Chương 7: BỎ MA THEO PHẬT: TÔI LÀ THẦY TƯỚNG SỐ ĐAM MÊ CHU DỊCH
Chuyển Đường khẩu về Giang Hoài
Giang Phi Yến ra đi cùng với Phùng Thiếu tướng, từ biệt phái Giang Tướng, từ bỏ cái nghiệp của bà, rời xa Tổ Gia. Dường như điều này đã cho mọi người thấy rằng, tìm một người yêu mình dễ dàng hơn nhiều so với việc đi tìm người mình yêu.
Việt Hải Đường đã được quy về một mối dưới trướng của Tổ Gia. Cuối cùng, ông cũng đã thực hiện được ước nguyện lớn lao là thống nhất các Đường khẩu trong giang hồ. Tôi cứ nghĩ Tổ Gia sẽ rất vui mừng, nhưng ông ấy lại chẳng có vẻ gì như vậy cả. Đã thống nhất phái Giang Tướng, việc tiếp theo là gì? Phải đi theo hướng nào đây?
Ngày 1 tháng 10 năm 1949, nước Trung Quốc mới ra đời. Mao Trạch Đông trịnh trọng tuyên bố với toàn thế giới: "Hôm nay, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa chính thức thành lập."
Lúc này, Tưởng Giới Thạch cũng đang rất bận, bận vơ sạch vàng bạc, tiền của trong quốc khố mang về Đài Loan.
Khi nước Trung Quốc mới được thành lập, các vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên và Trùng Khánh vẫn chưa được giải phóng. Các A Bảo của Mộc Tử Liên và Việt Hải Đường cuống quýt cả lên, không biết số phận mình rồi sẽ thế nào. Một vài người đã không thể kìm nén thêm được, bắt đầu đánh bài chuồn, lén vượt biển chạy sang Hồng Kông, nhưng đều bị Tổ Gia bắt lại và giết chết. Từ đó về sau, không còn ai dám chạy nữa.
Chẳng được mấy ngày, quân giải phóng đánh đến, bọn tàn dư của Quốc dân Đảng không chịu nổi một trận đòn nào nữa. Chưa đầy nửa tháng, Quảng Châu được giải phóng, nhân dân đổ ra đường phố, đốt pháo ăn mừng.
Tổ Gia ra lệnh: "Tạm thời giải tán, để nghe ngóng tình hình."
Ngay tức khắc, hơn trăm người tản ra tìm nơi ẩn náu. Nhị Bá đầu của phân đà Tứ Xuyên cũng lẩn đi ngay sau khi nhận được lệnh.
Sau đó, Tổ Gia nói dứt khoát: "Đại Đầu, đi theo ta."
Tôi hỏi: "Đi đâu ạ?"
Tổ Gia nói: "Khắp nơi trong cả nước."
Tổ Gia làm bất cứ việc gì cũng đều có mục đích. Ông không nói nguyên nhân nên tôi cũng không gặng hỏi nữa.
Tôi và Tổ Gia xuất phát từ Quảng Châu, đi thẳng lên phía Bắc. Chúng tôi đi qua Giang Tây, vào đất Hà Nam qua chỗ giáp ranh giữa Thiểm Tây, Sơn Tây, cuối cùng đến Hà Bắc, Bắc Kinh.
Dọc đường đi, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng khác hẳn. Nhân dân vui vẻ, phấn khởi, ai nấy đều rất tươi vui, lúc đó tôi mới biết rằng vùng giải phóng hoàn toàn không đáng sợ như những gì bọn Quốc dân Đảng tuyên truyền. Bây giờ được Tổ Gia đích thân dẫn tôi đến những nơi đã được giải phóng trước này, tôi mới thực sự hiểu thế nào được gọi là giải phóng. Đặc biệt là đến vùng căn cứ cách mạng cũ ở Thiểm Bắc, nhân dân múa trống cơm ăn mừng trong niềm vui dào dạt, hát vang khúc hát Phương Đông hồng rực, Mặt trời lên cao, cảnh tượng nô nức, những nét mặt tươi vui xuất phát tự đáy lòng.
Tổ Gia thở dài: "Từ thời Mạt Thanh đến nay, bọn đế quốc kéo đến xâm lược, đất nước tiêu vong, bọn quân phiệt cát cứ, chiến tranh loạn lạc liên miên, gần trăm năm nay, nhân dân chưa từng được vui mừng như thế!"
Tôi không hiểu lịch sử, cũng không thể hiểu cảm xúc ngậm ngùi của Tổ Gia khi đó. Tôi chỉ biết mình sinh ra, thiên hạ đã loạn lạc, hiểu câu: "Người Hoa và chó không được vào" là như thế nào. Thế nào là ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, và thế nào là nơm nớp lo sợ.
Sau một tháng đi khắp nơi, tôi và Tổ Gia quay về Quảng Châu.
Đêm đến, Tổ Gia lại trầm ngâm suy ngẫm. Tôi không rõ ông đang nghĩ gì, nghĩ về con đường đi rồi đây sẽ phải đi thế nào? Hay là hồi tưởng lại những năm tháng dâu bể trước đây?
Cứ như vậy, tiếng kèn tiễn bước năm 1949 sắp được gióng lên, chào đón năm 1950 gần kề. Năm đó xảy ra một sự kiện lớn: Cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Cuộc chiến ấy diễn ra vô cùng gian khổ. Khi đó, đất nước Trung Quốc mới vừa được thành lập chưa được bao lâu, cơ sở vật chất, tài nguyên mang tính chiến lược thiếu thốn cùng cực. Tàn dư của bọn Quốc dân Đảng phong tỏa đường biển, ngăn chặn không cho các nhân sĩ yêu nước ở Hồng Kông viện trợ cho đất liền.
Có vài tên trung gian trong thế giới ngầm xúi giục Tổ Gia. Họ nói chỉ cần hợp tác, giám sát chặt chẽ ở cửa khẩu hải quan, có thông tin gì thì bắn tin ngay cho chúng, giúp Quốc dân Đảng chặt đứt nguồn cung cấp vật chất, tài nguyên cho quân Cộng sản, thì sẽ được một món hời. Tổ Gia không đồng ý, ông nói: "Tôi không thiếu khoản tiền đó."
Chính vào lúc loạn trong giặc ngoài, Tổ Gia lại đưa ra quyết định khiến người ta phải kinh ngạc: "Dời Đường khẩu về Giang Hoài!"
Các Bá đầu không sao hiểu nổi: "Tại sao lại phải quay về, ở đây gần với Hồng Kông, một khi có biến, còn có đường mà chạy, hay muốn dời đi cũng nên dời đến vùng biên cương Tây Nam, ở đấy có thể chạy trốn sang Myanmar." Đi sâu vào trong nội địa thì có khác gì chặt đứt đường lui của mình chứ?
Việc mà Tổ Gia đã quyết, ai cũng có thể ngờ vực, cũng có thể phản đối, nhưng chắc chắn sẽ chẳng ích gì, nên làm gì thì cứ làm như vậy. Ngay cả mấy chục người ở Tứ Xuyên cũng bị gọi đến.
Đây là lần di chuyển lớn nhất trong lịch sử của phái Giang Tướng. Gần 200 người chia thành từng nhóm lẻ, lần lượt đi tới Giang Hoài. Trước khi đi, Tổ Gia trừ khử Ngũ Bá đầu, đồng thời, đưa tôi lên thay. Một năm sau, Tổ Gia lại giết Lục Bá đầu tên Tiểu Thời Thiên. Tiểu Hải Tử Triệu Định Hải mà Nhị Bá đầu đã tiến cử trước đây được làm Lục Bá đầu.
Tôi không có cống hiến gì lớn cho Đường khẩu, nhưng khi được thăng cấp không bị ai phản đối, Tổ Gia nói: "Khi đi dàn cục ở Tứ Xuyên, Đại Đầu đã đứng ra đỡ đạn cho ta." Kỳ thực, khi đó tôi vốn không nghĩ được nhiều như vậy, thấy bọn chúng đòi bắt Tổ Gia thì tôi xông lên thôi. Tổ Gia lại nói: "Hành động theo bản năng mới là chân thành nhất."
