hầm, Đạt mang tất cả những lá thư của Dung ra đọc lại. Nhận xét của Mánh đêm qua đã khiến đầu óc anh tỉnh táo hơn. Và quả thực, đọc đến lá thư cuối cùng thì anh cũng nhận ra sự giả dối, trắng trợn của nó. Căm giận tràn đầy, tim anh như thắt lại, anh vò nhàu nát tất cả những trang thư đó rồi châm lửa đốt. Nhìn ngọn lửa xanh lè cứ liếm dần những trang giấy bội bạc ấy, anh nhếch mép cười. Thế là hết! Từ nay anh sẽ không vướng bận gì cả. Sẽ không còn đau đáu chờ đợi một chuyến thư vào. Sẽ không còn những phút ngồi một mình mơ mộng và tủm tỉm cười mỗi khi nghĩ tới ngày gặp lại. Sẽ không còn gì cả. Tất cả đã tiêu tan như những tàn tro kia. Bây giờ anh chỉ còn chiến đấu. Chiến đấu và chiến đấu.

     Mánh đã nhận ra điều đổi khác đó trong đôi mắt Đạt. Nó đang ngấm đòn. Nó sẽ đau khổ, nhưng rồi khi hiểu ra tất cả, nó sẽ bình tĩnh trở lại. Lúc đó sự khinh bỉ sẽ lấn át sự nuối tiếc. Nó sẽ thấy cái con trời đánh ấy chẳng có gì đáng để nó phải đau khổ nữa. Nhưng phải có thời gian, cái gì mà chẳng cần thời gian. Mong sao nó bình tĩnh lại được trước khi bước vào chiến đấu thực sự. Đối mặt với kẻ thù cần phải tỉnh táo, bởi vì dù là sự hi sinh cũng chỉ có sự hy sinh tỉnh táo mới có ích cho cuộc chiến đấu của chúng ta

3

     Trước khi lên đại đội hội ý và báo cáo tình hình trong ngày, Mánh ghé qua tiểu đội một. Tiểu đội trưởng Hưng ngồi bên cửa hầm, bàn chân vẫn quấn băng kín mít. Thấy anh đến, Hưng quẳng cho anh một đoạn gỗ:

     - Ngồi xuống đây tí đã anh!

     - Thôi, mình phải đi hội ý bây giờ. Chân đã đỡ chưa?

     Hưng lắc đầu:

     - Vẫn còn sưng, anh ạ! Chỗ bị dập chưa lên da non.

    - Biết tay chưa? Làm ăn tiếu táo nó tai hại thế đấy!

    Hưng nhăn nhó:

    - Chỉ tại mấy ông tướng nghịch. Em đang ở dưới hầm vét đất, mấy thằng ôn con ở trên đùa nghịch đạp phải tảng đá to như cái ba lô vừa mới bẩy lên, thế là nó lăn ầm xuống… Anh không biết chứ, lúc đó em tưởng nát bét bàn chân.

     Mánh cúi xuống, nâng bàn chân trái của Hưng lên xem rồi kết luận:

     - Có lẽ phải đi viện, cậu ạ!

     Hưng giãy nảy lên:

     - Không! Mấy hôm là nó khỏi thôi mà!

     Mánh lắc đầu:

     - Không ổn. Lỡ mà có lệnh cơ động gấp thì làm sao?

     Hưng quả quyết:

     - Em đi được. Đây, em đi thử cho anh xem.

     Hưng đứng bật dậy, định đi mấy bước cho trung đội trưởng xem, nhưng Mánh vội ấn vai Hưng xuống:

     - Thôi, rởm vừa vừa chứ. Thế cho các anh biết thân.

     Hưng ngồi xuống, đưa tay lên gãi gãi mái tóc xoăn đen mượt của mình rồi đột ngột ngẩng lên nhìn Mánh:

     - Anh Mánh này… Em nói thật, anh đừng để em mắc khuyết điểm không phục tùng mệnh lệnh. Nếu đại đội bắt em đi viện là em cứ ì ra đấy.

     Mánh trợn mắt:

     - Ghê nhỉ! Anh dám thách thức với tổ chức cơ à? Trò đùa! Kỷ luật là kỷ luật. Đại đội ra lệnh anh không chấp hành mà được à?

     Hưng nhăn nhó vẻ đau khổ:

     - Nhưng anh nói với đại đội một tiếng. Khổ lắm! Ai muốn thế này làm gì cơ chứ?

     Nhìn vẻ mặt Hưng trung đội trưởng Mánh suýt phì cười. Anh cũng hù cho Hưng sợ vậy thôi, chứ cũng chưa đến nỗi nào. Vừa lúc đó, Ổn hát nghêu ngao đi tới. Thấy trung đội trưởng, cậu ta lè lưỡi một cái rồi im bặt. Đợi cho Mánh đi khỏi, Ổn mới dám bước tới:

     - Thế nào? Anh Hưng?

     Hưng quắc mắt:

     - Còn thế nào? Chúng mày làm khổ tao. Ông ấy đang định đuổi tao đi viện kia kìa.

     Ổn tắc lưỡi:

     - Ông ấy dọa chơi đấy!

     Rồi Ổn nháy mắt, chỉ về phía đại đội:

     - Để em lên “oa-tơ-ghết” xem sao?

     Ổn nhe bộ răng sún ra cười rồi nhanh như sóc, nhảy qua những bụi ô rô tiến về phía hầm đại đội. Các trung đội trưởng đã đến đủ và đang báo cáo tình hình. Trung đội trưởng Mánh đến muộn, chính trị viên Thìn chỉ một khúc gỗ và bảo:

     - Anh ngồi đây nghe luôn anh Mánh!

     Rồi Thìn lại cười, hỏi:

     - Chúng nó bảo lúc máy bay bắn cối, anh sợ quá chúi xuống suối nằm, đúng không?

     Mánh cười khẩy:

     - Nói láo! Thằng này coi mấy cái “chuồn chuồn” ấy ra cái gì.

     Đại đội trưởng Quảng khích thêm:

     - Không nhảy xuống khe sao thấy anh ướt như chuột thế?

     - Hà hà… tại cái túi nước. Mẹ khỉ, mình vác nước trên vai, lúc chạy máy bay quên khuấy, buông tay ra. Thế là nó đổ ào ra, tưới từ đầu đến chân.

     - Vậy là anh cũng có hoảng?

     - Thì… đã sao? Tránh voi chẳng xấu mặt nào!

     Đại đội trưởng Quảng nháy mắt cười rồi quay sang trung đội trưởng trung đội hai:

      - Nào, báo cáo tiếp đi Lân. Quân số hai mươi lăm. Ốm một. Rồi! Tiếp tục! Vũ khí trang bị như cũ. Được, con số cụ thể tôi có rồi. Tình hình tư tưởng của bộ đội ra sao?

      Lân suy nghĩ một lúc rồi tiếp tục báo cáo:

     - Về tư tưởng của anh em thì chẳng có gì đặc biệt, chỉ có điều ai cũng sốt gan sốt ruột lắm rồi. Tình hình mặt trận càng phát triển thuận lợi, anh em càng sốt ruột. Họ liên tục chất vấn tôi tại sao đơn vị ta lại cứ ngồi ì ở cái xó này? Khó trả lời quá! Đã có lúc tôi nghĩ, có lẽ đại đội đừng nên thông báo tin chiến thắng dồn dập quá!

     Chính trị viên Thìn lắc đầu:

     - Thế anh cứ tưởng rằng cứ để anh em mù tịt, không biết gì đến tình hình diễn biến chung của chiến dịch thì họ yên tâm à? Không đâu! Anh em họ tinh lắm. Dù không thông báo thì  bằng những kinh nghiệm riêng của mình, bằng sự nhạy cảm đặc biệt của người chiến sỹ, họ vẫn đo được nhịp độ phát triển của chiến dịch. Vấn đề là làm thế nào để anh em ta hiểu rằng, ta nằm đây cũng là đang nằm trong thế trận chung của chiến dịch, chứ không phải ta đang ở ngoài cuộc.

    Trung đội trưởng Lân khẽ xua tay:

    - Không ăn thua anh ạ. Tôi đã giải thích như thế nhưng anh em họ bảo rằng: “Anh nói thế thì nói chứ chính anh cũng sốt ruột bỏ cha nữa là tụi tôi”. Thì đúng như thế, biết làm sao? Tôi cũng xin thắc mắc, tại sao ta cứ chịu nằm bẹp ở đây trong khi các đơn vị bạn đang đánh ran lên xung quanh?

    Mọi người cất tiếng cười vang. Đại đội trưởng Quảng quay sang chính trị viên Thìn:

    - Tay Lân thế mà thâm. Nó nói thế là có ý bảo: “Ban chỉ huy đại đội có nói thánh nói tướng gì thì nói chứ chính các cha cũng đang sôi ruột lên chứ hơn gì anh em!”. Phải không ông Lân?

    Trung đội trưởng Lân vội xua tay cải chính:

    - Ấy chết! Các anh cứ suy diễn thế thì anh em hết nhờ.

    - Vậy thì thế này – Thìn mỉm cười nhìn mọi người – chiều nay lên báo cáo tình hình ở tiểu đoàn mình cũng sẽ nói như vậy. Mình sẽ nói rằng chúng tôi cũng đã giải thích tình hình nhiệm vụ để anh em yên tâm, nhưng họ bảo: “Các thủ trưởng đại đội nói thế chứ chính các ông ấy  cũng có yên tâm mà ngồi chờ đâu, các ông ấy cũng đang thắc mắc, có điều là cán bộ nên không tiện nói ra thôi”. Thế nào ông Khẩn, ông Nguyên cũng động lòng và bảo: mấy thằng nói thế khác nào nó nói kháy ban chỉ huy tiểu đoàn. Có phải các anh định nói rằng ban chỉ huy tiểu đoàn nói gì thì nói chứ cũng đang nhấp nhổm, cũng thắc mắc với trên um cả lên chứ hơn gì anh em. Cứ như vậy, dưới huých lên trên, sẽ tới sư đoàn cho mà xem…

Đại đội trưởng Quảng vột ngắt lời:

    - Thôi! Lý sự tào lao mãi. Tóm lại là tất cả đều đang sốt ruột. Phải không? Cứ cho đánh mù trời như trung đoàn 4 là yên hết.

    … Mới chỉ “oa-tơ-ghết” được đến đó, Ổn liền hớt hải chạy về. Một bộ sậu gồm Phùng, Kén, Lúa, Hải… đang ngồi chầu hẫu trước cửa hầm tiểu đội trưởng Hưng, hoa chân múa tay tán rào rào. Thấy Ổn về, mặt mũi tươi tỉnh, Hưng liền hỏi đón:

    - Thế nào?

    Ổn không trả lời ngay mà đứng chống nẹ, hỏi lại:

    - Vậy thì các anh đang bàn luận cái gì mà ồn cả lên như chợ vỡ thế?

    Cái giọng Quảng Bình của Kén chua như dấm nhung lại cố gắng gườm lại cho nó bè ra, vẻ quan trọng:

    - “Bộ tư lệnh” đang họp, bàn tình hình chiến sự. Coi bộ ngán quá hè? Nằm dài, tay chân tớ đâm trắng bệch ra như bà đẻ rồi các cha này. Ăn rồi ngủ, ngủ rồi túm năm tụm ba tán róc, ớn quá rồi!

    - Đấy đấy! - Ổn xua tay ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi tuyên bố - không phải chỉ cánh ta mà cả cán bộ trung đội, đại đội - Ổn hạ giọng xuống một chút, liếc xung quanh xem có ai nữa không rồi mới thì thào – Thậm chí cả tiểu đoàn nữa cũng đang thắc um lên kia kìa – rồi Ổn nhắc lại lời của đại đội trưởng – Tóm lại là tất cả đang sốt ruột phải không? Cứ cho đánh mù trời lên như trung đoàn 4 là xong hết.

    Hưng hỏi tiếp:

    - Thế còn việc của tớ?

    Bấy giờ Ổn mới chợt nhớ ra:

    - À… việc của anh… đại đội chưa bàn đến!

    Hưng nhăn mặt:

    - Chán bỏ mẹ! Cốt có việc ấy…

    Lúa vỗ vai Hưng an ủi:

    - Anh cứ yên trí. Không ai bắt anh đi viện lúc nước sôi lửa bỏng thế này đâu.

    Kén hăng hái tuyên bố:

    - Nếu đại đội lệnh cho anh phải về tuyến sau, chúng tôi sẽ kiến nghị…

    Chỉ một lát sau, mọi người đã quên ngay cái chân đau của Hưng, quay sang bàn những chuyện khác. Thoạt đầu là chuyện trung đoàn 4 đánh Thuần Mẫn rồi chuyển qua tranh cãi xem ta có đánh Buôn Ma Thuật không? Thoắt cái đã ngắt sang sang chuyện săn nai ở Gia Lai đầu mùa mưa năm ngoái, chuyện con voi của binh trạm bỗng nhiên nổi giận kéo đổ tất cả nhà cửa của binh trạm bộ rồi chạy vào rừng… Tóm lại, toàn là những chuyện không đầu không cuối. Họ cứ ồn ào tranh cãi như vậy cho đến khi trung đội trưởng Mánh đi hội ý về, hét um lên:

    - Trời ơi! Vón cục cả lại với nhau thế này à? Chiều nay nó đã gõ vào đầu rồi đấy các bố ạ. Nó mà cho một quả xuống đây rồi lại khiêng nhau không kịp.

    Lính tráng im bặt, ngơ ngác nhìn nhau rồi vỗi vã tìm đường lỉnh ngay. Anh trung đội trưởng “lắm điều” đứng nhìn các chiễn sỹ của mình rồi lắc đầu ca cẩm:

    - Đến mệt vì cái đám cứng đầu cứng cổ này. Chuyện ở đâu mà lắm thế không biết. Sểnh ra một tí là y như rằng…

 CHƯƠNG BA

    1

    Chiếc xe dép rời khỏi sân bay Buôn Ma Thuột, lao vun vút trên con đường rợp bóng cây. Trời về chiều. Nắng dịu. Trên đường phố người xe tấp nập. Những tà áo màu phấp phới, những chiếc xe du lịch bóng loáng lao vun vút. Những tiếng rao hàng lảnh lót. Thỉnh thoảng một chiêc GMC lấm láp trở đầy lính sư đoàn 23 bóp còi inh ỏi lao như điên trên đường nhựa. Cột ăng-ten đài vô tuyến truyền hình Buôn Ma Thuột vút trên nền trời xanh thẳm.

    Tất cả vẫn bình yên, cái bình yên lạ lùng của một thị xã cao nguyên.

    Thanh Mai ngả mình trên chiếc ghế tựa, lơ đãng ngắm cảnh phố phường. Cô chẳng dừng mắt ở chỗ nào, dường như cô chỉ chú ý với cái nắng mỡ màng, loang loáng trên mặt đường. Một cảm giác thờ ơ, lãnh đạm xâm chiếm tâm hồn cô. Đáng lẽ, lần đầu tiên đặt chân tới thị xã xanh tươi này, cô phải say sưa ngắm nhìn cảnh vật, phải vui thích khi nhìn thấy những đồi thông , những vườn cà phê hoa nở trắng xóa. Nhưng tất cả những điều đó không hấp dẫn nổi cô, cô chỉ cảm thấy tất cả đều nhàm chán.

    Đại úy phi công huỳnh Thuận ngồi trên ghế lái, tay cầm vô lăng, miệng huýt sáo một bài tình ca quen thuộc. Thỉnh thoảng, qua cặp kiếng mát, anh lại liếc nhìn cô thiếu nữ ngồi bên cạnh để ngầm đoán những ý nghĩ của cô. Nhưng vô ích, anh chẳng tìm thấy một nét xúc động nào trên gương mặt cô gái kiêu kỳ ấy.

Mai đẹp thật. Chính vì cái vẻ thờ ơ, lãnh đạm ấy lại càng khiến cho Mai đẹp hơn. Chẳng thế mà ở Sài Gòn, giới sinh viên gọi cô là hoa hậu của trường luật. Hình như chưa một chàng trai nào lọt vào đôi mắt xanh của nàng. Cô ta mơ ước một người bạn đời như thế nào? Có trời mà hiểu! Thuận không hy vọng gì ở vai trò mối lái của thiếu tá Quang, anh trai của Thanh Mai, hiện đang là trưởng phòng hai của sư đoàn 23. Ít ra anh cũng đã cảm thấy mình sẽ thất bại. Mai chưa hề tỏ ra có thiện cảm với anh, kể từ khi anh đưa cô ra phi trường Tân Sơn Nhất rồi đưa lên chiếc máy bay vận tải C.130 của mình, mặc dù cô vẫn tỏ ra rất lịch sự và ngoan. Nhưng vẫn còn một chút hy vọng, có thể uy tín của Quang sẽ làm tình hình khả quan hơn. Nghĩ vậy, anh khẽ mỉm cười và lại tiếp tục thổi sáo mồm.

    Còn Mai, cô cũng chợt thấy ngạc nhiên. Ờ, vậy là mình đã tới Buôn Ma Thuột, một nơi hoàn toàn xa lạ đối với mình. Sao đột nhiên lại có sự kiện này nhỉ? Để nhớ lại tất cả coi…

    … Sài Gòn ảm đạm bước sang một năm mới. Ở đâu cũng nghe người ta la lối kể về sinh hoạt mắc mớ, thuế khóa  nặng nề, đĩ điếm tràn lan… Cả một xã hội đang suy thoái, băng hoại vì chiến tranh kéo dài. Bọn sinh viên chúng mình vẫn ngày ngày lên giảng đường nhưng chẳng còn hứng thú gì việc học hành. Chiến tranh đã tàn phá nặng nề tâm hồn tuổi trẻ. Bạn bè thân thiết cũng bị chiến tranh làm cho ly tán. Thi tú tài rớt như sung. Rồi thì bọn con trai còn đường nào khác hơn là vào lính hay chạy áp phe. Con gái, đứa may mắn thì lấy chồng, rồi đẻ con. Đứa không may mắn thì đi làm sở Mỹ để rồi lấy Mỹ hoặc “gần như lấy Mỹ”. Thỉnh thoảng lại đọc trên báo những dòng phân ưu của thân nhân vài người bạn trai chết trận hoặc được tin một đứa bạn gái đã lấy Mỹ hay đã rớt vào nanh vuốt của bọn Tú Bà. Tất cả những người kém may mắn ấy đều có chung một nguồn gốc là nghèo và không có thế lực. Còn Mai thì ngược lại, con đường học hành phẳng lì như xa lộ. Chưa thi nhưng Mai biết mình không thể rớt. Ai dám đánh rớt ái nữ của một nhà buôn lớn, bồ bịch với bồ bịch của ông tổng nha cảnh sát, với ông giám đốc ngân hàng Á Đông và một lô những ông đại tá, trung tá có thế lực ở đô thành. Cô không tin vào học lực của mình, mặc dù cô học giỏi. Cô chỉ tin vào cái gia tài kếch xù của ba má mình. Cái đó sẽ đảm bảo cho cô một tương lai vững chắc, cũng như đảm bảo cho anh cô, một người mà theo cô là chẳng có tài cán gì đặc biệt, đã từ một thiếu úy mèng trong vòng mấy năm đã nhảy tót lên tới thiếu tá và nếu chiến tranh kéo dài, không chừng anh cô còn lên làm tướng nữa (!).

    Nhưng sao cô chán ngấy tất cả những cái đó. Cô buồn nản khi thấy mình nằm trong vòng tay o bế của đồng tiền. Vượt khỏi cái vòng tay o bế đó, lập tức cô sẽ sa xuống “dưới đáy” của xã hội. Nhiều lúc cô tự hỏi: vậy thì, con người với tất cả tài năng, nghị lực của họ dùng để làm gì? Bản thân cô cũng vậy, cô học luật, học khá giỏi nhưng cũng chẳng hiểu học rồi để làm gì? Có lẽ chỉ để trong tay có một tấm bằng cử nhân luật khoa, để chứng tỏ rằng cô là con cái của giới thượng lưu, có học hành, đỗ đạt. Chứ cô đâu có cần tấm bằng cử nhân ấy để kiếm sống?

    Thấy cô đẹp và quan trọng hơn, hấp dẫn hơn là sẽ có một món hồi môn kếch xù, bon con cha cháu ông bao quanh cô ve vãn, tán tỉnh. Tình yêu của họ mới hạ đẳng làm sao? Cô khinh bỉ họ nhưng họ lại tưởng cô làm cao. Rồi, khi biết cô yêu Tuấn, một sinh viên nghèo thì họ lại đem lòng ghen ghét, họ dèm pha, chế nhạo, tìm mọi cách bôi nhọ danh dự của Tuấn. Nhưng họ càng điên cuồng ghen ghet, Mai càng ra mặt yêu Tuấn hơn để chọc tức họ. Tuấn nghèo nhưng trí thức và tư cách hơn hẳn họ cái đầu. Anh sống trung thực và cao thượng. Mai có một dự tính cho tương lai của mình: tốt nghiệp xong cô sẽ lấy Tuấn, bất chấp sự ngăn cản của gia đình. Ba má cô sẽ không đồng ý cuộc hôn nhân ấy và có thể vì thế mà nếu cô quyết lấy anh, cô sẽ chẳng được cái gì trong cái gia tài kếch xù kia của ba má. Nhưng cô có cần gì cái đó, cô chỉ cần một tình yêu, một tình yêu chân chính và không vụ lợi. Người ta có thể cho hành động của cô là điên khùng, là “nổi loạn”. Có sao? Ở xã hội này cái gì mà chẳng loạn.

    Nhưng bỗng một sự kiện đột biến lại xảy ra trong cuộc đời cô. Tuấn bị bắt giam vì tội giết người cướp của. Tin ấy đến với cô như sét đánh ngang tai. Có thể nào như thế được? Một con người như Tuấn mà cũng bị xô đẩy tới hành động tội lỗi đó hay sao? Vậy thì cô còn biết tin vào ai ở cuộc đời này?

    Đau xót vì niềm tin bị xụp đổ, vì vị thần tượng mà cô hằng tôn thờ bỗng chốc trở thành ác quỷ, cô không còn thiết gì đến việc học hành. Mỗi bận tới lớp, cô nhận thấy ánh mắt đắc thắng của bọn con trai nhà giàu. Chúng khoái trá ngắm nhìn nỗi đau khổ của cô, chúng vui mừng vì Tuấn đã phạm tội, nghĩa là cũng giống y như tất cả bọn chúng, nhưng vì nghèo hơn bọn chúng nên đã sa lưới pháp luật. Và… chúng lại ve vãn cô.

Mấy lần cô tìm tới nhà lao của Nha cảnh sát đô thành để xin gặp Tuấn nhưng đều thất vọng, họ không cho Tuấn được tiếp xúc với bất cứ ai khi chưa thành án. Cô băn khoăn, không hiểu có thực anh đã bị đồng tiền tội lỗi cám dỗ, xô đẩy hay không? Có phải vì anh sợ mình cứ nghèo mãi sẽ mất Mai hay không? Hay đó chỉ là kết quả của một sự vu khống, một cạm bẫy, một lầm lẫn?... Giữa cuộc đời đầy ngang trái, ngoắt ngoéo này, trắng đen lẫn lộn là chuyện bình thường.

    Thế rồi cô bỏ học. Ba cô căn vặn, cô thẳng thắn trả lời:

    “- Học để làm gì, thưa ba? Nhà ta quá giàu rồi, đủ để cho chúng con sống cuộc đời vương giả. Vậy thì, việc gì con cứ phải vùi đầu vào cái đống sách vở vô nghĩa ấy? Luật lệ là cái quái quỷ gì ở cuộc đời này, thưa ba?”

    Đầu tháng ba, gia đình Mai đột nhiên nhận được tin thiếu tá Quang, anh trai của Mai, hiện tòng sự tại sư đoàn 23 bị ốm. Cả nhà xôn xao lên. Mai nảy ra ý định đi xa một chuyến xem “thiên hạ họ sống ra sao?”. Cô xin ba má cho phép lên cao nguyên thăm anh. Gia đình còn đang băn khoăn thì Huỳnh Thuận, bạn cũ của Quang tới thăm. Biết Thuận sắp bay lên Buôn Ma Thuật, gia đình đồng ý để Mai đi cùng với anh.

    … Đấy, tất cả là như vậy. Mai mỉm cười mơ hồ. Còn bây giờ thì chuẩn bị mà chịu trận. Thế nào anh Quang chẳng xỉ và một chầu vì tội bỏ học của cô. Mặc ảnh, mình có chính kiến của mình, miệng lưỡi của mình cũng vào “loại hảo hạng”, đủ sức đấu hót với ảnh.

 2. 

     Chiếc xe Dép phanh két lại trước cổng lớn của căn cứ sư đoàn 23. Đại úy Thuận quay sang nói với cô:

     - Tới nơi rồi đó. Em ngồi yên đây để anh đi gọi điện cho anh Quang ra đón chúng mình nghen!

     Mai khẽ gật đầu và chợt bật cười vì hai tiếng “chúng mình” mà Thuận cố tình nhấn mạnh. Thuận tưởng lầm là Mai vui nên cũng hớn hở ra mặt. Anh hăm hở bước xuống, đi lại phía những người lính gác cổng. Họ đứng nghiêm chào anh. Thuận đưa họ coi giấy tờ rồi tiến lại buồng điện thoại. Ngồi trên xe, Mai nghe thấy mấy anh lính trêu Thuận:

    - Bồ của đại úy coi được quá hà!

    Mai chợt nhíu mày, khó chịu vì câu đùa ấy. Nhưng chẳng lẽ lại đứng ra cời cời cãi với mấy anh lính đó để nói rằng mình đâu có phải bồ bịch gì của Thuận? Vì thế cô làm như chẳng nghe thấy câu đùa ấy, mải mê nhìn con đại bàng bằng đồng đun trên cổng căn cứ sư đoàn 23. Cô băn khoăn tự hỏi: tại sao người ta lại cứ phải chọn các loại ác thú làm biểu tượng? Toàn những cái tên mới thoạt nghe đã thấy gớm ghiếc rồi. Nào là “hổ xám”, “hổ vằn, “trâu điên”, “ó biển”, v.v. Sao người ta không chọn chim bồ câu, chim sơn ca, họa mi hay những loài vật đáng yêu khác để làm biểu tượng?

    Thoáng thấy chiếc xe du lịch kiểu Pơ-giô của anh mình từ trong con đường rợp bóng hàng dương lao ra, Mai hớn hở bước xuống đưa tay vẫy vẫy. Quang đậu xe bên trong cổng rồi tiến lại phía em. Lúc này Quang mặc thường phục với chiếc sơ mi trắng bong nên Mai cảm thấy anh mình hiền hơn, đáng yêu hơn. Cô chạy lên mấy bước, reo lên như đứa trẻ:

    - Anh hai!

    Quang đứng chống nẹ, lắc đầu nhìn em gái:

    - Trời đất! Bà nhỏ dám mò lên tận đây sao?

    Mai nắm lấy tay anh nũng nịu:

    - Anh biết hông? Anh viết thư về nói bịnh, ba má lo muốn chết à!

    Quang cười lớn:

    - Anh bị sốt rét sơ sơ thôi. Chớ bộ ba má tưởng anh sắp chết rồi chắc? Ủa, vậy em bỏ học để lên thăm anh?

    - Em bỏ hẳn rồi!

    Quang trố mắt vì ngạc nhiên:

    - Bộ em điên rồi sao? Bỏ học, kỳ quặc thiệt!

    Mai lắc đầu:

    - Chẳng có chi kỳ hết. Em ngán thì bỏ. Học mà làm chi anh Hai? Dù có làm luật sư thì em vẫn phải lấy chồng, vẫn phải đẻ con, vậy thì cần gì phải học.

    Quang cất tiếng cười lớn, quay lại nói với Thuận:

    - Đó, cậu thấy chưa? Sau này cậu cứ chiều được cái tính gàn của cô ấy cũng đủ mệt rồi.

    Mai chợt xịu mặt, lườm anh một cái rồi vội bước lên chiếc Pơ-giô của anh trai mình. Quang cũng bước lên xe nổ máy, chiếc xe nhẹ nhàng lướt đi. Qua kính chiếu hậu, Mai thấy chiếc Dép của Thuận bám sát. Cô hờn dỗi hỏi:

    - Bộ anh tính gả chồng cho em sao?

    Quang gật đầu:

    - Vậy đó! Em chịu không? Đại úy phi công. Xôm rồi còn gì?

    Mai cất tiếng cười khanh khách:

    - Anh làm mai(1) vụng về quá. Không xong đâu!

    - Anh Thuận cũng khá đấy chứ?

    - Nhưng em không yêu anh ấy, biết làm sao được?

    Biết tính Mai bướng bỉnh, làm găng không được, Quang đành im lặng. Chiếc xe quẹo qua một ngã ba nữa rồi đậu trước ngôi nhà ba tầng. Quang mở cửa xe bước ra và nói với em:

    - Anh ở lầu một. Chúng ta lên nhà luôn chứ?

    Rồi Quang quay lại gọi Thuận đang còn đứng ngu ngơ trước đầu xe:

    - Ê! thằng cù lần, lên nhà chứ?

    Quang ở một mình hai phòng rộng, có máy điều hòa nhiệt độ và khá đầy đủ tiện nghi sinh hoạt. Mai nhận ra ngay khiếu thẩm mỹ tinh tế của anh mình trong cách trang hoàng căn phòng tiếp khách, nhưng cô chợt cau mày khi nhìn thấy bức ảnh khỏa thân của một cô gái Nhật:

    - Anh vẫn thường coi play-boy đấy à?

    - Ồ… thỉnh thoảng cũng có ngó qua. Kìa Thuận, ngồi xuống đi, chi mà cứ đứng như trời trồng vậy?

    Quang mở tủ lạnh lấy trái cây và cô-ca chất đầy bàn. Mai tự nhiên thấy khát, cô mở liền mấy chai cô-ca rót ra cốc cho mọi người và rót vào cốc của mình. Xong xuôi, cô mỉm cười nhìn Thuận:

    - Tự nhiên nghe anh Thuận!

    Trong khi Thuận và Quang chuyện trò, Mai vẫn điềm nhiên ngồi ăn trái cây. Cô muốn tỏ ra mình chẳng cần phải giữ gìn ý tứ với ai cả. Quang là anh cô. Còn Thuận, cô muốn làm cho Thuận ngán vì tính ngang bướng, gàn dở của mình. Nhưng cả hai đang say chuyện, dường như chẳng ai chú ý tới cô. Họ đang bàn về tình hình chiến sự ở cao nguyên này. Mai vừa ăn vừa tò mò dỏng tai lắng nghe.

    Thuận nói:

    - Sắp căng rồi đó, anh Quang ạ. Ở trên quân đoàn, tôi nghe thấy mấy ổng có vẻ bấn bíu lắm. Mấy cha sỹ quan tình báo, tác chiến lúc nào cũng thấy nhăn nhó, đau khổ như bị bệnh táo bón. Không hiểu năm nay Việt Cộng họ sẽ dần ta ở đâu? Plây Cu hay Công Tum? Hay cả là cả hai? Có trời mà hiểu! Anh là sĩ quan tình báo, chắc cũng đang kẹt?

    Quang khẽ gật đầu, xác nhận:

    - Cũng mù mịt như cậu mà thôi. Trên quân đoàn thông báo là Việt Công đang gia tăng sức ép quanh thị xã Plây Cu, phát hiện nhiều đường xá mới làm hướng về thị xã và các căn cứ lớn của ta. Có lẽ hướng chính của chiến dịch năm nay họ sẽ nhằm vào Plây Cu.

    - Tôi biết, mình đang gia tăng phòng thủ Plây Cu. Nhưng biết đâu, sự thật lại có thể khác đi. Chẳng hạn, Việt Cộng không tiến công vào Plây Cu hay Công Tum mà chơi thẳng vào Buôn Ma Thuột thì sao?

    Quang trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói:

    - Điều đó cũng có thể xảy ra lắm. Hôm qua, bọn mình mới tóm được một tay trinh sát Việt Cộng. Hắn có vẻ thông minh, đặc biệt, hắn xứng đáng được gọi là một người dũng cảm, có nghị lực và tư cách, gan số dách nữa. Ban hai của ta chưa khai thác được gì ở hắn cả. Nếu là lính trinh sát, hắn có thể biết nhiều điều thú vị, có thể chỉ cho chúng ta biết hướng chính của chiến dịch ở đâu? Sáng mai, bọn mình lại tiếp tục hỏi cung, chẳng hiểu hắn có chịu mở miệng hay không?

    Mai lập tức bị thu hút vào câu chuyện của Quang. Tới đây Mai buột miệng hỏi:

    - Vậy anh có tra tấn người ta không?

    Quang lắc đầu:

    - Không! Đó không phải là công việc của anh, anh chỉ hỏi cung thôi.

    Mai nhíu mày:

    - Vậy là có đánh đập, phải không anh Hai?

    Quang quay lại ngạc nhiên nhìn em gái:

    - Ủa, em hỏi những chuyện đó là chi?

    - Để biết!

    - Có hay ho chi những chuyện đó mà em cần biết?

    Mai cười thách thức:

    - Vậy đó. Em muốn xem anh hỏi cung nữa.

    Quang gieo mình xuống đi-văng, cười lớn:

    - Cậu xem, cô em gái cưng của tôi muốn coi mặt Việt Cộng nữa đó. Được, mai anh sẽ cho em tới coi. Nhưng cấm không được chộn rộn, chỉ coi thôi nghe.

    Mai vui thích ngả đầu vào vai anh:

    - Anh Hai cưng em vậy ha?

 Bốn giờ chiều, Thuận xin phép về phi trường. Quang tiễn bạn ra cửa và nháy mắt, hỏi:

    - Đã đàm phán gì chưa?

    Thuận nhăn nhó đáp:

    - Coi bộ không êm đâu anh. Cổ khó tính quá!

    Quang vỗ vai, an ủi Thuận:

    - Tánh nó mình biết, hơi gàn đó. Phải từ từ, nóng vội là hỏng ăn đó cha nội.

    Tiễn Thuận ra xe xong, Quang trở về phòng định tâm sự với em gái một lát nhưng anh em chưa kịp nói gì thì cửa phòng lại xịch mở. Một tên Mỹ cao lớn, bụng phệ, mũi khoằm khoặm, tóc vàng như rơm bước vào. Hắn khẽ nghiêng mình kiểu cách khi nhìn thấy Mai:

    - Ô! Xin lỗi bà và ông Quang. Hình như tôi đến không phải lúc?

    Quang chợt đỏ mặt, vội vàng cải chính:

    - Ông lầm rồi đó ông Giôn! Xin giới thiệu, đây là cô Thanh Mai, sinh viên luật, em gái tôi mới từ Sài Gòn lên. Còn giới thiệu với Mai, đây là thiếu ta Giôn Mác-ti, cố vấn của bọn anh. Mời ông Giôn ngồi chơi với anh em tôi.

    Tên Mỹ khẽ nhếch mép cười làm thân:

    - Xin lỗi! Rất hân hạnh làm quen với cô Mai, một luật sư tương lai của đất nước tươi đẹp này.

    Mai khẽ lắc đầu:

    - Ông lại nhầm nữa rồi, ông Giôn. Tôi không thể trở thành luật sư, vì tôi đã bỏ học.

    Tên Mỹ nhún vai, tỏ vẻ thất vọng:

    - Vậy à… Thật đáng tiếc. Vậy cô định học nghề gì, sau khi đã thôi không theo học ngành luật đáng kính đó?

    Mai nói bừa:

    - Tôi định làm báo ông Giôn ạ.

    Tên Mỹ lại cất tiếng cười lớn, khiến cái bụng chang bang của hắn cũng nảy lên bần bật:

    - Ô! Thật là một ý nghĩ tuyện vời, lãng mạn. Hay lắm! Cần có những ký giả xinh đẹp như cô để ca ngợi vẻ đẹp tuyệt vời của đất nước này.

     Mai nói móc:

     - Và ca ngợi tình thân hữu Việt – Mỹ nữa chứ ông Giôn?

    Tên Mỹ đã hiểu ý Mai nhưng vẫn tiếp tục cái giọng điệu ban đầu:

    - Đúng vậy, thưa cô! Mọi cái tốt đẹp đều cần được ca ngợi.

    Thấy để em gái mình tiếp tục nói chuyện với tên thiếu tá Mỹ không lợi, Quang vội chen vào:

    - Xin lỗi thiếu tá! Ngài có điều gì cần chỉ dẫn chúng tôi chăng?

    Tên Mỹ liền xây sang Quang:

     - Có tình hình …nghiêm trọng, ông Quang ạ. Tình báo của ta phát hiện thêm nhiều dấu vết khả nghi xung quanh Buôn Ma Thuột. Tôi đã nghiên cứu kỹ các báo cáo của những đội thám sát mặt đất và kết quả điều tra không ảnh. Oa – sinh – tơn và Sài Gòn đang giục chúng ta phải nhanh chóng xác định đâu là hướng chính chiến dịch này của Việt Cộng. Ông hiểu chứ? Vì vậy phải nhanh chóng làm sao cho tên trinh sát Việt Cộng đó mở miệng.

    Quang khẽ gật đầu:

    - Tôi hiểu và sẽ cố gắng thi hành tốt trách vụ.

    Tên Mỹ đứng lên chìa tay cho Quang:

    - Nếu có thể, xin mời ông và cô Mai tối nay dùng bữa chỗ tôi. Cô Mai tự nhiên, tôi và ông Quang là chỗ quen biết từ lâu.

    Quang vội đỡ lời em:

    - Cám ơn ông! Tối nay, tôi và em Mai đã nhận lời với một người ban. Xin ông để cho dịp khác.

    Tên Mỹ nghiêng mình chào Mai rồi khệnh khạng bước ra. Khi hắn đi khuất, Mai bực dọc nói với anh:

    - Tên Mỹ đó sao em thấy đáng ghét quá, anh Hai?

    Quang nhìn em, khẽ cười:

    - Em thì có vừa lòng ai bao giờ đâu?

    Mai vẫn tiếp tục bài bác:

    - Hắn lich sự theo kiểu giả dối một trăm phần trăm. Lời lẽ từ trong miệng hắn, cứ trơn tuột y như đọc kinh thánh. Mà sao hắn nói tiếng Việt giỏi thế anh Hai? Không ngọng nghịu gì cả?

    - Chuyện! Hắn là tay “Xịa” có hạng mà em. Nói ra thật mắc cỡ, có khi hắn rành rẽ đất nước mình hơn cả chính mình nữa. Hắn là một thằng Mỹ tuyệt vời.

    Mai chợt cười phá lên. Cười đến chảy nước mắt, nước mũi. Quang ngạc nhiên hỏi:

    - Ủa! Sao em cười dữ vậy? Như con điên ấy.

    Mai rút khăn tay chấm nước mắt:

     - Em cười mấy tiếng “thằng Mỹ tuyệt vời” mà anh vừa nói. Rõ ràng anh vừa phục hắn lại vừa khinh hắn. Phục vì hắn nhiều đô-la, nhiều vàng, nhiều phương tiện và nhiều thủ đoạn; khinh vì bọn hắn giả dối, vụ lợi. Ở Sài Gòn, bọn em đã nói với nhau rằng chính tụi Mỹ là nguyên nhân của tất cả mọi sự lộn xộn trong xã hội này.

    Quang nhìn em, sững sờ:

    - Em nói hệt như Việt Cộng.

    Mai gật đầu bướng bỉnh:

    - Nếu Việt Cộng nói vậy thì em đồng ý cái rụp! Anh không thấy bọn nó sang đây làm trời à? Thấy anh quỵ lụy trước tụi nó, em xấu hổ lắm. Để coi, anh nói thế nào nhỉ: “Ngài có gì cần chỉ dẫn chúng tôi chăng?”. Làm như chúng nó là cha mình không bằng.

    Quang lắc đầu:

    - Em lộn xộn quá. Từ nay anh cấm em không được nói như vậy. Với anh thì không sao, nhưng em nói với người khác thì nội những câu ấy cũng đủ để chúng lôi em vô tù rồi. Em chỉ nên biết rằng: người Mỹ sang đây để giúp nước mình chống hiểm họa cộng sản. Thử hỏi, nếu không có họ và tiền của họ thì chính quyền của ông Thiệu này được mấy ngày? Họ mất tiền của cho mình, con em họ cũng chết la liệt trên đất nước mình; vậy thì họ cũng phải được hưởng một quyền lợi nào đó chứ!

    Mai lắc đầu thở dài:

    - Họ là ông 

xếp

 của đất nước mình, phải không anh? Cái họ “được” thật lớn lao quá.

Quang khoanh tay trước ngực, đi đi lại lại trong căn phòng, trầm ngâm suy nghĩ. Gã vô cùng ngạc nhiên trước những lý lẽ của em gái mình. Rõ ràng cô không còn ngây thơ, khờ dại nữa, cô đã có những thay đổi rất lớn về nhận thức xã hội. Theo gã, đó chính là nguyên nhân của sự chán đời, sự phá phách, ngang tàng mới xuất hiện ở Mai. Những tư tưởng đó của Mai có thể dễ dàng dẫn cô đến đối lập hoàn toàn với gã. Đó chính là điều nguy hiểm nhất mà gã không lường được. Gã lờ mờ cảm thấy rằng Mai đã tiếp xúc với những phần tử chống đối xã hội, thậm chí với những phần tử thân cộng nữa ở Sài Gòn. Nhưng với sự quan sát tâm lý của một sỹ quan an ninh nhà nghề, gã hiểu rằng những cái đó mới chỉ chớm nở, chưa đủ để đứng vững thành ý thức, chưa có gì độc hại, vì Mai không có ý định che dấu nó.

    Nghĩ vậy Quang hơi an tâm, gã quay lại nói với em bằng thứ giọng dịu dàng, săn sóc:

    - Thôi, không nói chuyện ba láp nữa! Vì ai mà cả xã hội này băng hoại thì có can hệ chi tới anh em mình. Em đi tắm, thay đồ rồi anh đưa em đi ăn. Hôm nay anh đưa em tới một tiệm ăn sang nhất Buôn Ma Thuột. Lúc nào rảnh anh sẽ đưa em đi ngắm cảnh, được chứ?

