triet hoc
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỶ LỢI
KHOA MÁC-LÊNIN
--------***--------
CHUYÊN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP CHÍNH TRỊ
HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
DÀNH CHO SINH VIÊN TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC
THI 2010
HÀ NỘI, 4/2010
CHUYÊN ĐỀ 1
NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Khái luận chung về quy luật.
* Định nghĩa: Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong, của sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
+ Quy luật có tính khách quan, con người chỉ có thể nhận thức nó, mà không thể xoá bỏ nó.
+ Quy luật hình thành trong sự vận động của sự vật, hiện tượng.
+ Quy luật được phát hiện bởi nhận thức khoa học.
*Phân loại quy luật:
Căn cứ vào tính phổ biến (phạm vi):
+ Quy luật riêng: là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất định của sự vật, hiện tượng cùng loại. Cụ thể nhất là chỉ trong một khoa học cụ thể nào đó, chẳng hạn, định luật vạn vật hấp dẫn trong cơ học, di truyền biến dị trong sinh học, …
+ Quy luật chung: là những quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy luật riêng, tác động nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau. Quy luật này có thể có trong nhiều khoa học, liên ngành khoa học: như định luật bảo toán và chuyển hoá năng lượng (trong vật lý, cơ học, hoá học)
+ Quy luật phổ biến: là quy luật tác động trong tất cả mọi lĩnh vực như tự nhiên, xã hội, tư duy, chính là quy luật của triết học.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động (đối tượng):
+ Quy luật tự nhiên: là những quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên, kể cả con người, không phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Chẳng hạn các định luật trong khoa học tự nhiên: Vật lý, cơ học, sinh học, tâm lý học, thần kinh học, …
+ Quy luật xã hội:là những quy luật của chính hoạt động con người trong các quan hệ xã hội. Những quy luật này có được nhờ hoạt động có ý thức của con người, nhưng nó cũng có tính khách quan.
+ Quy luật của tư duy: là những quy luật chỉ ra các mối liên hệ nội tại giữa các khái niệm, phạm trù, phán đoán hình thành nên hệ thống tri thức về sự vật, hiện tượng. Các quy luật này rõ nhất trong toán học, lôgíc học và triết học.
Triết học nghiên cứu tất cả các lĩnh vực nói trên, cho nên các quy luật triết học là phổ biến.
I - QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI.
* Vai trò của quy luật: Chỉ ra phương thức, cách thức của sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng.
1. Khái niệm về chất và khái niệm về lượng.
1.1.Khái niệm về chất.
Định nghĩa: Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
+ Chất là những quy định vốn có. Vàng: màu vàng, dẻo, ít hao mòn trong tự nhiên, kim loại…
+ Là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính, chứ không phải là một sự kết hợp máy móc hay hỗn hợp. Theo Ph.Ăngghen: “Những chất lượng không tồn tại, mà những sự vật có chất lượng, hơn nữa, những sự vật có vô vàn chất lượng, mới tồn tại”[1]
+ Sự thống nhất đó tạo cho sự vật thành một chỉnh thể cho phép phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác.
Phân biệt chất với thuộc tính:
+ Chất tồn tại khách quan bên trong của sự vật, bao gồm cả các yếu tố giống nhau.
+ Chất là tổng hợp nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính là một bộ phận của chất, mỗi sự vật có nhiều chất.
+ Các thuộc tính bộc lộ theo mối liên hệ cụ thể, khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất mới thay đổi, sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ là tương đối.
+ Chất gắn với kết cấu của sự vật. Như: than chì và kim cương.
1.2. Khái niệm về lượng.
- Định nghĩa: Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Đặc điểm:
+ Lượng là khách quan, quy định về sự vật, bên trong sự vật mặc dù nhiều khi dường như là vẻ bề ngoài.
+ Lượng gắn liền với cấu trúc, có tính phổ biến:
=Kích thước (dài, ngắn, to, nhỏ, …).
=Số lượng (thuộc tính, số dân, số hành tinh, …).
=Mức độ (phát triển kinh tế, tình cảm, tăng dân số, …).
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất.
Thực chất, chất và lượng là hai mặt của một sự vật; cho nên, chất bao giờ cũng thể hiện ra một lượng nhất định, không có chất thuần tuý; và lượng bao giờ cũng là lượng quy định một chất nhất định, không có lượng thuần tuý. Ví dụ: Mỗi kim loại khác nhau đều ứng với một bước sóng nhất định của ánh sáng chiếu vào để bứt các điện tử ra khỏi bề mặt.
Theo Ph.Ăngghen: “Mọi chất lượng đều có vô vàn những mức độ khác nhau về số lượng, thí dụ những sắc thái của màu sắc, độ cứng và độ mềm, độ bền, v.v. và mặc dù các mức độ ấy khác nhau về chất, nhưng chúng đều có thể đo được và nhận thức được”.[2] Trong mối quan hệ này, thì lượng thường xuyên biến đổi hơn, thể hiện qua các giai đoạn sau:
2.1. Độ:
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật.
Độ là giới hạn, là sự gián đoạn trong sự phát triển của sự vật.
Độ là sự thống nhất giữa chất và lượng.
Độ là một khoảng (quá trình) thay đổi về lượng, chứ không phải một thời điểm (sự thay đổi từ 0oC ®1000C thì nước vẫn ở trạng thái lỏng, chứ không phải ở điểm 0oC hay 1000C).
Độ là sự ổn định của sự vật, là cơ sở hình thành quy luật của sự vật, hiện tượng.
Các loại sự vật khác nhau có độ khác nhau.
2.2. Lượng biến đổi dần dần tới một mức độ nhất định dẫn tới sự thay đổi về chất.
* Tính quy luật:
- Không có sự thay đổi về lượng thì không có sự thay đổi về chất.
Lượng biến đổi dần dần mới có sự thay đổi về chất:
+ Có những sự thay đổi dần dần về lượng vẫn không có sự thay đổi về chất.
+ Muốn có sự thay đổi về chất thì phải biến đổi dần dần về lượng (vụ nổ nguyên tử có thể lên tới hàng triệu độ trong thời gian ngắn, nhưng vẫn tuân thủ quy luật này là tăng từ 1000 lên 1010, 1020, 1030, …, 9990, 10000, …, 1 triệu độ)
+ Quá trình thay đổi từ lượng đến chất trải qua các giai đoạn sau:
Khi thay đổi về lượng mà vẫn chưa dẫn tới thay đổi về chất thì quá trình gọi là tiệm tiến, tiến hoá. Tới một mức độ nhất định dẫn đến sự thay đổi về chất gọi là bước nhảy. Và giới hạn xẩy ra bước nhảy gọi là điểm nút, trong tiến trình của sự vật có nhiều điểm nút tạo nên đường nút. Quy luật này phổ biến, thể hiện sự vận động liên tục trong tính đứt đoạn của lượng chất. Tính phổ biến của quy luật được thể hiện:
Trong thế giới vô cơ: Bảng tuần hoàn Menledeev, hoặc các phản ứng hoá học. Theo Ph.Ăngghen: “Người ta có thể gọi hoá học là khoa học của biến đổi về chất của vật thể sinh ra do sự thay đổi về thành phần số lượng”[3]
Trong thế giới hữu cơ: Sự tiến hoá về loài trải qua hàng triệu năm.
- Trong xã hội: xã hội phương Tây phải hơn 1000 năm phong kiến mới chuyển sang được xã hội mới, xã hội tư bản, còn xã hội phương Đông trải qua 4-6 ngàn năm mà vẫn chưa đạt được như trình độ phương Tây hiện nay.
- Trong tư duy: triết học Mác ra đời là do kế thừa những thành tựu lý luận trước đó: I.Cantơ, L.Phoiơbắc, G.Hêghen.
2.3. Khi chất mới ra đời tạo điều kiện cho lượng mới phát triển. Các hình thức bước nhảy.
* Sự tác động trở lại này chủ yếu về quy mô và nhịp độ: Nước ở trạng thái lỏng với 1 lít = 1 dm3, nhưng trạng thái khí thì thể tích lớn hơn, vận tốc phân tử cũng lớnn hơn. Sự thay đổi đó được thể hiện bằng các hình thức bước nhảy. V.I.Lênin đã nói: “Nhưng đời sống thực tế, lịch sử thực tế thì lại bao hàm cả những khuynh hướng khác nhau đó, cũng như đời sống và sự phát triển trong tự nhiên vẫn bao hàm cả sự tiến hoá chầm chậm lẫn những bước nhảy vọt nhanh chóng, những sự gián đoạn của quá trình tiệm tiến”[4]
* Các hình thức bước nhảy: Thừa nhận các bước nhảy là thừa nhận tính biện chứng trong sự phát triển phong phú của sự vật, hiện tượng. V.I.Lênin đã nói: “Phân biệt bằng cách nào một sự chuyển hoá biện chứng với một sự chuyển hoá không biện chứng? Bằng bước nhảy vọt. Bằng tính mâu thuẫn. Bằng sự gián đoạn của tính tiệm tiến. Bằng tính thống nhất (đồng nhất) của tồn tại và không tồn tại”[5]
- Bước nhảy quy mô:
+ Bước nhảy toàn bộ: Thay đổi về chất toàn bộ sự vật. Ví dụ: Nước ở 0oC đóng băng mà không phải là sự chuyển hoá dần dần.
+ Bước nhảy bộ phận (cục bộ): Thay đổi về chất từng bộ phận của sự vật, tạo tiền đề cho bước nhảy toàn bộ. Nó là quá trình tích luỹ về sự thay đổi chất nhỏ thành sự thay đổi toàn bộ sự vật.
- Bước nhảy nhịp độ (nhịp điệu):
+ Bước nhảy đột biến: Thay đổi về chất sự vật trong thời gian ngắn. Ví dụ: Vụ nổ bom nguyên tử, một biến cố cách mạng.
+ Bước nhảy dần dần: Thay đổi về chất sự vật trong thời gian dài. Ví dụ: Sự tiến hoá về loài, một cuộc cách mạng xã hội. V.I.Lênin nói: “Các vị thầy của chủ nghĩa xã hội quan niệm “bước nhảy vọt” là một bước ngoặt, xét về mặt lịch sử toàn thế giới; rằng những bước nhảy vọt như thế kéo dài hàng mười năm và có khi hơn thế nữa”.[6]
3. Một số kết luận về phương pháp luận.
- Sự tích luỹ về lượng để dẫn tới sự thay đổi về chất là khách quan; cho nên không được nóng vội hay bảo thủ.
- Trong xã hội con người có thể góp phần thúc đẩy tạo điều kiện về lượng để chuyển hoá về chất.
- Lựa chọn thời điểm thích hợp để thúc đẩy biến đổi về chất, nhất là trong hoạt động xã hội.
- Lựa chọn phương thức phù hợp từng loại kết cấu sự vật để tác động thay đổi sự vật.
II - QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP.
* Vai trò của quy luật trong phép biện chứng: Chỉ ra nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển. V.I.Lênin viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm”[7]
1. Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập.
* Quan điểm siêu hình: Cho rằng, đấu tranh là thay đổi vị trí cho nhau của các mặt đối lập. Mâu thuẫn một cách máy móc, bề ngoài, không chuyển hoá.
* Quan điểm biện chứng: Sự vật là một thể thống nhất nhiều mặt khác nhau, trong đó có ít nhất hai mặt đối lập, như: Nguyên tử (điện tử và hạt nhân); Xã hội tư bản (vô sản và tư sản); Tư duy (chưa biết và biết)
- Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
+ Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan, tạo nên sự tồn tại của sự vật.
+ Sự tồn tại các mặt đối lập là phổ biến. Nếu sự vật không có mặt đối lập thì sự vật không tồn tại.
- Mâu thuẫn biện chứng là các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau trong sự thống nhất, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển..
+ Mâu thuẫn biện chứng quy định sự tồn tại của sự vật chứ không phải tiêu diệt sự vật, nó là sự thống nhất của các mặt đối lập, sự chuyển hoá các mặt đối lập tạo nên sự ra đời hay kết thúc sự tồn tại sự vật.
+ Mâu thuẫn biện chứng có tính khách quan, phổ biến. Như: cơ học (hút-đẩy); vật lý (hạt-sóng); hoá học (liên kết-phân rã); sinh học (đồng hoá-dị hoá, hưng phấn-ức chế); xã hội (xã hội-tự nhiên, tồn tại xã hội-ý thức xã hội, giai cấp); tư duy (chưa biết-biết). Theo Ph.Ăngghen: “Bản thân sự vận động đã là một mâu thuẫn; ngay như sự di động một cách máy móc và đơn giản sở dĩ có thể thực hiện được, cũng chỉ là vì một vật trong cùng một lúc vừa ở nơi này lại vừa ở nơi khác, vừa cùng ở một chỗ duy nhất lại vừa không ở chỗ đó”[8]
+ Các mặt đối lập nhưng không trong một thể thống nhất, một chỉnh thể chỉ có thể tạo nên mâu thuẫn hình thức, không biện chứng.
- Sự thống nhất: hai mặt đối lập nương tựa, làm tiền đề cho nhau, không tách rời nhau.
Phân biệt hai khái niệm: đồng nhất và thống nhất
+ Đồng nhất: là sự phát triển ngang nhau, các yếu tố giống nhau giữa các mặt đối lập.
+ Thống nhất: thể hiện đòi hỏi sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập.
Ví dụ: Khi giai cấp tư sản muốn lật đổ xã hội phong kiến, giai cấp đó đã liên minh với các giai cấp khác như công nhân, nông dân, tiểu tư sản…; lúc đó, lợi ích các giai cấp trong liên minh đồng nhất với nhau. Nhưng sau khi thắng lợi giai cấp tư sản quay trở lại bóc lột các giai cấp khác biến họ thành giai cấp vô sản, lúc này biểu hiện sự thống nhất.
- Sự đấu tranh: đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy định sự vận động và phát triển của sự vật, chứ không phải tiêu diệt sự vật.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập trong một thể thống nhất của sự vật, hiện tượng.
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
* Quy luật:
Sự vật là một thể thống nhất (các mặt đối lập ở trạng thái cân bằng), nhưng do tồn tại trong mối liên hệ phổ biến ® dần dần bị tính quy định ® hình thành nên sự khác nhau ® tới một mức độ nhất định ® hình thành nên sự khác nhau cơ bản và các mặt đối lập. Trong một hệ thống nhất định, các mặt đối lập mới hình thành nên mâu thuẫn ® có sự đấu tranh giữa các mặt đối lập (có những mặt đối lập nhưng không trong một hệ thống cũng không hình thành mâu thuẫn). Trong một điều kiện nhất định ® tạo nên sự chuyển hoá sang sự vật mới, tạo nên sự thống nhất mới. Quá trình này diễn ra liên tục, mà nguồn gốc là do đấu tranh của các mặt đối lập, và tiến trình này là tất yếu, là quy luật của sự vận động và phát triển của mọi sự vật và hiện tượng.
* Tính chất của quy luật:
- Tiến trình này là sự tích luỹ về lượng của từng mặt đối lập để dẫn tới chuyển hoá về chất của toàn bộ sự vật.
- Tiến trình này là sự hình thành mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn, cũng là sự vận động liên tục trong tính đứt đoạn. Sự vận động là liên tục, là tuyệt đối, cho nên sự đấu tranh là tuyệt đối. Sự đứng im là sự đứt đoạn, là sự thống nhất, ổn định, cho nên sự thống nhất là tương đối. “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối.”[9]
- Tiến trình này là diễn ra khách quan, bên trong của sự vật, hiện tượng.
- Tiến trình này là cơ sở để hình thành nên phương pháp luận chung trong nhận thức: “Sự phân đôi cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận của nó, đó là thực chất…của phép biện chứng” [10]
3. Phân loại mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:
+ Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn thể hiện sự tác động qua lại các mặt đối lập trong lòng sự vật, là sự quy định sự tồn tại của sự vật. Như: sự sống = đồng hoá - dị hoá, xã hội tư bản = vô sản – tư sản.
+ Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật, biểu hiện quan hệ, liên hệ giữa các sự vật.
+ Quan hệ giữa hai loại mâu thuẫn: Cơ sở để phân loại mâu thuẫn này là theo phạm vi, cho nên các loại mâu thuẫn này chỉ là tương đối.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
+ Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển tất cả các giai đoạn của sự vật, tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mâu thuẫn này thay đổi thì sự vật cũng chuyển hoá. Trong một sự vật có thể tồn tại nhiều mâu thuẫn cơ bản.
+ Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho sự vật về một phương diện nào đó, nó không quy định bản chất của sự vật. Trong một sự vật có thể tồn tại nhiều mâu thuẫn không cơ bản.
+ Quan hệ giữa hai loại mâu thuẫn: Muốn nhận thức đúng bản chất sự vật thì phải căn cứ vào mâu thuẫn cơ bản.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:
+ Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai đoạn phát triển của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong cùng giai đoạn. Trong một giai đoạn có thể có nhiều mâu thuẫn chủ yếu, những mâu thuẫn này có thể một trong những mâu thuẫn trên.
+ Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn ra đời cùng mâu thuẫn chủ yếu, nhưng không có vai trò quyết định các mâu thuẫn khác, chỉ góp phần vào giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
+ Quan hệ giữa hai loại mâu thuẫn: Hai mâu thuẫn này có thể chuyển hóa, cho nên không nên tuyệt đối hoá một mâu thuẫn nào.
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
+ Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn mà lợi ích cơ bản của các giai cấp, tầng lớp đối lập với nhau, như: nông dân với địa chủ, vô sản với tư sản.
+ Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn mà lợi ích cơ bản của các giai cấp, tầng lớp thống nhất với nhau, như: công nhân với nông dân, tiểu tư sản với tư sản.
+ Quan hệ giữa hai loại mâu thuẫn: Hai mâu thuẫn này chỉ có trong xã hội, giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng đấu tranh giai cấp, còn mâu thuẫn không đối kháng giải quyết bằng tương trợ cùng phát triển.
4. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải phát hiện ra mâu thuẫn, vì mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật. Phải thừa nhận mâu thuẫn tồn tại khách quan, để nhận thức được đầy đủ sự vật phải nhận thức được ít nhất hai mặt đối lập.
- Phân tích cụ thể trong tình hình cụ thể. Sự vật khác nhau, quá trình khác nhau, bản chất khác nhau, thì mâu thuẫn cũng khác nhau, cho nên cách giải quyết mâu thuẫn cũng khác nhau, tránh rập khuôn, máy móc.
- Muốn thay đổi bản chất sự vật thì phải giải quyết mâu thuẫn, tránh cải lương, điều hoà.
III - QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH.
* Vai trò của quy luật trong phép biện chứng: Chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng.
1. Khái niệm phủ định và về phủ định biện chứng.
* Khái niệm phủ định:
+ Quan điểm siêu hình: Do dựa trên quan điểm không thừa nhận sự vật tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, không thừa nhận nguồn gốc sự phát triển bên trong của sự vật và hiện tượng. Cho nên, khi nhìn nhận sự phát triển không có gì mới, không thay đổi về chất, chỉ lặp lại hình thức cũ, hoặc phủ định sạch trơn; như diệt một con sâu, nghiền một cái hạt, hoặc xoá bỏ một sự vật.
+ Quan điểm chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo: Thế giới khách quan là do sự sáng tạo của Thượng đế, không có sự phát triển, nếu có sự phát triển thì theo kiểu luân hồi nghiệp báo, không có gì mới.
+ Quan điểm triết học Mác: Sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển. Thực chất sự phủ định là sự biến đổi nói chung, là sự thay cũ đổi mới tạo nên sự vận động của sự vật.
* Khái niệm phủ định biện chứng: Khác với các quan điểm trên, triết học Mác cho rằng: Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu tất yếu trong quá trình phát triển dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Theo V.I.Lênin: “Từ khẳng định đến phủ định, - từ sự phủ định đến “sự thống nhất” với cía bị khẳng định, - không có cái đó, phép biện chứng trở thành một sự phủ định sạch trơn, một trò chơi hay chủ nghĩa hoài nghi”[11]
- Phủ định biện chứng là sự chuyển hoá từ lượng dẫn đến thay đổi về chất của sự vật.
- Phủ định biện chứng là sự giải quyết mâu thuẫn bên trong nội tại của sự vật.
- Phủ định biện chứng là sự phủ định tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay thế cái cũ.
* Đặc trưng của phủ định biện chứng:
- Tính khách quan:
+ Phủ định biện chứng là tự thân của sự vật, là giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, chứ không phải do sự tác động bên ngoài.
+ Phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan của quá trình vận động và phát triển của sự vật.
- Tính kế thừa:
+ Phủ định biện chứng không xóa bỏ sạch trơn, mà là sự “lột bỏ” cái cũ, kế thừa cái hợp lý và bảo tồn nó trong giai đoạn mới.
+ Thể hiện mối liên hệ tất yếu giữa các giai đoạn phát triển của sự vật, là mắt khâu tất yếu trong sự phát triển. Theo V.I.Lênin: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng, - dĩ nhiên, phép biện chứng chứng bao hàm trong nó nhân tố phủ định, và thậm chí với tính cách là nhân tố quan trọng nhất của nó, - không, mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định, tức là không có một sự do dự nào, không có một sự chiết trung nào”[12]
4. Nội dung quy luật phủ định của phủ định.
* Phủ định của phủ định có chu kỳ:
- Sự phủ định là vô tận, chính là sự vận động biến đổi của sự vật: Hạt thóc – nảy mầm – cây mạ - cây lúa – hạt thóc …
- Mỗi lần phủ định là một lần giải quyết mâu thuẫn, thay đổi về chất của sự vật và hiện tượng.
- Phủ định của phủ định tạo nên những vòng khâu, hình thành nên quy luật: hạt thóc – cây lúa – (hạt thóc)*.
* Quy luật phủ định của phủ định thể hiện sự lặp lại cao hơn về chất của sự phát triển của sự vật, là phổ biến trong tự nhiên, xã hội, tư duy:
- Trong tự nhiên vô cơ: Li là kim loại kiềm đứng đầu chu kỳ II, Na là kim loại kiềm ở chu kỳ III lặp lại về hình thức Li, nhưng tính chất hoá học mạnh hơn.
- Trong tự nhiên vô cơ: Thuyết bào thai học đã chứng minh rằng quá trình tiến hoá về loài được diễn ra trong quá trình phát triển của bào thai người.
- Trong xã hội: Từ xã hội không có bóc lột (cộng sản nguyên thuỷ) ® xã hội có bóc lột (nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa) ® xã hội không bóc lột (xã hội chủ nghĩa).
- Trong tư duy: Từ cụ thể cảm tính ® tư duy trừu tượng ® cụ thể trong lý tính.
* Quy luật phủ định của phủ định khái quát sự tiến lên của sự vận động. Sự vận động và phát triển của sự vật không theo đường thẳng, mà theo đường “xoáy trôn ốc”: từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, có cả sự đi lên và sự đi xuống, trong đó đi lên là chủ yếu và cái mới chiếm ưu thế.
- Luận điểm “xoáy trôn ốc” thể hiện được các tính chất: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động và phát triển của sự vật.
- Để lặp lại hình thức ban đầu có thể phải trải qua nhiều lần phủ định, không đơn thuần qua hai lần phủ định như trong mệnh đề toán học. Như Ph.Ăngghen nói: “Đối với mỗi loại sự vật cũng như đối với mỗi loại quan niệm, do vậy, đều có phương thức phủ định riêng biệt của nó, đó chính là sự phủ định trong đó có sự phát triển”[13]
- Vòng đời của con tằm: tằm – nhộng – bướm – ngài – trứng – tằm*.
- Xã hội: Cộng sản nguyên thuỷ – chiếm hữu nô lệ - phong kiến - tư bản chủ nghĩa – Cộng sản chủ nghĩa*.
- Trong sự phát triển có sự thụt lùi. Theo V.I.Lênin: “Cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn, không va vấp, không đôi khi nhảy lùi những bước rất lớn, là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý luận”[14]
4. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Cho phép chúng ta nhận thức được khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng
- Sự phát triển của sự vật là tất yếu khách quan, phải nhận thức đúng chu kỳ phát triển của sự vật, con người có thể góp phần thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của sự vật.
- Cái mới, cái tiến bộ có khả năng chiến thắng cái cũ là tất yếu.
IV. SỰ VẬN DỤNG CÁC QUY LUẬT TRÊN VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM.
1. Vấn đề nhận thức và giải quyết mâu thuẫn, xác định động lực của sự phát triển xã hội nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
a. Các loại mâu thuẫn cần được nhận thức và giải quyết:
- Mâu thuẫn giữa trạng thái kinh tế-xã hội kém phát triển với yêu cầu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
- Mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
- Mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với các thế lực cản trở con đường phát triển của nước ta theo mục tiêu đó.
- Mâu thuẫn giữa nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên CNXH.
b. Về vấn đề giải quyết mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
ĐH IX: Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần cơ chế thị trường định hướng XHCN và sử dụng các hình thức kinh tế quá độ.
c. Xác định động lực của công cuộc đổi mới đất nước.
Đại hội IX đã nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và các nguồn lực của các thành phần kinh tế”.
Động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế nước ta hiện nay là “đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực”.
Trước hết phải thực hiện được điểm mấu chốt là: “Đổi mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước hướng vào hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm giải phóng và phát triển mạnh mẽ LLSX, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân, tạo động lực và nguồn lực phát triển nhanh, bền vững. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”.
2. V ề quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng đến những thay đổi về chất và ngược lại.
* Thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường cụ thể, như một quá trình tích luỹ về lượng, tạo ra những biến đổi về chất cục bộ, tạo tiền đề cho bước nhảy vọt về chất.
* Về phương thức phát triển đất nước, Đại hội IX coi việc phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững là quan điểm chỉ đạo có tính nguyên tắc.
* Cần thiết phải nhận thức và vận dụng các hình thức trung gian, quá độ để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới ở nước ta (ĐH VI, ĐH IX).
- Về kinh tế, thừa nhận có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
- Về mặt xã hội, thừa nhận có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội.
3. Một số nội dung liên quan đến sự phủ định biện chứng và khuynh hướng phát triển của xã hội ta.
Văn kiện Đại hội IX khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tu bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ GD-ĐT: Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, H, 2001 (chương VII).
2. Bộ GD-ĐT: Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, H, 2001 (chương V, phần I).
3. Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
4. Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, H2001
5. Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, H2006.
CHUYÊN ĐỀ 2
LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I- BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC
1. Quan niệm về nhận thức của các trào lưu trước triết học Mác.
* Quan điểm duy tâm chủ quan: Cho rằng nhận thức là hồi tưởng những cái gì đã có trong ý thức của con người. Vì vậy, họ không có cơ sở khách quan để khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới. Nếu thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới thì cũng chỉ thừa nhận năng lực bẩm sinh, hay trực giác của cá nhân, chẳng hạn như R.Đêcáctơ.
* Quan điểm duy tâm khách quan: Do thừa nhận ý niệm, ý niệm tuyệt đối là bản nguyên đầu tiên của thế giới, nếu có thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới, như G.Hêghen, tức là nhận thức được ý niệm thì cũng không vượt qua được ý niệm, cho nên xét đến cùng cũng dẫn đến bất khả tri.
* Quan điểm duy vật siêu hình: Nếu thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới thì cũng chỉ nhận thức trực tiếp bằng các giác quan, bề ngoài, đại biểu là L.Phoiơbắc.
Đánh giá các quan điểm trên Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Khuyết điểm chủ yếu của chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay-kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc - là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan...”[15].
2. Quan điểm về bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Thừa nhận đối tượng nhận thức là thế giới hiện thực khách quan, tồn tại độc lập với ý thức của con người.
- Khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan.
- Nhận thức là một quá trình biện chứng, từ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều.
- Thực tiễn là cơ sở trực tiếp và chủ yếu nhất hình thành nên quá trình nhận thức.
Định nghĩa nhận thức: Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
II- THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC.
1. Phạm trù thực tiễn.
* Các quan niệm về thực tiễn trong triết học.
- Quan niệm về thực tiễn đã có từ thời cổ đại đến thời kỳ Phục hưng, nhưng phần lớn là đồng nhất thực tiễn với hiện thực. Nhất là quan niệm các nhà khoa học tự nhiên thế kỷ XVII-XVIII, như N.Côpécníc, G.Galilê, Ph.Bêcơn,...chủ yếu đồng nhất thực tiễn với hoạt động thực nghiệm khoa học.
- Thời kỳ triết học cổ điển Đức, người đầu tiên bàn đến thực tiễn với tư cách là hoạt động có mục của con người là I.Cantơ, nhưng ông coi hoạt động thực tiễn như là hoạt động tinh thần. Tuy nhiên, thực tiễn sản xuất của cải vật chất và cải tạo xã hội của con người thì hầu như I.Cantơ không được bàn đến.
- Đến G.Hêghen, coi thực tiễn chỉ là hoạt động suy lý. Cho nên, với G.Hêghen, hoạt động thực tiễn chỉ là hoạt động tinh thần.
- L.Phoiơbắc, là người kết thúc triết học cổ điển Đức, do quan niệm siêu hình, cho nên không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn. Điều này đã được C.Mác nhận xét, "ông chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và xác định trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi. Vì vậy, ông không hiểu được ý nghĩa của hoạt động "cách mạng", của hoạt động "thực tiễn-phê phán"”[16].
* Quan niệm thực tiễn của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Định nghĩa: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất của con người có tính lịch sử - xã hội, nhằm cải tạo tự nhiên theo yêu cầu của đời sống của con người.
- Tính chất của hoạt động thực tiễn:
+ Là hoạt động có tính cộng đồng xã hội, không tồn tại ở một cá nhân.
+ Là hoạt động có tính lịch sử cụ thể.
+ Là hoạt động có mục đích cải tạo tự nhiên, hoàn thiện con người.
- Các hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
+Hoạt động chính trị xã hội: là hoạt động đấu tranh giai cấp, dân tộc, có vai trò thúc đẩy sự phát triển văn minh của xã hội và nhân loại.
+Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm bằng các phương tiện vật chất của khoa học, hoạt động này thúc đẩy quá trình nhận thức của con người về thế giới khách quan, góp phần nâng cao đời sống của con người.
Quan hệ giữa ba hình thức: Các hình thức hoạt động thực tiễn ra đời tuần tự theo sự phát triển của xã hội loài người; nhưng trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, nhất là giai đoạn hiện nay thì cả ba hình thức hoạt động đồng thời và đan xen lẫn nhau, trong đó hoạt động thứ hai cao nhất.
2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
2.1. Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức.
- Loài vật cũng phản ánh thế giới khách quan, nhưng thông qua các giác quan, cho nên chỉ phản ánh được cái bề ngoài và thụ động. Con người cũng phản ánh thế giới khách quan, nhưng thông qua lao động, tức là tác động vào thế giới khách quan, nhận thức được cái bản chất. Cho nên, thực tiễn có vai trò quyết định nhất để khẳng định rằng chỉ có con người mới có khả năng nhận thức. V.I.Lênin nói: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức"[17]
- Đối tượng nhận thức là thế giới khách quan, nhưng nó không tự bộc lộ các thuộc tính, nó chỉ bộc lộ khi con người tác động vào - hoạt động thực tiễn. Cho nên, thực tiễn là cơ sở trực tiếp nhất hình thành nên quá trình nhận thức. Theo Ph.Ăngghen: "Từ trước tới nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên".[18]
- Hiện thực khách quan luôn vận động, để nhận thức kịp với tiến trình hiện thực, không còn cách nào khác là phải thông qua thực tiễn. Cho nên nhận thức đòi hỏi thực tiễn như là một nhu cầu, động lực. Theo Ph.Ăngghen: "Nếu trong xã hội xuất hiện một nhu cầu kỹ thuật thì điều đó sẽ thúc đẩy khoa học tiến lên nhiều hơn một chục trường đại học".[19]Ví dụ: Các ngành khoa học như thiên văn, toán học, cơ học ra đời ở Hylạp là do nhu cầu của hoạt động sản xuất, buôn bán, chiến tranh.
2.2. Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
- Nhận thức đầy đủ hiện thực khách quan là để áp dụng vào hiện thực, cải tạo hiện thực. Sự áp dụng đó không còn cách nào khác là phải thông qua thực tiễn, đó là sự vật chất hoá những quy luật, tính tất yếu đã nhận thức được. Điều đó không chỉ là mục đích của con người, mà còn là mục đích nói chung của các ngành khoa học. Các quy luật, định luật của khoa học khái quát được nhờ hoạt động thực tiễn, mà còn là vì thực tiễn nó mới tồn tại. Ví như định luật áp suất khí quyển của Tôrisenlli dùng để tạo ra các vật thể bay, định luật áp suất chất lỏng của Bécnulli để chế tạo máy bơm ...
2.3. Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.
- Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở, động lực của nhận thức, hình thành nên quá trình nhận thức, cho nên việc kiểm tra tính đúng đắn của tri thức là phải dựa vào thực tiễn, chứ không phải theo lối lập luận chủ quan. Như C.Mác đã khẳng định: "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình".[20] Và, V.I.Lênin đã khẳng định: "Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp"[21]. Ví dụ, như thuyết tương đối của A.Anhstanh chỉ được công nhận khi các thực nghiệm vật lý phát hiện ra sự phân rã hạt nhân tạo nên tia a và b.
III- CÁC CẤP ĐỘ CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC.
1. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Theo V.I.Lênin: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn- đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan".[22]
1.1. Nhận thức cảm tính.
Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, con người nhận thức thế giới khách quan thông qua các giác quan của con người trong sự phong phú của sự vật hiện tượng. Cấp độ này thể hiện bằng ba hình thức, trình độ từ thấp đến cao.
Cảm giác: Là hình thức đầu tiên trong nhận thức của con người, là hình ảnh một vài thuộc tính riêng lẻ tác động vào giác quan của con người. Theo V.I.Lênin: “Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.[23]
Tri giác: là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật, là sự tổng hợp cảm giác nhưng có hệ thống, đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất, là bước nhảy vọt trong nhận thức cảm tính, có tính gián tiếp; là hình ảnh được tái tạo, lưu giữ khi đối tượng khách thể không còn tác động trực tiếp vào giác quan chủ thể.
- Đặc điểm giai đoạn nhận thức cảm tính:
+ Là sự phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.
+ Là sự phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.
1.2.Nhận thức lý tính.
Đây là giai đoạn cao trong quá trình nhận thức, trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn cảm tính đem lại. Ngoài ra, dựa vào năng lực phân tích, khái quát hoá, trừu tượng hoá của chủ thể hình thành nên tri thức mới về sự vật một cách khái quát hơn, bản chất hơn, đầy đủ hơn. Thể hiện ở ba hình thức phản ánh:
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Khái niệm là sự phản ánh tổng hợp về một lớp sự vật, nó là cơ sở, tiền đề cho tư duy trừu tượng, là phương thức tồn tại tri thức của con người về thế giới khách quan.
Phán đoán là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng. Có ba trình độ của phán đoán: phán đoán đơn nhất (đồng dẫn điện); phán đoán đặc thù (đồng là kim loại); phán đoán phổ biến (mọi kim loại dẫn điện).
Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới. Đây là hình thức cao nhất trong quá trình nhận thức của con người.
Có hai loại suy luận:
- Suy luận quy nạp: đi từ cái riêng đến cái chung.
- Suy luận diễn dịch: đi từ cái chung đến cái riêng.
- Đặc điểm giai đoạn nhận thức lý tính:
+ Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.
+ Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng. Theo V.I.Lênin: “tư duy, khi tiến lên từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, không xa- nếu nó đúng…, rời chân lý, mà đến gần chân lý. Những sự trừu tượng về vật chất, về quy luật tự nhiên, sự trừu tượng về giá trị, v.v., tóm lại, tất cả những sự trừu tượng khoa học (đúng đắn, nghiêm túc, không tuỳ tiện) phản ánh giới tự nhiên sâu sắc hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn."[24]
- Quan hệ giữa hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
+ Không có giai đoạn nhận thức cảm tính thì không nhận thức lý tính.
+ Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất của sự vật.
1.3. Nhận thức quay về thực tiễn.
Nhận thức phải quay trở về thực tiễn là vì:
- Mục đích của nhận thức là phục vụ thực tiễn để cải tạo hiện thực. Theo C.Mác: "Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới"[25].
- Thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được.
- Hiện thực khách quan luôn luôn vận động và biến đổi, để bổ sung tri thức mới trong giai đoạn mới của sự vật, không còn cách nào khác là phải thông qua thực tiễn. Quá trình: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn- tạo nên một vòng khâu hiểu biết một giai đoạn của sự vật; quá trình này diễn ra liên tục mà vòng khâu sau khái quát hơn, đầy đủ hơn vòng khâu trước - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan.
* Như vậy, thực tiễn là một quá trình biện chứng vì hiện thực khách quan là một quá trình biện chứng. Cho nên, nhận thức cũng là một quá trình biện chứng và phản ánh cả biện chứng của hoạt động thực tiễn. Theo V.I.Lênin, “lôgíc và lý luận nhận thức phải được suy diễn từ “sự phát triển của toàn bộ đời sống của tự nhiên và của tinh thần”[26]
2. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.
* Nhận thức kinh nghiệm.
- Là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học.
- Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm, trong đó có tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
- Tri thức kinh nghiệm có vai trò rất lớn trong hoạt động của con người, vì nó được rút ra từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chỉ đạo trực tiếp hoạt động của con người.
* Nhận thức lý luận.
Là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng
- Nhận thức lý luận được hình thành trên cơ sở nhận thức kinh nghiệm.
- Nhận thức lý luận có tính hệ thống, sâu sắc hơn nhận thức kinh nghiệm.
* Quan hệ giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.
- Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình thành nhận thức lý luận, nhưng nhận thức kinh nghiệm chỉ đem lại tri thức riêng lẻ không trực tiếp hình thành nên nhận thức lý luận. Theo Ph.Ăngghen, “sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”[27]
- Nhận thức lý luận mới rút ra được phương pháp luận chung, nhận thức kinh nghiệm bổ sung cho nhận thức lý luận một cách đầy đủ hơn, chính xác hơn. Điều này được Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”[28].
- Không tuyệt đối hoá vai trò nhận thức lý luận, nhưng cũng không chỉ dựa vào nhận thức kinh nghiệm. Theo Hồ Chí Minh, “có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”.[29]
3. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.
* Nhận thức thông thường.
Là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người.
- Là sự phản ánh sự vật hiện tượng với tất cả sự phong phú sinh động của sự vật.
- Là loại nhận thức chi phối thường xuyên hoạt động của con người.
* Nhận thức khoa học.
Là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác, gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu.
- Là sự phản ánh dạng trừu tượng bằng các khái niệm, lôgíc, quy luật khoa học.
- Là nhận thức tạo nên phương pháp, công cụ nhận thức cho con người về hiện thực khách quan.
* Quan hệ giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
- Nhận thức thông thường chỉ đem lại tri thức riêng lẻ, là sự tập hợp các tài liệu, mầm mống cho nhận thức khoa học, nhưng không bao giờ tự nó phát triển thành tri thức khoa học.
- Nhận thức khoa học là nhận thức ở trình độ cao, tri thức tồn tại ở dạng quy luật, chân lý, hệ thống và hình thành nên phương pháp luận.
IV. SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
1. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận.
a. Trước hết, phải coi trọng công tác lý luận, phải đổi mới công tác lý luận của Đảng.
* Vai trò của công tác lý luận.
Đảng ta coi công tác lý luận như một yếu tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới, bởi nó cung cấp luận cứ khoa học để Đảng ta xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách trong thực tiễn.
* Những thành tựu và tồn tại của công tác lý luận.
Công tác lý luận đã góp phần điều chỉnh, bổ sung, phát triển quan điểm mới về CNXH và con đường đi lên CNXH, phù hợp với những biến đổi to lớn về thực tiễn, từng bước xây dựng và hoàn chỉnh đường lối đổi mới toàn diện.
Công tác lý luận còn nhiều bất cập: còn không ít vấn đề cụ thể do thực tiễn đặt ra chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục, trình độ tư duy của cán bộ, đảng viên chưa biện chứng, tiếp thu lý luận Mác-Lênin còn dừng lại ở trình độ tư duy kinh nghiệm, cảm tính, hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén, sơ lược, sai lệch. Đại hội VI: “Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang vận động trong thời kỳ quá độ”; “Chúng ta còn thiếu hiểu biết và ít kinh nghiệm quản lý, lại chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm”…
Tình hình trên đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới công tác lý luận của Đảng trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn chủ động “đi sâu tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận một cách sáng tạo, trước hết là tổng kết có lý luận những kinh nghiệm cơ bản”.
b. Phải tự đổi mới và tự chỉnh đốn, trước hết là nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng.
Báo cáo chính trị của BCH TW tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức VII: “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng XHCN và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra”.
2. Đổi mới tư duy lý luận.
Đổi mới tư duy lý luận là khâu đột phá. Đây là yêu cầu cấp bách của thực tiễn. Đổi mới tư duy lý luận nhằm khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp tối đa khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn. Phải thường xuyên đối chiếu lý luận với cuộc sống, kết hợp lý luận với thực tiễn, vận dụng lý luận vào hoàn cảnh thực tế cách mạng nước ta một cách sáng tạo.
“Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh…, tiếp thu những thành tựu lý luận, những
kinh nghiệm mới phong phú của các đảng anh em, những kiến thức khoa học của thời đại”.
Tại Đại hội Đảng X, sau tổng kết 20 năm đổi mới, Đảng ta thừa nhận việc đổi mới tư duy là việc vô cùng cần thiết đêr đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Thực tiến thay đổi đòi hỏi nhận thức của con người cũng không ngừng thay đổi cho phù hợp. Đảng ta khẳng định việc đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế là việc vô cùng quan trọng. Trong văn kiện Đại hội Đảng X có thể khái quát một số đặc trưng của đổi mới tư duy kinh tế ở nước ta như sau:
+ Từ tư duy hiện vật sang tư duy hàng hoá
+ Từ tư duy bao cấp, ỷ lại, thụ động chuyển sang tư duy độc lập, chủ động, sáng tạo
+ Từ tư duy khép kín sang tư duy mở, hội nhập
+ Từ tư duy đơn sở hữu sang tư duy đa sở hữu, đa thành phần
+ Từ không thừa nhận đến thừa nhận đa dạng hoá các hình thức phân phối.
+ Từ tư duy “Nhà nước làm tất cả”, độc quyền sang tư duy đa dạng hoá các chủ thể làm kinh tế, giảm độc quyền Nhà nước, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp…
3. Vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta.
Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo và phát triển những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước ta. Đồng thời Đảng ta luôn xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước để đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.
Đại hội VII, Đảng CSVN khẳng định: Đảng CSVN lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh song không nên coi đó là chân lý vĩnh cửu hoặc cẩm nang vạn năng duy nhất mà phải vận dụng nó một cách sáng tạo để đón nhận những tri thức mới của thời đại .
Đại hội VIII, IX, X, Đảng CSVN ngày càng kiên định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động đồng thời làm cho tư tưởng thấm sâu hơn trong đời sống nhân dân.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ GD-ĐT: Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, H. 2001 (chương VII).
2. Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb ST. H. 1987.
3. Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb ST. H. 1991.
4. Đảng CSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. NXB ST. H. 1991.
5. Đảng CSVN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001.
6. Đảng CSVN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, H.2006.
CHUYÊN ĐỀ 3
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
I. QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI
1.Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội
- Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con người.
- Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự phát triển xã hội là đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, quyết định sự phát triển xã hội.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất vật chất
a. Điều kiện địa lý.
- Điều kiện địa lý ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Sự ảnh hưởng ấy được thể hiện ở các khía cạnh sau:
+ Quy định sự phân chia các ngành nghề trong xã hội, tác động tới sự phân công lao động xã hội
+ Tác động thức đẩy sản xuất phát triển (điều kiện địa lý thuận lợi), kìm hãm sự phát triển sản xuất (điều kiện địa lý khó khăn)
- Vận dụng vào Việt Nam:
+ Thuận lợi
+ Khó khăn
b. Dân số (dân cư).
- Dân số ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Sự ảnh hưởng ấy được thể hiện ở các khía cạnh sau:
+ Số lượng dân số và chất lượng dân số ảnh hưởng đến sản xuất của xã hội
+ Sự phân bố dân cư ảnh hưởng đến sản xuất vật chất
+ Sự gia tăng dân số tự nhiên ảnh hưởng đến sản xuất của xã hội
- Vận dụng vào Việt Nam
+ Thuận lợi
+ Khó khăn
c. Phương thức sản xuất
- Khái niệm: Phương thức sản xuất là cách thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
- Kết cấu của phương thức sản xuất:
+ Lực lượng sản xuất: Biểu hiện của mối quan hệ của con người vơí giới tự nhiên trong quá trình sản xuất
+ Quan hệ sản xuất: Biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất
- Vai trò: Phương thức sản xuất quyết định tất cả các mặt của đời sống xã hội. Vai trò ấy được thể hiện:
+ Khi phương thức sản xuất thay đổi kết cấu kinh tế của xã hội thay đổi.
+ Khi phương thức sản xuất thay đổi kết cấu giai cấp của xã hội thay đổi.
+ Khi phương thức sản xuất thay đổi hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội thay đổi.
- Vận dụng vào Việt Nam: Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước, định hướng Xã hội chủ nghĩa.
II. HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Hình thái kinh tế - xã hội
a. Khái niệm:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật dùng để chỉ một xã hội cụ thể với sự phù hợp của quan hệ sản xuất (đặc trưng cho xã hội ấy) với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trên nó nảy sinh hệ thống kiến trúc thượng tầng tương ứng.
b. Kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội
- Quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất
- Kiến trúc thượng tầng
2. Ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
- Khẳng định động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của con người
- Là cơ sở để phân kỳ lịch sử
3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
Sự phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên từ hình thái kinh tế xã hội thấp sang hình thái kinh tế xã hội cao hơn với tính phong phú đa dạng của từng quốc gia dân tộc cụ thể.
III. ĐẢNG TA VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI VÀO ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ CỦA VIỆT NAM
1. Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
* Điều kiện Việt Nam bỏ qua chế độ TBCN:
- Điều kiện khách quan (tính chất thời đại)
- Điều kiện chủ quan (điều kiện bên trong của dân tộc Việt Nam)
* Việc bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
* Trong bối cảnh thế giới hiện nay khi mà CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã bị sụp đổ nhưng Đảng ta vẫn kiên định đường lối: "độc lập dân tộc gắn liền với CNXH".
2. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
- Từ Đại hội VI trong cương lính phát triển đất nước (1991), Đảng ta đã quyết định từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hoá, kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại hội VIII đưa ra quan niệm rất mới: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”, Đại hội IX đưa ra khái niệm”kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” xem đó là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Đại hội X vẫn quán triệt tư tưởng của Đại hội IX nhưng cơ cấu lại từ 6 thành phần kinh tế trở thành 5 thành phần kinh tế.
- Tính tất yếu của việc lựa chọn phát triển nền kinh tế thị trường ở VN: Xuất phát từ điều kiện: LLSX thấp, vì vậy phát triển nền kinh tế thị trường thực chất nhằm xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX dựa trên quan hệ đa dạng hoá các loại hình sở hữu. Đồng thời sử dụng kinh tế thị trường như một khâu trung gian để phát triển kinh tế, nguồn nhân lực và tiếp thu khoa học công nghệ trên thế giới để xây dựng chế độ XHCN.
- Đặc thù của nền kinh tế thị trường XHCN ở Việt Nam: Có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước XHCN Việt Nam. Mục đích là định hướng nền kinh tế không đi chệch hướng CNXH, khắc phục nguy cơ tự phát đi lên CNTB, hạn chế bớt những hậu quả của kinh tế thị trường đối với xã hội.
- Các thành phần kinh tế ở VN hiện nay: Hiện nay Đại hội Đảng X chỉ rõ dựa trên ba chế độ sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
3. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá với sự nghiệp xây dựng CNXH ở VN.
- Tính tất yếu của CNH – HĐH: nhằm phát triển LLSX
+ Phù hợp yêu cầu khách quan (tính chất thời đại)
+ Đáp ứng yếu cầu của xã hội (phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam)
- Vai trò của CNH – HĐH đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở VN: Nét nổi bật trong tư tưởng chỉ đạo công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là ra sức phát triển lực lượng sản xuất, coi trọng và phát triển nguồn lực con người, chất lượng nguồn nhân lực cao- yếu tố hàng đầu của LLSX, đi tắt, đón đầu yếu tố khoa học công nghệ trên thế giới để phát triển LLSX….
Đảng CSVN đề ra đường lối công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá.
- Đăc trưng của CNH, HĐH ở Việt Nam: Công nghiệp hoá gắn liền Hiện đại hoá, phát triển kinh tế phải đi liền tiến bộ xã hội, công bằng xã hội.
4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội
Trên cơ sở đổi mới kinh tế từ tập trung quan liêu sang kinh tế thị trường, Đảng ta khẳng định cần đẩy mạnh đổi mới chính trị. Đảng ta nhấn mạnh đổi mới chính trị không có nghĩa là đa nguyên, đa Đảng mà đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, làm cho hệ thống chính trị tác động mạnh mẽ tới việc giải phóng LLSX, phát triển kinh tế:
+ Đổi mới bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN, ngày càng gọn nhẹ, hiệu quả và thống nhất
+ Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đội ngũ cán bộ Nhà nước, nêu cao tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động của Nhà nước tạo ra sự tác động cùng chiều với sự phát triển kinh tế
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững vai trò định huớng nền kinh tế.
+ Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ Quốc, hội Liên hiệp phụ nữ.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ GD-ĐT: Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia HN, H.2001, chương X.
2. Bộ GD-ĐT: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác Lênin, NXB Chính trị quốc gia HN, H. 2001, chương .
3. Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 2001.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung uơng – Ban chỉ đạo tổng kết lý luận: “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 – 2006), NXB Chính trị quốc gia HN, H 2005
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, H2006.
CHUYÊN ĐỀ 4
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
I. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1. Bản chất của con người
a. Một số quan niệm ngoài triết học Mác – Lênin:
- Chủ nghĩa Duy tâm coi con người là sản phẩm của thực thể tinh thần, hoặc họ tách rời giữa thể xác và linh hồn (ý thức)
- Quan niệm tôn giáo coi con người là sản phẩm của Chúa trời, sản phẩm của lực lượng siêu tự nhiên
- Quan niệm của Chủ nghĩa duy vật siêu hình coi con người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên. Song khi xem xét tới bản chất của con người họ còn hạn chế khi chưa thấy được bản chất xã hội của con người.
b. Quan niệm của triết học Mác – Lênin:
- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội
- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội
- Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
2. Quan niệm giữa cá nhân và tập thể, cá nhân và xã hội.
a. Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể:
+ Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định với những đặc điểm, thuộc tính…để phân biệt với cá nhân khác
+ Tập thể là hình thức liên kết các cá nhân thành từng nhóm xã hội xuất phát từ nhu cầu, lợi ích…nhất định.
+ Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể thông qua vấn đề lợi ích. Lợi ích là nhân tố liên kết các cá nhân thành tập thể, đồng thời cũng là nhân tố làm tan rã tập thể. Do đó, trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể.
b. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội:
+ Xã hội là khái niệm dùng để chỉ sự liên kết các cá nhân tạo thành
+ Quan hệ giữa cá nhân và xã hội không tách rời nhau: Cá nhân chuyển từ cái đơn nhất, cái riêng lẻ làm phong phú xã hội, đồng thời xã hội tác động để hoàn thiện nhân cách cá nhân
3. Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong lịch sử
a. Quần chúng nhân dân:
- Khái niệm: Quần chúng nhân dân là một bộ phận của xã hội có chung lợi ích căn bản, liên kết tạo thành tập thể, dưới sự lãnh đạo của một tổ chức, một lãnh tụ, một đảng phải… nhằm giải quyết những vấn đề mà lịch sử đặt ra.
- Vai trò: Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo ra lịch sử, vai trò ấy được thể hiện:
+ Lực lượng chủ yếu trong hoạt động sản xuất xã hội
+ Lực lượng chủ yếu, là động lực của các cuộc cách mạng xã hội
+ Lực lượng không thể thay thế trong việc sáng tạo các giá trị tinh thần
b. Cá nhân lãnh tụ:
- Khái niệm: Là những người kiệt xuất nhận thức được xu thế của lịch sử, đóng vai trò định hướng cho hoạt động của quần chúng
- Vai trò: Lãnh tụ có vai trò to lớn đối với hoạt động của quần chúng. Vai trò ấy được thể hiện:
+Lãnh tụ xuất hiện đúng lúc sẽ thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển
+ Phong trào đấu tranh rộng lớn không thể thiếu vai trò lãnh đạo của lãnh tụ
c. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ:
Quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ không tách rời nhau. Trong mối quan hệ này quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định, cá nhân lãnh tụ tác động trở lại đối với hoạt động của quần chúng.
II. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XHCN Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm của Đảng ta về nhân tố con người:
Ngay từ những ngày đầu xây dựng CNXH, Đảng ta đã khẳng định “Con người là vốn quý nhất” và “Muốn xây dựng thành công CNXH thì phải có con người XHCN”.
Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, nhằm giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, lợi ích riêng và lợi ích chung.
ĐH VII: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động”.
ĐH VIII: “Lấy việc phát huy con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
ĐH IX: “Nguồn lực con người-yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Đại hội Đảng X vẫn quán triệt tư tưởng của Đại hội IX.
Phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực con người. ĐH IX: “Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội”.
2. Phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Đảng ta đã phát huy sức mạnh nhân tố con người trên cả hai phương diện: con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới đất nước.
a. Trên phương diện con người là động lực của sự phát triển xã hội:
Đảng ta đã thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, đổi mới cơ chế quản lý từ hành chính, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường nên đã phát huy được tính năng động, sáng tạo của mỗi con người. Nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hoá tinh thần ngày càng đa dạng và phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo ra cơ hội mới để phát triển cá nhân. Lợi ích là cái thúc đẩy con người hoạt động. Lợi ích chung của sự phát triển xã hội được thể hiện và thực hiện một phần quan trọng qua lợi ích chính đáng của mỗi cá nhân. Kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với lợi ích chung trong đó lợi ích thiết thân của con người là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất.
ĐH X: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” để xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
b. Trên phương diện con người là mục đích của sự phát triển xã hội:
Đảng ta đã quán triệt bài học "lấy dân làm gốc"- bài học đầu tiên trong sáu bài học rút ra từ ĐH VI; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thực sự là của dân, do dân, vì dân; hoạt động theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”;…
Đảng ta đã quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; thực hiện phân phối sản phẩm đảm bảo hài hoà giữa lợi ích cá nhân và xã hội; đẩy mạnh và đổi mới công tác giáo dục-đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, coi “giáo dục là quốc sách”; mở cửa hội nhập…
Tại Đại hội Đảng X khẳng định phát huy dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới đất nước. Dân chủ hoá đời sống xã hội sẽ làm cho tiềm năng sáng tạo của con người được phát huy, tính tích cực của nhân dân được tăng lên, kích thích sự tham gia hăng hái của nhân dân vào các công việc giám sát, kiểm tra, tổng kết quá trình đổi mới.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ GD-ĐT: Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, H.2001, chương XIV.
2. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, NXB Sự thật, 1991.
3. Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB ST, H. 1991.
4. Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB ST, H. 1996.
5. Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, H. 2001.
6. Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, H.2006.
[1] Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.360.
[2] Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.360.
[3] Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.86.
[4] V.I.Lênin: Toàn tập, t.20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.79.
[5] V.I.Lênin: Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.303.
[6] V.I.Lênin: Toàn tập, t.36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.251.
[7] V.I.Lênin: Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.240.
[8] Ph.Ăngghen: Chống Đuy - rinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.201.
[9] V.I.Lênin: Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.379-380.
[10] V.I.Lênin: Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.378.
[11] V.I.Lênin: Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.246.
[12] V.I.Lênin: Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.245.
[13] C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.201.
[14] V.I.Lênin: Toàn tập, t.22, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1963, tr.385.
[15]C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.9.
[16]C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.9.
[17] V.I.Lênin: Toàn tập, t.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.167.
[18] C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.720.
[19] C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.39, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.271.
[20]C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.9-10.
[21] V.I.Lênin: Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 230.
[22]V.I.Lênin: Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.179.
[23]V.I.Lênin: Toàn tập, t.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.138.
[24] V.I.Lênin: Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.179.
[25]C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.12.
[26] V.I.Lênin: Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.96.
[27] C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 718.
[28] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1996, tr.497.
[29] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1996, tr.234.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top