TÔN ĐỨC THẮNG
TÔN ĐỨC THẮNG
Chủ tịch nước (1969-1981)
Truyền thống quật cường của quê hương đất nước đã sớm hun đúc lòng căm thù giặc và tinh thần yêu nước của người thanh niên Tôn Đức Thắng, cuộc sống và ý thức giai cấp công nhân đã tiếp bước rèn luyện người thanh niên ấy trở thành một chiến sĩ cách mạng kiên cường và lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam.
Bác Tôn sinh ra trên mảnh đất Long Xuyên của Nam Bộ bất khuất và đau thương bị thực dân Pháp xâm chiếm hơn 20 năm. Những năm tuổi thơ, Bác Tôn sống ở quê nhà và đi học trường trong tỉnh. Học xong bậc tiểu học, Bác tạm biệt gia đình đi lên Sài Gòn - mở đầu cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi vì Tổ quốc, vì nhân dân của Bác.
Năm 1906, Sài Gòn đón nhận người thanh niên mười tám tuổi đầy tâm huyết Tôn Đức Thắng. Hạt giống cách mạng giờ đây được ươm giữa lòng đô thành Sài Gòn đầy bóng quân xâm lược. Bác Tôn không chọn con đường tiến thân nào khác, mà quyết định đến ngay với giai cấp công nhân.
1. Tóm tắt cuộc đời và sự nghiệp
2. Diễn tiến việc kéo cờ đỏ trên chiến hạm France
3. Công hội bí mật và cuộc bãi công của 1000 công nhân Ba Son
4. Những danh hiệu cao quý được trao tặng
5. Trích dẫn một số câu nói dàng tặng Bác Tôn
6. Một số giai thoại về Bác Tôn
7. Tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng
8. Bác Tôn - Người cộng sản mẫu mực biểu tượng của đại đoàn kết
9. Về thăm quê Bác Tôn
10. Xí nghiệp Ba Son
11. Bảo tàng Tôn Đức Thắng
12. Đường Tôn Đức Thắng
13. Thư của Chủ tịch Tôn Đức Thắng gửi các chiến sĩ nhân ngày 30/4/1975
14. Công Đoàn Việt Nam qua 9 kỳ Đại hội
15. Một số sách báo tham khảo
1. TÓM TẮT CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
Bí danh: Thoại Sơn
Ngày sinh: 20/8/1888
Ngày mất: 30/3/1980
Quê quán: Xã Mỹ Hoà Hưng, TP Long Xuyên, Tỉnh An Giang
Thành phần gia đình xuất thân: Nông dân
Ngày vào Đảng: 1930
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC
• Từ 1906-1909: Học Trường Kĩ nghệ Viễn Đông, làm công nhân Nhà máy Ba Son của Hải quân Pháp ở Sài Gòn;
• Năm 1912: Tổ chức cuộc bãi công của công nhân xưởng Ba Son
• Từ 1914 đến 1918: Tham gia hoạt động cách mạng từ chiến tranh thế giới, làm công nhân quân giới ở quân cảng Toulon (miền Nam nước Pháp) và làm thợ máy trên chiến hạm France.
• 20/4/1919: Dưới sự lãnh đạo của Công hội Pháp đã tham gia phản chiến và treo cờ đỏ trên chiến hạm để ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga, tham gia cuộc binh biến của binh sĩ Pháp ở mặt bể Hắc Hải, sau đó bị trục xuất khỏi nước Pháp.
• Năm 1920: Lập Công hội bí mật ở Sài Gòn, đây là tổ chức Công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam.
• Năm 1927, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và trực tiếp lãnh đạo phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn.
• Tháng 12/1928: Bị địch bắt ở Sài Gòn.
• Ngày 26/7/1929: Bị kết án 20 năm khổ sai.
Đêm ngày 2 rạng sáng ngày 3/7/1930, con tàu Armand Roussean của thực dân Pháp lặng lẽ rời Sài gòn đưa Tôn Đức Thắng và một số cán bộ, quần chúng yêu nước đày ra Côn Đảo. Kể từ đó cho ngày ngày 18/8/1945, khi Côn Đảo được giải phóng, người tù mang số tù 5289-TF cùng với lời ghi chú trong phiếu quản lý "Phần tử nguy hiểm" đã chứng tỏ nghị lực phi thường, ý chí kiên cường và lòng trung thành vô hạn với CM. 15 năm ở địa ngục trần gian Côn Đảo là quãng thời gian thử thách lớn nhất trong cuộc đời hoạt động CM của Tôn Đức Thắng nhưng đó cũng là quãng đời đầy vinh quanh khi Bác thực sự biến nhà tù đế quốc thành trường học CM.
• Năm 1930: Lập chi bộ nhà tù lãnh đạo anh em trong tù đấu tranh, được Xứ ủy Nam Kỳ thừa nhận là chi bộ đặc biệt và là đảng viên từ đó. Bằng những kinh nghiệm đã có trong tổ chức Công hội bí mật ở Sài Gòn, Tôn Đức Thắng đã bàn với những người cộng sản thành lập Hội những người tù đỏ làm hạt nhân lãnh đạo, tập hợp tù nhân, tạo sức mạnh đoàn kết chống lại chế độ lao tù.
Nhiều Đảng viên cộng sản trong đó có Tôn Đức Thắng bị kết án khổ sai cũng bị giam chung với tù thường phạm ở Banh I, nơi chuyên giam giữ tù lưu manh, trộm cắp, đã nhiều lần mang án. Đây là thủ đoạn thâm độc của thực dân Pháp mượn bàn tay của những tên tù anh chị nhằm tiêu diệt những người cộng sản.
Là một người đã có kinh nghiệm trong tổ chức Công hội bí mật ở Sài Gòn, Tôn Đức Thắng đã bàn và cùng với những người cộng sản thành lập Hội những người tù đỏ làm hạt nhân lãnh đạo, tập hợp tù nhân, tạo nên sức mạnh đoàn kết chống lại chế độ lao tù.
Trong một lần liên lạc của Hội, bọn gác ngục đã phát hiện được Tôn Đức Thắng và phạt giam ở Hầm xay lúa. Hầm là địa ngục của địa ngục, một hình thức cực hình đối với tù nhân, địch gọi là "Khu trừng giời". Với âm mưu thâm độc của địch muốn dùng tay anh chị để hành hạ và giết Tôn Đức Thắng, hiểu được ý đồ này, Tôn Đức Thắng đã tập hợp một số đồng chí cộng sản cũng bị đày ở Hầm xay lúa bàn cách nắm lấy quyền lực để cải thiện đời sống và điều kiện làm việc cho những bạn tù ở Hầm: bỏ lối cai quản người tù bằng roi vọt, sắp xếp, phân công để tất cả mọi người làm việc theo điều kiện sức khỏe, người yếu thì sàng gạo, đóng bao, người khỏe thì xay và khuân vác thóc, kíp đứng cối thì bố trí thêm người, thay nhau người làm, người nghỉ.
Năm 1934, sau khi rời khỏi Hầm xay lúa, Tôn Đức Thắng làm việc tại Sở Lưới, vừa sửa máy vừa lái canô. Sở lưới, với vai trò của Tôn Đức Thắng trở thành trung tâm giao liên quan trọng của tổ chức Đảng ở Côn Đảo và là đầu mối để tổ chức cho cán bộ, đảng viên bị tù ở Côn Đảo trốn về hoạt động trong đất liền.
...
Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, nhanh chóng đánh bại đạo quân Quan Đông hơn một triêu lính tinh nhuệ của Nhật. Ngày 15/8/1945, phát xít Nhật chính thức đầu hàng Liên Xô và các nước đồng minh không điều kiện. Đảng ta kịp thời chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân cả nước vùng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Sau khi nghe lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập do một đài nước ngoài phát lại, toản đảo vui mừng không xiết. Sáng 23/9/1945, tàu Phú Quốc cùng 25 chiếc thuyền bầu đã nhổ neo đưa 1800 tù chính trị trở về đất liền. Chiếc canô vừa được sửa lại mang tên Giải phóng do chính Tôn Đức Thắng lái đưa một số đồng chí trong Ban lãnh đạo trở về. Tuy gian nan, vất vả nhưng chiều ngày 2/3/9/1945 mọi người đã cập bến Đại Ngãi, tỉnh Sóc Trăng trong sự đón tiếp nồng nhiệt của Đảng bộ và nhân dân địa phương.
• Từ 8/1945: Ở Côn Đảo trở về Nam Bộ làm Uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ phụ trách về vấn đề lương thực và vũ khí.
• Ngày 6/1/1946: Trúng cử là đại biểu Quốc hội khóa đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tham gia phái đoàn Quốc hội sang Pháp.
• Ngày 1/5/1948, Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi thi đua yêu nước, và đến ngày 11/6/1948 chính thức phát động cuộc vận động thi đua yêu nước. Đây là thời kỳ Tôn Đức Thắng có nhiều cố gắng và đạt kết quả tốt trong việc làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng về thi đua yêu nước trở thành động lực của cuộc kháng chiến kiến quốc.
Nhân dịp đồng chí Khu trưởng khu VIII Nam Bộ ra báo cáo với Trung ương và Bác Hồ về tình hình cuộc kháng chiến, Tôn Đức Thắng đã đến thăm Đoàn và trao đổi thân tình: "Mặc dầu tham gia vào cuộc lãnh đão chung ở ngoài này - một nhiệm vụ rất lớn, nhưng lúc nào tôi cũng nghĩ tới đồng bào Nam Bộ, lúc nào cung nghĩ tới chiến trường Nam Bộ là nơi đồng chí, đồng bào đương kháng chiến gian lao. Tôi đã nhiều lần đề nghị với Bác Hồ, với Trung ương cho trở về chiến trường để cùng với đồng chí, đồng bào Nam Bộ tham gia kháng chiến nhưng Bác Hồ chưa đồng ý (...). Đề nghị đồng chí, đề nghị đoàn về báo cáo lại với Xử ủy và với đồng báo Nam Bộ rằng, Tôn Đức Thắng là người con của nhân dân Nam Bộ, lúc nào cũng nghĩ tới đồng bào Nam Bộ, nghĩ tới xứ sở mà mình đã sinh ra và đã từng hoạt động". Trong thời gian này, Ban Thường trực Quốc hội đã phân công các ủy viên đi các địa phương ở Liên khu III và liên khu Việt Bắc động viên nhân dân kháng chiến, Tôn Đức Thắng được giữ chức Quyền trưởng Ban.
• Từ 1951: Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Tại Đại hội Đảng lần thứ II được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Ông là Đại biểu Quốc hội liên tục các khóa I-VI.
• Tháng 9/1955: Được bầu làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội.
• Từ 1960: Được giữ các chức vụ: Phó trưởng Ban thường trực Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Tổng Thanh tra toàn quốc, Trưởng Ban thường trực Quốc hội, Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (tháng 7/1960). Tại Đại hội Đảng lần thứ III (9/1960) được bầu làm Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
• Ngày 23/9/1969 đến 1981: Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976) của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương.
• 30/3/1980: Qua đời tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.
Tuy không có nền tảng giáo dục hoàn hảo nhưng ông được coi là một trong những hình tượng của Cách mạng và Nhà nước Việt Nam. Tuy là Ủy viên Trung ương từ năm 1951 cho tới khi mất nhưng ông chưa bao giờ được bầu vào Bộ Chính trị.
2. DIỄN TIẾN VIỆC ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG KÉO CỜ ĐỎ TRÊN CHIẾN HẠM FRANCE
Khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) bùng nổ, nhiều người Việt Nam phải vào phục vụ quân đội Pháp. Là người thợ máy giỏi, ngày 9/10/1916, đồng chí Tôn Đức Thắng nhận lệnh xuống phục vụ tại chiến hạm France và là người Việt Nam duy nhất trên chiến hạm đó. Đến ngày 16/4/1919, mặc dù chiến tranh thế giới đã kết thúc, chính phủ Pháp điều động một hạm đội gồm 5 chiến hạm (trong đó có chiến hạm France) vào Hắc Hải để cùng với các đế quốc khác chống lại nước Nga Xô Viết trẻ tuổi. Các chiến hạm được lệnh vượt qua eo biển Đác-đa-nen tiến vào biển Đen và bắn phá hải cảng Xê-vat-tô-pôn.
Anh em binh lính trên hạm đội bất bình vì phải tiếp tục đổ máu, dù chiến tranh đã kết thúc. Biết được âm mưu ấy, thợ máy Tôn Đức Thắng đã cùng anh em binh lính Pháp quyết định phản chiến.
8 giờ sáng ngày 20/4/1919, cuộc binh biến nổ ra trên chiến hạm France và Jean Bart. Lá cờ đỏ được kéo lên trên chiến hạm France trước cửa thành Xê-vat-tô-pôn, do đồng chí Tôn Đức Thắng thực hiện, đã được anh em binh lính, công nhân trên tàu chuẩn bị trước.
Bằng hành động đó, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng tháng Mười và xây đắp tình hữu nghị Việt - Xô, đồng thời, biểu thị tình cảm của nhân dân Việt Nam lúc đó còn là thuộc địa của Pháp, chào mừng nhà nước Công nông đầu tiên trên thế giới.
3. CÔNG HỘI BÍ MẬT VÀ CUỘC BÃI CÔNG CỦA CÔNG NHÂN BA SON
Sau một thời gian làm việc tại Pháp, đồng chí Tôn Đức Thắng trở về Sài Gòn. Chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga và với những kinh nghiệm hoạt động trong phong trào Công đoàn Pháp, đồng chí Tôn Đức Thắng đã đi vào hoạt động trong tầng lớp công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn và trực tiếp vận động thành lập Công hội Đỏ đầu tiên ở Việt Nam. Sau một thời gian vận động chuẩn bị, vào đầu 1921, Công hội Đỏ đã ra đời tại Cảng Sài Gòn, trường Bá Nghệ Cao Thắng, nhà đèn Chợ Quán và xưởng Ba Son, nhà máy đèn Sài Gòn. sau dần dần phát triển đến hãng Faci và nhiều nơi khác. Hội trưởng của Công hội lúc đó là Tôn Đức Thắng - thợ máy nhà đèn Chợ Quán.
Công hội đỏ là một tổ chức bí mật, lúc này hoạt động bất hợp hợp, gồm những công nhân tiên tiến ở nhiều xí nghiệp trong thành phố. Hội hoạt động không có điều lệ viết ra thành văn bản. Ngay khi ra đời, với mục đích hành động là tương trợ và đấu tranh bênh vực quyền lợi cho công nhân, công hội đã lãnh đạo, tổ chức nhiều cuộc bãi công của công nhân tại các nhà máy.
Vào năm 1925, trước tình hình đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc đang sôi sục ở Quảng Châu, các nước đế quốc phương Tây rắp tăm can thiệp bằng cách đưa lực lượng hải quân đến trấn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc ở những vùng tô giới. Lực lượng hải quân Pháp tham gia chiến dịch này với một hạm đội gồm 3 chiến hạm: Jules Ferny, Le Maine, Jules Michelet. Hạm đội này do chiếc tàu tuần dương thiết giáp Jules Michelet chỉ hy. Trên đường đi, tàu Michelet đã có hiện tượng hư hỏng, bọn chỉ huy quân Pháp gấp rút đưa đi sửa để kịp sang Trung Quốc. Nắm được nguồn tin quan trọng này, Tôn Đức Thắng lập tức thông báo cho các hội viên công hội và bàn biện pháp đấu tranh.
Lúc này, Ba Son là xưởng duy nhất ở Đông Dương mà công nhân được hưởng quy chế ngày làm 8 giờ, lương tháng, lương ngày đểu cao hơn các nơi khác, cho nên vận động bãi công ở đây rất nguy hiểm, lại rất khó. Nhưng ngoài cách bãi công thì không còn cách nào giam chân đội tàu chiến Pháp. Như vậy, cuộc đấu tranh về cơ bản có tính chất chính trị, nhưng khẩu hiệu chính trị không được nêu lên, chỉ nêu lên những yêu sách kinh tế, làm như vậy mới tập hợp được toàn thể công nhân viên chức tham gia.
Ban lãnh đạo đình công đưa kiến nghị lên giám đốc đòi giải quyết các yêu sách:
- Tăng lương cho tất cả công nhân lên 20%
- Phải gọi lại số thợ bị đuổi việc trong các cuộc đình công trước đây làm việc lại
- Ngày lĩnh lương phải cho nghỉ trước nửa giờ như thường lệ
Mặc dù giám đốc Courthial, Thống đốc Nam Kỳ hăm dọa, rồi dụ dỗ, mua chuộc, nhưng anh em công nhân không hề nao núng vẫn tiếp tục đình công. Để ủng hộ cuộc đấu tranh, hàng vạn công nhân, viên chức Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã quyên góp gạo, tiền giúp đỡ cuộc đình công.
Một phần là cần phải sửa chữa chiến hạm cho sớm để kịp chiến dịch, một phần bị cấp trên quở trách, ban giám đốc xưởng Ba Son buộc phải nhượng bộ và điều đình với ban lãnh đạo cuộc đình công, chấp nhận tăng 10% lương cho công nhân và bỏ lệnh cắt 15 phút làm bù ngày lãnh lương.
Cuộc bãi công chấm dứt thắng lợi, anh em công nhân chuyển sang hình thức lãn công, kéo dài thời gian sửa chữa chiến hạm. Mãi đến ngày 28/11/1925, chiến hạm Michelet mới ra khỏi xưởng Ba Son sau khi bị giam ở đây ba tháng rưỡi.
Cuộc đấu tranh với mục đích chính trị rõ rệt nhưng diễn ra một cách khôn khéo dưới khẩu hiệu khác. Tiếng vang của cuộc đấu tranh này đã vượt ra ngoài phạm vi quốc qua đến với phong trào cách mạng vô sản và công nhân thế giới.
4. NHỮNG DANH HIỆU CAO QUÝ ĐƯỢC TRAO TẶNG
- Năm 1955, được Ủy ban Giải thưởng hòa bình quốc tế Lênin tặng giải thưởng Lênin "Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc"
- Năm 1958, được Quốc hội và Hồ Chủ Tịch tặng thưởng Huân chương Sao Vàng
- Năm 1967, được Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô tặng thưởng Huân chương Lênin về những hành động cách mạng của Bác Tôn góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền Xô viết trong thời kỳ nội chiến
- Năm 1978, được Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô tặng thưởng Huân chương Cách mạng Tháng Mười để ghi nhận công lao đóng góp to lớn của Chủ tịch Tôn Đức Thắng vào việc phát triển và củng cố tình hữu nghị anh em, hợp tác về mọi mắt giữa Việt Nam - Liên Xô.
- Năm 1978, Đoàn chủ tịch Quốc hội Mông Cổ, tặng thưởng Huân chương Xu-khechương Xu-khê Ba-to, huân chương cao quý nhất của Mông Cổ, để ghi nhận công lao to lớn của Chủ tịch đã cống hiến cho sự nghiệp hòa bình, hữu nghị và chủ nghĩa xã hội của các dân tộc; trong việc củng cố tình hữu nghị anh em giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Mông Cổ.
5. MỘT SỐ CÂU NÓI ĐƯỢC TRÍCH DẪN
"Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người con rất ưu tú của Tổ quốc... Là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần kiệm liêm chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân"
(Lời chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp đồng chí Tôn Đức Thắng được trao tặng Huân chương sao vàng, 20/8/1958)
"Cụ Tôn Đức Thắng và đồng chí Nguyễn Lương Bằng là hai chiến sĩ lão thành của cách mạng Việt Nam, những người bạn chiến đấu gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những người con ưu tú của dân tộc Việt Nam ta. Hai đồng chí được Quốc hội nhất trí tín nhiệm giao cho trọng trách lãnh đạo Nhà nước ta là rất xứng đáng"
(Lời chúc mừng của đồng chí Trường Chinh nhân dịp đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu giữ Chủ tịch nước, 1969)
"Bác Tôn là người chiến sĩ cách mạng không bao giờ và không gì lay chuyển được, một con người hết sức nhiệt thành, trung thực, quên mình, nay đã 88 tuổi rồi mà luôn nhẹ nhàng, thanh thản"
(Lời của đồng chí Lê Duẩn, trong một dịp đi thăm Côn Đảo năm 1976)
"Đồng chí Tôn Đức Thắng là tượng trưng của những tinh hoa của phẩm chất cách mạng và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân Việt nam, dân tộc Việt nam và những người cộng sản Việt Nam .. Chỉ thấy ở Bác đức tính, một phong cách không hề biến đổi. Đó là đức tính, phong cách công nhân, giản dị, chân thành, trong sáng. Khi đã là người lãnh đạo, đồng chí vẫn giữ những đức tính vốn có của mình. Giản dị mà cao quý biết bao!"
(Xã luận báo Nhân dân, cơ quan TW của Đảng Cộng sản Việt Nam, số ra ngày 3/4/1980)
"Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tủy, về tinh thần anh dũng, bất khuất, về đức tính khiêm tốn giản dị. Toàn thể đồng chí và đồng bào chúng ta rất tự hào về sự nghiệp và đạo đức cách mạng của đồng chí. Chúng ta quyết mãi mãi noi gương cao cả của đồng chí để khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng ... Đồng chí là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh".
(Điếu văn đọc trong lễ truy điệu đồng chí Tôn Đức Thắng)
6. VÀI GIAI THOẠI VỀ BÁC TÔN
* Thiếu tướng Tô Ký kể chuyện Bác Tôn
Anh Ba Tô Ký tới thăm chú Hai Thắng vào một ngày chủ nhật tại Hà Nội. Bấy giờ vào khoảng ba giờ chiều. Anh Ba rất ngạc nhiên khi thấy chú Hai ở trần, chỉ mặc quần đùi, tay cầm mỏ-lết, loay hoay sửa dây sên chiếc xe đạp. Đây là xe đạp riêng của chú Hai Thắng mà sáng nào chú Hai cũng đạp một vòng hoặc ở Vườn Bách Thảo, hoặc ở Hồ Tây. Đi thăm bạn bè ở gần nhà, chú Hai Thắng cũng đạp xe. Vừa là thể dục thể thao, vừa là tiết kiệm công quỹ (không phải dùng command-car tốn xăng).
Chuyện chú Hai Thắng tự tay sửa xe hay các vật dụng trong nhà, không phiền tới anh em thợ là chuyện ai cũng biết. Anh Ba Tô Ký "sà" xuống ngồi kế bên xem chú Hai sửa xe. Bỗng anh Ba thấy trong hộp đựng dụng cụ "cờ-lê, mỏ-lết" có mấy chiếc huân chương các hạng nằm bên cạnh các kềm búa. Anh khẽ kêu lên:
- Chú Hai, sao lại có mấy cái này trong hộp đồ nghề?
Bác Tôn vẫn tiếp tục sửa cho xong sợi dây sên, chậm rãi nói:
- Có mấy cái này (chỉ kềm búa) mới có mấy cái đó (chỉ các huân chương).
Chỉ một câu vắn tắt đó, chú Hai Thắng đã giúp anh Ba Tô Ký nhận ra chân lý: "Lao động tạo ra tất cả - mà đỉnh cao là vinh quang".
Chuyện này anh Ba Tô Ký thường kể với bạn bè và kết luận: "Bác Tôn đúng là một người thợ".
Hãy nghe bác sĩ Trần Hữu Nghiệp kể về chuyện Bác Tôn sửa Pháp văn của bác sĩ Nghiệp thì mới biết cái vốn tiếng Pháp của Bác Tôn.
* Bác sĩ Nghiệp nhận Bác Tôn là thầy
Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp may mắn được làm "ngự y" (bác sĩ riêng) cho Bác Tôn trong chuyến công du sang nước Đức và Liên Xô vào cuối năm 1955 và đầu năm 1956. Đi Cộng hòa Dân chủ Đức là để dự lễ chúc thọ Chủ tịch Vin-hem-pích 80 tuổi. Đi Liên Xô là để nhận Giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lénine.
Bác Tôn nhờ bác sĩ Nghiệp viết giùm bài phát biểu ngắn để Bác đọc tại lễ chúc thọ Chủ tịch nước Đức.
Bác sĩ Nghiệp tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ tại Paris, nói và viết tiếp Pháp dễ dàng như nói và viết tiếng mẹ đẻ.
Chừng đưa bản thảo cho Bác duyệt thì lạ lùng làm sao, bác sĩ Nghiệp bị Bác Tôn sửa văn. Và sửa rất chính xác. Đó là câu "Nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình" Bác sĩ Nghiệp viết "Le peuple Vietnamien aimant la paix" Bác Tôn dùng bút đỏ sửa "aimant la paix" ra "épris de paix". Cụm từ "épris de paix" hay hơn "aimant la paix" rất nhiều. Từ đó bác sĩ Nghiệp suy tôn Bác Tôn là "sư phụ".
Cũng như bác sĩ Nghiệp, ai cũng biết Bác Tôn có bằng Tiểu học (Cerrtificat d'Eựtudes Primaires Complémentaires Indochinoises - CEPCI) rồi học bốn năm Trường Máy trước khi đi làm thợ ở hãng Ba Son (Tây gọi là Arsenal tức Hải quân Công xưởng). Vậy mà trình độ Pháp văn của Bác Tôn "ăn trùm" vốn liếng tiếng Pháp của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp đã học Pháp văn từ lớp chót lên tới tú tài là 13 năm, cộng với bảy năm học Đại học Y khoa, tổng cộng là hai mươi năm trường.
Anh Ba Khiêm kể về Bác Tôn ở Côn đảo
Côn Đảo là trường mẫu giáo đồng thời là trường đại học chính trị cho anh em tù bị thực dân Pháp đày ra hòn đảo ngục tù này. Trong giới chính trị phạm có câu nói vui "Lycée Khám Lớn, đại học Côn Nôn" (Lycée tiếng Pháp có nghĩa là trung học).
Trong tù có nhiều lớp học. Lớp dạy văn hóa, đặc biệt là sử - địa, lớp dạy chính trị. Lớp dạy chính trị có thêm vài ban như ban sưu tầm (sách báo), ban sao chép (để phát cho nhiều phòng), đồng chí Phạm Văn Đồng dạy chính trị, ban sưu tầm có Bác Tôn, anh Ba Khiêm (Ung Văn Khiêm), ban sao chép có anh Sáu Tây (Nguyễn Văn Tây)�
Bác Tôn làm ở Sở Lưới, nơi có mấy chiếc chaloupe (sà lúp) và canot (ca nô). Chúa đảo Bouvier đưa Bác Tôn về đây sau khi đọc hồ sơ, thấy người tù số 5289 từng là trưởng máy tốt nghiệp Trường Máy Sài Gòn, làm thợ hãng Ba Son và có thâm niên hai năm trưởng máy trên chiến hạm France của Quân cảng Toulon. Lão phệ Bouvier muốn sử dụng tay nghề của người tù lừng danh nầy. Lão có lý phần nào vì sà-lúp hư, ca-nô hỏng, người tù 5289 đều sửa tốt và nhanh. Nhưng lão không ngờ đã tạo điều kiện cho nhà cách mạng cao tuổi phục vụ đắc lực phong trào học chính trị trong khám. Nhờ lái ca-nô, Bác Tôn thường gặp các thủy thủ Pháp trên các tàu viễn dương tuyến Marseille - Sài Gòn. Qua đó Bác xin báo Le Paria, báp L'Humanité, bí mật giao cho anh Ba Khiêm giấu trong đòn gánh chuyển về trại giam. Anh Ba Khiêm kể chuyện này và xem Bác Tôn là người tiếp tế sách báo chính trị cho anh em chính trị phạm thời ấy (những năm 1932 - 1935).
Lái Ca-nô Cứu tù vượt ngục
Vẫn theo lời kể của anh Ba Khiêm, mỗi khi có tù vượt ngục, chúa đảo cho lính lên ca-nô đuổi theo. Người lái là tên tù số 5289. Nhưng nếu bọn lính recherche (rờ sẹt) tinh ý sẽ thấy không lần nào chúng bắt được tù vượt đảo nếu ca nô do người tù số 5289 lái. Nhiều lần chúng bỏ ống dòm thấy bạn bè của tù nhấp nhô trước mắt. Bọn chúng hí hửng sắp có tiền thưởng và sẽ được lên hương với chiên công bắt được tù vượt ngục của biển khơi. Nhưng chúng đã mừng quá sớm. Ca nô đang chạy ngon trớn bỗng khẹt khẹt rồi bốc khói đen kịt. Chúng quay lại hỏi tài xế. Người tù 5289 đang hì hục tháo máy, dũa bougie hay mở bộ phận lọc dầu hút cặn. Loay hoay sửa đến mồ hôi hột. Chừng máy nổ tốt thì than ơi đêm đã xuống tối đen. Không còn thấy bóng dáng chiếc bè kia đâu! Vậy là đành dậm chân chắc lưỡi quay về tay không. Có đứa sanh nghi, nhung làm sao dám chê tài lái ca nô của người thợ máy nổi tiếng từ quân cảng Toulon tới Sài Gòn!
Chưa có ai hỏi trong mười sáu năm ở Côn Đảo và trong mấy năm làm ở Sở Lưới, Bác Tôn đã cứu bao nhiêu đồng chí đồng đội vượt trên Biển Đông.
Theo lời kể của đồng chí Nguyễn Văn Trí - người có dịp chung sống với Bác Tôn trong một thời gian khá dài tại Côn Đảo
Một cách xóa bỏ thành kiến hay nhất
Trong nhà giam, có một đồng chí vì có phạm sai lầm nên bị một số đồng chí khác thành kiến. Đồng chí này đem chuyện đó phàn nàn với Bác Tôn.
Bác giải thích:
- Việc thành kiến như vậy, thường là do sự ấu trĩ của hai bên. Nhưng về phía người bị thành kiến nên kiểm điểm xem mình có sai lầm gì không, hoặc việc làm đúng mà thái độ không tốt khiến cho người ta có thành kiến với mình. Về phía anh em, thành kiến với đồng chí là không đúng. Muốn xóa bỏ hết thành kiến, chỉ có một cách: Anh nỗ lực hoạt động cho cách mạng với tất cả nhiệt tình của mình. Các đồng chí kia cũng hăng hái làm cách mạng. Đôi ba năm sau, chậm là năm, mười năm, hai bên đều tiến bộ cả: hai bên sẽ đoàn kết thêm hơn và câu chuyện thành kiến trở thành không đáng kể. Đó là một cách giải quyết có hiệu quả nhất.
Những phút nghiêm khắc xét mình
Trong nhà tù, thường có những lúc Bác Tôn đi đi lại lại, trầm lặng. Một hôm, có đồng chí hỏi Bác:
- Anh suy nghĩ gì đó?
Bác trả lời:
- Kiểm điểm lại trong đời hoạt động, tôi có gặp rất nhiều người trong giới lao động, kể cả lao động ngoại quốc. Trong số đó có rất nhiều người tốt. Vậy mà có người chưa được tôi tuyên truyền gì cả, hoặc có, nhưng không thấm vào đâu. Có người đã giác ngộ rồi mà tôi chưa tìm mọi cách để giúp đỡ họ trở thành đảng viên tốt. Tôi rất ăn năn, vì như vậy là mình thiếu tinh thần trách nhiệm đối với cách mạng. Xét cho cùng, mình hãy còn thiếu một nhiệt tình cách mạng đầy đủ.
Triết lý chơi cờ tướng của Bác Tôn
Trong lúc ở tù, Bác Tôn hay đánh cờ tướng.
Mặc dù đánh với ai, hễ thấy đối phương đi hớ nước nào là Bác chỉ cho, và ai muốn hoàn nước nào cũng được. Phần Bác, Bác suy nghĩ rất kỹ, và đi thì rất quyết tâm đi, không bao giờ hoàn.
Thấy Bác rộng lượng, anh em thường trêu cho vui. Năm ba người vào một phía, vừa đánh vừa la, vừa trêu tức. Vậy mà Bác không hề cáu, không giận ai bao giờ.
Hỏi Bác, Bác trả lời:
- Tôi đánh cờ để học tập, để rèn luyện chớ không cốt ăn thua với anh em. Đời tối đã có nhiều lần làm rồi mới biết sai, nói rồi mới biết lỡ. Những sơ sót ấy không phải vì mình kém khôn ngoan, mà là do thiếu thận trọng. Vì vậy, tôi đánh cờ để tập tính thận trọng. Phải tính toán hết nước, nhưng nếu trí thông minh và sức tính toán của mình chỉ đến nước ấy thôi, đành chịu vậy.
7. CHỦ TỊCH TÔN ĐỨC THẮNG
- TẤM GƯƠNG SÁNG NGỜI VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước bị rơi vào tay thực dân Pháp xâm lược, chứng kiến sự hành hạ, đối xử bất công của chúng đối với người dân nước Việt, ở Tôn Đức Thắng sớm xuất hiện tình cảm yêu nước, căm ghét bọn thực dân. Rồi tiếng vang của các nghĩa quân: Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương và nhiều tấm gương anh dũng chống thực dân Pháp đã in sâu trong tâm hồn cậu bé Tôn Đức Thắng.
Chính với hành trang yêu nước, thương nòi ấy, năm 1912, anh thanh niên Tôn Đức Thắng đã tham gia tổ chức cuộc bãi công của học sinh trường Bá Nghệ và công nhân Nhà máy sửa chữa tàu thủy Ba Son. Gần 10 năm sau, năm 1920, trở về Sài Gòn sau sự kiện kéo cờ trên Hắc Hải nổi tiếng, Tôn Đức Thắng cùng những người bạn thân thiết lập ra tổ chức đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam - Công hội bí mật tại Sài Gòn - Chợ Lớn, nhằm đấu tranh bênh vực quyền lợi của công nhân, đấu tranh chống đế quốc tư bản.
Bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Tôn Đức Thắng mở ra vào một ngày cuối năm 1926, khi nhận được chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Tôn Đức Thắng nhanh chóng tán thành gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tán thành con đường cứu nước giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ đây, trong con người Tôn Đức Thắng, yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành với Tổ quốc, với dân tộc cũng đồng thời là trung thành với sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã nâng lòng yêu nước chân chính của Tôn Đức Thắng lên một tầm cao mới, thêm sức mạnh và hăng hái lao vào hoạt động cách mạng. Năm 1927, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Kỳ thành lập. Tôn Đức Thắng được cử là một thành viên trong ban lãnh đạo Kỳ bộ và trực tiếp phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Trên cương vị này, Tôn Đức Thắng đã tích cực tuyên truyền giác ngộ và cùng các đồng chí của mình tham gia chuẩn bị cho sự ra đời của một đảng mác-xít chân chính ở Việt Nam.
Cuối năm 1929, giữa lúc phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ thì Tôn Đức Thắng bị mật thám Pháp bắt, đưa về Khám lớn Sài Gòn và dùng mọi cực hình tàn bạo hòng khai thác những tin tức về cách mạng. Nhưng chúng đã thất bại trước khí phách kiên cường, bất khuất của người chiến sĩ cộng sản. Chúng kết án Tôn Đức Thắng 20 năm khổ sai và đày ra Côn Đảo. Ở nơi "địa ngục trần gian", Tôn Đức Thắng vẫn vững lòng tin vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam, cùng các đồng chí ở Banh 1 thành lập Chi bộ đặc biệt và trở thành một trong những người lãnh đạo của chi bộ cùng anh em trong tù tiếp tục đấu tranh.
Cách mạng Tháng Tám thành công, vừa được đón về đất liền, người chiến sĩ cộng sản Tôn Đức Thắng đã hăng hái cùng quân dân miền nam chiến đấu chống thực dân Pháp; sau đó được điều ra bắc, lần lượt đảm nhiệm các trọng trách: Phó Hội trưởng Hội Liên Việt, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau đó là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dù ở cương vị nào, Chủ tịch Tôn Đức Thắng cũng luôn luôn nêu cao phẩm chất trung thành với Tổ quốc, với dân tộc, với Đảng, hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Có thể nói, khiêm tốn và giản dị, tình nghĩa và trong sáng là những đức tính của Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Chủ tịch Tôn Đức Thắng rất khiêm nhường. Một người dân thuộc địa tham gia cuộc binh biến ở Hắc Hải năm 1919 để bảo vệ nước Cộng hòa Xô-viết trẻ tuổi là một sự kiện được nhân dân Liên Xô cũng như nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ thế giới khâm phục, ngợi ca. Vậy nhưng khi hồi tưởng lại sự kiện này, Chủ tịch khiêm tốn viết: "Tôi tin rằng, bất kỳ người Việt Nam yêu nước nào, nhất là công nhân, được tham gia vào những giờ phút lịch sử đó tại Biển Đen, không thể hành động khác tôi. Bởi vì yêu Tổ quốc và căm thù đế quốc, cũng có nghĩa là yêu Cách mạng Tháng Mười và căm thù những kẻ chống lại Cách mạng Tháng Mười".
Là người đầu tiên được nhận huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta- Huân chương Sao Vàng, trong lời phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch xúc động nói: "Trong buổi lễ vinh quang này, tôi nghĩ đến thời kỳ tôi còn ấu trĩ, nghĩ đến những lúc khó khăn hiểm nghèo, Đảng đã dìu dắt, giáo dục tôi, nhân dân đã rèn luyện và giúp đỡ tôi để có được ngày hôm nay".
Tháng 10-1975, về thăm quê ở Cù lao Ông Hổ thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, TP Long Xuyên, An Giang, Chủ tịch Tôn Đức Thắng chỉ nhận mình là một người được Đảng và Nhà nước cho phép về thăm quê nhà, gặp lại anh em họ mạc, thăm hỏi bà con xóm ấp. Đến cây xoài trước cổng nhà, cây cầu gỗ thuở nhỏ đi học qua, Chủ tịch vẫn nhớ mãi trong ký ức. Khi đã trở thành một vị nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch vẫn giữ nếp sống khiêm tốn, giản dị của người lao động, thích đi bộ, thích lao động chân tay và tự mình làm mọi việc cho bản thân mà không muốn phiền ai giúp đỡ. Chủ tịch ăn mặc rất giản dị. Có lần, các đồng chí miền nam đến thăm thấy Chủ tịch mặc chiếc áo ấm cũ có nối thêm một đoạn cho khỏi ngắn, đã cảm động hỏi: Bác ơi, làm Chủ tịch nước sao Bác mặc áo nối thế này? Chủ tịch vui vẻ trả lời: Chủ tịch nước mặc áo nối thì dân mới có đủ cơm ăn. Thật hồn hậu, giản dị biết bao!
Chủ tịch Tôn Đức Thắng thường xuyên dành tình cảm ân cần chăm lo cho đồng chí, đồng bào, đặc biệt là với các cháu thanh niên, thiếu niên, nhi đồng. Được tặng Giải thưởng Lê-nin "Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc" và kèm theo mười vạn rúp, Chủ tịch đã ủng hộ số tiền này cho Phong trào bảo vệ thiếu nhi thủ đô. Số tiền một vạn rúp các bạn Liên Xô đưa để mua quà tặng, Chủ tịch cũng chỉ dùng một phần nhỏ để mua một chiếc cối xay hạt tiêu tặng người vợ thân yêu, còn lại đem gửi trả bạn.
Là một người yêu nước chân chính, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đồng thời là một chiến sĩ tiêu biểu cho tinh thần quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua hành động cách mạng quả cảm của Tôn Đức Thắng khi tham gia cuộc binh biến Hắc Hải vào tháng 4-1919, để bảo vệ Cách mạng Tháng Mười Nga và lãnh đạo cuộc bãi công và lãn công của công nhân xưởng Ba Son từ tháng 8 đến tháng 11-1925, giam chân chiến hạm Juyn Mi-sơ-lê ba tháng, để ủng hộ phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc.
Ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã giúp người công nhân yêu nước Tôn Đức Thắng thấm nhuần sâu sắc tinh thần quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân và ý nghĩa của chính những hành động cách mạng ủng hộ cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc mà bản thân đã tham gia. Từ đó, ở Tôn Đức Thắng, lòng yêu nước chân chính đã thật sự gắn chặt với tinh thần quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
Là người cống hiến không mệt mỏi cho sự nghiệp xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đồng thời là người góp phần tích cực vào việc thực hiện tình đoàn kết gắn bó giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước. Do những cống hiến đối với phong trào cách mạng thế giới, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã được bầu là Chủ tịch Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới và được trao tặng Giải thưởng Lê-nin "Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc", cùng nhiều huân chương cao quý nhất của các nước anh em.
Trọn đời, Chủ tịch Tôn Đức Thắng nêu một tấm gương ngời sáng về phẩm chất cao đẹp của người cộng sản. Ngày nay, trước những đòi hỏi của cuộc sống mới, tấm gương đạo đức cách mạng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng càng có ý nghĩa để mỗi cán bộ, đảng viên tích cực học tập, rèn luyện, noi theo để phấn đấu góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thạc sĩ LÝ VIỆT QUANG
(Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)
8. NGƯỜI CỘNG SẢN MẪU MỰC BIỂU TƯỢNG CỦA ĐẠI ĐOÀN KẾT
Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người cộng sản mẫu mực,người bạn chiến đấu gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người lãnh đạo kính mến, biểu tượng đại đoàn kết của giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc nước ta, người chiến sĩ trung kiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Hồi ký Tôn Đức Thắng - người cộng sản mẫu mực,biểu tượng của đại đoàn kết được Nhà xuất bản chính trị quốc gia tổ chức biên soạn và xuất bản theo Quyết định của Bộ chính trị về việc tổ chức biên soạn và xuất bản sách Hồi ký về các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Nội dung cuốn sách gồm 600 trang bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các bậc lão thành cách mạng, các nhà nghiên cứu, các nhà văn hoá, các bạn chiến đấu, các cán bộ phục vụ và bảo vệ Chủ tịch Tôn Đức Thắng cùng với 105 bức ảnh tư liệu quý và 10 trang bút tích thư của Bác Tôn gửi các con. Tôn Đức Thắng là một trong những người thuộc lớp chiến sĩ đầu tiên của phong trào công nhân và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta. Là một trong những công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, đồng chí đã tham gia cuộc nổi dậy của Hải quân Pháp ở biển Đen kéo lá cờ đỏ ủng hộ nước Nga Xôviết - Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Sau khi ra khỏi hải quân,đồng chí làm thợ máy cho hãng xe hơi Rơnô, gia nhập Tổng công hội Pháp và tích cực hoạt động trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước của kiều bào ta tại Pháp. Năm 1920, trở về Sài Gòn, đồng chí xây dựng những cơ sở công hội bí mật. Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin qua các sách báo của Nguyễn Ai' Quốc và các tài liệu từ Pháp gửi về,tổ chức công hội đỏ đã lãnh đạo phong trào bãi công sôi nổi của thuỷ thủ và công nhân Nam Bộ,tiêu biểu nhất là cuộc bãi công của công nhân hãng Ba Son tháng 8 năm 1925. Năm 1926, tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và chỉ một năm sau (1927), đồng chí được cử vào Ban Chấp hành Kỳ bộ Nam Kỳ. Cuối năm 1929, đồng chí bị bọn đế quốc bắt phạt án 20 năm khổ sai tại khám lớn Sài Gòn và địa ngục trần gian Côn Đảo. Trong ngục tù đế quốc,đồng chí luôn nêu cao ý chí kiên cường và giữ vững niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hình ảnh hiên ngang, bất khuất của người tù khổ sai Tôn Đức Thắng trong Hầm xay lúa của Nhà tù Côn Đảo mãi mãi là biểu tượng sáng ngời về khí tiết của người cộng sản trước quân thù. Cách mạng Tháng Tám (1945) giành được thắng lợi ,đồng chí cùng các chiến sĩ cách mạng trở về đất liền tiếp tục hoạt động góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân,tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. giành độc lập, thống nhất cho tổ quốc Việt Nam. Trên bất kỳ cương vị nào, là thuỷ thủ trên tàu, công nhân trong xưởng máy, lãnh đạo Công hội đỏ hay Chủ tịch Mặt trận dân tộc thống nhất; và ngay cả sau này, khi Bác Hồ qua đời, được Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1969), đồng chí Tôn Đức Thắng luôn hiến dâng cả đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc; cho sự phát triển tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc trên thế giới với tinh thần cách mạng bất khuất, đạo đức chí công vô tư, tác phong khiêm tốn giản dị.
Sống gần trọn 92 mùa xuân (20-8-1888 - 30-3-1980), Bác Tôn đã cống hiến 70 năm đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và công cuộc bảo vệ hoà bình trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:"Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười vĩ đại... Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân."
9. VỀ THĂM QUÊ BÁC TÔN
Ngôi nhà Bác Tôn. Ảnh Hồng Nhung
Tôi còn nhớ rất rõ hai câu thơ của Chế Lan Viên trong bài thơ Tiếng hát con tàu của tập thơ Ánh sáng và phù sa mà tôi rất thích:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn
Và lúc vừa đặt chân đến mảnh đất Mỹ Hoà Hưng (cù lao ông Hổ) có dòng sông Hậu hiền hoà ngày đêm chảy mãi như tuần hành cùng thời gian để canh giữ, bảo vệ ngôi nhà gỗ với mái lợp ngói ống, nằm giữa vườn cây trái xanh tươi của vùng đất này. Tôi lại càng hiểu rõ và thấm thía hơn ý nghĩa của hai câu thơ ấy. Quả thật, lúc lớp tôi quyết định đi thăm và ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc nói chung và cuộc đời Bác Tôn nói riêng, tôi không có bao nhiêu cảm xúc và sự mường tượng chính xác về khu di tích này. Bởi lẽ tôi rất ít cơ hội được đi tham quan, thăm viếng một di tích hay danh lam thắng cảnh nào.
Thật bất ngờ khi tận mắt nhìn thấy, chính đôi chân chạm đến, tôi mới nhận ra rằng nó thật tuyệt diệu! Bao trùm lên khu di tích là vẻ nghiêm trang, cao rộng song cũng thật tuyệt với những nét đẹp trầm lặng bởi lẩn khuất đâu đó cái khí thiêng của dân tộc. Trong một thoáng, bất chợt tôi cảm tưởng rằng mình đang ở nơi nào ấy thật khác xa với thế giới ngoài kia - ồn ào, náo nhiệt - dẫu chỉ cách nhau có một cánh cổng và một bức tường. Bỗng dưng lòng tôi dậy lên một cảm giác lạ lùng, nó vừa háo hức lại vừa bâng khuâng khó diễn tả được?
Thế nhưng, tôi không thể không thừa nhận cái cảm nhận thích thú của tôi khi đến đây, khu di tích này đã để lại trong tôi một tình cảm khó quên và giờ thì nó đã trở thành một kí ức mà mỗi lần giở ra tôi không khỏi bồi hồi, xúc động. Lúc này đây, tôi ngồi lại cảm nhớ về chuyến tham quan hôm ấy trong phút chốc, tất cả như ùa về, những kiến thức như còn mới rất mẻ và sống động làm sao! Cánh cổng di tích Bác Tôn như mở cửa cuộc ngược dòng thời gian đi vào quá khứ để nhớ về Bác.
Những con đường lát đá trải dài, những hàng dương cao vút đâm thẳng lên bầu trời, những hàng liễu rũ dọc bờ hồ đầy thi vị mà cũng buồn vời vợi, không khỏi làm cho người ta có một chút ngậm ngùi, xốn xang. Im lặng, bình thản, tôi đi bên cạnh mọi người bước vào đền thờ - nơi đặt bức tượng của người anh hùng dân tộc Tôn Đức Thắng, niềm tự hào của người dân An Giang. Nhưng tâm trí tôi như một cuộc rượt đuổi nối đuôi nhau theo giai điệu của dòng lũ cảm xúc cứ từng đợt dâng trào không thôi.
Tôi như người vừa thoát khỏi quá khứ quay về thực tại, khi tiếng của ngưới hướng dẫn viên dừng lại, chị như hát một bài ca bất tận say sưa không biết mỏi về con người vĩ đại - chủ tịch Tôn Đức Thắng. Trong ngữ điệu trầm bổng lúc như thúc giục, lúc như tâm tình to nhỏ dịu dàng thương mến. Thật xúc động vừa nhẹ nhàng, thanh thoát vừa truyền cảm du dương. Hình như đó chính là tất cả chân tình, mọi cảm xúc yêu thương, kính trọng, thương nhớ, nuối tiếc... mà cô muốn truyền đạt về Bác đến với tất cả mọi người có mặt ngày hôm ấy. Cả khu đền đều vang vọng và tràn ngập hình ảnh của Bác - một người anh hùng trung cang, anh hùng và đầy trí tuệ. Bác như đang hiện diện ở đây hiện hữu, có thật, đang dắt tay các đồng chí, cùng mọi người bàn bạc cho cuộc chiến đấu mới. Cuộc đời Bác là những sự trải nghiệm của những năm đấu tranh, giành giật từng giây từng phút giữa sự sống và cái chết.
Chưa bao giờ tôi cảm thấy sự yên ắng và tôn nghiêm đến thế. Tự đáy lòng, tôi kính phục và biết ơn con người này biết bao với sự hy sinh, lòng nhân ái, cái tính kiên cường, bất khuất của Bác; thêm vào đó là sự xen lẫn của nỗi đau, sự mất mát, niềm nuối tiếc không nguôi.
Lúc này đây, ngôi đền như đắm mình vào quá khứ, và con người hiện hữu ở đó thì chạy theo suy ngẫm của mỗi người không ai nói với ai bất cứ điều gì nhưng đều có chung một ý nghĩ tưởng nhớ về con người anh hùng, người chủ tịch tài ba Tôn Đức Thắng. Người có một cái tên thật gần gũi và bình dị mà mọi người vẫn thường gọi "Bác Tôn". Hai tiếng ấy làm tôi chực nghẹn ngào. Cái tiếng "Bác" thân thương làm sao! Cái tên "Tôn"cũng thật giản dị và gần gũi xiết bao! Tiếng gọi thiêng liêng và tôn kính ấy dù gọi bao nhiêu lần đi nữa vẫn làm cho tôi xúc động!
Như vẫn còn đây mà thật ra đã không còn nữa, Bác đã ra đi bình lặng, ra đi mà lòng vẫn còn mang nặng tình nhà nợ nước, sống và chết điều luôn chiến đấu hết mình vì sự nghiệp cách mạng, con người Việt Nam:
Người quả thật có một trái tim lớn, trái tim của đất nước...
Bài thuyết trình của chị hướng dẫn viên kết thúc, làm mọi người sực tỉnh song mọi cảm xúc thăng hoa ấy vẫn còn đọng lại khiến tất cả bùi ngùi luyến nhớ. Bước xuống bậc thềm sau cùng, tôi ngoái lại nhìn lại một lần nữa, đền thờ vẫn đứng đó - lặng lẽ, nghiêm nghị trong cái nắng vàng buổi sớm tôi bất chợt cảm thấy bình yên lạ.
Mặc dù vậy, đó không phải là tất cả của khu di tích này, trong nó vẫn còn nhiều điều thú vị. Và điều thú vị ấy như thế nào còn tuỳ vào cảm nhận của mỗi người; riêng tôi thì đó là không khí tĩnh lặng, cái vẻ trang nghiêm cùng với nhiều điều bất ngờ của các di vật lưu trữ nơi này: sống động, khốc liệt, hiện thực...
Cả cảnh vật cũng mang cho người ta cảm giác khác lạ: một cây cầu nhỏ bắc ngang bờ hồ nhỏ, những vòm cây kiểng được chăm chút, cắt tỉa gọn gàng, khéo léo tỉ mỉ. Vừa bước vào nơi lưu giữ những kỉ niệm về chủ tịch Tôn Đức Thắng từng dòng rung cảm xáo trộn lẫn lộn dâng trào lên trong tôi: từ những bức tranh, những bức hình nộm rất sống động về toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của chủ tịch Tôn Đức Thắng. Rồi chiếc xe đạp cũ kĩ nằm trong tủ kiếng, một đôi dép râu cũ, một ngôi nhà bằng gỗ hết sức đơn sơ. . .
Và đôi chân tôi bị trói chặt trước bức tranh miêu tả lại cảnh của người tù côn đảo. Tôi cảm thấy sự hãi hùng và ghê sợ bao trùm vây bủa lấy tôi. Tôi tự hỏi "Cuộc sống đấy ư?". Con người bị gông cùng, bị đày đoạ, bị đánh đập, ức hiếp hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, lưỡi hái của tử thần luôn chực chờ đón lấy. Vậy mà trong hình ảnh đó không để lại cho người ta một sự cam chịu và thoái lui, ngược lại trong đôi mắt của người tù gầy còm ấy là một ý chí phấn đấu chịu đựng để chiến đấu để đánh gục kẻ thù, sự hy vọng được chấp cánh bay theo con đường lý tưởng, ước mơ của mình.
Thật không dễ có thể dứt đôi mắt mình rời khỏi bức tranh đó. Tôi cảm thấy mình thật may mắn khi được sinh ra và lớn lên trong cảnh thái bình, yên vui; không phải đổ máu và hy sinh, rơi những giọt nước mắt mất mát, đau thương, cũng không phải chia ly như cuộc chia lìa của những người nông dân trong thơ Chính Hữu, hay cuộc chia ly màu đỏ của Nguyễn Mỹ...
Dẫu vậy, ở mức chừng mực nào đó, hình ảnh tàn khốc của chiến tranh vẫn ám ảnh các thế hệ trẻ ngày sau, và tôi cũng vậy. Tôi biết nỗi đau ấy quả không dễ gì khoả lấp, thời gian không thể bù đắp và chữa trị vết thương của trái tim. Bức tranh đó đã gợi lên trong tôi nhiều hình ảnh và cảm xúc, tôi hình dung lại viễn cảnh và tinh thần của con người sống trong hoàn cảnh chiến tranh ngày xưa: người ta sẵn sàng rời khỏi gia đình, vợ con, làng quê, bỏ cái cuốc, cái cày, cái rựa, cái bừa con trâu để lên đường cầm cây súng, lái xe tăng, thiết giáp, tháo mìn... đánh giặc mặc cho chết chóc, sốt rừng, đứng giữa chiến tuyến sống và chết, cái sợi chỉ hạnh phúc mong manh như một sợi tơ mành căng ngang giữa bầu trời sao lung linh nhưng đầy bom và đạn.
Nhưng khó khăn đó, trở ngại đó, thử thách đó không làm khó được họ, đối với họ sống là chiến đấu còn chết là vinh quang. Tôi thấy mình nhỏ bé làm sao! Lại càng khâm phục, ngưỡng mộ con người có trái tim cao thượng và ấm áp tình người này. Mọi vật xung quanh dường như cũng theo người im lặng theo đuổi ý nghĩ riêng của mỗi người. Và tôi đã không thể quên ngôi nhà gỗ lợp ngói ống ấy, nó hết sức bình thường chẳng có nhiều đáng giá. Thế nhưng đó là cả một kho tàng quý báu rất đáng giá đối với những ai biết yêu quý những giá trị tinh thần của dân tộc mình. Trong ngôi nhà đó trong lời bình dẫn của người hướng dẫn viên ta sẽ cảm thấy được đâu đó trong từng thước tấc của ngôi nhà đều mang đậm dấu ấn và hơi ấm của Người.
Mỗi câu chuyện về Bác, về gia đình Bác điều làm cho người ta khâm phục đồng thời là sự mến yêu, trân trọng. Vậy nên ai cũng phải chạnh lòng khi đến thắp nén hương thăm viếng người dưới mộ, những người thân thuộc của Bác Tôn và như vậy cũng đã thắp nén hương cho Bác vậy. Cả không gian yên ắng, tôi đứng đó và triền miên trong suy tưởng. Khói của nhang trầm vẫn cứ nghi ngút bay.
Nếu trước đây, tôi chưa hiểu nhiều về Bác, người con của Mỹ Hoà Hưng vùng đất An Giang này thì giờ tôi đã hiểu biết rõ hơn, sâu sắc hơn nhiều. Tôi tự hào vì mình cũng là một người con của miền đất An Giang, nơi có vị lãnh tụ tài ba, giỏi giang, anh dũng.
Tôi đã thu nhận được ở chuyến đi rất nhiều điều: từ kiến thức học tập cho đến những kinh nghiệm, vốn sống, và cả sự bồi dưỡng cảm xúc, cảm nhận riêng bản thân. Điều quan trọng hơn trong chuyến đi này, tôi biết đâu là giá trị thật, là vĩnh hằng, là sự sống mãi của một con người. Người ta thường nói, thời gian là người công bằng nhất. Tôi thấy đúng quả là thế, chỉ có thời gian mới phân định được đâu là giá trị tồn tại mãi mãi minh chứng cho nó là hình ảnh của người thanh niên "Ba Son" - Tôn Đức Thắng vẫn mãi sống trong lòng người Việt.
Tôi mong một ngày nào đó tôi sẽ trở lại đây một lần nữa để được nghe kể về Bác với tất cả tâm trạng quý mến như thế. Để tôi có thể nhìn lại quá khứ và nhìn vào hiện tại, về tôi, người của thế kỷ hôm nay.
10. XÍ NGHIỆP BA SON
Liên hiệp xí nghiệp Ba Son ngày nay là một xưởng sửa chữa và đóng tàu lớn, địa chỉ tại số 2 đường Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một di tích lịch sử mang nhiều ý nghĩa. Là dấu tích cổ còn lại của một công trường thủ công lớn, một ngành công nghiệp quan trọng ra đời sớm nhất của Sài Gòn xưa. Là cái nôi của phong trào đấu tranh của các tầng lớp công nhân Sài Gòn. Xưởng cơ khí mang số 323 đường số 12 trong khuôn viên xí nghiệp là nơi người thợ máy Tôn Đức Thắng (sau này là Chủ tịch nước Việt Nam - từ 1969 đến 30/08/1980) đã từng làm việc và hoạt động cách mạng trong những năm 1915 - 1928.
Năm 1774, Nguyễn Ánh chiếm lại Sài Gòn. Song song với việc xây thành Bát Quái (thành Qui - 1790), Nguyễn Ánh đã cho lập xưởng Chu Sư (xưởng Thủy) - Trịnh Hoài Đức trong "Gia Định thành thông chí" đã viết: "Xưởng Chu Sư - ở cách phía Đông thành độ một dặm dọc theo bờ sông Tân Bình quanh theo sông Bình Trị, nhà làm gác để hải đạo thuyền cùng là dụng cụ thủy - chiến xưởng dài đến 3 dặm". Trên bản đồ tỉnh Gia Định năm 1815 của Trần Văn Học ghi rõ: "xưởng Thủy nằm phía Đông thành Bát Quái". Đến những năm đầu thế kỷ 19 xưởng đã mở rộng thành một công trường thủ công lớn: "Nơi sản xuất, sửa chữa mọi loại chiến thuyền, nơi đặt lò đúc các hạng súng lớn nhỏ bằng đồng hay bằng gang, nơi tập trung hàng ngàn công nhân với nhiều ngành chuyên môn khác nhau".
Năm 1861 Pháp hạ Đại Đồn Chí Hòa, chiếm lĩnh Sài Gòn. Ngày 28/4/1863 chính phủ Pháp đã ký nghị định chính thức thành lập Thủy xưởng (Arsenal) Ba Son, đặt trực thuộc Bộ Hải quân Pháp. Trong "Sài Gòn năm xưa" tác giả Vương Hồng Sến viết: "Theo quyển "Promenades dans SaiGon", bà Hilda Arnold ghi: buổi đầu người Pháp đã xuất ra trên 7.000.000 quan thời ấy để lấp đất và xây các ụ tàu "bassin de radoub" này, để có thể sửa chữa các thứ tàu chiến, tàu buôn tại đây khỏi đem về tận Pháp quốc. Thời ấy, cuộc chuyển vận đều do đường thủy nên cái "bassin de radoub" giúp họ nắm vận mạng xứ này trong tay".
Vì tầm quan trọng đó, năm 1884 chính phủ Pháp cho xây dựng thêm một ụ tàu lớn nữa để làm căn cứ sửa chữa tàu cho các hạm đội quân Pháp ở vùng Viễn Đông. Sau khi hiệp định Genève được ký kết, quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương, ngày 12/9/1956 Pháp chuyển giao Ba Son lại cho hải quân chính quyền Sài Gòn. Dưới chế độ Sài Gòn cũ, Thủy xưởng Ba Son được đổi tên là Hải quân công xưởng, đặt trực thuộc Bộ Quốc phòng. Sau tháng 4/1975, Hải quân công xưởng được chính quyền Cách mạng tiếp quản và được đổi tên thành Liên hiệp xí nghiệp Ba Son, trực thuộc Bộ Quốc phòng cho đến ngày nay.
Theo sơ đồ tổ chức của Ba Son trước kia, gồm có một phòng thí nghiệm, hai khu, sáu ty và chín xưởng, trong đó có xưởng cơ khí là xưởng ra đời sớm nhất. Dưới thời Pháp, xưởng cơ khí gồm có hai trại tiện và nguội nằm trên diện tích 3.350m2, làm nhiệm vụ sửa chữa, chế tác các cơ phận cho các chiến hạm và quân nhu. Khi Ba Son được giao lại cho hải quân Sài Gòn thì xưởng đặt tên mới là "Ban cơ khí". Năm 1957 đổi tên là "Ty cơ khí", đến năm 1958 lại đặt tên là "Xưởng cơ khí". Danh xưng này được duy trì cho đến ngày nay.
Xưởng cơ khí ngày nay được thu gọn lại trên một diện tích 1.949m2, nằm trên khu nhà cũ của trại tiện. Nhà được xây theo hình chữ nhật, dài 59,8m, rộng 32,6m. Bên trong có 4 hàng gồm 26 cây cột đúc bê tông cốt thép, chống đỡ một sườn sắt, nâng một giàn rui bằng gỗ trên lợp ngói móc. Tường xây bằng gạch, hai bên tường giữa các khoảng cách hàng cột có 52 ô cửa bằng song sắt. Cửa ra vào được làm bằng sắt đẩy về hai phía.
Thủy xưởng Ba Son là một xưởng lớn nhất Sài Gòn, là một trong những nơi tập trung số lượng công nhân đông nhất ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ. Nhằm đào tạo thợ cơ điện người bản xứ cung cấp cho các hãng, xưởng của người Pháp mở tại Sài Gòn, ngày 20/2/1906 chính phủ Pháp ký quyết định thành lập trường cơ khí Á châu tại Sài Gòn (Eécole des mécaniciens Asiatiques de SaiGon - tức trường Kỹ thuật Cao Thắng ngày nay). Xưởng sửa chữa tàu biển Ba Son là xưởng được sử dụng học sinh của trường thực hành tại xưởng và tuyển trực tiếp học sinh học xong tại trường.
Trường cơ khí Á châu Sài Gòn và xưởng cơ khí của Thủy xưởng Ba Son thời kỳ đó đã gắn liền với những hoạt động cách mạng đầu tiên của nhà cách mạng Tôn Đức Thắng. Học xong bậc tiểu học ở quê nhà: làng An Hòa, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang), người thanh niên Tôn Đức Thắng quyết định lên Sài Gòn tìm việc làm và định hướng cuộc đời mình vào tầng lớp thợ thuyền. Bác Tôn đã thi vào trường Cơ khí Á châu khóa học 1915 - 1917. Hiện nay tại Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh còn lưu giữ một cuốn sổ gốc ghi danh học sinh theo học các khóa ở trường này từ năm 1906 đến năm 1966.
Ở trang 8 của cuốn sổ, niên khóa 1915 - 1917 còn ghi rõ hàng chữ: Tôn Đức Thắng, 20 tuổi, sinh ở làng An Hòa, Long Xuyên, điểm trung bình các môn 16,4. Thời gian theo học ở trường cũng chính là thời gian bác tập làm thợ tại xưởng cơ khí Thủy xưởng Ba Son. Học chưa xong khóa học, bác Tôn và một số học sinh trường Cơ khí Á châu bị bắt lính đưa sang Pháp. Đến Pháp bác làm việc ở quân cảng Toulon, rồi làm thợ máy trên chiến hạm France. Năm 1919, bác Tôn tham gia cuộc phản chiến của các thủy thủ trong hạm đội phản đối chính phủ Pháp giúp quân Bạch vệ chống lại chính quyền Xô viết.
Tháng 8/1920 bác từ Pháp trở về Sài Gòn làm công nhân cho hãng KROFF và CIE. Chịu ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng 10 Nga và học được nhiều kinh nghiệm đấu tranh của công nhân Pháp, bác Tôn đã vận động thành lập Công hội đỏ đầu tiên tại thành phố. Công hội bí mật phát triển trong công nhân xưởng Ba Son, hãng Faci, nhà đèn Chợ Quán... Từ năm 1920 đến 1925 số hội viên đã lên đến 300 người do bác Tôn làm hội trưởng. Đây là tổ chức Công hội đầu tiên của Việt Nam có mục đích tương trợ và đấu tranh bênh vực quyền lợi của công nhân, chống đế quốc tư bản.
Dưới sự lãnh đạo của Công hội đỏ, phong trào đấu tranh của công nhân thành phố trong thời kỳ này bùng nổ mạnh mẽ. Tiêu biểu là cuộc bãi công đòi tăng lương, đòi nghỉ nửa ngày vào ngày lãnh lương của công nhân Thủy xưởng Ba Son nổ ra ngày 4/8/1925 kéo dài đến ngày 12/8/1925. Cuộc bãi công thắng lợi, nhưng để ủng hộ phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động Trung Quốc bằng cách "kìm chân" chiến hạm J. Mi-Sơ-Lê theo lệnh chính phủ Pháp cần sửa chữa gấp để đưa sang Trung Quốc đàn áp phong trào cách mạng. Cuộc bãi công của công nhân Ba Son tiếp tục bằng hình thức lãn công, kéo dài việc sửa chữa chiến hạm đến 4 tháng. Như vậy ở cuộc đấu tranh này ngoài việc đòi quyền lợi kinh tế và cải thiện điều kiện làm việc, còn mang tính chất chính trị, đặc biệt là khởi động ý thức đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân Việt Nam.
Cuộc bãi công của công nhân Ba Son dưới sự lãnh đạo của tổ chức Công hội đỏ đã mở đầu cho giai đoạn đấu tranh mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Giai đoạn đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo và được sự ủng hộ của toàn thể công nhân và nhân dân lao động. Phong trào đấu tranh đã đi từ tự phát sang trình độ tự giác là cơ sở tốt để tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ngày 19/11/1975 trên cương vị Chủ tịch nước, bác Tôn đã về thăm lại xưởng Ba Son và ghi lại trong sổ lưu niệm của nhà máy "Sau nửa thế kỷ xa cách, hôm nay có dịp về thăm xưởng Ba Son, nơi trước đây làm thợ và hoạt động cách mạng, tôi rất sung sướng và cảm thấy như mình trẻ lại...". Sau khi gặp các đồng chí phụ trách, Bác Tôn đi thẳng xuống phân xưởng cơ khí, xưởng trung tâm của nhà máy với hơn 300 công nhân. Bước đi của Bác nhanh nhẹn, quen thuộc như một người thợ vừa rời nhà máy năm nào. Bác kể lại cho anh em nghe những cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son thưở trước và động viên anh chị em cố gắng phấn đấu thi đua lao động sản xuất, mãi mãi xứng đáng với truyền thống anh hùng của Ba son. Ngày 12/8/1993 Bộ Văn hóa đã ra quyết định số 1034 QĐ/BT công nhận Ba Son là di tích lịch sử.
11. BẢO TÀNG TÔN ĐỨC THẮNG
Bảo tàng Tôn Đức Thắng được thành lập nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888 - 20/8/1988), với tên gọi ban đầu là "Nhà trưng bày cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Tôn Đức Thắng". Đến tháng 8/1980, được chính thức đổi tên thành Bảo tàng Tôn Đức Thắng.
Bảo tàng có hệ thống trưng bày với khoảng 1000 hiện vật, tài liệu, hình ảnh giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Như: ngôi nhà thời niên thiếu tại cù lao Ông Hổ (xã Mỹ Hòa Hưng - An Giang), hình ảnh người thanh niên Tôn Đức Thắng nǎm 18 tuổi lên Sài Gòn học việc và làm thợ, chiếc rương gỗ dùng thời gian là học sinh trường Cơ khí á Châu. Những sự kiện kéo cờ phản chiến ở Biển Đen, sáng lập Công hội và lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân Sài Gòn những nǎm 1920, hình ảnh "Hầm xay lúa" - nơi người "cặp-rằng" Hai Thắng thể hiện khí phách và đạo đức của người cộng sản... Và các chuyên đề mở rộng có liên quan đến hoạt động của Chủ tịch Tôn Đức Thắng như: Viên ngọc Côn Sơn, Bác Hồ và Bác Tôn, Cuộc sống đời thường của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Bác Tôn trong lòng nhân dân thế giới. Riêng công trình trưng bày tái hiện không gian làm việc và nghỉ ngơi của Bác Tôn cùng với việc trưng bày sưu tập hiện vật gốc "Cuộc sống đời thường của Chủ tịch Tôn Đức Thắng" đã khắc họa đậm nét đức tính giản dị, khiêm tốn, cuộc sống thanh đạm của một vị Chủ tịch nước.
Từ khi thành lập đến nay, Bảo tàng đã đón và phục vụ gần 1.500.000 lượt khách tham quan trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, Bảo tàng đã triển lãm trưng bày các chuyên đề: Quê hương Bác Tôn ngày nay, Bác Tôn trong lòng miền Nam, Bác Tôn với thiếu nhi, Bác Tôn của chúng ta, 50 nǎm Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Công nhân Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh tiếp bước người thợ Tôn Đức Thắng, Công Đoàn Việt Nam. Thực hiện và phát hành các chương trình ca nhạc, phim tài liệu, phim truyện về Bác Tôn; tổ chức các buổi nói chuyện, tìm hiểu và học tập gương sáng của Bác Tôn cho các em học sinh... Bảo tàng đã trở thành một địa điểm vǎn hóa - là nơi gặp gỡ, sinh hoạt của các đồng chí lão thành cách mạng, của thanh thiếu niên và các tầng lớp nhân dân.
Với những kết quả đã được, nǎm 1995 Bảo tàng Tôn Đức Thắng được trao tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Đến nǎm 2001, đơn vị lại vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba - phần thưởng cao quý của Nhà nước. Bảo tàng luôn cố gắng đổi mới và nâng cao các hoạt động để ngày càng đạt hiệu quả hơn, đáp ứng nhu cầu giáo dục truyền thống cách mạng thông qua cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Tôn Đức Thắng.
* Bảo tàng mở cửa phục vụ hằng ngày trong tuần, kể cả chủ nhật, lễ, Tết, nghỉ thứ hai và chiều thứ sáu:
Sáng: từ 7 giờ 30 đến 11 giờ 30
Chiều: từ 13 giờ 30 đến 17 giờ 00
* Địa chỉ: số 5 Tôn Đức Thắng, P. Bến Nghé, Q.1, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 8.297542 Fax: 8.294651
12. CON ĐƯỜNG MANG TÊN TÔN ĐỨC THẮNG
Để tỏ lòng biết ơn và tưởng nhớ cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng - người thợ máy Ba Son, người chiến sĩ cách mạng kiên cường suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và đoàn kết quốc ế, người bạn chiến đấu gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minhg vĩ đại - và để ghi nhớ những kỷ niệm nơi Bác Tôn đã từng sống, làm việc và đấu tranh, sáng chủ nhật ngày 5/7/1981, nhân dân thành phố đã long trọng cử hành lễ đặt tên "Đường Tôn Đức Thắng".
Đồng chí Lê Quang Chánh, thay mặt Thành Ủy và Ủy ban nhân dân thành phố, đã đọc diễn văn: "Để tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn Cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng, người chiến sĩ cách mạng kiên cường suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và đoàn kết quốc tế, người bạn chiến đấu gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, hôm nay Thành Ủy, Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân thành phố long trọng cử hành lễ đặt tên đường Tôn Đức Thắng cho con đường lớn ở trung tâm thành phố nối đường Nguyễn Tất Thành ở quận 4 với đường 30-4 quận 1"
Đồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thư Thành ủy đã tự tay gắn bảng "Đường Tôn Đức Thắng" và cắt băng đặt tên đường giữa niềm vui và xúc động vô hạn của nhân dân thành phố mang tên Hồ Chí Minh.
13. THƯ CỦA CHỦ TỊCH TÔN ĐỨC THẮNG
gửi các đồng chí thương binh,bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội
nhân lễ mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta
Hà Nội, ngày 14 tháng 5 nǎm 1975
Thân ái gửi các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội.
Sài Gòn đã giải phóng. Toàn miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc Việt Nam đã hoàn toàn độc lập, tự do.
Dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Đây là thắng lợi vĩ đại nhất, oanh liệt nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Quân và dân ta hết sức phấn khởi, tự hào đã thực hiện một điều thiết tha mong muốn của Bác Hồ: "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào", hoàn toàn giải phóng miền Nam, giải phóng Tổ quốc.
Thắng lợi này đã mở ra một thời kỳ mới để dân tộc ta vững bước tiến lên, thực hiện thống nhất nước nhà, "Xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
Trước giờ phút trọng đại này, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, tôi thân ái gửi lời thǎm hỏi ân cần nhất, thắm thiết nhất đến các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội.
Thắng lợi của dân tộc ta là thắng lợi rực rỡ của đường lối đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng và Hồ Chủ tịch; của tinh thần đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quân và dân; của tinh thần chiến đấu anh dũng, mưu trí của các lực lượng vũ trang nhân dân ta; của sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của anh em bầu bạn trên khắp thế giới.
Các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội đã có vinh dự lớn góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại chung của dân tộc. Tổ quốc ghi công, nhân dân đời đời biết ơn các anh hùng liệt sĩ, những người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Tổ quốc và nhân dân luôn luôn ghi nhớ công lao của các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội.
Trước tình hình và nhiệm vụ mới, tôi mong rằng các đồng chí thương binh, bệnh binh ở các chiến trường không ngừng phát huy bản chất và truyền thống cách mạng tốt đẹp của quân đội ta, nêu cao ý thức tổ chức và kỷ luật, đoàn kết, khiêm tốn, yên tâm điều trị, phục hồi nhanh chóng sức khoẻ để thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Các đồng chí thương binh, bệnh binh cần phấn đấu để luôn luôn là những chiến sĩ, những công dân gương mẫu.
Tôi mong rằng các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội không ngừng phát huy truyền thống anh hùng của dân tộc, truyền thống gia đình vẻ vang, hǎng hái thi đua lập nhiều thành tích mới trong sản xuất và xây dựng đất nước.
Tôi gửi đến các cháu thanh niên, thiếu niên và nhi đồng con em các liệt sĩ, con em thương binh, con em bộ đội những cái hôn âu yếm nhất. Các cháu hãy xứng đáng là cháu ngoan của Bác Hồ.
Chào thân ái và quyết thắng.
Tôn Đức Thắng
14. CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM QUA 9 THỜI KỲ
Mục tiêu của Công đoàn Việt Nam đặt ra qua 9 kỳ đại hội luôn phù hợp với sự phát triển của từng giai đoạn cách mạng Việt Nam:
- Đại hội I CĐVN (năm 1950): "Động viên CNVC phục vụ kháng chiến chống Pháp"
- Đại hội II CĐVN (năm 1961): "Thi đua xây dựng CNXH ở miền Bắc với tinh thần " mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt",
- Đại hội III CĐVN (năm 1974): "Động viên sức người, sức của chi viện cho miền Nam, thống nhất đất nước",
- Đại hội IV CĐVN (năm 1978): "Động viên CNVC thi đua lao động sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa";
- Đại hội V CĐVN (năm 1983): "Động viên CNVC thực hiện 3 chương trình lớn của Đảng (phát triển nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu";
- Đại hội VI CĐVN (năm 1988): "Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội";
- Đại hội VII CĐVN (năm 1993): "Đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm lo bảo vệ lợi ích của CNLĐ";
- Đại hội VIII CĐVN (năm 1998): "Vì sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh";
- Đại hội IX CĐVN (năm 2003): "Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, góp phần tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH đất nước".
15. MỘT SỐ SÁCH BÁO THAM KHẢO
- Hỏi và đáp về Chủ tịch Tôn Đức Thắng và lược sử phong trào công nhân Việt Nam (NXB Trẻ, 2004)
- Tôn Đức Thắng - tiểu sử (NXB Chính trị quốc gia, 2007)
- Tài liệu tham khảo Hội thi "Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Một nhân cách lớn" (Liên đoàn Lao động TP.HCM, 2003, lưu hành nội bộ)
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top