Năm giờ chiều, chiếc xe du lịch sang trọng của thiếu tá Quang rời căn cứ. Tới lúc này, Mai mới thấy tâm hồn mình thảnh thơi đôi chút. Cô say sưa ngắm nhìn quang cảnh thị xã và chợt thấy mến yêu nơi này. Khác với cái ồn ào, náo nhiệt một cách quá đáng của Sài Gòn, ở đây có vẻ đẹp của sự yên tĩnh, nhịp nhàng. Mỗi gương mặt người dường như cũng thấy trong sáng hơn dễ tin cậy hơn. Có lẽ bởi trong đầu họ chất chứa ít những âm mưu, những mánh lới, thủ đoạn hơn dân Sài Gòn.

Những biệt thự nhỏ, xinh xắn nằm chênh vênh trên sườn đồi, giữa những vườn cây, với những giàn bông giấy hường rực; những đồi thông xanh ngắt rì rào tiếng gió; những khu vườn cà phê hoa nở trắng, ngào ngạt hương thơm, một vài nếp nhà sàn dựng bằng gỗ quý, theo kiểu của người thượng, len vào giữa những dãy phố dựng kiểu tân kỳ… Buôn Ma Thuột đó! Có một vài nét gợi nhớ Đà Lạt. Khác chăng là ở đây không có những vườn hoa anh đào, những cây hoa mi-mô-da và khí hậu mát mẻ quanh năm. Buôn Ma Thuột có vẻ đẹp của một thị xã miền cao nguyên, mới mẻ và nhẹ nhàng.

Những đôi tình nhân dắt tay nhau đi dạo chiều trong những vườn cà phê, những đồi thông xanh hày trên những con đường uốn lượn quanh các sườn đồi. Họ có vẻ nhẹ nhõm, thanh thản, không quan tâm gì tới những điều dữ dội lớn lao có thể sắp xảy ra. Mai thầm nghĩ: nếu như cuộc đời không phải bon chen, chạy chọt, tính toán, âm mưu; nếu như cuộc đời này không đẻ ra những người làm chiến tranh, không có những bê bối, những tranh chấp quyền bính… mà mọi người chỉ sống như thế kia, sống và yêu thương nhau thì hạnh phúc biết mấy.

Nhưng hình như có một quy luật nào đó chi phối đời sống con người, luôn luôn ném con người vào những biến cố lịch sử, những cuộc đổ máu. Chẳng lẽ lại giải thích tất cả những cái đó theo thuyết định mệnh. Rằng, số phận mỗi con người đã được Thượng đế định đoạt: người này sinh ra để làm tổng thống, người kia sinh ra để chuẩn bị một vụ lật đổ; rồi những sinh mạng đó sinh ra chỉ để đi làm đĩ hay đi ăn cướp? Không? Nếu có thộng Thượng đế” thực sự và “ông ta” có quyền định đoạt tất cả, thì sao “ông ta” không cho mọi người được sống yên lành? Hay là “ông ta” thích xem nhân loại cắn xé lẫn nhau? Nếu thế thì “ông ta” không đáng được tôn sùn như bây giờ họ vẫn tôn sùng, vẫn cầu xin…

Vậy thì, chỉ có một sức mạnh nào đó của bản thân con người mới cứu được con người ra khỏi mọi hiểm họa, mọi cuộc đổ máu dai dẳng. Sức mạnh đó ở đâu? Liệu con người có tìm ra nó không? Hay là con người vẫn tiếp tục sống như đang sống? Ba má mình vẫn tiếp tục lừa bịp một cách “trong sạch và quý phái” bằng những thủ đoạn kinh doanh buôn bán; anh mình vẫn cứ tiếp tục tra tấn đồng loại để rồi lên trung tá hay đại tá; bạn bè mình tiếp tục giãy đạp, phá phách, tiếp tục chửi đời buồn nôn, để rồi vẫn bị cuốn vào cái cuộc đời buồn nôn ấy. Và mình, liệu mình có thể nghĩ ra một cách sống khác những cách sống đó không?

Suy luận như thế, Mai tự thấy con người mình thật vô nghĩa, chẳng là cái gì trong cuộc đời này cả. Có lần anh Tuấn đã nói: “Mỗi con người sẽ thấy cuộc đời mình đẹp hơn khi họ sống cho một mục đích cao cả!”. Vậy thì mục đích cao cả của anh ấy ở đâu? Chẳng lẽ lại ở cái két bạc của một chủ hãng buôn nào đó mà anh ấy có ý định đoạt lấy? Mà có thiệt anh đã hành động như thế không, anh Tuấn? Em không tin một người như anh lại có thể mù quáng tới mức ấy! Nhưng còn pháp luật, chẳng lẽ pháp luật cũng tham dự vào mục đích chia rẽ chúng mình hay sao? Ôi! Cuộc đời này sao mà rối rắm, khó hiểu đến vậy? Đâu là chân lý! Đâu là sự thật? Mình tin vào cái gì nữa đây? Thật khủng khiếp khi con người không còn một nơi nào để mà gửi gắm niềm tin.

Chiếc xe du lịch dừng lại trước một tiệm ăn lớn có cái tên rất nên thơ tiệm “Bồng Lai”. Nhưng để  bước vào chốn bồng lai ấy, anh cô đã phải quăng mấy chục bạc lẻ cho ba bốn kẻ ăn mày, trong đó có một phế binh cụt cả hai giò, nằm lăn lóc dưới rặng trúc dọc đường vô tiệm. Những người có tiền và còn chút lương tâm đều làm như thế, để khi ngồi vào bàn ăn, tâm hồn họ được yên ổn hơn.

Bị những ý nghĩ ấy ám ảnh nên mặc dù Quang đã gọi bồi bưng ra bàn la liệt những món ăn ngon nhưng Mai chẳng thiết gì đến ăn uống. Cô chỉ nhấm nháp qua loa vài món ăn cho anh bằng lòng, rồi chống đũa nhìn anh mình ăn. Thấy vậy, Quang lo lắng hỏi:

- Em mệt sao, Mai?

Mai đáp cho xuôi:

- Dạ, hình như em hơi nhức đầu.

Rồi bỗng nhớ lại người tù binh cộng sản, Mai lại hỏi anh:

- Mai anh cho em xem anh hỏi cung chứ?

Quang lắc đầu:

- Em không nên xem những trò đó.

- Nhưng em thích. Vả lại, anh đã hứa rồi cơ mà.

Quang tỏ vẻ bực dọc:

- Sao em lại thích những trò đó nhỉ!

Mai cười khúc khích:

- Anh còn nhớ em đã nói với ông Mỹ của anh là em sẽ đi làm báo. Đã là ký giả thì phải xía vô mọi chuyện, phải biết tất cả.

Quang cười lớn:

- Nhưng anh không phải là cái ông Giôn Mác-ti bụng phệ, mũi khoằm để em đùa giỡn. Nhưng thôi được, mai anh sẽ cho em đến coi mặt hắn. Có thể nói hắn đáng được em coi lắm. Về một khía cạnh nào đó thì hắn là một người anh hùng. Tư cách của hắn khiến cho những người có lương tâm phải kính nể. Trong hàng ngũ chúng ta, thật hiếm những người như thế. Bên ta, dù là lính quèn hày là trung tá, đại tá mà rơi vào tay họ thì cũng chỉ bữa trước, bữa sau đã lên đài chửi ta rồi.

Mai chợt trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu rồi hỏi nhỏ:

- Tại sao họ có sức mạnh như vậy, anh?

- Ai mà biết được. Có lẽ tại họ cuồng tín. Họ tin ở Đảng của họ như kiểu người Thiên chúa giáo tin vào chúa vậy.

- Nhưng Đảng của họ là những con người có thực như ông Hồ Chí Minh chẳng hạn. Còn chúa thì chỉ là do người ta tưởng tượng ra.

Quang chợt ngẩng lên nhìn em:

- Em có những ý nghĩ thật độc đáo, cưng ạ. Em đào ở đâu ra vậy?

Mai khẽ nhếch mép cười:

- Ở trong bộ óc của em.

Quang trở đầu đũa gõ nhẹ vào đầu em:

- Vậy thì bộ óc của em không bình thường đâu, cưng ạ. Thôi ăn đi, tranh luận với em e tối ngày.

Mai chợt thở dài, thất vọng. Ở đâu cũng vậy, người ta cố tình tạo cho cô nếp nghĩ như họ vẫn nghĩ, không để cho cô vượt ra ngoài những cái đó. Như một đứa trẻ tò mò, muốn biết đằng sau tấm rèm kia có cái gì nhưng bị người ta cấm. Tuy vậy càng cấm đoán thì trí tò mò của đứa trẻ càng bị kích thích. Rồi, sẽ có một lúc nào đó, đứa trẻ ấy sẽ tìm cách vén được tấm màn bí mật lên. Mai tự ví mình như đứa trẻ ấy và từ phút đó, trong tâm trí cô đã hình thành một quyết tâm, dù bằng cả cuộc đời cũng phải tìm cho ra sự thật

CHƯƠNG BỐN

1

Sáng hôm sau, Mai theo anh đến phòng thẩm vấn. Cô bỗng hồi hộp khi nghĩ rằng mình sắp nhìn thấy một người lính giải phóng bằng xương bằng thịt chứ không phải bằng những hình vẽ méo mó trên những tờ báo Sài Gòn. Cô cũng có một cảm giác yên lòng khi thấy trong phòng thẩm vấn không có những dụng cụ tra tấn. Như vậy là sẽ không có đánh đập, ít ra là ở trong căn phòng này. Phòng thẩm vấn lại có vẻ lịch sự sạch sẽ vì bên cạnh bộ xa lông rất sang trọng, trên bàn còn có một bình trà, một bộ ấm chén. Bên cửa sổ, ngoài bao lơn còn có cả những chậu cây kiểng.

Chỉ có một vật trong cái phòng này là cô không ưa. Đó là con đại bàng bằng đồng hun quắp thanh kiếm mà cô đã nhìn thấy hôm qua ở cổng căn cứ. Nó được gắn trên tường, bên dưới ảnh ông Thiệu, đôi mắt nó nhìn xuống, xoi mói, quằm quặm.

Anh cô ngồi vào bàn, chuẩn bị đôi thư giấy tờ rồi bấm chuông. Lát sau có một thiếu úy trẻ bước vào, đứng nghiêm trước mặt Quang:

- Trình thiếu tá! Tù binh đã được giải đến.

- Cho hắn vô đây!

Có tiếng chân bước lệt sệt rồi trên khung cửa hiện ra một thân hình vững chãi, một mái tóc rối bù, một gương mặt bầm dập, méo mó vì bị đánh. Người lính giải phóng bước vào, một bên chân dường như bị đau nhưng dáng đi của anh ta vẫn khoan thai chắc nịch. Bộ quân phục xanh của anh đã nhàu nát, nhiều chỗ bị rách tướp, thấm máu, khô cứng lại thành những vệt thẫm. Mái tóc anh xoăn nhẹ, rủ xuống trán. Duy chỉ có đôi mắt anh, đôi mắt mà sau này Mai nhớ mãi, là vẫn sáng rực, đầy nghị lực và tự tin. Anh nhìn thẳng vào mặt thiếu tá Quang bằng những ánh mắt giễu cợt. Rồi ánh mắt ấy chợt dừng lại phía Mai, thoáng chút ngạc nhiên, như tự hỏi: người con gái này là ai, tới đây với mục đích gì? Mai chợt lúng túng, cúi mặt. Cô như muốn nói với anh: “tôi không phải là người trong cuộc, nghĩa là không dự phần vào việc hành hạ anh mà tôi chỉ là một “khán giả” của cuộc thẩm vấn vày”.

Thiếu tá Quang khẽ mỉm cười (lần đầu Mai nhìn thấy cái mỉm cười ấy ở anh mình), chỉ chiếc xa-lông:

- Mời anh ngồi!

Người chiến sỹ ấy ngồi xuống, gương mặt anh vẫn không chút thay đổi, xao động.

- Mời anh uống nước để ta bắt đầu cuộc nói chuyện. Tôi rất lấy làm buồn khi phải nhìn thấy anh thế này.

Mai liếc xéo về phía anh cô như tự hỏi “có đúng là anh ấy đã nói những lời giả dối ấy không? Nhưng không phải anh ấy thì là ai?”. Giọng điệu ấy có khác chi giọng điệu tên thiếu tá Mỹ chiều qua, cũng lịch sự theo kiểu giả dối và thêm nữa, rất trắng trợn.

- Hôm nay tôi hy vọng chúng ta sẽ nói chuyện với nhau dễ dàng hơn, thân thiện hơn.

Anh chiến sỹ giải phóng khẽ nhếch mép cười:

- Cám ơn! Ông cứ bắt đầu đi. Tôi nghĩ rằng nó sẽ không “thân thiện” hơn đâu. Tốt hơn hết ông hãy vứt bỏ cái trò ve vãn ấy đi và hãy làm tất cả những gì mà ông có thể làm.

- Ông Tuấn – Mai chợt giật mình khi nghe thấy cái tên ấy – Chúng tôi đâu có muốn đối xử với ông như vậy. Chúng tôi sẵn sàng đền bù cho ông tất cả. Chỉ cần ông cho chúng tôi biết một điều…

Anh chiến sỹ giải phóng chợt cất tiếng cười:

- Vẫn cái điều ấy… Hướng chiến dịch chính ở đâu chứ gì?

Thiếu tá Quang hồ hởi gật đầu:

- Đúng lắm! Đó là tất cả những gì chúng tôi muốn biết. Ông chỉ cần nói một câu là êm thôi mà.

Anh chiến sỹ giải phóng xây hẳn người lại, gương mặt anh thoắt trở nên linh động, đầy sức sống:

- Thú thực, ông đã làm cho tôi vui. Tôi cứ hy vọng mỗi ngày ông đưa tôi trở lại căn phòng này và hỏi câu hỏi đó. Cho đến khi chiến dịch nổ bùng. Lúc đó, hẳn ông sẽ biết hướng chính của chiến dịch ở đâu. Tôi sẽ không nói gì đâu, mặc dù tôi biết có thể tôi phải hy sinh tính mạng.

Thiếu tá Quang đã thấy khó chịu, nhột nhạt, nhưng vẫn cố giữ vẻ điềm tĩnh:

- Tôi e rằng tới lúc đó… ông sẽ hối hận.

Anh chiến sỹ giải phóng lắc đầu kiên  quyết:

- Sẽ không có chuyện đó đâu, thưa ông thiếu tá. Vì nếu cuối cùng tôi hy sinh mà điều bí mật kia giữ được thì tôi vẫn lãi cơ mà – anh chợt mỉm cười – trong ngành kinh doanh mà các ông rất sành thì có bao giờ người ta từ chối lời lãi đâu

Quang cựa quậy liên hồi trên ghế. Mai chợt giật mình khi nhìn thấy đôi mắt của anh trai mình. Nó đã đỏ vằn, tóe lên những tia dữ tợn. Đột nhiên, gã đứng dậy, đi những bước dài trong phòng để tự trấn tĩnh mình. Tiếng cá sắt trên đế giày nghiến ken két trên nền đá hoa. Cuối cùng, Quang dừng lại trước bàn, đứng đối diện với người lính giải phóng, tiếp tục thuyết phục:

- Ông Tuấn! Tôi hỏi thực ông: có lúc nào ông nghĩ đến cha mẹ, anh em và những người thân yêu đang chờ ông ở đất Bắc xa xôi kia không? Ông chết, cứ cho điều đó với ông nhẹ như lông hồng đi… Nhưng bao nhiêu người thân yêu của ông sẽ chịu đau khổ? Đồng đội ông, nếu họ có biết sự hy sinh ấy thì cũng chỉ cúi đầu, bỏ mũ vài phút, sau đó họ sẽ quên ngay. Trong cuộc chiến tranh đẫm máu này, mỗi ngày có đến hàng trăm người phải bỏ mạng, ai mà nhớ cho xiết. Vậy thì, cái chết của ông liệu có ý nghĩa gì?

Anh chiến sỹ giải phóng chợt đứng vụt dậy, nhìn thẳng vào mặt thiếu tá Quang. Giọng anh bỗng vang lên sang sảng, đĩnh đạc như những lời buộc tội:

- Ông thiếu tá! Tôi đã có ý định không tranh luận gì với ông, nhưng nghe những điều ông vừa nói, tôi tự thấy phải nói thêm một điều nữa. Ông vừa nói đến cái chết và sự sống. Cố nhiên, quan niệm của chúng tôi và các ông về điều ấy thật khác xa nhau. Tôi sãn sàng chết để không phải sống kiếp sống của các ông, làm một tên lính đánh thuê cho bọn xâm lược Mỹ. Các ông sẵn sàng bán rẻ cả tổ quốc danh dự của mình để mua lấy kiếp sống hạ đẳng.

- Câm ngay!

Quang hét lên như một con thú rồi chồm qua bàn thoi một quả đấm vào giữa mặt người lính giải phóng. Mai ôm mặt hét lên một tiếng “Anh Hai!”. Khi mở mắt ra, cô chợt rùng mình khi nhìn thấy một dòng máu đỏ lòm đang chảy trên miệng người chiến sỹ giải phóng. Anh đưa cánh tay lên lau dòng máu trên miệng mình rồi ngước nhìn Quang một cách căm hờn và khinh bỉ:

- Đây chính là điều “thân thiện” mà ông đã rào đón phải không ông thiếu tá. Tôi biết ông không còn cách nào khác.  Nhưng nghe những lời ngọt ngào, xảo trá của ông, tôi còn khó chịu gấp trăm lần ông thoi quả đấm vào mặt tôi kia.

Quang giận điên, lồng lên như một con thú. Tiếng gã rít lên, rờn rợn:

- Được! Mày sẽ được toại nguyện. Trung sĩ Hớn! Cho nó vào buồng tra tấn. Đập nát sọ nó ra cho tao!

Mai gục xuống bàn để khỏi nhìn tên trung sĩ to béo, trước khi lôi người lính giải phóng ra khỏi phòng, đã liên tiếp thoi nắm đấm vào bụng anh. Sau đó là tiếng đấm đá huỳnh huỵch, tiếng nước xối, tiếng những dụng cụ tra tấn ném xuống sàn xi măng xoang xoảng… Hóa ra, buồng tra tấn chỉ cách căn phòng lịch sự này có một bức tường!

Một lát sau, không chịu nổi những âm thanh khủng khiếp đó, cô đứng phắt dậy, ôm đầu chạy vụt ra cửa.

Trở về phòng ngủ của mình, Mai thấy mệt mỏi, rã rời như vừa qua một cơn bệnh nặng. Cô nằm vật trên giường, bần thần suy nghĩ. Trong đầu cô luôn vang lên những lời đối đáp của anh cô và người tù binh cộng sản. Cô đã thấy trong cuộc đụng độ này, sức mạnh không thuộc về anh cô. Mặc dù đã nắm trong tay sinh mạng của người tù binh ấy nhưng rõ ràng anh cô đã tỏ ra bất lực.  Còn anh ta thì đĩnh đạc, ung dung và tự tin biết mấy.  Anh ta đã nói rất minh bạch về cái sống và sự chết. Anh ta đâu có sợ chết nếu cái chết là một sự hy sinh cao cả. Anh ta không mưu cầu danh lợi cho riêng mình. Vậy thì anh ta có một sự hy sinh trong sáng. Bọn tướng tá Sài Gòn vẫn thường lớn tiếng nói về sự hy sinh. Nhưng, hãy thử bảo họ hy sinh một phần trong những gia tài kếch xè của ho cho Tổ quốc xem họ có giãy nảy lên không? Chưa nói đến sự hy sinh cao cả nhất, đó là hy sinh tính mạng, hy sinh sự sống của mình.

Nói rằng anh ta hành động như vậy, dũng cảm như vậy là vì cuồng tín, có đúng không? Nhưng hành động của anh ta đã được tính toán chặt chẽ, tỉnh táo, không thể là kết quả của một niềm tin ngây thơ. Vậy thì, anh ta tin vào cái gì hẳn cái đó phải trong sáng, đẹp đẽ lắm mới đến cái độ anh ta sẵn sàng hiến dâng cả tính mạng mình để bảo vệ niềm tin ấy.

Ờ, mà anh ta cũng tên Tuấn? Một sự trùng hợp kỳ lạ, như cố ý vậy. Mai chợt rùng mình khi nghĩ rằng, ở một nhà lao nào đó, người yêu của cô cũng đang bị tra tấn, đánh đập như thế. Gương mặt trong sáng, đẹp đẽ như thiên thần của anh cũng sẽ bầm giập, méo mó như gương mặt người tù binh cộng sản kia.

- Ôi! Không thể như thế được! Mai kêu lên thoảng thốt rồi gục đầu xuống gối, khóc nức nở.

Khóc một hồi, Mai thấy tự nhiên lòng mình nhẹ nhõm hơn. Một ý nghĩ hết sức minh bạch chợt vang lên trong cô: “Phải nhanh chóng trở về Sài Gòn để tìm cách cứu anh ấy. Mình yếu đuối nhưng… mình có tiền bạc. Tiền bạc có thể làm được tất cả, kể cả việc chứng minh rằng anh ấy vô tội! Ôi ngu dại quá! Sao mình không nghĩ ngay ra điều đó khi còn ở Sài Gòn? Đúng rồi! Anh ấy vô tội! Trời ơi! Hãy nhanh chóng trở về Sài Gòn”…

Cô đứng bật dậy, cuống quít chạy từ góc này sang góc kia như người mất trí. Chợt nhớ ra điều gì, cô cất tiếng cười vang rồi chạy lại, vồ lấy máy điện thoại, rối rít gọi tổng đài xin số máy của đại úy phi công Huỳnh Thuận.

2.

    Thanh Mai uể oải đặt ống nghe xuống, khẽ thở dài. Vậy là cô phải nằm lại một ngày nữa ở cái thị xã buồn tẻ này. Kể từ cái ngày chợt nảy ra ý nghĩ trở về Sài Gòn gấp để đi tìm Tuấn tới nay đã bốn ngày trôi qua nhưng Mai vẫn chưa đi được vì một lý do đơn giản: không có máy bay. Anh Quang không cho cô đi đường bộ vì sợ không an toàn. Còn Huỳnh Thuận thì cứ đều đều, mỗi  ngày ba lần điện thoại tới tận nơi thăm hỏi. Lần nào khi Mai hỏi: Em đã có thể về Sài Gòn được chưa?” anh ta đều lắc đầu, thất vọng. Đã có lúc Mai bực mình và nghĩ rằng: hay anh ta cố tình muốn kéo dài thời gian ở Buôn Ma Thuột của mình để thực hiện ý đồ chinh phục? Nhưng, nhìn vào đôi mắt đượm buồn của Thuận, Mai cố ghìm mình để không nói buột ra điều đó.

    Những ngày ấy đối với Mai thật vô nghĩa, buồn bã, trống vắng đến không chịu nổi. Kết quả cuộc thẩm vấn của anh cô vẫn không đâu vào đâu nên anh cô lúc nào cũng hầm hè, bực dọc, sẵn sàng nổi quạu. Có lần Mai hỏi:

    - Thế nào, anh tù binh của anh đã chịu khai chưa?

    Quang phác một cử chỉ thất vọng:

    - Vô ích! Hắn ta là một tảng đá chứ đâu phải là người.

    Mai nói móc:

    - Vậy coi chừng anh bị lột lon đó.

    Thế là Quang nổi đóa:

    - Thôi! Cô im đi! Biết chi mà xớ rớ vô chuyện người ta.

    Buổi chiều Quang vẫn đưa Mai tới tiệm “Bồng Lai” để ăn cơm, uống cà phê và nghe nhạc, nhưng tình cảm giữa hai anh em như đã có một khoảng cách. Mai không còn hồn nhiên như trước, mỗi lần nói chuyện với Quang, cô phải cố ghìm mình để đừng phát ra những câu móc ngoéo chua cay, tránh cho anh mọi sự hiểu lầm. Quang cũng buồn rầu khi nhận ra sự đổi khác đó. Quang hiểu rằng để Mai ở đây lâu thật bất lợi. Tên thiếu tá Mỹ ngày nào cũng tới vài lần để ve vãn Mai. Cô em gái bướng bỉnh của anh thì lại lấy làm thích thú về điều đó, cô không bỏ lỡ một cơ hội nào để công kích, đá móc, xỏ xiên tên Mỹ. Có lần cô đã làm hắn nổi giận, đùng đùng bỏ về, đã tưởng hắn sinh chuyện. Nhưng hôm sau, tên bụng phệ si tình ấy lại mò đến, lại cười nói hố hế như không có chuyện gì xảy ra. Biết đâu hắn chẳng đang nuôi dưỡng một âm mưu nào đó. Quang biết, đối với người Mỹ, không có một thủ đoạn nào họ không dám làm để đoạt được tham vọng. Bởi vậy chính Quang là người sốt ruột hơn cả. Ngày nào Quang cũng giục Thuận mau tìm cách đưa Mai về Sài Gòn. Tình hình cao nguyên ngày càng căng thẳng, ngột ngạt, chiến sự có thể xảy ra bất cứ lúc nào, để Mai ở đây ngày nào là nguy hiểm ngày đó.

    Cho đến một buổi chiều, Mai đang nằm dài trên đi-văng đọc cuốn “Trọn đời lỡ hẹn” của bà Lan Phương thì thiếu tá Quang hớt hải chạy về. Nhìn thấy vẻ mặt hớt hải của anh, Mai biết có chuyện hệ trọng, vội nhỏm dậy hỏi:

    - Có chuyện gì thế anh Hai?

    Quang giục:

    - Em chuẩn bị đồ đạc ngay đi, anh đưa ra sân bay. Một giờ nữa Huỳnh Thuận sẽ bay về Plây Cu.

    Mai ngạc nhiên hỏi:

    - Sao lại về Plây Cu, anh?

    Quang nhăn nhó giải thích:

    - Tình hình căng thẳng lắm rồi. Thám sát của ta vừa phát hiện thấy nhiều dấu hiệu chứng tỏ Việt Cộng đang chuẩn bị tiến công Buôn Ma Thuột. Không chừng chỉ nội trong đêm nay, trận đánh sẽ diễn ra.

    Mai hỏi ngây thơ:

    - Vậy, mình biết trước mà không làm cách sao ngăn cản được ư?

    Quang lắc đầu, chán ngán:

    - Bây giờ thì vô phương. Các lực lượng chủ lực tinh nhuệ của ta đã bị xé ra làm trăm mảnh vì kế nghi binh của họ rồi. Vả lại, đến bây giờ mà trên quân đoàn họ vẫn chưa chịu tin Việt Cộng sẽ tiến công Buôn Ma Thuột. Họ trả lời rằng đó là những hoạt động nghi binh, còn đại quân của Việt Cộng thì đã tập trung xung quanh Plây Cu. Đến nước này rồi mà đại tá tư lệnh sư đoàn và ngài tỉnh trưởng vẫn còn đang ngồi chơi tứ sắc.

    - Vậy hả?

    - Vậy đó…! Tướng tá của ta là đồ ăn hại ráo trọi.

    Mai bỗng đột ngột nảy ra ý định muốn ở lại để “xem họ đánh nhau ra sao”, nhưng nhìn nét mặt cau có của Quang, Mai đành im lặng đi thu vén đồ đoàn của mình để chuẩn bị ra sân bay.

Tuy vậy, thị xã vẫn được lệnh báo động.

    Trên đường ra sân bay, Mai đã nhìn thấy rõ không khí chiến tranh. Mọi người đi lại hấp tấp, vội vã. Những ánh mắt nhìn nhau lo âu. Binh lính đi lại nhộn nhịp. Xe nhà binh phóng như điên. Thành phố hôm qua còn bình thản như thờ ơ với mọi chuyện mà hôm nay đã thoắt biến đổi, tất cả như đang nín thở, lo âu, hồi hộp chờ đợi những tai họa như bất thần ập tới.

    Nghĩ đến cảnh ngày mai bom đạn sẽ rơi xuống nơi này, rồi đổ nát, điêu tàn, nhà cháy, người chết… Mai khẽ rùng mình. Chiến tranh quả thực là tàn nhẫn và khắc nghiệt. Chỉ có một kẻ hân hoan đón nó, đó là Thần Chết. Hắn mong cho nhân loại cấu xé lẫn nhau, để chiếc lưỡi hái đen ngòm tội lỗi của Hắn tha hồ mà gặt những linh hồn khờ dại ngốc nghếch hoặc hoàn toàn vô tội.

Đối với Hắn thì người chính cũng như kẻ tà, đều béo bở như nhau. Giờ đây có lẽ Hắn đang bay lơ lửng ở đâu đó trên bầu trời của cái thị xã xanh tươi này và khoái trá chờ đợi con người nã đại bác và xối bom đạn vào nhau.

    Ở phi trường, không khí chiến tranh càng rõ hơn. Những người lính xách súng AR.15 chạy ngược chạy xuôi. Từng tốp máy bay lên thẳng vũ trang ầm ĩ cất cánh. Một phi đội A.37 lặc lè bom vừa bay lên. Ở các trạm điện thoại, tiếng chuông réo liên hồi. Những người lính lặng lẽ đi, lặng lẽ chạy, vẻ mặt đầy vẻ lo âu, phiền muộn

Huỳnh Thuận đang ngồi tán dóc với mấy anh bạn cùng phi đoàn dưới cánh máy bay. Thấy chiếc xe của Quang đã tới, anh vội vã chạy ra đón. Họ bắt tay nhau mà không nói gì cả. Mai hiểu bây giờ không phải lúc để tâm sự hay đùa bỡn. Thậm chí, Thuận cũng không biểu lộ những nét vui mừng vì sắp được đưa một thiếu nữ lên trời như hôm nào ở phi trường Tân Sơn Nhất. Mai bỗng thấy sự xuất hiện của mình ở đây thật vô lý, từ đây cô sẽ thành gánh nặng cho mọi người, cô thở dài buồn bực vì nhận ra điều đó.

    Sau khi Quang nói những lời ủy thác của mình, Thuận chỉ khẽ gật đầu và quay sang Mai, an ủi:

    - Cô Mai yên tâm, tôi hứa sẽ đưa cô về Plây Cu nếu có anh ban nào bay về Sài Gòn, tôi sẽ gửi cô về với gia đình.

    Nói xong những câu ấy, hai người như quên bẵng sự có mặt của Mai và quay sang nói chuyện với nhau về tình hình nghiêm trọng hiện nay. Quang tỏ ra phẫn nộ khi gã nói rằng bộ tư lệnh sư đoàn đã không chịu nghe theo những đề nghị về phòng thủ của gã, rằng, khả năng Buôn Ma Thuột bị tiến công đã rõ như hai với hai là bốn, vậy mà các cấp chỉ huy của gã vẫn như điếc như mù. Theo  gã, nếu bị tiến công, thị xã Buôn Ma Thuột có thể mất nội trong vài ngày. Nghe nói tới đó, Mai chợt lo cho số phận của anh mình. Biết đâu, đây chẳng là lần cuối cùng anh em cô được gặp nhau. Tim cô như thắt lại, nghẹn ngào, nước mắt tự nhiên trào ra. Và, cô cứ lặng lẽ khóc như vậy cho tới khi Quang tiến lại, đặt tay lên vai cô em gái cưng của mình.

    - Lau mắt đi, coi tội chưa?

    Mai vội níu lấy cánh tay anh:

    - Em lo cho anh quá.

    Quang vuốt tóc em an ủi:

    - Không sao đâu, cưng ạ. Anh không chết đâu. Số anh hên lắm mà. Anh nói Thuận nó lo cho em chu đáo rồi. Cuối tuần em sẽ về tới Sài Gòn.

    Những lời an ủi ấy của Quang không làm Mai yên tâm, nhưng cô không muốn để anh buồn nên cố gắng ra bộ tươi tỉnh. Thấy vậy Quang hơi yên lòng, gã nhìn đồng hồ rồi nói với Mai:

    - Hôm nay anh phải trực nên không thể chờ tới lúc Thuận cất cánh được. Em ở lại đây rồi về nghen!

Nói rồi Quang kêu Thuận ra một góc rỉ tai nói nhỏ điều gì đó. Mai chỉ thấy Thuận gật đầu và liếc xéo về phía cô. Biết cả hai đang bàn định về số phận của mình, lo lắng cho mình, cô khẽ thở dài, quay đi.

    Lát sau Quang tiến lại, âu yếm hôn lên trán Mai và nói:

    - Thôi, em về nghen! Anh gửi lời chào ba má. Em phải vui lên chứ, cưng!

Mai khẽ nhếch mép cười, nhưng nụ cười trên môi cô mới gượng gạo làm sao! Quang quay gót, đi nhanh lại xe. Gã bước vội lên xe, nổ máy, đưa tay vẫy chào hai người rồi cho xe lao vút đi. Mai chạy lên mấy bước, thảng thốt gọi:

    - Anh Quang!

    Nhưng Quang không quay lại. Mai đứng lặng trên đường băng nhìn theo chiếc xe cho tới khi nó khuất sau dãy nhà kho trước mặt. Lòng cô rối bời. Miệng cô luôn lẩm nhẩm mấy tiếng “Chiến tranh! Chiến tranh!”.

Thuận đã tới bên cô. Anh cũng chỉ lặng yên, không nói gì. Lòng anh cũng đang như lòng cô. Rối bời.

    Lát sau, Mai quay lại nhìn thẳng vào đôi mắt đượm buồn của Thuận, khẽ hỏi:

    - Theo anh, nếu Buôn Ma Thuột bị tiến công, quân ta có giữ nổi không?

Thuận lắc đầu:

    - Vô phương!

    Mai cũng chợt thấy điều đó thật rõ ràng. Trong đầu cô thoáng hiện lên hình ảnh người chiến sỹ giải phóng mà cô đã gặp ở phòng thẩm vấn của anh cô. Anh ta là tù binh, bị xiềng xích, bị đánh đập nhưng anh ta có sức sống hơn cả những người được tự do như anh Quang, như Thuận. Niềm tin của anh ta chặt chẽ, vững chắc chứ đâu có ốm yếu như niềm tin của Quang, của Thuận. Có một cái gì khác biệt giữa họ mà cô không hiểu nổi? Một người ngồi trong tù, bị xiềng xích lại mỉm cười và tin mình sẽ thắng; còn những người như Thuận đây chẳng hạn, ngồi bên những chiếc máy bay hiện đại, được tự do mà luôn nhăn nhó, sầu não và chỉ nghĩ rằng mình sẽ thua? Tại sao lại như vậy? Sức mạnh của họ, của những người như anh tù binh cộng sản kia, ở đâu?

    Đột nhiên, cô quay lại hỏi Thuận:

    - Anh có sợ chết không?

    Thuận nhìn cô, hơi ngạc nhiên vì câu hỏi ấy. Suy nghĩ một lát, anh trả lời:

    - Nói cho cùng thì ai mà chẳng yêu quý sự sống của mình. Nói cho thật lòng tôi rất sợ phải chết, cô Mai ạ. Tôi sợ, không phải vì nghĩ rằng: nếu mình chết, có nghĩa là chẳng được ăn, nói, đi đứng, yêu thương… mà vì rằng, sẽ có một lúc nào đó tôi chết vì cuộc chiến tranh này mà không hiểu mình chết để làm gì? Người ta đã nói quá nhiều đến sự hy sinh, đến lòng ái quốc, đến sự tri ân liệt sỹ của muôn đời. Nhưng tôi thấy rằng, xin lỗi cô, tất cả đều láo toét hết. Tôi chỉ thấy có mỗi một ý nghĩa ràng buộc tôi với cuộc chiến tranh là tiền. Nếu bây giờ người ta cắt lương của tất cả các sỹ quan và bảo rằng để đóng góp vào việc mua sắm vũ khí chống cộng chẳng hạn; rồi hô hào họ hãy chiến đấu, hãy hy sinh, thì tôi đoán chắc với cô rằng: chỉ một tuần, có khi chỉ vài ba ngày thôi; thì sẽ chẳng còn thằng ma nào chịu bận cái bộ đồ lính này làm gì. Chiến tranh như một áp phe lớn, là tôi nói chiến tranh ở phía chúng ta, bọn Mỹ có tiền và tung ra, chúng ta là những người làm công cho họ. Vậy thì, giữa kẻ làm công và ông chủ áp phe chỉ có mỗi sơi dây ràng buộc là tờ i ti ê iên tiên huyền tiền

Thuận đánh vần chữ “tiền” bằng một giọng khinh bạc và cay đắng. Mai hiểu, Thuận là người thành thật. Ít có ai dám nói ra điều đó, mặc dù hầu như tất cả mọi sĩ quan, binh lính chế độ này đều nghĩ như vậy. Cô thấy rằng giữa Thuận và anh cô đã có những quan điểm trái ngược nhau. Anh cô thường nói đến lý tưởng, đến tự do, đến lòng yêu nước, đến hiểm họa cộng sản… Nhưng, chưa bao giờ cô thấy anh cô nhắc tới những điều đó với một tình cảm chân thành như Thuận nói đến “tiền”.

    - Hôm rồi – cô nói – Tôi có được xem anh Quang hỏi cung một tù binh cộng sản. Tôi có thể nói với anh rằng đó là một con người đáng kính phục. Bị tra tấn đến bầm giập cơ thể nhưng anh ta vẫn không hề khai nửa lời. Anh ta luôn tỏ ra đĩnh đạc, tự tin. Tôi đã nghe anh ta nói thế này về cái chết và sự sống “ Tôi sẵn sàng chết để khỏi phải sống kiếp sống nô lệ như các ông. Còn các ông thì sống bằng mọi giá…”

    Mai không dám nhắc lại mấy câu cuối, sợ chạm đến lòng tự ái của Thuận, cô dừng lại ở đó và hỏi:

    - Về họ, anh Thuận có nhận xét gì không?

    Thuận hơi ngạc nhiên về những vấn đề mà Mai đặt ra. Rõ ràng, đó không phải là những điều chỉ muốn biết để thỏa trí tò mò. Mai đặt ra những điều đó chứng tỏ cô đã có những suy nghĩ nghiêm túc về thời cuộc. Có thể, cũng như anh, cô đang đi tìm sự thật của cuộc chiến tranh này. Anh biết, đối với cô có thể hoàn toàn thành thật:.

    - Về họ - Anh nói – tôi chưa có được những hiểu biết chính xác và sâu sắc. Có lẽ những ngăn cách về ý thức hệ đã ngăn trở chúng ta hoặc vì chúng ta không dám nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vì sự thật bao giờ cũng khắc nghiệt. Tôi chỉ có một nhận xét: họ thực sự có sức mạnh. Sức mạnh của họ không xuất phát từ nguồn gốc vật chất. Bằng chứng là họ đã bắt đầu đối chọi với chúng ta bằng những vũ khí thô sơ và bằng tay không. Còn chúng ta  thì bắt đầu cuộc đối chọi với họ bằng những phương tiện hiện đại. Bây giờ, tuy so sánh lực lượng giữa ta và họ đã gần ngang bằng nhau, thậm chí có những mặt họ hơn hẳn chúng ta. Điều đó chứng tỏ họ đi lên mà ta thì đi xuống, mặc dù ta chẳng thiếu một thứ gì trong tay. Vậy thì, sức mạnh của họ phải có nguồn gốc từ một cái gì đó, thuần nhất về tinh thần, về lý tưởng. Khái niệm lòng yêu nước của họ hình như đúng hơn của chúng ta. Họ có một ý chí kiên định về toàn vẹn lãnh thổ. Còn chúng ta, chúng ta chỉ mong đất nước Việt Nam này có hai quốc gia riêng biệt. Thậm chí, đã có một thời, người ta mong muốn miền nam này trở thành một bang của hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, nhưng sau đó, thấy như vậy thì trắng trợn quá, nên không còn ai dám nhắc tới điều đó nữa. Nhưng tôi tin rằng không ít người trong chính phủ ta còn mong muốn như vậy. Họ đang hoảng sợ vì Mỹ ngày càng lộ rõ ý định bỏ rơi chúng ta. Cô có thấy ở Sài Gòn dạo này người ta đang làm ầm ĩ lên về chuyện đó không? Như thế là nghĩa lý gì? Kêu van quốc hội Mỹ đừng bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa (!) Chao ôi! Khái niệm về “danh dự” và Tổ quốc” của chúng ta là như vậy đấy. Ở bên kia Thái Bình Dương, người ta đang mặc cả xem cái giá của chính phủ Sài Gòn là 1 tỷ 7 hay là 2 tỷ 2 (!) Vậy thì cô bảo nó đáng giá bao nhiêu?

    Mai biết Thuận chỉ đặt ra câu hỏi mà không cần trả lời  nên cô im lặng ngước nhìn anh, biểu lộ sự đồng tình. Trên gương mặt Thuận lộ rõ những nét xúc động, anh định nói điều gì nữa nhưng lại cố kìm nén. Hồi lâu sau, anh mới nói tiếp bằng giọng nói nhẹ nhàng, thoải mái, bớt chua cay hơn:

    - Như thế cô cũng thấy một cách hết sức rõ ràng là sức mạnh của chúng ta không tùy thuộc ở chúng ta. Vậy thì, đừng hy vọng gì cả.

    Mai đột ngột hỏi:

    - Như vậy, cuối cùng chiến thắng sẽ thuộc về họ.

    Thuận mỉm cười, chua xót:

    - Biết đâu có một sức mạnh thần bí nào đó – chúa chẳng hạn – cứu được sự sụp đổ của chúng ta.

    Mai im lặng giây lâu rồi đột nhiên hỏi:

    - Này, tôi hỏi thực anh nhé! Nếu anh biết trước rằng anh đang nằm trong một con thuyền sắp đắm sao anh không thể nhảy ra mà bơi vào bờ. Hoặc giả, anh cảm thấy họ đúng hơn chúng ta sao anh không đứng hẳn về phía họ.

