tran iwo jima

Trận Iwo Jima (19 tháng 2 - 26 tháng 3 năm 1945) là trận đánh thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai giữa Mỹ và Đế quốc Nhật Bản tại đảo Iwo Jima. Đây là một trong những trận đánh ác liệt nhất của chiến trường Thái Bình Dương và kết quả sau một tháng giao tranh, quân Mỹ đã chiếm được Iwo Jima với thương vong khủng khiếp của cả hai bên tham chiến. Sau khi chiếm được hòn đảo, người Mỹ đã biến nó thành một căn cứ không quân cho những chiếc khu trục cơ yểm trợ máy bay ném bom hạng nặng B-29 trút bom xuống các trung tâm công nghiệp trọng điểm trên lãnh thổ Nhật Bản.

Iwo Jima cũng là trận đánh đầu tiên của quân đội Mỹ trên lãnh thổ Nhật Bản. Do đó, quân Mỹ đã phải đối đầu với một hệ thống phòng ngự dày đặc cùng với các công sự kiên cố, trận địa pháo được ngụy trang, địa đạo dưới mặt đất và sức chống trả ngoan cường của người Nhật dựa vào các hang động tự nhiên và địa hình núi đá hiểm trở.[4] Núi Suribachi, điểm cao nhất trên hòn đảo và cũng là một vị trí phòng thủ quan trọng, bị lính thủy đánh bộ đánh chiếm vào ngày 23 tháng 2 và bức ảnh 6 lính thủy đánh bộ cắm cờ trên đỉnh Suribachi với tên gọi "Raising the Flag on Iwo Jima" đã trở thành biểu tượng cho trận đánh. Tuy nhiên, phải đến ngày 16 tháng 3, hòn đảo mới chính thức được phía Mỹ tuyên bố an toàn.

Trận Iwo Jima cũng đã làm nên tên tuổi của vị tướng người Nhật có nhiệm vụ bảo vệ hòn đảo là đại tướng Kuribayashi Tadamichi. Bối cảnh trận đánh đã được dựng thành nhiều bộ phim nổi tiếng, trong đó gần đây là hai bộ phim Flags of Our Fathers (Ngọn cờ cha ông) và Letters from Iwo Jima (Những bức thư từ Iwo Jima) của đạo diễn Clint Eastwood.

Vị trí địa lý và vai trò chiến lược của Iwo Jima

Iwo Jima (có nghĩa Đảo Lưu Huỳnh trong tiếng Nhật) là một đảo núi lửa thuộc nhóm quần đảo Núi Lửa của quần đảo Ogasawara, cách Tokyo khoảng 1.200 km (650 hải lý) về phía nam, cách Guam 1.300 km (702 hải lý) về phía bắc và vị trí của nó nằm giữa Saipan và Tokyo (15° 10′ 51″ N, 145° 45′ 21″ E). Hòn đảo có diện tích xấp xỉ 21 km², dài 9 km, nơi rộng nhất 4 km, phình to ở cao nguyên phía đông bắc và hẹp dần về phía tây nam. Ở cực Nam của đảo là một ngọn núi lửa đã tắt cao 161 m và được người Nhật đặt tên là Suribachi. Bãi biển có thể cho tàu thuyền đổ bộ dài hơn 3 km dọc theo bờ biển phía đông. Đảo có một thảm thực vật rất nghèo nàn bởi đất ở đây chủ yếu là đất cát và đất mặn nồng nặc mùi lưu huỳnh.

Quần đảo Núi Lửa được sáp nhập vào Nhật từ năm 1891. Vào năm 1930 có khoảng 1.100 người Nhật đến định cư tại quần đảo và thành lập làng Motoyama. Nhân dân ở đây sống chủ yếu bằng nghề nông và trên đảo có một nhà máy ép mía và một nhà máy khai thác lưu huỳnh.[5]

Iwo Jima trở thành một vị trí chiến lược trên Quần đảo Núi lửa vì chỉ có ở đây mới có thể xây dựng các sân bay. Năm 1940, công ty xây dựng Mabuchi xây hai đường băng dưới chân núi Suribachi. Mùa xuân năm 1941, một trung úy hải quân và 93 lính Nhật đến để xây pháo đài, bố trí đại bác và ngoài ra còn đưa 2.000 nhân công Triều Tiên lên đảo. Với các sân bay trên đảo, người Nhật biến nơi đây thành một căn cứ cho các máy bay tiêm kích Nhật nhằm ngăn chặn các máy bay ném bom tầm xa của Mỹ cùng như biến đảo thành một hải cảng cho hải quân Nhật. Do đó nếu người Mỹ chiếm được Iwo Jima sẽ giải quyết được những vấn đề trên, đồng thời biến đây thành 1 bàn đạp tấn công vào lãnh thổ Nhật Bản. Ngoài ra, các pháo đài bay B-29 sẽ rút ngắn được khoảng cách trong các cuộc oanh tạc vào Tokyo và các khu trục cơ P-51 Mustang cũng có thể cất cánh từ đảo để yểm trợ. Ngoài ra một nguyên nhân khác nữa buộc Mỹ phải tấn công Iwo Jima là hệ thống radar của Nhật trên đảo. Nhờ các radar này mà Nhật có khả năng phát hiện sớm những đợt oanh kích của không quân Mỹ và báo về cho đất liền để không quân Nhật có thời gian chuẩn bị đối phó.[6]

[sửa] Hoàn cảnh trận đánh

Đầu năm 1944, sau khi đã đánh tan hai hệ thống phòng thủ ngoài cùng của Nhật tại Thái Bình Dương trên quần đảo Gilbert và quần đảo Marshall, quân Mỹ tiến chiếm quần đảo Mariana và trọng điểm là đảo Saipan. Ngày 15 tháng 6 năm 1944, trận Saipan bắt đầu. Đến ngày 9 tháng 7 năm 1944, hòn đảo đã hoàn toàn nằm trong tay người Mỹ. Sau khi chiếm xong Saipan, quân Mỹ đánh chiếm tiếp các đảo Guam và Tinian. Chưa đầy một tháng, các đảo này đã lọt về tay người Mỹ.

Chiếm được quần đảo Mariana, Mỹ đã giành được một thắng lợi chiến lược vô cùng quan trọng. Sau khi Mỹ chiếm được Saipan, lần lượt Tokyo, nhiều vùng lãnh thổ phía nam Nhật Bản và các căn cứ của Nhật như Đài Loan, Philippines và quần đảo Caroline đều nằm trong tầm oanh tạc của không quân Mỹ.

Trong khi đó, các trận hải chiến ác liệt trên biển Philippines và vịnh Leyte đã khiến cho hải quân và không quân Nhật tê liệt với những tổn thất không thể bù đắp. Trong trận hải chiến biển Philippines, hạm đội Liên hợp Nhật bị mất 92% số máy bay và 3 hàng không mẫu hạm bị đánh chìm. Đến trận Hải chiến vịnh Leyte vào tháng 10 năm 1944, Nhật mất thêm 4 hàng không mẫu hạm và 3 thiết giáp hạm. Do đó, khi quân Mỹ tiến hành đổ bộ vào Iwo Jima, không một chiến hạm nào của Nhật được gửi đến để tham chiến. Trong khi đó, không quân Nhật cũng không khá gì hơn khi mà những tổn thất to lớn trong năm 1944 cộng với các đợt không kích của Mỹ nhắm vào các nhà máy sản xuất máy bay nên tính đến tháng 3 hay tháng 4 năm 1945, tổng số máy bay của không quân Nhật không đến 3.000 chiếc. Hơn nữa, những máy bay này có tầm hoạt động chưa đến 900 km (559 dặm) nên không thể bay từ Nhật đến để bảo vệ đảo Iwo Jima. Người Nhật ưu tiên sử dụng các máy bay này cho việc bảo vệ Đài Loan và các đảo lân cận gần Nhật Bản.[7]

Thoạt đầu, các nhà chiến lược ở Washington cũng như đô đốc Nimitz ở Hawaii cho rằng sau Philippines, quân Mỹ sẽ đổ bộ lên Đài Loan. Nhưng mấy tuần trước cuộc đổ bộ ở Leyte, được nghe chuẩn đô đốc Raymond Spruance trình bày thì người Mỹ thay đổi kế hoạch: bỏ qua Đài Loan, đánh thẳng vào các đảo cực Nam lãnh thổ Nhật Bản: Iwo Jima, Okinawa...[8]

Theo các thông tin tình báo mà Mỹ nhận được, họ cho rằng có thể đánh chiếm Iwo Jima trong vòng 5 ngày. Tuy nhiên họ đã quá lạc quan khi không tính đến hệ thống bố phòng vững chắc của quân Nhật trên đảo và những kinh nghiệm mà người Nhật đã rút ra từ các trận đánh trước. Một yếu tố khác càng làm tăng sự chủ quan của người Mỹ là trong hơn 2 tháng kể từ ngày 10 tháng 12 năm 1944, các máy bay ném bom B-24 và B-29 của Mỹ xuất phát từ quần đảo Marianas đã tiến hành 75 trận oanh tạc tại Iwo Jima, trút xuống hòn đảo hàng trăm tấn bom hòng bẻ gãy hệ thống phòng thủ tại đây. Đến ngày 15 tháng 2 năm 1945, các chiến hạm Mỹ có nhiệm vụ yểm trợ đổ bộ đã bắn phá dữ dội hòn đảo với 21.926 quả đạn pháo. Ngoài ra, lực lượng đặc nhiệm hàng không mẫu hạm số 58 của Mỹ do Phó Đô đốc Marc A. Mitscher chỉ huy còn tiến hành các cuộc oanh kích vào các căn cứ không quân và khu công nghiệp trọng yếu tại Tokyo trong hai ngày 16 và 17 tháng 2 trước khi quay về yểm trợ cho cuộc đổ bộ lên Iwo Jima. Tuy nhiên trong thực tế, khi cuộc đổ bộ bắt đầu, quân trú phòng Nhật hầu như không bị tổn thất nhiều vì núp sâu trong các hang động, ngoại trừ các ụ súng bố phòng dọc theo bờ biển bị tiêu diệt. Hơn nữa, cuộc bắn phá của hải quân Mỹ chỉ diễn ra trong 3 ngày thay vì 10 ngày như được yêu cầu ban đầu từ tướng Holland Smith.[9] Cuộc đổ bộ được mang tên chiến dịch Detachment và ngày đổ bộ được ấn định là ngày 19 tháng 2 năm 1945. Vào ngày D-2, pháo binh Nhật đã nã đạn vào các tàu đổ bộ của lực lượng trinh sát Mỹ khiến cho vị trí của họ bị bại lộ trước hỏa pháo của Mỹ.[10] Ngày 18 tháng 2, ngày D-1, chiến hạm USS Blessman bị một quả bom 500-pound đánh trúng phòng ăn tập thể giết chết 40 người, trong đó có 15 người thuộc lực lượng trinh sát.[11]

[sửa] Kế hoạch và chuẩn bị

[sửa] Phía Nhật Bản

Thất bại trong việc bảo vệ quần đảo Mariana trong mùa hè năm 1944 đã khiến cho người Nhật càng nhận ra tầm quan trọng của đảo Ogasawaras. Một nguyên nhân khác, Iwo Jima, trong con mắt người Nhật có giá trị hơn các đảo Tarawa, Guam, Tinian hay Saipan vì Iwo Jima là một phần của lãnh thổ đế quốc Nhật Bản từ lâu đời.[12]

Sau khi quân Mỹ chiếm được quần đảo Marshall qua các trận Kwajalein và trận Eniwetok vào tháng 2 năm 1944 thì cả lục quân và hải quân Nhật đều tăng cường quân tiếp viện đến đảo Iwo Jima. Trung tá Tsunezo Wachi đưa 5.000 lính hải quân lên đảo để bắt đầu xây dựng sân bay thứ 2 ở trung tâm đảo rồi sân bay thứ ba trên cao nguyên phía bắc. 500 quân từ căn cứ hải quân tại Yokosuka và thêm 500 nữa từ Chichi Jima đến Iwo Jima vào tháng 3 và tháng 4 năm 1944. Với sự tăng viện từ Chichi Jima và Nhật, quân đồn trú tại Iwo Jima đã đạt đến con số hơn 5.000 người, được trang bị 13 khẩu pháo, 200 súng máy hạng nặng và nhẹ, 4.552 khẩu súng trường. Ngoài ra còn có một số lượng lớn pháo 120mm được bố trí dọc theo bờ biển, 12 khẩu pháo phòng không hạng nặng, 30 pháo phòng không hai nòng loại 25mm.[13]

Tháng 6 năm 1944, Trung tướng Kuribayashi Tadamichi được thủ tướng Tōjō Hideki cử đến Iwo Jima cùng với sư đoàn bộ binh số 109 gồm 7.350 người và ông được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh lực lượng trên đảo. Tiếp theo sau đó, 2.216 lính hải quân cùng chuẩn đô đốc Toshinosuka Ichimaru được phái đến để tăng cường cho đảo, đưa tổng số quân ở đây lên đến con số 21.000 người, bao gồm 14.000 lính bộ binh và 7.000 lính hải quân. Đảo có nhiều lương thực dự trữ nhưng thiếu nước ngọt.[14] Những người cuối cùng đến đảo là các đơn vị pháo binh và 5 tiểu đoàn chống tăng. Tuy nhiên, nhiều tàu chở hàng tiếp tế cho Iwo Jima trên đường đi đã bị tàu ngầm và máy bay Mỹ đánh chìm; như vào ngày 18 tháng 7 năm 1944, tàu ngầm Mỹ USS Cobia đã đánh chìm tàu Nisshu Maru, lúc đó đang đưa một trung đoàn tăng từ Nhật đến Iwo, ở khoảng 180 dặm phía tây bắc Chichi: hầu hết lính Nhật được cứu sống nhưng bù lại quân Nhật mất 28 xe tăng. Trong vòng sáu tháng, phía Nhật mất khoảng 1.500 người trong hành trình đến Iwo.[15]

So với các chỉ huy khác của Nhật, Kuribayashi có một quan niệm phòng thủ khác. Lấy cảm hứng từ trận Peleliu và thời gian học tập tại Mỹ, ông đề nghị thay vì thiết lập một hệ thống phòng thủ ngoài bãi biển dễ bị hải pháo Mỹ vô hiệu hóa thì nên thiết lập hệ thống phòng thủ chiều sâu với nhiều hang động trong núi, hệ thống địa đạo để tiện đánh du kích. Các vị trí súng máy hạng nặng, súng cối, pháo phòng không, pháo bảo vệ bờ biển và đặc biệt là những chiếc xe tăng Chi-Ha kiểu 97 và Ha-Go kiểu 95 của đại tá nam tước Takeichi Nishi đều được ngụy trang cẩn thận. Pháo phòng không được che giấu giữa những tảng đá dọc triền núi còn xe tăng nằm chờ phía sau những bức tường đá dày 2 mét với nòng súng chĩa ra ngoài. Hệ thống phòng thủ chính được xây dựng ở phía bắc với hệ thống địa đạo và công sự ngầm liên kết với nhau rất chặt chẽ. Tướng Kuribayashi thiết lập căn cứ chỉ huy ở cực bắc đảo, khoảng 500 mét hướng đông bắc làng Kita và phía nam Mũi Kitano. Căn cứ này nằm sâu 20 mét dưới mặt đất, ẩn trong các hang động và kết nối với 180 mét địa đạo. Xa hơn về phía nam tại Đồi 382, vị trí cao thứ hai tại Iwo Jima, người Nhật cho đặt trạm radio và dự báo thời tiết. Tại vị trí nhô cao gần đó nằm ở phía đông nam trạm, một lô cốt khổng lồ được xây dựng làm sở chỉ huy cho đại tá Chosaku Kaido, người chỉ huy toàn bộ các lực lượng pháo binh trên đảo.[16] Kể từ khi đến Iwo Jima, Kuribayashi đã đi bộ khắp hòn đảo và sáng nào ông cũng thức dậy lúc 3:30 sáng để thị sát công việc phòng thủ. Không chỉ thay đổi quan niệm về hệ thống phòng thủ, ông còn thay đổi luôn cả quan niệm về cách thức phòng thủ: không còn những cuộc tấn công tự sát mà thay vào đó mỗi người lính phải ra sức giữ mạng sống để chiến đấu và tiêu diệt được càng nhiều lính Mỹ càng tốt. Biết chắc rằng không thể thắng trong trận đánh này nhưng Kuribayashi kỳ vọng quân Mỹ gặp tổn thất quá lớn về nhân mạng sẽ hủy bỏ kế hoạch đổ bộ vào chính địa Nhật Bản.[17]

Mùa thu 1944, toàn bộ quân Nhật trú phòng trên đảo đều đã hoạt động dưới lòng đất. Có thêm 2 tầng đường hầm, 1 phía trên và 1 phía dưới hệ thống địa đạo. Quân trú phòng còn xây dựng 1.500 phòng ngầm, nhiều phòng được cấp điện và thông hơi. Phòng không có điện thì dùng đèn dầu và nến. Các phòng này đều nằm sâu từ 10 đến 15 m dưới lòng đất và có nhiều lối ra vào để quân lính có thể thoát đến nơi khác khi gặp tình huống khẩn cấp.[18] Nhiều cơ sở khác cũng được đặt sâu trong lòng đất như doanh trại, phòng họp, trung tâm thông tin và cả những quân y viện được trang bị đầy đủ trang thiết bị giải phẫu.

Để chống lại hạm đội Mỹ, các phi đội cảm tử Kamikaze đã được thành lập từ trận hải chiến vịnh Leyte tiếp tục được ưu tiên sử dụng. Điều đáng nói là không một chiến hạm nào của hải quân Nhật được gửi đến để chống lại cuộc đổ bộ dù đảo chỉ cách Nhật Bản 700 dặm. Ngoài ra trước trận đánh, quan niệm phòng thủ của Kuribayashi đã bị Tokyo bác bỏ và ông buộc phải xây dựng 1 hệ thống phòng thủ ngoài bãi biển. Phần lớn hệ thống này đã bị phá hủy khi trận chiến bắt đầu.

Ngày 5 tháng 1 năm 1945, Chuẩn đô đốc Ichimaru thực hiện một bản báo cáo cá nhân tại sở chỉ huy của ông để nói về thất bại của hạm đội Nhật trong trận hải chiến vịnh Leyte, việc Philippines mất về tay Mỹ và ông dự báo rằng Iwo Jima sẽ sớm bị người Mỹ đổ bộ. Dự đoán này trở nên chính xác khi một tháng sau đó radio của quân Nhật trên đảo báo cáo cho chỉ huy đảo về sự thay đổi đáng ngờ của mật mã nhận dạng máy bay Mỹ. Ngày 13 tháng 2, một máy bay trinh sát của Nhật phát hiện 170 tàu chiến Mỹ di chuyển về hướng tây bắc từ Saipan. Toàn bộ lính Nhật tại Ogasawaras đều được báo động và đi đến các vị trí chuẩn bị cho trận chiến. Tại Iwo Jima, mọi sự chuẩn bị đã đầy đủ và quân phòng thủ đã sẵn sàng đón chờ cuộc đổ bộ.[19]

[sửa] Phía Hoa Kỳ

Về phía Mỹ, chuẩn đô đốc Raymond Spruance, người từng chiến thắng quân Nhật trong trận Midway và cũng là tư lệnh chiến dịch đánh chiếm quần đảo Mariana, được chỉ định làm tổng tư lệnh trận đánh. Chuẩn đô đốc Richmond Kelly Turner làm Tư lệnh các lực lượng viễn chinh. Trung tướng Holland Smith được chọn làm tư lệnh hành quân các lực lượng thủy quân lục chiến và thiếu tướng Harry Schmidt làm tổng tư lệnh các lực lượng đổ bộ gồm 3 sư đoàn thủy quân lục chiến: sư đoàn 4 và 5 ở Hawaii và sư đoàn 3 ở Guam. Tư lệnh Sư đoàn 3 là thiếu tướng Graves B. Erskine và tư lệnh sư đoàn 5 là thiếu tướng Keller E. Rockey. Lực lượng hải quân Hoa Kỳ yểm trợ cho cuộc đổ bộ bao gồm 700 chiến hạm của Đệ tam hạm đội và Đệ thất hạm đội, trong đó có 28 hàng không mẫu hạm với 1.172 máy bay trên các mẫu hạm.[20] Tổng cộng, số quân Mĩ tham gia trận đánh nếu tính luôn các đơn vị không lực, hải quân lên đến con số 120.000 người.[21]

Kế hoạch đổ bộ của người Mỹ lên Iwo Jima bao gồm việc sư đoàn thủy quân lục chiến số 4 và 5 sẽ đổ bộ lên bờ biển phía đông nam và tập trung đánh chiếm núi Suribachi, sân bay phía nam và bờ biển phía tây. Sau khi hoàn thành mục tiêu, sư đoàn 3 sẽ bắt đầu yểm trợ và cùng tiến về phía đông bắc đảo.

Tuy nhiên trước trận đánh, người Mỹ đã có những đánh giá sai lầm về hệ thống bố phòng của người Nhật cũng như sai lầm trong quá trình chuẩn bị. Họ ước tính sai quân số Nhật trên đảo tới 70%. Ngoài ra sự thay đổi về chiến thuật của Nhật Bản, không thực hiện các cuộc tấn công tự sát cũng là một yếu tố mà Mỹ không ngờ tới. Và cuối cùng, những khó khăn về điều kiện thiên nhiên như địa hình ở Iwo Jima đã không bao giờ được kiểm tra trước trận đánh.[22]

[sửa] Diễn biến trận đánh

[sửa] Cuộc đổ bộ của Mỹ

6:40 sáng ngày 19 tháng 2 năm 1945, tất cả các hải pháo của 7 thiết giáp hạm, 8 tuần dương hạm của hạm đội Mỹ bắt đầu bắn phá các khu vực đổ bộ. 10 phút sau, đến lượt các tàu phóng tên lửa tấn công lên cao nguyên Motoyama và núi lửa Suribachi. Đến 8:05, 120 chiếc máy bay ném bom B-29 bay đến oanh tạc hòn đảo. Iwo Jima chìm trong lửa và khói.[23] Trong khi đó, quân Nhật nhờ ẩn núp sâu trong các hang động và hệ thống địa đạo nên hầu như không bị tổn thất bởi bão lửa của quân Mỹ. Lính Nhật ngồi đọc thuộc những đặc lệnh của tướng Kuribayashi:

Khoảng 8:57 sáng, hải quân Mỹ ngừng pháo kích. Ngay sau đó những chiếc xe bánh xích lội nước được trang bị pháo 75 ly bắt đầu vượt qua những cơn sóng, tiến về đảo. Lúc 9:02 phút, đoàn xe gồm 69 chiếc lần lượt cập bờ. Mỗi xe chở 20 binh sĩ thủy quân lục chiến thuộc 2 sư đoàn 4 và 5 dưới sự chỉ huy của quân đoàn đổ bộ V bắt đầu đổ lên bờ biển. Tiến được chừng 30 mét, các xe này gặp bậc thềm đất đỏ cao khoảng 4 mét so với bờ biển và phần lớn không leo dốc được vì đất ở đây quá mềm và lún xuống. Cũng từ đây, thủy quân lục chiến bắt đầu tản ra và bò lên mặt thềm. Đợt đổ bộ đầu tiên này không hề gặp bất kì sự kháng cự nào từ phía quân Nhật khiến người Mỹ tin rằng những cuộc bắn phá của hải pháo và những đợt oanh tạc trước đó đã tiêu diệt gần hết lực lượng quân đồn trú của Nhật.[24] Tuy nhiên sự yên tĩnh này nằm trong kế hoạch của tướng Kuribayashi, ông muốn phát lệnh tấn công khi nào bãi biển được lấp đầy bởi thủy quân lục chiến Mỹ và các phương tiện vận tải.[25]

Đến 10:00 sáng, từ khắp các vị trí, hỏa lực quân Nhật ra sức bắn ra xối xả vào quân Mỹ đang tiến lên. Các hầm trú ẩn Nhật đột ngột khai hỏa làm cho nhiều tốp lính Mỹ nhanh chóng bị hạ gục bởi súng máy.[26] Nơi tập trung hỏa lực mạnh nhất của Nhật là từ núi Suribachi tại phía nam hòn đảo. Quân Mỹ tiến lên vô cùng khó khăn không chỉ bởi hỏa lực của Nhật mà còn bởi địa hình bất lợi, chủ yếu là đất tro núi lửa. Loại đất này mềm, không giúp cho người Mỹ dễ xây dựng các hố cá nhân hay tránh hỏa lực.[26] Tuy nhiên nó giúp giữ lại bớt mảnh pháo binh tạc ra từ hỏa lực pháo của Nhật. Trọng pháo Nhật đã khôn khéo lợi dụng núi Suribachi xây dựng các ổ châu mai để phòng thủ nên lính Mỹ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiêu diệt các khẩu pháo đó.[27]

Một khó khăn nữa cho người Mỹ là các bunker của Nhật được kết nối với một hệ thống địa đạo phức tạp nên mỗi khi một bunker được tuyên bố là đã "dọn sạch" bằng súng phun lửa và lựu đạn thì nó có thể nhanh chóng trở lại hoạt động mà người Mỹ thường không ngờ tới. Chính điều này đã làm tăng thêm thương vong cho lính Mỹ khi họ đột nhiên bị tấn công bởi các bunker tái hoạt động này.[28] Lính Mỹ tiến lên rất chậm trong làn hỏa lực của pháo và súng máy. Phải cho đến khi có sự yểm trợ của các lực lượng thiết giáp, hải pháo và không quân thì người Mỹ mới có thể băng qua bãi biển dễ dàng hơn.[29] Lúc 10:35 sáng, 760 binh sĩ thủy quân lục chiến đã băng mình gần như liều mạng ngang qua hòn đảo. Họ bị thiệt hại nặng nhưng tiến lên đáng kể. Vào khoảng chiều, ngọn núi bị phong tỏa khỏi phần còn lại của đảo và 30.000 binh sĩ thủy quân lục chiến Mỹ đã đổ bộ lên bờ.[30] Bên phía Mỹ đã có nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm như hạ sĩ Tony Stein, người đầu tiên được nhận Huân chương Danh Dự tại Iwo Jima.[28] Suốt buổi chiều, quân Mỹ vẫn giữ vững vị trí và cố gắng tiến lên trong làn hỏa lực ngày càng mãnh liệt của quân Nhật. Những quả bom của máy bay thả xuống nhưng không nổ nằm dưới cát có tác dụng như mìn chống tăng khiến cho nhiều xe cơ giới của Mỹ nổ tan tành.[31] Vào buổi chiều, những đơn vị đã đổ bộ được gồm tám tiểu đoàn và các tiểu đoàn tăng của hai sư đoàn, cùng những bộ phận của hai tiểu đoàn pháo.[32] Đêm xuống, lính Mỹ đã kiểm soát được bãi biển và lúc mặt trời lặn, bãi biển càng thêm rùng rợn vì đầy những thây người. Tổng thương vong của quân Mỹ trong ngày 19 tháng 2 là 566 người tử trận trên bờ và ngoài khơi, 1755 người bị thương, cao hơn toàn trận Guadacanal.[28] Không đạt được mục tiêu đề ra là chiếm các mục tiêu định sẵn nên lính Mỹ phải đào hố cá nhân và núp qua đêm.

Với những kinh nghiệm có được từ trận Saipan, lính Mỹ luôn trong tư thế chờ đợi những cuộc tấn công vào ban đêm của lính Nhật. Tuy nhiên, khác với các tư lệnh Nhật ở đảo Saipan hay các nơi khác, tướng Kuribayashi từ chối những cuộc tấn công như vậy vì chắc chắn sẽ làm hao quân vô ích. Thay vào đó, ông ra lệnh cho quân Nhật dùng đại bác và súng cối nã vào quân Mỹ đang co cụm.[33] Nhờ sử dụng một trinh sát viên liên lạc qua bộ đàm nên pháo binh Nhật liên tục bắn trúng các ụ súng và các ụ chứa đạn của quân Mỹ. Phải đến 03:00, trinh sát viên này mới bị một thương binh Mỹ phát hiện và nhanh chóng bị hạ gục. Kể từ lúc đó, pháo binh Nhật mất phần chính xác hơn nhưng vì quân Mỹ tập trung quá đông trên một diện tích chật hẹp nên vẫn gây ra tổn thất. Ngoài ra còn có những nhóm nhỏ lính Nhật thực hiện lối đánh du kích hay bắn tỉa.

[sửa] Trận đánh tại núi Suribachi

Núi Suribachi đã được quân Nhật xây dựng thành một hệ thống địa đạo vô cùng phức tạp gồm 7 tầng, gia cố bằng những tường năng xây bằng bê-tông rồi được trát vữa mặt ngoài, thêm hệ thống thoát nước thải và đường ống dẫn không khí, điện, nước và hơi nước. Có 1.300 lính bộ binh và 640 lính hải quân bố trí khắp các địa đạo và gian phòng. Dọc theo chân núi là những bunker và giao thông hào cho bộ binh Nhật. Các lỗ châu mai được đặt theo nhiều hướng sao cho lính Nhật có thể quan sát lẫn nhau và hỗ trợ cho nhau bằng hỏa lực súng máy.[34]

Ngày 20 tháng 2 (ngày D+1), lúc 07:40 sáng, các hải pháo Mỹ lại tiến hành bắn phá chuẩn bị cho đợt tấn công. 50 phút sau, thủy quân lục chiến Mỹ bắt đầu tiến lên. Một trung đoàn nhận mục tiêu tấn công núi Suribachi còn 3 trung đoàn khác nhắm vào mục tiêu là cao nguyên Motoyama. Đến trưa ngày hôm đó, lữ đoàn 28 đã tiến sâu thêm được 300 mét còn sư đoàn 4 đến sân bay số 1, hoàn thành mục tiêu đã định. Quân khuyển cùng thủy quân lục chiến lên bờ đi tìm những nơi quân Nhật còn kháng cự. Giờ đây núi Suribachi đã bị cô lập với phần còn lại của đảo. Tuy nhiên lính Nhật ở đây chiến đấu với tinh thần quyết tử nên cả hai phải giành giật nhau từng mét vuông đất. Để chống lại hệ thống địa đạo của người Nhật, lính Mỹ tập trung sử dụng lựu đạn và súng phun lửa. Một trong những tiến bộ kỹ thuật mới có tính quyết định ở trận đánh này là sự xuất hiện của những chiếc xe tăng hạng trung Sherman M4A3R3 có trang bị súng phun lửa. Loại xe tăng này được đặt biệt danh là "Ronson" hay Zippo Tanks rất có hiệu quả trong việc tiêu diệt các vị trí đồn trú của quân Nhật và cũng khó bị vô hiệu hóa. Đến đêm quân Mỹ ngừng tiến. Trong ngày này, sư đoàn 4 và 5 chưa tiến lên được 2 km rưỡi vào bên trong hòn đảo trong khi sư đoàn 5 phải chịu 1.500 thương vong và sư đoàn 4 khoảng 2.000.[35]

Đến ngày 21 tháng 2, hải pháo cũng bắt đầu bắn phá vào lúc 7:40 sáng. Suốt ngày hôm đó, nơi thâm nhập sâu nhất của thủy quân lục chiến Mỹ là 1000 mét, nơi kém nhất là 500 mét. Trong đêm của ngày đổ bộ thứ 3 này, xảy ra một thảm họa đối với hạm đội Mỹ ngoài khơi. 5 máy bay Nhật Bản từ những căn cứ ở quận Chiba gần Tokyo thực hiện một cuộc tấn công Kamikaze vào hạm đội Mỹ mà mục tiêu cụ thể là chiếc hàng không mẫu hạm USS Saratoga của Mỹ. 3 chiếc đã đâm trúng mục tiêu và nổ tung làm 129 người trên tàu chết. Kế đó, lúc 19:00, 5 máy bay Kamikaze khác lao đến nhưng chỉ có 1 chiếc vượt qua được lưới lửa phòng không và bỏ ngay trên đường băng của Saratoga 1 quả bom. Tuy nhiên đến 20:15, những đám cháy trên tàu đã được khắc phục nhưng sau đó tàu buộc phải rời chiến trường đến Eniwetok rồi cuối cùng là về bờ biển phía Tây nước Mỹ để sửa chữa. Vài phút sau, một chiếc Kamikaze đơn độc vượt qua được lưới lửa phòng không nhờ bay sát mặt nước đã đâm vào hàng không mẫu hạm hộ tống cỡ nhỏ Bismarck Sea. Bốn quả ngư lôi trên tàu nổ tung, tàu chìm sau đó 15 phút. Thủy thủ trên tàu Lawrence Taylor cố gắng cứu được khoảng 120 người trong tổng số 800 thủy thủ đoàn rơi xuống nước. Cũng trong đêm hôm đó, đài phát thanh Tokyo báo tin Mỹ tấn công Iwo Jima. Turner, tư lệnh lực lượng đổ bộ đã bị đài phát thanh này cảnh cáo:

Ngày 22 tháng 2, ngày thứ 4 của cuộc đổ bộ, sư đoàn thủy quân lục chiến số 4 đã chịu quá nhiều tổn thất trong việc đánh chiếm cao nguyên Motoyama đã được thay thế bằng sư đoàn 3. Trong khi đó sư đoàn 5 vẫn tiếp tục mục tiêu đánh chiếm Suribachi và trong ngày này người Mỹ đã thành công trong việc bao vây chân núi, ngoại trừ khoảng trống rộng gần 400 m trên bờ biển phía tây. Viên đại tá chỉ huy quân trú phòng ở Suribachi đã xin Kuribayashi thực hiện một cuộc tấn công tự sát nhưng bị từ chối tuy nhiên một số người lính vẫn tự ý rời bỏ vị trí để tham gia tấn công. Những cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục diễn ra ác liệt ở từng địa đạo. Trong số những lính Nhật tử trận tại Suribachi có trung tá Takeichi Nishi, người đã giành huy chương vàng môn cưỡi ngựa tại Thế vận hội mùa hè 1932 Los Angeles. Cái chết của ông giống như Kuribayashi sau này, vẫn là một điều bí ẩn. Có nhiều giả thuyết cho rằng ông bị lính Mỹ giết, tự sát hoặc chết trong khi chiến đấu. Sau khi chết, ông được truy phong quân hàm đại tá. Trong khi đó, 150 lính Nhật đã xông ra khỏi quả núi để đến với những đơn vị quân Nhật ở phía Bắc nhưng phần lớn đã bị đốn ngã trên đường bởi thủy quân lục chiến Mỹ. Chỉ có khoảng 25 lính Nhật chạy thoát. Tuy nhiên, khi chạy đến bộ chỉ huy của lực lượng phòng vệ hải quân Nhật, họ đã không được đồng đội mình tại đây chào đón tử tế. Đại úy Samaji Inouye, sĩ quan phụ trách bộ chỉ huy, đã lên án trung úy của họ là phản quốc và rút gươm định chặt đầu ông này nhưng một sĩ quan cấp dưới đã ngăn đại úy Samaji lại.[37]

Ngày 23 tháng 2, sư đoàn 5 thủy quân lục chiến Mỹ đã tiến lên được đỉnh ngọn núi lửa và những cuộc giáp lá cà lẻ tẻ đã diễn ra trong các hang động. Nhiều tốp lính Nhật đã tổ chức tự sát tập thể. Lúc 10:15, lá cờ Mỹ đã tung bay trên đỉnh Suribachi, trở thành lá cờ ngoại quốc đầu tiên cắm trên lãnh thổ Nhật Bản.[38] Ảnh ngọn cờ thứ nhất này đã được chụp bởi Louis R. Lowery, trung sĩ nhất thủy quân lục chiến, làm nhiệm vụ phóng viên nhiếp ảnh cho tạp chí Leatherneck Magazine của thủy quân lục chiến Mỹ. Khi lá cờ được cắm cũng là lúc bộ trưởng hải quân Mỹ James Forrestal vừa đổ bộ lên bờ tại chân núi Suribachi. Forrestal đưa ra nhận xét với tướng Holland Smith: "Việc giương ngọn cờ trên Suribachi có ý nghĩa đặc biệt với binh chủng thủy quân lục chiến trong năm trăm năm sắp tới"[39] đồng thời ông muốn lá cờ này làm vật kỷ niệm. Nhưng đại tá Chandler Johnson, người đã trao lá cờ cho đơn vị cắm cờ, cá nhân ông tin rằng lá cờ này thuộc về tiểu đoàn số 2 thuộc trung đoàn 28 dưới quyền ông nên ông đã cử trung sĩ Mike Strank lấy một lá cờ lớn hơn thay thế lá cờ cũ. Lá cờ thứ hai dài 2,4 m và rộng 1,4 m, lớn hơn nhiều so với lá cờ đang tung bay trên đỉnh núi, được tìm thấy trong một kho chứa vật liệu cũ ở Trân Châu Cảng, sau khi được thu hồi từ một chiếc tàu sắp chìm vào ngày 7 tháng 12 năm 1941.[40] Khi lá cờ thứ hai vừa được cắm lên thì nhiếp ảnh gia Joe Rosenthal, người đang săn tin về cuộc đổ bộ cho hãng tin Associated Press (AP), đã chụp được bức ảnh nổi tiếng "Raising the Flag on Iwo Jima". Trong bức ảnh của Rosenthal, có 5 thủy quân lục chiến và 1 quân y hải quân. 3 người trong số đó là Franklin Sousley, Harlon Block và Michael Strank chết trong trận này còn 3 người may mắn sống sót là John Bradley, Rene Gagnon và Ira Hayes. Bức ảnh đạt giải Pulitzer về nhiếp ảnh trong cùng năm đó. Nó cũng trở thành biểu tượng cho trận đánh và được sao chép lại rất nhiều.[41] Lá cờ thứ hai này tung bay trong 3 tuần lễ trước khi bị gió thổi bay mất.[42] Đến thời điểm này, người Mỹ đã làm chủ được 1/3 phía nam đảo từ đỉnh Suribachi đến sân bay số 1.

[sửa] Trận đánh tại phòng tuyến phía bắc

Mất Suribachi, người Nhật co về giữ phòng tuyến thứ nhất của họ chạy dài gần 3 km từ bờ phía tây qua qua góc phía nam sân bay số 2 đến bờ đông của đảo. Hệ thống phòng thủ của quân Nhật ở đây còn rất mạnh và thậm chí còn hơn cả khu vực phía Nam mà quân Mỹ vừa chiếm được.[43] Sư đoàn 4 và 5 tiến lên sau 76 phút bắn phá của hải pháo. Cả 2 sư đoàn này đều được các lực lượng thiết giáp dẫn đường. Tuy nhiên quân Nhật nhanh chóng chặn đứng các thiết giáp bằng vũ khí chống tăng và mìn. Đến cuối ngày hôm đó, sư đoàn 5 tiến lên chưa được đến 500 mét. Đến thời điểm này sư đoàn 3 đã được gọi tăng viện. Thiếu tướng Harry Schmidt được giao chỉ huy cả 3 sư đoàn tiến đánh phòng tuyến Nhật với sư đoàn 3 ở trung tâm có nhiệm vụ đánh chiếm sân bay số 2, sư đoàn 4 bên cánh phải và sư đoàn 5 bên cánh trái.

Lúc 9:30 sáng ngày 24 tháng 2, dưới sự yểm trợ mãnh liệt của pháo binh, sư đoàn 3 thủy quân lục chiến bắt đầu tiến đánh sân bay số 2, dẫn đầu là hai tiểu đoàn thuộc trung đoàn 21. Đây là vị trí phòng thủ mạnh nhất trong suốt phòng tuyến của Nhật. Địa hình ở đây vô cùng bất lợi cho lính Mỹ: chung quanh các đường băng toàn là những rãnh sâu, hố to, ngăn cách nhau bởi những vách đá nhọn như lưỡi cưa. Ngoài ra, họ còn phải đương đầu với một đối thủ cứng rắn là trung đoàn 145 thuộc sư đoàn 109 Nhật. Súng máy và súng cối Nhật liên tục khai hỏa vào quân Mỹ đang tiến lên. Để chống lại, Mỹ sử dụng xe tăng phun lửa, súng phun lửa và lựu đạn để thiêu cháy quân Nhật trong các ngách hầm và công sự bê tông ngầm. Chiến trường ngập trong lửa và thương vong của lính Mỹ rất lớn nên tốc độ tiến quân rất chậm, chỉ khoảng 10 mét mỗi giờ. Khi khói lửa đã trùm kín mục tiêu và không còn có thể sử dụng súng, hai bên xông vào đánh giáp lá cà bằng lưỡi lê, lựu đạn, báng súng cho đến cả cuốc xẻng. Xác chết đôi bên chồng chất lên nhau.

Sau hai ngày ác chiến, sư đoàn 3 thủy quân lục chiến Mỹ bị thương vong gần 2.000 người trong khi trung đoàn 145 của Nhật hầu như bị xóa sổ.[44]

Đến nửa đêm ngày 25 tháng 2, sư đoàn 3 Mỹ đã làm chủ sân bay số 2 và tiến dần đến làng Motoyama. Sư đoàn 4 và 5 cũng đẩy lùi được quân Nhật và tiến về phía Bắc. Ngày 26 tháng 2, sư đoàn 4 đến được chân đồi 382 ở phía đông nam làng Motoyama thì bị chặn đứng vì hỏa lực mạnh của pháo binh và bộ binh Nhật. Các trận đánh tại đồi này đã làm cho sư đoàn thiệt hại 792 người chỉ riêng trong ngày hôm đó. Quân Nhật đã trụ lại ở tuyến phòng thủ thứ hai, phía sau dãy đồi và ngôi làng Motoyama, chạy dài đến tận hai bên bờ biển phía đông và phía tây đảo. Tại đây một lần nữa hệ thống các hang động và địa đạo của Nhật lại chặn đứng quân Mỹ. Tổn thất của quân Mỹ tại Iwo Jima ngày càng nặng đến mức làm xôn xao dư luận cả nước.

Tờ Examiner xuất bản tại San Francisco số ra ngày 27 tháng 2 đã chỉ trích chiến lược của đô đốc Chester Nimitz vì muốn nhanh chóng tiến đánh Nhật Bản đã làm hao tổn biết bao xương máu thanh niên Mỹ. Tiếp đó tờ báo này ca ngợi tướng Douglas MacArthur đã đạt được mọi mục tiêu đề ra mà vẫn tiết kiệm được sinh mạng binh lính. Tuy nhiên, vào ngày hôm sau, tờ Chronicle cùng thành phố liền có ngay bài phản hồi. Tờ báo cho rằng chiến lược của đô đốc Nimitz đưa đến việc kết thúc sớm chiến tranh là cách tốt nhất để tiết kiệm xương máu binh sĩ. Ngược lại, các chiến dịch kéo dài của tướng MacArthur ở Phillipines là một sự phí phạm vô ích sinh mạng lẫn của cải nhân dân Mỹ.[45] Tranh cãi không chỉ dừng lại ở các phương tuyện truyền thông mà còn cả trong giới lãnh đạo lục quân và hải quân Mỹ. Tại cơ quan bộ tổng tham mưu lục quân, tướng George Marshall đề nghị quân đội Mỹ sử dụng hơi độc nhưng đã bị tổng thống Franklin D. Roosevelt và đô đốc Nimitz từ chối.[46]

Ngày 28 tháng 2, thủy quân lục chiến Mỹ đã chiếm được cao điểm để từ đó có thể nhìn thấy toàn bộ sân bay số 3 tuy nhiên các ngọn đồi quanh sân bay này vẫn nằm trong sự kiểm soát của người Nhật. Cũng trong ngày này, sư đoàn 3 Mỹ đã chiếm được làng Motoyama, nay chỉ còn là cảnh đổ nát. Ngày 3 tháng 3, đến lượt đồi 382 bị sư đoàn 4 Mỹ chiếm. Bị mất 2 điểm trọng yếu, tuyến phòng thủ thứ hai của quân Nhật bị bẻ gãy. Quân Mỹ chuyển sang chiếm đồi 362A. Để tấn công địa điểm này, quân Mỹ chuyển sang chiến thuật mới của tướng Erskine là tấn công ban đêm mà không dọn bãi bằng pháo để gây bất ngờ. Chiến thuật này đã trở thành chìa khóa quyết định cho việc chiếm được ngọn đồi khi quân Nhật không hề biết đến cuộc tấn công của quân Mỹ để chống trả và thậm chí một số lính Nhật vẫn còn đang ngủ.[47] Tuy nhiên, phải đến ngày 8 tháng 3, đồi mới bị chiếm. Cho đến ngày 3 tháng 3, vẫn còn khoảng 16.000 lính Nhật trong số 22.000 người ban đầu. Thương vong của lính Mĩ là 16.000 người trong đó có 3.000 người tử trận. Trong ngày này, trung tá Chandler Johnson, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2, người đã lưu giữ lá cờ đầu tiên trên đỉnh Suribachi cũng chết vì đạn pháo.[48] Ngày 4 tháng 3, trong lúc chiến sự vẫn đang tiếp diễn, một chiếc máy bay ném bom B-29 có tên Dinah Might đang ở gần đảo thông báo đã cạn nhiên liệu sau một cuộc không kích vào Tokyo và yêu cầu một cuộc hạ cánh khẩn cấp. Dưới hỏa lực của quân Nhật, chiếc máy bay đã hạ cánh thành công xuống sân bay đã được quân Mỹ kiểm soát, nạp nhiên liệu đầy đủ rồi tiếp tục thực hiện hành trình. Đến ngày 6 tháng 3, chiếc P-51 Mustang đầu tiên hạ cánh xuống sân bay Iwo Jima để yểm trợ về không lực cho quân Mỹ. Chiếc máy bay này thuộc lực lượng đặc nhiệm hàng không mẫu hạm số 58 đang chuẩn bị cho cuộc đổ bộ vào Okinawa ngày 1 tháng 4. Sáng ngày 7 tháng 3, sư đoàn 3 Mỹ sau một cuộc chiến đấu ác liệt đã chiếm được phần trung tâm đảo. Quân Nhật giờ chỉ còn trụ lại ở phía bắc và phía đông.

Tình hình lính Nhật tại Iwo Jima ngày càng rơi vào bi kịch với phần lớn thức ăn, vũ khí và nước uống đã cạn kiệt, tuy nhiên họ vẫn còn kiên cường kháng cự trong các nhóm chiến đấu nhỏ. Không còn súng chống tăng, lính Nhật tình nguyện buộc thuốc nổ vào người, bí mật nằm chờ chiến xa Mỹ đến để tấn công cảm tử. Sáng ngày 4 tháng 3, tướng Kuribayashi báo cáo tình hình chiến sự hai tuần lễ qua bằng vô tuyến điện:

Trước tình hình ngày càng tuyệt vọng, đa số sĩ quan Nhật tại Iwo Jima muốn tiến hành các cuộc tấn công tự sát. Mặc dù tướng Kuribayashi đã ra sức ngăn cản nhưng một số vẫn không tuân lệnh. Trong đó có thiếu tướng Sadasue Senda, lữ đoàn trưởng lữ đoàn hỗn hợp số 2. Đêm ngày 8 tháng 3, Senda tập trung các sĩ quan dưới quyền, ra lệnh thực hiện một cuộc tổng tấn công vào lúc 6:00 sáng ngày hôm sau. Để chấm dứt buổi nói chuyện, ông nói với họ: "Chúng ta sẽ gặp lại nhau, tối mai, ở đền Yasukuni". Cánh hải quân tán thành việc này nhưng việc truyền tin sai lệch đã khiến cho họ nghĩ là cuộc tổng tấn công sẽ diễn ra ngay trong đêm. Do đó, lúc không giờ, 1.500 sĩ quan và lính hải quân lặng lẽ tập trung tại phòng tuyến sư đoàn 4 thủy quân, nơi do hai trung đoàn 23 và 24 Mỹ nắm giữ. Tuy nhiên, cuộc tấn công đã bị quân Mỹ phát hiện và báo động khi có người hô "Banzai" (vạn tuế) quá sớm. Pháo binh Mỹ ngay lập tức nã pháo vào nơi tập trung quân suốt một giờ gây thương vong rất lớn. Những người sống sót bỏ chạy tản mác, tìm nơi ẩn nấp. Đến sáng ngày 09 tháng 03, tướng Senda đầu không đội mũ, quấn trên đầu một tấm vải trắng vẽ hình mặt trời đỏ, dẫn đầu một đoàn quân trang bị súng trường, lựu đạn, một ít súng máy và cả gậy tre vót nhọn. Pháo binh Mỹ đã tiêu diệt toàn bộ đoàn quân này, kể cả tướng Senda.[50] Nhật tổn thất 650 người sau đợt phản công bất thành này. Trong khi đó, đại úy Samaji Inouye dẫn 1.000 người tham gia tấn công vào các vị trí của quân Mỹ với ý định chiếm lại núi Suribachi. Cuộc tấn công này cũng bị đập tan với thương vong của quân Mỹ là 347 người (90 người chết). Ngày hôm sau, thủy quân lục chiến Mỹ đếm được tổng cộng 784 xác lính Nhật.[51]

Ngày 11 tháng 3, quân Nhật ở phía đông bắc đảo bị chia cắt khỏi phía tây bắc là nơi trú ẩn của tướng Kuribayashi và chuẩn đô đốc Ichimaru. Ngày 14 tháng 3, đô đốc Nimitz tuyên bố đã chinh phục được Iwo Jima và "tất cả quyền hạn của chính phủ Đế quốc Nhật Bản ở hòn đảo này đều bị đình chỉ".[52] Ngày 16 tháng 3, trận đánh được phía Mỹ tuyên bố đã kết thúc và hòn đảo đã ở trong tình trạng an toàn.[53] Ngày 17 tháng 3, Thủ tướng Nhật Bản Kuniaki Koiso thông báo trên đài phát thanh là lực lượng phòng ngự dưới quyền tướng Kuribayashi trên đảo đã chiến bại.[54] Tuy nhiên trên thực tế chiến sự vẫn còn kéo dài thêm nửa tháng nữa.

[sửa] Những ngày cuối cùng

Quân Nhật phòng thủ trên đảo giờ đây đã hết nước uống. Những tốp lính Nhật di chuyển từ các địa đạo đi tìm nước uống hầu như không trở về. Ngày 14 tháng 3, tướng Kuribayashi ra lệnh cho đại tá Masao Ikeda đốt quân kì trung đoàn số 145 để không lọt vào tay người Mỹ. Đây là trung đoàn đã anh dũng cản bước tiến quân Mỹ tại nhiều nơi và hầu như không còn ai sống sót. Lúc 5:35 chiều ngày 17 tháng 3, ông điện về Tokyo lần cuối cùng:

Ngày 17 tháng 3, một đặc chỉ từ Tổng hành dinh thăng ông lên quân hàm Đại tướng Lục quân tại mặt trận. Một số sĩ quan khác như Ichimaru được phong hàm phó đô đốc, Inouye được phong hàm chuẩn đô đốc và Nishi được phong hàm đại tá.[55] Cũng trong đêm đó ông hạ lệnh mở cuộc tổng tấn công cuối cùng: "Kể từ 0 giờ 1 phút ngày 18 tháng 3 năm 1945, mọi người sẽ chiến đấu đến chết, không ai được lo giữ tính mạng của mình". Bắt đầu từ đó, các sĩ quan Nhật trên đảo, cả lục quân lẫn hải quân đều chuẩn bị cho binh lính mình thực hiện những cuộc tấn công tự sát.

Trong khi đó, phó đô đốc Ichimaru viết thư hạch tội tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt. Lá thư này được trao cho một sĩ quan thông tin nhưng anh ta chưa kịp đưa bức thư trên cho người Mỹ thì bị bắn gục. Sau đó, thủy quân lục chiến Mỹ đã tìm thấy bức thư. Ngày 11 tháng 7, nội dung bức thư được in trên các tờ báo Mỹ. Sau đó, người Mỹ đem trưng bày nó tại bảo tàng học viện sĩ quan ở Annapolis, nơi Ichimaru từng có thời gian thực tập.[56]

Ngày 21 tháng 3, lô cốt hoang vắng của tướng Kuribayashi đã bị phá hủy và công việc này cần đến bốn tấn thuốc nổ. Trong cảnh tuyệt vọng, lính Nhật ngày càng trở nên liều lĩnh và hằng đêm họ đều cố xâm nhập vào phòng tuyến quân Mỹ.[57] Đêm ngày 25 tháng 3, 300 lính Nhật thực hiện cuộc tổng tấn công cuối cùng tại khu vực sân bay số 2. Các phi công, thủy quân lục chiến và cả công binh Mỹ đã đánh nhau với quân Nhật đến sáng và chịu thương vong lớn với hơn 100 lính Mỹ chết (bao gồm 59 binh sĩ thủy quân lục chiến) và 200 người khác bị thương.[58] Đó là sự kháng cự cuối cùng của người Nhật và hòn đảo được bộ tư lệnh Mỹ tuyên bố "an toàn" ngày 26 tháng 3. Trung úy Harry Martin của tiểu đoàn công binh số 5 đã trở thành binh sĩ thủy quân lục chiến cuối cùng của Mỹ nhận Huân chương Danh Dự trong trận đánh.[59][60]

Sáng ngày 27 tháng 3, tướng Kuribayashi ra khỏi hang cùng với đại tá Kaneji Nakane, sĩ quan tham mưu. Ông hướng về phía Bắc, hướng Hoàng cung, gập mình chào 3 lần rồi rút gươm mổ bụng tự sát.[56] Đại tá Nakane giúp tướng Kuribayashi hoàn tất nghi lễ bằng cách dùng gươm chém đầu vị tướng rồi mai táng thượng cấp của mình. Xong việc, ông quay về hang để báo cáo sự việc với đại tá tham mưu trưởng Tadashi Takashi và chuẩn đô đốc Ichimaru. Hai đại tá cùng nhau ra cửa hang rồi cùng dùng súng lục tự sát.[56] Tuy nhiên theo miêu tả của một số cựu binh Nhật trong trận này thì chính tướng Kuribayashi đã chỉ huy cuộc tấn công tự sát cuối cùng và chết trong khi chiến đấu.[24]

Gần 11 giờ khuya, chuẩn đô đốc Ichimaru cùng với 10 người còn lại, tay không vũ khí ra khỏi hang. Một loạt đạn súng máy Mỹ đã bắn chết ông cùng 2 người khác.[56] Đến đây trận Iwo Jima đã chính thức kết thúc sau hơn 1 tháng giao tranh.

[sửa] Kết quả

Sau hơn 1 tháng giao tranh ác liệt, quân Mỹ đã chiếm được hòn đảo. Trong số khoảng 22.000 quân bố phòng Nhật, 20.703 người đã chết trong khi chiến đấu hoặc do tự sát, chỉ có 216 người bị bắt làm tù binh.[1] Cũng có một vài tài liệu khác đưa ra con số 1.083 tù binh.[3] Một số còn lại ẩn náu trong các hang động, tiếp tục chiến đấu cho đến nhiều năm sau chiến tranh. Những người Nhật cuối cùng đầu hàng tại Iwo Jima là 2 người lính dưới quyền trung úy Toshihiko Ohno (Yamakage Kufuku và Matsudo Linsoki). Cả hai đã cầm cự trên đảo suốt 6 năm trước khi đầu hàng vào năm 1951,[61] một số tài liệu khác ghi ngày đầu hàng là 6 tháng 1 năm 1949.[62] Phần lớn xác lính Nhật bị vùi lấp trong các hang động và đến nhiều thập kỉ sau vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn vì tác dụng của khí lưu huỳnh.[63]

Về phía Mỹ, tổng số thương vong là 28.686 người trong đó có 23.573 người là của thủy quân lục chiến bao gồm 6.821 tử trận và 19.217 người bị thương.[64] Thương vong của lính Mỹ trong trận này còn hơn cả tổng số thương vong của phe Đồng minh trong Ngày D, ngày đổ bộ lên Normandie (ước tính khoảng 10.000, với tổng thương vong của lính Mỹ trong trận Normandie là 125.847 người).[65] Iwo Jima là nơi đổ bộ duy nhất tại Thái Bình Dương mà thương vong của phía Mỹ vượt hơn cả Nhật.[66] Khoảng 300 lính hải quân đã tử trận do các cuộc tấn công của Kamikaze.[24] Vì toàn bộ dân cư trên đảo đã được sơ tán nên tại Iwo Jima đã không có thương vong về phía dân thường như ở Saipan và sau này là Okinawa.[67]

[sửa] Ý nghĩa chiến lược

Thất bại tại Iwo Jima đã làm chấn động chính trường Nhật Bản. Ngày 5 tháng 4 năm 1945, Thủ tướng Kuniaki Koiso đệ đơn từ chức lên Nhật hoàng Hiro Hito vì những thất bại tại Leyte và giờ đây là Iwo Jima. Nhật hoàng ngay lập tức triệu tập hội đồng Jushin và đơn từ chức của Koiso được chấp thuận. Đêm hôm đó, đô đốc Kantarō Suzuki được bổ nhiệm làm thủ tướng khi ông đã 77 tuổi.

Còn về phía Mỹ, những thương vong tại Iwo Jima là sự cảnh báo cho những gì sắp tới sẽ xảy ra tại Okinawa cũng như khi quân Mỹ ngày càng tiến sâu vào lãnh thổ Nhật Bản. Ngay trong tháng 3, khi chiến sự còn đang tiếp diễn, các sân bay tại đây đã nhanh chóng được người Mỹ sửa chữa và đưa vào hoạt động. Ngày 10 tháng 3, các máy bay xuất phát từ Iwo Jima đã oanh tạc Tokyo; đến ngày 12 tháng 3 là Nagoya và 13 tháng 3 đến lượt Osaka. Các cuộc oanh tạc này ngày càng diễn ra thường xuyên hơn và mục tiêu nhắm đến không chỉ là các cơ sở quân sự mà còn cả các khu dân cư. Iwo Jima còn là nơi đặt các máy bay tiêm kích P-51 Mustang có nhiệm vụ bảo vệ những chiếc B29 khi tiến vào ném bom lãnh thổ Nhật Bản. Trong suốt Thế chiến thứ hai, 2.251 chiếc B-29 đã hạ cánh tại Iwo Jima. Ngoài ra, còn có 1.191 máy bay tiêm kích hộ tống cho 3.081 cuộc oanh tạc vào Nhật Bản xuất phát từ Iwo Jima.[59] Tuy nhiên việc Nhật Bản mất Iwo Jima đã không ảnh hưởng đến khả năng dự báo từ xa các cuộc oanh tạc nhờ radar của nước này. Các thông tin giờ đây đến từ đảo Rota, nơi mà không bao giờ bị tấn công.[68]

Sau khi chiến tranh kết thúc, đảo Iwo Jima vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của người Mỹ trong một thời gian dài. Năm 1960, đảo trở thành căn cứ quân sự và từng có cả vũ khí hạt nhân trên đảo.[69] Dưới áp lực của chính quyền Nhật Bản, năm 1968, đảo được trao trả trở lại cho Nhật và quân Mỹ cũng rút đi hết.[70] Ngày nay, đảo Iwo Jima nằm dưới quyền quản lý của chính quyền Tokyo.

[sửa] Kỷ niệm

Ngày 19 tháng 2 năm 1985, lễ kỷ niệm lần thứ 40 trận Iwo Jima, một sự kiện được gọi là "Cuộc sum họp vẻ vang" (Reunion of Honor) đã được tổ chức. Những người tham dự buổi lễ là những cựu binh của cả 2 phía Mỹ và Nhật đã từng tham gia trận đánh.[71] Địa điểm tổ chức chỉ cách vài mét nơi bãi biển mà 40 năm trước lính Mỹ đã đổ bộ.[72] Một tấm bia bằng đá granit đã được dựng lên trong buổi lễ với hàng chữ:

Trong lễ kỷ niệm 40 năm trận Iwo Jima, chúng tôi, những cựu binh Mỹ và Nhật đã gặp nhau một lần nữa tại nơi chiến trường xưa, nhưng lần này là trong hòa bình và tình bạn hữu. Chúng tôi cũng tưởng niệm cho các chiến hữu của mình, những người đã chiến đấu ở đây với tất cả lòng dũng cảm và danh dự. Chúng tôi cũng cùng nhau cầu nguyện cho những hi sinh của mình tại Iwo Jima sẽ được nhớ mãi và không bao giờ lặp lại.

Lễ kỷ niệm lần thứ 50 đã diễn ra trước đài tưởng niệm này vào tháng 3 năm 1995. Lần thứ 55 diễn ra năm 2000 và sau đó là lần thứ 60 vào tháng 3 năm 2005.

Sau khi trận đánh kết thúc, 27 quân nhân Mỹ đã được phong tặng "Huân chương Danh dự" (Medal of Honor), huân chương quân sự cao quý nhất của Mỹ trong đó có 14 người được truy phong. Trong số 27 tấm huân chương đó, 23 được trao cho thủy quân lục chiến và 4 cho các thủy thủ hải quân. Số huân chương này chiếm 30% trong số 82 Huân chương Danh dự trao tặng cho thủy quân lục chiến Mỹ trong Thế chiến thứ hai.[73] Ngoài ra để kỷ niệm chiến thắng, hải quân Mỹ đã đặt tên cho 1 số tàu chiến là USS Iwo Jima và một đài tưởng niệm đã được xây gần nghĩa trang quốc gia Arlington.

[sửa] Trong văn hóa đại chúng

Trận Iwo Jima đã được lấy làm bối cảnh cho nhiều tác phẩm điện ảnh của Mỹ sau đó. Ngay từ năm 1945, đã có hai bộ phim: To the Shores of Iwo Jima, phim tài liệu sản xuất bởi hải quân, lực lượng thủy quân lục chiến và Tuần duyên Hoa Kỳ, và Glamour Gal, một bộ phim với mục đích tuyên truyền có nội dung về hành trình của một khẩu pháo do thủy quân lục chiến Mỹ mang đến Iwo Jima.

Bốn năm sau, đầu năm 1949, hãng phim Republic Studios thông báo đang chuẩn bị thực hiện một bộ phim về vai trò của thủy quân lục chiến Mỹ trong Thế chiến thứ hai. Ngân sách dành cho bộ phim đến 1 triệu USD, khoản tiền lớn nhất trong lịch sử Republic Studios[74] và tên của bộ phim được đặt là Sands of Iwo Jima. Tuy bộ phim đề cập rất ít về Iwo Jima nhưng hình ảnh thủy quân lục chiến giương ngọn cờ tại Iwo Jima trở thành tâm điểm cho việc quảng cáo bộ phim.[75] Vai chính của bộ phim đã được giao cho ngôi sao đang lên của Hollywood trong thể loại phim hành động John Wayne và đặc biệt bộ phim có sự tham gia của 3 trong 6 người từng tham gia bức ảnh nổi tiếng "Raising the Flag on Iwo Jima" là John Bradley, Rene Gagnon và Ira Hayes.[75]

Đến năm 1953, đến lượt bộ phim Halls of Montezuma ra đời kể về câu chuyện của một nhóm thủy quân lục chiến Mỹ tại Iwo Jima. The Outsider, một bộ phim khác sản xuất năm 1961 có sự tham gia của Tony Curtis đóng vai người lính Mỹ cắm lá cờ tại Iwo Jima, Ira Hayes.[76]

Sau đó một thời gian dài, điện ảnh Mỹ không có thêm bộ phim nào về Iwo Jima. Mãi đến năm 2006, đạo diễn Clint Eastwood mới cho ra đời thêm 2 bộ phim về trận đánh là Flags of Our Fathers (Ngọn cờ cha ông) và Letters from Iwo Jima (Những bức thư từ Iwo Jima). Ngọn cờ cha ông được dựng theo góc nhìn của người Mỹ dựa trên cuốn sách cùng tên của James Bradley và Ron Powers do hai hãng phim DreamWorks Pictures và Warner Bros hợp tác sản xuất. Những bức thư từ Iwo Jima thì lại được xây dựng từ góc nhìn của người Nhật và vai tướng Kuribayashi Tadamichi trong phim do nam diễn viên nổi tiếng người Nhật Ken Watanabe đảm nhận.

Trong loạt phim truyền hình năm 2010 của HBO The Pacific, sản xuất bởi Tom Hanks và Steven Spielberg, sẽ có một tập phim liên quan đến trận Iwo Jima.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #iwo#jima