Trang Giang

  Page: of 10   

 Tràng Giang Của Huy Cận Đề : Anh (chị) hãy phân tích bài tràng giang của huy cận để thấy được bức tranh thiênnhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ diển mà vãn gần gũi thân thuộc.Gợi ý:1. Vẻ đẹp cổ điển được:

-Đề tài và điểm nhìn cảnh vật: tả buổi chiều hoàng hôn trên sông dài rộng mênh mông, những gian bao quát toàn cảnh vật.-Búp pháp miêu tả: lấy điểm tảdiện: qua cảnh củi khô, bên cô liêu, cánh chim nhỏ để tả không gian bao la, hoang vắng.-Cảm xúc: con người như thăng hoa, lẫn vào cảnh vật, vào không gian, thời gian. Mượn cảnh gợi tình, cảnh sông nước Tràng Giang của Huy Cận gợi nhớ đến cảnh sông 

nướcTràng Giang của thơ Đường trong Thơ Đỗ Phủ, Thôi Hiệu.Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng nhuần nhuyễn tạo ra nhịp điệu thơ như trong thơ xưa.2. Vẻ đẹp hiện đại:Tuy vậy, Tràng giang là bài thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới giai đoạn 1932 -1945.

-Bút pháp hiện đại thể hiện với những chi tiết, hình ảnh thơ cụ thể, sống sít đời thường, chân thực với cành củi khô, cồn cát, cánh bèo, cánh chim nhỏ. Nói chung là quá nhiều hình ảnh, chi tiết được đưa vào bài thơ dường như ngẫu nhiên, tình cờ, không theo trình tự không gian, thời gian.-Tâm trạng thơ, là một cái tôi của thế hệ thanh niên sống trên đất nước bị thực dân Pháp thống trị, một cái tôi cô đơn, lạc lõng, vô định giữa không gian bao la, muốn hoà nhập nhưng bất lực, bế tắc.

-Càng nhớ nhà, nhớquê hương vì vậy sâu nặng, phát xuất tự đáy lòng nhà thơ chứ không cần ngoại cảnh như trong thơ xưa.3. Bài làm tham khảoTrước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận viết nhiều về thiên nhiên, vũ trụ -Đây là một hồn thơ buồn, nỗi buồn của một con người gắn bó với đất nước, quê hương, nhưng cô đơn bất lực, thường tìm đến những cảnh mênh 

mông bát ngát, hoang vắng lúc chiều tà và đem đối lập nó với những sự vật gợi lên hình ảnh những thân phận nhỏ nhoi, tội nghiệp, bơ vơ trong tàn tạ và chia lìa. Bài thơ Tràng giang là một trường hợp tiêu biểu cho những đặc điểm phong cách vừa cổ điển vừa hiện đại.1/Tràng giang nghĩa là sông dài. Nhưng hai chữ nôm na “sông dài” không có được sắc thái trừu tượng và cổ xưa của hai âm Hán Việt “tràng giang”. Với hai âm Hán Việt, 

con sông trong thơ tự nhiên trở thành dài hơn, trong tâm tưởng người đọc, rộng hơn, xa hơn, vĩnh viễn hơn trong tâm tưởng người đọc. Một con sông dường như của một thuở xa xưa nào đã từng chảy qua hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hóa và in bóng trong hàng nghìn áng cổ thi. Cái cảm giác Tràng giang ấy lại được tô đậm thêm bởi lời thơ đề là “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” (Nhớ hờ -Lửa thiêng)2/ Khổ một: 

Ở hai câu đầu, cảnh vật thực ra tự nó không có gì đáng buồn. Nhưng lòng đã buồn thì tự nhiên vẫn thấy buồn. Đây là cái buồn tự trong lòng lan tỏa ra theo những gợn sóng nhỏ nhấp nhô “điệp điệp” với nhau trên mặt nước mông mênh. Cũng nỗi buồn ấy, tác giả thả trôi theo con thuyền xuôi mái lặng lẽ để lại sau mình những rẽ nước song song.Ở hai câu sau, nỗi buồn đã tìm được cách thể hiện sâu sắc hơn trong nỗi buồn của cảnh: ấy là sự chia lìa của “thuyền về nước lại” và nhất là cảnh ngộ của một cành củi 