    - Sự đời đâu có đơn giản thế cô Mai? Tôi đã nói với cô rằng tôi chỉ mới cả

m thấy

. Chúng ta ngồi trong một vũng bùn, thấy hết cái thối tha của nó nhưng giũ được đâu có dễ. Hơn nữa không phải tôi hoàn toàn tán thành cộng sản, tôi chưa hiểu họ. Cái đã hiểu mà tôi còn chán ngấy nữa là cái chưa hiểu.

    - Vậy anh mơ ước một xã hội như thế nào?

    - Chà… Rắc rối đấy. Cô truy tôi tới cùng. Thôi được, ý nghĩ của tôi về một xã hội lý tưởng như thế này: đó là một xã hội không có phe cánh này nọ, không thân cộng và cũng không thân Mỹ.

    - Một chế độ trung lập?

    - Gần như thế. Nhưng thôi, quái quỷ thật! Sao tôi lại có thể nói chuyện với cô thoải  mái và say sưa như thế này? Tôi mong rằng cô đừng mang những chuyện này nói với ai. Họ sẽ cho cô là điên khùng. Như tôi chẳng hạn, bạn bè vẫn gọi tôi là thằng khùng vì tôi thường có những ý nghĩ kỳ quặc.

    Thuận nói rồi bước tới xách va li của Mai về máy bay. Trong giây phút này, Mai chợt thấy Thuận gần gũi với mình hơn. Mấy ngày trước đây, Mai chỉ coi Thuận như một gã si tình, vì say mê mình nên tận tụy. Bây giờ cô hiểu rằng Thuận có những phẩm chất đáng quý hơn cô và anh cô vẫn đánh giá. Ít ra anh là người có tâm huyết, có chính kiến rõ ràng về thời cuộc. Theo cách hiểu ngây thơ của cô thì Thuận có cả những trăn trở, xót xa vì cảnh đất nước bị điêu tàn vì chiến tranh, lửa máu. Nhưng Mai cũng hiểu rằng Thuận bất lực và bế tắc, chính anh ấy cũng chưa tìm được cách cứu vớt bản thân mình, chính anh ấy cũng chưa biết nên tin vào đâu? Vậy thì, làm sao mình có thể gửi gắm ở con người ấy niềm tin của bản thân mình?

    Nghĩ vậy Mai khẽ thở dài, lặng lẽ bước theo Thuận trên đường băng xám xịt.

    Đã đến giờ cất cánh. Chiếc C.130 từ từ lăn bánh trên đường băng rồi đột nhiên tăng tốc độ. Mai chợt thấy cảnh vật nhòe đi sau cửa kính. Cô nhắm mắt lại. Khi tiếng động cơ đã êm dịu trở lại, cô mới mở mắt và thấy mình đã ở trên không trung. Từ trên cao nhìn xuống, thị xã Buôn Ma Thuột vẫn bình yên như chưa hề xảy ra một biến cố gì. Đó là sự bình yên giả tạo, cũng như sóng biển lặng đi trước lúc bắt đầu một cơn bão.

3.

    Ở Plây Cu tình hình cũng căng thẳng không kém gì Buôn Ma Thuột. Chiếc máy bay của Thuận vừa hạ cánh chừng ba mươi phút thì sân bay bị một trận pháo kích dữ dội chưa từng thấy. Trọng pháo 122 ly của Quân giải phóng cứ nhè đúng những kho xăng, kho đạn, khu để máy bay mà nổ. Khói lửa đùn lên kín trời. Cả sân bay nhao nhác. Lính cứu hỏa đội mủ vàng ngồi trên xe vòi rồng vun vút phóng đi. Không gian như tấy lên, nồng nặc mùi thuốc bom, thuốc đạn, mùi ét xăng, mùi thịt người chết…

    Thuận đưa Mai về với chị Tám, chị họ anh, vợ một kỹ sư sửa chữa máy bay.

    Đó là một người đàn bà mềm mại, yếu đuối, có gương mặt nhẹ nhõm thanh thoát như những cô gái trong tranh tố nữ, đôi mắt chị lúc nào cũng như mọng nước, đượm buồn. Mai đến giữa lúc chị đang bồn chồn đứng ngồi không yên, thỉnh thoảng lại thấy chị chạy ra cửa ngóng và thở dài não ruột. Thuận ghé tai Mai nói nhỏ “anh Minh đang ở ngoài khu sửa chữa máy bay, chỉ đang lo đó. Em tính cách sao an ủi chỉ đi”.

    Nhưng Mai đã tỏ ra bất lực. Chị Tám không còn lòng dạ nào để tiếp chuyện cô nữa. Chị đi đi lại lại trong phòng, bồn chồn, khắc khoải. Rồi chị quay tê-lê-phôn xin nói chuyện với khu sửa chữa nhưng người ta nói rằng đường dây đã bị đạn pháo băm nát, chưa kịp sửa. Thế là chị la trời, chị khóc, chạy ra chạy vô như một người mất trí. Đến lúc mệt quá, chị chạy vào giường gục xuống gối. Mai nghiễm nhiên phải đóng vai trò một “người lớn”. Cô an ủi, vỗ về chị, nói với chị rằng, có lẽ anh Minh của chị đã chạy kịp vô hầm; rằng, kinh nghiệm cho thấy bom đạn tùm lum như thế nhưng thường tác hại chẳng là bao. Cứ như cô coi tướng (qua hình của anh Minh) thì ảnh cao số lắm, chưa thể chết được. v.v… Tất cả những điều cô viện ra đó đều rất vu vơ, cô nghĩ được điều gì thì nói điều ấy, vậy mà chị tin. Giống như một người sắp chết đuối được người ta ném cho những cọng rơm, chị bình tĩnh trở lại, ôm lấy Mai thủ thỉ:

    - Chắc ảnh không hề chi, phải không em?

    Mai gật đại:

    - Chắc vậy chị ơi, ảnh sắp về với chị cho coi.

    Mai vừa nói xong thì có tiếng Hon-đa lao xẹt tới. Chị Tám bật dậy như một chiếc lò xo:

    - Ảnh về rồi! Trời ơi! Ảnh về thiệt đó em!

    Chị mừng quá, quýnh quáng không biết làm gì. Chị chạy ra tới cửa lại lao trở vào ôm lấy Mai:

    - Trời ơi! Em cưng của chị! Em nói trúng phóc hè!

    Buông Mai ra chị lại lao ra cửa như một cơn lốc. Mai mỉm cười chợt nghĩ: tình cảm của những người vơ yêu chồng mãnh liệt vậy đó, mình chưa hề lo cho ai như thế, ngay cả đối với Tuấn. Khi nghe tin anh ấy bị bắt, mình có lo sợ nhưng đâu có quýnh quáng điên dại tới mức đó.

    Anh Minh dắt vợ vào, vừa đi vừa vỗ về. Chị vợ không biết đào đâu ra nhiều nước mắt như thế. Chị cười mà nước mắt vẫn chảy chan chứa trên mặt. Anh minh thì buồn bã, mệt mỏi, trên gương mặt đầy vết sạm của khói, quần áo nhàu nát bẩn thỉu. Chị Tám sờ nắn khắp người, coi anh có bị thương không, rồi chị giục anh đi thay đồ. Anh minh như bị chị vợ lôi đi. Mai có cảm tưởng anh làm tất cả những việc đó: rửa mặt, chải đầu, thay đồ, uống cà phê,… chỉ vì chị.

    Nửa giờ sau, chị Tám mới qua cơn xúc động. Lúc đó chị mới nhớ rằng trong nhà còn có một người thứ ba nữa và chợt thấy ngượng vì tình cảm xô bồ của mình. Chị mời Mai ra uống cà phê rồi giới thiệu với chồng:

    - Đây là cô Mai, em gái thiếu tá Quang ở sư đoàn 23 bạn của cậu Thuận. Ở trỏng tình hình căng, anh Quang gửi cổ ra ngoài ni để rồi về Sài Gòn.

    Kỹ sư Minh khẽ gật đầu chào Mai:

    - Ngồi xuống em. Ai chứ thiếu tá Quang với anh cũng là chỗ quen biết. Ủa, nhưng nghe nói em đang học luật cơ mà? Bỏ học rồi à?

    Mai bẽn lẽn đáp:

- Dà…! Em ngán học hành quá rồi mà anh.

Minh cười, xoa tay:

    - Các cô các cậu hồi này hư lắm, học hành thì lười nhác, chơi bời thì xả láng, càn quấy… Nhưng anh tin em không thuộc vào loại người như vậy. Hay em tính thôi học để lấy chồng cho êm?

    Mai cười khúc khích, vội cải chính:

    - Đâu có! Em ngán thì bỏ… chồng con chi thời ni cho cực, anh ơi.

    Rồi cô lảng sang chuyện khác:

    - Ngoài phi trường giờ sao rồi anh?

    Minh thở dài:

    - Tiêu hết! Mấy chục máy bay đi đời, kho tàng cháy tùm lum cả.

    - Có ai chết không anh?

    Minh ngước nhìn cô gái tỏ vẻ ngạc nhiên vì câu hỏi ngây thơ ấy.

    - Dĩ nhiên là có chứ. Bom đạn quá trời vậy mà. Chị Tám em đây có phước nên còn được nhìn thấy anh đó. Thời buổi này lấy chồng làm lính cực lắm em ơi.

    Mai an ủi:

    - Nhưng anh là kỹ sư cơ mà!

    Minh nhếch mép cười ngao ngán:

    - Với bom đạn thì thịt lính hay thịt kỹ sư đều như nhau cả thôi.

    Chị Tám vỗ vào vai chồng:

    - Khiếp hè! Nói vậy mà nghe được.

    Mình nhìn vợ rồi quay lai nói với Mai:

    - Em thấy không! Lúc này thấy anh còn sống trở về chị Tám em coi mừng hết nói nổi. Vậy, thử đặt giả thiết anh bị bom đạn nó xơi tái như mấy anh bạn xấu số kia thì lúc đó chị Tám em sẽ sống ra sao?

    Chị Tám chợt tái mặt:

    - Anh! Đừng nói nữa, em sợ!...

    - Nhưng đó là sự thật, em ạ. Biết đâu ngày mai hay ngày kia chẳng đến lượt anh. Chiến tranh mà! Anh và em đều ghê tởm nó, nhưng vẫn phải tiếp tục sống vì nó, làm sao khác được.

    Mai chợt nhớ những lời Thuận nói với cô ở sân bay Buôn Ma Thuột. Có lẽ Thuận đã đúng khi nói rằng những người như anh chỉ là những kẻ làm công cho một áp phe chiến tranh. Tại sao lại phải như vậy? Chẳng lẽ, còn người không thể làm gì để sống ngoài việc “làm chiến tranh?”. Ôi! Ước gì tất cả những cái chết tiệt ấy mất đi. Con người chỉ sống yêu thương, hòa hợp với nhau. Cùng là người Việt Nam tại sao bên này lại bắn giết bên kia? Theo cô, bên nào cũng phải gánh lấy một phần trách nhiệm vì sự đổ máu ấy. Nhưng ai, bên nào, sẽ lãnh trách nhiệm của lịch sử để dập tắt ngon lửa đau thương này? Cô không tin những người như anh Quang, như Thuận, như anh Minh, như những người lính đang hoảng loạn ngoài sân bay kia lại có thể đảm đương nổi vai trò lịch sử đó. Vậy thì ai? Có thể là những người cùng lý tưởng với người tù binh cộng sản ấy được chăng? Nhưng, đến lúc này, những hiểu biết của cô về họ vẫn còn mong manh quá. Cô cũng không rõ, trong thâm tâm, cô mong cho bên nào thắng trận nữa. Chưa bao giờ tâm trạng cô lại bị chia năm xẻ bảy như trong những ngày này.

    Chiều ấy khu gia binh trĩu nặng màu tang. Tiếng khóc than của những người vợ lính có chồng chết trong vụ pháo kích và trong những trận đụng độ lẻ tẻ phía ngoại thị từ ngày qua cho tới nay, vang lên rền rĩ, ai oán. Thuận đi tới tối xẩm vẫn không thấy trở lại. Pháo vẫn bắn từng chập khi dài, khi ngắn, sân bay vẫn đang cháy, không hiểu Thuận có hề chi không? Cô chợt thấy thương Thuận quá, có thể Thuận sẽ chết, điều đó có khăn gì đâu, điều đó có khó khăn gì đâu. Nếu vậy, Thuận sẽ không còn có cơ hội để hiểu ra cái điều anh đang muốn hiểu; thậm chí, tới phút đó Thuận vẫn chưa thể hiểu được mình chết vì cái gì?

    Đối với một con người, còn có gì đau xót hơn thế nữa?

 Mười giờ sáng hôm sau Thuận mới trở về, mệt mỏi, bơ phờ như người mất hồn. Anh cứ ngồi lì ra trên ghế, mặc cho chị Tám và Mai săn sóc. Một hồi lâu anh mới quay sang Mai nói nhỏ:

    - Buôn Ma Thuột bị tiến công, có lẽ đã mất rồi.

    Mai chợt bủn rủn chân tay:

    - Sao?... Vậy thì… Anh Quang có sao không?

    Thuận ngồi lặng lẽ một lúc mới đáp:

    - Có trời mà biết được. Một phi công trực thăng mới bay trợ chiến ở trỏng về cho biết Quân giải phóng đã chiếm được những nơi trọng yếu của thị xã và đang tiến công căn cứ sư đoàn 23.

    Mai thảng thốt kêu lên:

    - Chỗ anh Quang!

    Thuận gật đầu xác nhận:

    - Phải, chỗ đó! Cả quân đoàn 2 đang choáng váng vì đòn tiến công bất thần đó.

    Mai giận dữ hét lên:

    - Sao lại bất thần? Anh Quang đã đoán trước. Đã…

    Thuận chợt cất tiếng cười, khô khốc:

    - Anh Quang! Anh Quang cô thì là cái thứ cóc khô gì… cả một lũ tướng tá lốc nhốc còn mù tịt, còn bất lực nữa là…

    - Thế còn anh Quang?

    Trong ánh mắt Thuận lại lóe lên những tia sắc lạnh đến rợn người.

    - Ông Quang à? Hứ… khỏi lo. Ổng sẽ chết…như một người hùng của thế giới tự do.

    Chợt hiểu rằng điều mình vừa nói đã khiến Mai hoảng sợ, anh vội vàng hạ giọng, an ủi:

    - Tôi nói vậy chứ chết cũng khó lắm, cô Mai ạ. Có thể anh Quang sẽ bị bắt làm tù binh. Nếu vậy thì thật may mắn cho ảnh.

    Im lặng một lúc lâu. Không khí trong nhà như đã nhuốm màu tang tóc. Thuận vẫn ngồi lầm lì như một tảng đá, điếu thuốc trên môi anh lập bập, khói phun mù mịt, gương mặt u uẩn của anh ẩn hiện, xa xăm. Hồi lâu anh nói:

    - Cô Mai ạ, máy bay của tôi cũng đã bị cháy. Phải, chính cái máy bay mà cô đã bay từ Sài Gòn lên cái vùng khói lửa này ấy. Nó tiêu ma rồi. Người ta đã chuyển tôi sang môt phi đội máy bay chiến đấu A.37 vì hiện nay đang thiếu người lái. Có thể chiều nay tôi sẽ bay đi Buôn Ma Thuột, ném bom vào một chỗ nào đó mà người ta sẽ chỉ cho tôi, để chi viện cho những người đang cầm cự một cách tuyệt vọng ở đó. Cố nhiên, bây giờ người ta không thể làm gì hơn

    Mai lo lắng hỏi:

    - Anh đi… ném bom! Vậy, có nguy hiểm lắm không?

    Thuận cười,chua chát:

    - Biết nói sao? Mình dội bom xuống đầu họ thì họ phải tìm cách xả đạn vào đầu mình. Đó là quy luật của chiến tranh mà. Nếu tôi có chết cô cứ bám riết lấy anh Minh và chị Tám, anh chị đây sẽ tìm cách đưa cô về Sài Gòn an toàn.

    Mai nhìn Thuận rồi nhìn chị Tám đầy vẻ hoang mang. Sao người ta ở đây nói đến cái chết với vẻ thờ ơ như vậy? Chẳng lẽ tính mạng con người rẻ rúng đến vậy hay sao? Còn cô, sao chưa bao giờ cô nghĩ rằng mình cũng có thể trúng một viên đạn. Có thể như vậy lắm chứ. Có lẽ, cho đến tận phút này cô vẫn cảm thấy mình còn là người ngoài cuộc, chính mình cũng đang là nạn nhân của cuộc chiến tranh tàn khốc này.

Chị Tám mang rượu và mực nướng lên. Thuận vừa xé mực ăn vừa nhấm nháp ly rượu. Mắt Thuận nhìn ở tận đâu đó xa hút. Dường như lúc này anh quên tất cả rồi. Quên cả cái chuyện Quang định làm mai cho anh lấy cô em gái đang ngồi kia làm vợ. Quên cả bầu trời ám khói chiến tranh; quên cả chính mình nữa. Có cái gì đáng để cho anh nhớ chăng? Phải, nếu có thì cái đó ở xa lắm, từ thủa anh còn là cậu bé kháu khỉnh, nghịch ngợm, chuyên gây gổ, đánh lộn để rồi về nhà với cái trán sưng vù, cho má vừa khóc vừa lấy dầu xoa lên vết đau đó. Còn bây giờ, những cái bây giờ sao mà mờ nhạt, vô vị đến thế? Cả tình yêu mà anh dành cho Mai cũng nhạt nhẽo, vô vị như vậy. Thật may mắn vì anh chưa nói gì với Mai. Nếu anh nói ra. Mai nhận lời thì một mai anh chết, Mai sẽ đau khổ; Mai không nhận lời thì cho đến khi chết anh vẫn còn mang mối hận tình. “Tốt quá! Mình chưa nói gì cả và như vậy nếu mình có chết thì cũng chẳng có gì phải ân hận. Không đúng! Mình có nhiều điều phải ân hận chứ. Trong đó điều ân hận lớn nhất là mình đã phó thác cuộc đời mình, tuổi trẻ mình cho một cái gì đó rất vô nghĩa nhưng cũng rất bẩn thỉu. Phải, bẩn thỉu quá, ghê tởm quá! Bẩn thỉu và ghê tởm tới mức không ít người như mình, nhận ra sự bẩn thỉu, ghê tởm ấy mà không tìm cách thoát ra được”.

    Thuận vừa ngồi nhấm nháp vừa tự vấn mình, hơi men càng bốc lên, đầu óc anh càng nhằng nhịt những ý nghĩ, những câu hỏi, những câu trả lời. Nhưng… cũng đến lúc phải đứng lên, trở về với thực tại. Hà! … Cuối cùng cũng chẳng có gì khác hơn là trở về với thực tại. Chết chìm trong lòng nó. Anh đặt cái ly đánh cạch xuống bàn, đứng vụt dậy chụp mũ lên đầu rồi quay lại nói với chị Tám:

    - Em đi nghen! Nếu rủi em có chết thì chị lo cho cô nhỏ này nhé.

    Chị Tám la lên:

    - Nói tầm bậy tầm bạ không hà.

    Thuận không đáp, chỉ cười để chứng tỏ rằng mình tin vào những lời vừa nói. Rồi anh quay sang Mai, đặt tay lên vai cô, ân cần nói nhỏ:

    - Anh đi nghe Mai! Nếu anh không trở về thì Mai hãy nhớ lấy những điều mà chúng mình đã nói với nhau ở sân bay Buôn Ma Thuột. Còn, nếu anh trở về thì sớm muộn anh cũng sẽ hiểu ra cái điều mà chúng ta chưa hiểu nổi…

    … Và Thuận ra đi. Mai thấy có cái gì nghèn nghẹn nơi cổ. Phút ấy, nếu Thuận quay lại, đến bên cô, có lẽ cô sẽ không ngăn nổi mình, sẽ ôm lấy Thuận mà hôn, mặc dù cô không yêu Thuận. Cô thấy thương anh, thương số phận của anh vô cùng. Khi cái bóng cao lớn của Thuận đã đi khuất, Mai chợt có linh cảm rằng từ nay mình sẽ mất một nơi nương tựa vững chắc nhất, tin tưởng nhất.

Lại có tiếng đại bác rít trên đầu. Chị Tám hốt hoảng dắt tay Mai lôi vào hầm trú ẩn. Tiếng pháo nổ mỗi lúc một dữ dội. Hai người đàn bà nép vào nhau khẽ thở dài.

4

    Cái điều Mai linh cảm thấy khi tiễn Thuận ra phi trường chiều hôm qua đã trở thành sự thật. Thuận đã ra đi và không bao giờ trở về nữa.

    Sáng hôm sau, Mai và chị Tám đang ngồi nghe Minh kể về tình hình Buôn Ma Thuột thì một trung úy phi công từ ngoài bước vào. Sau khi chào mọi người, anh ta hướng về Mai hỏi:

    - Xin lỗi, cô có phải là cô Thanh Mai không ạ?

    Biết có tin chẳng lành. Mai đứng bật dậy, mặt tái nhợt đi:

    - Vâng, tôi là Thanh Mai, có chuyện gì vậy ông?

    Người sĩ quan không quân ngập ngừng giây lát rồi nói:

    - Dạ thưa… Tôi được ủy thác tới báo tin… đại úy phi công Huỳnh Thuận đã bị các lực lượng phòng không của Quân giải phóng bắn hạ!

    Mai lao tới ôm lấy chị Tám:

    - Trời! Chị ơi… Anh Thuận!

    Hai chị em ôm lấy nhau mà khóc. Mai cũng không hiểu sao mình lại đau xót thực sự như vậy. Thì ra Thuận vẫn gần gũi với cô hơn cô vẫn thường nghĩ.

    Cô xót xa cho cuộc đời anh, một cuộc đời đầy u uất, trắc ẩn. Anh chết cũng tự nhiên như anh đã sống. Tựa hồ, anh biết mình sẽ chết mà không sao tránh nổi cái chết.

    Chị Tám vừa khóc vừa kể lể gì đó. Hình như chị đang kể về gia đình Thuận. Đó là một người đàn bà bất hạnh. Sinh Thuận xong bà lâm bịnh và sau đó tuyệt đường sinh nở, người mỗi ngày một cằn cỗi. Ba Thuận lấy vợ hai và từ đó ông ta quên luôn rằng mình đã có một người vợ cả đang đau khổ vì bệnh tật. Thuận lớn lên trong một gia đình như vậy. Tuy vẫn được cha nuôi nấng, cho học hành, nhưng cuộc đời của mẹ anh, anh đã sớm nhìn thấy cảnh đời đen bạc.

    Mai tự hỏi: “cuộc đời anh có thể khác đi được không?”. Nhưng làm sao mà trả lời được câu hỏi ấy, khi chính cô cũng không hiểu rẳng, rồi đây, cuộc đời mình có thể khác đi được không?

    Anh trung úy phi công nói lí nhí mấy câu gì đó. Hình như anh an ủi Mai và chị Tám rồi vội vã quay gót. Còn Minh, anh cũng chẳng biết nên an ủi vợ và Mai câu gì. Họ khóc cho người chết và cũng khóc luôn cho số phận của những người đang sống. Mai khóc Thuận và cũng là khóc Quang. Vợ anh khóc cho em họ và cũng là khóc chồng. Đồng thời, họ cũng đang than khóc cho số phận của họ nữa.

    Mặc cho hai người đàn bà nỉ non than khóc, Minh lững thững bước ra khỏi nhà, đứng nhìn về phía sân bay. ở đó, những đám cháy vẫn bốc lên dữ dội, khói đùn lên đen trời. Đó, sức mạnh của họ là như vậy đấy! Anh không hiểu, không hình dung nổi đối phương đã lấy đâu ra lực lượng để vừa giương đông vừa kích tây. Họ ép Plây Cu tưởng tắt thở, tưởng chỉ ngày một ngày hai sẽ đánh chiếm thị xã này, ai ngờ họ lai bất thần úp Buôn Ma Thuột. Toàn bộ lực lượng của sư đoàn 23 và phần lớn các liên đoàn biệt động tinh nhuệ đã được tung đi giải tỏa, nhưng vô hiệu. Cả cao nguyên có nguy cơ mất trắng, nếu Việt Cộng đánh tiêp Plây Cu hay Công Tum nữa thì quân đoàn 2 còn đâu lực lượng mà chống đỡ. Các lực lượng dự bị chiến lược của bộ tổng tham mưu cũng bị chia năm xẻ bảy và bị chôn chân khắp nơi rồi. Tình hình này cũng đừng trông mong gì ở bọn Mỹ. Chúng đang đứng ngoài nhìn xem liệu ta có đứng được hay không, hễ ta xuống thế là chúng phủi tay liền, bản chất của bọn Mỹ là như vậy.

    Tình hình có thể còn xấu đi rất nhiều, rất nhanh. Anh cảm thấy mình cần phải có biện pháp nào đó để thu xếp cho Mai và vợ mình lánh trước đi. Tốt nhất nên để cho họ về Nha Trang trước, như vậy anh đỡ vướng bận, đỡ lo lắng hơn. Nghĩ vậy anh vội vã bước vào nhà.

    Cả hai chị em đã thôi khóc, mỗi người ngồi một nơi, mặt mày ủ dột, não nề. Anh tiến lại, đặt tay lên vai Mai nhẹ nhàng an ủi:

    - Đừng buồn nữa em. Anh chẳng biết an ủi em ra sao cả. Trong lúc này có bao nhiêu điều bất hạnh, chúng ta làm sao mà đủ nước mắt để khóc tất cả những điều đó. Phải có nghị lực, phải bình tĩnh để mà vượt qua, em ạ.

    Mai ngước nhìn Minh bằng đôi mắt biết ơn. Cô biết, anh muốn nói nhiều hơn tất cả những điều anh đã nói. Chợt anh thở dài, hỏi:

    - Em với thuận… thế nào rồi?

    Mai khẽ lắc đầu:

    - Không… có gì đâu anh. Nhưng… chính vì thế mà em thương anh Thuận hơn. Anh là một người tốt, ngay thẳng, chính trực mà …chết…

    Nói tới đó nước mắt cô tự nhiên lại trào ra. Không muốn kéo dài cảnh đó, Minh quay sang bảo vợ:

    - Em này, anh tính vầy có được không? Tình hình ở đây căng lắm, e rằng rồi đến lượt Plây cu cũng bị tiến công. Anh tính thu xếp để em và Mai về Nha Trang trước đi!

    Chị Tám giãy nảy:

    - Không được! Em không thể bỏ mặc anh ở đây.

    - Bộ em tính ở đây làm gì?

    Chị Tám dằn dỗi:

    - Em không thể bỏ anh ở đây một mình, vậy thôi. Cứ ở đây, chết bỏ!

    Rồi, không để chồng tiếp tục thuyết phục, chị quay sang bảo Mai:

    - Êm rồi, chị em mình ra phố mua cái gì… cúng cậu Thuận cho khỏi tội.

    Mai ngoan ngoãn đứng dậy, tới trước gương sửa mình qua quýt rồi xách làn cùng chị Tám bước ra. Chị Tám liếc xéo về phía chồng một cái mà không chào, ra bộ mặt giận. Anh Minh đành bất lực, cười xòa cho qua chuyện.

    Ra tới đường phố, Mai mới thấy rõ hơn tình cảnh chiến tranh. Dân phố kéo kín đặc các quầy bán gạo, dầu, chất đốt. Giá cả tăng vùn vụt. Dân chúng thì thầm kháo nhau về những chuyện bom đạn, chết chóc, bắt bớ về Quân giải phóng đánh nơi này nơi nọ. Có ngươi còn quả quyết rằng chỉ vài bữa nữa Quân giải phóng sẽ chiếm được cả Plây Cu và Công Tum.

    Quầy vàng hương đông nghẹt. Nhiều thiếu phụ chít khăn tang, mắt đỏ hoe tới mua hàng. Bà bán vàng hương mập ú như một cái thùng tô nô, toe toét cười, đon đả mời khách. Mai chợt thấy khó chịu. Sao mụ ta lại cười được nhỉ? Có lẽ nhiều người chết nên mụ ta mừng vì hàng mắc?

Có tiếng la hét ở đầu phố. Rồi tiếng súng nổ. Đám người vô công rồi nghề ấy la lên oai oái, đạp nhau chạy tản ra, để rồi, chỉ một lát sau lại ùn ùn kéo tới. Một bà bán hàng rau tất tưởi chạy ra, mặt trắng như sáp, miệng ngọng líu:

    - Li…ính biệt động… say rượu… Đánh lộn… chọi lựu…đạn… bắn súng… đạn…sạ…ạt màng… tang…

    Ở một góc chợ, người phế binh hát rong vẫn đang phật phừng cây đàn ghi-ta cho đứa con gái ốm nhách, gân cổ ca mấy câu vọng cổ. Tiếng hát của em bé gái chưa vỡ giọng nghe the thé như tiếng kêu của một chim bị săn đuổi. Tiếng hát của em lạc lõng chìm nghỉm trong tiếng ồn ào của người xe, của những tiếng rao hàng.

    Mai cúi đầu lặng lẽ đến bên cha con người phế binh rồi mở ví rút ra tờ giấy bạc một trăm bỏ vào chiếc mũ cói cáu bẩn của em bé. Em ngừng ca, ngước nhìn Mai bằng ánh mắt biết ơn của kẻ hèn mọn. Mai vội vã quay đi, trốn ánh mắt ấy, chậm một chút nữa có lẽ nước mắt cô lại trào ra.4

    Cái điều Mai linh cảm thấy khi tiễn Thuận ra phi trường chiều hôm qua đã trở thành sự thật. Thuận đã ra đi và không bao giờ trở về nữa.

    Sáng hôm sau, Mai và chị Tám đang ngồi nghe Minh kể về tình hình Buôn Ma Thuột thì một trung úy phi công từ ngoài bước vào. Sau khi chào mọi người, anh ta hướng về Mai hỏi:

    - Xin lỗi, cô có phải là cô Thanh Mai không ạ?

    Biết có tin chẳng lành. Mai đứng bật dậy, mặt tái nhợt đi:

    - Vâng, tôi là Thanh Mai, có chuyện gì vậy ông?

    Người sĩ quan không quân ngập ngừng giây lát rồi nói:

    - Dạ thưa… Tôi được ủy thác tới báo tin… đại úy phi công Huỳnh Thuận đã bị các lực lượng phòng không của Quân giải phóng bắn hạ!

    Mai lao tới ôm lấy chị Tám:

    - Trời! Chị ơi… Anh Thuận!

    Hai chị em ôm lấy nhau mà khóc. Mai cũng không hiểu sao mình lại đau xót thực sự như vậy. Thì ra Thuận vẫn gần gũi với cô hơn cô vẫn thường nghĩ.

    Cô xót xa cho cuộc đời anh, một cuộc đời đầy u uất, trắc ẩn. Anh chết cũng tự nhiên như anh đã sống. Tựa hồ, anh biết mình sẽ chết mà không sao tránh nổi cái chết.

    Chị Tám vừa khóc vừa kể lể gì đó. Hình như chị đang kể về gia đình Thuận. Đó là một người đàn bà bất hạnh. Sinh Thuận xong bà lâm bịnh và sau đó tuyệt đường sinh nở, người mỗi ngày một cằn cỗi. Ba Thuận lấy vợ hai và từ đó ông ta quên luôn rằng mình đã có một người vợ cả đang đau khổ vì bệnh tật. Thuận lớn lên trong một gia đình như vậy. Tuy vẫn được cha nuôi nấng, cho học hành, nhưng cuộc đời của mẹ anh, anh đã sớm nhìn thấy cảnh đời đen bạc.

    Mai tự hỏi: “cuộc đời anh có thể khác đi được không?”. Nhưng làm sao mà trả lời được câu hỏi ấy, khi chính cô cũng không hiểu rẳng, rồi đây, cuộc đời mình có thể khác đi được không?

    Anh trung úy phi công nói lí nhí mấy câu gì đó. Hình như anh an ủi Mai và chị Tám rồi vội vã quay gót. Còn Minh, anh cũng chẳng biết nên an ủi vợ và Mai câu gì. Họ khóc cho người chết và cũng khóc luôn cho số phận của những người đang sống. Mai khóc Thuận và cũng là khóc Quang. Vợ anh khóc cho em họ và cũng là khóc chồng. Đồng thời, họ cũng đang than khóc cho số phận của họ nữa.

    Mặc cho hai người đàn bà nỉ non than khóc, Minh lững thững bước ra khỏi nhà, đứng nhìn về phía sân bay. ở đó, những đám cháy vẫn bốc lên dữ dội, khói đùn lên đen trời. Đó, sức mạnh của họ là như vậy đấy! Anh không hiểu, không hình dung nổi đối phương đã lấy đâu ra lực lượng để vừa giương đông vừa kích tây. Họ ép Plây Cu tưởng tắt thở, tưởng chỉ ngày một ngày hai sẽ đánh chiếm thị xã này, ai ngờ họ lai bất thần úp Buôn Ma Thuột. Toàn bộ lực lượng của sư đoàn 23 và phần lớn các liên đoàn biệt động tinh nhuệ đã được tung đi giải tỏa, nhưng vô hiệu. Cả cao nguyên có nguy cơ mất trắng, nếu Việt Cộng đánh tiêp Plây Cu hay Công Tum nữa thì quân đoàn 2 còn đâu lực lượng mà chống đỡ. Các lực lượng dự bị chiến lược của bộ tổng tham mưu cũng bị chia năm xẻ bảy và bị chôn chân khắp nơi rồi. Tình hình này cũng đừng trông mong gì ở bọn Mỹ. Chúng đang đứng ngoài nhìn xem liệu ta có đứng được hay không, hễ ta xuống thế là chúng phủi tay liền, bản chất của bọn Mỹ là như vậy.

    Tình hình có thể còn xấu đi rất nhiều, rất nhanh. Anh cảm thấy mình cần phải có biện pháp nào đó để thu xếp cho Mai và vợ mình lánh trước đi. Tốt nhất nên để cho họ về Nha Trang trước, như vậy anh đỡ vướng bận, đỡ lo lắng hơn. Nghĩ vậy anh vội vã bước vào nhà.

    Cả hai chị em đã thôi khóc, mỗi người ngồi một nơi, mặt mày ủ dột, não nề. Anh tiến lại, đặt tay lên vai Mai nhẹ nhàng an ủi:

    - Đừng buồn nữa em. Anh chẳng biết an ủi em ra sao cả. Trong lúc này có bao nhiêu điều bất hạnh, chúng ta làm sao mà đủ nước mắt để khóc tất cả những điều đó. Phải có nghị lực, phải bình tĩnh để mà vượt qua, em ạ.

    Mai ngước nhìn Minh bằng đôi mắt biết ơn. Cô biết, anh muốn nói nhiều hơn tất cả những điều anh đã nói. Chợt anh thở dài, hỏi:

    - Em với thuận… thế nào rồi?

    Mai khẽ lắc đầu:

    - Không… có gì đâu anh. Nhưng… chính vì thế mà em thương anh Thuận hơn. Anh là một người tốt, ngay thẳng, chính trực mà …chết…

    Nói tới đó nước mắt cô tự nhiên lại trào ra. Không muốn kéo dài cảnh đó, Minh quay sang bảo vợ:

    - Em này, anh tính vầy có được không? Tình hình ở đây căng lắm, e rằng rồi đến lượt Plây cu cũng bị tiến công. Anh tính thu xếp để em và Mai về Nha Trang trước đi!

    Chị Tám giãy nảy:

    - Không được! Em không thể bỏ mặc anh ở đây.

    - Bộ em tính ở đây làm gì?

    Chị Tám dằn dỗi:

    - Em không thể bỏ anh ở đây một mình, vậy thôi. Cứ ở đây, chết bỏ!

    Rồi, không để chồng tiếp tục thuyết phục, chị quay sang bảo Mai:

    - Êm rồi, chị em mình ra phố mua cái gì… cúng cậu Thuận cho khỏi tội.

    Mai ngoan ngoãn đứng dậy, tới trước gương sửa mình qua quýt rồi xách làn cùng chị Tám bước ra. Chị Tám liếc xéo về phía chồng một cái mà không chào, ra bộ mặt giận. Anh Minh đành bất lực, cười xòa cho qua chuyện.

    Ra tới đường phố, Mai mới thấy rõ hơn tình cảnh chiến tranh. Dân phố kéo kín đặc các quầy bán gạo, dầu, chất đốt. Giá cả tăng vùn vụt. Dân chúng thì thầm kháo nhau về những chuyện bom đạn, chết chóc, bắt bớ về Quân giải phóng đánh nơi này nơi nọ. Có ngươi còn quả quyết rằng chỉ vài bữa nữa Quân giải phóng sẽ chiếm được cả Plây Cu và Công Tum.

    Quầy vàng hương đông nghẹt. Nhiều thiếu phụ chít khăn tang, mắt đỏ hoe tới mua hàng. Bà bán vàng hương mập ú như một cái thùng tô nô, toe toét cười, đon đả mời khách. Mai chợt thấy khó chịu. Sao mụ ta lại cười được nhỉ? Có lẽ nhiều người chết nên mụ ta mừng vì hàng mắc?

Có tiếng la hét ở đầu phố. Rồi tiếng súng nổ. Đám người vô công rồi nghề ấy la lên oai oái, đạp nhau chạy tản ra, để rồi, chỉ một lát sau lại ùn ùn kéo tới. Một bà bán hàng rau tất tưởi chạy ra, mặt trắng như sáp, miệng ngọng líu:

    - Li…ính biệt động… say rượu… Đánh lộn… chọi lựu…đạn… bắn súng… đạn…sạ…ạt màng… tang…

    Ở một góc chợ, người phế binh hát rong vẫn đang phật phừng cây đàn ghi-ta cho đứa con gái ốm nhách, gân cổ ca mấy câu vọng cổ. Tiếng hát của em bé gái chưa vỡ giọng nghe the thé như tiếng kêu của một chim bị săn đuổi. Tiếng hát của em lạc lõng chìm nghỉm trong tiếng ồn ào của người xe, của những tiếng rao hàng.

    Mai cúi đầu lặng lẽ đến bên cha con người phế binh rồi mở ví rút ra tờ giấy bạc một trăm bỏ vào chiếc mũ cói cáu bẩn của em bé. Em ngừng ca, ngước nhìn Mai bằng ánh mắt biết ơn của kẻ hèn mọn. Mai vội vã quay đi, trốn ánh mắt ấy, chậm một chút nữa có lẽ nước mắt cô lại trào ra.

CHƯƠNG NĂM

    1

    Trung đoàn 6 được lệnh rời vị trí phục kích, hành quân gấp về phía Buôn Ma Thuột.

    Đêm đầu tháng. Mảnh trăng như một chiếc lá bạch đàn lơ lửng trên nền trời xanh thẫm. Những ngôi sao ở rất xa, nhấp nháy cười như đang phát tín hiệu, trao gửi tâm tình với mặt đất nồng đượm hương cỏ, hương cây. Sương mỏng và nhẹ, êm dịu luồn lách trong những tán lá, nhành cây, luồn cả vào mái tóc các chiến sỹ, khiến họ có cảm tưởng mỗi khi  mình hít thở, những làn sương mỏng kia sẽ ngấm vào da thịt, tạo nên những xúc cảm ngọt ngào.

    Đoàn quân đi thành những vệt thẫm dài, thấp thoáng trong đêm. Họ xuyên qua những rừng khộp đã trút nốt những chiếc lá cuối cùng, chỉ còn trơ lại những thân, những cành, xòe ra ngang ngạnh, xương xẩu. Nếu là ban ngày, qua những khu rừng như thế, dưới cái nắng chói chang của mùa khô, trong ta thường chỉ gợi nên những suy nghĩ về sự cỗi cằn, tàn luik; nhưng bây giờ đang là ban đêm, trong ánh trăng mỏng, trong làn sương dịu êm, những cành khộp khẳng khiu, im lìm kia in lên nền trời như những nét phác thảo của một một bức tranh tĩnh vật, hoặc như những bàn tay xòe ra đỡ lấy vòm trời dày sao.

    Rồi họ đi qua những trảng cỏ, những ta-man như đồng bào tây nguyên vẫn gọi. Ban ngày, những ta-man chói chang ánh nắng mặt trời, hơi nóng bốc lên ngùn ngụt như lúc nào cũng có thể bốc cháy. Đêm xuống, những làn sương mỏng kia như một bàn tay mềm mại sà xuống vuốt ve từng ngọn cỏ khô cháy, hút hết hơi nóng hầm hập, trả lại cho ta-man cai dịu dàng thoáng đãng. Và gió, dường như ghen tức, thỉnh thoảng lại thổi lồng lên, cố gắng tách những bàn tay dịu dàng ấy ra khỏi đồng cỏ nhưng vô hiệu.

Đoàn quân vẫn đi, vẫn đi. Những bước chân trên cỏ bồn chồn, rạo rực.

    Những ta-man, ta-man!

    Họ nghĩ đến mùa mưa. Khi mặt đất khát khao như những đôi môi khô cháy, nghẹn ngào đón những giọt mưa đầu như những người yêu đón nhận những chiếc hôn sau bao tháng ngày dài chờ đợi; hạnh phúc sẽ nở bùng, xanh rợn lên. Những ta-man có từ ngàn đời trẻ lại, khoác lên mình tấm áo xanh tuyệt vời ấy để chào đón muôn loài cầm thú ngày đêm rậm rịch đến với mình.

    Những ta-man.

    Trong những năm đánh giặc, người chiến sỹ nào hành quân ra trận qua những ta-man màn không thấy dội lên, thấy cồn cào trong lòng mình những ý nghĩ đẹp đẽ, thiêng liêng về đất đai, lãnh thổ, về sự sống và cái chết, về hạnh phúc và tình yêu.

    Đêm nay lại có biết bao nhiêu đoàn quân đi qua những ta-man mênh mông của dải đất này, hướng về mặt trận. Ở phía họ đi tới thỉnh thoảng lại lòe lên những ánh chớp và dội lại những tiếng ồn ào của bom đạn. Bầu trời phía ấy cồn cào, bức bối trong ánh đèn dù vàng vọt, không gian như tấy lên trong một cơn sốt cấp tính.

