Chương 7: Hết

LỜI SÁM HỐI CỦA THẦY TƯỚNG SỐ

Thời gian trôi đi thật nhanh, năm tháng giục giã con người ta đến tuổi già nua. Năm 1988, tôi đã 60 tuổi, đã sống trọn một Lục thập hoa giáp(1) rồi, chân cẳng không còn nhanh nhẹn nữa, mắt cũng đã mờ, ngủ không ngon giấc. Điều này có lẽ liên quan đến việc tôi thích uống trà.

(1) Tức 60 năm

Tôi luôn có thói quen pha một ấm trà sau bữa ăn. Khi uống trà, tôi thường nhớ đến Tổ Gia, nhớ đến những ngày tháng ở bên cạnh ông. Đêm về khuya, vợ tôi thường khoác một chiếc áo lên cho tôi. Mười mấy năm nay đều như vậy.

Tôi cảm ơn ông trời đã cho tôi có được một người vợ tốt như vậy. Bao nhiêu năm nay, bà ấy luôn yêu thương, chăm sóc tôi. Bà ấy nói trước đây tôi đã chịu nhiều cực khổ rồi, giờ lấy tôi là để bù đắp và mang lại hạnh phúc cho tôi.

Một hôm, tôi đang đeo cặp kính lão đọc sách. Vợ tôi từ ngoài cửa bước vào, đưa cho tôi một cuốn tuần san: "Ông à! Cho ông xem cái này này. Tôi cứ cảm thấy có bài nói về những chuyện rất giống chuyện của các ông trước đây."

Tôi cầm cuốn tuần san đó xem, đó là bài Sám hối do một phạm nhân đã viết được đăng trên tuần san của báo Pháp luật, ghi chép lại những việc từ khi đất nước Trung Quốc mới thành lập cho đến nay. Có một vài phạm nhân bị tử hình trong một vài vụ án nghiêm trọng đã viết lời độc thoại để sám hối trong ngục. Người sắp chết thường hay nói thật, chim sắp chết tiếng kêu cũng bi ai, một vài tội phạm từng làm những việc cực kỳ ác, nhưng trước khi chết cũng thường ăn năn, hối lỗi, và viết một vài thứ gì đó dành cho mình, như là lời kết của cuộc đời để cảnh tỉnh cho những người đi sau. 

Vợ tôi bảo tôi đọc bài viết thứ ba. Tôi giở cuốn tuần san ra, đọc thật kỹ, đọc một mạch đến nỗi máu nóng trong người trào sôi, nước mắt giàn giụa. Bài viết có tiêu đề Giữa thiện và ác:

Sống trong trời đất, có ai không muốn làm người lương thiện? Nhưng thế sự rối ren, số phận biến đổi khó lường. Một khi đã sa chân bước vào con đường tà đạo, mãi mãi khó có thể quay đầu trở lại.

Tôi sinh vào tháng 4 năm Quang Tự thứ 28, mang họ Thượng Quan, mẹ hiền đặt tên là Thành Minh, mang nghĩa "chân thành tất sáng suốt" trong Lễ ký, lại do vai vế trong dòng họ có tên Quan nên cha đặt cho tên cúng cơm là Quan Sinh. Năm Dân Quốc thứ 6, nhà tôi gặp phải biến cố, chỉ trong vòng một tháng, bảy người thân của tôi đều bị chết. Từ đó, tôi bơ vơ một mình, trốn chạy khắp nơi.

Cũng năm đó, vì chính nghĩa tôi đã gia nhập phái Giang Tướng, nhờ được Trương sư phụ nâng đỡ, tin yêu nên được đứng đầu Mộc Tử Liên. Mới đầu tôi cứ nghĩ dựa vào sức của mình có thể xoay chuyển được cục diện vô pháp vô đạo trong phái Giang Tướng. Từ đó, suốt mấy chục năm, tôi gồng mình làm hết sức. Tất cả mọi việc lớn nhỏ trong Đường khẩu, đều thật tâm làm theo đạo trời, ra sức làm theo tôn chỉ, luôn thận trọng, không lạm sát, cấm chuyện tà dâm, không trộm cắp, chỉ cướp của người giàu cứu giúp người nghèo, lấy ác trị ác.

Nhưng, suy cho cùng, phái Giang Tướng cũng chỉ là một đám người ô hợp. Ngồi ở Đường khẩu như ngồi trên đống lửa. Giữa cái lợi và cái hại, thiện ác khó phân định rạch ròi, rất nhiều việc vượt ngoài tầm kiểm soát của tôi. Tệ hơn, có lúc tôi không thể tự điều khiển được chính mình, từng vì mình, nhiều lần lạm sát người vô tội. Trên đời ai mà không có cha mẹ, con cái. Mỗi lần nghĩ đến những người vô tội đã bị chết, hồn oan không được siêu thoát, tôi cảm thấy hổ thẹn vô cùng.

Tôi từng muốn thống nhất phái Giang Tướng, nhưng vì không còn cách nào khác phải tìm cách tiêu diệt hàng loạt. Khi cả bốn Đường khẩu đã quy về tay tôi, tôi lại bối rối vô cùng. Phái Giang Tướng sẽ đi về đâu? Tôi sẽ đi về đâu?

30 năm nay, tôi muốn thay trời hành đạo, nhưng bản thân lại chẳng còn đạo đức chính nghĩa gì nữa. Lừa đảo, đốt nhà, giết người, cướp của, không có tội ác nào mà tôi chưa làm;

30 năm nay, tôi muốn dẫn dắt các huynh đệ trong Đường khẩu từ chỗ ngạ quỷ tìm đường trở về hình hài của một con người, làm điều phước thiện, cho lòng dạ trở nên nhân từ. Nhưng đến bây giờ nhìn lại tôi chỉ thấy toàn cảnh chém giết, hỗn chiến với nhau, chỉ còn lại những vết thương và cảnh tượng điêu tàn.

30 năm nay, tôi muốn lấy ác chế ác, trừng trị cái ác biểu dương cái thiện, nhưng, kẻ ác thì càng thêm ác, không nhổ được cái gốc rễ của những kẻ lừa đảo bịp bợm, không thể làm cho người ác khai tâm để trở thành người lương thiện. Thật xót xa cho những mảnh đời bất hạnh! Tôi tức giận và cảm thấy đáng tiếc khi người ta không dám đấu tranh, kháng cự lại.

Tôi muốn chấm dứt mọi chuyện, có lúc tôi chợt nhớ đến lời người bạn của tôi là pháp sư Thanh Phong đã nói: "Tôi đi hay ở lại không quan trọng, phái Giang Tướng nên bỏ hay giữ mới là điều quan trọng."

Sau khi Quảng Đông được giải phóng, tôi đi khắp các tỉnh, được tận mắt trông thấy và hiểu rõ cảnh tượng phồn vinh, vui tươi ở các vùng giải phóng, cảnh tượng đất nước yên bình, nhân dân được yên ổn sinh sống. Đó là cảnh tượng chưa từng có suốt cả mấy nghìn năm.

Tôi không thể bỏ đi, tôi đi rồi phái Giang Tướng như bầy rắn mất đầu. Mấy trăm con người kia chắc chắn sẽ chạy trốn khắp nơi. Những người này như những hạt giống, chỉ cần ném họ vào một xó xỉnh nào của xã hội, xuống tới mặt đất liền lập tức bén rễ. Họ sẽ lại tiếp tục đi lừa đảo, rồi tiếp tục gây nguy hại cho xã hội.

Tôi đã lựa chọn cái chết, dùng sinh mạng để rửa sạch tội ác của cuộc đời mình, cũng là để cứu rỗi và chuộc tội cho cả phái Giang Tướng. Có lẽ các huynh đệ trong Đường khẩu sẽ căm hận tôi, nhưng rồi họ sẽ hiểu, kẻ lừa đảo bịp bợm rồi cuối cùng cũng chẳng có đường thoát, cách lấy ác chế ác khó có được đường đi thông suốt.

Phái Giang Tướng đã duy trì được mấy trăm năm, từ lâu đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó, đến nay đạo đức chẳng còn, hơi sức sắp tàn, cũng đã đến lúc đặt dấu chấm hết.

Tôi thành khẩn mong Chính phủ nghiêm trị các huynh đệ của tôi, trừng phạt nghiêm khắc mới có thể thức tỉnh được họ. Khi họ biết quay đầu hối cải, đi theo con đường đúng đắn, nhất định họ sẽ hiểu được nỗi khổ tâm của tôi.

...

Đọc đến đây, tôi khóc không thành tiếng. Tổ Gia, tôi đã hiểu rồi. Cuối cùng tôi cũng đã hiểu tại sao ông không bỏ đi, không cho phép bất kỳ người nào bỏ trốn, chúng tôi đã khiến ông lao tâm khổ tứ rồi. Cuối cùng cũng đã tìm thấy được thứ "đạo" mà ông phải khổ sở theo đuổi kiếm tìm - kẻ bạt mạng đã biết quay đầu hối cải, từ bỏ cái ác hướng thiện. Ông đã dùng sinh mệnh của mình để cứu vớt, chuộc lại sinh mệnh cho chúng tôi! Tôi vốn nghĩ bí mật lớn nhất của ông chính là vợ và con trai ông, chẳng ngờ đây mới là bí mật cuối cùng.

Vợ tôi đi tới, ôm tôi vào lòng, tôi gục vào lòng vợ mà khóc thật to, tôi cứ khóc mãi, khóc mãi như một đứa trẻ.

Khóc một hồi thật lâu, bỗng nhiên tôi nảy ra một ý nghĩ, không biết mấy năm nay các huynh đệ tỷ muội kia đang làm gì, họ sống thế nào? Tôi phải tổ chức một buổi gặp mặt, tìm bằng được các huynh đệ tỷ muội năm xưa. Tôi muốn cho họ biết chuyện này, tôi muốn xem hiện giờ họ đang làm gì.

Tôi đã huy động mọi mối quan hệ, qua tất cả các kênh để liên lạc lại với các huynh đệ tỷ muội năm xưa. Năm đó, sau khi tòa án tuyên phạt, một bộ phận những người có tội danh lớn nhất, đặc biệt là các A Bảo từng giết người như Tổ Gia, Đại Bá đầu, còn có một vài Bá đầu là thủ hạ của Tần Bách Xuyên nữa, tất cả bọn họ đều bị tử hình, phần lớn những người khác đều chỉ bị phạt tù có thời hạn, còn có một vài người vừa mới vào nghề. Họ không tham gia nhiều vào các việc của Đường khẩu, nên được Chính phủ xét xử khoan hồng, chỉ cho đi cải tạo một thời gian. Sau khi những người này ra tù, những người có hộ khẩu ở vùng này thì tìm công việc ở vùng này, còn những người ở vùng khác, như các nữ A Bảo của Đường khẩu ở Nam Việt thì đều trở về quê cũ, những người ở Tứ Xuyên cũng trở về Tứ Xuyên. Đã bao nhiêu năm trôi qua, có lẽ các A Bảo lớn tuổi cũng không còn mấy người nữa. Cho nên, muốn tìm được họ không phải là chuyện dễ.

Chạy ngược chạy xuôi suốt  mấy tháng dòng, cuối cùng tôi tìm được hơn 80 người. Mọi người nghe nói sẽ gặp mặt, đều thấy rất xúc động. Đặc biệt mấy anh em Đường khẩu Mộc Tử Liên, nghe nói đứng ra tổ chức là Tứ gia, Ngũ gia và Lục gia, tất cả đều rất phấn khởi nói: "Nhất định sẽ đến!"

Tôi đặt riêng một khách sạn. Ngày hôm đó, tôi đứng đợi ở đại sảnh từ rất sớm. Mấy chục năm không gặp, rất nhiều người trông lạ đến nỗi tôi không thể nhận ra được.

Người đầu tiên khiến tôi bất ngờ nhất lại là một nữ A Bảo của Đường khẩu Việt Hải Đường năm xưa, trông dáng vẻ cũng chừng 60 tuổi. Khi bà ấy xách túi hành lý đi về phía cửa khách sạn, tôi cũng đã ngờ ngợ đó chắc chắn là một chị em trong Đường khẩu, nhưng là ai thì tôi không thể nhận ra được.

Tôi còn đang  đứng ngây người ra thì người đó đi về phía tôi hỏi: "Có phải Ngũ gia đấy không?"

Tiếng "Ngũ gia" khiến tôi giật mình, tôi nói: "Chị là...?"

Bà ấy tháo cặp kính ra, nói: "Tôi là thủ hạ của Yến nương, Liễu Ngọc Mai đây mà. Chúng ta từng gặp nhau ở Tứ Xuyên vào năm 1949."

Tôi chợt nhớ ra, vào năm 1949 tại Đường khẩu Tần Bách Xuyên, khi Lưu Tư lệnh đang định bắn Tổ Gia thì Giang Phi Yến đến, đi phía sau là hai nữ A Bảo áp giải hai kẻ đã phá vỡ ngôi mộ kia cũng vào theo. Trong hai nữ A Bảo đó, một người là Liễu Ngọc Mai, một người là Liễu Hồng Mai, họ là chị em sinh đôi, đều là hai nha đầu thân cận của Giang Phi Yến.

Tôi vội vàng nói: "Ồ, Ngọc Mai. Mau vào trong, mau vào trong!"

Hơn 80 người đều lần lượt đến, họ đều gọi tôi bằng cái tên thân thiết Ngũ gia, khiến tôi vừa cảm thấy ấm áp, lại xót xa trong lòng.

Trước bữa ăn, mọi người bảo tôi nói đôi lời. Tôi bước lên bục, nhìn vào những khuôn mặt vừa lạ vừa quen này, từng cảnh tượng những ngày tháng trước đây lại tràn về trong tâm trí, chưa nói gì nước mắt đã rơi...

Ước nguyện của Tổ Gia đã trở thành sự thật. Các anh em sau khi được  Chính phủ đưa đi cải tạo, ai nấy đều làm ăn lương thiện, người vào làm trong nhà máy dệt, người làm ở bưu điện, trong xưởng máy cơ giới. Có người lại làm ăn buôn bán nhỏ, có người thi đỗ ngành Đông y đã ra làm thầy thuốc, có người thì làm giáo viên, cũng có mấy người trong đó có cả tôi, vì có tình cảm đặc biệt với Chu Dịch nên đã chuyên tâm học về Chu Dịch.

Trong bữa tiệc, có một người anh em hỏi tôi: "Ngũ gia, sau khi học được Chu Dịch chân chính thì anh thấy thế nào?"

Tôi nói: "Chu Dịch chân chính là một cuốn sách hay nói về tượng, số, lý, chiêm bói, cát, tịnh, tinh, vi, thiên nhân hợp nhất, trời đất giao hòa, không biết Dịch thì không phải người quân tử."

Lại có một người anh em khác đứng lên hỏi tôi: "Ngũ gia, rốt cuộc thì Chu Dịch là gì vậy?"

Nghe hỏi vậy, tôi vừa thấy rất hài hước lại vừa thấy buồn phiền trong lòng, mang tiếng là một thầy tướng số của phái Giang Tướng, cả đời mượn danh nghĩa Chu Dịch đi lừa đảo mà lại không biết Chu Dịch là gì. Đây chính là chỗ đáng sợ cũng là chỗ đáng buồn của chúng tôi. 

Tôi thở dài nói: "Trong Chu Dịch, chữ Chu có hai cách giải thích, cách thứ nhất cho rằng "Văn Vương đã diễn giải Chu Dịch khi ông bị giam giữ, Kinh Dịch bao gồm 64 quẻ (quái) ra đời vào thời nhà Chu nên được gọi là  Chu Dịch; cách thứ hai cho rằng chữ Chu có nghĩa là vòng quanh và bắt đầu lại, tượng trưng cho quy luật vận động của vạn vật trong trời đất, còn chữ Dịch là chữ tượng hình, phía trên có một chữ Nhật, phía dưới có một chữ Nguyệt. Điều đó cho thấy thứ mà Kinh Dịch nghiên cứu chính là mối quan hệ tương tác giữa mặt trời, mặt trăng và trái đất, cho nên Kinh Dịch nghiên cứu về chân lý trong vũ trụ. 

Nguyên văn chỉ có 64 quẻ và quẻ từ, hào từ(1), nhưng hiện nay chúng ta thấy Chu Dịch phân thành hai bộ phận, một bộ phận là nguyên văn Chu Dịch, một bộ phận khác là lời chú thích, diễn giải mà Khổng Tử đã thêm vào, tất cả bao gồm 19 thiên chú thích, về sau người ta gọi là Thập Dực, nghĩa là 10 chiếc cánh mà Khổng Tử đã thêm vào Chu Dịch, nhờ đó mà Chu Dịch mới có thể sải cánh bay cao. Kỳ thực, vì Khổng Tử diễn giải , chú thích Chu Dịch nên Chu Dịch thiếu chút nữa thì bị Tần Thủy Hoàng cho đốt sạch vì nghĩ là sách của Nho gia, cũng may Thừa tướng Lý Tư đã liều chết khuyên can, nói rằng Chu Dịch chính là một cuốn sách dùng để xem bói, không có liên quan gì tới Khổng Tử nên mới may mắn thoát nạn. Đồng thời, cũng chính vì Khổng Tử viết lời chú thích cho Chu Dịch, chắp cánh cho Kinh Dịch vốn chỉ là một cuốn sách dùng để xem bói thuần túy bay thật cao trở thành loại sách triết học. Đời sau Nho học phát triển mạnh mẽ, Chu Dịch cũng có giá trị hơn và được liệt vào hàng Ngũ kinh.  Đến thời Càn Long, nhà Thanh soạn thành bộ Tứ Khố Toàn Thư, cuốn Chu Dịch đã nhảy vọt lên vị trí dẫn đầu."

(1) Thuật ngữ Chu Dịch

Người anh em kia lại hỏi tiếp:  "Vậy rốt cuộc Chu Dịch và Bát quái, 64 quẻ có liên quan gì với nhau vậy?"

Tôi bật cười ha hả, cuối cùng thì cũng hỏi đến vấn đề hay rồi: "Cả 64 quẻ trong Kinh Dịch đều nói về quy luật âm dương, cái mà người ta nói trong vô cực lại có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái đan xen nhau tạo thành 64 quẻ. Vô cực là gì? Cực tức là giới hạn, là biên giới, vô cực tức là trạng thái hỗn độn không có giới hạn, không có điểm đầu và điểm cuối. Trong vô cực đã thai nghén ra thái cực, thái cực chính là khởi đầu của vạn vật. Bàn Cổ khai thiên lập địa, khi có trời, có đất thì thái cực đã xuất hiện rồi. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi chính là âm và dương, cũng chính là hai mặt của một sự vật, trời là dương, đất là âm; đàn ông là dương, đàn bà là âm; ngày là dương, đêm là âm. Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Tứ tượng là chỉ thiếu âm, lão âm, thiếu dương, lão dương. Nó miêu tả quy luật biến hóa của âm dương, giống như một con người từ nhỏ đến lúc trưởng thành, từ lúc trưởng thành đến tuổi già, phản ứng của sự vật là trạng thái phát triển từ yếu biến thành mạnh, rồi mạnh lại đến yếu, hết một chu kỳ thì quay lại từ đầu. Anh hãy nhìn đôi cá âm dương thái cực kia xem, đó chính là biểu hiện quá trình biến hóa tăng giảm của âm dương. Tứ tượng sinh bát quái, âm dương lại được chia nhỏ thêm một lần nữa trong quá trình này, nó được chia thành bát quái là: Càn, Khôn, Chấn, Đoài, Ly, Khảm, Tốn, Cấn. Càn tượng trưng trời, Khôn tượng trưng cho đất, Chấn tượng trưng cho sấm, Đoài tượng trưng cho hồ đầm, Ly tượng trưng cho lửa, Khảm tượng trưng cho nước, Tốn tượng trưng cho gió, Cấn tượng trưng cho núi. Đến đây, các hiện tượng tự nhiên cơ bản nhất trên trái đất đã được bao quát trọn vẹn. Trong bát quái, từng cặp phối hợp với nhau tạo thành 64 quẻ, vạn vật trong trời đất đều được bao trùm bên trong nó..."

"Ha ha, thật không ngờ! Ngũ gia đã trở thành một bậc thầy Chu Dịch chân chính rồi đấy!" Một tiếng cười có vẻ rất sảng khoái vang lên cắt ngang lời nói của tôi, Liễu Ngọc Mai nâng ly rượu đi đến.

Cuộc gặp mặt lần này, người cảm thấy tôi vui và ngạc nhiên nhất chính là Liễu Ngọc Mai của Việt Hải Đường. Sau khi mãn hạn tù, bà làm công nhân dệt sợi. Nhờ thông minh khéo léo, bà làm tốt hơn hẳn mọi người, nhanh chóng được làm tổ trưởng. Dưới sự dẫn dắt của bà, các chị em trong tổ đều là những người phụ nữ giỏi giang, luôn hoàn thành vượt mức nhiệm vụ được giao. Về sau được lên làm chủ nhiệm phân xưởng, năm đó bà còn được bình chọn là "Chiến sĩ thi đua tiên tiến mùng 8 tháng 3". Sau cải cách mở cửa, bà từ chức ra làm ăn buôn bán, kinh doanh hàng quần áo thời trang ở miền Nam, bây giờ đã có hơn mấy trăm vạn tệ. Sau khi có tiền, bà quyên góp cho mấy trường tiểu học, tài trợ cho các viện dưỡng lão, nhiệt tình trong sự nghiệp công ích, đi đầu trong phong trào bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Bây giờ bà đang giữ chức Chủ nhiệm Hội phụ nữ. Tôi không nén nổi xúc động: Các A Bảo đều là những người thông minh, chỉ cần vận dụng đầu óc theo con đường chính đạo, cho dù làm việc gì, cũng sẽ làm tốt hơn những người bình thường.

Đã đến lúc cho mọi người biết về lời trăng trối của Tổ Gia khi còn ở trong tù, tôi nói với mọi người: "Gần đây có một tuần san mới ra, không biết mọi người đã đọc qua chưa?"

Mọi người hỏi: "Tuần san gì vậy?"

Tôi lôi tuần san đó ra, từ từ giơ lên. Tay tôi run lên vì xúc động. Tôi hít một hơi để lấy lại bình tĩnh, từ từ đọc lời tự bạch khi ở trong tù của Tổ Gia.

Sau khi đọc xong, tất cả mọi người đều yên lặng, tôi nói: "Bức thư này được kẹp trong tập hồ sơ về Tổ Gia năm xưa. Gần đây, chính phủ tiến hành việc giáo dục, phổ biến những bài học pháp luật, một biên tập viên của tuần san báo pháp luật đã biên tập và cho đăng nó. Vợ tôi đã phát hiện thấy khi bà ấy đi dạo quanh cửa hàng sách."

Tứ Bá đầu chầm chậm đứng lên, nước mắt lã chã, tay giơ ly rượu run run nói: "Chúng ta kính Tổ Gia một ly nào!"

Mấy chị em bật khóc thành tiếng, mọi người cùng nâng ly: "Tổ Gia sống mãi!"

Đây chính là Tổ Gia mà mọi người sẽ đi theo cả đời. Vị Tổ Gia đó vừa khiến cho người ta kính mến nhưng cũng khiến người ta nể sợ. Khi còn sống, ông tìm kiếm con đường sống sung túc cho mọi người. Khi chết, ông lại dẫn mọi người đi theo con đường chính đạo.

Liễu Ngọc Mai đã khóc không thành tiếng, tôi đi tới đưa cho bà chiếc khăn tay. Bà lau nước mắt: "Ngũ gia, ông nhắc đến Tổ Gia, làm tôi nhớ đến Yến nương.:

Lúc đó, tôi chưa biết Giang Phi Yến đã mất, tôi hỏi: "Có tin tức gì của Yến nương không?"

Liễu Ngọc Mai nói: "Cuối năm ngoái, khi đến Hồng Kông bàn chuyện làm ăn, tôi đã nhìn thấy bà trên một tờ báo."

Tôi hỏi: "Bà ấy sống tốt chứ?"

Liễu Ngọc Mai lại rơi nước mắt: "Bà ấy mất rồi, vào khoảng tháng 3 năm ngoái. Trên báo nói ở bên đó bà làm Ủy viên lập pháp, luôn chủ trương thống nhất hai bờ. Bà phản đối việc Đài Loan đòi độc lập, muốn hai bờ được nối liền huyết mạch. Trước khi chết, tâm nguyện lớn nhất của bà là có thể về Đại Lục, thăm lại Quảng Đông và vùng đất Giang Hoài."

Nghe những lời này, lòng tôi đau nhói, bà ấy vẫn thương nhớ Tổ Gia.

Giang Phi Yến còn viết một bài thơ khi ở Đài Loan, và cũng được đăng trên tờ báo ở Hồng Kông. Liễu Ngọc Mai đã cắt lấy nó, và luôn trân trọng giữ gìn. Bài thơ có tên là Nỗi nhớ: 

Biết còn phải đợi bao lâu nữa,

Đủ cho nỗi nhớ nhạt phai mầu.

Biết mình chờ đợi được mấy thu nữa,

Mấy độ thu dài hơn đợi chờ.

Khi chết đi rồi hồn về đâu,

Hỏi ngày sau số kiếp đổi mầu.

Khỏi tìm nhau đôi bờ cách biệt,

Bởi nỗi không bao giờ nói thiệt. 

Chỉ biết dành nỗi nhớ cách xa

Ôm cô đơn Phi Yến đợi chờ.

Chđến khi mất, Giang Phi Yến vẫn thương nhớ Tổ Gia. Cả cuộc đời bà vẫy vùng khắp muôn nơi, như loài chim yến chao liệng giữa bầu trời. Biển trời tuy rộng lớn, nhưng bà vẫn sải cánh một mình.

Chiều hôm đó, sau khi buổi liên hoan kết thúc, người thì phải trở về nhà ngay, còn một vài người nán lại đôi hôm. Sau đó chia tay mỗi người một phương.

Sau khi mọi người ra về, trong lòng tôi vô cùng trống trải. Lần từ biệt này không biết đến khi nào mới có thể gặp lại, có lẽ phải chờ đến kiếp sau.


HOÀNG PHÁP DUNG KHÔNG CHẾT

Tháng 4 năm 1998, Tứ Bá đầu lúc đó 82 tuổi và đang trong cơn nguy kịch vì bệnh tật. Tôi biết, lại một huynh đệ nữa sắp ra đi. Tình cảm huynh đệ của những người từng đi theo Tổ Gia như chúng tôi luôn rất tốt đẹp. Sau khi mọi người có thể tụ tập, nhấm nháp chén rượu, hồi tưởng về những ngày tháng đã qua.

Khi Tứ Bá đầu đang trong cơn hấp hối, tôi đến bệnh viện thăm ông. Ông ấy đã phải nằm viện một tháng, ăn uống bài tiết không tự chủ được, khắp người đủ các dây dẫn ống xông.

Tôi không biết người đang cận kề với cái chết sẽ nghĩ gì, nghĩ về cuộc đời mình, hay nghĩ sau khi chết rồi hồn sẽ đi về đâu? Cả cuộc đời ông nghiên cứu thuật Trát phi, chế tạo đủ loại đạo cụ phối hợp với Nhị Bá đầu dàn cục, cuối cùng lại bị các loại dây rợ ống dẫn cắm quanh người. Đây có lẽ cũng là quả báo.

Tôi nắm chặt tay Tứ Bá đầu, ông ấy đã rất yếu. Tôi cúi người, nói nhỏ: "Tứ ca, tôi là lão Ngũ đây." Phải khó khăn lắm ông ấy mới hé được mi mắt ra nhìn tôi mỉm cười. Sau đó, tỏ ý bào mấy người con đi hết ra ngoài, ông có chuyện muốn nói riêng với tôi.

Trong phòng chỉ còn lại hai chúng tôi. Tôi hỏi nhỏ: "Tứ ca, có chuyện gì ông hãy nói đi."

Ông ấy dừng lại một lát, chớp chớp mắt, cố gắng nói: "Lão Ngũ, tôi sắp đi rồi... Có một chuyện, giữ trong lòng đã rất lâu..."

Tôi giật bắn người: "Chuyện gì vậy?"

Tứ Bá đầu nhìn ra cửa, tôi hiểu ngay ý ông ấy, liền quay người ra mở cửa, thò đầu nhìn ra ngoài hành lang. Các con ông đang đứng nói chuyện tít đầu kia hành lang, xem chừng có vẻ sẽ không quay trở lại ngay.

Tôi quay lại trước đầu giường của Tứ Bá đầu: "Tứ ca, có điều gì ư?"

Hai hàng nước mắt nóng hổi chen nhau lăn khỏi khóe mắt: "Pháp Dung vẫn chưa chết, Tổ Gia đã lừa tôi."

Đầu óc tôi bỗng ù lên: "Gì cơ? Chưa chết ư?"

Tứ Bá đầu nói chắc nịch: "Ừ!"

Cái tên "Pháp Dung" mà Tứ Bá đầu vừa thốt ra tên đầy đủ là Hoàng Pháp Dung, chính là người vợ trước của Tứ Bá đầu. Bà ấy chính là "Viên kim cương" chính cống trong số các nữ A Bảo. Một người cực kỳ thông minh, có thể nói chuyện được với cả quỷ thần trong trời đất, cũng chính là "Bà đồng" mà dân gian thường hay gọi. Được Đường khẩu ca tụng "Luận đoán được thiên cơ, là em của quỷ, Diêm Vương hỏi chuyện cứ tìm Pháp Dung."

Về sau, trong một vụ dàn cục, Hoàng Pháp Dung không may gặp nạn mà chết, khiến Tứ Bá đầu đau khổ chỉ muốn tìm đến cái chết. Việc này các huynh đệ trong Đường khẩu ai cũng biết. Giờ đột nhiên Tứ Bá đầu lại nói với tôi rằng Hoàng Pháp Dung chưa chết, khiến tôi vô cùng sửng sốt.

Tứ Bá đầu nói tiếp: "Tôi cũng chỉ mới biết vào năm 1995 thôi. Tôi thật có lỗi với bà ấy..." Nói đến đây, Tứ Bá đầu bật khóc, nước mắt trào ra, đột nhiên thở dốc, trông ông ấy như thể sắp không thở được nữa. Tôi vội vàng xông ra cửa gọi to: "Bác sĩ! Bác sĩ!"

Các con của Tứ Bá đầu cũng hốt hoảng chạy lại. Tứ Bá đầu rơi vào trạng thái hôn mê. Sau đó ông ấy không tỉnh lại được nữa.

Hai hôm sau, Tứ Bá đầu mất, trước khi mất, ông ấy chợt tỉnh lại, gào thét thật to: "Trát phi thủ, Lỗ Ban khẩu, Trát phi khiên trước, Lỗ Ban tẩu; khiên trước tẩu, khiên trước tẩu, khiên xuất lục thú đối khẩu du..."

Tôi nghe và nhận ra nó chính là bài khẩu quyết trong Trát phi mật bản. Mười lăm tuổi, Tứ Bá đầu đã nổi danh khắp vùng tô giới. Ông ôm chí lớn báo quốc, nhưng đành bất lực vì số phận long đong, lận đận. Chính vào lúc tài năng được bộc lộ thì bị bọn người Nhật đưa vào tầm ngắm. Nếu không phải Tổ Gia ra tay cứu giúp thì ông ấy đã chết lâu rồi.

Từ đó, ông ấy đi theo Tổ Gia. Cũng bắt đầu từ đó, Tổ Gia mới thực sự như hổ thêm cánh, Đường khẩu bắt đầu phát đạt hẳn lên. Tứ Bá đầu quá lợi hại. Tổ Gia là ân nhân cứu mạng của ông ấy, nhưng ông ấy chính là quá nhân đến giúp Tổ Gia. Sau khi thông thuộc Trát phi mật bản, ông liền đề nghị Tổ Gia bổ sung thêm rất nhiều điều còn thiếu sót trong Trát phi mật bản, Tổ Gia còn bảo ông ấy sáng tạo thêm một vài thủ pháp Trát phi mới. Ông ngồi vắt óc suy nghĩ vài ngày, rồi cho ra thành quả là bộ Trát phi tân pháp phân thành các chương như: Đạo pháp, Thiên số, Khí tượng, Tây học (vật lý, hóa học), Bùa chú. Ông kết hợp thuật Trát phi cũ và mới  để làm thành một bộ hoàn chỉnh, ngay cả Tổ Gia sau khi xem xong cũng phải khen ngợi không ngớt lời.

Nhiều lúc, Tứ Bá đầu nổi bật hẳn lên, những năm 30 của thế kỷ 20, ông và người vợ yêu của mình là Hoàng Pháp Dung luôn sát cánh bên Tổ Gia. Họ gây chiến với Mai Hoa Hội, san bằng bang Thái Cực, làm cỏ Trung Nguyên Ngũ Hổ, diệt Giao Đông Trịnh Bán Tiên, hô mưa gọi gió, đứng trên đỉnh cao chót vót. Giang sơn lúc đầu của Tổ Gia đều là nhờ vào hai người và Nhị Bá đầu lấy về được. Đó chính là khoảng thời gian huy hoàng, đẹp đẽ và cũng đầy đau thương.. 

Cuối cùng, Tứ Bá đầu cũng nhắm mắt xuôi tay, nhưng trong đầu tôi vẫn còn văng vẳng mãi tiếng gào hét đến đứt hơi, khàn tiếng của ông ấy:

Trát phi thủ, Lỗ Ban khẩu

Trát phi khiên trước Lỗ Ban tẩu

Khiên trước tẩu, khiên trước tẩu

Khiên xuất lục thủ đối khẩu du

Kê bất minh, cẩu bất khiếu

Ma ngật nhân phạn thần khiêu khiêu

Cáp mô niệu, thập đông tạo

Hồng hỉ bạch tang vô vị đạo

...

Ban đêm, tôi vẫn không sao chợp mắt được vì uống trà liên tục. Tứ Bá đầu mới chỉ nói một nửa ý tứ, nếu Hoàng Pháp Dung thật sự vẫn chưa chết, vậy thì lớn chuyện rồi. Hoàng Pháp Dung là nữ A Bảo đầu tiên của Việt Hải Đường, được Tổ Gia và Giang Phi Yến đứng ra làm chủ trì giúp Tứ Bá đầu và Hoàng Pháp Dung nên vợ nên chồng. Sau khi lấy Tứ Bá đầu, Hoàng Pháp Dung trở thành nữ A Bảo duy nhất vừa tinh thông Việt Hải Đường phong tướng Trát kí lại vừa tinh thông Trát phi mật bản, tinh hoa của hai cuốn sách của Nam phái và Đông phái đều nằm trong tay bà ta. Trước khi Tổ Gia chết, đã đem đốt cả hai cuốn sách này, nhưng sách là thứ hữu hình, còn tư tưởng, ý nghĩ lại là cái vô hình. Nếu Hoàng Pháp Dung vẫn còn sống, vậy thì mầm mống của tội ác liệu có được gieo trồng? Rốt cuộc thì bây giờ Hoàng Pháp Dung đang ở đâu?

Còn nữa, Tứ Bá đầu nói Tổ Gia đã lừa ông ấy, cũng có nghĩa rõ ràng Tổ Gia cũng biết Hoàng Pháp Dung chưa chết, nhưng lại cố ý nói bà ta đã chết. Như vậy rốt cuộc là vì sao đây?

Tôi đang đăm chiêu suy nghĩ, bỗng nhiên nghe thấy tiếng gõ cửa cộp cộp, đã muộn như vậy rồi, ai vậy nhỉ? Khoác chiếc áo lên người, mở cửa ra, tôi giật bắn người: "Tổ Gia!" (ngày xưa đọc đến đây hồi hộp vch :)) )

-HẾT-

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top