Khi đó, trong cả nước, ngoài đám lừa đảo của phái Giang Tướng ra, còn có rất nhiều hội đạo môn lớn nhỏ khác cũng đang giơ chân giãy giụa.
Theo lẽ thường, lúc này Tổ Gia sẽ rất thận trọng, nhưng trong giai đoạn đó, Tổ Gia lại tỏ thái độ khác hẳn, ông ra lệnh cho các Bá đầu và bọn tay chân hết lần này đến lần khác. Đồng thời, Tổ Gia tỏ thái độ huênh hoang, phách lối, xưng hô huynh đệ với bọn cầm đầu của các hội đạo môn. Điều này không giống với tác phong làm việc của Tổ Gia.
Các Bá đầu đều thấy Tổ Gia làm vậy là đối đầu với Chính phủ. Một hôm, Tổ Gia gọi tôi và Vương Gia Hiền đến Đường khẩu. Ông nói rằng có một vụ dàn cục mới, sai hai người chúng tôi đi làm. Theo lý mà nói thì vụ dàn cục này không nhỏ, tôi và Vương Gia Hiền có thể coi là lính mới trong số các Bá đầu, đều không có kinh nghiệm. Rõ ràng Tổ Gia có thể sai bọn Nhị Bá đầu đi làm, nhưng ông lại chọn đúng tôi và Thất Bá đầu.
Về sau, khi tôi vào tù, mới biết Tổ Gia cố ý làm như vậy, tôi và Vương Gia Hiền vào nghề khá muộn, chưa từng thực hiện vụ dàn cục lớn nào. Tổ Gia muốn đẩy chúng tôi có đủ tội danh để bị tống vào nhà giam.
Ở cách Lâm Trấn 30 dặm có một nhà giàu họ Lý, buôn bán lương thực, thực phẩm. Trước khi Quốc dân Đảng lùi về cố thủ ở Đài Loan, gia đình này có qua lại với bọn Quốc dân Đảng. Những năm đó, bọn họ chuyên đầu cơ tích trữ, vơ vét được không biết bao nhiêu hàng hóa. Tên nhà giàu này là Lý Tọa Sơn, hơn 60 tuổi, vì bị hói nên mọi người vẫn gọi lão là Lý trọc. Lý trọc có bốn thằng con trai, thằng cả có biệt hiệu là "thằng Cả phệ" vì hắn có cái bụng rất to, thằng hai bị nghễnh ngãng nên có biệt hiệu là "Hai điếc", thằng thứ ba vì quá xảo quyệt, tráo trở nên bị gọi là thằng "Ba ranh", thằng thứ tư khi còn bé thường hay ăn vụng dầu mè, nên hay bị đi ngoài phải chạy vào cầu tiêu, cho nên bị mọi người gọi là "Bốn té re". Cả nhà này từ lớn đến bé luôn cậy lắm tiền nhiều của, ngang ngược hống hách, ở quê không ai dám dây với chúng.
Mùa xuân năm đó, Lý trọc bị bệnh lao phổi, phải mời đến ba , bốn thầy lang, nốc bao nhiêu thuốc thang vào bụng mà chẳng có tác dụng. Thấy bệnh tình càng ngày càng nặng, bốn thằng con bắt đầu bàn tính chuyện hậu sự cho lão ta.
Nhà giàu thường rất chú trọng đến phong thủy khi chôn cất người chết. Họ nghĩ rằng phong thủy khi mai táng cho tiên phụ tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự hưng vượng của con cháu đời sau.
Nếu phong thủy xấu, chẳng mấy mà con cháu họ sẽ gặp chuyện xui xẻo, vì thế, nhờ tên lính trị an ở địa phương dắt mối, cơ hội kiếm tiền đến liền.
Tôi đi theo học Tổ Gia nên cũng biết rằng phong thủy được phân chia thành hai mảng, phong thủy âm trạch và phong thủy dương trạch. Dương trạch chính là nơi người còn sống ở, âm trạch là nơi ở của người đã khuất. Tổ Gia nói: "Vụ dàn cục lần này để cho Ngũ Bá đầu và Thất Bá đầu đi làm. Ngũ Bá đầu đóng giả là thầy xem phong thủy, Thất Bá đầu vào vai đồ đệ."
Dáng tôi béo tốt, mắt bé, mặt mũi trông cũng từng trải, cho nên dán thêm bộ râu, đội mũ cao lên, trông già hơn mấy chục tuổi. Còn Vương Gia Hiền ngược lại, anh ta trắng trẻo, dáng vẻ thư sinh, cạo râu đi, rất ra dáng một đồ đệ.
Xem phong thủy cần phải chú trọng đến việc tầm long điểm huyệt. Long chính là mạch núi, huyệt chính là vị trí cát lợi trong mạch núi đó. Câu Long sợ cô độc huyệt sợ phong hàn, nghĩa là: Long mạch cần phải có sơn thủy ôm ấp bao bọc, nhiều ngọn núi quấn quýt, vây quanh. Còn chỉ có một ngọn núi đứng trơ trọi một mình là không tốt, "Long sợ cô độc" chính là ý như vậy. Huyệt phải là nơi tàng phong tụ thủy, không được chọn nơi bị gió lạnh thổi làm tiêu tan vượng khí, nếu không sẽ bị coi là huyệt phong hàn.
Hôm đi xem xét, thăm dò phong thủy, bốn thằng con của Lý trọc đều có mặt. Mọi người đứng vây quanh triền núi rất lâu. Tôi vốn còn trẻ, đi đứng lại khá nhanh nhẹn, nhưng Thất Bá đầu cứ đỡ lấy người tôi, tay lại bê cái la bàn, nên làm tôi mỏi nhừ cả người, đi đứng y như một ông già thực thụ.
Thất Bá đầu nói với bốn ông con kia: "Sư phụ tôi làm nghề này mấy chục năm rồi, chưa từng nhầm lẫn bao giờ. Những chỗ ông ấy đã chọn đều là chỗ đắc địa có thể tàng phong tụ thủy cả. Con cháu đời sau của cải nhiều, ai nấy đều được sang giàu phú quý, còn có người làm quan lớn."
Thằng Cả phệ nói: "Việc này phải phiền tiên sinh rồi."
Tôi cầm chiếc la bàn, làm điệu bộ xem xem một hồi, sau đó hỏi: "Xin hỏi bốn vị sau này muốn được phát tài hay muốn được làm quan?"
Thằng Bốn té re nhanh mồm nói: "Phát tài, đương nhiên là phát tài rồi. Có tiền mới làm được việc chứ."
Hai điếc nói: "Ừ, thằng Bốn nói phải đấy."
Thằng Ba ranh nhếch miệng nói: "Các ông thì biết cái gì? Làm quan mới tốt, làm quan ắt sẽ có tiền, một thằng bảo vệ trị an thôi mà một năm cũng kiếm được mấy vạn rồi. Còn tay sĩ quan họ Từ xưa kia cũng qua lại với ông già mình, chẳng phải chỉ là thằng thư ký làng nhàng, anh xem nó cũng giàu to. Mấy năm này nhà mình chẳng có ai ra làm quan. Cho nên mỗi lần có việc gì là lại tốn cả đống tiền của."
Thẳng Cả phệ cuối cùng cũng lên tiếng: "Cãi! Cãi! Chỉ biết cãi nhau!" Sau đó hắn nói với tôi: "Vậy ý tiên sinh là phải tách rời đường tài vận và đường quan vận, chứ cả hai cái này không thể làm cùng lúc ư?"
Tôi nghĩ thầm: Giở chiêu này chính là đợi mày hỏi câu ấy. Nếu chỉ cần một lần mà điều chỉnh xong ngay được cho chúng mày, thì rõ là chẳng có kỹ thuật gì cả. Tôi nói: "Khó đấy."