    Phía ấy là mặt trận Buôn Ma Thuột.

    Trước đây một tuần, mấy tiếng “Buôn Ma Thuột” chẳng gợi cho người ta một điều gì khác ngoài cái nghĩa đơn giản của một địa danh. Nhưng giờ đây ba tiếng ấy đang được nhân dân cả nước nhắc tới như một niềm kính phục, một điều kì diệu. Các cán bộ chỉ huy quân sự mở bản đồ ra, khoanh vòng tròn đỏ vào vị trí đã được ghi bằng chữ đậm Buôn Ma Thuột. Họ nhìn rộng ra và thấy cả một vùng rộng lớn phía nam Tây Nguyên đã được giải phóng. Từ đó, ta có thể triển khai các lực lượng chủ lực mạnh, phát triển theo đường 21 xuống vùng duyên hải miền trung, theo đường 14 xuống đông nam bộ, hoặc có thể phát triển theo hướng bắc đánh chiếm thị xã Plây Cu hay theo đường 7b xuống thị xã Hậu Bổn, tỉnh Phú Bổn, v.v. Thế phòng ngự của quân đoàn 2 ngụy đã bị cô lập, các đường chiến lược liên hệ với đồng bằng ven biển đã bị khóa chặt, đường chiến lược 14, huyết mạch nối ba trung tâm quân sự, chính trị, văn hóa của Tây Nguyên là Công Tum, Plây Cu, Buôn Ma Thuột cũng đã bị băm nát. Quân địch phòng thủ ở Tây Nguyên đã bị chia cắt ra thành từng cụm, từng mảnh và bị trói chặt.

    Trung đoàn 6 được lệnh hành quân gấp về tây bắc Buôn Ma Thuột, chiếm giữ địa bàn, sẵn sàng tham gia đánh địch hành quân giải tỏa. Rời khỏi vị trí phục kích, các chiến sỹ trung đoàn 6 mở cờ trong bụng, ai cũng chắc mẩm đã đến lúc trung đoàn 6 có thể “làm ăn lớn”. Họ hành quân suốt đêm, không hề biết mệt mỏi. Đến khi màn đêm loãng dần, tiếng đại bác nghe đã rõ hơn, họ mới được lệnh tạm dừng chân.

    - Trời ơi! Rừng cà phê!

    Một chiến sỹ nào đó reo lên. Thoạt tiên, mọi người nhận ra những đợt hương thơm ngây ngất cứ dâng lên, xao xuyến đến chóng mặt. Rồi, họ nhận ra những chùm hoa màu trắng, thấp thoáng trong ánh ngày đang mỗi lúc một lấn dần bóng đêm.

    Các tiểu đội ùa vào rừng cà phê tìm chỗ nghỉ chân. Trước tiên, họ quẳng ba lô xuống rồi vươn vai, hít căng lồng ngực bầu không khí đẫm hương thơm, mặc cho cành lá đẫm sương quệt vào mặt mũi, quần áo, đầu tóc. Không khí mát mẻ, trong lành của buổi sớm cộng với hương thơm dịu ngọt của hoa cà phê khiến họ tỉnh táo hẳn, tưởng như họ không hề qua một đêm hành quân mệt nhọc. Họ nói cười ồn ã rồi tụm lại thành từng tốp, lấy lương khô ra, vừa ăn vừa tán chuyện.

Mãi tới lúc ấy, trung đoàn trưởng Thuần mới đuổi kịp đơn vị. Ở bộ tư lệnh sư đoàn ra, ông và các đồng chí đi cùng cắm cổ đuổi miết mà không kịp.

    Tình hình này rồi cứ đuổi nhau miết, đơn vị đuổi địch, hậu cầu đuổi theo bộ đội, mệnh lệnh này chưa kịp thi hành đã có mệnh lệnh mới.

    Nhận ra trung đoàn trưởng, một tốp chiến sỹ ngồi trong lô cà phê bên đường ăn lương khô liền đứng dậy chào ông. Trung đoàn trưởng mỉm cười chào lại họ:

    - Khỏe không, các tướng?

    Một chiến sỹ to lớn, miệng rộng, mặt đầy trứng cá báo cáo:

    - Anh em khỏe cả, thủ trưởng ạ!

    Mấy chiến sỹ đứng phía sau cũng lên tiếng:

    - Thủ trưởng đặt ba lô, nghỉ chút đã.

   - Mời thủ trưởng ăn lương khô với lính!

   - Vào chiến dịch thủ trưởng đâm trẻ ra, tụi mày ạ!

   Trung đoàn trưởng gỡ ba lô ra khỏi vai rồi quay lại nói với anh trợ lý tác chiến:

    - Nhuận này! Cậu về trước sơ bộ báo cáo tình hình với anh Tâm để anh ấy khỏi sốt ruột. Mình phải “dưỡng lão” chút đã. Chà, đuổi các cậu muốn rơi cẳng chân ra rồi đây.

   Anh chiến sỹ mặt đầy trứng cá lại lên tiếng:

   - Không nhanh thì địch nó chạy ráo cả, thủ trưởng ạ.

   - Cậu nói đúng đấy! Cậu nào còn nước cho mình một hớp nhỉ? Nhưng này, các tướng có vẻ “ngứa nghề” lắm rồi, phải không?

   Một cậu người nhỏ thó, buông một câu thăm dò:

   - Đến lúc trung đoàn mình làm ăn rồi, sốt ruột làm gì, thủ trưởng nhỉ?

   Anh chàng mặt trứng cá cũng phụ họa theo:

   - Ờ, phải đấy!... Chẳng lẽ mình cứ ngồi xem họ đánh mãi. Có lẽ trung đoàn mình cũng làm ăn quanh đâu đây thôi, thủ trưởng nhỉ?

   Trung đoàn trưởng biết tỏng các tay “tham mưu con” đang khai thác khéo mình nên trả lời lập lờ:

    - Ờ cũng còn tùy trên…

   Anh chàng mặt trứng cá sốt ruột la lên:

   - Tùy! Lúc nào cũng tùy trên. Các cụ “phong kiến” bỏ cha đi ấy. Mình cũng phải đấu tranh chứ, kiểu này rồi trung đoàn mình cứ đì đẹt suốt.

   Trung đoàn trưởng cười lớn:

   - Á hà! Tay này giỏi đấy. Cậu chụp mũ cho ban chỉ huy trung đoàn rồi đấy. Phong kiến à, nghĩa là cấp trên đặt đâu ta ngồi đấy chứ gì? Vậy thử hỏi, khi cậu ngồi vào bàn cờ, đặt quân xe vào đây chẳng hạn, mà nó nhảy tưng tưng lên, thì cậu bảo sao?

Anh chàng mặt trứng cá hăng hái tranh luận:

   - Nhưng chúng tôi không phải là quân xe, thủ trưởng ạ! Chúng tôi là chiến sỹ, chúng tôi không làm bằng gỗ hay bằng sừng, mà chúng tôi được cấu tạo bằng…

   Một anh chàng nào đó buông một câu tếu:

   - … Bằng thịt!

   Mọi người cười ồ. Trung đoàn trưởng cũng cười. Sau đó, ông xua tay cho tất cả yên lặng rồi nói:

   - Đồng chí gì vừa nói một điều rất chí lý. Đúng lắm! Người chiến sỹ không phải là quân cờ trên bàn cờ của người chỉ huy. Bởi vì, bản thân người chiến sỹ đã có chức năng hành động. Ý đồng chí muốn nói, người chiến sỹ còn có một trái tim, một tấm lòng, phải không? Quân cờ trên bàn cờ chỉ biết chờ một cách thụ động. Còn người chiến sỹ ngay cả trong khi chờ đợi vẫn hành động. Trong khi chờ đợi, người chiến sỹ nuôi dưỡng ý chí, nuôi dưỡng lòng căm thù, suy nghĩ về thời cuộc, phân tích tình hình, rèn luyện tài năng… và người chiến sỹ còn phải biểu lộ quyết tâm, nguyện vọng của mình; khi cần, còn phải phát biểu chính kiến của mình về người chỉ huy, về cả phương pháp chỉ huy tác chiến của họ. Chỉ có những người chỉ huy dốt nát thì mới bỏ qua, không biết khai thác những khả năng đó của các chiến sỹ dưới quyền. Tôi rất cám ơn các đồng chí đã phát biểu tâm tư nguyện vọng của mình một cách thẳng thắn. Nhưng, tôi xin lưu ý một điều, dù sao chúng ta vẫn có chức năng giống như những quân cờ. Nghĩa là chúng ta vẫn phải hành động theo bàn tay của người chỉ huy. Chúng ta phải thừa nhận chúng ta có một người chỉ huy rất tài tình, đó là Đảng. Ở mặt trận, bộ óc chỉ huy của Đảng được cụ thể hóa bằng Bộ chỉ huy chiến dịch, Bộ chỉ huy các sư đoàn, trung đoàn v.v. Vậy thì, tôi hỏi, có ai trong chúng ta nghi ngờ khả năng chỉ huy của người chỉ huy tối cao đó không?

    Các chiến sỹ im lặng, ngơ ngác nhìn nhau. Anh chàng mặt trứng cá lắc đầu:

    - Chịu cụ! Cụ nói vậy thì… hết ý rồi!

    Trung đoàn trưởng tiếp tục phân tích:

    - Người chỉ huy ấy không những biết nguyện vọng, tâm tư, tình cảm của các đồng chí, khả năng sở trường tác chiến của các đồng chí, mà còn biết sử dụng các đồng chí khi nào, ở đâu, trong hoàn cảnh nào để các đồng chí phát huy hết khả năng, sở trường của mình nữa. Vậy thì chúng ta hãy yên tâm, Đảng đưa chúng ta ra mặt trận là để đánh giặc, chứ không phải để “xem đánh giặc”. Rồi sẽ đến lúc, các đồng chí ạ.

    Trung đoàn trưởng im lặng một lát rồi tiếp tục nói:

    - Trong khi các đồng chí đã hành quân đi nhận một nhiệm vụ chiến đấu thì trung đoàn ta vẫn còn một tiểu đoàn, tiểu đoàn đánh giỏi nhất của trung đoàn ta từ xưa tới nay, tiểu đoàn 3, hiện còn đang phải nằm yên một chỗ để chờ đợi thời cơ, các đồng chí đó còn sốt ruột hơn các đồng chí nhiều chứ! Tình hình hiện nay các đồng chí cũng đã thấy rõ. Thời cơ đang rất thuận lợi cho chúng ta. Sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột, một cục diện mới đã mở ra. Cứ cái đà này mà phất, chúng ta có thể đi xa hơn những điều mà chúng ta mơ ước. Thời cơ lập công còn nhiều. Nhiệm vụ chúng ta sẽ ngày một nặng nề. Nghĩa là phải chuẩn bị vắt chân lên cổ mà chạy thì mới theo kịp được với tình hình chung, với nhịp độ phát triển của chiến dịch. Rất có thể chúng ta sẽ nổ súng ngay ngày hôm nay hay ngày mai, nhưng cũng có thể chúng ta chưa được nổ súng. Người chiến sỹ có bản lĩnh là người biết làm chủ mình trong mọi tình hình. Nếu đồng chí nào, trong lúc này mà có thể mắc võng lên, ngủ đi một giấc, tôi cho là giỏi. Nào, bây giờ các đồng chí hãy thử xem, buổi sáng nay chúng ta còn nghỉ ở đây để chuẩn bị, các đồng chí thử mắc võng lên và ngủ xem nào. Ngủ được không? Phải ngủ, đó là mệnh lệnh. Tôi sẽ ra lệnh cho toàn trung đoàn, trừ những ai có nhiệm vụ phải làm, còn tất cả hãy mắc võng lên.

    Các chiến sỹ lại cười rộ lên vì “mệnh lệnh” bất ngờ ấy. Nhưng, rõ ràng ai cũng vui vẻ hơn, bớt lấn bấn hơn. Và, khi trung đoàn trưởng của họ đi rồi thì tất cả các chiến sỹ đều mắc võng hoặc trải ni lông xuống nền rừng cà phê. Chỉ một lát, tiếng ngáy của họ đã sôi lên, giấc ngủ đến với họ dễ dàng, thanh thản hơn.

    Mặt trời đã lên cao. Sương tan. Những cánh hoa cà phê trắng muốt rung rinh trước gió lặng lẽ tỏa vào không gian mùi hương thanh bạch của mình. Gió nhẹ nhàng lướt qua. Rì rào, rì rào…

2.

    Trận đánh đầu tiên của trung đoàn 6 trong chiến dịch này diễn ra như một cơn gió thoảng. Hơn một tiếng đồng hồ các đơn vị đã báo cáo về sở chỉ huy: hết địch, các mục tiêu đã chiếm xong. Trung đoàn trưởng Thuần phải gọi điện cho các mũi, các hướng nhắc kiểm tra, ông ngờ rằng bọn địch chỉ để lại một dúm chống cự với ta còn đại quân thì đã tìm đường bí mật tháo chạy. Nhưng điều đó đã không xảy ra, cả tiểu đoàn bảo an, một đại đội biệt kích và tất cả các lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự ngụy quyền địa phương trong khu vực quận lỵ đã bị tiêu diệt hoặc bị bắt. Duy chỉ còn tên quận trưởng Buôn Hồ là vẫn chưa thấy tăm hơi đâu.

    Sau bao ngày công phu chuẩn bị, thắc thỏm chờ đợi để rồi đánh một trận “cỏn con” như thế, thật không bõ công. Tham mưu trưởng Sự cảu nhảu suốt buổi, anh nguyền rủa Bộ tư lệnh quân đoàn 2 ngụy sao lại vội vã rút liên đoàn 21 biệt động quân khỏi Buôn Hồ (!), khiến trung đoàn trưởng cũng phải phì cười:

    - Cậu vô lý hết sức!

    - Thì… sao nó lại già trái non hột thế? Đồ hèn nhát! Cứ để thằng liên đoàn 21 ở đây thì có phải…

Chừng như cũng biết mình vô lý, anh thở dài than vãn:

    - Đấy, cái số trung đoàn mình nó lận đận thế đấy. Chờ đợi mãi, hành quân sấp ngửa tới đây để rồi nện nhau với một tiểu đoàn bảo an.

    Trong số tù binh bị bắt có một tên trung tá. Hắn như từ trên trời rơi xuống vì không một tên sỹ quan hay tên lính nào ở cái tiểu đoàn bảo an vừa bị tiêu diệt biết tên hắn. Trong danh sách các sĩ quan bị bắt, hắn khai là “sĩ quan thanh tra quân đoàn”. Cái chức vụ chênh vênh đó đã khiến trung đoàn trưởng Thuần nghi ngờ và quyết định hỏi cung hắn. Tham mưu trưởng Sự thì quả quyết rằng hắn là một trong số những tên chỉ huy liên đoàn 21, có thể còn mắc việc hoặc mắc gái nên còn ở lại trong quận lỵ. Vẫn còn cay cú vì vồ hụt liên đoàn 21, Sự hùng hổ tuyên bố:

    - Nếu hắn là sĩ quan chỉ huy liên đoàn 21 thì để đấy, tôi cho nó mấy cái bạt tai.

   Mười giờ sáng, tên trung tá ngụy được giải đến. Hắn to cao, kềnh càng như một tên Mỹ, trán hói, mắt đỏ vằn vèo tia máu, cái mũi bèn bẹt tương phản với cái vẻ cao sang của vầng trán. Hắn bước khệnh khạng, đầu cúi xuống, mắt nhìn lấm lét. Nhìn thấy trung đoàn trưởng Thuần ngồi trước bàn hỏi cung, hắn liền cúi gập người xuống đặt tay trái lên ngực, chào lí nhí:

    - Kính ông!

    Thân hình đồ sộ của hắn như cố thu nhỏ lại nhưng đôi mắt vẫn lừ đừ, thỉnh thoảng lại liếc ngang liếc dọc. Trung đoàn trưởng chỉ vào chiếc ghế đối diện:

    - Anh được phép ngồi!

    - Dạ… kính ông!

    Trung đoàn trưởng quẳng bao thuốc và chiếc bật lửa lên bàn:

    - Anh có thể hút thuốc!

    Tên trung tá ngụy khẽ cúi đầu:

    - Dạ… xin lỗi quý ông…

    Hắn cầm một điếu Tam Đảo rồi cầm bật lửa lên đánh lửa, châm thuốc hút. Tay hắn không run. Trung đoàn trưởng im lặng nhìn bộ mặt đỏ phừng, núng nính những thịt của tên trung tá ngụy, quái, ông đã gặp hắn ở đâu rồi thì phải? Ý nghĩ ấy chợt vụt lên khiến ông băn khoăn. Không, phải nhớ lại xem đã… Làm như chưa vội bắt đầu cuộc hỏi cung, trung đoàn trưởng cũng rút một điếu thuốc, nhẹ nhàng gõ gõ đầu điếu thuốc xuống bàn rồi mới đưa lên miệng, bật lửa châm thuốc. Qua làn khói thuốc, ông thấy tên ngụy thỉnh thoảng lại liếc nhìn mình, cái mũi bèn bẹt của hắn cứ chun lên chun xuống, khụt khịt liên hồi. Chợt, hắn ngẩng lên nhìn ông:

    - Xin lỗi… Tội bị viêm xoang mũi…

    Nói xong hắn moi trong túi ra một chiếc khăn tay đưa lên mũi hỉ rột rẹt.

    Một tia chớp lóe lên trong đầu. Trung đoàn trưởng liền bắt ngay lấy tia chớp ấy.

    - Anh là trung tá Nguyễn Xuân Phòng!

    - Dạ!

    - Anh tới đây với cương vị gì?

    - Dạ… sĩ quan thanh tra quân đoàn 2.

    - Trước đó?

    - Tôi làm sĩ quan thanh tra từ năm 1970 đến nay – rồi hắn cười nhạt – người ta đào tạo bọn tôi để làm sĩ quan cạo giấy ở các bộ tham mưu thôi, thưa ông.

    - Anh không từng chỉ huy đơn vị?

    - Dạ… nói cho đúng thì có, nhưng từ những năm sáu mươi kia ạ. Từ khi tôi đi học khóa chỉ huy và tham mưu ở Đà Lạt về thì không được giao chỉ huy các đơn vị.

    Trung đoàn trưởng nhìn thẳng vào mặt tên trung tá ngụy bằng những tia mắt sắc lạnh:

    - Không đúng! Năm 1973 anh đã là liên đoàn trưởng liên đoàn 2 biệt động quân.

    Tên trung tá ngụy chợt tái mặt. Hắn vội khúm núm cúi đầu, co rúm người lại:

    - Dạ… thưa ông…

    Có lẽ hắn chưa nhận ra ông, nhưng ông thì đã nhớ ra hắn. Trong ký ức ông lại hiện lên mỗi lúc một rõ ràng, đầy đủ từng chi tiết của lần gặp gỡ đầu tiên ấy…

    … Trước mặt ông, ngồi đối diện với ông là một tên trung tá ngụy. Hắn đeo kiếng mát, cái đầu nghênh lên, điếu thuốc sa lem vắt vẻo trên miệng.

    “- Tôi là trung tá Nguyễn Khắc Thuần, chỉ huy trưởng Quân giải phóng khu vực đường 19, được ủy nhiệm đến gặp chỉ huy trưởng liên đoàn 2 biệt động quân để bàn về việc thực hiện một số điều khoản của hiệp định Pa-ri ở khu vực này”.

    Hắn ậm è, rột rẹt rồi nhấc kính xuống:

    “- Tôi, trung tá Nguyễn Xuân Phòng, chỉ huy trưởng liên đoàn 2 biệt động quân được…”

    Hắn chợt hắt hơi liền mấy cái, nước mũi nhểu xuống tận môi. Hắn đỏ bừng mặt, vội rút khăn trong túi ra và ngượng ngập nói:

    - Xin lỗi! Tôi bị xoang mũi…”

    Bây giờ cũng lại chính hắn đang ngồi trước mặt ông.  Chỉ thiếu đôi kiếng mát và đôi lon trung tá. Trung đoàn trưởng Thuần mỉm cười thú vị.

    - Chắc anh chưa nhớ ra tôi, phải không?

    Tên trung tá ngụy ngước nhìn ông rồi lại cụp mắt xuống

    - Dạ… xin lỗi… tôi không nhớ đã gặp quý ông ở đâu?

    - Trí nhớ của anh tồi nhỉ?

    - Thưa quý ông, trí nhớ của tôi tồi lắm, lại thêm chiến sự liên miên,đầu óc mụ mẫm hết cả…

    Nhìn khuôn mặt béo ị như đang chảy xệ xuống của hắn, trung đoàn trưởng tin rằng hắn không nói dối. Hắn chưa nhớ ra ông. Nếu hắn nhớ lại cuộc nói chuyện căng thẳng hôm ấy, hẳn  rằng thái độ của hắn, tư thế của hắn sẽ càng thảm hại hơn. Còn ông, làm sao ông quên được những lời lẽ ngông cuồng của hắn…

  … “- Việc ký kết Hiệp định  Pa-ri là việc của người Mỹ và ông Thiệu đối với các ông. Là một sĩ quan cấp dưới, dĩ nhiên chúng tôi phải chấp hành mệnh lệnh ngừng bắn. Nhưng, trong thâm tâm, chúng tôi không thừa nhận. Chúng tôi cho rằng: giữa chúng tôi và các ông không thể có chuyện liên hiệp, chung sống hòa bình trên một dải đất, dưới một gầm trời. Nếu được làm tổng thống, ví dụ thế, tôi sẽ lệnh cho quân đội đánh tới cùng!”

    Trung đoàn trưởng Thuần quắc mắt, nhìn thẳng vào mặt hắn, cái mặt ngông ngáo, câng câng. Máu nóng đã sôi lên, nhưng ông vẫn cố gắng giữ giọng điềm tĩnh:

    “- Tôi không hỏi quan điểm của ông đối với Hiệp định  Pa-ri. Tôi chỉ hỏi ông đã nhận được chỉ thị về việc thi hành điều 3 của Hiệp định  Pa-ri về việc ngừng bắn chưa?”.

    “- Chúng tôi đã ngừng bắn!”

    “- Vậy thì tại sao trong ngày mồng 9 tháng 3, từ 2 giờ đến 8 giờ, các ông đã cho 6 lần chiếc A.37 ném bom xuống khu vực kiểm soát của chúng tôi ở làng Dịt và các trận địa pháo của các ông ở quận lỵ Thanh An vẫn bắn ra vùng kiểm soát của chúng tôi?”.

Tên trung tá ngụy cười khẩy:

    “- Điều đó tôi không được biết”.

    “- Vậy, việc một trung đội thám báo của liên đoàn ông thâm nhập vào vùng giải phóng và đã bị tiêu diệt, ông có biết không?”.

    “- Vu khống! Không hề có chuyện đó!”.

    Trung đoàn trưởng mở xà cột lôi ra một tập thẻ căn cước quân nhân ném toạch xuống bàn:

    “- Ông có nhận ra trong số sĩ quan và binh lính bị bắt, bị tiêu diệt này có người nào quen biết không?”.

Tên sĩ quan ngụy vẫn phớt tỉnh:

    “- Tôi không biết! Không thừa nhận gì cả”.

Trung đoàn trưởng khinh bỉ lắc đầu:

    “- Ông ngoan cố đến vậy là cùng. Thay mặt Bộ chỉ huy Quân giải phóng khu vực đường 19, tôi cảnh cáo các ông về những hành động vi phạm đó. Chúng tôi tôn trọng Hiệp định , nhưng nếu các ông cứ ngoan cố vi phạm Hiệp định, tăng cường phá hoại vùng giải phóng thì chúng tôi sẽ không để yên đâu”.

    Bị kích động, tên trung tá ngụy đỏ bừng mặt, hắn đứng bật dậy, gườm gườm nhìn ông và nói rít qua kẽ răng:

    “- Mày tưởng chúng tao sợ không dám sống chết với chúng mày à? Dù người Mỹ bỏ rơi chúng tao thì chúng tao cũng không để yên cho chúng mày chiếm lấy miền Nam này. Chúng tao sẽ đánh đến cùng. Đù mẹ! Chỉ có những thằng ngu thì mới thò tay ra mà ký cái bản hiệp định mắc dịch này!”.

    Trung đoàn trưởng cũng đứng bật dậy từ lúc nào không rõ. Ông bặm môi, phóng những tia mắt sắc lạnh vào mặt tên trung tá ngụy. Phải cố gắng lắm ông mới ghìm được mình để không vung tay thoi vào mặt cái thằng du côn ấy:

    “- Im ngay – ông gằn từng tiếng – sự lồng lộn, hiếu chiến của chúng mày sẽ được trả lời. Nếu chống lại Hiệp định Pa-ri thì sớm muộn bọn mày cũng sẽ đến ngày diệt vong – ông khoát tay, chỉ về phía vùng giải phóng – đất vùng giải phóng đó. Chúng mày có giỏi thì cứ húc đầu vào”.

Cuộc tiếp xúc như thế là tiêu ma. Trung đoàn trưởng trở về lòng bừng bừng phẫn nộ. Chính ủy Tâm hình như cũng đoán được kết quả của cuộc tiếp xúc liền mỉm cười hỏi:

    “- Hỏng rồi hả?”

    Trung đoàn trưởng bực mình gắt:

    “- Lần sau còn diễn cái trò này thì xin cử người khác. Tôi xin chịu! Một chút nữa thì tôi thoi nắm đấm vào mặt cái thằng mất dạy ấy!”

    …

    Vậy mà bây giờ “cái thằng mất dạy” ấy đang ngồi trước mặt ông đây. Cái vẻ hùng hổ, xấc láo của hắn biến đâu mất. Thấy ông im lặng lâu, tự nhiên hắn đâm hoảng. Đầu hắn cúi gục xuống, cái cổ bự thịt rung rung. Trung đoàn trưởng mỉm cười, hỏi lại:

    - Nào, ngài trung tá, ngài đã nhớ chúng ta đã gặp nhau ở đâu chưa?

    - Dạ… Thưa ngài, tôi… Thiệt tình tôi…

    - Không nhớ hả? Vậy thì tôi xin nhắc cho anh nhớ nhé. Hồi Hiệp định Pa-ri vừa ký kết, tôi và anh đã gặp nhau trong một cuộc gặp gỡ tay đôi. Lúc đó anh đàng hoàng hơn bây giờ nhiều.

    Tên trung tá ngụy giật mình đánh thót. Hắn ngước mắt lên nhìn lại người cán bộ Quân giải phóng đang ngồi trước mặt. Dù trí nhớ tồi đến đâu thì hắn cũng đã nhớ ra cuộc gặp gỡ ấy. Cuộc đời thật trớ trêu! Hắn có ngờ đâu lại rơi vào chính tay người ấy. Phen này thì tính mạng hắn tiêu ma. Ý nghĩ ấy như một con rắn luồn lách trong người hắn. Cột sống hắn ớn lạnh, mồ hôi vã ra lấm tấm, trên mặt. Từ cuống họng hắn phát ra những tiếng lè nhè, lí nhí:

    - Tôi… nhớ ra rồi… thiệt không ngờ… gă…ặp lại quy…quý ông…

    Trung đoàn trưởng đột nhiên cất tiếng cười vang:

    - Tiếc nhỉ? Anh bị bắt sớm quá. Anh thề chiến đấu chống Cộng tới cùng kia mà. Nhưng thôi, đã trót gặp nhau ở đây rồi, biết làm sao? Có lẽ hôm nay chúng ta sẽ nói chuyện thoải mái hơn, phải không?

    Tên trung tá ngụy vội cúi mọp xuống, trung đoàn trưởng nhìn thấy cả cái gáy béo núc, đỏ như cổ gà tây của hắn.

    - Dạ!... Ngài… cứ hỏi. Biết điều chi tôi xin nói hết.

    Mãi tới lúc ấy cuộc hỏi cung của trung đoàn trưởng Thuần mới thực sự bắt đầu.

*

- Tôi vốn là một sĩ quan chỉ huy đúng như ông đã biết. Nhưng đó là những năm trước đây. Sau những trận thất bại nặng nề ở khu vực đường 19, tôi bị cách chức liên đoàn trưởng. Đại tá Phạm Duy Tất, tư lệnh biệt động quân còn có ý định đưa tôi ra tòa án binh nữa, thưa ông. Nhưng tướng Phạm Văn Phú đã cứu tôi, tôi với ổng là chỗ thân tình mà. Tướng Phú tài năng tuy có hạn nhưng lại có thế lực, được tổng thống yêu mến. Vì vậy, mặc dù trong những năm bảy ba, bảy tư, tình hình cao nguyên xấu đi rất nhiều, nhưng vì quá tin tướng Phú, tổng thống cũng ít lưu ý tới. Tới đầu năm nay, tình hình cao nguyên trở nên căng thẳng nhưng tướng Phú vẫn đủng đỉnh. Ổng luôn miệng nói rằng: “Dù năm nay Việt Cộng có đánh lớn ở Tây Nguyên thì cũng chỉ căng hơn 1972 chút đỉnh”. Ổng cũng quả quyết rằng, hướng tiến công chủ yếu của Việt Cộng trong chiến dịch mùa xuân năm nay sẽ nhằm vào Plây Cu. Sau khi xuất hiện những dấu hiệu khả nghi xung quanh Buôn Ma Thuột, thậm chí, tới tận khi các đơn vị đồn trú tại đó báo cáo phát hiện được sự tập trung của các đơn vị Quân giải phóng xung quanh Buôn Ma Thuột, tướng Phú vẫn không tin vào giả thuyết Buôn Ma Thuột có thể bị tiến công. Ổng co tất cả  lực lượng về phòng thủ Plây Cu. Cho đến tận chiều ngày mùng chín, tôi còn ở chỉ huy sở của đại tá Quang, tư lệnh sư đoàn 23. Tự nhiên, không hiểu sao tôi lại có linh cảm rằng, hình như sắp có sự bùng nổ lớn ngay tại đây. Xin lỗi ông – hắn cười ranh mãnh – tôi hơi mê tín, tôi tin ở những linh cảm của mình. Vì vậy, ngay chiều hôm đó, tôi xin phép đại tá xuống quận lỵ này, lấy cớ đi mừng sinh nhật của thiếu tá quận trưởng, chỗ thân tình với tôi từ trước.

- Dạ… ông nói đúng. Rốt cuộc tôi vẫn không chạy thoát. Đó là số phận, thưa ông. Một thầy tướng có uy tín ở Sài Gòn đã mách nước cho tôi biết vận hạn này. Tôi tránh được sự chết là nhờ có quý nhân phù trợ… Dạ, vâng thưa ông, tôi xin nói về liên đoàn 21. Thiệt đáng tiếc, các ông đến hơi muộn.

- Về phần tôi, thưa quý ông, khi chưa được tiếp xúc với cấp chỉ huy có thẩm quyền thì tôi rất hoảng sợ. Binh lính họ thường hay làm liều, làm bậy chỉ cần họ nổi xung lên một cái là tôi đi tiêu.. Vì vậy, khi được gặp quý ông tôi rất yên tâm. Ông nắm chắc các nguyên tắc của quân đội ông. Hẳn ông cũng biết, đối với tù hàng binh, trong văn bản Hiệp định Pa-ri cũng có đoạn…

- Im ngay – Trung đoàn trưởng giận dữ quát – Thứ nhất, anh không được đánh đồng bọn lính đánh thuê của các anh với các chiến sỹ anh hùng của chúng tôi. Thứ hai, anh không có quyền được nhắc tới Hiệp định Pa-ri. Bởi vì, chính anh đã từng tuyên bố hùng hổ rằng anh không chịu thừa nhận. Đồ láu cá! Khi sa cơ lỡ vận thì các anh lại vớ lấy điều này điều nọ để hòng làm mộc che thân. Các anh hò hét đánh tới cùng thì chúng tôi cũng đủ sức mạnh, đủ quyết tâm để đánh tới cùng.

Cơn giận dữ bừng bừng của trung đoàn trưởng khiến tên sĩ quan ngụy chết khiếp. Hắn run bắn, mặt mày tái nhợt, đầu cúi mọp cái gáy đỏ tía giật giật, nước mũi hắn nhểu xuống. Lần này hắn không đủ can đảm để “xin lỗi” và cũng quyên rút cả mùi xoa mà chỉ kịp đưa cánh tay áo lên quyệt ngang một cái

3

Biết tin trung đoàn vừa đánh thắng trận đầu, giải phóng một quận lỵ, tiêu diệt một tiểu đoàn bảo an và một đại đội biệt kích, các chiễn sỹ tiểu đoàn 3 lại xôn xao cả lên. Cán bộ các đại đội nhăn nhó chạy lên tiểu đoàn gặp Nguyên và Khẩn. Họ nói với các anh: “ Chúng tôi chịu rồi đấy, không biết giải thích thế nào cho anh em họ yên tâm mà ngồi đây nữa”. Ở bếp tiểu đoàn bộ, đột nhiên xuất hiện một bức tranh biếm họa vẽ bằng than đen trên một tờ báo cũ. Bức tranh vẽ một con hổ nằm phục rình mồi và… ngủ luôn!

Nguyên đưa bức tranh biếm họa ấy cho Khẩn và hỏi:

- Ông hiểu bức tranh này chứ?

Khẩn xem rồi mỉm cười:

- Lính ta thâm thật. Nhưng… quả thực có vấn đề rồi đấy!

- Bây giờ tính sao?

- Điện về sư đoàn “cầu cứu” chăng? Không được! Các cụ ấy sẽ cho một bài rồi biết tay nhau. Tốt nhất là thế này: chiều nay tôi và anh sẽ thay nhau xuống các đại đội.

- Để làm gì?

- Nói chuyện với anh em, đến từng tiểu đội mà nói:

- Nhưng nói điều gì? Chẳng lẽ lại: các đồng chí cứ yên tâm, cấp trên không bỏ quên chúng ta đâu, chúng ta nằm đây là trong ý đồ của chiến dịch… Như vậy thì đến tôi cũng còn ngán nữa là bộ đội.

Khẩn vội xua tay:

- Không phải như vậy. Chúng ta sẽ nói bằng cách khác.

- Cách gì?

- Bây giờ thì mình chưa nghĩ ra, nhưng cứ xuống các tiểu đội, gặp anh em, rồi ta sẽ nghĩ ra cách nói. Tôi nghĩ, cách tốt nhất là nói thẳng những ý nghĩ của mình với anh em, họ sẽ hiểu và thông cảm.

Nguyên mỉm cười hỏi:

- Vậy thì suy nghĩ của anh là thế nào?

Khẩn ngạc nhiên hỏi lại:

- Cậu còn phải hỏi mình?

- Chứ sao? Tôi muốn, trước hết chúng ta hãy nói hết những suy nghĩ thực của mình với nhau, sau đó sẽ nói vói chiến sỹ.

- Vậy thì thế này, nhưng cậu hãy ngồi xuống đây đã – Khẩn dừng giây lát rồi nói – Mình nói thật, mình cũng rất sốt ruột. Nguyên ạ. Mặc dù mình tin sư đoàn không hề quên chúng ta. Có một cái gì đây, cần phải hiểu cho đúng đắn. Phải chăng đó là yêu cầu của thế trận? Cậu thử nhìn trên bản đồ mà xem, chúng mình đứng chênh vênh quá. Theo mình, hiện nay địch không còn khả năng khai thông đường 14 nữa, cấp trên đã nhận ra điều đó và điều trung đoàn đi làm nhiệm vụ khác. Cụ thể là trung đoàn vừa đánh chiếm xong quận lỵ Buôn Hồ. Vậy thì, phương án đánh định trên đường 14 của tiểu đoàn mình có thể tạm loại ra. Các căn cứ địch xung quanh không còn, do đó cũng không có phương án tham gia đánh địch ở bất cứ điểm nào xung quanh khu vực này. Vậy thì, chỉ còn có một khả năng đưa tiểu đoàn ta vào tham gia tác chiến.

Nguyên khẽ reo lên:

- Đúng rồi! Đó là hướng thị xã Cheo Reo… Anh lập luận giỏi đấy.

Đôi mắt Khẩn chợt sáng lên:

- Đấy! Tôi cho rằng sở dĩ chúng ta bị “ngâm tôm” ở đây chủ yếu là để chờ đợi phương án này.

Nguyên chợt băn khoăn:

- Nhưng… đó là ý đó là ý đồ tác chiến, liệu nó có ích gì trong việc giải quyết tư tưởng cho bộ đội trong lúc này. Bởi vì, đứng về nguyên tắc, điều đó phải được giữ bí mật.

Khẩn gật đầu xác nhận:

- Đúng, chúng ta không được phép nói ra ý đồ đó. Nhưng có thể gợi ý cho anh em họ suy nghĩ trao đổi về những phương án có thể xảy ra. Nhất định rồi anh em cũng có suy nghĩ theo chiều hướng này. Có vấn đề để mà suy nghĩ, bàn bạc, anh em sẽ đỡ sốt ruột hơn. Và, khi nhiệm vụ đến thì anh em đã sẵn sàng về tư tưởng.

Nguyên vui sướng vỗ vai Khẩn:

- Giỏi lắm! “Chính ủy” có khác. Tôi chịu anh rồi đấy.

- Còn vấn đề này nữa – Khẩn trỏ vào tờ báo – Chúng ta có thể bắt đầu từ con hổ này. Chúng ta hãy hỏi bộ đội xem, có phải tiểu đoàn mình đã “ngủ” rồi không? Không! Chúng ta không ngủ, mà đang mài vuốt chứ!

Hai người chỉ huy trẻ tuổi nhìn nhau và cùng cất tiếng cười lớn. Chiều hôm đó chính trị viên Khẩn và tiểu đoàn trưởng Nguyên chi nhau đi xuống các đại đội. Câu chuyện “con hổ ngủ” chẳng bao lâu đã được truyền đi khắp tiểu đoàn.

Buổi tối, đột nhiên trung đội trưởng Mánh lặn lội mò lên tiểu đoàn. Sau khi trò chuyện vòng vo một hồi, Mánh hỏi Nguyên:

- Này, thế cháu đã biết thằng cha nào nó vẽ cái con hổ ngủ đó không?

Nguyên khẽ lắc đầu:

- Không, vả lại cần gì phải biết ai vẽ hở chú? Anh em họ cũng đùa cho vui thôi.

Mánh ngồi tựa vào vách hầm, duỗi dài hai chân ra, ngáp một cái rồi đột ngột nói:

- Chú vẽ đấy!

Nguyên ôm bụng, nằm lăn ra nền hầm, cười rũ rượi. Mánh ngạc nhiên hỏi:

- Sao mày lại cười?

Nguyên lồm cồm ngồi dậy, qua ánh sáng của ngọn đèn dầu vắt, Mánh thấy gương mặt Nguyên đỏ ửng, đôi mắt anh sáng lóng lánh. Mánh xúc động nhận ra những nét trẻ trung của đứa cháu ruột. Anh có cảm tưởng như Minh đang ngồi ở nhà vào một buổi tối nào đó, kể cho Nguyên nghe những câu chuyện đời bằng cái giọng hài hước vốn có của mình; chứ không phải hai chú cháu đang ngồi trong một căn hầm, ngoài mặt trận.

- Ngay từ lúc đầu cháu đã đoán là chú vẽ. Chỉ có chú mới vẽ nổi con hổ có cái dáng, nhất là cái mặt buồn cười đến thế!

- Sao mày không mang tao ra mà kỷ luật?

- Có gì mà kỷ luật. Đây là một câu chuyện vui thôi mà. Chú đã gợi ý cho ban chỉ huy tiểu đoàn nhắc nhở bộ đội đừng lơ là cảnh giác, lơi lỏng ý chí chiến đấu thì có.

- Vậy thì biểu dương tao chứ?

- Cũng chưa đủ để biểu dương. Nếu chú ký dưới bức vẽ một chứ Mánh vào đó thì cháu biểu dương thật. Nhưng thôi, chú về đi. Buổi tối mà chú bỏ trung đội đi chơi thì liều thật đấy.

Mánh ậm ừ vài tiếng rồi đứng dậy, xỏ dép ra về thật. Chui ra khỏi hầm, đột nhiên anh nhớ ra một điều quan trọng nên lại lom khom chui vào.

- Này!... Buồn cười quá. Có một cái thư của thím mày, Nguyên ạ - Anh vội vàng móc khắp các túi – Khỉ chưa, tao quên ở nhà rồi.

Nguyên ngạc nhiên hỏi:

- Thư ở đâu ra thế chú?

- Thế này, thằng Xướng “mũi xanh” ấy… (cái thằng khỉ). Thư này là thư vào từ tháng trước, hồi còn ở Gia Lai. Cái lão Xướng ấy nhận giùm, rồi đút ba lô, quên luôn có chết tao không? Hôm nay tốt ngày hay sao ấy, lão ta lấy quần áo ra phơi (giời ạ!) mới thấy lá thư ấy, mốc meo của người ta rồi còn gì.

- Chán quá – Nguyên phàn nàn – chú không mang theo cho cháu đọc luôn.

- Để mai… đại loại thế này, cả nhà vẫn khỏe. Thằng Tùng vào lớp tám rồi, vậy mà nó không viết cho tao chữ nào, con cái thế đấy! Cái Hạnh lên lớp năm. Thằng Thi lớp ba. Cu Cúc lớp một. Thím mày thì khỏe, làm đội phó sản xuất, lời lẽ có vẻ cán bộ lắm rồi. Bên cháu thì tình hình vẫn như trước, cháu biết rồi. Có cái mới là bác mới đóng thêm một cái tủ chè, mua một cái O-ri-ông-tông… A, điều này thì quan trọng hơn cả: con Hồng nó ra trường rồi, về dạy cấp ba huyện, chủ nhiệm lớp thằng Tùng, thím mày nhắc viết thư cho nó đi, ổn hết. Cái thằng Khắc là thằng láo, nó viết bậy viết bạ thế để cho mày ngãng ra, nghe chưa? Thế thôi, chú về nhé, mai chú mang thư lên cho mà đọc.