lìa rừng không biết trôi về đâu giữa bao dòng xuôi ngược. Thử tưởng tượng: một cành củi khô gầy guộc chìm nổi giữa bát ngát tràng giang... Buồn biết mấy!3/Khổ hai: Bức tranh vẽ thêm đất thêm người. Cái buồn ở đây gợi lên ở cái tiếng xào xạc chợ chiều đã vãn từ một làng xa nơi một cồn cát heo hút nào vẳng lại. Có thoáng hơi tiếng của con người đấy, nhưng mơ hồ và chỉ gợi thêm không khí tàn tạ, vắng vẻ, chia lìa. Hai câu cuối của khổ thơ đột 

ngột đẩy cao và mở rộng không gian của cảnh thơ thêm để càng làm cho cái bến sông vắng kia trở thành cô liêu hơn:Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.Sông dài, trời rộng, bến cô liêu4/Khổ ba: Cảnh mênh mông buồn vắng càng được nhấn mạnh hơn bằng hai lần phủ định:

Mình có bài văn này làm từ lớp 11,bạn tham khảo xem sao nhé! 

Vì mình viết phân tích cả bài nên có cả phần phân tích tâm trạng của nv trữ tình nữa,bạn chú ý nhé! 

Bài làm: 

Bình về tơ Huy Cận, Xuân Diệu viết:"Trong thơ VN nghe bay dậy 1 tiếng địch buồn... ấy là 1 bản ngậm ngùi dài:có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc bông lau,có phải niềm than vãn của bờ sông bãi cát...Thơ Huy Cận đó ư? Ai nhắc làm chi đến nỗi thê thiết của ngàn đời, ai động đến cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế, ai thuật lại mà não nuột lắm sao!". Trước CM tháng 8,hồn thơ HC thường mang cảm hứng về vũ trụ,ko gian với điệu buồn ảo não.Tràng Giang là 1 bài thơ như vậy _mang những nét đẹp rất tiêu biểu cho hồn thơ HC. 

XD đã nhận xét rất tinh tế: Bài thơ hầu như đã trở thành cổ điển của 1 nhà thơ mới. Nét cổ điển đã thoáng hiện ngay từ nhan đề tác phẩm:Tràng Giang. Tiêu đề bài thơ ko những giúp người đọc cảm nhận õn nét vẻ đẹp cổ điển mang phong vị Đường thi,mà còn tạo rra 1 ko khí bâng khuâng tự tình.2 tiếng TRàng Giang ngân nga như mở ra 1 khoảng ko gian bao la vô tận.dường như cảnh càng bát ngát thì tình càng mênh mang.Bài thơ mở ra với lời đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. dường như đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của tp.Đó là nỗi sầu của 1 cái tôi cô đơn trước cái vô cùng của trời đất,và trong nỗi niềm ấy, TG ngập đầy nỗi nhớ ko gian và niềm khát khao gao cảm gữa con người với con người và con người với thiên nhiên. 

"Sóng gợn ....nước song song" 

Hin h f ảnh từng đợt sóng gợn nhẹ nhàng,tiếp nối nhau như trỉ ra 1ko gian vô hạn. Con sóng lăn tăn, lớp lớp buồn điệp điệp như vỗ vào,thấm sâu vào lòng người đọc bao nỗi ám ảnh.Kìa con thuyền đơn chiếc,kìa dòng nước đìu hiu.Cảnh buồn hay người đang u sầu trống trỉa.Nỗi buồn dập dềnh theo sóng nước mênh mang.Con sóng cứ cuộn trôi biết bao giờ gặp gỡ? 

"thuyền về......Lạc mấy dòng" 

Thuyền và nước bao giờ chẳng sóng đôi mà giờ đây đã nhuốm màu chia li tan tác.Thuyền trôi nc chảy,nỗi sầu chia theo dòng nước vè đến chốn nao? 

Lạc giữa muôn trùng sóng nc,cành củi khô xoay giưaônngf,bơ vơ biết về phương nào,chỉ biết mang thao cái nhỏ nhoi,cạn kiệt của sự sống tựa như thân phận cô đơn lạc lõng của kiếp ngwời. 

Nỗi buồn trong lòng thi sĩ càng tăng thêm mỗi lúc và trải mãi ko thôi,thấm đẫm vào cảnh vật: 

"Lơ thơ..............chợ chiều" 

............ 

Bì viế còn khá dài,mình chưa có thời gian gõ tiếp nên phần cuối bạn tự triển khai tiếp nhé! Mình co thể giúp bạn lập 1 cái dàn ý như thế này: 

Cảm nhận chung về bức tranh thiên nhiên trong bài: 

1. Bức tranh Tn được dựng lên trong 1 ko gian bao la rộng lớn: 

- Thủ pháp đối lập:Dùng những nét phác họa đơn sơ để nới rộng ko gian về nhiều phía: chiều cao,chiều rộng,chiều sâu.về phía nào cũng vô tận,ko có điểm dừng. 