Thằng Cả phệ nói: "Xin tiên sinh cứ làm cho, tiền không thành vấn đề!"
Thất Bá đầu nói: "Đây không phải là chuyện tiền bạc, sư phụ tôi phải làm phép. Như vậy sẽ bị tiêu hao mất nhiều nguyên khí, nói thẳng ra là sẽ bị tổn thọ."
Thằng Cả phệ nói: "Xin thầy hãy rủ lòng từ bi, gắng chọn cho ông cụ nhà tôi một chỗ thật tốt mà không làm tổn hại đến sức khỏe của thầy, cũng là để bốn anh em tôi có tí lộc quan."
Tôi nói: "Phong thủy là phải tính chuyện lâu dài, chưa chắc đã ứng nghiệm ngay được vào bốn anh em các ông, cũng có thể phải đến tận đời con hoặc cháu của các ông sau này mới hưởng được phú quý. Ông nôn nóng kiểu này, lão đây không dám làm."
Tên Cả phệ nói: "Tiên sinh xin hãy bớt giận. Bốn anh em chúng tôi không có ý đó. Chỉ cần con cháu đời sau này được mở mày mở mặt, được giàu có là tốt rối. Chúng tôi chẳng nghĩ chỉ có một hai đời đâu.
Kỳ thực đây chính là mánh khóe bí mật của thuật phong thủy. Nói là ba đời, đợi khi con cháu hắn trưởng thành đã mấy chục năm thậm chí là mấy trăm năm trôi qua, biết đi đâu tìm được ông thầy phong thủy mà cãi lý đây.
Vì thế, chúng tôi chỉ việc Đẩy thuyền theo dòng, dựng một đàn tràng thật to trên triền núi đó, vạch ra phạm vi để mai táng cho bố họ. Chỉ vài ngày sau, Lý trọc chết, hôm đem lão đi chôn có rất nhiều người đưa tang. Một đám A Bảo mặc quần áo đạo sĩ đi vòng quanh huyệt, sau cùng là tiết mục hạ táng được diễn ra rất long trọng. Mọi người đứng xung quanh đều tấm tắc khen: "Đúng là nhà giàu có! Thế này phải tốn bao nhiêu tiền ấy chứ."
Trong bố cục phong thủy, Tổ Gia từng truyền dạy rằng: "Đừng chọn trên lòng sông". Nghĩa là, dù anh có chọn thế nào, thì tuyệt đối không được chọn đặt phần mộ tại chỗ lòng sông trong núi. Vì đây là chỗ nước chảy qua, hễ trời mưa sẽ hình thành dòng chảy, nếu chọn chỗ này, phần mộ rất dễ bị ngập nước. Đến lúc đấy có mà lĩnh đủ.
Tôi luôn ghi nhớ lời truyền dạy này, nên đã chọn được một chỗ hơi nhô cao hẳn lên, lại còn bảo bốn người con kia rằng: "Đây gọi là thế Rồng cuộn hổ chồm, đời sau ắt có người ra làm quan lớn. Cả bốn tên đều sung sướng cười đến nỗi không khép miệng lại được. Khi đó, tôi thấy cái chết của người cha rõ ràng chẳng khiến chúng phải đau lòng, ngược lại còn làm cho chúng sướng rơn lên.
Có câu Người tính không bằng trời tính. Tôi đã tính toán đâu vào đấy, chẳng ngờ ông trời lại chơi khó, có lẽ đây là dấu chấm hết cho số phận Đường khẩu của chúng tôi.
Lý trọc được chôn chưa đầy hai tuần thì bắt đầu vào hè. Điều quái lạ là năm đó lại mưa rõ lắm. Suốt nửa tháng liền, trời cứ mưa dầm mưa dề, lúc mưa to, lúc mưa nhỏ. Kết quả là xảy ra chuyện sạt lở núi, cái gò đất cao chôn Lý trọc kia cũng bị nước mưa rửa trôi lộ cả nắp đậy quan tài. Sau đó lớp đất bùn, đá cũng bị cuốn theo khiến cho cả tấm bia mộ và chiếc quan tài cũng bị kéo tít đằng xa. Một phiến đá lớn lăn trúng lên chiếc quan tài, khiến cho chiếc quan tài vỡ tan thành bốn, năm mảnh. Khi bốn thằng con của lão lên núi kiểm tra thì thấy những mảnh tấm ván quan tài văng mỗi nơi một chiếc, thi thể của Lý trọc được tìm thấy ở cách đó mười mấy mét, mắc kẹt sâu mãi bên dưới lớp bùn đá, chỉ còn mỗi một cái tay nát nhừ đang giơ lên, như thể đang bảo rằng: "Hình như phong thủy của phần mộ này không tốt lắm."
Chẳng bao lâu đã có người báo tin này cho Tổ Gia biết, người đó còn nói nhà kia đòi mang cả thi thể đến gây rối. Tôi và Thất Bá đầu nghe tin đều choáng váng, sợ hãi, vội quỳ xuống trước Tổ Gia: "Tổ Gia, cứu con!"
Không ngờ, Tổ Gia lại bình tĩnh khác thường, ông nói: "Đứng lên, vẫn chưa đến mức ấy."
Người báo tin nói bốn anh em nhà kia có qua lại với bọn sát thủ Quốc dân Đảng. Lần này e rằng sẽ phải giao một A Bảo ra đền mạng, nếu không sẽ không xong.
Tôi nói: "Tổ Gia, nếu phải nộp một mạng, thì phải là con. Vụ này con là người cầm đầu, Thất Bá đầu chỉ đi cùng. Chính con đã chọn sai chỗ..."
Thất Bá đầu nói: "Không! Tổ Gia. Ngũ ca không có lỗi. Người tính không bằng trời tính, cả trăm năm nay, ở đây chưa bao giờ có mưa lớn đến vậy. Việc này không thể trách Ngũ ca, xin Tổ Gia minh xét!"
Tổ Gia không nói gì nữa, chỉ bảo: "Các con cứ về ăn uống trước đi, mấy ngày nay đừng có đi lại khắp nơi, những việc khác không phải để ý đến."
Chúng tôi sững người, muốn nói thêm nhưng Tổ Gia xua tay nói: "Về đi."
Đêm đó, tôi và Thất Bá đầu làm hai bình rượu to, mua thêm năm cân thịt quay, tôi nghĩ bụng cứ ăn cho no, uống cho đủ trước đã, có chết cũng không phải làm ma đói.
Trước đây cũng từng xảy ra chuyện lớn thế này, để bảo vệ lợi ích của cả Đường khẩu, chỉ cần đưa một tên hoặc vài tên ra thế mạng là được.
Chúng tôi không biết Tổ Gia sẽ làm thế nào. Lúc đó, tôi cảm thấy tính mạng của chúng tôi đều nằm trong tay Tổ Gia.
Suốt ba ngày liền, chúng tôi sống trong nơm nớp lo sợ. Sau đó Tổ Gia gọi cho chúng tôi đến tham gia Đường hội. Thất Bá đầu mặc chiếc áo dài mà anh ta thích nhất, tóc chải mượt hất ngược về phía sau. Tôi cũng cạo sạch râu, trước khi ra khỏi cửa tôi quay về hướng quê nhà, dập đầu mấy cái mà lạy người mẹ già đã mất của tôi, thầm nghĩ: "Kiếp này không thể tận hiếu mẹ được. Kiếp sau con sẽ hiếu kính với mẹ."
Trong Đường hội, Tổ Gia nói: "Sự cố lần này, Ngũ Bá đầu và Thất Bá đầu đều không phải chịu trách nhiệm. Đây là ý trời." Khi Tổ Gia nói, khuôn mặt không lộ chút cảm xúc nào.
Về sau, Nhị Bá đầu bảo chúng tôi, Tổ Gia vì muốn cứu chúng tôi nên đã phải vắt óc suy nghĩ, bỏ ra bao nhiêu tiền để mua chuộc mấy tên cướp, đút lót cho mấy tên đặc vụ, rồi bồi thường cho người ta rất nhiều tiền.
Nghe những chuyện này, tôi và Thất Bá đầu đều khóc. Thất Bá đầu nói: "Lần sau đệ sẽ liều chết làm một vụ thật lớn, để báo đáp Tổ Gia."
Tôi nói: "Mạng này của huynh là do Tổ Gia nhặt về, báo đáp cả kiếp này cũng không hết."
Cái "lần sau" mà Thất Bá đầu nói đến đã không thành hiện thực.
NGƯỜI VỢ BÍ ẨN CỦA TỔ GIA
Năm 1952, phong trào đập tan các hội đạo môn được triển khai một cách rầm rộ trên cả nước, dường như từ lâu Tổ Gia đã có linh tính về điều gì đó. Một hôm sau khi kết thúc Đường hội, ông bảo một mình tôi ở lại. Ông chắp tay sau lưng đi đi lại lại, như thể muốn nói điều gì đó, mấy lần định nói nhưng lại thôi.
Đi theo Tổ Gia lâu như vậy rồi. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông rơi vào tình trạng như thế. Mãi lâu sau, ông mới nói với tôi: "Đại Đầu, nếu có cơ hội, con có thể rửa tay gác kiếm."
Lúc đó tôi hoảng hốt quỳ xuống: "Tổ Gia, con chưa bao giờ ăn ở hai lòng! Đời này con không bao giờ phản lại sư phụ. Tổ Gia!" Khoảng thời gian đó, tình hình rất căng, tôi cứ tưởng Tổ Gia nghĩ tôi muốn rút lui.
Tổ Gia nói với vẻ mặt buồn thảm: "Ta nói thật đấy. Con vào nghề muộn, tay con chưa từng giết một mạng người nào, sau khi vào rồi vẫn có thể quay trở ra. Đừng làm nghề lừa đảo này nữa, sống cho thật tốt! Hãy sống cuộc sống của một người bình thường!"
Tôi cuống cuồng nói: "Tổ Gia, tình hình căng thế này hay cứ tạm lánh đi đã. Sau khi sóng gió qua rồi chúng ta lại làm lại."
Tổ Gia lắc lắc đầu: "Con không hiểu, không hiểu được đâu."
Tổ Gia trầm ngâm ngẫm nghĩ rất lâu mới nói: "Đại Đầu, có một việc..." Nói đến đây, Tổ Gia dừng lại, giọng hơi run.
Tôi im lặng nghe mà khiếp hồn khiếp vía.
Vào năm 1945, khi cuộc kháng chiến kết thúc, Tổ Gia đi một chuyến đến Sơn Đông. Vốn chuyến đi lần này của ông là vì một món đồ cổ. Tổ Gia rất thích sưu tập đồ cổ, có một nguồn tin nói rằng nơi đó có một miếng ngọc bích khắc hình con rồng từ thời Càn Long. Năm đó mưa lớn, Tổ Gia bị chứng phong thấp rất nặng. Đến Sơn Đông ngày thứ hai thì chân đau đến nỗi không thể nhấc lên nổi. Sau phải nhờ tay buôn đồ cổ ở địa phương giới thiệu, mời một thầy thuốc nữ đến châm cứu. Y thuật của cô nương đó là do ông cha truyền lại. Cha cô bị đánh đến chết vì không chịu khám bệnh cho một tên Hán gian.
Tổ Gia nói: "Có mấy vị thầy lang châm cứu cho ta, nhưng cởi hết cả áo mà vẫn không tìm đúng huyệt vị. Nhưng khi đó ta vẫn mặc áo lót, cô nương đó để ta nằm nghiêng trên giường, mũi nào cũng châm đúng huyệt."
Tổ Gia nói ông ấy đã sinh lòng thương yêu, rồi để lại mầm sống. Về sau, khi đứa bé chào đời, người phụ nữ đó một mình ở lại Sơn Đông với con. Tổ Gia có mặt ở Sơn Đông với thân phận là một nhà buôn đồ cổ. Gã buôn đồ cổ của vùng này cũng nghĩ ông cùng hội cùng phường, cho nên Tổ Gia nói với người phụ nữ kia rằng ông chính là một nhà buôn đồ cổ chính hiệu. Từ đó trở đi, cứ cách nửa năm là Tổ Gia lại đi Sơn Đông một chuyến, đồng thời ông luôn cảm thấy dằn vặt vì phải che giấu thân phận của mình.
Giờ tôi mới hiểu tại sao có những lúc Tổ Gia đi ra ngoài không dẫn theo tay chân cùng đi, cũng không ai biết ông đi đâu. Những gì nên để chúng tôi biết, Tổ Gia sẽ bảo chúng tôi, cái không nên cho chúng tôi biết thì không ai dám hỏi.
Người làm A Bảo không thể tùy tiện cho phép mình được kết hôn, nếu muốn kết hôn, thì người phụ nữ kia cũng nhất định phải trở thành A Bảo, nếu không sẽ rất nguy hiểm. Vì lòng người là thứ khó có thể khống chế được nhất. Nếu vợ mình biết mình là kẻ lừa đảo, thì không ai dám chắc rằng bà ấy sẽ làm ra những việc gì.
Bởi vậy, nếu có người trong Đường khẩu lấy nhau, thì đều phải do đích thân Tổ Gia phán quyết. Sau khi những người phụ nữ đó trở thành A Bảo, thông thường đều phải vào vai bà đồng, bà cốt, đạo cô... và đảm nhận nhiệm vụ Trát phi. Mà trong mắt mọi người, Tổ Gia chưa từng có một người phụ nữ nào.
Tin này thực sự là tiếng sấm giữa trời quang. Nếu các Bá đầu mà biết Tổ Gia còn "để lại bản sao" thế này thì chắc chắn tất cả sẽ làm phản. Nếu lúc này có người đề nghị giết Tổ Gia, tôi nghĩ sẽ chẳng có ai phản đối.
Tổ Gia nói: "Không phải ta thấy có lỗi với các huynh đệ, ta chỉ muốn có đứa con nối dõi mà thôi. Năm Dân Quốc thứ sáu, người nhà ta đều bị hại chết cả. Mấy năm nay, toàn những cảnh đánh đấm chém giết lẫn nhau, ta cũng chỉ muốn một cuộc sống yên bình, nhưng đã không có cơ hội. Các con vẫn còn cơ hội, các con cần phải nắm chặt lấy cuộc sống từ nay về sau."
Tổ Gia nói với tôi, sau khi ông ấy chết, nếu tôi vẫn còn sống, tình hình lắng xuống, tôi sẽ có cơ hội đi thăm hai mẹ con bà ấy. Nói đến đây, Tổ Gia cười: "Nó là một đứa con trai, có thể giữ gìn hương hỏa rồi."
Tổ Gia còn cho tôi biết một bí mật: Ông chôn một cái hòm ở giữa hai cây hòe cổ thụ chỗ đèo Nhạc Gia Lĩnh, bên trong toàn là đồ thật. Tổ Gia nói cái gì nên nói thì ông ấy sẽ nói ra, nhưng ông cần phải giữ lại một ít tiền cho hai mẹ con họ. Sau này, khi Tổ Gia bị tịch thu hết tài sản, mặc dù bị quơ hết rất nhiều thứ, nhưng không ai biết vẫn còn một cái rương đựng đầy của nả. Tổ Gia luôn chừa lại đường lui cho mình.
Điều này thể hiện đầu óc rất lợi hại của Tổ Gia. Trong mấy năm bọn Quốc dân Đảng nắm quyền, chế độ tiền tệ hỗn loạn, đổi từ tiền Viên đầu to(1) đến đồng Tôn đầu to(2), từ đồng Pháp tệ đến Kim Viên bản(3), lại thêm cả các loại tiền bằng đồng, tiền đúc, chứng từ mua hàng được lưu thông riêng trong tầng lớp nhân dân. Có đến không dưới mười mấy loại tiền, nhưng Tổ Gia chỉ cất giữ loại "tiền cứng". Ông chưa bao giờ tin tưởng vào những tờ tiền giấy, chẳng khác gì tờ giấy trắng. Cho dù là tờ Pháp tệ vừa mới được ban hành, khi sức mua bán khá cao thì ông vẫn giữ chặt vàng, bạc trắng. Ông thà cứ một thời gian lại đi đổi một ít pháp tệ, cũng không thể mất trắng được. Sau này xảy ra lạm phát, mới thấy quyết sách của Tổ Gia thật sáng suốt.
(1) Đồng bạc in hình Viên Thế Khải
(2) Đồng bạc in hình Tôn Trung Sơn
(3) Một loại giấy bạc phát hành năm 1948 của Chính phủ Quốc dân Đảng
Nếu không, bây giờ đã để lại cho người nhà một giương giấy lộn.
Nhiều năm nay, Tổ Gia tích trữ bao nhiêu vàng, đồng bạc, nén bạc nguyên chất, còn có cả các loại đồ cổ như ngọc bích, đồng hồ bỏ túi mà khi Tổ Gia xem phong thủy cho những nhà giàu được người ta tặng cho. Tổ Gia bảo tôi có cơ hội thì lần lượt mang những thứ đồ này cho vợ và con trai ông. Tổ Gia còn dặn dò rằng không được đưa tất cả cho họ một lần, như vậy sẽ rước họa đến cho họ, không khéo còn mất mạng. Nếu khi nào tôi túng thiếu, cũng có thể lấy một chút mà dùng.
Tôi sợ đến nỗi vội vàng quỳ sụp xuống, khóc rằng: "Tổ Gia! Con không dám."
Rồi rụt rè hỏi: "Tại sao người lại tin tưởng con?"
Tổ Gia cười, rồi hỏi lại tôi một câu: "Đại Đầu, tại sao ta lại cho con gia nhập Đường khẩu?"
Tôi ngơ ngác một hồi rồi mới sực bừng tỉnh. Đâu phải ông muốn chiêu mộ một A Bảo, mà là một người ông có thể phó thác chuyện về sau này. Tất cả những điều này đều là vụ dàn cục cuối cùng của Tổ Gia, ông luôn đứng trên đỉnh cái bẫy mà quăng lưới. Tất cả các Bá đầu đều lọt vào tấm lưới này, để đến cuối cùng tôi trở thành người thu mẻ lưới đó về.
Tổ Gia đã quan sát tôi rất lâu trong quán trà. Khi ông uống trà xong rồi ra về, nhiều lần ông cố ý đánh rơi tiền dưới đất, tôi nhặt lên, đuổi theo trả lại cho ông. Lần đó là ông muốn thử thách lòng tham của tôi. Sau khi vào Đường khẩu, khi Nhị Bá đầu dẫn tôi đến kỹ viện, ông cố ý cho người bám theo. Lần ấy ông thử thách tính háo sắc trong người tôi. Cuối cùng ông muốn gửi gắm vợ con cho tôi cũng không phải ông không có sự đề phòng. Ông cố ý bàn với tôi một vài việc của Đường khẩu, đó là để xem xem tôi có biết suy tính không. Ông cho tôi cùng đi Tứ Xuyên đấu với Tần Bách Xuyên và bọn cướp kia là muốn thử thách lòng dũng cảm và trung thành của tôi.
Điều đáng mừng là tôi đã vượt qua tất cả những thử thách đó. Tôi không nén nổi sự xúc động, bùi ngùi. Tổ Gia trông coi Đường khẩu bao nhiêu năm nay, trong tay có biết bao nhiêu anh em huynh đệ, cuối cùng lại chẳng có được một người nào có thể tin cậy được. Rốt cuộc là do người ta không thể tin tưởng vào ông, hay ông không thể tin tưởng vào họ?
Tôi nói: "Tổ Gia, hay chúng ta cùng đi Hồng Kông, ở đó sư phụ có rất nhiều bạn bè mà?"
Tổ Gia cười cay đắng: "Ta không thể bỏ chạy."
Tôi không hiểu: "Tại sao vậy?"
Tổ Gia thở dài, rất lâu sau, ông nói: "Sau này con sẽ hiểu."
Sau đó, ông tới hậu viện nơi đặt bài vị thờ cúng liệt tổ liệt tông phái Giang Tướng lễ bái. Lần này ông không cho phép tôi vào cùng. Ông bảo tôi đứng đợi ngoài cửa, nên tôi chỉ còn biết từ từ khép cửa lại.
Tôi không biết Tổ Gia đã nói gì với liệt tổ liệt tông, cứ đứng ngoài đợi rất lâu, mãi sau ông mới đi ra. Tôi chỉ thoáng nhìn thấy vành mắt Tổ Gia bị đỏ.
Vài tháng sau đó, hơn 300 hội đạo môn trong cả nước bị tiêu diệt, mấy chục vạn tên đầu sỏ và thành phần cốt cán của các hội đạo môn đều bị trừng trị. Tổ Gia, vì tay nhúng chàm đã quá lâu rồi, nơi nào xảy ra chuyện lừa đảo có liên quan đến A Bảo đều bị "làm cỏ sạch sẽ", nên cuối cùng ông cũng bị tố giác. Vì ông đã làm bao nhiêu chuyện ác tày trời như giết người, đốt nhà, đưa hối lộ, lừa đảo, dùng tà thuyết mê hoặc dân chúng, nên bị xử tử hình.
Trước khi bị đưa ra pháp trường, ông không hề sợ hãi như những người khác. Ông ung dung bước đi, tôi nhận thấy không phải ông đang đi đến chỗ chết mà giống như sắp được giải thoát. Cuối cùng ông không còn phải đi lừa người nữa, không còn phải vắt óc cân nhắc giữa sự sống và cái chết nữa.
Đại Bá đầu và một vài vị Bá đầu đến từ Tây phái, vì họ đã từng mang án giết người, nên cũng bị phán tội chết. Hơn 200 người lớn nhỏ còn lại của Đường khẩu cũng đều bị trừng trị thích đáng tù theo tội nặng hay nhẹ. Tôi bị xử năm năm.
Từ đầu đến cuối, tôi không sao hiểu nổi tại sao Tổ Gia lại không chạy đi. Hơn nữa còn không cho phép bất kỳ một Bá đầu và bọn chân tay nào chạy trốn. Điều này chẳng phải một tay ông ấy muốn chặn đường sống của phái Giang Tướng hay sao? Tổ Gia nói sau này tôi sẽ hiểu, đến khi nào tôi mới có thể hiểu được đây?
Thời hạn tôi phải chịu án dài đằng đẵng, chịu đựng cảnh đen tối như ban đêm. Ở trong ngục, tôi thường hay nghĩ về những năm tháng đã qua, nhớ đến người mẹ già đã qua đời của tôi, nghĩ đến Tổ Gia, nghĩ đến cảnh sống qua ngày trong cơn mộng mị.
Chắc chắn Tổ Gia sẽ không thể nghĩ rằng sau khi ông chết, xã hội lại biến đổi lớn đến như vậy. Ông không thể ngờ được không khí sục sôi của bước đại nhảy vọt, càng không thể ngờ đến ngọn lửa điên cuồng của cuộc "Đại Cách mạng văn hóa" và sức mạnh của phong trào "Xóa bỏ bốn cãi cũ". Dẫu sao ông cũng chỉ lầ một người hay dùng mưu chứ không phải là một nhà chính trị. Ai mà có thể dự đoán trước được một cơn bão sẽ ào lên mạnh mẽ của 20 năm sau. Những thứ ở trong cái rương đó, mãi tận những năm 80 của thế kỷ 20 tôi mới dám cho chúng nhìn thấy ánh mặt trời.
Sau khi ra tù, việc đầu tiên mà tôi nghĩ đến là muốn đi thăm người vợ góa và đứa con thơ của Tổ Gia. Nhưng trong tay tôi không có tiền, ngay cả tiền chi tiêu đi đường cũng không có. Tôi liền tìm một công việc vặt trong hợp tác xã mua bán - là hợp tác xã công tư hợp danh ở thị trấn để kiếm tiền rồi tích cóp làm tiền lộ phí.
Khi đó, toàn quốc tiến hành việc luyện gang luyện thép trên quy mô lớn, chỉ một thị trấn nhỏ mà xây dựng hơn một nghìn lò luyện gang. Các xã viên hăng hái đi khai thác quặng sắt ở khắp núi khắp đồng, thậm chí họ chỉ muốn có thể quăng hết nồi, niêu, xoong, chảo, thìa, muôi của nhà mình vào luyện. Tôi đã rất lo sợ, sợ bọn họ vô tình đào được cả cái hòm châu báu kia lên.
Mấy buổi trưa, trời nắng như thiêu như đốt, mọi người đều trốn trong nhà tránh nắng. Tôi một mình lẩn ra chỗ ngọn Nhạc Gia Lĩnh, nhìn ra tít đằng xa, thấy hai cây hòe cổ thụ đã biến mất. Tôi giật mình vội vàng đi thêm vài bước nữa, đến chỗ quẹo của con đèo đó, đi đi lại lại quanh chỗ đó, để xác định vị trí của hai cái cây đó theo cảm giác của mình. Sau khi xác định được phạm vi của chúng, tôi liền đi khỏi đó. Tôi biết, trong hoàn cảnh xã hội khi đó, anh mà có nhiều của báu bao nhiêu cũng không thể tiêu được, không ai dám tiêu chúng, cũng không ai dám lấy chúng. Tất cả đều phải xếp gọn vào những kế hoạch kinh tế, huống hồ đây lại là những thứ bất chính.
Mùa xuân năm sau đó, cuối cùng tôi cũng tích cóp đủ tiền lệ phí, cứ lần theo địa chỉ mà Tổ Gia khi còn sống đã dặn, đến Sơn Đông một chuyến.
Phải vất vả lắm tôi mới tìm ra họ. Khi gặp tôi, người phụ nữ đó sững sờ nhìn. Tôi thấy bà ấy chỉ khoảng ngoài 30 tuổi. Điều đó cho thấy khi gặp Tổ Gia, bà ấy mới chỉ chừng mười tám, mười chín tuổi lầ cùng. Tổ Gia chết khi ông 50 tuổi. Điều đó có nghĩa là họ cách nhau khoảng hơn 20 tuổi.
Người phụ nữ đó nhìn tôi từ đầu đến chân: "Anh là...?"
Trong lòng tôi dấy lên bao cảm xúc lẫn lộn đan xen. Bao nhiêu hình ảnh khi Tổ Gia còn sống cứ ào về trong tâm trí tôi. "Tôi.. tôi là đồ đệ của Tổ Gia, tôi thay ông ấy đến thăm bà."
"Tổ Gia?" Người phụ nữ đó không hiểu liền hỏi.
Tôi nhận thấy ngay rằng mình suýt nữa đã lỡ lời, liền hỏi: "Tức là chồng của bà, ông ấy là thầy của tôi, chúng tôi đều làm về đồ cổ." Tôi đã đồng ý với Tổ Gia, giữ mãi bí mật của ông ấy.
Người phụ nữ đó ngây người, nhìn tôi trân trân, mãi lâu sau, nước mắt trào ra: "Ông... ông ấy còn không?"
Tôi không kìm nén nổi cũng bật khóc: "Năm 1952, Tổ Gia bị phong hàn, về sau bị nhiễm vào phổi, cuối cùng... không cứu được..."
Nước mắt lăn tràn trên má người phụ nữ ấy.
Tôi lau nước mắt, nói: "Trước khi Tổ Gia mất, ông luôn nhắc đến bà. Mấy năm nay, những người buôn đồ cổ như chúng tôi đều bị chính phủ cho đi cải tạo, nên không có lúc nào rảnh tới thăm bà được. Thật là thất lễ, thất lễ quá!"
Chúng tôi đang trò chuyện, một tiếng gọi từ bên ngoài cửa vọng vào: "Mẹ!"
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cốt nhục của Tổ Gia. Những đường nét trên khuôn mặt đến ánh mắt đều giống Tổ Gia như tạc.
Người phụ nữ ấy vội lau khô nước mắt, nói: "Con trai, lại đây với mẹ. Con chào chú đi."
Tôi vội nói: "Không được, không được, tôi là đồ đệ của Tổ Gia, tôi và cậu đây cùng vai vế." Tôi lôi từ trong túi ra mấy miếng kẹo đưa cho cậu bé đó. Cậu bé mừng rỡ bỏ vào miệng, ăn rất ngon lành.
Tôi không khỏi thở dài, thế sự biến đổi, thịnh suy khó lường. Ai có thể nghĩ rằng cha của đứa bé nghèo này lại là một ông trùm có thể hô mưa gọi gió. Ai có thể nghĩ rằng Tổ Gia ngày nào cũng có thể tiêu tiền như nước, nhưng con ông lại nghèo khó đến vậy.
Tôi để lại cho họ ít tiền rồi trở về, không dám nhắc đến chuyện về chiếc hòm đựng toàn của báu kia, sợ nó là mầm tai họa.
Tôi đã định cứ cách nửa năm sẽ lại đi thăm hai mẹ con họ một chuyến. Chẳng ngờ lại là ba năm. Bắt đầu từ năm 1959, cả nước xảy ra nạn đói khủng khiếp, thiên tai kéo dài ba năm, khiến cho bao nhiêu người bị chết đói. Khi đó, người dân đói khổ đến nỗi ngoài đường đầy xác người chết. Người ta đi khiêng những xác chết này về, khi đi qua một con mương chỉ rộng chừng nửa thước mà mấy người đàn ông không ai còn đủ sức vượt qua, chúng tôi cũng đói đến chẳng còn chút sức lực nào. Một khi đã ngã xuống thì không còn có sức mà bò dậy nổi nữa. Một lần, tôi đi nhà xí, xách quần lên, vừa đứng dậy thì hai mắt tối sầm lại, đầu lao xuống đất. Kết quả là trán bị đập vào mép của một chiếc nồi sắt đã bị gỉ bẹp ở trong góc tường chảy máu. Không phải tôi không nghĩ đến hai mẹ con họ, mà quả thật đến bản thân mình tôi còn chẳng lo nổi nữa là.
Cuối năm 1961, Nhị Bá đầu và Thất Bá đầu được ra tù. Năm sau đó, tình hình kinh tế bắt đầu chuyển biến tốt đẹp.
Nhị Bá đầu hỏi tôi: "Mấy năm nay ở ngoài có thấy động tĩnh gì không?"
Tôi sững người: "Động tĩnh ư? Sống được là khá lắm rồi."
Nhị Bá đầu gượng cười: "Ở trong tù, tôi thường hay nhớ lại những ngày tháng trước đây, nhớ về Tổ Gia, nhớ về các huynh đệ. Lão Ngũ, sau này định thế nào?"
Tôi thở dài: "Định thế nào nữa? Cứ sống tốt, báo đáp công ơn của lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông."
Nhị Bá đầu cười: "Thật không?'
Tôi nói: "Đường không như mật, chăn ấm chẳng bằng được lớp da, ân tình cha mẹ sâu nặng cũng không thể sánh với Mao chủ tịch. Khi còn ở trong đó huynh chưa từng học qua sao?"
Nhị Bá đầu vội nói: "Học rồi, học rồi!" Mãi lâu sau, Nhị Bá đầu mới lại đột ngột hỏi: "Lão Ngũ, trước khi chết Tổ Gia không dặn gì à? Tôi còn nhớ có mấy lần họp Đường hội xong ông ấy thường hay bảo cậu ở lại mà."
Tôi nói: "Ông ấy không dặn gì. Ông ấy chỉ lo cho tiền đồ của các huynh đệ."
Nhị Bá đầu nói: "Cứ theo tác phong làm việc của Tổ Gia, làm việc gì cũng sẽ có dự phòng, chừa lại đường lui. Mà ông ấy không dặn lại gì ư?"
"Không!" Tôi lặng lẽ lắc đầu.
Cuối cùng, Nhị Bá đầu không thể nhịn được, nói: "Lão Ngũ, đã nghĩ đến chuyện chấn hưng lại chưa?"
Tôi không kìm nén nổi một tiếng thở dài: "Đã là thời đại nào rồi mà vẫn còn nghĩ đến chuyện làm lại? Xem ra huynh ở trong đó vẫn chưa nếm đủ sao?"
Nhị Bá đầu nói: "Mấy A Bảo như chúng ta không biết làm cái gì. Nếu không làm việc đó thì biết sống kiểu gì."
Tôi cười: "Người dân trong cả nước đều đang hăng hái xây dựng Xã hội Chủ nghĩa, người nghèo cũng như người giàu đều làm như vậy. Tại sao chúng ta lại không thể sống được chứ?"
Nhị Bá đầu nói: "Cũng phải có cách kiếm ra tiền chứ?"
Tôi liếc nhìn ông ta một cái: "Xưởng dệt, xưởng cơ khí, xưởng máy kéo, nếu không làm được thì có thể vào hợp tác xã, làm ruộng, xay thóc, nhặt phân có gì khó đâu."
Nhị Bá đầu lại cười: "Bánh xe phong thủy lần lượt quay vòng, không ngờ Triệu Nhị gia ta lại đến nỗi phải đi nhặt phân." Lặng im một lúc, đột nhiên ông ta nói: "Mấy năm nay đệ cũng không đi tìm một người phụ nữ à?"
Tôi cười cười, thở dài nói: "Một thằng khố rách áo ôm lại từng ngồi tù ai dám theo?"
Nhị Bá đầu cũng cười: "Nhớ năm xưa, thằng này vừa bước vào Xuân Hiểu lầu, mụ tú bà dẫn một đám gái đẹp bâu quanh. Thời thế thay đổi, cảnh vật cũng đổi thay hết cả rồi."
"Thật là Tổ Gia không dặn gì à? Không chỉ đường cho các huynh đệ ư?" Nhị Bá đầu lại chợt hỏi lại lần nữa.
"Không!" Tôi nói: "Tổ Gia cũng không có cách nào. Ông ấy chỉ nói: ' có cơ hội, mọi người hãy rửa tay gác kiếm, tìm việc khác mà làm.'"
"Làm việc khác?" Nhị Bá đầu hừm lên một tiếng: "Chính Tổ Gia đã dẫn ta đi theo con đường này. Ông ta chết rồi, lại bảo chúng ta làm việc khác. Vậy là có ý gì?"
"Tổ Gia chỉ muốn tốt cho mọi người."
Nhị Bá đầu lắc lắc đầu: "Làm sao mà làm việc khác được, lừa đảo quen rồi. Đến chết cũng vẫn đi lừa, không thể thay đổi được."
"Thời thế thay đổi rồi!" Tôi nói: "Trước tiên cứ làm việc gì đó đàng hoàng đã, huynh đi vào nhà máy làm thêm cùng với đệ nhé."
Nhị Bá đầu lẳng lặng gật đầu.
Lần thứ hai khi tôi đến thăm người vợ góa của Tổ Gia là vào năm 1963. Năm tháng chẳng chừa một ai, người phụ nữ ấy trông già nua hẳn đi, đứa bé cũng cao lớn hơn rất nhiều. Lại cách hai năm sau, khi gặp lại họ vào năm 1965, tóc mai bà ấy đã điểm bạc, người con trai cũng đã trưởng thành và đi lính. Trở về nhà, tôi cảm thấy vui mừng, thanh thản vô cùng. Đêm đó, tôi quay mặt về hướng nơi Tổ Gia bị xử tội và đốt cho ông mấy tờ vàng mã. Tổ Gia ở trên trời linh thiêng có thể an lòng rồi. Tôi bắt đầu nghĩ cách làm thế nào để mang những thứ trong chiếc hòm kia cho bà ấy.
Đột nhiên, tôi nghe thấy có người gõ cửa, mở cửa ra thì thấy Nhị Bá đầu. Vừa bước vào cửa ông ta cứ nhìn tôi, nhếch miệng cười rất khó hiểu.
"Có chuyện gì vậy?" Tôi hỏi.
Ông ta vẫn nhìn chòng chọc vào mặt tôi, rất lạ. Sau khi vào nhà ngồi, ông ta nói: "Lão Ngũ, bao nhiêu năm nay Nhị Bá đầu ta đối xử với đệ thế nào?"
"Rất tốt, không có gì phải nói."
Ông ta gãi gãi đầu, nói: "Vậy sao lại giấu ta?"
Tôi chột dạ: "Giấu cái gì?"
"Ha ha..." Ông ta cười: "Tào Gia trang, huyện Tào, Sơn Đông."
Tôi giật mình: "Huynh theo dõi đệ?"
Ông ta nói: "Không phải hoảng hốt thế, làm A Bảo là phải bình tĩnh. Hãy nói xem phải làm thế nào đây?"
"Huynh muốn thế nào?" Tôi trừng mắt nhìn chằm chằm ông ta.
Ông ta lắc lắc đầu: "Tổ Gia thật đúng là khốn kiếp, ngấm ngầm giấu các huynh đệ dan díu với gái làng chơi, lại còn sinh ra thứ nghiệt chủng."
Tôi nói: "Nhị Bá đầu! Hãy nói những lời lọt tai một chút! Tổ Gia đối xử với huynh không bạc."
Ông ta lại vò gãi đầu: "Lão Ngũ, nói xem, Tổ Gia có con nối dõi, thì chắc chắn sẽ để lại thứ gì cho nó. Chẳng trách bấy lâu nay đệ im bặt, thì ra đã biết rõ."
Tôi lạnh lùng nói: "Trước khi Tổ Gia chết, đã bị tịch thu tài sản, không phải là huynh không thấy sao? Ông ấy không để lại thứ gì cả."
Ông ta cúi đầu, rồi lại ngẩng đầu lên, hậm hực nói: "Vậy tao đành phải tố giác hai mẹ con chúng nó. Để tất cả mọi người đều biết bọn chúng là dòng giống của tên trùm xã hội đen, dòng giống của kẻ giết người, của tên lừa đảo. Tao xem bọn chúng sống thế nào."
"Nhị Bá đầu ông... một tay Tổ Gia đã dìu dắt huynh. Sao huynh có thể?"
"Hừm, hừm. Lão ta bất nhân, đừng trách tôi bất nghĩa!"
Đầu óc tôi quay cuồng, trấn tĩnh lại một lát, tôi nói: "Thôi được, đệ nói cho huynh biết vậy. Tổ Gia để lại một cái rương đựng đồ. Huynh cũng biết năm này không thể lôi chúng lên được."
"Khà khà", Nhị Bá đầu cười, "Vậy mới phải chứ! Lão Ngũ, nói cho ta biết nó ở đâu, chúng ta chia nhau, coi như phí bịt miệng ta."
Tôi nói: "Bây giờ không phải lúc đâu, một khi bị người ta phát hiện, chúng ta sẽ đi tù."
Ông ta nói: "Không sao, đệ đưa ta một nửa trước. Ta không giơ nó ra đâu, nhưng cầm trong tay cho chắc ăn đã."
Tôi nhìn ông ta, tôi quá hiểu Nhị Bá đầu, ông ta là loại tráo trở. Cho dù đưa hết thì chưa chắc ông ta đã tin. Hơn nữa ông ta biết được bí mật của Tổ Gia thì sớm muộn gì cũng lấy chuyện này mà uy hiếp. Một khi ông ta nói ra chuyện này, thì người vợ góa và con trai của Tổ Gia không thể sống tiếp được. Hai mẹ con họ luôn giữ gìn giấc mộng, nếu giấc mộng này tan vỡ, thì hỏng mất. Lần đầu tiên tôi có ý định giết người.
"Thôi được, để đệ dẫn huynh đi. Sau khi đưa cho huynh, huynh phải tuyệt đối giữ bí mật. Dù gì chúng ta đều do Tổ Gia dìu dắt!"
"Yên tâm đi!"
Vào một buổi tối trời nổi gió to, tôi hẹn Nhị Bá đầu ra sau dãy Gia Nhạc Lĩnh. Nửa đêm, tôi cưỡi "con lừa sắt" ra sau núi. Con lừa sắt chính là chiếc xe đạp do người ta tự chế ra vào thời đó, không có chuông, không có hộp xích, cũng không có tay phanh, khi muốn phanh xe lại thì phải dùng chân chắn bánh trước. Sau khi dừng lại, cũng không có chân chống, phải dùng một thang gỗ như cái cán bột để chống.
Khi tôi đến nơi, Nhị Bá đầu đã đến trước rồi, ông ta giơ giơ cái xẻng lên nói: "Làm cái gì mà muộn thế!"
Tôi nói: "Ra sớm sợ bị người ta phát hiện ra."
Tôi đo đạc một lúc, xác định khoảng khoảng vị trí rồi nói: "Tổ Gia nói chính là chỗ này. Chúng ta cùng đào đi."
Hai người chúng tôi đào thật nhanh, trời lạnh căm mà mồ hôi vẫn túa ra, đã bao nhiêu năm, lớp đất đã cứng lại, phải đào xuống 20 cm, mới bắt đầu gặp lớp đất mềm, chúng tôi lại đào thêm mấy chục phân nữa, cuối cùng cũng đào phải một chiếc rương to chừng 1m. Nhị Bá đầu đã có sự chuẩn bị từ trước. Hắn lôi ra một cái cọc sắt đã thủ sẵn trong chiếc áo khoác, rồi cắm vào móc khóa, lấy sức mà bẻ mạnh một cái, chiếc hòm bật tung ra.
Nhờ có ánh trăng, chúng tôi nhìn thấy lớp bên trên toàn là đồ bằng ngọc, có miếng ngọc bích trạm trổ hình rồng, vòng ngọc, có có cốc rượu bằng ngọc và trâm ngọc, bên dưới là lớp lót bằng nỉ. Lật lớp lót nỉ này lên có thể thấy những thỏi vàng được xếp rất ngay ngắn.
Nhị Bá đầu thèm nhỏ rãi, mắt sáng quắc lên: "Có chỗ này, chúng ta chẳng phải lo cho nửa cuộc đời còn lại nữa rồi. Lão Ngũ à, Lão Ngũ! Đệ chẳng có lòng thành gì cả." Ông ta không hề biết tôi đã lẳng lặng cầm lấy thanh gỗ dùng để chống chiếc xe đạp đi vòng ra sau lưng ông ta, đập mạnh đánh "thịch" một cái. Nhị Bá đầu hự một tiếng rồi ngã xuống, tôi lại nên liên tiếp mấy cái nữa mới thôi. Tôi ném thanh gỗ đi, người tôi tê dại ngồi phịch xuống đất. Tiếng gió ù ù thổi từng hồi vào cây cổ thụ.
Sau khi định thần lại, tôi ném Nhị Bá đầu vào trong cái hố vừa được đào lên, rồi lấy đất lấp lại, tôi bê mấy tảng đất đắp lên, vùi thêm nắm cỏ lên trên, làm như chưa từng có chuyện đào bới ở đây.
Năm sau đó, cuộc "Đại Cách mạng văn hóa" bắt đầu được triển khai rầm rộ, ồ ạt. Năm đó, tôi 38 tuổi. Vào tháng 6, khẩu hiệu "Bài trừ tất cả những tư tưởng cũ, nếp văn hóa cũ, phong tục cũ, thói quen cũ mà giai cấp bóc lột đã đầu độc nhân dân trong mấy nghìn năm nay" được ban ra, kêu gọi mọi người "Quét sạch tất cả bọn yêu ma quỷ quái"
Tôi đào một cái hố thật sâu ở sau sân nhà, rồi chôn cái hòm đó xuống, bên trên đắp lớp phân gà rất dày. Tôi nghĩ là làm như vậy sẽ được an toàn.
Thời kỳ "Cách mạng" , tôi không dám đi đâu, càng không dám đến thăm hai mẹ con họ, sợ chẳng may gây ra chuyện gì sẽ làm liên lụy đến họ.
Lịch sử cuối cùng cũng bước đến năm 1976, cuộc "Cách mạng" kết thúc", rồi lại mấy năm nữa trôi đi, tôi đã có chút ít tiền để dành. Năm 1979, tôi lại bước lên tàu hỏa đi Sơn Đông, tôi muốn xem xem hai người thân của Tổ Gia sống thế nào.
Phu nhân của Tổ Gia trông phúc hậu hơn rất nhiều so với lần gặp mặt trước. Hơn nữa, bà còn trở thành chủ nhiệm trạm y tế Đông y của địa phương. Thấy tôi đến, bà mừng đến rơi nước mắt, bà hỏi tôi mấy năm nay sống có tốt không? Có bị phê bình trong cuộc "Cách mạng" không? Tôi nói tất cả đều rất tốt, tôi bảo với bà tôi cũng đã lập gia đình và có con rồi, sinh đôi một trai một gái, năm nay lên 10. Tôi hỏi con trai bà đã phục viên chưa? Bà vui mừng báo cho tôi biết rằng con trai của bà đã trở thành đại đội trưởng rồi, cậu ấy đã lập được công lớn ở chiến trường.
Tôi không nén nổi tiếng thở dài, tạo hóa thật đã trêu ngươi con người. Tổ Gia cả đời chuyên đi lừa đảo, nhưng con trai của ông ấy lại tận trung vì nước. Đây cũng xem như cậu ấy đã trả lại món nợ cho Tổ Gia rồi. (- Tổ Gia cũng tận trung vì nước nhé-)
Tôi thấy đã đến lúc giao lại cho bà ấy cái hòm, tôi nói với bà: "Trước khi Tổ Gia chết có để lại vài món đồ cổ và vàng bạc, bảo tôi đợi khi sóng gió lắng xuống thì giao lại cho hai người. Mấy năm nay vì phong trào diệt trừ "bốn cái cũ" nên tôi không dám đưa cho hai người, sợ sẽ gây ra chuyện. Nay mọi việc đã qua rồi, tôi nên đưa trả nó cho hai người."
Khi cái hòm nặng trình trịch bày ra trước mắt, bà bưng mặt mà khóc. Bà khóc rất lâu, tôi cũng rớt nước mắt, nhớ đến Tổ Gia, nhớ đến những năm tháng đã qua.
Cách bà nhận những thứ đồ này nằm ngoài dự liệu của tôi. Bà nói:"Sung công đi. Tôi đã vào Đảng năm 1966 rồi, cũng là một Đảng viên lão thành. Những thứ này đều thuộc tài sản của Nhà nước. Đây là vấn đề nguyên tắc."
Tôi ngơ ngác nhìn bà rất lâu, tôi thở dài nói: "Cũng được. Nhưng có một thứ bà hãy giữ lại, đó chính là miếng ngọc bích trạm trổ hình con rồng kia, Tổ Gia đến Sơn Đông chính là để tìm mua miếng ngọc bích này nên mới gặp bà, bà hãy giữ lại làm kỷ niệm."
Bà cầm miếng ngọc trên tay, áp vào ngực, rồi lại khóc. Bước ra kori ngôi nhà ấy, tôi ngẩng mặt lên trời mà thở phào: "Tổ Gia! Việc sư phụ giao phó con đã làm được rồi."
Khi từ biệt, tôi ngoảnh lại nhìn người vợ góa của Tổ Gia, mà cảm thấy chua xót vô cùng: "Sư phụ à! Sao hồi đó người không đưa họ chạy trốn?"
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top