Chú Mánh đi rồi, Nguyên ngồi lặng trong hầm, lòng dạ nôn nao. Không ngờ điều băn khoăn lo lắng bấy nay của anh lại được tháo cởi đột ngột đến vậy. Hồng vẫn yêu anh, Hồng không hề phản bội. Vậy mà suốt mấy tháng nay anh đã âm thầm oán trách Hồng. Anh đã ngây thơ, cả tin tới mức chỉ một bức thư của Khắc, với những điều bịa đặt quàng xiên mà đã vội vàng kết tội người mình yêu dấu. Anh đã viết cho Hồng một bức thư lời lẽ lạnh nhạt, biểu lộ sự hờn giận, oán trách. Có lẽ Hồng đã nhận được bức thư ấy và đang giận anh. Vì thế nên không viết thư cho anh nữa. Lỗi tại anh tất cả, ước gì anh có thể lấy lại bức thư ấy. Không thể được nữa rồi, anh không còn cách nào khác hơn là viết một bức thư về xin lỗi Hồng. Nhưng… đến bao giờ thì viết được? Đến bao giờ mới có một chuyến thư ra? Có khi phải vài ba tháng, có khi một năm, người chiến sỹ ở mặt trận mới có một cơ hội để gửi một bức thư về hậu phương xa xôi. Mong sao đừng có một người con trai nào ở mặt trận mắc phải những lỗi lầm như anh.

Đồng chí liên lạc của anh đi họp phân đoàn đã về. Cậu ta lại rúc rích kể chuyện về “con hổ ngủ”, đề tài mà phân đoàn tranh luận khá sôi nổi. Chú Mánh của anh thật là tuyệt vời, tự nhiên lại nghĩ ra cái chuyện kỳ khôi ấy, tự nhiên lại có một bức thư!

CHƯƠNG SÁU

1

Một chiếc GMC chở đầy ắp những lính, đỗ xịch ngay trước cửa tiệm rươu Mắt Huyền. Bọn lính cười ré lên rồi chen nhau, sầm sầm nhảy xuống. Chỉ một loáng, tiệm Mắt Huyền đã tối sầm lại, nồng nặc mùi mồ hôi lính, ồn ã tiếng cười, tiếng nói.

Bà chủ quán tất tưởi, chạy ra chạy vô. Rõ ràng là bà không sẵn sàng để đón đám khách ghê gớm này. Tiếng hò hét gọi đồ nhậu cứ tới tấp dội lên như một đợt pháo phản kích.

- Cho rượu đế nghe bà chủ. La de la diếc hổng có ăn nhắm chi với tụi Bạch Hổ này đâu nghen.

- Ê, bà chủ… Mắt Huyền đi mô mà bà tiếp khách?

- Rượu đế mà hổng có Mắt Huyền thì nhạt hoét!

- Anh Hai nói trúng bóc. Mắt Huyền mô bà chủ? Đưa ra đây. Tụi này chỉ ngắm chơi chút xíu chứ có xài mất của bà đâu?

Hố hố! Hí hí! Ha… ha… Bọn lính ré lên cười như động kinh. Bà chủ quán nhẫn nhục phân trần:

- Dạ, thưa mấy cậu, cháu nó đi cất hàng dưới Nha Trang chưa lên.

Một người lính mặt dài như mặt ngựa gào lên:

- Dẹp đi thôi bà già! Tụi giặc đỏ nó hổng biết uống rượu đâu nghen.

Bà chủ sửng sốt:

- Tôi mở tiệm… đặng phục vụ mấy cậu, chứ đâu có tính…

- Tụi này cuốn gói đây. Bai… cao Nguyên! Hơ hơ! Rứa mà lại hay đó tụi bay. Khỏi lo đạp chông mắc thò của tụi mọi, ớn thấy cha. Một người lính khác cởi trần trùng trục, ngực xăm đầy những hình thù quái dị, rướn cổ gào lên một câu vọng cổ:

- … Em ơi…! Từ đây hết truông rừng truông bới… Nơi rừng xa rời rợi…. chốn biêng …ư ơ thùy…

Bà chủ quán lo lắng đến bên bàn viên trung úy bận đồ bông đang nâng ly rượu lên nhấp môi từng chút một mắt nhìn xa hút, đượm buồn

- Dạ… xin lỗi ngài trung úy…

- Bà chủ cần chi? Viên trung úy ngẩng đầu lên hỏi

- … Dạ thưa… Nghe mấy cậu lính nói thời dường như quân đội ta bỏ cao nguyên?

Viên trung úy nhếch mép cười chua chát:

- Đâu có bỏ. Chúng tôi tùy nghi di tản đó bà.

Bà chủ quán vẫn bồn chồn:

- Tùy nghi di tản… là cách sao trung úy?

Anh lính vừa ca vọng cổ ậm è nói với sang:

- Tùy nghi di tản nghĩa là… mạnh ai nấy chạy chú còn sao nữa.

Bà chủ quán thảng thốt kêu lên:

- Đã tới nước đó rồi sao trung úy?

Người sĩ quan gật đầu, xác nhận:

- Rồi còn xấu hơn nữa bà ạ. Tốt hơn hết là bà cũng nên tùy nghi di tản đi thôi. Ở đây rồi bọn đỏ vô nó lột xác.

Anh lính mặt ngựa chợt la lên:

- Mắt Huyền mà rơi vô tay bọn đỏ thì đi đứt! Chúng nó sống trong rừng hàng chục năm, thèm gái quá thèm phiến đó.

Gương mặt bà chủ quán thoắt tái đi. Hai tay bà dang ra phía trước rồi buông rũ xuống, vẻ tuyệt vọng. Giọng bà rền rĩ:

- Trời ơi! Con gái tôi vẫn chưa về thì đi cách sao? Cơ ngơi của tôi thế này…

Anh lính ca vọng cổ khoát tay:

- Tiếc gì! Rồi Việt Cộng sẽ làm cỏ hết. Nếu không thì tụi này đi rồi ông Thiệu cũng sẽ cho máy bay quần nát. Tiếc mà làm chi bà chủ? Mấy tay tư sản giầu sụ ở Công Tum còn bỏ cả đồn điền, xưởng máy “dinh tê” nữa là!

Bà chủ quán khóc dở mếu dở chạy vô nhà trong. Lát sau bà bê ra một vò rượu, đặt ịch giữa nhà:

- Mấy cậu uống đi cho đã… Tui cũng chẳng thiết chi nữa. Cơ đồ tiêu tán rồi. Trời hỡi trời!...

Bà ngồi bệt bên vò rượu khóc tu tu. Đám lính tự nhiên cũng im bặt. Nhiều người thở dài. Viên trung úy lặng lẽ đứng dậy, đi ra ngoài đường, dáng đăm chiêu. Trên lộ 14, lính tráng và dân chúng từ phía Công Tum kéo về nườm nượp. Chen trong những đoàn xe chở lính là xe của các gia đình, chất ngất nghểu những giường tủ, máy may, xe đạp, hon đa, gà, lợn… Dân Plây Cu đứng bên đường, nhớn nhác nhìn theo. Họ túm năm, tụm ba bàn tán rồi chạy xuôi chạy ngược. Một vài gia đình cũng bắt đầu chắt đồ đạc lên xe riêng. Gương mặt người nào cũng căng thẳng, phiền muộn.

Một người phế binh ngồi trên chiếc xe lăn tay, dừng lại bên viên trung úy, khẽ hỏi:

- Trung úy từ Công Tum về phải không?

Viên trung úy quay lại, khẽ nhăn mặt, có lẽ định quát  một câu gì đó nhưng chợt thấy trên ve áo của người phế binh có ba bông Mai và trên ngực xủng xoerng một lô những thứ gọi là huân chương, huy chương nên nhã nhặn đáp lại:

- Dạ, thưa đại úy, chúng tôi ở Công Tum về.

- Liên đoàn 23 hả?

- Dạ.

- Bộ mình tính bỏ cao Nguyên sao?

- Đại úy cũng thấy đó, tình hình bi đát lắm.

Viên đại úy im lặng nhìn người sĩ quan trẻ đứng trước mình, tay phải nắm chặt càng xe, tay trái đưa lên vò mái tóc vàng như rơm, mặt y nhắn nhúm lại, vết thẹo dài ngang trán giật giật, đôi râu mép rung rung. Đột nhiên, y nghiến răng, rít lên:

- Một lũ ăn hại – Y lặng lẽ đi một lát rồi lại rít lên – một lũ ăn hại! Cả tôi, cả trung úy, cả tướng Phú và cả một lũ lĩ tướng tá của chúng ta đều ăn hại ráo trọi. Chúng ta đã làm được cái gì trong hai mươi năm nay? Trung úy còn trẻ, trung úy nếm trải ít cay đắng. Còn những thằng như tôi… cái thằng tôi đã đeo lon trung úy từ thời đảo chánh ông Diệm kia, trung úy hiểu không? Đáng lý bây giờ tôi phải đeo lon đại tá rồi. Tôi căm thù cộng sản. Cha tôi, một điền chủ cỡ bự đã bị chúng nó sát hại hồi đồng khởi, gia đình tôi ly tán. Chỉ có tôi là trở thành chiến sỹ quốc gia. Chiến sỹ quốc gia thứ thiệt. Tôi đánh đấm ra trò – Y đưa tay lên ngực khua cho đám huân chương kêu rổn rảng – Rứa mà như vầy đây, trung úy. Ở đâu tôi cũng là thằng bất hảo. Tôi đá lộn nhèo tất cả những thằng nào hèn nhát, ngu dốt, bất lực. Dĩ nhiên là bọn nó cũng đá tôi ra trò. Tôi đã từng ra tòa án binh rồi vô tù. Lên đại úy rồi lại bị giáng xuống thiếu úy. Ra tù tôi lại cắn răng ì ạch leo lên đại úy rồi lại bị bọn nó đá xuống trung úy. Cho đến khi tôi cụt hai cái giò này thì tôi lại leo được lên tới đại úy. Thang vận tôi tới đó rồi trở thành một thằng phế binh – Y cười cay đắng – Đù mẹ! Chúng nó buộc phải thừa nhận tôi là “anh hùng diệt Cộng”, nhưng rốt cuộc như vầy đây, trung úy. Cực quá con chó! Chúng nó đá tôi như đá một trái banh nhưng tôi vẫn cứ lăn vô, vì tôi căm thù cộng sản, tôi muốn chiến đấu chống cộng. Nếu chưa bị cụt hai giò này, hẳn tôi vẫn cầm súng như trung úy. Gần hai chục năm nghiệp binh, tôi đã chiến đấu ở cao nguyên này. Cả tuổi trẻ của tôi đã hiến cho cao nguyên này. Vậy mà bây giờ chúng nó bỏ cho cộng sản. Bỏ. Hừ! Bỏ cao nguyên này thì miền nam tiêu đến nơi rồi. Thiệt là … đồ bị rách.

Viên trung úy mỉm cười chua chát:

- Vậy đó, biết làm sao? Chúng ta không đủ sức mà giữ thì phải bỏ thôi.

Viên đại úy phế binh vằn mắt:

- Sao không trụ lại mà đánh tới cùng.

Người sỹ quan trẻ nhếch mép, cười:

- Chúng tôi cũng mệt mỏi lắm rồi. Tất cả chỉ đợi một tiếng “chạy” là vắt chân lên cổ mà chạy tháo thân, vậy thôi. Tổng thống đã ra lệnh “Tùy nghi di tản” còn thằng chó nào nghĩ đến chuyện trụ lại xứ này nữa. Còn đại úy, ngài tính sao, di tản hay trụ lại?

Bị đẩy trở lại thực tế, lão đại úy ngơ ngác, chưng hửng. Có lẽ đến lúc ấy hắn mới hiểu rằng đã đến lúc chính hắn cũng phải  nghĩ đến chuyện bỏ cao nguyên này mà đi. Quên cả chào viên trung úy, hắn vừa lảm nhảm chửi rủa vừa đẩy cần cho chiếc xe tay nặng nhọc lăn dọc theo con đương ồn ào xe cộ.

Viên trung úy ngán ngẩm nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống mặt đường nhựa rồi quay trở vô tiệm, đứng chống nẹ nhìn đám lính đang ồn ào nhậu nhẹt và bỗng nhiên vô cớ quát um lên:

- Dẹp đi tụi bay! Đồ bại trận. Lên xe chuồn cho sớm chợ.

Đám lính bỗng im bặt, ngơ ngác nhìn nhau rồi lẳng lặng rời bàn, chuồn ra xe, chẳng đứa nào chào bà chủ quán lấy một tiếng. Viên trung úy lầm bầm chửi rủa rồi móc ví quẳng tất cả số tiền mình có lên bàn và nói với bà chủ:

- Quân hồi vô phèng vậy đó. Đừng trách tụi nó nghe bà chủ!

Bà chủ vội xua tay:

- Thôi, trung úy để tiền tiêu xài dọc đường… Tui chẳng thiết chi tiền bạc nữa rồi.

Nhưng viên trung úy đã lẳng lặng bước ra đường. Chiếc GMC lại lèn chặt những lính, rú máy ầm ĩ một lúc rồi lao vút đi. Bà chủ quán chạy ra mép đường ngơ ngác nhìn theo đoàn xe ầm ĩ lướt qua, gương mặt bà phút chốc trắng bạch ra như sáp.

2

Chị Tám ngồi giữa đống đồ đạc bừa bộn. Chị lật đống quần áo, bới cái này, nhặt cái kia, thỉnh thoảng lại rên rỉ:

- Khổ cách chi khổ vậy, hỡi trời!

Mai cũng ngao ngán thở dài. Chị Tám tiếc của quá, ngơ ngẩn cả người, không biết nên mang cái chi bỏ cái chi nữa. Mai phải giúp chị chọn những thứ áo quần, đồ đạc đáng giá nhất nhét vào ba cái va li. Vậy mà vẫn còn ngổn ngang trăm thứ.

- Phải mang bộ ly này cho ảnh nữa em. Cả con sư tử bằng thạch cao của anh bạn học cũ tặng ảnh dịp sinh nhựt vừa rồi cũng phải mang đi chớ. Lại còn bao nhiêu sách vở của ảnh nữa kìa.

Mặc chị chộn rộn, la lối, Mai cứ lặng lẽ thu dọn, nhặt nhạnh rồi phân ra từng thứ một. Thứ nào quý cô cho thêm vào một cái hòm gỗ nữa, thứ nào thường cô tạm vất ra ngoài.

- Trời ơi sao em vất bộ đồ này lại. Bộ đồ của ba ảnh mặc trước khi mất đó mà. Coi tàng vậy thôi mà ảnh quý hơn vàng. Không mang đi rồi ảnh lột xác chị.

Có tiếng súng nổ rộ phía sân bay. Rồi tiếng kêu khóc, la hét. Chị Tám tái mặt, lao vội ra cửa.

- Coi  bộ đánh nhau ở ngoải hả em?

- Họ giành nhau vào phi trường đó.

- Trời ơi! Họ phát điên cả lên rồi. Không biết anh Minh chạy đi đằng nào?

- Ảnh tính đi kiếm xe, chứ hạng mình sức mấy mà chen nổi lên máy bay.

Chị Tám giục rối rít:

- Em ra kiếm xem có anh Minh ở đó không? Đi đi, giùm chị với.

Mặc đù ra ngoài đường lúc này quả là một điều thật đáng sợ, nhưng nhìn gương mặt thiểu não của chị Tám, Mai không dám từ chối.

- Được, để em ra coi. Nhưng chị cứ ngồi yên đó mà canh đồ nghen. Nước này lính tráng nó dám xông vô cướp cạn đó.

Chính Mai cũng không hiểu sao bỗng nhiên mình lại trở nên tỉnh táo, bình tĩnh làm vậy. Có lẽ đứng trước sự hoảng sợ, yếu mềm của chị Tám, Mai bỗng thấy mình phải mạnh bạo, liều lĩnh hơn. Nếu cả hai chị em đều cuống cả lên rồi ôm nhau mà la trời thì rồi sẽ ra làm sao? Cái lúc anh Minh chạy về như một cơn lốc, hét rùm lên “thu dọn đồ đạc, chuẩn bị di tản”, Mai cũng sợ cuống cả lên. Một lát sau, cô mới hiểu rằng tình hình hết sức nghiêm trọng, quân đoàn 2 đã quyết định bỏ cao nguyên rút chạy về đồng bằng ven biển. Nhưng rút làm sao, bao giờ rút, anh Minh cũng chẳng nói. Anh chỉ kịp dặn vợ và Mai thu dọn đồ đạc cho gọn rồi lại lao đi, nói rằng đi kiếm xe. Nhưng biết ảnh ở đâu bây giờ mà đi kiếm.

Ra đến đường, cô mới thấy rằng cả thị xã đang náo động như một bọng ong vỡ tổ. Người xe nhốn nháo, loạn xị, đen đặc các ngả đường. Lối vào phi trường tắc nghẽn bởi người, xe, gồng gánh, bìu díu. Tiếng la hét, gọi con cái, chửi bới, kêu khóc rùm trời rùm đất. Trên những trục đường chính, xe nhà binh chất đầy hàng, đầy lính bóp còi inh ỏi, phóng bạt mạng. Xe chữa cháy, xe tải thương, xe ủi đất cũng chất đầy đồ đạc, lặc lè chen lấn, luồn lách. Mặt đường nhựa bị băm nát bởi xích xe tăng, xe bọc thép. Binh lính, sĩ quan mang phù hiệu không đoàn 6 dắt díu vợ con, khuân vác đồ đạc ra những chiếc GMC, xe Dép, xe hòm, xe du lich… thỉnh thoảng một vài loạt súng vang lên ở góc này hay góc kia. Kho tàng trong sân bay vẫn đang cháy dữ dội, khói đen bốc lên cuồn cuộn, rồi ngưng đọng trên bầu trời, tạo nên tấm màn đen nặng nề, bức bối như sắp đè sập xuống thị xã.

Cổng phi trường ứ đặc, nhấp nhô đầu người. Lính quân cảnh đứng trên những chiếc lô cốt phòng thủ chĩa loa pin xuống đám người đen đặc ấy mà hò hét nhưng vẫn vô hiệu. Cái biển người ấy gầm gừ gào thét và xô tới. Lính quân cảnh bất lực, điên tiết, tung liền mấy trái lựu đạn cay, dựng lên cả một bức tường hơi ngạt mới tạm thời cản được cái biển người kia khỏi tràn vào phi trường. Người ta nói rằng xe của tướng Tất, của ông trưởng ty ngân khố, của ông thị trưởng Plây Cu phải gian khổ lắm, với sự trợ giúp đắc lực của cảnh sát và quân cảnh, mới vượt qua được cái biển người dữ tợn ấy để vào phi trường và có lẽ họ sẽ là những người cuối cùng được di tản khỏi Plây Cu bằng máy bay. Sau đó sẽ không còn chiếc máy bay nào có thể cất cánh được nữa. Tuy vậy, người ta vẫn không chịu tin, vẫn chen lấn, xô đẩy nhau để vào phi trường. Biết đâu, có thể có một máy bay khác còn cất cánh được? Hoặc nếu có thể, thì cứ chen bừa lên máy bay của tướng Tất. Hy vọng mong manh ấy đã cho họ sức mạnh cho họ cả sự hung hãn, bất cần để chen lấn, xô đẩy. Một vài loạt súng từ trong đám người hỗn loạn ấy xỉa lên phía bọn quân cảnh. Bọn này hoảng hồn tụt vào lô cốt hoặc tụt xuống chạy ngược trở vào phi trường. Vừa lúc đó chiếc máy bay C.47 cuối cùng ầm ĩ cất cánh. Cái biển người ồn ào đó sững lại, họ dứ nắm đấm, dứ súng, tung lên trời những loạt đạn và những lời nguyền rủa.

Bây giờ thì chẳng còn ai ngăn đường vào phi trường nữa. Nhưng, chính điều đó lại khiến họ nghi ngại. Thà rằng, bọn quân cảnh cứ hò hét, cứ bắn súng lên trời, cứ tống lựu đạn cay cản đường thì họ vẫn còn hy vọng, vì người ta còn ngăn cản nghĩa là vẫn còn một cái gì đó mà người ta có thể giành được. Đằng này, bỏ trống hoang hoác, nghĩa là chẳng còn gì để hy vọng nữa, chẳng còn gì sất. Vì vậy, sau khi hò hét chửi rủa cái bọn vừa bay lên trời một hồi, cái biển người ấy lại rùng rùng chuyển động theo chiều ngược trở lại.

Mai đã bị cái biển người ấy nuốt chửng. Vất vả lắm cố mới chen ra được đến đầu đường để trở về khu gia binh. Thật điên rồ khi có ý định tìm một con người trong cái cảnh nháo nhác, loạn xị này. Cô mệt mỏi, rã rời, đầu óc âm u, không nghĩ được một điều gì rõ rệt. “Thật là hỗn loạn! Thật khủng khiếp!”. Cô vừa lảo đảo bước đi vừa lẩm bẩm mấy câu ấy.

Bỗng một chiếc xe Dép phóng vụt qua rồi đỗ xịch ngay trước mặt Mai. Minh ngồi trên ghế lái quay lại gọi:

- Mai! Sao lại ra đây?

Mai chạy vội đến, mếu máo:

- Chị Tám bảo em đi kiếm anh.

Minh vẫy tay:

- Lên xe đi!

Mai vội vàng leo lên xe. Nhìn bộ mặt căng thẳng của kỹ sư Minh, Mai biết không nên hỏi gì thêm. Cô ngồi im thít trên ghế một lát rồi bỗng dưng ôm mặt khóc. Cô cũng chẳng hiểu tại sao mà mình lại khóc. Có lẽ cảnh tượng hỗn loạn, khủng khiếp vừa qua đã tác động quá mạnh vào cân não cô. Ngồi trên ghế lái, Minh cũng biết Mai đang khóc, nhưng lúc này đâu phải lúc an ủi, vỗ về, cô ấy khóc chán rồi sẽ thôi. Minh nghĩ vậy và cho xe quẹo vào khu gia binh rồi chạy thẳng tới cửa nhà mình, đỗ xịch lại. Chị Tám từ trong nhà chạy ra hét lên một tiếng “Anh Minh!” rồi đứng sững lại trước đầu xe. Minh mệt mỏi gục đầu vào vô lăng. Chị Tám hốt hoảng chạy đến, lay vai chồng:

- Mình ơi! Mình làm sao thế?

Minh ngẩng lên, cười gượng gạo:

- Anh có sao đâu… căng thẳng quá, may nhờ có trung úy Phát ở liên đoàn tiếp vận giúp đỡ nên mới cướp được cái xe này đấy.

- Xe máy của anh đâu?

- Liệng cha nó đi rồi. 

Chị Tám giậm chân bành bạch:

- Ối giời ơi! Mấy chục ngàn đồng bạc...

Minh nổi quạu:

- Im đi! Mang được cái mạng về là quý. Tiền với bạc. Vào khuân đồ ra đi. Chúng nó chạy ráo trọi rồi.

Chị Tám nín thít, tất tưởi chạy vô nhà. Mai cũng vào giúp chị khiêng mấy cái va li, hòm xiểng ra xe. Minh mở nắp ca-pô, kiểm tra lại xe, mặc cho hai người đàn bà muốn chất gì lên xe thì chất. Anh đã mệt mỏi, chán ngán tất cả, chỉ muốn liệng đi hết, chạy người không cho rảnh. Dường như đoán được ý nghĩ của anh nên chị Tám nín thinh, lặng lẽ khuân đồ, thỉnh thoảng lại len lén nhìn chồng. Phút chốc thùng xe đã đầy ắp. Chị Tám tần ngần đứng nhìn đống đồ đạc ngổn ngang:

- Mình ơi – chị e dè gọi – Còn bao nhiêu là thứ.

Minh khoát tay:

- Liệng hết, tiếc chi?

Chị Tám nhăn nhó:

- Còn cái tủ lạnh.

Minh phát khùng:

- Đã nói vất cha nó lại. Vất hết! Lên xe lẹ đi!

Anh nhảy phắt lên ghế lái, cho xe nổ máy rồi rú ga ầm ĩ. Chị Tám nghẹn ngào nhìn lại căn phòng, nơi vợ chồng chị đã ăn ở với nhau hai năm trời một lần nữa rồi mới lên xe, cùng Mai ngồi trên đống va li, đồ đạc kềnh càng.

- Ngồi cho vững nghen!

Minh đã chuẩn bị đấm số cho xe chạy, bỗng không hiểu vì sao anh lại nhảy xuống, bước vô cửa, lặng lẽ nhìn căn phòng vẫn còn ngổn ngang đồ đạc một lát rồi mới quay ra xe, ngồi trên ghế lái. Đến lúc ấy anh mới quay lại nói với vợ bằng cái giọng dịu dàng vốn có của anh:

- Mình ạ! Cơ đồ tiêu tán hết rồi. Không phải chỉ riêng chúng ta đâu, mà cả cái chế độ này cũng sắp tiêu ma rồi. Chúng ta cố gắng bò về đến Nha Trang rồi tìm một cái nghề gì đó mà làm ăn, nuôi nhau, cho qua ngày. Còn em – Minh quay sang nói với Mai – khi mô anh chị còn sống thì anh chị sẽ cưu mang em, tìm cách đưa em về tới Sài Gòn với ba má, em khỏi lo.

Mai khẽ “dạ” nhỏ chen trong tiếng thở dài.

Chiếc xe rú lên một hồi, ngật ngưỡng quay ra đường rồi lao vút đi. Chỉ một lát, nó đã ra tới đường chính và lẫn vào trong đám xe cộ hỗn loạn của đoàn người di tản đang cuồn cuộn tuôn ra khỏi cái thị xã ngột ngạt này.

3.

Đến một ngã ba đường cái, đoàn người xe, chật như nêm ấy đột nhiên bị ùn cả lại. Ngồi trên xe, nhìn tít tắp về đằng trước, Mai vẫn chỉ thấy ngờm ngợp những xe, những người. Chiếc xe của họ lọt thỏm giữa dòng xe cộ dài dằng dặc, nhỏ nhoi như một hạt bụi bị cuốn vào cơn lốc xoáy.

Minh ghì chặt vô lăng cho xe nhích lên từng chút một. Những chiếc xe tải chở đầy lính hoặc đồ đạc dềnh dàng vẫn ép chặt hai bên như muốn đè bẹp chiếc xe nhỏ bé của anh. Những người lính lái xe, mặt đen cháy, thò cổ ra khỏi ca-bin phóng vào mặt nhau những câu chửi tục tĩu. Khói từ ống xả của đoàn xe xịt ra mù mịt, thành ra lúc nào cũng cảm thấy như cả đoàn xe, cả con đường đang âm ỷ cháy.

Mai ngồi bên chị Tám, ngơ ngác như người mất hồn. Cô không chịu nổi mùi dầu mỡ, mùi ét-xăng trộn lẫn với mùi mồ hôi lính nồng nặc. Cô nôn thốc nôn tháo mấy lần đến khi không còn gì trong ruột mà nôn ra nữa. Cơ thể cô ra rời, tựa hồ chỉ cần giũ mạnh một cái là xương cốt sẽ rời ra, mỗi nơi một mảnh. Vốn là một cô gái được cưng chiều từ nhỏ, được nâng như nâng trứng, cô không bao giờ tưởng tượng được rằng con người lại có thể sống qua được những ngày khủng khiếp thế này. “Thôi, phó mặc cho số phận. Hãy coi như mình đã chết rồi, mặc cho cơn gió lốc của cuộc đời này cuốn tới đâu thì tới”. Ý nghĩ buông xuôi đó dường như lại khiến cho Mai vững vàng hơn. Cô dựa vào vai chị Tám, nhắm mắt lại với ý nghĩ càng ít phải nhìn vào cảnh tháo chạy hỗn loạn này bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.

Mai cứ nhắm mắt như vậy, để mặc cho mình trôi đi cùng chiếc xe, cùng đoàn người. Thỉnh thoảng cô lại mở choàng mắt bởi một cái xóc nảy người hay bởi một giọng đàn ông rít lên như tiếng gõ thùng thiếc: “Đồ ngu! Đi với đứng thế à?”. Không thể tưởng tượng được đó lại là giọng của Minh, ngày thường anh hiền khô nói năng nhỏ nhẹ cơ mà? Cả đến chị Tám, hiền dịu như thế mà khi bị một chiếc xe cây quyệt qua, hất tung mấy thứ lặt vặt xuống đất, chị cũng lồng lên, rủa xả om sòm, tục tĩu đến nỗi Mai cũng phát ngượng. Cô cay đắng nghĩ rằng có lẽ mọi người đều sắp sửa phát điên, sắp sửa nhảy vào nhau mà cắn xé. Cả cô nữa, có lẽ cô cũng sắp sửa phát điên lên rồi đây. Nghĩ vậy, cô chợt cất tiếng cười gằn, khô khốc và quái gở đến nỗi chị Tám cũng phải quay sang nhìn cô, sững sờ hỏi:

- Em làm sao thế?

Mai sực tỉnh:

- Sao đâu chị!

- Vậy mà em cười như con điên ấy!

Bỗng một loạt đại liên nổ rộ ở phía trước, đạn bay veo véo trên đầu. Cả đoàn xe đứng sững lại. Lính tráng trên xe nhảy xuống ào ào. Có nhiều tiếng la thất thanh:

- Phục kích rồi!

- Chặn đường rồi!

- Đù mẹ! Chạy đi… chết ráo bây giờ!

Và người ta xô nhau chạy vào rừng. Ào ào như một cái chợ vỡ. Minh cũng vội xuống xe, kéo vợ và Mai chạy lao ra rừng như tất cả mọi người. Cái khe cạn dưới chân đồi phút chốc đầy ắp những người. Tiếng trẻ con la hét. Những người lính hục hặc . các cấp chỉ huy chửi bới vì thấy không một người lính nào kịp mang theo súng. Một hồi lâu vẫn không nghe thấy tiếng súng, tiếng mìn hay tiếng B.40 như người ta vẫn tưởng tượng. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Rồi, không hiểu ai đó đứng trên đỉnh đồi, hét toáng lên:

- Không phải bị phục kích. Về xe đi, lính thiết giáp và lính biệt động hù nhau chơi thôi.

Ra vậy. Mọi người thở hắt ra, uể oải leo lên khỏi khe cạn. Những người lính nhìn nhau ngượng ngùng rồi chợt cười phá lên:

- Vậy là nhầm! Báo động thôi đó nghe.

- Nhầm mà còn chạy hú hồn vậy vậy. Lỡ thiệt, e lột cả quần mà chạy!

- Lính tráng như mấy anh thật hèn! – Mai quay lại ném một câu như vậy vào mặt đám mày râu. Ho không nổi giận, lại còn nhìn cô cười hô hố.

- Cô em ơi! Tránh voi chẳng xấu mặt nào.

- Nè cô em – Một anh lính cao lêu đêu đi vượt lên sát Mai và bắt chuyện – Cô em ở xứ mô mà cũng “tùy nghi di tản” với mấy anh?

Mai đáp ngang phè:

- Dân Sài Gòn, hỏi chi?

- Ủa, dân Sài Gòn? – Anh lính cao kều sững lại ngạc nhiên hỏi – Xớ rớ cách chi mà lại rơi vô đây?

- Đi coi mấy anh đánh đấm ra sao đó?

- Ha… ha! – Anh lính cười nghiêng ngả - Cô út Sài Goòng đi thị sát chiến trường hả? Tụi này đánh chác dở ẹc dậy đó. Chạy dài hà? Không chừng tụi này chạy tuốt dô Sài Goòng đó.

- Rồi chạy đi mô nữa?

Người lính sững lại, ngơ ngác, hình như chưa bao giờ anh ta tự hỏi như vậy.

- Ờ, chạy đi mô nữa? Chạy tới Sài Goòng của cô em là hết đường rồi.

- Sang Mỹ!

- Cô em nói giỡn hoài. Sang Mỹ! Hứ! Bộ dạng tụi này sang Mỹ mà đi ăn mày sao? Phải có bạc tỷ gửi nhà băng như mấy ông bự ở Sài Goòng thì mới tính chuyện sang Mỹ. Nói dậy chứ đâu đã tới nỗi nào. Tụi anh dề Nha Trang ăn nhậu một hồi cho khỏe rồi lại hành quân lên tái chiếm Tây Nguyên chứ bộ.

Người lính đi bên cạnh anh lính cao kều lắc đầu ngán ngẩm:

- Sức mấy cha nội ơi! Coi bộ đánh không lại họ nữa rồi.

Mọi người đã ra tới đường, ai về xe nấy. Trước khi chia tay, anh lính cao kều còn quay lại dặn Mai:

- Này cô út Sài Goòng! Nghe súng nổ là dọt xuống cho lẹ nghen!

Kỹ sư Minh đã trở về xe trước Mai, đang ngồi hút thuốc tán chuyện với một trung úy trẻ, mặt mày sáng sủa. Khi Mai tới, Minh chỉ chàng trung úy giới thiệu:

- Đây là trung úy Phát, ân nhân của chúng ta. Không có ảnh kiếm giùm xe thì anh em ta nằm lại Plây Cu với Việt Cộng rồi.

Rồi anh quay sang giới thiệu với Phát:

- Cô nhỏ mà tôi đã nói với anh khi sáng.

- Cô Thanh Mai, sinh viên luật?

Mai khẽ gật đầu:

- Dạ.

- Chúng tôi đang nói chuyện về ông liên đoàn trưởng của trung úy Phát, cô Mai ạ - Minh chỉ đoàn xe đầy ắp hàng trước mặt – Đoàn xe đi trước là của ổng cả đó. Gần hai chục chiếc! Cô tính của cải nhiều dữ không? ấy là một phần gia tài của ổng dã gửi máy bay đi trước rồi đó.

- Ông ta tên chi, anh Minh?

- Biền, Lê Hữu Biền. Trung tá thôi, nhưng giàu cỡ tướng còn phải nể. Ổng có cả một tiệm vàng ở Plây Cu, tiệm Ngọc Châu, do vợ ba của ổng đứng tên. Rồi đại lý khai thác gỗ xưởng cưa, xưởng ép mủ cao su… Ở quân khu 2 người ta vẫn nói rằng “nhất Phú nhị Biền” mà. Cái ghế liên đoàn trưởng liên đoàn tiếp vận, ổng chỉ ngồi chơi để hốt bạc đó thôi.

Phát cũng gật đầu xác nhận:

- Ổng là tay buôn bán, kinh doang có hạng. Đó, ổng vừa từ xe hòm bước xuống đó, cô Mai.

Theo hướng tay Phát chỉ, Mai nhìn thấy một người to béo nặng nề, mặc Pi-gia-ma màu mỡ gà. Cùng bước xuống với y là một mụ đàn bà phốp pháp, mặc mi-ni-duýp, đeo kiếng gọng bự. Mụ đi với chồng đến từng xe, cười nói toe toét với những người lính lái xe rồi ném vào ca-bin của họ những gói thuốc lá và những gói kẹo.

Phát ghé vào tai Minh, nói nhỏ:

- Mụ đang “thu phục nhơn tâm” đó. Mấy thằng xế chở hàng cho mụ được cưng hết mức. Còn đức ông chồng bữa nay lo thiếu đái ra quần. Làm sao trót lọt được từng ấy xe của cải. 

Minh bồn chồn hỏi:

- Sao đường tắc lâu vậy nhỉ?

Trung úy Phát khẽ lắc đầu:

- Đi đứng kiểu ni rồi chết ráo. Bọn thiết giáp và bọn biệt động chèn nhau làm hư cầu, công binh đang sửa. Không chừng phải nằm đêm ở đây ấy chứ!

Nghe nói vậy, Mai chợt rùng mình. Cô sợ bỗng dưng bóng đêm ập xuống. Tuổi trẻ của cô trôi êm đềm trong ánh ngày sặc sỡ và trong ánh điện mờ ảo, giả tạo của chốn phù hoa đô hội. Cô chưa từng biết đến bóng đêm, chưa biết đến những tội lỗi và sức mạnh bí ẩn của nó. Bây giờ, nó đang ở đâu đó trên đầu cô. Hoàng hôn đang vội vã lướt trên mặt đất, chỉ một lát nữa thôi, bóng đêm sẽ ập xuống, nuốt chửng lấy cô và cả đoàn người, xe đen đặc này. Cô ngồi sây lưng lại phía Minh và Phát, thổn thức ngắm mặt trời đang tụt dần xuống bên kia dãy núi dài. Cô bắt đầu thấy nuối tiếc quá khứ êm đềm đã trôi qua, mặc dù cô đã chán ngấy những chuỗi ngày tẻ nhạt và vô vị ấy.

CHƯƠNG BẢY

1

Trong phòng tác chiến sư đoàn, tiếng chuông điện thoại đổ dồn dập. Các sĩ quan tham mưu bận tíu tít. Bản đồ bày la liệt trên bàn, trên giường. Có chỗ người ta trải ni lông xuống đất rồi trải bản đồ lên trên và nằm bò xoài ra mà đọc. Anh trưởng ban tác chiến sư đoàn giọng đã khản đặc nhưng vẫn phải liên tiếp nhấc hết máy này đến máy khác. Nói chuyện với ai, anh cũng hò hét, hoa chân múa tay như thể người đó đang ở trước mặt mình vậy.

- Này các cậu ước chừng bao nhiêu xe? Nhiều lắm! Nhiều lắm là bao nhiêu? Trinh sát gì mà báo cáo theo kiểu đó. Hả, nghĩa là đen đặc những xe. Đúng rồi! Có lẽ chúng nó chuồn đấy. Phía thị xã thế nào? Khói. Rồi! Nhiều tiếng nổ lớn. Nghĩa là làm sao? Đốt hả? Vậy là chúng nó chuồn thực rồi. Bám cho chắc nhé mười lăm phút báo cáo một lần.

Anh bỏ chiếc máy liên lạc với đài quan sát rồi nhấc một  máy khác:

- A lô! Cho tôi nói chuyện với Z1. sao? Z1 đang làm việc với X3 à? Khi nào xong cho tôi nói chuyện với Z1 ngay. Bây giờ cho tôi xin A1 của 40. Được rồi, tôi đợi đây. Ai đấy? Anh San đấy à? Này, các cụ đã thấy động tĩnh gì chưa? Các cụ ngủ đấy à? Đài quan sát không thấy gì à? Ông phải quất vào đít mấy cậu trinh sát ấy đi. Này khả năng hai xuất hiện rồi đấy. Chuẩn bị cơ động nhé. Tôi đang đợi lệnh chính thức của trên. Có thế nào tôi sẽ báo cho anh biết ngay. Anh cho báo động toàn trung đoàn đi.

Anh vừa đặt máy xuống thì tư lệnh trưởng Thanh Đồng bước vào:

- Thế nào rồi?

Ông vừa hỏi vừa đi đến bên bản đồ.

- Báo cáo thủ trưởng, đài quan sát ở Ia Leo báo về trên đường 14 và đường 7 xe địch chạy đen kịt, thị xã đang bốc cháy, có nhiều tiếng nổ lớn. Hình như địch bắt đầu hủy kho tàng.

Tư lệnh trưởng khẽ gật đầu:

- Rõ rồi. Chúng nó chuồn đấy. Bộ chỉ huy chiến dịch cũng vừa thông báo cho ta tình hình ấy. Các cậu làm phương án chốt chặn ở phía nam thị xã Cheo Reo – ông chỉ lên bản đồ - Đây, khu vực này. Dứt khoát phải chặn chúng được ở đoạn từ thị xã đến chân đèo Tu Na. Trước mắt sử dụng lực lượng của tiểu đoàn 3 trung đoàn 6. Chỉ có tiểu đoàn 3 mới có khả năng đuổi kịp địch. Chậm nhất mười giờ Mai tiểu đoàn 3 phải tới vị trí chốt chặn.

Anh trưởng ban tác chiến nhìn lên bản đồ, lo lắng:

- Xa quá, lại toàn núi cao, e tiểu đoàn 3 không ra kịp.

- Phải kịp! – Tư lệnh trưởng khoát tay phác một cử chỉ dứt khoát – Hết cách rồi. Tất cả các lực lượng của sư đoàn đều nằm trên trục đường 14, cách xa điểm chốt chặn hàng trăm cây, chỉ có tiểu đoàn 3 là gần hơn cả. Hãy ra lệnh cho nó đi và hãy tin ở nó. Xưa nay nó đâu phải là tiểu đoàn xoàng.

Anh trưởng ban tác chiến đề nghị:

- Báo cáo thủ trưởng, có lẽ ta họp phòng tham mưu.

Sư đoàn trưởng xua tay:

- Không họp hành gì nữa. Anh chuẩn bị phương án đi. Ba mươi phút báo cáo tôi. Sau đó tôi sẽ đề nghị thường vụ Đảng ủy thông qua. Phương hướng hành động của các trung đoàn như sau: trung đoàn 6 cơ động ngay về phía Cheo Reo trong đêm nay. Huy động toàn bộ xe cộ, kể cả xe kéo pháo lên Buôn Hồ - Đạt Lý đón e6; nội ngày Mai e6 phải có mặt ở nam Cheo Reo để xây dựng một hệ thống các bức tường chốt chặn không cho địch vượt qua. Trung đoàn 4 cũng cơ động gấp về tây bắc Cheo Reo và chuẩn bị phương án tiến công thị xã. Trung đoàn 5 phát triển dọc lên đường 14 lên hướng bắc, đánh chiếm các vị trí: Kênh Săn, đồn Tam Giác, quận lỵ Phú Nhơn rồi theo đường 7 bám sát đội hình tháo chạy của địch. Tất cả các đợn vị phải hành động khẩn trương, táo bạo, hiệp đồng chính xác. Nhắc tất cả các đơn vị điều này: nếu để địch chạy thoát về đồng bằng khu năm thì sư đoàn ta sẽ mang tội, mang nhục.

Sư đoàn trưởng ngừng lại đột ngột, ngương mặt ông đỏ hồng lên vì xúc động. Các cán bộ có  mặt trong phòng tác chiến đều im phắc, lắng nghe. Sư trưởng nhìn quanh, thấy mọi người chăm chú lắng nghe theo mệnh lệnh của mình, ông khẽ mỉm cười như để dịu bớt sự căng thẳng đi một chút rồi nói tiếp:

- Địch rút chạy là một thời cơ lớn, các đồng chí ạ. Bao nhiêu năm chiến đấu gian khổ, trải qua bao mất mát hy sinh, hôm nay chúng ta đã nhìn thấy ngày giải phóng toàn bộ cao nguyên này và sau đó tình hình toàn chiến trường có thể sẽ phát triển rất nhanh, rất thuận lợi. Lúc này chúng ta không được phép trù trừ, do dự mà phải động. Phải hành động, các đồng chí ạ. Chúng ta không được phép để cho địch rút quân về đồng bằng ven biển.

Phải tiêu diệt chúng nó ngay tại mảnh đất tây Nguyên này. Đó là mệnh lệnh mà cũng là danh dự. Tôi không ưa dài lời nhưng hôm nay cũng xin nói như vậy để các đồng chí rõ. Bây giờ tất cả chúng ta hãy bắt tay vào hành động đi. Hành động thật tích cực, sao cho cả sư đoàn biến thành một cơ thể khỏe mạnh, linh hoạt, phát huy hết sức mạnh tổng hợp của toàn sư đoàn thì mới đáp ứng được với tốc độ phát triển của tình mới.

Rồi ông quay sang anh trưởng ban tác chiến:

- Bây giờ anh cho tôi nói chuyện với tiểu đoàn 3.

*

Nguyên ghì chặt tổ hợp, nghe như nuốt lấy từng lời… Chính trị viên Khẩn ngồi bên thỉnh thoảng lại sốt ruột hỏi:

- Thế nào?

Nguyên vừa “vâng”, “rõ” vừa quơ tay bấu chặt lấy tay Khẩn như muốn truyền tất cả niềm vui sướng vô bờ của mình sang cho Khẩn. Nhưng khổ quá, Khẩn vẫn chưa biết có chuyện gì tự nhiên Nguyên lại điên lên như thế? Cuối cùng, Nguyên đứng thẳng người, áp chặt ống nói giọng anh trang nghiêm hẳn lên “Báo cáo thủ trưởng! Tiểu đoàn 3 xin hứa sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. Nói xong câu ấy, Nguyên đặt ống nói xuống, quay lại ôm chầm lấy Khẩn.

- Vớ bở rồi!

- Cái gì?

-  Địch rút chạy khỏi Tây Nguyên…

Khẩn thảng thốt kêu lên:

- Thật à?

- Chứ sao! Chúng nó không chịu nổi nữa rồi. Bộ tư lệnh sư đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn mình cơ động về nam Cheo Reo chặn địch ngay đêm nay.

- Ngay đêm nay?

- Ngay bây giờ phải tổ chức hành quân thì mới kịp.

Anh vơ vội xà cột, lấy tấm bản đồ ni lông tra trải xuống đất, xem xét một lát rồi chỉ vào một điểm bên con sông xanh ngoằn ngoèo:

- Đây, chỗ này. Thử tính xem bao nhiêu cây!

- Ít ra cũng hơn ba chục cây!

- Mà lại phải xuyên rừng, trời tối, dốc nhiều…

- Gay nhỉ?

Nguyên bặm môi suy nghĩ một lát rồi đề nghị:

- Lệnh cho các đại đội chuẩn bị cơ động ngay. Trời sắp tối rồi. Vừa hành quân ta vừa họp ban chỉ huy triển khai phương án tác chiến.

Khẩn gật đầu đồng ý ngay. Lúc này phải biết quý từng phút một. Thời gian là sức mạnh, đến vị trí chốt chặn sớm phút nào thắng lợi thêm phút đó.

Phải thông báo ngay cho anh em biết địch đang tháo chạy khỏi Tây Nguyên. Chỉ cần anh em biết vậy tự khắc họ hiểu phải làm gì. Không phải dễ dàng gì mà thằng địch chịu nhả vùng đất này cho ta. Bao nhiêu máu, bao nhiêu mồ hôi, anh em họ hiểu cả. Chúng nó đã kiệt sức, đã rữa nát, đã tháo chạy nhưng phải đánh cho nó quỵ hẳn, để không bao giờ còn đủ sức trở lại vùng đất này nữa!

Khẩn vừa thu dọn đồ đạc của mình vừa suy nghĩ như thế. Trong khi đó Nguyên gọi điện thoại ra lệnh cho các đại đội tập trung bộ đội chuẩn bị hành quân. Tiếng nói của Nguyên đanh gọn chững chạc, bề thế nữa là đằng khác. Khẩn hơn Nguyên năm, sáu tuổi nhưng vẫn luôn coi Nguyên như một người bạn bằng vai phải lứa. Anh “mê” Nguyên ngay từ những ngày đầu khi Nguyên được cử về làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn này. Nguyên trẻ mà không xốc nổi. Nguyên có trình độ văn hóa cao, nắm vững lý luận quân sự cơ bản nhưng không khoe khoang, tự phụ. Các đại đội trưởng trong tiểu đoàn đều hơn tuổi Nguyên nhưng ai cũng phục anh; không phải chỉ phục tài chỉ huy mà phục cả về cách sống, phương pháp làm việc. Tiểu đoàn 3 tự hào về anh, các chiến sỹ trẻ yêu mến anh vì anh gần gũi họ, là hình ảnh lý tưởng của họ. Mỗi khi có những tình huống đột xuất thế này. Khẩn rất tin ở bản lĩnh của Nguyên, không bao giờ anh vội vàng hấp tấp.

- Tôi nhắc  lại – Tiếng Nguyên vẫn vang lên đĩnh đạc – Mười lăm phút nữa đại đội anh phải xuất phát và ba mươi phút sau phải có mặt ở ngã ba suối cạn. Thông báo ngay cho anh em biết địch đang rút chạy khỏi Tây Nguyên, theo đường 7 và tiểu đoàn ta được lệnh phải chặn chúng lại cho sư đoàn tiêu diệt – Anh cất tiếng cười vang – Hổ bắt đầu ra tay! Đúng đấy. Cứ nói toạc ra cho anh em phấn khởi. Không cần úp mở gì cả. Anh cần hỏi gì nữa không? Tôi cho thu dây đây.

Chỉ trong khoảnh khắc, khu vực đóng quân của tiểu đoàn đã sôi sục hẳn lên. Những tiếng gọi nhau ơi ới. Tiếng xong nồi rổn rảng. Những bước chân chạy rậm rịch, Nguyên đã chuẩn bị xong đồ đạc của mình. Anh ngồi xuống, mở xà cột lấy ra cuốn nhật ký công tác, ghi vội mấy dòng:

Ngày 16-3-1975

17g30’. Sư đoàn thông báo tin địch rút chạy theo đường 7 và ra lệnh cho tiểu đoàn cơ động đến nam thị xã Cheo Reo đánh chặn. Thời cơ đến nhanh quá.

Vui. Nhưng gay go đây. Một đêm hơn 30 cây số đường rừng. Dốc. Tối. Không có đường. Cẩn thận đưa tiểu đoàn đi lạc thì ốm đòn. May quá, mình cắt rừng theo góc phương vị không đến nỗi tồi lắm.

Mình tin chắc chắn ngày Mai sẽ là một ngày quyết liệt. Thung lũng Cheo Reo. Đèo Tu Na. Nhưng cái tên nghe lạ hoắc. Nơi này sẽ là nơi như thế nào với đời mình?

2

Trước tiên là phải tụt xuống núi, ánh trăng đầu tháng mỏng manh, yếu ớt không đủ sức xuyên qua màn sương đục nhơ như sữa. Đường xuống núi gập ghềnh, nhấp nhô đá tảng. Có lúc bàn chân đạp phải một hòn đá nằm vu vơ, hòn đá trượt dài xuống dốc lăn lộc cộc. Nghe tiếng đá lăn, các chiến sỹ giật mình né tránh, nhưng biết nó lăn về phía nào?

Bàn chân dập nát của Hưng chưa kịp lành bây giờ bắt đầu hành hạ anh. Ngay từ bước đi đầu tiên, anh đã hiểu rằng đêm nay sẽ là một đêm thử thách nếu anh nếu anh cố bám theo đơn vị. Hưng nghiến răng, nuốt cái đau vào lòng, mồ hôi vã ra như tắm. Ổn vẫn đi sát bên anh, thỉnh thoảng lại đưa tay dắt anh qua một tảng đá, một khúc cây chắn đường. Hưng biết Ổn đang hối hận nhưng đôi lúc cơn tức giận vẫn cứ trào lên. “Chỉ tại mấy thằng nỡm, nó hại mình thật. Thôi, cố mà lần đi, sống chết cũng phải lần tới vị trí chốt chặn. Tới đó bảo chúng nó đào cho một cái công sự bên đường rồi cứ nằm đó mà đánh”. Hưng tự an ủi mình như thế nhưng mỗi khi cơn đau dội lên, anh lại cảm thấy hình như mình ảo tưởng, không lượng đúng sức mình. Đôi lúc anh tự hỏi: có thật sức chịu đựng của con người chỉ có hạn thôi không?

Xuống đến lưng dốc, mồ hôi toát ra ướt đầm cả lưng áo. Mệt quá, anh định ngồi nghỉ một lát nhưng lại chợt nghĩ “Nếu mình ngồi xuống thì không thể nào đứng dậy nổi nữa”. Chân anh đã tê đi rồi, cái đau như ê ẩm tan đi khắp cơ thể chứ không chỉ đọng lại ở đôi chân nữa. 

Đơn vị đã xuống đến chân núi. Ở quãng này rừng quang nên có thể nhìn thấy nhấp nhô những bóng người. Tiếng chuyện trò rầm rì, tiếng đá xô lộc cộc, tiếng anh nào đó ngã đánh huỵch và những tiếng cười. Ổn vẫn bước sau Hưng, lầm lũi như kẻ có tội. Mỗi lần Hưng nhấc chân lên, Ổn lại như thấy đầu gối mình giật thót, nếu ban ngày có thể nhìn thấy Ổn nhăn mặt hay nhếch mép một cái. Thỉnh thoảng Ổn lại thì thào: “có đau lắm không, anh Hưng?”. Lần thứ nhất, Hưng trả lời – “bình thường thôi”. Lần thứ hai Hưng trả lời – “ Đi được”. Lần thứ ba Hưng im lặng. Đến lần thứ tư, Hưng quay phắt lại quát: “Hỏi làm gì mà hỏi lắm thế! Đau chết người ta lại còn!...”. Thế là Ổn nín luôn, len lét bước đi bên cạnh. “Chà, giá mình bớt nghịch ngợm đi một tí”- Ổn nghĩ vậy nhưng không hiểu tại sao lại chợt phì cười: “Chẳng là, lúc ấy thằng Phùng kể một câu chuyện “tiếu lâm quê bọ” để chọc thằng Kén, mình buồn cười quá, cười ngả nghiêng nên mới đạp phải cái hòn đá chết tiệt ấy”…

Bỗng Hưng kêu ối một tiếng rồi ngồi thụp xuống ôm chân. Ổn cũng hốt hoảng ngồi xuống theo, miệng xuýt xoa:

- Sao thế, anh Hưng?

Hưng không nói được, chỉ bặm môi tưởng bật máu. Anh vừa vấp một cái, cơn đau dội lên tận óc. Anh ngồi bật xuống thở, nước mắt tự nhiên ứa ra, chảy âm ấm trên má. “Khỉ thế, chẳng lẽ mình lại khóc. Nhưng… đau quá! Bố ai mà chịu nổi. Hình như đơn vị đã xuống núi rồi, họ sẽ bỏ mình lại mất”. Nghĩ vậy Hưng giật thót giống như khi bị vấp. Anh cắn răng đứng bật dậy. Nhưng, cái chân như tê dại, không còn đỡ nổi cơ thể nữa, Hưng lại ngồi bệt xuống, thở dốc.

- Sao thế anh Hưng?

“Cái thằng! sao nó hỏi những câu vô duyên thế không biết?”. Hãy đứng dậy nào, nếu không thì chỉ còn cách nằm bẹp ở đây. Mà chúng nó thì đang chạy, xô nhau chạy, xe tăng nhung nhúc như cua bò, tha hồ xả B.40, B.41… Chà, có lẽ chẳng còn một dịp nào khác để đánh thế này nữa đâu? Hãy đứng dậy! Sống chết cũng phải tới được chỗ đó. Ôi, cái chân mình sao mà như chân của ai vậy này. Đồ bỏ đi! Nào, hãy thử một lần nữa. Nhưng, hãy khoan, chớ có nóng vội…

- Cho mình hớp nước.

Ổn chỉ chờ có thế. Ít ra cũng phải làm được một cái gì cho anh ấy chứ? Nếu có thể san sẻ được cái đau thì Ổn đã nhận phứt cho Hưng một nửa rồi.

Ngồi một lát, cơn đau dịu đi. Hưng lại vịn vào vai Ổn đứng dậy, chống gậy bước tiếp. Đường xuống núi dốc quá, chân Hưng run lên bần bật, bước đi như không còn chính xác nữa. Cái đau dồn từ chân lên, chẳng mấy chốc khắp cơ thể đều cảm thấy như đang nhức nhối, tê dại. Hưng nghiến răng bước ào đi. Được một lát, đôi chân như cứng lại, tê đi. Hưng bước đi thoải mái hơn một chút. Anh vừa đưa tay lên lau vầng trán lấm tấm mồ hôi vừa lẩm nhẩm đếm từng bước một. Đường xuống núi xoải dần, xoải dần… Ở phía trước, tiếng bước chân vẫn rậm rịch bồn chồn. Mỗi khi cái âm thanh xao động ấy lắng đi, Hưng lại ngơ ngác, lắng nghe rồi cố gắng bước đi nhanh hơn, như thể anh đang đuổi theo những âm thanh ấy. Anh có cảm tưởng nếu không còn nghe thấy tiếng những bàn chân rậm rịch, bồn chồn ấy, có lẽ mình sẽ không đủ sức để mà bước thêm một bước nào nữa.

Trung đội trưởng Mánh đón Hưng và Ổn ở chân núi bằng một tiếng quát phủ đầu:

- Sao chậm như rùa thế?

Hưng chợt thấy tắc ngẹn nơi cổ. Ức quá, ai muốn cực khổ thế này cơ chứ? Ôi, đôi chân! Mi phản bội ta rồi ư? Sao mi run thế này? Cái ông Mánh chẳng tâm lý cái quái gì cả, ai chẳng biết ông ấy có đôi chân còn tốt Nguyên.

Ổn vượt lên trước, tới bên trung đội trưởng thì thầm:

- Chân của anh Hưng đau quá, chú ạ.

Mánh cúi xuống đặt bàn tay lên bàn chân Hưng, bàn chân nóng rực như lửa, những mạch máu ở cổ chân giật giật liên hồi.

- Còn đi được không?

- Đi được.

Trung đội trưởng Mánh im lặng một lúc rồi chậm rãi nói tiếp:

Gay đấy, đường còn xa và nhiều dốc lắm, trời lại tối. Chân cậu như  vậy là đau lắm, phải không? Sức chịu đựng của con người cũng chỉ có hạn thôi.

Họ im lặng. Một lát sau Hưng lần tới, nắm lấy bàn tay trung đội trưởng và nghiêm trang hỏi:

- Anh Mánh! Anh nói đi, liệu tôi có đủ sức đi tới đích không? Tôi tin ở sức của mình, nhưng tôi, chính tôi cũng không lường hết những khó khăn, đến một lúc nào đó, chịu không nổi, tôi sẽ làm cản trở bước tiến của đơn vị, mà trong tình hình này, như thế nghĩa là một tội lỗi. Anh cứ nói thật lòng đi. Nếu anh bảo, cậu không đủ sức đi tới đích đâu, thì tôi sẽ ở lại.

Trung đội trưởng Mánh xúc động ôm lấy đôi vai Hưng lắc lắc:

- Hưng! Mình tin ở sức chịu đựng của cậu. Cứ đi, Hưng ạ. Bao nhiêu năm mới có một trận này, nếu trung đội bỏ rơi cậu thì còn ra làm sao? Cùng lắm, bọn tớ sẽ khiêng cậu trên vai, tới nơi sẽ thả cậu xuống cho cậu đánh. Đồng ý không! Thôi, đừng băn khoăn gì nữa.

- Anh Mánh!

Họ ôm lấy nhau, siết chặt. Hưng lặng đi trong nỗi xúc động nghẹn ngào. Từ đâu đó trong anh như vang lên hai tiếng thiêng liêng “đồng đội”. Trước mắt anh, trong ánh trăng mờ, núi rừng trập trùng, nhấp nhô như thách thức. Từ trên đầu hàng quân, tiếng truyền khẩu lệnh nối nhau đều đều:

- Truyền xuống! bám sát cự ly, giữ vững tốc độ.

Khi mệnh lệnh truyền tới Hưng, anh thấy máu nóng dồn lên rạo rực trong mình. Anh nhận lấy mệnh lệnh rồi hào hứng nhắc lại:

- Truyền xuống! Bám sát cự ly, giữ vững tốc độ.

Rồi anh căn răng, nuốt cái đau vào lòng, hăm hở bước theo đồng đội.

3

Một giờ sáng.

Nguyên ra lệnh cho tiểu đoàn dừng lại để củng cố đội hình. Cho đến lúc này hình như các đơn vị đều đã bị “trộn trấu”, quân đơn vị này lẫn vào đơn vị kia tốp năm, tốp ba  kéo lê thê. Đến nỗi bộ phận đi đầu đã nghỉ được nửa tiếng đồng hồ, nhiều anh  ngủ được một giấc kha khá rồi mà những bộ phận đi sau vẫn chưa bám được.

Bây giờ những tay lắm mồm nhất cũng không buồn tán tỉnh gì nữa. Bộ đội nằm rải rác dọc đường, theo đủ các tư thế và gáy pho pho. Một vài anh còn thức thì uể oải quạt muỗi hoặc tụm nhau lại quanh cái điếu cày của tiểu đoàn phó Hạnh. Một vài chiến sỹ rủ nhau lần đi tìm khe nước nhưng vô hiệu, tất cả các khe nước đều khô khốc, trơ trỏng đá cuội.

Nguyên cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời. Mồ hôi ra nhiều, không có nước uống, cơ thể như bị ép khô đi. Bụng đói cồn cào nhưng đưa miếng lương khô lên miệng không sao mà nuốt được. Ngồi nghỉ một lát, mồ hôi ngấm vào lạnh se se, đôi mi mắt nặng trĩu. Một con sâu vô hình luồn lách tư khắc các ngõ ngách của cơ thể, mơn man từng chân tơ kẽ tóc. Cái cổ bỗng nhiên mềm oặt. Có cảm tưởng chỉ cần mình buông chùng gân bắp một chút là lập tức bị đàn sâu vô hình ấy chụp lấy, cuốn chặt, đẩy vào một khoảng không êm đềm, vô định…

Nguyên đưa bàn tay lên, đập mạnh vào hai mắt và túm tóc mai mình dứt dứt liên hồi, đuổi cái đàn sâu vô hình ấy đi, nhưng chỉ được một lát, chúng lại ập đến, bò râm ran khắp cơ thể. Anh mệt mỏi tựa lưng vào gốc khộp. Đàn sâu vô hình kia chỉ đợi có thế, chúng lại mơn man, mơn man bò lên. Và lần này chúng đã thắng, anh như thấy mình trôi đi, chậm chạp và nhẹ nhàng.

… Anh bỗng thấy mình đứng trước một hồ nước rộng mênh mông. Mặt hồ xanh ngắt gợn sóng lăn tăn. Những chiếc lá trang to như cái nia rập rờn trên sóng, cá bơi thành từng đàn như khoai sát. Trên đầu, mặt trời đỏ rực như một khối cầu lửa ngày càng như càng sà xuống thấp. Anh thấy mình như bị thiêu nóng rực lên, cơ thể khô tọp đi rất nhanh. Đôi môi anh khô rộp, rat bỏng. “Khát quá!”. Anh kêu lên một tiếng như thế và cứ để quần áo lao xuống hồ. Anh bơi ra giữa hồ ngụp xuống, ngụp thật sâu mà mở miệng cho nước tuôn vào. Anh uống, uống như điên dại. Cang uống cáng khát, cổ anh vẫn khô cháy. Anh lặn xuống sâu nữa và tiếp tục uống, vừa uống vừa rên rỉ “Nước!... Nước nhiều quá!…”

Có người lay mạnh vai anh:

- Thủ trưởng! Thủ trưởng!

Nguyên mở choàng mắt đậy, ngơ ngác nhìn, miệng vẫn tóp tép như vừa uống nước thật. Chà, mình nằm mơ – Nguyên mỉm cười mơ hồ - một giấc mơ toàn nước.

- Báo cáo thủ trưởng! Sư đoàn gọi ta.

Nguyên đã nhận ra đồng chí trung đội trưởng thông tin ngồi bên mình. Bên cạnh anh, chiếc máy 2 oát đang kêu xè xè, trên mặt máy ngọn đèn nhỏ nhấp nháy, hố hả. Anh vội vang đỡ lấy tổ hợp trên tay đồng chí trung đội trưởng thông tin. Từ trong máy vang lên tiếng gọi:

- A3 đâu! Hà Nội gọi A3. nghe rõ trả lời.

Nguyên tỉnh hẳn, anh ghì ống nói, trả lời bằng cái giọng khàn khàn vì ngái ngủ:

- Hà Nội đâu! A3 đang nghe Hà Nội. A3 đang nghe Hà Nội.

- A3 chú ý! Nhạc trưởng đang nói chuyện với A3.

- A3 nghe rõ – Nguyên xúc động nói to lên – A3 đang nghe nhạc trưởng.

- A3 chú ý! Khán giả rất đông. A3 đưa diễn viên đến càng sớm càng tốt. Khán giả rất bận, rất vội, nhiều con mọn.

- A3 nghe rõ. Sẽ cố gắng đến sân khấu càng sớm càng tốt. Sức khỏe của diễn viên kém nhưng tinh thần rất hăng hái. Nhạc trưởng yên tâm.

- A3 cho biết bây giờ đoàn đã đến đâu rồi?

- A3 vượt qua Z1, Z2… Hiện đang chuẩn bị vượt qua Z3.

Nhạc trưởng im lặng một lát rồi tiếp tục bằng giọng ấm áp, nhẹ nhàng hơn:

- A3 đâu? Động viên anh em diễn viên đến càng sớm càng tốt. Tất cả mọi người đang trông đợi A3. Anh Cả gửi lời thăm A3, và nhắc nhở A3 phải cố gắng.

- A3 nghe rõ! Xin hứa hoàn thành nhiệm vụ.

- Chúc thắng lợi!

- Chúc nhạc trưởng khỏe!

- Nguyên vừa rời máy đã thấy Khẩn ngồi bên cạnh. Một số chiến sỹ còn thức ở gần đó cũng xúm lại quanh Nguyên.

- Thế nào? – Khẩn hỏi.

- Sư trưởng vừa nói chuyện với mình. Cụ lo mình đến chậm, bộ chỉ huy chiến dịch cũng vừa điện xuống nhắc tiểu đoàn ta phải khẩn trương hơn.

Một chiến sỹ từ phía sau vòng người nói với vào:

- Cho đi thôi, các thủ trưởng ạ.

- Phải đấy, đi thôi!

- Trời sắp sáng mất rồi.

- Nằm đây thì ngủ bẹp xuống mất.

- Chao ôi! Chạy đua với xe cơ giới của tụi nó. Mệt thật!

Nguyên quay lại nói với các chiến sỹ:

- Ta củng cố đội hình rồi đi ngay.

Nguyên mở xà cột, lấy bản đồ ra trải xuống đất rồi đặt chiếc địa bàn lên. Anh rọi đèn pin xem lại hướng đi của tiểu đoàn mình. Khi biết chắc đơn vị vẫn đi đúng hướng, anh quay sang nói với Khẩn:

- Ta mới đi được một nửa đường, anh Khẩn ạ.

- Gay nhỉ!

Vẫn anh chiến sỹ lúc nãy, từ phía sau vòng người bao quanh Khẩn và Nguyên, nói với vào:

- Đi thôi các thủ trưởng ạ! Chúng tôi còn đi được.

Nguyên gấp bản đồ, đứng bật dậy, vươn vai làm mấy động tác thể dục rồi truyền xuống một khẩu lệnh:

- Các đại đội lên đủ chưa, báo cáo!

Tiếng truyền khẩu lệnh, ran lên:

- Truyền xuống! Các đại đội lên đủ chưa, báo cáo.

- Truyền xuống…

- Này, dậy đi thằng nỡm. Truyền xuống, các đại đội lên đủ chưa…

- Trời ơi! Nó đeo cả ba lô mìn mà ngủ này. Dậy đi, truyền xuống…

- Truyền xuống…

Tiếng truyền khẩu lệnh nhỏ dần rồi mất hút ở phía cuối đoàn quân, giống như người ta truyền cho nhau một vật gì đó. Cái vật vô hình ấy không nặng lắm nhưng buộc mỗi người phải đỡ vào một tay, do đó nó có tác dụng như một lời đánh thức. Phút chốc đoàn quân lại cựa quậy, sôi động. Một anh chàng nào đó ngủ rốn bị bạn lôi dậy, bực dọc cằn nhằn. Tiếng đập muỗi đen đét. Tiếng điếu cày xóe lên. Rồi từ một góc nào đó bỗng vang lên một giọng hát nhỏ và ấm.

Hồng Hà mênh mông đưa cát tới chân làng quê. Cuối sông chiều bến ai về, có thấy đồng lúa, nương chè với mối tình thắm, bên làng quê…

Bài hát về một dòng sông, Nguyên chợt mỉm cười nhớ tới giâc mơ của mình. Nếu có một dòng sông, không cần, một dòng suối nhỏ thôi, bất ngờ chảy qua đây? Cả tiểu đoàn đang khát. Cơn khát của cả một tiểu đoàn.

Tiếng hát như một dòng nước róc rách chảy vào lòng Nguyên. Tự nhiên cơn khát trong anh như dịu đi. Từ một nơi nào đó trong lòng, trăm nghin sợi tơ mảnh rung lên rưng rưng. Anh nhớ. Bài hát gợi nhớ tới một người con gái có tên chung với tên của dòng sông trong câu hát. Ôi, bao giờ anh mới gửi được cho Hồng một bức thư xin lỗi. Sao anh lại ngốc nghếch đến mức ấy nhỉ? Giờ này chắc Hồng đang ngủ ngon. Có mơ thấy gì không? Chắc không thể mơ thấy nước như mình rồi.

Đột nhiên tiếng hát ngừng. Người vừa cất tiếng hát hỏi nhỏ:

- Anh Mánh đấy phải không?

- Mánh đây, Đạt đấy hả?

- Vâng, Hưng lên chưa?

- Đây cả rồi.

Nguyên đi về phía ấy! Anh đã được đại đội 3 báo cáo về tình hình vết thương của Hưng, nhưng từ chập tối đến giờ, quả thực anh quên không hỏi ban chỉ huy đại đội  đã giải quyết trường hợp của Hưng như thế nào? Anh đã chỉ thị cho đại đội, nếu xét thấy Hưng không thể đi được thì cho ở lại rồi gửi về tuyến sau. Vậy mà Hưng đã theo đơn vị tới được tận đây với bàn chân bầm giập ấy.

Khi anh tiến lại thì các chiến sỹ đã quây thành một vòng tròn quanh Hưng. Anh vội rẽ đám đông tiến vào, rọi đèn pin soi xuống bàn chân Hưng và bỗng giật mình, kêu lên:

- Trời ơi! Thế này mà cậu cứ đi.

Hưng không biết nói gì, anh cũng sững sờ nhìn xuống bàn chân mình, lượt băng bên ngoài đỏ sậm lại vì máu rỉ ra.

Nguyên ngẩng lên, lo lắng nhìn trung đội trưởng Mánh.

- Bây giờ chú tính sao?

Anh trung đội trưởng quả quyết đáp:

- Được! Anh cứ để mặc trung đội tôi lo. Nếu cần, chúng tôi sẽ khiêng đồng chí ấy.

- Không! – Hưng thảng thốt kêu lên – Các đồng chí! Nếu tôi không theo kịp… Các anh hãy bỏ tôi lại đây, đừng vì tôi mà bấn bíu. Ngày mai tôi sẽ lần theo đơn vị.

- Đừng nói bậy – Mánh quát khẽ - Chúng mình sẽ không bỏ cậu lại. Đồng chí phùng đâu rồi, chuẩn bị cho tôi một cái cáng.

Hưng thét lên:

- Không! Tôi không để các anh cáng đâu.

- Các đồng chí cứ chuẩn bị cáng đi. Còn Hưng – Mánh quay sang nói rành rẽ từng tiếng – bây giờ không phải là lúc để cậu từ chói. Vấn đề không phải là cậu có nằm trên cáng cho anh em khiêng đi hay không, mà vấn đề là ở chỗ chúng ta có đùm bọc nhau tới được chỗ đó hay không? Chúng ta đã đi được quá nửa đường rồi, Hưng ạ. Cậu đi được từng ấy đường đất là một cố gắng không thể tưởng tượng. Đừng cố gắng nữa mà quá sức, đến nơi còn phải chiến đấu kia mà.

Tiểu đoàn trưởng Nguyên lặng lẽ lách qua đám đông các chiến sỹ để trở về đầu đội hình của tiểu đoàn. Anh thấy chẳng cần phải nói thêm điều gì nữa. Với một đội ngũ gồm các chiến sỹ như thế, chỉ cần anh biết chỉ huy là sẽ làm được tất cả, vượt qua được tất cả mọi khó khăn và không thể không đánh thắng.

Anh ra lệnh tiếp tục hành quân.

Đoàn quân xao động một lát rồi lặng lẽ đi trong rừng. Nhưng con đại bàng đất đang ngủ mê mệt dưới những vòm cây, bỗng giật mình, tỉnh dậy, đập cánh ào ào rồi bay vút lên, cất cánh kêu thảng thốt.

Gió thổi nhẹ. Sương xuống dày. Núi rừng như nửa thức nửa ngủ. Những sống núi nhấp nhô ẩn hiện sau màn sương trắng đục, phấp phỏng, bồn chồn.

4

Cũng trong đêm đó, trung đoàn 6 được lệnh cơ động gấp về hướng Cheo Reo.

Mệnh lệnh được ghi rõ: ngày hôm sau, toàn trung đoàn phải có mặt ở đông nam thị xã Cheo Reo để cùng với tiểu đoàn 3 hình thành một tuyến chốt chặn, bịt chặt thung lũng này, tạo điều kiện cho sư đoàn chớp thời cơ tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch ở Tây Nguyên đang tháo chạy.

Khi ấy trung đoàn còn đang đứng chân ở khu vực Buôn Hồ - Đạt Lý. Nghĩa là, trong đêm, trung đoàn phải cơ động hơn một trăm Ki-lô-met để tới khu vực tác chiến.

Để giúp trung đoàn 6 cơ động, sư đoàn đã huy động toàn bộ số xe có thể huy động được, kể cả xe của trung đoàn pháo cơ giới tăng cường, làm nhiệm vụ chuyển quân. Nhưng, số đầu xe huy động được cũng không đủ chở toàn bộ trung đoàn và các phân đội trực thuộc, tăng cường trong một chuyến. Các xe đều lèn chặt những người nhưng vẫn còn một phần ba quân số của trung đoàn phải hành quân bộ. Mặc dù đã được giải thích rất kỹ về tình hình xe cộ nhưng tham mưu trưởng Sự vẫn bừng bừng phẫn nộ. Anh gọi điện cho phòng hậu cần sư đoàn la um lên và gọi họ là “Đồ bủn xỉn!”. Tiếng anh thét oang oang:

- Này, các cha ơi! Đừng có lỡm anh em nữa. Chả lẽ sư đoàn lại chỉ có từng ấy cái xe? Cánh này phải chạy bộ hơn trăm ki-lô-mét chứ ít ỏi gì? Ngày mai không tới được khu vực đơm đó thì ăn cám ấy chứ lại? Này, xì cho cánh này vài chiếc nữa đi. Ngày mai bọn này thu về cho hàng xốc GMC, tha hồ mà chạy.

Anh chủ nhiệm hậu cần  ở đầu dây bên kia nói như van:

- Khổ lắm! Tôi lạy ông. Còn chiếc nào nữa đâu? Tiếc các cậu làm gì?

- Con khỉ - Sự gắt lên – Thôi được, cánh này chạy bộ vậy. Thật không còn ra làm sao?

Sự bỏ máy, chạy ra chỗ xếp xe. ở đó đang ồn ào, lộn xộn như một cái chợ huyện. Các cán bộ chỉ huy chạy ngược chạy xuôi, la hét rùm trời; bộ đội cũng hò hét quát lác nhau, chen nhau để nhảy lên xe. Anh nào cũng sợ không có xe, người ta sẽ bỏ mình lại. Những anh chàng đã lên được xe, mặt mày phởn như sắp được đi chợ tết. Rồi thì câu từ trên xe xuống, câu từ dưới đất lên:

- Chào các bạn nhé!

- Cuốc bộ nhé!

- Này, “Chiến vổ” ơi! Tao lạy may. Ngồi xa Ca-bin ra một chút. Răng với chả lợi! Vậy mà cứ nhe ra mà cười được.

- Này… các chú! Nhanh lên vào giữ tù binh cho bọn anh.

- Đừng có vênh cái mặt lên vội.

- Này, ông lái ơi! Vù nhanh lên mà quay lại đón anh em nhé!

- Được rồi, yên trí.

- Mấy ông ranh con này lên thùng hết đi.

- Có em đón dọc đường à?

- Làm cái anh lái xe cũng sướng! Những lúc như thế này quý các cha bằng vàng.

Tiếng cười. Tiếng nói. Tiếng hát. Tiếng gọi. Tiếng xe rú máy. Kẻ chạy ngược, người chạy xuôi, ồn ào, lộn xôn. Rõ như một cái chợ.

Tự nhiên, Sự cũng hòa vào cái ồn ào, náo nhiệt đó. Anh có quá nhiều lý do để hò hét. Anh quát cán bộ phụ trách đơn vị để anh em  lên xe vô tổ chức. Anh thét một anh lái xe nào đó đưa xe tới muộn. Anh hầm hè với một tiểu đoàn trưởng vì khai lậu quân số!... Ở đâu người ta cũng thấy anh, cũng nghe tiếng anh hò hét, nói cười. Thấy anh cứ tất bật, ngược xuôi, một vài chiến sỹ cũng túm lấy anh mà chọc chơi:

- Thủ trưởng ơi! Thủ trưởng giống như ông giữ trật tự ở ga tàu ấy nhỉ!

- Thủ trưởng giọng tốt quá đấy!

- Theo mình, chỉ cần một mình thủ trưởng Sự đứng ra giữa đường mà hét cũng đủ để bọn lính quân đoàn 2 ngụy sợ vãi đái ra quần.

- Thủ trưởng Sự ơi! Giá có thêm ít xe nữa thì oai nhẩy.

Gặp những đám như thế, Sự chẳng dại gì mà dừng lại lâu. Anh mà lên tiếng đối đáp là bọn giời đánh ấy lập tức moi đủ thứ chuyện của anh ra mà hỏi. Sự chỉ đưa tay lên, dứ dứ nắm đấm về phía họ và đe “liệu hồn” rồi bỏ đi. Tuy vậy, Sự biết anh em họ mến mình. Có thời gian mà ngồi tán láo với tụi nó cũng hay.

Hơn chục chiếc xe đã đầy ắp những người. Tất cả đã sẵn sàng chuyển bánh. Bấy giờ các chiến sỹ mới nhìn thấy trung đoàn trưởng của mình, ông đứng trên nóc ca-bin một chiếc xe, vẫy tay, ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi cất tiếng sang sảng:

- Các đồng chí! Chúng ta đều biết rằng quân địch đang tháo chạy khỏi Tây Nguyên. Nhưng chúng ta nhất định không cho chúng nó chạy thoát. Đồng ý không?

- Đồng ý!

- Muốn vậy chúng ta phải cơ động thật nhanh. Đến nơi là đánh ngay. Thật dữ. Đồng ý không?

- Đồng ý!

- Chúng ta có ít xe. Bây giờ chia làm hai bộ phận: một bộ phận đi xe, một bộ phận chạy bộ. Khi nào tới vị trí tập kết, xe sẽ quay lại đón bộ phận đi bộ. Chúng ta phải tranh thủ từng phút. Các đồng chí đi bộ cũng phải cơ động ngay. Đồng ý không?

- Đồng ý!

- Các đồng chí! Tiểu đoàn 3 chúng ta đêm nay đã cơ động ra chặn địch. Chúng ta phải đến nhanh để cùng tiểu đoàn 3 khóa chặt địch trong thung lũng Cheo Reo cho đại quân của sư đoàn tiêu diệt. Đồng ý không?

- Đồng ý ạ!

Ông mỉm cười, nhìn bao quát một lượt rồi dõng dạc ra lệnh:

- Toàn trung đoàn xuất phát!

Tiếng reo hò lại nổi lên như sấm chen lẫn tiếng xe nổ máy, rú ga. Đoàn quân rùng rùng chuyển động. Những chiếc xe lăn bánh ra khỏi khu rừng trú quân. Vừa chạm vào mặt đường 14, những chiếc xe đó liền lao vút về hướng bắc như những mũi tên.

*

Chiếc xe Dép của chính ủy và trung đoàn trưởng là một chiếc xe chiến lợi phẩm trung đoàn vừa thu được trong trận Buôn Hồ. Trên xe có gắn một máy vô tuyến điện PRC.25. Anh chàng lái xe cho trung đoàn trưởng tên là Nhân, rất tự hào về cái máy ấy. Ngay  từ hôm mới nhận xe về, không hiểu Nhân kiếm ở đâu ra một miếng vải đỏ rồi tỉ mẩn khâu thành một lá cờ đuôi nheo bé tí, treo lên chiếc cân ăng ten vắt vẻo ở đầu xe.

Đi được chừng vài chục phút, trung đoàn trưởng ra lệnh cho anh chiến sỹ thông tin đi cùng mở máy liên lạc với sư đoàn. Ông báo cáo ngay tình hình hành quân của trung đoàn với sư và yêu cầu cho sư cho ông biết tình hình của tiểu đoàn 3. Ông lo lắng nhiều về tiểu đoàn này, nếu nó tới vị trí chốt chặn muộn vài tiếng là địch sẽ sổng hết.

Mặc dù đã có dự kiến về khả năng địch có thể rút chạy khỏi Tây Nguyên, nhưng khi tình huống đó xảy ra, ông vẫn cảm thấy bị bất ngờ. Điều không ngờ nhất là con đường rút chạy của địch. Sao chúng nó lại chọn con đường này, con đường đi qua quê ông?

Ngồi trên xe, đôi lúc ông nhắm mắt lại, tưởng tượng tới một ngày trung đoàn ông đuổi giặc tới đó. Tới cái làng nhỏ của ông bên bờ sông Đà Rằng. Mơ ước gặp lai vợ con rạo rực trong lòng khiến đôi lúc ông cảm thấy như ngợp thở. Gió lùa vào xe ào ào. Ánh đèn pha quét trên mặt đường nhựa sáng loáng. Những ngôi sao xanh như lao vùn vụt về phía ông. Ông ngả lưng vào ghế, mở cúc áo ngực cho gió lùa vào da thịt. Phút chốc ông có cảm tưởng như mình trẻ lại, tim ông đập rạo rực, những mạch máu như căng lên. Tâm hồn ông thư thái hơn, những xúc cảm lạ lùng tưởng như không còn bao giờ có ở ông đang trở lại. Ông lim dim đôi mắt, lắng nghe, cảm nhận sự trở lại ấy. Phải, ông mới hơn bốn mươi tuổi. Người ta cũng có thể sống từng ấy năm nữa với cuộc đời. Ông mới chỉ sống một nửa cuộc đời mình, bao nhiêu năm nay ông luôn có ý nghĩ đó. Bây giờ, ông càng hiểu rõ điều đó hơn. Ông mới chỉ sống một nửa cuộc đời mình, con người mình; còn một nửa để lại nơi quê hương yêu dấu. Từ khi biết mình có con, khát vọng trở về với một nửa cuộc đời còn lại của mình càng mãnh liệt hơn trong ông.

- Đèo Tu Na có hiểm trở lắm không, anh Thuần?

Trung đoàn trưởng khẽ cười:

- Nào tôi có biết. Nhìn trên bản đồ thì con đèo này kẹt giữa hai dãy núi Chư Đrang và Chư Rhung, cả hai dãy đều cao tới gần bảy trăm mét. Con sông Ba chảy tới đây thì xoắn lại như ruột gà rồi lao qua khoảng giữa hai khe núi. Đường 7 chạy men theo con sông này.

Chính ủy rọi đèn pin vào khu vực chốt chặn trên bản đồ và hỏi thêm:

- Ta dự kiến thành lập mấy tuyến chốt?

- Ba. Tuyến ở sát chân đèo do tiểu đoàn 1 đảm nhiệm. Tuyến ở giữa cơ động do tiểu đoàn 2 đảm nhiệm. Còn tuyến ngoài cùng, quan trọng nhất, cách thị xã chừng cây số rưỡi, tôi dự tính giao cho tiểu đoàn 3. Anh thấy thế nào?

- Được đấy, nhưng thằng d3 hơi nặng “đô” hơn cả.

- Cậu Nguyên có thể làm nên trò trống đấy.

- Ờ, hắn còn trẻ, hăng lắm.