- Sử dụng những hình ảnh nhỏ bé,trôi nổi:con thuyền,cành cuỉ,cồn cỏ,bến cô liêu,bèo dạt,chim nghiêng cánh nhỏ. 

=> tô đậm cảm giác về ko gian rộng lớn. 

2. Thiên nhiên cừa cổ kính lại vừa gần gũi thân tuộc. 

- Cổ kính: + 1 hệ thống từ láy toàn phần 

+ thi liệu:cảnh trời mây,sông nước,cánh chim,hoàng hôn (quen thuộc trong thơ xưa) 

- Gần gũi : 

+ hình ảnh quen thuộc,gắn bó với tâm hồn người Việt:cánh chim,bến nước,cồn cỏ,chợ chiều=> gợi tình cảm gắn bó với quê hương của tác giả. 

3. Thiên nhiên đẹp nhưng buồn.(tiêu chuẩn thẩm mĩ của thơ mới) 

- Đẹp: Bao la khoáng đạt.Thanh bình yên ả.Hùng vĩ. 

- Buồn:ko gian gợi nỗi sầu chia li,nỗi buồn trống trải,buồn thương khắc khoải,lan tỏa mênh mang,trôi nổi xa vắng,sầu ko gian,sầu vũ trụ.

1. Mầu sắc cổ điển trong Tràng Giang:

 Mầu sắc cổ điển đậm đà, in dấu ấn toàn diện tạo nên vẻ độc đáo của một bài Thơ Mới.

a/ Cổ điển ở nhan đề:

          Bài thơ mới lại có nhan đề bằng chữ Hán. “Tràng” ( một âm đọc khác của “trường”) gợi sự cổ kính. “Giang” là tên chung để chỉ các dòng sông. Hai chữ này gợi một không gian cổ kính, trang trọng, bát ngát như trong Đường thi, gợi nhớ câu thơ nổi tiếng của Lý Bạch: “Duy kiến trường giang thiên tế lưu” ( Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng)

b/ Cổ điển ở đề từ:

“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.

 Trời rộng gợi cảm giác về sự vô biên của vũ trụ. Sông dài tạo ấn tượng về cái vô cùng của không gian. Trời rộngvà sông dài mở ra không gian ba chiều gợi cảm giác rợn ngợp của con người cô đơn, bé nhỏ trước cái mênh mang, bất tận của trời đất. Tâm trạng này từng được diễn tả một cách sâu sắc trong những vần thơ cô đọng, đầy ám ảnh của Trần Tử Ngang trong Đăng U Châu đài ca :

                  Tiền bất kiến cổ nhân

                  Hậu bất kiến lai giả

                  Niệm thiên địa chi du du

                  Độc thương nhiên nhi thế hạ

                 ( Người trước không thấy ai

                   Người sau thì chưa tới

                  Ngẫm trời đất thật vô cùng

                  Một mình xót xa mà rơi lệ )         

c/ Cổ điển ở tứ thơ sóng đôi:

“Tràng giang” được cấu tứ trên nền cảm hứng không gian sóng đôi:

 Có dòng “Tràng giang” thuộc về thiên nhiên trong tư cách một không gian hữu hình và ( cũng có ) dòng “Tràng giang” tâm hồn như một không gian vô hình trong tâm tưởng. Đây vốn là cấu tứ quen thuộc của Đường Thi.

Tiếp cận Tràng Giang trong tư cách dòng sông thiên nhiên có thể thấy một điều đặc biệt: khổ thơ nào cũng có thông điệp về nước. Thông điệp trực tiếp là các từ : “nước”, “con nước”, “dòng”…Thông điệp gián tiếp là các từ : “sóng gợn”, “cồn nhỏ”, “bèo dạt”, “bờ xanh”, “bãi vàng”…

Tiếp cận Tràng giang với tư cách dòng sông cảm xúc trong tâm hồn lại phát hiện thêm một điều thú vị nữa: Cảnh nào cũng gợi buồn. Sóng buồn vô hạn ( buồn điệp điệp); Gió đầy tử khí: “đìu hiu”. Gợi nhớ đến câu: “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” ( Chinh Phụ Ngâm); Bến sông cô đơn vắng vẻ: “bến cô liêu”; Nước với nỗi buồn trải khắp không gian: “sầu trăm ngả”

d/ Cổ điển ở nghệ thuật đối:

Màu sắc cổ điển còn được bộc lộ qua cách sử dụng nghệ thuật đối của Đường Thi nhưng khá linh hoạt và phóng túng.

