Tổng hợp truyện ngắn-Lenghiabk05
Chuyện lính
Mùa này là mùa ớt rừng chín đỏ. Cũng là mùa bẫy chào mào. Chào mào đít đỏ nhỏ con nhưng ăn thịt ngon hơn chào mào xanh. Cây ớt rừng mọc dại sống lưu niên. Riêng về muà này là tàn lá hết quả nên đúng vào mùa mưa dầm gió Bấc lại ko có mà ăn. Thằng nào cẩn thân thì đi hái phơi ko sau ngâm nước ăn dần. Gần 30 năm em vẫn nhớ mùi cơm hẩm với mùi hăng hăng muối ớt rừng. Khổ nhát là cửa ra. Vừa cay nóng lại rát . Khiếp! ;D ;D ;D
Cây ớt cảnh trên chợ Bưởi không phải giống ớt rừng.
HP10/76@:Cái thứ gạo lính hồi ấy nó đóng tảng đóng cục. Mỗi khi về kho lương thực Vôi - Lạng giang bọn em phải mang cuốc, cuốc chim đi bổ. Gạo ko mốc nhưng vàng khè. Nấu cơm nở tưng bừng, rời từng hạt . Phải xới lên mở vung cho hả mùi hôi mới ăn được. Dân thích gạo này vì rẻ, nấu rượu ko bị khê.
Cái liêm khiết của mấy thằng bếp thì lính biết cả. Có thằng quản lý, nửa đêm khó ngủ. Lấy thùng gánh nước suối đổ vào hang chuột dưới gầm sàn kho gạo. Mấy thằng tiếp phẩm tiền đâu mà suốt ngày ngồi quán. Nó uống rượu thịt chứ ko thèm uống với mấy cái bánh đa, củ lạc như bọn mình. kính báo các bác chuyện chữa đói vặt của em là như thế này . Cũng vì cái đói nên con người ta phải động não để tìm kiếm cái miếng ăn cho mình . Các anh em lính có thân nhân gia đình khá giả và có tiền thì hàng tháng hay nhận được giấy gọi đi lĩnh tiền hay bưu kiện ở ngoài bưu điện . Vậy là chúng nó tươi cười hớn hở ngay ra mặt . Vì có giấy đi nhận bưu kiện là nó được ra ngoài doanh trại hợp pháp vào thứ 7 này rồi . Nhiều thằng o có giấy bưu kiện nhưng có giấy đi nhận thư bảo đảm thì cũng vẫn được đi . Thường thì sau bữa cơm sáng 1 lúc , thì bác trực ban đơn vị hôm đó đi 1 vòng đơn vị hô và gọi các bác có giấy đi nhận bưu phẩm , phải đi ra cổng trại xếp hàng 1 theo 1 bác cán bộ khác để đi ra bưu điện nhận quà . Số còn lại thì phải ở trong doanh trại đợi cơm trưa hay tự đi tắm đi giặt , hay chơi bóng chuyền với nhau , hay nằm phủ phục trên phản viết thư về gia đinh . Có 1 số lính được điều đi xuống bếp để giúp anh nuôi . Cuối tuần thì chỉ có 1 anh nuôi chính nấu bếp , phần còn lại là lính được cử xuống giúp .
. Để chữa đói thì em thỉnh thoảng phải báo ốm . Đau đầu hay sổ mũi . Vậy là được trực ban báo cho anh nuôi nấu cho 1 xuất cháo hôm đó . 1 xuất cháo hôm đó thì phải đến nửa cái chậu quân dụng ấy . Lại có chút hành cộng thịt . Vậy là em được 1 ngày no . Ăn không hết thì em đưa cho thằng bạn nó ăn hộ .
- Còn chuyện các bác đi lĩnh nhu yếu phẩm thì đúng như là 1 ngày hội . Trước khi đi , các bác ấy dặn bạn bè của mình là nhớ lấy hộ xuất cơm trưa và mang về mà ăn . còn các bác ấy thì cơm no , giò lạc , rượi bia , bánh trái đầy bụng ở phố ngoài bưu điện rồi . Nếu tôi nhớ không nhầm hồi, lúc tôi mới vào lính tiêu chuẩn gạo là 21 kg/1 tháng nhưng mà ăn vẫn đói lắm chả biết gạo đi đâu mà mỗi bữa chỉ được độ 2 bát cơm còn chất lượng gạo thì khỏi phải nói. Chuyện đội nồi cơm thường chỉ xảy ra trong 1, 2 tuần đầu lúc thành lập đơn vị thôi còn về sau toàn anh em quen ngồi chung mâm nên nhường nhịn nhau lắm. Có những lúc cán bộ sợ anh em sống cục bộ nên đi ăn xếp hàng ngang anh em quen chọn cùng hàng nhau đến cửa nhà ăn cán bộ bắt vào mâm theo hàng dọc nhưng đã đến nỗi ấy rồi những thằng ăn hỗn cũng không giám làm quá. May cho lính là có cây ớt dại, bây giờ tôi vẫn thấy người ta bán ở chợ Bưởi làm cây cảnh. Trước khi đi ăn làm một nắm ăn cũng trôi cơm. Kể ra cũng còn sướng hơn các đàn anh phải ăn bo bo. Đang ở nhà với mẹ ăn mỗi bữa 6, 7 bát cơm vậy mà sau 3 tháng tân binh về nhà cũng chi mỗi bữa 2 bát bố mẹ tôi cứ ngạc nhiên mãi nhưng quả thực lúc đó quen dạ cũng chả ăn thêm được chứ có khách khí gì đâu.
- Nghe bác nói đến cây ớt , giờ em mới nhớ ra . Trong lính bọn em lại chẳng có thằng nào mộ cái món ớt ấy mới lạ . Em chỉ thấy nó được trồng ở sau nhà C bộ và sau vườn B em . Có lẽ nó được trồng từ tay các bác lính trước 1975 . Dù các bác ấy đã ra quân nhưng những cây ớt thì vẫn sống tươi tốt đâm hoa kết trái . Nó cũng ra quả ngược lên trời . Bọn em gọi là ớt chỉ thiên . Có quả nhỏ như đầu đũa mà cũng có quả nhỏ , đỏ mà hơi tròn ở phía dưới . Có lẽ là nó được các bác lính ta tham gia chiến dịch HCM 1975 mang từ Saigon ra rồi trồng
Em chỉ thấy hồi đói nhất là thời kỳ huấn luyện khi mới vào lính , thời kỳ đầu những thằng lính HN bọn em khi lên đường nhập ngũ thằng nào cũng ít nhiều được gia đình cho tiền mang đi , dù khi đó ở hậu phương đang ở trong thời kỳ khó khăn , gia đình nào cũng phải làm thêm một công việc gì đó để cuộc sống bớt khó khăn . Nhưng khi con em mình lên đường nhập ngũ chẳng ai tiếc tiền cho con mình để nó phòng thân khi đứt bữa , lúc ốm đau . Những thằng lính trẻ lên đường vô tư , vào đơn vị bữa cơm đầu tiên không một thằng lính HN nào thềm ngó đến , tất cả nhường hết cho anh em lính ở nông thôn ăn còn mình thì lủi lên quán uống rượu ăn nhậu hết . Ròng rã nửa tháng trời thì hầu như thằng nào cũng hết "xiền" , thằng nào còn cũng chỉ đủ cầm hơi vài ba cái bánh rán bẻ chia đôi cho đồng đội . Và khi hết hẳn thì ôi thôi cái đói lúc này mới thật sư là tàn ác , nó gặm nhấm cơ thể lính mới ở mọi nơi mọi lúc , trên thao trường , khi lấy củi , lúc sinh hoạt , trong lúc ngủ . Cơm C chia về mâm 6 mức cơm chưa đầy đầy cái xoong 20B, mỗi thằng chỉ được 2 bát , gạo hẩm mốc ăn cùng mắm kem , rau xanh lèo văn tèo , cá mắm là chủ lực nhưng nào có được nguyên con vì mục nát .Cá biệt những hôm có thịt thì là thứ thịt dự trữ mà anh nuôi kho cả tảng ướp muối ăn dần , mà khi chia về đến mâm thì mỏng dính .
Trong suốt thời kỳ huấn luyện , mặc dù là tân binh được hưởng chế độ hơn lính cũ , nhưng thật sự bọn em thấy quá cực mặc dù biết là đời lính sẽ rất gian khổ , chỉ thấy ái ngại cho anh em nông thôn , bọn em dù sao cũng có điều kiện hơn họ , đói quá không chịu được thì thay nhau về thăm mẹ , qua một loạt nhà anh em mang tiền và thực phẩm khô như ruốc ,muối vừng , đường lên cầm cự, họ thì không được như vậy mỗi lần lên E tải cá mắm về anh em thường lấy một ít , sợ C biết nên toàn ăn sống nên bị tiêu chảy , từ một người sau lây sang cả C rồi cả D , C nào cũng có lính bị dính rất khổ .
Bọn em ít nhiều biết bị quản lý C bớt xén khẩu phần nhưng chẳng một thằng nào dám nói he he vì ban chỉ huy C biết mà có dám nói đâu ?? Họ ngang nhiên vác vài bao tải gạo đi đổi chó về thịt trước mặt tân binh là chuyện quá bình thường , chỉ mong họ thương tình cho mỗi mâm một bát nước xáo chó mà lính mới dài cổ chờ đơi và hy vọng mà chẳng được he he thế mà thằng nào cũng tưởng bở bàn bạc ,đồn thổi rì rầm từ sáng tới chiều !!??
Tất cả chỉ là cái đói nên sinh ra rất nhiều chuyện , từ ăn cắp vặt của đơn vị , của đồng đội , của dân , đảo ngũ , đánh nhau , bệnh tật , nợ nần cắm quán , bán quân tư trang ôi rõ khổ !!
Sau này về đơn vị mới thì ôi , cơm ăn không hết nhiều lúc chẳng muốn ăn chỉ chăm chăm đi kiếm cái gì cải thiện cho thêm thắm tình đồng đội , rau xanh tự tăng gia trồng trọt , dùng không hết đơn vị bán bớt cho dân mua thịt cho anh em ăn , lính mới về đơn vị lính cũ nhường cho ăn cơm thoải mái cho các em nó lại người he he !!. Ngẫm lại thời tân binh thật không thể hiểu : sao lại đói thế và sao lại có một số người lính cũ lại đối xử nhiều khi không có tình đồng đội với chính những người đồng đội của mình như vậy ???
Quả thực thời tân binh là thời ấn tượng nhất em nghĩ đối với mọi thằng lính lác , thằng cháu em vừa nhập ngũ năm 2008 , vừa rồi về chơi em hỏi nó nói không cực như thời bọn cậu và rất ngạc nhiên khi em kể một vài kỷ niệm thời tân binh của em . Thôi thì cũng mừng cho những người lính trẻ bây giờ ít nhiều gì thì cũng đỡ hơn những lớp cha anh đi trước !!
Thời kỳ khoảng giữa 1980 chúng tôi tác chiến dài ngày trong rừng nên chuyện vận chuyển gạo xuống cho lính đánh nhau giữa mùa mưa cũng là một vấn đề lớn , lính thì nằm tít trong sâu xa xe tải không vào được đến nơi nên anh em vận tải của E hay D gần như cõng bộ vất vả lắm , hạt gạo vào đến nơi cho lính có cái ăn mà cầm súng cũng nhiều gian nan nên gạo có đủ cũng là mừng rồi , thực phẩm khác có nhưng ít hon so với tiêu chuẩn ăn của lính , cơm cũng chỉ đủ ăn vì lính phía Nam ít khi thiếu cơm bởi vậy anh em phải nghĩ cách kiếm thực phẩm để nuốt số cơm đó , săn bắn thì lính chúng tôi chẳng thấy ai săn bắn bao giờ , nhìn mấy con kỳ đà to như cho Rồng đất của Indo rúc đầu vào bụng xác chết thằng Pốt thối dữa thì ai dám ăn thịt nó , rùa vàng trong rừng cũng nhiều nhưng lính kiêng , tác chiến gặp rùa chỉ cần thấy nó là tránh cho xa và mỗi lần gặp rùa trên đường tác chiến là thế nào chúng tôi cũng khiêng vác nhau rồi thế mới lạ , bởi vậy thịt rùa là ế chẳng thằng nào dám xơi . Ngoài 2 thứ không ăn được đó thì nhiều còn những con khác thì chẳng thấy bao giờ , lính thiếu chất nên tẩn cơm cũng ác , có cái cho dạ dày co bóp và chặt lọc chất từ cơm vậy . Thế là cơm thiếu , xong cũng chỉ những thằng ăn khỏe thiếu còn loại ăn uống làng nhàng như tôi là vừa đủ , lính cũng nhường nhịn nhau chuyện ăn uống , biết thằng A ăn khỏe mình bớt chút cho nó khỏi chịu đói .
Chúng tôi có loại thực phẩm cây nhà lá vườn ăn cũng tiêu cơm lắm , thường mỗi thằng lính có 2 cái bình tông đựng nước , 1 cái đun nước muối sôi lên rồi cho vào độ 1/3 bình tông , đi đâu thấy ớt dại hái bỏ vào , măng rừng bẻ về luộc qua cắt nhỏ bỏ vào khoảng 3 ngày là ăn được , mỗi bát cơm 1 quả ớt hoặc một khúc măng muối thế là cơm đi ầm ầm . Sau này mỗi lúc nhớ đến thấy cũng thèm nên mỗi lần đi Lạng sơn đều ghé qua mua 1 2 bình măng ớt với quả mắc mật nhưng họ cho nhiều quả mắc mật quá nên ăn không thấy ngon nữa chỉ toàn mùi hắc của mắc mật .
Lẩu thập cẩm
TTCT - Ở xứ này người ta ăn mọi thứ nhúc nhích! Gã vừa nói vừa thả cho bàn tay mình đi hoang lên phần thịt trần trên gối của cô em đang đứng khui bia làm cô nàng nhảy nhổm ra xa rồi buột miệng: Quỷ sứ anh à!
Em mà nhúc nhích là anh cũng ăn thịt em luôn! - gã ngả ngớn.
Cô nàng cũng chẳng phải tay vừa, nguýt một cái sắc lẻm:
- Vậy ăn hết hay là còn chừa chỗ nào?
Gã đớ lưỡi. Khúc rắn mối nướng muối ớt vừa chui vào cổ họng đã nghẹn ngang.
Quán Trần Thế nằm lọt thỏm trên con đường Ăn Nhậu, tưởng như sắp bị đè bẹp bởi các quán sang trọng xung quanh nhưng ngược lại, lúc nào nó cũng đông khách, nhất là những buổi chiều tan sở. Chẳng hiểu vì xứ này có nhiều đàn ông thích kéo dài thời gian độc thân tạm thời hay vì Trần Thế luôn thủ sẵn cả chục món độc mà các quán khác có nằm mơ cũng không tưởng tượng ra nổi?
Gã lui tới cái quán này không biết đã bao nhiêu buổi chiều. Cũng giống như lý do để quán đông khách, gã vẫn chưa hiểu cái tên Trần Thế có nghĩa là gì. Chủ quán tên Thế, thường cởi trần khoe một bầy rồng rắn đang lồng lộn trên người? Hay quán là nơi duy nhất để người ta thưởng thức đủ mùi vị của cuộc đời chỉ bằng cách nhai và nốc?
Nhậu thì lo nhậu, thắc mắc chi cho nhiều! - Tửu thánh, bạn nhậu của gã, cau có. Tay này vừa trúng một vụ áp phe làm ăn khá lớn - là kẻ sẽ chi tiền cho buổi chiều hôm nay. Mà dẫu không trúng đậm thì những buổi trước kia cũng vậy, không khi nào gã có cơ hội làm vơi đi những tờ tiền lương thiện của mình. Tửu thánh luôn gọi những đồng bạc trong túi gã là những tờ tiền lương thiện.
Có lần gã nổi khùng tống cho bạn nhậu một đạp ngã ngửa ra giữa quán vì nghĩ rằng hắn đang mỉa mai mình. Thằng này lồm cồm ngồi dậy, không giận mà lại kể cho hắn câu chuyện về cây quất: Người phương Nam có cây quất trái rất ngọt mà lại sai quả, người phương Bắc thấy vậy bèn xin chiết một nhánh đem về xứ mình trồng. Không ngờ vừa ít quả mà lại chua loe chua loét. Ông và tôi cũng giống như hai cây quất cùng một gốc đó. Có điều trồng ở hai nơi khác nhau nên cho trái ngọt trái chua mà thôi!
Nghe xong gã ngu thêm một tí.
Nhân đây cũng xin giới thiệu đôi nét về gã:
Trưởng phòng một cơ quan nhà nước. Thích bù khú bạn bè vào mọi buổi chiều tan sở. Gan thỏ đế. Vì vậy, gần hai mươi năm mòn ghế trưởng phòng mà vẫn chưa có cơ hội ngồi lên ghế mới. Chỉ có tửu lượng là mỗi ngày mỗi lên, uống thần sầu quỷ khốc nên được bạn nhậu tặng cho hỗn danh Tửu quỷ.
Còn bạn của gã - không phải vì ngang ngửa đô với gã mà vì khả năng kiếm tiền. Chỉ có tài thánh mới kiếm được nhiều tiền và xài tiền như nước cỡ Tửu thánh. Có phải Tửu thánh là tổng giám đốc của một tập đoàn nào đó đâu, mà chỉ là sếp một đơn vị hành chính sự nghiệp, cũng cán bộ công chức như gã. Cuộc đời mỗi người mỗi khác, giống như ở hai bên sườn núi: ở sườn Đông thì mưa dầm dề, bước qua sườn Tây thì lại nắng chang chang.
Vậy mà Tửu quỷ và Tửu thánh lại chơi thân với nhau được, ít ra là ở quán này vào mỗi buổi chiều. Nhị Tửu cùng đối ẩm giữa Trần Thế - nghe cũng khá phong lưu.
Gần đây, bàn của gã lại có thêm một kẻ mới gia nhập: gã chủ quán cởi trần. Lý do: Nghe hai huynh nói chuyện hấp dẫn quá, muốn được hầu chuyện cùng!
- Vậy có chuyện gì thì góp vô đi! - gã hất mặt.
- Thưa hai huynh - gã chủ quán làm ra vẻ trịnh trọng - Tiểu đệ sinh ra vốn chẳng phải dân buôn bán mà chính gốc Hai lúa. Từ ông cố, ông nội đến ông già tía đều sống bám vào mấy công đất ruộng. Đến đời đệ thì giải tỏa quy hoạch, được một mớ tiền của ông già chia cho. Đệ làm chuyến ly nông, mong học được một nghề, ngồi không mà ăn thì đến núi cũng lở chứ nói chi vài mươi triệu bạc. Chẳng biết ma đưa lối quỷ dẫn đường làm sao, khi số vốn lận lưng sạch nhẵn, không học được nghề nào ra hồn đã đành mà còn sa chân vào hắc đạo.
Bóc lịch mấy năm, đệ quyết chí làm lại cuộc đời. Nhờ ông già chết, thỉnh được một mớ tiền phúng điếu nên mới mướn miếng đất mở cái quán nhậu này. Theo lẽ thường, ông bà cha mẹ của đệ là nông dân hiền lành thì đến đời đệ nếu không làm nông dân thì cũng kiếm sống được bằng một nghề lương thiện nào khác chứ làm gì đến nỗi nếm cảnh tù tội một thời gian. Nghe câu chuyện của hai huynh, đệ mới ngộ ra: mình cũng giống như cây quất cây quýt gì đó, tùy theo thổ nhưỡng nên cho trái chua hay ngọt mà thôi!
Nghe xong câu chuyện của gã chủ quán, Tửu thánh vỗ đùi cười ha hả:
- Hay, hay! Ngộ tính của ông quả nhiên là cao. Tôi mời ông trăm phần trăm nghen!
Ngộ tính cái con khỉ! Tửu quỷ hậm hực trong lòng vì tự dưng có thằng cha căng chú kiết chen ngang dự phần. Gã cụng ly nhưng không uống mà lại đưa mắt lơ đễnh nhìn khắp quán. Không còn một chỗ trống. Bàn nào cũng ngùn ngụt khói, không của món lẩu thì cũng của món nướng. Từ xa nhìn vào giống như một đám sương mù quỷ quái vây lấy người bên trong, càng ngày càng thít chặt. Khói bám lên trần nhà lâu ngày dày thành một lớp nhờn như từ thiên thu đọng lại. Có lẽ do thói quen của thực khách nên ngay chỗ gã ngồi tựa lưng, khói chỉ bám chung quanh và tạo thành một hình người. Dọc theo vách tường, có đến hàng chục hình người như vậy.
- Nào cạn đi chứ, chưa chi mà đã say rồi sao? - Tửu thánh chạm mạnh vào ly của gã.
- Cỡ ông anh đây thì làm gì có chuyện say, phải không? - giọng gã chủ quán như khiêu khích. Tửu quỷ nhếch mép, chỉ cần ngửa cổ ực một hơi là cạn sạch. Tự tay khui thêm lượt chai mới đặt lên bàn.
- Vậy mà làm tôi tưởng ông bạn mình bữa nay xuống đô chứ, đang tập trung tư duy gì thế? - Tửu thánh đặt vào chén gã nguyên một con rắn bông súng nướng mọi - Thứ này bây giờ hiếm lắm nghen!
Gã trỏ tay vô những hình người trên vách tường. Tửu thánh nhướng cặp mắt đầy túi mỡ của mình nhìn theo hồi lâu, nhíu mày ra vẻ không hiểu ý. Riêng gã chủ quán, sau khi lần lượt trút đầy bia vào ba chiếc ly trên bàn thì mỉm cười ranh mãnh:
- Đó là hình ảnh của linh hồn! Mỗi người sau khi đến đây đều để lại một phần linh hồn của mình trên vách quán. Đã có hàng trăm phần linh hồn của hàng trăm con người xếp chồng lên nhau. Mỗi phần linh hồn là một nét tính cách của con người. Một đặc trưng không lẫn vào đâu được ở quán của đệ!
- Khi nào thì những linh hồn ấy bước ra khỏi vách và cụng ly với chúng ta? - gã bắt đầu thấy hứng thú với gã chủ quán này.
- Khi mỗi hình người như thế có đủ mọi tính cách của con người trần tục!
- Hèn gì cứ đến chiều là tay chân bụng dạ tôi lại ngứa ngáy, mà phải đến Trần Thế mới đã ngứa. Thì ra cái phần linh hồn của tôi ở đây nó đang réo gọi! - Tửu thánh nâng ly phụ họa.
- Nhưng các huynh cũng nên cẩn thận: có để lại thì cũng có mang đi - gã chủ quán làm ra vẻ bí hiểm - Những phần linh hồn xếp chồng lên nhau nếu tìm được thân xác thích hợp thì sẽ tự động ráp với thân xác đó. Nếu may mắn ráp về nơi cũ thì không nói làm gì... Gã chủ quán buông lửng.
- Ha ha, ông nói y như trong phim kinh dị! - gã ôm bụng cười rũ rượi. Cùng lúc cô em phục vụ thường ngày đi ngang qua, tự dưng gã lại muốn nhảy dựng theo cặp mông lắc lư của cô nàng. Sự hứng khởi đột ngột này làm gã cũng cảm thấy lạ vì từ trước tới giờ tuy ngoài miệng cợt nhả nhưng gã vẫn tự hào rằng tâm của mình luôn bình trước nhan sắc. Gã láng máng nhớ: hình như trước đó có cảm giác một luồng ớn lạnh chạy dọc sống lưng mình, lúc tựa vào tường.
Cuộc trò chuyện giữa Tửu thánh và gã chủ quán dần dà trở nên rôm rả, cứ như trong mắt hai người, gã đã trở thành một kẻ vô hình. Gã nghe họ đang luận về tiền, Tửu thánh rút trong túi ra một tờ tiền đặt lên trên bàn:
- Đây chính xác là tiền thật, tôi vừa rút từ máy ATM ra hồi sáng. Cứ cho nó là không sạch đi, vì nó vào tài khoản của tôi bằng cách mà tôi không thể nói ra. Vậy tại quán ông có cách nào rửa cho nó sạch để xứng với những đồng tiền lương thiện của ông bạn tôi đây?
Gã chủ quán cầm tờ tiền lên soi vào bóng đèn, lật qua lật lại. Chưa hết, còn đưa lên mũi hít hà. Xong, gã có vẻ đăm chiêu:
- Tiểu đệ đây chưa hiểu lắm ẩn ý của ông anh! Nhưng nếu muốn nó sạch thì cứ lấy nó để thanh toán chầu nhậu này, vào túi đệ thì nó khắc trở nên sạch.
Tửu thánh cười ha hả, vỗ vai gã chủ quán cứ như họ đã là tri kỷ từ lâu:
- Đã nói ngộ tính của ông cao, có sai đâu!
Tửu quỷ cảm thấy nóng mặt. Cứ như nội dung cuộc trò chuyện của bọn họ thì hóa ra những buổi chiều như thế này chính là những buổi rửa tiền ư? Và vô tình gã trở thành kẻ đồng lõa? Tay bạn nhậu lại có ý đem những đồng lương còm cõi của mình ra để mỉa mai đùa cợt. Thật là quá quắt, chẳng còn tình nghĩa gì ráo trọi! Nghĩ vậy gã xô ghế đứng dậy, xin kiếu trước cặp mắt chưng hửng của Tửu thánh và gã chủ quán.
oOo
- Dạo này anh thay đổi nhiều quá! - vợ gã đang ngồi vuốt lại những tờ bạc lẻ nhàu nhĩ sau một ngày ngồi cong lưng ở sạp trái cây ngoài chợ. Nhiều lần gã muốn độn thổ khi mấy chị em trong cơ quan vừa sáng sớm gặp gã đã mắng vốn: Hôm qua em mua có một ký cam của chị, về nhà coi lại thì thấy hư gần phân nửa; lần khác là: Chôm chôm chỗ vợ anh bán mắc hơn chỗ khác, tính đâu người quen không cần trả giá, ai dè...
Nhiều khi gã ngờ rằng sự giậm chân tại chỗ của mình phần lớn là do cái sạp trái cây của vợ. Chẳng hiểu có phải vì càng lớn tuổi càng đâm ra trái tính trái nết hay không nhưng đúng là lúc này gã vô cùng khó chịu khi nhìn nàng đếm tiền bán trái cây và cả khi gã rút tiền lương của mình - mặc dù một thời gian dài gã đã tự hào rằng nó là những đồng tiền sạch! Sạch thì có sạch đấy nhưng chỉ là bụi cám nếu so với tiền của thằng bạn nhậu.
- Tôi muốn trở thành cây quất chua! Gã điện thoại nói vu vơ với bạn.
Một tràng cười đắc ý vang lên đầu máy phía bên kia: Chẳng cần đem trồng ở phương Nam phương Bắc chi cho xa xôi, chỉ cần thay đổi cách chăm sóc mà thôi!
Cách của bạn hóa ra không phức tạp nhưng lại hiệu quả đến không ngờ. Chỉ vỏn vẹn một câu: Thấy lợi thì làm ngay! Trong vòng chưa đầy một năm, gã đã đổi ghế trưởng phòng thành ghế sếp phó, không chỉ vậy, còn nằm trong diện quy hoạch để thay thế sếp lớn chuẩn bị về hưu. Công việc bận rộn đến nỗi gã không còn có thời gian nào rảnh rỗi để đến quán Trần Thế như trước và cũng chẳng nhín ra được chút thời gian nào đến tòa án để giải quyết đơn ly hôn với vợ. Trong đơn ly hôn vợ gã ghi lý do: Không hợp nhau. Không hợp nhau mà có đến hai mặt con, đúng là đàn bà. Ly hôn thì ly hôn, gã ngán đến tận cổ cái món trái cây của nàng lắm rồi.
Sau khi cầm được quyết định giải quyết ly hôn của tòa án, tự dưng gã muốn tìm chỗ nào đó để giải khuây. Không phải vì buồn mà vì cảm thấy trống vắng. Gã nghĩ ngay đến tay bạn nhậu thân thiết và quán Trần Thế. Cũng khá lâu không gặp mặt nhau còn gì. Nhất định lần này gã sẽ là người trả tiền và bảo chủ quán Trần Thế đoán xem tiền của mình là sạch hay không sạch. Gọi điện thoại thì nghe giọng bên kia nhẹ hẫng:
- Tôi về quê hưởng thú điền viên cả tháng nay rồi!
- Sao? Có thấy báo chí nói gì đâu? - gã chới với.
- Thì có sơ sẩy gì đâu mà báo chí dính dáng vào, chỉ tự nhiên thấy chán nên làm đơn xin nghỉ vậy thôi! Dứt lời, bạn cũng ngắt máy.
Một mình gã mò đến Trần Thế. Vẫn bàn vẫn ghế, vẫn màn khói mù mịt thân quen cũ. Chủ quán nhìn thấy gã đi một mình lại chẳng tỏ ra ngạc nhiên. Mời gã vào ngồi ở chỗ cũ, cũng chẳng hỏi dùng gì mà bước ngay ra sau bưng lên một cái lẩu ngồn ngộn khói:
- Ông anh ăn thử món lẩu của quán em, bữa nay thằng em đãi!
Gã cầm đũa chọc chọc vào lớp nước sôi sùng sục, gắp lên những miếng thịt không ra thịt, rau chẳng phải rau. Chẳng biết gọi tên là gì. Gã chủ quán hiểu ý:
- Xin giới thiệu với ông anh, đây là món lẩu thập cẩm độc nhất vô nhị. Món lẩu Đời người. Đến Trần Thế ăn lẩu Đời người thế mới gọi là dân sành ăn nhậu!
Gã đưa một miếng thịt - rau ấy vào miệng, gật gù:
- Lạ miệng đó, vậy sau khi nếm xong đời người, no căng bụng thì sẽ ra sao?
- Cái đó còn tùy từng quý khách, có người thì chẳng bao giờ cảm thấy no, có người thấy người khác ăn thì khởi phát cơn thèm nhưng khi ăn thì chẳng được bao nhiêu, đành bỏ mứa. Nhưng hễ bập vào món lẩu này thì chắc chắn là sẽ nghiện - gã chủ quán cười ranh mãnh.
- Vậy thì phiền ông dọn món này vào! - gã ném đũa xuống đất.
Gã chủ quán ra hiệu cho cô em phục vụ đứng gần đó bưng Đời người vào trong, không có vẻ gì phật ý:
- Tiểu đệ cũng biết ông anh đến đây không phải để ăn nhậu mà là để tìm...
- Làm như ông đi guốc trong bụng tôi, vậy nói thử: tôi đến tìm gì?
- Tìm cái đã để lại và trả cái trót mang đi... Chủ quán lấp lửng.
- Một phần linh hồn à? - gã gập người cười rũ rượi.
- Ồ, đó chỉ là một câu chuyện đùa. Cả chuyện chúng ta đang nói nãy giờ cũng là chuyện đùa nốt! - gã chủ quán đột nhiên phát cười lớn.
Trước khi rồ xe ra khỏi Trần Thế, gã chủ quán kề miệng sát tai gã thì thào:
- Nếu khi nào ông anh muốn tìm cái đã để lại và trả cái trót mang đi thì hãy tìm bạn của mình. Nhưng tôi dám chắc: đời nào ông ta chịu nhận!
Giống như vụ cây quất lần trước, lần thứ hai gã thấy mình ngu thêm một tí!
Toàn “hâm”
Sự thật nghiệt ngã về con đường lập nghiệp của một thanh niên trẻ có tri thức, hoài bão, có tấm lòng trong sáng, kiên định… nhưng vẫn luôn bị “bầm dập” với cuộc đời đã làm nhói lòng bất cứ ai có lương tri. Niềm tin vào sự công bằng và lẽ phải sẽ thắng thế mãi tồn tại, nếu trên cõi đời này còn xuất hiện nhiều, thật nhiều những con người chính trực, nghĩa khí như Toàn “hâm”.
Nhiều người bảo Toàn hâm. Qua cách ăn nói có duyên của hắn tôi nghĩ điều tồi tệ này chưa hẳn đã xảy ra. Là bạn thân nên tôi không ngần ngại hỏi hắn: “Người ta bảo mày hâm, mày nghĩ sao?”. Đưa tay vuốt mớ tóc xoăn lòa xòa trên trán, hắn thở dài: “Có thể là như vậy…”.
Sinh ra và lớn lên ở vùng trung du nghèo khó xứ Nghệ, tuổi thơ của Toàn chịu không ít cực nhọc. Nhà đông con, cha mất sớm, hắn lại là anh cả nên cái nghèo cái khó tất tần tật đổ lên đầu hắn. Tốt nghiệp cấp II hắn nói với mẹ: “Con nghỉ học đi buôn kiếm tiền giúp mẹ nuôi các em ăn học”. Mẹ hắn nài nỉ: “Sướng khổ gì mẹ cũng nuôi được các con hết cấp III. Đứa nào giỏi lên được đại học mẹ cũng ráng”. Thế rồi hắn cũng được học cấp III như bạn bè cùng trang lứa. Chỉ có điều nhà hắn quá nghèo nên hắn luôn phải sống khép mình. Ba năm học cấp III hắn chỉ có hai bộ quần áo. Từ nhà đến trường hắn phải lội bộ trên 10km. Vào mùa mưa, về đến nhà là hắn phải giặt vội vàng áo quần để hơ lên ngọn lửa bếp củi cho kịp ngày mai mặc tiếp nên người hắn lúc nào cũng hôi mùi khói. Bạn bè chê hắn hôi, hắn bỏ ngoài tai để lo chuyện học hành. Và chuyện ấy thì khỏi chê. Năm nào hắn cũng rinh về cho nhà trường vài ba giải cấp tỉnh, cấp quốc gia, không toán thì lý hoặc hóa.
Mẹ hắn là người phụ nữ tần tảo nhất thế gian. Đó là điều tự hào của hắn và lũ em khi nhắc về người mẹ quá cố của mình. Ngày nào cũng như ngày nào, mẹ hắn dậy từ lúc 4 giờ sáng và chỉ lên giường khi lũ con đã thuộc bài, tắt hết đèn và chui vào màn. Dù đói khổ thế nào bà cũng ráng kiếm cho con chút lót dạ vào ban sáng, khi thì nắm ngô rang, khi thì củ sắn luộc hoặc chỉ là dăm bảy muỗng cơm chiên. Chia phần cho các con xong, bà khẽ nhón tay lấy chút thừa cho vào miệng của mình và coi như xong bữa. Kể lại cho tôi câu chuyện cảm động này mắt hắn nhòe ướt. Hắn ước: “Giá chi bà còn sống đến bây giờ, dù cuộc sống còn khó khăn anh em tao cũng chiều bà hết lòng”. Hắn kể với tôi những điều gan ruột… Đó là suất ăn sáng tội nghiệp nhất kéo dài suốt 30 năm làm mẹ của bà, một phụ nữ nghèo suốt cuộc đời chưa có bộ áo quần lành lặn. Cho đến khi nhắm mắt xuôi tay gia sản của bà cũng chẳng có gì hơn ngoài ngôi nhà tranh vách đất và năm đứa con ngoan đã lần lượt bước qua giảng đường đại học…
Hắn tiếp tục nói với tôi trong nước mắt: mỗi sáng, xong công việc chia cơm cho các con, mẹ hắn kêu chúng dậy học bài và quày quả đi chợ. Thường bà đi chợ xa mua các loại nông sản về bán chợ gần. Bà không cần lãi nhiều, nói đúng hơn là việc bán buôn của bà chỉ lãi ở những thứ mà người ta không thèm mua đến. Một mớ khoai, mớ sắn bà chỉ cần lãi ở những củ sứt mẻ. Một mớ chè xanh bà chỉ cần lãi ở những lá rụng khỏi cành… Thấy con thèm đến nhỏ dãi các thứ hoa quả, bà mắng: “Mẹ bảo không là không. Tụi bay ăn mai lỗ lấy tiền đâu tao đi chợ tiếp”. Hắn bảo với tôi: “Đói quá đâm hư. Nhiều bữa mấy thằng em rủ nhau ăn vụng hàng của mẹ. Mẹ biết nhưng không nói gì mà chỉ vào buồng gạt nước mắt”. Thương mẹ, hắn kêu lũ em ra hè nhà và đe: “Lần sau tụi bay còn lén ăn hàng chợ của mẹ, tao lôi ra bờ sông nhận chìm hết cả lũ bây giờ”. Mẹ nhắc hắn: “Con đừng rủa các em mà mắc tội. Chỉ tại mẹ quá nghèo mới ra nông nỗi”.
Hắn nói với tôi rằng ngày ấy hắn chỉ mơ ước làm sao sau này có thật nhiều tiền để đền đáp công lao dưỡng dục sinh thành và lo liệu cho các em. Tất nhiên đồng tiền mà hắn kiếm được phải là những đồng tiền sạch, do sức lực của hắn làm ra. Nghề hàng hải có thu nhập cao, lại được đi đây đi đó làm hắn chết mê chết mệt… Rốt cuộc hắn đỗ á khoa ngành khai thác máy tàu biển Trường đại học Hàng hải Hải Phòng. Những năm ngồi trên ghế giảng đường hắn biết mình đã nhầm bởi gia cảnh như hắn ra trường làm sao xin được việc làm. Rồi linh tính đó cũng thành sự thật khi hắn cầm trong tay mảnh bằng tốt nghiệp loại khá và vác hồ sơ đi xin việc khắp nơi mà chẳng nơi nào ngó tới. Lúc này thì thằng Hòa, em trai kế của hắn, đậu Đại học Y Hà Nội. Để có tiền phụ giúp em ăn học, hắn trở thành con buôn trên tuyến đường sắt Vinh - Hà Nội - Hải Phòng. Thời bao cấp, buôn bán khó khăn, hắn là kẻ buôn chuyến nên thuế khá dày. Nhiều lần hắn bị công an bắt, chán ngán quá hắn chuyển sang nghề sửa xe đạp, xe máy. Vốn không có, phải đi thuê mặt bằng, hắn lại luôn luôn bị chủ nhà tăng giá và đòi lấy lại mặt bằng… Có lần ức quá hắn chửi và đánh lại chủ nhà. Công an phường bắt giam hắn một ngày một đêm và tịch thu phương tiện hành nghề. Đến lượt thằng Hải, em thứ ba của hắn, đỗ Đại học Sư phạm Vinh, hắn viết thư cho thằng Hòa: “Việc anh lo cho chú mày tạm ổn. Từ nay về sau chú mày tự bươn chải làm sao vừa nuôi bản thân vừa phụ nuôi em…”.
Một người cậu họ lúc đó là phó giám đốc một ngân hàng thương mại ở Hà Nội hứa giúp hắn. Thấy đứa cháu họ xa lắc xa lơ đưa hồ sơ đến nhà xin việc, bà mợ hắn mắng chồng xa xả: “Thời buổi này muốn ăn con tôm thì phải thả con tép. Bọn nhà quê không có tiền hơi đâu mà ông lo cho nó”. Giọng bà the thé vọng lên từ bếp làm hắn giật nảy mình. Hắn rút bộ hồ sơ từ tay ông cậu và chạy ra ga cho kịp chuyến tàu tối về nhà. Thấy con trở về quá nhanh, vẻ mặt lại không mấy vui, mẹ hắn hỏi: “Có chuyện gì vậy con?”. Hắn trả lời: “Chẳng có gì cả. Mình nghèo nhưng không thể hèn. Chắc con phải vào Nam. Nghe bảo trong ấy dễ kiếm việc làm”.
Hai tháng sau hắn vào Nam và bốn tháng sau hắn kiếm được việc làm ở một công ty vận tải phà sông biển. Hắn mừng hơn bắt được vàng, nhưng sau chuyến đi biển đầu tiên hắn đã vỡ mộng. Giấc mơ trên ghế giảng đường của hắn biến mất khi hằng ngày hắn chứng kiến cảnh thuyền viên trên tàu ăn cắp hàng, bán mua nhiên liệu. Quá ngao ngán, lên bờ hắn làm đơn xin nghỉ việc rồi kể cho bạn bè nghe. Một số người khuyên hắn “sao mày ngu thế, mày cứ theo họ mà làm. Khôn ngoan làm vài ba vụ có tiền là dông lên bờ”. Hắn cười: “Các anh ngu thì có. Dại gì tôi đánh đổi nhân cách của tôi lấy những đồng tiền dơ bẩn ấy”. Bạn bè xì xào: “Đúng là đồ hâm!”. Và biệt danh Toàn “hâm” ra đời từ đó…
Một lần lên thư viện đọc báo, hắn quen một ông giáo già. Thấy hắn hiền lành, ông giáo già kết bạn. Biết cha hắn là nhà giáo, lại có máu văn chương nên có bữa ông già rủ rê: “Hay là cháu tập tành viết báo”. Hắn cười: “Cháu biết gì mà viết”. Ông già gợi ý: “Cứ viết những điều cháu nghĩ, cháu bức xúc ắt phải thành công”. Vậy là hắn viết, viết như có ai thôi thúc. Những bài báo hắn đưa cho ông giáo già xem rồi cũng lần lượt được đăng trên các báo… Hắn chưa nổi tiếng nhưng người đọc đã bắt đầu nhận ra hắn qua bút danh trên báo. Vậy là hắn đam mê nghề viết và tạm có tiền.
Bảy năm trước hắn trúng giải khuyến khích cuộc thi “Vận hội mới và hoài bão của bạn” do Hội
Liên hiệp thanh niên Việt Nam tổ chức. Tờ báo X nhận hắn vào làm. Có lần hắn tâm sự với tôi: “Đó là những tháng ngày cay đắng nhất trong cuộc đời mình”. Trưởng phòng phụ trách hắn là một người đố kỵ. Lão chỉ thích nịnh và ghét tất cả những ai hơn lão. Một phần đam mê, một phần vì cuộc mưu sinh nên hắn viết như chưa bao giờ được viết. Ngoài lĩnh vực được phân công hắn còn làm thơ, phụ trách chuyên tranh, viết truyện ngắn để kiếm tiền nuôi hai đứa út đang là sinh viên đại học. Thấy số lượng phát hành của bào ngày càng giảm nên trong cuộc họp cơ quan hắn đề xuất ban biên tập thay đổi cách làm báo. Hắn cùng một số phóng viên khác xung phong đi viết phóng sự và phóng sự điều tra. Số lượng phát hành báo tăng lên sau mỗi kỳ xuất bản. Hàng loạt phóng sự điều tra của hắn và êkip dần dần vạch ra bộ mặt tham nhũng ở nhiều cơ quan đơn vị. Bút danh của hắn được nhắc đến nhiều hơn. Lão trưởng phòng đâm ghét hắn và nhỏ to với sếp: “Anh muốn yên vị thì nên dẹp thằng Toàn khi hắn chưa vào biên chế”.
Một bữa Toàn ôm xấp tư liệu về các cửa hàng xăng dầu trên địa bàn luôn pha dầu lửa vào xăng trình sếp để viết bài điều tra. Sếp bảo với hắn: “Chú bình tĩnh và chấm dứt vụ này. Vụ này liên quan đến nhiều vấn đề. Tuy chú không viết nhưng cơ quan sẵn sàng trả nhuận bút riêng cho chú”. Hắn không nói gì rồi về nhà cố viết, âm thầm gửi đi báo khác. Bài được đăng, có kẻ đem lưỡi lê, giáo mác đến dọa giết hắn. Hắn cười: “Các anh giỏi cứ giết. Việc gian lận của các anh trước sau cũng bị vạch mặt”. Hai tháng sau hắn bị một kẻ lạ mặt tông xe, nằm viện mất hai tháng. Bạn bè lại có dịp cười hắn hâm… Đợt giảm biên chế đầu tiên có hắn và bốn phóng viên chuyên viết bài điều tra đã được tay trưởng phòng và vị lãnh đạo dàn dựng khá bài bàn: cả năm người đã hết hợp đồng, cơ quan lại đang tiến hành giảm biên chế.
Nhận được quyết định thôi việc, hắn và lũ bạn không vui mà cũng chẳng buồn. Mỗi người một nơi tìm đất sống. Riêng hắn, hắn cứ bám trụ mảnh đất mà mười năm qua hắn đã từng gắn bó. Hắn lặng lẽ làm, lặng lẽ viết. Các báo đặt bài hắn… Bây giờ thì hắn đã bớt khổ. Gánh nặng gia đình đã thôi không đè lên vai hắn nữa. Các em hắn đứa nào cũng đều làm ăn khá và một lòng giúp hắn.
Ngày cưới vợ, hắn chỉ tổ chức năm mâm đơn giản ở nhà hàng nhỏ. Hắn tuyên bố với bạn bè thân hữu: “20 năm còn lại mình biếu trẻ em nghèo”. Nói là làm, ba hôm sau ngày cưới hắn dành tiền để mua 300 bộ đồ cho trẻ em nghèo. Người khen hắn hảo tâm, người bảo hắn vẫn là kẻ hâm. Hai năm nay hắn bắt đầu làm việc thiện. Hắn vừa mở một lớp học tình thương cho trẻ em nghèo mà giáo viên đứng lớp là bạn bè đồng môn, tốt nghiệp đại học nhưng ngành nghề dang dở. Vợ hắn vẫn chở con đi học bằng chiếc xe đạp cà tàng và bản thân hắn vẫn cặm cụi trên từng trang bản thảo kiếm những đồng tiền nhuận bút nhỏ nhoi để giúp người khốn khó. Tôi nói với hắn: “Tao sẽ đưa mày lên báo”. Hắn cười: “Mày hâm mới đi viết chuyện thằng hâm”. Đến lúc này tôi mới hiểu thằng Toàn bạn tôi chẳng hâm một tí nào…
BÙI HOÀNG ANH
Lão Ăn Mày
.: EnterPlus.Org :.
Lão ăn mày nghe chừng rất mệt mỏị Tóc bệt lại vì mồ hôi và bụi đường. Lão đứng tần ngần trước một căn nhà 2 tầng khang trang, sạch sẽ với cổng sắt cao gần đến nóc nhà. Nắng đã tắt trên những góc phố, ánh đèn đường le lói, thê lương, ảo não đâu đâỵ Thê lương như tâm hồn lão khi nghĩ về đến căn nhà ọp ẹp được vá víu bằng những tấm carton cuối một con hẻm nhỏ hôi thối, mà trong đó, lúc nhúc gồm gia đình thằng con trai lớn cùng với người vợ và 5 đứa con nhỏ. Chúng nó cũng khổ lắm, lão nghĩ, thằng con thì đi đạp xích lô cả ngày, con vợ đi bán hàng rong. Trẻ con, từ lớn nhất 12 tuổi đến 6 tuổi đều túa ra ngoài đường, xin được gì thì xin, bằng không thì cũng thất thểu đầu đường, xó chợ, hoặc có khi đói quá, làm càn trở thành dân ăn cắp vặt là chuyện thường...
Cảm thấy mình đã già yếu không giúp gì được con cháu mấy đỗi, nhưng lão cũng hăng hái tham gia "đi làm" (ăn mày) may ra, nếu không giúp được gì cho gia đình con lão, nhưng ít nhất cũng có được cái ăn, đỡ đi một gánh nặng...
Lão đói lắm. Từ sáng giờ chưa có được một hạt cơm trong bụng. Xin ăn ở chợ cả ngày cũng chỉ được vài đồng khiêm tốn từ lòng hảo tâm của những kẻ giầu có, dư tiền bạc, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu... Thất thểu, chân thấp, chân cao, lão trở về nhà, lòng ngao ngán không biết tối nay có gì để ăn không....
Và hôm nào cũng vậy, lão đều đi ngang qua ngôi nhà nàỵ Nó giống như một chiếc răng vàng trong hàm răng đen cờm cỡi, mốc thếch.... Cũng vậy, ngôi nhà 2 tầng này được xây lên ngay đầu một con ngõ tối tăm của dân nghèọ... Đây là ngôi nhà của một gã công an Bắc Việt vào Nam sau 75, nghe đâu, trước giải phóng, gã đi là một anh bộ đội chân chất, chỉ biết rừng rú và súng đạn. Sau khi đã giải phóng được đất nước, nhờ có công bỏ hết thời thanh xuân của mình để giải phóng đất nước, gã có được một chân làm công an xã trong cái xóm nghèo nàỵ... Lần lần, gã biết được thế nào là "quyền lực", nhất là quyền lực đối với những người dân quê quá sức nghèo khổ của khu xóm tạm nhạp nàỵ.... Nghe chừng gã cũng biết tận lực được những quyền hạn của mình, nên ngày càng làm ăn khấm khá....
Lão ăn mày thường gặp gã luôn, cái mặt bì bì và rất phách lối, nhưng gã lại có đứa con gái cũng khá xinh, ngược lại với cha, cô rất vui tính, cởi mở và biết thông cảm. Nhưng dẫu có vui tính và cởi mở thế nào, người trong xóm cũng vẫn e dè chẳng ai dám đến gần trò chuyện với cộ...
Lão ăn mày chần chừ..., đứng xớ rớ. Bụng muốn gõ cửa, hy vọng gặp cô con gái xin ít cơm thừạ Ngẫm nghĩ mông lung, đôi lần định dợm bước bỏ đi, sau lại thấy tiêng tiếc, biết đâu lại gặp được cô con gái tốt bụng kiạ.... Cuối cùng, lão cũng quyết định bấm chuông.....
Tiếng chuông ré lên làm lão giật bắn mình, sợ hãi, chỉ muốn quay lưng bỏ chạy thì lão nghe thấy tiếng lẹt xẹt của đôi dép kéo lê trên nền đá hoạ Một cụ già, có lẽ ngoài 70, trông có vẻ đễnh đãng và phúc hậụ Đôi mắt kèm nhèm nhìn, ngó ra cổng. Cụ mặc một chiếc áo cánh trắng và một chiếc quần satin đen. Cụ ngừng lại trước chếc cổng sắt. Hai khuôn mặt già nua, chỉ cách nhau mỗi cái cổng, nhưng lại là 2 cuộc đời, 2 thế giới khác xa nhaụ..
Giọng bà cụ đặc sệt Bắc Kỳ:
- Bà cần hỏi ai thế???
Lão ăn mày lúng túng, rồi thấp giọng van lơn:
- Lạy cụ. Con đói lắm. Xin cụ chút cơm thừa ăn hôm naỵ..!!!
Bà cụ nhìn lão ăn mày một chập. Hình như vẫn chưa hiểu đối tượng muốn gi, rồi lần trong túi áo chiếc chìu khoá, lách cách mở cổng, đễnh đãng hỏi:
- Hử??? Bà nói gì cở??
Lão ăn mày kiên nhẫn:
- Xin cụ cho con ít cơm thừạ..
Cánh cửa mở rộng... Cụ bà nhìn thấy một bà lão te tuạ Khuôn mặt thiểu nãọ Người hơi run run vì đóị Quần áo lem luốc, dính đầy vệt dơ và đất cát. Khuôn mặt bà cụ bỗng vui hẳn lên, Cụ cho rằng, Chúa vừa gửi đến cụ một người bạn đâỵ Cả ngày cứ ở trong nhà một mình, cụ buồn lắm. Con cái thì có việc riêng của chúng nó, chẳng đứa nào có thì giờ rảnh chơi với cụ. Đột nhiên, hôm nay có một bà lão ở đâu tự nhiên đến gõ cửa, cụ mừng khôn siết..... Nắm ngay lấy tay lão ăn mày kéo sềnh sệch vào nhà:
- Vào đây đã.... Muốn ăn gì thì để tôi đi lấỵ Trong nhà có nhiều đồ ăn lắm cơ!!! Nhưng bà phải hứa là ở lại chơi một chốc nhé, đừng đòi về vội, tôi ở nhà một mình buồn lắm đấy!!!
Lão ăn mày hơi tưng hửng về thái độ quá sức thân thiện của cụ bà... Nhưng cũng len lén bước vàọ Lưng lão khom hẳn xuống, làm như nếu lão đứng thẳng lên, thì có lẽ nhiều bụi đất sẽ rớt xuống nền đá hoa sáng choang vậỵ.... Theo chân bà cụ, lão vào đến phòng khách. Cụ bà lôi sềnh sệch lão ăn mày đến chiếc ghế sofa, ấn lão ngồi xuống vui vẻ bảo:
- Bác ngồi đây một chút. Chờ tôi xuống lấy đồ ăn cho bác sơị Đừng đi đâu đấy nhá... Tôi sẽ lên ngaỵ...
Ngồi lại một mí'nh trong phòng khách. Lão ăn mày len lén đưa mắt nhìn quanh. Đó là một căn phòng bày biện những thứ thật đắt tiền, nhưng lỏng chỏng, chẳng cái gì hợp với cái gì... Hình như chủ nhân khoái thứ gì thì đem về trưng thứ ấy, không cần biết nó có hài hoà với nhau không. Có lẽ đó là tất cả "chiến lợi phẩm" của gã công an hút máu mủ của dân lành và của đám đàn em mỗi lần cầu cạnh, xin xỏ ở gã một điều gì. Nhìn kỹ, thấy cũng có những đồ vật rất đẹp và quý, nhưng vì tất cả đều tạp nhạp, trưng bày lại không biết cách nên trở thành một "kho chứa đồ" hơn là một phòng khách. Chỗ góc phòng, kê một tủ kiếng cổ làm bằng gỗ lim bóng, trưng bày hầm bà làng đủ thứ bên trong. Từ những con búp bê nhắm, mở mắt, đến những chai rượu đắt tiền. Góc bên cạnh là chùm chìa khoá, kìm, búa, vài phong thuốc lá 555, Dunhill v.v..
Ngay giữa phòng là một bộ ghế salon kiểu của Ý mầu kem. Bên cạnh đó là một chiếc xe gắn máy nằm kềnh càng choán gần hết một góc phòng. Trên tường, treo vài bức tranh sơn màị Một bức hình Bác với bộ râu (giả), khuôn mặt Bác hơi choắt lại vì buồn (?). Bên cạnh là một bức hình cô đào Madona hở gần nửa bộ ngực trông rất hấp dẫn....
Tiếng dép lại lẹp xẹp trở về. Bà cụ cầm trên tay đầy thức ăn. Khuôn mặt vui vẻ, cụ bảo:
- Tôi chỉ tìm thấy được từng này thôị Tôi đem lên tất cho Bác. Ăn đi nhé, xong rồi chúng mình thong thả nói chuyện....
Cụ để xuống bàn 2 cái bánh chưng và vài chiếc bánh ú. Mắt lão ăn mày sáng lên. Nước miếng trong miệng tự động trào rạ... Lão vội cầm lấy chiếc bánh ú ăn lấy, ăn để. Bà cụ ngồi bên cạnh kiên nhẫn chờ đợị Ăn độ một lát, nghe chừng cơn đói đã vơị Lão ăn mày rón rén xin thêm:
- Cụ có nước uống, cho cháu xin một lỵ...
- À.... Phải rồị... Tôi quên khuấy đi mất...!!!
Nói rồi, cụ lại xuống bếp đi lấy nước cho lãọ Sau khi ăn uống no say, cụ bắt đầu gợi chuyện. Ban đầu, lão ăn mày còn e dè. Sau vui chuyện nên ra chừng có vẻ tâm đầu ý hợp lắm. Hỏi ra mới biết họ là người cùng quê, nhưng lão thì di cư vào Nam năm 45, làm ăn cũng khá. Cho đến khi bắc quân "giải phóng" miền nam. Sau vài lần đổi tiền của nhà nước với mục đích bần cùng hoá nhân dân, thì lão trở thành dân bần cùng nhất của hạng bần cùng. Chăng biết làm gì với tuổi già, lão đành phải làm nghề ăn mày vậỵ..
Biết được lão ăn mày là người cùng quệ Rất mừng rỡ và thích thú như gặp được lại người thân, xưa cũ vậỵ Cụ bà cũng cởi hết ruột gan ra kể lể:
- Ôi chao... Bác không biết.... Hồi còn ở ngoài Bắc. Chúng tôi cũng thuộc dân bần cùng, khố đế lắm cơ... Đời sống rất cực khổ Tôi cũng đã từng làm nghề ăn mày đấy chứ. Nhưng khốn một nỗi là ngoài ấy ai cũng nghèo, chẳng có đồng dư nào cho hạng ăn mày cả, nên chúng tôi phải xoay ra đi mót lúa, củ khoai, của sắn dưới ruộng, hoặc đi vớt tôm, tép.... Cực nhọc cả ngày, đôi khi cũng chẳng có được đủ ăn.... (thở dàị..) Hoá ra, bác cũng là người cùng làng đấỷ?? Quý hoá quá... Nếu không vào Nam sớm có lẽ chúng ta đã là bạn thiết rồi đấy!!! Hôm nay, có ít bánh. Tí bác cứ đem tất về cho các cháu sơi nhé...
Mặt lão ăn mày tươi hẳn lên. Bắc chước cụ bà, lão cũng giở giọng Bắc kỳ (nhưng đã pha Nam):
- Quý hoá quá !!! (nhấp nhổm). Thôi cũng đã trễ, cụ cho cháu xin về, và đem mấy chiếc bánh về làm quà cho các cháu nhé???
Hơi thất vọng, bà cụ nài nỉ:
- Ấỵ... Sao lại vội vềthế??? Ở lại chơi tí đã.... Chuyện chưa xong mà...!!!
Nói xong, cụ bà nhìn vào khuôn mặt nhăn nheo của lão ăn mày, tâm cụ nhuốm lên một niềm thương cảm sâu xạ... Cụ muốn cho lão một ít tiền hay bất cứ gì để cho lão bớt khổ. Khốn nỗi, cụ chẳng bao giờ có tiền trong túị... Các con có bao giờ đưa cụ tiền để làm gì, vì thức gì trong nhà cũng có. Cụ nhìn quanh nhà, định kiếm một vật gì có giá trị đem biếu lão ăn mày... Nhưng vật gì cũng gồ ghề, đồ sộ cả, cho lão cụ lại sợ bị lôi thôi với thằng con....
Cụ còn đang ngẫm nghĩ, tìm cách giúp lãọ Trong khi lão ăn mày cứ nhấp nha, nhấp nhổm đòi về, mắt lão chỉ dán chặt vào trong mấy chiếc bánh chưng và bánh ú cụ vừa bưng lên. Nhưng cụ bà vẫn chưa cho thế là đủ, lòng cụ nhớ lại những ngày cùng khổ ngoài Bắc mà thương bạn đứt ruột... Chẳng hiểu con bà sao giời thương, vào Nam, làm ăn gì mà khấm khá, cụ mới có được một đời sống đầy đủ thế nàỵ. Cụ muốn chia sẻ bớt niềm vui sướng của mình cho "người bạn thiết" mới quen.... Tần ngần, nắm lấy bàn tay nhăn nheo của bạn, nhìn sâu vào đôi mắt mờ đục của bạn. Rồi như có một quyết định loé lên, một điều gì thoáng qua trong đầụ Khuôn mặt hớn hở, cụ bà bóp khẽ bàn tay nhăn nheo của bạn tha thiết bảo:
- Bác ngồi đây chơi một tẹo nhé... (nhấn mạnh). Nhớ chờ tôi về.... Tôi sẽ đi kiếm tiền cho Bác mua gạọ....
Lão ăn mày vẫn chưa biết chuyện gì. Trong lòng, chỉ muốn từ giã bà cụ tốt bụng rồi đem mấy chiếc bánh về làm quà cho các cháụ Tưởng tượng khuôn mặt hớn hở của chúng lão bỗng rộn lên một niềm vuị... Định từ chối phứt để rời đây cho sớm. Nhưng chưa kịp nói gì, thì cụ bà đã lúp xúp đi thẳng ra cổng...
Ngồi lại một mình, lão sốt ruột chẳng biết tính saọ Nhìn quanh quẩn. Muốn lên tiếng gọi mà chẳng biết gọi aị Sự sợ hãi cứ ùn ùn trở về tăng theo cấp số nhân. Sợ rằng, lỡ có người nào về thấy lão trong nhà một mình thì có lẽ sẽ lôi thôi tọ... Nhiều khi còn phải ngồi tù nữa là đằng khác... Nghĩ đến đó, lão toát cả mồ hôị Không còn do dự gì nữa, lão quyết định đứng phắt dậy, quơ mấy cái bánh, túm hết vào vạt áo rồi thoát ra cửạ...
Đi được mươi bước đường thì thấy cô con gái của gã công an mặt hớt hơ, hớt hải, lao ào vào trong nhà như một cơn lốc, rống cổ kêu lớn:
- Mẹ ơị..... mẹ ơiiiiiiiiiiiiiị... Bà Nội đang ở ngoài đường làm ăn mày kìaaaaaaaaaaạ...!!!
Cây bàng vuông" - Lê Hoài Lương
03-08-2012 05:54:46 AM
Sếp bảo, cậu xem lại thử sách vở nói về cây bàng vuông thế nào, nó có gì đặc biệt mà không riêng gì mình, gần đây trong thiên hạ rộ lên phong trào chuyển tặng cây bàng vuông chiết từ một đảo đá xa xôi của Tổ quốc. Nghe nói nó chỉ hợp thủy thổ sóng gió ngập mặn và nắng ấm.
Sau một chuyến đi thăm đảo, sếp đem về mấy quả bàng chín anh em tặng. Một trong số đó đã thành cây bàng vuông đang lên xanh trong khuôn viên cơ quan. Sếp hãnh diện khoe với mọi người rằng chỉ nuôi từ hạt cây mới thích nghi với điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng rất khác ở thủ đô. Cây bàng mới cao quá đầu người, báo chí đã rất thính nhạy, viết bài, kèm hình cây và người, toàn người nổi tiếng.
Nhưng mà, cậu phải tìm hiểu thêm nhé, phải thật am hiểu những đặc điểm sinh học của nó để biết cách chăm sóc lâu dài.
Thời thánh thần buột miệng hay lời con người sơ xuất đều có thiết bị ghi lại rồi tung lên cho khắp các giới nghe dở cười dở khóc, thì thông tin một giống cây cụ thể, dù có tên trong sách đỏ hay không, không khó tìm lắm.
Và tôi đã có ngay mấy thông tin căn bản, bên cạnh hình cây bàng có hoa như chùm tia màu trắng, đỏ, đẹp như tia sáng pháo bông, quả hình lồng đèn, gần vuông, bốn hoặc năm cạnh. Cây sống ở vùng rừng ngập mặn nhiệt đới Đông Nam á. Thêm chi tiết lính ta sử dụng lá bàng vuông để gói bánh chưng ngày tết nữa…
Nhưng tất cả các thông tin trên chẳng là gì so với chi tiết cách di cư của cây bàng vuông: quả bàng rụng xuống biển rồi mặc cho sóng gió, cho những dòng chảy dập dềnh trôi nổi vài trăm cây số, trôi nổi đến hai năm trong nước mặn chát mà không hư, đến khi một hòn đảo nào đó vớ được. Quả bàng giạt lên ghềnh đá, lên hốc đất, và đâm chồi.
Sếp trầm trồ, vậy à, nếu cậu không phịa thì độc đáo đó. Sức sống cái cây này ghê thật. Hèn chi các vị chọn nó làm biểu tượng cho sự kiên cường nơi đầu sóng ngọn gió, cho kiên trì tồn tại…
Khoa đã bắt đầu thấy lạnh. Cơ thể hăm hai cường tráng của chàng trai đất võ đang có những tín hiệu đuối dần. Cơ bắp anh mấy lần rơi vào trạng thái lơi ra, mấy lần tay anh rời hai quả bí cứu sinh mà không hay. Thực ra, lý trí anh cũng đang dần lơ mơ dù chưa lúc nào nó chấp nhận buông xuôi.
Chắc cũng đã năm giờ chiều. Mặt trời xuống thấp lắm rồi. Có thể lúc văng ra khỏi tàu, cái đồng hồ Seiko chặt góc bung mất. Giờ anh mới nhận ra không còn cái đồng hồ má anh cho tiền mua hồi đi học trường trung cấp Kỹ thuật Hải quân. Năm đó nhà trúng mấy sào mía, má tặng con trai vật ao ước từ lâu. ở nông thôn, bọn con trai lứa anh, cái Seiko chặt góc là vật trang sức sang trọng lắm.
Sao tới giờ mình mới nhận ra cổ tay trống nhỉ, anh lơ mơ nghĩ. Sợi lạnh đã thường xuyên chạy từ lưng lên đầu. Mi mắt muốn díp lại, anh giật mình đưa quả bí đao lên ghé răng cạp liền mấy miếng. Trưa giờ đã ăn hết một phần ba quả bí hơn hai ký. Nếu không lạnh cóng và kiệt sức hoàn toàn, phần quả bí này và quả bí đỏ dưới ngực sẽ cung cấp lương thực và nước uống cho anh ba bốn ngày nữa.
Đúng là hai quả bí đã cứu sống anh tới giờ. Cũng chỉ là phản xạ bản năng thôi. Lúc dưới phòng bếp nghe những tiếng nổ mạnh trên boong, tàu chấn động dữ dội. Tiếng chỉ huy, đồng đội, nhanh chóng chìm trong nối tiếp những tiếng nổ chát chúa. Anh lao nhanh lên boong. Một quả pháo liền đó trúng ngay gian bếp, lực nổ hất tung anh xuống nước. Chung quanh đầy mảnh vỡ, nhiều đồng đội loi ngoi cùng máu và bất kỳ vật gì bấu víu được. Anh chụp vội hai trái bí gần đó ôm dưới ngực như phao, và bơi. Những quả pháo kẻ địch tiếp tục rơi chung quanh tung tóe, con tàu bị thương giật nảy mình thêm vài lần nữa rồi chìm nhanh xuống mặt nước tưa tướp. Anh vừa kịp nhìn thấy thằng Nhã cố ngoi khuôn mặt nhầy máu lên một lần nữa.
Mặt nước giờ sôi tung tóe từng tràng mười hai ly bảy. Vài tiếng kêu đau đớn rồi chung quanh hoàn toàn im lặng. Như anh đang im lặng bơi, cố xa hướng tàu địch chừng nào hay chừng nấy. Không còn tiếng kêu đau đớn chung quanh nghĩa là đồng đội hoặc đã chết hết hoặc đang lặng lẽ chối bỏ cái chết như anh.
Chợt nghe có tiếng thuyền máy thật gần. Cả tiếng tri trô xị xộ đắc thắng của kẻ địch, kèm theo vài tràng tiểu liên. Bọn chúng đang chạy rảo để giết sạch người còn ngoi ngóp bơi. Anh nắm hai cuống bí hụp xuống rồi ngửa mặt nấp sau hai quả bí dập dềnh. Lại rải rác tiếng tiểu liên điểm xạ. Rồi tiếng xị xộ tri trô cùng tiếng xuồng máy xa dần. Bấy giờ khoảng bảy giờ sáng. Biển tuyệt đối yên tĩnh…
… Bỗng nhiên tiếng xuồng máy trở lại. Sau gần mười tiếng đồng hồ. Khoa cứ ngỡ tiếng xuồng máy lẩn quất trong tâm trí đang dần mất cảm giác của mình. Nhưng đúng là tiếng xuồng máy thật. Đang mỗi lúc một gần. Anh định hụp xuống rồi ngửa mặt trốn sau hai quả bí như lúc sáng. Nhưng không thể. Mấy ngón tay cứng đờ, quả bí cứ chuội ra. Hai quả bí cứ chuội ra bồng bồng. Thôi vậy, cũng chẳng còn sức để bơi, anh chồm lên ôm lại hai quả bí luồn dưới ngực, mắt ngước nhìn bọn chúng lạch xạch lại gần.
Mấy thằng chĩa súng về anh, xị xộ vài câu gì như mệnh lệnh. Anh nhìn thẳng về phía chúng, chờ tràng đạn rẹt rẹt. Nhưng bọn chúng không bắn mà cứ cho xuồng chạy vờn quanh và cứ xị xộ mấy câu lúc nãy. Kèm theo kiểu ra dấu hiệu như bảo giơ hai tay lên trời. à, anh hiểu, và làm theo. Khi thấy hai trái bí chuội ra nổi bồng lên, vài đứa trên xuồng máy tri trô rồi bật cười. Thì ra chúng sợ anh ôm giấu vũ khí, bom mìn gì dưới nước. Bọn chết nhát, anh rủa thầm.
Mấy cái móc như câu liêm kéo Khoa lăn ạch lên thuyền. Sau một lát định thần anh mới nhận ra phía cuối thuyền, co ro vì lạnh kiệt, có tám người lính Việt tù binh. Chắc các đồng đội cũng mới được vớt lên trước anh vài giờ. Tất cả đều bị lột sạch áo quần dài, chắc để dễ kiểm soát.
Sự cẩn thận của sếp đã đúng, cây bàng đang ốm. Mùa đông năm nay thủ đô có nhiều đợt rét dưới mười độ. Bắt đầu từ sắc lá xanh không còn biếc. Như người sốt rét kinh niên tai tái, những chiếc lá bơ thờ rồi chết dần trên cành. Cái rét như dao đã cắt đứt những ống nhựa trong thân cây.
Sếp đứng ngồi không yên, hết liên lạc với cơ quan bảo vệ thực vật lại gặp riêng các giáo sư đầu ngành về cây. Lại cáu kỉnh bảo tôi cứ vào các kho mạng xem có nơi đâu gặp trường hợp tương tự, và họ xử lý ra sao. ở cơ quan, tôi là bí thư chi đoàn và là người làm trang tin nội bộ, chuyện internet cũng thạo. Sếp vừa đón từng tệp thông tin muốn tìm từ trên trời chạy ra giấy vừa bảo: Anh bận quá, cậu làm cho kỹ vào, nhé. Sếp đương nhiên là người luôn bận rộn.
Đã có những loại thuốc xịt lên lá tăng cường dưỡng chất cho cây chống chọi sự khắc nghiệt của thời tiết. Đã có thuốc được khuyến cáo làm ấm thân ấm gốc. Thêm giải pháp bao nilon, ngày tưới nước ấm, đêm thắp bóng điện sưởi cho cây. Mọi phân tích sắc sảo của các chuyên gia, mọi đoan chắc hiệu quả cách xử lý của người trồng cây cảnh chuyên nghiệp đều được vận dụng.Từng ngày, những sáng kiến cứ nhiều thêm.
Nhưng cây bàng vẫn kiệt dần, chỉ còn mấy cành lá già gần gốc cố chống chọi. Ngày nào sếp cũng đến bên cây vài lần, ngó chừng từng chiếc lá ít ỏi còn lại. Sếp đến với cây không phải để kiểm tra đoàn thanh niên có hoàn thành nhiệm vụ bằng mọi giá phải cứu sống cây không, mà còn bằng một tình cảm chân thành đặc biệt, một niềm yêu như tín ngưỡng. Những cuộc họp giao ban đầu tuần bao giờ cây bàng vuông cũng là một nội dung. Sự chân thành tự hào trước đây và thống thiết bây giờ trong cách nói về cây của sếp, đã dần truyền vào lớp trẻ chúng tôi một tín niệm mơ hồ. Tín niệm chứ không phải yêu. Tôi cũng đã chuyển tải thành công xúc cảm thiêng nghiêm này đến chi đoàn. Nói thành công vì không có ai phát biểu gì phản đối.
Suốt hai ngày đêm lênh đênh trên biển, Khoa và tám đồng đội co ro một góc tàu vì lạnh và đói, và những vết thương không băng bó đã bốc mùi. Hai thằng xị xộ cầm súng thay nhau canh chín người hoàn toàn kiệt sức đứng không nổi, là thừa. Lại cấm tiệt không cho nói chuyện với nhau. Nên khi cập một bến cảng và được trả lại áo quần rồi lên xe về một trại giam, Khoa mới tin rằng anh và đồng đội có thể sẽ sống.
Rồi từng người được đưa đi thẩm vấn riêng. Cũng có người bị đánh, do trả lời tiền hậu bất nhất. Phải gần một tháng, bọn chúng mới dừng điều tra khai thác vì không moi được thông tin gì mới hơn những hiểu biết đơn giản về nhiệm vụ người lính công binh xây các công trình cần cho đảo. Rồi tháng ngày của cuộc sống lao động tù binh.
Cũng không có gì ngạc nhiên khi Khoa và đồng đội hàng tuần được ‘‘học tập’’ để hiểu rằng các anh và những người ra lệnh cho các anh ra chiếm giữ đảo là sai thế nào. Mặc kệ chúng mày trò nhồi sọ con nít.
Cuộc sống trong thế giới không sắc màu này rồi dần quen, những ám ảnh về cái chết của các đồng đội rồi dần vơi, những âu lo, nghĩ ngợi về ngày được trao trả về nước cũng không còn thường trực trong tâm trí. Mặc xác. Còn sống sót là chưa hết số và còn quá trẻ là còn nhiều cơ hội.
Sẽ chẳng có gì đáng nói ở trại tù trừ cái ngày Khoa và các bạn được tiếp xúc Tổ chức Hồng thập tự Quốc tế tới kiểm tra việc đối xử với tù binh có theo quy định của thế giới không. Trước đó mấy hôm, bọn anh không hiểu vì sao chúng cho các anh nghỉ lao động một ngày, cấp cho mỗi người một ít bạc lẻ rồi đưa ra mấy quầy tạp hóa phía trước sắm sanh tiêu pha. Bạn bè mua cả lố hàng mà mới phân nửa tiền. Còn Khoa mua ngay bánh xà phòng Camay đã bảy tệ, vài món hàng loại sang khác là vừa hết số tiền. Gã quản trại hỏi sao không mua hàng Trung Quốc cho rẻ, anh bảo tôi xài hàng Mỹ quen rồi. Gã tròn mắt rồi gật gật đầu ra vẻ hiểu, ánh mắt không giấu nổi thoáng thán phục.
Khoa có chút hả hê. Thật buồn cười là chỉ bấy nhiêu thôi, lòng căm thù chất chứa lâu nay, nỗi đau, nỗi nhục như vơi bớt ít nhiều. Cũng vì quá thù ghét bọn này mà đến khi được trao trả về nước, khác với các bạn, gần bốn năm anh không hề học một chữ tiếng họ. Và, những ngày được về Hải Phòng an dưỡng, bộ phận chính sách hỏi nguyện vọng tương lai, tám chiến hữu kia xin về nhà, chỉ riêng anh mong muốn được tiếp tục phục vụ quân đội, được tiếp tục chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Cả cái xóm nhỏ bên hông Chợ Lớn Quy Nhơn ùa ra vây quanh đón anh. Đúng ngày ông Táo về trời. Phong pháo Khoa mua sẵn định đốt mừng trước nhà không thể bật được diêm quẹt, anh không ngờ mình run đến mức đứng không vững, vừa lúc má chạy ào ra, hai mẹ con đổ ập vào nhau. Ai đó đã nhặt phong pháo và đốt hộ. Ba anh lặng lẽ lên nhà trên gỡ bàn thờ con trai xuống. Anh cất ảnh thờ và tấm bằng Tổ Quốc Ghi Công trên đầu tủ như vật kỷ niệm.
Sau tết Khoa lại khoác ba lô vào Nha Trang trình diện đơn vị. Cuối năm anh cưới vợ. Khoa quen Thủy trong sinh hoạt với Đoàn phường kết nghĩa. Nhà Thủy có sạp vải ở Chợ Đầm, kinh tế khá giả. Thủy bảo ngưỡng mộ anh. Gia đình cô đồng ý gả con cho anh bởi yêu cầu “bắt rể’’ được nhà Khoa chấp nhận. Năm sau vợ chồng anh có con Khánh. Hai năm nữa Thủy sinh con Trang. Anh cũng đã đeo quân hàm thiếu úy. Mọi thứ thật tốt đẹp.
Anh đang thấy đời mình như được Trời Phật bù đắp, độ trì thì khi con Trang vừa đầy năm, Khoa được chính ủy trung đoàn mời lên gặp để nhận ‘‘công tác’’ mới. Chính ủy trao cho anh quyết định quân hàm trung úy trước thời hạn vì ‘‘hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ’’. Và những giải thích thật dài, thật mơ hồ nhưng đủ để anh hiểu là đơn vị rất lấy làm tiếc không thể có anh tiếp tục phục vụ…
Thật lạ là dù bất ngờ trước quyết định này, Khoa không chút ngạc nhiên. Như là anh đã chuẩn bị đón nhận nó. Không hẳn vì cảm giác người ta không thật tin mình khi phân công nhiệm vụ, từng đôi lần chờn chợn trước đây. Không hẳn sự điềm tĩnh đối diện bất kỳ tai ương nào vì tất cả đều chẳng là gì khi anh đã từ cõi chết trở về. Có lẽ chỉ là niềm thanh thản của sự trơ lì và chấp nhận. Thứ cảm xúc quá ngưỡng từ lòng kiêu hãnh và không cam chịu bản tính.
Khoa cũng không thấy có chút oán trách gì cấp trên. Chắc họ phải thật khó khăn với quyết định này. Thôi vậy, không được phục vụ quân đội thì về làm dân. Về với cái tổ nho nhỏ ấm áp của mình.
Anh lại khoác ba lô về nhà, giải thích quấy quá với Thủy và cha mẹ vợ rồi về Quy Nhơn. Ba anh chỉ im lặng nghe anh kể vắn tắt vụ việc và nêu quyết tâm vào Sài Gòn tìm phương cách sống. Má khóc lặng rồi xách giỏ ra chợ mua mấy món anh thích, nấu bữa cơm tiễn con lên tàu vào Nam mơ hồ chuyện mưu sinh. Khoa gỡ hai tấm bằng có chữ ký Chủ tịch nước cuộn lại đem theo, bằng ‘‘Tổ Quốc ghi công’’ và ‘‘Huân chương Chiến công’’ hạng ba. Tấm bằng huân chương không hiểu sao người ta cũng gửi về qua đường bưu điện theo địa chỉ nhà anh ở Quy Nhơn chứ không tổ chức trao ở đơn vị.
Khoản tiền xuất ngũ vừa mua được chiếc xe ‘‘bảy chín’’ cho khởi nghiệp xe ôm ở Sài Gòn. Hai tháng sau, Thủy cũng bồng dắt con vào với anh. Cô gái trắng da dài tóc bán vải Chợ Đầm giờ sáng sáng ngồi bán bánh hỏi Bình Định trước hẻm khu nhà trọ. Cứ chiều chiều má anh nhận bánh rồi gửi theo xe Quy Nhơn chạy suốt đêm, tới sáng anh đến bến đón đem về cho vợ bán.
Khoa chạy xe ôm chủ yếu vào ban đêm, khi những người cũ đứng bến chạy ngày đã về nghỉ. Cuộc cạnh tranh khốc liệt vì miếng cơm manh áo đã bất thành văn sắp xếp những tồn tại theo một thứ luật riêng khó đổi dời.
Đến gần tết, cây bàng chỉ còn lại phần gốc cao nửa mét là xanh da, xanh thật với nhựa cây. Những phần trên teo quắt lại và bạc màu càng nổi bật phần gốc đang sống. Mọi người đều khẳng định mười ngày qua cây không khô thêm. Và mấy mắt lá trên thân tươi lắm, chắc chắn nắng ấm lên là chồi non sẽ bật ra. Bây giờ không chỉ sếp thắc thỏm vì sự sống của cây bàng. Nó thành suy nghĩ thường trực trong phần đông cán bộ nhân viên cơ quan. Nghĩ rằng cây bàng phải sống. Nó không thể chết vì ý nghĩ thường trực trong mỗi người là nó sống, sẽ sống. Không có ý nghĩ khác, tinh thần khác.
Còn mươi hôm nữa là tết, là mùa xuân ấm áp đến, là mùa đông giá rét lùi xa. Mùa của lòng người và đất trời giao hòa…
‘‘A lô, mày bảo ngày mai đi đảo Lý tặng quà tết cho đồng bào nghèo ở đó à’’
‘‘ừ. Có gửi quà cho cô nàng nào thì tao mang hộ cho.’’
‘‘Nghe nói cây bàng vuông ở đó người ta bó bầu để chiết nhiều nhánh làm quà tặng cho khách. Mày cố kiếm cho tao một nhánh nhé.’’
‘‘ối trời, có động mồ động mả chi không mà thằng kỹ thuật nhà mày đâm mê cây cối.’’
‘‘Kiếm cho người bạn thân. Bằng mọi giá phải có đấy. Thân bằng ngón chân cái là vừa. Sẽ hậu tạ.’’
‘‘Ok’’
Sau tết sếp có chuyến công tác nước ngoài mười ngày. Cùng với thời gian nghỉ tết, mấy ngày trước và sau chuyến đi, những bận rộn chuẩn bị, những dư âm lan man, gần hai mươi ngày sếp không ghé lại cây bàng.
Sáng ấy vừa tới cơ quan, gặp tôi sếp chợt nhớ, hỏi có dấu hiệu gì chưa, tôi bảo nó đã đâm chồi, sếp đi vội về phía góc sân trồng cây. Từ xa thấy tấm bao nilon đã gỡ. Cây bàng đã cưa đoạn khô chết, gần vết cưa bật ra ba chồi non sáng óng. Sếp lặng người sung sướng, thấy chưa, mình nói rồi mà, nó sống đấy. Các cậu thành công rồi đấy. Rồi sếp nhìn chăm chú vào vùng đất mới quanh gốc cây ngẫm ngợi rồi bảo, cuối giờ chiều nay cậu gọi mấy đứa lại quán bờ hồ, mình thưởng các cậu một chầu. Nhớ tiếp tục chăm sóc chế độ đặc biệt nhé, nó luôn cần chăm sóc đấy.
Nghe Thủy nói bà chủ nhà trọ mấy hôm nay ra vô làu bàu về cái cần ăng-ten anh sửa quay hướng khác khiến kênh phim Hàn Quốc mè như cát coi nhức mắt. Và bảo nói anh chỉnh ngay. Chắc có đứa nào mách lẻo, Khoa rủa rất tục rồi cũng leo lên mái sửa lại. Nhưng rồi hôm sau tới giờ truyền các trận World cup, anh cũng lén điều chỉnh để coi. Ban đêm chạy xe, chỉ coi được mấy trận ngày, chiều tối trả lại cho phim Hàn, anh nghĩ là công bằng nên cứ lầm lì thực hiện theo cách đó mặc cho vẻ mặt sừng lên của bà chủ nạ dòng diêm dúa.
Bất ngờ sáng đó khi đang mãn nhãn trận cầu đinh của bảng, mấy công an phường ập vào đọc giấy khám nhà. Trong lúc những người kia lục lạo, trưởng công an phường chất vấn anh bằng vẻ mặt đanh lạnh. Rằng, tối vắng nhà tới sáng lâu nay là đi đâu, gặp gỡ những ai,… Anh khai thật đi, chúng tôi biết cả rồi… Khoa đã bắt đầu hiểu tình hình và gằn giọng giận dữ, nếu các ông đã biết tôi có tội gì thì bắt ngay đi chứ bảo tôi khai gì nữa, bắt ngay đi.
Chợt người công an viên kêu lên sợ hãi, anh Tam, xem… xem cái này… Trưởng công an vội lại cầm tờ giấy khổ lớn, Khoa cũng kịp nhận ra vì sao gã công an hoảng. Đó là hai cái bằng có chữ ký Chủ tịch nước. Trưởng công an thần người một chút rồi quay lại với anh dịu hẳn giọng, chết rồi, xin lỗi anh Khoa, chúng tôi nhầm. Chúng tôi nghe người ta tố cáo anh mà chưa kịp kiểm tra đã xúc phạm anh, xin lỗi, rất xin lỗi anh.
Ngay lập tức trưởng công an bảo các cấp dưới dọn dẹp lại đống ngổn ngang lục lọi vừa rồi. Anh ta ra phía trước vừa gặp bà chủ nạ dòng diêm dúa thò thụt theo dõi cuộc khám nhà, nghiêm giọng, bà phải để gia đình anh Khoa thuê nhà giá cả nhẹ nhàng thôi nghe chưa, bà mà còn hạch sách hay nói bậy về anh Khoa thì liệu hồn đấy. Khi bọn họ đi rồi, anh nằm xoài người ra nền nhà, bật lại trận bóng đá, tự dưng nước mắt ứa ra khóe mắt…
Thủy rồi lại có bầu. Cái thai hành dữ, cô phải ngừng việc bán bánh hỏi. Một mình Khoa phải cáng đáng kinh tế gia đình nên dần thiếu hụt. Anh kiếm mối chở hàng thêm ban ngày. Người lúc nào cũng bơ phờ vì thiếu ngủ. May là tạng người anh rất khỏe nên hầu như không đau ốm gì. Gần ngày sinh Khoa chở vợ và con Trang, con Hạnh ra bến xe về Quy Nhơn để má anh nuôi giúp. Cứ mỗi tuần anh gửi tiền về.
Qua nhà xe quen vào báo tin, lần này anh có con trai. Lòng rộn niềm vui, anh định cố thêm ít ngày nữa về dự đầy tháng con.
Nhưng anh phải về sớm hơn dự định, một tuần sau khi sinh, Thủy bỏ đi, để lại tờ đơn li hôn viết sẵn có chữ ký của cô. Giờ anh mới nhận ra hôm đưa Thủy ra bến xe, lúc chia tay, mắt cô ngân ngấn nước. Hơn một năm tự bươn chải kiếm ăn nhọc nhằn ở Sài Gòn đã đánh gục cô gái con nhà khá giả. Người anh hùng của cô thuở hai mươi đầy lãng mạn giờ là anh chàng xe ôm, chỉ được mỗi việc làm công an phường nể mặt.
Lần đầu tiên Khoa nghĩ lại về sự may mắn của mình so với hơn sáu mươi đồng đội nằm lại ở biển.
Cây bàng vuông được chăm sóc kỹ, lên xanh rờ rỡ. Sếp vẫn thỉnh thoảng ra ngắm cây và vẫn nói nhiều về niềm tự hào mà cơ quan đang sở hữu. Có một lần tôi lên phòng sếp xin ý kiến về chương trình dã ngoại ‘‘Về nguồn’’ của chi đòan, sau khi trao đổi công việc xong, sếp giữ tôi ngồi lại uống nước chuyện vãn.
Hồi lâu, sau khi uống đến chén nước thứ hai, sếp mới bảo, cám ơn cậu.
Khoa ở lại Quy Nhơn chăm sóc thằng bé con. Dù buồn thương cho con, ba má anh cũng thật vui khi có cháu nội trai. Chỉ tối anh mới ngủ cùng và lo cho con, hàng ngày đã có ông bà nội.
Chạy xe ôm một thời gian, Khoa xin được một chân trong tổ giữ xe của Chợ Lớn gần nhà. Tổ trưởng là một cựu chiến binh trong khu vực, hiểu và thương anh nên mới có cái ưu ái đặc biệt đó. Công việc đang khá thì Chợ Lớn cháy. Đang loay hoay tính lại chạy xe ôm thì thấy cái thông báo khách sạn K tuyển nhân viên phục vụ bếp. Nộp hồ sơ, thử việc một buổi là anh được nhận. Vừa làm phụ bếp kiếm tiền anh vừa sắp xếp thời gian đăng ký lớp học nấu ăn của Trung tâm Dạy nghề.
Sáu tháng sau, Khoa mở quán phở bình dân tại nhà, buổi sáng bán phở buổi chiều bán lai rai ốc um, bia rượu. Anh đứng bếp kiêm chạy bàn. Lúc đông khách má anh giúp một tay. Thằng nhóc thì gửi nhà trẻ sáng chiều đưa đón, con Trang con Hạnh vào trường Mầm non cũng gần, ông nội dắt cháu đi mỗi buổi.
Đã xa rồi biển xanh ngắt loang máu. Xa rồi những năm tháng tù binh khổ nhục, những đêm thành phố vắt kiệt sức trai tráng và vỡ mộng mọi thứ vì Thủy đã không gắng thêm được nữa. Mọi thứ đang có vẻ ngăn nắp, bình yên trong một ngôi nhà.
Đã qua mấy mùa giá rét thủ đô. Cây bàng vuông giờ tỏa bóng một góc sân. Sếp cho mua hai bộ ghế đá để dưới gốc, cây bàng càng trở nên gần gũi, thân thiết với mọi người trong cơ quan. Và thật bất ngờ, một buổi sáng, có vị khách ngồi nghỉ chờ giải quyết công việc dưới gốc bàng phát hiện cây đang ra hoa. Những nụ xanh mởn. Chưa nở. Lập tức mọi người tranh thủ ra ngắm hoa mới chỉ nụ. Râm ran một niềm vui dù cũng chẳng rõ vui gì. Nhưng là niềm vui rất thật.
Sếp hẳn nhiên là người vui nhất. Hôm sau hoa nở, rồi nở nhiều, những chùm tia sáng hồng thật tinh khôi. Cũng lạ, cây và lá xanh tươi, to khỏe mà hoa lại duyên dáng, tinh tế. Sếp bảo tôi chụp hình đặc tả cây và hoa giới thiệu lên trang tin cơ quan.
Nhiều bạn bè, phóng viên các báo tới ngắm hoa, chụp hình. Sếp hưng phấn kể về cây và quả bàng vuông, nhất là quả bàng lênh đênh hơn hai năm trên biển trong đủ các cung bậc sóng xô gió vùi rồi mọc lên trên vùng đất mới. Cây là biểu tượng cho sự kiên cường nơi đầu sóng ngọn gió, cho kiên trì tồn tại…
Tôi nghĩ, không hẳn vậy. Vì nếu nói kiên trì tồn tại, khó có loài nào hơn cỏ. Muôn đời cỏ cam chịu và vĩ đại.
Chiều nay Khoa nghỉ bán ốc um. Nghỉ bán vài ngày để dọn dẹp lại nhà cửa, tuần sau anh cưới vợ. Cô giáo trường mầm non sẽ là mẹ của các con anh. Anh vốn chẳng có thời gian để gặp gỡ quen biết cô gái nào từ khi Thủy bỏ đi. Cô Tâm hỏi thăm ba anh những lần đưa đón cháu, hiểu hoàn cảnh và qua vài người bạn làm cầu nối cho mấy lần gặp gỡ buổi tối cà phê. Tình cảm đến với hai người thật tự nhiên. Họ quyết định thành vợ chồng.
Anh chở các con ra biển. Đây là lần đầu tiên từ ngày về lại Quy Nhơn anh ra đứng trước biển quê hương. Cũng là lần đầu bốn cha con đi với nhau. Hai chị lớn tha hồ chạy đùa vui bên sóng. Thằng nhóc lẫm đẫm í ới gọi. Anh bày con làm nhà cát. Bọn trẻ rất thích trò chơi này. Chúng còn chạy tìm những vật sóng đùa vào để trang trí chung quanh.
Biển vẫn muôn đời dào dạt sóng. Những con thuyền đang yên bình bồng bềnh buông neo. Vài giờ nữa thuyền sẽ ra khơi để ngày mai hy vọng chở về đầy ắp cá. Tiếng cười vui bọn trẻ trong veo bên sóng khi nhặt được một khóm rong tươi óng mới dạt vào như biển vừa sinh ra.
Bất giác Khoa mỉm cười, hít thật căng lồng ngực vạm vỡ và bật thốt, ngày mai…
Bà Bắc
.: EnterPlus.Org :.
Ở cái xóm ngã Bảy này, ít ai biết tên thật của bà và người ta thường chỉ gọi bà là "bà Bắc". Có lẽ người ta gọi tên bà như thế do bởi bà là người Bắc chính cống, với hàm răng đen, hơi vẩu và độc đáo với cái giọng chửi tục tuy thô lỗ nhưng đôi khi lại được kết vè, văn vẻ.
Khi mới tới xóm này, bà vui vẻ với mọi người, biết kính trên nhừơng dưới. Ra đừơng gặp người cao tuổi, bà chào hỏi thân tình và kết thân với nhiều người hàng xóm. Thế mà từ ngày làm ăn khấm khá, con cái đỗ đạt, bà coi thế giới này chỉ còn là một cái vuông chiếu nhỏ hẹp dưới con mắt bà. Thậm chí ngay như chồng bà cũng biến thành kẻ "chỉ đâu ngồi đó", trước lệnh của bà. Có một lần, ông chồng bà đang ngồi đánh chắn với những người khác thì bị bà tìm tới, la hét, mắng chửi rồi ôm chồm, bó gói ông mà quẳng ông ra đường. Cả xóm tới xem và khoái trí pha trò.
Chắn, một loại bài giống như tổ tôm, nhưng dễ chơi hơn nhiều. Bộ bài có 120 quân và thường phải có 5 người mới đủ bộ. Khi bài đã đủ 6 chắn thì thắng và ngườ ta gọi là "ù". Có nhiều loại ù khác nhau: Ù suông: chỉ cần 6 chắn là đù; Ù tôm: Khi ù, trên bài phải có 3 quân, tam sách, tam vạn, thất văn; Ù lèo: trên bài phải có 3 quân chi chi, cửu vạn, bát sách; Ù bạch định: Khi ù thì trên bài phải toàn là quân trắng; ù thập điều: khi ù, trên bài phải có chẵn 10 quân đỏ; ù thập điều lèo: Trên bài phải có 10 quân đỏ, trong đó phải có 3 quân cửu vạn, bát sách, chi chi.......
Ông Bắc rất hiền lành và nhút nhát trước vợ nên người ta gọi tên bà làm sao thì đặt tên cho ông theo chế độ mẫu hệ như thế. Không hiểu trứơc đây ra sao chứ bây giờ ông Bắc hiền qúa sức. Thậm chí có người bảo: "Ông ta hiền như chó thiến". Người ta rất ít khi thấy ông Bắc ra đừơng ngoài những khi bị vợ sai vật, phải đi đây đi đó. Hễ ông đang đứng trò chuyện với ai mà nghe giọng hắng của bà, hoặc thấy bóng dáng bà là ông cụp vòi đi thẳng.
Ấy vậy mà hàng xóm cứ nghe giọng bà Bắc tru tréo ông hoài. Nào là:"Dù sao thì mình cũng là bố của dược sĩ, bác sĩ mà sao ông lại cứ đi lại với nhãi ranh hoài!", nào là: "Nồi nào vung ấy! Ông phải biết danh gía mình mà lựa bạn chứ!".
"Nồi nào vung ấy" là câu mà bà Bắc thường ngỏ ra với những người muốn môi giới tình duyên cho cô con gái dược sĩ của bà. Hễ đám nào bà thấy không cân xứng thì thế nào câu cuối cùng của bà cũng: "Nồi nào vung ấy".
Bà chánh Tốn là chỗ khá quen biết với bà Bắc, thấy có cậu Tân là cháu của chồng mới học xong cán sự Phú Thọ, bà bèn nhanh nhẩu tới nhà bà Bắc ngỏ lời mai mối. Sau hồi chuyện vãn dông dài, bà chánh Tốn vào đề:
- Chẳng nói dấu gì bác, hôm nay em đến đây có mục đích là muốn ướm cô Trúc cho thằng cháu Tân.
- Ơ mà cậu Tân nào nhỉ? – Bà Bắc hỏi.
- Thưa bà! Thằng cháu Tân con nhà chú Tớm nhà tôi đấy!
- Ồ mà cậu ấy còn đang đi học mà?
- Dạ cháu nó mới vừa thi đỗ ra trường.
- Mà trường đại học nào vậy?
- Thưa bà trường cán sự Phú Thọ.
- Phú Thọ à? Cái trường mà người ta gọi nôm na là "kỹ sư thợ" có phải như thế không?
- Dạ thưa là cán sự Phú Thọ chứ ạ!
- Thì sự mới siếc gì! Học ở đó ra thì chỉ cao hơn mức thợ một tí.
Vừa nghe tới đây, bà chánh bỗng sa sầm nét mặt rầu buồn, còn bà Bắc thì nhâng nháo, vừa đưa tay quét vết trầu dính loe trên miệng, vừa nói tiếp:
- Thôi thì tôi chẳng nói dấu gì bà. Cháu Trúc đã có nhiều nơi ướm hỏi, toàn là bác sĩ, kỹ sư không à! Tôi cũng chưa biết chọn đám nào. Dù sao cũng phải "nồi nào vung ấy" cho xứng. Dược sĩ mà lại đi lấy anh thợ thì coi sao cho được.
Bà Bắc vừa nói xong, liền nhổm dậy, khiến bà chánh Tốn củng phải nhổm theo.
- Thế thì em xin phép bác bỏ qua, coi như em không đến đây để bàn chuyện này. Thôi em xin phép bác em về ạ!
Bà Bắc vừa vuốt vết trầu dính trên miệng, vừa nói:
- Thôi thì bỏ qua chuyện ấy, mình ở đây nói tiếp sang chuyện khác.
Mặc dầu bà Bắc nói thế nhưng bà chánh một mực kiếu từ ra về vì bả cảm thấy bị bà Bắc khinh rẻ qúa đáng. Vừa đi, bà vừa thầm thì :"Lại nhiều mối tối nằm không", "gìa kén, kẹn hom"..
Gia đình bà chánh Tốn trước đây rất khá gỉa, ông Tốn từng làm chánh tổng Phủ Lỗ, huyện Gia Lâm. Một huyện rất lớn và có nhiều làng nghề truyền thống. Ông chánh Tốn từng uy danh một cõi, trong khi gia đình bà Bắc thì nghèo khó và ông Bắc chỉ là một tên lính bảo an. Khi di cư vào nam thì làng của ông chánh Tốn và gia đình bà Bắc đã phải phiêu bạt và tản mác nhiều nơi. Người thì ở Tây Ninh, kẻ ở Cái Sắn, gia đình ông Chánh và bà Bắc thì ở Sài Gòn. Tuy không cùng một khu phố nhưng vì là người làng nên thỉnh thoảng họ tìm tới thăm nhau. Thuở ban đầu khi mới di cư vào nam thì ông bà Bắc hay tìm đến thăm gia đình ông chánh Tốn nhưng từ khi làm ăn khấm khá và con cái đỗ đạt thì ông bà Bắc hình như cắt đứt mọi quan hệ với dân làng. Thậm chí ông bà muốn cạo rửa tất cả những dính bám của làng cũ nơi mình. Ngay những ngày hội làng vào dịp kính lễ quan thày thánh Phê rô, bổn mạng của dân làng, được tổ chưa hằng năm vào cuối tuần lễ, cuối tháng sáu tại một xứ đạo đông dân làng cư ngụ ở Thủ Đức thì ông bà cũng kiếm cách kiếu từ.
Dân làng Hậu chọn thánh Phê Rô làm quan thày, làm bổn mạng cho dân làng vì khi theo đạo, cụ tiên chỉ của làng đề nghị rằng chúng ta sinh sống bằng nghề chài lưới nên chọn thánh Phê Rô là đúng nhất vì thánh Phê Rô xưa kia cũng là một ông thuyền chài, sống về nghề đánh cá. Khi nghe theo tiếng gọi của Chúa, ông Phê Rô đã quẳng chài, bỏ thuyền mà chạy theo. Thấy có lý, cả làng Hậu theo lời cụ tiên chỉ chọn thánh Phê Rô làm quan thày từ đấy.
Nhà bà Bắc rất sùng đạo, ít nhất là vẻ bề ngoài. Tối nào nhà bà cũng đọc kinh rất to, rất dài. Song song với tiếng kinh, lời hát, thỉnh thoảng hàng xóm, người qua đường lại nghe tiếng bà quát tháo. Khi thì quát tháo con, khi thì chồng, thậm chí có lúc cả con chó, con mèo hàng xóm lờn vởn trứơc cửa nhà bà. Bà đọc kinh như một cái máy thu âm sẵn được mở to ra.
Đạo đức vậy chứ hễ có ai lỡ đụng chạm tới bà thì cái miệng bà quác ra không thua cái gàu dai. Bà chửi ai là chửi có văn vẻ, sách vở đàng hoàng. Những lời bà chửi giống như những câu vè mà bà học thuộc lòng. Những người hàng xóm người miền nam thì chỉ biết bâu lại nghe để mà rộ cười vì nó mới lạ và khôi hài qúa. Trong khi những người gốc bắc nghe bà chửi thì chỉ biết than lên rằng: "chua qúa! Khiếp qúa!".
Mỗi khi bà chửi ai là bà lôi gốc gác, tông ti, họ hàng bao đời của nạn nhân ra mà chửi. Có một lần, một ông tài xế taxi ngang qua ngõ hẹp nhà bà, xe cộ khó tránh, ông ta chỉ than van một lời: "Cột xây chắn đường qúa!". Thế là từ bên trong nhà chạy ra, bà réo lên:
- Tiên sư bố cái lão tài mạt xác kia! bà có lấy xương, lấy cốt của bố, tổ nhà mày ra xây cột đâu mà mày lại tru tréo lên thế!
Bác tài định xúông xe phân giải phải trái nhưng thấy bà đang "nổi tam bành" ra như thế liền bấm còi inh vang một hồi cho đỡ tức, rồi phóng xe chạy thẳng.
Thật sự thì Trúc cũng đã có một vài nơi tới ngấm nghé nhưng chẳng đâu vào đâu vì hễ có ai đến là bà Bắc ra tiếp khách thay con. Nhìn ai là bà nhìn từ đâu tới chân, không khác gì mấy bà nái lợn. Hình như chẳng mấy ai lọt mắt bà. Cậu thì bà chê không đáng vì bằng cấp thấp, cậu thì bà chê không "môn đăng hộ đối"......Chính vì thế mà tuy ra trường đã hơn mười năm nay, dược sĩ Tâm Trúc vẫn cứ sáng khuya một mình, trong khi các bạn đồng môn, đồng lớp thì đa số đã tay bồng, tay bế, yên phận.
Trúc không xinh đẹp cho lắm, chính vì thế mà cô yên phận học hành. Tuy không đẹp nhưng cô rất hiền lành, bật thiệp khiến cũng có vài chàng trai để ý tới. Khốn nỗi Trúc không có trọn quyền lựa chọn người yêu cho mình mà hoàn toàn lệ thuộc vào bà mẹ. Đã có lần, Trúc nhận lời mời đi chơi cùng Toàn, một người bạn cùng lớp, nay là giáo viên tiểu học cùng phường.
Khi Toàn tới nơi bấm chuông, bà Bắc từ trong hé hẹp cánh cửa hỏi bằng một giọng rất ư là một mệnh phụ đài trang:
- Ai đó?
- Dạ thưa bác con là Toàn, bạn của Trúc ạ?
- Bạn của Trúc à? Thế mà sao tôi không biết nhỉ?
- Thưa bác chúng con từng học cùng trường, cùng lớp ạ!
- Thôi được vào đi!
Mặc dầu đã nghe tiếng nhưng lần đầu tiên nghe giọng khách sáo, kiêu kỳ và cái cung cách hết sức là thô lỗ của bà Bắc, khiến Toàn cảm thấy nhột nhạt, mất tự nhiên.
Trúc trong phòng nhìn Toàn có vẻ vụng về, khép nép, cô muốn nhảy bổ ra trấn an nhưng lại sợ mẹ không dám.
Toàn chưa kịp ngồi, bà Bắc đã mở lời hỏi:
- Thế cậu học ngành nào và ra trường lâu chưa?
- Thưa bác con học sư phạm.
- Ô nghề sư phạm thì cũng qúy, nhưng cậu dạy ở đâu?
- Dạ thưa con dạy trừơng phường ạ!
- Tốt nghiệp sư phạm mà lại dạy trừơng phường à? hay là........
Bà Bắc tính vào trong lấy nước mời khách thì Toàn trả lời ngay:
- Dạ thưa bác con tốt nghiệp sư phạm tiểu học à!
Nghe thế, bà Bắc qua phắt ra, bỏ ý định lấy nước đãi khách. Bà lại nhìn Toàn từ đầu xuống chân, rồi lại từ chân lên đầu. bà thầm thì: "cái đầu có hói nhưng là hói bệnh chứ không hói trí thức". Rồi bà nói thẳng vào mặt khách:
- Thật không may cho cậu! Con Trúc nhà tôi hôm nay lại phải đi trực bất ngờ. Sở mới gọi đến là cháu nó phải đi ngay. Thôi có gì xin cậu nhắn lại, cháu về tôi sẽ nói lại cháu.
Nghe đến đây, Trúc cảm thấy thân thể mình như mất quân bình, trọng lượng. Cô lả ra trên chiếc trường kỷ và mồ hôi trên thân thể cô chảy ra nhễ nhoại. Cô vịn vào thành trường kỷ, ôm chiếc gối đầu bằng gỗ của bố cô thút thít.
Toàn thì căm giận tới tột cùng vì cái hành động hống hách, chua ngoa và kẻ cả của bà Bắc. Toàn không nghĩ là Trúc đã thất hẹn như thế mà đoan chắc là bà Bắc đã diễn trò gỉa dối như vậy. Tuy tình yêu chưa tới tột đỉnh của yêu đương nhưng cả hai đã thư từ qua lại nhiều lần. Tuy dù chưa hẹn biển thề non nhưng cả hai đã nhiều lần nhớ nhung, thương nhớ và đã cùng nhau dạo bước bến yêu.
Tự ái, phần căm giận về thái độ giả dối, hống hách của bà Bắc. Toàn quay mặt bước đi, chỉ gửi lại lời chào qua loa, trống vắng.
Tiếng xe Honda của Toàn xa gần, thay vào đó là tiếng la thống thiết và gào thét của Trúc. Bà Bắc tuy hống hách, dữ tợn nhưng lại rất thương con. Bà thấy nước mắt, nước rãi của con đầm đìa và da mặt của con xanh mét. Bà chạy lung tung, lùng xục các ngăn kéo để tìm dầu cạo gío cho con. Trúc phất tay ngăn mẹ và cô như muốn lịm đi vì mất hồn, kiệt sức.
Bà Bắc la oái vì lo sợ, bà nhắc điện thoại gọi ông con bác sĩ về gấp. Từ bên kia đầu dây, bác sĩ Văn hỏi mẹ:
- Mà nguyên nhân ra sao, em Trúc lại bị như vậy!
- Mẹ đâu biết gì, tiếp khách vào phòng thì thấy em nó như thế!
- Để con về ngay.
Vừa về đến nhà, Văn chạy thẳng vào phòng em. Thấy anh về, Trúc chồm dậy ôm anh mà than khóc thảm thiết. Cô ú ớ khóc, kể đầu đuôi. Nghe xong, mặt mũi Văn tái xanh, nhợt nhạt rồi anh chạy thẳng ra phòng khách vừa qùy xúông, vừa lạy mẹ:
- Con van mẹ, xin mẹ để cho chúng con yên. Xin mẹ để cho chúng con sống cho ra người!
- Ơ cái anh này! Đã ăn phải bát, phải đũa của ai mà về đây nói năng như thế!
- Xin mẹ đừng can thiệp qúa nhiều vào cuộc sống của chúng con. Chúng con đã lớn, đã trưởng thành cả rồi!
- Anh này nói hay nhỉ! bây giờ bộ anh là bác sĩ rồi về đây dạy mẹ anh hay sao đây?
Bà vừa nói, vừa quác mỏ gọi chồng:
- Ơi ông Phong ơi là ông Phong! Thằng con ông nó đang đe, dạy tôi đây này! Ông cho chúng nó ăn học cho lắm vào để bây giờ nó lên mặt, chửi cha, mắng mẹ......
Thì ra tên ông Bắc là Phong. Ông Phong nghe vợ gọi, vứt vội cái cưa đang cưa, sửa đầu hồi, chạy ngay về phía vợ.
- Bà gọi gì tôi thế?
- Ông có nghe thằng con ông nó đang mắng, chửi tôi kìa?
- Con mình nào dám hỗn như thế?
- Ối giời ới đúng là cá mè một lứa. Chồng ngu mới đẻ con hư. Cha nào con ấy, rõ khổ thân tôi!
Thế là bà Bắc khóc rống lên ăn vạ. Văn và ông Phong vụt chạy đến lạy, van, săn sóc bà. Được thể, bà mắng bảo:
- Chúng mày cứ để tao chết đi! Ham gì mà sống!
- Con lạy mẹ! Xin mẹ hiểu thấu cho lòng chúng con! – Toàn van mẹ như thế.
Trúc thì gượng đứng dậy, cô định ra van, xin mẹ nhưng lại nhớ lại những hình ảnh lúc nãy, cô lại cảm thấy choáng váng, dựa lưng trường kỷ. Ông Phong thì dùng hết sức đễ nâng đỡ vợ dậy và dìu bà vào phòng trong.
Những tiếng la đã im bật, bà Bắc cảm thấy đau xót, chua chát cõi lòng. Bà cảm thấy bà đã hơi qúa đáng khi đối xử với chồng, con như vậy. Bà thoáng hối hận và suy nghĩ vu vơ. Bà bắt đầu rầu buồn khi tính ra thì Văn năm nay đã ngoài 40 và Trúc thì đã tuổi đời 3 con giáp. Vậy mà cả hai vẫn sống đời độc thân. Văn con trai thì không qúa lo nhưng Trúc thì đời con gái chỉ có thời. Thời qua đi thì hết đời. Bà cứ suy nghĩ vẩn vơ rồi bật khóc.
Bà cảm thấy hối hận khi chỉ cho con ăn học mà không cho con trưởng thành, độc lập vào đời. Thậm chí dù con cái đã khôn lớn, đỗ đạt nhưng tất cả mọi việc lớn, nhỏ trong gia đình bà đều độc quyền lo lắng. Ngay cả những đồ lót của cả hai con, bà cũng dành quyền mua sắm. Cũng có lúc bà cảm thấy đời sống con bà không giống ai nhưng cái bản tính kiêu căng, tự phụ đã khiến bà cách, ngăn với người ta, với xã hội bên ngoài như thế.
Bà lần lượt nghĩ lại những nơi đã đến cầu duyên con bà. Bây giờ bà suy lại và tỉnh táo thấy rằng có nhiều nơi rất xứng đáng nhưng chỉ vì kiêu căng, tự phụ mà đâm ra "sôi hỏng, bỏng không", giờ thì những đám đó đâu đã vào đấy, yên bề gia thất.
Bà nghĩ lại Toàn rồi bà thầm thì: "Cậu ấy được chứ! nết na, đạo hạnh". Bà biết Toàn từ ngày cậu ta còn bé, chung trường, chung lớp với con bà. Toàn học giỏi nhưng gia đình nghèo nên phải bỏ dở học hành để vào sư phạm. Nghĩ đến đây, tự nhiên bà ứa nứơc mắt thương con.
Tai bà vẫn nghe tiếng thút thít, hờn oan từ phòng Trúc phát ra. Lòng bà cay đắng đến tận cùng, bà cũng nức nở theo con. Bà định vào phòng con an ủi nhưng bà vẫn không dằn được cái cõi lòng hống hách tự đắc nên quay ra gọi chồng:
- Ông Phong ơi! Vào đây tôi bảo!
Biết vợ còn đang trong cơn hung hãn tận cùng, ông Phong bỏ dở công việc chạy ngay vào phía vợ
- Bà gọi gì tôi?
- Ông phải vào trong coi con trúc làm sao chứ?
Tiếng máy xe Honda quen thuộc nổ xa ngoài ngõ. Bà Bắc nghe giống giống như tiếng xe lúc nãy của cậu Toàn. Bà đoan chắc cậu ấy sẽ trở lại. Bà chạy tuột vô phòng con bà, vực Trúc dậy:
- Dậy đi con, cậu Toàn trở lại kia kìa!
- Trở lại để làm gì? Thôi mẹ để con yên!
- Dậy mà rửa mặt, sửa soạn đi con. Cậu ấy sắp tới kìa.
Tiếng xe mỗi lúc một gần hơn, lòng bà Bắc hớn hở vui mừng. Bà vừa chạy vào trong lấy khăn lau mặt cho con, vừa thầm nghĩ những câu ngọt ngào tiếp khách.
Trúc thì uất nghẹn và thổn thức mạnh hơn. Cô biết rõ không bào giờ Toàn trở lại, sau khi bị mẹ cô xỉ vả nặng lời như thế. Trong khi bà Bắc cứ qúat nháo lên: "Dậy đi con! Dậy đi con! Cậu ấy sắp tới kìa!".
Tiếng xe mỗi lúc một gần hơn, bà Bắc hớn hở vui mừng mở toang cửa rồi chạy vội vào trong lấy bình nước nóng để pha trà. Bà thoăn thoắt chạy qua, chạy lại, miệng bà thì cứ lẩm bẩm trong hân hoan, vui mừng: "cậu ấy đang tới kìa!"
Bà Bắc bỗng giật phắt mình trước tiếng thắng kít của chiếc xe Honda. Người lái xe chạy vội vô cửa hỏi to:
- Cô Nguyễn Thị Tâm Trúc có nhà không?
Bà Bắc nhìn ra, lòng bà trùng xuống, bà muốn té nhào vô thành cửa khi nhận ra người ấy không phải là cậu Toàn mà lại là ông lão phát thư, có lớp da khô cằn và đen thui như cột nhà cháy.
Bên trong tiếng thút thít của Trúc mỗi lúc một to, mạnh hơn, mang một nỗi sầu buồn, ảo não.
Bé Bự
.: EnterPlus.Org :.
Ông Thanh nói:
Trong đời, tôi nghĩ rằng không có gì xấu xa cho bằng lợi dụng người khác. Chém giết là tàn bạo. Hãm hại là gian ác. Trong khi đó, lợi dụng người khác, dùng kẻ khác vì lợi cho mình, tuy không phải là một điều dễ thấy, dễ lên án, lại là cực kỳ xấu xa, tồi bại. Lợi dụng là phủ nhận người khác, coi người khác không là con người, chỉ là phương tiện. Đây không phải khía cạnh đạo đức của một nơi, một thời. Đây là một vấn đề nhân sinh muôn thuở.
Tôi là người đã làm cái điều xấu xa đó. Nói ra, không nhẹ tội đi. Sớm muộn gì tôi cũng phải nói ra.
Ông Thanh năm nay đã xém 90. Ở tuổi đó, ông có vẻ còn khỏe mạnh. “Có vẻ” thôi, vì ông cho biết bị chứng nan y, sắp chết. Một năm, tối đa.
Nhà ông Thanh ở ngoại ô thành phố New York. Căn duplex nối liền với nhà bên cạnh. Trước, bà Thanh có đi làm. Ông Thanh nói: “Thừa phương tiện đi nơi khác, ở nhà riêng. Nhưng đây lâu, quen rồi. Hàng xóm bên cạnh là một cặp vợ chồng đã về hưu, hiền hòa, yên tĩnh. Khu vực này, nói chung, khá an toàn. Cây cao bóng mát. Tội gì dọn đi!”
Ông bà Thanh gốc Bắc. Ở Mỹ mấy chục năm mà vẫn còn nói tiếng Mỹ với giọng Thái bình. Tôi quen ông đã mấy năm mà vẫn mù mờ về quá khứ của ông. Hình như trước ông có ở Pháp, vừa đi học vừa đi làm chi đó. Kín đáo, ông không bao giờ nhắc lại quãng đời ở Việt nam và ở Pháp. Tính tôi lại không tò mò về đời tư người khác. Cho đến ngày ông kể tôi nghe chuyện sau đây.
Hồi ấy, tôi mới hăm hai, hăm ba. Tuổi con trai như gà trống. Đạp mái là nhu cầu cấp bách, năng nổ, thường xuyên. Từ thời ấy, xã hội Pháp, nhất là trong giới có học, đã có phần dễ dãi. Chiều chiều, lòng vòng hai đại lộ chính ở Xóm La tinh, thế nào cũng bắt được “bò lạc”. Hoặc ngay hôm ấy, hoặc với vài “bố trí”, một hai hôm sau, thế nào cũng đạt được việc. Hoặc chỉ một lần, rồi ai đi đường nấy, hoặc kéo dài ra. Tùy. Không hứa hẹn, không nợ nần, không trách nhiệm. Nghĩa là tuyệt đối không rắc rối. Chỉ cần cẩn thận đừng để lại vết tích, đừng gieo giống. Chủ yếu là sòng phẳng.
Cộng đồng người Việt vắng hoe, nhưng không thiếu một vài “dị nhân”. Một trong những “dị nhân” đó là chị Tịnh. Chừng 30, 35, độc thân, cán sự xã hội. Một người đàn bà phóng khoáng, gan góc, quyền biến. Chị thường nấu cơm, nấu phở, rồi gọi mấy thằng nhóc thân quen đến cho ăn. Bọn con trai xa nhà, háu ăn, chị ới là đến, gọi chị là Chị Cả. Hôm ấy, sau khi lùa xong mấy bát phở, chúng tôi định rút về Xóm, Chị Cả hỏi: “Có ai đi Nhà Tiếp với chị không?” và chị giải thích: “Nhà Tiếp là nơi con gái lỡ có bầu, các Xơ Dòng đem về nuôi ăn ở cho đến ngày sinh nở, rồi sau đó đem đứa sơ sinh cho làm con nuôi nơi tử tế. Còn các bà mẹ mới thì cho về trú ở Nhà Tiếp một thời gian trước khi trở về với ... đời.”
Đi với chị Tịnh hôm ấy, tôi gặp Marie-Louise, Pháp gốc Áo, một bà mẹ mới, trùng tên với hoàng hậu của Napoléon Đệ nhất. Mới sanh xong, M-L còn tái xanh. Hai mắt có quầng đen, nhưng sáng long lanh. Điều làm tôi chú ý nhất ở M-L là mái tóc cực kỳ lớn, rậm, dài, đen nhánh, và ... bề ngang của nàng. M-L mập béo quá cỡ. Tôi không ngạc nhiên nếu đứng lên cân, thiếu phụ trẻ này nặng gấp đôi tôi, nghĩa là vào khoảng 130, 140 ký!!! Cái ghế bành, to, rộng thế mà nàng ngồi vào có bề cấn cái. Áo M-L che mất hai cánh tay, nhưng không giấu được bộ ngực đồ sộ và cặp đùi căng phồng như có độn gối! Chị Tịnh thăm hỏi ân cần, đưa tay vuốt lại mấy sợi tóc lòa xòa bên má M-L, nói: “Mọi sự như vậy là suông sẻ. Nghỉ ngơi nhiều vào nhé. Rồi tôi lại vào thăm...” M-L cười buồn: “Tuần sau nhé! Ở đây, chỉ chờ người đến thăm...” Rồi quay sang tôi, nói thêm: “Và anh nữa! Tuần sau nhé! Tôi đợi đấy. Anh hứa đi... Tuần sau!” Con người hào hiệp trong tôi lồm cồm thức dậy. Tôi đành phải hứa, mặc dù không hăng hái cho lắm. Một đứa con gái bơ vơ, vừa trải qua một trận long đong như thế, cần có người an ủi, khích lệ! Tôi hứa mà trong bụng nghĩ rằng nếu M-L xinh xắn, thon gọn hơn, có lẽ lòng thương người của tôi vùng lên mạnh mẽ hơn, tươi tắn hơn...
Tuần sau đó, tôi cùng Chị Cả đi thăm M-L. Và tuần sau nữa. Và tuần sau nữa, khi quá bận , chị Tịnh đi không được. Đến ngày M-L rời Nhà Tiếp thì hai đứa đã quen nhau quá rồi, đã tutoyer thân thiết ngọt ngào rồi. Ra ngoài, M-L mướn được chung cư nhỏ và tìm được việc làm với sự giúp đỡ của các Xơ Dòng. Tôi cùng chị Tịnh đến thăm M-L ở nhà mới. Và tiếp tục đến gặp M-L ở chung cư khi thời hạn viếng thăm chính thức của chị Tịnh chấm dứt. Lý do vì hai đứa đã thành tình nhân.
Với một thân hình quá cỡ như vậy, dù có loại trừ sự to béo phục phịch ra, M-L cũng không thể được coi là “đẹp” nhưng khuôn mặt nàng có nhiều nét “dễ thương”. Đầy đặn, phúc hậu. Cánh mũi thanh. Đôi môi đầy. Nét đáng quí nhất ở thiếu phụ hăm lăm tuổi này là đôi mắt. Mi dài và cong vút, đôi mắt lớn trong veo, xanh lá cây pha nâu, màu rong rêu, long lanh một thoáng buồn bã. Ưu tư, đúng hơn. Long lanh một thoáng ưu tư. Hăm hai tuổi, tôi không lưu tâm tìm hiểu nỗi ưu tư nào đó. Tôi chỉ biết là M-L cần có tôi. Và tôi tận hưởng. Bằng cách đến thăm M-L thường xuyên ở chung cư nàng, và ăn nằm với nàng.
Thật ra, liên hệ hai đứa có điều bất thường. Tôi không bao giờ đi ra ngoài với M-L. Tiệm ăn, rạp hát, thư viện, nơi công cọng không bao giờ có mặt chúng tôi cùng nhau. Tôi tránh né, không để ai thấy tôi cặp kè với nàng. Giản dị: Tôi xấu hổ về bề ngang của M-L. Cả thân hình tôi e cũng chỉ cùng cỡ với một bắp đùi của nàng.
Tôi hoang tưởng rằng có một đồng minh ở nhà thơ lớn Charles Baudelaire. Anh trước có học văn chương Pháp, chắc là biết bài La Géante chứ gì. Ông Thanh tợp một hớp rượu mạnh, rồi cất cao giọng, đọc không vấp váp:
Du temps que la Nature en sa verve puissante
Concevait chaque jour des enfants monstrueux,
J’eusse aimé vivre auprès d’une jeune géante,
Comme aux pieds d’une reine un chat voluptueux.
vân vân...
Đặc biệt nhất là hai đoạn cuối này:
Parcourir à loisir ses magnifiques formes;
Ramper sur le versant de ses genoux énormes,
Et parfois en été, quand les soleils malsains,
Lasse, la font s’étendre à travers la campagne,
Dormir nonchalamment à l’ombre de ses seins,
Comme un hameau paisible au pied d’une montagne.
Đó, anh thấy không, tôi còn thuộc lòng bài thơ ấy. Sự thật, M-L không phải là một người đàn bà khổng lồ, như trong trí tưởng tượng của Baudelaire. Bề cao, M-L chỉ suýt soát bằng tôi thôi, nhưng bề ngang thì... M-L mập quá. Nếu nàng sống vào thời La Mã, mặc áo toga lụng thụng, có lẽ trông còn được. Chứ ở Pháp, thời trang phụ nữ thuở đó là váy chật, bó mông nhưng dài đến quá gối. Tôi dám chắc những anh con trai tuổi hai mươi vào thời ấy đều còn nhớ đến những thân hình thon gọn và bước chân gót cao lách cách trên hè phố. Đẫy đà như Sophia Loren, Simone Signoret là đã hết mức rồi. M-L mập béo đến độ bất thường. Gối chăn với M-L, tôi có cảm tưởng đắm mình trong một biển thịt, biển mỡ. Những vú, bụng, mông, đùi, trong chốn kín đáo, đem lại những ôm ấp, những vuốt ve của một thời thằng người còn nằm trong bụng mẹ. Ngoài đời, M-L là một người đàn bà quá nặng cân. Trên giường, nàng là một “Mẹ Đất”, một Mother Earth. Người con trai không làm tình với nàng. Hắn chui rúc nơi nàng. Ăn nằm với M-L, tôi không ân ái với một phụ nữ. Tôi lăn lộn, vẫy vùng trong một thế giới ăm ắp, mềm mại, ấm áp, thơm tho. Một thế giới tuyệt đối gợi tình và yên ổn. Say mê lăn lóc với M-L như thế, tôi vẫn không quên một điều: Tránh đi ra ngoài với nàng. Lòng kiêu hãnh và tự ái của thằng con trai hăm hai tuổi! Tôi nghĩ rằng M-L cũng biết vậy, và nàng nhẫn nhục chịu đựng. Chịu đựng và tiếp tục làm cho tôi thỏa mãn những đòi hỏi thầm kín, tối tăm nhất.
Tuy nhiên, M-L to béo quá, chúng tôi không thể gần gũi một cách “bình thường” được. Nằm trên nàng, vào trong nàng rồi, tôi vẫn có cảm giác chưa đến nơi nào cả. Tôi loay hoay trên thân thể M-L như một con bọ gậy quờ quạng trên bụng một con ếch to tổ chảng! Đành phải tìm một cách khác.
Một hôm, vì tiện đường, tôi đến chung cư của M-L sớm hơn giờ đã hẹn. Không có nàng ở nhà, tôi dùng chìa khóa riêng, M-L đã làm thêm cho tôi, mở cửa vào. Lần đầu tiên, tôi ở trong chung cư mà M-L không có mặt. Sự vắng vẻ, những đồ vật sở hữu, mùi hương phụ nữ quen thuộc, kích thích tôi một cách lạ thường. Tôi nhìn quanh. Giường nằm. Tủ áo. Bàn phấn: M-L là một người đàn bà rất ngăn nắp. Mấy tấm ảnh treo trên tường làm tôi ngạc nhiên. Không tấm nào có hình của M-L trong thời hiện tại cả. Một tấm, đã cũ, rửa theo lối xưa, là hình một em bé gái, chừng 5, 6 tuổi đứng nép vào lòng một bà cụ. Bà cụ, tôi không biết là ai, chứ em bé, đích thị là M-L hồi còn nhỏ. Trông đã mập mạp, phúng phính quá cỡ! Bà cụ, có lẽ là một bà cố, nội hay ngoại. Một bà cố vì đã vào khoảng bảy tám chục khi con cháu, M-L, còn nhỏ xíu. Bà cụ chít khăn đen, mặc áo dress đen dài quá gối, chân mang vớ len màu sẫm. Một bà cụ có nét Do thái Đông Âu. Tấm ảnh làm tôi cảm động, miên man tưởng tượng đời sống trong những ghettos ở Ba lan, ở Áo, ở Hung...
Tôi đang mải ngắm mấy tấm ảnh thì có tiếng lách cách ở cửa ra vào: M-L đã về. Tôi đỡ lấy mấy bao thực phẩm từ tay M-L, đem vào bếp nhỏ. Nàng hôn nhẹ tôi, thở mạnh: “ Ối, cái thang máy sáng nay không chạy. Leo bốn tầng lầu, mệt quá, nóng quá. Anh ngồi chơi, em đi tắm cái đã. Có chai rượu ngon, anh mở, uống tí chơi trước nhé!” Vừa nói, M-L vừa cởi phăng áo ngoài. Rồi chỉ mặc đồ lót, nàng ngồi xuống mép giường, dang chân, tính tuột vớ ra.
Nhìn mái tóc lớn, rậm rì, đen nhánh, một cánh rừng đen, xõa xuống bờ vai to tướng, che che hở hở bộ ngực đồ sộ; nhìn vòng eo phốp pháp và cặp hông mỡ màng vĩ đại phớt hồng, tôi xúc động, thèm muốn. Tiến lại gần M-L, tôi sẵn sàng. Nàng đưa hai tay ôm, kéo tôi lại gần hơn, sát vào ngực nàng. M-L vói tay, gỡ móc nịt vú. Hai cái bầu bung ra, đầy ắp, trắng ngần với hai núm căng phồng như hai quả trứng. Cương cứng tối đa, tôi cứ đứng vậy, để nằm ngay giữa hai bầu vú lớn. M-L đưa hai tay ép hai vú lại với nhau, tạo thành một cái vòm ôm lấy tôi sít sao, mềm và mướt. Tôi lên xuống, lên xuống như thể đó là chỗ kín của nàng. M-L cúi đầu, nhìn tôi hăm hở, miệng hé mở. Tôi tiếp tục lên xuống, dăm lần như thế nữa, là tôi xuất. Chưa bao giờ tôi cực khoái mãnh liệt như vậy. Tôi ôm chầm lấy M-L vì suýt khuỵu xuống. Có cảm giác tất cả sinh lực tôi phóng lên ngùn ngụt, như phún thạch trào ra từ lòng đất. Tinh khí phọt lên, bắn vào mồm M-L, và nàng nuốt lấy nuốt để. Mặt , môi, ngực người thiếu phụ trẻ tràn trụa sinh lực thằng con trai hăm hai tuổi...
Từ lần ấy trở đi, đó là cách duy nhất tôi yêu chuộng khi gần gũi M-L. Nàng biết rằng tôi đặc biệt thích thú như vậy, và âm thầm thu xếp tạo cơ hội cho tôi được thỏa mãn. Khổ nỗi, đó cũng là cách duy nhất tôi tìm thấy cực khoái với M-L. Tôi tiếp tục gần nàng như vậy, nhưng trong thâm tâm tôi biết rằng mình lợi dụng nàng, biến nàng thành một phương tiện. M-L chỉ là con người thật nếu tôi xuất vào trong nàng, nếu tôi cùng nàng đi ra ngoài, nơi công cọng, để mọi người thấy được hai người là đôi lứa. Tôi giấu kín nàng trong chính chung cư của nàng, và dùng nàng để thỏa mãn chính mình. Lý do khiến tôi không muốn cho ai thấy tôi có một người tình như M-L cũng là lý do khiến cho tôi, khi chăn gối với M-L trong chung cư, say mê nàng. Nói đúng hơn, không phải say mê chính nàng, mà say mê những cảm giác nàng đem lại. Tôi ý thức mơ hồ sự bất thường của liên hệ giữa M-L và tôi, và tích cách bệnh hoạn của nó, nhưng tôi bỏ qua, mặc kệ. Tôi biết rằng M-L cần có tôi, mà tôi cũng biết là tôi cần nàng. Trong chốn riêng tư kín đáo, chỉ có hai đứa thôi, tôi cần nàng đem lại cho tôi những giây phút cực kỳ nóng bỏng mà tôi chưa từng được hưởng.
Chúng tôi tiếp tục gặp gỡ như vậy trong hơn nửa năm trời. Rồi tôi cảm thấy có sự nhàm chán. Bây giờ nghĩ lại, chẳng có gì lạ: Tôi chỉ ham thích cái khoái lạc M-L đem lại mà không ham thích con người của nàng. Sự khoái lạc thể xác của chính tôi tách rời khỏi thực tại toàn diện của chính nàng. Mệt mỏi là phải. Nhàm chán là điều không tránh được.
Tội nghiệp M-L! Thấy tôi không còn năng nổ như cũ, nàng càng tìm cách thỏa mãn tôi. Rồi một hôm, tôi bắt gặp một thoáng buồn bã, một thoáng ưu tư trong mắt M-L. Như hệt lần đầu tôi gặp nàng ở Nhà Tiếp. Tôi biết là M-L biết là chúng tôi đã sắp bước đến đoạn cuối đường. Rồi tình cờ tôi gặp được một người tôi cho là “hợp” với mình hơn. Tôi ít đến thăm M-L hơn trước. Những gặp gỡ ngắn lại dần, thưa thớt dần. Thưa thớt dần, rồi ngưng hẳn. Người ta thường nói: Youth is cruel. Đúng quá. “Tuổi trẻ ác nghiệt”! Ác nghiệt khơi khơi. Vì không ý thức nỗi khổ đau mình gây ra.
Ở tuổi hai mươi, gặp gỡ và ăn nằm với những người nữ xa lạ là điều thường tình trong đám con trai mới lớn, năng nổ, phóng túng, tự do. Nhưng M-L là người đầu tiên, sự liên hệ giữa đôi bên kéo dài đến nửa năm trời. Tôi tự nhủ rằng tôi không hứa hẹn, không cam kết gì với nàng cả. Mặc dù thế, sự kiện chung đụng với M-L bấy lâu vô hình trung gắn liền sự có mặt của tôi với cuộc đời của nàng...
Ông Thanh ngưng nói, thắp lại tẩu thuốc, phì phà một hồi lâu, mặt có nét buồn bã, già thêm hẳn:
Tôi thật tàn tệ đối với M-L. Gần nàng, tôi chỉ biết đến khoái cảm của mình, xem nàng như một phương tiện. Rồi tôi đã bỏ rơi nàng một cách tàn nhẫn. Mấy chục năm qua, tôi vẫn không quên M-L. Tự hỏi, người con gái ấy, rồi cuộc đời như thế nào. Bây giơ,ø lão già, M-L lớn hơn tôi ba tuổi, nặng cân như thế, xoay trở ra làm sao... Tôi không quên M-L...
Năm ấy, ông bà Thanh có dịp qua Paris. Một hôm trời đã chiều, trên chuyến métro đông nghẹt người, ông Thanh thoáng thấy, đằng xa, cuối toa xe, một dáng người quen quen. Ông nói nhỏ vào tai bà Thanh: “Cứ ngồi đây, chờ anh chút”. Rồi ông mon men, luồn lách đến gần cuối toa xe. Bỗng ông dừng chân. Người quen quen đó, khi đến gần hơn, nhìn nghiêng nghiêng, ông nhận ra, và khựng lại. Bà già mập ú, đầu đội cái mũ len, tay chống chiếc gậy sắt, mấy lọn tóc bạc xơ xác sau cổ áo. Là phụ nữ, lại già cả và nặng nề mà bà già cứ phải đứng; không ai trong toa xe nhường chỗ ngồi cho bà. Ông Thanh nhận ra người xưa. Ông quay mặt ngay qua phía khác, nghĩ thầm: “Thôi, quá khứ ấy, chỉ nên đem chôn đi!” Rồi ông vội vã trở về chỗ ngồi cũ với bà Thanh đang chờ. Tàu vừa dừng lại ở trạm sau, ông đã lật đật nắm tay bà, kéo ra khỏi toa xe. Bà Thanh cự nự: “Sao lại xuống đây? Em tưởng mình đổi xe ở trạm cuối kia chứ?” Ông Thanh ậm ừ.
***
Không đầy năm sau khi kể chuyện này cho tôi nghe, ông Thanh qua đời. Để lại không biết bao nhiêu thương tiếc. Ai cũng nhớ đến ông là một người suốt đời ăn hiền ở lành.
Võ Đình
Còn Thương Bụi Chuối Mọc Sau Hè
.: EnterPlus.Org :.
Bờ tre, bụi chuối hai hình ảnh luôn nối liền với quê hương bản quán của người Việt Nam, hay ít ra nó cũng là hình ảnh quê hương trong ý nghĩ của anh Mười. Cứ mỗi khi có hình ảnh nào gợi nhớ đến lũy tre, bui chuối là anh Mười nghĩ ngay đến nơi chôn nhau cắt rún. Như buổi sáng hôm nay bước ra sau vườn bất chợt nhìn thấy bụi chuối lá rủ te tua vì cơn mưa đêm quạ Thế là trí nhớ òa vỡ.
Cây chuối xanh mơn mỡn, hay cây chuối te tua vì "Gió mưa bụi chuối te tàu ...", đều làm cho anh thấy thương thương, làm sao, khó mà diễn đạt được cái cảm giác lâng lâng, nó chạy rần rần dưới làn da, nó rung lên trong từng thớ thịt, nó kéo lên tận não, nó nghẹn ngào, rưng rưng. Thật là khó nói lắm. Như người uống nước, nóng hay lạnh tự "ên" người đó biết.
Nói đến chuối thì thiệt tình thì ai ai cũng biết, nhưng thử hỏi có bao nhiêu loại chuối, có mấy món ăn liên quan đến chuối thì... Úi chà chà ! thì có lẽ có người còn ngập ngừng không rõ. Ở cái xứ Mỹ này, chuối được chở từ Nam Mỹ lên chớ ở Bắc Mỹ làm gì có chuối\ "Ngộ thiệt !", anh lẩm bẩm trong miệng "Chuối không chịu được lạnh". Anh nghe nói trái chuối người ta hái và chỡ đi bán khi trái chuối còn xanh lè, xanh lét cho đến lúc tới tay mình có lẽ cũng gần tháng hoặc hơn. Cái kiểu này bên mình kêu bằng chuối gió đá, chuối dú ép ... Thôi đó là chuyện người, còn bên mình trái chuối hình như hổng có được quý trọng cho lắm. Sau bữa ăn phải có trái táo, trái nho, hay tệ lắm cũng phải là dâu tây ... tráng miệng mới gọi rằng sang, rằng quí ... còn chuối là ... thì nhà quê lắm .....
Thiệt tình mà nói cho ra thì anh nghĩ con người ta khó hiểu thiệt.
Tẩn mẩn anh ngồi tính - Đất nước mình nói về chuối thì nhiều lọai, chớ không chỉ có một loại như ở Mỹ này đây đâu nghen. Chuối ở đây kêu bằng chuối "Đổ-Lệ", (Ăn trái chuối mà nhớ tới quê hương rồi lệ đỗ hai hàng) Anh kêu như vậy cũng có lý do của nó; bởi vì ông chủ hãng chuối tên Dole, trên trái chuối có ghi rõ ràng. Nghe nói đâu rằng ổng là Thượng Nghị Sĩ của quốc hội Hoa Kỳ, và muốn ra làm Tổng Thống xứ Huê Kỳ.
Mỗi khi ăn trái chuối dù đó là trái chuối "gió đá" đổ lệ, cũng đều làm anh liên tuởng đến quê nhà. Anh thường nói với bạn bè :
"Đất mình là vương quốc chuối đó mà. Nếu kể về chuối thì... chuối già hương, chuối hột, chuối lá, chuối sứ, chuối ngự, chuối chát, chuối mốc, chuối cau, chuối Đồng Nai và nhiều nữạ "
Chuối thiệt là hữu dụng; trái chuối chín ăn đã đành, còn làm các món chuối, thôi thì lủ khủ : nào là chuối chiên, chuối nấu chè, chuối khô, chuối ép, chuối làm kẹo, chuối làm nhưn bánh tét chuối, còn gì nữa hông cà ? Còn chớ, còn cái bắp ở cuối buồng vẫn kkông bỏ đâu nghen, xắt ra ăn sống thì "hết xảy con cào cào"; có những món ăn như bún bò Huế, bún ốc, bún riêu, mì quảng mà thiếu cái món "bắp chuối" thì ăn mất ngon. Nhớ có lần ở Long Khánh vào một buổi chớm Đông, có chút mưa bay lất phất, có tí đất đỏ bám ở gót dày ....Trí nhớ anh quay về vùng quá khứ khi nào anh chẳng nhớ...Những ngày mưa gió đó được thưởng thức món bún riêu nhà nghèo ở trước cổng nhà. Người đàn bà bán bún thường chỉ cho một ít kinh giới và rau muống chẻ thôi, ăn bún nhà nghèo, nhưng hôm đó bả dặm thêm vài cộng rau thơm và đặt biệt cho thêm một đũa bắp chuối bào ... Ôi ! sao bữa đó món riêu trở nên có vị ngon đằm thắm đặt biệt. Những cọng bắp chuối bào thành từng khoanh, từng khoanh .......
"Khi bào bắp chuối cậu phải ngâm trong nước có tí hàn the để giữ cho cọng bắp chuối không trở nên xám đen xấu xí."
Người đàn bà vui miệng nói với khách hàng như vậỵ Nhìn những cọng bắp chuối bào có màu trăng trắng, nâu nâu khiêm nhường nằm trộn lẫn trong màu xanh phơn phớt của lá kinh giới, thêm cái xanh đậm đà đằm thắm của lá thơm rau quế; một tổng hợp về màu sắc đơn giản, không trau chuốt, không kiểu cọ nhưng không kém phần nghệ thuật, làm anh liên tưởng đến cô gái Bắc với chiếc áo tứ thân, với chiếc khăn mỏ quạ tay vân vê chiếc nón quai thaọ Những cô gái đảm đang mà Cụ Tú Vị Xuyên viết ra hình ảnh rằng :
'Quanh năm buôn bán ở ven sông,
Nuôi cả năm con với một chồng.'
Những khi dọc thơ của cụ Tú khen bà Tú, anh lại nghĩ đến chuyện này, cái chuyện các bà mẹ Việt Nam :
"Trời mưa lác đác ruộng dâu,
Cái nón đội đầu, cái rổ cắp taỵ
Buớc chân xuống hái dâu này,
Nuôi tằm cho lớn có ngày ươm tơ .
Thương nhau một chút ban sơ,
Lầm than đã trải nắng mưa đã từng.
Xa xôi ai có tỏ tường,
Gian nan tân khổ ta đừng quên nhau."
Từ cái bắp chuối đến tô bún riêu cua làm cho trí nhớ chạy lung tung, làm anh nhớ mẹ già còn đang ở Việt Nam, nhớ những ngày "trốn học bị đòn đau, mẹ chưa đánh roi nào đã khóc" (Thơ Giang Nam), nhớ những ngày mùa nước nổi mẹ chèo xuồng cho con đi học; nhớ những ngày mẹ tát đìa bị gai cá trê đâm nhức nhối nhưng mẹ vẫn cố nhịn chịu cơn đau để chuồi người theo con lóc bự đang vùi mình dưới vũng sình. Nhớ cây bần, cây mắm, nhớ khô sặc nước mắm me . Và nhớ cái hồi năm nẳm, nghe kể rằng cái hồi bị đói vì người Nhật thu mua lúa, người mình phải ăn tới củ chuối đó mà, lại nhớ về cái ngày bị đi tù hổng có lấy cái củ chuối để ăn.
Ngoài trái chuối bắp chuối ...thân cây chuối non ăn sống cũng không đến nỗi tệ, khi trộn nó với các loại rau khác như : Húng cây, rau quế, kinh giới, tiá tô, rau ngò, rau ngổ, đinh lăng, chuối chát, khế chua ... thì nó trở thành món không thể thiếu được khi ăn gỏi cá sống, hay là mắm và raụ
À ! Anh vỗ đùi cái bốp "Còn cái này mới ngộ nghen hông, cái bẹ cây chuối đó mà. Thân cây chuối được lớn lên nhờ những cái bẹ (tách ra khỏi cây nó hơi giống cái máng xối) và những cái bẹ này đem bọc cá lóc mà nướng truôi thêm bánh tráng nè, rau sống nè, cuốn chấm mắm me thì khỏi chệ Có người còn nói rằng cái bẹ đó có khả năng làm bay mùi tanh của cá lóc khi mình bọc nó nướng cá. Nhưng bây giờ làm gì có lóc mà trui ? Làm gì có bẹ chuối để bọc ? Coi xấu xí làm vậy chớ cây chuối cũng nhiều công dụng lắm.
Nhưng có người họ biểu rằng : " Dân mình vì nghèo nên mới ăn bậy ăn bạ chớ ngon cái nỗi gì cái món bắp chuối, gỏi cá, bún riêu .." Anh nghe thì nghe vậy chớ anh không có chấp mấy lời nói đó, anh chỉ buồn buồn thôị Anh hay nói với bạn bè "Ngưòi Mỹ họ thích " ham-bơ-gơ, hótđdót", người Ý khoái "Bi-xà, bà-ghét-ti", người Mễ Tây Cơ với "Bà-rí-tồ"..v..v..và v.v...thì người Việt thích bún riêu mắm tôm. Ai có phần nấy, nếu mình không ăn được pizza, hamburger thì người ta cũng đâu có quen cà pháo, mắm tôm. Ngưòi ta thích món "Pho" thì mình cũng xơi được "ba-bi-kiu". Hổng có gì lạ hết. Hổng có ai khen mình giỏi vì ăn được đồ người, "đồ" Tây, "đồ" Mỹ và cũng hổng có gì mắc cỡ, mắc càng khi mình ăn "mắm dzà rau" ăn cá kho quẹt, hay ngồi lại với nhau nấu món canh rau đay ăn với cà pháọ
Sách ca dao có câu :
Trời sinh ra đã làm người,
Hay ăn hay nói hay cười hay chơị
Khi ăn thì phải lựa mùi,
Khi nói thì phải lựa lời chớ saị
Cả vui xin chớ vội cười,
Nơi không lễ phép chớ chơi làm gì.
Ta không chê của người,
Ta không khen của tạ
Nhưng dù sao đi nữa,
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Anh nhớ có ngưòi nhạc sĩ (có lẽ cũng ỡ đâu miệt vườn) viết ra bài ca như vầy : "Mẹ kêu cậu tới gần ngồi mẹ nhổ tóc sâu, hai chị em tóc bạc như nhau ... rồi chợt thèm rau đắng nấu canh ... xin được làm mây mà bay khắp nơi giang hồ, tới chốn quê xưa ..." đó là "còn thương rau đắng mọc sau hè".
Cây rau đắng có gì ngon mà mẹ thèm khi mẹ trên đầu đã hai thứ tóc ? Phải chi mẹ thèm nem công chả phụng, trân châu bát bửu, hùng chưởng, yến sào thì nói làm gì. Mẹ chỉ thèm rau đắng nấu canh. Mẹ ơi ! Mẹ có biết ở quê hương mới có rau đắng để nấu canh, và cũng chỉ có quê hương mới có bông so đũa, bông súng, lá giang ....
Anh tần ngần hồi lâu nghĩ ngợi, lửng lơ chơi vơi vì ban nhạc, và thương quá là thương người mẹ, người cả đời hy sinh cho chồng, cho con. Mỗi lần nhớ nhà là anh nghĩ liền đến mẹ, người đàn bà xắn quần ống thấp ống cao, đã lo lắng cho ông già tía, và cho đám nhóc nên người . Không ai không có mẹ ? Và bà mẹ nào lại không thương con ? Những người mẹ khi :
"Đi ra đường soi gương đánh sáp,
Khi về nhà liếm láp nồi niêu".
Liếm láp vì người mẹ nhà nghèo luôn nhịn phần mình cho người thân trong nhà. Anh nghĩ như vậy, nên khi anh nghe bài ca rau đắng anh buồn muốn khóc. Anh nghĩ tới những bụi chuối sau hè, nhớ những bữa canh rau đắng. Nhìn bụi chuối anh thấy hình ảnh câm nín của người đàn bà Việt nam
Gió lay bụi chuối sau hè,
Anh theo vợ bé bỏ bè con thơ
Cây chuối không là cái gì hết trơn trong cái thế giới bủng nhủng, bèo nhèo này, nhưng cây chuối còn rung trong gió là đời sống của con người còn một chỗ để trú chưn, còn một chỗ để đi về ....
Khi con suối đã tràn về biển cả, hoà nhập vào chỗ bao la bát ngát của đại dương, với những đợt sóng thần mang bước chân trôi đi muôn phương, ngàn nẻo, chắc nó chẳng còn nhớ tới cái nguồn nơi đã sinh ra vài giọt nước làm nên con suối ?
"Đêm khuya vằng vặc trăng rằm.
Mẹ đi rón rén vào nằm bên con.
Cánh tay ngắn ngủn no tròn,
Khư khư giữ chiếc gối ôm không rời
Cựa mình nhoẻn miệng thật tươi
Mơ chi trong mộng mà cừơi vậy con ?
Ngoài kia trăng dãi đầu non
Trong mơ có thấy trăng tròn quê ta ?
(Lời Mẹ Ru - Thơ Trương Anh Thụy)
Tiếng róc rách của con suối nhỏ khi len qua từng khe đá như tiếng mẹ ru khi mình còn nhỏ, tiếng ì ầm khi vượt những thác ghềnh, qua đồi cao, xuyên trũng thấp như lời la mắng, lời dặn dò lúc mình dợm bước vào đời ... nhưng con suối lúc nào cũng, dịu dàng, đằm thắm, và thần tiên nư lời ru của mẹ. Nhưng ... ở một xã hội mà :
Đồng tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khoẻ của người già,
Là cái đà cho danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý
Ôi đồng ttiền, thiệt hết ý ......
Thì chuyện suối, chuyện chuối, chuyện nhớ, chuyện thương, chuyện ân nghĩa, cội nguồn chắc là vô duyên lắm ? Anh chợt bật tiếng cười khan khi tự thấy mình "quê một cục". Nhưng, vốn sinh ra bên dòng sông, lớn lên bên ruộng lúa, vào đời bằng tiếng à ơi của mẹ, tiếng võng kẻo kẹt buổi trưa hè và thực chất là anh dân ruộng "đầu trần, chưn đất" nên nghĩ làm sao thì nói ra làm vậy mà thôi . Nhớ tiền nhân có nói :
"Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm khéo tô mặt người"
Đúng thiệt đó chớ. Tính anh lẩm cẩm, nói trước quên sau lại hay có cái tật cà kê dê ngỗng nên tía anh cứ chửi nhưng "chết cái nết hổng thèm chừa" nên hồi nhỏ bị roi mây đét đít hoàị Bây giờ trong cuộc đời ba chìm, bảy nổi, chín cái linh đinh trong cuộc sống, anh khoái nhứt hạng là thân thiết đi lại với mấy bà con "bình dân học vụ", thích nói lối nói vè, có vần có điệu của ông cha mình thưở trước. Lương làm sở Mỹ chỉ đủ trả tiền phòng trả tiền cơm tháng, nhưng anh có thì giờ để được rỉ rả ngồi nghe họ kể chuyện đời xưa, được nghe những bài lý, nào Lý Cái Mơn, lý qua cầu, lý quạ kêu ... lý quá trời là có lý như bài "Lý Giao Duyên".
"Chạnh nhớ đến quê hương.
Canh tàn đêm thắt thẻo .
Nghĩ thương cho song đường.
Tuổi hạc, da mồi khi tiết Đông thiên.
Ấm lạnh dường bao, chưa rõ âm hao .
Phận con bất hiếu cam đành.
Biết bao giờ trở lại quê hương.
Lo báo đền dưỡng dục thâm ân."
Đó, người dân quê hiền lành như cục đất, có sao nói vậy, tấm lòng chơn chất thật thà. Bờ tre bụi chuối giờ cách xa, có nhớ nhau thôi cũng đành. "À ơi ! Chiều chiều chim vịt kêu chiều, nhớ nồi xôi nếp, nhớ siêu nước chè."
Tiếng hát trầm ấm từ chiếc máy thu thanh "Xin được làm mây mà bay khắp nơi giang hồ..." Anh quay trở vô phòng nằm ngửa trên sàn nhà nhớ ông già tía anh ổng hay dặn rằng :
Thà ăn bắp hột nấu xôi,
Còn hơn giàu có mồ côi một mình.
Anh nghe chừng như ... Một giọt mằn mặn long lanh vừa lăn tròn qua gò má nhưng chưa rơi xuống thảm .
Cụ Chắc
.: EnterPlus.Org :.
Không hiểu sao mấy hôm nay tôi thường nghĩ về bà Chắc - bà cụ sống bằng nghề cầm thế và cho vay lấy lãi quê tôi.
So với người Việt Nam thì bà thuộc loại cao lớn, xương xẩu và ăn nói thẳng thừng ai cũng nể - lỡ cầm cái gì hay vay nợ bà thì càng nể dữ nữa ! Mà trông bà có dữ dằn gì đâu, chỉ cái có tiền làm bà tăng muôn phần uy thế.
Bà có chồng Tàu. Nghe là ông Tàu này trôi dạt tới Việt Nam vào những năm bên đó người ta nhe răng cạp đất. Trong nhóm cùng đi với ông, có người vừa tới Việt Nam gặp cái ăn mừng quá, ăn lấy ăn để rồi lăn đùng ra chết. Chồng bà Chắc thì không hư ăn đến vậy, và kiếm sống ngay bằng nghề tẩm quất. Ngày cụ thân sinh bà đau nhức, ông Tàu xoa bóp thế nào mà ông cụ chịu gả con gái cho. Rồi ông Tàu xin nhận nơi này làm quê hương cho tới hết đời. Ngày cưới, ông sắm cho bà chiếc áo vải điều và chiếc xuyến vàng - gia tài trong hai năm cày sâu cuốc bẫm trên thân gầy Giao Chỉ. Ông bà có được tám người con, năm trai ba gái. Nhưng ông Tàu cho rằng năm con trai liền tù tì là không tốt, là ngũ qủy, nên ông quyết định cho thằng út về Tàu cho chú nó nuôi, ngay cả khi nó chưa đầy tháng. Còn lại bốn thằng hoá ra tứ qúy. Ông bà bắt đầu ăn nên làm ra. Ông bỏ nghề xoa bóp và tậu cửa hàng ngũ cốc. Cái ngộ là thời đó ai lấy chồng Tàu liền có biệt danh là bà Năm Tàu, bà Bốn Tàu... Riêng bà Chắc thì vẫn còn tên bà Hai Chắc.
Vào những năm Nhật đốt kho lẫm cho dân mình chết đói, gia đình đông lúc nhúc của ông bà tương đối vẫn có khoai sắn nhai cầm hơi. Có dạo nghe biển trúng độc, không ai dám ăn đồ
biển nên giá rẻ hơn bèo, ông tha hồ thỏa mãn cái máu Tàu truyền kiếp của mình và bà tòng phu, chẳng sợ chết độc mảy may. Cả gia đình ai cũng phát tướng phát phì từ đấy. Nhường cho cậu trai cả cửa hàng ngũ cốc, bà bắt đầu cầm đồ, cho vay. Gia đình lại càng phát lên. Ðến năm ông Diệm chết bất đắc kỳ tử thì ông Tàu cũng chết - chẳng dính dáng gì nhau, nhưng đó là điểm mốc nói về năm chết của ông cho những người thường quên ngày tháng. Và cũng không phải chết vì chất độc đồ biển dồn lại, mà chết vì bướu cổ. Phu tử thì tòng tử mà bà Chắc thì không, phu tử thì bà tòng Phật. Từ đó bà trở nên bạn chí thiết của Ðức Quan Thế Âm và miệng không ngớt kêu khẩn bạn hiền. Và cũng từ đó bà bắt đầu lẻm bẻm nhai trầu.
Bà tụng kinh gỏ mõ mỗi chiều. Nếu không ai tới vào lúc đó thì những bài kinh kệ của bà hẳn là liên tục và thành khẩn lắm. Khổ cái, thiên hạ thường cần tiền bất tử nên quýnh quáng chạy tới bà - và dù đang tụng niệm, bà có cần gì đâu mà phải quýnh, nên bình tĩnh vừa tụng vừa quay đầu ra phía cửa :
- Nam mô A Di Ðà Phật, đồ rách không cầm, Nam mô...
Xong bà nhìn lên bàn thờ và chỉ có Phật mới biết là bà còn thành tâm trong khi tụng tiếp hay không.
Bà ít khi ra đường, chỉ ở nhà lo tính toán tiền nong. Chữ nhứt bẻ làm hai cũng không ra, vậy mà tính nhẩm thì bà dám đố cả mấy ông thầy toán, thách cả cái bàn toán của ông lang thuốc bắc cạnh nhà. Khi bà tính toán thì Phật trên bàn thờ có gọi bà cũng không nghe. Bà chăm chú tuyệt đối và những con số như thu hết hồn vía bà. Bà tính toán có vẻ say sưa, nhất là tiền lãi, những lúc đó trông bà vui vẻ tươi tỉnh hơn cả những khi lầm rầm khấn vái tâm sự với "bạn hiền".
Ít ra đường nên mỗi lần bà ra khỏi nhà thì ai cũng biết. Chẳng rõ ngày xưa vua chúa đi kinh lý thì dân chúng sợ hãi đến cỡ nào, chớ bà Chắc đi kinh lý thì không những dân chúng không dám nhìn mà còn trốn nữa kia. Thấy bóng dáng bà từ xa, thiên hạ đã bắt đầu lĩnh đi chỗ khác, dặn con cái bà có hỏi thì nói ba má không có nhà nghe con. Dặn vậy là trẻ nhỏ tự nhiên biết phải trả lời với ai. Bà nghiễm nhiên trở thành "bà" của cả làng. Lớn lên tôi tự hỏi chả lẽ cả làng tôi đều thiếu nợ bà ? Chưa bao giờ thấy bà gây gổ hay to tiếng. Với ai bà cũng nhếch mép một chút, cái cười không ra cười, kiểu La Joconde, mà thiên hạ đủ trốn rồi thì đủ hiểu là tiền làm cho nụ cười của bà trở nên vô giá đến độ nào !
Mỗi lần chị em tôi tới dì Hai cách nhà bà một rào thưa, thường gặp cô con dâu cả bà Chắc. Cô hay đem đậu phộng khô qua nhà dì tôi, vừa chuyện gẫu vừa có người lột phụ cho nhanh. Chẳng biết đám con nít vô tội chúng tôi nợ nần gì, cứ mỗi lần gặp thì cô con dâu bà thường bịa ra chuyện lột thi. Thế là chúng tôi... trẻ người non dạ, cứ gồng người lên cố lột cho nhanh, chỉ để cuối cùng được tiếng khen "lột giỏi" và ngón cái với ngón trỏ hai bên sưng tấy lên !
Thỉnh thoảng chúng tôi cũng qua nhà bà Chắc chơi. Bà có vẻ thương con nít. Sẵn đậu phộng bày bán, bà rang vàng phát cho chúng tôi mỗi đứa một nhúm. Chúng tôi vừa ăn vừa lột đậu phộng và nghe bà kể chuyện. Chuyện Hoàng tử đi đánh giặc về, thấy cái vỏ dưa bèn tè vào đấy (không biết Hoàng Tử nghịch hay vì là Hoàng Tử thì phải tè vào cái gì chớ không chịu cho nước ra trực tiếp xuống đất ?). Nàng Út đi đường đói bụng, bắt gặp miếng dưa mừng quá, ăn. Sau đó Nàng Út có bầu... Chuyện ông quan sai lính đem dâng vua quả mít, vợ anh đang có bầu trông thấy mít thèm quá bèn lấy ăn. Ông vua phạt đem mổ bụng người vợ lính, thấy bên trong thai nhi đang cầm múi mít đưa lên môi, và qua làn da bụng mỏng manh của nó người ta thấy là cu cậu đã xới tái mấy múi rồi...
Những chuyện ly kỳ như vậy chúng tôi biết qua tài kể chuyện của bà Chắc. Bà có cái tật rất đặc biệt tổ quốc của chồng là hay khạc nhổ. Mỗi lần đang kể chuyện, bà ho và nhổ toẹt bất kỳ vào một xó nào đó. Nhưng có một lần tôi nghe bà nhơn nhơn trong miệng rồi nuốt cái ực. Từ đó mỗi lần bà đang kể chuyện, nghe bà ho, tôi thường rúm người lại.
- Có anh kia có ngải...
Cả đám con nít nhao nhao :
- Ngải là gì hở bà ?
Một đứa làm lanh :
- Ngải là nghĩa, là người có tình có nghĩa chớ là gì.
- Không phải, ngải là...
Tới đó thì bà ho. Tôi nhắm mắt nín thở chỉ sợ nghe bà nhai nuốt. Nhưng không, lần này hẳn cục đàm cứng lắm, bà đưa tay bốc gọn gàng và vất nghe đánh bốp vào tường.
Ngày con dâu sinh lần ba, bà ẵm thằng cháu nhỏ ngôi ngoài hè chờ tin. Chừng nghe bà mụ nói còn đứa thứ hai, bà đứng vụt lên, bỏ cháu dưới đất. Bà mụ lại la lên còn đứa thứ ba, bà cụ Chắc chạy tuốt ra vườn. Tới chiều sẫm khi mọi việc xong xuôi, anh con trai ra vườn tìm mẹ. Anh kêu lên :
- Trời ơi, ngồi đâu không ngồi lại vô chính giữa bụi tre. Rồi làm sao ra đây mẹ ?
- Phát rụi đám gai cho mẹ ra. Tao không biết làm sao tao vô đây được.
- Nó sinh ba mẹ à.
Cụ la toáng lên :
- Thôi thôi đừng nói nữa. Kéo tao ra cho tao xuống nhà thằng ba tao ở.
Cả tuần sau cụ mới về nhà. Gặp cụ, bà mụ cười :
- Có gì � �âu mà sợ thím. Tụi nhỏ mạnh khỏe bình thường mà. (Hạ giọng) Thím biết không, năm ngoái cháu đi dỡ đẻ cho nhà kia ở làng dưới. Mô Phật thím ơi, cũng sinh ba mà không đứa nào có đầu hết !
- Nhà nói gì ?
- Dạ, Trời Phật thương thím à. Vậy mà cháu lo chôn cất từng đứa tử tế đàng hoàng bình tĩnh lắm. Mô Phật, tới tối về nhà thì cháu mới sợ, sợ tới nỗi ói mửa mấy ngày. Cháu nghỉ cả ba tháng, mà ở nhà thì lấy gì ăn nên lại phải đi làm.
Tới đó thì bà cụ Chắc như mới hiểu ra câu chuyện, cụ ré lên, khua tay bấn loạn rồi chạy vội ra sân. Cụ gập người lại, hai tay ôm ngực. Bà mụ hoảng quá chạy theo ra đỡ hai vai cụ, tự nhủ thầm là tâm sự gửi không nhằm chỗ, chỉ tưởng nói vậy cho cụ mừng, ai ngờ. Cụ ói tới mật xanh mật vàng... Ðêm đó cụ lên cơn sốt...
Thiên hạ bàn tán rằng mấy đứa cháu mới ra đời tuổi không hạp với bà nội, rằng cầm tinh của tụi nhỏ là mèo mà cụ Chắc lại tuổi chuột. Thảo nào mà ba đứa hè nhau chụp bà cụ dính ngay. Rằng nhà này có mống mầm của quỷ, đã hai đứa trai rồi mà còn sinh một hơi ba thằng nữa. Rằng trước kia cụ còn khỏe mạnh và cho ngay thằng năm đi nhưng cái căn cơ vẫn còn đó nên bây giờ tụi nó trở lại hại cụ, nên cụ ra đi bất ngờ quá, chớ sức cụ còn dai, tinh thần còn minh mẫn lắm mà ! Nguồn tin khác thì nói càng về già cụ càng nghi ngờ hết con cái nên không cho đứa nào biết ai thiếu đủ bao nhiêu, cụ nói cái của đó cụ dưỡng già và cúng Phật. Mà Phật thì không thích hưởng cái của thất đức phi nghĩa đó nên cho cụ quy tiên để khỏi ... mang tiếng dính vào những đồng tiền không lấy gì làm Phật cả.
Thôi thì ai cũng nói nho nhỏ, dặn nhau là đừng nói ai nghe. Dặn nhau tới nỗi không cần dặn nữa vì cả làng đều biết. Xác cụ còn nằm đó mà lời đồn đại thì đi xa tới tận bên Tàu. Nghe đâu
người con trai út có gửi tiền về cúng, gửi qua tận ngã Hồng Kông hay gì gì đó.
Dân làng chúng tôi bàn tán tới cái chết của bà cụ Chắc nhiều hơn cái chết của ông Diệm và ông Tàu. Ông Diệm chết thì dân làng không có gì thay đổi cả, nhưng bà cụ Chắc chết thì không nói ra chớ có lắm anh chị bỗng dưng hết thành con nợ. Bà cụ đi thình lình, chẳng kịp trối trăn gì. Hầu như cả làng ai cũng tới phúng viếng, chắc trước ánh mắt lung linh hương khói trên bàn thờ, có khối anh chị xin cụ tha thứ bỏ qua nợ nần, và không quên cầu khẩn Ðức Phật dẫn thẳng bà cụ tới Niết Bàn để dù có nhớ đường về, cũng không còn tha thiết chuyện đòi nợ nữa. Bỗng dưng cả làng cảm động.
- Mẹ ơi, dì Hai nói lạ quá, đáng lẽ bà cụ Chắc phải chết đường chết sá hay chết nửa trên giường nửa dưới đất mới phải.
- Sao lại mới phải ?
- Vì bà cho vay cắt cổ, như vậy là ác.
Tôi vẫn còn nhớ nụ cười dịu dàng của mẹ :
- Bà kinh kệ nhiều vậy thì ác sao được ? Dù có ác mà thành tâm tụng niệm bấy lâu nay thì Phật nào mà không động lòng
Chùm lông nách
.: EnterPlus.Org :.
Hắn là một gã đàn ông mê gái.
Trong cuộc sống sự đam mê mỗi người mỗi khác. Có người mơ làm nhà văn. Có người mơ làm nhà thơ. Có người mơ làm nhà giàụ Có người mơ học hành thành công để nắm bắt tương lai v.v... Còn hắn thì mơ được yêu toàn thể đàn bà đẹp trên trái đất nàỵ Có những ước mơ người ta cố tâm thực hiện đeo đuổi để biến giấc mơ thành sự thật. Cũng có những ước mơ để cả một đời chỉ là...mơ thôi. Ước mơ của hắn thuộc loại mơ để mà mơ thôi. Hắn cũng không biết tại sao tâm tư hắn luôn tràn đầy cái cảm giác trừu tượng vô cùng kỳ cục đó. Hắn chỉ biết khi gặp gỡ được một bóng hồng nào là trong lòng hắn xốn xang, khuôn mặt đờ đẫn lại để đêm về trằn trọc thở dài đầy suy tưởng. Chứa trong hắn là một dòng máu rất khác người với một con tim có thể đựng cùng một lúc bao nhiêu bóng hồng cũng được. Bộ chỉ huy trong hệ thần kinh não tủy của hắn phân bổ rất công bình cho dòng suy tưởng kia đến từng ngăn tim vì thế cùng một lúc hắn có thể rung động và cũng cùng một lúc hắn có thể đau khổ. Tất cả những cảm giác rung động và đau khổ rất thật không giả tạo chút nàọ Có điều trong đời hắn chưa bao giờ được hưởng cái cảm giác gọi là hạnh phúc, bởi vì nỗi đam mê được phát tiết lúc nào cũng... đơn phương. Hắn yêu nhưng chưa bao giờ được ai đáp trả, tuy thế hắn vẫn cảm thấy sung sướng. Ít nhất ra hắn vẫn còn có được cái thú... đau thương.
Cứ thế hắn lây lất với niềm vui tội tình nhìn ngày tháng bình thản trôi quạ Năm nay hắn không còn trẻ nữa, đã bước vào lứa tuổi trung niên, nhưng hắn không nghĩ mình già. Hắn quan niệm con người không phải già ở tuổi tác mà già ở cảm giác. Hễ bước ra đường gặp bất kỳ người đàn bà con gái đẹp nào mà con mắt còn biết chớp lia chớp lịa thì có nghĩa chưa già. Bởi thế hắn chưa già, thậm chí sắp già , bởi vì con mắt hắn mỗi lần gặp gái là chớp lia chớp lịa. Con tim hắn sẵn sàng té ngã trước bất kỳ bóng hồng nà o. Mặc dù cam lòng sẵn sàng như thế mà vẫn chưa có dip. Thường thì hắn yêu để mà thất bại. Học hành không bao nhiêu do đó công ăn việc làm của hắn không lấy gì gọi là khả quan. Điều đó hắn không màng. Tạm bợ với cuộc sống này trong những điều kiện bắt buộc tuân thủ vừa đủ tiền đóng mấy cái bill hàng tháng theo nhu cầụ Thời giờ rảnh rỗi còn lại tâm trí hắn toàn...đi trên mâỵ Kể từ khi dành dụm mua được cái computer với giá onsale hắn bắt đầu đi trên mây thiệt. Trời ban cho hắn cái khiếu viết văn. Qua hệ thống Internet những truyện ngắn chuyên đề tình yêu của hắn được thường xuyên góp mặt đều đềụ Ở đó, ở trên khơng trung, nhiều độc giả nhất là độc giả nữ biết hắn qua bút hiệu Hàn Vũ cùng những dòng văn lãng mạn đầy ướt át. Hắn chế biến những dòng văn ấy từ trong xó bếp, qua cái computer đặt trên bàn ăn cũng vừa là bàn viết. Giang sơn của hắn thu gọn khiêm nhường trong căn phòng share cùng vợ chồng của một người bạn quen. Đêm về, sau một ngày đi làm, ăn uống tắm rửa xong hắn leo lên trời ngao du cùng chữ nghĩa. Trong tư thế một nhà văn hắn giành quyền thượng đế. Hắn mặc sức tung hoành sanh sát những nhân vật trong truyện do hắn dựng lên. Hắn khoái chí với trò chơi chữ nghĩa nàỵ Đây cũng là một cơ hội duy nhất hắn có thể trả thù những thất bại trong tình trường mà hắn đã nếm. Những mối u lòng được dịp giải quyết một cách rất là thoải máị Người ta bảo muốn viết được phải có nhiều vốn sống và phải biết xạọ Cốt truyện có được nguyên nhân thì bớt động não, cứ để dòng tư tưởng tự nhiên chảy lên trang giấy là tự nhiên nó có kết quả. Còn nếu cao tay hơn nữa, thì tự tạo ra nguyên nhân và tạo ra kết quả . Hắn có quá nhiều nguyên nhân thành thử hắn đâu cần phải tìm kết quả. Kết quả nằm trong tay hắn. Khi hắn phung phí đến người đàn bà thứ bao nhiêu hắn khơng còn nhớ thì một hôm hắn bỗng phát giác ra ngòi bút mình đã cạn. Trong lúc còn đang lúng túng vì thiếu đề tài, sắp sửa giã biệt nghề viết văn thì bất ngờ nhận được thư nàng làm quen. Lá thư làm quen nàng viết
"[i]Ông Hàn Vũ kính mến,
Tơi xin tự giới thiệu với ông, tơi là một độc giả thường xuyên theo dõi truyện của ơng mỗi kỳ trên net. Tôi nhận thấy trong mỗi cốt truyện ông đều biểu hiện lòng thù ghét đàn bà. Điều đó làm tôi đâm to mò và nẩy sinh ra ý muốn làm quen với ông. Nếu ông có hứng thú trả lời, thư sau tôi xin nói rõ về mình.
Chào ông.
Lệ Hằng"[/i]
Lá thư đầu tiên của người đàn bà đầu tiên gởi hắn. Hắn không dám tin đó là sự thật. Hắn có thể ba hoa thả trí tưởng tượng của mình múa may trong mỗi truyện, nhưng chạm vào thực tế hắn bỗng trở thành tên đàn ông khù khờ cố hữu. Con người ai cũng có một bí mật riêng cho phần tâm linh, đây là điều bí mật riêng của hắn, hắn giữ kín trong lòng. Hắn là một nhà văn bay bướm trong ngòi viết, nhưng rất cù lần trong cuộc sống. Trong cuộc sống hằng ngày hắn cù lần đến nỗi mỗi khi vào quán cà phê hạng sang vẫn còn chưa biết dùng loại đường viên cuba bỏ vào tách cách nào để được gọi là lịch sự. Khi đưa tách cà phê lên miệng thưởng thức, hắn không có được hành động chậm rãi từ tốn như một nghệ sĩ chính gốc. Tóm lại hắn chỉ có được một trái tim cấu tạo với lối kiến trúc đặc biệt. Như đã nói trái tim của hắn không biết bao nhiêu ngăn mà kể, cùng một lúc hắn có thể chứa nhiều ngườị Hắn chứa bằng sự trân trọng thật lòng không hề giả dốị Lá thư làm hắn suy nghĩ đến hai hôm rồi quyết định trả lờị Thế là hai người quen nhau. Càng ngày thư Lệ Hằng càng tạo cho hắn nhiều bâng khuâng. Những ngăn tim dần dần thu hẹp lại để chỉ còn có một. Một ngăn tim duy nhất để chứa người nữ độc giả chưa hề biết mặt. Cho đến lúc hắn cảm thấy mình dường như cô đơn, để rồi hắn biết mình đang cô đơn, hắn đâm ra nhớ nhung cùng lúc đâm ra sợ cảm giác não lòng đó. Mỗi tối, một mình trên xa lộ lái xe từ sở làm về, hắn phóng như bay, hối hả cho mau đến nhà để mở inbox đón đợi những gì nàng viết cho hắn. Những ngày không có thư hoặc thư đến trễ vì trục trặc máy móc, hắn thẫn thờ quên cả ăn cả ngủ. Hắn thường ra ngồi balcony của tầng aparment đứng nhìn mông lung xa vắng vào khoảng trời với điếu thuốc lúc nào cũng cháy đỏ trên taỵ Ở đó, tối nào những đám mây treo lơ lửng trên vòm trời cao dường như đang ngùn ngụt khói sương. Hắn không ngớt liên tưởng đến nàng. Truyện hắn viết vì thế dường như nhẹ nhàng hơn, linh hoạt hơn. Những nhân vật nữ một thời nào hắn giết thẳng tay nay lần lượt được hồi sinh và trả lại nhân dáng dịu dàng bẩm sinh của nó. Tuy nhiên có một người hắn tự thề không bao giờ cho sống lại. Hắn cũng không hiểu sao hắn thù dai con người đó quá thể như vậỵ Con người đó là một ám ảnh quá khứ. Con người đó là aỉ Chúng ta những người đang đọc câu chuyện kể lại này có thể leo vào nơi ẩn sâu kín nhất trong tâm tư hắn để tìm hiểu ngọn ngành. Từ giấc sâu kín nhất của hắn chúng ta thấy được một gã thanh niên còn rất trẻ bị lùa vào trại tập trung. Gã thanh niên hiền lành cùng chung số phận của đoàn quân thua trận hơn 20 năm về trước, một hôm bỗng thấy lòng ngu ngơ tưởng nhớ đến một ả đàn bà. Ả đó lại là cán bộ quản giáo của mình.Trong lúc tù tội khí thế căm hờn bốc lên ngùn ngụt trong lòng những thanh niên bị lừa đảo đủ mọi phía như hắn, thì lòng hắn lại phản ngược lại ý chí của mình. Hắn không dám hé răng, chỉ biết nuốt những xao động để mỗi đêm về trằn trọc vì những tưởng tượng không giống aị Đành rằng trong tù tội khốn đốn trăm bề, những muỗng cơm nhỏ giọt được cấp phát cầm hơi, thân xác càng ngày càng teo tóp lại vậy mà hắn vẫn còn sức để thấy cô ả đó hấp dẫn. Nhất là khoảng thời gian đầu khi đám cán bộ nữ được tăng cường từ miền Bắc vào chưa biết dùng xú chiêng nịt vú. Trong bộ đồng phục công an may bằng vải ka ki Nam Định kể ra loại vải này cũng dày nhưng chưa đủ độ dày đến mức phủ lấp được cái núm vú to bằng hạt bắp cứ nổi cồm cộm lồ lộ lên ngực áọ Cơn đói đôi lúc làm hắn chảy nước bọt, nhưng hắn không đoan chắc được nước bọt mà hắn tiết ra có đúng nguyên chất thuần túy của sự phản xạ thèm ăn hay trộn lẫn vào đó là nước bọt của sự thèm muốn? Nhiều đêm hắn ước ao đuợc ôm cái thân hình tròn lẳn đó vào lòng hùng hổ trút căm thù rồi kệ mẹ nó đến đâu thì đến. Dù gì hắn cũng đã đang đi trên tuyệt lộ, chút sĩ khí sót lại ai hiểu cho aỉ Bạn đồng tù dưới ách quản chế kềm kẹp trên đe dưới búa tinh thần lúc nào cũng bị áp đảo đâm ra giữ thế với nhaụ Hồn ai nấy giữ, không dám hó hé hoặc tâm sự điều gì sợ bị gàị Có chia xẻ chỉ biết dùng ánh mắt nhìn nhau để còn chối khi bị đem ra phê bình kiểm điểm. Cứ thế kéo lê thê lếch thếch tấm thân trong tư thế sẵn sàng chấp chịu bất cứ lúc nào bị còng tay dẫn đị Không khí bao trùm không còn chút tia hy vọng về một cái gì đó có thể xoa dịu bớt phần nào nghẹt thở.
Một buổi trưa ngoài bãi lao động khổ sai trong lúc đội hắn xếp hàng ngang mỗi người một cây cuốc để cuốc lật đám đất hoang thì ả quản giáo gọi hắn:
"Này anh kia vào đây"
Ả đứng dưới lùm cây có bóng mát, còn hắn thì đứng ngoài nắng trong tư thế như trời trồng:
"Anh đang làm cái gì thế?"
"Báo cáo cán bộ đang cuốc đất"
"Anh cuốc kiếc như thế hả? Tôi cảnh cáo anh nếu còn chây luời thì đừng trách tôi sẽ có biện pháp cụ thể."
Tiếp theo là bài học phủ đầu thường lệ. Trong khi ả nói, một tay giữ báng súng ak 47 thủ thế, một tay thì xỉa xói quơ lên quơ xuống. Nhưng hắn đâu thèm để ý đến tiểu tiết đó, có dịp được đứng gần cô ả cặp mắt hắn ranh mãnh dù không dám nhìn đăm đăm nhưng dại gì không lom khom địa vào ngực? Hắn kiếm cái đầu núm vú bằng hạt bắp mà ả cán bộ giấu trong ngực áọ Hơm đó trời nóng, ả trở chứng gì không biết lại mặc chiếc áo ka ki vàng ngắn taỵ Trong lúc dạy đời, cánh tay cứ vung lên vung xuống, bất thình lình ả đưa lên sửa lại vành nón cối, cái phút giây nhanh hơn sao xẹt đó, cặp mắt của hắn vô tình ném luồn vào ống tay áo ngắn của ả, đậu lại ở nách và bắt gặp ở đó một chùm lông đen thuị Bỗng nhiên hắn choáng váng mặt mày, bao nhiêu cảm giác thèm muốn từ trước đến giờ thoáng chốc tan thành mây gió. Thay vào đó là cảm giác buồn nôn, lợm mửạ Lúc này hắn thực sự thấy mình mất sức. Ước gì được nhào đầu xuống đất chết phức cho rồị Trong giờ giải lao ăn trưa, dù cố gắng cách mấy hắn vẫn không sao nuốt hết chén cơm được phát theo tiêu chuẩn.Trong trại tù mỗi hạt cơm quí bằng hạt ngọc vậy mà hắn lại thờ ơ. Chùm lông nách như những con sâu róm nằm cuộn mình vào nhau ươn ướt tạo nên vết xạm vàng mờ mờ bên ngồi chiếc áo ám ảnh dịch vị hắn buồn buồn nhờn nhợn. Hậu quả của buổi trưa tuyệt thực đột xuất khiến hắn lả người và chỉ tiêu lao động được giao phó vì thế càng tồi tệ hơn. Đương nhiên đêm đó ả cán bộ một thời hắn thầm yêu trộm muốn đâu dễ gì buông thạ Toàn đội được triệu tập để kiểm thảo hắn. Cả ngày cuốc đất bở hơi tai mong đêm về được năm ba phút nghỉ lấy sức vì chuyện hắn mà phải ngồi kiểm điểm suốt đêm. Nương tay với hắn ả cán bộ không chịu. Nặng tay với hắn, dù gì cũng đều là người cùng khổ với nhaụ Cả đội lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan mặc sức rủa thầm trong bụng không ngớt lời. Lúc đầu đám bạn tù tính giơ cao định đánh khẽ mong qua mặt ả cán bộ, nhưng ả thuộc loại không phải tay vừạ Ả vận dụng quyền lực quầng khiến cả đội muốn điên lên. Cuối cùng chính hắn đổ khùng, cầu mong sự việc được kết thúc cho nhanh.
Hắn tìm cách chọc tức để phe ta có đủ can đảm mà thẳng taỵ Hắn mong càng thẳng tay càng tốt, sớm dứt điểm đi ngủ để ngày mai cịn tiếp tục trả nợ quỉ thần. Hắn được toại nguyện. Gần cả trăm ý kiến trên tổng số năm mươi nhân mạng, tổng hợp bao kiến thức học hỏi tích lũy trên đời chĩa vào mục tiêu duy nhất. Hắn mừng rơn khi lãnh được không biết bao nhiêu là tội trạng. Con người ta phàm ở đời khi đã chịu nỗi phát đạn đầu tiên rồi thì còn ăn thua gì những viên đạn tiếp theo. Hắn chịu trận đến hồi kết thúc. Trận đấu tanh bành tơi tả còn hơn chiếc áo tù đang đùm đúm trên người. Từ đó hắn đâm ra sợ đàn bà. Càng sợ, hắn càng nghĩ, càng giận miền Bắc vô cùng đã cố công lừa lọc đánh ngã nhào nỗi cả một miền Nam vậy mà không sản xuất nỗi một cái xú chiêng để hắn lâm vào rắc rối. Sau trận đòn tình hắn đâm ra hận đàn bà thấu xương. Trong trại tù làm gì có đàn bà cho hắn hận, vì thế người nữ cán bộ quản giáo được hắn đặt lên hàng ưu tiên một. Hắn âm thầm điều tra lý lịch con mẹ gớm ghiếc kia. Sự cất công của hắn cuối cùng cũng có kết quả. Lý lịch của ả được ghi nhận như sau: Nguyễn Thị Được 22 tuổi cha tập kết năm 1954, mẹ thoát ly năm 1960. Nguyễn Thị Được xuất thân từ một gia đình cách mạng thuộc giai cấp bần cố nông. Tiêu chuẩn lý lịch quá tối ưu do đó được tuyển dụng vào ngành công an nhân dân. Hắn cũng chẳng biết điều tra lý lịch của ả để làm gì? Có cơ hội nào trả thù cái con người gây cho hắn nhiều cảm giác kia lại mắc tội là không cạo lông nách. Cái tội kéo theo nhiều đêm thức trắng của bạn đồng tù để kiểm điểm hắn chây lười lao động. Bảng thành tích thi đua của hắn bị ghi vào sổ đen, nhưng điều đó đâu cần thiết. Sổ đen sổ đỏ gì đến giờ đến ngày được xổ trại thì cũng về thôị Nếu nhốt tù để chờ ngày xử tử thì hơi sức nhốt làm gì cho mệt xác, mà nếu bắn bỏ được họ sợ gì không bắn bỏ. Hắn cam tâm ở tù trong tư thế lửng lơ con cá vàng mặc thời gian muốn đưa đi đâu thì đưạ Cuối cùng sự ở tù lì lợm cũng có kết quả. Hắn được thả về trong số những người tù cuối cùng trong đợt xả trạị Cái địa ngục trần gian tưởng chừng không cách gì thoát ra được thế mà hắn vẫn thoát. Đã vậy hắn còn được xuất cảnh qua Mỹ cao bay xa chạy cái nơi quá ư rùng rợn kia, chôn sâu quá khứ không mấy làm gì đẹp đẽ. Hắn dần dà lấy lại quân bình trong tư thế để trở thành nhà văn. Y như thần thoạị Cách đây hơn hai mươi năm có cho hắn nguyên một thùng kẹo đi chăng nữa hắn cũng không dám nghĩ mình có được ngày hôm naỵ Đã vậy ngày hôm nay bỗng dưng lại có thêm một người đẹp từ trên trời rơi xuống nằm trong túi áo hắn. Lá thư nàng gửi vừa in ra còn nóng hổi nằm im. Không cần móc ra xem lại hắn vẫn thuộc làu làu
[i][/i][i]"Trưa ngàỵ... anh nhớ chờ em tại quán cà phê HIDO nhé. Anh có biết quán cà phê đó không? Nó nằm trên đường Lapalcọ Cách đây năm năm nhân một chuyến làm ăn ghé lại New Orleans, em có ngồi ở đó. Lão chủ quán người Ixrael rất hiếu khách. Khung cảnh trong quán thơ mộng và tĩnh lặng, em ghé một lần mà nhớ hoàị Vì lý do riêng anh khỏi phải ra phi trường đón em. Anh cũng chẳng cần biết em đi chuyến bay nàọ Anh chỉ biết ngày đó tháng đó chúng ta có một cuộc hội ngộ lần đầu tiên sau hai năm quen nhaụ Khoảng 3 giờ chiều em đến, anh nhớ đợi em đừng bỏ về. Sớm hay muộn em vẫn đến. Rất có nhiều cái bất ngờ cho anh cho hai chúng tạ"[/i]
Khung cảnh quán cà phê: Hắn + một cái bàn vuông.
Trên mặt bàn một phin cà phê đã vắt cạn nước vào chiếc ly thủy tinh đựng phía dướị Một cái muỗng nhỏ hắn cầm tay gõ vào thành lỵ. Một gói thuốc, một cái hộp quẹt ga và một điếu thuốc đang cháy dở hắn kẹp trên tay còn lạị Tàn thuốc thò dài ngoẹo đầu qua một bên gục xuống sắp gẫy ngọn. Hắn lơ đãng suy tư. Cả hắn và điếu thuốc như đang ngủ gục. Hắn nhìn lên chiếc đồng hồ treo trên tường, đã đến giờ hẹn. Hắn chắc lưỡi, đàn bà trên đời này trăm người như một lúc nào cũng trễ. Họ xem chuyện trễ hẹn là chuyện đương nhiên như bài bản sách vở đã dạy như thế. "Em không nói em mặc áo màu gì để thử xem anh có thể nhận ra em trong cái quán cà phê nỗi tiếng đó hay không nhé? " Bất giác hắn mỉm cườị Một cái quán vắng vẻ như vầy có được bao nhiêu trự người Việt Nam lai vãng? Đúng là đàn bà. Dù nàng khơng ăn mặc gì hết hắn vẫn nhận ra như thường, bởi vì ngoài nàng còn ai là khách Việt Nam? Chỉ cần một người đàn bà VN bước vào quán lúc này bảo đảm 100% người đó là nàng. Hai con mắt hắn ngóng ra cửa còn cái đầu thì suy nghĩ lơ ngơ. Nếu kết thúc chuyện tình của hắn là một happy ending thì hãng AOL phải trả tiền mua tác quyền để dựng lên thiên tình sử qua hệ thống Net vào mục đích quảng cáo khắp toàn cầu: Mối tình trên không trung chỉ có ở thế kỷ 21. Bất giác hắn cảm thấy mình lúng túng. Hắn tự hỏi lát nữa đây mình sẽ hành xử ra saỏ Từ nhỏ đến lớn, hắn là chuyên viên chạy đuổi theo ảo ảnh chưa bao giờ được ảo ảnh đuổi ngược lạị Lần này thì bị. Bất chợt hắn nhớ đến thằng bạn xa lơ xa lắc khi còn ở tù chung. Thằng bạn ruột thuở nào thời cuộc đun đẩy sống chung với nhaụ Một ngày chủ nhật được nghỉ lao động, mấy thằng con trơi sông lạc chợ còn độc thân nhớ nhà ngồi xúm lại tán gẫụ Xoay đi quẩn lại chỉ hai mục chính: thèm ăn và đàn bà. Thằng bạn truyền cho hắn một bí quyết để chinh phục đàn bà. Đàn bà được hiện hữu trên đời này với đầy đủ hỷ nộ ái ố ai lạc dục. Đàn bà rất thèm đàn ông, do đó phải nắm vững thế chủ động tấn công trước thì yếu tố thành công sẽ đạt đến tỉ lệ phần trăm rất cao. Tuy nhiên phải biết thiên thời địa lợi là mấu then chốt trong vấn đề. Khi người đàn bà bằng lòng chịu gặp người đàn ông ở một nơi vắng vẻ thì nhiệm vụ của đàn ông là phải biết sàm sở nhưng phải đầy sáng tạo. Có nghĩa là phải biết bốc hốt ngay tức khắc nếu gặp tín hiệu phát đi từ hai con mắt đối phương biểu lộ đồng tình. Nhưng phải nhớ một điều rất cấm kỵ đó là đàn bà rất thích được bốc hốt khi chỉ có hai người và rất ghét khi có ba người. Vì thế khi có sự hiện diện của nhân vật thứ ba thì phải biết ẩn nhịn chờ thời, đừng vội vã hấp tấp. Để bảo vệ sĩ diện, đàn bà dám làm bất cứ chuyện gì, ngay cả chuyện phang nguyên chiếc giày vào đầu. Quán cà phê trưa nay vắng khách yếu tố địa lợi đã có chỉ chờ con mồi lọt bẫỵ Hắn tự hỏi giữa hắn và nàng ai là con mồi của aỉ Trong cuộc tình tay đôi nàng đang nắm thế chủ động. Nàng là chủ của nhiều cơ sở thương mại có nhiều đại lý trên khắp nước Mỹ, mức thu nhập đủ sức bảo trợ những buổi đại nhạc hội có tính cách từ thiện, nàng cũng đã từng có thành tích trong các cuộc lạc quyên. Còn hắn bất quá chẳng qua chỉ là một tên cù bơ cù bất được trời trang bị cho cái khiếu văn chương nghèo xơ rơ xác rác " Em đến xứ sở này theo diện xuất cảnh bán chính thức vào năm 1979. Những năm đầu thật là khó khăn em phải lăn chai làm đủ mọi thứ nghề. Từ xắt rau cho nhà hàng Tàu đến thợ may sau cùng là business. May là khi đi em có mang theo một ít tài sản do cha mẹ để lại đủ để gầy vốn và gần 20 năm nay từ số vốn tích lũy em đã tạo cho mình một cuộc sống tương đối thành công. Em lo làm ăn đến nỗi quên cả chuyện lấy chồng. Khi nhìn lại thì tuổi xuân sắc đã muốn trôi quạ May là em được quen biết anh, âu cũng là một cơ duyên tiền định. Nhan sắc em không đến nỗi tệ anh có thể yên tâm" Hắn mơ màng nghĩ đến những ngày trong tương lai, biết đâu được một quá khứ hãi hùng, một hiện tại không lấy gì làm hứa hẹn cho loại người lỡ thầy lỡ thợ như hắn có cơ may thay đổỉ Đây có phải lần đổi đời cuối cùng kể từ sau 1975? Lòng hắn đang tràn đầy hy vọng. Ngồi lâu cũng mỏi, nhất là ngồi đợi chờ. Hắn vươn vai định làm một cử chỉ dư thừa như là mồi thêm một điếu thuốc chẳng hạn, thì lúc đó cửa quán mở rạ Mùi nước hoa theo gió bên ngoài lùa vào khứu giác của hắn. Mùi chanel No5 mà những người đàn bà á đông thường dùng. Hắn có một biệt tài, dù bịt kín hai mắt lại chỉ cần ngửi mùi nước hoa thôi hắn có thể phân biệt đối tượng là đàn ông hay đàn bà. Nếu là đàn bà hắn cũng có thể phân biệt gần như chính xác loại đàn bà thuộc sắc dân nàọ Mùi thơm ngát đầy ngây ngất đó hắn không cần nhìn lên cũng biết người vừa bước vào quán là đàn bà lại là đàn bà á đông. Y chang như dự đoán, người đàn bà nhan sắc không lấy gì làm hấp dẫn với khổ người tròn trịa được gói trong bộ serie mắc tiền đứng ngay cửa đưa mắt quét chung quanh. Hắn không cần đứng dậy vội vì nếu đúng là nàng thì nàng phải biết người đàn ông Việt Nam duy nhất đang ngồi đây chính là hắn. Đúng như vậy, sau khi đảo mắt một vòng, người đàn bà tiến lại:
"Xin lỗi"
Hắn nhoẻn miệng cười:
"Có phải Lệ Hằng đó không?"
"Dạ em đâỵ Còn anh ? Hàn Vũ?"
Hắn gật đầụ
"Anh chờ em lâu chưa?"
Giọng nói Bắc Kỳ thuộc vùng ngoại ô quê mùa cứng và khó nghe, nhưng không sao. Mùi nước hoa sực nức đủ sức đánh át cái khuyết điểm không lấy gì làm quan trọng đó. Hắn trả lời nhẹ nhàng:
"Cũng vừa mới đây thôi”
Hắn đứng dậy làm một nghĩa cử lịch sự kéo ghế cho người không được đẹp lắm ngồi. Sau vài câu mào đầu xã giao lấy bình tĩnh để giành thế chủ động, người đàn bà có tên Lệ Hằng đi vào câu chuyện rất bài bản và trực khởi:
"Em tính mở một đại lý tại đâỵ Người em chọn đại diện cho em là anh. Chuyến này em kết hợp một công hai ba chuyện. Tình yêu em khơng có nhưng tiền em rất nhiềụ Đàn ông chung quanh em vô số. Thường thì không ai dám làm em mất lòng một điều gì. Em biết họ không thương yêu gì em. Họ đến với em chẳng qua vì tiền. Hiện em đang ở một cái nhà rộng 4000 square feets, ở một mình. Cũng có mấy cô bạn gái cứ mỗi cuối tuần dắt bạn trai về em chán quá đuổi đi hết rồị Em cần một người đàn ông hiểu được em, nhưng em tìm hoài không thấỵ Cứ thế em sống trên đống tiền do công việc làm ăn đưa đến, cơ đơn lắm. Hồi em bỏ nước ra đi, cứ nghĩ qua đây thành công rồi thì kiếm chồng không có gì là khó. Vậy mà khó đó anh, khi không có tiền ao ước làm sao có tiền, khi có tiền rồi nhìn ai đến với em sao thấy họ không thật lòng. Nhớ những ngày còn ở trong nước đồng tiền kiếm được cũng do từ sự khôn lanh mà ra"
Hắn hỏi:
"Ở trong nước em làm sao để có tiền?"
"Anh còn nhớ lúc nhà nước cho xuất cảnh theo diện bán chính thức không? Qui định mỗi đầu người là mười câỵ Em đặc trách khâu thụ Em ra giá 11 câỵ Sau vài chuyến em có đủ số vàng cần thiết để thực hiện chuyến đị"
"Với số vàng kiếm được nhiều như vậy sao em không ở lại để hưởng?"
"Ở sao được anh. Trước sau gì mà không bị lộ, em phải lo thủ thân trước. Ra nước ngồi có ai biết ai là ai đâụ"
Trong lúc nàng nói, hắn đăm đăm nhìn. Khuôn mặt vô cùng quen thuộc, hình như như gặp ở đâu đío Hắn nhíu mày cố vận dụng tất cả những khả năng còn sót lại của não bộ.
"Anh đang làm gì thế?"
Anh đang làm gì thế? Cái câu hỏi này với cái giọng Bắc trọ trẹ nặng trịch này làm hắn giật mình. Cái câu hỏi một buổi trưa nào đứng như trời trồng ngoài nắng làm sao quên được. Cũng câu hỏi này dẫn đến hậu quả của nhiều đêm thức trắng để học tập kiểm điểm vì một chuyện tình không đoạn kết. Hắn chăm chú nhìn nàng, lần này trí nhớ của hắn đã được khẳng định. Nàng đúng là nàng. Đúng là oan giạ Hắn hỏi:
"Ngồi tên Lệ Hằng ra, em còn có tên nào khác?"
Nàng ngạc nhiên:
"Sao anh lại hỏi vậỷ"
"Chỉ buột miệng thôi"
"Em có tên khác thiệt đó anh. Cái tên hồi còn ở trong nước xấu hoắc hà"
"Tên gì có thể nói cho anh nghe được không?"
"Tên Được đó anh. Tên Được mà không được gì hết, đến nỗi bây giờ vẫn còn phòng không chiếc bóng."
Người hắn nổi gaị Hắn nhớ lại hoàn cảnh tù tội của mình. Tưởng rằng đã thoát mà vẫn không thoát được. Tưởng đã thay đổi mà vẫn chưa thay đổị Cuộc sống xoay vòng tròn như một chu kỳ. Cả cuộc đời hắn cứ đâm đầu say mê vào toàn phản ngược. Chẳng lẽ thất tình thêm một lần nữả Nhưng thất tình có gì ghê gớm đâu mà phải ngán? Còn hơn là phải chung chạ với một ám ảnh không rờị Đời sống con người qua ba thời kỳ: thời kỳ quá khứ, thời kỳ hiện tại, thời kỳ tương laị Thời kỳ quá khứ hắn đã từng sợ con người trước mặt, nếu nhắm mắt chấp nhận hiện tại thì tương lai có khác gì quá khứ? Hắn rùng mình. Trong lúc nàng làm một cử chỉ mở bóp ra để lấy cái gương và cái lược. Cánh tay trần mà bàn tay cầm chiếc lược nàng vói lên chải mái tóc, hắn lom khom theo phản xạ, ánh mắt mon men trượt lên cánh tay múp míp len vào nách. Hắn nhìn xây xẩm chưa kịp hồn hồn thì nghe nàng nũng nịu:
"Anh này kỳ, nhìn người ta đăm đăm thấy mà bắt sợ."
Bỗng nhiên hắn chợt thấy buồn nôn như buổi trưa nào còn trong trại cải tạo, mặc dù nơi này hiện giờ là nước Mỹ ….
Quan Dương
Dã Nhân
.: EnterPlus.Org :.
Sau món yến, mặt bàn cẩm thạch được dọn sạch. Chỉ còn cây giá nến bằng vàng mang thân hình hai thiếu nữ trần truồng đang xoắn vặn như bện thừng. Hai bộ ngực căng đầy ngửa ra sau trong cuồng hoan. Trên môi hai thiếu nữ ngậm hai ngọn nến. Thân nến màu hồng phớt vàng bềnh bệch da người.
Ngọn nến nhẩn nha cháy, phả làn hương khen khét, ngầy ngậy, mời gọi như chăn gối. Thoảng mùi hoang đàng của những bữa tiệc cổ La Mã. Cái thời những vương tôn công tử nằm ngả ngớn trong đại tiệc, để những đường cong của thân thể hoan ca bên trân cam mỹ tửu. Người dự tiệc choàng hờ hững ngang thân một tấm vải mềm và xốp nhiều nếp. Những cái đầu tóc giả uốn sóng rắc phấn rung rinh bên má các quý phu nhân cùng gái làng chơi cao cấp. Đàn bà mắt đắm đuối không ra gật đầu không ra chối bỏ, thỉnh thoảng lại diệu vợi vươn cánh tay trần nuột nà tới giữa bàn tiệc, khẽ nhón lấy một chùm nho hoặc một chùm anh đào chín mọng, nhấn nhá dập hờ ướt khóe môi hé mở. Kẻ đối diện bị thôi miên, chỉ còn biết giương đôi mắt ngây dại theo nhất cử nhất động ra chiều ban ân huệ của người đẹp.
Hôm nay, những người quanh bàn tiệc này cũng nằm. Lân là một trong những kẻ ăn nằm đó. Có một dự án. Bên A và bên B khao nhau một bữa "nhất dạ đế vương". Một bữa tiệc pha tạp phong cách. Bàn ăn kiểu La Mã. Bàn ăn kiểu Pháp lai Đức lai Nga. Ăn thì đặc sệt những món ngự yến kiểu Tàu. Khung cảnh lộng lẫy mà lờ lợ, mang sắc nhờn nhợt đục. Tiền chảy tràn từ túi khổ chủ. Khổ chủ này có hai con đi du học ở Anh Quốc, có hai ô tô đời mới, hai con chó ngao bụng thon chân cao như ngựa vằn, hai ngôi biệt thự mỗi ngôi cỡ vài ngàn cây vàng, một vợ một nhân tình. Cái gì cũng hai. Dự án cũng vậy, luôn luôn là hai chiếc song song. Lân là bạn của khổ chủ, vừa là người thẩm định, vừa là con thoi đi lại giữa A và B. Cái gì cũng có một. Nhưng cũng có một vợ một nhân tình, đúng mốt.
Bức tường màu đỏ đối diện phía trước mặt các thực khách bỗng rùng mình, rồi dời sang một bên như có phép lạ. Bất thần phô bày một hang động bê-tông sơn phết giả đá, giả thạch nhũ được chiếu sáng bằng những chùm đèn màu. Lại một chiếc bàn cẩm thạch đỏ. Nhiều giá nến. Một chiếc lồng lớn phủ lụa vàng rủ tua trước mặt một cô gái mặc cẩm y, đội vương miện, giát trang kim lấp lánh.
Chủ nhà hàng phục sức như quan võ trong những bộ phim truyền hình về thời Tần Thủy Hoàng, lịch kịch cung kiếm bước ra cúi chào:
- Tiếp theo đây, xin mời các bậc đế vương thưởng thức món trân cam của Từ Hi Thái hậu. Món này không những bồi bổ sự sáng láng cho quý vị, mà còn khiến cho thân thể thêm tráng kiện, xuân tình lai táng. Vĩnh cửu xuân. Mời!
Cô gái mặc áo trang kim đang ngồi xếp bằng trên bàn bỗng thét lên một tiếng sắc tạnh, rút soạt kiếm đứng phắt dậy, xiêm y rụng lả tả, trong nháy mắt trên người cho còn một mảnh vải bé bỏng nửa bàn tay. Trong chớp mắt, tấm lụa vàng che lồng đã bị mũi kiếm hất tung tên trời, đứt làm hai mảnh. Thực khách ồ lên. Trên bàn là chiếc lồng sắt có sáu ngăn. Mỗi ngăn nhốt một con khỉ lông vàng.
Những con khỉ xinh xắn cụt đuôi mặt đỏ, ngón tay thon dài, móng tay màu đen. Đôi mắt to và sâu nằm sát dưới hốc xương cung mày nhìn nài nỉ và van lơn. Đám khỉ run rẩy quan sát đám thực khách. Những ngọn nến nhảy múa không thương xót trong mắt chúng.
Cô gái vẫy tay. Hai gã bồi bàn cầm hai con dao sáng lạnh chạy ra. Con khỉ đầu tiên được bắt ra, trói gô lại, đặt ngồi trên bàn, trước mặt ông "cái gì cũng hai'' - khổ chủ bữa tiệc.
- Ngài có vừa lòng món này không ạ? Chỉ cần một cái phẩy tay của ngài, chúng tôi sẽ đổi ngay con khác?
Khổ chủ ngắm con khỉ đang ròng ròng nước mắt, xoay ba bốn lần, soi đủ mọi phía, rồi gật gù:
- Được. Không kém cạnh bữa trước. Nhưng nhớ phải làm gọn gàng, đẹp. Trong khi các thượng đế đang thưởng thức, chớ quên màn múa bụng. Thế mới ra mẻ bữa tiệc của Từ Hi Thái hậu các thượng đế của tôi ở đây mới hài lòng.
Khổ chủ vừa dứt tời, cô gái lập tức vươn tay bấm vào một chiếc nút bí mật được cài sẵn đâu đó bên mép trái bàn. Mặt bàn mở ra. Sáu chiếc cột sắt nhỏ vừa đủ để ghim đứng thân mình sáu con khỉ bỗng nhô vụt lên. Hai gã bồi bàn lẹ làng tóm từng con khỉ nhấc lên, kẹp chặt cổ và vai chúng vào cột bằng những chiếc nẹp sắt. Sáu con khỉ không thể cựa quậy, tiếng kêu tắc nghẹn trong họng, đảo tròng mắt khiếp đảm nhìn thanh kiếm sáng loáng trong tay cô gái:
- Đêm nay, quý vị là đế vương, đang ở trong nội điện của Từ Hi Thái hậu...
Lưỡi kiếm vung lên. Chỉ còn kịp nhìn thấy một ánh chớp. Hột mảng đầu của con khỉ bị phạt ngang. Máu bắn trên mặt bàn. Khổ chủ khoái trá mời các "thượng đế" của mình thưởng thức món óc khỉ của Từ Hi Thái hậu trong màn múa bụng.
* * *
Mệnh nữ treo đằng ngọn
Mệnh trai treo đằng gốc
Mệnh nữ nặng bởi tóc...
Vừa mới trĩu trên ngực này. Hương nồng nàn trong suối tóc còn nén chặt mi mắt này. Trái tim trong lồng ngực còn nhảy như Niên Đại. Thế mà tỉnh giấc, đã chẳng thấy đâu. Quờ sang, giường trống một khoảng lạnh người.
Không phải vợ. Chẳng phải người tình. Nàng thường đến vào canh gà gáy. Như một vòi rồng mang vô vàn hạt bụi nâu ánh đỏ. Không một điềm báo trước, nàng đến bên giường của anh.
Nở nụ cưới biết lỗi khờ dại. Dịu lại thành một dải lụa màu đồng. Rồi, cũng mềm như lụa, nàng tuồn vào trong chăn, úp mặt gối đầu lên ngực anh. Lân gấp gáp thức giấc. Gấp gáp kiếm tìm đôi môi nàng. Bàn tay gấp gáp dạo trên thân thể nàng. Nhưng đôi môi không thấy. Thân thể không thấy. Bàn tay nóng rực tuột vào chăn đệm. Chỉ thấy đôi môi hình lá và những đường cong lơ lửng trên cao.
"Ta bay lượn". Nàng nói. "Còn anh thì đi bộ". Nàng nói. "Ta giữ mãi cho anh một khúc dạo đầu". Nàng nói. "Kìa bình minh đến. Và em phải đi". Nàng nói. Rồi, thoảng hôn lên môi anh. Rồi, dạo lướt trên thân thể anh, dải lụa màu đồng biến thành chiếc vòi rồng dữ dội cuốn xoáy những hạt mưa màu nâu ánh đỏ vụt ra ngoài cửa sổ theo tia sáng đầu tiên của rạng đông, nàng đi.
Để lại anh, trên giường, tê cứng trong một niềm hoan lạc đau đớn.
Mệnh nữ nặng bởi tóc
Nặng bởi vú hai bầu
Mệnh nam nặng vì đâu, ông bà hỡi?
Văng vẳng tiếng Mo Khuôn. Tại sao lần nào cũng vậy, nàng đến rồi đi trong tiếng Mo Khuôn. Về một mường Trời ngùn ngụt khao khát với những chiếc vòi rồng màu nâu ánh đỏ không thể giam cầm.
Lân vật mình trên gối. Cắn chặt hai hàm răng. Vỏ gối lông vũ bị anh xé nát. Những chiếc lông chim hút nước bọt khô khốc trong miệng. Thoảng vị lờ lợ tanh của bữa tiệc Từ Hi. Ta là ai vậy? Một vợ một người tình một dải lụa màu đồng đỏ? Mùi máu khỉ tanh lợm và hương tóc trĩu nặng trên mi mắt?
* * *
Tay Lân quờ phải một vật gì vừa mềm, vừa ấm. Rồi một bàn tay bé xíu với những ngón thon nhỏ, móng nhọn.
Lân mở choàng mắt. Những móng tay nhỏ xíu, không thể thon hơn thế, màu đen.
Lân mở bàn tay. Cũng đầy những nếp gấp, đường mạch máu, những ngôi sao. Đủ cả đường sinh mạng, đường duyên tình và trí đạo. Đường sinh mạng nối liền cực Nam và cực Bắc của bàn tay. Gốc phía Nam mờ. Hẳn rằng nhiều phen lận đận. Trí đạo nối cực Đông và Tây của bàn tay, sống động và rõ nét. Hẳn cũng có túc mẫn tiệp và điên rồ. Chạy ngang ngạnh từ gốc phía Đông, bất thần rẽ ngoặt lên phía Bắc, chi chít những đường ngang lối tắt, ắt hẳn đây là bàn tay của một kẻ đào hoa có nhiều tiếng sét tình ái.
Lân ngắm kỹ bàn tay, bất chợt cười thành tiếng, lật nghiêng sang bên trái.
Con dã nhân giật mình rụt tay lại. Đường sinh mạng, trí đạo đường duyên tình cũng biến sau mu bàn tay lẹ làng. Đôi mắt to tròn, nâu thắm thiết, từng trải mở rộng dưới vòng cung xương mày. Con khỉ vàng này từa tựa một người đàn bà lam lũ, âu yếm và từng trải. Lân nghĩ.
Đó là con khỉ thứ sáu trong bữa tiệc Nhất dạ đế vương, bữa tiệc của Từ Hi, đêm trước. Bộ óc của nó được dành sẵn cho Lân, sau cái trán có đôi mắt âu yếm này. Lân không chịu đựng nổi, đã nôn thốc tháo. Lưỡi kiếm vung lên đã kịp chưng hửng. Lân vét hết tiền túi, quẳng lên bàn, ôm con khỉ vào ngực, bỏ chạy.
Về đến nhà, khi cởi trói cho con khỉ, Lân mới biết rằng đó là một con cái. Anh nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay. Lần đầu tiên trong đời, anh biết rằng bàn tay khỉ cũng có đường sinh mệnh, trí đạo và duyên tình.
Và ngay lúc đó, Lân nghe vẳng tiếng Mo Khuôn. Bản mo hồn của người Thái. Cái giai điệu da diết, hừng hực đớn đau này, anh đã nghe hoài, nghe hủy, trong những đêm mưa bên bếp lửa rừng Tây Bắc. Ông mo thân gầy săn như gỗ lũa, tay cời than, tay vẩy rượu, vừa đung đưa người cho đỡ lạnh vừa hát kể Mo Khuôn cúng mường cầu phúc thọ. Ngày xưa, Lân không vợ nhạt chỉ cưới vì tiền bạc và nòi giống. Không người tình chỉ vấn vương vì xác thịt và những lời chiều nịnh nhạt như nước ốc. Không nhờn nhợt lờ lợ những bữa Nhất dạ đế vương. Lăn từng úp mặt xuống gối, nước mắt đầm đìa hoan lạc khi nghe người kể Mo Khuôn.
* * *
Đi đi, dã nhân!
Sáng nay, xuân về. Đủ lạnh để nước mắt ngươi ngừng chảy. Đủ ấm để ngươi vào đến giữa rừng. Đừng đi sang trái, phía ấy có bọn mang thòng lọng và bao tải đi săn trộm chó. Tất nhiên chúng mừng phát điên nếu săn được một con khỉ. Đừng đi sang phải. Phía ấy rực rỡ đèn màu và những nhà hàng Nhất dạ đế vương.
Đi đi, dã nhân. Vì bàn tay ngươi cũng có đủ ba đường sinh mệnh, trí đạo, duyên tình.
Nước mắt lưng tròng, Lân ngồi xệp ở bìa rừng. Thấp thoáng chiếc đuôi cụt của dã nhân đang lao mình vào rừng thẳm. Lân ngẩng mặt lên trời, đợi chiếc vòi rồng xoáy theo những hạt mưa màu nâu ánh đỏ.
Nằm vạ
.: EnterPlus.Org :.
Chị Đỏ chợt rùng mình nhẹ, vì thấy buồn buồn ở bụng chân. Và, trong cử động nửa ý thức của giấc ngủ bị quấy phá, chị rụt chân lại. Cái buồn buồn chị cảm thấy rõ rệt nó chạy trên ống chân rồi tới gót thì biến đi.
Chị cựa mình. Thân thể đau dần khắp cả. Cùi tay mỏi mệt rơi đánh thịch. Mắt vẫn nhắm, chị cố nghĩ, cố nhớ xem mình đang ở đâu. Và chị chợt hiểu ra là mình vẫn nằm trên nền đất, trong gian buồng hẹp và mùi ẩm mốc tanh nhạt đọng thành lớp đặc xông lên mũi.
Từ ngoài đưa vào, tiếng xôn xao đã hơi rời rạc đượm buồn của làng mạc về chiều. Sự hoạt động của cuộc sống ngoài kia khiến chị tức bực, và chị muốn chửi lên một câu để nguyền rủa bất kỳ ai. Đã hai ngày hai đêm, chị nằm dài trên đất ẩm của căn buồng hẹp tối. Chị đã tự đầy đọa như vậy, vì một câu chuyện không đâu. Sáng hôm kia anh Đỏ mắng chị về tội đi ngủ không đóng cửa chuồng gà. Chị lầm bầm cãi lại:
- Quên một bữa cũng chẳng sao! Chào ôi! Chăm sóc đến gà gớm. Để hắn đẻ trứng nào là nuốt lống đi trứng ấy mà!
Anh Đỏ giận tím mặt dưới lần da đen, lẳng lặng đi ra. Nhưng chị Đỏ, với cái nư dai dẳng của đàn bà, vừa quét sân vừa kiếm câu đâm chọc. Chị bảo con em chồng:
- Xin ơi! Rầy tao giao cho mi việc đóng cửa chuồng gà đó! Được trứng nào thì đem anh mi ăn rồi anh mi cho cái vỏ.
Anh Đỏ chẳng nói chẳng rằng, vứt mảng lưới anh đang vá, xông tới túm lấy vợ trong hai bàn tay sắt, lôi xềnh xệch vào buồng; đoạn anh ném vợ xuống đất, như ném một đống giẻ. Chị Đỏ đổ nhoài ra, nằm thẳng cẳng như người chết rồi. Anh đạp vào mông vợ mấy cái, đoạn bỏ ra.
Con Xin phải nấu cơm sáng thay chị. Dọn mâm rồi, nó vào buồng gọi, nhưng chị Đỏ nằm lỳ. Anh Đỏ vào lôi chị ra, chị bíu chặt lấy chân giường, miệng ngoặp vào chân chồng. Anh đau quá kêu lên: "ái! Đồ chó cắn! Được, đã muốn nằm vạ tao cho nằm".
Bà mẹ chồng đang ở chợ bán mẻ cá mà con trai đánh được hồi đêm, nghe con Xin ra mách, vội chạy về. Với tất cả cái hùng hổ của những mẹ chồng, mụ xăm xăm vào buồng, chống nạnh, bàn tay ngoặt ra sau, và hếch mặt nạt:
- Này con kia, muốn tốt thì ngồi dậy mà lo ăn làm. Chẳng ai hơi đâu nuôi đứa nằm ăn vạ.
Chị Đỏ nằm im. Mụ cúi định lôi dậy, lại bị ngoặp vào tay; mụ vừa chạy ra, vừa kêu như sắp bị chết chém: "Ua làng nước ôi! A làng nước ôi! Hắn cắn đứt tay tôi rồi!".
Thế là câu chuyện thành to và không thể vãn hồi. Chiều đó vài bà con trong họ đến hỏi thăm; có đôi đứa bé tò mò ghé mắt nhìn vào buồng. Anh Đỏ gắt đuổi ra, đem buộc ở cửa một mảng buồm rách làm rèm che.
Trong bóng tối, chị Đỏ thấy dễ chịu hơn, và thầm cám ơn chồng, chị đã có ý muốn thôi nằm vạ.
Nhưng đến đêm, anh Đỏ vào buồng ngủ, anh chỉ nói một câu cụt lủn:
- Muốn tốt muốn lành thì dậy!
Tự mình ngồi dậy thì sượng mặt, chị Đỏ nằm chờ. Nhưng anh gắt:
- Muốn đạp thêm cho ít cái nữa lắm.
Rồi trèo lên giường ngủ. Chị Đỏ nằm một đêm dưới đất lạnh buốt xương không sao nhắm mắt được. Sáng hôm sau, chồng ra rồi, chị lồm cồm tới giường, lấy hai manh chiếu, một rải ra đất, một đắp lên mình, đánh một giấc dài khoan khoái. Đó là lần đầu chị được ngủ ngày một cách say sưa, không bị quấy rối; lần đầu chị nếm cái thú nhàn hạ của các bà tỉnh thành.
Nhưng đến đêm, anh Đỏ tàn nhẫn đẩy chị lăn ra, giật lấy chiếu và chị lại nằm một đêm trên đất cứng lạnh.
*
* *
Tiếng xôn xao ngoài kia nhỏ dần, nhỏ dần... Thực ra, ngày chưa tắt; nhưng thính quan chị đã yếu đi trong sự mệt nhọc toàn thân, một sự mệt nhọc rời rã, khiến cho xương mềm, thịt nhão và ngón tay co quắp, sự mệt nhọc gây bởi cơn đói. Chị nhịn ăn đã hai ngày! Đó không phải cái đói giày vò, quằn quại, náo động của những miệng ăn hùm hổ. Vốn tính ăn ít, làm nhiều, chị chỉ thấy một cái đói nhẫn nại nó thỉnh thoảng cào xót trong dạ dày. Hình như mồ hôi toát trên trán lạnh, nhưng chị không còn đủ sức đưa tay lên sờ. Chị cựa mình quay nghiêng vì nãy giờ nằm ngửa, da bụng căng ép lên dạ dày trống rỗng, như một hòn đá nặng.
Chị nằm co như con chuột chết, bụng thóp lại. Mắt mở trân trân dán vào một vuông sáng mà có lẽ chị cũng không nhận ra là lỗ thông để đùn rác rưởi quét ở buồng ra.
Chợt mảnh buồm che cửa lay động. Chị không nghe động nhưng thấy một vệt ánh sáng lấp loáng và mảnh vải bị nâng để lộ da trời. Rồi một cái đầu ló trong ánh sáng tam giác ấy, cái đầu tóc bơ phờ khăn quấn cẩu thả của mẹ chồng chị. Chị Đỏ liếc nhìn lên, nhưng không thấy rõ mặt mụ, sấp bóng tối. Tuy vậy, chị tưởng tượng mụ ta đương dạo đôi mắt lấc láo lo ngại trong vòm sâu hoắm; và chị nghĩ thầm: "Mình mà chết thì cũng rầy với mình! Quan khám, lệ hạch, rồi họ cũng đến lo mà chết luôn thôi! ừ, mình cứ nằm đây, không vào bồng dậy mà chớ!". Cái đầu biến đi và khung sáng sụp tối.
Cái cảm giác buồn buồn lại tới ám chị, lần này ở đầu ngón chân cái; chị cũng không buồn rụt chân. Nó chạy dần lên, dừng ở mắt cá, tiến tới đầu gối, chui vào một chút xíu dưới váy chị, rồi chạy trở ra. Đến bụng chân, nó biến đi. Bỗng một bóng đen nhỏ vụt qua lỗ hổng; chị nhận ra một con chuột nhắt.
Một lát sau, con chuột lại hiện ra trong khung trắng. Nó quay đầu bên này, bên kia, chạy từng chập ngắn trên chân nhỏ thoăn thoắt, dừng lại, chạy ít bước vội vàng, dừng lượt nữa, rồi chạy trở lại như để dử ai. Nó đứng yên, quay nhìn vào buồng, mắt tròn ngời ánh đỏ hoe như hạt ngọc. Con vật xinh nhỏ có một dáng điệu nửa nghi ngờ, nửa tinh nghịch. Sau cùng, nó chạy vào buồng, xấp tới bàn tay chị Đỏ lê trên đất. Nó vểnh tai nhìn rất lâu những ngón tay rung rung, đoạn khôn ngoan chạy về phía vách, lẩn trong bóng tối.
Tiếng bát đĩa lách cách dưới bếp làm nao lên trong lòng chị một niềm giận dữ. Hừ! Họ vẫn ăn đủ bữa và no bụng. Đã không muốn lo, để rồi chị cho mẻ lo. Khi quan về khám án mạng thì những kẻ kia hãy liệu mà bán thuyền bán lưới đi thôi!
Con chuột nhắt núp trong tối lâu lắm, rồi lại chạy ra. Lòng vẫn sôi tức bực, chị Đỏ choài tay định bắt. Nó kêu lên một tiếng nhọn hoắt, vút ra lỗ sáng rồi thoắt biến, để lại trên đất một vật trắng nhỏ bằng hạt đỗ. Chị Đỏ cầm lấy, nhận ra một mẩu khoai xát khô, bèn bỏ tọt vào miệng. Nước miếng nhoèn nhoẹt đầy trên lưỡi, tẩm vị ngọt của khoai.
Một ý nghĩ lóe ra trong trí yếu chị Đỏ. Thu góp sức tàn, chị lê xoay mình về phía vách, giơ tay quờ trong bóng tối. Một cái chóe1 bị vật ra đất, với một tiếng nặng nề khô khan. Tay chị đưa lần miệng chóe, nắm lấy cái nút lớn làm bằng một nùi rơm bọc lá chuối, cố sức rút. Nút bật tung, và những lát khoai rào rạt tuôn ra trắng đất. Chị Đỏ vội vàng bốc lấy một nắm trong tay run run, vụng về đưa vào miệng. Khoai rơi lả tả xuống. Chị Đỏ nằm ngửa ra, nhai. Chị nhai ngồm ngoàm, hộc tốc, trợn mắt nuốt. Chị cảm thấy rõ sự cọ xát trên da thực quản của những mẩu khoai chưa nghiền kỹ. Khi bụng đã thôi bị sức căng ép, chị quay nằm ngửa, nhai chậm hơn. Mắt nhìn một lỗ hổng trắng trên mái tranh, tay đưa dần từng miếng khoai lên miệng, chị nhai một cách từ tốn quý phái, để nước miếng tiết ra nhiều ngào miếng ăn thành một làn bột mềm, ngọt và thơm mát.
Nhưng một lát sau, một sự khó chịu bỗng chiếm lấy chị. Chị Đỏ thấy tức ách trong bụng quá đầy, tưởng có một hòn đá nặng trong đó, khiến chị không trăn trở mình được. Trên đầu máu tụ, và chị Đỏ nằm thiếp đi trong cơn bội thực, bàn tay mở vẫn đặt trên những lát khoai còn lại ở mặt đất.
*
* *
Chị Đỏ ren rén ngồi dậy, lê đến cạnh vách, ghé mắt vào một lỗ hổng nhỏ nhìn ra sân. Chị thở phào một tiếng. Ông Lý sắp đến thực. Mẹ chồng chị đương têm trầu, anh Đỏ xăng xít nhấc chiếc phản ra sân để "làng" ngồi. Con Xin ngồi xổm trong một góc, lo đánh bộ chén cọc cạch thẹn thùng nằm trên cái đĩa Tàu cổ rất đẹp mà anh Đỏ đã lấy được trên một chiếc tàu ô trôi lênh đênh vô chủ ngoài bể cả sau một trận cuồng phong nào.
Chị trở lại chỗ cũ, nằm duỗi cẳng, khoan khoái đợi. Cái trò đùa thực đã kéo dài quá thể. Chị nằm vạ bảy ngày trời rồi! Hôm nhờ con chuột nhắt, chị khám phá ra cái kho lương thực bất ngờ ấy, ý nghĩ thứ nhất đến với chị là một ý nghĩ phục thù: chị sẽ nằm dài ra đó, ít ra cho đến lúc còn trơ lại cái chóe không. Cho đáng kiếp!
Nhưng chị chẳng phải dùng nhiều bữa khoai sống mới nhận thấy rằng thức ăn kia cào xót ruột và ứ hơi trong bụng đầy trình trịch. Một đôi khi nước ợ lên đến cổ, vị chua gắt, suýt trào ra ngoài miệng lúc chị nằm nghiêng; chị nhắm mắt nuốt đánh ực, và vị chua khiến chị rùng mình.
Cơ sự đã thành nghiêm trọng, chỉ còn chờ "làng" đến mới phân xử được. Mỗi khi thấy cái đầu mẹ chồng ghé mắt nhìn vào, chị thở rốc lên những hồi ghê rợn như người sắp chết, để mụ lo lắng thêm. Vậy mà những ngày dài chờ đợi vẫn trôi đi, ông Lý vẫn biệt tăm dạng. Đã có lúc chị nghĩ: "Hay là họ cứ để mình nằm thế này cho đến chết đói?" Và giận dữ sôi lên trong lòng, chị lại nghĩ đến chuyện cắn lưỡi.
Thực ra, mẹ chồng chị không vô lo như chị tưởng. Trong bốn tối luôn mụ ra chầu chực nhà ông Lý. Nhưng ông Lý và ông Phó mắc việc quan trên phủ. Tối hôm thứ năm, mụ cuống cuồng lên, đến tận bến đò đợi. Mụ vừa chạy theo ông Lý về, vừa kể lể sự tình. Ông Lý hẹn:
- Mai đến.
Mụ mừng cuống, đem đĩa trầu khô vẫn bưng cò kè vào trút lên cơi bà Lý, rồi chạy về báo tin cho con.
*
* *
Ông Lý bước vào, xúng xính trong áo lương rộng và lẹp kẹp đôi giầy da. Khuôn mặt phì nộn tươi nở như một cái hoa, mà nhụy là cái mũi đỏ chóe, to lạ lùng và đâm lỗ chỗ như da trái bưởi.
Ông đặt đít ngồi; theo thói quen, ông đập hai bàn chân vào nhau phủi đất, rồi mới đưa lên xếp bằng trên phản. Đoạn hách dịch gọi:
- Con mẹ Đỏ đâu rồi?
Một người em họ anh Đỏ đã đứng chực sẵn, vào buồng nhắc chị ra; chân chị lê xềnh xệch trên đất. Chị giả cách cố gượng mới ngồi lên được ngưỡng cửa. Tóc chị rối bù, khăn xổ xuống che một mắt; chị đã tự soạn một bộ mặt chết đói bảy ngày.
Hàng xóm đến xem, đứng vây thành vòng bán nguyệt. Những đứa con nít nghiêng đầu hấp háy nhìn bằng đôi mắt nhèm, hai tay chắp lại trên cu tồng ngồng. Vài cô gái kháo nhau:
- ả Đỏ tài nhịn gớm, bay ạ. Bảy tám ngày, mà chẳng gầy đi tí nào.
Chị Đỏ sẽ dệch mép cười lặng lẽ.
Ông Lý nhấp trà rồi cất tiếng:
- Sao đó, đã ưng dậy chưa? Chà, vợ chồng người ta ở với nhau năm năm, mười năm, cãi lộn nhau cho hắn đáng; đằng này, đôi vợ chồng son, anh như mâm ngọc, em còn như đôi đũa vàng, ha ha ha... chưa chi đã giận hờn, rồi lăn ình ra nằm vạ.
Sự khoái hoạt ầm ĩ của ông Lý khiến mọi người cười theo; và, đâm nhờn, một cô gái trong bọn đứng xem liền đùa một câu:
- Ông Lý hát phường giỏi lắm đó.
Ông Lý liếc nhìn cô một thoáng mau, rồi lập nghiêm ông hỏi:
- Sao? Bây giờ muốn hòa thuận với nhau lại không? Hay là muốn ly dị, thì ta cho đồng tiền chiếc đũa mà về cùng bố mẹ?
Mẹ anh Đỏ đứng chắp tay thưa:
- Thưa ông, chứ con ấy tệ lắm. Mắng hắn một tiếng hắn cãi lại hai tiếng, rồi hắn lăng loàn, hắn gieo mình nằm vạ, hắn cắn đứt tay tôi. Xin làng cứ phép xử thì đội ơn lắm.
- Thế mụ muốn hai bên ly dị à?
- Bẩm không! Bẩm không! Là tôi trình để làng biết cho như thế thôi.
Mụ vội nói thế. Mụ dại gì mà cho dâu về, đứa dâu mụ vẫn tự hào mát tay mới chọn được. Chị Đỏ tuy xấu tính thực, nhưng hay làm, đảm đang tất cả việc trong nhà. Vả cưới chị có phải tốn ít đâu; tiền anh Đỏ dành dụm trong hai năm đi chài, từ khi còn là một chú trai nấu cơm xách nước cho đến khi lên anh bạn lành nghề đều dốc vào đó hết.
Ông Lý gắt:
- Muốn đường nào thì nói rõ ra một đường!
Anh Đỏ vẫn đứng chắp tay trong góc nhà, nói ra:
- Thưa ông, ông xử cho tôi phận nào, tôi được nhờ phận nấy.
- Ăn nói hàm hồ thế thì ai biết đường nào mà xử! Mẹ Đỏ! Muốn ở hay muốn về?
- Dạ trăm sự nhờ ông cả, ông cho sao thì được vậy... Trăm sự cũng là nhờ ông.
Chị Đỏ đáp vậy, giọng kéo dài như mỏi mệt. Ông Lý đét vào đùi, bộ thất vọng:
- Thế thì cha ai mà xử được. Anh nói "nhờ ông", ả nói "nhờ ông", sao mà hai anh ả khéo bảo nhau ghê. Đã đồng ý với nhau thế thì, thôi! Cho đoàn tụ!
Mọi người vẫn im lặng. Thấy lời tuyên án không hiệu quả và câu khôi hài kín đáo không ai thưởng thức, ông Lý ngồi lặng thinh uống nước.
Anh Đỏ bước ra rót nước. Bấy giờ chị Đỏ mới chợt nhận thấy chồng mình mặc áo dài. Cái áo lương tưởng như sắp bật tung trên thân hình vạm vỡ của anh dân chài. ống áo chịt vào cổ tay đen, và tà ngắn đập cũn cỡn trên đầu gối. Chị Đỏ vờ cúi mặt, liếc nhìn qua mớ tóc rối trên trán, và mỉm cười ngắm những cử chỉ ngây ngô của chồng. Chị nhớ lại hôm cưới, anh Đỏ ngượng nghịu trong cái áo lương độ ấy còn mới nguyên, và cái quần cứng đét hồ, thì thụp lạy trước bàn thờ. Chị bất giác cười lên tiếng. Anh Đỏ quay nhìn, càng ngượng nghịu thêm, thủ hai bàn tay dưới áo, rồi chắp lại, rồi gãi đầu, rồi mân mê khuy áo. Sau cùng anh mỉm cười cho đỡ thẹn. Ông Lý kêu lên:
- ờ, anh ả cười với nhau rồi đó kìa! Cần gì ai phân xử nữa!
*
* *
Con Hoét mách:
- Mẹ ơi, ả Đỏ vào buồng.
Mụ Bình chạy vào, thấy chị Đỏ đứng chải đầu. Mụ hỏi:
- Mi lấy gì đó?
- Lấy gì đâu?
Khi mụ Bình ra rồi, con Hoét, còn nhỏ mà đã ranh vặt, đứng nhìn. Từ ngày chị nó về nhà chồng, nó vẫn quen coi chị như người xa lạ, theo gương mẹ nó. Con gái là con nhà người... Mỗi khi thấy chị về chơi nhà lấy vật gì, nó kêu lên như bị mất cướp. Chị Đỏ chải đầu xong, thản nhiên đi ra. Con Hoét yên tâm, không ngờ chị nó đã mang một bọc khoai khô trong tà áo nâu dài buộc túm, bọc khoai đã ăn trộm được trong chum mẹ chị.
Về đến nhà chồng, chị len lén nhìn, rồi thẳng tuột vào buồng. Chị mở nút tà áo ra, tuồn khoai vào chóe, vừa vặn đầy như trước. Một hôm trời hửng nắng hanh vàng, mẹ chồng chị đem khoai ra sân phơi. Chị Đỏ ngồi đan lưới trong nhà, hồi hộp nhìn ra. Mụ đưa bàn tay nổi gân rải xòa đống khoai. Chợt mụ lặng yên như đang suy tính gì lung lắm. Mụ cầm một lát khoai, nhìn mãi trong một ngạc nhiên câm lặng. Mụ di di móng dài ngón tay cái lên trên, cố cạo lớp vỏ xám. Sau cùng, mụ ngoảnh vào, nói với con dâu điều phát kiến mới mẻ của mụ:
- Mẹ Đỏ này, cái chóe khoai mình nút không chặt để gió vào, thành thử cả lớp khoai trên hắn xạm đen mặt lại.
Cỏ” – Nguyễn Hồng
Hành lý chẳng có gì, vài ba bộ quần áo và một mớ đồ lụn vụn, lặt vặt. Hai ngày trước tôi đã nhét vội vàng vào túi xách, lập cập kéo khóa và chực phi thẳng ra khỏi cửa nhà, không thèm ngoái đầu nhìn lại. Đi. Sẽ đi. Không từ biệt. Không luyến tiếc. Tôi đang có cảm giác bị đuổi ra khỏi nhà hơn là một sự tự nguyện. Cái mặt lì lợm của tôi không biết khóc bao giờ. Từng cơn nấc nghẹn bứ nơi cổ họng nuốt không trôi được cứ đau nhưng nhức. Đau từ tim lên đỉnh đầu, đau tứ chi rồi đau toàn thân. Tôi nuốt khan. Tôi khóc khan. ừ, đi thì đi. Phải đi thôi. Tôi giục tôi, dữ dội lắm, quyết liệt lắm. ở nhà chỉ là một cục thịt thừa. Một cục thịt bốc mùi ôi thiu làm ngứa mắt và vướng víu những người xung quanh. ừ. Đi thì đi. Dễ thôi. Quan trọng đi là để trở về hay là bỏ xứ, biệt xứ. Có ai cần tôi đâu.
Cha vẫn ngồi rúm ró trên tràng kỷ, dáng ngồi như bị dính bệt vào một chỗ. Từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, vẫn là chỗ ngồi đấy, cha thi gan với thời gian. Chiếc điếu cày được nâng lên, đặt xuống, rồi vê thuốc, rồi rít, rồi ho, rồi khạc nhổ đờm dãi bừa bãi xung quanh chỗ cha ngồi. Mấy lần tôi buồn nôn khi dẫm phải. Mấy lần tôi bảo cha đừng có nhổ ở đây nữa, cha đi xa ra ngoài bờ ngoài bụi mà nhổ cho thoáng, đỡ công người dọn lại sạch cửa sạch nhà. Cha quắc mắt, đồ mất dạy, mày không dọn tao dọn. Cái cục lỳ của tôi lại nổi lên. Không mượn thì không dọn. Ruồi xanh ruồi đen bu ken kín. Muỗi bay là là, phè phè như máy bay tập trận. Mùi tanh hôi lẫn mùi ẩm mốc. Cha vẫn ngồi nguyên đấy, kệ thây ruồi muỗi, kệ thây kiến bu. Mẹ nhìn hằn học: tao chịu đựng cha mày cả đời, bọn mày mới ngày một ngày hai ăn thua gì. Cha vẫn ngồi bất động, kệ thây những lời xỉa xói. Kiến đốt, muỗi cắn cha còn không có cảm giác, mấy lời nói nhàm tai ấy cha nghe quen lắm rồi, nghe thêm nữa cũng chẳng sao, chỉ là như gió thoảng qua tai. Thành thử mẹ nói mẹ nghe, mẹ nói cho tôi, cho thiên hạ nghe. Mà họ nghe được gì hay không tôi không biết, cũng không cần quan tâm. Có đôi người chỉ chỉ trỏ trỏ, có đôi người ậm ự ngại ngùng lướt qua tôi có vẻ như thấu hiểu, chia sẻ.
Hai anh em tôi lớn lên như thế nào tôi không nhớ, không biết, không hình dung ra được. Thực sự, tôi cũng không buồn nghĩ đến. Đôi lúc tôi cũng tò mò nhưng rồi lại chậc lưỡi, thôi kệ vậy, quan tâm đến ngày hôm qua của mình cũng chẳng để làm gì, chẳng thay đổi được gì. Biết là mình đang được tồn tại, đang được hít khí trời, thế là sung sướng lắm rồi, kêu ca nỗi gì, mà kêu phỏng có được gì.
Chán học, học mãi mà chữ không vô, anh tôi bỏ nhà đi buôn sắt vụn ở ngoại tỉnh. Một năm, hai năm anh không về. Đến năm thứ ba, anh về dắt theo người đàn bà bụng đã vượt mặt xin cưới. Cưới thì cưới. Nhà lại thêm người, thêm những lời hờn mát xót xa vào những ngày đói và cả những ngày không đói. Thi thoảng những người trong nhà tôi lại dành những xỉa xói cho nhau, cho tôi.
“Không ở nhà làm ruộng thì đi đâu được thì đi, kiếm thúng kiếm mẹt mà buôn bán”.
“Bọn cái Xuân, cái Na lên tỉnh tháng trước, tháng sau đã gửi tiền về, cùng thôn mày cũng phải mở to mắt ra mà nhìn chứ. Hay mày không biết xấu hổ”.
Vẫn là kiểu nói như tát nước vào mặt người khác của mẹ. Tôi lớn lên, ám ảnh về mẹ chỉ là những lời nhiếc móc cay nghiệt, những trận đòn roi như xé giẻ. Tôi nhìn cuộc sống chảy quanh tôi bằng ánh mắt nửa dè chừng nửa ngơ ngác, lạ lẫm. Tôi không biết đến kim chỉ để may vá, không biết thưa bẩm, vâng dạ, tôi không biết anh em họ hàng xung quanh.Tôi không biết gì hết. Chỉ biết mình là giống đàn bà, ngày có kinh đầu tiên òa khóc vì sợ hãi như vừa phạm phải một tội lỗi. Tôi lấy tay bịt lại, càng bịt càng chảy. Tôi thấy mình là cỏ. Tôi được sinh ra và tôi tự lớn lên.
Nhiều lúc tôi suy tính, rồi cũng ngẫm đi ngẫm lại ra vẻ có trách nhiệm với đời, với mình. Cha mẹ đã cho tôi sự sống thì tôi cũng phải sống cho ra sống. Mười bảy tuổi, chẳng lẽ cứ quẩn quanh với mấy sào ruộng nhận khoán, bờ thấp bờ cao, với bốn bức tường nửa gạch nửa tre có những con người lầm lì sống, lầm lì ra vào. Ngày quần quật ngoài đồng, đêm nào ngủ được thì sướng, không ngủ được nghe ếch nhái râm ran mà lòng não nề.Thời gian cho tôi thêm tuổi. Tuổi cho tôi thêm những âu lo, những thảng thốt. Tôi quýnh quáng với cái quyền sống cha mẹ ban tặng nên tôi giục tôi đi. Lần này là tự nguyện. Cháy bỏng lắm. Tâm huyết lắm. Không phải là những vùng vằng giận cá chém thớt bởi có giận thì trong nhà tôi đó cũng chỉ là một hiện tượng thừa thãi, vô bổ. Giận cũng thế mà không giận cũng thế. Có thân thì tự lo thân, ai hơi đâu quan tâm đến mà dỗ giành.
Tôi chào cha mẹ. Tôi dặn dò anh chị và các cháu. Tôi đi. Hành lý chẳng có gì. Tuổi mười bảy và một mớ những rối rắm vụn vặt. Những tiếng thở dài cứ loằng ngoẵng bám theo tôi.
2.
Ai dạy cho tôi khôn? Tôi ranh? Tôi làm ra vẻ sành đời. Tháng đầu tiên bưng bê trong quan nhậu tôi đã biết lúng liếng với khách. Tôi biết tôi có gì để đong đưa. Tuổi mười bảy hơ hớ măng tơ. Tôi tự tạo ra những luống cuống vô tình, những va chạm vô tình với những người đàn ông thường xuyên đến đốt tiền trong quán nhậu. Những ông già trán hói, bụng xệ chỉ chực có cơ hội là ăn tươi nuốt sống tôi. Những hôn hít, những sờ nắn không giấu giếm, vụng trộm mà cứ phơi bày giữa thanh thiên bạch nhật. Tôi cắn răng làm thinh, rồi lại chậc lưỡi, bệnh ngoài da thôi mà. Nhưng bù lại, tôi được tiền, những đồng tiền mới có, cũ có, nguyên vẹn có, nhàu nát có cứ len lén dúi vào ngực tôi. Đêm đêm, sau những bải hoải rã rời của một ngày chạy bàn, tôi vuốt phẳng phiu những đồng tiền chẵn lẻ. Tôi mãn nguyện cười trong cả những giấc mơ.
Ông chủ quán mò mẫm vào phòng lúc nào tôi không biết. Vội vã ném xập tiền xuống giường rồi vồ lên ôm riết lấy tôi. “Xuỵt, ngoan rồi ông thương, ông cho”. Tôi đang đồng lõa với ông hay là tôi thông minh đột xuất? Tôi đàng điếm hay tôi đang thèm khát đồng tiền? Hình như có lần bố tôi bảo mấy đời cụ kị nhà tôi cũng có người làm quan, có học hàm học vị đầy đủ, sau thất cơ lỡ vận mới ngậm ngùi làm kẻ bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Cái gen thông minh từ đời cụ kỵ nhà tôi truyền chút ít sang tôi vào đúng lúc này chăng? Tôi tham lam vừa muốn giữ mình vừa muốn có tiền. Tôi dụ ông về phía cửa, luống cuống yêu đương, luống cuống mở chốt, tôi ấn ông vào khoảng giữa cánh cửa khép hờ. Ông chỉ kịp á lên còn tôi bưng mặt khóc. Tất nhiên, thân thể nung núc mỡ của ông bị một trận bầm dập từ tay vợ. Tôi bị đuổi khỏi quán sau trận nổi giận lôi đình của bà chủ. Đồ lăng loàn, đồ ăn cháo đá bát, cưu mang mày rồi để mày dụ dỗ chồng bà hả. Đồ con đĩ. Cút. Xéo. Biến nhanh khỏi mắt tao. Tóc tôi rơi lả tả theo vòng xoáy nặng nhẹ của tay bà chủ. Khuôn mặt tôi bị biến dạng bởi những cái tát nảy lửa, những cào cấu rách thịt da. Lạ lùng là tôi không thấy đau, tôi đang nghĩ đến xấp tiền ông chủ để lại khi nhảy bổ lên người tôi. Tôi đi. Hành lý chẳng có thêm gì. Tuổi mười bảy cứ tưng tửng nhảy chân sáo theo tôi khe khẽ hát: “cỏ nát rồi cỏ lại sinh sôi”
3.
Tôi bán tôi qua những chợ người. Chợ người không chào đón tôi, họ sợ tôi giành giật khách hàng của họ, cướp miếng cơm manh áo của con cái họ. Tôi đã mơ hồ phỏng đoán, chợ người thì không ai quản lý ai nên tôi sẽ mặc nhiên đứng xếp hàng ở đó. Nhưng tôi nhầm. Những kẻ lăm le dây điện, xích sắt như những vũ khí trang điểm cho cái gọi là quyền lực ấy là những ông chủ, bà chủ ở đây. Bảo kê đấy. Tôi lơ ngơ chen chân chờ người đến mua mình. Vút. Tôi đau điếng. “Biến, ranh con, đây không phải chỗ của mày”. “Đất có thổ công, sông có hà bá, mày nộp lệ phí chưa mà dám chen ngang hả?”
Lệ phí bao nhiêu là đủ để tôi có chân đứng ở chợ người? Một tên đầu trọc hất hàm bảo: “Mày ngon gái thế đứng đây làm gì cho phí, sang chân cầu mà đứng”. Tôi đọc được sự cợt nhả, coi thường trong điệu cười như súc ống bô của gã đầu trọc. Cái tôi có thể bán được là sức lao động của con bé quê mười bảy tuổi. Trong biển người bát nháo này có ai nghe thấy tiếng tôi đang rao bán tôi.
Có đấy. Ông đã nghe được. Ông thấy ánh mắt khẩn khoản cầu cứu của một con thú bị thương đang hết đường chạy. Gã đầu trọc vừa liếm môi, vừa dí dí chiếc roi sắt vào đầu tôi. “Hay là...”. ánh mắt hắn quệt khắp thân thể tôi, như muốn lột hết quần áo trên người tôi. “Một đêm thôi, coi như là lệ phí tháng này”. “Không chịu hả. Biến. Vút... ”
Ông đã đỡ lằn roi ấy thay tôi. Tên đầu trọc đang hung hăng vội vã đập đầu quỳ lạy như một tội đồ dưới chân ông. “Xin ông tha mạng, con không cố ý. Tháng này con xin làm trâu làm ngựa cho ông”.
Tôi lẽo đẽo theo ông về. Đầu trọc hềnh hệch cười: “Mày sướng nhé, được hầu hạ trong nhà ông chủ là phúc tổ bảy mươi đời nhà mày đấy”. Tôi không biết ông là ai mà những tên bảo kê ở đây cứ tỏ vẻ khúm núm, sợ sệt mỗi khi gặp ông. Chiếc xe hơi sang trọng đỗ bên kia đường, ông thong dong chống ba tong đi sang, đứa nào đứa nấy vâng vâng dạ dạ rối rít. Chợ người như ngừng thở. Ông ký tá một số thứ, ông nhận từ bọn chúng một số thứ rồi ông lên xe. Chợ người lại trở về với cái bát nháo vốn có của nó.
Tôi được ông thuê dọn rác và nuôi cỏ trong khu biệt thự. Biệt thự trắng. Hàng rào sơn trắng. Bãi cỏ ngun ngút xanh và mượt như nhung. Hoa. Hoa quấn quanh bờ rào. Hoa tràn ra lối đi. Hoa kiêu hãnh tung tẩy trên cửa sổ tầng cao đùa nắng, đùa gió. Tôi như lạc vào thiên đường. Chỉ cần nhìn ngắm thôi tôi đã thấy hân hoan reo vui.
Công việc không quá nặng nhọc nhưng đòi hỏi sự tỷ mỉ. Trồng cỏ mới, thay cỏ cũ, tưới cỏ, cắt tỉa, tạo hình cho cỏ. Tôi chăm chỉ mỗi ngày. Bây giờ, có ai hỏi trong biệt thự của ông có mấy vuông cỏ, có những loại cỏ gì, sinh trưởng và nuôi dưỡng ra sao tôi sẽ trả lời vanh vách. Tôi nâng niu công việc tôi đang làm, nâng niu những đồng tiền tôi kiếm được bằng sức lao động của chính mình. Đêm đêm, trong giấc ngủ chập chờn tôi thấy mình đang bồng bềnh trôi trên cỏ, ấm mềm và êm như ru.
Nhìn những vuông cỏ nuột nà, căng tràn sức sống, ông không tiếc lời khen “tốt lắm, tốt lắm”. Tôi cũng thấy vui vui khi đón nhận ánh mắt ấm áp cười của ông. Ông trò chuyện với tôi nhiều hơn. Tôi thấy ông gần gũi hơn, càng tò mò hơn khi thấy ông sống một mình trong biệt thự nhung lụa với vô số người làm.
4.
Những vuông cỏ sẽ xanh hơn, mượt hơn nếu như ông không gọi tôi lên thư phòng, không yêu cầu tôi bỏ cỏ đấy để ông có thêm người chuyện trò. Tôi sẽ là tôi, đứa gái quê mười bảy tuổi của hai năm về trước, giận dỗi quê hương lạ lẫm phố phường.
Những vuông cỏ ngơ ngác xanh dõi theo tôi.
Tôi trở thành đàn bà sau một đêm mưa ông gõ cửa. Ông khóc trên vai tôi. Tôi khóc cho cuộc đời mình. Ông bảo ông đang rất buồn và cô đơn. Còn tôi. Nỗi cô đơn là thường trực, là bầu bạn. Mỗi sáng, nó kéo tôi ra khỏi giấc ngủ chập chờn mệt mỏi. Mỗi tối nó xầm xập đổ ập vào người làm tôi nghẹt thở. Nó cứ bám riết lấy tôi từ khi tôi biết khóc, biết vón nỗi cô đơn ném đi chỗ khác tìm điệu cười nhợt nhạt, cho đến tận bây giờ, tôi lặng lẽ nhặt nỗi cô đơn lên ngắm nghía và cất sau ngực trái áo mình.
Tôi xót tôi bởi nỗi cô đơn đeo đẳng. Vì thế tôi thương ông. Ông bảo ông cũng thương tôi. Ông vuốt ve, dỗ dành thân thể tôi mỗi lúc tôi và ông bên nhau. Tôi thấy mình ẩm ướt hơn, mềm mại hơn. Lần đầu tiên trong đời tôi biết ôm một người thì ấm áp như thế, được chở che như thế, yếu đuối như thế, yêu thương như thế. Tôi nghĩ và nhớ đến mẹ. Mẹ có bao giờ ôm tôi. Giá như tôi có được chút ấm áp truyền từ da thịt mẹ tôi sẽ không cuống cuồng ghì chặt lấy ông như thế, không bấn loạn, khát khao ông như thế. Ông thủ thỉ: “Em sẽ là của ông nhé, sẽ ở lại đây với ông nhé”. Tôi không dám gật đầu, không dám nhìn vào mắt ông. Tôi sợ. Một nỗi sợ hãi mơ hồ nhưng rất lớn, rất thật. Tôi siết chặt vòng tay để mình được bé nhỏ trong vòng tay ông.
Tôi thấy tôi khang khác. Những lần gặp ông, tôi đều hiến mình khát khao, mụ mị. Biện pháp tránh thai là gì tôi làm sao biết được. Trong cơ thể tôi, giọt máu ông để lại đã thành hình hài.
“Giải quyết đi”. Ông vứt sấp tiền trước mặt tôi rồi lạnh lùng bỏ đi. Toàn thân tôi tê cóng. Cái mặt lì lợm của tôi không biết khóc bao giờ. Nước mắt đã vón lại thành cục đắng nghét, nuốt không trôi được nên cứ nghẹn bứ nơi cổ họng. Tôi gồng mình hét “Không”. Mồ hôi tãi ra như tắm. Bao nhiêu đêm tôi mộng mị, bao nhiêu lần tôi nấn ná muốn nói với ông. Liệu giấc mơ có báo ứng sau lời tôi nói. Tôi chọn cách im lặng.
5. Mẹ như phát điên lên.
Bao nhiêu tuổi?
Bảy mươi.
Mày bị lão già cưỡng hiếp hả?
Không. Con tự nguyện.
Sao còn vác xác về làm gì?
ừ nhỉ? Sao tôi lại vác cái thân xác rệu rã này trở về? Sau đêm trốn khỏi nhà ông tôi đã dặn lòng là không được trở về nữa sao bước chân cứ dẫn dụ tôi về đây? Có ai chờ tôi đâu. Sao thế nhỉ? Tôi thất thểu bước thấp bước cao. Tôi thèm khóc quá. Sao tôi cứ trơ khấc thế này, tôi ơi. Nước mắt ơi, chảy đi. Chảy đi cho ta nhẹ nhàng một chút, rồi ta sẽ thanh thản đi tiếp. Cớ sao đời ki bo với ta cả giọt nước mắt của chính mình thế nhỉ? Mẹ có nghe thấy tiếng ta gọi mẹ không? Con nhớ mẹ, thèm được ôm mẹ quá. Lúc con ôm ông ấy là lúc con nhớ đến mẹ. Con mơ hồ đoán ôm mẹ chắc cũng yêu thương thế này. Mỗi lần gặp ông ấy con lại hào hứng, lại say mê giải mã những vòng tay ôm. Cái ôm thật chặt này là của cha. Mạnh mẽ lắm, rắn rỏi lắm. Cái ôm đằm thắm này là của mẹ, dịu dàng lắm, ấm áp lắm. Cái ôm xốc nổi, hời hợt như chạm khẽ vào da thịt này là của anh trai. ừ, là anh em sàn sàn tuổi nhau ai ôm riết nhau thế bao giờ, kỳ lắm. Con đã tận hưởng hoan lạc từ những vòng tay ôm ma mị như thế đó mẹ ạ.
Giải quyết đi. Mà không. Cứ để đó. Tao sẽ kiện. Sẽ kiện cho lão rũ tù ra vì tội cưỡng hiếp.
Không. Con xin mẹ.
Mày ngu lắm. Tao sẽ kiện. Lão có tiền, lão sẽ biết cách giải quyết.
Tiếng mẹ rít qua kẽ răng. Tôi tìm đường về nhà để được khóc. Nhưng tôi không khóc được. Mẹ cũng không níu kéo tôi. Tôi đi. Hành lý chẳng có gì.
6.
Nháo nhác tìm tôi qua những chợ người. Đầu trọc bảo thế sau khi hắn hô hoán anh em giữ tôi lại. Hắn đẩy tôi lên xe và đưa tôi về ngôi nhà lúp xúp cuối chợ. “Mày ở đây ít hôm lấy lại tinh thần, tao về báo cáo với lão”. “Đọc thư mày để lại, lão như phát cuồng lên. Lão già thương mày thật đó. Thôi về đi để bọn tao còn đường làm ăn. Lão bảo không tìm được mày lão giải tán mấy cái chợ này luôn”.
Đầu trọc thuyết phục, giảng giải, phân tích rồi nhìn tôi tỏ vẻ thèm thuồng. “Mà mày ngu bỏ mẹ, cả một đống của, bỏ làm gì. Phí”
Lời đầu trọc cứ bùng nhùng bên tai, tôi nghe câu được câu mất. Tôi thấy mình không còn ác cảm với hắn nữa, ít ra trong lúc này hắn đang sắm vai là đứa tử tế.
7.
Những vuông cỏ xanh um trước mắt tôi. Ông bảo, ông đã tự tay mình chăm cỏ để quên đi nỗi nhớ. Tôi thấy mắt mình nhòe đi, những giọt nước mắt thi nhau rơi xuống nóng hổi. Tôi đã đợi mười chín năm để được khóc. Bây giờ tôi đang khóc. Cỏ xanh thì thầm kể chuyện cổ tích về một ông già qua bao đời vợ nhưng chẳng ai chịu sinh con cho ông. Họ đến rồi đi với bản án li hôn có cái quyền được chia tài sản ở hàng thứ nhất. Chỉ còn ông và những vuông cỏ tàn úa ở lại.
Những vuông cỏ đang hồi sinh chờ đón tôi. Tôi thấy mình đang được hồi sinh từ kiếp cỏ, cứ xoắn xuýt, cứ dan díu như nợ nần nhau từ muôn kiếp trước. Ông dìu tôi qua những vuông cỏ, tôi bối rối nhìn sâu vào mắt ông: “Mưa này cỏ bật mầm nhanh lắm đấy, rồi vườn cỏ nhà mình sẽ ngút ngát xanh. Đợi em sau ngày trở dạ, em sẽ lại giúp mình...”.
Ngôi nhà ẩm mốc” - Nguyễn Thái Sơn
01-07-2012 01:59:33 PM
1.
Hai lần tôi về quê để xin gã Tùng người hàng xóm, cho chuộc lại ngôi nhà và mảnh vườn, mà trước đây tôi đã bán. Bán để có tiền cho con mua nhà thành phố. Bán như sự ruồng bỏ đầy bản năng với quá khứ nhọc nhằn, để đến với nơi văn minh tiến bộ hơn. Nhưng thật ngậm ngùi, cả hai chuyến đi ấy đều không thành công, bởi gã hàng xóm của tôi rất lạ. Không như người khác, mua để đầu cơ, mở rộng thổ cư, mua để làm của hồi môn cho con. Gã Tùng mua nhà, đất của tôi rồi để đấy. Dăm bữa, nửa tháng, mới tới thăm căn nhà cấp bốn lợp ngói Sông Cầu cũ kỹ, như thăm cái miếu hoang, cỏ tốt ngập vườn. Chiếc ao hai sào màu mỡ, trước kia mỗi vụ đã cho tôi hàng tạ cá, vậy mà bây giờ để bèo phủ kín.
Lần thứ nhất, tôi đặt vấn đề: “Mua nhà đất mà chẳng để làm gì, ông cho tôi chuộc lại, lời lãi bao nhiêu tôi xin chịu”. Tùng cười khà khà, chỉ xuống ao: “Ông nhìn xem có đẹp không”? Tôi nhìn theo tay gã. Mặt ao lung linh tím ngát một màu hoa, đàn chuồn chuồn ớt bay lượn dập dờn, có chú bói cá màu lông sặc sỡ như sắc cầu vồng, xòe đôi cánh bay vút lên cao. Đúng, đẹp thật. Tôi thành thực gật đầu. Gương mặt gã giãn ra, đầy vẻ tự mãn: “Tôi để vì thế đấy, nên không có chuyện mua đi, bán lại đâu”. Như người bước hụt, mặt tôi tái đi. Có lẽ câu nói còn hai từ “về đi”, mà gã hàng xóm giữ lại trong đầu không muốn nói ra.
Lần thứ hai, Tùng dẫn tôi đi dọc đường làng. Gã làm như tôi đã quên hết, không nhớ gì đến cái làng Rạch. Gã chỉ: “Nhà thằng Giản. Ông thấy hoành tráng không? Bốn tầng, có sân thượng lợp tôn lạnh, làm bằng tiền bán ruộng đấy. Tiền nhiều, vàng lắm, đổi lại hai thằng con đều nghiện”. Gã đánh tay sang nhà bên cạnh. “Còn đây là nhà bà Cư, có độc một cô con gái lại lấy chồng Tây. Cô làm nhà to vật vã, để cho mẹ già ở cứ như cún giữ nhà. Đợi hai năm một lần, thằng rể xứ người về thăm”. Tùng cứ nói vanh vách như hướng dẫn viên du lịch, không cần biết tôi có nghe hay không.
Đi đúng một vòng về lại cái ao bèo, gã hỏi: “Ông thấy làng ta bây giờ ra sao? Còn chỗ nào như chỗ này không”? Tôi bảo: “Như phố. Không còn chỗ nào như chỗ này cả”. Gã vỗ tay khoái trá: “Đúng thế. Khu này là một bảo tàng vô cùng quý hiếm”. Tôi nhận ra trong đáy mắt gã hàng xóm, ngời lên sự mãn nguyện. Lúc ấy không phải thời cơ cho tôi nói đến chuyện chuộc lại ngôi nhà. Buổi trưa gã mời tôi ở lại ăn cơm, thực đơn có món ốc nhồi nấu chuối xanh ngon đến lân rân cả mình mẩy. Định hết chén rượu khai vị, tôi sẽ nói khó với gã về mục đích chuyến đi của mình. Nhưng như biết tâm trạng tôi, gã đứng phắt dậy cánh mũi phập phồng: “ốc tôi vớt từ cái ao bèo ấy lên đấy. Rất cảm ơn ông”.
Gã Tùng nói thế khác gì bịt miệng đối tác. Tôi đành im lặng, ngẫm ngợi lời cảm ơn nhạt thếch.
2.
Tôi chuyển đến thành phố ở với con trai, sau ngày cô con gái cả theo chồng về Huế. Sáng ấy sương giăng, có tiếng vạc vọng tao tác trên bầu trời mà không nhìn thấy. Tôi đứng dưới sân ngước lên, mường tượng ra những chú vạc có cái cổ dài, chân duỗi thẳng, đang miết mải vỗ đôi cánh rộng. Có lẽ, lúc đó lũ vạc mới kết thúc bữa ăn đêm đang bay về tổ. Liên tưởng đến sự ra đi của mình, như ngược với hành trình của vạc, lòng tôi bỗng nhiên trĩu nặng. Dũng con trai tôi giục, cậu lái xe bấm còi. Giật mình thoát khỏi tâm trạng như mộng du, tôi bắt tay chào từ biệt gã hàng xóm, người chủ mới của ngôi nhà. Xe chuyển bánh, bờ tre, cánh đồng nơi có nấm mộ vợ tôi mờ dần, rồi khuất hẳn trong màn sương trắng đục.
Nhà của con tôi, giống hệt mấy nhà cùng phố. Tầng một có phòng khách, phòng ăn và công trình phụ. Tầng hai có ba phòng khép kín, vừa đủ cho gia đình bốn người. Phòng của vợ chồng, phòng riêng của hai cô con gái.
Hết mấy ngày háo hức với phố phường. Con trai tôi nói như đùa: “Ông chơi là chính, thấy tiện thì cắm cho cái Huế nồi cơm, còn mọi việc cứ mặc vợ chồng con”. Huế là tên đứa con gái lớn của nó. Một ngày, hai ngày, rồi một tháng trôi đi. Y lời con trai, ngày tôi làm mỗi việc cắm nồi cơm điện, sau đó thì ngồi, thấy đau mình mẩy thì nằm xem phim dã sử Trung Quốc. Đợi con cháu về. Người tôi cứ u uất, rấm rứt như kẻ bị cầm tù. Nhớ ngôi nhà cũ, nhớ mùi bùn đất của ruộng vườn, tôi không sao ngủ được. Gần sáng thức dậy đợi nghe một tiếng gà gáy, mà chỉ thấy âm thanh tàu xe đinh tai, nhức óc. Biết tâm trạng tôi, một tối con trai bảo: “ở quê ai cũng gần gặn thân tình, ở đây thì khác, nhà nào biết nhà nấy, nhưng bù lại có nhiều sân chơi. Tao nhã, thanh cao có câu lạc bộ thơ. Văn minh, lịch sự có câu lạc bộ khiêu vũ. Khỏe khoắn, trường thọ có câu lạc bộ dưỡng sinh. Bố thích vào câu lạc bộ nào, thì đăng ký tham gia cho vui vẻ, hòa đồng”. Tôi bật cười: “Cả đời bố bám đít con trâu quên cả mặt chữ, bây giờ anh lại khuyên bố làm thơ, nhảy nhót, khoa chân múa tay, thì khác gì giễu bố cho thiên hạ cười. Khu này phố mới lên phường, vẫn còn lác đác những thửa ruộng hoang, vợ chồng anh thuê lấy một mảnh để bố trồng rau. Khi không còn sức nữa, bố vào câu lạc bộ sáu tấm”. Nghe tôi nói chúng biết sáu tấm là cái quan tài, nên đứa nào cũng rân rấn nước mắt. Con trai tôi lắc đầu: “Ruộng ấy bây giờ đều là thổ cư, người ta chuẩn bị làm nhà, hoặc đợi lên giá rồi bán, không ai cho thuê đâu bố ạ”. Cô con dâu đột ngột hoan hỉ: “Hay bố đi câu”? Con trai tôi mừng quớ: “Đúng, thế mà không nghĩ ra. Hôm nào con cũng thấy bác Hoạt nhà cuối phố xách cái xô toòng teng, đạp xe đi câu. Mai con dẫn bố sang làm quen, để bố đi câu cùng bác ấy nhé”. Nhớ đến cái ao, có những con rô phi háu đói tranh nhau miếng mồi, tôi gật đầu.
Hoạt bằng tuổi tôi, là dân bản xứ, tính tình khôi hài, bỗ bã. Gã tự trào: “Trước kia tôi là gã nông/ Nay nhờ bán đất hóa dân thị thành/ Không còn cuốc, không còn cầy/ Đi câu cho đỡ nhớ đồng, nhớ sông”.
Hôm đầu tiên theo gã hàng phố đi câu, tôi cứ chắc mẩm sẽ ngồi dưới tán cây, rồi thả câu ở cái hồ, hoặc khúc sông nào đó, có gió nồm mơn man. Không ngờ đang đi giữa phố, gã phanh xe ken két: “Dừng lại, hôm nay ta câu ở đây thôi”. Tôi bóp phanh xe đạp, chống chân xuống đất nhìn dọc, nhìn ngang, chỉ thấy nhà cửa san sát, chẳng thấy dòng sông hay cái hồ nào. Ngạc nhiên, tôi hỏi: “ở đây thì câu cái gì”? Gã Hoạt đến bên đường cạy cái nắp cống, đặt sang một bên. Mùi hôi phả ra nồng nặc. Gã khua tay: “Bịt mũi lại, mùi khó ngửi hết ngay thôi. Dưới đó bộn cá đấy”. Lạnh cả người, muốn bỏ cuộc nhưng lại tò mò, tôi mắc mồi câu thử. Gã Hoạt nói đúng, dưới đó rất nhiều cá, hai chúng tôi thi nhau giật câu nhoanh nhoắch quên cả thời gian. Gần trưa được đầy một xô rô đồng và trê ta đen trũi. Tôi bảo: “Cá này thì vất đi chứ ăn sao được?” Gã hàng phố nhăn mặt: “Ông vất đi thì cho tôi. Mình không ăn có người khác ăn, tôi mang ra chợ bao nhiêu cũng hết, mà giá còn bằng cá quả đấy”. Tôi lắc đầu: “Nếu không biết nguồn gốc ở đâu, rô này mà nấu canh cải, trê này mà om mẻ thì còn gì bằng”. Hoạt gật: “Đúng thế, nhưng báo để ông biết: “Mẻ bán ở chợ đầy dòi, chứ không phải sâu mẻ như con mụ bán hàng khô nói đâu”. “Thế mai ta câu ở đâu?” Tôi hỏi nhanh cho quên đi, hình ảnh xác súc vật thối rữa có dòi chợt hiện trong đầu. Gã Hoạt đắc chí: “Cũng chỗ thế này, nhưng ở trong công viên mát lắm. Mấy ngày nữa mới quay lại đây, chứ cá rất khôn cứ câu liên tục, chúng không bắt mồi đâu”.
Tôi theo gã hàng phố đi câu đúng một hôm ấy.
3.
Không như đã nói với con, cuối cùng thì tôi vẫn phải chọn câu lạc bộ dưỡng sinh, để tham gia như một nhu cầu không thể thiếu. Thời gian trôi đi, tôi đã quen với cuộc sống phố thị. Không đi câu với gã Hoạt, nhưng gã lại là người bạn gần gũi và thân thiết nhất, luôn làm tôi phải kinh ngạc vỡ òa về phố xá.
Mới có hơn chục ngày, khu phố có đến ba con nghiện ma túy chết. Trên xe tang đều cài những vòng hoa trắng. Lời điếu giống hệt nhau, có lẽ ông trưởng khu chỉ thay một vài chi tiết cho râu ông nọ khỏi cắm cằm bà kia, vì đời ba con nghiện ngắn quá chưa kịp tạo dựng gì, ngoài dòng trích ngang tên tuổi của mình.
Đám thứ ba, tôi đi đưa tang thì gặp Hoạt. Gã đội chiếc mũ vải rộng vành, phởn phơ như đi hội. Tôi trách:
- Đám tang chứ có phải đám cưới đâu, mà ông hớn hở thế?
Gã lột cái mũ ra lau mồ hôi:
- Thằng này gọi tôi bằng bác, cả họ đã đợi ngày hôm nay sáu năm rồi. Mong cho nó chết bây giờ lại khóc, thì là nước mắt cá sấu, đúng không ông?
Tôi không biết nói thế nào với gã hàng phố, đành phải gật đầu.
Nắng chang chang con đường ra nghĩa địa zích zắc, ngoằn ngoèo chạy giữa hai dãy nhà cao tầng, có chỗ chỉ rộng đủ cái xe tang, đoàn người đi chen chúc như trong chiến hào, nóng hầm hập. Phải đến hơn một giờ, xe tang mới đến được nghĩa địa ở sườn quả đồi thấp, thoáng đãng và lồng lộng gió. Đám tang dừng lại nghỉ trước khi hạ huyệt.
- Ông lên đây tôi bảo. - Gã Hoạt ghé vào tai tôi.
Tôi theo gã ngược lên đỉnh đồi, len lỏi qua những ngôi mộ xây với đủ kích cỡ, kiểu dáng, chật như nêm. Tới khoảng đất vuông có tường bao quanh hai ngôi mộ xây chưa hoàn thiện, Hoạt ngồi xuống luồn tay vào khe hở, kéo ra tấm bia đá:
- Ông xem này.
Tôi nhìn xuống tấm bia màu đen có ảnh của Hoạt và những hàng chữ khắc chìm, bủn rủn cả người. Tôi hỏi:
- Ông đã chết đâu mà phải thế này?
Hoạt cười:
- Vài năm nữa ở đây chỗ chôn đứng cũng chẳng còn, tôi mua đất này quy hoạch cho hai vợ chồng, tầm nhìn đến 2020 đấy.
- Chả bù cho quê. Vợ tôi đang nằm một mình một cánh đồng. - Tôi so sánh.
Gã Hoạt giấu lại cái bia vào khe mộ:
- Nhà quê thì nói làm gì?
4.
Mấy ngày mưa khu phố như cái rốn, nước dồn đến đường hóa thành sông. Tôi đang ngồi một mình thay lô gô trên những chai, lọ mà con dâu mang từ cửa hàng mỹ phẩm của nó về, thì gã Hoạt bì bũm lội sang. Dựa cái ô vào tường, gã nói mát:
- Thì ra có công ăn việc làm, thảo nào kín tiếng thế?
Tôi thành thật:
- Con nó mang về toàn kem với phấn, nói công ty thay lô gô nên nhờ bố lột cũ dán mới, chứ công ăn việc làm gì đâu.
Gã Hoạt cúi xuống nhặt cái tem tôi vừa bóc ra, săm soi, cười mỉm:
- Đúng là gã thợ cày, nó thay tem nhãn khác để bán hàng tồn kho, quá hạn đấy. Ông xem, cái này hết hạn cách đây gần một năm rồi.
Mặt tôi nóng rần rật chắc đã đỏ lên, như tên ăn trộm bị bắt quả tang. Nhưng Hoạt tỉnh bơ:
- Đã buôn bán thì phải thế, áy náy làm gì. - Rồi gã chuyển giọng. - Nghe nói ông đang tính chuyện về quê?
Tôi ngỡ ngàng:
- Ai bảo ông thế?
- Sau hôm cháu tôi mất, thằng Dũng sang tôi nhờ quy hoạch cho ông một chỗ trên đồi nghĩa địa, bảo rằng cho tiện hương khói, nhưng cách đây khoảng ba tháng nó đến xin lại tiền, nói bố cháu không có nhu cầu nữa, thì tôi suy ra thế.
Tôi định nói với gã Hoạt lý do mơ hồ, như đã nói với con trai: “Cáo chết ba năm quay về núi”, nhưng tâm trạng lúc đó lại đang muốn chia sẻ, vả lại gã Hoạt lại rất quái, khó có thể giấu. Nên tôi đành thú nhận:
- Đúng, đang có ý định thế thật.
- Ông chê ở đây cá ô nhiễm, mẻ có dòi chứ gì?
- Đấy không phải là nguyên nhân chính.
- Thế sao đang vui vẻ với con cháu mà lại về? - Gã hàng phố truy đến cùng.
Tôi rót rượu, nâng chén với gã:
- Tại cái giường kê ở chỗ kia đấy. - Tôi chỉ.
Gã Hoạt uống gọn chén rượu, chạy lại chỗ chân cầu thang ngó nghiêng:
- Cái giường đẹp lại chắc chắn, thế mà có ma sao?
- Không. Nhưng ông nằm lên thì khắc biết.
Gã Hoạt nằm lên giường, hết xoay dọc rồi lại xoay ngang, nhận xét:
- Nằm quay đầu vào thì cái trần cầu thang như đè lên mặt, tức tối khó chịu lắm. Còn nằm quay đầu ra thì thoải mái, chẳng làm sao cả.
Không thể diễn đạt bằng lời cho gã hàng phố hiểu được. Ra hiệu cho gã cứ nằm đấy tôi vào nhà tắm cởi hết y phục, quấn cái khăn quanh thắt lưng rồi leo lên cầu thang. Gã hàng phố nhìn lên cười lăn lóc, nước mắt, nước mũi trào ra:
- Hiểu rồi, hiểu rồi. Tôi đã nhìn thấy hết chim cò của ông. Mà nhà ông lại có đến ba người mặc váy. Nhưng thiếu gì chỗ kê?
Tôi không cầm lòng được, giãi bày:
- Khi mới lên, tôi ở cùng phòng với con Huệ, đứa con gái út của vợ chồng thằng Dũng. Nhưng khi cháu thành thiếu nữ, thì không thể ở thế được nữa. Hôm mua thêm cái giường, vợ chồng nó tính đi tính lại, chúng bảo: Nhà, khách ra vào nhiều. Kê ở phòng khách, hoặc phòng ăn sẽ làm đảo lộn kiến trúc, khác gì ngầm đuổi người ta về. Chỉ có kê ở chân cầu thang là tốt nhất. Nên tôi đành chịu.
Gã Hoạt tự rót rượu cho mình:
- Ừ. Đúng là bí thật. Nhà này có tiền của ông, nhưng lại không có chỗ cho ông. Vô lý nhỉ.
5.
Cô con gái trong Huế lại điện ra “Bố đừng ngại gì về tiền nong, vợ chồng con sẽ lo. Theo con bố nên về lần nữa, người ta chẳng nói quá tam ba bận đấy sao”. Nghe con, tôi quyết định về quê lần nữa, với hy vọng sẽ chuộc lại được ngôi nhà. Nắng ong ong, có tiếng sấm ầm ì phía chân trời, báo hiệu cơn mưa sắp đến. Chiếc xe ca lao vun vút, không đầy ba tiếng đồng hồ tôi đã có mặt ở con đường rẽ về làng. Lúa đang thì con gái tỏa hương ngầy ngậy. Sông Đáy hao gầy trơ ra những doi cát mịn màng, lấp lánh. Làng Rạch đổi khác từng ngày, các ngõ nhỏ đều đã bê tông hóa. Tôi ngỡ ngàng trước cái ao ngày xưa của mình, nó không còn lung linh tím ngát sắc hoa như hôm nào. Nước đã ngầu đen, lều bều xác bèo thối nhủn, trên bờ ngập đầy rác thải.
- Chú đã về đấy à?
Không biết ông trưởng họ đứng sau lưng từ lúc nào, tôi giật mình quay lại. Ông ghé vào tai tôi:
- Con gã Tùng thua bạc gần tỷ đồng. Chắc chắn gã phải bán đất này, để trả nợ cho nó. Đây là thời cơ chú chuộc lại, nhưng đừng có dại mà vồ vập, để gã có cớ nâng giá. Nghe tôi, chú cứ phớt lờ, không nói gì đến việc chuộc lại nhà đất nữa. Gã Tùng khắc phải tìm đến chú.
Ông trưởng họ kéo tôi về nhà. Trong tôi trào lên hy vọng, thậm chí còn cả những dự định cho những ngày sẽ về lại ngôi nhà cũ của mình. Tôi chờ một ngày, hai ngày, cố ý đánh tiếng cho gã hàng xóm biết tôi đã về. Nhưng không như ông trưởng họ nói. Gã Tùng không đến. Cùng lúc đó có tin, gã đã gán nhà, đất cũ của tôi cho chủ nợ. Như đứng trên tổ kiến lửa, tôi vội sang nhà gã. Không như mọi lần, gã hàng xóm mặt buồn rười rượi. Tôi đinh ninh tất cả những lời đồn đoán về gia đình gã là đúng, nên nôn nóng hỏi ngay:
- Đã hai lần tôi về xin ông cho chuộc lại nhà, đất, sao bây giờ ông lại bán cho người khác?
Gã Tùng nhìn tôi, đầy vẻ bực bội, móc chùm chìa khóa đặt trước mặt tôi:
- Chìa khóa đây, ông cứ đến đấy ở thử mấy ngày. Nếu thích, ngôi nhà ấy sẽ về lại với ông, chứ chưa muộn đâu.
Tôi sững sờ, không sao hiểu được hành động của gã hàng xóm, mà cũng chẳng dám hỏi. Như người bị thôi miên chỉ còn biết đưa tay với chùm chìa khóa.
6.
Không có từ ngữ nào diễn tả đúng được tâm trạng tôi lúc đó. Mừng mà lại lo, háo hức nhưng ăm ắp hồi hộp, tò mò. Tôi đi như chạy đến ngôi nhà cũ của mình run run mở khóa. Sau tiếng k…ẹ…t… kéo dài cánh cửa mở tung, mùi ẩm mốc, hôi hám phả ra như vừa sả bình ga. Điện đã bị cắt, tôi bước vào nhà mở nốt các cánh cửa còn lại. Trước mắt tôi hiện ra, không phải cái nền nhà, mà là một mảnh đất hoang ngổn ngang xương động vật, lõi ngô, vỏ hoa quả thối mà lũ chuột lôi về. Không chần chừ, tôi bắt tay ngay vào quét dọn, chuẩn bị chỗ ở cho mình. Tối nhập nhoạng công việc cơ bản hoàn tất, tôi sang nhà ông trưởng họ nuốt vội bát cơm, mượn chăn màn và chiếc đèn ắc quy, rồi về lại căn nhà cũ của mình. Đêm đầu tiên có lẽ vì lao động mệt mỏi, nên tôi chìm vào giấc ngủ rất nhanh không hề mộng mị.
Đêm thứ hai, khi ở nhà ông trưởng họ về thì trời đã khuya, vậy mà tôi không sao ngủ được bởi tiếng chuột chạy rình rịch trong nhà. Gần sáng vừa thiếp đi, bỗng có tiếng động làm tôi thức dậy. ánh trăng chiếu qua cửa sổ mờ mờ, tôi xoay người nhìn về phía có tiếng kẽo kẹt như đưa võng. Người tôi tự nhiên lạnh toát cứng đơ, bởi ngay trước mắt hiện ra một bà già tóc bạc trắng tã tượi, đang oằn mình, giãy giụa với sợi dây thừng treo trên xà nhà. Tôi muốn kêu lên mà miệng cứ cứng lại, muốn với cái đèn ắc quy mà tay nặng như đá. Không biết ở trong trạng thái ấy bao lâu, tôi tỉnh lại mồ hôi vã ra, bóng ma biến mất. Thì ra, chỉ là cơn ác mộng.
Đêm thứ ba trăng non, gió mơm man hàng cây vườn nhà xào xạc. Tôi đi ngủ sớm, mong bù lại đêm trước gần như thức trắng. Nhưng ngôi nhà cũ của tôi ban đêm mới thể hiện hết vẻ sôi động, náo nhiệt của nó. Muỗi nhiều như trấu đốt cả qua màn, chuột chạy hàng đàn nô đùa, cắn nhau chí chóe, rồi bất ngờ hàng nghìn, hàng vạn con mối không biết ở đâu chui ra, làm tôi phát hoảng. Canh hai có tiếng gà gáy, lúc ấy tôi đang mơ màng nửa thức, nửa ngủ thì lại có tiếng kẽo kẹt. Căn nhà rung lên, cảnh tượng y hệt đêm qua tái hiện. Rợn cả tóc gáy, không còn hồn vía nào nằm lại, tôi vùng dậy lao ra vội ra sân, bên tai vẫn nghe thấy tiếng ằng ặc của bóng ma treo cổ trên xà nhà. Tôi chạy đến nhà gã hàng xóm, gấp gáp đập cửa. Gã hàng xóm ra mở cửa:
- Thấy ma phải không?
Mặt tôi chắc vẫn còn tái mét:
- Sao ông biết?
- Cả chục đêm tôi ngủ ở đấy, rồi cũng ù té về lúc trời gần sáng thế này. Bây giờ thì ông hiểu, tại sao tôi lại bỏ mặc khu nhà cho người ta đổ rác và chuột mối đến làm tổ rồi chứ?
Tôi gật đầu.
- Thế ông còn muốn chuộc lại nữa không?
Tôi lắc đầu. Gã hàng xóm kéo tôi vào nhà, lý giải:
- Cả làng đã bê tông hóa, chỉ còn ngôi nhà cũ của ông không giống ai lại hợp với chuột, mối, nên chúng tìm đến là lẽ thường thôi.
- Thế còn bóng ma thì ông giải thích thế nào? Thời tôi ở có thế đâu? - Tôi hỏi.
Gã hàng xóm đặt chén nước xuống bàn:
- Sau cái hôm hai anh em mình uống rượu ốc rồi ông đi, khoảng ba bốn ngày, thì có bà cụ bên xóm Đông đến xin thuê cái nhà ấy. Cụ nói: ở tạm mấy tháng trong khi con sửa nhà. Biết bà cụ là mẹ tay Huy, hiện đang là giám đốc sở, nên tôi đồng ý cho bà ở nhờ, mà không phải tiền nong gì cả. Vào thời điểm, cụ đến ở được mươi lăm, mười sáu ngày gì đó, hôm ấy mưa rất to tôi nóng ruột chạy sang. Gọi không thấy cụ thưa, tôi đẩy cửa bước vào. Trước mắt tôi hiện ra cảnh tượng rất rùng rợn. Bà cụ treo cổ thõng thượt trên cái xà nhà, thân xác đã cứng đơ. Người tôi run lên bần bật, loay hoay đến mười lăm phút mới đưa được cụ xuống giường. Khi kéo tấm chăn đắp cho thi thể, tình cờ tôi thấy thư tuyệt mệnh. Trong thư cụ nói, cụ chết để chứng minh, cụ không lấy trộm tiền của vợ chồng Huy cho cô con gái, như vợ Huy nói với dân làng. Tình huống bỗng đổi khác, tôi nghĩ không thể báo công an, mà phải báo cho Huy trước. Tôi khép cửa rồi vội vã chạy sang nhà anh ta. Tôi nói bà đang ốm. Cả nhà Huy ngỡ ngàng, bởi ai cũng nghĩ, bà sang nhà con gái lấy chồng ở xã bên chơi như mọi lần. Tôi đi ô tô về nhà cùng Huy, trên xe chỉ có tôi, lái xe và Huy, tôi thông báo tình trạng thật của bà cụ, nhưng chưa nói đến việc cụ treo cổ. Huy khóc nấc lên. Xe đến cổng không dám đưa Huy vào ngôi nhà ấy, tôi dẫn anh ta về nhà tôi đang ở. Lúc chỉ còn hai người, tôi nói qua đầu đuôi sự việc, và đưa cái thư tuyệt mệnh của bà cụ cho Huy. Huy ngất đi, phải mất khoảng nửa giờ anh ta mới tỉnh. Tôi hỏi: “Bây giờ phải làm thế nào”? Không ngờ lúc ấy Huy lại tỉnh táo đến thế, anh ta bảo: “Hết nhiệm kỳ này tôi lên phó chủ tịch tỉnh, chuyện này mà lộ ra thì hỏng hết, ông hiểu chứ? Bây giờ ông phải giúp tôi: hủy mọi dấu vết treo cổ, tắm rửa sạch sẽ cho cụ rồi đưa ra xe. Ai hỏi thì bảo cụ ốm, người nhà sang đón về, còn mọi việc sau đó là của tôi, không liên quan gì đến ông nữa”.
Gã hàng xóm dừng lại, mở ngăn tủ lấy ra cái phong bì:
- Tôi làm đúng theo ý của Huy. Và đây là số tiền mà anh ta mua sự im lặng của tôi, với câu nói “cảm ơn ông đã giúp đỡ tận tình”. Hôm nay tôi chia cho ông một nửa, để tôi và ông cùng im lặng. Ông phải im lặng không những cho Huy, mà cả cho tôi, vì tôi đang cần gán khu nhà đất ấy cho thằng chủ đề, để trả nợ cho con.
Gã đưa cho tôi cái phong bì, tôi đẩy tay gã ra:
- Với tôi ông không cần phải làm thế.
Biết ở lại sẽ rất khó xử, tôi đẩy cửa ra về.
7.
Gió lành lạnh. Trời vẫn chưa sáng, đường làng vắng lặng, chỉ có ánh trăng hắt cái bóng của tôi xuống mặt đường mờ nhạt, thấp thoáng. Tôi băn khoăn đứng trước lối rẽ mà không biết về đâu? Nhà cũ, thì đang như địa ngục, không đủ cam đảm bước vào. Nhà ông trưởng họ thì cửa đóng then cài và trời còn quá sớm, không dám gây phiền phức? Tôi đành đi lang thang chờ trời sáng, trong đầu đinh ninh ý định. Mai sẽ mang trả gã hàng xóm chùm chìa khóa, rồi về thành phố. Dù có thế nào, nơi ấy vẫn là nơi bình yên nhất của tôi.
Truyện ngắn Lão “Hỳ mặt nạ” của Kim Chuông
25-04-2012 03:07:20 PM
Chuyện xa lắm. Ngày ấy, thuở còn mồ ma giặc Pháp, dân Tẩm Thượng bảo nhau. Thằng Hỳ sinh ra, được thả về sống ở Gò Bơn này là do ông trời đã bày nên trò ấy.
Hỳ họ Vũ, tên thật là Tiếu. Tiếu là cười. Hỳ là âm thanh của cái cười. Cũng là cười! Sự ăn khớp của Hỳ từ vẻ mặt, nét nhìn, giọng nói, tất tật đều toát lên cái cười nom rất “hài và ngộ”.
Hỳ thấp, đậm. Lông mày bên đực, bên cái. Đôi mắt lúc nào cũng háy lên như mỉa mai, cười cợt.
Chả biết, Hỳ, chàng trai có nước da đen suộm, gương mặt hóm kia là con cái nhà ai? Số phận có gì trong khoảng tối cất giấu? Xóm Gò Bơn chỉ biết lỗ mỗ, kể với nhau rằng, Hỳ vì cờ bạc mà khuynh gia bại sản. Từ miền ngược lánh nạn, chạy tản cư về đây, Hỳ cắm lều ở “gốc đa ông Sắn”, thành dân ngụ cư của vùng trại lẻ.
Không tấc đất cắm dùi, không vợ con, quê kiểng. Hằng ngày, trên cánh bãi mênh mông lau lác, người ta thấy Hỳ thường đeo chiếc giỏ lúc lắc bên hông, lao vào bụi cỏ săn cáy, hoặc ngồi lặng với chiếc vó bên ngã ba con đập. Những phiên chợ Râu, Cầu, Lác, Mét với con cua, con cáy hay mẻ cá kiếm được là chiếc phao cứu sống cuộc đời vật vờ, côi lẻ của Hỳ.
Là dân ngụ cư, nhưng Hỳ được người Gò Bơn rất khoái. Hỳ đặc biệt khéo, có duyên trong giao tiếp. Căn lều dưới gốc đa của Hỳ chẳng lúc nào vắng bóng người qua lại. Ai làm đồng, sớm chiều, dù vội mấy cũng phải tạt qua căn lều của Hỳ chốc lát. Họ uống với Hỳ bát nước vối, kéo hơi thuốc lào hay tán gẫu dăm ba chuyện tếu.
Hỳ có tài bịa chuyện. Giọng rỉ rả. Hỳ bắt chước được đủ thứ tiếng. Từ giọng nam cao, nữ thấp, giọng trầm, giọng khàn khàn vịt đực.. Những chuyện Hỳ kể, xem ra chẳng đâu vào đâu. Nhưng qua miệng Hỳ, thật hấp dẫn. Chả thế, có người đã bỏ nhỡ cả buổi cày đồng ngồi nghe Hỳ bịa chuyện. Nhiều cô, dạng “nóng máy” đã thích Hỳ ra mặt. Có lần, vì ghen tuông, ba bốn cô đã túm áo, lôi nhau xuống tận bến sông cãi lộn, dìm nhau. Có người phát hiện, cô Chồi, cô Thướng còn bị Hỳ “thả bùa mê”, thỉnh thoảng lại giấu chồng, dúi cho Hỳ củ khoai, tấm bánh, có khi cả cút rượu để lúc nào cũng chen đám người, ngồi sát vào Hỳ, nài Hỳ ba hoa những chuyện tầm phào, rồi tự sướng mà cười chảy cả hai hàng “vong linh” dàn dụa lên mặt.
Chẳng biết, chàng Ê-dốp giỏi khua lưỡi, chinh phục bà thị trưởng thế nào. Riêng tài “ba hoa” của Hỳ đã choàng lên đời Hỳ tai họa mà cả Gò Bơn này không ai là không biết đến.
Số là, Hoa Mạn, vợ Chánh tổng An Bồ, giàu nứt đố đổ vách. Là vợ một đại địa chủ xinh đẹp, Hoa Mạn chuyên phấn son, ăn diện, “nghiền” các loại tiểu thuyết “dâm thư” như các bà chuyên nghiền trầu thuốc. Trong trò chuyện, Hoa Mạn thỉnh thoảng “đá” một đôi câu tiếng Pháp, mặt vênh lên, nom dáng vẻ rất “cành vàng lá ngọc”.
Vậy mà, một lần, Hoa Mạn đã cho vời Hỳ đến để “mục sở thị” chuyện đồn đại về “tài khua môi uốn lưỡi” đã để lọt vào tai “bà lớn” chuyện chàng trai từ nơi nào về “gốc đa ông Sắn” cắm lều.
Quả tình, ngay buổi đầu xáp mặt. Một phút, hai phút. Khi mặt trời chưa lên khỏi ngọn tre, lúc ngước lên, bóng mặt trời đã gần đứng đỉnh đầu ... Hoa Mạn vẫn ngồi giương đôi mắt long lanh, miệng đớp từng lời, nhìn Hỳ dẫn Hoa Mạn vào mê cung chuyện trên trời, dưới biển.
“Trời, một gã có một kiểu điển trai. Thật đàn ông. Một số kiếp có gì oan khiên đang trú ngụ, ẩn khuất trong Hỳ. Có một mạch nước ngầm với khoảng xanh lấp lánh không dễ thấu tường và nắm cầm ở bóng hình cái con người đang ngồi cách Hoa Mạn chưa đầy gang tấc.” Hoa Mạn chỉ mường tượng và cảm được như vậy. Còn Hoa Mạn, “bà Chánh” Tổng An Bồ đâu biết. Vũ Hắc Hỳ, cái chàng trai lang bạt này cũng là con của một “địa chủ” vùng sơn cước. Nhà Hỳ do cờ bạc mà bại quỵ. Cha Hỳ, một viên quan nhỏ bản địa trót dính vào vụ kiện cáo, tranh chấp liên miên mà chịu thua, để cửa nhà ly tán.
hực tình, đâu cần phải giải thích nhiều. Bằng linh cảm của đàn bà giàu nhạy cảm. Bằng ngọn lửa của con tim đang đốt lên làm Hoa Mạn phát rồ không kìm được. Bằng quyền lực của kẻ giàu sang đang hét ra lửa ở một vùng. Hoa Mạn từ chỗ coi khinh, dọa nạt Hỳ, bỗng lúc nào đã dịu lành, ngọt ngào, mơn trớn… Để rồi, đứng trên thế “bà lớn”, Hoa Mạn sai đám lâu la mang nước nóng cho Hỳ tắm. Lấy quần áo đẹp cho Hỳ vận. Dọn cơm rượu cho Hỳ ăn. Rồi tự tay khóa chặt cửa phòng, Hoa Mạn trút bỏ xiêm y, kéo Hỳ lên giường cùng nhau “mở đấu trường”, làm trận “ngàn năm mịt mù mưa gió”.
“Chánh Lý ư? Chúng là loại cứt. Cái vỏ thối. Xác của những con ngựa giấy.” Hoa Mạn sướng rên, nằm chềnh ềnh trên giường, mắt nhắm tịt, phơi nguyên thân hình trắng ngộn, miệng hét lên câu ấy. “Có những kẻ ngỡ vùi trong xó tối (Hoa Mạn chỉ Hỳ), nó có thể ngồi trên đầu, nhổ bọt vào mặt loại vênh vang, bịp, “sĩ dởm” ấy”.
Trò đời, miếng lạ. Lại ăn vụng. Hoa Mạn say, bắt Hỳ đến nhà, thường xuyên diễn trò “cố sự tân biên”(1) cho sướng “cái mảnh tình”, chỗ thiên địa vui tính đã khéo bày nên trò ấy. Nhưng, ham quá. Việc bại lộ. Nhờ uy “sư tử” của Hoa Mạn chở che trước “cơn lôi đình” của ông Chánh An Bồ vốn nhu nhược trước “phái yếu” mà Hỳ chỉ bị một trận đòn rồi tống cổ, cút xéo khỏi đất làng.
Bỏ đất ngụ cư, Hỳ trốn chạy về một vùng xa lắc. Phải tới hàng thập kỷ biệt tăm. Khi Gò Bơn không mấy ai còn nhớ đến tên Hỳ nữa, người ta bỗng thấy Hỳ vác mặt tìm về xóm lẻ.
“Kìa. Hỳ lều vó”. Hỳ gốc đa ông Sắn” phải không?” Có đôi người nghi hoặc. “Đúng Hỳ rồi. Vẫn dáng người thấp đậm. Da den. Mắt háy lên như trêu ghẹo… Có điều, ngần ấy năm, Hỳ lang bạt phương nào. Vợ con đâu. Sao hắn đi một mình? Trên vai lại gánh cả tầng tầng những sắc màu, toàn mặt nạ, mặt nạ.”
ồ. Đúng Hỳ “gốc đa ông Sắn rồi đó. Vẫn dáng vui, xí xớn. Hai chân đá đưa nom giống “phường chèo”. Hỳ đi trước. Vài tốp trẻ con, có cả người lớn cũng rồng rắn, mặt mày hớn hở chạy theo sau. Hỳ dừng ở ngã ba đường, đứng giữa những vòng người vây kín. Tiếng cười vui ồn ào, náo nhiệt. Tiếng gọi. Tiếng trêu đùa cứ rộ lên như đám hát hay một đám hội hè.
- Này, ông “mặt nạ” ơi! Thằng cười ơi!… Nhiều tiếng gọi Hỳ ríu ran cứ réo lên như thế. - Quan Vân Trường đây à? Đây, chú Tễu nữa phải không? ồ. Ông Trương Phi hả? Hổ hay sư tử đấy. Ôi, múa đi. Múa thử xem nào? Oai quá. Oách quá. Ôi, thật ngộ. Buồn cười quá. Vui quá...
Hỳ cắm cây gậy xuống vệ đường. Những chiếc mặt nạ đủ sắc màu rực rỡ bay lên theo chiều gió. Hỳ đứng lọt giữa tiếng gọi vui rối rít. Hỳ tháo từng chiếc mặt nạ buộc trên cây sào chụp lên mặt mình, huơ chân múa tay, một mình làm nhiều vai diễn. Giọng Hỳ ồm, vang. Mình Hỳ nhập vai. Khi là hổ báo oai phong. Khi là võ tướng. Khi làm “thằng cười”, tay cầm chiếc quạt, mặt bỡn cợt vênh lên, vờ dọa xung quanh... Lũ trẻ con thích chí chạy ré, xô dạt vào nhau. Có đứa trượt chân ngã. Có đứa nghịch, vội nhổm dậy, nhằm chỗ hở, đùa, kéo áo, kéo tay Hỳ. Có đứa giằng lấy chiếc mặt nạ, múa may trêu lại những đứa trẻ khác.
Người xem. Rồi người mua tíu tít. Chỗ này nhạt trò, Hỳ lại thủng thẳng vác gánh mặt nạ đi lòng vòng đến một quãng xa khác. Cắm chiếc gậy buộc lòa xòa những mặt nạ đủ các sắc màu, Hỳ lại độc tấu với nhiều vai diễn đã thuộc làu trong óc. Tụi trẻ vẫn khoái chí bám theo Hỳ từng bước. Lúc nào, quanh Hỳ cũng đông chật những vòng người.
“Nào, cho mua “thằng cười” này”. “Ê, mặt nạ ơi. Mấy đồng ông Ba mươi hẻ? Đầu kỳ lân bao nhiêu?”. “Mẹ ơi. Con thích ông quan võ”. “Bố ơi. Mua cho con chú Tễu này này...”.
Hỳ vừa bán hàng, vừa diễn trò. Mồ hôi trên trán tóa ra ướt đẫm.
Buổi ấy, đã trưa giặt. Khi bán hết mặt nạ, như bao nhiêu lần, mọi người bỗng chốc biến đi đâu hết. Đường làng vắng teo. Một mình Hỳ trơ ra côi cút. Hỳ tìm vào một căn nhà nằm khuất sâu trong lối ngõ nhờ ăn gói cơm nắm qua trưa. Chủ nhà không biết Hỳ là một dân ngụ cư, người cắm lều bên “gốc đa ông Săn” thuở nào. Còn Hỳ, người tìm về Gò Bơn xứ cũ, nơi chứa bao kỷ niệm thuở lang bạt, buồn vui với “bi kịch tình, nhố nhăng” xa ngái. Thì ra, về đây, Hỳ biết, ngày kháng chiến bùng nổ, giữa tranh tối tranh sáng, chánh tổng An Bồ thất thế. Hoa Mạn đã theo chồng trốn chạy vào Nam. Cô Chồi, cô Thướng, người “phải lòng” Hỳ thuở nào giờ đã nên ông, nên bà. Mấy cậu nhỏ chăn trâu, lúc nào cũng quấn lấy Hỳ nay đã xung vào lính, đang lận lội đuổi giặc trên những vùng biên ải. Không ai biết, ngày ấy, rời Gò Bơn trốn đi, trong một trận càn, Hỳ bị giặc bắt lính. Duyên kiếp không chịu buông người có “cái lưỡi Ê-dốp” như Hỳ. Do có tài biến hóa ở mấy đường “khua lưỡi”, Hỳ được vợ “Sếp” đồn Thiết Tranh mê mệt, đòi “Sếp” đưa Hỳ về phục vụ trong bốt. Cú thứ hai trong đời, chẳng những Hỳ đã nhiều lần được vợ “Sếp” lừa chồng, một “viên quan Tây”, cùng nhau làm những trận mây mưa, “lên bờ xuống ruộng”. Thế rồi, một ngày, chẳng hiểu, đấy có phải là sự “giác ngộ” cách mạng hay ý nghĩa cùng có chung cội nguồn nơi quê hương, tổ tiên nòi Việt. Hỳ cũng không tự thức được rõ rệt. Nhưng, một sớm tinh mơ, từ sự “quyến rũ” của Hỳ, vợ Sếp và Hỳ đã làm nội công cho du kích vượt sông, luồn vào bất ngờ phá đồn, cướp bốt. Trận đánh của du kích và bộ đội địa phương giành thắng lợi. Nhưng, đau đớn thay, “vợ Sếp” mà Hỳ nguyện thề rồi sẽ cưu mang, dắt díu, cùng nhau làm “người của muôn sau” đã bị giặc rượt đuổi và bắn chết khi vừa bơi qua sông. Hỳ bị thương nhưng cố mang được xác “người tình” vượt qua bãi ngô. Trong đêm chiến tranh thật căng và u tịch, Hỳ đã lo xong việc “mồ yên mả đẹp” cho người tình, người “lính tân binh” đang trên đường tìm về “đội ngũ những người con trong tình yêu quê hương, đất nước.” Liền đó, mấy năm trời, Hỳ xung vào bộ đội địa phương tham gia đánh giặc khắp các vùng đồng bằng, biên ải. Lạc bóng gia đình. Lạc bóng quê hương. Nhỡ nhàng tuổi xuân. Nhỡ nhàng chuyện tình ngang trái. Bi kịch với buồn vui. Khóc hết nước mắt. Cười cũng hết nước mắt. Rời lính, Hỳ lang thang khắp hội hè, quê kiểng. Và, có lẽ, từ trút bỏ áo lính, rồi ít ngày được mời đi với gánh hát rong, Hỳ đã học được một người chuyên làm những mặt hàng “mặt nạ”. Hỳ thích chơi trò này. “ừ. Duyên kiếp của đời Hỳ, hay là “nghiệp” đó chăng. Hỳ không dám nhìn thẳng vào “gương mặt thật” của đời mình nữa. “Mặt nạ”. Mặt nạ. Là mình. Khác mình và giễu mình. Hay quá. Hỳ nghe lỏm. Mặt nạ có từ triều đại Choson ở Hàn Quốc. Tầng lớp quý tộc Yangban hay thầy cúng Mudang thường mượn mặt nạ để thổ lộ nỗi đau buồn, phẫn uất hay trào phúng, ra oai… Hoedryung, nhân vật truyền thuyết ở làng HahWe là người làm mặt nạ đầu tiên. ở Tàu, “mặt nạ” thịnh hành từ thời “Tam quốc diễn nghĩa”. Rồi, các dân tộc thiểu số ở Châu Phi, Châu Mỹ, người ta đã làm mặt nạ dùng cho các trò diễn, trò tế lễ, trước khi đi săn bắt thú rừng. Trên sân khấu, trong các vai hề, mượn cớ chống lại cường quyền, áp bức, tố cáo thói hư tật xấu đời người. Lấy tiếng cười làm vũ khí tranh đấu, mua vui… “Mặt nạ” đã đi theo đời Hỳ trong tâm tưởng như thế.
Đã mấy năm trời, Hỳ vui và kiếm sống bằng nghề mặt nạ. Hỳ một mình lang bạt du chơi và đem bán khắp miền quê, kẻ chợ, những lễ hội, đình đám tế lễ.
Buổi ấy, sau hàng chục năm biệt tích, không hiểu bước chân dong duổi thế nào đã dẫn Hỳ về Gò Bơn thuở trước. Khi mặt trời đứng bóng, Hỳ đã bán hết gánh mặt nạ trên vai. Tay Hỳ chỉ còn một chiếc gậy chỏng chơ. Như bao nhiêu lần, hết mặt nạ. Chẳng ai thân thiện với Hỳ nữa. “ừ. Hỳ còn gì để cho đám đông rồng rắn đi theo? Đời gã buồn, nhạt toẹt. Một khoảng tối hay ít, dở nhiều. Một dòng nước mắt của một gã đàn ông. Một thân kiếp lạc đường, đi lang thang, lẻ bóng trên mịt mờ mặt đất…”.
Hỳ vừa đi vừa nghĩ. Gã quay lại con đường buổi sáng đi qua, tụi trẻ con vẫn tụ tập đông vui. Hỳ giơ tay hôn gió, giọng véo von: “Chào nhé. Chào nhé”. Bọn trẻ nhìn Hỳ lạnh nhạt. Có đứa ngước lên rồi dửng dưng vùi đầu vào trò chơi đánh đáo. Hỳ gật đầu chào mấy người lớn bên cạnh. Họ cũng chỉ đáp lại Hỳ bằng cái cười nửa miệng, giọng cụt lủn: “Hết mặt nạ rồi hả?”… Rồi quay gót tụt vào lối ngõ.
“ừ. Hết mặt nạ rồi. Chỉ còn cái mặt thật của thằng Hỳ thôi đây! Chán quá phải không? ừ. Chỉ còn thằng Hỳ. Ông Trời sinh ra nó. Từ miền ngược chạy về ngụ cư bên “gốc đa ông Sắn” rồi trốn chạy. Rồi, bây giờ thì lang bạt kỳ hồ với gánh hàng mặt nạ như thế…”.
Không lạ gi sau hàng trăm, hàng ngàn lần diễn ra như vậy. Nhưng hôm nay, không hiểu sao, Hỳ buồn quá, hai chân đi như chạy về phía con đê xa tít. Tới “gốc đa ông Sắn” thuở nào, Hỳ đứng lại, ngửa cổ lên trời cười vang. Tiếng cười của Hỳ vọng mãi vào chân đê, bến nước. Nhưng, lạ thay, sau chuỗi cười vừa dứt, đôi mắt Hỳ bỗng nhòe đi. Hai gò má ướt đầm giọt nước.
Sống với Ôsin" - Ninh Kiều
08-12-2011 03:06:47 PM
Nhà em gái tôi ngày đêm kéo cửa sắt im ỉm. Đóng để ngừa kẻ gian song nắng gió vẫn vào và từ trong nhìn ra thấy thấp thoáng đường phố nhộn nhịp, sau hàng rào hoa ti-gôn màu hồng.
"Nó lấy chồng ở tuốt trong đồng, con Mật, chị còn nhớ không ?"
Tự nhiên tôi quay nhìn ra cửa, nhớ... ôsin.
Khi tôi rời nhà ra sân bay, Mật đứng sau cửa sắt nói vói theo "
cô về lần tới, con còn ở đây mà
", như một lời ước hẹn.
Năm ấy, trong vòng mấy tháng tôi đã làm quen đến…"
bốn ôsin phải không em ?
" Em tôi xoè mấy ngón tay "
Bảy nè, Luyến nè, Bopha nè
", rồi dừng lại ở ngón đeo nhẫn "
Mật là bốn. Chị đi rồi, nó còn ở được với em gần cả năm, sau đó má nó bịnh
…"
*
Bảy làm ôsin trong gia đình em tôi lâu nhất. Khi đến, ba mươi bốn tuổi, chưa chồng, khi rời, ba mươi tám, cũng chưa. Là người đã săn sóc mẹ tôi trong mấy ngày cuối đời không được khoẻ "
con chiêm bao thấy bà về mặc áo dài gấm vàng lúc liệm, bà đứng ở ngưỡng cửa nhìn vào nhà hỏi con sao không bới cơm cho bà. Thiệt tình, bữa đó con quên
…" Bấy nhiêu đó cũng đủ cho tôi nằm trên đi văng, buổi trưa, bên cạnh Bảy ngồi ủi quần áo, để nghe kể đi kể lại những gì đã thuộc làu. Vì chỉ còn có vậy, sót lại, cuối cùng, và sẽ chẳng bao giờ có thêm cái gì mới nữa liên quan đến mẹ tôi.
Kể chuyện chán rồi mở rađio, đài nói tiếng Khmer phát thanh từ Trà Vinh. Nhạc Khmer, có câu hát lập đi lập lại, Bảy dịch "
em hiểu rồi, anh đừng nổi giận
". Tôi bật cười, sao nghe quen quá vậy kìa ! Lúc ấy nhằm tháng tư, Bảy rủ tôi xuống Trà Vinh ăn Tết Khmer "
múa hát, dâng cộ*, vui lắm cô
". Bảy về quê rồi hẹn nay hẹn mai không thấy trở lên nữa. Em tôi gọi điện thoại dỗ dành "
nợ một năm lương, cô không đòi liền đâu
", rồi xoay qua hăm doạ "
tao giữ luôn cái thẻ chứng minh nhân dân của mày cho mày bó chân bó tay
". Cứ mày mày, tao tao, nghe phát sợ. Nói trực tiếp không được, em tôi phải nói chuyện thẳng với người lớn "
bác coi nó bỏ con giữa chừng, cứ trông nó lên, không dám kiếm người thế. Mà chị Hai con bên Pháp lại mới về chơi
… ". Ông già có vẻ là người hiểu biết, sau khi lập lại những lời ông rầy mắng, dạy dỗ con gái sống phải biết điều với người tử tế với mình, ông còn kể chuyện làm ăn không ngóc đầu lên nổi, chuyện ma chay, cưới hỏi trong làng và dĩ nhiên, chuyện bệnh tật. Qua câu chuyện trao đổi, tôi không ngờ em tôi lại can thiệp vào đời tư của gia đình ôsin đến như thế. Thật vậy, ông già nhắc đến ai, không những nó biết mà còn thêm râu thêm ria vào "
một trai một gái đủ rồi, bác bảo nó thôi đẻ nghen. Có ai ở dưới lên, bác kêu ghé chỗ con lấy mấy bộ đồ
…". Trước khi bịn rịn chia tay nhau trên điện thoại, tôi còn nghe nó nói thêm "
lên đi, con dẫn đi khám bướu cổ
". Rồi quay qua giải thích thắc mắc cho tôi "
không phải con Bảy bị mà là dì của nó
".
Vắng ôsin, cả nhà thường kêu mì gõ.
Em tôi nhờ người quen, kiếm được Luyến, người Thái Bình, vào Sài Gòn làm ôsin cho người bác họ gần một năm nay. Con người ăn nói nhỏ nhẻ, lúc nào cũng "
cho con xin
" khi nhận trong tay bất cứ cái gì.
"
Làng con ai cũng biết đọc hết. Bọn trẻ chúng con đều học ít nhất hết lớp năm, cô ạ
", Luyến phân trần khi thấy tôi có vẻ ngạc nhiên nhìn Luyến ngồi đọc tờ báo. Về chuyện đã qua, Luyến tiếc rẻ "
nếu cái hãng nhận con bên Đài Loan không vỡ nợ, không trả con về trước hợp đồng thì con đâu đến nỗi khốn khổ như thế này
". Về chuyện sắp tới, Luyến ước ao "
con ráng làm thêm độ vài năm, trả cho xong nợ nhà băng vì vợ chồng con đã thế chấp căn nhà chúng con đang ở
". Có buổi tối chỉ còn có mỗi tôi và Luyến ở nhà vì chẳng được mời ăn tiệc cưới, bởi lẽ tuy là đất nước mình nhưng vẫn là đất lạ, hoá ra đồng cảnh ngộ, bèn đem mấy tập nhạc tôi mới mua ra hát. Hễ những bản nào trước 65 thì tôi hát, sau 75 thì Luyến hát. Luyến hiền lành, lễ phép nhưng em tôi thường hay bực mình "
pha nước mắm mặn chát như vầy làm sao ăn
". Sáng sáng em tôi phải dậy sớm hơn, lụi cụi gần cả tiếng trong bếp với Luyến "
nhớ chưa, hiểu chưa
" rồi vội vã đi làm. "
Nhà con ăn đơn giản lắm, cô ạ
", Luyến vừa phân trần vừa bối rối nhìn các thức ăn phải kho, phải chiên, phải hầm, nằm bừa bộn trên bàn làm bếp.
Rồi một buổi tối, đã hơn chín giờ, điện thoại reo. Một giọng Bắc đàn ông hỏi cộc lốc "
Luyến ở đây phải không ?
" Luyến đứng bên tôi linh cảm: "
Thôi chết, chồng con rồi !
". Bàn tay Luyến lạnh ngắt khẽ chạm vào cánh tay tôi: "C
ô bảo hộ con, con không có ở đây.
". Giọng người đàn ông trở nên gắt gỏng: "N
gười ta bảo Luyến làm việc ở đây mà.
". Em gái tôi giật cái điện thoại trong tay tôi nói giọng kẻ cả: # A
i đầu dây, người ta là ai, không biết Luyến nào hết !
". Rồi cúp máy. "
Lần sao nó gọi chị đừng trả lời, đưa nó cho em, đồ lếu láo.
".
Những ngày tiếp theo, mỗi khi điện thoại reo, tôi tìm em tôi dáo dác để đưa, còn Luyến thì lo lắng. Tránh riết rồi cũng phải gặp. "
Ai đầu dây, có tên có tuổi thì phải xưng. Chồng cô Luyến hả. Lần sau gọi phải chào hỏi đàng hoàng nghe không ? Tôi cúp máy đừng trách. Đúng, cô Luyến ở đây, vài tháng. Nhà cần người làm gấp. ừ, do bà bác thoả thuận đưa qua. Yên tâm. Tôi đưa cho Luyến nghe đây. Nhớ nói năng lễ độ.
". Càng cảm nhận giọng "
vâng
" mất cường độ bên kia đầu dây, tôi càng lớn tiếng trả bài học thuộc lòng, do em tôi mớm.
Sau vô số tiếng "
vâng ạ
" với chồng, Luyến không che giấu nổi xúc động: "
Hai thằng cu vẫn khoẻ chứ, thế ông bà dạo này thế nào, có vất vả với chúng lắm không ?
".Tôi bỏ vào bếp uống ly nước mát, khi trở ra phòng khách thấy Luyến đưa vạt áo chùi mắt. "
Chồng con nói năng thô lỗ lắm cô ạ, cô tha lỗi cho
". Em tôi về nghe kể lại, nổi đóa: "N
ó ghen đó chị. Bắt vợ phải đi ở với bác, không được làm ôsin nhà khác. Vào Sài Gòn nai lưng ra làm để trả nợ mà còn bị ghen, thiệt khổ cho thân phận đàn bà.
". Tưởng đâu yên chuyện, chỉ vài hôm sau thấy Luyến mặt xanh như tàu lá chuối, tay còn cầm điện thoại. "T
hôi chết con rồi cô ạ, con phải về Bắc ngay, cô em chồng của con vừa mới gọi vào
".
Số là, trong làng của Luyến có một u, sồn sồn bốn mươi, sắp hết đường sinh đẻ, nhân lúc Luyến vắng nhà, tới lui săn sóc chồng Luyến, cốt xin tí giống, may ra có được mụn con để an ủi tuổi già sau này. "
Em chồng của con bảo u này không có ý định chiếm đoạt
", Luyến giải thích và nói thêm "
chồng con bảo cũng không hề có ý bỏ vợ song ông ăn vào rồi ông bỏ đâu
". Thấy tôi có vẻ ngơ ngác, Luyến tiếp: "ý
muốn nói sung sức thì cũng phải có chỗ để giải quyết, cô ạ.
". Nghe xong, tôi thẫn thờ cả buổi.
Suốt mấy ngày liền, cả nhà sôi động bàn mưu tính kế để giải quyết vấn đề rắc rối của ôsin đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt gia đình. Luyến cũng xin phép em tôi gọi ra Bắc nhiều lần, nói chuyện rất lâu với cô em chồng. Gay go là tìm cho ra cách gì để Luyến ở lại làm ôsin mà vẫn đánh bật được U40, dằn mặt được cái thằng "ô
ng ăn vào rồi ông bỏ đâu
". Nhưng Luyến mặt mày cứ tái xanh, buồn rầu, "
con phải về thôi cô ạ. Nợ nần tính sau. Chúng nó có con với nhau rồi, khó tính cho con lắm !
".
Hôm từ giã nhau, tôi tặng cho Luyến cây son có màu đỏ rất quyến rũ. Luyến cầm ngắm ngía khen đẹp rồi đậy nắp trả lại: "C ám ơn cô nhiều nhưng con xin không nhận vì có bao giờ con dùng đến đâu, phí đi cô ạ. Đám cưới con, con có đánh son một lần, chỉ một lần đó thôi
Thế rồi trong những ngày sau đó, cả nhà thay phiên nhau làm ôsin cho đến khi em tôi kiếm được Bopha.
Đặc điểm của Bopha là lúc nào cũng cầm cái nùi giẻ, lau chùi bất kỳ cái gì nằm trong tầm tay, bàn, ghế, tủ, bình hoa… vừa làm vừa kể chuyện đời mình bằng giọng trầm trầm, như người ngoài cuộc kể chuyện người khác "
chồng con nó nằm nhà thương, nó đau. Nó đòi ly dị. Con chịu cho nó vui. Nó đem con gái của con cho người ta rồi. Con đang đi kiếm. Con con mới có bốn tuổi
". Bấy nhiêu sự kiện đến cùng lúc, cho một người, mà người ấy kể lại với một giọng đều đều, không vui không buồn, như người bất lực trước những trở chứng của đất trời, như bàng quan chấp nhận cái gì phải đến sẽ đến.Tôi phải bần thần một lúc mới hiểu ra vấn đề. Da sậm, răng trắng, thân hình gợi nhớ bóng dáng
apsara
trên các phù điêu đền Angkor, Bopha có năng khiếu hoá giảm cường độ bi thảm của mọi sự cố, với thái độ chuyện đâu còn đó, rồi sẽ tính tới, không cần gì phải hấp tấp.
Tôi lại một lần nữa chứng kiến tận mắt cảnh em tôi can thiệp vào nội bộ của gia đình ôsin. "T hằng chồng mày nó điên rồi sao mà đòi ly dị ?
ó muốn thì con chiều. Con vô nhà thương đem cho nó coi giấy con ký rồi
. # Em tôi thở ra: "C
huyện ly dị mà nghe dễ òm. Nhưng còn con nhỏ bốn tuổi mày tính sao ?
" Em tôi biết mình lỡ lời nhưng đã quá muộn. "
Dạ con tính xin cô cho con nghỉ ba ngày, ngày mai con đi Mộc Bài, con có bà con trên đó, con…
" Bopha phác hoạ chương trình đi tìm con dài nhằng, đầy lạc quan như thể đã tìm thì sẽ tìm ra, hôm nay chưa được thì mai sẽ được. Em tôi hỏi vặn hỏi vẹo nhưng lúc nào Bopha cũng đưa ra ngay một phương án để thoát khỏi mê đạo: "C
on của con mà, con đâu có bỏ nó được
". Nhưng tôi không hề đọc được trong đôi mắt kia sự chới với của người mẹ mất con. Rồi Bopha kể chuyện đi thăm con, mấy đứa lớn, chỗ nầy một đứa, chỗ kia một đứa. "C
on tưởng chuyến nầy êm rồi, cưới hỏi đàng hoàng, không như hai lần trước, số con xui.
".
Đêm nằm, tôi chắp vá lại những gì Bopha kể để hiểu rằng Bopha đã có bốn đứa con, ba đứa gởi nuôi bên nội với hai đời chồng trước, một mình xông xáo lên Sài Gòn làm ôsin. "
Nó không nói gì với con hết tự nhiên nó đem con của con cho người ta
", nghe đơn giản như đem cho hàng xóm con chó, con mèo. Không tài nào nhắm mắt ngủ được, tôi đành nằm đợi Sài Gòn thức giấc.
Bopha đi cửa khẩu Mộc Bài về rất khuya. Sáng sớm hôm sau, nghe cửa sắt rít khe khẽ mở ra rồi rên khe khẽ đóng lại. Tôi xuống lầu thấy một người đàn ông dáng cao ráo ngồi trên chiếc ghế đẩu sát sau cửa sắt. Bopha giới thiệu: "A nh Ba gác xưởng may, chỗ con làm hồi trước, bữa nay được nghỉ làm ghé thăm con.
hú ngồi chơi
".
Chú ngồi chơi thật, lặng lẽ nhìn Bopha làm việc nhà, có lúc đứng lên phụ giúp cho đến khi bị đuổi: "A
nh về tắm rửa sạch sẽ đi, tối em ghé.
".
Tối đến, Bopha giải đáp thắc mắc cho em tôi: "A nh Ba này mê con, lúc trước tối nào cũng vô chỗ ghế bố con ngủ trong xưởng may, nói chuyện. Cô đừng lo, chồng con cưới hỏi con đàng hoàng mà còn đòi bỏ con, con đâu có ngu gì đi bước nữa.
Bopha mặc áo đỏ đi rồi, em tôi buột miệng: "C
on Bảy chạy đôn, chạy đáo kiếm một tấm chồng không ra. Bopha thì có thằng nhắc ghế ngồi bên cả ngày. Mới hơn ba mươi tuổi mà đã ba đời chồng. Mà có phải sắc nước hương trời gì cho cam. Nhưng phải công nhận nó có cái gì đó rất quyến rũ, trong phong cách. Đàn ông chết với nó
…"
Rồi Bopha mở cửa rít ba lần cho anh Ba xách dùm va li đi ra, chào trấn an em tôi: "C ô đừng lo, con kiếm được con của con thì con về làm cho cô liền
Trong bốn ôsin, Mật giống Osin gốc trong phim Nhật nhất. Má bầu, mắt hí, miệng nhỏ và nhất là trong phong cách, ần cần, không câu nệ, cầu tiến - "
cô dạy con đi, con ráng nhớ, làm theo
".
Cởi mở, mộc mạc, Mật vui vẻ thú thật ngay phút đầu gặp nhau: " Con không biết đọc biết viết, con không được đi học.
Đã cận ngày tôi trở về Paris, nên tôi không thể tham gia gì vào chương trình vĩ đại được em gái tôi phác hoạ, cho ôsin, để giải quyết hai vấn đề cơ bản, mấu chốt: không chồng và dốt. "
Cái gì không xài, để lâu nó hư. Gái chưa từng chửa đẻ mà toàn phải cắt tử cung, đó chị.
" Nói xong em tôi quay sang nhìn Mật. "
Xoá nạn mù chữ một trăm phần trăm mà không hiểu sao lại chỉ sót có mình mày, đâu mày giải thích cho tao nghe coi, Mật ?
"
*
Bây giờ em tôi nhắc đến Mật, tôi lại nhớ dáng của Mật nổi bật trên nền tường trắng nhà bếp, đầu cắm xuống đất, tay chống hai bên, chân duỗi thẳng dựa tường. Một thế yoga rất khó mà tôi đã dạy cấp tốc cho Mật để chữa bệnh…nhức đầu. Ngực đứng, eo thon, mông nở, đùi chắc nịch, được khen đẹp, Mật hồ hởi: "C on có eo nhờ lau nhà đó cô. Nhà mình nhỏ xíu, lau cái rẹt. Chỗ con làm trước, sáng nào con cũng ba giờ thức dậy, chổng mông lau nhà tới gần năm giờ mới rồi.
Nhưng lần nầy tôi về, Mật đã đi lấy chồng và em tôi đang gọi một công ty dịch vụ kiếm cho một ôsin, gấp. Em tôi nóng nảy: "
Làm ăn gì kỳ cục vậy, gần một tuần mà tìm không ra à ?
". Và nhỏ giọng: "Ô
ng ráng kiếm dùm tôi, kẹt quá, chị Hai bên Pháp mới về…. ừ, cũng được, vài giờ mỗi ngày
". Rồi quay qua tôi, vắn tắt: "C
ông ty dịch vụ chỉ kiếm được ôsin làm ăn giờ, mỗi ngày bốn tiếng
". Và thở ra, mệt mỏi: "S
ố em, thầy tử vi có nói rồi, không có cung nuôi nô bộc.
"
Tôi nhìn em mình, thầm nghĩ: số em vất vả thật, cứ chuyện người biến thành chuyện mình, rồi nóng nảy mày mày, tao tao, nghe chói lỗ tai. Nhưng nghĩ lại vẫn có cái tình, có cái gì sôi nổi của người trong cuộc, đau đớn cho nhau, phẫn nộ vì nhau, ràng buộc giữa con người với nhau.
Tôi về Sài Gòn, nghỉ ngơi, tránh phiền toái, rúc rúc trong nhà, ra đường sợ phức tâm. Mà ở trong nhà thì phải sống với ôsin. Sống còn nhiều hơn sống với người thân. Vì vậy mà một buổi chiều như buổi chiều hôm nay, hai chị em ngồi bên nhau, nhớ ai không nhớ, tôi lại nhớ… ôsin. Nhớ những mảnh đời, như những cây chùm gởi, sống mà không có cái gì thật sự là của mình, do mình định đoạt.
Nhớ Bảy, hai tay ôm song sắt, ngó ra đường. Tướng đẫy đà mà trông héo héo, như cây mất nước. Nó bỏ đi thật, bỏ ông già của nó, quịt luôn một năm nợ tiền công mượn trước, bỏ luôn cái thẻ chứng minh nhân dân, đến nỗi em tôi thiếu điều năn nỉ trả không mà nó vẫn biệt tăm biệt tích. Thỉnh thoảng em tôi còn gọi điện thoại xuống Trà Vinh an ủi ông già: "í t bữa nó bồng con về thăm bác cho coi.
Nhớ Luyến "
vâng ạ
" với chồng, tưởng chừng như đang chứng kiến một cảnh đời trong tiểu thuyết thời Tự Lực văn đoàn.
Nhớ Bopha xua đuổi " anh về tắm rửa sạch sẽ đi, tối em ghé
"
Con Mật bây giờ, như hoa cắm… bãi cứt trâu
", em tôi bực dọc nói tiếp: "Đ
i lấy thằng cha già khú đế chết vợ, hai con. Nuôi bò cho nó, nuôi con cho nó, làm ruộng cho nó, cực thấy... Em dặn con Mật rồi, không đẻ. Đẻ cho nó một đứa là hết đời con gái
". Em tôi mấy lần tổ chức cho Mật trốn lên Sài Gòn, "
ở với cô, cô sẵn sàng, ai chớ mày thì tao lãnh
". Song vẫn có cái gì mạnh hơn, quyến rũ hơn níu kéo Mật ở lại, ở lại cái chốn mà em tôi không ngần ngại gọi là …bãi cứt trâu.
Qua ngày hôm sau, em tôi kể lại cuộc tiếp xúc với ôsin do công ty dịch vụ gởi đến, giọng khó chịu: "E m gặp nó rồi, nhà thì trăm thứ chuyện không tên mà nó hỏi cặn kẽ là làm cái gì. Nó chịu giặt ủi quần áo, quét dọn, rửa chén. Nếu còn thời giờ thì phụ bếp. Em nói thiệt, lỡ bị nóng lạnh không chắc gì nhờ nó, nó chịu cạo gió cho mình, bưng cho mình một ly nước. Em tiếc con Mật…
Ma Núi Rắn” – Nguyễn Đức Lợi
(Truyện ngắn dự thi của Nguyễn Đức Lợi)
08-12-2011 02:28:09 PM
Gần đây, trên Núi Rắn có một đôi rắn chúa, chẳng hiểu từ đâu bò về, cắn chết hai gã lâm tặc dám cả gan chặt trộm sưa đỏ. Mấy nhà làm nương dưới chân núi cũng bị cặp rắn chúa bò xuống, xua ra khỏi rừng. Núi Rắn trước đây quả có nhiều rắn, nhưng toàn hổ mang, trâu, chì, khoang, cạp… . Con to cũng chỉ dăm cân đổ về. Các cụ già bảo, cứ 60 năm rắn lại đổi vùng một lần. Giống như cua đổi càng, sắp có điềm. Điềm đầu tiên là chuyện của bà Khoàng. Vì chồng thích ăn măng dấm nên bà này cả gan men vào bìa nương sắn cũ, dưới chân Núi Rắn tìm hóp. Thường thì người làng gặp cặp rắn chúa vào lúc nắng giữa, hoặc dứt mưa nắng mới. Hôm nay trời nặng mây, chắc rắn không rời hang. Bà Khoàng vừa mon men đến gần bụi hóp, thì một tiếng phì, nghe như lốp ô tô dính răng bừa. Ngửa cổ nhìn lên, hai con rắn to bằng cái cột nhà, đen cháy, nằm vắt từ bụi hóp này sang bụi hóp kia, đầu đong đưa như sắp bổ xuống bà. Bà Khoàng quáng quàng chạy, rồi không biết gì nữa. Tận tối, người nhà tìm đến thì thấy bà nằm ngất giữa cái nương hoang, cứt đái dầm dề. Đã cả năm bà Khoàng không ngủ. Chợp mắt là hét toáng lên, khi thì ngất, khi thì chạy loạn cẳng, rồi chui xó rúc xỉnh. Bà tự dưng sợ tối, sợ rậm và sợ một mình.
Đôi rắn ấy, những người nhìn thấy đồ dễ đến non tạ một con. Cánh nhà báo tỉnh nghe hơi, kéo về Núi Rắn. Có người chụp được hai cái đuôi thò ra từ bụi rậm, có người chạy quăng mất cả máy ảnh… . Nhưng, hàng loạt bài viết kinh hồn vẫn được đăng tải, làm ồn ào cả khu vực. Lâu ngày, chuyện đôi rắn chúa cũng quen tai nếu không có sự mất tích đầy bí ẩn của hai con người, nửa người thì thiếu, nửa ma thì thừa. Đôi rắn trước đây mới chỉ cắn chết người, giờ thì biết ăn thịt người rồi. Có chỗ thấy chiếc dép đầy lỗ như đóng đinh, chắc dùng để chống mồm rắn trong vô vọng. Có nơi thấy bộ quần áo vo viên, dính bết vào nhau như đống phân, chắc con rắn nuốt chửng người, tiêu hóa xong phần xương thịt, còn quần áo thì ỉa ra ngoài…
***
Có rất nhiều lời đồn về hắn. Sau cuộc chiến tranh chống Tàu vài năm, hắn như rơi từ trên trời xuống Núi Rắn định cư. Dân quân xã tưởng hắn là thổ phỉ, lên phương án để đánh, nhưng khi diện kiến, người ta bỗng thất vọng về tên vay danh gián điệp này. Hắn rất giống một nạn nhân đi-ô-xin, nhưng tất cả các bộ phận đều có thừa tác dụng, chứ không thứ gì tàn phế cả. Hắn chỉ nói được duy nhất hai tiếng: Không biết! Vì thế, người ta đặt tên cho hắn là Không Biết. Chẳng ai biết Không Biết sống bằng gì. Một cái nền hang vô sản. Đến lửa còn chưa biết dùng. Có người bỏ mấy ngày đi rình, về khẳng định Không Biết ăn toàn chuột, thằn lằn, rắn, mối… sống. Không Biết là một con người, nhất định thế, cho dù hình vóc có phần sai qui chuẩn. Đầu chỉ bé như một quả cam to, toàn mắt là mắt. Tay chấm cạp quần. Chân thì ngược lại, rất dài, dài gấp ba lần lưng. Có một chuyện lạ là Không Biết biết mặc quần áo, thậm chí còn tươm tất. Áo có rách, quần có rách, nhưng những chỗ cần che đậy, tuyệt nhiên kín đáo. Có vẻ Không Biết cần sống, muốn sống hơn ai hết thì phải. Đấy mới là điều lạ. Không Biết ung dung tự tại mà sống cuộc sống tuyệt đối tự do của mình. Suy cho cùng, trên đời, ngoài cái thú sống đúng với cách mình thích thì chẳng mong mỏi gì hơn. Thế nên khao khát sống là phải. Không Biết biết, mình khi chết sẽ phải chết cô đơn, vất vưởng và hôi thối thì thà sống hoang thú như thế. Thà ăn sống ăn sít mà sống chung sống chiêng như thế.
Về Không Biết chỉ vẻn vẹn vậy. Năm tháng đi, người ra chứng kiến sự gần gũi của Không Biết với dân làng Ngú Háu. Nói là gần gũi cho có hậu, thực ra, chẳng ai dám đến gần, mà Không Biết cũng chẳng đến gần ai. Chính quyền thỉnh thoảng làm nhiệm vụ rà soát nhân khẩu, tìm lên quả núi cao ngất ngư và rậm ngút ngát gặp Không Biết. Chẳng biết từ bao giờ, Không Biết có hộ khẩu ở làng Ngú Háu, xã Ngú Khiêu. Có người trách chính quyền quan liêu, có người lại cho đó là hợp lẽ. Dịp bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, chính quyền cãi nhau như xé vải về trường hợp của Không Biết. Có ý kiến liệt Không Biết vào danh sách những người không đủ tư cách bỏ phiếu. Có người lại nói Không Biết hoàn toàn khỏe mạnh, hội tụ mọi điều kiện để thực thi quyền công dân. Không biết, chưa biết thì cán bộ tổ bầu cử được phân công phải hướng dẫn, giải thích. Nếu không làm thế, có mà thụt chỉ tiêu à.
Từ xa xưa, cả Ngú Háu lẫn những làng lân cận, rất ít người dám lên Núi Rắn, trừ một vài tay bắt rắn chuyên nghiệp. Rắn ở Núi Rắn rất nhiều, nhưng không có con to, không có con ăn thịt người. Cắn người phải cấp cứu thì vô kể, nhưng rặt không ai tử vong vì Ngú Háu có một thầy lang chữa rắn cắn nức tiếng. Mấy tay thợ săn, không hiểu dùng cách gì, bắt hàng vạn con rắn trên Núi Rắn, bán xuống thành phố ngâm rượu, làm chả. Từ ngày Không Biết về Núi Rắn, mấy tay thợ rắn bỏ đi tìm rắn ở vùng rừng khác. Họ bảo, giờ đến con rắn bao tử cũng chẳng còn, thằng quỉ người bắt ăn sạch rồi.
***
Ở cuối làng Ngú Háu có một ngôi nhà sàn nhỏ. Đúng hơn chỉ là một túp lều, một cái lán nương. Chủ lều là một phụ nữ trạc bốn mươi. Người phụ nữ có đôi mắt nâu, ướt át và gọi rủ đến nao lòng. Nói thế nhưng cả làng Ngú Háu và những làng khác, chẳng ai gặp, chẳng ai gần người ấy bao giờ. Cũng chẳng ai nghe thấy người ấy nói. Gần ba mươi năm, người ấy đã không nói. Những người mới đến hay các thế hệ sau không biết, gọi luôn là Con Câm. Con Câm lầm lũi cấy hái trên một vuông đất nhất định, rồi tự ốm, tự khỏi, tự no, tự đói. Thỉnh thoảng bỏ đi, hình như là để sắm sáp những thứ phục vụ cho cuộc sống.
Trên khuôn mặt trắng hồng của Con Câm có một vết sẹo. Một vài người già biết chuyện thuật lại, hồi Con Câm 13 tuổi, một thanh niên đã phát hiện ra nó là ma cà rồng. Thế là bọn trai làng dùng ngoé nướng dụ Con Câm ra rừng đập chết. Lúc Con Câm thoi thóp, bỗng xuất hiện một tốp lính trinh sát của ta hành quân về phía biên giới Việt - Trung. Họ xin cho Con Câm được sống, và dựng cho cô gái một túp lều trong rừng. Bây giờ, dân số ngày một đông, đất không đủ, người ta kéo cư dài về phía rừng nên túp lều của Con Câm cũng chỉ còn cách làng non cây số. Vết sẹo trên mặt Con Câm là do một thanh niên dùng dao rạch, đánh dấu không cho trà trộn với con người. Đã hai mươi bảy năm, người ta quên sự có mặt của Con Câm trong cư thôn. Kể cả dịp bầu cử, tuyệt không ai nhắc tới. Họ coi như Con Câm đã chết, hoặc là chưa từng có. Một sự hắt hủi cổ quái, Con Câm mà là người khác, thà chết quách đi, dù có cô đơn, vất vưởng và thối tha!
Hỏi các cụ già về bố mẹ, người thân của “con ma cà rồng” ấy, họ chỉ đến nhà già Miên, nhưng ông này lại bảo, ông ta chưa từng đẻ ra một đứa con gái nào. Cô gái ma cà rồng mặc dù đã bốn mươi, nhưng nét xuân thì vẫn lấp lánh quanh mấy nếp ưu tư lờ mờ trên trán, trên đuôi mắt. Đôi môi vẫn đỏ như gái dậy thì. Nhiều cụ già xác nhận, Con Câm từng xinh nhất vùng. Xinh như một con ma, người thường không ai lại xinh đến mụ mị hồn vía người khác như thế được. Người ta bảo, nếu không gạch mặt Con Câm thì cả cái làng này, xã này, huyện này con gái ế chồng hết. Trai trong chí ngoài, cứ bu quanh Con Câm như bầy kiến bu quanh bọng mật. Các nhà có con gái, tịnh không một tiếng chó sủa. Con Câm bị vạch mặt, làng xóm bình quân ngay.
Con Câm không nói nhưng lại biết thổi kèn lá. Đêm đêm, tiếng kèn lá cất lên thê lương cả một góc rừng. Nhiều giấc ngủ chập chờn ma mị, chực mò đến đốt quách cái lán ấy đi, nhưng ra ngoài nhà lại quay vào. Da gà cứ trộn vào giác quan, rờn rợn. Từ ngày Không Biết về núi, không ai nghe thấy tiếng kèn lá của Con Câm nữa. Thường thì Con Câm lánh mắt dân làng, nên có khi mấy năm trời chẳng ai thấy. Họ chỉ biết mảnh nương nhỏ của Con Câm vẫn có một bàn tay gieo cấy, chăm chút, thu hoạch. Con Câm luôn chọn thời điểm người làng chưa đi, và đã nghỉ mới lam làm. Có khi phát dọn cả đêm trăng.
***
Một tối cuối tháng đen như trong chõ. Tiếng kèn lá từ trong lều Con Câm vọng ra rứt gan rứt ruột. Quá nửa đêm, tiếng kèn như héo, như rách. Chiếc lá rụng khỏi môi chưa lâu thì có tiếng gõ cửa. Con Câm ngồi thu vào góc nhà, giương đôi mắt nhợt nhạt ra làm vũ khí. Tiếng đàn ông cất lên ngoào ngoào: “Có phải ma cà rồng không? Có phải em không?”. Xó nhà câm lặng. Giọng đàn ông bất ngờ đổi cung: “Đúng là em rồi, ma cà rồng ạ. Đằng sau vết sẹo ấy!”. Xó nhà vang lên tiếng giậm chân nhịp 5 - 4 - 3 như chó cắn hổ. Căn lều rung lên tựa có bão. Giọng đàn ông ngân ngấn trôi xuống thang sàn: “Em đuổi anh cũng đừng như thế, đau chân đấy, ma cà rồng ạ”. Trên nhà, vẫn “chó” sủa nhịp 5 - 4 - 3, sầm sập, sầm sập. Hôm sau, giọng đàn ông lại cất lên hi vọng, ngoài liếp cửa: “Ngoan ơi, đừng nói bằng chân nữa, hãy nói bằng mồm thôi…”. “Ngoan ơi, đừng sợ, người tựa vai người, ma gối tay ma…!”. Giậm chân giảm xuống một bậc, 4 - 4 - 3, như chó cắn gấu. Tiếng thì thào cứ lục tục đến, lục tục về, cả năm như thế: “Ngoan nói gì đi, đừng để xà cột nghe đến biết cả tiếng con người rồi”… . Tiếng giậm chân giảm xuống nữa, vừa thưa vừa nhẹ dần dữ dội theo nhịp chó sủa hoẵng 3 - 3 - 1; rồi chó đuổi cáo: 2 - 2 - 1; và cuối cùng là chó vồ gà 1 - 1 - 1.
Dù chưa mở cửa, nhưng lòng Ngoan đã tháo gióng. Cái mùi khen khét, thôi thối như mùi trứng ung; cái giọng meo méo, nhài nhại xuyên qua liếp gianh làm Ngoan bớt ngủ, bớt ăn ngày càng dày. Nhiều lúc Ngoan muốn nói, nhưng lâu quá rồi, lưỡi như dính vào răng, nhai thì dễ, mà nói không ra. Ngoan tìm đến thác Ngú Sập, hát vào nước, nói vào nước, nhưng ngay cả Ngoan cũng chẳng hiểu mình hát gì, nói gì. Tiếng con người rơi khỏi tai, chui ra khỏi lưỡi gần ba chục mùa nương rồi, gọi nó quay lại mãi mà không nổi.
Đã mười mấy chuyến con trăng đến rồi đi xa tận bên kia chân trời, giọng đàn ông đến rồi về, cũng như con trăng cần mẫn, định kì và dứt khoát. Lâu rồi, người ấy không chỉ đem giọng nói nhơn nhớt đến, mà khi thì cái măng, cù mài, nắm rau sắng, ống mật ong, con chồn, con don… . Hơn năm trời, Ngoan cố nhòm vào đen thẳm, đồn đoán vì sao lại có con người muốn làm bạn với ma? Mà anh ta ở đâu? Sao lại biết tên, biết chính xác ngày Ngoan bị bọn “trai người” hành quyết? Chẳng biết nữa, thôi, kệ. Ngoan đã đón nhận tất cả quà rừng thay cho đón nhận chủ nhân của nó. Từ bao giờ, giọng đàn ông đã trở thành người thương, người nhớ. Rồi đến một hôm, sau câu hỏi “Anh đạp vách nhé?” thì cỏ cây, chim chóc đã nghe thấy tiếng Con Câm:
- Chưa được đâu?
- Vì sao?
- Sợ!
- Sợ gì?
- Sợ người!
- Không phải người đâu, là ma.
- Ma ở mường nào?
- Trên Núi Rắn.
Cánh cửa bật ra, từ phía không trung ập vào một bóng người cao lớn, đầu bé như quả cam lai bưởi. Ngoan chững lại, lùi giật vào góc nhà. Không Biết đưa ra chiếc vòng bạc khảm thạch dạ quang, ánh lên xanh lét trong đêm:
- Em còn nhớ cái này không?
- Không, chỉ quen.
- Của em mà.
- Không phải.
- Đúng đấy, em xem đi, cả tên em mà.
- Tặng bộ đội lâu rồi.
- Anh là bộ đội đây.
- Không phải, bộ đội đầu to, tay dài, chân ngắn.
- Anh bị thương, ruột gan (hoóc môn) thay đổi, thành thế. Anh là ma, như Ngoan.
- Thật không? Thật như bộ đội về làng không?
- Thật!
***
Đã vài năm sau khi cặp rắn chúa về Núi Rắn, cả Không Biết và Con Câm đều mất tích một cách bí ẩn. Không dấu vết gì cho thấy, hai con người ấy còn sống. Mảnh nương nhỏ của Con Câm bỏ hoang đã năm vụ rồi. Trên Núi Rắn cũng không còn sợi khói mong manh, rời rạc và đứt bữa mỗi chiều. Không nghe tiếng chặt cây, chẻ củi, tiếng hú rợn đêm nữa. Một vài người có tư tưởng tiến bộ, chắp hai bàn tay trắng, vái trộm mấy cái vào trời xanh: “Cầu cho hai linh hồn ma quái được siêu thoát. Kiếp sau, xin chớ làm người!”.
Cặp rắn chúa trên Núi Rắn đã lan danh khắp nước. Những tốp bắt rắn chuyên nghiệp lũ lượt kéo về Ngú Háu. Lâu lâu, lại có một chiếc xe sang trọng, chở những ông bụng to đến, đấu giá mua đôi rắn lên tới 200 triệu. Nhóm thần rắn Hươi “cỏi ngú” nhận cái hợp đồng ấy đầu tiên. Hươi “cỏi ngú” vốn là dân Ngú Háu, từ ngày Núi Rắn hết rắn, hắn dạt sang khu Đông Bắc kiếm ăn. Nghe tiếng mồi là tức tốc quay về với hi vọng thông lâm thạo thổ, sớm có thành quả. Nhóm Hươi “cỏi ngú” chụm đầu tính toán, 200 triệu ấy, với nguồn rắn ngày nay, phải bằng năm năm chui rúc. Các tốp khác nghe ngóng sự chết chóc vọng xuống từ Núi Rắn rồi quyết định nhường chỗ cho thần rắn Hươi “cỏi ngú”… chết tiên phong. Thần rắn Hươi “cỏi ngú” cùng hai học trò chuẩn bị rất kĩ. Ống thuốc giấu - một loại dây rừng bí truyền, được giã nát, chế thêm vài loại nước cốt khác, thành thứ thuốc khiến rắn sợ cứng cả hàm, không há ra để cắn được nữa - dao đi rừng, bật lửa, dây chão, tăng bạt, thực phẩm… . Nhóm Hươi “cỏi ngú” lên núi được chừng 5 tiếng, người ta thấy hai tên đàn em thần rắn hồng hộc chạy về, nói hắt ra: “Thầy Hươi bị nuốt rồi… mồm nó (con rắn chúa) to như cái cửa nhà… . Thầy ơi… từ nay bọn em lấy đâu ra gỏi rắn mà ăn nữa… hả thầy…”. Dân quân xã Ngú Khiêu súng ống đai đạn lên Núi Rắn tìm xác thần rắn Hươi “cỏi ngú”. Đến đầu rừng, người ta thấy một thi thể nát nhừ, vỡ, rách, tím mọng. Hai gã học trò cũng chỉ nhận ra thầy qua quần áo. Cái ống thuốc vỡ tan, nước thuốc, nước dãi rắn nhớp nháp đầy người thần rắn: “May mà có ống thuốc gia truyền, không thì nó ăn gỏi thầy”. Một tên run cầm cập nói, rồi cả hai bỏ lại nấm mồ chưa phai hơi đất và cái hợp đồng béo bở, ra đi biệt dạng.
Vị đại gia đứng đầu câu lạc bộ 100.000 tỉ là người vào Núi Rắn cuối cùng, và cũng cắm lại lâu nhất. Vị này treo đôi rắn chúa 500 triệu cho ai bắt sống, 200 triệu bắn, bẫy hoặc đập chết. Có hàng chục tốp bắt rắn chuyên nghiệp đổ về, có cả tốp Đại Sát ở rừng U Minh ra với hi vọng diện kiến, may mắn hơn là tóm cổ được đôi rắn gây tiếng vang khắp nước này. Kể cả thế, hàng chục tốp, có khi bỏ cuộc ngay lần đầu nghe tin xấu, có khi tháo chạy thục mạng, người bị thương do tự va đập vào cây, vào đá; kẻ bỏ mạng với một câu chuyện hiện trường và tình trạng tử thi tương tự như thần rắn Hươi.
Đại Sát là toán cuối cùng muốn thử sức với “thần sát” Núi Rắn. Toán này mang theo máy phát điện; máy phát sóng siêu âm để giả giọng rắn; máy phóng tia tử ngoại, nhẹ thì thôi miên nặng thì tiêu diệt; súng bắn đạn điện và gậy kẹp điện chuyên dụng… . Cuối cùng, kết cục chẳng hơn gì các tốp trước. Năm thành viên toán ấy đạp lên nhau mà chạy. Ỉa đái cả ra quần. Có kẻ bỗng điên dở, dại dở. Một tên tỉnh táo thuật lại, khi toán Đại Sát lên đến cửa rừng, toán trưởng Hùng “hổ chúa”, làm lễ một cặp gà trống sống, rượu, thịt lợn sấn, và hoa quả. Hương cháy đẹp lắm, toán trưởng ngửa cổ lên trời khấn những điều quen thuộc rồi quay lại bảo đàn em: “Không lí gì thất bại!”. Toán Đại Sát phấn khởi leo lên núi, đến lưng chừng, nơi có vũng nước Nồi Luộc (Mỏ Tổm) thì bất ngờ nhìn thấy hai thân cây đi động. Mới đầu, ai cũng tưởng do leo núi nên hoa mắt. Nhưng chưa kịp định hình, hai thân cây to cỡ thùng phuy tiến ào ào tới. Trong tư thế dựng đứng, cao trên chục mét, chỉ có đuôi là chấm đất. Hai thân rắn lớn vừa chặn mũi toán Đại Sát, vừa rít gió ầm ầm như bão táp. Chẳng ai bảo ai, vứt tất lại, rồi mạnh chân bằng nào, chạy, nhẩy, lộn, lăn xuống núi bằng nấy.
Vị đại gia nghe xong, mặt buồn như gà trống độc thân. Ông ta không bỏ đi, mà cứ ra vào cái trại dã chiến, bên cạnh là chiếc “bóng ma đen” hiệu Rolls Royce Phantom, trên nóc gắn cả chảo truyền hình ĐTH, chảo tiếp sóng di động vệ tinh, Tivi 3G… . Ban ngày, ông ta lân la vào các nhà nghe ngóng chuyện về đôi rắn, ban đêm, nằm xem ti vi và nắm bắt công việc tập đoàn Toàn Cầu qua sóng vệ tinh; chỉ đạo bằng điện thoại di động giữa vùng đèn dầu, mái lá. Mấy ngày sau, có người nghe lỏm được chuyện vị đại gia nói với tay tùy tùng:
- Đôi rắn này không thể chinh phục.
- Vì sao?
- Nhờ câu chuyện cuối cùng của toán Đại Sát. Rắn chúa cũng dựng người, nhưng chỉ một phần ba cơ thể.
- Thế thì đôi rắn ấy, cùng lắm cũng chỉ cao 3 - 4 mét?
- Đúng thế. Chỉ có một giả thiết.
- Không có thật?
- Có thật.
- Vậy là con gì?
- Là tinh rắn. Hàng vạn con rắn trên Núi Rắn bị giết chết đã hợp hồn, rồi kết tinh lại thành một con Xà Tinh, có thật, nhưng không thể bắt, giết. Nó vẫn ăn thịt người và súc vật, nhưng là ăn phần hồn.
- Vậy, những vật chứng như trong cứt nó có quần áo, giày dép, ví tiền…?
- Thế mới cần nghe ngóng thật kĩ, có thể phải trực tiếp diện kiến.
- Giống như con Xà Tinh to như cái thuyền, dài như cái cầu mà thiên hạ đồn ở làng Lệ Mật, nó ẩn dưới sông Hồng, đêm đêm mò vào làng bắt súc vật, thậm chí cả người?
- Không phải đồn, mà có thật. Chính tổ ta là thần rắn Lệ Mật, nên ta biết chuyện đó có thật. Ai cũng nhìn thấy, nhưng không chứng minh được. Người và súc vật vẫn mất tích. Chà! Ước gì có ai lí giải được chuyện thần bí này.
Hai ngày sau người ta thấy vị đại gia một mình lên Núi Rắn. Một ngày. Hai ngày. Ba ngày. Đến ngày thứ tư, ông ta quay về trong sự an lòng của tên tùy tùng. Sau chuyến đi ấy, ông ta chuyển sang mua thứ khác, vẫn giá bằng đấy, nhưng dứt khoát là bắt sống chứ không được giết chết. Chuyện này có vẻ dễ làm, không nguy hại gì đến tính mạng. Cả làng Ngú Háu theo đuổi hợp đồng. Chỉ có điều, sợ không còn nữa mà bắt.
***
Vị đại gia dạy cho những toán săn thú mới một câu chú tổ truyền tránh đụng đầu Xà Tinh. Thần tình thật. Từ đó, người ta làm lễ rồi lên Núi Rắn mà không hề thấy bóng dáng đôi rắn chúa đâu nữa. Câu thần chú cấm kị động vào loài rắn, và phải lễ no cho Xà Tinh đã. Vậy là người ta bình yên chui rúc trên Núi Rắn như đi lại trong nhà. Hàng trăm người lùng sục khắp hang cùng khe hẻm của Núi Rắn mà không thấy tăm hơi con mồi 500 triệu đâu. Một tuần. Mười ngày. Nửa tháng. Bóng thần tài của họ vẫn không để lại một dấu vết. Tay tùy tùng thắc mắc:
- Hay là rắn khổng lồ thật?
- Là Xà Tinh thôi.
- Vậy thì đôi nửa ma nửa người ấy đâu?
- Chắc chúng lẻn sang một vùng khác, nhưng không xa. Cứ cho mở rộng phạm vi tìm kiếm.
- Em hỏi thật sếp, sếp mua đôi ngợm ấy về làm gì?
- Sinh vật cảnh.
- Chúng là người cơ mà, bề ngoài ấy, mà chăm người thì bất hợp pháp.
- Yên tâm đi, ta đã lách luật xong rồi.
- Nghĩa là…?
- Thiết kế một khu “chuồng” mang tầm vóc “điểm du lịch” với đầy đủ bài trí siêu vật cảnh theo khuôn mẫu, không gian của con người, rồi tạo điều kiện đế vương cho chúng ở, sinh sôi, trên danh nghĩa… công nhân.
- Bái phục sếp! Em đã chứng kiến nhiều tài ba của sếp, nhưng lần này mới dám khen vượt đèn đỏ. Sếp quả là thần nhân chứ không phải thuần nhân. Lúc ấy, bạn bè thượng giới tham quan dinh thự, sẽ phải ngả mũ trước phong cách đại đẳng - thú chơi… ma - một kỉ lục guiness(!)
- Ha ha ha…
***
Hai đứa trẻ sinh đôi, một trai một gái, độ 4 tuổi, nô nhau thoăn thoắt trên đỉnh đá. Thỉnh thoảng, chúng đu lên cành những cây dâu da, cây thanh mai, hái quả ăn ngau ngáu như loài linh trưởng thực thụ. Mẹ chúng - người đàn bà có vết sẹo dài trên má trái, nhìn theo cười mãn nguyện:
- Đúng là lũ quỉ con.
Người đàn ông có thân hình bon sai cũng cười.
- Thì chúng vốn là ma mà.
Dưới chân Núi Rắn, tiếng cười của vị đại gia - Chủ nhiệm câu lạc bộ 100.000 tỉ - còn to và dõng dạc hơn:
- Ha ha ha… Ha ha ha!
Ngay bên ngôi nhà lợp bằng lá chuối, đôi rắn hổ mang chúa, mỗi con dài chừng 7 mét, nặng trên 2 chục kí, nằm quấn vào nhau hiền từ. Thỉnh thoảng, chúng ngớn bụng lên, nghiêng tai xuống gon lá rụng được vun đắp một cách tự nhiên, nhưng rất cẩn thân và khéo léo, ngay dưới bụng, nghe những âm thanh siêu vi vọng ra. Những đứa con của chúng đang cựa quậy. Tiếng cựa quậy tuy nhỏ, nhưng mang đủ năng lượng để cấu thành bão tố. Tiếng cựa quậy cũng hồ hởi, hồn nhiên như những đứa trẻ con, ung dung chờ ngày nhìn thấy thứ ánh sáng đầu tiên, mơn man, dịu dàng và thanh bình trên Núi Rắn.
Bồ Tát thị hiện” – Ngô Khắc Tài
Bảy mươi hai tuổi chị Liên lặng lẽ ra đi. Chiều mưa cầm chỉnh lại cúp điện, đám ma nhà nghèo buồn không được mấy người đến tiễn, gặp mưa càng thêm hiu quạnh, mọi người ngồi trong ánh sáng của những ngọn đèn cầy lập loè gắn trên nóc quan tài. Kể ra cô Liên còn có phước – Một người nói vậy. Nhưng người chết đâu có nghe hay chỉ có người sống nói với nhau. Dường như câu nói ấy dành cho gia đình tôi vì đã lo lắng cho chị Liên. Tôi nhớ kỹ chi tiết đám tang, cũng như thời gian chị Liên sống lại với vợ chồng mình đúng tám năm bốn tháng, mấy ngày nữa được năm tháng. Sở dĩ tôi nhớ, chỉ vì đời người được cấu tạo từng khoảng thời gian dài ngắn cộng lại. Trong đó nó gồm có những khoảng đôi ba ngày đi chơi ngủ lại nhà người nào đó, thí dụ như vậy rất là dễ quên. Nhưng quên lại thành ra kẻ vô tình, cuối cùng một ngày ngồi tính số đời vẫn không biết mình sống như thế nào, cuộc đời hoang phí hay là tốt đẹp, vì thế tôi nhớ rất rõ thời gian tám năm bốn tháng… từ cảm giác khó chịu buổi ban đầu, tự nhiên nhà mình có một người lạ đến ở làm thay đổi mọi thói quen, đến tình cảm quyến luyến không rời, như chiếc áo cũ tôi mặc đã quen thay áo mới thấy lạ lẫm. Vắng chị Liên bỗng dưng tôi cảm thấy hụt hẫng thế mới là chuyện lạ. Nhưng chị là ai? Người ta có mấy loại người, điểm lại những khuôn mặt đã gặp trong xã hội, tôi thật không biết xếp chị vô thứ hạng nào. Chị là người bình thường hay là người mà trí tưởng tượng của tôi chẳng thể hình dung. Có phải chị là… Bồ Tát thị hiện?
Cha nội, đừng ăn nói ba sàm, lộng ngôn. Phật tức tâm tâm tức Phật, nói thế nghe được, nhưng không thể ai cũng là Bồ Tát. Vả lại, Bồ Tát dù cho xuất hiện trước mặt tôi cũng khó lòng nhận ra. Hơn nữa, Bồ Tát, ngài luôn an trú trong định. Lắm khi ta cũng gặp Bồ Tát giả với khuôn mặt đắm chìm như nhập định nhưng rồi cuối cùng vẫn phân biệt được. Vì ánh sáng của Bồ Tát là ánh sáng từ dưới đáy giếng sâu chiếu ngược lên gọi là tỉnh quang, tịch quang. Bồ Tát ngài dửng dưng trước những tham lợi cuộc đời, ngài bằng lòng mọi hoàn cảnh, sống với mọi hoàn cảnh, chuyển hoá được hoàn cảnh. Người nào có duyên gặp Bồ Tát lập tức cuộc sống của họ hoàn toàn thay đổi.
Cho chị Liên là Bồ Tát thị hiện, như vậy cuộc sống tôi phải có thay đổi mà thật sự tôi thay đổi không, không biết, vậy nên chị chẳng phải Bồ Tát. Không phải Bồ Tát thế chị Liên là ai?
*
Câu chuyện khá dài bắt đầu như thế này. Bốn mươi năm trước gia đình bên vợ tôi rất nghèo, làm nghề hàng sáo mua lúa xay gạo về bán từ chợ này qua chợ kia. Chợ Long Xuyên lúc đó còn lụp xụp ẩm thấp, những căn phố cũ kỹ xây bằng ô dước với cốt bằng tre có đâu từ thời Tây… còn ăn trầu. Vậy mà bên vợ không đủ tiền mướn căn phố phải rủ gia đình thứ hai ở chung để chia tiền nhà ra. Bên vợ tôi ở tầng dưới, gia đình chị Liên ở tầng trên, hai bên coi như một nhà, hằng ngày ra vào đụng mặt. Ba chị Liên sống với nghề bán hủ tiếu, mì dạo, gọi khách bằng hai thanh tre gõ lốc cốc gọi là bán mì gõ. Chị Liên lớn hơn vợ tôi mười tuổi. Phố nghèo, người lớn bận việc mua bán, đám con nít như được thả lang thang rong chơi, lúc nào đói bụng mới chịu mò về nhà ăn cơm rồi tiếp tục ra đường. Suốt ngày vợ tôi lẽo đẽo đi sau lưng chị Liên, mà đi đâu? Thật ra là có đi đâu. Buổi sáng chị Liên ngồi ở nhà cán mì, vợ tôi ngồi theo một bên phá phách dọc bột. Buổi trưa ông già chị Liên đẩy xe hủ tiếu ra đường, chị Liên đi theo cầm hai thanh tre gõ lốc cốc chào hàng. Vợ tôi lẽo đẽo đi theo phía sau đợi lúc chị Liên bận phụ ba mình thì cầm hai thanh tre gõ cho vui.
Tỉnh lẻ những buổi trưa phố xá êm ả, đêm xuống đèn đóm lù mu, phố xá thật buồn hiu nếu như không có những âm thanh lốc cốc nghe vui tai của hủ tiếu, mì dạo. Và tất cả rồi đã tạo thành ấn tượng buổi đầu đời sâu nặng kết thành tình chị em về sau. Chắc cũng còn nhiều kỷ niệm khác nữa giữa họ chứ không phải chỉ bấy nhiêu nhưng điều tôi biết đại khái nó là như vậy.
Vợ tôi đi học muộn nhưng lại ham học, biết thân phận con nhà nghèo, lúc này cô không còn lang thang rong chơi. Đi học về ngồi sàng gạo tiếp gia đình rồi đội gạo đến bỏ mối từng nhà. Sau này cô thi vô sư phạm Vĩnh Long, gia đình thì chuyển lên Sài Gòn. Ra trường trở thành giáo viên cô vẫn ở lại Long Xuyên, sống một mình, sau đó gặp tôi, rồi hai đứa gá nghĩa thành vợ chồng.
Chúng tôi sống êm ấm, vợ tôi bận rộn việc dạy học thỉnh thoảng mới trở lại thăm phố cũ. Rõ ràng số phận của mỗi người như giày dép có số không đều nhau. Năm mươi tuổi chị Liên chưa lập gia đình sống hẩm hiu bên cạnh người thân. Sau khi cha mẹ qua đời, ba anh em, hai người có gia đình riêng vẫn sống chung một nhà nhưng chẳng có ai thuận với ai. Chị dâu em chồng, chuyện đàn bà con gái kéo theo anh em ruột thịt, kéo theo những người đàn ông. Anh của chị Liên thì rượu chè. Đứa em của chị lại có bệnh cờ bạc. Cả hai bê tha nên sinh ra sợ vợ đã đành, lại sợ luôn đám con, chúng luôn hùa theo mẹ hỗn hào với cha mình, hỗn hào luôn cả với chị Liên, chúng thật quá quắt. Trước đây chị có dành dụm được ít tiền, ít chỉ vàng để phòng thân, con cháu nghèo hỏi mượn làm vốn, chị Liên đưa ra, cuối cùng chẳng ai chịu trả. Tới khi bà cô hết tiền chúng liền coi là kẻ ăn nhờ, ở đậu. Buồn chị dâu, em dâu thì ít vì đó dù sao cũng là người ngoài, con cháu ruột thịt mà ứng xử vậy mới là điều đau xót. Chị đọc được suy nghĩ của lũ cháu, chúng muốn chị đi tìm nơi khác ở để khỏi phải trả nợ - món nợ mà chị không còn nghĩ tới, coi như là cho chúng. Buồn bã cho số phận, chị Liên lên chùa làm công quả, nghe kinh kệ lãng quên cuộc đời.
Thỉnh thoảng vợ tôi mua chút đỉnh quà như mì gói, đường, trà mang đến ngôi chùa chị Liên đang làm công quả. Những gói quà mọn, hay chút đỉnh tiền kia chẳng có ý nghĩa gì lớn lao. Đi giúp người khác mình thấy vui hơn là người vui, vì nó cũng đâu chuyển hoá được số phận người ta. Thuở nhỏ hai chị em sống chung dưới cùng mái nhà, khi vợ tôi mới sinh ra được chị Liên bồng ẵm, lẽ ra lúc này vợ tôi rủ chị Liên về với mình mới phải! Kể ra cũng buồn, phước ai nấy hưởng nghiệp ai nấy mang.
Nhưng đến đây dường như có bàn tay Phật nhúng vào tạo ra phép nhiệm mầu. Từ trên nhìn xuống Ngài như đã xui một vị khách đứng nhìn chị Liên, dõi theo từng nhát chổi đưa. Ban đầu khách chỉ khen cho vui. Chị Liên cũng trả lời cho vui. ở nhà mình không có gì. Đến đây tự nhiên mình có được cái sân, cây cối mát mẻ. Mình chăm sóc nó cho vui, hơn nữa lại được chùa cho cơm ăn.
Người khách là thím Hà. Thím là chủ một sạp vải lớn, chồng thím vượt biên để lại vợ con nên thím hay đi chùa cầu nguyện. Nhà của thím từng có mấy người giúp việc nhưng họ thuộc loại sai đâu làm đó, vậy mà còn theo đòi tiền công, thật chẳng vừa bụng. Ngầm dõi theo đã lâu giờ nghe chị Liên nói lấy làm hợp ý, thím rủ chị theo mình về nhà… Mỗi khi nhắc tới câu chuyện này vợ tôi hay nói chẳng ai biết trước được số phận. Theo về sống với thím Hà chị Liên được mấy mẹ con xem như người nhà, phần chị cũng xem nơi đây là ngôi nhà thứ hai của mình.
Công việc của chị Liên cũng nhẹ nhàng. Giặt đồ thì đã có máy giặt, chỉ cần chị đem phơi khô rồi lấy vô xếp để con thím Hà về lấy ủi. Chị cũng khỏi phải nấu ăn, buổi chiều thím Hà đi chợ mua thức ăn về làm rồi để vô tủ lạnh. Chị Liên chỉ có nhiệm vụ coi chừng nhà, quét nhà lau chùi, bàn ghế, hâm thức ăn. Chị đã bước vào những năm tháng sống thật nhẹ nhàng thảnh thơi. Điều đặc biệt là thím Hà còn dành cho chị Liên một căn phòng để chị thờ Phật bà Quan Âm. Khuôn hình Phật bà Quan âm, bộ chuông mõ, với cuốn nghi thức tụng niệm, là tài sản riêng, đi đâu chị cũng mang theo, giờ tài sản ấy được đặt hết trong căn phòng này, đêm đêm chị ngồi gõ mõ tụng niệm.
Anh em con cháu ruột thịt không ngó ngàng, người ngoài lại thương, rõ ràng trớ trêu. Mà tạo hoá được gọi là ông trời kia trẻ hay già? Có người kêu trời già, kẻ khác lại gọi là trời xanh, lộn xộn. Tôi thì thấy trời xanh nên còn rất trẻ con thích trêu cợt người và tiếp tục trêu cho tới kỳ cùng.
Bốn năm vợ chồng thím Hà xa nhau, bất ngờ một ngày nghe tin chồng có bồ đang chuẩn bị làm lễ cưới. Mạnh thay lòng dục ái, tham sân si nó khiến cho người ta nổi cơn ghen từ xa. Thím Hà đùng đùng dẫn mấy đứa con kiếm tàu vượt biên bỏ lại nhà cho chị Liên.
Chị Liên vốn cô độc nay tiếp tục kiếp cô độc một mình sống trong căn nhà rộng thênh thang. Năm trước năm sau, nhà nước phát hiện ngôi nhà ra không có chủ, liền đến quản lý, biến nó thành cơ quan. Chị Liên đành phải ra đi, tuổi sáu mươi tư bơ vơ trước ngã ba đường. Chị đi về đâu những ngày cuối đời? ở mỗi ngã ba đường không gian rất là cao rộng nó không đủ hơi ấm cho một hoàn cảnh như của chị. Cái ăn thì không lo vì mỗi tháng thím Hà trả tiền công chị Liên đâu tiêu xài gì. Riêng việc ở cho an phận tuổi già để đêm đêm còn được gõ chuông mõ tụng niệm, thầm thì với Phật Quan âm, thì chưa biết tính sao. Đúng ra chị còn nhiều chỗ để lựa chọn. Trở về với gia đình chịu đựng đám con cháu vốn xem người cô là món nợ đời. Vào viện nuôi dưỡng người già trẻ mồ côi. Tìm về lại ngôi chùa luôn mở rộng cửa thiền kia. Thế mà không hiểu sao chị Liên lại chấm chọn gia đình tôi để tìm đến gõ cửa.
*
Sau một tuần đi công tác xa nhà, trở về vào buổi chiều, nghe trên gác có tiếng đọc kinh, tiếng mõ rồi tiếng chuông ngân. Không chuẩn bị tinh thần trước nên lấy làm lúng túng, tự nhiên thấy nhà mình giống như am thất. Tôi lấy làm ngạc nhiên. Tại sao việc nào vợ tôi cũng hỏi ý kiến chồng, một việc lớn như vầy tôi lại chẳng được báo trước?
Nhà còn chỗ cho chị Liên tạm trú, có gì mà lớn hả ông. Vợ tôi hỏi lại giống như giả bộ. Sao lại không, khi ta đã nuôi một người, nhất là người già? Chị Liên tự nấu ăn, đâu có ăn của mình. Tôi không nói với bà việc nhỏ đó, già cả ăn uống bao nhiêu. Tôi chỉ nói cái chuyện người già tính tình bắt đầu thay đổi sinh ra nhiều tật, mình không nặng lời được nhưng chịu đựng được không. Rồi chuyện đau yếu bệnh tật, hai đứa đều đi làm ai ở nhà lo đây. Không nhận người nuôi thì thôi, nhận thì phải có bổn phận trách nhiệm. Nuôi một con vật còn khó huống chi là một con người.
Vợ tôi muốn cãi nữa nhưng cô yên lặng cho tôi ngẫm nghĩ. Tất cả mọi chuyện trên đời không phải ngẫu nhiên mà có, mà nó là do nhân quả, nhân duyên đi ra. Mà duyên quả theo nhà Phật không chỉ có một mà có nhiều thức lớp chồng chất lên nhau. Chị Liên với vợ tôi là mối duyên của bốn mươi năm trước, biết đâu còn có duyên trong tiền kiếp. Cuộc sống tin cậy lẫn nhau, hai vợ chồng tôi mặc dù là mối duyên khác, nhưng qua vợ vẫn nối được duyên của tôi với chị Liên. Biết một người rồi biết ra cả họ là vậy.
Vợ tôi biết, mặt mũi tôi hay nhăn nhó, việc nào trước hết tôi cũng bàn ra nhưng thật tình là bàn vô. Tôi giống cuốn từ điển tra ngược. Dân miền Tây giữa đường gặp chuyện chẳng đứng đó đưa mắt nhìn vô cảm. Tôi không xài điện thoại di động, vợ tôi làm sao hỏi ý kiến việc xảy ra đột ngột, mà có hỏi tôi cũng không phản đối. Hơn nữa nhà tuy không được rộng rãi nhưng bên trên có một tầng gác chỉ để sách báo, thỉnh thoảng có khách mới lên dọn chỗ giăng mùng. Vợ tôi không đợi tôi về để hỏi ý kiến là vậy, cũng dễ hiểu. Từ duyên này người bước qua gặp duyên kia là vậy, cuộc sống đặt niềm tin lẫn nhau, trừ khi người không còn niềm tin. Nhưng giữa tôi với chị Liên có nhân quả gì, nhân duyên gì? Bao giờ chuyện xảy ra trước mắt cũng khó nắm bắt, tôi chỉ có thể hiểu được khi sự việc kết thúc, lúc xong đám tang chị Liên, rảnh rỗi nhớ lại. Hiện tại nhà có thêm một người, có bao chuyện đang chờ đợi phải lo…
*
Chị Liên ốm yếu gầy go, giống như thân cây khô dần từ dưới lên chỉ còn ngọn, khuôn mặt chị – khuôn mặt một người già - trầm tư không biểu lộ cảm xúc nhưng đôi mắt thỉnh thoảng lại sáng lên như nheo nheo cười cho ta biết sự sống đang hiện diện. Nói lo cho chị thật ra lo có nhiều nhặn gì, tôi chỉ làm một số việc ở buổi đầu. Vợ tôi bố trí cho chị ở nửa căn gác phía trước, tôi thấy không thuận tiện lắm, vì giáp với mặt tiền đường phố xe chạy ồn ào - lớn tuổi cần sự yên tĩnh nhất là sáng, trưa chị còn lạy Phật, gõ chuông, bèn dời chị ra căn gác phía sau, hướng nam lúc nào cũng có gió hiu hiu mát mẻ, cửa mở nhìn xuống xóm nằm phía trong vườn tược bao quanh, xa xa là con sông rồi cánh đồng trải dài. Căn gác này vốn dành cho khách nhưng lâu lâu mới có người ghé nên nó như dành riêng cho tôi làm thư phòng. Phần lớn thời gian trong ngày tôi lên đây đọc sách báo, nghỉ ngơi, chiêm nghiệm cuộc sống. Hình như vật cũng đang chờ người, căn gác thật thích hợp với chị Liên. Việc thứ hai tôi cần phải làm là kêu thợ mộc tới thu xếp mấy chậu kiểng ngoài hành lang đủ chỗ làm một phòng tắm mini, đặt cái lu, gắn vòi nước cho chị. Thấy chị đã lớn tuổi, không biết bệnh hoạn lúc nào, tôi bàn với vợ mua cho chị thẻ bảo hiểm y tế phòng xa đời sống viên chức không đủ lo cho người, rủi ro chị ngã bệnh. Chẳng lẽ người sống chung nhà lại để mặc, mua thẻ bảo hiểm thật ra là lo cho tôi.
Phật có dạy: ai lo cho người quên mình sẽ nhận lại tràn đầy phúc đức, những điều tốt lành. Tôi không phải người nghĩ nhiều đến việc phước đức nhưng qua chị Liên tôi nhận ra Phật dạy chẳng bao giờ sai. Trước hết vợ tôi có người để tâm sự chuyện trò như vui hơn. Bấy lâu nay tôi vô tình quên nhu cầu này. Vợ chồng tôi cũ xì có gì mới mẻ đâu mà nói. Đi làm về cơm nước xong tôi lên gác rút vô thế giới riêng nằm đọc sách. Vợ tôi dọn dẹp rửa ráy xong, nằm nghỉ ngơi xem ti vi rồi đến giờ đi làm. Buổi chiều về không khí trong nhà cũng y như buổi sáng riết rồi quen, không để ý gì đến sự lạnh lẽo của ngôi nhà thiếu tiếng người. Nhưng đó chỉ là một việc còn nhiều việc nữa chị Liên mang đến cho gia đình. Khi hai đứa đi làm, chị Liên ở nhà làm những việc lặt vặt như quét nhà, lau chùi bếp núc, xếp quần áo, chùi rửa cầu tắm. Những việc lặt vặt coi vậy mất rất nhiều thời gian, vợ tôi làm luôn tay, nay đi làm về thấy nhà cửa đâu vô đó gọn gàng. Rõ ràng lo cho chị Liên, hai đứa đã nhận lại, đúng y như kinh, Phật dạy.
Tuy nhiên để làm theo như lời Phật dạy thật không dễ dàng chút nào. Muốn giúp đỡ người quên mình, tôi cần phải có tính nhẫn nại, chịu đựng. Những người lớn tuổi như chị Liên bắt đầu thay đổi tính nết, gọi là sinh tật. Ai có cha mẹ già, ông ngoại, ông nội sống chung, có thể chia sẻ với tôi được điều này. Chị Liên ở nhà cũng mang dép. Ban đêm chị hầu như không ngủ mà thao thức lục đục dép cứ khua sàn gác lộp cộp lộp cộp. Rồi tiếng võng kèn kẹt, tiếng quạt đập muỗi xành xạch… Nghe rất là khó chịu. Tính hà tiện khi mở vòi nước không chịu mở lớn sợ hao cứ mở ri rỉ rồi quên khoá vòi khiến nhiều lần nước tràn xuống cả nhà. Kêu bật quạt máy, chị nói bật chi cho hao điện, cứ nằm đưa võng, xài quạt giấy cho mát rồi đập muỗi; đâu biết đêm đêm tiếng đập quạt xành xạch khiến người khác khó chịu thế nào?
Người lớn tuổi nào cũng có tính hà tiện, chị Liên của tôi còn đi xa hơn. Gặp món gì chị cũng lượm. Từ lượm ở trong nhà, rồi ra tới ngoài đường, những bọc ny lon, vỏ hộp bánh, vỏ chai chị lượm về giặt, rửa sạch để lủ khủ khắp nơi. Rồi vỏ quít, vỏ bưởi, bông cúc bông thọ chị mang về phơi khô; cả cùi bắp, vỏ chuối, vỏ dừa nữa. Xã hội tiến về phía trước chị Liên thì đứng lại rồi lùi về phía sau với thế giới của riêng mình. Chị Liên hoàn toàn không giống ai, tồn tại được mà như không mất đồng bạc nào. Nhìn chị, tôi không biết mình có nằm mơ. Còn có những ai sống theo kiểu chị bây giờ? Nhưng tôi mơ sao được, một hiện thực rõ ràng đến độ ngơ ngẩn. Mỗi ngày bạn mất bao nhiêu cho tiền ăn? Bạn hình dung nổi không có người như chị Liên mỗi ngày xài chưa tới năm ngàn, đi chợ chỉ để mua ba miếng tàu hũ trắng, bó rau muống hoặc bó cải? Nếu có mua gì thêm thì đó là nải chuối, một vài trái lôm chôm cúng Phật vào ngày rằm, hoặc mua ít lọn bún ta, mì chay để dành. Đơn giản đến mức chị không xài nước tương bột ngọt, mà thay bằng nước muối nấu với vỏ khóm xin trong chợ.
Sau này tôi quen, chứ mấy năm đầu thật không chịu được, ở dưới nhà xào nấu các món bay hơi thơm lừng trong khi người sống trên gác, chỉ với tàu hũ chiên hoặc xào sả ớt và tô canh rau không gia vị. Có vẻ chị ăn cho có ăn, gọi là. Tiếng tăm nuôi một người trong nhà, ai cũng hỏi tôi mối quan hệ với chị Liên, thật ra tôi đâu có nuôi chị ngày nào. Càng thêm bứt rứt muốn giúp đỡ nhưng giúp được gì, đem cho gạo, đường nhưng chị Liên như trêu cợt nói, mình không quen ăn gạo ngon, đường cũng chả mấy khi dùng tới. Thật cụt hứng. Có một thời gian tôi đâm giận chị Liên. Sao chị lại sống như ép xác, khổ hạnh, ngoài cặp mắt sáng tinh anh ra thân thể chị Liên ốm chẳng khác gì bộ xương, giống hệt mấy pho tượng La Hán chùa Tây Phương. Cuộc sống khước từ mọi thứ trên đời vậy có gì vui, có ý nghĩa gì, nhiều lần tôi tự hỏi, rồi cũng không trả lời được.
Thế giới của chị Liên hiện ra trước mắt tôi rõ ràng từng chi tiết nhưng tôi lại vẫn như không biết gì. Tám năm chị Liên cứ nhẹ nhàng như không, “bộ xương” ấy đều đặn mỗi ngày ba thời, sáng trưa thỉnh chuông lạy Phật, chiều gõ mõ đều đặn công phu. Giọng đọc kinh của chị Liên se sẽ không lớn, tiếng mõ cốc cốc cũng không lớn. Lạ lùng sao nó lại có uy lực làm cho xung quanh phải lắng nghe.
*
Ông tỏ ra quý mến nhân vật của mình. Thôi cũng được đi, bởi vì đó là tình giữa người với người, rất cần cho bất cứ xã hội nào. Nhưng khi ông cho nhân vật của mình là Bồ Tát thị hiện thì tôi không chịu. Sao lại không chịu? Vì Bồ Tát là người cõi Phật, khi ngài hiện ra cho ai thấy lập tức tâm linh cuộc sống người đó thay đổi. Vậy ông có thay đổi không khi gặp chị Liên? Tôi biết khi kể tới đây, chẳng những một người, mà rất nhiều người nữa sẽ đưa câu hỏi này.
Vâng. Tôi xin thú nhận mình có thay đổi. Nhu cầu của con người bao nhiêu là vừa. Trước hết đây là điều tôi băn khoăn mỗi khi nhớ đến chị. Tôi với cuộc sống viên chức lúc nào cũng than nghèo. Tôi có nghèo thiệt không, khi trong nhà có nhiều thứ mua để đó vẫn không xài. ăn uống tuy là bình thường chẳng có gì cao lương mỹ vị nhưng vẫn hay dư thừa chờ xe rác tới để bỏ thật là phí của. Những người nghèo theo kiểu tôi trong xã hội ngày nay rất nhiều, riết rồi không rõ bộ mặt thật của xã hội ngày nay như thế nào. Ngay cả người giàu hơn tôi cũng than túng thiếu. Trong khi mỗi ngày chị Liên sống ung dung chỉ với vài ba ngàn đồng.
Chuyện thứ hai. Vào mỗi chiều, nhà vang lên tiếng mõ khua cốc cốc cốc cốc, giọng chị Liên đọc kinh trầm buồn. Thoạt đầu tôi chỉ thấy chung khiến nhà mình ấm cúng hơn. Từ từ tôi nhận ra nhà mình đang thay đổi. Trước hết là thằng con, đi đâu về hễ bước chân vô nhà nó mở ngay vô tuyến, rồi đầu đĩa, âm thanh lớn không chịu nổi. Khi tiếng mõ xuất hiện, chẳng có ai dạy thằng bé lập tức vặn volum nhỏ lại. Đám bạn tôi thỉnh thoảng mỗi chiều mua mồi màng đem tới nhà bày trò nhậu nhẹt. Rượu vào lời ra ồn ào, vừa lúc trên gác vang lên tiếng chuông, tiếng mõ, lập tức họ trở lại nói năng đứng đắn, lịch sự.
Tuy nhiên sự thay đổi ấy còn nhẹ nhàng. Bây giờ tôi xin được phép nói về mình. Xung quanh khu vực tôi đang sống chỉ trong cây số vuông mà có tới bốn ngôi chùa. Không biết người cất chùa hướng tới mục đích gì, chùa nào chùa nấy nguy nga đồ sộ. Thường chỉ có mấy bà, rồi vợ tôi hay rủ nhau đi chùa, riêng tôi ít khi đi. Lại thêm kinh sách, băng đĩa ngày nay in ấn rất nhiều, người như đi lạc vô khu rừng, các thầy thuyết giảng tràn lan. Lắm khi nghe mà tức mình, thôi thì không gì bằng tôi mua sách về đọc, tìm sự thật ở trong chính kinh, chính lời đức Phật dạy. Dần dần tôi giống như con mọt sách hầu như kinh nào cũng để mắt đọc, căn gác chất đầy sách báo, kinh kệ để bừa bãi. Hình như đây là nhân quả. Tôi ghét chùa chiền bỗng dưng căn gác của nhà tôi lại giống am thất. Tiếng mõ của chị Liên vang lên mỗi chiều, ngày một ngày hai như nước thấm sâu vào lòng đất. Đến một ngày bỗng tôi bừng tỉnh ra, là đứa sách kinh đầy bụng mà chưa một ngày thực hành, ngồi thiền cũng không. Trong khi đó chị Liên ngoài các cuốn nghi thức tụng niệm, kinh sam hối chị như không biết gì về kinh Pháp hoa, kinh Kim cang chẳng hạn. Người tốt người thông thái cả hai đều đến được với Phật nhưng ai sẽ tới trước? Lắng nghe tiếng mõ, tiếng chị Liên đọc kinh tôi ngẩn ngơ nhớ. Có phải ngài A Nam đa văn quảng bác được đức Phật thương yêu hơn mọi đệ tử khác. Để rồi sau khi Phật qua đời A Nan là người giác ngộ sau cùng.
Đồng ý là có thay đổi nhưng chỉ có vậy thì nhân vật vẫn chưa phải là Bồ Tát thị hiện. Đến đây bạn vẫn chưa tin. Tôi biết, muốn được bạn tin là rất khó vì chuyện phải có thêm điều gì đó vượt qua trí tưởng tượng của bạn và pha chút huyền hoặc. Tôi xin kể tiếp. Chị Liên ăn uống kham khổ không đủ chất, vậy mà chị ít khi bệnh. Trong suốt tám năm chỉ thấy chị thỉnh thoảng mới bị sổ mũi hay ho, tôi đưa thuốc cho uống đôi ba ngày hết bệnh. Chỉ có một lần duy nhất chị trúng gió chân tay tê liệt phải chở vô bệnh viện. Chị bị xuất huyết mạch máu não may sao nó cũng nhẹ, rồi cũng phục hồi. Lần cuối cùng mới là lạ lùng, bỗng dưng chị không ăn được, ăn vô lập tức mửa ra ngoài. Tôi quen một vị bác sĩ mời ông đến khám bệnh cho chị một vốc đủ loại thuốc. Nhưng chị cương quyết không chịu uống, vì chị biết mình sắp chết. Trước đây khi cho tạm trú nhìn tướng của chị tôi dự đoán: mình nuôi chị không bao lâu. Nay đến giây phút cuối cùng nhớ ra, tôi lại muốn cho chị sống. Bà đừng có nghỉ vớ vẩn, muốn chết dễ sao. Tôi la chị Liên. Chị lắc đầu nhè nhẹ, hai hôm sau chị thanh thản khép mắt nhẹ nhàng.
Trước khi chết chị Liên nắm tay vợ tôi đưa một gói giấy đựng số tiền mình dành dụm. Chị nhờ vợ chồng tôi hỏa thiêu thân xác mình rồi gởi vô chùa. Số tiền còn lại chị nhờ gởi cho người chị dâu chồng mất mấy năm qua. Hai đứa tôi lặng người đi. Chị mò mẫm ở đầu giường lấy ra một hộp chạm trổ xà cừ tinh xảo giống hộp của quý bà dùng để dụng cụ trang điểm. Không biết hộp đựng những gì. Tôi giựt mình khi chị bấm nắp hộp mở ra thấy đó là hộp đựng những miếng vàng lá và đá quý lấp lánh. Tôi không biết cảm giác của vợ tôi như thế nào riêng tôi đôi mắt như hoa lên tưởng như mình đã nằm mơ. Chị đưa mắt hiền lành nhìn hai đứa rất lâu rồi chậm rãi nói. Đây là của thím Hà, sợ mấy mẹ con vượt biên không được rồi tiêu hết của cải nên thím đưa chị Liên giữ giùm để phòng hờ trở lại còn cái mà sống.
Chuyện của chị Liên bạn tin hay không tin đến đây tôi vẫn không nói thêm lời nào. Đã đến lúc tôi quay trở lại với bản thân mình lắng nghe mọi cảm giác trong tâm hồn, vì rõ ràng khi Bồ Tát hiện ra với người nào, người đó không thể ngồi yên. Người bỏ con đường cũ để qua con đường mới tiếp tục bước đi không biết đâu là chỗ kết thúc. Vì thế chuyện của chị Liên đến đây có ba kết thúc:
- Một là thím Hà từ xa trở về được, tôi trả hộp xà cừ đựng số vàng kia.
- Hai là, tôi giả bộ như không biết gì hết chuyện của người.
- Ba là nhờ số vàng ấy tôi làm được nhiều chuyện hữu ích cho đời. Tỉ như tôi mở một nhà tình thương để nuôi trẻ mồ côi và những người già rơi vào hoàn cảnh giống như chị Liên chẳng hạn.
*
Có thể món quà của Bồ Tát trao tặng tôi còn tiếp tục diễn ra những điều gì nữa, tôi vẫn chưa biết…
Cùng số phận” – Tống Phú Sa
17-11-2011 06:08:41 PM
VanVN.Net - Hai người đàn bà mặc nhiên để bóng tối trùm xuống. Họ không có ý định đứng lên thắp sáng ngôi nhà… ánh sáng nhờ nhờ từ cột đèn đường hắt vào đủ cho người chị chiêu thêm nước vào ấm trà, rót ra tách. Người em có sở thích uống đặc “dính miệng”. Hai người hai chiếc bàn nhỏ, ngồi cách nhau một gian nhà, lặng im nhìn vào khoảng không vô định. Rất hiếm khi họ nói chuyện với nhau, trừ những ngày giỗ chạp, người chị nhắc người em mua những thứ đồ cần thiết để làm lễ.
Ngõ phố hẹp và sâu hun hút là con đường duy nhất dẫn vào nhà họ. Tuần một lần, hai chị em thay nhau ra phố. Người em có đi xa hơn một tẹo để mua miếng xà bông hay dầu gội, còn người chị ghé vào chợ xép bên đường bổ sung những thứ cần thiết. Họ, hai chị em sinh đôi nhưng tính cách trái ngược nhau. Người chị thích ăn cá, loại cá nhỏ liu riu không có cả tên, rim thật mặn với mật và muối hột, thì người em chỉ ăn độc món trứng. Trứng được chế biến đủ loại, nhưng thường trực trong chiếc niêu nhỏ là trứng kho. Người em luộc trứng, bóc vỏ, chiên vàng và cho vào nước mắm. Mỗi bận, người chị dọn cơm bằng chiếc mâm đồng bóng nhoáng, nặng chịch. Trên mâm độc một món mặn và ít cọng rau luộc tuỳ theo mùa. Người chị ăn nhơ nhẩn, vừa ăn vừa gảy tanh tách những hạt cơm trong bát. Người em không bao giờ cho thức ăn ra đĩa, tất cả được cho vào chiếc bát men xanh, xúc nhồm nhoàm bằng chiếc thìa đồng cũ. Hai người luôn ăn cùng một thời điểm, nhưng chưa bao giờ ngồi chung bàn. Họ lặng lẽ ngồi ở hai đầu gian nhà, cùng nhìn ra một hướng và cho thức ăn vào miệng. Họ ngồi như thế cho đến khi bóng đêm trùm xuống.
- Chuyện họ kháo nhau thực hư thế nào cô?
Người chị bất ngờ lên tiếng. Âm thanh khào đục, vỡ vụn như bánh đa nem bỏ lâu ngày trong tủ lạnh. Bóng tối phủ lên khuôn mặt vừa phát ra âm thanh, dù vậy, người ta vẫn dễ dàng hình dung …Đôi mắt mệt mỏi, đôi mắt buồn thao thiết phát ra thứ ánh sáng lạ kì. Thứ ánh sáng đó khiến người em co rúm người lại, đôi chân thu vào dưới bẹn…
Ngôi nhà không ánh đèn lọt thỏm giữa sự ồn ào của phố xá. Hai con người sống lặng câm, từng khắc trong một ngày được lặp lại một cách đều đặn. Mùa đông, thi thoảng người em cài que đan, gỡ những sợi len màu xanh đỏ đan bất cứ cái gì …Rồi mùa đông năm sau, cô lại tháo ra đan lại. Những lúc người em có việc để làm thì người chị bó gối, nhìn ra xa tít. Khi tuổi còn trẻ, cả hai thích đọc tiểu thuyết. Nhưng, gần chục năm nay, không thấy họ chạm đến tủ sách chung được người cha tỉ mẩn chọn sách, đặt ngay gian thờ.
Cha của họ là người đàn ông giỏi giang, làm nghề thầu khoán. Ông lang bạt khắp nơi. Khi người vợ ở quê hạ sinh cặp sinh đôi là gái và không có khả năng sinh đẻ nữa, ông đã chung sống với người phụ nữ khác. Mẹ của họ đau buồn rồi mất, năm mười ba tuổi, hai chị em theo cha ra thành phố. Cặp sinh đôi Bôi - Bổi mà sau này người cha gọi chệch đi là Bội – Bội, lớn lên trong sự đầy đủ và chăm sóc đặc biệt. Họ được ăn học đàng hoàng nhưng không làm nghề nhà nước. Năm mười tám tuổi, vì những xích mích với người mẹ kế, người cha đã chọn khu đất yên tĩnh, xây cho hai chị em một ngôi nhà. Gian giữa được thiết kế như một thư viện nhỏ với gác xép và bốn bậc cầu thang. Sau này, chị em họ đã tự ý làm nơi thờ mẹ. Hai phòng tách biệt với những đồ dùng cần thiết đã tạo cho Bội -Bội sự xa cách. Họ sống lặng lẽ với ý thích của riêng mình...
Cha của họ thường trở về cùng với những người đàn ông túi xủng xẻng tiền bạc nhưng môi thâm và mụn trứng cá lỗ chỗ... Cô chị ý tứ mời người khách của mình sang phòng cô em, cô em lại ý nhị đưa chàng của mình sang tham quan phòng đọc sách và ghé vào đàm đạo văn chương với người chị. Không ai trong số họ được chọn để trở thành chủ nhân của ngôi nhà.
Năm hai chị em sinh đôi Bội - Bội 27 tuổi, họ vẫn giữ thói quen đọc và mê tiểu thuyết. Nhưng, một ngày, người chị phát hiện ra người em buông sách thở dài…Và, người em cũng nhận ra ánh nhìn khắc khoải của người chị. Cả hai chị em cố giấu khoảng trống vắng diệu vợi trong lòng mình. Đêm đêm, họ lại cố mường tượng cánh tay đàn ông vững chãi, mùi mồ hôi và mùi thuốc lá thơm sực nức của những người đàn ông đã từng có mặt trong phòng của họ …Người cha lại đưa về nhà những người đàn ông mới. Nhưng, khốn nỗi, những người sau lại khuyết thêm một ít so với những người đã đến trước. Chị em Bội - Bội không còn tươi mặn … Nhìn kĩ, mắt của họ đã có những dấu chân chim. ấy thế mà, những người đàn ông vẫn tiếp tục đến và đi, không một ai được giữ lại qua thời khắc của đêm và ngày. Người cha bực bội, lo lắng và sợ hãi. Và, khi chiếc xe của ông bị trượt phanh, lao vèo vèo xuống vực, ông vẫn không nghĩ đến cái chết…Trước mắt ông là hai đứa con gái côi cút, hai đứa con ông đã cố gắng nâng niu, cố gắng dồn tất cả để chúng có một cuộc sống tốt nhất. Lẽ nào ông đã sai khi lập trình sẵn cuộc đời cho hai sinh mệnh…Khi xương thịt ông va vào đá nát băm, ông đã thét lên kinh hoàng khi mường tượng ra cảnh hai đứa con gái ông trinh tiết cho đến khi chết già trong ngôi nhà ấy….
*
Người em khe khẽ thở dài…Hơi thở nông nốc, dồn nín. Bóng tối đồng loã với những cảm giác hầm hập, bức bối bất chợt bùng lên. Người em thở dốc…Ngôi nhà họ sống giờ lọt thỏm giữa những dãy nhà cao tầng. Ngày người cha chọn đất, xây nhà cho hai chị em, đây là vùng đất yên tĩnh với những nóc nhà thấp của cán bộ nghỉ hưu. Mỗi năm mỗi khác, mỗi ngày mỗi khác…và, mỗi giờ mỗi khác. Chính họ cũng không còn nhận ra nơi ở vốn dĩ rất thân thuộc. Sau lưng ngôi nhà chị em Bội - Bội là khách sạn tư nhân, phía bên phải, dọc theo ngõ phố hẹp vừa đủ một người đi và là lối ngõ duy nhất dẫn vào nhà Bội - Bội là một dãy nhà cao tầng của những người hàng xóm mới mà hai cô không quen biết. Toàn bộ mặt trước, khu đất đầy cỏ dại đang được đổ móng, nghe đâu xây dựng khu chung cư. Ngôi nhà hai chị em giờ như một chấm nhỏ, leo lắt, cô quả…
Chị em Bội - Bội sống bằng số tiền để lại của người cha. Nhưng, mỗi năm một ít đi bởi trượt giá. Để có thể đủ sống, hai chị em phải thay đổi thói quen sinh hoạt. Họ chia đôi số tiền, sống tằn tiện với những món đồ cũ mà chưa một lần được mua sắm lại. Bán kính mà họ đi tính từ nhà là một km...Vì thế, những thay đổi chóng mặt ở ngoài kia, hai chị em đều không hay biết…Trong gian bếp của họ vẫn dùng những chiếc bếp dầu cũ kĩ, sét ghỉ và thường xuyên phải thay bấc.
- Cửa nách cô “tróc” thêm hồi nào?
Người chị hỏi nhỏ, câu hỏi thứ hai trong đêm …Người em xo xo đôi chân để xua muỗi…đôi môi vẫn còn đỏ, nếu nhìn kĩ cảm giác như hằn lên đó những đường máu nhỏ li ti…Người em mấp máy nhưng không bật ra lời. Một luồng gió nóng hổi chạy riết qua hai kẽ răng, lì lợm và bướng bỉnh thông thốc đi qua. Nó nhởn nhơ và dừng lại ve vuốt nơi lồng ngực đang nảy lên từng nhịp xon xót…Người em đưa tay xoa mặt, đôi gò má lạnh tanh, xám đục, rịn rỉ những giọt mồ hôi. Mẹ cha ơi, cái gã đàn ông khốn kiếp…Đã ba tháng nay, trong căn lều lợp tạm để thi công khu chung cư, người đàn ông tóc muối tiêu, lưng hơi gù với hai quả bướu thỏng thượt hai bên cằm nằm gác chân tía mắt sang ngôi nhà của chị em Bội - Bội. Một chiều, gã liều lĩnh “tấp” vô phòng người đàn bà có dáng đi chảy xuội, đôi gò mà tênh tênh, u ám…Gã cộc cằn co cả hai chân mốc thỉn, nhẻm đen lên giường…Gã nhìn chằm chặp vào khuôn ngực phập phồng, trinh nữ của cô em. Bất chợt, gã thấy người đàn bà đang run rẩy đứng quay mặt vào tường:
- Cho t..rớ ở lại nhé…đằng r..ấy.T..rớ có vợ, nhưng nó bỏ t…rớ lâu rồi …
Hai quả bướu thỏng thượt bợt qua mặt người em. Một thứ mùi tanh tanh chưa từng thấy phả ra, và cũng nhanh như chính chủ nhân của nó, bám vào da thịt của người đàn bà. Người em giơ hai tay cố gỡ, nhưng vòng tay của gã đàn ông đó xiết chặt đến nổi cả hai quả bướu xát sàn sạt lên người cô. Người em thét lên:
- Đồ lưu manh, bỏ tao ra…
Nói rồi, người em co người, đạp mạnh. Gã đàn ông đau điếng, buông tay đi về lều. Hình như…người em thất thần, run rẩy. Cảm giác như cái mùi tanh tanh ấy bám nhầy trên từng thớ thịt của cô…!!!
Người em phá lệ, ngày hai lần dội nước …Cô cố gắng kì cọ nhưng cái mùi chết người đó vẫn bám theo như đỉa. Hai quả bướu lủng lẳng trong giấc ngủ của cô, nó làm cô chết sợ mỗi lần thức giấc. Chàng trai hào hoa với khăn tay sực nức mùi thơm trong túi ngực, chàng trai cưỡi ngựa tặng hoa hồng người yêu bên song cửa…Những lãng tử mà cả đời cô mơ ước đã theo dải cầu vồng bay lên tít bên kia. Trời ạ…nhưng sao lại là gã đàn ông kinh dị ấy... Giá như đêm hôm ấy là một gã trai khác, ít nhất cũng là gã trai chai sạn, sần sùi như những người đàn ông mà cha đã từng đưa về…Chỉ cần là thế thì cô sẽ gạt bỏ cái cao xa để mở toang cửa đi qua thời con gái. Cái vô ngần quý giá của tạo hoá ban tặng lẽ nào để tan trong bụi đất. Những chuỗi ngày mất ngủ, chuỗi ngày giằng xé trong nỗi xót xa làm người em gầy tọp đi. Hai chị em hai thế giới trong một ngôi nhà chung, nhưng vốn dĩ, những người đàn bà như họ thường vô cùng nhạy cảm…Người chị cũng chong mắt không ngủ, mường tượng ra cảnh người đàn ông kia “tấp” hai quả bướu lủng lẳng lên nổi khát khao, đè nén…Riêng cái mùi đặc biệt, cái mùi tanh tanh đến buồn nôn đó thì tuyệt nhiên người chị không hình dung nổi. Người chị cài hờ cửa phòng, đêm đêm tức tưởi chờ đợi bước chân của người đàn ông ở bên kia bờ rào. Nếu cần, cho gã một thoi vào … rốn…cho gã…
Đã một tuần trôi qua kể từ cái đêm chết người đó. Người em lấy lại được bình tĩnh, nhưng thú thật, cuộc sống nhàn nhạt của những ngày qua giờ bị xáo trộn ít nhiều. Mỗi lần ra khỏi phòng, cô lại thấy nóng ran sau gáy…Hình như kẻ trai ấy đang dõi theo cô, ánh nhìn sắc lẻm, thiêu đốt lùa vào trong ngực áo. Đồ đĩ trai…người em thầm rủa, đôi gò má hanh hao giờ ửng đỏ, ngây ngấy như người phát sốt. Mỗi lần không chịu nổi, cô lại đi vào trong. Nhưng rồi như ma xui khiến, cô lại đi ra ngoài nhặt nhạnh một mẩu giấy vụn hay chiếc lá vừa rơi…Cô chú ý đến hình thức hơn một tẹo, chiếc áo voan mỏng cổ khoét trễ được mặc thường xuyên hơn. Mái tóc khô gãy đã ngả màu được gội tuần hai lần. Những quả bồ kết sâu đục lỗ chỗ giờ được thay thế bằng dầu gội có kèm dầu xả. Người em thường hong tóc thật lâu trước hiên nhà, quay lưng về phía “người ấy”…Đến một ngày, khi cảm giác đã “chai” thêm một ít, người em lấy hết can đảm nhìn thẳng về phía trước, nơi có căn lều dựng tạm thòi hẳn hai chân giường ra ngoài. Không thấy khuôn đầu với mái tóc bù xù, hôi hám…ừ , hay là gã không lộ mặt… Hẳn thế, chỉ có những kẻ si tình mới dám liều lĩnh như hành động của gã. Mà cô đã được biết đến những mối tình si như thế, có kẻ si tình cho đến chết…Gã trai kia cộc cằn, thô lỗ, nhưng chắc chắn có thứ tình rát bỏng mà cô đã đọc trong tiểu thuyết. Hay là gã đang đau khổ vì bị cô từ chối…Hay là…hay là …
Người em trở nên bồn chồn, khó ở. Những đợt sóng dâng tràn, ngập ứ , những khoảnh khắc chờ đợi như người đang yêu…Giây phút trôi qua trong ngày giờ trở nên có ý nghĩa. Cô tìm kiếm, cô chờ đợi cái đầu bù xù và ánh nhìn đầy thèm khát của kẽ đĩ trai mà cô đã từng kinh sợ. Trong cô chất đầy mâu thuẫn… ừ nhỉ, sao lại là như thế, sao như là nỗi nhớ mong, chờ đợi??? Không, không, cô dám chắc là nếu gã xông vào phòng lần thứ hai thì cô cũng sẽ tống nắm đấm vào mặt hắn, sẽ tởm lợm mà xua hắn ra khỏi phòng … Nhưng, có một sự thật rằng hắn là kẻ đàn ông duy nhất đụng chạm vào cơ thể đang còn trinh nguyên của cô. Chắc hẳn bên kia, khi đêm đêm ngọn gió thông thốc thổi qua căn lều tạm bợ, người đàn ông đó sẽ thao thức để mường tượng đến đôi gò mà tênh hênh lạnh của người đàn bà quá lứa…Và, người em chắc mẩm rằng gã sẽ lại mò đến …ừ, có thể lắm chứ …!
Người em thấp thỏm chờ đợi…Một đêm sáng trăng lành lạnh, gã trai với cặp bướu thõng thượt, mùi mồ hôi tanh lòm, cái đầu xù xì bẩn thỉu mò vào phòng. Cô sẽ thật bình tĩnh, sẽ mời hắn một cốc nước lọc, rồi lạnh lùng đuổi hắn ra khỏi phòng. Nhưng quái thật, đã ba tuần nay cô không thấy hắn…Tốp thợ thi công gần mấy chục người, phần lớn mặt non choẹt, cười bổ bã khi đi qua vườn họ. Tiệt không thấy hắn…Người em thắc thỏm, hay là hắn đã bỏ chỗ làm? Không, chắc không phải thế vì việc làm bây giờ đâu phải dễ, đặc biệt là người như hắn. Người em tay cài que đan, mắt không rời túp lều tạm bợ trước mắt. Cô phải đeo thêm cặp kính vì bây giờ nhìn xa không rõ. Hình như kẻ kia là hắn, trời ơi, mang vác gì mà ẩu quá, nặng gần một tạ là cái chắc… ừ, nhưng sao không thấy hai quả bướu thõng thượt vắt hai bên cổ? Tự nhiên vật thừa của gã đàn ông kia, cái vật mà đã ám ảnh cô đến kinh sợ trong những ngày qua lại trở nên quan trọng. Bởi lẽ, cô sẽ dùng nó để phân biệt với những kẻ trai kia. Thú thực, cô đã không còn thấy hoảng sợ…ừ, thì đã sao. Mà cái mùi kinh kinh đó nữa! Hình như là mùi mồ hôi trộn lẫn với rượu. Mùi của người lao động nặng lười tắm táp…Mùi rượu trắng có pha cồn nhắm với dồi chó trộn nhiều lộc mơ và tỏi tía…Đúng rồi, có thế mà cô không nghĩ ra. Hàng hàng đêm sau, cái mùi của kẻ trai chết tiệt đó cứ bám riết lấy cô…Lâu dần, nó không còn mùi tanh tưởi nữa mà trở nên dễ chịu. Chao ôi, đó là mùi riêng của đàn ông, cái mùi mà dù có bợn vào trong đó những thứ gì tanh tưởi nhất cũng không làm mất đi được. Người em buông tiếng thở dài…Ngày xưa, cái ngày đôi lúm đồng tiền tròn veo trên làn da trắng mịn, cô đã thầm khao khát được riết trong vòng tay của người đàn ông có mùi phảng phất của thuốc lá thơm. Cô thầm ao ước được chuồi người trong chăn, áp mặt vào mùi thơm dìu dịu và nghe mưa rơi. ấy mà hàng chục năm qua, căn phòng của hai chị em cô như dòng sông không có nước!!! Cô đã từng nghĩ đến, hai chị em cô đã từng nghĩ đến một tình yêu vụng trộm, ngang trái …Nhưng phải là tình yêu, thứ tình cảm như cô đã từng biết trong sách vở.
Không có một ai ghé đến sau ngày người cha qua đời. Ôi! dòng sông cạn nước…Không, nói chính xác hơn, hai chị em Bội- Bội là dòng sông chưa bao giờ có nước. Dưới ánh nắng thiêu đốt, chị em họ như những mảng đất khô rộp, xù coong, không còn sự sống. Rồi…rồi kẻ trai tanh tưởi, kẻ trai với hai quả bướu thõng thượt vắt hai bên cổ “tấp” vào cuộc đời đầy khao khát của chị em họ. Nhưng, chúa ơi, sao lại là kẻ trai đó, sao lại là dòng nước đó???… Một dòng nước sình hôi chảy le te trong các rãnh nứt của dòng sông không có nước…!!! Dòng sông uất ức, dòng sông cay đắng, dòng sông cố để gột hết cái đang vướng vất trên cơ thể mình. Rồi trắng trong cũng được trả lại, nhưng sao lại buồn, nỗi buồn ghê ghớm, theo thắt!!! Sao tự dưng lại thế, tự dưng màu nắng vàng thênh thếch, tự dưng khoé mắt bợn màu xam xám…???
Người em chống chếnh… Người chị thẫn thờ. Thường thì hằng tuần, hai chị em họ đánh dấu và ghi rõ ràng lên bảng chi tiêu trong góc nhà. Nếu dầu ăn lên giá ba ngàn thì tuần hôm đó bớt đi hai quả trứng…Nhưng hai tuần nay, chiếc bảng vẫn còn để trống. Họ không buồn ra khỏi nhà. Người em tay cài que đan, tấm khăn đan dài quá cỡ nhưng cô vẫn chưa có ý định dừng lại. Hàng loạt các ý nghĩ chạy qua đầu cô, lộn xộn và rối rắm …Người chị bó gối, mắt không rời người em. Có cảm giác là người chị nhìn thấu được các ý nghĩ. Đồ đĩ rạc …Nhất định đang tơ tưởng đến gã trai tanh tưởi kia …!!! ừ, nhưng sao gã không mò đến??, giá mà gã liều lần nữa, giá là như thế …
*
Trời hầm hập như sắp có giông…Không gian quánh đặc, những bức tường hấp nhiệt cả ngày giờ thở ra mùi nóng, khô khốc. Người chị đổi tư thế ngồi, hai tay tì trước cằm, hơi chuồi ra phía trước. Người em chiêu nước liên tục, những vằn máu nhỏ li ti trên vành môi rịn ra thứ nước vàng sánh:
- Chị à, giỗ mẹ năm nay có làm khác đi không?
Người chị không trả lời, đôi lông mày rướn lên cáu kỉnh:
- Cô chưa trả lời chị?
Người em xoay chén trà trong tay, đôi mắt rân rấn nước. Cô để mặc người chị chĩa ánh nhìn sắc lẻm vào mình . Trong đầu cô ong o giọng nói trèo trẹo, đơn đớt của người đàn ông nọ. Gã đòi ở lại với cô trong căn phòng đó, gã hau háu nhìn vào vuông ngực để trần của cô …Rồi gã đau điếng lủi ra khỏi phòng khi bị cô đạp mạnh. Hai quả bướu rung rung chuyển từ tái sang đỏ. Nhưng rồi, gã trai kia không quay lại…Không thấy gã nằm ghếch chân tía mắt nhìn sang, không thấy gã súc miệng mỗi sáng trong chiếc chậu nhôm lớn…Không, không thấy mùi đàn ông khai tanh từ bên kia thốc tới. Mỗi ngày, ngôi nhà đó được xây cao hơn một ít…Lòng người em thắc thỏm không yên. Quái, đàn ông gì mà như thỏ đế. Cứ ngỡ gã sẽ “tấp tới bến”, ai dè…Người em bâng khuâng tự hỏi, và gã trai đó bỗng nhiên lớn thêm một chút trong cô. Rồi cô quyết định, một quyết định bất ngờ, táo bạo…Phải sang bên kia “chiến tuyến”, sang đó xem thử gã trai kia thế nào?
Dĩ nhiên, người chị đã không hay biết. Một buổi trưa tháng sáu oi nồng, người em trùm khăn kín mặt, đội sầm sập chiếc mũ lưỡi trai rồi xăm xăm bước. Cả người cô nóng rực, đôi bàn chân khấp khởi. Đồ đĩ rạc…Cô thầm chửi, xoa đôi bàn tay vào bắp vế dính đầy ké đầu ngựa. Căn lều tạm bợ im ắng , ba dãy đàn ông nằm la liệt trên những sạp tre đóng ẩu. Nan tre to bằng khum bàn tay, kẻ sấp, người ngửa, đầu nghẹo về một bên, miệng há hốc để thở. Gã trai kia ngủ ngồi trong góc, lưng dựa vào tấm phên thủng lỗ chỗ. Ngoại trừ mái đầu đã ngã màu, nhìn kĩ, gã hẵng còn trẻ, dám chắc là kém chị em cô…Đầu gã gập xuống, hai quả bướu lủng lẳng buông thỏng thượt trên bộ ngực đàn ông vạm vỡ, rậm rì. Người em nghe thèn thẹn, di di ngón chân xuống nền đất. ừ, hoá ra cũng không đến nỗi nào …Mùa đông, có thể mặc áo bành và khăn rộng. Mùa hè, có thể…có thể …
Âm thanh reo rẻo theo bước chân trở về của người đàn bà quá lứa …Âm thanh ngọt ngào, vui tai như mỡ sôi xèo xèo trên bếp. Người em đi đứng tấp tửng. Cô mạnh bạo hướng mặt ra phía cửa, hong tóc và tỉ mẩn tết thành bím.
Khu chung cư đã lên tầng thứ tám. Căn lều tạm được dỡ bỏ, đám công nhân và gã trai nọ chuyển vào phòng mới xây để ngủ. Người em tay cài que đan, mắt hướng về bên ấy nhưng tuyệt nhiên không thấy gã. Một bận, cô nhìn thấy cái áo nhàu nhĩ mà gã đã mặc treo ở tầng bốn, căn phòng nằm chếch phía sau nơi cô ở. Gã trai khốn kiếp…Cô lầm rầm chửi, nhưng bụng mừng rơn. Ngày hôm sau, cô bí mật gọi thợ đến “tróc” thêm cửa nách.
- Cửa nách cô “tróc”thêm hồi nào?
Người chị lặp lại câu hỏi nhưng không phát ra thành tiếng. Bóng đêm nuốt chửng những ý nghĩ đang bùng lên cay chát …Cô những muốn gạt rẽ khoảng ngăn vô hình giữa hai người để riết lấy trái tim đau khổ, trái tim nảy rát nỗi khát khao. Nhưng, người chị vẫn ngồi im, mặc nhiên để bóng tối tiếp tục trùm lên hai con người cùng số phận…!
CHÀNG HÀ TIỆN
Vợ chồng hắn mới cưới nhau chưa tròn một năm. Son rỗi. Một hôm đẹp trời nàng đề nghị:
- Chiều thứ bảy tới đây mình đi ăn hiệu rồi đi xem phim.
- Có lý!
Chiều thứ bảy nàng đang trang điểm và đợi hắn đi đâu đó ngoài phố trở về. Hắn trở về mặt tươi như hoa, trên tay là mấy gói bỏng ngô, một đĩa DVD và một hộp khăn giấy.
- Mình đi thôi chứ anh?
- Đi đâu? À! Mà anh đổi ý rồi. Không đi ăn hiệu, mà cũng không đến rạp chiếu phim. Thay vì đi ăn hiệu, chúng mình ăn bỏng ngô. Bỏng ngô rất tốt cho sức khỏe, giàu chất chống ôxy hóa đến mức ngạc nhiên, giúp giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư, tiểu đường và tim mạch. Mình còn trẻ nhưng cứ phòng xa vẫn hơn. Vừa ăn bỏng ngô vừa xem phim. Như vậy cho tiện.
- Phim gì?
Hắn chìa đĩa DVD ra:
- Đây là đĩa phim “ Đường Sơn đại địa chấn”, phim của đạo diễn Phùng Tiểu Cương. Bộ phim làm lay động mọi giác quan, đem đến nhiều cung bậc cảm xúc và làm rơi lệ không biết bao nhiêu khán giả.
- Còn hộp khăn giấy?
- À ừ! Đấy là anh phòng xa, bởi vì khi xem phim thế nào em cũng khóc.
Sau câu chuyện ấy nàng bắt đầu ngờ có thể hắn là một người hà tiện. Mới nghi ngờ thôi, mức độ nặng nhẹ thế nào còn phải xem xét. Cũng như bác sĩ xem xét những biểu hiện lâm sàng của người bệnh. Nặng thì đến mức keo kiệt như Arpagông trong hài kịch của Molière, hay anh chàng ba quan đắt quá thà chết còn hơn khi đang chìm nghỉm dưới sông trong câu chuyện dân gian. Còn nhẹ? Nhẹ thì vắt cổ chày ra nước. Dù nặng hay nhẹ cũng phải thử lần nữa thì mới kết luận được. Lần này nàng thử rủ hắn đi ăn phở.
- Chiều thứ bảy tới chúng mình đi ăn phở anh nhé.
- Nhất trí.
- Em nghe nói phố Láng Hạ có phở bò Kobe 750.000 đồng một bát, phở bò Úc 220.000 đồng một bát. Thịt bò Kobe khi vào miệng sẽ tan nhanh, vừa mềm lại vừa giòn. Cũng đáng đồng tiền!
Hắn nghe giá tiền các bát phở mà như súng nổ bên tai. Phải tìm cách từ chối thế nào cho hợp tình hợp lý đây?
- Em đừng có tin vào những chiêu quảng cáo tiếp thị của nhà hàng. Thị bò Kobe hay thịt bò Úc muốn vào Việt Nam phải có giấy phép nhập khẩu. Đã có giấy phép nhập khẩu chưa? Chưa nhé! Lấy đâu ra thịt? Vậy thì chỉ có thịt rởm. Chẳng qua bọn nhà hàng bày ra thế để móc túi các đại gia. Theo anh, muốn ăn phở ngon mình nên lên phố Bát Đàn.
Vậy là chiều thứ bảy vợ chồng hắn dắt tay nhau vào hiệu phở ở phố Bát Đàn. Hôm ấy cuối thu trời hơi se lạnh. Vì trời hơi se lạnh nên hắn chọn ngồi ở bàn đặt gần nồi nước dùng. Cho nó ấm. Mà lại tiện nữa. Chan xong nước dùng người chạy bàn không phải mang bát phở đi xa. Họ kéo hai chiếc ghế rồi ngồi xuống. Hai bát phở bò tái lăn bốc hơi nghi ngút được bưng tới đặt trên bàn. Mùi thịt, mùi hành tươi và rau thơm, vị béo ngậy của nước dùng thơm mùi thảo quả, hồi, quế, đinh hương, gừng và hành khô bốc lên ngào ngạt. Hắn nhìn nàng:
- Trông hấp dẫn đấy chứ! Em ăn nóng đi cho nó ngon.
Hắn vắt chanh, cho thêm tương ớt, nhỏ vài giọt dấm tỏi, rắc một tẹo hạt tiêu, dùng đũa đảo qua đảo lại một lúc rồi bê cả bát lên húp. Sụp soạp! Húp khéo lắm, chỉ gạn húp cái nước dùng trong suốt, béo ngậy vị xương hầm. Rồi hít hà:
- Chà! Cái nước dùng mới chánh hiệu làm sao! Tuyệt!
Người đầu bếp với tạp dề đeo trước ngực đứng cạnh nồi nước dùng đang sôi lăn tăn nở nụ cười nhìn hắn với ánh mắt thân thiện vì được khen. Ai mà chẳng thích được khen. Hắn cũng nở nụ cười nhìn lại đáp lễ rồi chìa ngón tay cái ra gật gật cái đầu để khẳng định sự khen ngợi. Rồi cắm cúi húp. Nụ cười chưa kịp dứt trên môi người đầu bếp thì nước dùng trong bát phở của hắn đã bị húp đến cạn khô. Húp nhanh lắm. Hắn vừa đặt bát phở cạn khô đó xuống bàn thì người chạy bàn đã nhanh nhẩu mang nó đến cạnh nồi nước dùng. Nước dùng thơm mùi thảo quả, hồi, quế, đinh hương, gừng và hành khô đầy trở lại trong bát phở của hắn.
Một lần nữa nàng lại phân vân khó nghĩ. Qua cái vụ ăn phở này khó có thể đánh giá hắn có tính hà tiện. Bởi vì húp nước dùng trước, ăn phở khô sau là quyền của cá nhân, tôi thấy cái gì hấp dẫn thì tôi xơi trước, chả ai cấm. Mà tôi thấy ngon thì tỏ ý khen, ai khiến anh vì được khen mà lại khuyến mại cho tôi một lượt nước dùng nữa?
GÃ HÀ
TIỆN THỜI NAY
K
hi gia đình ông Khá dời đến mua đất vườn và xây lên một ngôi nhà đồ sộ nhất xóm này thì mọi người trong xóm ai cũng gọi vợ chồng ông bằng một biệt danh quen thuộc cho đến tận bây giờ là “ Ông (bà) nhà giàu” mặc dù trong sổ hộ khẩu gia đình vợ chồng ông đương nhiên là có tên tuổi hẳn hoi ( có lẽ khi cha mẹ ông Khá đặt cho ông tên này cũng đã nuôi ít nhiều kì vọng vào ông). Quả thật, nếu xét về tài sản, đất đai mà ông bà có được thì cũng đáng gọi như vậy lắm. Không chỉ có thế, dư luận còn đồn đại rằng trong cuộc di tản hoảng loạn chưa từng có của người dân Pleiku và Kontum vào tháng 3 năm 75, nhà ông đã vớ được cả một thùng đạn vàng và bỗng chốc giàu sụ lên trong khi nhiều người bị mất trắng cả sản nghiệp! Không ai có thể kiểm chứng được tin đồn này có chính xác hay không nhưng cứ nhìn qua cách sống, đặc biệt la cái cách mà vợ chồng ông “ đối xử “ với đồng tiền thì ai cũng có thể tin đó là sự thật.
Đầu tiên là từ việc ông Khá tự thiết kế ngôi nhà đang ở. Chuyện này cách nay cũng khá lâu rồi nhưng có lẽ do nó quá độc đáo nên vẫn còn nguyên tính thời sự nóng hổi ! Khi xây nhà, đám thợ hồ không thể không xì xào bàn tán ra đến tận bên ngoài vì cái “thiết kế” hết sức kì quặc- có một không hai mà trong đời đi làm thợ họ chưa bao giờ gặp phải. Đó là một ngôi nhà không chú trọng vào tiện nghi, giá trị sử dụng của nơi ăn chốn ở; cũng chẳng cần quan tâm về mặt thẩm mĩ mà chỉ cốt làm sao để bảo vệ được những của cải, sản phẩm mà nhà ông làm ra. Nếu biết quí trọng thành quả do mồ hôi công sức làm ra thì cũng đúng thôi nhưng đằng này vì ông ta quá sợ bị ăn trộm nên đã cho làm một gác lỡ, đúng hơn là một cái kho chứa hàng ở ngay trên không gian của phòng khách. Điều đáng nói là muốn đi lên trên cái gác ấy không phải bằng một cầu thang cố định như thông thường mà lại bằng một cái thang di động, có nghĩa là khi cần phải tốn thời gian lắp vào mới có thể lên được . Vì vậy nếu có người bà con nào đến chơi ( khách của ông chủ yếu là bà con) mà cần lấy ngay các loại nông sản hay cà phê khô trên cái kho ấy thì sẽ được chứng kiến một cảnh tượng không mấy đẹp mắt từ kho hàng trên cao xuống đến dưới phòng khách nhà ông. Trên đời này, nếu có ai dám mạo hiểm cả tính mạng “lấy thân để che của” ( vì cầu thang không an toàn) thì trong số đó phải có vợ chồng
ông Khá.
Mãi sau này, người dân vùng này mới hiểu ông ta đâu chỉ có chống trộm ở bên ngoài- mà cũng chỉ tại “gậy ông đập lưng ông “ đấy thôi !
Còn một chuyện nữa rất khó tin nhưng có thật là nhà ông không chịu bắc điện- đúng hơn là có điện sau mọi ngưòi trong xóm đến ngót 15 năm. Trong khi cả thế giới đều hiểu điện đóm cần thiết cho đời sống như thế nào, con người đang phấn đấu để đưa ánh điện về tận những vùng xa xôi hẻo lánh nhất thì nhà ông Khá- đang ở trong một vùng có điện lại không chịu có điện- thật không thể tin được nếu như không tận mắt chứng kiến. Khi bà vợ ông cứ thỉnh thoảng đi mua lẻ dầu lửa ở mấy quán gần nhà để thắp mấy cái đèn hột vịt vào ban đêm thì bà chủ quán – mặc dù bán được hàng- vẫn không thể không hỏi một câu:
-
Sao nhà chị không bắc điện?
-
Tại vì… vì… nếu có điện thì phải .. . tốn thêm nhiều thứ lắm.
-
Tốn thì tốn chứ sợ gì , có điện vẫn hơn chứ.
Bà Khá còn phân bua nào là nhà bà dư sức lao động, nếu có điện con bà sẽ đòi mua máy bơm nước trong khi bà muốn để chúng quây nước bằng tay từ dưới giếng lên cho khoẻ người ( mà giếng ở đây sâu đến 25m vào mùa khô), để chúng khỏi ăn không ngồi rồi mà sinh hư. Nào là con bà sẽ đòi mua ti vi, cát-sét, quạt máy, tủ lạnh…đủ thứ hết , rồi lại phải tốn tiền điện hàng tháng nữa. Nếu thắp đèn dầu cả nhà bà sẽ đi ngủ sớm để hôm sau làm việc cho tốt . Khi nghe qua, ai cũng lắc đầu ngao ngán cho cái đầu và cách suy nghĩ của bà. Không hiểu tại làm sao mà vợ chồng ông Khá lại cùng hợp nhau về điểm này (một trong những lí do để li hôn hiện nay là khi vợ hoặc chồng không chịu nổi người kia vì tính bủn xỉn, keo kiệt) .
Nếu Molière- nhà soạn kịch tài ba của nước
Pháp mà còn sống trên cõi đời này hẳn là ông sẽ rất vui mừng khi đã tìm được… bản sao của Harpagon- nhân vật keo kiệt điển hình và bất hủ cách nay hơn ba thế kỉ đã tái sinh ở nơi này, chỉ khác nhau về cách biểu hiện mà thôi !
Riêng lũ con của ông bà Khá phải đêm đêm ngồi bên bàn học với ánh đèn dầu tù mù trong một ngôi nhà to tướng, toạ lạc trên một thửa đất vườn rộng nhất vùng có hai mặt tiếp giáp với hai “mặt tiền”; khi mà các nhà xung quanh đều có ánh điện sáng choang đã là một cực hình đối với chúng. Bà con lối xóm không hiểu nổi sao lại có người ngồi trên đống của mà phải ép xác để con cái phải chịu đày đoạ như thế. Cũng đâu có lí do gì để ông Khá phải dùng” khổ nhục kế “ như các bậc anh hùng theo đuổi chí lớn của thời xưa ! Không biết do bị ức chế tinh thần kéo dài hay là do gen di truyền mà các con ông Khá học hành rất chật vật, đứa khá nhất cũng chỉ học đến hết lớp 12 là phải nghỉ. Trong số đó có hai đứa con trai út song sinh không vượt quá tiểu học. Hai cậu này cùng bị xếp loại yếu về học lực cuối năm lớp 5, lại cùng tham gia một vụ “đốt cờ Tổ quốc” trong lớp học khi học sinh phải mang cờ đến trường để đi cổ động cho nên bị đưa ra Hội đồng kỉ luật và bị xếp hạnh kiểm yếu ( phải chăng đây là một cách phản kháng, một sự nổi loạn có căn nguyên từ trong gia đình). Thế là ông Khá lôi hai đứa con ra đánh cho nó một trận nhừ tử vì cái tội phải ở lại lớp. Vừa đánh, ông vừa gầm lên :
-
Tụi bay ngu quá nên cho đi chăn bò cho rồi.
Hình như chỉ đợi có thế, cả hai đứa con trai đều đồng loạt xin ở nhà đi chăn bò cũng được chứ chẳng đứa nào tha thiết học hành gì nữa. Có lẽ ông Khá cũng không buồn lâu vì từ nay ruộng vườn nhà ông đã có thêm hai lao động.
Cứ như vậy, cuộc sống tù hãm, tối tăm ( hiểu đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng của từ này) của gia đình “ông nhà giàu” trôi qua gần 15 năm sau trong con mắt khó hiều của người đời. Cho đến một ngày ông Khá phải cuới vợ cho đứa con trai thứ, tiệc cưới tổ chức tại nhà, có tiệc cho bọn trẻ vào buổi tối nên ông ta đã phải…muối mặt sang nhà hàng xóm xin câu nhờ bóng điện và đương nhiên được nghe những lời góp ý không mấy êm tai của họ. Cũng may là năm sau lại đến lượt một cô con gái nữa lấy chồng và lần này ông không đủ can đảm để đi xin điện hàng xóm lần nữa nên “ông nhà đèn” mới có cơ hội để thu tiền điện nhà ông.
Nhưng rồi các con của ông Khá đâu muốn sống gần cha mẹ, hễ ai đến tuổi lập gia đình là đòi ra ở riêng vì không chịu nổi sự hà khắc. Hai đưá con trai út đã nghỉ học cũng chỉ ngoan ngoãn nghe lời một thời gian rồi sau đó chúng đi làm thuê, làm mướn những công việc lao động phổ thông đơn giản để kiếm tiền riêng thấy sướng hơn là làm cho nhà mình. Chúng không chịu nổi suốt ngày này qua ngày khác phải chôn chân trên cánh đồng nắng cháy hay phải giam mình trong các rẫy cà phê bạt ngàn, bị chính cha mẹ đẻ của mình vắt kiệt sức lao động để của cải làm ra ngày càng đầy lên trong khi những ước muốn chính đáng của chúng đều bị chôn vùi . Điều tệ hại nhất là ông Khá không sai khiến hai đứa con út được nữa nên cứ để mặc chúng muốn làm gì thì làm.
Khi không tìm được việc, không có tiền tiêu, bọn chúng bèn giở trò đạo tặc ngay trong nha nên một số đồ dùng không biết đội nón ra đi từ lúc nào. Đặc biệt là cà phê- một thứ hàng hoá có giá mà rất dễ tiêu thụ , dù cất ở kho hàng trên cao với chiếc cầu thang chống trộm nhưng bọn chúng vẫn có cách để tẩu tán ra bên ngoài.
Do không sai khiến được con mà cũng không muốn mất tiền thuê nhân công hái cà phê ( vả lại ai cũng bị ông chê là làm dở, không đáng đồng tiền bát gạo) nên cả hai vợ chồng già- đã quá tuổi để leo trèo, lại cứ phải bắc thang leo vắt vẻo trên cành cao như người làm xiếc trông vừa đáng thương vừa buồn cuời làm sao! Mà cà phê mít lại rất cao, ở vùng này mọi người đều chặt bỏ để thay bằng giống cây thấp hơn, dễ thu hái mà giá trị kinh tế cũng cao hơn nhưng lão tiếc tiền đầu tư và khoảng thời gian bị thất thu để chờ cây mới. Chao ôi! Phàm cái gì mà tính toán già quá thì lại…hoá non.
Cứ thế, ông bà già phải trèo cây hái cà phê thì cứ trèo, mấy đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn thích đi làm thuê bên ngoài thì cứ đi. Những lúc quá tủi cực, vừa làm ông vừa chưởi đổng và mắng nhiếc vợ không biết dạy con, bởi vì…con hư tại mẹ. Cho đến một hôm, một người bạn của con ông chạy về báo hung tin thằng con út bị cây ngã đè đang cấp cứu ở bệnh viện. Bác sĩ khuyên nên chuyển gấp vào Trung tâm chấn thương chỉnh hình ở Sài gòn vì cột sống bị tổn thương có thể dẫn đến tê liệt nhưng ông Khá cứ nhất quyết để chờ người chủ nơi con ông đang làm thuê chịu trách nhiệm mọi chi phí rồi mới chịu đưa đi. Ông ta đem tính mạng và sự an nguy của con ra mà thi gan, mà gây sức ép với người chủ với suy nghĩ “ cứ để đó, nếu nó có ra làm sao thì họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm”. Do trì hoãn và không được chữa trị triệt để nên cuối cùng thằng con ông bị liệt nửa người thật sự, mà ông Khá cũng chẳng thể nào buộc người ta phải trả lại sức khoẻ cho con ông như trước, tiền bạc lúc này đã trở thành vô hiệu. Giá như con trai ông bị nạn và bị tàn phế trong một trường hợp khác với một hoàn cảnh gia đình khó khăn, có lẽ búa rìu của dư luận đã không nhắm bổ vào ông.
Từ đó trở về sau, cuộc sống của gia đình ông Khá đã trở thành đề tài cho bà con chòm xóm bình luận, đàm tiếu, mà làm sao có thể ngăn cấm được “bia miệng” của thế gian. Cụ Trí- một người hàng xóm chung một hàng rào với nhà ông Khá, trong những lúc trà dư tửu hậu thường nói với bà con rằng :
-
Bà Năm đi bán vé số và giúp việc nhà theo giờ cho người ta mà nuôi được hai con tốt nghiệp đại học; ông Huân chạy xe ôm , bị vướng vào cái “ lí lịch không rõ ràng” thế mà các con ông vẫn học hành giỏi giang, có nghề nghiệp đàng hoàng ; còn đằng này giàu có như ông Khá thật là vô nghĩa. Ai dám chắc sau này con cháu ông không làm tiêu tan hết gia sản vì chúng đâu có học được từ cha mẹ cách sử dụng đồng tiền sao cho có ích nhất.
Một ngưòi khác cũng góp lời :
-
Đúng vậy, nếu chỉ biết chăm bẵm cho cái túi tiền càng ngày càng nặng lên mà xem nhẹ các giá trị khác thì sẽ chuốc lấy hậu quả nhãn tiền ngay đấy thôi.
Mặc cho thiên hạ muốn nói gì thì nói, lão” Harpagon tái thế “ vẫn chưa thôi đam mê tích luỹ của cải không hề biết chán vì biết bao nhiêu là đủ cho người có máu tham. Ông cũng không có được giấc ngủ yên lành vì luôn sợ bị mất trộm, lo lắng sau này không biết để của cải lại cho ai và cũng không làm sao có thể mang theo được sang bên kia thế giới !!!
Đám chết của lão hà tiện
Ở
thị trấn Xuân Đài, nói đến ông Bún ai mà lạ. Tên ông là Thảnh, sống bằng nghề làm bún nên ai cũng gọi là ông Bún. Ông Bún nổi tiếng bởi hai nguyên do: Bún của ông sạch, sợi bún thăn, thơm, ít mùi chua như bún người khác.Thứ hai nữa là ông nổi tiếng vì tính keo kiệt. Có nhiều giai thoại về ông. Chẳng hạn việc ông ngồi nhặt bún dính trong mấy cái thúng sau khi đã bán hết. Bán xong bốn năm thúng bún một buổi sáng, ông mất gần một tiếng rưởi đồng hồ ngồi gỡ được hơn nửa kí bún vụn. Thấy vậy vợ ông Bún kiềng riềng:
-Bán xong ông bỏ mấy cái thúng cho đám nhỏ rửa đi, dành thì giờ làm việc khác. Không thì nghỉ ngơi cho khỏe.
Ông Bún nói:
-Mỗi tháng tôi có thêm hai chục kí bún. Một năm hai trăm kí. Giá một kí bún rời là mấy nào? Nếu bỏ ống, cuối năm được bao nhiêu tiền bà thử tính coi?.Đừng có xúi dại.
Với tính nết đó ông Bún không có bạn bè. Suốt năm nầy qua tháng khác ông ta chỉ quanh quẩn bên mấy thúng bún. Đi ngang qua ông, ai cũng nghe mùi gạo ngâm. Mà hình như ông không biết khổ là gì. Tính ông cũng ngẳng đời. Trong thời bao cấp khó khăn là thế, cái thời mà chất xám không bằng chất xanh, cái thời mà người ta cho con cái nghỉ học ào ào, ông lại cho con đi học hết. Vì thế ra đường cũng ít người chào hỏi ông.
Biết tính ông vậy chẳng ai thèm bàn tán gì về ông nữa.
Một thời gian lối xóm nghe tin ông Bún đau nặng. Cũng do người ta kể. Ban đầu ông chỉ đau bụng sơ thôi. Khám chữa theo diện bảo hiểm ở bệnh viện huyện hai tháng không bớt. Người nhà khuyên ông nên bỏ bảo hiểm vào thành phố khám cho yên tâm. Nghĩ đến chuyện tốn kém là ông Bún đã giật mình rồi.-Cứ chữa ở đây. Khi nào bệnh viện huyện thấy cần thiết phải chuyển đi thì họ làm thủ tục. Họ giữ mình lại để làm gì. Vậy là ông không chịu đi. Đến khi đau chịu không nổi ông mới bằng lòng nghe theo lời vợ con, đi khám vượt tuyến. Ông Bún lên bệnh viện tỉnh chữa hơn một tháng cũng không bớt. Bây giờ thì tư duy của ông có hơiđổi mới
rồi. Ông gẫm, có khi bệnh nhân không nghe theo lời bác sĩ khuyên mà lại đúng. Ông bằng lòng xin chuyển vào bệnh viện thành phố. Ở đây, khám nghiệm xong xuôi, vợ ông Bún nói -Bác sĩ bảo ông không có bệnh hoạn gì cả. Do tuổi lớn mà làm việc quá sức sinh ra suy nhược vậy thôi.Về nhà tẩm bổ một thời gian sẽ khỏi.Ông Bún mừng khấp khởi. Nhưng sau đó ông lại la vợ:
-Tôi nói với bà rồi mà bà không chịu nghe. Đau bụng thì uống thuốc và xức dầu lâu ngày cũng hết. Mấy ông bác sĩ ở huyện mình coi thế mà giỏi đấy. Đúng là nhiều thầy thối ma, làm tốn mấy chục triệu.
La vậy nhưng mặt ông Bún vui hẳn lên.Ông bảo vợ:
-Thôi bà ra đón xe ta về ngay đi. Lâu ngày không thấy mặt mấy con bún cũng nhớ. Nằm vậy mà tưởng tượng mình đang vắt bún, hai tay cứ vân vê hoài.
Đang nói thì cơn đau quặn thắt thình lình làm ông nhăn nhó.Thấy vậy bà vợ vội vã quay đi và nói:
-Ông ngồi đây tôi đi thuê xe.
Bà quay lưng đi nên ông Bún không thấy hai giọt nước mắt trào ra trong hai khóe mắt người vợ.
Lại cũng do người ta kể, khi ông Bún về nhà, một người bạn thời tiểu học giờ đã là một luật sư nghỉ hưu đến thăm ông và khuyên:
- Trong lúc đang còn tỉnh táo anh nên viết giấy phân chia hết gia tài cho con cháu đi. Đừng để lại trong két một đồng xu nào, sau nầy sẽ sinh phiền phức.
Nghe bạn khuyên, ông Bún nổi dóa:
-Anh nghĩ tôi điên chắc? Con cái có phần của nó rồi. Những gì còn lại là của tôi, không ai có quyền xen vào, kể cả vợ con.
Thấy vậy, ông luật sư ngao ngán nhìn bạn chẳng nói gì thêm.
Mấy tháng sau thì nghe ông Bún chết vì bệnh ung thư.
Được tin ấy, câu nói của mọi người sao mà giống nhau, lại cũng kèm theo cái cười mỉa mai cũng giống nhau:
-Giữ của cho lắm giờ chết có mang đi được không.
Dù ông ta sao đi nữa, là người cùng khối phố với ông Bún, tôi không thể không đến thắp cho ông ấy một cây nhang. Mới ra khỏi ngõ mấy bước, thím Sáu cùng xóm gọi giật lại. Thím hỏi:
-Bác đi đám chết ông Bún đấy hả
-Vâng, cùng xóm cùng giềng sang thắp cho ông cây nhang.
Giọng thì thào, thím Sáu hỏi có vẻ quan trọng:
-Nghe nói ông ấy bán xác tới một trăm năm chục triệu, có không bác?
Tôi lắc đầu:
- Không nghe. Thím Sáu đã đi điếu chưa?
-Lát nữa tôi sang. Mà nầy-Thím Sáu lại to nhỏ-Chết rồi còn bán xác lấy tiền làm gì nữa chứ?
Tôi cười:
-Ai mà biết. Nói xong tôi bỏ đi.
Đến gần nhà ông Bún thấy người trong người ngoài. Một số đang đứng quanh trụ cổng nhà ông Bún đọc một tờ giấy gì đó dán trên trụ. Tò mò tôi bước lại: Tờ cáo phó. Bên dưới tờ giấy ghi
Xin miễn nhận tiền phúng điếu.
Tôi chen vào trong nhà thắp nhang cho ông Bún. Một cái đám chết thật trầm lắng. Không kèn trống, không hát hò xình xang như các đám chết khác. Cha xứ đang làm lễ cầu hồn. Con cháu đã phục tang đang đọc kinh cứu rỗi. Tang gia thân quyến ai cũng mắt đỏ hoe thâm quầng, nhưng bặt nhiên không nghe tiếng khóc.
Tiếng cầu kinh vừa dứt bỗng mọi người đứng vòng ngoài vẹt qua một bên. Ngoài đường một chiếc xe vừa dừng ngay trước cổng: Xe tang! Quấn quanh xe là một băng rôn vàng rực có ghi hàng chữ đỏ:
Quà tặng cuộc sống.
Bên dưới ghi:
Trường Đại học Y dược.
Từ trong xe hai nhân viên y tế mặc blu trắng bước xuống, mang theo chiếc băng ca. Cả hai im lặng rẽ đám đông bước vào. Họ cúi chào mọi người trong gia đình rồi thắp nhang vái lạy người chết. Sau đó bằng những động tác nhanh nhẹn, hai người rút từ đâu đó ra một bọc nilon. Một người mở dây kéo, người kia đẩy thi thể người chết vào và lập tức rút nhanh dây kéo lại. Bây giờ mới nghe tiếng khóc rấm rức. Bà Bún vừa khóc vừa rút trong lần áo chế một gói giấy mầu đỏ bằng bàn tay, kính cẩn đưa cho vị trưởng lão họ đạo. Bà nói:
- Đây là số tiền chồng tôi dành dụm. Theo tâm nguyện của ông ấy, xin đóng góp để nhà thờ làm việc phúc.
Xong tang lễ, hai nhân viên y tế cúi chào gia đình lần nữa rồi khiêng thi thể người chết ra xe. Gia đình và họ đạo theo sau đưa tiễn.
Tôi mới bước ra phía ngoài, bỗng thím Sáu trong đám dông chen đến bên tôi, vẫn giọng thì thào:
- Ông ấy bán xác, người ta đến chở đấy.
Rồi giọng ai đó –Nghe nói ông ấy cất riêng một số tiền, trong nhà không ai biết. Gần hấp hối ông mới gọi vợ đến giao.
Tôi chợt hiểu cái gói giấy mầu đỏ lúc nãy vợ ông Bún đã kính cẩn trao cho vị trưởng lão.
Tôi thấy cần phải nói, không chỉ riêng cho thím Sáu nghe, mà tất cả mọi người cùng nghe và phải biết. Tôi hiểu rằng với ông Bún điều nầy không cần thiết. Đó là nói lúc ông còn sống, bây giờ thì nói làm gì! Biết vậy nhưng tôi không thể không nói trước khi thi thể ông Bún được đưa lên xe:
-Thưa bà con, ông Bún đã hiến xác cho trường Đại học Y dược để sinh viên nghiên cứu học tập, sau nầy ra chữa bệnh cứu người đấy.
Cũng như mọi người, ông ấy chết không mang theo gì cho mình cả, mà ông còn để lại cho đời quá nhiều. Một nghĩa cử thầm lặng nhưng hàm chứa một tấm lòng cao cả biết bao.
Bà lão hàng xóm
1-
- Đói quá! Ối giời ơi! Đói quá!
Tiếng kêu thảm thiết của bà lão hàng xóm khiến tôi không thể cầm lòng. Bà lão rong chơi trên cõi đời này đã hơn 90 năm, muốn chết lắm rồi, cầu mong được chết, mà giời nào có cho chết, giời còn bắt bà đối diện với một bể khổ mênh mông, vô tận, sự hiện diện của bà trên thế gian này hầu như chỉ còn là những lời rên rỉ, ngày nào bà cũng rên rỉ muốn được chết, những lời rên rỉ thốt lên da diết, thiết tha như thể nguyện cầu:
- Ới con ơi! Ới các con ơi! Sao không về đưa mẹ đi với, các con ơi! Trời ơi! Sao không cho tôi được chết đi hở trời!
Tôi ở căn hộ tầng 1 của chung cư 5 tầng, mở cửa phía sau thì trông qua cửa sổ để thấy bóng bà lão với những lời kêu than não lòng; mở cửa phía trước, nhìn qua khoảng sân của khu tập thể là phố Xã Đàn rộng 6 làn xe. Con phố này là đường nối từ Kim Liên đến Ô Chợ Dừa, dài hơn cây số, đã được báo chí gọi là con đường đắt nhất Hà Nội, đắt nhất Việt Nam, đắt nhất hành tinh tính theo giá thành thi công. Giá đất mặt đường 160 triệu, 180 triệu đồng/ mét vuông nên nhà mặt phố chỉ có đại gia mới mong sỡ hữu. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, nó sẽ trở thành Wall Street của Việt
Nam
, vì từ bây giờ, đi độ mươi mét, ta lại thấy biển tên của các ngân hàng: Sài Gòn Công Thương, BIDV, Agribank, SHB...cả ở bên phải và bên trái. Đồng tiền đã tạo nên những câu chuyện cười ra nước mắt. Một dãy dài sáu bảy ngôi nhà bốn tầng, năm tầng của các tướng tá Quân khu Thủ đô, có mặt sau nhìn ra con đường, tưởng đã có dịp may đổi đời khi chuyển cửa sau thành cửa trước, nhưng không may cho họ, khoảng đất trống từ mép vỉa hè đến tường nhà-có chiều rộng khoảng 40 cm và chiều dài chạy suốt dãy nhà-đã bị một cò đất nhanh tay sở hữu rồi xây lên một bức tường che, và đòi bán lại bức tường ấy với giá vài chục tỉ đồng. Xe của Đài Truyền hình Việt Nam đã đến quay phim và phỏng vấn chủ các ngôi nhà và người dân hàng xóm, nhưng kể từ khi con đường được đưa vào sử dụng, được gắn biển tên phố Xã Đàn đã hơn một năm, sự việc vẫn rơi vào im lặng, quên lãng.
Con phố ồn ào sôi động với những toan tính làm ăn, những dòng xe ồn ào xuôi ngược từ sớm tinh mơ cho tới tận đêm khuya, đâu có biết chỉ cách đó một nhà chung cư có tiếng kêu than não nùng của bà lão.
Mỗi lần nghe tiếng kêu than, tôi tự hỏi, không hiểu trên đời này có còn kiếp người nào khổ ải hơn không? Bà lão có hai người con, một trai, một gái, lúc sinh thời, anh con trai trưởng làm nghề lái xe, cô em gái có gánh hàng khô, nhưng cả hai người đều bảo nhau chết trước từ lâu; anh con trai chết đi, để lại vợ, bốn đứa con gái và ngôi nhà bốn tầng, xây được nhờ tiền bán đất. Bà lão sống với người con dâu và các cháu nội ở tầng một trong ngôi nhà 4 tầng ấy, giang sơn của bà là chiếc giường đôi với chiếc chiếu đã sờn và cáu bẩn, bốc mùi vì lâu ngày không được giặt và vì những thứ mà bà vô tình thải ra, bà không tự di chuyển được vì mắt hầu như không còn trông thấy gì và khi đã ngồi xuống thì không tự đứng lên được, mà không phải lúc nào ở gần bà cũng có người để giúp đỡ khi cần thiết. Các cháu nội của bà lần lượt đi lấy chồng, vì thế người trong nhà ngày càng vắng đi, người con dâu nhận một chân tạp vụ ở UBND phường, giờ hành chính vắng nhà, vì thế, nhiều lúc tưởng như thế gian này chỉ còn trơ trọi có một mình bà với những tiếng kêu than ai oán.
- Đói quá! Ối giời ơi! Đói....
Tiếng kêu đột nhiên im bặt. Có tiếng kẹt cửa chính của ngôi nhà, lúc này đã hơn 11 giờ trưa, có lẽ người con dâu trở về nhà, sau đó cánh cửa sổ trông sang phía sau nhà tôi được khép kín lại. Như thế tốt hơn đối với tôi, để tôi khỏi phải mắt thấy tai nghe sự đau khổ của một kiếp người, để lòng tôi khỏi phải day dứt vì nhân tình thế thái, để con tim tôi khỏi thắt lại khi nhìn qua khung cửa sổ thấy bóng bà lão đang loay hoay, quờ quạng trên chiếc giường đôi cũ kỹ nhưng có lẽ rộng mênh mông như nỗi khổ của bà.
2-
Từ sau cái hôm tiếng kêu đói của bà lão bỗng nhiên im bặt, tôi thấy hơi lạ vì không thấy còn tiếng kêu than hằng ngày qua khung cửa sổ vọng đến tai tôi nữa. Tiếng kêu đã quen với tôi đến nỗi thiếu đi, lòng tôi thấy bâng khuâng trống vắng. Tôi đoán già đoán non, có lẽ bà lão mệt đến nỗi không còn sức để kêu nữa, hoặc người con dâu và các cháu nội bỗng dưng chăm sóc tử tế đến mức bà lão hài lòng và thấy không cần thiết phải kêu lên một lời nào nữa, nếu được như thế thì lòng tôi thanh thản biết bao nhiêu.
Rồi đến hôm nay, từ 5 giờ sáng khi tôi còn chưa thức giấc, tiếng trống, tiếng kèn, tiếng hồ, tiếng nhị và cả tiếng đàn bầu qua khung cửa sổ vọng đến tai tôi ai oán, nỉ non. Tình cảm trong tôi thật lạ, nửa buồn, nửa vui; buồn vì một kiếp người đã rời bỏ nhân gian để về nơi yên nghỉ ngàn thu, vui vì khi nhắm mắt xuôi tay, có lẽ trên môi bà lão nở nụ cười mãn nguyện, có phải ai trên cõi đời này cũng ước mong được chết và mãn nguyện trong phút giây lâm chung như bà lão hàng xóm của tôi đâu?
Tôi lắng tai nghe mà không thấy có tiếng khóc, tiếng gào của người thân xót thương người quá cố, trên loa phóng thanh chỉ có bài khóc theo công thức của người khóc thuê ăn nhịp với tiếng kèn, tiếng nhị, bài khóc đều đều, vô cảm, thỉnh thoảng
vang lên. Hỡi ơi! Trên thế gian này có bao nhiêu đám tang ráo hoảnh không một giọt lệ rơi mà chỉ có những lời văn sáo rỗng khóc thuê? Chẳng hạn, nếu người đến viếng là cháu gọi người quá cố là cô ruột thì chỉ cần rỉ tai người khóc thuê kèm theo tờ bạc dúi vào tay là có ngay một bài khóc: Cô ơi cô! Sao cô nỡ bỏ cháu mà đi....
Những tia nắng đẹp của một ngày mới rực vàng một góc sân. Tôi bước qua khoảng sân ấy để ra vỉa hè thoáng và rộng của con đường rộng rãi 6 làn xe. Bước mấy bước, tôi đến bức tường trị giá vài chục tỉ đồng, bức tường vững chãi như Vạn lý trường thành che mặt dãy nhà các tướng tá Quân khu Thủ đô. Cạnh đấy, trụ sở mới 5 tầng chiếm mặt tiền 2 số nhà của Ngân hàng Agribank to đẹp, khang trang vừa mới khai trương, tấm vải điều khổ rộng buông từ nóc đến hết tầng 2 hứa hẹn với người đến giao dịch món quà khuyến mại có giá trị, thời gian khuyến mại kéo dài đến hết tháng 2-2009.
Nhịp sống hối hả cuốn bước chân vô định của tôi đi cho đến khi tiếng kèn, tiếng nhị chỉ còn văng vẳng mơ hồ đâu đó xa xa...
Mười giờ sáng, tôi đi cùng với các ông bà trong tổ dân phố đến chia buồn cùng tang chủ. Ông tổ trưởng dân phố đi trước cùng với một vòng hoa, một tay cầm xấp phong bì tiền phúng viếng của các thành viên trong đoàn, tay kia cầm thẻ nhang. Chúng tôi đi một vòng quanh linh cữu người quá cố. Không sai mấy so với sự tưởng tượng của tôi, nhìn qua khung kính, khuôn mặt nhăn nheo lấm tấm tàn nhan của bà lão toát lên một vẻ mãn nguyện khó tả, đôi mắt vẫn còn mơ hồ nét cười trước khi nhắm lại, đôi môi hé mở cho thấy hàm răng còn dăm chiếc do nước ăn trầu lâu ngày nhuộm thành một màu nâu đậm. Chị con dâu, mấy đứa cháu gái, bà con thân thuộc...trắng vòng khăn tang, nhưng tuyệt nhiên không có một giọt nước mắt rơi, chỉ có tiếng trống, tiếng hồ, tiếng nhị và tiếng đàn bầu nỉ non, thổn thức tiễn đưa bà lão về nơi an nghỉ cuối cùng. Viếng xong, tôi về nhà ngồi viết tiếp những dòng này, như một nén nhang thắp cho bà, cầu mong cho bà sớm phiêu diêu nơi miền cực lạc.
Cá gỗ
Ngày chặt cây xoan để chữa cái chái bếp, hắn để dành một đoạn rồi kỳ cạch đẽo gọt. Dao sắc, khéo tay nên chẳng mấy chốc đã được một con cá chép. Nhọ nồi trộn với lá xoan giã nhuyễn làm màu xanh đen phết lên thân, điểm nhãn mắt bằng phẩm đỏ, trông con cá thật sống động chẳng khác cá thật. Cái đuôi vểnh lên, cái đầu hơi chúi xuống giống như lý ngư vọng nguyệt. Lý ngư vọng nguyệt nghĩa là cá chép trông trăng. Con cá chép trông trăng không ngẩng đầu lên mà lại chúi đầu xuống để nhìn bóng trăng soi đáy nước. Bóng trăng soi đáy nước là một ảo ảnh, tuy là một hình tròn đầy đặn biểu tượng cho sự viên mãn nhưng dẫu sao vẫn là ảo ảnh. Cái ảo ảnh ấy đẹp đến mức nhà thơ Lý Bạch (701-762) một đêm rằm ngồi thuyền ngắm trăng trên dòng sông Dương Tử đã nhảy xuống để bắt vì vậy mà chết đuối. Nơi đó người đời sau lập một cái đài gọi là Tróc nguyệt đài để tưởng nhớ. Ngoài Lý Bạch ra trên đời này thiếu gì người suốt đời đuổi theo ảo ảnh như con cá chép trông trăng. Như hắn chẳng hạn, sự no đủ đối với hắn chỉ là ảo ảnh trong một giấc mơ xa vời.
Nhà hắn nghèo, chỉ biết sống dựa vào mấy sào ruộng và mò cua bắt ốc. Kinh tế tăng trưởng chậm lắm. Đã thế lại đông con: cái Gái, thằng Cò, cu Nhỡ với lại Cu con. Đến cái đoạn thằng cu Nhỡ hắn xuýt xoa: nhỡ thôi đấy nhé, từ nay xin chừa. Vậy mà táy máy thế nào lại tòi ngay ra thằng Cu con. Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, trong các việc ấy sức hắn chỉ dám nghĩ đến tề gia. Trước hai ngả đường dân chủ hay độc tài, để cai trị đám thần dân mà hắn cho là có dân trí thấp gồm mụ vợ và bốn đứa con hắn chọn độc tài. Năm mẹ con giống như một bọn dân hèn yếu cùng chung thân phận con sâu cái kiến sống với hắn chẳng khác gì dưới ách cai trị của một bạo chúa. Lời nào thoát ra từ miệng hắn cũng là chân lý, độc quyền chân lý, chỉ có từ đúng trở lên. Lệnh hắn đưa ra có sức nặng tựa thái sơn. Ai dám trái lệnh nhẹ thì bị lừ mắt nghĩa là cảnh cáo, nặng thì đàn áp nghĩa là bị ăn roi. Hắn treo con cá gỗ và phán rằng: ai nhìn vào đó coi như được ăn cá thì mọi người phải tin rằng đó là sự thật. Trong nhà hắn cái Gái có thể được xem là trí thức vì nó học lớp năm, học cao nhất nhà. Là trí thức nên dẫu có biết tỏng tòng tong những điều hắn nói ra không phải là chân lý nhưng nó giữ thái độ trùm chăn, thờ ơ vô cảm cho yên thân, không phản đối câu nào. Phản đối để ăn roi vào mông à?
Hôm ấy nhà hắn ăn cơm chiều. Ăn cơm chiều chứ không phải cơm tối để đỡ phải thắp đèn. Thức ăn là rau luộc chấm tương. Thằng Cu con mè nheo:
- Cá! Ăn cá cơ!
Hắn hất hàm chỉ con cá gỗ:
- Cá đấy! Ăn đi! Mà chỉ được nhìn hai lượt thôi đấy.
Bởi vì lời hắn nói ra là chân lý nên thằng Cu con nhìn con cá hai lượt rồi thôi không mè nheo nữa. Ngoan thế! Cả nhà lại mãi miết ăn, đôi đủa này vừa gắp rau đưa lên lại đã có đôi khác cắm xuống. Chợt thằng cu Nhỡ kêu lên:
- Bố ơi! Thằng Cu con nó lại nhìn kìa!
- Kệ nó! Nó ăn mặn cho nó chết khát.
Chị Bông
1-
Cách đây hơn 30 năm tôi là cán bộ của Phòng Thiết kế Nhà máy Điện Cơ, còn chị tên là Bông, Trưởng phòng Tổ chức của nhà máy. Hồi ấy tôi phải hoàn thiện bản lý lịch cá nhân để gửi cho đơn vị của chồng tôi. Ngay từ hồi ấy mọi người trong đơn vị vẫn gọi anh là "Quân đầu bạc", vì lúc sắp lấy nhau, tuy mới quá 25 tuổi nhưng ở sau gáy anh có một nhúm tóc bạc tạo thành một đốm tròn nho nhỏ, không cách gì làm cho cái đốm trắng khó chịu ấy biến đi được. Cái đốm trắng không hề ảnh hưởng đến tình cảm sâu đậm giữa chúng tôi, suốt hơn 5 năm anh được gửi đi đào tạo ở Belarus trong Học viện Kỹ thuật quân sự, những cánh thư chúng tôi gửi cho nhau theo địa chỉ Minsk 75-10A của anh và
địa chỉ nhà máy của tôi vẫn qua lại đều đặn. Bây giờ nhớ lại nội dung ướt át của những lá thư đi về, tôi không khỏi cười thầm nếu không nói là đỏ mặt; tuy anh ấy đã nói rõ cho tôi biết là cả thư đi và thư về-theo quy định, đều phải qua cấp uỷ đảng của đơn vị học viên quân sự đọc để biết nội dung, điều ấy cần thiết cho việc giáo dục và uốn nắn tư tưởng trong điều kiện du học ở nước bạn- nhưng tôi bất cần, những xao động, nhớ nhung sâu kín nhất tôi đều viết cho anh ấy, cuối thư không quên trăm ngàn chiếc hôn thắm thiết.
Anh về nước với quân hàm trung uý, công tác tại một trường Cao đẳng quân sự ở Sơn Tây. Một trong những công việc quan trọng để tiến tới tổ chức hôn lễ là gấp rút hoàn thành bản lý lịch cá nhân của tôi để gửi cho đơn vị anh xem xét.
Tôi đã khóc rất nhiều sau khi anh trả lại cho tôi bản lý lịch viết lần thứ nhất. Tính cẩn thận, trước khi nộp cho cấp uỷ, anh đưa cho bạn xem và phát hiện ra những điều không thể chấp nhận được vì tôi viết thật quá. Cũng may mà anh chưa nộp lên trên.
Bố tôi là giáo viên tiểu học, mất sớm từ lúc tôi lên ba, mẹ tôi ở vậy nuôi con, cả nhà tôi từ quê lên Hà Nội từ đầu những năm 50 của thế kỷ trước, mẹ tôi với gánh bún riêu cua bán rong lăn lộn ở các lề đường kiếm sống nuôi con...khai những điều ấy thì
không ảnh hưởng gì đến hoà bình thế giới.
Còn ông bà nội ngoại của tôi, rồi cậu ruột của tôi, sao tôi lại dại dột sờ đầu gối khai thật làm gì? Chị Bông an ủi tôi:
- Sao mà dại dột thế em ơi! Tất cả những điều về ông nội, ông ngoại em-đều là địa chủ trong cải cách ruộng đất- và người cậu ruột di tản vào Nam năm 1954 em viết làm gì? Hồi về quê em thẩm tra lí lịch để làm thủ tục kết nạp Đảng, chị biết tất cả những việc ấy từ bí thư Đảng uỷ xã-không kết nạp được thì thôi-chị và Phòng Tổ chức biết vậy...
- Nhưng mà chị biết rồi thì em dấu làm sao được, chị ơi!
- Mày ngu lắm, con ngố ạ! Chị biết, nhưng giá như tất cả những điều ấy em không viết kỹ, chỉ khai tên ông nội và ông ngoại thôi, nghề nghiệp viết là làm ruộng- tôi là phận cháu, các cụ làm ruộng như thế nào, tôi biết đấy vào đâu?- còn cậu ruột đi nam thì cho qua, không lẽ chị lại không có thể đóng cho em con dấu và ký cho em một chữ ký hay sao? Chị biết em là một đoàn viên thanh niên tốt, trung thực, chuyên môn giỏi, được quần chúng yêu mến, chị xem em như em gái, làm sao chị có thể vì một bản lý lịch mà để cho tình duyên của em trắc trở được.
Chị Bông! Ôi chị Bông, ân nhân của em! Em phải cảm ơn số phận đã run rủi cho em gặp được một người nhân hậu như chị, không có chị cứu em, chắc em chết mất, chị Bông!
Những ngày chờ đợi tin tức do bản lý lịch viết lại lần thứ hai mang lại, tôi như người trong mộng. "Quân đầu bạc" của em! Nếu không lấy được anh, thì em tìm đâu ra trên thế gian này người đàn ông có cái đốm trắng sau gáy-cái đốm đã quá quen thuộc với em đến mức em nghĩ rằng thiếu nó thì người đàn ông không thể nào có được tình yêu chân thực và nồng cháy như anh. Không lấy được anh thì em chết mất, ới anh Quân!
Chỉ hơn một tuần chờ đợi kể từ khi bản lý lịch thứ hai- được chị Bông vẽ đường cho hươu chạy- gửi đi mà tôi tưởng như hàng thế kỷ đã đi qua. Rồi thì mãn nguyện, rồi thì hôn lễ, chớp mắt một cái bây giờ đã hai mặt con, một trai, một gái, con gái đầu đã lấy chồng và chúng tôi có cháu ngoại để nâng niu nựng nịu. Chồng tôi được gửi đi đào tạo tiếp lần thứ hai ở Đại học Hàng không Matxcơva để lấy bằng tiến sĩ chuyên ngành thiết kế chế tạo vật thể bay, bây giờ vẫn tại ngũ đồng thời có chân trong Hội đồng quản trị của Công ty cổ phần kỹ thương GBS-JSC, cái đốm trắng sau gáy vẫn thế, với tôi và với bạn bè vẫn là "Quân đầu bạc" chu đáo, nhân hậu trước sau như một.
Chúng tôi sắm được chiếc Toyota Vios làm phương tiện di chuyển của gia đình, nhà ở 3 tầng, con cái ngoan ngoãn và thành đạt, tất cả những điều ấy đều có công của chị đấy, hỡi chị Bông yêu quý của em! Đường quan lộ của chị cũng rộng mở, tôi được biết hình như con người phúc hậu ấy được chuyển từ nhà máy lên nắm giữ một vị trí quan trọng trong Thành hội phụ nữ Hà Nội, bây giờ cả hai vợ chồng đã nghỉ hưu, đứa con trai duy nhất đã lấy vợ -tôi nhận được giấy mời và đến dự hôn lễ-anh chị đã có cháu đích tôn nối dõi.
2-
Hôm ấy là ngày nghỉ, buổi sáng chúng tôi có việc đi qua đường Hồ Đắc Di, con đường sát mép nước hồ Xã Đàn. Chiếc Toyota Vios do chồng tôi lái bon trên đường, thằng cháu ngoại lên ba ngồi trong lòng tôi đang líu la líu lô, thì bỗng tôi nhận ra ai như chị Bông. Chị Bông! Đúng chị rồi. Nhà chị ở gần đây mà! Chồng tôi dừng xe lại. Nhưng sao lại thế này. Từ xa, tôi đã thấy một người đàn bà có tuổi cầm trên tay một vật dụng tự tạo để múc nước, cán bằng tre, gàu là hộp đựng sữa bò loại lớn, cái vật dụng này được cầm ngược để cán chĩa về phía trước tạo thành một thứ vũ khí răn đe. Răn đe ai? Đối tượng bị răn đe là một thanh niên, cỡ bằng tuổi con trai tôi, ban đầu thì rút lui, nhưng sau đó quay ngược lại:
- Tôi đã bảo bà thôi đi, không được trồng rau ở chỗ đất ấy...
- Á à! Thằng này láo, đất của ông bà nhà mày để lại đấy hử?....
À! Thì ra là trồng rau, và cái gàu múc nước tự tạo bằng hộp đựng sữa bò là để múc nước tưới rau. Và chỗ đất trồng rau bị tranh chấp quyền sử dụng trông méo mó, diện tích tổng cộng cỡ bằng hai chiếc chiếu đôi, là khoảng đất sót lại nằm kẹp giữa con đường lát gạch để mọi người đi dạo quanh hồ và mép hồ kè bê tông. Đã nhìn thấy tôi, nhưng chị Bông
chỉ hơi gật đầu nhẹ một cái, rồi tiếp tục cuộc cãi vã với thằng bé, cuộc cãi vã cuốn hút chị với những lời lẽ không mấy đẹp đẽ của cả hai bên cho đến khi thằng bé xì một cái rõ dài rồi bỏ đi. Đến lúc ấy chị mới đưa tay gạt mồ hôi trên trán, vồn vã hỏi thăm chúng tôi, rồi khen thằng cháu ngoại,
rồi mời vào nhà chơi...Chúng tôi chuyện vãn một lúc rồi cả nhà tôi lên xe tiếp tục cuộc hành trình.
Ngồi trên xe, tôi miên man suy nghĩ không hiểu tại sao một mảnh đất tí hon lại làm chị Bông xúc động đến thế.
3-
Giáp Tết Kỷ Sửu 2009, chúng tôi lại có việc phải đi qua con đường ven hồ ấy. Công nhân của Công ty Cây xanh Hà Nội đang hối hả hoàn thiện nốt những công việc cuối cùng để trồng những luống hoa vạn thọ trên dải đất ven hồ. Thôi! Thế là hết tranh chấp, chị Bông nhé, chị Bông ân nhân của em! Đời có những người một bước lên mây nhờ đất, ngược lại cũng có những kẻ thân bại danh liệt vì đất, có tuổi rồi chị bận tâm làm gì vì một thẻo đất con con diện tích chỉ bằng hai chiếc chiếu đôi, hỡi chị Bông
Dã man !
Đời lão phong trần nên trông lão già hơn so với tuổi 55. Mặt vuông chữ điền, hàng ria nghiêng nghiêng, nốt ruồi giọt lệ, áo quần tử tế, đôi mắt cá chày, nửa chén đã say, hay cười nhếch mép, đó là những thông tin ban đầu khi ta tiếp xúc với lão.
Dã man ! Đó là câu nói cửa miệng của lão. Uống được cốc bia hơi ngon, lão lim dim đôi mắt sau khi “ khà “ một tiếng : “ ngon dã man ! “. Một buổi chiều muộn, sau một ngày chạy xe ôm vật vã ngoài đường, lão mở khoá đẩy cửa bước vào nhà, một tờ thiếp mời đám cưới màu hồng nhét ở khe cửa rơi xuống đất, lão nhặt lên, miệng đọc dòng đầu : “ Trân trọng kính mời hai bác ...”, tay thọc vào túi, nơi lão nhét đám tiền vụn khách trả. Hôm ấy là một ngày không vui, cả ngày lão chỉ chạy được ba cuốc xe, lão vô tình thốt lên : “ Dã man ! “.
Chạy xe ôm không phải là nghề của lão. Ngày xưa, lão là công nhân lái máy xúc, sau đó lão ’về một cục ‘ rồi xoay sang mua bia hơi đóng vào chai, dập nút, dán nhãn để đem giao cho các hàng nước. Công việc bại lộ, lão bán cái nhà trong ngõ, mua một chỗ gần ga mới ở đường Trần Quí Cáp để bán hàng nước. Tính lão nóng, bọn thanh niên vào uống nước, uống rượu mà dở trò quậy là lão mắng cho chạy mất dép, nên chẳng bao lâu, hàng nước của lão mất khách. Lão lại bán cái hàng nước, mua ngôi nhà mà lão ở hiện nay và xoay sang chạy xe ôm. Muốn tìm nhà lão, từ Cầu Mới ta hãy rẽ vào ngõ, rồi cứ đi cho đến khi nào nhà cửa trở nên thưa thớt, những tiếng ồn ào của phố phường Hà Nội để lại phía sau, đến một ngôi nhà cấp bốn cũ kỹ nằm ở ven đường.
Đoạn đường vành đai 1 Kim Liên - Ô Chợ Dừa 6 làn xe với hai vỉa hè rộng rãi trùm lên một phần con ngõ, nơi có ngôi nhà cũ ngày nào lão đã từng sinh sống. Giá đất mặt đường lên từng ngày, hôm qua 140 triệu đồng/ mét vuông thì hôm nay đã 160 triệu, và ngày mai, người ta không dám chắc là con số sẽ dừng lại ở đấy.
Khi con đường bắt đầu thi công, lão đã biết rằng nhà cũ của lão không có vinh dự ra mặt đường, mà nằm khuất sau nhà hàng xóm, nên sự tiếc nuối ngôi nhà cũ đã nhỡ bán đi trong lòng lão cũng dịu bớt một phần.
Hôm nay cũng lại là một ngày thưa khách. Lão về con ngõ thân thuộc, ở đấy có một quán bia hơi “ ngon dã man “ mà lão vẫn thường uống. Chưa kịp rẽ vào quán, thì như có một sức hút đặc biệt, lão phanh kít xe lại và đứng sững trước nền nhà cũ của mình. Trên nền đất của ngôi nhà mặt tiền và nhà cũ của lão là một móng nhà đang thi công, người ta đang đóng cọc để chống lún. Thì ra chủ mới mua luôn cả hai ngôi nhà để hợp khối. Nhìn kích thước móng nhà, một chiều 5 mét nhìn ra mặt đường, còn chiều sâu thì nhờ hợp khối nên dễ chừng cũng đến hơn 12 mét, trông rất hoành tráng.
- Ông Tài ơi ! Về thăm nhà cũ à ? Vào uống cốc bia đã!
Người chủ quán bia gọi lão. Lão mệt mỏi dắt xe vào quán.
- Này, cái nhà hồi nào ông ở đấy, trông nát thế mà bán được những ba tỉ rưỡi đấy!
Mặt lão gần như tái đi, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, miệng lão đắng ngắt không thể thốt lên được lời nào.
Ba tỉ rưỡi ! Sao
trời lại quá bất công với lão đến thế ! Lão đi ăn cướp ai để được ba tỉ rưỡi cầm trong tay ? Đã đành là nhà ở mặt tiền con đường này không phải là chốn dung thân cho những thân phận con sâu cái kiến như lão, mà là chỗ ở và kinh doanh của các đại gia có tiền tấn trong tay, nhưng trước khi rời mảnh đất đã bao năm gắn bó, lão phải có chút gì cầm trong tay chứ! Biết thế này, lão chẳng cần xoay xở làm gì cho mệt người, chẳng lén lút đóng bia hơi thành bia chai, không mở hàng nước, không chạy xe ôm, cả nhà lão chẳng cần làm gì cả, dắt nhau đi ăn mày cũng được, chỉ cần giữ lấy cái nhà nát và bây giờ có ba tỉ rưỡi. Biết bao nhiêu là tiền !
Phút choáng váng qua đi, lão bần thần ngồi điểm lại nguyên nhân gì đã khiến lão rời bỏ ngôi nhà đáng giá bạc tỉ. Càng nghĩ, lão càng oán mụ vợ. Chẳng hiểu trời xui đất khiến thế nào mà thị lại quàng vào đời lão. Ngày ấy, lão chỉ nghĩ đơn giản: cả hai vợ chồng đều là công nhân, chồng lái máy xúc, vợ làm trong ga, cả hai đều ăn gạo sổ, đều có phiếu mua thực phẩm, thế là cơ bản lắm.
Chứ còn về nhan sắc, thì thị không làm cho lão cảm động : mặt thị mỏng quẹt, mắt ti hí, mồm vuông mà lại rộng, vì thế nên một khi đã mở ra thì khó lòng mà khép lại, kể cả khi đôi mắt cá chày của lão đỏ vằn lên, lão tức mình
thụi cho mấy cái khiến thị phải sơ tán ra đứng ở cột điện đầu nhà để tiếp tục bài diễn văn bất tận.
Sống mũi của thị khi đến gần mồm thì nở ra thành hai viên bi tròn với hai lỗ mũi to, điều này giúp cho sự hô hấp được thuận lợi và dài hơi hơn khi thị cãi nhau hoặc lên lớp cho lão về những sự đối nhân xử thế, thường kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Thị lại sinh một bề : kết quả cuộc hôn nhân của hai cái sổ gạo là ba đứa con trai nối nhau ra đời, cách nhau hai năm một, cứ như là chui ra từ một cái máy.
Tam nam bất phú, tứ nữ bất bần
, các cụ dạy thế. Lão xoay sang chạy xe ôm, thì thị cũng chuyển ngành thành người buôn hàng mã, những hình nhân thế mạng, ti vi, nhà lầu, ô tô, xe máy, vàng lá, đô la..lắm hôm thị lôi về chất đầy nhà. Đã thế, thị lại mê tín không phải lối, lạy thánh mớ bái, một khi thị đã quỳ xuống, chắp tay lại, mặt quay về hướng tây, thì thị lẩm bẩm thông mây lọt gió những bài văn vần mà thị thuộc làu làu, cứ thế tuôn ra trôi chảy không vấp một chữ nào. Chỉ có lúc ấy, lão mới khâm phục thị là người thông minh, không thông minh sao được khi cái đầu óc bã đậu bé nhỏ của thị lại chứa được ngần ấy câu tụng niệm và kinh sách. Lão cay đắng nhận ra rằng, lời nguyền “ thánh thần quở phạt ” của thị đã trở thành sự thật. Đó là một hôm, do quá sốt ruột
và điên tiết vì buổi cầu nguyện khấn khứa diễn ra quá lâu, lão tiện tay cầm cái tráp của thị ném mạnh ra sân, khiến cái nắp bung ra, và một mớ bòng bong áo xanh, áo đỏ, áo nâu cùng khăn xếp, là những thứ thị dùng khi đi lễ bung ra vương vãi trên mặt đất. Thôi đúng rồi ! Cái ý nghĩ bán ngôi nhà trong ngõ để mua một chỗ bán hàng nước ở gần ga nảy ra trong đầu lão chính là sau cái ngày xảy ra sự việc đó, khi lão đã vô tình báng bổ, xúc phạm các Ngài...
Lão cầm cốc bia lên, ngụm bia hơi “ ngon dã man “ trôi xuống cổ họng đắng ngắt. Lão tính tiền cốc bia để lên bàn, rồi thẩn thờ đứng dậy, chẳng chào chủ quán, lão ra về, chân đi nhẹ hẫng, miệng lẩm bẩm :
- Dã man !
Đại gia và chân dài
Nàng đẹp lắm! Tôi xin mạo muội mượn mấy câu của nhà thơ Lò Ngân Sủn để độc giả có khái niệm ban đầu về sắc đẹp của nàng:
Người không khát-Nhìn thấy người đẹp cũng khát
Người không đói-Nhìn thấy người đẹp cũng đói
Người muốn chết-Gặp người đẹp không muốn chết nữa.
Một tuần có bảy ngày thì hầu như có đến bốn hay năm buổi sáng nàng cùng chồng đến hiệu phở ở phố Bát Đàn này ăn sáng. Đó là một hiệu phở ngon có tiếng ở Hà Nội, khách ăn muốn đến lượt phải xếp hàng, ở đó nồi nước dùng trong mà ngọt, bánh phở dẻo và không nát, miếng thịt nhai ban đầu thì dòn nhưng sau đó mềm chứ không dai. Vợ chồng nàng không phải xếp hàng, vì chồng nàng là một đại gia nổi tiếng không những ở Hà Nội mà khắp đất nước ai cũng biết rõ tên tuổi và sự nghiệp.
Sáu giờ rưỡi sáng. Chiếc xe Mercedes C200K Elegance màu đen obsidian xịch đến trước cửa hiệu phở. Tất cả những cặp mắt của những người đang xếp hàng-trong đó có tôi- cùng quay về một hướng nhìn. Một người đàn ông ngấp nghé tuổi sáu mươi, người tầm thước, mở cửa bước ra trước. Mặt vuông, trán cao, người hồ đồ có thể cho là trán hói nhưng theo tôi thì không phải, tại trán quá cao nên cái vùng da đáng lẽ dành cho tóc thì lại bị trán tranh mất phần. Tai không to nhưng dài, tóc đen chải mượt-không biết có phải do nhuộm hay không-đôi lông mày đen và rậm, mắt sâu và sáng, mũi chạy dài một đoạn đến gần miệng mới nở ra thành hai cánh hình tròn. Miệng rộng và tươi-đàn ông miệng rộng thì sang, cái miệng thể hiện uy quyền nơi nhiệm sở và công đường-khi hé cười khoe một hàm răng trắng đều đặn. Nụ cười cùng cánh tay phải ông đưa ra phía trước là để dìu nàng từ trong xe bước ra. Nhìn cái cung cách ông chăm chú và cẩn thận dìu nàng người ta cứ tưởng nàng là một báu vật mỏng manh dễ vỡ. Nàng bước ra rồi thì chiếc xe vọt đi vì trước cửa hiệu phở không có chỗ đỗ xe.
Tôi loay hoay mãi không biết làm thế nào để tả sắc đẹp của nàng vì nàng đẹp không bút nào tả xiết mà tôi lại là một cây bút hạng xoàng. Giống như các nước nhược tiểu phải vay vốn ODA, tôi nghĩ đến chuyện vay mượn. Tôi có ý định một lần nữa mượn những câu thơ của Lò Ngân Sủn để tả nàng, tôi đã mượn một lần ở đầu bài viết này, chắc nhà thơ cũng thể tình mà cho tôi mượn tiếp:
Mông em tròn mập như bắp chuối
Váy em buộc thắt đáy lưng ong
Ngực em căng hai bầu sữa ngọt
Tóc chảy xuống như một dòng suối
Mắt em toả ánh sao mơ
Hai má em như hai quả đào chín…
Sau nghĩ lại tôi thấy không ổn, tả như thế thì nàng thành ra
Con gái Bản Tông
dân dã, đẹp mộc mạc. Không! Nàng là con gái Hà Nội đài các, đẹp kiêu sa. Thôi thì với khả năng hạn chế của mình, một liều ba bảy cũng liều, tôi đành phải tự viết đôi dòng vậy.
Khi nàng bước xuống xe thì nắng cười trên làn môi thắm đỏ và phản chiếu cặp mắt sáng long lanh dưới hàng mi cong dài. Chiếc váy liền áo màu xanh lơ tôn cái cổ cao ba ngấn trắng ngần, để lộ một khoảng bờ vai tròn cùng một khoảng ngực đủ cho ta hình dung được sự căng mẩy của đôi gò bồng đảo. Sau khi thắt lại ở vòng eo chiếc váy buông xuống đôi chân thon dài, rung rinh theo bước chân đi. Nàng đi tất màu xanh lơ và giày cao gót Gucci nên khi sóng đôi cùng chồng ta thấy hình như hai người có chiều cao bằng nhau mặc dù theo số đo thì chiều cao của chồng có hơn nàng một ít. Nếu không biết trước rằng đó là hai vợ chồng thì có thể xảy ra sự nhầm lẫn là bố đi với con. Thì cũng dễ hiểu thôi vì nàng chỉ hơn con gái út của chồng đúng một tuổi.
Hai người vừa ngồi yên vị thì hai bát phở sốt vang đã được đặt lên bàn. Sắc vàng đỏ mượt của sốt vang như màu mây một buổi chiều tà ráng đỏ nổi bật trên nền bánh phở trắng muốt. Những miếng thịt bò vuông vuông xinh xinh chín nhừ nằm ngâm mình trong nước sốt, những miếng thịt mà khi đưa lên miệng thì cái cảm giác mềm, thơm và hương vị độc đáo của gia vị lan toả khắp lưỡi. Nàng nhăn mũi nhìn hai bát sốt vang rồi nhỏ nhẹ:
- Anh ơi!
Nếu như trước đây hơn hai ngàn năm Tây Thi nhăn mặt làm cho Ngô Phù Sai xao xuyến thì cái nhăn mũi của nàng làm ông lo lắng không kém, cái sự nhăn mặt hay nhăn mũi của mỹ nhân trải qua hàng ngàn năm vẫn có tác dụng không đổi đối với loài người. Ông ân cần:
- Làm sao hở em?
- Lại sốt vang hở anh? Vừa mới hôm qua…
Ông ngắt lời:
- Anh hiểu rồi! Lỗi tại anh. Anh cứ tưởng hôm qua em ăn sốt vang ngon miệng…
Nàng cũng ngắt lời:
- Mình gọi tái lăn đi anh.
Khi hai bát tái lăn bốc khói được đặt ngay ngắn trên bàn thì nàng thưởng cho ông một nụ cười. Nụ cười mới tươi làm sao, nó làm lộ rõ lúm đồng tiền ở hai má. Trong lịch sử cuộc tình giữa ông và nàng hai lúm đồng tiền tai hại này như giọt nước làm tràn ly khiến ông đi đến quyết định cưới nàng làm vợ. Người vợ trước chỉ có với ông hai đứa con gái, đó là một cái lỗi không thể nào tha thứ được, vì ông là con một, không có lẽ chi họ Nguyễn đến đời ông là đứt đoạn không có người nối dõi. Bất hiếu! Hơn nữa giữa hai người lại có mâu thuẩn và xung đột về tài chính không thể hoà giải. Những lý do đó khiến hai người ra toà chia tay, sau đó ba tháng thì ông làm đám cưới với nàng. Có người ví von đàn ông chúng ta là những con cá, còn đàn bà là người đi câu, mồi nhử của họ là nhan sắc và sự õng ẹo. Nếu đúng như vậy thì con cá mà nàng câu được có kích cỡ to lớn biết nhường nào!
Mười giờ rưỡi buổi sáng cùng ngày. Phố Bát Đàn tuy ngắn nhưng ngoài hiệu phở nổi tiếng còn có Cafe Thanh Thảo được nhiều người biết đến vì có máy lạnh, không gian ấm cúng, hương vị đậm đà, giá cả phải chăng, phục vụ tận tình. Tôi có cuộc hẹn làm việc với đối tác vào lúc mười giờ, và bây giờ chúng tôi đang ngồi quanh chiếc bàn nhỏ với những ly cafe đen đá. Chợt có tiếng tăcxi đổ xịch ngoài cửa rồi sau đó một đôi trai tài gái sắc tay trong tay bước vào. Trông họ đẹp đẽ như thể hoàng tử và công chúa bước ra từ truyện cổ tích. Chàng cao hơn nàng một cái đầu và tuổi cũng không hơn nàng nhiều lắm. Không gian chợt bừng sáng lên vì sắc đẹp rạng rỡ của nàng. Đôi trai gái chọn một bàn ở góc phòng và ngồi xuống. Tôi như không tin ở mắt mình. Nàng! Chính là nàng chứ không phải ai khác! Nhưng tại sao lại là nàng? Có lẽ nào nàng lại đi câu? Còn ông chồng đáng kính của nàng, giờ này ông cùng chiếc Mercedes C200K Elegance màu đen obsidian đi đâu, về đâu?
Chàng là người hào hoa phong nhã, đẹp trai lồng lộng. Người như thế làm sao lại có thể đói và khát được. Nhưng tai hại thay là hai câu thơ của Lò Ngân Sủn:
Người không khát-Nhìn thấy người đẹp cũng khát
Người không đói-Nhìn thấy người đẹp cũng đói.
Vì hai câu thơ này mà chàng nhìn nàng tham lam, ngấu nghiến và đắm đuối như một kẻ đói khát ngồi trước một bàn tiệc mâm cao cỗ đầy.
Hoà thượng Thích Hoan Hô
Bốn người bạn cùng quê Quang, Hoà, Tuấn, Tú chơi với nhau, vẫn gọi đùa nhau là lũ bốn tên, tuổi đều ngoài sáu mươi và đã nghỉ hưu. Tên tôi là Quang, mọi người gọi tôi là Quang sứt vì khuyết một chiếc răng cửa hàm trên mà tôi cứ chần chừ chưa chịu làm răng giả. Trước khi nghỉ hưu tôi là lính cùng đơn vị với Hoà, anh là Trưởng ban Tuyên huấn thuộc Phòng Chính trị của đơn vị, đầu đội nghị quyết, tay cầm chính sách, miệng nói chủ trương nên anh đăng đàn diễn thuyết trong hầu hết những lần đơn vị học nghị quyết hay chủ trương chính sách. Anh có biệt tài làm cho những buổi học đó trở nên sôi nổi, rộn ràng, đầy khí thế bằng những tràng vỗ tay kéo dài có khi đến đôi ba phút. Anh không phải là nhà hùng biện, tài liệu để trên bàn, đèn bàn soi sáng từng câu từng chữ để anh nhìn cho rõ, thỉnh thoảng anh mới ngẩng đầu lên nhìn thính giả, làm một vài động tác cách điệu của đôi tay, đôi mắt, cái đầu. Những đợt vỗ tay như sóng dậy là do anh khơi mào, nó không phụ thuộc vào bài nói của anh, lúc nào thấy hội trường có vẻ im ắng hơi lâu thì dù nội dung của đoạn đang nói là gì anh vẫn cứ đưa hai tay lên quá đầu vỗ tay nhiệt liệt, thế là cả hội trường lại vang lên tiếng vỗ tay rào rào làm da mặt anh dãn ra mãn nguyện, trong lòng dâng lên một niềm khoái cảm không thể đặt tên. Có lần học nghị quyết, cũng đã gần trưa, trong bụng tôi đã thấy có điều hơi đoi đói, tôi đang mơ màng tính thử trưa nay bà xã sẽ cho ăn món gì thì chợt hàng ghế tôi ngồi và cả hội trường vỗ tay nhiệt liệt khiến tôi bất giác đưa tay lên quá đầu vỗ tay theo.
Răng anh Hoà hơi hô, tóc chải mượt, quần áo lúc nào cũng phẳng phiu, mặt lúc nào cũng hớn hở như người bắt được của, dáng đi với cái ngực ưỡn và hai tay ve vẩy, đó là hình dáng của một người luôn luôn lạc quan cách mạng, một revolutionary optimist thứ thiệt luôn nhìn đời qua lăng kính màu hồng. Nhưng răng hô và ngực ưỡn chưa phải là đặc điểm nổi bật của anh. Vậy thì đặc điểm nổi bật ở anh là gì? Xin trả lời ngay đó là đôi lông mày lưỡi mác. Anh vẫn thường nói với tôi nửa kiêu hãnh, nửa thương hại, kiêu hãnh cho anh và thương hại dành cho tôi: " Tớ lông mày lưỡi mác, tớ còn lên. Còn cậu thì hào hoa phong nhã nhưng cái nốt ruồi bên trái mũi trông phá tướng quá, giá như không có cái nốt ruồi ấy thì đời cậu hanh thông lắm. Nếu nó mọc ngay giữa sống mũi thì cậu đi ăn mày". Mà anh Hoà lên dễ dàng thật, về hưu với quân hàm thượng tá. Còn tôi, vì cái nốt ruồi nên lận đận lắm, vả lại lính tráng vẫn nói với nhau nhất chính, nhì tham, tam cần, tứ kỹ, chính là chính trị, tham là tham mưu, cần là hậu cần, kỹ là kỹ thuật. Vậy thì chưa cần đến cái nốt ruồi phá tướng thì dân làm kỹ thuật như tôi lúc về hưu đâu có được bằng anh Hoà.
Về nghỉ hưu, anh Hoà vẫn không thiếu những cơ hội để có thể vỗ tay. Anh nắm bắt cơ hội để vỗ tay nhanh và nhạy như câu thơ chợt đến với một nhà thơ có tài. Vỗ tay đối với anh đã trở thành một nhu cầu, một niềm vui sống, hả hê sung sướng biết bao khi ta khởi đầu và quần chúng đông đảo vỗ tay theo như dạt dào sóng vỗ. Hôm Tú làm đám cưới cho con trai, ba người còn lại trong bộ tứ chúng tôi đều có mặt. Những thủ tục cần thiết của đám cưới dưới sự dẫn dắt của MC đã xong, mọi người bắt đầu rót bia, nâng cốc. Anh Hoà là người đầu tiên trịnh trọng đứng lên từ bàn tiệc: "Thưa bà con hai họ, thưa toàn thể quan khách, trước hết tôi xin có lời chúc mừng nhiệt liệt đôi tân hôn, chúc các cháu sống với nhau vui vẻ hạnh phúc đến bách niên giai lão, đầu bạc răng long, con đàn cháu đống
(đưa hai tay lên quá đầu,vỗ tay),
sau đó là chúc bà con hai họ và toàn thể quan khách sức khoẻ dồi dào
(vỗ tay)
, cho phép tôi có lời dặn dò đôi tân hôn vui duyên mới không quên nhiệm vụ
( lại đưa hai tay lên quá đầu vỗ tay kéo dài)
..." .
Đến họp đồng hương anh Hoà cũng đôi ba lần tạo nên những tràng vỗ tay nhiệt liệt.
- Nói xạo! Vỗ tay thì phải có lý do chứ!
- Có đấy! Hôm đó có cụ Bông, đã 89 tuổi mụ, cụ còn giữ được giấy khai sinh bằng song ngữ Pháp Việt ghi năm sinh 1922, mắt mờ không trông thấy đường đi, xuống xe tắc xi ở sân phòng họp phải vịn vai con gái 64 tuổi đi vào. Cụ nói: “Đến chỉ để nghe giọng nói của những người thân quen thì cũng đã mãn nguyện lắm rồi”. Lại còn có ba vị tròn 75 tuổi và hai vị tròn 80 tuổi được Hội đồng hương chúc thọ. Sau phần làm việc của Trưởng ban liên lạc đồng hương và chúc thọ, anh Hoà là người đầu tiên hăng hái đứng lên, tràng vỗ tay thứ nhất chúc sức khoẻ tất cả bà con có mặt, tràng thứ hai biểu dương sự nhiệt tình của cụ Bông và tràng thứ ba dành cho các vị được chúc thọ. Khí thế lắm!
Chơi với nhau đã lâu nhưng vừa rồi ngồi chén chú chén anh, mọi người mới nghĩ đến chuyện đặt cho nhau biệt danh biệt hiệu. Tôi bị gọi là Quang sứt từ lâu, ba người còn lại chưa có. Tuấn nhận ngay biệt danh là Tuấn ghi ta, anh chơi ghi ta khá hay. Khi bốn ngón tay trái của anh đi solo hay chơi hợp âm chạy trên phím đàn thì năm ngón tay phải búng trên sáu dây đàn làm vang lên những giai điệu say đắm lòng người. Tú dáng cao và gầy tự giác nhận biệt danh là Tú Xương. Đến lượt anh Hoà, ban đầu mọi người nhất trí gọi anh là Hoà thích hoan hô, nhưng đến khi Tuấn đề nghị thêm chữ thượng thành Hoà thượng Thích Hoan Hô thì cả bốn người đều nhất trí thông qua. Và để mừng cái sự kiện từ nay ai cũng có biệt danh biệt hiệu, anh Hoà lại đưa hai tay lên quá đầu, vỗ tay./.
KỆ TAO!
Trong cái rạp che trên một khoảng sân rộng lát gạch sáng choang ánh đèn nê ông. Đám cưới của đôi uyên ương đã xong những phần thủ tục. Cỗ mặn đã xong, bát đũa được dọn đi, thực khách đang ngồi xỉa răng và nhâm nhi tách trà. Lác đác đây đó vài khuôn mặt đỏ ửng vì quá chén. Chuyện râm ran. MC trịnh trọng tuyên bố phần văn nghệ bắt đầu. Đầu tiên là những bài hát đơn ca và song ca. Phần nhạc đệm khỏi lo, vì không có điều kiện thuê ban nhạc sống nên người ta chỉ cần phát phần nhạc có trong đĩa DVD để các ca sĩ hát theo, chỉ cốt sao cho đúng giai điệu và nhịp điệu phát ra từ đôi loa thùng. Cũng ăn nhịp ra phết, rất chuyên nghiệp. Hát hò được dăm bài thì đám thanh niên choai choai đồng thanh: “ Nhảy đi”. Người ta ào ào thu dọn bàn ghế để lộ ra một khoảng trống làm sàn nhảy phía trước cái phông màu xanh trên đó có đôi bồ câu trắng, chữ song hỷ màu đỏ và hai chữ cái N,H quấn quýt nhau như dây leo. Nhạc khiêu vũ bật lên chan chát, dăm ba đôi đầu tiên dìu nhau ra nhảy. Rồi bảy đôi, rồi hơn mười đôi, những đôi chân lướt thoăn thoắt, những cái xoay người điệu nghệ khiến bà Thêm thấy trong người rạo rực.
Bà Thêm là ai? Tuổi tác bao nhiêu? Xin giải đáp ngay bà Thêm là bà của cô dâu, mẹ cô dâu gọi bà bằng cô. Còn thiếu ba tuổi nữa bà bước sang tuổi xưa nay hiếm. Ông quy tiên đã bốn năm, bà có hai con, một trai một gái đã yên bề gia thất và sinh cho bà cháu nội, cháu ngoại. Bà đến đám cưới với sột soạt áo hoa và quần nái đen, cả hai đều còn mới. Lúc người ta mới dìu nhau ra nhảy bà đang nhai trầu. Miếng trầu hơi già vôi nóng sực làm hai má bà ửng đỏ như má con gái. Hết tango, rumba, người ta chuyển sang cha cha cha. Đôi loa thùng giật hết cỡ tiếng nhạc rậm rật cùng với lời ca:
Baila chilly cha cha Baila chilly cha
Dance your chilly , dance your cha cha
Baila chilly cha cha dance …
Giai điệu quen thuộc với nhịp trống cắc thùng thùng, cắc thùng thùng đập dồn dập như dội vào ngực. Bà Thêm nhổ miếng quết trầu rồi quả quyết đứng lên bước ra sàn nhảy. Cái loa nó hát tiếng nước nào kệ nó, bài hát này đối với bà rất quen thuộc vì đã được nghe thằng cháu nội lên mười hát nhiều lần, cứ buồn mồm là nó lại hát. Dễ ợt! Nghe nhiều lần nên bà thuộc. Bà nhún nhảy, lắc mông- những cái lắc mông rậm rựt- hai tay khuỳnh ra đưa đi đẩy lại như được một dáng hình tưởng tượng đưa đẩy, miệng hát theo nhịp trống cắc thùng thùng:
Va xi lô thằng Tây nó vồ bà già
Va xi lô thằng Tây nó vồ bà già
Buông tôi ra vì tôi đã già rồi mà
Tôi không buông vì tôi cũng già bằng bà
Va xi lô, kề rí có chà chà chà
Cha cha cha…
Thằng Tây nó vồ bà già? Cũng tốt! Bà đang cô đơn, nó vồ được thì càng hay chứ có làm sao? Thích đấy nhưng cũng phải làm bộ xấu hổ bảo nó buông ra. Nó không buông vì nó cũng già rồi mà. Hay quá! Đứa nào nó bày đặt ra cái bài ca này hay thật! Các ông già bà lão đưa mắt nhìn nhau: “ Bà Thêm! Bà Thêm đấy!” Còn các đôi nam nữ đang say sưa trong điệu nhảy chợt dừng lại trố mắt nhìn. Sàn nhảy chỉ còn lại một mình bà múa hát solo. Cả rạp hơi lặng đi một chút rồi ào lên tiếng hoan hô vang dội. Tiếng hoan hô như những đợt sóng khiến những bước nhún nhảy của bà thêm bốc lửa. Lẫn trong tiếng sóng đó bà thoáng nghe thấy tiếng con gái:
- Mẹ ơi!
- Kệ tao!
Va xi lô thằng Tây nó vồ bà già…
KHỔ THÂN THẰNG MÕ
Mẹ Đốp bị mất trộm con gà. Cha tiên nhân cái quân ăn trộm tàn ác, con gà mái hoa mơ chỉ còn đẻ độ một hai trứng nữa thì ấp. Rồi độ hai mươi ngày sau sẽ có một đàn gà con lích chích theo gà mẹ kiếm ăn. Càng nghĩ càng tức, mẹ Đốp vớ lấy cái nón đội lên đầu rồi đi ra đường, con đường chạy ngang qua trước đình làng rồi cất tiếng chửi:
"
Bố cái thằng chết đâm, cha cái con chết xỉa ! Mày day tay mặt, mày đặt tay trái, nỡ ăn cắp của bà đây con gà. Này bà bảo cho chúng mày biết: thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn… Con gà nó ở nhà bà là con gà. Nó bị bắt trộm về nhà mày thì thành con cú, con cáo, nó sẽ mổ mắt, xé xác ông, bà, cha, mẹ, vợ , chồng, con cái nhà mày đấy… ây… ấy ! Mày mà ăn con gà nhà bà thì ăn một miếng chết một đứa, ăn hai miếng chết hai đứa, và ăn cả con gà đó sẽ chết cả nhà cả ổ nhà mày…ày. Cha tiên nhân ông nội, ông ngoại, ông dại, ông khôn, đồng môn chi rễ nhà mày nhá!..."
Chửi chán mỏi miệng rồi mẹ Đốp về nhà vớ cái ấm rót nước chè tươi ra uống. Uống cho nó đỡ khan giọng rồi ngày mai, ngày kia bà lại chửi nữa. Chửi cho cái đứa nào ăn trộm gà chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non đẻ ngược, chân ra trước đầu bước ra sau. Cứ như thế ba ngày liền cứ vào cái giấc người đi chợ làng bắt đầu ra về thì mẹ Đốp lại ra đúng con đường chạy ngang qua trước đình làng cất tiếng chửi.
Nghe con mẹ Đốp chửi cụ Lý khó chịu lắm. Làm sao mà khó chịu? Hay là cụ Lý có tình ý gì với quân ăn trộm gà? Ai biết được. Chỉ biết là cụ khó chịu. Và đến ngày thứ ba khi con mẹ Đốp cất cao giọng đơn ca bài chửi mất gà thì cụ cho gọi trương tuần đến: " Mày ra gô cổ con mẹ Đốp lại cho tao"; " Vì tội gì ạ?"; "Tao bảo gô cổ nó lại thì mày cứ thế mà làm. Cứ gán cho nó cái tội làm mất trật tự nơi công cộng. Mà này! Trước hết mày hãy giật cái nón nó đội trên đầu, thế nào nó cũng giằng lại. Mà giằng cái nón là thêm cái tội chống người thi hành công vụ" . Và thế là con mẹ Đốp bị trương tuần gô cổ và tống vào trại giam của làng.
Giam được mẹ Đốp rồi cụ Lý nghĩ: "Nó mất gà thì nó phải chửi là lẽ đương nhiên. Bây giờ giam nó rồi phải nghĩ cách gán thêm cho nó một số tội nữa, không thì dư luận lại dị nghị". Trước hết cụ Lý hãy đến thăm nhà con mẹ Đốp. Con Đốp chưa đến năm mươi, mẹ già của nó mới ngoài bảy mươi. Chuyện trò với mẹ già con Đốp rồi cụ Lý đi đến kết luận rằng nó là một người con bất hiếu. Cụ bèn cho gọi thằng Mõ đến giao cho nó nhiệm vụ đi rao trong làng rằng mẹ Đốp là một người con bất hiếu. Mõ làng là một thằng mõ chính tông, rất đê tiện, rất lầy là và rất tham ăn. Hơi thấy nhà nào lách cách mâm bát là hắn đến ngay. Ngày mùa đến hắn vác cái đòn càn đi hết ruộng nọ đến ruộng kia xin các ông các bà lượm lúa. Miệng nói, tay lượm. Nhận lệnh cụ Lý hắn mang mõ đi rao khắp làng:
"Chiềng làng chiềng chạ/Thượng hạ Đông Tây/Cả làng nghe đây/ Mẹ Đốp là người con bất hiếu"
. Thằng Mõ vừa mới đi rao con mẹ Đốp bất hiếu ngày hôm trước thì ngay hôm sau cụ Lý đã gọi nó đến để giao cho nó nhiệm vụ đi rao với làng rằng mẹ Đốp là một người chị bất nghĩa. Cụ đã đích thân đến gặp em gái của con Đốp rồi, qua lời kể của em gái nó cụ đi đến kết luận rằng mẹ Đốp là một người chị bất nghĩa. Thằng Mõ lại vác mõ đi rao: "
Chiềng làng chiềng chạ/Thượng hạ Đông Tây/Cả làng nghe đây/ Mẹ Đốp là người chị bất nghĩa"
. Khổ thân thằng Mõ. Nó vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đi rao rằng mẹ Đốp là một người chị bất nghĩa, cứ tưởng thế đã là xong. Nào ngờ sau cuộc gặp gỡ của cụ Lý với con của mẹ Đốp, cụ lại kết luận rằng thị là một người mẹ bất nhân.
Lão Hạp
Thỉnh thoảng tôi và lão Hạp lại có chút thời gian rảnh rỗi ngồi mời nhau điếu thuốc lào và nói với nhau đủ thứ chuyện trên đời. Tôi thông cái điếu cày, nhón lấy một ít sợi thuốc lào vàng rộm vê viên nhồi vào nõ điếu rồi châm đóm mời lão Hạp:
- Thuốc lào mười bốn chính hiệu đấy, anh hút đi!
Thuốc lào mười bốn được mua ở số nhà 14 phố Nam Đồng. Ở Hà Nội những người kỹ tính vẫn đến đó mua thuốc lào vì tin rằng chỉ ở đó mới bán thuốc lào Tiên Lãng chính hiệu, khi hút khói đậm đà như vị mật thấm qua lưỡi lan đi toàn thân làm cho người ta đê mê. Lão Hạp đón cái điếu từ trong tay tôi rít một hơi dài rồi nhả khói, khuôn mặt mãn nguyện của lão ẩn hiện trong làn khói xanh bồng bềnh như thực như mơ.
Lão Hạp là hàng xóm của tôi, là bạn chơi đá bóng với tôi hồi tuổi thiếu niên, khi trong ngõ Xã Đàn nhà cửa còn thưa thớt chứ không dày đặc và hoành tráng như bây giờ; còn cái bãi đất cỏ mọc, ở hai đầu dựng hai khung thành bằng gỗ mà chúng tôi gọi một cách trịnh trọng là sân vận động nằm cạnh con đường vào ngôi chùa cổ bây giờ là khuôn viên của khu tập thể quân đội với những khối nhà cao tầng lừng lững. Tuổi lão xấp xỉ tuổi tôi, cả hai đều chưa quá 55, có tuổi rồi mà khuôn mặt lão vẫn tròn vành vạnh, nếu không có tí ria mép nửa đen nửa xám lão cố tình nuôi cho oai thì ta dễ nhầm là khuôn mặt đàn bà. Hơn nữa, có tí rượu vào thì mặt lão ửng đỏ, nói năng to tát, đi đứng mạnh bạo, lại càng tỏ ra là một trang nam nhi hảo hớn.
Cả lão Hạp và tôi đều nối nghiệp cha mẹ một cách xứng đáng. Mẹ tôi là giáo viên Trung học cơ sở, đã quy tiên, bà được đào tạo theo kiểu 10 2, có nghĩa là tốt nghiệp Trung học phổ thông rồi học thêm hai năm nữa thì ra công tác. Còn tôi có bằng Đại học Sư phạm chính quy, nhưng cũng chỉ dạy Văn, Sử cấp THCS. So với bạn bè dạy môn Toán hay môn Lý, chạy sô dạy thêm mệt nghỉ, xây được nhà tầng, thì thu nhập của tôi khiêm tốn lắm, vì không học sinh nào có nhu cầu học thêm hay luyện thi môn học của tôi. Thu nhập của cả nhà, hai vợ chồng và hai đứa con trông vào gánh bún riêu của vợ tôi, quanh năm vất vả ở mom sông, nuôi đủ hai con với một chồng. Đấy là tôi nhại bài thơ Thương vợ của cụ Tú Xương cho có vần, chứ vợ tôi không vất vả ở mom sông, mà ngồi bán rong trong Ngõ Gạch ở gần chợ Đồng Xuân. Tôi xót xa thương vợ, vì hoàn cảnh mà tuy có bằng trung cấp cơ điện nhưng xin thôi việc ở nhà máy để lăn lộn với gánh bún riêu. Vả lại, nhờ có gánh bún riêu thì tôi mới trở thành người có ích cho xã hội và gia đình khi ngồi giã cua, chẻ rau muống hay ngồi canh lửa nồi riêu. Có hôm tôi vừa canh lửa nồi riêu, vừa tranh thủ chấm bài kiểm tra một tiết của học sinh lớp 9C-lớp tôi làm giáo viên chủ nhiệm- đề bài về " Liên Xô và các nước Đông Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai".
Chả hiểu lúc lên lớp tôi có giảng nhầm hay không mà hầu như cả lớp đều viết rằng :" Sau chiến tranh thế giới thứ hai, xuất hiện phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh do Liên Xô làm trụ cột nhà". Đáng lẽ đặt dấu chấm câu sau từ trụ cột thì câu văn rất hoàn chỉnh và có nghĩa, nhưng không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà học sinh của tôi lại thêm một từ nhà nên câu văn trở nên ngô nghê và buồn cười. Cái chữ nhà thừa ra đó làm tôi ôm bụng cười ngặt nghẽo, bò ra mà cười, làm cho vợ tôi hốt hoảng :
" Sao? Anh lại để cho nồi riêu sôi trào ra rồi à?".
Thế còn lão Hạp? Lão nối nghiệp ông cụ, đạp xích lô. Bây giờ người ta cấm xích lô thì làm gì? Thì chơi chứ còn làm gì nữa! Muốn tiếp tục đạp xích lô thì phải vào nghiệp đoàn xích lô gọng vàng, đưa mấy ông Tây bà đầm đi dạo phố cổ. Xế xích lô gồm toàn bọn con trai cao ráo, đẹp lồng lộng, có đứa nói tiếng Tây như gió, lão đọ được thế nào với lũ ranh con ấy? Không đọ được thì nghỉ cho khoẻ. Ừ thì nghỉ! Lão tự an ủi rằng dẫu có là ngồi trên yên xe ở phía sau khách thì thân phận anh xế xích lô chẳng qua cũng chỉ là ngựa người, nói rõ ra là thằng người nhưng chẳng khác mấy con ngựa kéo xe. Ta hãy cứ tưởng tượng cái cảnh một đôi vợ chồng Tây nặng tổng cộng hơn hai tạ ngồi trên xe, máy ảnh và máy quay phim cầm tay, chỉ chỉ chỏ chỏ, cười cười nói nói, còn anh xế xích lô trán vã mồ hôi gò lưng đạp thì cũng thấy nhục thay cho người bản xứ. Tránh được cái nhục ấy kể ra cũng tốt. Thôi! Nghỉ vậy. Nói vậy chứ lão không nghỉ đâu. Gánh bún riêu của vợ đã không để cho lão ngồi chơi, cũng như tôi, lão bị cuốn vào các công việc vất vả và tỉ mỉ trong việc chế tạo ra nồi riêu cua. Bún riêu! Ôi! Bún riêu muôn năm! Nhờ có bún riêu mà tình hữu nghị giữa nhà lão và nhà tôi ngày càng bền chặt, gặp tôi ngoài đường, lão vồn vã: " Chào ông giáo! Ông giáo đi đâu đấy".
Và thỉnh thoảng kiếm được chút thời gian rỗi, chúng tôi lại ngồi hút thuốc lào vặt với nhau. Trong câu chuyện với lão khi đã lờ đờ say vì khói thuốc, tôi tự trách mình vô dụng, là giáo viên dạy Sử mà chẳng bỏ công ra tra cứu trong sử sách nước nhà hoặc đông tây kim cổ xem ông nào hay bà nào là tổ nghề bún riêu để đưa tên tuổi lên bàn thờ tổ nghề.
Ngoài việc phụ giúp vợ trong việc chế tạo ra nồi riêu cua, lão Hạp còn trông nom hàng chè chén con con, ngoài nước chè ra còn có rượu trắng, dăm bao thuốc lá, vài thanh kẹo lạc đựng trong những lọ thuỷ tinh. Tuy ít khách vì nhà lão chỉ trông ra mặt con ngõ nhỏ, nhưng nếu không có cái hàng nước ấy thì lão biết dùng thời gian còn lại trong ngày sau khi giã cua, chẻ rau vào việc gì? Những lúc vắng khách, lão hay ê a vài câu vọng cổ. Giọng lão khê nồng-thì những người hút thuốc lào làm gì có chất giọng nghe lọt tai được-tuy vậy nội dung bài hát làm cho lão đôi khi hát lên với tất cả sự xúc động chân thành, lắm khi chợt nghe lòng tôi cũng thấy nao nao:
Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh ngã bảy, sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra chào. Cửa vườn cô đã khoá kín tự hôm nào, tôi vác đôi chiếu bông từ dưới ghe lên xóm rẫy, chiếc áo nhuộm bùn đã lấm tấm giọt mồ hôi. Nhà của cô sau trước vắng tanh, gió lạnh chiều đông bỗng có ai dạo lên tiếng nguyệt cầm như gieo vào lòng tôi một nỗi buồn thê thảm…
Ôi! Lão Hạp! Tôi thật không ngờ ông bạn thuốc lào của tôi lại có một tâm hồn nhạy cảm đến nhường ấy!
Trưa hôm nay sau tiết dạy ở trường, xe tôi vừa về đến đầu ngõ thì thấy người tụ tập đông trước cửa nhà lão Hạp. Xe của công an vừa mới đưa lão Hạp lên đồn. Làm sao đến nông nỗi này, ơi lão Hạp! Những người hiếu kỳ còn đứng trước cái quán chè chén của lão kể với nhau:
- Người ta theo dõi lâu rồi, hôm nay mới ra tay. Một thằng nghiện từ quán nước của lão đi ra, đến bên cây cột điện đầu ngõ vừa mới đưa tay cầm tép thuốc giấu ở đó thì hai cánh tay đã bị trinh sát bẻ quặt ra phía sau. Nó không chối được và khai ra lão Hạp…
Tôi tự trách mình chơi với lão Hạp đã lâu mà không hiểu lão. Nhà lão hai vợ chồng với gánh bún riêu cũng đủ nuôi ba đứa con chứ có thiếu thốn gì cho cam mà phải bán lẻ ma tuý. Trước đây đã có lúc tôi ngờ ngợ, cái quán chè chén ấy thu nhập đáng bao nhiêu mà lão ngồi đấy, rách việc! Thì ra cái quán ấy chỉ dùng để che mắt thế gian, thực ra nó là địa điểm thu hút những con nghiện nhan nhản ở đường đê La Thành gần đấy. Đời cứ bằng phẳng quá, không có những sự bất ngờ làm cho người ta sững người hay thót tim thì cũng kém phần thi vị. Nhưng cái sự bất ngờ mà lão Hạp đem lại làm cho tôi thấm thía:
Ngẩu pín
Bò tót được các chuyên gia động vật học thừa nhận là một loài bò rừng lớn nhất, một con bò đực trưởng thành cao cỡ 1,8 m, dài khoảng ba mét nặng trên dưới 1,3 tấn. Bò tót đực có lông ngắn và đen bóng, bò cái thường có màu nâu sẫm, cả bò tót đực và cái đều có sừng dài khoảng 80 phân, sừng to, chắc và uốn cong về phía trước. Ở cả bốn chân từ khuỷu trở xuống có màu trắng giống như đi tất. Con đực có một luống cơ bắp chạy dọc sống lưng đến quá bả vai và một cái yếm lớn trước ngực trông rất hoành tráng. Với vóc dáng khổng lồ và sức mạnh của mình, bò tót không ngán bất cứ con vật nào trong rừng kể cả hổ, chỉ những con hổ lớn và giàu kinh nghiệm mới dám đối đầu với bò tót. Còn thợ săn đối với bò tót chỉ là cái đinh rỉ. Đã có một chàng thợ săn xả hết một băng đạn AK vào một con bò tót đực đi lẻ đàn nhưng không trúng đầu. Sau một phút gục xuống con vật vùng dậy lao thẳng vào chàng thợ săn, tung chàng lên trời, sau đó quần nát rồi mới chịu ngã xuống chết theo. Chuyện chưa hết. Bạn bè chàng thợ săn mai táng chàng gần nơi xảy ra tai nạn. Chỉ một đêm sau nấm mộ của người xấu số đã bị húc tung, cây rừng xung quanh đó bị quần nát, trên thân cây nham nhỡ vết húc của sừng còn dưới đất thì dày đặc dấu chân bò tót.
Hung dữ thật! Tính hung dữ của bò tót còn thể hiện trong những trận đấu bò tót tuy nguy hiểm và nghẹt thở nhưng vẫn hấp dẫn khán giả của các đấu trường ở Tây Ban Nha. Cuộc đấu bò tót thường tổ chức vào buổi tối. Các đấu sĩ tiến vào đấu trường trong một nghi thức long trọng, sau đó một con bò tót với đôi sừng dài và nhọn được đưa vào. Bảy, tám đấu sĩ mặc những bộ quần áo thêu kim tuyến bó sát người vây quanh con bò để tìm hiểu tính nết và các động tác quen thuộc của nó. Cứ nhìn cái cảnh đấu sĩ rung rung, dền dứ tấm khăn màu đỏ nhử cho con bò húc vào đó mà thót tim. Nó không húc tấm vải mà húc vào người thì chỉ có tan xương!
- Hôm nay giở giời sắp mưa hay sao mà bỗng dưng ông anh mang chuyện bò tót ra kể.
- Có lý do của nó đấy. Đầu đuôi là thế này. Quán Sơn Lâm chuyên bán thịt thú rừng của cái thành phố miền bán sơn địa này đã hai hôm rồi có món thịt bò tót. Săn được con bò tót khó khăn và nguy hiểm như thế nào tôi đã tả rồi. Vì vậy những món đặc sản từ thịt bò tót có giá tiền treo đâu ở trên trời, những hạng nhẹ túi như chúng ta đừng có hòng mơ nếm thử. Vậy mà thiên hạ đến quán gọi món đặc sản bò tót ào ào. Trong số đó có sếp của chúng ta, câu chuyện hôm ấy sếp thưởng thức món đặc sản thịt bò tót ra sao tôi sắp kể cho anh nghe đây.
Sếp là người trẻ tuổi, cao ráo, đẹp trai lồng lộng, tuổi mới ngoài bốn mươi mà đã thuộc top các quan hàng đầu của cái tỉnh vùng bán sơn địa này. Thời bây giờ người tuổi trẻ tài cao nhiều lắm, cứ xem như Tổng thống Nga Dmirtry Medvedev đến năm 2010 này mới 45 tuổi thì biết. Tháng 10 năm nay ông ấy sẽ thăm chính thức nước mình và dự Hội nghị cấp cao ASEAN-Nga. Con đường hoạn lộ của sếp còn thênh thang lắm, giá như ngay bây giờ sếp có là quan đầu tỉnh thì cũng không có gì là lạ. Các trợ lý và cấp dưới phải khó khăn lắm mới mời được sếp hôm ấy đến quán Sơn Lâm. Cấp dưới thì nghĩ rằng chả mấy khi có thịt bò tót mà ăn, có miếng ngon mời được sếp mới phải đạo. Sếp thì cứ ngại cấp dưới không để cho sếp phải trả tiền, có ai đời mời sếp mà lại bắt sếp góp tiền, làm như thế sao tiện. Cứ dùng dằng mãi rồi cuối cùng sếp mới mỉm cười gật đầu khiến cho cấp dưới ruột gan nở ra từng khúc.
Bữa ăn hôm ấy có mười người ngồi thành hai mâm. Những ai vinh dự được ngồi vào mâm hôm ấy thì năm giác quan cứ phải làm việc liên tục. Trước tiên là khứu giác và vị giác, mùi vị của các món xào, hấp, tái lăn, bíp tếch và rượu Whisky xộc vào mũi, thấm qua lưỡi đê mê đến lục phủ ngũ tạng. Xúc giác được mơn man bằng không khí mát dịu trong phòng vì máy điều hoà. Tai được nghe những bản nhạc lúc du dương, lúc dồn dập phát ra từ đôi loa dựng sát tường. Mắt được chiêm ngưỡng những cô phục vụ bàn xinh như mộng.
- Anh không nói kỹ hơn về các món ăn chế biến từ thịt bò tót thì làm sao độc giả hình dung được nó ngon mà đáng giá như thế nào?
- Các món xào, hấp, tái thì tôi chỉ biết sơ sơ nên không dám lạm bàn. Riêng món ngẩu pín thì tôi có thể tả kỹ cách chế biến.
- Ngẩu pín là cái gì?
- Quê một cục nên mới không biết ngẩu pín là gì! Ngẩu pín là chim của con bò đực, hay nói chung là của giống đực loài có vú, còn gọi là dương vật hay linga. Món này phải thỉnh hai đầu bếp từ Hà Nội lên mới chế biến được. Ngẩu pín đem ngâm nước cho nở ra rồi bóc bỏ lớp da bên ngoài. Luộc ngẩu pín cho mềm, vớt ra rửa sạch rồi thái thành khúc. Thịt dê và thịt gà mái rửa sạch thái thành miếng. Cho ngẩu pín, thịt dê, thịt gà, gia vị vào nồi nước, đun to lửa cho sôi, cho vào ít rượu rồi hớt bỏ bọt. Sau đó hạ nhỏ bớt lửa hầm cho nhừ rồi cho kỳ tử vào đun thêm một lúc là được. Yêu cầu phải đạt được là miếng ngẩu pín phải mềm nhưng giòn, nước canh đậm đặc và dậy mùi thơm.
- Ăn gì không ăn lại đi ăn chim con bò!
- Anh nhầm rồi! Món này là món vua chúa hay dùng trong các cung đình phương đông. Vua xơi vào thì bảo đảm nhất dạ lục giao sinh ngũ tử, vì món ngẩu pín vị ngọt, tính ấm, bổ thận, ích tinh, lợi tuỷ, kiện tỳ vị, cường dương mạnh cốt. Dùng món này thì không lo chuyện đau lưng mỏi gối, suy giảm ham muốn tình dục. Chỉ sợ sếp dùng món này rồi thì khổ cho phu nhân của sếp, không khéo còn khổ lây vài em chân dài.
- Tôi thuộc loại người đã no cơm tẻ thì thôi mọi đường, giá như trong túi có tiền cũng không dám dùng, sợ dùng xong rồi sử dụng linga không đúng chỗ, bị khai trừ Đảng và mất chức như chơi!
Đúng cái lúc món ngẩu pín vừa được đặt lên bàn ăn, mọi người vừa mới dùng được vài ba thìa thì có một người nhẹ nhàng, rón rén vào phòng ăn bấm nhẹ anh trợ lý rồi cả hai đi ra ngoài. Việc gì vậy? Thì ra ngoài đường phố đang có vụ lộn xộn. Chiều hôm trước có một thằng bé 21 tuổi đi xe máy không đội mũ bảo hiểm bị công an phạt và đưa về đồn. Ở đồn công an nó có biểu hiện sức khoẻ không bình thường nên được đưa đi cấp cứu ở bệnh viện. Nó chết ở bệnh viện. Dân cho là nó chết oan nên tụ tập đông người trước cửa UBND tỉnh đòi có lời giải thích.
- Chuyện này tôi đã biết vì báo Dân trí và VnExpress đăng lại tin chính thống của Thông tấn xã Việt Nam có tường thuật cuộc gặp của Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh với các cơ quan báo chí về vụ tụ tập đông người gây mất trật tự trị an ở trước cửa trụ sở UBND tỉnh. Sau đó công an còn giữ 6 đối tượng quá khích gây rối để làm rõ mức độ vi phạm.
- Thì ra anh có biết nhưng tôi vẫn kể vì muốn chia sẻ với anh tâm tư của mình. Tôi oán cái tay trợ lý của sếp lắm. Nó mà sinh vào thời phong kiến trước đây thì cầm chắc là nịnh thần, vua nghe nó thì chỉ có tan nát cơ đồ. Chắc thằng này thuộc diện tham ăn, hơn nữa lại là tham ăn món ngẩu pín nên sau khi trở lại phòng ăn nó cứ tỉnh bơ coi như không có việc gì xảy ra. Giá mà nó không tham ăn, báo cho sếp biết thì sự việc về vụ tụ tập đông người đâu có thể xảy ra theo chiều hướng xấu để đến nỗi thêm 6 người bị bắt. Ai chứ sếp thì tôi biết rõ lắm. Tuy còn trẻ nhưng lòng thương dân của sếp thật mênh mông, đối nhân xử thế đúng sách thánh hiền, giải quyết công việc gì cũng tế nhị, khách quan, trung thực và hợp tình hợp lý./.
Số phận con Cún
Cún là quà tặng của một người bạn bố tôi. Có lẽ nó không phải là một con chó thuần chủng. Ông ấy nói nó thuộc giống chó Phốc, nhưng theo chỗ tôi biết, chó Phốc là loại chó nhỏ có bộ lông bóng mượt màu đỏ, nâu, đen hoặc màu sôcôla, mắt có màu sẫm hình ôvan và một cơ thể cân đối với những đường nét thanh thoát, mõm khoẻ, răng sắc, h
ai chân trước thẳng và có chiếc móng huyền đề,
khi trưởng thành có chiều cao khoảng ba mươi phân và cân nặng cỡ 5 kg. Xét về màu lông thì Cún nhà tôi là một con chó khoang với hai màu đen trắng, lông chỉ hơi mượt chứ không bóng. Xét về trọng lượng, thì Cún mới về nhà tôi khoảng 8 tháng, nhưng gần đây tôi bế cậu ta đứng lên bàn cân rồi trừ đi trọng lượng của mình, được 9 cân, ăn uống tốt nên người cu cậu béo lẳn. Có lẽ hai đấng sinh thành ra nó nghĩ rằng: đã khoang thì khoang cho trót, nên bao quanh một mắt là đám lông màu trắng, còn quanh con mắt còn lại là đám lông màu đen, khiến người quan sát có cảm tưởng kẻ đối diện là một anh chàng hài hước vui tính. Hai chân trước của nó thẳng và có chiếc móng huyền đề. Với tất cả những điều tôi đã tả ở trên, thì trong hai bố mẹ nó, một con là chó phốc thuần chủng
Miniature Pinscher
có nguồn gốc từ Đức, con còn lại là một chàng hoặc một nàng nội hoá, nó là con lai đời F1 mang gien trội của giống chó Phốc.
Chúng tôi ở trong ngôi nhà hai tầng cũ kỹ ở góc một con phố vắng. Người ta thường ví Hà Nội với một cái chợ vĩ đại với những cửa hàng mặt phố- nhà mặt phố, bố làm to- thế nhưng nhà tôi mặt phố mà không có cửa hàng nào dọc theo con phố vắng nơi chúng tôi ở cả, bố tôi không làm to mà chỉ là viên chức ở một Công ty cổ phần. Phía sau nhà tôi có một khoảng đất lưu không chưa có chủ sử dụng cạnh một bể chứa nước tập thể, nhà ai thiếu nước có thể mang máy mắc vòi để bơm về nhà. Những con phố vắng như vậy ở Hà Nội không nhiều, và cả nhà tôi năm người, ngoài tôi ra thì bố mẹ tôi, em gái tôi và Cún là người thứ năm sống bình yên trong cái không khí nhiều khi tưởng như tĩnh mịch của con phố vắng đó.
T
ừ khi nuôi Cún trong nhà, tôi bắt đầu để ý đến cách nuôi, cách chăm sóc chó và những câu chuyện về chó. Nuôi Cún như nhà tôi chỉ là nuôi chơi nuôi bời, được sao hay vậy, thỉnh thoảng tôi cũng cho cậu ta đi tắm, đi chơi. Làm sao so được với các đại gia, có buồng riêng cho chó, giường thiết kế riêng cho chó, thuê ôsin chỉ để chăm sóc chó, cho nó ăn, dỗ dành nó ngủ, dắt nó đi chơi, lúc nó hơi biếng ăn, hắt hơi, sổ mũi đưa nó đi bệnh viện dành riêng cho chó và mèo, những bệnh viện hiện đại như thế đã có ở Sài Gòn và Hà Nội. Và còn phải kể đến biểu hiện tình cảm của những ông chủ bà chủ sang trọng ở hành lang bệnh viện khi bỗng dưng biết cô chó cưng của mình có bầu, hay cậu chó nhà mình phải đi siêu âm hoặc chụp X quang. Người ta còn xây dựng khách sạn dành riêng cho chó và mèo ở 167 phố Trương Định, Hà Nội. Bạn có thể gửi chú chó cưng của mình đến đó nghỉ ngơi, thư giãn, được nhân viên khách sạn chăm sóc từ miếng ăn, giấc ngủ cho đến việc dẫn đi chơi. Ở
Brazil
, người ta còn tổ chức lễ hội carnival hoành tráng dành cho thú nuôi, trong đó có chó. Các chú khuyển được trang điểm lộng lẫy tham gia đủ các trò vui trên đường phố, tôi không thể hình dung được làm thế nào người ta có thể bắt những con chó trình diễn vũ điệu samba trên đường phố
Rio de Janeiro
. Tôi còn chưa kể hết!
Trong di chúc của mình, nhà tỷ phú chuyên kinh doanh khách sạn và bất động sản ở New York, bà Leona Helmsley đã để lại cho chú cún cưng Trouble 12 triệu USD. Số tiền thừa kế của Trouble sẽ do anh trai bà là Alvin Rosenthal quản lý. Ông này cũng được thừa hưởng 10 triệu USD. Hai người cháu là David và Walter Panzirer mỗi người sẽ được hưởng 5 triệu USD. Thì ra cái câu ca
thân em như hạt mưa sa/hạt vào gác tía hạt ra ruộng cày
cũng đúng kể cả với loài chó, cứ theo câu này mà xét thì Cún nhà tôi chỉ là hạt mưa rơi xuống ruộng cày mà thôi.
Chó Phốc là giống chó ương ngạnh và bướng bỉnh, chúng rất can đảm và thích sủa nhiều. Rất trung thành với chủ, rất tình cảm và luôn cảnh giác với vật lạ. Luôn tràn trề sinh lực, thông minh, sống động và dũng cảm là những đức tính của loài chó này.
Cún của tôi thừa hưởng những đặc tính ấy- thông minh, sống động, có tình cảm với chủ- những điều ấy thì tôi công nhận. Trong nhà, nó chơi thân nhất với tôi có lẽ vì tôi hay quan tâm chăm sóc nó, đưa nó đi tắm, tắm xong cu cậu ngồi lim dim hưởng làn khí nóng từ chiếc máy sấy tóc mơn man khắp bộ lông; khi tôi đi học về nó vẫy đuôi mừng rồi đứng bằng hai chân sau, hai chân trước cào đùa vào chiếc cặp sách; chúng tôi hay đuổi nhau từ tầng một lên tầng hai, hay từ trong nhà ra chỗ bể nước. Sống với chủ thì tình cảm như vậy nhưng can đảm và dũng cảm thì có lẽ không, vì trong câu chuyện tôi kể sau đây Cún tỏ ra là một chàng nhát gan.
Hôm ấy tôi đi học về thì nghe thấy tiếng Cún sủa vang phía sau nhà, đâu như cạnh cái bể chứa nước. Thì ra nó đang cãi nhau với một con mèo. Giá như là một con mèo thuộc diện người cao tuổi không thèm chấp trẻ con thì đã không có cãi nhau, đây lại là một con mèo mới lớn cũng tầm tuổi nó nên mới sinh chuyện. Tôi bước ra sau nhà thì thấy cuộc cãi nhau đang vào đoạn cao trào, mèo gừ gừ tiến lên thì chó lùi, ngược lại chó gâu gâu sấn tới thì mèo dừng lại thủ thế.
- Gâu gâu! Tao bảo mày biến đi, đây không phải là nhà mày, không được vào!
- Meo! Nhận vờ, đây là nhà mày đấy hẳn? Nhà ông chủ chứ! Nhà ông chủ chưa nuôi mèo, nên chuột phá dữ lắm. Tao phải vào xem tình hình ra sao?
- Gâu! Tao đã bảo không được là không được!
- Meo! Tao cứ vào đấy! Mày làm gì được tao?
Mèo không kêu meo nữa, mà giậm chân, kêu khịt khịt trong mũi rất to. Cún ta thấy sự lạ, sủa gỡ gạc mấy câu rồi quay đầu bỏ chạy. Rõ ra là một anh chàng nhát gan. Thấy Cún rút lui rồi, mèo cũng không có ý định vào nhà nữa, ngao lên một tiếng đắc thắng rồi quay đầu nghễu nghện bước đi.
Cuộc sống cứ êm đềm trôi đi trong góc con phố vắng, cho đến một ngày, tôi phải chia tay với Cún mãi mãi. Chiều muộn hôm ấy nhà tôi có khách, Cún vừa vẫy đuôi mừng ông khách quen thì nhân lúc không ai để ý, nó lách cửa chính bước ra thơ thẩn ở vỉa hè. Nó còn đang nghếch mắt ngắm đông nhìn tây thì vèo một cái, hai thằng đi trên một chiếc xe máy, thằng ngồi sau bằng một động tác thuần thục đã quàng được vòng dây vào cổ nó và lôi nó đi xềnh xệch. Thấy động, tôi chạy ra thì con Cún tội nghiệp bị lôi sau chiếc xe máy đã cách tôi khoảng gần 20 mét rồi khuất sau chỗ ngoặt của góc phố khiến tôi đứng sững chẳng biết làm gì. Báo tổ dân phố? Báo công an? Thân phận nhỏ nhoi của Cún làm sao khiến họ có thể ra tay làm một cái gì đó để cứu nó. Cún ơi! Cún ăn ngoan, Cún béo lẳn, Cún ngon mắt mà lại mất cảnh giác như thế thì bọn chúng làm sao có thể tha Cún được? Hay là sáng sớm mai tôi viết đơn lấy lý do nhức đầu sổ mũi gửi cô giáo chủ nhiệm xin nghỉ học một buổi để lên Nhật Tân, may ra...Tôi mơ hồ nhớ lại một đoạn trong phim Bao Công xử án, lúc Triển Chiêu tung người nhảy vào pháp trường truyền lệnh của Bao Công, nhờ vậy mà đầu của tội nhân trong phút giây cuối cùng khỏi rơi xuống đất. Ừ! May ra, biết đâu đấy!
Tôi lên Nhật Tân từ sớm với hy vọng bắt gặp Cún trong chiếc lồng sắt của hai tên đạo tặc đèo sau xe máy đang trên đường đến những quán thịt chó. Xe tôi đang bon trên đường Âu Cơ, là đường cao tốc ra sân bay Nội Bài, nhìn sang bên trái, đã thấy loang loáng những biển hiệu Anh Tú, Anh Tú Xịn, Anh Tú Béo, Trần Mục, Hồ Kiểm, Quang Vinh...với những câu chào mời Cầy tơ 7 món, 9 món Kính Mời,
mùi thịt chó nướng lẫn trong sương mờ giăng khắp vùng đê Nhật Tân như gọi, như mời.
Tôi gửi xe rồi đi tha thẩn hết quán này đến quán khác, mắt ngó nghiêng. Những con chó đã được thui vàng, mổ bụng lấy lòng và treo lủng lẳng ở mặt trước các cửa hàng nhe răng trắng nhởn nhìn tôi với nụ cười vừa hài hước vừa đau khổ. Tôi cứ suy nghĩ miên man tại sao con người lại có thể ăn thịt chó, một giống vật sống có tình có nghĩa, hơn nữa, đối với một số người thì chó là giống vật cưng nuôi trong nhà.
Viết đến đây tôi muốn lưu ý độc giả câu chuyện tổng thống Mỹ Obama bắt ruồi. Trong một cuộc phỏng vấn với kênh CNBC ở Nhà Trắng hôm 16-9-2009, một con ruồi vô tình xen vào cuộc trò chuyện của Obama với phóng viên John Harwood. “Biến khỏi đây!” Tổng thống nói với con ruồi. Khi nó không nghe lời, ông chờ cho nó đậu xuống tay trái rồi sau đó đập chết bằng tay phải. Rồi Tổng thống hồn nhiên tiếp tục câu chuyện: “ Chúng ta vừa nói đến đâu rồi nhỉ? Ấn tượng đấy chứ? Tôi hạ được nó đấy!”. Việc chỉ có thế nhưng Tổ chức vì quyền lợi động vật (
People for the Ethical Treatment of Animals-PETA
),
đã lên tiếng rằng họ rất thất vọng vì ở Thượng viện Tổng thống đã từng bỏ phiếu ủng hộ quyền của động vật nên đáng lẽ ông không nên đập chết con ruồi. Để tránh xảy ra những trường hợp tương tự, PETA tuyên bố rằng họ “ủng hộ việc xua đuổi con ruồi đi thay vì giết nó”, và họ gửi cho Tổng thống chiếc bẫy KatchBug, loại dùng để bắt côn trùng rồi sau đó thả chúng về với thiên nhiên.
Ôi! Mọi người hãy nói cho tôi biết con ruồi của Obama và con Cún của tôi ai là kẻ đáng thương hơn?
Hôm ấy thứ bảy, lại là tuần cuối tháng-cuối tháng đi ăn thịt chó xả xui-nên từ sớm những chiếc chiếu trải trên các nền nhà đã có nhiều khách ngồi. Thấy tôi cứ ngó nghiêng mà không vào quán nào, có lẽ mọi người đoán tôi là một thằng chíp hôi hẹn bạn bè ở đây và đang chờ chiến hữu đến. Càng đi, tôi càng thất vọng. Cún ơi! Không lẽ Cún đã bị chúng dí roi điện vào đầu cho chết, rồi nhúng nước sôi, cạo lông, sau đó thui bằng rơm cho đến khi da vàng ươm; rồi Cún trở thành những miếng thịt nướng, thịt hấp thái mỏng, mười miếng như một, miếng nào cũng được bao quanh lớp da đều tăm tắp đặt cạnh bát mắm tôm đánh chanh sủi bọt, chồng bánh đa gạo nướng vàng phồng rộm thơm lừng, chai rượu nếp trắng đục như sữa, đĩa lá mơ tươi với giềng thái mỏng. Và dồi nữa-sống ở trên đời ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?- rồi thì dựa mận, bún xáo...Cùng với những tiếng dzô, dzô...
đầy khí thế, có lẽ nào Cún đã trôi tuột vào dạ dày của đám thực khách mặt đỏ tưng bừng đang chuếnh choáng hơi men. Như thế thì tội nghiệp cho Cún quá, Cún ơi!./.
Tấc đất tấc vàng
Chưa bao giờ hắn cầm trong tay số tiền khổng lồ như thế. Hai trăm năm mươi triệu đồng! Toàn là tiền có mệnh giá 500.000 đồng, xếp thành năm tệp buộc lại bằng dây chun, mỗi tệp 100 tờ.Tay
hắn run run bọc khối tiền bằng cái khăn vuông đẫm mùi mồ hôi tóc và mùi nước bồ kết nấu với vỏ bưởi của vợ, buộc chéo bốn góc lại, rồi hò con vợ: “ mẹ mày đưa cho tao cái dây thừng, ở đầu hồi nhà ấy!”. Hắn đón đoạn dây thừng từ tay vợ, mở cái khăn vuông ra dùng ngón tay trỏ vào từng tệp tiền miệng nhẩm đếm một hai ba...rồi cẩn thận buộc khối tiền lại, buộc thật chặt cứ như thể nếu buộc lỏng thì tiền có thể mọc cánh mà bay đi mất. Người khách mua đất cầm chén nước chè xanh bốc khói trên tay, thong thả nhấm nháp từng ngụm nhìn vợ chồng hắn đếm tiền và trói tiền, đôi mắt thoáng một nét cười.
Hai trăm năm mươi triệu đồng là số tiền hắn bán mảnh đất năm trăm mét vuông của hương hoả do cha mẹ hắn để lại, mỗi mét vuông giá năm trăm nghìn đồng. Mảnh đất nằm ở thôn 7, xã Vân Hoà, huyện Ba Vì cạnh đường trục liên xã và cách nhà hắn ở gần nửa cây số. Vợ chồng hắn có ba đứa con, đứa đầu lòng con gái và hai đứa sau là con trai. Hồi con gái hắn học lớp 2, có một bài tập đọc trong sách Tiếng Việt cô giáo bắt phải học thuộc kể câu chuyện một người cha trước khi chết gọi các con lại dặn rằng trong vườn nhà mình có chôn kho báu, các con cứ cố gắng đào xới thật kỹ thế nào cũng tìm thấy. Những người con ra sức đào bới nhưng không tìm thấy kho báu, đổi lại họ có những vụ hoa màu bội thu. Mỗi lần nghe con ê a đọc hắn lại tủm tỉm cười, cụ nào nghĩ ra cái bài ấy thâm thuý thật, mà cái ông nào bà nào đưa nó vào sách Tiếng Việt lớp 2 kể ra cũng thuộc hạng thông thái. Cha hắn chết sau một cơn đột quỵ, ông cụ đi nhanh và mát mẻ lắm nên không kịp dặn lại gì cho con cháu, tuy vậy vốn là người chăm chỉ và có sức khoẻ, hắn cày sâu cuốc bẩm nên mảnh đất cha mẹ để lại cũng đã cho hắn những vụ hoa màu bội thu.
Hắn bán mảnh đất trước Tết Mậu Tý 2008 nửa tháng. Chưa bao giờ nhà hắn có một cái Tết rình rang nhớ đời như cái Tết năm ấy. Ba đứa con đứa nào cũng được sắm quần áo mới, nhà hắn và hai nhà nữa chung nhau một con lợn gần sáu mươi cân, thịt ăn lai rai mãi đến mồng mười chưa hết. Nhìn đàn con cầm những miếng sườn xào chua ngọt hay miếng giò lụa, cắn những miếng thật to rồi nhai nhồm nhoàm, môi miệng bóng nhờn những mỡ, ruột hắn nở ra từng khúc mà mắt lại thấy xon xót cay cay. Tháng giêng là tháng ăn chơi, sang tháng hai hắn dỡ bỏ ngôi nhà trên để xây mới, tuy chỉ là nhà cấp bốn nhưng là nhà đúc mái bằng trên diện tích ngót ba mươi lăm mét vuông, còn nhà bếp và chuồng lợn vẫn giữ tuềnh toàng như cũ, từ từ rồi mới tính. Rồi hắn mua chiếc xe máy Wave Alpha, đèo vợ đi chợ mặc dù chợ chỉ cách nhà hơn cây số làm cho thị mặt mày nở nang tươi tỉnh, tay giữ eo chồng tình tứ mà cứ tưởng như cả đôi đang bay đâu đó trên gió trên mây.
Sự vui vẻ của hắn kéo dài độ gần tám tháng, tháng tám năm ấy địa giới hành chính Hà Nội được mở rộng lên hơn ba lần. Với diện tích hơn 3.300 kilômét vuông Hà Nội nằm trong số 17 thành phố, thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới. Cái làng quê yên ả của hắn tự nhiên trở thành đất thủ đô, hắn và vợ con một buổi sáng thức dậy thấy mình trở thành người Hà Nội, thế thì hắn phải tiếp tục là con người vui vẻ chứ còn lăn tăn cái nỗi gì? Không! Hắn không thể nào vui vẻ được, hắn buồn và có thể nói là chán đời. Mọi sự cũng chỉ vì tiền, tiền là Tiên là Phật nhưng tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống. Mặc dù hắn đã gói ghém trói buộc thật kỹ nhưng tiền của hắn vẫn cứ mọc cánh bay đi để đến một hôm giở ra đếm chỉ còn lại chưa đến tám mươi triệu. Hắn hốt hoảng như người bị mất cắp, vội vàng đem số tiền còn lại lập sổ tiết kiệm ở ngân hàng. Đã vậy người anh họ của hắn làm ở địa chính xã báo cho hắn một cái tin mà nghe xong hắn xây xẩm cả mặt mày: mảnh đất hắn đã nhỡ bán đi hôm trước Tết bây giờ người ta mua với giá gấp đôi, một triệu đồng một mét vuông, hơn nữa người chủ mới đã phù phép thế nào mà từ đất canh tác nông nghiệp trở thành đất thổ cư. Hắn nhẩm tính: vậy là mảnh đất ấy bây giờ có giá năm trăm triệu. Chỉ trong vòng tám tháng mà hắn mất đứt hai trăm năm mươi triệu, không nghĩ đến thì thôi, cứ nghĩ đến ruột hắn như đứt ra từng khúc. Hắn chỉ còn biết kêu trời mà trời thì cao và xanh,
xanh kia thăm thẳm từng trên/vì ai gây dựng cho nên nỗi này
, thân phận con sâu cái kiến như hắn kêu làm sao cho thấu.
Giá đất ở thôn 7 xã Vân Hoà huyện Ba Vì không dừng lại ở con số khiêm tốn mỗi mét vuông một triệu. Đồ án quy hoạch Hà Nội trình bày tại Trung tâm triển lãm Vân Hồ vào những ngày cuối tháng 4-2010 đã đẩy giá đất ở đó lên những con số cao ngất ngưởng. Giá đất càng lên thì đời đối với hắn ngày càng trở nên đáng buồn. Các văn phòng môi giới nhà đất mọc lên như nấm trên suốt tuyến đường đi Ba Vì, Thạch Thất. Người dân thay vì ra đồng bàn chuyện vườn cây ao cá lại ra quán uống trà đá bàn chuyện quy hoạch thủ đô. Xe máy, ô tô của cò đất và người mua đất chạy như diều. Cho đến khi giá đất đạt con số năm triệu đồng một mét vuông thì hắn không còn dám nhẩm tính xem nếu còn thì mảnh đất của hắn bây giờ bán được bao nhiêu tiền. Tính làm gì? Hắn ít học nên không biết rằng từ ngày xưa cụ Nguyễn Du đã nói rằng người tính không bằng trời tính,
ngẫm hay muôn sự tại trời/trời kia đã bắt làm người có thân/bắt phong trần phải phong trần/cho thanh cao mới được phần thanh cao
. Mà nếu có tính thì cũng dễ và nhanh thôi, mảnh đất của hắn bây giờ giá h
ai tỉ rưỡi!
Trời đất ơi! Hay là đất mà hắn đã nhỡ bán đi không phải là đất mà là vàng?
Cái ý nghĩ đất là vàng đeo đẳng ám ảnh khiến hắn hầu như trở thành một người khác: chợt tỉnh, chợt mê, vui đấy rồi lại buồn ngay đấy, buồn đến nước mắt rơi lặng lẽ. Hắn tự trách mình sao lại sinh ra trên cõi đời này sớm thế, vào thời của hắn sách Tiếng Việt lớp 2 chưa có cái bài tập đọc cảm động về lời di chúc của người cha trước khi chết rằng trong mảnh đất ông để lại có chôn kho báu. Nếu được dạy dỗ cẩn thận và thấm nhuần cái ý nghĩa sâu xa của bài văn ấy thì có thể hắn đã không bán mảnh đất. Ông nội hắn làm ruộng, cha hắn là nông dân, nhà hắn ba đời là nông dân.
Ai ơi chớ để ruộng hoang/bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu
. Bán mảnh đất đi thì tội còn nặng hơn để đất hoang.
Rồi một hôm nửa đêm giờ tí canh ba, trời tối vì không có trăng, gió lặng, sương rơi, đâu đó vu vơ tiếng chó sủa ma, trên con đường liên xã yên tĩnh một bóng người lầm lũi bước. Hắn đấy! Một tay hắn cầm chiếc bao tải dứa, một tay cầm cái mai cán ngắn có lưỡi thật sắc. Hắn xăm xăm bước tới mảnh đất một thời là của mình. Mảnh đất đối với hắn thật quen thuộc trừ bức tường xây con kiến cao độ nửa mét chạy dọc theo đường biên. Đến nơi hắn úp mặt xuống thảm cỏ đẫm sương đêm và hít thật sâu như thể đó là mùi mồ hôi quen thuộc trên cơ thể vợ. Rồi hắn bừng tỉnh và hì hục đào, chỉ một lúc sau đã xắn được một khối đất vuông vắn mỗi bề độ hai mươi lăm phân. Hắn cẩn thận cho khối đất vào bao tải rồi bế vào lòng như thể ta bế đứa trẻ con và chạy như bị ma đuổi về nhà. Hắn hò con vợ lấy mâm đặt lên trên chiếc ghế đẩu, cẩn thận đặt khối đất lên đó, châm đèn, thắp hương rồi thay quần áo đứng trước bàn thờ gia tiên. Đôi mắt người cha trong di ảnh nhìn hắn như có chiều trách móc. Hắn khấu đầu lạy, đến cái lạy thứ ba thì khuỵu xuống, đầu gối chạm đất và một tiếng nức nở bật ra từ cổ họng:
- Bố ơi!./.
Thằng mất dạy
Người ta không thể căn cứ vào hình dáng bên ngoài để đoán năm nay lão bao nhiêu tuổi, bởi vì tóc lão nhuộm đen, lông mày cũng được mỹ viện bằng cách nào đó làm cho có màu đen nhạt, râu ria thường xuyên được cạo nhẵn, đôi mắt liếc qua liếc lại trông vẫn còn nhanh nhẹn, sự di chuyển đi lại tuy chậm chạp nhưng chắc chắn, chưa cần có người đỡ. Được như vậy vì lão là một đại gia nổi tiếng trên thương trường, tài sản và tiền của không thể đong đếm được, hơn nữa con, cháu, chắt đông mà chúng lại rất quan tâm đến sức khoẻ của lão, nên có bất cứ thứ gì dù là thuốc hay thực phẩm chức năng, có đắt đến bằng vàng cũng mua cho lão dùng. Thường xuyên đưa vào người những thực phẩm chức năng nhập từ Mỹ hay Hàn Quốc, có những loại có đến hơn 200 chất chống ôxy hoá (anti-oxydants) giúp làm chậm quá trình lão hoá, làm giảm mỡ máu, giúp loại bỏ các gốc tự do có hại làm tăng sức đề kháng của cơ thể…nên lão tạo cho người mới lần đầu tiếp xúc hình ảnh một người cao tuổi vui vẻ và yêu đời. Chúng ta chỉ có thể căn cứ vào những sự kiện sau đây để có thể đoán gần đúng tuổi của lão. Cách đây gần ba năm, con, cháu, chắt đã làm lễ mừng thọ cho lão và cụ bà, năm ấy lão tròn 85 còn cụ bà tròn 80 tuổi vàng. Sau đấy ít năm thì cụ bà mất, để lại lão lẻ loi trên cõi đời này. Con trai cả của lão mới cầm sổ hưu ở tuổi 64, nếu để hai người đứng cạnh nhau ta có cảm giác đó là hai anh em vì hai người có khuôn mặt gần giống nhau.
Sau khi tốt nghiệp trường Trung cấp Y, nhận tấm bằng y sĩ, nàng nhận lời làm cộng tác viên ở Phòng khám chữa bệnh đa khoa Thiên Sơn. Làm việc ở đó chưa lâu thì theo chỉ định của bác sĩ, phòng khám giao nhiệm vụ cho nàng hằng đêm đến tư gia mát xa trị liệu cho lão khoảng một tiếng đồng hồ, bắt đầu từ 9 giờ tối. Ngay từ lần đầu tiên nàng đến nhà, đôi môi hồng như nắng, tóc nàng từng sợi nhỏ rơi xuống bờ vai tròn, đôi mắt nhìn ngây thơ e lệ, khuôn ngực phập phồng theo nhịp thở…sắc đẹp rực rỡ của nàng đã khiến cho lão thấy người rạo rực. Từ cái rạo rực ban đầu đến ý nghĩ chiếm đoạt và sở hữu không cách xa nhau bao nhiêu. Đôi lúc lão cũng thấy băn khoăn vì tuổi tác quá chênh lệch, nhưng sau khi đọc trên báo câu chuyện ở Sa Pa anh chàng người Mông Giàng A Linh 36 tuổi yêu bà lão Hạng Thị Sông tròn 80 tuổi, hai người yêu nhau bằng một mối tình nồng cháy thì lão mỉm cười và tặc lưỡi một cái. Và đến buổi mát xa trị liệu thứ năm, khi nàng vừa mới chuẩn bị các dụng cụ y tế để thao tác thì lão tặc lưỡi một cái và với tay tắt công tắc đèn, căn phòng chỉ còn được soi sáng yếu ớt bằng ánh sáng hắt tới từ ngọn đèn ngoài vườn. Lão nhao người ôm chặt lấy nàng, hai người theo đà rơi xuống nệm trắng trải trên chiếc giường đôi. Nàng phản đối:
- Cụ ơi! Sao lại thế này!
- Cụ đây! Ông đây! Bác đây! Anh đây! Để yên, ngoan, anh yêu!
Lão đã kín đáo chốt chặt cửa phòng, hơn nữa căn phòng ở cách xa chỗ bọn gia nhân nên giá như nàng có kêu to hơn tí nữa thì chắc chúng cũng không nghe thấy, mà có nghe thấy đi nữa cũng không có đứa nào dám to gan làm việc gì khi chưa có lệnh của lão. Và như thế là lão được yêu đến tận cùng, lão lắp bắp với nàng những câu sáo rỗng mà bất cứ người đàn ông nào trong trường hợp ấy đều nói như thế.
Sau cái buổi mây mưa ấy, nàng không đến nữa, quá trình mát xa trị liệu bị chấm dứt giữa chừng không có lý do chính đáng. Lão cũng không than phiền khiếu nại gì với Phòng khám chữa bệnh Thiên Sơn. Lão chỉ bâng khuâng nhớ lại những phút giây kỳ diệu khi hơi thở của nàng áp sát bên tai, những đường nét kỳ ảo trên cơ thể nàng phơi bày dưới ánh sáng yếu ớt trong phòng. Cho đến một buổi tối, gần một tháng sau cái đêm đáng nhớ ấy thì có tiếng chuông gọi cửa. Lão thật sững sờ vì bất ngờ: nàng, chính là nàng chứ không phải ai khác. Nàng nhẹ nhàng ngồi xuống ghế sô pha ở phòng khách, đôi mắt bắt đầu đẫm lệ, nàng khóc:
- Cụ ơi! Con đã đi khám rồi, con có thai, bây giờ tính làm sao đây cụ ơi!
- Bình tĩnh! Cứ bình tĩnh rồi từ từ ta tìm cách giải quyết.
Buổi nói chuyện giữa nàng và lão diễn ra khá lâu, lúc ngọt ngào, lúc căng thẳng, và cuối cùng là một cái tặc lưỡi, lại tặc lưỡi:
- Có con với nhau thì ta đi đến hôn nhân, có làm sao đâu?
Và sau đó hai tuần, vào một buổi sáng ở UBND phường, lão và nàng làm thủ tục đăng ký kết hôn, nam không còn vợ, nữ chưa có chồng, mọi sự đều hợp lệ hợp pháp. Có đăng ký kết hôn nhưng nàng cũng đồng ý với lão không tổ chức hôn lễ, tổ chức rình rang làm gì để có thể mua sự đàm tiếu của thiên hạ.
Và hôm nay con trai của họ đã được tám tháng tuổi. Thằng bé đẹp như thiên thần, giống mẹ nhiều hơn giống cha. Nàng cùng với lái xe đi shopping ở siêu thị, trong căn phòng đặt chiếc nôi người bảo mẫu đang ngồi canh giấc ngủ của thằng bé. Thấy lão nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào, chị ta ý tứ bước tránh ra để lão có thể cúi sát bên chiếc nôi ngắm nhìn khuôn mặt thằng bé. Lão hài lòng lắm, ngoài những đường nét thừa hưởng của mẹ nó thì cái trán cao, cái mũi với sống mũi thấp và đôi môi hơi dày đích thị là của lão chứ không sai vào đâu được.
Tay
lão run run vạch chiếc tả quấn ngang bẹn để ngắm nhìn quả ớt, một quả ớt thật khí thế, xứng đáng là hậu sinh khả uý. Quả ớt đang dần dần cứng và ngỏng lên tạo thành một góc 45 độ so với mặt phẳng nằm ngang. Lão lầu bầu:
- Cha bố mày!
Lão chưa kịp nói gì thêm thì một tia nước mạnh mẽ vọt ra từ đầu chót quả ớt, tia nước dội thẳng vào sống mũi lão và chảy ròng ròng xuống môi tạo ra một vị mằn mặn ở đầu lưỡi. Lão lại lầu bầu:
- Thằng mất dạy!./.
Thằng nhà quê
1-
Bố tôi là giáo viên THCS đã nghỉ hưu, mẹ tôi làm ba sào ruộng và chăm mảnh vườn nhà, nếu chỉ trông mong vào đấy mà học đại học thì chỉ là sự nằm mơ. Khi tôi học năm cuối THPT thì cũng là lúc vợ chồng chị gái tôi ăn nên làm ra bằng nghề đại lý thu mua sắt vụn và phế liệu, xây được nhà, vốn liếng có tiền tỉ và sẵn sàng nuôi cậu em út học đại học. Sau khi tôi thi đỗ, chị tôi sắm cho tôi xe máy, cấp cho tôi tiền ăn, tiền trọ, tiền tiêu vặt, sang đến năm thứ hai mua cho tôi bộ máy tính.
Tôi cùng 3 sinh viên tỉnh lẻ nữa thuê một phòng trọ trên tầng hai một khu chung cư, buổi trưa ăn ở căng tin nhà trường còn buổi tối thì góp gạo thổi cơm chung. Tôi cao hơn mét bảy, da bánh mật, khuôn mặt chữ điền, mắt sáng và hơi xếch, nụ cười khoe hai hàm răng trắng và đều đặn. Trang phục của tôi không đắt tiền nhưng sạch sẽ và được là phẳng sau khi giặt. Tất cả những điều ấy làm cho tôi bớt đi cái chất tỉnh lẻ, trông tôi điệu đàng trên chiếc xe máy đi đến trường cũng không khác mấy so với những bạn học người gốc Hà Nội. Giá như cuộc đời cứ từ từ trôi đi như thế cho đến ngày tốt nghiệp thì tôi sung sướng biết bao nhiêu!
Tết Kỷ Sửu tôi về thăm nhà, thấy vợ chồng chị gái tôi mặt nhăn như bị. Không ai ngờ trong một thời gian ngắn giá sắt thép giảm còn một nửa, đống sắt thép vụn mà chị tôi đã nhỡ thu mua chất trong kho làm anh chị tôi thua lỗ gần vài trăm triệu. Mẹ tôi cũng không vui vẻ gì hơn, mấy luống xu hào trong vườn nhà tốt bời bời đã đến kỳ thu hoạch nhưng chẳng ai buồn nhổ. Nhổ lên làm gì? Hơn một chục củ xu hào to đùng chỉ bán chưa đến hai ngàn bạc, chả bõ. Chưa có năm nào rau củ lại rẻ mạt như cái đận giáp Tết này. Tôi tự đánh giá tình hình và rụt rè đề nghị với chị gái giảm bớt số tiền tài trợ hàng tháng, tôi sẽ tự xoay xở lo liệu được, chẳng gì tôi cũng là sinh viên năm thứ ba, việc học hành đã vào nề nếp, sức học của tôi loại khá, tôi có bớt chút thì giờ kiếm sống chắc cũng không ảnh hưởng.
Nhờ bạn bè giới thiệu, tôi tìm đến một Văn phòng kiến trúc sư. Tiếp tôi là một kiến trúc sư khoảng ngoài ba mươi tuổi, để râu mép lún phún, tóc dài chấm gáy trông rất nghệ sĩ: “Bao giờ học hết năm thứ tư em hãy tìm đến đây”, câu nói như một gáo nước lạnh dội vào chút hy vọng le lói. Lang thang mãi rồi cuối cùng tôi cũng tìm được việc chạy bàn trong một quán giải khát ở phố Lê Văn Hưu, làm từ 5 giờ chiều đến 9 giờ tối, làm cả ngày nghỉ ngày lễ, lương tháng một triệu.
2-
Theo sự mô tả của mẹ tôi thì con gái Hà Nội đáng ghét lắm: “ Con gái Hà Nội mắt xanh mỏ đỏ, mặc áo ba lỗ ra đường, không mặc quần mà hay mặc váy, chiều dài cái váy không khác mấy so với quần đùi. Con lên Hà Nội học thì tránh xa bọn ấy ra, học xong thành tài thì về quê mẹ dấm cho một mối, cưới xong nó ở với mẹ cho vui cửa vui nhà. Anh con theo người ta rủ rê, vào Sài Gòn kiếm ăn rồi lấy vợ đẻ con ở luôn trong ấy, chị con đã về nhà chồng, con mà không lấy vợ ở quê thì bố mẹ buồn lắm!”.
Theo lời mẹ dặn: “tránh xa bọn ấy ra”, tôi chăm chỉ học hành, ngoài ba anh bạn ở trọ cùng phòng, tôi không kết bạn với người nào khác. Thế nhưng một buổi chiều nắng muộn, trên khoảng sân trước nhà gửi xe của trường, tôi đã không
tránh xa bọn ấy ra được. Nàng đang loay hoay đến vã mồ hôi với chiếc xe, hết đề lại đạp mà không thể nào khởi động được máy. Tôi thấy bỏ đi thì không nỡ, nên lật yên xe lấy túi phụ tùng để ra tay giúp người đẹp qua cơn hoạn nạn.
- Anh tên là gì?
- Chính Hữu, năm thứ ba ngành Kiến trúc công trình, khoa Kiến trúc.
- Thế thì chúng mình học cùng khoa rồi, em là Ngọc Trâm, năm thứ hai ngành Mỹ thuật công nghiệp. Cảm ơn anh đã giúp đỡ.
- Chuyện vặt! Không có gì!
Cuộc gặp gỡ đầu tiên diễn ra chỉ ngắn ngủi có thế nhưng dư âm của nó thì ngân nga hơi lâu. Hơi lâu vì cái dáng dong dỏng cao của nàng, con gái mà đứng đến quá vai tôi thì phải cao đến mét sáu, vì chiếc quần bò bó sát người làm nổi lên những đường cong mềm mại, vì mái tóc thề để chấm ngang vai, vài sợi gió thổi bay phất phơ trên đôi môi đỏ mọng... Một hôm, sau câu chào : “Anh Hữu”, nàng ngỏ ý mời tôi đến nhà để giúp khắc phục một lỗi gì đó của máy tính. Bước vào căn hộ hơn 100 mét vuông ở tầng 8 khu đô thị Mỹ Đình, từ căn bếp, phòng khách rồi đến phòng riêng của nàng, cái gì cũng làm cho tôi ngợp vì vẻ sang trọng và tiện nghi. Khi đang thao tác trên máy tính, tôi cảm thấy hơi thở của nàng nóng và ẩm sau gáy, khiến tai tôi dần dần đỏ lên. Tôi lo sợ rằng cứ đà này mà tiến tới, có lẽ tôi sẽ không theo được lời mẹ dặn tránh xa bọn ấy ra được vì sau khi ở nhà nàng ra về hình ảnh nàng trong tôi cứ lung linh như bóng nắng, bảng lảng như mây trời, bước đi, dáng đứng, nụ cười cứ làm cho tâm hồn tôi xao xuyến.
3- Hắn tên là Khoa, học cùng lớp với nàng. Con nhà giàu, cao ráo, trắng trẻo, đẹp trai, đầu chải gôm mượt, áo quần hàng hiệu bảnh bao, đến trường
trên chiếc SH sang trọng. Hình như hắn cũng mến nàng, quan hệ giữa hai người đến đâu thì tôi đâu có biết. Tôi hoàn toàn không quan tâm tới hắn, nhưng chẳng hiểu bằng cách nào, hắn biết về tôi khá nhiều. Sau cái hôm hắn bắt gặp tôi và nàng đứng nói chuyện với nhau trên khoảng sân trước nhà giữ xe, có lẽ nụ cười của nàng và ánh mắt nàng dịu dàng nhìn tôi làm hắn khó chịu. Một buổi chiều hắn và tôi cùng dắt xe từ trong nhà giữ xe ra sân, hắn ngồi lên xe khởi động máy và trước khi ra khỏi sân trường ngoái đầu nhìn như xoáy vào tôi: “ Này! Thằng nhà quê! Đũa mốc đừng có mơ chòi mâm son!”. Máu nóng dâng lên mặt nhưng tôi chưa kịp phản ứng thì hắn đã nháy ga vụt đi mất. Cái câu “thằng nhà quê” làm cho tôi suy nghĩ miên man về thân phận của mình. Ừ! Thì tôi là con nông dân, còn hắn có thể là con của một đại gia hay một viên chức cỡ bự tôi chưa được biết, giữa tôi và hắn là cái hố ngăn cách giàu nghèo sâu thẳm nhưng hắn không có quyền gọi tôi là “thằng nhà quê” một cách miệt thị. Sau đó tôi và hắn còn chạm mặt nhau đôi lần, lần thì trên cầu thang lên thư viện, lần ở sân trường nhưng tôi muốn hỏi cho ra nhẽ về cái câu “thằng nhà quê” thì cũng không có cơ hội, chẳng nhẽ mình lại là người gây sự trước. Và còn “cái mâm son” là nàng nữa! Giả sử tôi thuyết phục được nàng về quê thăm bố mẹ tôi thì nàng sẽ nghĩ gì khi gặp hai ông bà già cũ kỹ, thấy nếp nhà tuy lợp ngói nhưng thấp lè tè, cái giếng khơi, cái sân gạch có mấy bãi phân ngan do mấy con ngan thả rông thải ra?
Buổi chiều muộn hôm ấy, có lẽ đã hơn 6 giờ, một tia nắng yếu ớt vàng nhạt
còn sót trên ngọn cây xà cừ trước cửa hiệu giải khát. Tôi đang thu dọn cốc tách ở một bàn thì có tiếng gọi giật giọng:
- Ê! Bồi!
Thì ra là hắn. Làm sao hắn biết chỗ tôi làm thêm và tìm được đến đây? Hắn và một thằng bạn nữa, hai đứa đang ngồi ở một bàn cạnh cửa ra vào. Hắn giương đôi mắt đắc thắng nhìn tôi trong bộ đồng phục của hiệu giải khát, đầu gật lên gật xuống, hai ngón tay phải xoáy vào nhau thành một tiếng kêu đánh tách:
- Cho hai cà phê sữa!
- Có ngay!
Tôi hiểu ngay rằng hắn đến đây không phải để giải khát, nhưng lúc này hắn là khách, là Thượng đế, còn tôi là bồi, là người phục vụ Thượng đế, thôi thì phục vụ hắn cho nhanh để hắn cuốn xéo đi. Tôi chạy vào bếp và sau đôi ba phút bê ra khay có hai ly cà phê sữa nóng. Tôi chưa kịp đặt lên bàn thì hắn lừ mắt nhìn tôi:
- Có nghe nhầm không đấy? Tao gọi cà phê sữa hồi nào? Hai sữa nóng, nghe chưa?
Máu dâng lên mặt, hai thái dương tôi giật rần rần nhưng tôi cố kiềm chế bê khay cà phê sữa trả lại bếp để đổi lấy hai ly sữa. Lúc quay đi, tôi còn kịp nhìn thấy thằng bạn đá vào chân hắn dưới gầm bàn, hai đứa mắt nhìn nhau miệng cười khúc khích. Sự việc chưa dừng ở đấy, lúc tôi đặt hai ly sữa lên bàn thì mũi hắn nhăn lại:
- Thật không hiểu ở đây làm ăn thế nào? Sữa đã bốc mùi chua thế này mà còn dám đem ra cho khách. Biến!
Hắn đưa tay gạt đổ hai ly sữa, một cái lăn xuống đất vỡ tan. Hai đứa đứng dậy rồi đi nhanh ra chỗ gửi xe. Tôi không tự kiềm chế được nữa, lao ra phía cửa, nhưng đúng lúc ấy ông chủ thấy có việc lộn xộn, từ trên tầng hai bước xuống:
- Có việc gì thế, anh Hữu ?….
Hôm ấy chưa đến 9 giờ tối, quán còn đông khách tôi đã xin phép chủ nghỉ sớm. Về đến phòng trọ, tôi nằm vật ra giường, mấy anh bạn cùng trọ hỏi gì cũng không nói, tôi không khóc nhưng nước mắt tự nhiên cứ ứa ra.
- Sao thế? Thất tình à?
Tôi đã có mảnh tình nào vắt vai đâu mà thất tình. Tôi chỉ thương cho thân phận một “thằng nhà quê” mà ngay trong thời buổi này cũng có kẻ tìm được hoàn cảnh và cơ hội để hạ nhục./.
Theo đóm ăn tàn
Hắn là người thích ăn thịt chó. Thích ăn thịt chó mà nhà hắn lại có một vị thế địa chính trị bất lợi. Anh cứ hay nói chữ, cứ như là nhà chính trị. Địa chính trị bất lợi thế nào? Ừ! Thì nói bình dân vậy. Nói nôm na ra là nhà hắn ở gần quán thịt chó của mụ Tam. Quán mụ Tam thường xuyên có một hai con chó thui béo căng và vàng óng treo lủng lẳng. Đi ngang qua quán của mụ lúc nào mũi hắn cũng bị tra tấn vì mùi thơm của chả nướng, dồi nướng. Mà cái hơi của nồi rựa mận bay xa thế, hàng trăm mét vẫn còn ngửi thấy. Mỗi lần bắt buộc phải ngửi những mùi ấy nước răng hắn lại chảy ra. Nước răng chảy ra nhưng túi hắn không phải lúc nào cũng có tiền. Thế cho nên mới khổ. Cũng có lúc hắn nghĩ hay là ta ăn chịu. Chỉ mới nghĩ đến thôi chứ chưa ăn chịu lần nào chỉ vì mụ Tam là một con mụ la sát chua ngoa. Ăn chịu à? Mụ sẽ vác cái mặt không được tươi tỉnh cho lắm nhìn một con chim nào đó bay trên trời xanh và từ đôi môi vĩ đại của mụ thoát ra những lời chói tai : “Đây không bán chịu. Có tiền thì hẳn ăn”.
Tháng Chạp trời rét. Chà! Rét tháng Chạp này mà được uống rượu với thịt chó thì tỉnh cả người nhỉ. Hắn đang mơ màng một bữa rượu thịt chó thì lại vớ được một bữa thịt chó như từ trên trời rơi xuống. Đầu đuôi là như thế này. Hắn được huy động tham gia một buổi cưỡng chế thu hồi đất. Trực tiếp chỉ đạo cuộc cưỡng chế là ông Huyện ủy viên kiêm Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch UBND xã. Hai ông này đích thân đi xe máy đến hiện trường. Hai chiếc xe dựng cạnh gốc chuối, máy hảy còn nóng. Lực lượng hùng hậu hơn một trăm người gồm cán bộ Phòng Tài nguyên và Môi trường, cảnh sát cơ động, cảnh sát điều tra, cảnh sát trật tự, cảnh sát phòng cháy chữa cháy, cảnh sát giao thông, cảnh sát hình sự, bộ đội thuộc Ban chỉ huy quân sự huyện và dân phòng được điều động để cưỡng chế thu hồi đầm thủy sản và khu đất liền kề trên đó có ngôi nhà hai tầng của khổ chủ. Trong lực lượng hùng hậu đó hắn chỉ thuộc hạng tép riu. Thuộc hạng tép riu vì hắn chỉ là dân phòng. Dân phòng là gì? Dân phòng là dân nhưng được công an tập huấn về nghiệp vụ và khi đi làm nhiệm vụ phải tham gia cùng với công an theo sự sai bảo của công an. Khi đi làm nhiệm vụ dân phòng ăn mặc như thế nào? Hiện chưa có văn bản pháp quy nào quy định trang phục của dân phòng. Có nơi từ mũ đến áo quần đều một màu tím than, có nơi quần áo dùng màu ghi hay màu xanh nhạt. Có người đeo cầu vai có vạch, có người không đeo. Khi đi làm nhiệm vụ được trang bị dùi cui, có khi còn cầm máy bộ đàm khiến nhiều du khách nước ngoài nhầm họ là công an hay cảnh sát. Vì hắn là dân phòng nên tôi có đôi lời giải thích như thế để các bạn rõ.
Đài truyền thanh xã thông báo cấm mọi người dân qua lại khu vực cưỡng chế vì còn bom mìn chưa kích nổ. Tiếng loa vừa dứt thì chiếc máy xúc bánh xích đi theo sau các công an viên và dân phòng dẫn đường lừ lừ xình xịch tiến vào sân. Chiếc gầu tua tủa răng của nó ngoạm và giật đổ từng mảng tường lớn. Khi tầng hai đã hoàn toàn đổ sụp và chiếc gầu bắt đầu ngoạm vào tường của tầng một thì bỗng dưng hai con chó một lớn một nhỏ từ trong nhà tông ra sân và hoảng loạn tìm đường chạy trốn. Con lớn là chó vện vàng, con nhỏ là chó vện đen. Thấy hai con chó hắn giật tay anh bạn dân phòng:
- Này! Chó…
- Chó thì làm sao?
- Làm sao? Làm sao! Làm thịt chứ còn làm sao! Mày không thấy à, con vện vàng dễ chừng cao đến nửa mét, của này có lẽ phải ngót hai mươi cân. Còn con vện đen bỏ rẻ cũng bảy tám cân. Miếng ngon kề ngay miệng, bỏ phí à?
Không cần phải nói với nhau nhiều lời hơn nữa, hai thằng bỏ vị trí xông lên. Bỏ vị trí xông lên mà chẳng thấy ai nói gì. Hay là hai con chó cũng nằm trong số đối tượng cần phải bắt giữ ngay tại hiện trường ? Dùi cui cầm tay, người ngã về phía trước, chúng tạo thành hai mũi giáp công và cắm cúi chạy. Mục tiêu là con vện vàng. Con vện vàng bỏ rẻ cũng ngót hai mươi cân. Nhưng mà con vện vàng khôn lắm, nó chạy ngoắt ngoéo chữ chi khiến hai thằng người mấy lần vồ hụt. Rồi con vện vàng nhảy ào xuống đầm thủy sản bơi thoát. Hai thằng người nuốt nước bọt tiếc rẻ. Nhưng hãy còn con vện đen. Con vện đen bỏ rẻ cũng bảy tám cân. Tội nghiệp con vện đen, nó chậm chân mà lại cuống nữa nên vừa chạy loăng quăng vừa gào sủa thảm thiết cuối cùng bị thằng người quật cho một dùi cui rồi túm được hai chân sau khi hai chân trước và mõm nó đã ở trong mép nước của đầm thủy sản. Con chó rét run vì ướt, vì gió lạnh và sợ hãi. Giẫy giụa. Ẳng ẳng. Chắc thằng người cũng học hết phổ thông nên biết thế nào là lực ly tâm. Nó nắm chặt hai chân sau con chó rồi một chân làm trụ cứ thế xoay tròn người, miệng kêu rối rít:
- Cái bao! Cái bao, đưa cho tao cái bao. Nhanh lên!
Theo đóm ăn tàn? Theo đóm ăn tàn nghĩa là gì? Ừ! Thì đại khái nó cũng như là theo voi hít bã mía. Anh nói rõ ra xem nào, đừng có vòng vo. Ừ! Thì nói rõ. Bạn chịu khó giở Từ điển tiếng Việt ra sẽ thấy họ giải thích Theo đóm ăn tàn là một thành ngữ ví hành động của người đi theo đuôi kẻ khác để hòng kiếm chác chút lợi lộc. Cũng có thể là do cái tích ngày xưa đi đêm người ta cầm đuốc rồi con rắn mò ra ăn tàn đuốc để kiếm chút vị mặn trong tro. Theo đóm ăn tàn của con rắn là bản năng sinh tồn. Còn con người mà theo đóm ăn tàn là loại người kém cỏi hể thấy đâu có tí lợi lộc dẫu nhỏ nhoi thì a dua làm theo kẻ khác bất kể đúng sai. Bữa thịt chó từ trên trời rơi xuống hôm ấy đối với hắn há chẳng phải là một cái lộc đáng kể hay sao?
Thủ trưởng
Cả thủ trưởng và tôi đều đã nghỉ hưu, thủ trưởng về nghỉ đã ngót hai mươi năm, còn tôi-mới gần mười năm. Thủ trưởng thuộc thế hệ 2X, đã có nhiều người kính cẩn gọi bằng cụ. Thủ trưởng là người cùng quê với tôi, một làng quê miền trung du, rừng cọ đồi chè xen lẫn những thảm lúa xanh rờn, chiều chiều ngân nga tiếng chuông- tiếng chuông nhà thờ rung- dẫu có đi xa quê thì đồng quê yêu dấu, một cánh cò bâng khuâng, một bóng cau trước ngõ, một con thuyền trên dòng sông xanh êm đềm vẫn sâu đậm trong lòng người bức tranh quê rõ nét không bao giờ phai nhạt. Ngày Cách mạng Tháng Tám, khi lá cờ đỏ sao vàng dẫn đầu đoàn người biểu tình lên thị xã chiềm đồn thì thủ trưởng là một chàng trai 17 tuổi và nếu được học tiếp một năm nữa thì thi lấy bằng Thành Chung, tức Diplôme d'Étude Primaire Supérieurs. Bị cuốn vào đoàn người hừng hực khí thế ấy, rồi làm công tác tuyên truyền, công tác thanh niên cho đến năm 1948 được điều động vào quân đội, lăn lê bò toài một thời gian thì thủ trưởng giữ ngay chức chính trị viên phó đại đội địa phương. Anh chính trị viên phó chỉ quanh quẩn các công tác dân vận, văn nghệ văn gừng, cờ đèn kèn trống để động viên quân sĩ, chứ không làm những việc to tát có ảnh hưởng đến đánh đấm trận mạc như chính trị viên trưởng. Tuy vậy thủ trưởng vẫn được đánh giá tốt, nhờ có công tác dân vận mà đóng quân ở đâu đơn vị cũng giữ mối liên hệ chặt chẽ với chính quyền địa phương, đi dân nhớ, ở dân thương, tình quân dân như cá với nước, cá không có nước thì không sống được mà nước không có cá thì nước buồn. Thời ấy gian khổ lắm, mỗi năm lính được phát 2 bộ quần áo sợi đôi, đi tập cả ngày trên đồng trên bãi, trèo đồi trèo núi nên hai tay áo, hai ống quần và đít quần luôn luôn rách bươm, rồi thì ghẻ lở, chấy rận, quần áo rách không biết vá víu mà chỉ biết túm lại, nên chị em gọi các anh vệ quốc quân làvệ túm
:
Nhìn anh “vệ túm” thương ghê
Tay
cầm khẩu súng, tay che mảnh quần
Thương anh, em những ngại ngần
Muốn gửi đường vá, đính gần đôi ta!…
Rồi thì đường vá chị em không phải gửi, mà một chiều chủ nhật họ phân công nhau đến từng nhà dân mà đơn vị đóng quân vá tất cả những quần áo rách của bộ đội, trong việc này thành tích dân vận của chính trị viên phó được cả đại đội công nhận.
Những câu chuyện trên thủ trưởng kể lại với tôi trong những buổi tâm tình trà dư tửu hậu khi thủ trưởng là cấp trên trực tiếp của tôi. Đó là những năm 70 của thế kỷ trước. Trước khi được gọi ra bắc để trải qua khoá học ở Trường chính trị cao cấp thì thủ trưởng là chính uỷ Binh trạm 31 thuộc Đoàn 559. Học xong thủ trưởng không về đơn vị cũ mà được điều động làm trưởng khoa kiêm bí thư đảng uỷ Khoa Mác-Lênin của một Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật. Còn tôi là trợ lý, cái gì cũng phải biết một tí để gỡ cho thủ trưởng lúc bí. Thủ trưởng chỉ đạo học thuật cho các cán bộ giáo viên của khoa rất chặt chẽ, và vì đã trải qua nhiều năm làm công tác chính trị nên việc lãnh đạo tư tưởng đơn vị cũng rất sát sao và kịp thời. Những việc ấy tưởng cũng không nên kể nhiều, tôi chỉ muốn kể cho các bạn nghe việc thủ trưởng giải quyết một vấn đề tư tưởng tuy không gay cấn nhưng tế nhị.
Ngày ấy cán bộ giáo viên ở doanh trại, ăn cơm tập thể ngủ giường cá nhân, còn học viên thì tổ chức thành các tiểu đoàn theo ngành đào tạo, dưới tiểu đoàn là các đại đội. Về đời sống tinh thần thì ngoài báo chí và sinh hoạt văn nghệ cây nhà lá vườn ra, tháng nào cũng có một hoặc hai buổi chiếu phim của Đoàn chiếu bóng lưu động quân đội phục vụ ở sân vận động trong khuôn viên nhà trường. Trong một buổi chiếu phim như thế đã xảy ra việc sàm sỡ của các cậu học viên đối với cô Tuyết là chị nuôi của bếp giáo viên Khoa Mác-Lênin. Cô Tuyết có tấm lưng thon thả, khuôn ngực đầy đặn, đôi mắt lá răm, đôi mày lá liễu, đôi môi cắn chỉ; khi cô gò lưng đạp xe chở rau ở chợ về đi ngang qua đám học viên thì kéo theo không biết bao nhiêu là ánh mắt và những lời bình luận không mấy hay ho. Cô là một đoàn viên thanh niên tốt, đã nộp đơn xin vào Đảng và đang chờ chi bộ xét. Vì bận một số công việc nên hôm ấy buổi chiếu bắt đầu được một lúc thì cô mới đến, đứng phía sau. Câu chuyện trên màn ảnh cuốn hút nên ban đầu cô cũng không để ý đến một vòng tay quàng vào cô từ phía sau, lần mở những cúc áo của chiếc sơ mi quân phục nữ màu cỏ úa mà cô đang mặc trên người. Đến chiếc cúc thứ hai hay thứ ba gì đó thì cô đã thấy người nóng ran và hồi hộp, hơi thở dồn dập, tuy vậy hẳn cứ để yên xem sao. Vào thời điểm máy chiếu thay phim, đèn trên sân bật sáng thì cũng là lúc tất cả các cúc áo đã được mở xong và cái kẻ táo tợn kéo mạnh cổ áo một cái, chiếc áo trật hờ khỏi người nhưng chưa rơi xuống đất để lộ đôi vai trắng ngần và chiếc nịt vú còn trắng hơn căng phồng trước ngực. Đám học viên ngồi phía trước quay đầu lại reo a…a, còn cô thì quay đầu bỏ chạy về phòng đóng cửa lại khóc rấm rứt.
Cô Tuyết nước mắt lưng tròng đẩy cửa bước vào phòng thủ trưởng.
- Khóc lóc cái nỗi gì, ngồi xuống đây. Tao đã bảo bọn cán bộ các tiểu đoàn học viên mở cuộc điều tra rồi, đích danh đứa nào mất dạy thì đang tìm chưa ra nhưng đã khoanh vùng cũng chỉ loanh quanh trong đại đội 2 tiểu đoàn 3 thôi, trước sau gì cũng sẽ tìm được.
- Nhưng…thưa thủ trưởng, còn cái đơn xin kết nạp, cháu không còn mặt mũi nào…
- Bậy nào! Mày phải biết phân biệt vấn đề nào thuộc phạm trù đạo đức, vấn đề nào thuộc phạm vi sinh hoạt, vả lại trong chuyện này mày có lỗi gì đâu? Chi bộ ban hành chính đã họp thông qua đơn của mày rồi, chỉ đến mai là họ gửi lên đây, mà đã lên đến đây thì tao sẵn sàng ký cái roẹt.
Rồi ông đổi giọng:
- Sắp là đảng viên rồi, có nghĩa là thành đồng chí với bố đấy, con ạ. Thôi! Lau nước mắt rồi đứng lên đi, đồng chí!
Về nghỉ hưu, thủ trưởng tôi bắt đầu viết lách. Trong ngót hai mươi năm nghỉ hưu, thủ trưởng đã viết nhiều hồi ký và những bài đăng báo nói về những tấm gương người tốt việc tốt. Những ngày gian khổ ở Binh trạm 31, địa bàn mà Binh trạm phụ trách kéo dài hơn một trăm cây số từ Mụ Giạ ( cửa khẩu đường 12) đến Lùm Bùm (đường 128) được tái hiện rõ nét trong các bài viết. Trong những đơn vị dưới quyền thủ trưởng hồi ấy gồm có hai tiểu đoàn công binh, hai tiểu đoàn ô tô vận tải, một tiểu đoàn cao xạ, một tiểu đoàn giao liên, ba đại đội kho, hai đại đội bộ binh, một đại đội thông tin, một đội điều trị, ba đội phẫu thuật, một đội phòng dịch, một trạm trung tu…không thiếu những con người tận tuỵ quên mình và những gương hy sinh anh dũng làm lay động lòng người.
Một lần ngồi với nhau, sau khi nhấp xong chén trà, khà một cái, thủ trưởng đọc cho tôi nghe một đoạn trong sách Luận Ngữ:
Tam thập nhi lập
,
Tứ thập nhi bất hoặc
,
Ngũ thập nhi tri thiên mệnh
,
Lục thập nhi nhĩ thuận
,
Thất thập nhi tòng tâm dục bất du củ.
Rồi e hèm một cái, thủ trưởng dịch nghĩa:
Ba mươi tuổi lập thân
Bốn mươi tuổi chín chắn
Năm mươi tuổi biết mệnh trời
Sáu mươi tuổi thuận tai nghe
Bảy mươi tuổi
mới có thể nói hay làm những điều đúng theo ý muốn của lòng mình mà không ra ngoài khuôn khổ đạo lý.
Thủ trưởng cười ha hả:
- Tuổi như cậu mới chỉ là lục thập nhi nhỉ thuận, còn tớ, hà… hà… bát thập nhi rồi nhé, mà bát thập nhi thì chả thấy các cụ để lại cho con cháu câu nào để dạy bảo cả, vậy thì làm việc gì tớ cứ ý tớ, tớ làm, sướng thật!
Tôi có ý định khuyên những ông lão bà lão tròn 80 tuổi không nên tổ chức lể mừng thọ lần thứ 80 làm gì, nếu không tổ chức thì may ra sống được quá 90 đấy! Năm nay thủ trưởng tôi tròn 80 tuổi dương lịch, con cái tổ chức lễ mừng sinh nhật hoành tráng lắm. Ông bà thông gia, bạn chiến đấu cũ, bạn bè hàng xóm đến mừng vui vẻ, chuyện trò râm ran, nói cười hỉ hả. Thủ trưởng tôi nâng cốc rượu màu, miệng nở nụ cười:
- Tớ không tin có Thượng đế, nếu có thì cũng đếch biết làm Giời! Người như tớ mà giời cũng để cho thọ đến 80 tuổi, khó hiểu quá! Tớ…
Câu nói bị ngừng ngang giữa chừng, cốc rượu sóng sánh và rơi xuống đất, thủ trưởng nhẹ nhàng ngồi xuống mép giường rồi ngã người nằm xuống chiếu. Nằm xuống và không bao giờ dậy nữa, đến tối hôm ấy thủ trưởng thanh thản ra đi ở tuổi 80. Bà Tuyết- cô Tuyết ngày nào bây giờ đã là một người đàn bà đứng tuổi- chạy ào lại nâng đầu ông và kêu lên trong thảng thốt:
- Bố!
OAN CHO HẮN QUÁ!
Chiều về trên cánh đồng. Mặt trời đỏ ối khuất sau rặng tre. Gió rì rào thổi nhẹ. Vai mang chiếc bừa, hắn đi theo sau con trâu và cất tiếng hát:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Con trâu ngoái lại nhìn hắn: " Thì ta chẳng đã vừa kéo bừa ở ruộng đó sao?"; "Thì vưỡn! Nhưng mà cứ để ta hát nốt"
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Cái cảnh nên thơ ấy giờ đã lùi sâu vào dĩ vãng. Bởi vì từ cái buổi sáng thức dậy bỗng dưng trở thành người Hà Nội hắn không còn ruộng mà cũng chẳng còn trâu, chỉ còn mảnh đất thổ cư trên đó có ngôi nhà của hắn. Trên mấy sào ruộng trước kia của hắn rồi sẽ mọc lên những ngôi biệt thự nguy nga. Thế còn con trâu? Hắn bán con trâu cho thương lái và trâu bị đưa vào lò mổ để hóa kiếp. Khi người lái buôn cầm dây buộc mũi dắt đi, con trâu ngoái lại nhìn hắn : " Đồ vô ơn bạc nghĩa! Giá như ta sinh ra ở đất nước Myanmar, khi ra đường gặp ta thì con người trịnh trọng cúi chào. Nhưng mà thôi, kiếp sau ta sẽ không làm trâu nữa". Không làm trâu nữa thì làm gì? Diêm Vương xem xét nguyện vọng của nó rồi phán: " Không đầu thai làm trâu nữa cũng được nhưng vì kiếp trước nhà ngươi còn nợ chủ của ngươi ba vạn quan tiền chưa trả được nên kiếp tới đây lại phải đầu thai vào nhà ấy" Vậy là con trâu lại trở về với hắn dưới hình dạng một chiếc ô tô. Hắn trích trong số tiền đền bù ra bốn trăm triệu đồng để sắm một chiếc Fiat Freemont 7 chỗ ngồi màu xám đen. Đây là sản phẩm ra đời dưới sự hợp tác giữa tập đoàn Fiat và Công ty Mỹ Chrysler. Tuy đã qua ba đời chủ sử dụng nhưng trông hình dáng bên ngoài cũng như nội thất bên trong hãy còn bắt mắt lắm. Sao hắn lại chơi sang vậy? Không! Hắn không chơi sang đâu, hắn tính kế làm ăn sinh sống đấy. Bởi vì mất ruộng mất trâu rồi hắn biết làm gì bây giờ? Thôi thì mua một chiếc ô tô, đi học lái rồi dùng nó tính kế sinh nhai. Vậy thì phải nói hắn là người nhanh nhẹn và thức thời.
Bởi vì hắn là người nhanh nhẹn và thức thời nên sau khi cầm bằng lái chiếc ô tô đã mang lại cho hắn những đồng tiền thu nhập đầu tiên. Buôn có bạn, bán có phường, hắn nhanh chóng tạo được mối quan hệ với những tour du lịch và những đại lý cung cấp dịch vụ cho thuê xe nên công việc cũng có đều đều. Có lúc hai ba yêu cầu cùng đến một lúc và hắn phải chọn lựa để đi tuyến đường nào thông thoáng ít xảy ra ách tắc và được giá hời. Ngồi sau tay lái hắn không còn phải nghêu ngao: " Trâu ơi ta bảo trâu này..." nữa mà chỉ cần mở đầu đọc DVD để nghe Bảo Yến, Ánh Tuyết, Khánh Ly.
Nhưng than ôi! Người tính không bằng Trời tính. Ông Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã trình Thủ tướng Chính phủ đề xuất thu phí lưu hành phương tiện giao thông cá nhân, phí ô tô vào trung tâm thành phố giờ cao điểm và phí bảo trì đường bộ. Chiếc Fiat Freemont 7 chỗ ngồi của hắn có dung tích xy lanh 2.000cm³ phải chịu mức phí lưu hành ba mươi triệu đồng một năm. Đi vào trung tâm thành phố giờ cao điểm phải nộp phí năm mươi nghìn đồng một lượt. Mỗi tháng phải nộp phí bảo trì đường bộ hơn một triệu đồng. Vậy thì ngày này sang ngày khác lăn lộn trên các nẻo đường hắn còn lại trên tay được bao nhiêu để nuôi vợ nuôi con? Ông Bí thư Thành ủy Hà Nội phát biểu: " Có tiền mua ô tô thì phải có tiền đóng phí ". À! Thì ra là như vậy. Vô tình hắn bị xếp vào loại những kẻ có tiền trong thiên hạ. Hắn cười chua chát: " Ta mà cũng là đại gia cơ đấy!". Oan cho hắn quá! Sao người ta không nghĩ hộ cho hắn, nếu hắn không sắm ô tô để kiếm sống thì biết làm gì bây giờ? Không có lẽ cứ nằm dài ăn hết số tiền đền bù rồi vợ chồng con cái dắt díu nhau đi xin ăn.
Một lần nữa chúng ta phải nhắc lại câu " Người tính không bằng Trời tính". Xe đang bon bon trên đường số 5 chở một gia đình về quê ở Hải Dương đi Thanh Minh tảo mộ thì bất ngờ hắn nghe được từ radio của VOV lời ông Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải :" Thời điểm này Bộ Giao thông vận tải chưa tính tới việc thu hai loại phí lưu hành phương tiện giao thông cá nhân và phí ô tô vào trung tâm thành phố giờ cao điểm vì tình hình kinh tế khó khăn...". Hắn mừng lắm, tay lái run run. Ấy chết! Đừng có run tay khi lái xe đấy. Mà mừng như thế kể cũng là vội. Người ta nói chưa thu chứ phải không thu đâu!
STOP!
Vợ chồng hắn mới cưới nhau. Vợ chồng mới cưới sáng chủ nhật dậy muộn là chuyện thường. Nhất là hắn. Nàng dậy trước mà hắn còn nằm cố. Lim dim nằm cố để cái dư vị nồng nàn, êm ái như hãy còn mơn man đâu đó trên má, trên môi. Rồi hắn kéo chăn khỏi đầu vén màn nhẹ nhàng bước xuống đẩy cửa buồng ngủ nhìn ra phòng khách. Căn hộ hắn ở khoảng bốn mươi lăm mét vuông nằm trên tầng ba một khu tập thể xây từ thế kỷ trước. Trong khoảng không gian chật hẹp đó người ta cũng bố trí đủ một khu vệ sinh, một buồng ngủ hơn mười mét vuông, phần còn lại dùng làm phòng khách và một chỗ nấu bếp nho nhỏ. Chính giữa phòng khách ở độ cao quá đầu người một tí là bàn thờ bằng gỗ đóng gá vào tường. Hắn nhìn thấy nàng đang đứng trước bàn thờ. Vì là vợ chồng son, tứ thân phụ mẫu còn tại thế cả nên hắn chưa thờ gia tiên, trên bàn thờ chỉ có một bát hương để dưới bức tranh có ba vị Phật, bên cạnh bát hương là một tượng nhỏ hình Quan Thế Âm Bồ Tát ở tư thế đứng trên tay cầm đóa sen hồng. Tay chắp trước ngực, miệng nàng lầm rầm gì đó hắn nghe câu được câu chăng. Nam mô a rị da bà la yết đế. Quy y Phật đương nguyện chúng sinh đại đạo phát vô thượng tâm. Quy y Pháp đương nguyện chúng sinh kinh pháp trí tuệ như hải. Quy y Tăng thống lý đại chúng nhất thiết vô ngại. Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát. Những câu văn lủng củng khó thuộc như thế mà nàng đọc có vẻ trôi chảy. Thế cũng là giỏi.
Một tia nắng hồng xuyên qua kính cửa sổ đậu lại trên môi nàng. Đôi môi mọng, hồng tươi, hơi ướt. Bài khấn đã xong, đôi môi đã thôi mấp máy. Tự dưng hắn muốn đặt lên đôi môi ấy một chiếc hôn nồng nàn. Thấy trời đã sáng bạch hắn có đôi chút ngần ngại. Nhưng rồi tặc lưỡi. Chậc! Chỉ có nàng với hắn thôi, cửa trước chưa mở, thế thì đã làm sao? Không sao cả. Nghĩ là làm, hắn bước tới mấy bước rồi bất ngờ ôm nàng.
- Stop! Từ từ, chờ em một tí.
Nàng đẩy hắn ra rồi bước đến trước bàn thờ, nhón gót kiểng chân với tay lên bàn thờ xoay ngược tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát để mặt Ngài quay vào trong, chắp tay vái mấy cái. Rồi nàng quay lại ôm lấy hắn, đầu ngả ra phía sau, đôi môi mọng hồng tươi hé mở chờ đợi:
- Xong rồi, được rồi.
- Xong gì, được gì?
- Anh không thấy à? Xong cái việc xoay…
Nàng chưa kịp nói tiếp thì hắn đã chợt hiểu ra, siết chặt lấy nàng và đặt lên môi nàng một nụ hôn dài đến nghẹt thở.
Giông tố
Nhân vật chính trong câu chuyện này là nàng và hai cha con. Người cha đã bước qua ngưỡng tuổi xưa nay hiếm nhưng trông vẫn còn rất hào hoa phong nhã, tóc đen, da mặt chưa có nếp nhăn, tai to, mắt sáng, nụ cười tươi của một người lạc quan yêu đời. Không lạc quan yêu đời sao được khi hoạn lộ của ông là một con đường rộng thênh thang thẳng tắp đã đưa ông lên đến những ngôi vị cao sang với tiền tài và danh vọng. Nói phải tội, sau khi tiễn đưa người bạn đời quê mùa cục mịch về chốn vĩnh hằng gần được một năm nay, nụ cười yêu đời chưa bao giờ tắt trên môi ông. Người con là con trai cả, còn thiếu vài tuổi nữa thì đến ngũ thập nhi tri thiên mệnh, dáng người cũng dong dỏng mình dây như cha, khuôn mặt thừa hưởng những nét của người cha trừ cái cằm hơi lẹm và nhọn nên nhìn không được đầy đặn và sung mãn. Thế còn nàng? Nàng kém người con ba tuổi, sự bừng tỉnh của những xúc cảm tuổi hồi xuân, cái thời kỳ dậy thì lần thứ hai trong đời người phụ nữ khiến nàng nhiều phen nôn nao xao xuyến một cách vô cớ. Da trắng như tuyết, mắt sắc như dao, cổ cao ba ngấn, lông mày đen nhánh, gò má hơi cao, tóc quá ngang vai, môi hồng mọng ướt. Tất cả những cái đó chỉ có tác dụng tạo nên sự hấp dẫn ban đầu nhưng chưa phải là sức mạnh của nàng. Sức mạnh của nàng là khả năng diễn xuất tuyệt vời của một diễn viên siêu hạng. Ban đầu nàng xuất hiện trong ngôi biệt thự hai tầng có khoảng sân rộng trông ra một đường phố chính xây từ thời Pháp thuộc với vai bạn gái thân thiết của người con đồng thời là đối tác trong kinh doanh bất động sản. Nàng ngoan ngoãn và dễ thương lắm nên được người cha nhận làm con nuôi. Rồi sau những lần gặp gỡ riêng tư giữa người cha và con gái nuôi, nàng chuyển vai thành người yêu của người cha và sau đám cưới mới tổ chức gần đây nàng nghiễm nhiên trở thành kế mẫu. Bạn gái, con nuôi, người yêu rồi mẹ kế, ngần ấy vai vai nào nàng cũng diễn thật khéo, không chút va vấp, không chút ngượng ngùng.
Người chịu thiệt thòi trong vở diễn là người con. Có phải vì mất người bạn gái thân thiết mà anh ta hận chăng? Không phải! Tuy quan hệ giữa hai người trên mức tình cảm nhưng nàng chỉ là phở và anh ta đã có cơm ăn rồi. Mà là cơm ngon và ăn no, gia đình họ có tiếng líu lo của con trẻ, chỉ khi nào chán cơm mới đi ăn phở đổi gió. Câu chuyện nàng lèo lái để nhẩy phắt một phát từ bạn gái lên mẹ kế tuy có làm người con khó chịu chứ chưa đến mức bức xúc. Vậy thì người con bức xúc nỗi gì? Sự đời đen bạc vì tình và tiền, không bức xúc vì tình thì chỉ còn nỗi hận vì tiền. Hận vì số tiền lớn người con cho nàng vay có khả năng bay theo mây theo gió. Đã thế Công ty cổ phần kinh doanh bất động sản của nàng trên bờ vực phá sản, để cứu vãn tình hình nàng đã dỗ ngon dỗ ngọt người cha thế nào đó để ông đồng ý đưa sổ đỏ ngôi biệt thự ba tầng mới xây trên mảnh đất rộng hơn tám trăm mét vuông nhìn ra mép nước Hồ Tây mang ra ngân hàng thế chấp để vay tiền. Đến khi người con biết thì đã quá muộn không còn cách nào cứu vãn được nữa. Chuyện này như mồi lửa đốt cháy gan ruột người con.
Chiếc Toyota Fortuner 2.7V từ từ đỗ lại trong khoảng sân của ngôi biệt thự hai tầng nhìn ra một đường phố chính của Hà Nội. Chiều hôm nay thời tiết Hà Nội xấu. Sự xung đột giữa vùng áp thấp nóng đến từ phía tây với khối không khí lạnh từ phía bắc tràn xuống gây ra những hiện tượng thời tiết bất thường. Mây đen thấp và vần vũ, gió ào ào chạy trên những tán cây, cuốn theo những chiếc lá bay lả tả rồi rơi xuống mặt đường, quấn theo những vòng bánh xe lăn còn trên mặt đường thỉnh thoảng lại bốc lên những vòng xoáy bụi. Cơn giông ập đến với những hạt mưa to và nặng rơi nghiêng. Người con đẩy cửa bước vào nhà mang theo một luồng gió mạnh thổi thốc vào những tấm màn che sặc sỡ treo ở các cửa sổ. Đề tài chính của câu chuyện được đề cập đến ngay không cần úp mở, câu chữ va đập chan chát:
- Không có sự đồng tình đồng mưu của ông thì đố đứa nào dám mang sổ đỏ ra ngân hàng thế chấp. Giá đất bây giờ ở đó là bao nhiêu ông có biết không? Gần bốn trăm triệu đồng một mét vuông, vị chi giá trị cơ ngơi ở đấy nếu thế chấp ngân hàng có thể vay được ngót ba trăm tỷ đồng. Ba trăm tỷ đồng, ông có nghe rõ không? Lý luận kinh điển bề bề/Thần l…ám ảnh thì mê mẩn hồn. Thời ông còn đương chức đương quyền, về các địa phương đăng đàn diễn thuyết đi đến đâu ông cũng dặn người ta nuôi con gì, trồng cây gì. Bây giờ thì rõ rồi nhé, ông trồng cây si, nuôi con ca ve.
Người cha cắt lời:
- Thằng mất dạy, mày dám bảo kế mẫu của mày là ca ve…
- Còn hơn là ca ve. Ông tưởng là thanh tao cao quý lắm sao? Tuy kém tôi ba tuổi nhưng nàng đã ba đời chồng, đời đầu tiên chê là lạnh như kem, đời thứ hai dang dở không rõ tại ả hay tại anh, đời thứ ba chê là đần. Sau đời thứ ba mới là bạn của tôi, mà ông đừng có tưởng rằng là bạn thanh mai trúc mã nhé. Vợ con đề huề rồi, tôi thiết gì. Chẳng qua cũng chỉ là đổi gió lấp những khoảng trống và lợi dụng nhau vì tiền thôi. Và bây giờ thì tay ông lại vầy vò những chỗ mà tôi đã từng khám phá trên cơ thể của nàng, khứu giác của ông thụ hưởng những mùi hương của nàng mà tôi đã từng thụ hưởng. Ôi! Chó má thay là đời!
Người con nói những lời ấy với một giọng tự tin, bình thản, rõ ràng nhưng mỗi câu mỗi chữ lại như có sức công phá của những viên đạn nóng bỏng bắn thẳng vào tim. Người cha lảo đảo ôm ngực thả người xuống ghế, người rướn lên với cánh tay phải đưa thẳng ngón trỏ chỉ vào mặt đứa con hổn láo:
-Mày!...Mày dám nói với tao như thế a? Giống tôm lộn cứt lên đầu! Vô phúc! Mày là thằng bố láo! Từ nay tao từ mày, kể từ giờ phút này mày sẽ không còn là con của tao nữa.
Không ngờ câu chuyện lại có kết cục như thế, người con thất thần quay người bước ra cửa trước như một kẻ vô hồn. Cánh cửa sập mạnh phía sau lưng như một câu trả lời dứt khoát, người con bước đến bên chiếc Toyota Fortuner 2.7V hất hàm với người lái xe:
- Đi! ./.
Chiến tranh
Năm nay lão Sửu năm mươi sáu tuổi, vợ lão năm mươi tư. Vợ đứng bán bánh mì cạnh một cái tủ kính tựa trên bốn bánh xe, phía trên có một cột thịt tự động quay và nướng, suốt ngày nóng sốt, bên cạnh ngăn đựng bánh mì là rau quả như dưa chuột thái lát và rau thơm để cạnh một lọ tương ớt. Xe bánh mì của mụ đông khách vào buổi sáng tầm t ừ sáu giờ đến hơn tám giờ, còn trưa và chiều thì khách ăn lai rai. Lão Sửu làm bảo vệ cho cửa hàng bán điện thoại di động ở ngay gần đấy, kiêm luôn cả chức năng trông giữ xe, lão mặc đồng phục quần xanh tím áo xanh lơ trên cầu vai mang cấp hiệu hai vạch chẳng rõ là cấp bậc gì. Cái mũ kêpi màu tím than vành viền sợi chỉ vàng ngự trên đầu càng tôn thêm vẻ oai vệ cho lão.
Nếu vợ chồng lão Sửu đứng cạnh nhau ta thấy hai người có chiều cao bằng nhau nhưng về hình thể thì lão lẻo khẻo mình dây còn vợ lão thì to như con tịnh. “Con tịnh là con gì?”
Thì nó là con tịnh trong thơ Hồ Xuân Hương:
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Con tịnh hay con tượng trong bàn cờ tướng, tướng sĩ tượng, xe pháo mã, con tịnh là con voi, hiểu chưa? Mụ to béo phục phịch dễ có đến bằng con voi, da lại ngăm đen, mặt trông giống Trương Phi nhất là những lúc mụ thể hiện sự không hài lòng.
Sự mất cân đối về hình thể của vợ chồng lão Sửu khiến không ít người lo lắng. Lo như thế là thừa vì lão là người có võ nghệ cao cường. Có một fan hâm mộ ở sát vách nhà lão, đó là thằng Cò, năm nay mười bốn tuổi học lớp tám. Những lúc rỗi việc hai chú cháu thường đàm đạo với nhau về võ thuật, lão giảng giải để nó hiểu thế nào là xà quyền, nào là xà thần luyện nguyệt, kim xà lục khởi, xà đằng tẩu lộ, trong cương có nhu, cương nhu tương tế, trong tĩnh có động…Rồi lão làm các động tác minh họa, thân lắc lư, hình thể di chuyển không ngừng, chân bước vòng vèo, lấy mắt chuyển thần, uy phong ngời ngời, thần thái sung mãn. Thằng Cò há hốc mồm ngồi nghe, hai mắt mở to không chớp lấy làm khâm phục lắm. Nó tôn lão làm sư phụ.
Người ta chỉ thấy nụ cười thường trực trên môi vợ lão Sửu khi mụ đứng cạnh tủ bán bánh mì. Những lúc ấy Trương Phi đi vắng nên những lời mụ nói ra ngọt ngào êm ái dễ nghe, da mặt giãn ra, ánh mắt dịu dàng đưa đẩy khiến cho những người khó tính cũng thấy rằng ăn một ổ bánh mì nóng kẹp thịt nướng và rau tươi của mụ vào buổi sáng là một điều hợp lý. Thế còn khi chiều muộn về nhà? Khổ thay cho lão Sửu, lão tuổi Ất Mùi, mệnh Sa trung kim nghĩa là vàng trong cát, mụ vợ tuổi Đinh Dậu, mệnh Sơn hạ hỏa nghĩa là lửa tiều phu, mà kim khắc hỏa nên vợ chồng lão hay xung khắc lắm. Xung khắc về chuyện gì? Về tài chính chăng? Không phải! Cả hai đều có công ăn việc làm, chẳng ai phải sống nhờ vào ai. Hay là chuyện tình cảm, lão có chuyện lăng nhăng ở đâu đó chẳng may mụ biết được? Cũng không phải! Lão là người nghiêm chỉnh, từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ chỉ biết có mỗi một người đàn bà là mụ. Xung khắc là xung khắc, thế thôi, nhiều khi chỉ vì những chuyện chẳng đâu vào đâu. Mụ là người ưa sự gọn gàng sạch sẽ, nhà mụ mới lau, thế mà lão hút điếu thuốc lào chẳng may làm rơi một ít tàn thuốc ra nền nhà, đã thế lại còn làm rơi vài giọt nước màu nâu trong điếu ra nữa. Thế thì ai mà chịu được. Ăn mắng. Đôi dép nhựa để lại ở bậu cửa để bước chân trần vào nhà cũng không xếp cho ngay ngắn, chiếc quay đằng này, chiếc lệch đằng kia. Người đâu mà vô tâm. Chỉ được cái lau chau, lau chau. Ăn mắng. Ta có thể liệt kê vô số những lý do chẳng đâu vào với đâu để lão phải ăn mắng. Ăn mắng? Chỉ có hai từ đơn giản thế thôi nhưng mỗi một lần phải ăn mắng kéo dài đến hàng chục phút bởi vì mụ có khiếu làm văn bẩm sinh nên mỗi một lần lão phải ăn mắng đều có đủ mở bài, thân bài và kết luận. Các nhà lý luận nói rằng chiến tranh là hình thức tiếp nối của đấu tranh chính trị. Vì vậy vợ chồng lão Sửu sau những cuộc cải lý với nhau căng thẳng, khi mà lão đã hết kiên nhẫn để nghe mụ thuyết giảng thì hay xảy ra chiến tranh. Những cuộc chiến xảy ra nhanh chóng, lão lẻo khẻo nhẹ như bấc mà mụ thì to như con tịnh nên dù lão có tinh thông xà quyền thì vẫn nhanh chóng bị mụ vợ đè bên dưới. Đau lắm, nhưng miệng lão vẫn thét to: ” Này thì cho mày chết này!”.
Chiều hôm nay thằng Cò vừa ở trường về thì nghe ở vách bên kia tiếng la hét và vật nhau huỳnh huỵch. Nó nghĩ: “ Lại xảy ra chiến tranh rồi!”. Nó mường tượng trong đầu cái cảnh sư phụ nó đi bài xà quyền một cách ngoạn mục và đến khi lão Sửu thét to: “Này thì cho mày chết này!”. Nó bất giác buột miệng: “ Thôi! Chuyến này mụ vợ cứ gọi là tan xương!”. ./.
Dỗi
Sang đến năm nay lão Sinh đã già và yếu lắm. Sinh lão bệnh tử, cái qui luật ấy của tạo hóa đã mấy ai cưỡng lại được huống hồ năm nay lão đã bước sang tuổi tám mươi mốt. Cái miệng rộng với môi trên hình chữ nhân tươi tắn ngày nào bây giờ ở khóe môi đã rạn vết chân chim, lão không để râu nhưng ở khoảng giữa mũi và môi trên là một hàng ria trắng như cước. Cặp lông mày đen và rậm ngự phía trên đôi mắt nhỏ nhưng sắc ngày nào bây giờ cũng đã ngả sang màu muối tiêu. Đôi gò má cao làm cho ta có cảm giác cái mũi to và bạnh ra hình như bị thấp xuống đôi chút và càng ngày gò má càng cao lên và mũi càng thấp xuống. Trán cao và hói, vùng da trán không có tóc ngày càng ăn ngược lên đỉnh đầu như thể nước sông xâm thực một bờ đất yếu ớt.
Ngôi biệt thự ba tầng màu tro có mặt tiền trông ra Hồ Tây suốt ngày lộng gió. Ngoài lão Sinh ra trong ngôi nhà này còn có cậu ấm năm nay đã mười chín tuổi, u già, đầu bếp, lái xe và nàng. Nàng là ai? Là vợ lão. Là vợ lão sao không gọi là bà cho nó trịnh trọng? Là vì nàng hãy còn trẻ lắm, năm nay nàng mới có bốn mươi sáu tuổi. Bốn mươi sáu tuổi, đang là cái tuổi hồi xuân nên bốn mươi sáu rồi mà trông nàng vẫn còn phây phây. Còn phây phây quá đi nữa ! Vậy chớ đầu đuôi ra làm sao mà chồng hơn vợ những ba mươi lăm tuổi, cứ như là bố với con? Thì có một thời họ đã là bố con, lão nhận nàng làm con nuôi. Quê nàng ở Tuyên Quang, năm ấy nàng mười chín tuổi học năm thứ nhất đại học. Ngoài giờ học nàng đi làm thêm ở cửa hàng bán dụng cụ mát xa sản phẩm của Hàn Quốc. Ngay phút gặp gỡ đầu tiên với nàng ở cửa hàng, nhất dáng nhì da, cái dáng dong dỏng cao với chiều cao gần mét sáu, một vòng eo thon thả, làn da trắng mịn, nụ cười khoe hàng răng trắng đều như hạt lựu làm nổi rõ hai lúm đồng tiền trên khuôn mặt trái xoan, mũi dọc dừa, cằm thon, lông mày lá liễu, mái tóc đen huyền xỏa xuống ngang vai, giọng nói thanh thanh nhè nhẹ, tất cả những điều đó đã làm cho lão xúc động sâu sắc. Ngày ấy lão năm mươi tư tuổi, là người thành đạt trong thương trường nhưng đời tư thật bất hạnh, vợ lão sinh con muộn-có thể gọi là con cầu tự- năm ấy đứa con trai lên mười, vợ kém lão bốn tuổi đang mắc trọng bệnh. Khi lão ngỏ lời nhận nàng làm con nuôi, qua những giờ phút đắn đo bỡ ngỡ trước lời đề nghị nhưng cuối cùng nàng cũng bằng lòng rời nơi trọ chuyển về ở trong ngôi biệt thự ven hồ màu tro này- lão mua dành riêng cho nàng ngôi biệt thự thứ hai ngoài ngôi nhà lão đang ở - cùng với một bà giúp việc họ hàng xa của lão. Năm ấy người đàn bà này sắp năm mươi tuổi và chưa có chồng, nói chính xác hơn là không có chồng và cho đến bây giờ vẫn là một bà cô không chồng.
Nàng về làm con nuôi lão được gần sáu tháng thì vợ lão trở bệnh nặng. Buổi chiều hôm đó trời âm u báo hiệu một cơn mưa lớn. Lão uể oải mệt mỏi cùng với nàng từ phòng cấp cứu của bệnh viện trở về. Bước xuống xe, gật đầu trả lời u già, lão cho lái xe đánh xe trở về ngôi biệt thự thứ nhất. Ngồi yên vị ở phòng khách một lúc thì trời đổ cơn mưa. Lão kêu mệt và được nàng dìu về phòng riêng đỡ lão nằm xuống. Đúng lúc đó thì ngoài trời tiếng sấm rền vang kéo dài, gió lồng lộn rít qua những cành cây nghiêng ngả và cơn mưa sầm sập đổ xuống. Lão kéo nàng ngã xuống giường và cho đến khi mảnh nội y cuối cùng rời khỏi tấm thân trinh trắng nõn nà thì nàng kêu lên trong thảng thốt nghẹn ngào: “ Bố ơi!”.
Sau cơn mưa gió hãi hùng vào buổi chiều hôm ấy một tuần vợ lão mất. Và hơn một năm sau lúc nàng bước vào tuổi hăm mốt và bắt đầu năm học thứ ba thì nàng và lão chính thức trở thành vợ chồng. Năm ấy lão bước sang tuổi năm mươi sáu. Còn trẻ và sung sức lắm! Tóc vẫn đen nhánh, gân cốt vẫn săn chắc. Trong đám cưới hai người, người ta chúc bách niên giai lão, sống với nhau đến đầu bạc răng long. Đến bây giờ thì chỉ một mình lão-một mình lão thôi-đầu lão bạc, răng lão long. Còn nàng thì vẫn phơi phới tuổi hồi xuân, cứ đẹp như cô gái mới ngoài hai mươi tuổi. Cái mắt, cái miệng vẫn có duyên, nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ! Cứ như ngồi trước miếng bít tết thịt bò được chế biến rõ ngon rõ khéo rõ thơm nhưng răng cỏ thì đã lung lay xiêu vẹo hết cả rồi. Cái số lão muộn con nên đã hai mươi lăm năm trôi qua kể từ ngày làm đám cưới với nàng mà hôm nay con trai của nàng đẻ với lão mới mười chín tuổi. Còn đ ứ a con trai đẻ với người vợ trước năm nay ba mươi bảy tuổi đã yên bề gia thất và sinh cho lão hai đ ứ a cháu nội.
Hôm nay thứ bảy. Lái xe đưa nàng đi đâu đó có công chuyện. Công chuyện gì? Thì nàng bây giờ đã là nhân vật đứng thứ hai hay thứ ba trong doanh nghiệp của lão, thiếu gì công việc bức xúc phải giải quyết. Ngoài công việc ra nàng hay đến thăm mỹ viện, phòng tập aerobic hay đi shopping. Vì vậy nên hôm nay thứ bảy, cũng như mọi ngày, sau giờ nghỉ trưa hết xuống tầng một ngắm hòn non bộ với cây si cây trúc, ngắm cái lá trúc rụng xuống bể nước nho nhỏ đặt tảng đá trên đó có một ngôi chùa mái cong và chú tiểu vác củi qua cầu lão lại lên tầng hai mở tivi. Trên màn hình đang truyền trực tiếp kỳ họp quốc hội, các ông nghị bà nghị đang hùng hồn phát biểu những vấn đề quốc kế dân sinh. Chán tivi vì lão thấy đầu hơi nhức và lại muốn đi nằm. Nằm và bực mình. Bởi vì lúc này, chính vào lúc này lão cần biết bao nhiêu một bàn tay man mát xoa cái trán cái đầu. Cũng có lẽ lão muốn nàng đừng đi đâu lâu đến thế. Đi lâu thế, không biết rằng đi đâu? Bực mình và thiếp đi. Cho đến năm giờ chiều lão chợt bừng tỉnh quay mặt ra phía cửa. Nàng! Chính là nàng đang tươi cười đẩy cửa bước vào phòng. Lão chỉ thoáng nhìn nàng một lúc rồi không ngồi dậy mà trở người quay mặt vào tường. Nàng nhoẻn miệng cười: “ Ôi! Anh của em lại dỗi rồi!” ./.
Nể vợ mày
1-
Hắn đang ngồi tán gẫu với một người bạn ở phòng khách. Người này chơi thân với hắn sau cái đận hai anh em được nhà máy Thiết bị điện 100 vốn nước ngoài cử đi công tác ở Qatar, hắn với tư cách là kỹ sư ở Phòng Thiết kế, còn anh bạn là thợ bậc cao ở Phân xưởng sản xuất; chuyến đi có nhiệm vụ khắc phục một số lỗi của sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng. Anh bạn hơn hắn khoảng bảy tám tuổi, vẫn là lính phòng không, còn hắn chưa đến ba mươi mà con trai đã 5 tuổi, đang học lớp mẫu giáo lớn.
Thiên tình sử của nàng và hắn bắt đầu từ khoảnh khắc nàng nhoẻn miệng cười đưa tay đón cái quả đỏ đậy khăn vàng từ trên tay hắn trong một buổi sáng Hà Nội cuối thu, nắng thì vàng như mật, còn gió thì man mác nhè nhẹ khiến người ta bâng khuâng. Hắn đi bê quả đỏ giúp cho nhà trai, năm chàng trai trẻ trung quần âu đen, tóc chải mượt, giày đen bóng, áo sơ mi trắng, thắt cà vạt đỏ. Còn nàng thì giúp cho nhà gái đứng đón quả đỏ, năm cô gái chiều cao gần như nhau, áo dài hồng, má phơn phớt hồng, mắt nhè nhẹ xanh, môi mòng mọng đỏ. Chỗ chân cầu thang dẫn vào cửa căn hộ tầng một của cô dâu chỉ đủ chỗ cho năm cô đứng, nếu rộng hơn, có lẽ người ta đã xếp đến 7 cô. Một năm trôi qua sau cái buổi sáng cảm động ấy, hắn nhắc nàng: Em ơi! Hà Nội lại vào thu/với sớm ban mai lãng đãng sương mù/với gió heo may hãy còn bỡ ngỡ/tìm lối về qua nẻo các chung cư. Mùa thu là khúc dạo đầu của mùa cưới, sau lời nhắc nhở ấy là lễ cưới của nàng và hắn, chuyện đại sự trăm năm đối với hắn đầu xuôi, đuôi lọt, vậy mà sao đối với một số người lại khó khăn đến nhường ấy, thí dụ như ông bạn đang ngồi trước mặt hắn đây.
Không hài lòng lắm vì lời chê của bạn: “ Mày là thằng tảo hôn “, hắn thấy cần phải thuyết giảng đôi điều, ngụm bia làm cho hắn phấn chấn và tự tin hơn:
- Em bảo với bác thế này nhé ! Theo truyền thuyết, Thượng đế sinh ra đàn ông chúng ta, rồi lại lấy xương sườn của chúng ta để chế tạo ra đàn bà, ban cho họ nhan sắc để quyến rũ chúng ta; dù họ có nũng nịu như mèo con hay gầm gừ như sư tử thì nụ cười hay nước mắt của họ cũng làm cho cuộc sống chúng ta thêm phần thi vị; rồi họ sinh con đẻ cái để chúng ta nâng niu, bế bồng và quát mắng. Cái vòng lẩn quẩn ấy, không có người đàn ông nào trên thế gian này thoát được đâu, Thánh hay Phật cũng thế, Đức Phật Thích Ca trước khi xuất gia đã có vợ đấy thôi! Vậy thì một lúc nào đó, vui miệng và cởi mở, kể cho tôi nghe về người con gái đã đi qua đời bác thời trai trẻ. Và hãy đi tìm chiếc xương sườn của mình, tìm lấy cái vung thích hợp để úp lên cái nồi cô đơn, ngạn ngữ đã có câu muộn còn hơn không , lần gặp sau bác đừng có mà nhăn răng ra cười để nói với em : " vũ như cẩn- vẫn như cũ " ...
Có tiếng bước chân nàng đi từ tầng hai xuống ngang cầu thang kèm theo một tiếng đằng hắng, bài thuyết giảng của hắn đột ngột dừng lại, hắn vội vàng đẩy cốc bia về phía khách :
- Ấy chết, mời bác xơi đi kẻo nhạt!
Người không tinh ý lắm cũng có thể nhận thấy sự thay đổi thái độ của hắn nói lên điều gì rồi, huống hồ là một người tuy chưa có vợ nhưng khôn ngoan lõi đời như bạn hắn.
Rồi đến một buổi sáng trước giờ đi làm, ông bạn có tí việc cần trao đổi trước khi đến nhà máy và chứng kiến câu chuyện sau đây. Thằng cu Tí mè nheo: “Ăn cơm rang, ăn cơm rang cơ!”. Nàng đã nấu mì ăn liền cho cả nhà, để sẵn trên bàn ăn rồi, hắn chỉ việc ăn và dỗ thằng bé cùng ăn, xong rồi thì người nào việc nấy, hắn đưa thằng bé đến trường rồi còn đi làm, nàng đảo qua chợ một lúc rồi đến cơ quan. Thằng bé mè nheo đến lần thứ ba thì hắn xiêu lòng, lấy cái chảo inốc đặt lên bệ bếp, toan đi rang cơm. Đúng lúc ấy thì nàng từ trên tầng hai bước xuống với mênh lệnh kiên quyết ” ăn mì nhanh lên cho bố còn đi làm!” . Thằng bé vẫn thích ăn cơm rang, vồ ngay cái chảo cắp vào nách, cán chĩa lên trời như khẩu súng sẵn sàng nhả đạn. Hắn thấy cần thay đổi lập trường, chuyển từ phe ăn cơm rang sang phe ăn mì-thì những người không vững, trước một sức ép nào đó thường thay đổi lập trường nhanh trong nháy mắt; vả lại nhất vợ nhì giời , cãi nhau với giời còn không được phép, huống hồ cãi vợ-tiện tay, hắn vớ lấy cái chổi lau nhà làm vũ khí răn đe để đứng về phe ăn mì, cán dứ dứ lên trời:
- Ăn mì!
Người khách tủm tỉm cười, trông hai bố con lúc ấy chẳng khác gì Tôn Ngộ Không đại chiến Hồng Hài Nhi, trong bụng nghĩ thầm : “Hết cãi nhé! Đây là chứng cớ thứ hai để anh liệt chú mày vào hàng ngũ những anh hùng râu quặp !”.
Xong cái đoạn ăn mì, hai anh em đến nhà máy, hắn vào Phòng Thiết kế lấy thêm một bản thiết kế máy biến áp 2500 KVA-35/22 KV đến xin chữ ký trưởng phòng để chuyển xuống phân xưởng sản xuất. Người trưởng phòng nheo mắt liếc qua, đã toan đặt bút ký vào chỗ quy định, thì bỗng phát hiện ra một sai sót nhỏ, rất nhỏ, nên hắn phải mở file, sửa lại một tí, in bản mới rồi đem trình lại. Sau khi đặt bút ký, trưởng phòng nói với hắn:
- Never mind!
Mấy anh bạn cùng phòng mỉm cười ý nhị, ông ấy nói never mind mà nghe cứ như là nể vợ mày , mà cái tiếng Anh phải gió lại hay nói ngược, con chó của tôi lại thành của tôi con chó , vậy thì nể vợ mày chắc chắn phải được hiểu là mày nể vợ rồi. Thế là từ hôm đó trở đi hắn trở thành ông never mind , phát âm tiếng Việt là Ne Vơ May hay Nể vợ Mày thì cũng thế.
2-
Ông Never mind! Không hề gì, dẫu sao, đó cũng chỉ là bí danh. Mà cái sự bí danh thì nó vô cùng! Con trai hắn có một cái tên khai sinh rất đẹp, nhưng vợ chồng hắn vẫn quen gọi là cu Tí. Thằng bé hàng xóm sinh năm Đinh Sửu (1997), tuổi trâu, mà trâu mới sinh thì gọi là Nghé, nó mang cái bí danh ấy đến tận bây giờ và có lẽ còn dài dài về sau. Vì vậy, mỗi khi ở nhà máy, mọi người có nói: Ông Ne Vơ May đến rồi kìa! Thì hắn cũng chỉ cười trừ. Từ khi mang cái bí danh ấy, hắn quan sát vợ kỹ hơn và phát hiện rằng trán nàng dô, của này thì bướng phải biết, cái điều đơn giản ấy bị những tình cảm nồng cháy ban đầu che lấp nên hắn chưa kịp để ý đến. Vả lại, những trường hợp bất đồng quan điểm mà hắn phải chiều theo ý nàng-như trường hợp ăn cơm rang hay ăn mì đã kể ở trên-chỉ làm lợi cho một đời trai là hắn mà thôi! Chẳng hạn, hồi mới ra trường, do sự tiến cử của thầy hướng dẫn luận văn tốt nghiệp, hắn vào làm ở Nhà máy Thiết bị điện do bạn của thầy làm giám đốc. Hắn nhanh nhẹn, giỏi tiếng Anh, con đường thăng tiến đang mở ra trước mắt, thì chỉ sau một buổi nàng được mời cùng với hắn dự buổi tổng kết cuối năm, khẩu hiệu rình rang, trịnh trọng giới thiệu, báo cáo báo cầy, diễn văn chúc tụng rồi diễn văn đáp lễ, văn nghệ văn gừng, rồi nâng lên đặt xuống vại bia ở nhà ăn tập thể...không hiểu nàng cảm nhận cái gì trong từng ấy thứ mà quyết định tìm manh mối bạn bè giúp đỡ để hắn xin phỏng vấn thi tuyển vào Nhà máy thiết bị điện 100 vốn nước ngoài. Rồi trúng tuyển, mức lương hấp dẫn, xuất ngoại liên miên. Mấy thằng Tây làm việc với hắn bảo rằng chơi với khách hàng Việt Nam chúng mày xương và nhiêu khê lắm, nên chúng tao hầu như chỉ nhận đơn hàng ngoại, do đó những cuộc xuất ngoại gặp gỡ khách hàng, trao đổi kỹ thuật diễn ra liên miên, hết Malaysia, Indonesia rồi đến Ba Lan, Thổ Nhỉ Kỳ...khiến cho tầm mắt hắn mở rộng, tiếng Anh trở nên lưu loát trôi chảy hơn.
Đấy! Ai bảo nể vợ là khổ? Không! Nể vợ sướng lắm chứ! Không nghe vợ cái đận ấy, làm sao đời trai của hắn có thể rẻ sang bước ngoặt này?
Sự nể vợ làm cho hắn cảm động và cũng là nguyên nhân làm cho thằng bé thứ hai ra đời, thằng cu Tủn xét theo bí danh, hắn quen dùng bí danh rồi. Sau thời gian nghỉ đẻ 4 tháng thì phải xét đến việc phải gửi thằng bé ở đâu để mẹ nó đi làm. Nàng quyết định rèn luyện thằng bé ngay từ lúc nó ba tháng, ban ngày không cho ti, bắt bú bình cho quen, thằng bé phản đối cứ rúc vào nách mẹ tìm ti làm hắn cũng hơi động lòng. Rồi hết thời gian nghỉ 4 tháng, nàng quyết định không thuê ôsin mà gửi nó cho cô giáo ở ngay cạnh nhà, trả lương triệu bạc một tháng; gọi là cô giáo cho sang, chứ cô mới hai mươi, có đứa con gái nhỏ, học may sắp thành tài, nhưng nếu đi làm thuê thì lương lậu chả được bao nhiêu nên khi nàng ngỏ ý thì vui vẻ nhận lời. Quyết định của nàng làm cho bà nội khi đến thăm phản đối kịch liệt, rồi lập trường của hắn cũng hơi dao động, nhưng rồi lại quyết định nể vợ lần này, một lần này nữa thôi đấy, rồi lần sau?....sau một cái tặc lưỡi, hắn nghĩ: Ừ! thì rồi cũng thế!
Khoảng cách
1-
Hắn chỉ mới hơn 45 tuổi, nhưng trông hom hem và cũ kỹ: mặt vuông chữ điền, da rám nắng, má hóp, mắt sâu, râu bảy ngày mới cạo, mỗi lần cười hở mười cái răng vàng xỉn, quần kaki bộ đội bạc thếch của ông cậu thải cho, áo sơ mi trắng nay đã chực ngã sang màu vàng, quàng qua vai là một chiếc đài bán dẫn để hắn nghe tin tức giải sầu. Hắn cùng với cả nhà gồm vợ, ba con, và ngôi nhà nhỏ trên mảnh vườn hơn một sào tạo thành một bộ sưu tập cân đối, hài hoà và hoàn chỉnh. Vợ hắn nhỏ người, ở cái chỗ người ta hay mặc áo khoét cổ thật rộng để hấp dẫn đàn ông là hai quả mướp lủng lẳng, tuy vậy mặt thị cũng có đôi nét dễ coi khiến cho hắn lần đầu tiếp xúc cũng có đôi chút cảm động. Vợ chồng hắn lấy nhau ở tận Tây Nguyên, chồng ở đội mộc, vợ ở đội sản xuất của một vùng kinh tế mới, sau khi đẻ đứa con gái đầu lòng thì dắt díu nhau về quê để nhận suất ruộng chia theo lời nhắn của người anh, vả lại, hình như đó là biện pháp sửa sai của gia đình sau khi đã làm tan vỡ mối tình đầu của hắn. Ngày đầu tiên về làng, mẹ hắn quệt ngang quết trầu ở mép, khoát tay một vòng để hướng sự chú ý của mấy bà hàng xóm đến thăm:
- Đấy ! Các bà xem, có đúng như một con nhái người ta móc ở lỗ lên không ? Đàn bà đâu lại có cái mặt lưỡi cày quí hoá thế...
Mẹ hắn nói thế thì cũng chẳng có gì sai, chiều cao của thị khiêm tốn, nặng xấp xỉ 40 cân, nên có so với nhái thì cũng chẳng có gì quá đáng. Chẳng có gì sai, nhưng mà tai hại, vì đêm ấy, con nhái có cái mặt lưỡi cày tủi thân, cứ rúc vào nách hắn mà khóc rấm rứt, còn hắn thì vắt tay lên trán thở dài sườn sượt để suy nghĩ miên man về hạnh phúc và khổ đau của kiếp người. Hậu quả của cái đêm nhiều nước mắt ấy là đứa con gái thứ hai ra đời. Còn thằng con trai út là do vợ chồng hắn đẻ cố để sửa chữa cái sai lầm đã trót cho ra đời hai thị mẹt. Bây giờ đứa đầu đã học Trung học phổ thông, còn hai đứa sau đang học tiểu học. Đã lo ăn, lại còn lo tiền học cho ba đứa con, vợ chồng hắn vã mồ hôi, sôi nước mắt. Nhà hắn cấy một khoảnh ruộng, trừ những tháng rét thì hắn rong ruổi trên đường đi bán kem, vợ hắn chăm nom mảnh vườn nhà, nuôi dăm ba con gà, thả một con lợn trong chuồng và đi xin nước gạo hàng xóm cho nó ăn, con gái lớn thì ngoài giờ đi học đã có thể mò cua bắt ốc. Kinh tế nhà hắn tăng trưởng với tốc độ chậm như rùa, một năm cũng có thể được trên dưới 0,5 gì đó, nếu như gà không toi và lợn không ốm.
Phải công nhận cái xe đạp Trung Quốc của hắn thật là bền, người ta không còn tưởng tượng được trước kia nó được sơn màu gì, tất cả nan hoa một màu đen xỉn trừ một vài chiếc mới thay sáng loáng, lạc lõng; lốp sau mới thay, còn lốp trước thì đã mòn vẹt, nhưng hắn còn để chạy cố thêm một thời gian nữa. Phía trước đeo cái còi bấm toe toe, phía sau đèo thùng xốp đựng kem, cái xe đạp như một con ngựa già trung thành với chủ, cùng với hắn rong ruổi trên khắp nẻo đường quê. Tài sản có giá trị trong nhà hắn còn có chiếc ti vi Samsung đen trắng cóc gặm của người anh thải ra khi lên đời tivi màu. Hãng Samsung này thương người nghèo, vì từ khi về với nhà hắn, cái ti vi chưa bao giờ trục trặc, trừ đôi lúc mất tiếng, thằng con trai út của hắn vỗ về nhè nhẹ vào vỏ máy như thể ta dỗ em thì tiếng có trở lại.
Nhiều hôm vắt tay lên trán suy tư, hắn chỉ biết tự trách mình. Thời buổi công nghệ này, ai có chữ người ấy sống tốt, chẳng hạn như đám em con cô con cậu của hắn trên Hà Nội, thế mà hắn lại rẽ ngang từ hồi lớp 9, đi học nghề mộc, rồi làm trong xưởng mộc của nhà nước được hơn mười năm; số năm công tác và tuổi đời đều ít , nhưng nhờ vai vế và sự chạy chọt của ông cậu ruột, nên bây giờ hàng tháng hắn được lĩnh lương hưu độ vài trăm (nghìn) bạc.
Chiều nay, hắn dắt xe cùng với thùng kem bước vào sân, trong thùng còn sót vài que, lòng hắn khấp khởi hình dung ra khuôn mặt tươi cười của lũ trẻ khi cầm que kem đưa lên miệng mút. Hắn nhác thấy vợ đang ngồi lúi húi làm gì đó ở sân giếng, một tia nắng chiều muộn màng nhảy nhót trên chiếc áo hoa màu tím cổ khoét rộng, trông lạ lắm, trông thấy hắn thì liếc xéo một cái rồi ngoác miệng ra cười. Ôi xinh! Nhìn thấy vợ mà hắn cứ tưởng như đang đứng trước một mợ nào đó trên tỉnh, nụ cười tươi hơn hớn đã che lấp đi những nét không cân đối của khuôn mặt lưỡi cày, của làn da mặt không mấy trắng trẻo, của hàm răng không mấy đều đặn và nhiều chiếc đã ngã sang màu vàng. Thị có định cười đâu, chính cái niềm vui đang âm ỉ trong lòng tràn lên khuôn mặt, tràn lên ánh mắt đấy chứ. Không vui sao được, thị sẽ trổ tài nấu nồi riêu thật khéo, sẽ nêm chút mắm tôm cho dậy mùi, sẽ đun nồi nước cua nhỏ lửa cho thịt cua kết thành tảng nổi lên trên, đem gạch cua vàng ngậy phi hành mỡ thật thơm rồi mới trút vào nồi nước riêu. Cứ nghĩ đến cái đoạn cả nhà quây quần bên mâm cơm, nồi riêu cua bốc khói thơm ngào ngạt, chỉ ngửi khói thôi cũng đã thấy vị ngọt đậm của thịt cua, thoang thoảng mùi chua của dấm bỗng, của quả dọc và cà chua, mùi hăng hắc của hành tươi thái nhỏ, mắt lũ trẻ sáng lên hau háu nhìn đám váng thịt cua đông đặc nhuộm màu vàng sậm của gạch cua nổi lềnh bềnh trên mặt nước nồi riêu, nước bọt của chúng tứa ra vận hành lên xuống ngang cổ, ruột thị nở ra từng khúc. Đứa con gái lớn được việc lắm, đôi ba ngày nó lại mò được một giỏ đầy cua, nhưng nào bố nó có để cho nhà ăn, toàn đem ra chợ bán để lấy tiền trang trải vào các khoản chi tiêu cứ như từ trên trời rơi xuống. Mâm cơm hằng ngày trông vào hũ tương, vại cà muối nhà làm lấy và rau cỏ bòn trong vườn. Lần này thì thị liều, nhân lúc hắn đi bán kem về muộn, lúc xế chiều lại có người trên Hà Nội về đưa thiếp mời dự đám cưới người em họ, nhân thể cho bọc quần áo cũ, trong đó có cái áo hoa màu tím mà thị đang mặc trên người và lấy làm ưng ý lắm, khi lòng thị đang vui thì chẳng cần nghĩ ngợi gì nhiều, thị quả quyết xách giỏ cua ra sân giếng.
Bước lại gần, hắn thấy vợ đang ngồi khều gạch cua, đám mai cua hết gạch được lưng rổ, gạch cua được lưng bát, còn thịt cua thị đã giã và lọc lấy nước đựng trong cái xoong đậy bằng rá vo gạo, phía trên quanh quẩn mấy con ruồi và một con nhặng xanh. Thôi chết rồi ! Số cua này hắn đã định bụng sáng mai mang ra chợ đầu làng, bỏ rẻ cũng được ngót hai chục ngàn, thế mà bây giờ ...Hắn tức lắm, nhưng vì cái áo hoa màu tím làm cho vợ hắn trông lạ hẳn đi, nụ cười toe toét của thị hình như đã có tác dụng hoá giải cơn giận của hắn, nên thay vì thụi cho thị một cái cho bõ tức, hắn chỉ nhỏ nhẹ:
- Tớ đã bảo đằng ấy rồi, nhà mình không được phép ăn cua !
2-
Ta hãy tạm quên bữa cơm tối với món riêu cua trứ danh của nhà hắn để đến với bữa cơm bụi giá cao, tức đám cưới của cô em gái họ được tổ chức ở Hà Nội. Vì cậu còn cách mẹ tận 3 người nữa, nên anh em nhà hắn đã vợ con đầy đủ từ lâu, bây giờ cô em gái họ 22 tuổi mới bước lên xe hoa. Cậu hắn có 2 con trai và cô con gái rượu là út. Ba đứa con và ba ngôi nhà, đều là nhà 4 đến 5 tầng ở mặt đường những con phố chính ở Hà Nội. Trước đây ông là giáo viên cấp 3, nhưng sau khi lấy bằng phó tiến sĩ-bây giờ gọi là tiến sĩ-thì chuyển công tác về một Vụ ở Bộ Giáo dục và Đào tạo, đi công tác nước ngoài như đi chợ, tháng nào cũng tiếp khách nước ngoài đôi ba lượt. Hắn ít khi có công việc phải lên Hà Nội nên chỉ biết những điều đó qua những món quà lạ lẫm cậu mang về quê biếu mẹ khi bà còn sống. Cậu tổ chức hẳn một chuyến xe ca về quê để đưa bà con họ hàng lên dự đám cưới. Hắn chọn bộ quần áo khả dĩ gọi là đẹp nhất quàng vội vào người vì đã có tiếng còi xe giục giã từ đầu ngõ vào làng vọng lại.
Bộ quần áo ấy không được mấy ông em họ duyệt. Họ giữ lại cái áo, quàng vào cổ chiếc cà vạt màu đỏ, bên ngoài khoác bộ com lê màu tím than, hơi chật một tí nhưng trông cũng ổn, giày vải ở chân cũng phải thay thành giày da. Thay xong đồ lề, hắn ngượng ngùng ngắm mình trong gương, tưởng như là ngắm một người khác. Trong lúc ngồi đợi ở xa lông phòng khách, đám cưới của hắn ở tận Tây Nguyên hiện về như một cuốn phim quay chậm. Dạo ấy hắn đang thất tình. Hồi làm ở xưởng mộc trên tỉnh, hắn dan díu với một cô nàng buôn hoa quả theo chuyến từ quê lên thị xã, khuôn mặt trái xoan đầy đặn, đôi mắt lá răm, đôi mày lá liễu, đôi môi cắn chỉ trao cho hắn những nụ hôn nồng cháy ở khuất cái lô cốt sót lại ven đường. Khốn nỗi, nàng đã qua một đời chồng, chưa có con, nên khi hắn thưa chuyện với mẹ thì nhận được cái trề môi rất dài, trai tân vớ phải nạ dòng/như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu , ai mà chấp nhận được. Cái trề môi được chuyển nguyên hình nguyên dạng sang khuôn mặt anh trai và chị dâu, làm tim hắn thắt lại. Rồi đến cuộc chia tay thấm đẫm nước mắt, người nàng run rẩy mềm oặt ra trong tay hắn, nước mắt lã chã của nàng mằn mặn trên môi hắn. Hắn nghe lời người bạn: có nghề mộc như mày, vất vào đâu mà chẳng sống được, hắn vào Tây Nguyên với vết thương sâu đậm trong tim. Gặp người vợ bây giờ- hồi ấy làm ở một đội sản xuất-nếu người tình của hắn kém Thuý Kiều một bậc thì thị cũng hơn Thị Nở đến hai ba bậc chứ không đến nỗi nào, hắn gật đầu cho xong chuyện và thế là đám cưới được tổ chức ở sân trường tiểu học. Hôm ấy sau rằm, ánh trăng cùng với 2 chiếc đèn măng sông soi sáng những dãy bàn ghế khuân từ trong lớp học ra, soi sáng khuôn mặt e thẹn của thị cùng với những khuôn mặt của khách khứa đỏ vì rượu ngang tự nấu và soi đường cho lũ trẻ con chạy rông đuổi nhau khắp sân.
Bước vào ngồi yên vị ở phòng cưới một khách sạn hạng sang được một lúc, thì theo sự điều khiển của MC, đôi uyên ương tay trong tay dẫn nhau đi qua một chiếc cầu vồng để lên bục sân khấu giữa tiếng vỗ tay nhộn nhịp cùng với tiếng nổ của dăm ống pháo giấy tung muôn ngàn mảnh trang kim rực rỡ lơ lửng trên không. Chiếc váy trắng muốt của cô dâu dài đến nỗi phải có hai đứa trẻ con một trai một gái khoảng mười tuổi đi theo phía sau để nâng lên. Giọng của MC cao vút:
Bước đi em giây phút thăng hoa
Giây phút tràn căng đầy nhựa sống
Bước đi em bồng bềnh trên sóng
Tình yêu tràn đến bến bờ xa...
Rồi sâm banh nổ, rượu tràn, bia tràn cùng những lời chúc tụng không dứt. Hắn ngồi lặng lẽ ăn vì không thiết nói chuyện với những người cùng bàn. Xong việc, hắn lấy đũa quệt ngang miệng rồi chùi tay vào mép khăn trải bàn, đứng lên, lòng nặng ưu tư, hắn bước ra ngồi chờ ở chiếc xe ca, đến quá trưa sẽ lại đưa hắn về quê với con đường quen thuộc mà hắn đi bán kem, với thằng cu cái đĩ và thị nữa, thị với chiếc áo hoa màu tím lạ lẫm khoét rộng cổ đã làm hắn dịu cơn tức trong một buổi chiều nắng muộn.
3-
Trên chiếc xe ca mới chỉ có lác đác đôi người. Hắn ngồi lơ đãng nhìn qua cửa kính khung cảnh nhộn nhịp xung quanh, những bộ quần áo sang trọng, những tà áo dài thướt tha, những khuôn mặt ửng đỏ, những cái bắt tay nồng nhiệt, những câu chào hỏi cả tiếng ta lẫn tiếng Tây, và xa xa dọc theo con phố là những khối nhà cao tầng lừng lững.Thoáng thấy người em họ, chợt nhớ đến bộ quần áo sang trọng đang quàng trên người, hắn mở cửa xe bước xuống, toan nói đôi câu để tìm cách trả lại thì nhận được cái xua tay: " Sao anh lại làm thế! Cũng chẳng còn mấy tháng nữa đến Tết, anh cứ giữ lấy mà dùng. " Hắn ngượng ngùng bước trở lại lên xe, thoáng thấy khuôn mặt đỏ dừ của mình trong kính nhìn sau.
Xe dừng lại ở ngã ba đầu làng. Người đàn ông hình như không phải là hắn súng sính trong bộ áo quần sang trọng, đôi giày da đen bóng dưới chân, bước xuống như một người thành đạt trở về thăm quê hương. Nắng chiều rải một màu vàng nhẹ trên cánh đồng, cơn gió nhẹ mang mùi nước đái trâu quen thuộc thoang thoảng, phía xa xa, một chiếc công nông đang ì ạch di chuyển trên đường, khói đen xả mù mịt. Chẳng mấy chốc, hắn đã sải bước về đến ngõ nhà. Con mực hỗn quá, vừa mới nhìn thấy hắn đã nhảy lên chồm chồm, sủa dữ dội. " A! con này láo, mọi ngày tao đi bán kem về mày vẫn vẩy đuôi mừng rối rít cơ mà, sao hôm nay lại giở chứng thế này!". Thằng con trai út tay cầm chiếc đũa cả từ trong bếp chạy ra:
- Mực! Không được hỗn! Thầy đấy mà! U ơi! Thầy về! Thầy về rồi u ạ!
Không! Con mực không hỗn! Chỉ tại bộ quần áo sang trọng, đôi giày da đen bóng dưới chân đã vô tình làm cho hắn vượt qua khoảng cách-cái khoảng cách một trời một vực giữa hắn và những người em con ông cậu- để trở thành một người đàn ông xa lạ./.
Hà Nội ngày trở gió
Sờn vai áo nâu, nón rách đội đầu, dép lê mòn quẹt, mồ hôi đôi giọt, đôi quang gánh trên vai, tôi đi khắp ngõ ngách của phố phường Hà Nội, miệng rao lời buồn: “Chai lọ đồng nát bán đi”. Tôi làm nghề đồng nát đã hơn hai năm. Khi con trai út của tôi thi đỗ vào trường Đại học Bách Khoa Hà Nội tôi bàn với chồng tôi để ông ấy ở lại quê trông nom mấy sào ruộng, còn tôi theo chị em lên Hà Nội làm nghề đồng nát, tháng hơn bù tháng kém mỗi tháng cũng được ngót ba triệu, có thế mới hi vọng kiếm được đủ tiền chu cấp cho con ăn học. Con trai tôi là niềm tự hào của cả nhà, cả họ, cùng với tiến bộ của nó trong sự học hành hi vọng trong lòng tôi cứ lớn dần, đời nó sẽ thoát được cái cảnh chân lấm tay bùn, một nắng hai sương, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, suốt đời lẽo đẽo theo sau đít trâu cày và tầm mắt chỉ thấy những gì quanh luỹ tre làng.
Trên những nẻo đường đi đồng nát, tôi quen biết một số gia đình ở Hà Nội, những nhà hay có sách báo cũ, chai lọ, hộp xốp bán cho tôi, trong số đó có nhà ông giáo. Tôi nghe hàng xóm gọi ông là ông Cần, và bà là bà Hương, nhưng xưng hô với ông bà, tôi vẫn cứ một điều ông giáo, hai điều bà giáo vì biết ông là giáo viên nghỉ hưu, tuy bà trước kia làm trong ngành thương nghiệp nhưng tôi cứ tiện thể gọi luôn là bà giáo. Đó là một đôi vợ chồng ngấp nghé tuổi 70, ở trong ngôi biệt thự ba tầng trong khuôn viên hơn 100 mét vuông, có cánh cổng sắt sơn xanh. Bấm chuông gọi cửa, ta đi qua một khoảng sân nhỏ rồi đến lối đi dẫn đến phòng khách ở tầng một, hai bên có những chậu cây cảnh. Ông bà giáo hay để dành giấy cũ bán cho tôi, tháng nào tôi cũng nhớ ghé qua để mua báo cũ hoặc những cuốn sách ông không còn thích đọc nữa vì bị ông chê là gượng gạo, giả tạo, một chiều, không phản ánh đúng thân phận của đại đa số người dân đang sống trong xã hội, vì thế chúng vừa nông cạn lại vừa nhạt nhẽo. Vì là khách quen nên ông giáo biết tên tôi là Duyên và thỉnh thoảng bà giáo hay kể cho tôi nghe về gia cảnh. Nhờ đó mà tôi biết vợ chồng anh cả và hai đứa cháu nội đang sinh sống ở tp Hồ Chí Minh, anh là giám đốc Công ty kinh doanh hàng điện gia dụng, đôi ba tháng khi có công việc ở Hà Nội mới ghé qua nhà thăm ông bà. Một hôm vào chiều thứ bảy tôi đang cân giấy vụn thì con gái, con rể đánh xe ô tô riêng vào sân, hai đứa cháu ngoại tíu tít sà vào lòng ông bà; vợ chồng người con gái có căn hộ ở tầng 7 Khu đô thị Mỹ Đình. Vậy còn ngày thường? Ngày thường chỉ có hai ông bà ở với nhau trong ngôi biệt thự sang trọng đó. Phương tiện giải trí không thiếu, ở góc phòng khách có bàn chơi bóng bàn, một hôm tôi đang ngồi ở sân thì nghe tiếng dương cầm thánh thót của ông từ tầng hai vọng xuống. Ông bà thuê người giúp việc theo giờ vào buổi tối để dọn dẹp, giặt giũ, kể ra cũng không tiện lắm nên bà cứ ngỏ ý với tôi hay là chị Duyên đừng đi đồng nát nữa, đến đây giúp việc vợ chồng tôi cho vui cửa vui nhà. Với mức lương triệu tư một tháng tôi tính không đủ chu cấp cho con tôi ăn học nên tôi khéo léo viện lý do từ chối.
- Ở quê chị Duyên có hay làm bánh khúc không?
Tôi nghĩ trong bụng đến bữa cơm mong có con tép rang, bát canh cua đồng đã là sang lắm rồi, bánh khúc đối với tôi xa vời lắm. Nhưng cũng nhờ cuộc nói chuyện đó mà tôi biết bà giáo rất thích ăn bánh khúc, không những thế bà còn miêu tả tỉ mỉ các công đoạn làm bánh khúc:
- Hàng năm cứ từ đầu tháng Giêng đến hết tháng Hai ta, trên những ruộng mạ chiêm sau khi đã nhổ hết mạ chưa kịp cày bừa hay trên triền đê cây rau khúc mọc dày chi chít, đó là nguyên liệu chính để làm bánh khúc, đ ến mùa đó ăn bánh khúc là ngon nhất. Bây giờ mới đầu tháng Mười, dĩ nhiên là rau khúc chưa mọc, nhưng người ta vẫn làm bánh khúc từ lá xu hào, lá bầu hay lá cây cà ghém. Trước tiên rửa sạch rau, thái nhỏ, bỏ vào cối giã cho nát, rồi trộn rau ấy với một ít bột gạo tẻ và rắc vào một ít muối. Sau khi đã trộn đều, thấu kỹ rau với bột thì lấy nó làm cái vỏ bọc cho cái nhân (gồm có thịt ba rọi, hạt tiêu và đậu xanh đã nấu chín) ở bên trong. Rồi nặn cái bánh khúc nào cũng nhỏ và tròn như những cái bánh rán, chỉ khác bánh rán là nó có màu xanh đen của rau khúc giã nhỏ. Nặn xong, xếp từng lượt bánh vào cái chõ, cứ sau mỗi lượt bánh lại rắc một lượt mỏng gạo nếp đã ngâm mềm lên trên, rồi lại xếp bánh, lại rắc gạo. Xếp hết bánh vào chõ, đặt đít chõ lên cái miệng nồi đáy xâm xấp nước, bắc lên bếp đun, Khi ngửi thấy mùi thơm của bánh từ chõ bốc ra thì bánh đã chín…
Tôi nghe bà giáo tả mà đã thấy ngon mặc dù tôi chưa bao giờ ăn bánh khúc, và định bụng hôm nào dư dả tiền cũng phải ăn một bữa cho biết.
Hôm nay Hà Nội trời trở gió. Cái rét đầu đông ào về theo cơn gió đông bắc đầu mùa, mấy anh cửu vạn đứng co ro chờ việc bên những gốc xà cừ ở ngã tư Giảng Võ, gió lạnh hiu hiu thổi bay chiếc khăn quàng trên cổ những cô gái đang vội vã trên đường phố. Gió ào ào chạy trên những tán cây, cuốn theo những chiếc lá vàng bay lả tả rồi rơi xuống mặt đường, quấn theo những vòng bánh xe lăn. Mây xám bay thấp vần vũ đuổi nhau trên trời và đánh rơi xuống đất những hạt mưa lất phất bay nghiêng, còn trên mặt đường thỉnh thoảng lại bốc lên những vòng xoáy bụi. Hàng cây liễu ven hồ ngả nghiêng xoả tóc bay theo gió. Tôi có hẹn với mấy nhà vẫn bán giấy vụn nên tuy trời trở gió tôi vẫn ra đường, mảnh ni lông không đủ che người vì gió tạt.
Tôi đang cắm cúi đi thì thấy phía trước một dáng người quen quen lầm lũi bước. Ai như ông giáo? Có thể lắm, vì con đường tôi đang đi chỉ cách nhà ông hai dãy phố. Gió máy thế này ông không ở nhà mà ra đường làm gì? Tôi dấn bước lên đuổi kịp, thì ra đúng ông giáo thật. “ Chào ông giáo! Trời gió to thế này sao ông không ở nhà mà đi ra đường làm gì?”; “Chị Duyên đấy à? Mưa gió thế này mà chị không nghỉ ư? Bà xã nhà tôi bị mệt đã hai hôm nay, cơm cháo chả ăn được thứ gì, chỉ thèm bánh khúc. Tôi phải đi hết hai dãy phố mới đến được chỗ bà bán bánh khúc hay ngồi…”
Hôm nay Hà Nội trời trở gió. Cái rét đầu đông không ngăn được tôi bước ra đường để đi đồng nát với hình ảnh đứa con trai thân thương như một ngọn lửa nhỏ lung linh ấm áp trong lòng. Và tôi hình dung ra nụ cười bừng sáng trên khuôn mặt héo hắt của bà giáo khi bà gượng ngồi dậy đón những chiếc bánh khúc nóng hổi mà ông lặn lội trong mưa gió đi qua hai dãy phố mang về./.
Bóng đè
Năm nay Trương Văn Nanh 48 tuổi. Đó là một người đàn ông có cặp lông mày rậm phía trên đôi mắt âm u. Mũi không thân thiện với mồm nên ở cách xa môi trên tạo ra một khoảng trống vắng, ở đó lún phún một hàng ria mép. Đã hơn mười giờ đêm ông lên giường đi nằm. Đèn trong phòng đã tắt, chỉ còn ngọn đèn ngủ toả ánh sáng xanh dịu xuống tấm màn tuyn trắng toát. Vừa mới chợp mắt Trương Văn Nanh đã nghe đâu đây có tiếng hát văng vẳng:
Mưa sao rửa sạch máu đào, gió sao dập nổi lòng son sáng ngời
Tấm lòng hiệp nghĩa ngút trời
Mưa sao rửa sạch máu đào, gió sao dập nổi lòng son sáng ngời
Mọi nỗi oan sẽ được làm sáng tỏ.
Rồi sau đó trước mắt ông là hai hàng lính mặc quần áo xanh viền đỏ, tay cầm mác gõ cán lộp cộp xuống sàn nhà bằng gỗ miệng reo à... à. Tiếp theo là tiếng ai đó hô to:
-Thăng đường!
Thì ra là Bao Công cùng với bộ sậu thăng đường xử án. Tưởng là gì chứ cái tích này Đài truyền hình Hà Nội 2 có dạo diễn mãi các tối từ thứ hai đến thứ sáu. Nhưng bây giờ đã mười giờ đêm, xử gì? Xử chứ sao lại không xử, ban ngày Bao Công xử án ở trần gian, đêm xử án ở âm phủ. Tại sao lại phải xử án ở âm phủ ? Tại vì bên nguyên cáo là Trịnh Xuân Đài, ông này đã là một hồn ma đâm đơn kiện Trương Văn Nanh tội giết người.
- Đưa bị cáo ra trước công đường!
Trương Văn Nanh bị Trương Long, Triệu Hổ xốc nách dìu ra sân trước công đường.
Bao Công:
- Kẻ đứng trước công đường kia là ai ?
- Thảo dân...
Công Tôn Sách mặt vuông với chòm râu đen ở cằm ngắt lời:
- Nhà ngươi không phải là thảo dân mà là quan chức. Theo hồ sơ cáo trạng ngươi là cảnh sát, hàm trung tá, hôm xảy ra sự việc đang thực thi công vụ tại bến xe Giáp Bát. Trước công đường ngươi phải xưng là bị cáo. Cho dẫn nguyên cáo ra trước công đường.
Sau khi nguyên cáo đã yên vị trước công đường, Công Tôn Sách tiếp tục đọc cáo trạng:
- Sáng hôm đó nguyên cáo đi xe ôm đến bến xe Giáp Bát, cả lái xe và nguyên cáo đều đội mũ bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Khi gần đến bến xe vì có cuộc gọi điện thoại di động nên nguyên cáo đề nghị người lái xe dừng lại và tháo mũ bảo hiểm ra khỏi đầu để nghe điện thoại. Khi nguyên cáo vừa bỏ chiếc mũ ra khỏi đầu thì trung tá Trương Văn Nanh 48 tuổi-là bị cáo- đến bắt xe đưa về đồn và hẹn buổi chiều tới giải quyết. Buổi chiều khi nguyên cáo cùng người lái xe đến đồn, người lái xe kêu oan và từ chối nộp phạt. Thay vì tranh luận và giải thích, bị cáo xông vào bóp cổ người lái xe. Thấy sự bất bình, nguyên cáo đã can thiệp bằng cách gỡ tay bị cáo ra khỏi cổ nạn nhân. Bất ngờ bị cáo vung dùi cui đánh vào đầu và cổ nguyên cáo và gọi thêm một số dân phòng đến tham gia đánh hội đồng rồi xích nguyên cáo vào gốc cây đến chín giờ tối mới cho người nhà đưa đi cứu chữa. Đòn đánh vào cổ đã gây thương tích nặng cho đốt sống cổ chặn đường máu lên não nên nguyên cáo đã chết sau đó chín ngày hưởng dương 54 tuổi mặc dù các bác sĩ đã tận tình cứu chữa.
Bao Công:
- Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy người công an nhân dân đối với dân phải tận tuỵ, phải yêu mến và tôn trọng nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Bị cáo là công an nhân dân mà đối xử với dân như thế há chẳng phải làm ngược lại lời dạy quý báu đó hay sao? Nhà ngươi còn điều gì để nói hay không?
Trương Văn Nanh không nói gì nhưng trong bụng có điều phân vân. Quái! Cái tay Bao Công này làm quan ở Phủ Khai Phong dưới thời hoàng đế Tống Nhân Tông (1022-1063) cách nay dễ đã ngót nghìn năm sao lại dẫn lời Hồ Chủ Tịch ra để luận tội ta là cớ làm sao? Đang phân vân như thế thì đã nghe thấy Bao Công tuyên xử bị cáo tội chết vì giết người phải đền mạng:
- Cẩu đầu trảm chờ lệnh!
Trong Phủ Khai Phong có ba cỗ đao: Long đầu trảm phủ vải vàng, Hổ đầu trảm phủ vải đỏ và Cẩu đầu trảm phủ vải đen. Nghĩ mình phương diện quốc gia, nếu có bị tội chết ít ra cũng phải bị xử Hổ đầu trảm, Trương Văn Nanh kêu lớn:
- Quan chức như ta ít ra cũng phải được xử bằng Hổ đầu trảm!
Bao Công:
- Hổ đầu trảm chờ lệnh!
Rồi cầm lấy thẻ bài vung tay ném xuống trước công đường:
- Chặt đầu!
Trương Văn Nanh ú ớ vùng vẫy, hai chân đập mạnh xuống giường, cùng lúc đó thay vì chui đầu vào Hổ đầu trảm, ông thấy có ai kéo mạnh chân mình, thì ra là mụ vợ.
- Ông làm sao mà hét to thế?
- Bóng đè!
Bi kịch chưa đặt tên
Hắn biết rõ bệnh của mình lắm. Bệnh của hắn không bị phát hiện khi hắn đi khám sức khoẻ để làm thủ tục xin việc. Nhằm nhò gì cái việc khám xét qua loa ấy! Chỉ khi hắn thấy thỉnh thoảng đau ở vùng ngực trái, có người khuyên nên đi khám ở Bệnh viện Tim Hà Nội thì hắn mới biết rõ được bệnh của mình. Chiếu, chụp và làm các test phức tạp, nào là siêu âm Doppler, điện tâm đồ, chụp động mạch vành…tiêu tốn đến hơn triệu bạc hắn mới bàng hoàng biết rằng mình mắc bệnh xơ vữa động mạch. Bệnh xơ vữa động mạch làm cho động mạch bị xơ cứng và nhỏ hẹp hơn bình thường, là nguyên nhân chính gây đau tim và cơn đột quỵ. Theo thống kê thì bệnh này thường gặp ở các nước Âu, Mỹ và ở người cao tuổi. Hắn không phải người Âu, người Mỹ, tuổi lại chỉ mới bốn mươi hai, nhà hắn nghèo nên chế độ ăn không đến nỗi dư thừa chất béo động vật làm tăng cholesterol trong máu vậy mà giời lại giao cho hắn căn bệnh quái ác này. Cũng có thể là do hắn hút thuốc lá, nhưng hắn đã kiên quyết bỏ hút cách đây ba năm. Hay là do gen (genetic factor). Cũng không phải. Cha mẹ và những người cao tuổi họ hàng nhà hắn có ai mắc căn bệnh này đâu! Âu cũng là do cái số của hắn là số ruồi bâu.
Hắn lái tăcxi cho hãng đến nay đã được hơn sáu năm. Nghề chọn hắn chứ hắn không chọn nghề. Học xong hệ cao đẳng ngành điện, cầm tấm bằng tốt nghiệp trong tay, hắn hăng hái nộp đơn xin việc dễ có đến gần chục lần. Chục lần phỏng vấn thất vọng hắn mới ngộ ra rằng tấm bằng hắn cầm trên tay chẳng là cái thá gì. Hắn làm sao đua nổi với bọn có bằng tốt nghiệp hệ chính quy, tiếng Anh nói lưu loát như gió, có đứa còn trưng ra cả bằng MBA nữa, những bọn ấy bây giờ nhiều đến phải lấy rổ mà đong. Thôi thì ở cái đất nước nhiều thầy thiếu thợ này khôn hồn thì hãy cứ đi làm thợ mà kiếm sống. Hắn học lái xe rồi đi làm cho hãng. Ban đầu cũng bỡ ngỡ, đường sá chưa thuộc, những thủ thuật gian lận để lấy chút tiền bỏ túi ngoài khoản hằng ngày phải nộp cho thủ quỹ chưa thông thạo nhưng rồi mọi sự cũng thông suốt đâu vào đấy cả.
Hắn lấy vợ muộn nên bây giờ con gái mới lên bốn. Hắn thuê một căn phòng hơn mười mét vuông trên tầng hai một khu chung cư để ở. Để gỡ lại tiền thuê nhà, vợ hắn nhận trông hai đứa trẻ, một công đôi việc, trông trẻ và quản lý chăm sóc con mình. Thì cũng tạm đủ, sống được. Đấy! Sơ qua hoàn cảnh gia đình của hắn như thế để các bạn biết hắn không thể nào chi ra một món tiền lớn để đặt stent động mạch. Stent là một ống thép lưới mỏng được đặt vào trong lòng động mạch thật nhẹ nhàng để làm cho lòng động mạch vốn bị hẹp do xơ vữa được thông thoáng trở lại. Đặt stent động mạch bây giờ không còn là một kỹ thuật phức tạp. Từ một lỗ nhỏ được trích ở háng, bác sĩ xịt thuốc tê qua đó để thuốc chạy theo mạch máu bị tắc. Thiết bị nội soi cũng được đưa vào động mạch qua đường này, khi đến vị trí tắc thì bơm làm cho mạch phồng lên rồi đặt stent. Phương pháp này cho hiệu quả điều trị cao, vết chích rất nhỏ nên bệnh nhân có thể nhanh chóng đi lại bình thường. Và khoẻ mạnh. Nghe thật đơn giản. Nhưng tiền nong thì không đơn giản chút nào. Hơn một trăm triệu đồng, tính ra đô la thành ra hơn năm ngàn. Hắn giết ai để lấy một trăm triệu đồng đây? Không thể được! Vậy thì thông cảm với hắn nhé, thông cảm cả với vợ và đứa con gái nhỏ của hắn nữa, họ thương hắn lắm nhưng họ không thể nhịn ăn, nhịn mặc hoặc vơ vét trong nhà có thứ gì đáng giá mang đi bán để cho hắn có tiền đặt stent. Mà giá có vơ vét bán đi những thứ gọi là có giá thì cũng không thể nào đủ. Than ôi! Đối với rất nhiều người một trăm triệu chẳng là cái đinh gì. Một buổi nhậu tuý luý với bạn bè ở nhà hàng sang trọng, một món quà cho bồ nhí, một chuyến du lịch châu Âu…Nhẹ như lông hồng! Vậy mà đối với hắn món tiền ấy có sức nặng ngàn cân, là mạng sống của hắn đấy!
Những cơn đau tức ngực ngày càng dày nhưng dẫu sao vẫn còn tỉnh táo nên hắn vẫn cứ đi làm. Gần trưa hôm nay qua máy bộ đàm điều hành của hãng gọi cho hắn đến đón khách ở 376 Khâm Thiên. Hắn tăng tốc đưa xe đến điểm đón khách. Đột nhiên hắn thấy chóng mặt, tay lái của hắn loạng choạng, xe chồm lên vỉa hè rồi húc vào cột điện, nắp capô méo xẹo gần như bị bật ra. Hắn còn đủ bình tĩnh để lùi xe xuống lòng đường, dừng xe và mở cửa bước ra ngồi bệt xuống vỉa hè. Hắn thầm nghĩ: “ Giời gọi rồi! Và gọi ai người ấy thưa” Xung quanh hắn tiếng người lao xao ngày một đông, loáng thoáng thấy có cả cảnh sát giao thông. Khi người cảnh sát giơ tay lên vành mũ để chào thì hắn muốn nói nhưng không nói được. Hắn chỉ còn kịp mường tượng ra nụ cười trẻ thơ của con gái, và khuôn mặt thân thương của người vợ. Em ơi! Con ơi!
Thay vì lập biên bản về hành vi trái luật giao thông, người cảnh sát gọi xe cứu thương đưa hắn đến bệnh viện. Đến nơi thì mặt hắn đã trắng bệch, hắn rơi vào cơn hôn mê sâu. Và không bao giờ tỉnh lại nữa, hắn ra đi ở tuổi bốn mươi hai, còn quá sớm phải không các bạn ?./.
ong Hỷ
Từ sáng sớm tinh mơ đã thấy có tiếng kêu của lợn bị chọc tiết vang lên từ sân giếng nhà ông Mộc. Sau đó là tiếng đập cánh và tiếng kêu quang quác của những con gà bị bắt từ trong chuồng ra. Gà bị cắt tiết thì không dẫy dụa và kêu to như lợn. Hoà trong tiếng kêu của lợn và gà trước khi đi vào cõi vĩnh hằng là tiếng người xôn xao nhộn nhịp, ngay từ sáng sớm họ hàng thân thuộc và con cháu ông đã tề tựu đầy đủ để người nào việc nấy, kẻ cạo lông lợn, người cắt tiết gà, người vo gạo nếp đồ xôi, kẻ thái rau thái măng, người xắn tay áo dựng rạp che khoảng sân nhà. Và đến khi trời sáng rõ thì mùi hành tỏi phi mỡ, mùi thịt gà luộc, mùi chả thịt lợn nướng…đã bốc lên và theo gió lan toả đi xa đến cách đấy mấy con ngõ cũng còn ngửi thấy. Thơm nhức mũi! Rồi bàn ghế mượn từ văn phòng UBND xã và từ trường tiểu học được con cháu kìn kìn khiêng về sắp thành dãy, trịnh trọng trải lên mặt bàn những tấm vải hoa cà hoa cải hoặc xanh đỏ đủ màu. Không khí trở nên nhộn nhịp rộn ràng khi chiếc cát sét chơi đĩa công suất 500 W bắt đầu hoạt động, hết dân ca quan họ đến hip hop và pop với tiếng trống tiếng kèn vang vang hết cỡ. Thỉnh thoảng những bài hát tạm dừng để cho một gã gõ gõ vào micrô kêu cộc cộc và hắng giọng: alô, alô, một hai ba bốn, nghe rõ, tốt lắm!
Nhà ông Mộc có giỗ trọng chăng? Không phải! Hay là anh cả học trên Hà Nội đỗ đạt gì to lắm, tiến sĩ chẳng hạn? Cũng không! Anh cả có bằng đại học văn chương và đang theo cao học để lấy bằng thạc sĩ, nghe đâu đang theo đuổi đề tàiNguyễn Tuân và bút ký chống Mỹ nhưng gần hai năm rồi chưa thấy anh báo cáo gì với gia đình về chuyện đỗ đạt hay bằng cấp. Cũng không phải! Vậy thì phải có một lý do gì đó nghiêm trọng-không, tôi dùng từ sai nghĩa rồi-lý do gì đó quan trọng người ta mới bày đặt tổ chức rình rang đến thế.
Quan trọng lắm chứ sao lại không? Đầu đuôi câu chuyện là thế này. Ông Mộc là một nhà thơ, đã làm thơ và đang làm thơ. Nhà thơ là người sáng tác thơ, một thể loại văn vần khác với văn xuôi hay kịch nói. Nhà thơ là người có cảm xúc và tư duy đặc biệt, khả năng ngôn ngữ phong phú do bẩm sinh hay do rèn luyện mà có. Nhà thơ có khả năng gắn kết cuộc sống, xã hội và thiên nhiên với những cái hay cái đẹp trong những vần thơ sống động và có hồn. Thật là sung sướng biết bao nhiêu nếu thơ ta viết ra phục vụ cho chân thiện mỹ, cho ánh sáng xua tan bóng tối, cho lương tâm, trí tuệ, lẽ phải và sự tiến bộ cũng như hạnh phúc của loài người. Mỗi khi cầm bút làm thơ ngoài những tứ thơ tràn trề ông Mộc còn cảm thấy sung sướng, vinh dự và đầy tinh thần trách nhiệm với nhân dân, đất nước và với nhân loại. Ông lấy bút danh là Dương Thụ. Mộc là cây mà Thụ cũng là cây, nhưng Thụ nghe hay hơn Mộc. Còn Dương được ông Mộc hiểu là xanh tươi. Còn gì hay hơn khi bút hiệu của mình là một cây đời mãi mãi xanh tươi!
Không phải ai cũng có cái quan niệm cao cả về thơ như ông Mộc-nhà thơ Dương Thụ. Ta hãy lấy lão Tôn, hàng xóm và bạn thuốc lào của ông Mộc làm thí dụ. Lão là một người bộc tuệch, ăn nói rổn rảng. Khả năng viết lách của tôi kém nên không tả được hàm răng của lão: đó là một hàm răng vô kỷ luật chẳng hề biết trật tự qui củ là gì, những chiếc răng cái chìa ra cái thụt vào, cái vểnh lên cái cụp xuống, đã thế ta lại không thể gán cho hàm răng của lão màu gì, vàng ệnh chăng, hay là màu nâu nhạt? Hàm răng đó ảnh hưởng đến sự phát âm nên giọng nói của lão có một âm hưởng đặc biệt. Đã vậy lão lại hay cười, cười hở mười cái răng nên bàn dân thiên hạ ai cũng được chiêm ngưỡng hàm răng nổi tiếng của lão. Lão nheo mắt cười cười và nói với ông Mộc như thế này:
- Ông hay làm thơ, vậy có biết bốn câu thơ này không:
Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ
Hôm qua nó bảo dí thơ vào l…
Vợ tôi nửa dại nửa khôn
Hôm nay lại bảo dí l… vào thơ.
Mặt ông Mộc đỏ lựng lên:
- Thơ thẩn của thằng nào mà mất dạy thế!
- Của Nguyễn Huy Thiệp! Bốn câu thơ này trích trong bài viết Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn của ông ta đó.
- Nguyễn Huy Thiệp là thằng nào?
- Sao lại là thằng? Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn có hạng, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam , người đã viết tác phẩmTướng về hưu , được dịch sang tiếng Pháp và được chính phủ Pháp trao giải thưởng. Ông hoạt động về đằng văn hoá nghệ thuật mà không biết ông này à?
Ta hãy tạm gác lại câu chuyện bàn về thơ và trở lại với khoảng sân nhà ông Mộc. Có hai sự kiện đáng ghi nhớ đối với ông Mộc tức nhà thơ Dương Thụ. Thứ nhất, thẻ hội viên Câu lạc bộ Thơ Việt Nam của ông được gửi từ Trung ương về đến Bưu điện huyện, trong thẻ có chữ ký của Chủ tịch Câu lạc bộ là nhà thơ, nghệ sĩ, nhà báo Bành Châu. Thứ hai, trong cuộc họp của các nhà thơ hội viên Câu lạc bộ thơ Việt Nam huyện Gia Hưng ông được 85 số phiếu bầu làm Chủ nhiệm Câu lạc bộ thơ Việt Nam của huyện. Con số 85 số phiếu ủng hộ khiến ông băn khoăn trăn trở để tìm ra những tên tuổi, những khuôn mặt khả dĩ có thể không bỏ phiếu cho ông. Than ôi! Bi hài và đầy kịch tính biết bao nhiêu là sự liên quan giữa chiếc ghế và cái đít ngồi lên chiếc ghế ấy, mà chiếc ghế có to tát gì cho cam, chỉ là ghế Chủ nhiệm Câu lạc bộ thơ của huyện. Nhưng mà thôi, dẫu sao thì 85 đã là một con số có sức nặng rồi, hơn nữa kết quả bầu bán của cuộc họp đã được Phòng Văn hoá huyện ký thông qua. Và mới cách đây hai ngày thôi, tấm thẻ hội viên và quyết định công nhận của Phòng Văn hoá huyện đến tay ông Mộc cùng một lúc. Ta chưa hiểu được cái ý nghĩa sâu xa của cụm từ Song Hỷ nên chưa dám gọi hai niềm vui cùng đến một lúc với nhà thơ Dương Thụ là Song Hỷ, nói như thế liệu có gì sai chăng? Và vì cái sự Song Hỷ ấy mà hôm nay, mười giờ hơn, những vị khách mời đầu tiên bước qua ngõ vào sân trước sự đón tiếp thân mật, hồ hởi và trọng thị của ông Mộc.
Tôi viết xong câu chuyện này và đưa cho một người bạn xem thử. Anh này là chuyên gia Hán Nôm. Tôi hồi hộp theo dõi nét mặt của bạn. Đọc xong dòng cuối cùng anh ấy bảo:
- Tớ có hai nhận xét. Thứ nhất, nước ta làm gì có huyện nào tên là Gia Hưng? Cả nước có 697 huyện và cấp tương đương, những tên huyện khó nhớ như Bù Gia Mập, Ayun Pa mà tớ còn nhớ được nhưng đào đâu ra cái tên huyện Gia Hưng?
Tôi cười xởi lởi:
- Thì đến nội dung của truyện đã chắc là có thật đâu, nhằm nhò gì cái tên huyện!
- Thứ hai, sao lại đặt tên truyện là Song Hỷ? Cậu có biết gốc gác chữ Song Hỷ từ đâu ra không?
- Em dốt nát, Hán Nôm một chữ nhất bẻ đôi còn không biết nên cứ đặt liều như thế may ra độc giả có anh nào biết thì thể tình mà bỏ qua đi cho.
- Câu chuyện là thế này. Thời Bắc Tống có Vương An Thạch người tỉnh Giang Tây đi thi, trên đường lai kinh ghé qua nhà một vị quan có cô con gái tuyệt sắc. Quan ra vế đối, ai đối được sẽ gả con gái cho. Vế đối treo trên vách cạnh chiếc đèn kéo quân: “Mã tẩu đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ” ( đèn kéo quân có đàn ngựa, đèn quay ngựa chạy, đèn ngưng ngựa dừng ). Hay chữ như Vương An Thạch mà cũng không đối được đành nuốt nước bọt tiếc rẻ, tuy vậy chàng ghi nhớ vế đối trong bụng. Vương An Thạch thi đỗ thám hoa, trong bữa tiệc khoản đãi vị tân khoa quan giám khảo trỏ vào lá cờ có hình con hổ bay phấp phới và ra vế đối: “ Hổ phi kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng hình” ( Hổ khiến cờ bay, cờ khiến hổ bay, cờ cuộn, hổ mất tăm ). Vương An Thạch ứng khẩu đọc ngay vế đối “Mã tẩu đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ” , dĩ nhiên được quan giám khảo nức nở khen hay, phi hổ với tẩu mã đối nhau chan chát. Trên đường bái tổ vinh quy, Vương An Thạch ghé qua nhà vị quan để đọc vế đối không phải do mình nghĩ ra mà từ trên trời rơi xuống : “Hổ phi kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng hình” và được vị quan đó gả con gái cho. Vừa đỗ thám hoa, vừa cưới được vợ, không gọi là Song Hỷ thì gọi là gì?
Nghe xong câu chuyện, tôi đưa hai tay lên ngang mày, các ngón tay đan vào nhau thành một nắm tay và cái nắm tay ấy lắc lắc theo đúng bài bản của hảo hán Lương Sơn Bạc:
- Bái phục, bái phục!./.
Bộ mặt thật
Chúng ta hãy gọi hai nhân vật chính trong câu chuyện này là sếp trưởng và sếp phó. Họ là Tổng giám đốc và Phó Tổng giám đốc của Tổng Công ty…. Tổng Công ty nào? Không quan trọng, chỉ biết đó là một Tổng Công ty lớn, có tầm ảnh hưởng trong nền kinh tế nước nhà. Sếp trưởng năm nay 58 tuổi, sếp phó trẻ hơn, 52 tuổi. Sếp trưởng nằm bệnh viện đến nay đã là tháng thứ ba, cách đây hơn một tháng đã phẫu thuật lồng ngực để lấy khối u, ban đầu bác sĩ xác định đó là khối u lành tính, sau ca mổ tình hình có vẻ tốt, đã có lúc ăn được ngủ được, nhưng thời gian gần đây bỗng dưng tình hình xấu đi nhanh chóng.
Từ ngày sếp trưởng lâm bệnh, niềm tin và hi vọng trong lòng sếp phó cứ lớn dần. Phỉ thui cái đầu nghĩ bậy, cái mồm nói bậy, nhỡ sếp trưởng có mệnh hệ gì thì cái chức Tổng giám đốc ngoài ta ra thì có thể lọt vào tay ai được. Ta, với tài và đức nhường ấy, với thời gian ngồi ở ghế Phó Tổng giám đốc lâu nhường ấy, chỉ có ta mới xứng đáng ngồi vào chiếc ghế mà sếp trưởng sắp bỏ trống. Ôi! Quyền lực là cái gì mà như một chất men say, chỉ mới nghĩ đến thôi mà ta đã rạo rực cả người. Có chức ta sẽ có quyền, có quyền ta sẽ có tiền, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là tất cả! Vả lại vừa rồi phu nhân ta đi xem bói, lão thầy bói vận dụng Chu dịch dự đoán đã phán chắc như đinh đóng cột rằng cuối năm nay số ta phát to về đường công danh sự nghiệp, sai làm sao được.
Phòng bệnh của sếp trưởng rộng khoảng 14 mét vuông, chỉ đặt một giường bệnh. Bên cạnh giường là chiếc tủ cá nhân, trên mặt tủ đặt chiếc đèn bàn để khi cần sếp có thể chong đèn đọc sách. Sếp có thể nằm ở giường bệnh với chiếc remote tắt mở và chọn chương trình trên chiếc tivi LCD 21 inchs treo trên tường, cũng với chiếc remote sếp có thể chọn chế độ làm việc của máy điều hoà để duy trì nhiệt độ và độ ẩm trong phòng một cách thích hợp. Hoa quả quà cáp của những người đến thăm được cất giữ trong chiếc tủ lạnh. Bên cạnh sếp lúc nào cũng có một người thường trực, không phu nhân thì con gái lớn, ngoài ra khi cần thì với tay bấm chuông ở đầu giường, sau 10 giây hộ lý sẽ có mặt.
Quanh giường bệnh của sếp trưởng hôm nay có đông người. Ngoài phu nhân của sếp trưởng, còn có vợ chồng sếp phó cùng anh thư ký vừa mới đến thăm. Sếp phó đưa mắt ngắm nhìn khuôn mặt người bệnh, trong lòng không khỏi dấy lên một niềm thương cảm. Khuôn mặt trước kia phương phi đầy đặn, lúc nào cũng đỏ au, đôi mắt sáng quắc, giọng nói sang sảng khi phát biểu hay tranh luận, nụ cười hiền khi an ủi vỗ về cấp dưới. Bây giờ thay vào đó là nước da vàng ệnh, khi mới chớm cười thì một hệ thống nếp nhăn xuất hiện trên trán như những đường cày, giọng nói yếu ớt thì thào như từ một cõi xa xôi nào vọng lại còn đôi mắt thì lờ đờ hết nhìn người này đến người khác trong số những người có mặt xung quanh. Thấy sếp trưởng muốn đưa tay với cái cốc đặt trên mặt tủ, sếp phó nhanh nhẩu nói với phu nhân sếp trưởng:
- Kìa chị! Anh muốn uống nước. Mà thôi, chị để em rót.
Nói xong, cầm chiếc cốc ra bình nước lọc hứng lưng cốc đem lại giường bệnh, một tay luồn sau gáy nâng đầu, tay còn lại đưa cốc nước sát môi, mắt chăm chú nhìn từng hớp nước trôi qua cổ người bệnh.
Xong cái đoạn uống nước, câu chuyện chuyển sang tình hình gia đình sếp trưởng. Cậu quý tử du học ở Bắc Kinh mới về nước rồi sẽ làm việc ở đâu, việc làm ăn ở cửa hàng kinh doanh áo cưới của cô con gái lớn thành đạt ra sao. Phu nhân sếp trưởng miệng ậm ừ, mắt nhay nháy ra hiệu với sếp phó đừng đi sâu vào câu chuyện, vì cậu quý tử từ ngày về nước đến giờ chỉ nghĩ đến chơi bời, cậu đã bán đến chiếc xe @ thứ hai để lấy tiền tiêu xài, cậu thay người yêu như thay áo, đến cô hiện nay đã là người thứ ba; còn chuyện kinh doanh của cô con gái lớn thì đi vào ngõ cụt, số vốn 5 tỷ đồng đầu tư ban đầu có nguy cơ mất trắng. Sếp phó nghĩ rằng âu cũng là dậu đổ bìm leo, vắng mặt người là trụ cột trong gia đình nên mới sinh ra thế.
Cuộc viếng thăm bệnh nhân dẫu tình cảm có bịn rịn đến đâu thì cũng đến lúc sếp phó cùng phu nhân và anh thư ký ra về:
- Anh yên tâm tĩnh dưỡng, chóng khoẻ rồi về lãnh đạo Tổng Công ty, ở nhà mọi người đều mong anh chóng bình phục và trở lại công tác.
Cửa phòng bệnh khép lại giống như tấm màn nhung trên sân khấu buông xuống chấm dứt màn diễn trong đó sếp phó là một diễn viên kịch nói đại tài. Bộ mặt sầu thảm-là bộ mặt giả- thích hợp với những lời thăm hỏi an ủi người bệnh biến mất, bây giờ thay vào đó là một bộ mặt hân hoan, tươi cười, bộ mặt thật. Nhân đây ta hãy luận bàn một tí về cái sự thật và giả. Bây giờ có nhiều thứ giả: bằng cấp giả, thành tích giả, đạo đức giả, đến yêu thương nhau mà cũng có kẻ giả vờ yêu. Nhiều bộ phận trên cơ thể con người cũng có thể là giả: tóc giả, răng giả, lông mi giả, ngực giả, mông giả…Vậy thì sếp có hai bộ mặt, một giả, một thật âu cũng là lẽ đương nhiên. Người ta nói trở mặt như trở bàn tay, nhưng sự hoán vị hai khuôn mặt giả và thật của sếp còn nhanh hơn cái trở của một bàn tay. Bên giường bệnh ngoài mặt sếp tỏ ra âu sầu nhưng trong lòng sếp cố nén lại một niềm vui âm ỉ. Cái niềm vui ấy bây giờ chợt trào ra trên môi thành nụ cười rất tươi, da mặt sếp giãn ra, đôi mắt nhay nháy ra hiệu với phu nhân và anh thư ký:
- Sắp chết rồi!./.
MÙA SÔNG CHỬA
"Cỗ đã sẵn sàng. Nào, xin mời các vị vào mâm…”
(Lời các cụ già làng Nghĩa)
Ngày hắn chưa bỏ nhà đi vất vưởng, dân phố Hàm còn cho hắn là giả điên. Cũng giống mấy thằng rượu giả say chửi người, hắn tinh quái hơn, giả điên chửi tổ bố người ta lên. Hai tay thọc túi quần, hắn ngất nghểu đi giữa phố Hàm oang oang:
-
Trông cái phố đã thấy vô văn hóa. Nhà nhô lên, thụt vào, cái cao cái thấp, nhấp nha nhấp nhổm.
Hắn đi đi lại lại trước căn nhà 4 tầng cao nhất ở phố Hàm, ngó ngó nghiêng nghiêng, ngửa cổ cười sằng sặc:
-
Cái nhà này to, nhẩy. Ăn cấp tiền bạc của Nhà nước giỏi, nhẩy.
Hắn nói thế thì điên thế quái nào được, hắn giả điên đấy thôi. Đến hôm thi bơi người ta mới té ngửa là hắn điên thật. Hôm đó, Sở Thể Dục Thể Thao tổ chức thi bơi quần chúng. Loa đài, biểu dương, biểu ngữ om xòm. Thuyền máy, ca nô lướt lên xuống, dựng sóng trắng xóa một đoạn sông. Đoàn vận động viên đang bơi dần về đích. Hắn ở đâu không biết, chờ đoàn bơi đến gần nhào ra bơi dẫn đầu. Khán đài của Ban tổ chức dựng sát bên sông. Phấp phới tấm băng rôn có chữ "Đích” to tướng. Đoàn vận động viên càng về gần tiếng hò reo càng vang dậy. Những cái loa công suất lớn, mở hết cỡ thi nhau tường thuật: "Vâng, đoàn bơi chỉ còn cách đích khoảng ba trăm mét. Hai trăm mét nữa thôi. Chúng tôi thấy có một vận động viên dẫn đầu đang bứt lên. Anh sải những sải nước dài và mạnh. Một trăm mét. Anh bỏ khá xa tốp phía sau. Vâng, thưa các bạn, về đích rồi…ôi…ôi…”.
Người vận động viên về đích đầu tiên được nhiều bàn tay đở từ dưới nước lên. Cái gì thế này. Đôi vai trần, cái ngực trần rồi đến cái mông cũng trần nốt. Toàn thân người vận động viên trần truồng, tô hô cả đit đoi. Mấy cô ôm hoa rú lên, mặt đỏ bừng thụt vào đám đông. Khán giả vòng trong vòng ngoài đang cố chen đẩy nhìn người đoạt giải, sau phút ngỡ ngàng bỗng cười nghiêng ngã. Họ nhận ra vận động viên đó là thằng Sa điên. Chính hắn chứ còn ai. Hắn nhìn lướt đám người đang cười
lăn cười bò, thản nhiên hỏi:
5
Không gắn huy chương à? Không gắn thì đây cũng cóc cần.
Nói xong, hắn lao tỏm xuống nước, lặn một hơi ra tới nửa sông, rồi sang bờ bên kia. Từ đó, phố Hàm mới tin hắn là điên thật.
Mấy hôm
sau, người ta thấy hắn xuất hiện ở phố Hàm. Cái que làm đòn gánh, buộc hai đầu hai cái gáo dừa, hắn toòng teng gánh hai cái gáo rao bán … giày. Hắn đứng trước cổng nhà lão Hân (Lão Hân trước kia là công an, bị kỷ luật đuổi khỏi ngành, bây giờ chuyên nghề chạy mánh. Lão quen nhiều xếp bự. Có lần lão khoe lão vừa cứu con mụ K chứa gái mại dâm từ án giam xuống án treo, cứu thằng B buôn lậu từ tịch thu số hàng hóa giá trị vài trăm triệu đồng xuống chỉ bị phạt hành chính vài triệu). Hắn vỗ vỗ cái gáo dừa, rao:
-
Giày chính hiệu Made in Thiên Địa đây. Không tốt không lấy tiền. Giày chuyên dùng cho đầu gối đây. Ai đi bằng đầu gối ra mua giày nào …
Hôm sau nữa hắn lại đến trước mặt cái nhà bốn tầng cao
nhất phố rao:
-
Kem đánh răng đây, loại tốt nhất thế giới đây. Bảo đảm răng chắc khỏe và nhọn hơn răng chuột đây.
Chủ nhân căn nhà đó là ông Y, giám đốc công ty vật tư tổng hợp.
Hôm sau nữa hắn đến trước cổng nhà ông Tầm, rao bán loại giấy ráy tai chữa điếc và kính thuốc chữa mù. Ông Tầm là cán bộ văn hóa Huyện về hưu, đang xập xòe tập làm thơ, ca ngợi từ con bò biết đi ăn cỏ ngoài bãi đến không ỉa bậy trên đê. Cái phố Hàm quen dần tiếng rao của hắn, nhà nọ hích nhà kia, nháy mắt rinh rích hỏi hắn:
-
Hôm nay anh Sa đi bán hàng gì đấy?
Hắn cười hềnh hệch trả lời:
-
Đây còn ối thứ bán, có hàng bán cho trời nữa nhé.
Hàng của hắn độc quá chẳng có ai muốn mua. Cũng chẳng có ai dám dây vào hắn. Thân hình hắn chắc lẳn, bắp tay bắp chân ụ lên toàn u với cục. Nghe đâu hắn còn giỏi võ. Hắn là cháu ruột của một ông võ sư lừng danh ngày xưa, từng mang theo quan tài đi thách đấu. Hắn thuộc làu làu những ngón võ Tàu thâm xì, các bài quyền, Nhị Lộ, Hoa Mai … Hơn nữa hắn lại bị điên. Pháp luật không có tội danh cho kẻ bị điên, chả ai dại gì dây với hắn. Dân phố Hàm thấy hắn đi rao bán hàng còn thích nữa là đằng khác. Nhìn hàng hóa của hắn người ta đoán hắn sẽ đến rao trước cửa nhà ai. Hôm nào, không nghe tiếng rao của hắn, người ta lại thấy nhớ. Buồn cười thế.
Làng Nghĩa cách làng Yên một cái đầm sen, nằm sát chân núi Ngọc. Cứ theo thuật phong thủy du nhập vào nước ta qua đường ải Chi Lăng, thì đất làng Nghĩa nằm trên mạch núi đá Ngọc. Dân làng Nghĩa uống nước đá vôi nên tính tình người nào cũng lưỡi câu nhét bên trong, ương ngạnh, gàn gàn. Con trai, con gái tí tuổi đã ti toe võ vẽ, đao kiếm. Trước đây làng Nghĩa thành lập một Hội võ mang tên hiệu hẳn hoi: Hội võ Hồng Long. Hồng Long có nghĩa là rồng đỏ. Hội võ Hồng Long đông tới hàng trăm môn sinh, đi thi đấu khắp Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Danh hiệu các môn sinh được đặt bắt
đầu bằng chữ Hồng: Hồng Giang, Hồng Vân, Hồng Kỳ, Hồng … Hồng Giang là môn sinh đàn anh số một, võ nghệ cao cường, đòn cước mạnh khét tiếng. Thời kháng chiến chống Pháp các môn sinh hội võ Hồng Long được tuyển vào đội công an xung phong chuyên luồn sâu, hoạt động trong lòng địch hậu, diệt tề trừ ác. Một lần diệt xong tên quan ba Pháp, tổ công an xung phong do võ sư đàn anh Hồng Giang làm tổ trưởng bị bọn tây bao vây đuổi bắt. Hồng Giang một mình chặn địch cho các tổ viên thoát hết mới xuống hầm bí mật ẩn nấp. Chẳng ngờ hầm bị lộ. Bọn Tây gọi hàng nhặng xị không được liền quẳng lựu đạn xuống. Võ sư Hồng Giang bị thương nặng, súng còn mỗi một viên đạn, biết không thoát ông kê súng vào đầu tự sát. Hòa bình lặp lại trên miền Bắc, hội võ Hồng Long tổn thất gần hết, chỉ còn lại mấy người. Trong đó có võ sư Hồng Vân, là chú ruột của thằng Sa điên.
Trái với làng Nghĩa là đất võ, làng Yên lại là đất văn. Người làng Yên thanh lịch, nho nhã, chí thú học hành. Ngày tết ở làng Yên nhà nào cũng chơi câu đối. Các từ đường, nhà thờ tổ nào cũng có hoành phi… sơn son thếp vàng, chữ to chữ nhỏ. Người ta truyền kể một giai thoại: vào khoảng 1960, 1961 một anh con trai làng Nghĩa yêu một cô gái làng Yên. Đám cưới rước dâu do chính võ sư Hồng Vân đại diện nhà trai dẫn đầu cùng vài chục môn sinh thắt đai xanh, đai đỏ lên làng Yên xin rước dâu. Họ nhà gái ra một vế đối bắt họ nhà trai đối được mới cho rước dâu. Vế đối thế này: "Quang Minh Chính Trực Yên Nhân Nghĩa” trong đó Quang là tên chú rể, Minh là tên cô dâu, lại có cả tên làng Yên đè lên làng Nghĩa. Chữ thì rõ ràng vậy nhưng nghĩa đen, nghĩa bóng đầy ngụ ý. Vế đối khó quá, họ trai toàn dân võ, cụ nào cũng gãi đầu, gãi tai. Tới quá giờ đón dâu, nói mãi vẫn không được rước dâu, võ sư Hồng Vân bực mình sẵng giọng: "Các ông là gà, giỏi tiếng gáy. Dân làng Nghĩa bọn tôi là vịt không gáy được nhưng giỏi bơi. Các ông thách chúng tôi đối khác gì bắt vịt thi gáy. Chúng tôi thua nhưng xin hỏi họ ta có dám xuống ao bơi thi với vịt không?”. Các cụ họ gái vuốt râu, mát mẻ: "Đạo chính nhân không lấy cơ bắp làm sức mạnh”. Đám rước dâu không thành. Võ sư Hồng Vân hậm hực: "Bố chúng nó, dám ra thi đấu với ông. Bọn dài lưng tốn vải, lẻo khẻo lèo khèo ông thì đấm một cái sập cả đống …” Từ bận ấy ông cay cú mãi. Ngoảnh đi ngoảnh lại, dòng họ ông ở làng Nghĩa
chỉ mỗi thằng Sa mặt mày sáng sủa có thể theo con đường học hành được. Ông vận động cả họ dồn sức dồn của cho thằng Sa được học hành tử tế "Để chúng nó mở mắt ra, làng Nghĩa không chỉ có giỏi võ”. Thằng Sa học giỏi, mỗi năm năm một lớp, vào thẳng đại học. Đang học dở năm thứ ba, một hôm làng Nghĩa thấy thằng Sa đột ngột trở về, đầu tóc rối mù, quần áo xộc xệch, phăm phăm đi vào nhà chú hắn – võ sư Hồng Vân. Chủ nhà đi vắng, chỉ có mấy đứa trẻ đang học bài. Hắn giật chiếc mũ vải cuộn tròn lại rồi gõ bồm bộp như người đang thử micro: "Nào các bạn sinh viên xin mời tất cả lại đây. Diễn đàn thảo luận hôm nay là vấn đề giai cấp trong xã hội ta…” Bọn trẻ sàn sản tuổi chín mười đang làm văn miêu tả, tập tả người, chẳng hiểu mô tê gì trố mắt nhìn hắn. Có đứa tưởng anh Sa bày trò chơi mới. Chúng vòng tay ngoan ngoãn "Chúng em chào anh Sa ạ” Hắn cau mày: "Phải phát huy tinh thần dân chủ lên, không phải lễ phép kiểu hoạn quan như thế. Thôi ta bắt đầu. Các bạn sinh viên thân mến. Xã hội ta có một vấn đề cần phải được báo động. Đó là khoảng cách ngày một lớn giữa người giàu và người nghèo…” Nói đến đây hắn chợt dừng lại, thổi cái "micrô” mũ vải phù phù "Sao bỗng nhiên tắt tịt thế này. Mất điện à. Lại mất điện… Vẫn còn tàn dư của thời bao cấp đấy mà. Khổ thật…” Hắn vứt vèo cái mũ xuống đất, dõng dạc: "Như một gánh bị lệch trên vai xã hội. Cái gánh giàu nghèo này có hai đầu. Đầu giàu gồm những quan tham, phất lên hàng giờ hàng ngày. Đầu nghèo là những người dân chân lấm tay bùn, không chức quyền và không biết buôn lậu. Khoảng cách quá xa của sự giàu nghèo đẻ ra một tầng lớp mới trong xã hội: Tầng lớp tham quan! Thưa các bạn, tôi nói có đúng không”. Hắn nhìn lướt xuống mấy đứa trẻ. Chẳng thấy đám trẻ nhúc nhích hắn tự vỗ vỗ tay hô: "Đúng đấy. Vấn đề gay cấn đấy. Nào vỗ tay”. Đám trẻ bắt chước hắn vỗ tay lẹt bẹt, cười ngặt nghẽo. Ông võ sư về nhà lúc hắn đang đăng đàn diễn thuyết. Thoạt đầu ông tưởng hắn cùng đám bạn sinh viên ngoài trường về chơi. Trông qua cái cửa đóng bằng gỗ tạp thủng lỗ chỗ ông nhận ra không phải như vậy. Nghe hắn say sưa diễn thuyết khoảng cách, khoảng kiếc gì đấy, ông mới giật mình. Thằng này có vấn đề rồi. Ông bước vội vào nhà. Thấy ông, thằng cháu ruột của ông tay đặt lên ngực, người cuối gập trịnh trọng chào:
-
Xin kính chào giáo sư. Tuổi tác và lòng nhân ái của con người mãi mãi được kính trọng, thưa giáo sư.
Đuôi mắt người võ sư giật giật. Ông lắp bắp:
-
Anh Sa… Cháu Sa…
Hắn hơi ngẩn ra một tí. Chắc vì tiếng cháu Sa thân thuộc vừa bật ra từ người võ sư tóc bạc. Đột nhiên hắn cười giòn rồi nghiêm giọng:
-
Thưa giáo sư, cháu được Chính phủ giao trọng trách: làm Chủ tịch ủy ban chống tham nhũng. Cháu phải đi lãnh đạo những người dân nghèo chống lại lũ quan tham đây.
Nói xong hắn lao vù ra ngõ.
Mấy hôm sau người võ sư nhận ra thằng cháu mà ông gửi gắm bao nhiêu kỳ vọng bị mắc bệnh hoang tưởng, biểu hiện của loại bệnh tâm thần. Dân làng Nghĩa gọi là bị ngộ. Người nói do nó đọc nhiều sách quá nên bị loạn chữ. Người bảo ra thành phố, thấy nhiều điều ngang tai chướng mắt nên nó phẫn uất. Mỗi người kể ra một phách, lý giải cho cái sự điên của thằng Sa. Riêng người chú võ sư kia cứ lầm lũi, không trả lời bất kỳ ai hỏi về thằng Sa.
Ông trừng trừng nhìn lên ngọn núi Ngọc, nhớ tới lời phán quyết của thuật phong thủy, về cái mạch núi đá bạc bẽo. Những đêm khuya có người bắt gặp
ông luyện võ một mình. Mái tóc bạc loang loáng dưới ánh trăng ngà. Tiếng huỳnh huỵch chen xé vào tiếng rít qua kẽ răng: "Song long quá hải này... Phượng hoàng đảo phong này... tả thiên này... tả thiên này...”.
Truyện thằng Sa bị điên là đề tài cho dân làng Nghĩa bàn tán xuýt xoa thì ở làng Yên cũng có chuyện. Làng Yên có một dòng họ nổi tiếng khoa bảng: Dòng họ Lê Huy, dòng họ lẫy lừng chữ nghĩa... Một nhà, đời Thiệu Trị năm đầu (1841) cha đỗ Tiến sĩ, thì đến đời Tự Đức 23 (1870) con cũng đỗ cử nhân. Người ta kể rằng một ông quan của dòng họ Lê Huy làm đến chức Binh bộ Hữu Tham tri sung Tham tán Đại thần, Tổng đốc cả 6 tỉnh miền ngoài. Một ngày, quan nghỉ ngơi tại quê nhà. Ở ngoài bến sông cánh làng chày chẳng câu đựơc một con cá Vược chỉ hồng. Đây là loài cá quý hiếm, hoạ hoằn lắm đời giăng câu mới đánh bắt được một lần. Khoảng giờ Thìn có người đến dâng quan Tham tán Đại thần khúc giữa con cá Vược chỉ hồng. Ông quan sai người nhà lấy mâm đồng đặt khúc cá đó lên mâm úp lồng bàn lại. Gần trưa có người đến biếu khúc đầu. Quá Ngọ lại có người đến dâng khúc đuôi. Người nhà quan lấp con cá lại thì thấy đủ, chẳng thiếu miếng nào. Nhìn con cá Vược chỉ hồng nằm ềnh trên mâm, ông quan thở: "Ăn hết cả lộc của thiên hạ, dòng họ ta mạt vận rồi ...”. chẳng biết thực hư câu chuyện này đến đâu nhưng dòng họ Lê Huy lụi dần thật. Con trai không mắc họa thì mắcbệnh. Con gái không vướng chuyện nọ thì cũng xọ chuyên kia. Năm gần đây có một người con gái trong dòng họ Lê Huy theo gia phả là đời chắt, chít của ông quan Tham tán Đại thần lên lấy chồng, một ông phó tiến sĩ toán học hẵn hoi. Đang yên đang lành, ông phó tiến sĩ chỉ một trận ốm, đùng đùng "cưỡi hạc quy tiên”, biến người đàn bà của dòng họ khoa bảng thành người goá phụ. May mà ông kịp để dấu ấn cho đời. Người đàn bà có mang, sinh ra một cô bé kháu khỉnh. Họ sống âm thầm trong căn nhà hai gian xây bằng gạch tro lò chưa được trát hết tường ngoài. Năm lên 16 cô bé Trinh phô hết cái vẻ đẹp rực rỡ của vầng trăng tròn đêm rằm. Cứ như nàng Bạch Tuyết xinh đẹp bước ra từ khu vườn cổ tích, đầu thai vào người đàn bà goá của dòng họ Lê Huy. Đây quả là tuyệt tác của tạo hoá. Từ già đến trẻ ai cũng thừa nhận thế. Có cụ già tấm tắc khen: "Thật là nguyệt thẹn hoa nhường. Cụ Nguyễn Du mà còn sống chắc chẳng xếp Kiều đứng vị trí số một đâu”. Bà mẹ nhìn nhan sắc lộng lẫy của con gái mình vừa mừng rỡ, vừa lo lắng. Kiếp hồng nhan vốn bạc mệnh. Nhà nghèo, chẳng có tiền cho nó sắm sửa, quanh năm dăm chiếc áo sơ sài, nó vẫn cứ đẹp đến ngẩn ngơ đám trai làng. Nó thương bà chỉ học đến lớp 12 rồi ở nhà ruộng vườn giúp bà. Ngắm trộm con lúc nó gội đầu, chải tóc,
bà cầu trời khấn phật cái nghiệp oán ngày xưa của dòng họ tha cho con bà. Nhưng ông trời thì không quên. Người chủ nợ của tất cả loài người này tưởng rộng rãi song vô cùng chặt chẽ. Cứ ăn đi, thức ngon vật lạ đấy, hoa quả đấy. Của ông tất. Con người cứ thoải mái xài. Đến lúc ông ta thu hồi vốn là thu cả cục, cả một đời người. Đố ai chết được để trốn nợ ông ta. Ghê gớm lắm. Điều linh tính lo lắng của người mẹ trở thành sự thật. Năm 18 tuổi, người đẹp Trinh "chấm” một cậu kỹ sư cầu đường. Anh chàng này khấp khởi dẫn bố mình vốn là vị Tổng Giám Đốc một Công ty lớn, đi xe con bóng lộn đến thăm nhà bà thông gia tương lai. Cái bụng quá cỡ của Vị Tổng giám đốc như sắp chảy tràn ra cái ghế tựa nhỏ. Bà mẹ lễ phép têm trầu mời khách. Vị tổng giám đốc sai thư ký ra xe đem bia lon và nước khoáng đóng chai vào, nói với bà mẹ khốn khổ kia rằng ông chỉ quen uống loại này, uống các thứ nước kia là bụng ông giở chứng ngay. Liếc nhìn "khuôn viên” nhà đối tượng, ông khịt khịt mũi, liên tục lau khăn mùi xoa, lúc thì bằng tay phải, lúc thì bằng tay trái. Chỉ độ mười lăm phút cái xe con của ông lại còi xoe xoé, dềnh lên, tụt xuống, lắc la lắc lư bò ra khỏi con đường ổ trâu ổ gà rụng đầy lá tre làng. Chắc sau chuyến đi này vị tổng giám đốc phản đối quyết liệt lắm nên cậu kỹ sư buồn ra mặt. Cậu bỏ bê công việc, làm hàng chục bài thơ tình dài ngoằng. Mặc kệ, vị Tổng lạnh tanh giáo huấn "Đừng có thấy đỏ là chín. Phải tỉnh táo trong mọi trường hợp chứ...” Sự lạnh tanh này nhanh chóng được đền đáp với giá thực đắt. Cậu kỹ sư ngồi lặng bên cầu do đơn vị mình vừa thi công trên dòng sông suốt buổi chiều. Đến lúc chập tối, cậu trầm mình xuống dòng sông đen như dòng mực tàu bởi màn đêm. Ngày vớt xác cậu, vẫn cái xe con hôm nọ về. Ngoài vị Tổng còn có thêm một người đàn bà dáng vẻ đài các, nước mắt ròng ròng, gọi con hời hời. Cũng ngày tìm thấy xác chàng kỹ sư trẻ, cô Trinh đột ngột tỉnh dậy sau những ngày ốm lăn lóc. Cô ra bến sông, nhúng mái tóc dài mềm mại xuống dòng nước. Bà mẹ hớt hãi ra tìm con, thấy con mình đang quỳ bên mép nước, sau một lần vái lại cúi xuống uống nước ừng ực. Bà cuống quýt "Mẹ xin con ... mẹ xin con”. Cuối cùng sợ quá bà hét lên thất thanh. Mọi người rầm rập chạy đến. Cô Trinh hất mái tóc đẫm nước sông ra sau, rồi bất ngờ xé toang áo hét to:
1
Đồ độc ác! Không có gì ác bằng các người ... ha... ha...
Điện thật rồi. Đám con trai làng ngẩn mặt. Đám con gái làng trước kia hay ghen tỵ với cô Trinh hôm ấy mắt cũng đỏ hoe...
*
*
*
Đầu tháng bảy âm lịch, chớm ngâu. Chân mây mạn rừng mới thâm sì vài bữa, con sông đang xanh đã đổi màu phù sa. Lác đác những đám bọt hoa mơ từ thượng nguồn đổ về. Nước sông to phềnh, lặc lè bụng, nổi cộm cà bờ bãi. Theo như cách nói của thằng Sa thì con sông chửa: "Trời tí ị mấy bữa mưa rừng con sông đã chửa. Rõ ràng sông chửa với trời chứ chửa với ai nữa...”. Dân làng Yên gọi mùa này là mùa nước đục, mùa các chép sông vật đẻ. Mưa ngâu ồ ồ suốt đêm không ngớt. Những con cá chép chồng dắt cá chép vợ, từng đôi, từng cặp, nổi vây, hở lưng, hở sườn lách lên bãi bồi "vượt cạn”. Mấy tay thợ cá lành nghề trông trời mưa chuẩn bị xăm, nơm, giặm... rình mò đội mưa cả đêm đi bắt cá chép. Một tay đánh dằm dặm từ vùng khác cũng mò đến bãi bồi làng Yên. Đêm ấy mưa to hơn mọi đêm. Lại có cả sét. Những tia chớp như lưỡi rắn khổng lồ sáng chói, rạch ngang dọc bầu trời. Sấm nổ ầm ầm tưởng chừng ông trời nổi điên, sẵn sàng quật chết tươi kẻ nào dám không chịu ngủ, trốn đêm ra khỏi nhà. Trai làng Yên lè lưỡi, đắp chăn, chẳng tay nào dám mò lên bãi. Chỉ mỗi tay đánh dằm dặm kia. Chằng phải gã dũng cảm gì. Tại gã nghèo ***
động của làng Yên. Họ đi làm đồng, ghé vào quán uống bát nước chè xanh, rít thuốc lào. Hoặc cánh dân chài từ bến sông lên, mua chai dầu, lọ mắn xuống thuyền. Thỉnh thoảng có một vài đôi trai gái đi xe máy, phảng phất mùi mỹ phẩm đắt tiền ghé ngang.
Năm nay cây gạo già bung đỏ hoa. Những bông hoa gạo rụng trên mái quán trông như đàn chim lửa ríu rít sà xuống đậu. Bà lão bán hàng vừa treo xong mấy nải chuối, ủ lại nồi chè xanh chuẩn bị đón khách thì thằng Sa đến.
1
Bà lão, có mua dòng sông không?
Bà chủ quan cười móm mém:
2
Anh Sa đấy à. Tôi tưởng có ông khách sộp nào... Hôm nay anh không đi bán hàng ư?
3
Tôi đi bán sông đây. Bà có mua không?
Bà lão giả bộ thất vọng:
4
Vậy mà tôi cứ tưởng anh đi xử án.
Thằng Sa ngồi xuống chiếc ghế, hai tay đặt lên hai đầu gối vẻ trịnh trọng:
5
Tôi vừa xử xong vụ án Lê Chi Viên. Vụ án vườn vải đó. Buồn cười. Bọn tiểu nhân gặp thời đắc chí, tưởng đục nước béo cò, hùa nhau đi hãm hại cả ba họ nhà ông Nguyễn Trãi. Tôi tuyên tử hình chúng tuốt. Van nhé, xin hối lộ tôi hàng đống vàng nhé... cả đôla nữa nhé ... nhưng làm sao tôi dung tha.
6
Đúng đấy... phải trừ hết bọn sâu mọt ấy đi. Anh Sa này, chúng hối lộ anh nhiều thế ư... thời đó cũng có cả đôla ư?
Thằng sa cười khanh khách:
7
Hạng người ấy thời nào chả có đô có vàng... tôi thu hết của cải bất nghĩa ấy đem phát chẩn hết cho dân nghèo...
8
Anh Sa uống nước đi. Thế hôm nay anh có định vào... kia xử án không đấy?
Bà lão vừa nói vừa cố tình đưa ánh mắt nhìn về phía trong làng Yên. Thằng Sa đứng phát dậy:
9
Thôi chết, sắp đến giờ làm việc rồi. Có phải dòng họ ấy nay họp bàn về nàng Tây Thi phải không bà.
10
Nàng Tây Thi nào ...à...à... tôi hiểu rồi. Anh Sa muốn ví cô Trinh với nàng Tây Thi chứ gì. Tôi bảo này- Bà lão thì thầm: Họ đang chuẩn bị bắt cô Trinh đưa lên viện để phá thai đấy.
Mặt thằng Sa sầm lại:
11
Đúng vậy hả bà?
12
Chứ không à. Chúng tôi góp ý mãi chẳng được. Làm cái việc thất nhân, thất đức ấy phải tội chết. Mà lạ lắm anh Sa nhé, cô Trinh nhất định không chịu phá thai, cô ấy ôm chặt cái gối ru nghe thương tâm lắm... Hình như họ đang vận động bà mẹ đồng ý để bắt cô Trinh đưa lên viện hôm nay đấy. Họ bảo nếu để cô Trinh
đẻ thì xấu cả dòng họ...
Thằng Sa nhướn mắt nhướn mày nghe. Chắc hắn bực lắm, rút tung chiếc áo để lộ bộ ngực trần chắc nịch hắn gầm lên:
13
Bà lão, đưa cái búa đốn củi cho ta. Chuyến này ta phải vào miếu chém chằng tinh trừ họa cho dân làng.
Bà chủ quán chưa kịp hiểu hắn vừa nói gì thì hắn đã vồ lấy cái gáo dừa của bà, xồng xộc chạy vào phía nhà cô Trinh. Nhìn cái áo của hắn vứt lại trên đất bà chợt hối hận đã cho hắn biết chuyện vừa rồi. Bà vừa lo lắng vừa hồi hộp dỏng tai nghe tiếng động từ làng vọng ra. Tay bà run lên... không bày được mấy phong kẹo lên trên chõng hàng.
Đúng như lời bà lão nói, nhà cô Trinh hôm nay có việc. lố nhố những đầu người: xanh, đen, hoa râm. Oang oang những cái mồm đang gầm gào đòi vào buồng bắt cô Trinh đưa lên võng. Ngoài ngõ hai chiếc xe đạp buộc cái đòn tre làm cáng đã sẵn sàng. Thằng Sa vào. Quai hàm hắn bạnh lên, ánh mắt long sòng sọc như có lửa quét ngang đám người. Hắn bật ra tiếng cười gằn khô khốc:
14
Á hà...chằn tinh mọc ra lắm đầu nhỉ! Ta phải chặt hết đầu chằn tinh cứu dân làng.
Hắn dậm chân xuống tấn "Song long quá hải này, Phương hoàng đảo phong này. Tả thiên này...”. Đám đông ngỡ ngàng hoảng hốt. Mọi người nhận ra cái hình người
bừng bừng sát khí đó là thằng Sa, cháu ruột võ sư Hồng Vân. Chẳng hiểu trên tay nó có loại vũ khí gì. Loang loáng vù vù lại tròn tròn như cái chùy đồng. Cái chùy đồng vung về phía nào, người ta dạt nghiêng xô đẩy nhau né tránh. Tiếng loảng xoảng cốc chén vỡ. Đám dân văn "vốn không ưa lấy cơ bắp làm sức mạnh” chúi đầu, tán loạn. Chỉ đến lúc dãy ghế và chiếc chiếu trải trên hè sạch quang (Đám đông, người thì nép vào chân cột, người thì phi ra ngõ) bà mẹ cô Trinh mới bước ra. Giọng bà ứ nghẹn:
15
Anh Sa, định phá nhà tôi sao?
Thằng Sa thu chân, đúng thẳng lại. Tay trái hắn vẫn thẳng băng miếng đao tay giơ về phía trước. Tay phải hắn khép một vòng điệu nghệ thu cái chùy đồng về phía sau lưng. Lúc này người ta mới trông rõ đó là chiếc gáo dừa. Chiếc gáo dừa của bà lão bán quán. Vẫn chẳng ai dám đến gần hắn. Dù không phải là chuỳ đồng thật nhưng chiếc gáo dừa rắn chắc thế kia mà choảng vào đầu một phát thì... Chả dại... Thành ra trên cái sân láng xi măng chỉ có một mình bà mẹ cô Trinh dám đối mặt với hắn:
16
Anh Sa ngồi... mời nước.
Anh phẩy tay hỏi gắt gỏng:
17
Tại sao bà dâng con gái mình cho chằn tinh. Bà không thương con gái mình à. Định hối lộ cho cả quỷ dữ để cầu yên thân à?
Bà mẹ bối rối:
18
Tôi thương... thương. Tôi không dâng... tại... tại...
19
Tại chằn tinh đến quấy nhiễu phải không? Á hà... giọng thằng sa lại gằn gằn, mắt hắn lại long lên ném lửa vào đám người xunh quanh:
20
Trước thì không giúp cho gia đình người ta giàu lên. Giờ lại sợ xấu hổ. Ta phải ra tay trừ ác mới được.
Tưởng như con điên của hắn nổi đoá tiếp. Cái chùy đồng lại vù vù loang loáng bay ra. Bổng bóng một người con gái từ trong buồng nhào ra vụt choàng đến bên thằng Sa. Cái bụng lùm lùm sau làn áo. Trinh. Cô Trinh. Mái tóc dài rũ rượi. Khuôn mặt xanh xao đầm đìa nước mắt. Cô chụp bàn tay hắn thổn thức:
21
Dòng sông của anh đây. Trinh của anh đây. Chàng kỹ sư của em, sao giờ này anh mới tới?
Thằng Sa buông rơi cái chùy đồng. Bàn tay hắn lóng ngóng đỡ thân hình cô Trinh chực ngã vào người hắn. Đột nhiên hắn quỳ xuống hướng về phía bà mẹ, thảng thốt:
22
Thưa mẫu hậu, đứa trẻ trong bụng nàng là con của con. Chính con là cha của nó. Cho con được đón nàng về nhà ông chú con để nàng mãn nguyệt khai hoa, ông chú con tốt lắm, không phải là Lý Thông đâu...
Nói xong, thất bất ngờ, hắn vòng tay xuống bế gọn cô Trinh lên, quay người đi ra phía cổng. Đám đông sững sờ. Chắng ngờ thủ phạm tày trời kia lại là thằng Sa. Nào ai bảo đấy là hai kẻ điên: Họ đứng lặng trông theo đôi trai gái. Cánh tay trần của người con gái ôm vòng qua vai thằng Sa, đầu tựa vào ngực hắn vẻ tin cậy. Lúc đôi trai gái đi quan quán nước, bà lão bán hàng chạy theo choàng lên người thằng Sa một vật gì. Hình như là cái áo. Hắn gật đầu rồi mạnh mẽ bồng người con gái đi ngược về hướng làng Nghĩa. Bà lão bán hàng quay lại, thỉnh thoảng nâng vạt áo chấm nước mắt. Trên đê, một bông hoa gạo rụng xoay xoay theo gió giống hết quả cầu đỏ trên lầu cao ném ra từ bàn tay người thiếu nữ kén chồng trong câu chuyện xưa.
*
*
*
Gần sáu năm sau.
Những người khách bộ hành qua con đường dẫn xuống bến đò làng Nghĩa sẽ thấy một ngôi nhà mới nho nhỏ, xanh mát giàn hoa thiên lý trên sân. Ngoài hè một người thiếu phụ khoảng hơn hai mươi tuổi, nước da trắng ngần ngồi bên chiếc máy khâu cặm cụi may vá. Tiếng ai đó gọi vống lên từ dưới bến sông:
-
Cô Trinh ơi, anh Sa về chưa?
Người thiếu phụ gương mặt thanh thanh đằm nét u buồn trả lời vọng lại bằng giọng ngây ngây dại dại:
-
Chưa về ạ. Anh ấy còn dặn phải lên thượng nguồn rửa lại dòng sông, bao giờ nước trong anh ấy mới về bác ạ.
Ngoài ngõ, một đứa trẻ trạc năm tuổi đang thơ thẩn chơi một mình. Cái que làm đòn gánh, toòng teng hai đầu hai túm quả soan, nó vừa đi vừa lánh lót rao:
- Dọc bằng đòn gánh. Củ bằng bình vôi. Ai mua hành tôi thì thương tôi với...ới...
Tiếng đứa trẻ lan lan trong gió.
Dưới kia con sông dài quặn đỏ phù sa vẫn mải miết chảy xuôi...
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top