HỒI THỨ TÁM

Trạng họ Bùi, trời sai đem đến
Duyên định trước, chẳng ước mà nên

Khi bấy giờ Trạng từ các người kia, lùi lại, nguyên không phải là có ý hỏi thăm thân thích, chẳng qua là say mê, chết mệt về cái vườn hoa ấy mà thôi. Trạng ta chỉ vẩn vơ vào hàng nọ quán kia, lân la hỏi thăm kẻ này người khác xem cái vườn hoa ấy của nhà ai? Có người bảo Trạng rằng: "Cái vườn hoa ấy của quan tướng công họ Bùi để cho con gái ở đó. Ngài khi nào thong thả thường hay ra chơi mát ngắm cảnh".

Trạng nghe nói mừng lắm lại xăm xăm trở lại, vào vườn trông ngó. Bất kỳ, tướng công đang ngủ trưa, nằm giường mơ thấy có người gọi: "Tướng công dậy! Có Trạng rể mới lại chơi vườn". Tướng công dậy lấy làm kỳ dị lắm, nghĩ bụng rằng: "Ta hà tằng có người rể nào là Trạng mà mơ lạ thế? Hay là ta thử ra chơi vườn xem sao?". Liền gọi người nhà sắp võng ra đi. Vào đến vườn, quả nhiên thấy Trạng đang thơ thẩn ngắm hoa, chơi cảnh. Nhác trông thấy Trạng mặt mũi khôi ngô, dung nghi thuần nhã, liền rủ lòng yêu, gọi lại hỏi:

- Nhà ngươi đi đâu mà lại đây?

Trạng thưa:

- Chúng tôi trẩy Kinh thi, nhân qua đây thấy vườn cảnh của Tướng công đẹp lắm, lạm mệnh vào xem. Không ngờ bị ngài bắt gặp, xin ngài thứ lỗi!

Tướng công nghe nói từ tốn lại càng thêm trọng, dắt tay đi dạo khắp vườn hoa, rồi dẫn đến nhà Thủy đình, sai người nhà đặt rượu làm tiệc, cho gọi con gái ra mắt để chào hỏi tiếp đãi.

Nguyên nhà thủy đình ấy là của Tướng công làm ra đế làm chỗ kén rể, đặt tên là Uyên Ương đình. Trong bày những cổ thi, cổ họa, đồ quý báu không biết bao nhiêu mà kể. Trước cửa có cái hồ bán nguyệt, dưới hồ thả sen. Trên vườn thời đào, liễu, mẫu đơn. Ngày thường thì chỉ có Tướng công và con gái ra vào chơi mát mà thôi. Ngày hôm ấy, Tướng công nhân có mộng như vậy, cho nên mới dẫn Trạng vào ngắm cảnh, mở tiệc. Một là muốn thử tài Trạng, hai là muốn biết ý con. Thật là một hội "thiên tải kỳ phùng". Bấy giờ, câu thơ trong nguyệt, chén rượu dưới hoa, gió mát trăng trong, hoa thơm người đẹp, ngẩn ngơ trước mặt, sảng khoái trong lòng, vui sướng không biết thế nào mà kể! Trạng bất giác thích quá, tay chén, miệng ngâm, bao nhiêu thơ nhớ của hai người kia dong dóc đọc ra như là châu rơi, ngọc rụng tất cả. Tướng công nghĩ lấy làm thích, gật đầu nói: "ừ, cái mộng của ta cũng nghiệm thực. Quả nhiên được người rể hiền". Liền sai con gái theo vần ngâm họa. Người con gái vâng mệnh, cũng theo vần ngâm rằng:

Nhất ngộ thành tri kỷ

Tam sinh định hữu duyên

Trung thiên huyền ngọc kính

Thiên địa thác kim tiền

Liễu lục chi chi tiếp

Đào hồng đóa đóa viên

Thứ thời phùng thử cảnh

Ưng thị tiếu thần tiên

Dịch nôm:

Một phen tri kỷ gặp người

Ba sinh chắc có duyên trời chi đây

Tròn tròn gương ngọc trên mây

Vùng kia có đất gieo cây kim tiền

Liễu bia lá tiếp cành liền

Hoa đào trước gió đua chen vẻ hồng

Thời này cảnh ấy song song

Ai ơi! ấy khách non Bồng phải chăng

Tướng công nghe xong, biết con đã phải ý, nhân bảo Trạng rằng:

- Mỗ có chút gái yêu này cũng hơi có theo đòi bút nghiên. Tin sứ điệp, đi lại cũng nhiều, nhưng mỗ chưa lấy nơi nào làm vừa ý. Nay chẳng qua cũng do duyên trời đưa khách hiền lại, mỗ muôn gieo cầu kết chỉ, để cho gái hèn được hầu bên chăn gối thời quý hóa lắm! Không biết khách hiền có chịu thuận không?

Trạng nghe nói trúng ý, sướng như mở cờ trong bụng, sẽ thưa rằng:

- Bẩm tướng công, chúng tôi tài hèn đức mòn, sợ chưa được xứng đáng.

Tướng công nói:

- Đừng nói khiêm quá! Tài ấy sắc ấy có gì mà chẳng xứng đáng?

Trạng nói:

- Đã vậy, ngài có lòng yêu, tôi có đâu dám trái. Nhưng khoa kỳ gần đến, xin để chúng tôi hãy đi, cố cướp một bông hoa vườn Ngự để cắm ở vườn này đã, rồi bấy giờ sẽ bay.

Tướng công cười rằng:

- Thế thời tiểu đăng khoa rồi sẽ đại đăng khoa chả cũng hay ư?

Trạng nói:

- Ngài dạy thế thời cũng là một việc hay. Nhưng chúng tôi trên có mẹ già, nghĩ mình chữ danh chưa thành mà vội đã quyến luyến cầu thân như vậy sợ chưa phải nhẽ.

Người con gái nghe đến câu ấy, trong bụng lại càng phục lắm, thưa lên rằng:

- Kiều lang nói thế cực là phải đạo. Thôi thời năm chờ tháng đợi, nào có xa gì? Chỉ mong chàng sớm bẻ quế cung mây, để cho thiếp được nương cây, núp bóng, thời thiếp lấy làm phỉ nguyền lắm lắm.

Canh khuya tàn cuộc, đưa trạng vào thư phòng nghỉ.

Cái thư phòng ấy nguyên là chỗ tập viết, xem sách của người con gái. Trên vách có một tờ giấy, một bên đề "Bát đao phân mễ phấn", còn một bên để không. Vì tên cô ta là Phấn, mà chữ "phấn" phải chắp chữ "phân" vào chữ "mễ" mới thành, cho nên cô ta lại chia chữ "phấn" ra ba chữ: chữ "bát", chữ "đao", chắp vào chữ "mễ" đặt ra thành một vế có đối, lấy nghĩa rằng "tám con dao chia một hạt gạo" để thử những những văn nhân tài tử, hễ ai đối được thời mới lấy.

Đã lâu không ai đối được, Trạng vào đến đấy khi rượu đang hăng hái, trông thấy tờ giấy có chỗ lưu không, ngứa nghề cầm bút muôn viết. Trời kia khiến vậy, thế nào lại ngoằng ngay một chữ "Chung", rõ thật to, là tên mình vào đó. Xong, quẳng bút xuống bàn, nằm vật ra ngủ. Cô ta qua cửa nhác thấy, tán ra thành năm chữ "Thiên lý trọng kim chung", lấy làm xứng lắm, bụng bảo dại rằng: "Kiều lang thực là đáng tài khôi giáp", (rồi) suốt đêm nằm không ngủ.

Sớm mai, uống nước đoạn, Trạng cáo xin đãng trình. Tướng công cũng không cưỡng, bảo con gái đem bạc ra làm lễ tiễn hành. Người con gái đem một thùng tiền bạc để tiễn và xin Trạng đề nốt cho xong vế đối. Trạng nói:

- Thôi, tôi tưởng như thế cũng là đủ. Hà tất phải đề nốt gì nữa. Vả bây giờ người tuy ở đây, nhưng chí ở nơi khác. Nếu muốn đề nốt, xin để thong thả sẽ hay.

Nói xong, lễ tạ Tướng công, lĩnh đỗ tiễn lên đường, sắp đứng dậy, cô ta lại đưa thêm lễ riêng của mình và một phong thư ra nữa để tiễn. Trong thư đại lược rằng:

Bán nguyệt trì trung hương hội xứ

Uyên ương đình lý bả bôi thì

Nguyệt quân kiện sấn thanh vân bộ

Tào thiếp hồi lai đan quế chi.

Dịch nôm:

Đôi mặt một lời hồ bán nguyệt

Trăm năm hai chén gác Uyên Ương

Xỉn chàng bước tới đường vân bộ

Để thiếp chờ tin đón quế hương

Trạng được thơ lấy làm tôn trọng, từ giã ra đi.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top