Chẳng hạn: “Sóng gợn…”đối với “ Con thuyền…”; “Nắng xuống đối với trời lên…” ; “Sông dài đối với trời rộng…”

Nhưng đóng góp quan trọng hơn cả là nghệ thuật đối được sử dụng một cách triệt để bằng hai hệ thống hình ảnh mang tính tương phản giữa một bên là những sự vật nhỏ bé, gợi suy ngẫm về cái hữu hạn của kiếp người: thuyền, củi, bến, bèo, cánh chim…và một bên là những hình ảnh lớn lao, hùng tráng gợi liên tưởng về cái vô hạn của vũ trụ: sông dài, trời rộng, lớp lớp mây cao, núi bạc…

e/ Sử dụng hệ thống từ láy gợi âm hưởng cổ kính: (10 lần/16dòng thơ, cách ngắt nhịp truyền thống: 3/4)

Hệ thống từ láy trải khắp bài thơ: “Tràng giang”, “điệp điệp”, “song song”, “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, “mênh mông”, “lặng lẽ”, “lớp lớp”, “dợn dợn”.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng sáng tạo thi liệu của Đường Thi với rất nhiều hình ảnh và chất liệu quen thuộc. Đặc biệt câu kết mượn thẳng ý thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” ( Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai - Tản Đà dịch ). Điểm khác biệt ở hai tác giả là : Nỗi nhớ nhà của Thôi Hiệu được gợi từ hình ảnh “khói sóng”  còn nỗi nhớ của Huy Cận không cần tác động của ngoại giới ( Không khói hoàng hôn) vì đã là một yếu tố nội tâm thường trực. Đây cũng là nét khác biệt cơ bản của hai cách phô diễn cảm xúc tạo nên đặc điểm riêng của thi pháp thơ trung đại và thi pháp thơ hiện đại.

 2. Mầu sắc hiện đại:

Dù bài thơ Tràng giang có in đậm màu sắc cổ điển trên một số phương diện như đã phân tích thì hiện đại vẫn là nét chính của thi phẩm này. Bởi cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn mênh mang, sâu lắng của cái tôi cô đơn trước vũ trụ được bộc lộ một cách trực tiếp qua một cách diễn đạt cô đọng và hàm súc. Tâm trạng của một cái tôi lãng mạn đó lại được thể hiện bằng bút pháp tả thực vừa phá vỡ qui tắc ước lệ truyền thống vừa đem đến một phong cách trữ tình mới.

Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nỗi buồn đó được thể hiện đa dạng với nhiều cung bậc và hết sức tinh tế.

          Ngay trong khổ thơ đầu, nỗi sầu muộn đã thấm vào cái nhìn cảnh vật. Tuy thuyền và nước “song song” nhưng “thuyền về” ngược hướng với “nước lại” gợi liên tưởng về một sự ngổn ngang trăm mối trong lòng. Và hình ảnh gây ấn tượng chính là hình ảnh củi trong câu “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Theo lời thổ lộ của chính tác giả, trong bản thảo, ông đã băn khoăn nhiều, cân nhắc rất kỹ trước khi chọn hình ảnh này. Qủa nhiên, chi tiết giàu chất thực đó mang đến cho câu thơ một màu sắc hiện đại. Hình ảnh “củi” không chỉ tạo một ấn tượng mới mẻ mà còn gợi những liên tưởng và  suy ngẫm về kiếp người lam lũ, tủi cực, lênh đênh…

Mạch cảm xúc trong khổ thơ tiếp theo diễn tả nỗi ám ảnh về cái hờ hững, mất liên lạc giữa con người và tạo vật cùng cảm giác trống trải của tâm hồn con người trước cái thế giới hoang vắng với hình ảnh bóng cây “lơ thơ” trên những cù lao nhỏ trơ trọi và ngọn gió hiu hắt buồn như thổi về từ nghìn năm trước. Cảm giác trống trải trước một không gian hoang sơ, vắng lặng càng được tô đậm khi tác giả sử dụng nghệ thuật diễn tả cái động để làm nổi bật cái tĩnh:

“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều…”.

Câu thơ này từng gợi ra hai cách hiểu. Một, âm thanh vẳng tới mơ hồ như có như không của phiên chợ vãn ở làng xa khiến nhân vật trữ tình thấm thía hơn nỗi cô đơn trước một không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đối. Hai, đây chỉ là một ý nghĩ bất chợt, gần như một ảo giác do những mong mỏi thầm kín trong thẳm sâu hồn người vào khi chiều xế trong thời điểm tâm hồn rơi vào một nỗi cô đơn mang tính muôn thuở.

Nhưng câu thơ Nắng xuống trời lên sâu chót vót mới thực sự gây ấn tượng mạnh bởi cách sử dụng nghệ thuật tiểu đối, bởi lối dùng từ mới mẻ, táo bạo ( cách dùng hình dung từ sâu chót vót thay cho cách diễn đạt thông thườngcao chót vót ) vừa mở ra chiều cao mênh mang đến thăm thẳm của bầu trời vừa diễn tả nỗi cô đơn của cái tôi trữ tình, đặc biệt là cảm giác rợn ngợp của con người hữu hạn trước một vũ trụ vô biên.

Nếu câu thơ vừa phân tích chủ yếu gợi ấn tượng rợn ngợp bởi nỗi cô đơn do chiều cao vô cùng của bầu trời đem lại thì câu thơ tiếp theo sử dụng nhịp 2/2/3 cùng hàm ý nhấn mạnh vào các tính từ miêu tả không gian: sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu… nghe tựa như một tiếng thở dài đầy bâng khuâng và sầu muộn của cái tôi trước tạo vật hững hờ. Nỗi sầu muộn đó sẽ còn tiếp tục gây ám ảnh trong khổ thơ tiếp theo khi cái tôi trữ tình đối diện với một thiên nhiên gần như ngoảnh mặt làm ngơ với bao nỗi niềm cần chia sẻ của con người: 

          Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

         Mênh mông không một chuyến đò ngang

         Không cầu gợi chút niềm thân mật

         Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Trong khổ thơ có những câu hỏi không thể có câu trả lời. Những câu hỏi như để khơi sâu thêm nỗi buồn, cảm giác hẫng hụt và đặc biệt là tình cảnh bơ vơ của cái tôi trước một thế giới không còn là nơi nương tựa quen thuộc như muôn nghìn năm trước nữa.

Trong khổ thơ còn có sự diễn đạt mang tính tăng cấp nhấn vào các ngôn từ mang tính phủ định khiến người đọc nảy sinh những liên tưởng và so sánh. Từ “khách vắng teo” của Nguyễn Khuyến qua “đã vắng người sang những chuyến đò” của Xuân Diệu cho đến hàng loạt từ “không đò”, “không cầu”, “lặng lẽ” của Huy Cận là cả một hành trình “ càng đi sâu càng thấy lạnh” ( Hoài Thanh ) của con người khi bước vào thế giới hiện đại.

          Khổ thơ cuối diễn tả một sự đối lập cao độ giữa con người với vũ trụ. Cái mênh mông của không gian: “lớp lớp mây cao đùn núi bạc” tương phản gay gắt với hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”. Rõ ràng, không còn là cánh chim mang tính nghệ thuật thuần tuý duy mĩ như trong Đường Thi: “ Chiếc cò bay với ráng pha/ Sông xanh cùng với trời xa một màu – Vương Bột ” hay cảnh “Bạch lộ song song phi hạ điền” ( Đôi cò trắng song song bay xuống cánh đồng - Thiên Trường vãn vọng - Trần Nhân Tông) nữa. Cánh chim ở đây chứa đựng cái tôi rợn ngợp trước hoàng hôn, gợi ám ảnh về cái hữu hạn của kiếp người trước cái vô hạn của tạo hoá.

 Nhu cầu tìm về một hình ảnh thân thương, quen thuộc sưởi ấm lòng người trong bối cảnh nỗi cô đơn đang ngập tràn tâm trạng như  sắp dìm cái tôi trữ tình vào một nỗi buồn vừa mang tính muôn thuở vừa chưa từng trải qua bao giờ sẽ là một tất yếu. Đấy là lý do vì sao bài thơ kết thúc bởi hai câu:  

 Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

vừa như chịu ảnh hưởng từ hai câu thơ của nổi tiếng của Thôi Hiệu: Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu vừa như muốn đối lập với người xưa bằng lối bộc lộ cảm xúc trực tiếp theo phong cách của con người thời hiện đại.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: