Trác thuý miêu
cuối nẻo cuồng phong
Trác Thúy Miêu
Nàng là loại đàn bà thụ hưởng không khoan nhượng. Đặt nàng vào khánh tận, tước mất của nàng những gã trai si tình, nàng sẽ lôi giật tấm màn cửa xuống đẻ làm nên một bộ váy trứ danh, và có bằng được mọi ngưỡng mộ phù hoa mà nàng xứng đáng. Nàng cần được khiêu vũ, tán tỉnh, sùng mộ, và nàng cần được hôn thật say đắm, đôi khi là bởi bất cứ ai.
Với Nàng, tất cả những điều đó không hề phi nghĩa khi nó đại diện cho danh dự giai nhân. Nàng bọc điều, hư hỏng, vô ơn, khốn cùng và luôn túng thiếu.
Nhưng nếu mỗi người đàn bà đều tìm thấy lối về thánh địa Tara của riêng mình, họ đều đã phải bỏ lại rất nhiều dọc đường thiên lý những gì thừa thãi để đủ nhẹ mà ngược chiều gió tìm thấy Bằng An.
Bạn là cô nàng phù phiếm, bạn thông minh mẫn tiệp, độc lập, cự phách trong kỹ thuật chăn dắt đàn ông, bạn vừa thực tế, vừa tham lam không buông bỏ dù một giấc mộng điên khùng phi nghĩa nhất? Người ta có thể cho rằng bạn là hiện thân của thái độ sống tân kỳ hiện đại, cho đến khi ngược dòng lịch sử, tìm về cuộc nội chiến xứ cờ hoa và gặp lại tiểu thư Scarlett mặc váy dạ hội may từ rèm cửa, băng biển lửa, điên cuồng tung roi trên cỗ độc mã kiệt quệ, bạn sẽ hiểu – chưa có gì thay đổi quá nhiều trong thế giới của đàn bà, từ những trận gió hoang dại thời Scarlett O’Hara.
Và ngày nào những cơn gió hoang của thời cuộc còn đổi chiều bạo liệt, thì vẫn chưa có gì thay đổi quá nhiều trên những chuyến đời quanh quẩn của những cô gái trở thành đàn bà nơi xứ lạ, bước qua những người đàn ông và những vết thương chỉ để trở về nhà – nơi họ tìm thấy điều phải mất một quãng đường quá xa để trở về và tìm thấy: Cõi Bình Yên.
Mọi cô gái luôn bắt đầu với một Ashley Nào Đó
Đã bao thập niên qua, người ta vẫn không thể quên hình ảnh nàng chỉ sau một lần ngự giá màn bạc cine, với mái tóc đen huyền, khuôn dung nhỏ nhắn, đôi mắt to ướt át và khuôn miệng bé như đầu đinh ghim, đôi khi mím lại thành một đường chỉ mỏng uốn cong ngạo mạn nơi khóe mép – một vai chánh toàn diện cho một thiên tiểu thuyết trên cả lãng mạn và bi tráng.
Nàng ngạo nghễ trình diện thế giới trong hình hài 16 tuổi như vậy – một trái táo xanh dốt, ngọt chua đồng bóng, cô nàng tiểu thư miệt vườn sôi nổi và dễ gây say của thái ấp Tara. Trong cuộc ra mắt đầu tiên với văn học và điện ảnh, Katie Scarlett chưa-hẳn-đàn-bà chỉ là một tiểu thần nữ thôn trang đỏm dáng, đa chiêu, ích kỷ và xinh xẻo như đúng mẫu những cô nàng con cưng của phần số. Tệ hơn nữa là cô nàng hoàn toàn ý thức được điều đó. Người ta có thể bắt gặp cô nàng ở bất cứ đâu bên ngoài điền trang Tara, dù là Mã Nhật Tân cận đại, hay lang thang đâu đó trong các department store thời thượng giữa Sài-gòn tạp chủng.
Bạn – cô gái tân thời, cũng có thể tìm thấy mình trong đó, khi mà người ta trẻ với mọi quyền ưu tiên của thanh xuân và nhan sắc, cũng chính là khi người ta vật nài thiếu thốn nhất bởi ô trống cuối cùng còn chưa kịp đong đầy. Cả bạn nữa, cũng là cô nàng bọc điều tội nghiệp.
Nhưng chớ nhẫm lẫn Scarlett với những cô em tóc vàng hoe nhạt chuyện. Nàng uyên bác, láu lỉnh và hiếu kỳ như một con cún con. Nàng trội bật hơn cả bởi phía trên đôi mắt búp bê là một vầng trán đĩnh ngộ và khóe mép luôn sẵn sàng uốn cong đầy miệt thị – một dấu hiệu rõ rệt của một nền giáo dục vô nhiễm và cầu kì. Người ta sẽ nghĩ nàng sinh ra chỉ để làm lệnh bà hay nữ tướng cướp, cho đến khi nàng ngớ ngẩn si tình như bất kì gái non nào, trước một con gà trống bảnh chọe và hời hợt của nhà Wilkes lập dị – những người chỉ kết hôn giữa anh chị em cùng dòng tộc.
Tuổi trẻ không thể hoàn thiện được nếu người ta không thiếu thốn một điều gì đó, và có thể là bất cứ điều gì. Anh chàng khó gần nhất sẽ là anh chàng ám ảnh nhất, mọi cô gái trẻ đều cần một bi kịch nhỏ của riêng mình để mặc sức cài đính lên đó một vầng hào quang nhân tạo.
Khi người ta còn trẻ, người ta cần phải thấy thiếu bất cứ một Ashley Wilkes nào đó, hững hờ và ẻo lả đúng điệu một thanh niên quý phái miệt vườn, để cô nàng đỏng đảnh biến thành như một chú cún bất an, tuyệt vọng và hoàn toàn bất lực. Cô ả “thạch sùng còn thiếu mẻ kho” sẽ thấy khánh tận và tuyệt vọng khi cả thế giới chỉ thiếu mất đúng một nam thần miền Nam có mái tóc vàng. Nàng vùng vằng hờn dỗi một nỗi sầu không bao giờ lỗi mốt, và nàng vô ơn với tất thảy đặc ân của số phần, khinh bạc dù chỉ cần vài năm sau, những hồi ức về anh chàng nhạt vía cũng đủ khiến cô nàng phá ra cười lăn lộn.
Nhưng lúc này, nàng, và bất kì cô nàng nào khác, những nữ hoàng bi kịch và những nữ chiến binh bất bại, hẵng còn quá trẻ trung, mê đắm và hung hăng để hiểu một chân lí rất tầm thường: Ashley, cũng như mọi anh em từ đồng tuế đến hậu duệ của chàng, vẫn chọn khép chặt cửa khuê phòng cùng với một người bạn phối ngẫu nhàn nhạt và an toàn. Họ có thể tán thưởng vẻ nũng nịu yêu kiều của một O’Hara kiêu hãnh, nhưng không dại dột hoặc không đủ bản lãnh để chọn nhốt chung chuồng với con mèo cái bốc đồng và diễm lệ ấy – một tạo vật vượt quá tầm thống trị của họ, những gã Ashley An Toàn.
Góa phụ thiếu niên và gã hoang đàng sáng giá
Lòng tự trọng bị tổn thương đến cuồng nộ dấy lên cùng lúc với cuộc đại chính biến Bắc Nam của lịch sử Hoa Kỳ. Sĩ quan kiêu hùng Ashley dìu nàng Melanie, mà so với Scarlett là quá đỗi mờ nhạt vô vị, của mình vào căn phòng chồng vợ, bỏ lại phía sau cánh cửa khóa chặt một tiểu nữ thần căng phồng tía tái trong cơn đại thịnh nộ của ghen tuôn, tổn thương và kiêu hãnh. Cơn thịnh nộ được trút lên đầu bất kì tay dớ dẩn nhất cầu hôn với nàng lúc đó bằng sự chấp thuận. Nghiễm nhiên, Scarlett trở thành phu nhân của cậu Charles đang phát cuồng vì lòng biết ơn vô hạn trước sự hào phóng bất ngờ của thần Tình Ái.
Cùng đợt sóng hàng loạt thanh niên từ những điền trang hòa lành nhập ngũ, cuộc nội chiến tước khỏi vầng hào quang của nàng những kẻ ái mộ trung thành, và Ashley – lí tưởng sống của nàng, sao khuê của nàng, con mồi điên cuồng của cơn háu tình về si đắm, vừa sặc mùi ăn thua đủ của nàng. Cú trả thù vặt bằng cuộc hôn nhân hờ đã chẳng thể làm Ashley ghen tuông đau khổ như mong đợi. Chàng ra đi, cùng tất cả mọi gã trai miền Nam, những kẻ hàng ngày vẫn tắm tưới nàng bằng mọi đón đưa êm ái, để mặc tiểu nữ thần ê chệ trước nụ cười vạch rãnh chân chim của tay thương nhân gian hùng lắm điều tiếng miền Charleston, Rhett Butler. Gã vô hiệu hóa lòng kiêu hãnh trẻ nít của nàng, xuyên thấu cả lớp váy phu nhân cùng những điểm tô phấn sáp mỏi mòn của nàng để che khuất cuộc tình tẽn tò và nỗi khánh tận ê chề về sau.
Cuộc hôn nhân hời hợt kết thúc như bắt đầu, Scarlett nghiễm nhiên trở thành góa phụ bởi một trận sởi của đức ông chồng tội nghiệp. Từ điền trang an hòa miền Nam nước Mỹ, tiểu thư O’Hara trưởng thành, chưa kịp làm đàn bà đã thành quả phụ, dấu đôi bàn chân nhỏ thoăn thoắt bước vũ cồn cào bên dưới lớp váy tang đen khả kính: “Than ôi, mạt vận rồi! Rồi sẽ chẳng còn điều gì xảy ra với cuộc đời tôi nữa!”
Chúng ta đã bao nhiêu lần thốt lên như vậy sau một cuộc tình hỏng kiểu? Nôn nóng háu đói trước những mời mọc còn quá ê hề của cuộc sống mà tưởng như vĩnh viễn không còn dành cho cô nàng xúi quẩy đáng thương duy nhất. Chúng ta thật đã ngô nghê biết bao!
Không buông bỏ hình bóng Ashley một cách đầy tuyệt vọng và phi lý, Scarlett giang tay cưu mang cả người vợ đang mang thai của tình quân trong mộng, cùng đối mặt với cuộc sống giữa lòng cuộc chiến. Không chỉ một lần, nàng tuyệt vọng đón nhận sự hào phóng từ gã Rhett tinh quái nọ, dù là một bản khiêu vũ trong chiếc váy tang đen, chiếc mũ hoa cẩm tú “còn thơm mùi Paris” đỏm dáng,… Nhưng gã chỉ từ chối nàng điều duy nhất mà nàng quá sẵn lòng ban phát: “Mở mắt ra đi cô em, tôi không định hôn cô đâu, bởi cô chỉ đang thèm được hôn quá thôi đó mà!”
Và chỉ với một cử chỉ khước từ trịch thượng như vậy từ gã hoang đàng trắc nết, đã khiến Ngài Butler trở nên bội phần kích thích, sáng giá, và đáng chiếm hữu biết chừng nào.
Tông đồ, quỷ dữ và người đàn ông được chọn lựa bất kì
Mọi mối quan hệ với một Rhett Butler đều đáng được coi là món trang sức sáng giá cho một người đàn bà. Ít nhất là một khi Ashley Wilkes vẫn còn bặt dạng giữa cuộc hỗn chiến. Cùng lúc, dẫu sao thì nàng vẫn giữ chặt vợ chàng bên cạnh trong vòng tay bảo bọc cao thượng của mình, cũng là để giữ trong tầm tay mối dây duy nhất giữa nàng với cuộc tình dai dẳng tuyệt vọng của mình.
Ả tiểu yêu đỏng đảnh và đa chiêu vẫn tiếp tục cuộc chơi tinh quái. Trong cử chỉ tưởng như thoát ra từ lòng trắc ẩn, bản năng bao bọc của người đàn bà vĩ đại, và ở tư thế gia ơn với người trong mộng, nàng ẩn chứa trong lòng một khoái cảm độc địa khi đặt gia đình Ashley vào vòng tay bảo trợ của mình. Nhưng chính bên trong cái trù hoạch độc địa ấy, Scarlett lại nảy sinh một bản năng bảo vệ vợ con của người mình yêu một cách mãnh liệt. Bản ngã hào hiệp và thói ích kỷ độc địa của đàn bà đang yêu đã kiến tạo nên nàng như thế, nửa tiên nữ, nửa ác thần. Cái trách nhiệm cao thượng vừa phi nghĩa ngông cuồng biến tiểu thần nữ thái ấp Tara thành người đàn bà thực tế, quyết đoán, thủ đoạn, và không khoan nhượng một cách thật thà, như mọi người đàn bà sinh ra để sống sót. Nàng có thể cưu mang vợ của người tình, và cũng có thể kết hôn với hôn phu của em gái. Nàng có một lý trí nhạy bén, một bản lãnh phi thường và một thanh danh hạng bét.
Giữa cao trào chính biến, Scarlett băng bể lửa tìm thoát tâm bão cuộc chiến tìm đường sống. Nàng điên cuồng và cô độc trên cỗ mã xa mang theo người mẹ nhợt nhạt và đứa hài nhi vừa sinh hạ dọc đường. Một thứ lí tưởng điên rồ, phi lý, nhưng cao thượng và bi hùng một cách lộng lẫy rất đàn bà trên cái phông nền bối cảnh của cuộc nội chiến đẫm máu.
Nàng khiến người ta nghĩ đến vị tông đồ hộ giá Mẹ Đồng Trinh trong đêm tìm về máng cỏ Bethleem.
Người ta, hay nói đúng hơn là đàn bà có thể trở thành những siêu anh hùng và những vị thánh khi có một cái cớ, đôi khi là cái cớ phù phiếm và vị kỷ nhất do họ tự tô điểm nên đầy diễm ảo.
Hãy cho người đàn bà một người đàn ông, cô ta sẽ tự lo liệu phần còn lại của thiên tiểu thuyết đàn bà.
Ngày tàn của những nam thần tráng men
Có hai loại phụ nữ trên đời: loại thứ nhất coi “thụ hưởng” là một từ xấu. Và loại còn lại.
Họ tham lam, họ ham sống và phải sống sung sướng, họ thậm chí có thể có tất cả điều mình muốn đến cùng cuộc hôn nhân với người đàn ông biết hôn nụ hôn đình đám nhất lịch sử điện ảnh. Giá như Rhett Butler không có một bản lĩnh tài chính vững vàng của tay buôn súng thời chiến, có thể nàng đã yêu người chồng thứ 3 này của mình nhiều hơn chăng? Scarlett tội nghiệp, nàng vẫn thiếu thốn cùng cực trong cuộc sống xa hoa hậu chiến của mình.
Nàng luôn luôn thiếu thốn một điều gì đó, và việc này khiến nó trở nên hệ trọng quá mức bình thường. Ashley, vẫn là Ashley, là một hình mẫu thích hợp cho bức tượng thánh thiêng liêng lóng lánh đã được vay mượn để người đàn bà sống, yêu, mơ mộng, và đạp bằng mọi chướng ngại. Chính quãng thời gian quá dài mà nàng đầu tư cho mối tình đơn phương ấy đã khiến nó trở nên hào nhoáng và thiêng liêng, bao bọc vòng hào quang xung quanh mái tóc hoe vàng và khuôn diện thanh tú nhợt nhạt của quý ngài Ashley Wilkes…cho đến khi Melanie qua đời, bỏ lại Scarlett không đối thủ và một nam thần ủ dột lỗi thời và nhạt vía. Cái cốt lõi háo thắng và phù phiếm của người đàn bà tiu nghỉu lụi tàn, không đủ khiến nàng đánh đổi vòng tay kẻ mạnh của Rhett Butler để chiếm hữu một bức tượng được tô màu sặc sỡ.
Chúng ta, những chiến binh háo thắng trong cuộc mưu cầu hạnh phúc, đôi khi si mê chính cuộc chinh chiến lẫy lừng lẫm liệt hơn cả phần thưởng cuối cùng. Bạch mã hoàng tử một thời hiện nguyên hình thật thà một sĩ quan thất trận, một nhà quý tộc thất thế, và một người đàn ông góa bụa, đặt lời tỏ tình muộn mằn lên đầu gối người đàn bà đã đi qua một cuộc chiến trong vai trò thánh nữ, mẹ, và đàn bà.
Lớp tráng men mỡ màng tróc vảy, trớ trêu đặt dưới chân nàng nguyên vẹn một Ashley Wilkes vô can, thất hồn và xa lạ – kẻ xứng đáng được để yên trong nỗi muộn phiền góa bụa sau một vòng tay an ủi muộn màng.
Sự mất mát cuối cùng và miền bằng an bất biến
Sự thương hại và lòng từ tâm mà Ashley tội nghiệp còn có được từ Scarlett lại, oái oăm thay, chính là thứ duy nhất nàng còn có được từ người đàn ông duy nhất biết về nàng và từng thật sự yêu nàng.
Mọi cố gắng của Scarlett đã quá muộn, Rhett đã cho đi sự kiên nhẫn cuối cùng trước ngưỡng tự trọng tôn nghiêm của đàn ông tính. Cuộc ái ân cay nghiệt cuối cùng, một đứa trẻ chết yểu trên lưng ngựa và một cuộc sẩy thai đã là quá đủ để hoàn toàn phá hủy cuộc hôn nhân thứ ba. Trong nỗi đau đầy cáo buộc của Rhett, Scarlett soi mình để nhìn thấy sự thất bại ê chề qua người chồng kiên nhẫn và những đứa trẻ bị bỏ rơi bên lề chinh chiến của người đàn bà lắm cuồng vọng “Làm mẹ à? Một con mèo còn biết làm mẹ hơn cô!”
Lần thứ hai trong đời, nàng có tất cả. Và cũng như mọi lần, nàng khánh kiệt, túng thiếu, cô độc đến khốn cùng. Rhett sập lại cánh cửa trước mọi cố gắng tuyệt vọng của Scarlett để được yêu chồng như một người vợ tôn ngưỡng và ăn năn.
Người ta cần đến hơn quá nhiều lần mất mát để đặt xuống những phù phiếm thừa thãi, và những muộn màng không thể nào sửa chữa.
Người ta cần đến hơn quá nhiều lần mất mát những điều sinh ra để mất mát: những người đàn ông và những đứa trẻ mong manh như nhau, chỉ để nhận chân điều thiêng liêng, an toàn, và chung thủy cuối cùng.
Có thể Thượng Đế luôn biết Ngài đang làm gì trong bức đại đồ phần số, trong khi những đứa con cưng của Ngài mù lòa trong quá nhiều nhu cầu, và những thiếu hụt tưởng như quá chừng to tát. Ta luôn ngoái lại sau lưng và xót tiếc những điều bất khả vãn hồi, để tiếp tục tạo ra những phần phước bị lãng quên ngay trước mắt. Phải mất mát và đau đớn lắm để nhìn ra miền bình yên được đặt để sẵn cho mỗi người.
Điều đến cùng ta khi đến với cuộc đời này, và bất biến cho đến ngày cuối – như một mảnh đất để ở và mảnh đất để nằm lại.
Và nút thắt huyền vi của tác phẩm được cởi ra, điềm nhiên như sự thức tỉnh sau cú rơi chạm đáy:
- Rhett, đừng bỏ em, rồi em sẽ đi đâu?
- Thật tình, cưng ạ, anh mặc xác!
Không lí giải, không biện luận, và không còn cần quá nhiều dữ kiện để trong sự mất mát cuối cùng, người ta mới có thể nhận ra điều không-thể-mất.
Nàng trở về không vì mệt mỏi, bởi người ta đâu thể tìm về Bằng An như một chặng nghỉ chân.
Nàng trở về mà như lần đầu đi đến. Cuối cùng thì mỗi người đàn bà đều có cho riêng mình một Tara, tự tại, an nhiên, và bất biến, trước và sau tất cả những chặng viễn du. Rhett Butler bước ra khỏi đời nàng, giúp nàng đặt xuống ảo mộng thừa thãi cuối cùng.
Đoạn đời của giai nhân điền dã bị cuốn theo cơn lốc thời cuộc như thế: đúng một vòng bão tố, để an nhiên khép lại đúng gốc cây định mệnh để, như ngài Gerald O’Hara đã từng, nhìn bao quát mảnh đất máu huyết thiêng liêng “Tara! Nhà! Tôi về nhà thôi. Và sẽ nghĩ ra một cách nào đó để có lại được chàng. Cuối cùng thì…ngày mai sẽ luôn là một ngày mới!”
Cơn gió thời cuộc của đại chiến Bắc-Nam đã cuốn bông hoa miền Georgia đi đúng một vòng lốc xoáy, để đặt nàng lại chính nơi cuộc viễn du bắt đầu, trong hình hài người thiếu phụ ba chuyến đò hai lần góa bụa. Nhưng kẻ sống sót sau cuộc chiến vẫn chưa thể ngừng tồn tại, vòng miên viễn còn xoay theo chiều gió, và rất có thể, bình yên chưa hẳn sẽ đến vào ngày mai.
Nhưng rồi mỗi Tara của mọi Scarlett vẫn luôn ở đấy, nơi để tìm về, xoa dịu và chữa lành, an nhiên và tự tại, như điều duy nhất có thật để xứng đáng cho mọi cuộc chiến sinh tồn, mỗi giá trị bản ngã chí tôn và lòng kiêu hãnh cùng tình yêu thiêng liêng bất biến.
-------------------------------------------------------------
báo lửa latin
Trác Thúy Miêu
Hẳn nhiên, nàng không sở hữu một làn hơi phồn thực như vòng ba của mình, nhưng ắt hẳn rằng nàng biết hát, như một nghệ sĩ giải trí chánh hiệu. Nàng ý thức được mọi món quà mà Tạo Hóa đã ưu ái trao tặng cho nàng, và sử dụng chúng vừa điệu nghệ, vừa tận lực đến cạn cùng. Nàng đứng đó trên sân khấu, nhảy múa như bản chất, hùng hổ như một nữ tướng, nàng tóc rối mặt trần trên màn bạc, khai thác triệt để nét nheo đuôi mắt quen thuộc, cặp môi gợi tình, nàng ở đó, hung hăng và lộng lẫy trên ghế nóng quyền lực của show truyền hình danh giá, và như những lọ nước hoa nàng say sưa tung vào thị trường mỹ phẩm, tất cả chưa bao giờ là có một khoảng lặng đủ lâu cho sự quên lãng. Nàng là Báo Lửa mang dòng máu Latin.
Nàng đảo lộn khái niệm về hình ảnh kinh điển của một “cục cưng của Mỹ” bằng làn da rám, đôi lưỡng quyền bén ngót, cặp mắt Đông phương, vòng hông phồn thực và mái tóc mây màu lửa. Nàng len lỏi hiển hiện bằng âm nhạc của mình, trên màn ảnh nhỏ, và vào tận tủ trang phục của mỗi căn hộ thị dân kiểu mẫu không chỉ của nước Mỹ. Mỗi lần vào phòng thu của nàng là một lần đe dọa cát cứ lẫy lừng các bảng vàng Billboard, nàng “phóng hỏa” màn bạc cine Hollywood bằng chất lửa Latin ngay trên đấu trường tỏa sáng hầu như chỉ dành cho những giai nhân da trắng. Trong cuốn Icons of American Popular Culture (2009), Robert D. Cotrell đã ví von Lopez là một Oprah Winfrey của người Latin, một nhân vật đương thời cho những huyền thoại “vượt lên chính mình” kiểu Mỹ: “Nàng là một nghệ sĩ giải trí hoàn hảo và trở thành một thế lực tài chính thực thụ (…) Lopez chứng minh rằng một Latina hoàn toàn có thể hiện diện ở thượng tầng yếu nhân Hồ-ly-vọng, nghệ sĩ thu âm hàng đầu, chơi ngon lành trong đấu trường kinh thương, chỉ với vài lọ nước hoa tay ngang mà bỏ túi ngon ơ 500 triệu Mỹ kim niên lợi.
Lopez đã ngang nhiên bước vào hàng “thế lực băng đĩa” với xuất thân “lờ nhờ” về một cô gái đẹp nhảy nhót vui mắt, và đặc biệt, phong cách Latin sặc sụa gắn liền nàng với dòng nhạc luôn mang số phận ngoài luồng, dòng nhạc nhảy dành cho cộng đồng Latin và “sang không nổi”.
Nàng quá đẹp để hát như một nữ thần âm nhạc, nhưng đủ đẹp để kết hợp vũ đạo vào thứ âm nhạc được coi bằng mắt.
Không có nhiều cô gái đẹp minh chứng thành công điều ngược lại. Nàng không chỉ khôn ngoan và tỉnh táo, mà còn sở hữu một khả năng lao động cật lực đáng nể. Mỗi một phát ngắm đều mang hứa hẹn xuyên hồng tâm thị trường ở hiệu quả thuyết phục nhất, dù đó là một dự án âm nhạc, hay một biến cố cuộc đời. Nàng được coi là những thân hình Vệ Nữ đầy lửa trên sàn diễn, nhưng đứng thăng bằng một cách hoàn hảo không một lần quá tay sa chân từ gợi tình đến gợi dục – điều mà ngay cả các nhà mỹ học cũng khó lòng phân định.
Trong suốt chiều dài sự nghiệp, Lopez thoăn thoắt thay đổi phong cách cá nhân, và liên tục ghi điểm tối ưu với mọi kiểu tóc. Mỗi kiểu trang phục của nàng làm nên trào lưu, và mỗi lần xuất hiện là một lần làm nên huyền thoại, như sự việc chiếc váy màu lông công trên thảm đỏ Grammy đến nay vẫn là một điểm son huy hoàng của nhà Versace. Chiếc váy có thể làm nên một lần khuấy động thảm đỏ cho nhan sắc Lopez, nhưng thần diệu hơn, chính danh tiếng Lopez cũng điểm trang cho niềm hãnh diện của quyền lực thời trang Versace.
Người ta gọi nàng là “ngư nữ”, là “búp bế phố Bronx”, nhưng nàng tuyên bố “Nếu vậy, tôi là một búp bê thiện chiến. Đấm đá tôi liên tiếp đi, tôi vẫn thừa mạnh để nghiến răng tung ra nguyên vẹn trận mưa đòn đáp trả, cho đến khi thắng. Tuổi thơ tôi đâu chỉ là một cô ballerina bằng sứ mặc váy xòe. Tôi tập quyền anh để dư sức chịu đòn 15 hiệp.”
Định mệnh từ nàng Đạm Tiên Selena
Từ một cô nàng vũ công gốc Ecuador chuyên múa phụ họa cho New Kids on the Block hồi 1991, nàng cặp kè với cô nàng Cruz cùng làm chuyến đổi đời tới Los Angeles và sắm một vai trò khiêm tốn cho một show truyền hình cho đến tận 1993. Nhưng như đã thấm vào máu, không một bước ngoặt nào của Lopez mà không được thực hiện bằng những bước nhảy. Nói một cách khác, nàng nhảy múa dọc đường dài vinh hiển. Ngay từ khi mới đến L.A. và hẵng còn là một vũ công minh họa cho New Kids on the Block, Lopez lại tiếp tục làm vũ công dự bị cho các show của Janet Jackson, và được chọn rong ruổi theo “gánh” Janet World Tour hồi cuối 1993, nhưng nàng chối từ, như một động thái chủ động cự tuyệt vai trò một vũ công minh họa đến mãn kiếp. Nàng chọn chật vật với đài CBS để xuất hiện trong bộ phim Second Chances. Cuộc động đất Northridge năm 1994 phá hủy toàn bộ phim trường và bộ phim phải ngưng lại hoàn toàn khi chỉ mới phát sóng 6 tập. Lopez lại lắt lay với bộ phim truyền hình khác, Hotel Malibu, và cũng chỉ được phát sóng vài tập trước khi phá sản hoàn toàn, lần này bởi một lí do giản dị hơn: bộ phim quá dở!
Dấu son thật sự chỉ được ấn định ngay vào khi nàng nếm trải đòn dư luận. Khi thủ diễn vai Selena trong bộ phim cùng tên, ngay từ những ngày mới bắt đầu bấm máy đã chịu sự đả kích dữ dội từ cộng đồng Mỹ-gốc-Mễ. Họ nổi trận lôi đình và cho rằng phải một cô đào gốc Mễ mới bảo đảm tinh thần chủng tộc của Selena. Nhưng ngược lại, các nhà phê bình và báo giới tỏ ra hào hứng với cuộc hóa thân hoàn hảo của cô nàng gốc Ecuador với những trang viết bạt ngàn hào phóng tụng ca. Bộ phim Selena đã được làm ra để tôn vinh chính cô nàng gốc Ecuador, có phần lừng lẫy hơn cả cuộc tôn vinh dành cho nguyên bản thần tượng Mễ Tây Cơ. Nàng Lopez ẵm ngon ơ giải Quả Cầu Vàng Best Actress in a Motion Picture Musical or Comedy.
Cũng chính hồn vía của Selena, bộ phim ghi dấu cuộc lấn sân chớp nhoáng thứ hai của Báo Lửa sang lãnh vực âm nhạc. Đáp trả sự hậm hực của dân Mễ về nguồn gốc của nàng, sau thành công vang dội của Selena, Lopez phơi phới tuyên bố nàng “chưa bao giờ ý thức mãnh liệt hơn về dòng máu Latin của mình”. Say sưa với thành công của bộ phim, Lopez gửi ca khúc tiếng Tây Ban Nha Vivir Sin Ti do nàng thực hiện trong phim đến hãng đĩa Sony và được nồng nhiệt chào đón. Lopez được khuyên rằng ca khúc sẽ bán chạy hơn nếu nàng Mỹ hóa cái niềm kiêu hãnh Latin đó một chút bằng phiên bản tiếng Anh, và album đầu tay của Jennifer Lopez ra đời như vậy, mang cái tên sang cả On the 6.
Như một ngôi sao lắm bạo mộng và cũng giàu tự ái, Lopez ý thức được sự đón tiếp nồng hậu của hãng Sony dựa chủ yếu vào ngoại hình và tiếng tăm màn bạc sẵn có của nàng. Nhưng con báo lửa đã nhập cuộc, giờ thì như mọi cuộc chuyển đổi ngành nghề của bất cứ người mẫu và diễn viên nào trên cõi nhân gian, cô nàng muốn minh chứng rằng chính giọng ca của mình sáng giá hơn tất cả, và rằng nàng đã được sinh ra cho nghệ thuật âm nhạc chuyên chính. Công luận hoài nghi tham vọng đồng bóng của nàng, tất cả cùng đợi chờ kết thúc lạc tông nữa của nhan sắc lạc loài trong thế giới của những diva âm nhạc. Lopez không chỉ đặt cược một cú thua chí mạng trên thị trường đĩa nhạc, mà còn là sự hủy hoại toàn phần với danh vọng màn bạc vừa chớm xây dựng được với không ít kì công.
Trót một cửa bạc, nàng xấp ngửa tranh thủ thuở tiếng tăm còn đang được ưu đãi, liền tay tung ra dòng thời trang, nước hoa và phụ kiện đóng mác J.Lo by Jennifer Lopez ngay trúng vào mùa săn nóng bỏng nhất, với sự hậu thuẫn của cá mập Andy Hilfiger và Larry Stemmerman. Cùng lúc mạnh tay củng cố chiến địa đang hồi thượng phong, Lopez tiếp tục kí hợp đồng với phim Out of Sight diễn cùng nam thần Hồ Ly Vọng George Clooney, và sau khi công chiếu, Lopez nghiễm nhiên trở thành cô đào Latin đầu tiên kiếm ngon ơ hơn triệu Mỹ kim cho một bộ phim. Trong tất cả mũi tấn công tứ phía về mọi lãnh vực giải trí ấy, Lopez đón lỏng luôn thị phần thiếu nhi với giọng cô kiến Azteca trong bộ phim hoạt hình Antz.
Súng lục, thảm đỏ và váy xanh…
Rồi mùa thu hoạch cũng đến, quả bom ca nhạc On the 6 chính thức công phá thị trường băng đĩa Hoa Kỳ vào mùa hè 1999, lọt thỏm vào top 10 Billboard200. Học được bài học từ điện ảnh, Lopez khôn ngoan chọn song ca cùng divo Latin Marc Anthony bản No Me Ames và lại thắng đậm. Nền công nghệ giải trí nghiêng mình đầy thận trọng trước người đàn bà có làn da màu lửa với những “tài lẻ” đủ để bao sân hoành tráng thị trường giải trí đa diện của thế giới. Chỉ trong 12 tháng, từ một minh tinh, nàng trở thành ngôi sao nhạc pop.
Nàng cặp kè với Sean ‘Diddy’ Combs. Trong một vụ xô xát tại hộp đêm ở Manhattan, Lopez và Combs chạy khỏi hiện trường nhưng bị cảnh sát chặn lại và tìm thấy khẩu súng ở băng ghế trước. Combs hầu tòa, Báo Lửa không chờ quá lâu để quyết định chia tay với cuộc tình phiền phức.
Một khi đã án ngữ vinh hiển các chiến địa nóng bỏng nhất của thị trường giải trí Mỹ, nàng cần một cuộc chơi mới, đẹp mắt hơn, để tái củng cố hình ảnh, thay vì chấp nhận kết cuộc thường thấy của các nữ minh tinh sau mỗi cuộc tình bê bối. tại lễ trao giải Grammy lần thứ 42, Báo Lửa khôn ngoan và diễm lệ xuất hiện trọng chiếc váy Versace xanh nhức nhối màu đuôi công nhiệt đới, mỏng ngốt người, và phong phanh đến sốt ruột. Bộ váy và những gì nó không che đậy hút flash một cách hiệu nghiệm. Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, có tới 642,917 lượt download hình ảnh nàng trong bộ váy huyền thoại nọ từ website chính thức của Grammy, trong khi Lopez tỏ ra thản nhiên và vô can trước sự ưu ái ồ ạt ấy dành cho… chiếc váy.
Khi mà hào quang màu đuôi công thắm thiết ấy còn đang gây rần rật toàn cầu trên mạng internet, J.Lo đã kịp lao vào phim kinh dị dòng biến thái The Cell.
Mùa thu đầy ác mộng năm 2001, trong khi cả nước Mỹ còn quằn quại sau vụ tấn công tòa tháp đôi, thì tại ngôi gia huy hoàng ở ngoại ô L.A., nàng cưới một đồng nghiệp cũ – nam vũ công Cris Judd. Ngay sau đó, bà Judd cùng 60 nghệ sĩ Latin khác cùng ghi âm bản El Ultimo Adios để tưởng nhớ ngày 11 tháng Chín tang thương.
Một năm sau, mặc dù diễn xuất hoàn hảo trong pha đánh chồng trong phim Enough, bộ phim không mấy thành công, Lopez rầu rĩ thừa nhận với báo giới rằng nàng đã trải qua giai đoạn trầm cảm khi thực hiện phim này. Chẳng rõ nội vụ thế nào, chỉ biết rằng nàng đệ đơn xin bỏ chồng hầu như ngay sau đó. Và cũng hầu như ngay sau đó, công khai du dương với kép đẹp Ben Affleck. Công chúng ham mộ của Lo thở phào phỉ chí – cuối cùng thì nàng cũng cặp kè với một trang nam tử nên thân nên hồn. Chàng và nàng đẹp và vừa vặn như một cặp búp bê bánh cưới vậy. Không phụ lòng bà con, vài tháng sau chàng cầu hôn nàng và báo giới ghép cái tên chung Bennifer cho cặp tượng đài ái tình toàn mỹ của văn hóa pop Mỹ. Cái tên chung này của cặp đôi về sau trở thành một trào lưu ghép tên trong các cặp đôi ngành giải trí, khi mà cuộc đời chưa có tên Brangelina!
Từ Ben đến Marc…
Người đàn bà đang yêu hào hứng tung luôn ra dòng nước hoa long lanh hạnh phúc Glow by Jlo. Giới perfumist ái ngại cho cuộc lấn sân dại dột của nữ hoàng giải trí, nhưng Glow – như mọi sản phẩm ghi dấu ấn JLo, nghiễm nhiên lọt vào danh sách những dòng nước hoa cháy chợ nhất nước Mỹ. Nước hoa của nàng, như các tín đồ mùi hương ca tụng, mang trở về thuở hoàng hoa của những dòng hương mang chữ kí ngôi sao và mở lối cho hàng loạt những dòng mùi hương lấp lánh tên tuổi các cô đào, ca sĩ về sau điên cuồng tấn công thị trường mỹ phẩm.
Với hoa hồng tình ái ôm trong tim, người đàn bà lan tỏa hạnh phước trong mọi điều nàng sờ chạm tới. Album This Is Me…Then được tung ra vào tháng 11, như lời tự sự về chuyện tình riêng với nhân tình tài tử, đặc biệt là huyết tâm thư nồng thắm nàng gửi gắm vào bản Dear Ben. Nàng ghi đòn hoa mỹ vào lòng chàng thơ và những singles từ album này cũng theo đó mà ghi điểm lẫy lừng ngoài thị trường, tuy I’m Glad và Baby I Love U! không được phần vẻ vang bằng Jenny from the Block. 2.6 triệu bản bán ra liền tay khắp nước Mỹ, dán nhãn bạch kim đúp (double platinum) vinh hiển. Nàng tiện tay đóng cặp luôn với Ralph Fiennces trong mối tình lãng mạn của vị chính khách và nàng hầu phòng da ngăm trong Maid in Manhattan, một kịch bản như thể được dựng nên chỉ để minh họa cho ca khúc Jenny from the Block.
Sau bao nhiêu đợi chờ khắc khoải của cặp Bennifer và những tín đồ, mãi thì tới tận tháng Giêng 2003, vụ ly dị của Lopez và Judd mới hoàn tất. Cặp đôi ăn mừng bằng việc sánh đôi đóng cặp trong phim Gigli, với Lopez thủ vai một cô nàng…đồng tính. Phim không nổi lắm, với món lợi nhuận hom hem 7 triệu bạc Mỹ trên toàn thế giới và được coi là bộ phim tệ nhất nhì trong lịch sử điện ảnh loài người. Viện cớ vì giới truyền thông quá chú mục thóc mách đám cưới đã định cử hành vào ngày 14 tháng Chín năm đó, cặp Bennifer hoãn hôn. Thoi đưa 4 tháng sau thì họ chia tay, cũng với cùng lí dó xem chừng rất tiện lợi – sự hiếu kỳ của truyền thông gây thương tổn cho sự riêng tư của cuộc tình mà cách đó mấy tháng nàng vừa ca hát véo von đến từng chi tiết trong album cháy chợ.
Nhưng Lopez không bao giờ để công chúng chờ đợi qúa lâu trước khi cống hiến cho họ một màn trữ tình đúng điệu hơn. Đặc biệt lần này, trái tim của người đẹp đã chứng tỏ sự thông thái của nó không kém sự tính toán chiến lược của bộ óc, khi lượng fan dòng nhạc Latin của nàng tăng rầm rộ bởi cuộc tình mới với divo Latin Marc Anthony. Không như hai cú trượt tầm ngắm điện ảnh với Ben, bản song ca trước đây của cặp đôi Lopez – Anthony đã minh chứng chàng không chỉ là một bạn tình hào hoa sáng giá, mà còn thật sự là một đồng sự xứng tầm. Lần này thì họ cưới liền tay, ngay khi chàng kịp ly dị người vợ cũ, và trước khi lời nguyền của công nghệ giải trí kịp tấn công sự long lanh và mong manh của các cặp đôi danh giá.
Lại một lần nữa trong cuộc đời mình, Báo Lửa may mắn lại được đỏ tay bạc cả ở ván nghiệp lẫn ván tình. Sau đám cưới, Lopez ghi dấu sự nghiệp điện ảnh của mình với tuyệt phẩm lãng mạn “Shall We Dance?” bên cạnh kép lão khi này vẫn còn phong độ mùi mẫn Richard Gere. Dù bốc lửa hừng hực với những bước vũ trên sân khấu ca nhạc, nhưng lần đầu khán giả của Lopez nhận ra rằng người ta không thể vừa đa nghệ, vừa tinh thông đến hoàn hảo mọi mặt của công nghệ giải trí. Dù là một vũ công hừng hực trên sân khấu ca nhạc, Lopez không tránh khỏi sự ngô nghê khập khiễng khi thủ diễn vai cô vũ sư dòng ballroom chuẩn mực. Nhưng mặc nhiên, scene Argentine Tango đã đi vào huyền thoại của vũ đạo điện ảnh, và bộ phim mang về ngon ơ 170 triệu Mỹ kim. Đà thượng phong này đưa nàng thẳng tiến đến hợp đồng với Pepsi cùng Beyonce và nam thần đá banh David Beckham trong đại chiến dịch quảng cáo “Samurai”
Cơn thịnh nộ của người đàn bà biết hát
Nhưng cho đến khi này, cô nàng “búp bê phố Bronx” vẫn chưa được giới phê bình thừa nhận giọng ca cho tư cách diva chính thống, mặc nhiên với những cú tung đòn tuyệt hảo của nàng vào thị trường băng đĩa. Chính mật độ xuất hiện trên màn bạc của nàng khiến giới truyền thông ngờ vực một khả năng toàn tài.
Tháng 3 2007, album Como Ama una Mujer được tung ra, được công bố là album minh chứng cho tư cách âm nhạc chính thống của giọng ca Lopez. Với những ca khúc trúc trắc không dành cho những làn hơi nửa mùa, album tiếng Tây Ban Nha này lập tức dẫn đầu chỉ số cháy chợ toàn nước Mỹ chỉ trong một tuần, cát cứ Billboard Top Latin Albums trong suốt 7 tuần lễ huy hoàng.
Kể từ đó, nàng nghiễm nhiên tiễu trừ mọi nghi vấn về tư cách diva ca nhạc thượng tầng thế giới. Các album bách chiến bách phát, tour diễn song hành cùng phu quân Anthony lời lãi lẫy lừng tới 10 triệu Mỹ kim, và cả những hoạt động xã hội hữu hiệu gây nức lòng nước Mỹ. Trong đêm cuối cùng của tour diễn, đôi uyên ương công bố tin mừng: báo lửa đã đậu thai! Cùng lúc, tin vui này tiễu trừ luôn lời mỉa mai bóng gió của báo giới về “bí mật quốc gia hàng đầu” về chất lượng tình ái của cuộc hôn nhân vàng son nọ.
Chưa hết, y giới xác nhận niềm hoan hỉ được nhân đôi: Báo Lửa mang song thai! Để ăn mừng sự kiện này, nàng tiện tay tung ra thêm dòng nước hoa Deseo đùng đùng khuynh đảo thị trường mỹ phẩm, trước khi yên tâm lâm bồn. Cuối cùng, còn hơn cả tin mừng về cặp song sinh, nàng khai nhụy một cặp vừa đủ gái trai: Maximilian David và Emme Maribel. Tờ People đấu giá thành công quyền đăng tải hình ảnh lứa “báo con” đầu lòng của thiếu phụ lừng danh với con số kỷ lục là 6 triệu Mỹ kim.
Thiên chức làm mẹ thúc đẩy nàng thành lập quỹ phi lợi nhuận mang tên con gái The Maribel Foundation với mục tiêu chăm sóc sức khỏe và đời sống phụ nữ trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh, ngay sau đó là dòng nước hoa rừng rực mùi nắng Latin: Sunkissed Glow, và My Glow, tưng bừng nồng sực hương hoa nắng bừng nở trên làn da nâu của nhan sắc Latin. Thiết kế vỏ chai dựng theo những bánh savon trong phòng trẻ tại nhà nàng, và nắp chai đúc hình tiểu thiên sứ hai mặt là biểu tượng của cặp song sinh. Cùng ngày nhãn nước hoa My Glow ra mắt, thì bản Fresh Out the Oven (Nóng Hổi Mới Ra Lò) cũng được tung lên mạng internet. Tả xung hữu đột, nàng như càng dồi dào sinh lực sau khi làm mẹ, và xuất hiện, bất bại trên mọi chiến địa nóng bỏng kinh doanh, truyền hình, điện ảnh và ca nhạc.
Định mệnh đổi chiều sau 7 năm hương lửa, Lopez và Anthony tuyên bố ly thân. Cô nàng Báo Lửa, giờ đây đã là một thiếu phụ độc thân đã qua một lửa, tái xuất mùa thứ 11 American Idol, kiếm chác sơ sơ 20 triệu, tuy thống kê cho thấy đây là mùa lên sóng kém cỏi nhất về lượt xem. Nhưng nàng đã thủ thân một cuộc chơi mới trên sóng truyền hình với show Q’Viva!, song hành cùng cựu phu quân Anthony bên cạnh nhà biên đạo Jamie King, cùng lúc vẫn đều đều phủ sóng màn bạc với What to Expect When You’re Expecting, thu âm bản Goin’ In cho phim Step Up Revolution, ngao du thế giới với tour Dance Again World. Tour diễn vừa kết thúc, nàng lại lao vào lồng tiếng cho phim hoạt hình Ice Age. Với tour Dance Again, show Q’Viva!, Lopez quay về khai thác thế mạnh vũ đạo ban đầu của mình, và cũng lập tức tìm cho mình một bạn diễn đủ sáng giá để giúp nàng duy trì hào quang. Tour diễn đồng hành cùng Enrique Iglesias như một sự tiếp nối của Dance Again đã là một động thái cần thiết để một lần nữa thu phục khán giả hâm mộ những bước vũ quyện lửa Latin của kẻ đã ở lại trên đỉnh vinh quang đủ nhiều và đủ lâu.
Ngay sau vụ ly thân với salsa divo Marc Anthony, Báo Lửa chín mùi hầm hập 41 thu vàng ấy lập tức tham gia đại vận hội môn chăn dắt phi công trẻ. Người ta nhìn thấy nàng công khai dung dăng với chàng vũ công Casper Smart chỉ mới 25 ngon nghẻ, xuất hiện tại tuần lễ thời trang Paris. Cặp đôi cùng đồng lòng quyết không khai một lời cùng báo giới, nhưng lại không dấu được những lời âu yếm như đôi chim câu trên Twitter. Nàng cám ơn chàng ngày kỷ niệm một năm hẹn hò vào ngày 25 tháng 10 vừa qua, chàng gọi nàng là “con gấu nhỏ bé ngọt ngào xinh xẻo tốt bụng nhất trên đời”, v.v… và v.v… Nhưng tuyệt nhiên, với những bước điêu luyện của Báo Lửa trên đường dài sự nghiệp, và chiến thuật lẫy lừng muôn thuở về những cuộc tình cùng những chiến hữu sáng giá, không quá nhiều người bỏ phiếu cho cuộc cá cược về một vụ đính hôn hay thậm chí kết hôn của họ.
Nàng giã từ ghế nóng quyền lực của show Idol với lời từ biệt đầy khẩu khí như các đây chưa lâu, khi cô vũ công minh họa từ chối tour diễn của đại tẩu Janet Jackson: “Đã tới lúc quay về làm việc của mình!”
Việc của nàng, đó làm tất cả! Câu trả lời của Báo Lửa với Vanity Fair về cuộc ly thân với Marc Anthony cũng đủ để lý giải bản năng sinh tồn sự nghiệp của một nữ chiến binh thực thụ “Tôi tự yêu bản thân mình đủ để ra đi.” Nàng còn nói thêm: “Tôi lạc quan và toàn tâm để bước tiếp, nuôi dạy hai con, làm mọi điều tốt nhất ở tư cách một người mẹ, một nghệ sĩ giải trí, và một con người.”
Tám điều đàn ông thích nhất về Hà Hồ và Jennifer Lopez
Phụ nữ có thể ghét họ cay đắng và hể hả rằng Hồ Ngọc Hà quá vạm vỡ ở tư cách cựu người mẫu, còn J.Lo thì to béo thuần túy. Nhưng đàn ông, bất kể ông nào có tim còn đập và máu đỏ chảy trong vein, đều ngấm ngầm tán thưởng vòng ba đầy rù quến của hai bà mẹ một lửa này. Một cách thật thà bên trong những bộ cách đài các xa cách, họ hiện nguyên hình là những con gái của Nữ Oa với thân dáng của những chiếc bình với phần đáy to, chắc, và chứa đầy sức sống.
Chắc lẳn như hai nữ lực điền tuyệt đẹp, họ bạo dạn phô phang những múi cơ bụng rõ nét đáng thèm thuồng nhưng với sự mềm mại của những con báo cái mĩ miều trong mọi bước nhảy nhanh, mạnh, dứt khoát và cực kì kích động trên sàn diễn. Cặp đùi họ không thanh mảnh kiểu đũa ngà, nhưng đủ dài để quấn vòng quanh một chiếc cột, và đủ rắn chắc để giết chết một con trăn.
Bước ra khỏi ánh sáng sàn diễn và những vũ đạo bạo liệt, Hà Hồ và J.Lo đều thuyết phục công luận và mọi phóng viên từng tiếp xúc bằng một sự nhã nhặn tỏa sáng. Họ chưa bao giờ và không bao giờ hạ mình tới mức nhũn nhặn, nhưng từ hành vi, phong thái, cho đến thái độ chiều chuộng ống kính, hào phóng ban phát nụ cười nữ hoàng, cả hai đều biết cách thể hiện sự trang nhã tối ưu của tính nữ. Có thể nói, bên cạnh mọi tài năng mà ngành công nghệ giải trí đòi hỏi, phong thái một nữ hoàng showbiz này không phải là điều mà bất cứ cô đào nào cũng tập luyện thành công được.
Đặc điểm nhận dạng của họ vẫn là làn hơi sặc khói, khàn khàn mơn trớn, thứ giọng người ta chỉ có thể nghe khi nói rất sát bên tai, và trên chăn gối.
Ngoài những bộ váy thiết kế xa xỉ, họ cùng sở hữu những lọn tóc mây mỡ màng như một thứ chất liệu hoàn hảo cho mọi nhà tạo mẫu tóc, từ lối bới cao kiêu kỳ khoe cổ thiên nga, đuôi ngựa cho những ngày của smart casual, xoắn từng tép hoang dại, hay thả những lọn to bồng bềnh bao quanh hai đôi lưỡng quyền trứ danh. Khó lòng có người đàn ông nào không ao ước được luồn ngón tay vào mớ vật chất đầy rù quến đó, dù chỉ để vuốt ve.
Dù là một chiếc sơ-mi trắng giản dị với cặp jeans bó ngặt nghèo, hay chiếc áo bodysuit dát kim sa óng ánh trên sân khấu, hoặc lộng lẫy với váy maxi dạ tiệc, Hà Hồ và J.Lo luôn ở đỉnh cao của sự gợi cảm với ưu thế của thân hình tây ban cầm. Nhưng sexy, khi đó là Hà Hồ hay J.Lo ở đỉnh cao phong cách, chưa bao giờ đồng nghĩa với gợi dục.
Dù tự nhiên hay xã giao, khiên cưỡng, họ thuần thục đến điệu nghệ món vũ khí tối thượng của đàn bà: nụ cười. Họ cười bằng mắt, bằng cả hàm răng với quang lực nhiều megawatt, và khuôn miệng rộng, rạng rỡ, luôn mang lại những nụ cười tỏa sáng và dễ lây.
Cuối cùng thì dù đang rã mồ hôi trên sàn tập, hay tuyệt mĩ chỉnh chu trên thảm đỏ, dù ngổ ngáo như những nữ chiến binh gợi tình nhất hay lộng lẫy quyền uy trên ghế nóng truyền hình, thứ mà những người đẹp khác không thể tập luyện hoặc mua sắm mà có được, thứ quật ngã hay khơi gợi mọi lòng tôn ngưỡng của đàn ông, thứ biến những thân hình đàn bà thành sự khêu gợi thách thức của những chiếc cúp cầu kì cao giá, đó chính là hào quang của sự tự tin, và sinh lực của những con báo lì đòn, khôn ngoan, và tạo lập nên tất cả không chỉ từ nhan sắc – họ đã thật sự lao động cật lực cho hào quang có thật của mình!
--------------------------------
hồ sơ mang bí số 007
Jasmine nOir
Đàn ông âm thầm muốn đá cho gã một cú, đàn bà âm thầm mơ tưởng về gã, con nít muốn được như gã. Tất cả những điều đó đều quá ồn ào, hào nhoáng và nguy hiểm cho một điệp viên.
Nhưng đây không phải là một điệp viên bất kì. Điệp viên mang bí số 007 thuộc Cục Tình Báo Anh.
“Bí số” ấy không có gì là bí mật với quá nhiều thế hệ khắp nơi trên thế giới, người ta đều có thể vanh vách gọi tên cúng cơm của gã, theo một giọng Shakespearean đầy kịch tính:
“The name is Bond – James Bond!”
Được cha đẻ là nhà văn Ian Fleming đặt tên theo nhà điểu cầm học người Caribe mà bản thân ông ngưỡng mộ. Về sau, khi gặp gỡ bà quả phụ của ông Bond, Fleming tán tụng “tôi không ngờ một cái tên ngắn cụt, phi lãng mạn, đặc sệt Anglo Saxon, nhưng cực kì nam tính này chính là cái tên phù hợp nhất. Nên tôi cho một James Bond khác ra đời”. Về sau, Fleming thú thật, có phần thẳng thắn hơn, với tờ New York Post rằng “Tôi muốn gã là một tay Anglo Saxon thô thô đần đần một chút, và cái tên cộc lốc này chính là cái tên đần nhất mà tôi tìm ra được”.
Về sau, cái âm thanh cụt lủn ấy đã làm nên lời thoại ngắn ngủn, nhưng đầy khẩu khí cao ngạo làm nên ấn tượng sâu sắc lừng danh trong lịch sử điện ảnh thế giới: “The name’s Bond – James Bond”.
James Bond được xây dựng dựa vào thời kỳ Fleming hoạt động tại Cục Tình Báo Hải Quân trong đệ nhị thế chiến. James Bond là sự hợp nhất của những mẫu hình sĩ quan phản gián và biệt kích mà ông đã từng gặp. Nhưng hơn hết, ông gửi gắm vào nhân vật này cả những nét rất chân thật về bản thân, từ sở thích khoái ăn trứng khuấy, đến mọi nhãn xà bông, nước thơm cạo râu mà ông ưa dùng. Các chi tiết về nghiệp vụ tình báo dựa trên kinh nghiệm có thật, cho đến tên của những bạn học hồi nhỏ, người tình, người thân của Fleming cũng được đưa vào để làm nên thế giới của Bond.
Fleming muốn Bond có một ngoại hình của ca sĩ Mỹ quốc Hoagy Carmichael nhưng ngầu hơn một chút. Chàng có mái tóc đen dày mạnh khỏe, khóe miệng khắc nghiệt và đôi mắt có ánh thép. Chàng có một khiếu hài hước duyên dáng và lạnh lùng, một dòng máu Scotland sáng giá, mẫu thân sở hữu một nhũ danh vân vi cầu kì là Monique Delacroix đến từ Thụy Sĩ, và thân phụ là ngài Andrew Bond ở Glencoe, Scotland.
Bond và cuộc đời bí ẩn của chàng không có một thông tin gì về ngày sinh nhật. Về sau, John Pearson chấp bút nên một hồ sơ chính thức cho chàng, mặc nhận ngày 11 tháng 11 năm 1920 là ngày chào đời của James Bond, trong khi John Griswold là sau đó một năm, vào ngày 11 tháng 11 năm 1921.
Tuổi tác, điều đó chưa bao giờ quá quan trọng đối với bản thân James Bond, một khi tay chân vẫn đánh đấm ngon lành, tình ái miên man, và những bộ âu phục, những chiếc đồng hồ vẫn cực kì hợp mốt.
Từ chiếc cánh gà Beretta đến tuyệt tác DB5 trên tử địa Skyfall
Như tay hiệp sĩ cầu kì về thanh kiếm tri kỷ của mình, James Bond hoàn toàn có thể được coi là người đàn ông có bộ sưu tập xe và vũ khí đáng ham muốn nhất của mọi thời kỳ. Đây là một cuộc biểu trưng khí tài hùng hậu và mĩ miều nhất của lực lượng an ninh phản gián Ăng-lê.
Cậu ấm James Bond của M16 chẳng khác gì một cô Barbie với những phụ kiện không thể thiếu của mình. Giả sử ví von như vậy bởi, khác với mẫu người biệt kích lủng củng lang cang với những bộ sưu tập vũ khí hạng nặng và những viên đạn to cỡ quả bom, James Bond có cho mình những món đồ chơi thông minh tinh xảo và mang theo ít nhiều thói hài hước kiểu Ăng-lê. Ban đầu chỉ là vài cây viết ngụy trang, hay món lưỡi lê giấu trong giày, nhưng từ khi xuất hiện khẩu súng lục bé xíu bằng vàng trong The Man with the Golden Gun, thì những món đồ chơi lợi hại này cũng là một sức hấp dẫn kinh điển của bí số 007.
Vậy là từ đó, mỗi vụ án mới của Bond đều không thể bỏ qua “tiết mục” được trông đợi không kém gì những pha rượt bắt, đó là cuộc giới thiệu trang trọng các món “phụ trang” siêu thông minh được nghiên cứu và thiết kế riêng cho chàng. Motif này trở thành một điển lễ kinh điển cho mọi thể loại điệp viên tình báo, phản gián hay siêu thám tử. Đến cả bộ truyện tranh Conan của Nhật Bổn, dù rõ rệt chịu ảnh hưởng của trường phái tâm lí tội phạm Agatha Christie và dấu ấn Sherlock Holmes, nhưng không thể thiếu một nhà bác học ranh ma phía sau mọi món đồ chơi thủ thân của tay thám tử.
Thậm chí gười ta bắt đầu ái ngại khi dường như chàng đã được trang bị hơi quá tay và trở thành một gã bóng bẩy ẻo lả ỷ lại vào những món đồ chơi công nghệ. Nhưng rồi xét trên sự cân sức của mỗi vụ án, phía kẻ xấu cũng được trang bị đồ hàng xôm tụ không kém, từ khẩu súng bằng vàng của Scaramanga, đôi mũi giày tẩm độc của Rosa Klebb, cho đến cái nón chóp viền thép của Oddjob, cùng hộp trang điểm đầy vi khuẩn của Blofeld. Với ngần ấy kẻ thù nham hiểm, thâm độc và chịu chơi, những món đồ chơi siêu công nghệ của Bond được giải oan hoàn toàn, và cuộc đối đầu lại trở về thế cân sức.
Nhưng hai món vũ trang cơ bản nhất, hơn cả những món phụ kiện bé xíu và buồn cười của nghiệp vụ tình báo, chính là “thanh kiếm” và “chiến mã” của một tay hiệp sĩ chân chính. Trong trường hợp của Bond, đó là bộ sưu tập súng và xe.
Ban đầu, cha đẻ Fleming chỉ trang bị cho chàng khẩu Beretta 418 mập mạp chắc nịch và hữu dụng, một ‘thanh kiếm’ phù hợp với sự thô ráp, lạnh lùng của nguyên bản James Bond. Không lâu sau đó, một độc giả mến mộ nhưng sành sỏi hơn về súng ống viết một lá thư công kích cái cánh gà mập mạp và ngộ nghĩnh ấy là “đồ thứ súng cho đàn bà nhét bóp đầm!”
Tay độc giả cuồng nhiệt này đề cử khẩu Walther PPK 7.65mm bảnh bao ngạo nghễ hơn. Khẩu Walther này xuất hiện ngay trong cuộc tấn công màn bạc của Bond trong phim Dr.No, khiến mọi quý ngài xem phim cứ thở dài sườn sượt. Một món đồ chơi bặm trợn cỡ đó xem chừng tuyệt hảo để rút ra từ sau ve áo pardessus hay tuxedo của mẫu người hùng màn bạc chánh hiệu con nai vàng.
Boothroyd, tay độc giả nhiều chuyện nọ còn khuyên Fleming sắm thêm cho quý tử tinh thần của mình một cái bao súng Berns-Martin ba quai, và một lô một lốc những món đồ chơi chết người khác. Để đáp lễ, Fleming đặt luôn tên cho tay thiếu tá phụ trách quân bị của M16 là Boothroyd.
Bond còn thủ thân thêm vài khẩu tầm tầm cỡ Colt Detective Special và khẩu Colt cán dài Army Special. Ngoài ra, để cho bằng anh bằng em và không mất thể diện trước hậu duệ Rambo, Bond cũng có cho mình một bộ sưu tập súng trường, trong đó là khẩu Savage Model 99 và Winchester 308.
Ngay từ lần xuất hiện đầu tiên trên phim, trùm mật vụ M đã ra lệnh cho Bond bỏ khẩu Beretta “bóp đầm” để nhận khẩu Walther PPK. Họ (khẩu súng và Bond) sống hạnh phúc bên nhau suốt 18 bộ phim.
Từ Don Quijote đến James Bond, súng ống kiếm cung đã có, thì khoản ngựa xe mới thật là thứ khiến Bond trở thành thằng cha may mắn đáng ghét nhất thế giới đối với mọi quý ông. Trong khi Batman quanh quẩn với cỗ xe chuột chũi duy nhất, thì Bond từ ban đầu đã được Fleming trang bị cỗ Bentley 4½ Litre đầu bạc, và về sau là Mark II Continental Bentley. Trong vụ án Goldfinger, chàng lái chiếc Aston Martin DB Mark III có thiết bị định vị tối tân giúp chàng truy sát kẻ thù bon bon dọc ngang nước Pháp. Nhưng sau vụ truy lùng đó, người ta lại thấy chàng một mực chung thủy với chiến mã Bentley.
Nhưng chỉ cho đến khi đường đường xuất hiện trên màn bạc, cuộc đầu tư điên cuồng vào những cỗ mã xa tối tân của Bond mới thật sự khiến nam nhân thế giới sục sôi thèm muốn. Thời thập niên 1980, chàng ngon lành sập cửa chiếc Aston Martin, còn những năm 2000 là thời kì của cỗ V12 Vanquish điệu nghệ và chiếc DBS đen thẫm bẹp dí như một con gián bảnh bao siêu tốc độ. Giã từ sự thanh lịch thuở ban đầu của vẻ đẹp bạch mã với tên tuổi Alfa Romeo, những lần xuất hiện về sau, Bond thể hiện tư chất tối ưu của một điệp viên thượng hạng khi điệu nghệ điều khiển volant từ xe cứu hỏa, tải hạng nặng, tàu ngầm phóng lựu cho đến tăng thiết giáp. Nhưng cuối cùng, con chiến mã trung thành vinh dự xuất hiện từ Casino Royale cho đến Skyfall vẫn là tuyệt tác màu xám bạc Aston Martin DB5.
Trong suốt điệp vụ trùng điệp hiểm nguy Skyfall, ngay cả khi bà đầm sắt trùm mật vụ M chết trên cánh tay mình, Bond cũng không bao giờ lộ nét đau đớn sâu sắc và tinh tế bằng giây phút chiếc Aston Martin DB5 bị phá hủy thảm thương. Ngay cả khán giả máu lạnh nhất cũng hiểu chàng Bond đã bị đả thương vào yếu huyệt. Cánh mày râu trong khán phòng cine khắp thế giới cùng rên xiết xuýt xoa đồng cảm: đó là một cỗ chiến xa tuyệt hảo!
Tay người Úc cơ hội và triều đại Roger Moore
Một trong những vụ án huy hoàng thời kì đầu của chàng mang tên From Russia with Love. So với vụ Dr.No, các hệ thống bí danh khi này cũng bắt đầu hình thành, thiếu tá Boothroyd mang bí danh độc tự Q cho đến mãi về sau. Đây cũng là lần xuất hiện thứ hai và sau cùng của Sylvia Trench, được nôm na coi là bạn tình lâm thời của Bond sau mỗi vụ phá án. Với 2 vụ giết người so với Dr.No, James Bond bắt đầu hứa hẹn dấn sâu vào những vụ án mạnh dạn hơn về tính bạo lực. Người ta vẫn còn kể rằng John F.Kennedy đã xem bộ phim này lần cuối tại tòa Bạch Ốc ngày 20 tháng 11 nằm 1963 định mệnh, trước khi đi Dallas, mặc dù mãi đến tháng Tư 1964, bộ phim mới được phép công chiếu rộng rãi tại Hoa Kỳ.
Đến vụ Goldfinger, Bond bắt đầu trở thành một hiện tượng. Đó cũng là khi chàng tập tành lái chiếc Aston Martin DB5, và sử dụng vũ khí có tia laser của công nghệ tiên phong. Đây cũng là bộ phim James Bond đầu tiên đoạt Oscar về hiệu ứng. Nhưng với Bond, nếu chàng có thật, đây là một vụ án vinh quang nhưng cũng đầy mất mát. Cha đẻ của hình tượng James Bond, người đàn ông đã chu đáo đặt vào tay chàng khẩu súng lục thô kệch ngắn ngủn đầu tiên, Ian Fleming qua đời trước khi phim công chiếu.
Từ đó, các điệp vụ cine của 007 bắt đầu rời xa khỏi kịch bản văn học gốc. You Only Live Twice dựng trên bối cảnh Nhật Bản, với bạn tình Kissy Suzuki và nhan nhản ninja để bao sân chiều chuộng khán giả châu Á. Sean Connery, như thể đã hóa thân vào Bond-phiên-bản-gốc, tuyên bố không tiếp tục đóng các phim sau. Là nam diễn viên thủ diễn James Bond theo kịch bản văn học gốc của Fleming, Connery như một Bond đầu-tiên-và-duy-nhất ra đi như một hành vi tuẫn tiết đáng trọng!
Sự ra đi của Sean Connery khiến người ta lúng túng và cập rập chọn anh kép George Lazenby người Úc kế vị vào vai James Bond. Lazenby xuất hiện hoàn hảo, tay lấp lánh chiếc Rolex Submariner, mình vận bộ suit may ở tiệm Savile Row của Connery để lại, và tỉa tót râu tóc ngay tại hiệu ưa thích của Connery ở Dorchester Hotel. Các nhà phê bình chỉ có thể khen ngợi anh chàng về sự cần cù và dũng cảm tự đảm nhiệm các vai nguy hiểm không cần đóng đúp. Nhưng công chúng la ó phản đối, họ trót quá gắn bó với Connery, cho rằng Lazenby quá bận rộn thay phục trang xoành xoạch như một cô dâu diêm dúa, và quá mỏi mệt trong việc hùng hục chạy theo cái bóng của Connery. Đó là chưa kể giọng phát âm Úc đặc sệt quê trớt của anh chàng khiến phải dùng đến việc lồng tiếng, tổn hại ít nhiều đến hiệu quả thể hiện trên phim.
Thế là hình tượng chàng Bond lại đòi hỏi một lần đổi lốt. Lần này, kép Roger Moore ứng cử, dù đã 45 tuổi. Moore trở thành nam diễn viên bền bỉ nhất trong các nam diễn viên thủ diễn James Bond, chính xác là trong suốt 12 năm. Roger Moore bắt đầu ra tay áp đặt một kỷ luật mới cho James Bond. Hai vụ án đầu, chàng khệnh khạng hút cigar thay cho thuốc lá thường, và uống buorbon thay cho martini. Moore khôn ngoan phá lệ và lập tiền lệ riêng của mình – như một con đực mạnh thực thụ, cũng là điều mà hình tượng James Bond không thể thiếu.
Moore bắt đầu cho Bond…cai thuốc. Vào những năm 1970s, James Bond trở nên “đời” hơn, pha phỉnh một chút khiếu hài hước duyên dáng, song song món chính là những màn đấm đá tuyệt đỉnh. Hẳn nhiên, Bond của những năm 70 không thể nào có được sự đường bệ của Sean Connery, nhưng gã đột nhiên trẻ trung và có duyên hơn, lịch duyệt, duy lý và rõ ràng là háu gái hơn. Về võ nghệ, tuy không điệu nghệ như Sean Connery, Bond của Moore được coi là anh chàng hóm hỉnh và dễ gần nhất trong mọi phiên bản James Bond cả trước đó lẫn về sau.
Đài từ thượng đẳng của nam thần xứ Welsh và James Bond bán lạc xoong
Đến tận những năm 1987-1989, Bond mới có một giọng phát âm Ăng-lê thuần chủng chánh hiệu truyền thống “Shakespearean” của kép Timothy Dalton, người kế nhiệm Roger Moore. Tờ Guardian ủng hộ phiên bản mới này của James Bond “Đành rằng đó không phải là Connery, và thiếu hụt cả cái duyên lịch duyệt của Moore, nhưng ít ra, đó không phải là Lazenby”, ám chỉ giọng thổ âm Úc nặng chịch của Lazenby, từng gây khốn đốn cho hình ảnh James Bond.
Timothy Dalton nhập vai James Bond hoàn hảo, với chiếc mũi khoằm của loài thần điểu, mái tóc dày rậm như lông quạ, đôi mắt khi thì ủy mị ươn ướt như mắt cún, khi thì sáng quắc như mắt diều hâu ngay dưới cặp chân mày rậm rì sắc nét như dao phay. Chàng dày vò các nữ khán giả bằng khuôn vai vuông vức, cơ thể nam thần và chiếc cằm chẻ đẹp như một cặp mông thiên sứ. Chỉ cho đến khi chàng thật sự thoát kiếp James Bond và tái xuất ngời ngời trong Jane Eyre, vai bá tước Rochester cục cằn và đa cảm, người ta mới dám chấp nhận rằng chàng không phải là James Bond nữa.
Sự xuất hiện hoàn hảo cuả Timothy đã là một thách thức khó vượt cho kẻ kế nhiệm là Pierce Brosnan bóng bẩy. Cũng sở hữu mái tóc đen dày hơi lượn sóng, với “cặp mông thiên sứ” có phần teo tóp hơn, Pierce Brosnan được đánh giá là giai kỳ điển trai màu mè đỏm dáng nhất của Bond.
Khi kí hợp đồng kế nhiệm nam thần Timothy, Brosnan hồ hởi tuyên bố “Tôi muốn đào sâu hơn nữa vào bên trong người đàn ông này, lột lớp vỏ bọc máu lạnh của anh ta như lột một củ hành, và phơi lộ một tâm hồn nhạy cảm bất khả xâm phạm của người đàn ông đó”. Điều này làm khán giả hâm mộ của Bond run sợ – Bond không phải là loại đàn ông treo quả tim của mình tòn ten trên ve áo để làm dáng. Nhưng rồi người ta đã có một Bond gốc Scotland của Connery, nói giọng Úc của Lazenby, mang dòng dõi Welsh quí phái của Dalton, thì cuối cùng, đến lượt Brosnan sẽ cho người ta một phiên bản Bond Ái-Nhĩ-Lan rất riêng và khác biệt.
Bond lại hút cigar và chuộng những bộ suits bảnh bao thửa tận bên Ý. Golden Eye với Brosnan cũng là điệp vụ đầu tiên xảy ra sau khi Liên bang Xô viết rã đám. Bond và M16 cũng phải cập nhật tình hình chính trị chung, thay các vụ đối đầu với chính quyền chính thể bằng những vụ rượt bắt gay cấn với các siêu thế lực mafia mới của nước Nga lộn xộn. Cũng bởi tính cập nhật thực tế, Judi Dench vào vai bí số M – đầu lãnh M16, một khi ngoài thực tế, ghế trùm cơ quan tình báo M15 của Anh quốc cũng vừa chào đón nữ chủ nhân mới: bà đầm sắt Stella Rimington.
Công luận nghi ngờ vẻ oặt ẹo điệu đàng của kép Brosnan, các nhà phê bình thở dài phán “Và Bond đã tái xuất, lần này với mái tóc hỉ nhi!”, nhưng MGM vẫn tuyệt đối tin cậy vào cái đẹp và sự hào hoa, quyết đưa Bond về với bản ngã. Đầu tiên là bằng cách tước đoạt bớt những món đồ chơi lặt vặt của chàng, cùng mọi yếu tố hoang đường quá tay mang sắc màu giả tưởng. Bond mạnh mẽ hơn, u sầu hơn, và “người” hơn.
Một lần nữa, khi mà ngoài kia, trào lưu cơ bắp đã lắng xuống, việc thay đổi phong cách cho Bond hoàn toàn phù hợp với thời kì của những anh chàng metro-boy mảnh mai, biết làm đẹp và gần như lưỡng tính, Jack của Titanic thế chỗ Commando, và rock bờm xờm bị hất cẳng bởi boybands thiếu niên tiến bộ.
Các quý ông trung thành của những thế hệ James Bond kinh điển có thể chỉ muốn tung một cú đá vào mông tay Bond đời-sau oặt ẹo này. Hơn nữa, gã rõ ràng là một tay bán đồ lạc-xoong chuyên nghiệp. Gã rao bán mọi thứ, từ nước uống, xe cộ, đồng hồ, bút máy,… chỉ cần một cú lắc tay điệu nghệ bên sòng bạc, gã tài tình rao bán chiếc đồng hồ lấp lóe dưới manchette công tử bột. Gã ngời ngời sáng giá và hốt về bạc triệu mỗi lần tái xuất, chưa kể các nhãn hàng thủy chung lại vồ vập lao vào, Bond của Brosnan được trang hoàng long lanh như cây thông Giáng sinh hạnh phước, với đồng hồ, thời trang, giày và những cỗ xe gây mê đắm.
Cuộc cách mạng của James Lạt-Nhách
Nhưng công chúng là một đứa trẻ khó chịu, ngay khi thế hệ hâm mộ giai kỳ bóng bẩy của Bond bắt đầu quen với hình ảnh của chàng điệp viên thơm phức trong các bích chương quảng cáo đồng hồ Omega, thì cuộc cách mạng phong cách của James Bond tạo nên một vụ ồn ào chưa từng thấy. Giữa thời loạn lạc của thế giới phẳng phi giới tính, giữa sự tìm tòi khắc khoải một hình tượng nam thần thẳng thớm đáng tin cậy, James Bond cần mau chóng thoát ra khỏi cái dung mạo mĩ miều của những điệp viên tài tử “tóc đen như mun, cằm chẻ như mông” vốn đã thành tiền lệ.
Với hình tượng Obama, thậm chí đã có lúc người ta cân nhắc một James Bond da đen…hơn tóc. Nhưng ứng viên thắng cuộc cuối cùng đã khiến tất thảy công luận hồ nghi và cự nự dữ dội: Daniel Craig.
Gã có bản mặt của một tay mafia Đông Âu hơn là một điệp viên Anh quốc. Đôi mắt nhỏ, linh hoạt, chiếc cằm nhọn và một thái độ lì lợm khó gần. Gã có diện mạo của một tay sát nhân máu lạnh sẵn sàng tung nắm đấm thép mà không buồn nheo mắt.
Người ta thổn thức nhắc nhớ những vệt chân chim nơi đuôi mắt Brosnan và vết lõm chen giữa hai múi cằm đẫy nẫn của Dalton. Than ôi, kẻ kế nhiệm thậm chí còn mang một đôi tai vểnh của loài dơi và mái tóc lưa thưa màu sáng.
Người ta tung vào thế giới cinema một James-Bond-Không-Thèm-Đẹp!
Thậm chí đã có cả một website với địa chỉ danielcraigisnotbond.com kêu gọi tẩy chay phiên bản mới của James Bond. Tờ Daily Mirror chạy nguyên trang nhất chỉ để bỉ bai Craig với hàng tít nhái theo câu thoại lừng danh của Bond “The Name’s Bland – James Bland” (tên là Lạt Nhách – James Lạt Nhách).
Bond (bởi đó chính là tính cách Bond) phớt lờ đúng điệu Ăng-lê và tái xuất dưới hình hài Daniel Craig trong phi vụ Casino Royale. Món lãi ròng từ phim này, kể từ Moonraker, chưa bao giờ cao đến vậy! Công luận đổi chiều xoành xoạch, người ta tung hô James Bond mới. Chàng mảnh mai hơn, trông “chì” và “ngầu” hơn, không xăm lên trán hàng chữ “vận động viên làm tình”, và không cầu kì giãy nảy nếu ly martini của chàng không được pha đúng điệu. Đơn giản là vì chàng-như một tay Bond đúng điệu, cóc quan tâm!
Còn tư cách người hùng và những trò táo tợn? Hãy xem chàng được đích thân nữ hoàng Elizabeth (do chính lệnh bà thủ diễn) vời đến điện Buckingham để hộ tống bà trên chiếc trực thăng bay đến sân vận động Olympic Stadium, cùng lệnh bà tôn quý của nước Anh nhảy thẳng từ trực thăng, bên dưới cánh dù bằng lá cờ liên minh lộng gió!
Fashionisto siêu hạng và 40 bộ suits cho một cảnh quay
Với vẻ điển mã xứng tầm một quý ông, chàng có tất cả những cái tên quyền lực nhất của giới thời trang làm hậu thuẫn cho tủ phục trang khét tiếng của mình. Giorgio Armani, Brioni, Roberto Cavalli, Tom Ford, Hubert de Givency, Gucci’s Frida Giannini, Douglas Hayward, Rifat Ozbek, Jenny ackham, Miccia Prada, Oscar de la Renta, Anthony sinclair, Phillip Treacy, Emanual Ungaro và Donatella Versace là những cái tên làm nên thế giới hào hoa của James Bond.
Bond cầu kì và chuẩn mực đến từng tiểu tiết. Chàng phân biệt được một ly martini lắc và khuấy khác nhau ra sau, chàng thích ống quần của mình ôm vừa, tỉa tót tuyệt khéo, nhưng không bó sát bởi chàng không phải Tom Jones. Cả tuxedo cũng vậy, chàng thích sự nghiêm cẩn, không xum xuê hoa lá, và đặc biệt ưa chuộng những chiếc sweater chui đầu bằng hàng cashmere thượng hạng. Chàng có thể đã xuất hiện từ nửa thế kỷ trước, nhưng chắc chắn chưa bao giờ muốn mình trở nên cổ lỗ.
Chuẩn bị cho vụ mới nhất của James, nhà thiết kế phục trang của chàng Jany Temime tuyên bố cô đã chuẩn bị cho James Bond lệ bộ chuẩn mực nhất chào mừng 50 năm cát cứ màn bạc, nhưng mang mọi yếu tố đương đại của thẩm mỹ thời trang 2012. Cô nói say sưa như một bà nội trợ sành điệu đi sắm sanh chưng diện cho đức lang quân lừng lẫy hơn là một chuyên viên thiết kế phục trang nói về diện mạo những vai diễn: “Tôi không chạy theo trào lưu mốt mà bám theo kịch bản. James đâu phải loại rảnh rang đọc tạp chí thời trang hàng ngày, tôi rành anh ta quá mà! Tôi biết James sẽ muốn mặc gì và vì sao, tôi luôn tự vấn bản thân trước mỗi quyết định: Đây có phải là thứ James sẽ bỏ tiền ra mua không?”
Tủ quần áo của chàng bày san sát chằn chặn những hàng suits bất tận, phô ra những ống tay và khuôn vai thẳng táp, hoàn hảo của kỹ thuật cắt may thượng hạng, hầu hết đóng mác Tom Ford. Bản thân Craig trong đời thực, cũng là một thân chủ mê mệt của phong cách lịch duyệt đến tối giản, đầy tính thực dụng rặt Mỹ của Ford. Ngay từ khi mới làm việc với Temime, Craig đã báo trước, theo kiểu mà chính James Bond biết mình muốn gì, rằng chàng thích form cắt mảnh mai nhưng phải dễ vận động, và hơi hoài cổ về nét kinh điển của thập niên 60.
Mặc dù kép Roger Moore khẳng định rằng Bond vẫn có thể xài ngon ơ mấy bộ thửa cho chàng từ hồi 70s và 80s (đương nhiên, ngoại trừ quần ống loe và cổ sơ-mi to gộc), nhưng tuxedo và suits vẫn kinh điển vào hàng bất hủ. Nhưng ngay cả Moore cũng không còn mặc những bộ vía oai vệ đó nữa: “Chúng được may từ cách đây hai ba thập niên, cả bản đồ thế giới cũng đã thay đổi, huống gì số đo vòng bụng của anh kép diễn về già là tôi. Thời đó tôi cũng mê mẩn phong cách James Bond lắm, nhưng đó là ngài Bond, còn tôi rồi cũng tự xoay sở cho mình một gout riêng về cả đồ ăn lẫn rượu vang và áo vest”. Moore vừa ra mắt cuốn sách của mình về Bond, với cái tên “Bond on Bond” do nhà xuất bản Lyons Press ấn hành, trong đó, ông kể lại rất nhiều về phong cách bảnh bao của hiện tượng mang bí số 007.
Sean Connery, người đầu tiên thủ diễn James Bond năm 1962, cho đến nay vẫn còn ưa thích những bộ suits màu ghi mảnh dẻ Bond từng mặc thời đó, nhưng mấy cái quần yếm bằng vải bông trong Goldfinger thì quả là một cơn ác mộng với thời trang quý ông đương thời.
Đến những năm sau này, James Bond của Pierce Brosnan được diện rất bảnh trong bộ đồng phục sĩ quan Hải quân Hoàng gia, lay động nên bao cuộc đại chấn nức nở trong tim những nữ khán giả nhẹ dạ. Ngoài giai kỳ bảnh bao đột xuất này của Brosnan, thông thường thì James Bond là mẫu đàn ông thích sự tinh tế lẫn thực tế trong từng tiểu tiết của một phong cách tưởng như hoàn toàn giản dị. Cuối cùng, chàng là một điệp viên luôn đặt mình vào giữa chốn trùng điệp hiểm nghèo, chắc chắn không có nhu cầu khoác lên mình một bộ cánh quá lâm li và nổi bần bật giữa chốn đao kiếm vô tình như vậy.
Thời mới xuất hiện, một người đàn ông như chàng hẳn nhiên sẽ chọn hiệu may Savile Row lừng lẫy ở London làm chốn tin cẩn sắm sanh lui tới. Tới năm 1995, chàng thức thời và điệu nghệ hơn giữa thời cuộc phi biên giới, những điệp vụ của chàng giờ mang tầm cỡ toàn cầu, và nhà thời trang Ý Đại Lợi Brioni giờ mới xứng tầm sắm sửa của siêu điệp viên. Nghệ nhân bậc thầy của nhà này là Angelo Petrucci phóng mũi kéo điệu nghệ theo lối cắt may Ăng-lê truyền thống có vạt dài hơn so với các quý ngài La Mã, và đương nhiên là với những cặp ống quần hoàn hảo, ôm suôn, thẳng muốt và sắc nếp như dao: “Anh James, với tôi, là đại diện chí tôn của cái gọi là gout thượng đẳng. Suits là biểu tượng của quyền lực phái mạnh, với một người như James, suits chính thống là phải được may thửa chuẩn mực theo số đo. Chưa kể, hãy ngắm những cô nhân tình của ảnh, cô nào bà nào cũng sành sỏi điệu đàng, đều có con mắt để tán thưởng một bộ vía khéo cắt, bởi chính họ cũng tuyệt đỉnh cầu kì và rất am hiểu thời trang, anh James không thể lôi thôi được”.
Trong Skyfall, Temime vận cho Naomie Harris và Berenice Marlohe những bộ phục trang không hổ thẹn dòng dõi những thế hệ “Bond girls” về trước như Halle Berry và Ursula Andress. Cả hai đã từng khuấy đảo màn bạc trong những bộ bikini, đùi quấn đai súng lục, và Barbara Bach với chiếc váy dạ hội đen viền đá trắng, với được xẻ cắt cao vút đến tận… thiên đàng! Temime quyết định cho Marlohe ăn vận theo phong cách hoàng kim của cựu minh tinh Ava Gardner với bộ váy L’Wren Scott như bộ da thứ hai diễm lệ mà để vừa khít một cách kích động như thế, mỗi buổi sáng, đào Marlohe phải chịu một công đoạn may đính để bảo đảm chiếc váy bó sát thân hình. Và khi chết, nàng được Temime ưu ái cho diện thật đỏm trong chiếc váy đỏ thắm trễ tràng của Donna Karan. Karan phỉ mãn với hiệu ứng gợi tình một cách chết chóc này: “Nghĩ đến Bond girl là phải nghĩ đến gợi tình, sự thông minh, sức mạnh, và lẽ dĩ nhiên, là một thân hình sát thủ!”
Trong khi đó, Harris cần một thiết kế hung hăng năng động hơn cho những pha hành động và được cho mặc một chiếc jacket của Belstaff, tank top, và quần da.
Còn riêng cho James, ngay vào màn rượt bắt đầu tiên – một điển lễ mở màn cho mỗi phi vụ của 007, chàng cần một bộ suit vừa đẹp, vừa ôm, vừa thoải mái cho mọi trò vung tay quạt chân của 007. Điều này đồng nghĩa với 40 bộ suit y chang nhau, cái thì cánh tay dài hơn một chút để chàng cưỡi motor, cái thì cần đệm đầu gối cho chàng té đỡ đau, và có cả những bộ cài đặt những túi máu giả, và cả những bộ rách sẵn để đối phó với thứ tự lộn xộn của cảnh quay.
Chàng là siêu điệp viên trường phái sắp đặt, điều này không thuộc hệ tư duy bủn xỉn được. Temime hãnh diện như bà nội trợ siêu hạng “Tất cả phục trang ở đây đều thuộc hàng thượng hảo hạng. James có thể chạy phăm phăm qua nước, bụi, nhảy khỏi tàu hỏa, và chỉ cần phẩy nhẹ, là lại sạch bong như mới”
Những người đàn bà của Bond
Thuật ngữ “Bond Girl”, chỉ những cô nhân tình lâm thời của James Bond, là một đại danh lẫy lừng có phần hơn cả các khái niệm “Playboy Bunny”, “Victoria’s Angel” hay “Cosmo Girl”. Xét về giai tầng, họ không hề dân chủ đại trà. Đó là những nữ sát thủ, minh tinh, hoặc yếu nhân, thậm chí chính khách. Họ là những Pussy Galore, Plenty O’Toole, Xenia Onatopp hay Holly Goodhead. Nói một cách nôm na, đó là những đại diện điển hình của vẻ đẹp xa hoa thượng đẳng, những nữ thần nhục cảm phóng túng, những đóa hồng nhung kiêu sa dùng để trang trí ve áo tuxedo của ngài Bond trong từng điệp vụ.
Nàng có thể là bất cứ ai, miễn sở hữu một thân phận ly kì và một thân hình đẹp. Nàng có thể là chiến hữu hay cừu nhân, nàng cũng có thể là nạn nhân hay thân chủ. Nhưng điều rất quan trọng cần được phân biệt rõ ràng, trùm tình báo mang bí danh M, dẫu là người đàn bà cực kì quan trọng trong mọi cuộc phiêu lưu, phần số và tâm hồn 007, bà ta không hề được tính là một Bond Girl. Ngoài ra, đồng sự Miss Moneypenny cũng bảo toàn một mối quan hệ chiến hữu với Bond khá trong sáng, dù ở phần cuối của điệp vụ Skyfall, có những chi tiết cho thấy cô hoàn toàn có khả năng đã từng đứng vào hàng ngũ Bond Girls.
Dẫu đa dạng đa chủng đến mấy, tộc người ưu tú “Bond Girls” cũng có những mẫu số nhận biết chung. Thoạt tiên là những thân hình tuyệt hảo, thường xuyên được lồng tuyệt khéo trong những bộ trang phục hơi ngầu kiểu nam tính, kiên nghiệt, điểm một vài món trang sức góc cạnh, dây lưng da to bản và giày da mũi vuông. Nhưng họ còn phải có khả năng xuất hiện đột ngột trong vẻ đẹp lẫy lừng đàn bà tính, những bộ váy dạ tiệc dính trượt trên da, váy ngủ satin, push-up bra thượng hạng, bikini trang trí súc lục, và thi thoảng chỉ có một lớp dầu bóng trơn trượt trên mảnh thân trần.
Phần lớn Bond Girls tuân thủ ngặt nghèo làn da rám nắng, ngoại trừ các cô của thời kì đầu khi mốt nhuộm da chưa thịnh, hoặc những kiều nữ Đông Âu.
Tóc lại là một phạm trù mênh mông đối với các Bond Girls. Họ có thể là các nàng có mớ tơ vàng hoe như Mary Goodnight, đến màu hạt dẻ của Gala Brand, nâu sóng sánh như mật của Tatiana Romanova, xanh tím như Solitare, hay đen thẫm như Vesper Lynd. Hẳn nhiên, đó là những cô nàng có khuôn miệng rộng háu tình, phần lớn có màu mắt xanh, thậm chí xanh như màu Tiffany, long lanh giữa sắc xám và ve chai mắt mèo. Đặc biệt Pussy Galore sở hữu đôi mắt huyền vi tím thẫm – người đẹp mắt tím duy nhất trong trải nghiệm tình sử của James Bond.
Trong khi nàng Vesper Lynd xuất hiện trong Casino Royale với tất cả mọi nét thuần chủng Bond Girls kinh điển ở trên, thì Dominetta Domino Vitali bằng mọi cách trở thành hình ảnh trội bật với sandals da trắng, da rám nâu, tóc bồng kiểu Bardot và các nét trên khuôn mặt đều yêu kiều nhỏ nhắn, thay cho khuôn miệng rộng của những nàng man-eater truyền thống.
Mẫu đàn bà ưa chuộng của Bond, hẳn nhiên, không chỉ là những tiêu chuẩn về ngoại hình và thời trang. Chàng thích những cái tên hoặc bí danh ly kì, mà điển hình nhất là Pussy Galore, Solitaire (tên thật của nàng là Simone Latrelle), và Tiffany Case (do thân phụ cô này tức tối vì cô sinh ra không phải là nam tử, ông đưa cho mẹ cô 1000 đồng và một hộp phấn Tiffany rồi bỏ đi). Hay như Vesper Lynd, nghe như West Berlin được nói trại theo âm sắc Đức Ngữ, ám chỉ tư cách điệp viên hai mang của cô nàng. Đương nhiên, chàng cũng không chối từ các nàng có danh tánh bình thường.
Dù không nhan nhản những pha cụp lạc phòng the, nhưng chỉ một số tình tiết khơi gợi đủ để người xem hiểu rằng Bond là anh chàng không chối từ ân huệ ái tình từ những cuộc phiêu lưu trời cho ấy. Nhưng không phải cô gái nào của Bond cũng là những tiểu thư đến từ số phần nhung lụa. Rất nhiều trong số các nhân tình của chàng từng bị hãm hiếp, hay là nạn nhân của bạo lực tình dục. Họ mất niềm tin và kỳ thị nam giới (đương nhiên là cho đến khi gặp Bond): Tiffany Case không những bị cha bỏ rơi từ khi mới lọt lòng, mà lớn lên còn bị hãm hiếp tập thể từ khi vị thành niên, cả nàng Honey Ryder cũng cùng chung số phận. Pussy Galore thậm chí bị cưỡng hiếp từ khi 12 tuổi bởi chính chú ruột. Solitaire có một quá khứ may mắn và trơn tru hơn, nhưng nàng vẫn còn tân đến tận cuối phim. Giai nhân Đông Kinh Kissy Suzuki cũng cay đắng kể về sự kỳ thị khi nàng đến Hollywood lúc 17 tuổi “Họ nghĩ vì tôi là người Nhật nên tôi như một loài vật, và thân thể tôi là thứ dành cho tất cả mọi người”.
Không chỉ ở trong hồ sơ quá khứ, mà ngay cả trên màn bạc. Lupe Lamora bị chính người tình Franz Sanchez hạ nhục trong Licence to Kill, chung số phần là ngư nữ mĩ miều Andrea Anders trong The Man with the Golden Gun. Nàng nuôi hận nên âm thầm gửi Bond một viên đạn bằng vàng để tố cáo gã nhân tình máu lạnh Francisco Scaramanga và khuyến dụ Bond vào vai cứu vớt gái bơ vơ.
Bond không chỉ thành công ra tay bảo bọc giai nhân hoạn nạn, mà còn mang lại… niềm tin yêu cuộc sống đến với họ, bằng chứng là thay vì cạn kiệt lòng tin vào đàn ông, họ đều chuyển sang yêu thương thắm thiết, si mê và cuồng nhiệt tự nguyện trao thân cho người hùng lẫm liệt.
Nói một cách khác, Bond là quý ngài luôn có cho mình những cuộc tình ly kì theo khuôn mẫu, một kiểu tân văn học Danielle Steel cổ lỗ sĩ và đôi khi quá tay đến khôi hài. Trong điệp vụ Goldfinger, Pussy Galore trước khi gặp Bond là một ả đồng tính nhưng lại say đắm hiến thân cho Bond. Ngay trên giường, chàng không dấu sự hiếu kỳ “Tôi tưởng em chỉ yêu đàn bà?” Và nàng đáp “Tôi chưa bao giờ gặp một người đàn ông thực thụ trước đây!”
Di vật của Fleming
Đàn ông muốn được như chàng, đàn bà muốn có chàng, một số khác chỉ đơn giản là muốn lại gần chiêm bái cái đồng hồ lấp loáng dưới ống tay áo tuxedo của chàng.
Ngay từ lần ra mắt màn bạc đầu tiên trong điệp vụ Dr.No, Bond đã hãnh diện trưng phô chiếc đồng hồ như một vật cực kì quan trọng đối với tư cách nam nhân của chàng. Chàng lẫy lừng với bộ sưu tập những Rolex, Breitling, Hamilton, Seiko và Omega. Nhưng không chỉ là những chiếc đồng hồ có thể nằm trên bất cứ cái cổ tay dân chủ nào. Đó là những phiên bản đặc biệt gây nên những cuộc săn lùng tuyệt vọng của thói đua đòi không phải là không có ở cánh mày râu.
Từ khi tạo nên một James Bond từ chính cuộc sống của bản thân, Ian Fleming đã hào phóng “tặng” luôn cho đứa con tinh thần của mình chính chiếc đồng hồ Rolex ưa thích của ông. Chỉ đến điệp vụ thứ 11 của Bond ấn hành năm 1963, Fleming mới cung cấp đoạn miêu tả đặc biệt hình ảnh Bond, vào một đêm biếng nhác, đưa mắt liếc vào “chiếc Rolex Oyster Perpetual kềnh càng có quai kim loại” trên cổ tay. Đó là một chiếc Rolex Explorer I cực kì đàn ông tính. Một cách cụ thể hơn, về chiếc đồng hồ của Fleming, đó là model 1016 với mẫu dây đeo 7206, bằng thép không rỉ, mã sản phẩm 596851.
Con gái riêng của vợ ông, Fionn Morgan, cho rằng đó chính là chiếc đồng hồ Rolex chung thủy đầu tiên và duy nhất của nhà văn. Sau khi ông mất vào năm 1964, chiếc đồng hồ huyền thoại được giữ trong một ngăn an toàn ở nhà băng cho đến khi bà quả phụ Ann Flemming qua đời vào năm 1981. Một lần nữa, sau gần 2 thập niên, chiếc Rolex trứ danh lại được phản chiếu lấp lóa ánh sáng ban ngày.
Điều kì diệu nhất, đó là nó vẫn hoạt động bình thường khi được lấy ra khỏi két sắt, theo lời kể lại của Morgan. Món gia bảo lẫy lừng ấy được tặng lại cho con rể của bà Morgan.
Chiếc Rolex nổi tiếng này được trưng bày tại triển lãm Ian Fleming Centenary nhân ngày sinh lần thứ 100 của ông – 28 tháng Năm, 2008. Bảo tàng Chiến tích Hoàng gia Anh đã lên kế hoạch cho cuộc trưng bày kéo dài 45 tuần mang tên “For Your Eyes Only: Ian Fleming and James Bond.” Mary Gibson, con gái của Fionn Morgan đồng ý cho mượn chiếc đồng hồ mà bấy lâu nay chồng cô vẫn đeo, cùng hàng loạt những vật dụng cá nhân của Fleming có xuất hiện trong thế giới của Bond.
7 lí do vì sao phụ nữ mê James Bond
Bond tự tin. Điều đó khiến chàng gợi tình. Chàng có sự ngổ ngáo của kẻ nắm chắc phần thắng trong mọi cuộc đấu – thứ bản năng của con thú mạnh ắt nhiên sẽ thu hút bản năng kén chọn của đàn bà. Trên thực tế, không chỉ với đàn bà, mà cả đối với đàn ông, không ai bị quyến rũ bởi sự khiêm tốn cả.
Chàng luôn bình tĩnh, ngay cả khi luôn ở trong tình trạng nắm chắc cái chết. Chàng không bao giờ có một động tác thừa, bị chi phối bởi cảm giác run sợ, hoảng loạn hay giận dữ. Người ta không có một James nhảy chân sáo ôm một bó hoa to đến tặng người đàn bà, đấm tay lên tường khi nổi giận, hoặc trốn ra chỗ vắng hét to để xả stress. Khi tặng hoa cho phụ nữ, nếu đó là Bond, đó sẽ chỉ là một cành hoa – cành đẹp nhất. Ngay cả trạng thái hạnh phúc cũng không khiến chàng có bất cứ hành vi, động thái nào thừa thãi. Chàng luôn nói đủ chậm, không bao giờ liến thoắng và tuyệt nhiên không ấp úng. Ánh nhìn của một sát thủ siêu hạng có khả năng tập trung cao, chàng không bao giờ đảo và chớp mắt một cách thừa thãi, đây cũng là một chi tiết luôn khiến phụ nữ phải lòng.
Bond không bao giờ bận bịu cho việc phô phang cái cõi lòng của chàng đối với phụ nữ, và bằng cách đó, chàng kích thích bản năng của họ: bản năng tò mò. Nói một cách khác, một khi kích thích được bản năng phụ nữ, thì đó là một sự gợi tình. Chàng không hay cười, và đối với phụ nữ, một người đàn ông đang sung sướng một chuyện gì đó có thể đáng yêu, đáng làm bạn, nhưng không có gì là sexy cả. Chàng kiệm lời, luôn giữ lưng rất thẳng, và điều này kết hợp với một bộ tuxedo thượng hạng là một hình ảnh không thể cưỡng lại được đối với bất cứ người đàn bà có lương tri nào trên thế giới.
Chàng uống Martini, đôi khi Bourbon, cho đến phi vụ cuối mới thấy chàng tỏ ra dân chủ và uống beer. Chàng thích rượu, điều này hứa hẹn cuộc mây mưa ngay lần hẹn đầu, nhưng tất cả chỉ như một tiềm năng hơn là một lời hứa.
Hẹn hò trên một chiếc Aston Martin không hề là một tai họa. Và những cuộc bạc ngả nghiêng ở các casino vương giả, khi chàng vãi tiền mặt hào phóng như vãi đạn, dù là tiền túi hay tiền quỹ phủ phê của Cục Tình Báo, cái kiểu vung vãi ấy được coi là cực kì khả ái, ngay cả đối với các quý bà quý cô phong lưu.
Bond không bao giờ cố công gây cười và không đánh đồng một thằng hề nhạt với sự lịch duyệt duyên dáng. Chàng nổi tiếng với kiểu nói ngắn gọn nhưng không cộc lốc, và lời tự giới thiệu trứ danh huyền thoại cine: “The name’s Blond – James Blond.” Nhưng chàng có thứ hài hước tưng tửng của dân Ăng-lê, đủ để hấp dẫn những phụ nữ biết coi khiếu hài hước là dấu hiệu của trí tuệ.
Phụ nữ lãng mạn thích biến cố, âm mưu và các thảm kịch, và đó là món tráng miệng mỗi bữa của Bond. Điều này cuốn hút họ hơn cả những cơ bắp của chàng. Cô nàng năng động sẽ mơ mòng việc được tham dự trò mạo hiểm, các ả nhà lành sẽ hưởng thú giật gân an toàn trong vòng tay bách thắng. Khi trải qua một cuộc hẹn hò êm đềm quá, phụ nữ sẽ phải sáng tạo ra các âm mưu và thảm kịch, với Bond, họ hoàn toàn có thể thảnh thơi và thụ hưởng các biến cố đó. Đương nhiên, càng an toàn hơn khi chàng là một nhân vật tưởng tượng, và khi đó, người ta không thể thua, hoặc chết.
-----------------------------------------------------------
BDSM – vết răng trên táo cấm
Những chiếc móng tay tỉa nhọn cắm ngập thịt da cũng tạo nên những hân hoan thân xác cho cả kẻ cho người nhận, nhục giác đang được vờn vuốt bị lay tỉnh lộn nhào trong vòng xoáy điệu nghệ của những cơn nhói giật bất ngờ trên châu thân ngây dại, không chỉ đến từ người đàn ông, mà cũng thường xuyên không kém, từ sâu kín một góc thuộc tính cái hung hãn đàn bà được thật thà phơi lộ.
Nhưng người ta có thể đi bao xa, từ bản năng chinh phục hay quy tòng của bản ngã đàn ông đàn bà, để thoái hóa thành hành vi cục súc của con thú mạnh và thứ lạc thú bệ rạc của cơn nghiện khổ dâm?
Nhục tình trường phái salon & loài thú hoang được phóng thích
Ái tình nhục dục là một thứ nghệ thuật của mọi tế bào cảm nhận trên cơ thể, những buông tuồng phô phang tòa thân thể trước hồi hộp trân ngắm thèm thuồng, của mùi hương của những thân thể thật thà trộn quyệt với nhau thành món cocktail mùi hương gây say tận óc, của những vuốt ve sờ nắn tràn chảy châu thân, ắp ứ đầy lòng bàn tay, của cảm nhận da thịt xa lạ ngon lành ấm nóng òa ngập trong vòm miệng, của cả những rung ngân nỉ non hào hển khi người tình như thể dây đàn vi diệu, bật thốt thanh âm khi bần bật rung dưới đầu ngón tay. Một bản giao hưởng hoàn hảo của mọi giác quan được ban tặng!
Người ta gọi đó là những cuộc làm tình trường phái boléro, hoặc những bản nocturne lãng mạn sặc mùi diễm tình tân thế hệ, hoặc những scene ái tình trong video “soft core” thời thập niên 80’s có nhạc nền và những mái tóc xịt keo.
Thứ nhục tình salon phòng lạnh xông hương, nhục tình lý tưởng.
Nhưng những cuộc ái ân không hoàn toàn chỉ là đại lễ của tín ngưỡng tình ái thiêng liêng, không chỉ có các thiên thần mình xịt dầu thơm và những thăng hoa thần thánh.
Bởi đôi khi, những mân mê dè dặt không còn đủ nghĩa gần gũi, da thịt có lúc cũng đói khát cả những gấp vò bạo liệt, vị giác không được thỏa mãn đủ đầy cho đến khi cắm ngập răng vào những thứ ngon lành chưa nuốt trọn vào lòng vẫn cứ nóng sốt trêu ngươi, khiến bật thốt tiếng rên rỉ đau đớn và khuất phục.
Giữa cuộc phong nguyệt lim dim, đôi khi bạn sẽ điếng thót mình vì một cú…phát vào mông, hay bất thần cảm nhận mười móng tay dài tỉa chuốt sắc ngọt cào cấu thôi thúc vào thịt da. Chớ vội hoảng hồn với những dấu hiệu mang màu sắc “thú tính” xa lạ ấy từ người tình vốn vẫn luôn dịu dàng trong suốt những giờ còn lại trong ngày. Bởi đó chỉ là khi cái phần hoang dại ẩn sâu đang được thật thà giải thoát, khi tin cậy và yêu thương là tuyệt đối.
Và cũng chớ ngạc nhiên khi cảm thấy trong chính cơ thể sự đòi hỏi khốc liệt của một cơn đau chưa đủ đầy, hay những vuốt ve trở nên nhột nhạt trên những mạch máu đã căng bần bật, thôi thúc đòi chờ một va chạm bạo liệt hơn.
Đó là khi bản bolero du dương chuyển khúc li điệu của cơn đói tình, của giằng xé vồ vập, một vũ điệu hồng hoang của giống mạnh và con mồi đang cơn đòi được quy tòng trong khuất phục. Đó là khi thăng hoa bạo liệt trên cả vết đau trên thân thể.
Tất cả những mỹ từ hay ho, những mô tả giật gân của cuộc làm tình lắm biến cố trên có thể khiến một nhà mô phạm cau mày, một quý bà sạch sẽ phải rùng mình che mắt, nhưng một tín đồ của tôn giáo Ái Tình sẽ thấy ở đó mọi sắc thái thuộc tính của một cuộc tình, có cuồng điên mụ mị, có phục tòng dâng hiến, có chiếm hữu tham lam và tất thảy những dày vò gây nghiện. Ấy là cuộc cận kề gần gũi thật thà nhất khi đàn bà là đàn bà, trong tay và dưới chân người đàn ông của mình, hiến dâng và ban phát, rã rời nhàu nhĩ và thỏa mãn hoàn toàn. Còn đàn ông sẽ là đàn ông, say sưa trò chơi quyền lực ngang tàng, ham hố vị kỷ trong vai trò con đực, dẫn dắt vần vò tùy nghi, hào phóng trao ban khoái cảm, tưới tràn phủ phê mầm sống vào vực thẳm đàn bà, đang khai mở đón chờ trong thuần phục.
Những cuộc cưỡng dâm thường nhật
Chớ coi đây là một bí quyết ân ái để vội hổ lốn du nhập vào văn hóa gối chăn những bộ đồ da dữ dằn bặm trợn, nhùng nhoặng xích nhợ, những món đồ chơi hăng mùi nhựa, tiếng rên rỉ hòa thanh cùng tiếng động cơ chạy pin kêu rè rè vô cảm, hay đơn giản hơn, thả rông cơn ngốn ngấu những hồng hộc chày dậm cối giã nông phu còn sặc sụa mùi tỏi cháy bia chua của những làng nướng vỉa hè.
Cuộc chinh phục, dù bạo ngược hoang tàn, mà không cần đến tinh hoa thao lược và nghệ thuật tâm lí chiến thì chỉ đáng hàng man mọi sặc mùi phun-rô, một màn cưỡng hiếp thuần túy.
Đáng thương thay, khi màn đêm buông xuống, ngay trong lòng đô thị văn minh còn sáng đèn, hay heo hút chi chít trong những lối hẻm đèn vàng gác trọ ngoằn nghèo bề mặt thành phố, nhan nhản trong từng căn hộ hiện đại, hay đìu hiu những khu khối dân cư văn hóa, vẫn âm thầm đều đặn diễn ra những cuộc cưỡng dâm hợp pháp.
Vâng, chính xác là những cuộc cưỡng bức thô bạo ngay trong vòng dung thứ của tấm bình phong chồng vợ, hay thuần túy ân nghĩa ái tình thiêng liêng. Những sờ chạm trở thành một thứ xâm phạm sỗ sàng. Họ hả hê trút lên thân thể bạn tình cuộc tổng tấn công cấu véo kéo giật toàn mặt trận, nhây nhám vần vò những gì là kín đáo và mong manh đằng sau lớp áo văn minh bị kéo tuột phũ phàng. Món gia vị quá tay vụt trở thành món chính, cuộc vân vũ mây mưa vằn tia hằn học của sự đói khát hung tàn – một dấu hiệu không nhầm lẫn của thứ đàn ông tính bị thui chột trong suốt những tiếng đồng hồ còn lại trong ngày.
Bạo tình nhục thể đôi khi cũng không ít khi chỉ là hệ quả của một trải nghiệm tình dục nghèo nàn, sự lạc lối trong văn hóa gối chăn, hoặc tệ hơn, lòng tham dục cục súc vô độ, các mối dây rung cảm trở nên vô cảm với lối ân ái thường tình, tìm cậy đến những gì dị biệt, khác lạ để khơi dậy cảm xúc đã thui chột bằng vô số xảo thuật và khí cụ phụ trợ trong một thứ cấu xé và hằn học, tuyệt vọng lay thức cơ thể đã trơ lì trước những âu yếm vuốt ve.
Bản chất của ân ái yêu đương bị chà đạp khi những tình nhân đến với nhau trong bộ giáp trụ của hiệp sĩ cổ đại hay những sợi xích của thời văn minh nô lệ, họ đến với nhau trong cuộc giao cấu cay nghiệt, trong nghèo nàn cùng cực của cảm xúc ái ân và chỉ số văn minh âm tính, mặc nhiên với bằng cấp văn hóa của người trong cuộc.
Gọi là giao cấu, bởi từ bản chất, đó không hề là những cuộc giao hoan.
BDSM: bản năng tiền sử, biến cố tâm thần, hay hố tự hoại của văn minh tình dục?
Xin không dám lạm bàn đến phạm trù tình dục thuần túy, khi những bạn tình như những đối tác của một cuộc chơi trường phái BDSM (bondage-discipline, dominance-submission, và sadism-masochism: các đôi thuật ngữ chỉ nhiều cặp trạng thái của trường phái bạo dâm và khổ dâm). Đó là khi hành vi tình dục được xem như một hệ quả tâm lí mang chức năng giải tỏa.
Từ trong tiềm thức hoang sơ của nhân loại, bản chất dã thú thôi thúc người ta nắm giữ và chiếm hữu bằng những cú ngoạm, cắn, và hàng triệu năm tiến hóa văn minh đủ để khống chế hành vi dừng lại ở những vết răng cắn yêu của cử chỉ âu yếm thuần túy.
Từ trong bản chất ngữ nghĩa, bạo dâm và khổ dâm đã không mang trong nó chữ “tình”. Người ta giải tỏa các nhu cầu trong những vai diễn. Vị học giả giấu sau lớp áo tri thức nỗi đau của thời thanh niên làm mọt sách, sẽ hả hê quy phục dưới chân bạn tình, vòng đai ô nhục quanh cổ, thỏa mãn trong trạng thái một con thú-người bị thuần dưỡng. Nhưng cô nàng công chức với những năm dài trong bộ thời trang công sở và đạo đức Thanh giáo vong thân có thể giấu dưới lớp váy chính chuyên một chiếc roi da nữ quyền, hoặc che mặt đằng sau chiếc mặt nạ plastic đen khắc nghiệt, vô cảm, hả hê ban phát những cơn đau da thịt cho bạn tình. Vai trò hoán đổi, đôi khi kẻ thuộc phái mạnh mang trong mình khao khát bị khuất phục sai khiến, và ngược lại.
Đến đây, BDSM đi khỏi phạm trù tình ái mà trở thành hành vi tính dục của một sự giải thoát tâm lí.
Hoặc đơn giản hơn nữa, là một cuộc chạy đua hoang mang tìm kiếm một trào lưu làm tình mới của kẻ muốn ra chiều sành sỏi, hay bởi quá ngập ngụa dư thừa mà hóa thành mỏi mòn tuyệt vọng.
Chiếc rào cản của hàng triệu năm tiến hóa văn minh bị đạp đổ, nhân danh bản năng gốc, những đàn ông đàn bà chông chênh tìm về khoái cảm nô lệ hay trò nhục cảm của con thú mạnh, và hằn học trút tình vào nhau trong màn giả trang quái đản.
Ái tình và hôn nhân không tồn tại trong chủ nghĩa BDSM cực đoan. Không hơn không kém, con người tìm về những cuộc cưỡng dâm thời cổ đại, nơi quyền gieo-thụ giống thuộc về kẻ mạnh trong cuộc đấu tranh nghiệt ngã để sinh tồn. Trong khi hôn nhân và ái tình là một sự gắn kết bậc cao, nơi ngay cả nỗi đau và những dày vò giằng xé cũng là những biểu hiện của tình yêu vượt trên thú tính.
Vùng thật thà của bản năng trần trụi
Bản năng sinh tồn của dục tính vĩnh viễn không mất đi. Đó chính là thứ tiềm thức khiến người ta run lên trong khoái lạc của những nụ hôn như ngấu nghiến, khoái cảm được cắn nhẹ lên ngón tay hay vành tai, hay những món tóc bị phũ phàng nắm giật trong khoảnh khắc xa rời lý trí nhất.
Từ những hành vi bản năng, chúng trở thành tín hiệu gợi tình của kẻ đang sẵn cơn mê không còn ngại ngần cảnh vẻ.
Một chút phiêu lưu thả mình tin cậy vào trò oái oăm của lớp băng đen che mắt, cho phép từng mô xúc giác bị đánh động đến căng thẳng trong đợi chờ và hưởng ứng, hay khi được đặt vào tình huống bị động hoàn toàn với đôi tay trói chặt, thân thể vào cuộc yêu đương thụ hưởng trong cao trào hỗn loạn của cơn thèm muốn được quy hàng.
Những rên rỉ đớn đau, những vật nài mời gọi được bung mở hân hoan không kềm hãm. Cuộc đợi chờ, trò ve vãn lắm biến cố níu dài phút giây chờ đợi để được òa vỡ làm đàn bà đàn ông.
Và như thế, mỗi đêm là một cuộc phiêu lưu kì thú, nơi người ta dẫn dắt nhau để lạc lối cùng nhau.
Chẳng phải những cuộc tình hằn dấu đau thương cũng chính là cuộc tình đậm đà ám ảnh dằng dai nhất?
Vậy nên khi mọi trạng thái ái tình được tả chân qua hành vi chăn gối, nó cũng hiển hiện mọi tần số nặng nhẹ của thú đau thương.
Nhưng không phải khi người ta bước khỏi cuộc tình để khoác vào những vai trò man rợ, hay khi những nâng niu chiều chuộng bị thế chỗ bởi sự hân hoan của nhục cảm được-bị chà đạp dày vò.
Điều khiến cuộc mây mưa kéo dài đến tận nụ hôn trước khi ngủ, đôi khi chỉ cần một bàn tay đặt khéo lên trán người tình, êm ái chắn che khỏi cú va đập vào vách tường trong những nhịp thúc dồn hối hả của cao trào yêu đương.
Bởi vẫy vùng trong vòng tay đâu chỉ là khối thịt da khác giới, mà chính là thân thể tình nhân, với từng li da thịt để yêu thương ngấu nghiến, nhưng không phải để làm đối tượng đả thương.
Hãy để những vai diễn và các khí cụ của thói bạo dâm khổ hạnh lại cho các nhà nghiên cứu tâm lí học và những chuyên viên xã hội.
Vì khi xác thân đã thỏa mãn cuộc vầy vò vân vũ, những người tình vẫn cần nằm ngủ an toàn và tin cậy bên nhau
------------------------------------------------------------
tín đồ giữa hai hỏa tuyến
Hoa Nhài Đen
Với những giá trị cộng thêm hào phóng của thú “chơi hàng hiệu”, trò phong lưu của việc săn tìm trưng trổ các logo thời trang cao cấp trở thành một thú chơi thực thụ của các tân tín đồ “Việt mới”. cũng cầu kì điệu nghệ không kém thú điền viên chim hoa cá cảnh, hay các nhà sưu tầm nghiệp dư đắm đuối theo đuổi lộ trình cổ vật, nhưng muôn phần cay cú trong cuộc cạnh tranh khốc liệt để sắm diễn vai trò tín đồ tuẫn giáo, diễn ra ngay nơi chưa hề là thánh địa thời trang.
Thụ hưởng mọi tư chất ưu việt của một sản phẩm dòng thời trang xa xỉ luôn là nguồn xoa dịu khoan khoái cho mọi tín đồ trên thế giới. Nhưng hơn hẳn thế, nếu bạn là một tín đồ sống tại một quốc gia xa xăm, tít trong ngóc ngách Á châu nơi ngay cả tốc độ ánh sáng của nền văn minh thời trang luôn rọi chiếu muộn đến vài mùa fashion week, thì việc sở hữu những món siêu phẩm non mùa lại càng là một khoái cảm vượt tầm thẩm mỹ thụ hưởng thuần túy.
Nó loảng xoảng to và rõ thân phận danh tánh vị chủ nhân, nó rổn rảng gợi ý đến những tag giá thượng lưu vô tưởng, và nó khệnh khạng ấn một con triện “chịu chơi” to bự lên trán bạn. Bạn được chào đón vồn vã hơn, bạn đầm mình vào những ánh mắt trầm trồ hay tị nạnh, nó cất nhắc bạn ra khỏi tầm văn hóa hay đẳng cấp xã hội vốn có và đặt thẳng bạn vào một cái chiếu sành điệu chung chung.
…từ dân “chơi” hàng hiệu
Gọi là “tân tín đồ” bởi vì quả tình, cách đây chưa quá lâu, chúng ta còn nằm trong vùng thảm họa nơi người ta coi Nike là “thời trang hàng hiệu”, và cho đến tận bây giờ, những con đường đáng gọi là runway hè phố tại tâm bão Sài-gòn vẫn còn oằn mình dưới cuộc bạo hành hàng loạt của dép cối nhãn hiệu Doctor.
Sân chơi “nội gia” của thời trang Việt cho đến nay vẫn là những show diễn về cơ bản là vui chơi giải trí mang nặng tính phục trang hơn là thời trang, trong khi cả một khoanh lớn miếng bánh thị phần hoàn toàn thuộc quyền khuynh đảo của các thế lực tội đồ hàng fake Tàu, và một đỉnh cao thượng lưu nằm trong vòng cương tỏa của các tên tuổi hàng hiệu chánh hãng lẫy lừng trên thế giới.
Không chỉ nhìn vào sự phân chia thị phần của ảnh hưởng hàng hiệu toàn năng để phân định một vấn nạn nô dịch. Một dấu hiệu nhận biết khác nằm trong chính khía cạnh thụ hưởng của mỗi “tân tín đồ” khi chạm ngưỡng thời trang cao cấp. Nếu tại London, một tín đồ tầm thượng trung hồn nhiên bỏ đôi Jimmy Choo để thay nơi công sở vào chiếc túi Birkin dòng grande lux có giá tròm trèm 5000 USD dùng để đựng cả thế giới, thì tại Việt Nam, đây hoàn toàn đáng được coi là một món tung hàng hoành tráng trên thảm đỏ hẳn hòi.
“Dân chơi hàng hiệu” tại xứ sở nhập môn xa xỉ học cách vanh vách chỉ ra những dấu hiệu nhận biết giữa một món authentic (hàng chính hãng) và một món hàng trá hình dù tinh vi đến mấy.
Họ là những cuốn cẩm nang sống luôn được cập nhật để vạch mặt tội đồ hàng fake.
Nhưng họ bất lực trước khả năng chiêm ngưỡng thực sự trước những ưu chất mà nền công nghệ thời trang thế giới lao tâm khổ tứ để phụng sự các diva.
Các ngôi sao lao vào cuộc tố tội hàng fake của nhau, cật lực bảo chứng cho vật sở hữu của mình. Các cô nàng fashonista thiết lập thành cả một đội ngũ phân biệt đẳng cấp hàng hiệu tại mỗi night club cho đến khu văn phòng cao cấp, soi xoáy bất kể dấu hiệu giả trá nào trên đôi giày đối thủ, hay hể hả so sánh chiếc phiên bản H&M yếm thế bên cạnh một “con” Versace-đời-Donatella chánh hiệu lẫy lừng.
Trong cuộc cạnh tranh không khoan nhượng ấy, các tín đồ mỏng thẻ thành những kẻ chiêu hồi. Họ quay quắt tiết kiệm ngặt nghèo để an toàn sở hữu một chiếc túi chính hãng dòng bề thế, hay chiêu hồi vào vũng lầy tội lỗi, bỏ cuộc trước một phiên bản Trung Hoa hoàn hảo có giá chỉ ngót 1/100, với 99/100 còn lại tương đương giá trị lòng kiêu hãnh tín đồ để trở thành phản đồ.
Thế là theo một cách nào đó, tất cả đều trở thành dân “chơi thời trang hàng hiệu”: họ đã “chơi” các thương hiệu một vố nên thân trong chính sự sùng bái mù quáng của đám đông tân tín đồ lạc lối.
…đến thảm họa nữ trọc phú thời trang
Hẳn nhiên, với một thị trường mà cả khoanh bánh lớn bị nhấn chìm trong đại nạn fake, dường như các quyền lực chính hãng đã bị chơi khăm một vố nên thân bởi chính các phản đồ chiêu hồi. Nơi đây không phải vùng thánh địa thời trang, nhưng trên thực tế, mỗi boutique chính hãng cũng không hề là một thánh đường dã chiến của các nhà truyền giáo vong thân vì nghiệp đạo văn minh xa xỉ.
Thiết lập tên gọi và hình ảnh như những dấu hiệu quyền lực mới cho tầng xã hội thượng lưu, các tên tuổi làng chiếu trên của thế giới điềm nhiên phủ sóng các department store xa xỉ nhất, trên màn bạc cine, thảm đỏ, bao bọc quanh những yếu nhân làng giải trí, dấy lên cả những vụ chưng diện ồn ào và những tag giá xa xỉ được “phanh phui” trưng trổ. Tầng xã hội mới được hình thành đón lỏng thị phần tín đồ mỏng thẻ nhưng dạt dào tham vọng.
Chúng ta tôn sùng nhãn hiệu như những vị tông đồ mang mùi thiên đàng về hạ giới, phả sắc xa xỉ tầm cỡ toàn cầu lên toàn cảnh kinh tế đìu hiu của tỉnh lị nhiệt đới, và chúng ta thậm chí thỏa hiệp với những món thời trang giả hiệu bởi các logo như những lá bùa bảo hiểm cho mức độ cháy chợ của quyền lực song tự LV, nhị sắc hắc bạch Chanel, hay trưởng giả một cách phổ cập đến toàn dân của Gucci bản xứ.
Chúng ta hả hê khi tậu được cặp kính cũng đường hoàng gắn mác đặt tên, an toàn trong quyền năng hãnh tiến của logo nữ thần tóc rắn chạm hùng hồn hai bên thái dương, và tự an ủi rằng khi nước mạ xuống màu và lộ tẩy vẻ tiều tụy của món đồ chơi Trung quốc rẻ tiền bằng nhựa, ta đã có thể đường hoàng đầu tư không đáng kể cho một món thời trang mới, theo vòng xoáy trào lưu vốn quá nghiệt ngã để các tân tín đồ kịp đuổi theo bén gót.
Chiến dịch tôn vinh nền văn minh hàng hiệu được ta góp phần tụng ca với âm hưởng Trung Hoa. Trong sự tôn sùng bát nháo ấy, các quyền lực chính hãng điềm nhiên chấp nhận san sẻ mối lợi nhãn tiền với thị trường hàng fake, nhưng vẻ vang độc tôn vầng hào quang tán tụng bởi cả các tín đồ được sờ chạm đến quyền lực thời trang chỉ với những phiên bản LV giá tròm trèm 20USD.
Đây chưa phải là một cuộc cai trị hưng thịnh của thời trang cao cấp, nhưng hẳn nhiên, nó nghiễm nhiên biến vùng đất vô đạo trở thành một thuộc địa tiềm năng, nơi muôn tín đồ cùng tù mù ngưỡng vọng những tên gọi đã không còn là xa lạ, dẫu chưa một lần quẹt thẻ showroom chính hãng.
Một cách tài tình, ngay cả các kênh bán sỉ lẻ hàng fake, kinh doanh “hàng hiệu xách tay” cũng khoác vai nhà truyền giáo, ủy lạo cho thương hiệu tối cao xuống tận những tầng chi xài khiêm tốn nhất. Dù hoàn toàn nằm ngoài sự chào đón của các tập đoàn thời trang chính thống, sự “phân phối hình ảnh” cực kì thành công này cũng vô tình khiến vầng hào quang trào lưu nhãn hiệu lan tỏa rộng và mạnh hơn chính nguyên bản vốn nặng tính quân chủ kiêu kỳ.
Trong khi đó, ngập ngụa toàn thân trong hàng thời trang chính hãng, với nguy cơ sập bẫy fake ở bất cứ đâu, và bất cứ lúc nào cũng có thể sa ngã vào tội danh “thảm họa trọc phú hàng hiệu”, chính những tín đồ trung thành và chính chuyên nhất của hàng authentic cũng phải trà trộn đứng chung tầng nô dịch với phần còn lại của thị trường dân chủ.
Thời trang xa xỉ, ở một tần suất chênh lệch nào đó giữa tag giá phù hoa và mức sống của một quốc gia còn chưa phát triển quá cao khỏi tầm lúa nước, thì những tín đồ chánh hiệu và giả hiệu chỉ là một cộng đồng nô dịch u mê của đại cục thời trang chung trên thế giới.
Tôn ngưỡng nhưng không nô bộc
Các tín đồ tự trọng nhưng mỏng thẻ bị hoang mang hoàn toàn giữa hai hỏa tuyến ngặt nghèo. Sự cứu rỗi của các hãng buôn mang tính “thời trang chan hòa” như Zara hay H&M vẫn chưa đủ độ thân thiện về tài chính trong khi đại dịch hàng nhái lại nhanh tay hơn với tag giá hạ sát sàn và kiểu tiếp thị du kích đến tận từng timeline facebook cá nhân.
Vấn đề duy nhất còn lại để bám víu cho từng tín đồ ở vùng xa đất thánh chỉ còn lại độc tôn hững ý thức cơ bản nhất của lòng tự trọng cá nhân, văn minh tiêu thụ và văn hóa hưởng thụ.
Ngay cả ba nhóm từ nhì nhoằng trừu tượng ấy cũng quá khó nhớ so với một phép so sánh giản dị giữa hàng trăm Mỹ kim và vài trăm ngàn đồng Việt Nam.
Chỉ có kiến thức sơ đẳng của một fashionista sẽ cho phép bạn đầu tư vào những món trọng yếu cho bộ cánh, và khi đó, những đôi giày nên luôn được đặt ở vị trí ưu tiên hàng đầu – điểm cứu cánh cho toàn bộ diện mạo. Những thiết kế không mùa, little black dress kinh điển, hay một chiếc trench coat bất hủ, và đặc biệt là một mùi hương nước hoa tinh vi đến từng note sẽ chỉ có thể là những tuyệt phẩm mang dấu ấn kiêu hãnh của những tượng đài như Louboutin, Chanel, Burberry, hay Bvlgari.
Một chi khoản rộng rãi hơn một chút có thể được tập trung vào những thiết kế hoàn hảo và thân thiện của các hãng bán lẻ uy tín như H&M, Bebe, Zara, v.v… Trong khi đó, các tên tuổi thiết kế trong nước cũng đang bảo đảm độ nhạy trào lưu khi thỏa mãn kịp thời cho tín đồ trung lưu những ảnh hưởng tân kỳ nhất qua bộ lọc thẩm mỹ riêng. Các nhãn hiệu DMC, Maschio (cho các fashionisto), Ngân’s Private Collection, Miki, Umbrella, Urbanista, Kelly Bui, v.v… hoàn toàn là những lựa chọn đáng kiêu hãnh cho một diện mạo fashionista phố lớn.
Phần còn lại của cuộc hoán chuyển theo vòng xoay trào lưu có thể được thỏa mãn từ những cuộc hành hương nho nhỏ đến các boutique bản xứ, thú mix-and-match chỉ dành cho fashionista thông minh, tận dụng lợi thế của xứ sở nơi một bộ cánh may đo luôn nằm trong tầm với, hoặc noi gương Stefano Pilati làm cuộc rong ruổi khám phá các khu flea market… đều sẽ cho bạn một ảnh hưởng đúng điệu của phong cách tinh thần từ các tuần lễ thời trang non mùa nhất, nhưng không với tag giá vô tưởng, hoặc hạ mình xuống tầng tội đồ hàng nhái.
Cuối cùng, sẽ không thể là tín đồ nếu bạn ngưỡng vọng sự sáng tạo của các nhà thời trang bằng cách ăn cắp và bán rẻ.
Nhưng sẽ chỉ là một cuộc nô bộc tuyệt vọng của những nạn nhân tội nghiệp nếu tất cả cùng tuyệt vọng rướn đến sự sở hữu tác phẩm hơn là thấu hiểu, ngưỡng mộ, và tác tạo nên một phong cách thời trang riêng.
Ở giữa hai lằn ranh ngặt nghèo ấy, là những tín đồ chính hiệu: sành điệu, tự trọng, và thông minh.
-------------------------------------
Calvin Klein – người hùng thời trang Mỹ & chiếc quần lót phi giới tính
Trác Thúy Miêu
Từ khi lên 5, Calvin đã biết chắc điều mình muốn làm với sự nghiệp về sau. Cậu sẽ trở thành một nhà thiết kế thời trang và sẽ không ai ngăn cậu được. Như thể định mệnh cho đứa trẻ lì lợm cắm đầu vào hào quang của một trong những nhà thiết kế hùng mạnh nhất công nghệ thời trang thế giới, với tài sản hàng tỉ Mỹ kim và một cái tên bành trướng mọi thị trường thời trang, mỹ phẩm thân thiện, từ quần áo, nước hoa, kính mát cho đến tận những mảnh đồ lót. Mỗi bước tiến quân hoành bá của song tự CK đều mang về một ngân khoản và uy danh lẫy lừng cài lên ngực kẻ mang danh “Calvin the Conqueror” (Kẻ Chinh Phục) trong suốt 40 năm bất bại.
Mộng bá chủ từ quầy tạp hóa phố Bronx
Sự nghiệp lẫy lừng ấy đã bắt rễ từ rất sớm, những tháng năm lớn lên của cậu Richard Klein khu Bronx, New York. Sinh ra vào cuối năm 1942 với hai dòng máu Áo-Hung, tuổi thơ cậu Klein không có chút hào quang của tầng xã hội phong lưu le lói được đến tiệm tạp hóa của cha cậu, nơi cậu lớn lên để tập phụ việc, như một phần số khiêm nhường được ấn định lầm lũi giữa những kệ di sản chạp phô cha truyền con nối.
Giữa những quầy kệ của cuộc sống phố Bronx, Klein khép mình khỏi những trò chơi của bọn nít nhỏ cùng xóm, cậu ở nhà, lúi húi tập vẽ và mê mẩn trò vá khâu. Những khoảnh khắc huy hoàng trong tuổi ấu thơ ấy của cậu nhỏ lập dị nhà Klein là những chuyến được theo mẹ đi mua sắm trên phố lớn. Trên thực tế, những chuyến tháp tùng hào hoa ấy của cậu là cùng người mẹ – người đàn bà đa đoan tằn tiện, săn lùng những đợt hàng thời trang giảm giá, hay các tiệm hàng giá rẻ. Nhưng chính những cuộc săn loanh quanh phố lớn ấy đã kết thúc bước chân ấu thời của cậu tại trường trung học Mỹ Thuật Công Nghệ, với mục tiêu trực chỉ Viện Công Nghệ Thời Trang Nữu-Ước. Klein tốt nghiệp ngoạn mục khi 20 tuổi, và vài năm sau thành thân với cô Jayne Centre, cùng lúc chính thức đặt chân vào giới thời trang New York ở tư cách một thực tập sinh vô danh. Sau đó, Klein chuyển sang phụ việc cho Dan Millstein với tiền công 75 dollar mỗi tuần bằng việc vẽ lại các thiết kế áo khoác kiểu Âu châu cho nhà này. Thời ấy, hầu như Hoa Kỳ chưa có lấy cho mình một phong cách thời trang rõ nét riêng biệt, mà phần lớn chịu ảnh hưởng từ các trào lưu thời thượng của Lục Địa Già. Chính công việc này đã cho Klein thâm nhập sâu sắc nhất vào tinh thần Âu châu trong từng cấu trúc thiết kế khi này khuynh đảo sàn thời trang Hợp Chủng Quốc.
Từ những bản vẽ “nguội” này, Klein ấp ủ mầm mống sự nghiệp cho một hãng thời trang riêng, như một sự trỗi dậy của lòng tự trọng Hoa Kỳ, kèm theo tag giá đại đồng thân thiện đủ để hất cẳng những thế lực xa xỉ Âu châu khi này vẫn đang chiếm thế độc tôn.
Năm 26 tuổi, với 2,000 dollar tiền tiết kiệm và 10,000 mượn từ Barry Schwartz, một người bạn thời ấu thơ, anh chàng đã thành công gieo hạt mầm đầu tiên cho thế lực thời trang Hoa Kỳ non trẻ, mang tên Calvin Klein Ltd., với Schwartz trở thành cổ đông đầu tiên và duy nhất.
Từ tai nạn tình cờ của tay buyer ngớ ngẩn…
Tiếp tục tập trung vào dòng thời trang áo khoác, mọi ý tưởng từ thời còn ngồi vẽ lại những chiếc áo khoác châu Âu được dịp tuôn trào vào nhữn sản phẩm Mỹ thật sự. Nhưng thành công và may mắn lại gõ cửa hãng Calvin Klein nhờ một tai nạn hi hữu một năm sau ngày thành lập, khi một doanh nhân bước ra khỏi thang máy vào nhầm tầng lầu và bước nhầm vào văn phòng hãng thời trang Calvin Klein vô danh. Tình cờ sao, doanh nhân này là một chuyên viên thương vụ của hãng department store Bonwit Teller danh tiếng. Ông ta vào nhầm chỗ, nhưng khi bước ra, đã đặt xuống chi khoản 50,000USD cho một thương vụ không thể đúng đắn hơn, và lời nhắn nhủ mang tính sấm truyền “Ngài Klein, ngài sẽ được thế giới thời trang phát hiện ra.”
Chỉ trong một năm đầu hợp tác, nhà Bonwit Teller đã thực hiện 1 triệu USD thương vụ với Calvin Klein.
Sự hào phóng của bạn hàng đầu gấu đã giúp Klein tự tin xâm lấn sang dòng thời trang sportswear thân thiện vào năm 1973. Các thiết kế đầu tay của ông, với dấu ấn đơn giản, lịch thiệp và đầy chất thực tế đặc thù đã nhanh chóng được dân Mỹ mệnh danh đầy tự hào là “The Calvin Klein Look” cho cả một trường phái thẩm mỹ thời trang thực dụng. Cùng năm, tô điểm thêm cho vầng hoàng quang mới của thời trang Mỹ, Calvin Klein ẵm luôn giải thưởng danh giá Coty Award.
Nhưng phía sau những bước tiến liên tiếp ấy của sự nghiệp là những rạn vỡ đầu tiên trong cuộc sống riêng của Klein. Năm 1974, khi đương trên đài danh vọng, ông ly dị vợ, rơi thẳng vào những cuộc tiệc tùng triền miên và mọi thứ chất kích thích mà lối sống hippy thượng lưu có thể mang lại cho những ai đủ tiền để nghiện ngập. Năm 1978, con gái Marci 11 tuổi của Klein bị bắt cóc, như một đòn cảnh tỉnh ông bố trẻ, lôi tuột Klein khỏi những cuộc đắm mình thâu đêm ở hang ổ khét tiếng Studio 54.
Marci an toàn hồi gia, và Calvin Klein cũng vậy.
…đến quyền lực Mỹ tái sinh từ vũng lầy đồng tính
Đầu 1980, Calvin Klein – giờ đã thành tên gọi một thế lực thời trang mới, lại đặt chân đến một khúc quanh định mệnh, khi tung ra chiến dịch quảng cáo cho mẫu quần jeans bó sát, với cô đào non Brook Shields pose một dáng giật gân với lời tuyên bố như thách mọi nam nhi trai tráng Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ “Không có gì lách vào nổi giữa tôi và Calvin”, đương nhiên là ám chỉ nhiều hơn đến sự khắng khít ngặt nghèo giữa làn da đùi của nàng với chiếc quần bó đến ngứa mắt.
200,000 chiếc bán hết vèo trong tuần đầu tiên, các nhà hoạt động nữ quyền lại được dịp om sòm la lối, nhưng đó chỉ là một dấu son cho mỗi chiến dịch quảng cáo thật sự thành công. Calvin trở thành điển hình tiên phong cho phong trào chiến dịch quảng cáo kèm tai tiếng, mà kẻ tiếp nối nhanh nhảu nhất cũng chính là ông.
Hai năm sau đó, Klein tung bomb quảng cáo quần lót nam để khai hỏa cho dòng sản phẩm nóng sốt nơi đáy quần nam nhân toàn thế giới cho đến tận nay. Hẳn nhiên, với shot ảnh các nam thần làng mẫu mình chỉ mặc độc những chiếc quần thun bó đến cháy da, Calvin Klein thắng lớn. Nhưng vị ngọt thành công chỉ mới ngây ngất được một năm thì cơn hoảng loạn toàn cầu về bệnh AIDS khiến các đáng nam nhi co vòi lập tức trước hình tượng tình dục phi giới tính của mẫu quảng cáo nhà CK, và bất cứ kiểu quần lót bó sát vào nơi rất không nên xây xát ấy, đúng ngay vào lúc vừa bỏ 65.8 triệu USD ra mua lại licensee của Puritan Jeans, Calvin Klein ngập đầu trong món nợ trời giáng.
Ngay trong vũng lầy sự nghiệp, Klein lại tái hôn, nhưng đây không hề là một đoạn đường quang đãng. Ông tái nghiện và được đưa đi điều trị tại Hazelden Clinic ở Minnesota. Sau khi cai nghiện, như gã khổng lồ thức giấc, Klein công khai giới tính, và bắt tay với tài phiệt truyền thông David Geffen để gỡ công ty khỏi món nợ khổng lồ. Tự học từ thương vụ suýt xóa sổ Calvin Klein, ông bắt đầu phát hành license của chính mình. Cái tên Calvin Klein quả là món hời được giá, ngay lập tức lây lan khắp thị trường thời trang, phụ kiện và mỹ phẩm như một trận đại dịch lây lan nhanh chóng mặt. Từ mắt kính, đồng hồ, ví bóp, v.v… Điểm nhấn của cuộc càn quét là quả bomb mùi hương sặc mùi tuyên ngôn của phong cách Calvin Klein – nước hoa unisex cKone, đánh dấu sự tở lại huy hoàng của quyền lực Calvin Klein bách thắng.
Cao điểm xảy ra vào năm 2002, khi Klein bán lại công ty cho tập đoàn Phillips Van Heusen Corp với giá trị 400 triệu Mỹ kim, với 30 triệu giá trị cổ phiếu. Nhưng cái tên Calvin Klein vĩnh viễn ghi dấu quyền lực trong lịch sử ngành công nghệ thời trang Hoa Kỳ và thế giới.
Chất bôi trơn mang tên Tình Dục
Nhìn vào một shot ảnh hay clip quảng cáo của nhà Calvin Klein, người ta không tài nào biết được món gì đang được rao bán. Liệu đó là kính mát, nước hoa, hay quần bò?
Chỉ riêng Calvin Klein biết chắc thứ ông ta bán, và nó cũng chẳng phải kính mát, nước hoa hay quần bò.
Đó là SEX!
Nhưng tôi đang không định nói rằng nhà Calvin Klein thành công nhờ công nghệ mãi dâm. Không! Chữ SEX viết hoa là một cuộc chơi vi diệu hơn rất nhiều.
Từ TVC, các trang tạp chí cho đến những tấm biển quảng cáo khổng lồ, tất cả đều được phủ ngập những thân mình thiếu vải, loang loáng thịt da hoàn mỹ, và chỉ một vài mảnh của sản phẩm chủ đạo được đeo đính vào đó một cách tài tình.
Mọi dân nội giới rành chuyện của công nghệ thời trang Mỹ đều biết ông tổ của các chiến dịch quảng cáo thời trang gợi tình trên mảnh đất Tân Thế Giới không ai khác, chính là quyền lực thời trang mang tên người đàn ông Mỹ Calvin Klein.
Dù ủng hộ hay phản đối, hiển nhiên, sự phổ biến của cái tên Calvin Klein cũng đủ khẳng định đó là một thế lực hùng mạnh, và tất cả được xây dựng trên ý tưởng về sự gợi tình. Vậy đó, một anh chàng cô nàng mới ra ràng nào cũng hiểu, nếu bạn muốn một phong cách trẻ trung gợi cảm, bạn đi mua đồ hiệu Calvin Klein, và hầu như tag giá thân thiện đến nỗi, “bạn” ở đây có thể là các cô cậu sinh viên còn sống nhờ vào quỹ bỏ túi của một gia đình trung lưu, cho đến những tín đồ thênh thang sự nghiệp.
Klein tuyên bố “Mọi thứ tôi sờ chạm đến, trong các chiến dịch quảng cáo, đều gây tranh cãi. Chính những tiếng la ó đi cùng mãi lực này hình thành một phản xạ có điều kiện trong tư duy sáng tạo. Nếu nó giật gân, gợi cảm và nhạy cảm, và có một mối dây mong manh liên quan đến sản phẩm chủ đạo, thì tôi lập tức sẵn lòng liều mình với ý tưởng quảng cáo đó, bất chấp! Một trò tiêu khiển cực kì thú vị.”
Từ đó, không chỉ được vị nể trong giới thời trang, Calvin Klein còn là một cái tên khét tiếng đối với giới quảng cáo. Ông là một thiên tài lì đòn, sẵn sàng đạp đổ mọi biên giới, thay đổi mọi tiêu chuẩn, và tự định đoạt rằng điều gì là chấp nhận được trong quảng cáo thời trang. Ông khuấy động quanh mỗi shot ảnh, clip TVC của mình những luồng phản ứng đa chiều. Tung hô hay la ó, mặc tình, ông có quanh mình một đám đông ồn ào với mọi sự chú mục hướng về từng chi tiết trên hình ảnh quảng cáo.
Kiện tướng mặc quần đùi và cuộc hành hung 25 chiếc xe bus
Nhưng không phải là một tay con buôn bất chấp thủ đoạn, cuộc chơi của gã người Mỹ khôn ngoan chỉ dừng lại ở những hình ảnh khơi gợi đến hàng tỉ thứ cấm kị hay ho, rồi hình thành nên một màu sắc thuộc tính gắn liền với nhãn hàng: trẻ trung, gợi tình, biết thụ hưởng và không ngán dư luận.
Điển hình là bức ảnh cô người mẫu Pati Hansen năm 1979, lồm cồm chổng mông vào tuế nguyệt trong cặp quần jean CK bó sát. Bức ảnh này, dưới dạng một biển quảng cáo khổng lồ, được chưng liên tù tì 4 năm tại quảng trường Times, trở thành một tượng đài biểu trưng cho tinh thần thời trang dân chủ gắn liền với tên tuổi Calvin Klein.
Năm 1982, cùng với sự bành trướng của Klein vào lãnh vực nội y, tất cả những kinh nghiệm lão luyện từ các chiến dịch quảng cáo trước được tập trung đầu tư cho dòng thời trang không thể phù hợp hơn này. Klein đặt bước chân đầu tiên vào mảnh đất sặc mùi SEX với lời tuyên bố hào hùng “Tôi không làm nên những bộ đồ lót có thiết kế gợi cảm, mà chỉ thiết kế ra những thứ làm chính người mặc trông gợi cảm hơn. Và đó chính là điều mà tôi sẽ đặt vào trọng tâm của hình ảnh quảng cáo, chứ không phải các bộ áo quần. Hình thể hoàn hảo và sự gợi tình sẽ được khai thác và cảm thụ tối đa, nam hay nữ, bất kể, tôi sẽ thực hiện điều này với những người mẫu có thân hình tuyệt hảo”.
Thế là ông tìm đến kiện tướng Olympic môn nhảy sào người đầy cơ bắp, mặc cho anh này thiết kế quần lót mới nhất của ông, chụp lại, thuê đăng trên thân 25 tuyến xe bus ngược xuôi Nữu Ước.
Chỉ sau một đêm, toàn bộ cửa kính của 25 chiếc xe bị đập vỡ tan tành và những tấm poster bị cướp sạch, chỉ trừ tấm biển khổng lồ ở Times Square là may mắn thoát khỏi những bàn tay táy máy của quý bà, và cả các quý ông.
Không cần phải bàn đến mãi lực của chính sản phẩm nữa, đó hiển nhiên đã là một quả bomb quảng cáo vang dội lịch sử thời trang.
Nhưng đó chỉ là cú dội bomb dọn đường, đáng để người ta nín thở chờ dòng underwear nữ thật sự khai hỏa.
Tuân thủ đúng tinh thần unisex của nhãn hàng, những thiết kế quần lót đầu tiên của Klein dành cho nữ hoàn toàn lấy cảm hứng từ những kiểu quần shorts, quần đùi boxers của nam. Các cô nàng vô ưu hồn nhiên như đang mặc quần của bạn trai, gợi tình róng riết đến mức dẫu đẩy năng suất tối đa, hãng của Klein không còn có thể đáp ứng nhu cầu thị trường 2 năm sau đó. Klein thản nhiên buông bỏ, bán lại dòng hàng nóng rẫy tay này lại cho cá mập Kayser Roth Corp và ngon ơ bỏ túi 11.2 triệu Mỹ kim.
Cũng với chất bôi trơn của thẩm mỹ gợi tình, Klen liên tục thắng lớn ở thị trường nước hoa với hình ảnh các nam thần thời đại vờn đùa một quý cô hoàn toàn khỏa thân để quảng cáo cho nước hoa Obsession. Một cuộc thăm dò cho thấy đây đã trở thành hình ảnh quảng cáo đáng nhớ nhất đối với người tiêu dùng ở Mỹ trong suốt 4 năm liền, còn Obsession trở thành nhãn nước hoa bán chạy thứ nhì trên toàn thế giới.
Không có gì có thể ngăn Klein lại nữa, ngay cả bản thân ông. Calvin Klein trở thành một tính từ của vẻ đẹp đầy dục tính và một lối sống hưởng thụ cởi mở và những lằn ranh giới tính bị đạp đổ phũ phàng. Mỗi hình ảnh ký tên CK đều có khả năng vươn ra khỏi tầm quảng cáo thời trang thương mại, mà chính thức trở thành một tuyên ngôn lối sống. Chúng khiến không chỉ các tín đồ thời trang cũng phải ngoái đầu nhìn lại, và người ta không còn ngỡ ngàng trước sự tồn tại và hùng bá hiển nhiên của tên tuổi Calvin Klein.
BOX BUÔN CHUYỆN
Như một mối lương duyên với những chiếc quần lót và những thân thể nam thần làng mẫu, gần đây người ta không còn ngỡ ngàng trước cảnh Calvin Klein, ở tuổi ngót 70, cặp kè với chàng người mẫu nhỏ hơn mình 46 tuổi Nick Gruber.
Phải mất công lùng kiếm lắm mới có thể lần ra anh chàng, qua nick Nick Oo trên Facebook, và hồ sơ người mẫu được đăng trên ModelMayhem.com với cái tên Nick London. Hồ sơ này gần đây mới bị xóa mất tăm.
Sự việc không có gì là lạ từ khi Calvin Klein công khai về xu hướng tình dục của mình, và sự quan tâm đặc biệt đến các cậu người mẫu măng tơ theo đúng kiểu Nick Oo, Nick London, hay Nick Gruber, tùy theo cách gọi.
Năm ngoái, Calvin đã hào phóng tổ chức cả một buổi tiệc sinh nhật hoành tráng mừng tình nhân 21 tuổi. Trên tấm thiệp mời, ông cho in dòng chữ “Trong tinh thần lễ hội đón chào năm mới, và kỷ niệm sinh nhật Nick Gruber, hân hạnh thân mời quý vị đến tiệc tối cùng Calvin Klein tại Indochine ngày 21 tháng Giêng, lúc 21 giờ. Đây sẽ là chiếc vé nóng nhất cho toàn giới đồng tính và tinh hoa thời trang New York.”
Mới đây lại có tin đồn họ chia tay.
Một số người quen của Klein cho biết họ chỉ “tạm thời chia tay”, vốn là tình trạng khá thường xuyên của cặp đôi bền bỉ một cách thất thường ấy, trong khi Daniel Nardicio – một nam vũ công nightclub, bạn thân của Nick, khẳng định rằng Nick đã có lần buông lời tâm sự “muốn sống bên anh trọn đời” khi được hỏi về mối tình với CK, còn Klein, phừng phừng hạnh phúc ở tuổi ngót 70, xuất hiện trên sóng truyền hình quốc gia, tuyên bố ông đã “tìm được một tình yêu hoàn hảo với một chàng trai tuyệt vời”.
Oái oăm thay, người ta bắt đầu gọi Klein là “lão già dại trai” khi Nick bắt đầu post lên Facebook của mình những tấm ảnh mặc quần lót của thương hiệu đối thủ của CK là Jockey, trong một tư thế đáng gọi là một phiên bản vụng về của trường phái quảng cáo mang tên người tình huyền thoại.
-----------------------------------
Trịnh Nam Sơn – cậu nhỏ nghịch nắng trên đồi hoa râm
Jasmine nOir
Ông yêu những lời nũng nịu.
Ông thích những nàng thơ hiện sinh, lẳng lơ vừa chừng, và vẫn còn sót lại, giữ gìn cái duyên thẹn thùa kín đáo.
Họ được đưa vào bóng vía âm nhạc của ông. Vì nàng sẽ cho ông những bất an lãng mạn mà thành những cuộc chia tay ghi dấu trong ca khúc Trịnh Nam Sơn.
Nhưng người đàn ông lại cần một sự an toàn cho cuộc đời bên ngoài âm nhạc. Người đàn bà bước ra khỏi vùng thơ nhạc, đặt vòng tay bảo bọc quanh gã cowboy có hàng râu kiểu goatie đã lấm tấm hoa râm.
“Nàng công chúa hạt đậu” và ổ gà trên Con Đường Màu Xanh
Tạo ra một cá tính âm nhạc rất riêng, những giai điệu sáng láng thênh thang và rất “Tây”, Trịnh Nam Sơn đã là một liều sinh tố âm nhạc cho cơn khát của thế hệ trung học thời bấy giờ, vốn đã mệt nhoài sau khi đã mỏi mòn chán chê những băng cassette hải ngoại của thứ nhạc vàng cải biên. Cái tên Trịnh Nam Sơn trở thành một đại diện cho dòng hải ngoại tân thế hệ, sang trọng nhưng thân thiện, với những ca từ vừa khít với bất cứ tâm sự nào, như một bộ suit Armani.
Nhưng trên hết, sự ấm áp của cái tên Trịnh Nam Sơn còn chạm đến trái tim non của các cô gái trẻ bằng chính giọng ca bảng lảng đầy đàn ông tính, lối nhả chữ an nhiên đến bất cần, và gần gũi như một lời tâm sự sát tai, chứ không cầu kì như một ngôi sao ca nhạc hát từ trời Tây nào đó.
Trong mọi lời ca của giọng đàn ông lãng du phớt tình, mọi cô gái trẻ đều lịm đi với lời lẽ vừa ngạo tình vừa mã thượng ấy
Người yêu hỡi hãy quay mặt đi
Em thênh thang trên con đường về
Trìu mến như một người tình, cao thượng như một người cha
Giọt nước mắt hãy lau thật khô,
Tình yêu đã tan theo mây trời
…và lúng túng như một tay Việt kiều vụng về môn ngữ pháp
Anh mong em từ đây,
Nhìn lại con đường em đi trên… đầy màu xanh
Bạn nhảy dựng lên, quai hàm nhức nhối như bị lừa nhai phải một hạt sạn to bự, và nổi da gà bởi một câu văn tệ lậu hết chỗ nói.
Cơn rùng mình có thể ví với việc đọc một bức thư tình cực kì lãng mạn nhưng sai chính tả, hay trong cơn yêu đương với tình nhân nóng bỏng nhưng mắc tật cà lăm.
Cười vang sảng khoái khi nghe lời trách cứ, gã trai tóc hai màu xuê xoa phân bua “Thời tôi đi học trường nhạc bên ấy, chúng tôi học kỹ năng của nhà soạn nhạc, với lại Mỹ đâu có dạy viết ca từ bằng tiếng Việt ra sao. Tất cả là những bản hòa thanh, những note nhạc như thứ ngôn ngữ duy nhất để truyền tải trạng thái của con tim.”
Rồi chàng lại lần mò tiếp, cho đến khi tìm ra cách chống chế thuyết phục nhất: “Ta thử nào, thay bằng ‘nhìn lại con đường em đang đi… đầy màu xanh’. Em thấy chưa, bản này tôi viết cho tự sự một người đàn ông, mà bắt nam ca sĩ ngân nga âm ‘i’ kéo dài nghe sẽ không thể nào thênh thang bằng âm “ên” vang rền như thế được, đúng không nào? Cuối cùng thì em đúng, cảm xúc của thính giả là quan trọng lắm, giữa các lựa chọn, tôi buộc lòng phải chọn một câu ngữ pháp Mỹ nhưng người ta sẽ vẫn cảm nhận được lối nhả chữ đẹp vào đoạn ngân cao trào cuối cùng ấy, em hài lòng chưa?”
Dù biết thừa đây chỉ là màn chống chế vụng chèo khéo chống của tay láu cá, lúc này đang thao thao bất tuyệt về khẩu âm khẩu hình và mọi thứ biệt từ âm nhạc cao siêu, bạn cũng chịu cho qua bởi vẻ lúng túng gãi đầu gãi tai ấy, và nụ cười hào sảng xuề xòa ấy thật ấm áp, dễ chịu và dễ lây.
Dẫu sao thì đó cũng là một giai điệu đẹp, và thứ ngôn ngữ mà người nhạc sĩ nên sử dụng thuần thục nhất, chả phải là những nốt nhạc đó sao? Và cuối cùng, khi anh ta đủ thiện chí để nhanh nhảu tìm một lối chống chế, chẳng phải là lúc bạn vào vai vị tha và cười xòa cho tan viên sạn đã nhai phải hơn một thập niên về trước?
Cậu bé ngoan, người quân tử, và gã hèn
Nhưng cũng chính sự xuề xòa nghệ sĩ tính ấy đã là nguyên nhân cho bao kẻ tài hoa phải kết thúc vĩnh viễn trong sân chơi underground và cái áo hoa mỹ AQ của một tay nghệ sĩ tự do, ngoài rìa sàn nghệ thuật chính thống của những tài danh cầu toàn và những sản phẩm được chuốt trau hoàn hảo.
“Tôi cầu kỳ lắm chứ, với sở học của mình và những kỳ vọng về diện mạo tác phẩm khi được mang ra trình bày. Nhưng ngoài kiến thức và những cảm xúc sáng tác, tôi còn phải biết rõ mình đang có gì trong tay. Nếu tôi bắt 5 nhạc công làm công việc của một giàn giao hưởng, là tôi sai quá rồi. Nếu tôi làm thánh làm tướng hét la dữ dằn ra vẻ oai vệ với họ, thì tôi sẽ đằm mình lại để hát ra sao? Vậy là tự gây khó cho mình rồi. Chi bằng xác định những điều kiện mình không thể kiểm soát hơn được nữa rồi tìm cách hài lòng với nó.”
Xuyên thấu bức chân dung thái độ nghệ thuật ấy, bạn có thể nhìn thấy bên dưới một anh chàng hòa lành đến khó chịu. Gã luôn lảng tránh những cuộc tranh cãi (mà bạn sẽ thích gọi là tranh luận hơn), gã sẽ chọn thụ hưởng một mối quan hệ yên ổn và an toàn, chứ không thật sự muốn lao đầu vào bi lụy. Đây chính là người đàn ông sẽ vui vẻ mặc chiếc áo mà bạn chọn, ăn món ăn mà bạn nấu, và làm tất cả những điều đó vì một tình yêu hòa bình.
“Quan trọng là mình sướng cái đã, rồi sự thoải mái ấy sẽ lây lan cho những người xung quanh. Để tỏ ra một kẻ cầu toàn, tôi có thể từ chối diễn nếu ban nhạc dở, tôi có thể khoa chân múa tay cà khịa với bất kì ai mà tôi cho là sai quấy, rồi tự đâm đầu vào tường thôi, xem ai thiệt thòi cho biết. Tôi sẽ thành một lão nhạc sĩ già cáu bẳn, nói không ai nghe, và chắc chắn sẽ mắc thêm chứng đau dạ dày. Tranh cãi chỉ là trò phân định đúng sai không bao giờ đi đến hồi kết. Tôi không nhận mình sai, nhưng người ta đến với nhau không phải vì kẻ kia luôn luôn đúng. Khi sự thanh thản và niềm vui được xem trọng thật sự, có những thứ xộc xệch trở nên không còn quá quan trọng nữa. Nếu cuộc đời không bao giờ hoàn hảo, hãy vui vẻ chấp nhận điều đó, và sau đó làm cho nó dễ chịu hơn bằng chính thái độ của mình.”
Trong sự hồn nhiên trẻ con của ông lúc này, bạn đã kịp thấy nhuốm màu thỏa hiệp – một sắc màu của sự khôn ngoan, kinh nghiệm và trưởng thành.
Người đàn ông có thể không bao giờ lớn, nhưng không chọn làm một đứa trẻ ngoan cố cứng đầu.
Mọi đứa trẻ ngoan, mọi tay quân tử mã thượng, và mọi gã hèn đều có một điểm chung: muốn chơi vui thì phải biết nhường nhịn.
Đứa trẻ trên đồi và sự tàn nhẫn vô ưu
Sinh ra ở Sài gòn, nhưng lớn lên ở Đà lạt, đứa trẻ lâu năm trước mặt bạn đến từ những ngọn đồi. Nơi đó, ông đã trải qua một tuổi thơ của nỗi cô độc hồn nhiên, mấy con vật nuôi trong nhà, những người thượng lâu lâu ông nhìn thấy khi họ gùi hàng xuống phố, hay những dịp cuối tuần hiếm hoi được đi câu cá với ông thân sinh…
Đó không chỉ là những nét phác một tuổi thơ. Người đàn ông ấy vẫn vậy, vết dấu của Sài gòn và cuộc hội nhập với Hợp chủng quốc cũng chỉ để phủ phả lên đó một vẻ trai lơ hiện sinh 70’s và mùi văn hóa Harley Davidson của những tay nghệ sĩ xăm mình. Gã ngố rừng vẫn như ngày đầu xuống núi “có những khi phóng xe trên xa lộ cao tốc, tôi đột nhiên có một cảm giác thôi thúc rất kì khôi: tôi muốn bảo ai đó dừng xe, cho tôi xuống, để tôi được thả mình chạy vào những cánh rừng, những ngọn núi hai bên đường. Tôi vẫn là thằng nhóc lặng thinh giữa thiên nhiên núi rừng và muôn vật, và có lúc, tôi muốn thinh lặng giữa cuộc đời, đó là cách tôi trở về, không hẳn với Đà lạt, mà tìm ngược lại vào trong. Tôi không phải là anh chàng hướng ngoại, là kẻ giỏi mồm mép, nhưng tôi khoái gặp mọi người, ai ai tôi cũng mở lòng hồ hởi vô tư, như đứa nhỏ ở trên núi quá lâu nên chỉ chờ dịp để huyên thuyên, để làm bạn. Tất cả không đến từ đời sống Mỹ đa chủng ồn ào, mà đến từ những ngày dài một thân một mình ở Đà-lạt, mong được đi câu cá, được gặp bố và anh trai, để rồi khi còn lại một mình, lại sống với sự an nhiên trong cô độc.”
Nhưng nếu cô độc trong một căn phòng khóa trái dễ khiến người ta trở thành yếm thế, thì sự cô độc giữa thiên nhiên thoáng đãng chỉ khiến người ta thư thái và hào sảng chân thành hơn mà thôi. Rời Đà-lạt về Sài-gòn, rồi lại theo dòng thời cuộc sang đất Hoa-kỳ khi mới 17 tuổi, anh chàng ngố rừng thay vì hoảng loạn co cụm và đề phòng với “life style phố lớn”, lại tự luyện cho mình một khả năng buông lỏng đến mức tưởng như xuề xòa, để tở mở dễ dàng hơn khi thích ứng với môi trường và thời cuộc cứ thay đổi xoành xoạch xung quanh: “Tôi không chọn va đập nên không mặc giáp trụ phòng thân. Tôi chọn đón nhận và cộng sinh, nên mềm mại đưa cánh tay với lòng bàn tay mở ngỏ. Rất có thể, tâm thế hòa lành ấy sẽ khiến cuộc đời không cà khịa với ta nữa. Thái độ định đoạt hành vi và số phận, tôi chọn sống chớ có chọn đối đầu và chinh chiến đâu? Kết cục là tôi sống ổn, ở mọi nơi.”
Đó cũng là cách mà người đàn ông đến với những người đàn bà, như một duyên phần được hồn hậu đón nhận. Và đó cũng là cách mà người đàn ông ra đi khỏi những cuộc tình, như những đổ vỡ được thanh thản chấp nhận: “Một chuyện tình không thành, đó là điều đáng buồn, đáng tiếc. Nhưng tôi không có dịp biết được đã có người đàn bà nào ôm hận phía sau tôi không, bởi tôi chỉ biết một điều duy nhất – tôi đã làm tất cả những gì có thể, nếu nàng không hạnh phúc, tôi đã chọn ra đi. Những gì còn lại đều không trong quyền năng kiểm soát của người đàn ông nữa rồi! Thôi thì nguyện cầu cho họ đều hạnh phúc.”
Bạn rùng mình nhìn người đàn ông trước mặt, không có gì để gợi nhớ sự tàn nhẫn của một tử tước Sébastien de Valmont trong bi kịch Dangerous Liaisons, ngoài vị tanh lạnh sau nụ cười bất lực vô lương “It’s beyond my control!”
Sự hồn nhiên của trẻ con, khi kết hợp trong tâm thế cầu an của kẻ trưởng thành, có thể trở thành thứ gây thương tổn ghê gớm nhất, nhẫn tâm và vô cảm nhất.
Hãy dừng lại, bên ngoài vùng spot-light vô nhiễm!
Quý cô của F, hãy gác qua cơn chấn động nhỏ, cuối cùng thì tất cả cũng là những sự thật về bản ngã kẻ đối diện – điều nằm ngoài khả năng kiểm soát của bạn, “beyond one’s control”. Hãy tập ngửa lòng bàn tay để thảnh thơi chấp nhận, và tránh cho mình những vết cứa hồn nhiên.
Hãy đồng ý nhận lời cùng dùng bữa và níu dài cuộc hàn huyên. Khuôn mặt người đàn ông đồng hành lập tức dãn ra nhẹ nhõm khi bạn đề nghị chọn nhà hàng.
Như mọi người đàn ông có cho mình một khẩu vị phóng khoáng nhưng một hệ miễn dịch mong manh, ông nhường chỗ cho bản năng đàn bà trong bạn trỗi thức. Không phải cho những tán tỉnh đòng đưa, mà cho phần Nữ Oa đội đá luôn sẵn có trong mỗi người đàn bà Việt.
“Đi khắp nơi lang bạt kỳ hồ, sống cách biệt khỏi cộng đồng người Việt khi ở Mỹ, tôi vẫn có thể biết chắc một điều: tôi chỉ mê phụ nữ Việt Nam. Đi đâu thì đàn bà Việt Nam cũng là nhất! Chẳng có cô đầm nào có thể cho tôi cái rung động khi xưng anh gọi em. Cứ tưởng tượng cảnh nằm bên nhau thủ thỉ, cứ “mày mày tao tao” là thấy kì khôi rồi. Rồi về sau về làm vợ làm chồng, cứ tưởng tượng cảnh được nàng gọi là “mình ơi” là thấy trăm ngàn lần thi vị, ai còn ham hố gì đầm tây nữa chứ. Ông bà tổ tiên mình xưa cũng khéo chiều người đàn bà Việt Nam, nên mới nghĩ ra thứ ngôn ngữ có lắm bằng trắc kì tình, khiến họ nũng nịu như hát hay, vừa lả lơi vừa thẹn thùa, dễ thương lắm!”
Đó không hẳn là tay sành sỏi trò nịnh đầm, nhưng chính vẻ hồn nhiên ấy lại là hấp lực của Trịnh Nam Sơn, bởi mọi lời khen của tay lãng tử thô vụng ấy đều mang một giá trị chân thành đặc biệt.
Nhưng sau mỗi buổi diễn, trước vòng vây ái mộ của những nữ thính giả, của những thừa mứa tôn tụng vuốt ve, người nhạc sĩ dẫu hòa nhã, cũng không che dấu được vẻ lúng túng ít nhiều.
“Ánh đèn sân khấu, đó là vầng sáng quyền năng. Tôi không nói đến quyền lực của sự nổi tiếng, mà tôi chỉ quan tâm đến quyền năng kì diệu của những sự sờ chạm vô hình, của sự thông thấu mà người ta có thể có được với nhau, qua âm nhạc, và nhất là âm nhạc do mình sáng tác nữa. Nhưng ngay sau đó, khi bài hát đã xong, nhường chỗ cho những câu chuyện, những lời khen, những bó hoa, là tôi lại trở về làm gã ngố rừng. Tôi yêu quý trân trọng mọi sự chú ý, nhưng quá nhiều đôi khi khiến tôi lúng túng lắm, chẳng biết phải làm sao. Hãy chỉ để tôi hát và chơi nhạc của mình thôi.”
Sự thâm thúy đến từ những kỹ năng tồn tại tưởng như ngô nghê nhất, và cách của Trịnh Nam Sơn bảo bọc ông trong một vùng hồn nhiên vô nhiễm, ngay cả khi phải đứng giữa ánh đèn spot-light.
Hãy đừng làm kinh động đến vùng không gian vô nhiễm ấy!
F.dater hãy nhẹ nhõm rời cuộc hẹn, để lại sau lưng người đàn ông hoàn toàn hài lòng với nụ cười hồn nhiên thỏa mãn.
Trên mọi nẻo hẹn hò, hãy nghe lời khuyên của F: tránh xa những người đàn-ông-con-nít, nếu bạn chỉ đủ nũng nịu để làm một nàng thơ, và hẵng còn quá sớm để vào vai một người mẹ. Nhưng đó cũng chính là những người đàn ông bạn sẽ hi vọng gặp lại một ngày, vào một cuộc hẹn hò hoàn toàn khác, đôi khi chỉ để tự tay làm một món quà quê, để lại được nhìn thấy nét hân hoan con trẻ.
-----------------------------
Tuẫn-tiết, Văn-minh, và Đầy Thái-độ
Trác Thúy Miêu
Đứa trẻ không chọn sinh ra vào một ngày lành
Đúng 2 năm về trước, F số đầu tiên tung ra tuyên ngôn “thời trang không phải là nghệ thuật, nhưng cần cả một nền văn minh để kiến tạo và thụ hưởng nó”.
Chặng đường một năm đầu khởi tạo đã được thực hiện đúng với lời tuyên ngôn đầu tiên ấy, khi lần dở ra trên từng trang báo, những câu chuyện, cuộc đời, những thăng trầm của tài hoa thống khổ, và những thái độ thời cuộc đằng sau những đế chế thời trang hùng mạnh và những cái tên đã hóa thánh.
Ngày khai sinh của ấn phẩm F-Thời Trang, ngoài kia, thế giới đang rùng rùng sự sụp đổ của những tượng đài quyền lực trong bi kịch của khánh tận và kiệt quệ, của Christian Lacroix và Alexander McQueen,… Haute couture rùng mình trong cơn tự hủy, những tín đồ hoang mang với câu hỏi “Rồi đây chúng ta sẽ có gì để trông đợi, trước mỗi mùa Thu Đông?”
Nhưng, như đứa trẻ không chọn sinh ra vào ngày lành, F chọn cả tin, điên rồ và lãng mạn, F chọn hướng về thời trang, không chỉ như một trận đồ thương mại, mà còn như một lối sống, một tín ngưỡng, một Tình Yêu.
Đó là một năm của những hồ sơ tên tuổi khét tiếng nhất được lần dở, nghiêm cẩn, trung thực và bạo liệt như chính bản chất của thời trang chuyên chính. Đứa trẻ hư Marc Jacobs, hooligan phá đền Jean Paul Gaultier cho đến cái chết bi thảm của thiên tài yểu mệnh Lee McQueen. Đó đã là năm hình thành nên những loạt bài tư vấn trận đồ mua sắm thế giới, cho đến nay vẫn là kim chỉ nam thân thiết của các shopper Việt, sẵn sàng công phá những bãi săn và trực chỉ hành hương về những thánh địa thời trang nóng bỏng nhất hành tinh. Và miên man bên lề là những cuộc hẹn hò, từ “the boy next door” xóm Manor Johnny Trí Nguyễn cho đến gã đàn ông đồ đá đồ đồng Ngô Quang Hải… F bày ra trước độc giả của mình, những người được gọi là F.readers, một bữa buffet cuộc đời, từ nền văn minh đằng sau những thứ không chỉ là quần áo, cho đến thời trang trong phong cách sống, và trong cả lạc thú đặc ân của một F.diva – những cuộc hẹn hò và những người đàn ông.
12 số F đầu tiên đã ghi dấu cho 12 đại tiệc thụ hưởng thời trang chuyên chính, nơi tất cả đều là Thời Trang, và sự xa xỉ tột cùng của những người đàn bà biết bao phủ bản thân bởi những gì tinh tế và cầu kỳ nhất, với mọi tag giá.
Những vị vua và những bà hoàng đi về đâu?
Đúng một năm sau đó, trong khi F chào đón kỷ niệm tròn 1 năm phát hành thì ngoài kia, như phần số oái oăm của đứa trẻ không chào đời vào ngày lành, giới thời trang cuồng nộ với sự thái quá cuối cùng của gã hiệp sĩ râu kẽm John Galliano. Các tín đồ ở Anh quốc và cả Paris lang thang giữa đại lộ thời trang, tay giơ cao biểu ngữ nguệch ngoạc “The King Is Gone!”, trong khi tay Don Quijote của huyền thoại haute couture nhà Dior bị truất ngôi trong chuyến lưu vong ô nhục. Đứa trẻ hư cuối cùng đã bị đánh đòn và ngai vàng đến nay vẫn còn để trống.
Yếu ớt, vô tâm và vị kỷ, những cơn sài giật đồng bóng của thế hệ thiên tài thời trang đã khiến cac tập đoàn cá mập ngán tận cổ. Họ trở nền phiền toái và tạo bất an không kém sự lộng lẫy kì tài của những thiết kế họ tung ra mỗi mùa.
Những thành trì haute couture còn lại cần những cánh tay tài hoa mới, và những bờ vai khỏe mạnh, vững bền để gánh vác, chờ cuộc chấn hưng.
Trải dọc tuổi đời thứ 2 của F, thế giới lại quằn mình vĩnh biệt một vị vua khác, người giờ đây ắt đang lướt bước moon-walk trứ danh nơi thiên đàng, vĩnh viễn một Neverland cho những thiên tài không bao giờ lớn.
Kế tiếp sau Vua Pop về tuyền đài không lâu là một giai nhân tri kỷ khác của ông, một huyền thoại nhan sắc của nhân loại – người đàn bà mắt tím Liz Taylor. Nàng ra đi, trong khối thân thể tàn tạ và chiếc váy cưới thứ 8 chưa kịp hoàn thành.
Và trong những sinh ly tử biệt ấy, F vẫn lãng mạn và dư dả đức tin để hân hoan thốt lên vào số kỷ niệm 1 năm phát hành: “Cuộc vui chỉ mới bắt đầu!”, bởi với tinh thần lạc quan không khoan nhượng, F hiểu rằng chính khi những cuộc hoán chuyển dữ dội nhất diễn ra, khi những điều đã cũ lần lượt ra đi, đó đồng nghĩa với những khởi đầu mới, và F đang ở mức vạch đầu tiên, sung mãn và đầy kiêu hãnh, bởi: “đứng ở vạch xuất phát luôn là những gã khổng lồ, những người hùng và những quán quân, và cả những kẻ lãng mạn nữa. Bởi khi người ta bắt đầu, tất cả những sự tính toán tỉnh táo nhất, những hoạch định khôn ngoan nhất, tất cả chỉ chịu sự khống chế duy nhất: giới hạn của trí tưởng tượng.”
Đã là 12 tháng, 12 số ấn phẩm của xen kẽ với những cuộc phế truất, những cuộc tử biệt nặng nề, còn là những tên tuổi đang tuần tự thay máu đại cục thời trang thế giới. Từ nữ truyền nhân tóc vàng của Lee McQueen quá cố đã rạng rỡ chinh phục làng thời trang trong chiếc váy hoàn hảo dành cho tân nương hoàng gia Anh Quốc, cho đến người đàn bà nắm trong tay quyền trượng nhiếp chính đế chế Versace và gia huy nữ thần tóc rắn, trong khi ngoài kia, thế trận siêu nhân sự thiết kế thời trang đang được dàn sắp lại bởi những “quân cờ” trẻ trung, sung mãn, và đầy tham vọng. Thế cục vẫn luân hồi chuyển xoay quanh những ngai vàng bỏ trống, những cây thập giá vinh hoa và khổ nạn của haute couture đã sẵn sàng chờ những vị tông đồ trẻ. Cùng lúc, lực lượng những con người đằng sau mỗi ấn phẩm F cũng đón nhận những tay viết mới như một cuộc tiếp máu đúng thời điểm. Và một cuộc hoán chuyển đổi thay lớn đã diễn ra.
Ngạo nghễ trên đống hoang tàn
Chuyên mục Shopping City khép lại, nhường chỗ cho những cuộc du ngoạn hưởng thụ cho một diva sành sỏi, thay cho những câu chuyện về các tên tuổi làng trường túc trong chuyên mục Model được thay thế bằng Style Icon, với những câu chuyện cuộc đời những vĩ nhân đương đại của thảm đỏ thế giới. Họ không chỉ là những nhân vật thượng lưu sành trò ăn vận, mà đưa định nghĩa Style về mọi khía cạnh và giá trị của nó. Đó là vua Pop, Đồng nữ Madonna, Liz Mắt tím, lệnh bà nhà Vogue Anna Wintour, hay tay đàng điếm cao niên Mr.Playboy. Những cuộc đời không hề mẫu mực, nhưng duy mỹ đến tuẫn tiết vong thân ngay giữa phần số phù hoa tráng lệ.
Cũng chính từ Style Icon, F đã tung ra chùm chuyên đề về sự man rợ của thời trang xa xỉ, về những sinh linh vô tội bị tra tấn và thảm sát để đánh đổi cho các nạn nhân của cơn nghiện xác. Họ khoác lên mình những xác chết và tự gọi bản thân là những nữ nhân đại diện cho tầng thượng lưu ưu tú. Trải dài trên liên tiếp nhiều trang báo là chân dung máu lạnh của lệnh bà Vogue Mỹ Anna Wintour với quyền lực tối cao và trái tim của một nữ đồ tể, phía đối diện là cuộc chiến bền bỉ quyết liệt của nữ chính ủy PETA – Ingrid Newkirk, cùng các chiến binh của mình, trong đó là một lực lượng những minh tinh nổi tiếng nhất thế giới tình nguyện khỏa thân và tạo một sức công phá khôn lường lên thị trường thời trang lông thú. Hơn cả lệnh bà tối cao của truyền thông thời trang Anna Wintour, chính họ mới là những mẫu mực duy mỹ chân chính của văn minh thời trang mà F muốn cùng độc giả của mình hướng tới.
Năm thứ 2 của F còn ghi dấu sự ra mắt của Top Brand – một cẩm nang kì thú về huyền sử các tên tuổi thế lực thời trang thế giới, một cuộc chơi thuần túy vị kỷ và tự do của những tay viết không bị chi phối bởi áp lực quảng cáo của một tạp chí. F dàn trải trước các độc giả của mình một giá trị cộng thêm vô song cho mỗi tuyệt phẩm thời trang được mua sắm, vượt trên tầng khoái cảm của việc sở hữu một món “hàng hiệu” đắt tiền, và cũng là một tác động gián tiếp đến nền văn minh hàng chính hãng, đặt một lằn ranh đẳng cấp rõ rệt giữa một tín đồ văn minh với một nạn nhân của các tay buôn sỉ người Tàu và những món vật thứ cấp, nỗi rùng mình kinh hoảng của văn hóa shopping. Thay cho Shopping City, Top Brand tiếp tục đóng vai trò cẩm nang tri thức thời trang cho mọi shopper duy mỹ, khôn ngoan và tự trọng.
Lại thêm 12 tháng nữa, F dẫn dắt các diva tuần tự đến với những hẹn hò, từ tiếng đàn rơi vỡ trong một chiều lặng gió của người đàn ông Hà Nội Phú Quang, rồi ngược về phương Nam đón lấy tia nắng heo hắt cuối ngày với thần tượng tân nhạc Nguyễn Ánh 9,… Tuổi đời thứ 2 của Date Of The Month còn là dấu son ưu ái của những vị vua, từ ông hoàng Nhục Tình Ca Phạm Duy cho đến gã ngạo vương trên bể lệ đàn bà Đàm Vĩnh Hưng.
Ở chặng đường từ vạch xuất phát của mình, F, ngạo nghễ trên đống hoang tàn, chọn sự lãng mạn không khoan nhượng, chọn một tầng văn minh thời trang hướng thượng cực đoan nhất, và chọn chạm vào những vị vua.
Người ta sẽ đi đâu, sau khi chạm vào những ngôi sao?
…và bạn vẫn chưa đọc F năm thứ 3!
Cũng chính từ bom chuyên đề cuộc chiến chống thời trang xác thú, F đã khai mở cho chính mình chặng chinh phục tiếp nối – chủ kiến thời trang. Khi thời trang thoát khỏi tầm mức hạn chế của thuần túy bộ cánh trưng trổ nông khơi, bản chất phù phiếm của nó chính là nghệ thuật thụ hưởng trong xa xỉ cực đoan. Đó có thể là món thời trang non mùa vừa chạm kệ boutique, đó có thể là một tư duy yêu và niêm luật sống mà mỗi độc giả, nhân vật của F xác lập và trung thành tuyệt đối.
Từ số đầu tiên cách đây 2 năm, F đã hình thành mạnh mẽ và rõ ràng một sắc thái ngôn luận, từ văn phong ngôn từ, cho đến thông điệp và thai độ.
Bạn cho rằng các ngôn luận của F đã quá sặc sụa thái độ?
Bạn cho rằng F đầy áp đặt ngông ngạo trong những chủ kiến dễ gây dư luận đa chiều?
Đó là chỉ là vì chúng tôi chưa thực hiện F năm thứ 3!
Stefano Pilati – kẻ đang nắm số cá cược cao về khả năng ngồi vào thế chỗ chiếc ngai bỏ phế trên đỉnh thời trang Pháp đã nói: “Từ những ngày đầu của prêt à porter, đã là những ngày khai mở cho yếu tố thương mại của thời trang. Và ngày nay nó đã thành cái chợ. Trào lưu được định nghĩa là thứ kiểu dáng nào được nhiều người chọn mua nhất trong mùa. Trong thời trang dân chủ, tín đồ quyết định cho xu hướng của tín ngưỡng, đông thắng ít, mạnh thắng yếu. Thành ra cái chợ!”
Không thể hân hoan hơn cho những tín đồ đẳng cấp, khi mà ứng viên sáng giá của thế lực Dior lại là một cái đầu tỉnh táo với một chủ kiến đầy thái độ và quyết liệt đến vậy. Vì F, cũng nhưng những độc giả của mình, tin rằng thời trang, dẫu là prêt à porter dân chủ, cũng cần những kẻ mạnh, những phần tử quá khích, và những chủ kiến dẫu có đầy áp đặt, để chấn hưng, tạc dựng nên một thái độ thời trang rõ rệt, phân định tầng đẳng rạch ròi. Thời trang cần là một bức tranh lập thể đa sắc, nhưng mạnh màu và nặng nghiệp – như tất cả những gì đại diện cho tố chất của thời trang và những tín đồ tuẫn tiết của tinh hoa nghiệp đạo Thời Trang.
Bước vào năm thứ 3, F đã chuẩn bị cho thách thức mới ấy bằng 2 số khai pháo của Smart Money – câu chuyện thật thà đằng sau mỗi món săn vi diệu của fashionista. Smart Money là kim chỉ nam để phân biệt giữa một tín đồ với một nạn nhân. F không chỉ là những câu chuyện nội giới của các nhà thiết kế, các tượng đài phong cách, các nhà thời trang đầy quyền lực, và các cơn sốt theo mùa, Smart Money chính là câu chuyện của độc giả F – những fashionista tân thế hệ: văn minh, ranh mãnh và duy mỹ cực đoan. Đó chính là lý do mà F ưu ái đặt Smart Money ở vị trí đầu trong ấn phẩm, một sự sờ chạm thiết thực đến các độc giả của mình.
Như tuyên ngôn đầu đời của F, thời trang không chỉ là nghệ thuật thuần túy trong ý nghĩa vong thân, đó còn là một thái độ sống, đó còn là một tín ngưỡng để xoa dịu và dẫn dắt, chứ không hề là thói phù phiếm trong những tiếng quẹt thẻ mòn mỏi u mê của những tín đồ thống khổ.
…Và đó vẫn chưa là tất cả mà F có thể vén màn quá sớm khi mà cho đến tận cuốn ấn phẩm F số 24, mọi thứ vẫn chỉ mới đang bắt đầu.
Bạn có thể tin rằng bạn đang cầm trong tay một sản phẩm đích thực của thế hệ văn minh thời trang mới.
Sự thật là, chúng tôi, mỗi người trong cái ê-kíp những con người điên rồ, tuẫn tiết và lãng mạn kì cục đằng sau từng trang viết, từng shot ảnh, ưng gọi đây là một Tác Phẩm hơn.
Và trong thế giới của Thời Trang, trong quan niệm của F, sự khiêm tốn là một giá trị xa xỉ.
----------------------------------
vintage: hoài cổ & thức thời
Hoa Nhài Đen
Mùa thời trang vừa qua, từ Spring-Summer với cú ghi điểm lẫy lừng nhà Gucci qua màn tái hiện mốt flapper 20’s, mọi tuần lễ thời trang đều ngập trong đăng-ten, hơi hướm những chiếc quần ống loe và những cặp mắt kính màu trà nhạt to như mắt chuồn chuồn hồi 70’s cũng đã được dự báo ngoài thị trường, cùng lúc catwalk nhà LV biến thành một thứ công viên Disney với mọi nét hoa mộng của một câu chuyện cổ tích trong mơ, dệt bằng đăng-ten trên silhouette vintage 60’s không thể nhầm lẫn… Người ta nôm na gọi đó là mùa của vintage!
Vintage Không Hề Là Thời Trang Chính Thống!
Các tín đồ vintage bĩu môi: “Vintage ư? Từ đời nào rồi, Diễm!”
Phải chăng chúng ta luôn là vòng quay ngớ ngẩn tự lặp lại mình như vòng ngựa gỗ của Marc Jacobs?
Phải chăng thời trang vẫn luôn là sự cũ kỹ luân hồi?
Phải chăng cả thế giới là tín đồ vintage?
Trên thực tế, đôi khi chúng ta quên đi một thế giới ngầm vẫn luôn tồn tại song song với những trào lưu luôn thay đổi của thời trang đương đại.
Nhưng vintage chưa hề là thời trang, hay một dòng thời trang chính thống, cho đến khi những John Galliano, Marc Jacobs hay Miuccia Prada quyết định lôi chúng ra khỏi bảo tàng hay những phiên chợ flea market, đặt chúng lên runway đương đại một lần nữa, sau khi tài tình thổi phà vào đó mọi giá trị thẩm mỹ tân thời, và biến chúng thành những tuyệt phẩm thương mại, hay những phiên bản cổ vật dư thừa tiềm năng cháy chợ.
Vintage chưa hề là thời trang, vì khi nó trở thành thời trang, nó buộc phải bước ra khỏi mảnh sân sau vintage
Ralph Lauren SS-2012
Vương quốc cổ đại của những sơn nữ điên tình
Nguồn gốc thời trang vintage, vốn là một uyển ngữ mỹ miều cho những món trang phục cũ, thậm chí đã qua vài đời chủ nhân, vốn là một chiêu thức cổ xưa của các nữ tiền nhân tằn tiện. Cho đến nay, vintage đại diện nhiều hơn cho việc tái hiện, phục chế những trào lưu thời trang quá vãng, gồm cả retro và antique, với yếu tố sáng tạo hầu như không có, hoặc rất thấp.
Vintage tồn tại song song với vòng quay trào lưu của thời trang đương đại, và trở thành một góc khuất phía sau bề mặt sôi nổi của các biến chuyển của thời trang chính thống, nằm ngoài mọi quy luật đào thải luân hồi. Vintage không chỉ là phép cứu rỗi cho những diva cổ điển với tinh thần thủ cựu bài tân nặng nghiệp, những con nghiện hương xưa chính hiệu, mà đây còn là vùng đất dung dưỡng thú sưu tầm của shopper mỏng thẻ bởi cơ hội cho những món săn chính hãng với tag giá bình dân. Còn đối với các fashionista trí thức, vintage là một lựa chọn cho thông điệp văn hóa. Người ta có thể đoán được dòng văn học, triết lý sống hay trường phái mỹ thuật ưa thích của nữ chủ nhân, dẫu đó là văn học cổ điển, thuyết hiện sinh, hoặc dark-art.
Đó là một nền văn minh thời trang tự trị, nơi các nữ công dân của nó nhắc nhớ đến những tinh thần hoàng kim quá vãng của lịch sử thời trang, hoặc đơn giản chỉ tạo nên cảnh tượng một cuộc oanh tạc của các cô gái nhỏ vào rương quần áo cũ của ngoại. Đôi khi, sự cầu kì và tinh tế được thay thế bằng hình hài nhàu nhĩ của boho 70’s, bị ép duyên với cặp hoa tai disco 80’s, và mắt khói rock chic, để kết thúc bằng một hình mạo vui nhộn diêm dúa của sơn nữ điên tình.
Mặc tình, vintage vẫn tồn tại, ngộ nghĩnh và an nhiên, nơi những hồn vía retro thoát khỏi vòng xoay đào thải nghiệt ngã của những mùa thời trang thương mại. Từ đó, vintage khoác vào mình một giá trị vượt tầm những món vật cũ xưa, vintage trở thành một thông điệp và lối sống, được gìn giữ và tôn vinh bởi những tín đồ riêng của nó, trong khoảng sân sau của trường phái bất hủ và mọi giá trị văn hóa đi kèm.
Lãng mạn phục hưng hay chiến lược thương mại Déjà Vu
Cuộc dịch chuyển các mùa trào lưu của thời trang đương đại, và những thế lực thời trang thay nhau tung lên catwalk những sắc màu cạnh tranh gay gắt nhất, như một sự cố gắng tuyệt vọng tìm kiếm những cuộc thay hình đổi dạng mới mẻ, thậm chí quái dị, với mục đích duy nhất là khác biệt và trội bật. Các mùa haute couture biến thành những lễ hội giả trang với giá trị giải trí tối đa và hiệu ứng thương mại tối thiểu.
Như điều tất yếu phải làm khi đi lạc, khi những điều mới mẻ đã trở thành kỳ dị và lệch lạc, người ta sẽ tìm lối quay đầu, nhưng với một tâm thế mới của kẻ đã qua một chặng đường dài.
Louis Vuitton SS-2012
Đó là khi khoảng sân sau, hay thế giới ngầm vintage trở thành nguồn tư liệu sống động của chính các thế lực thời trang đương đại. Sự ảnh hưởng của nó được thể hiện mạnh mẽ và trực tiếp nhất vào runway thượng đỉnh haute couture.
Khi chạm đến ngưỡng tối thượng của trào lưu, người ta sẽ chạm đến những điều đã cũ, và như vậy, biểu đồ vận động của thời trang là một đường xoắn ốc theo chiều đi lên. Vòng xoay lặp lại tại điểm xuất phát, nhưng tại một tầm độ cao hơn.
Như Stefano Pelati xông pha vào các phiên chợ flea market ải mốc để tìm đến chính chiếc váy mang chữ ký của người tiền nhiệm Yves Saint Laurent.
Như chính Chú K. cổ quái nhà Chanel đến tận mùa haute couture vừa rồi vẫn hú hồn hiển hiện trên catwalk một phong mạo madame Coco của đầu thế kỷ trước.
Hoặc như kẻ hậu sinh Sarah Burton, tuân thủ trung thành những giá trị cổ điển trên từng tảng đăng-ten để hoàn thiện chiếc váy cưới trứ danh cho Kate Middleton, hơn là liều lĩnh với một thiết kế tân cổ giao duyên gượng ép và cái tôi phi nghĩa.
Những mảng diềm ren cổ lỗ sĩ lại lên ngôi nữ hoàng catwalk, và khối màu lập thể Mondrian vẫn vẹn nguyên một tinh thần Yves tái sinh, qua bộ lọc cẩn trọng của những tên tuổi mới của làng thời trang.
Cuộc thăng hoa của thời trang vẫn là những chuyến đi ngược, trong khi tự thân những vẻ đẹp xưa cũ, đi lên từ thế giới ngầm vintage, cũng tự vận động cuộc cải biên cho một thẩm mỹ thanh tân cho những tín đồ đương đại.
Temperley London
Không chỉ là một giải pháp mang màu sắc lãng mạn, nguồn cảm hứng vintage còn là một thế đòn bẩy tuyệt vời cho vị thế thương mại đang hồi chao đảo của dòng thời trang cao cấp, khi mà yếu tố chiến lược đằng sau mỗi thiết kế cầu kỳ biết tìm về đúng lợi thế thương mại vô song của dòng vintage: tiềm thức – thủ thuật tâm lí có thể ngay lập tức làm xiêu lòng mọi tín đồ điệu nghệ. Nói một cách khác, họ tung lên catwalk những ảo ảnh thân thuộc déjà vu.
Cùng với cuộc tái hiện rầm rộ tinh thần vintage trong những phiên bản tân kỳ, thông minh và dư thừa mãi lực, những kẻ đang nắm trong tay vận mệnh sống còn của thời trang cao cấp đã chọn dẫn dắt một cuộc hành hương tìm về những bản ngã của thời trang từ những giai kỳ hoàng kim cực thịnh.
Đôi khi người ta không cần phải đi quá xa để tìm thấy những điều mới mẻ.
Ralph Lauren SS-2012
3 octave rưỡi và 48 năm
Túy Ca
Từ James Dean trong chiếc xác xe méo mó khét khói, Edie Sedgwick với những ngày thảm hại cuối đời, Michael với cơ thể bị hủy hoại, và giờ đây là Diva Đen, kết thúc cuộc đời như lời thoại trứ danh của Savannah trong Waiting To Exhale: “cuối cùng, tôi nhắm mắt và… thở ra!”
Chúng ta tỏ ra sửng sốt, bất ngờ và đau xót trước cái chết của Whitney Houston, nhưng thật ra trong suốt hơn một thập niên qua, chúng ta đã đứng đó, nhìn nàng chết từ từ ngay trước mắt.
Tiếng ngân lạc điệu cuối cùng
Vào ngày thứ Năm cuối cùng trong đời, nàng có mặt tại buổi tổng duyệt cho đêm gala hằng niên của sự kiện pre-Grammy của Clive Davis – người được coi là đã phát hiện ra Whitney, để cùng tập với Brandy và Monica, trước sự chứng kiến của báo giới. Nàng tươi cười nồng hậu như mọi khi, nhưng trong một dung mạo rối bời, bộ trang phục lỏng chỏng trơ khấc và mái tóc bết ẩm mồ hôi.
Nàng loạng choạng và tỏ ra thất thường trong suốt buổi chiều hôm đó, khi nhảy chân sáo quanh phòng khánh tiết như một đứ trẻ, lúc lại lơ ngơ lang thang bất định ngoài tiền sảnh. Đội cảnh vệ khách sạn nhận cú phone báo rằng Diva Đen đang làm trò trồng cây chuối ngoài khu vực hồ bơi.
Đêm cùng ngày, người ta lại nhìn thấy nàng xuất hiện ở party “For the Love of R&B” của Kelly Price tại Tru nightclulb, hoàn toàn tỉnh táo và thăng bằng. Whitney ngân nga một đoạn gospel ngắn cùng Price, làn hơi của nàng rõ ràng đã không còn phong độ, nhưng điều này cũng đã không còn là sự lạ, kể từ tour diễn sau album “I Look To You”.
Chỉ có điều đã chẳng ai biết được rằng đó chính là màn biểu diễn cuối cùng của Diva Đen.
Hình ảnh của Whitney khi rời Tru Club đêm định mệnh và cái vẫy tay sau cuối. Đã không ai biết rằng đó là lời vĩnh biệt của Diva Đen.
Whitney Houston mãi mãi không sửa soạn để xuất hiện tại đêm gala nọ. Vài giờ trước sự kiện, người ta tìm thấy Diva Đen trong bồn tắm, không còn ca hát, nghiện ngập, và yêu đương.
“Sinking to rise no more…”
Cho đến khi nàng mất đi, người ta vẫn tin rằng câu chuyện tình sâu sắc nhất của Whitney chính là cuộc tình với người bạn gái Robyn Crawford từ 16 tuổi, và về sau là trợ lí riêng trong suốt nhiều năm. Là một con chiên mộ đạo, Whitney tài tình hóa giải scandal bằng một đám cưới linh đình, đương nhiên với một anh chàng rõ là dư thừa nam tính.
Năm 1992, Diva Đen kết hôn với Bobby Brown trước sự chứng kiến của 800 khách mời, trong số đó có không ít người ngấm ngầm tỏ vẻ e ngại cho sự vững bền của những lời thề đang được nồng nhiệt trao nhận trước bệ thờ. Whitney say sưa mê đắm và hể hả đẹp lòng. Nàng cần một vòng tay vững chãi, một thần tượng trong nhà, một người đàn ông để ngước nhìn tin cậy. Trong cuộc trao đổi ấy, nàng phải chấp nhận luôn những gì chàng tha lôi vào cuộc đời nàng, gồm cả những đứa trẻ của hai người đàn bà khác, và đó chỉ mới là màn khởi đầu.
Những vụ ẩu đả nội gia của cặp đôi lập tức được báo giới cập nhật nóng sốt liên tiếp sau ngày cưới. Đáng tiếc, dường như gene cà khịa của Bobby lại nhằm vào cung thê nhiều hơn, tỉ lệ thuận với tình yêu nồng nàn mà chàng cũng công khai dành cho vợ, dù những phi vụ đi đêm của đức ông chồng vẫn thi thoảng được báo giới bắt quả tang.
Chính Bobby về sau cũng thừa nhận rằng hôn lễ năm 1992 với Whitney đã phần nào nhằm chỉnh trang đánh bóng cho hình ảnh bê tha lắm tai tiếng của mình. Như một cuộc đánh đổi tàn nhẫn, ngay khi Bobby Brown tỏ ra chui vừa vặn vào chiếc áo mới mang màu sắc gia đình, thì các vụ scandal, chứng nghiện ngập và thói tính hung dữ thất thường lập tức vây phủ lấy Whitney. Công luận chuyển hướng tình cảm cho nàng từ thương hại sang phê phán khi nàng liên tục xuất hiện trước công chúng với những vết bầm hiện rõ sau lớp concealer. Từ vị trí nữ hoàng, Whitney trở thành hình mẫu hiện thân cho gia đình tệ nạn khu Ghetto.
Cặp đôi rời bỏ nhau chính thức năm 2007, sau 15 năm lửa hương thượng hạ, Houston khuấy đảo truyền thông bằng cuộc tình xập xình nhang khói với phi công trẻ Ray J.
2 năm sau đó, kỹ thuật thu âm đã bảo vệ cho tượng đài diva một cách mỹ mãn, khi nàng cất lên ca từ đầy dự cảm đau buồn: “About to lose my breath, there’s no more fighting left, sinking to rise no more, searching for that open door.”
Đĩa bán chạy, nhưng tour diễn bắt đầu cho thấy một phong độ diva rệu rã và một giọng ca đã bị hủy hoại quá nhiều.
Một tiểu sử đằng đẵng những vụ bạo lực gia đình, tiệc tùng, hào quang và, đương nhiên, rượu, chất kích thích lẫn thuốc an thần, hoàn toàn không có gì khác biệt với câu chuyện của Elvis, Michael, hay Amy – những cuộc đời tài hoa và cụt lủn.
Cả thế giới bên ngoài thảm đỏ đều mơ ước đặt phần số mình vào vị trí một ngôi sao, những kẻ có thể kiếm ra hàng triệu dollar, sống đời đế vương xa xỉ, và để mặc sắc đẹp cùng tiền bạc lo liệu cho mọi thứ còn lại trên đời. Whitney là một người như vậy, với tất cả những sự ưu ái của phần số, và lần lượt mất tất cả cho đến ngày cuối đời ở tuổi 48.
Sống như thiêu thân, chết như thần tượng
Như những ca từ đầy dự cảm trong bản I Look To You, có nhiều giả thuyết cho rằng Whitney rất có thể đã chìm hẳn vào bồn tắm do say rượu, hoặc phê thuốc, nhưng phần nhiều xác suất vẫn nghiêng về khả năng sử dụng thuốc kích thích quá liều. Có vẻ như một giả thuyết đơn giản, phổ biến và hợp lí cho phần lớn các vụ “sao băng hà”. Nhưng giả thuyết đầu tiên lại đúng hoàn toàn, khi xét đến theo nghĩa bóng: chìm hẳn khi say rượu!
Ngay từ lần đầu tiên lạc giọng trên sâu khấu ở độ tuổi còn quá trẻ, Whitney đã trở thành huyền thoại – điều còn có nghĩa là một thứ đã qua. Nàng đã chìm, từ rất lâu, và trong một cuộc hấp hối không hề đẹp mắt.
Trong khi các thủ tục giám định còn chưa cho kết quả cuối cùng về nguyên nhân cái chết, Patricia Houston – chị dâu của Whitney đã là một tiếng nói hiếm hoi cho rằng chính đời sống ái tình của Diva Đen, mà cụ thể ở đây là người chồng cũ và thói nghiện ngập đã đẩy nàng xuống vực thẳm của cuộc sống. Trong buổi trò chuyện với Oprah Wingrey trên chương trình Oprah’s Next Chapter, Patricia thừa nhận đã từng có dự cảm về cái chết trẻ của Whitney: “Điều làm tôi run sợ cho Whitney không hẳn đến từ những cơn say hay phê thuốc của cô ấy vào thời kỳ sau này, mà đến từ một cảm giác rõ rệt rằng cô ấy đang tuyệt vọng tìm kiếm ái tình toàn ở những nơi sẽ chẳng mang lại cho cô ấy điều gì tốt đẹp.”
Công luận phản ứng dữ dội khi Patricia chia sẻ cả những hình ảnh và chi tiết về thể trạng tồi tệ của Whitney trong những tháng ngày cuối. Thói nghiện crack đã khiến Whitney phải đeo răng giả, và chứng mất kiểm soát tiêu hóa khiến nàng phải mặc tã lót khi ra ngoài.
Người ta cho rằng việc Patricia tiết lộ thông tin về đời tư và lối sống của Whitney, cũng như việc La Toya Jackson ngay lập tức lên sóng truyền hình bới móc lại chuyện tình từ 1984 của Whitney với anh trai của Michael Jackson là Jermaine Jackson, là những đòn câu rating thảm hại và báng bổ. Ngay cả việc tiết lộ tấm ảnh cuối cùng của thi hài Whitney Houston cũng là một việc khiến các fan của nàng vừa xót xa thương cảm, vừa đùng đùng căm phẫn.
Người ta muốn Whitney Houston, cuối cùng, được nghỉ cho yên.
Piers Morgan – tay Ăng-lê duy nhất được trả tiền để làm cái việc dạy đời dân Mỹ trên TV Mỹ, đã lạnh lùng tuyên bố rằng những ngôi sao giải trí – phái thượng lưu mới của Mỹ, đang làm gương xấu cho cả thế giới bằng việc sống một cuộc sống bê tha và chết như những thần tượng.
Minh chứng hiển nhiên nhất lại được nhìn thấy khi chính con gái của nàng, đã lập tức phê thuốc trong tình trạng tinh thần suy sụp hoàn toàn ngay sau tang lễ của mẹ.
Xuất hiện trong show Today của đài NBC, Bill O’Reilly thẳng thừng buộc tội giới truyền thông đã khai thác chứng nghiện ngập của Whitney Houston: “Đã không một ai, trong số tất cả những thông tin ấy, thẳng thắn nói rằng ‘Này Whitney, chị ngưng trò ấy lại còn không là xuống đất nằm ngay đấy!’ Họ – những nhà báo, đúng lí ra là làm công việc của truyền tải sự thật. Và sự thật ở đây chính là cái chết được báo trước của Whitney. Cái thứ sự thật đó đã chẳng bao giờ được nhắc tới cả.”
Cú quẫy đạp sau cuối của Whitney, tiếc thay, đã quá muộn, không kịp đặt nàng một lần nữa lên đỉnh thế giới sau khi đã trượt dài quá sâu và quá lâu.
Whitney Houston đã chơi cuộc chơi của mình như vậy, với 3 octave rưỡi và 48 năm. Nàng bắt lấy ngôi sao của mình, nhưng thay vì tỏa sáng dài hơi dưới vì sao may mắn, ánh sáng spot light và rừng flash báo chí chỉ trả lại cho khán giả của nàng một người đàn bà mất thăng bằng và rệu rã.
Nghệ thuật cứu rỗi và xoa dịu, nhưng không phải cho những người tạo ra nó.
-----------------------------------------
Stefano Pilati – ngai vàng & thập giá
Trác Thúy Miêu
Vác chiếc thập giá vĩ đại của Yves Saint Laurent trên vai, điều vĩ đại nho nhỏ mà Stefano Pilati có thể làm, đó là nhìn nhận thẩm mỹ thời cuộc qua đôi mắt của bậc thầy quá cố, và từ đó, bằng mọi tinh hoa tài khí bản thân, dàn trải lên runway thượng tầng thời trang Pháp những hiện thân trung thực nhất của một tinh thần Yves Saint Laurent bất hủ – như một cuộc chiêu hồn lộng lẫy giữa thế cuộc đương đại.
Nhưng điều đó có khiến Stefano Pilati trở thành một tông đồ tuẫn tiết và một nghệ nhân phục chế cổ trang thuần túy?
Quân cờ cuối cùng trên thế trận siêu nhân sự
Các sàn diễn mùa thời trang Xuân-Hè cho đến Thu-Đông mới nhất, các trang bình luận chính thống và các tin đồn hành lang đột nhiên trở nên nhộn nhịp rối rắm một cách bất thường, dù lại thêm một mùa nữa vắng bóng Big John và khả năng gây náo loạn của gã.
Nhưng đây có thể được xem là dư chấn từ vụ vạ miệng năm ngoái của John Galliano và chiếc ngai giám đốc sáng tạo đến nay còn bỏ trống.
Thoạt tiên là tin Raf Simons rời Jil Sander và nghe đồn đang nhắm nhe vào chỗ trống tối cao nhà Dior, sau khi Marc Jacobs bị nhà này từ chối việc mang theo cả bộ sậu ê-kíp từ Louis Vuitton nhằm thanh lọc dòng máu Galliano đã nhiễm thấm khắp hệ thống Dior. Tờ Women’s Wear Daily nhạy tin đã nhanh nhảu cho biết rằng Simons và Dior đã đi đến phần thỏa thuận, trong khi Simons tiến đến những ngày cuối của mình tại Jil Sanders.
Khi bộ sưu tập chia tay của Simons xuất hiện trên sàn diễn nhà Jil cho buổi diễn cuối cùng mùa FW2012, với tinh thần minimalist chuẩn mực hoàn mỹ và bảng màu pastel, cùng lúc với tin Stefano Pilati rời YSL, người ta lại thấy có vẻ như đường tiến thân của Simons có đến 2 bến đỗ.
Trong khi đó, những tiếng xì xầm lan truyền từ front row buổi diễn nhà Miu Miu (nơi Marc Jacobs ngồi vừa gõ chân xem diễn) cho rằng sau vài lần kì kèo dằng dưa giữa Jacobs và nhà Dior, thì hình như cuối cùng, gã điển trai mặc váy đã ăn chắc ngồi vào chiếc ghế bỏ trống của Big John…
…cho đến khi tin Stefano Pilati rời Yves Saint Laurent, thế trận các siêu nhân sự thời trang thế giới trở thành một bàn cờ người bí ẩn hoàn toàn.
Hầu như bất cứ nước đi của bất kì quân cờ nào cũng có thể thay đổi hoàn toàn cục diện.
Stefano Pilati là ai, để bước vào cuộc chạy đua về phía chiếc ngai quyền lực mà một Marc Jacobs khét tiếng đã dường như tiến quá gần?
Làm luật và phá luật kiểu Milan
Xăm trổ quằn quện đầy mình, từng là dân “bay” heroin hạng nặng, tay hooligan Milan hoàn lương thú nhận “Thời trang, đối với người khác là nghệ thuật của xa xỉ hay đại phẫu thẩm mỹ lên đời, nhưng với tôi, đó đơn thuần là phép màu cứu rỗi”.
Stefano Pilati sinh năm 1965 tại Milan, con trai duy nhất của một gia đình công chức. Sau khi cha mẹ ly thân, ông sống với thân mẫu và 2 chị em gái. Từ khi 8 tuổi, đó đã là một cậu bé bị thời trang xâm chiếm toàn phần: “Một ngày tôi phải thay tới 5 bộ đồ, tôi thay giày loafers khi đi học, có đôi guốc gỗ để đi chơi, và giày xỏ dây hẳn hòi cho những dịp lễ nhà thờ. Đó là bài học đầu tiên của tôi về việc ăn mặc phù hợp, đương nhiên là cho đến khi có đủ bản lĩnh để liều lĩnh hơn mức “phù hợp”. Hồi đó tôi mê mặc đồ nhà Fiorucci lắm. Tôi bắt đầu thử nghiệm mọi cách để phá luật, cho đến khi tôi học cách làm luật. Đó là khi 16 tuổi, và tôi quyết định biến nó thành sự nghiệp của mình.”
Nghĩ là làm, năm 1982, cậu bỏ học, xin phụ việc cho Gianni Aglietta tại nhà Nino Cerruti, sau đó là công việc trợ lý dòng menswear cho nhà Giorgio Armani vào 1993. Hai năm sau, Pilati thẳng tiến đến quyền lực Ý – Prada, với đúng lãnh vực sở trường: vải sợi. “Tôi đã học những điều vô giá về Saint Laurent chính từ Miuccia: những sự đột biến ngẫu hứng và tự do, đến mức lệch lạc, chông chênh và lập dị, tất cả những điều đó đều được xây dựng trên những luật lệ vững chắc về cấu trúc và chất liệu, pha trộn với gout thẩm mỹ siêu hạng và nhiều, thật nhiều cá tính. Vậy đó, đúng như tôi nghĩ, những người làm luật trong thế giới thời trang, họ phải là những kẻ phá luật, và để làm được điều đó, họ phải nắm vững và tôn trọng những luật lệ cơ bản nhất.”
Quãng đường dài gắn bó với nhà Prada đã chuẩn bị cho Pilati những gì cần thiết nhất để thẳng tiến vào cánh cổng tiếp nhận kiêu kỳ nhà Yves Saint Laurent, triều đại Tom Ford. “Tom là một thuyết khách siêu tài. Khi chúng tôi gặp, tôi bị ông ta bỏ bùa ngay tắp lự. Vậy nên khi cuối cùng chuyển đến Paris để chính thức nhận việc tại YSL, tôi đã phát hoảng lên. Prada đã một thời gian dài như tổ ấm, một tổ ấm mẫu hệ, còn bên nhà YSL, đây là một hệ thống quyền lực nam quyền sặc sụa – lạnh lùng, chuẩn xác, đầy thách thức, và chính vì vậy, mà kích thích vô cùng.”
Chỉ 2 năm sau, giữa môi trường đầy thách thức ấy, Pilati xuất sắc được đề bạt vào ghế giám đốc thiết kế cho các dòng hàng Rive Gauche nhà YSL, và thêm 2 năm nữa để chính thức thế chỗ cho đức ngài tối thượng nhà YSL – Tom Ford. Điều này cũng cùng lúc chấm dứt những bước thăng tiến êm ái tiếp nối của sự nghiệp thời trang Stefano Pilati – ông nếm trái đắng đầu tiên.
Mùa Xuân-Hè 2005, giới phê bình thất vọng nhận ra Pilati còn quá non nớt, hãi sợ, và quá giống Yves Saint Laurent.
Thời trang Pháp thở dài sườn sượt trước tay người Ý nhạt màu yếm thế.
Những cây thập giá và màn pháo hoa hụt
Hẳn nhiên không hề là trò ngoa dụ khi dám nói rằng Yves Saint Laurent chính là cái tên vĩ đại nhất trong mọi cái tên của lịch sử thời trang thế giới. Stefano Pilati đã làm công việc mà Saint Laurent để lại trong suốt gần một thập niên qua, dẫu chỉ như một sự tiếp nối trơn tru, bởi có lẽ điều mà Pilati hiểu, khi đảm nhận thanh quyền trượng sáng tạo nhà YSL, và cũng là điều bất cứ ai khác cũng phải thừa nhận, rằng người ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ có thể làm những gì Yves Saint Laurent đã làm, giống như vậy mà có thể tốt hơn như thế.
Hẳn nhiên, với một cây thập giá huy hoàng to bự trị giá hàng triệu Mỹ kim ấy, cùng với triện son vẻ vang cho profile bất cứ ai từng mang vác nó, “gánh nặng” nhà Yves Saint Laurent là một mục tiêu tối thượng của rất nhiều thế lực tên tuổi khác, và việc Stefano Pilati cõng gọn quyền lực thời trang ấy trên đôi vai tài ba của ông cũng nhân tiện làm ngứa mắt không ít người trong giới. Cùng lúc, các tín đồ thời trang Pháp thủ cựu thì hoài nghi khả năng của tay người Ý ngoại bang sau những gì gã cowboy Tom Ford đã làm với vương triều nhà Yves. Stefano cõng luôn lên vai gánh nặng của haute couture của cả Pháp lẫn thế giới mấp mé bờ vực khánh tận. Một nhà phân tích thông minh sẽ không dự đoán một cuộc phá phách bạt mạng theo kiểu hooligan của Jean Paul Gaultier hay khùng điên Don Quijote kiểu tay râu kẽm Galliano. Thời cuộc và những tai nạn của nó đã minh chứng rằng vận mệnh haute couture đang hồi nhạy cảm rất không nên bị hành xử một cách khinh suất bởi những cái đầu thiên tài và những trái tim đồng bóng.
Trong khi đó, sự trung thành chuẩn mực đến mức tưởng như bạc nhược của Pilati đã gồng gánh thành công quyền lực YSL suốt hơn bảy năm ròng. Vị tổ nghiệp làng haute couture đã tạo lập nên một nền thời trang Pháp huy hoàng diễm lệ, và ai có thể giữ nó khỏi bờ vực tận suy, nếu không phải là kẻ hậu duệ nghiêm cẩn và trung thành Pilati?
“Điều không may cho tôi khi ấy, đó là tinh thần đã được định hình, và thậm chí là chuẩn mực phong cách thời trang Pháp của nhà Yves Saint Laurent. Tất cả được thiết lập bởi một thiên tài bậc thầy, và duy trì tiếp nối bởi một tên tuổi siêu hạng khác. Tinh thần YSL ấy trở thành di sản cộng đồng, bất cứ ai ai cũng có riêng cho mình một quan điểm, khái niệm nào đó về nó. Điều đó có nghĩa là bất cứ lúc nào tôi cũng đang ở thế làm thất vọng một ai đó ngoài kia. Làm chân váy tầng viền ren thì người ta bảo tinh thần YSL đáng ra phải là áo choàng poncho cơ, rồi đến khi cho họ poncho, họ đòi tuxedo, thậm chí khi tung ra tuxedo, họ lại cho rằng nó chưa mang đúng dáng dấp thập niên 70’s. May thay, tôi xác định ngay từ đầu là không thèm quan tâm đến việc họ nghĩ rằng Yves Saint Laurent đáng ra sẽ cho họ những gì, tuy để lờ béng đi, đâu phải là điều dễ làm. Tôi biết mình đang ở vị trí phải hiểu rõ hơn ai hết Yves Saint Laurent sẽ tác tạo nên điều gì vào mùa tới và tại sao.”
Kim Jong-il từng nói (nếu các fashionista có quan tâm đến ông ta là ai, bên cạnh các ngôi sao truyền hình): “Kẻ yếm thế húy kỵ những thách thức sẽ chẳng thể nào làm một cuộc cách mạng”. Stefano, qua những gì đã làm dưới cờ tam tự YSL, đã hiển nhiên khẳng định một giai kỳ đầy tính cách mạng của tinh thần haute couture trường tồn, ắt đã không vì húy kỵ mà thể hiện tài hoa bản thân dưới một gout thẩm mỹ thuần túy Saint Laurent. Sự khác biệt ở chỗ – ông chọn ngồi vững chãi trên ghế sáng tạo và chiếu rọi thời trang qua lăng kính Saint Laurent trong khi ngoài kia, các designer mỏi mòn tìm kiếm sự khác biệt, và các fashion bloggers tiếp tục than khóc cho thời suy kiệt của thương hiệu huyền thoại Pháp Yves Saint Laurent.
“Yves bắt đầu tất cả từ con số 0. Tôi không may mắn bằng ông. Khi nhậm chức vào năm 2004, các báo cáo tài chính tổng kết rằng nhà YSL đang ở mức lỗ lã trung bình lên tới 75 triệu Euro/năm. Tôi bắt đầu từ -75 triệu. Người ta chờ đợi ở tôi một màn pháo hoa dằn mặt giới thời trang, các nhà đầu tư chờ đợi ở tôi những quả bom thương mại, Saint Laurent quá cố kì vọng ở tôi một sự trung thành tuẫn tiết tuyệt đối với tinh thần bất hủ của ông, chức vị trên tấm danh thiếp của tôi lại ấn định rằng tôi phải vong thân sáng tạo hết mức. Trong những “cây thập giá” ấy, tôi đã phải tuần tự chọn vác từng chiếc một. Nôm na, tôi chọn cuộc chiến cân bằng tài chính làm tiên quyết, và hơi hướm chính thống của Yves Saint Laurent trong từng thiết kế quyết định cho điều đó. Kết quả đã may mắn cho tôi thấy mình đã lựa chọn đúng những chiếc thập giá cần mang nặng trước tiên. Dẫu sao cũng rất lấy làm tiếc về màn pháo hoa không thành!”
Từ lời xưng tội của kẻ vác thập giá…
Khi mà thời trang đương đại được định vị bởi những nàng thơ Hồ Ly Vọng ở LA, với lớp trang điểm cầu kì vào giữa trưa, soiree dạ hội lúc 4 giờ chiều và những mái tóc kiểu 1930’s, dường như sự thanh lịch thật sự đã rời bỏ thế giới cùng với Grace Kelly. Điều này cũng là một rủi ro mang tính thời cuộc, khiến tư tưởng Yves Saint Laurent dễ dàng trở thành một biểu tượng của sự hoàng kim cũ kỹ và không còn hợp thời. Điều này được xác tín bởi tông đồ trung thành Stefano Pilati: “Ngày nay, thời trang không còn là thời trang nữa, và tất cả mọi thứ đều có thể trở thành cái gọi là Thời-Trang. Thời trang trở thành lối sống và thái độ, ai cũng có thể trở thành người ‘hợp thời trang’ cả, và bất cứ thứ gì cũng có thể trở thành Thời Trang. Cách đây không lâu, mọi thứ cần một sự tinh tế nhất định, khi mà còn tồn tại tầng lớp thượng lưu đúng nghĩa, tôi không muốn nói đến giới nhà giàu thuần túy, và những nhân vật ưu tú ấy dẫn dắt xu hướng thẩm mỹ của cả xã hội một cách tinh tế, nghiêm cẩn nhất. Nói ra thì nghe rất nặng nề, nhưng một nhà thiết kế như tôi, sẽ có cơ hội dẫn dắt một phần nào đó của xã hội và tạo ra vận động của trào lưu. Nhưng ngày nay thì người ta có thể dẫn dắt được điều gì, khi thời thế đã sẵn có quá nhiều kẻ muốn làm anh hùng? Tôi tung ra flannel, ông chủ tiệm ngay kế bên thì tung ra hàng chiffon trong suốt, tín đồ hoang mang trong một tín ngưỡng hỗn độn với các quầy niềm tin tự chọn. Quá nhiều luật là điều không tốt. Giờ đây, các nhà phân tích phải lập ra cả một bảng dài lê thê để xác định trào lưu mỗi mùa, mà mùa nào cũng có ngần ấy thứ, tất cả mọi người luân phiên tung ra vào những thời điểm bất kì. Từ những ngày đầu của prêt à porter, đã là những ngày khai mở cho yếu tố thương mại của thời trang. Và ngày nay nó đã thành cái chợ. Trào lưu được định nghĩa là thứ kiểu dáng nào được nhiều người chọn mua nhất trong mùa. Trong thời trang dân chủ, tín đồ quyết định cho xu hướng của tín ngưỡng, đông thắng ít, mạnh thắng yếu. Thành ra cái chợ!”
Quan điểm trên của Pilati có thể được coi là một sự phản kháng ngầm với những gì mà Yves Saint Laurent đã tạo ra – lãnh vực prêt à porter, và đưa thời trang đường phố lên sàn diễn thượng tầng. Và sau ông, cho đến nay, vẫn không ai làm được điều tương tự, ngay cả Pilati.
“Vấn đề là với thời trang đường phố ngày nay, bạn muốn tôi đưa cái gì lên runway chính thống? Miniskirts, leggings, jackets da, tất cả điều này đã được đưa vào mainstream từ rất lâu rồi. Yves Saint Laurent là nhà thiết kế đầu tiên đặt chân đến sân sau vintage và chọn lấy những chất liệu tốt nhất để tái hiện lên sàn chính thống của thời trang cao cấp. Nếu nghiên cứu tiểu sử ông, người ta sẽ nhận ra những chuyến sục sạo của Yves tại những khu chợ trời London, săn tìm những món đồ cũ từ thập niên 30’s, và từ đó, ông làm ra cuộc cách mạng nữ quyền mặc quần tuxedo. Ông đã mua một áo smoking của một quý ông thời xưa cũ nào đó, choàng lên cho nàng thơ đương thời của mình, và một cuộc cách mạng thực thụ được bắt đầu như thế. Ngày nay, tôi có thể bơi cả ngày trong những cuộc hành hương vào sân chơi vintage như vậy, nhưng để tạo nên điều gì nữa đây, khi những món hay ho nhất tìm được hầu hết là các tác phẩm thời trang của chính Yves Saint Laurent? Tôi không còn làm các cuộc hành hương nữa, Saint Laurent đã làm điều ấy rồi. Tôi không muốn phí thời gian mỏi mòn vạch ra một lối mòn ngu xuẩn khác chỉ vì một lòng tự tôn phi lý.”
…đến phát ngôn của thần tượng thời trang tân thế hệ
Điều cuối cùng nằm trong sự quan ngại của nội giới về kẻ kế vị ngai tổng lãnh Dior – liệu sự đồng bóng vốn đã là thuộc tính của các nhà thiết kế có một lần nữa đưa triều đại Dior vào vị thế mất vua, và đẩy nền thời trang Pháp xuống triền đồi của diệt vong?
Liệu Stefano Pilati, dù đã gia nhập làng thời trang Pháp gần một thập niên qua, nhưng với tiểu sử bất hảo đã khét tiếng trong làng chơi Italy, có thể bảo đảm cho quyền lực Pháp một kẻ kế vị ít rủi ro hơn?
Trong thời kỳ những năm 1970s, chính Saint Laurent đã trải nghiệm triền vực băng hoại và vui thú của cuộc sống: nghiện ngập, tình dục tự do, v.v… Và lối sống ấy được chia sẻ bởi không ít thiên tài thời trang khác. Họ là những nghệ sĩ, và tự cho phép mình lối sống đó. Gã giang hồ hoàn lương người Ý tỏ ra kẻ cả khi chỉ trích sự lỗi thời trong cả Yves lẫn John – một là bậc thầy tiền nhiệm cũ, người còn lại đang rất có khả năng là người tiền nhiệm kế tiếp.
“Khi xu hướng thời trang không còn là cuộc chơi vị kỷ nhân danh nghệ thuật thuần túy, thì các nhà thiết kế bắt buộc chấm dứt trò tự coi mình là những tay chơi giàu chất nghệ mà trở thành các giám đốc sáng tạo – như một viên chức cấp cao, chỉ khác một điều là công việc văn phòng ấy không chỉ khoanh tròn trong 8 giờ vàng ngọc. Với tôi, đó là 24 giờ trong ngày. Cứ mỗi 2 tháng, công suất được tính bằng một bộ sưu tập khổng lồ. Lúc nào bạn cũng phải bảo đảm về tình trạng thăng bằng về cơ thể và tâm lý của bản thân, sung sức hơn một vận động viên và một ngôi sao nhạc rock cộng lại.
Điều đáng buồn ở đây, đó là thời trang có thể biến nó thành một bức tường vô hình bao bọc xung quanh bạn, cô lập bạn khỏi phần còn lại của thế giới. Tôi bước ra ngoài, làm một cuộc đi chơi và giao đãi, để gặp phải một thực tế là 99% nhân loại ngoài kia không làm nhà thiết kế thời trang. Tôi trở về không gian riêng của mình và an ổn hơn trong đó.
Hoặc tôi có thể biến đi đâu đó chục ngày, ăn chơi bét nhè quên mất nhân thân, rồi mất chục ngày nữa để hoàn hồn hồi sức, hi vọng không ai nhận ra những dấu vết tệ hại của cuộc chơi để lại, trong khi bộ sưu tập sắp tới chỉ còn cách bạn vài tuần. Tin tôi đi, vì nếu bạn biết tiểu sử của tôi, bạn sẽ biết rằng một gã Milano như tôi hoàn toàn không xa lạ gì với nếp sống đó cả. Hồi ở Prada, tôi sống như vậy. Một tay ở văn phòng biết tôi nghiện, y nói “Nè, David Bowie toàn thực hiện những bản thu tuyệt nhất khi đang phê đấy!” – đó là sự thể hiện đồng tình cuối cùng mà tôi có được cho lối sống “nghệ sĩ tính” của mình, và John Galliano là một mẫu mực cuối cùng của lối sống đó. Hệ quả thì ai cũng biết rồi đấy. Chúng ta không còn cả Yves lẫn John.”
Nhắc đến Big John, Pilati cho rằng vụ vạ miệng đã là: “Thảm cảnh, cho cả John lẫn nhà Dior. Nên nhớ rằng chúng ta đâu hề là những sinh linh trong trẻo và được phần số cưng chiều tuyệt đối. Chúng ta vác những cây thập giá lặc lè, chúng ta làm thuê cho những tập đoàn có hàng trăm đồng nghiệp về nhà lúc 2 giờ sáng bằng tàu điện ngầm, chứ không phải một cú phone gọi tài xế riêng. Ta học cách sống theo luật và những giá trị cần được tôn trọng, những điều cấm kỵ cần kiêng húy. Được thôi, nếu bạn là một tay nghệ sĩ độc lập, cứ ăn chơi hút chích cho bay đời đi, cho đến khi bò trên bốn chân về ổ đi, nhưng đừng mơ đến việc trở thành một vĩ nhân đương thời thì bạn sẽ ổn, vì những kẻ còn lại cũng sẽ chẳng nhận ra sự vắng mặt vào một ngày nào đó của bạn đâu.
Giá như John hiểu rằng có hàng tỉ người ngoài kia trông đợi mùa sau của nhà Dior để dẫn dắt và định hình bộ da cho họ, giá như ông ta ý thức được quyền năng của tài hoa sáng tạo mà ông ta sở hữu, hơn là một trò tự dung túng quá độ của một đứa trẻ hư đùa dai. Người ta muốn thấy John khùng điên và quá quắt trong sáng tạo, nhưng họ còn mong đợi ông ấy đứng thẳng thớm được quá 10 phút và phát ngôn trong trạng thái tỉnh táo. Cây thập giá quả nặng nề, nhưng Big John không vác được, thì Big John chỉ là một John bất kì.”
Cập nhật thế trận cờ người
Với tất cả sự nhạy bén về thời sự nội giới thời trang, người ta kết nối được một sự tương quan giữa việc ra đi của Stefano Pilati và Raf Simons cùng lúc rời nhà Jil Sanders, trong khi ngai tổng lãnh sáng tạo nhà Dior vừa kịp nguội hơi ấm vị cựu vương phải vạ. Song song với những tin hành lang về việc Marc Jacobs có thể vẫn trở lại trường đua đã tạo nên một cuộc hoán đổi vị trí, dọn dẹp những chỗ trống hiếm hoi cho các tên tuổi thiết kế mới nổi đang hừng hực nhuệ khí vực lại thị trường thời trang cao cấp.
Nhà YSL vẫn giữ kín thông tin về người kế nhiệm Pilati cho đến sau tuần lễ thời trang Paris, nhưng những lời đồn đều bỏ phiếu cho Hedi Slimane, vốn là designer dòng Dior Homme, hiện đang lênh đênh với sự nghiệp nhiếp ảnh độc lập từ hơn 4 năm nay. Slimane đã từng làm cho nhà YSL dòng menswear và hiện đang không tỏ ra thỏa mãn cho lắm với cuộc dạo chơi nhạt nhòa cùng nhiếp ảnh, tất cả cho thấy ý muốn quay đầu là bờ của một tài năng thiết kế đã từng làm nên chuyện cho cả YSL và Dior.
Nửa thập niên qua, tuy vắng bóng khỏi đại cuộc thời trang Pháp, người ta vẫn không quên dấu ấn Slimane trên các thiết kế mảnh dẻ và lưỡng tính, và có vẻ hơn bất cứ ứng viên nào, đây chính là mảnh ghép vừa vặn nhất để lấp đầy chỗ trống Pilati bỏ lại sau lưng, hoặc chiếc ngai tổng lãnh nhà Dior. Chưa kể đến một dấu hiệu đầy thuyết phục khác là dòng Twitter úp mở của một nội gián nhà Kenzo, với giọng nghiêm trọng huyền bí như sấm truyền, báo rằng “một nhà thiết kế nào đó sẽ được thay thế bởi một kẻ ngỡ đã rời cuộc chơi vài năm nay, nhưng vẫn luẩn quẩn trong thế giới thời trang”
Để lại sau lưng một ngôi vị danh giá và hai ứng viên rạng rỡ như vậy, người ta chỉ có thể thấy chính Pilati, như một divo mới của hàng thượng tầng thời trang xa xỉ, thẳng tiến đến chiếc ghế kiêu kỳ vẫn còn in dấu bàn tọa Galliano.
Dành cho độc giả
LUẬT CỦA PILATI
Cựu tổng lãnh nhà YSL tin rằng bạn nên khoe bắp chân thuôn dài, nghe R&B, và làm ơn luôn nói “Không!” với xe hơi thể thao màu vàng. Trong những dự báo về việc tay hoàn lương người Ý sẽ lại hạ cánh an toàn lên chiếc ngai quyền lực danh giá thứ 2 của thời trang Pháp, một fashionista, và cả các fashionisto sẽ muốn tham khảo bộ luật căn bản của nhà làm luật mới.
1. Sai lầm tệ hại nhất khi chọn lựa trang phục cho mình, ấy là khi bạn tự hình dung bản thân là một ai đó khác. Bạn luôn nghĩ đến khuôn mặt và tính cách của người ấy, mà chẳng mấy khi lưu tâm đến tỉ lệ thân hình, vốn là điều cơ bản nhất. Vậy cố gắng tránh nghĩ đến một cô gái trẻ nếu bạn là một phụ nữ trung niên, và đừng nghĩ đến một cô tóc vàng mũm mĩm khi bạn là tín đồ châu Á mặc petit size. Trang phục, trước hết, phải là bộ da thứ hai của cơ thể, gia cố tôn vinh nó, chứ đừng mong bóp méo đảo ngược thân hình bằng một bộ hóa trang. Đó chính là lí do vì sao nhiều phụ nữ trông vẫn rất đẹp, rất gợi tình trong bộ trang phục đàn ông, và đó là nguyên tắc vàng của chiếc tuxedo nữ huyền thoại của Yves Saint Laurent – nó được cắt để ôm lấy một thân thể đàn bà, sự vừa vặn làm nên điều khác biệt diệu kỳ.
2. Đáng tiếc rằng bắp chân là phần cơ thể luôn bị bỏ qua hay coi nhẹ, trong khi chúng là phần tuyệt đẹp trên cơ thể. Nó thể hiện rõ ràng sự mềm mại hay rắn chắc của thân hình, và chuyển động thật gợi tình theo từng bước đi, dáng ngồi. Phụ nữ may mắn hơn vì họ luôn có thể khoe phần cơ thể này ra, tôi không hiểu vì sao đàn ông lại cứ phải mặc những ống quần dài. Tại sao? Tại sao?
3. Đàn ông luôn đặt tính thiết thực và tiện lợi lên đầu, rồi tìm cách để nó phù hợp với phong cách thẩm mỹ của họ. Đàn ông không giỏi chịu đau, chịu cực nên đừng hòng họ dồi một lớp phấn sáp lên mặt dưới trời nắng nóng, hay đòi họ chơi trò thăng bằng phi nghĩa trên những đôi gót lênh khênh loẻo khoẻo. Đàn ông, đau và vướng một chút là lột phăng.
4. Thời thập niên 90’s với thẩm mỹ bóng bẩy đã là thời đại chuẩn mực của thời trang nam. Những bộ ghế bọc da đen thẫm, những thiết kế kiểu cách và đa dạng, các dòng nước hoa, v.v… Giờ đây, khi hầu như những thứ tốt nhất đều đã được nghĩ đến và làm ra, để lại một áp lực lớn cho thị trường thời trang nam giới. Dẫu sao thì người ta vẫn đang tiếp tục cố gắng và vận động – đó là một lãnh vực hà khắc so với thời trang quý bà.
5. Bạn có bao giờ để ý rằng đôi bàn tay là phần cơ thể được đưa ra với người khác nhiều nhất, được nhìn thấy, và đụng chạm thường xuyên nhất so với tất tật các phần kkha1c trên cơ thể? Đừng quên chúng đóng vai trò tối trọng trong toàn thảy những gì tạo nên ấn tượng ban đầu. Làm ơn, trau dũa các móng tay, và xài ít nhất một thứ sản phẩm gì đó – và làm điều ấy một cách nghiêm cẩn.
6. Tôi không bao giờ thật sự cho rằng có một người đàn ông nào đó trên đời này có thể trông hợp với một mái tóc dài.
7. Xe hơi, chúng giống như cơ bắp vậy. Giờ thì tôi ở độ 40, tôi sẵn lòng sắm về một chú Ferrari vintage. Đó là một cái xe tốt, dáng thể thao, nhưng phong cách thượng đẳng không chê vào đâu được. Đây không chỉ thuần túy là trò làm đỏm của đàn ông, bởi nếu tôi tậu một con Lamborghini vàng khè thì mọi chuyện trở nên khác hoàn toàn – nó như một anh chàng cổ to như cổ bò, chuột to như chồn, cơ bắp lổn nhổn. Chỉ có một cục thịt to bự như thế mới muốn cưỡi một con xe như thế kia. Chúng tôi là những thằng cha Batman biết chọn tay Robin phù hợp với mình.
-------------------------------------------
Phạm Duy – hoàng đế Nhục Tình Ca
Jasmine nOir
Khi mà ngoài những con lộ trung tâm, những quả châu mừng đêm sao sáng đang được trưng lên cùng lúc với những dãy mai vàng tòe loe phồn thực, thứ hoa nhựa không tàn của thanh tân vĩnh cửu, như một điệp khúc hoan ca lặp lại 12 tháng một lần: Xuân!
Khi mà xen kẽ một cách tài tình vào guồng quay thít chặt của những tuần cuối cùng trong năm là những tấm thiệp hồng như cũng róng riết đầy xách mé: Mùa Tìm Bạn!
Một đáy mắt màu trà, một vạt nắng hanh hao hắt trên khuôn diện người đàn ông cuối chiều, dư vị cuối cùng của những cuộc sờ chạm 12 tháng qua cũng đã kịp tiêu hóa vào từng tế bào xúc cảm và tan biến, bất khả vãn hồi.
Như tuổi.
Như thời gian.
Những hò hẹn lướt qua chưa đủ chậm.
Người ta chỉ đủ thời gian để ghé qua nhau trong đời.
Bạn – diva thế hệ tân nữ nhi tiến bộ, như cô nhỏ xỏ chân vô đôi giày đỏ không thể ngừng những bước nhún nhảy, chợt hiếm hoi một lần ước cho mùa dừng lại.
Chớ vội Hạ thắm Thu vàng, tại sao lại không là một Xuân Hoàng kim Vĩnh hằng Vạn vạn tuế?
Hãy lắng nghe lời khuyên chân thành nhất từ dater của F.: nếu một Xuân dài hơi là thứ bạn đang tìm kiếm, điều dại dột nhất bạn có thể làm là hẹn hò với một chàng trai nhỏ hơn mình.
Hãy tìm đến với người đàn ông có trên mình hơn nửa thế kỷ yêu đương miên man mê khoái, hãy chọn cho mình một con đực đầu đàn với vẻ phương phi phỉ mãn, đôi mắt tinh anh và nụ cười Di Lặc.
Hãy chọn cho mình người đàn ông có mái tóc bạch kim hoàn hảo, khuôn diện hồng hào, và chiếc áo dạ màu bordeaux hàn lâm kiểu cách.
Hãy vận dụng đến từng giọt hormon đàn bà tính để tiết ra thứ thiện chí hợp mùa mà làm cuộc sờ chạm đầu năm với kẻ được mệnh danh là Hoàng Đế Nhục Tình Ca.
photo by DaiNgo
Quý cô F. và phiên chợ tình trung cổ
Điều quan trọng đầu tiên là bạn phải không được quên là dater đầu năm của bạn đã sống gần 1 thế kỷ, và bạn sẽ bình thản hơn khi đương nhiên là cuộc hẹn sẽ không thể diễn ra tại một tiệm café thời thượng nào dưới phố.
Vĩ nhân tóc trắng, cây đại thụ của lịch sử tân nhạc Việt Nam, sẽ chờ bạn trên một chiếc sofa khổng lồ màu tía. Từ khối thân thể ngót nghét 100 năm tuổi phát ra thứ giọng nói vang ấm như chuông đồng và chuẩn mực đến từng nguyên âm phụ.
Ông kể về những cuộc tình, và không về một cuộc tình nào cả:
Những tình nhân trẻ cách đây hàng thập niên cũng hoang mang phi lý đâu kém những nhân tình trẻ bây giờ. Họ hoang mang mò mẫm nhau đòi tìm hạnh phúc, rồi thả rông năng lượng vào những mối tình gầy, những ả vai gầy mi thưa, tình mỏng đến đến vô phương ôm nắm, rồi lại hoang mang tìm nắm những thứ mong manh. Họ cứ ngồi đó, nắm tay nhau rồi về thở than cho cái sự dở dang. Họ như những đứa trẻ nhỏ thơm vào má người tình mẫu giáo rồi bảo rằng dẫu sao đời cũng vá vào được lên vai một mảnh tình.
Ai bảo họ si tình và đa tình? Tôi cho đó là húy tình. Bởi thứ ái tình thật thà trần trụi nhất sẽ nuốt tọng, nhai rau ráu, sẽ đốt trụi những tâm hồn và thân hình mai hạc ấy. Ái Tình là hân hoan xác thịt như nó vẫn hằng, là thăng hoa nhục thể mà “lên đồi hẹn với bình minh”. Ái tình đâu phải vốn dĩ mong manh, bởi trong mắt nhìn của tôi, nó phồn thực ngạo nghễ và mê muội thật thà lắm lắm.
Bởi chăng cái thứ ái tình mỡ màng và thật thà trần trụi ấy đã nuôi đến phun trào phỉ khoái nguồn thi hứng tưởng như không cạn của người đàn ông tuổi đời ngót nghét non thế kỷ, giờ đây đang dãn nở thênh thang trên chiếc sofa đỏ thắm, thấp thoáng từ đôi mắt tinh anh tia thép sắc lạnh nghiệt ngã của kẻ đi đi về về đã mòn lối cuộc đong đưa.
Người đàn bà tưởng đã rành tám câu hò hẹn rồi cũng sẽ có lúc run rẩy cảm nhận đôi tia thép ấy lướt nhanh, rất nhanh xuôi chiều dài khiêm tốn của chiếc váy little-black-dress size XS của người đối diện.
Bạn – tín đồ trường phái vị lai của thập niên 1960 với thẩm mỹ Twiggy sẽ thấy mình lạc vào bữa đại tiệc ái tình phồn hoa của những mỹ nhân phồn thực thời 1940, thậm chí xa hơn về phía trước, nơi những người đẹp Phục Hưng tươi tắn khỏa thân ngồn ngộn, đôi má ngây hồng và da thịt tràn trề căng mẩy.
Hay đơn giản hơn, bạn, và tất cả những lý tưởng tình ái lãng mạn tân thế hệ của mình, sẽ thấy bản thân đứng lạc lõng trong một chợ phiên thời trung cổ, lúng túng thẹn thùa trước ánh mắt dửng dưng của tay đại phú hào tài hoa và quyền lực.
Điều này thật tệ nhưng cũng thật thú vị và kích động khôn lường.
Quý cô, hãy giữ nguyên đôi chân an ổn trên đôi gót mảnh, bắt chéo cặp đùi, bởi cuộc hàn huyên chỉ mới bắt đầu!
Người Việt lãng mạn và người Việt giả dối
Người nhạc sĩ tài hoa đã bước qua ngưỡng ngại ngần che đậy mà thơ thới phong phanh trước nhục cảm và ái tình. Thì bạn, cô nhỏ táo tợn, cũng chẳng can cớ gì mà dè dặt khi tung ra một cố gắng yếu ớt thử bao biện cho trường phái lãng-mạn-phi-dục-tình.
Nói rằng Ái là Dục thì hăn hẳn là sai. Vả chăng nếu bảo đấy là Dục, e rằng sẽ sinh nhiều nhầm lẫn tai hại. Tôi gọi đó là Nhục. Ái tình nào mà không thể có cái râm ran Nhục Thể? Dẫu cầm được bàn tay nhau cũng lâng lâng mụ mị tâm thần, ấy là hạnh phúc. Mà dẫu là Ái của cuộc vầy vò trên giường tình, đó cũng là hạnh phúc. Đẹp không nào “anh cuốn lưng cong em ưỡn lưng ong cho sét âm dương nổ tung”. Cái thăng hoa này lại nảy nở từ tình ái, chứ đâu phải chỉ suồng sã dục tình. Nó phải cuống quýt thèm thuồng, phải hau háu tưởng như không bao giờ no đủ. Chứ một cuộc trơ trẽn nguyệt hoa chỉ tổ tanh lạnh lúc nguội trò.
Bạn thở dài, sườn sượt tiếc nuối những cuốn tiểu thuyết diễm tình học đường của Tôi Thương Mà Em Đâu Có Hay và Bong Bóng Lên Trời.
Người Việt Nam quả là tổ sư lãng mạn. Không chỉ từ thời người Pháp mang vào đây những tư tưởng huê tình trưởng giả Tây phương, mà từ thời liền anh liền chị đong đưa lúng liếng đò tình Quan Họ, nào mắt lá răm nào yếm thắm, hay trò tán tỉnh thô bạo ngô nghê Nam bộ “ban ngày mắc cỡ tối ở quên về”, cũng táo tợn, cũng đầy nhục cảm, cũng lẳng, cũng tình lắm đó chứ.
Đến thời trào lưu văn minh Tây học, anh thi sĩ nào mà chẳng tơ vương vài dáng gầy nàng thơ, chỉ ngửi mùi giai nhân đi ngang đã lâng xiêu trời đất, thừa sức tự biên cả một cuộc tình lẫy hoa lệ. Từ các ông Đặng Thế Phong cho chí Văn Cao, ông nào ông nấy cũng ảnh hưởng nhiệt tình trường phái ‘romantisme Francaise’, làm gì có chỗ cho chuyện vầy vò mây mưa.
Nhưng rồi thời nào cũng rách trời rơi xuống một Hồ Xuân Hương táo tợn, một Phạm Duy Tốn phong tình bạo ngược, rồi lại sản sinh ra một Phạm Duy ngạo nghễ với những bản Tục Ca hay tôn vinh ái tình nhục thể qua những bản Nhục Tình ca.
Tình, phải đi với Tục, là thế. Bà thi sĩ họ Hồ có lãng mạn đa tình đấy, nhưng đọc thơ bà toàn nhựa mít với trôi nước trắng trắng tròn tròn, có ai nghĩ đến cái chất Tình ngay đâu, mà đã hừng hực lồ lộ cái điều tế nhị ấy ngay tắp lự.
Tình mà không có Tục, thì dở lắm!
Thế nên mới ra cớ sự, đang viết Tâm Ca, tôi để đấy, viết Tục Ca. Tôi đưa cho các anh Tuấn Ngọc với Duy Quang bảo hát, anh nào cũng hồn nhiên nho nhã, le lưỡi lắc đầu, bảo rằng “bố các anh ấy cũng không dám hát”. Thế là tôi phải minh chứng rằng các anh ấy sai: bố các anh ấy dám viết, thì dám hát.
Lạ nhỉ, tại sao người ta rất sợ phải sờ vào cái nơi vốn dĩ rất thích thú khi được chạm đến?
Vì người Việt ta giả dối lắm, cô ạ, đặc biệt là trong chuyện ái tình. Người ta cần xã hội và lề thói của xã hội, bằng không, chúng ta tất thảy đã thành một bầy đàn hoang dã thác loạn bốn mùa. Thích lắm chứ, thênh thang lắm chứ!
Nhưng thôi, cô đừng nghe tôi. Tôi vẫn là kẻ ngạo ngược xưa giờ, và những kẻ như tôi mỗi thời cuộc không có nhiều, nên ơn Trời, thế gian bình ổn!
Huyền thoại trai lơ và hôn nhân bảo toàn bát đĩa
Đối diện một người đàn ông mà tự thân kho tàng âm nhạc đồ sộ và những huyền thoại ái tình cũng toát ra một thứ hào quang khiến kẻ đối diện choáng mờ. Sự pha trộn kì lạ giữa tính hàn lâm và thông tục, với những nhấn nhá đồng bằng Bắc Bộ trên tiết tấu Tây phương, đã khắc tên ông vào tượng đài vĩ nhân huyền thoại. Nhưng chính thứ ái lực rần rật trong từng ca từ được nhả trau chuốt, và những ẩn dụ nửa ý nhị, nửa buông tuồng trai lơ mới khiến tên tuổi Phạm Duy gắn liền với hình ảnh một tình lang không tuổi.
Dường như ông yêu đàn bà quá, đến chẳng bao giờ là cạn cùng no đủ.
Người ta cứ bảo tôi đào hoa đa mang lắm, ừ đành rằng cũng có, bởi đương nhiên là vậy, nhưng không nhiều đến như họ đồn đại đâu. Nếu tôi nhớ không lầm thì độ vài trăm. Có lẽ nhờ được trời phú cho âm nhạc, hóa ra lại là ngón “câu khách” rất thành công. Thậm chí cách đây không lâu, vẫn còn có những bà thính giả chân thành lắm, nguyện về nâng khăn sửa túi. Chết thật, mà khi ấy tôi trả lời bà ấy ra sao tôi cũng quên rồi.
Người ta ngoài kia thương tôi nhiều lắm, nhưng rồi thời ham hố qua đi, có khi ngồi lại tôi lại tham lam hỏi người mà như tự vấn “Yêu tôi, hay yêu đàn?”
Rồi bà nào cũng thế, đàn thì có thể nghe được từ xa, chứ người đàn ông sống gần mới ê chề nhìn ra bao nhiêu là thói xấu. Chả mấy ai mà chịu nổi tôi, thế là họ ra đi, tôi lại vào vai anh thất tình ngồi viết nhạc để tán kẻ đến sau.
Thế rồi cũng có một người đàn bà chịu ở lại và sinh nở cho ông những đứa trẻ, bây giờ là những tài hoa lừng lẫy. Nửa đời kề cận vợ chồng, Phạm Duy vẫn chỉ gặp một người đàn bà theo ông là đủ hoàn hảo để làm được điều đó.
Bà cho ông mặc tình làm đứa trẻ tài năng và trái thói, mặc lòng, bà ấy vẫn dung dưỡng cả những thói tật của đức ông chồng vĩ nhân.
Một người đàn bà đẹp đến mấy, rành đường phong nguyệt đến mấy, lúc xa có tiếc, cũng chẳng tiếc là bao. Nhưng người nhạc sĩ già ngẩn người, hụt hẫng như đứa trẻ say vòi
Nếu có điều gì để tiếc, tôi chỉ tiếc rằng người vợ quá dễ thương, bà ấy mất sớm quá!
Nửa thế kỷ làm vợ, bà ấy đánh đổi để có được trong tôi một vị trí chưa hồng nhan nào có được, và độc tôn vĩnh viễn về sau. Tròn 50 năm sống với nhau, đến khi bà ấy mất đi, tôi vẫn không tin được rằng chưa hề có một cái bát cái đĩa nào bị vỡ.
Người đàn bà lí tưởng nên hiểu và yêu, hay chỉ nên khéo chịu đựng?
Chịu đựng chứ, không thì loạn gia cang lên mất!
Dater ngô nghê của F. sẽ gật gù chiêm nghiệm một chân lí hồn nhiên mới về cuộc hẹn hò lớn và lâu nhất đời người: cuộc tình viên mãn và một cuộc hôn nhân hoàn hảo là khi người ta chịu đựng nhau một nửa thế kỷ mà vẫn bảo toàn bát đĩa!
Một và một vạn
Như một tín đồ trường phái hưởng thụ chuyên chính, khuôn diện ông lại giãn nở hài lòng:
Ai bảo hôn nhân là khổ lụy thì tôi thương họ lắm, bởi mỗi ngày trong hôn nhân của tôi đều tựa thiên đàng. Hay bởi tôi tham lam tôi đòi nên được đáp? Tôi như đứa trẻ được cưng chiều suốt 50 năm. Tôi như trong một cuộc tình dài.
Rồi người ta cũng chỉ ghé qua đời nhau, cuộc tình tàn cuộc không có nghĩa là cuộc tình tạm bợ. Tôi không tin vào ái tình tạm bợ, cuộc duyên phần có thể chóng vánh, thậm chí dẫu chỉ vừa đủ cho một lần hoan lạc, nhưng nếu ta đói khát cho cạn cùng, cho nhận cho phỉ mãn, với tôi, đó vẫn là một cuộc tình trọn vẹn. Ấy huống hồ chi 50 năm phu phụ, những chuyến nhận-cho mang về những kiếp người mới, những đứa con. Cuộc tình ấy, với tôi là thiêng liêng trân quý lắm. Đến nỗi ngay những ngày gần đây, tôi vẫn thẫn thờ nhận ra bà ấy vẫn đang ở nhà, ra vào trông nom kề cận bên tôi. Thế mới hay, mới gọi là sống lâu biết đâu chưa đi trọn hết một cuộc tình. Tôi giàu có lắm, bà vợ tôi quả là người đàn bà vô giá: “yêu một người như yêu một vạn người”
Rồi ngay lập tức, như để đánh tan sự thất vọng của kẻ đối diện, ông cũng không thể ở lâu trong vai trai góa mồ côi:
Còn những cuộc tình. Lại nữa, ai bảo ái tình là khổ lụy, tôi cũng thương cho họ lắm. Dẫu có lúc bị phụ, ấy nhưng trong ái tình tôi “phởn” lắm, nên lúc nào cũng thơ thới. Khi yêu đương thì tôi mê muội quên đời, nhưng khi chuyện không thành, tôi hầu như chẳng chút dằn vặt. Cứ thế, nước trôi qua cầu thì dòng mới trong, mới thoát. Tù đọng làm chi cho ngầu đục dòng đời. Tôi chẳng nhớ gì, chẳng mong nhắc lại gì. Những gì đáng giữ thì đều ở lại cả trong tôi làm của nả mang về Tuyền Đài. Còn giờ đây, tôi còn bận giang tay ôm sự sống, chẳng còn tay nào để cắc cớ lần dở chuyện đã lắng sâu, trôi xa.
Những cuộc tình… Dường như Phạm Duy chỉ có một cuộc tình thủy chung duy nhất với Ái Tình ở nghĩa yêu đương rộng nhất, mà trong đó, những người đàn bà đến và đi, thay phiên nhau ngồi vào ghế nàng thơ, những nàng thơ thật ngoan.
Một người đàn ông, bận rộn lắm, và phải tự tạo cho mình một cái thế kiềng 3 chân vững chãi để làm nên cuộc sống: một sự nghiệp, một vợ, một người tình. Vợ tôi, bà ấy biết hết, hiểu hết, mà chẳng bao giờ một tiếng trách hờn. Bởi tôi là kẻ quá đỗi chung tình, nếu không thì tội gì tôi đã nói “nhiều người tình” chứ đâu chỉ là một.
Tôi thành danh về sự nghiệp, với vợ tôi là một cuộc hôn nhân trọn vẹn đề huề, và với người tình, tôi đoan chắc ngay giờ đây bà ấy vẫn đang nghĩ về tôi nhiều nhất. Có 3 điều ấy được bảo toàn, tôi thấy mình trọn vẹn, sung sức và phỉ mãn nhất, ở tư cách một người đàn ông.
Chẳng phải thế cân bằng của vạn vật chỉ cần là sự đối trọng hai yếu tố Âm-Dương? Tại sao ở đây, người đàn ông lại đòi hỏi có đến 2 người đàn bà?
Ô kìa, mỗi người đàn ông cần một vạn người đàn bà ấy chứ có phải 2 đâu. Nếu chỉ xét theo những gì Tạo Hóa ban tặng, từ xác thịt cơ thể, đàn ông đàn bà đã chẳng được tác tạo nên là vậy, việc của kẻ đi gieo giống, việc của kẻ ủ mầm,… Nhưng rồi có xã hội, có văn minh, có lề thói và trật tự. Người ta vẫn luôn cần những người có đạo đức, hoặc quyền lực, để đứng ra thiết lập đạo lý và lề thói cho an ổn mọi bề. Những cái người ấy, rất cần thiết là vậy!
Vậy ra đạo lý không đi cùng với tự nhiên sao?
Đạo lí phải đi cùng với tự nhiên, để kiểm soát và ngăn loạn. Nếu không thì tôi ở tù từ lâu rồi!
Những người đàn bà tuyệt vời!
Đàn ông, thật là những đứa trẻ hư hỏng quá đỗi! Chúng hư hỏng vì được nuông chiều.
Những đứa trẻ như thế, thường chỉ biết yêu chính bản thân và những cơn say vòi vô độ.
Thú thật, người đàn ông có những lúc yêu vì tự ái. Đàn ông tự ái ghê lắm, cần chăm sóc mơn trớn cái góc tự ái đó. Thế là họ dan díu yêu đương, và mỗi người huênh hoang theo một cách, anh phàm phu có cách của anh ấy, tôi thì khoe tình vào nhạc.
Nhưng không hiểu sao, những người đàn bà trong đời tôi, chẳng có bà nào phàn nàn về điều đó cả. Chẳng có ai bảo tôi phải bỏ vợ vì họ cả, mà vợ tôi cũng chả hờn ghen xem chuyện yêu đương ngoài chồng vợ của tôi là điều khuất tất. Những người đàn bà tuyệt vời!
Nhạc sĩ đánh giá sự phục tòng ấy là một phẩm hạnh của giống cái?
Hẳn nhiên, nếu không muốn nói là một trong những phẩm hạnh cao giá nhất.
Ông có e đây là ngôn luận phong kiến – một dấu hiệu đáng buồn của thời gian?
Lạc hậu à? Chẳng biết các chị phụ nữ của những anh khác thế nào, ngay trong thời đại văn minh này, những người đàn bà tuyệt vời của tôi, xưa nay họ vẫn nằm dưới.
An-nam woman smoking opium. Photo by Albert Kahn
Một thoáng văn minh thụ hưởng từ tư duy đồng đẳng tân thời khiến bạn khẽ rùng mình trước một sự khiếm nhã thản nhiên tênh hênh đến vậy.
Và không có gì qua mắt được sự tinh anh quái quỷ của người đàn ông đối diện
Nhưng chớ nghĩ tôi hàm ý điều chi khinh thị. Họ là Mẹ nhân loại, và khi an nhiên đặt mình bên dưới người đàn ông, họ hào phóng ban bố khoái lạc và Sự Sống. Nhân loại u mê trụy lạc, hay thông mẫn phồn vinh cũng từ đấy mà ra.
Thói trăng hoa ham hố phải chăng là một cách tán tụng nâng niu những người đàn bà đẻ ra sự sống ấy? Hay đó chỉ là nhu cầu vô độ của lạc thú ái tình hoặc thuần túy bản năng gây giống?
Đó là bản năng, thuần túy và thật thà nhất. Và người đàn bà hạnh phúc là người đàn bà hiểu rõ điều này.
con gái An Nam từ góc máy Pierre Dieulefils
Hồn nhiên là thế, đến trần trụi sỗ sàng nhưng hiển nhiên tự tại.
Cứ hồn nhiên đi, hồn nhiên là đàn ông đàn bà, rồi sẽ tìm thấy nhau mà hồn nhiên yêu. Adam yêu Eva đâu phải bởi quá nhiều tán tỉnh tương tư hay chiêu dụ mồi chài rù quến. Một đàn ông một đàn bà, mà từ đó những tội tình kì thú sinh ra.
Xuân Vĩnh Cửu trong cõi hoa màu thiền
Những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc hẹn, người đàn ông thả mình vào lưng ghế màu tía, vẫn cái giọng chuẩn chu đến từng nguyên âm phụ, nhưng đã không còn âm sắc ngạo tình tinh quái:
Chung quy ra Đạo Ca, Bé Ca hay Tục Ca, tất cả đối với tôi, đều là những cái Tri, cái Ngộ. Giữa cuộc u u minh minh của số phận và thời cuộc mà tôi gọi ấy là cái “thành vách sương mù”, tôi viết nên Đạo Ca như một nẻo đường sáng để vin vào và hướng tới. “Đạo” ở đây là “con đường”, chớ không hề là tôn giáo. Giữa những ái tình hời hợt thoảng qua, giữa những vai gầy mi rối tóc tơ, tôi lại ngộ ra chân lí của ái tình thăng hoa trong cạn cùng mãn nguyện, tuyệt đối của cuộc Nhận-Cho, và buông tuồng đến thật thà.
Cuối cùng, sau cuộc hành lạc hân hoan, “châm một điếu thuốc trầm ngâm lõa thể”, tiếng thốt lên tấm tắc của tình nhân “em thơm như cỏ hồng, em ơi!” chẳng phải là thiên đàng hạ giới đó sao?
Những kẻ như tôi không nhiều. Trong cuộc u u minh minh như kể ở trên, mấy ai thoát nỗi hoang mang đến trốn chui vào cái “động hoa vàng” mà an đời yếm thế. Còn tôi, yêu đời như tình nhân, phải ôm chầm lấy mới hả, dù điều đó sẽ gây đau vì cuộc sống không mấy khi tròn trịa. Mà hề gì, được Sống, cứ vồ vập lấy đi, “động hoa vàng” ai về sau mà chẳng có riêng cho mình một cõi hoa màu thiền.
Bạn sẽ đứng lên, giã từ cuộc hẹn hò khai Xuân với tình lang không tuổi.
Hãy thanh thản ra về, ngân nga cho chính mình một nguyện cầu chưa bao giờ xưa cũ
Xuân tôi ơi ! Sức Xuân tôi còn khát khao
Dù nay, dù mai cũng như mọi ai chết trong địa cầu
Xuân muôn năm, có ta Xuân còn hơi Xuân
Thì xin, thì Xuân hãy cho tình nhân sống thêm vài lần…
Ngoài kia, xuôi những con lộ trung tâm, như vẫn hằng 12 tháng một lần, người ta lại đang một lần nữa rộn ràng chăng kết thứ hoa Xuân Vĩnh Cửu kì khôi bằng nhựa, một cõi hoa màu thiền.
---------------------------------------------------------
Thỏ Cột Nơ – “Dân Chơi” Xuyên Thế Kỷ
Túy Ca
Không phải người đàn ông nào lang thang trên bề mặt địa cầu cũng được dịp tận hưởng cảm giác trở thành huyền thoại ngay khi còn sống và vẫn vận hành khá trơn tru. Nhưng thực tế của một huyền thoại cũng là một thứ hoàn toàn không như trí tưởng tượng hào phóng bởi ánh hào quang.
The legendary man…
Trai tân 22 tuổi và cơ đồ đại nghiệp Thỏ Cột Nơ
Ông bà giáo Grace Caroline và Glenn Lucius Hefner ắt chẳng bao giờ ngờ rằng đứa con trai đầu lòng sẽ một ngày trở thành tay ma cô hùng mạnh nhất của hai thế kỷ. Hugh Hefner đã bắt đầu sự nghiệp báo chí từ nền nếp gia huấn thủ cựu ấy, không có phụ huynh ly dị, mẹ độc thân, hay những vụ lạm dụng tình dục – một môi trường vô nhiễm hoàn toàn với những điều cấm kỵ hay ho.
Một cách khôi hài, Hefner tự nhận mình là trường hợp “hoa tình muộn nở” khi thú nhận không hề thủ dâm trước 18 tuổi, và đến 4 năm sau mới chính thức nếm trái cấm lần đầu.
Cuộc phiêu lưu đầu đời đã đột ngột phá bung cánh cửa dẫn ra thế giới của cậu trai 22 tuổi. Say sưa, đầy ám ảnh lẫn hiếu kỳ, cậu cả nhà Hefner lao vào trang bị cho mình kiến thức từ những ấn bản được coi là đệ nhất dâm thư của Kinsey và những cuốn cẩm nang ái tình chuyên chỉ dạy mách nước các mánh khóe phòng the. Không chỉ với lòng đam mê dục tình, mà cả tham vọng của một ông trùm tương lai đã khiến Hefner hình thành những nét phác đầu tiên cho cơ đồ quyền lực mang biểu tượng Thỏ Cột Nơ.
Năm 1953, anh chàng Hugh kì cục bắt đầu cầm cố tống tháo đống đồ gỗ trong nhà được 600$ (hoặc là 800$ mà mãi về sau này, Hefner vẫn không nhớ được), thuyết phục thành công 45 nhà đầu tư để gom về thêm một khoản tiền 8000$, trong đó có 1000$ của bà giáo Grace đáng kính (tuy không mặn mà với ý tưởng Playboy của ông con cho lắm, nhưng bà thân mẫu lại tuyệt đối tin tưởng vào chính cậu trai cả ngông cuồng của mình). Với chưa tròn 10,000USD trong tay, Hugh Hefner đặt viên gạch đầu tiên cho đế chế Thỏ Cột Nơ.
Quả bom bìa huyền thoại & cách mạng đồng tính tiên phong
Thoạt đầu, Hugh Hefner muốn đặt tên cho tờ tạp chí của mình là Stag Party (tạm dịch: Đại Tiệc Trai Lơ), nhưng ngặt nỗi cái tên đó đã có người sử dụng, từ đó Playboy (Dân Chơi) được ấn định trở thành tên gọi của cả một thế lực truyền thông sau này.
Số đầu tiên xuất bản tháng 12 năm 1953, với hơn 50,000 bản cháy sạp với ảnh bìa hình cô đào Marilyn Monroe khỏa thân hơ hớ, bỏng rẫy trên tay các cậu bé bán báo và thiêu đốt khắc khoải dưới gối các gã thiếu niên khắp nước Mỹ.
Cho đến nay, đó vẫn được xem là một trong những shot ảnh bìa gợi cảm và lộng lẫy nhất của lịch sử Playboy. Nếu về sau này, lịch sử ảnh bìa tạp chí khiêu dâm chỉ cho người ta những vận động viên phòng gym, lõng bõng những túi dung dịch dưới da, với tinh thần như thể vừa bước ra từ phòng xông hơi của câu lạc bộ thể hình, thì quả bom vàng hoe Marilyn của ngày ấy, mây mẩy phồn thực, khóe mắt nhễ nhại tình, lại có cái đẹp của người đàn bà thật thà vừa bước ra khỏi cơn cực khoái.
Trong suốt hai năm sau đó, Playboy nghiễm nhiên trở thành một ấn phẩm được cánh tu mi nam tử nô nức đón xem hàng kỳ, với những trang báo tràn trề da thịt được hau háu lần dở, và xuất hiện tại mọi phòng tắm của nam nhân trai tráng khắp nơi. Năm 1955, tờ Playboy đăng tác phẩm The Crooked Man của Charles Beaumont, một thứ văn chương viễn tưởng dặt dẹo về một người đàn ông dị tính bị ngược đãi và lạm dụng tả tơi trong một thế giới đồng tính, với hàng loạt những chi tiết rùng rợn hay ho được đặc tả huỵch toẹt. Đây quả là một truyện kinh dị đối với những người đàn ông khỏe mạnh và thẳng tưng của nước Mỹ. Thư phản đối từ khắp nơi gửi về, các nhà phê bình lên tiếng cự nự. Hugh Hefner – vẫn thẳng tưng, khỏe mạnh và mê gái đẹp, điềm tĩnh đáp trả “Thật là một truyện bậy bạ quá lắm, ngược đãi và chà đạp dân dị tính trong thế giới đồng tính. Vậy thì ngược lại, ngược đãi dân đồng tính trong thế giới tưởng mình là dị tính, cũng thật là sai quấy không kém vậy!” Từ đó, tay ma cô vĩ đại của nước Mỹ chính thức trở thành người hùng thẳng thớm (straight) đấu tranh cho quyền bình đẳng của dân đồng tính, thậm chí có cả một bộ phim tư liệu về việc này, mang tên “Hugh Hefner: Playboy, Activist and Rebel” (Dân chơi, nhà hoạt động, và phần tử phiến loạn)
Mối tình, cuộc hôn nhân và cơn đột quỵ đầu đời
Tuy là cục cưng trẻ tuổi tài cao của sân chơi gái gú thừa mứa những cuộc tình cho không biếu không, một ngày đẹp trời năm 1949, gã ma đầu Dân Chơi cũng đĩnh đạc thắt chiếc nơ chú rể vào dưới cằm và hỏi cưới người tình từ thời hoa mộng là cô sinh viên nền nã Mildred Williams về làm vợ.
Họ đã nối dài cuộc tình từ thời kì Hefner phục vụ trong quân đội, sau khi chàng hồi hương, cô sinh viên thú nhận đã ngoại tình trong suốt những tháng ngày xa cách. Về sau Hefner vẫn còn nhức nhối nhớ về vết thương cũ: “Đó đã là khoảnh khắc khủng hoảng nhất đời tôi!” Nhưng điều này không dễ làm nản lòng Dân Chơi, một hôn lễ truyền thống trắng muốt và tiếp nối là 2 đứa con xinh đẹp, người vợ, với lòng thống hối, sẵn lòng cho phép chồng ngủ với nhiều phụ nữ khác, và kết thúc bằng cuộc li dị năm 1959.
Bước ra khỏi cuộc hôn nhân kiểu Mỹ, Hefner, như mọi người đàn ông thẳng thớm và khỏe mạnh khác, dấn thân vào cuộc tận hưởng mùi đời một cách triệt để. Hai chương trình truyền hình Playboy’s Penthouse (1959-1960) và Playboy After Dark (1969-1970) của ông cũng ủy lạo tích cực cho lối sống hưởng thụ của quý ông độc thân thành thị. Vừa háu tình vừa kén chọn, mỗi tháng Playboy có một Playmate (Bạn Tình) thì mỗi năm, Hefner cặp kè với 11/12 cô nàng Playmates mỡ màng ấy với chu kỳ thay mới, đương nhiên, là vào mỗi 4 tuần.
Rồi điều phải đến đã đến. Năm 1971, Hefner lần đầu trải nghiệm tình dục đồng tính, chuyển từ Chicago đến Los Angeles và tiếp tục trải nghiệm cơn đột quỵ đầu tiên vào năm 1985, ở tuổi 59.
Xuân đi Xuân đến rồi Xuân lại về…
Cú cảnh tỉnh có hiệu lực, Hefner giảm bớt nồng độ “Dân chơi”, kết hôn lần nữa với Kimberley Conrad và đặt vương triều Playboy vào tay con gái là Christie. Cũng từ đó, Playboy Mansion được chuyển thể từ một tòa đại hí viện ái tình để trở thành một siêu dinh thự thân thiện, vui nhộn nhưng ấm áp không khí gia đình văn hóa.
Đây không hẳn là điều giai nhân Conrad trông đợi ở đức ông chồng đã khét tiếng làng chơi. Họ quyết định ly thân trong tình trạng cả hai đều đã ngán tận cổ trò gia đình văn hóa và sinh hoạt điều độ. Hefner lại ngay lập tức xoành xoạch thay đổi các người tình cư ngụ tại Mansion, thậm chí ông có thể cùng lúc công khai có mối quan hệ với một loạt bảy người đẹp, đại diện cho các thứ trong tuần.
Một cách ngang nhiên trước mũi dư luận, các hội đoàn đấu tranh vì bình đẳng giới, và những quý ông thiệt thòi còn lại trên cõi văn minh, Hefner gây dựng cho riêng mình cả một hậu cung ngồn ngộn phập phồng những cô khối da thịt mắt tóc măng tơ, vui nhộn mà ông yêu quý đồng đều như một vị quân vương hào phóng, sung mãn và thấu đáo lẽ đời.
Từ đó, Playboy Mansion một lần nữa trở thành cõi địa đàng lạc thú của không chỉ các quý ông mà còn là viễn mộng của tột đỉnh xa hoa, phù phiếm và một thế giới vô lo trên đỉnh nhan sắc khiến không ít phụ nữ, thậm chí các cô gái nhỏ, ngấm ngầm thèm muốn. Dĩ nhiên, trong mọi hình dung tưởng tượng của họ, những vết nhăn trên khuôn mặt Ngài Hefner đều được xóa mờ tài tình và mái tóc bạc của Ngài, cùng chiếc áo choàng smoking jacket đỏ tía lại có một sức quyến rũ lạ kì của bá tước Dracula điệu nghệ, uy quyền của những ly rượu lâu năm và những bản tango cổ lỗ cầu kì.
Bí mật chuyện tình điệp vụ Playboy
Trong các thiên tình sử ngắn dài đủ kiểu của Mr.Playboy, với hàng trăn hồ sơ “đăng ký yêu” vẫn được tới tấp gửi về hàng tuần, thì cánh cổng Playboy Mansion và đôi vòng tay Hugh Hefner hẳn nhiên đã có lần đón vào lòng những con sói đội lốt thỏ.
Không phải là câu chuyện cổ lỗ về một cô nàng hám lợi, bởi bản thân hậu cung Playboy đã là nghiệp đoàn nữ công nhân khai thác mỏ.
Đây là câu chuyện của Gloria Steinem – con thỏ cảm tử. Là một nhà hoạt động đấu tranh vì nữ quyền, từ khi còn rất trẻ và sở hữu một vẻ hấp dẫn “đàn bà-trẻ con” rất thịnh dưới thời người đẹp BB, Gloria từng ngụy trang dưới…bộ da và những đường cong của chính mình để đến sống tại Lâu đài Khoái lạc một thời gian, dưới tư cách Playmate được sủng ái của Hef, và về sau công bố mọi sự thật về lối sống của Trùm Tình Dục ra công luận như một bản tố cáo giật gân và điệu nghệ.
Trong những tiết lộ về đời sống một Playmate, cô để lại cho giới truyền thông Mỹ thời lạm phát tình dục “Một phụ nữ đọc tờ PLayboy sẽ thấy chẳng khác gì một người Do Thái đọc tạp chí Quốc xã vậy.”
Mãi về sau, trùm Dân Chơi già lão còn nhắc về cô – khi này đã là một nhà hoạt động bình quyền nổi tiếng, một cách vừa vị tha, vừa vị nể, như về một hồng nhan tri kỷ đặc biệt “đã có lúc tôi cho rằng đã có thể nảy sinh những điều thật đặc biệt giữa chúng tôi. Đó là kiểu một cô gái có thể trị đàn ông như huấn luyện thú nhỏ”.
Sở hữu quyền lực của lòng tự tại và một sĩ diện duy mỹ khắc nghiệt, Hef thừa tư chất mã thượng và vị tha để biến những lời lên án và đòn công kích mãnh liệt từ nữ điệp viên xã hội này trở thành trò vật nẩy màu mè thường tình nữ nhi.
Chỉ đến gần đây, bà úp mở với báo giới một tình cảm lưu luyến đặc biệt dành cho “con yêu râu xanh” Hefner.
Nhưng, không rõ với lòng kiêu hãnh hay với một sự mỉa mai cao thượng, ngoài những lời ca tụng và những cái xoa đầu đầy vị tha dành cho giai nhân ngày cũ, Hefner chọn chôn dấu bí mật giữa hai người vĩnh viễn đằng sau những bức tường, đáng tiếc là không biết nói, của tòa biệt điện Dân Chơi.
Hai bà vợ rưỡi và một chú chó
Cuộc đời một người đàn ông tốt số không phải là những chuyến phiêu lưu gieo giống hoàng tộc như nam nhân thiên hạ vẫn nghĩ. Bản thân Hefner, với phần số đào hoa đậm đặc của mình, lại là một bờ bến mỡ màng phù sa nơi những người đàn bà đến và đi, không chỉ là các bà vợ.
Chuyện động trời xảy ra khi 3 trong số 7 nàng Bunny rời tòa mộng lâu, Hefner không tỏ ra hụt hẫng quá lâu và lập tức tự bù đắp bằng cục cưng mới được sủng ái nhất là Crystal Harris và cặp song sinh đôi mươi xinh như mộng Kristina và Karissa Shannon. Chỉ riêng “Mối tình” với cặp song sinh tóc vàng đủ để Hefner trở nên đáng ganh tị hơn James Bond và Casanova cộng lại đối với mọi quý ông lão ấu trên địa cầu.
Hefner chính thức ly dị với Conrad sau 11 năm ly thân, khi người con út của họ vừa tròn 18 tuổi. Ngay sau vụ ly dị và cuộc chia tay với cả hai chị em nhà Shannon, vị hoàng đế đa tình quay qua trân trọng những gì còn lại – người tình được sủng ái nhất Mansion là Crystal Harris.
Mọi động thái phòng vệ nghiêm ngặt lập tức được áp đặt cho lâu đài lạc thú để ngăn chặn làn sóng “thỏ chiêu hồi”. Ông thú nhận điều này với tờ New York Times trong khi phàn nàn về thói lẳng lơ của bà phu nhân tiền nhiệm: “Tôi chung thủy tuyệt đối với Kimberly Conrad, trong khi bà ấy ăn vụng bất kể bữa. Điều này khiến tôi luôn bị ám ảnh bởi cảm giác già khọm và cô độc trong suốt cuộc hôn nhân.” Hef coi đây là nguyên nhân khiến ông rơi vào phản ứng cực đoan và lao vào những cuộc tình tay ba tay tư cùng lúc với nhiều cô gái khác, kết thúc bằng luật giới nghiêm lúc 9 giờ tối, áp dụng trong phạm vi Playboy Mansion cho cả 7 cô bồ. “Cho chắc ăn!” ông nói vậy.
Sự bồng bột ngây thơ không đáng có của chúa tể lâu đài Playboy đã trả giá rõ ràng, ngay cả với luật giới nghiêm 9 giờ tối: nàng Crystal từ hôn khi chỉ còn 5 ngày trước lễ cưới, mang theo mình chiếc nhẫn đính hôn trị giá 90,000USD, con xe Bentley xa xỉ, nhưng đau đớn nhất, là cả chú chó cưng Charlie.
Ngay vào ngày đáng ra đã được ấn định cho hôn lễ, tân nương hụt tung hê tiệc tùng be bét ở Vegas và tồng tộc vạch chuyện phòng the trên đài phát thanh “Thân thể Hef không hề làm tôi bị tụt hứng, bởi ổng có bao giờ dám cởi đồ trước mặt tôi đâu. Tôi thề chưa một lần nhìn thấy ổng khỏa thân!”
Ở nhà, vị hôn phu u sầu post lên Twitter “Sau tất cả thăng trầm vinh nhục, cái gì làm được đã làm, những điều có thể nói cũng đã nói hết, cuối cùng thì độc thân có lẽ là điều tốt nhất.” Phía dưới, ông cũng đã kịp thông báo thêm với các follower về việc tự bù đắp sự trống rỗng trong tim bằng 2 giai nhân mới là Anna Sophia Berglund và Shera Bechard vừa dọn đến hậu cung Playboy.
Ngày 26 tháng Bảy, trong cuộc phỏng vấn truyền hình với Howad Stern, Crystal Harris, non nớt và sống sượng với tuổi 25 của mình, ngô nghê bôi tro trát trấu lên vị cựu hôn phu đáng kính, tồng tộc kể về cuộc ân ái mà theo nàng là lần duy nhất và kéo dài chỉ 2 giây.
Quá nhiều cho một người đàn ông vừa bị phản bội và bị lột truồng trước công luận bởi chính người đàn bà mà chút nữa đã trở thành phu nhân.
Người ta hể hả cho rằng đây chỉ là một phần rất nhỏ hệ quả dành cho Hugh Hefner, sau ngần ấy thập niên lột truồng các cô gái trẻ trên bìa tạp chí.
Crystal say sưa với danh hiệu “cô gái bỏ rơi Hef”, lại tiếp tục sa đà “Lúc đó tôi hơi xỉn và nghĩ: Ờ thì thử chút có sao đâu? Đằng nào thì ông ta cũng từng làm tình đến ngán ngẩm ngập ngụa rồi. Cuối cùng thì hóa ra ổng trụ được đúng 2 giây, trước khi kịp ghi bàn vào vùng cấm địa”
Hefner đón nhận đòn tro trấu của cô vợ hụt với một thái độ nhẫn nhịn, khả kính và kẻ cả. Ông thậm chí còn tỏ ra thú vị với những gì đang diễn ra. Quả tình, Crystal đã làm rất nhiều để Hefner không phải cảm thấy quá tiếc nuối nàng cùng ý nghĩ gắn kết trọn đời.
Đoàn luật sư tóc vàng và đức tính trung thành của loài thỏ
Đến đây, người ta lại tìm đến cuốn tự truyện Sliding Into Home của cựu nhân tình Kendra với những chi tiết thâm cung giật gân về cuộc sống của nàng tại Playboy Mansion và bản thân vị chủ nhân tôn quý của nó. Bỏ qua những chi tiết về ma túy, nghiện ngập, nghề người mẫu khỏa thân và các hộp đêm thoát y mà người ta có thể tìm thấy trong bất cứ hồ sơ của diễn viên phim đen hạng xoàng nào, thì những chi tiết mô tả cái “lần đâu xao xuyến ấy” với Hefner đủ làm ngứa mắt các nhà mô phạm.
Kendra Wilkinson mô tả tỉ mỉ cuộc làm tình tập thể mà các cô gái xếp hàng chờ đến lượt, mỗi người được ân ái trong khoảng một phút và lại thay ca “Lúc đó tôi chẳng buồn quan tâm đến việc ông ấy bao nhiêu tuổi, cuối cùng thì các bộ phận cũng vận động đúng chức năng cơ học của nó mà thôi. Buổi sáng hôm sau, đích thân Hef xuống tận phòng để hỏi thăm tôi ‘Hello, my darlin’. Và tôi cảm thấy được ưu ái đặc biệt, thấy mình được yêu, và thấy mình xinh đẹp. Chẳng phải đó là điều mọi cô gái muốn cảm nhận từ người tình của mình?” Và Kendra quyết định dọn vào Mansion sống như một trong những tình nhân lâm thời của Hugh Hefner, khi mới 18 tuổi, một cách tự nguyện hoàn toàn.
Cùng lúc, phản ứng trước sự mạo phạm của con chiên ghẻ Crystal, các bạn tình mới cũ của Hef đồng loạt lên tiếng bênh vực và tụng ca khả năng thụ hưởng ái tình của hoàng đế Dân Chơi. Bạn Tình xứ Phù Tang Hiromi Oshima nói “Chỉ có một luật được áp dụng trong phòng ngủ của Hef – đó là không có luật lệ lề lối gì ráo!”
Còn Dani Mathers ở đài truyền hình Playboy TV thì khẳng định như đinh đóng cột “Hef là một bạn tình hoàn hảo! Mấy người may mắn ở Playboy Mansion thật sự ham vui như bầy thỏ háu tình, và Hef có một đời sống phòng the cực kì bận rộn.”
Kiều nữ Shanna McLaughlin vô tình vạch ra rất rõ sự cảm kích từ các người tình của Hef không liên quan lắm đến khả năng tình dục của Đức Ngài “Tôi thấy tất cả những chuyện này về Crystal thật đáng buồn. Hef là một quý ngài cực kì dễ thương. Ông hào phóng và chu đáo bảo bọc tất cả mọi người quanh mình, đặc biệt là những nàng Playmates. Ít nhất là vì lòng biết ơn, một số bí mật nên được giữ riêng chỉ giữa hai người trong cuộc.”
Sau đợt sóng chỉ trích của dư luận và các chị em thỏ, cuối cùng thì nàng Crystal vạ miệng lại tất tưởi lên sóng truyền hình ấp úng lời xin lỗi đại loại “ý tôi không thật sự chỉ là 2 giây…”
Điều an ủi cuối cùng cho Hef là rồi thì phu nhân hụt cũng thuận ý trao lại cho ông quyền nuôi dưỡng chú chó Charlie “Có lẽ Charlie hạnh phúc hơn khi sống ở đó, còn tôi thì an ổn ở ngoài này. Hef cũng rất nhớ Charlie, điều này tốt cho tất cả.”
…and the Man
Bất kể mọi thứ vây quanh cuộc đời Hugh Hefner có biến ông trở thành “lão già dơ” bậc nhất của thế kỷ, thì sự sành sỏi ngầm của tay chơi trải đời và tinh thần ngạo mạn đến tĩnh tại và lịch lãm của một quý ông vẫn bao phủ quanh Mr.Playboy một ma lực quyến rũ say sưa mê hoặc, sần nhám nhưng nhưng đê mê thách thức như hàm ria của tài tử Clark Gable vậy.
Sau cùng, nhân cách ưu việt nhất của trùm Thỏ Cột Nơ vẫn là sự trung thành tuyệt đối với tư tưởng hưởng thụ duy mỹ và, trên hết, cho một trùm truyền thông, đó là Sự Thật – toàn phần không che đậy.
Tất cả những điều đó quá đủ để biến một ông lão thành một huyền thoại sống.
Ông già Hef đáng mến và sự quyến rũ của loài thỏ
Những người đàn ông khác vẫn thường cảm thấy khó hiểu trước lòng ưu ái mến mộ của nữ giới dành cho “cha già khú đế” Hefner. Một số sử dụng liệu pháp AQ tinh thần khi thuần túy cho rằng đó không khác gì là những cuộc bán chác sòng phẳng. Hẳn nhiên, Hef có thể là một người tri kỷ hào sảng, một người cha sành điệu để chiều chuộng, chăm dưỡng và bảo bọc hợp tác xã gái tơ cơ nhỡ, chứ không hẳn họ lao vào Hef với những hứa hẹn về một bạn tình cao siêu tuyệt xảo.
Một cách thông tục nhất, một cô nàng tóc vàng hoe mẫu mực phải ngay lập tức liệt kê được những quyền lợi của một thỏ cưng nhà Playboy: giá chót 1000USD tiền mặt dằn túi do chính ngài Hef đưa cho vào thứ Sáu hàng tuần, dịch vụ làm tóc chuyên nghiệp nhất và hoàn toàn miễn phí, xe hơi đưa rước, được chi trả toàn phần cho các ca bơm ngực, làm răng và trang phục dạ hội cho các dịp tiệc tùng quan trọng.
Và nếu đó là tất cả, thì Hefner không là người đàn ông duy nhất.
“Vậy thì đó là cái gì, cái hấp lực gì từ lão già tốt số ấy?” – những người đàn ông còn lại trên đời và các phóng viên tự hỏi.
Không chỉ những nàng thỏ non tóc vàng của vương quốc Playboy, những ả nhan sắc công khai si tình sùng mộ lão quái già khoác áo choàng đỏ tía ấy, mà lão còn tài tình quyến rũ luôn mọi đại diện đầy lý trí của báo giới. Các cuộc tiếp cận đều bị chinh phục hoàn toàn, dẫu đó là lòng ngưỡng mộ quyền lực tổng lãnh Playboy hay khoái cảm vị tha trước sự nhã nhặn của một quí ông đáng mến phía sau lớp áo phong lưu.
So với những hình tượng “bô lão trác táng” nổi tiếng của thế giới, tính cả những nhân vật điện ảnh và văn học, người ta ngỡ ngàng khi không tìm thấy ở Hef khuôn mặt bóng dầu nhớp nháp của Bob Guccione, hay mùi tục tĩu mỉa mai của Larry Flynt. Bù lại, Hefner sở hữu vẻ lịch thiệp nguy hiểm của Robert De Niro, dã tâm và trí tuệ của Anthony Hopkins, và sự dịu dàng hàn lâm của Al Pacino. Nói chung là một loại tội phạm huyền thoại, điều mà người đàn ông nào cũng muốn tiếp cận và người đàn bà nào cũng mong sở hữu.
Biến thái tiên phong và khiêu dâm kiểu bảo thủ
Hefner tỉnh rụi và hòa nhã đến mức không một đại diện báo chí nào bị nhắc nhở về sự khiếm nhã và lố bịch khi cật vấn một vị cao niên về năng lực tình dục của ông ta.
Ông Dân Chơi không có gì để trách cứ, ở cương vị làm chủ cả hai yếu tố truyền thông và tình dục để hợp nhất lại dưới hình hài một tờ tạp chí hàng đầu trong công cuộc tôn vinh ca tụng khoái cảm dục tình. Và ắt nhiên, đó là hệ quả mà Hef vui lòng đón nhận sau gần một thế kỷ xây dựng đế chế quyền lực và hình ảnh cá nhân trên thứ bản năng cơ bản và tối thiết của con người: SEX!
Mặc nhiên với mọi sự đánh giá về vị trí và vai trò của ông trong lịch sử thượng lưu, Hugh Hefner vẫn là một thể thống nhất của hai khía cạnh mâu thuẫn cùng cực nhất: kẻ bệnh hoạn tiên phong, nghiện dục một cách thật thà và lây lan rộng khắp, nhưng lại cũng là người đàn ông kiên định đến khắc nghiệt với truyền thống của bản năng con đực, cùng lúc tự nhận mình là lão già đa tình ủy mị dòng sướt mướt, luôn ngô nghê đau đáu tìm kiếm ái tình chính thống toàn ở những nơi rõ ràng là sai lè lè. Đó vừa là vị tổng lãnh khôn ngoan đầy mưu mẹo của một huyền thoại về quyền năng lá cải, lại cũng chính là vị gia chủ thiệp liệp của lâu đài khoái lạc, tông đồ duy mỹ chánh tông của mọi lạc thú cuộc đời, từ gái non cho đến điện ảnh Hollywood dòng kinh điển.
Ông hoang đàng, trác táng và khinh mạn chà đạp lên thuyết bình đẳng giới một cách hào phóng và khả kính. Cùng lúc, bằng từng cuộc ái ân, hay mỗi chiếc đĩa than cổ lỗ, điếu cigar được thưởng thức đúng điệu, Hefner lại dường như là con chiên sùng đạo và tri ân mọi món quà của Thượng Đế một cách tận lực nhất.
Hefner là một người đàn ông hiếm hoi trở thành một mật mã khó giải đối với nhân loại, và rất có thể, với chính bản thân ông. Suốt hơn một thập niên, Hefner kiên trì theo đuổi việc thực hiện hồi ký và cuối cùng quyết định vứt bỏ tất cả và nhún vai một cách hài hước: “Tốt hơn hết câu chuyện đời tôi chỉ nên được kể ra khi tôi không còn ở quanh đây, bởi rồi sẽ có lắm người cáu với tôi lắm, nếu phải một lần nữa nghe rằng thật ra đến tận tuổi này tôi vẫn yêu đương phấn khởi đều đều.”
Người đàn ông phía sau chiếc mặt nạ tai dài
Khó có một nam nữ minh tinh nào dám mơ đến việc đứng đầu tần suất quan tâm của truyền thông đương đại khi đã sống và nổi tiếng mỏi mòn gần trọn thế kỷ. Ngày 19 tháng Chín, đài NBC tung đòn The Playboy Club – serie truyền hình xoay quanh thánh đường khoái lạc của giới thượng lưu Mỹ, đã tồn tại từ 29 tháng Hai 1960. Ngay lập tức, chương trình lọt hạng 3 với 5 triệu lượt người xem.
Các hội đoàn giáo dục và xã hội lên tiếng, các bậc phụ huynh đầy quan ngại gửi thư cự nự đến tận hai nhà tài trợ Unilever và Chrysler yêu cầu ngưng phát sóng, hay chí ít là chấm dứt việc “hân hạnh tài trợ cho chương trình này”, còn chi sở của NBC ở Utah là KSL-TV thì thẳng thừng từ chối phát sóng. Quý Ngài chỉ nhã nhặn đáp trả “Nói thật nhé, thư quý vị, chiến dịch Chống Tình Dục của quý vị mới chính là thứ phủ nhận quyền năng nữ giới một cách mạnh mẽ và vô tri nhất!” Mặc cho những bà cô mãn thì của các hiệp hội ngoài kia có thương xót và phẫn nộ khi phải chứng kiến các nàng Thỏ bị cư xử theo chế độ đa thê và xem như thú cưng ra sao, thì đằng sau những bức tường hoa mỹ của Playboy Mansion vẫn tồn tại một thực tế: họ xinh đẹp, vô ưu, mỡ màng và no đủ.
Nội dung serie phim truyền hình Playboy Club xoay quanh vị luật sư do Eddi Cibrian thủ diễn và vụ một nàng thỏ lỡ tay giết chết một tay trùm mafia, với Hefner úp mở cho biết rằng kịch bản dựa ít nhiều trên chuyện đời có thật của ông lại càng khiến lượng view tăng rần rật.
Với tinh thần thắng thế lia lịa như vậy, từ một tạp chí khiêu dâm thuần túy, Playboy cùng logo thỏ cột nơ trứ danh lại lần lượt bán license cho các hộp đêm thời thượng trải dài từ Chicago, Lodon, Cancun, Las Vegas, cho đến tận sòng bạc Đông phương Macao. Người ta còn bắt gặp license thương hiệu nóng bỏng này trên tất thảy những gì muốn khoác vào mình sắc màu “sành điệu kiểu Mỹ”, từ kem nhuộm da, hộp quẹt gas, thảm chùi chân, ghế bành, cho đến các loại nước giải khát đáng lẽ ra chỉ là thứ nước đường có gas hiền lành chân chất. Với chỉ một cặp tai dài dựng đứng và chiếc nơ diêm dúa, tất cả đều lập tức được đeo vào một hấp lực sặc mùi nồng nặc hormon giới tính và một vẻ nhâng nháo trai lơ không bao giờ lỗi mốt.
Người ta thậm chí còn cân nhắc đến việc đưa kịch bản Playboy Club lên sân khấu Broadway, điều này đồng nghĩa với việc ngần ấy thịt da sống sượng sẽ được trình bày trong thánh đường kịch thuật hẳn hòi, hơn hẳn Victoria’s Secret Show một tầm với.
Trùm Dân Chơi Hefner vẫn khiêm nhường trước những cuộc bành trướng của quyền lực Thỏ Thắt Nơ: “Tôi chỉ giữ mình lại ở vai trò cố vấn và tham gia một số công việc có liên quan trực tiếp đến tờ tạp chí mà thôi.”
Hàng tháng, ông vẫn là người đích thân quyết định shot ảnh bìa, chọn Bạn Tình Của Tháng, quyết định về hình ảnh, biên tập một số chuyên mục định kỳ và duyệt các trang layout.
Chỉ vậy mà thôi, xuyên qua hai thế kỷ.
Ông già Hef tội nghiệp!
Vương triều (hay ít nhất 73% của nó) trên vai và một hậu cung bận rộn trên đùi, Hefner cho rằng mình đang ở vào thời kỳ sung mãn nhất trong đời “Liệu tôi có thể tưởng tượng bản thân mình ở bất kì nơi đâu, bất kì hoàn cảnh nào trong đời tốt hơn như thế này? Hồi nhỏ, ngay cả trong những hoài bão điên khùng nhất, tôi cũng chưa hề tưởng tượng được điều gì ngọt lịm đến thế này.”
Mọi thứ có thật sự ngọt lịm hoàn hảo đến vậy không? Câu hỏi đó vang lên trong đầu bất cứ người đàn ông nào khi nhìn vào những tấm ảnh ông lão Hefner lặn ngụp giữa bể đường cong nóng hổi. Hay phải chăng ông già Hef tội nghiệp cũng chỉ đang gân cổ huýt sáo yêu đời và thầm kín nuốt ngược vào lòng vài cục đắng cay?
Trong tòa biệt đài 21,000 feet vuông, với những bãi cỏ xanh mướt được tỉa tót công phu, những món nội thất xa xỉ đế vương đúng gout một nhà quý tộc Ăng-lê bảo thủ, là căn phòng ngủ khổng lồ ốp gỗ, một lối cầu thang xoắn ốc dẫn lên một thư phòng bừa bộn. Để nhìn vào đời sâu thẳm đời sống riêng tư của một người đàn ông, không gì trung thực hơn nơi phòng ngủ. Trong trường hợp của Hef, đó là một chân dung Hugh Hefner không đánh bóng mỹ miều bởi những hào quang và truyền thuyết. Và đó là đây – tâm bão khoái lạc, vùng riêng tư của Lãnh Chúa Ái Tình, là một đống bừa bộn hàng trăm con gấu bông, lò sưởi chạm phù điêu đầu Frankenstein dị hợm và một khẩu súng đồ chơi ưa thích hồi nhỏ của ông được phục chế, đóng khung treo trang trọng trên tường. Tứ bề là những kỷ vật nửa quái gở, nửa buồn cười, những mảnh cuộc đời của huyền thoại Mr.Playboy, được vứt bừa bãi khắp nơi, ở giữa là một ông già gần trăm tuổi, nhỏ thó, và vẫn vẹn nguyên là cậu bé được nuông chiều giữa đống đồ chơi của mình, ngô nghê thốt lên một cách thành tâm nhất “Tôi có thật nhiều bạn tình để tìm thấy một bạn lòng đích thực!”
Những mảnh ghép vương vãi khắp nơi ấy nhắc về một tuổi thơ phi-sóng-gió, không có phụ huynh li dị hay lạm dụng tình dục trẻ em, đó còn là những bài báo, những tấm ảnh các đời Bạn Tình nhà Playboy qua bao thế hệ được ưu ái cất giữ như những mảnh lá cải có giá trị tinh thần, và dấu vết của cả những giai nhân hảo hớn đã từng là thượng khách của vương quốc khoái lạc Playboy.
Những năm 1970 trôi qua hoang tàn với những cuộc viếng thăm thường xuyên của Warren Beatty, Jack Nicholson và James Caan, những cuộc làm tình tập thể thường nhật, da thịt, hơi nóng và trạng thái mụ mị trở nên thường xuyên đến thừa thãi, nhưng cũng không bao giờ là đủ.
Mỗi tuần, ông chủ lâu đài Playboy vẫn nhận được thư từ khắp nơi trên thế giới, không phải những lá thư tình, mà những bộ hồ sơ thực thụ, kèm hình ảnh, của những cô gái trẻ muốn đăng ký làm nhân tình của Ông Playboy. Hugh Hefner không hoàn toàn u mê lờ đi việc “nghi ngờ” rằng điều mà họ nhắm đến có chút liên quan đến hào quang quyền lực và cuộc sống vương giả nhàn hạ tại lâu đài Playboy: “Đương nhiên, nhưng cuối cùng thì người ta ngoài kia thật sự bị quyến rũ bởi điều gì?”
Hefner đọc qua từng hồ sơ được gửi hàng tuần, xem xét các bức ảnh và nếu thích, ông sẽ hồi đáp và mời họ đến chơi vài hôm. Như một phiên bản thu nhỏ của America’s Next Top Model, những cô gái giành được lòng sủng ái của ngài Hef sẽ được mời chính thức dọn đến đây sống.
Ngụp lặn trong hàng tấn da thịt đàn bà, Hef nhìn quanh và nhận ra ông hầu như không còn một người bạn đồng niên nào. Như gã Từ Thức tốt số vẫn tắm suối với tiên chợt nhận ra đã gần một thế kỷ trôi qua “Sống lâu đến thế này, đương nhiên, người ta phải mất mát nhiều lắm. Hơn nửa thế kỷ qua, tôi là chứng nhân có thể duy nhất còn lại lần lượt chứng kiến sự ra đi của những người đàn ông kiệt xuất nhất, những bạn bè đồng niên thân thiết nhất trong đời…”
Đó đã là lời nói buồn hiếm hoi của Hef với báo chí. Người ta bảo ông tránh được cái chết và sự già lão một phần bởi việc ngoảnh mặt quay lưng với thứ thực tế đáng buồn và hiển nhiên ấy của quy luật sinh-lão-bệnh-tử. “Không, sự sống sau cái chết đối với tôi hiển nhiên là điều bất khả tri. Tôi chỉ biết một thực tế là bà thân mẫu của tôi thọ tới 101 tuổi, và tôi thì không muốn phí thời gian vào việc lo lắng cho chuyện còn xa mới đến”
Thậm chí Hef hoàn toàn không có một sự chuẩn bị nào về người thừa kế đế chế Thỏ Cột Nơ. Cả hai người con trai còn quá trẻ tuổi và không có tí kinh nghiệm đáng kể gì về truyền thông lẫn tình dục, trong khi người ái nữ Christie đã từng có thời thay cha cầm vương trượng lại không hề tỏ ra thú vị với lãnh vực này và đã rời ghế CEO từ 2009, sau 27 năm kế vị.
Dân chơi lão thành và suối nguồn tươi trẻ
Bên cạnh những vụ lật đổ uy tín ái ân của Hugh Hefner, một điều khác mà không ít người khao khát rằng tuổi tác sẽ mang lại cho ông chính là… cái chết. 86 tuổi, được số phần ưu ái và đương nhiên là một playboy vô độ hạng tiên phong, Hefner dường như là một ca nằm ngoài luật bù trừ của Tạo Hóa. Hefner phạm luật, và như thế, ông ta cần bất hạnh trong tâm hồn, kém cỏi về sinh lý hoặc hấp hối, hoặc cả ba, và như thế thì những quý ông còn lại trên đời mới có thể tin vào sự công bằng của Thượng Đế.
Do đó, phát triển nhanh như nấm, dịch bệnh và các tin đồn, trung bình cứ khoảng 1 đến 2 năm một lần, người ta lại xôn xao tin Hefner sắp, hoặc thậm chí đã chết.
Lần cuối cùng là vào tháng Bảy năm ngoái, bắt đầu vào một ngày thứ Hai với những lời tường thuật cụ thể về cái chết thê thảm của Phú Hộ Ái Tình Hugh Hefner. Cụ Hef tức tốc lật đật xuất hiện trên Twitter trấn an các followers: “Những tin đồn về cái chết của tôi, như Mark Twain từng nói trong trường hợp tương tự, là một sự cường điệu sống sượng. Tôi đang nằm cạnh Shera (bé cưng mới của nhà Playboy), chính thức còn cục cựa và sống nhăn.”
Mới đây, ngoài 28 quốc gia phủ sóng phát hành, Playboy lại chính thức xuất hiện phiên bản Nam Phi, Moldova và Mongollia. Internet và đại dịch đồng tính nam đã khiến chú thỏ đeo nơ của Hef trở thành lão già cổ lỗ đối với một thị phần Mỹ đáng kể, nhưng ngoài kia, vẫn còn đó những quý ông thẳng tưng và khỏe mạnh.
Và với lời tuyên bố đó, giữa thế giới đại đồng phi giới tính, Hugh Hefner trở thành một bô lão đáng kính của làng dân chơi thủ cựu bài tân, đại diện của trường phái tình dục cải lương chuyên chính.
Nhiều người cho rằng sự thủ cựu kiên trinh ấy chính là nguyên nhân khiến ngài Hef, dù thời gian qua đi, nhưng độ tuổi của những người tình của Hef không hề thay đổi. Chỉ là những cô gái được thay mới để vẫn luôn là những cô nàng tóc vàng hoe, ngớ ngẩn, với độ tuổi dưới đôi mươi và vòng ngực sánh bằng tuổi tác của tình quân. Việc này không là ngoại lệ, như thể những chiếc áo choàng màu đỏ tía hoặc pajamas bằng satin đen thẫm, những bộ phim thời hoàng kim đen trắng, nghe chanson và các dàn big band thời 1930 – thú vui mà ông tìm được sự đồng cảm vô điều kiện từ chú chó cưng hơn là từ những nàng tình nhân trẻ tuổi.
Ông lão chăn thỏ may mắn đã tìm ra bí kíp của suối nguồn tươi trẻ, nằm thâm sâu bên trong thói tật thường tình: “trong quan hệ nhận-cho với một cô gái trẻ, nhất là những nàng tóc vàng hoe vô tư lự, tôi học rất nhiều. Tôi tái khám phá thế giới một lần nữa qua góc nhìn ngô nghê nhẹ tênh của họ, thấy vui thú và thanh tân lại từ đầu. Những cô nhỏ dễ thương ấy, họ là những thiên thần lẳng lơ, vui nhộn, và đáng chiều chuộng là vì vậy!”
Kha khá thập niên đã đi qua và Hefner trở thành một cụ già lẫm liệt, và những cô bồ vẫn ở tuổi đôi mươi. Nhưng họ, những tình nhân mãi mãi tuổi 20 ấy, 55 năm về sau có thật sự vẫn không khác gì thế hệ thỏ tiền phong: “Họ vẫn vậy, tức là không ai như ai, luôn luôn là vậy. Các Bunny sẽ luôn là những dấu ấn riêng biệt, từng người một và tất cả. Ngày nay, họ to cao mạnh khỏe hơn, chăm tập thể thao, sành sỏi cách tự chăm sóc bản thân, nhu cầu về dung tích silicone có vẻ cũng cao hơn, nhưng nhìn chung thì đó chỉ là những thay đổi của trào lưu thời cuộc. Về bản ngã, Pamela Anderson hay Marilyn Monroe quả tình không có quá nhiều khác biệt. Rất có thể bởi “khẩu vị” của đàn ông Mỹ, và cả thế giới nói chung, cũng không phát triển hay đổi thay chi lắm.”
Chính trị, lối sống và thời trang thì vẫn xoay vần đấy, nhưng đi vào cái cốt lõi của thẩm mỹ hưởng thụ, khi chúng ta tự do và trung thực hoàn toàn, thì cũng vẫn vậy thôi, ngày nào người ta còn khoan khoái khi cắm ngập răng vào quả táo hườm hườm mọng nước: “Những quả táo, được yêu thích bởi tất cả những lí do xưa cũ, chúng không nhất thiết phải quá khác biệt, tiến bộ và giàu cá tính. Bạn nghĩ thế nào, khi cắn phải một quả táo đầy thái độ? Hay một quả táo thông minh?”
Đối thoại với Mr.Playboy
Sau hơn nửa thế kỷ yêu đương, bài học lớn lao nào mà ông rút ra được cho lỗi lầm thường mắc phải nhất của đàn ông là gì?
- Không lắng nghe. Chúng tôi luôn tưởng rằng những gì mình đem lại cho họ đã là đủ: sự chiều chuộng, bảo bọc chở che và bất cứ món thứ phù phiếm nào làm họ thích thú, và vào cuối ngày, họ vẫn không hạnh phúc. Người đàn ông sẽ không bao giờ có thể tự nhận rằng mình đủ quan tâm đến người đàn bà của mình, hoặc những người đàn bà của mình.
Ông có hối tiếc gì, sau một cuộc đời lẫy lừng tiếng tăm như vậy?
- Tôi nghĩ quyết định cưới vợ của tôi đã là sai lầm đầu tiên, nhưng nếu không như vậy, tôi đã chẳng có những đứa trẻ. Nhưng mà ân hận tiếc nuối gì, khi thực tế cuối cùng, tôi vẫn đang thụ hưởng một số phận mà bao người khác sẵn sàng làm tất cả để có được. Vậy nên tôi biết ơn phần số, đôi khi tất cả cái gọi là Vận Mệnh chỉ nằm trong một cú tung con xúc xắc. Bởi quá ý thức ân phúc của mình nên tôi không thật sự muốn hối tiếc hay làm lại điều gì. Tất cả đều đã diễn ra trong quá khứ để tôi có được điều tốt nhất – Hiện Tại!
Vậy nghĩ theo một cách khác, nếu không là sự nuối tiếc cho chính mình, thì lời khuyên của ông với các cậu nhà về hôn nhân sẽ là gì?
- Tôi sẽ bảo chúng rằng đấy là cách tốt nhất để có những đứa trẻ và nuôi dạy chúng khôn lớn. Tôi cũng sẽ bảo chúng rằng nếu gặp được một người xứng đáng để chia sẻ suốt phần đời còn lại, thì đám cưới là một ý hay. Nhưng ngày nay, người ta sống lâu hơn nên những lí tưởng lãng mạn sẽ cần có nhiều cơ sở hơn để tồn tại ngần ấy năm dài.
Than ôi, chẳng lẽ trong 100 năm nữa, khái niệm thủy chung sẽ tuyệt chủng?
- Không, nó sẽ chỉ trở thành một trong những lựa chọn. Mà hình như ngay bây giờ thời thế đã là như vậy rồi.
Đối với Mr.Playboy, liệu còn có món lạ nào, mánh khóe ái tình nào mà ông chưa biết tới?
- Tôi nghĩ vậy. Xưa nay tôi vốn cầu thị và tò mò mà.
Ông có nghĩ đến cái chết?
- Có chứ, nhưng thường là không quá lâu.
Ông nghĩ sao nếu người ta bảo rằng đúng ra ông nên hành xử đúng cương vị một cụ già cao tuổi đáng kính hơn là tiếp tục chơi búp-bê và chăn thỏ?
- Bộ mấy người đó mới nghe tên tôi hay sao? Từ đầu tôi đã quen với việc bước qua những hạn chế của chủng tộc, giới tính, đẳng tầng hay tuổi tác rồi. Mặc nhiên với con số đại diện cho số lượng năm tồn tại của bạn, nếu như bạn còn khỏe mạnh thì tại sao lại phải cân nhắc? Dục tình không phải là cách tụng ca và tận hưởng đặc ân cuộc sống đó sao? Hơn ai hết, những bậc cao niên nên hiểu rõ điều này.
Ông có những khoảng lặng trong lịch trình hội hè miên man của mình?
- Ngoài những gì người ta thường tưởng tượng và đồn đại, thì cuối cùng tô vẫn là một nhà báo và biên tập. Đương nhiên, tôi luôn bố trí cho mình những khoảng lặng của cuộc sống, khi tôi ở một mình để viết lách và làm việc.
Vào những đêm không phải ghi hình cho các TV series, hay những bữa dạ tiệc trên giường, tôi vẫn tuân thủ một lịch sinh hoạt khoa học và chặt chẽ, lặp lại mỗi đêm trong tuần. Tối thứ tư chơi bài với em trai và bạn bè, thứ Sáu thứ Bảy là đêm của các tác phẩm điện ảnh kinh điển, còn các tối Chủ Nhật để dành xem những phim mới.
Hơn nửa thế kỷ của ái tình miên man và hàng trăm bạn tình, người tình và cuộc tình, cuối cùng thì điều mà Mr.Playboy vẫn không thể hiểu được về đàn bà là gì?
- Điều mà quý bà quý cô nào cũng thường nói mà đàn ông vạn đời vẫn không bao giờ hiểu đúng được, đó là “khiếu hài hước”. Có vẻ điều đó quan trọng với nữ giới lắm, bạn thấy đấy, 90% đàn bà đặt đó vào những tiêu chuẩn đầu tiên để chọn người tình. Và một điều khác không được họ thường xuyên nói ra, ít ra là trong buổi hẹn đầu, nhưng cực kì cực kì quan trọng, đó là “sạch sẽ”. Đáng tiếc, dù việc giữ vệ sinh cá nhân và phân biệt được những màn pha trò tục tĩu hoặc nhạt thếch hoàn toàn không phải là khoa học phân tử, nhưng có vẻ bao thế hệ đàn ông vẫn đang tiếp tục đi từ sai đến sai bét. Cuối cùng, và trên hết, đó là sự quan tâm, thật sự Quan Tâm đến người đàn bà.
------------------------------------------------------
người tô son lên gót đàn bà
Trác Thúy Miêu
“Một đôi giày hoàn hảo, một chiếc váy khéo cắt và một tình quân si mê – đó là tất cả những gì cần có để làm nên một người đàn bà đẹp.” Đó là một câu nói chỉ có thể được nói ra từ một vĩ nhân đã chết: Coco Chanel, Yves Saint Laurent hay Christian Lacroix hay ngài Dior.
Nhưng đó là một tông đồ… còn sống, nắm trong tay một đế chế phú vượng chỉ trong 21 năm. Mới đây, người ta lại vừa mới khai trương một boutique chánh hãng tại Việt Nam, để những cú nện gót điệu nghệ đóng dấu son mang chữ ký Louboutin có thể cùng lúc ghi dấu giữa lòng phố lớn Manhattan trải dài đến tận hòn ngọc Viễn Đông, hòa trong cơn sùng bái mê muội chung trên toàn thế giới.
Từ Những Đôi Giày Bị Cấm Đến Cô Gái Điếm Ở Paris
Cậu bé Christian sinh ra trong một gia đình với cha là thợ mộc, các chị em gái thích đi những đôi giày đế gỗ lóc cóc, và người mẹ hiền lành không hề là tín đồ của giày cao gót.
Những đôi giày với chức năng không chỉ để bảo vệ bàn chân chỉ bắt đầu đến với Christian Louboutin khi cậu 13 tuổi, cùng đám con trai cùng tuổi kéo nhau đến tiệm nhảy Le Palace. Trong khi những cậu trai hiếu kì ngắm thân hình các vũ nữ trên sân khấu, Christian ngơ ngẩn đắm đuối ngắm những đôi chân của họ: “Cho đến tận bây giờ, những đôi giày của tôi vẫn thấp thoáng dáng vẻ của Le Palace ngày ấy, cái thời của disco, với kim tuyến, và những mảnh kim loại”
“Việc lớn lên trong một gia đình mẫu hệ với mẹ và 4 chị em gái, tôi học về phụ nữ từ rất sớm: cách họ tự nhìn nhận bản thân, cách họ đưa tay chỉnh chiếc gương soi, v.v… Và tôi thấy bầu không khí, mọi thứ xung quanh họ – những người đàn bà, thật thân thuộc với tôi. Chẳng lạ gì, bởi họ sinh ra tôi và tạo dựng thẩm mỹ tiềm thức của tôi.
Như sáng nay chẳng hạn, chúng tôi kiểm định thiết kế một đôi biker’s boots. Tôi băn khoăn tự hỏi: Cái thể loại đàn bà nào lại muốn quấn quanh cổ chân mình hai miếng quai da dày cui như vậy chứ? Thế này nhé, nếu bạn có đôi chân mảnh dẻ, bạn sẽ muốn khoe nó ra. Còn nếu bạn có đôi cổ chân to như cổ lực sĩ, bạn lại càng không muốn nhân đôi thảm họa đó. Cả ê-kíp của tôi trầm trồ tiếc rẻ: ‘Nhưng đây quả là một thiết kế đẹp quá chừng!’ Rõ rồi, thiết kế đôi boots ấy quả là có đẹp, nhưng người đàn bà mới là thứ cần đẹp hơn đôi giày của cô ấy. Tôi là vậy đó, cái đẹp quyết định cho thời trang. Đôi giày không thể được coi là hoàn thiện chừng nào nó còn chưa được xỏ vào chân. Nếu khi đó, trông nó không còn đẹp đẽ như trên thiết kế, thì đó là một đôi giày tồi và một thiết kế thất bại.
Nhưng một trong những đôi giày hằn sâu vào ký ức Christian Louboutin lại được nhìn thấy ở một bảo tàng viện, nhưng không phải dưới dạng một mẫu vật được trưng bày, mà ở bảng nội quy treo ở cửa ra vào: “Cấm đi giày cao gót”. Cạnh đó người ta cẩn thận vẽ một đôi giày minh họa.
Bản vẽ và dòng chữ ám ảnh Louboutin, và ông bắt đầu vẽ những đôi giày. Ông vẽ đi vẽ lại đôi giày nhìn thấy trên bảng cấm nọ, rồi một ngày ông giật mình nhìn thấy chính đôi giày đó, hiện hữu hẳn hòi, dưới chân một người đàn bà đi dạo trong công viên ở Paris: “Tôi lẵng nhẵng bám theo chỉ để chăm chú nhìn vào đôi giày. Thật kì diệu: chúng đang ‘sống’, có thật, và chuyển động! Tôi như bị thôi miên và đi miết theo đôi giày (có người phụ nữ trên đó) cho đến khi bị người ta tống cổ ra khỏi công viên. Lúc đó tôi mới hay người đàn bà nọ là một cô gái điếm.”
Cuộc gặp gỡ ngoạn mục với đôi giày ấy đã ấn định rằng thời trang thế giới chuẩn bị đón chờ sự xuất hiện của một Christian Louboutin.
Không được trải qua việc đào luyện bài bản về mỹ thuật và thiết kế, thay vì như mọi nhà thiết kế cùng thời là chọn phụ việc cho một tiệm thời trang đương thịnh nào đó, Christian Louboutin, khi này 17 tuổi, xin được chân phụ việc trong phòng phục trang của tiệm nhảy Folies Bergère, giữa những nàng vũ công với những kiểu mũ cầu kì, những chiếc váy nóng bỏng, những lớp trang điểm công phu và những chuyển động yểu điệu được kiến tạo và nâng đỡ trên những đôi giày.
Christian Louboutin tiếp tục xin việc trợ lý với Charles Jourdan, Chanel và Yves Saint Laurent, và nhanh chóng nghỉ việc: “Tôi là một trợ lí tồi. Làm trợ lí là phải trợ lí, còn tôi chỉ muốn làm việc của mình theo cách riêng.” Và cửa hiệu nhỏ đầu tiên được mở ra ở một ngõ phố cổ của Paris, đến nay vẫn là sở hội chánh của nhà Louboutin, với niềm kiêu hãnh non nớt nhưng hùng mạnh “since 1991”.
Mật mã Louboutin: Pantone 18 Chinese Red
“Những bức vẽ đầu tay của tôi hồi đó luôn đầy màu sắc sặc sỡ, nhưng khi đưa đi thực hiện mẫu vật đầu tiên, tôi nhận chúng về, bên dưới là phần đế đen xì dày cộm. Ơn Trời, cô trợ lí của tôi lúc đó đang ngồi sơn móng tay. Tôi vơ lấy chai sơn, cô ta hét lên tru tréo: ‘cẩn thận, cái đó mắc lắm đó!’ Tôi phải hứa sẽ mua đền lọ khác, rồi sơn bừa màu đỏ thắm ấy lên đôi đế giày. Như một cú shock điện vậy, đôi giày như được hô hấp nhân tạo, chúng hồi sinh! Tôi đã nghĩ tiếp ra trò đổi màu đế theo từng mùa, nhưng cuối cùng, đỏ không chỉ là một màu. Nó là một thái độ!”
Theo nhiều cách diễn giải khác, màu đỏ là biểu tượng của máu, tình yêu, năng lượng cảm xúc. Nhưng với Louboutin, Đỏ là một thứ đèn xanh tâm lí, một sự mời gọi đầy cảnh báo. Nhưng sắc độ 18 trên bảng mã Pantone được mệnh danh là Đỏ Trung Hoa (Chinese Red), dưới tay Louboutin cũng là dấu hiệu của những bước chân đến và đi, hoàn toàn chủ động một cách quyến rũ. Như lời giã từ ngạo nghễ của các cuộc chia tay màu nữ quyền, trên nền ca khúc của Jennifer Lopez “Throwing on my Louboutins, watch these red bottoms, and the back of my jeans. Watch me go, bye baby” (Xỏ chân vô đôi Louboutin, dòm cặp đế đỏ nè, nhìn vào phía sau chiếc quần jeans. Coi em đi nè, chào cưng!)
Với ma lực và mãi lực của những cặp đế đỏ kì diệu, hẳn nhiên nhà Louboutin nhảy đùng đùng vác chiếu đâm đơn đòi kiện cho ra nhẽ nhà Yves Saint Laurent, vốn bấy lâu là hảo hữu, vì việc táy máy đưa cặp đế đỏ trứ danh nọ vào bộ sựu tập mới tung ra gần đây. Nhà Yves Saint Laurent cứng cựa vác bài bản ra cãi lại rằng đế đỏ có phải đâu riêng nhà nào, rằng thì là ai dùng chẳng thế, bởi thật sự ra chúng đã xuất hiện từ thời Christian Louboutin còn ở nơi xa lắm, cụ thể thời Louis XIV đâu đó những năm 1600, với chứng cớ rành rành là…bộ phục trang của nhân vật Dorothy trong phim The Wizard of Oz (sản xuất năm 1939).
Cả giới thời trang cự nự la ó trước viễn cảnh Christian Louboutin sẽ độc chiếm mã 18 bảng Pantone và thả sức phạt vạ bất cứ nhà nào sờ phải sắc đỏ này. Ít ra thì Picasso đã chẳng bao giờ đâm đơn kiện Monet tội xài màu chàm trứ danh “của” ông cho mấy bức tranh vẽ hoa súng, và thế giới vẫn được chiêm ngưỡng cả hai bức tuyệt phẩm hội họa.
Vụ kiện tụng đến nay chưa ngã ngũ, nhưng theo một cách nào đó, nhà Yves Saint Laurent cũng không tránh mối quan ngại rằng các sản phẩm của họ sẽ bị nhầm tưởng là mang nhãn nhà Louboutin. Trong giới thời trang đã có một sắc đỏ Valentino, phần số của “màu đỏ Trung Hoa” mã số 18 cũng mặc nhiên đã được định đoạt.
Phán xét cuối cùng không thuộc về tòa.
Điệu Tap Dance Ngộ Nghĩnh Của “Vua Đế Đỏ”
Christian Louboutin biến chuyện thường tình guốc dép thành tín ngưỡng bái vật, thành những siêu vật thể vượt chót vót trên tầm tính chức năng, rồi ông ghi luôn tên tuổi Lady Gaga cho đến Oprah Winfrey vào danh sách con nhang đệ tử, bản thân Christian Louboutin lại là một ông lão thủ cựu trong lối sống của riêng mình. Đồng nữ Madonna hay đả nữ Angelina Jolie có khiến cả thế giới trầm trồ khi họ trưng khoe những đôi Louboutin trước rừng flash cũng không khiến ông rung động bằng một phần khi biết rằng vợ của ca sĩ Johnny Halliday cũng ưng chọn hãng giày Louboutin. Ông tấm tắc khoe mãi “Bạn biết không, ở Pháp, Halliday nổi tiếng lắm đó!”
Ông dửng dưng cả với việc thứ tự và tần số xuất hiện của giày Louboutin so với Blahnik và Jimmy Choo trong siêu phẩm truyền hình Sex And The City. Khi được hỏi, ông chỉ lơ mơ trả lời “Tôi đồng ý tham gia vì người ta bảo điều này tốt cho việc kinh thương lắm. Tôi đâu có biết, bởi có khi nào tôi xem TV đâu!”
Điều này giải thích được sự dửng dưng của Christian cả với talkshow khét tiếng của Oprah Winfrey. Vốn là một tín đồ hạng nặng của Louboutin, Oprah xem đây là dịp để thể hiện lòng ngưỡng mộ đến bậc thầy đã làm nên phần rất quan trọng trong hình ảnh trang phục của Madame O’. Đối với mọi công dân Hoa Kỳ, việc làm khách mời của Oprah’s Show có giá trị tương đương với việc được phong tước hiệp sĩ nhân dân vậy, thế mà ông già hủ lậu người Pháp lại chối từ quầy quậy chỉ sau một lần quay vì “họ tới tận Paris bắt tôi ra quay ngoài trời. Lạnh quá, thế là tôi bị bệnh. Nên tới khi họ nghĩ tiếp ra trò tôi đến Chicago, tôi phát cáu: Bộ mấy người khùng hả? Tôi bệnh rồi đây này! Đừng hòng!”
Cách đây vài năm, khi được một nhà tên tuổi trong làng thời trang (ông từ chối tiết lộ danh tánh) mời về trong vai trò tổng lãnh sáng tạo dòng thời trang cao cấp, Louboutin gọi đó là một sự xúc phạm: “Bạn biết không, giày, chúng có nhạc, chúng có nhịp phách, thái độ, âm thanh, chuyển động,… như khiêu vũ vậy. Quần áo thì là chuyện khác. Nếu không làm giày, thì tôi còn bao nhiêu đam mê khác, làm vườn nè, tập nhảy, làm đạo diễn,… Còn thiết kế quần áo ấy hả?…” Ông làm một vẻ mặt đủ để trả lời câu hỏi tu từ đầy thái độ.
Sự khó chịu rất Parisian của Louboutin thật sự trở nên quá quắt khi chấp thuận việc cho ra đời búp bê Louboutin Barbie, với một điều kiện: nhà sản xuất phải bóp nhỏ lại đôi cổ chân thô kệch to tướng của Barbie.
Người ta rùng mình về sự táo tợn này đối với cô búp bê được coi là ốm nhom, dài ngoằng và hợp thời trang nhất trong lịch sử đồ chơi. “Làm ơn bình tĩnh đi, cứ như là cô ấy sẽ bị đau không bằng!”
Nhưng sự khả ái đầy tính dân chủ của Christian Louboutin lại được thể hiện một cách bất ngờ nhất. Trong khi nâng niu những cặp gót sen Vệ nữ, tình yêu của Louboutin dành cho Sarah Jessica Parker cũng trân trọng ngang ngửa với sự chiều chuộng chu đáo ông dành cho bất cứ người đàn bà nào khác.
Trong một lần xuất hiện tại đại lộ Saks Fifth ở New York, ông sẵn lòng hủy cả chuyến bay về Paris để bỏ hai tiếng đồng hồ hào phóng ký tặng lên những đôi giày cho khách hàng. Trong số những tín đồ chờ xin thủ bút của designer huyền thoại, có một người đàn bà thẹn thùa xưng với ông rằng bà “chỉ là một người bình thường làm nghề nội trợ”. Christian Louboutin đã trân trọng ghi tặng lên giày cho cô này dòng chữ “Tặng bà nội trợ quyến rũ thân mến của tôi”. Một cô dâu trẻ tìm đến xin chữ ký, Louboutin lém lỉnh và chu đáo chụp lấy cây viết màu xanh và ký tặng “Cái này là cho một món màu xanh” (theo tục lệ, mỗi cô dâu về nhà chồng phải có trong mình một món đồ cũ, một món đồ mới, một món đồ mượn và một món màu xanh)
Christian Louboutin, với niềm đam mê hạng nhì của mình là du lịch và làm vườn, chỉ cảm thấy an toàn và thoải mái nhất giữa cây kiểng các kiểu, mấy môn thể thao nhè nhẹ và một chút khiêu vũ, đặc biệt là thiết hài, đương nhiên, là với đôi giày nhảy hiệu Louboutin. Khi ông xuất hiện trong clip khiêu vũ của Fashionair với đôi giày nhảy dát đá óng ánh và lấp lóa cặp đế đỏ sau mỗi bước tap dance, khuôn mặt rũ bỏ vẻ lãnh đạm kiêu kỳ rất “dân thời trang Paris”, chỉ còn lại một người đàn ông trung niên hạnh phúc như đứa trẻ, nhẹ tênh và đáng yêu đến mủi lòng. Khó lòng mà tưởng tượng được rằng gã đàn ông với điệu nhảy cổ lỗ sĩ ấy lại chính là bộ óc kì tài của trùm thiết kế vũ khí dụ tình. “Tôi chưa bao giờ ôm mộng trở thành một phần của thế giới thời trang cả, tôi chỉ muốn thiết kế giày. Thậm chí đến khi lớn lên tôi mới biết Vogue là tên một tờ tạp chí”
Đế Bằng, Guốc Gỗ Và Những Cơn Khó Ở Của Christian
Trong nghệ thuật rù quến, giày là một khí cụ tối thượng không thể bỏ qua, Christian Louboutin, hơn ai hết, hiểu rõ điều này. Và đó là nguyên nhân vì sao phụ nữ rên lên trước những đôi giày đế đỏ của ông – bản năng chiến binh khiến họ có thể đánh giá được ngay lập tức món vũ khí đắc dụng. Và để sử dụng giày như những món vũ khí một cách điệu nghệ, người ta phải học. Một cơn rùng mình khủng khiếp sẽ giáng vào nhà Louboutin nếu một quý cô tìm đến với ông và than vãn sao giày quá cao, sao đường viền quá mảnh mai chênh vênh. Với Christian Louboutin, không đôi giày nào là quá cao.
Để giải thích một nỗi ám ảnh trứ danh về những cặp gót cao và lòng miệt thị với đế bằng, Louboutin cho rằng “Bản thân hình dáng và độ cao khác biệt của chiếc gót giày đã đại diện rất nhiều cho nữ chủ nhân của nó. Chỉ với sự nâng cao của gót chân, một động tác đơn giản đến vạy, đã là cả một cuộc tổng quy hoạch han thể, như một cuộc đại phẫu thẩm mỹ vậy. Những lòng bàn chân duỗi thẳng đến uốn cong, những múi cơ đùi bị giật căng, vòng mông vươn cao và gom chặt, cứ thế, những phần cơ thể được tuần tự đặt vào trạng thái của một con mèo vươn vai, dài muốt đến từng ngón tay, và tuyệt đẹp. Những cặp gót, chúng cũng có âm nhạc, những âm thanh rất riêng nói lên rất nhiều về thái độ của nữ chủ nhân, gợi ý về tất cả những chuyển động thân hình ly kì phía trên nó. Hãy nhắm mắt và lắng nghe những tiếng gót giày, chúng biết nói, rất nhịp nhàng và trung thực. Tôi có thể chỉ lắng nghe mà biết đó là pump, boots, gót cao hay gót kitten, gót cuban đặc hay slimheel mảnh dẻ. Tôi “nghe” được cả cái cách mà phần mũi giày ôm lấy các ngón chân ra sao… Cũng như âm nhạc, cũng có những thứ chói tai. Tôi đặc biệt ghét những đôi guốc. Tôi mà làm vua là tôi ban hành lệnh cấm ngay lập tức. Một thứ tạp âm lóc cóc, và roèn roẹt kéo lê khô khốc, lỏng lẻo buông bỏ khỏi những lòng bàn chân. Không dễ thương chút nào, như thể người đàn bà sắp bị tuột khỏi những cặp thiết bị đi bộ bằng gỗ ấy.”
Sexy và đế bệt? Không thành vấn đề. Bởi chiều cao của gót không định đoạt độ “hot” của quý bà! Nhưng đừng mong tìm được điều đó ở những đôi sneaker thân thiện. “Jane Birkin đã từng làm điều đó trở thành hiện thực hồi thập niên 1970, nhưng huyền sử không lặp lại với những đôi sneakers super-techno hiện đại. Những thứ đó nói lên rất nhiều thứ về cá tính, thái độ, tuổi trẻ, sự sung mãn, tính năng vận động,… nhưng tuyệt nhiên không có bất cứ nét nào sexy ở những thiết kế như vậy cả.”
Một trong những điều hành hạ Christian Louboutin còn là trường phái Total Look, với những diva vận nguyên con cùng thương hiệu “Cả hình hài họ như đang đồng loạt biểu tình, dương cao biểu ngữ hàng hiệu và thét lớn tên nhãn hàng. Khủng khiếp. Kinh tởm. Không có gì phản nhân văn hơn thế, đi ngược lại văn minh cá thể như thế! Một tội ác của sự ấu trĩ!”
“Đàn bà Pháp, đúng hơn là đàn bà Paris, là những quý bà kiểu cách và tao nhã. Điều này một phần nhờ vào lịch sử cả trăm năm trải dài những tiệm may, những nhà thời trang, những tên tuổi couturiers lẫy lừng điệu nghệ. Quý bà quý cô ở đây luôn có sự lựa chọn, họ không bao giờ cam chịu làm nạn nhân trung thành của một tiệm duy nhất giữa hàng vạn chào mời của những cung lộ mua sắm hào hoa nhất hành tinh. Nếu giữa Paris mà tôi va phải một bà vận nguyên cây Chanel thì đừng mong thuyết phục tôi rằng bà ta là một diva Paris ái quốc, bởi đó chắc chắn phải là một khách du lịch đến từ phương xa. Rất xa.”
Vậy liệu đối với Louboutin, có đôi giày nào là quá cao?
“Chắc là phải có chứ! Nhưng tôi không đi giày cao gót, tại sao lại phải quan tâm? Tôi ngắm, và kiến tạo nên thứ nhiều người thích ngắm, lựa chọn là của phụ nữ, còn ý kiến của bạn là gì?”
Cơn Cực Khoái Của Lòng Bàn Chân
Đã từng một thời, nước hoa và mỹ phẩm là vũ khí tài lực tối ưu của thế giới thời trang, giữ kiên cố thịnh vượng cho bao đế chế haute couture và các thiết kế phi-thân thiện. Rồi sau đó là thời của jeans và thời trang dân chủ để duy trì sức sống của thượng tầng thời trang. Còn bây giờ là thời của giày và túi xách – những quả bom tấn có thể định đoạt mãi lực sống còn cho mọi quyền lực thời trang xa xỉ. Christian Louboutin, song hành cùng Manolo Blahnik và Tamara Mellon của Jimmy Choo trở thành bộ tam đa hùng mạnh trấn giữ thị trường giày siêu thượng hạng, nơi những đôi giày có giá trị và ý nghĩa ngang tầm viên ngọc to nhất trên chiếc vương miện thẩm mỹ và đẳng cấp phải được đội kiêu hãnh trên đỉnh những cái đầu vương giả. Đứng giữa thái cực vừa cầu kì đến cực đoan, vừa đơn giản đến thô sơ của Blahnik, và vẻ diêm dúa đỏm dáng hoàng kim của Jimmy Choo, những đôi giày của Louboutin chỉ có một thông điệp duy nhất, thật thà và nặng ký: Sex!
Từ phong cách disco, những đường lượn thót tim nơi ức hỏm của lòng bàn chân nhạy cảm, cho đến sắc đỏ dập dồn ẩn hiện như một thứ mạch máu căng phồng lập lòe đâu đó sau mỗi bước sải diva, khiến người ta vẫn phải chiêm ngưỡng nàng từ phía sau với những uốn lượn vòng vèo muôn phần sinh động phía trên. Tất cả những thứ đó, không cần là một triết gia để thấy một chữ SEX đỏ chót được viết hoa.
Người ta có thể dễ dàng nhận ra một quý bà trong đôi giày Louboutin: nàng có dáng bộ yêu kiều chuẩn mực, và nàng hầu như không di chuyển quá nhiều.
Trên một đôi Louboutin, dù là dát cườm, quấn nơ hay đơn sơ một lượt da hảo hạng, người ta không có nhiều lựa chọn nào khác ngoài việc duỗi chân thẳng căng, ép sát các ngón chân đến ngặt nghèo với những bước chân được thực hiện theo điệu bộ một con linh dương bị thấp khớp và tuyệt đẹp. Một hiệu ứng phụ nữa là rất có thể, xác suất bị chuốc say và gạ tình rất rất cao.
Thứ gợi cảm nhất ở một đôi giày cao gót tuyệt nhiên không phải là chức năng tăng chiều cao. Do đó mà một diva hiểu biết phải biết rùng mình khó ở trước những đôi giày đế xuồng (một thứ giày bệt có đế thật dày). Như phần gáy, hay khoảng da thịt sau tai của người đàn bà, phần nhạy cảm và gợi tình nhất của giày cao gót nằm ở phần lõm của lòng bàn chân: “Nếu để ý, bạn sẽ thấy đây cũng là phần nhạy cảm trên cơ thể, và nó cũng co duỗi khi người đàn bà “lên đỉnh”. Một đôi giày cao gót đơn giản là một thứ khuôn đúc, khiến khi xỏ vào, đôi bàn chân phụ nữ lập tức bị uốn vào tư thế tự nhiên của nó trong cơn cực khoái.”
Thậm chí có rất nhiều người tin rằng lời giải thích trên của Christian Louboutin là một chứng cứ khoa học.
Bằng chứng chính là những vụ cầu hôn diễn ra liên tiếp tại cửa tiệm của ông, sánh ngang với tiệm nữ trang Tiffany hay nhà Cartier.
Những Cơn Đau Thời Trung Cổ
“Giày đối với đàn ông chỉ mang hai ý nghĩa: phong cách lịch thiệp và mức độ giàu có. Còn đối với đàn bà, chúng là đại diện cho mọi khía cạnh đa diện, mâu thuẫn, kì cục và vi diệu bên trong tâm hồn họ. Tôi tin rằng họ sẵn lòng vui vẻ nhảy chân sáo dù đớn đau tím tái vì đôi giày dưới chân”
Và đó là những gì ông có thể say sưa diễn giải từ ngày này sang ngày khác, về cấu trúc cơ bản của một chiếc giày, về các hướng của lực trọng tâm, và coi khinh tất tật những tiếng rên rỉ của fashionista tuẫn tiết quằn quại âm thầm trên những đôi giày kiêu kỳ kén chủ. “Ừ thì phụ nữ chỉ có thể đẹp khi họ thoải mái và không đau. Nhưng thật lòng mà nói, tôi không cũng không thấy thoải mái chút nào khi người ta đến cửa tiệm của tôi và trầm trồ kiểu ‘Ôi, mấy đôi giày này trông tiện lợi quá!’”
Dẫu muốn phủ nhận thực tế của sự dã man mang sắc màu trung cổ này, thì người ta cũng khó lòng phủ nhận hơn 600,000 đôi dụng cụ tra tấn tự nguyện được bán ra trong chỉ 20 năm tồn tại của thương hiệu Christian Louboutin.
Cánh mày râu hoang mang tự hỏi rằng tìm đâu ra trong thế kỷ đàn bà trí thức không còn ưa thú trầm mình trong khổ hạnh, khi mà tục bó chân Trung Hoa và những chiếc đai tiết hạnh đã thành mẫu vật bảo tàng. Phụ nữ đi bar và từ chối các cơn đau tim si tình thống khổ. Và danh sách các khách hàng thân thuộc của nhà Louboutin tạo nên một thực tế đáng ngờ về quan niệm phụ nữ tân thời năng động, độc lập tự do.
Tuẫn tiết nhất là nữ văn sĩ “viện trưởng viện sến Hoa Kỳ” Danielle Steel. Bà ca tụng ái tình lãng mạn và đã tự hành quyết đôi chân mình trong thú đau thương với 6,000 đôi giày Louboutin, lập kỷ lục vô song trong danh sách thượng khách đặc biệt nhà Louboutin. Còn Blake Lively – cô đào nổi tiếng qua series phim truyền hình Hoa kỳ tân nữ Gossip Girl, sẵn sàng tậu một lèo 40 đôi Louboutin chỉ trong một chuyến săn.
Bà Vic nhà Beckham đang mang bầu cũng vong thân vận vào chân đôi Louboutins đến dự đám cưới hoàng gia vào tháng tư năm ngoái, và dài dài trong suốt thời kỳ mang bầu bé Harper, ngay cả với những dấu hiệu cảnh báo của chứng lệch đĩa đệm.
Và đó chỉ là một vài cái tên điển hình trong danh sách hơn 5,000 khách hàng thân thiết của nhà Louboutin, trong đó mỗi người sở hữu ít nhất 500 đôi giày đế đỏ.
Vậy đấy, như Germaine Greer từng viết “trong khi các nhà hoạt động nữ quyền vẫn vật lộn để giải phóng phụ nữ, thì giày cao gót đã kịp chinh phục nhân loại từ bao giờ.”
Louboutin hỏi lại “Con người tài ba đó là ai vậy?”
Một nữ học giả với những đầu sách vĩ đại thập niên 1970
“Vậy đó, thì ra bà ấy là một nhà cách mạng nữ quyền thập niên 70’s. Tôi thấy Madonna cũng là một phụ nữ khá độc lập đó chớ. Cổ là khách hàng ruột của tiệm tôi đó.”
------------------------------------
Sự Trở Về Của Thời Trang Thập Niên 20 – Return To The Age Of Innocence
Thật ra, trong khi các fashionista Việt Nam còn chìm khá sâu vào giấc mơ hoa của phong trào vintage và rục rịch trù hoạch cho mùa tái thịnh của những chiếc váy mùa hè chít eo của thập niên 50, thì bên ngoài kia, vòng quay tráo trở của trào lưu sẽ dễ dàng chơi khăm các tín đồ vỡ lòng một vố thật đau. Hãy tỉnh táo chỉnh lại tầm ngắm, điều bạn muốn cho 2012 rất có thể được lấy cảm hứng từ một thời kỳ xa hơn từ đầu thế kỷ trước, chỉ riêng điều này cũng đủ giảm đáng kể nguy cơ bị “tủ đè” ê chệ với collection những món săn lệch mùa.
Hồ sơ hội chứng Flapper 20’s và báo động tái nhiễm
Với tất cả những dấu hiệu không chỉ từ mùa thời trang mới nhất, dự cảm của một shopper lão luyện sẽ nghe được từ mọi dấu hiệu của thời cuộc một trận tái thịnh huy hoàng của trào lưu flapper thời 1920, cái thời của cuốn tiểu thuyết Age Of Innocence (Thời Thơ Ngây) trứ danh, và những quý bà tập tành hút thuốc. Trong đó có cả lác đác sự trở về của vòng eo nhỏ xíu với chân váy lửng to phồng thập niên 1950, và một dòng khác với các chất liệu tổng hợp vui nhộn màu sắc disco điện tử 1980.
Nhưng qua mùa Spring-Summer vừa qua, hãy chọn đặt tầm ngắm báo bão vào lựa chọn tưởng như mong manh nhất: Flapper 1920!
Điều này đồng nghĩa với những cơn sốt muôn hình vạn trạng dựa trên tinh thần của thời kỳ đầu thế kỷ 20 này: những tà váy dài lững lờ trên cổ chân cho mùa hè-thu, đặc biệt tại các thánh địa nhiệt đới, các chất liệu xuyên thấu, thủ pháp layer, đường eo phôi pha rơi xuống quá xương hông để thành drop waist, những đường cong xôi thịt bị đánh mờ, những đường xương vai xanh xao và những cặp cổ chân mảnh khảnh sẽ lên ngôi nhan sắc. Dòng vintage tung hô vẻ đẹp gypsy, trong khi ready-to-wear cũng sẽ vận dụng cả kho tàng trang trí haute couture truyền thống với đăng-ten, chiffon, panther print, họa tiết dân dã, và thậm chí các tua rua kết thành mảng.
Người ta có thể dự báo cả một trận đại hồng thủy vào 2012, mặc nhiên, thời trang sẽ là tín ngưỡng chữa lành nỗi hoang mang tận thế với điệu nhảy Charleston quá vãng, trong xập xình nếp váy flapper.
Chỉ có điều, sẽ không phải là những món cổ trang được phục chế, tinh thần flapper hoàn toàn có thể được diễn giải qua ngôn ngữ thẩm mỹ thời trang đương đại và những chất liệu tân kỳ, nhưng đi cùng nó là những cơn sốt trở thành bất hủ, những thứ không thể bị tuyệt diệt. Như pleat và safari.
Dự cảm của Patricia Field và lời sấm xếp pleat của Halston Herritage
Cuộc tái chấn hưng đã được dự báo từ gần 2 năm trước, trong lời sấm truyền kinh điển của nữ đại tông đồ Patricia Field – tổng lãnh phục trang cho siêu phẩm giải trí Sex And The City The Movie – cẩm nang thiêng liêng của mọi fashionista trên thế giới.
Vào đúng thời điểm tung ra bộ phim, Patricia – như mọi vĩ nhân khác của cõi loài người, bị đồng loại ném đá tả tơi bởi một selection phục trang lệch mùa với mọi sắc thái đồng bóng, cổ quái và bị làm quá không nương tay.
Người ta còn cho rằng có một vụ ăn cánh với Halston Herritage khi các thiết kế của nhà này đồng loạt xuất hiện rực rỡ trong hàng loạt những scene đắt nhất của bộ phim. Từ chiếc váy tơ đa sắc của Samantha, phong cách flapper không nhầm lẫn của Miranda với bộ váy antique emerald trong cảnh ăn trưa trên sa mạc. Nhưng dấu son của lời sấm SATC2 là bộ váy 2 tầng dài lê thê thõng thượt, xóa nhòa vòng eo mỏng dính của Sarah Jessica Parker trong sóng sánh một dòng thác xếp pleat đổ dài từ cằm đến đất, rừng rực một sắc cam tía của sa mạc hoàng hôn.
Các tín đồ ngô nghê thảng thốt hoang mang với sắc màu gypsy chói chang của thập niên 70’s, trong khi các chuyên gia thắt cả tim trước một dự báo hiển nhiên “Flapper sẽ quay về! Thời hồn nhiên của nhân loại ngô nghê 1920 sẽ tái thịnh, và hãy chuẩn bị ngai vàng cho PLEAT!”
Hoàn toàn không hề là một điều xa lạ, những nếp xếp (pleat) đã là một thủ pháp xử lí chất liệu có mặt từ rất lâu trong lịch sử thời trang thế giới. Từ mẫu vật cuối cùng được tìm thấy trong cổ mộ người Viking ở Birka trước Công Nguyên, cho đến thiết kế huyền thoại “Delphos” của Mariano Fortuny năm 1920.
Không thể không xét đến căn nguyên sơ khởi của pleat, một trò khéo tay của các phó may khi muốn tăng thêm cho sớ vải độ đàn hồi đủ để nhấn nhá ý nhị những đường nét chuyển động của cơ thể. Đặc biệt vào thời hoàng kim 1920, với cơn sốt của điệu nhảy swing và váy flapper đã tôn vinh những nếp xếp tung bay quanh những cặp đùi vũ nữ trứ danh.
Vài thập niên sau, Marilyn Monroe tung ra shot ảnh lịch sử với tà váy trắng bay không chút thẹn thùng, uốn lượn kì diệu nhờ những nếp pleat như bông hoa lan lộn ngược sỗ sàng bung nở, phô phang cặp đùi mỹ nữ tóc vàng.
Thập niên 60 với những chiếc miniskirt đầu tiên và phong cách váy tomboy ngô nghê lại tôn vinh những nếp xếp vuông vức chân phương trên những cặp chân thanh nữ khẳng khiu đương thì trổ mã.
Những năm 1970 của lối sống hippy và thuyết hiện sinh, các tín đồ trường phái bohemien xếp xuôi nếp váy dài dân dã những đường pleat nhàu nhĩ, thổi hơi sống vào tà váy carmen bay ma mị trong mùi marijuana và của các diva hippy chân đất đầu trần.
Cuộc đại cách mạng công nghệ tân kỳ hai thập niên tiếp sau đã xếp lại những nếp gấp nền nã ngô nghê trên đồng phục nữ sinh khắc khổ, và trên mình các nhân vật của Disney, để biến mất hầu như hoàn toàn khỏi runway và tủ quần áo những diva thời thượng.
Xếp nếp cả thế giới!
Từ lần cuối cùng xuất hiện vào cuối những năm 1980, người ta đã tưởng như pleat chỉ còn là kỷ niệm lỗi thời cho đến tận những tiếng sấm đầu mùa của thời trang Xuân Hè 2012, người ta lại thấy tung bay thấp thoáng trên runway đương đại những form váy thả suôn hững hờ mắc vào những khung xương vai loài hồng hạc, sổ dài những nếp pleat sống động nên thơ, như một dấu hiệu đầy đe dọa của cuộc tái chiếm rầm rộ vinh danh trường phái lãng mạn tốn vải trong hình thái hồi dương thanh tân của những năm 1920 hào hoa và vui nhộn.
“Quỷ cái” Prada nhanh nhảu ôm giữ tàn dư color-block, trộn nhuyễn lên trong bảng màu pastel tươi tắn, xếp pleat lên tất cả và đe dọa tống tiền cả thế giới.
Chloe nền nã với những đường nẹp trung tính tung xòe theo nếp pleat trường phái ngây thơ, Christian Dior và Gucci cũng không nằm ngoài cơn sốt chung, nhưng với những nếp pleat bén ngót, sắc cạnh trên những chân váy Thanh Giáo gợi tình, trong khi Barbara Casasola thắng lớn đầu năm với toàn tập pleat trung tính dài chấm đất, và Angelina Jolie cũng kịp thời xuất hiện trên thảm đỏ đêm Cartier như tượng nữ thần Hy Lạp trong bộ váy Elie Saab màu “tro của hoa hồng” xếp pleat sương khói đến chạnh lòng.
Đến cả những xì thẩu hàng Tàu chợ cũng đã kịp tung lên mạng giao dịch những mẫu váy mùa hè chiffon xếp pleat giá không quá 10USD bán lẻ.
Vậy là những nếp xếp pleat chỉ còn đợi một đợt gió nhẹ để cùng lúc tung xòa khắp những boutique lớn nhỏ của một cung lộ mua sắm Á châu, tìm ngược dòng về cái nôi của trường phái “ngây thơ phương Đông” những năm 1920 dĩ vãng. Những tín đồ quen nếp nền nã của Việt Nam sẽ không thể quá ngỡ ngàng với những nếp pleat thả xuống tận quá gối, thậm chí đến cổ chân.
Dấu hiệu và những triệu chứng của cơn thú tính lây lan
Quay trở về với Patricia Field và “lời nguyền” SATC2, cùng với hoa văn phương Đông, tua rua, những tảng ren cầu kỳ và họa tiết da báo là một sức nóng hừng hực của không khí sa mạc và vẻ đẹp rực rỡ của hoa xương rồng. Nói một cách khác, mùa Spring-Summer 2012 đang đưa cả thập niên 1920 vào một ảo ảnh sa mạc với tất cả những gì chói chang nhất, như vực dậy cả một sự hân hoan hồn nhiên trước mọi lời sấm xám xì về một cuộc tận thế hoang tàn.
Đây hiển nhiên là cơn sốt kéo dài dai dẳng từ mùa Fall-Winter năm ngoái, khi mà tại nhà Louis Vuitton, Marc Jacobs thẳng thừng đặt hai ông Ba Mươi to như thật, ngồi phệt trên catwalk, hầm hố báo hiệu cuộc tái thịnh hùng mạnh của các thế lực rừng xanh. Người ta hẵng chưa quên những những con khỉ và những quả chuối của Miuccia Prada đã tăng nhiệt cơn sốt ra sao. Thậm chí cả thế giới loài vật được tận dụng không thương tiếc, tôm hùm được vẽ tay tỉ mỉ lên chân váy Jasper Conran, nhà Alexander McQueen có cả những con bươm bướm 3D to tướng điệu đà. Tại một số show diễn, chúng còn xuất hiện trong hình hài sống động nhất – những con thú thật. Ngựa nghẽo làm loạn show nhà Hermes, một cặp French bulldog mặt mũi cau có nghễu nghện dạo chơi trên runway nhà Mulberry và tất cả biến thành một cuốn phim vui nhộn của Thế giới Động Vật.
Xa hơn, ngấp nghé từ mùa xuân năm ngoái, người ta đã nghe tiếng gầm gừ rình vồ của sự tái thịnh quá sớm của cơn sốt nhiệt đới lốm đốm da beo và ngoằn ngoèo họa tiết hoang dã (rural pattern) đủ để run căng những móng vuốt shopper nhạy mùa. Nhưng cú tung mình của cư dân rừng nhiệt đới mãi đến mùa Xuân Hè năm nay mới thật sự tấn công hoang tàn những đường catwalk thế giới.
Cho đến mùa Spring Summer vừa qua, ca sốt phừng phừng nặng nghiệp nhất xảy ra trên catwalk Michael Kors với những mảng phối như thể bạo liệt nhưng lại được tưới dịu bởi sự tiết chế đầy lý trí của dáng suôn mềm, những mảng chiffon trong veo và những nếp xếp điệu đà ý nhị.
Đây quả là một yếu tố văn minh cho cuộc tái thịnh của tinh thần 1920, bên cạnh bảng màu kẹo ngọt của Prada và Elie Saab. Những thân hình đồng hồ cát bó thít trong bộ váy da beo đã trở thành màn cải lương dĩ vãng của thời Pamela Anderson. Họa tiết da thú mùa này mới thật sự là những con thú hoang được thả lỏng trong silhouete suông nhẹ thảnh thơi, chúng không vồ chụp bặm trợn, mà bay bổng như những thước phim quay chậm của Discovery Chanel với nhạc nền của Louis Armstrong.
Safari và panther print cuối cùng cũng tìm được cho mình một hình hài hoàn chỉnh cho lần xuất hiện trở lại, với sự song hành hoàn hảo của tinh thần flapper thập niên 20.
Tại châu Á, cơn sốt da beo 2007 còn chưa kịp hoàn hồn, thì cuộc đổ bộ của bảng màu trung tính ấm nóng truyền thống của trường phái Safari, và hình ảnh mèo ngái ngủ của panther print thế hệ mới lại đang một lần nữa sẵn sàng biến mọi thánh đường mua sắm thành những khu rừng nhiệt đới sầm uất, cùng với sự ưa chuộng mới dành cho những sọc đen trắng zebra, đốm da hươu và cọp vằn cũng đang trở thành thú cưng mới của các diva sành điệu, dù là sự cầu kỳ của flapper 20′s, gợi tình một cách quý phái của 50′s, hoặc phóng khoáng trễ nãi phiên bản flapper thế kỷ 21
Dự đoán: sốt dai ở vùng nhiệt đới
Chưa thể nói đến khi nào cơn sốt này mới hạ nhiệt, khi mà dường như những nếp pleat bay bổng là một sự thách thức với tố chất của thời trang Thu Đông, trong khi animal print của trường phái Safari vẫn hoàn toàn hứa hẹn kéo dài thời thịnh trị đến tận mùa của cardigan, khăn choàng và những đôi boots. Đó là khi các thiết kế ứng dụng pleat sẽ nhìn sang thị trường vùng nhiệt đới, với nắng gió dư dật quanh năm, và trong trường hợp này, cuộc săn mới với tầm ngắm hướng về những chiếc váy suôn dài xếp nếp sẽ vẫn là một đầu tư khôn ngoan cho các shopper Sài-gòn.
Vậy, nếu bạn không muốn volume của thủ pháp xếp pleat tăng vài inch cho vòng 3 công sở, thì drop waist (đường eo thấp) và silhouhete buông thả vừa vặn sẽ lập tức chiều chuộng bất cứ thân vóc petite nào của tín đồ Sài gòn mặc tình cho đường cong được lượt là được ve vuốt bởi những nếp pleat nhuyễn.
Đây cũng là dịp cho các con nhang đệ tử nhà Cavalli hả hê với truyền thống họa tiết rừng rú lâu năm của ‘hãng nhà’,
Nhưng cũng không nên bỏ qua các triệu chứng sốt sẽ chắc chắn lây nhiễm qua các thiết kế của các thương hiệu hùng mạnh khác. Prada đang nhiễm khá nặng và chưa có dấu hiệu dứt cơn, Chanel đến nay có vẻ như thiên hẳn về những đường pleat kinh điển, nhưng người ta rất nên thận trọng với “thú tính” bùng phát bất ngờ của chú K. vào mùa sau.Và đúng như vậy, dưới đây là cuộc chấn hưng tinh thần flapper 20′s của thiết diện quản gia nhà Chanel cho mùa Fall-Winter:
Trong khi đó, Gucci đã dường như toàn phần đắm đuối trong cú ghi điểm lẫy lừng với silhouete buông thả của flapper, các dây tua rua và họa tiết lập thể đính cườm.
Trong tất cả những đế chế lẫy lừng ấy, một cái tên khá xa lạ với shopper Việt, nhưng cũng vừa ghi điểm hoành tráng mùa qua với những nếp pleat hào phóng và tinh thần 1920 toàn tập là nhà Etro cũng là một tham khảo đáng được nhìn tới.
Và với những tín hiệu không cần bàn cãi ấy, chắc chắn, bạn sẽ không hề muốn mình là một diva miễn nhiễm lệch mùa!
The Age Of Innocence lãng mạn hào hoa…
…và cuộc tái thịnh huy hoàng sau gần 1 thế kỷ!
Temperley London
then…
…and now
Hé màn cơn sốt Fall-Winter
Author’s picks!!!
mix & match board
===========================================
Dolce & Gabbana: Song Hiệp Lưỡng Tính
Trác Thúy Miêu
Phụ nữ tôn sùng họ, cánh đàn ông thời thượng trọng vọng tên tuổi họ, dân gay ca tụng họ như những nhà cách mạng đồng tính tiên phong và thành đạt, còn nhà báo nữ Carrie Bradshaw trong Sex And The City chỉ vì một bộ Dolce&Gabbana mà chấp nhận cuộc rủi may lộn nhào trên runway New York.
Một fashionista/fashionisto sành điệu và các phim dòng romance ướt át đã từ lâu không còn nhắc đến Romeo & Juliette, mà thay vào là tên tuổi cặp đôi huyền thoại thời đại ái tình phi giới tính Dolce & Gabbana.
Các tín đồ ngớ ngẩn mới nhập môn sẽ có thể hỏi “Dolce và Gabbana là gay à?” và sẽ được trả lời “Không, họ là những người đàn ông sống với nhau!”
Cuộc Bắc tiến của gã giang hồ Siciliano
Họ mang lại cho quý bà những thiết kế hoa lệ và tình tứ, cho quý ông những bộ sưu tập sắc sảo với kỹ thuật cắt may siêu hạng, và những dòng nước hoa bất hủ có mùi như một thứ mê hồn tửu đầy quyền năng. Tất cả đều thượng thặng, xa xỉ, nửa lòe loẹt nửa chân phương kinh điển đặc sệt phong vị thẩm mỹ miền Nam nước Ý.
Sicily, với văn hóa Địa Trung Hải, tinh thần cinema duy thực kiểu Visconti và Madonna chính là những nguồn ảnh hưởng thấm đẫm trong phong cách của Dolce & Gabbana. Bản thân Dolce là một Siciliano chính hiệu, và Gabbana cũng có một tình cảm đặc biệt dành cho đảo này từ khi họ mới gặp nhau hồi đầu những năm 1980. Tinh thần Sicile hòa nhất họ với nhau và trở thành một thánh địa thiêng liêng của hai tay thực tập sinh tại một nhà thời trang ở Milan lúc bấy giờ.
Dolce sinh năm 1958 tại Polizzi Generosa, gần thủ phủ Palermo của Sicily. 4 năm sau đó, tại Venice, trong khi thế giới ngoài kia còn đang đảo điên với những chiếc váy ngắn đầu tiên của lịch sử thời trang, Stefano Gabbana ra đời. Dolce theo học thiết kế thời trang và làm việc cho một xưởng may nhỏ của gia đình, trong khi Gabbana theo học thiết kế đồ họa tại Milan. Đây cũng là thời đại phát của trào lưu hippy, văn hóa hiện sinh, sơ-mi chim cò, kính to bản, và những bảng màu chói lọi còn ghi dấu sâu sắc trong các thiết kế của Dolce&Gabbana cho đến tận mùa tuần lễ thời trang Milan mới đây.
Dolce, với quyết tâm vùng thoát khỏi những vòng quay đều đặn của những chiếc máy may hãng thợ tỉnh lẻ, đã tiến hành cuộc Bắc tiến về thánh địa thời trang Milan, nơi cuộc gặp gỡ định mệnh với Stefano Gabbana được phần số sắp sẵn tại một tiệm thời trang nhỏ. Họ gặp nhau, chóng vánh yêu, khởi sự cho một thiên tình sử đồng tính kéo dài hai thập niên.
Năm 1982, Dolce và Gabbana quyết định rời bỏ hãng thời trang cả hai đang cùng làm việc để bắt đầu những lựa chọn sự nghiệp mới. Họ cùng chia sẻ một phòng làm việc, và cùng chia sẻ cuộc đời với nhau từ đấy, làm nền tảng cho suốt nửa cuộc đời về sau. 18 tháng sau, hạt mầm chung được gieo xuống, ấp ủ cho cả thế giới thời trang về sau một cặp đôi quyền lực dưới thương hiệu đơn giản của lòng kiêu hãnh và tình yêu: Dolce & Gabbana.
Ngay lập tức, họ được tổ chức thời trang quốc gia Camera Nazionale ghi nhận như những tài năng trẻ đầy triển vọng và được mời tham dự tuần lễ thời trang Milan với bộ sưu tập mang tên “Real Woman”.
Cặp đôi bất bại
Những thiết kế đầu tay của Dolce và Gabbana đã chớm thể hiện xu hướng tự do về cấu trúc, với những dây buộc, khóa cài nhì nhoằng khắp nơi. Sự “bất thường” hợp thời và trội bật này ngay lập tức lôi kéo được sự chú ý của nội giới thời trang Ý. Tất cả từng thiết kế đều được thực hiện thủ công với lực lượng trợ thủ tinh nhuệ của xưởng may nhà họ Dolce.
Cả nước Ý lập tức phát sốt, và giới thời trang nín thở chờ đợi những gì mà cặp đôi tài năng trẻ hứa hẹn sẽ hoành hành toàn cảnh thời trang không chỉ ở tầm độ quốc gia. Điểm tựa đầu tiên ấy đã cho Dolce và Gabbana một lực bẩy khổng lồ, đủ để liên tục rải thảm thị trường với không chỉ các bộ sưu tập thời trang, mà cả các dòng trợ lực kinh tế hữu hiệu với nam phục, thời trang biển, nội y, và nước hoa chỉ trong vài năm ngắn ngủi. Và người ta không hề ngạc nhiên khi chỉ đến 1989, cửa tiệm đầu tiên tại Tokyo của họ đã được khai trương, đánh dấu cuộc bành trướng đã tham lam tràn đến “lỗ đen mua sắm” Á-châu.
Năm 1987, lấy cảm hứng từ thẩm mỹ cine thập niên 40, 50 của miền nam nước Ý, Dolce và Gabbana ra mắt bộ sưu tập gồm những chiếc chân váy phồng xòe, những vòng eo thít nhỏ, áo khoác viền ren, và những chiếc khăn shawl đan móc theo kiểu phụ nữ Sicile. Một phong cách đặc quánh khí chất đại tẩu giang hồ Ý, đan xen với những nét hoài cổ trầm mặc của các họa tiết tôn giáo, những chi tiết đính cườm đỏm dáng, những chiếc váy đen nhỏ, khăn trùm đầu, và cả những chiếc rổ đan mộc mạc chân quê, như một cách phô diễn ý nhị tinh hoa tuyệt nghệ của các nghệ nhân thủ công miền Nam nước Ý – một tố chất không thể thiếu của những thủ phủ haute couture. Từng thiết kế trong bộ sưu tập đều hiển hiện rõ rệt hình ảnh phồn thực của hai “lệnh bà” đầy chất ciné Ý: Sophia Loren và Anna Magnami – thứ dục tình ma mị được phô trương tràn trề ngạo mạn và nồng sực hơi ấm da thịt đàn bà, đủ ấm để lây lan những giọt mồ hôi túa vã phía sau mọi ống kính của báo giới.
Cứ thế, họ là tình nhân và chiến hữu trong suốt gần 2 thập niên huy hoàng. Cơn say tình chóng vánh đã không chỉ là một trò tìm bạn trớ trêu chóng vánh như người ta vẫn nghĩ về những người đàn ông tìm nhau. Họ sành điệu và tài hoa như những quí ông hoàn hảo, và họ công khai mối quan hệ một cách kiêu hãnh, đầy thách thức và sặc mùi lãng mạn đàn ông.
Bảng màu lập thể của thời trang lưỡng tính
“Túp lều tranh” của cặp đôi vàng này là tòa dinh thự mang tên Villa Volpe, được xây từ thế kỷ 19 nằm ngay trung tâm Milan, vốn vẫn là đề tài bàn tán của báo giới. Người ta tán rằng ngôi nhà của họ có một phòng bếp tráng lệ, phòng vẽ dán nhì nhoằng họa tiết da beo, những chiếc ghế đẩu cũng bọc da beo lốm đốm, lót thảm bằng nhung tơ và ở khắp nơi là những cây nến to sụ như trong nhà thờ – một thứ phô trương màu mè đến chói chang của dòng máu Ý thuần chủng, pha với thói đỏm dáng làm quá của thẩm mỹ đồng tính. Họ không để phí một ngày nào của việc hưởng thụ lạc thú xa xỉ!
Dù nổi tiếng là hai tên tuổi sùng bái màu đen trong thiết kế, lấy cảm hứng từ bộ dạng hắc y toàn tập của giới gangsters và các mafioso khét tiếng đảo Sicile, Dolce và Gabbana luôn có những cuộc tung hứng va chạm những màu sắc, bề mặt chất liệu ngẫu hứng và chói mắt “không đỡ nổi”. Trong dinh thự riêng của mình, cả hai bày đặt cả một cuộc đại náo nháo nhào của các nền văn hóa, các trào lưu thẩm mỹ, như thể bỏ tất cả vào một cái máy xay sinh tố rồi bắn tung tóe khắp nơi cái thể thức hợp nhất kì cục lẫn kì thú ấy. Họ tự do tuyệt đối, đến mức tự dung túng bản thân trong không gian sống của mình và cho ra đời những chiến dịch quảng cáo, những thứ tư duy thẩm mỹ mà ngay cả sự hào sảng của dân Ý cũng phải hết hồn và bàn tán râm ran.
Họ trộn lẫn các thời điểm lịch sử, xé nhỏ và lắp ráp hết sức bậy bạ các vùng văn hóa cổ kim lại với nhau, họ tung hê nháo nhào vách ngăn biên giới giữa tủ quần áo quí ông và quí bà. Nhặt nhạnh và lắp ghép, như những thiên tài điên khùng, điều mà họ có được cuối cùng là cái thứ đã trở thành quyền lực thời trang Dolce & Gabanna.
Từ lông thú và váy dài 1990, vải ghép và vải hoa của 1992, quần da beo 1996, và cuối cùng là bộ suit pinstripe cổ điển mặc tròng bên ngoài áo may-ô, các thiết kế thời trang nữ của P&G khỏi phải bàn, rất sexy, nhưng gợi cảm theo kiểu đại nữ thành thị, ít nhiều tính ái nam gồ ghề suồng sã, mà gợi tình đến bất khả cưỡng. Không như điều mà người ta trông đợi ở giới thời trang Ý, Dolce và Gabbana không lệ thuộc vào các mỹ nữ vóc hạc nhan nhản của catwalk thế giới, mà lồ lộ bộ nhũ căng mẩy và những vòng hông phồn thực. Trong một cuộc phỏng vấn với Observer Life, Gabbana cho rằng: “Cơ thể con người, cùng tất cả những gì nó đại diện qua thứ ngôn ngữ rất riêng, là điều rất rất quan trọng của thời trang.”
Thời trang nam của D&G cũng không nằm ngoài công thức thêm thắt tính dục đan xen vào các yếu tố truyền thống của trang phục. Cũng bằng cách mà họ đặt quí bà vào trong những bộ nam phục, Dolce và Gabbana phủ lên các bộ suit kẻ sọc của các tay đại ca đầu gấu cỡ bự một thứ bảng màu hoa quả trái cây, và kết hợp với áo may-ô như nông dân Ý. Có dạo, kiểu này đã khuynh đảo toàn thể cộng đồng gay trên thế giới hồi mùa hè 1995, tạo thành cả một cơn sốt lòe loẹt ở khắp các thành phố lớn trên thế giới.
Trả lời chất vấn của the The Guardian Weekend với luận cứ cho rằng họ thuần túy ủy lạo xu hướng tình dục đồng giới, Dolce bác bỏ một cách ngạo mạn bằng luận điệu đủ để ông được đời đời ghi danh là nhà cách mạng bình đẳng giới: “Điều đó hoàn toàn không liên quan đến giới tính hay xu hướng tình dục. Đó chỉ đơn thuần là những gì chúng tôi có và muốn thể hiện, và còn là những gì thời trang mặc nhiên phản ảnh lại của xu hướng nhu cầu thẩm mỹ của thế giới xung quanh… Con người hình thành xã hội, và xã hội tự thiết lập nên một vách ngăn rạch ròi giữa cái gọi là quần áo dành cho đàn ông và đàn bà, bởi họ muốn tin rằng đàn ông và đàn bà phải rất khác nhau. Sẽ rất thú vị và hoàn toàn lành mạnh nếu người ta có thể tư do tìm kiếm sâu thẳm bên trong chính mình một góc nhỏ luôn tồn tại, trong cái góc nhỏ đó, định kiến không tồn tại, bạn hoàn toàn tự do, và nhận ra mình không chỉ có một giới tính. Thế giới và sự trải nghiệm mở rộng ra khi người ta biết rằng họ có sự lựa chọn lẫn quyền chọn lựa.”
Những đại gia và những minh tinh bị chối từ
Thái độ thừa thãi tự tin và hãnh tiến của cặp đôi Dolce-Gabbana không chỉ dành cho quan điểm về tình dục và giới tính của mình, họ còn được biết đến là những chủ nhân ông bất khả chiến bại hiếm hoi của làng thời trang thế giới, trước xu hướng bành trướng mạnh mẽ của các tập đoàn cá mập thứ dữ. Có thể coi đây là một trường hợp cực kì hiếm hoi của làng thời trang, khi mà các nhà thiết kế trực tiếp điều hành công việc kinh doanh và là chủ nhân ông duy nhất của giá trị thương hiệu, hoàn toàn miễn nhiễm trước mọi sự can thiệp của các thế lực tài chính. Ngoài dòng hàng thời trang nam nữ cao cấp, D&G còn làm chủ dòng White Label Collection nhằm vào thị phần trẻ, được thiết kế cho văn hóa nhạc dance và các club xa xỉ, dòng jeans mang nhãn cộc lốc ‘&.’, cùng la liệt các quả bom thương mại truyền thống khác như mắt kính, phụ trang, nội y, áo tắm, và, đương nhiên, nước hoa.
Để chứng thực hiệu quả mê hoặc của hai đầu óc sáng tạo không tiền khoáng hậu này là hàng loạt tên tuổi các ngôi sao thượng thặng, những quí ông và quí bà được cho là quyến rũ nhất hành tinh: Tom Cruise, Brian Ferry, Brad Pitt, Isabella Rossellini, Demi Moore, Nicole Kidman, v.v… đặc biệt là các bộ phục trang sân khấu cho tour diễn vòng quanh thế giới của Whitney Houston, với những thiết kế từ phong cách thường phục sắc sảo cho đến những chiếc váy maxi lộng lẫy nhất cho nữ hoàng đen.
Nhưng những thành tích và danh sách khách hàng cỡ bự ấy hoàn toàn không có được từ đức tính thân thiện hòa đồng của cặp D&G. Dolce và Gabbana nổi tiếng kén thân chủ, bởi chỉ thiết kế cho những ngôi sao mà họ thích, đối với số còn lại, họ chỉ đơn giản trả lời “Bổn tiệm có phòng trưng bày ở bất cứ thành phố lớn nào, quí khách cứ mặc nhiên chọn lựa!” Do đó, để đứng đầu danh sách ưa thích của D&G hẳn nhiên phải là tầm đệ nhất vương giả tài danh của làng giải trí, không ai khác là Đồng Nữ Madonna: “Chúng tôi yêu Madonna. Không có bất cứ thứ gì Đồng Nữ muốn mà không được đáp ứng lập tức tại nhà Dolce&Gabbana. Không chỉ vì Madonna là ngôi sao yêu thích của cộng đồng gay. Chúng tôi yêu quí con người cô ấy, phong cách ấy, và cá tính âm nhạc ấy…, tất cả những gì thuộc về cô ấy.” Họ thiết kế phục trang cho tour Girlie Show của Đồng Nữ năm 1993, khiến cho cả thế giới mãi về sau còn nhắc đến bộ váy “Kylie Minogue tribute”, những chiếc T-shirt “Rocco” hồi năm 2000, và đến 2001 thì khiến khán phòng phát sốt lên với Đồng Nữ diện bộ đồ cao bồi đính đá đúng chất nữ quyền bạo dâm, gợi cảm cùng cực trong một nét nhục dục lưỡng tính.
Ngược lại, Đồng Nữ cũng hết lòng sủng ái cặp tình nhân đồng giới này. Nàng tự nhận mình là tín đồ sùng mộ nhất của họ – những kẻ được cả nước Mỹ gọi là “những tay thời trang Ý”, nàng còn cho họ là hai trong số các đại diện của văn hóa Ý thuần chủng: “Khi mà những Fellini, Rossellini, Pasolini và Visconti đã không còn, tất cả những gì nước Ý có để vinh danh tinh thần văn hóa quốc gia là thời trang duy thực của Dolce và Gabbana.”
Tình ái và sự nghiệp, dường như họ có tất cả, và vẫn là chưa đủ. Họ có số điện thoại của Madonna trên phím gọi tắt, 200 cửa hiệu khắp thế giới, 2000 nhân viên và hơn 579 triệu bảng Anh niên lợi. Họ là bạn bè hữu hảo của các đệ nhất minh tinh, họ khinh thị và chối từ thế lực tài chính của các tập đoàn cá mập LVMH và Gucci lúc này đang thèm thuồng tuyệt vọng trước con mồi khó nhậu. Hai thành viên hội đồng quản trị duy nhất của Dolce&Gabbana là Dolce và Gabbana, và họ duy trì điều đó một cách an nhiên nhưng đầy bài bản: “Chúng tôi cũng sẽ chẳng hề hối tiếc nếu thứ duy nhất chúng tôi đóng góp cho thời trang thế giới chỉ là một chiếc áo lót màu đen, Nó sẽ là cái đẹp nhất!”
Ngạo nghễ và bất chấp là thế, hẳn nhiên, cặp đôi bất bại cũng có cho mình những cú va chạm và cả những cuộc lật đổ. Tháng Giêng 2007, shot quảng cáo của D&G bị la ó rầm rĩ tại Anh-quốc, với những người mẫu tay cầm dao găm đâm chém loạn xạ. Chỉ một tháng sau đó, D&G lại tiếp tục bị giới chức Tây Ban Nha và Pháp cự nự đòi tẩy chay khi quảng cáo tại Madrid và Paris hình ảnh một nam nhân đẹp như thần đang vật một phụ nữ xuống đất, trong khi một nhóm tu mi nam tử khác đứng bu lại nhìn ngó và tạo dáng rất điệu. Lên tiếng hùng hổ nhất là Bộ Lao động và Xã hội Tây Ban Nha, với luận cứ rằng hình ảnh trên là vi phạm pháp luật và sỉ nhục phụ nữ, cho dù các fashionista Tây Ban Nha vẫn khăng khăng rằng họ sẽ khó lòng thấy nhục dẫu có bị vật mạnh hơn thế nữa!
Định dạng Dolce&Gabbana
Không chỉ với những cú ghi điểm lẫy lừng với các thiết kế trang phục như giải Woolmark Award 1991, danh hiệu dòng nước hoa nữ xuất sắc nhất năm 1993 cũng là một sự ghi nhận chân thực quyền lực Dolce&Gabbana trong thế giới mùi hương. Tại Hollywood – thành phố của những minh tinh, họ nghiễm nhiên là lựa chọn hàng đầu. Điều này hiển nhiên dẫn dắt đến cuộc ra mắt cửa tiệm nhà Dolce&Gabbana đầu tiên tại Hoa Kỳ vào năm 1995, ngự ngay thánh địa mua sắm thượng đẳng The Galleria, Houston. Đó cũng có thể được xem là một cú chinh phục cuối trước khi cơn mê đắm hai mẫu tự D&G chính thức khởi phát ồ ạt trên toàn thế giới, các cửa tiệm Dolce&Gabbana, như một vụ nổ lây lan, liên tiếp cát cứ tại những thánh địa thời trang mọi nơi trên thế giới, và lập tức trở thành biểu tượng đầy kiêu hãnh của thời trang cao cấp và văn minh couture.
Dolce&Gabbana được chia làm hai dòng chính: D&G và Dolce&Gabbana. D&G hình thành các nhánh thời trang thân thiện về cả thiết kế lẫn giá cả, trong khi Dolce&Gabbana mang nặng tinh thần haute couture xa xỉ. Mỗi dòng đều có các thiết kế áo tắm và nội y riêng biệt. Mô hình đăng đối này khiến Dolce&Gabbana duy trì được thế cân bằng giữa tính thương mại thực dụng và đẳng cấp hàng đầu của couture Ý, được trợ thủ cực kì hài hòa và đắc lực bởi các dòng nước hoa, mắt kính, giày, v.v…
Dolce&Gabbana là tất cả khía cạnh ồn ào, chói chang nhất của thẩm mỹ thời trang Ý. Thiên biến vạn hóa, đầy ngẫu hứng và bất ngờ, đó là khi thời trang nằm ngoài khái niệm che đậy thân thể. Mỗi thiết kế phải được cân nhắc hoàn hảo để trở thành những bộ khung, vỏ bọc hay bệ đỡ mỹ lệ nhất của cơ thể sống bên trong. Đến một mức độ nào đó, chúng vượt qua yếu tố tôn vinh thân thể mà trở thành một tạo vật được tạo hình hài hòa bởi những đường những khối nhồi lượn phập phồng bên dưới. Chúng ồn ào, diêm dúa, nhưng khúc chiết một cách kinh điển trong cấu trúc, tận dụng khai thác từng đường nét thể hình nhỏ nhất để phô bày trưng trổ. Dẫu đó là một chiếc áo khoác, váy, hay suit.
Trong các thiết kế của Dolce và Gabbana, người ta còn không thể không nhận ra nét hài hước ngỗ nghịch của những người đàn ông miền Nam nước Ý này, ảnh hưởng ít nhiều bởi tư tưởng cùng thời của Jean Paul Gaultier, thể hiện rõ qua các thiết kế corset vốn là thuộc tính biểu trưng của gã phá đền bạo tay này. Những chiếc corset của Dolce và Gabbana còn thể hiện nỗi đam mê ám ảnh của họ về phong cách va-va-voom di-gan đô thị, của vẻ thô thiển trác táng được trau chuốt bởi kỹ năng cắt may thủ công tuyệt nghệ. Đây cũng là nét hoài cổ trầm mặc luôn phảng phất trong các cuộc chơi tạo hình của Dolce và Gabbana. Họ khai quật những mẫu trang phục truyền thống của thời tiền-bình-đẳng-giới, cường điệu chúng lên bằng thẩm mỹ vị lai và tất cả những bảng màu sặc sỡ nhất.
Dolce & Gabbana cho tất cả
Dù với sự ngạo mạn, thất thường giữa hoài cổ và vị lai ấy, Dolce&Gabbana vẫn là một thương hiệu nóng của thị trường ready-to-wear thân thiện, đặc biệt tại Ý. Những năm cuối thế kỷ, dòng ready-to-wear của D&G đã mang lại món niên lợi 500 triệu Mỹ kim. Từng mẫu thiết kế ready-to-wear của D&G cho đến những bộ váy hào nhoáng xa xỉ của Dolce&Gabbana đều tuân thủ một tinh thần xuyên suốt: vẻ lộng lẫy thượng hạng, gợi cảm không e lệ, và nét hoài cổ cầu kì. Từng thiết kế mang tên cặp đôi quyền lực đều nồng nặc nhục dục trong bộ dạng ngạo mạn thượng tầng, ồn ào, lưỡng tính, và duy nhất! Và tinh thần đó được rải khắp thế giới qua sự có mặt của các cửa tiệm Dolce&Gabbana mỗi ngày thu hút hàng hàng lớp lớp lượt vào ra của các tín đồ tại Hoong Kong, Singapore, Đài bắc, Seoul, cùng khắp Âu châu cho chí Hoa Kỳ.
Người ta coi Domenico Dolce và Stefano Gabbana là những nhà ủy lạo nhiệt tình của phong trào bình đẳng giới, những kẻ làm nên phong độ mẫu mực của thế hệ đại nữ thành thị – mạnh mẽ, độc lập và hưởng thụ đến cực cùng lạc thú cuộc đời. Họ phá vỡ những lằn ranh của thẩm mỹ, của văn hóa, và tài tình để dành lại một phần đáng kể cho óc tưởng tượng của kẻ háo hức ngắm nhìn để hoàn tất bức phù điêu Vệ Nữ mang nhãn D&G.
Để có được những thiết kế ngời sáng thảm đỏ showbiz thế giới, những show diễn luôn khiến những hàng front-row dày đặc yếu nhân thời trang phải đứng bật dậy tán thưởng, trong phần còn lại của thế giới phải tiêu hao không ít tiền của, Dolce và Gabbana còn được biết đến bởi một phong cách bất di bất dịch: bạo liệt, sắc sảo và thuần túy gợi cảm với tuyệt chiêu tôn vinh tối đa vẻ đẹp cơ thể của người mặc. Giai nhân trứ danh Ý Isabella Rosselini kể rằng món đầu tiên của nhà Dolce&Gabbana mà nàng có là một chiếc sơ-mi trắng mà theo bà là “Thuần khiết, trinh bạch, nhưng với một form cắt khiến cho bộ ngực trông như sắp bật tung khỏi những chiếc khuy trêu ngươi.”
Người ta có thể “nhận diện” dấu ấn D&G, và một cách vô tình, Dolce và Gabbana thiết lập một phong cách thời trang để bất cứ tín đồ ranh mãnh nào cũng có thể “trông rất Dolce&Gabbana”, dù không hẳn có một món nào trên người mang tên họ! Bảng màu bạo liệt, form ôm sát nhưng tôn vinh hơn là tố cáo, những họa tiết in to bản, và lộ khe ngực càng nhiều càng tốt! Nếu một diva muốn trông thật gợi cảm mà không cần xăm chữ “sexy” lên trán, thì Dolce and Gabbana là hai người đàn ông mà họ cần.
Các chàng Romeo không thể có tất cả!
Họ có tất cả những gì khiến họ trở thành thần tượng của toàn thể giới gay trên thế giới: sự nghiệp, một mối tình bền vững, tột đỉnh danh vọng trong làng thời trang và một lối sống kiêu hãnh đế vương. Nhưng, hẳn nhiên, Thượng Đế không cho họ thật sự tất cả. Stefano là người đầu tiên nhận ra điều này, sau khi mối quan hệ của họ tan vỡ, và ông nhận ra, ngoài thời trang, không có một sự ràng buộc gắn kết nào là vĩnh cửu.
Năm 2005, trước sự sững sờ thảng thốt của cộng đồng gay thế giới, cặp uyên ương đồng tính tuyên bố chia tay. Gabbana cho biết họ đã dần xa cách trong khoảng 5 năm trở lại. Để xoa dịu các fashionisto và fashionista, Dolce và Gabbana vẫn duy trì một tình bạn khắng khít, và trên hết, vẫn là đôi song kiếm hợp bích tài hoa của thời trang Ý. Đằng sau một mối tình chết, cả hai vẫn có một “đứa con chung” là thương hiệu kiêu hãnh và quyền lực Dolce&Gabbana – điều đã gắn kết hai người đàn ông ấy lại với nhau, không chỉ bằng tình ái.
Domenico xoa dịu nỗi hoang mang của các tín đồ về cuộc chia loan rẽ thúy “Chúng tôi sẽ vẫn là cộng sự của nhau như trước giờ. Trong phương diện chuyên môn, chúng tôi vẫn là một nửa kia hoàn hảo của nhau, tương tác tuyệt vời và thông hiểu nhau thấu đáo nhất. Điều đã từng xảy ra trong quá khứ, sẽ được giữ nguyên như vậy, và sẽ mãi là như vậy. Chúng tôi có cùng một mối tình mãnh liệt, dù đó không còn là mối tình giành cho nhau.”
Họ chuyển đến ở tại hai căn hộ khác nhau trong cùng một tòa nhà tại Milan. Thương hiệu mang tên hai người giờ đây đã trị giá 350 triệu bảng với một danh mục thân chủ gồm cả Monica Bellucci, Beyonce, Kylie Minogue và cả bà Vic kiểu cách sành điệu. Dù cả hai đều đã có cho mình những mối quan hệ riêng, họ cùng cam kết không để mối ghen tuông của những người tình đến sau can thiệp và làm thương tổn đến sự nghiệp chung. Domenico cho biết: “Đây chỉ là vấn đề của việc ‘giáo dục cảm xúc’ sao cho khéo léo. Đương nhiên, nói thì dễ hơn rất nhiều. Dẫu sao chúng tôi cũng đã sống cùng nhau 19 năm, với sự đam mê nằm trong tất cả, từ thân thể xác thịt, cho đến tình yêu thật sự nằm sâu bên trong.”
Trong khi đó, Stefano xác tín rằng bất cứ người tình nào về sau của ông cũng phải chấp nhận và thuận thảo với mối quan hệ khắng khít của ông với Domenico: “Tôi luôn thẳng thắn và rõ ràng về việc này. Tôi có một mối ràng buộc khắng khít với Domenico. Chúng tôi từng ở bên nhau suốt ngày, thế rồi về đêm, chẳng mấy khi còn nhìn thấy nhau.”
Đứa con của Stefano Gabbana
Có vẻ như Stefano đã bị tác động mạnh mẽ bởi sự chia tay này có phần hơn hẳn Domenico. Chỉ không lâu sau khi chia tay, giới thạo tin đã kịp lan truyền ao ước của ông về…một đứa con.
Đây cũng là khi mà nước Ý đang chao đảo khi một bộ luật mới đang được đệ trình lên chính phủ, yêu cầu dành cho các cặp đôi không kết hôn, gồm cả những cặp đồng tính, các quyền lợi hợp pháp như những cặp đã kết hôn. Người đàn ông Một-Nửa-Quyền-Lực của thời trang thế giới thừa nhận: “Tôi thèm có một đứa con vô cùng, một giọt máu thật sự của tôi chứ không phải là một đứa con nuôi bất kì. Tôi không nhẫn tâm nhưng cũng không đủ mạnh mẽ. Tôi đơn thuần là muốn có cho mình một giọt máu thành hình, một thứ quả ngọt đâm nảy từ hạt mầm của chính tôi. Đương nhiên là tôi chọn phương pháp thụ tinh nhân tạo vì chuyện tôi làm tình với một người mà tôi không yêu.”
Hẳn nhiên, cả thế giới biết Stefano yêu phụ nữ. Ông tôn vinh cơ thể họ và làm ra cho họ những bộ váy trác tuyệt, chứ không phải để làm tình cùng họ.
“Hiện thời tôi đang rất yêu một người, nên tôi mong tìm được một người phụ nữ thích hợp để cậy nhờ. Một tuần trước, tôi hỏi nhờ một người bạn thân, cô ấy nhỏ hơn tôi 12 tuổi. Cô bạn nọ đã hết hồn cho đến tận ngày hôm sau, khi cô ta gọi lại cho tôi, cô ấy vẫn chưa hết shock nhưng cũng nghĩ rằng đó là một ý hay.”
Gabbana không cho biết thêm liệu đó phải chăng đã là một lời đồng ý: “Tôi vẫn luôn tin rằng trẻ con cần được sinh hạ và giáo dưỡng bởi đàn ông và đàn bà, chứ không phải bởi các cặp tình nhân đồng tính. Bản thân tôi, tôi không tưởng tượng được quãng đời thơ ấu của mình mà không có mẹ. Và tôi cũng cho rằng việc tách đứa trẻ ra khỏi người mẹ là một hành động vô nhân.”
Ông cũng nói thêm rằng thời kỳ khủng khiếp nhất cuộc đời ông đã là khi chia tay với Dolce sau hơn 20 năm bên nhau: “Đó đã là một cú shock dữ dội. Tôi ngỡ ngàng khi thấy anh ấy thản nhiên vượt qua nỗi đau chia tay, thản nhiên như bất cứ cặp đồng tính hay dị tính nào mà tôi biết. Chúng tôi vẫn ở bên nhau, một phần bởi đã cùng có với nhau một mối tình tuyệt đẹp. Giờ đây tôi đã ở bên một người khác, nhưng Domenico sẽ mãi đặc biệt và quan trọng nhất trong đời.”
“Chúng tôi đã khéo léo duy trì mối quan hệ công việc và tình bạn, chứ không để cuộc chia tay biến thành sự tan rã của thương hiệu. Điều đó đã không hề dễ dàng cho cả hai, nhưng chúng tôi đã thành công.”
Ngay vào thời điểm những tâm sự này của Stefano Gabbana được công bố, cũng là lúc tòa thánh Vatican phản ứng gay gắt dự luật bình đẳng cho các cặp đồng tính và dị tính không kết hôn trước Chúa. Trên trang nhất tờ báo ngôn luận chính thức của Vatican là L’Osservatore Romano là hàng tít “Giáng sinh 2006: Tiễu trừ giá trị gia đình là tôn chỉ của luật pháp Ý.”
Cuối cùng thì “Romeo và Romeo” đương đại cũng không nằm ngoài quy luật khắc nghiệt dành cho những kẻ không may hòa lẫn ái tình và sự nghiệp. Nhưng liệu Stefano có vượt qua được đạo luật của tòa thánh và một lí lẽ tưởng như hiển nhiên rằng người đàn ông đồng tính không có quyền làm cha?
“The show must go on!”
Ở Milan, thời trang còn là công nghệ biểu diễn, và mỗi show diễn mang tính sống còn đến quyết liệt đối với từng hãng thời trang. Đó là kinh doanh, lợi nhuận, và danh dự đối với mỗi nhà thiết kế, thậm chí với cả những khách mời danh giá của những hàng ghế đầu.
Ở Milan, không có gì có thể làm hoãn hay gián đoạn một buổi diễn, dù có trùng ngay vào những đêm trao giải Oscar thu hút sự chú ý của cả thế giới, hay một vụ kiện trốn thuế quy mô lớn mà bị cáo là cặp đôi quyền lực Dolce – Gabbana.
Buổi trình diễn bộ sưu tập mới của Dolce&Gabbana vừa qua đã không may diễn ra vào đúng đêm sự kiện trao giải Oscar. Tất nhiên là khó lòng có mặt một minh tinh sáng giá hay nhân vật Hollywood thượng lưu nào trong khán phòng, mà đa phần là những nhân vật nội giới làng thời trang không mặn mà lắm với đại lễ ciné. Mọi ống kính của truyền thông thế giới đổ dồn về Los Angeles, và tuần lễ thời trang Milan bị bỏ rơi ra bên ngoài sức hút khổng lồ của thảm đỏ Oscar.
Điều đó kích hoạt thói lắm chiêu và hãnh tiến của giới thời trang Ý trong cuộc chiến không khoan nhượng giữa thảm đỏ Oscar và runway Ý, mà hung hãn hàng đầu là cặp song hổ Dolce-Gabbana. Ngay trong khi các cục cưng màn bạc của họ đang hãnh diện lượt là trong các bộ váy haute couture mang chữ ký Dolce&Gabbana, thì tại Milan, hai nhà thiết kế tiêu khiển cho khán phòng của mình bằng cả hệ thống Wi-Fi, cho phép đăng công khai mọi lời nhận xét về show diễn lẫn các bàn tán ngoài lề trực tiếp lên màn hình khổng lồ phía trên catwalk. Các câu comment từ những tín đồ theo dõi buổi diễn trực tiếp online, được post trực tiếp bằng smart phone và Blackberry, hiện lên màn hình ngay giữa buổi diễn, như một đại hội buôn chuyện của tín đồ thời trang thế giới đến tận hàng front-row danh giá của tuần lễ thời trang Milan. Dolce và Gabbana tâm đắc cho rằng thủ thuật này sẽ cộng hưởng cho công nghệ trình diễn thời trang thêm một yếu tố mang tính giải trí tương tác và một sắc diện “dân chủ” cho quyền lực thời trang thượng tầng.
Những comment từ vô thưởng vô phạt đến tán thưởng sâu sắc, hoặc châm chích khôi hài, từ “cám ơn những ly vang đỏ!” từ một khách mời hàng ghế thứ tư, cho đến “Trời ơi, thứ này bao giờ mới có ngoài tiệm vậy?” của một fashionista ở tận Đài Bắc được hiển thị trên background, xen lẫn với những hình ảnh truyền trực tiếp từ hậu đài, với huyền thoại Stefano Gabbana, mục kỉnh trượt trên mũi, tay vung vẩy ống keo, phủi sạch từng xơ vải trên các mẫu sắp được tung lên catwalk, mồm vẫn nhai gum tóp tép, hay cảnh các chân dài lênh khênh nháo nhào sấp ngửa ngay sau màn nhung. Không khí loạn lạc của hậu đài ấy, vốn được coi là một “thế giới ngầm” của hào quang thời trang xa xỉ, cũng được chia sẻ với các tín đồ trong khán phòng và trên toàn thế giới, như một cuộc xuống đường của thực tế thời trang.
Mặc nhiên với tính giải trí công nghệ cao của những cái đầu Ý, thuộc tính thời trang của show diễn vẫn là điều tối trọng. Bộ sưu tập mang cái tên gợi cảm một cách huỵch toẹt Sensuality: Masculine-Feminine. Các người mẫu được phủ lên toàn thân một lớp đăng-ten đen, những kiểu váy bó sát rạt bằng thun jersey, giày cao gót, những mảng miếng đong đưa à ơi trải dài catwalk. Điều khiến Sensuality: Masculine-Feminine gai góc và khác biệt chính là cuộc tập kích ồ ạt của những kiểu quần dài nam tính, sơ-mi trắng, và những làn môi cong tớn, tặng kèm cú đá lông nheo điệu nghệ bên dưới vành mũ đàn ông. Tất cả đặc sệt một màu sắc dục tình lưỡng tính. Mặt khác, cài cắm yếu tố thương mại thực dụng một cách tài tình, nét nam tính và yếu tố tinh xảo của kỹ thuật cắt form khiến những thiết kế này thân thiện với cả các diva công sở, và chỉ cần thêm một hàng nút buông lơi trên chiếc sơ-mi “trinh bạch”, sẽ thừa độ nóng cho những cuộc tán tỉnh nóng hổi dưới ánh đèn nightclub. Một cuộc tấn công không khoan nhượng vào quỹ mua sắm của mọi tín đồ nhạy mốt nhất trên khắp hành tinh.
Bộ sưu tập lần này của Dolce&Gabbana còn là cú lăng-xê các họa tiết hình ngôi sao to tướng. Màn hình sáng rực những comment tung hô “Tinh thần retro-70s bất diệt! Cool quá thể!”, hứa hẹn sẽ tạo sốt và hoành hành trường phái đường phố cao cấp đương thịnh của thị trường thời trang thế giới.
Tuy không có một động thái kiểm duyệt comment nào từ phía bộ đôi quyền lực, nhưng trên màn hình tuyệt nhiên không thấy có một lời bàn ra tán vào nào về tình hình vụ kiện trốn thuế với con số lên đến 416 triệu bảng đang nhằm vào Dolce và Gabbana, mà cặp đôi vương giả đang chối đây đẩy và cực lực kêu oan.
10 ngày trước đó, các luật sư phía Dolce và Gabbana một lần nữa đã thuyết phục thành công việc trì hoàn phiên tòa sơ thẩm thêm một tháng trước khi Dolce và Gabbana thật sự trở thành tâm điểm của mọi chiều chiếu rọi của dư luận, truyền thông và pháp luật.
Với tốc độ vững chắc nhưng chậm chạp của toàn cảnh công nghệ thời trang Ý, dù vừa ăn mừng 25 năm chính thức khai trương thương hiệu, Dolce và Gabbana vẫn được xếp vào hàng “thế hệ mới” của tuần lễ thời trang Milan giữa các tên tuổi thế lực như nhà Gucci tròn 90 tuổi, Fendi 86, và Salvatore Ferragamo 83. Với con số 25 tròn đầy thịnh vượng, bộ đôi Dolce và Gabbana vẫn đang là cặp hổ tướng đầu trò mọi cuộc cách mạng thẩm mỹ ngoạn mục cho mỗi mùa thời trang, và hà hơi vào đó những luồng sinh khí trẻ của tính đường phố đặc chuẩn Ý, nhưng dành cho thị hiếu tín đồ toàn cầu.
Trước tuần lễ thời trang Milan, cả hai cùng đứng ra tổ chức sự kiện vinh danh các tài năng thiết kế trẻ, được hào phóng tôn vinh bằng các bộ sưu tập phụ trang phụ kiện của Dolce&Gabbana tại một tiệm flagship của họ tại Milan.
Cũng như nhà Burberry của Anh quốc, Dolce và Gabbana đang tiên phong trong trào lưu phối hợp thế lực internet và các mạng xã hội để phát triển và quảng bá thương hiệu theo hướng dân chủ, như một chiến lược dân chủ điệu nghệ của các tay couturier thức thời. Ngoài mảng miếng tương tác online trong show diễn vừa qua, Stefano Gabbana còn là một Tweeter nặng nghiệp, đang tạo cả một cơn sốt follower hừng hực trên cộng đồng này hướng về những thuộc tính Italy đầy kiêu hãnh mà ông không ngừng ủy lạo: thú tắm nắng, những bãi biển, âm nhạc, các biểu tượng emoticon ngộ nghĩnh, và, đương nhiên, cả những bức ảnh đầy thi vị thời trang của chính mình với các người mẫu và celebrity.
Ngay sau buổi diễn, tất thảy các fashion blogger khét tiếng ở khắp nơi trên thế giới được mời đến các cửa hiệu của Dolce&Gabbana, nơi họ đích thân sử dụng các thiết kế có trong cửa tiệm và tái thiết lại cửa kính trưng bày theo phong cách riêng của mỗi người. Cú PR thông minh đầy tính cách mạng này đã khiến mạng lưới tông đồ – tín đồ của Dolce&Gabbana tăng lên theo cấp số nhân, và bằng tốc độ của một cú click.
Chit chat với Dolce & Gabbana
Người ta có thể có một anh bạn gay thân thiết để chơi trò best-friend-forever và vừa đắp mặt nạ dưỡng da vừa buôn chuyện với nhau. Nhưng một dịp chit chat với cùng một lúc một cặp đồng tính huyền thoại và quyền lực như Dolce và Gabbana, không phải fashionista nào cũng dám mơ đến.
Hãy nghe họ tâm sự về những điều nhỏ nhặt nhất, và cả những nuối tiếc còn vương vất sau cuộc tình đã thành huyền thoại của làng thời trang.
Stefano Gabbana:
Chúng tôi hầu như không có với nhau một bức ảnh chụp chung mang tính riêng tư nào, đơn giản là cũng trong ngần ấy năm, chúng tôi không còn có dịp để đi nghỉ ở đâu cùng nhau nữa. 10 năm đầu của mối quan hệ là bởi điều đó quá xa xỉ cho cả hai người, và sau 10 năm, chúng tôi không còn lí do gì để đi chơi cùng nhau nữa cả. Những bức ảnh hiếm hoi chụp chung của chúng tôi là cho những bài phỏng vấn trên các tạp chí. Trong một tấm, tôi chợt nhận ra mình chẳng thay đổi chi mấy, cũng vẫn sơ-mi trắng và jeans, đeo một lèo hai chiếc đồng hồ, một cái Cartier, cái Rolex là của Domenico tặng.
Cả đời, tôi đeo cà-vạt đen được đúng 3 lần. Thậm chí tôi không biết cách tự thắt nút cà-vạt. Một lần, tại buổi ra mắt một vở opera, Domenico đến sau để tìm thấy tôi đứng ẩn mình vào một góc, đang rối rít vẫy ‘Nhanh lên, làm ơn thắt giùm tôi cái cà-vạt!’ Bằng không, tôi thà mặc tuxedo với quần jeans và đeo một cây thánh giá. Nhưng dạo này, tôi bắt đầu đeo thánh giá lên chiếc quần lọt khe bằng da, không hẳn là món bling-bling phô trương, hơi hippy một chút, dù tôi cũng chẳng phải là dân hippy. Cây thánh giá này là quà của nhân tình hiện nay của tôi. Bạn bè thường than vãn rằng rất khó chọn mua quà cho tôi, nhưng thực tình không phải vậy. Tôi đương nhiên là không lấy giá trị của món quà làm trọng, tôi cũng không cần một bức vẽ của Julian Schnabel. Tôi không làm bộ làm eo, tất nhiên là tôi sẽ rất thích nếu có được bức họa đó, nhưng điều làm tôi đê mê sung sướng nhất là những món quà nho nhỏ, những thông điệp ngọt ngào từ người tình.
Tôi thích jeans bó sát, nhưng ngần này tuổi rồi, tôi không muốn mình trông lố lăng như hề lạc thời. Quần thụng thì không phải thứ tôi ưa, nhưng chỉ cần vừa vặn và thoải mái, và với tôi, thoải mái có nghĩa là không nhất thiết phải rất, rất, rất bó. Thế là tôi vào tiệm của mình mà mua quần, được giảm giá những 50%.
Chất denim luôn nằm trong những nỗi ám ảnh ký ức của tôi. Tôi nhớ mình mặc quần Levi’s hồi năm 12 tuổi. Hồi đó, bọn trẻ choai choai ở Milan phát sốt vì nhà Fiorucci nhưng hồi đó cỡ tôi làm gì mua nổi thứ đó. Tôi có cả một bộ sưu tập những chiếc túi mua hàng của Fiorucci, mẹ tôi vẫn giữ cùng với mấy cái hình dán stickers thuở nhỏ. Bây giờ thì tôi mời đích thân Elio Fiorucci đến các buổi diễn của chúng tôi. Ông ấy quả tình xứng mặt tiền nhân.
Khi tôi gặp Domenico, anh chàng là một nạn nhân thời trang thật sự. Tôi mua đồ ở mấy tiệm second-hand và bị mắng là đồ ngu. Mẹ tôi cũng điên tiết vì sở thích này của tôi: ‘Xem này, quần thủng đít! Con ăn mặc như đồ du thủ du thực vậy! Ngó vô kiếng đi!’, còn tôi thì cứ khăng khăng ưa thích mấy cái quần second-hand của mình. Mẹ tôi vẫn là một tín đồ thời trang tuẫn tiết. Bà xưa kia làm nghề giặt ủi, nhưng tôi vẫn nhớ hình ảnh bà chưng diện trong bộ suit đỏ thắm, với chiếc áo jacket mini, quần loe, bộ tóc giả (khi đó đang là mốt tóc giả) to phồng chải chuốt. Và với lệ bộ như thế, bà dẫn tôi đi mua sắm. Bây giờ thì tôi là người chăm sóc cho cả gia đình, như một cách tri ân, đối với cả gia đình Domenico nữa. Không có họ, sẽ không có một Stefano Gabbana của thế giới thời trang.
Khi tôi và Domenico chia tay, nỗi buồn có thể lắng lại trong tim trong óc, nhưng tuyệt đối không vương mảy may lên những bộ cánh nhà Dolce&Gabbana. Tôi không phủ nhận mình mê tiền và lối sống xa xỉ mà nó mang lại. Đáng tiếc, tôi có một tòa thự tuyệt đẹp ở Portofino, nhưng mỗi khi tôi buồn, quay về nơi đấy, tôi cũng chả hề thấy hạnh phúc hơn tẹo nào. Tôi có một chiếc du thuyền, nó cũng không có công dụng biến nỗi buồn thành niềm vui. Tôi du lịch tứ phương trong chiếc chuyên cơ riêng, khi tôi lên máy bay hay khi bước ra khỏi đó, tâm trạng của tôi cũng chẳng có gì thay đổi. Tôi không chỉ là một nhà thiết kế thời trang, tôi còn là một con người.
Tôi không bao giờ mang chuyện giới tính hay tình dục ra mà bàn thảo với gia đình. Sau khi tôi 18 tuổi, họ biết, chỉ như thế. Tôi chỉ bắt đầu thật sự nói về chuyện đó với họ năm 32 tuổi, như một sự giải thoát. Ý tôi là về tình ái, chứ không phải tình dục. Trước đây, khi còn trẻ, tôi sợ nói về những điều này, dù biết rằng mình khác biệt từ khi 5 hay 6 tuổi gì đó. Nhưng tôi sợ rằng nếu nói với mẹ tôi, rất có thể bà sẽ không còn yêu thương tôi nữa.
Người yêu của tôi bây giờ hoàn toàn không muốn dính dáng gì đến Dolce&Gabbana, và tôi hài lòng vì điều đó. Dù trong bất cứ trường hợp nào, chuyện tình giữa tôi và Domenico vẫn chưa bao giờ thật sự kết thúc, có nhiều cách để yêu thương, và là những người tri kỷ, là một cách.”
Domenico Dolce:
Hồi đầu, bọn tôi bị chê là lũ lôi thôi nhếch nhác. Khi đến London lần đầu tiên, chúng tôi đã bị choáng ngợp hoàn toàn bởi sự ưu ái hào phóng. Ở đó, người ta cứ tưởng chúng tôi là những thành viên của một boyband nào đó. Từ hồi đó đến giờ, phong cách cả hai hầu như vẫn vậy, dù trước đó tôi đã từng mê mệt Montona, Versace và Armani. Hồi tuổi teen, tôi ưa mốt quần nhung sọc và áo cũng sọc, hầu hết của nhà Clarks.
Bây giờ thì hầu như tôi luôn mặc T-shirt khi vui. Sinh ra trong một gia đình truyền thống nghề may, cả tuổi thơ tôi lớn lên giữa những câu chuyện về thời trang, hay nói một cách khác, tất cả mọi thứ trong cuộc đời tôi đều xoay quanh thời trang. Vậy mà đến tận bây giờ, phong cách trang phục của tôi vẫn không thay đổi là mấy, có chăng là khác biệt về độ dày mỏng của chất liệu – cashmere cho mùa đông, và cotton cho mùa hè. Và cả quần jeans nữa.
Đối với tôi, một trong những điều tuyệt vời nhất là ngắm nhìn người khác, những người bình thường, mặc những thiết kế của mình. Cũng có những lúc tôi nhìn thấy một ai đó mặc đồ D&G và thoáng nghĩ trong đầu “Ôi trời, không!”, nhưng bạn chẳng thể chặn thiên hạ giữa đường mà bắt người ta về nhà thay đồ.
Tôi có món đồ “hên” nào không? Có, nhưng đó là bí mật. Tôi có từng phạm sai lầm trong thời trang? Có, nhưng tôi không nói đâu. Tôi không thích mặc thứ gì nhất? Tôi có gout riêng, nhưng tôi không bao giờ nói không bao giờ.
Tin giờ chót: “Hân hoan” báo tử D&G!
Cho đến mùa tuần lễ thời trang Milan vừa qua, thương hiệu song hiệp hùng mạnh vẫn ngạo nghễ với sự tồn tại an nhiên qua bao mùa đại loạn của kinh tế thế giới trong suốt 26 năm tồn tại. Con dân phố Wall có thể nhảy từ tầng cao building xuống và trái đất có thể đang nóng lên, nhưng Dolce và Gabbana vẫn là “Kings of Blings”, mỗi mùa rải khắp địa cầu những món thời trang để khích lệ những mùa săn ráo riết nhất.
Một số nhà phân tích cho rằng sự phối hợp song toàn giữa dòng thời trang xa xỉ Dolce&Gabbana, dòng thời trang thân thiện D&G và dòng phụ trang – mỹ phẩm đã cho họ một thế kiềng 3 chân kinh điển vững mạnh để duy trì thế đứng, ngay cả khi các thế lực thời trang hàng đầu đang liên tiếp ngả nghiêng chao đảo, đặc biệt các đế chế haute couture.
Thế nên, quyết định xóa sổ dòng D&G – vốn luôn được mặc nhận là tinh thần nữ tính và được báo giới nhắc đến như một nữ nhân. “Nàng út” D&G sẽ được sáp nhập cùng với cô chị xa xỉ Dolce&Gabbana của song hiệp khiến cộng đồng tín đồ thời trang hoang mang. Phải chăng ngay cả các thành trì vững chắc nhất cũng đang co mình lại cho vừa vặn chiếc chăn quá chật của toàn cảnh thị trường thời trang thế giới?
Tuần lễ thời trang Milan vừa qua, bộ sưu tập D&G cuối cùng đã thượng sàn catwalk. Một cuộc diễu hành thật sự của sự trẻ trung và lộng lẫy. Từ backdrop trải dài lên catwalk là một tấm khăn lụa kẻ ô sáng chói, dẫm đạp lẫy lừng phía trên là những cặp trường túc hào hứng nện gót, những cô dâu diêm dúa đủ màu cuồng nhiệt theo giai điệu các bản remix đầy thái độ của Prince và James Brown. Vẫn là những gì người ta biết về D&G – với thẩm mỹ của một gái hot và tài khoản của một CEO.
Nhưng ngay vào khoảnh khắc cặp đại song hùng bước ra cúi đầu chào, khi mà khán phòng hả hê đổ tràn ra hứng ánh mặt trời hào phóng của Milan, các hộp thư điện tử của họ đã kịp nhận thông cáo đóng cửa nhãn hàng D&G. Và chỉ cho đến khi đó, tức là vài giờ sau show diễn vui nhộn cuối cùng, người ta mới ý thức được rằng đã vĩnh viễn không còn tồn tại một D&G trên bản đồ thời trang thế giới. Hai người đàn ông Ý đã quá kiêu hãnh để chấp nhận một cuộc giãy chết hình thức mà gần đây người ta đã chứng kiến quá nhiều. Cánh hồng rải tung trong không trung, các soundtrack nhạc kịch cổ điển bi tráng, những giọt lệ lịch thiệp chừng mực từ hàng ghế đầu,… tất cả đều bị từ chối. D&G ngã xuống, cười toe.
Họ đã chọn cách thông báo tin này đến nội giới thời trang như một tin vui, hơn là một lá thư giã từ hay tuyên bố phá sản: “Chúng tôi xin được hân hoan báo tin cùng quí bà, quí ông, rằng từ các mùa thời trang kế tiếp, D&G sẽ trở thành một phần của Dolce&Gabbana, mang lại một sinh lực mới cho các bộ sưu tập về sau của chúng tôi.”
Đây là một động thái hưởng ứng khá kì cục đối với lời kêu gọi của Mario Boselli, chủ tịch Viện Thời trang Ý đối với các nhà thiết kế hiện đang dành nhau từng suất diễn quý báu để có mặt trong lịch trình của tuần lễ thời trang Milan “Đây chính là cơ hội để tự vệ trước khủng hoảng, hãy hợp nhất!”
Trên thực tế, các tay buôn tin hành lang đã kháo nhau về quyết định này của nhà Dolce Gabbana. Nhưng phần lớn sự đồ đoán đều cho rằng nếu có một phần nào của quyền lực song hiệp bị thu gọn, đó sẽ là dòng xa xỉ Dolce&Gabbana, theo gương “cần kiệm” của những thế lực haute couture đàn anh đang phải nhẫn nhịn “dân chủ hóa” tính công phu và tag giá kiêu kì vốn có của mình. Để đáp trả, Dolce và Gabbana đưa ra quyết định cuối cùng cho dòng hàng vốn xưa nay mang lại một nguồn niên lợi khổng lồ cho thế lực của họ, đặc biệt tại thị trường châu Á là D&G. Họ muốn một lần nữa ngạo nghễ chứng tỏ quyền lực của lòng kiêu hãnh haute couture, có thể tùng quyền thỏa hiệp, nhưng bất bại và trường tồn.
Đây còn là một đòn chơi khăm oái oăm nhất lên đầu hội xì thẩu chuyên hàng D&G nhái tại Trung Quốc với một sản lượng không hề nhỏ các sản phẩm mang nhãn D&G, từ T-shirt, jeans đến các hàng phụ trang. Điều này cũng đồng thời là một tin đáng hân hoan cho các fashionista ranh mãnh, khi mà từ nay, các dòng thời trang thân thiện sẽ kiêu hãnh mang tên Dolce&Gabbana với một cú nhún mình lịch thiệp đẹp mắt của thế lực xa xỉ đến với thị trường thời trang đại chúng.
========================================
Miuccia Prada – kẻ làm nên bộ da Quỷ Cái
Trác Thúy Miêu
Với Anna Wintour đứng đầu danh sách tín đồ và thanh danh bản thân cũng thuộc hàng đầu bảng phong thần của PeTA, Miuccia Prada có được cho mình một hình ảnh xứng tầm gia tộc quyền lực nhất thời trang thế giới.
Và khó lòng vẽ nên một chân dung hoàn chỉnh của chính “quỷ cái” Anna Wintour nếu thiếu một nét phác mang hiệu Prada.
Và từ đó, cái tên Prada không còn thuộc về gia phả cháu con nhà sáng lập Mario Prada nữa. Nó trở thành tính từ đại diện cho một phong cách sống: ngạo mạn trong tinh thần trang nhã, cầu kì trong cấu trúc thân thiện, và đài các ngay trong những bảng màu lòe loẹt và họa tiết ngô nghê nhất.
Nữ thừa tự đại nghiệp họ Prada
Không phát hiện “vấn đề giới tính” từ khi còn nhỏ, không bẻ ngoặt bánh lái số phận để chọn thời trang, có bằng PhD ngành khoa học chính trị, là một thành viên hoạt động bình đẳng giới, và chưa hề được đào tạo chính quy về mỹ thuật – người đàn bà mang cái tên quyền lực Miuccia Prada đã có cho mình một hồ sơ như thế, tức là không “fashionable” chút nào so với các đồng nghiệp đi trước và cùng thời.
Số phận đơn giản đã cầm tay dắt bà đến với thời trang, khi đặt Miuccia vào vị trí kẻ thừa tự của thương hiệu Fratelli Prada của dòng họ vào năm 1978, nơi bà đặt vào đó một góc nhìn rất riêng của một phụ nữ tưởng như không có chút gì khí chất thời trang: góc nhìn từ bộ óc của một diva quyền lực.
Điều này ắt đã là một sự bất ngờ với ông nội của bà, cũng là người sáng lập thương hiệu. Là một nam tử hán Ý Đại Lợi thuần chủng và thủ cựu, ông cụ Mario chưa bao giờ tin rằng thế giới của doanh lợi và quyền lực có chỗ cho những dấu chân đàn bà. Thậm chí ông đã đích thân ra tay can thiệp để tránh cho cuộc kinh doanh của dòng họ lọt vào tay một kẻ thừa tự là nữ nhi, dù đó có là người ruột thịt. Oái oăm thay, những đứa cháu trai mà ông kì vọng nhắm tới đều không tỏ ra tí hứng thú nào với việc cáng đáng đại sự nhà Prada. Mario ngậm ngùi đặt trọn ván bài vào tay đứa cháu gái, khi này đã lộ rõ khí chất nữ quyền.
Cũng vào thời kì này, Miuccia gặp và yêu người cộng sự và bạn đời Patrizio Bertelli. Đôi trẻ thế hệ cấp tiến đã lập tức cấy vào hệ thống nhà Prada những mầm mống mang xu hướng tư duy tiến bộ đầy tham vọng. Với gout thẩm mỹ của đứa con gái dòng họ Prada, lớn lên trong niềm kiêu hãnh của một gia tộc cầu kì và vương giả, Miuccia chỉ việc đặt lối sống của các tín đồ thời trang toàn cầu vào giá trị truyền thống của thương hiệu Ý, và không sự hợp nhất nào tốt hơn thế, để lập tức đặt bà vào vị trí đáng nể trong làng thời trang cao cấp thế giới.
Trường phái “tân Italy” trên gia huy họ tộc
Phớt lờ các nguyên tắc của thiết kế thời trang và kinh nghiệm về kỹ nghệ, đối với Miuccia, những kiến thức đang được tổng hợp lại đã đến từ chính những gia tộc thời trang như nhà Prada, nơi bà sinh ra và thừa tự: “Nên mặc nhiên với quá trình tư duy và sản xuất, sản phẩm cuối cùng mới là giá trị tiên quyết, cho dẫu bản thân tôi không đính nổi một cái móc khóa bình thường vào một chiếc túi xách bình thường nhất.”
Thái độ thực dụng “tân Italy” này được thể hiện rõ ràng hơn qua những thiết kế của Miuccia trên trang phục: tối giản, kinh điển, và hoàn toàn thoải mái tự tại trong sự xa xỉ đến ung dung tự tại. Say sưa với mục tiêu mới, Miuccia tiếp tục tung ra nhãn hàng mang dấu ấn cá nhân mang cái tên vui nhộn Miu Miu năm 1992, tách biệt khỏi ưu chất cố hữu của áp lực gia tộc Prada. Đến tận thời điểm này, Miuccia mới thật sự nhập cuộc. Miu Miu chính là phiên bản gout thời trang cá nhân của Miuccia, với chiến lược hình ảnh và tag giá thân thiện hơn. Với Miu Miu, bà có thể thực hiện cuộc chơi nhân danh bản thân mà không làm phương hại đến sự kiêu hãnh dòng hàng xa xỉ của nghiệp lớn nhà Prada. Miu Miu là một trò nghịch ngợm tài tình nhất, nguồn cơn hứng thú cho vị nữ vương dư máu liều: “Tôi không thích những thứ hiển nhiên, bởi vậy tôi luôn tìm cách tung ra một ý tưởng “lệch lạc”, sai so với cái vẫn hằng được cho là đúng – một cái gì đó khác. Chỉ thuần túy làm ra một cái gì đó đèm đẹp không thôi thì đã là điều dễ. Việc không được đào tạo cho phép tôi dễ dàng nhìn thấy những vẻ-đẹp-ngoài-luồng, và sự tỉnh táo giúp tôi biến chúng thành vẻ-đẹp-mới.
Cứ như thế, vào những mùa trào lưu màu trung tính, người ta sẽ có một Prada bung trào bảng màu lòe loẹt nhất đủ khiến phái bảo thủ Ý suy tim, cùng những mẫu giày sặc mùi thực dụng. Miuccia chỉ cười xòa: “Tôi thì tôi cho rằng thời trang đòi hỏi sự chuẩn xác đến cực đoan. Tôi cũng vậy, nhưng không cực đoan theo dòng.”
Ngược dòng thời thế tạo trào lưu
Bà tự nhận xét các thiết kế của mình là “kì khôi và không hoàn hảo”, và đó cũng chính là lí do vì sao bà tạo nên được cả một trào lưu cho các tín đồ tân thế hệ. Sự thừa nhận và tôn vinh quyền lực ấy đã ảnh hưởng lên văn hóa đại đồng, mà dấu son rực rỡ nhất là bomb cine The Devil Wears Prada.Dù nhăm nhe mô tả chuyện thâm cung tờ Vogue và đại nữ Anna Wintour cũng cần cả một chân dung đặc tả do Meryl Streep thủ diễn, bản thân Prada chỉ cần xuất hiện như thế, như một con dấu đóng lên cái tựa đầy kiêu hãnh, với sức mạnh ẩn dụ mãnh liệt hơn mọi tính từ để tô vẽ nên một khí chất Wintour.
Dấu ấn Prada xuất hiện ở khắp nơi, vượt trên cả một thương hiệu thời trang để trở thành dấu hiệu của lối sống xa xỉ, một thứ đế vương hiện đại, vừa đẳng cấp, vừa phổ thông, và phổ thông đến mức không chỉ xuất hiện trong siêu phẩm cinema mà còn cả những serie truyền hình thời thượng. Như thể nhắc đến câu chuyện của các diva thành thị, thì ắt đẳng cấp Prada không thể vắng mặt như một yếu tố cần và đủ.
Kinh điển nhất vẫn là serie về các tín đồ thời trang long lanh lãng mạn của New York – Sex And The City, khi mà cô nàng phóng viên thời thượng Carrie Bradshaw dẫn độ anh kép mới đến tiệm New York Prada để “đổi đời”: “Đối với một số người thì sự kiện hệ trọng tiên khởi là cuộc gặp gỡ các bậc phụ huynh, còn đối với Carrie, đó là cuộc chạm ngõ Prada”. Các tín đồ ruột khác của Prada là Linsay Lohan, Eva Longoria và, đương nhiên, đứng đầu danh sách là bà Mùa Đông Anna Wint-er cũng đồng ý với quan điểm thức thời và sâu sắc này.
Đồng bóng và tráo trở
Một ngày đẹp trời năm 2007, Miuccia Prada, khi này đã đường hoàng ngự chiếu trên làng thời trang thế giới, thở hắt đầy sầu não và tuyên bố “Tôi chán lông thú rồi!”. Hội PeTA reo hò, lập tức gửi đến tận văn phòng Miuccia một bó hồng đỏ tưng bừng thay lời tạ lỗi vì vụ khủng bố runway, do các nhà hoạt động xớn xác đã không thể ngờ rằng bộ sưu tập lần ấy của Miuccia đã ngấm ngầm sử dụng hoàn toàn lông thú nhân tạo. Trong khi đó, giới tín đồ chao đảo, còn Anna Wintour tuyên bố nếu không vì nghiện quá nặng những kiểu khăn choàng lụa của Prada thì đã gạch tên bà khỏi danh sách thượng khách cho những trang quảng cáo của Vogue.
Phe PeTA và đảng Xanh hẵng còn hể hả trước một loạt tên tuổi bự sự cuối cùng cũng hạ tay cam kết “cai nghiện xác thú” gồm Kenneth Cole, J.Crew, Ann Taylor và Ralph Lauren, thì lời tuyên bố của Miuccia quả đã thêm phần rạng rỡ cho vòng nguyệt quế vinh quang của sự nghiệp “cai nghiện”.
Trong khi đó, dân nội giới rành chuyện thì cho rằng tiếng thở hát não nề nọ rất có thể sẽ chấm dứt hình ảnh những binh đoàn trường túc mình khoác xác thú nghễu nghện diễu hành trên các runway cao cấp, không ít người khác chỉ cười ruồi và cho đây là trò đồng bóng thất thường vốn là thuộc tính của những tên tuổi khét tiếng làng thời trang thế giới.
Quả nhiên, chỉ một năm sau đó, các điệp viên hội PeTA đã ghi nhận được một cuộc điện thoại gọi trực tiếp đến đại bản doanh Prada Corps USA, xác nhận một lượng thiết kế đủ gây rùng mình bằng lông cáo, chồn, gấu trúc Bắc Mỹ vày chồn vizon đã được tung rải thảm tại toàn bộ hệ thống boutique và cửa hiệu Prada tại các department store tại Bắc Mỹ, với tag giá từ 2,000 USD cho một mẫu áo khoác viền lông, đến 22,000 USD cho chiếc áo khoác toàn bộ bằng lông chồn dày ngập mặt, làm từ xác 60 con chồn vizon tuyệt đẹp và không có khả năng tự vệ. Chúng được nhốt giữ trong điều kiện thê thảm tại các trang trại lông thú, bị giết bằng hơi gas hoặc chích điện, hay bị thương đến chết do bị sập bẫy.
Đòn lật lọng trắng trợn về sau được sao y nguyên mẫu với nữ đồ tể Donna Karan. Bà này thậm chí buông lời cam kết như đinh đóng cột, và ngay lập tức nuốt ngược vào chiếc lưỡi tráo trở của chính mình.
Rõ ràng cơn buồn chán của nữ đồ tể người Ý qua nhanh như gió thoảng, và tên tuổi dòng họ Prada lại tiếp tục vấy tanh máu súc vật. PeTA và các hiệp hội bảo vệ động vật khác lập tức rùng rùng triển khai chiến dịch kêu gọi ý thức tiêu dùng của các fashionista. Chưa bao giờ các cuộc tấn công bằng tương cà tàu hũ nát lại rầm rộ như thế. Mùa Đông năm ấy, tại một số khu thương mại, người ta đã ví von rằng không thể phân biệt nổi giữa tuyết rơi và tàu hũ bay, nếu không nhờ những tiếng thét căm phẫn của cả hai phía – phe nghiện xác và các nhà hoạt động.
Quỷ thì có thể bận đồ Prada, chứ thành viên hội PeTA thì chắc chắn là không.
Ứng viên viện Met 2012
Năm 2011 đã đánh dấu son lên lịch sử viện Met (Metropolitan Museum of Art exhibit) với cuộc triển lãm gây rúng động mang tên Alexander McQueen: Savage Beauty, như một sự kiện vinh danh và tưởng nhớ thiên tài thời trang vắn số. Với chính xác là 661,509 lượt người đến chiêm ngưỡng chỉ trong 4 tháng khiến Met trở thành thánh địa hành hương của mọi con dân tín đồ sùng kính nhất.
Câu hỏi còn lại là liệu viện Met sẽ chọn gương mặt nào để tự cạnh tranh với tên tuổi huyền thoại Lee McQueen cho lịch mục triển lãm 2012.
Và câu trả lời, sau rất nhiều đồ đoán lẫn những cuộc vận động ngấm ngầm, cuối cùng cũng đã được công bố trong sự tâm phục khẩu phục toàn phần của thời trang giới: nữ hiệp từng sát cánh với tên tuổi Salvador Dali lẫ Alberto Giacometi: Elsa Schiaparelli và, đương nhiên, vâng, chiếc vé còn lại thuộc về Miuccia Prada.
Trong mọi lí do để nôn nóng dành cho sự kiện này có cả việc trông đợi sự hiện diện của Quỷ Cái Anna Wintour, cùng Meryl Streep, Anna Hathaway và Emily Blunt – tác giả cuốn The Devil Wears Prada. Chưa hết, cô đào Haylee Steinfeld của True Grit, người vừa được chọn là gương mặt đại diện cho Miu Miu ắt cũng sẽ không thế vắng mặt, và thậm chí việc này ắt đã được cộng thêm vào các điều khoản hợp đồng kí kết giữa nhà Miu Miu và Haylee. Trong các tên tuổi đương thời của làng điện ảnh và là tín đồ của Prada còn có ngôi sao Twilight: Breaking Dawn 1 – Kristen Stewart. Stewart mắc chứng “nghiện” Prada khá nặng qua sự dìu dắt của stylist riêng là Tara Swennen.
Ngoài ra, các con nhang đệ tử nổi tiếng của Prada chắc chắn sẽ hành hương về viện Met còn có Carey Mulligan, Gwyneth Paltrow, Jessica Alba, Julianne Moore, Kirsten Dunst, Kate Hudson, Maggie Gyllenhaal, Mary-Kate Olsen, Megan Fox, Naomi Watts, Nicole Kidman, Rachal Zoe, Rihanna, Sienna Mmiller và Salma Hayek.
Chỉ bấy nhiêu thôi, đã đủ để sự kiện triển lãm sắp tới của viện Met dưới cái tên Prada hứa hẹn trở thành sự kiện thảm đỏ đình đám và lộng lẫy nhất của năm.
Và chỉ bấy nhiêu, cũng đủ để hàng ngàn con vật vô tội chờ đợi một cuộc đại thảm sát với những hình thức dã man nhất tại các trang trại lông thú để phục vụ cho ngày đăng quang những bộ da của loài quỷ.
Không chỉ dành cho trẻ em ham chơi lâu lớn
Những mảng ren cứng khô còng queo vằn vện chạy trên chiếc jacket hầm hố, họa tiết xe đua in nhì nhoằng trên những chân váy xếp pleat tung tẩy, đối với một nhà thiết kế nào khác, đây hẳn là bảng mô tả hiện trường một vụ tai nạn giao thông, nhưng đối với Miuccia, đó chỉ là bộ sưu tập Donna e Motori (Đàn bà và Xe hơi) – một khái niệm thoạt tiên tưởng chừng như sặc sụa hormone đàn ông, nhưng lại thể hiện một vẻ xinh xẻo dịu dàng cũ xưa.
Phía sau hậu đài, nhà thiết kế nói về ý tưởng kì khôi của mình “Tôi đã tìm cách để vực dậy khái niệm ‘dịu dàng xinh xắn’, thứ thẩm mỹ mà thời trang đương đại kị húy. Tôi không hiểu nổi, tại sao đàn bà con gái lại cần phải tỏ ra hung hăng ngạo ngược đến vậy?”
Thế là bà trộn nháo nhào lên mọi thứ, ngô nghê và láu lỉnh, cứng và mềm, đồ chơi cho con trai trên những bộ váy búp bê cho con gái. Nháo nhào và đăng đối một cách hoàn hảo! Chiếc bánh kem ngọt ngào trở nên dễ nuốt trôi hơn cho những nhà bình luận thời trang đã quen liều cay chua mặn chát của hương sắc hùng hổ nữ quyền. Sàn diễn loang lổ vệt dầu nhớt, những thanh xà kim loại nặng nề hầm hố, và những chiếc xe hơi con con màu hồng phấn ngô nghê,… tất cả tạo nên một phông màn hoàn hảo cho ý tưởng kì khôi nhưng dư thừa tiềm năng “cháy chợ”.
Cũng những yếu tố phông nền ấy được phản ảnh lại một cách tài tình trên từng thiết kế tung tăng diễu qua trước khán phòng: hồng kẹo ngọt, vàng mơ và xanh lơ của những chiếc Cadillac đỏm dáng, những chiếc áo chẽn nâng cao bộ ngực căng phồng, jupe bó sát bộ mông ngổ ngáo và hiếu chiến như những chiếc motor đôn dên, và la liệt những chiếc xắc tay trông như những chiếc xe đồ chơi, đủ để chiêu hồi khuyến dụ bất cứ cậu nhóc ham chơi nào bên trong mỗi quý ông.
Rõ ràng như dấu ấn của nữ thừa tự nhà Prada: năng lực sáng tạo và tiềm năng cháy chợ như những cỗ xe chờ phóng hết tốc lực, nhưng trong một bộ dạng thân thiện và, như bà nói, “xinh xẻo dịu dàng” – và hi vọng là sạch vết máu.
====================================
hồ sơ PeTA 2 (tiếp theo): Đại chiến Ngoạn mục PeTA Vs Vogue
Trác Thúy Miêu
Sự hằn học cay nghiệt giữa hai người đàn bà đã từ lâu trở thành một cuộc đấu tay đôi kì thú thu hút sự chú ý của báo giới, vừa mang khí khái của hai đại nữ khét tiếng trong xã hội, mỗi người nghiệt ngã với một lí tưởng riêng, vừa mang màu sắc bỉ bai cá nhân luôn khiến các nữ đối thủ có nhiều trò hấp dẫn hơn hẳn những cuộc đối đầu của các quí ông.
PeTA bị chơi khăm và Chiến thuật phong tỏa lộ trình hành hương điện tử
Tháng Hai 1995, một nhóm đối lập dựng lên website mang tên peta.org, với luận điệu rằng PETA là tên viết tắt của “People Eating Tasty Animals” (Những Người Ăn Thịt Thú Ngon). Vụ việc đã khiến Peta nổi đóa và theo đuổi kiện tụng cho mãi đến tận 2001, với phần thắng đương nhiên nằm ở phía Hội Những Người Không Ăn Thịt Thú Dù Dở Hay Ngon. Nhưng trong suốt những năm đó, hội peta.org đã gây không ít rắc rối cho kênh thông tin mạng của chánh hội Peta, khi mà hầu hết các cú click trên mạng Internet đều bị “dẫn độ” ngay tắp lự đến tên miền peta.org.
Ngay trong những năm theo đuổi vụ kiện tụng, kẻ khủng bố lắm chiêu Peta cũng mau mắn học lại được trò ranh mãnh này của đối thủ và dùng chính chiêu thức khủng bố mạng này để chống lại kẻ tử thù lâu năm của Newkirk là Anna Wintour. Thế là đường hoàng xuất hiện website voguemagazine.com, khiến những cú click của các tín đồ trên toàn thế giới, trên đường hành hương điện tử tìm đọc “thời trang chân kinh nguyệt san” Vogue bị “dẫn độ” về những trang hình ảnh và tư liệu lên án gay gắt đại nạn thảm sát động vật để phục vụ cho nền công nghệ xa xỉ đang được tích cực ủy lạo bằng những shot hình hào nhoáng trên các tạp chí thời trang láng lẩy mà Vogue đứng vào hàng đầu.
Hẳn nhiên, vụ chơi khăm nẻo hành hương điện tử của kênh truyền thông đối thủ không bao giờ tồn tại được lâu, nhưng cũng đủ thời gian để làm xính vính ít nhiều đến tờ Vogue, và đặc biệt lôi kéo thêm một số lượng tín đồ văn minh đáng kể trong đại cuộc tẩy chay thời trang lông thú.
Cảm tử quân khuyết danh vụ xác chồn ở tiệm Bốn Mùa
Cuối cùng thì người ta cũng tìm ra nữ chiến binh “cảm tử” đằng sau vụ xác chồn trên đĩa Anna ở Four Seasons để nghe cuộc tường thuật lại quá trình của hành động đáng nể ấy. Cô tường thuật lại việc tiếp cận một trang trại lông thú và nhặt được xác con vật tội nghiệp bê bết máu trong đống xác động vật. Xác con vật được ướp trong thùng lạnh chờ ngày hành động. Với nguồn thông tin từ chính nội gián Vogue, người ta nắm được lịch trình đi lại của Wintour, và bữa ăn trưa tại Four Seasons đã được chọn, bởi đây là nhà hàng nổi tiếng tập trung các yếu nhân giới thời trang và showbiz. Điều này càng khiến việc tiếp cận trở nên khó khăn hơn cho quân “cảm tử”, bởi lực lượng an ninh tinh nhuệ của nơi dành cho các yếu nhân này.
Cô đã chưng diện như một fashion diva chính hiệu, đặt xác chồn vào một túi mua sắm của một cửa hiệu thượng hạng và nói với nhân viên phục vụ ở đây rằng mình là cuộc hẹn mà Wintour đang chờ. Cô được dẫn đến bàn của đại nữ nhà Vogue, khi này đang dùng bữa cùng một phụ nữ và hai quí ông khác.
Nhà hoạt động can đảm tiến lại gần Bà Chúa Băng Giá, bất ngờ và đanh thép “Thật đáng xấu hổ cho mụ! Đây, cho những con vật mà mụ đã giết, đồ nghiện xác!” rồi vứt mạnh xác con vật rơi ngay lên đĩa thức ăn trước mặt Wintour. Đôi mắt bé xíu không còn sự sống của con vật vẫn mở. Trong khi Wintour và các vị khách vẫn còn sững sờ đông cứng như chính xác con vật tội nghiệp, nữ thành viên quả cảm của PeTA đường hoàng bước ra đường gọi taxi, kiêu hãnh và cả quyết hơn bao giờ.
Dịch vụ y tế bị khước từ
Trước những ngón “đòn thù” không khoan nhượng liên tiếp xả vào giới thời trang, Ingrid Newkird đã vô tình hình thành cho bản thân một bức chân dung dữ dằn và khắc nghiệt, như một đối trọng tuyệt vời với bà tổng biên tờ Vogue – kẻ thù số 1 của phái PeTA – Anna Wintour.
Không ngừng gửi những thông điệp vừa nghiêm khắc quyết liệt, vừa chân thành thống thiết tới tờ Vogue để thuyết phục bài trừ thời trang lông thú nhưng hoàn toàn vô hiệu trước phản hồi băng giá của Anna “Winter”, Ingrid ngán ngẩm tuyên bố rằng bà sẵn sàng đài thọ một ca chụp não cho Wintour để tìm liệu xem trong đó có xuất hiện dấu hiệu mong manh nào của nhân tính, với lời trần tình mai mỉa đầy tính khoa học “Bạn biết không, khi một số dây thần kinh bị tổn thương, nó ngăn chặn sự phát triển một số khía cạnh nhân tính cơ bản, chẳng hạn như lòng trắc ẩn và khả năng thấu cảm”.
Kể từ đó, xác chồn được quăng vào đĩa của Anna tại nhà hàng Four Seasons, sơn đỏ như máu hắt tràn trề nhày nhụa ngay thềm nhà riêng tại Sullivan Street. Mặc dù hẳn nhiên, cuộc chiến của PeTA không chỉ ưu ái tờ Vogue hay cá nhân Anna làm đối thủ, nhưng những chiến thuật bền bỉ và không khoan nhượng của Ingrid khiến người ta rùng mình tự hỏi điều gì đã khiến người đàn bà đầy lòng trắc ẩn với muôn loài sinh linh này lại có thể cay nghiệt đến vậy với đồng loại, và trên hết, mặc dù nhắm vào nhiều nền công nghệ khác nhau – từ nghiên cứu khoa học đến chế biến thực phẩm, nhưng các ngón đòn thù luôn được nhắm tập trung vào giới thời trang, dù không hẳn mức độ tàn sát đã sánh bằng với sự dã man trong các phòng thí nghiệm hay con số hủy diệt của ngành công nghiệp thực phẩm.
Trái tim Mùa Đông
Mưa tương cà vẫn rơi và đạn tàu hũ vẫy bay, Ingrid Newkirk vẫn điềm tĩnh tuyên bố “Tôi không chống lại thời trang! Tôi chỉ rất có vấn đề với một số người trong giới thời trang.” Bà khẳng khái thú nhận “Bản thân tôi sở hữu chiếc áo có cổ viền lông thú đầu tiên vào năm 18 tuổi, 19 tuổi tôi có hẳn một chiếc áo khoác làm từ 100 con sóc. Hồi đó tôi nghĩ trông mình mặc chiếc áo nọ thiệt đẹp!” Sự thật thà và một chút móc ngoáy ý nhị của Ingrid lại một lần nữa thắng điểm thiện cảm tuyệt đối của báo giới dành cho vị nữ thủ lĩnh đảng phái quá khích PeTA, đương nhiên là chừng nào bà còn chưa ném tàu hũ vào ống kính của họ. Dĩ nhiên rồi, không nhiều nhà báo có gout ăn xài của bà tổng biên tờ Vogue.
Không chỉ bởi những trang ảnh lộng lẫy trải tràn trề hàng tảng lông thú ngồn ngộn mềm mại đầy rù quến được ưu ái tỉa tót đến từng milimetre vuông được đăng ngập ngụa trên Vogue, không chỉ bởi những bài review ca tụng các mẫu thiết kế làm từ những xác thú chết đẹp mĩ miều, mà chính Wintour là một tông đồ khét tiếng trong vai trò con nghiện đồ da và áo lông thú đến bất khả cai chữa. Kéo theo từng lần xuất hiện của cá nhân bà, và từng trang bài, ảnh của Vogue là rầm rộ một cơn sốt đòi xác thú của hàng ngàn diva thời trang khắp nơi trên thế giới. Điều này khiến không chỉ ở vai trò tổng biên nhà Vogue, mà chính cá nhân Anna Wintour trở thành cừu nhân hàng đầu của phái PeTA và cá nhân nữ thủ lãnh Ingrid Newkirk.
Giới showbiz Mỹ rầm rộ phản ứng với Anna Wintour sau vụ bà này công nhiên đấu tranh cho cái gọi là “quyền mặc lông thú của phụ nữ”.
Vài tuần sau vụ con chồn chết ở Four Seasons, một lá thư được gửi đến văn phòng tổng lãnh Vogue, với chữ kí của Kim Basinger, Alec Baldwin, Sarah Bernhard, Woody Harrelson và ngay cả cục cưng trang bìa của Vogue là Tatjana Patitz, cùng nhiều sao thượng hạng khác thẳng thừng yêu cầu chấm dứt hành động ngang nhiên ủy lạo cho thời trang lông thú trên tờ Vogue: “Chúng tôi tin rằng chẳng có gì là sành điệu trong việc giết hại thú vật chỉ vì những món hàng xa xỉ. Chúng bị giết bằng hơi ngạt, chích điện, dìm xuống nước và siết cổ. Chúng tôi yêu cầu tạp chí Vogue hãy trở thành một ấn phẩm thân thiện bằng việc chấm dứt việc ủy lạo, quảng cáo cho thời trang lông thú.”
Sau khi lá thư được chuyển đi, người ta đã rất trông đợi vào một phản ứng tích cực từ văn phòng Mùa Đông, bởi hẳn nhiên, ai cũng biết bà Wint-er rất coi trọng những mối quan hệ với giới showbiz hàng đầu, mà hầu hết tên tuổi đều lưu lại thủ bút bên dưới bức tâm thư.
Phản hồi duy nhất đến từ một phát ngôn viên của tờ Vogue: “Chúng tôi sẽ tiếp tục kí các hợp đồng quảng cáo và ủng hộ thời trang lông thú trên các trang mục của Vogue.”
Ngay sau đó, nội dung lá thư được đăng tải ngay sau thư tòa soạn của Vogue tháng ấy, như một thông điệp của Vogue rằng mùa đông này là mùa của những tín đồ thông minh và ưa chuộng lông thú: “Đây chính là khoảnh khắc để tôi thú nhận rằng, vâng, tôi mặc lông thú. Và tôi còn ăn cả beefsteak mỡ màng nữa.” Cùng với mẹo vặt là chiên khoai tây bằng mỡ động vật sẽ ngon hơn rất nhiều khiến Anna ngon ơ chiếm giữ đầu bảng trong danh sách đen của hội PeTA và sổ thù vặt của cá nhân Ingrid cùng nhiều thành viên PeTA khác.
Nhưng danh sách không chỉ dừng lại ở đó, vì Anna cũng có cho mình những tông đồ trường phái liệt neuron trắc ẩn.
Ở vị trí bia ngắm cho Ingrid, xếp hàng ngay sau lưng Wintour không ai khác hơn là nhà thiết kế rất được Vogue sủng ái – ông kẹ mặt chì nhà Chanel – Karl Lagerfeld. Cũng như Wintour, chú K. không hề lấy đó làm điều: “Trái đất đang nóng lên hả? Tôi có thấy vậy đâu?” Hẳn nhiên rồi, đương nhiên là thế, chú.K, khi chú đang đứng sát sạt ngay sau lưng Bà Mùa Đông, chẳng có gì phải bàn về nhiệt độ địa cầu cả!
Thái độ băng giá đầy khiêu khích của Wintour cũng kích động trào lưu ngang phè trong giới thời trang. Tiếp nối đại tẩu truyền thông và tay đồ tể mặt chì Lagerfeld, nhà thiết kế nội y Janet Reger ngang nhiên tuyên bố trên sóng truyền hình rằng mình là tín đồ nặng nghiệp của thời trang xác thú. Ngay lập tức hôm sau, thỏa lòng nguyện ước, Janet và các show diễn có sử dụng thiết kế của bà được đưa vào bản đồ chiến lược của phiên họp thành viên PeTA. Các chiến thuật đa chiêu lại được đưa ra bàn bạc giữa các thành viên dạn dày mưu lược, còn Janet Reger khấp khởi chờ ngày được phong thành tông đồ tử vì đạo, còn con gái bà là Alica Reger thì lớn tiếng gọi các nhà hoạt động là “bầy đàn bại binh nhếch nhác”.
Có vẻ như cuộc thánh chiến dằng dai PeTA chống thời trang lông thú sẽ còn tiếp diễn nóng rẫy tại khắp nơi và mỗi mùa tuần lễ thời trang. Những kẻ đã từng ủy lạo và cam kết, như Donna Karan, vẫn trở mặt, Naomi trở thành kẻ phản bội đê hèn, và những hình ảnh thương tâm sẽ vẫn được gửi đến tận tay những đồ tể hào nhoáng, những tiếng kêu rít của các sinh linh vô tội vẫn thống thiết vang lên bên ngoài lớp cửa khép kín của những tòa tạp chí, đeo đẳng bám theo bằng dấu máu trên bộ áo khoác của các diva. Hàng tấn tàu hũ sẽ vẫn còn bay, dẫu tuyệt vọng, về phía giá băng của đại nữ Wint-er, và xuôi theo vòng xoay thời trang, sẽ vẫn là câu cầu khiến mỏi mòn của không một thế hệ fashionista tiến bộ, mà còn là của nhân loại, và Mẹ Thiên Nhiên: “Stop the insanity! No blood for vanity!”
===================================
Hồ sơ PeTA: Nỗi Kinh hoàng Của Những Con Nghiện Xác Thú
Trác Thúy Miêu
Họ có mặt ở khắp nơi, đanh thép và không khoan nhượng như những chiến binh cảm tử, hay tinh nhuệ lão luyện như những nhân viên tình báo chuyên nghiệp. Họ có thể bất thình lình xuất hiện ở bất cứ đâu, trực diện tấn công vào những tượng đài thời trang và yếu nhân giải trí với vài vòng cảnh vệ bao quanh.
Họ hoàn toàn có thể là một kỳ nữ phim đen bất thần ngồn ngộn xuất hiện trên những tấm poster khổng lồ, mình không mảnh vải, hào phóng ban phát tòa thiên nhiên hùng vĩ cùng thông điệp ngạo nghễ “Thà ở truồng còn hơn mặc lông thú!”.
Họ – những nhà hoạt động của PeTA – nỗi kinh hoàng của những tuần lễ thời trang, đặc biệt khi vào mùa của những bộ sưu tập mùa lễ hội – mùa của những tấm áo mĩ miều làm từ xác chết.
Các nhà khoa học hàng đầu lần lượt bị điệu ra trước tòa, bộ Quốc phòng Hoa kỳ đóng cửa vĩnh viễn một phòng thí nghiệm hóa học, hàng loạt nhân viên ngành thực phẩm bị mất việc, và các nhà thiết kế bị ép buộc ngậm ngùi kí vào bản cam kết vĩnh viễn từ bỏ thời trang lông thú.
Sự pha trộn giữa những trò vặt cay nghiệt, những chiêu thức đáo để đến trơ trẽn, thói độc tài ngang ngược, và một lòng trắc ẩn sâu sắc dữ dội đến vậy chỉ có thể đến từ một người đàn bà.
Nhưng không phải bất kì người đàn bà nào, nếu đó không là Ingrid Newkirk.
Nữ đồ tể bất đắc dĩ
Người đàn bà gốc Anh ấy đã rất có thể có cho mình một sự nghiệp an toàn vừa đủ với chiếc bằng chuyên viên chứng khoán, nếu vào một ngày năm 1969, Ingrid không tìm thấy những chú mèo lạc hay bị bỏ rơi và mang chúng đến các nhà tiếp nhận. Cô kinh hoàng trước điều kiện tồi tàn của các cơ sở này, và với những gì không chỉ đến từ nền giáo dục trường dòng, cô quyết tâm bẻ ngoặt định hướng sự nghiệp cuộc đời vào mục đích bảo vệ động vật – một công việc khi này còn chưa được xem là một “nghề”, trừ các bác sĩ thú y phục vụ nông nghiệp hoặc thú cưng của các gia đình thượng lưu.
Ingrid trở thành viên chức ban bảo vệ động vật tại Montgomery County, và về sau trở thành nữ chuyên viên đầu tiên tại cơ sở tiếp nhận động vật hoang đầu tiên tại quận Columbia. Cũng chính trong thời gian này, tự tay bà đã giết phải đến hàng ngàn con vật, có thời gian, trung bình hàng chục con mỗi ngày, những con vật bất hạnh đã từng được nuôi nấng như một thành viên gia đình và ruồng bỏ, thậm chí hành hạ, đánh đập, và không có đủ người với đủ lòng trắc ẩn để nhận chúng về nuôi, các cơ sở tiếp nhận, sau một thời gian, buộc lòng phải “tiêu hủy” chúng. Về sau, Ingrid còn thất thần cay đắng kể về thời gian này với tờ The New Yorker: “Những con người ngoài kia, có lẽ việc làm đau các con vật này khiến họ thích thú, hay thỏa mãn một điều gì đó trong họ. Còn tôi khi ấy, tôi khóc suốt trên đường chạy xe về nhà. Khi ấy, thâm sâu trong lương tri, tôi hiểu không thể gọi đây là một việc làm đúng.”
Thành viên đầu tiên của PeTA
Năm 1980, cũng là năm gieo xuống hạt mầm Peta, Ingrid bước ra khỏi cuộc hôn nhân kéo dài từ khi bà mới 19 tuổi. Ingrid gặp Alex Pacheco, khi này đang là một giáo chức truyền đạo và tình nguyện viên tại cơ sở tiếp nhận chó mèo lạc nơi Ingrid làm việc, nơi ông trở thành mối tình thật sự đầu tiên của Ingrid, với tất cả sự mê đắm của ái tình lãng mạn lẫn mối tương đồng khắng khít của hai kẻ chiến hữu, dù Ingrid lớn tuổi hơn rất nhiều, với tư duy thực tế, trong khi Pacheco vẫn còn là một cậu thanh niên mới lớn, nồng nhiệt và vô ưu.
Pacheco đã tặng Ingrid cuốn Animal Liberation của Peter Singer, và vào tháng Ba, bà thuyết phục người tình trở thành nhà đồng sáng lập của ý tưởng Peta, khi này chỉ gồm 5 nhân sự cùng làm việc dưới một tầng hầm, hầu hết là sinh viên, hoặc hội viên các hiệp hội, tổ chức môi trường tại địa phương.
Thoạt tiên, theo lời kể lại của Pacheco, lời đề nghị này không có vẻ thuyết phục đối với ông, “Tôi đã từng hoạt động tại Âu châu, và quá hiểu về tính rắc rối trong các nguyên tắc rối ren có liên quan đến chính trị của các tổ chức nhân đạo tương tự. Tôi chỉ muốn tự mình làm điều gì có thể. Nhưng bà ấy đã chinh phục tôi hoàn toàn khi đồng tình với tôi rằng các tổ chức hiện tại đang hoạt động yếu ớt, và hẳn nhiên là chính phủ, và nhân loại cần một tổ chức đúng nghĩa, hoàn toàn thiện nguyện và hiệu quả hơn để bảo vệ loài vật.”
Và Ingrid Newkirk có cho mình một chiến hữu, và PeTA có một thành viên đầu tiên.
Những con khỉ ở Silver Spring
Ingrid đã không nói suông với Pacheco. Một năm sau khi thành lập, Peta đã gây rúng động toàn thế giới với vụ 17 con khỉ tại Silver Spring. Vụ việc dấy lên sự phẫn nộ lớn trong công chúng, và trở thành đề tài tranh cãi kéo dài của các nhà đạo đức về các hành vi tra tấn với mục đích nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Hành vi tại Silver Spring, Maryland. Vụ bê bối khai màn cho các cuộc ruồng bố của cảnh sát đến tận các phòng thí nghiệm khắp Liên bang Hoa kỳ, tạo áp lực lên quy định nghiêm ngặt đối với hoạt động thí nghiệm trên động vật tại Mỹ, và chiến dịch mang tên Animal Welfare Act năm 1985. Đây cũng được ghi nhận là vụ kiện về tính phi nhân trong việc thí nghiệm trên động vật đầu tiên được đệ trình lên tòa án tối cao Liên bang Hoa kỳ. Peta giành được quyền chăm sóc các chú khỉ dưới quyết định của toàn án bàng Louisiana.
Năm 1981, đích thân Pacheco đã vào làm việc tại phòng thí nghiệm nghiên cứu loài linh trưởng của Viện Nghiên cứu Hành vi Silver Spring, với mục đích trực tiếp điều tra các biện pháp tiến hành thí nghiệm trên động vật tại đây. Ông đã phải trực tiếp chứng kiến, và thậm chí tham gia vào các quy trình cắt bỏ các hạch thần kinh cảm nhận trên tay và chân khỉ, khiến chúng mất hoàn toàn các cảm nhận xúc giác. Một số con khác bị rút bỏ hoàn toàn các đốt sống lưng. Họ trói các con vật khốn khổ rồi cho chích điện, giơ cao thức ăn và nước uống để ép chúng phải sử dụng những phần đã bị tê liệt trên cơ thể.
Pacheco đã bằng cách đó đột nhập vào phòng thí nghiệm vào buổi tối, chụp lại hình ảnh các con vật bên trong phòng thí nghiệm và gửi các bằng chứng hình ảnh này đến cảnh sát và yêu cầu một cuộc lục soát hợp pháp, đồng thời bắt giữ giáo sư Taub – kẻ điều hành phòng thí nghiệm phi nhân nọ. Trong suốt vụ xử kéo dài 10, những hình ảnh bằng chứng này đã gây rúng động lương tri nhân loại khi được tung ra công khai qua mọi kênh truyền thông. Vụ kiện này nhắc nhớ đến chiến công của Henry Spira năm 1976, chống lại các thí nghiệm tàn ác trên loài mèo của Viện Bảo tàng Lịch sử Thiên nhiên Mỹ. Cả hai vụ kiện đã khiến chính phủ Hoa kỳ thức tỉnh và dành một sự lưu tâm đặc biệt đến hoạt động bảo vệ động vật một cách thiết thực tại Mỹ.
Cuộc đấu tranh quyết liệt 10 năm giành quyền bảo dưỡng các chú khỉ, theo mô tả của Washington Post, đã là một vụ vật lộn trong bãi lầy, với bên này cáo buộc bên kia là kẻ nói dối và bóp méo sự thật, và đưa Peta, không kém một trào lưu thời trang, trở thành một uy tín hoạt động tầm cỡ quốc tế.
Năm 1999, Pacheco rời khỏi hiệp hội, nhưng Ingrid không ở lại một mình, mà với hơn 2 triệu tình nguyện viên trên toàn thế giới, và nỗi kinh hoàng lớn mang tên PeTA.
Từ chiến công của điệp viên và thuyết khách…
Mỗi tuần, tại đại bản doanh Peta, một cuộc họp được tổ chức đều đặn với sự có mặt của hàng chục nhà chiến lược sừng sỏ nhất tề tựu quanh bàn vuông phòng khánh tiết hội sở Peta, và không có kế hoạch chiến thuật nào ở đây có tên là “quá khích” đối với nữ đầu lãnh Ingrid Newkirk. Thậm chí bà còn treo giải thưởng hằng niên với tên gọi Proggy Award dành cho các cá nhân, tổ chức có những chiến thuật và chiến dịch trội bật trong lãnh vực bảo vệ động vật hoặc đấu tranh chống hành hạ, giết hại động vật.
Các mục tiêu tối trọng của hội Peta nhắm vào các tập đoàn lớn, từ đại gia thực phẩm KFC, Wendy’s và Burger King. Trong lãnh vực thí nghiệm trên động vật, các thành viên Peta đặc biệt “ưu ái” bám sát nhất cử nhất động của các hãng thời trang và mỹ phẩm như Avon, Benetton, Bristol-Myers-Squibb, Chesebrough-Pond’s, v.v…
Cơn ác mộng PETA, đối với các tài phiệt thời trang, hơn cả những cuộc biểu tình và lằn đạn tàu hũ tương cà nhè vào mớ khách hàng thượng hạng, chính là các điều tra viên. Họ có thể là bất cứ ai, và tầm phủ sóng len lỏi của họ không dừng lại ở hậu trường các show diễn, mà luôn có thể lần ngược mối dây nhập khẩu nguyên liệu và thình lình xuất hiện ngay giữa lòng một trang trại ở tận Trung Hoa, hay một phòng nghiên cứu hóa học tận Thụy Sĩ, với mỗi cú bấm máy có thể tác động mãnh liệt đến lòng trắc ẩn của triệu triệu tín đồ thời trang văn minh.
Những điệp viên đặc vụ PETA thường phải bỏ hàng tháng, thậm chí hàng năm để theo đuổi điệp vụ. Phần lớn họ phải có một hồ sơ sạch bong, và thậm chí kinh nghiệm nghiệp vụ đủ để trở thành nhân viên chính thức tại những cơ sở đối tượng này. Họ được trang bị tận răng một cách kín đáo, hoàn toàn không thua kém các điệp viên cine chính hiệu, với nhiệm vụ thu thập chứng cứ, sao chép dữ liệu và chụp ảnh, ghi hình các hoạt động ngược đãi động vật tại đây. Cho đến 2007, tổng cộng 75 điệp vụ đã được đưa ra công luận, và thậm chí ra trước vành móng ngựa mà trong đó, bị cáo thường là các nhà nghiên cứu danh tiếng của các trường đại học, và các tài phiệt công nghệ, với phần thắng thường xuyên nghiêng về phía các nhà hoạt động PETA, khiến không ít phòng thí nghiệm đã phải đóng cửa vô thời hạn và gây khốn đốn đảo điên cho nhiều ngành công nghệ có liên quan.
Không hề trở nên khét tiếng chỉ bởi những điệp vụ gây chấn động toàn cầu, các thành viên giấu mặt của Peta thừa sức vung tay mua lại cổ phần của các tập đoàn bự sự kia cho đến khi nắm được quyền can thiệp vào công nghệ, thậm chí nắm khả năng dẫn đến nguy cơ lũng đoạn và phá sản. Chính nhờ biện pháp kinh tế táo bạo và sòng phẳng này, các đại gia cỡ McDonald và Wendy đã phải chấp nhận đầu tư tung ra những thực đơn chay, Petco ngưng kinh doanh thú quý hiếm, và Polo Ralph Lauren chấm dứt hoàn toàn việc sản xuất và thiết kế các sản phẩm từ lông thú. Trong khi đó, các trùm mỹ phẩm Avon, Estee Lauder, Benetton và Tonka Toy Co. đều nhất loạt chấm dứt việc thí nghiệm hóa học trên động vật, thậm chí trùm vũ khí Pentagon cũng quy phục mà chấm dứt hoàn toàn việc bắn thử lên heo và dê để kiểm tra sức công phá trên vết thương, và một lò sát sinh tại Texas bị đóng cửa vĩnh viễn.
…đến những màn khủng bố đa chiến thuật
Newkirk chính thức trở thành kẻ tử thù của không ít nền công nghệ, từ đại gia thực phẩm KFC, McDonald, cho đến các tông đồ thời trang xa xỉ cỡ bự như Karl Lagerfeld, John Galliano và Donna Karan. Nhưng hẳn nhiên điều này không dễ khiến nữ đại thủ lĩnh phái Peta chùn tay. Bà khẳng khái tuyên bố: “Lòng trắc ẩn có thể ủ mầm cho một sự đổi thay và lòng nhân ái. Nhưng một cuộc cách mạng chỉ có thể được đoạt lấy bằng hành động.”
Khẳng khái không kém gì khẩu khí ấy, Newkirk công khai ủy lạo cho những nhóm sử dụng hành vi tấn công và đột nhập, trực diện hay lén lút vào các đối tượng của Peta. Họ trắng trợn xâm nhập vào các phòng thí nghiệm và giải cứu các con vật, trực diện thóa mạ và hủy hoại mọi sản phẩm thời trang làm từ lông và da thú, với sự hung hăng khiến đau đầu cả những đội ngũ cảnh vệ tinh nhuệ nhất.
Nhưng thái độ của giới người mẫu đối với các chiến dịch của Peta lại có vẻ có thiện chí hơn rất nhiều, và con đường tiếp cận công nghệ thời trang qua các người mẫu của Peta trở nên có sức thuyết phục mạnh mẽ lạ thường đối với các tín đồ. Chiến dịch ủy lạo thực phẩm xanh và chế độ ăn kiêng bằng rau củ đã phủ sóng mãnh liệt lên thị trường fast-food khổng lồ nhất thế giới là nước Mỹ. Kết hợp với các vụ điều tra về hình thức giết mổ man rợ tại các lò mổ của đại gia McDonald và KFC, cùng với những cuộc biểu tình phong tỏa các chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh, và cuối cùng là thân hình mảnh khảnh đáng thèm muốn của những model khét tiếng nhất đã khiến các hợp đồng nhân sự của những lò giết mổ phải có thêm điều khoản nhân đạo trong công nghệ xử lí động vật, và ông lớn McDonald cũng đã phải nhún nhường tung ra thực đơn hamgurger chay cho các thị phần người tiêu dùng văn minh.
Nhưng gây tiếng vang đáng kể nhất phải nói tới chiến dịch “I’d Rather Go Naked Than Wear Fur” (Tạm dịch: thà khỏa thân còn hơn mặc lông thú) với một lực lượng celebrity và người mẫu chưa bao giờ hùng hậu đến vậy. Cũng nhờ chiến dịch này. Công chúng và giới tín đồ thời trang được dịp nhìn ngắm thỏa thuê mãn nhãn những yếu nhân khả ái nhất hành tinh trong bộ dạng như trẻ sơ sinh kém bụ bẫm nhưng muôn phần kích động. Chưa bao giờ có một vụ scandal khoe hàng tập thể nào rầm rộ và gây tiếng vang đến vậy. Peta đại thắng về mặt truyền thông và chính thức trở thành lực lượng đối đầu đáng gờm của ngành công nghệ thời trang xa xỉ, cho đến tận các trang trại đồ tể Trung Hoa.
Tại hội chợ lông thú quốc tế ở Paris, các thành viên Peta bò lổm ngổm trên đường phố Paris, kéo lê những cái bẫy sập ngoạm vào chân, và hào phóng vứt ra tứ phía những tờ giấy bạc thấm bê bết máu.
Ngoài ra, trong các chiến thuật du kích nhỏ lẻ và dai dẳng nhưng là nỗi ám ảnh cao đối với giới thời trang và fashionista thượng lưu là đòn bánh pie, tàu hũ nát và tương cà. Những món này khi hạ cánh bẹt thèn lẹt lên một mẫu thiết kế bằng lông thú đắt tiền trông không khác gì một bãi máu me lầy nhầy và hoàn toàn có thể phá hủy hoàn toàn bộ vía. Tháng Giêng năm ngoái, chính bộ trưởng Gail Shea của Canada đã ăn phải đòn thù bánh pie, phản ứng với việc săn bắt hải cẩu bừa bãi tại vùng biển nước này. Khi bị chỉ trích là “đòn vặt”, Ingrid bình tĩnh giải thích: “Đối với đối tượng, nó có công dụng khiến họ lúng túng, bối rối, và trở về với ngoại hình nhơ bẩn như chính bản chất hành vi của họ. Còn đối với cái nhìn của công chúng, nó sẽ có tác dụng như một vụ tai nạn giao thông mà bạn buộc phải nhìn vào.”
Tuần lễ thời trang Melbourne Xuân Hè vừa qua đã lại là một minh chứng cho bàn tay phái Peta đã vươn dài đến tận úc châu. Các nhà hoạt động tấn công thẳng lên catwalk, giăng các tấm poster ghi dòng chữ “Fur is Dead” trước rừng ống kính báo giới, ngay khi các người mẫu vẫn đang tiếp tục tràn ra đường diễn. Dẫu chỉ là 5 phút rối ren – khá nhẹ nhàng với thời trang Úc, nhưng cũng đã đủ khiến cho các nhà tổ chức thức thời lập tức rà soát từng mẫu thiết kế của mọi hãng thời trang và hủy diễn bất kể thiết kế nào có sử dụng da hoặc lông thú. Mặc cho các nhà thiết kế la ó cự nự, cuộc bạo động nho nhỏ của chi sở Peta tại Úc đã đại thắng với một Melbourne Fashion Week 100% fur-free!
Mông cừu ở Úc châu, Yasser Arafat bị cảnh cáo, và tuyến tiền liệt của ngài thị trưởng
Ngay cả các nông trại chăn cừu khai thác len cũng không thoát khỏi tầm ngắm của các thành viên đảng Peta. Mặc dù không sát hại con vật để lấy bộ da, nhưng quy trình cắt một phần lớp da của con vật để lấy lông cũng khiến các tay chăn cừu tận Úc châu không nằm ngoài tầm bay của bánh pie Mỹ. Cả một chiến dịch tấn công trực diện đã được nhằm vào nền công nghệ len sợi của Úc, trong đó, các đại gia bán lẻ đã đồng loạt tẩy chay sản phẩm và chất liệu xuất xứ từ Úc. Các nhà công nghệ và cả các chủ trang trại Úc chất phác đã tỏ ra đáo để không kém cạnh, hì hụi vác đơn kiện đảng Peta, với luận điệu rằng việc lạng đi lớp da dưới mông cừu mang nhiều tác dụng tốt cho con vật và tránh các bệnh nhiễm trùng do ruồi mang lại, có thể gây đau đớn cho cừu còn hơn bị lạng da mông. Có lẽ bị thuyết phục bởi các lý lẽ có liên quan đến da mông cừu cụ thể và khoa học như vậy, Peta chấp thuận đình chiến. Để ứng đáp cho đúng kiểu thiệp liệp giữa chốn nông trang châu Úc và trùm khủng bố thời trang Mỹ, phía nguyên đơn hứa sẽ tìm tòi phương thức khai thác mới mà không lạng da mông cừu.
Thái độ không khoan nhượng của Newkirk lên cao vào năm 2003 khi bà đích thân gửi lá thư đến thủ tướng Yasser Arafat ngay sau việc một chú lừa vô tội bị nổ tung sau một cuộc đụng độ bạo lực tại Jerusalem, yêu cầu ông để yên cho các con vật.
Thiên hạ còn la ó kịch liệt với chiến dịch quảng cáo vận động của PETA mang tên “Your Mommy Kills Animals” (Má Cháu Giết Động Vật), với bức họa theo lối hoạt hình một bà nội trợ tay lăm lăm dao đang tấn công một chú thỏ. Triệt để hơn nữa, để tiết giảm lượng tiêu thụ sữa, tổ chức này còn tung ra chiến dịch “Got Beer?” (Có bia không?) như một đòn chơi khăm sát ván chiến dịch quảng cáo sữa nổi tiếng “Got Milk?” (Có sữa không?). Cho đến khi một số bằng chứng y khoa cho thấy các sản phẩm từ sữa có thể là nguyên nhân dẫn đến ung thư, vừa lúc thị trưởng New York là Rudolf Giuliani được chẩn đoán chứng ung thư tuyến tiền liệt vào năm 2000, PETA mau mắn chạy luôn bức ảnh của ông với hàng ria mép trắng và dòng chữ “Got prostate cancer?” (Có ung thư tiền liệt không?). Đến đây thì cả nước Mỹ la ó phản đối, dĩ nhiên là với các chủ trang trại và các hãng thực phẩm chế biến cự nự dữ dằn nhất.
Trong mọi kế sách chiến lược của mình, hẳn nhiên chiêu khỏa thân chưa bao giờ là cũ nhưng vẫn luôn phát huy tối đa hiệu quả truyền thông.
Tháng Tám 2011, PETA chính thức ra mắt website “người lớn nhẹ”. Phát ngôn viên của tổ chức là Lindsay Rajt tuyên bố với Huffington Post rằng họ “sẵn sàng tận dụng bất cứ chiến thuật và phương tiện nào tốt nhất, hiệu quả nhất cho quyền động vật”, cô còn trấn an rằng website nọ sẽ được xử lí “cẩn trọng và gắt gao với mọi thông tin, hình ảnh để đảm bảo không rời xa hiệu quả của thông điệp và mục đích chính”. Đến đây, các tổ chức bình quyền phụ nữ lại vào cuộc, cho rằng PETA đang vì quyền động vật mà đạp lên cả nhân phẩm phụ nữ.
Bản thân Newkirk, khi bị các nhà hoạt động bình quyền lên án về chiến dịch khỏa thân của các người mẫu, ngôi sao chống nạn sử dụng thời trang lông thú, đã điềm nhiên trả lời “Để đạt đến mục đích nhân đạo, chúng tôi buộc phải bón mớm cho công luận và giới truyền thông những điều họ luôn đói khát”.
Những cuộc săn lông thú và những “con thú” thượng lưu
Chính từ những vụ scandal phá rối sôi động của đảng Peta mà khắp các thánh địa thời trang và giải trí lớn trên thế giới đã dấy lên một môn “thể thao mạo hiểm” mới, hợp thời và là một phần của lối sống fashionista phố lớn: săn tội đồ!
Những cuộc săn này nhằm vào các tượng đài phong cách mới, các celeb danh tiếng. Bãi săn là mọi “vùng trũng” của giới thượng lưu, dập dìu tài tử minh tinh. Từ hộp đêm, nhà hàng, khu nghỉ mát, các đại lễ thảm đỏ, v.v… Những cuộc bố ráp lớn có cả một lực lượng paparazzi hùng hậu, súng ống nòng flash trang bị tận răng, các hội viên activist dấu kín những ổ tàu hũ, túi nilon đựng tương cà và cả bánh pie trong những túi đựng hàng của shopper, và chen chân trong đó là cả những tín đồ thời trang văn minh với diện mạo sành sõi điệu nghệ thừa sức trà trộn vào những đám đông vương giả.
Những “con mồi” được phát hiện thường được chờ dẫn dụ cho đến khi vô tình lọt vào giữa vòng vây bố ráp để lãnh trọn cơn mưa đậu hũ tương cà trong ánh flash lóe lên liên hồi kì trận, và ngay hôm sau, cùng với chiếc áo lông thú đã bị hủy hoại không thương tiếc là một loạt những hình ảnh toét nhoèn cà đậu của đêm trước được phơi bày thảm hại trên các cột báo chính luận cũng như lá cải. Trong số đó, Madonna, Kate Moss, Vic Beckham, J.Lo và Paris Hilton là những con mồi ưa thích của môn “thể thao mùa đông” kì thú này.
Thậm chí giới celeb còn cho rằng scandal “lộ hàng” hay bị phát hiện địa chỉ website khiêu dâm trên ổ cứng còn dễ chịu hơn rất nhiều so với việc bị phát hiện mặc thời trang lông thú.
“Con mồi” gây bẽ bàng nhất cho Peta phải kể đến trường hợp Heather Mills. Người ta tìm được những hình ảnh người phát ngôn danh tiếng của đảng Peta đã từng mặc áo lông chồn cách đó gần…20 năm. Dù Heather tự bào chữa rằng đó là chiếc áo của bà thân mẫu để lại, vết nhơ ngụy quân tử sẽ không bao giờ được gột sạch khỏi danh tiếng Heather Mills – vốn là một mạnh thường quân đắc lực của Peta.
Những chiến binh chân dài và trần trụi
Nằm trong các chiến thuật chống thời trang lông thú của Peta, các thành viên đã trà trộn vào hàng trăm show diễn từ Âu châu, Hoa kỳ cho đến Trung Hoa. Họ có thể bất cứ lúc nào bất thần phun sơn đỏ bê bết lên sàn catwalk, cùng lúc nhảy lên chiếm trung tâm sàn diễn, một số trong tình trạng khỏa thân, tay khư khư biểu ngữ, poster. Đôi khi, điều bất ngờ nhất đối với dàn nhân viên bảo vệ khi các tay khủng bố lại chính là các celebrity hàng đầu, hay thậm chí các người mẫu trong ê-kíp đột ngột thoát y án ngữ ngay trước khu vực báo chí, khỏa thân và che phía trước bằng biểu ngữ nổi tiếng “Thà ở truồng còn hơn mặc lông thú!” (I’d rather go naked than wear fur)
Bản thân biểu ngữ này trở thành tên gọi của cả một chiến dịch lẫy lừng, với sự ủng hộ nhiệt tình của hàng loạt tên tuổi nổi tiếng trong làng người mẫu và các ngôi sao giải trí thượng thặng. Họ không ngại ngùng pose các kiểu ảnh, thậm chí xuất hiện nơi công cộng, trần trụi và tự tại, vật che thân duy nhất, nếu có, là tấm biểu ngữ không quá lớn. Chiến dịch này, hẳn nhiên, theo sự tính toán của hội Peta, đã gây được hiệu ứng sâu sắc, với sức lan truyền theo cấp số nhân của các ống kính truyền thông. Đó là khi chính hội Peta bị các tổ chức bình quyền cự nự kịch liệt.
Mới đây, phái Peta đã trân trọng gọi ngày sinh nhật của Boss Model Agency là Flashback Friday (Ngày Thứ Sáu Hồi Tưởng) và cho đăng tải rộng rãi bức ảnh chiến dịch I’d Rather Go Naked than Wear Fur đầu tiên được chụp với các model nam và nữ hàng đầu của agency này cách đó 15 năm trong trạng thái khỏa thân hoàn toàn. Boss Models là công ty đại diện người mẫu đầu tiên chống thời trang lông thú với nguyên tắc khước từ mọi hợp đồng với bất cứ buổi chụp ảnh hoặc sự kiện nào có liên quan đến thời trang lông thú. Một trong những top model hàng đầu của Boss khi này là Marcus Schenkenberg còn khẳng khái tuyên bố rằng anh sẽ tẩy chay triệt để bất cứ ngành công nghệ nào có dấu hiệu ngược đãi và tàn sát động vật, và cho dựng tại hộp đêm Tunnel, khi ấy là chốn lưu tới thịnh hành tại New York, tấm bảng ghi dòng chữ “Thứ Hoang Dã Duy Nhất Ở Đây Chính Là Con Người – Cấm Áo Khoác Lông Thú” (The Only Wildlife Here Is Human – No Fur Coats Allowed)
Trong làng người mẫu, nổi bật và tiên phong trong chiến dịch dài hơi Go Naked là siêu mẫu thế giới Christy Turlington, và mới gần đây là Khloe Kardashan. Sự xuất hiện bạo liệt và quyến rũ của họ trên các poster của chiến dịch Go Naked đã thu hút cả những tiếng tung hô lẫn những lời phản đối cự nự rầm rĩ từ nhiều phía. Ngày nào cuộc tranh cãi chưa đi đến hồi kết, thì hiệu ứng truyền thông của chiến dịch còn được nuôi sống. Nắm vững chân lý đó, song các phía đối nghịch vẫn không thể kiểm soát được cấp độ đình đám của chiến dịch lẫy lừng nhất trong lịch sử hoạt động của Peta.
Trong khi đó, đồng nghiệp của Kardashian là Gisele Bundchen lại bị các nhà hoạt động tấn công và la ó ngay trên sàn diễn Victoria’s Secrets. Người đẹp Brazil đã là một trong những người mẫu nổi tiếng đã tích cực phô trương những mẫu thiết kế lông thú không chỉ trên sàn diễn, như một nỗ lực đưa thời trang lông thú trở về vị trí chính thống của giới thời trang.
Phát ngôn viên Dawn Carr của Peta cho biết “Gisele đã tự ghi tên mình vào danh sách đen của Peta. Đáng lý ra cô ta đã phải biết rằng mỗi khi mặc vào một chiếc áo lông thú, đồng nghĩa với việc tuyên án tử cho không chỉ một mà hàng ngàn con vật tội nghiệp với những hình thức giết hại man rợ khủng khiếp nhất”
Lá cờ PeTA trên đỉnh phù hoa – khai pháo chiến dịch khỏa thân
Bar Atlantic tại London – chốn lui tới quen mặt của nội giới thời trang tại Anh, còn được mệnh danh là pháo đài an ninh kiên cố nhất với hàng rào an ninh ngăn cách các vị yếu nhân thượng khách với hội fan cuồng, giới săn tin và cả những tay khủng bố quá khích phái PeTA. Các tay gác cửa lịch lãm nhưng lão luyện có thể chỉ cần liếc qua để phát hiện ra một phần tử ngoại giới hay một nhà hoạt động quá khích, và các phần tử này sẽ được đón tiếp trọng thể theo một cách rất riêng.
Không một điệp viên PeTA thiện nghệ nào có thể lọt vào nơi đây. Sự kiên cố của Atlantic đáng để các phòng thí nghiệm hóa học của quân đội Mỹ cũng phải lấy làm hổ thẹn. Mọi chiến thuật tấn công trực tiếp vào Atlantic của PeTA đều liên tiếp bị phá vỡ chỉ bằng một cú phẩy tay của hàng rào an ninh Atlantic.
Và điều này không làm Ingrid Newkirk hài lòng.
Nó khiến bà phải đích thân vạch chiến lược.
Và một khi có đại nữ thủ lĩnh nhúng tay, điều đó đồng nghĩa với sự kiện khai hỏa chiến dịch chống thời trang lông thú được tổ chức, một cách bất ngờ nhất, ngay tại “trái tim nhảy múa” của giới thời trang và showbiz London – bar Atlantic, đương nhiên là với sự xuất hiện của cả một đội quân trường túc lộng lẫy đến từ các hãng đại diện người mẫu sừng sỏ nhất làng thời trang thế giới.
Một tuần sau khi nữ hoàng nội y Janet Reger gang thép tuyên bố “Tôi yêu lông thú tự nhiên!” ( I love real fur) như một tiếng hô xung phong cho phái nghiện thời trang xác thú, PeTA không hề đợi quá lâu để trà đòn thích đáng, với sự hậu thuẫn của hãng đại diện Boss Models và danh sách siêu mẫu quốc tế gồm Christy, Naomi, Nadja, v.v…
Không chỉ có I’d Rather Go Naked, PeTA còn có các chiến dịch với những câu hiệu triệu chân phương hơn như “Turn Your Back on Fur”. Báo giới được mời đến sự kiện khai hỏa để là những người đầu tiên thưởng ngoạn tấm poster chụp tập thể các người mẫu nam và nữ sáng giá nhất của Boss Models, trong tình trạng hoàn toàn khỏa thân. Người ta có chính xác 60 giây để ghi nhận lại hình ảnh và thông điệp để ngay vào sáng hôm sau, hình ảnh nóng hôi hổi của chiến dịch đã được đăng phần phật trên mọi trang đầu từ nhật báo chính thống đến tuần san lá cải.
Sự kiện này đã lập tức cải thiện hoàn toàn hình dung của công chúng về các nhà hoạt động môi trường nói chung: luộm thuộm và nhếch nhác, béo phị và khắc khổ. Giới trẻ tung hô và ủy lạo rầm rộ với hình tượng văn minh thời trang mới này, trong khi giới thủ cựu Ăng-lê, từ London đến các tàn dư quí tộc miệt vườn tỉnh lẻ đều nhất loạt lên án PeTA dữ dội. Và điều này ngay lập tức khiến cái tên PeTA trở thành một từ đồng nghĩa với tính bạo động, hợp thời, và tiến bộ.
PeTA đã thành công trong việc gắn liền lòng trắc ẩn và quyền động vật với hai yếu tố đáng gọi là vật liệu làm nên bom truyền thông: khỏa thân và người mẫu. Nếu có thứ gì mạnh hơn hai “chất nổ” ấy, thì đó chính là người mẫu khỏa thân. PeTA có cả điều ấy, và hơn thế, đó là rất nhiều siêu mẫu khỏa thân, tham gia pose khỏa thân với tinh thần 100% thiện nguyện. Khi Claudia Schiffer từ chối cam kết tẩy chay các hợp đồng quảng cáo thời trang da và lông thú, hầu như ngay lập tức những tiếng xì xầm cả quan ngại lẫn kỳ thị lan nhanh đủ để cô nàng Barbie đỏng đảnh của nước Đức phải chịu khuất phục và kí vào bản cam kết nọ.
Chiến dịch Go Naked lan tràn dài hơi và quyết liệt. Song song với liên tiếp những siêu mẫu khỏa thân là những cuộc biểu tình nhỏ lẻ hay tập thể, với chính các nhà hoạt động khỏa thân đi long nhong ở bất cứ thành phố lớn nào trải dài từ Mỹ đến châu Âu, cũng như mọi cơn sốt về xống áo mà chính các siêu mẫu này thường tạo nên sau mỗi chiến dịch quảng cáo thời trang.
Không chỉ các người mẫu mà giới showbiz cũng vào cuộc. Các siêu sao đương thịnh từ Patti Davis, vợ chồng Kim Basinger và Alec Baldwin, Frank Skinner cho đến David Baddiel đều đã từng xuất hiện khỏa thân trên các poster của chiến dịch.
Điều này ngay lập tức mang lại khoản thiệt hại trị giá 12 triêu Mỹ kim cho hãng nhập khẩu lông thú lớn nhất tại Hoa kỳ là Evans Inc, với mãi lực giảm 22%, và không lâu sau đó là một cú trượt dốc không gì cứu vãn nổi cho đến cái đáy phá sản với lời cuối ngậm ngùi: “Chúng tôi chưa bao giờ muốn thừa nhận tác động của những tay khủng bố PeTA lên công cuộc kinh doanh của mình, nhưng giờ thì khó tìm lời lí giải hợp lí nào khác cho những thất thoát và tình trạng khánh kiệt”
Liên tiếp những năm sau đó, tổng mãi lực lông thú trên toàn thế gới giảm hẳn 60%.
Nhưng chiến thắng chưa bao giờ là 100% tuyệt đối, ngày nào còn những con vật bị tàn sát, và ảnh hưởng của PeTA chưa xoay chuyển cục diện một cách nhanh chóng và triệt để hơn khi hàng ngày, còn quá nhiều động vật bị hành hạ và hiến tế cho sự man rợ của phái tín đồ nghiện xác thú.
BẢNG PHONG THẦN CHIẾN HỮU VÀ CỪU NHÂN
PeTa và các chiến hữu
Năm 2007, danh ca Paul McCartney trở thành “Nhân Vật Trong Năm” của PeTA, sau sự thành công của chiến dịch thuyết phục hãng British Airway ngưng sử dụng chất liệu da thật để bọc ghế hạng thương gia, và chiến dịch chống thời trang lông thú trên Internet mang tên Second Life. Chưa hết, Paul McCartney còn cống hiến cho PeTA một mạnh thường quân quý báu khác, chính là con gái ông – nhà thiết kế Stella McCartney – một trong những tên tuổi thời trang đầu tiên tẩy chay triệt để chất liệu lông và da thú tự nhiên với thông điệp rõ rệt “Bạn vẫn có thể ăn diện đẹp ‘muốn chết’ mà không cần phải thật sự giết một sinh vật nào.
Theo ghi nhận của website Furisdead.com, người hùng bóng rổ Mỹ Dennis Rodman là quý ông celeb đầu tiên can đảm xuất hiện khỏa thân trên poster chiến dịch của Peta na8m 2005, với thông điệp rằng cuối cùng thì nam tử hán đại trượng phu vẫn luôn nên là những kẻ có thể tự tại thoải mái nhất bên trong bộ da của chính mình. Từ đó đến nay, chàng người hùng da màu này vẫn không ngừng quyên góp tài chánh cho quỹ bảo vệ động vật của Peta.
Quả bomb tình dục này đã minh chứng rằng bên trong thân hình căng mẩy ấy không chỉ là các túi silicon mà còn có cả một trái tim vàng và lòng trắc ẩn thiên phú. Pamela là thế hệ celeb đầu tiên tình nguyện hoạt động cho Peta trong các chiến dịch chống thời trang lông thú năm 1999, và kéo dài hoạt động thường xuyên cho đến hiện tại. Mặc dù hình ảnh khỏa thân của Pamela không phải là thứ hiếm có khó tìm bên ngoài các poster của Peta, nhưng ý nghĩa và sức nặng tiếng tăm của Pam đã khiến con số những thành viên không chính thức của Peta tăng lên theo cấp số nhân, và trong đó có rất nhiều là nam giới.
Giai nhân trường phái hoài cổ này không chỉ nổi tiếng bởi những shot ảnh gây ngứa ngáy nhãn cầu trong phong cách pin-up nũng nịu đa tình, mà cô còn được tung hô ái mộ ở tư cách một nhà hoạt động đình đám của phái Peta. Dita bắt đầu hoạt động cho Peta từ 2007, trong chiến dịch kêu gọi ý thức chăm sóc y tế và triệt sản cho thú nuôi để chúng được hưởng một sự chăm sóc chu đáo hơn, và giảm thiểu trường hợp những con thú nhỏ mới sinh bị vứt bỏ. Mới gần đây, trên Twitter của mình, nàng còn hé lộ thông tin về một chiến dịch sắp tham gia cùng Peta cũng không kém phần vừa thiết thực vừa nóng bỏng ngoạn mục.
Nàng là gương mặt ngôi sao nữ đầu tiên tham gia chiến dịch ủy lạo thực phẩm xanh và chết độ ăn kiêng tẩy chay sản phẩm từ động vật năm 2004. Không chỉ ngừng lại ở đấy, Alicia vẫn đang tiếp tục tham gia các hoạt động tuyên truyền và gây quỹ cho Peta.
Việc pose khỏa thân cho một chiến dịch kêu gọi các fashionista và hội sex-addict chuyển sang sử dụng các sản phẩm thời trang bằng chất liệu da nhân tạo hoàn toàn không nằm ngoài nghiệp vụ của cô đào phim khiêu dâm trứ danh Jenna. Nàng đứng xoạc đôi chân nuột nà lừng lững trong bộ nội y bé xíu, đôi gò bồng đảo phập phồng ôm vừa xinh trong cặp áo bằng da đen, mái tóc đen mun, môi đỏ huyết đào và hàng chữ xấc xược đầy khiêu khích “Pleather Yourself”. Sản phẩm da nhân tạo được làm ra từ plastic cũng được ngành công nghệ đồ chơi tình dục ưa chuộng và được sử dụng triệt để trong các bộ phim có sự xuất hiện của Jenna.
Không chỉ với những talkshow lẫy lừng nhằm vào đề tài “Fur-free and Fabulous” (không lông mà vẫn lộng lẫy), tạp chí O của Winfrey còn dành hẳn nhiều tháng để tẩy chay hoàn toàn mọi sản phẩm sử dụng da và lông thú. Không chỉ vậy, PeTA còn nợ Winfrey một món nợ ân tình lớn khi đại tẩu truyền hình đã khiến tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía chính đạo khi dẫn dụ thành công bà đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ Obama liên tục ủy lạo cho các chiến dịch chống thời trang lông thú, bảo vệ và chăm sóc động vật của PeTA.
Nữ hiệp đồng tính của talkshow truyền hình Mỹ tỏ ra tuẫn tiết hơn cả Winfrey khi luôn trực tiếp ủy lạo cho mọi hoạt động bảo vệ và chăm sóc động vật, từ hoang dã đến thú nuôi. Bà là tên tuổi tiên phong và ồn ào nhất trong vụ kêu gọi chấm dứt phong tục thảm sát cá heo tại Đan Mạch, hay hải cẩu tại Canada với cả sự hóm hỉnh lẫn mỉa mai cay nghiệt dành cho cái gọi là sự trưởng thành của đàn ông thanh niên tại hai đất nước này. Mỗi buổi lên sóng của Ellen đều dành một thời lượng không nhỏ cho hình ảnh của các con vật đáng yêu, hoặc những bản tin kêu gọi nhận nuôi các con vật bị bỏ rơi và bạo hành. Mặc với điều tiếng cự nự của không ít người, Ellen còn đứng đầu phong trào kêu gọi hạn chế giết mổ gà tây vào ngày Lễ Tạ Ơn – một phong tục mà theo bà là hoang phí và vô nhân.
Giai nhân có đôi mắt sâu thẳm đã quyết định không chỉ để dành tòa ngọc thể mĩ miều cho người tình kép lịch George Clooney, mà công khai phô phang cho toàn thể nhân dân trong chiến dịch Go Naked của PeTA, đương nhiên là với sự ủng hộ, dù có hơi xót của, của người tình. Nàng còn tâm sự rằng “khoảnh khắc khỏa thân và cảm thấy dễ chịu nhất của tôi không chỉ là trong bồn nước ấm hay trên giường, mà khi đó là trước ống kính trong một chiến dịch như thế này.” Bản thân người đẹp cũng tham gia nhận nuôi những con vật bị bỏ rơi.
“Con nghiện xác” Lindsay Lohan đã tự xóa tên mình ra khỏi danh sách đối tượng đen của PeTA khi bắt đầu xuất hiện thường xuyên hơn với thời trang lông thú nhân tạo, và cả một huy hiệu tẩy chay lông thú đính trên mũ như một thứ bùa hiệu nghiệm chống tàu hũ bay.
Cô đào Yvonne Strahovski từng lẫy lừng danh tiếng qua bom cine Chuck cũng là một activist năng nổ của chiến dịch “Always Adopt, Never Buy” kêu gọi nhận nuôi những con vật bị bỏ rơi thay cho việc mua chúng từ các tiệm bán thú nuôi. Nàng xuất hiện trên tạp chí Modern Dog vốn rất được các diva yêu thú cưng ưa chuộng, kêu gọi độc giả chia sẻ lòng từ tâm với những chú chó mèo kém may mắn bị bỏ rơi và chất vấn các tín đồ thời trang về nguồn gốc của thời trang lông thú.
…và danh sách không ngừng lại ở đây.
Cừu nhân của PeTA
Dù trong suốt một thời gian dài trở thành bia tập ném được ưa chuộng của các thành viên Peta, bộ sưu tập túi xách của Bà Beck lại một lần nữa thách thức trữ lượng tàu hũ tương cà của phái bạo động cực đoan này khi tung ra bộ sưu tập túi xách tuyền bằng da cá sấu và da bê. Một thành viên Peta tuyên bố thẳng thừng với tờ nhật báo Mirror rằng “có lẽ tàu hũ quá mềm và tương cà quá nhạt với gout Bà Beck, nên cô ta rất nên thận trọng với một xô máu bò thứ thiệt dội thẳng vào người bất cứ lúc nào khi cô ta bước chân ra ngoài.” Với những ai đã từng biết về Peta, đây hoàn toàn có khả năng chỉ là trò dọa suông, bởi vấn đề là liệu sự giận dữ có đủ khiến Peta sử dụng máu thật để làm vũ khí?
Người đại diện chính thức của chi sở Peta tại Anh quốc phủ nhận lời tuyên bố này, nhưng xác nhận rằng UK PeTA đang rất để mắt tới Victoria Beckham: “Chúng tôi không cho rằng Victoria cố tình lờ đi những bằng chứng thực tế về cách thức dã man dùng để giết hại những con vật để khai thác lông và da để phục vụ thời trang xa xỉ. Chúng tôi chỉ e rằng các thông tin, hình ảnh và các thư yêu cầu khẩn thiết từ phía tổ chức PeTA đã không lọt qua nổi hàng rào kiểm duyệt của các trợ lí của cô ta. Bởi không lí nào một người nào đó, dẫu chỉ còn một chút trắc ẩn trong người, lại có thể thản nhiên xem những hình ảnh tư liệu từ các cuộc điều tra của chúng tôi mà vẫn tiếp tục tiêu thụ và ủy lạo sản phẩm từ lông và da thú.”
Với sự cố gắng tuyệt vọng cho mỗi bộ trang phục và mỗi lần xuất hiện, đặc biệt bộ váy bằng những tảng thịt tươi đã khiến Lady Gaga nghiễm nhiên chiếm giữ vị trí thứ 3 trong danh sách đối tượng của PeTA. Sau đêm Gala và sự xuất hiện đáng nhớ đó, ngoài các nhà thết kế và các cây viết thời trang, lời bình phẩm được trông đợi nhiều nhất lại là từ kẻ ngoại đạo Ingrid: “Như bộ váy Lọ Lem vậy! Cô ta mà không nhanh chân về sớm thì bạn thậm chí còn có thể thấy dòi lúc nhúc trên chiếc váy ấy!”, rồi bà đột ngột trở nên sắc lạnh sau câu bông lơn: “Hẳn nhiên là cô ta rất cần còn được để ý tới, nhưng đó không nên là động cơ giết chóc.” Trong khi đó, Nữ Hoàng Làm Quá đang mỏi mòn chống chế cho “tính tư tưởng” trong bộ váy của mình bằng thông điệp “Tôi không phải là một miếng thịt”. Không ấn tượng lắm với cách bao biện lúng túng này, nhưng Ingrid vẫn tỏ nhã ý mời Lady Gaga xuất hiện tại dạ tiệc 30 năm thành lập PeTA, với hi vọng rằng Nữ Hoàng Làm Quá sẽ có cho mình cơ hội thứ hai để bình luận về thông điệp sâu xa của bộ váy nọ.
Cựu người mẫu, tổng biên Carine Roitfeld của Vogue Pháp bị PeTA tấn công ngay trước buổi diễn của Jean Paul Gaultier, Paris Fashion Week. Một tay quá khích xé rách ống tay chiếc váy nhà Balenciaga khi đang cố giằng chiếc áo khoác bằng lông dê màu tím mơ, trong khi những người khác tới tấp ném trứng vào người bà. Điều này không hề làm con nghiện xác thú nặng nghiệp người Pháp nao núng, nếu không nói là hãnh diện tự nhận mình là “kẻ tử vì đạo” sau vụ tấn công trên.
John Galliano, thời còn tại vị tổng lãnh sáng tạo nhà Dior, đã tiếp xúc trực tiếp với Ingrid và lu loa tố tội Bernard Arnault đã đặt lên ông áp lực đưa thời trang lông thú và phụ trang, áo khoác da vào bộ sưu tập để giữ tag giá xứng tầm xa xỉ. Nhưng không lâu sau đó, Petit John tung ra chiếc mũ không chỉ làm bằng lông thú mà từ hẳn da đầu và mặt một chú cáo tuyết bị lột da. Đôi mắt không còn tròng của con vật tội nghiệp khép lại ngay phía trên đôi lúng liếng được trau chuốt tỉ mẩn của người mẫu. Quả là vô giá!
Tay người Mỹ máu lạnh tuyên bố thẳng thừng với Ingri rằng “Có cầu thì có cung. Nếu còn có người mua, tôi sẽ thiết kế bất cứ thứ gì họ muốn!” Điều này cũng đồng nghĩa với hàng ngàn sản phẩm từ lông cừu karakul. Để bảo đảm chất lượng mềm mịn như tơ, những con cừu bị tế cho các diva khát máu phải là những con cừu mới sinh được khai thác bằng “phương pháp” gây sảy thai cho cừu mẹ, hoặc bị đập bằng dùi cui đến chết ngay khi chào đời. Không như mèo con, cừu con mở mắt ngay khi lọt lòng, và ắt hẳn Mẹ Thiên Nhiên không định tạo ra điều này với mục đích rằng hình ảnh một con người đang cố nện vào nó bằng dùi cui sẽ là hình ảnh duy nhất về hành tinh này mà sinh vật mong manh vắn số ấy chứng kiến được. Những con cừu non vô tội không hề biết rằng loài người, một loài người khác, đã có thể tự tạo ra những sợi tơ tổng hợp cho ra một chất lượng không hề kém cạnh bộ lông tơ mịn màng của chúng. Nhưng ắt hẳn Michael Kors phải có biết đến điều này.
Kors chỉ trả lời cụt lủn rằng “Lông cừu non có độ rũ tốt hơn”.
Ai bảo Tất Cả các nhà thiết kế đồng tính là những người mẫn cảm và tinh tế.
Naomi là một trong những gương mặt siêu mẫu tiên phong trên những poster lừng lẫy nhất của chiến dịch Go Naked, và hầu như ngay sau đó không lâu, khoác lên mình cả một chiếc áo lông thú to sù xuất hiện tại một show diễn ở Milan.
Show diễn của Julien Macdonald bị tấn công ngay tại London Fashion Week. Các nhà hoạt động tràn lên catwalk với biêủ ngữ “Fur Is Dead” và hàng vốc bột trắng ném thẳng vào mặt, ngay khi nhà thiết kế vẫn đang điềm nhiên tiến ra runway và cúi chào khán giả.
Không chỉ liên tục tảng lờ, thậm chí chế nhạo tối hậu thư yêu cầu chấm dứt sử dụng lông và da thú, gã đầu đinh mặt thẹo còn tỏ ra khoái trá khi cù nhầy với các nhà hoạt động của nỗi kinh hoàng PeTA
Năm 2003, các trợ lí của Jean-Paul Gaultier đã “phục kích” phái PeTA bằng một tảng lông thú được quăng trùm lên các nhà hoạt động khi họ tấn công show diễn của tay hooligan thời trang khét tiếng.
Trong khi các celeb cỡ bự và không thiếu cả các nhà thời trang thức thời tham gia ủy lạo chiến dịch chống thời trang lông thú, thì phái thủ cựu lại thể hiện sự chống đối yếu ớt và đuối trò. Nhà thiết kế Pháp Quentin Veron tung tràn lên catwalk tuần lễ thời trang Paris những bộ thiết kế với dòng chữ “I’d Rather Wear Fur than go Naked” (Thà mặc lông thú còn hơn ở truồng) như một phản đề đuối hơi với câu thiệu của chiến dịch “I’d Rather Go Naked than Wear Fur”.
Là bia ngắm ưa thích của các nhà hoạt động PeTA, đứng đầu danh sách ăn mặc tệ nhất năm 2005, được mệnh danh là nàng “đầu bong bóng” khi vẫn mạnh miệng gọi bản thân là kẻ yêu động vật, minh chứng bằng cục cưng chihuahua được chưng sắm xa xỉ, nhưng cô nàng “yêu động vật” cũng yêu luôn mặc da của chúng lên người
…và danh sách không ngừng lại tại đây
===========================
Đại-tẩu Truyền-thông Anna ‘Winter’
Túy Ca
Với trái tim băng giá và thanh quyền trượng bạo tàn, Lệnh Bà đã một tay nâng tầm tôn chỉ của Vogue từ một cuốn tạp chí hàng tháng của thời trang và lối sống, lên tầm một Nguyệt san Chân Kinh của nghệ thuật sáng tạo và tinh thần duy mỹ.
Và người ta không thể chạm được vào khối băng buốt giá khắc nghiệt ấy, chỉ trong khuôn khổ một cuốn phim ăn khách, dù có được đặt tên là The Devil Wears Prada.
Những cuộc chinh chiến đầu đời của tóc bob
Sinh năm 1949 tại London, trong một gia đình truyền thống văn chương và báo chí, bản thân Anna Wintour lộ rõ tư chất hoàn hảo của một nạn nhân thời trang với những cố gắng không mệt mỏi trong việc cắt ngắn những chiếc váy đồng phục, lê la cặp kè với đám văn nghệ sĩ bất hảo từ năm 14 tuổi. 15 tuổi, nàng cặp kè với Nigel Dempster – phóng viên lá cải khét tiếng và cả hai trở thành những gương mặt điểm danh hàng đêm tại các hộp đêm London.
Dẫu sao thì cha cô, ông Charles Wintour, tổng biên tờ Evening Standard, với mối e ngại về các mối quan hệ xã giao có phần phóng khoáng của ái nữ, đã muốn hướng cô thiên về thời trang hơn là không gian rối ren của báo chí. Ông đích thân lo liệu cho công việc đầu đời của Anna tại hiệu Biba boutique danh giá khi cô mới 15 tuổi. Một năm sau, Anna rời trường và theo học hướng nghiệp tại chuỗi cửa hiệu xa xỉ Harrods. Cũng dưới định hướng của song thân, Anna theo học ngành thời trang, nhưng sớm từ bỏ với lời tuyên bố “Bạn chỉ có thể biết hoặc không biết gì về thời trang, thế thôi!”. Chàng “hiệp sĩ lâm thời” của Anna lúc bấy giờ là tay văn sĩ vị lai Richard Neville đã kịp thời nối nhịp cho Anna với kinh nghiệm báo chí đầu tiên cùng tờ báo tự lập đình đám của chàng, mang cái tên cụt lủn nhưng ồn ào, đặc sệt mùi cao bồi Úc Đại Lợi – Oz.
Năm 1970, tờ Harper’s Bazaar UK sáp nhập với Queen và trở thành Harper’s & Queen, Anna lập tức được thu nhận vào vị trí trợ lí biên tập, cũng là cuộc tiếp cận đầu tiên của cô với khái niệm “truyền thông thời trang”. Ngay từ lúc này, các đồng nghiệp tại Harper’s & Queen đã nghe Anna bộc lộ tham vọng hướng về ghế tổng biên tờ Vogue. Tại đây, Wintour bắt đầu chứng tỏ rằng, những mối quan hệ phức tạp và bất hảo của mình hoàn toàn có thể trở nên có ích cho việc đưa những shot ảnh đình đám của Helmut Newton ra công chúng, theo sau là cuộc đổ bộ ồ ạt của hàng loạt các tay photographer vô danh, bất hảo và tài hoa khác đã chui nhủi dưới tầng nghệ sĩ underground trong suốt những năm 1960 đầy biến động nghệ thuật. Việc này dẫn đến kết quả dễ đoán là nàng bị đá văng khỏi tòa soạn sau một shot ảnh tái hiện họa phẩm của Renoir và Manet với những người mẫu mặc go-go boots.
Anna phẩy tay khinh thị, và cùng tình nhân lâm thời là nhà báo Jon Bradshaw trực chỉ Quả Táo Lớn New York, nơi một môi trường sáng tạo với tư duy thẩm mỹ cấp tiến hơn có thể đang chờ đợi cô.
Những cuộc bạo động thời trang & Mirabella khờ khạo
Năm 1975, Wintour làm biên tập viên thời trang cho Harper’s Bazaar New York, ghi dấu bằng những shot ảnh khiến cô bị đuổi việc chỉ sau 9 tháng. Đây cũng là thời điểm Wintour gặp gỡ Bob Marley qua Bradshaw, cặp đôi thời loạn cùng nhau biến mất suốt một tuần liền.
Một cách kiên trì đáng nể, Bradshaw vẫn sát cánh cùng cô nàng Ăng-lê bất trị, và một lần nữa dẫn dắt nàng đến với một cơ duyên khác với chức biên tập viên thời trang cho tờ Viva, một tạp chí người lớn dành cho quí bà, do Kathy Keeton, vợ của chủ xị tờ Penthouse Bob Guccione. Đây cũng là nơi lần đầu tiên, Anna Wintour nếm trải thú quyền lực của việc có một trợ lí riêng, cũng là nơi tăm tiếng về những trò nạt nộ độc tài của Bà Kẹ Wintour bắt đầu.
Cuối 1978, Guccione quyết định đóng cửa tờ báo, cùng lúc, Wintour quyết định đóng cửa một số thứ khác đã trở nên thừa thãi trong cuộc đời. Cô “thải hồi” tình nhân trung thành Bradshaw và cặp kè với tay sản xuất đĩa nhạc người Pháp Michel Esteban, bay vù vù tới lui giữa Paris và New York trong suốt 2 năm. Mãi đến năm 1980, Wintour tái xuất làng báo vào thời điểm thích hợp nhất, đó là khi biên tập thời trang Elsa Klensch nghỉ khỏi tờ Savvy khi này mới nổi. Với Savvy, Wintour trực tiếp tiếp cận với đối tượng độc giả là các diva sự nghiệp, tân kì văn minh, điệu đàng, và xài tiền do mình tự kiếm ra. Đó chính là đối tượng được thiết lập về sau cho định hướng của bà tại Vogue.
Một năm sau, Wintour nhảy sang tờ New York, nơi cô thật sự như cá gặp nước. Được tổng biên Edward Kosner hết mực cưng chiều dung túng, Wintour mặc sức phá vỡ các quy định nghiệp vụ truyền thống, bao trùm quyền lực thời trang lên mọi trang mục khác của tờ New York. Cũng chính từ đây, Wintour nghiệm ra hiệu ứng vô cùng của những khuôn mặt celeb trang bìa. Grace Coddington, 3 thập niên sau, nhắc lại: “Anna là người đã tiên liệu được thời đại quyền lực của các celebrity”. Người ta thu xếp cho Wintour một cuộc phỏng vấn với tổng biên tờ Vogue lúc bấy giờ là huyền thoại truyền thông Grace Mirabella. Cuộc trò chuyện chấm dứt khi Wintour nói với Mirabella rằng cô muốn vị trí của bà ta.
Đáng tiếc cho Mirabella, bà xem đây là một trò lố của ả biên tập nhập môn, và đã không đủ nhạy bén để cảm nhận tính đe dọa trong sự ngỗ ngược của Wintour để tiệt trừ hậu họa. Một năm sau, Wintour chính thức thâm nhập nhà Vogue, dưới quyền năng của trùm truyền thông-xuất bản Condé Nast. Cô nàng quá quắt chỉ nhận lời yên vị ghế tổng lãnh sáng tạo của Vogue sau một cuộc giằng co hoạnh họe để bảo đảm tăng lương gấp đôi. Nơi đây, các trò oái oăm quá quắt của bà được thực hiện qua mặt Mirabella, dấy lên những cuộc nội chiến phe phái khốc liệt cho cả dàn nhân sự Vogue.
Như một kịch bản hoàn hảo đến hồi dàn trải, Wintour quyết định lấy chồng, và chọn về cho mình vị tiến sĩ tâm lí nhi khoa David Shaffer – một lựa chọn hoàn hảo cho sức khỏe và trí tuệ cho những đứa trẻ về sau. Họ chính thức kết hôn năm 1984.
Từ Wintour đến Winter – Vogue vào Kỷ Băng Hà
Một năm sau, Wintour thẳng tiến vị trí biên tập, tiếp quản Vogue phiên bản Anh sau khi Beatris Miller nghỉ hưu. Ngay lập tức, với thanh quyền trượng mới trong tay, Wintour thực hiện một vụ thảm sát tập thể lẫy lừng chưa từng có trong lịch sử các phiên bản Vogue. Vogue UK thay máu toàn phần.
Những kẻ may mắn còn sống sót sau cuộc thanh trừng bắt đầu một kỷ nguyên khắc nghiệt nhất trong lịch sử nhà Vogue. Các thay đổi do Wintour chủ trương đã khiến tờ tạp chí xa rời hoàn toàn tiêu chí kinh điển, để trở thành một lực lượng xứng tầm cạnh tranh với môi trường báo chí Mỹ phù hoa và hỗn độn. Vào đúng thời điểm Wintour ghi tên mình vào danh sách thế lực truyền thông, bà đặt vào lồng ngực mình một trái tim bằng băng, và trở thành một sinh vật lịch lãm máu lạnh với cái tên có thể được đọc trại thành Anna Win-ter (Anna Mùa Đông)
Với kinh nghiệm chinh chiến từ thời làm cho tờ Savvy, Wintour thiết lập đối tượng độc giả mục tiêu của Vogue và đúng miếng bánh của Savvy: “Ngoài kia, một thế hệ đàn bà khác đang được sinh ra, họ lưu tâm tuyệt đối vào sự nghiệp và thu nhập. Họ không có thời gian cho trò mua sắm nhẩn nha. Họ muốn biết cái gì, tại sao, ở đâu, và bằng cách nào, ngay và luôn!”.
Đại bại ở New York & thảm sát tại Vogue
Năm 1987, đang đà hiếu thắng, Condé Nast biệt phái Wintour tái xuất Nữu Ước, với sứ mệnh thâu tóm luôn tờ House & Garden, khi này đang ngắc ngoải bởi thế lực cạnh tranh của Architectural Digest. Một lần nữa, Anna xuất hiện tại tòa soạn của tờ báo hiền hòa như hiện thân Tử Thần mặt thép, báo hiệu đại họa diệt vong nhân sự. Bà thẳng tay thay máu gần như toàn bộ tòa soạn, tống tờ báo lâu năm vào thẩm mỹ viện và cho xuất hiện một bộ mặt mông má hợp thời. Vị nữ tướng hiếu sát không tiếc thương quăng tất cả các bài viết và bộ ảnh trị giá hơn 2 triệu Mỹ kim vào thùng rác chỉ trong vòng một tuần đầu tiên, phủ đầy vào các trang tạp chí những shot ảnh sặc sụa diêm dúa chất thời trang, và biến House & Garden (Nhà & Vườn) thành House & Garment (Cửa Nhà & Xống Áo), với sự đổ bộ chi chít các khuôn mặt celebrities sáng giá, hợp thời và hứa hẹn cháy sạp.
Nhưng nữ hoàng băng giá đã không luôn là kẻ bất bại. Các thay đổi hồ đồ của Wintour chỉ khiến tình hình “con bệnh” House & Garden tồi tệ hơn. Với tên gọi được thu ngắn lại chỉ còn HG, Wintour đã đánh mất một lượng độc giả trung thành đáng kể. Cùng lúc, khi mà các khách hàng quảng cáo mới đổ ồ ạt các shot ảnh về thời trang và mỹ phẩm lên tờ báo, thì các khách hàng quảng cáo lâu năm lẳng lặng gạt HG ra khỏi chiến dịch quảng cáo của họ.
10 tháng sau, thất thểu bước ra khỏi trận thua trông thấy, Wintour tiếp tục mang chiến thuật của mình tấn công trực tiếp vào mảnh sân nhà – tờ Vogue, lần này với tư cách biên tập. Dưới thời Mirabella, Vogue đã nghiêng hẳn về xu hướng tạp chí lifestyle và giảm nhẹ mảng thời trang. Nội giới truyền thông và thời trang tỏ rõ mối e ngại cho tờ tạp chí lừng danh này sẽ mất dần chỗ đứng vốn đã chênh vênh trước thế lực mới nổi của Elle, khi này vừa tấn công thị trường báo chí Mỹ.
Vẫn với công thức và chiến thuật cũ, “Tử Thần Thực Tử” Wintour lập tức ráo riết và triệt để thảm sát nhân sự, cùng lúc đại trùng tu thẩm mỹ cho tờ tạp chí, từ bìa đến từng shot ảnh bên trong. Thời Mirabella, khuôn mặt trang bìa luôn là các headshot chặt chẽ được thực hiện hoa mỹ trong studio, với những gương mặt model hàng đầu. Ngay từ số đầu tiên cầm quyền, Wintour phà một hơi sinh động lên trang bìa, với những người mẫu vô danh, góc ảnh thoáng, bán thân hoặc toàn thân trên nền ngoại cảnh. Bà trực tiếp nhúng tay vào trang phục, phối trộn loạn xạ giữa hàng thời trang cao cấp với những món hàng rẻ tiền, tiên phong cho cuộc song tác kì thú mix-and-match. Tháng Mười Một, 1988, nàng Michaela Bercu khi này 19 tuổi và còn vô danh, leo thẳng lên bìa Vogue, chân xỏ cặp jeans bạc phếch giá 50 dollars, chiếc T-shirt công phu cầu kì của nhà Christian Lacroix giá sơ sơ 10,000 USD, vĩnh viễn đóng cột mốc shot ảnh bìa đầu tiên trong lịch sử nhà Vogue, jeans lên bìa!
Cuộc đại cải tổ tống mạnh quả bom tấn mới toanh vào thị trường tạp chí, nhắm thẳng thị phần mục tiêu. Wintour nắm vững cách chọn lựa và phối trộn thời trang của các fashionista có thật ngoài đời, và đưa điều đó lên trang bìa danh giá, với một sự cường điệu hóa oái oăm, ngẫu hứng và hoàn hảo của ống kính thời trang.
Trang bìa số tháng Mười 1989 đăng ảnh một model trẻ khác có tên Claudia Schiffer, tóc tơ hoe vàng, mình quấn một thứ nửa như drap trải giường hồ trắng, nửa như áo sơ-mi như tước từ tủ áo người tình, và trang điểm tự nhiên đến mức ngỡ như nàng để mặt mộc toàn phần. Một hình ảnh đời thường được các photographer, chuyên viên tóc và trang điểm trau chuốt đến trong veo và toàn mỹ. Tuyên ngôn của Wintour đã được hoàn thiện: tạp chí là phản ánh của một thứ thực tế được cường điệu một cách công phu và lâm li vi diệu. Các fashionista hẳn nhiên, ưa soi mình vào một trang báo để thấy chính hình ảnh bản thân, nhưng muôn phần hoàn mỹ, hơn là tuyệt vọng trước những shot ảnh bìa hào nhoáng của những tuyệt đỉnh giai nhân được tô vẽ như những huyễn mộng xa vời.
Những cuộc “đảo chính” không thành và những truyền nhân siêu hạng
Dưới trướng cai trị của vị tân tổng lãnh say máu chiến, Vogue chuyển hướng chú mục tuyệt đối vào thời trang, trở về nguyên trạng một tạp chí thời trang đúng nghĩa và chuyên chính cực đoan, hội đủ nội lực để ngang nhiên kèn cựa với các thế lực Elle lẫn Harper’s Bazaar. Nhưng, hơn ai hết, Wintour hạ tầm ngắm đối đầu vào một đối thủ duy nhất đáng gờm – Vanity Fair.
Nằm ngoài dự liệu của Wintour, một lực lượng nhân sự đáng kể của Vogue đồng loạt đào ngũ quy hàng nhà Harper’s Bazaar như một cuộc lánh nạn tập thể khỏi “mùa đông khắc nghiệt” tại tờ Vogue. Kate Betts – kẻ khi này được xem là một mối đe dọa cho vị trí của Wintour, xuất hiện, với những cuộc cách mạng mới ngay trước mũi Wintour. Kate thành công trong việc vươn xa tầm phủ sóng của Vogue với những câu chuyện về các nữ chính khách, những bài viết về trào lưu văn hóa đường phố, và các vấn đề thương mại, tài chính của các nhà thời trang hàng đầu. Betts cũng là người đề xuất việc thêm vào phần “Index” (mục lục) những trang bí quyết lượm lặt, thân thiện và hữu dụng. Các ý kiến đề xuất táo bạo của nhân vật trẻ tuổi này được nêu ra tại các buổi họp khiến cô chiếm được lòng nể gờm của Wintour khi công nhiên thách thức bà.
Lòng kiêu hãnh của một nữ vương khiến Wintour say máu quyết liệt và hung tàn đến lạnh lùng trong những cuộc đụng độ, khi cả hai bên đều muốn hướng mục tiêu tờ tạp chí về những hướng chiến lược đối lập. Betts cho rằng phong cách trang bìa của Vogue đang trở nên nhạt trò, Wintour thì khinh thị những bài viết về trào lưu đường phố của Betts là tầm thường, và nhún vai gọi Betts là loại “đầu rỗng thích làm trò uyên bác”.
Cuối cuộc chiến, Betts tháo chạy khỏi chiến địa tan hoang, kể lể với New York Times rằng ả độc tài tàn nhẫn ấy đã thậm chí không nương thói xã giao tối thiểu mà gửi tặng cô món quà cho đứa trẻ mới sinh. Đáp trả, Wintour, trong thư tòa soạn đăng tải trên Vogue, tỏ lời ghi nhận đóng góp của Betts đối với tòa soạn và chúc cô mọi điều may mắn.
Sau Betts, người được giả định là kẻ có đầy đủ tư cách và năng lực để thế chỗ Wintour là Sykes, điều này đồng nghĩa với việc một ngày đẹp trời, cô tuyên bố nghỉ việc với lí do tập trung cho sự nghiệp văn chương. Sau đó, lần lượt các biên tập viên khác ra đi, phần lớn được chào đón ưu ái với các chức vị cao tại các tạp chí và hãng truyền thông danh tiếng khác.
Một số người cho rằng đó lại là trò thanh trừng của nữ vương hiếu sát.
Một số khác, vài năm sau, thảng thốt nhận ra Anna Wintour đã biến Vogue thành một môi trường đào luyện báo chí siêu hạng.
Trong khi đó, tại Vogue, một hệ thống biên tập mới được lẳng lặng hình thành, với hình hài một đế chế được kiện toàn hoàn hảo.
Chức sắc Hoàng gia và chiếc váy tệ nhất năm
Tháng Chín năm 2007, Wintour vĩnh viễn ghi dấu lịch sử Vogue với số tạp chí kỷ lục lên tới chính xác 832 trang. Sự kiện này được ghi dấu lại bởi bộ phim tài liệu tung ra cũng vào tháng Chín 2 năm sau đó do Cutler đạo diễn mang tên The September Issue. Đây cũng là thời điểm Wintour tiên liệu và thai nghén những đứa con của Vogue mang tên Teen Vogue, Vogue Living và Men’s Vogue. Teen Vogue thắng quảng cáo vượt mặt Elle Girl và Cosmo Girl, còn Men’s Vogue ngay từ số đầu tiên đã nghiễm nhiên ẵm trọn 164 trang quảng cáo cháy chợ, lập kỷ lục chiến tích trong lịch sử xuất bản truyền thông Condé Nast. Còn bản thân Nữ Hoàng Băng Giá nghiêng mình lịch lãm nhận từ Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhị tước hiệu Officer of the Order of the British Empirer (OBE).
Nhưng cùng lúc, đó đã không hề là một năm yên ả thịnh vượng cho toàn cảnh kinh tế thế giới. Sau hình ảnh những tảng diềm bằng lông vũ vào tuần lễ thời trang Milan, đến shot bìa tháng Tư với hình ảnh LeBron James và Gisele Bundchen đã khiến Wintour rơi lọt thỏm vào tâm bão chỉ trích của công luận với tội danh kỳ thị chủng tộc. Một tháng sau, Wintour xuất hiện tại đêm Gala của Viện Met trong bộ váy lộng lẫy do Karl Lagerfeld thiết kế và lập tức được nội giới đồng loạt bình chọn là “Lỗi thời trang tệ lậu nhất năm 2008”
Vào mùa Thu cùng năm, tờ Vogue Living bị đình chỉ vô thời hạn, trong khi quý tử Men’s Vogue phải o ép lại còn 2 số mỗi năm, và chỉ dưới dạng phụ trương đính kèm. Vào cuối năm, bìa số tháng Mười Hai chạy rõ to lời miệt thị của Jennifer Aniston về Angelina Jolie khiến cả hai cô đào nổi trận lôi đình, Aniston trút mọi tội lỗi thất thố lên Vogue.
Người ta chờ đợi thấy Nữ Hoàng Băng Giá run rẩy giã từ cung điện bằng băng.
Thậm chí giới nhạy tin còn kháo nhau rằng vương miện tổng lãnh phen này chắc chắn rớt trúng cái đầu may mắn của tổng biên Vogue Pháp là Carine Roitfeld. Phe khác lại bỏ phiếu cho tổng biên Vogue Nga là Aliona Doletskaya để vào ghế tổng biên Vogue Mỹ.
Người ta chờ đợi một triều đại mới, chấm dứt kỷ băng hà của mùa Đông khắc nghiệt và những bộ lông thú xa xỉ mà Wintour vẫn thường vứt phũ phàng trên bàn trợ lí, trên đường “thượng triều” mỗi sáng.
Nhưng một lần nữa, Condé Nast minh chứng uy quyền và thế lực bảo kê khi đứng ra mua trắng cả trang trên The New York Times để trực tiếp lên tiếng tụng ca Nữ Oa nhà Vogue.
Nhưng đến 2009, Nữ Hoàng Băng Giá mới chịu ra tay. Bà xuất hiện khắp nơi, điềm nhiên ngạo mạn trước rừng flash. Xuất hiện trong bản tin truyền hình 60 Minutes, Wintour tuyên bố không hề có ý định ngừng lại: “Tôi cho rằng, đây chính là thời điểm thú vị nhất để tại vị và nắm quyền chủ động, đưa Vogue vào một thời kỳ mới”. Tháng Chín cùng năm, bộ phim tài liệu The September Issue của R.J.Cutler được tung ra, tường thuật quá trình chuẩn bị số tạp chí huyền thoại – Vogue tháng Chín 2007, và một chân dung tả thực hoàn hảo, đầy ấn tượng về Nữ Hoàng Băng Giá.
Wintour tiếp tục xuất hiện trên talkshow Late Show with David Letterman, ăn mặc chuẩn không chê vào đâu được, và nói về bộ phim, về hệ quả kinh tế toàn cầu lên toàn cảnh công nghệ thời trang thế giới. Hiệp hội Biên tập Tạp chí Hoa kỳ bình chọn Wintour vào Hành lang Danh vọng của huyền sử truyền thông Hoa Kỳ. Anna Wintour tại vị, lạnh lùng và bất bại hơn bao giờ hết.
“God mother”
Trong suốt những năm dài lừng lẫy chiến công và tai tiếng, Anna Wintour đã trở thành một cái tên đầy quyền lực trong làng thời trang thế giới. Nội giới thời trang biết đến Wintour còn như một “bà đỡ” hào phóng của các nhà thiết kế trẻ, một fashion diva với các cuộc chơi phong cách ngoạn mục. Trong giới, người ta thường nghe câu mắng mỏ dành cho các sinh viên thiết kế và biên tập viên tập sự: “Anh/chị có muốn tôi mang cái thứ này cho bà Anna coi không đấy?”. Tờ The Guardian gọi bà là “nữ thị trưởng không chính thức” của New York City. Các nhà thời trang khét tiếng nhất coi bà như một diva đáng trọng, và tìm đến sự khôn ngoan của bà để tham vấn. Wintour đã là người khuyến khích nhà Christian Dior tuyển mộ các tài hoa trẻ tuổi như John Galliano.
Ảnh hưởng và quyền lực Wintour còn vươn ra khỏi lãnh địa thời trang. Wintour đã dùng mối quan hệ và uy tín cá nhân để thuyết phục tỉ phú Donald Trump cho Jacobs mượn phòng khánh tiết Plaza Hotel để giới thiệu bộ sưu tập, khi tay thiên tài này đang lúc xính vính chuyện tiền nong. Gần đây hơn, anh em nhà Brooks cũng vị nể Wintour, thuê về một tay Thom Browne vô danh mà về sau đã tự tay gầy dựng cả một đế chế nhỏ cho riêng mình.
Thu nhập của bà năm 2005 là 2 triệu Mỹ kim, với những đặc quyền đặc lợi dành cho yếu nhân tối thượng, từ chiếc Mercedes S-Class kèm chauffeur (ở New York hay bất cứ đâu), đặc quyền mua sắm có giá trị lên tới 200,000 USD, một căn Coco Chanel Suite tại Ritz Paris khi đến Âu châu tham dự các show iễn. Chủ tịch Condé Nast là S.I.Newhouse còn dành riêng cho Wintour một khoản vay không tính lãi 1.6 triệu Mỹ kim để sắm căn nhà “con con” của bà tại khu Greenwich Village thượng đỉnh xa hoa.
Bữa trưa với protein ngoài vùng phủ sóng
Vào thời điểm Wintour ly dị với chồng, năm 1999, giới thợ đồn lại sôi sục các chi tiết về cuộc phiêu lưu ái tình của Bà Chúa Băng Giá với tay tài phiệt Shelby Bryan – điều nhiều người cho rằng là nguyên nhân chính của vụ ly dị. Wintour quyết không nhả một phản ứng nào qua làn môi mỏng và cặp kính đen, trong khi một số bạn bè thân tín của bà tiết lộ rằng Bryan chính là người đã làm tan chảy trái tim băng giá nọ, bởi những điều người ta có được, không phải là những nụ hôn nơi công cộng hay một cảnh nóng phòng the! Đương nhiên, đây là trường hợp một phù thủy truyền thông quá cáo già để làm nạn nhân cho trò cải vặt. Nhưng những chứng cứ hiển nhiên của một số nguồn tin của tờ Observer khi ấy cho biết, họ “bắt quả tang” những hiện tượng hiếm thấy: Wintour cười, và đôi khi còn cười phá lên.
Quả nhiên điều này đáng được xem là hiện tượng hiếm thấy, với mật độ ngang bằng việc quái vật hồ Loch Ness lên bờ sưởi nắng, và thậm chí thưa thớt hơn các cuộc tiếp xúc của con người với UFO.
Wintour tuân thủ một cách bình thản và khắc nghiệt những quy luật của chính mình. Bà thức dậy mỗi sáng vào lúc 6 giờ, có 2 giờ đồng hồ để chơi tennis, trang điểm và làm tóc trước khi thượng triều tại tòa soạn Vogue. Bà luôn có mặt sớm tại các show thời trang và tận dụng thời gian này để gọi điện thoại và ghi chép: “Không ít những ý tưởng sáng giá nhất của tôi đã được phác thảo ngay tại các show diễn”. Theo series truyền hình Boss Woman của đài BBC, Wintour không bao giờ ở tại một party quá 20 phút và luôn bảo đảm lên giường vào chính xác 10 giờ 15 phút hàng đêm.
Những giờ còn lại trong một ngày của Wintour, ngoài việc kiểm soát hoàn hảo bản thân, là một áp lực kiểm soát khắc nghiệt nhất có thể lên hình ảnh của tờ tạp chí. Từ những ngày đầu tiên ở vị trí biên tập, mọi photographer đều được lệnh tuyệt đối không bấm máy trước khi phông cảnh và trang phục được đích thân Lệnh Bà Tối Thượng phê chuẩn qua bản phim Polaroids. Sau đó, mọi shot ảnh đều phải được lập tức trao cho tòa soạn và trở thành tư liệu sở hữu của Vogue lập tức, không qua khâu chọn lựa của nhiếp ảnh gia.
Nhưng chế độ hà khắc của Bà Mùa Đông lại tỏ ra khá dễ dãi đối với phần nội dung chữ nghĩa, đến mức người ta gọi bà là “Tổng biên không cần biết đọc”. Các trợ lý của Wintour khẳng định Lệnh Bà vẫn thường xuyên duyệt nội dung bài mục, nhưng cựu biên tập Richard Story lại tiết lộ rằng hầu như Wintour chẳng bao giờ buồn ghé mắt đến các bài viết về nghệ thuật, hay thậm chí mục điểm sách của Vogue. Trước đây, Wintour thậm chí bỏ mặc việc soạn và biên tập các phần text cho các nhân viên. Các đồng nghiệp cũ của bà cũng thừa nhận văn chương báo chí là một trong những sở đoản của Lệnh Bà, và sự phấn đấu tự rèn luyện của Wintour đã cho phép bà tự tay thảo phần thư tòa soạn mỗi tháng.
Nếu gọi điện đến văn phòng riêng tại “cung điện Mùa Đông” của bà, người ta, nếu may mắn, sẽ được trả lời trực tiếp bởi 1 trong 3 trợ lý của Wintour. Nhưng đã không ít lần, một số người đã giật bắn mình khi tai nghe thốt nhiên lạnh cóng, và đầu dây bên kia vang lên đích thị chất giọng Ăng-lê với khẩu hình sát rìn rịt của Lệnh Bà Quyền Năng. Số điện thoại di động của bà, hẳn nhiên, chỉ dành cho những bạn bè và đối tác thuộc hàng yếu nhân kiệt xuất, nhưng cũng được tắt nguồn hoàn toàn khi Lệnh Bà dùng bữa trưa, thường là với một miếng thịt bò bự sự hay thi thoảng là hamburger. Những bữa ăn giàu protein là thứ duy nhất phản-thời-trang người ta có thể tìm thấy được trong hồ-sơ-Wintour.
Đừng nhìn qua “đôi mắt” của Anna!
Bản thân là một fashionista nặng nghiệp, cùng với đẳng cấp và hình ảnh xã hội cần có của một tổng lãnh Vogue chí tôn lừng lẫy, tủ quần áo riêng của Bà Chúa Băng Giá là một thế giới mẫu mực tuyệt đối và đầy tính toán trên từng chi tiết. Trước đây, người ta vẫn thấy một Wintour phối trộn T-shirt với áo gi-lê và designer jeans, nhưng từ thời cầm phương trượng tổng lãnh tờ Vogue, Wintour chạm đến sự chuẩn mực đẳng cấp thuần túy nhất của những bộ suits Chanel, đương nhiên là với váy ngắn, rất ngắn. Thậm chí trong suốt hai lần mang bầu, bà chỉ việc hơi nới lưng váy phía sau và che phủ bằng áo jacket, với đôi giày cao gót – biểu tượng của quyền lực và sự sành điệu, không bao giờ biến mất dưới chân.
Theo tay chuyên viết tiểu sử Jery Oppenheimer, cặp kính mát gọng to trứ danh của Bà Mùa Đông chính là những cặp tròng kính có độ, do Wintour có thị lực kém giống cha mình, một đồng nghiệp khác thú nhận một lần, do táy máy đeo thử cặp kính Wayfarers của Lệnh Bà, mà cô này vẫn nghĩ là kính mát, và thói nghịch dại lập tức bị “trừng phạt” với một trận chóng mặt quay cuồng bởi cặp tròng nặng nghiệp.
Trên bản tin 60 Minutes, Bà Mùa Đông tỏ ra mẫn cảm khi nói “Giờ đây, chúng (cặp kính) đã trở thành những cái khiên bảo vệ đối với tôi”. Trên thực tế, cánh phóng viên và bình luận thời trang đừng hòng tìm kiếm trong đôi mắt của bà bất cứ cảm xúc hay phản ứng nào trước các thiết kế trong những buổi diễn thời trang. Nhưng một cách vô thức, khoảnh khắc người ta nhìn thấy cặp kính đen dưới vành tóc bob ở hàng ghế đầu, đã đủ khiến không ít cái sống lưng kém chịu lạnh phải run lên. Nhưng người ta vẫn không thể không liếc tìm về cặp gọng to vô hồn ấy, để hứng vớt dẫu một chút dấu hiệu của sự tán thưởng hay bài bác chê bôi. Thản nhiên đúng chuẩn Ăng-lê, bên dưới cặp kính ấy, Lệnh Bà tỏ ra hoàn toàn lạnh lùng và vô cảm. Bà dấu sau cặp kính cú mèo và dưới mái tóc pageboy bob một bộ óc thép, cùng một khiếu thẩm mỹ khắc nghiệt đang vận hành hết tốc lực, nhưng hoàn toàn không có nhu cầu thể hiện hoặc sẻ chia.
Những lần hiếm hoi người ta nhìn thấy đôi mắt thật của Wintour, rất may đã không ai hóa đá. Có vẻ như sau cuộc ly hôn, Bà Mùa Đông cũng có nhu cầu cởi mở hơn, và đón về cho mình chút ánh sáng ấm áp ngoài bóng râm.
Phản đồ Weisberger và đòn bẩn best-seller
Mọi fashionista đều phải biết đến bộ phim Quỷ Cái Diện Prada (The Devil Wears Prada).
Nhưng không phải ai cũng biết đến cái tên Lauren Weisberger hay có nhu cầu quan tâm đến nhân vật này là ai.
Và mọi chuyện đều có lí do của nó.
Lauren là một trong những trợ lí cũ của Wintour, và viết nên tiểu thuyết The Devil Wears Prada sau khi rời bỏ Vogue. Cuốn tiểu thuyết lập tức được liệt vào hàng sản phẩm văn học hiếm hoi được các fashionista lùng mua ráo riết, không phải bởi tiếng tăm tác giả, mà vì thông tin về cốt truyện và nhân vật hầu như tái hiện trung thực các thâm cung bí sử của tòa soạn Vogue, với chân dung đặc tả của vị nữ chủ nhân lạnh lùng. Càng thú vị hơn nữa khi đây là trường tâm ca uất ức của một cựu trợ lí dám công nhiên tố oán diva thượng đỉnh chí tôn của giới thời trang.
Sau khi cuốn sách được tung ra, người ta đón đợi cơn lôi đình thịnh nộ của Bà Mùa Đông và những đòn giáng trả ngoạn mục của quyền năng bị xúc phạm. Nhưng Wintour, lạnh lẽo như vẫn hằng, điềm tĩnh trả lời với The New York Times rằng: “Tôi luôn có thể đọc một cuốn tiểu thuyết, nếu nó hấp dẫn. Với cuốn này, tôi không rõ liệu mình có muốn đọc hay không”, trong khi nữ văn sĩ mới nổi Weisberger tuyên bố rằng các tình tiết và mô tả trong cuốn truyện không chỉ là ý kiến của riêng cô, mà còn dựa trên chia sẻ của rất nhiều đồng nghiệp khác tại Vogue.
Miranda Priestly – nhân vật chính cũng là một quý bà Ăng-lê kiểu cách, với 2 đứa con, và một vai vế đáng kể với Viện Met. Đó là bức chân dung hoàn hảo của một tay quân phiệt độc tài mặc váy, luôn ngạo mạn khạc ra những mệnh lệnh trớ trêu, đặt nhân viên vào những tình thế khó khăn nhất và miệt thị họ một cách lạnh lùng, cay nghiệt khi, đương nhiên, họ thất bại. Kẻ có khả năng khiến tất cả những tạo vật còn lại của Thượng Đế thấy mình bé nhỏ, hèn kém và vụng về. Tuy vậy, nằm ngoài chủ đích của tác giả, đối với không ít fashionista, cuốn tiểu thuyết đã đặc tả một cuộc chạy đua tuyệt vọng của các nhân viên tòa soạn Vogue trên đường dành giật lấy một chút lòng sủng ái mưa móc của Lệnh Bà Quyền Năng.
Ngay trong từng tiểu tiết hành văn của Weisberger, cô vẫn không giấu được một nỗi khiếp sợ yếm thế toàn phần khi chính mình luôn tìm cách làm đẹp lòng Wintour, và luôn thất bại. Weisberger xây dựng cho mình một thế giới an ủi của các con chữ, nơi cô cho phép nàng trợ lý vụng về mờ nhạt được “chạm” đến đại nữ Miranda, và ra đi, trong an nhiên tự tại. Trên thực tế, chính những con chữ của Weisberger đã tố cáo chân dung tác giả qua những trang văn, hằn học và vẫn hoàn toàn thất thế.
Một người mà nội giới vẫn tin là một nạn nhân khác của Wintour, Betts – người đã từng bị sa thải khỏi Harper’s với lời đồn đại về xu hướng manh nha cạnh tranh và đảo chính vị thế của Wintour, đã bất ngờ nói với New York Times Book Review rằng “cô Weisberger lẽ ra nên nghĩ cho kỹ trước khi bán linh hồn cho “quỷ dữ” với giá 32,500USD. Cô ta có cho mình hàng ghế đầu lí tưởng để được kề cận Wintour, và thậm chí không rút ra được tí ti hiểu biết nào về những áp lực mà một đại nữ như Anna Wintour phải đối mặt. Như vậy, thử hỏi ở tư cách một tiểu thuyết gia, làm sao cô ta hiểu được một Miranda Priestly sẽ cần những gì để có thể tái hiện, dù một chút, một Anna Wintour?”.
Weisberger về sau chống chế “Chưa một giây phút nào tôi phủ nhận vinh dự từng được là một trợ lý của Anna.”
Dẫu sao thì cuốn sách vẫn bán rất chạy, không hẳn bởi tên tuổi Weisberger.
Cú phản đòn tuyệt hảo và “bà mụ” vắng mặt trong dạ tiệc premiere
Sự nhạy bén của Hollywood không bỏ qua cơn sốt mang bóng hình Quỷ Cái, mặc dù bộ phim The Devil Wears Prada không hề là lần đầu tiên hoặc duy nhất các nhà làm phim mượn màu tích cách Wintour. Từ kiểu tóc bob của nhân vật hoạt hình Edna Mode trong The Incredibles, cho đến cuộc sao chép tính cách Wintour của Johnny Depp khi nhập vai Willy Wonka trong Charlie and the Chocolate Factory. Và đương nhiên, không tín đồ nào không biết nhân vật Fey Sommers trong series truyền hình Ugly Betty là phiên bản hài hước của Đại Nữ Truyền Thông.
Nhưng phiên bản điện ảnh của The Devil Wears Prada lại là chuyện khác. Trong suốt quá trình thực hiện bộ phim, diva truyền thông thẳng thắn ‘nhắn nhủ’ với các nhà thiết kế hàng đầu rằng việc hợp tác, đóng góp hay xuất hiện của họ trong bộ phim (chuyện vẫn thường xảy ra với các bộ phim Hollywood mang đề tài thời trang) sẽ đồng nghĩa với việc các thiết kế và thông tin về họ sẽ bị tẩy chay khỏi mọi trang tạp chí Vogue. Nhưng người phát ngôn của Lệnh Bà bác bỏ tin đồn này, và khẳng định Lệnh Bà luôn ủng hộ mọi động thái úy lạo thời trang từ các nhà làm phim. Thật hư không rõ, nhưng kết quả là không một nhà thiết kế nào, dù được nhắc đến rất nhiều trong kịch bản, nhận lời xuất hiện trên phim, ngoại trừ Valentino Garavani – người mà ai cũng biết là đứng đầu phong trào “bài Wintour” của các nhà thời trang Ý.
Bộ phim ra mắt vào giữa 2006, cháy vé đảo điên. Wintour đường bệ xuất hiện tại lễ ra mắt, mình vận Prada. Miranda Priestly do Meryl Streep thủ diễn vẫn đầy tính nhân văn so với hình ảnh độc địa trong nguyên bản văn học. Các nhà phê bình ca tụng hình ảnh mới, các nhà thiết kế và nội giới thời trang tung hô nghĩa cử và gout thẩm mỹ cao siêu của bà tổng biên Vogue khi được cho biết, bà đã đích thân can thiệp và chăm chút cho phong cách thời trang của Meryl trong bộ phim cho giống với mình hơn. Chưa hết, Lệnh Bà hào hiệp nhân từ của bộ phim còn tuyên bố The Devil Wears Prada sẽ sớm được tung ra dưới dạng DVD. Bà khen tặng rằng đây là một cuốn phim “thú vị, giàu tính giải trí, và đưa thời trang về đúng hình hài lộng lẫy của nó”.
The Devil Wears Prada thu về 300 triệu Mỹ kim, và không còn ai nhắc đến nguyên tác văn học của nó, cùng nữ tác giả mới nổi đã kịp trở về vô danh. Một vài dòng tin có nhắc đến sự hiện diện của Weisberger tại buổi ra mắt phim đình đám, nhưng không thấy có hình ảnh nào ghi nhận điều này.
Điều này vẫn chưa đủ “tính giải trí” cho Lệnh Bà. Khi Weisberger, trong một cuộc gắng sức cuối cùng, định ấp ủ một cuốn tiểu thuyết mới, cô đã nhận được lời truyền đạt từ phát ngôn viên của Lệnh Bà, khuyên cô nên “tìm một công việc làm trợ lí cho một ai đó khác”.
Đừng làm phiền Anna!
Dư chấn của cú phản đòn tuyệt hảo và bộ phim vẫn tiếp tục ve vuốt hình ảnh và danh tiếng Wintour. Nhà viết tiểu sử Oppenheimer kể lại: “Giờ thì cái tên Anna được nhắc đến giữa những bữa trưa bình dân với Big Macs và khoai chiên, bởi những fashionista chanh cốm mình bận đồ Wal-Mart”.
Nhưng cuộc trả đũa của Bà Chúa Băng Giá chưa kết thúc. Ba năm sau đó, bộ phim tài liệu The September Issue ra mắt – một chân dung tả thực, công nhiên và hoàn hảo, biến Miranda Priestly trở thành một bản biếm họa thô sơ. Bộ phim tả thực mọi biến cố sự vụ xảy ra bên trong “cung điện mùa đông” Vogue, với sự xuất hiện hào phóng của những tình tiết đời thường, nhưng hào nhoáng và bạo liệt của một tòa soạn thời trang thực thụ trong áp lực hoàn thiện cuốn tạp chí thời trang dày hơn 800 trang. Nơi đó, Wintour xuất hiện, đầy quyền lực và thượng đỉnh chí tôn, không chỉ như một nữ chúa thiết triều, mà thật sự là một vị hoa tiêu điệu nghệ và không khoan nhượng.
Dẫu khác biệt về thể loại và chủ đích, cả The Devil Wears Prada lẫn The September Issue đều có chung một nét đặc tả về sự kiêu ngạo và xa cách của Wintour, thậm chí đối với cả những kẻ thân tín nhất. Mọi nhân viên tập sự của nhà Vogue đều được cảnh báo về điều này, một danh mục “Những điều Lệnh Bà không thích”, với điều đầu tiên và cơ bản nhất là việc bị làm phiền bởi những câu hỏi ngớ ngẩn và sự hiện diện thừa thãi. Văn phòng riêng của Lệnh Bà phải có không gian đủ rộng để khiến người ta phải đi bộ ít nhất một dặm trước khi đến được bàn làm việc của bà, và điều này là hoàn toàn có chủ đích. Họ có một dặm đi bộ để cân nhắc liệu việc tiếp cận bà có thật sự khôn ngoan và cần thiết.
Wintour vẫn thường nhắc đến hình ảnh thân phụ, người từng được các đồng nghiệp và nhân viên tại tờ Evening Standard London rùng mình gọi bằng hỗn danh “Chilly Charlie” (Charlie Lạnh Lẽo). Và sự rùng mình ấy lan tỏa đến tận New York nhiều thập niên sau đó, dành cho con gái của ông với biệt hiệu Anna Winter (Anna Mùa Đông). Nhưng điều này cũng đồng nghĩa với những cơn thịnh nộ bốc đồng, một thứ núi băng lạnh lẽo nhưng có thể phụt nham thạch rát mặt bất cứ kẻ xấu số nào trong phạm vi gây hại. Nhưng một điều khác trong bản liệt kê “Những điều Lệnh Bà không thích” còn là việc đặt biệt danh. Wintour ghét cái tên Nuclear đến mức giận dữ yêu cầu tờ The New York Times không được sử dụng, truyền bá cái tên này.
Wintour ngạo ngược, khắc nghiệt và hoàn toàn có thể rất, rất thô lỗ. Điều này đem lại cho bà một số lượng nạn nhân và cừu nhân đáng kể. Wintour không nói chuyện vòng vo hay cố tỏ ra tế nhị, và Wintour không có mặt ở tòa soạn với ý định kết bạn với các nhân viên của mình. Nói một cách khác, nếu bạn ngỡ rằng bạn vừa đứng chung thang máy với Anna Wintour thì quên ngay đi, đó chắc chắn không phải là Anna Wintour. Một luật bất thành văn khác tại nhà Vogue nghiêm cấm các nhân viên tập sự trao đổi trực tiếp với Lệnh Bà. Một biên tập viên đã từng bị trợ lí của bà quở trách thậm tệ vì việc đã lên tiếng chào hỏi bà khi gặp trong thang máy. Khi vụ việc được xác minh với Wintour, bà bảo đó chỉ là một cách nói cường điệu. Có lần, một vị khách của Wintour nhìn thấy một cô nhân viên tập sự rõ ràng là đã phát hoảng lên khi phát hiện ra mình đang đứng cùng Lệnh Bà trong thang máy. Một lần khác, một biên tập viên trông thấy Lệnh Bà tối cao trượt chân ngã trong hành lang, cô cắm mặt đi vội qua và thậm chí không dám ngừng lại để đỡ Đại Nữ. Ngay sau đó, cô gái tội nghiệp lại một phen bất ngờ khi được một trợ lí của Lệnh Bà khen rằng cô “đã làm một việc hoàn toàn đúng khi không làm phiền madamme Anna.”
Vụ ám sát bất thành và Mùa Đông được ủ ấm
Một nét đặc tả chuẩn xác nữa về Wintour là sự cầu toàn và duy mỹ cực đoan – nguyên nhân thường xuyên tạo khủng hoảng tâm lý cho mọi nhân viên quanh bà, nhưng lại khiến họ trở thành những tay sừng sỏ một khi bước ra khỏi tòa “cung điện mùa đông”. Họ gọi bà là “nữ đao phủ” của các nhiếp ảnh gia. Có lần Wintour đã bắt một nhân viên tập sự phải cắm mặt bới tung thùng rác của một photographer để tìm cho ra tấm ảnh mà ông này đã từ chối không trao cho Wintour. Bà muốn nhìn thấy tất cả, và đích thân phê chuẩn từng shot ảnh. Điều đó đồng nghĩa với việc ngay cả những shot ảnh hỏng cũng là tài sản của Vogue, và một shot ảnh bị bỏ đi khi chưa được chiếu rọi qua sự kiểm duyệt của đích thân Wintour sẽ là một tài sản bị đánh cắp. Trong một scene, sau này đã được loại bỏ, của The September Issue, người ta thấy Wintour rùng mình ghê rợn bởi “những cái xô bằng nhựa trắng tởm lợm” đựng đá sau quầy bar tại sự kiện CFDA’s 7th on Sale, và nằng nặc đòi “mang chúng đi đâu cho khuất mắt ngay lập tức”. Nếu Anna muốn một điều gì đó được thực hiện “ngay lập tức”, thì không có nghĩa là “một chút nữa”. Anna muốn điều Anna muốn, ngay và luôn, và mọi nhân viên của bà tốt hơn là thuộc nằm lòng điều ấy. Một trợ lý lâu năm của bà nói: “Bà ta sẽ quăng bạn xuống nước, hoặc là bạn phải quẫy hết mình để bơi, hoặc là chết”.
Hẳn nhiên, Wintour cũng có về cho mình, từ chế độ độc tài hà khắc ấy, những kẻ chỉ muốn cắt cổ bà. Peter Braustein – một phóng viên của Women’s Wear Daily là một trường hợp như vậy, và theo nghĩa đen. Nguyên nhân chỉ vì y đủ mẫn cảm để lãnh hội được sự khinh thị mà bà dành cho y, đó là trong trường hợp nếu bà có lưu tâm ghi nhận sự tồn tại của y trên cõi đời. Sau khi được nhận chỉ một chiếc vé để có mặt tại giải Vogue Fashion Awards 2002, mà đối với y là một sự sỉ nhục, Braustein nổi đóa và bị WWD đuổi việc. Trong buổi xét xử năm 2007, các ủy viên công tố đưa ra bằng chứng là những trang nhật ký điện tử của Braustein, trong đó ghi rõ ý định giết chết Anna Wintour. Trong đó, có đoạn “Bà ta chẳng bao giờ thèm nói chuyện với đám thợ đưa tin như chúng tôi”.
Nhưng từ những năm đầu thập niên 2000, khi mà thế giới thảng thốt về hiện tượng băng tan ở Nam Cực, thì tại New York, người ta cũng bắt đầu nhận thấy hiện tượng tương tự xảy ra với Wintour, tất nhiên là với một thái độ hân hoan hơn rất nhiều. Người ta gán công trạng này cho nhà tài phiệt Bryan, nhân tình mới sau hôn nhân của bà. Họ rỉ tai nhau “Ơn Chúa, Lệnh Bà lại được sưởi ấm đêm qua.”
Quái vật khoác lông thú và món quà Giáng sinh tàn độc
Dẫu hoàn hảo trong vai trò Nữ Oa nhà Vogue và Mẹ Nhân Từ của các designer lớn nhỏ nổi chìm các loại, Bà Mùa Đông lại là tội đồ hàng đầu trong danh sách công kích của các nhà hoạt động bảo vệ quyền động vật. Không chỉ ngang tàng xuất hiện khắp nơi ở tư cách trend-setter trong những kiểu áo bằng lông thú chánh hiệu xa xỉ, kích hoạt làn sóng noi gương của fashionista trên thế giới, những nơi may mắn có mùa Đông và còn động vật. Không chỉ thế, các trang tạp chí của Vogue cứ vào gần cuối năm lại phủ ngập những shot ảnh với những thiết kế bằng lông thú đẹp lẫy lừng, khiêu khích từng nơ-ron shopping của các tín đồ. Cuối cùng, việc Lệnh Bà thẳng thừng từ chối bán trang quảng cáo cho các chiến dịch bảo vệ môi trường đã kích hoạt trực tiếp vào bản năng quá khích của các nhà hoạt động xã hội.
Động thái này không khác gì một tuyên ngôn ngạo mạn, chiếc then kiên cố cuối cùng thả sập vào mũi Đảng Xanh, cô lập họ hoàn toàn bên ngoài thế giới thời trang. Bên trong Hàn Cung giá lạnh, Wintour vẫn tiếp tục lộng hành tung ra những shot ảnh tràn trề lông thú, với thông điệp cổ súy “Luôn luôn có cách để khoác một tấm lông thú lên người”, khiến thị trường thời trang rào rạt tiếng quẹt thẻ điên cuồng của các shopper hiếu sát.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc Anna Wintour chính thức trở thành hồng tâm tập chọi tàu hũ, tương cà – hai vũ khí truyền thống và chiến lược của mọi thành viên Đảng Xanh. Tháng Mười năm 2005, nguyên một bánh tàu hũ đáp bét nhè lên người Lệnh Bà ngay bên ngoài cuộc diễn của nhà Chloé. Lần khác, một tay quá khích khác vứt toẹt một xác gấu trúc Mỹ lên đĩa ăn của Lệnh Bà ngay giữa nhà hàng. Bà Mùa Đông chỉ lạnh lùng yêu cầu nhân viên phục vụ thay đĩa mới cho mình, đương nhiên là “ngay và luôn”!
Thái độ đáp trả của Wintour không chỉ dừng ở sự bỉ bai hờ hững. Bà còn ngang ngược dành cho họ những cú đòn bẩn đầy mỉa mai tàn độc. Giữa buổi dạ tiệc Giáng sinh tại văn phòng, vị nữ vương ngạo nghễ đã cho người gửi một đĩa thịt bò ra cho các nhà hoạt động bảo vệ động vật, khi này đang biểu tình bao vây đại bản doanh Vogue.
Thái độ bất chấp và ngạo mạn của Wintour đã khiến cả những kẻ vốn ơ thờ với vấn đề nhân đạo và môi trường phải lên tiếng. Sát nhân hụt đã hằn học ghi lại trong bản tuyên ngôn điện tử của mình rằng Wintour sẽ bị đày xuống địa ngục, canh giữ bởi những con chuột khổng lồ, nơi ắt hẳn sẽ không quá lạnh để cần đến những kiểu áo lông. Cô đào ‘bom tấn đôi’ Pamela Anderson, trong một cuộc phỏng vấn đầu năm 2008, tuyên bố rằng Wintour là loại sinh vật mà nàng khinh bỉ tận cùng xương tủy nhất vì “mụ ta đã đàn áp các nhà thiết kế và người mẫu trẻ để ép họ sử dụng lông thú.”
Grunge tuyệt chủng và đẳng cấp của ung thư
Dấu ấn “tội đồ” thứ hai của Wintour chính là vị trí tiên phong hàng đầu của bà trong trào lưu “celebrity hóa” thời trang, với những trang bìa liên tiếp tràn ngập các ngôi sao giải trí thế chỗ cho các người mẫu chuyên nghiệp. Động thái này được duy trì với mật độ thường xuyên đến độ đã thiết lập một khái niệm được mặc nhận về tiêu chuẩn ‘rating’ cho khuôn mặt trang bìa. Wintour ngang nhiên bảo ban đại nữ truyền hình Oprah Winfrey rằng bà này cần giảm béo để lên “vừa” trang bìa Vogue, với cựu đệ nhất phu nhân Mỹ Hillary Clinton rằng bà này rất không nên mặc suit màu xanh dương. Trong một sự kiện năm 2005 của bà tại Viện Met, Wintour tự tay chọn trang phục cho từng vị yếu nhân được mời tham dự, từ J.Lo, Kate Moss, Donald Trump cho đến Diane von Furstenberg. Đến dự một sự kiện của Wintour, hay ở gần Wintour, người ta sẽ ăn bận như Wintour muốn. Dẫu đó là những tỉ phú, người mẫu, minh tinh, hay các quý bà thượng lưu sành điệu nhất bậc trên hành tinh, dường như đối Wintour, họ chưa bao giờ đủ chuẩn mực, đủ đẹp, và đủ tư cách thượng lưu. Nhưng điều đáng ngạc nhiên hơn, là tất thảy những nhân vật ưu tú xuất chúng này đều không phàn nàn cự nự gì khi cam tâm lấy thân mình ra cống hiến cho trò chơi búp bê vương giả của Lệnh Bà.
Wintour đã cùng lúc dùng quyền lực và mối quan hệ để vận động các nhà thiết kế hàng đầu cho các yếu nhân mặc những thiết kế xuất sắc nhất của họ, qua sự tuyển chọn gắt gao của đích thân Lệnh Bà tối thượng. Hẳn nhiên, lời kêu gọi được nhiệt tình hưởng ứng. Kết quả win-win cuối cùng là những hình ảnh xa hoa nhất về sự kiện được đăng tải trên Vogue và khắp các mạng lưới truyền thông trên thế giới, từ People đến Us, nơi những “vì sao” lấp lánh chói lòa trong những bộ trang phục tuyệt hảo nhất, với tên tuổi các đại danh thời trang được ghi cẩn thận trong dòng credit, định hướng trực tiếp cuộc đua lên đời của hàng hàng triệu triệu nạn nhân thời trang.
Không ít người cho rằng Wintour đã tự cho phép bản thân một quyền năng thao túng quá mức, đặc biệt đến độ bà trực tiếp can thiệp vào tư tưởng thiết kế và sản xuất của thời trang. Điều này bộc lộ rõ tham vọng điên cuồng của bà vượt ra ngoài những trang tạp chí, Bà Mùa Đông muốn bao trùm quyền lực của Kỷ Băng Hà lên cả nền công nghệ, ra đến tận sàn kinh doanh.
Người ta cáo buộc Wintour tội đã khiến trào lưu grunge tuyệt chủng toàn phần hồi đầu thập niên 1990, chỉ với một lời nhắn nhủ của bà tổng biên cao quí rằng nếu họ tiếp tục cào nát các ống quần jeans, xé tưa sợi vạt chemise, xịt nhựa đường lên áo thun và vò xù tóc các người mẫu thì thiết kế của họ sẽ khó lòng phù hợp với tiêu chí thẩm mỹ hào nhoáng của Vogue. Thế là chiến dịch tiễu trừ kết thúc, đại thành công!
Theo một nguồn tin nội bộ nhà Vogue, Lệnh Bà còn có động thái tẩy chay thẳng thừng các độc giả nhóm trung lưu, những cô nàng wannabe hệ công sở đua đòi, dẫu không ít trong số đó là những độc giả trung thành nhất của Vogue. Wintour tỏ ra khắt khe tuyệt đối về việc thể hiện uy tín tờ tạp chí qua đẳng cấp xã hội của đối tượng độc giả được chọn lọc một cách cầu kì. Trong loạt bài cổ súy cho chiến dịch chống ung thư, Wintour đã thẳng ta xổ toẹt bài viết bắt đầu với nhân vật là một nữ tiếp viên hàng không đã thành công chống lại căn bệnh quái ác. Vậy là cả nội cung nháo nhào vào cuộc săn lùng bằng được một nhân vật mới, với điều kiện đã từng mắc ung thư, và chắc chắn phải thuộc giới thượng lưu để thay vào bài viết.
Để làm được những điều này một cách thản nhiên và lạnh lùng, Wintour phải có khả năng sắm cho mình một trái tim bằng băng và một lồng ngực như cái tủ lạnh. Bà là một minh chứng khá hiếm hoi cho chân lý rằng tiểu thuyết không luôn luôn là sự cường điệu hóa của thực tế, trong trường hợp của The Devil Wears Prada, nếu không muốn nói sự kiêu ngạo, độc địa và lạnh lẽo của Miranda Priestly chỉ là bản sao ngớ ngẩn, một nét phác hời hợt của một chân dung Anna ‘Winter’ thật sự. Các nhà tổ chức show diễn thời trang phải luôn nắm nguyên tắc quan hệ hàng đầu: Wintour muốn chỗ ngồi của mình tách biệt khỏi khu vực của các ông bà tổng biên khác, bởi Lệnh Bà không có nhu cầu bàn tán, chia sẻ, hay kết bạn với đồng nghiệp. Bà đang làm việc.
Đại náo Milan và đàn áp mỡ thừa
Năm 2008, Bà Mùa Đông đã ngang ngược đòi dời lịch diễn của các nhà thời trang trọng yếu ra trước trong tuần lễ thời trang Milan 2008 chỉ để Lệnh Bà kịp về nhà thay…hành lý trước khi tham dự các show diễn ở Paris. Thế là cả Milan nháo nhào, mọi yếu nhân, minh tinh, tổng biên lẫn phóng viên các quyền lực truyền thông thời trang khác đều phải đảo lộn lịch trình theo, trong khi các nhà thiết kế trẻ mới nổi thì ngán ngẩm trình bày collection trong những show diễn lẻ loi giữa một fashion week hoang tàn sau khi các khách mời cỡ bự đã xem xong màn xuất sắc nhất và đã rời khỏi Milan. Điều này càng khiến sự căm ghét của các nhà thời trang Ý dành cho mụ phù thủy Ăng-lê tăng cao hơn bao giờ hết, trong khi các tín đồ Hoa kỳ của họ, than ôi, vẫn đều đặn dõi theo từng shot ảnh long lanh của Vogue, đương nhiên, dưới sự phê chuẩn tối cao của Lệnh Bà.
Dolce&Gabbana đồng thanh gọi tuần lễ thời trang đó là một hội chợ tỉnh, Giorgio Armani – kẻ đã trực tiếp kinh qua trải nghiệm cùng tổ chức triển lãm tại Met với Wintour, chỉ ý nhị lên tiếng “Thứ bà ta cho là một chiếc váy đẹp, chưa chắc đã là một chiếc váy đẹp trong mắt tôi.” Với một nỗ lực tỏ ra mã thượng một cách đáng khen, không ai tin rằng Giorgio đã thật sự hoàn toàn không để bụng lời tuyên bố phũ phàng của Wintour: “Kỷ nguyên Armani đã chấm dứt.” Bản thân Giorgio cho rằng Wintour có sự thiên vị đặc biệt cho các nhà thiết kế Pháp và Hoa Kỳ. Geoffrey Beene, người đã ngưng không mời Wintour đến các show diễn của mình sau khi nhận ra rằng bà sẽ chẳng bao giờ màng nhắc đến chúng trên tờ Vogue, đã cáo buộc tư cách biên tập thời trang của Wintour là “biến đẳng cấp thành trào lưu xa cạ, và thẩm mỹ thành rác rưởi” (class into mass, taste into waste)
Nhưng những trò thao túng oái oăm của Wintour đã hoành hành giới thời trang từ khá lâu trước đó. Hồi 2005, bà bị công kích dữ dội khi ngài đại tổng biên Andre Leon Talley than thở trên talkshow của Oprah Winfrey rằng đến cả ông cũng bị Bà Mùa Đông bắt phải ăn kiêng giảm ký. Ngài đại tổng biên tội nghiệp còn bị bà Oprah ranh mãnh moi thêm vài lời kể khổ nữa, rằng “các cô gái tại Vogue, cô nào cũng gầy nhom, bởi, bà biết đấy, Miss Anna không thích mấy người mập.” Năm 2009, cư dân Minneapolis cự nự ầm ĩ khi Wintour lên bản tin 60 Minutes và bỉ bai cái sự to béo của con dân thành phố này, dù đây là thành phố được xếp hạng thứ 3 với tỉ lệ cư dân khỏe mạnh cân đối nhất trong năm đó, theo thống kế của tờ Men’s Fitness, trong khi Quả Táo Lớn của bà đứng hạng năm trong danh sách nhóm có dân cư “lực lưỡng” nhất nước Mỹ.
Căm ghét và ngưỡng mộ vị tông đồ mẫn cán
Những ai có thâm niên quan sát các vụ đụng độ của Wintour với công luận sẽ nhanh chóng nắm vững chiến thuật vô chiêu của bà. Các phản hồi luôn bất ngờ, khó đoán và đẹp mắt. Wintour không bao giờ trực tiếp tự bao biện và bào chữa cho bản thân, và bà chưa bao giờ cần phải tự tay làm việc này. Mỗi khi làn sóng công kích Wintour trỗi dậy, người ta sẽ lập tức được nhắc cho nhớ rằng Wintour không chỉ có cừu nhân.
Những người đàn bà như vậy, người ta chỉ có thể căm ghét hoặc ngưỡng mộ họ, hoặc cùng lúc cả hai. Còn bản thân Wintour điềm nhiên quan sát những vụ cọ xát của cả hai phía, như một buổi diễn thời trang, không một cảm xúc lọt ra ngoài khỏi cặp kính đen.
Rất nhiều con dân của bà tại Vogue vẫn khẳng định rằng họ không thấy có gì đáng phàn nàn về thói độc tài của Wintour cũng như tinh thần trưởng giả của Vogue. Mọi thứ về bà, dẫu quá quắt, đều nằm trong bản chất cực đoan quá khích của thời trang và những tông đồ mẫn cán của nó.
Người ta đọc Vogue hoàn toàn không như tìm đến một cuốn catalogue để tìm xem những món hàng có thể chọn mua. Và Wintour hiểu thấu đáo điều này. Dưới trướng cai trị của bà, khái niệm tạp chí thời trang được đưa về đúng tinh thần bản chất của nó – một thiên mệnh mang tính giáo dục và dẫn dắt, qua phương tiện quảng cáo thương mại, hình ảnh, và văn chương báo chí. Vogue đào luyện và nâng cấp gout thẩm mỹ của người đọc. Người ta từ chối một trang layout lem nhem chắp vá một khi đã chọn cho đôi mắt mình những shot ảnh bóng bẩy đẳng cấp trên từng trang Vogue. Bà dần dà tiêm nhiễm vào độc giả của mình ý thức cầu kì trong gout hưởng thụ, và tái định hình tư duy thời trang, thẩm mỹ của các độc giả của mình.
Những điều này chỉ có thể được thực hiện bởi một kẻ cầu toàn khổ hạnh nhất, và một gout thẩm mỹ cầu kì, không khoan nhượng. Mọi mầm mống tư duy “thời trang dân chủ” đều bị Wintour nhận biết và tiễu trừ ngay trong trứng nước, bản thân Wintour và tờ Vogue từ chối cuốn theo trào lưu thân thiện, đang được xem là cứu cánh kinh tế đắc lực của các tạp chí cạnh tranh. Điều này đồng nghĩa với vị trí độc tôn của Vogue đối với các fashionista cầu kì muốn tìm đến với những hình ảnh toàn mỹ của tinh thần haute couture, được tôn thờ và ca tụng hiệu quả qua các hình ảnh, tên tuổi celeb hàng đầu và tôn chỉ độc đạo của Lệnh Bà hà khắc.
Quyền của Wintour
Với tất cả những sắc màu và trạng thái được tung tràn trề lên những trang tạp chí, người ta không cho rằng Wintour còn giữ lại bất cứ điều gì cho mình để thể hiện. Thái độ lãnh đạm và kiêu căng của bà được đơn thuần lí giải bởi dòng máu Ăng-lê, cùng thứ tinh thần chảy trong huyết quản người cha mang biệt danh “Chilly Charlie”. Cuối cùng, chỉ có một bàn tay bằng thép và trái tim băng mới khiến một người đàn bà ngự trị vững bền trên ngai tổng biên và bao trùm thế lực truyền thông ấy lên thời trang thế giới, trong khi các tay Đảng Xanh quá khích vẫn ngày ngày biểu tình, các nhà phê bình vẫn kêu gọi tẩy chay, và những bánh đậu hũ cùng những lời nguyền rủa bất cứ lúc nào, nơi đâu, vẫn có thể nhắm thẳng vào bà mà ném.
Ngoài cuộc sống xa hoa và một áp lực điên đảo, Wintour tự ban hành cho bản thân một thứ đặc quyền đặc lợi ưu tiên cuối cùng: quyền được cáu bẳn và thô lỗ. Bà không ngại ngần tận dụng tối đa đặc quyền này, và những kẻ xung quanh Wintour, một cách nào đó, ý thức được họ đang đối mặt với hiện thân của tinh thần thời trang vương giả, và điều này khiến những kẻ bé nhỏ trở nên bé nhỏ hơn. Họ kính cẩn tự đặt bản thân vào tâm thế cầu tài hay nô bộc, và đó chính là khi họ trao cho Wintour quyền lực của một nữ hoàng.
Bản thân Bà Mùa Đông vẫn tự nhận mình là một người cả thẹn, với sự đồng ý của không ít bạn bè thân thiết của bà. Khi được hỏi về điều không hài lòng nhất về bản thân, Wintour đã thừa nhận “Tôi là một mụ chó cái (such a bitch), và các đồng sự đã ở bên tôi từ 15, 20 năm nay có thể minh chứng điều này. Điều này khiến tôi thu hẹp đám đông quanh mình và cô đọng lại với những nhân vật ưu tú, cầu thị nhất. Đôi khi tôi ngỡ rằng cái đám người bệnh hoạn này phát nghiện những trận bốc hỏa và những trò trừng phạt của tôi mất rồi, vì họ vẫn còn đây. Mà nếu một khi bạn gặp phải ai đó lãnh đạm với bạn, thậm chí hung hăng thô bạo, đôi khi hãy chỉ đơn giản biết rằng họ đang cố gắng hết sức để làm điều tốt nhất.”
Bà cũng có cùng lời tự bào chữa, hay đúng hơn là giải thích về việc không thu nhận người mập vào làm việc tại Vogue: “Đối với tôi, những con người làm nên môi trường con người của Vogue, đặc biệt đối với ban thời trang, phải là chính những hiện thân của thời trang. Chính họ phải là những tín đồ mộ đạo và ý thức duy mỹ, điều này thuyết phục hơn bất cứ slogan hay tuyên ngôn nào về Vogue. Chúng tôi Biết về Thời Trang, vì chúng tôi Chính Là Thời Trang.”
Cách mạng nữ quyền bất đắc dĩ
Những người đứng về phía Lệnh Bà đáp trả bằng cách cáo buộc các lời chỉ trích nọ là tư duy thành kiến giới tính hủ lậu. Tờ The New York Times, ngay sau buổi ra mắt phim The Devil Wears Prada đã lên tiếng cho rằng “Những đại nữ truyền thông luôn bị soi chiếu khắt khe hơn các đại gia phái mạnh” Ngay từ khi mới nhậm chức tổng biên tờ Vogue, Wintour đã được Liz Smith – chuyên gia trồng cải nổi tiếng loan tin rằng bà có được thanh quyền trượng trong tay là nhờ dan díu với Si Newhouse. Điều này chạm ngay vào cơn thịnh nộ của Wintour, và vị nữ vương thù dai vẫn còn kể lể trong ngày nhận giải thưởng truyền thông năm 2002.
Và như một phần thưởng luôn đến cùng các ngờ vực về giá trị phẩm hạnh, Wintour được xem là một nhà hoạt động nữ quyền bất đắc dĩ, với chiến lược và tôn chỉ hình ảnh phụ nữ đương đại mà Vogue luôn thể hiện ngần ngật trên các trang báo. Christina Larson của tờ Washington Monthly đã ghi nhận rằng “Vogue nhắc phụ nữ nhớ đến những niềm vui thụ hưởng đã bị lãng quên bằng những cuộc diễu hành huy hoàng của những tạo vật tinh xảo nhất, được tác tạo nên như sự yêu chiều, cung phụng và vuốt ve mà những thiên tài thời trang dốc tài hoa tuyệt nghệ ra để tụng ca đàn bà. Những mẫu thiết kế, các bộ bàn ghế nội thất, hay những chốn nghỉ mát địa đàng,… đó là tất cả những gì một phụ nữ thành đạt nên tưởng thưởng cho bản thân, hoặc ít ra, học cách ngưỡng mộ và ước mơ đến những điều tốt nhất cho mình. Cùng lúc với nguyên tắc kinh doanh quảng cáo thuần túy của một tờ tạp chí thời trang, Vogue còn là một ngòi nổ cho tham vọng hướng thượng và sinh lực tột đỉnh của phái nữ, chứ hoàn toàn không thuần túy ủy lạo cho lối sống hào nhoáng, những thân hình tuyệt mỹ và đày đọa độc giả vào lòng tự ti bất an như người ta vẫn cáo buộc.”
Chiến lược “celeb hóa” trang bìa khiến cho các hiện thân của thời trang chính là những phụ nữ đang làm tăng giá trị của thiết kế bằng tên tuổi và tài hoa của họ, chứ không chỉ thuần túy một nhan sắc ngoại hình. Thông điệp đó, một cách vô thức, chính là tinh thần nữ quyền tân thế hệ: nhan sắc, tài hoa, và thụ hưởng.
Vạn tuế Haute Couture!
Những lời chỉ trích về sự can thiệp tùy tiện và bạo ngược của Wintour vào nội giới thời trang cũng bị bác bỏ thẳng thừng bởi các nhà thiết kế hàng chiếu trên, những người đã quá quen thuộc với các hành xử của Bà Mùa Đông. Trong đó, ắt nhiên đứng đầu là Ông Kẹ Mặt Chì nhà Chanel – Karl Lagerfeld: “Đó là một cô gái thật thà. Cô ấy biết cách nói thẳng điều mình muốn, hắc bạch rạch ròi.” Còn Francois-Heri Pinault, tổng quản tập đoàn PPR – chủ nhân ông của cả một hệ thống cửa tiệm và thương hiệu thời trang xa xỉ, lại cho rằng Wintour khá dễ chịu “Bà ta luôn đoan chắc với bạn rằng không có gì phải phát hoảng lên chỉ vì bạn không đáp ứng được sự nhờ cậy của bà ấy”, ám chỉ việc Wintour đã can ngăn không để Tom Ford rời nhà Gucci. Trái với những gì người ta đã nín thở trông chờ, đã không hề có những đòn trừng phạt và chiến dịch tẩy chay thông tin nào, và Wintour vẫn ra sức hỗ trợ cho nhà Gucci, dù không còn Tom Ford ngồi ngai tổng lãnh.
Ngoài tay người Mỹ, các nhà thiết kế khác như Alice Roi và Isabel Toledo cũng là những kẻ được bảo trợ ưu ái một cách hoàn toàn vô tư bởi Bà Chúa Băng Giá. Chính những động thái hào phóng và màn phô diễn quyền năng đã khiến bà đảm nhiệm hoàn hảo vai trò Nữ Oa cho tờ Vogue – cho đến nay vẫn tồn tại vững vàng và hưng thịnh nằm ngoài quy luật lệ thuộc vào những nguồn kinh doanh quảng cáo.
Nhưng đó hoàn toàn không phải là một chính sách mị dân, hoặc không hẳn mị dân hoàn toàn. Wintour, với sự ngạo mạn đã thành danh tiếng của mình, là biên tập thời trang duy nhất khước từ tối hậu thư của Armani về việc yêu cầu tăng trang hình ảnh cho các thiết kế của nhà này. Tuy vậy, Wintour vẫn thừa nhận nếu phải chọn một trong hai mẫu thời trang, một của khách hàng quảng cáo, và một là chọn lựa của ban biên tập, nguồn lợi kinh doanh sẽ vẫn khiến cán cân nghiêng về lựa chọn đầu hơn. Cuối cùng thì, theo bà, “Tính thương mại đối với tôi không phải là một từ bậy bạ.”
Và để bảo vệ cho tinh thần haute couture xa xỉ hiển hiện của Vogue, bà tổng biên tóc bob dẫn chứng bằng chính tinh thần dân chủ từng một thời là nền tảng của các nhà thời trang cao cấp: “Điều đó chỉ có nghĩa là nhu cầu thẩm mỹ thời trang đang tăng cao đối với nhiều người hơn, và càng nhiều người phấn đấu để bảo đảm tấm vé vào thượng tầng hoa mỹ ấy, thiết nghĩ, ắt là điều đáng mừng cho nhân loại.”
Ngược lại, khi cửa địa ngục lỏng then và để xổng lên trần thế một sinh linh cá biệt như Wintour, âu cũng là điều đáng mừng cho nhân loại.
CHUYỆN TÌNH BÀ CHÚA TUYẾT
Lòng sủng ái của Bà Winter
Phàm đã là tổng biên của một tạp chí thời trang hàng đầu, gout thẩm mỹ và trình hưởng thụ của Đại tẩu Anna dĩ nhiên cũng phải vào hàng xứng tầm thượng thừa. Đại Tẩu không những sành sỏi chuyện phải tìm cái gì tốt nhất, mà biết luôn là vào thời điểm nào, trường hợp tay tennis chuyên nghiệp người Thụy Sĩ Rober Federer cũng không là ngoại lệ – anh chàng tỏa sáng chín tới ngon lành nhất là vào lúc tròn 25 tuổi, vừa chín tới mùi mẫn, nhưng vẫn còn giữa chút non tơ đủ để sần sật chào mời những vết răng ưu ái.
Federer được Đại Tẩu chọn và đeo vào quanh mình phù hợp hài hòa tuyệt đối với bộ váy maxi của nhà de la Renta. Bà khéo léo ‘gỡ’ người yêu chính thức của chàng là nàng Mirka ra như người ta tách món quà khuyến mãi thô kệch ra khỏi món hàng được lựa chọn, dù luôn lịch thiệp dành riêng cho Mirka hàng ghế danh dự trong mọi sự kiện, dạ tiệc, để thoải mái chờ chàng đi tháp tùng bên Lệnh Bà suốt buổi.
Một phiên bản tân thời hoàn hảo của câu chuyện cổ tích Andersen Bà Chúa Tuyết, với cậu Kay mê muội được sủng ái, và cô bé Gerda cam khổ vì tình.
Dẫu sao, nếu chưa ai thấy Wintour hôn âu yếm một cái túi xách, thì sự lãnh đạm chừng mực của đôi nhân tình cũng không chào mời nổi cho hội đưa tin dù chỉ một nụ hôn vội, dù hàng tháng hẹn hò đã trôi qua từ hồi chàng xuất hiện lẫy lừng bóng bẩy trên tờ Men’s Vogue số tháng 5/6 năm ngoái.
Đại tẩu còn hào phóng tổ chức cho chàng những buổi dạ tiệc tưng bừng với đám khách mời thượng lưu hào nhoáng, từ Jimmy Falon, Vera Wang, ngài Trump cùng ái nữ Ivanka, Oscar de la Renta, và cả Marc Jacobs. Đại Tẩu xuất hiện, lịch thiệp duyên dáng ngất trời, tay đeo chàng tình nhân mới bảnh toỏng đi khoe và giới thiệu khắp lượt.
Hiện tượng tan băng
Từ khi có Federer, người ta thảng thốt nhận ra phía sau cặp kính đen là…một người đàn bà. Khi được hỏi về đánh giá của bà về trang phục thể thao cao cấp, Đại tẩu buông lời “bất cứ thứ gì Roger mặc”, rồi cười khúc khích như một cô gái nhỏ trước nỗi thất thần hoảng loạn của các phóng viên.
Wintour cười?! Đó là sự thật đã có nhiều nhân chứng tận mắt nhìn thấy. Chưa hết, bà không ít lần tháo bỏ cặp kính đen, để lộ đôi mắt được trang điểm tự nhiên hoàn hảo. Và show Sring 2010 của nhà Prada đã chứng kiến một hiện tượng siêu hiếm: Đại tẩu Anna đến trễ, khiến show diễn bị muộn cả giờ đồng hồ, bà muốn vào tận hậu trường để giới thiệu bằng được ngài Federer trẻ trung với Giorgio Armani và trở ra trước khi show diễn bắt đầu. Đương nhiên, đối với nhà Prada, “Anna muốn” đồng nghĩa với “Anna có”.
Nhà Prada không chỉ chiều chuộng Anna và Roger hết cỡ, mà còn là kẻ đồng hành trung tín cho dung nhan Đại Tẩu mỗi khi xuất hiện tại giải US Open, French Open và Wimbledon, đương nhiên là trên hàng ghế yếu nhân, xứng danh Quỷ Cái Vận Prada. Nơi đó, con dân hâm mộ thể thao có được cho mình một Wintour hoàn toàn khác. Nàng vui vẻ, vẫy ta ra hiệu với các tay vợt danh tiếng, và vào những trận đấu có Roger, thậm chí người ta còn kinh hoảng khi thấy Bà Mùa Đông xuất hiện, tươi rói với sắc hồng phấn, vàng mơ, đỏ tía và tím cà, TẤT CẢ cùng một lúc trên bộ váy kẻ sọc. Một chuỗi pha lê lấp lánh quấn nhiều vòng quanh cổ, và, đương nhiên, phía trên là cặp kính râm cú mèo trứ danh. Một Mùa Đông phiên bản hippy phi-Wintour chính hiệu!
Sủng thần ương ngạnh
Trong khi mọi việc diễn ra đều không nằm ngoài một minh chứng lẫy lừng nữa cho gout hưởng thụ của Đại Tẩu, thì điều khiến giới hóng hớt quan ngại cho sinh mạng ái tình của Roger Federer lại chính là gout ăn mặc của chàng. Federer chưa bao giờ được giới phê bình thời trang đánh giá cao về khiếu thẩm mỹ.
Nếu có một bài học vỡ lòng nào về thời trang mà một fashionista, hay fashionisto nhập môn có thể rút ra từ phim The Devil Wears Prada (đương nhiên, ngoài chuyện gia đình luôn quan trọng hơn sự nghiệp và danh vọng, blah blah…), đó chính là người ta luôn nên lắng nghe những tư vấn thời trang của Miranda Priestly, à không, Anna Wintour. Chẳng thế, trong phim, Stanley Tucci đã dạy dỗ cô nàng Anne Hathaway ngô khờ rằng “Ý kiến của Lệnh Bà là ý kiến Duy Nhất.”
Nhưng Roger Federer không hề là một fashionisto, chàng chỉ là một tay vợt chuyên nghiệp. Chàng chưa có được cái may mắn lãnh hội lời khuyên khôn ngoan ấy.
Tại một buổi phỏng vấn trên đài ESPN, Wintour than phiền rằng tay vợt ưa thích của bà lại là một kẻ ngoại đạo và bất trị hoàn toàn về thời trang. Chàng vô địch Grand Slam 16 lần ấy đã làm điều dại dột nhất là khoe tủ quần áo của mình cho Đại Tẩu xem. Điều tệ hại hơn nữa, chàng không bỏ vào tai bất cứ lời khuyên nhủ, tư vấn thống thiết của Lệnh Bà nhà Vogue. Wintour chỉ còn cách tự an ủi bản thân, ngay trên sóng ESPN “Dẫu sao thì trông cậu ấy vẫn rất bảnh.”
Lệnh Bà tội nghiệp!
Trong suốt thời gian rầm rộ các tin đồn về cuộc dan díu giữa Đại Tẩu và nam thần tennis, nàng Mirka, vẫn kiên nhẫn tháp tùng chàng đến mọi buổi tiệc tùng, và để mặc chàng kề cận bên Lệnh Bà suốt buổi. Cho đến một ngày tháng Tư đẹp trời năm 2009, với cái bầu 1 tháng, Mirka đường hoàng và hả hê kết hôn cùng Roger Federer. Không nghe nhắc đến sự hiện diện của Lệnh Bà tại hôn lễ chóng vánh nọ.
Chiến thắng hoan hỉ của Mirka kéo dài trong một nỗi thống khổ lê thê, khi ngay sau đó, dù sinh cho chàng cặp song sinh kháu khỉnh, người ta nhận ra vị phu nhân vẻ vang vẫn đóng vai phụ trong cuộc dan díu dài hơi của Lệnh Bà đùa dai.
Tháng tư vừa qua, tại sinh nhật của vợ, Roger Federer đã ân cần và hào hiệp che chở cho Đại Tẩu thoát khỏi vòng vây paparazzi Miami đang vây kín buổi tiệc. Chàng ranh mãnh lừa họ bằng một đám đông ồn ào đứng ở cửa phụ, tung hô và mang vác những món quà để thu hút cánh phóng viên đổ dồn về đấy, bảo đảm cho Lệnh Bà đường hoàng ra về bằng cửa chính.
Ánh flash đổ dồn về người đàn bà băng giá, săn từng biểu hiện sầu não hay dù chỉ một giọt lệ băng.
Những bức ảnh có được trên Page Six chỉ cho thấy một nụ cười mỉm, rất nhẹ, bên dưới cặp kính đen.
Share this:
Like this:
Đăng trong:
Bút-danh Trác Thúy Miêu
Chân dung
Không chỉ chuyện Thời-trang
Style Icon
Tạp chí F. (Fashion TV Magazine)
Tạp-chí
on Tháng Mười Hai 28, 2011 at 4:52 Chiều Để lại phản hồi
Tags: celebrities, fashion brand, fashion designer, legend, my favourite, showbiz, style icon
chị Hạnh-Dung của nước Mỹ
Túy Ca
Mỗi một talk show của Oprah Winfrey là một sự hoàn chỉnh đầy ứ. Bà ồn ào, đói khát dữ liệu thông tin, dư thừa năng lượng, khôi hài, khả ái, mẫn cảm. Bà thân thiện bình dân, ranh mãnh trong mọi thủ thuật khai thác, tinh anh và không khoan nhượng những trò vè. Lợi thế ngoại hình của một người đàn bà da đen đồ sộ khiến bà vừa trấn áp, vừa vỗ về tin cậy. Oprah thoát khỏi bề ngoài bự sự của chính mình và lao thân tuyệt đối vào cuộc đối thoại với nhân vật, đồng thời tương tác chặt chẽ đến từng hơi thở, từng tràng cười và mỗi giọt nước mắt của khán giả truyền hình toàn nước Mỹ.
Bà không bao giờ hết chuyện để buôn, và bà “buôn dưa” với cả thế giới.
Nữ hoàng Talk Show Mỹ, người đàn bà được xem là có khả năng xoa dịu và chữa lành bằng nước mắt trong thời lượng của chỉ một cuộc trò chuyện, đã sinh ra trong chính số phận của những nhân vật mà bà từng làm việc. Không thiếu gì cả, một dòng máu pha tạp, một bà mẹ độc thân tuổi vị thành niên, tuổi thơ bị lạm dụng và những cuộc tình bị bạc đãi.
Số phận đó đã rất có thể kết thúc tại một nơi nào đó trên bề mặt đau khổ của địa cầu, trong một khu ghetto da màu, trong một trại giáo dưỡng cai nghiện, hay dưới 3 tấc đất.
Ngược lại, bà chỉ vừa mới kết thúc một chặng đường 25 năm bằng cuộc độc thoại 4 giờ đồng hồ trên show truyền hình nổi tiếng thế giới, và sửa soạn cho một vụ đại chấn truyền thông mới mang cái tên đầy tham vọng chiếm hữu: OWN (Oprah Winfrey Network)
Những đứa trẻ đến và đi
Cuộc xét nghiệm gene năm 2006 cho thấy mẹ của Oprah gốc là tộc người Kpelle, nay là Liberia, bản thân Oprah mang 89% dòng máu Sub-Saharan Africa, 3% Đông Á và chỉ có 8% Mỹ bản địa.
6 năm đầu trong đời, Oprah sống cùng bà ngoại Hattie Mae Lee. Bà nghèo đến nỗi cô bé Oprah chỉ có những chiếc váy làm từ vỏ bao bố đựng khoai tây và trở thành trò đùa của lũ trẻ trong vùng. Bù cho những bộ váy áo, bà ngoại dạy cô đọc từ rất sớm nên cô nhóc thuộc làu làu kinh kệ, có khả năng biện dẫn thánh kinh đáng nể. Nền gia huấn của cụ bà sùng đạo còn đi kèm cả những trận đòn roi khắc nghiệt, những công việc vặt trong nhà và một nề nếp của dòng tu kín mang nỗi tự ti giai tầng lẫn chủng tộc.
Những năm tiếp theo là những cuộc phiêu bạt từ thành phố này đến tiểu bang khác cùng mẹ, những đứa em cùng mẹ khác cha được sinh ra, em gái đầu chết vì nghiện ma túy. Em gái Patricia sinh ra khi Oprah được gửi nuôi ở Tennessee, về sau được cho đi vì người mẹ đang hoàn toàn phải sống dựa vào trợ cấp chính phủ. Oprah hoàn toàn không biết gì về người em gái cuối cùng này cho đến tận năm 2010, trên một talkshow của bà. Khi Oprah được đưa về lại với mẹ, đứa bé gái cuối cùng đã bị mang đi, và người mẹ đã kịp sinh em trai cùng mẹ với Oprah là Jeffrey, về sau mất năm 1989 vì bệnh AIDS.
Xen kẽ giữa những cuộc chuyển dời thời ấu thơ, những đứa em sinh ra và thất lạc, là những chuỗi ngày bé Oprah bị lạm dụng bởi các anh em họ, người cậu ruột, và cả những bạn bè của gia đình từ khi mới 9 tuổi, bà giữ kín điều này cho riêng mình và lần đầu thú nhận ngay tại talk show, trước hàng vạn khán giả truyền hình năm 1986, khi đang thảo luận về đề tài lạm dụng tình dục. Oprah thừa nhận lí do bà không muốn làm mẹ vì chính mình đã không được hưởng sự dưỡng dục tối thiểu từ tình mẹ.
Thật ra, lần mang thai đầu tiên của Oprah là khi bà mới 14 tuổi, đứa bé trai chết không lâu sau khi ra đời. Sự phản bội lớn nhất từ gia đình mà Oprah nếm trải chính là khi về sau, họ chấp thuận bán câu chuyện này cho National Enquirer năm 1990.
“chị Hạnh Dung” của nước Mỹ
Sau giải hoa khôi da màu Tennessee năm 1972, Oprah bỏ lại sau lưng những chào mời hứa hẹn theo thông lệ để trở thành trụ cột đài WTVF-TV năm 19 tuổi, và nữ biên tập viên da màu đầu tiên tại Nashville.
Định hướng sự nghiệp truyền thông của Oprah không hề là một điều đáng ngạc nhiên với bà ngoại của cô, người đã từng chứng kiến tuổi thơ với trò chơi phỏng vấn con búp bê bằng lõi ngô và mấy con bù nhìn, và ngược lại, Oprah luôn coi bà Hattie Mae là một nguồn ảnh hưởng lớn của mình, từ ngày thơ bé vẫn luôn khuyến khích khả năng hùng biện của đứa cháu.
Trong suốt nhiều năm liền, Oprah liên tiếp là nữ biên tập trẻ nhất và trường hợp da màu đầu tiên của các đài phát thanh nơi cô cộng tác, nhưng sự định hình đế chế thật sự đã phải chờ đến ngày 8 tháng Chín, 1986, với 1 tiếng đồng hồ lên sóng đầu tiên của The Oprah Winfrey Show. Oprah đường hoàng đánh bại đối thủ tối thượng lúc bấy giờ là Donahue và nghiễm nhiên chiếm vị trí talkshow ban ngày hàng đầu của Mỹ. Giới truyền thông Mỹ tiên liệu một vụ nổ và một nữ vương mới trong lãnh địa truyền thống của những người đàn ông da trắng. Tham gia vào lãnh vực talk show, Oprah biến những cuộc trà dư tửu hậu của các quí ông truyền hình thành một buổi buôn dưa thân thiện với mọi chủ để xoay quanh cuộc sống gần gũi. Từ các đề tài xã hội, chính trị, tâm linh, cho đến cách chọn mua áo ngực. Người ta có thể bị Opran khéo léo lôi tuột từ đề tài chó mèo đi lạc sang vấn đề ngược đãi động vật, và chỉ 2 phút sau, bà đã kịp bàn đến thời trang lông thú, sự phi nhân của văn hóa tiêu thụ xa xỉ. Trên hết, từ size áo lót đến ý thức môi trường trong văn hóa tiêu dùng đều được bàn luận và sẻ chia với một siêu minh tinh trứ danh, hay một chính khách lẫy lừng.
Bà tiếp cận nhân vật không bằng cú pháp chặt chẽ của truyền thống nghiệp vụ, mà bằng một sự hiếu kỳ chân thật, một chút khôi hài của kẻ đã có thể khóc quá nhiều, nhưng trong sâu xa, vượt trên cả cái đầu siêu thông minh, là một lòng trắc ẩn chân thành, không ngụy tạo. Bằng tất cả những điều này, Oprah nắm giữ một thứ ma thuật không những vô hại mà còn có tác dụng chữa lành – bà khiến người ta nói ra những điều không thể, và được xoa dịu hoặc phấn khích hoàn toàn sau chỉ vừa tròn thời lượng một chương trình.
Quá muộn cho Sarah Palin!
So với các đồng nghiệp nam, Oprah thừa sức chứng tỏ sự thông minh của một nhà xã hội học, sự uyên bác của một học giả hàn lâm, nhưng trên hết, bà có điều mà các quí ngài da trắng không thể có được – sự tương tác siêu mẫn cảm và tài tình với nhân vật và cả người xem. Oprah không có vẻ khách quan, thậm chí kẻ cả của các host truyền thống, bà đầy cảm tính và vong thân cực đoan với ngập ngụa dấu ấn cá nhân.
Năm 1993, Oprah tung đòn lịch sử – cuộc trò chuyện với vua Pop Michael Jackson. Đây là quả bomb truyền thông thật sự, với kỷ lục sự kiện truyền hình vĩ đại thứ 4 trong lịch sử truyền hình Hoa kỳ, và cũng là cuộc phỏng vấn được nhiều người xem nhất, với con số 36.5 triệu khán giả.
Năm 2005, sự xuất hiện của chính Oprah trong talkshow The Late Show With David Letterman đã khiến Letterman lập kỉ lục lượng người xem lớn nhất trong suốt 11 năm: 13,45 triệu. Letterman lịch thiệp đáp lễ bằng việc xuất hiện trong The Oprah Winfrey Show ngay khi có thể, tức là khi chương trình của Oprah thực hiện tại New York hai năm sau dó.
Hẳn nhiên, ngoài sự ưu ái của các celebrity giải trí và truyền hình cùng hàng triệu trái tim Mỹ, sự văn minh của Oprah, và đôi khi cả lòng trắc ẩn của bà cũng khiến không ít yếu nhân khó chịu. Năm 2006, các rapper khét tiếng Ludacris, 50 Cent và Ice Cube đồng loạt chỉ trích Oprah là anti-hip hop. Ludacris phàn nàn với tờ GQ là Oprah “chơi khó” anh ta về ca từ, rồi biên tập các câu trả lời của ngôi sao này. Oprah thẳng thắn trả lời rằng bà không nuốt trôi được thứ ca từ miệt thị phụ nữ, những vẫn nghe rap bình thường, tiện thể ca ngợi rapper đối thủ là Kanye West – cũng là khách mời trong talkshow của Oprah.
Tháng Chín, 2008, Oprah tiếp tục chỉ trích bởi Matt Drudge vì tội không chịu mời bà nghị Sarah Palin xuất hiện trong chương trình của mình, vì Oprah lại ở bên phe Barack Obama. Tuy nhiên, điều này khiến các cử tri da màu hể hả vì hành vi “kỳ thị chủng tộc ngược” này của quyền lực “đen” ngay trên truyền hình Mỹ. Bản thân Oprah cũng khẳng khái cho biết bà ủng hộ cho Obama và quyết không để talkshow của mình thành bệ phóng cho bất cứ cá nhân, đảng phái đối lập nào. Nhưng bà phủ nhận việc từ chối Palin, cho rằng bà nghị sẽ là một khách mời lí tưởng, và thể hiện bằng cách mời bà Sarah Palin xuất hiện tại talkshow trứ danh của mình, đương nhiên là sau cuộc bầu cử và Obama an vị trên ghế tổng thống.
Người đàn bà quỳ gối qua những cuộc tình
Ngoài những trải nghiệm kinh hoàng của tuổi thơ bị lạm dụng, đứa bé trai sinh ra khi 14 tuổi và chết gần như ngay sau đó, Oprah Winfrey vẫn có cho mình những trang tình sử đáng nhớ cho cuộc đời người phụ nữ tài danh.
Mối tình học trò ghi dấu ấn sâu sắc trong tuổi hoa niên của Oprah là Anthony Otey – người cho đến nay vẫn nâng niu gìn giữ hàng trăm bức thư tình của hai người. Cả hai đã nghĩ đến hôn nhân, nhưng Otey luôn biết rằng Oprah thuộc về một cuộc đời rộng lớn hơn rất nhiều một tổ ấm mà ông có thể mang lại. Họ chia tay vào một ngày lễ Tình Nhân. Vài tháng sau, nàng có cho mình mối tình đại học, cũng là cuộc tình thật sự sâu đậm và lí tưởng với William “Bubba” Taylor. Oprah có thể làm tất cả để giữ mọi thứ y như vậy, dù đó là việc tìm việc làm lí tưởng cho chàng, hay quì gối van vỉ để tình nhân rời Nashville cùng bà, khi Oprah được cất nhắc làm việc tại Baltimore năm 1976. Dù về sau, Oprah vẫn gọi đó là “một tình yêu không thể quên”, bà vẫn chọn bước ra khỏi cuộc tình để về với đài WJZ-TV.
Những tháng năm tiếp theo, Taylor được thay thế bằng pianist-nhạc sĩ-người dẫn chương trình John Tesh, nhưng họ cũng chia tay bởi chàng không chịu nổi áp lực ràng buộc của mối quan hệ. Về sau, John Tesh thừa nhận rằng lí do tan vỡ đã liên quan rất nhiều đến sự khác biệt màu da. “Một đêm tôi thức dậy bên cô ấy, và nhìn xuống giường, vào hai thân thể một đen một trắng đang trớ trêu nằm cạnh nhau ấy. Dường như quá sức chịu đựng của tôi.” Ông bước ra khỏi căn hộ và cuộc đời Oprah như vậy, lẳng lặng lúc nửa đêm và để lại sau lưng người đàn bà trượt xuôi vào tuyệt vọng.
Bắt đầu cho chuỗi gày đen tối của Oprah. Bà trở nên mẫn cảm và tự ti. Oprah bắt đầu mắc chứng rụng tóc thậm tệ và bị chỉ trích về ngoại hình lôi thôi, bà đã bật khóc, và bờ vai quân tử đã đưa ra để hứng lệ cho bà khi này là phóng viên Lloyd Kramer. Sau này Oprah cò nhớ lại “Đó là người đàn ông yêu thương tôi ngay cả khi tôi là một mụ hói.” Nhưng ngay khi Kramer chuyển đến New York để đầu quân cho NBC, Oprah rơi ngay vào vòng tay một người đàn ông đã có vợ và hoàn toàn không có ý định ly dị. Cuộc dan díu kéo dài suốt 4 năm, Oprah nhớ lại “Ông ta càng tỏ ra xa cách, tôi lại càng muốn gần hơn. Không có ông ấy, tôi cảm thấy như mình không còn giá trị ý nghĩa gì nữa, tôi cạn kiệt hoàn toàn, và cuối cùng là nhìn thấy chính mình đang phủ phục trên sàn nhà, một lần nữa, và van xin”. Sự tồi tệ của mối quan hệ lên đến tận cùng khi Oprah gửi cho bạn thân là Gayle King lá thư tuyệt mệnh, trong đó có hướng dẫn chu đáo cách tưới nước cho những cái cây mà bà muốn nhờ King chăm sóc hộ. “Lá thư ấy, giờ nhìn lại, chỉ là một trò làm quá. Tôi đã không thể tự giết mình, tôi sẽ sợ hãi ngay vào khoảnh khắc ấy, với suy nghĩ rằng tôi sẽ bị hụt mất khi một điều gì đó thật tuyệt nữa sẽ sắp xảy ra, như vẫn luôn như vậy”.
Con nghiện giá 20 triệu và hôn ước bị lãng quên
Tuổi thơ bị bạo hành, và những cuộc tình bị ruồng rẫy đã dẫn theo những cơn khủng hoảng tinh thần trầm trọng, và việc tăng cân là một hệ quả đi cùng. “Tôi luôn cần được chấp nhận. Tôi cần được yêu thích, bởi tôi chẳng thể yêu thương lấy chính mình. Thế là tôi bị hút vào những người đàn ông ích kỷ, những kẻ sẽ cho tôi biết rằng tôi là kẻ ích kỷ, và tôi vồ vập đón nhận lấy lời quy buộc đó một cách hàm ơn. Tất cả bởi vì tôi không hề cho rằng mình xứng đáng có một điều gì đó tốt đẹp hơn. Tôi tăng cân, và đó là thứ tự vỗ về bản thân – cái bản thân bị cả thế giới chối từ”.
Hói đầu, béo, và thậm chí nghiện ngập. Cùng trong thời kì này, Oprah còn dan díu với một người tình khác, về sau bà thú nhận đã từng cùng người này nghiện hút cocaine với lời giải thích “Tôi không bao giờ nghĩ rằng chính cocaine là vấn đề, bởi vấn đề nằm ở chỗ tôi nghiện người đàn ông ấy, thậm chí không thể tưởng tượng nổi liệu còn có gì mà tôi không sẵn lòng làm vì anh ta.” Dựa trên tính toán thời điểm và mô tả, giới thạo tin cho rằng đó rất có thể là Randogh Cook, kẻ một ngày đẹp trời nhận rằng đã từng dan díu với Oprah hồi 1985 và họ thường xuyên hút cocaine với nhau. Gã người tình cũ lăm le cho xuất bản cuốn tự truyện kể tồng tộc về mối quan hệ của họ với nhau và giật trợn đòi kiện Oprah phải trả cho gã 20 triệu USD vì đã can thiệp để cuốn sách không thể xuất bản.
Tình sử những năm 1980 của Oprah không chỉ là những trang buồn, bởi trong đó, mối tình với nhà phê bình điện ảnh Roger Ebert đã là một cột mốc đáng nhớ dẫn dắt Oprah đến với format đầu tiên của The Oprah Winfrey Show danh bất hư truyền.
Năm 1985, trước khi talkshow của Oprah vượt khuôn khổ tiểu bang Chicago để vươn đến tầm phủ sóng liên bang, người ta lại nghe nói đến áp-phe ái tình của bà với nhà làm phim người Haiti Reginald Chevalier. Chính Chevalier cũng không ngại ngần thuật lại những buổi tối lãng mạn của họ, với nến quanh bồn tắm, hay những bữa ăn tối thân mật với Michael Jordan và Danny Glover. Ông còn dũng cảm thú nhận mình đã bị Oprah cho rơi khi bà gặp Stedman Graham.
Với Stedman, Oprah đã đi trọn một cuộc tình dài hơi từ 1986. Họ đính hôn và chuẩn bị hôn lễ vào tháng 11, 1992. Nhưng những cuộc cút bắt trớ trêu với hạnh phúc của Oprah đã không dừng ở đó, hôn lễ ấy đã không hề diễn ra.
“Nghe đồn ở quanh đây, người ta kính Chúa?”
Cho đến gần đây, khi cuốn sách về đời tư của Oprah được tung ra, người ta lại được tác giả ý nhị cho hay rằng Oprah Winfrey có mọi lí do lẫn dấu hiệu lưỡng tính, hoặc hoàn toàn đồng tính ái.
Bên cạnh những cuộc tình không lối thoát, Oprah được san sẻ và bù đắp khá nhiều từ những tình bạn lớn trong đời, mà trong đó không thể không kể đến Gayle King – vốn là host của show truyền hình vang danh The Gayle King Show, và hiện là biên tập cho tạp chí O, the Oprah Magazine.
Ngoài ra, người đồng nghiệp có tài gây sóng gió màn ảnh truyền hình Mỹ khác là Ellen DeGeneres cũng là một tình bạn quí báu mà Oprah có được cho mình. Họ gặp nhau năm 1997, khi Oprah vào vai trò tư vấm tâm lý trong một show đáng nhớ của Ellen, khi cô công khai bản thân là một người đồng tính ái. Bản thân Oprah và King cũng có cho riêng họ những lời đồn về xu hướng tình dục, bà thản nhiên đáp trả “Họ nghĩ rằng tôi đồng tính và tự ti, nhục nhã đến độ không dám công khai thừa nhận à? Làm ơn dùm cái đi!”
Với sự khác biệt nhưng đầy nhân văn của chính mình, Oprah dẫn đầu trong cuộc cách mạng truyền hình về đề tài giới tính, tạo tiền lệ cho các chương trình gây chấn động khác như Ricki Lake, The Jenny Jones Show và The Jerry Springer Show. Các nhà xã hội học phái thủ cựu phản đối kịch liệt việc Oprah đã tự tiện xóa mờ lằn ranh giữa các cá thể “đàng hoàng tử tế” và những kẻ lập dị. Trên ghế khách mời của Oprah, liên tiếp xuất hiện những nhân vật có thật, đồng tính, lưỡng tính hay chuyển đổi giới tính. Họ tài tình và thật thà, vắt kiệt cảm xúc lẫn nước mắt người xem rồi trở thành những hình mẫu hào hùng ngay trên màn ảnh truyền hình, với Oprah ngồi bên cạnh, rơm rớm nước mắt trong tiếng tung hô của khán phòng, vang đến tận từng căn hộ trên khắp nước Mỹ.
Những trường hợp đồng tính công khai càng ngày càng có độ tuổi trẻ hơn, đó là điều khiến các nhà đạo đức khổ sở. Nhưng số vụ tự sát ở người đồng tính theo đó mà tỉ lệ nghịch rõ rệt. Cũng từ thời điểm này, dân đồng tính và các vấn đề xoay quanh đời sống thế hệ tình dục tự do qua sitcom Will & Grace, show giờ vàng Queer Eye for the Straight Guy, và những ứng viên Oscar cỡ Brokeback Mountain.
Trong một show những năm 1980, trong ngày National Coming Out Day (ngày công khai đồng tính toàn quốc), lần lượt từng khán giả trong trường quay của Oprah Show đứng lên, dõng dạc danh tánh và công khai giới tính trước sự chứng kiến của toàn nước Mỹ qua màn ảnh nhỏ.
Cũng vào thời kỳ này, cả khu Đông Virginia đang hoảng loạn vì một người đàn ông đồng tính ở đây đã nhiễm HIV. Nữ Hoàng Buôn Chuyện tất tả gồng gánh cả chương trình đến tận đây. Bà quyết phỏng vấn cho được “con quái vật bị rút phép thông công” cùng ngài thị trưởng – người đã cho lệnh rút cạn hồ nước nơi người đàn ông kia đã đến bơi. Oprah chưa bao giờ gay gắt và miệt thị đến vậy. Bà nhìn xuống khán phòng đầy những công dân Virgina ngoan đạo “Tôi nghe đồn rằng ở vùng này người ta kính Chúa? Vậy cho hỏi nhân tính đâu, tình ái hữu đồng loại ở đâu, Virgina?”
Trong một show khác vào thập niên 1990, một người phụ nữ dưới hàng ghế khán giả đã đứng lên tuyên bố mình đã chán ngấy trò phô trương trơ trẽn tục tĩu của giới gay. Oprah hằn học đáp trả “Bà biết điều gì làm tôi chán ngấy? Bọn đàn ông ‘bình thường’ đi cưỡng dâm các cô gái nhỏ.”
Khi một người đàn bà buôn chuyện trên sóng quốc gia
Sự ảnh hưởng của Oprah không những tác động đến lối sống và tâm lí mọi công dân trong xã hội Mỹ. Sức ảnh hưởng của tài buôn chuyện của Oprah còn tác động mạnh mẽ lên thị trường tiêu thụ, nền kinh tế tiêu dùng, và cả xu hướng chính trị. Các nhà kinh doanh, các nhà văn và cả các chính khách gọi đó là Hiệu Ứng Oprah.
Thoạt tiên, hiệu ứng này được ghi nhận rõ rệt nhất vào thị trường xuất bản và các cuộc bầu cử. Cuối 1996, với sự ra đời của mục Oprah’s Book Club trong Oprah Show, tập trung vào các ấn phẩm văn học kinh điển lẫn đương đại. Với một lượng khán giả khổng lồ trước màn ảnh truyền hình, sự xuất hiện của một cuốn sách trong chương trình của Oprah được coi là chứng nhận siêu hạng, và lập tức chia sẻ một sự tập trung lớn của thị trường dành cho ấn phẩm may mắn nọ. Người ta dễ dàng lập tức nhận ra những cú dội bomb văn học chỉ thật sự bùng nổ sau khi xuất hiện vài tiếng trước đó trên Oprah Show, trong đó, Phía Đông Vường Địa Đàng của John Steinbeck là một ví dụ điển hình. Giới xuất bản ngầm hiểu, sự công nhận của Oprah có giá trị tương đương với lợi nhuận của hàng triệu ấn bản được mua sạch vào ngày hôm sau. Trong cuốn Đọc Sách Với Oprah: Mục Điểm Sách Đã Thay Đổi Nước Mỹ (2005), Karhleen Rooney đã mô tả Oprah là một “nhà trí thức Hoa Kỳ thực thụ, người tiên phong trong việc sử dụng truyền thông điện tử để ủy lạo cho văn hóa đọc, nhấn mạnh vai trò xã hội của văn học đủ thuyết phục khiến hàng triệu con dân thế hệ màn hình cùng hưởng ứng và quay về một cách nghiêm túc, đầy hứng thú với văn chương và văn hóa đọc”.
Sức ảnh hưởng lớn lao của Oprah lên thị trường không ngừng lại ở lãnh vực xuất bản. Trong một cuộc “buôn chuyện” năm 1996, Oprah tỏ ý e dè với món burger bởi dịch bò điên. Các trang chủ Texas hoảng loạn nổi đóa kiện Oprah tội tung tin đồn nhảm, tác hại đến uy tín kinh doanh của họ với tổng thất thu lên đến 11 triệu USD. Vụ kiện 2 tháng ròng rã chẳng đi đến đâu khi luật sư bên nguyên tuyệt vọng trong nỗ lực minh chứng tác hại của một người đàn bà buôn chuyện trên truyền hình. Còn Oprah ngay sau đó mời luôn luật sư biện hộ Phil McGraw xuất hiện trên chương trình của mình. Luật sư Phil xuất hiện thường xuyên đến nỗi chỉ vài năm sau thực hiện luôn show của mình vào năm 2002 với tên gọi Dr.Phil, với sự hỗ trợ của Harpo Productions – hãng sản xuất của Oprah.
Ngoài Dr.Phil, các show Dr.Oz và Rachael Ray là hai chương trình trò chuyện khác do Oprah sản xuất, cũng là những nhân tố lan tỏa Hiệu Ứng Oprah.
Những buổi buôn chuyện của Oprah, hẳn nhiên, như mọi đề tài có thể được mang ra bàn tán quanh mọi bàn café và mọi phòng ăn gia đình, còn đề cập đến đề tài chính trị, khi chính trị có ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày. Khi ứng viên Barack Obama chào sân chính giới năm 2008, mọi đối thủ của ông đều phải lo ngại trước thịnh tình hào phóng mà nữ hoàng buôn chuyện dành cho vị chính khách tiến bộ người da đen. Bà công khai thể hiện thái độ chính trị chủ quan của mình, sử dụng biệt thự riêng cho các sự kiện gây quỹ, cùng Obama có mặt tại các cuộc vận động tại Iowa, New Hampshire và South Carolina, lôi kéo hàng chục ngàn cử tri nghiêng hẳn về phía Obama trong cuộc đua vào tòa Bạch Ốc. Theo phân tích của đại học Maryland, Collage Park, ảnh hưởng của Bà Nhiều Chuyện lên sinh mệnh chính trị của Obama được “quy ra thóc” thành khoảng từ 423,123 đến 1,596,995 phiếu bầu, chỉ tính riêng phe dân chủ, chưa bao gồm Texas, Michigan, North Dakota, Kansas và Alaska. Thống đốc Illinois đã vô cùng ấn tượng với sức ảnh hưởng này và khẩn trương mời bà vào ghế nghị viện còn trống với là ca tụng rằng đây là người đàn bà có lời nói giá trị hơn 100 ông nghị cộng lại. Oprah đáp lễ, tuyên bố hơi mập mờ rằng mặc dù không lấy làm hứng thú với lời đề nghị, bà vẫn luôn biết rằng mình có đầy đủ tố chất và khả năng.
Liệu pháp Oprahfication cho Oprah
Hẳn nhiên, Oprah không thể là hiện tượng siêu nhiên của hiện thân Đức Bà Đen với lòng trắc ẩn vô bờ bến và vô điều kiện. Trong một góc nhìn tâm lý, chính những lời “xưng tội” trước đám đông được chia sẻ và hơi ấm của lòng trắc ẩn lan tỏa là một liệu pháp chữa lành cho chính Oprah. 25 năm nhìn lại, từng cuộc nói chuyện, từng mảnh đời nhân vật mà Oprah từng khai thác và chia sẻ chính là những mảnh ghép phản chiếu chính những bi kịch của Oprah. Từ mặc cảm về thân hình, màu da, những cuộc tình bi lụy, vết nhơ của tuổi thơ bị lạm dụng, những áp lực của một nữ trí thức da đen trong môi trường quyền lực giữa những người đàn ông da trắng, v.v… Oprah luôn có một mảnh rứt ra từ chính câu chuyện cuộc đời bản thân để cùng hóa thân vào nhân vật một quyền năng xoa dịu ấm áp thần kì. Chưa bao giờ tính tương thích của truyền hình lại được thực hiện đơn giản và mang lại hiệu ứng xã hội mãnh liệt đến vậy, và chính hình ảnh của Oprah Winfrey là một minh chứng hiển nhiên, khi mỗi show là một buổi trị liệu cho chính bà.
Quyền lực ảnh hưởng của Oprah ngày càng trở nên rộng lớn và tác động không chỉ đến những bà nội trợ có thú vui ngồi khóc trước màn hình, mà còn trở thành một công thức mới cho chiến lược hình ảnh chính trị. Chính ngài Bill Clinton đã áp dụng thành công liệu pháp Oprahfication để khéo léo chống đỡ sinh mạng chính trị với những sai lầm rất “nhân văn”, những phân tích tâm lí thuyết phục, lời thú tội thật thà với lòng vị tha tương tác của bà đệ nhất phu nhân. Tất cả được đích thân phù thủy Oprah phân tích, nhào trộn và trở thành một tác phẩm talkshow tâm lí hoàn hảo, giàu tính giải trí, nặng mùi cine Mỹ. Cuối cùng, toàn thể con dân cờ hoa tin chắc rằng sau kép Ronald Reagan quá lâu, nước Mỹ rất cần một chú Sam chịu chơi, hơi hào hoa một chút với kết thúc có hậu. Họ hài lòng với cốt truyện theo kiểu “feel-good movie”, vừa có vị diễm tình công chức, và có cả những cuộc đoàn tụ trong hoan ca tôn vinh giá trị gia đình.
Cũng như vậy, Oprah tiết lộ cân nặng của mình (đỉnh cao lên đến 108kg), và dẫn đầu làn sóng các nữ biên tập viên truyền hình “nặng ký” như Roseanne Barr, Rosei O’Donnell và Star Jones. Đến gần cuối những năm 1980, Oprah Winfrey, từ một kẻ bị khiển trách vì ngoại hình lôi thôi, đã biến “fat” thành “fabulous”, tạo hình mẫu phồn thực, sang cả và sôi nổi nhưng sắc bén, ngay giữa một xã hội tôn vinh chuẩn mực thân hình màn hình phẳng và những làn da thiếu máu của các tín đồ da trắng thích ăn kiêng. Công thức của Oprah? Đơn giản là một gout thời trang phù phiếm nhưng thông minh, một lòng tự tôn mãnh liệt, và tình yêu triệt để với hình hài nhân diện được Chúa ban.
Tông đồ đảng PETA
Không chỉ là một con chiên ngoan đạo và một tiếng nói đấu tranh vì hòa bình thực thụ, Oprah còn là một điển hình mẫu mực của một diva sành điệu, có khả năng biến hóa các khiếm nhược ngoại hình trở thành ưu thế, và thậm chí là trademark của bà giữa các celeb hào nhoáng của showbiz thế giới.
Nhưng trên hết, với sự thông minh và ý thức nhân đạo hồn nhiên nhất, Oprah còn được giới thời trang ca tụng là một fashionista văn minh bậc nhất. Là một tín đồ tuẫn tiết nhưng hoàn toàn tự chủ, dù tài sản lên đến hàng tỉ có thể cho phép Oprah có cho mình tủ quần áo của một nữ hoàng, bà vẫn cương quyết cự tuyệt mọi nguồn gốc sản phẩm làm từ lông và da thú. Năm 2008, hội Peta chọn bà làm Nhân Vật Trong Năm vì đã sử dụng uy tín, hình ảnh và công chúng của Oprah Show vào các chiến dịch từ thiện, bao gồm cả các chiến dịch bảo vệ và chăm sóc động vật. Đảng Xanh xem bà như một thành viên danh dự với những talkshow đề cập gay gắt đến tệ nạn sát hại động vật, thẳng tay vạch trần những hình thái tội ác khủng khiếp và nhẫn tâm diễn ra hàng ngày tại các lò sát sinh và các nông trại khai thác lông thú. Oprah còn sử dụng các buổi phát hình và chính bản thân mình để ủy lạo cho phong cách sống xanh, với xu hướng tiêu dùng thời trang văn minh và thực đơn không dùng thịt. Chưa bao giờ một chiếc áo lông thú được xuất hiện trước ống kính Oprah Show, tạp chí Oprah Magazine, và trong tủ quần áo cá nhân của Oprah.
Body dân chủ và thẩm mỹ diva
Cuộc chiến giảm cân bền bỉ và hiệu quả đã khiến Oprah trở thành một hình mẫu đáng gọi là “tiêu chuẩn” cho đại đồng thị trường tiêu dùng trên thế giới. Cũng chính vì vậy mà gout phục sức của bà được theo dõi và tán thưởng rộng rãi. Giới fashionista size L trở lên coi bà là một tông đồ thời trang gần gũi hơn bất cứ tượng đài phong cách có thân hình lý tưởng nào khác. Người ta luôn cần một khuôn mẫu có tính thực tế làm cứu cánh cho những tự ti nảy sinh từ cuộc chạy đua tuyệt vọng theo những thân hình người mẫu mỏng dính đến cay nghiệt và đượm màu viễn tưởng.
Người ta bật truyền hình lên hàng ngày để được nghe Oprah nói, khóc và cười cùng Oprah.
Nhưng theo năm tháng, Oprah Show đã hình thành nên một “trade mark” đáng kể nữa với phong cách xuất hiện của chính Oprah được háo hức dõi theo mỗi kỳ phát sóng, từ những bà nội trợ, các diva công sở, cho đến những fashionista mới nhập môn.
Làn da khỏe mạnh và màu da được chăm sóc kỹ lưỡng, cùng với các kiểu tóc thay đổi xoành xoạch qua từng thời kỳ, Oprah có riêng cho mình một vòng xoay thời trang riêng biệt. Trong đó, bà cự tuyệt “đóng đinh” hình ảnh của mình với bất cứ phong cách, màu sắc nào. Tất cả được tung hứng và đổi thay một cách bốc đồng, thú vị, nhưng vẫn bảo toàn những dấu ấn cá nhân “rất Oprah” để khéo léo hình thành “giá trị nhận diện” cho tên tuổi và dung mạo của mình. Màu da đen khiến Oprah sáng rực lộng lẫy với đỏ tươi và xanh lá, nhưng bà cũng nổi tiếng là diva xài bảng màu trung tính sành sỏi với các màu crème, màu ngà hay nâu sữa đậm. Những bộ cánh tiệc tùng dành cho các sự kiện long trọng của Oprah hoàn toàn có thể gây đại náo thảm đỏ dù khi ấy bà đang nặng 140 hay 200 pounds – Oprah luôn minh chứng rằng một bà béo hoàn toàn có thể thành công, tự tôn, hài lòng và lộng lẫy.
Những khi không gắn bó với những món trang sức ưa thích bằng hạt trai, Oprah trang hoàng cho diện mạo thời trang của mình bằng bất cứ trường phái phụ trang nào, từ những vòng khuyên tai bằng kim loại quá khổ, những chiếc khăn lụa chói lọi thắt điệu nghệ quanh cổ, cho đến những món bling-bling lòe loẹt đặc thù của rapper da màu. Một diện tích thể hình rộng rãi khi này chỉ đồng nghĩa với nhiều không gian để tổ điểm hơn. Hiệu quả của trò mix-and-match tưởng như điên rồ ấy lại thuyết phục đến mức người ta quên mất rằng Oprah Winfrey là loại phụ nữ có 1 tỉ thứ việc để làm trong ngày, ngoài chuyện ngồi chọn phối các bộ nữ trang với quần áo.
Gout mix-and-match của Oprah có thể được coi là một cuộc tung hứng kì quặc, nhưng được tính toán một cách tuyệt hảo. Tuy vậy, với 25 năm liên tục xuất hiện trước hàng triệu khán giả, bất cứ diva nào khác có thể kiệt quệ vì mỏi mòn ý tưởng, nhưng Oprah vẫn tồn tại với một chu kỳ biến hình chặt chẽ. Theo quan sát của các nhà phê bình thời trang, dù khác biệt và trội bật, Oprah chưa bao giờ dị biệt và lạc thời. Từ mốt quần loe tóc quăn tít, đến quần ống túm xếp pleat và áo độn vai,… phong cách thời trang của Oprah vẫn thể hiện rõ nét trào lưu thời cuộc qua bộ lọc thẩm mỹ cá nhân rất riêng, và những kiểu tóc, ton trang điểm đều thay đổi hợp lí và hài hòa với tổng thể diện mạo.
Những hình ảnh trên sóng truyền hình qua từng thời kỳ của Oprah Show có thể được xem là những hình ảnh đại diện của lịch sử thời trang đương đại. Quan sát Oprah, chính là quan sát vòng xoay trào lưu của các mùa thời trang qua suốt 25 năm, những cặp kính hết rộng đến hẹp, tóc tỉa thẳng lại đến tóc quăn, và váy len dài tay đã đến và đi vài được vài mùa trong suốt ngần ấy lần xuất hiện của nữ hoàng buôn chuyện.
Trợ lực sau lưng cho Oprah là cả một đội ngũ stylist sừng sỏ và những tay chuyên viên làm tóc, trang điểm thuộc hàng lão luyện. Nhưng Oprah tài tình sử dụng ê-kíp của mình – những người đủ thông thái để hiểu rằng Oprah Winfrey không phải là loại phụ nữ để người khác bảo mình phải mặc gì và trang điểm ra sao. Nói một cách khác, khi đưa mục Make-over vào chuyên kỳ talkshow của mình, Oprah đã mang chính mình và các nhân vật được chọn ra làm những nhân chứng thuyết phục và sống động nhất cho chân lý: bạn không nhất thiết phải ốm và ở trên bìa tạp chí để có quyền ăn mặc đẹp.
Cuộc độc thoại cuối cùng
25 năm sau, nhân vật duy nhất với câu chuyện đời điển hình, với những cú bẻ ngoặt bánh lái ngược chiều định mệnh, đầy đủ chất liệu để làm nên một show đầy ứ cảm xúc cho The Oprah Winfrey Show, đó chỉ có thể là chính Oprah Winfrey.
Người ta đã cứ ngỡ rằng lời chia tay của Bà Nhiều Chuyện sẽ phải là một sự kiện toàn cầu, một quả bom truyền thông với những tiết lộ động trời, cùng sự có mặt của một lực lượng celebrity hùng hậu, danh giá và đông đảo hơn cả đám cưới Hoàng Gia Anh và giải Grammy cộng lại. Trên thực tế, Oprah đã không làm họ thất vọng, và đã có một show chia tay như thế, với 13,000 khán giả có mặt tại United Center vỡ òa trong nước mắt, những tràng cười và những tiếng vỗ tay tưởng như của 25 năm đọng lại.
Nhưng đó chỉ là chương trình áp chót.
Bà Hoàng Talkshow muốn dành giờ phát sóng sau cuối cho cuộc hàn huyên thiêng liêng, duy nhất, và sau cùng. Chân thành tuyệt đối và sẻ chia hoàn toàn!
Một ngày thứ Ba không như mọi ngày thứ Ba của 25 năm lừng lẫy, Oprah Winfrey, khi này đã 57 tuổi, lộng lẫy, đầy cảm xúc và ắp ứ sinh lực hơn bao giờ, đã kết thúc những chuỗi ngày chuyện trò với nước Mỹ bằng cuộc độc thoại với chính mình trước màn ảnh nhỏ.
Để khép lại một TV show đã khiến người thiếu phụ da màu bất hạnh, lụy tình, bị bỏ rơi và lạm dụng trở thành “chị Hạnh Dung” của toàn nước Mỹ, Oprah đã dành cho cuộc “buôn chuyện” đơn độc cuối cùng toàn bộ 4 giờ phát sóng liên tục những video clip, những khoảnh khắc xúc động nhất, những nhân vật khó quên đã từng ngồi ghế nóng trường quay The Oprah Winfrey Show, và những tự sự thật thà cuối cùng.
Với một bãi đáp êm đềm hoành tráng sau lưng là dự án Oprah Winfrey’s Network (OWN), Oprah điều khiển liên tục 4 tiếng phát sóng với một sự điềm tĩnh, tự tại, nhưng không giấu những giọt nước mắt xúc động trong những khoảnh khắc ôn cố tri tân. “Mỗi người trong các bạn đều có một nền tảng: Bạn luôn có thể giúp một ai đó, lắng nghe, và tha thứ. Điều ước lớn nhất của tôi đó là các bạn sẽ tiếp tục cuộc hành trình đã chọn, làm những điều nên làm và không uổng phí một khoảnh khắc nào cả”.
Trong tất cả những gì thu về được cho chính mình sau một phần tư thế kỷ, đương nhiên là ngoài hàng tỉ dollar, đối với Oprah, đó là bài học “Ta luôn có trách nhiệm với nguồn năng lượng ta tự tạo nên cho mình và lan tỏa đến những người xung quanh. Đừng chờ một bàn tay đưa ra cứu vớt, hoàn thiện, hay sửa chữa lỗi lầm cho chính mình.”
Như thế, Oprah Winfrey nhẹ nhàng khép lại The Oprah Winfrey Show, ngọt ngào, không chút đắng cay: “tôi không nói tạm biệt đâu, sẽ chỉ là ‘Cho đến lần sau nhé!’”
Oprah đứng lên từ sân khấu, rời trường quay bằng con đường xuyên qua khán phòng, thẳng vào lòng khán giả của bà, dừng lại giữa đường để ôm hôn người chiến hữu Stedman Graham thật thắm thiết, high-five với những thành viên ê-kíp đã kịp vây nghẹt lối ra và dọc cầu thang dẫn lên văn phòng của Oprah. Cuối các bậc thang, chú chó cưng của bà đang đứng chờ sẵn.
Bế chú chó trên tay, bà đi thẳng về phía thư phòng khi nhạc hiệu quen thuộc của The Oprah Winfrey Show cũng vừa vang lên những nốt cuối cùng. Nữ Hoàng Buôn Chuyện hài lòng nói nhỏ: “Đi thôi, Sadie, chúng ta xong việc rồi!”
BOX
Cuốn tiểu sử mang tên Oprah của Kitty Kelley đã là một quả bomb dội vào thị trường văn chương Mỹ, nóng bỏng không kém những cuộc buôn chuyện trên sóng quốc gia của chính nữ hoàng talkshow. Nhưng với những độc giả của F., khi mà cuốn sách này chưa được phát hành tại Việt Nam, việc liệt kê một vài chi tiết thú vị cũng đủ để chấm phá hoàn thiện bức chân dung huyền thoại nữ hoàng buôn chuyện:
- Một người bạn gái thân của Oprah từng nói rằng bà ta “sẽ chẳng ngạc nhiên nếu biết rằng Oprah đồng tính”.
- Oprah đã từng khăng khăng nhất quyết không chịu thanh toán cho việc đặt viên gạch danh dự tại trường trung học Nashville, trị giá 50 USD.
- Khi còn đi học, Oprah ứng cử vào hội đồng sinh viên với khẩu ngữ “Thêm Chút Màu Mè Cho Đời Sinh Viên Của Bạn, Hãy Bầu Cho Đại Tẩu Oprah!” (Put a little color in your life, vote for the Grand Ole Oprah)
- Khi được chất vấn về sự “ngay thẳng” trong giới tính, bà đã trả lời với đám đông rằng “Tôi thậm chí chẳng tè được thành một đường thẳng!”
- Ba món khoái khẩu: khoai tây trộn kem cua, Ding Dong và gà rán.
- Oprah phải cho đặt đúc bồn tắm cho vừa với thân mình
- Trong suốt 13 năm cuối đời tài tử lừng danh Bob Hope, ngày nào bà cũng gửi đến ông một bó hồng.
- Trong phim trường The Color Purple, Oprah từng cặp kè sát cánh với Whoopi Goldberg, xoắn xuýt với nhà biên kịch Akosua Busia và gây gổ với Steven Spielberf
- Bà sợ mùi xăng dầu đến mức mỗi khi chuẩn bị tiếp đón chuyên cơ của bà, các nhân viên phục vụ phải quăng hàng chục bịch bắp rang bơ vào lò để át đi mùi này.
- Gia đình của Oprah không hề cho bà biết gì về người cha ruột của mình, nhưng lại tiết lộ với tác giả cuốn sách là Kitty Kelley, nhưng trong một nghĩa cử quân tử, Kitty đã không đề cập đến thông tin này trong cuốn sách, với tuyên bố rằng chỉ cho đến khi chính Oprah có thể thuyết phục mẹ của bà là Vernita Lee.
Share this:
Like this:
Đăng trong:
Bút-danh Túy Ca
Chân dung
Pour Femme (Chuyện Quý-bà)
Style Icon
Tạp chí F. (Fashion TV Magazine)
Tạp-chí
on Tháng Mười Hai 28, 2011 at 6:49 Sáng Để lại phản hồi
Tags: celebrities, chuyện đàn bà, legend, my favourite, showbiz, style icon
buổi chiều màu trà nhạt
Jasmine nOir
Sài-gòn vào Đông – đó là một khái niệm thật lạ cho thị thành nhiệt đới. Giã từ những nỗi u mặc lê thê như thứ mưa dai quấn quít từ cuộc hẹn hò tháng trước, ám ảnh dư chấn buồn cho mỗi F.dater với những lời ân cần còn vọng theo những hò hẹn miên man, rồi lại “đêm nay ai đưa em về?”
Hãy rũ mình khỏi màu u mặc của vị nhạc sĩ già đáng kính, các nữ độc giả của F. cần có cho mình một mùa Đông rất riêng của phố thị hào sảng.
Không có gì sảng khoái hơn là một ngụm nắng đương thời, một chàng trai trẻ biết cười và đẹp mắt, cuộc lưu luyến chỉ nhẹ nhàng phơn phớt thôi, đủ để không quá nặng lòng. Dẫu sao thì mùa Đông nhiệt đới chưa bao giờ là màu sắc tự kỷ trầm luân, khi vào tháng cuối trong năm, diva phố thị vẫn khấp khởi đón mùa lễ hội, và những hẹn hò xin đủ nhẹ để không khó lướt qua.
Bạn, nữ độc giả trung thành của F., đã đến lúc cần cho mình hoặc là một mối quan hệ với chàng trai đủ nghiêm túc để hò hẹn dài dài cho qua mùa lễ hội, hay một date partner đủ lém miệng để vui thú cuộc thanh xuân bất chấp một năm nữa lại sắp qua đi.
Hãy chọn cho mình một chàng trai như thế, và không hề gì, nếu có đôi ba năm tuổi chênh lệch ngược chiều giữa bạn và chàng. Chàng sẽ có profile sáng láng, với rating rạng rỡ xứng tầm F-dater, mật độ xuất hiện phủ sóng từ runway show đình đám của giới thời trang, cho đến soap opera thời thượng trên sóng truyền hình.
Buổi chiều chưa có bóng râm
Hãy chọn một buổi chiều vàng, hãy chờ người đàn ông trẻ tuổi bên cửa sổ cho cái nắng hanh hao cuối ngày đủ phà vào thắp bừng khuôn diện ấy, bởi bạn sẽ không thể không nhìn vào mắt chàng và… thốt lên: “Hoàng Anh xài contact lens hả?”
Khám phá thú vị đầu tiên: người đàn ông tháng 12 có đôi mắt của loài mèo. Chúng như hai quả cầu nhỏ màu trà nhạt hứa hẹn một thứ cặn trà dễ gây say nhưng lắng sâu dưới đáy. Nó không đòi người ta phải điều nghiên sâu hơn nữa, hay khoắng tìm chìm nổi trong đó. Bạn hãy cứ thả nổi lềnh bềnh trong không gian màu trà ấy, sẽ chẳng thể là một cuộc hẹn quá tồi, một khi mắt chàng trông ngộ đến thế!
Người đàn ông tháng 12 hoàn toàn không có vẻ bất an lắm với việc này. A, chàng ắt hẳn đã quá quen, và bạn chợt nhận ra, trong khi đang ngụp lặn vào đôi mắt mèo ấy, chàng đang chơi trò chơi quen thuộc với cặp vũ khí chiến lược màu trà nhạt của mình. Không hẳn là để tán tỉnh, không hẳn là một trò chiêu dụ, chỉ là thói nghịch ngầm của một cậu trai bất chợt thích hí hoáy khảy nhẹ chút cảm xúc bên trong người đàn bà đối diện.
Anh chàng tuổi Thân hơi nheo mắt “Không, màu mắt thật của tôi đấy! Này nhá, khi ra ngoài ánh sáng nó trông như vậy, vào trong bóng râm còn khác nữa”.
Lời mời khá thú vị, cậu nhỏ láu cá! Nhưng hẵng khoan vội tìm vào bóng râm, bởi câu chuyện chỉ mới bắt đầu, và bạn còn hi vọng, chàng sẽ còn nhiều hơn một đôi mắt màu trà.
Ham vui và cuộc vui an toàn
Không bao biện, huỵch toẹt một cách khả ái có chủ đích: “Tôi theo chúng bạn đăng ký lớp người mẫu vì đó là một môi trường có nhiều…cô gái đẹp!”
Sàn runway ngắn ngủi của một ngành công nghệ thời-trang-lai-giải-trí đã quá ngắn cho những bước ngược xuôi, và quá hẹp cho hàng hàng lớp lớp lứa người mẫu vẫn hàng ngày được các agency tung ra như vào chốn không người.
“Hồi mới vào nghề, ai tôi cũng gọi là anh, chị, bởi mình khi ấy là khuôn mặt mới toanh. Bây giờ, khi chợt nhận ra đã có những cậu đồng nghiệp gọi mình là anh, tôi hiểu: cái khái niệm “sườn dốc phía bên kia” không là quá sớm cho một tuổi nghề người mẫu. Có lẽ đây là công việc duy nhất có những bậc “hưu trí” tuổi đôi mươi.”
Cuộc chơi đã là vui, và đường runway ở Việt Nam chưa bao giờ là quá dài. Người ta có thể chuyên nghiệp và chuẩn mực, phô diễn hết bản lãnh của một mannequin sống, nhưng rồi người ta sẽ đi đâu tiếp, trên một sàn diễn hiếm khi dài quá vài bước sải cho đôi trường túc?
Thế là, bài bản như thường lệ, người ta thấy chàng xuất hiện trên màn ảnh truyền hình, với những kịch bản soap-opera thân thiện. Chàng chiếu rọi đôi mắt mèo bằng thủy tinh màu trà vào ống kính, và sưởi ấm lòng người xem bằng những vai diễn theo đúng template nửa đầu phim là mẫu thanh niên vượt khó, và nửa sau là quá trình trở thành kẻ “xấu-do-phấn-đấu-quá-tay”.
“Là một kẻ xấu thú vị chứ, vì nó cho phép ta công nhiên chạm đến những mặt trái của chính mình một cách đẹp mắt và có ích! Nếu cứ mỏi mòn một khuôn mẫu, tôi e rằng bản thân mình cũng sớm bỏ cuộc chơi với những nhân vật truyền hình. Cũng như công việc một người mẫu, ngoài việc thể hiện tốt mọi trang phục, ứng phó với ống kính hay đạo diễn và có mặt đúng giờ, người ta còn có thể làm điều gì hơn thế nữa? Nguyên tắc sống của tôi, cho đến tận bây giờ, vẫn là coi trọng niềm vui, sự hứng thú vô hại của chính mình. Và một lối đi, một hình ảnh, hay những công việc đã mòn vẹt dấu chân không bao giờ có thể giữ tôi lâu được.”
Cũng như với thời trang, chàng tìm đến như cậu bé lọt vào ngôi nhà bằng kẹo giữa những giai nhân catwalk, thì với điện ảnh, cuộc chơi được nâng tầm nhu cầu và càng trở nên thú vị – chàng có thể là bất cứ ai và sống ké vài tháng trong một kiếp sống xa lạ bất kì.
Vậy đó, đặc ân của những ngôi sao truyền hình và điện ảnh chưa chắc là tấm thảm đỏ, sự tung hô và hào quang ánh flash. Họ là những kẻ may mắn được ghé qua sống tạm trong những kiếp sống mà một cuộc đời dù đến trăm năm cũng không thể cho kẻ khác được nhiều hơn 1 vai diễn.
“Sư thay đổi và vận động luôn làm tôi thích thú. Khi nó vận động, ta biết nó đang sống, và phát triển theo một hướng nào đó. Tôi vẫn tiếp tục con đường catwalk của mình, cảm nhận mình đang đến gần hơn phía bên kia triền dốc, có nghĩa là tôi thản nhiên khi nó đến gần. Chả có gì để hoang mang hoảng loạn khi một cuộc chơi phải dừng đúng lúc. Sự tĩnh tại này cho tôi thời gian để chuẩn bị cho mình một sân chơi khác, thú vị hơn, chứ không phải để mù quáng kéo dài một cuộc vui đã đến hồi vãn duyên.”
Chàng còn quá trẻ và sôi nổi để nói đến sự tĩnh tại một cách quá thường xuyên.
“Tôi muốn mình như mặt nước vậy, thản nhiên và uyển chuyển đón nhận mọi thứ được ném vào mình. Chính điều này khiến những người phụ nữ khi đi bên cạnh tôi có cảm giác an toàn vững chãi, nhưng thật ra đó là bởi sự tĩnh tại an nhiên”.
Cảm giác an toàn – thứ đó thật là tốt, cho một góc đàn bà trong một dater lãng mạn say sưa, đặc biệt vào những đêm mưa gió và khi phải băng qua đường vào giờ cao điểm.
Còn vào mọi thời khắc khác trong ngày và trong đời, sự an toàn đó, đôi khi thật đáng ngán.
Chỉ là một cuộc hẹn cuối chiều, nắng vẫn còn tươi lắm, và chưa là cuộc hẹn cuối cùng. Hãy dẹp bỏ đi ao ước ý nhị “Giá mà anh chàng cho mình cảm giác được bất an hơn một chút!”, và trôi tiếp theo dòng hò hẹn, khi mà dẫu sao thì màu nắng và màu mắt chàng khi này, ton-suit-ton quá đỗi đi thôi!
An toàn, ắt cũng không là điều quá tệ!
F.dater vs Số học, và những cuộc hẹn hò không đủ thường xuyên
Bạn buột miệng, như thể độc thoại: “An toàn, đó là một điều chán chết!”
Chàng hóm hỉnh phản bác “Tôi có nói phụ nữ thấy an toàn bên tôi, nhưng tôi có khẳng định là họ đúng đâu?”
Lém lắm! Và sự hứng thú quay trở về, ngay chỗ nó đã ra đi.
Hoàng Anh, thoăn thoắt như màu mắt có thể đổi sắc khi vào bóng râm, đặt trước bạn những nét phác của tay chơi có máu liều nhưng quyết không nghịch dại – một thứ an toàn vừa đủ.
Chàng nói nhiều đến những sân chơi ngắn hạn, chàng mỏi mòn với những vòng quanh quẩn runway và ắt sẽ chẳng ở lâu với màn ảnh truyền hình nếu những vai diễn “vượt khó” lại một lần lặp lại.
Và đối với những cuộc tình và những cô gái cũng vậy:
- Phụ nữ ấy mà, nếu ngày nào cũng thế, là phụ nữ dở.
- Nhưng sự đều đặn đó ở đây là dấu hiệu an toàn
- Ta đang nói về ái tình hay hôn nhân?
- Chẳng phải 2 thứ nên là một?
- Ừ thì cũng đúng là yêu nhau nên mới cưới, cưới rồi thì vẫn nên yêu nhau. Nhưng cho phép tôi hỏi ngược lại, chị yêu nhiều chưa?
Bạn tuyệt vọng nhẩm đếm các cuộc hẹn hò của chuyên mục Date-of-the-month rồi thở hắt ra:
- Tôi không giỏi môn số học
- Vậy tại sao chị còn độc thân?
- Vì chúng ta giống nhau.
…
Chiều lặng.
Nắng loãng.
Đôi mắt màu trà đã mang sắc của bóng râm.
- Rồi tôi cũng sẽ cưới vợ
- Cậu tìm gì? Gái ngoan nhé? Hay hư hư một tí nhé?
- Hư hư một tí cũng hay đấy, nhưng tôi tìm người thông minh và hiểu tôi.
- Hiểu, hay chấp nhận?
- Hiểu, và chấp nhận.
- Vậy cậu chỉ cần yêu cô ấy thôi, người con gái thật đáng để kiếm tìm và chờ đợi ấy, hãy là tình nhân, thật lâu vào.
- Còn những đứa trẻ?
- Chúng là nguyên nhân à?
- Không. Ô kìa, đương nhiên là không rồi!
- Vậy hãy nói cho tôi nghe đi, dẫu cậu còn quá trẻ, hãy cho tôi biết với, vì sao người ta cần cưới nhau?
Chàng trai của tháng cuối năm đã dừng lại rất lâu, lâu đến đỗi tưởng như câu hỏi không lối thoát sẽ còn ám ảnh bạn mãi…cho đến cuộc hẹn hò tháng sau.
Chàng sẽ nhìn thẳng vào bạn bằng đôi mắt màu trầm, giải thích như thể với một kẻ cuồng tín u mê, hay với đứa trẻ ham chơi say vòi và dần lân cắc cớ: “Thế này nhé, người ta quyết định sẽ kết hôn sau khi khám phá ra rằng người này không thể sống thiếu người kia. Khi mà người này là lí do để người kia chợt thấy rằng sống một mình là không ổn, và những cuộc hẹn hò là không bao giờ đủ gần, đủ thường xuyên.”
Lim dim trong màu nắng đã xuống nốt trầm như mật, bạn sẽ nói trong tiếng thở ra: “Hãy nói y như vậy khi cậu cầu hôn cô gái của mình nhé!”
Ánh mắt chàng người mẫu-tài tử cine lại ánh lên lém lỉnh: “Chắc thế rồi, tôi đang tự nhẩm lại trong đầu đây!”
(photo by DaiNgo)
Share this:
Like this:
Đăng trong:
Bút-danh Jasmine Noir
Chân dung
Date Of The Month
Phỏng vấn Nhân vật
Tạp chí F. (Fashion TV Magazine)
Tạp-chí
on Tháng Mười Hai 28, 2011 at 6:11 Sáng Để lại phản hồi
Tags: celebrities, date of the month, showbiz
thật thà gọi tên mùa
Giáng-sinh! Giáng-sinh!
Chẳng bởi vô tình mà những tiếng reo hân hoan vụt cất lên trong lòng khi những dây đèn đầu tiên được mắc lên bên ngoài những department store chuẩn bị cho mùa xả hàng lộng lẫy. Bởi sự hân hoan trẻ nít ấy đòi được cất lên hồi hồi điệp điệp, như một thông lệ mỏi mòn của mùa giá băng. Từ leng keng “Jingle bells! Jingle bells!”, đến lời chúc tụng “We wish you a merry Christmas!” cũng được hồ hởi lặp lại như một điệp từ vô hạn, trong những giai điệu đã thành tập quán của phản xạ hân hoan có điều kiện, được ngân vang từ những chiếc xe bán kem đến tiếng signal trả số lui trong những tầng hầm garage cao ốc.
Giáng-sinh! Giáng-sinh!
Chẳng phải vô tình mà những Giáng-sinh trong quá vãng vẫn long lanh màu những dây đèn nhấp nháy, sắc đỏ màu áo Santa Claus và những sợi lá kim hân hoan một sắc xanh bằng nhựa giả trang của Noel miền vắng tuyết.
Những xanh đỏ trang kim của mùa lễ hội ngây ngô được nạm lên nền trắng lạnh của mùa băng giá.
Những bản nhạc cổ vẫn ngân nga tiếng đồng dao quốc tế, trong khi những ca khúc dành riêng cho Giáng-sinh người lớn lại đầy rẫy bóng vía những chia lìa, những hẹn hò hụt hẫng, và những đơn côi lạnh lùng hơn thứ tuyết giá bằng mút bông.
Con dân miền nhiệt đới học theo người Công giáo phương Tây mà quây quần tụ hội như để xua đi cái lạnh mùa Đông giả tưởng, những sàn catwalk cũng khéo lo liệu vài mảnh lông nhân tạo gọi là hưởng sái nét vương giả mùa thời trang xa xỉ Fall-Winter.
Không ai muốn nghĩ đến cái lạnh của khí hậu hay những cơn lập cập mùa sau cuối, nhìn một đơn vị thời gian to bự lại một lần nữa trôi qua.
Họ trộn mình trong lũ lượt những cuộc hành quân mua sắm, như một cuộc đại di dân lộn xộn bức bối ngược xuôi trong phạm vi đô thị. Như loài thiên di, họ xao xác trốn khỏi những căn hộ độc thân của chính mình, trốn vào những tiếng cười, những kính coong trong hầm garage siêu thị, vào tiếng quẹt thẻ mê man, và trốn vào những hẹn hò hời hợt để thêm vào wish-list một kẻ cùng chống chọi qua mùa giá băng.
Không có mùa nào trong năm mà thiện chí ve vãn, dù hời hợt nhất, cũng được vập vồ đón nhận và nhiệt liệt hoan nghênh.
Đâu chỉ vì người ta quá cần nhau, mà chỉ vì mùa về quá lạnh, và rất cần góp một tiếng hân hoan thật thà.
Có hề gì nếu những mối tình réveillon cũng long lanh thần thánh như tiệc Lễ Bán Dạ, và mau tan như tuyết cuối mùa.
Có sao đâu dẫu tách trà chiều nhạt vị, khi người ta chỉ cần nếm chút gì ấm áp và mùa cuối sẽ thấy dễ chịu ủi an.
Chen chân trong cuộc trốn chạy vòng quanh trong lòng phố thị ấy, người ta trốn mùa, trốn lạnh, cố chạy thật nhanh, thật miệt mài ngược chiều vòng xoay kim đồng hồ đang cứ mãi nhích xa dần những mùa hân hoan đã cũ.
“Mỹ nhân tự cổ như danh tướng, bất hứa nhân gian kiến bạc đầu.”
Có người chọn vùi mình vào những năm khổ hạnh cấm cố, vùi mình trong tư thất mà giữ cho riêng mình những mùa lễ đã từng hoàng kim, nô bộc giữ lại cho nhân thế ngoài kia một tượng đài.
Có kẻ chọn trốn vào những phấn son lạc điệu, những xưng tụng mỏi mòn “kẻ không có tuổi…lâu năm”, bước một chân từ hào quang nhan sắc xuống miền nhân thế, mỏi mòn khúc khích nét hồn nhiên lỡ thì.
Cuối mùa, mùa cuối năm…
bên dưới màu trà chiều nhạt vị của cuộc hẹn hò vô phương sờ chạm, đằng sau những trốn chạy miệt mài trong phố thị tù hãm những hân hoan gắng gượng, đằng sau cả những phấn son hào nhoáng níu giữ nét xuân lạc giữa mùa đông, bàng bạc khắp chốn phồn hoa mùa sao sáng chỉ còn một màu trắng lạnh sắc sắc không không…
Bởi trắng chưa bao giờ được coi là một màu.
Trắng – là một trạng thái.
Hãy thả mình thật thà để gọi tên Mùa Cuối, và tìm thấy cả bằng an trong tách trà nhạt cuối chiều.
Bởi mùa cuối rồi, lạnh lắm, và người ta quá cần có nhau!
Share this:
Like this:
Đăng trong:
Fashion Story (by F)
Không chỉ chuyện Thời-trang
Tạp chí F. (Fashion TV Magazine)
Tạp-chí
on Tháng Mười Hai 22, 2011 at 8:09 Sáng Phản hồi (4)
Tags: cover story, vintage
Vó Chinh-phạt Kỵ-sĩ Prorsum
Hoa Nhài Đen
Thông thường, trong danh sách nhận diện cơ bản mà một fashionista vỡ lòng phải biết, đó là dấu hiệu của họa tiết kẻ sọc màu đỏ và đen trên nền crème ngả vàng. Ngày nay, kỹ năng nhận biết ấy không chỉ thuộc về các tín đồ thời trang, mà sự phổ biến đã lan rộng đến cả những quí ông vốn thờ ơ với sự phù phiếm của thời trang, bởi sự xuất hiện bền bỉ của họa tiết ấy ở khắp nơi, như một dấu hiệu của quyền lực, đẳng cấp và một sự xa hoa đầy tính thực dụng thuần chất quí phái Ăng-lê – người ta biết đó là Burberry.
Không cần phải là một tín đồ thời trang để biết đến Madonna, Kate Moss, hay David Beckham. Nhưng một tín đồ am hiểu sẽ biết thấu đáo rằng tên tuổi của các nhân vật ưu tú và lộng lẫy này nằm trong danh sách thân chủ của nhà Burberry.
Đối với nhiều người, sự xuất hiện của dấu ấn kẻ sọc trên “bộ da thứ 2” của một người được coi là dấu hiệu nhận biết của vị trí xã hội, cá tính thẩm mỹ và đẳng cấp hưởng thụ thuộc hàng thượng lưu.
Ngôi sao nhi đồng Emma Watson xuất hiện ở mọi nơi, với tóc pixie, mặt mộc, mình khoác trench coat Burberry đã khiến các thiết kế của Burberry không còn bị coi là những “thẩm mỹ di sản” của một nhà thời trang Ăng-lê bảo thủ.
Burberry còn tung ra bên lề những dòng nước hoa, giày và cả bikini với một phong cách kinh điển bất biến, bên cạnh dòng áo khoác và túi xách đã làm nên danh tiếng.
Hơn lúc nào hết, vẫn chỉ với những họa tiết sọc, nhà Burberry đang trở nên sành điệu và tân kì hơn trên thị trường thời trang, đặc biệt vào mùa Thu-Đông, khi mà mặc nhiên với vòng xoay của mốt, những kiểu trench coat vẫn nguyên vẹn một sức quyến rũ thời thượng như mới. Và một khi một fashion diva nghĩ đến trench coat, đương nhiên, họ nghĩ đến Burberry.
Dã ngoại Hampshire, chinh phục Nam Cực, và bi kịch Everest
Câu chuyện bắt đầu năm 1856, từ tiệm vải của ông chủ mới 21 tuổi – Thomas Burberry ở Hampshire. Cho đến năm 1870, mặt hàng kinh doanh chủ yếu của Burberry vẫn là những món vật dụng và trang phục đi đường, dã ngoại.
Burberry sẽ vẫn chỉ là một cửa hiệu hiền lành phục vụ nhu cầu thiết thực của con dân Ăng-lê trong vùng khí hậu quanh năm sương mù và ẩm ướt, nếu vào 1880, Thomas Burberry đã không phát minh ra loại vải gabardine dầy dặn với 2 tính năng cải tiến là chống thấm nhưng vẫn thoáng khí, nhờ phương pháp xử lí chống thấm nước cho từng sợi vải trước khi đưa vào dệt.
Phát minh này đã cho phép ông mở cửa tiệm thứ hai hoành tráng ngay tại London, nơi Burberry vinh dự nhận được đơn đặt hàng quan trọng đầu tiên của lịch sử nhãn hàng, với số lượng vải được đặt may cho quân phục sĩ quan Anh. Đệ Nhất Thế Chiến diễn ra, cùng với hình ảnh những người hùng Ăng-lê là hình ảnh quen thuộc của những kiểu trench coat quân phục được ưa chuộng và phổ biến rộng rãi, không chỉ bởi ưu thế chức năng của loại vải gabardine nhà Burberry, mà còn bởi hình ảnh thuần chất Ăng-lê vừa thực dụng, vừa kiểu cách.
Logo hình kỵ sĩ được thiết kế năm 1901 với hàng chữ tiếng Latin Prorsum (Tiên phong) và được đăng kí nhãn hiệu. Một năm sau, bộ trang phục mang hình kỵ mã đã cùng Roald Amundsen lần đầu trong lịch sử nhân loại chinh phục Nam cực, và Ernest Shackleton cùng đoàn thám hiểm băng qua Nam Cực năm 1914. Từ đó, với danh hiệu “áo giáp của những nhà mạo hiểm”, bước chinh phạt của Kỵ sĩ Tiên phong không chỉ ghi dấu vẻ vang, mà cũng đã cùng nếm mùi chiến bại. Năm 1924, George Mallory, cũng như mọi nhà thám hiểm vĩ đại, chọn Burberry cho trang phục của mình khi thử sức trong cuộc chinh phục bi thảm cuối cùng trên triền băng tuyết của đỉnh cao Everest. Bộ trang phục Burberry đã cùng Mallory mất tích suốt 75 năm cho đến khi được tìm thấy năm 1999. Người ta đã không thể xác định đó là George Mallory, nếu không bởi chiếc áo còn nguyên vẹn, và thẻ tên thêu trên ngực với dòng chữ “G.Mallory”.
Cú kích PR lên đỉnh điểm khi trench coat nhà Burberry xuất hiện cùng người hùng cine Humphrey Bogart lãnh đạm nhưng nghĩa hiệp khôn lường trong siêu phẩm Casablanca, cho đến giai nhân hương sắc Audrey Hepburn trong bộ phim kinh điển của fashionista nhiều thế hệ là Breakfast at Tiffany’s, và cả Peter Sellers cũng khoác trench coat nhà Burberry trong bộ phim đặc sệt chất tình báo Anh điệu nghệ Pink Panther.
tài tử Humphrey Bogart trong Casablanca
Audrey Hepburn
Từ đó, vượt ra khỏi khuôn khổ hình ảnh người hùng quân phục, những chiếc áo khoác nhà Burberry chính thức trở thành một tiệm thời trang với đối tượng từ các tiểu thư, phu nhân sành điệu, cho đến các bậc quân tử hào hoa của phong vị châu Âu lãng mạn. Nhưng chỉ cho đến đầu những năm 1920, Burberry mới chính thức hình thành thương hiệu, và mất thêm 4 thập niên nữa để họa tiết kẻ sọc trở thành một dấu hiệu nhận diện trong giới thời trang, khi này chỉ áp dụng cho túi du lịch, khăn quàng và những chiếc ô – ba món vật cũng đậm chất kinh điển Ăng-lê.
Cũng với hình ảnh thuần chủng ấy, Burberry dễ dàng được chào đón rầm rộ tại Hoa Kỳ và châu Á bởi nét bản sắc đặc trưng.
Thập niên 1960, ngoài pop culture, váy ngắn, tóc pageboy và mắt khói, đã sản sinh cho lịch sử thời trang một cuộc bành trướng nghiễm nhiên của phong vị thẩm mỹ thuần Âu mới.
Từ hỏa tuyến Đại Chiến đến sàn diễn thoát y
Những tên tuổi huyền thoại đa lãnh vực ghi dấu vẻ vang trên lịch sử thương hiệu nhà Burberry đã gắn lên logo kỵ sĩ những tấm mề đay cao quý, khiến hình ảnh thương hiệu không chỉ mang vẻ thanh lịch xa xỉ, mà cả một lòng kiêu hãnh vương tôn thuần chủng.
Nhưng vượt trên tất cả, là hai vết son sáng tạo với vải gabardine thoáng hơi và trench coat. Khái niệm trench coat vốn ngay lập tức khiến người ta liên tưởng đến những bộ quân phục sần sùi, bùn, bụi, những vách đá gồ ghề,… Một hình ảnh mang tính “quân sự”, và sâu xa hơn, hình ảnh của những kẻ mạnh. Và như vậy, nhà Burberry ngay từ đầu đã có cho mình một hạt giống tốt.
Vào thời đó, trench coat được coi là sự thay thế hoàn hảo cho những chiếc áo khoác nhà binh bằng serge nặng nề của quân đội Anh và Pháp thời Đệ nhất thế chiến. Những chiếc trench coat quân đội đầu tiên luôn có cầu vai, và các khóa móc D-ring dùng để treo lựu đạn, túi đựng bản đồ hay những loại dao lê nhỏ. Như vậy, những kiểu trench coat đầu tiên đã được thiết kế hoàn toàn như một trang phục chức năng, và cái tên ‘trench coat’ cũng ra đời từ đó, xuất phát từ nghĩa “chiến hào” của từ “trench”.
Như những chiếc mũ cối của thời chiến tranh đã trở thành món phụ trang dân dụng phổ biến của Hà thành thời hậu chiến, những người hùng trở về từ mặt trận trong những chiếc trench coat, đặc biệt khi mà ngành công nghệ dệt may đã kiệt quệ hoàn toàn sau thời kì đầu tư tổng lực cho mặt trận, trở thành một thứ áo khoác phổ biến cho cư dân thành thị Âu châu, cả nam lẫn nữ, đặc biệt trong thời tiết lạnh và ẩm ướt quanh năm của nước Anh.
Trench coat vào thời kì này được thiết kế với 10 nút áo, vạt trước đắp chéo thường có các màu nâu khaki nhạt, xám beige hoặc đen, vai áo raglan với cầu vai và dây cài ống tay (cuff strap).
Khi những móc khóa D-ring không còn dùng để treo lựu đạn, trench coat trở lại đúng chức năng với xuất xứ của nó – hoàn hảo trong việc chắn gió, giữ ấm cơ thể, chống thấm sương và mưa.
Câu chuyện về những huyền thoại quân đội đã cài cắm vào cái tên Burberry và những chiếc trench coat đầu tiên không chỉ như một trào lưu kiểu dáng mới, mà một giá trị văn hóa và lịch sự thực thụ. Burberry và trench coat mặc nhiên đại diện cho những hình ảnh đầy tính phiêu lưu, các siêu anh hùng phản gián, những tính cách được che phủ qua lớp vạt chéo lãnh đạm, những thân hình bốc lửa được che kín, chỉ lộ vòng eo thắt đáy qua chiếc nịt thít chặt, vạt dưới đủ xô lệch theo bước chân để lộ những cặp chân thon thả tuyệt trần. Sau thời kì hoành hành màn bạc cine, trench coat mặc nhiên được coi là một trong những trang phục gợi cảm nhất của nữ giới và trở thành phục trang ưa chuộng của các vũ nữ thoát y khi mở màn vì nét gợi tình và chức năng…dễ cởi.
Mọi sự thật trần trụi được khéo léo che phủ, những uốn lượn kì thú được vẽ vời thống thiết hoàn toàn bởi sự hiếu kì và óc tưởng tượng. Hình ảnh một quí bà khoác lên chiếc trench coat, với dây lưng siết chặt quanh eo, luôn khiến người ta ý thức rõ rệt rằng bên dưới những lớp vải dầy luôn là những thân hình lõa thể.
Nét hấp dẫn giới tính của trench coat đều mang hiệu ứng ma mị đối với cả hai giới. Trong thời kì Đệ Nhị Thế Chiến, các diva thành thị đua nhau đắm chìm trong những cuộc tình chóng vánh sặc mùi tiểu thuyết lãng mạn. Họ rỉ tai nhau và khai thác trench coat theo một công năng đắc dụng mà Thomas Burberry đã không thể nào ngờ tới. Chiếc thắt lưng siết chặt giữ 2 vạt áo trước khiến quí bà thậm chí không phải bận tâm cài nút áo. Trench coat trở thành “đồng phục đi hoang” của lối sống thành thị thời chiến. Họ tìm đến với tình nhân, lõa thể hoàn toàn bên trong chiếc trench coat.
Ngược lại, hình ảnh nam nhân trong trench coat, sau những người hùng chiến trận, là một hơi hướm phản gián đào hoa tràn ngập màn ảnh cine. Từ gã Dick Tracy bảnh bao đến chàng Rick Blaine của huyền thoại tình yêu Casablanca, thậm chí đến mãi về sau này còn ghi dấu vẻ đẹp lạnh lẽo vị lai của những nam thần máu lạnh trong Matrix.
Trench coat, từ một câu chuyện người hùng chiến trận, đã vượt lên trên tầm thời trang xống áo mà hình thành cả một diện mạo lối sống qua nhiều thế hệ. Người ta có thể gán ghép sự liên tưởng những tính cách mạnh màu nhất tới cá tính nhân vật phía sau lớp trench coat, từ những quí ông “ngầu đời”, tới những quí cô phóng túng. Từ đẳng cấp và đài các đến ý nhị và hào hoa.
Chiến dịch mang tên “Hoa Hồng”
Logo mang hình kỵ sĩ đã cứ thế thẳng tiến chinh phạt suốt một thời gian dài, cho đến khi, người ta chợt nhận ra nét kinh điển đã nhuốm màu bảo thủ.
Những năm 1990, vó ngựa tiên phong nhà Burberry đã trở nên lạc nhịp vòng xoay trôn ốc của trào lưu, và giới phê bình thời trang bắt đầu tỏ ý lo ngại cho tinh thần Prorsum tiên tiến, một khi Burberry, kể từ Casablanca, vẫn chỉ là những ô vuông đỏ và đen.
Đại cuộc hồi sinh của Kỵ sĩ Bất bại được quyết định giao vào tay Rose Marie Bravo năm 1997. Bản thân quyết định táo bạo này cho thấy sự quyết tâm của nhà Burberry khi lần đầu pha máu đế vương bằng việc mời một nữ tổng quản người Mỹ.
Và đó đã là một nước cờ hoàn hảo.
Rose Marie Bravo mang về cho Burberry những thiết kế tân tiến thật sự mang hơi thở trào lưu, những sản phẩm ngắm trúng hồng tâm thị trường toàn cầu, và những chiến dịch quảng cáo hào nhoáng với gương mặt non choẹt của siêu mẫu Kate Moss làm tâm điểm.
Một cuộc cải lão hoàn đồng thật sự. Bản thân Burberry, từ một tên tuổi thủ cựu sắp được tôn vào hàng di sản bỗng nghiễm nhiên trở thành thương hiệu có niên lợi thuộc hàng phú vượng nhất làng thời trang, thậm chí ngay trong thời điểm kinh tế bị tổn thương trầm trọng bởi vụ khủng bố ngày 11 tháng Chín, nếu không muốn nói là dòng áo thun cao cấp và nón lưỡi trai luôn luôn cháy chợ bởi cả tín đồ thời trang lẫn dân hooligan bóng đá chịu chơi.
Tiếp nối chiến dịch mở màn của bông hồng xứ cờ hoa, các chiến dịch quảng cáo đậm chất thời thượng trẻ trung xuất hiện ồ ạt trên các tạp chí đa đối tượng, từ GQ, Esquire, Vogue, Tatler đến Harper’s Bazaar, với các khuôn mặt đại diện của các cô nàng tomboy măng tơ như Agyness Deyn, Emma Watson, hay ngôi sao non choẹt George Craig, hoặc gần đây nhất là thiên thần nội y Rosie Huntington-Whiteley đại diện cho dòng nước hoa mới Burberry Body vừa ra mắt hồi tháng Bảy.
Hai người đàn bà Mỹ và niềm kiêu hãnh Ăng-lê
Trong giới thời trang, có không ít các thương hiệu hùng mạnh được phát triển trên nền tảng sở trường của một loại sản phẩm đặc thù như một dòng độc đạo duy nhất. Hoặc là họ từ đó mà phát triển trở thành hùng mạnh, hoặc biến sở trường độc đạo ấy thành ngõ cụt không lối thoát.
Quy luật khắc nghiệt này thường được tìm thấy trong con đường phát triển của các nhà thời trang lâu đời và nặng tính kinh điển, như nhà Louis Vuitton, với những rương hòm in hình hoa 4 cánh, đã từ đó vươn tay bá chủ để trở thành tập đoàn cá mập siêu hùng mạnh LVMH.
Trong khi đó, các thương hiệu khác, với cùng xuất phát điểm, chọn bám trụ bền vững với dòng sản phẩm truyền thống, rồi chậm rãi và vững chắc, thiết lập mạng lưới sản phẩm vệ tinh mang nặng tính bản sắc. Đây hoàn toàn không phải là một chiến lược dễ dàng và hiệu quả, nếu họ không sinh ra với sự bảo thủ cực đoan với những gì là truyền thống, và lãnh đạm thờ ơ với những biến động thời cuộc của trào lưu thẩm mỹ hay tư duy thương mại tiến bộ. Hay nói một cách khác, người ta không thể vừa bảo thủ vừa thành công, nếu người ta không mang trong mình máu phớt tỉnh Ăng-lê chánh hiệu con nai vàng.
Tính bản sắc của Burberry, khi được khôn ngoan trao vào tay hai đời nữ tổng quản thông thái, đã được kích hoạt đến thành công tột cùng.
Không nằm ngoài quy luật hợp nhất của các nhà thời trang danh tiếng, Burberry độc lập cho đến 1955, khi được thâu tóm bởi ‘cá mập’ GUS (Great Universal Stores)
Rose Marie Bravo nghỉ hưu năm 2006 và được thay thế bởi Angela Agrendts – người hiện nay là CEO tối cao của Burberry.
Nữ đại tổng quản đời sau là Angela Ahrendts, trong 3 năm đầu cầm quyền, đã tái thiết một Burberry hoàn toàn mới, đẩy lên ngang tầm các tên tuổi hùng mạnh dòng kinh điển như LVMH và Hermes. Ngự ngai tối cao thống trị nhãn hàng thuần Ăng-lê, người đàn bà Mỹ này đang cùng giám đốc sáng tạo Christopher Bailey đã đưa trench coat vào kỷ nguyên Internet bằng hai chiêu bài thông minh với mini trench coat, và trench coat cho dạ tiệc. Gần 2 thế kỷ tồn tại, với khuôn diện măng tơ của đại sứ mần non Emma Watson, Burberry không dấu cả tham vọng lẫn tiềm năng kéo dài mệnh bá chủ và sức sống kì diệu của những chiếc trench coat.
Như một truyền nhân kế thừa hoàn hảo của Rose Marie trước đây, Ahrendts chỉ trong một thời gian ngắn đã làm những điều kì diệu với tên tuổi Burberry. Dù không phải đối mặt với những hậu quả của cuộc đại khủng hoảng, bà vẫn đưa ra chiến thuật tiết giảm và hạ chi phí, cùng lúc phát triển các nhánh hàng xa xỉ, vừa là cứu cánh tài chính, vừa đạt hiệu quả phát triển hình ảnh thương hiệu khi duy trì sự trung thành tuyệt đối với bản sắc của Burberry, từ lớp vải dầy màu camel và sọc đen đỏ quấn quanh các lọ nước hoa, đến nét vintage kinh điển trên từng mẫu mini trench coat.
Khi được hỏi liệu Burberry đang hòa tan bản sắc cực đoan vào cuộc chung chạ giai tầng của toàn cảnh thời trang thế giới, Ahrendts trả lời bằng một dẫn chứng về Donna Karan – thương hiệu trung thành với bản sắc Hoa Kỳ. Nói đoạn, bà chỉ tay về phía nóc tòa nhà Quốc Hội – một trong những biểu tượng kiêu hãnh của nước Anh, và nói: “Đó chính là sự khác biệt của chúng tôi”
Share this:
Like this:
Đăng trong:
Ôn-cố Tri-tân
Bút-danh Hoa Nhài Đen
Diện-mạo Tư-phong
Pour Homme (Chuyện Quý-ông)
Runway-report & Trend-critic
Tạp chí F. (Fashion TV Magazine)
Tạp-chí
Top Brand
on Tháng Mười Hai 4, 2011 at 7:36 Sáng Để lại phản hồi
Tags: fashion brand, fashion trend, hoài cổ, legend, vintage
bonjour tristesse!
Thời Trang – khi đến tận cùng đỉnh cao phát triển của nó, hay trên những trang viết của ấn phẩm F., người ta hiểu, nó không chỉ là thuần túy áo quần.
Thời Trang là ngôn ngữ, dẫu thanh hay tục, là bộ da văn minh dù ở tầm công năng hay đến hàng duy mỹ, là bước chuyển vận của mùa và thời cuộc, dẫu thịnh hay suy. Nó không chỉ là bộ da biến đổi vô tri theo môi trường, thời cuộc.
Bởi nó kể câu chuyện thời cuộc, và những con người trong lòng thời cuộc, những kẻ kiến tạo nên nó, và cả những con người thụ hưởng nó. Thời Trang kể câu chuyện bất tận về những con người, và những thời cuộc.
Thời Trang là những trang nhật ký bất tận của nhân loại, từ thật thà nguyên thủy, đến đế vương hào nhoáng của những giai kỳ bùng nổ văn hóa, hay thô sần như vi diệu của những người đàn ông và đàn bà đi qua đại thế chiến, bó mình trong lớp trench coat trứ danh của ái tình dã chiến, hay chân phương thiệp liệp trong phong mạo nam tử hán phản gián Tây phương.
Hãy nghe câu chuyện kể về những vó phi mã chinh phạt của kỵ sĩ tráng kiện trên mình ngựa Prorsum, về thứ thời trang hỏa tuyến bi hùng,về nhà thám hiểm bất hạnh vĩnh viễn nằm lại trên đỉnh giá băng Everest, trong tấm vải liệm – thứ thời trang cuối cùng, bằng vải gabardine, để nghiêng mình trước niềm kiêu hãnh Ăng-lê thuần chủng trong dáng vẻ người hùng phản gián cinema, đã đột ngột trở thành thứ chiến bào kinh điển của những diva phố thị phong tình ra sao, mà dấy nên cả một món thời trang kinh điển và cơn sốt trench coat lại rầm rộ chao đảo mọi thánh địa thời trang mỗi dịp Thu-Đông.
Thời Trang còn là những thông điệp phi ngôn bao bọc bên ngoài hình hài thịt da thật thà nhân thế, từ những họa tiết bằng mực xanh khảm vào da thịt như những logo tâm linh, tuyệt vọng cấu vặt một chút sắc màu bản ngã, hay hô hào những slogan tinh thần mong tôn tạo làm dáng cho giai nhân vật dục Jolie. Khi những slogan bằng mực được xem là đồ trang sức, thì những hành vi thiện nguyện có chăng cũng là một thứ Thời Trang. Chí ít bởi nó làm một người đàn bà đẹp trông có vẻ đẹp hơn dung nhan thuần túy của một ả đào khiếm tài, đói tình, thừa thủ đoạn.
Thời Trang có hàng chính phẩm, cũng có thứ hàng xa cạ pha máu đế vương. Nữ Hoàng Bán Lẻ Donna Karan có thể nâng cao ngọn đại kỳ Dân Chủ để xô đẩy diện mạo haute couture ra các “thánh địa tiểu thương” dưới hình hài những phiên bản vô tính giá rẻ, nhưng cũng có thể cùng lúc hạ thủ hàng vạn con vật vô tội, tảng lờ trước những tiếng kêu rít của loài thú chết, những cuộc biểu tình đẫm máu theo nghĩa đen, chỉ hòng ve vuốt cho một thị phần thượng thừa xa xỉ, khi mùa Đông không chỉ khắc nghiệt với thiên nhiên, mà với cả nền tảng nhân tính của con người. Dưới lần váy jersey dân chủ ấy, Nữ Hoàng Bán Lẻ của thế giới thời trang hiện nguyên hình ả đồ tể không tim.
Thời Trang còn có thể là những lời bao biện hào nhoáng lụa là mơn trớn người nhìn, mân mê kẻ mặc. Thời Trang có thể là một lượt khăn shawl màu tím để chiều mắt ý trung nhân, rồi đưa người đàn bà vào ngai Nàng Thơ Vĩnh Cửu. Thời Trang có thể là một khúc tình đầu tiên và duy nhất, một lời xưng tội của mái đầu bạc bên người bạn thủy chung duy nhất, cuối cùng, và tuyệt đối chí tôn nhưng đắng cay trong thiệt thòi và nhẫn nhục. Thời Trang che đậy, tôn vinh và bao biện,cuối cùng rốt chỉ một vuông vải liệm thuần sơ giản dị, che phủ lên lần cuối hình hài đã mỏi mệt đến bằng an với một đời mặc mặc cởi cởi những lớp áo thế thái hàn huyên.
F. lại bước qua một mùa Đông đa diện, bước sâu vào những thịnh những suy vần vũ của thời trang, và của thời gian. Khi những cơn hiu hắt của Đông nhiệt đới bừng lên vạt nắng ấm cuối cùng trong một buổi hẹn hò với huyền thoại tân nhạc, để nghe một lời xưng tội của ái tình thống hối, lòng trở nên nặng trĩu dẫu ngoài kia, những hân hoan mùa lễ lạc cuối năm hẵng còn chưa kịp khai hội.
Mùa Đông lại vần vũ đến, Sài Gòn đượm sương vào buổi sáng mà vẫn huyễn hoặc mưa cuối chiều. Thôi thì hãy nghe lại những nốt hoan ca đầy thứ thi vị tự hoại, thứ tiếng khóc bật như reo vang hoan hỉ, bởi “chẳng phải cuộc đời bắt đầu bằng tiếng khóc đó sao?”.
Vậy thì, mùa cuối rồi đấy, sang Đông rồi đấy. Nào thì thả mặc mình trong ân phước được khóc và thống hối. Nào thì hân hoan hay cam nhận, thời trang và thời gian vẫn qua đi qua đi.
Bonjour, tristesse!
Share this:
Like this:
Đăng trong:
Diện-mạo Tư-phong
Fashion Story (by F)
Không chỉ chuyện Thời-trang
Tạp chí F. (Fashion TV Magazine)
Tạp-chí
on Tháng Mười Hai 4, 2011 at 5:51 Sáng Để lại phản hồi
Tags: cover story, fashion brand, fashion trend, vintage
Nguyễn Ánh 9 – Vệt Nắng Cuối Chiều
Jasmine nOir
photo by DaiNgo
Khi thời khắc tiến vào mùa cuối cùng, của một năm hay của một đời người, không chỉ bởi mùa Đông mà người ta thấy lạnh. Một lúc nào đó, bạn có chợt cảm thấy hơi lạnh không chỉ lướt qua lần áo khoác, bởi mùa Đông nhiệt đới còn len lỏi vào tâm can, khi trải qua miên man những mùa hò hẹn, chợt một đêm, bạn vô tình thầm hát cho chính mình, như ủi an, như ân cần tự hỏi “Đêm nay ai đưa em về, mình em trên hè phố vắng…”
Hãy xếp lại những chói chang colour-block từ độ đầu Xuân, gấp lại vạt áo mỏng mùa Hè, cất đi tấm khăn sương khói chỉ đủ ấm cuối Thu. Tất cả đều không đủ để ấp ôm vỗ về khi Mùa Cuối Cùng len lén đến.
Tại sao không lần ngược về câu hát cũ, giữa những hẹn hò liên tiếp của tháng, của mùa, để tìm lại người đàn ông từng của một thời nào đó, đã ân cần gieo tiếng xót xa “đêm mai, ai đưa em về?”
Cho cuộc hẹn hò đầu Đông, diva của f. sẽ không rùng mình khép chặt vạt trench coat hãi sợ cuộc lạnh lùng. Nàng đi tìm người đàn ông đã từng có lần hân hoan chào đón nỗi buồn, từ rất nhiều mùa Đông về trước “bonjour, tristesse!”
Buồn ơi, chào mi!
Người đàn ông mùa Đông ấy vẫn không ngừng nghỉ. Bước qua danh tiếng của một nhạc sĩ, ông trở về làm người nhạc công, say sưa và tuẫn tiết. Hãy đến không gian của người nhạc công tuổi xế chiều ấy để lắng nghe không chỉ ngôn từ.
Bạn sẽ chọn chiếc bàn gần sân khấu, lơ đễnh lật cuốn menu tím rịm được chu đáo đặt khẽ bên cạnh. Bạn sẽ hơi giật mình đấy, diva sành sõi ạ, bởi thực đơn được bắt đầu với những món nghe khá lạ tai: Cánh Hoa Xưa, và Đừng Để Mắt Em Lệ Thắm Long Lanh!
Bạn nhận ra trong tay mình khi này là cuốn Tình Khúc Nguyễn Ánh 9 được ưu ái ký tặng, rồi ngỡ ngàng ngước mắt nhìn lên “anh phục vụ” mặc suit đen vẫn kiên nhẫn đứng chờ, bạn sẽ nhận lại được nụ cười hóm hỉnh trên khuôn diện hòa lành của tượng đài tân nhạc Việt Nguyễn Ánh 9.
Hãy mời ông một chiếc ghế sát bên chứ không phải nơi đối diện, vì người nhạc sĩ có một giọng nói rủ rỉ ấm áp đến độ bạn sẽ không muốn bỏ qua, khi mà trong cái se se của mùa Đông nhiệt đới, ông kể cho bạn nghe về sự cô đơn, và nỗi khắc khoải của những bài hát buồn vô tận.
Nỗi cô đơn không có tuổi tác. Một cậu trai có thể trách hờn duyên số, giật giọng từ chối “Không! Tôi không còn yêu em nữa!” như một bàn tay đưa ra xô người con gái, như một tiếng sập cửa, như một cú nguẩy dỗi hờn. Em xem đó, như đứa trẻ nít, ta lấy của nó một cây kẹo, nó sẽ khóc để đòi lại cho bằng được mới nghe, rồi khi cây kẹo được chìa ra trở lại, có thể đã quá trễ, đứa nhỏ sẽ quẫy mình tức giận. Đàn ông, lớn bé chi đó, cũng đều là trẻ nít mà thôi.
Thế thôi mà cô đơn.
Càng có tuổi, nỗi cô đơn lắng vào trong, rồi những cậu trai lớn thành những người đàn ông, và những người đàn ông càng đắp thêm năm tháng lên tuổi đời. Họ học cách không quá bất ngờ với nỗi cô đơn, họ học cách thỏa hiệp rồi chung sống hòa bình với nó. Rồi đến một lúc, họ thở phào khi tìm lại nỗi cô đơn đến trong đời, hân hoan như chào đón một người bạn cũ, một thứ đã thân thuộc, và họ an toàn trong đó. Trong nỗi cô đơn riêng tư và êm ái ấy, họ đàn, họ hát, họ khóc kiểu đàn ông, và giải tỏa năng lượng cảm xúc. Những người đàn ông nghệ sĩ, họ trở nên ưu ái nỗi cô đơn riêng tây là vậy, thậm chí họ kiếm tìm, ngay trong cảnh đuề huề viên mãn. Cứ để yên cho họ loay hoay trong cái ổ cô độc ấy, họ là nghệ sĩ mà, họ lành hiền, và không gây tổn thương phương hại đến ai, như những chú dế, họ chỉ gáy lên tiếng vĩ cô độc của mình.
Tinh cầu này đông người lắm, một cộng đồng cô đơn đông đúc.
Họ không nắm giữ được nhau, trượt qua nhau, nên tìm chạm đến nhau bằng âm thanh, bằng ngôn ngữ, hay bất cứ món quà nghệ thuật nào được Tạo Hóa trao tặng cho.
Tại sao lại chỉ chia sẻ nỗi buồn khi mà đó không phải là tất cả của cuộc sống?
Bởi phàm bữa tiệc thịnh soạn khi được thiết đãi, đâu chắc đã thi vị bằng một củ khoai chia sẻ trong đắng cay. Một gói thuốc đắt tiền hào phóng cho nhau, đâu thể nhớ lâu bằng điếu thuốc duy nhất chuyền tay bạn hữu.
Cuộc đời là quả táo, bên xanh bên đỏ, sao không chọn phần tươi ngon mà thưởng thức, mà lại đắm đuối vào một nửa chát chua?
Vì sao Chúa trời phải mang trên mình thập giá?
Ôi không, Chúa trời mang thập giá bởi chúng sinh muôn loại, còn bạn thì đã miệt mài những hò hẹn showbiz đủ để hiểu bản chất nghệ thuật chân chính là hành vi vị thân. Đối với những người đàn ông thích buồn và biết khóc ấy, cũng chẳng nên quá bận lòng với phần chua chát mà ta cắn phải hay tự chọn cho mình, bởi khi vị đời được đẩy đến cực đoan dẫu chua hay ngọt, ấy là khoái cảm của việc sờ chạm đến thâm sâu cảm xúc đời người
Những kẻ tội nghiệp. Trong giai điệu bản nhạc buồn bã nhất những nốt cao hân hoan chào đón nỗi buồn “xin chào mi, khi người yêu đã bỏ ta đi…”
Hồi đó tôi còn trẻ lắm, cuốn Bon Jour Tristesse của Francoise Sagan đang rất thịnh. Kì lạ một nỗi, dẫu chưa kinh qua một nỗi buồn thật sự, mà đã cảm tác thành một thứ khoái cảm buồn bã “Buồn Ơi Chào Mi”. Dường như nghiệp mệnh từ khi ấy, đã dẫn dắt tôi tìm đến sự ủi an của nỗi buồn – một thứ an ủi tội nghiệp nhưng rất thật “nếu trên đường đời ta lẻ loi một mình, thì trên con đường tình ta có mi, buồn ơi!”
Khác với nhạc phẩm “Không!”, khi vế phủ định cuồng nộ của kẻ bị phụ tình lắng đuối với những note cuối cùng thống thiết “em ơi!”, thì “Buồn Ơi Chào Mi” lại kết thúc với đỉnh cao thăng hoa khoan khoái “ta có mi, buồn ơi!” Có phải từ trong tiềm thức, nhạc sĩ cự tuyệt ái tình viên mãn để đến ẩn trú trong nỗi cô đơn thường trực và an toàn?
Em có bao giờ biết cảm giác giải thoát khi được bật ra tiếng khóc? Tại sao lại tránh sợ và buộc lỗi cho nỗi buồn và những tiếng khóc? Tại sao không làm bạn với nỗi buồn và sự cô đơn để không còn hãi sợ nó? Tại sao không hoan hỉ đón lấy nỗi buồn cũng như niềm vui, khi đó là nỗi buồn cứu rỗi, khi những giọt nước mắt xoa dịu nhu cầu được khóc?
Con người ta cần khóc lắm chứ. Họ tới rạp cine, xem tiểu thuyết diễm tình và khóc cả ở những đám cưới. Chẳng phải cuộc đời này bắt đầu bằng tiếng khóc đó sao?
Khóc được – ấy là một ân phước.
Vậy chăng làm đau một nhạc sĩ, ấy là tặng anh ta một món quà?
Một món quà quý. Thường thì nỗi đau và những món quà quý đều được giữ gìn rất lâu.
Những mảnh vỡ quý giá và Nàng Thơ không đi chợ
Phần lớn những nhạc khúc buồn, những bản tình ca, những “tiếng khóc”, tôi khóc giùm người ta, tôi yêu ké những mối tình được sẻ chia và khóc nỗi lòng của họ bằng tiếng khóc duy nhất mà tôi biết – Âm Nhạc. Còn ra, bóng hồng bóng tía nàng thơ trong nhạc tôi, trước sau cũng chỉ hình ảnh một người đàn bà ấy. Là Nàng Thơ của một nhạc sĩ, nàng phải là người đàn bà mà gã đàn ông bên trong người nhạc sĩ sẽ mãi không có được. Nàng phải hư hư thực thực, và nàng nên ở đủ xa để không kịp bị cuộc thường nhật vợ chồng làm rõ vết chân chim vào buổi sáng thức dậy bên nhau. Nàng là Nàng Thơ, nàng đâu thể tuềnh toàng xống áo, nàng cũng chẳng thể đi chợ đau đáu chuyện cơm rau, và ắt hẳn nàng cũng không nắm rõ chuyện củi cao gạo kém ra sao ngoài đời. Nàng mong manh là vậy, nên người nhạc sĩ sẽ chọn cho nàng sự bảo bọc an toàn bằng khoảng cách và thời gian. Nàng mong manh là vậy, sao nàng giáp mặt được cả những điều xấu xí đời thường mà cuộc chồng vợ sẽ thố lộ suồng sã với nhau?
Nhạc sĩ yêu cuộc tình hay người tình?
Tôi yêu cuộc tình, bởi nó nên thơ quá đỗi. Cái thời thiếu niên tinh khôi như mới, cả nỗi buồn và sự mất mát cũng mang cái đẹp đầu đời. Nói rằng tôi yêu người tình cho đến tận ngày nay cũng vừa đúng vừa sai. Bởi tôi nhớ như in giọng nói, tôi nhớ cách nàng luôn ân cần hướng về tôi, tôi nhớ tà khăn nàng quấn, nhớ cả cặp bông tai nàng chọn đeo làm đẹp mắt tôi. Nhưng nào đâu phải tôi yêu bà ấy đủ để mang cuộc đời ra bù đắp một cuộc tình dang dở cho nhau.
Tôi nuôi dưỡng hình ảnh đó, cuộc tình đó, rồi tôi nâng niu trân quý đặt vào một góc thiêng liêng trong tim, để không điều gì, kể cả thời gian, chạm được đến mà thay đổi điều đẹp đẽ chí tôn ấy trong lòng, ngay cả chính nàng.
Nếu một khi bị tước đoạt đi bóng vía cuối cùng để mặc lòng tơ tưởng, để thả rông thói lãng mạn vô hại của mình, ấy sẽ là khi “tình yêu đã chết trong tôi, nụ cười đã tắt trên môi, chỉ còn tiếc nuối khôn nguôi cô đơn bơ vơ tiếng hát lạc loài…”
Nếu không vì nghiệp chướng mà Romeo và Juliette gánh chịu, liệu họ có hạnh phúc về sau?
Tôi cho là không đâu em à.
Họ, những nàng thơ, và những chàng Romeo, họ trẻ trung, đa cảm và dại dột quá đỗi, họ khó lòng kinh qua cho tròn vẹn với những cuộc hôn nhân.
Nghe chừng như hôn nhân là một môi trường đào luyện con người?
Đúng hơn là môi trường tốt nhất.
Đó có phải là một môi trường khắc nghiệt?
Quá khắc nghiệt!
Chẳng phải người ta vẫn thường muốn trưởng thành, tự hoàn thiện bản thân trước khi bước vào hôn nhân?
Thường là vậy, và họ sẽ nhận ra rằng họ đã sai! Hôn nhân là dấu chấm hết của ái tình, và đào luyện con người trở thành những kẻ trưởng thành trong cô đơn.
Có vẻ như môi trường đào luyện ấy không hề mang màu sắc thú vị hay lãng mạn cho một dating diva còn say sưa những hò hẹn miên man. Rồi bạn tự hỏi, vậy sao người ta lại vẫn đến với nhau và thành vợ chồng?
Vì phần số tạo nên điều đó. Vì họ cần dừng chân và thả neo. Vì người ta cần tìm đến bên một người tri kỷ tốt để cùng tựa vai và làm nên những đứa trẻ.
Than ôi, luận điệu của hôn nhân chức năng quá cằn cỗi, thực tế đến nhẫn tâm nếu tất cả những gì bạn quan tâm về hôn nhân là những mẫu mới nhất của Vera Wang! Và người đàn ông bé nhỏ mang khuôn diện hòa lành ấy lại một lần nữa, với giọng trầm trầm mực thước, đặt ra trước bạn một thực tế khó coi: Nếu không vì tình tri kỷ, sự gần gũi ấm áp ủi an, và vì những đứa trẻ, hôn nhân sẽ chỉ còn là một dấu chấm buồn cuối cùng của rất nhiều điều lãng mạn mà không mở ra điều gì cả!
Vậy ra người đàn bà của nhạc sĩ, để bước vào âm nhạc của ông, nàng sẽ phải đứng lên và bước ra khỏi cuộc đời ông?
Làm chi nữa, bởi đã có một người đàn bà bỏ ra đi, lâu lắm cả vài chục năm rồi em ạ!
Hoàng Tử Bé và buổi xế chiều khoác khăn shawl màu tím
Đương nhiên là bạn muốn được kể về Nàng Thơ trứ danh nọ, người đàn bà đã ra đi để vĩnh viễn ở lại ám ảnh mọi giai điệu, ca từ của một Nguyễn Ánh 9 tài danh
Và câu chuyện bắt đầu…
Từ rất nhiều mùa Đông trước, như bao vạn cuộc tình trên đời, một cậu trai nào đó, bởi chọn theo nghề ca xướng mà vuột tay đánh mất cuộc tình được coi là đầu đời. Chàng bỏ nhà ra đi làm chàng nhạc công chơi dương cầm: “Từ lần đầu nhìn thấy cây đàn dương cầm, tôi 17 tuổi, lập tức bị mê hoặc trước tạo vật hoàn thiện đến vậy. Từ cung bậc cho đến cấu trúc đẹp hoàn mỹ. Tôi vẩn vơ thán phục người nào chế ra cây đàn hoàn hảo đến vậy, như một khí cụ tuyệt mỹ và đắc dụng như một phương tiện, như một món quà mà tôi về sau bỏ cả đời để tự tau luyện đặng sử dụng thuần thục nhất, nói nỗi lòng mình bằng thứ xúc cảm vô ngôn.”
Từ nỗi đam mê bất chợt ấy, lịch sử tân nhạc Việt Nam có một Nguyễn Ánh 9 với những ca khúc đi vào huyền thoại, từ “Không!”, cho đến Đêm Nay Ai Đưa Em Về, Mùa Thu Cánh Nâu, Cô Đơn,…
Tôi xưa giờ yêu màu tím. Cái màu của kỷ niệm và của chân trời. Em có bao giờ thấy màu tím của chân trời chiều chưa? Nó mong manh khó nắm bắt lắm, rồi thoắt đã thấy chuyển sắc, khi hồng khi xanh. Phải ngồi thật lâu, lâu lắm, để nắm bắt được một khoảnh hắc thăm thẳm trân quý ấy.
Như một hoài niệm ái tình vậy, chờ cả đời khắc khoải mới chợt nhận ra rằng nó vừa thoảng qua đời ta. Thế thôi, rồi tơ tưởng tiếc hùi hụi cả đời.
Bạn thoáng nghĩ đến Le Petit Prince – vị hoàng tử trên tinh cầu cô độc và những buổi hoàng hôn hồi hồi điệp điệp vào một ngày quá đỗi buồn. Cho đến bây giờ, độc giả của Antoine de Saint Exupery vẫn ngưới mặt nhìn trời và hân hoan tin rằng Hoàng Tử Bé đã tìm về bên bông hoa của cậu.
Bởi điều này vẫn có thể xảy ra.
Rồi có những khi, cái mong manh chọn bước ra ngoài vùng dĩ vãng huyễn hoặc để chào mời cuộc gắn kết muộn mằn. Người đàn bà ngày xưa ấy, đã một lần trở lại tìm ông, hàng chục năm sau đó.
Nàng ngày xưa chỉ là một người con gái bình thường lắm, dại miệng mà so đo, nàng đâu đẹp bằng vợ tôi. Ấy mà cái ngày Nàng quay trở lại, nàng chọn mặc một tà áo tím, đôi bông tai và chiếc khăn shawl mỏng quấn quanh vai cũng màu tím nhạt. Nhưng rồi tôi để bà ấy lại ra đi một lần nữa… Tôi trót gắn bó quá rồi, với nỗi khắc khoải mất mát xa xôi, ắt sẽ lạ lẫm lắm, hồ nghi ngờ vực lắm, và lúng túng muôn phần trong một sự viên mãn tròn đầy. Tôi để bà ấy ra đi, để bà ấy được mãi là Nàng.
Những Nàng Thơ, họ không thể làm vợ?
Có chứ, nhưng của người đàn ông khác. Nàng sẽ đi chợ và chăm sóc cho một ngôi nhà khác, mặc tình. Còn vợ cũng không thể làm Nàng Thơ. Vợ là người bạn đời, người bạn của suốt cuộc đời. Vợ sinh ra những đứa trẻ, nàng sẽ dồn phủ lên đó tất cả tình yêu của mình, và khi ấy, đứa trẻ nít bên trong người đàn ông sẽ chịu phận ra rìa. Đó là khi họ lại vùi mình vào góc cô đơn nho nhỏ ấy, ta thán và sáng tác những bài ca về tình ái vĩnh hằng.
Em biết đấy thôi, đàn ông, họ là những trẻ nít to bự sống lâu năm. Vợ, họ nên là người đàn bà của cuộc đời.
Họ yêu và chịu gán đời mình với một người nghệ sĩ, ắt phải là người đàn bà có tâm hồn và vị tha vô lượng, điều đó sẽ giúp họ vượt trên tầm nhi nữ thường tình.
Nhân nhắc chuyện lại nhớ ông Đoàn Chuẩn. Âm nhạc của ông cũng tương tư tôn thờ duy nhất một hình ảnh Nàng Thơ, mà hẳn là không phải bà nhà. Bà biết, và thản nhiên sống cùng, xem như là hồn ma bóng quế ai cũng mang theo mình. Ông nhạc sĩ nọ quả may mắn cưới được người vợ hiểu biết, nên cũng vì vậy mà Nàng Thơ, dẫu ngoài đời thật ra là một ca sĩ, vẫn vĩnh viễn là hồn ma bóng quế, là khói là hương để mượn vía mà tụng ca. Người vợ nọ không than phiền hờn lẫy, bởi bà hiểu rằng người nhạc sĩ yêu Cái Đẹp, chớ có phải đâu ông yêu người đẹp. Những nhạc sĩ, ở đây tôi chỉ nói đến phái lãng mạn chuyên chính, họ tưng tiu bóng vía Nàng Thơ lắm, nên không thể cậy nghệ sĩ tính mà phóng túng vô luân. Họ tội nghiệp, họ chỉ xin giữ lại cho riêng mình một góc riêng mẫn cảm mà người bạn đời am hiểu sẽ tôn trọng mà không khuấy động đến. Ấy là cái Tôi còn lại cuối cùng cần giữ cho riêng mỗi người, ngay cả khi đương trong cuộc vợ chồng. Phần còn lại, người đàn ông vẫn sẵn lòng hiến trọn để đáng làm bạn với nhau trong suốt cuộc đời.
Nàng vũ nữ thiết hài và bản tình ca duy nhất
Ông gặp người đàn bà của mình khi nàng đang vào độ rạng ngời hương sắc – một vũ công cabaret 20 tuổi. Rồi họ chọn gắn ghép hai cuộc đời lại với nhau.
Hồi đó tôi 25 tuổi khi cưới bà. Tôi tìm đến bà vì bà cũng là một nghệ sĩ, một người bạn tốt để dựa đời vào nhau. Rồi cũng có chút phản kháng đắng cay, khi tôi quyết không thương cô nào gia đình thượng lưu hay trí thức, để cho họ thấy chúng tôi xướng ca mà không vô loài, rằng chúng tôi, những người nghệ sĩ đến với nhau vì cảm thông thấu hiểu, sẽ ở được với nhau trọn vẹn cuộc phu phụ chứ không như người đời chê bôi. Trong quyết định đến với nhau của tôi, có chút bốc đồng và phản kháng, ít nhiều dư chấn cuộc tình đầu không may. Trong đó, có cả sự tìm kiếm hướng về một tri kỷ, hơn là một người tình.
…Tôi về cưới vợ thế là xong,
Vợ tôi không đẹp bằng em mấy,
Cũng đủ cho tôi thỏa ấm lòng…
Bạn ngân nga cùng người nhạc sĩ những vần thơ đã cũ, chợt thấy nhói lòng cám cảnh cho cả hai người đàn bà trong đời một người đàn ông.
Chúa tạo người đàn bà ra đặng trừng phạt đàn ông. Đàn ông tham lắm, càng tham càng nhiều sự trừng phạt. Họ muốn có người tình, họ đòi thêm tri kỷ, rồi họ muốn rằng đó là hai người khác nhau.
Phải chăng ý thức được thuộc tính tham lam ấy khiến người đàn ông an tâm hơn với với sự tham lam của mình mà mặc tình dung túng?
Ấy không, chớ nói như vậy! Ý thức được, phải coi đó là tội lỗi. Một khi coi là tội lỗi thì mới lãnh nhận được “sự trừng phạt”. Thế rồi ta giác ngộ, yêu thương, bù đắp, chớ đâu phải để buông tuồng dung túng bản thân cho đến ngày chính sự trừng phạt cũng bỏ rơi ta, vì kẻ vô độ đã không còn xứng đáng với bản thân sự trừng phạt.
Mỗi năm, vào sinh nhật vợ mình, tôi luôn mua tặng vợ một món quà, dù lớn hay nhỏ, cũng một món quà. Rồi có một năm, tôi không có tiền, không có một chút gì giá trị để làm quà tặng vợ. Thôi thì tôi chỉ có âm nhạc, lại nhủ lòng bao năm kề cận, bao năm bà ấy đắng cay lắng nghe những lời tương tư dành cho hình bóng khác, tôi muốn viết tặng bà ấy một ca khúc, đầu tiên, duy nhất, và thật thiêng liêng.
Tôi nói lên tất cả những gì tôi đã làm, những suy nghĩ, tình cảm tri ân tôi dành cho người bạn đời. Tôi ví mình như con thuyền ngu khờ mải mê theo dòng ra biển bỏ bến, đến khi tơi tả sóng gió biển đời, tôi cám ơn ngày về còn thấy bến vẫn chờ đợi bao dung. Tôi thấy mình nhỏ bé và mỏi mệt lắm, tôi ở lại nương nhờ vào bến. Tôi kết thúc bản tình ca đầu tiên và duy nhất ấy bằng một câu, xót mình, thương người: “Hạnh phúc nào không tả tơi, không đắng cay?”
Bản thu duy nhất tôi cậy nhờ một ca sĩ, và do con trai hòa âm. Một bản thu giản dị nhẹ nhàng thôi. Vợ tôi nghe xong bảo tôi rằng đó là món quà bà thích nhất.
Em giữ đừng phổ biến bản nhạc này, bởi lần duy nhất tôi dành tặng Âm nhạc cho bà ấy, vợ tôi nghe xong chỉ nói “Đối với em, bấy nhiêu đây là đủ rồi!”. Hãy cứ để cho một lần dù ít ỏi, tôi dành cho vợ tôi một điều duy nhất.
Kẻ tội đồ và lời trách cứ bằng ca từ viết lại
Có hồi tôi tưởng rằng mình nên giải nghệ rồi đổ bệnh vì nghỉ quanh ở nhà. Tôi chợt nhận ra mình thiếu thốn cực kì, mất thăng bằng, và cho đến tận lúc này, tôi mới nghiệm ra rằng vợ tôi đã yêu thương tôi nhiều đến độ nào. Bà về với tôi năm 20 tuổi thanh xuân, đương là vũ công cabaret đầu tiên ở Sài gòn. Suốt mấy chục năm bên tôi, bà chưa bao giờ thố lộ rằng bà ấy khắc khoải nhớ thương sân khấu biết chừng nào. Có đôi lần tôi mời bà theo tôi đi làm, coi tôi diễn đờn, bà ấy chối từ với lí do “lẽ nào mình ngồi chơi khi chồng mình làm việc”. Sau này tôi nghĩ, có lẽ bà chỉ muốn tránh thương nhớ ánh đèn sân khấu về đêm.
Ông có yêu thương bà nhà không?
Có chứ!
Như một người tình?
…
Người đàn ông im lặng rất lâu, tưởng như ông không nghe thấy câu hỏi, hay bởi người hỏi đã tỏ ra quá chừng thô bạo.
Nhưng rồi ông nói, thật sự nói.
Đời tôi mang tội với hai người đàn bà: người tình cũ và người vợ. Tôi nói ra đây không cầu mong vị thứ, chỉ mong nói cho trọn lòng mình vậy thôi. Dẫu gì các bà ấy cũng đã tha thứ cho tôi cả cuộc đời tôi, đời họ rồi.
Hạnh phúc nó đơn sơ và gần gũi lắm, nhưng người ta chỉ nhận chân ra được qua những vòng vèo bầm dập của cuộc đời.
Khi người ta trẻ, người ta kì vọng vẽ vời nhiều thứ lên dung mạo hạnh phúc lắm. Phải chăng việc nhận chân ra hạnh phúc giản dị kề bên chỉ có khi người ta mỏi mệt săn tìm để chuyển sang cam nhận?
Người đàn ông hiền hòa nở một nụ cười bao dung: Lão luyện quá! Một phần nào thôi, dù là một phần khá lớn. Thôi thì thương tôi, hiểu cho tôi. Duyên phần là vậy, nó đến, và mình biết nó không giống như điều mình khắc khoải kiếm tìm, nhưng khi mệt mỏi và yếu đuối, con người ta thường làm được những việc không ngờ.
Dường như điều ông khắc khoải tìm kiếm không phải là một mối tình lãng mạn đã qua, mà đúng hơn ông khắc khoải kiếm tìm nỗi đau mà cuộc tình mang lại?
Nói vậy cũng đúng, hoặc giả em có thể hiểu rằng “hạnh phúc nào mà không tả tơi?” Thâm sâu trong niềm phước hạnh, ấy chẳng phải là nỗi đau và ngược lại? Chẳng phải bay bổng lên trên những ca từ của nỗi đau là một giai điệu thăng hoa hân hoan bay bổng tưởng chừng tréo ngoe? Tôi nghĩ có chăng đấy cũng là việc tuân theo cái lý lẽ đăng đối âm dương của vạn vật trên đời.
Có phải tại ngôi sao lấp lánh nhờ nó ở xa cho kẻ sĩ tương tư?
Có thể lắm, tôi thương tưởng cái long lanh kí ức, nào đâu phải tôi yêu một hành tinh.
Có lần, trong bản Lặng Lẽ Tiếng Dương Cầm, tôi kết bằng câu “Lặng lẽ một tiếng đàn trong đêm, một nỗi buồn không tên, một tình yêu tôi đã quên.” Vợ tôi trách rằng tôi viết vậy là dối lòng, ma ngụy mà tầm thường lắm, rồi bà sửa ca từ lại cho tôi thành “một nỗi buồn không tên, một Tình Yêu đâu dễ quên”…
Bạn buột miệng “Bà ấy ắt phải rất yêu ông”
Người đàn ông bé nhỏ lặng người nhìn ra ngoài cửa sổ, nắng chiều muộn mằn hắt lên hiu hắt những nét trầm ngâm – như một khoảnh khắc mong manh của màu tím chân trời. Không gian se thắt lại khi ông run run cất tiếng, nhẹ như một hơi thở dài “Tôi có lỗi, có lỗi nhiều lắm…”
photo by DaiNgo
…
Người nhạc công-nhạc sĩ huyền thoại ấy giã từ cuộc hẹn hò đầu Đông bằng một lời cám ơn và một cái bắt tay bằng những ngón dương cầm nhẹ thênh, ấm áp.
Ông ra về, mong manh không tiếng như khi ông đến.
Bước ra khỏi bộ quần áo vị quan tòa tình ái, chỉ còn lại người đàn bà, f. diva nhìn theo cái dáng nhỏ bé hao mòn của người đàn ông lớn tuổi, và thấy thật buồn, buồn đến vị tha.
Share this:
Like this:
Đăng trong:
Ôn-cố Tri-tân
Bút-danh Jasmine Noir
Chân dung
Date Of The Month
Không chỉ chuyện Thời-trang
Phỏng vấn Nhân vật
Pour Homme (Chuyện Quý-ông)
Tạp chí F. (Fashion TV Magazine)
Tạp-chí
on Tháng Mười Một 30, 2011 at 8:10 Sáng Để lại phản hồi
Tags: celebrities, date of the month, hoài cổ, legend, showbiz
Có con cừu đực chấm bi…
Đàn ông thì không phù phiếm. Họ làm việc, rất quan trọng, và không có thời gian.
Bởi họ cần minh chứng cho sự giản dị và tính thực dụng thuần túy đàn ông tính.
…
Đối với không ít người, đặc biệt là tại thị trường Việt Nam, thời trang nam là một trong những lãnh vực thừa thãi, phi nghĩa và tẻ nhạt.
Các người mẫu nam mệt nhoài, thưa thớt và lúng túng vì ít đất diễn.
Các nam nghệ sĩ, những nhân vật tiên phong cho phong cách phục sức phái mạnh, bị các nhà thiết kế bỏ rơi vào tay các nhãn hiệu quốc tế, hoặc lúng túng cài cắm thêu đính lên thân mình bất cứ thứ gì lấp lánh nhặt được từ các món phụ kiện dành cho quí bà.
Người ta có tất cả 2 lựa chọn mua sắm: các công ty dệt may nội địa và các nhãn hiệu nước ngoài.
Người ta cũng có không quá nhiều lựa chọn cho kiểu dáng: T-shirt hoặc sơ-mi, ống dài hay ống ngắn, bỏ vào hay bỏ ra.
Đàn ông thì không phù phiếm. Họ làm việc, rất quan trọng, và không có thời gian.
Bởi họ cần minh chứng cho sự giản dị và tính thực dụng thuần túy đàn ông tính.
…
Cho đến khi một vài người đàn ông khác xuất hiện, như những con cừu chấm bi giữa một đàn cừu kẻ sọc.
Trái cherie phù phiếm và những hạt đậu lạc loài
Có thể gọi show diễn bộ sưu tập Thu-Đông của những chàng trai nhà Maschio là một “Liên Hoan Chấm Bi Toàn Thành”. Từ giờ tiệc cocktail trước show diễn, gian khánh tiết khách sạn StarCity lốm đốm họa tiết polka-dot, sự khác biệt duy nhất, là thứ họa tiết trông như những chiếc mũ nấm này được hãnh diện trưng trổ bởi những anh chàng điển mã.
Nhà thiết kế của bộ sưu tập lại là một trong những nhân vật hiếm hoi trong đêm diễn không mang trên mình những đốm polka.
Trần Minh Dũng: Đó là một cú pháp PR cơ bản thôi, chúng tôi gợi ý cho các khách hàng quen thuộc của mình, đặc biệt là celebrity, mặc những bộ trang phục của chính họ mua từ Maschio.
Sành Điệu: Khách hàng của anh, những người đàn ông ấy, có tỏ phản ứng dè dặt khi nhận được yêu cầu như vậy?
TMD: Chắc chắn không. Họ là khách hàng của Maschio, những người tìm đến giải pháp tách biệt bản thân khỏi bầy cừu.
SĐ: Và như một sự kiện thời trang cùng tất thảy thói cầu kì của nó, quy định trang phục dành cho khách mời đã là…
TMD: …Fabulous! Đó là nguyên tắc cơ bản hàng đầu và không phải là vô định.
SĐ: Có trường hợp vi phạm dress code tưởng chừng như không hề khe khắt đó không?
TMD: Có chứ, thời may không nhiều. Một chiếc váy boheme giữa một sự kiện sang trọng, phía trên là một mái tóc pixie chẳng hạn.
SĐ: Tại sao anh không nhắc nhở?
TMD: (nhún vai) biết sao được, trên đỉnh ly kem không chỉ có cây dù và trái cherie, đôi khi có cả những hạt đậu phộng nữa. Tôi thường biến sự cẩu thả của kẻ khác thành động lực làm việc của bản thân. Rất tiếc, trong trường hợp của chiếc váy boheme lạc loài, như slogan của Maschio: “Sorry ladies, we serve men only!” (Xin lỗi chị em, nơi đây chỉ phục vụ các quý ngài!)
Đại ca Sicile, thuyền gondole và văn hóa ‘thời trang công sở’
SĐ: Nhắc đến những cây dù, trong bộ sưu tập phụ kiện đi kèm, có cả những chiếc dù. Có cái bằng nhựa trong, có cái màu hồng, ý tôi nói là rất hồng…
TMD: Người ta đã quên mất thi vị của những sự cầu kì kinh điển. Bộ sưu tập mùa này của Maschio không hoàn toàn ‘tân kì’ hay ‘táo bạo’ như người ta thoạt nghĩ. Vẫn là những nét hào hoa quá vãng, hình ảnh chiếc nón phớt của các đại ca Sicile, vuông khăn lụa quấn quanh cổ của tay chèo thuyền gondole ở Venice, hay chiếc quần âu xếp pleat ống hẹp gấu “lơ-ve”, đeo dây vai như những thầy kí London hồi cuối thập niên 1950,… Cũng như sự trở lại của họa tiết chấm bi từ thời Brigitte Bardot đối với phụ nữ, trào lưu của nam giới càng về sau càng thể hiện rõ xu hướng hoài cổ, phục hưng vẻ thẩm mỹ hào hoa của những “tháng năm tươi đẹp”, tức thời kì cuối 1950 đến thoái trào 1960. Công việc của nhà thiết kế ở đây là đặt xu hướng này dưới hệ quy chiếu của thẩm mỹ đương đại.
Maschio Fall-Winter quả đã là một cuộc diễu hành tươi tắn của những hình ảnh quá vãng. Những cậu trai như quá vội dậy thì, lênh khênh trong những cặp ống quần gấu ngắn, trên trán đội lệch chiếc mũ Peter Pan, như chính hình ảnh của nhà thiết kế nhỏ thó trong chiếc jacket cổ điển và mái tóc như thể được chải bằng brillantine.
Nhưng cuộc sống của những người đàn ông trong đô thị đương đại không có chỗ cho mũ phớt, dù cầm tay và brillantine. Họ chỉ có những chiếc xe máy, mũ bảo hiểm và những cuộc họp nơi mọi chiếc sơ mi thì kẻ sọc và những chiếc jacket luôn sẫm màu – người ta gọi nó bằng một thứ thuật ngữ không tồn tại trong làng thời trang thế giới: thời trang công sở.
Sự phù phiếm trong thiết kế phải chăng đã nhuốm đậm màu sắc lãng mạn phi lý của anh chàng designer được ủ ấm trong studio sáng tạo?
TMD: Sai. Sự phù phiếm đòi hỏi phải được tính toán một cách bài bản và chuyên nghiệp. Tất cả mọi người, nấm và các con bọ dừa đều có thể chấm bi. Form cắt của Maschio, vốn là lợi thế chuyên biệt cho tính nhận dạng của thương hiệu, cho phép từng mẫu thiết kế được hiệu chỉnh chuẩn mực gần như sản phẩm may đo. Trong cấu tứ của bộ sưu tập cũng vậy, từng chương luôn được dẫn dắt bởi những thiết kế cơ bản, dễ “chiều” đám đông, và tăng dần các điểm nhấn trọng tâm cho đến cao trào của tính cầu kì trong thiết kế.
Ngay cả trong bộ sưu tập phụ trang những túi xách, ví cầm tay bằng da của Maschio, tôi không ngây thơ nghĩ rằng khách hàng của mình sẽ cần một món vật gì đó để cầm cho…vui tay. Kích cỡ và form dáng của túi và ví chính là phản ảnh của xu hướng siêu mỏng trong trào lưu kiểu dáng hi-tech. Cuối cùng thì khách hàng của chúng tôi là mẫu thanh niên thế hệ quẹt thẻ, họ không cần quá nhiều cho “hành trang xuống đường” của mình, khi mà mốt túi messenger đã trở thành quá khứ.
SĐ: Với sự cân nhắc tính toán mang tính chức năng “tập trung vào tính ứng dụng” đó, tôi không thấy có chỗ cho những chiếc áo sơ mi màu hồng chói có nắp túi ngực chấm bi.
TMD: Sự tính toán ở đây không hoàn toàn chỉ mang ý nghĩa “chức năng”. Một chiếc khăn, trong hệ quy chiếu của thời trang, không hề là một “dụng cụ giữ ấm cổ, ngừa đau cổ họng”, và người ta cũng không mặc quần short chỉ vì trời nóng.
Cũng như vậy, người ta cầm dù không chỉ vì trời mưa và đội những chiếc mũ vành không đủ rộng để che nắng.
SĐ: Có phải anh đang muốn nói đến một ý thức hệ tân tiến, văn minh hơn của cấu trúc tháp nhu cầu?
TMD: Đúng vậy. Nếu tôi không có điều kiện, quần áo vẫn rất cần thiết vì nó che thân, bảo vệ da và tránh sự khắc nghiệt của khí hậu. Thời may, xã hội chúng ta đã vượt trên nhu cầu đó, họ bắt đầu tìm đến những thương hiệu ồn ào đủ để hét to giùm họ tuyên ngôn kiêu hãnh “Tôi giàu!” Khi tất cả mọi người đều tin hoặc nghĩ là họ giàu rồi, ắt hẳn nhu cầu tiếp theo sẽ là thông điệp “Tôi sành điệu”, “Tôi văn minh” hay “Tôi yêu chấm bi!”
Thời trang không dành cho người xấu
Thế là thời trang trở thành thông điệp, một thứ tuyên ngôn cá nhân. Đôi khi những tuyên ngôn vẽ vời trên bộ da thứ hai ấy trở thành một kiểu ngoa ngôn.
SĐ: Chúng ta đang quay trở lại câu chuyện “chiếc áo làm nên thày tu”…
TMD: Đúng và không đúng. Chiếc áo có thể làm nên thày tu, nhưng thày tu đã là người chọn áo. Ở một tầm mức nào đó trong bản chất của thời trang, con người chọn những bộ áo phù hợp với mình. Như người ta hay nói là “nhằm tôn lên vóc dáng và che khuyết điểm”. Một số rất ít những người khác, tôi thích mấy người này, thì tự xoay sở sao cho vừa vặn với chiếc áo mà mình thèm muốn.
…
Kẻ túng bấn trong đời sống tinh thần và một xuất thân nhạt nhẽo sẽ đi khoe mình đã đọc hết các tác phẩm văn học cổ điển và nghe nhạc Jazz. Để thuyết phục kẻ khác tin, họ sẽ đi đọc văn học cổ điển và nghe Jazz thật. Đó chính là tố chất hướng thượng của thời trang và các tín đồ thời trang. Người ta bắt các nữ sinh mặc áo dài ắt không chỉ với mục đích làm đẹp thành phố lúc giữa trưa. Những cô gái trẻ, loay hoay hiếu động trong hệ thống nút áo mong manh tráo trở, sẽ tự khắc trau luyện cho mình một phong mạo nhu mì nghiêm cẩn. Chiếc áo đẹp không dành cho những cái đầu cúi gằm và dáng lưng gù.
SĐ: Có ý kiến cho rằng thiết kế của Maschio chỉ “nhằm tôn vinh thân hình người mẫu”?
TMD: Đúng, nếu các người mẫu là khách hàng. Thời trang thực thụ là một thứ khá kiêu kì. Người ta có thể sở hữu một bộ thiết kế chỉ bằng cách bỏ tiền ra mua nó, và không cần tập luyện kiêng khem gì hết, mặc tình tự tố cáo những lớp thịt dưới vai, tảng lưng gù và cái cổ của một nhà vô địch cử tạ.
SĐ: Thời trang không dành cho người xấu?
TMD: Đừng vô ích cáo buộc cho thời trang tội danh duy mỹ, hay xem tinh thần duy mỹ là một cái tội! Nó làm người ta đẹp lên, tự tin hơn, cầu kì tinh tế hơn,… Tất cả những thứ đó đồng nghĩa với Văn Minh và Phát Triển. Và cuối cùng, sự phù phiếm, hay tính duy mỹ của thời trang, không hoàn toàn vô nghĩa. Ý nghĩa của nó còn được quy đổi thành lợi nhuận và sự thành đạt. Bằng chứng là thành công của những chiếc mũ phớt không che nắng, ô không che mưa và túi không đựng dụng cụ lao động của Maschio vừa qua.
SĐ: Người ta có thể tính toán ra sự phù phiếm và bán nó như một sản phẩm?
TMD: Tính phù phiếm, nếu được cân nhắc tính toán một cách khôn ngoan và đẹp mắt, chính là giá trị cộng thêm, và cũng là giá trị tinh thần thượng thặng của sản phẩm tiêu dùng. Hay nói một cách khác, nếu không có tính phù phiếm, thời trang sẽ chỉ là quần áo, Maschio là tên của một hợp tác xã may mặc, và thế giới sẽ không còn các tạp chí mà chỉ có các báo tờ đưa tin hàng ngày.
(bài viết đã được đăng trên tạp chí Sành Điệu)
Share this:
Like this:
Đăng trong:
Bút-danh Trác Thúy Miêu
Các tạp chí khác (Misc.)
Chân dung
Designer
Diện-mạo Tư-phong
Fashion/Hi-end Event
Gay Land
Phỏng vấn Nhân vật
Pour Homme (Chuyện Quý-ông)
Runway-report & Trend-critic
Tạp-chí
on Tháng Mười Một 30, 2011 at 5:29 Sáng Để lại phản hồi
Tags: celebrities, fashion designer, fashion trend, gay land
« Bài viết cũ nhất
Hoa-Nhài-Đen
Writing is a way of talking without being interrupted. ~Jules Renard, Journal, 10 April 1895
Các bài viết được đăng bởi tác giả dưới nhiều bút danh.
Latest update
cuối nẻo cuồng phong
báo lửa latin
hồ sơ mang bí số 007
BDSM – vết răng trên táo cấm
tín đồ giữa hai hỏa tuyến
mật mã Christian Dior
mẹ cả Cosmo
bạch mao nương
người đàn ông kể chuyện cổ tích vào khóe tai quý bà
đàn bà như hương…
dân Anglais thứ thiệt
Julia Đại Đóa & tình sử 3 chương
ả di-gan xuyên thế kỷ
chân dung đại hiệp Prorsum
anh Ba
tội ác bên trong lớp váy tín đồ
thăng trầm hai mảnh bikini
Calvin Klein – người hùng thời trang Mỹ & chiếc quần lót phi giới tính
Trịnh Nam Sơn – cậu nhỏ nghịch nắng trên đồi hoa râm
Tuẫn-tiết, Văn-minh, và Đầy Thái-độ
vintage: hoài cổ & thức thời
3 octave rưỡi và 48 năm
Stefano Pilati – ngai vàng & thập giá
Phạm Duy – hoàng đế Nhục Tình Ca
Thỏ Cột Nơ – “Dân Chơi” Xuyên Thế Kỷ
người tô son lên gót đàn bà
Sự Trở Về Của Thời Trang Thập Niên 20 – Return To The Age Of Innocence
Dolce & Gabbana: Song Hiệp Lưỡng Tính
Tuyết Lan: cuộc thi chỉ mới bắt đầu!
Miuccia Prada – kẻ làm nên bộ da Quỷ Cái
Chuyên-mục
Tạp chí Elle (1)
Tạp-chí (116)
Ôn-cố Tri-tân (31)
Bút-danh Hoa Nhài Đen (7)
Bút-danh Hoa-Phượng (8)
Bút-danh Jasmine Noir (27)
Bút-danh Phong-Vũ (11)
Bút-danh Túy Ca (13)
Bút-danh Trác Thúy Miêu (41)
Bút-danh Vũ-Hoàng (3)
Các tạp chí khác (Misc.) (18)
Chân dung (58)
Date Of The Month (18)
Designer (22)
Diện-mạo Tư-phong (30)
Fashion Story (by F) (14)
Fashion/Hi-end Event (8)
Gay Land (19)
Không chỉ chuyện Thời-trang (66)
Model (6)
Phỏng vấn Nhân vật (25)
Pour Femme (Chuyện Quý-bà) (47)
Pour Homme (Chuyện Quý-ông) (27)
Runway-report & Trend-critic (13)
Shop And The City (4)
Style Icon (15)
Tạp chí F. (Fashion TV Magazine) (84)
F. Target (3)
Tạp chí Sành Điệu (2)
Tạp chí Tinh-Hoa (Elite Magazine) (12)
Tạp chí V-Style (3)
Text (5)
Thơ (1)
Top Brand (1)
Email Subscription
Enter your email address to subscribe to this blog and receive notifications of new posts by email.
Join 114 other followers
Nội-dung
animal rights celebrities chuyện đàn bà cover story date of the month Elle event review fashion brand fashion designer fashion trend fragrance gay land giai nhân xứ Việt hoài cổ hà nội khai bút legend lingerie makeup my favourite saigon sex shop and the city showbiz style icon text thơ Tinh Hoa trang sức tribute vintage Đẹp Magazine
Message from the author
Do có một số phản hồi không sử dụng ngôn ngữ phù hợp nên đã buộc lòng không thể xét duyệt.
Cũng vì lí do trên mà tác giả mạn phép từ chối đối thoại, bởi trang này đã không được tạo ra để thành chốn đông người, lắm thị phi hỗn tạp.
Nếu có các phản hồi muốn sử dụng lối vận từ thông dụng hay khẩu ngữ bình dân, e ngại phiền đến người đọc khác, xin vui lòng liên hệ với tác giả tại [email protected].
Cuối cùng, không có "dư luận" nào là xấu cả, nên xin rất chân thành ghi nhận và cám ơn.
Trác-Thúy-Miêu
Góc riêng (chuyện lải nhải làu bàu riêng tây, không mấy ai hay, nhưng cũng chả có gì để dấu)
Another Regular Day Of A Non-Giver
Ả Giang hồ Và Ổ Bánh Mì
Believe & Dance
Buôn-mê Phiêu-lưu-ký
Cái Chết Của Mèo Tộc-trưởng
Chị
Chuyện Một Con Ma Ngố
Déja Vu
Góc Khuất
Hà-nội Những Đêm Trắng
Lou & Tôi
Lượm mót
Mèo & Rắn Chọi Thơ
Người Phụ-nữ 365 ngày/năm
Sweet Little-no-thing On My Path
Tự-Do
Thư Gửi Học Trò
Vulnerability of Security
Điểm Một Thời…một thời…
Don’t just turn and walk on!
Message No.2 From The Author
Dear readers,
Please spare a minute or two to support my cause as displayed below. Your clicks will literally mean teaspoons of food for abandoned and abused animals, which is the main reason for this page to be here.
Your kind deed is sincerely appreciated!
Jasmine Noir
P.S: Should you find in your heart so little of kindness and such poor compassion, mind not read any further.
Chỗ thân, sơ...
Chu Gia
Codet Phantin
mấy người Tràng An cũ
Nhà Xưa – Chốn Thành Nhân
Sensoap
Thầy Trần
Viedbi
Archives
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top