Đoàn xe vượt qua quận lỵ Thuần Mẫn, rẽ vào đường 7b. Từ đây con đường chạy thẳng tới thị xã Cheo Reo, nối với nhánh chính của đường 7 chạy từ Plây Cu về, qua tỉnh lỵ Phú Bổn, vượt qua thung lũng Cheo Reo rồi chạy thẳng về địa phận tỉnh Phú Yên. Trung đoàn trưởng Thuần tự nhủ mình: “cuối cùng ta đã tìm được con đường xứng đáng nhất để trở lại quê hương”. Phút chốc, ông như thấy hiện ra trước mắt mình những bãi cát dài trắng phau, lóa nắng, những vườn dừa xanh biếc… Và biển, xa trông như một lồng ngực trẻ phập phồng trong ánh trăng. Xa lắm, cái đêm An chèo thuyên qua sông Đà Rằng đưa Thuần đi hoạt động. Ngày ấy, hai người chưa hẹn hò gì, hay nói cho đúng hơn, Thuần chưa biết phải nói như thế nào với An về một lời hò hẹn. Có phải vì vậy mà khi anh nhảy lên bờ, ngoảnh lại thấy An ngồi thụt xuống lòng thuyền, đôi vai rung lên. An tức tưởi khóc, còn anh thì chỉ nói được những lời vụng về, vô nghĩa. Xa lắm, cái ngày anh trở về quê nhà sau mấy năm đi xa; anh khoác ba lô đi trên con đường mịn cát, rợp bóng dừa của làng quê. Gặp An, nhìn vào đôi mắt An, tự nhiên anh hiểu rằng chẳng cần phải nói gì nữa. Anh chỉ nắm lấy tay An và nói nhỏ: “Tối nay đợi anh ở vườn dừa bờ sông”. An lặng lẽ cúi đầu dạ khẽ một tiếng rồi đột nhiện chạy vụt vào ngõ xóm. Rồi lễ cưới, ồn ào và vui say. Rồi những ngày ngắn ngủi bên nhau. Rồi lại chia tay. Con sông Đà Rằng ngày ấy đang mùa lũ về, cồn cào sóng đỏ. Nhưng đó chưa phải là lần chia tay để xa nhau hai chục năm trời…

Tiếng chính ủy Tâm lại vang lên trong tiếng máy nổ đều:

- Hai khẩu cối 120 ly sư tăng cường còn bao nhiêu cơ số đạn, anh Thuần nhỉ?

- Hai cơ số.

- Hơi ít đấy.

- Tôi đã điện lên sư xin thêm. Sư hứa sẽ bảo đảm chủ đạn cho ta xài cỡ trung nông.

Đồng chí thông tin đeo cáp vào tai thực hiện phiên liên lạc thường xuyên với sư đoàn. Một lát sau, anh báo cáo với trung đoàn trưởng:

- Sư đoàn lệnh cho ta vượt qua đội hình của trung đoàn pháo, vượt anh tới vị trí tập kết thứ nhất.

Trung đoàn trưởng ra lệnh truyền lệnh thông báo cho các đơn vị rồi quay lại vỗ vai Nhân:

- Tăng tốc độ lên chú mày.

Nhân khẽ gật đầu, cười nhỏ:

- Thủ trưởng cho tôi điếu thuốc, nhạt mồm quá. Trung đoàn trưởng châm một điếu thuốc rồi cắm vào miệng Nhân. Cậu ta khoan khoái nhả khói mù tịt, xe trớn bánh, vượt lên nhẹ như ru.

Đoàn xe kéo pháo cũng đã dừng lại bên đường cho đoàn xe của trung đoàn 6 vượt lên. Những khẩu 122 ly nòng dài đã hiện ra loang loáng trong anh đèn pha. Lính pháo đã xuống xe, đứng túm tụm bên đường, mũ sắt nhấp nhoáng trong ánh đèn. Những gương mặt trẻ trung, những miệng cười, tay vẫy, những lời giục dã lại vang lên.

- Nhanh chân lên  anh em nhé!

- Không cho chúng nó thoát.

- Đừng đấm vào vai bộ binh đấy nhé.

- Chỉ nói dại, pháo binh năm bảy lăm rồi cơ mà.

-…

Say cái vui chung của bầu không khí ra trận trung đoàn trưởng cũng nhô đầu ra khỏi xe đưa tay vẫy các chiến sỹ pháo binh. Anh lái xe ngêu ngao hát một bài gì đó. Gió vẫn lùa vào xe ào ào. Đêm cao nguyên mênh mông huyền ảo, chứa chất bao nhiêu bí ẩn. Anh chiến sỹ thông tin đang truyền đi một bức điện mới của trung đoàn trưởng, giọng anh trong trẻo, rung vang như giọng của một diễn viên kịch. Những chuỗi con số từ miệng anh ngân lên cũng có nhịp điệu, âm sắc như một đoạn thơ:

- …3421…1532…6873…1746…

Anh lái xe đã thôi hát, quay lại nói với trung đoàn trưởng:

- Ra trận mà cứ phơi phới. Điềm này là ăn to rồi các thủ trưởng ạ.

CHƯƠNG TÁM

1. 

Trời đã sáng rõ nhưng sương còn dăng đầy trong thung lũng. Trong những vạt rừng thưa sương dăng mắc trên ngọn cây, bay la đà trên ngọn cỏ, đọng thành từng chùm hạt li ti, lóng lánh như tinh thể của một loại đá quý.

Chim chóc dậy từ bao giờ, cãi nhau ồn ã trên cây. Đàn mối rừng bay xập xè trên ngọn cỏ. Không gian dịu mát, ngọt ngào hương cỏ cây. Mặt trời chưa nhô lên khỏi dãy núi phía đông nhưng đã hắt những tia rẻ quạt màu hồng rực lên nền trời. Phía ấy bầu trời như được nâng lên cao hơn, tựa hồ, cả nền trời là một lăng kính lớn, ánh nắng hắt lên đỉnh núi kia chỉ là những luồng phản quang của chiếc lăng kính khổng lồ đó.

Bình minh đang lên, chậm chạp và thanh thản. Thiên nhiên chẳng bao giờ vội vàng.

Không khí dịu ngọt của buổi sớm xoa dịu đi nỗi mệt nhọc của các chiến sỹ tiểu đoàn 3. Khi trời còn tranh tối tranh sáng họ còn vừa đi vừa ngủ gật. Ấy vậy mà khi anh ngày rực lên, thiên nhiên như thúc dậy, họ như tỉnh táo hẳn. Đội hình của tiểu đoàn dồn xích lại, chặt chẽ hơn, khỏe khoắn hơn. Tiếng bàn chân họ rậm rịch, gấp gáp, như lay động màn sương mong manh. Những tiếng tâm Sự rủ rỉ, tiếng cười khúc khích. Không mấy ai nói to, gọi to, như sợ tiếng nói của mình  sẽ làm tan đi những phút giây yên tĩnh nhất của một ngày.

Họ đi qua những trảng cỏ, để lại những vệt dài, xanh thẫm, hai bên là những đường viền long lanh của hàng triệu những hạt sương li ti đậu trên những ngọn cỏ.

Tiểu đoàn trưởng Nguyên và chính trị viên Khẩn di sát bên nhau. Khi tiểu đoàn vừa đổ xuống thung lũng, hai người chỉ huy nhìn nhau cùng cười. Họ đã vượt qua được những chặng đường gay go nhất.

- Thung lũng này đẹp quá nhỉ?

Nguyên gật đầu xác nhận:

- Đẹp. Đối với người chiến sỹ thì thung lũng nào cũng đẹp. Vì xuống tới thung lũng là đỡ phải leo dốc rồi.

- Nhưng thiên nhiên ở đây đáng ca ngợi chứ?

- Ôi, nếu mình biết làm thơ nhỉ… Một buổi bình minh hành quân trong một thung lũng đẹp và phía trước là một trận đánh dữ dội.

- Như thế là thơ rồi đấy.

- Nhưng nếu có một dòng suối cho  lính uống thì  thơ hơn.

- Sắp có suối rồi. Sông chứ chẳng phải suối.

- Có những vùng đất đai khắc nghiệt thật. Đi hàng ngày đường không kiếm ra giọt nước. Cứ như trên mặt trăng ấy.

Nói đến nước, Nguyên lại thấy cuống họng mình khô rát. Giá như bây giờ gặp suối, có lẽ anh sẽ vục đầu xuống và uống đầy một bụng cho đã. Khẩn chịu khát giỏi hơn, suốt đêm không bao giờ thấy Khẩn nhắc tới nước. Cứ như một con lạc đà không bằng.

- Chúng mình còn cách vị trí chốt chặn khoảng bao xa?

- Đi với tốc độ này cũng còn khoảng hai tiếng nữa.

- Cho bộ đội nghỉ một chút chăng?

Nguyên lắc đầu:

- Chưa cần. Thiên nhiên đang kích thích đôi chân của chúng mình, lúc này đi được nhiều đường đất hơn. Một giờ nữa ta sẽ nghỉ lại để ổn định đội hình trước khi hành quân ra chiếm lĩnh mặt đường.

- Nhạc trưởng lại sắp gọi đấy.

- Lần này báo cáo với cụ ấy rằng: chúng tôi sắp tới vị trí biểu diễn.

- Chắc bộ tư lệnh sư đoàn đêm qua không ngủ?

- Đã hẳn… Ngủ sao được trong cái đêm trở dạ này.

Khẩn xua tay:

- Dùng chữ “trở dạ” e không đúng. Có thể gọi là đêm giao thừa. Đêm giao thừa chiến dịch.

- Lại một câu thơ nữa. “Chính ủy” của tôi quả là có đầu óc văn chương.

Chính trị viên vội vàng cải chính:

- Mình dốt văn thì có. Hồi đi học phổ thông, may mắn lắm mới được một điểm khá, còn thì toàn điểm trung bình. Cô vợ mình thì ngược lại, giỏi văn nhưng dốt toán.

Nguyên mỉm cười, hóm hỉnh:

- Vậy mới có điều kiện để “trao đổi văn hóa”

- Đúng. Nhưng bao giờ mình cũng thiệt. Bài tâp toán thì cô ấy có thể chép nguyên xi của mình. Nhưng bài tập văn thì mình chịu. Chà… cô ấy làm văn bình giảng mới hay làm sao.

- Hôm nào viết thư cho bà ấy một đề văn – Nguyên cao giọng đọc – Hãy bình giảng đoạn thơ sau đây của nhà thơ Tố Hữu:

Hoan hô anh giải phóng quân

Kính chào anh con người đẹp nhất

Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất…

Khẩn say sưa đọc theo:

Sống hiên ngang bất khuất trên đời

Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi

Mấy chiến sỹ đi sau cười rúc rích:

- Chà… hai thủ trưởng yêu hôm nay cao hứng tệ.

- Yêu đời quá đấy, các thủ trưởng nhẩy!

Nguyên dừng lại chờ mấy chiến sỹ đi ngang  mình rồi hỏi:

- Các cậu có thích thơ không?

- Thích chứ - Anh chiến sỹ thông tin đeo chiếc máy P.105 to bè trên lưng trả lời – Nhưng lúc này thì thích mơ hơn là thơ.

- Mơ à?

- Vâng. Mơ! Quả mơ ấy chứ không phải mơ mộng đâu. Chao ôi! Lúc này có độ dăm quả mơ nhỉ? Nếu có Vòng ạ, tao sẽ vừa đi vừa nhấm nháp từng chút một và chìa ra trước mặt mày thế này này. Hẳn mày sẽ không vừa đi vừa ngủ gật nữa.

Anh chàng tên Vòng xuýt xoa:

- Chà… Mày làm tao tứa nước miếng ra rồi đó.

- Đồ háu ắn! Chưa chi đã chảy nước dãi ra rồi.

Tiếng cười rộn lên trong hàng quân. Nhưng, vừa lúc đó, Nguyên như nghe vẳng trong tiếng gió có tiếng động cơ ô tô. Không thể nhầm! Đúng, có tiếng động cơ ô tô nặng nề vang trong không gian. Chúng nó đang chạy. Nguyên vội tách ra khỏi hàng quân, đứng lên một ụ mối lắng nghe một lát rồi quay lại, nói với các chiến sỹ:

- Các đồng chí! Chúng nó đang chạy. Đấy, thử nghe xem. Tiếng động cơ ô tô rõ lắm.

Các chiến sỹ dừng lại, lắng nghe. Rồi một người nào đó kêu lên:

- Đúng rồi! Tiếng động cơ ô tô. Chúng nó đang chạy. Nhiều lắm các cậu ơi!

- Đúng rồi! Tao cũng nghe thấy. Bỏ mẹ, chúng nó chạy hết ráo!

Nguyên khoát tay ra lệnh:

- Các đồng chí! Nhanh chân lên một chút.

- Đúng đấy, nhanh lên.

- Vận động lên.

- Truyền xuống, tăng tốc độ.

- Thằng Vòng hết ngái ngủ rồi tui bay ơi!

Hàng quân nhộn nhịp hẳn lên. Những bước chân bắt đầu sải dài, gấp gáp. Một vài người bắt đầu chạy gằn. Một lát sau cả tiểu đoàn rầm rập chạy.

2.

Cả tiểu đoàn rầm rập chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Những gương mặt sáng bừng, lấp lánh mồ hôi. 

Những bàn chân đạp loang loáng trên cỏ.

Đàn chim rừng giật mình, ngơ ngác bay vụt lên.

Một co hoẵng đi ăn sớm đột nhiên hiện ra sau một lùm cây. Nó nghển cổ, ngơ ngác nhìn, rồi bỗng la toáng lên, đạp cây chạy rào rào.

Cả tiểu đoàn vẫn rầm rập chạy.

Tiếng súng đạn, xẻng cuốc va nhau lách cách. Những hơi thở gấp. Những mệnh lệnh ngắn, gọn, thôi thúc. Những cái ngã. Những tiếng cười.

- Sao dừng lại:

- Tuột dép.

- Sao dừng lại?

- Ba lô đạn nện vào lưng đau quá.

- Đưa tớ đổi cho một đoạn.

Mặt trời nhô lên khỏi dãy núi phía đông. Nắng le lói. Sương mù bắt đầu loãng ra, chảy thành từng luồng dọc theo những triền đồi. Thung lũng xanh rờn trải ra trước mặt đoàn quân. Tiếng động cơ ô tô vẫn ầm ì vọng lại  mỗi lúc nghe càng thêm rõ.

Cả tiểu đoàn vẫn rầm rập chạy.

3

Khi đơn vị bắt đầu đổ xuống thung lũng, Hưng khẩn khoản đề nghị với trung đội trưởng và anh em trong trung đội cho mình xuống đi bộ. Trung đội trưởng Mánh mỉm cười nhìn anh như lượng sức rồi dõng dạc tuyên bố:

- Được! Thử đặt “ông nghè” xuống xem có đi nổi không?

Hưng khoan khoái đặt chân mình xuống cỏ và tập tễnh bước đi. Những ngọn cỏ đẫm sương ve vuốt bàn chân anh khiến cái đau dịu đi đôi chút. Anh bước đi thoải mái hơn và trong lòng chợt trỗi lên một niềm vui khi nghĩ rằng mình có thể đi nốt chặng đường cuối cùng đến nơi chốt chặn bằng chính đôi chân của mình chứ không phải trên vai đồng đội.

Đêm qua, những lúc nằm trên võng, trong đầu Hưng luôn lảng vảng một ý nghĩ: “ước gì mình nhắm mắt lại, ngủ đi một lát và khi tỉnh dậy bàn chân sẽ lành nguyên. Mình sẽ nhảy phốc xuống và reo lên: “Tớ đi được rồi! Đây này, tớ chạy cho các cậu xem”. Nhưng anh không tài nào chợp mắt được. Lúc nào anh cũng chỉ nghĩ đến đôi chân, nó vẫn ê ẩm, nhức nhối. Dường như chính vì không ngủ được nên bàn chân không khỏi vậy. Cả trung đội đã lần lượt khiêng anh trên vai. Mỗi khi họ đổi khiêng cho nhau, dù không nhìn rõ mặt, nhưng nghe tiếng nói, nghe hơi thở, ngửi mồ hôi, Hưng vẫn nhận ra từng người. Nhiều lúc, anh lặng lẽ khóc và không hiểu vì sao mình lại dễ khóc như vậy. Hình như chỉ có một lần, trung đội trưởng Mánh khiêng ở đầu cáng phía sau nhận ra anh đang khóc. Mánh thì thào khuyên giải:

- Hưng ạ, chẳng ai muốn ngồi trên vai đồng đội mình mà đuổi giặc cả. Nhưng, nếu bỏ cậu lại thì chúng tớ sẽ ân hận. Mà bỏ cậu lại thì không chỉ một mình cậu ở lại được. Phải có ít nhất một người nữa chung số phận với cậu. Chẳng thà toàn trung đội đùm bọc lấy nhau, đến vị trí tạm dừng cậu có thể nằm nghỉ ở phẫu của tiểu đoàn. Ở đó cậu sẽ đỡ sốt ruột hơn. Khi nào đỡ đau cậu có thể ra đánh giặc được ngay.

Hưng im lặng nghe và nghĩ rằng: nếu các anh đã đưa tôi tới được chỗ đó thì tôi không chỉ đến đó để ngồi xem các anh đánh giặc. Tôi sẽ chiến đấu để không phụ lòng các anh. Tôi tin rằng trước mặt kẻ thù, bàn chân sẽ không phản bội tôi. Tôi cũng sẽ nổ súng, sẽ xung phong, sẽ cùng các anh gây cho địch những nỗi kinh hoàng.

Hưng vừa nhúc nhắc bước theo đơn vị vừa suy nghĩ như vậy. Bỗng, hàng quân xôn xao hẳn lên rồi rùng rùng chuyển động. Những khẩu lệnh tới tấp truyền xuống:

- Tăng tốc độ!

- Vận động lên!

- Chạy!

Rồi cả hàng quân rầm rập chạy. Hưng đứng lặng ngơ ngác nhìn rồi cũng tập tễnh chạy theo. Trung đội trưởng Mánh quát:

- Thôi! Mời “ông nghè” lên võng.

Phùng và Kén vác cáng đến. Hưng còn lúng túng chưa biết xử trí ra sao thì trung đội trưởng Mánh đã bế thốc anh lên, đặt vào võng.

- Thế! Cậu có nghe tiếng động cơ ô tô không? Chúng nó đang chạy đấy. Vậy thì bọn mình cũng chạy thôi. Để cậu tập tễnh như thế thì có đến tết!

Phùng và Kén khiêng Hưng chạy lúp xúp. Ổn khanh khách vác ba khẩu súng, đeo một ba lô to bè lúc cúc chạy theo. Rừng mờ dần đi sau làn nước mắt Hưng. Lần này anh không giấu được đồng đội, đành để mặc cho những giọt nước âm ấm chảy dài trên má.

Phía đường 7 tiếng động cơ ô tô vẫn ầm ì vọng lại. Cả tiểu đoàn rầm rập chạy.

CHƯƠNG CHÍN

1

Hưng mắc tạm chiếc võng lên và nằm nghỉ. Đợi nghe tiếng súng của đơn vị từ ngoài mặt đường vọng về. Thế là anh phải buộc nằm lại ở phẫu của tiểu đoàn. Bàn chân bị thương của anh sưng tấy lên, nóng rực, những mạch máu ở cổ chân giật giật liên hồi. Anh đành phải tự an ủi mình “dù sao ta cũng đã tới được đây” và anh tin rằng, chỉ ngày mai mình có thể nhảy ra đường, chiến đấu cùng đơn vị được.

Anh chàng y tá quê Hải Phong có khuôn mặt rám nắng của dân xứ biển, sau khi băng lại vết thương cho anh bỗng trở nên nhàn rỗi. Anh ta cũng mang võng ra mắc bên cạnh Hưng và bắt đầu con cà con kê. Rõ là một anh chàng lắm chuyện. Lúc đầu Hưng cảm thấy hơi khó chịu, nhưng dần dần, tự nhiên anh bị những câu chuyện lý thú, say sưa của anh ta lôi cuốn.

- Nhà tôi ở ngay bên bờ biển – Anh y tá kể - Những đêm biển động cứ nghe sóng vỗ ầm ào suốt đêm. Ai mới tới vùng biển thì thật khổ sở vì cái tiếng ầm ào đó của sóng gió. Nhung tôi lớn lên ở đó, quen đi rồi lại đâm ra say. Đến nỗi khi mới vào được bộ đội, những đêm đầu tiên không sao mà ngủ được. Thì ra tôi quen ngủ trong cái tiếng sóng ầm ào đó. Nhớ biển vô cùng anh Hưng ạ. Nhất là những ngày hành quân trên Trường Sơn. Hình như càng vào rừng thì cang nhớ biển hay sao ấy? Anh đã ra biển bao giờ chưa? Chưa à? – Anh y tá lộ vẻ thất vọng, dường như anh không hiểu vì sao mà lại có những con người không hề biết biển là gì – Thôi được! Khi nào thống nhất mời anh về quê tôi. Tôi sẽ đưa anh đi chơi biển, bảo đảm là anh sẽ mê biển ngay, rồi không muốn về nữa ấy chứ!

Hưng mỉm cười và khẽ gật đầu. Quê anh ở miền trung du Phú Thọ, anh lớn lên bên rừng cọ đồi chè. Anh chỉ mới biết biển qua những bài học địa lý, những bài hát, bài thơ, cuốn phim. Nhưng anh đã yêu biển rồi, anh bạn quê biển đâu biết điều đó. Cứ mỗi khi nhắc tới biển, anh lại như thấy hiện ra trước mắt mình gương mặt một người con gái với đôi mắt tròn, đen thẫm, nét mày thanh, đôi môi mọng đỏ. Đó là hương, người con gái biển đã yêu anh. Chí Hưng đã khơi gợi, nuôi dưỡng tình yêu biển cả trong anh. Cũng như anh chàng y tá này, Hương thường kể say sưa về vùng biển của mình. Trong những câu chuyện của Hương, bao giờ cũng có những đêm biển động, những ngày gió nồm; có những buổi chiều theo cha mẹ đi đánh cá, bàn chân lút trong cát mịn…

- Anh đã nhìn thấy những con ốc biển chưa? Chà, những con ốc như thế mới tuyệt làm sao? Đủ các màu sắc nhé. Có thể dùng vỏ ốc xếp thành những đóa hoa cơ đấy. Tôi còn giữ được mấy con, đem vào đến tận chiến trường này. Vậy mà hồi vượt sông Pô Cô, bị nước cuốn trôi mất cả ba lô, tiêc…

Thì ra không phải chỉ có Hương, khi rời vùng quê biển Nghệ An của mình ra Hà Nội học đã mang theo những vỏ ốc, vỏ sò, kỷ niệm bé nhỏ nhưng yêu thương gần gũi, thân yêu của tuổi ấu thơ. Suốt mấy năm học ở trường đại học Sư Phạm, Hương giữ những chiếc vỏ sò, vỏ ốc ấy như những vật kỷ niệm thiêng liêng. Những năm đó giặc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh phá hoại ở khu Bốn, nên vào dịp nghỉ hè Hương không về thăm quê được. Bạn bè thường thay nhau rủ Hương về quê mình nghỉ hè cho vui. Lần nào Hương cũng khóc một chặp, rồi cuối cùng cũng chuẩn bị đồ đoàn, sách vở, mang theo cả những chiếc vỏ sò, vỏ ốc đi về những miền quê khác nhau của bạn bè ở miền bắc. Mùa hè thứ ba, năm 1972, Hương đã mang theo những chiếc vỏ sò, vỏ ốc ấy về Phú Thọ với Hưng…

- Những buổi chiều mà đi dạo bên bờ biển thì thật tuyệt vời, anh Hưng ạ. Gió thổi lồng lộng. Những con sóng xanh cứ đuổi nhau lao vào bờ rồi nhảy ùa lên bãi cát. Rồi trăng lên, trăng ở biển lạ lùng lắm, thoạt đầu, khi từ dưới biển nhô lên, trăng đỏ hồng như một vầng lửa, càng lên cao càng xanh lại và sáng vằng vặc. Anh đã đọc bài thơ “Biển xanh” của Xuân Diệu chưa? Bài “Nếu em là biển xanh thì anh là bờ cát trắng” ý mà. Tôi không thuộc nhưng thích lắm. Đó là một bài thơ tình tuyệt vời về biển.

… Hương cũng đã chép cho anh bài thơ ấy. Những dòng chữ của em vẫn còn nằm trong cuốn sổ tay của anh đây. Anh đã mang theo nó ra trận cùng với những trang thơ, những vật kỷ niệm nhỏ nhắn, xinh xẻo của em, trong đó có cả một cái vỏ ốc. Tất cả những cái đó, bây giờ đối với anh là vô giá. Bởi vì đó chính là hình ảnh của em, hơi thở của em. Khi chiến thắng trở về, anh không thể tìm thấy em ở bất cứ nơi nào trên trái đất này. Vì em không còn nữa. Giặc Mỹ đã giết em trong một trận B.52 dã man nhất chúng dội xuống thủ đô. Anh đã nhận được tin đau xót ấy khi vào tới chiến trường này. Bè bạn viết rằng trước khi nhắm mắt, em còn nhắc tới anh, tới biển…

- Nhớ biển quá anh Hưng ạ - Ừ, nhớ chứ, bây giờ anh đã hiểu điều đó – Khi còn ở nhà tôi vẫn mơ ước trở thành một chiến sỹ hải quân kia – Nhưng anh lại hiểu rằng muốn giành lại biển thì hãy đánh gục kẻ thù trên mặt đất – Vậy mà rốt cục tôi lại trở thành anh lính bộ binh, quanh năm lặn lội trên rừng – Sinh ra ở rừng đâu phải là lỗi lầm, nhưng, không biết yêu biển thì quả là lầm lỗi – Biết bao giờ chúng mình đánh xuống tới biển, anh Hưng?

- Nhất định chúng ta sẽ đánh ra tới biển, Toàn ạ. Biển ở hướng chúng ta đang truy kích đấy.

- Còn xa lắm phải không anh?

…Còn xa. Nhưng nhất định sẽ tới. Rồi đây, nếu anh còn sống trở về, anh sẽ tìm tới vùng biển quê em. Sẽ đi một mình trên bờ biển để nhớ thương em. Khi còn ở bên nhau, em thường phàn nàn “Con trai mà không biết biển là gì, rõ chán!”. Dường như, đối với em, anh còn thiếu một điều gì đó mới trở thành một người trọn vẹn, xứng đáng với tình yêu của em. Ngày ra đi anh đã hứa rằng rồi anh sẽ ra tới biển, sẽ ngồi trên bờ biển viết thư cho em. Nhưng con đường hành quân ra trận lại cứ vươn mãi, vươn mãi lên những đỉnh cao vời vợi của Trường Sơn…

Anh y tá trẻ cũng im lặng. Đôi mắt to tròn của anh mơ màng nhìn ra cánh rừng xa. Tưởng như anh đang nhìn ở phía đó  lớp lớp những con sóng xanh đang hồ hởi lao tới, chỉ một lát nữa thôi, nó sẽ nhảy ùa tới đây, ôm choàng lấy anh. Anh nhắm mắt lại, nao nức chờ đợi.

Nhưng, bỗng từ phía ấy, tiếng súng rộ lên.

- Bắt đầu rồi!

Anh y tá reo lên rồi đứng bật dậy, nhìn về phía súng nổ. Những cột khói bắt đầu đùn lên, dọc theo thung lũng. Tiếng súng mỗi lúc một rền vang. Cả thung lũng rung lên trong tiếng súng, tiếng đạn. Bầu trời dần dần ám khói chung chiêng như đang vỡ ra từng mảng.

Chợt thấy chân mình đau dội lên, Hưng sực tỉnh, tới lúc ấy anh mới biết mình đã chạy ra chỗ quang để nhìn ra phía mặt đường từ lúc nào chẳng rõ.

Trung đội trưởng Mánh nằm bên lề đường, trịnh trọng nâng khẩu B.40 lên. Anh nheo mắt, nhắm thẳng vào chiếc M.113 đi kẹt giữa hai chiếc xe tải.

“Hồi còn ở nhà đi úp cá, mỗi khi úp được con cá đầu tiên, mình thường nói: “xô xốc, chốc đầy giỏ” rồi mới thả cá vào. Nói vậy để lấy khước, cầu may. Bây giờ thịt chiếc xe đầu tiên nên nói thế nào cho phải đạo đây?”

Chiếc xe đã bắt đầu bò lên cầu. “Nhích lên chút nữa, con ạ”. “Cái cân ăng ten vắt vẻo trên đầu mày sao giống cái râu con trê cụ thế?”. Mánh chợt nhếch mép cười:

- Xô xốc…

Anh siết cò. Viên đạn lao vút đi, vạch một đường lửa sáng lóa rồi lao sầm vào chiếc xe, nổ một tiếng dữ dội. Nhưng chiếc xe đang đà lao tới, nó đâm sầm vào thành cầu rồi bật ngửa, lao xuống suối. Cái mũ sắt của thằng xạ thủ đại liên văng tít ra xa, trôi lềnh bềnh trên mặt nước. Dòng suối rên lên xèo xèo. Sủi bọt. Chiếc xe chở hàng đi sau choáng váng, loạng quạng rồi cũng lao rầm xuống suối, bốn bánh chổng lên trời, máy vẫn sủi ục ục.

Tiếng súng đã ran lên trên suốt một quãng đường dài. Trận đánh đã thực sự bắt đầu.

Mánh trao khẩu B.40 cho Ổn và hét:

- Lắp đạn.

Pháo tăng của địch bắt đầu bắn sang. Đạn nổ banh banh trên đầu. Mũi của trung đội phó Đạt đang cố gắng vượt sang bên kia suối nhưng đã bị bọn bộ binh địch bắn chặn. Những thằng địch vừa nhảy như con choi choi vừa tới tấp tung lựu đạn xuống suối. Đạt đã điều đại liên lên. Con gà cồ ấy lập tức cho tụi ngụy bên kia suối hôn đất. Một thằng trúng đạn, không hiểu vào chỗ nào mà cứ lăn lộn trên mặt đất, la lên ồ ồ.

Đạt cho hỏa lực vỗ mặt để chuẩn bị đánh vu hồi bên sườn phải. Nghĩ vậy, trung đội trưởng Mánh yên tâm. Anh chỉ còn nghĩ đến hướng cầu, anh phải chỉ huy lực lượng còn lại bịt chặt cầu, không cho bọn xe tăng vượt sang.

Chiếc xe bọc thép thứ hai lại sầm sầm lao tới với tốc độ rất nhanh. Ổn khẩn khoản đề nghị:

- Cho cháu bắn chiếc này.

Mánh gật đầu:

- Được! Nhưng phải bình tĩnh. Bắn cho nó cháy ở giữa cầu.

Ổn từ từ nâng súng lên. Nhưng… một tình huống bất ngờ đã xảy ra. Khi chiếc xe vừa chớm tới cầu bỗng có tiếng lợn kêu thét lên “éc…éc…éc…”. Ổn sững sờ nhìn lên và chợt thấy một con lợn trắng, to thù lù trên đầu xe. Cứ mỗi lần khẩu đại liên trên xe xổ một tràng thi con lợn lại “ứng khẩu”  kêu thét lên như bị chọc tiết. “Pằm…pằm…pằm…éc…éc…éc…pằm…pằm….pằm…éc…éc…éc!...”. Ổn bỗng rũ ra cười. Cười chảy cả nước mắt. Trung đội trưởng Mánh quát tướng lên:

- Con khỉ! Cười cái gì. Nó sắp qua cầu bây giờ! 

Ổn cố cắn răng nín cười, nâng súng lên.

Pằm…pằm…pằm…éc…éc…éc…pằm…pằm….pằm…éc…éc…éc…

Ổn lại phì cười. Khẩu súng rời khỏi tay. Trung đội trưởng Mánh vội nhảy sang, giật lấy súng.

- Đưa súng đây!

Ổn bỗng nín bặt. Chiếc xe lao vụt qua cầu. Trung đội trưởng Mánh nâng vội súng lên, siết cò. “Ùng… oàng”. Chiếc xe khựng lại, đùng đùng bốc cháy.

Mồ hôi tuôn trên mặt Mánh ròng ròng. Mặt anh chợt tái đi. Chỉ một vài giây nữa chiếc xe vọt qua chốt và chưa biết tình hình rồi sẽ ra sao? Anh giận dữ, quay lại quát khản đặc cả giọng:

- Đánh đấm kiểu gì thế? Lắp đạn!

Ổn vừa thút thít khóc vừa lấy đạn ra lắp vào súng. Lại một chiếc xe nữa liều lĩnh lao về phía cầu. Ổn vội trao súng cho trung đội trưởng. Mánh quay sang trừng mắt, quát:

- Bắn đi chứ! Cậu là xạ thủ cơ mà.

Ổn vội nâng súng lên. Cái tiếng “pằm…pằm…éc….éc…!” lại chợt vang lên bên tai. Anh liếc vội sang chiếc M.113, con lợn đã bị thui cháy đen xì trên đầu xe. Chút nữa thì khốn nạn vì nó. Trung đội trưởng Mánh đe:

- Chú ý! M.48 đấy. Bắn trượt cái này thì  tao…

Chiếc xe to quá. Ổn chưa nhìn thấy loại xe này bao giờ! Nom nó lừng lững, đen xì như một khối đá. Vòng xích của nó nghiến trên cầu sắt ken két, rờn rợn. Cái nòng pháo dài nghêu lắc lư. Ổn chợt thấy lúng túng:

- Ngắm vào đầu chú?

- Bên dưới tháp pháo.

Ổn chỉnh lại đường ngắm. Đợi cho chiếc xe lăn thêm vài mét nữa. Ổn bình tĩnh xiết cò.

- Trúng rồi! Khá lắm.

Ổn hoa mắt. Một vài giây sau, anh mới nhìn thấy một cụm khói lớn đùn lên giữa cầu. Khói trùm kín chiếc xe, tuôn phì ra từng luồng khói ở nắp xe, ở nòng pháo, nom như những tia máu đen của một con quái vật đang vọt ra. Đạn pháo trong xe nổ dữ dội.

- Thằng bắng nhắng, làm ăn được đấy. Cháy giữa cầu. Đẹp lắm.

Ổn nghe tiếng trung đội trưởng Mánh cười kha khá trong tiếng đạn nổ.

Khi đạn trên xe nổ hết, khói tan, trung đội trưởng Mánh nhìn xuống cầu và chợt reo lên:

- Ổn trông kìa!

- Cái gì thế chú?

- Cái cầu. Cậu thấy không? Nó võng hẳn xuống như sắp sụp. Hà hà. Cậu đánh đòn hiểm đấy.

Sức nặng của chiếc M.48 và sức chấn động khi đạn pháo trong xe tăng nổ đã làm cho chiếc cầu sắt oằn đi. Bây giờ xe địch không thể qua đó được nữa. Muốn vượt sang bên này suối, chúng chỉ còn cách tìm chỗ có dốc thoải mà bò qua.

Trung đội trưởng Mánh chạy đi bố trí lại đội hình. Anh tăng cường thêm lực lượng cho mũi của trung đội phó Đạt phát triển sang bên kia suối, phối hợp với trung đội bạn.

Toàn tiểu đoàn đã nổ súng. Mặt đường rung lên bần bật. Hướng nào cũng nghe ran tiếng súng, không còn phân biệt được ở hướng nào trận đánh diễn ra  ác liệt hơn. Mánh căn cứ vào những đụn khói đen đang đùn lên ở dọc đường, ven bờ sông Ba, để phán đoán tình hình. Nhưng những đám cháy như vậy bốc lên ngày càng nhiều, tưởng như cả con đường đang ngùn ngụt bốc cháy.

Những chiếc máy bay trực thăng trợ chiến cũng đã tới. Chúng sà xuống, tỉa từng tràng 20 ly và phóng rốc két dọc hai bên đường, không cần phân biệt chỗ nào có quân của chúng. Trận đánh diễn ra mỗi lúc mỗi sôi nổi. Không thấy có phát đạn nào bắn lên. Thành ra sự lồng lộn, gầm rít của bọn chúng ở trên trời bỗng trở nên lạc lõng, vô duyên, giống như một bọn đánh hôi thiếu tư cách.

Biết địch chưa thể vượt qua suối trong tình hình này, Mánh tập trung lực lượng còn lại của trung đội đánh vượt sang bên kia suối.

Vừa triển khai xong đội hình ở bên kia suối, họ liền chạm trán ngay với xe tăng địch. Chúng từ mặt đường dàn hàng ngang ầm ầm lao xuống định tìm đường vượt qua suối tháo chạy. Tất cả các khẩu đại liên trên xe bắn như vãi đạn. Pháo tăng nổ chát chúa bên tai. Bầy xe tăng hung dữ như một đàn bò tót, xé rừng lao tới.

Tiếng trung đội trưởng Mánh hét vang:

- Ổn! Bắn chiếc thứ nhất.

Ổn đứng nép vào cây, kê súng bắn. Viên đạn lao vút tới, đập vào thành xe một cái choang. Đạn không nổ. Chiếc xe tăng gầm lên, lao tới. Cái tán lá cây trên đầu Ổn nát tướp bởi đạn đại liên. Ổn tạt sang trái. Chiếc xe tăng chồm qua. Phùng tung liền hai quả lựu đạn vào vòng xích của nó. Lựu đạn bật lại nổ ầm ầm.

- Ổn! Bắn chiếc thứ hai

Ổn vừa lắp đạn xong. Anh bật dậy, quỳ đón bắn chiếc thứ hai. Viên đạn ăn cao, hớt vẹt góc tháp pháo. Chiếc xe tăng hốt hoảng khựng lại. Một loạt lựu đạn bay vút tới nổ tung tóe. Khi biết chưa bị cháy, chiếc xe tăng rú máy định chạy, nhưng băng xích của nó đã bị lựu đạn băm nát, xổ ra, nằm xoãi trên mặt đất. Một phát B.40 từ góc trái lao tới. Chiếc xe nổ tung. Cháy nghi ngút.

Bắn hai phát đều trượt, Ổn cáu tiết gầm lên một tiếng rồi ôm súng vọt lên, đón chiếc thứ ba. Đó là một chiếc M.48 to lớn kềnh càng. “Tao đã biết mày rồi, đếch sợ!”. Ổn nghĩ vậy rồi né sang trái chọn chỗ đứng bắn. Anh chưa kịp siết cò thì lại một phát B.40 lao vút tới, chiếc xe tăng đỏ lựng lên, nổ dữ dội. Ổn nhăn mặt hét lên:

- Thằng Cầu hớt tay trên tao rồi!

Thoáng thấy bóng Cầu lao trong làn khói mờ. Nó cười mình. Thằng lỏi con. Khẩu trung liên của Kén nổ bùng bùng ở chỗ nào đó. Hình như lại gặp bọn bộ binh rồi. Ổn dụi đôi mắt cay xè vì khói. Bỗng, lại nghe tiếng trung đội trưởng Mánh hét toáng lên:

- M.48! Bên phải.

Ổn vội vàng quay ngoái sang. Chiếc M.48 từ triền đồi trước mặt lừng lững lao tới. Ổn chạy thẳng về phía nó. Một băng đại liên ào qua đầu. Mặc. Ổn biết nó cóc làm gì nổi mình nữa rồi, trừ phi mình bắn trượt. “Hoặc là tao thịt mày, hoặc mày nghiến qua tao”. Nào! Lao thẳng vào đây.

Ùng… oàng!

Tiếng nổ dội lại chắc nịch, tròn ủng. Ổn chưa kịp nhìn kỹ đối thủ vừa bị hạ thì lại nghe tiếng hét của trung đội trưởng:

- Xung phong lên mặt đường!

*

Hàng trăm chiếc xe hơi đang nổ máy ình ình,  nằm nối đuôi nhau, đặc nghẽn một quãng đường. Nhiều chiếc tông vào nhau bẹp rúm ró. Có những chiếc xe Dép bị chèn ngã bật ngửa tênh hênh mà máy vẫn còn nổ: bốn bánh vẫn cứ quay tít; y như con bò bị ngã xuống bãi lầy, bốn chân chổng lên trời, đạp gió lia lịa và rống lên ò ò.

Xác lính địch nằm ngổn ngang trên đường, nằm vắt vẻo trên thành xe, nằm bẹp dí dưới bánh xe, nằm tựa vào ta luy đường… Các chiến sỹ bắt đầu lôi ra từng chuỗi tù binh. Chúng tuồn vào rừng, lẩn lút khắp các xó xỉnh. Có đứa chạy một mình; có đứa kéo theo cả bầu đoàn thê tử, thảm hại, nhếch nhác. Nhiều chỗ, các chiến sỹ “trung đội gió lốc” bắt được cả chuỗi, hàng vài chục tên, không hiểu của bộ phận  nào bắt được đã trói sẵn. Chúng ngồi túm tụm vào nhau, ngoan ngoãn chờ người đến giải đi. Mà trói buộc nào có ra gì cho cam: đứa thì buộc bằng dây giày, đứa thì cuốn sơ sài vài cái dây rừng… Có đứa, chẳng còn dây dợ trói buộc gì nữa mà vẫn cứ… chắp hai tay lại như đang bị trói, khi các chiến sỹ đến, giải đi, liền tự nguyện kêu ầm lên: “Anh giải phóng ơi… trói lại cho em với!”.

Đấy là bọn bộ binh. Cánh thiết giáp hùng hổ hơn. Chúng húc đông, chọc tây, mong tìm lối thoát. Những thằng khôn ngoan hơn thì lao vào rừng, tìm chỗ kín nằm im thít, đợi thời cơ.

Mánh và Ổn, Phùng đã vớ được một cụm ba chiếc “án binh bất động” như vậy.

Họ đang luồn rừng, truy theo bọn bộ binh thì chợt phát hiện thấy nhiều vết xích xe tăng. Trung đội trưởng Mánh khoát tay ra hiệu cho hai chiến sỹ.

Họ lặng lẽ lần theo vết xích. Tới một vạt rừng rậm, quả nhiên họ vớ được “cái ổ con chuồn chuồn”. Trung đội trưởng Mánh nháy mắt cười, nói với hai chiến sỹ:

- Tóm sống! Kiếm cái xe đi chơi!

Ba người bí mật tiếp cận địch. Khi chỉ còn cách cụm xe chừng vài chục mét, trung đội trưởng Mánh nổ một loạt tiểu liên. Ổn và Phùng cùng lao vọt ra, chĩa B.40 vào đám xe tăng địch, quát oang oang:

- Đầu hàng mau! Tao cho một phát B.40 chết thui bây giờ.

Tất nhiên bọn địch trong ba chiếc xe không thể nghe thấy những lời đe dọa ấy của Ổn, mặc dù Ổn đã gào to như tiếng bò kêu. Nhưng dĩ nhiên, cái quả đạn hình bắp chuối thì chúng nhìn thấy. Và, là những đứa thông minh, chúng hiểu giá trị của nó. Vậy nên, dường như cùng một lúc, cả ba chiếc xe cùng bật cửa trên tháp pháo. Rồi, lần lượt, từng thằng ngoan ngoãn chui ra.

Khi tất cả cái đám “thiết kỵ” ấy đã chui ra hết khỏi ba cái quan tài thép, hiện nguyên hình là những thằng lính nhát gan và láu cá, trung đội trưởng Mánh liền tiến lại, ra một mệnh lệnh:

- Bỏ hết súng đạn ra.

Chỉ có một thằng béo mập, để ria mép là có đeo súng ngắn bên người. Nó chỉ dám hạ một tay xuống, lập cập mãi mới tháo được cái dây lưng đeo lằng nhằng trăm thứ: súng, dao, bao đạn, bi đông…

- Còn thằng nào có vũ khí nữa không?

Thằng béo mập liếc nhìn các chiến hữu:

- Tụi bay… còn không?

- Dạ… hết!

- Cởi giày ra -  Mánh tiếp tục ra lệnh.

Bọn lính cúi xuống cởi giày. Một thứ mùi khăn khẳn bốc lên từ những đôi bốt-đờ-sô khiến Mánh phải chun mũi, nhăn mặt lại. Khiếp! Không khác gì những cái hố xí di động.

- Chúng mày ở đơn bị nào?

Thằng mập lắp bắp trả lời:

- Dạ!... Thiết đoàn hăm mốt ạ!

Mánh cười khẩy:

- A! Chào người anh em. Tưởng xa lạ gì? Chỗ quen biết cũ mà. Năm ngoái tụi bay có càn ra vùng Chư Nghé hả?

- Dạ… hổng có! – Tên lính bé choắt trả lời – Tụi con mới được bổ sung về thiết đoàn.

- Còn ngài sĩ quan – Mánh hất hàm hỏi tên mập – Chắc ngài có tham dự chứ?

Tên sĩ quan cúi đầu thú nhận:

- Dạ…

- Được rồi! Hỏi cho biết vậy thôi. Bây giờ thì… Đằng sau quay!

Bọn tù binh đều ngơ ngác, sợ hãi. Cái gáy đỏ au, béo nục của tên sĩ quan giật giật. Có lẽ bọn hắn đang chờ một loạt đạn. Thằng lính bé choắt bắt đầu thút thít khóc

- Im đi! – Mánh quát – Lính tráng gì mà hèn vậy? Không ai thịt tụi bay đâu. Bây giờ chỉ xin phiền các vị một chút thôi.

Anh quay sang Phùng, ra lệnh:

- Trói tụi nó lại.

Phùng lắc đầu:

- Không có giây trói.

Mánh chỉ đám bốt-đờ-sô:

- Dây giày, thiếu gì.

Phùng nhăn mặt:

- Thối quá?

Nhưng rồi Phùng cũng gỡ đủ cho mỗi tên một sợi dây. Anh tiến lại, bẻ quặt tay từng thằng về phía sau và trói lại. Xong xuôi, anh quay sang hỏi trung đội trưởng:

- Còn mấy chiếc xe?

- Để đó, khi nào tạm yên ta bắt bọn tù binh vào lái ra đường, đợi thiết giáp của ta tới lái về mà dùng.

Ổn chép miệng, tiếc rẻ:

- Giá tụi mình biết lái nhỉ? Anh thử xem, anh Mánh. Anh lái được “Công Nông” kia mà.

Mánh lắc đầu:

- Nhưng đây là xe tăng, chú mày ạ. Xe tăng và máy kéo thuộc… hai “phương diện” khác nhau hoàn toàn.

Họ giải tù binh ra đường. Trận đánh đã tạm thời lắng xuống. Có lẽ bọn địch còn đang choáng váng vì cuộc đánh chặn bất ngờ này. Nhưng ai cũng có thể đoán được rồi tình hình sẽ rất căng. Lực lượng thiết giáp của địch còn khá đông và khá mạnh. Nếu chúng biết phối hợp tôt bộ ba: xe tăng – pháo binh – bộ binh để mở đường máu thì không phải là chuyện đùa.

 Mánh hội ý với trung đội phó Đạt và các tiểu đội trưởng sơ kết “hiệp một”. Toàn trung đội hà mười lăm xe tăng và xe bọc thép, bắt sống bốn chiếc, tù binh đã lên tới con số trăm. Làm xong những con tính cộng ấy, trung đội trưởng Mánh cười hể hả, tuyên bố với mọi người:

- Hiệp một như vậy là tuyệt vời. Cứ đà này mà phất thì lá cờ đầu lại về tay “trung đội gió lốc” rồi, các bạn ạ.

Tranh thủ những phút tạm ngừng chiến đấu, lính ta đã nhảy lên những chiếc xe chở hàng quân tiếp vụ khuân xuống hàng chục két bia 33, hàng chục két nước ngọt nhãn hiệu “Beo chồm”, rồi đồ hộp, bánh kẹo, thuốc lá. Họ vui vẻ chia nhau mỗi người một ít. Chuyện nở như pháo.

Ổn ngồi trên một khúc cây, bô bô kể lại chuyện chiếc M.113 chở lợn và cười ngất. Mặt Ổn sạm đen khói đạn, nhưng cậu ta không lau, cứ để vậy mà ăn uống, cười nói cho ra vẻ một anh lính từng trải.

3

Hưng bắt gặp cái sinh mệnh bé nhỏ ấy trong gầm một chiếc GMC. Nó khóc thút thít và run lẩy bẩy trong tay Hưng. Hưng hỏi nó không nói. Bên cạnh nó là xác một người đàn bà bị bánh trước của  GMC nghiến bẹp dí! Đôi mắt của người mẹ trợn lên, như trừng trừng nhìn Hưng.

- Má cháu đây phải không?

Con bé gật đầu rồi lại khóc nấc lên. Hưng luồn bàn tay vào mái tóc mềm như tơ của nó, vỗ về, an ủi. Lòng anh quặn đau, thiếu chút nữa thì anh không ngăn nổi lòng mình để cho những giọt nước mắt xót thương ứa ra. Anh cúi xuống, nghẹn ngào nói với đứa trẻ:

- Đi với chú nhé!

Con bé bỗng giãy nảy, trằn ra khỏi tay Hưng và khóc thét lên. Nó lao vụt vào gầm xe chạy tới ôm chầm lấy cái xác của người mẹ xấu số và gào lên những tiếng xé ruột:

- Má ơi! Má…

Hưng cảm thấy bất lực trước nỗi đau khổ của đứa trẻ. Anh lặng lẽ nhìn đi chỗ khác để khỏi chứng kiến cảnh ấy. Thương xót trộn với căm giận cứ trào lên khiến đôi mắt anh sáng quắc, rực lên như lửa.

Phía chốt của trung đội anh, tiếng súng vẫn nổ ran. Ngồi ở phẫu từ sáng tới giờ sốt ruột quá, anh tìm mọi cách thuyết phục toàn để cậu ấy “tha” cho anh ra trận địa. Rốt cuộc, anh đã thắng. Nhưng trên đường ra chốt anh lại gặp em bé này. Biết tính sao đây? Không thể đem  em về phẫu, vì bọn trực thăng đang nhè dọc những bìa rừng xanh mà xối đạn xuống. Khó khăn lắm anh mới ra tới được đây. Bây giờ chúng lại đang bắn dọc theo trục đường, thiêu hủy nốt những xe còn chưa cháy để khỏi lọt vào tay ta. Lừng khừng ở đây mãi thật nguy hiểm. 

Tiếng khóc của em bé gái vẫn nghẹn ngào, thảm thiết. Hưng không thể chịu đựng được nữa, anh bặm môi lại, chui vào gầm xe, bế thốc em bé lên và dỗ dành:

- Cháu ơi! Nín đi… Đi với các chú.

Em bé vẫn gào khóc, vùng vẫy. Đột nhiên nó nín bặt gục đầu vào vai anh. Hưng bỗng thấy vai mình đau nhói. Nó cắn. Rồi nó giãy, nó đạp và lại la khóc. Mặc. Phút ấy anh quên hết, quên cả bàn chân sưng tấy, bầm giập, quên cả cái đau dội lên trên vai, nơi đôi hàm răng nhỏ nhắn, thơ ngây của đứa trẻ vừa nghiến vào. Nỗi xót thương, lòng căm giận bừng bừng đã tiếp cho anh thêm sức mạnh. Anh ôm chặt lấy đứa bé, nghiến răng, lao về phía trận địa

*

“Trung đội gió lốc” vừa đánh lui một đợt xung phong nữa của xe tăng và bộ binh địch. Bốn chiếc M.48 và M.41 bị thiêu cháy còn nằm rải rác ven đồi.

Có một chiếc không hiểu vì sao trúng đạn rồi mà còn lao ra tận bờ sông, chỉ một chút nữa là nó lao xuống dòng nước xanh trong leo lẻo của sông Ba. Xác bọn bộ binh nằm la liệt trên đường và ven triền đồi, nơi “trung đội gió lốc” xây dựng trận địa chốt chặt.

Bị chặn cứng trong thung lũng, bộ chỉ huy hành quân quân đoàn 2 ngụy hốt hoảng, điên cuồng. Chúng dùng toàn bộ lực lượng thiết giáp của thiết đoàn 21 ủi dũi, mong mở được một con đường máu cho đại quân tháo chạy. Các liên đoàn biệt động, các đơn vị pháo binh và không quân cũng tích cực yểm trợ cho thiết đoàn 21. cuộc chiến đấu đang ở vào giai đoạn quyết liệt nhất.

Toàn tiểu đoàn phải căng ra, thành lập nhiều tuyến chốt chặn, kiên quyết thực hiện mệnh lệnh của Bộ tư lệnh sư đoàn và Bộ tư lệnh chiến dịch: “Không để cho một tên địch nào vượt qua bức tường thép của tiểu đoàn để chạy về đồng bằng ven biển”. Mệnh lênh ấy đã được truyền đạt tới từng chiến sỹ.

Thấy Hưng xuất hiện trên trận địa với một đứa bé trên tay, cả trung đội vô cùng xúc động. Không cần phải nghe Hưng kể, họ đã hiểu vì sao có sự xuất hiệu của em bé đó. Hàng ngàn người dân khốn khổ bị bọn địch dọa dẫm, lừa gạt, bỏ thành phố, làng mạc chạy theo chúng đang còn tan tác khắp rừng. Số phận của họ sẽ ra sao? Có biết bao đứa trẻ mồ côi rơi vào cảnh ngộ như em  bé này?

Phùng nhường cho Hưng chiếc công sự chiến đấu của mình rồi cùng với Kén đi đào chiếc khác. Ổn mang tới trước mặt Hưng năm, sáu chai nước ngọt và hai gói kẹo.

Trung đội trưởng Mánh im lặng suy nghĩ. Một lát sau anh mới lên tiếng trách Hưng:

- Đáng lẽ cậu nên đưa cháu bé về phẫu của tiểu đoàn thì hơn.

Hưng gật đầu:

- Tôi cũng định thế. Nhưng lúc đó trực thăng và pháo địch  bắn phá dữ dội suốt con đường về phẫu. Ngồi ở đó chờ cũng không ổn, vì bọn địch đang dùng trực thăng đi bắn phá hủy xe dọc đường…

Trung đội trưởng Mánh nhăn mặt:

- Thế cậu tưởng đưa nó lên đây an toàn à?

- Ít ra nó cũng có cái hầm mà trú…

- Nhưng nó sẽ chết khiếp vì tiếng súng, tiếng đạn. Đánh nhau, cậu tưởng đùa đấy hẳn? - Rồi anh khẽ thở dài – Thôi được biết làm thế nào? Khi nào yên ổn một chút phải đưa nó về phẫu ngay.

Thấy có nhiều người quan tâm chăm sóc mình, con bé đã nín khóc, nhưng nó nhất định không chịu ngồi xuống hầm mà cú đứng trơ trên mặt đất, nhìn không chớp về phía mặt đường. Hình như nó tưởng rằng chỉ một lát nữa, mẹ nó sẽ đứng dậy, chạy lên đây với nó. Hưng bế nó lên lòng, bóc một phong kẹo đưa cho nó và dỗ dành:

- Cháu ăn đi, rồi cháu xuống hầm ngồi nhé.

Con bé lại lắc đầu, méo xệch miệng, chực khóc.

Vú… xéo… oành… tăng… oành… tăng… oành.

Tiếng đại bác, tiếng pháo trên xe tăng bỗng nổ dồn dập. Khu vực trận địa mù mịt khói đạn, đất cát văng tứ tung. Trung đội trưởng Mánh hét lên:

- Chuẩn bị!

Hưng bế thốc cháu bé nhảy xuống công sự. Em bé dường như cũng hiểu rằng sắp đến lúc nghiêm trọng nên nín bặt. Nó đứng dưới công sự, ôm chặt lấy chân Hưng, run lẩy bẩy như con chim non gặp bão.

Tiếng trung đội trưởng Mánh lại vang lên, xen giữa hai loạt pháo:

- Chú ý tiết kiệm đạn chống tăng.

Gần hai chục chiếc xe tăng, xe bọc thép từ hai bên đường vừa bắn, vừa gầm rú điên loạn. Mặt đất rung lên bởi tiếng đạn nổ và tiếng bánh xích nghiến trèo trẹo. Bọn bộ binh địch ùa theo sau xe tăng như một đàn ruồi.

Hưng tháo mấy trái lựu đạn đặt lện trước thành công sự, kiểm tra lại khẩu tiểu liên. Xong xuôi, anh cúi xuống vuốt nhẹ mái tóc em bé gái, vỗ về, an ủi cho em đỡ sợ. Đôi mắt thơ ngây của em bé ngước lên nhìn anh, tin cậy. “Tội nghiệp em, các anh sẽ che chở cho em, em bé ngây thơ và đau khổ ạ”.

Hưng nghĩ vậy rồi xé chiếc khăn mùi xoa của mình, lấy hai miếng vải nhỏ nhét vào hai lỗ tai bé xíu như hai cái nấm của em bé. Tự nhiên, nước mắt anh ứa ra, nhỏ xuống mái tóc mềm như tơ của em bé tội nghiệp. Thấy anh khóc, em bé ngơ ngác nhìn rồi ngây thơ an ủi:

- Đừng sợ chú ạ, đạn nó không rơi vào mình đâu mình ở dưới hố mà.

Hưng mỉm cười và nước mắt lại ứa ra. Lần đầu tiên, em bé nói với anh bằng giọng âu yếm như vậy.

- Không, chú không sợ đâu, cháu ạ. Bây giờ cháu ngồi yên, để chú đánh cái bọn giết má cháu nhé.

Không biết có hiểu những lời anh nói hay không mà em bé khẽ gật đầu, ngoan ngoãn. Nó đã bớt run và không còn bíu chặt lấy hai chân anh nữa.

Bọn địch vẫn đang dè dặt tiến lên. Chúng nó quyết mở cho được đường máu. Được, hãy cho chúng nó biết thế nào là “đường máu”.

Đến một khoảng cách nhất định, tất cả xe tăng địch đột ngột tăng tốc lao vọt lên. Cùng một lúc, các khẩu súng chống tăng đồng loạt phóng đạn. Hai chiếc bốc cháy. Những chiếc khác lùi xuống, chĩa nòng pháo lên bắn găm vào từng mô đất khả nghi. Bọn bộ binh địch ào ạt xông lên, đen cả triền đồi.

- Tiên sư chúng mày!

Hưng vung tay ném liền ba trái lựu đạn vào đám địch gần nhất. Vừa chạm đất, những trái lựu đạn đều nổ bung, quét gục từng mảng địch. Hết lựu đạn, anh dùng súng. Anh bắn bình tĩnh, từ tốn, từng chặp hai viên một. Xung quanh anh, tiếng súng của đồng đội nổ ran. Anh không nghe thấy tiếng súng của mình mà chỉ cảm thấy qua những cái giật nhẹ của báng súng. Nhưng anh biết, viên đạn của anh sẽ trúng đích. Có một lúc, bọn địch tràn lên đông nghịt trước công sự của anh. Anh thét lên một tiếng rồi bật khỏi công sự, cắp súng tiểu liên quét từng loạt dài. Xác địch đổ rạp trước mặt. Anh còn kịp nghe thấy tiếng cháu bé khóc thét lên. Bọn địch còn lại hốt hoảng giạt xuống, anh nhanh chóng tụt xuống công sự trước khi một quả đạn pháo nổ trùm ngay trước miệng hố. Anh cảm thấy đôi tay nhỏ bé của cháu bé xiết chặt lấy chân mình. Nhưng anh không kịp cúi xuống, bọn chúng nó lại ào ạt tràn lên.

Tất cả các cỡ súng của trung đội đều nổ dữ dội. Các xạ thủ đã phải dùng B.40 để đánh dạt bọn bộ binh xuống. Hưng thấy Ổn đã bắn tới quả thứ tư. Ở hướng tiểu đội hai, các chiến sỹ đã bật lên khỏi công Sự đánh giáp lá cà với địch. Bọn bộ binh địch không hiểu từ đâu kéo ra, đông như kiến, reo hò ầm ĩ, thúc nhau xông lên.

Bỗng một loạt đại bác trùm lên giữa đám lính tráng đen đặc ấy. Không ai biết đó là pháo ta hay pháo địch. Bọn địch hốt hoảng chững lại rồi ào ào chạy giạt trở xuống. Lại một loạt pháo nữa. Vẫn không ai biết là pháo ta hay pháo địch. Khi những làn khói đại bác tan đi, trên triền đồi ngổn ngang xác giặc, trận tiến công dữ dội nhất của chúng đã chấm dứt.

Các chiến sỹ "trung đội gió lốc" thở phào, ai nấy đều mệt mỏi, mồ hôi vã ra như tắm. Nhiều người đã bắn đến viên đạn cuối cùng.

Trung đội trưởng Mánh bò đi kiểm tra lại lực lượng của mình. Trung đội đã hy sinh mất bốn, bị thương ba. Đạn B.40 chỉ còn lại hai quả. B.41 không còn quả nào. Đạn tiểu liên và lựu đạn cũng sắp cạn.

Trung đội trưởng Mánh bò đến công sự Hưng. Gương mặt anh đanh lại, sạm đen khói đạn, bóng nhẫy mồ hôi. Anh nhìn Hưng giây lát rồi chậm rãi nói:

- Tổ đảng có bốn người, Thắng hy sinh rồi. Bây giờ chỉ còn mình, cậu và Đạt. Mình và Đạt đã trao đổi và thấy rằng ta không còn đủ sức đánh lui một đợt xung phong nữa của địch.

- Vậy anh tính sao?

Mánh trả lời quả quyết:

- Rút lui.

Hưng thảng thốt hỏi lại:

- Rút lui? Bỏ chốt… khi chưa có lệnh của đại đội?

- Phải căn cứ vào tình hình cụ thể của trận đánh, cậu ạ. Chúng ta nằm trong thế trận của chốt liên hoàn gồm một loạt chốt như thế này. Địch tràn qua được chốt của ta nhưng không đủ sức tràn qua các chốt khác.

Hưng lắc đầu tỏ vẻ nghi ngờ:

- Nhưng… nếu các chốt khác họ cũng rút lui?

- Không thể có chuyện đó. Nếu chúng mình cứ cố tập trung cả ở đây trong khi hỏa lực đã cạn là không cần thiết, chỉ để lại số anh em còn vũ khí đánh tăng địch thôi, cậu ạ. Họ sẽ rút sau.

Họ im lặng giây lát rồi Mánh khoát tay quả quyết:

- Rút. Tôi sẽ chịu trách nhiệm về mệnh lệnh của minh. Cậu để lại khẩu trung liên của Kén và khẩu B.40 của Ổn cảnh giới cho trung đội rút lui.

Mệnh lệnh rời khỏi trận địa chốt đã được truyền đi.

Hưng lấy chiếc võng ni lông làm thành một cái địu rồi đặt cháu bé lên lưng mình, buộc chặt lại. Cháu bé ngoan ngoãn nằm im trên lưng anh. Có lẽ, nó cũng hiểu rằng Hưng đang tim mọi cách che chở cho nó. Anh vỗ nhẹ lên lưng nó và bảo:

- Nằm yên nghe cháu!

Nó lí nhí đáp lại một tiếng “dạ” rồi thút thít khóc. Nước mắt nó lặng lẽ thấm vào vai áo Hưng. Anh nhẹ nhàng trườn lên khỏi công sự, bò theo các chiến sỹ của trung đội mình.

Họ bò thấp, trườn qua những quãng đồi trống, luồn lách qua những bụi sim, mua mọc lơ phơ, rải rác trên đồi. Những chiến sỹ bị thương để lại trên lối đi những vệt máu đỏ sậm, đất vội vàng hút khô ngay và hẳn rằng đất sẽ không bao giờ quên.

Vượt sang được sườn đồi bên kia, coi như họ đã vượt qua được khu vực nguy hiểm nhất. Bắt đầu vào rừng xanh họ lẫn vào với rừng, với cây. Nhưng, đúng vào lúc đó, họ lại gặp địch. Bọn chúng cũng ngụy trang kín mít những lá, luồn lách trong rừng, đang tìm đường đánh vào phía sau của trận địa chốt. Trung đội trưởng Mánh hiểu ngay ý đồ của bọn địch. Một mặt, chúng tiến công ta dữ dội ở phía trước, một mặt cho bọn này luồn vè phía sau định chơi một cú bất ngờ.

“- Bây giờ thì hốc xơi rồi, bọn láu cá ạ”- Mánh nghĩ vậy và nhanh chóng cho đại đội triển khai đội hình chiến đấu. Với thế bất ngờ, trung đội vẫn dư sức đánh tan bọn này, mặc dù có thể chúng đông tới một đại đội.

Hưng cắm băng đạn cuối cùng vào súng. Em bé vẫn bám chặt lấy đôi vai rắn chắc của anh. Em không hề biết chính em cũng sắp sửa tham gia một trận đánh, chính em cũng sắp sửa xung phong.

Bọn bộ binh địch vẫn đang rẽ rừng tiến lại gần. Mánh nhận ra bọn chúng toàn mặc quân phục của lính biệt động biên phòng. Không hiểu lính của liên đoàn nào? Nhưng dù thằng nào thì cũng cứ nện cho nó một trận vỡ mặt đã. Anh lặng lẽ rút chốt một quả lựu đạn mỏ vịt Mỹ, cầm chắc trong tay. Đợi cho tốp địch đi đầu chỉ còn cách mình  chừng hai chục mét, anh mới vung tay tung lựu đạn và hô lớn:

- Xung phong!

Toàn trung đội vừa thét vang vừa đồng loạt nổ súng. Bị đánh bất ngờ, bọn địch từ trong lùm cây vỡ túa ra, chạy ào ào. Chúng không biết là đã bị đánh từ phía nào tới, chỉ nghe thấy bốn phía rền lên tiếng súng. Chưa nhận ra đối phương, chúng hoảng hốt bắn vu vơ vào rừng, bắn đại cả vào nhau. Đội hình phút chốc đã rối bung.

Hưng bật ra khỏi vị trí ẩn nấp, cắp ngang tiểu liên siết từng loạt ngắn.

Pằng… pằng. Một thằng. Pằng… pằng… Hai thằng. Cứ như vậy, anh điểm mặt từng thằng địch. Anh vừa lao tới vừa bắn với một cảm hứng thật kỳ lạ. Có một lúc anh cảm thấy bàn tay nhỏ bé của em bé gái bấu chặt lấy vai mình. Như có thêm sức mạnh, anh nhào tới một tên địch vừa từ một lùm cây vọt ra, nó đứng sững trước mặt anh, miệng há hốc. Khẩu súng trên tay anh rung nhẹ. Tến địch rú lên một tiếng rồi đổ sập xuống. Một viên đạn véo qua trên đầu. Anh chưa kịp nhìn xem kẻ nào vừa bắn thì nó vọt ngang qua trước mặt anh. Anh hăm hở lao theo. Tên địch chạy ngoằn nghèo qua các bụi cây đánh lừa đường ngắm của anh. Nhưng nó không thể chạy thoát. Anh kiên quyết đuổi, đuổi miết, mặc cho tiếng súng vẫn nổ ran ở phía sau lưng mình. Tên địch đột ngột dừng lại, như đánh một quân bài cuối cùng, nó đưa khẩu súng ngắn lên, nhắm thẳng vào anh bắn liền hai phát. Nó bắn trượt. Hai viên đạn xéo qua đầu anh. Em bé sau lưng anh sợ hãi hét lên một tiếng. Hưng vẫn lẳng lặng lao tới. Tên địch hoảng hốt la lên một tiếng gì đó rồi quỵ xuống, đưa hai tay lên trời. Hưng cắp ngang súng, chậm chạp bước từng bước một về phía tên địch. Nó hoảng hốt nhìn vào họng súng của anh, đôi mắt dại hẳn đi. Rồi nó rú lên một tiếng thất thanh và vùng dậy, chạy. Hưng bình tĩnh nâng súng lên, siết cò. Tên địch đang đà chạy ngã lộn một vòng, hai chân đạp liên hồi trên lá khô.

Hưng chẳng buồn tiến lại xem nó đã chết hẳn chưa. Anh lặng lẽ quay lại vì biết mình đã tách khỏi đội hình của trung đội. Tiếng súng vẫn nổ ran, hình như mọi người còn mải mê truy kích.

Trên lưng anh, em bé gái lại đang khóc tấm tức. Không hiểu nước mắt nó hay mồ hôi của anh vã ra mà lưng áo anh đã ướt đẫm.

CHƯƠNG MƯỜI

1

Kỹ sư Minh gào lên trong tiếng súng nổ rền:

- Ngồi cho vững.

Anh ngoắt vội chiếc xe sang bên đường rồi quay đầu. Chiếc Dép của anh vừa lách được qua một bên thì bỗng “rầm”. Anh ngoái lại, thấy một chiếc Đốt vừa lao sầm vào một chiếc xe chở hàng của trung tá Biền. Nó bật nghiêng sang bên đường, đầu bẹp dúm.

Cả đoàn xe náo loạn. Binh lính nhảy rầm rầm xuống rồi phóng vào rừng, mặc cho bọn sĩ quan hò hét, chửi bới hoặc bắn súng hù dọa. Một chi đội xe tăng mắc kẹt ở giữa đám xe hơi chở lính, chở đồ, đang lồng lộn gầm rú, vừa bắn pháo, bắn đại liên ầm ĩ vừa tìm đường thoát ra. Chúng lao tới, ủi đổ tất cả những chiếc xe nào ngáng đường. Một chiếc Méc-xê-đéc thấp tè nằm bẹp dí dưới băng xích của một chiếc M.48 và bị nó rê đi một đoạn dài. Người tài xế không hiểu sao vẫn ngoi được một nửa thân ra ngoài, rên ò ò… Một chiếc xe cây cỡ lớn cao ngất nghểu cũng vừa bị ủi đổ. Bốn, năm người lính tiếp vụ ngồi trên xe bị hất văng ra ngoài cùng với những két bia 33, những chai rượu Mác-ten, Uýt-ki và những thùng mỡ lợn.

Súng vẫn nổ rền bốn phía. Đạn gào rít trên đầu, man rợ như tiếng rít của một bầy quỷ dữ.

Những người đàn bà vợ lính hoặc không phải vợ lính, mặt xanh như tàu lá, vừa run rẩy khóc mếu vừa lễ mễ xách đồ, dắt díu con cái chạy tứ tung. Ông trung tá Lê Hữu Biền béo mập, ục ịch là thế mà bây giờ bỗng nhanh nhẹn như một con bói cá. Ông chạy tới xe này hét một câu rồi lại chạy tới xe khác hét một câu. Chẳng xe nào còn tài xế. Cái bọn mắc dịch ấy bỏ chuồn ráo trọi rồi. Khổ thân ông! Bà vợ cũng mất hẳn cái vẻ lịch sự, cao sang thường ngày. Bà cũng tru tréo, la hét, nhảy sòn sòn. Cái kiếng gọng bự đã rơi đâu mất, cái mi-ni-duýp đúng “mốt” không hiểu móc vào đâu mà rách toạc một đường từ gấu tới cạp. Vậy nên, khi ông trung tá kéo bà bỏ của chạy lấy người, nó cứ phập phành, phấp phới như một thứ cờ hiệu.

Minh đã quay xe nhưng không thể nào mà chạy lui trở lại vì đường đã tắc nghẽn. Vợ anh và Mai vẫn nằm ép trên đống va li vừa kêu khóc vừa run như cầy sấy. Súng vẫn nổ ran bên tai. Không hiểu đạn từ phía nào bắn tới. Chưa thấy một người lính giải phóng nào xuất hiện.

Minh bặm môi, suy tính giây lát rồi hét toáng lên:

- Xuống xe! Bỏ mà chạy thôi.

Chị Tám mặt bệch ra vì hoảng sợ nhưng khi nghe thấy chồng nói bỏ xe, chị hốt hoảng la lên:

- Sao bỏ?

- Bỏ! Nhanh lên không chết ráo bây giờ.

Mai lập cập nhảy xuống rồi quay lại đỡ chị Tám.

Minh nhăn mặt quát:

- Nhanh lên! Xớ rớ mãi!

Chị Tám quýnh quáng, chạy quanh chiếc xe, hai tay chị dang ra như muốn ôm lấy tất cả mà mang đi. Minh quay lại trợn mắt quát “Đi”, rồi cầm lấy tay chị mà kéo xềnh xệch.

Panh!

Một ánh chớp lóa trước mắt. Mai và chị Tám cùng ngã vật ra, chân tay bủn rủn.

Panh! Panh!...

Chiếc xe tăng M.48 vừa ầm ầm lăn qua vừa bắn. Tiếng xích sắt nghiến rợn người. Minh xốc nách vợ dậy và tiếp tục chạy. Được một quãng anh mới chợt nhớ mình đã không mang một chút gì, kể cả một ít thức ăn khô phòng thân. Anh vội ấn vai hai người đàn bà cho họ nằm xuống rồi hét vào tai họ:

- Nằm nguyên đó! Tôi trở lại xe.

Chị Tám hoảng hốt bật dậy lao theo.

- Mình ơi!

Panh! Panh…

Lại một chiếc M.48 nữa lao qua. Minh quay lại hét:

- Nằm đó! Tôi quay lại ngay

- Em đi với…

Chị Tám vẫn bươn bả chạy theo chồng.

Panh! Panh…

Chị Tám kêu thét lên một tiếng rồi ngã vật ra đường. Mai chồm dậy, kêu thất thanh:

- Chị Tám!

Chiếc xe tăng láng qua. Băng xích nghiến sát đầu chị. Đáng lý chị thoát chết nhưng vừa lúc đó một chiếc xe Dép chạy lộn trở lại láng vào vệ đường để tránh chiếc xe tăng. Mai ôm mặt hét lên một tiếng rợn người:

- Trời ơi!

Minh cũng hét lên một tiếng khủng khiếp rồi chạy lộn trở lại. Nhưng anh làm sao cứu nổi vợ. Chiếc xe Dép trườn qua người chị. Người lái xe hốt hoảng định phanh lại nhưng tên sĩ quan béo ị ngồi trên xe hét lên:

- Chạy mau!

Minh đứng sững trước xác vợ nát bấy, máu me bê bết. Bỗng anh hộc lên một tiếng rồi rút súng lao theo chiếc xe vừa giết vợ anh. Anh vừa chạy vừa vung súng ngắn xổ liền  một băng. Nhưng anh bắn không trúng. Anh không phải là một sĩ quan chiến đấu, anh chỉ là một kỹ sư sửa chữa máy bay. Tên sĩ quan ngồi trên chiếc Dép quay lại nhếch mép cười rồi cũng nâng súng lên, nổ liền hai phát. Chiếc xe lại chồm lên. Hai phát đạn đều găm trúng bộ ngực ứ nghẹn căm hờn của Minh. Anh sững lại, loạng choạng rồi ngã vật xuống mặt đường.

Panh!... Panh!... Panh!...

Lại một chiếc xe tăng nữa lao tới. Khi băng xích của nó lướt qua, trên nền đường chỉ còn lại một nửa cái xác còn tươi nguyên, máu me đầm đìa.

Mai ôm mặt, ngã vật xuống vệ đường, ngất sỉu. Súng vẫn nổ. Xe tăng vẫn gầm rú. Binh lính vẫn hò hét và chạy tới chạy lui. Những người dân khốn khổ bị cuốn theo cuộc di tản vẫn kêu khóc rền rĩ, hoảng loạn, không biết chạy đi đâu cho thoát cơn khói lửa.

Mặt đất rùng rình chấn động. Bầu trời vẩn đục, quằn quại bởi những cột khói đang bốc lên dày đặc. Những cột khói, những tia máu đen đang vọt lên từ mặt đất.

3

Có đến chừng hơn trăm con người, phần lớn là đàn bà, trẻ nít quây quần trong một con suối cạn. Kẻ ngồi, người nằm la liệt. Ai cũng mệt mỏi phờ phạc, hốc hác. Ai cũng khát nước, cổ họng khô cháy, đôi môi cứng ngắc, nứt nẻ. Tội nghiệp nhất là đám trẻ con. Chúng khát quá, gào khóc đòi uống nước. Các bà mẹ dỗ chán chúng không nín. Các bà mẹ giận dữ phát vào mông chúng  bành bạch. Để rồi, lại chính các bà ôm mặt khóc vì thương con.

Một vài người khôn ngoan mang theo được một chút thức ăn khô hay một bình nước bắt đầu phải giấu giếm. Họ lẻn ra một chỗ khuât ngồi ăn uống để tránh những con mắt hau háu của đồng loại. Đã có những vụ cướp giật. Cách đây vài chục phút có một tốp biệt động đi qua. Bọn lính thất trận ấy đã gí súng vào lưng người ta rồi lục lọi đồ đạc của tất cả mọi người. thức gì ăn được chúng cuỗm ngay, có đứa còn ngang nhiên gí súng bắt người ta lột cả nhẫn, dây chuyền, đồng hồ đưa cho chúng.

Mai chui được vào một bụi cây, nằm đó, lặng lẽ chứng kiến những cảnh ấy! Ở Sài Gòn cô không lạ gì những cảnh cướp giật của bọn du đãng. Nhưng cô không thể tưởng tượng được rằng ở trên đời lại có những kẻ táng tận lương tâm tới mức sẵn sàng giật lất những miếng ăn cuối cùng trên tay đồng loại. Cô không hiểu Việt Cộng họ dã man tới mức nào? Còn những hành động của bọn sĩ quan, binh lính của quân đội quốc gia mà cô đã chứng kiến từ khi rời khỏi Plây Cu tới giờ cũng đủ để cho cô ghê tởm. Cô không hiểu đến khi gặp cảnh cùng quẫn này thì liệu anh trai của mình có hành động như bọn lính man rợ này không? Thật kinh khủng khi phải trả lời câu hỏi đó. Bởi vì, cô không thấy có gì khác biệt giữa anh cô và những tên lính, những tên sĩ quan tàn bạo mà cô đã gặp.

Cô nhớ tới Thuận. Chỉ có Thuận là cô tin dù có rơi vào những cảnh huống bi đát như hiện nay, Thuận vẫn giữ được sự trong sáng của lương tâm con người. Nhưng, những người như Thuận hiếm hoi quá.

Vậy mà, đã bao nhiêu năm cô coi những người lính kia như những thần tượng. Cô tôn thờ họ như tôn thờ những bậc anh hùng. Cô nhếch mép cười mỉa mai khi nhớ lại những bức thư xuân mà cô, nhân danh một “em gái hậu phương chốn đô thành” gửi tới sa trường cho những người lính kiêu hùng. Có một lần, cô được thay mặt cho những cô “em gái hậu phương” của trường trung học Cô Giang tới thăm một đơn vị lính dù và được vinh dự khoác lên cổ những “Anh hùng diệt giặc” của đơn vị ấy những vòng hoa chiến thắng. Hồi ấy, cô tự hào về việc đó. Cô cảm thấy mình được đóng góp một phần vào việc khích lệ tinh thần chiến đấu cao thượng của họ. Bây giờ, thật trớ trêu, chính cô lại là một trong những người được chứng kiến sự rữa nát, bạc  nhược, tàn bạo của những “bậc anh hùng” ấy!

Mỉa mai thay cho cô, mỉa mai thay cho cuộc đời. Nhưng, hơn lúc nào hết cô muốn sống. Muốn đem tất cả những điều mình được chứng kiến trở về Sài Gòn kể lại cho bạn bè cô, ba má cô, những người đang trông cậy vào “tinh thần chiến đấu quả cảm và hữu hiệu của quân đội”.

Mệt mỏi. Đói khát. Căng thẳng đầu óc bởi những suy nghĩ, dằn vặt, cô thiếp đi được một lát. Nhưng rồi những tiếng la hét, chửi rủa lại đánh thức cô dậy.

Khi mở mắt ra, cô liền được chứng kiến một cảnh mà tất cả những nhà soạn bi hài kịch trên đời này phải thèm muốn. Mụ vợ trung tá Biền đầu tóc rã rượi như một con điên, cái váy đầm đã rách như xơ mướp đang nhảy tưng tưng, xỉa xói vào mặt chồng và văng ra đủ thứ tục tĩu bẩn thỉu nhất trần đời. Lão trung tá mặt đỏ ửng, nghố nghế như một cái đụn thịt biết đi, ú ớ chống đỡ cơn tam bành cả mụ vợ. Lão cứ lùi mãi, lùi mãi, miệng lắp bắp. mụ vợ càng tiến tới, hung dữ như một con sư tử cái. Tiếng mụ rít lên xoe xóe:

- Thằng béo ị kia! Thằng mặt dày kia! Vàng bạc của bà đâu? Của cải của bà đâu? Dễ chừng cái mặt mày xúc được đấy hẳn? Đồ bò đực! Mày không mang được của cải vàng bạc của bà về thì bà xé xác mày ra!

Mụ vừa chửi rủa vừa lấn tới, vỗ bành bạch để minh họa cho những câu chửi rủa thêm sinh động. Lão trung tá vừa lùi vừa rít lên:

- Mụ câm ngay đi! Mụ tưởn tôi không xót của hả? Cả một cuộc đời tôi…

Mụ vợ càng nổi điên:

- Đời mày á? Mặt mày mà làm nên cơ nghiệp á! Tất cả là ở bà đây này!...

- Đồ đĩ! Câm ngay đi. Tính làm trời hả?

- Á à – Mụ sư tử cái rít lên – Mày bảo bà là đĩ hả? Ừ thì bà đĩ đấy! Bà có đi đánh đĩ thì mặt mày mới được vênh váo thế kia chứ? Bà đánh đĩ với tướng với tá. Chư, cái mặt mày thì ra cái thá gì.

Hự. Một cú đấm như trời giáng vào cái bộ ngực đồ sộ của mụ. Mụ nổi điên, xông thẳng vào túm lấy cổ áo đức ông chồng rồi vung tay nện bôm bốp vào cái mặt bự thịt của ngài trung tá! Vốn không phải người sinh ra để chiến đấu, vì trung tá chỉ là liên đoàn trưởng liên đoàn tiếp vận kiêm nhà buôn và chủ  áp phe; vì vậy trong những phút đầu ngài đã tỏ ra lúng túng. Nhưng sau khi hưởng mấy cái tát, ngài cũng tìm cách bung ra khỏi đôi tay rắn chắc của mụ vợ. Và, ngài giành ngay được thế chủ động. Vì ngài có súng. Khẩu Brao-ning cỡ nhỏ ngài cưu mang bấy nay không phải vô dụng. Bị họng súng chĩa thẳng vào ngực nhưng mụ vợ vẫn không hề tỏ ra nao núng. Mụ vẫn xông tới, rít lên:

- Á à! Mày dọa bắn bà à? Đồ du côn! Thì mày bắn đi, bắn đi! Bắn vào đây này – Mụ vỗ bành bạch vào cái chỗ không nên gọi tên ra của người phụ nữ. Nhưng ngài trung tá không dại gì mà bắn vào cái chỗ ấy! Ngài nâng súng lên cao hơn, độ nửa mét, và siết cò!

Mụ vợ rú lên mấy tiếng thất thanh rồi ngã vật xuống. Những người đàn bà gần đó cũng thét lên những tiếng kinh  hoàng. Một người lính địa phương quân đứng gần đó, chỉ vào mặt Biền mà chửi:

- Đồ dã man, khát máu!

Tên trung tá cất tiếng cười gằn. Mắt hắn thoắt đỏ dọc lên, vằn vèo những tia máu. Hắn nhìn tất cả mọi người bằng đôi mắt thù hằn ấy.

- Thằng nào chửi tao? Mày hả? Vậy thì cho mày đi theo con mụ đó luôn.

Pằng… pằng!...

Hai phát súng nổ. Người lính địa phương quân loạng choạng bước về phía nòng súng của tên sát nhân, mắt anh đã dại đi. Tên trung tá lẩy cò thêm một phát nữa. Anh lính địa phương quân hộc lên một tiếng rồi ngã gục.

Cùng lúc đó, không hiểu từ phía nào, một băng tiểu liên AR.15 nổ rẹt. Mọi người hoảng hốt nằm bẹp cả xuống lòng suối. Bọn trẻ con khóc ré lên. Khi định thần lại, người ta nhìn thấy tên trung tá đã nằm sõng xoài trong lòng suối cạn. Máu hắn và vợ hắn xối ra, chảy hòa vào nhau, nhuộm đỏ cả một khoảng đất cát và đá cuội

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: