triết học câu 4,5
Câu 3: Vấn đề con người trong chủ nghĩa Mác-Lênin?Liên hệ việc phát huy nguồn lực con người ở nước ta?
Đáp. Câu trả lời gồm hai ý lớn
1) Trong chủ nghĩa Mác-Lênin, con người luôn là nội dung cơ bản. Tìm bản chất con người để giải phóng con người khỏi xã hội tư bản cũ với những giai cấp và những sự đối kháng giai cấp của nó; xây dựng một liên hợp, trong đó, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người là mục đích cuối cùng của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người.
2) Bản chất con người a) Con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội. +) Là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên; con người có nhu cầu tự nhiên nên phải tuân theo sự chi phối của các quy luật tự nhiên. Là một thực thể tự nhiên-sinh vật, con người cũng tồn tại với những bản năng và nhu cầu tự nhiên như ăn, uống, sinh con v.v và chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên như quy luật sinh học (trao đổi chất, di truyền, biến dị, thích nghi môi trường sống v.v). +) Cái khác biệt giữa con người với con vật là bản năng của con người đã được ý thức; quy luật tâm lý, ý thức của con người được hình thành từ nền tảng sinh học như tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí v.v giúp con người khai thác, cải tạo tự nhiên và sáng tạo thêm những gì mà tự nhiên không có để thoả mãn nhu cầu sinh tồn và phát triển của mình. Bản năng của con vật là bản năng sinh tồn thuần tuý, cuộc sống của nó hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. yếu tố tự nhiên-sinh vật ở con người là tiền đề, là điều kiện cần thiết cho sự hình thành và hoạt động của con người. Yếu tố đó tồn tại vĩnh viễn bởi nó là cái sinh vật, cái vật chất sinh lý của con người. Xã hội càng văn minh, con người càng phát triển thì bản năng động vật của nó càng thu hẹp lại, nhường chỗ cho những hành vi tự giác. Con người là một thực thể xã hội hoạt động có ý thức và sáng tạo. Là sản phẩm của quá trình xã hội hóa; có nhu cầu xã hội nên phải tuân theo các chuẩn mực xã hội; con người có bản tính xã hội. Bản chất xã hội của con người được thể hiện trong các hoạt động xã hội mà trước hết là trong sản xuất vật chất để duy trì đời sống của mình. Lao động là hành vi lịch sử đầu tiên, là hoạt động bản chất của con người mà nhờ đó con người tách ra khỏi động vật. Con người chỉ tồn tại với tư cách là con người trong quan hệ với con người, với thế giới xung quanh. Hệ thống các quan hệ xã hội của con người được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn và tham gia vào đời sống xã hội và đến lượt mình, chúng quy định đời sống xã hội, quy định bản chất xã hội của con người. Như vậy, quan hệ xã hội là yếu tố cấu thành, là đặc trưng bản chất của con người. Bản chất xã hội đó được xây dựng từ cơ sở thực thể tự nhiên-sinh vật của con người.
b) Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội. Về bản chất, con người khác với con vật ở cả ba mặt, trong quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, quan hệ giữa con người với xã hội và quan hệ giữa con người với chính bản thân mình. Trong đó quan hệ giữa con người với xã hội là quan hệ bản chất nhất. Không có con người trừu tượng sống ngoài điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội, mà ngược lại trong điều kiện, hoàn cảnh và bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển về thể lực, trí lực và chỉ trong các mối quan hệ xã hội trên và các quan hệ khác như giai cấp, dân tộc, thời đại, chính trị, kinh tế, cá nhân, gia đình, xã hội v.v, con người mới thể hiện bản chất của mình. Nhấn mạnh mặt xã hội là coi bản chất xã hội của con người là yếu tố cơ bản nhất để phân biệt con người với động vật và cũng để khắc phục thiếu sót của các nhà triết học không thấy được bản chất xã hội của con người. Hơn nữa, bản chất trên mang tính phổ biến nhưng không phải là cái duy nhất; do vậy, cũng phải thấy cái riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về phong cách, nhu cầu, lợi ích v.v trong cộng đồng xã hội.
c) Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử.Con người tác động, cải biến tự nhiên bằng hoạt động thực tiễn của mình, thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội. Lao động vừa là điều kiện cho sự tồn tại, phát triển của con người, vừa là phương thức làm biến đổi đời sống xã hội. Không có con người thì cũng không tồn tại các quy luật xã hội, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội.
Bản chất con người luôn vận động, thay đổi cùng với sự thay đổi của điều kiện lịch sử; bản chất đó là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. "Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy". Mỗi sự vận động và phát triển của lịch sử quy định sự biến đổi bản chất con người.
Liên hệ việc phát huy nguồn lực con người ở nước ta:
Nguồn lực con người không phải là một vấn đề mới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nguồn lực con người thì diễn ra thường xuyên trong tất cả các giai đoạn lịch sử, ở tất cả các quốc gia nếu như trong giai đoạn đó, ở quốc gia đó muốn có được sự phát triển đất nước, phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu nguồn lực con người luôn là một vấn đề có tính thời sự. Con người là vừa chủ thể của lịch sử vừa là sản phẩm của lịch sử. Vì vậy, con người là nhân tố đưa đến sự phát triển xã hội, sự phát triển đất nước, bên cạnh đó con người đó như thế nào lại bị chi phối bởi chính hoàn cảnh lịch sử ấy.
Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX, nảy sinh hiện tượng là một số nước Đông Á có tốc độ phát triển kinh tế thần kỳ gây ra nhiều sự chú ý trong giới nghiên cứu và họ cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao những nước như Nhật Bản, Singgapo, Đài Loan, Hồng Kông, ... v.v lại có sự phát triển đó. Kết quả của những nghiên cứu cho thấy có nhiều nhân tố tạo nên như văn hóa truyền thống, trình độ dân số, kỹ thuật, công nghệ, ...v. v. song câu trả lời làm ngạc nhiên giới nghiên cứu là sự nhảy vọt về kinh tế ở các nước đó không phải là kỹ thuật, công nghệ mà là văn hóa truyền thống. Vì vậy, nghiên cứu nguồn lực con người hiện đại cần phải thấy được sự liên hệ với yếu tố truyền thống, con người truyền thống, gắn với điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Đối với nước ta, xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, nông nghiệp là chính tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, lại chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh kéo dài. Việc khắc phục những tàn dư của xã hội cũ, của nền sản xuất cũ như thói quen tác phong sản xuất nông nghiệp của người nông dân, tâm lí sợ sệt trong đầu tư sản xuất - kinh doanh, cách thức làm việc tuỳ tiện không khoa học, lối sống gia trưởng còn ăn sâu vào nếp nghĩ của con người Việt Nam hiện nay đang là một sự cản trở lớn đối với sự phát huy nguồn nhân lực trong phát triển xã hội,v.v.
Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và cùng với nó là phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão và nền kinh tế thì trường thế giới đã phát triển đến trình độ cao. Chúng ta đã tham gia và là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự tham gia đó đã mở ra cơ hội cũng như thách thức lớn đối với chúng ta.
Xuất phát từ những điều kiện đó, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn lúc nào hết việc nghiên cứu và phát huy nguồn lực con người là một điều cần thiết.
Tầm quan trọng:
-xu hướng thế giới hiện nay là phát triển kinh tế tri thức
-trong lĩnh vực kinh tế, cần xem xét con người với tư cách là lực lượng sản xuất và vai trò trong quan hệ sản xuất
-quá trình cn hóa và hiện đại hóa rất cần đến yếu tố con người
-QHSX tiến bộ,đòi hỏi LLSX phù hợp
-Việt nam gia nhập WTO có nhiều thời cơ và thách thức.tác động lớn đến phát triển nguồn lực.
Thực trạng :
Thành tựu :
-sau CM/8 quyền con người được đảm bảo
-lực lượng lao động dồi dào
-đội ngũ cán bộ,lao dộng nước ta có nhiều bước phát triển mới
-nhà nước đã quan tâm đến giáo dục,đời sống,sức khỏe và trình độ dân trí của nguồn nhân lực
-tỉ lệ qua đào tạo có xu hướng tăng
-tỉ lệ xuất khẩu lao dộng,du học tăng lên
-chỉ số HDI tăng
Hạn chế :
-đề cao mặt Xh,nặng động viên,nhẹ tự nhiên.không quan tâm đúng mức dến nhu cầu vật chất,chưa thực sự chú ý đến lợi ích cá nhân người lao động
-cơ cấu ngành nghề chưa hợp lí
-sự khan hiếm giữa các nguồn nhân lực,còn nhiều hạn chế
-năng lực lao dộng con người VN còn nhiều hạn chế
-tỉ lệ thất nghiệp cao,chưa tận dụng hết nguồn nhân lực
-chuyển dịch lao dộng chậm,có hiện tượng chảy máu chất xám
-tậ nạn XH :quan liêu,tham nhũng,cửa quyền làm suy thoái nhân cách con người
-vẫn còn ảnh hưởng phong tục tập quán ccua3 người SX nhỏ
-tác phong làm việc thiếu kỉ luật
-đào tạo thiên về lí thuyết
Phương pháp :
-đầy mạnh CN hóa,hiện đại hóa,phát triển nền kt đất nước
-xây dựng và từng bước hoàn chỉnh hệ thống chính sách xh,phù hợp cơ chế quản lí
-thực hiện cách mang xhcn trên lĩnh vực tư tưởng,văn hóa
-tăng qui mô đào tạo,nâng cao chất lượng và thay đổi cơ cấu dạy nghề theo yêu cầu của thị trường
-tạo nhiều việc làm đi đôi với nâng cao chất lượng làm việc,tăng thu nhập cho người lao động
-sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực tạo động lực mới thông qua cải cách căn bản chính sách tiền lương
-tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xh
-tận dụng thời cơ,giải quyết hạn chế thách thức gia nhập WTO
Câu 4:Thế nào là tính độc lập tương đối của ý thức xã hội?Phân tích những biểu hiện của tính độc lập tương đối của CN mac-lenin?
Đáp: Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội : Tính độc lập tương đối của YTXH chính là sự vận động theo quy luật độc lập so với tồn tại xã hội
- YTXH có tính độc lập tương đối là vì nó bị chi phối bởi những quy luật đặc thù của bản thân, điều này làm cho ý thức xã hội không bị lệ thuộc hoàn toàn vào tồn tại xã hội.
Phân tích những biểu hiện của tính độc lập tương đối của CN mac-lenin :
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế - xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối biểu hiện ở những điểm sau đây:
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng vẫn còn tồn tại dai dẳng; điều đó biểu hiện ý thức xã hội muốn thoát ly khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội, biểu hiện tính độc lập tương đối. Sở dĩ có biểu hiện đó là do những nguyên nhân sau:
Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp sự thay đổi đó và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng phản tiến bộ thường lưu giữ một số tư tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Như vậy ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học Mác - Lênin đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Sở dĩ có thể vượt trước được là do đặc điểm của tư tưởng khoa học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn dự báo đúng tồn tại xã hội mai sau.
Chẳng hạn, ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang ở trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh, Các Mác đã dự báo quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế.
Khi nói, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội thì không có nghĩa ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định. Mà là, cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.
c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển
Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước. Thí dụ, chủ nghĩa Mác đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là nền triết học Đức, kinh tế học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước, Các giai cấp tiên tiến thường kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Thí dụ, khi làm cuộc cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời đại cổ đại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, lý thuyết phản tiến bộ của thời kỳ lịch sử trước. Thí dụ, vào nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các thế lực tư sản phản động đã khôi phục và phát triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như chủ nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômát mới, để chống lại phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử.
Do ý thức xã hội có tính kế thừa, nên khi nghiên cứu một tư tưởng nào đó phải dựa và quan hệ kinh tế hiện và phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Có như vậy mới hiểu rõ vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ cao. Thí dụ, nước Đức ở đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
Nắm vững quan điểm kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Đảng ta đã khẳng định, trong điều kiện mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc khác trên thế giới, làm giàu đẹp hơn nền văn hoá Việt Nam .
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng
Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên hệ thì giữa các bộ phận không tách rời nhau, mà thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động đó làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không phải là kết quả phản ánh một cách trực tiếp của tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu sẽ tác động mạnh đến các hình thái khác. Chẳng hạn ở thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt. Thời Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp quyền... Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.
e. Ý thức xã hội tác động trở tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ph.Ăng ghen viết: "Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế".
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Chẳng hạn hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các nước Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ khí về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của tồn tại xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top